Tạp chí CLEANING & ENVIRONMENT | Life Balance - No.2 - NGUYÊN LÝ HÓA HỌC CỦA VIỆC LÀM SẠCH

Page 1

NGUYÊN LÝ HÓA HỌC của việc làm sạch Nguy cơ lây lan

VI SINH VẬT GÂY BỆNH đối với phòng tắm gia đình

Lược sử ra đời Nhiễm khuẩn

coliform

GIẤY VỆ SINH

tự nhiên

Kiểm soát bụi bẩn sàn cứng


Quý độc giả thân mến! Havard Business School sử dụng điển cứu về đội ngũ nhân viên làm sạch của tàu Shinkansen mang tên “7 phút kì diệu” để đưa vào giáo trình đào tạo của mình. Các nhân viên làm sạch được chia thành 11 đội, mỗi đội 22 người, và mỗi đội phụ trách dọn dẹp khoảng 20 chuyến tàu mỗi ngày. Công việc của họ không chỉ đơn thuần là dọn dẹp, mà họ đã trở thành những chuyên gia về dịch vụ lòng mến khách “Omotenashi”. Chúng tôi cũng ấn tượng sâu sắc với nhưng nỗ lực nghiên cứu không ngừng nghỉ của các hãng như ToTo, Inax… để tìm ra góc nghiêng 43 độ, mang đến những sản phẩm thiết bị vệ sinh tiện nghi nhất cho người sử dụng. Đặc biệt, hàng ngày tất cả chúng ta đều có thể tận mắt thấy những vẫn nạn toàn cầu như: ô nhiễm nguồn nước, chất lượng không khí, mất vệ sinh an toàn thực phẩm… mà nguyên nhân bắt nguồn từ việc thiếu các tiêu chuẩn làm sạch, hay lạm dụng hóa chất trong công việc của mình. Hơn nữa, chúng ta đã trải qua năm Covid 2019-2020 - năm mà thế giới đều nhìn nhận rằng vấn đề sức khỏe, vệ sinh dịch tễ và môi trường hay nói cách khác là “Global Health” là một vấn đề mang tính cấp thiết và cần sự chung tay của tất cả các quốc gia trên thế giới. Quá trình toàn cầu hóa 4.0 diễn ra mạnh mẽ đã mở ra nhiều cơ hội cho tất cả công dân của mỗi quốc gia. Cũng vì lẽ đó chúng tôi đã bắt đầu xây dựng những hành trang đầu tiên trên hành trình trở thành công dân toàn cầu. Trong số tiếp theo của Tạp chí C&E, chúng tôi mang tới nhiều nội dung hữu ích cho Quý vị bao gồm lược sử ra đời giấy vệ sinh; nguyên lý hóa học của việc làm sạch, chất làm sạch hoạt động như thế nào; so sánh việc kiểm soát bụi bẩn trên sàn cứng thông qua việc dùng chổi, lau chùi hay hút bụi.Đội ngũ biên tập chúng tôi hi vọng sẽ được đón nhận sự quan tâm của Quý độc giả. Trân trọng!

Anh

Bùi Tuấn Anh PHÓ TỔNG BIÊN TẬP


CHỊU TRÁCH NHIỆM NỘI DUNG

HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP Bùi Tuấn Anh Nguyễn Bảo Đại Nguyễn Thị Yến Nguyễn Trần Thái Anh Trần Hạnh Phạm Hoàng Tú Huỳnh Thị Thúy Thoa Bùi Mai Thùy Dương Ngô Thùy Dung Nguyễn Kim Thi Hà Thị Hạnh Vân

TỔNG BIÊN TẬP Nguyễn Tất Hồng Dương

PHÓ TỔNG BIÊN TẬP Nguyễn Nguyễn Quang Trung

BIÊN TẬP & THIẾT KẾ Phòng Phát triển Cộng đồng

www.lifebalance.vn

www.facebook.com/lifebalance.vn


06

NGUYÊN LÝ CỦA VIỆC LÀM SẠCH Dù là bạn sử dụng loại sản phẩm nào (xà phòng hay chất tẩy rửa), để làm sạch cần rất nhiều năng lượng.

16 LƯỢC SỬ RA ĐỜI GIẤY VỆ SINH Hàng nghìn năm về trước, giấy vệ sinh được làm từ nhiều loại vật liệu khác nhau, tùy theo quốc gia, điều kiện thời tiết, địa vị xã hội, phong tục,…


22

NGUY CƠ LÂY LAN VI SINH VẬT GÂY BỆNH ĐỐI VỚI PHÒNG TẮM GIA ĐÌNH Một lượng lớn vi khuẩn và vi rút khi được gieo cấy vào phòng tắm tại gia đình đã được chứng minh là vẫn còn sót lại trong bồn cầu sau khi xả nước,...

62 KIỂM SOÁT BỤI BẨN SÀN CỨNG Loại bỏ khỏi mặt sàn các loại rác, bụi bẩn, bụi sơ giấy như quy trình bảo hành thông thường...


TOÀN CẦU

06

NGUYÊN LÝ CỦA VIỆC LÀM SẠCH


07

Dù là bạn sử dụng loại sản phẩm nào (xà phòng hay chất tẩy rửa), để làm sạch cần rất nhiều năng lượng. Nói chính xác, để làm sạch cần có ba loại năng lượng sau: - Năng lượng hóa học, được tạo ra bởi xà phòng hoặc chất tẩy rửa - Năng lượng cơ học, được tạo ra bằng máy hoặc bằng tay - Năng lượng nhiệt do nước đun nóng tạo ra

Hoá học Cơ học

Nhiệt độ


TOÀN CẦU

08

HÃY CÙNG XEM CÁCH CÁC YẾU TỐ NÀY PHỐI HỢP CÙNG NHAU Giả sử ta có một vết bẩn lớn, nhiều dầu mỡ trên một trong những chiếc áo yêu thích của chúng ta. Chỉ dùng nước thôi không đủ để tẩy sạch vết bẩn và làm chiếc áo sơ mi của chúng ta trở nên sạch sẽ.

Lưu ý Cả ba loại năng lượng này đều cần khoảng thời gian thích hợp để hoạt động tốt nhất. Một loại năng lượng được sử dụng càng nhiều thì cần càng ít loại năng lượng khác. Ví dụ, quần áo mỏng manh sẽ dễ bị hỏng do năng lượng cơ học của máy giặt và nước nóng. Vì vậy, thay vào đó, chúng ta có thể sử dụng năng lượng hóa học - chất tẩy rửa - và tăng thời gian để làm sạch chúng


09

ĐẦU TIÊN HÃY THÊM MỘT ÍT BỘT GIẶT Bột giặt cung cấp năng lượng hóa học. Năng lượng này được tạo ra do cách các thành phần trong bột giặt tương tác với vết bẩn trên áo của chúng ta. Dù không thể thấy bằng mắt thường, nhưng các phân tử trong bột giặt sẽ bị hút vào vết bẩn và giúp kéo chất bẩn từ áo ra nước giặt

SAU ĐÓ LÀ NĂNG LƯỢNG CƠ HỌC Bên trong máy giặt, quần áo di chuyển qua lại cọ xát với các vật dụng khác. Đây là năng lượng cơ học. Thao tác chà xát giúp vết bẩn thoát khỏi bề mặt áo của chúng ta. Khi bạn nhìn vào máy giặt và thấy đồ giặt chuyển động cũng tức là bạn đang quan sát năng lượng cơ học hoạt động. Năng lượng cơ học thậm chí có thể được tạo ra bằng tay

CUỐI CÙNG LÀ NHIỆT NĂNG Nhiệt năng có nghĩa là nhiệt độ. Nước ấm hoặc nước nóng có thể giúp vết bẩn tan nhanh hơn. Trong khi nước ấm có thể giúp việc giặt sạch nhanh hơn, hầu hết các loại bột giặt ngày nay cũng có thể hoạt động tốt ở nhiệt độ thấp


TOÀN CẦU

10

NGUYÊN LÝ HOÁ HỌC CỦA SỰ LÀM SẠCH


11

Bạn đã bao giờ nhìn thấy một hạt nước đọng trên bề mặt? Điều này là do nước có một đặc tính gọi là sức căng bề mặt. Lực căng này làm cho nước tạo thành hạt trên bề mặt của những thứ như thủy tinh hoặc vải. Bạn có thể thấy sức căng bề mặt tại nơi làm việc bằng cách đặt một giọt nước lên trên mặt bàn. Vết rơi sẽ giữ nguyên hình dạng và không lan rộng Để làm sạch bụi bẩn trên quần áo của chúng ta, nước cần phải có khả năng tiếp cận bề mặt. Nước có thể tiếp xúc lên bề mặt nếu sức căng bề mặt giảm. Để làm điều này, chúng ta sử dụng một nhóm hóa chất được gọi là chất hoạt động bề mặt. Chất hoạt động bề mặt thay đổi cách hoạt động của nước. Khi thêm chất hoạt động bề mặt, sức căng bề mặt sẽ giảm. Bây giờ nước có thể lan ra và làm ướt bề mặt mà chúng ta đang cố gắng làm sạch

Chất hoạt động bề mặt (màu vàng) làm cho nước mất sức căng bề mặt, là chất giữ cho nước tách biệt với các vật liệu khác


TOÀN CẦU

12

BÂY GIỜ CHÚNG TA HÃY XEM XÉT NHỮNG GÌ XẢY RA TRÊN BỀ MẶT MỌI CHẤT HOẠT ĐỘNG BỀ MẶT ĐỀU CÓ HAI ĐẦU: MỘT ĐẦU MUỐN Ở TRONG NƯỚC VÀ ĐẦU KIA THÌ KHÔNG

Phần đầu sợ nước được gọi là phần đầu kỵ nước (hydrophobic). Hydrophobic xuất phát từ hai gốc tiếng Hy Lạp là hydro- (nghĩa là nước) và -phobia (nghĩa là sợ hãi).

Bạn đã từng nghe cụm từ "dầu và

các chuỗi hydrocacbon. Hydro-

nước không trộn lẫn nhau chưa?"

cacbon là một phân tử được tạo

Đây chính là điểm mấu chốt!

ra từ hydro và cacbon. Các chuỗi

Phần đầu sợ nước của chất hoạt

này thích dầu và mỡ và sẽ cố

động bề mặt được tạo thành từ

gắng tránh xa nước


13

Phần đầu thích nước được gọi là phần đầu ưa nước (hydrophilic). Chúng ta đã biết hydro- là một gốc tiếng Hy Lạp có nghĩa là "nước". Vì vậy, nếu -phobic có nghĩa là 'sợ hãi', thì -philic có nghĩa là yêu thương. Phần đầu ưa nước của hóa chất sẽ hút nước.

Cách hai đầu này tương tác với

Chúng thực hiện điều này bằng

chất bẩn và nước chính là bí mật

cách tổ chức thành hình cầu với

đằng sau cách hoạt động của

các đầu ưa nước ở bên ngoài và

chất hoạt động bề mặt.

các đầu sợ nước được bảo vệ ở

Sau khi chất hoạt động bề mặt

bên trong. Hình cầu này của

được thêm vào nước, phần đầu

chất hoạt động bề mặt được gọi

sợ nước cố gắng tránh xa nước.

là micelle.


TOÀN CẦU

14

CHẤT HOẠT ĐỘNG BỀ MẶT LÀM SẠCH NHƯ THẾ NÀO?

Micelle rất quan trọng vì nó là thứ giữ chất bẩn lại. Hãy nhớ rằng, bên trong micelle kỵ nước và không muốn ở gần nước. Chất bẩn cũng kỵ nước, vì vậy nó thích môi trường mà micelle tạo ra

Lực hút chất bẩn vào bên trong micelle của chất hoạt động bề mặt giúp chất bẩn tách ra khỏi bề mặt của nó. Một khi chất bẩn được nâng lên khỏi bề mặt, nó sẽ lơ lửng trong nước trong micelle. Quá trình này còn được gọi là sự nhũ tương hóa từ chất lỏng này thành chất lỏng khác. Một khi đã nằm trong micelle, chất bẩn sẽ không đọng lại trên bề mặt. Bây giờ chất bẩn bị giữ lại trong micelle và micelle lơ lửng trong nước, nên ta có thể dễ dàng rửa sạch chất bẩn Hãy nhớ rằng phần bên ngoài của micelle của chúng ta rất thích nước. Vì vậy, khi chúng ta rửa sạch, micelle sẽ trôi đi và để lại cho chúng ta một bề mặt sạch sẽ!


15

Đầu tiên, các đầu sợ nước của chất hoạt động bề mặt trôi về phía một số hạt bụi bẩn

Một micelle hình thành xung quanh hạt, từ đó tách chất bẩn ra khỏi bề mặt mà nó nằm trên đó.

Với chất bẩn bên trong micelle, các đầu ưa nước của các chất hoạt động bề mặt bên ngoài micelle bị hút vào nước và có thể bị rửa trôi, với chất bẩn vẫn còn bên trong


16

LƯỢC SỬ RA ĐỜI GIẤY VỆ SINH Hàng nghìn năm về trước, giấy vệ sinh được làm từ nhiều loại vật liệu khác nhau, tùy theo quốc gia, điều kiện thời tiết, địa vị xã hội, phong tục,… Vào thế kỷ thứ 2 TCN, người Trung Quốc phát minh ra giấy - loại vật liệu gói và đệm, cũng đồng thời được sử dụng như giấy vệ sinh

VVào đầu thế kỷ thứ 2 SCN, quy trình làm giấy đầu tiên được phát triển ở Trung Quốc

Vào thế kỷ thứ 6 SCN, việc sử dụng giấy vệ sinh lần đầu tiên được ghi chép trong lịch sử loài người, vào thời kỳ đầu của Trung Quốc trung đại


Vào năm 1391, giấy vệ sinh hiện đại đầu tiên được làm ra để phục vụ nhu cầu của hoàng thất. Loại giấy này thậm chí còn được tẩm hương.

Vào cuối thế kỷ 15, giấy có mặt khắp nơi, do đó giấy báo trở thành loại giấy vệ sinh phổ biến

Vào cuối thế kỷ 19, giấy vệ sinh hiện đại bắt đầu được sản xuất hàng loạt. Vào năm 1857, Joseph C. Gayetty phát minh ra giấy vệ sinh công nghiệp đầu tiên. Loại giấy này được tẩm lô hội và Joseph Gayetty còn in tên mình lên mọi cuộn giấy.

Vào năm 1871, Zeth Wheeler đăng ký bằng sáng chế với giấy vệ sinh dạng cuộn và có đường dập gạch. Năm 1872, Tập đoàn Kimberly-Clark, tập đoàn sản xuất giấy vệ sinh lớn nhất thế giới được thành lập Vào năm 1877, Công ty Albany Perforated Wrapping Paper được thành lập bởi Zeth Wheeler

17


1879

18

Thomas Seymour, Edward Irvin và Clarence Wood Scott thành lập công ty Scott Paper và sản xuất giấy vệ sinh bán theo cuộn đầu tiên

1879

Walter Alcock tạo ra giấy vệ sinh cuộn và sử dụng cuộn giấy có đường dập gạch thay vì tấm giấy phẳng.

1880

Công ty British Perforated Paper bắt đầu bán giấy vệ sinh theo dạng hộp vuông đơn lẻ.

1885

Oliver Hewlett Hicks đăng ký bằng sáng chế với lô giấy vệ sinh và quy trình sản xuất giấy vệ sinh theo lô.

1890

Công ty Scott Paper sản xuất giấy vệ sinh theo cuộn hiệu Waldorf.


19

1897

SHOP

Công ty Wheelers bắt đầu bán và tiếp thị giấy vệ sinh cuộn có đường dập gạch tiêu chuẩn.

we are

OPEN

1907

Ý tưởng vĩ đại của giáo viên tại Philadenphia và thí nghiệm của Arthur Schott đã dẫn đến phát hiện về khăn giấy.

1921

Công ty Scott Paper trở thành công ty sản xuất giấy vệ sinh hàng đầu thế giới

EUROPE

1928

Hans Klenk, người Đức, trở thành người bán cuộn giấy vệ sinh đầu tiên tại Châu Âu.


20

1935

Giấy vệ sinh không có mảnh vụn được phát minh bởi Northern Tissue.

1942

St. Andrew’s Paper Mill tại Anh bắt đầu bán giấy vệ sinh hai lớp.

1973

Hoa Kỳ trải qua đợt thiếu hụt giấy vệ sinh đầu tiên sau khi Johnny Carson (nhà hài kịch được yêu thích nhất của Mỹ) đùa rằng, “Bạn có biết thứ gì đang biến mất khỏi các siêu thị không? Giấy vệ sinh. Nước Mỹ đang thiếu hụt giấy vệ sinh nghiêm trọng.” Người ta tin lời Johnny và cố gắng gom mua giấy vệ sinh hết sức có thể.

1990

England

Tại Anh, giấy vệ sinh ướt được giới thiệu lần đầu bởi Andrex (St. Andrew’s Paper Mill cũ, ngày nay thuộc sở hữu của Kimberly Clark).

2001

Tại Mỹ, giấy vệ sinh ướt được giới thiệu lần đầu bởi Kimberly Clark

USA


21

Ngày nay, sản xuất giấy vệ sinh là một ngành công nghiệp khổng lồ. Giấy vệ sinh có nhiều loại giấy, có thể được phân loại họa tiết trang trí, màu sắc,mùi thơm…


22

NGUY CƠ LÂY LAN

VI SINH VẬT GÂY BỆNH

ĐỐI VỚI PHÒNG TẮM GIA ĐÌNH SẢN SINH NHẢ GIỌT VÀ SỐ PHẬN CỦA CÁC SINH VẬT CÒN SÓT LẠI

CHARLES P. GERBA, CRAIG WALLIS, and JOSEPH L. MELNICK • Khoa Vi rút và Dịch tễ học, Đại học Y khoa Baylor, Houston, Texos 7702S Nhận xuất bản ngày 12 tháng 3 năm 1975


23


24

Một lượng lớn vi khuẩn và vi rút khi được gieo cấy vào phòng tắm tại gia đình đã được chứng minh là vẫn còn sót lại trong bồn cầu sau khi xả nước, và thậm chí xả nước liên tục cũng không thể loại bỏ được hoàn toàn lượng vi khuẩn đó.

Điều này được phát hiện là do sự hấp phụ của các sinh vật vào bề mặt sứ của bồn cầu, chỉ được rửa trôi dần dần sau mỗi lần xả. Các giọt tạo ra từ xả nước bồn cầu được phát hiện là chứa cả vi khuẩn và vi rút đã được gieo cấy. Việc phát hiện vi khuẩn và vi rút rơi vào các bề mặt trong phòng tắm sau khi xả nước cho thấy chúng tồn tại trong không khí đủ lâu để đọng lại trên các bề mặt trong phòng tắm. Do đó, một người có khả năng bị nhiễm trùng từ sol khí sản sinh từ bồn cầu.


25

Việc phát hiện vi khuẩn và vi rút rơi vào các bề mặt trong phòng tắm sau khi xả nước cho thấy chúng tồn tại trong không khí đủ lâu để đọng lại trên các bề mặt trong phòng tắm. Do đó, một người có khả năng bị nhiễm trùng từ sol khí sản sinh từ bồn cầu.

Sự lây truyền bệnh qua vòi xịt bồn cầu mới chỉ được nghiên cứu một cách hạn chế. Có ý kiến cho rằng, ngoài ho và hắt hơi, đây chính là quá trình phổ biến nhất liên quan đến quá trình tạo ra các sol khí lây nhiễm. Darlow và Bale (6) đã chứng minh việc sản xuất các sol khí vi khuẩn, với sự hỗ trợ của cả ống cấy chất lỏng và dụng cụ lấy mẫu có khe, từ những bồn xả có chứa Serratia marcescens.


26

Các sol khí này tồn tại ít nhất 12 phút sau khi xả. Việc tạo ra sol khí bằng bồn cầu có chứa vi khuẩn coliform đã được chứng minh bởi Bound và Atkinson và gần đây là Newsom. Kích thước của các hạt tạo ra bởi xả nước bồn cầu được phát hiện nằm trong phạm vi có thể đi đến đường hô hấp dưới . Ngoài ra, các khuẩn gây bệnh có trong phân như Escherichia và Salmonella, đã được phân lập từ đường hô hấp của người bị nhiễm bệnh .


27

Sự phát tán của các giọt nhỏ chứa mầm bệnh trên bề mặt phòng tắm cũng đáng lo ngại, vì việc tiếp xúc bằng tay với các bề mặt bị ô nhiễm có thể dẫn đến việc tự lây nhiễm thông qua việc chạm vào mũi hoặc miệng. Hutchinson đã tìm ra rằng sự lây lan của Shigella sonnei trong một trường mẫu giáo là do các bề mặt Toilet bị nhiễm vi khuẩn gây bệnh.

Tiếp xúc với các bề mặt bị ô nhiễm cũng được chứng minh đóng vai trò quan trọng trong việc lây lan vi rút động vật. Cho đến nay, không có thông tin nào về việc tạo ra các sol khí virus trong phòng tắm tại gia đình. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm thu thập thêm thông tin về số phận của cả vi khuẩn và vi rút trong bồn cầu xả nước.


28

TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VIRUS VÀ XÉT NGHIỆM VIRUS Xạ khuẩn E.coli MS-2 và một dòng tinh sạch mảng bám của vi rút bại liệt loại 1 (chủng LSc) đã được sử dụng trong nghiên cứu này. MS-2, giống như poliovirus, là một loại vi rút axit ribonucleic hình tam diện nhỏ (đường kính 25 nm). Tất cả các xét nghiệm xạ khuẩn đều được thực hiện bằng cách sửa đổi phương pháp lớp phủ thạch như Adams đã mô tả. Theo Davis và Sinsheimer, thạch lớp phủ và nước dùng cho các mẫu xạ khuẩn được chuẩn bị.

Virus bại liệt gốc được nuôi trong tế bào thận của khỉ đầu chó, cô đặc gấp 10 lần, và được tinh sạch một phần bằng kĩ thuật sắc ký màng. Các mẫu virus bại liệt được pha loãng trong dung dịch muối đệm aminomethane tris (hydroxymethyl) có chứa penicillin (100 U / ml) và streptomycin (100 gg/ml). Các xét nghiệm Poliovirus được thực hiện với các tế bào BSC-1 bằng phương pháp hình thành đơn vị mảng bám như được sử dụng trong phòng thí nghiệm này.


29

VI KHUẨN VÀ

CÁC XÉT NGHIỆM VI KHẨN

Một dòng vi khuẩn E. coli phân lập từ nước thải sinh hoạt đã được sử dụng (xác định dựa trên xét nghiệm ImVic). Tất cả các xét nghiệm coliform đều được thực hiện trên thạch Levine eosin methylene blue (EMB). Tổng số vi khuẩn ưa khí được thực hiện trên thạch theo Phương pháp Chuẩn hóa (BBL, Cockeysville, Md.).

Vi khuẩn được nuôi trong dd nước Đậu nành

Các quần thể vi khuẩn E. coli được sử dụng trong các thí nghiệm gieo hạt được nuôi qua đêm trong nước đậu nành Trypticase (TSB) (BBL, Cockeysville, Md.). Tất cả các mẫu vi khuẩn được pha loãng trong dung dịch muối đệm aminomethane tris (hydroxymethyl


30

TOILET BỂ CHỨA NƯỚC Bồn cầu tiêu chuẩn của hộ gia đình hoặc bồn cầu có van được sử dụng. Các bồn cầu có một bể chứa khoảng 20 lít, trong đó 13,7 lít được xả ra trong quá trình xả nước, trừ khi có ghi chú khác.

BỒN TOILET Bồn của Toilet kiểu bồn chứa có thể tích 3,5 lít trừ khi có chỉ định khác. Thể tích bồn của bồn cầu có van khoảng 4,2 lít, với lượng nước tiêu chuẩn nhưng chưa được xác định trong một lần xả. Trong bồn cầu van đã được sử dụng, lượng nước thải ra phụ thuộc vào áp lực đường nước trong tòa nhà, áp suất này thường không đổi


31

Trước khi được cấy vi khuẩn hoặc vi rút, Toilet đã được làm sạch bằng chất tẩy rửa có chứa clo bán trên thị trường và xả nhiều lần để loại bỏ bất kỳ vi khuẩn hoặc vi rút nào tồn tại tự nhiên.

Dung dịch Natri thiosunfat

Sau đó, một dung dịch 5 g natri thiosunfat/lít được thêm vào để khử hoạt tính của clo có trong nước, theo tỷ lệ 1 ml dung dịch với 1 lít nước máy. Tất cả các thí nghiệm đều sử dụng bồn cầu kiểu bể chứa trừ khi có chỉ định khác.


32

KẾT QUẢ VẬT LIỆU LÂY NHIỄM CÒN SÓT LẠI TRONG BỒN CẦU Nhóm thí nghiệm đầu tiên được thực hiện để xác định số phận của các tác nhân lây nhiễm trong nước bồn cầu sau khi xả nước một bồn cầu sinh hoạt điển hình. Đầu tiên, bồn cầu được làm sạch như mô tả trong Tư liệu và Phương pháp, sau đó được cấy vi khuẩn E. coli hoặc thể thực khuẩn MS-2 qua đêm.

Trong cả hai trường hợp, các sinh vật được lơ lửng trong 100 ml TSB để mô phỏng sự hiện diện của chất hữu cơ được tìm thấy trong phân thật. Mẫu cơ bản được thu thập sau khi trộn nước trong bồn. Sau đó, bồn cầu được dội nước và lấy mẫu nước bồn cầu để tìm các sinh vật còn sót lại. Quy trình này được lặp lại nhiều lần, và kết quả của một thí nghiệm điển hình cho cả vi khuẩn và vi rút . Như dự đoán, lần xả ban đầu đã loại bỏ phần lớn các sinh vật được bổ sung ngoại sinh.


33

Tuy nhiên, sau nhiều lần xả nước, thay vì giảm đi, số lượng vi sinh vật còn sót lại được phát hiện trong bồn lại tăng lên. Trong trường hợp có cả vi khuẩn và vi rút, số lượng sinh vật trong bồn cầu đạt đến trạng thái ổn định mà số lượng của chúng không thể giảm xuống, ngay cả sau khi xả nước nhiều lần. Từ bằng chứng này, dường như một số lượng đáng kể vi khuẩn và vi rút đã được hấp thụ vào sứ ở bồn cầu và sau đó được rửa sạch trong quá trình xả nước.

Để kiểm tra suy đoán này, thử nghiệm trước đó được lặp lại, và sau lần xả thứ ba, Tween 80, một chất tẩy rửa không chứa ion, được thêm vào để tạo ra nồng độ cuối cùng trong nước ở bồn là 0,1%. Sau đó, các mặt của bồn cầu được cọ rửa bằng bàn chải và lấy mẫu để thử nghiệm.

Số lượng vi khuẩn tăng lên 10.000 lần sau khi xử lý bằng Tween 80, cho thấy rằng vi khuẩn đã bám vào bề mặt sứ và có thể được rửa sạch bằng cách cọ rửa khi có sự xuất hiện của chất rửa trôi như Tween 80. Khi xả bồn cầu sau xử lý bằng Tween 80, hầu như tất cả vi khuẩn đã được loại bỏ khỏi nước trong bồn.


34

Hình: 1 Tác dụng của việc xả nước trong việc loại bỏ các vi khuẩn, vi rút ngoại sinh bám vào bồn cầu. Một lượng log10 sinh vật ghi ở trên được thêm vào nước bồn cầu, và các mẫu nước được lấy ra khỏi bồn để xét nghiệm sau mỗi lần xả. Log 10 giá trị của sinh vật đại diện cho số lượng có trong toàn bộ khối lượng chứa trong bồn cầu. Ký hiệu: 0, MS-2; 0, E. coli.


35

Trong các thí nghiệm khác, người ta thấy rằng việc trộn Tween 80 vào nước bồn hoặc cọ rửa bồn bằng bàn chải mà không bổ sung thêm Tween 80 đều có hiệu quả như nhau trong việc loại bỏ vi khuẩn từ các thành của bồn cầu. Khi thí nghiệm tương tự được thực hiện với vi rút bại liệt hoặc thể thực khuẩn MS-2 (Hình 3), sự gia tăng số lượng vi rút cũng được ghi nhận sau khi xử lý bằng Tween 80, nhưng việc xả nước sau đó chỉ làm mất dần vi rút khỏi bồn. Do đó, có vẻ như không phải tất cả vi rút đều được rửa trôi khỏi bề mặt bồn bằng phương pháp xử lý Tween 80. Có lẽ vi rút khó để khử thấm khỏi bề mặt xốp của sứ hơn vi khuẩn.

Vi rút bám chắc trên bề mặt sứ

Để xác định số lượng vi khuẩn thường có trong Toilet, người ta đã theo dõi các bồn cầu trong nhà hàng, trạm dịch vụ, v.v. Toilet được xử lý bằng Tween 80 và được khuấy để rửa sạch vi khuẩn bám trên bề mặt bồn. Một mẫu nước trong bồn sau đó được lấy ra và mạ trên cả thạch EMB và thạch đậu nành Trypticase. Kết quả của các thí nghiệm này được trình bày trong Bảng 1. Vi khuẩn ưa khí có mặt ở các mức độ từ 106 đến hơn 109 trong bồn được thử nghiệm.


36

Hình 2. Rửa trôi E. coli khỏi bề mặt bồn cầu bằng cách thêm Tween 80. Các phương pháp tương tự như trong Hình 1, ngoại trừ việc Tween 80 được thêm vào nước bồn sau khi chỉ định xả nước và cọ rửa bồn bằng bàn chải


37

Hình 3. Rửa trôi thể thực khuẩn MS-2 khỏi bề mặt bồn cầu bằng cách thêm Tween 80. Phương pháp tương tự như trong Hình 2.


38

BẢNG 1. Sự phục hồi của vi khuẩn từ bồn cầu

Toilet được xử lý bằng 220 ml Tween 80 1% để loại bỏ vi khuẩn hấp thụ trước khi lấy mẫu.


SẢN SINH NHỎ GIỌT

39

Kỹ thuật nhuộm đã được sử dụng để xác định xem liệu các giọt nước bắn ra không khí trong quá trình xả nước có bắn lên bệ ngồi của bồn cầu hay không. Thuốc nhuộm màu tím pha lê đã được thêm vào cả bồn và nước trong bể, và sau khi phủ một tờ giấy thấm màu trắng lên bồn, bồn cầu được xả sạch. Bằng cách kiểm tra giấy, ta xác định được số lượng giọt có thể nhìn thấy và được tạo ra trong quá trình xả nước.Toilet kiểu bể chứa tạo ra mẫu giọt nước ngẫu nhiên trên giấy, với số lượng từ 27 đến 104 trong một lần xả nhất định.

Bồn cầu kiểu van tạo ra ít giọt có thể nhìn thấy hơn (từ 7 đến 10), những giọt này luôn được tìm thấy ở phía sau của bồn. Có vẻ như áp suất lớn của nước chảy vào bồn trong kiểu bồn cầu này đã khiến các giọt nước bị đẩy ra phía sau. Nếu lần đầu tiên bồn cầu được cấy vi khuẩn E. coli và đĩa thạch EMB được đưa ra chỗ ngồi (dán vào giá đỡ và hướng vào mặt nước bồn), các khuẩn lạc coliform sẽ xuất hiện trên đĩa thạch giống như các giọt.


40

SỬ DỤNG GẠC ĐỂ THU THẬP CÁC SINH VẬT BỊ BẮN RA Để xác định một cách định lượng hơn số lượng sinh vật bắn đến bệ ngồi trong quá trình xả nước, gạc bông đã được sử dụng. Một loạt các thí nghiệm đã được thực hiện trước tiên để xác định hiệu suất thu thập vi khuẩn và vi rút mắc kẹt trong miếng gạc. Dung dịch huyền phù của vi khuẩn hoặc vi rút được thêm vào miếng gạc cắt hình vuông (6 x 6 inch [khoảng 15 x 15 cm], độ dày 2, thực tế là 12 lớp gạc), và các dung dịch khác nhau được đánh giá về khả năng rửa trôi sinh vật của chúng. Gạc được tẩm sẵn TSB được phát hiện là có khả năng thu hồi E. coli và MS-2 tốt nhất, và tỷ lệ phần trăm thu hồi trung bình cho một số thí nghiệm được thể hiện trong Bảng 2.

Dung dịch glycine pH11,5

Người ta đã chỉ ra rằng vi rút đường ruột hấp thụ trên nhiều bề mặt có thể rửa trôi ở độ pH cao. Do đó, đệm glycine được điều chỉnh đến độ pH 11,5 được sử dụng để rửa trôi virus bại liệt khỏi gạc được tẩm sẵn glycine. Mức độ thu thập trung bình khi sử dụng phương pháp này để rửa sạch virus bại liệt khỏi băng gạc là 84% (Bảng 3).


virus bại liệt

Với virus bại liệt, cần phải tập trung virus khỏi gạc rửa trước khi đem đi xét nghiệm. Điều này được thực hiện bằng kỹ thuật hấp phụ lên màng (Millipore Corp.) như Wallis và cộng sự mô tả.

virus bại liệt

41

Quy trình sau đây được sử dụng để xác định số lượng sinh vật trong các giọt nhỏ bắn đến bệ ngồi. Đầu tiên, bồn cầu và vành bồn cầu được khử trùng bằng cách đốt cồn lên vành, và bồn cầu được cấy sinh vật thử nghiệm.

vi khuẩn

Sau đó, chiếc bồn được phủ bằng một miếng gạc (14 x 17 inch [khoảng 35,6 x 43,2 cm], độ dày 12, hai lớp) được ngâm trước với 50 ml dung dịch đệm TSB hoặc glycine, và bồn cầu được xả sạch. Sau đó, gạc được ngâm 5 phút trong 150 ml dung dịch rửa giải, thỉnh thoảng gạc được bóp nhẹ để thu được lượng dịch rửa giải tối đa, thông thường là khoảng 100 ml. Số lượng vi khuẩn hoặc vi rút trong dịch rửa giải sau đó được đem định lượng. Thạch EMB đặt trên miếng gạc được giữ trên bồn cho thấy vi khuẩn E. coli không xâm nhập vào miếng gạc sau khi xả nước. Bảng 4 cho thấy số lượng E. coli sinh ra từ hai Toilet kiểu bể chứa với các thể tích khác nhau và mức độ biến động của số lượng sinh vật thu được từ các thí nghiệm lặp lại.


42

Số lượng vi khuẩn và thể thực khuẩn bắn ra từ bồn cầu trong một lần xả tỷ lệ thuận với số lượng hiện có tại thời điểm xả nước (Hình 4). Các nghiên cứu với vi rút bại liệt (Bảng 5) chỉ ra rằng: số lượng vi rút bai liệt được đẩy ra khỏi bồn cầu cũng tương tự kết quả thu được đối với thể thực khuẩn MS-2 khi bồn được gieo cấy với 108 đơn vị hình thành mảng bám.

Khi số lượng sinh vật hạt đạt đến con số thu được trong phân người (khoảng 1012 đối với vi khuẩn và 108 đối với vi rút, khoảng 6,6 x 104 vi khuẩn coliform và 2,8 x 108 đơn vị hình thành mảng bám của vi rút được thu thập từ miếng gạc.

Số lượng coliform và tổng số vi khuẩn ưa khí được thu hồi từ miếng gạc khi có phân thật được trình bày trong Bảng 6. Những dữ liệu này chỉ ra rằng số lượng vi khuẩn bắn lên bệ ngồi của bồn không khác biệt đáng khi bồn được gieo cấy với số lượng vi khuẩn tương tự khi nuôi cấy vi khuẩn, phân đồng nhất, hoặc ở dạng viên phân rắn.

Sự gia tăng rõ ràng về tỷ lệ tổng số vi khuẩn so với coliform có thể là kết quả của việc sử dụng môi trường chọn lọc trong xét nghiệm coliform; tức là, vi khuẩn có thể bị hỏng trong quá trình tạo khí dung và không phát triển được trên môi trường chọn lọc.


43

BẢNG 2. Rửa giải vi khuẩn E. coli và MS-2 từ gạc bằng TSBa

Băng gạc (6 x 6 inch, độ dày 2, 12 lớp gạc thực tế) được sử dụng khô hoặc làm ướt với 5 ml TSB. Chất lỏng dư thừa được hút hết ra ngoài và sau đó 0,1 ml huyền phù sinh vật lơ lửng trong nước máy được đặt lên gạc. Sau 5 phút, gạc được ngâm trong 20 ml nước và khoảng 7 ml dịch rửa giải được hút ra từ gạc.


44

BẢNG 3. Rửa giải vi rút bại liệt từ miếng gạc có đệm glycine với độ pH 11,5

Các miếng gạc (4 x 7 inch, độ dày 2, 12 lớp gạc thực tế) được làm ướt với 5 ml dung dịch đệm glycine pH 11,5, và 0,1 ml LSc poliovirus loại 1 lơ lửng trong nước máy được đặt lên miếng gạc. Sau 5 phút, các miếng gạc được ngâm trong 20 ml dung dịch đệm glycine pH 11,5 trong 5 phút nữa, sau đó 20 ml dịch rửa giải được vắt từ miếng gạc, và pH ngay lập tức được điều chỉnh về 7,5. PFU, Đơn vị hình thành mảng bám.


45

BẢNG 4. Số lượng E. coli bắn ra từ bồn cầu trong quá trình xả nước


46

Hình 4: Nồng độ vi khuẩn và vi rút trong bồn cầu và số lượng đẩy ra trong quá trình xả nước. Số lượng log10 vi khuẩn E.coli hoặc MS-2 được chỉ ra ở trên đã được đặt trong bồn nước, một miếng gạc thấm TSB được đặt lên trên bồn và bồn cầu đã được dội nước. Số lượng log10 trong số các sinh vật được phục hồi từ miếng gạc được chỉ ra theo thứ tự của hình trên. ký hiệu : , MS-2 phage; o, Ecoli

Bảng 5: Số lượng vi rút bại liệu thoát ra từ toilet trong khi xả


47

Để xác định hiệu suất của nồng độ, một phần của mẫu nền được thêm vào thể tích đệm glycine pH 11,5 và được cô đặc bằng phương pháp tương tự như dịch rửa giải. Số lượng đơn vị tạo mảng (PFU) ước tính được tính như sau: số lượng vi rút thực tế thu được bằng gạc = (100 /% hiệu suất rửa giải từ gạc) (100 /% hiệu suất nồng độ từ dịch rửa giải) (số vi rút được phát hiện trong dịch rửa giải). Hiệu suất rửa giải từ gạc, 84%; hiệu suất cô đặc trung bình bằng phương pháp này, 67%.

Bảng 6: Số lượng vi khuẩn sinh ra từ bồn cầu trong quá trình xả nước bằng phân người Đại diện cho số lượng vi khuẩn thu được từ miếng gạc được giữ ở vị trí bệ ngồi trong quá trình xả nước.Gạc được đặt trên bồn cầu, nhưng bồn cầu không được xả. Các sinh vật được phát hiện trong nhóm đối chứng có thể đại diện cho những sinh vật hiện diện tự nhiên trong nước bồn cầu hoặc bị nhiễm bẩn trong quá trình thu thập các chất rửa giải.


48

Bốn bộ đĩa thường được đưa ra 2, 4 và 6 giờ sau khi xả nước, cộng với một bộ kiểm soát được đưa ra 2 giờ trước khi xả bồn cầu. Kết quả của các thí nghiệm này được tóm tắt trong Bảng 7. Trong vòng 2 giờ đầu tiên, vi khuẩn thường chỉ được phát hiện ở một khu vực hạn chế xung quanh Toilet, trong khi các cụm vi khuẩn được phát hiện ở những khoảng thời gian sau đó lại phân bố ngẫu nhiên hơn khắp phòng.

6inch

6inch

Sự phát tán của E. coli trong không khí lên trên bề mặt phòng tắm. Để xác định xem vi khuẩn bay vào không khí từ bồn cầu trong quá trình xả nước có rơi ra các bề mặt trong phòng tắm hay không, các đĩa thạch EMB đã được đưa ra vào nhiều thời điểm khác nhau sau khi bồn cầu được xả sạch vi khuẩn E. coli. Thiết kế của phòng tắm thí nghiệm có thể được nhìn thấy trong Hình 5. Các đĩa thạch được đặt khắp phòng, cách nhau 6 inch (khoảng 15 cm), với tổng số 50 đĩa được đưa ra cùng một lúc.


49

Để phát hiện phần tử phóng ra trong không khí có chứa vi rút từ bồn cầu được xả nước hay không, miếng gạc hình vuông có kích thước 10 x 8,75 inch (khoảng 25,4 x 20,9 cm) được gắn trên màn kim loại và làm ướt bằng TSB được đặt tại các vị trí như trong Hình 5. Tại điểm kết thúc thời gian phơi nhiễm (mỗi bộ gạc được phơi cách nhau 2 giờ), chất lỏng càng tốt được vắt từ gạc và đem xét nghiệm vi rút.

Vì mong muốn giữ lượng dịch rửa giải ở thể tích càng nhỏ càng tốt, một loạt thí nghiệm đã được tiến hành để xác định ảnh hưởng của thể tích rửa giải đến hiệu suất thu hồi vi rút. Kết quả của các thí nghiệm này được thể hiện trong Bảng 8. Khi thể tích rửa giải nhỏ hơn 10 ml, hiệu suất thu hồi vi rút đã giảm đáng kể. Như vậy, một lượng TSB vừa đủ đã được thêm vào gạc để thể tích rửa giải không giảm xuống dưới lượng này.


50

Hình 5: Sơ đồ mặt bằng của phòng tắm thí nghiệm với vị trí của miếng gạc cho các thi nghiệm sự rơi ra của virus


51

Bảng 7: Số lượng vi khuẩn được phát hiện sau khi rơi trên bề mặt phòng tắm sau khi xả nước

a, Biểu diễn mức trung bình của sáu thử nghiệm cho

mỗi khoảng thời gian 2 giờ. Trong mỗi thí nghiệm, 1011 E. coli được thêm vào bồn cầu trước khi xả nước. Năm mươi đĩa thạch EMB, chủ yếu trên sàn phòng tắm, được đưa ra trong mỗi khoảng thời gian 2 giờ và được thay thế bằng một bộ đĩa khác.

b, Được tính như sau: (tổng diện tích mặt sàn của

phòng tắm / tổng diện tích bề mặt của tất cả các đĩa thạch tiếp xúc) (tổng số cụm khuẩn trên đĩa thạch).

c, Hệ thống thông gió trong phòng được coi là đóng

kín khi tất cả các lỗ thông gió trong phòng bị bịt kín và cửa phòng tắm vẫn đóng.


52

Bảng 8: Ảnh hưởng của thể tích rửa giẳi đến việc phục hồi phage ms-2 từ miếng gạc

Miếng Gạc (10 x 8,75 inch) hay (25 x 22 cm) đã được làm ướt với lượng TSB như trên. Virus được thêm vào hai giọt 0,05 ml. Sau 15 phút càng lấy được nhiều chất lỏng chảy ra từ mỗi miếng gạc càng tốt. Dịch rửa giải này sau đó đã được xét nghiệm vi rút. Các đơn vị hình thành màng vi rút từ 1,2 x 103 đến 6,0 x 103 được thêm vào mỗi miếng gạc.

Kết quả của các thí nghiệm về sự phát tán vi khuẩn sử dụng thể thực khuẩn MS-2 được trình bày trong Bảng 9. Như đã quan sát đối với MS-2, hầu hết vi rút dường như sẽ rụng ra trong vòng 2 giờ sau khi xả. Tuy nhiên, một số lượng nhỏ vi rút thường được phát hiện trên bộ gạc đối chứng được đưa ra trước khi xả bồn cầu, cho thấy vi rút từ các thí nghiệm được thực hiện vài ngày trước đó vẫn còn tồn tại trong phòng. Số lượng nền này được trừ ra khỏi số lượng thu được sau mỗi lần xả bồn cầu.


53

NHIỄM KHUẨN COLIFORM TỰ NHIÊN TRÊN BỀ MẶT PHÒNG TẮM Nhiễm khuẩn coliform tự nhiên trên bề mặt phòng tắm. Sử dụng các đĩa Rodac thạch Levine EMB có đường kính 2,5 inch (6,4 cm), các bề mặt khác nhau trong một số phòng tắm gia đình và công cộng được lấy mẫu để tìm ra sự hiện diện của coliform.

Kết quả được tóm tắt trong Bảng 10. Hơn 20 phòng tắm đã được kiểm tra và tất cả đều phát hiện coliform, điều này cho thấy sự nhiễm bẩn bề mặt trong phòng tắm là phổ biến.


54

Bảng 9: Số lượng phage MS-2 rơi ra trên bề mặt phòng tắm sau khi xả nước bồn cầu

Đại diện cho mức trung bình của năm đến sáu thử nghiệm cho mỗi khoảng thời gian 2 giờ. Trong mỗi khoảng thời gian này, khoảng 4 x 108 đơn vị tạo mảng bám (PFU) của thể thực khuẩn MS-2 được thêm vào bồn trước khi xả nước. Dịch rửa giải từ tám miếng gạc được gộp lại trước khi thử nghiệm. Vị trí của các miếng gạc trong phòng tắm được trình bày trong Hình 5 Hiệu suất trung bình của quá trình rửa giải là khoảng 79%. Hệ thống thông gió trong phòng được coi là đóng kín khi tất cả các lỗ thông gió trong phòng bị bịt kín và cửa phòng tắm vẫn đóng .


55

Bảng 10: Phát hiện coliform tự nhiên trên bề mặt phòng tắm a

vi khuẩn


56

THẢO LUẬN Một số lượng đáng kể vi khuẩn và vi rút đã được chứng minh là vẫn còn sót lại trong bồn cầu sau khi xả nước, và ngay cả việc xả nước liên tục cũng không thể loại bỏ phần vi sinh vật này. Điều này được cho là do sự hấp phụ của các vi sinh vật vào bề mặt sứ của bồn cầu và được rửa giải dần dần xảy ra sau mỗi lần xả. Phần hấp thụ này có thể giải thích hiện tượng các sol khí vi khuẩn nặng được Darlow và Bale phát hiện sau lần thứ hai xả nước bồn cầu chứa vi khuẩn. Trong nước bồn cầu do chúng tôi thử nghiệm, clo thường không có hoặc có mặt với lượng rất nhỏ (<1 mg / lít), có thể là do Clo bay hơi nhanh. Ngoài ra, chất hữu cơ trong phân sẽ kết hợp với bất kỳ clo tự do nào có thể có. Do đó, sự tích tụ dần dần của cả vi khuẩn và vi rút trong Toilet có thể xảy ra trong quá trình sử dụng thường xuyên.

Các giọt được tạo ra từ xả nước bồn cầu được phát hiện là có chứa cả vi khuẩn và vi rút có trong bồn cầu trước khi xả nước. Phân người trung bình nặng khoảng 100 g và chứa tổng cộng khoảng 10l2 vi khuẩn, trong đó có ít nhất 1010 khuẩn coliform. Ở những người bị nhiễm khuẩn, có tới 10 11 Salmonella và 108 đến 1011 Shigella đã được phát hiện trong phân. Nồng độ Salmonella paratyphi B cao tới 1010 trên mỗi g phân đã được phát hiện ở những người mang khuẩn gây bệnh. Số lượng vi rút bại liệt có trong phân của những người bị nhiễm bệnh có thể lên tới 106 trên mỗi g phân, tổng số là 108 trong phân. Đối với những giá trị này, số lượng sinh vật truyền nhiễm thoát ra khỏi bồn cầu sẽ nằm trong khoảng từ 1.000 đến hơn 10.000 dựa trên dữ liệu thu được trong nghiên cứu này.


57

Các sinh vật thu được trên miếng gạc có thể đại diện cho những sinh vật có trong các giọt nhỏ có kích thước lớn hơn nhanh chóng lắng xuống các bề mặt trong phòng tắm và không tính đến các sinh vật có trong các giọt nhỏ hơn có thể bay trong không khí trong một khoảng thời gian đáng kể. Việc phát hiện vi khuẩn và vi rút coliform rơi xuống các bề mặt trong phòng tắm sau khi xả nước cho thấy rằng những sinh vật này tồn tại trong không khí đủ lâu để sinh sôi trên các bề mặt trong phòng tắm. Số lượng E. coli được phát hiện trên các đĩa thạch có lẽ là giá trị tối thiểu vì vi khuẩn trong không khí bị phá hủy trong quá trình tạo sol khí và do áp lực môi trường, làm cho sự phát triển trên môi trường chọn lọc khó khăn hơn.

Những dữ liệu này cũng không tính đến sự tích tụ của các sinh vật trên tường và các bề mặt khác của phòng tắm. Số lượng virus được tính toán là rơi xuống bề mặt sàn của phòng tắm được chỉ ra nhiều hơn 1 log so với số lượng virus được phát hiện khi giữ miếng gạc trên bồn. Điều này có thể là do một số lượng lớn vi rút hiện diện trong các giọt có kích thước nhỏ hơn không tác động vào gạc trong quá trình xả nước. Trong khi số lượng vi khuẩn và vi rút được xác định là tác động ít hơn lên các bề mặt khi cửa phòng tắm và lỗ thông hơi được mở, cần chú ý rằng các sinh vật không sinh sôi trong phòng ở những điều kiện này có thể đang được chuyển đến các vị trí khác bằng các dòng không khí.


58

Các sinh vật có trong phân chắc chắn có mặt trên khắp bề mặt phòng tắm, bằng chứng là lượng vi khuẩn coliform được phân lập trên bề mặt trong tất cả các phòng tắm được lấy mẫu. Hutchinson đã phát hiện ra sự hiện diện của Shigella sonnei trên sàn nhà tắm và bệ ngồi trong Toilet. Ông cũng phát hiện ra rằng sinh vật này có thể tồn tại đến 17 ngày trên các ghế tủ đựng nước bằng gỗ.

Newsom báo cáo rằng Salmonella sống sót trong 11 ngày sau khi hút ẩm khi lơ lửng trong nước máy hoặc phân. Trong nghiên cứu này, một số lượng lớn vi khuẩn coliform đã được tìm thấy nhiều lần dưới các chai dầu gội đầu trong phòng tắm, điều này cho thấy những sinh vật này có thể tái sinh hoặc tồn tại kéo dài khi chất hữu cơ có cơ hội tích tụ. Ngoài ra, enterovirus, cũng như các thành viên của nhóm adenovirus và reovirus, đã được phát hiện là có thể sống sót sau khi hút ẩm trên bề mặt.


59

Lượng Shigella flexneri dưới 102 đã được phát hiện là có khả năng gây nhiễm trùng ở người. Ngoài ra, Darlow và cộng sự đã chỉ ra rằng liều lượng Salmonella typhimurium gây tử vong ở chuột thấp hơn khi lây nhiễm qua đường hô hấp so với khi nuốt phải.

Tuy nhiên, với virus, liều lây nhiễm tối thiểu cho con người có thể chỉ là một liều lây nhiễm trong nuôi cấy mô. Do đó, có vẻ như số lượng vi khuẩn và vi rút thải ra từ bồn cầu là đủ lớn để gây ra sự lây nhiễm, đặc biệt là trong trường hợp vi rút.


60

Trong một nghiên cứu về sự lây truyền coxsackievirus loại 21 trong không khí, Couch và cộng sự chỉ phát hiện được 1 liều lây nhiễm nuôi cấy mô 50% trên mỗi 3,5 ft3 (0,10 m3) trong một doanh trại, nơi đã xảy ra sự lây truyền vi rút giữa người qua đường khí dung. Trong một doanh trại quân đội đang xảy ra sự lây truyền adenovirus, việc lấy mẫu không khí cho thấy chỉ có 1 liều 50% lây nhiễm nuôi cấy mô trong không khí 920 ft3 (25,76 m3).

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi dường như chỉ ra rằng nồng độ vi rút cao hơn dưới dạng sol khí trong phòng tắm, trong đó chất lây nhiễm đã được xả sạch. Sự lây lan của bệnh do virus qua sol khí từ Toilet có thể đóng vai trò cốt yếu hơn đối với những bệnh do virus mà trong đó số lượng virus được bài tiết trong dịch tiết mũi họng thấp hơn so với lượng bài tiết qua phân.


61

Ngoài ra, tầm quan trọng tổng thể của việc lây truyền vi rút đường ruột qua đường hô hấp vẫn còn đang gây tranh cãi. Ví dụ, sự lây lan của vi rút bại liệt trong các gia đình khi bài tiết qua đường họng khác biệt rất ít so với sau khi bài tiết hoàn toàn qua phân. Ngoài ra, các nghiên cứu gần đây với adenovirus loại 4 chỉ ra rằng nguồn lây từ phân có thể quan trọng hơn nguồn lây đường hô hấp trong quá trình lây lan của loại virus này.

Không nên bỏ qua tầm quan trọng của việc lây truyền vi rút đường ruột do tiếp xúc với các bề mặt chứa vật liệu lây nhiễm, bằng chứng là những phát hiện gần đây của Hendley và cộng sự về sự lây truyền của rhinovirus từ bọt biển sang tay và tự cấy vào mắt và mũi. Cần có thêm bằng chứng để chứng minh vai trò của sol khí trong dịch tễ học về việc lây truyền bệnh qua Toilet, nhưng kết quả của nghiên cứu này chỉ ra rằng sol khí có thể là nguy cơ nổi bật.


7 PHÚT SHINKANSEN

62

KIỂM SOÁT BỤI BẨN SÀN CỨNG LÀM SẠCH SÀN BẰNG CHỔI


63

MỤC ĐÍCH - Làm sạch sàn bằng chổi là phương pháp làm sạch khô bằng cách loại bỏ bụi bẩn và các mảnh vụn từ mặt sàn - Cần phải làm khô sàn nếu có chất lỏng bị tràn trên sàn trước khi thực hiện phương pháp làm sạch này

THIẾT BỊ/VẬT LIỆU CẦN CÓ Hốt rác Chổi mềm

Bàn chải

Túi rác

Biển cảnh báo


7 PHÚT SHINKANSEN

64

QUY TRÌNH Bước1 Dựng biển cảnh báo ở lối ra vào của khu vực cần làm sạch Bước2 Chuẩn bị khu vực bằng cách sắp xếp gọn gàng cách đồ gia dụng nhẹ và các thiết bị có thể dịch chuyển Bước3 Loại bỏ các mảnh vụn lớn bằng tay hoặc quét bằng chổi rồi cho vào túi rác Nếu có cầu thang thì cần bắt đầu công việc làm sạch từ đầu cầu thang - Quét mặt cầu thang, bậc cầu thang và chiếu nghỉ. - Cần đặc biệt chú ý những góc tích tụ nhiều bụi bẩn.

Tới cuối cầu thang, quét bụi bẩn và mảnh vụn, sử dụng chổi cầm tay và hốt rác để cho bụi bẩn vào túi rác.

Quy trình này được áp dụng tương tự cho hoạt động làm sạch mặt sàn, tuy nhiên cần nhớ rằng thu gom bụi bẩn và mảnh vụn nhỏ cần chia làm nhiều lần nếu lượng bụi quá lớn.

Bước4

Sắp xếp lại các đồ gia dụng nhẹ và thiết bị có thể di chuyển. Khi công việc làm sạch hoàn tất cần bỏ biển cảnh báo.


CHĂM SÓC THIẾT BỊ Hốt rác

Làm sạch bằng cách lau chùi hoặc rửa.

Chổi

Đảm bảo rằng mọi mảnh vụn được loại bỏ bằng cách rũ chổi ở ngoài và dựng chổi.

Đầu chổi

Rửa trong dung dịch chất tẩy rửa trung tính.

Túi rác

Đưa ra khu vực tập kết hoặc thùng thu gom phế liệu.

Đưa thiết bị về kho chứa đồ và cất giữ gọn gàng

THÔNG TIN BỔ SUNG Cần luôn chấp hành đúng các điều luật về An Toàn và Sức Khỏe

65


7 PHÚT SHINKANSEN

66

KIỂM SOÁT BỤI BẨN SÀN CỨNG LAU CHÙI KIỂM SOÁT BỤI


67

MỤC ĐÍCH - Loại bỏ khỏi mặt sàn các loại rác, bụi bẩn, bụi xơ giấy như quy trình bảo hành thông thường. - Giữ cho sàn sạch và gọn gàng tùy theo từng loại sàn, điều kiện sàn, vật liệu hoàn thành bề mặt và các sự biến đổi trong phạm vi phòng. - Phương pháp và quy trình làm sạch này nên được sử dụng cùng với phương pháp làm sạch bằng chổi.

THIẾT BỊ/VẬT LIỆU CẦN CÓ Hốt rác Chổi Cây lau nhà

Máy hút bụi

Túi rác Bọc chống bụi

Biển cảnh báo


7 PHÚT SHINKANSEN

68

QUY TRÌNH Đối với khu vực sàn nói chung Bước1 Dựng biển cảnh báo ở lối ra vào của khu vực cần làm sạch Bước2 Chuẩn bị khu vực bằng cách sắp xếp gọn gàng cách đồ gia dụng nhẹ và các thiết bị có thể dịch chuyển Bước3 Loại bỏ các mảnh vụn lớn bằng tay hoặc quét bằng chổi rồi cho vào túi rác Bước4 Chuyển động đẩy đồng thời tránh chà xát ra ngoài sàn, làm sạch khu vực sàn bằng cách chuyển động cây lau theo hình số tám để thu gom bụi và các mảnh vụn, đưa chúng vào khu vực trung tâm rồi cho vào túi rác. Bước5 Loại bỏ bụi thừa và bụi xơ giấy từ đầu cây lau nhà bằng cách sử dụng hốt rác và chổi Bước6 Sắp xếp lại các đồ gia dụng nhẹ và thiết bị có thể di chuyển. Khi công việc làm sạch hoàn tất cần bỏ biển cảnh báo


69

Đối với hành lang Bước1 Đẩy cây lau nhà hoặc cây lau nhà chéo hết chiều dài của hành lang, bắt đầu từ kề tường Bước2 Quay trở lại dọc theo hành lang để làm sạch phần tiếp theo. Lặp lại như vậy cho tới khi toàn bộ chiều dài/ chiều rộng của hành lang đã được làm sạch

CHĂM SÓC THIẾT BỊ - Loại bỏ bụi thừa và bụi xơ giấy từ đầu cây lau nhà bằng hốt rác và chổi. - Sử dụng máy hút bụi để làm sạch bụi và bụi xơ giấy từ đầu cây lau nhà. Rửa bằng nước nóng và chất tẩy trung tính. Rửa sạch và để khô. - Đổ rác và làm sạch hốt rác, chổi và máy hút bụi - Đưa túi rác ra khu vực tập kết hoặc thùng thu gom phế liệu. - Đưa thiết bị về kho chứa đồ và cất giữ gọn gàng

THÔNG TIN BỔ SUNG - Cần luôn chấp hành đúng các điều luật về An Toàn và Sức Khỏe. - Luôn kiểm tra phích cắm và dây cáp trên các thiết bị điện trước khi bắt đầu và sau khi hoàn thành công việc.


7 PHÚT SHINKANSEN

70

KIỂM SOÁT BỤI BẨN SÀN CỨNG LÀM SẠCH BẰNG MÁY HÚT BỤI


71

MỤC ĐÍCH Làm sạch bằng máy hút bụi là phương pháp làm sạch khô mà khi áp dụng cho mặt sàn sẽ giúp loại bỏ các hạt bụi bẩn mà không làm phát tán bụi trong không khí, giúp duy trì một môi trường sạch sẽ và hợp vệ sinh. Phương pháp này nên được sử dụng cho phòng máy tính

THIẾT BỊ/VẬT LIỆU CẦN CÓ

Máy hút bụi và dụng cụ đi kèm

Hốt rác Chổi

Túi rác

Biển cảnh báo


7 PHÚT SHINKANSEN

72

QUY TRÌNH Bước1 Dựng biển cảnh báo ở lối ra vào của khu vực cần làm sạch Bước2 Chuẩn bị khu vực bằng cách sắp xếp gọn gàng cách đồ gia dụng nhẹ và các thiết bị có thể dịch chuyển Bước3 Kiểm tra dây dẫn chính và phích cắm trên máy móc Bước4 Loại bỏ các loại rác và mảnh vụn cho vào túi rác Lưu ý - Khi kéo máy hút bụi trên mặt sàn cần đặc biệt chú ý tới các gờ cạnh, các góc và phía sau cánh cửa Nếu có các hạt bụi không thể bị đánh bật bằng máy hút bụi thì cần sử dụng hốt rác và chổi để loại bỏ. - Tiếp tục thao tác này, làm việc theo đường thẳng cho đến khi tất cả khu vực đã được làm sạch. - Cần chú ý tới mọi khu vực dễ bị ảnh hưởng bên dưới nội thất và các thiết bị. Bước5 Sắp xếp lại các đồ gia dụng nhẹ và thiết bị có thể di chuyển. Khi công việc làm sạch hoàn tất cần bỏ biển cảnh báo


CHĂM SÓC THIẾT BỊ - Không được để máy hút bụi bị kẹt vì bụi. Làm sạch phần thân máy và bánh xe bằng khăn ướt và nếu cần thiết thì làm rỗng túi chứa rác hoặc thay túi mới. - Loại bỏ các bộ lọc, nếu có, và thay thế theo hướng dẫn của nhà sản xuất. - Lau ướt hoặc rửa hốt rác. - Loại bỏ các hạt bụi hoặc mảnh vụn khỏi đầu chổi. - Đưa túi rác ra đúng nơi quy định. - Đưa thiết bị về kho chứa đồ và cất giữ gọn gàng

THÔNG TIN BỔ SUNG Cần luôn chấp hành đúng các điều luật về An Toàn và Sức Khỏe

73



Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.