7 minute read
Tập hợp những trường phái lý thuyết quản lý
Trường phái cổ điển
Trường phái cổ điển của lý thuyết quản lý có thể được chia thành hai mối quan tâm rõ ràng: thuyết điều hành và khoa học Quản lý. Thuyết điều hành chủ yếu quan tâm đến quản lý của toàn bộ tổ chức, trong khi khoa học Quản lý quan tâm đến cá nhân người lao động và nâng cao hiệu quả sản xuất bằng cách phân tích công việc bằng phương pháp khoa học. Hai nhánh của trường phái cổ điển này nên được xem dưới góc độ bổ sung cho nhau hơn là cạnh nhau với nhau.
Henri Fayol (1841-1925), người được coi là cha đẻ của thuyết điều hành, là một kỹ sư người Pháp đã trở thành giám đốc điềuhànhcủamộtcôngtykhaithácmỏ. Fayol đã tìm cách áp dụng các nguyên tắc khoa học vào việc quản lý toàn bộ tổ chức. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông,AdministratimIndustrielleetGeneral (General and Industrial Management), xuấtbảnlầnđầunăm1916vàsauđóấn bảnbằngtiếngAnhxuấtbảnnăm1929, được nhiều người coi là tác phẩm kinh điển trong lý thuyết quản lý.
Henri Fayol (1841-1925)
Fayol khẳng định rằng quá trình quản lý đặc trưng bởi năm chức năng sau:
Kiểm soát - cách các nhà quản lý đánh giá hiệu suất trong tổ chức liên quan đến các kế hoạch và mục tiêu của tổ chức đó
Phối hợp - các hoạt động được thiết kế để tạo mối quan hệ giữa tất cả các nỗ lực của tổ chức để hoàn thành một mục tiêu chung
Chỉ huy - cách người quản lý chỉ đạo nhân viên của họ
Tổ chức - cách thức mà cơ cấu tổ chức được thiết lập và quyền hạn và trách nhiệm được trao cho các nhà quản lý, một nhiệm vụ được gọi là ủy quyền
Lập kế hoạch - diễn tả chi tiết của công ty về các mục tiêu và phương tiện để hoàn thành các mục tiêu đó Fayol cũng nổi tiếng với Mười Bốn Nguyên tắc Quản lý và niềm tin của ông rằng các kỹ năng quản trị có thể được dạy trong môi trường lớp học.
Khoa học quản lý
Bản đối chiếu của Fayol trong lĩnh vực quản lý công việc chính là Frederick W. Taylor (1856-1915), cha đẻ của khoa học Quản lý. Taylor là một cá nhân có tư tưởng mãnh liệt (có thể nói là bị ám ảnh), người đã cam kết áp dụng phương pháp khoa học vào môi trường làm việc. Năm 1912, Taylor đưa ra định nghĩa của riêng mình về khoa học Quản lý cho một ủy ban ở Hạ viện Hoa Kỳ, bằng cách nêu rõ khoa học Quản lý không phải là bất kỳ thiết bị hiệu quả nào, cũng không phải là bất kỳ loại thiết bị nào để đảm bảo hiệu quả; cũng không phải là bất kỳ nhánh hoặc nhóm thiết bị hiệu quả nào. Nó không phải là một hệ thống tính toán chi phí mới; nó không phải là một kế hoạch trả tiền mới cho những người lao động; nó không phải là một hệ thống mảnh; nó không phải là một hệ thống tiền thưởng, cũng không phải là dùng một chiếc đồng hồ bấm giờ để theo dõi và viết ra những điều về một người lao động. Nó không phải là nghiên cứu thời gian, nó không phải là nghiên cứu chuyển động và cũng không phải là một phân tích chuyển động của con người.
Mặc dù định nghĩa của Taylor về khoa học Quản lý vẫn tiếp tục tồn tại trong thời gian dài tương tự, nhưng ông không phản đối việc sử dụng các công cụ nói trên. Quan điểm của ông là khoa học Quản lý thực sự là một cuộc cách mạng về tư tưởng, theo đó phương pháp khoa học là cơ sở duy nhất để thu thập thông tin từ đó rút ra các dữ kiện, hình thành kết luận, đưa ra khuyến nghị và hành động. Đóng góp của Taylor là cơ sở để hiểu cách quản lý một dự án và những người liên quan.
Trong ấn phẩm Nguyên tắc khoa học Quản lý xuất bản năm 1911, ông đã vạch ra bốn nguyên tắc cấu thành khoa học Quản lý:
Phát triển bộ môn khoa học cho từng yếu tố trong công việc của con người, phương pháp này thay thế phương pháp quy tắc cũ dựa trên kinh nghiệm thực tế. Tuyển chọn một cách khoa học và sau đó đào tạo, dạy dỗ và phát triển người lao động, trong khi trước đây anh ta tự chọn công việc của mình và tự đào tạo tốt nhất có thể.
Tận tâm hợp tác với những người đàn ông để đảm bảo tất cả các công việc đang được thực hiện phù hợp với các nguyên tắc của khoa học đã được phát triển. Có sự phân chia công việc gần như bình đẳng và trách nhiệm giữa người quản lý và người lao động, trong khi trước đây hầu như toàn bộ công việc và phần lớn trách nhiệm là do nam giới.
Taylor cũng chỉ ra rằng cuộc cách mạng tinh thần phải diễn ra trong tâm trí của người lao động cũng như của các nhà quản lý.
Trường phái hành vi
Nhà khoa học tiên phong trong trường phái quản lý quan hệ con người là Robert Owen, người điều hành nhà máy dệt Scotland vào thế kỷ XIX. Ông tin rằng công nhân cần được “giữ ở trạng thái sửa chữa tốt”. Owen kêu gọi các nhà sản xuất khác quan tâm đến việc cải thiện nguồn nhân lực mà họ sử dụng. Ông tuyên bố rằng lợi nhuận từ đầu tư vào nguồn nhân lực sẽ vượt xa một khoản đầu tư tương tự vào máy móc và thiết bị. Thật không may, phải đến thập kỷ thứ hai của thế kỷ XX, kết quả của Elton Mayo’s Hawthorne Studies mới khẳng định được vị trí của Owen và lọt vào trí tưởng tượng của giới quản lý Mỹ. Mayo (1880-1949) là giảng viên của Trường Quản trị Kinh doanh Đại học Harvard khi ông bắt đầu nghiên cứu công nhân tại Công trình Hawthorne của Công ty Điện lực phương Tây ở Chicago vào năm 1927. Từ nghiên cứu này, Mayo và các đồng nghiệp của ông kết luận rằng có các yếu tố khác ngoài khía cạnh vật chất của công việc có ảnh hưởng đến năng suất. Những yếu tố này bao gồm các khía cạnh xã hội và tâm lý của người lao động và mối quan hệ của họ với các nhà quản lý và những người lao động khác. Nghiên cứu của Mayo đã chứng minh một cách hiệu quả cho các nhà quản lý rằng: để tăng năng suất trong quá trình làm việc, họ phải phát triển các kỹ năng quan hệ con người cũng như các phương pháp khoa học Quản lý của Taylor và các nhà lý thuyết cổ điển khác.
Trườngphái Khoa họcQuản lý
Sự phát triển mạnh mẽ của “Chủ nghĩa Taylor” là trường phái khoa học quản lý, hay còn được gọi là nghiên cứu hoạt động vận hành. Khoa học quản lýđượcđịnhnghĩalàviệcápdụngcác phương pháp khoa học để phân tích và giải quyết các vấn đề ra quyết định của nhà quản lý. Việc áp dụng các mô hình toán học vào việc đưa ra quyết định hành pháp pháttriểntừkhiHoaKỳvàAnhcùngnỗ lực thực hiện trong Thế chiến thứ hai, nhằm sử dụng các mô hình như vậy trong việc đưa ra quyết định quân sự ở cả cấp chiến lược và chiến thuật.