Chuyên đề
BẢO VỆ QUYỀN RIÊNG
TƯ THEO QUY ĐỊNH CỦA
KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA QUYỀN RIÊNG TƯ
PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ BẢO VỆ QUYỀN RIÊNG TƯ TRÊN THẾ GIỚI
IIRR
Chuyên đề
BẢO VỆ QUYỀN RIÊNG
TƯ THEO QUY ĐỊNH CỦA
KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA QUYỀN RIÊNG TƯ
PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ BẢO VỆ QUYỀN RIÊNG TƯ TRÊN THẾ GIỚI
IIRR
Quý độc giả thân mến,
Bảo vệ quyền riêng tư theo quy định
Viện phó Viện IIRR - Phó ban biên tập
của pháp luật trong hợp đồng là một nguyên tắc cốt lõi, đảm bảo sự tôn trọng và bảo vệ thông tin cá nhân của các bên liên quan. Nguyên tắc này góp phần đảm bảo tính công bằng và đạo đức trong quá trình thương thảo và thực hiện hợp đồng, tạo ra một môi trường đáng tin cậy, khuyến khích sự an tâm và tự tin của tất cả
các bên tham gia trong việc chia sẻ thông tin và tiến hành ký kết.
Sự hợp tác vượt khoảng cách về địa lý và điều kiện môi trường, xã hội đặt ra nhiều bài toán cần giải đáp. Khi đó, việc sử dụng điều khoản miễn trừ trách nhiệm cũng đặt ra nhiều tranh cãi và phải tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành.Vì vậy, khi tham gia ký kết hợp đồng, các bên cần phải đảm bảo sự tôn trọng cá nhân, tính công bằng và tuân thủ pháp luật trong quá trình thực hiện các giao dịch hợp đồng.
Trongsốthứ15củaTạpchí Phápluậtnày, với mong muốn đemtới những thông tin liên quan tới bảo vệ quyền riêng tư, chúng tôi xin giới thiệu tới
Quý độc giả những khái niệm, đặc điểm và các điều khoản luậtquốc tế trên thế giới.
Đội ngũ biên tập mong rằng sẽ nhận được những ý kiến đóng góp của Quý độc giả.
Ls. Nguyễn Thị Quỳnh Mai
Ls. Nguyễn Thị Xuyến
Ths. Nguyễn Hồng Minh
Ths. Nguyễn Quang Huy
Nguyễn Hoàng Thanh
Phan Thị Hoài Trang
Bùi Tuấn Anh - Trần Việt Bách
Lỗ Hồng Tâm - Hồ Mậu Tuấn
Nguyễn Tất Hồng Dương - Trưởng ban
Ths. Nguyễn Quang Huy - Phó ban
Phòng Pháp chế - Phòng Phát triển cộng đồng
www.facebook.com/iirr.legalcenter
www.iirr.vn
1. Khái niệm và đặc điểm của quyền riêng tư
1.1. Khái niệm
1.2. Đặc điểm
2. Pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền riêng tư trên thế giới
2.1. Theo quy định của Liên Hợp Quốc
2.2. Theo quy định trong các văn bản pháp luật nhân quyền ở cấp độ khu vực
2.3. Pháp luật bảo vệ quyền riêng tư tại một số quốc gia trên thế giới
3. Một số án lệ về Quyền riêng tư
TỔNG KẾT
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Quyền con người là một phạm trù chính trị - pháp lý, sự ra đời và phát triển của khái niệm quyền con người gắn liền với các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh cách mạng cũng như phản ánh quá trình nhân loại tự giải phóng mình. Quyền riêng tư là quyền con người cơ bản được ghi nhận từ lâu trong nhiều văn kiện pháp lý của Liên Hợp Quốc và của khu vực, trong đó có những văn kiện mà Việt Nam đã ủng hộ và tham gia như Tuyên ngôn toàn thể giới về quyền con người năm 1948 (UDHR), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR), Công ước về quyền trẻ em năm 1989 (CRC),... Với tư cách là quốc gia thành viên, Việt Nam có nghĩa vụ chuyển hóa các điều ước quốc tế về quyền con người đã nêu vào trong pháp luật nước minh cũng như đề ra các biện pháp bảo đảm thực thi. Đặc biệt, trong các mối quan hệ hợp đồng, vấn đề bảo vệ quyền riêng tư của các chủ thể tham gia đã và đang được Việt Nam và các quốc gia trên thế giới quan tâm, đặc biệt chú trọng.
Theo từ điển Black Law Dictionary (tái bản lần thứ 9) giải thích khái niệm sự riêng tư như sau: “Sự riêng tư (Privacy) được hiểu là điều kiện hoặc tình trạng được tự do trước sự xâm phạm hoặc can thiệp tùy tiện vào hành động hoặc suy nghĩ của mình” [18, tr.1315].
Quyền riêng tư, hay còn gọi là quyền về bảo vệ đời tư (quyền về đời tư) đã trở thành một trong những quyền con người quan trọng nhất của thời hiện đại. Các vấn đề về quyền riêng tư đã được Liên Hợp Quốc công nhận là quyền con người cần được bảo vệ. Các nước phát triển đã ban hành đạo luật về quyền riêng tư hoặc các văn bản điều chỉnh vấn đề này nhằm bảo vệ quyền thiêng liêng của con người. Dù vậy, trong tất cả các quyền con người, có lẽ quyền riêng tư là một trong những quyền khó định nghĩa nhất. Các định nghĩa về quyền riêng tư rất khác nhau tùy thuộc vào điều kiện của từng quốc gia và nền văn hóa.
Quyền về riêng tư là quyền của cá nhân không chịu sự
can thiệp của bất kỳ chủ thể nào trong việc ra các quyết
định hoặc tự do hành động trong khuôn khổ pháp luật và
đạo đức xã hội của bản thân mỗi người, kể cả trong gia
đình và ngoài xã hội, trừ trường hợp được chính người này
đồng ý hoặc theo quy định của pháp luật, được tôn trọng
và được pháp luật bảo vệ.
Là một quyền nhân thân được pháp luật bảo vệ, đặc điểm của quyền riêng tư là những thuộc tính, tính chất nổi bật của quyền riêng tư, là
cơ sở để phân biệt quyền riêng tư với các quyền năng khác trong hệ thống quyền con người. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, Quyền riêng tư được pháp luật thừa nhận và thuộc về cá
nhân: Theo Điều 25 BLDS năm 2015 của Việt Nam: “Quyền nhân thân
được quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá
nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác
có liên quan quy định khác”. Như vậy có thể thấy rằng quyền về sự
riêng tư gắn liền với một cá nhân cụ thể, không phải gắn với tổ chức.
Thứ hai, Chủ thể của quyền riêng
tư không bị hạn chế, quyền riêng
tư của các cá nhân khác nhau
được pháp luật bảo hộ như
nhau. Tuy nhiên có một số trường
hợp ngoại lệ đối với một số đối
tượng, việc quy định này không
nằm ngoài mục đích công - vì lợi
ích cộng đồng.
Thứ ba, Quyền riêng tư được bảo hộ ở một không gian rộng, với nội hàm rộng: Quyền con người không chỉ được bảo đảm thực
hiện đối với mỗi cá nhân cư trú trong phạm vi lãnh thổ đất nước
mình, mà còn được bảo vệ trong trường hợp lưu trú tại một quốc gia khác. Nội hàm của quyền
riêng tư rất rộng lớn và có sự liên quan mật thiết đến nhiều quyền năng khác của cá nhân. Quyền
riêng tư liên quan tới những gì thuộc về cá nhân, không chỉ bao gồm thông tin cá nhân, bí mật cá nhân mà còn trải rộng ra như hình ảnh, thân thể, công việc cá nhân.
Thứ tư, Khách thể của quyền riêng tư hướng tới giá trị tinh
thần của một cá nhân: Quyền riêng tư ra đời nhằm bảo vệ
một cá nhân khỏi sự tổn thương về mặt tinh thần do những
hành vi xâm phạm riêng tư gây lên. Đối tượng bảo vệ của quyền riêng tư rất rộng, bao gồm: hình ảnh, tên tuổi, thân
thể, nơi ở và các thông tin cá nhân khác, nhưng đều chung
mục đích hướng tới bảo vệ không gian riêng tư của cá nhân đó, bảo vệ cá nhân khỏi các hành vi xâm phạm.
Thứ năm, Quyền riêng tư không phải quyền tuyệt đối: Quyền riêng
tư có thể bị hạn chế trong một số trường hợp vì lợi ích quốc gia, lợi
ích xã hội. Việc giới hạn quyền riêng tư có thể hiểu là trong điều
kiện bình thường thì mọi cá nhân đều có quyền riêng tư nhưng
trong một số trường hợp vì lợi ích xã hội - quốc gia thì quyền riêng
tư bị hạn chế. Ở Việt Nam, sự giới hạn quyền này được quy định
trong nhiều đạo luật chuyên ngành như luật an ninh quốc gia, luật phòng chống tham nhũng, luật chống khủng bố,…
Quyền riêng tư là một trong những quyền con người cơ bản được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế về quyền con người như: Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (UDHR) năm 1948, Công ước quốc tế vế các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1966, Công ước về quyền của người khuyết tật (CRPD) năm 2007,... và trong khu vực như : Công ước nhân quyền Châu Âu năm 1950, Tuyên bố nhân quyền ASEAN năm 2012(AHRD), Tuyên ngôn Châu Mỹ về các quyền và nghĩa vụ của con người năm 1948, Hiến chương Châu Phi về quyền và phúc lợi của trẻ em,…
Quyền riêng tư được đề cập từ rất sớm, nhưng được công nhận và quy định lần đầu tiên tại Điều 12 UDHR:
“Không ai có thể bị xâm phạm một cách độc đoán vào đời tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hay bị xúc phạm đến danh dự hay thanh danh. Ai cũng có quyền được luật pháp bảo vệ chống lại những xâm phạm ấy”. Theo đó, thì quyền về sự riêng tư bao trùm và liên quan đến nhiều quyền khác như quyền về gia đình, nhà ở,danh dự, uy tín,…Sau đó, quyền về sự riêng tư lại tiếp tục được khẳng định tại Điều 17 ICCPR: “Không ai phải chịu sự can thiệp một cách tùy tiện hoặc trái pháp luật vào sự riêng tư, gia đình, nơi ở, hoặc thư tín, hay bị xâm phạm trái pháp luật vào danh dự hoặc uy tín cá nhân. 2. Mọi người đều có quyền được luật pháp bảo vệ chống lại sự can thiệp hay xâm phạm như vậy.”
Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã thông qua
“Hướng dẫn về quy chế số hóa hồ sơ dữ
liệu cá nhân” theo Nghị quyết số 45/95
ngày 14-12-1990, với nguyên tắc đầu tiên
được đề cập là “thông tin về các cá nhân
không nên được thu thập, xủ lý một cách
bất công hoặc bất hợp pháp, và cũng
không nên được dùng trái với những mục
đích, nguyên tắc của Hiến chương Liên
hiệp quốc”.
Bên cạnh đó, nội dung quyền về sự riêng tư cũng được làm rõ trong các vụ việc cụ thể mà Uỷ ban nhân quyền (HRC) đưa ra phán quyết và khuyến nghị đối với các quốc gia, ví dụ:
Vụ Pinkney kiện Canada (mã số 27/78): HRC kết luận rằng các quy định pháp luật của quốc gia chưa đầy đủ để tạo thành khuôn khổ pháp lý chống lại sự can thiệp vào thư tín.
Vụ Tshisekedi kiện nhà nước Zaire (mã số 241-242/87): HRC kết luận rằng chính phủ Zaire đã xâm phạm uy tín của Tshisekedi khi buộc ông xét nghiệm âm thần, vào cơ sở điều trị tâm thần và mặc dù trái với kết luận của cơ quan y tế. Hành động này của chính phủ Zaire đã bị HRC kết luận là trái với Điều 17 UDHR.
Công ước nhân quyền Châu Âu năm 1950 (ECHR) và nhiều án
lệ của Toà án nhân quyền khu vực này quy định khá cụ thể về
quyền về sự riêng tư. Điều 8 ECHR quy định bảo vệ và tôn trọng
đời sống riêng tư và gia đình, nhà ở và thư tín, ngoại trừ những
việc phù hợp với luật pháp và đó là sự cần thiết cho một xã hội
dân chủ vì lợi ích của an ninh quốc gia, an toàn công cộng hoặc
các phúc lợi kinh tế của đất nước, cho công tác phòng chống
rối loạn hoặc tội phạm, để bảo vệ sức khỏe hoặc đạo lý, hay để
bảo vệ các quyền tự do của người khác, thì mọi sự can thiệp
của cơ quan công quyền vào sự riêng tư là trái pháp luật.
ECHR không đưa ra khái niệm về cuộc sống riêng tư và quyền có không gian riêng tư. Tuy nhiên, theo án lệ của Ủy ban nhân quyền Châu Âu,
từ “nơi ở” trong Điều 8 ECHR bao gồm nơi cư trú của một người. Trong
trường hợp mà nguyên đơn theo luật định không thể tiếp tục sống trong nơi ở của mình trước đó và phải chuyển đến một nơi khác, ví dụ
một căn lều thì nơi này cũng có thể coi là nơi ở của người đó. Không gian văn phòng thương mại không được coi là “nơi ở” nhưng khi văn phòng gắn liền với nơi ở theo nghĩa hẹp, ví dụ: một văn phòng được đặt tại nhà riêng thì việc lục soát văn phòng có thể dẫn đến việc vi phạm Điều 8 ECHR.
Công ước nhân quyền Châu Mỹ cũng quy định quyền về sự riêng tư với nội dung tương tự Điều 11 UDHR. Năm 1965, Tổ chức các nước
Châu Mỹ ban hành Tuyên bố Châu Mỹ về Quyền và Trách nhiệm của con người, trong đó có nhắc đến vấn đề quyền về sự riêng tư nhưng không chi tiết bằng quy định của Liên minh Châu Âu.
Đối với khu vực Châu Á, tại Hội nghị Cấp cao Diễn đàn Hợp tác Kinh tế
Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) lần IX (tổ chức vào tháng 11 năm 2014
tại Chi lê), các quốc gia là thành viên của diễn đàn đã thông qua Hiệp
định khung về tính riêng tư của các thông tin các nhân trong các nền kinh tế thành viên. Trước đó, Tuyên bố Nhân quyền ASEAN (tiếng Anh:
ASEAN Human Rights Declaration, viết tắt là AHRD - là văn bản tuyên bố chung về nhân quyền của các nước ASEAN được thông qua trong khuôn khổ Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 21 được tổ chức tại Phnom Penh, Campuchia vào ngày 18 tháng 11 năm 2012 với sự chấp thuận và ký kết của lãnh đạo 10 nước thành viên ASEAN), cũng đã quy định rõ quyền về sự riêng tư.
Cuối cùng, tại khu vực Châu Phi, quy định pháp luật về quyền riêng tư
cũng được nêu khá cụ thể tại Điều 10 Hiến chương châu Phi bề quyền và
phúc lợi trẻ em, Điều 4 Các nguyên tắc của Liên đoàn Châu Phi về tự do biểu đạt.
Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787 không có quy định nào về quyền riêng tư nhưng các tu chính án của Hiến pháp đã quy định cụ thể rõ ràng về quyền riêng tư, khắc phục hạn chế đó của hiến pháp.Tu chính án thứ nhất bảo vệ quyền về sự riêng tư của cá nhân về tự do tôn giáo bằng việc nêu rõ: “Nghị viện sẽ không ban hành một đạo luật nào nhằm thiết lập một tôn giáo hoặc ngăn cấm quyền tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, báo chí và quyền của dân chúng được hội họp và kiến nghị chính phủ sửa chữa những điều gây bất bình”.
2.3. Pháp luật bảo vệ quyền riêng tư tại một số quốc gia trên thế giới
Tu chính án thứ mười bốn quy định: “Tất cả những người sinh ra trên lãnh thổ Hoa Kỳ hoặc được nhập quốc tịch ở Hoa Kỳ và thuộc thẩm quyền tài phán ở đó, đều là công dân của Hoa Kỳ và của bang mà họ sinh sống. Không một bang nào được ban hành hoặc thực thi bất cứ đạo luật nào nhằm hạn chế đặc quyền hoặc quyền bất khả xâm phạm của công dân Hoa Kỳ. Không một bang nào có quyền được tước đoạt sinh mệnh, tự do và tài sản của một công dân mà không theo một quy trình do luật định. Cũng không một bang nào có thể phủ nhận quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng của một cá nhân trong phạm vi thẩm quyền tài phán của bang đó”.
Năm 1890, hai học giả người Mỹ là
Samuel.D. Warren và Louis.D. Brandies
cho ra đời tác phẩm “Right to privacy”
- được đánh giá là một trong những
tác phẩm có tầm quan trọng, là nền
tảng phát triển những quy định pháp
luật về quyền riêng tư tại Hoa Kỳ. Trong tác phẩm, Warren và Brandies không
đưa ra một định nghĩa cụ thể về quyền
riêng tư mà sử dụng thuật ngữ “quyền
được ở một mình”. Sau này được Tòa Án Hoa Kỳ sử dụng.
Nội dung bài viết tập trung vào sự thay đổi của công nghệ và truyền thông, tạo điều kiện cho báo chí can thiệp sâu hơn vào đời sống cá nhân do đó cần phải có luật bảo vệ sự riêng tư của cá nhân. Hai học giả cho rằng bảo vệ
về quyền riêng tư là bảo vệ cá nhân khỏi những tổn thương về mặt cảm xúc và tinh thần do những hành vi xâm hại riêng tư gây ra, điều này rất khác với việc bảo vệ danh dự nhân phẩm và bảo vệ tài sản sở hữu trí tuệ.
Khi nơi ở và sự riêng tư bị đe dọa.
Trong hệ thống pháp luật của Hoa Kỳ (và nhìn chung là ở các nước theo hệ thống thông luật - Common law), có thể chia ra làm 5 loại vi phạm quyền riêng tư phổ biến đó là: 01 02
Khi thông tin riêng tư của họ khi công khai cho dân chúng.
Khi thông tin về họ không đúng sự thật (vu khống, bôi nhọ)
Khi bị ai đó đặt trùng tên mà không được sự đồng ý của họ.
Khi có sự cạnh tranh không lành mạnh bằng việc trộm cắp bí mật thương mại.
Câu tuyên bố nổi tiếng của luật sư Anthony Bem - mà có ảnh hưởng quan trọng đến việc bảo vệ quyền về sự riêng tư ở Pháp.
Mỗi người chúng ta đều có quyền bảo vệ bí mật sâu kín trong sự tồn tại của chúng ta, với mục đích không để chúng trở thành miếng mồi của sự tò mò công chúng.
Trong pháp luật Pháp không có định nghĩa thế nào là đời tư hay các vấn đề về đời tư gồm những gì, tuy nhiên dựa vào thực tiễn xét xử tại tòa án nước này, Anthony Bem đã chia thành các vấn đề sau:
Tất cả các cá nhân đều có quyền tự do tổ chức đời sống tình dục của mình.
Liên quan đến vấn đề này, các thông tin liên quan đến các quan hệ đồng tính luyến ái phải được thể hiện theo tinh thần tôn trọng quyền riêng tư và không có sự phân biệt;
Sự can thiệp vào đời sống tình cảm của một người trái với ý muốn của người đó;
vie familiale)
Sự can thiệp vào đời sống gia đình như
tiết lộ bí mật thư tín, nhà ở, nơi nghỉ ngơi cuối tuần, khả năng và tư cách làm mẹ, làm bố, ảnh chụp gia đình nơi tư gia,…;
Tình trạng tài chính của gia đình, của người bố, người mẹ;
Bí mật nghề y buộc các thầy thuốc không tiết lộ những bí mật riêng tư của bệnh nhân thể hiện sự tôn trọng đời sống riêng tư của bệnh nhân;
Các giai thoại, các bí mật thuộc đời sống riêng tư. Chỉ các cá nhân liên quan đến bí mật đó mới có quyền quyết định công bố hay không;
Các ý kiến của cá nhân về chính trị và niềm tin tôn giáo cũng được coi là vấn đề riêng tư của cá nhân mà mọi người phải tôn trọng.
Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804 đã quy định quyền về sự riêng tư tại Đoạn 1 Điều 9: “Mọi người đều có quyền tôn trọng đời tư của mình” (Chacun adroit au respect de sa vie privee).
Đoạn 2 Điều 9 xác định: “Ngoài biện pháp yêu cầu bồi thường thiệt hại, thẩm phán có thể quyết định mọi biện pháp như giao tài sản cho người khác quản lý, kê biên tài sản và các biện pháp khác, nhằm ngăn chặn hoặc buộc chấm dứt hành vi xâm phạm bí mật đời tư; trong trường hợp khẩn cấp, các biện pháp này có thể được quyết định theo thủ tục khẩn cấp tạm thời”.
Pháp luật Pháp cũng quy định những chế tài với những vi phạm quyền
về sự riêng tư, bao gồm:
Chế tài dân sự:
Các biện pháp nhằm hạn chế tác hại của hành vi vi phạm như tịch biên, hủy bỏ, tạm giữ các tài liệu làm lộ bí mật cá nhân người khác của người có hành vi xâm phạm; Phạt tiền nhằm đền bù thiệt hại cho người
bị hại; Công bố phán quyết của Tòa án lên báo chí cho công dân biết.
Chế tài hình sự:
Cá nhân vi phạm có thể bị phạt tù hoặc bị phạt tiền đến 45.000 euros.
Đối với các pháp nhân, có thể bị phạt tiền nhiều gấp 5 lần so với các
cá nhân, có nghĩa là lên tới 225.000 euros. Bộ luật hình sự Pháp và một
số luật chuyên ngành khác quy định một số tội phạm xâm phạm quyền
về sự riêng tư như: Tội xâm phạm nhà ở, Tội vi phạm bí mật thư tín, Tội vi phạm bí mật nghề nghiệp,…
Ông Jackson đã đặt một kỳ nghỉ thông qua Horizon Holidays, một công ty du lịch, cho ông và gia đình và trả khoảng 1.400 bảng Anh. Anh
ấy đã cung cấp chi tiết rõ ràng về chỗ ở, tiện nghi và các yêu cầu và sở thích về chế độ ăn
uống của gia đình, điều này đã được Horizon
chấp nhận. Không lâu trước khi họ khởi hành, Horizon đã thông báo cho Jackson rằng khách
sạn họ đã đặt hiện không còn chỗ trống và cung cấp một giải pháp thay thế với giá 1.200
bảng Anh mà họ đề xuất sẽ tốt như khách sạn đã đặt ban đầu. Khi đến nơi, Jacksons thấy rằng khách sạn mới không đạt yêu cầu. Điều này khiến họ đau khổ, bực bội, khó chịu và bất tiện. Họ đã khởi kiện Horizon vì đã xuyên tạc. Liệu những thiệt hại có thể được phục hồi bởi người lập hợp đồng để bồi thường cho cả gia đình anh ta hay không.
Kháng cáo của Horizon đã bị bác bỏ. Gia đình
Jacksons đã ký hợp đồng với Horizons về một kỳ
nghỉ gia đình và được quyền đòi bồi thường thiệt
hại không chỉ do Horizons vi phạm hợp đồng mà
còn vì sự khó chịu và đau khổ do việc vi phạm
hợp đồng đã gây ra cho anh ấy. Cho rằng anh
ta đã đặt kỳ nghỉ cho anh ta và gia đình, anh
Jackson cũng có quyền được bồi thường thiệt
hại cho sự đau khổ và khó chịu do việc vi phạm
hợp đồng gây ra cho vợ con anh ta. Horizon
đã biết kỳ nghỉ là dành cho gia đình nên bất
kỳ hành vi vi phạm hợp đồng nào cũng sẽ ảnh
hưởng đến toàn bộ gia đình chứ không chỉ ông Jackson, người đã tham gia hợp đồng. Do đó, con số 1.100 bảng Anh được bồi thường thiệt hại theo yêu cầu của ông Jackson bởi thẩm phán
xét xử ban đầu, không được coi là quá đáng vì nó giải thích cho sự đau khổ và khó chịu của cả
gia đình.
Woodar v Wimpey Construction UK Ltd
(1980)
Wimpey, người mua, đã ký hợp đồng với Woodar để mua đất. Người ta đã đồng ý rằng một phần của giá mua sẽ được thanh toán khi hoàn thành việc xây dựng. Có một điều khoản trong hợp đồng cho phép người mua hủy bỏ trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền thương
lượng việc mua lại tài sản. Wimpey sau đó đã gửi thông báo hủy bỏ hợp đồng cho Woodar sau khi được xác nhận rằng cơ quan thư ký Môi trường đã bắt đầu thủ tục thu hồi bắt buộc một phần đất. Woodar đã
khởi kiện tuyên bố Wimpey không có quyền hủy bỏ hợp đồng và cũng yêu cầu bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
Liệu số tiền chưa thanh toán trong giao dịch mua có được Woodar thu hồi hay không và liệu Wimpey có quyền hủy bỏ hợp đồng trong các trường hợp hay không?
Kháng cáo của Wimpey đã được cho phép, đảo ngược quyết định trước đó của tòa án rằng hợp đồng đã bị từ chối một cách sai trái. Người ta cho rằng Wimpey đã dựa vào thời hạn của hợp đồng được đề cập. Hơn nữa, không thể phát hiện ra rằng Wimpey đã có động cơ thầm kín để từ bỏ hợp đồng ngay từ đầu và không bị coi là từ chối hợp đồng. Hành vi của họ không hỗ trợ một trường hợp từ chối. Do đó, Woodar không được bồi thường thiệt hại vì mặc dù số tiền cuối cùng chưa được thanh toán nhưng hợp đồng đã quy định về việc hủy bỏ.
1. Khái niệm và đặc điểm của quyền riêng tư
Khái niệm Đặc điểm
2. Pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền riêng tư
trên thế giới
Theo Quy định của Liên Hợp quốc
Theo quy định pháp luật của một số văn bản
của khu vực
Tại Hoa Kỳ
Tại Cộng Hoà Pháp
3. Một số án lệ về quyền riêng tư
Án lệ Jackson v Horizon Holidays Ltd (1975)
Án lệ Công ty TNHH Phát triển Đầu tư Woodar v Wimpey Construction UK Ltd (1980)
1. Mary Charman - Willian Publishing (2007), Contract Law.
2. Dimitri Vitaliev (2007), "Frontline International Foundation for the Protection of Human rights defenders".
3. Graeme Laurie (2002), "Genetic privacy: a challenge to medico-legal norms", Cambridge, UK; New York: Cambridge University Press.
4. Michael, James (1994), "Privacy and human rights: an international and com parative study, with special reference to developments information technology", Paris: Aldershot UNESCO Publ; Dartmouth, cop.
5. William N. Eskridge, Nan D. Hunter (1997), "Sexuality, gender, and the law", New York: Foundation press.
6. Richard Hunter (2002), "World without secrets: Business, crime, and Privacy in the age of ubiquitous computing", New York;
7. Bruce Schneier, David Banisar (1997), "The Electronic privacy papers: Documents on the battle for privacy in the age of surveillane”, John Wiley & Sons.