Kinh thanh cuu uoc 2

Page 1

Kinh Thรกnh


CỰU ƯỚC *

ANCIEN TESTAMENT *

OLD TESTAMENT

-1-


II Sử Ký 1 (II Chroniques-II Chronicles) Sô-lô-môn cầu xin được khôn ngoan 1 Sô-lô-môn, con trai Đa-vít, trở thành một vị vua hùng cường vì CHÚA là Thượng Đế ở cùng ông và khiến ông được uy nghi. Sô-lô-môn nói cùng toàn dân Ít-ra-en, tức các vị chỉ huy hàng trăm và hàng ngàn người, các quan án, các vị lãnh tụ trong cả Ít-ra-en, và các trưởng gia đình. 3 Rồi Sô-lô-môn cùng toàn dân đi lên nơi thờ phụng tại thị trấn Ghi-bê-ôn. Lều Họp của Thượng Đế mà Mô-se, tôi tớ CHÚA đã làm trong sa mạc, lúc ấy đang ở tại đó. 4 Đa-vít đã rước Rương của Thượng Đế từ Ki-ri-át Giê-a-rim về Giê-ru-sa-lem nơi ông đã chuẩn bị sẵn và dựng lều cho Rương đó. 5 Cái bàn thờ đồng mà Bê-xa-lên, con U-ri, cháu Hu-rơ đã làm hiện ở Ghi-bê-ôn trước Lều Thánh của Chúa. Vì thế Sô-lô-môn cùng dân chúng thờ phụng tại đó. 6 Sô-lô-môn đi lên bàn thờ bằng đồng trước mặt CHÚA nơi Lều Họp và dâng một ngàn của lễ thiêu trên đó. 2

Đêm đó Thượng Đế hiện ra cùng Sô-lô-môn và nói cùng ông rằng, “Hãy xin bất cứ điều gì ngươi muốn ta ban cho ngươi.” 7

Sô-lô-môn thưa, “Ngài đã rất nhân từ cùng Đa-vít, cha tôi và đã lập tôi làm vua thế cho người. 9 Bây giờ, lạy CHÚA là Thượng Đế, xin hãy thực hiện lời hứa Ngài cùng Đa-vít. Ngài đã lập tôi làm vua của một dân đông như bụi trên đất. 10 Bây giờ xin hãy ban cho tôi khôn ngoan và hiểu biết để tôi hướng dẫn dân nầy theo đường chánh vì không ai có thể cai trị họ nếu không có Ngài giúp đỡ.” 8

Thượng Đế phán cùng Sô-lô-môn, “Ngươi không xin giàu có, sang trọng, vinh dự, mạng sống kẻ thù ngươi hay được sống lâu. Nhưng vì ngươi xin sự khôn ngoan và hiểu biết để dắt dẫn dân ta là dân mà ta đã lập ngươi làm vua, 12 Ta sẽ ban cho ngươi sự khôn ngoan và hiểu biết. Ta cũng sẽ ban cho ngươi giàu có, vinh dự hơn tất cả các vua trước ngươi và sau ngươi.” 11

Rồi Sô-lô-môn rời nơi thờ phụng tức Lều Họp ở Ghi-bê-ôn và trở về Giê-ru-sa-lem. Tại đó ông trị vì trên dân Ít-ra-en. 13

Sô-lô-môn củng cố quân lực Sô-lô-môn có một ngàn bốn trăm quân xa và mười hai ngàn ngựa. Ông giữ một số ngựa trong các thành phố đặc biệt để kéo quân xa [a], số còn lại ông giữ ở Giê-ru-sa-lem. 15 Ở Giê-ru-sa-lem Sô-lô-môn khiến cho bạc và vàng nhiều như sỏi đá và cây hương nam nhiều như cây vả mọc trong đồng bằng vậy. 16 Ông nhập cảng ngựa từ Ai-cập và Kiêu [b]; các lái buôn của ông mang chúng về từ Kiêu. 17 Họ nhập cảng các quân xa từ Ai-cập với giá mười lăm cân [c] bạc một chiếc, còn ngựa thì khoảng bốn cân [d] bạc một con. Rồi họ bán ngựa và quân xa cho tất cả các vua Hi-tít và A-ram. 14

II Sử Ký 2 Sô-lô-môn chuẩn bị cất đền thờ và cung điện 2 Sô-lô-môn quyết định cất đền thờ để dùng làm nơi thờ phụng CHÚA và cũng cất một cung điện cho mình. 2 Ông chọn bảy mươi ngàn người khuân vác, tám mươi ngàn người đục đá trong núi, và ba ngàn sáu trăm đốc công. Sô-lô-môn gởi thơ cho Hi-ram vua thành Tia như sau: “Xin vua hãy giúp tôi như đã giúp cha tôi là Đa-vít bằng cách gởi gỗ hương nam cho cha tôi cất cung điện người. 3

- 493 -


Tôi sẽ xây một ngôi đền để thờ phụng CHÚA là Thượng Đế tôi, và tôi sẽ dâng đền thờ đó cho Ngài. Rồi chúng tôi sẽ đốt hương trước mặt Ngài. Chúng tôi sẽ luôn luôn bày bánh thánh trước sự hiện diện của Thượng Đế. Chúng tôi sẽ dâng của lễ thiêu mỗi sáng mỗi chiều, vào những ngày Sa bát, ngày Trăng Mới, và những lễ đặc biệt khác mà CHÚA là Thượng Đế chúng tôi truyền dặn. Đó là luật lệ đời đời cho toàn dân Ítra-en vâng theo. 4

Đền thờ tôi xây sẽ rất lớn vì Thượng Đế chúng tôi lớn hơn tất cả các thần. 6 Nhưng thật ra không ai có thể xây nhà cho Thượng Đế chúng tôi. Dù cho các từng trời cao vút cũng không chứa nổi Ngài. Làm sao tôi có thể xây đền thờ cho Ngài? Nơi đó chỉ có thể dùng làm chỗ dâng của lễ thiêu cho Ngài mà thôi. 5

Bây giờ xin vua hãy gởi cho tôi một thợ khéo làm vàng, bạc, đồng, và sắt cùng với chỉ tím, đỏ, và xanh. Người đó cũng phải biết chạm trổ nữa. Anh ta sẽ làm việc chung với các thợ khéo của tôi ở Giu-đa và Giêru-sa-lem, những người mà Đa-vít cha tôi đã chọn. 8 Ngoài ra xin vua gởi cho tôi gỗ hương nam, gỗ thông, và gỗ bạch đàn [a] từ Li-băng. Tôi biết các tôi tớ vua có kinh nghiệm đốn gỗ ở Li-băng, nên các tôi tớ tôi sẽ giúp họ. 9 Xin hãy gởi cho tôi thật nhiều gỗ vì đền thờ mà tôi sắp xây sẽ lớn rộng và nguy nga. 10 Tôi sẽ cung cấp cho các tôi tớ vua, những người đốn gỗ, 125.000 hộc [b] lúa mì, 125.000 hộc lúa mạch, 440.000 lít [c] rượu, và 440.000 lít dầu.” 7

Hi-ram, vua Tia, viết thư trả lời Sô-lô-môn như sau: “Kính vua Sô-lô-môn, vì CHÚA yêu dân Ngài nên Ngài đã chọn vua làm vua trên họ.” 12 Hi-ram cũng viết thêm: “Đáng ca ngợi CHÚA, Thượng Đế của Ít-raen, Đấng tạo nên trời và đất! Ngài ban cho vua Đa-vít một con trai khôn ngoan, một người đầy thông minh và hiểu biết, là người sẽ xây đền thờ cho CHÚA và cung điện cho mình. 13 Tôi sẽ gởi đến cho vua một tay thợ khéo [d] và khôn ngoan tên Hu-ram A-bi. 14 Mẹ anh gốc dân Đan, cha anh gốc thành Tia. Hu-ram A-bi có tài làm các đồ vàng, bạc, đồng, sắt, đá, và gỗ, cùng với chỉ tím, xanh, đỏ cùng vải đắt tiền. Anh có tài chạm trổ và có thể khắc những kiểu nào vua chỉ. Anh sẽ giúp các thợ khéo của vua cùng thợ của Đa-vít, cha vua. 11

Bây giờ xin vua hãy gởi cho các tôi tớ tôi lúa mì, lúa mạch, dầu và rượu như vua hứa. 16 Chúng tôi sẽ đốn gỗ thật nhiều từ Li-băng dọc theo biển theo như vua cần rồi thả bè trôi xuống Giốp-ba. Sau đó vua sẽ mang về Giê-ru-sa-lem.” 15

Sô-lô-môn kiểm kê tất cả các ngoại kiều đang sống trong xứ Ít-ra-en. Đó là sau khi Đa-vít, cha vua đã kiểm kê toàn thể dân chúng. Trong toàn xứ có tất cả 153.600 ngoại kiều. 18 Sô-lô-môn chọn bảy mươi ngàn người trong vòng họ để khuân vác, tám mươi ngàn người để đục đá trong núi, và ba ngàn sáu trăm người làm đốc công. 17

II Sử Ký 3 Sô-lô-môn khởi công xây cất đền thờ 3 Rồi Sô-lô-môn bắt đầu xây đền thờ cho CHÚA ở Giê-ru-sa-lem trên núi Mô-ri-a. Đó là nơi CHÚA hiện ra cùng Đa-vít, cha vua. Sô-lô-môn xây đền thờ ngay trên nơi Đa-vít đã chuẩn bị trên sàn đạp lúa của A-rau-na [a] , người Giê-bu-sít [b]. 2 Sô-lô-môn khởi công vào tháng hai năm thứ tư triều đại mình. Sô-lô-môn dùng các kích thước sau đây để xây Đền thờ của Thượng Đế. Dài ba mươi thước [c], rộng mười thước, đó là thước đo cũ [d]. 4 Vòm cửa trước của phòng chính trong đền thờ dài mười thước, cao mười thước. Ông bọc vàng ròng bên trong vòm cửa. 5 Ông đặt các bảng gỗ thông trên vách của phòng chính và bọc vàng ròng các bảng gỗ đó. Rồi ông đặt các kiểu vẽ cây chà là và các xích vàng lên đó. 6 Ông trang hoàng đền thờ bằng ngọc và vàng lấy từ Ba-va-im [e]. 7 Ông khảm vàng trên các đà, và trần đền thờ, các cột cửa, vách, cửa và đồng thời khắc các con thú có cánh trên vách. 3

Rồi ông xây Nơi Chí Thánh. Nơi đó dài mười thước, rộng mười thước, tức bằng chiều rộng của đền thờ. Ông dùng khoảng 21 tấn [f] vàng để bọc các vách nơi đó. 9 Các đinh vàng cân nặng hơn một cân [g]. Ông cũng bọc vàng các phòng thượng. 10 Ông làm hai con thú có cánh bọc vàng cho Nơi Chí Thánh. 8

- 494 -


Các con thú có cánh ngang ba thước. Một cánh của con thú ngang hai thước và chạm một vách đền thờ. Cánh kia của con thú cũng dài hai thước và chạm cánh với con thú thứ nhì. 12 Một cánh của con thú thứ nhì chạm vách kia của phòng và cũng dài hai thước. Cánh kia của con thú thứ nhì chạm cánh với cánh của con thú thứ nhất, và cũng dài hai thước. 13 Cộng chung lại hai cánh của các con thú ngang chín thước. Các con thú đứng trên chân mình đối diện Nơi Thánh [h]. 11

14

Ông làm màn [i] bằng chỉ xanh, tím, và đỏ, vải đắt tiền và vẽ kiểu các con thú có cánh trên đó.

Ông làm hai cây trụ đứng phía trước đền thờ cao khoảng mười tám thước [j] và mỗi đầu trụ cao hơn hai thước. 16 Ông cũng làm một mạng lưới và đặt nó trên đầu trụ. Ông làm 100 trái lựu [k] và treo chúng trên các dây xích. 17 Rồi ông dựng hai cây trụ trước đền thờ. Một trụ nằm về phía Nam, trụ kia về phía Bắc. Ông đặt tên trụ phía Nam là Gia-kin [l] và trụ phía Bắc tên là Bô-ô 15

II Sử Ký 4 Những vật dụng trong đền thờ 4 Ông xây một bàn thờ bằng đồng dài mười thước [a], rộng mười thước, và cao năm thước [b]. 2 Rồi ông đúc một cái chậu bằng đồng lớn hình tròn gọi là Cái Biển. Chu vi chậu đó là mười lăm thước đường kính, cao ba thước và sâu hai thước. 3 Quanh viền của chậu có chạm hình các con bò đực, mỗi năm tấc có 10 con bò. Các con bò làm thành hai dãy và gắn liền thành một khối với cái chậu. 4 Cái chậu đặt trên lưng 12 con bò bằng đồng hướng mặt ra ngoài từ trung tâm chậu. Ba con hướng về phía Bắc, ba con hướng phía Tây, ba con hướng phía Nam, và ba con hướng phía Đông. 5 Vách của chậu dầy một gang tay [c] và chứa khoảng 66.000 lít [d]. Viền của chậu giống như viền của chén hay giống như nụ hoa sen. Ông làm 10 chậu nhỏ hơn và đặt năm chậu về phía Nam, năm chậu về phía Bắc. Các chậu đó để rửa các con thú dùng trong của lễ thiêu, nhưng chậu lớn dùng cho các thầy tế lễ tắm rửa. 6

Vua làm 10 chân đèn bằng vàng theo đồ án. Ông đặt các chân đèn đó trong đền thờ, năm cái về phía Nam, và năm cái về phía Bắc. 8 Ông cũng đóng 10 cái bàn đặt trong đền thờ, năm cái về phía Nam, và năm cái về phía Bắc. Vua dùng vàng để làm một trăm cái chậu khác. 9 Vua cũng làm sân cho thầy tế lễ và sân lớn. Ông làm các cửa mở ra sân và bọc đồng các cửa đó. 10 Rồi vua đặt cái chậu lớn nơi góc Đông Nam của đền thờ. 7

Hu-ram cũng làm các chén bát, xẻng xúc, và các chén nhỏ. Ông hoàn tất công tác cho vua Sô-lô-môn về đền thờ của Thượng Đế như sau: 12 hai cây trụ; hai chậu lớn để trên đầu trụ; hai mạng lưới để che hai chậu lớn trên phần đầu của trụ; 13 bốn trăm trái lựu để treo vào hai mạng lưới. Có hai hàng trái lựu gắn vào mỗi mạng lưới để che các chậu đặt trên đầu trụ; 14 các đế và chậu trên mỗi đế; 15 cái chậu lớn có 12 con bò đực đỡ bên dưới; 16 các nồi, xẻng xúc, nĩa, và tất cả những vật dùng cho các món ấy. Tất cả các món đồ Hu-ram A-bi làm cho vua Sô-lô-môn dùng trong đền thờ CHÚA đều làm bằng đồng đánh bóng. 17 Vua cho đúc các món đồ đó vào khuôn đất sét tại bình nguyên sông Giô-đanh nằm giữa Su-cốt và Xa-rê-than. 18 Sô-lô-môn cho làm nhiều dụng cụ đến nỗi không ai biết được tổng số lượng đồng là bao nhiêu nữa. 11

Sô-lô-môn cũng làm những món sau đây cho đền thờ Thượng Đế: bàn thờ vàng, các bàn để bánh chứng tỏ dân chúng đứng trước mặt Thượng Đế; 20 các chân đèn, và đèn làm bằng vàng ròng để thắp sáng trước Nơi Chí Thánh theo như đã định; 21 các hoa, đèn và que gắp [e] bằng vàng ròng; 22 các đồ hớt tim đèn bằng vàng ròng, các chén nhỏ, chảo, và mâm dùng đựng than [f], các cửa bằng vàng cho đền thờ, và các cửa bên trong của Nơi Chí Thánh và phòng chính. 19

- 495 -


II Sử Ký 5 5 Sau cùng các công trình vua Sô-lô-môn thực hiện cho đền thờ CHÚA hoàn tất. Ông mang tất cả những gì mà Đa-vít, cha mình đã biệt riêng cho đền thờ, tất cả những đồ bằng bạc và vàng cùng các thứ khác. Vua để mọi thứ vào trong kho ngân khố của đền thờ Thượng Đế.

Đón rước Rương Giao Ước vào đền thờ Sô-lô-môn triệu tập các bô lão của Ít-ra-en, các trưởng chi tộc, các trưởng gia đình đến cùng mình tại Giêru-sa-lem. Ông muốn rước Rương Giao Ước với CHÚA từ khu cũ của thành phố. 3 Vậy toàn dân Ít-ra-en nhóm lại cùng vua trong dịp liên hoan [a] vào tháng bảy. 2

Khi các bô lão của Ít-ra-en đến thì các người Lê-vi [b] khiêng Rương lên. 5 Họ khiêng Rương Giao Ước, Lều Họp, và các đồ dùng thánh trong lều; các thầy tế lễ và người Lê-vi [c] khiêng tất cả các món đó lên. 6 Vua Sô-lô-môn cùng toàn dân Ít-ra-en họp lại trước Rương Giao Ước và dâng chiên và bò nhiều đến nỗi không thể đếm được. 7 Rồi các thầy tế lễ đặt Rương Giao Ước của CHÚA vào bên trong Nơi Chí Thánh bên trong đền thờ, dưới các cánh của hai con thú bằng vàng. 8 Cánh của hai con thú đó giương ra phủ trên Rương và các đòn khiêng. 9 Các đòn khiêng dài đến nỗi ai đứng trong Nơi Thánh trước mặt Nơi Chí Thánh cũng có thể thấy được cán đuôi của các đòn đó. Nhưng ở ngoài Nơi Thánh thì không thấy được. Các đòn nầy hiện vẫn còn ở đó cho đến ngày nay. 10 Bên trong Rương chỉ có hai bảng đá mà Mô-se đã đặt vào Rương trên núi Hô-rếp. Đó là nơi CHÚA lập giao ước với dân Ít-ra-en sau khi họ ra khỏi Ai-cập. 4

Sau đó các thầy tế lễ ra khỏi Nơi Thánh. Tất cả các thầy tế lễ thuộc mỗi nhóm đều đã dọn mình sẵn sàng phục vụ CHÚA. 12 Tất cả các nhạc sĩ người Lê-vi: A-sáp, Hê-man, Giê-đu-thun, và con trai cùng thân quyến đều đứng về phía Đông của bàn thờ. Họ mặc vải gai trắng và chơi chập chỏa, đờn cầm, và đờn sắt. Cùng với họ có một trăm hai mươi thầy tế lễ thổi kèn. 13 Những người thổi kèn và những người hát đều nghe rập y giọng một người khi họ ca ngợi và cảm tạ CHÚA. Họ đồng ca trong khi những người khác thổi kèn, đánh chập chỏa, và các nhạc khí khác. Họ ca ngợi CHÚA bằng bài [d] sau đây: “Ngài rất nhân từ; tình yêu Ngài còn đến đời đời.” 11

Rồi đền thờ CHÚA đầy mây phủ. 14 Các thầy tế lễ không thể thi hành nhiệm vụ được vì đám mây quá dầy, và vì vinh hiển CHÚA đầy dẫy đền thờ Thượng Đế.

II Sử Ký 6 Sô-lô-môn nói chuyện với dân chúng 6 Sau đó Sô-lô-môn nói, “CHÚA phán Ngài sẽ ở trong đám mây đen kịt. 2 Lạy Chúa, tôi đã xây một đền thờ nguy nga cho Ngài, một nơi để Ngài ngự đời đời.” Trong khi toàn dân Ít-ra-en đang đứng đó thì vua Sô-lô-môn quay về phía họ, chúc phước cho họ. 4 Ông nói, “Đáng ca ngợi CHÚA, là Thượng Đế của Ít-ra-en. Ngài đã thực hiện điều Ngài hứa cùng cha tôi là Đavít. CHÚA phán, 5 ‘Từ khi ta mang dân ta ra khỏi Ai-cập, ta chưa hề chọn một thành nào trong các chi tộc Ítra-en để xây đền thờ cho ta. Ta cũng không chọn ai hướng dẫn dân Ít-ra-en ta cả. 6 Nhưng nay ta đã chọn Ítra-en làm nơi thờ phụng ta, và chọn Đa-vít để hướng dẫn dân ta.’ 3

Cha ta là Đa-vít muốn xây một đền thờ cho CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en. 8 Nhưng CHÚA phán cùng Đa-vít cha ta rằng, ‘Ý ngươi muốn xây đền thờ cho ta rất tốt. 9 Nhưng ngươi sẽ không phải là người xây đền đó. Con trai ngươi, tức con sinh ra từ lòng ngươi, là kẻ sẽ xây đền thờ cho ta.’ 10 Nay CHÚA đã giữ lời hứa của Ngài. Ta hiện làm vua thay Đa-vít, cha ta. Ta đang trị vì trên Ít-ra-en theo như CHÚA hứa, và ta đã xây một đền thờ cho CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en. 11 Nơi đó ta đặt Rương, trong đó có Giao Ước CHÚA lập với dân Ít-ra-en.” 7

- 496 -


Lời cầu nguyện của Sô-lô-môn Rồi Sô-lô-môn đứng đối diện bàn thờ CHÚA, toàn dân Ít-ra-en đứng phía sau ông. Ông giơ tay ra. 13 Ông đã làm một cái bục bằng đồng dài ba thước, rộng ba thước, cao một thước rưỡi, đặt giữa sân ngoài của đền thờ. Sô-lô-môn đứng trên bục. Rồi ông quì xuống trước mặt cả dân Ít-ra-en đang tụ họp tại đó, giơ tay lên hướng lên trời. 14 Ông thưa, “Lạy CHÚA là Thượng Đế của Ít-ra-en, trên trời dưới đất không có thần nào giống như Ngài. Ngài giữ giao ước về tình yêu với tôi tớ nào của Ngài thực tâm theo Ngài. 12

Ngài đã giữ lời hứa đã lập cùng Đa-vít, cha tôi, kẻ tôi tớ Ngài. Chính miệng Ngài đã phán và hôm nay tay Ngài đã thực hiện điều ấy. 16 Bây giờ, lạy CHÚA là Thượng Đế của Ít-ra-en, xin hãy giữ lời hứa Ngài cùng Đa-vít, cha tôi, kẻ tôi tớ Ngài. Ngài phán, ‘Nếu con cháu ngươi cẩn thận vâng giữ các lời giáo huấn của ta đã làm thì trong dòng họ ngươi sẽ luôn luôn có người trị vì trên Ít-ra-en.’ 17 Bây giờ, lạy CHÚA là Thượng Đế của Ít-ra-en, xin hãy giữ lời hứa ấy mà Ngài lập cùng tôi tớ Ngài. 15

Nhưng Thượng Đế ôi, có quả thật Ngài cư ngụ trên đất với loài người không? Bầu trời và nơi cao nhất trên thiên đàng còn không chứa nổi Ngài nữa huống chi là tòa nhà nầy mà tôi xây cho Ngài. 19 Nhưng xin hãy lắng nghe lời khẩn cầu của tôi vì tôi là kẻ tôi tớ CHÚA. Lạy CHÚA là Thượng Đế tôi, xin hãy lắng nghe lời khẩn xin nầy của kẻ tôi tớ Ngài. 20 Ngày và đêm xin hãy trông chừng đền thờ nầy là nơi Ngài phán Ngài sẽ được sùng bái. Xin hãy nghe lời cầu nguyện của tôi hướng về đền thờ nầy. 21 Xin hãy nghe lời khẩn cầu của tôi và của dân Ít-ra-en Ngài khi chúng tôi hướng về nơi nầy mà cầu xin. Từ nơi ở Ngài trên trời xin hãy lắng nghe, và khi nghe xin Ngài tha tội cho chúng tôi. 18

Nếu có ai làm thiệt hại người khác, nó sẽ được mang đến đền thờ nầy. Nếu nó thề rằng nó không gây ra chuyện đó, 23 thì xin Ngài từ trời hãy nghe. Hãy phân xử trường hợp đó, phạt kẻ có tội, nhưng giải oan cho người vô tội. 22

Khi dân Ít-ra-en của Ngài phạm tội cùng Ngài và bị kẻ thù đánh bại. Nếu họ trở lại cùng Ngài, ca ngợi và khẩn cầu Ngài trong đền thờ nầy, 25 thì xin Ngài từ trời hãy nghe. Xin tha tội cho dân Ít-ra-en của Ngài và mang họ về xứ mà Ngài đã ban cho họ và tổ tiên họ. 24

Khi họ phạm tội cùng Ngài, và Ngài ngăn không cho mưa xuống đất. Họ sẽ khẩn cầu, hướng về nơi nầy và ca ngợi Ngài; và khi Ngài trừng phạt họ thì họ sẽ không phạm tội nữa. 27 Nếu vậy thì xin Ngài từ trời hãy nghe, tha thứ tội lỗi cho tôi tớ Ngài là dân Ít-ra-en. Xin hãy dạy họ làm điều phải và xin ban mưa xuống đất nầy là đất Ngài đã cho riêng họ. 26

Nếu khi đất gặp hạn hán không trồng trọt được, hay nếu có bệnh dịch hành hại dân chúng, nếu mùa màng bị cào cào hay châu chấu tiêu hủy, hoặc nếu dân sự Ngài bị kẻ thù tấn công trong các thành, hay nếu họ bị bệnh, 29 nếu có những chuyện đó thì dân chúng sẽ thực lòng ăn năn. Nếu dân Ngài giơ tay ra hướng về đền thờ nầy mà khẩn cầu, 30 thì xin CHÚA từ nơi ở Ngài trên trời lắng nghe. Xin tha tội và xử mỗi người thật phải lẽ vì Ngài biết rõ lòng dạ con người. Chỉ một mình Ngài thấu rõ tâm tư con người. 28

Bao lâu họ còn sống trên đất nầy mà Ngài đã ban cho tổ tiên chúng tôi thì dân chúng sẽ tôn kính Ngài bấy lâu. 31

Những người không phải Ít-ra-en, tức những kiều dân từ các xứ khác, sẽ nghe về sự uy nghi và quyền năng Ngài. Họ sẽ đến từ những nơi rất xa để cầu nguyện trong đền thờ nầy. 33 Xin Ngài từ trời hãy ban cho họ điều họ nài xin. Lúc đó dân chúng khắp nơi sẽ biết và tôn kính Ngài như dân Ít-ra-en Ngài đã làm vậy. Rồi mọi người sẽ biết rằng tôi đã xây đền thờ nầy dùng làm nơi thờ phụng Ngài. 32

Khi dân Ngài đi ra chiến đấu cùng kẻ thù dọc theo đường Ngài đưa họ đi, họ sẽ khẩn nguyện cùng Ngài, hướng về thành nầy là nơi Ngài đã chọn và nơi có đền thờ mà tôi đã xây cho Ngài. 35 Xin Ngài hãy từ trời nghe lời khẩn cầu của họ và đối xử công bằng cho họ. 34

- 497 -


Ai cũng phạm tội, cho nên dân Ngài cũng có thể phạm tội cùng Ngài. Ngài sẽ nổi giận cùng họ, trao họ vào tay quân thù. Kẻ thù sẽ bắt họ đày đi sang xứ xa hay gần. 37 Dân sự Ngài sẽ ăn năn tội khi họ bị làm tù binh nơi xứ khác. Họ sẽ hối hận và khẩn cầu cùng Ngài trong xứ họ bị làm tù binh. Họ sẽ thưa rằng, ‘Chúng tôi đã phạm tội. Chúng tôi quả làm quấy và hành động gian ác.’ 38 Họ sẽ thực tâm quay về cùng Ngài trong xứ họ bị làm tù binh. Họ sẽ khẩn cầu, hướng về xứ nầy là xứ Ngài ban cho tổ tiên họ, thành nầy mà Ngài đã chọn, và đền thờ nầy mà tôi đã xây cho Ngài. 39 Xin hãy nghe lời cầu khẩn của họ từ nơi ở của Ngài trên trời và hãy làm điều gì Ngài cho là phải. Xin tha tội cho dân Ngài là dân đã phạm tội cùng Ngài. 40 Bây giờ, lạy Thượng Đế, xin hãy nhìn đến chúng tôi. Xin hãy lắng nghe lời cầu nguyện của chúng tôi tại nơi nầy. 36

Lạy CHÚA là Thượng Đế xin hãy đứng dậy đến nơi nghỉ ngơi của Ngài. Xin hãy đến cùng Rương Giao Ước để tỏ ra quyền năng Ngài. Lạy CHÚA là Thượng Đế, nguyện các thầy tế lễ Ngài nhận sự cứu rỗi của Ngài, và nguyện dân thánh của Ngài vui mừng vì lòng nhân từ Ngài. 42 Lạy CHÚA là Thượng Đế, xin đừng từ bỏ kẻ được Ngài chỉ định. Xin nhớ lại tình yêu Ngài đối cùng Đa-vít, kẻ tôi tớ Ngài.” 41

II Sử Ký 7 Cung hiến đền thờ cho Chúa 7 Khi Sô-lô-môn cầu nguyện xong thì lửa từ trời loè xuống thiêu đốt các của lễ thiêu và các sinh tế. Sự vinh hiển của Thượng Đế đầy dẫy đền thờ. 2 Các thầy tế lễ không thể vào đền thờ CHÚA được vì vinh hiển CHÚA đầy dẫy trong đó. 3 Khi toàn dân Ít-ra-en thấy lửa loè ra từ trời cùng vinh hiển CHÚA ngự trên đền thờ thì họ liền sấp mặt xuống đất bái lạy Thượng Đế và thưa rằng, “Ngài thật nhân từ; tình yêu Ngài còn đến đời đời.” [a] Rồi vua Sô-lô-môn cùng toàn dân dâng sinh tế cho CHÚA. 5 Vua Sô-lô-môn dâng 22.000 con bò và 120.000 con chiên. Vậy vua và toàn dân cung hiến đền thờ cho Thượng Đế. 6 Các thầy tế lễ sẵn sàng thi hành nhiệm vụ. Các người Lê-vi cũng đứng bên các nhạc cụ mà vua Đa-vít đã làm cùng với nhạc để ca ngợi CHÚA. Các thầy tế lễ và người Lê-vi đồng nói rằng, “Hãy ca tụng CHÚA vì tình yêu Ngài còn đời đời.” [b] Các thầy tế lễ đứng đối diện người Lê-vi, thổi kèn, còn toàn dân Ít-ra-en thì đứng. 4

Sô-lô-môn biệt riêng ra thánh phần giữa của sân trước đền thờ CHÚA. Tại đó ông dâng của lễ thiêu và mỡ của lễ thân hữu. Ông dâng các của lễ đó trong sân trước vì bàn thờ bằng đồng mà ông đã làm không đủ chỗ chứa các của lễ thiêu, của lễ chay, và mỡ. 7

Sô-lô-môn cùng toàn dân kỷ niệm lễ [c] trong bảy ngày. Có rất đông người đến từ nơi rất xa như Lê-bô Hamát và suối Ai-cập. 9 Trong bảy ngày họ kỷ niệm lễ cung hiến bàn thờ để thờ phụng Thượng Đế. Rồi họ kỷ niệm lễ trong bảy ngày. Đến ngày thứ tám họ có buổi họp chung. 10 Vào ngày thứ hai mươi ba tháng bảy thì Sô-lô-môn cho dân chúng về, mọi người đều hớn hở. Họ vui mừng vì CHÚA đã tỏ lòng nhân từ cùng Đavít, Sô-lô-môn, và dân Ít-ra-en của Ngài. 8

Chúa hiện ra cùng Sô-lô-môn Sô-lô-môn hoàn tất đền thờ của CHÚA và cung điện của ông. Ông thành công trong mọi việc đã hoạch định cho đền thờ CHÚA và cung điện mình. 12 Sau đó CHÚA hiện ra cùng Sô-lô-môn trong ban đêm và bảo ông rằng, “Ta đã nghe lời cầu nguyện ngươi và ta đã chọn nơi nầy riêng cho ta để làm đền thờ dâng sinh tế. 13 Ta có thể ngăn trời mưa xuống hay sai cào cào tàn phá xứ. Ta cũng có thể sai bệnh tật đến trên dân ta. 11

- 498 -


Nhưng nếu dân ta là dân được gọi bằng danh ta ăn năn việc làm của họ, nếu họ khẩn nguyện và vâng lời ta, ngưng các hành vi gian ác của họ thì ta sẽ từ trời nghe họ. Ta sẽ tha tội cho họ và chữa lành cho xứ. 15 Mắt ta sẽ nhìn, tai ta sẽ mở để nghe lời cầu nguyện nơi nầy. 16 Ta đã chọn đền thờ nầy và thánh hoá nó. Đó là nơi ta sẽ được sùng bái đời đời. Thật vậy, ta sẽ luôn luôn trông chừng nó và yêu thích nó. 17 Nhưng ngươi phải phục vụ ta như Đa-vít, cha ngươi. Ngươi phải vâng theo mọi mệnh lệnh ta, giữ luật lệ và qui tắc của ta. 18 Nếu ngươi làm như thế, ta sẽ củng cố nước ngươi. Đây là giao ước ta đã lập với Đa-vít, cha ngươi, ‘Trong gia đình ngươi sẽ luôn luôn có người trị vì trên Ít-ra-en.’ 14

Nhưng ngươi phải theo ta, vâng giữ các luật lệ và mệnh lệnh ta truyền cho ngươi. Ngươi không được phục vụ và thờ phụng các thần khác. 20 Nếu không ta sẽ kéo Ít-ra-en ra khỏi xứ ta, xứ mà ta ban cho họ, ta sẽ rời bỏ đền thờ nầy là thành ta đã biệt ra thánh. Các dân sẽ chế diễu và bêu xấu nó. 19

Đền thờ nầy hiện được tôn kính nhưng lúc đó người qua kẻ lại sẽ sửng sốt. Họ sẽ hỏi, ‘Tại sao CHÚA làm chuyện kinh khủng cho đất và đền thờ nầy?’ 22 Người ta sẽ trả lời, ‘Đó tại vì họ lìa bỏ CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên mình, Đấng đã mang họ ra khỏi Ai-cập. Họ đi theo các thần khác và phục vụ các thần đó, bởi vậy cho nên Ngài giáng thảm hoạ nầy trên họ.’” 21

II Sử Ký 8 Những thành phố do Sô-lô-môn thiết lập 8 Đến cuối năm thứ hai mươi, Sô-lô-môn đã xây xong đền thờ cho CHÚA và cung điện mình. 2 Sô-lô-môn cho xây sửa lại các thị trấn mà vua Hi-ram [a] đã cho mình rồi đưa dân Ít-ra-en đến định cư trong các thị trấn ấy. 3 Rồi ông kéo đến chiếm Ha-mát Xô-ba. 4 Sô-lô-môn cũng xây thị trấn Thát-mo trong sa mạc và xây tất cả các thị trấn trong Ha-mát cùng làm nơi chứa ngũ cốc và vật liệu. 5 Ông xây sửa lại các thị trấn Bết-Hô-rôn trên, và Bết-Hô-rôn dưới, xây tường, cổng, và các thanh cài cổng để phòng vệ các nơi đó. 6 Ông cũng cho xây lại thị trấn Ba-a-lát. Ông cũng xây các thị trấn khác để làm kho chứa, và các thành khác chứa quân xa và ngựa. Những gì ông muốn thì ông xây ở Giê-ru-sa-lem, Li-băng, và bất cứ nơi nào ông trị vì. Có những dân khác trong xứ không phải dân Ít-ra-en: như dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Phê-ri-sít, dân Hêvít, và dân Giê-bu-sít. 8 Họ là dòng dõi của những dân tộc mà người Ít-ra-en chưa tiêu diệt. Sô-lô-môn buộc họ làm tôi mọi, và ngày nay cũng vẫn như thế. 9 Nhưng Sô-lô-môn không bắt dân Ít-ra-en làm tôi mọi. Ông cho họ làm lính, các sĩ quan chỉ huy, sĩ quan chỉ huy quân xa, và những người tài xế quân xa. 10 Đó là những sĩ quan cao cấp nhất của ông. Có hai trăm năm mươi người thuộc cấp đó để điều động dân chúng. 7

Sô-lô-môn rước con gái của vua Ai-cập từ khu cũ của thành Giê-ru-sa-lem vào cung điện vua xây cho nàng. Sô-lô-môn nói, “Vợ ta không nên ở trong cung vua Đa-vít vì nơi nào Rương Giao Ước của CHÚA đã được đặt để đều là thánh.” 11

Rồi Sô-lô-môn dâng của lễ thiêu cho CHÚA trên bàn thờ ông đã xây trước mặt vòm cửa đền thờ. 13 Ông dâng sinh tế mỗi ngày theo như Mô-se truyền dặn. Các của lễ được dâng vào ngày Sa bát, ngày Trăng Mới, và ba ngày lễ hằng năm tức Lễ Bánh Không Men, Lễ Các Tuần, và Lễ Lều Tạm. 14 Sô-lô-môn theo đúng những lời dặn dò của Đa-vít và chọn các nhóm thầy tế lễ để phục vụ và các người Lê-vi để hướng dẫn ca hát đồng thời giúp các thầy tế lễ trong công việc hằng ngày. Ông chọn các người giữ cửa theo nhóm để canh gác ở mỗi cổng theo như Đa-vít, người của Thượng Đế đã truyền dặn. 15 Họ vâng theo các mệnh lệnh của Sô-lômôn truyền cho các thầy tế lễ và người Lê-vi cùng những mệnh lệnh liên quan đến kho ngân khố. 12

Tất cả các công tác của Sô-lô-môn đều hoàn tất y như lời ông đã nói từ ngày khởi công đặt nền cho đền thờ cho đến khi hoàn thành. Vậy đền thờ được xây cất xong. 16

17

Rồi Sô-lô-môn đi đến các thị trấn Ê-xi-ôn Ghê-be và Ê-lát gần Hồng hải trong xứ Ê-đôm.

- 499 -


Hi-ram [b] phái các thuyền bè do người của mình là những thủy thủ chuyên nghiệp điều khiển đến Sô-lômôn. Những người của Hi-ram đi cùng với người của Sô-lô-môn đến Ô-phia [c] mang về khoảng mười sáu tấn [d] vàng cho vua Sô-lô-môn. 18

II Sử Ký 9 Cuộc viếng thăm của Nữ hoàng nước Sê-ba 9 Khi nữ hoàng nước Sê-ba nghe danh tiếng vua Sô-lô-môn thì bà đi đến Giê-ru-sa-lem để thử vua bằng nhiều câu đố. Bà có một đoàn tùy tùng rất đông mang theo lạc đà chở thuốc thơm, ngọc quí và rất nhiều vàng. Khi đến gặp Sô-lô-môn thì bà nói cho vua biết những điều bà nghĩ trong trí. 2 Vua Sô-lô-môn trả lời mọi câu hỏi của bà. Không có câu nào quá khó mà vua không trả lời được. Nữ hoàng Sê-ba thấy vua Sô-lô-môn vô cùng khôn ngoan. Bà thấy cung điện mà vua đã xây, 4 thức ăn trên bàn, các viên chức, tôi tớ trong cung điện và quần áo tốt đẹp họ mặc, các đầy tớ hầu rượu cho vua cùng y phục đẹp đẽ mà họ mặc. Bà cũng thấy của lễ toàn thiêu dâng trong đền thờ CHÚA. Tất cả đều khiến bà vô cùng sửng sốt. 3

Bà bảo vua Sô-lô-môn, “Những điều trước đây tôi nghe trong xứ tôi về những kỳ công và sự thông thái của vua đều đúng. 6 Lúc ấy tôi chưa tin nhưng nay tôi đã đến và thấy tận mắt mọi điều thì hóa ra người ta chưa thuật tới phân nửa sự khôn ngoan của vua! Vua thật còn oai nghi hơn điều tôi nghe. 7 Các người hầu việc [a] và các viên chức vua thật may mắn vì họ được nghe lời thông thái của vua. 8 Đáng chúc tụng CHÚA là Thượng Đế vua đã vui thích lập vua làm vua. Ngài đặt vua trên ngôi Ngài để trị vì thay cho CHÚA là Thượng Đế vua vì Ngài yêu mến dân Ít-ra-en và giúp đỡ họ đời đời. Ngài đã lập vua làm vua trên họ để duy trì công lý và cai trị công minh.” 5

Rồi bà biếu vua hơn bốn tấn [b] vàng và vô số hương liệu cùng ngọc quí. Chưa hề có ai biếu hương liệu thuộc loại mà nữ hoàng Sê-ba biếu vua Sô-lô-môn. 9

Những người của Hi-ram và của Sô-lô-môn mang vàng từ Ô-phia, gỗ bá hương [c] và ngọc quí. 11 Vua Sôlô-môn dùng gỗ bá hương xây các bậc thang cho đền thờ CHÚA cùng cung điện mình. Ông cũng dùng gỗ đó đóng các đờn sắt và đờn cầm cho các nhạc sĩ. Từ xưa đến nay trong Giu-đa chưa ai thấy những đồ tuyệt đẹp như vậy. 10

Vua Sô-lô-môn biếu nữ hoàng Sê-ba những gì bà muốn và xin, nhiều hơn số quà bà biếu vua nữa. Rồi bà và các đầy tớ trở về xứ. 12

Sự giàu có của Sô-lô-môn Mỗi năm vua Sô-lô-môn nhận khoảng hai mươi ba tấn [d] vàng. 14 Ngoài ra, vua cũng nhận vàng từ các lái buôn và thương gia. Tất cả các vua Á-rập và các tổng trấn của xứ cũng mang vàng bạc đến. 13

Vua Sô-lô-môn làm 200 cái thuẫn lớn bằng vàng giát, mỗi cái chứa khoảng 15 cân [e] vàng giát. 16 Vua cũng làm 300 cái thuẫn nhỏ hơn bằng vàng giát, mỗi cái chứa khoảng bảy cân rưỡi [f] vàng. Vua đặt các khiên ấy nơi Cung trong Rừng Li-băng [g]. 15

Vua làm một cái ngai lớn bằng ngà và bọc vàng. 18 Ngai có sáu nấc thang đi lên và một bệ chân vàng. Hai bên ngai có chỗ dựa tay, và mỗi cái tựa tay có một con sư tử bên cạnh. 19 Mười hai con sư tử đứng trên mười sáu bậc thang, đầu mỗi bậc thang có một con sư tử. Chưa hề có ngai nào làm giống như vậy cho bất cứ vương quốc nào. 17

Tất cả chén bát vua Sô-lô-môn dùng cũng như các dĩa [h] dùng ở Cung trong Rừng Li-băng đều làm bằng vàng. Trong thời Sô-lô-môn người ta xem thường bạc. 20

- 500 -


Vua Sô-lô-môn có nhiều tàu bè được phái đi kinh doanh cùng với thủy thủ của vua Hi-ram. Mỗi ba năm các tàu đó trở về mang theo vàng, bạc, ngà voi, khỉ và con công. 21

Vua Sô-lô-môn giàu có và khôn ngoan hơn tất cả các vua khác trên đất. 23 Tất cả các vua trên đất đều mong gặp Sô-lô-môn và nghe những lời khôn ngoan mà Thượng Đế ban cho ông. 24 Năm nầy sang năm khác ai đến đều mang các quà bằng bạc và vàng, quần áo, vũ khí, hương liệu, ngựa và la. 22

Sô-lô-môn có bốn ngàn chuồng giữ ngựa và quân xa, ông có mười hai ngàn ngựa. Ông giữ một số trong các thành phố dành riêng cho quân xa còn số ngựa khác ông giữ với mình ở Giê-ru-sa-lem. 26 Sô-lô-môn trị vì trên tất cả các nước từ sông Ơ-phơ-rát cho đến xứ Phi-li-tin, chạy dài đến tận biên giới Ai-cập. 27 Ở Giêru-sa-lem vua khiến bạc trở thành tầm thường như sỏi đá, và cây hương nam nhiều như cây vả mọc nơi đồng bằng vậy. 28 Sô-lô-môn nhập cảng ngựa từ Ai-cập và tất cả các quốc gia khác. 25

Sô-lô-môn qua đời Mọi việc khác Sô-lô-môn làm, từ đầu đến cuối đều được ghi chép trong sử ký của Na-than, nhà tiên tri, và trong sách tiên tri của A-hi-gia người Si-lôn, và trong sách viễn tượng của Y-đô, người tiên kiến. Y-đô cũng ghi chép về Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát. 30 Sô-lô-môn trị vì Ít-ra-en ở Giê-ru-sa-lem bốn mươi năm. 31 Rồi Sô-lô-môn qua đời [i] và được chôn ở Giê-ru-sa-lem, thành của Đa-vít, cha mình. Rô-bô-am, con trai ông lên nối ngôi. 29

II Sử Ký 10 Rô-bô-am hành động dại dột 10 Rô-bô-am đi xuống Sê-chem nơi toàn dân Ít-ra-en đến để cử ông làm vua. 2 Lúc đó Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát đang ở Ai-cập, nơi ông cư ngụ để trốn tránh vua Sô-lô-môn. Khi nghe Rô-bô-am được cử làm vua thì Giê-rô-bô-am từ Ai-cập trở về. 3 Sau khi dân chúng mời ông về thì ông và dân chúng đến gặp Rô-bôam thưa rằng, 4 “Cha vua bắt chúng tôi làm việc nhọc nhằn lắm. Bây giờ xin vua hãy nhẹ tay cho chúng tôi, đừng bắt chúng tôi làm việc cực nhọc như cha vua thì chúng tôi sẽ phục vụ vua.” 5

Rô-bô-am đáp, “Ba ngày nữa các ngươi hãy trở lại đây.” Cho nên dân chúng ra về.

Vua Rô-bô-am hỏi ý các bô lão đã cố vấn cho Sô-lô-môn trong khi vua còn sống rằng, “Tôi phải trả lời cho dân nầy ra sao?” 6

Các bô lão đáp, “Hãy tỏ ra nhân từ cùng dân nầy. Nếu vua làm họ vui thích và lấy lời ôn hòa nói cùng họ thì họ sẽ phục vụ vua mãn đời.” 7

Nhưng Rô-bô-am gạt bỏ ý kiến ấy. Ông đi hỏi ý kiến những bọn trai trẻ cùng lớn lên với mình và làm cố vấn cho mình. 9 Rô-bô-am hỏi họ, “Ý kiến mấy anh ra sao? Tôi phải trả lời thế nào cho điều thỉnh cầu của dân, ‘Đừng bắt chúng tôi làm việc cực nhọc như cha vua’?” 8

Các người trẻ cùng lớn lên với vua đáp, “Kẻ nào nói với vua, ‘Cha vua bắt chúng tôi làm việc cực nhọc. Bây giờ xin hãy nhẹ tay cho chúng tôi’ thì Vua hãy bảo họ, ‘Ngón tay út của ta còn lớn hơn thắt lưng của cha ta nữa. 11 Cha ta bắt các ngươi làm việc cực nhọc, ta sẽ bắt các ngươi làm cực nhọc hơn nữa. Cha ta quất các ngươi bằng roi, ta sẽ quất các ngươi bằng roi bò cạp.’” 10

Rô-bô-am đã bảo dân chúng, “Ba ngày nữa hãy trở lại đây.” Vậy sau ba ngày Giê-rô-bô-am và toàn dân trở lại cùng Rô-bô-am. 13 Vua Rô-bô-am dùng lời lẽ cộc cằn nói chuyện với họ vì vua gạt bỏ lời khuyên của các bô lão. 14 Ông nghe theo lời khuyên của bọn trẻ nói rằng, “Cha ta bắt các ngươi làm cực, ta sẽ bắt các ngươi làm cực hơn nữa. Cha ta quất các ngươi bằng roi, ta sẽ quất các ngươi bằng roi bọ cạp.” 12

- 501 -


Thế là vua không nghe dân chúng. Thượng Đế khiến việc nầy xảy ra để giữ lời hứa cùng Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, qua A-hi-gia, một tiên tri từ Si-lô. 15

16

Khi toàn dân Ít-ra-en thấy vua không nghe mình thì họ bảo vua,

“Chúng tôi không có phần gì với Đa-vít! Chúng tôi không can dự gì đến con trai Gie-xê! Hỡi dân Ít-ra-en, hãy về nhà mình đi! Hãy để con trai Đa-vít cai trị gia đình nó đi.” Vì thế mọi người Ít-ra-en đều trở về nhà. 17 Nhưng Rô-bô-am vẫn cai trị trên dân Ít-ra-en sống trong các thị trấn miền Giu-đa. A-đô-ni-ram [a] là người quản đốc toán làm xâu. Khi vua sai ông đến cùng dân chúng thì họ ném đá ông chết. Vua Rô-bô-am liền lên quân xa chạy thoát đến Giê-ru-sa-lem. 19 Từ đó về sau, Ít-ra-en vẫn phản nghịch cùng gia đình Đa-vít. 18

II Sử Ký 11 11 Khi Rô-bô-am đến Giê-ru-sa-lem ông liền tập họp một trăm tám mươi ngàn binh sĩ thiện chiến nhất của Giu-đa và Bên-gia-min. Ông định đánh Ít-ra-en để giành lại nước cho mình. 2 Nhưng CHÚA phán cùng Sêmai-gia, người của Thượng Đế rằng, 3 “Hãy nói cùng Rô-bô-am, con trai Sô-lô-môn, vua Giu-đa, và cùng toàn dân Ít-ra-en đang sống trong Giu-đa và Bên-gia-min rằng, 4 ‘CHÚA phán, các ngươi không nên đánh giặc cùng anh em mình. Ai nấy hãy về nhà đi vì chính ta gây ra chuyện nầy.’” Vậy họ vâng theo lời CHÚA và quay về, không đánh Giê-rô-bô-am nữa.

Rô-bô-am củng cố Giu-đa Rô-bô-am đóng đô ở Giê-ru-sa-lem và xây các thành kiên cố trong Giu-đa để bảo vệ vùng ấy. 6 Ông củng cố các thành Bết-lê-hem, Ê-tam, Tê-cô-a, 7 Bết-sua, Xô-cô, A-đu-lam, 8 Gát, Ma-rê-sa, Xíp, 9 A-đô-ra-im, La-kích, A-xê-ka, 10 Xô-ra, Ai-gia-lôn, và Hếp-rôn. Đó là các thành có vách kiên cố ở Giu-đa và Bên-giamin. 11 Sau khi vua đã củng cố các thành đó rồi thì ông đặt các viên chỉ huy và các kho tiếp liệu thực phẩm, dầu, và rượu trong các thành đó. 12 Ngoài ra Rô-bô-am cũng đặt các khiên và giáo trong tất cả các thành phố để bảo vệ chúng. Rô-bô-am kiểm soát dân cư Giu-đa và Bên-gia-min. 5

Các thầy tế lễ và người Lê-vi từ khắp Ít-ra-en đều theo Rô-bô-am. 14 Thậm chí những người Lê-vi cũng phải bỏ đồng ruộng và tài sản mình và đến Giu-đa cùng Giê-ru-sa-lem vì Giê-rô-bô-am và các con trai ông không cho họ hành chức tế lễ cho CHÚA. 13

Giê-rô-bô-am tự chọn các thầy tế lễ cho những nơi thờ phụng và cho các hình tượng dê và bò con mà ông đã làm. 16 Có những người từ khắp Ít-ra-en muốn vâng lời CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en. Vì thế họ cùng những người Lê-vi đến Giê-ru-sa-lem để dâng sinh tế cho CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên mình. 17 Họ củng cố đất nước cho Giu-đa và họ ủng hộ Rô-bô-am, con trai Sô-lô-môn trong ba năm. Trong thời gian đó họ sống y như Đa-vít và Sô-lô-môn đã sống. 15

Gia đình Rô-bô-am Rô-bô-am lấy Ma-ha-lát, con gái Giê-ri-mốt và A-bi-hai. Giê-ri-mốt là con trai Đa-vít, và A-bi-hai là con gái Ê-li-áp, con trai Gie-xê. 19 Ma-ha-lát sinh cho Rô-bô-am các con trai sau đây: Giê-út, Sê-ma-ria, và Xaham. 20 Sau đó Rô-bô-am lấy Ma-a-ca, cháu gái [a] của Áp-xa-lôm. Nàng sinh cho Rô-bô-am các con sau đây: A-bi-gia, Át-tai, Xi-xa, và Sê-lô-mít. 21 Rô-bô-am yêu Ma-a-ca hơn các người vợ và hầu thiếp khác. Rô-bô-am có mười tám người vợ và sáu mươi hầu thiếp. Ông sinh hai mươi tám con trai và sáu mươi con gái. 18

- 502 -


Rô-bô-am chọn A-bi-gia, con trai Ma-a-ca, làm lãnh đạo các anh em mình vì ông định cho A-bi-gia kế vị mình. 23 Rô-bô-am hành động rất khôn ngoan. Ông phân tán các con mình ra khắp các nơi trong Giu-đa và Bên-gia-min, đặt chúng ở các thành có vách kiên cố. Ông cung cấp cho chúng nó đầy đủ và kiếm vợ cho chúng nó. 22

II Sử Ký 12 Si-sắc, vua Ai-cập tấn công Giê-ru-sa-lem 12 Sau khi nước của Rô-bô-am được thiết lập và vững chãi thì ông và dân Giu-đa [a] không vâng theo lời dạy của CHÚA nữa. Vào năm thứ năm triều vua Rô-bô-am thì Si-sắc, vua Ai-cập kéo lên tấn công Giê-ru-sa-lem vì Rô-bô-am không trung thành cùng CHÚA. 3 Si-sắc có một ngàn hai trăm quân xa và sáu mươi ngàn lính cỡi ngựa. Ông cũng kéo các binh lính từ Ly-bi, Su-kít, và Cu-si lên từ Ai-cập với mình, đông đến nỗi không thể đếm được. 4 Si-sắc chiếm các thành có vách kiên cố của Giu-đa và kéo đến sát Giê-ru-sa-lem. 2

Sau đó Sê-mai-gia, nhà tiên tri, đến gặp Rô-bô-am và các lãnh tụ của Giu-đa đã tập họp tại Giê-ru-sa-lem vì họ sợ Si-sắc. Sê-mai-gia bảo họ, “CHÚA phán như sau: ‘Các ngươi đã lìa bỏ ta cho nên ta cũng bỏ mặc để các ngươi đối đầu với Si-sắc một mình.’” 5

Sau đó các lãnh tụ Giu-đa và Rô-bô-am hối hận về những điều mình đã làm và bảo, “CHÚA hành động rất phải.” 6

Khi CHÚA thấy họ hối hận về hành động mình thì Ngài phán cùng Sê-mai-gia, “Vua và các lãnh tụ đã hối hận cho nên ta sẽ không tiêu diệt họ mà sẽ sớm giải cứu. Ta sẽ không dùng Si-sắc để trừng phạt Giê-ru-salem trong cơn giận ta nữa. 8 Nhưng dân cư Giê-ru-sa-lem sẽ làm tôi mọi cho Si-sắc để họ biết rằng phục vụ ta khác hơn phục vụ vua các dân tộc khác.” 7

Si-sắc, vua Ai-cập, tấn công Giê-ru-sa-lem và lấy tất cả những vật quí giá trong đền thờ CHÚA và cung điện vua. Ông lấy mọi thứ, luôn cả các khiên vàng mà Sô-lô-môn đã làm. 10 Vì vậy Rô-bô-am cho làm các khiên bằng đồng thế vào và giao cho các viên chỉ huy của toán phòng vệ cửa cung điện vua canh giữ. 11 Hễ khi nào vua đi vào đền thờ CHÚA thì các lính phòng vệ đi theo vua mang khiên theo với mình. Sau đó họ mang khiên đi cất. 9

Khi thấy Rô-bô-am hối hận về hành vi của mình thì CHÚA nén giận và không hoàn toàn tiêu diệt ông. Trong Giu-đa vẫn còn điều tốt. 12

Vua Rô-bô-am củng cố địa vị mình ở Giê-ru-sa-lem. Khi lên ngôi vua ông được bốn mươi mốt tuổi và trị vì ở Giê-ru-sa-lem mười bảy năm. Giê-ru-sa-lem là thành mà CHÚA chọn từ trong các chi tộc Ít-ra-en để làm nơi thờ phụng Ngài. Mẹ của Rô-bô-am là Na-a-ma, gốc người Am-môn. 14 Rô-bô-am làm điều ác, không hết lòng tìm kiếm CHÚA. 13

Những điều Rô-bô-am làm trong khi trị vì từ đầu đến cuối đều được ghi vào sử ký của Sê-mai-gia, nhà tiên tri, và của Y-đô, người tiên kiến, nơi mục gia phổ. Trong đời hai vua trị vì, giữa Rô-bô-am và Giê-rôbô-am đánh giặc với nhau luôn luôn. 16 Rô-bô-am qua đời và được chôn ở Giê-ru-sa-lem. A-bi-gia, con trai ông lên nối ngôi. 15

- 503 -


II Sử Ký 13 A-bi-gia, vua Giu-đa 13 A-bi-gia lên ngôi vua Giu-đa vào năm thứ mười tám đời Giê-rô-bô-am, vua Ít-ra-en. 2 A-bi-gia trị vì ở Giê-ru-sa-lem ba năm. Mẹ ông là Ma-a-ca, con gái U-ri-ên, nguyên quán thành Ghi-bê-a. Chiến tranh xảy ra giữa A-bi-gia và Giê-rô-bô-am. 3 A-bi-gia hướng dẫn một đoàn quân thiện chiến gồm bốn trăm ngàn người ra trận. Giê-rô-bô-am chuẩn bị nghênh chiến với tám trăm ngàn quân thiện chiến. A-bi-gia đứng trên núi Xê-ma-ra-im trong vùng núi Ép-ra-im kêu lên rằng, “Hỡi Giê-rô-bô-am và toàn dân Ít-ra-en hãy nghe đây! 5 Các ngươi biết rằng CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en ban cho Đa-vít và các con trai người quyền trị vì trên Ít-ra-en đời đời qua giao ước bằng muối [a]. 6 Nhưng Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, một trong các sĩ quan của Sô-lô-môn, con trai Đa-vít, phản nghịch chủ mình. 7 Rồi những kẻ vô loại, những bọn gian ác theo Giê-rô-bô-am để nghịch lại Rô-bô-am, con trai Sô-lô-môn. Lúc đó người hãy còn nhỏ chưa biết phải hành động ra sao nên không ngăn chặn Giê-rô-bô-am được. 4

Nay các ngươi âm mưu nghịch lại nước CHÚA, là nước thuộc về các con trai Đa-vít. Các ngươi rất đông, các ngươi thờ bò con vàng mà Giê-rô-bô-am đã tạc nên cho các ngươi. 9 Các ngươi đã gạt bỏ những người Lê-vi và các thầy tế lễ của CHÚA, tức các con cháu A-rôn. Các ngươi tự chọn lấy các thầy tế lễ cho mình như các dân tộc khác đã làm. Ai đến mang theo một con bò tơ đực và bảy con chiên đực thì được làm thầy tế lễ cho các tượng chạm mà không phải là thần. 8

Nhưng về chúng ta, CHÚA là Thượng Đế của chúng ta, vì chúng ta không lìa bỏ Ngài. Các thầy tế lễ phục vụ CHÚA đều là con cháu A-rôn, có các người Lê-vi giúp đỡ họ. 11 Họ dâng của lễ thiêu và đốt hương cho CHÚA mỗi sáng mỗi chiều. Họ đặt bánh trên bàn đặc biệt trong đền thờ. Họ cũng thắp đèn để trên chân đèn bằng vàng mỗi chiều. Chúng ta vâng theo mệnh lệnh của CHÚA là Thượng Đế chúng ta nhưng các ngươi đã lìa bỏ Ngài. 12 Chính Thượng Đế ở với chúng ta và là quan trưởng của chúng ta. Các thầy tế lễ của Ngài thổi kèn triệu tập chúng ta ra trận chiến đấu chống các ngươi. Hỡi người Ít-ra-en, không nên chống nghịch lại CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên các ngươi vì các ngươi không thắng nổi đâu.” 10

Nhưng Giê-rô-bô-am đã phái một số quân phục kích phía sau đạo quân Giu-đa. Nên trong khi Giê-rô-bôam đang đối diện với đạo quân Giu-đa thì các binh sĩ của ông đã ở phía sau họ. 14 Khi các binh sĩ Giu-đa quay lại thì thấy đạo quân Giê-rô-bô-am tấn công mình cả phía trước lẫn phía sau [b] nên họ kêu la cùng CHÚA, còn các thầy tế lễ thì thổi kèn. 15 Rồi quân Giu-đa hô xung trận. Khi họ la lên thì Thượng Đế khiến Giê-rô-bô-am và đạo quân Ít-ra-en bỏ chạy khỏi A-bi-gia và đạo quân Giu-đa. 16 Sau khi đạo quân Ít-ra-en bỏ chạy khỏi các binh sĩ Giu-đa thì Thượng Đế trao họ vào tay quân Giu-đa. 17 A-bi-gia và các quân sĩ của ông đánh giết 500.000 binh sĩ thiện chiến nhất của Ít-ra-en. 18 Lúc đó dân Ít-ra-en bị thua trận. Dân Giu-đa đắc thắng vì họ nhờ cậy CHÚA là Thượng Đế của tổ tiên mình. 13

Đạo quân của A-bi-gia đuổi theo đạo quân Giê-rô-bô-am và chiếm các thị trấn Bê-tên, Giê-sa-na, và Éprôn, cùng các làng mạc quanh đó. 19

Giê-rô-bô-am không còn vươn lên được nữa trong suốt đời A-bi-gia. CHÚA đánh Giê-rô-bô-am nên ông chết. 21 Nhưng A-bi-gia càng ngày càng mạnh. Ông lấy mười bốn người vợ sinh hai mươi hai con trai, mười sáu con gái. 20

22

Mọi việc khác ông làm và những điều ông nói đều được ghi chép trong văn thư của nhà tiên tri Y-đô.

II Sử Ký 14 14 A-bi-gia qua đời và được chôn trong thành Đa-vít. A-sa con trai ông lên nối ngôi. Xứ được hoà bình suốt mười năm trong thời gian A-sa trị vì. - 504 -


A-sa, vua Giu-đa A-sa làm điều phải trước mặt CHÚA là Thượng Đế. 3 Ông tháo bỏ các bàn thờ ngoại lai và những nơi thờ cúng địa phương. Ông đập phá các trụ đá thờ thần và phá sập các trụ thờ thần A-sê-ra. 4 A-sa truyền cho dân chúng Giu-đa phải theo CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên mình, và vâng theo những lời giáo huấn cùng mệnh lệnh Ngài. 5 Ông cũng tháo bỏ những nơi thờ phụng và bàn thờ đốt hương cho các tà thần trong tất cả các thị trấn Giu-đa. Vì thế xứ được hoà bình trong đời vua A-sa. 6 A-sa xây cất các thành có vách kiên cố ở Giu-đa lúc còn thái bình. Trong những năm đó không có giặc giã vì CHÚA ban cho ông an hưởng hòa bình. 2

A-sa bảo dân chúng Giu-đa rằng, “Chúng ta hãy xây cất các thị trấn nầy và dựng vách xung quanh. Hãy cất các tháp, cổng cùng các thanh gài. Xứ nầy là của chúng ta vì chúng ta đã vâng theo CHÚA, là Thượng Đế chúng ta. Chúng ta đi theo Ngài cho nên Ngài đã ban cho chúng ta thái bình bốn bên.” Vì thế họ xây cất và thành công. 7

A-sa có một đạo quân ba trăm ngàn người Giu-đa và hai trăm tám mươi ngàn người Bên-gia-min. Các người Giu-đa mang các khiên và giáo to. Còn người Bên-gia-min mang các khiên nhỏ hơn cùng cung tên. Tất cả đều là các chiến sĩ gan dạ. 8

Xê-ra từ xứ Cút [a] mang một đạo quân đông vô số và ba trăm quân xa kéo đến. Chúng đến sát thị trấn Marê-sa. 10 A-sa kéo quân ra đánh nhau với Xê-ra và chuẩn bị giao chiến ở thung lũng Xê-pha-thát ở Ma-rê-sa. 9

A-sa kêu xin cùng CHÚA là Thượng Đế mình rằng, “Lạy CHÚA, chỉ có một mình Ngài giúp kẻ yếu thắng kẻ mạnh. Lạy CHÚA là Thượng Đế chúng tôi, xin giúp đỡ chúng tôi vì chúng tôi nhờ cậy Ngài. Chúng tôi nhân danh Ngài đánh nhau với đạo quân khổng lồ nầy. Lạy CHÚA, Ngài là Thượng Đế chúng tôi. Xin đừng để ai thắng hơn Ngài.” 11

Vì thế khi đạo quân của A-sa từ Giu-đa tấn công thì CHÚA giúp họ đánh bại người Cút, người Cút bỏ chạy tán loạn. 13 Đạo quân của A-sa đuổi theo họ cho đến vùng Ghê-ra. Số người Cút bị giết quá nhiều nên họ không còn sức đánh nhau nữa. Họ bị CHÚA và đạo quân Ngài đánh bại. A-sa cùng đạo quân mình cướp lấy nhiều vật quí từ quân thù. 14 Họ phá hủy tất cả các thị trấn gần Ghê-ra vì CHÚA giáng sự kinh hoàng xuống trên dân cư sống trong các thị trấn ấy. Các thị trấn đó có nhiều đồ quí giá cho nên đạo quân A-sa cũng lấy luôn. 15 Đạo quân A-sa cũng tấn công các trại của các người chăn chiên, cướp đoạt vô số chiên cùng lạc đà. Sau đó họ trở về Giê-ru-sa-lem. 12

II Sử Ký 15 Những cuộc cải cách của A-sa 15 Thần linh của Thượng Đế nhập vào A-xa-ria, con trai Ô-đết. 2 A-xa-ria đi gặp A-sa và nói rằng, “Hỡi Asa cùng toàn dân Giu-đa và Bên-gia-min, hãy nghe ta đây. CHÚA ở cùng các ngươi khi các ngươi ở cùng Ngài. Nếu các ngươi vâng theo Ngài, các ngươi sẽ tìm được Ngài, nhưng nếu các ngươi lìa bỏ Ngài thì Ngài sẽ lìa bỏ các ngươi. 3 Đã khá lâu Ít-ra-en không có Thượng Đế thật, không có thầy tế lễ để dạy dỗ họ và cũng không có lời giáo huấn nào. 4 Nhưng khi gặp khốn khó thì họ quay về cùng CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en. Họ tìm kiếm Ngài và gặp được Ngài. 5 Trong lúc đó không có ai đi đường bình yên cả. Khắp xứ gặp lộn xộn. 6 Dân nầy diệt dân khác, thành nầy tiêu hủy thành kia, vì CHÚA giáng trên họ mọi thứ khốn khó. 7 Nhưng các ngươi hãy mạnh dạn. Đừng bỏ cuộc vì các ngươi sẽ nhận được phần thưởng cho công khó mình.” A-sa cảm thấy phấn chí khi nghe A-xa-ria, con trai Ô-đết, nhà tiên tri nói những lời khuyên đó. Cho nên ông phá dỡ các thần tượng ghê tởm trong khắp xứ Giu-đa và Bên-gia-min ra khỏi các thị trấn mà ông đã chiếm trong vùng núi Ép-ra-im. Ông sửa sang lại đền thờ CHÚA ở phía trước vòm cửa đền thờ của Ngài. 8

- 505 -


Rồi A-sa triệu tập tất cả các người Giu-đa và Bên-gia-min cùng các chi tộc Ép-ra-im, Ma-na-xe, và Xi-mêôn sống trong xứ Giu-đa. Thậm chí có nhiều người từ Ít-ra-en cũng đến với A-sa vì họ thấy CHÚA, Thượng Đế của A-sa ở cùng ông. 9

A-sa cùng họ họp lại ở Giê-ru-sa-lem vào tháng ba năm thứ mười lăm triều đại vua. 11 Trong lúc đó họ dâng cho CHÚA bảy trăm con bò đực và bảy ngàn con chiên và dê cùng những của báu mà đạo quân A-sa đã cướp được của quân thù. 12 Rồi họ lập giao ước hết lòng vâng theo CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên mình. 13 Ai không vâng theo CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en, sẽ bị xử tử bất kể già trẻ, nam hay nữ. 14 Sau đó A-sa và dân chúng cam kết trước mặt CHÚA, mọi người la lớn tiếng và thổi kèn cùng tù và. 15 Tất cả dân chúng Giu-đa đều rất vui mừng về lời hứa đó vì họ đã hết lòng cam kết. Họ tìm kiếm Thượng Đế và gặp được Ngài. Vì thế CHÚA ban cho họ thái bình khắp xứ. 10

Vua A-sa cũng cất chức thái hậu của Ma-a-ca, bà nội mình vì bà đã tạc một tượng A-sê-ra đáng gớm ghiếc. A-sa chặt tượng đó, nghiền nát và thiêu trong thung lũng Kít-rôn. 17 Nhưng ông không dẹp bỏ các nơi thờ tà thần trong Ít-ra-en. Tuy vậy, A-sa trung tín với CHÚA trọn đời mình. 16

A-sa mang vào đền thờ Thượng Đế các tặng vật mà cha mình đã dâng: bạc, vàng, và các đồ dùng. 19 Trong xứ không còn giặc giã nữa cho đến năm thứ ba mươi lăm triều đại A-sa 18

II Sử Ký 16 Những năm cuối cùng của A-sa 16 Đến năm thứ ba mươi sáu đời vua A-sa [a] thì Ba-a-sa, vua Ít-ra-en tấn công Giu-đa. Ông củng cố thị trấn Ra-ma để ngăn không cho dân chúng ra vào Giu-đa, xứ vua A-sa. 2 A-sa lấy bạc và vàng từ các kho ngân khố trong đền thờ CHÚA và từ cung điện mình. Ông gởi các món đó cùng với các sứ giả đến Bên-Ha-đát, vua A-ram, đang ở tại Đa-mách. A-sa nói với vua, 3 “Vua và tôi hãy lập giao ước như cha tôi và cha vua đã làm. Tôi gởi biếu vua bạc và vàng. Xin vua hãy hủy bỏ giao ước với Ba-a-sa, vua Ít-ra-en để người rời khỏi bờ cõi tôi.” Bên-Ha-đát đồng ý với vua A-sa nên sai các viên chỉ huy đạo quân mình đến tấn công các thị trấn Ít-ra-en. Họ chiếm được các thị trấn như Y-giông, Đan, và A-bên-ma-im [b] cùng tất cả các thị trấn trong Nép-ta-li nơi có các kho tiếp liệu. 5 Khi Ba-a-sa nghe thế liền thôi không xây đắp Ra-ma nữa và bỏ dở công việc. 6 Sau đó vua A-sa cho toàn dân Giu-đa đến Ra-ma và mang đi những tảng đá và gỗ mà Ba-a-sa đã dùng. Rồi họ dùng các vật liệu đó để xây đắp Ghê-ba và Mích-ba. 4

Lúc đó Ha-na-ni, người tiên kiến, đến gặp và bảo A-sa, vua Giu-đa rằng, “Bệ hạ nhờ cậy vua A-ram giúp đỡ mà không nhờ cậy CHÚA là Thượng Đế mình. Cho nên vua của đạo quân A-ram đã thoát khỏi tay bệ hạ. 8 Người Cút và Ly-bi có một đạo quân rất lớn, hùng mạnh cùng vô số quân xa và lính cỡi ngựa. Bệ hạ nhờ cậy CHÚA giúp mình nên Ngài trao chúng vào tay bệ hạ. 9 CHÚA tìm khắp đất để kiếm người hết lòng với Ngài. Ngài muốn khiến họ vững mạnh. Hỡi A-sa, bệ hạ đã hành động ngu xuẩn, cho nên từ nay về sau bệ hạ sẽ gặp giặc giã.” 7

Vua A-sa nổi giận cùng Ha-na-ni, người tiên kiến, về những điều ông nói đến nỗi vua bắt Ha-na-ni bỏ tù. Lúc đó vua A-sa cũng hành động độc ác với một số người. 10

Mọi việc khác vua A-sa làm từ đầu đến cuối đều được ghi chép trong sách các vua Giu-đa và Ít-ra-en. Vào năm thứ ba mươi chín [c] triều đại mình thì vua A-sa bị đau chân. Dù chứng bệnh chân rất trầm trọng nhưng vua không cầu xin CHÚA chữa lành mà nhờ cậy vào các thầy thuốc. 13 Rồi A-sa qua đời vào năm thứ bốn mươi mốt triều đại mình. 14 Người ta chôn A-sa trong mộ vua đã xây cho mình trong thành Đa-vít. Họ đặt vua trên một cái giường có tẩm đủ thứ hương liệu rồi đốt một đám lửa lớn để tưởng niệm vua 11 12

- 506 -


II Sử Ký 17 Giô-sa-phát, vua Giu-đa 17 Giô-sa-phát, con trai A-sa, lên nối ngôi vua Giu-đa thế cho cha mình. Giô-sa-phát củng cố Giu-đa để đánh nhau với Ít-ra-en. 2 Ông đặt các binh sĩ trong các thành có vách kiên cố của Giu-đa, trong xứ Giu-đa, và trong các thị trấn Ép-ra-im mà A-sa, cha mình, đã chiếm được. CHÚA ở cùng Giô-sa-phát vì vua sống y như Đa-vít, tổ tiên mình đã sống khi mới lên ngôi vua. Giô-saphát không nhờ cậy các tượng thần Ba-anh, 4 nhưng nhờ cậy Thượng Đế của tổ tiên mình. Vua vâng theo các mệnh lệnh của Ngài và không sống như dân Ít-ra-en. 5 CHÚA làm cho Giô-sa-phát vững mạnh trên Giuđa. Tất cả dân chúng Giu-đa mang tặng vật biếu Giô-sa-phát nên vua rất giàu có và danh tiếng. 6 Vua muốn vâng theo CHÚA. Vua cũng tháo gỡ các nơi thờ phụng tà thần và các hình tượng A-sê-ra khỏi xứ Giu-đa. 3

Vào năm thứ ba triều đại mình [a] thì vua Giô-sa-phát phái các viên chức đến dạy dỗ trong các thị trấn Giuđa. Các viên chức ấy là Bên-Ha-in, Áp-đia, Xa-cha-ri, Nê-tha-nên, và Mi-cai-gia. 8 Giô-sa-phát cũng phái các người Lê-vi sau đây đi với họ: Sê-mai-gia, Nê-tha-nia, Xê-ba-đia, A-sa-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hô-nathan, A-đô-ni-gia, Tô-bi-gia, và Tốp-A-đô-ni-gia. Vua cũng sai các thầy tế lễ Ê-li-sa-ma và Giê-hô-ram cùng đi. 9 Các lãnh tụ ấy, các người Lê-vi cùng các thầy tế lễ dạy dỗ dân chúng trong Giu-đa. Họ lấy quyển Sách Giáo Huấn của CHÚA và đi khắp các thị trấn trong Giu-đa dạy dỗ dân chúng. 7

Các dân tộc sống quanh xứ Giu-đa sợ hãi CHÚA cho nên không dám gây chiến cùng Giô-sa-phát. 11 Một số người Phi-li-tin mang triều cống và bạc đến cho Giô-sa-phát theo như vua đòi. Người Á-rập mang đến cho vua gia súc: bảy ngàn bảy trăm con chiên, và bảy ngàn bảy trăm con dê. 10

Giô-sa-phát càng ngày càng hùng mạnh. Vua xây các thành có vách kiên cố và thị trấn để trữ vật liệu trong Giu-đa. 13 Vua giữ một số vật liệu trong các thị trấn Giu-đa, còn các binh sĩ thiện chiến thì vua giữ tại Giê-ru-sa-lem. 14 Các binh sĩ sau đây được liệt kê theo gia đình. 12

Từ các gia đình Giu-đa, sau đây là những viên chỉ huy hàng ngàn người: Ách-na chỉ huy ba trăm ngàn quân sĩ. 15 Giê-hô-ha-nan chỉ huy hai trăm tám mươi ngàn quân sĩ; 16 A-ma-xia, con trai Xích-ri, chỉ huy hai trăm ngàn quân sĩ. Ông tình nguyện phục vụ CHÚA. Sau đây là các viên chỉ huy từ các họ hàng trong Bên-gia-min: Ê-li-a-đa, một chiến sĩ gan dạ, chỉ huy hai trăm ngàn binh sĩ sử dụng cung tên và thuẫn. 18 Giê-hô-xa-bát chỉ huy một trăm tám mươi ngàn quân sĩ sẵn sàng ra trận. 19 Tất cả các binh sĩ ấy đều phục vụ vua Giô-sa-phát. Vua cũng đặt các binh sĩ khác trong các thành có vách kiên cố ở khắp xứ Giu-đa. 17

II Sử Ký 18 Mi-cai-gia cảnh cáo vua A-háp 18 Vua Giô-sa-phát giàu có và danh vọng. Vua kết ước với vua A-háp qua hôn nhân [a]. 2 Ít năm sau Giô-saphát đến Xa-ma-ri thăm vua A-háp. A-háp giết nhiều chiên bò làm tiệc lớn thết đãi Giô-sa-phát và đoàn tùy tùng. Vua xúi Giô-sa-phát tấn công Ra-mốt trong Ghi-lê-át. 3 A-háp vua Ít-ra-en hỏi Giô-sa-phát, vua Giu-đa rằng, “Vua có muốn cùng tôi xuống đánh Ra-mốt trong Ghi-lê-át không?” Giô-sa-phát đáp, “Tôi sẽ đi với vua, binh sĩ tôi cũng như binh sĩ vua. Chúng tôi sẽ cùng vua ra trận.” 4 Giô-sa-phát nói tiếp cùng vua Ít-raen, “Nhưng trước hết chúng ta nên cầu hỏi xem đây có phải là ý CHÚA không.”

- 507 -


Vậy vua A-háp triệu tập bốn trăm nhà tiên tri lại hỏi rằng, “Chúng ta có nên xuống đánh Ra-mốt trong Ghilê-át không?” 5

Họ đồng trả lời, “Vua nên đi vì Thượng Đế sẽ trao thành ấy vào tay vua.” Nhưng Giô-sa-phát hỏi, “Ở đây còn có nhà tiên tri nào khác nữa của CHÚA không? Hãy hỏi người để biết chúng ta phải làm gì.” 6

Vua Ít-ra-en trả lời cùng Giô-sa-phát, “Còn có một nhà tiên tri nữa. Chúng ta có thể nhờ người cầu hỏi CHÚA nhưng tôi ghét người vì người không khi nào nói tiên tri tốt về tôi mà chỉ nói chuyện xấu thôi. Người là Mi-cai-gia, con trai Im-la.” 7

Giô-sa-phát nói, “Vua không nên nói như vậy!” 8

Vì thế vua Ít-ra-en sai một sĩ quan mang Mi-cai-gia trình diện mình ngay lập tức.

A-háp, vua Ít-ra-en và Giô-sa-phát, vua Giu-đa đang mặt triều phục và ngồi trên ngôi trong sân đập lúa, gần nơi cổng vào Xa-ma-ri. Tất cả các nhà tiên tri đều đứng trước hai vua và đang nói tiên tri. 10 Xê-đê-kia, con trai Kê-na-a-na làm mấy cái sừng bằng sắt [b]. Ông nói với A-háp, “CHÚA phán như sau: ‘Ngươi sẽ dùng các sừng nầy đánh dân A-ram cho đến khi tận diệt chúng.’” 11 Tất cả các nhà tiên tri đều nói giống nhau như sau, “Hãy đánh Ra-mốt trong Ghi-lê-át, vua sẽ thắng vì CHÚA sẽ trao quân A-ram vào tay vua.” 9

Sứ giả được phái đi mang Mi-cai-gia đến nói với ông, “Tất cả các nhà tiên tri đều nói rằng vua A-háp sẽ thắng. Ông cũng nên nói theo họ và cho vua một câu trả lời nghe thuận tai.” 12

Nhưng Mi-cai-gia đáp, “Thật như CHÚA hằng sống, ta chỉ có thể nói ra điều gì Thượng Đế của ta phán mà thôi.” 13

Khi Mi-cai-gia đến cùng A-háp thì vua hỏi ông, “Mi-cai-gia, chúng ta có nên đánh Ra-mốt trong Ghi-lê-át hay không?” 14

Mi-cai-gia đáp, “Vua hãy đi đánh vì sẽ thắng! CHÚA sẽ trao chúng vào tay vua.” Nhưng A-háp bảo Mi-cai-gia, “Chẳng phải đã bao nhiêu lần ta bảo ngươi chỉ được nhân danh CHÚA nói sự thật cho ta mà thôi sao?” 15

Mi-cai-gia đáp, “Tôi thấy đạo quân Ít-ra-en tản lạc trên núi như chiên không có người chăn. CHÚA phán, ‘Họ không có người lãnh đạo. Hãy để họ về nhà bình yên.’” 16

A-háp, vua Ít-ra-en liền bảo Giô-sa-phát, “Thấy không, tôi đã nói rồi mà! Hắn không bao giờ nói tiên tri tốt về tôi, chỉ toàn xấu thôi.” 17

Nhưng Mi-cai-gia đáp, “Hãy nghe lời CHÚA phán: Tôi thấy CHÚA ngồi trên ngôi, còn đạo quân trên trời đứng chầu bên phải và bên trái Ngài. 19 CHÚA hỏi, ‘Ai sẽ đi dụ A-háp, vua Ít-ra-en tấn công Ra-mốt trong Ghi-lê-át để người bị giết tại đó?’ Người nói thế nầy, kẻ đề nghị thế khác. 20 Rồi có một thần linh đi ra đứng trước mặt CHÚA thưa rằng, ‘Tôi sẽ đi dụ người.’ CHÚA hỏi, ‘Dụ cách nào?’ 21 Thần linh ấy đáp, ‘Tôi sẽ đi đến với các nhà tiên tri A-háp và xúi họ nói dối.’ CHÚA phán, ‘Ngươi làm được đó. Đi đi.’” 18

Mi-cai-gia bảo, “Thưa vua A-háp, CHÚA đã khiến các nhà tiên tri gạt vua, vì CHÚA đã nhất định giáng thảm họa cho vua.” 22

Xê-đê-kia, con trai của Kê-na-na liền bước đến tát vào má Mi-cai-gia. Xê-đê-kia hỏi, “Thần linh của CHÚA đã bỏ ta mà đi ngả nào để phán với ngươi?” 23

- 508 -


24

Mi-cai-gia trả lời, “Ngày mà ngươi chạy trốn vào phòng trong thì sẽ hiểu chuyện đó.”

A-háp, vua Ít-ra-en liền ra lệnh, “Hãy bắt Mi-cai-gia giao cho A-môn, viên cai ngục, và cho Giô-ách, con trai vua. 26 Bảo họ nhốt người nầy trong ngục, chỉ cho ăn bánh, uống nước mà thôi cho đến khi ta từ chiến trận bình an trở về.” 25

Mi-cai-gia nói, “Thưa vua A-háp, nếu vua bình an trở về từ chiến trận thì CHÚA đã không phán qua tôi.” Rồi ông nói thêm, “Toàn dân hãy nghe cho kỹ!” 27

Trận đánh ở Ra-mốt Ghi-lê-át, A-háp bị giết Vậy A-háp, vua Ít-ra-en và Giô-sa-phát, vua Giu-đa kéo ra Ra-mốt trong Ghi-lê-át. 29 Vua A-háp bảo Giôsa-phát, “Tôi sẽ ra trận nhưng sẽ hóa trang để không ai nhận ra tôi. Còn vua thì vẫn cứ mặc triều phục.” Vì thế A-háp giả trang ra trận. 28

Vua của A-ram ra lệnh cho các chỉ huy quân xa rằng, “Đừng tấn công ai hết, dù lớn hay nhỏ, chỉ đánh vua Ít-ra-en mà thôi.” 31 Khi các viên chỉ huy thấy Giô-sa-phát thì tưởng là vua Ít-ra-en nên áp lại tấn công. Nhưng Giô-sa-phát la lên, CHÚA liền giúp đỡ vua. Thượng Đế khiến các viên chỉ huy quân xa rời khỏi Giôsa-phát. 32 Khi họ thấy không phải vua A-háp liền thôi không đuổi theo vua nữa. 30

Tình cờ có một quân sĩ bắn một mũi tên trúng nhằm A-háp, vua Ít-ra-en, ngay chỗ nối của áo giáp. Vua Aháp bảo tài xế quân xa mình rằng, “Hãy quay xe lại, mang ta ra khỏi mặt trận ngay vì ta bị thương rồi!” 33

Trận chiến kéo dài khốc liệt suốt ngày. Vua A-háp đứng trong xe đối đầu với quân A-ram cho đến chiều. Khi mặt trời lặn thì vua chết. 34

II Sử Ký 19 19 Giô-sa-phát, vua Giu-đa an toàn trở về cung điện mình ở Giê-ru-sa-lem. 2 Giê-hu, con trai Ha-na-ni, người tiên kiến, đi ra đón và hỏi vua rằng, “Tại sao vua giúp đỡ kẻ ác? Sao vua lại yêu mến kẻ ghét CHÚA? Vì thế, CHÚA rất bất bình với vua. 3 Nhưng trong vua còn có điều thiện. Vua đã dẹp bỏ tượng A-sê-ra khỏi xứ, và vua cố gắng vâng theo Thượng Đế.”

Giô-sa-phát chọn các quan án Giô-sa-phát đóng đô ở Giê-ru-sa-lem. Vua đi ra thăm dân từ Bê-e-sê-ba cho đến các núi Ép-ra-im, đưa họ về cùng CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên mình. 5 Giô-sa-phát bổ nhiệm các quan án trong khắp xứ, trong mỗi thành có vách kiên cố ở Giu-đa. 6 Giô-sa-phát nhắn nhủ họ, “Hãy cẩn thận về việc mình làm vì không phải các ngươi phân xử cho người mà cho CHÚA. Ngài sẽ ở cùng khi các ngươi quyết định. 7 Mỗi người trong các ngươi hãy kính sợ CHÚA. Hãy cân nhắc hành động mình vì CHÚA là Thượng Đế chúng ta muốn dân Ngài được bình đẳng. Ngài muốn mọi người được đối xử như nhau và Ngài không muốn thấy tiền bạc làm lệch lạc các quyết định của các ngươi.” 4

Và ở Giê-ru-sa-lem, Giô-sa-phát cũng bổ nhiệm một số người Lê-vi, thầy tế lễ, và các trưởng gia đình trong Ít-ra-en làm quan án. Họ phải quyết định về những vụ liên quan đến luật pháp CHÚA và giải quyết những tranh chấp giữa dân cư Giê-ru-sa-lem với nhau. 9 Giô-sa-phát dặn họ rằng, “Các ngươi phải luôn luôn hết lòng phục vụ CHÚA, và phải kính sợ Ngài. 10 Dân chúng sống trong các thành phố sẽ mang những vụ án có liên quan đến giết người hoặc vi phạm các điều giáo huấn, mệnh lệnh, qui tắc, và các luật lệ khác đến nhờ các ngươi phân xử. Trong các vụ đó các ngươi phải cảnh cáo mọi người không được phạm tội cùng CHÚA. Nếu không CHÚA sẽ nổi giận cùng các ngươi và dân chúng. Còn nếu các ngươi đã cảnh cáo họ thì các ngươi sẽ không mắc tội. 8

- 509 -


A-ma-ria, thầy tế lễ trưởng sẽ coi sóc các ngươi về mọi vụ liên quan đến CHÚA. Xê-ba-đia, con trai Íchma-ên, một lãnh tụ trong chi tộc Giu-đa, sẽ hướng dẫn các ngươi về những vụ liên quan đến vua. Ngoài ra các người Lê-vi sẽ làm các viên chức giúp các ngươi. Hãy can đảm. Cầu CHÚA ở cùng những kẻ làm điều ngay thẳng.” 11

II Sử Ký 20 Giô-sa-phát gặp chiến tranh 20 Sau đó dân Mô-áp, Am-môn, và một số người Mê-u-nít [a] kéo đến gây chiến với Giô-sa-phát. 2 Các sứ giả đến báo cáo cùng Giô-sa-phát, “Một đạo quân rất lớn từ Ê-đôm, từ phía bên kia Biển Chết, kéo đến đánh vua. Họ đã vào Ha-xa-xôn Ta-ma!” Ha-xa-xôn Ta-ma cũng có tên là Ên-ghê-đi. 3 Giô-sa-phát lo sợ nên vua cầu xin CHÚA chỉ dẫn. Vua ra lệnh rằng không ai trong Giu-đa được ăn uống gì trong thời gian đặc biệt nầy để cầu nguyện cùng Thượng Đế. 4 Dân Giu-đa cũng đến cầu xin CHÚA cứu giúp; họ đến từ khắp các thị trấn trong Giu-đa. 5 Dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem họp nhau trước sân mới của đền thờ CHÚA. Rồi Giô-sa-phát đứng lên 6 cầu nguyện rằng, “Lạy CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên chúng tôi, Ngài là Thượng Đế ngự trên trời. Ngài cai trị tất cả các nước các dân. Ngài có quyền năng, không ai có thể chống nghịch nổi Ngài. 7 Lạy Thượng Đế của chúng tôi, Ngài đã đuổi các dân sống trong xứ nầy trước mặt dân Ít-ra-en của Ngài. Và Ngài ban xứ nầy đời đời cho dòng dõi của bạn hữu Ngài là Áp-ra-ham. 8 Họ sống trong xứ nầy và xây một đền thờ cho Ngài. Họ cầu xin, 9 ‘Nếu chúng tôi gặp hoạn nạn, giặc giã, bị hình phạt, bệnh tật, hay đói kém, chúng tôi sẽ đứng trước Ngài và trước đền thờ nầy mà Ngài đã chọn để thờ phụng Ngài. Chúng tôi sẽ kêu cứu cùng Ngài khi chúng tôi gặp khốn đốn. Xin Ngài nghe và cứu chúng tôi.’ Bây giờ những người Am-môn, Mô-áp, và Ê-đôm đang kéo đến. Ngài không cho phép dân Ít-ra-en vào đất họ khi dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập [b]. Cho nên dân Ít-ra-en rẽ sang đường khác và không tiêu diệt họ. 11 Nhưng Ngài xem họ đền ơn chúng tôi về việc chúng tôi không tiêu diệt họ như thế này đây! Họ kéo đến để đánh đuổi chúng tôi ra khỏi xứ của Ngài mà Ngài đã ban cho chúng tôi làm sản nghiệp. 12 Lạy Thượng Đế chúng tôi, xin hãy trừng phạt họ. Chúng tôi không đủ sức đánh lại đạo quân rất lớn nầy đang tấn công chúng tôi. Chúng tôi không biết phải làm gì nên chúng tôi đến cầu xin Ngài cứu giúp.” [c] 10

Tất cả các người Giu-đa đều đứng trước mặt CHÚA cùng với vợ, con, và trẻ sơ sinh của mình. 14 Thần linh của CHÚA nhập vào Gia-ha-xi-ên. Gia-ha-xi-ên là con trai Xa-cha-ri. Xa-cha-ri là con Bê-nai-gia. Bênai-gia là con Giê-i-ên. Giê-i-ên là con Mát-ta-nia. Gia-ha-xi-ên, một người Lê-vi và là con cháu A-sáp đứng lên trong buổi họp 15 nói rằng, “Tâu vua Giô-sa-phát và toàn dân sống trong Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, xin hãy nghe tôi. CHÚA phán với các ngươi như sau: ‘Đừng sợ cũng đừng nản chí vì đạo quân đông đảo nầy. Cuộc chiến nầy không phải của các ngươi mà là của Thượng Đế. 16 Ngày mai hãy kéo quân xuống gặp chúng nó. Chúng sẽ kéo lên qua đèo Xít. Các ngươi sẽ gặp chúng ở cuối hố dẫn tới sa mạc Giê-ru-ên. 17 Các ngươi không cần phải đánh trong trận nầy. Chỉ hãy đứng vững chỗ mình rồi sẽ thấy CHÚA giải cứu các ngươi. Hỡi Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, đừng sợ cũng đừng nản chí vì CHÚA ở với các ngươi. Vậy ngày mai hãy ra gặp chúng.’” 13

Vua Giô-sa-phát cúi sấp mặt xuống đất. Tất cả dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem cùng cúi mặt xuống đất trước mặt CHÚA và bái lạy Ngài. 19 Rồi một số người Lê-vi từ họ hàng Cô-hát và Cô-ra đứng lên lớn tiếng ca ngợi CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en. 18

Đạo quân Giô-sa-phát kéo ra đến sa mạc Tê-cô-a vào sáng sớm hôm sau. Khi họ sắp lên đường thì Giô-saphát đứng lên nhắn nhủ, “Hỡi dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, hãy nghe ta đây. Hãy đặt niềm tin nơi CHÚA là Thượng Đế các ngươi thì các ngươi sẽ vững vàng. Hãy tin tưởng nơi các nhà tiên tri Ngài thì các ngươi sẽ thành công.” 20

- 510 -


Giô-sa-phát nghe ý kiến của dân chúng. Sau đó ông chọn các nam ca sĩ cho CHÚA để ca ngợi Ngài vì Ngài là Đấng thánh khiết và uy nghiêm. Khi họ đi diễn hành trước quân đội thì họ kêu lên, “Cảm tạ CHÚA, vì tình yêu Ngài còn đến đời đời.” [d] 22 Khi họ bắt đầu hát ca ngợi Thượng Đế thì CHÚA đặt quân phục kích dân Am-môn, Mô-áp, và Ê-đôm là những quân đến tấn công Giu-đa. Tất cả bị thảm bại. 23 Người Am-môn và Mô-áp tấn công người Ê-đôm, hoàn toàn tiêu diệt họ. Sau khi đã tiêu diệt người Ê-đôm thì họ quay lại chém giết lẫn nhau. 21

Khi những người từ Giu-đa đến nơi có thể thấy sa mạc, thì họ nhìn thấy đạo binh đông đảo của quân thù. Nhưng họ chỉ toàn thấy xác chết nằm la liệt trên đất; không ai sống sót. 25 Khi Giô-sa-phát và đạo quân của ông đến lột những món có giá trị của họ thì thấy vô số vật liệu, áo quần, và những vật quí báu khác. Nhiều quá họ không mang đi nổi cho nên phải mất ba ngày mới gom hết được. 26 Đến ngày thứ tư Giô-sa-phát và đạo quân của ông gặp nhau ở thung lũng Bê-ra-ca [e] để ca ngợi CHÚA. Vì thế mà nơi đó được gọi là thung lũng Bê-ra-ca cho đến ngày nay. 24

Sau đó Giô-sa-phát hướng dẫn tất cả dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem trở về Giê-ru-sa-lem. CHÚA khiến họ mừng rỡ vì kẻ thù họ đã bị đại bại. 28 Họ tiến vào Giê-ru-sa-lem giữa tiếng đờn cầm, đờn sắt, kèn và cùng nhau đến đền thờ CHÚA. 27

Khi các nước thuộc những xứ xung quanh nghe CHÚA đã đánh bại kẻ thù của Ít-ra-en thì đâm ra kính sợ Thượng Đế. 30 Nước vua Giô-sa-phát không còn giặc giã nữa. Thượng Đế ban cho vua thái bình khắp mọi nơi. 29

Triều đại Giô-sa-phát chấm dứt Giô-sa-phát cai trị trên xứ Giu-đa. Ông được ba mươi lăm tuổi khi lên ngôi vua và trị vì ở Giê-ru-sa-lem hai mươi lăm năm. Mẹ ông tên A-xu-ba, con gái của Sin-li. 32 Giô-sa-phát là người nhân đức như A-sa, cha mình. Vua làm điều phải trước mặt CHÚA. 33 Nhưng vua không tháo bỏ những nơi thờ tà thần, còn dân chúng cũng không thực lòng theo Thượng Đế của tổ tiên mình. 31

Các việc khác vua Giô-sa-phát làm khi đang trị vì, từ đầu đến cuối, đều được ghi chép trong sử ký của Giê-hu, con Ha-na-ni, thuộc bộ sử ký các vua Ít-ra-en. 34

Về sau, Giô-sa-phát, vua Giu-đa kết ước với A-cha-xia, vua Ít-ra-en, là điều không nên làm. 36 Giô-sa-phát đồng lòng với vua A-cha-xia để đóng các tàu buôn. Các tàu đó được đóng ở thị trấn Ê-xi-ôn Ghê-be. 37 Sau đó Ê-li-ê-xe, con Đô-đa-va-hu từ thị trấn Ma-rê-sa lên tiếng phản đối Giô-sa-phát. Ông nói, “Nầy vua Giôsa-phát, vì vua đã hợp tác với A-cha-xia, CHÚA sẽ tiêu hủy những gì vua đã đóng.” Các tàu đều bị bể tan cho nên không đi buôn bán được. 35

II Sử Ký 21 21 Giô-sa-phát qua đời và được chôn cùng với tổ tiên mình trong thành Đa-vít. Rồi Giô-ram, con trai vua lên nối ngôi. 2 Các anh em của Giô-ram là A-xa-ria, Giê-hi-ên, Xa-cha-ri, A-xa-ria-hu, Mi-ca-ên, và Sê-phatia. Đó là các con trai của Giô-sa-phát, vua Giu-đa [a]. 3 Giô-sa-phát cấp cho các con mình nhiều của cải bằng bạc, vàng, các vật quí cùng cho chúng nó các thành có vách kiên cố trong xứ Giu-đa. Nhưng Giô-sa-phát giao nước cho Giô-ram vì là con trưởng nam.

Giô-ram, vua Giu-đa Vừa khi lên nắm quyền trên nước của cha mình thì Giô-ram dùng gươm giết tất cả các anh em mình và một số lãnh tụ trong Ít-ra-en. 5 Ông được ba mươi hai tuổi khi lên trị vì, và cai trị tám năm tại Giê-ru-sa-lem. 6 Ông đi theo đường của các vua Ít-ra-en y như gia đình A-háp đã làm vì ông lấy con gái A-háp. Giô-ram làm điều ác trước mặt CHÚA. 7 Nhưng CHÚA không tiêu diệt nhà Đa-vít vì giao ước Ngài đã lập cùng Đavít. Ngài đã hứa rằng một người trong dòng họ Đa-vít sẽ luôn luôn trị vì. [b] 4

- 511 -


Trong thời Giô-ram, Ê-đôm tách ra khỏi quyền thống trị của Giu-đa và tự chọn vua cho mình. 9 Vì thế Giôram kéo các quan chỉ huy và quân xa mình đến đánh Ê-đôm. Người Ê-đôm vây vua và các sĩ quan chỉ huy quân xa, nhưng Giô-ram thức dậy ban đêm tấn công người Ê-đôm. 10 Từ đó đến nay xứ Ê-đôm luôn luôn chống nghịch lại quyền cai trị của Giu-đa. Đồng thời Líp-na cũng nổi lên tách ra khỏi quyền Giô-ram vì vua đã lìa bỏ CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên mình. 11 Giô-ram cũng xây những nơi thờ thần ngoại quốc trên các đồi núi Giu-đa. Ông dẫn dụ dân Giu-đa phạm tội, và khiến dân Giu-đa rời xa CHÚA. 8

Sau đó vua Giô-ram nhận được bức thư sau đây của Ê-li, nhà tiên tri: “CHÚA là Thượng Đế của Đa-vít, tổ tiên ngươi, phán: Hỡi Giô-ram, ngươi đã không sống như Giô-sa-phát, cha ngươi và như A-sa, vua Giu-đa. 13 Nhưng ngươi sống như các vua Ít-ra-en, ngươi đã khuyến dụ Giu-đa và Giê-ru-sa-lem phạm tội cùng Thượng Đế như A-háp và gia đình vua đó đã làm. Ngươi đã giết các anh em mình trong gia đình cha ngươi là những người tốt hơn ngươi. 14 Cho nên bây giờ CHÚA sẽ trừng phạt dân chúng ngươi, con cái, vợ, và tài sản ngươi. 15 Ngươi sẽ bị một chứng đau ruột càng ngày càng trầm trọng. Cuối cùng bệnh đó sẽ khiến cho ruột ngươi đổ ra.” 12

CHÚA khiến dân Phi-li-tin và Á-rập sống gần dân Cút nổi giận cùng vua Giô-ram. 17 Vì thế người Phi-litin và Á-rập tấn công dân Giu-đa và cướp đi hết của cải trong cung điện Giô-ram cùng tất cả các vợ và con vua. Chỉ chừa lại A-cha-xia [c], con út Giô-ram mà thôi. 16

Sau việc ấy, CHÚA giáng bệnh đau ruột không phương chữa trị trên Giô-ram. 19 Sau khi bị đau hai năm thì ruột vua đổ ra, vua qua đời trong cơn đau đớn. Dân chúng không đốt lửa để tưởng niệm Giô-ram như họ đã làm cho các tổ tiên vua. 20 Lúc lên ngôi thì Giô-ram được ba mươi hai tuổi và trị vì tám năm tại Giê-ru-salem. Vua chết không có ai thương tiếc. Vua được chôn trong thành Đa-vít, nhưng không được nằm trong mộ dành cho các vua. 18

II Sử Ký 22 A-cha-xia, vua Giu-đa 22 Dân chúng Giê-ru-sa-lem chọn A-cha-xia, con trai út của Giô-ram làm vua thế ông. Các quân cướp bóc đi theo quân Á-rập đến tấn công trại quân Giô-ram đã giết tất cả các anh của A-cha-xia. Vậy A-cha-xia bắt đầu trị vì Giu-đa. 2 A-cha-xia được hai mươi hai tuổi khi lên ngôi và trị vì [a] một năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông tên A-tha-lia, cháu gái Ôm-ri. 3 A-cha-xia đi theo con đường của gia đình A-háp, vì mẹ vua xúi giục làm ác. 4 A-cha-xia làm điều ác trước mặt CHÚA y như gia đình A-háp. Gia đình ấy cố vấn cho A-cha-xia sau khi cha vua qua đời, và những lời khuyên bậy bạ của họ khiến vua chết. 5 Vì nghe theo lời khuyên của họ nên A-cha-xia cùng với Giô-ram con trai A-háp, vua Ít-ra-en, kéo quân đến đánh Ha-xa-ên, vua A-ram ở Ramốt trong Ghi-lê-át. Quân A-ram gây cho Giô-ram bị thương. 6 Vì vậy Giô-ram trở về Ghít-rê-ên để chữa lành các vết thương ông bị ở Ra-mốt trong Ghi-lê-át khi đánh nhau với Ha-xa-ên, vua A-ram. A-cha-xia [b], con Giô-ram, vua Giu-đa đến thăm Giô-ram, con trai A-háp, ở Ghít-rê-ên vì Giô-ram bị thương. Thượng-Đế khiến A-cha-xia chết đang khi viếng thăm Giô-ram. A-cha-xia đến nơi và cùng với Giô-ram đi ra gặp Giê-hu, con trai Nim-si, người mà CHÚA đã chỉ định để tiêu diệt gia đình A-háp. 8 Trong khi Giê-hu đang trừng phạt gia đình A-háp thì ông gặp các lãnh tụ Giu-đa và các con trai của những thân nhân vua Acha-xia là những người phục vụ A-cha-xia, Giê-hu liền giết sạch. 9 Rồi Giê-hu đi tìm A-cha-xia. Những người của Giê-hu tìm được vua đang trốn trong Xa-ma-ri nên họ giải vua về cho Giê-hu. Rồi họ giết và chôn vua. Họ nói, “A-cha-xia là một trong các con cháu của Giô-sa-phát, Giô-sa-phát hết lòng vâng theo CHÚA.” Không ai trong gia đình A-cha-xia còn đủ sức cầm quyền trên nước Giu-đa nữa. 7

- 512 -


A-tha-lia và Giô-ách Khi A-tha-lia, mẹ A-cha-xia, thấy con mình đã chết liền giết sạch gia đình nhà vua. 11 Nhưng Giê-hô-sêba, con gái vua Giô-ram, lén bồng Giô-ách, con trai A-cha-xia khỏi các con trai khác của vua sắp bị giết, đem giấu cậu bé và vú nuôi trong một phòng ngủ. Vậy Giê-hô-sê-ba, con gái vua Giô-ram, và chị của Acha-xia, vợ của thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa, giấu Giô-ách nên A-tha-lia không giết cậu được. 12 Cậu trốn giữa đám họ ở trong đền thờ của Thượng Đế suốt sáu năm. Trong khi đó A-tha-lia cai trị trên xứ. 10

II Sử Ký 23 Thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa và vua Giô-ách 23 Vào năm thứ bảy Giê-hô-gia-đa quyết định hành động. Ông thoả thuận với các viên chỉ huy hàng trăm quân: A-xa-ria, con Giô-ram, Ích-ma-ên, con Giê-hô-ha-nan, A-xa-ria, con Ô-bết, Ma-a-sê-gia con A-đaigia, và Ê-li-sa-phát, con Xích-ri. 2 Họ đi khắp Giu-đa tập họp các người Lê-vi từ các thị trấn, và triệu tập các trưởng gia đình trong Ít-ra-en rồi trở về Giê-ru-sa-lem. 3 Toàn thể dân chúng lập giao ước với vua trong đền thờ của Thượng Đế. Giê-hô-gia-đa bảo họ, “Con trai vua sẽ trị vì, theo như CHÚA hứa cùng các con cháu Đa-vít. 4 Bây giờ các ngươi phải làm như sau: Các thầy tế lễ và người Lê-vi lên phiên vào ngày Sa-bát. Một phần ba trong các ngươi sẽ lo việc giữ cửa. 5 Một phần ba sẽ có mặt trong cung vua, và một phần ba còn lại sẽ có mặt tại Cửa Nền. Còn các người khác sẽ ở trong sân trước của đền thờ CHÚA. 6 Đừng cho ai vào trong đền thờ CHÚA ngoại trừ các thầy tế lễ và người Lê-vi có phận sự. Họ có thể vào vì họ đã dọn mình để phục vụ CHÚA, nhưng các người khác phải lo phần vụ CHÚA giao cho. 7 Các người Lê-vi phải ở gần vua, mỗi người tay cầm khí giới sẵn sàng. Nếu ai tìm cách vào đền thờ thì giết ngay. Hãy ở sát cạnh vua khi vua đi ra và đi vào.”

Giô-ách lên ngôi vua Các người Lê-vi và toàn thể dân Giu-đa vâng theo mọi điều thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa căn dặn. Ông không cho ai trong nhóm các thầy tế lễ được miễn việc. Cho nên mỗi viên chỉ huy mang thuộc hạ của mình lên phiên vào ngày Sa-bát cùng những người xuống phiên trong ngày đó. 9 Giê-hô-gia-đa cấp cho các viên chỉ huy hàng trăm người gươm giáo cùng với các thuẫn lớn và nhỏ của vua Đa-vít đã được cất trong đền thờ Thượng Đế. 10 Rồi Giê-hô-gia-đa dặn mỗi người phải đứng chỗ nào, ai nấy đều phải cầm vũ khí trong tay. Từ phía Nam cho đến phía Bắc đền thờ đều có lính canh giữ. Họ đứng cạnh bàn thờ, trong đền thờ và xung quanh vua. 11 Giê-hô-gia-đa và các con trai ông mang con trai vua ra rồi đội mão triều lên đầu, đồng thời trao cho cậu một bản giao ước [a]. Họ cử cậu làm vua, đổ dầu ô liu trên đầu vua và hô lên, “Vua vạn tuế!” 8

Khi A-tha-lia nghe tiếng ồn ào của dân chúng chạy đến và chúc tụng vua thì bà đi đến đền thờ của CHÚA để xem. 13 Bà nhìn thì thấy vua đang đứng bên cột ngay cửa ra vào. Các sĩ quan và các người thổi kèn đứng bên cạnh vua, và toàn thể dân chúng trong xứ rất hân hoan và thổi kèn ầm ĩ. Các nhạc sĩ chơi nhạc khí và hướng dẫn ca hát. A-tha-lia liền xé quần áo [b] mình và la lên, “Phản loạn! Phản loạn!” [c] 12

Thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa sai các viên chỉ huy hàng trăm người tức những người chỉ huy quân đội. Ông bảo, “Hãy cho binh sĩ vây quanh bà và mang bà ra khỏi khu vực đền thờ. Ai đi theo bà thì hãy dùng gươm mà giết.” Ông đã dặn, “Không nên giết bà trong đền thờ CHÚA.” 15 Vậy họ bắt bà khi bà đi vào cửa nơi Cổng Ngựa gần cung điện. Rồi họ giết bà tại đó. 14

Sau đó thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa lập ước với dân chúng và vua rằng họ sẽ làm dân đặc biệt của Chúa. 17 Tất cả dân chúng đi đến đền thờ Ba-anh và phá sập nó, đập bể các bàn thờ và hình tượng. Họ giết Mát-tan, thầy tế lễ của Ba-anh, trước mặt bàn thờ. 16

- 513 -


Rồi Giê-hô-gia-đa chọn các thầy tế lễ là những người Lê-vi để lo cho đền thờ CHÚA. Đa-vít đã giao cho họ nhiệm vụ trong đền thờ CHÚA. Họ phải dâng của lễ thiêu cho CHÚA theo như Lời Giáo Huấn của Môse, và họ phải dâng các của lễ đó trong niềm hân hoan và ca hát theo như Đa-vít đã truyền. 19 Giê-hô-gia-đa đặt các lính gác ở các cổng đền thờ CHÚA để ai không tinh sạch thì không được vào. 18

Giê-hô-gia-đa cùng với các viên chỉ huy hàng trăm người, các người quí tộc, các quan cai trị dân chúng, và toàn thể dân chúng trong xứ đưa vua ra khỏi đền thờ CHÚA. Họ đi qua Cổng Trên để đi vào cung, rồi đặt vua ngồi lên ngôi. 21 Tất cả dân chúng rất vui mừng, Giê-ru-sa-lem hưởng thái bình vì A-tha-lia đã bị chết chém. 20

II Sử Ký 24 Giô-ách sửa sang đền thờ 24 Giô-ách được bảy tuổi khi lên ngôi vua và trị vì bốn mươi năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông tên Xi-bia, gốc ở Bê-e-sê-ba. 2 Giô-ách làm điều thiện theo mắt CHÚA trong suốt thời gian thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa còn sống. 3 Giê-hô-gia-đa chọn hai vợ cho Giô-ách. Giô-ách sinh con trai và con gái. Sau đó, Giô-ách quyết định sửa sang đền thờ CHÚA. 5 Ông gọi các thầy tế lễ và người Lê-vi lại bảo, “Hãy đi đến các thị trấn Giu-đa và thu góp tiền thuế mọi người Ít-ra-en phải đóng hằng năm. Dùng tiền đó sửa chữa đền thờ của Thượng Đế các ngươi. Hãy làm ngay.” Nhưng người Lê-vi không thi hành liền. 4

Vì thế vua Giô-ách gọi thầy tế lễ cả Giê-hô-gia-đa lại hỏi, “Sao ông không bảo người Lê-vi mang thuế từ Giu-đa và Giê-ru-sa-lem vào theo như Mô-se, tôi tớ CHÚA, và dân Ít-ra-en đã ấn định để dùng cho Lều Thánh?” 6

Trước kia các con trai của bà A-tha-lia gian ác đã lẻn vào đền thờ Thượng Đế lấy các vật thánh trong đó để thờ phụng các thần tượng Ba-anh. 7

Vua Giô-ách ra lệnh làm một cái hộp dâng hiến. Họ đặt hộp đó bên ngoài nơi cửa vào đền thờ CHÚA. 9 Rồi người Lê-vi loan báo trong Giu-đa và Giê-ru-sa-lem cho dân chúng mang đến cho CHÚA số tiền thuế mà Mô-se, tôi tớ của Thượng Đế đã qui định cho tất cả người Ít-ra-en trong khi họ đang lưu lạc trong sa mạc. 10 Tất cả các viên chức và dân chúng rất hân hoan mang tiền bỏ vào trong hộp cho đến khi hộp đầy ắp. 11 Khi người Lê-vi mang hộp vào trình với các viên chức của vua thì họ thấy hộp đầy tiền. Rồi viên đổng lý văn phòng vua và viên phụ tá thầy tế lễ cả đến lấy tiền ra và đặt hộp vào chỗ cũ. Họ thường xuyên làm như vậy cho nên thu được rất nhiều tiền. 12 Vua Giô-ách và thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa giao số tiền đó cho những người làm việc trong đền thờ CHÚA. Họ thuê các thợ đẽo đá, thợ mộc để sửa chữa đền thờ. Họ cũng thuê thợ làm đồ sắt và đồng để tu bổ đền thờ. 8

Họ ra sức làm việc cho nên công tác sửa chữa tiến hành tốt đẹp. Họ sửa chữa đền thờ Thượng Đế giống như trước kia, và còn vững chắc hơn nữa. 14 Sau khi nhân công đã làm xong công tác, họ mang tiền còn lại vào trình cho vua Giô-ách và thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa. Họ dùng tiền đó để làm các dụng cụ trong đền thờ CHÚA, các dụng cụ dùng trong các nghi lễ nơi đền thờ và của lễ thiêu, các chậu, và các dụng cụ bằng vàng và bạc khác. Các của lễ thiêu được dâng mỗi ngày trong đền thờ CHÚA trong khi thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa còn sống. 13

Thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa về già và sống lâu năm. Khi qua đời ông được một trăm ba mươi tuổi. 16 Ông được chôn cất trong thành Đa-vít cùng với các vua vì ông có công với Ít-ra-en, giúp ích cho Thượng Đế và đền thờ Ngài. 15

- 514 -


Giô-ách làm điều ác Sau khi thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa qua đời thì các viên chức trong Giu-đa đến bái lạy vua Giô-ách nên vua nghe theo họ. 18 Vua và các lãnh tụ đó không thờ phụng trong đền thờ CHÚA nữa, tức Thượng Đế của tổ tiên họ. Nhưng họ bắt đầu thờ thần A-sê-ra và các tượng chạm khác. Vì họ làm quấy cho nên CHÚA nổi giận cùng dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. 19 Mặc dù CHÚA đã sai nhiều nhà tiên tri đến để dẫn họ quay lại cùng Ngài và dù các nhà tiên tri đã cảnh cáo họ nhưng họ nhất định không nghe. 17

Rồi thần linh của Thượng Đế nhập vào Xa-cha-ri, con trai thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa. Xa-cha-ri đứng trước dân chúng và tuyên bố rằng, “Thượng Đế phán như sau: ‘Tại sao các ngươi không vâng theo mệnh lệnh CHÚA? Các ngươi sẽ không may mắn đâu. Vì các ngươi đã bỏ CHÚA, nên Ngài cũng đã bỏ các ngươi.’” 20

Nhưng vua và các viên chức âm mưu giết hại Xa-cha-ri. Vua ra lệnh ném đá ông ngay trong sân đền thờ của CHÚA cho đến khi ông chết. 22 Vua Giô-ách không nhớ lại lòng nhân từ của Giê-hô-gia-đa đối cùng mình mà nhẫn tâm giết Xa-cha-ri, con của Giê-hô-gia-đa. Trước khi chết Xa-cha-ri nói, “Nguyện CHÚA thấy điều vua làm và trừng phạt vua.” 21

Đến cuối năm, đạo quân A-ram kéo đến đánh Giô-ách. Chúng tấn công Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, giết hết các lãnh tụ của dân chúng và mang tất cả các vật quí sang cho vua mình ở Đa-mách. 24 Quân A-ram chỉ phái đến có một toán quân rất nhỏ nhưng CHÚA trao vào tay họ một đạo quân rất đông của Giu-đa vì dân Giu-đa đã lìa bỏ CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên mình, nên Giô-ách bị trừng phạt. 25 Sau khi quân A-ram rút lui thì Giô-ách bị thương nặng. Các sĩ quan của vua âm mưu ám hại vua vì vua đã giết Xa-cha-ri, con trai thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa. Vậy họ giết Giô-ách ngay trên giường vua. Ông chết và được chôn trong thành Đa-vít nhưng không được nằm trong mộ dành cho các vua. 23

Các sĩ quan âm mưu chống vua Giô-ách là Giô-xa-bát và Giê-hô-xa-bát. Giô-xa-bát là con Si-mê-át, người Am-môn. Còn Giê-hô-xa-bát là con của Sim-rít, người Mô-áp. 27 Lịch sử của các con trai Giô-ách, những lời tiên tri quan trọng nghịch lại ông, việc ông sửa chữa đền thờ Thượng Đế ra sao đều được ghi vào sử ký các vua. Rồi A-ma-xia, con trai Giô-ách lên nối ngôi. 26

II Sử Ký 25 A-ma-xia, vua Giu-đa 25 A-ma-xia được hai mươi lăm tuổi khi lên ngôi vua và trị vì hai mươi chín năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên Giê-hô-a-đinh, quê quán ở Giê-ru-sa-lem. 2 A-ma-xia làm điều phải trước mặt CHÚA nhưng không hết lòng theo Ngài. 3 Vừa khi củng cố được quyền cai trị trên nước thì A-ma-xia liền xử tử tất cả những sĩ quan đã giết cha mình. 4 Nhưng A-ma-xia không giết con cái họ. Ông làm đúng theo Sách của Mô-se trong đó CHÚA truyền rằng, “Cha mẹ không thể bị xử tử vì tội của con cái và con cái cũng không thể bị xử tử vì tội của cha mẹ. Ai làm tội thì người đó phải chết.” [a] A-ma-xia triệu tập dân Giu-đa lại. Vua chia dân Giu-đa và Bên-gia-min theo gia đình, rồi đặt các viên chỉ huy hàng ngàn và hàng trăm trên họ. Vua kiểm điểm những trai tráng từ hai mươi tuổi trở lên. Có tất cả ba trăm ngàn chiến sĩ sẵn sàng tác chiến bằng gươm và thuẫn. 6 A-ma-xia cũng thuê một trăm ngàn chiến sĩ từ Ít-ra-en với giá ba ngàn bốn trăm năm mươi kí [b] bạc. 7 Nhưng có một người của Thượng Đế sai đến nói với A-ma-xia rằng, “Thưa vua, không nên để quân Ít-ra-en đi ra trận với vua. CHÚA không có ở cùng Ít-ra-en hay dân cư thuộc chi tộc Ép-ra-im. 8 Vua có thể củng cố sức mạnh để ra trận nhưng Thượng Đế sẽ đánh bại vua. Ngài có quyền giúp vua và có quyền đánh bại vua.” 9 A-ma-xia hỏi người của Thượng Đế, “Chớ còn bảy ngàn năm trăm cân bạc mà ta trả cho đạo quân Ít-ra-en thì sao?” Người của Thượng Đế đáp, “CHÚA có thể ban lại cho vua nhiều hơn số ấy nữa.” 5

Vì thế A-ma-xia cho quân Ít-ra-en trở về Ép-ra-im. Họ rất tức giận với dân Giu-đa. Họ đi về mà trong lòng căm phẫn. 10

- 515 -


A-ma-xia trở nên can đảm và hướng dẫn quân lực mình đến Thung lũng Muối trong xứ Ê-đôm [c]. Ở đó quân lực của A-ma-xia giết mười ngàn người Ê-đôm. 12 Đạo quân của Giu-đa cũng bắt được mười ngàn người rồi mang họ lên đỉnh ghềnh đá cao và xô họ xuống chết tan xác. 11

Trong khi đó toán quân Ít-ra-en mà vua A-ma-xia không cho ra trận với mình đi cướp phá các thị trấn ở Giu-đa. Từ Xa-ma-ri cho đến Bết-Hô-rôn họ giết ba ngàn người và đoạt nhiều của cải. 13

A-ma-xia trở về sau khi đã đánh thắng quân Ê-đôm, vua mang về nhiều thần tượng mà họ thờ rồi chính vua cũng bắt đầu bái lạy các thần đó. Vua cúi lạy trước các tượng và dâng của lễ cho chúng. 15 CHÚA nổi giận cùng A-ma-xia cho nên Ngài sai một nhà tiên tri đến nói với vua rằng, “Tại sao vua nhờ các thần khác giúp mình? Chúng nó còn không đủ sức cứu dân chúng nó khỏi tay vua nữa là!” 14

Đang khi nhà tiên tri đang nói thì A-ma-xia bảo, “Ai giao cho anh nhiệm vụ cố vấn cho vua? Câm miệng đi nếu không là mất mạng đó.” Nhà tiên tri liền im tiếng nhưng nói thêm, “Tôi biết Thượng Đế nhất định tiêu diệt vua vì vua đã làm điều nầy. Vua không thèm nghe lời khuyên của tôi.” 16

A-ma-xia, vua Giu-đa tham khảo ý kiến các cố vấn rồi gởi thư cho Giô-ách con trai Giô-A-cha, cháu Giêhu, vua Ít-ra-en. A-ma-xia nói với Giô-ách, “Mời vua đến. Chúng ta hãy đối đầu nhau.” 17

Giô-ách, vua Ít-ra-en, trả lời cho A-ma-xia, vua Giu-đa, rằng, “Bụi gai ở Li-băng nhắn với cây hương nam ở Li-băng như sau ‘Hãy cho con gái anh lấy con trai tôi.’ Nhưng một con thú rừng của Li-băng đi ngang liền chà đạp lên bụi gai. 19 Vua nghĩ mình đã đánh thắng Ê-đôm, bây giờ đâm ra tự phụ và huênh hoang. Nhưng hãy ở yên nơi nhà mình đi! Đừng kiếm chuyện lôi thôi, nếu không, vua và cả Giu-đa sẽ bị thảm bại đó.” 18

Nhưng A-ma-xia không thèm nghe. Thượng Đế đã tạo ra chuyện nầy để Giô-ách đánh bại Giu-đa vì Giuđa đã cầu xin các thần của Ê-đôm giúp mình. 21 Vậy Giô-ách vua Ít-ra-en kéo quân ra tấn công. Ông và Ama-xia, vua Giu-đa, xáp chiến nhau ở Bết-Sê-mết thuộc Giu-đa. 22 Quân Ít-ra-en đánh bại quân Giu-đa. Ai nấy ở Giu-đa đều chạy trốn về nhà mình. 23 Ở Bết Sê-mết, Giô-ách, vua Ít-ra-en, bắt được A-ma-xia, vua Giu-đa. A-ma-xia là con Giô-ách, cháu A-cha-xia. Rồi Giô-ách mang vua về Giê-ru-sa-lem. Giô-ách phá sập vách thành Giê-ru-sa-lem từ cổng Ép-ra-im cho đến Cổng Góc, dài khoảng hai trăm thước 20

Vua cũng lấy hết vàng bạc và các vật dụng trong đền thờ Thượng Đế mà Ô-bết Ê-đôm đã gìn giữ. Ông cũng cướp hết các kho báu trong cung vua và bắt một số con tin. Rồi ông trở về Xa-ma-ri. 24

A-ma-xia, con Giô-ách, vua Giu-đa sống thêm mười lăm năm sau khi Giô-ách, con Giô-a-cha, vua Ít-ra-en qua đời. 26 Các việc khác vua A-ma-xia làm từ đầu đến cuối đều được ghi trong sách các vua Giu-đa và Ít-raen. 27 Từ lúc A-ma-xia không còn vâng theo CHÚA nữa thì một số người ở Giê-ru-sa-lem lập mưu phản ông. Vua chạy trốn đến La-kích, nhưng dân chúng cho người đuổi theo vua đến La-kích và giết vua tại đó. 28 Họ chở xác vua về trên lưng ngựa. Vua được chôn chung với các tổ tiên mình ở thành Đa-vít. 25

II Sử Ký 26 Ô-xia, vua Giu-đa 26 Rồi toàn dân Giu-đa lập Ô-xia làm vua thế cho cha ông là A-ma-xia. Lúc đó Ô-xia mới mười sáu tuổi. 2 Ông cho xây lại thị trấn Ê-lát và sáp nhập nó vào Giu-đa trở lại sau khi A-ma-xia qua đời. Ô-xia được mười sáu tuổi khi lên ngôi vua và trị vì năm mươi hai năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông tên Giêcô-lia, quê quán ở Giê-ru-sa-lem. 4 Vua làm điều phải trước mặt CHÚA như A-ma-xia cha mình đã làm. 5 Ôxia vâng lời Thượng Đế trong khi Xa-cha-ri còn sống vì ông dạy cho Ô-xia biết kính sợ và vâng phục Thượng Đế. Bao lâu mà Ô-xia vâng lời CHÚA thì Ngài ban cho ông thành công. 3

- 516 -


Ô-xia đánh nhau với dân Phi-li-tin. Vua phá sập các vách tường quanh các thị trấn Gát, Giáp-nê, và Áchđốt đồng thời xây các thị trấn mới gần Ách-đốt và các nơi khác trong xứ Phi-li-tin. 7 Thượng Đế giúp Ô-xia đánh dân Phi-li-tin, dân Á-rập sống ở Gu-rơ Ba-anh, và người Mê-u-nít. 8 Ngoài ra dân Am-môn đóng triều cống theo như Ô-xia đòi. Vua rất hùng mạnh cho nên danh tiếng vua vang đến tận biên giới Ai-cập. 6

Ô-xia xây các tháp canh ở Giê-ru-sa-lem nơi Cổng Góc, Cổng Thung lũng và nơi góc vách vua xây thật chắc. 10 Vua cũng xây các tháp trong sa mạc và đào nhiều giếng vì vua có vô số gia súc trên các sườn đồi và trong vùng bình nguyên. Vua đặt người làm ruộng và trồng vườn nho của vua trên đồi và trong vùng đất phì nhiêu vì vua rất thích trồng trọt. 9

Ô-xia có một đạo quân gồm các binh sĩ thiện chiến. Họ được kiểm kê và chia thành nhóm do Giê-i-ên, thư ký vua và Ma-a-sê-gia thực hiện. Ha-na-nia, một trong các sĩ quan chỉ huy của vua lãnh đạo họ. 12 Có hai ngàn sáu trăm sĩ quan chỉ huy các quân sĩ. 13 Họ chỉ huy một đạo quân gồm ba trăm lẻ bảy ngàn năm trăm quân đánh giặc rất hăng say để giúp vua chống quân thù. 14 Ô-xia cấp cho đạo quân mình các thuẫn, giáo, nón sắt, áo giáp, cung tên, và đá sỏi dùng bắn ná. 15 Ở Giê-ru-sa-lem vua cho đóng các vũ khí do các thợ khéo chế tạo. Các vũ khí đó đặt trên các tháp và các góc của vách thành và có thể dùng để bắn tên hay ném các tảng đá to. Vì thế Ô-xia vang danh rất xa vì vua được nhiều người giúp đỡ cho đến khi vua trở thành hùng cường. 11

Nhưng khi Ô-xia trở nên hùng cường thì tính tự phụ của vua khiến vua bại hoại. Vua không còn trung thành với CHÚA là Thượng Đế của mình nữa; vua đi vào đền thờ CHÚA và tự ý đốt hương trên bàn thờ xông hương. 17 A-xa-ria cùng tám mươi thầy tế lễ can đảm khác phục vụ CHÚA đi theo Ô-xia vào đền thờ. 18 Họ cho vua biết vua đã làm sai và bảo, “Vua không có quyền đốt hương cho CHÚA. Chỉ có các thầy tế lễ, con cháu A-rôn mới được làm việc đó mà thôi vì họ đã được biệt riêng ra thánh. Vua phải rời khỏi nơi thánh ngay lập tức. Vua đã không trung tín nên CHÚA là Thượng Đế sẽ không còn tôn trọng vua vì hành động nầy.” 16

Vua Ô-xia đang đứng bên cạnh bàn thờ xông hương trong đền thờ CHÚA, trong tay cầm một lư hương. Vua nổi giận cùng các thầy tế lễ. Trong khi vua đang đứng đối diện với các thầy tế lễ thì trên trán vua bộc phát một chứng bệnh ngoài da. 20 A-xa-ria, thầy tế lễ cả, và các thầy tế lễ khác nhìn thấy bệnh ngoài da nổi lên trên trán vua cho nên họ liền đuổi vua ra khỏi đền thờ. Ô-xia cũng vội vã đi ra vì CHÚA trừng phạt vua. 21 Vậy vua Ô-xia bị bệnh ngoài da cho đến ngày qua đời. Vua cũng phải sống biệt lập tại nhà riêng và không thể vào đền thờ CHÚA được. Giô-tham, con trai vua quản lý cung vua và cai trị dân chúng trong xứ. 19

Các việc khác của vua Ô-xia làm từ đầu đến cuối đều được nhà tiên tri Ê-sai, con trai A-mốt ghi chép lại. Ô-xia qua đời và được chôn gần tổ tiên mình trong ngôi mộ thuộc về các vua. Họ làm như thế vì dân chúng nói, “Vua mắc bệnh ngoài da.” Giô-tham, con trai vua lên nối ngôi. 22 23

II Sử Ký 27 Giô-tham, vua Giu-đa 27 Giô-tham được hai mươi lăm tuổi khi lên ngôi vua và trị vì mười sáu năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua là Giê-ru-sa, con gái Xa-đốc. 2 Giô-tham làm điều phải trước mặt CHÚA như Ô-xia cha mình đã làm. Nhưng Giô-tham không tự ý vào đền thờ CHÚA như cha mình. Còn dân chúng thì vẫn làm điều ác. 3 Giô-tham xây lại Cổng Trên của đền thờ CHÚA và xây thêm vách ở Ô-phên cho rộng thêm. 4 Vua cũng xây các thị trấn trong vùng núi Giu-đa cùng các thành có vách và các tháp canh trong rừng. 5 Giô-tham cũng đánh vua dân Am-môn và chiến thắng. Cho nên trong ba năm kế tiếp họ nộp triều cống cho Giô-tham gồm ba tấn rưỡi [a] bạc, khoảng 62.000 hộc [b] lúa mì, và khoảng sáu mươi hai ngàn thùng lúa mạch. 6

Giô-tham trở nên hùng mạnh vì vua luôn luôn vâng lời CHÚA là Thượng Đế mình.

- 517 -


Các việc khác vua Giô-tham làm trong khi trị vì cùng những chiến công của vua đều được ghi chép trong sử ký các vua Ít-ra-en và Giu-đa. 8 Giô-tham được hai mươi lăm tuổi khi lên ngôi vua và trị vì mười sáu năm tại Giê-ru-sa-lem. 9 Giô-tham qua đời và được chôn trong thành Đa-vít. Rồi A-cha, con ông lên nối ngôi. 7

II Sử Ký 28 A-cha, vua Giu-đa 28 A-cha được hai mươi tuổi khi lên ngôi vua và trị vì mười sáu năm ở Giê-ru-sa-lem. Vua không làm điều thiện trước mặt CHÚA như Đa-vít, tổ tiên mình đã làm. 2 A-cha làm giống như các vua Ít-ra-en đã làm. Vua tạc các hình tượng bằng kim khí để thờ phụng Ba-anh. 3 Vua đốt hương trong Thung Lũng Ben Hin-nôm [a] và thiêu con trai mình làm của lễ. Vua phạm những tội gớm ghiếc như các dân mà CHÚA đã đuổi ra khỏi xứ trước mặt dân Ít-ra-en. 4 Vua A-cha dâng sinh tế và đốt hương ở những nơi thờ các thần ngoại quốc, trên các đồi và dưới mỗi gốc cây xanh. Vì thế CHÚA là Thượng Đế trao A-cha vào tay vua A-ram. Quân A-ram đánh bại A-cha và bắt vô số người Giu-đa làm tù binh đày sang Đa-mách. Ngài cũng trao A-cha vào tay Bê-ca, vua Ít-ra-en. Quân Bê-ca giết vô số quân sĩ của A-cha. 6 Trong một ngày, đạo quân của Bê-ca, con Rê-ma-lia, giết một trăm hai mươi ngàn lính chiến gan dạ của Giu-đa. Bê-ca đánh bại họ vì họ đã lìa bỏ CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên mình. 7 Xích-ri, một chiến sĩ của Ép-ra-im, giết Ma-a-sê-gia, con trai vua A-cha. Anh cũng giết A-ri-cam, sĩ quan quản lý cung điện, và Ên-ca-na, sĩ quan chỉ huy hàng nhì sau vua. 5

Đạo quân Ít-ra-en bắt hai trăm ngàn thân thuộc mình. Họ cướp đàn bà, con trai, con gái và vô số của báu từ Giu-đa, mang về Xa-ma-ri. 9 Nhưng một nhà tiên tri của CHÚA tên Ô-đết có mặt ở đó. Ông ra đón đạo quân Ít-ra-en khi họ trở về Xa-ma-ri và nói với họ, “CHÚA là Thượng Đế của tổ tiên các ngươi đã trao Giu-đa vào tay các ngươi vì Ngài giận họ. Nhưng Ngài đã thấy các ngươi giết họ tàn bạo ra sao. 10 Bây giờ các ngươi định bắt đàn ông, đàn bà Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem làm tôi mọi mình, các ngươi đã phạm tội cùng CHÚA là Thượng Đế các ngươi. 11 Bây giờ hãy nghe ta đây. Hãy trả anh chị em mình mà các ngươi đã bắt về vì CHÚA nổi giận cùng các ngươi đó.” 8

Sau đó một số lãnh tụ trong Ép-ra-im, tức A-xa-ria con Giê-hô-ha-nan, Bê-rê-kia, con Mê-si-lê-mốt, Giêhi-kia con Sa-lum, và A-ma-xa con Hát-lai, đón các chiến sĩ Ít-ra-en khi họ từ mặt trận trở về. 13 Họ cảnh cáo các quân sĩ rằng, “Đừng mang các tù binh Giu-đa vào đây. Nếu không các ngươi sẽ phạm tội cùng CHÚA và sẽ khiến tội lỗi chúng ta thêm nặng. Tội chúng ta đã nặng rồi cho nên CHÚA nổi thịnh nộ cùng Ítra-en.” 12

Vì thế các binh sĩ để các tù binh và những đồ quí trước mặt các sĩ quan và dân chúng. 15 Các lãnh tụ có tên trên đây mang các tù binh và cấp quần áo cho những tù binh bị trần truồng mà đạo quân Ít-ra-en đã bắt. Họ cấp cho các tù binh áo quần, giày dép, thức ăn, nước uống, và thuốc thang. Họ đặt những tù binh yếu ớt lên lưng lừa và mang trả về cho gia đình họ ở Giê-ri-cô là thành cây chà là. Rồi họ trở về nhà mình ở Xa-ma-ri. 14

Lúc đó quân Ê-đôm trở lại tấn công Giu-đa và bắt các tù binh. Cho nên vua A-cha cho người sang cầu cứu vua A-xy-ri. 18 Người Phi-li-tin cũng cướp phá các thị trấn trong các bình nguyên phía Tây và sa mạc miền Nam Giu-đa. Chúng chiếm được các thị trấn Bết-Sê-mết, Ai-gia-lôn, Ghê-đê-rốt, Sô-cô, Tim-na, và Ghim-xô, cùng các làng mạc xung quanh. Rồi dân Phi-li-tin vào ở trong các thị trấn đó. 19 CHÚA mang khốn khổ đến cho Giu-đa vì A-cha, vua họ đã dẫn dụ dân chúng phạm tội, và vì vua không trung thành cùng CHÚA. 20 Tiếc-lác Phi-lê-xe, vua A-xy-ri, đến tiếp cứu A-cha nhưng thực ra mang khốn khổ đến cho vua chứ không giúp được gì. 21 Vua A-cha lấy một số đồ quí trong đền thờ CHÚA, từ cung điện vua, từ các hoàng thân dâng cho vua A-xy-ri nhưng vô ích. 16-17

22

Trong cơn nguy khốn vua A-cha càng tỏ ra bất trung với CHÚA.

- 518 -


Vua dâng sinh tế cho các thần của người Đa-mách, là những người đánh bại mình. Vua nghĩ, “Các thần của các vua A-ram đã giúp đỡ họ. Nếu ta dâng của lễ cho các thần đó, họ sẽ giúp ta.” Nhưng việc đó mang bại hoại đến cho A-cha và toàn dân Ít-ra-en. 23

Vua A-cha gom góp tất cả những đồ dùng trong đền thờ Thượng Đế và đập nát ra. Rồi ông đóng các cửa đền thờ của CHÚA. Ông lập các bàn thờ đặt ở mỗi góc đường trong Giê-ru-sa-lem. 25 Trong mỗi thị trấn Giu-đa, A-cha xây những nơi đốt sinh tế để thờ phụng các thần khác. Vì thế vua chọc giận CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên mình. 24

Các việc khác vua A-cha làm từ đầu đến cuối đều được ghi trong sách các vua Giu-đa và Ít-ra-en. 27 A-cha qua đời và được chôn trong thành Giê-ru-sa-lem nhưng không được nằm chung trong mộ dành cho các vua Ít-ra-en. Ê-xê-chia, con trai vua lên nối ngôi. 26

II Sử Ký 29 Ê-xê-chia dẹp sạch đền thờ 29 Ê-xê-chia được hai mươi lăm tuổi khi lên ngôi vua và trị vì hai mươi chín năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông tên A-bi-gia, con gái của Xa-cha-ri. 2 Ê-xê-chia làm điều phải trước mặt CHÚA, như Đa-vít, tổ tiên mình đã làm. Vào tháng thứ nhất năm đầu khi lên ngôi vua Ê-xê-chia mở các cửa đền thờ CHÚA và sửa sang lại. 4 Ê-xêchia mang các thầy tế lễ và người Lê-vi vào và tập họp họ trong sân phía Đông đền thờ. 5 Ê-xê-chia nói, “Hỡi các người Lê-vi, hãy nghe ta. Hãy dọn mình sẵn sàng phục vụ Chúa, và thánh hóa đền thờ CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên các ngươi. Hãy dẹp bỏ những gì khiến đền thờ không tinh sạch. 6 Tổ tiên chúng ta đã không trung thành với Thượng Đế và làm điều ác trước mặt CHÚA. Họ lìa bỏ Ngài và không thờ phụng trong đền thờ [a] nơi Ngài ngự. Họ gạt bỏ Ngài. 7 Họ đóng các cửa của cổng vào đền thờ, và không thắp đèn. Họ không đốt hương và dâng của lễ thiêu trong nơi thánh cho Thượng Đế của Ít-ra-en. 8 CHÚA rất tức giận dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem nên trừng phạt họ. Những dân khác thấy vậy đâm ra sợ hãi và kinh hoàng vì những điều Ngài làm cho họ. Vì thế họ sỉ nhục dân Giu-đa. Các ngươi cũng biết quả đúng như vậy. 9 Vì vậy mà tổ tiên chúng ta bị giết trong chiến trận và con trai, con gái, cùng vợ chúng ta bị bắt làm tù binh. 10 Bây giờ, ta, Ê-xê-chia, quyết định lập giao ước với CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en, để Ngài không còn nổi giận cùng chúng ta nữa. 11 Các con ơi [b], đừng phí thì giờ nữa. CHÚA đã chọn các con đứng trước mặt Ngài, phục vụ và làm tôi tớ Ngài đồng thời để đốt hương cho Ngài.” 3

Sau đây là những người Lê-vi bắt tay vào việc. Từ gia đình Cô-hát có Ma-hát, con A-ma-xai và Giô-ên, con trai A-xa-ria. Từ gia đình Mê-ra-ri có Kích, con Áp-đi, và A-xa-ria, con Giê-ha-lê-lên. Từ gia đình Ghẹt-sôn có Giô-a con Xim-ma và Ê-đen con Giô-a. 13 Từ gia đình Ê-li-xa-phan có Sim-ri và Giê-i-ên. Từ gia đình A-sáp có Xa-cha-ri và Mát-ta-nia. 12

Từ gia đình Hê-man có Giê-hi-ên và Si-mê-i. Từ gia đình Giê-đu-thun có Sê-mai-gia và U-xi-ên. 15 Những người Lê-vi nầy triệu tập anh em mình lại và dọn mình ra thánh để phục vụ trong đền thờ. Rồi họ đi vào đền thờ của CHÚA để dọn sạch sẽ. Họ vâng mệnh lệnh vua ban ra từ CHÚA. 16 Khi các thầy tế lễ đi vào đền thờ CHÚA để dọn sạch sẽ thì họ mang ra những vật không tinh sạch họ tìm thấy trong đền thờ CHÚA và để ở sân đền thờ. Rồi người Lê-vi mang những món đó đi xuống Thung lũng Kít-rôn. 17 Họ bắt đầu dọn sạch sẽ để thánh hoá đền thờ sẵn sàng cho việc thờ kính CHÚA vào ngày một tháng giêng. Vào ngày tám tháng ấy, họ đến cổng đền thờ, và trong tám ngày sau đó họ thánh hoá đền thờ CHÚA. Vậy công việc dọn dẹp hoàn tất vào ngày mười sáu tháng giêng. 14

Sau đó họ đến trình với vua Ê-xê-chia rằng, “Chúng tôi đã dọn sạch toàn thể đền thờ CHÚA, từ bàn thờ để dâng của lễ thiêu và các dụng cụ, cho đến cái bàn để chưng bày bánh thánh cùng các dụng cụ trên bàn. 18

- 519 -


Khi A-cha còn làm vua, ông đã không trung thành với Thượng Đế và lấy một số đồ dùng trong đền thờ. Nhưng chúng tôi đã để các món đó lại, thánh hóa các món ấy cho CHÚA. Bây giờ các món đó đang ở trước bàn thờ Chúa.” 19

Sáng sớm hôm sau vua Ê-xê-chia triệu tập các lãnh tụ của thành phố lại và cùng họ đi lên đền thờ CHÚA. Họ mang bảy con bò đực, bảy con chiên đực, bảy con chiên con và bảy con dê đực. Những con thú ấy dùng làm của lễ tẩy sạch quốc gia, nơi thờ phụng và dân chúng Giu-đa. Vua Ê-xê-chia ra lệnh cho các thầy tế lễ, con cháu A-rôn dâng các con thú ấy trên bàn thờ Chúa. 22 Vậy các thầy tế lễ giết các con bò đực rồi rưới huyết chúng trên bàn thờ. Họ giết các con chiên rồi rưới huyết chúng trên bàn thờ. 23 Sau đó các thầy tế lễ mang các con dê đực để chuộc tội đến trước mặt vua và cả dân chúng tại đó. Sau khi vua và dân chúng đặt tay trên các con dê, 24 thì các thầy tế lễ giết chúng. Họ dùng huyết dê làm của lễ trên bàn thờ để chuộc tội cho dân Ít-ra-en theo như vua truyền dặn. Vua đã nói rằng phải dâng của lễ thiêu và của lễ chuộc tội cho cả dân Ít-ra-en. 20 21

Vua Ê-xê-chia đặt những người Lê-vi trong đền thờ CHÚA dùng những chập chỏa, đờn cầm, đờn sắt, theo như Đa-vít, Gát, và Na-than đã truyền dặn. Gát là nhà tiên kiến cho vua, còn Na-than là nhà tiên tri. Mệnh lệnh đó do CHÚA truyền qua các nhà tiên tri của Ngài. 26 Vậy người Lê-vi đứng sẵn sàng với các nhạc khí của Đa-vít, và các thầy tế lễ cũng cầm kèn sẵn sàng. 27 Rồi vua Ê-xê-chia ra lệnh dâng của lễ thiêu trên bàn thờ. Khi của lễ thiêu bắt đầu dâng thì những bài ca cho CHÚA cũng trỗi lên. Kèn thổi, các nhạc khí của Đavít, vua Ít-ra-en, cũng trỗi lên. 28 Tất cả dân chúng cúi xuống bái lạy, các ca sĩ hát, kèn thổi trỗi lên cho đến khi của lễ thiêu được dâng xong. 25

Sau khi các sinh tế đã được dâng xong thì vua Ê-xê-chia và mọi người có mặt với vua đều cúi xuống bái lạy. 30 Vua Ê-xê-chia và các sĩ quan của vua ra lệnh cho người Lê-vi ca ngợi CHÚA, dùng những lời mà Đavít và A-sáp, nhà tiên kiến đã dùng. Vậy họ hớn hở ca ngợi Thượng Đế và cúi xuống bái lạy. 31 Rồi vua Êxê-chia bảo, “Bây giờ các ngươi là người Giu-đa đã được chỉ định để phục vụ CHÚA, hãy đến gần đền thờ Ngài. Hãy mang sinh tế và của lễ để tỏ lòng cảm tạ CHÚA.” Vậy dân chúng mang sinh tế và của lễ cảm tạ, và người nào vui lòng đều mang của lễ thiêu đến. 32 Về của lễ thiêu họ mang tổng cộng bảy mươi con bò đực, một trăm con chiên đực, hai trăm chiên con; tất cả các con thú đó đều được dâng làm của lễ thiêu cho CHÚA. 33 Các của lễ dâng hiến tổng cộng 600 con bò đực và ba ngàn con chiên và dê. 34 Vì không có đủ số thầy tế lễ để lột da tất cả các con thú dâng làm của lễ thiêu nên các thân nhân họ là người Lê-vi phải tiếp tay cho đến khi xong công tác và cho đến khi các thầy tế lễ khác được thánh hóa. Các người Lê-vi rất thận trọng trong việc dọn mình ra thánh để phục vụ CHÚA hơn cả các thầy tế lễ nữa. 35 Có vô số của lễ thiêu, cùng với mỡ trong của lễ thân hữu và của lễ uống. Cho nên việc thờ phụng trong đền thờ CHÚA bắt đầu trở lại. 36 Vua Ê-xê-chia và dân chúng rất hân hoan vì Thượng Đế đã khiến việc ấy xảy ra mau chóng. 29

II Sử Ký 30 Kỷ niệm Lễ Vượt Qua 30 Vua Ê-xê-chia thông báo cho toàn dân Ít-ra-en và Giu-đa, vua cũng gởi thơ cho Ép-ra-im và Ma-na-xe [a]. Ê-xê-chia mời họ đến đền thờ CHÚA ở Giê-ru-sa-lem để kỷ niệm Lễ Vượt Qua cho CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en. 2 Vua Ê-xê-chia, các sĩ quan, và toàn dân cư Giê-ru-sa-lem đồng ý kỷ niệm Lễ Vượt Qua vào tháng hai. 3 Họ không thể kỷ niệm lễ ấy vào thời gian bình thường vì không đủ số thầy tế lễ dọn mình sẵn sàng phục vụ CHÚA, và dân chúng chưa tề tựu về Giê-ru-sa-lem kịp. 4 Chương trình đó hợp ý vua Ê-xê-chia và toàn dân. 5 Vì vậy họ loan báo khắp nơi trong Ít-ra-en, từ Bê-e-sê-ba cho đến Đan, cho dân chúng biết để đến Giê-ru-sa-lem kỷ niệm Lễ Vượt Qua cho CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en. Từ lâu lắm hầu hết dân chúng chưa kỷ niệm Lễ Vượt Qua theo như luật lệ qui định. 6 Theo lệnh vua, các sứ giả mang thư vua và các sĩ quan đi đến khắp xứ Ít-ra-en và Giu-đa. Thư viết như sau: “Hỡi dân Ít-ra-en, hãy trở lại cùng CHÚA, Thượng Đế của Áp-ra-ham, Y-sác, và Ít-ra-en thì Thượng Đế sẽ trở lại cùng các ngươi là những người còn sống sót, đã thoát khỏi tay các vua A-xy-ri.

- 520 -


Đừng như tổ tiên hay thân nhân các ngươi. Họ chống nghịch CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên mình, cho nên Ngài khiến các dân khác gớm ghét họ. Các ngươi biết rõ chuyện nầy. 8 Đừng ương ngạnh như tổ tiên các ngươi mà hãy sẵn lòng vâng phục CHÚA. Hãy đến đền thờ mà Ngài đã biệt ra thánh đời đời. Hãy phục vụ CHÚA là Thượng Đế ngươi để Ngài không còn nổi giận cùng các ngươi nữa. 9 Hãy trở về cùng Thượng Đế thì những kẻ đã bắt các thân nhân và con cháu các ngươi sẽ tỏ lòng nhân từ cùng họ và sẽ cho phép họ trở về xứ nầy. CHÚA là Thượng Đế các ngươi rất nhân từ và giàu lòng thương xót. Ngài sẽ không ngoảnh mặt khỏi các ngươi nếu các ngươi trở về cùng Ngài.” 7

Các sứ giả đi khắp các thị trấn trong Ép-ra-im và Ma-na-xe, suốt đến Xê-bu-lôn, nhưng dân chúng chế nhạo và chê cười họ. 11 Tuy nhiên một số người từ A-se, Ma-na-xe, và Xê-bu-lôn ăn năn về những điều họ làm và đi đến Giê-ru-sa-lem. 12 Thượng Đế kết hợp tất cả dân Giu-đa chịu vâng lời vua Ê-xê-chia và các sĩ quan, vì mệnh lệnh của họ đến từ CHÚA. 10

Vào tháng hai thì một số đông dân chúng tề tựu về Giê-ru-sa-lem để kỷ niệm Lễ Bánh Không Men. 14 Dân chúng tháo bỏ các bàn thờ và các bàn thờ xông hương cho các thần khác ở Giê-ru-sa-lem rồi ném xuống Thung lũng Kít-rôn. 15 Họ giết con chiên con của Lễ Vượt Qua vào ngày mười bốn tháng hai. Các thầy tế lễ và người Lê-vi cảm thấy xấu hổ nên họ dọn mình ra thánh và mang của lễ thiêu vào đền thờ CHÚA. 16 Họ trở lại vai trò thường xuyên của mình trong đền thờ theo như Lời Giáo Huấn của Mô-se, người của Thượng Đế, đã truyền dặn. Người Lê-vi trao huyết của con sinh tế cho thầy tế lễ để rưới lên bàn thờ. 17 Vì nhiều người trong quần chúng chưa dọn mình ra thánh, cho nên người Lê-vi giết các con chiên con của Lễ Vượt Qua cho người nào chưa tinh sạch. Người Lê-vi biệt riêng mỗi con chiên con ra thánh cho CHÚA. 13

Mặc dù dân chúng từ Ép-ra-im, Ma-na-xe, Y-xa-ca, và Xê-bu-lôn chưa dọn mình cho sạch để dự lễ, họ vẫn ăn Lễ Vượt Qua tuy rằng làm như thế là trái luật. Cho nên vua Ê-xê-chia cầu thay cho họ rằng, “Lạy CHÚA, Ngài là Đấng nhân từ. Ngài là CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên chúng tôi. Xin tha thứ cho tất cả những ai cố gắng vâng theo Ngài mặc dù họ chưa dọn mình cho sạch theo qui tắc của đền thờ.” 20 CHÚA nghe lời cầu nguyện của Ê-xê-chia, nên Ngài chữa lành dân chúng. 21 Dân Ít-ra-en ở Giê-ru-sa-lem kỷ niệm Lễ Bánh Không Men trong bảy ngày với niềm hân hoan trong CHÚA. Mỗi ngày người Lê-vi và các thầy tế lễ chơi nhạc vang lừng để ca ngợi CHÚA. 22 Vua Ê-xê-chia khuyến khích các người Lê-vi nào tỏ ra hiểu cách phục vụ CHÚA. Dân chúng ăn lễ trong bảy ngày, dâng của lễ thân hữu, và ca ngợi CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên họ. 18-19

Rồi mọi người đồng ý ở lại thêm bảy ngày nữa, cho nên họ hân hoan kỷ niệm thêm bảy ngày nữa. 24 Ê-xêchia, vua Giu-đa cấp cho dân chúng một ngàn con bò đực và bảy ngàn con chiên. Các sĩ quan cũng dâng một ngàn con bò đực và mười ngàn con chiên. Vô số thầy tế lễ tự dọn mình ra thánh. 25 Tất cả dân Giu-đa, các thầy tế lễ, người Lê-vi, mọi người đến từ Ít-ra-en, người ngoại quốc sống trong xứ Ít-ra-en và Giu-đa đều vô cùng hớn hở. 23

Bầu không khí vui tươi trải khắp Giê-ru-sa-lem vì từ thời Sô-lô-môn, con Đa-vít và vua Ít-ra-en, chưa hề có dịp kỷ niệm như vậy. 27 Các thầy tế lễ và người Lê-vi đứng lên chúc phước cho dân chúng, Thượng Đế nghe họ vì lời cầu nguyện của họ lên thấu đến thiên đàng, nơi Ngài ngự. 26

II Sử Ký 31 Những cải cách của vua Ê-xê-chia 31 Khi lễ Vượt Qua đã được kỷ niệm xong thì toàn dân Ít-ra-en trong Giê-ru-sa-lem đi đến các thị trấn trong Giu-đa. Họ đập phá những trụ đá dùng thờ thần ngoại quốc. Họ giật sập các tượng A-sê-ra và phá hủy các bàn thờ và nơi thờ phụng các thần ngoại quốc ở Giu-đa, Bên-gia-min, Ép-ra-im, và Ma-na-xe. Sau khi họ đã tiêu hủy những thứ đó rồi thì dân Ít-ra-en trở về nhà mình. Vua Ê-xê-chia chỉ định các toán thầy tế lễ và người Lê-vi vào các nhiệm vụ đặc biệt. Họ phải dâng của lễ thiêu, của lễ thân hữu, để thờ phụng, và dâng lời cảm tạ cùng ca ngợi nơi cổng của nhà Chúa 2

- 521 -


Vua Ê-xê-chia dâng một số gia súc của mình làm của lễ thiêu. Các của lễ nầy được dâng mỗi sáng mỗi chiều, vào những ngày Sa-bát, ngày Trăng Mới, và các cuộc lễ khác theo như lời Giáo Huấn của Chúa. 4 Vua Ê-xê-chia truyền cho dân chúng sống ở Giê-ru-sa-lem dâng cho các thầy tế lễ phần thuộc riêng về họ để các thầy tế lễ và người Lê-vi có thể dành trọn thì giờ lo cho việc Giáo Huấn của Chúa. 5 Khi lệnh vua vừa được ban ra cho người Ít-ra-en thì ai nấy đều rộng rãi dâng hiến phần ngũ cốc đầu mùa, rượu mới, dầu, mật ong, và mọi thứ họ trồng trong ruộng nương. Họ mang một số lương rất lớn, một phần mười của mọi thứ. 6 Dân Ít-ra-en và Giu-đa sống trong xứ Giu-đa cũng mang một phần mười gia súc và chiên cừu, một phần mười các vật thánh để dâng cho CHÚA là Thượng Đế mình, và chất thành từng đống. 3

7

Dân chúng bắt đầu mang đến hàng đống phẩm vật vào tháng ba và đến tháng bảy mới xong.

8

Khi vua Ê-xê-chia và các sĩ quan đến thấy các đống ấy thì ca ngợi CHÚA và dân Ngài, tức dân Ít-ra-en.

Vua Ê-xê-chia hỏi các thầy tế lễ và người Lê-vi về các đống đồ ấy. 10 A-xa-ria, thầy tế lễ cả từ gia đình Xađốc, thưa với vua, “Từ khi dân chúng bắt đầu mang của lễ dâng hiến đến đền thờ CHÚA, chúng tôi dư ăn và còn thừa lại vì CHÚA đã ban phước cho dân Ngài. Vì thế đây là những đồ dâng hiến còn dư lại.” 9

Sau đó vua Ê-xê-chia ra lệnh chuẩn bị các kho chứa trong đền thờ CHÚA. Thế là lệnh này được thực hiện. Rồi các thầy tế lễ mang vào những của lễ và những vật dâng cho CHÚA cùng một phần mười [b] các thứ dân chúng hiến dâng. Cô-na-nia, người Lê-vi, coi sóc các món nầy, và Si-mê-i, em ông, làm phụ tá. 13 Côna-nia và Si-mê-i, em ông, làm trưởng các giám thị sau đây: Giê-hi-ên, A-xa-xia, Na-hát, A-xa-hên, Giê-rimốt, Giô-xa-bát, Ê-li-ên, Ích-ma-kia, Ma-hát, và Bê-nai-gia. Vua Ê-xê-chia và A-xa-ria, viên chức quản lý đền thờ Thượng Đế đã chọn lựa họ. 14 Cô-rê, con Im-na, người Lê-vi phụ trách các lễ vật đặc biệt dân chúng dâng cho Thượng Đế. Ông cũng chịu trách nhiệm phân phát những vật phẩm đóng góp cho CHÚA và các món dâng thánh. Cô-rê là người giữ Cửa Đông. 15 Ê-đen, Mi-ni-a-min, Giê-sua, Sê-mai-gia, A-ma-ria, và Sêca-nia phụ giúp Cô-rê trong các thị trấn mà các thầy tế lễ cư ngụ. Họ phân phát số lễ vật thu được cho các nhóm thầy tế lễ khác, không phân biệt già trẻ. 16 Từ số lễ vật đó ấy, họ cũng cấp cho những người thuộc phái nam từ ba tuổi trở lên có tên trong gia phổ của người Lê-vi. Họ phải vào đền thờ CHÚA để lo công việc hằng ngày, mỗi nhóm có nhiệm vụ riêng. 17 Các thầy tế lễ được cấp phần của mình trong số thu được, theo gia đình đã được liệt kê trong gia phổ. Những người Lê-vi từ hai mươi tuổi trở lên được cấp phần trong số lễ vật dân chúng đóng góp, dựa theo trách nhiệm của họ và theo nhóm. 18 Các con nhỏ của người Lê-vi, vợ, con trai và con gái cũng được cấp phần trong số thu góp được. Việc cung cấp như thế được thực hiện cho tất cả các người Lê-vi được liệt kê theo gia phổ, vì họ luôn luôn dọn mình sẵn sàng để phục vụ CHÚA. 19 Một số con cháu A-rôn, các thầy tế lễ, sống trong các nông trại gần các thị trấn hay ngay trong thị trấn. Những người thuộc phái nam được chọn theo tên để cấp một phần các lễ vật cho các thầy tế lễ nầy. Tất cả các đàn ông và những ai có tên trong gia phổ của người Lê-vi đều nhận được phần của mình trong số lễ vật. 11 12

Đó là điều vua Ê-xê-chia làm khắp xứ Giu-đa. Vua làm điều tốt, đúng và vâng lời trước mặt CHÚA là Thượng Đế mình. 20

Ê-xê-chia hết sức vâng lời Thượng Đế trong việc phục vụ đền thờ Ngài, và ông cố gắng vâng theo lời giáo huấn và mệnh lệnh của Thượng Đế. Ông hết lòng lo công việc Thượng Đế cho nên ông rất thành công. 21

II Sử Ký 32 A-xy-ri tấn công Giu-đa 32 Sau khi vua Ê-xê-chia thực hiện các công tác trên để phục vụ CHÚA thì Xê-na-chê-ríp, vua A-xy-ri kéo đến đánh Giu-đa. Ông và đạo quân mình vây và tấn công các thành có vách kiên cố, định chiếm lấy các thành đó cho mình. 2 Vua Ê-xê-chia biết Xê-na-chê-ríp đã kéo đến định tấn công Giê-ru-sa-lem. 3 Vì thế vua Ê-xê-chia, các viên chức và các viên chỉ huy quân đội quyết định cắt đứt đường dẫn nước từ các suối bên ngoài thành phố. Các viên chức và sĩ quan chỉ huy giúp đỡ vua Ê-xê-chia. 4 Nhiều người đến cắt đứt tất cả các suối và nguồn nước chảy qua xứ. Họ bảo, “Khi vua A-xy-ri đến đây sẽ không tìm được chút nước nào.” - 522 -


Sau đó Ê-xê-chia tăng cường thành Giê-ru-sa-lem. Vua xây lại các lỗ thủng trong vách và đặt tháp canh lên trên. Vua cũng xây một vách nữa bên ngoài vách đầu tiên và xây Mi-lô trong thành Đa-vít. Vua cũng làm nhiều vũ khí và thuẫn. 6 Vua Ê-xê-chia đặt các sĩ quan chỉ huy trên dân chúng và gặp họ nơi khu trống gần cửa thành. Ê-xê-chia giục giã họ rằng, 7 “Hãy mạnh dạn và can đảm lên. Đừng sợ hay lo âu về vua A-xy-ri hay lực lượng đông đảo của vua ấy. Đấng ở với chúng ta mạnh hơn lực lượng của chúng nó. 8 Vua đó chỉ có đông người thôi, còn chúng ta có CHÚA là Thượng Đế giúp chúng ta đánh trận.” Dân chúng trở nên can đảm qua lời giục giã của Ê-xê-chia, vua Giu-đa. 5

Trong khi vua Xê-na-chê-ríp của A-xy-ri và các sĩ quan của ông ở La-kích thì ông sai các đầy tớ đến Giêru-sa-lem nhắn như sau cho vua Ê-xê-chia của Giu-đa và toàn dân Giu-đa ở Giê-ru-sa-lem: 10 Xê-na-chê-ríp, vua A-xy-ri nói như sau: “Các ngươi chẳng có gì để nhờ cậy được đâu. Các ngươi ở trong Giê-ru-sa-lem khi thành đó bị tấn công thì có ích gì. 11 Ê-xê-chia nói cùng các ngươi, ‘CHÚA là Thượng Đế chúng ta sẽ giải cứu chúng ta khỏi tay vua A-xy-ri,’ nhưng ông ta gạt các ngươi đó. Nếu các ngươi còn ở trong Giê-ru-salem các ngươi sẽ chết vì đói và khát. 12 Chính Ê-xê-chia đã tháo gỡ các nơi thờ phụng và bàn thờ của CHÚA các ngươi. Ông ta bảo rằng các ngươi là dân cư Giu-đa và Giê-ru-sa-lem chỉ được thờ phụng và đốt hương trên một bàn thờ mà thôi. 13 Các ngươi biết điều tổ tiên ta và ta đã làm cho tất cả các dân tộc khác. Thần của các dân đó đâu có giúp họ thoát khỏi quyền lực của ta. 14 Tổ tiên ta đã tiêu diệt các dân tộc đó, không có thần nào của họ có thể cứu họ khỏi tay ta cả. Cho nên thần của các ngươi cũng sẽ không thể nào giải cứu các ngươi khỏi quyền lực của ta đâu. 15 Đừng để Ê-xê-chia phỉnh gạt các ngươi. Đừng tin người. Không có thần của dân hay nước nào đã giải cứu họ khỏi tay ta hay tổ tiên ta cả. Thần các ngươi lại càng không thể giải cứu các ngươi khỏi tay ta được đâu.” 9

Các sĩ quan của Xê-na-chê-ríp còn buông lời thậm tệ hơn nữa để bêu xấu CHÚA là Thượng Đế cùng tôi tớ Ngài là Ê-xê-chia. 17 Vua Xê-na-chê-ríp cũng viết nhiều thư sỉ nhục CHÚA là Thượng Đế của Ít-ra-en. Các thư đó viết nghịch Ngài như sau, “Thần của các dân khác đâu có giải thoát họ khỏi tay ta. Vì thế thần của Êxê-chia cũng không làm sao giải thoát các ngươi khỏi tay ta được.” 18 Rồi các sĩ quan của vua kêu lớn lên bằng tiếng Hê-bơ-rơ cho dân Giê-ru-sa-lem ở trên vách thành nghe. Họ muốn làm cho dân chúng hoảng sợ để chiếm thành Giê-ru-sa-lem. 19 Họ nói đến Thượng Đế của Giê-ru-sa-lem như thể Ngài giống như thần của các dân trên thế gian thờ phụng, do tay loài người làm ra. 16

Vua Ê-xê-chia và nhà tiên tri Ê-sai, con của A-mốt đã cầu nguyện với trời về điều nầy. 21 Sau đó CHÚA sai một thiên sứ xuống giết tất cả các binh sĩ, cấp lãnh đạo, và sĩ quan trong doanh trại của vua A-xy-ri. Cho nên vua nhục nhã trở về xứ mình. Khi ông vào đền thờ của thần mình để bái lạy thì mấy đứa con ông dùng gươm giết ông chết. 22 Vậy CHÚA giải cứu Ê-xê-chia và dân cư Giê-ru-sa-lem khỏi tay Xê-na-chê-ríp, vua A-xy-ri, và khỏi các dân khác. CHÚA chăm sóc họ đủ mọi mặt. 23 Rất nhiều người mang lễ vật đến cho CHÚA ở Giê-ru-sa-lem và họ cũng mang nhiều lễ vật quí giá biếu Ê-xê-chia, vua Giu-đa. Từ đó về sau tất cả các dân tộc đều kính nể vua Ê-xê-chia. 20

Ê-xê-chia qua đời Lúc đó vua Ê-xê-chia lâm bệnh nặng gần chết. Vua cầu nguyện cùng CHÚA thì Ngài phán cùng vua và cho vua một dấu hiệu. [a] 25 Nhưng vua Ê-xê-chia không cảm tạ Thượng Đế về lòng nhân từ Ngài vì vua quá tự phụ. CHÚA nổi giận với vua cùng dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. 26 Nhưng sau đó vua Ê-xê-chia và toàn dân Giê-ru-sa-lem hối hận, không tự phụ nữa cho nên CHÚA không trừng phạt họ trong khi vua Ê-xê-chia còn sống. 24

Vua Ê-xê-chia có nhiều của cải và danh tiếng. Vua lập nhiều kho chứa bạc, vàng, đá quí, hương liệu, thuẫn, và các vật quí khác. 28 Vua cũng xây các kho chứa ngũ cốc, rượu mới, dầu, và chuồng cho gia súc và ràn cho chiên. 29 Vua cũng xây nhiều thị trấn. Ông có rất nhiều chiên và bò vì Thượng Đế ban cho ông nhiều của cải. 30 Vua Ê-xê-chia là người chận hồ trên của suối Ghi-hôn để cho nước chảy thẳng đến phía Tây của khu cũ trong Giê-ru-sa-lem. Ê-xê-chia thành công trong mọi việc ông làm. 27

Nhưng có lần các nhà lãnh đạo Ba-by-lôn phái các sứ giả đến Ê-xê-chia để hỏi thăm về điềm lạ đã xảy ra trong xứ. [b] Khi họ đến thì Thượng Đế để Ê-xê-chia tự hành động để thử xem những điều có trong lòng ông. 31

- 523 -


Lòng yêu mến Thượng Đế của Ê-xê-chia và các việc khác vua làm đều được chép trong khải tượng của nhà tiên tri Ê-sai, con A-mốt. Khải tượng đó được ghi trong sách các vua Giu-đa và Ít-ra-en. 33 Ê-xê-chia qua đời và được chôn trên một ngọn đồi nơi có mồ mả của con cháu Đa-vít. Tất cả dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem tỏ lòng tôn kính Ê-xê-chia khi vua qua đời. Rồi Ma-na-xe, con trai ông, lên nối ngôi. 32

II Sử Ký 33 Ma-na-xe, vua Giu-đa 33 Ma-na-xe được mười hai tuổi khi lên ngôi vua và trị vì năm mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem. 2 Ông làm điều ác trước mặt CHÚA. Ông làm những việc ghê tởm như các dân khác đã làm, tức các dân mà CHÚA đã đuổi ra khỏi xứ trước mặt dân Ít-ra-en. 3 Ê-xê-chia, cha Ma-na-xe đã phá hủy những nơi thờ thần tượng nhưng Ma-na-xe cho xây lại. Ông cũng xây bàn thờ cho các thần Ba-anh, dựng lại các trụ thờ thần A-sê-ra cùng bái lạy các chòm sao [a] trên trời và phục vụ chúng. 4 CHÚA đã phán về đền thờ rằng, “Ta sẽ được thờ phụng tại Giê-ru-sa-lem đời đời,” nhưng Ma-na-xe đã xây các bàn thờ ngay trong đền thờ CHÚA. 5 Ông xây các bàn thờ để bái lạy các ngôi sao trong hai sân của đền thờ CHÚA. 6 Ông thiêu con trai mình làm của lễ trong Thung lũng Bên Hin-nôm. [b] Ông dùng ma thuật, đồng bóng, đoán tương lai bằng cách giải điềm và mộng mị. Vua nghe theo các đồng bóng và thầy bói. [c] Ông làm vô số điều ác, chọc giận CHÚA. 7 Ma-na-xe tạc một tượng chạm và đặt trong đền thờ Thượng Đế. Ngài đã phán cùng Đa-vít và Sô-lô-môn, con ông, về đền thờ rằng, “Ta sẽ được thờ phụng đời đời trong đền thờ nầy tại Giê-ru-sa-lem mà ta đã chọn từ trong các chi tộc Ít-ra-en. 8 Ta sẽ không bao giờ bắt dân Ít-ra-en bỏ xứ mà ta đã cấp cho tổ tiên họ. Nhưng họ phải vâng theo mọi điều ta truyền dặn trong các lời giáo huấn, qui tắc, và mệnh lệnh ta truyền qua Mô-se.” Nhưng Ma-na-xe dẫn dụ dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem làm điều ác. Họ làm ác hơn tất cả các dân mà CHÚA đã tiêu diệt trước mặt dân Ít-ra-en. 9

CHÚA phán cùng Ma-na-xe và dân sự ông nhưng họ không nghe. 11 Vì vậy CHÚA đưa các chỉ huy quân đội của vua A-xy-ri đến tấn công Giu-đa. Họ bắt Ma-na-xe, treo móc vào ông, cùm tay ông trong xiềng sắt và giải qua Ba-by-lôn. 10

Trong khi Ma-na-xe đang gặp khốn khó ông liền cầu khẩn CHÚA là Thượng Đế của mình giúp đỡ và hạ mình xuống trước mặt Thượng Đế của tổ tiên mình. 13 Khi Ma-na-xe cầu khẩn thì CHÚA nghe và động lòng từ bi đối với ông. Ngài cho ông trở về Giê-ru-sa-lem và phục hồi ngôi vua cho ông. Lúc đó Ma-na-xe nhận biết rằng CHÚA là Thượng Đế thật. 12

Sau đó Ma-na-xe xây lại vách ngoài của thành Giê-ru-sa-lem cho cao hơn. Vách đó nằm trong thung lũng về phía Tây của suối Ghi-hôn và chạy dài đến cửa vào Cổng Cá và bao quanh đồi Ô-phên. [d] Rồi ông đặt các viên chỉ huy trong tất cả các thành có vách kiên cố trong Giu-đa. 15 Ma-na-xe tháo bỏ các thần tượng của các dân khác, luôn cả thần tượng trong đền thờ CHÚA. Ông tháo bỏ các bàn thờ mà ông đã xây trên đồi của đền thờ và trong Giê-ru-sa-lem, ném chúng ra bên ngoài thành phố. 16 Rồi ông lập lại bàn thờ Chúa và dâng sinh tế trên đó gồm của lễ thân hữu và của lễ khác để cảm tạ Thượng Đế. Ma-na-xe truyền cho tất cả dân chúng Giu-đa phải phục vụ CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en. 17 Dân chúng tiếp tục dâng sinh tế ở những nơi thờ phụng nhưng họ chỉ dâng sinh tế cho CHÚA là Thượng Đế của mình mà thôi. 14

Các việc khác Ma-na-xe làm trong khi trị vì, lời cầu nguyện của ông cùng Thượng Đế, và những điều mà các nhà tiên kiến nói với ông nhân danh CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en, đều được ghi trong sách lịch sử của các vua Ít-ra-en. 19 Lời cầu nguyện của Ma-na-xe, lòng từ bi của Thượng Đế đối với ông, tội lỗi ông, sự bất trung của ông và những nơi ông xây để thờ phụng tà thần cùng trụ thờ thần A-sê-ra trước khi ông ăn năn đều được ghi trong sách của các nhà tiên kiến. 20 Ma-na-xe qua đời và được chôn trong cung điện mình. Amôn, con trai ông lên nối ngôi. 18

- 524 -


A-môn, vua Giu-đa A-môn được hai mươi hai tuổi khi lên ngôi vua và trị vì hai năm tại Giê-ru-sa-lem. 22 Ông làm điều ác trước mặt CHÚA y như Ma-na-xe cha mình đã làm. A-môn thờ phụng và dâng sinh tế cho tất cả các tượng chạm mà Ma-na-xe đã làm. 23 A-môn không hạ mình xuống trước mặt CHÚA như cha mình đã làm. Ngược lại, A-môn còn phạm tội nhiều hơn nữa. 24 Các sĩ quan của vua A-môn lập mưu phản và giết ông ngay trong cung vua. 25 Tuy nhiên dân chúng xử tử tất cả những người đã âm mưu giết vua A-môn. Sau đó họ lập Giôxia, con trai A-môn lên nối ngôi. 21

II Sử Ký 34 Giô-xia, vua Giu-đa 34 Giô-xia được tám tuổi khi lên ngôi vua và trị vì ba mươi mốt năm tại Giê-ru-sa-lem. 2 Ông làm điều phải trước mặt CHÚA. Ông sống y như Đa-vít, tổ tiên mình và luôn luôn làm điều thiện. 3 Vào năm thứ tám sau khi lên ngôi, trong khi hãy còn trẻ tuổi, Giô-xia bắt đầu vâng lời Thượng Đế của tổ tiên mình là Đa-vít. Vào năm thứ mười hai sau khi lên ngôi, Giô-xia bắt đầu phá bỏ khỏi Giu-đa và Giê-ru-sa-lem những tà thần, những nơi thờ thần trên đỉnh đồi, các trụ thờ thần A-sê-ra, các tượng bằng đá và bằng sắt. 4 Dân chúng kéo sập các bàn thờ của thần Ba-anh theo chỉ thị của Giô-xia. Rồi vua Giô-xia phá sập bàn thờ xông hương nằm phía trên các bàn thờ đó. Ông đốn ngã các trụ thờ thần A-sê-ra, và nghiền ra bụi các tượng bằng gỗ và bằng sắt. Sau đó ông rải các bụi ấy trên các mộ của những kẻ đã dâng sinh tế cho các thần ấy. 5 Ông đốt xương các thầy tế lễ của chúng trên những bàn thờ đó. Vậy Giô-xia diệt trừ hết việc thờ tà thần khỏi Giu-đa, Giêru-sa-lem, 6 và khỏi các thị trấn trong vùng Ma-na-xe, Ép-ra-im, Xi-mê-ôn suốt cho đến Nép-ta-li, và các khu vực đổ nát gần các thị trấn ấy. [a] 7 Giô-xia phá sập các bàn thờ, nghiền các trụ thờ thần A-sê-ra ra bụi. Sau khi đập phá các bàn thờ xông hương trong cả Ít-ra-en thì vua trở về Giê-ru-sa-lem. Vào năm thứ mười tám triều đại mình, vua làm cho Giu-đa và đền thờ tinh sạch trở lại. Vua sai Sa-phan, con A-xa-lia, Ma-a-sê-gia, thị trưởng thành phố, và Giô-a con Giô-ách, viên lục sự lo việc sửa chữa đền thờ CHÚA, Thượng Đế của Giô-xia. 8

Họ đến cùng Hinh-kia, thầy tế lễ tối cao trao cho ông số tiền mà những người Lê-vi giữ cửa đã thu được từ dân cư Ma-na-xe, Ép-ra-im, và tất cả dân Ít-ra-en còn sống sót, cùng toàn dân Giu-đa, Bên-gia-min và Giêru-sa-lem. Đó là số tiền mà họ đã mang vào đền thờ của Thượng Đế. 10 Rồi người Lê-vi trao tiền đó cho các giám thị lo việc sửa chữa đền thờ CHÚA để họ trả công cho thợ tái thiết và sửa chữa đền thờ. 11 Họ giao tiền cho thợ mộc và thợ xây cất để mua đá đẽo và gỗ. Gỗ thì dùng để xây lại các tòa nhà, bắc các đà ngang vì các vua Giu-đa đã để cho các tòa nhà bị đổ nát. 9

Các thợ thực hiện công tác rất tốt đẹp. Các giám thị họ là Gia-hát và Áp-đia là những người Lê-vi từ họ hàng Mê-ra-ri, và Xa-cha-ri cùng Mê-su-lam, thuộc họ hàng Cô-hát. Các người Lê-vi đó đều là các nhạc sĩ có tài. 13 Họ cũng giám sát các thợ khuân vác và các thợ khác. Một số người Lê-vi làm thư ký, sĩ quan, và giữ cửa. 12

Tìm được Sách Giáo Huấn Các người Lê-vi lấy tiền ra từ đền thờ CHÚA. Đang khi họ kiểm điểm thì Hinh-kia, thầy tế lễ tối cao tìm ra được Sách ghi những lời Giáo Huấn của Chúa đã được trao cho Mô-se. 15 Hinh-kia nói với Sa-phan, thư ký hoàng gia rằng, “Tôi đã tìm được Sách Giáo Huấn trong đền thờ CHÚA!” [b] Rồi ông trao sách ấy cho Sa-phan. 14

Sa-phan mang sách đến trình cho vua và báo cáo cùng Giô-xia, “Các viên chức vua đã thi hành mọi điều vua dặn bảo. 17 Họ đã trả tiền thu được trong đền thờ CHÚA cho các đốc công và thợ thuyền.” 18 Rồi Saphan, thư ký hoàng gia thưa với vua, “Thầy tế lễ Hinh-kia có trao cho tôi một quyển sách.” Rồi Sa-phan đọc sách đó cho vua nghe. 16

- 525 -


Khi vua vừa nghe những lời trong sách Giáo Huấn liền xé quần áo [c] mình tỏ dấu đau buồn cùng cực. 20 Vua ra lệnh cho Hinh-kia, A-hi-cam, con Sa-phan, Ạc-bo [d], con Mi-ca-gia, Sa-phan, thư ký hoàng gia, và A-xai-gia, tôi tớ vua. Lệnh vua như sau: 21 “Hãy đi cầu hỏi CHÚA về những lời trong sách mới tìm được. Hãy hỏi thăm cho ta và toàn thể dân còn sống sót trong Ít-ra-en và Giu-đa. CHÚA đã nổi giận với chúng ta vì tổ tiên chúng ta không vâng theo lời Ngài, không làm theo những điều ghi trong sách nầy.” 19

Vậy Hinh-kia và những người được vua sai đến nói chuyện với nữ tiên tri Hun-đa. Bà là vợ của Sa-lum, con Tiếc-va, cháu Hạc-ha [e], người lo các y phục cho vua. Hun-đa cư ngụ ở Giê-ru-sa-lem, thuộc khu mới của thành phố. 23 Bà bảo họ, “CHÚA là Thượng Đế của Ít-ra-en phán như sau: Hãy nói cùng với người đã sai các ngươi đến cùng ta rằng, 24 CHÚA phán: Ta sẽ mang khốn khổ đến chỗ nầy và những người sống tại đây. Ta sẽ giáng những điều nguyền rủa đã được chép trong sách mà vua Giu-đa đã nghe đọc. 25 Dân Giu-đa đã lìa bỏ ta và đốt hương cho các thần khác. Họ đã chọc giận ta bằng những điều ác họ làm. Cho nên ta sẽ nổi thịnh nộ mà trừng phạt họ, cơn thịnh nộ không nguôi. 22

Hãy bảo vua Giu-đa là người đã sai các ngươi đến cầu hỏi CHÚA như sau, ‘CHÚA là Thượng Đế của Ítra-en phán như sau về những lời các ngươi đã nghe: 27 Khi người nghe lời ta nghịch cùng nơi nầy và dân cư nó thì ngươi hối hận về những điều mình làm và hạ mình xuống trước mặt ta. Ngươi xé quần áo tỏ dấu đau buồn và khóc lóc trước mặt ta. Vì vậy mà ta đã nghe ngươi, CHÚA phán vậy. 28 Vì thế ta sẽ cho ngươi qua đời [f] và được chôn cất bình yên. Ngươi sẽ không thấy những khốn khổ ta sẽ giáng cho nơi nầy và dân cư sống tại đây.’” Vậy họ mang những lời ấy trình lại cho vua. 26

Vua liền tập họp các bô lão Giu-đa và Giê-ru-sa-lem lại. 30 Vua đi lên đền thờ CHÚA cùng với tất cả dân chúng từ Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. Các thầy tế lễ, người Lê-vi cùng toàn thể dân chúng, từ sang đến hèn đều đi lên với vua. Vua đọc cho họ nghe những lời trong Sách Giao Ước tìm được trong đền thờ CHÚA. 31 Vua đứng cạnh cây cột và lập giao ước với CHÚA, cam kết hết lòng vâng theo mệnh lệnh, qui tắc, và luật lệ của Ngài và làm theo những lời của giao ước đã ghi trong sách. 32 Rồi vua buộc dân chúng ở Giê-ru-sa-lem và Bên-gia-min hứa tuân giữ giao ước ấy. Vậy toàn dân Giê-ru-sa-lem vâng theo giao ước với Thượng Đế, tức Thượng Đế của tổ tiên mình. 33 Sau đó Giô-xia ném hết các thần tượng đáng gớm ghiếc trong xứ mà dân Ítra-en đã giữ. Ông hướng dẫn dân Ít-ra-en trở lại phục vụ CHÚA là Thượng Đế mình. Suốt đời Giô-xia, dân chúng vâng phục CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên mình. 29

II Sử Ký 35 Giô-xia kỷ niệm Lễ Vượt Qua 35 Vua Giô-xia kỷ niệm Lễ Vượt Qua cho CHÚA tại Giê-ru-sa-lem. Chiên con Lễ Vượt Qua bị giết vào ngày mười bốn tháng giêng. 2 Giô-xia chọn các thầy tế lễ để lo phận sự, vua khuyến khích họ trong khi họ thi hành nhiệm vụ trong đền thờ CHÚA. Các người Lê-vi dạy dỗ dân Ít-ra-en và dọn mình ra thánh cho CHÚA. Giô-xia bảo họ, “Hãy đặt Rương Thánh trong đền thờ CHÚA mà Sô-lô-môn, con Đa-vít, vua Ít-ra-en đã xây. Đừng khiêng Rương đó trên vai từ chỗ nầy đến chỗ khác như các ngươi vẫn làm. Bây giờ hãy phục vụ CHÚA là Thượng Đế các ngươi và của Ít-ra-en. 4 Hãy dọn mình theo từng họ hàng để phục vụ và thi hành nhiệm vụ mà vua Đa-vít và Sô-lômôn, con trai người, đã giao cho các ngươi. 5 Hãy đứng ở nơi thánh cùng với nhóm người Lê-vi của mỗi họ hàng. 6 Hãy giết con chiên con cho Lễ Vượt Qua và dọn mình ra thánh cho CHÚA. Hãy giết các con chiên cho thân nhân mình, dân Ít-ra-en, theo như CHÚA truyền dặn chúng ta làm qua Mô-se.” 3

Vua Giô-xia cấp cho dân Ít-ra-en ba mươi ngàn con chiên và dê để làm sinh tế cho Lễ Vượt Qua, và cho họ ba ngàn con bò. Tất cả các con thú đó là của riêng vua. 8 Các viên chức của vua Giô-xia cũng vui lòng cấp cho dân chúng, các thầy tế lễ, và người Lê-vi. Hinh-kia, Xa-cha-ri, và Giê-hi-ên, cùng các viên chức quản lý đền thờ, biếu cho các thầy tế lễ hai ngàn sáu trăm con chiên và dê, cùng ba trăm con bò để làm sinh tế cho Lễ Vượt Qua. 7

- 526 -


Cô-na-nia, các anh em ông là Sê-mai-gia và Nê-tha-nên, cùng Ha-sa-bia, Giê-i-ên, và Giô-xa-bát biếu người Lê-vi năm ngàn con chiên và dê và năm trăm con bò để làm sinh tế cho Lễ Vượt Qua. Những người đó là các lãnh tụ của người Lê-vi. 9

Khi mọi việc đã sẵn sàng cho Lễ Vượt Qua thì các thầy tế lễ và người Lê-vi đứng vào vị trí mình theo như vua truyền dặn. 11 Các con chiên dùng cho Lễ Vượt Qua bị giết. Rồi người Lê-vi lột da các con thú đó và trao huyết cho các thầy tế lễ để rưới trên bàn thờ. 12 Rồi họ trao các con thú làm của lễ thiêu cho các họ hàng để làm của lễ thiêu dâng lên cho CHÚA theo như đã ghi trong sách của Mô-se. Về các con bò họ cũng làm y như vậy. 13 Người Lê-vi quay các sinh tế của Lễ Vượt Qua trên lửa theo như được dặn bảo và luộc các của lễ thánh trong nồi, trong ấm, và trong chảo. Sau đó họ vội vàng trao thịt cho dân chúng. 14 Sau khi xong nghi thức đó thì người Lê-vi chuẩn bị thịt cho mình và cho các thầy tế lễ, con cháu A-rôn. Các thầy tế lễ làm việc cho đến tối, dâng của lễ thiêu và đốt mỡ của các con sinh tế. 15 Các ca sĩ người Lê-vi thuộc gia đình A-sáp đứng vào chỗ đã được vua Đa-vít, A-sáp, Hê-man, và Giê-đu-thun, nhà tiên kiến của vua định. Các người gác ở mỗi cửa ra vào không phải rời chỗ của mình vì các đồng nghiệp Lê-vi của họ đã chuẩn bị mọi sự cho họ dự Lễ Vượt Qua. 10

Như thế là mọi việc đều thực hiện trong ngày đó để thờ phụng CHÚA, theo như vua Giô-xia truyền dặn. Lễ Vượt Qua được cử hành, và các của lễ thiêu được dâng lên trên bàn thờ Chúa. 17 Các người Ít-ra-en có mặt tại đó kỷ niệm Lễ Vượt Qua và Lễ Bánh Không Men trong bảy ngày. 18 Từ thời nhà tiên tri Sa-mu-ên cho đến bấy giờ Lễ Vượt Qua chưa hề được kỷ niệm như thế cả. Không có vua Ít-ra-en nào kỷ niệm Lễ Vượt Qua như vua Giô-xia, các thầy tế lễ, người Lê-vi, dân Giu-đa và Ít-ra-en có mặt tại đó và dân cư Giêru-sa-lem đã làm. 19 Lễ Vượt Qua ấy được kỷ niệm vào năm thứ mười tám triều đại Giô-xia. 16

Vua Giô-xia qua đời Sau khi vua Giô-xia thực hiện các việc đó cho đền thờ thì Nê-cô, vua Ai-cập mang một đạo quân tấn công Cạt-kê-mít, một thị trấn nằm trên sông Ơ-phơ-rát. Giô-xia kéo quân ra đón đánh Nê-cô. 21 Nhưng Nê-cô sai sứ đến Giô-xia nói rằng, “Thưa vua Giô-xia, chúng ta không nên tranh chiến với nhau. Không phải tôi đến để đánh vua mà đánh kẻ thù tôi. Thượng Đế bảo tôi phải nhanh tay vì Ngài ở về phía tôi. Cho nên vua không nên chiến đấu cùng Ngài, nếu không Ngài sẽ tiêu diệt vua.” 22 Nhưng vua Giô-xia không chịu lui binh. Vua ăn mặc giả dạng để không ai nhận ra mình. Vua không chịu nghe lời Nê-cô nói theo mệnh lệnh Thượng Đế mà vẫn cứ kéo binh ra đánh nhau ở bình nguyên Mê-ghi-đô. 23 Đang khi lâm trận thì vua Giô-xia bị các lính cầm cung bắn trúng. Vua bảo các đầy tớ, “Hãy mang ta ra khỏi đây vì ta bị thương nặng.” 20

Vậy họ mang vua ra khỏi quân xa và đặt vua trên một quân xa khác mang về Giê-ru-sa-lem. Vua qua đời tại đó và được chôn trong mồ mả của tổ tiên mình. Tất cả dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem đều thương tiếc cho cái chết của vua Giô-xia. 25 Giê-rê-mi viết mấy bài ai ca về vua Giô-xia. Cho đến ngày nay các ca sĩ nam và nữ vẫn còn nhớ và hát các bài đó để tôn kính vua Giô-xia. Việc đó trở thành tục lệ trong Ít-ra-en khi hát những bài ca ấy trong số tuyển tập các bài ai ca. 24

Các việc khác vua Giô-xia làm từ dầu đến cuối đều được ghi trong sách các vua Ít-ra-en và Giu-đa. Sách đó ghi lại cho thấy vua yêu mến những lời giáo huấn của Chúa ra sao. 26-27

II Sử Ký 36 Giô-A-cha, vua Giu-đa 36 Dân Giu-đa chọn Giô-A-cha, con trai Giô-xia lên làm vua ở Giê-ru-sa-lem, nối ngôi cha mình. 2 Giô-Acha được hai mươi ba tuổi khi lên ngôi vua và trị vì tại Giê-ru-sa-lem được ba tháng. 3 Sau đó Nê-cô vua Aicập truất ngôi của Giô-A-cha ở Giê-ru-sa-lem. Nê-cô buộc dân Giu-đa đóng triều cống khoảng ba tấn rưỡi [a] bạc và khoảng ba mươi lăm kí [b] vàng. 4 Vua Ai-cập đặt Ê-li-a-kim, anh Giô-A-cha, làm vua Giu-đa ở Giêru-sa-lem và đổi tên ông là Giê-hô-gia-kim. Còn Giô-A-cha, em ông, thì Nê-cô mang sang Ai-cập.

- 527 -


Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa Giê-hô-gia-kim được hai mươi lăm tuổi khi lên ngôi vua và trị vì mười một năm ở Giê-ru-sa-lem. Ông làm điều ác trước mặt CHÚA. 5

Nê-bu-cát-nết-xa, vua Ba-by-lôn tấn công Giu-đa, bắt sống Giê-hô-gia-kim, xiềng lại và đày qua Ba-bylôn. 7 Nê-bu-cát-nết-xa tháo gỡ một số đồ trong đền thờ CHÚA mang sang Ba-by-lôn và đặt trong cung điện mình. 8 Các việc khác Giê-hô-gia-kim làm, những điều gớm ghiếc ông làm, tất cả những tội lỗi ông đều được chép trong sách các vua Ít-ra-en và Giu-đa. Rồi Giê-hô-gia-kin, con trai Giê-hô-gia-kim lên nối ngôi vua. 6

Giê-hô-gia-kin, vua Giu-đa Giê-hô-gia-kin được mười tám tuổi khi lên ngôi vua Giu-đa và trị vì ở Giê-ru-sa-lem được ba tháng mười ngày. Ông làm điều ác trước mặt CHÚA. 10 Đến mùa xuân, vua Nê-bu-cát-nết-xa cho triệu Giê-hô-gia-kin và giải ông qua Ba-by-lôn cùng một số của báu trong đền thờ. Rồi vua Nê-bu-cát-nết-xa đặt em của Giê-hô-giakin là Xê-đê-kia lên làm vua Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. 9

Xê-đê-kia, vua Giu-đa Xê-đê-kia được hai mươi mốt tuổi khi lên ngôi vua Giu-đa và trị vì mười một năm ở Giê-ru-sa-lem. 12 Xêđê-kia làm điều ác trước mặt CHÚA là Thượng Đế mình. Nhà tiên tri Giê-rê-mi truyền sứ điệp của CHÚA cho vua, nhưng Xê-đê-kia không vâng theo. 11

Vua Xê-đê-kia phản nghịch cùng vua Nê-bu-cát-nết-xa là người đã buộc ông nhân danh Thượng Đế trung thành với mình. Nhưng vua Xê-đê-kia ương ngạnh và không vâng theo CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en. 14 Ngoài ra các lãnh tụ của các thầy tế lễ và dân Giu-đa gian ác hơn trước, họ bắt chước những gương xấu của các dân khác. CHÚA đã làm cho đền thờ Ngài nên thánh nhưng các lãnh tụ đó làm cho đền thờ ra nhơ nhớp. 13

Thành Giê-ru-sa-lem bị tiêu hủy CHÚA là Thượng Đế của tổ tiên họ đã sai các sứ giả cảnh cáo họ nhiều lần vì Ngài thương xót họ và đền thờ Ngài. 16 Nhưng họ chế giễu các sứ giả của Thượng Đế và ghét các lời cảnh cáo của Ngài. Họ nhất định không nghe các nhà tiên tri cho đến cuối cùng; Ngài quá bực mình với dân Ngài đến nỗi không ai có thể can ngăn Ngài được nữa. 17 Vì thế Thượng Đế đưa vua Ba-by-lôn đến tấn công dân chúng Giu-đa và Giê-ru-salem. [c] Vua giết những trai tráng ngay cả khi họ đang ở trong đền thờ. Ông không nương tay với thanh niên hay thiếu nữ, người già cả hay bệnh tật gì hết. Thượng Đế trao tất cả mọi người vào tay Nê-bu-cát-nết-xa. 18 Nê-bu-cát-nết-xa lấy hết những vật dụng trong đền thờ Thượng Đế, từ lớn đến nhỏ mang qua Ba-by-lôn. Vua cũng lấy các của báu trong đền thờ CHÚA, trong cung vua và trong nhà của các sĩ quan hoàng gia. 19 Vua Nê-bu-cát-nết-xa và quân đội ông phóng hỏa đền thờ Thượng Đế, phá sập vách thành Giê-ru-sa-lem và thiêu hủy cung vua. Họ lấy hay tiêu hủy tất cả những gì quí giá trong Giê-ru-sa-lem. 15

Nê-bu-cát-nết-xa bắt sống và đày qua Ba-by-lôn những người còn sống sót, bắt họ làm tôi mọi cho mình và dòng dõi mình. Họ ở đó làm tôi mọi cho đến khi đế quốc Ba-tư đánh bại Ba-by-lôn. 21 Cho nên những gì CHÚA phán cùng Ít-ra-en qua nhà tiên tri Giê-rê-mi đã thành sự thật: Xứ trở thành hoang vu trong bảy mươi năm [d] để đền bù cho những năm Sa-bát nghỉ ngơi [e] mà họ không tôn trọng. 20

Vào năm đầu tiên khi vua Xi-ru [f] lên ngôi nước Ba-tư vì CHÚA giục lòng Xi-ru, nên ông ban chỉ thị trên toàn đế quốc để lời CHÚA phán qua nhà tiên tri Giê-rê-mi thành sự thật. 22

Vua viết rằng:

- 528 -


Xi-ru, vua Ba-tư, ra chỉ thị rằng: CHÚA, Thượng Đế trên trời đã ban cho ta mọi nước trên đất và Ngài chỉ định ta xây một đền thờ cho Ngài tại Giê-ru-sa-lem trong Giu-đa. Vậy nguyện CHÚA là Thượng Đế ở cùng tất cả các ngươi là dân Ngài. Các ngươi được phép tự do trở về Giê-ru-sa-lem. 23

- 529 -


Ê-xơ-ra 1 (Esdras-Ezra) Vua Xi-ru cho phép dân lưu vong hồi hương 1 Trong năm đầu [a] sau khi lên ngôi vua Ba-tư, CHÚA cảm động lòng Xi-ru nên vua ra chỉ thị toàn quốc để lời CHÚA phán qua nhà tiên tri Giê-rê-mi được thành tựu [b]. Vua viết: 2

“Xi-ru, vua Ba-tư ra chỉ thị:

CHÚA, Thượng Đế trên trời, đã ban cho ta mọi nước trên đất, và Ngài chỉ định ta xây đền thờ cho Ngài tại Giê-ru-sa-lem trong Giu-đa. 3 Nguyện Thượng Đế ở cùng các ngươi là dân sự Ngài. Các ngươi được tự do trở về Giê-ru-sa-lem xứ Giu-đa để xây đền thờ cho CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en là Đấng ngự ở Giê-rusa-lem. 4 Những ai còn ở lại, bất kỳ nơi nào, phải giúp những người muốn hồi hương. Hãy cho họ vàng, bạc, đồ dùng, gia súc, và những lễ vật cho đền thờ của Thượng Đế ở Giê-ru-sa-lem.” Sau đó các trưởng gia đình của Giu-đa và Bên-gia-min, cùng các thầy tế lễ và người Lê-vi sẵn sàng lên đường về Giê-ru-sa-lem mỗi người tùy theo Thượng Đế thúc giục về Giê-ru-sa-lem để xây lại đền thờ CHÚA. 6 Tất cả các láng giềng đều giúp đỡ họ, cấp cho họ những đồ dùng bằng bạc, vàng, cùng với các vật dụng, gia súc, những tặng vật quí giá, và các vật dâng hiến cho đền thờ. 7 Ngoài ra, vua Xi-ru cũng mang ra các chén bát và chảo thuộc về đền thờ của CHÚA mà vua Nê-bu-cát-nết-xa đã lấy từ Giê-ru-sa-lem rồi để trong đền thờ của thần mình. 8 Xi-ru vua Ba-tư bảo Mít-rê-đít, thủ quỹ mang các vật đó ra và đếm trước mặt Sết-ba-xa, quan trưởng của Giu-đa. 5

Ông kiểm kê ba mươi cái dĩa vàng, một ngàn dĩa bạc, hai mươi chín cái chảo, 10 ba mươi cái chén vàng, bốn trăm mười chén bạc cùng bộ, và một ngàn món khác. 9

Tổng cộng năm ngàn bốn trăm món đồ bằng vàng và bạc. Sết-ba-xa mang các món đó theo mình khi các tù binh lên đường hồi hương từ Ba-by-lôn về Giê-ru-sa-lem. 11

Ê-xơ-ra 2 Những tù nhân lưu vong hồi hương 2 Sau đây là danh sách những người trong vùng trở về từ cuộc lưu đày. Họ đã bị Nê-bu-cát-nết-xa, vua Baby-lôn bắt đày sang Ba-by-lôn. Họ trở về lại Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, ai về thành nấy. 2 Những người sau đây trở về cùng Xê-ru-ba-bên, Nê-hê-mi, Sê-rai-gia, Rê-ê-lai-gia, Mạc-đô-chê, Binh-san, Bích-vai, Rê-hum và Ba-a-na. Những người sau đây thuộc dân Ít-ra-en: 3 con cháu Ba-rốt: 2.172 người; 4 con cháu Sê-pha-tia: 372 người; 5 con cháu A-ra: 775 người; 6 con cháu Ba-hát Mô-áp, qua gia đình Giê-sua và Giô-áp: 2.812 người; 7 con cháu Ê-lam: 1.254 người; 8 con cháu Xát-tu: 945 người: 9 con cháu Xác-cai: 760 người; 10 con cháu Ba-ni: 642 người; 11 con cháu Bê-bai: 623 người; 12 con cháu Ác-gác: 1.222 người; 13 con cháu A-đô-ni-cam: 66 người; 14 con cháu Bích-vai: 2.056 người; 15 con cháu A-đinh: 454 người; 16 con cháu A-te, qua gia đình Xêđê-kia: 98 người; 17 con cháu Bê-xai: 323 người; 18 con cháu Giô-ra: 112 người; 19 con cháu Ha-sum: 223 người; 20 con cháu Ghíp-ba: 95 người; Sau đây là những người thuộc thị trấn Bết-lê-hem: 123 người; 22 thị trấn Nê-tô-pha: 56 người; 23 thị trấn Ana-thốt: 128 người; 24 thị trấn Ách-ma-vết: 42 người; 25 thị trấn Ki-ri-át Giê-a-rim, Kê-phi-ra, và Bê-ê-rốt: 743 người; 26 thị trấn Ra-ma và Ghê-ba: 621 người; 27 thị trấn Mích-mát: 122 người; 28 thị trấn Bê-tên và Ahi: 223 người; 29 thị trấn Nê-bô: 52 người; 30 thị trấn Mác-bích: 156 người; 31 thị trấn Ê-lam khác: 1.254 người; 32 thị trấn Ha-rim: 320 người; 33 thị trấn Lốt, Ha-đích, và Ô-nô: 725 người; 34 thị trấn Giê-ri-cô: 345 người; 35 thị trấn Sê-na-a: 3.630 người; 21

- 530 -


Những người sau đây là các thầy tế lễ: con cháu Giê-đai-gia, qua gia đình Giê-sua: 973 người; 37 con cháu Im-mê: 1.052 người; 38 con cháu Ba-sua: 1.247 người; 39 con cháu Ha-rim: 1.017 người; 36

40

Sau đây là người Lê-vi: con cháu Giê-sua và Cát-miên, qua gia đình Hô-đa-via: 74 người;

41

Sau đây là các ca sĩ: con cháu A-sáp: 128 người;

Sau đây là những người giữ cửa của đền thờ: con cháu Sa-lum, A-te, Thanh-môn, Ác-cúp, Ha-ti-ta, và Sôbai: 139 người; 42

Sau đây là những người giúp việc trong đền thờ: con cháu Xi-ha, Ha-su-pha, Ta-ba-ốt, 44 Kê-rô, Si-a-ha, Ba-đôn, 45 Lê-ba-na, Ha-ga-ba, Ác-cúp, 46 Ha-gáp, Sanh-mai, Ha-nan, 47 Ghi-đên, Ga-ha, Rê-a-gia, 48 Rê-xin, Nê-cô-đa, Ga-xam, 49 U-xa, Ba-sê-a, Bê-sai, 50 Át-na, Mê-u-nim, Nê-phu-xim, 51 Bác-búc, Ha-cu-pha, Hasua, 52 Ba-lút, Mê-hi-đa, Hát-sa, 53 Bác-cô, Xi-xê-ra, Thê-ma, 54 Nê-xia, và Ha-ti-pha. 43

Sau đây là con cháu của các tôi tớ Sô-lô-môn: con cháu Sô-tai, Hát-xô-phê-rết; Bê-ru-đa, 56 Gia-a-la, Đáccôn, Ghít-đên, 57 Sê-pha-tia, Hát-tin, Bô-kê-rết Ha-xê-ba-im, và A-mi. 55

58

Các người giúp việc trong đền thờ và con cháu của các tôi tớ Sô-lô-môn tổng cộng là 392 người;

Một số người đến Giê-ru-sa-lem từ các thị trấn Tê-Ma-la, Tê-Ha-sa, Kê-rúp, Ách-đan, và Im-mê, nhưng họ không chứng minh được tổ tiên mình là người Ít-ra-en. 60 Họ là con cháu Đê-lai-gia, Tô-bia, và Nê-cô-đa gồm 652 người; 59

Ngoài ra các thầy tế lễ sau đây: con cháu Hô-bai-gia, Hác-cô, và Bát-xi-lai, người lấy con gái của Bát-xilai từ Ghi-lê-át và mang tên gia đình vợ mình. 62 Họ tra cứu gia phổ nhưng không thấy tên cho nên không được làm chức tế lễ vì họ bị xem như không tinh sạch. 63 Quan tổng trấn không cho phép họ ăn những món đã được dâng cho Thượng Đế cho đến khi một thầy tế lễ dùng U-rim và Thu-mim để giải quyết vấn đề nầy. 61

Tổng số người hồi hương là: 42.360 người. 65 Trong số đó không tính 7.337 tôi trai tớ gái và 200 nam nữ ca sĩ cùng đi với họ. 66 Họ có 736 con ngựa, 245 con la, 67 435 con lạc đà, và 6.720 con lừa. 64

Khi đến đền thờ của CHÚA tại Giê-ru-sa-lem thì một số trưởng gia đình dâng hiến của cải để xây lại đền thờ Thượng Đế trên địa điểm cũ. 69 Họ dâng hết sức theo khả năng vào ngân khố để tái thiết đền thờ: khoảng 1.100 cân [a] vàng, 6.000 cân [b] bạc, và 100 bộ áo cho các thầy tế lễ. 68

Tất cả các người Ít-ra-en định cư trong các thị trấn quê quán mình. Các thầy tế lễ, người Lê-vi, các ca sĩ, người giữ cửa, người giúp việc trong đền thờ, cùng với những người khác đều định cư trong thị trấn mình. 70

Ê-xơ-ra 3 Xây lại bàn thờ 3 Vào tháng bảy [a] sau khi dân Ít-ra-en đã định cư tại các thị trấn nhà của mình thì họ họp nhau lại tại Giêru-sa-lem. 2 Giê-sua con Giô-xa-đác và các thầy tế lễ đồng nghiệp cùng với Xê-ru-ba-bên, con của Sê-anhtiên bắt đầu xây lại bàn thờ Thượng Đế của Ít-ra-en để dâng của lễ thiêu theo như lời chỉ dạy của Mô-se, người của Thượng Đế. 3 Mặc dù còn sợ các dân tộc xung quanh, họ vẫn xây lại đền thờ tại chỗ cũ. Rồi họ dâng của lễ thiêu trên đó cho CHÚA mỗi sáng mỗi chiều. 4 Sau đó họ vâng theo lời đã được ghi chép và cử hành Lễ Lều Tạm. Họ dâng đúng số sinh tế mỗi ngày cho cuộc lễ. 5 Sau Lễ Lều Tạm, họ dâng sinh tế đều đặn mỗi ngày cũng như sinh tế vào ngày Trăng Mới và mọi buổi lễ theo như CHÚA truyền dặn. Ngoài ra cũng có những lễ vật đặc biệt cho CHÚA. 6 Vào ngày đầu tiên tháng bảy, họ bắt đầu dâng của lễ thiêu cho CHÚA, tuy nhiên người ta chưa đặt nền cho đền thờ CHÚA.

- 531 -


Xây lại đền thờ Rồi họ trao tiền cho thợ nề và thợ mộc. Họ cũng dùng thực phẩm, rượu và dầu ô-liu trả công cho dân cư thành Xi-đôn và Tia để các thành ấy thả trôi các khúc gỗ hương nam từ Li-băng xuống thành Giốp-ba trên bờ biển. Xi-ru, vua Ba-tư đã cho phép làm việc đó. 7

Vào tháng hai [b] năm thứ hai sau khi họ đến đền thờ của Thượng Đế tại Giê-ru-sa-lem thì Xê-ru-ba-bên, con Sê-anh-tiên, Giê-sua con Giô-xa-đác, các thầy tế lễ đồng nghiệp, các người Lê-vi cùng những người đã trở về Giê-ru-sa-lem từ cuộc lưu đày bắt tay vào việc. Họ chọn những người Lê-vi từ hai mươi tuổi trở lên để lo việc xây cất đền thờ CHÚA. 9 Những người sau đây chịu trách nhiệm xây cất đền thờ của Thượng Đế: Giê-sua cùng các con trai và anh em ông, Cát-miên cùng các con trai là con cháu Hô-đa-via; các con trai Hêna-đát, các con trai và anh em họ. Tất cả đều là người Lê-vi. 8

Những thợ xây cất đặt xong nền của đền thờ CHÚA. Rồi các thầy tế lễ mặc đồng phục đứng cầm kèn, các người Lê-vi, các con trai A-sáp, cũng đứng cầm chập chỏa. Họ đứng vào vị trí và ca ngợi CHÚA theo như Đa-vít, vua Ít-ra-en đã căn dặn. 11 Họ hát những bài ca đối đáp [c] và cảm tạ CHÚA như sau: 10

“Ngài nhân từ, tình yêu Ngài cho Ít-ra-en còn đến đời đời.” Rồi toàn dân reo mừng, “Chúc tụng CHÚA! Nền của đền thờ đã được đặt xong.” Tuy nhiên các thầy tế lễ già nua, những người Lê-vi cùng các trưởng gia đình đã thấy đền thờ đầu tiên liền khóc lớn khi họ nhìn thấy nền của đền thờ nầy. Hầu hết dân chúng vui mừng hò reo. 13 Họ reo hò lớn đến nỗi ở xa cũng nghe. Không ai phân biệt được tiếng reo hò vui vẻ và tiếng khóc thảm sầu. 12

Ê-xơ-ra 4 Chống đối việc tái thiết 4 Khi những kẻ thù của dân Giu-đa và Bên-gia-min nghe rằng những tù binh vừa hồi hương đang xây lại đền thờ của CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en, 2 thì họ đến gặp Xê-ru-ba-bên và các trưởng gia đình và nói, “Chúng tôi sẽ giúp đỡ các anh xây cất vì chúng tôi cũng như các anh, muốn thờ phụng Thượng Đế các anh. Chúng tôi đã dâng của lễ cho Ngài từ thời Ê-sa-hát-đôn, vua A-xy-ri là người đã mang chúng tôi đến đây.” Nhưng Xê-ru-ba-bên, Giê-sua, và các lãnh tụ Ít-ra-en đáp, “Các anh không cần giúp đỡ chúng tôi xây đền thờ của Thượng Đế chúng tôi. Chúng tôi sẽ tự mình xây đền thờ đó cho CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en theo như Xi-ru, vua Ba-tư truyền dặn chúng tôi.” 3

Sau đó những người sống quanh họ tìm cách làm nản lòng dân Giu-đa khiến cho họ sợ không dám xây cất. Các kẻ thù của họ thuê những người khác làm trì hoãn chương trình xây cất trong thời Xi-ru vua Ba-tư. Việc đó kéo dài đến thời Đa-ri-út lên ngôi vua Ba-tư. 4 5

Những sự chống đối về sau 6

Khi Xét-xe [a] mới lên ngôi, những người đó viết một thư phản đối dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.

Khi Ạc-ta-xét-xe lên ngôi vua Ba-tư thì Bích-lam, Mít-rê-đít, Ta-biên, và những đồng lõa của chúng viết một thư cho vua. Thư đó viết bằng tiếng A-ram và được dịch ra [b]. 7

Rê-hum, quan tổng trấn, và Sim-sai, thư ký quan tổng trấn viết một thư chống Giê-ru-sa-lem cho vua. Thư viết như sau: 8

- 532 -


Thư nầy do Rê-hum, quan tổng trấn, Sim-sai, thư ký, và các đồng nghiệp: các quan án cùng những viên chức cao cấp cai quản những người đã trở về từ Tri-bô-li, Ba-tư, Ê-réc, và Ba-by-lôn, người Ê-lam ở Su-sa, 10 cùng những người mà vua A-su-ba-ni-banh cao cả vĩ đại đã trục xuất ra khỏi xứ họ và cho định cư tại thành Xa-ma-ri cùng những nơi khác thuộc vùng Xuyên Ơ-phơ-rát. 9

11

Đây là bản sao bức thư họ gởi cho vua Ạt-ta-xét-xe:

“Các đầy tớ vua sống trong vùng Xuyên Ơ-phơ-rát, kính gởi vua. Thưa vua, vua biết những người Do-thái từ vua trở về cùng chúng tôi đã đi đến Giê-ru-sa-lem để xây lại thành gian ác bất tuân nầy. Họ đang xây lại vách [c] và nền của các tòa nhà. 12

Bây giờ, thưa vua, nên biết rằng nếu Giê-ru-sa-lem được xây, vách nó được sửa chữa lại thì Giê-ru-sa-lem sẽ không còn đóng món thuế nào nữa. Rồi số thu của chính phủ sẽ sụt xuống. 14 Vì chúng tôi phải trung thành với chính phủ, chúng tôi không muốn vua bị người ta xem thường cho nên chúng tôi viết thư nầy để ngài biết. 15 Chúng tôi đề nghị ngài cho sưu tầm sử liệu của các vua tiền nhiệm. Ngài sẽ thấy rằng thành Giêru-sa-lem bất phục tùng và gây rối cho các vua cùng các vùng do nước Ba-tư kiểm soát. Từ lâu lắm rồi nó là chỗ khỏi xướng sự bất tuân. Vì thế mà nó bị tiêu hủy. 16 Thưa vua, chúng tôi muốn vua biết rằng nếu thành nầy được tái thiết, vách được sửa chữa lại thì vua không còn gì ở phía Xuyên Ơ-phơ-rát bên nầy cả.” 13

17

Vua gởi thư phúc đáp như sau:

“Gởi Rê-hum, quan tổng trấn, và Sim-sai, thư ký cùng các đồng nghiệp sống ở Xa-ma-ri cùng những người sống ở các nơi khác trong vùng Xuyên Ơ-phơ-rát. Chào thăm các ngươi. Bức thư các ngươi gởi cho ta đã được phiên dịch và đọc cho ta nghe. 19 Ta ra lệnh sưu tầm sử liệu và việc đó đã được thực hiện. Ta thấy rằng thành Giê-ru-sa-lem có một lịch sử phản nghịch với các vua và là một địa điểm gây rối. 20 Giê-ru-sa-lem trước kia có các vua hùng mạnh cai trị toàn vùng Xuyên Ơ-phơ-rát, và người ta phải đóng đủ loại thuế cho nó. 21 Bây giờ hãy ra lệnh cho các người đó ngưng công tác. Thành Giêru-sa-lem không được phép xây lại cho đến khi có lệnh ta. 22 Các ngươi phải thi hành lệnh nầy vì nếu chúng tiếp tục, chính phủ sẽ bị thiệt hại.” 18

Công tác tái thiết bị tạm ngưng Một bản sao thư vua gởi được đọc cho Rê-hum, và Sê-sai, thư ký và những người khác. Rồi họ vội vàng đi đến dân Do-thái ở Giê-ru-sa-lem và buộc họ ngưng công tác xây cất. 23

Vì thế công tác của đền thờ Thượng Đế ở Giê-ru-sa-lem bị ngưng lại [d] cho đến năm thứ hai [e] khi vua Đa-ri-út lên ngôi vua Ba-tư. 24

Ê-xơ-ra 5 Thư của Tát-tê-nai gởi Đa-ri-út 5 Các nhà tiên tri A-gai [a] và Xa-cha-ri, con của Y-đô [b], nhân danh Thượng Đế của Ít-ra-en là Đấng cai quản họ, nói tiên tri về dân Do-thái ở Giu-đa và Giu-đa, 2 Rồi Xê-ru-ba-bên, con Sê-anh-tiên, và Giê-sua, con Giô-xa-đác khởi công xây lại đền thờ Thượng Đế ở Giê-ru-sa-lem. Các nhà tiên tri của Thượng Đế có ở đó phụ giúp họ.

- 533 -


Lúc đó, Tát-tê-nai, quan tổng trấn vùng Xuyên Ơ-phơ-rát, Sê-tha-Bô-xê-nai cùng các đồng nghiệp chúng đến cùng người Do-thái hỏi, “Ai cho phép các anh xây lại đền thờ và sửa chữa các vách nầy?” 4 Chúng cũng hỏi, “Tên của những người làm việc trong toà nhà nầy là ai?” 3

Nhưng Thượng Đế của họ trông nom các bô lão của người Giu-đa. Các thợ thuyền không bị gián đoạn công tác cho đến khi báo cáo được gởi về Đa-ri-út và được vua phúc đáp lại. 5

Đây là bản sao bức thơ do Tát-tê-nai, quan tổng trấn vùng Xuyên Ơ-phơ-rát, Sê-tha-Bô-xê-nai, và những viên chức cao cấp khác thuộc vùng Xuyên Ơ-phơ-rát gởi cho vua Đa-ri-út. 7 Sau đây là nội dung của bản phúc trình họ gởi cho vua: 6

Kính vua Đa-ri-út. Nguyện vua hưởng thái bình. Thưa vua Đa-ri-út, chúng tôi muốn vua biết rằng chúng tôi đã đi thăm khu vực Giu-đa nơi có đền thờ của Thượng Đế cao cả. Người ta đang dùng các tảng đá to để xây đền thờ đó, và dùng gỗ để dựng vách. Họ làm việc rất cực nhọc và xây cất rất nhanh chóng. 8

Chúng tôi hỏi các bô lão, “Ai cho phép các anh xây lại đền thờ và các vách nầy?” 10 Chúng tôi hỏi tên họ và ghi lại tên của những người lãnh đạo họ để vua rõ. 9

11

Họ trả lời cho chúng tôi như sau:

“Chúng tôi là tôi tớ của Thượng Đế của trời đất. Chúng tôi đang xây lại đền thờ mà một vì vua lớn của Ít-raen đã xây và hoàn tất cách đây nhiều năm. 12 Nhưng tổ tiên chúng tôi chọc giận Thượng Đế trên trời cho nên Ngài trao họ cho Nê-bu-cát-nết-xa, vua Ba-by-lôn, người tiêu hủy đền thờ nầy và bắt họ làm tù binh đày sang Ba-by-lôn. Sau đó, năm đầu tiên vừa lên ngôi, Xi-ru, vua Ba-by-lôn ra chỉ thị đặc biệt cho phép xây lại đền thờ nầy. Vua Xi-ru mang những chén bát cùng chảo bằng vàng và bạc đã lấy từ đền thờ Thượng Đế ra khỏi đền thờ ở Ba-by-lôn. Nê-bu-cát-nết-xa đã lấy những thứ đó khỏi đền thờ ở Giê-ru-sa-lem và để trong đền thờ ở Baby-lôn. Vua Xi-ru trả lại các món đó cho Sết-ba-xa, quan tổng trấn do vua bổ nhiệm.” 13 14

Xi-ru bảo ông, “Hãy lấy các chén bát và chảo bằng vàng và bạc nầy đem để lại trong đền thờ tại Giê-ru-salem và xây lại đền thờ Thượng Đế trên nền cũ của nó.” 16 Vậy Sết-ba-xa trở về và đặt nền của đền thờ Thượng Đế tại Giê-ru-sa-lem. Từ ngày đó đến nay công tác vẫn tiến hành nhưng chưa hoàn tất. 15

Bây giờ, nếu đẹp ý vua, xin cho sưu tầm sử ký hoàng gia tại Ba-by-lôn. Xem thử vua Xi-ru có ra chỉ thị cho phép xây lại đền thờ nầy ở Giê-ru-sa-lem không. Rồi xin vua cho chúng tôi biết quyết định của vua. 17

Ê-xơ-ra 6 Sắc lệnh của vua Đa-ri-út 6 Vậy vua Đa-ri-út ra lệnh sưu tầm sử liệu lưu trữ trong ngân khố ở Ba-by-lôn. 2 Người ta tìm được một cuộn giấy ở Éc-ba-ta-na, thủ đô Ba-tư. Sau đây là những bút lục ghi trên đó. Lưu ý: 3 Vua Xi-ru ra sắc lệnh về đền thờ Thượng Đế ở Giê-ru-sa-lem vào năm đầu tiên sau khi lên ngôi. Chỉ thị đó như sau: “Đền thờ được phép xây lại để làm nơi dâng của lễ. Cho phép đặt nền; chiều cao đền thờ là ba mươi mốt thước [a], rộng ba mươi mốt thước. 4 Có ba lớp đá lớn [b] rồi một lớp gỗ. Phí tổn do ngân khố nhà vua đài thọ. - 534 -


Những vật dụng bằng vàng và bạc từ đền thờ Thượng Đế phải được trả lại và đặt vào vị trí cũ. Nê-bu-cátnết-xa đã lấy những món đó từ đền thờ ở Giê-ru-sa-lem, mang qua Ba-by-lôn nhưng những món đó phải được đặt lại trong đền thờ Thượng Đế ở Giê-ru-sa-lem.” 5

“Bây giờ, Tát-tê-nai, quan tổng trấn vùng Xuyên Ơ-phơ-rát, Sê-tha-Bô-xê-nai, và các viên chức vùng đó hãy giang ra. 7 Không được phá khuấy công tác của đền thờ Thượng Đế. Hãy để thống đốc của người Dothái và các bô lão Do-thái xây lại đền thờ nầy trên nền cũ. 6

Ngoài ra ta ra lệnh cho ngươi làm như sau cho các bô lão Do-thái đang xây lại đền thờ: Phí tổn xây cất phải hoàn toàn do ngân khố hoàng gia đài thọ, lấy từ thuế thu được ở vùng Xuyên Ơ-phơ-rát. Ngươi hãy thi hành lệnh nầy để công tác không bị ngưng trệ. 9 Hãy cung cấp cho những người đó bất cứ thứ gì họ cần: bò tơ đực, chiên đực hay chiên con để làm của lễ thiêu cho Thượng Đế trên trời, lúa mì, muối, rượu, hay dầu ô-liu. Hãy cung cấp cho các thầy tế lễ ở Giê-ru-sa-lem bất cứ thứ gì họ yêu cầu mỗi ngày không được chậm trễ. 10 Như thế để họ dâng của lễ làm vui lòng Thượng Đế trên trời và cũng để họ cầu nguyện cho mạng sống của vua và các hoàng tử. 8

Ngoài ra, ta cũng ra lệnh nầy: Nếu ai thay đổi lệnh nầy thì phải rút một cây đà ra khỏi nhà nó và đâm xuyên qua người nó. Vì tội ác nó, nhà nó phải biến thành đống cây vụn. 12 Thượng Đế đã chọn Giê-ru-sa-lem làm nơi người ta thờ phụng Ngài. Nguyện Ngài trừng phạt vua nào hay người nào tìm cách thay đổi lệnh nầy hay hủy phá đền thờ nầy. 11

Ta, Đa-ri-út, ra lệnh nầy. Phải thi hành lệnh nầy mau chóng và cẩn thận.”

Hoàn tất công tác xây cất và lễ khánh thành đền thờ Vì thế, Tát-tê-nai, quan tổng trấn vùng Xuyên Ơ-phơ-rát, Sê-thê-Bô-xê-nai, và các đồng nghiệp họ vội vàng thi hành lệnh vua Đa-ri-út một cách cẩn thận. 14 Các bô lão Do-thái tiếp tục công tác xây cất và thành công vì lời giảng dạy của nhà tiên tri A-gai, và Xa-cha-ri, một con cháu của Y-đô. Họ hoàn tất công tác xây đền thờ theo như Thượng Đế của Ít-ra-en truyền dặn và theo sắc lệnh của các vua Xi-ru, Đa-ri-út, và Ạc-taxét-xe của Ba-tư. 15 Đền thờ được hoàn tất vào ngày ba tháng A-đa [c], năm thứ sáu đời vua Đa-ri-út. [d] 13

Rồi dân Ít-ra-en hân hoan kỷ niệm và dâng hiến đền thờ cho Thượng Đế để tôn kính Ngài. Mọi người đều vui vẻ: các thầy tế lễ, người Lê-vi, và toàn thể dân Giu-đa trở về từ cuộc lưu đày. 17 Họ dâng đền thờ cho Thượng Đế bằng một trăm con bò đực, hai trăm con chiên đực, bốn trăm con chiên con làm của lễ. Và để làm của lễ chuộc tội cho toàn dân Ít-ra-en, họ dâng mười hai con chiên đực, mỗi con đại diện cho một chi tộc trong Ít-ra-en. 18 Sau đó họ chia các thầy tế lễ và người Lê-vi ra hai nhóm riêng biệt. Mỗi nhóm phục vụ Thượng Đế ở đền thờ ở Giê-ru-sa-lem theo thời gian ấn định như sách Mô-se đã ghi. 16

Kỷ niệm Lễ Vượt Qua Những người Do-thái hồi hương từ cuộc lưu đày cử hành Lễ Vượt Qua vào ngày mười bốn tháng giêng . Các thầy tế lễ và người Lê-vi đã dọn mình thanh sạch. Sau đó người Lê-vi giết các con chiên con dùng cho Lễ Vượt Qua cho toàn thể dân chúng đã trở về từ cuộc lưu đày, cho thân nhân của họ là các thầy tế lễ, và cho chính mình. 21 Vậy toàn dân Ít-ra-en đã trở về từ cuộc lưu đày ăn con chiên của Lễ Vượt Qua. Dân chúng đã từ bỏ những lối sống không tinh sạch của các lân bang ngoại quốc để thờ phụng CHÚA là Thượng Đế của Ít-ra-en. 22 Trong bảy ngày họ vui mừng kỷ niệm Lễ Bánh Không Men. CHÚA đã khiến họ vui mừng bằng cách thay đổi lòng của vua A-xy-ri [g] để vua giúp họ trong công tác xây cất đền thờ Thượng Đế của Ít-ra-en. 19 [e]

[f] 20

- 535 -


Ê-xơ-ra 7 E-xơ-ra trở về Giê-ru-sa-lem 7 Sau các việc ấy, vào triều đại Ạc-ta-xét-xe, vua Ba-tư thì E-xơ-ra từ Ba-by-lôn trở về. Ông là con Sê-raigia, Sê-rai-gia con A-xa-ria, A-xa-ria con Hinh-kia, 2 Hinh-kia con Sa-lum, Sa-lum con Xa-đốc, Xa-đốc con A-hi-túp, 3 A-hi-túp con A-ma-ria, A-ma-ria con A-xa-ria, A-xa-ria con Mê-rai-giốt, 4 Mê-rai-giốt con Xê-rahia, Xê-ra-hia con U-xi, U-xi con Búc-ki, 5 Búc-ki con A-bi-sua, A-bi-sua con Phi-nê-ha, Phi-nê-ha con Êlê-a-xa, Ê-lê-a-xa con A-rôn là thầy tế lễ tối cao. E-xơ-ra từ Ba-by-lôn về Giê-ru-sa-lem. Ông là giáo sư luật [a] và rất rành về những điều giáo huấn của Môse do CHÚA, là Thượng Đế của Ít-ra-en truyền lại. E-xơ-ra nhận được đủ mọi thứ ông yêu cầu từ vua vì CHÚA là Thượng Đế giúp đỡ ông. 7 Vào năm thứ bảy triều vua Ạc-ta-xét-xe, có thêm nhiều người Ít-ra-en nữa trở về Giê-ru-sa-lem. Trong số đó có các thầy tế lễ, người Lê-vi, các ca sĩ, người giữ cửa, và những người giúp việc trong đền thờ. 6

E-xơ-ra trở về Giê-ru-sa-lem vào tháng năm [b], năm thứ bảy triều vua. 9 E-xơ-ra rời Ba-by-lôn vào ngày đầu tiên tháng giêng, và về đến Giê-ru-sa-lem vào ngày một tháng năm vì Thượng Đế giúp đỡ ông. 10 E-xơra đã hết sức cố gắng học hỏi và vâng theo những lời Giáo Huấn của CHÚA để dạy các qui tắc và mệnh lệnh Ngài cho dân Ít-ra-en. 8

Bức thư của vua gởi E-xơ-ra Vua gởi một thư cho E-xơ-ra, thầy tế lễ và giáo sư dạy các mệnh lệnh và luật lệ mà CHÚA cho dân Ít-raen. Nội dung bức thư như sau: 11

12 [c]

“Ạc-ta-xét-xe, vua các vua, gởi E-xơ-ra, thầy tế lễ và giáo sư luật của Thượng Đế trên trời.

Chào thăm ông. Ta ra lệnh sau: Bất cứ người Ít-ra-en nào sống trong vương quốc ta đều có thể theo ngươi về Giê-ru-salem, kể cả các thầy tế lễ và người Lê-vi. 14 E-xơ-ra, ngươi được vua và bảy cố vấn vua phái đi để hỏi thăm người Giu-đa và Giê-ru-sa-lem ra sao trong việc vâng theo Luật lệ của Thượng Đế mà ngươi đang mang theo mình. 15 Ngoài ra cũng hãy mang theo ngươi bạc và vàng mà vua và các cố vấn vua dâng hiến rộng rãi cho Thượng Đế của Ít-ra-en, Đấng có đền thờ ở Giê-ru-sa-lem. 16 Cũng hãy mang về bạc và vàng mà ngươi nhận từ vùng Ba-by-lôn. Hãy nhận những của lễ mà người Ít-ra-en và các thầy tế lễ họ dâng cho đền thờ của Thượng Đế các ngươi tại Giê-ru-sa-lem. 17 Dùng tiền đó mua bò đực, chiên đực, chiên con, ngũ cốc và các của lễ uống đi kèm theo các sinh tế đó. Rồi dâng các của lễ trên bàn thờ trong đền thờ của Thượng Đế các ngươi tại Giê-ru-sa-lem. 13

Ngươi và các đồng bào Do-thái ngươi có thể tùy tiện dùng bạc và vàng còn lại và theo ý muốn Thượng Đế. 19 Hãy mang về cho Thượng Đế ở Giê-ru-sa-lem tất cả các đồ dùng cho việc thờ phụng trong đền thờ Thượng Đế các ngươi, 20 những đồ dùng mà chúng ta đã cho các ngươi. Hãy dùng ngân khố hoàng gia đài thọ những điều khác ngươi cần cho đền thờ Thượng Đế các ngươi. 18

Nay ta, vua, ra lệnh sau đây cho tất cả các viên chức quản thủ ngân khố vùng Xuyên Ơ-phơ-rát: Hãy cấp cho E-xơ-ra, thầy tế lễ và giáo sư luật của Thượng Đế trên trời bất cứ điều gì người yêu cầu. 22 Hãy cấp cho người tới mức ba ngàn bốn trăm năm mươi kí [d] bạc, 600 hộc [e] lúa mì, 2.200 lít [f] rượu, và 2.200 lít dầu ôliu. Còn muối thì người cần bao nhiêu cấp bấy nhiêu. 23 Hãy cẩn thận cấp cho người bất cứ những gì mà Thượng Đế trên trời cần cho đền thờ của Ngài. Chúng ta không muốn Thượng Đế nổi giận cùng vua và các hoàng tử. 24 Nên nhớ các ngươi không được phép đánh bất cứ loại thuế nào trên những người sau đây: các thầy tế lễ, người Lê-vi, ca sĩ, người giữ cửa, người giúp việc trong đền thờ và các nhân công khác trong đền thờ của Thượng Đế. 21

- 536 -


Còn ngươi, hỡi E-xơ-ra, hãy dùng sự khôn ngoan mà Thượng Đế ban cho ngươi để chọn những quan án và các nhà làm luật để cai trị dân Do-thái sống trong vùng Xuyên Ơ-phơ-rát. Họ biết luật lệ của Thượng Đế các ngươi, và ngươi có thể dạy cho những ai không biết luật. 26 Ai không tuân theo luật của Thượng Đế các ngươi hay của vua phải bị trừng phạt. Nó phải bị giết hay bị tù đày, tịch thu gia sản hay bị cầm tù.” 25

E-xơ-ra ca ngợi Thượng Đế 27

Chúc tụng CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên chúng tôi. Ngài khiến vua có lòng tôn trọng đền thờ của CHÚA ở Giê-ru-sa-lem.

CHÚA đã tỏ ra cho tôi, E-xơ-ra, tình yêu Ngài trước mặt vua, những cố vấn vua, và các quần thần. Nhờ CHÚA là Thượng Đế tôi giúp đỡ, tôi thêm can đảm nên tôi triệu tập các lãnh tụ Ít-ra-en cùng hồi hương với tôi. 28

Ê-xơ-ra 8 Danh sách các trưởng gia đình cùng hồi hương với E-xơ-ra 8 Sau đây là các trưởng tộc và những người cùng được liệt kê với họ trở về cùng tôi từ Ba-by-lôn trong đời vua. Từ con cháu Phi-nê-ha: Ghẹt-sôn. Từ con cháu Y-tha-ma: Đa-niên. Từ con cháu Đa-vít: Hát-túc 3 thuộc con cháu Sê-cai-gia. 2

Từ con cháu Ba-rốt: Xa-cha-ri, với một trăm năm mươi người. 4

Từ con cháu Ba-hát Mô-áp: Ê-li-hô-ê-nai, con Xa-ra-hia, với hai trăm người.

5

Từ con cháu Xát-tu: Sê-ca-nia, con Gia-ha-xiên, với ba trăm người.

6

Từ con cháu A-đinh: Ê-bết, con Giô-na-than, với năm mươi người.

7

Từ con cháu Ê-lam: Giê-sai-gia, con A-tha-lia, với bảy mươi người.

8

Từ con cháu Sê-pha-tia: Xê-ba-đia, con Mi-chên, với tám mươi người.

9

Từ con cháu Giô-áp: Áp-đia, con Giê-hi-ên, với hai trăm mười tám người.

10

Từ con cháu Ba-ni: Sê-lô-mít, con Giô-si-phia, với một trăm sáu mươi người.

11

Từ con cháu Bê-bai: Xa-cha-ri, con Bê-bai, với hai mươi tám người.

12

Từ con cháu A-gát: Giô-ha-nan, con Hác-ca-tan, với một trăm mười người.

Từ con cháu A-đô-ni-cam, sau đây là những người cuối cùng: Ê-li-phê-lết, Giê-u-ên, và Sê-mai-gia với sáu mươi người. 13

14

Từ con cháu Bích-vai: U-thai và Xa-cua, với bảy mươi người.

- 537 -


Cuộc hành trình về Giê-ru-sa-lem Tôi gọi tất cả những người đó lại nơi kênh đào chảy ra A-ha-va, rồi chúng tôi dựng trại ba ngày tại đó. Tôi kiểm điểm dân chúng và các thầy tế lễ, nhưng không thấy có người Lê-vi nào. 16 Cho nên tôi gọi các lãnh tụ sau đây lại: Ê-li-ê-xe, A-ri-ên, Sê-mai-gia, Ên-na-than, Gia-ríp, Ên-na-than, Na-than, Xa-cha-ri, và Mê-sulam. Tôi cũng gọi Giô-a-ríp và Ên-na-than là hai giáo sư. 17 Tôi sai họ đến Y-đô, lãnh tụ ở Ca-xi-phia, và dặn họ phải nói gì với Y-đô cùng thân nhân ông. Những người đó giúp việc trong đền thờ ở Ca-xi-phia. Tôi bảo họ mang các người giúp việc đến cho tôi để phục vụ trong đền thờ Thượng Đế. 18 Vì được Thượng Đế chúng tôi giúp đỡ nên các thân nhân của Y-đô giao Sê-rê-bia, một người rất khôn ngoan thuộc dòng họ Ma-li, con Lê-vi, cháu Ít-ra-en. Họ cũng mang các con trai Sê-rê-bia và anh em ông đến, tổng cộng mười tám người. 19 Rồi họ mang đến cho chúng tôi Ha-sa-bia và Giê-sai-gia thuộc dòng họ Mê-ra-ri cùng với anh em và cháu ông. Tổng cộng hai mươi người. 15

Họ cũng mang đến hai trăm hai mươi người giúp việc trong đền thờ, tức nhóm người mà Đa-vít và các quần thần lập nên để giúp đỡ người Lê-vi. Tất cả những người đó đều được liệt kê theo từng tên. 20

Nơi kênh đào A-ha-va, tôi loan báo mọi người cữ ăn và hạ mình xuống trước mặt Thượng Đế. Chúng tôi cầu xin Thượng Đế gìn giữ chúng tôi, con cháu và tài sản chúng tôi đi đường bình yên. 22 Tôi ngại không dám xin vua cho binh sĩ và lính cỡi ngựa hộ tống bảo vệ chúng tôi khỏi kẻ thù dọc đường vì chúng tôi đã thưa với vua, “Thượng Đế chúng tôi sẽ giúp những ai vâng lời Ngài, nhưng nổi thịnh nộ cùng ai từ bỏ Ngài.” 23 Vậy chúng tôi cữ ăn và cầu nguyện cùng Thượng Đế xin Ngài gìn giữ chúng tôi khi đi đường, Ngài nghe lời cầu xin của chúng tôi. 21

Rồi tôi chọn mười hai thầy tế lễ làm lãnh tụ: Sê-rê-bia, Ha-sa-bia, và mười thân nhân của họ. 25 Tôi cân các của dâng hiến bằng bạc và vàng cùng những đồ dùng dâng cho đền thờ Thượng Đế chúng tôi và trao cho mười hai thầy tế lễ mà tôi đã chọn. Nhà vua, các cố vấn, các quần thần, và tất cả những người Ít-ra-en có mặt với chúng tôi đã dâng hiến những vật đó cho đền thờ. 26 Tôi cân và trao cho họ khoảng năm mươi ngàn cân [a] bạc, khoảng bảy ngàn năm trăm cân các vật dụng bằng bạc, và khoảng bảy ngàn năm trăm cân [b] vàng. 27 Tôi trao cho họ hai mươi cái chén vàng cân nặng khoảng mười chín cân [c], và hai miếng đồng đánh bóng quí giá như vàng. 24

Rồi tôi bảo các thầy tế lễ, “Các ngươi và những vật dụng nầy thuộc về CHÚA để phục vụ Ngài. Bạc và vàng là vật dâng hiến cho CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên các ngươi. 29 Hãy canh giữ các món nầy cho cẩn thận. Đến Giê-ru-sa-lem, hãy cân chúng trước mặt các thầy tế lễ lãnh đạo, người Lê-vi, các trưởng gia đình của Ít-ra-en trong phòng của đền thờ Thượng Đế.” 28

Vậy các thầy tế lễ và người Lê-vi nhận bạc, vàng và các đồ dùng đã được cân để mang về đền thờ của Thượng Đế chúng tôi tại Giê-ru-sa-lem. 30

Vào ngày mười hai tháng giêng [d], chúng tôi rời kênh A-ha-va khởi hành về Giê-ru-sa-lem. Thượng Đế chúng tôi giúp đỡ và che chở chúng tôi khỏi các kẻ thù và trộm cướp dọc đường. 32 Sau cùng chúng tôi về đến Giê-ru-sa-lem và nghỉ ngơi ba ngày ở đó. 31

Đến ngày thứ tư chúng tôi cân bạc, vàng và những đồ dùng cho đền thờ Thượng Đế. Chúng tôi trao tất cả cho thầy tế lễ Mê-rê-mốt, con U-ri. Ê-lê-a-xa, con Phi-nê-ha cũng có mặt đó với người cùng với các người Lê-vi như Giô-xa-bát, con Giê-sua, và Nô-a-đia, con Bin-nui. 34 Chúng tôi kiểm kê mọi thứ theo số món và theo trọng lượng, rồi ghi lại tổng số. 33

Sau đó những tù binh vừa hồi hương dâng của lễ thiêu lên cho Thượng Đế của Ít-ra-en. Họ dâng mười hai con bò đực, chín mươi sáu con chiên đực, và bảy mươi bảy con chiên con. Còn về của lễ chuộc tội thì họ dâng mười hai con dê đực. Tất cả các con thú đó được dâng lên làm của lễ thiêu cho CHÚA. 36 Họ trình sắc lệnh của vua cho các sĩ quan hoàng gia và cho các tổng trấn vùng Xuyên Ơ-phơ-rát. Rồi những người đó giúp đỡ dân chúng và đền thờ của Thượng Đế. 35

- 538 -


Ê-xơ-ra 9 Lời cầu nguyện của E-xơ-ra 9 Sau các việc ấy thì các lãnh tụ đến trình với tôi, “E-xơ-ra ơi, dân Ít-ra-en, kể cả các thầy tế lễ và người Lêvi, không biệt mình riêng ra khỏi các dân tộc xung quanh chúng ta. Các dân đó làm ác, như dân Ca-na-an, Hê-tít, Phê-ri-xít, Giê-bu-sít, A-môn, Mô-áp, Ai-cập, và A-mô-rít. 2 Các người đàn ông Ít-ra-en cùng con trai họ đã cưới các người đàn bà đó. Họ đã pha trộn dân Thượng Đế với các dân sống quanh mình. Các lãnh tụ và các viên chức Ít-ra-en đã hướng dẫn toàn dân Ít-ra-en làm điều bất trung nầy.” Khi tôi nghe vậy thì giận dữ xé áo dài và áo choàng tôi, nhổ tóc và râu rồi ngồi xuống mà kinh hoảng. Người nào nghe lời Thượng Đế của Ít-ra-en và run sợ đều tụ tập quanh tôi vì sự bất trung mà các tù binh vừa hồi hương phạm. Tôi ngồi đó kinh hoảng cho đến giờ dâng của lễ buổi chiều. 3 4

Đến giờ dâng của lễ buổi chiều tôi đứng dậy khỏi nơi tôi ngồi để bày tỏ sự hổ nhục. Áo dài và áo choàng tôi rách tả tơi, tôi quì xuống giơ hai tay lên hướng về CHÚA là Thượng Đế tôi. 6 Tôi cầu nguyện, 5

“Lạy Thượng Đế, tôi quá nhục nhã và xấu hổ không dám ngước mặt lên cùng Ngài, là Thượng Đế tôi vì tội lỗi chúng tôi quá nhiều. Chúng cao hơn đầu chúng tôi. Tội lỗi chúng tôi lên đến tận trời. 7 Từ thời tổ tiên chúng tôi đến nay, tội lỗi chúng tôi nhiều lắm. Vì tội lỗi chúng tôi mà chúng tôi, các vua và các thầy tế lễ chúng tôi đã bị trừng phạt bằng gươm và bị tù đày. Các vua ngoại quốc đã cướp của cải chúng tôi và làm nhục chúng tôi cho đến ngày nay. Nhưng nay, trong một thời gian ngắn, CHÚA là Thượng Đế đã tỏ lòng nhân từ cùng chúng tôi. Ngài đã cho phép một số chúng tôi trở về từ chốn lưu đày và cho chúng tôi sống an ninh trong nơi thánh của Ngài. Ngoài ra Thượng Đế chúng tôi đã ban cho chúng tôi hi vọng và giải thoát khỏi cảnh nô lệ. 9 Mặc dù chúng tôi là nô lệ nhưng Thượng Đế không lìa bỏ chúng tôi. Ngài khiến cho các vua Ba-tư nhân từ cùng chúng tôi và ban cho chúng tôi một cuộc đời mới. Chúng tôi có thể xây lại đền thờ và sửa chữa những nơi đổ nát của nó. Ngài cũng ban cho chúng tôi một tường thành để bảo vệ chúng tôi trong Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. 8

Nhưng bây giờ thưa Thượng Đế, chúng tôi sẽ nói gì sau khi Ngài đã làm những điều đó? Chúng tôi đã không vâng phục mệnh lệnh 11 mà Ngài đã truyền lại qua các tôi tớ và các nhà tiên tri của Ngài. Ngài phán, ‘Xứ mà các ngươi vào nhận làm sản nghiệp đã hư hỏng rồi; dân sống ở đó đã làm hư hỏng đất đó vì những điều ác chúng làm. Sự gian ác chúng nó tràn ngập đất, nhơ nhớp đầy dẫy từ đầu nầy đến đầu kia. 12 Vì thế đừng cho con gái các ngươi kết hôn với con trai chúng nó, cũng đừng cưới con gái chúng nó cho con trai các ngươi. Đừng mong ước hòa bình hay thành công cho chúng nó. Như thế các ngươi sẽ hùng mạnh và hưởng những điều tốt lành trong xứ. Rồi các ngươi sẽ để lại xứ nầy cho dòng dõi các ngươi đời đời.’ 10

Chúng tôi đã tự gây ra những thảm họa cho mình. Chúng tôi đã làm những điều ác, tội lỗi chúng tôi rất lớn. Nhưng Ngài là Thượng Đế chúng tôi, đã không trừng phạt chúng tôi tương xứng với tội lỗi chúng tôi; Ngài đã để cho một số chúng tôi còn sống sót. 14 Chúng tôi không nên phạm mệnh lệnh Ngài bằng cách kết hôn với những dân độc ác nầy. Nếu không Ngài sẽ nổi giận tiêu diệt chúng tôi, rồi sẽ không còn ai sống sót. 15 Lạy CHÚA là Thượng Đế của Ít-ra-en, vì lòng nhân từ Ngài mà một số ít chúng tôi còn sống sót hôm nay. Chúng tôi nhìn nhận mình có tội. Không ai trong chúng tôi xứng đáng đứng trước mặt Ngài.” 13

Ê-xơ-ra 10 Dân chúng xưng tội 10 Trong khi E-xơ-ra đang cầu nguyện xưng tội, khóc lóc vật vã trước mặt đền thờ thì một nhóm đông người Ít-ra-en gồm đàn ông, đàn bà, trẻ con tụ tập xung quanh ông khóc lóc thảm thiết.

- 539 -


Rồi Sê-ca-nia, con Giê-hi-ên, người Ê-lam nói cùng E-xơ-ra rằng, “Chúng ta đã bất trung cùng Thượng Đế chúng ta bằng cách kết hôn với những đàn bà thuộc các dân tộc quanh ta. Dù vậy, vẫn còn hi vọng cho Ít-raen. 3 Bây giờ chúng ta hãy lập giao ước trước mặt Thượng Đế chúng ta. Chúng ta sẽ đuổi tất cả những người đàn bà đó cùng con cái họ theo như ông và những người tôn trọng mệnh lệnh Thượng Đế chỉ bảo. Chúng ta phải làm như thế theo lời Giáo Huấn của Ngài. 4 Vậy, E-xơ-ra ơi, hãy đứng lên. Ông là người chịu trách nhiệm, chúng tôi sẽ ủng hộ ông. Hãy can đảm làm điều đó.” 2

Vậy E-xơ-ra đứng dậy và buộc các thầy tế lễ, người Lê-vi, cùng toàn dân Ít-ra-en hứa làm theo lời đề nghị trên. Mọi người đều hứa. 6 Rồi E-xơ-ra rời đền thờ và đi vào phòng của Giê-hô-ha-nan, con Ê-li-a-xíp. Trong khi ở đó, E-xơ-ra không ăn uống gì vì ông vẫn còn buồn bực về sự bất trung của những tù binh vừa hồi hương. 5

Họ ra lệnh cho tất cả các tù binh trong Giu-đa và Giê-ru-sa-lem vừa hồi hương phải tập họp tại Giê-ru-salem. 8 Trong vòng ba ngày ai không đến Giê-ru-sa-lem sẽ bị tịch thu gia sản và bị loại ra khỏi cộng đồng của những tù binh hồi hương. Đó là quyết định của các viên chức và các bô lão. 7

Vì thế trong vòng ba ngày tất cả các người Giu-đa và Bên-gia-min tập họp lại tại Giê-ru-sa-lem. Đó là ngày hai mươi tháng chín [a]. Tất cả dân chúng ngồi trong sân trống trước đền thờ, bực tức vì vụ họp và vì trời mưa. 10 Thầy tế lễ E-xơ-ra đứng lên nói với họ, “Các ngươi đã bất trung khi lấy những người đàn bà không phải Do-thái làm vợ. Các ngươi đã làm cho dân Ít-ra-en mắc tội thêm. 11 Bây giờ hãy xưng tội cùng CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên các ngươi. Hãy làm theo ý muốn Ngài và tách ra khỏi các dân tộc sống quanh các ngươi và khỏi các vợ không phải Do-thái của mình.” 9

Tất cả nhóm đều lớn tiếng đáp với E-xơ-ra, “E-xơ-ra, ông nói phải! Chúng tôi phải làm theo như ông nói. Nhưng ở đây có đông người mà trời mưa nữa. Chúng tôi không thể đứng ngoài trời vì vấn đề nầy không thể giải quyết trong một hai ngày được, vì chúng tôi đã phạm tội rất nặng. 14 Bây giờ hãy để các viên chức quyết định cho toàn thể. Rồi mỗi người trong thành chúng tôi ai đã cưới vợ không phải Do-thái gặp riêng các bô lão hay quan án của từng thị trấn theo thời gian ấn định trước cho đến khi cơn giận phừng của Thượng Đế qua khỏi chúng tôi.” 12 13

Chỉ có Giô-na-than, con A-sa-hên, Gia-xê-gia, con Tích-va, Mê-su-lam và Sa-bê-thai người Lê-vi phản đối đề nghị đó. 15

Vậy những tù binh hồi hương làm theo lời đề nghị. Thầy tế lễ E-xơ-ra chọn những trưởng tộc và chỉ định một người từ mỗi họ hàng. Ngày một tháng mười [b] họ ngồi xuống cứu xét từng trường hợp. 17 Đến ngày một tháng giêng [c] thì họ đã kiểm kê xong những đàn ông đã kết hôn với các phụ nữ không phải Do-thái. 16

Danh sách những người kết hôn với các thiếu nữ ngoại quốc 18

Sau đây là con cháu các thầy tế lễ đã kết hôn với các thiếu nữ ngoại lai:

Trong con cháu Giê-sua, con Giô-xa-đác, và anh em Giê-sua: Ma-a-sê-gia, Ê-li-ê-xe, Gia-ríp, và Ghê-đa-lia. 19 Tất cả những người nầy đều hứa ly dị vợ mình, mỗi người mang một con chiên đực trong bầy để làm của lễ chuộc lỗi. 20

Trong con cháu Im-mê: Ha-na-ni và Xê-ba-đia.

21

Trong con cháu Ha-rim: Ma-a-sê-gia, Ê-li, Sê-mai-gia, Giê-hi-ên, và Ô-xia.

22

Trong con cháu Ba-sua: Ê-li-nô-ê-ai, Ma-a-sê-gia, Ích-ma-ên, Nê-tha-nên, Giô-xa-bát, và Ê-la-xa.

Trong vòng người Lê-vi: Giô-xa-bát, Si-mê-i, Kê-lai-gia (cũng có tên là Kê-li-ta), Bê-tha-hia, Giu-đa, và Ê-li-ê-xe. 23

- 540 -


24

Trong vòng ca sĩ: Ê-li-a-síp.

Trong vòng các người giữ cửa: Sa-lum, Tê-lem, và U-ri. Và trong vòng các người Ít-ra-en khác thì những người sau đây kết hôn với các phụ nữ không phải Dothái: 25

Trong con cháu Ba-rốt: Ra-mai-gia, Ích-xai-gia, Manh-ki-gia, Mi-gia-min, Ê-lê-a-sa, Manh-ki-gia, và Bênai-gia. 26

Trong vòng con cháu Ê-lam: Ma-ta-nia, Xa-cha-ri, Giê-hi-ên, Áp-đi, Giê-rê-mốt, và Ê-li.

27

Trong vòng con cháu Xát-tu: Ê-li-ô-ê-nai, Ê-li-a-síp, Ma-ta-nia, Giê-rê-mốt, Xa-bát, và A-xi-xa.

28

Trong vòng con cháu Bê-bai: Giê-hô-ha-nan, Ha-na-nia, Xa-bai, và Át-lai.

29

Trong vòng con cháu Ba-ni: Mê-su-lam, Ma-lúc, A-đai-gia, Gia-súp, Sê-an, và Giê-rê-mốt.

30

Trong vòng con cháu Ba-hát Mô-áp: Ách-na, Kê-lanh, Bê-nai-gia, Ma-a-sê-gia, Ma-ta-nia, Bê-xa-lên, Binh-nui, và Ma-na-xe. 31

Trong vòng con cháu Ha-rim: Ê-li-ê-xe, Ích-si-gia, Manh-ki-gia, Sê-mai-gia, Xi-mê-ôn, 32 Bê-gia-min, Ma-lúc, và Sê-ma-ria. Trong vòng con cháu Ha-sum: Mát-tê-nai, Mát-ta-tha, Xa-bát, Ê-li-phê-lết, Giê-rê-mai, Ma-na-xe, và Simê-i. 33

Trong vòng con cháu Ba-ni: Ma-A-đai, Am-ram, U-ên, 35 Bê-nai-gia, Bê-đê-gia, Kê-lu-hi, 36 Va-nai-gia, Mê-rê-mốt, Ê-li-a-síp, 37 Mát-ta-nia, Mát-tê-nai, và Gia-a-xu. 34

Trong vòng con cháu Binh-nui: Si-mê-i, 39 Sê-lê-mia, Na-than, A-đai-gia, 40 Mạc-na-đê-bai, Sa-sai, Sa-rai, 41 A-xa-rên, Sê-lê-mia, Sê-ma-ria, 42 Sa-lum, A-ma-ria, và Giô-xép. 38

43

Trong vòng con cháu Nê-bô: Giê-Y-ên, Mát-ti-thia, Xa-bát, Xê-bi-na, Giát-đai, Giô-ên, và Bê-nai-gia.

44

Tất cả những người đó lấy vợ không phải Do-thái và một số đã có con với họ.

- 541 -


Nê-hê-mi-a 1 (Néhémie-Nehemiah) Lời cầu nguyện của Nê-hê-mi 1 Sau đây là lời của Nê-hê-mi, con trai Ha-ca-lia. Vào tháng Kích-lê năm thứ hai mươi [a], tôi, Nê-hê-mi, đang ở trong khu vực thuộc thành Su-sơ. 2 Một trong những anh em tôi là Ha-na-ni và một số người khác từ xứ Giu-đa trở về. Tôi hỏi thăm họ về thành Giê-ru-sa-lem và những người Do-thái đã thoát khỏi cuộc lưu đày đang sống trong vùng ấy. Họ đáp, “Những người còn sót lại sau cuộc lưu đày đã trở về xứ Giu-đa nhưng họ gặp khó khăn và tủi nhục lắm. Vách thành Giê-ru-sa-lem thì sụp đổ, còn các cổng thành thì bị thiêu rụi.” 3

Sau khi nghe tin đó thì tôi ngồi khóc mấy ngày liền. Tôi buồn bã không ăn uống gì. Tôi cầu nguyện với Thượng Đế trên trời rằng, 4

“Lạy CHÚA là Thượng Đế của các từng trời, Ngài là Đấng cao cả đáng kính sợ. Ngài thành tín và giữ giao ước với những người yêu mến và vâng theo mệnh lệnh Ngài. 6 Xin hãy nhìn xuống và lắng nghe lời tôi, kẻ tôi tớ Ngài khẩn nguyện cả ngày lẫn đêm cho dân Ít-ra-en là các tôi tớ Ngài. Tôi xưng tội mà họ đã phạm cùng Ngài. Gia đình cha tôi và tôi cũng đã phạm tội cùng Ngài. 7 Chúng tôi đã hành động gian ác đối với Ngài, không vâng theo mệnh lệnh, qui tắc, luật lệ Ngài truyền ra qua tôi tớ Ngài là Mô-se. 5

Xin hãy nhớ điều Ngài đã dạy Mô-se, tôi tớ Ngài rằng, ‘Nếu các ngươi không trung tín, ta sẽ phân tán các ngươi giữa mọi nước. 9 Nhưng nếu các ngươi trở lại cùng ta và vâng theo mệnh lệnh ta, thì ta sẽ mang các ngươi về từ nơi tận cùng trái đất. Ta sẽ mang họ về từ chỗ bị cầm tù đến nơi ta đã chọn để họ thờ phụng ta.’ 8

Họ là các tôi tớ và dân chúng mà Ngài đã giải cứu bằng sức mạnh và quyền năng lớn lao của Ngài. 11 Lạy CHÚA, xin hãy lắng nghe lời khẩn nguyện của tôi tớ Ngài cùng những lời cầu xin của các tôi tớ yêu mến và tôn kính Ngài. Hôm nay, xin Ngài hãy ban cho tôi, kẻ tôi tớ Ngài được thành công. Xin giúp cho nhà vua tỏ lòng nhân từ đối với tôi.” 10

Tôi là người hầu rượu [b] cho vua.

Nê-hê-mi-a 2 Nê-hê-mi được phái đi Giê-ru-sa-lem 2 Vào tháng Ni-san năm thứ hai mươi [a] triều đại vua. Nhà vua cần rượu cho nên tôi dâng rượu lên cho vua. Xưa nay tôi chưa hề tỏ vẻ buồn rầu khi đứng trước mặt vua. 2 Vì thế vua hỏi, “Sao mặt ngươi trông ủ rũ mặc dù ngươi không có bệnh tật gì? Chắc trong lòng ngươi có điều gì buồn bực?” Lúc đó tôi đâm ra sợ. 3 Tôi thưa với vua, “Thưa vua, chúc vua sống đời đời! Sở dĩ tôi buồn là vì thành phố nơi có mồ mả của tổ tiên tôi bị điêu tàn, các cổng thành bị thiêu rụi.” 4

Vua liền hỏi, “Ngươi cần gì?”

Tôi liền thầm nguyện với Thượng Đế trên trời. 5 Rồi tôi thưa với vua, “Nếu vua bằng lòng, xin cho phép tôi đi trở về thành thuộc xứ Giu-đa nơi có mồ mả của tổ tiên tôi để tôi xây nó lại.” 6

Lúc đó hoàng hậu đang ngồi cạnh vua. Nhà vua hỏi, “Ngươi đi bao lâu và chừng nào ngươi về?”

Vua bằng lòng sai tôi đi nên tôi định kỳ hạn.

- 542 -


Tôi cũng thưa với vua, “Nếu vua cho phép, xin cấp cho tôi thư gởi cho các tổng trấn phía Tây sông Ơ-phơrát để họ cho phép tôi đi an toàn về Giu-đa. 8 Tôi xin vua viết một thư cho A-sáp, viên quản thủ lâm sản của vua để người cấp cho tôi gỗ. Tôi cần gỗ để làm các cổng cung điện kế cận đền thờ, và để xây tường, đồng thời để xây nhà cho tôi ở.” Vua liền cấp cho tôi các bức thư vì Thượng Đế tỏ lòng nhân từ Ngài đối cùng tôi. 9 Rồi tôi đi đến các quan tổng trấn phía Tây sông Ơ-phơ-rát và trình các bức thư của vua cấp. Vua cũng phái các sĩ quan và các lính cỡi ngựa cùng đi với tôi. 7

Khi San-ba-lát, người Hô-rôn, và Tô-bia, viên sĩ quan người Am-môn, nghe tin nầy thì họ đâm ra bực tức vì nay có người giúp đỡ dân Ít-ra-en. 10

Nê-hê-mi đi xem xét Giê-ru-sa-lem Tôi đến Giê-ru-sa-lem và ở lại đó ba ngày. 12 Ban đêm tôi cùng một vài người nữa lên đường. Tôi không cho ai biết điều Thượng Đế muốn tôi làm cho Giê-ru-sa-lem. Không có súc vật nào khác ngoài con vật tôi cỡi. 11

Ban đêm tôi đi qua Cổng Thung Lũng. Tôi đi đến Giếng Rồng và Cổng Rác, xem xét các vách thành Giêru-sa-lem đã bị sụp đổ và các cổng đã bị lửa đốt cháy. 14 Rồi tôi đi đến Cổng Suối Nước và Hồ Vua. Ở đó không đủ chỗ cho con vật tôi cỡi đi qua. 15 Cho nên ban đêm tôi đi lên thung lũng và xem xét vách thành. Cuối cùng tôi quay trở về Cổng Thung Lũng. 16 Các lính canh không biết tôi đi đâu hay làm gì. Tôi chưa nói gì cả với dân Do-thái, các thầy tế lễ, các thân hào, các sĩ quan, hay bất cứ ai sẽ tham gia công tác tái thiết. 13

Sau đó tôi bảo họ, “Các anh em có thể thấy cái khó khăn mình gặp ở đây. Giê-ru-sa-lem là một đống hoang tàn, cổng thành bị lửa thiêu rụi. Bây giờ chúng ta hãy xây lại vách thành Giê-ru-sa-lem để chúng ta không bị tủi nhục nữa.” 18 Tôi cũng cho họ biết Thượng Đế đã nhân từ đối với tôi ra sao cùng thuật lại với họ những lời vua nói cùng tôi. 17

Họ đồng thanh bảo, “Vậy chúng ta hãy khởi công tái thiết.” Thế là họ ra công. Nhưng khi San-ba-lát, người Hô-rôn và Tô-bia, sĩ quan người Am-môn, và Ghê-sem, người Á-rập nghe tin đó liền chế diễu và cười nhạo chúng tôi. Họ hỏi, “Mấy anh định làm gì đó? Mấy anh định âm mưu chống vua à?” 19

Nhưng tôi trả lời, “Thượng Đế của các từng trời sẽ giúp chúng tôi thành công. Chúng tôi là tôi tớ Ngài, sẽ khởi công xây dựng lại. Nhưng các anh không có phần, quyền lợi hay kỷ niệm gì với Giê-ru-sa-lem cả.” 20

Nê-hê-mi-a 3 Những người xây dựng lại vách thành 3 Ê-li-a-síp, thầy tế lễ cả và các thầy tế lễ đồng nghiệp bắt tay xây dựng lại Cổng Chiên. Họ dâng công tác mình cho CHÚA và dựng lại các cửa vào vị trí. Họ làm việc cho đến Tháp Một Trăm và dâng công tác cho CHÚA. Rồi họ đi đến xây lại Tháp Ha-na-nên. 2 Kế bên họ, có những người ở Giê-ri-cô xây lại một phần vách, còn Xa-cua, con trai Im-ri, xây kế bên họ. Các con trai của Hát-sê-na xây lại Cổng Cá, đặt ván và dựng cửa, chốt cửa và đòn ngang vào vị trí. 4 Mê-rêmốt, con trai U-ri, con của Hát-cô, sửa chữa kế bên họ. Mê-su-lam, con của Bê-rê-kia, con trai của Mê-sêsa-bên, xây sửa kế bên Mê-rê-mốt. Còn Xa-đốc, con của Ba-a-na, sửa chữa bên cạnh Mê-su-lam. 5 Những người từ Tê-cô-a sửa chữa kế bên họ, nhưng những người trưởng toán của Tê-cô-a không làm việc dưới quyền các đốc công của họ. 3

Giô-gia-đa, con Pha-sê-a và Mê-su-lam, con Bê-sô-đia sửa chữa Cổng Cũ. Họ đặt ván và dựng cửa, chốt cửa và đòn ngang vào vị trí. 6

- 543 -


Tiếp theo họ có Mê-la-tia từ Ghi-bê-ôn cùng những người khác từ Ghi-bê-ôn và Mích-ba, với Gia-đôn từ Mê-rô-nốt cũng sửa chữa. Đó là những khu vực thuộc quyền cai trị của viên thống đốc vùng Ơ-phơ-rát. 8 Kế họ có U-xi-ên, con trai Ha-hai-gia, thợ bạc, cũng sửa chữa. Kế người có Ha-na-nai-gia, thợ làm dầu thơm, sửa chữa. Những người đó xây sửa lại Giê-ru-sa-lem cho đến Cửa Rộng. 9 Phần kế tiếp của vách do Rê-phaia, con Hu-rơ, quan cai trị phân nửa quận Giê-ru-sa-lem sửa chữa. 10 Cạnh người có Giê-đai-gia, con trai Haru-máp sửa chữa phần đối diện nhà mình. Kế bên người có Ha-túc, con Ha-sáp-nia sửa chữa. 11 Manh-ki-gia, con Ha-rim và Hát-súp, con Pha-hát Mô-áp sửa chữa phần khác của vách và Tháp Lò. 12 Kế họ có Sa-lum, con Ha-lô-hết, viên quan cai quản nửa quận Giê-ru-sa-lem. Các con gái người cũng tham gia công tác sửa chữa. 7

Ha-nun và những người từ Xa-nô-a sửa chữa Cổng Thung Lũng, xây dựng lại cổng đó, dựng cửa, chốt cửa và đặt các đòn ngang vào vị trí. Họ cũng sửa chữa hơn bốn trăm thước [a] vách chạy dài cho đến Cổng Rác. 13

Manh-ki-gia, con Rê-cáp, viên quan cai trị quận Bết Ha-kê-rem, sửa chữa Cổng Rác. Người xây lại cổng đó, dựng cửa, chốt cửa và đặt các đòn ngang vào vị trí. 14

Sa-lum, con của Côn-Hô-giê, viên quan cai trị quận Mích-ba sửa chữa Cổng Suối Nước. Người xây sửa lại cổng đó, dựng mái che lên trên, đặt cửa, chốt cửa và các đòn ngang vào vị trí. Người cũng sửa chữa vách của Hồ Si-lôm kế cận Vườn Vua chạy dài cho tới các bậc thềm đi xuống phần xưa cũ của thành Đa-vít. 16 Kế Sa-lum có Nê-hê-mi, con Ách-búc, viên quan cai trị phân nửa quận Bết-sua. Người sửa chữa phần đối diện mả của Đa-vít và chạy tới hồ nhân tạo và Nhà của Các Anh hùng. 15

Kế người có các người Lê-vi sửa chữa. Họ làm việc dưới quyền coi sóc của Rê-hum, con Ba-ni. Kế người có Ha-sa-bia, quan cai trị nửa quận Kê-I-la, tức quận của mình. 18 Cạnh người có Binh-nui, con Hê-na-đát và những người Lê-vi sửa chữa. Binh-nui là quan cai trị nửa quận Kê-I-la. 19 Kế họ có Ê-xe, con Giê-sua, quan cai trị Mích-ba, sửa chữa phần khác của vách. Người làm việc đối diện với kho vũ khí, đến chỗ quẹo. 20 Kế người có Ba-rúc, con Xáp-bai, ra công dựng lại vách từ chỗ quẹo cho đến cổng nhà của Ê-li-a-síp, thầy tế lễ cả. 21 Kế người là Mê-rê-mốt, con U-ri, con Hát-cô sửa chữa phần vách chạy từ cổng nhà Ê-li-a-síp cho đến cuối nhà. 17

Khu vực kế tiếp do các thầy tế lễ từ sống gần vùng đó [b] phụ trách sửa chữa. 23 Kế họ có Bên-gia-min và Hát-súp sửa chữa trước mặt nhà họ. Tiếp đến có A-xa-ria, con Ma-a-sê-gia, con A-na-nia, sửa chữa bên cạnh nhà mình. 24 Cạnh người có Binh-nui, con Hê-na-đát, sửa chữa vách chạy từ nhà A-xa-ria đến chỗ quẹo cho tới góc thành. 25 Pha-lanh, con U-sai sửa chữa đối diện từ chỗ quẹo cạnh tháp ở cung điện trên, gần sân của toán cận vệ vua. Kế bên Pha-lanh có Phê-đai-gia, con Pha-rốt sửa chữa. 26 Những người giúp việc trong đền thờ cư ngụ trên đồi Ô-phen sửa chữa cho đến điểm đối ngang Cổng Nước. Rồi họ sửa chữa về phía đông và phía tháp chạy từ cung vua. 22

27

Kế họ có những người ở Tê-cô-a sửa chữa vách từ tháp cao chạy dài từ cung vua cho đến vách Ô-phen.

Các thầy tế lễ sửa chữa phía trên Cổng Ngựa, mỗi người lo phần trước mặt nhà mình. 29 Kế bên họ có Xađốc, con của Im-mê sửa chữa đối diện nhà mình. Cạnh người có Sê-mai-gia, con Sê-ca-nia, lính canh Cổng phía đông, cũng sửa chữa. 30 Kế bên người có Ha-na-nia, con Sê-lê-mia và Ha-nun, con thứ sáu của Xa-láp, sửa chữa phần khác của vách. Cạnh họ có Mê-su-lam, con Bê-rê-kia sửa chữa ngay trước nơi ở của mình. 31 Kế người có Manh-ki-gia, một trong những thợ bạc, cũng sửa chữa. Người sửa cho đến nhà của các đầy tớ phục vụ trong đền thờ và các thương gia. Đó là phần nằm đối diện Cổng Thanh tra, và làm cho đến phòng phía trên góc vách. 32 Các thợ bạc và thương gia sửa chữa phần nằm giữa phòng phía trên của góc vách và Cổng Chiên. 28

- 544 -


Nê-hê-mi-a 4 Những kẻ chống lại việc tái thiết 4 Khi San-ba-lát nghe chúng tôi xây sửa lại vách thành, hắn rất bất bình đến độ tức tối. Hắn chế diễu dân Do-thái. 2 Hắn bảo bạn hữu và những kẻ có thế lực ở Xa-ma-ri rằng, “Bọn Do-thái yếu hèn đó mà làm được gì? Tụi nó xây lại vách thành à? Rồi dâng của lễ hả? Bộ chúng xây một ngày là xong sao? Liệu chúng có thể phục hồi sinh lực của các tảng đá đã thành đống rác hay tro tàn được sao?” Tô-bia người Am-môn đứng kế San-ba-lát cũng phụ họa, “Nếu có con chồn trèo lên vách đá mà chúng đang xây cũng đủ làm nó sập liền.” 3

Tôi cầu nguyện, “Thượng Đế ơi, xin nghe chúng tôi. Người ta ghét chúng tôi. Xin đổ sự sỉ nhục của Sanba-lát và Tô-bia lại trên đầu chúng nó. Xin cho chúng nó bị bắt làm tù đày và làm chiến lợi phẩm. 5 Xin đừng giấu tội lỗi hay cất gian ác chúng nó khỏi mắt chúng nó vì chúng nó đã sỉ nhục những thợ sửa chữa.” 4

6

Nên chúng tôi xây lại vách đến phân nửa chiều cao, vì dân chúng hăng say làm việc.

Nhưng San-ba-lát, Tô-bia, những người Á-rập, người Am-môn, người từ Ách-đốt đều tức giận khi chúng nghe chương trình sửa chữa vách thành Giê-ru-sa-lem tiến triển đều đặn và các lỗ trong vách thành đang được trám lại. 8 Cho nên họ lập mưu đến Giê-ru-sa-lem kiếm chuyện để gây rối, ngăn trở việc xây cất. 9 Nhưng chúng tôi cầu nguyện cùng Thượng Đế và cắt lính canh chừng họ cả ngày lẫn đêm. 7

Dân Giu-đa báo cáo, “Các nhân công đã mệt mỏi rồi. Rác rưởi nhiều quá chúng tôi không thể xây sửa vách thành được nữa.” 10

Các kẻ thù chúng tôi bảo, “Bọn Do-thái không biết, không thấy gì hết cho đến khi chúng ta ập đến giết chúng và làm gián đoạn công tác.” 11

Mười lần những người Do-thái sống cạnh các kẻ thù chúng tôi đến báo cáo, “Quay phía nào cũng bị kẻ thù tấn công.” 13 Vì thế tôi đặt người gác những nơi thấp nhất dọc theo vách tức các chỗ trống và cắt các gia đình làm việc chung nhau, mang theo gươm, giáo, cung tên. 14 Rồi tôi nhìn quanh quất và đứng lên bảo các người có uy tín, các người lãnh đạo, và cùng toàn thể dân chúng: “Anh em đừng sợ họ. Hãy nhớ CHÚA là Đấng cao cả và quyền năng. Hãy chiến đấu vì anh em, con trai và con cái mình, cho vợ và nhà cửa mình.” 12

Sau đó các kẻ thù nghe rằng chúng tôi đã hay biết âm mưu của chúng và Thượng Đế đã phá hỏng âm mưu chúng. Cho nên chúng tôi trở lại công tác xây sửa vách thành, ai lo làm phần nấy. 15

Từ hôm đó trở đi, phân nửa số thợ lo xây sửa. Phân nửa khác sẵn sàng gươm, thuẫn, cung tên, và vũ khí. Các sĩ quan đứng phía sau người Giu-đa 17 là những người đang xây lại vách. Những người mang vật liệu bằng một tay, còn tay kia cầm vũ khí. 18 Mỗi người thợ đều mang theo vũ khí bên hông đang khi làm việc. Còn người thổi kèn báo động đứng kế bên tôi. 16

Rồi tôi bảo những người có uy tín, các người lãnh đạo và toàn thể dân chúng rằng, “Công tác nầy rất lớn lao. Chúng ta phân tán mỏng dọc theo vách thành cho nên cách nhau quá xa. 20 Khi nào các anh em nghe tiếng kèn báo động thì hãy tập họp lại chỗ đó. Thượng Đế của chúng ta sẽ chiến đấu cho chúng ta.” 19

Cho nên chúng tôi tiếp tục làm việc, phân nửa số người cầm gươm giáo từ sáng sớm cho đến khi sao mọc. Lúc đó tôi cũng bảo dân chúng, “Mỗi người thợ và các người phụ việc phải ngủ đêm lại Giê-ru-sa-lem. Ban đêm họ làm lính tuần canh, còn ban ngày thì làm việc.” 23 Tôi, anh em tôi, các người thợ, hay các lính tuần canh đều không thay quần áo. Mỗi người đều mang theo vũ khí cả lúc đi lấy nước nữa. 21 22

- 545 -


Nê-hê-mi-a 5 Nê-hê-mi bênh vực người nghèo 5 Một số người đàn ông và các bà vợ khiếu nại về đồng bào Do-thái khác. 2 Họ bảo, “Gia đình chúng tôi đông con, trai lẫn gái. Muốn sống chúng tôi phải ăn bằng thóc gạo.” Một số người khác bảo, “Chúng tôi cầm thế ruộng, vườn nho, nhà cửa để lấy tiền mua thóc gạo vì thực phẩm khan hiếm.” 3

Một số người khác nữa nói, “Chúng tôi phải vay tiền để trả thuế ruộng nương và vườn nho cho vua. Chúng tôi cũng giống như các anh em Do-thái khác, con chúng tôi cũng như con họ. Nhưng chúng tôi phải bán con trai con gái mình làm tôi mọi. Một số con gái chúng tôi đã bị bán. Chúng tôi không biết làm gì hơn vì đất ruộng và vườn nho chúng tôi thuộc về người khác rồi.” 4 5

Khi tôi nghe những lời khiếu nại đó tôi vô cùng tức giận. 7 Sau khi suy xét kỹ về vấn đề nầy, tôi liền trách những người có uy tín, những người lãnh đạo trong dân chúng. Tôi bảo, “Mấy anh em cho vay ăn lời cắt cổ.” Cho nên tôi triệu tập một phiên họp lớn để giải quyết. 8 Tôi bảo họ, “Chúng ta đã chuộc tự do cho đồng bào Do-thái mình là những kẻ đã bị bán cho người ngoại quốc. Bây giờ anh em lại bán đồng bào Do-thái mình cho chúng tôi!” Các người lãnh đạo làm thinh, không biết nói làm sao. 6

Tôi tiếp, “Điều anh em làm thật không đúng chút nào. Anh em không kính sợ Thượng Đế sao? Đừng để những kẻ thù ngoại quốc sỉ nhục chúng ta. 10 Tôi, anh em tôi, và những người làm cho tôi cũng cho dân chúng mượn tiền, thóc gạo và lấy lời. Nhưng anh em không nên làm như thế. 11 Bây giờ hãy trả lại ruộng nương, vườn nho, cây ô liu, và nhà cửa cho họ. Cũng phải hoàn trả lại số tiền lời quá đáng mà anh em đã thu, tức một phần trăm tiền cho vay, gạo thóc, rượu mới và dầu.” 9

Họ đáp, “Chúng tôi sẽ trả lại cho dân chúng và không đòi họ thêm gì cả. Chúng tôi sẽ làm theo như ông nói.” 12

Rồi tôi gọi các thầy tế lễ và buộc các người có uy tín và các người lãnh đạo tuyên thệ thực hiện lời họ cam kết. 13 Tôi cũng giũ áo tôi và tuyên bố, “Những ai không giữ lời cam kết sẽ bị Thượng Đế giũ ra như thế nầy. Cầu Thượng Đế giũ họ ra khỏi nhà Ngài và ra khỏi tài sản họ. Nguyện người đó bị giũ ra còn tay không!” Rồi toàn thể mọi người nói, “A-men,” và ca ngợi CHÚA. Vậy dân chúng làm theo điều họ cam kết. Năm thứ hai mươi [a] đời vua Ạc-ta-xét-xe, tôi được cử làm tổng trấn đất Giu-đa. Tôi giữ chức tổng trấn xứ Giu-đa trong mười hai năm cho đến năm thứ ba mươi hai đời vua đó. Trong thời gian tại chức tôi hay anh em tôi không hề hưởng lương thực dành cho quan tổng trấn. 15 Nhưng các quan tổng trấn trước tôi đè đầu cỡi cổ dân chúng. Họ thu một cân [b] bạc từ mỗi người, không kể thực phẩm và rượu. Những người giúp việc cho quan tổng trấn trước tôi cũng chèn ép dân chúng, nhưng tôi không làm như vậy vì tôi kính sợ Thượng Đế. 16 Tôi làm công tác sửa chữa vách thành cũng như tất cả đầy tớ tôi có mặt tại đó. Chúng tôi không mua ruộng nương của ai. 14

Ngoài ra tôi thết đãi một trăm năm mươi người và viên chức Do-thái ăn cùng bàn với tôi, luôn cả những người đến từ các quốc gia lân cận. 18 Thức ăn chuẩn bị hằng ngày gồm có: một con bò, sáu con chiên mập, và chim chóc. Mỗi mười ngày lại có đủ thứ rượu. Nhưng tôi không hề đòi hỏi lương thực dành cho quan tổng trấn vì dân chúng đã phải làm lụng vất vả lắm rồi. 17

19

Lạy Thượng Đế, xin nhớ tỏ lòng nhân từ đối với tôi vì những điều tốt tôi đã làm cho dân nầy.

- 546 -


Nê-hê-mi-a 6 Rắc rối thêm cho Nê-hê-mi 6 Lúc đó San-ba-lát, Tô-bia, Ghê-sem người Á-rập, và những kẻ thù khác của chúng tôi nghe rằng tôi đã sửa chữa lại vách thành và không còn lỗ trống nào trong vách. Nhưng tôi chưa cho dựng các cánh cửa của cổng thành. 2 Nên San-ba-lát và Ghê-sem nhắn với tôi như sau: “Nầy anh Nê-hê-mi, chúng ta hãy gặp nhau ở Kêphi-rim trong bình nguyên Ô-nô.” Nhưng thực tâm là chúng định ám hại tôi. Nên tôi cho người trả lời họ như sau: “Tôi đang bận làm công tác lớn nên không thể xuống được. Tôi không thể nào bỏ dở công việc để gặp các anh.” 4 San-ba-lát và Ghê-sem nhắn tôi bốn lần, lần nào tôi cũng trả lời hắn y như vậy. 5 Lần thứ năm San-ba-lát cho người giúp việc của hắn nhắn tôi, tay cầm theo thư không dán. 6 Thư viết như sau: 3

Có tiếng đồn trong các nước, và Ghê-sem đã kiểm chứng thấy là đúng sự thật, rằng anh và những người Giu-đa đang âm mưu chống lại vua và rằng anh đang xây sửa vách thành. Họ bảo rằng anh sẽ là vua của họ 7 và rằng anh đã chỉ định các nhà tiên tri để loan báo tại Giê-ru-sa-lem: “Ở đây có một vua Giu-đa!” Nhà vua sẽ nghe biết việc nầy. Cho nên chúng ta hãy gặp nhau để thảo luận vấn đề. 8

Tôi liền nhắn lại với hắn: “Điều anh nói không đúng sự thật. Anh chỉ tưởng tượng ra trong trí thôi.”

Kẻ thù chúng tôi muốn làm cho chúng tôi hoảng sợ vì chúng nghĩ rằng, “Bọn chúng quá hèn yếu không làm việc nổi. Vách thành không thể nào xong được.” 9

Nhưng tôi cầu nguyện, “Lạy Thượng Đế, xin giúp tôi can đảm.” Một ngày nọ tôi đi đến nhà của Sê-mai-gia, con Đê-lai-gia, cháu Mê-hê-ta-bên. Sê-mai-gia phải nghỉ ở nhà. Anh bảo, “Anh Nê-hê-mi à, chúng ta hãy gặp nhau trong đền thờ Thượng Đế. Hãy đi vào Nơi Thánh [a] rồi đóng cửa lại vì có người định đến lúc ban đêm để giết anh đó.” 10

Nhưng tôi bảo, “Người như tôi mà bỏ chạy à? Tôi mà chạy vào đền thờ để thoát chết sao? Tôi không làm như thế được.” 12 Tôi biết không phải Thượng Đế sai anh ta mà Tô-bia và San-ba-lát đã trả tiền cho anh nói tiên tri nghịch tôi. 13 Chúng trả tiền cho anh ta để khiến tôi sợ hãi buộc phải làm theo điều anh ta đề nghị và phạm tội. Rồi chúng sẽ bêu xấu tôi và làm nhục tôi. 11

Tôi cầu nguyện, “Lạy Thượng Đế, xin nhớ Tô-bia và San-ba-lát cùng những điều chúng làm. Cũng xin Ngài nhớ đến nữ tiên tri Nô-a-đia và các tiên tri khác đã tìm cách làm tôi hoảng sợ.” 14

Vách thành sửa chữa xong Vách thành Giê-ru-sa-lem được xây sửa xong vào ngày hai mươi lăm tháng Ê-lun [b]. Công tác sửa chữa mất năm mươi hai ngày. 16 Khi các kẻ thù chúng tôi nghe và các quốc gia lân cận thấy việc đó thì đâm ra xấu hổ. Lúc đó chúng biết rằng công tác nầy được hoàn tất là do Thượng Đế chúng tôi hỗ trợ. 15

Cũng trong những ngày đó các người có uy tín của Giu-đa gởi nhiều thư cho Tô-bia và hắn trả lời các lá thư của họ. 18 Nhiều người Giu-đa cam kết trung thành với Tô-bia vì hắn là rể của Sê-ca-nia, con A-ra. Còn Giê-hô-ha-nan, con trai Tô-bia lấy con gái Mê-su-lam, con Bê-rê-kia. 19 Những người ấy khen Tô-bia là người tốt đồng thời thuật cho anh ta nghe những điều tôi làm. Vì thế Tô-bia gởi thơ hăm dọa tôi. 17

- 547 -


Nê-hê-mi-a 7 7 Sau khi vách thành đã được xây sửa xong và tôi đã lắp cửa, thì tôi chọn những người gác cửa, các ca sĩ và người Lê-vi. 2 Tôi đặt Ha-na-ni, em tôi, cùng với Ha-na-nia, chỉ huy cung điện, chịu trách nhiệm canh giữ Giê-ru-sa-lem. Ha-na-nia là người lương thiện và kính sợ Thượng Đế hơn tất cả mọi người. 3 Tôi bảo họ, “Không nên mở cổng thành Giê-ru-sa-lem cho đến khi mặt trời lên cao. Trong lúc các người gác cổng đang thi hành nhiệm vụ, bảo họ đóng cổng khóa chốt lại. Hãy cắt đặt những người ở Giê-ru-sa-lem làm lính tuần canh, đặt một số ở các vọng canh, một số canh ở nhà mình.”

Những tù binh trở về Thành phố thì rộng lớn bao la mà dân cư thì thưa thớt, nhà cửa cũng chưa xây cất lại. 5 Cho nên Thượng Đế của tôi giục tôi triệu tập các người có uy tín, các lãnh tụ, và những thường dân để tôi đăng ký họ theo gia đình. Tôi tìm được gia phổ [a] của những người đã hồi hương lần đầu tiên. Sau đây là những điều ghi trong các gia phổ đó: 4

Dưới đây là những người trong vùng trở về nước sau cuộc lưu đày mà Nê-bu-cát-nết-xa, vua Ba-by-lôn đã bắt mang đi. Họ trở về Giê-ru-sa-lem và xứ Giu-đa, mỗi người trở về nguyên quán mình. 7 Những người sau đây hồi hương cùng với Xê-ru-ba-bên, Giê-sua, Nê-hê-mi, A-xa-ria, Ra-a-mia, Na-ha-ma-ni, Mạc-đô-chê, Binh-san, Mích-phê-rết, Bích-vai, Nê-hum, và Ba-a-na. 6

Sau đây là những người thuộc dân Ít-ra-en: 8 con cháu Pha-rốt: 2.172 người; 9 con cháu Sê-pha-tia: 372 người; 10 con cháu A-ra: 652 người; 11 con cháu Pha-hát Mô-áp (qua gia đình Giê-sua và Giô-áp): 2.818 người; 12 con cháu Ê-lam: 1.254 người; 13 con cháu Giát-tu: 845 người; 14 con cháu Giác-cai: 760 người; 15 con cháu Binh-nui: 648 người; 16 con cháu Bê-bai: 628 người; 17 con cháu Ách-gát: 2.322 người; 18 con cháu A-đô-ni-cam: 667 người; 19 con cháu Bích-vai: 2.067 người; 20 con cháu A-đinh: 655 người; 21 con cháu A-tơ (qua Hê-xê-kia): 98 người; 22 con cháu Ha-sum: 328 người; 23 con cháu Bê-dai: 324 người; 24 con cháu Ha-ríp: 112 người; 25 con cháu Ghi-bê-ôn: 95 người; Những người sau đây thuộc thị trấn Bết-lê-hem và Nê-tô-pha: 188 người; 27 thuộc A-na-thốt: 128 người; 28 thuộc Bết A-ma-vết: 42 người; 29 thuộc Ki-ri-át Giê-a-rim, Kê-phi-ra, và Bê-ê-rốt: 743 người; 30 thuộc Rama và Ghê-ba: 621 người; 31 thuộc Mích-ma: 122 người; 32 thuộc Bê-tên và A-hi: 123 người; 33 thuộc Nê-bô thứ nhì: 52 người; 34 thuộc thị trấn Ê-lam thứ nhì: 1.254 người; 35 thuộc Ha-rim: 320 người; 36 thuộc Giê-ricô: 345 người; 37 thuộc Lốt, Ha-đích, và Ô-nô: 721 người; 38 thuộc Sê-na-a: 3.930 người; 26

Sau đây là những thầy tế lễ: con cháu Giê-đai-gia, qua gia đình Giê-sua: 973 người; 40 con cháu Im-mê: 1.052 người; 41 con cháu Pha-sua: 1.247 người; 42 con cháu Ha-rim: 1.017 người; 39

43

Sau đây là những người Lê-vi: con cháu Giê-sua, qua Cát-miên, qua gia đình của Hô-đa-via [b]: 74 người;

44

Sau đây là những ca sĩ: con cháu A-sáp: 148 người;

Sau đây là những người gác cửa: con cháu Sa-lum, A-te, Tanh-môn, Ác-cúp, Ha-ti-ta, và Sô-bai: 138 người. 45

Sau đây là những đầy tớ phục vụ trong đền thờ: con cháu Di-ha, Ha-su-pha, Táp-bao-ốt, 47 Kê-rốt, Sia, Pha-đôn, 48 Lê-ba-na, Ha-ga-ba, Sanh-mai, 49 Ha-nan, Ghi-đen, Ga-ha, 50 Rê-ai-gia, Rê-xin, Nê-cô-đa, 51 Gagiam, U-xa, Pha-sê-a, 52 Bê-sai, Mê-u-nim, Nê-phu-sim, 53 Bát-cúc, Ha-ku-pha, Ha-hua, 54 Bát-lút, Mê-hi-đa, Hát-sa, 55 Bát-cốt, Si-sê-ra, Thê-ma, 56 Nê-xia, và Ha-ti-pha. 46

Sau đây là con cháu của các đầy tớ Sô-lô-môn: con cháu Sô-tai, Sô-phê-rết, Phê-ri-đa, 58 Gia-a-la, Đáccôn, Ghi-đen, 59 Sê-pha-tia, Hát-tin, Phô-kê-rết Ha-giê-ba-im, và Am-môn. 57

- 548 -


60

Các đầy tớ phục vụ trong đền thờ của Sô-lô-môn tổng cộng là 392 người.

Một số người đến Giê-ru-sa-lem từ các thị trấn như Tên-Mê-la, Tên-Hát-sa, Kê-rúp, Ách-đôn, và Im-mê, nhưng họ không chứng minh được gốc gác tổ tiên mình là người Ít-ra-en. Sau đây là tên và nhân số của họ: 62 con cháu Đê-lai-gia, Tô-bia, và Nê-cô-đa: 642 người; 61

Các thầy tế lễ sau đây không chứng minh được gốc gác Ít-ra-en của mình: con cháu Hô-bai-gia, Hách-côi, và Bát-xi-lai. (Ai lấy con gái Bát-xi-lai vùng Ghi-lê-át thì được xem là dòng dõi Bát-xi-lai.) 64 Những người đó sưu tầm gia phổ nhưng không tìm được. Nên họ không thể làm thầy tế lễ vì họ bị xem như không đủ năng cách. 65 Quan tổng trấn ra lệnh cho họ không được phép ăn các thức ăn cực thánh cho đến khi một thầy tế lễ dùng U-rim và Thu-mim để giải quyết vấn đề nầy. 63

Tổng số người hồi hương là 42.360. 67 Trong số đó không kể 7.337 tôi trai tớ gái của họ và 245 nam nữ ca sĩ cùng về với họ. 68 Họ có 736 con ngựa, 245 con la, 69 435 con lạc đà, và 6.720 con lừa. 66

Một số các trưởng gia đình dâng công. Quan tổng trấn ứng vào ngân quỹ khoảng 19 cân [c] vàng, 50 chén bát, và 530 bộ áo cho các thầy tế lễ. 71 Một số trưởng gia đình dâng khoảng 375 cân [d] vàng và 2.750 cân [e] bạc vào ngân quỹ. 72 Tổng số lễ vật của các người khác là khoảng 375 cân vàng, 2.500 cân [f] bạc, và 67 bộ áo cho thầy tế lễ. 73 Vậy tất cả những người sau đây định cư tại các tỉnh nhà của mình: các thầy tế lễ, người Lê-vi, những người gác cửa, các ca sĩ, các đầy tớ phục vụ trong đền thờ. Đến tháng bảy [g] năm ấy, toàn dân Ít-ra-en đều đã định cư xong trong các thành mình. 70

E-xơ-ra đọc những lời giáo huấn Đến tháng bảy, tất cả dân Ít-ra-en đều định cư xong tại các thị trấn nguyên quán của mình.

Nê-hê-mi-a 8 8 Tất cả dân Ít-ra-en tập họp tại công viên gần Cổng Nước. Họ yêu cầu E-xơ-ra là chuyên gia về luật mang đến Sách Giáo Huấn của Mô-se mà CHÚA đã ban cho dân Ít-ra-en. Cho nên ngày đầu tiên của tháng [a], E-xơ-ra là thầy tế lễ mang sách Giáo Huấn ra đọc cho dân chúng. Đàn ông, đàn bà, và tất cả những ai có thể nghe và hiểu được đều họp lại. 3 Tại công viên gần Cổng Nước, E-xơra đọc lớn lời Giáo Huấn từ sáng sớm cho đến trưa cho tất cả đàn ông, đàn bà, cùng những ai có thể nghe và hiểu được. Mọi người đều chăm chú nghe Sách Giáo Huấn. 2

Chuyên gia luật pháp E-xơ-ra đứng trên một bục gỗ cao đã được đóng cho việc đó. Bên phải ông có Ma-tithia, Sê-ma, A-nai-gia, U-ri-a, Hinh-kia, và Ma-a-sê-gia. Bên trái ông có Bê-đai-gia, Mi-sa-ên, Manh-ki-gia, Ha-sun, Hát-bát-đa-na, Xa-cha-ri, và Mê-su-lam. 4

E-xơ-ra mở sách ra trước mắt mọi người, vì ông đứng cao hơn họ. Khi ông mở sách ra thì mọi người đứng dậy. 6 E-xơ-ra ca ngợi CHÚA, Thượng Đế chí cao, mọi người liền giơ tay lên trời nói, “A-men! A-men!” Rồi họ sấp mặt xuống đất bái lạy CHÚA. 5

Những người Lê-vi sau đây giải thích Lời Giáo Huấn cho dân chúng đang đứng đó: Giê-sua, Ba-ni, Sê-rêbia, Gia-min, Ác-cúp, Sa-bê-thai, Hô-đia, Ma-a-sê-gia, Kê-li-ta, A-xa-ria, Giô-xa-bát, Ha-nan, và Bê-lai-gia. 8 Họ đọc Sách Giáo Huấn của Thượng Đế và giải nghĩa cho dân chúng hiểu điều đang đọc. 7

Rồi Nê-hê-mi, quan tổng trấn, E-xơ-ra, thầy tế lễ và chuyên gia luật, và những người Lê-vi đang dạy dỗ bảo toàn thể dân chúng, “Hôm nay là ngày thánh [b] cho CHÚA là Thượng Đế các ngươi. Đừng buồn bã hay than khóc.” Vì dân chúng đều khóc sướt mướt khi nghe đọc lời trong Sách Giáo Huấn. 9

- 549 -


Nê-hê-mi bảo, “Hãy đi ăn uống cho ngon. Hãy mang thức ăn cho những người thiếu thốn, vì hôm nay là ngày thánh cho CHÚA. Không nên buồn bã vì sự vui vẻ của CHÚA sẽ giúp các ngươi mạnh dạn.” 10

11

Người Lê-vi khuyên dỗ dân chúng và bảo, “Hãy yên lặng vì hôm nay là ngày thánh. Đừng buồn.”

Vậy dân chúng đi về ăn và uống, gởi thực phẩm cho những người khác và hớn hở ăn mừng. Sau cùng họ đã hiểu được điều dạy dỗ. 12

Vào ngày mồng hai của tháng, các trưởng gia đình, các thầy tế lễ, và những người Lê-vi họp chung với chuyên gia luật E-xơ-ra. Họ họp nhau lại để học hỏi những lời trong Sách Giáo Huấn. 13

Họ thấy trong Sách Giáo Huấn viết như sau: CHÚA truyền qua Mô-se là dân Ít-ra-en phải ở trong các chòi lá vào thời gian kỷ niệm lễ tháng bảy. 15 Dân chúng phải phổ biến lời dạy dỗ sau đây trong các thị trấn và tại Giê-ru-sa-lem: “Hãy lên núi, hái về các nhánh ô-liu cùng các cây ô-liu hoang, cành cây sim, cành chà là, và cành cây có bóng mát. Dùng những nhành cây đó làm chòi lá theo như đã viết.” 14

Cho nên dân chúng đi ra mang về các nhánh cây. Họ dựng chòi lá trên mái nhà, trong sân, trong sân đền thờ, trong công viên ở Cổng Nước, và nơi công viên kế bên Cổng Ép-ra-im. 17 Tất cả những người đã trở về từ cuộc lưu đày đều dựng chòi ở trong đó. Từ thời Giô-suê, con trai của Nun cho đến lúc bấy giờ dân Ít-raen chưa hề làm như vậy. Ai nấy đều rất vui mừng. 16

Mỗi ngày E-xơ-ra đọc cho họ nghe Sách Giáo Huấn, từ ngày đầu tới ngày cuối. Dân Ít-ra-en cử hành lễ trong bảy ngày, rồi đến ngày thứ tám họ họp nhau lại theo như luật định. 18

Nê-hê-mi-a 9 Dân Ít-ra-en xưng tội 9 Vào ngày hai mươi bốn tháng đó, dân Ít-ra-en họp nhau lại. Họ cữ ăn và mặc vải sô, phủ bụi đất lên đầu để tỏ sự buồn thảm. 2 Những người gốc Ít-ra-en tách ra khỏi những người ngoại quốc. Họ đứng lên xưng tội mình và tội của tổ tiên mình. 3 Họ đứng suốt ba tiếng đồng hồ liền để nghe đọc Sách Giáo Huấn của CHÚA là Thượng Đế của họ. Ba tiếng đồng hồ kế tiếp họ xưng tội và thờ phụng CHÚA là Thượng Đế của họ. 4 Những người Lê-vi sau đây đứng trên bậc thang: Giê-sua, Ba-ni, Cát-miên, Sê-ba-nia, Bun-ni, Sê-rê-bia, Ba-ni, và Ca-na-ni. Họ lớn tiếng kêu cầu cùng CHÚA là Thượng Đế mình. 5 Rồi những người Lê-vi sau đây lên tiếng: Giê-sua, Cát-miên, Ba-ni, Ha-sáp-nê-gia, Sê-rê-bia, Hô-đia, Sê-ba-nia, và Bê-tha-hia. Họ bảo, “Hãy đứng dậy ca ngợi CHÚA là Thượng Đế các ngươi, Đấng sống đời đời.”

Lời cầu nguyện của dân chúng “Đáng chúc tụng danh kỳ diệu của Ngài. Danh đó thật diệu kỳ hơn những lời chúc tụng và ca ngợi. 6 Ngài là CHÚA duy nhất. Ngài tạo nên trời và các từng trời rất cao, cùng các ngôi sao. Ngài dựng nên trái đất và mọi loài trong đó, Biển và mọi loài trong biển; Ngài ban sự sống cho mọi loài. Các thiên thần phụng thờ Ngài. 7 Ngài là CHÚA, là Thượng Đế, Đấng đã chọn Áp-ram, mang người ra khỏi U-rơ thuộc vùng Ba-by-lôn và đổi tên người ra Áp-ra-ham. - 550 -


Ngài nhận thấy người trung tín với Ngài, cho nên Ngài lập ước với người hứa cho dòng dõi người đất của dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Phê-ri-sít, dân Giê-bu-sít, và dân Ghi-ga-sít. Ngài đã giữ lời hứa mình, Vì Ngài luôn luôn làm điều phải. 9 Ngài thấy các tổ tiên chúng tôi khổ sở nơi Ai-cập, và nghe họ kêu khóc nơi Hồng hải. 10 Ngài làm nhiều điều kỳ diệu nghịch lại vua Ai-cập, nghịch lại các quần thần và dân chúng của người, vì Ngài biết họ rất tự phụ. Ngài nổi danh như ngày nay. 11 Ngài rẽ biển trước mắt tổ tiên chúng tôi; họ đi ngang qua trên đất khô, Nhưng Ngài xô những kẻ đuổi theo họ xuống nước sâu, như hòn đá bị quăng vào dòng nước chảy mạnh. 12 Ban ngày Ngài dẫn dắt các tổ tiên chúng tôi bằng một trụ mây, còn ban đêm bằng một trụ lửa. Chúng soi đường để dân chúng đi. 13 Ngài ngự xuống trên núi Si-nai, từ trời Ngài phán với tổ tiên chúng tôi. Ngài ban cho họ các luật lệ công bình và những lời giáo huấn chân thật, những huấn lệnh và chỉ thị tốt lành. 14 Ngài dạy họ về ngày Sa-bát thánh, và ban cho họ các chỉ thị, huấn lệnh qua Mô-se, tôi tớ Ngài. 15 Khi họ đói, Ngài ban cho họ bánh từ trời. Khi họ khát, Ngài ban cho họ nước uống từ tảng đá. Ngài bảo họ hãy vào chiếm xứ mà Ngài đã hứa ban cho họ. 16 Nhưng các tổ tiên chúng tôi kiêu căng và ương ngạnh, không vâng huấn lệnh của Ngài. 17 Họ không thèm nghe; họ quên những phép lạ Ngài làm cho họ. Họ đâm ra ương ngạnh, chống nghịch Ngài, và tự chọn cho mình một người lãnh đạo để đem họ trở về ách nô lệ. Nhưng Ngài là Thượng Đế hay tha thứ. Đầy lòng từ ái. Ngài chậm nóng giận, giàu tình yêu lớn. Nên Ngài không lìa bỏ họ. 18 Thậm chí các tổ tiên chúng tôi làm cho mình một tượng bò con. Họ bảo, ‘Ít-ra-en ơi, đây là thần đã mang ngươi ra khỏi Ai-cập.’ Họ nói phạm đến Ngài. 19 Ngài giàu lòng từ ái, nên không bỏ rơi họ trong sa mạc. Ban ngày có trụ mây dẫn đường, ban đêm có trụ lửa soi sáng lối đi. 20 Ngài ban Thánh Linh nhân từ Ngài dạy dỗ họ. Ban ma-na cho họ ăn và nước uống khi họ khát. 8

- 551 -


Trong suốt bốn mươi năm Ngài săn sóc họ; Họ không thiếu thốn gì hết. Áo quần họ không sờn, Chân họ không sưng phù. 22 Ngài ban cho họ các vương quốc và các dân tộc; và cấp thêm đất cho họ. Họ chiếm xứ Si-hôn, vua của Hết-bôn và xứ Óc, vua của Ba-san. 23 Ngài khiến cho con cháu họ đông như sao trên trời, mang họ vào xứ mà Ngài bảo các tổ tiên họ vào chiếm lấy. 24 Cho nên các con cháu họ vào chiếm lấy xứ. Người Ca-na-an đang sống trong xứ, nhưng Ngài đánh bại dân ấy. Ngài trao người Ca-na-an vào tay họ, các vua chúng, và toàn dân của xứ, để tổ tiên chúng tôi có thể mặc tình đối xử với chúng. 25 Họ chiếm các thành trì vững chắc có vách cao và đất đai phì nhiêu. Họ chiếm nhà cửa có đầy đủ mọi thứ, giếng đã đào sẵn, cùng vườn nho, cây ô liu, và các cây ăn trái. Họ ăn uống cho đến khi no say và mập béo; Họ tận hưởng ơn phước dồi dào của Ngài. 26 Nhưng họ bất tuân và chống nghịch Ngài, không đếm xỉa đến lời giáo huấn Ngài. Các tiên tri Ngài khuyên răn họ trở về cùng Ngài, Nhưng họ giết các tiên tri và nói phạm cùng Ngài. 27 Nên Ngài trao họ vào tay các kẻ thù, để chúng ngược đãi họ. Nhưng trong cơn khốn khổ các tổ tiên chúng tôi kêu khóc cùng CHÚA, từ trời Ngài liền nghe. CHÚA có lòng từ bi lớn nên sai các người giải cứu đến giải phóng họ khỏi quyền lực kẻ thù. 28 Nhưng vừa khi họ được an tịnh, họ lại làm ác. Ngài liền trao họ cho kẻ thù thống trị họ. Họ lại kêu khóc cùng Ngài, từ trời Ngài nghe họ. Vì lòng từ bi Ngài, Ngài giải cứu họ nhiều lần. 29 Ngài khuyên răn họ trở về với lời giáo huấn Ngài, nhưng họ tự phụ, không vâng theo huấn lệnh CHÚA, là luật mà nếu ai vâng theo thì sẽ sống. Nhưng họ quay lưng khỏi Ngài. Họ ương ngạnh, bướng bỉnh, và không vâng lời. 21

- 552 -


Ngài kiên nhẫn với họ trong nhiều năm, dùng Thánh Linh Ngài qua các nhà tiên tri mà cảnh cáo họ, nhưng họ chẳng thèm để ý. Nên Ngài trao họ vào tay các quốc gia khác. 30

Nhưng do lòng từ bi lớn lao, CHÚA không tuyệt diệt hay bỏ rơi họ. Ngài là Thượng Đế nhân từ và bác ái. 32 Cho nên, Thượng Đế của chúng tôi ơi, Ngài là Thượng Đế cao cả, quyền năng và kỳ diệu. Ngài giữ giao ước của tình yêu. Xin đừng làm ngơ trước những nỗi khốn khổ của chúng tôi. Những nỗi khốn khổ nầy đến trên chúng tôi, trên vua và các nhà lãnh đạo của chúng tôi, trên các thầy tế lễ và các nhà tiên tri, Trên các tổ tiên và dân tộc Ngài từ đời các vua A-xy-ri cho đến hôm nay. 33 Những gì xảy ra cho chúng tôi thật xứng đáng vì Ngài rất công bằng; Ngài thành tín nhưng chúng tôi quá gian ác. 34 Các vua, các nhà lãnh đạo, các thầy tế lễ, và các tổ tiên chúng tôi không nghe theo lời giáo huấn Ngài; Họ không thèm để ý đến những huấn lệnh và lời cảnh cáo Ngài. 35 Dù trong khi các tổ tiên chúng tôi đang sống trong xứ, vui hưởng những ơn lành Ngài ban cho, tận hưởng đất đai phì nhiêu và khoảng khoát, họ cũng vẫn cứ làm điều ác. 36 Vì thế ngày nay chúng tôi bị làm tôi mọi trong xứ Ngài ban cho tổ tiên chúng tôi. Đáng lẽ họ vui hưởng hoa quả và phúc lành, Mà bây giờ chúng tôi phải làm nô lệ tại đây. 37 Mùa màng tốt đẹp của xứ thuộc về các vua mà Ngài đặt lên thống trị chúng tôi, vì tội lỗi chúng tôi. Các vua đó hống hách thống trị chúng tôi và gia súc chúng tôi, cho nên chúng tôi gặp khốn đốn. 31

Giao ước của dân chúng Vì những lý do đó, nay chúng tôi lập một giao ước viết ra chữ. Các vị lãnh đạo, các người Lê-vi, và các thầy tế lễ đóng ấn họ vào đó.” 38

Nê-hê-mi-a 10 10 Sau đây là những người đã đóng ấn vào giao ước: Nê-hê-mi, quan tổng trấn, con của Ha-ca-lia, 2 Xê-đêkia, Sê-rai-gia, A-xa-ria, Giê-rê-mi, 3 Bát-sua, A-ma-ria, Manh-ki-gia, 4 Hát-túc, Sê-ba-nia, Ma-lúc, 5 Ha-rim, Mê-rê-mốt, Áp-đia, 6 Đa-niên, Ghi-nê-thôn, Ba-rúc, 7 Mê-su-lam, A-bi-gia, Mi-gia-min, 8 Ma-a-xia, Binhgai, và Sê-mai-gia. Những người đó là thầy tế lễ.

- 553 -


Sau đây là những người Lê-vi đóng ấn trên giao ước: Giê-sua con của A-xa-nia, Binh-nui, một trong các con của Hê-na-đát, Cát-miên, 10 cùng những bạn Lê-vi khác: Sê-ba-nia, Hô-đia, Kê-li-ta, Bê-lai-gia, Ha-nan, 11 Mai-ca, Rê-hốp, Ha-sa-bia, 12 Xác-cua, Sê-rê-bia, Sê-ba-nia, 13 Hô-đia, Ba-ni, và Bê-ni-nu. 9

Sau đây là những người lãnh đạo của dân chúng đóng ấn vào giao ước: Ba-rốt, Ba-hát Mô-áp, Ê-lam, Giát-tu, Ba-ni, 15 Bu-ni, A-gát, Bê-bai, 16 A-đô-ni-gia, Bích-vai, A-đinh, 17 A-tơ, Hê-sê-kia, A-xua, 18 Hô-đia, Ha-sum, Bê-dai, 19 Ha-ríp, A-na-thốt, Nê-bai, 20 Mác-bi-át, Mê-su-lam, Hê-xia, 21 Mê-sê-xa-bên, Xa-đốc, Gia-đua, 22 Bê-la-tia, Ha-nan, A-nai-gia, 23 Ô-sê, Ha-na-nia, Hát-súp, 24 Ha-lô-hết, Binh-ha, Sô-béc, 25 Rêhum, Ha-sáp-na, Ma-a-sê-gia, 26 A-hia, Ha-nan, A-nan, 27 Ma-lúc, Ha-rim, và Ba-a-na. 14

Những người còn lại trong dân chúng tuyên thệ. Đó là các thầy tế lễ, người Lê-vi, người gác cửa, ca sĩ, đầy tớ phục vụ trong đền thờ, cùng những người đã phân ly khỏi các người ngoại quốc để giữ lời Giáo Huấn của Thượng Đế, cùng vợ và con trai con gái là những người có thể hiểu được. 29 Họ nhập với các đồng bào Ít-ra-en khác cùng các người lãnh đạo tham dự cuộc tuyên thệ. Lời tuyên thệ có một lời nguyền rủa kèm theo nếu họ vi phạm lời thề. Họ hứa tuân theo lời Giáo Huấn của Thượng Đế đã được truyền qua Mô-se, tôi tớ của Ngài, và vâng theo những huấn lệnh, qui tắc, và luật lệ của CHÚA là Thượng Đế chúng tôi. 28

30

Họ tuyên bố:

“Chúng tôi hứa sẽ không để con gái chúng tôi kết hôn với người ngoại quốc, hay để con trai chúng tôi lấy con gái họ. 31 Những người ngoại quốc có thể mang hàng hóa và ngũ cốc bán trong ngày Sa-bát, nhưng chúng tôi sẽ không mua bán trong ngày đó hay bất cứ ngày lễ nào. Mỗi bảy năm [a] chúng tôi sẽ không trồng trọt gì và tha nợ cho những ai thiếu chúng tôi. Chúng tôi sẽ tôn trọng huấn lệnh về việc đóng góp vào đền thờ của Thượng Đế chúng tôi. Mỗi năm chúng tôi sẽ dâng một phần tám lượng [b] bạc. 33 Tiền dâng đó để dành mua bánh trần thiết trên bàn; các của lễ chay và của lễ thiêu thường xuyên; các của lễ ngày Sa-bát, lễ Trăng Mới, và các lễ đặc biệt; các của lễ thánh; các của lễ chuộc tội cho dân Ít-ra-en; và cho công tác của đền thờ. 32

Chúng tôi, thầy tế lễ, người Lê-vi, và toàn thể dân chúng, đã bắt thăm để biết gia đình nào trong năm phải cung cấp củi cho đền thờ. Củi để dùng trên bàn thờ của CHÚA là Thượng Đế chúng tôi. Chúng tôi sẽ thực hiện theo nhưng luật lệ đã ghi. 34

35

Mỗi năm chúng tôi cũng sẽ dâng cho đền thờ hoa quả đầu mùa và hoa quả đầu tiên của mỗi cây.

Chúng tôi cũng sẽ dâng cho đền thờ con trai đầu lòng, súc vật đầu lòng của gia súc, theo như lời Giáo Huấn ghi. Chúng tôi cũng sẽ mang chúng đến cho các thầy tế lễ phục vụ trong đền thờ. 36

Chúng tôi sẽ mang cho các thầy tế lễ giữ kho đền thờ ngũ cốc đầu tiên xay sẵn, của lễ, hoa quả của tất cả các cây chúng tôi cùng rượu mới và dầu. Chúng tôi cũng sẽ dâng một phần mười hoa quả chúng tôi cho người Lê-vi. Họ sẽ thu phần đó trong mọi thị trấn chúng tôi làm việc. 38 Một thầy tế lễ trong gia đình A-rôn phải có mặt với người Lê-vi khi họ nhận phần mười mùa màng từ dân chúng. Người Lê-vi phải đem một phần mười những của họ nhận vào đền thờ của Thượng Đế chúng tôi để chứa vào kho ngân khố. 39 Dân Ítra-en và người Lê-vi phải mang vào kho chứa những lễ vật ngũ cốc, rượu mới và dầu. Kho đó chứa các vật dụng trong đền thờ và cũng là nơi các thầy tế lễ đang hành chức, những người gác cửa và các ca sĩ ở. 37

Chúng tôi sẽ không bỏ bê đền thờ của Thượng Đế chúng tôi.”

- 554 -


Nê-hê-mi-a 11 Những dân cư mới ở Giê-ru-sa-lem 11 Các nhà lãnh đạo của Ít-ra-en sống trong Giê-ru-sa-lem nhưng dân chúng bắt thăm để mỗi mười người thì một người được vào ở trong Giê-ru-sa-lem là thành phố thánh. Chín người kia ở trong thị trấn mình. 2 Dân chúng chúc phước cho những người tình nguyện vào ở Giê-ru-sa-lem. Sau đây là những nhà lãnh đạo khu vực vào ở Giê-ru-sa-lem. Một số đã cư ngụ trên đất mình trong các thành thuộc xứ Giu-đa. Trong số đó có các người Ít-ra-en, các thầy tế lễ, người Lê-vi, những đày tớ phục vụ đền thờ, và con cháu của các đầy tớ Sô-lô-môn. 4 Những người khác thuộc các gia đình Giu-đa và Bên-giamin đã sống ở Giê-ru-sa-lem. 3

Sau đây là các con cháu Giu-đa vào ở Giê-ru-sa-lem. Có A-thai-gia, con U-xia. U-xia là con Xa-cha-ri, con A-ma-ria. A-ma-ria là con Sê-pha-tia, con Ma-ha-la-lên. Ma-ha-la-lên là con cháu của Phê-rê. 5 Cũng có Masê-gia, con Ba-rúc. Ba-rúc là con Côn-Hô-xê, con Ha-xai-gia. Ha-xai-gia là con A-đai-gia, con Giô-gia-ríp. Giô-gia-ríp là con Xa-cha-ri, con cháu Sê-la. 6 Tổng số con cháu Phê-rê sống ở Giê-ru-sa-lem là 468 người. Tất cả đều là chiến sĩ. Sau đây là con cháu Bên-gia-min dọn vào ở Giê-ru-sa-lem. Có Xa-lu, con của Mê-su-lam. Mê-su-lam là con Giô-ếch, con của Bê-đai-gia. Bê-đai-gia là con của Cô-lai-gia, con của Ma-a-sê-gia. Ma-a-sê-gia là con của Y-thiên, con của Giê-sai-gia. 8 Kế sau người có Gáp-bai và Xa-lai, tổng cộng 928 người. 9 Giô-ên, con của Xích-ri được chỉ định cai quản họ, còn Giu-đa con Hát-sê-nua được chỉ định phụ tá coi sóc vùng mới trong thành. 7

Sau đây là những thầy tế lễ dọn vào cư ngụ trong Giê-ru-sa-lem. Giê-đai-gia, con Giô-a-ríp, Gia-kin, 11 và Xê-rai-gia, con Hinh-kia, người quản thủ đền thờ. Hinh-kia là con Mê-su-lam, con Xa-đốc. Xa-đốc là con Mê-rai-ốt, con A-hi-túp. 12 Cũng có những người khác với họ là những người làm việc trong đền thờ. Tổng cộng 822 người. Có A-đai-gia, con Giê-rô-ham. Giê-rô-ham là con Bê-la-lia, con Am-xi. Am-xi là con Xacha-ri, con Bát-sua. Bát-sua là con Manh-ki-gia. 13 Cũng có các chủ gia đinh cùng với ông. Tổng cộng 242 người. Ngoài ra còn có A-mát-sai, con A-xa-rên. A-xa-rên là con A-xai, con Mê-si-lê-mốt. Mê-si-lê-mốt là con Im-mê. 14 Cũng có những dũng sĩ cùng với A-ma-sai. Cộng tất cả 128 người. Xáp-đi-ên con của Ha-ghêđô-lim được cử giám thị họ. 10

Sau đây là những người Lê-vi dọn vào Giê-ru-sa-lem. Có Sê-mai-gia con Hát-súp. Hát-súp là con A-ricam, con của Ha-sa-bia. Ha-sa-bia là con của Bu-ni. 16 Rồi có Sa-bê-thai và Giô-xa-bát, hai lãnh tụ người Lê-vi chịu trách nhiệm coi sóc bên ngoài đền thờ. 17 Có Mát-tha-nia, con của Mai-ca. Mai-ca là con Xáp-đi, con của A-sáp. Ma-tha-nia là người hướng dẫn việc tạ ơn và cầu nguyện. Có Bác-bu-kia, người đứng hàng nhì chịu trách nhiệm giám thị người Lê-vi. Sau đó có Áp-đa, con Sam-mua. Sam-mua là con Ga-lanh, con Giê-đu-thun. 18 Tổng cộng 284 người Lê-vi cư ngụ trong thành thánh Giê-ru-sa-lem. 15

Các người gác cửa dọn vào Giê-ru-sa-lem là Ác-cúp, Thanh-môn, và những người khác cùng với họ. Tổng cộng 172 người gác cổng thành. 19

Còn những người Ít-ra-en, các thầy tế lễ, và người Lê-vi khác cư ngụ trên đất của họ rải rác trong các thị trấn xứ Giu-đa. 20

21

Những đầy tớ phục vụ trong đền thờ cư ngụ trên đồi Ô-phên, có Xi-ha và Ghít-ba giám thị họ.

U-xi, con Ba-ni được cử làm giám thị các người Lê-vi ở Giê-ru-sa-lem. Ba-ni là con Ha-sa-bia, con Máttha-nia. Mát-tha-nia là con Mai-ca. U-xi là một trong các con cháu A-sáp là những ca sĩ lo cho các buổi lễ trong đền thờ. 23 Các ca sĩ được đặt dưới lệnh của vua, lệnh nầy định việc cho họ từng ngày. 22

- 555 -


Bê-tha-nia, con Mê-sê-xa-bên là phát ngôn viên của vua. Mê-sê-xa-bên là một trong những con cháu của Xê-ra, con Giu-đa. 24

Một số người trong xứ Giu-đa sống trong các làng có ruộng nương bao bọc. Họ sống trong Ki-ri-át Ạc-ba và vùng phụ cận, Đi-bôn và vùng phụ cận, Giê-cáp-xi-ên và vùng phụ cận, 26 ở Giê-sua, Mô-la-đa, Bết-Bêlết, 27 Ha-xa Su-anh, Bê-e-sê-ba và vùng phụ cận, 28 ở Xiếc-lác và Mê-cô-na và vùng phụ cận, 29 ở Ên-Rimmôn, Xô-ra, Giạt-mút, 30 Xa-noa, A-đu-lam và các làng mạc, ở La-kích và các đồng ruộng quanh đó, ở A-xêka và vùng phụ cận. Như thế họ định cư từ Bê-e-sê-ba chạy đến Thung lũng Hin-nôm. 25

Các con cháu của Bên-gia-min từ Ghê-ba sống ở Mích-mát, Ai-gia, Bê-tên và vùng phụ cận, 32 ở A-na-tốt, Nóp, A-na-nia, 33 Hát-xo, Ra-ma, Ghít-ta-im, 34 Ha-đích, Xê-bô-im, Nê-ba-lát, 35 Lót, Ô-nô, và trong Thung lũng của các Thợ thủ công. 31

36

Một vài nhóm người Lê-vi thuộc xứ Giu-đa định cư trong đất của chi tộc Bên-gia-min.

Nê-hê-mi-a 12 Các thầy tế lễ và người Lê-vi 12 Sau đây là các thầy tế lễ và người Lê-vi hồi hương chung với Xê-ru-ba-bên, con Sê-anh-tiên và với Giêsua. Có Sê-rai-gia, Giê-rê-mi, E-xơ-ra, 2 A-ma-ria, Ma-lúc, Hát-túc, 3 Sê-ca-nia, Rê-hum, Mê-rê-mốt, 4 Y-đô, Ghi-nê-hôn, A-bi-gia, 5 Mi-gia-min, Mô-a-đia, Binh-ga, 6 Sê-mai-gia, Giô-a-ríp, Giê-đai-gia, 7 Sa-lu, A-mốc, Hinh-kia, và Giê-đai-gia. Đó là những lãnh tụ của các thầy tế lễ và thân nhân họ trong thời Giê-sua. Các người Lê-vi gồm có Giê-sua, Bin-nui, Cát-miên, Sê-rê-bai-gia, Giu-đa, và Ma-tha-nia. Ma-tha-nia và các thân nhân ông chịu trách nhiệm ca nhạc tạ ơn. 9 Bác-bu-kia và U-ni và thân nhân đứng đối diện nhau trong các buổi lễ. 8

Giê-sua sinh Giô-gia-kim. Giô-gia-kim sinh Ê-li-a-síp. Ê-li-a-síp sinh Giô-gia-đa. 11 Giô-gia-đa sinh Giôna-than, Giô-na-than sinh Giát-đua. 10

Trong thời Giô-gia-kim các thầy tế lễ sau đây làm trưởng gia đình của các thầy tế lễ: Mê-rai-gia thuộc gia đình Sê-rai-gia; Ha-na-nia, thuộc gia đình Giê-rê-mi; 13 Mê-su-lam, thuộc gia đình E-xơ-ra; Giê-hô-ha-nan thuộc gia đình A-ma-ria; 14 Giô-na-than thuộc gia đình Ma-lúc; Giô-xép thuộc gia đình Sê-ca-nia. 15 Ách-na thuộc gia đình Ha-rim; Hên-cai thuộc gia đình Mê-rê-mốt; 16 Xa-cha-ri thuộc gia đình Y-đô; Mê-su-lam thuộc gia đình Ghin-nê-thôn; 17 Xích-ri thuộc gia đình A-bi-gia; Binh-tai thuộc gia đình Mi-nia-min và gia đình Mô-a-đia; 18 Sam-mua thuộc gia đình Binh-ga, Giê-hô-na-than thuộc gia đình Sê-mai-gia; 19 Mát-tê-nai thuộc gia đình Giô-ia-ríp; U-xi thuộc gia đình Giê-đai-gia; 20 Ca-lai thuộc gia đình Xa-lu; Ê-be thuộc gia đình A-mốc; 21 Ha-sa-bia thuộc gia đình Hinh-kia; và Nê-tha-nên thuộc gia đình Giê-đai-gia. 12

Các trưởng gia đình người Lê-vi và các thầy tế lễ được ghi chép trong thời Ê-li-a-síp, Giô-gia-đa, Giô-hanan, và Gia-đua, khi Đa-ri-út người Ba-tư làm vua. 23 Các trưởng gia đình giữa vòng người Lê-vi được ghi trong sách sử ký, nhưng chỉ ghi đến đời Giô-ha-nan, con của Ê-li-a-síp mà thôi. 24 Các lãnh tụ người Lê-vi là Ha-sa-bia, Sê-rê-bia, Giê-sua con Cát-miên và các thân nhân họ. Các thân nhân họ đứng đối diện họ và ca hát cảm tạ Thượng Đế. Hai nhóm đối đáp nhau theo như Đa-vít, người của Thượng Đế đã qui định. 22

Sau đây là những người gác cửa giữ kho vật liệu kế cận các cổng: Mát-ta-nia, Bác-bu-kia, Áp-đia, Mê-sulam, Thanh-môn, và Ác-cúp. 26 Họ phục vụ trong thời Giô-gia-kim con Giê-sua, con Giô-xa-đác. Họ cũng phục vụ trong thời Nê-hê-mi làm quan tổng trấn và Ê-xơ-ra, thầy tế lễ và chuyên gia luật. 25

- 556 -


Lễ khánh thành vách thành Giê-ru-sa-lem Khi vách thành Giê-ru-sa-lem được dâng lên cho Thượng Đế thì người ta yêu cầu người Lê-vi cư ngụ bất cứ đâu tề tựu về Giê-ru-sa-lem để hoan hỉ kỷ niệm lễ cung hiến vách thành. Họ kỷ niệm bằng các bài ca cảm tạ, dùng các nhạc cụ như chập chỏa, đờn cầm, và đờn sắt. 28 Người ta cũng mang các ca sĩ từ khắp nơi quanh Giê-ru-sa-lem về, từ các làng Nê-tô-pha-thít, 29 từ Bết Ghinh-ganh, và từ các vùng Ghê-ba và Ạc-ma-vết. Các ca sĩ đã xây dựng làng mạc riêng cho họ quanh Giê-ru-sa-lem. 30 Các thầy tế lễ và người Lê-vi tắm rửa sạch sẽ, họ cũng chuẩn bị cho dân chúng, cổng thành, và vách thành Giê-ru-sa-lem tinh sạch. 27

Tôi bảo các lãnh tụ của Giu-đa lên trên đỉnh vách, rồi tôi chỉ định hai ban hợp ca lớn hát tạ ơn. Một ban lên đứng trên đỉnh vách hướng về phía Cổng Rác. 32 Đi sau họ có Hô-sai-gia và phân nửa các lãnh tụ Giu-đa. 33 Cũng có A-xa-ria, E-xơ-ra, Mê-su-lam, 34 Giu-đa, Bên-gia-min, Sê-mai-gia, và Giê-rê-mi cùng đi. 35 Một số các thầy tế lễ thổi kèn cùng đi với Xa-cha-ri, con Giô-na-than. (Giô-na-than là con Sê-mai-gia, con Matha-nia. Ma-tha-nia là con Mi-cai-gia, con Xa-cua. Xa-cua là con A-sáp.) 36 Các thân nhân Xa-cha-ri cũng đi chung. Những người đó là Sê-mai-gia, A-xa-rên, Mi-la-lai, Ghi-la-lai, Ma-ai, Nê-tha-nên, Giu-đa, và Ha-nani. Họ chơi các nhạc khí của Đa-vít, người của Thượng Đế, có giáo sư E-xơ-ra đi trước họ. 37 Họ đi từ Cổng Suối Nước thẳng các bực thềm lên điểm cao nhất của vách qua khu vực cũ của thành Đa-vít. Rồi họ đi phía trên nhà Đa-vít cho đến Cổng Nước về hướng đông. 31

Ban hát thứ nhì đi về phía trái trong khi tôi đi theo họ lên đỉnh vách thành với phân nửa số dân chúng. Chúng tôi đi từ Tháp Lò cho đến Vách Rộng, 39 qua Cổng Ép-ra-im cho đến Cổng Xưa và Cổng Cá, về phía Tháp Ha-na-nên và Tháp Một Trăm. Chúng tôi đi đến Cổng Chiên và dừng lại tại Cổng Gác. 38

Rồi hai ban hát bước vào chỗ trong đền thờ. Phân nửa các lãnh tụ và tôi cũng vậy. 41 Những thầy tế lễ sau đây cầm kèn: Ê-li-a-kim, Ma-a-sê-gia, Mi-ni-a-min, Mi-cai-gia, Ê-li-ô-ê-nai, Xa-cha-ri, và Ha-na-nia. 42 Những người sau đây cũng có mặt tại đó: Ma-a-sê-gia, Sê-mai-gia, Ê-lê-a-sa, U-xi, Giê-hô-ha-nan, Manhki-gia, Ê-lam, và Ê-xe. 40

Ban hợp ca hát lên dưới sự hướng dẫn của Giê-ra-hia. 43 Dân chúng dâng rất nhiều của lễ hôm đó. Mọi người đều hân hoan vì Thượng Đế ban cho họ niềm vui lớn. Đàn bà trẻ con cũng hớn hở. Tiếng reo vui ở Giê-rusa-lem vang ra rất xa. Lúc đó các lãnh tụ đề cử người lo cho kho chứa. Các kho nầy dùng chứa các lễ vật, cây trái đầu mùa, và mười phần trăm phẩm vật dân chúng mang đến. Sách Giáo Huấn dạy rằng họ phải mang phần của các thầy tế lễ và người Lê-vi từ đồng ruộng quanh các thị trấn. Dân Giu-đa rất vui làm việc đó cho các thầy tế lễ và người Lê-vi là những người phục vụ. 45 Họ thi hành nhiệm vụ Thượng Đế giao cho để biến mọi vật thánh sạch. Các ca sĩ và người gác cổng cũng làm phận sự họ theo như Đa-vít đã truyền dặn con mình là Sô-lômôn. 46 Trước đó trong thời Đa-vít và A-sáp, có trưởng ban nhạc chịu trách nhiệm các ca sĩ và các bài hát chúc tụng và tạ ơn Thượng Đế. 47 Trong thời Xê-ru-ba-bên và Nê-hê-mi cũng vậy. Toàn thể dân Ít-ra-en biếu các ca sĩ và các người gác cổng những tặng vật đồng thời dành phần riêng cho người Lê-vi. Rồi người Lê-vi dành phần riêng cho con cháu A-rôn. 44

Nê-hê-mi-a 13 Các người ngoại quốc bị trục xuất 13 Trong ngày đó họ đọc Sách Mô-se cho dân chúng nghe. Người ta thấy trong đó có ghi rằng đời đời không một người Am-môn hay Mô-áp nào được phép gia nhập vào cộng đồng của Thượng Đế. 2 Vì người Am-môn và Mô-áp không đem thức ăn và nước uống chào đón dân Ít-ra-en. Ngược lại, họ thuê Ba-la-am nguyền rủa dân Ít-ra-en. (Nhưng Thượng Đế chúng tôi đã biến lời nguyền rủa ra phúc lành.) 3 Khi dân chúng nghe điều dạy bảo nầy thì họ phân rẽ những người ngoại quốc ra khỏi Ít-ra-en.

- 557 -


Nê-hê-mi trở lại Giê-ru-sa-lem Trước đó, thầy tế lễ Ê-li-a-síp, người quản lý kho chứa rất thân thiện với Tô-bia. 5 Ê-li-a-síp cho phép Tôbia sử dụng một trong các kho lớn. Trước kia kho đó dùng chứa của lễ chay, trầm hương, dụng cụ, một phần mười của lễ chay, rượu mới, và dầu ô liu của người Lê-vi, các ca sĩ, và những người gác cổng. Kho đó cũng được dùng để chứa các tặng phẩm của các thầy tế lễ. 4

Trong khi chuyện đó xảy ra thì tôi không có mặt tại Giê-ru-sa-lem. Tôi trở về gặp vua Ba-by-lôn vào năm thứ ba mươi hai [a] triều vua ấy. Sau cùng tôi xin phép vua cho tôi ra đi. 7 Khi trở lại Giê-ru-sa-lem, tôi hay biết chuyện quấy Ê-li-a-síp làm tức là cho phép Tô-bia sử dụng một phòng trong sân đền thờ. 8 Tôi rất bực mình về chuyện đó nên quăng đồ đạc của Tô-bia ra khỏi phòng. 9 Tôi ra lệnh dọn sạch phòng đó rồi mang các dụng cụ dành cho đền thờ Thượng Đế, của lễ chay, và trầm hương vào. 6

Rồi tôi cũng khám phá rằng dân chúng không cấp cho người Lê-vi phần của họ. Cho nên một số người Lêvi và các ca sĩ phục vụ trong đền thờ bỏ về với ruộng nương mình. 11 Tôi khiển trách các viên chức. Tôi hỏi, “Tại sao các anh không lo cho đền thờ?” Tôi liền triệu tập người Lê-vi và các ca sĩ lại, đặt họ vào các vai trò cũ. 10

Sau đó tất cả dân chúng trong Giu-đa mang vào kho một phần mười các mùa màng, rượu mới, và dầu ô liu của họ. 12

Tôi đặt những người sau đây lo cho kho chứa: Sê-lê-mai-gia, thầy tế lễ, Xa-đốc, chuyên gia luật, và Bêđai-gia, người Lê-vi. Tôi chỉ định Ha-nan, con Xa-cua, con Ma-ta-nia, phụ giúp họ. Ai cũng biết những người nầy rất thanh liêm. Họ phân phát phần dành cho các thân nhân họ. 13

Thượng Đế ơi, xin nhớ đến tôi về điều nầy. Đừng quên lòng yêu mến của tôi cho đền thờ Ngài và các dịch vụ cho đền thờ. 14

Trong lúc đó tôi thấy mấy người Giu-đa làm việc nơi bàn ép rượu trong ngày Sa-bát. Họ mang lúa thóc và chất lên lưng lừa. Họ cũng mang rượu, nho, trái vả vào thành Giê-ru-sa-lem trong ngày Sa-bát. Tôi liền cảnh cáo họ về việc buôn bán thực phẩm trong ngày đó. 16 Dân cư từ thành Tia đang cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem cũng mang cá và những hàng hóa khác buôn bán với người Giu-đa trong ngày Sa-bát. 17 Tôi khiển trách những người có uy tín trong Giu-đa. Tôi hỏi, “Chuyện ác mấy anh đang làm đây nghĩa là gì? Mấy anh xem ngày Sa-bát cũng như các ngày khác. 18 Đó chính là điều tổ tiên các anh đã làm cho nên Thượng Đế trừng phạt chúng ta và thành phố nầy. Bây giờ mấy anh lại khiến Ngài nổi giận với dân Ít-ra-en thêm bằng cách làm nhơ nhớp ngày Sa-bát.” 15

Tôi liền ra lệnh đóng các cửa thành từ buổi chiều trước ngày Sa-bát và chỉ mở sau ngày Sa-bát mà thôi. Tôi đặt các đầy tớ tôi canh các cổng để không ai mang hàng hóa vào thành trong ngày Sa-bát. 20 Một vài lần các con buôn hàng hóa phải ngủ đêm ngoài thành Giê-ru-sa-lem. 21 Tôi liền cảnh cáo chúng, “Sao mấy anh ngủ đêm bên vách thành? Nếu mấy anh còn làm nữa tôi sẽ tống cổ mấy anh đi đó.” Từ đó về sau chúng không còn trở lại trong ngày Sa-bát nữa. 22 Rồi tôi ra lệnh cho người Lê-vi dọn mình cho sạch và canh gác cổng thành để giữ cho ngày Sa-bát được thánh. 19

Lạy Thượng Đế, xin nhớ đến tôi về điều nầy. Xin hãy tỏ lòng nhân ái đối với tôi vì tình yêu lớn lao của Ngài. Trong thời gian đó tôi thấy mấy người Giu-đa lấy các phụ nữ Ách-đốt, Am-môn, và Mô-áp làm vợ. Phân nửa con cái họ nói tiếng Ách-đốt hay vùng nào đó, chúng không biết nói tiếng Giu-đa. 25 Tôi trách móc, sỉ vả họ, đánh đập mấy người, giật tóc họ. Tôi bắt họ phải hứa với Thượng Đế rằng, “Không được gả con gái cho người ngoại quốc, cũng không cưới con gái người ngoại quốc cho con trai mình. 23 24

- 558 -


Chính các phụ nữ ngoại quốc đã khiến vua Sô-lô-môn của Ít-ra-en phạm tội. Trong các dân không có vua nào như người. Thượng Đế yêu mến Sô-lô-môn và đặt người làm vua trên cả Ít-ra-en nhưng các phụ nữ ngoại quốc xúi người phạm tội. 27 Mà bây giờ các anh bất tuân bằng cách làm điều ác nầy. Cưới vợ ngoại quốc là bất trung với Thượng Đế.” 26

Giô-gia-đa con Ê-li-a-síp là thầy tế lễ cả. Một trong các con trai Giô-gia-đa lấy con gái San-ba-lát, người Hô-rôn, làm vợ cho nên tôi đuổi nó đi khỏi mặt tôi. 28

Thượng Đế ơi, xin nhớ đến chúng nó là kẻ làm dơ bẩn chức tế lễ cùng khiến cho giao ước của thầy tế lễ và người Lê-vi ô dơ. 30 Cho nên tôi dọn sạch khỏi họ những gì có tính cách ngoại quốc. Tôi chỉ định nhiệm vụ cho thầy tế lễ và người Lê-vi, giao việc cho từng người. 31 Tôi cũng sắp xếp để người ta mang củi vào bàn thờ đều đặn và hoa quả đầu mùa cũng được mang vào đúng hạn. 29

Thượng Đế ơi, xin nhớ đến tôi; tỏ lòng nhân từ Ngài cùng tôi.

- 559 -


Ê-xơ-tê 1 (Esther) Hoàng hậu Vả-Thi bất tuân lệnh Vua 1 Chuyện xảy ra trong thời Vua A-suê-ru, hoàng đế cai trị một trăm hai mươi bảy tỉnh từ Ấn-độ đến Ê-thi-ôbi. 2 Vua đặt kinh đô tại Su-sơ. 3 Năm thứ ba lúc đang trị vì, vua mở đại tiệc thết đãi tất cả quan trong triều, những tướng lãnh từ các tiểu quốc thuộc Ba-tư và Mê-đi cùng các quan đầu tỉnh trên toàn đế quốc. Đại tiệc kéo dài một trăm tám mươi ngày. Trong suốt thời gian đó, vua A-suê-ru phô trương sự giàu sang rực rỡ của đất nước cùng quyền uy tột bực của mình. 5 Sau đó, vua lại mở một đại tiệc khác khoản đãi dân chúng tại kinh đô Su-sơ, không phân biệt sang hèn. Tiệc được tổ chức trong sân vườn vua và kéo dài bảy ngày. 6 Khắp vườn giăng màn trắng, xanh với nơ lụa tím cột quanh những vòng bạc đính trên các cột cẩm thạch. Những chiếc ghế trường kỷ bọc vàng và bạc đặt trên nền lót gạch cẩm thạch, xa cừ và hồng ngọc [a]. 7 Rượu được rót đãi trong những ly bằng vàng đủ kiểu. Rượu nhiều vô kể vì vua rất rộng rãi. 8 Vua truyền lệnh cho những kẻ hầu tiệc cứ cho khách tha hồ uống rượu tùy thích, không hạn chế. 4

9

Hoàng hậu Vả-Thi cũng mở tiệc thết đãi những phụ nữ trong hoàng cung A-suê-ru.

Qua ngày thứ bảy, khi đang ngà ngà men rượu, Vua cao hứng truyền cho bảy hoạn quan là Mê-hu-man, Bít-tha, Hạt-bô-na, Biếc-tha, A-bác-tha, Xê-tha và Cạt-cách 11 mang hoàng hậu Vả-Thi, đầu đội vương miện đến ra mắt vua, để khoe vẻ đẹp sang trọng của bà cho mọi người chiêm ngưỡng. 12 Các hoạn quan báo lệnh nầy cho hoàng hậu nhưng bà không chịu đến. Vua nổi giận phừng phừng. 10

Theo thông lệ, vua hay hội ý những chuyên gia luật pháp và trật tự công cộng. Cho nên vua A-suê-ru hỏi ý những học giả xem phải xử trí ra sao. 14 Những học giả được vua hay tham khảo ý kiến thường nhất là Cátxê-na, Xê-thát, Ách-ma-tha, Tạt-si, Mê-ra, Mạc-xê-na, Mê-mu-can. Họ là bảy quan lớn của nước Ba-tư và Mê-đi. Các quan nầy có đặc ân ra mắt vua đồng thời cũng là các quan cao cấp nhất trong vương quốc. 15 Vua hỏi họ, “Hoàng hậu Vả-Thi đã không vâng lệnh ta truyền qua các hoạn quan. Vậy theo luật pháp, ta phải xử nàng như thế nào?” 13

Mê-mu-can thưa cùng vua và các thượng quan rằng, “Hoàng hậu Vả-Thi đã làm sai không những trước mặt vua mà còn trước mặt các quan cùng tất cả dân chúng trên toàn quốc. 17 Khi vợ của các quan trong đế quốc Ba-tư và Mê-đi nghe biết hành động của Vả-Thi họ sẽ không còn nể nang chồng mình nữa. Họ sẽ bảo rằng ‘Vua A-suê-ru truyền lệnh cho hoàng hậu Vả-Thi đến nhưng bà không chịu tuân theo.’ 18 Bây giờ khi vợ của các quan trong nước Phe-rơ-sơ và Mê-đi hay biết hành động của hoàng hậu, họ cũng sẽ đối xử với chồng mình y như thế; rồi e rằng sự khinh khi và bất hoà sẽ không bao giờ chấm dứt. 16

Nếu vua bằng lòng, xin ra sắc lệnh được viết thành luật của nước Ba-tư và Mê-đi để không thể thay đổi được; luật đó cấm hoàng hậu Vả-Thi không bao giờ được ra mắt vua A-suê-ru nữa. Vua sẽ ban chức hoàng hậu cho một người khác xứng đáng hơn. 20 Xin ban hành sắc lệnh trên toàn đế quốc rộng lớn để tất cả các bà vợ sẽ kính trọng chồng mình, bất kể sang hèn.” 19

Vua cùng các quan cao cấp tán thành ý kiến của Mê-mu-can nên liền thi hành ngay lời đề nghị đó. 22 Vua ra lệnh khắp các tiểu quốc, theo từng ngôn ngữ địa phương, rằng mỗi người đàn ông phải làm chủ gia đình mình. 21

- 560 -


Ê-xơ-tê 2 Ê-xơ-tê được phong làm hoàng hậu 2 Sau khi nguôi giận, vua nhớ Vả-Thi, hành động của bà và sắc lệnh đã ban hành. 2 Các cận thần đề nghị, “Hãy tìm các cô gái trẻ đẹp cho vua. Vua sẽ chọn các quan đầu tỉnh bảo họ đưa những thiếu nữ đẹp nhất về cung vua tại kinh đô Su-sơ. Hoạn quan Hê-gai, người đảm trách các cung phi sẽ chịu trách nhiệm chăm sóc sắc đẹp cho các nàng. 4 Cô gái nào đẹp ý vua nhất sẽ được chọn làm hoàng hậu thế cho Vả-Thi.” Vua thích ý kiến đó và cho thực hành ngay. 3

Tại kinh đô Su-sơ có một người Do-thái tên Mạc-đô-chê, con trai Giai-rô, cháu Si-mê-i, chắt của Kích, thuộc chi tộc Bên-gia-min. 6 Ông bị Nê-bu-cát-nết-xa, vua Ba-by-lôn bắt cầm tù tại Giê-ru-sa-lem, và bị lưu đày cùng một lượt với Giê-hô-gia-kin, vua Giu-đa và nhiều người khác. 7 Mạc-đô-chê có người bà con tên Ha-đa-xa, con gái một người cậu. Vì Ha-đa-xa mồ côi nên Mạc-đô-chê đem về nuôi dưỡng. Ha-đa-xa còn có tên là Ê-xơ-tê. Dáng dấp nàng thanh nhã và nhan sắc thật mặn mà. Mạc-đô-chê nhận nàng làm con nuôi vì cha mẹ nàng mất sớm. 5

Khi lệnh vua được ban hành, nhiều thiếu nữ được đưa về kinh đô Su-sơ dưới sự trông coi của Hê-gai, quan đảm trách các cung phi. Ê-xơ-tê cũng được đưa về cung. 9 Ê-xơ-tê được lòng Hê-gai, nên ông cấp cho Ê-xơtê nhiều mỹ phẩm và thức ăn ngon. Ông chọn cho Ê-xơ-tê bảy tỳ nữ trong cung vua rồi đưa nàng cùng các tỳ nữ về ở khu vực tốt nhất trong cung phi tần. 8

Ê-xơ-tê không cho ai biết về gốc gác gia đình và dân tộc mình theo lời Mạc-đô-chê căn dặn. 11 Hằng ngày Mạc-đô-chê qua lại sân cung phi để thăm hỏi Ê-xơ-tê và theo dõi mọi việc diễn tiến ra sao. 10

Trước khi ra mắt vua, mỗi cô gái được chăm sóc sắc đẹp trong mười hai tháng. Sáu tháng đầu dùng dầu mộc dược và sáu tháng sau dùng dầu thơm cùng các mỹ phẩm khác. 13 Sau đó xem như sẵn sàng để gặp vua. Khi đến phiên mình, mỗi cô gái được tự chọn những vật dụng mình thích từ cung phi tần mang vào hoàng cung. 14 Buổi tối, nàng vào cung vua. Sáng hôm sau nàng trở về khu vực khác trong cung phi tần, dưới sự trông coi của hoạn quan Sa-ách-ga, người quản trị các tỳ nữ. Nàng sẽ không gặp lại nhà vua nữa trừ khi được vua yêu thích và cho gọi đích danh. 12

Đến phiên Ê-xơ-tê, con gái A-bi-hai, cậu của Mạc-đô-chê, người được ông nhận làm con nuôi, ra mắt vua. Nàng không xin gì cả, chỉ mang theo những thứ hoạn quan Hê-gai đề nghị cho mình. (Hê-gai là hoạn quan của vua coi sóc các cung phi.) Ê-xơ-tê chiếm được cảm tình của những người gặp nàng. 16 Nàng được đưa vào gặp vua trong hoàng cung vào tháng mười, tức tháng Tê-bết, năm thứ bảy triều đại vua A-suê-ru. 15

Vua yêu thích Ê-xơ-tê hơn tất cả những mỹ nữ khác. Vua thích nàng nhất nên đội vương miện lên đầu nàng và chọn nàng làm hoàng hậu thế cho Vả-Thi. 18 Sau đó vua mở đại tiệc mừng tân hoàng hậu và mời tất cả các quan chức trong triều đình tham dự. Vua tuyên bố ngày lễ trên toàn quốc và ban phát nhiều quà tặng. 17

Mạc-đô-chê khám phá âm mưu ám hại vua Khi các cô gái tập họp lần thứ nhì, Mạc-đô-chê ngồi tại cửa vua. 20 Ê-xơ-tê vẫn chưa tiết lộ cho ai biết về gốc gác gia đình và dân tộc nàng theo lời Mạc-đô-chê dặn. Nàng vâng lời Mạc-đô-chê như lúc đang còn ở nhà. 19

Một ngày kia, khi Mạc-đô-chê đang ngồi trước cửa cung vua, thì hai quan gác cửa là Bích-than và Thê-rết có chuyện bất bình và bàn định giết vua. 22 Mạc-đô-chê khám phá ra âm mưu đó liền báo cho hoàng hậu Êxơ-tê hay. Ê-xơ-tê thưa cùng vua về âm mưu mà Mạc-đô-chê vừa khám phá. 23 Người ta điều tra và thấy đúng sự thật cho nên hai quan chủ mưu ám hại vua liền bị treo cổ. Biến cố nầy được ghi lại trong sử ký triều đình đương thời trước mắt vua. 21

- 561 -


Ê-xơ-tê 3 Ha-man âm mưu tiêu diệt dân Do-Thái 3 Sau các việc đó, vua A-suê-ru thăng chức cho Ha-man, con trai Ha-ma-đa-tha, người A-gác. Vua đặt Haman làm tể tướng, trên quyền tất cả các quan trong triều đình. 2 Theo lệnh vua, các quan trong triều phải cúi lạy chào Ha-man, nhưng Mạc-đô-chê không cúi lạy cũng chẳng tỏ vẻ tôn kính Ha-man. Các quan trong triều tại cửa vua thắc mắc hỏi Mạc-đô-chê, “Tại sao ông không tuân lệnh vua?” 4 Chúng gạn hỏi ông mỗi ngày nhưng ông chẳng buồn để ý. Họ liền báo cho Ha-man hay. Họ muốn biết xem Ha-man có chấp nhận thái độ của Mạc-đô-chê hay không vì Mạc-đô-chê cho họ biết mình là người Do-thái. 3

Khi Ha-man thấy Mạc-đô-chê không cúi chào cũng chẳng tỏ vẻ tôn kính mình thì vô cùng giận dữ. 6 Haman không muốn giết chỉ một mình Mạc-đô-chê thôi nhưng mà còn tìm cách tiêu diệt cả dân Do-thái trên toàn đế quốc của vua A-suê-ru mới hả giận. 5

Vào tháng giêng gọi là tháng Ni-san, năm thứ mười hai, triều đại vua A-suê-ru, người ta bắt thăm để chọn ngày và tháng trước mặt Ha-man. Thăm rơi trúng tháng mười hai, tức tháng A-đa. 7

Ha-man tâu cùng vua A-suê-ru rằng, “Có một dân tộc ở rải rác khắp các tỉnh trong vương quốc. Phong tục họ khác hẳn với các dân tộc khác. Họ không tuân theo luật pháp của vua, chúng ta chẳng nên để họ tiếp tục sống trên lãnh thổ của vua làm gì. 9 Nếu đẹp ý vua, xin ban hành sắc lệnh hủy diệt dân tộc đó. Hạ thần xin đóng bảy trăm năm mươi ngàn cân [a] bạc vào quỹ nhà vua để lo chi phí cho việc thi hành sắc lệnh nầy.” 8

Vua liền tháo nhẫn trao cho Ha-man, con Ha-ma-đê-tha, người A-gác, kẻ thù của dân Do-thái. 11 Vua bảo Ha-man, “Tiền và dân tộc đó trong tay ngươi, muốn làm gì tùy ý.” 10

Vào ngày mười ba tháng giêng, theo lệnh Ha-man, các thư ký trong triều đình viết sắc lệnh gởi đến các thống đốc và cấp chỉ huy quân đội của các tiểu quốc và của mỗi sắc dân tùy theo chữ viết và ngôn ngữ địa phương. Sắc lệnh ký tên vua A-suê-ru và đóng ấn bằng nhẫn vua. 13 Sắc lệnh được gởi qua các sứ giả phái đến khắp nơi trong nước, truyền cho dân chúng vào ngày mười ba tháng mười hai tức tháng A-đa, hãy hủy diệt, tàn sát cho tuyệt gốc dân Do-thái, từ nhỏ tới lớn, kể cả đàn bà trẻ em và tịch thu hết tài sản của họ. 14 Bản sao sắc lệnh được gởi tới mỗi tiểu quốc như một đạo luật để mọi người đều biết và sẵn sàng thi hành. 12

Các sứ giả vội vã lên đường thi hành lệnh vua ban ra tại hoàng cung ở kinh đô Su-sơ. Vua và Ha-man ngồi uống rượu trong khi cả thành Su-sơ đều nhốn nháo. 15

Ê-xơ-tê 4 Mạc-đô-chê cầu cứu Ê-xơ-tê 4 Khi Mạc-đô-chê hay được tin dữ nầy, ông liền xé áo, mặc vải sô và đội tro, ra giữa thành phố kêu khóc thảm thiết. 2 Nhưng Mạc-đô-chê chỉ đến được tới bên ngoài cổng vua vì không ai được phép vào bên trong cổng vua đang khi mặc vải sô. 3 Khi lệnh vua được ban hành khắp nơi, dân Do-thái kêu khóc đau thương. Nhiều người bỏ ăn, nằm lăn trong vải sô và phủ tro để tỏ nỗi đau khổ. 4 Các tỳ nữ của Ê-xơ-tê và hoạn quan đến thuật cho hoàng hậu nghe chuyện Mạc-đô-chê, nàng rất buồn lòng và lo sợ. Bà gởi quần áo đến để Mạcđô-chê mặc thay vì mặc vải sô nhưng ông từ chối không mặc. 5 Hoàng hậu bảo Ha-thát, một trong những hoạn quan hầu cận nàng đi tìm Mạc-đô-chê để hỏi nguyên do. Ha-thát đến cùng Mạc-đô-chê trong khi ông đang ngồi tại công viên thành phố trước cổng vua. 7 Mạc-đôchê thuật hết mọi việc cho Ha-thát nghe rồi nhắn Ha-thát nói cùng hoàng hậu về số tiền mà Ha-man hứa đóng vào ngân quỹ nhà vua để chi phí cho việc thi hành sắc lệnh tiêu diệt dân Do-thái. 6

- 562 -


Mạc-đô-chê cũng gởi bản sao sắc lệnh tiêu diệt dân Do-thái đã được ban hành tại kinh đô Su-sơ cho Hathát và yêu cầu ông trao lại cho Ê-xơ-tê cùng kể hết mọi việc cho bà nghe để yêu cầu bà can thiệp với vua cho dân tộc mình. 8

Ha-thát về thuật lại cho Ê-xơ-tê nghe theo như lời Mạc-đô-chê căn dặn. 10 Ê-xơ-tê bảo Ha-thát đi nói cùng Mạc-đô-chê rằng, 11 “Tất cả quần thần cùng dân chúng khắp nơi đều biết rằng không ai, bất luận nam hay nữ, được tự ý vào nội điện vua mà không có lệnh đòi. Kẻ phạm luật đó sẽ bị xử tử trừ khi vua đưa cây trượng vàng ra thì mới khỏi chết.” 9

Lời nhắn của Ê-xơ-tê được chuyển lại cho Mạc-đô-chê. 13 Mạc-đô-chê nhắn với Ê-xơ-tê rằng, “Đừng tưởng ở trong cung vua mà con là người Do-thái duy nhất được thoát nạn. 14 Nếu con im lặng trong lúc nầy, dân Do-thái chắc chắn sẽ được giải cứu bằng cách khác, nhưng con và cả gia đình đều sẽ chết. Biết đâu đây là lý do mà con được chọn làm hoàng hậu?” 12

Ê-xơ-tê bảo nhắn cùng Mạc-đô-chê rằng, 16 “Hãy đi triệu tập tất cả những người Do-thái trong kinh đô Susơ, rồi vì tôi mà nhịn ăn, nhịn uống ba ngày ba đêm. Tôi cùng các tỳ nữ cũng sẽ cữ ăn. Sau đó, dù có phạm luật, tôi sẽ vào gặp vua, nếu phải chết thì tôi đành chịu.” 15

17

Mạc-đô-chê làm theo mọi điều Ê-xơ-tê căn dặn.

Ê-xơ-tê 5 Ê-xơ-tê thưa chuyện cùng vua 5 Qua ngày thứ ba, Ê-xơ-tê mặc triều phục, đứng chầu bên sân trong của cung, đối diện văn phòng vua. Vua đang ngồi trên ngai đối diện cổng vào. 2 Vừa thấy hoàng hậu đứng trong sân cung điện, vua rất vui liền đưa cây trượng vàng ra. Ê-xơ-tê tiến đến sờ vào đầu cây trượng. Vua hỏi, “Hoàng hậu Ê-xơ-tê, nàng có việc gì? Nàng muốn xin điều chi? Dù xin phân nửa vương quốc ta cũng sẽ cho.” 3

Ê-xơ-tê thưa, “Muôn tâu bệ hạ, nếu đẹp ý bệ hạ, xin mời Ngài cùng Ha-man đến dự tiệc mà thiếp đã chuẩn bị sẵn hôm nay.” 4

5

Vua bảo, “Hãy cho mời Ha-man đến lập tức để làm theo ý muốn Hoàng hậu.”

Vua và Ha-man liền đến dự tiệc hoàng hậu mời. 6 Khi đang uống rượu, Vua hỏi Ê-xơ-tê, “Nào bây giờ nàng muốn gì ta sẽ ban cho! Dù xin phân nửa vương quốc, ta cũng bằng lòng.” Ê-xơ-tê thưa, “Đây là điều thiếp muốn xin cùng bệ hạ. 8 Ngày mai, xin bệ hạ vui lòng cùng Ha-man đến dự tiệc mà thiếp đã dọn sẵn, rồi thiếp sẽ trả lời câu hỏi của bệ hạ.” 7

Ha-man nổi giận cùng Mạc-đô-chê Ha-man rời cung điện, lòng đầy hân hoan và mãn nguyện. Nhưng khi thấy Mạc-đô-chê tại cổng vua, chẳng đứng dậy cúi chào hoặc tỏ vẻ khúm núm sợ sệt trước mặt mình, Ha-man đầy lòng căm tức. 10 Nhưng ông ta cố nén giận về nhà. 9

Rồi ông mời bạn bè cùng vợ mình là Xê-rết đến. 11 Ông khoe với họ về sự giàu sang của mình và số con trai mình có. Đồng thời ông cũng thuật việc vua đã tôn trọng ông ra sao và đặt ông chỗ cao nhất trong số các quan trong triều đình. 12 Ông cũng khoe rằng, “Ta là người duy nhất có vinh dự được mời dự tiệc cùng vua do chính hoàng hậu thết đãi. Ngày mai ta cũng được hoàng hậu mời làm khách danh dự đi cùng với vua.

- 563 -


Thế nhưng những điều đó chẳng làm ta vui sướng khi mà ta còn thấy tên Do-thái Mạc-đô-chê cứ ngồi trước cổng vua.” 13

Vợ Ha-man là Xê-rết cùng các bạn hữu đề nghị, “Hãy ra lệnh dựng một cái giàn cao bảy mươi lăm bộ [a] rồi sáng mai vào xin vua treo cổ Mạc-đô-chê lên đó, xong rồi hãy vui vẻ mà đi dự tiệc với vua.” Ha-man rất thích đề nghị nầy. Ông liền ra lệnh đóng cái giàn. 14

Ê-xơ-tê 6 Mạc-đô-chê được vinh thăng 6 Đêm ấy, vua không ngủ được cho nên bảo đem sử ký triều đình đọc cho vua nghe. 2 Khi đọc đến đoạn Mạc-đô-chê khám phá âm mưu ám hại vua của hai quan giữ cổng là Bích-than và Thê-rết. 3

Vua hỏi, “Vậy Mạc-đô-chê có được tuyên dương công trạng và phần thưởng gì không?”

Các cận thần đáp, “Dạ không được gì cả.” Vua tiếp, “Ai đang ở ngoài sân vậy?” Lúc đó Ha-man vừa tới ngoài hoàng cung định vào xin vua treo cổ Mạc-đô-chê lên cây giàn ông mới cho dựng xong. 4

5

Cận thần thưa, “Dạ, Ha-man đang ở ngoài đó!”

Vua bảo, “Gọi ông ta vào đây.” 6

Ha-man bước vào. Vua hỏi, “Phải đối đãi thế nào với người mà vua muốn ban vinh dự?”

Ha-man thầm nghĩ, “Còn ai mà vua muốn ban vinh dự hơn ta nữa?” Ha-man thưa, “Đây là những điều vua nên làm cho người vua muốn ban vinh dự: 8 Bảo các tôi tớ khoác áo hoàng gia vào cho người đó, đội vương miện lên đầu và cho cỡi ngựa vua. 9 Vị đại thần cao nhất triều đình sẽ nhận áo và ngựa vua. Rồi các đầy tớ vua sẽ khoác áo lên cho người vua muốn ban vinh dự, dẫn người ấy ngồi trên ngựa quanh khắp đường phố kinh đô và hô to lên rằng, ‘Người vua ban vinh dự được đãi như thế nầy.’” 7

Vua liền bảo Ha-man, “Nhanh lên, lấy áo và ngựa của ta như lời ngươi vừa nói mặc vào cho Mạc-đô-chê, người Do-thái đang ngồi tại cổng vua. Nhớ không được bỏ sót bất cứ chi tiết nào ngươi vừa đề nghị.” 10

Ha-man lấy áo và ngựa, khoác áo vua vào cho Mạc-đô-chê, đỡ ông lên ngựa vua, dẫn đi khắp đường phố kinh đô, hô to lên rằng, “Người được vua ban vinh dự được đãi ngộ như thế nầy.” 11

Sau đó, Mạc-đô-chê trở về cổng vua, còn Ha-man vội vã trở về nhà, trùm đầu lại, cảm thấy xấu hổ và nhục nhã vô cùng. 13 Ông kể cho Xê-rết, vợ mình cùng các bạn hữu sự việc vừa xảy ra. 12

Vợ Ha-man và các bạn hữu đã cố vấn ông bảo, “Ông có vẻ thất thế trước Mạc-đô-chê rồi đó! Nếu hắn là người Do-thái, ông không thắng nổi hắn đâu; chắc thế nào ông cũng thảm bại.” 14 Đang khi họ đang còn nói chuyện thì các hoạn quan của vua tới nơi, hối hả đưa Ha-man đến dự tiệc Hoàng hậu mời.

- 564 -


Ê-xơ-tê 7 Ha-man bị treo cổ 7 Vua cùng Ha-man đến dự tiệc của Hoàng hậu Ê-xơ-tê. 2 Khi đang uống rượu, vua hỏi Ê-xơ-tê lần nữa, “Em muốn gì ta sẽ ban cho. Dù xin phân nửa lãnh thổ ta, ta cũng sẵn lòng.” Hoàng hậu Ê-xơ-tê đáp, “Tâu vua, nếu thiếp được vua thương, xin cứu lấy mạng sống thiếp cùng cả dân tộc thiếp nữa. 4 Thiếp cùng cả dân tộc đã bị bán để bị hủy diệt, sát hại cho tận gốc. Nếu dân tộc thiếp bị bán để làm nô lệ thôi thì thiếp không nói làm gì, vì điều đó chẳng đáng chi cho vua bận tâm.” 3

5

Vua A-suê-ru hỏi hoàng hậu, “Kẻ đó là ai? Đang ở đâu? Ai dám cả gan làm chuyện đó?”

6

Ê-xơ-tê đáp, “Kẻ thù ấy chính là tên Ha-man độc ác nầy.”

Ha-man hoảng kinh trước mặt vua và hoàng hậu. 7 Vua nổi giận lôi đình, bỏ ly rượu đứng dậy bước ra vườn. Còn Ha-man thì ở lại van xin hoàng hậu tha mạng vì hắn thấy rõ vua nhất quyết muốn giết mình. Khi vua từ ngoài vườn trở lại bàn tiệc, thấy Ha-man đang sấp mình lạy lục trên ghế trường kỷ nơi hoàng hậu đang ngồi, vua hét lên, “Bây giờ mà nó còn tính chuyện cưỡng hiếp hoàng hậu ngay trước mặt ta nữa chứ!” 8

Vua vừa dứt lời, các cận thần xông đến che mặt Ha-man lại. 9 Ha-bô-na, một trong các hoạn quan hầu cận thưa, “Ha-man đã cho đóng một cái giàn cao bảy mươi lăm bộ [a] bên cạnh nhà để định treo cổ Mạc-đô-chê là người đã cứu mạng vua.” Vua ra lệnh, “Vậy treo cổ tên Ha-man lên đó đi!” 10

Người ta liền treo Ha-man lên giàn thắt cổ mà Ha-man đã dựng cho Mạc-đô-chê. Rồi vua nguôi giận.

Ê-xơ-tê 8 Vua ra lệnh cứu giúp dân Do-thái 8 Trong ngày đó, vua A-suê-ru cho Hoàng hậu Ê-xơ-tê hết cả tài sản của Ha-man, kẻ thù dân Do-thái, để lại sau khi hắn chết. Còn Mạc-đô-chê được ra mắt vua vì Ê-xơ-tê đã tâu thật cùng vua rằng Mạc-đô-chê bà con với mình. 2 Vua tháo nhẫn đã lấy lại từ Ha-man trao cho Mạc-đô-chê. Ê-xơ-tê cử Mạc-đô-chê quản lý tất cả tài sản Ha-man để lại. Một lần nữa, Ê-xơ-tê vào quì dưới chân vua kêu khóc, khẩn khoản xin vua hủy bỏ âm mưu độc ác của Haman, người A-gác định tiêu diệt dân Do-thái. 4 Vua giơ cây trượng vàng ra cho Ê-xơ-tê, nàng đứng dậy trước mặt vua 3

thưa rằng, “Tâu vua, nếu thiếp được đẹp ý vua và vua xét rằng đây là điều phải lẽ, nếu vua thương thì xin vua viết sắc lệnh hủy bỏ văn thư Ha-man đã viết. Ha-man người A-gác, đã gởi chỉ thị hủy diệt dân Do-thái trên toàn vương quốc của vua. 6 Làm sao thiếp đành lòng nhìn cảnh đau thương đó xảy đến cho dân tộc thiếp, làm sao thiếp chịu nổi khi nhìn thấy gia đình thiếp bị tàn sát?” 5

Vua A-suê-ru bảo Ê-xơ-tê và Mạc-đô-chê, người Do-thái, “Vì Ha-man đã chống dân Do-thái nên ta đã cho Ê-xơ-tê tài sản hắn; quân lính ta cũng đã treo cổ hắn. 8 Bây giờ, nhân danh ta, hãy viết một chỉ thị khác theo ý các ngươi cho người Do-thái. Rồi đóng ấn nhẫn vua, vì không có văn thư nào có chữ ký và đóng ấn nhẫn vua mà có thể hủy bỏ được.” 7

- 565 -


Các thư ký vua được gọi vào cung ngày hai mươi ba tháng ba tức tháng Xi-van. Họ viết y theo những gì Mạc-đô-chê yêu cầu rồi gởi cho người Do-thái, các thống đốc, các tướng lãnh chỉ huy ở mỗi tỉnh cùng mọi viên chức khắp nơi trên toàn lãnh thổ từ Ấn-độ đến Ê-thi-ô-bi gồm một trăm hai mươi bảy tỉnh. Văn thư được soạn thảo theo chữ viết và ngôn ngữ địa phương, cho người Do-thái thì viết theo ngôn ngữ của họ. 10 Mạc-đô-chê sai viết chỉ thị mang tên vua A-suê-ru, đóng ấn nhẫn vua. Sau đó ông sai quân lính cỡi ngựa hỏa tốc là ngựa nuôi riêng cho vua, mang chỉ thị đi khắp nơi. 9

Theo chỉ thị nầy, người Do-thái ở mọi nơi có quyền tập họp để tự vệ. Họ có quyền tiêu diệt, đánh giết và tàn sát kẻ nào tấn công họ kể cả đàn bà con nít của kẻ thù. Họ cũng có quyền chiếm đoạt tài sản của kẻ thù nữa. 12 Ngày ấn định cho người Do-thái thực hiện chỉ thị nầy trên toàn đế quốc của vua A-suê-ru là ngày mười ba tháng mười hai, tức tháng A-đa. 13 Bản sao chỉ thị nầy cũng được gởi đến mỗi tỉnh để công bố thành luật cho mọi người dân trong nước biết, cũng để cho người Do-thái chuẩn bị sẵn sàng chống trả kẻ thù. 11

Theo lệnh khẩn cấp của vua, quân lính cỡi ngựa hoả tốc đem sắc lệnh đi khắp nơi, kể cả cung vua ở kinh đô Su-sơ. 14

Mạc-đô-chê mặc triều phục xanh và trắng, đội mão miện vàng với áo thụng tím bằng vải gai mịn tốt nhất từ cung vua bước ra. Cả dân chúng kinh đô Su-sơ đều lớn tiếng reo mừng. 16 Dân Do-thái vô cùng hân hoan, mừng rỡ, sung sướng và vinh dự. 17 Khi sắc lệnh vua được thông báo đến mỗi tỉnh, thì người Do-thái vô cùng hân hoan. Bất cứ tỉnh hay tiểu quốc nào khi nhận được lệnh vua thì họ mở tiệc liên hoan. Có nhiều người khắp đế quốc nhập tịch Do-thái vì họ rất sợ người Do-thái. 15

Ê-xơ-tê 9 Người Do-thái mừng chiến thắng 9 Ngày mười ba tháng mười hai tức tháng A-đa, là ngày thi hành lệnh vua, ngày mà kẻ thù dân Do-thái mong sẽ đánh bại họ trái lại đã đổi thành ngày dân Do-thái đánh bại kẻ thù mình. 2 Người Do-thái tập họp trong các thành phố khắp đế quốc A-suê-ru để tấn công kẻ định làm hại họ. Không ai đủ mạnh để chống lại người Do-thái vì ai cũng sợ họ. 3 Nhà cầm quyền các tỉnh, tướng lãnh cùng quan chức triều đình đều giúp đỡ người Do-thái vì họ rất sợ Mạc-đô-chê. 4 Mạc-đô-chê rất được tôn trọng trong cung vua. Danh tiếng ông vang lừng khắp nước vì càng ngày ông càng có thể lực. Người Do-thái dùng gươm chống trả kẻ thù, chém giết và tàn sát họ. Những kẻ nào ghét họ cũng bị chung số phận. 6 Tại cung vua ở Su-sơ họ giết năm trăm người. 7 Họ cũng giết Phạt-san-đa-tha, Đanh-Phông, A-batha, 8 Phô-ra-tha, A-đa-lia, A-ri-đa-tha, 9 Phạt-ma-na-tha, A-ri-sai, A-ri-đai và Va-giê-xa-tha 10 tức là mười con trai Ha-man, con của Ha-ma-đê-tha, kẻ thù dân Do-thái. Nhưng người Do-thái không chiếm tài sản họ. 5

Trong ngày ấy, số người bị giết tại kinh đô Su-sơ được báo cáo lên vua. 12 Vua bảo Hoàng hậu Ê-xơ-tê, “Dân Do-thái đã giết năm trăm người tại cung vua ở Su-sơ, họ cũng đã giết mười con trai Ha-man. Giờ đây em còn muốn xin điều gì nữa không trong đế quốc ta; ta sẽ làm cho. Xin gì nữa ta cũng sẽ làm cho em.” 11

Ê-xơ-tê thưa, “Nếu đẹp ý vua, xin cho người Do-thái tại kinh đô Su-sơ ngày mai được phép hành động như hôm nay và xin vua cho treo xác mười con trai Ha-man lên giàn.” 13

Vua bằng lòng và truyền sắc lệnh tại Su-sơ cho treo xác mười con trai Ha-man lên giàn. 15 Người Do-thái tại Su-sơ tập họp lại trong ngày mười bốn tháng A-đa. Họ giết thêm ba trăm người tại Su-sơ nhưng không chiếm tài sản. 14

Đồng thời người Do-thái trên toàn quốc tập họp lại để tự vệ và tiêu diệt kẻ thù. Họ giết bảy mươi lăm ngàn người thù ghét mình nhưng không chiếm tài sản. 17 Sự việc xảy ra vào ngày mười ba tháng A-đa. Qua ngày mười bốn, họ nghỉ ngơi và làm ngày ăn mừng. 16

- 566 -


Thiết lập Lễ Phu-rim Người Do-thái tại kinh đô Su-sơ đã tập họp để giết kẻ thù trong hai ngày mười ba và mười bốn tháng Ađa. Rồi ngày mười lăm họ nghỉ ngơi, mở tiệc ăn mừng. 18

Vì thế người Do-thái sống tại các vùng thôn quê hay các làng hẻo lánh hiện vẫn giữ ngày mười bốn tháng A-đa để tổ chức ăn mừng và trao quà cho nhau. 19

Mạc-đô-chê ghi lại mọi sự việc xảy ra và gởi thư cho những người Do-thái ở khắp nơi trong nước, không kể gần xa. 21 Ông dặn họ tổ chức ăn mừng hằng năm vào ngày mười bốn và mười lăm tháng A-đa, 22 vì đó là ngày diệt kẻ thù; ngày đổi buồn ra vui, than khóc ra mừng rỡ. Ông dặn họ ăn mừng hai ngày nầy, trao quà cho nhau và biếu tặng cho kẻ nghèo. 20

Người Do-thái đồng ý làm theo những điều Mạc-đô-chê dặn bảo và mừng lễ hàng năm. 24 Ha-man, con trai Ha-ma-đê-tha, người A-gác, kẻ thù dân Do-thái, người đã định tâm tiêu diệt dân Do-thái và cho bắt thăm định ngày tàn sát. 25 Nhưng khi hay biết âm mưu hãm hại người Do-thái của Ha-man thì vua đã ra lệnh dùng mưu đó hại lại Ha-man. Lệnh vua truyền treo cổ Ha-man cùng mười con trai ông ta lên giàn. 26 Ngày nầy được gọi là lễ Phu-rim, dịch từ chữ “Phu-rơ” (bắt thăm). Vì theo văn thư căn dặn và những điều họ đã chứng kiến hoặc đã xảy ra cho họ 27 nên người Do-thái đã thiết lập tập tục nầy. Họ cùng con cháu và những người nhập tịch Do-thái đều phải kỷ niệm hai ngày lễ nầy hằng năm. Họ làm đúng theo cách thức và thời gian mà Mạc-đô-chê đã ghi rõ trong văn thư. 28 Hai ngày lễ nầy sẽ được ghi nhớ và kỷ niệm từ đó về sau trong mỗi gia đình mỗi tỉnh, mỗi thành phố. Ngày lễ Phu-rim sẽ luôn được người Do-thái ăn mừng và dặn con cháu đời sau cũng phải luôn nhớ giữ lễ đó. 23

Hoàng hậu Ê-xơ-tê, con gái A-bi-hai, cùng với Mạc-đô-chê, cũng viết văn thư thứ nhì qui định lễ Phu-rim. Dùng uy quyền sẵn có, họ viết để xác nhận văn thư thứ nhất là chính xác. 30 Mạc-đô-chê gởi văn thư cho người Do-thái trong toàn thể một trăm hai mươi bảy tỉnh của vương quốc A-suê-ru với lời chúc lành và chân thật [a]. 31 Ông định ngày mừng lễ Phu-rim. Mạc-đô-chê người Do-thái cùng hoàng hậu Ê-xơ-tê ra chỉ thị cho người Do-thái cùng con cháu rằng: Trong hai ngày nầy mọi người sẽ cữ ăn và than khóc để tưởng niệm. 32 Văn thư của Hoàng hậu qui định việc giữ lễ Phu-rim được ghi vào sổ bộ. 29

Ê-xơ-tê 10 Quyền cao trọng của Mạc-đô-chê 10 Vua A-suê-ru buộc khắp nơi trong nước, kể cả các tỉnh vùng duyên hải phải đóng thuế. 2 Những công trình lớn lao cùng uy quyền của vua A-suê-ru, đều được ghi chép vào sách sử ký các vua của Mê-đi và Batư. Ngoài ra các sách vở đó còn ghi các công nghiệp của Mạc-đô-chê người mà vua đã vinh thăng. 3 Mạc-đôchê, người Do-thái, làm tể tướng đời vua A-suê-ru. Trong vòng người Do-thái ông là vị quan chức cao cấp nhất. Ông được dân tộc kính nể vô cùng vì đã giúp đỡ và bảo vệ an ninh cho toàn dân Do-thái.

- 567 -


Sách Văn chương * Les livres poétiques * Wisdom books

- 568 -


Gióp 1 (Job) Gióp, người nhân đức 1 Có một người tên Gióp sống trong xứ Út-xơ. Ông thanh liêm và ngay thật; kính sợ Thượng Đế và tránh xa điều ác. 2 Gióp có bảy trai ba gái. 3 Ông có bảy ngàn chiên, ba ngàn lạc đà, năm trăm cặp bò, và năm trăm lừa cái. Ông cũng có rất đông tôi tớ. Gióp là người giàu nhất trong tất cả các người ở Đông Phương. Các con trai ông thay phiên nhau đãi tiệc ở nhà mình và mời các chị em mình cùng dự. 5 Sau mỗi lần tiệc tàn thì Gióp bảo các con dọn mình cho thanh sạch. Sáng sớm Gióp dâng của lễ thiêu cho mỗi đứa vì ông nghĩ, “Con cái ta rất có thể đã phạm tội và nguyền rủa Thượng Đế trong lòng.” Ông làm như thế luôn luôn. 4

Sa-tăng ra mắt Chúa Một ngày kia các thiên sứ [a] ra trình diện CHÚA, Sa-tăng cũng có mặt trong vòng họ. 7 CHÚA hỏi Sa-tăng, “Ngươi ở đâu đến?” 6

Sa-tăng thưa, “Tôi đi lang thang khắp mặt đất, dạo nơi nầy nơi kia.” CHÚA hỏi Sa-tăng, “Ngươi có thấy Gióp, tôi tớ của ta không? Trên thế gian không có ai giống như nó. Thật là người thanh liêm và ngay thẳng, kính sợ Thượng Đế và tránh xa điều ác.” 8

Nhưng Sa-tăng thưa với CHÚA, “Gióp kính sợ Thượng Đế là phải. 10 Vì Ngài dựng bức tường che chở quanh người, gia đình người, và mọi tài sản người. Những gì người làm CHÚA đều ban phước. Các bầy gia súc người thật đông thiếu điều chật đất. 11 Nhưng nếu Ngài thử giơ tay ra tiêu diệt những gì mà ông ta có, ông ta sẽ nguyền rủa CHÚA tận mặt.” 9

CHÚA bảo Sa-tăng, “Được rồi. Tất cả những gì Gióp có đều nằm trong tay ngươi, nhưng ngươi không được phép đụng đến người.” 12

Sa-tăng lui ra khỏi mặt CHÚA. Một ngày kia các con trai con gái Gióp đang ăn uống trong nhà anh cả mình. 14 Có người đến báo tin cho Gióp hay, “Bò đang cày ruộng, còn lừa thì đang ăn cỏ gần đó, 15 bỗng nhiên quân Xa-ba [b] tấn công cướp đi tất cả. Họ dùng gươm giết các tôi tớ, chỉ một mình tôi thoát khỏi chạy báo tin cho ông!” 13

Người ấy còn đang nói thì kẻ khác chạy đến báo, “Sấm sét từ Thượng Đế [c] trên trời loè xuống đốt cháy tiêu hết các con chiên và tôi tớ. Chỉ một mình tôi thoát chết chạy về báo tin cho ông!” 16

Người thứ nhì còn đang nói thì một người nữa chạy vào trình, “Quân Ba-by-lôn [d] chia làm ba toán tấn công cướp hết lạc đà và giết sạch các tôi tớ. Chỉ một mình tôi thoát chạy về báo tin cho ông hay!” 17

Người thứ ba còn đang nói thì một người nữa chạy vào báo, “Các con trai con gái ông đang ăn uống tại nhà anh cả. 19 Bỗng nhiên có trận cuồng phong dữ dội từ sa mạc thổi đến ập vào bốn góc nhà. Nhà sập ai cũng chết hết. Chỉ một mình tôi sống sót chạy về báo cho ông hay!” 18

Sau khi nghe các tin ấy Gióp liền đứng dậy xé áo mình, cạo đầu chứng tỏ đau buồn cùng cực. Rồi ông sấp mặt xuống đất bái lạy Thượng Đế. 20

- 569 -


21

Ông nói:

“Sinh ra tôi đã trần truồng, Đến khi chết cũng sẽ trần truồng. CHÚA ban cho tôi đủ thứ, bây giờ CHÚA lại lấy đi. Đáng chúc tụng danh CHÚA!” 22

Trong tất cả mọi chuyện đó Gióp không hề phạm tội hay oán trách Thượng Đế.

Gióp 2 Sa-tăng lại ra mắt Chúa 2 Một ngày khác các thiên sứ [a] đến trình diện CHÚA, Sa-tăng cũng có mặt. 2 CHÚA hỏi Sa-tăng, “Ngươi ở đâu đến?” Sa-tăng thưa, “Tôi đi lang thang đây đó trên mặt đất, dạo chỗ nầy chỗ kia.” Rồi CHÚA hỏi Sa-tăng, “Ngươi có thấy Gióp tôi tớ của ta không? Trên thế gian không có ai như nó. Người thanh liêm chân thật, kính sợ Thượng Đế và tránh xa điều ác. Dù ngươi xúi ta làm hại người vô cớ, nhưng người vẫn toàn thiện.” 3

Sa-tăng đáp, “Lấy da đền da [b]! Ai có của thì đổi lấy mạng mình. 5 Nhưng Ngài thử giơ tay ra đụng đến xương thịt người xem, người sẽ nguyền rủa Ngài tận mặt.” 4

CHÚA bảo Sa-tăng, “Được rồi. Gióp ở trong tay ngươi nhưng ngươi không được đụng đến mạng sống người.” 6

Sa-tăng liền lui ra khỏi mặt CHÚA. Nó tạo ra những vết lở lói đau nhức trên thân thể Gióp, từ đỉnh đầu cho đến gót chân. 8 Gióp dùng một miếng sành để gãi. Ông ngồi trong tro khốn khổ lắm. 9 Vợ Gióp hỏi, “Sao mà ông ráng toàn thiện chi vậy? Hãy nguyền rủa Thượng Đế xong chết phứt cho rồi!” 7

Gióp đáp, “Bà nói giống người ngu. Chẳng lẽ điều gì tốt Thượng Đế cho thì lấy còn điều xấu thì không?” Dù gặp cảnh như vậy, Gióp cũng không phạm tội trong lời nói. 10

Ba bạn của Gióp đến thăm Gióp có ba người bạn: Ê-li-pha người Thê-man, Binh-đát người Su-ha và Xô-pha người Na-a-mát. Khi họ nghe Gióp gặp tai ương liền đồng ý gặp nhau đến thăm ông. Họ muốn tỏ niềm lo âu và an ủi Gióp. 12 Họ nhìn thấy Gióp từ xa nhưng suýt không nhận ra vì ông trông khác hẳn trước. Họ lớn tiếng khóc, xé quần áo và phủ bụi lên đầu tỏ dấu đau xót. 13 Rồi họ ngồi dưới đất cùng với Gióp bảy ngày bảy đêm. Không ai nói tiếng nào với ông vì thấy tình cảnh của Gióp thật vô cùng bi đát. 11

Gióp 3 Gióp nguyền rủa ngày sinh của mình 3 Sau bảy ngày Gióp lên tiếng và nguyền rủa ngày sinh của mình. 2 Ông nói:

- 570 -


“Ngày tôi sinh ra hãy lụi tàn đi, và cả cái đêm được báo tin, ‘Một bé trai đã ra đời!’ cũng không nên có. 4 Nguyện cho ngày ấy hóa ra tăm tối. Đừng để CHÚA lưu ý đến nó. Đừng để ánh sáng chiếu trên nó. 5 Nguyền cho bóng tối bao trùm ngày đó. Mong cho mây mù phủ kín nó. Nguyền bóng tối mịt mù che ánh sáng nó. 6 Nguyền bóng tối dày đặc chụp lấy nó. Đừng tính nó vào trong các ngày của năm hay đặt nó vào ngày nào trong tháng. 7 Mong cho đêm đó hoang vắng, không nghe tiếng reo vui nào. 8 Nguyền cho ai hay nguyền rủa hãy nguyền rủa ngày ấy đi. Mong cho họ đánh thức quái vật Lê-vi-a-than [a] trong biển cả. Vậy họ hãy nguyền rủa ngày tôi sinh ra đi. 9 Nguyền cho sao mai không bao giờ mọc lên cho ngày đó; Nguyền cho nó mong đợi ánh sáng ban ngày không bao giờ đến. Tôi mong nó đừng thấy ánh mặt trời lần đầu tiên, 10 vì ánh sáng đó khiến tôi ra chào đời, nó không che giấu khốn khổ khỏi mắt tôi. 11 Sao tôi không tắt hơi khi vừa mới sinh? Sao tôi không chết đi khi vừa lọt lòng mẹ? 12 Tại sao đầu gối mẹ tôi đỡ lấy tôi, và vú mẹ tôi cho tôi bú? 13 Nếu không có những điều đó, thì bây giờ tôi đã an giấc ngàn thu; tôi đã an nghỉ 14 cùng với các vua và những người khôn ngoan trên đất là những kẻ đã xây lâu đài cho mình mà nay bị đổ nát. 15 Tôi hẳn đã an giấc với các quan quyền là những kẻ chất vàng bạc đầy nhà mình. 16 Sao tôi không được chôn như đứa bé sanh non, như hài nhi không hề thấy ánh sáng ban ngày? 17 Vì trong mồ mả, kẻ ác không còn gây rối, và những kẻ làm công nhọc nhằn được an nghỉ. 18 Trong mồ mả, kẻ tù đày được thảnh thơi, không còn nghe tiếng quát tháo của chủ nô lệ nữa. 19 Người sang kẻ hèn đều nằm trong mồ, và kẻ nô lệ được giải thoát khỏi tay chủ mình. 20 Tại sao ban ánh sáng cho kẻ khốn khổ làm gì? Ban sự sống cho kẻ bất hạnh để làm chi? 21 Họ muốn chết cho rồi, nhưng cái chết không đến. Họ tìm cái chết còn hơn tìm bảo vật giấu kín. 22 Họ vô cùng hân hoan khi được đặt vào huyệt mả. 23 Họ không biết mình đi về đâu, vì Thượng Đế giấu kín tương lai của họ. 24 Khi tôi ăn, tôi chỉ than vãn vì buồn bã; lời rên siết tôi tuôn ra như nước. 25 Tôi lo những gì gớm ghê xảy đến cho tôi, Thì quả chúng đều đã xảy đến thật. 26 Tôi không an tâm hay bình thản. Tôi quá bực dọc, không thể nghỉ ngơi được!” 3

- 571 -


Gióp 4 Ê-li-pha lên tiếng 4 Sau đó Ê-li-pha ngươi Thê-man lên tiếng: “Nếu có ai tìm cách đối đáp với anh, anh có tức giận không? Tôi không thể nào làm thinh. 3 Hãy nhớ lại bao nhiêu người mà anh đã khuyên dạy và kẻ thất vọng mà chính anh đã nâng đỡ. 4 Lời khuyên của anh an ủi ngã lòng, và anh đã khuyến khích những kẻ sắp té ngã. 5 Nhưng nay khi gặp khốn khó anh chán nản; hoạn nạn đến với anh, thì anh hoảng hốt. 6 Chính ra anh phải tự tin vì anh kính sợ Thượng Đế; anh phải nuôi hi vọng vì anh vô tội. 7 Nên nhớ rằng người vô tội sẽ không chết; kẻ lương thiện sẽ không bao giờ bị tiêu diệt. 8 Tôi nhận thấy rằng kẻ cày điều ác, và gieo lộn xộn sẽ gặt lấy chúng. 9 Hơi thở của Thượng Đế sẽ tiêu diệt họ, luồng thịnh nộ của Ngài sẽ giết chết họ. 10 Sư tử có thể tha hồ gầm thét, nhưng nếu răng của sư tử cường bạo bị gãy, 11 thì nó cũng sẽ chết đói thôi. Các con của sư tử mẹ bị tản lạc. 2

Có tiếng nói với tôi trong nơi kín, lỗ tai tôi nghe tiếng thì thầm. 13 Như cơn ác mộng [a] khiến tôi không ngủ được. 14 Tôi run sợ như cầy sấy; xương cốt tôi run lập cập. 15 Có một thần lượn qua trước mặt tôi, khiến tôi rởn tóc gáy. 16 Thần đó dừng lại, nhưng tôi không biết đó là thần gì. Một hình thù đứng trước mắt tôi, và tôi nghe tiếng nói rất khẽ. Tiếng đó nói rằng, 17 ‘Loài người có công chính hơn Thượng Đế không? Con người có thể nào tinh sạch trước mặt Đấng tạo ra mình không? 18 Thượng Đế không tin các thiên sứ Ngài; Ngài thường trách họ về những lầm lỗi. 19 Nên Ngài trách loài người nhiều hơn vì là loài vốn xuất thân từ bụi đất, nhà cửa nó bằng đất sét [b], là loài dễ bị dập nát như con thiêu thân. 20 Giữa bình minh và hoàng hôn, nhiều người bị tan nát; họ chết, biến mất vĩnh viễn không ai hay biết. 21 Các dây cột lều của họ bị giật đứt, rồi họ chết không hiểu biết gì.’” 12

- 572 -


Gióp 5 5 “Gióp ơi, anh muốn kêu thì kêu, nhưng không ai trả lời đâu. Anh không thể quay đến các đấng thánh. 2 Cơn giận dữ giết kẻ dại, và lòng ganh tị diệt người ngu xuẩn. 3 Tôi đã từng thấy kẻ dại tưởng mình an toàn, nhưng bỗng nhiên chúng lìa đời [a]. 4 Con cái chúng không sống yên lành bị toà án trừng phạt không phương bênh vực. 5 Người đói khổ ăn lấy hoa lợi chúng, thậm chí lấy hết những gì mọc trong gai gốc, và người khát nước chiếm đoạt của cải nó. 6 Thời kỳ khó khăn không thể mọc lên từ đất, và chuyện lôi thôi không thể do đất sinh ra. 7 Con người sinh ra để gặp khốn khó, như tia lửa bắn lên không. 8 Nếu tôi là anh, tôi sẽ đến gặp Thượng Đế và trình nỗi khó khăn tôi trước mặt Ngài. 9 Thượng Đế làm nhiều điều kỳ diệu không thể hiểu nổi; Ngài làm vô số phép lạ không thể đếm được. 10 Ngài ban mưa xuống đất, và tưới nước cho ruộng. 11 Ngài nâng đỡ người thấp hèn, khiến kẻ buồn bã trở nên vui mừng. 12 Ngài phá hỏng mưu đồ của kẻ lường gạt, để chúng không thực hiện được. 13 Ngài bắt kẻ khôn trong mưu chước nó, phá sập kế hoạch của kẻ phỉnh gạt người khác. 14 Giữa ban ngày bóng tối chụp lấy chúng; ngay giữa trưa mà chúng sờ soạng như trong bóng tối. 15 Thượng Đế giải cứu người nghèo khổ khỏi mưu dối gạt của chúng, và khỏi bị thiệt hại bởi kẻ cường bạo. 16 Cho nên người nghèo khổ có niềm hi vọng, còn kẻ bất công bị câm miệng. Phúc cho ai được Thượng Đế sửa dạy, cho nên đừng giận Đấng Toàn Năng khi Ngài răn bảo. 18 Thượng Đế làm cho bị thương rồi băng bó lại; Ngài gây thương tích nhưng cũng chính Ngài chữa lành. 19 Trong sáu tai nạn Ngài giải cứu hết; dù bảy cảnh khốn đốn cũng không làm hại anh. [b] 20 Thượng Đế sẽ chuộc anh lại từ cõi chết trong thời kỳ đói kém, còn trong chiến trận Ngài sẽ gìn giữ anh khỏi lưỡi gươm. 21 Anh sẽ được bảo vệ khỏi lưỡi sắc bén và anh cũng chẳng nao núng khi xảy ra tai biến. 22 Còn khi hoạn nạn và đói kém đến thì anh sẽ cười khẩy chúng, anh cũng chẳng sợ dã thú, 17

- 573 -


vì anh đã kết ước với đá trong đồng, và các loài dã thú sẽ sống hoà bình cùng anh. 24 Anh biết rằng lều anh vững chắc, vì anh sẽ kiểm điểm tài sản mình và thấy không thiếu mất gì hết. 25 Anh biết mình sẽ có đông con, và dòng dõi anh sẽ nhiều như cỏ trên đất. 26 Đến khi xuống mồ thì anh vẫn còn sung sức, như các bó lúa gặt đúng thì. 23

Chúng tôi đã xem xét những điều đó, và thấy quả đúng như thế, cho nên hãy nghe và hiểu ý nghĩa chúng.” 27

Gióp 6 Gióp trả lời Ê-li-pha 6 Sau đó Gióp trả lời: “Ước gì nỗi đau khổ của tôi được cân, và cảnh bất hạnh của tôi để trên bàn cân. 3 Nỗi sầu não của tôi nặng hơn cát biển. Vì thế mà tôi ăn nói sơ xuất. 4 Các mũi tên của Đấng Toàn Năng bắn vào tôi; tinh thần tôi nhiễm nọc độc của tên. Sự kinh hoàng của CHÚA bao quanh tôi. 5 Con lừa hoang không kêu khi nó đủ cỏ để ăn, còn con bò mộng làm thinh khi có lương thực. 6 Thức ăn lạt lẽo phải có muối mới dùng được, còn tròng trắng trứng gà chẳng có mùi vị gì. 7 Tôi không thèm đụng tới các thức ăn đó, vì chúng khiến tôi đau yếu. 2

Ước gì tôi nhận được điều tôi khẩn cầu và Thượng Đế ban cho tôi điều tôi mong mỏi. 9 Ước gì Thượng Đế chà đạp tôi, Ngài hãy giết tôi đi. 10 Thì tôi sẽ được an ủi bởi điều nầy thôi: Dù đang bị đau khổ, tôi luôn luôn vâng lời Đấng Thánh. 8

Tôi không có sức chờ đợi. Chẳng có gì mà hi vọng, vậy kiên nhẫn mà làm chi? 12 Sức tôi đâu phải sức đá, thịt tôi cũng chẳng phải đồng. 13 Tôi không có khả năng tự giúp, vì sự thành công đã bị cướp khỏi tôi rồi. 11

- 574 -


Người ta hay nói, ‘Bạn mình phải tỏ ra tốt với mình khi mình lâm cảnh khốn khó, dù rằng mình không còn kính sợ Đấng Toàn Năng nữa.’ 14

Nhưng tôi không thể trông cậy vào anh em tôi. Họ như suối lúc chảy lúc ngưng, như dòng suối có khi chảy ào như nước lũ. 16 Các dòng suối đó hóa đục vì băng giá tan và dâng lên khi tuyết chảy ra. 17 Nhưng mùa khô thì chúng ngưng chảy; khi trời nóng lên thì chúng biến mất. 18 Khách lữ hành rời khỏi lối đi, lạc vào sa mạc rồi bỏ xác nơi đó. 19 Nhiều đoàn lữ khách từ Tha-ma đi tìm nước, và các con buôn Sê-ba nuôi hi vọng. 20 Họ bực dọc vì quá yên trí; khi đến nơi họ đâm ra thất vọng. 21 Các bạn cũng vô dụng như thế. Các bạn thấy điều ghê gớm thì đâm ra sợ hãi. 22 Tôi chưa bao giờ nói, ‘Cho tôi xin một món quà. Hãy dùng của cải các bạn trả nợ giùm tôi. 23 Xin hãy cứu tôi khỏi quyền lực kẻ thù. Xin hãy chuộc tôi ra khỏi nanh vuốt bọn hung bạo.’ 15

Hãy dạy tôi thì tôi sẽ im lặng. Hãy cho tôi thấy tôi quấy chỗ nào. 25 Lời thẳng thắn thường đau buốt, nhưng luận điệu các bạn chẳng chứng minh được gì. 26 Các bạn muốn chỉnh điều tôi nói chăng? Chẳng lẽ các bạn xem lời nói của người gặp khốn khó như gió thoảng qua hay sao? 27 Các bạn dám đánh cá với kẻ mồ côi, và đánh đổi cả bạn hữu mình. 28 Nhưng bây giờ hãy nhìn tôi đây. Tôi không nói dối với các bạn. 29 Hãy đổi ý; đừng bất công nữa; hãy suy nghĩ lại đi, vì có kẻ thắc mắc niềm vô tội của tôi. 30 Tôi không nói dối; Tôi biết phân biệt phải trái.” 24

Gióp 7 7 “Con người sống trên đất phải gánh công việc nhọc nhằn, ngày của họ như ngày của kẻ cần lao. 2 Họ như kẻ nô lệ ao ước bóng hoàng hôn, như lao công trông chờ lương bổng. 3 Nhưng những tháng ngày của tôi trống rỗng vô vị, và những đêm tối của tôi đầy khốn khổ.

- 575 -


Khi nằm xuống, tôi tự hỏi, ‘Chừng nào tôi sẽ thức dậy?’ Đêm dài, tôi nằm thao thức đến sáng. 5 Thân thể tôi đầy dòi bọ và ghẻ chốc, da tôi bị nứt nẻ đầy vết lở. 4

Những ngày tháng của tôi trôi qua mau hơn khung dệt cửi, đến cuối cùng không có hi vọng gì. 7 Lạy Thượng Đế, xin nhớ rằng đời sống tôi chẳng khác nào hơi thở. Mắt tôi sẽ không bao giờ còn thấy thời kỳ vui vẻ nữa. 8 Những ai đã từng thấy tôi sẽ chẳng bao giờ thấy tôi nữa; Ngài sẽ tìm tôi nhưng tôi không còn nữa. 9 Như mây tan biến không còn thấy, con người xuống mồ mả không bao giờ trở lại. 10 Họ không bao giờ trở về nhà mình nữa, và chỗ ở của họ cũng không nhận ra họ nữa. 6

Vì thế tôi sẽ không im lặng; Tôi sẽ nói lên trong cái khổ đau của tinh thần tôi. Tôi sẽ kêu rêu vì thiếu hạnh phúc. 12 Tôi chẳng phải thần hà bá cũng chẳng phải là quái vật của biển [a]. Sao CHÚA canh giữ tôi bốn bên? 13 Đôi khi tôi tưởng giường tôi sẽ an ủi tôi hay cái chõng của tôi sẽ khiến tôi thôi than thở. 14 Thì Ngài lấy mộng mị làm tôi kinh hãi, và khiến tôi hoảng sợ vì dị tượng. 15 Chẳng thà tôi bị ngột thở; còn hơn sống như thế nầy. 16 Tôi ghét sự sống tôi; tôi chẳng muốn sống đời đời. Xin để tôi yên, vì đời tôi chẳng có ý nghĩa gì. 17 Tại sao Ngài làm cho con người quan trọng và chú ý đến họ làm gì? 18 Mỗi sáng Ngài dò xét họ, và lúc nào cũng thử nghiệm họ. 19 Xin CHÚA làm ơn nhìn chỗ khác, hay để tôi có thể nuốt nước miếng được không? 20 Nếu tôi có phạm tội, thì tôi đã làm gì Ngài, hỡi Đấng trông chừng loài người? Sao Ngài dùng tôi làm đối tượng của Ngài? Phải chăng tôi đã trở thành gánh nặng cho Ngài? 21 Sao Ngài không tha thứ những sai lầm tôi và xoá bỏ tội lỗi tôi? Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ nằm xuống chung với bụi đất. Lúc đó Ngài sẽ tìm tôi, nhưng tôi không còn nữa.” 11

Gióp 8 Binh-đát đáp lời Gióp 8 Bấy giờ Binh-đát người Su-ha lên tiếng: 2

“Anh sẽ lải nhải cho đến bao giờ? Lời nói anh chẳng khác nào gió thổi.

- 576 -


Thượng Đế không vặn vẹo công lý; Đấng Toàn Năng không bẻ cong điều chính trực. 4 Con cái anh đã phạm tội cùng Thượng Đế, Nên Ngài trừng phạt tội lỗi chúng. 5 Nhưng anh hãy xin Ngài giúp đỡ và cầu xin lòng từ ái của Đấng Toàn Năng. 6 Nếu anh đạo đức và thanh liêm, Ngài sẽ bênh vực anh phục hồi địa vị cho anh. 7 Khởi điểm của anh sẽ không đáng kể, so với tương lai rạng rỡ của anh. 3

Hãy hỏi các cụ già; tìm hiểu xem tổ tiên họ học được gì, 9 vì chúng ta mới sinh ra hôm qua chưa hiểu biết gì. Đời chúng ta trên đất như vó câu qua cửa sổ. 10 Họ sẽ chỉ dạy cho anh, và nói ra những điều họ biết. 8

Cây lác không thể mọc nơi không có đầm lầy, cây sậy không thể lớn lên ở nơi không có nước. 12 Trong khi chúng đang lớn lên chưa bị cắt, chúng sẽ khô héo nhanh hơn cỏ. 13 Kẻ quên Thượng Đế cũng đồng chung số phận; hi vọng của kẻ ác sẽ không còn. 14 Chúng đặt hi vọng vào chỗ yếu ớt; niềm tin cậy của chúng chẳng khác màng nhện. 15 Khi chúng tựa vào màng nhện thì nó đứt. Chúng nắm lấy nhưng màng ấy không giữ chúng được. 16 Chúng như cây nhuần nước trong ánh mặt trời, tỏa rễ ra khắp vườn. 17 Rễ chúng bao quanh một đống đá, và tìm chỗ giữa các viên đá. 18 Nhưng khi bị bứng đi khỏi chỗ nó, thì nơi đó không còn nhìn nó nữa và bảo, ‘Ta chẳng từng thấy mầy.’ 19 Niềm vui đã tan biến; ngay chỗ đất ấy các cây khác đã mọc lên. 20 Chắc hẳn Thượng Đế không bao giờ từ bỏ người vô tội hay thêm sức cho kẻ làm ác. 21 Thượng Đế sẽ khiến miệng anh đầy tiếng cười và môi anh sẽ reo lên vui vẻ. 22 Các kẻ thù anh sẽ mang đầy nhơ nhuốc, và lều trại của kẻ gian ác sẽ biến mất.” 11

Gióp 9 Gióp đáp lời Binh-đát 9 Bấy giờ Gióp trả lời: 2

“Phải, tôi biết điều đó đúng, nhưng làm sao cho con người được vô tội trước mặt Thượng Đế? - 577 -


Ai muốn cãi lý với Ngài cũng được nhưng không ai đối đáp được với Ngài, ngàn lần Ngài vẫn thắng. 4 Sự khôn ngoan của Ngài thật sâu sắc, quyền năng Ngài bao la; không ai chiến đấu với Ngài mà không bị tổn thương. 5 Ngài dời núi đi không ai hay biết, lật nhào chúng trong cơn giận Ngài. 6 Ngài lay chuyển đất ra khỏi chỗ nó, và khiến nền nó rúng động. 7 Ngài truyền cho mặt trời ngưng chiếu sáng, và tắt các ánh sao. 8 Chỉ một mình Ngài trải các bầu trời ra, và bước đi trên các lượn sóng biển. 3

Chính Ngài đã làm ra các sao Bắc đẩu, sao Cày, sao Rua, và chòm sao Nam Tào [a]. Ngài khiến các hành tinh băng qua nam bán cầu [b]. 10 Ngài làm nhiều điều diệu kỳ không thể hiểu nổi; và vô số các phép lạ không thể đếm được. 11 Khi Ngài vượt qua, tôi không thấy Ngài; Khi Ngài đi ngang qua, tôi không nhận biết Ngài. 12 Khi Ngài giật lấy, không ai cản Ngài được hay hỏi Ngài, ‘Chúa làm gì vậy?’ 13 Ngài không kìm hãm cơn thịnh nộ. Thậm chí các bề tôi của quái vật Ra-háp cũng nằm sóng sượt vì khiếp sợ dưới chân Ngài. 14 Cho nên làm sao tôi biện luận được với Thượng Đế, hay tìm lời lẽ tranh luận với Ngài? 15 Dù cho có lý đi nữa, tôi cũng không thể trả lời Ngài; Tôi chỉ có thể kêu xin lòng nhân ái của Thượng Đế, Quan Án tôi. 16 Nếu tôi kêu Ngài và Ngài trả lời, tôi vẫn không tin Ngài chịu nghe tôi. 17 Ngài sẽ lấy cơn bão tố đè bẹp tôi và thêm cho tôi nhiều thương tích vô cớ. 18 Ngài không cho tôi lấy hơi, nhưng bao trùm tôi bằng khốn khổ. 19 Sức mạnh Ngài lớn hơn tôi; không ai có thể cáo Ngài về sự công chính. 20 Dù cho tôi có lý đi nữa, miệng tôi sẽ bảo tôi sai lầm; Dù cho tôi vô tội, miệng tôi sẽ nói tôi có tội. 21 Tôi vô tội nhưng tôi đâu dám nhận. Tôi chán đời sống tôi. 22 Vì thế mà tôi nói, ‘Đằng nào cũng thế thôi. Thượng Đế tiêu diệt người vô tội lẫn kẻ có tội.’ 23 Khi tai ương mang đến chết chóc bất ngờ, Thượng Đế sẽ cười trên đau khổ của người vô tội. 24 Khi xứ rơi vào tay kẻ gian ác, thì Ngài bịt mắt các quan án, không cho họ thấy. Nếu Thượng Đế không làm điều đó thì ai làm? 9

Những ngày tháng tôi qua mau hơn lực sĩ chạy đua; bay đi không thấy có niềm vui nào. 26 Chúng lướt mau như thuyền lác. Chúng bổ nhào như chim ưng vồ mồi. 25

- 578 -


Dù cho tôi nói, ‘Tôi sẽ không than van nữa; tôi sẽ đổi sắc mặt và tươi cười,’ 28 Tôi vẫn gớm ghê mọi đau khổ tôi. Tôi biết Ngài cho rằng tôi có tội. 29 Vì tôi đã bị xem như có tội rồi, cho nên cố gắng mà làm chi? 30 Dù tay tôi rửa bằng xà bông, thân tôi tắm thật sạch sẽ, 31 Ngài sẽ vẫn đẩy tôi xuống hố nhơ nhớp [c], thậm chí đến áo quần tôi cũng gớm ghê tôi. 32 Thượng Đế không phải là con người như tôi nên tôi không thể tranh luận với Ngài. Tôi không thể đưa Ngài ra tòa. 33 Ước gì có ai giảng hoà giữa chúng tôi [d], phân xử trường hợp chúng tôi. 34 Người đó có thể cất đi hình phạt của Thượng Đế để sự kinh hoàng của Ngài không làm tôi khiếp sợ nữa. 35 Lúc đó tôi sẽ nói lên mà không sợ sệt, nhưng hiện nay tôi không làm như thế được.” 27

Gióp 10 10 “Tôi chán sống, cho nên tôi phải kêu ca không ngần ngại; Tôi phải nói vì tôi bực dọc. 2 Tôi sẽ thưa cùng Thượng Đế: Xin đừng bắt lỗi tôi xin cho tôi biết tại sao Ngài nghịch tôi. 3 Ngài có vui sướng khi làm khổ tôi không? Ngài không lo cho tôi vốn là công trình của tay Ngài sao? Ngài có vui về âm mưu kẻ ác chăng? 4 Ngài có mắt và thấy như loài người không? 5 Ngày của CHÚA có ngắn ngủi như ngày của con người, và năm của Ngài ngắn như năm của con người không? 6 CHÚA tìm điều ác tôi đã làm, và lùng kiếm tội lỗi tôi. 7 Ngài biết tôi không có lỗi gì, nhưng không ai cứu tôi thoát khỏi quyền lực của Ngài. 8 Tay CHÚA nắn và dựng nên tôi. Chẳng lẽ CHÚA quay trở lại và diệt tôi sao? 9 Xin nhớ rằng Ngài nắn tôi như đất sét. Bây giờ không lẽ Ngài khiến tôi trở về bụi đất lại? 10 Ngài tạo tôi trong bụng mẹ tôi, như phó mát ra từ sữa. 11 Ngài mặc da thịt cho tôi; khâu tôi lại cùng với xương và bắp thịt. 12 Ngài ban cho tôi sự sống và tỏ ra lòng nhân từ Ngài, và chăm sóc, trông nom đời tôi. 13 Nhưng trong lòng Ngài có các chương trình khác. Tôi biết nó nằm trong trí Ngài. 14 Nếu tôi phạm tội, Ngài sẽ trông chừng tôi và không bao giờ tha thứ cho tôi.

- 579 -


Nếu tôi có tội thì số phận tôi sẽ vô cùng kinh khủng! Dù cho tôi có lý đi nữa, tôi cũng không dám ngước đầu lên. Tôi đầy tủi nhục và chỉ nếm biết đau khổ. 16 Nếu tôi ngước đầu lên, Ngài sẽ săn tôi như sư tử và dùng quyền năng kinh khiếp đè trên tôi. 17 Ngài đưa các nhân chứng mới ra nghịch tôi, và gia tăng cơn giận Ngài cùng tôi. Đạo quân CHÚA tung ra nghịch tôi. 18 Vậy tại sao Ngài để tôi ra đời làm gì? Ước gì tôi đã chết trước khi có người nào thấy tôi. 15

Ước gì tôi không bao giờ sống, nhưng được đưa ngay xuống mồ khi vừa mới chào đời. 20 Chuỗi ngày ngắn ngủi của tôi gần kết thúc. Xin cho tôi yên để tôi có thể hưởng được một giây phút an vui. 21 Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ lìa đời; không bao giờ trở lại từ vùng đen tối ảm đạm, 22 từ đất của đêm tăm tối nhất, từ xứ bi thảm và hỗn loạn, nơi mà ánh sáng chỉ là bóng tối thôi.” 19

Gióp 11 Xô-pha trả lời Gióp 11 Bấy giờ Xô-pha, người Na-a-mát lên tiếng: “Những lời anh nói chẳng lẽ không ai đối đáp sao? Người lắm điều nầy có lý chăng? 3 Lời nói dối của anh khiến người ta không im lặng nổi; họ phải chỉnh anh khi anh chế giễu Thượng Đế. 4 Anh nói, ‘Lời giáo huấn của tôi là đúng, tôi tinh sạch trước mặt Thượng Đế.’ 5 Tôi ước gì Thượng Đế lên tiếng, và mở miệng nghịch anh; 6 cho anh biết những bí mật của sự khôn ngoan, vì khôn ngoan có hai mặt. Hãy biết rõ điều nầy: Thượng Đế đã bỏ qua một số tội lỗi của anh. 2

Anh có biết bí mật của Thượng Đế không? Anh có thể nào tìm được giới hạn của Đấng Toàn Năng không? 8 Giới hạn của Ngài cao hơn trời; anh với không tới! Sâu hơn mồ mả; anh không thể hiểu nổi! 9 Giới hạn Ngài dài hơn trái đất, và rộng hơn đại dương. 10 Nếu Thượng Đế đến bắt nhốt anh vào tù, hay gọi anh ra trước tòa, thì không ai có thể cản Ngài được. 11 Thượng Đế biết ai gian ác, và khi Ngài thấy điều ác, thì Ngài để ý. 12 Kẻ ngu không thể tự nhiên hóa khôn, cũng như lừa hoang không thể tự thuần hóa. 7

- 580 -


Anh phải dâng hết tấm lòng cho Ngài, và giơ tay ra xin Ngài giúp đỡ. 14 Hãy gỡ tội lỗi ra khỏi tay anh đi; đừng để điều ác nào còn lảng vảng trong lều anh. 15 Bấy giờ anh có thể ngước mặt lên mà không xấu hổ, và anh có thể đứng hiên ngang mà không sợ hãi. 16 Anh sẽ quên nỗi khốn khổ của mình, và chỉ còn nhớ nó như nước chảy qua cầu. 17 Đời anh sẽ sáng rỡ như ánh mặt trời giữa trưa, và bóng tối sẽ như sớm mai. 18 Anh sẽ cảm thấy an toàn vì có hi vọng; anh sẽ nhìn quanh và bình yên an nghỉ. 19 Anh sẽ nằm xuống không sợ hãi ai. Nhiều người sẽ cầu ơn của anh. 20 Nhưng kẻ ác không thể thấy, cho nên chúng không thoát được. Niềm hi vọng duy nhất của chúng là cái chết.” 13

Gióp 12 Gióp đáp lời Xô-pha 12 Bấy giờ Gióp trả lời: “Chắc anh cho rằng chỉ có một mình anh khôn ngoan, nhưng khi anh chết, cái khôn của anh cũng chết theo với anh! 3 Trí tôi cũng không thua kém trí anh; anh chẳng có gì hơn tôi đâu. Anh nói những điều mà ai cũng biết. 2

Các bạn hữu tôi chê cười tôi. Khi tôi kêu xin CHÚA mong Ngài trả lời; họ chế diễu tôi mặc dù tôi có lý và vô tội! 5 Những kẻ sống sung sướng không thèm biết đến những khốn khổ của người khác; họ cho rằng những kẻ đó gặp khốn khổ là phải. 6 Lều của bọn trộm cướp không hề bị quấy phá, còn kẻ chọc tức Thượng Đế được yên thân. Chúng nó dường như có thần phù hộ trong túi. 4

Hãy hỏi thú vật, chúng sẽ dạy anh, hay hỏi chim trời, chúng sẽ cho anh biết. 8 Hãy nói với đất, nó sẽ chỉ bảo anh, hay để loài cá dưới biển chỉ dạy anh. 9 Ai cũng biết rằng, tay của CHÚA đã tạo ra chúng. 10 Sự sống của mỗi sinh vật, và hơi thở của mọi người đều nằm trong tay Thượng Đế. 11 Lỗ tai thử lời nói, còn lưỡi để nếm thức ăn. 12 Người lớn tuổi có khôn ngoan, sống lâu được thông hiểu. 13 Nhưng chỉ một mình Thượng Đế có được khôn ngoan, và quyền năng, mưu lược và thông hiểu. 7

- 581 -


Điều gì Ngài phá sập, không ai xây lại được; kẻ bị Ngài cầm tù không thể được giải thoát. 15 Nếu CHÚA giữ nước lại liền có hạn hán; khi Ngài mở nước ra liền có lụt lội trên đất. 16 Ngài có sức mạnh và đắc thắng, kẻ lường gạt và người bị lường gạt đều thuộc về Ngài. 17 Thượng Đế bắt giải kẻ khôn ngoan đi như đám tù binh, biến các quan án ra như kẻ dại. 18 Ngài tháo các xiềng xích mà vua chúa đã cột vào, và cho họ mặc áo quần. 19 Ngài dẫn các thầy tế lễ đi trần truồng, và tiêu diệt kẻ quyền thế. 14

Ngài khiến kẻ tín nhiệm câm miệng, và tước lấy sự khôn ngoan của các bô lão. 21 Ngài đổ sỉ nhục trên các kẻ quyền quí, và tước vũ khí của kẻ mạnh. 22 Ngài phơi bày những điều thẳm sâu của bóng tối và đưa những điều kín giấu ra ánh sáng. 23 Ngài làm cho các quốc gia trở nên hùng cường rồi Ngài làm chúng suy tàn; Ngài khiến các dân tộc bành trướng, rồi phân tán họ. 24 Ngài tước lấy sự khôn ngoan của các lãnh tụ trên đất, khiến họ lang thang qua một sa mạc hoang vu không lối đi. 25 Họ dò dẫm trong bóng tối, họ loạng choạng như kẻ say.” 20

Gióp 13 13 “Mắt tôi đã thấy những điều ấy; tai tôi đã nghe hiểu tất cả. 2 Điều gì các anh biết tôi cũng biết. Các anh chẳng có gì hơn tôi. 3 Nhưng tôi muốn nói chuyện với Đấng Toàn Năng, và biện luận với Ngài về hoàn cảnh tôi. 4 Các anh bôi lọ tôi bằng những lời bịa đặt. Mấy anh đều là y sĩ bất tài! 5 Ước gì các anh làm thinh; thì các anh mới thực sự khôn ngoan! Hãy lắng nghe lời biện luận tôi, ráng nghe lời bào chữa của môi tôi. 7 Các anh đừng nhân danh Thượng Đế mà bêu xấu; các anh không thể dùng lời láo khoét mà nói về chân lý của Thượng Đế. 8 Các anh đừng về phe Ngài mà chống tôi một cách bất công; không nên biện hộ giùm Thượng Đế. 9 Nếu Ngài tra xét, các anh cũng sẽ không khá đâu; các anh không thể gạt Thượng Đế như gạt người phàm được. 6

- 582 -


Chắc chắn Thượng Đế sẽ khiển trách các anh nếu các anh thiên vị, về hùa theo một bên. 11 Sự vinh quang sáng rực của Ngài sẽ làm các anh kinh khiếp, và Ngài sẽ làm các anh hoảng sợ. 12 Những châm ngôn khôn ngoan của các anh rốt cuộc vô dụng như tro bụi, lập luận các anh yếu ớt như đất sét. 10

Hãy im lặng nghe tôi nói. Điều gì xảy đến với tôi cũng được. 14 Tại sao tôi phải liều mạng, và tự nắm lấy số phận trong tay mình? 15 Dù Thượng Đế giết tôi, tôi cũng vẫn vững tin nơi Ngài [a]; Tôi sẽ bênh vực mình trước mặt Ngài. 16 Đây là sự cứu rỗi tôi. Kẻ ác không thể đến trước mặt Ngài. 17 Hãy lắng nghe kỹ lời tôi; lỗ tai các anh hãy nghe điều tôi nói đây. 18 Nầy, tôi đã chuẩn bị lý đoán, và tôi sẽ chứng tỏ mình có lý. 19 Không ai có thể cáo tôi làm bậy. Nếu ai làm được, tôi sẽ im miệng và chịu chết. 13

Lạy Thượng Đế, xin cho tôi hai điều thôi, rồi tôi sẽ không lẩn trốn Ngài: 21 Xin hãy cất sự trừng phạt Ngài khỏi tôi, và đừng dùng sự kinh khiếp Ngài làm tôi hoảng sợ. 22 Rồi hãy kêu tôi, tôi sẽ trả lời, hay để tôi nói, còn Ngài trả lời. 23 Tôi đã làm bao nhiêu điều ác và phạm bao nhiêu tội? Xin hãy cho tôi thấy việc quấy hay tội lỗi tôi phạm. 24 Xin đừng giấu mặt Ngài khỏi tôi; và đừng xem tôi như kẻ thù Ngài. 25 Xin đừng trừng phạt chiếc lá bị gió thổi bay; đừng đuổi theo cọng rạ khô. 26 CHÚA ghi lại những điều dữ nghịch tôi, bắt tôi chịu khổ sở vì những tội lỗi tôi phạm thuở niên thiếu. 27 Ngài còng chân tôi vào xiềng, và theo dõi các bước đi tôi. Ngài ghi dấu nơi bàn chân tôi. 28 Tôi hao mòn như đồ mục thối, như áo quần bị mọt ăn.” 20

Gióp 14 14 “Chúng ta là con người do đàn bà sinh ra, sống tạm ít ngày đầy nhọc nhằn, 2 Lớn lên như hoa cỏ rồi khô héo tàn lụi. Đời chúng ta chẳng khác nào bóng bay qua không trở lại. 3 Lạy CHÚA, Ngài có cần theo dõi tôi như thế nầy không? Ngài phải mang tôi đến trước Ngài để chịu xét xử sao? 4

Không ai tìm được cái sạch trong cái dơ bẩn bao giờ.

- 583 -


Đời sống chúng ta có hạn định. CHÚA ban cho chúng ta sống bao nhiêu thời gian đó, và đặt giới hạn mà chúng ta không thể vượt qua. 6 Cho nên xin hãy để mặc chúng tôi, cho đến khi chúng tôi làm hết giờ như lao công. 5

Nếu loài cây bị chặt xuống, nó vẫn có hi vọng mọc lên trở lại và đâm nhánh mới. 8 Dù cho rễ nó già cỗi trong đất, hay gốc nó chết trong bùn đất, 9 khi có nước nó liền mọc lên và đâm chồi mới như cây non. 10 Nhưng khi con người chết, thân xác vùi trong bụi đất; thở hơi cuối cùng rồi biến mất. 11 Nước biến mất khỏi hồ, còn sông mất nguồn nước rồi khô cạn. 12 Cũng vậy, chúng ta nằm xuống rồi không ngồi dậy nữa; chúng ta không dậy hay được đánh thức cho đến khi trời đất biến đi. 7

Ước gì Ngài giấu tôi trong huyệt mả; giấu tôi cho đến khi cơn giận Ngài qua đi. Ước gì Ngài định kỳ hạn để nhớ đến tôi! 14 Khi con người chết, có sống lại được không? Những ngày của đời tôi là cả một sự chiến đấu; Tôi sẽ chờ đợi cho đến khi tôi được giải thoát [a]. 15 CHÚA sẽ kêu và tôi sẽ trả lời; Rồi tôi là công trình của tay Ngài, sẽ trở thành quan trọng đối với Ngài. 16 Rồi Ngài sẽ đếm các bước chân tôi, nhưng Ngài sẽ không theo dõi tội lỗi tôi. 17 Những sai lầm tôi sẽ được niêm phong, và Ngài sẽ che lấp tội lỗi tôi. 13

Núi bị trôi đi và sụp đổ, đá bị xô đi khỏi vị trí nó. 19 Nước chảy làm đá mòn, và cuồng lưu cuốn trôi bùn đất. Cũng vậy, Ngài phá tan hi vọng tôi. 20 Ngài đánh bại con người, nó không còn nữa; Ngài đuổi nó đi sau khi biến đổi diện mạo nó. 21 Con cái nó được vẻ vang, nhưng nó chẳng hay biết; con cái nó bị nhơ nhuốc, nhưng nó cũng chẳng thấy. 22 Nó chỉ cảm biết thân thể mình đau buốt, rồi tự thương hại mình.” 18

Gióp 15 Ê-li-pha đáp lời Gióp 15 Bấy giờ Ê-li-pha người Thê-man lên tiếng:

- 584 -


“Nếu anh khôn ngoan, anh sẽ không dùng lời rỗng tuếch để đối đáp, hay dùng những lời khoe khoang để nói. 3 Không ai biện luận với những lời vô ích, hay đăng đàn diễn thuyết trống không. 4 Nhưng anh hủy hoại lòng tôn kính Thượng Đế, và giới hạn sự thờ phụng Ngài. 5 Tội lỗi anh dạy môi anh phát ngôn; anh dùng lời nói để bịp kẻ khác. 6 Chính miệng anh, không phải miệng tôi, chứng tỏ anh gian ác, chính môi anh làm chứng nghịch anh. 2

Anh đâu có phải người đầu tiên mới sinh; anh cũng chẳng già hơn núi. 8 Anh cũng không nghe được lời bàn bạc kín đáo của Thượng Đế. Nhưng anh tự lấy cái khôn mình làm giới hạn cho mình. 9 Anh chẳng biết gì hơn chúng tôi. Cũng không hiểu nhiều hơn chúng tôi. 7

Giữa chúng tôi cũng có kẻ tuổi cao tóc bạc; họ còn già hơn cả cha anh nữa. 11 Niềm an ủi Thượng Đế ban cho anh chưa đủ, thậm chí những lời êm dịu nói cùng anh cũng không đủ sao? 12 Phải chăng tâm hồn anh đã khiến anh xa cách Thượng Đế? Tại sao mắt anh long lên sòng sọc? 13 Tại sao anh bày tỏ cơn giận mình cùng Thượng Đế? Tại sao anh để những lời lẽ như thế tuôn ra từ miệng anh? 10

Có ai tinh sạch không? Có ai do đàn bà sinh ra mà đạo đức không? 15 Thượng Đế không tin các đấng thánh [a] của Ngài, ngay đến các từng trời cũng còn chưa tinh sạch trước mắt Ngài. 16 Huống hồ kẻ đáng ghê tởm và thối nát, uống điều gian ác như uống nước thì làm sao tinh sạch được? 14

Hãy lắng tai, tôi sẽ giải thích cho anh; Tôi sẽ thuật lại điều mắt tôi đã thấy. 18 Đó là những điều người khôn ngoan thuật lại; cha ông họ dạy họ, không giấu diếm điều gì. 19 Đất được cấp cho tổ tiên họ mà thôi, không một người ngoại quốc nào được sống chung với họ. 20 Kẻ ác cả đời chịu khổ; kẻ hung bạo khốn khổ suốt những năm tháng dành cho chúng. 21 Những tiếng kêu khủng khiếp văng vẳng bên tai chúng, và khi chúng nó tưởng mọi việc tốt đẹp, thì kẻ cướp xông vào chúng. 22 Kẻ ác thôi không tìm cách trốn bóng tối nữa; vì số phận chúng sẽ chết vì lưỡi gươm. 23 Chúng lang thang đây đó rồi rốt cuộc làm mồi cho kên kên. Chúng biết bóng tối sẽ đến. 24 Lo âu và khốn khổ làm chúng hoảng sợ; bao trùm chúng như vua sẵn sàng tấn công, 17

- 585 -


vì chúng giơ tay lên chống lại Thượng Đế, và hành động tự ý nghịch lại Đấng Toàn Năng. 26 Chúng ngang nhiên dùng thuẫn dầy, và cứng để chống lại Ngài. 27 Dù cho mặt mày của kẻ ác béo phệ, và bụng chúng đầy mỡ, 28 chúng sẽ sống trong các thị trấn bị tàn phá, trong những căn nhà hoang vắng, đang sụp đổ tan tành. 29 Kẻ ác không thể nào giàu có được, còn của cải chúng cũng không bền lâu; tài sản chúng không còn trải dài trên đất. 30 Chúng sẽ không thể nào thoát khỏi bóng tối. Một ngọn lửa sẽ thiêu đốt những cành cây của chúng; Hơi thở của Thượng Đế sẽ thổi bay kẻ ác đi. 31 Kẻ ác không nên tự gạt bằng cách trông cậy vào những điều vô ích. Vì chúng sẽ chẳng nhận được gì. 32 Các cành cây của chúng sẽ khô héo trước kỳ hạn chẳng thể nào hóa xanh tươi được. 33 Chúng giống như dây nho bị tuốt trái non, như cây ô-liu bị mất hoa. 25

Kẻ không có Thượng Đế sẽ chẳng làm được gì. Lửa sẽ thiêu đốt lều của kẻ nhận hối lộ để làm điều ác, 35 là kẻ gây rối loạn và gieo điều ác, trong lòng chỉ mưu phỉnh người khác.” 34

Gióp 16 Gióp đáp lời Ê-li-pha 16 Sau đó Gióp trả lời: “Tôi đã từng nghe những điều đó. Các anh an ủi kiểu gì mà chỉ gây bực dọc! 3 Những bài diễn thuyết lê thê của các anh không dứt sao? Tại sao các anh cứ mãi biện luận? 4 Tôi cũng có thể nói được như các anh nếu các anh ở địa vị tôi. Tôi cũng có thể diễn thuyết hay ho chống lại các anh, và lắc đầu nhìn các anh. 5 Nhưng tôi muốn giục giã các anh, dùng lời nói trấn an các anh. 2

Dù cho tôi nói thì nỗi đau đớn của tôi chẳng vơi đi, còn nếu tôi không nói thì nỗi khổ tôi cũng không dịu đi chút nào. 7 Thượng Đế ôi, Ngài đã cất lấy sức lực tôi, và tiêu diệt gia đình tôi. 8 Ngài làm cho tôi ốm yếu gầy còm, để chứng tỏ tôi đã làm quấy. 6

- 586 -


Thượng Đế tấn công và xâu xé tôi trong cơn giận Ngài; Ngài nghiến răng nhìn tôi; kẻ thù tôi ngó tôi mà mắt long lên sòng sọc. 10 Người ta mở miệng chế diễu tôi, vả má sỉ nhục tôi. Chúng họp nhau lại chống nghịch tôi. 11 Thượng Đế đã giao tôi cho kẻ ác, và trao tôi vào tay kẻ hung bạo. 12 Tôi đang yên ổn, thì Ngài đập tôi ra từng mảnh; Ngài nắm cổ chà đạp tôi. Ngài biến tôi thành cái bia; 13 Những xạ thủ bắn tên của Ngài vây quanh tôi. Ngài đâm hông tôi không thương tiếc; Ngài đổ mật [a] tôi ra trên đất. 14 Thượng Đế tấn công tôi nhiều lần; Ngài lao vào tôi như chiến sĩ. 9

Tôi đã khâu trên da tôi một lớp vải sô tỏ dấu buồn bực và chôn vùi mặt tôi trong bụi đất. 16 Mặt tôi đỏ lên vì than khóc; hai mắt tôi có quầng thâm. 17 Tuy nhiên tay tôi không làm điều gì hung ác, và lời cầu nguyện tôi tinh sạch. 18 Đất ơi, đừng che lấp máu huyết tôi [b]. Hãy để tiếng khóc tôi được mọi người nghe đến! 19 Ngay giờ đây tôi có người bênh vực tôi trên thiên đàng; Đấng bào chữa tôi ngự trên cao. 15

Đấng nói hộ cho tôi là bạn tôi. Mắt tôi nhỏ lệ trước mặt Thượng Đế. 21 Ngài cầu xin Thượng Đế giùm cho một con người như kẻ [c] biện hộ giùm bạn mình. 20

22

Chỉ còn có vài năm nữa thôi, rồi tôi sẽ làm cuộc hành trình dài, không trở về.”

Gióp 17 17 Tinh thần tôi lụn bại; đời tôi hầu như tàn rồi. Mồ mả đang chờ đợi tôi. 2 Những kẻ cười nhạo tôi đang vây quanh tôi; Tôi nhìn họ sỉ nhục tôi. “Lạy Thượng Đế, xin hứa cùng tôi. Vì không ai chịu cam kết hộ tôi. 4 Ngài đóng trí họ để không còn hiểu biết. Đừng để họ thắng tôi. 5 Có kẻ nhận của hối lộ để làm chứng nghịch bạn mình, nhưng làm như thế, mắt con cái nó sẽ bị mù [a]. 3

6

Thượng Đế đã khiến tên tôi thành lời nguyền rủa; người ta phỉ nhổ vào mặt tôi.

- 587 -


Tôi buồn thảm đến nỗi mờ mắt, thân hình tôi dẹp như cái bóng. 8 Người nhân đức sẽ bất bình về điều nầy; người vô tội tức tối về kẻ nghịch lại Thượng Đế. 9 Nhưng ai công chính sẽ cứ mãi làm điều công chính, còn ai có tay không bị dơ bẩn vì tội lỗi sẽ càng ngày càng vững mạnh. 7

Nhưng các anh hãy ráng chứng tỏ tôi sai đi! Tôi chẳng thấy có ai khôn trong vòng các anh cả. 11 Đời tôi tàn rồi, chương trình tôi bị phá hủy, cùng với ước vọng của lòng tôi. 12 Các anh cho đêm là ngày; khi bóng tối đến các anh nói, ‘Ánh sáng gần ló dạng.’ 10

Nếu mồ mả là hi vọng chỗ tôi ở, nếu tôi trải giường tôi trong bóng tối, 14 Nếu tôi nói với nấm mồ, ‘Ngươi là cha ta,’ và nói với dòi bọ, ‘Ngươi là mẹ ta’ hay ‘Ngươi là chị em ta,’ 15 thì hi vọng tôi ở đâu? Ai có thể nhìn thấy hi vọng nào cho tôi? 16 Hi vọng có đi xuống cửa cõi chết không? Chúng ta có cùng nhau đi vào bụi đất không?” 13

Gióp 18 Binh-đát đáp lời Gióp 18 Lúc đó Binh-đát người Su-ha lên tiếng: “Khi nào anh mới thôi diễn thuyết? Anh hãy tế nhị thì chúng ta mới nói chuyện được. 3 Anh xem chúng tôi như trâu bò, cho chúng tôi là đồ ngu si. 4 Cơn giận của anh chỉ hại anh thôi. Chẳng lẽ trái đất chỉ để cho một mình anh tung hoành? Chẳng lẽ Thượng Đế phải dời núi đi vì anh? 2

Đèn của kẻ ác sẽ bị dập tắt, và ngọn đèn của chúng sẽ không còn cháy sáng. 6 Đèn trong lều chúng sẽ tối đen, và đèn bên cạnh chúng sẽ tắt. 7 Các bước đi vững chắc của chúng sẽ yếu dần; chúng sẽ rơi vào bẫy gian ác của mình. 8 Chân chúng sẽ mắc vào lưới, chúng rơi vào bẫy và mắc kẹt. 9 Một cái bẫy sẽ bắt lấy gót chúng, và giữ chặt lại. 10 Dưới đất có giăng sẵn một cái bẫy, ngay trên lối đi chúng. 11 Các chuyện khủng khiếp sẽ làm chúng hoảng sợ bốn bên, và đuổi theo chúng từng bước. 5

- 588 -


Đói kém làm chúng hao mòn sức lực, và thảm họa kề sát bên chúng. 13 Bệnh tật ăn mòn da chúng; cái chết [a] gậm nhấm tay chân chúng. 14 Chúng bị giật ra khỏi lều trại, nơi an toàn của chúng và bị lôi đến trước Thần Chết, vua của kinh hoàng. 15 Lều trại chúng phát hỏa, còn diêm sinh rải rắc khắp nhà chúng. 16 Rễ chúng khô dưới đất, và nhánh chúng khô bên trên. 17 Dân cư trên đất không nhớ chúng nữa; tên tuổi chúng sẽ bị lãng quên trên đất. 18 Chúng sẽ bị xua đuổi từ chỗ sáng vào chỗ tối, và bị trục xuất ra khỏi thế gian. 19 Chúng không có con cái hay dòng dõi để lưu danh, Trong gia đình chúng không ai sống sót. 20 Dân cư miền tây sẽ kinh ngạc về cảnh ngộ chúng, còn dân cư miền Đông đâm ra hãi hùng. 21 Chắc chắn đó là số phận kẻ ác; và là chốn dành cho kẻ không nhìn biết Thượng Đế.” 12

Gióp 19 Gióp trả lời Binh-đát 19 Gióp liền trả lời: “Các anh sẽ làm tổn thương tôi, và dùng lời lẽ chà đạp tôi cho đến bao giờ? 3 Đã mười lần các anh nhục mạ tôi, và công kích tôi không biết xấu hổ. 4 Nếu quả tôi có phạm tội, thì đó là chuyện của riêng tôi. 5 Nếu các anh muốn chứng tỏ mình tốt hơn tôi, để trách tôi vì nỗi khốn khổ tôi. 6 Thì nên biết rằng CHÚA đã hại tôi, và giăng lưới quanh tôi. 2

Tôi kêu lên, ‘Tôi đã bị ức hiếp!’ Nhưng chẳng ai trả lời. Tôi kêu cứu nhưng chẳng thấy công lý. 8 Thượng Đế đã chận đường để tôi không thể đi qua; Ngài lấy bóng tối che phủ lối tôi đi. 9 Ngài đã tước đoạt danh dự tôi, và lấy mão triều trên đầu tôi. 10 Ngài đánh tôi ngã tứ phía, cho đến khi tôi qua đời; Ngài tiêu diệt hi vọng tôi như cây bị đốn. 11 Cơn thịnh nộ Ngài cháy phừng cùng tôi, Ngài xem tôi như kẻ thù Ngài. 12 Đạo binh Ngài tập trung lại; chuẩn bị tấn công tôi. Chúng đóng trại vây quanh lều tôi. 7

- 589 -


Thượng Đế khiến anh em tôi trở nên thù nghịch tôi, và làm cho bạn hữu tôi như người xa lạ. 14 Thân nhân tôi đã bỏ đi, bạn bè tôi cũng quên tôi. 15 Khách khứa và tớ gái tôi xem tôi như người lạ; chúng nhìn tôi như người ngoại quốc. 16 Tôi gọi đầy tớ tôi nhưng nó chẳng thèm trả lời, đến nỗi tôi năn nỉ nó muốn gãy lưỡi. 17 Vợ tôi không chịu được hơi thở tôi, đến gia đình tôi cũng gớm ghiếc tôi. 18 Lũ trẻ nhỏ không thích tôi, và xầm xì về tôi khi tôi đứng lên. 19 Các bạn thân tôi ghét tôi; thậm chí đến các người tôi thương cũng trở mặt với tôi. 13

Tôi chỉ còn da bọc xương; Tôi đã suýt chết. 21 Các bạn ơi, hãy thương xót tôi, tội nghiệp cho tôi, vì tay Thượng Đế đã đánh tôi. 22 Tại sao các bạn rượt đuổi tôi giống như Thượng Đế? Các bạn làm tôi tổn thương chưa đủ sao? 20

Ước gì lời tôi được ghi lại, viết trên một cuộn giấy. 24 Ước gì tiếng nói tôi được ghi bằng bút sắt vào chì, hay khắc vào đá để đời. 25 Tôi biết Đấng Bảo Vệ tôi đang sống, cuối cùng Ngài sẽ đứng trên đất. 26 Dù cho sau khi da tôi tan nát, ngoài xác thịt tôi sẽ thấy Thượng Đế. 27 Chính tôi sẽ nhìn thấy Ngài; và chính mắt tôi sẽ chiêm ngưỡng CHÚA. Lòng tôi mong mỏi điều đó mau đến! [a] 23

Nếu các anh nói, ‘Chúng ta sẽ tiếp tục gây bực dọc cho Gióp, vì chính anh ta có lỗi,’ 29 thì các anh hãy biết sợ lưỡi gươm. Cơn thịnh nộ của Thượng Đế sẽ mang trừng phạt bằng lưỡi gươm. Rồi các anh sẽ biết quả có công lý.” 28

Gióp 20 Xô-pha đáp lời Gióp 20 Sau đó Xô-pha người Na-a-ma trả lời: “Tư tưởng tôi bối rối khiến tôi phải lên tiếng, vì tôi rất bất bình. 3 Anh sỉ nhục tôi về những lời đáp của anh, nhưng tôi đủ khôn để đối đáp với anh. 2

4

Từ lâu anh vốn biết rằng, từ khi loài người [a] được đặt trên trái đất. - 590 -


Hạnh phúc của kẻ ác ngắn ngủi, và niềm vui của kẻ hung bạo chỉ kéo dài trong giây lát. 6 Lòng kiêu căng của chúng dù cao ngất đến tận trời, và đầu chúng đụng đến mây, 7 nhưng chúng sẽ biến mất đời đời, giống như phân của chúng. Những ai biết chúng sẽ bảo, ‘Chúng đâu rồi?’ 8 Chúng sẽ bay đi như giấc mộng, không ai tìm thấy chúng nữa; chúng sẽ bị rượt đuổi như ảo ảnh ban đêm [b]. 9 Ai đã từng thấy chúng sẽ không bao giờ còn thấy chúng nữa; nơi chúng ở cũng sẽ không còn nhìn thấy chúng nữa. 10 Con cái chúng phải trả lại cho kẻ nghèo, chúng phải từ bỏ của cải. 11 Chúng có sức mạnh của tuổi trẻ trong xương cốt, nhưng sức mạnh đó sẽ nằm chết với chúng trong bụi đất. 5

Điều ác có vị ngọt trong miệng, chúng có thể giấu dưới lưỡi mình. 13 Chúng không chịu nhả ra; mà cứ giữ mãi trong miệng. 14 Nhưng đồ ăn của chúng sẽ hóa chua trong bụng chúng, như nọc rắn trong người chúng. 15 Chúng đã ăn nuốt giàu sang, nhưng sẽ phải mửa ra; Thượng Đế sẽ bắt chúng nhả cái giàu sang của chúng ra. 16 Chúng sẽ hút nọc độc của rắn, và nanh rắn sẽ giết chúng. 17 Chúng sẽ không còn thấy suối lóng lánh, hay sông chảy mật và sữa [c]. 18 Chúng phải trả lại những gì chúng làm ra mà không ăn được; chúng sẽ không thể thụ hưởng tiền kiếm được nhờ buôn bán, 19 vì chúng quấy rối người nghèo, không để cho họ được chút gì. Chúng cướp đoạt nhà cửa chúng không xây lên. 12

Kẻ ác không bao giờ dứt lòng tham, không có gì thoát khỏi tánh ích kỷ chúng. 21 Nhưng chúng sẽ không còn gì để ăn; của cải chúng sẽ không bền lâu. 22 Đang khi chúng sung túc thì tai ương đuổi kịp chúng, và cảnh khốn khó sẽ chụp lên chúng. 23 Khi kẻ ác đang no bụng, thì Thượng Đế sẽ phừng phừng nổi giận cùng chúng, và hàng loạt sự trừng phạt đổ trên đầu chúng như mưa. 24 Kẻ ác có thể chạy trốn khỏi vũ khí bằng sắt, nhưng mũi tên đồng [d] sẽ đâm xuyên qua chúng. 25 Chúng sẽ rút mũi tên ra khỏi lưng mình, và giật mũi nhọn ra khỏi lá gan mình. Cơn kinh hoàng sẽ chụp lấy chúng; 26 sự tối tăm mù mịt là phần của chúng. Một ngọn lửa không do người nhen sẽ thiêu đốt chúng và thiêu hết những gì còn lại trong lều chúng. 27 Trời sẽ cho phơi bày tội lỗi chúng, đất sẽ nổi lên nghịch chúng. 20

- 591 -


Một trận lụt sẽ cuốn trôi nhà cửa chúng, quét sạch nhà chúng trong ngày thịnh nộ của Thượng Đế. 29 Đó là dự định của Thượng Đế dành cho kẻ ác; và là phần Ngài bắt chúng nhận lãnh.” 28

Gióp 21 Gióp trả lời Xô-pha 21 Bấy giờ Gióp trả lời: “Hãy nghe kỹ lời tôi nói, và đây là cách các anh có thể an ủi tôi. 3 Hãy kiên nhẫn nghe tôi nói. Xong rồi muốn chế diễu tôi cũng được. 2

Tôi không phàn nàn về người ta; tôi có lý do để sốt ruột. 5 Hãy nhìn tôi rồi kinh hoảng; hãy lấy tay che miệng vì sửng sốt. 6 Khi tôi suy nghĩ về điều nầy, tôi vô cùng hoảng sợ và toàn thân tôi run rẩy. 7 Tại sao kẻ ác sống lâu? Chúng càng già càng thêm cường thịnh. 8 Chúng thấy con cái đầy đàn quanh mình; Chúng nhìn con cái mình lớn lên. 9 Nhà cửa chúng an toàn không có gì phải sợ; Thượng Đế không trừng phạt chúng. 10 Bò đực của chúng truyền giống không sai sẩy; bò cái của chúng sinh ra bò con khoẻ mạnh. 11 Chúng cho con cái mình chơi đùa như bầy chiên; các con nhỏ chúng nhảy tung tăng. 12 Ca hát theo điệu trống cơm và đờn cầm, còn tiếng sáo làm chúng sảng khoái. 13 Kẻ ác an hưởng cuộc đời thành công, rồi yên lành đi xuống mồ mả. 14 Chúng bảo Thượng Đế, ‘Hãy để chúng tôi yên! Chúng tôi không muốn biết đến đường lối Ngài. 15 Đấng Toàn Năng là ai mà chúng tôi phải phục vụ? Cầu nguyện với Ngài thì có lợi gì?’ 4

Sự thành công của kẻ ác không phải do chúng tạo ra. Sự suy nghĩ của chúng cũng khác tôi. 17 Thế nhưng đèn của kẻ ác bị tắt bao nhiêu lần? Có bao nhiêu lần tai họa đổ trên chúng? Có bao nhiêu lần chúng bị cơn thịnh nộ Thượng Đế trừng phạt? 18 Bao nhiêu lần chúng giống như rơm rạ trước gió, hay trấu bị trận cuồng phong thổi bay đi? 19 Người ta nói, ‘Thượng Đế dành trừng phạt của cha cho con.’ Nhưng Thượng Đế nên trừng phạt kẻ ác để chúng biết điều đó. 20 Mắt chúng phải chứng kiến sự diệt vong của mình, và phải chịu hình phạt dưới cơn thịnh nộ của Đấng Toàn Năng. 16

- 592 -


21

Chúng chẳng lo đến gia đình mà chúng sẽ để lại, khi đời chúng đến chỗ tận cùng.

Không ai có thể dạy khôn cho Thượng Đế; Ngài là Đấng xét xử những kẻ có tước vị. 23 Có người qua đời trong khi còn mạnh khoẻ, cảm thấy an toàn và thoải mái. 24 Thân thể được no béo, xương cốt tráng kiện và khoẻ mạnh. 25 Nhưng kẻ khác qua đời khi lòng cay đắng, không hề nếm biết hạnh phúc trên đời. 26 Họ được chôn cất kề bên nhau, và dòi bọ bao phủ họ. 22

Tôi biết rõ tư tưởng các anh, và ý định các anh làm hại tôi. 28 Các anh hỏi tôi, ‘Nhà của bậc vĩ nhân nầy đâu rồi? Còn lều kẻ ác ở đâu?’ [a] 27

Các anh có bao giờ hỏi các lữ khách chưa? Có khi nào nghe họ kể chuyện chưa? 30 Trong ngày Thượng Đế nổi giận và trừng phạt, thì bọn gian ác được bình yên. 31 Ai sẽ tố cáo thẳng vào mặt chúng? Ai sẽ trả đũa cho chúng về những điều ác mà chúng gây ra? 32 Chúng được đưa xuống huyệt mả, nấm mồ chúng có người trông chừng. 33 Đất trong thung lũng có vẻ êm ái đối với chúng. Mọi người theo sau chúng, và nhiều người đi trước chúng. 29

34

Làm sao các anh an ủi tôi được bằng những điều nhảm nhí nầy? Những lời đáp của các anh chỉ láo khoét!”

Gióp 22 Ê-li-pha trả lời 22 Lúc đó Ê-li-pha người Thê-man lên tiếng: “Có người nào thật hữu dụng cho Thượng Đế không? Dù người khôn ngoan thì có ích gì cho Ngài không? 3 Nếu anh nhân từ có giúp gì được cho Đấng Toàn Năng chăng? Còn nếu anh vô tội thì Ngài có lợi gì? 4 Tại sao Thượng Đế trừng phạt anh? Có phải vì anh thờ kính Ngài? 5 Không! Chẳng qua là vì điều ác anh làm quá mức, và tội lỗi anh vô giới hạn. 6 Anh đoạt của cải anh em mình để thế cho món nợ họ thiếu anh [a]; anh cướp áo quần người ta để họ phải trần truồng. 7 Anh không cho kẻ khát được một ly nước, anh để kẻ đói không có cơm ăn. 2

- 593 -


Anh là cường hào làm chủ đất đai; anh được tôn trọng và sống trong xứ. 9 Nhưng anh đuổi kẻ goá bụa về tay không, và ngược đãi trẻ mồ côi. 10 Bởi thế cho nên các bẫy sập vây quanh anh, và cơn nguy hiểm bất chợt làm anh hoảng sợ. 11 Bời thế vì quá tăm tối anh không thấy được, và do đó nước lụt bao phủ anh. 8

Thượng Đế ngự trên trời cao. Anh thấy các ngôi sao trên cao kia không! 13 Nhưng anh hỏi, ‘Thượng Đế biết gì? Ngài có thể phân xử qua mây mù không? 14 Đám mây dầy đặc che phủ Ngài nên Ngài chẳng thấy chúng ta, khi Ngài đi trên các từng trời cao.’ 15 Anh sẽ cứ mãi đi theo lối cũ của kẻ ác sao? 16 Chúng chết trước kỳ hạn, và nền nhà chúng bị nước lụt cuốn trôi. 17 Chúng nói với Thượng Đế, ‘Hãy để chúng tôi yên! Đấng Toàn Năng không làm gì được chúng tôi cả!’ 18 Nhưng chính Thượng Đế ban cho chúng nhà cửa đầy của tốt. Lối suy nghĩ của chúng khác tôi. 19 Những người nhân đức sẽ thấy và vui mừng; người vô tội sẽ cười chúng và bảo, 20 ‘Dĩ nhiên các kẻ thù chúng ta bị tiêu diệt, còn lửa thiêu đốt của cải chúng.’ 12

Hãy vâng lời Thượng Đế và làm hòa với Ngài; đó là con đường hạnh phúc. 22 Hãy chấp nhận lời dạy dỗ từ miệng Ngài, ghi tạc lời Ngài vào lòng. 23 Nếu anh trở lại với Đấng Toàn Năng, thì anh sẽ lại được phước. Cho nên hãy dẹp điều ác khỏi nhà anh. 24 Ném các thỏi vàng của anh vào bụi đất, và quăng vàng thượng hạng của anh vào các tảng đá dưới hố. 25 Thì Đấng Toàn Năng sẽ là vàng quí giá cho anh, Ngài sẽ là bạc tốt nhất của anh. 26 Anh sẽ tìm được nguồn vui thoả trong Đấng Toàn Năng, và anh sẽ ngửa trông Ngài. 27 Anh sẽ cầu nguyện cùng Ngài, Ngài sẽ trả lời anh, và anh sẽ giữ lời hứa nguyện với Ngài. 28 Điều gì anh định làm sẽ thành tựu, ánh sáng sẽ chiếu trên lối đi anh. 29 Khi con người bị thất thế mà anh bảo, ‘Hãy can đảm lên,’ thì người thấp hèn sẽ được giải cứu. 30 Dù cho kẻ có tội cũng sẽ chạy thoát, họ cũng sẽ được giải cứu vì thấy anh thanh sạch.” 21

- 594 -


Gióp 23 Gióp trả lời 23 Sau đó Gióp trả lời: “Lời than van của tôi hôm nay vẫn còn cay đắng. Tôi rên rỉ vì tay Thượng Đế đè nặng trên tôi. 3 Ước gì tôi biết Thượng Đế ở đâu, để tôi đi đến chỗ Ngài ở. 4 Tôi sẽ trình bày hoàn cảnh tôi trước mặt Ngài, và làm cho môi tôi đầy lý đoán. 5 Tôi muốn biết Ngài trả lời tôi ra sao, và suy nghĩ về những điều Ngài sẽ nói. 6 Ngài sẽ không bắt lý tôi sao? Không, Ngài sẽ lắng tai nghe tôi. 7 Người thanh liêm có thể trình bày hoàn cảnh mình cho Thượng Đế, và tôi sẽ được quan án tôi giải cứu đời đời. 2

Nếu tôi đi sang Đông, Thượng Đế không có đó; còn nếu tôi đi sang Tây, tôi cũng chẳng thấy Ngài. 9 Khi Ngài đang bận rộn ở phương Bắc, tôi không nhìn thấy Thượng Đế; khi Ngài quay sang phương Nam, tôi không thể thấy Ngài được. 10 Nhưng Thượng Đế biết đường tôi đi, sau khi Ngài thử rèn tôi, tôi sẽ hóa như vàng. 11 Các bước chân tôi đi theo sát gót Ngài; Tôi đã đi trong lối Ngài; không quay sang trái hay phải. 12 Tôi chưa bao giờ bỏ qua mệnh lệnh Ngài đã truyền; Tôi quí trọng lời Ngài hơn lời nói của chính tôi. 8

Nhưng Ngài là Thượng Đế duy nhất. Ai chống nghịch Ngài được? Ngài muốn làm gì tùy ý. 14 Ngài sẽ làm cho tôi điều Ngài định làm, mà Ngài có nhiều chương trình như vậy. 15 Vì thế mà tôi sợ hãi Ngài; khi tôi suy nghĩ đến điều đó, tôi run sợ vì Ngài. 16 Thượng Đế đã làm cho tôi sợ; Đấng Toàn Năng làm tôi kinh hãi. 17 Nhưng tôi không bị bóng tối che khuất, không bị màn đêm đen mịt che phủ mặt tôi.” 13

Gióp 24 24 “Ước gì Đấng Toàn Năng định ngày phân xử. Ước gì những ai theo Thượng Đế biết ngày đó. Kẻ ác chiếm đoạt đất đai người khác; chúng đánh cắp các bầy gia súc, rồi mang đến đồng cỏ khác. 3 Chúng đuổi lừa của kẻ mồ côi, và cướp đoạt bò của goá phụ không tiền. 2

- 595 -


4

Chúng xô kẻ khốn khó ra khỏi lối đi; kẻ nghèo khổ trong xứ phải trốn tránh chúng.

Người nghèo hóa ra như lừa hoang trong sa mạc, đi lang thang tìm thức ăn. Sa mạc cung cấp thức ăn cho con cái chúng. 6 Chúng lượm cỏ khô và rơm rạ trong đồng, mót những trái nho còn sót trong vườn nho của kẻ ác [a]. 7 Chúng phải ngủ trần truồng vì không có quần áo, không có gì che thân cho khỏi lạnh. 8 Chúng bị ướt dầm vì mưa núi, phải núp trong hốc đá vì không nhà. 9 Đứa trẻ mất cha bị giật khỏi vú mẹ; chúng bắt trẻ thơ của mẹ để thế món nợ mẹ chúng thiếu. 10 Cho nên kẻ nghèo đi lang thang không quần áo, họ vác bao gạo cho kẻ khác mà mình lại đói; 11 Họ ép trái ô-liu để lấy dầu, đạp trái nho để lấy rượu, nhưng vẫn khát nước. 12 Người hấp hối rên rỉ trong thành, kẻ bị thương kêu xin cứu giúp, nhưng Thượng Đế không lên án kẻ làm ác. 5

Những kẻ chống nghịch sự sáng không biết đường lối Thượng Đế, hay đi theo các nẻo Ngài. 14 Đến cuối ngày, kẻ sát nhân đứng dậy giết người nghèo khó khốn cùng. Ban đêm chúng rình rập như kẻ trộm. 15 Những kẻ ngoại tình trông chờ bóng đêm, chúng nghĩ, ‘Sẽ không ai thấy chúng ta,’ chúng che mặt lại. 13

Kẻ ác lẻn vào nhà người ta trong bóng tối. Ban ngày chúng đóng cửa rút vào nhà, vì chúng không muốn lộ ra ánh sáng. 17 Đối với kẻ ác, bóng tối là ánh sáng cho chúng, bạn bè của chúng là bóng đêm kinh hoàng. 16

Chúng như bọt nổi trên nước. Phần đất của chúng bị nguyền rủa; Không ai đi trên con đường gần vườn nho chúng. 19 Như hơi nóng và khô hạn làm tuyết tan nhanh ra sao, thì mồ mả cũng cướp lấy tội nhân nhanh như thế. 20 Mẹ chúng quên chúng, dòi bọ sẽ ăn thân xác chúng. Sẽ không ai nhớ chúng nữa, còn kẻ ác sẽ gãy vụn như cái que. 21 Kẻ ác hành hạ người đàn bà không con, không tỏ lòng nhân từ với người góa bụa. 22 Nhưng Thượng Đế dùng quyền năng Ngài lôi kẻ mạnh đi. Dù chúng mạnh, chúng không biết còn sống bao lâu. 23 Thượng Đế có thể để chúng an thân trong một thời gian, nhưng Ngài canh chừng lối đi của chúng. 18

- 596 -


24

Chúng được sung túc trong một thời gian ngắn rồi qua đời; chúng bị chôn vùi như tất cả mọi người khác; chúng bị cắt như bông lúa.

25

Nếu không đúng thế thì ai có thể chứng tỏ tôi sai? Ai có thể bảo lời nói tôi không giá trị gì?”

Gióp 25 Binh-đát trả lời 25 Rồi Binh-đát, người Su-ha lên tiếng: “Thượng Đế cai trị, ai nấy phải tôn trọng Ngài; Ngài sắp xếp trật tự trên trời cao. 3 Không ai có thể đếm các đạo binh [a] Ngài. Ánh sáng Ngài chiếu trên mọi người. 4 Cho nên không ai nhân đức trước mặt Ngài, chẳng ai do đàn bà sinh ra [b] mà gọi là tinh sạch. 5 Thậm chí mặt trăng cũng không sáng đủ các ngôi sao cũng chưa tinh sạch trước mặt Ngài. 6 Huống hồ con người ta! Họ chỉ như côn trùng. Chẳng khác nào loài dòi bọ!” 2

Gióp 26 Gióp trả lời Binh-đát 26 Sau đó Gióp trả lời: “Mấy anh chẳng ích gì cho kẻ khốn cùng! Các anh không giúp đỡ người yếu thế! 3 Lời khuyên của các anh thiếu khôn ngoan! Các anh chứng tỏ kém hiểu biết! 4 Ai xúi các anh thốt những lời đó? Những ý tưởng đó ở đâu mà ra? 2

Thần linh của kẻ chết run rẩy, đó là những kẻ ở trong lòng đất [a]. 6 Cái chết [b] phải lột trần trước mặt Thượng Đế; sự hủy diệt phải lộ ra trước mặt Ngài. 7 Thượng Đế giăng bầu trời phương Bắc ra trong khoảng trống, và treo trái đất trong không gian. 8 Ngài bọc nước trong các đám mây, nhưng mây không bể ra dưới sức nặng của nước. 9 Ngài che phủ mặt trăng, lấy mây che khuất nó. 10 Ngài vẽ chân trời ra như vòng tròn trên nước nơi ánh sáng và bóng tối gặp nhau. 11 Nền trời rung chuyển khi Ngài gầm thét. 5

- 597 -


Dùng sức mạnh Ngài dẹp yên biển cả; nhờ sự khôn ngoan Ngài tiêu diệt Ra-háp, con quái vật dưới biển. 13 Ngài thở hơi ra, bầu trời liền trong sáng. Tay Ngài nắm con rắn đang trốn chạy [c]. 14 Đó chỉ là một phần nhỏ của công việc Thượng Đế. Chúng ta chỉ mới nghe thì thầm về Ngài. Ai có thể hiểu được tiếng gầm thét của Thượng Đế?” 12

Gióp 27 27 Gióp tiếp tục nói: “Thật như Thượng Đế hằng sống, Đấng đã tước quyền tôi, Đấng Toàn Năng đã khiến tôi mất hạnh phúc, 3 nhưng bao lâu mà tôi còn sống, và còn hơi thở của Thượng Đế trong lỗ mũi tôi, 4 thì tôi sẽ không làm kẻ giả đạo đức [a], và lưỡi tôi sẽ không nói dối. 5 Tôi sẽ chẳng bao giờ nhận rằng các anh đúng; cho đến khi tôi chết, tôi sẽ vẫn nhất quyết rằng mình vô tội. 6 Tôi sẽ cả quyết rằng tôi đúng; tôi sẽ không rút lại lời đó. Lương tâm tôi không hề cáo trách tôi. 7 Hãy để cho kẻ thù tôi giống như kẻ ác, để cho kẻ nghịch tôi giống như kẻ làm bậy. 8 Khi kẻ ác qua đời thì chúng có hi vọng gì, khi Thượng Đế cất mạng sống chúng đi? 9 Ngài sẽ không thèm nghe tiếng kêu của chúng, khi chúng gặp gian nan. 10 Chúng không tìm thấy niềm vui trong Đấng Toàn Năng, dù rằng miệng chúng luôn luôn kêu Thượng Đế. 2

Tôi sẽ dạy cho các anh về quyền năng của Thượng Đế, và không giấu diếm đường lối của Đấng Toàn Năng. 12 Chính mắt các anh đã thấy những điều nầy. Tại sao chúng ta cứ mãi nói chuyện nhảm nhí? 11

Đây là điều Thượng Đế định cho kẻ ác, và là điều Đấng Toàn Năng dành cho kẻ hung bạo: 14 Chúng có thể có đông con, nhưng gươm sẽ giết con cái chúng. Những đứa còn sống sót sẽ không đủ ăn. 15 Rồi chúng sẽ chết vì bệnh tật và được chôn cất, còn vợ góa của chúng sẽ không than khóc chúng. 16 Kẻ ác có thể gom góp bạc như đất, quần áo nhiều như đất sét. 17 Nhưng người nhân đức sẽ mặc đồ mà kẻ ác đã thu góp cho mình, và người tốt sẽ phân chia bạc của chúng. 18 Nhà kẻ ác xây giống như màng nhện, giống như lều của người canh gác xây lên. 19 Kẻ ác được giàu có khi đi ngủ, nhưng chỉ giàu lần cuối đó thôi; vì khi mở mắt ra, mọi vật đều tan biến. 13 [b]

- 598 -


Cơn hãi hùng chụp lấy chúng như nước lụt, và cơn bão thổi bay chúng lúc ban đêm. 21 Ngọn gió đông sẽ mang chúng đi, rồi chúng biến mất, vì ngọn gió đã thổi chúng khỏi chỗ mình. 22 Luồng gió đập vào chúng không thương xót trong khi chúng chạy trốn khỏi sức mạnh của gió. 23 Giống như gió đang vỗ tay; và huýt sáo chế nhạo chúng khi chúng chạy trốn khỏi chỗ mình.” 20

Gióp 28 Giá trị của sự khôn ngoan 28 “Bạc lấy ở mỏ lên, và có nơi luyện vàng. 2 Sắt khai lên từ dưới đất, và đồng được nung chảy từ đá. 3 Các thợ mỏ mang đèn đuốc, và đi tìm sâu trong mỏ để kiếm quặng nơi tối tăm. 4 Thợ mỏ đào hầm xa chỗ người ở, nơi chưa ai đặt chân đến; họ làm việc xa người ta, lắc lư và đong đưa trên dây thừng. 5 Thực phẩm mọc trên mặt đất, nhưng trong lòng đất lửa cháy ngùn ngụt. 6 Người ta tìm được ngọc trong đá, và bụi vàng cũng nằm trong đá. 7 Chim ưng không biết lối đi đến đó; chim phượng hoàng cũng chưa thấy đường đi. 8 Dã thú chưa hề dẫm đến, và chưa có sư tử nào đi ngang qua. 9 Thợ mỏ đập đá lửa, và đào nơi chân núi. 10 Họ đào hầm xuyên qua đá và thấy được của báu trong đó. 11 Họ tìm nguồn sông, và mang những điều bí ẩn ra ánh sáng. Nhưng sự khôn ngoan tìm được ở đâu, sự thông sáng sống nơi nào? 13 Người ta không hiểu được giá trị của khôn ngoan; không thể tìm được nó giữa vòng người sống. 14 Đại dương sâu nói, ‘Tôi đâu có giữ nó,’ biển cả cũng bảo, ‘Nó cũng chẳng có ở đây với tôi.’ 15 Sự khôn ngoan không thể mua được bằng vàng, giá trị nó cũng không cân được bằng bạc. 16 Cũng không thể mua được nó bằng vàng ròng, hay bằng ngọc mã não hoặc bích ngọc. 17 Vàng và pha lê cũng không có giá trị bằng sự khôn ngoan, không ai mua được nó bằng nữ trang làm bằng vàng. 18 San hô và bích ngọc chẳng đáng nói đến, giá trị của sự khôn ngoan vượt hơn hồng ngọc. 12

- 599 -


19

Hoàng ngọc của xứ Ê-thi-ô-bi không thể sánh được với sự khôn ngoan; vàng ròng thượng hạng cũng không mua nó được.

Vậy sự khôn ngoan ở đâu mà ra, sự thông sáng sống nơi nào? 21 Nó bị giấu kín khỏi mắt mọi loài sống, chim trời cũng không biết đến. 22 Sự hủy diệt và sự chết [a] bảo, ‘Chúng tôi đã nghe về nó.’ 20

Chỉ có Thượng Đế hiểu đường dẫn đến khôn ngoan, chỉ một mình Ngài biết sự khôn ngoan ở chỗ nào, 24 vì Ngài nhìn đến nơi xa nhất trên đất, và thấy mọi vật dưới bầu trời. 25 Khi Thượng Đế ban quyền lực cho gió, và định chừng mực cho nước, 26 khi Ngài đặt luật lệ cho mưa, và vạch lối đi cho giông bão, 27 thì Ngài nhìn vào sự khôn ngoan và ấn định trị giá của nó; Ngài đem nó ra trắc nghiệm. 28 Rồi Ngài bảo con người, ‘Kính sợ Thượng Đế là khôn ngoan; tránh xa điều ác là thông sáng.’” 23

Gióp 29 Gióp tiếp tục biện luận 29 Gióp tiếp tục lên tiếng: “Tôi mơ ước về những tháng ngày trước đây, khi Thượng Đế trông nom tôi. 3 Ngọn đèn CHÚA chiếu trên đầu tôi, và ánh đèn Ngài soi đường khi tôi đi trong tăm tối. 4 Tôi mơ ước ngày tôi còn sung túc, khi tôi còn tận hưởng tình thân hữu với Thượng Đế cùng các phúc lành của Ngài cho gia đình tôi. 5 Lúc đó Đấng Toàn Năng vẫn còn ở với tôi, và con cái tôi sống chung quanh tôi. 6 Lối đi tôi còn dầm mỡ sữa, và đá phun dầu ô-liu thượng hạng [a] ra cho tôi. 2

Tôi đi đến cửa thành, ngồi nơi công viên cùng với các bô lão. 8 Khi các thanh niên thấy tôi liền tránh qua một bên, và người già đứng lên tỏ dấu tôn kính. 9 Những kẻ tai mắt thôi nói, và lấy tay che miệng. 10 Tiếng nói của các kẻ tai mắt ngưng bặt, như thể lưỡi họ bị kẹt nơi vòm họng. 11 Ai nghe đến tôi đều nói tốt về tôi, những kẻ thấy tôi đều ca ngợi tôi, 7

- 600 -


vì tôi cứu giúp kẻ nghèo đang kêu xin, và trẻ mồ côi không ai giúp đỡ. 13 Người hấp hối chúc phước cho tôi, tôi làm cho lòng người góa bụa hát mừng. 14 Tôi mặc lấy nếp sống phải lẽ như áo quần; và khoác sự công chính vào như áo dài và khăn vành. 15 Tôi là con mắt cho kẻ mù và chân cho kẻ què. 16 Tôi như cha của người túng quẫn, tôi giúp người lạ thắng kiện. 17 Tôi bẻ gãy nanh kẻ ác, và cướp tù nhân ra khỏi nanh vuốt chúng. 12

Tôi thầm nghĩ, ‘Tôi sẽ sống nhiều ngày như cát, và sẽ qua đời trong nhà mình. 19 Rễ của tôi ăn sâu xuống tới nước. Sương mai sẽ đọng trên cành suốt đêm. 20 Vinh dự sẽ luôn luôn đến với tôi, và tôi luôn có sức mạnh [b].’ 18

Người ta sẽ lắng nghe và im lặng chờ tôi cho ý kiến. Sau khi tôi dứt lời, họ không còn gì để thêm. Lời tôi rót êm nhẹ vào lỗ tai họ. 23 Họ mong chờ tôi như chờ cơn mưa xuống và uống lời nói tôi như uống mưa xuân. 24 Tôi mỉm cười khi họ không tin, và sự đồng ý của tôi vô cùng quan trọng đối với họ. 25 Tôi chọn lối đi cho họ và là lãnh tụ của họ. Tôi sống như vua ở giữa quân sĩ mình, như kẻ an ủi người buồn thảm.” 21 22

Gióp 30 30 “Nhưng nay kẻ trẻ tuổi hơn tôi chế nhạo tôi. Trước kia tôi không cho cha chúng ngồi chung với chó giữ chiên tôi là khác. 2 Sức mạnh của chúng giúp ích gì cho tôi, vì chúng không còn sức để làm việc. 3 Chúng gầy còm vì đói, và lang thang ban đêm trong đất khô khan cằn cỗi. 4 Chúng gom góp các bụi cây trong sa mạc, và ăn rễ của cây dùng làm chổi. 5 Chúng buộc phải sống xa loài người; người ta tri hô sau chúng như kẻ trộm. 6 Chúng sống giữa những lòng suối cạn, trong các hang hốc và giữa các tảng đá. 7 Chúng tru như thú vật giữa lùm cây, và xúm xít trong bụi gai. 8 Chúng là bọn du đãng vô danh, bị đuổi ra khỏi đất. 9

Bây giờ chúng đặt bài hát chế giễu tôi; tên tôi là trò cười cho chúng.

- 601 -


10

Chúng ghét và xa lánh tôi, chúng không ngần ngại phỉ nhổ vào mặt tôi. 11 Thượng Đế đã lấy sức mạnh tôi đi, khiến tôi khổ sở, cho nên chúng trút đổ cơn giận vào tôi. 12 Chúng tấn công tôi bên phải. Chúng giăng bẫy trên bước chân tôi, đắp mô để tấn công và tiêu diệt tôi như thành lũy. 13 Chúng phá đường tôi đi tìm cách tiêu diệt tôi, không ai cứu giúp tôi. 14 Chúng nhào đến tôi như chui qua lỗ thủng trong tường, chúng lăn xả đến giữa đống gạch vụn. 15 Tôi bị kinh hoảng vây phủ, Chúng thổi bay danh dự tôi như cơn gió mạnh, và sự an toàn tôi biến đi như mây khói. Bây giờ đời tôi gần tàn, các tháng ngày tôi đầy dẫy khốn khổ. 17 Ban đêm xương cốt tôi đau buốt; cơn nhức nhối không hề dứt. 18 Thượng Đế dùng quyền lớn túm lấy áo quần tôi, và siết cổ áo tôi. 19 Ngài ném tôi vào bùn đất, tôi trở thành bụi đất lẫn tro. 16

Tôi kêu cứu cùng Ngài, Thượng Đế ôi, nhưng Ngài không thèm đáp; Tôi đứng lên nhưng Ngài chỉ nhìn tôi. 21 Ngài đã nổi giận cùng tôi không nương tay; và dùng cánh tay mạnh mẽ của Ngài tấn công tôi. 22 Ngài giật tôi và ném tôi vào gió, rồi quăng tôi lăn lóc trong giông bão. 23 Tôi biết Ngài sẽ kéo tôi đến chỗ chết, đến nơi tất cả các kẻ sống phải đi đến. 20

Hẳn nhiên không ai muốn làm hại người khốn cùng, khi người kêu cứu trong lúc khốn khó. 25 Tôi kêu cứu giùm cho những kẻ đang gặp khốn đốn; Tôi buồn bã thay cho người nghèo khó. 26 Nhưng khi tôi trông mong điều thiện, thì điều ác xảy đến cho tôi; khi tôi tìm ánh sáng thì bóng tối chụp đến. 27 Tôi luôn luôn bực dọc; những ngày đau khổ đang ở trước tôi. 28 Người tôi hóa đen nhưng không phải vì rám nắng. Tôi đứng giữa nơi công cộng kêu cứu. 29 Tôi kết nghĩa anh em với chó hoang và bạn bè với chim đà điểu. 30 Da tôi thâm đen và tróc ra từng lớp, toàn thân tôi nóng bừng lên vì sốt. 31 Đờn cầm tôi lên dây ca bài thiểu não, và tiếng sáo trổi giọng bi ai.” 24

- 602 -


Gióp 31 31 “Tôi đã lập giao ước với mắt tôi, rằng tôi sẽ không nhìn thiếu nữ với vẻ thèm muốn nữa. 2 Thượng Đế đã hứa gì cho dân Ngài? Đấng Toàn Năng đã dự định gì từ trên cao kia [a]? 3 Đó là sự tàn hại cho kẻ ác, và thảm họa cho kẻ làm quấy. 4 Thượng Đế thấy con đường tôi đi, Ngài đếm từng bước tôi. Nếu tôi có bất lương, hay dối trá cùng kẻ khác, 6 thì xin Ngài để tôi lên cái cân chính xác [b]. Ngài sẽ thấy tôi không có làm gì quấy. 7 Nếu tôi có quay lưng để khỏi làm điều phải, hay mắt tôi hướng dẫn lòng tôi làm điều sái bậy, hoặc tay tôi có dơ bẩn, 8 thì cầu cho kẻ khác ăn lấy vật tôi đã trồng, và mùa màng tôi bị nhổ lên. 5

Nếu tôi có ham muốn người đàn bà khác, hay rình mò vợ người láng giềng tôi nơi cửa nhà người, 10 thì nguyền cho vợ tôi xay lúa cho người đàn ông khác, để cho người khác ăn nằm với nàng. 11 Điều đó sẽ thật sỉ nhục, một tội lỗi đáng bị trừng phạt. 12 Giống như lửa đốt cháy và tiêu hủy; những gì tôi làm sẽ bị nhổ lên. 9

Nếu tôi có bất công đối với tôi trai hay tớ gái của tôi, khi chúng khiếu nại tôi điều gì, 14 thì làm sao tôi trả lời với Thượng Đế về hành động tôi? Tôi đối đáp thế nào khi Ngài bảo tôi giải thích điều tôi làm? 15 Đấng dựng nên tôi trong bụng mẹ tôi, cũng đã dựng nên chúng nó; Ngài dựng nên cả hai trong bụng mẹ. 13

Tôi chưa hề từ chối lời khiếu nại của kẻ nghèo, hay khiến người góa bụa thất vọng khi họ xin cứu giúp. 17 Tôi không giữ khư khư thức ăn lấy cho mình, nhưng chia xẻ với trẻ mồ côi. 18 Từ khi còn trẻ, tôi đã như cha của trẻ mồ côi. Từ lúc mới sinh, tôi hướng dẫn người góa bụa. 19 Tôi chưa để ai chết vì không quần áo mặc, hay để kẻ khốn cùng thiếu áo che thân. 20 Lòng của họ chúc phước cho tôi, vì tôi dùng len của chiên tôi đắp cho họ ấm. 21 Tôi chưa hề làm hại trẻ mồ côi [c], dù rằng tôi biết sẽ thắng kiện. 22 Nếu tôi có làm điều đó, nguyền cho tay tôi rớt ra khỏi vai, và đứt ra khỏi khớp nối. 16

- 603 -


23

Tôi sợ sự hủy hoại của Thượng Đế, tôi kinh hãi sự oai nghiêm Ngài [d], nên tôi không thể làm những điều đó.

Tôi không đặt niềm tin nơi vàng, hay bảo với vàng ròng rằng, ‘Ngươi là niềm an ninh ta.’ 25 Tôi chưa hề ăn mừng sự giàu có tôi, hay của cải tay tôi làm ra. 26 Tôi chưa hề suy nghĩ đến việc bái lạy mặt trời rực sáng, hay thán phục mặt trăng di chuyển trong vinh quang, 27 để cho lòng tôi bị kéo xa khỏi Thượng Đế. Tay tôi chưa hề dâng cho mặt trời, mặt trăng cái hôn sùng bái nào. 28 Nếu tôi đã làm những điều đó, quả thật đắc tội, đáng trừng phạt, vì tôi đã không trung tín với Thượng Đế. 24

Tôi không hớn hở khi kẻ thù tôi lâm nạn, hay cười vui sướng khi nó gặp khốn khó. 30 Tôi không để miệng tôi phạm tội, bằng cách nguyền rủa mạng sống kẻ thù tôi. 31 Những gia nhân của tôi đều nói, ‘Ai trong nhà của Gióp cũng ăn uống tha hồ.’ 32 Không có khách lạ nào phải ngủ đêm ngoài đường phố, vì tôi luôn mời khách lữ hành vào nhà mình. 33 Tôi không che giấu tội mình như kẻ khác, giấu đút tội mình riêng cho mình. 34 Tôi không sợ quần chúng đến nỗi im lặng rút vào nhà, vì sợ gia đình khác ganh ghét mình. 29

Ước gì toà án bằng lòng xử vụ của tôi! Đây tôi ký nhận mình đã nói sự thật. Xin Đấng Toàn Năng trả lời cho tôi; còn kẻ cáo giác tôi hãy viết cáo trạng. 36 Tôi sẽ mang lời khai trên vai tôi; và đội nó như mão triều. 37 Tôi sẽ giải thích cùng Thượng Đế mỗi việc tôi làm, và đến gần Ngài như một quan trưởng. 35

Nếu đất kêu la nghịch tôi, và nếu các luống cày nó không đẫm nước mắt, 39 Nếu tôi đã cướp mùa màng của đất mà không đền bù, hay làm mất tinh thần kẻ làm công cho đất tôi, 40 thì nguyền cho gai gốc mọc lên thay vì lúa, và cỏ dại mọc thay vì lúa mạch.” 38

Đến đây chấm dứt lời của Gióp.

Gióp 32 Ê-li-hu lên tiếng 32 Ba người bạn đó thôi không nói với Gióp nữa vì ông tự thấy mình phải. 2 Nhưng Ê-li-hu, con trai Ba-rakên, người Bu-xi, thuộc gia đình Ram, nổi giận cùng Gióp, vì Gióp cho mình phải hơn Thượng Đế. - 604 -


Ê-li-hu cũng nổi giận với ba người bạn của Gióp vì họ không chứng minh được Gióp có lỗi mà lại tiếp tục lên án ông. 4 Ê-li-hu chờ đợi để nói với Gióp vì ba người bạn kia đều lớn tuổi hơn mình. 5 Sau khi Ê-li-hu thấy họ không còn có gì để nói nữa thì đâm ra bực tức. 6 Vậy Ê-li-hu, con trai Ba-ra-kên, người Bu-xi lên tiếng: 3

“Tôi còn trẻ, còn các anh đều đã lớn tuổi. Vì thế nên tôi ngại không dám nói điều tôi biết. 7 Tôi nghĩ, ‘Người lớn tuổi nên nói, và kẻ sống lâu năm nên dạy khôn.’ 8 Nhưng chính thật ra thần linh trong con người, hơi thở của Đấng Toàn Năng mới ban thông sáng. 9 Chẳng phải già mà tự nhiên khôn; cũng chẳng phải lớn tuổi mà hiểu điều phải. Cho nên tôi nói, các anh hãy nghe đây. Tôi cũng có thể nói cho các anh điều tôi biết. 11 Tôi chờ cho các anh nói, và lắng nghe lời giải thích của các anh. Trong khi các anh đang tìm chữ để nói, 12 Tôi quan sát các anh rất kỹ. Nhưng không ai trong các anh chứng tỏ Gióp sai quấy; không ai đối đáp với lý lẽ Gióp đưa ra. 13 Đừng nói, ‘Chúng ta đã tìm được sự khôn ngoan; chỉ một mình Thượng Đế mới có thể chứng tỏ Gióp sai quấy, chớ không phải người ta.’ 14 Lời nói của Gióp không phải để bài bác tôi, cho nên tôi sẽ không dùng lý lẽ của các anh để đối đáp với Gióp. 10

Ba người bạn nầy thua rồi, chẳng có gì nữa để nói; họ hết chữ để nói rồi. 16 Bây giờ họ đứng đó không biết đối đáp với Gióp ra sao. Họ đã im lặng, tôi có phải chờ để lên tiếng không? 17 Không, tôi cũng sẽ nói, và bảo các anh điều tôi biết. 18 Tôi có đầy đủ chữ, thần linh trong tôi giục tôi nói. 19 Tôi như rượu đựng kín trong chai; sẵn sàng bùng ra như bầu rượu mới. 20 Tôi phải nói để xả hơi; Tôi phải mở miệng và lên tiếng. 21 Tôi sẽ công bằng đối với mọi người, và không nịnh hót ai. 22 Tôi không biết nịnh nọt, vì nếu tôi làm thế, Đấng Tạo Hóa sẽ diệt tôi ngay.” 15

Gióp 33 33 “Vậy bây giờ, Gióp, anh hãy lắng tai nghe tôi đây. Chú ý mọi điều tôi nói. 2 Tôi mở miệng và sẵn sàng lên tiếng. 3 Lời tôi phát xuất từ tấm lòng chân thật, tôi chân thành nói ra điều mình biết.

- 605 -


Thần linh Thượng Đế tạo nên tôi, và hơi thở của Đấng Toàn Năng ban cho tôi sự sống. 5 Nếu anh biết hãy trả lời tôi; hãy sẵn sàng đứng trước mặt tôi. 6 Trước mặt Thượng Đế tôi cũng như anh; Tôi cũng do đất sét mà ra. 7 Đừng sợ tôi; Tôi sẽ không khắt khe với anh. 4

Nhưng tôi đã nghe anh nói; Tôi nghe hết từng tiếng. 9 Anh nói, ‘Tôi trong sạch và vô tội; Tôi vô tội, không có vết dơ nào. 10 Nhưng Thượng Đế đã kiếm cớ tấn công tôi; Ngài đối xử với tôi như kẻ thù. 11 Ngài khoá chân tôi vào xiềng, và theo dõi tôi từng bước.’ 8

Nhưng tôi cho anh biết, anh nói vậy không đúng, vì Thượng Đế lớn hơn chúng ta [a]. 13 Tại sao anh trách rằng Thượng Đế có nhiệm vụ phải giải thích mọi điều cho anh? 14 Thượng Đế có nói, đôi khi bằng cách nầy hay cách khác nhưng con người không hiểu được. 15 Ngài nói qua chiêm bao hay dị tượng ban đêm, khi con người ngủ mê, nằm trên giường mình. 16 Ngài nói vào lỗ tai họ, và dùng những lời cảnh cáo làm họ hoảng sợ 17 để họ khỏi làm điều quấy, và để họ khỏi đâm ra tự phụ. 18 Thượng Đế làm như thế để cứu người ta khỏi chết [b], tránh cảnh diệt vong. 12

Thượng Đế cũng sửa dạy con người đang khi người nằm trên giường đau đớn; khi xương cốt người nhức nhối triền miên. 20 Đau đến nỗi gớm ghét thức ăn, ớn cả mỹ vị. 21 Thân thể người gầy còm đến nỗi chẳng còn gì, xương cốt nhô ra. 22 Người gần chết, và đời người hầu tàn. 19

Nhưng có một thiên sứ đến nói thay cho người, đó là một trong một ngàn thiên sứ, đến bảo người phải làm gì. 24 Thiên sứ sẽ kêu xin ơn trên thương xót và cầu khẩn: ‘Xin cứu người khỏi chết. Tôi đã tìm được giá trả thay cho mạng sống người.’ 25 Rồi thân thể người được phục hồi như thân thể đứa trẻ. Trở lại giống như thời trai trẻ. 26 Người sẽ cầu xin cùng Thượng Đế, Ngài sẽ nghe lời người. Người sẽ thấy mặt Thượng Đế và reo mừng. Thượng Đế sẽ khiến mọi việc trở lại tốt đẹp cho người. 23

- 606 -


Người sẽ bảo kẻ khác, ‘Tôi đã phạm tội và xuyên tạc điều phải, nhưng tôi không bị hình phạt xứng đáng với tội tôi. 28 Thượng Đế khiến tôi sống lại từ cõi chết, và tôi sẽ tiếp tục tận hưởng cuộc đời.’ 29 Thượng Đế làm điều nầy cho con người hai hoặc ba lần 30 để con người khỏi chết vì bị trừng phạt bởi tội mình, để cho người tận hưởng cuộc đời. 27

Gióp ơi, hãy để ý lắng tai nghe tôi; hãy im lặng, tôi sẽ lên tiếng. 32 Nếu anh có gì muốn nói, hãy trả lời tôi đi; hãy nói lên vì tôi muốn chứng tỏ anh đúng. 33 Còn nếu anh không có gì để nói thì hãy nghe tôi đây; hãy im lặng, tôi sẽ dạy khôn cho anh.” 31

Gióp 34 34 Rồi Ê-li-hu tiếp tục diễn thuyết: “Hỡi các người khôn, hãy nghe tôi nói: hãy lắng nghe tôi, hỡi những kẻ hiểu biết. 3 Lỗ tai thử lời nói, như lưỡi nếm thức ăn. 4 Chúng ta hãy cùng quyết định xem điều gì phải, và hãy học điều tốt. 5 Gióp bảo, ‘Tôi vô tội, Thượng Đế không chịu phân xử công bằng cho tôi. 6 Thay vì được phân xử công bình, tôi bị gọi là kẻ nói dối. Tôi đã bị tổn thương nặng nề, dù rằng tôi không hề phạm tội.’ 2

Không ai giống như Gióp; uống sỉ nhục như nước lạnh. 8 Anh ta chơi với bọn làm ác, giao du với phường hung bạo 9 vì anh nói, ‘Làm Thượng Đế vui lòng có ích gì.’ 7

Cho nên những ai thông hiểu hãy nghe tôi đây. Thượng Đế không bao giờ lầm lẫn! Đấng Toàn Năng không thể làm ác. 11 Thượng Đế báo trả cho mọi người theo điều họ làm, và đền bù tương xứng với hành vi của họ. 12 Thật vậy, Thượng Đế không hề sai lầm; Đấng Toàn Năng không bao giờ vặn vẹo điều công chính. 13 Không ai cử Thượng Đế cai quản khắp đất, hay đặt Ngài quản lý cả vũ trụ. 14 Nếu Thượng Đế quyết định, cất mạng sống hay hơi thở, 15 thì tất cả mọi người đều chết chung nhau, và trở thành bụi đất. 10

16

Nếu các anh hiểu biết, hãy nghe đây; hãy lắng nghe điều tôi nói.

- 607 -


Có quan cai trị nào mà ghét lẽ công bằng không? Làm sao anh trách móc Thượng Đế là Đấng công bằng và Toàn Năng? 18 Thượng Đế là Đấng nói với các vua, ‘Mấy anh là đồ vô dụng,’ hay bảo các kẻ quyền thế, ‘Các anh là đồ độc ác.’ 19 Ngài không nể nang quan trưởng hay bất cứ ai, Ngài không trọng người giàu hơn người nghèo, vì chính Ngài dựng nên họ. 20 Họ có thể qua đời trong nháy mắt, ngay giữa đêm. Nếu họ bị đánh gục, họ tàn đời; người quyền thế cũng chết không phương cứu vãn. 17

Thượng Đế quan sát bước đi người; Ngài thấy mỗi bước họ đi. 22 Không có nơi tối tăm hay bóng tối nào mà kẻ ác có thể trốn khỏi mặt Ngài. 23 Ngài không cần định thời gian cho con người đến trước mặt Ngài để bị xét xử. 24 Ngài không cần phải hạch hỏi khi người ta làm quấy, Dù cho họ là kẻ có quyền thế. Ngài chỉ cần tiêu diệt họ và đặt người khác thế chỗ họ. 25 Vì Thượng Đế biết điều họ làm, Ngài đánh bại họ ban đêm, họ bị chà đạp. 26 Ngài trừng phạt họ về điều ác họ làm, để mọi người nhìn thấy, 27 Ngài làm như thế vì họ chống nghịch Ngài, và không thèm để ý đến đường lối Ngài. 28 Tiếng kêu của người nghèo đến tai Thượng Đế; Ngài nghe tiếng kêu xin của kẻ khốn cùng. 29 Nhưng nếu Thượng Đế cứ im lặng thì ai làm gì được Ngài? Nếu Ngài ẩn mặt, thì ai thấy được Ngài? Thượng Đế vẫn cai quản các quốc gia và con người. 30 Ngài không cho kẻ ác cai trị và để chúng đánh bẫy người khác. 21

Nhưng nếu có ai thưa với Thượng Đế, ‘Tôi có lỗi, tôi sẽ không phạm tội nữa. 32 Xin hãy dạy tôi điều tôi không thấy. Nếu tôi có làm gì sai, tôi sẽ không tái phạm.’ 33 Cho nên, Gióp ơi, chẳng lẽ Thượng Đế thưởng anh theo điều anh muốn mà chính anh không chịu thay đổi? Chính anh phải quyết định, không phải tôi, cho nên hãy nói cho tôi điều anh biết. 34 Người khôn ngoan nghe tôi nói, kẻ hiểu biết bảo rằng, 35 ‘Gióp nói mà không biết điều mình nói có đúng không; lời nói của Gióp chứng tỏ mình không hiểu biết.’ 36 Ước gì Gióp được thử thách đến cùng, vì Gióp trả lời như kẻ ác! 37 Bây giờ Gióp thêm tội chống nghịch Thượng Đế. Anh ta vỗ tay phản đối, càng ngày càng chống báng Ngài.” 31

Gióp 35 35 Ê-li-hu nói tiếp:

- 608 -


“Gióp ơi, anh nói không đúng, Anh bảo, ‘Tôi phải hơn Thượng Đế,’ 3 anh cũng nói, ‘Làm vui lòng Ngài thì ích lợi gì? Tôi không phạm tội cũng chẳng ích gì.’ 2

Tôi sẽ trả lời anh và các bạn hữu anh. Hãy nhìn lên trời, ngó các đám mây trên cao kia. 6 Nếu anh phạm tội thì chẳng thiệt hại gì cho Thượng Đế; dù cho tội lỗi anh đầy tràn, chúng chẳng làm gì cho Ngài; 7 Dù cho anh đạo đức, anh chẳng cho Thượng Đế được điều gì; Ngài chẳng nhận gì từ tay anh. 8 Đường lối ác độc của anh chỉ hại một người như anh thôi, còn điều tốt anh làm chỉ giúp được những con người khác. 4 5

Người ta kêu cứu khi gặp cảnh khốn khó; họ van xin kẻ quyền thế giúp đỡ. 10 Nhưng không ai hỏi, ‘Thượng Đế, Đấng Tạo Hóa tôi, Đấng ban cho chúng tôi bài hát trong đêm, 11 Ngài tạo làm cho chúng ta khôn ngoan hơn mọi loài thú trên đất, và khôn hơn các loài chim trời.’ 9

Thượng Đế không thèm trả lời kẻ ác khi họ kêu cứu, vì chúng nó tự phụ. 13 Ngài không thèm nghe tiếng van xin vô ích của chúng; Đấng Toàn Năng không thèm lưu ý tới chúng. 14 Ngài càng ít lưu ý tới anh, nếu anh nói anh không thấy Ngài, rằng trường hợp của anh ở trước mặt Ngài, rằng anh phải chờ đợi Ngài, 12

rằng cơn giận Ngài chưa trừng phạt, và Ngài không để ý đến điều ác. 16 Như thế Gióp chỉ nói nhảm, nói mà không biết mình nói gì.” 15

Gióp 36 Ê-li-hu tiếp tục diễn giảng 36 Ê-li-hu nói tiếp: “Hãy nghe tôi thêm một chút nữa, còn nhiều điều mà Thượng Đế muốn tôi nói. 3 Điều tôi biết đến từ nơi xa. Tôi sẽ chứng tỏ Đấng Tạo Hóa của tôi đúng. 4 Anh có thể tin chắc rằng lời nói tôi không phải giả dối; người hiểu biết hiện đang có mặt với anh đây. 2

- 609 -


Thượng Đế rất quyền năng, nhưng Ngài không ghét con người; Ngài quyền năng và cũng rất khôn ngoan. 6 Ngài không để kẻ ác sống, nhưng bênh vực quyền của người nghèo. 7 Ngài luôn luôn trông nom người làm điều phải; Ngài đặt họ ngồi với vua chúa và họ được tôn trọng đời đời. 8 Nếu ai bị xiềng xích trói buộc, hoặc nếu tai ương ràng buộc họ như dây thừng, 9 thì Thượng Đế cho họ biết họ đã làm gì, hoặc họ đã phạm tội kiêu căng. 10 Ngài khiến họ nghe lời cảnh cáo của Ngài và truyền dặn họ từ bỏ điều ác. 11 Nếu họ vâng lời và phục vụ Ngài, thì đời họ sẽ thành công, và những năm tháng còn lại của họ sẽ phước hạnh. 12 Nhưng nếu họ không chịu nghe, thì họ sẽ bị tiêu diệt, và qua đời như kẻ ngu dại. 5

Những ai có tâm địa độc ác nuôi cơn giận. Dù khi bị Thượng Đế trừng phạt, họ không thèm cầu xin cứu giúp. 14 Họ chết lúc còn thanh xuân, đời họ kết thúc trong sỉ nhục. 15 Nhưng Thượng Đế cứu giúp kẻ đau khổ qua sự đau khổ của họ; Ngài khiến họ lắng nghe qua sự đau đớn mình. 13

Thượng Đế cũng đang dịu dàng đưa anh ra khỏi nanh vuốt khốn khổ, đến một chỗ khoảng khoát tự do, nơi Ngài bày ra cho anh cỗ bàn đầy cao lương mỹ vị. 17 Nhưng nay anh bị trừng phạt như kẻ ác; anh đang nhận công lý. 18 Hãy cẩn thận! Đừng để giàu sang kéo anh xa khỏi Thượng Đế; đừng để tiền bạc lôi cuốn anh. 19 Nhớ rằng của cải và sức mạnh cũng không thể cứu anh ra khỏi khốn khó được đâu. 20 Đừng trông mong bóng đêm khi người ta bị bắt ra khỏi nhà họ [a]. 21 Hãy cẩn thận đừng quay theo điều ác, là điều anh có vẻ ham muốn hơn sự đau khổ. 16

Thượng Đế cao cả và quyền năng; không có giáo sư nào giống như Ngài. 23 Không ai hoạch định chương trình cho Ngài; cũng không ai dám nói với Thượng Đế, ‘Chúa làm bậy rồi.’ 24 Hãy nhớ ca ngợi công việc Ngài, mà con người đã ca tụng bằng bài hát. 25 Ai cũng nhìn thấy công việc Ngài; người ta nhìn từ xa. 26 Thượng Đế rất cao cả, cao đến nỗi chúng ta không thể hiểu nổi! Không ai biết Ngài bao nhiêu tuổi. 22

- 610 -


Ngài làm cho các giọt nước bốc hơi lên khỏi đất biến chúng thành mưa. 28 Rồi mưa từ các đám mây trút xuống, mưa rào rơi trên mọi người. 29 Không ai hiểu được Thượng Đế giăng các đám mây như thế nào hoặc sai sấm chớp đến từ nơi Ngài ở ra sao. 30 Hãy xem Thượng Đế phân tán các lằn chớp quanh Ngài, soi sáng nơi sâu thẳm nhất của đại dương. 31 Đó là cách Thượng Đế quản trị các dân; đó là cách Ngài nuôi sống chúng ta. 32 Ngài nắm các lằn chớp trong tay và truyền nó đánh nơi nào tùy ý. 33 Sấm báo trước cơn giông sắp đến, cho đến thú vật cũng biết cơn giông đã gần kề.” 27

Gióp 37 37 “Khi nghe tiếng sấm, tim tôi hồi hộp thiếu điều muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. 2 Hãy nghe đây! Hãy nghe tiếng gầm của Thượng Đế và tiếng vang rền từ miệng Ngài. 3 Ngài thả chớp ra dưới cả bầu trời, và sai nó đánh chỗ xa xôi nhất của đất. 4 Sau đó anh nghe tiếng rền khi Ngài gầm lên. Ngài không giữ lại lằn chớp khi người ta nghe tiếng Ngài. 5 Tiếng của Thượng Đế vang rền kỳ diệu; Ngài làm nhiều điều lớn lao mà chúng ta không hiểu nổi. 6 Ngài phán cùng tuyết giá, ‘Hãy rơi xuống đất,’ và nói cùng mưa rào rằng, ‘Hãy mưa thật to.’ 7 Dùng những hiện tượng đó Ngài ngăn cản công việc con người để ai nấy đều biết công việc của tay Thượng Đế. 8 Các thú vật tìm cách trú mưa ẩn trong các hang động của chúng. 9 Cơn giông từ nơi chứa chúng kéo đến; khí lạnh đến cùng với gió mạnh. 10 Hơi thở Thượng Đế tạo ra băng giá, làm khối nước lớn đóng băng. 11 Ngài làm cho mây chứa đầy nước và trải chớp ra giữa chúng nó. 12 Theo lệnh Ngài chúng bay vòng quanh trái đất, làm theo như ý Ngài muốn. 13 Ngài dùng mây để trừng phạt con người hoặc tưới đất để tỏ tình thương của Ngài. Gióp ơi, hãy nghe đây: Hãy dừng lại và suy nghĩ đến các phép lạ của Thượng Đế. 15 Anh có biết Thượng Đế sắp đặt cho các đám mây và tạo sấm chớp như thế nào không? 16 Anh có biết mây treo trên bầu trời như thế nào không? Anh có biết các phép lạ của Thượng Đế là Đấng biết mọi điều không? 14

- 611 -


Anh chỉ biết đổ mồ hôi, còn áo quần dính vào người anh, khi mọi vật im lìm dưới gió nóng từ phương Nam thổi đến. 18 Anh không thể trải bầu trời ra như Thượng Đế và làm nó trông cứng như đồng đánh bóng. 17

Hãy cho chúng tôi biết phải nói gì với Ngài; chúng ta không thể chuẩn bị lý đoán vì không đủ hiểu biết [a]. 20 Có ai bảo với Thượng Đế rằng tôi muốn nói chuyện với Ngài không? Nói như thế tức là xin tự tiêu hủy mình. 21 Không ai có thể nhìn mặt trời khi nó chiếu sáng giữa bầu trời sau khi gió đã thổi bay các đám mây. 22 Từ phương Bắc Thượng Đế ngự đến trên Núi Thánh [b], trong vẻ oai nghi rực rỡ. 23 Đấng Toàn Năng quá cao chúng ta với không tới. Ngài đầy quyền năng; Ngài luôn luôn đúng và không bao giờ đối xử bất công [c] với ai. 24 Vì thế con người tôn trọng Ngài; Ngài không nể kẻ tự cho mình khôn ngoan.” 19

Gióp 38 Chúa hỏi Gióp 38 Bấy giờ từ giữa cơn giông CHÚA trả lời cho Gióp. Ngài bảo: “Người nầy là ai mà làm mục đích ta lu mờ bằng những lời ngu dại [a]? 3 Hãy tỏ ra mạnh bạo! Ta sẽ hỏi ngươi, ngươi phải trả lời cho ta. 2

Khi ta đặt nền trái đất thì ngươi ở đâu? Nói đi, nếu ngươi biết. 5 Ai định kích thước cho nó? Chắc ngươi biết chứ? Ai giăng mực thước ngang qua nó? 6 Nền trái đất đặt trên vật gì? Ai đặt đá góc nền nó vào chỗ 7 trong khi sao mai cùng xướng hát và các thiên sứ [b] reo vui? 4

Ai đóng cửa ngăn biển cả lại, khi nó bùng ra và khai sinh, 9 Lúc ta làm mây như cái áo mặc cho biển cả và bọc nó trong đám mây đen, 10 Lúc ta đặt giới hạn cho biển và dựng cửa cùng thanh gài vào vị trí. 11 Khi ta nói cùng biển rằng, ‘Mầy chỉ có thể đến đây thôi, không được đi xa hơn nữa, các lượn sóng kiêu ngạo của mầy phải dừng tại đây.’ 8

12

Trong đời ngươi có khi nào ngươi ra lệnh cho bình minh xuất hiện, và chỉ cho ban mai bắt đầu lúc nào

- 612 -


để cho nó nắm lấy viền của đất và giũ kẻ ác ra khỏi đó? 14 Buổi sáng trái đất thay đổi như đất sét bị đóng ấn; đồi núi và thung lũng hiện ra như những lằn xếp của áo. 15 Kẻ ác không nhận được ánh sáng; chúng giơ tay lên để làm hại nhưng tay bị gãy. 13

Có khi nào ngươi đi đến tận nguồn biển cả, hay bước đi trong thung lũng sâu dưới biển chưa? 17 Cổng của thần chết đã mở ra cho ngươi chưa? Ngươi đã từng thấy cổng của vực thẳm đen tối chưa? 18 Ngươi có biết trái đất rộng bao nhiêu không? Nếu ngươi biết những điều đó thì nói cho ta đi. 16

Lối đi đến nơi ở của ánh sáng là đâu, và bóng tối ở chỗ nào? 20 Ngươi có mang chúng về chỗ chúng ở được không? Ngươi có biết đường về nhà chúng không? 21 Chắc chắn ngươi biết nếu ngươi sinh ra vào lúc đó! Ngươi sống được bao nhiêu năm? [c] 19

Ngươi có từng đi vào nơi chứa tuyết hay vào kho mưa đá, 23 mà ta đã để dành cho kỳ khốn khó, cho ngày chiến tranh và giao đấu chưa? 24 Ánh sáng bắt nguồn từ đâu? Gió đông thổi qua đất phát xuất từ chỗ nào? [d] 25 Ai cắt thủy đạo cho mưa lớn và vạch đường cho giông bão? 26 Ai tưới vùng đất không người ở, nơi sa mạc vắng tanh? 27 Ai sai mưa đến để thấm nhuần đất bỏ hoang để cỏ xanh bắt đầu mọc? 28 Mưa có cha không? Ai sinh ra các giọt sương? 29 Ai là mẹ của nước đá? Ai sinh ra tuyết giá từ trời 30 khi nước trở thành cứng như đá, và mặt biển đông đặc lại? 22

Ngươi có thể buộc các chùm sao Rua [e] hay mở dây cho sao Cày [f] không? 32 Ngươi có thể mang các chòm sao [g] ra đúng giờ hay dẫn các sao Đại hùng tinh [h] với các con của nó không? 33 Ngươi có biết luật lệ của trời và hiểu phép tắc của đất không? [i] 31

Ngươi có thể nào ra lệnh cho mây và phủ mình bằng dòng nước lụt không? 35 Ngươi có thể nào sai sấm chớp ra đi không? Chúng có cần đến với ngươi và thưa, ‘Dạ, chúng tôi đây’? 34

36

Ai đặt sự thông minh trong trí và hiểu biết trong lòng?

- 613 -


Ai có đủ khôn ngoan để đếm các đám mây? Làm cho nó nghiêng để nó đổ nước xuống từ trời 38 khi bụi đất trở nên cứng và các tảng đất dính vào nhau? 37

Ngươi có đi săn mồi cho sư tử cái để nuôi con nó trong khi chúng nằm trong hang hay ẩn trong bụi sẵn sàng nhảy bổ ra? 41 Ai nuôi các chim trời khi con nó kêu la cùng Thượng Đế và đi lang thang vì không có thức ăn?” 39 40

Gióp 39 39 “Ngươi có biết mùa nào dê núi sinh sản không? Ngươi có nhìn nai mẹ sinh ra nai con chưa? 2 Ngươi có đếm được số tháng cho đến ngày nó sinh và biết đúng lúc nó sinh con không? 3 Nó nằm xuống, sinh con ra rồi hết đau đẻ. 4 Các con nó lớn mạnh trong vùng hoang dã. Rồi rời tổ, không trở về nữa. Ai thả cho lừa hoang chạy rông? Ai tháo dây cho nó? 6 Ta là Đấng ban sa mạc làm nơi ở cho lừa hoang; Ta ban đất sa mạc cho nó sinh sống. 7 Con lừa hoang chê cười nơi huyên náo của chốn thị thành, và không nghe tiếng hò hét của kẻ đánh xe. 8 Nó rảo khắp núi đồi tìm đồng cỏ, tìm thứ cỏ non xanh ăn được. 5

Liệu con bò rừng có chịu phục vụ ngươi, và đứng quanh quẩn cạnh máng ăn lúc ban đêm không? 10 Ngươi có thể nào buộc dây cương để bắt nó đi theo luống cày để nó cày ruộng cho ngươi không? 11 Ngươi có nhờ cậy nổi sức lực của bò rừng để nó gánh vác việc nhọc nhằn cho ngươi không? 12 Ngươi có trông cậy vào con bò để chở thóc gạo và mang đến sân đập lúa của ngươi không? 9

Chim đà điểu đập cánh vui mừng, nhưng lông của nó không giống lông con cò. 14 Nó đẻ trứng trên mặt đất, rồi ấp bằng cát. 15 Mà không hề nghĩ rằng có thể có bàn chân đạp lên đè nát trứng; Nó không hề biết có thể thú vật dẫm lên đó. 16 Chim đà điểu rất hung bạo đối với con nó, như thể không phải con mình. Nó không quan tâm đến công sức đã bỏ ra, 17 vì Thượng Đế không cho nó trí khôn; Ngài không ban cho nó hiểu biết thông thường. 13

- 614 -


18

Nhưng khi nó chỗi dậy phóng chạy, thì nó chạy rất nhanh, đến nỗi nó cười chê cả ngựa lẫn người cỡi.

Gióp ơi, có phải ngươi ban sức mạnh cho ngựa và đặt cái bờm trên lưng nó không? 20 Có phải ngươi khiến cho ngựa nhảy như cào cào không? Nó khịt một tiếng làm ngươi ta hoảng sợ. 21 Nó dậm chân, tận dụng sức lực và lao vào chiến trận. 22 Nó coi thường nỗi sợ hãi và không e ngại điều gì; gươm không làm nó hoảng sợ. 23 Bên hông nó, tiếng ống tên nghe lọc cọc, cùng với gươm giáo sáng loáng dưới ánh mặt trời. 24 Nó hăng say phóng trên đất [a]; khi nghe tiếng kèn thổi nó không chịu đứng yên. 25 Khi kèn thổi lên nó hí lớn, ‘A ha!’ Nó đánh mùi chiến trường từ xa; Nó nghe tiếng người chỉ huy và tiếng hò la xung trận. 19

Có phải nhờ khôn ngoan ngươi mà chim ó bay được và giương cánh bay về phương Nam [b]? 27 Có phải ngươi ra lệnh cho chim diều hâu [c] bay và làm tổ trên cao? 28 Nó ở trên các ghềnh đá cao và ngủ ở đó suốt đêm; chỏm đá là nơi trú ẩn an toàn của nó. 29 Từ đó nó tìm mồi; mắt nó rất tinh có thể thấy từ xa. 30 Các con nó ăn huyết; xác chết ở đâu, diều hâu tụ lại đó.” 26

Gióp 40 40 Rồi CHÚA nói cùng Gióp: 2

“Kẻ tranh luận với Đấng Toàn Năng sẽ chỉnh Ngài chăng? Người nào cáo trách Thượng Đế hãy trả lời với Ngài.”

3

Sau đó Gióp thưa với CHÚA:

“Tôi chẳng ra gì; tôi không thể đối đáp gì với Ngài, nên tôi sẽ lấy tay che miệng. 5 Tôi nói một lần nhưng sẽ không nói nữa. Tôi nói hai lần, nhưng chẳng có gì để thêm.” 4

6

Rồi từ giữa cơn giông CHÚA nói cùng Gióp:

7

“Hãy nai nịt ngươi [a]! Ta sẽ hỏi ngươi, ngươi phải trả lời cho ta.

8

Có phải ngươi bảo rằng ta bất công chăng? Có phải ngươi oán trách ta để ta khiến cho ngươi hoá ra công chính chăng?

- 615 -


Ngươi có mạnh bằng Thượng Đế không? Giọng ngươi có gầm thét được như giọng Ngài không? 10 Nếu được, hãy điểm tô ngươi bằng vinh hiển và sắc đẹp; lấy vinh dự và uy nghi mặc vào. 11 Hãy trút cơn thịnh nộ ngươi ra; hãy nhìn kẻ tự phụ và hạ chúng xuống. 12 Hãy nhìn kẻ kiêu căng và khiến chúng nhún nhường. Hãy đè bẹp kẻ ác. 13 Hãy chôn vùi chúng chung nhau trong bụi đất; phủ mặt chúng trong mồ mả. 14 Nếu ngươi làm được chuyện đó, chính ta đây sẽ ca ngợi ngươi, vì ngươi đủ mạnh để tự cứu mình. 9

15

Hãy nhìn con bê-hê-mốt [b], mà ta đã tạo nên như ta đã tạo ngươi. Nó ăn cỏ như bò. 16 Hãy nhìn sức lực trong thân thể nó; bắp thịt trong bao tử nó vô cùng mạnh. 17 Đuôi nó mạnh như cây hương nam, các bắp thịt trong đùi nó đan tréo nhau. 18 Xương nó như ống đồng; chân nó như thanh sắt. 19 Nó là một trong những công trình đầu tiên của Thượng Đế, nhưng Đấng Tạo Hoá có thể tiêu diệt nó. 20 Núi đồi, nơi các muôn thú nô đùa, làm thức ăn cho nó. 21 Nó nằm dưới các cây sen, ẩn trong các bụi lác cao nơi đầm lầy. 22 Các cây sen làm bóng che nó, các cây bạch dương nơi dòng suối bao quanh nó. 23 Nếu sông ngòi làm lụt lội, nó chẳng sợ; dù sông Giô-đanh tràn đến miệng nó vẫn ung dung. 24 Có ai bịt được mắt nó để bắt nó không? Có ai dám lấy vòng xỏ mũi nó không?”

Gióp 41 41 “Ngươi có thể nào câu con lê-vi-a-than [a] hay lấy dây buộc lưỡi nó không? 2 Ngươi có thể nào lấy dây xỏ mũi nó hay móc hàm nó không? 3 Liệu nó có van xin ngươi thương xót và ăn nói ngon ngọt với ngươi không? 4 Nó có bằng lòng kết ước với ngươi để ngươi bắt nó làm tôi mọi trọn đời không? 5 Ngươi có thể nào nuôi lê-vi-a-than như nuôi chim trong nhà hay buộc dây cho con gái nhỏ ngươi dắt đi chơi không? 6 Các lái buôn có bằng lòng thương lượng với ngươi để mua nó, để họ chia chác với nhau không? 7 Ngươi có thể nào phóng lao vào da nó hay lấy gươm đâm thủng đầu nó không?

- 616 -


Nếu ngươi đặt tay trên nó, ngươi sẽ nhớ cuộc giao tranh, ngươi sẽ chẳng dám bao giờ làm như thế nữa. 9 Chẳng có hi vọng gì thắng được nó, chỉ cần nhìn nó áp đảo người ta. 10 Không ai dám chọc giận nó [b], vậy ai dám đối đầu với ta? 8

11

Không ai cho ta điều gì để ta phải trả lại, vì mọi vật ở dưới trời đều thuộc về ta [c].

Ta sẽ nói về tứ chi con lê-vi-a-than, sức mạnh vô song và thân hình cân đối của nó. 13 Không ai có thể xé da nó hay chọc thủng lớp áo giáp [d] bọc nó. 14 Không ai có thể mở banh hàm vĩ đại của nó; trong hàm đầy răng nhọn ghê rợn. 15 Nó có hàng dãy khiên trên lưng nó bám sát vào nhau. 16 Mỗi cái khiên đều sát nhau, đến nỗi không khí không qua được. 17 Chúng nối vào nhau thật chắc; đến nỗi không thể tách rời được. 18 Khi nó khịt mũi, tia sáng phun ra, mắt nó giống như ánh bình minh. 19 Lửa phun ra từ miệng nó; tia lửa bắn ra. 20 Khói xịt ra từ mũi nó, như hơi ra từ một nồi lớn đặt trên lửa nóng. 21 Hơi thở nó đốt cháy than, lửa phun ra từ miệng nó. 22 Cổ nó rất chắc. Người ta sợ nó và bỏ chạy. 23 Các lằn xếp trên da nó kết chặt với nhau; xếp cứng lại không thể di động được. 24 Ngực nó cứng như đá, cứng như đá cối xay. 25 Kẻ thế lực [e] cũng sợ cái nhìn khủng khiếp của nó và run rẩy giật lùi khi nó di chuyển. 26 Gươm đâm nhưng nó không hề hấn gì, cả đến tên, lao, hay giáo cũng vậy. 27 Nó xem sắt như rơm rạ và xem đồng như gỗ mục. 28 Nó không chạy trốn khỏi mũi tên; Các viên đá bắn vào nó chẳng khác nào trấu đối với nó. 29 Cái dùi cui đối với nó như rác rưởi, và nó cười khì khi người ta phóng lao vào nó. 30 Bụng nó như bình gốm bể. Nó để lại lối đi trên bùn như trên bàn đạp lúa. 31 Nó làm cho biển sâu sủi bọt như nồi nước sôi; nó khuấy động biển như chảo dầu. 32 Khi nó bơi, nó để lại đường sáng trong nước khiến biển giống như ra tóc bạc. 33 Không gì trên đất sánh với nó được; nó là con thú không biết sợ ai cả. 12

- 617 -


34

Nó xem thường kẻ tự phụ; nó là vua các loài thú kiêu căng.”

Gióp 42 Gióp đáp lời Chúa 42 Sau đó Gióp thưa với CHÚA: “Tôi biết Ngài có thể làm mọi điều, không có chương trình nào của Ngài bị hư hỏng. 3 Ngài hỏi, ‘Người nầy là ai mà làm cho mục đích ta lu mờ bằng cách nói nhảm?’ [a] Thật vậy tôi đã nói những điều tôi không hiểu biết; Tôi nói đến những điều kỳ diệu quá không hiểu nổi. 2

Ngài nói, ‘Nghe đây, ta sẽ nói. Ta sẽ hỏi ngươi, ngươi phải trả lời cho ta.’ 5 Trước đây tôi có nghe về Ngài, nhưng nay mắt tôi đã thấy Ngài. 6 Cho nên tôi lấy làm xấu hổ [b]; Tôi sẽ thay đổi lòng và nếp sống, và ngồi trong tro bụi [c].” 4

CHÚA phục hồi lại sự giàu sang cho Gióp Sau khi CHÚA nói những lời ấy với Gióp thì Ngài bảo Ê-li-pha, người Thê-man, “Ta giận ngươi và hai bạn ngươi vì các ngươi không nói đúng về ta như Gióp, kẻ tôi tớ ta. 8 Bây giờ hãy bắt bảy con bò đực và bảy con chiên đực rồi đi đến Gióp, kẻ tôi tớ ta, để dâng của lễ thiêu cho các ngươi. Gióp, kẻ tôi tớ ta sẽ cầu nguyện cho các ngươi, ta sẽ nghe lời người và ta sẽ không trừng phạt sự dại dột của các ngươi. Các ngươi đã không nói đúng về ta như Gióp, kẻ tôi tớ ta.” 7

Vậy Ê-li-pha, người Thê-man, Binh-đát, người Su-ha, và Xô-pha người Na-a-mát làm theo như CHÚA bảo. Ngài nghe lời cầu nguyện của Gióp. 9

Sau khi Gióp cầu nguyện cho các bạn mình thì CHÚA ban phước cho ông trở lại. Ngài ban cho ông gấp đôi những điều ông có trước. 11 Các anh chị em đến thăm Gióp cùng với những người biết ông trước đây, rồi cùng ăn chung với ông. Họ an ủi ông và làm vơi bớt nỗi khổ mà CHÚA mang đến cho ông. Mỗi người cho Gióp một miếng bạc và một cái vòng vàng. 10

CHÚA ban phước cho chuỗi đời còn lại của Gióp nhiều hơn lúc đầu. Gióp có mười bốn ngàn chiên, sáu ngàn lạc đà, một ngàn đôi bò, và một ngàn lừa cái. 13 Gióp cũng có bảy con trai và ba con gái. 14 Ông đặt tên cô con gái đầu là Giê-mi-ma, cô thứ nhì là Kê-xia, và cô thứ ba là Kê-ren Háp-phúc. 15 Toàn xứ không có thiếu nữ nào đẹp bằng các con gái của Gióp. Cha các cô cho các cô đó tài sản cũng như các anh mình [d]. 12

Sau đó, Gióp sống được một trăm bốn mươi năm. Ông nhìn thấy con, cháu, chắt, chít mình. 17 Rồi Gióp qua đời; cao tuổi và sống lâu. 16

- 618 -


Thánh Thi 1 (Psaumes-Psalms) Quyển 1 (Thi thiên 1-41) Hai lối sống 1 Phúc cho người nào không nghe lời kẻ ác, không bước trong nẻo tội nhân, chẳng làm như kẻ xấc láo. 2 Nhưng yêu mến lời dạy của CHÚA, và suy tư lời ấy đêm ngày. 3 Họ lớn mạnh như cây mọc cạnh suối nước, sinh hoa quả đúng mùa, lá chẳng khô héo. Mọi việc họ làm đều thành công. Kẻ ác chẳng được như thế. Chúng giống như trấu bị gió thổi bay tứ tung. 5 Cho nên kẻ ác sẽ chẳng thoát khỏi sự trừng phạt của Thượng Đế. Tội nhân cũng không thể nào thờ phụng chung với dân CHÚA [a]. 6 Vì CHÚA chăm sóc con dân Ngài, còn kẻ ác sẽ bị tiêu diệt. 4

Thánh Thi 2 Vua được Chúa chọn 2 Tại sao các quốc gia nổi giận, và dân chúng lập mưu vô ích? 2 Các vua trên đất chuẩn bị chiến đấu, mọi lãnh tụ âm mưu cùng nhau chống lại CHÚA và vua được Ngài bổ nhiệm [a]. 3 Họ bảo, “Chúng ta hãy bẻ xiềng trói và ném bỏ các dây buộc chúng ta.” Nhưng Đấng ngự trên trời cười; CHÚA chế nhạo họ. 5 Rồi Ngài khiển trách họ và dùng cơn giận Ngài làm chúng hoảng sợ. 6 Ngài bảo, “Ta đã chỉ định vua ta trị vì tại Giê-ru-sa-lem, trên Xi-ôn là núi thánh ta.” 4

Bây giờ ta sẽ cho các ngươi biết điều CHÚA đã phán: Ngài nói cùng ta, “Con là con ta. Ngày nay ta sinh ra con [b]. 7

- 619 -


Nếu con xin, ta sẽ cho con các quốc gia; mọi dân trên đất sẽ thuộc về con. 9 Con sẽ cai trị họ bằng một cây roi sắt. Con sẽ đập nát chúng như đồ gốm.” 8

Cho nên, các vua ơi, hãy khôn ngoan, các quan quyền ơi, hãy học bài nầy. 11 Hãy kính sợ và vâng phục Thượng Đế. Hãy run sợ mà phục vụ Ngài. 12 Hãy tỏ lòng trung thành với con Ngài [c], nếu không Ngài sẽ nổi giận tiêu diệt các ngươi vì Ngài rất dễ nóng giận. Nhưng phúc cho người nào nhờ cậy Ngài bảo vệ mình. 10

Thánh Thi 3 Bài cầu nguyện buổi sáng Đa-vít hát bài nầy khi đang chạy trốn khỏi Áp-xa-lôm, con trai mình.

3 CHÚA ôi, kẻ thù tôi quá đông! Vô số người chống lại tôi. 2 Nhiều người nói về tôi rằng, “Thượng Đế sẽ không giải cứu hắn đâu.” Xê-la 3

CHÚA ôi, xin hãy đứng dậy [a]! Ngài là cái thuẫn đỡ cho tôi, Thượng Đế kỳ diệu của tôi giúp tôi thêm can đảm.

4

Tôi sẽ cầu nguyện CHÚA, từ núi thánh Ngài sẽ trả lời tôi. Xê-la

Tôi nằm xuống ngủ rồi thức dậy vì CHÚA ban thêm sức cho tôi. 6 Hàng ngàn quân thù vây quanh tôi, nhưng tôi không sợ. 5

Lạy CHÚA, xin đứng dậy! Thượng Đế tôi ơi, xin đến cứu tôi! Ngài tát vào má kẻ thù tôi; Ngài bẻ hết răng kẻ ác. 7

8

Sự đắc thắng [b] thuộc về Ngài. Lạy CHÚA, xin ban phước cho dân Ngài. Xê-la

- 620 -


Thánh Thi 4 Bài cầu nguyện buổi chiều Soạn cho nhạc trưởng. Dùng với nhạc cụ bằng dây. Thi thiên của Đa-vít.

4 Lạy CHÚA là Đấng làm điều ngay thẳng, xin đáp lời khi tôi khẩn cầu Ngài. Khi tôi lâm nguy, xin giải cứu tôi. Xin thương xót tôi và nghe lời cầu nguyện của tôi. Nầy các ngươi [a], các ngươi sẽ biến vinh dự ta ra điều hổ nhục trong bao lâu nữa? Các ngươi sẽ yêu mến và chạy theo điều giả dối vô ích cho đến bao giờ? Xê-la 2

Các ngươi biết CHÚA đã chọn cho mình những kẻ trung thành. CHÚA sẽ nghe khi tôi khẩn cầu cùng Ngài. 4 Lúc ngươi đang nổi giận thì chớ phạm tội [b]. Đang khi nằm trên giường ngủ hãy thầm lặng suy nghĩ những điều đó. Xê-la 5 Hãy dâng của lễ phải lẽ cho Thượng Đế và nhờ cậy Ngài. 3

Nhiều người hỏi, “Ai sẽ cho chúng ta điều tốt đẹp?” Lạy CHÚA, xin ban phúc lành cho chúng tôi [c]. 7 Ngài khiến tôi hết sức vui mừng, vui hơn những kẻ khác vào mùa gặt, lúc họ đang dồi dào ngũ cốc và rượu mới. 8 Tôi nằm ngủ yên giấc, vì CHÚA ơi, chỉ một mình Ngài giữ cho tôi được an toàn. 6

Thánh Thi 5 Bài cầu nguyện buổi sáng xin Chúa gìn giữ Soạn cho nhạc trưởng. Dùng với sáo [a]. Thi thiên của Đa-vít.

5 CHÚA ôi, xin hãy nghe tiếng tôi khẩn cầu. Xin hiểu nỗi buồn thảm của tôi. 2 Xin nghe tiếng kêu cứu của tôi, lạy Vua là Thượng Đế tôi vì tôi khẩn nguyện cùng Ngài. 3 Lạy CHÚA, mỗi sáng Ngài nghe tiếng tôi. Mỗi sáng tôi dâng lên lời khẩn xin cùng Ngài và chờ đợi Ngài trả lời.

- 621 -


4

Ngài là Thượng Đế không thích điều ác; Ngài không chịu được kẻ làm ác [b].

Những kẻ ngu dại [c] không thể đứng trước mặt Ngài. Ngài ghét mọi kẻ làm ác. 6 Ngài diệt những kẻ nói dối; CHÚA ghét bọn giết người và kẻ lường gạt người khác. 5

Vì lòng yêu thương lớn lao của CHÚA, tôi có thể đến trong đền thờ Ngài. Vì tôi kính sợ CHÚA nên tôi có thể thờ phụng trong đền thánh Ngài. 8 Lạy CHÚA, vì kẻ thù tôi rất đông, xin chỉ cho tôi biết cách hành động. Xin cho tôi biết rõ phải sống thế nào để đẹp lòng Ngài. 9 Môi miệng kẻ thù tôi không hề biết nói thật; trong lòng chúng nó lúc nào cũng muốn hại người khác. Họng chúng nó như huyệt mả mở ra; chúng dùng lưỡi để lường gạt người khác [d]. 10 Lạy CHÚA xin lên án chúng nó! Hãy cho chúng nó tự rơi vào chính bẫy mình giăng ra. Hãy đuổi chúng nó đi vì chúng phạm tội quá nhiều; chúng đã chống nghịch Ngài. 11 Nhưng xin hãy cho những ai tin cậy Ngài được vui sướng; để họ hát mừng mãi mãi. Xin hãy bảo vệ những người yêu mến Ngài để họ vui thích trong Ngài. 12 Lạy CHÚA, Ngài ban phúc cho những ai làm theo lẽ phải; Ngài bảo vệ họ như cái thuẫn đỡ của chiến sĩ. 7

Thánh Thi 6 Cầu nguyện xin Chúa thương xót trong khi gặp cảnh khốn khó Soạn cho nhạc trưởng. Dùng với nhạc khí bằng dây. Theo điệu sê-mi-nít. Thi thiên của Đa-vít.

6 CHÚA ôi, xin đừng sửa trị tôi trong khi Ngài nổi giận; xin đừng trừng phạt tôi khi Ngài đang thịnh nộ. 2 Lạy CHÚA, xin thương xót tôi, vì tôi đuối sức. CHÚA ôi, xin chữa lành tôi, vì xương cốt tôi run rẩy. 3 Tôi rất lo sợ, CHÚA ôi, chừng nào thì Ngài sẽ chữa lành cho tôi? - 622 -


Lạy CHÚA xin trở lại giải cứu tôi; hãy cứu tôi vì lòng nhân từ của CHÚA. 5 Kẻ chết không nhớ đến CHÚA đâu; người nằm trong mồ làm sao ca ngợi CHÚA được? 4

Tôi mệt mỏi vì than vãn cùng Ngài. Mỗi đêm tôi khóc ướt giường tôi; dầm nó trong nước mắt. 7 Mắt tôi mờ vì kêu khóc; lòa vì than khóc kẻ thù tôi. 6

Hỡi những kẻ làm ác hãy đi khỏi ta vì CHÚA đã nghe tiếng kêu than ta. 9 CHÚA đã nghe tiếng kêu cứu của ta; CHÚA sẽ đáp lời cầu nguyện ta. 8

10

Các kẻ thù tôi sẽ xấu hổ và lo sợ. Chúng nó sẽ bất thần bỏ đi vì nhục nhã.

Thánh Thi 7 Cầu xin được đối xử công bằng Bài ca của Đa-vít theo điệu Si-gai [a]. Ông hát bài nầy cho CHÚA về vụ Cút, người Bên-gia-min.

7 Lạy CHÚA là Thượng Đế tôi, tôi trông cậy Ngài che chở tôi. Xin giải cứu tôi khỏi các kẻ đang rượt đuổi tôi. 2 Nếu không chúng nó sẽ xé xác tôi như sư tử. Chúng sẽ phanh thây tôi, không ai cứu giúp. Lạy CHÚA là Thượng Đế tôi ôi, tôi đã làm gì? Tay tôi có làm gì quấy không? 4 Tôi có đối xử bất công với bạn hữu [b] tôi hay vô cớ ăn cắp đồ của kẻ thù tôi không? 5 Nếu tôi có làm những điều ấy thì cầu cho kẻ thù tôi rượt theo bắt được tôi. Mong cho nó chà đạp tôi dưới cát bụi và chôn vùi tôi xuống đất đen. Xê-la 3

Lạy CHÚA, xin hãy nổi thịnh nộ đứng dậy [c]; chống lại cơn giận của kẻ thù tôi. Thượng Đế tôi ơi, xin hãy đứng dậy và định ngày xét xử. 7 Xin hãy nhóm họp các dân lại quanh Ngài và trên ngôi cao từ trời xét xử chúng. 8 Lạy CHÚA xin hãy xét xử các dân. Lạy CHÚA, xin bênh vực tôi vì tôi làm điều phải, Lạy Thượng Đế tối cao, tôi không làm điều gì quấy. 6

- 623 -


Lạy Thượng Đế, Ngài luôn luôn làm điều phải. Ngài biết tư tưởng và cảm nghĩ của lòng chúng tôi. Xin hãy ngăn chận hành vi kẻ ác và cứu giúp kẻ làm điều phải. 9

Thượng Đế che phủ tôi như cái thuẫn đỡ; Ngài cứu những kẻ có lòng ngay thật. 11 Thượng Đế phân xử theo lẽ công bằng, Ngài luôn sẵn sàng trừng phạt kẻ ác. 12 Nếu kẻ ác không ăn năn, thì Thượng Đế sẽ mài gươm; Ngài đã giương cung và nhắm. 13 Ngài đã chuẩn bị các khí giới độc hại; và chế tên lửa. 10

Có những kẻ âm mưu điều ác, gieo rối loạn và tung lời láo khoét. 15 Chúng đào hố để kẻ khác sụp, nhưng chính mình lại rơi vào đó. 16 Chính chúng sẽ lâm vào cảnh khốn đốn; sự hung ác mà chúng gây ra sẽ trở lại gây hại cho chúng. 14

17

Tôi ca ngợi CHÚA vì Ngài làm điều công bằng. Tôi ca tụng Thượng Đế Chí cao.

Thánh Thi 8 Sự cao cả của Chúa Soạn cho nhạc trưởng theo điệu ghi-tít. Thi thiên của Đa-vít.

8 Lạy CHÚA là chủ tôi, danh CHÚA thật diệu kỳ trên khắp đất! Danh đó khiến trời cao ca ngợi Ngài. 2

Vì cớ kẻ thù nên Ngài dạy cho trẻ thơ và hài nhi ca ngợi Ngài để chúng bị câm miệng và để diệt những kẻ định báo thù.

Tôi nhìn bầu trời do tay Ngài tạo nên. Tôi ngắm mặt trăng và các ngôi sao mà Ngài đã dựng nên. 4 Thì con người là gì mà Ngài bận tâm? Tại sao CHÚA chăm sóc loài người [a]? 5 CHÚA tạo nên con người [b] dưới thiên sứ một chút rồi ban cho người vinh hiển và danh dự. 3

- 624 -


Ngài đặt con người quản trị mọi loài Ngài đã tạo dựng. Ngài đặt mọi vật dưới quyền kiểm soát của con người: 7 tất cả chiên cừu, gia súc, muông thú, 8 chim trời, cá biển và mọi sinh vật trong biển. 9 Lạy CHÚA là chủ tôi, danh CHÚA thật diệu kỳ trên khắp đất! 6

Thánh Thi 9 Cảm tạ vì đắc thắng [a]

Soạn cho nhạc trưởng theo điệu “Cái chết của Con [b].” Thi thiên của Đa-vít.

9 Lạy CHÚA, tôi sẽ hết lòng ca ngợi Ngài. Tôi sẽ thuật lại các phép lạ Ngài đã làm. 2 Tôi sẽ vui mừng vì Ngài; lạy Thượng Đế Chí Cao, tôi sẽ ca ngợi danh Ngài. 3 Các kẻ thù tôi lùi lại; vì cớ Ngài chúng bị vây khốn và tiêu diệt. Ngài đã nghe lời than vãn của tôi; Ngài ngự trên ngôi và phân xử công bằng cho tôi. 5 CHÚA quở trách các quốc gia và tiêu diệt kẻ ác; Ngài vĩnh viễn xóa sạch tên chúng nó. 6 Kẻ thù tôi bị tiêu diệt đời đời. Ngài hủy phá thành của chúng nó; không ai còn nhớ đến chúng nữa. 4

Nhưng CHÚA ngự trị đến muôn đời. Ngài ngự trên ngôi và phân xử, 8 dùng lẽ công bằng phân xử thế gian; Ngài sẽ phân xử chính trực cho mọi dân. 9 CHÚA bênh vực kẻ khốn khổ; Ngài bênh vực họ khi họ lâm cảnh khốn cùng. 7

10

Những ai biết uy danh CHÚA sẽ đặt lòng tin cậy nơi Ngài vì Ngài không xua đuổi kẻ tìm kiếm Ngài.

11

Hãy ca ngợi CHÚA là vua ngự trên núi Xi-ôn [c]. Hãy thuật cho các dân biết những việc lớn lao Ngài làm.

- 625 -


Ngài ghi nhớ kẻ giết người; Ngài không quên tiếng kêu của kẻ khốn cùng. 12

Lạy CHÚA, xin thương xót tôi. Hãy xem kẻ thù hại tôi biết bao nhiêu. Đừng để tôi đi qua cổng chết. 14 Rồi tại cửa thành Giê-ru-sa-lem, tôi sẽ ca ngợi Ngài; tôi sẽ vui mừng vì Ngài đã cứu tôi. 13

Các dân rơi vào hố chúng đã đào. Chân chúng vướng phải lưới chúng đã giăng. 16 CHÚA đã tỏ mình qua những phán quyết công bình của Ngài; kẻ ác bị sập bẫy do điều chúng làm. Hi-gai-on [d]Xê-la 15

Kẻ ác đi xuống mồ và những ai quên CHÚA cũng vậy. 18 Nhưng những kẻ khốn cùng sẽ không bị quên lãng. Hi vọng của kẻ nghèo không bao giờ tiêu mất. 17

Lạy CHÚA, xin đứng dậy phân xử các nước. Đừng để các dân tưởng mình mạnh mẽ. 20 Lạy CHÚA, xin hãy dạy họ kính sợ Ngài. Các dân nên biết rằng mình chẳng qua chỉ là người phàm. Xê-la 19

Thánh Thi 10 Lời phàn nàn về kẻ ác 10 CHÚA ôi, sao Ngài đứng xa? Trong khi tôi gặp khốn khó, sao Ngài lánh mặt đi? 2 Kẻ ác hung hăng rượt đuổi người khốn khổ. Cầu cho chúng nó sập bẫy chúng giăng ra. 3 Chúng nó khoe khoang về lòng tham muốn mình. Chúng chúc phước cho kẻ tham lam nhưng ghét Thượng Đế. 4 Kẻ ác quá sức kiêu căng. Chúng không bao giờ tìm kiếm Thượng Đế. Trong đầu chúng không có chỗ nào cho CHÚA. 5 Chúng luôn luôn thành công, Sự xét đoán của CHÚA cao quá điều hiểu biết của chúng; chúng chế diễu kẻ thù mình. 6 Rồi tự nhủ, “Sẽ không có tai họa gì xảy đến cho ta; ta sẽ chẳng bao giờ bị tàn hại.” 7 Môi miệng chúng nó đầy lời chửi rủa, dối trá và đe dọa; chúng dùng lưỡi mình để phạm tội và làm điều ác. - 626 -


Chúng lẩn khuất ở các làng mạc, tìm người vô tội để giết; chúng núp nơi kín để bắt kẻ khốn cùng. 9 Chúng rình mò như sư tử rình mồi. Chúng rình bắt kẻ nghèo; chụp bắt kẻ khốn khó, kéo họ vào trong lưới chúng. 10 Kẻ nghèo bị xô đẩy và giày đạp; họ bị thua thiệt vì kẻ thù họ mạnh hơn. 11 Kẻ ác thầm nghĩ, “CHÚA đã quên chúng ta rồi. Ngài không thấy gì hết.” 8

12

Lạy CHÚA, xin đứng dậy và ra tay. Xin đừng quên kẻ khốn cùng.

Tại sao kẻ ác ghét CHÚA? Chúng tự nhủ, “Thượng Đế sẽ không trừng phạt chúng ta đâu.” 14 Lạy CHÚA, Ngài hẳn đã thấy những điều hung bạo và gian ác nầy; xin nhìn đến và ra tay. Những kẻ khốn cùng trông cậy Ngài giúp đỡ. Ngài là Đấng cứu giúp kẻ mồ côi. 13

Xin bẻ gãy quyền lực kẻ ác. Xin trừng phạt tội phạm của chúng cho đến khi không còn điều ác nào. 16 CHÚA làm vua đến đời đời. Ngài đã tiêu diệt các dân ngoại quốc khỏi mặt đất. 17 Lạy CHÚA, Ngài đã nghe nguyện vọng kẻ nghèo. Xin đáp lời họ van xin và nghe tiếng kêu cầu của họ. 18 Xin bảo vệ kẻ mồ côi, kéo họ ra khỏi cảnh khốn khổ để họ không còn sợ kẻ ác nữa. 15

Thánh Thi 11 Hãy tin cậy Thượng Đế Thi thiên của Đa-vít. Soạn cho nhạc trưởng.

11 Tôi nhờ cậy Thượng Đế bảo vệ. Vậy sao ngươi hỏi ta rằng, “Hãy bay lên núi như chim đi.” Kẻ ác giương cung như thợ săn; Gài sẵn tên vào dây cung. Từ trong bóng tối, chúng núp bắn người lương thiện. 3 Nếu nền móng bị sụp đổ [a], thì người công chính sẽ làm sao? 2

CHÚA ngự trong đền thánh Ngài; Ngài ngự trên ngôi trời, Thấy hết hành động mỗi người; Mắt Ngài quan sát từng người. 4

- 627 -


CHÚA thử nghiệm người thiện và kẻ ác, Ngài ghét kẻ mưu hại người khác. 6 Nguyện Ngài xối than lửa đỏ với diêm sinh cháy bừng lên đầu kẻ ác. Nguyện chúng nhận lấy bão lốc. 7 CHÚA luôn công chính, Ngài chuộng công lý; nên những người ngay thẳng sẽ được thấy mặt Ngài. 5

Thánh Thi 12 Cầu xin được tránh khỏi kẻ dối gạt Soạn cho nhạc trưởng. Theo điệu sê-mi-nít. Bài ca của Đa-vít.

12 Lạy CHÚA xin giải cứu tôi vì người nhân đức không còn nữa; không còn tín hữu chân thật trên mặt đất. 2 Ai cũng lừa dối người láng giềng mình; chúng nói một đằng, định bụng một nẻo. 3 Xin CHÚA hớt môi người nịnh hót, cắt lưỡi kẻ khoe khoang. 4 Chúng bảo, “Lưỡi chúng ta sẽ giúp chúng ta đắc thắng. Chúng ta muốn nói gì cũng được; chẳng ai cai trị chúng ta cả.” Nhưng CHÚA phán, “Bây giờ ta sẽ đứng dậy vì kẻ nghèo bị ức hiếp quá mức. Vì họ rên siết nên ta sẽ cứu giúp họ.” 5

6

Lời CHÚA rất tinh sạch, như bạc đã được tinh luyện bằng lửa, đến bảy lần.

Lạy CHÚA, xin giữ gìn chúng tôi; Ngài luôn bảo vệ chúng tôi khỏi những kẻ như thế. 8 Kẻ ác vây quanh chúng tôi, khi con người đề cao việc ác. 7

Thánh Thi 13 Cầu nguyện xin Chúa ở gần Soạn cho nhạc trưởng. Bài ca của Đa-vít.

13 CHÚA ơi, Ngài sẽ quên tôi cho đến bao giờ? Ngài sẽ tránh mặt tôi cho đến bao giờ? 2 Tôi phải mang gánh lo âu và buồn thảm trong lòng mỗi ngày đến chừng nào? Kẻ thù tôi sẽ thắng tôi đến bao giờ? Lạy CHÚA, xin hãy đoái thương tôi. Lạy Thượng Đế tôi, xin hãy đáp lời tôi; thêm sức cho tôi kẻo tôi qua đời. 3

- 628 -


4

Nếu không kẻ thù tôi sẽ bảo, “Ta thắng nó rồi!” Những kẻ nghịch tôi sẽ reo mừng, vì tôi bị thua thiệt.

Tôi tin cậy nơi tình yêu Ngài. Lòng tôi vui mừng vì Ngài cứu tôi. 6 Tôi sẽ hát cho CHÚA vì Ngài đã chăm sóc tôi. 5

Thánh Thi 14 Kẻ vô tín ngu dại Soạn cho nhạc trưởng. Bài ca của Đa-vít.

14 Kẻ ngu dại nghĩ thầm, “Chẳng có Thượng Đế đâu.” Bọn ngu dại ấy đều độc ác và hành động nhơ nhuốc; Chẳng có ai làm điều thiện. Từ trời CHÚA nhìn xuống loài người xem thử có ai hiểu biết, hoặc tìm kiếm Thượng Đế để xin Ngài hướng dẫn chăng. 3 Nhưng ai nấy đều quay đi. Tất cả đều gian ác. Chẳng có ai làm điều thiện, không có lấy một người 2

Kẻ ác không hiểu biết sao? Chúng tiêu diệt dân ta như ăn bánh. Chúng không hề nhờ cậy CHÚA. 5 Nhưng kẻ ác bị kinh hoảng vì CHÚA ở cùng những người làm điều phải. 6 Mưu mô kẻ ác nghịch cùng người nghèo sẽ thất bại, vì CHÚA gìn giữ họ. 4

Tôi cầu mong cho chiến thắng đến với Ít-ra-en từ núi Xi-ôn! Khi CHÚA phục hồi dân của Ngài, thì con cháu Gia-cốp sẽ vui mừng, và dân Ít-ra-en sẽ hớn hở. 7

Thánh Thi 15 Điều Thượng Đế đòi hỏi Bài ca của Đa-vít.

15 Lạy CHÚA, ai được vào Lều Thánh [a] Ngài? Ai được phép ở trên núi thánh của CHÚA? 2 Chỉ có những người thanh sạch, và làm điều ngay thẳng. Họ nói lời chân thật từ lòng mình.

- 629 -


Những ai không dối gạt kẻ khác; không làm hại người láng giềng, không đi nói xấu. 4 Họ không kiêng nể kẻ gian ác nhưng tôn trọng kẻ kính sợ CHÚA. Họ giữ lời hứa với người láng giềng, dù phải thiệt hại đi nữa. 5 Kẻ không tính tiền lời khi cho vay, không nhận của hối lộ để làm hại người vô tội. 3

Những ai làm các điều đó sẽ không bao giờ bị tiêu diệt.

Thánh Thi 16 Chúa chăm sóc dân Ngài Bài “mịch-tâm” của Đa-vít.

16 Lạy Thượng Đế, xin hãy bảo vệ tôi vì tôi tin cậy nơi Ngài. 2 Tôi [a] thưa cùng CHÚA, “Ngài là CHÚA tôi. Mọi ơn phước tôi có là do CHÚA ban.” 3 Tôi rất ưa thích những người thánh thiện trên đất. Những kẻ chạy theo hình tượng sẽ khốn khổ. Tôi sẽ không dâng huyết cho các thần tượng ấy, và cũng không nhắc đến tên tuổi chúng nó nữa. 5 Tôi chỉ cần một mình CHÚA thôi. Ngài chăm sóc tôi. 6 Đời sống [b] tôi trên đất rất tốt đẹp; phần số [c] tôi thật tuyệt diệu. 7 Tôi ca ngợi CHÚA vì Ngài chỉ dạy tôi. Còn ban đêm, lương tâm tôi dạy dỗ tôi. 4

Tôi luôn luôn để CHÚA đứng trước mặt. Vì Ngài ở bên tôi, tôi sẽ không bị tổn hại gì. 9 Nên lòng tôi vui mừng, thâm tâm tôi hớn hở. Thân thể tôi được yên ổn, 10 vì Ngài sẽ không bỏ tôi trong huyệt mả, cũng chẳng để người thánh của CHÚA bị mục nát. 11 Lạy CHÚA, xin dạy tôi sống đời thánh thiện. Được ở cùng CHÚA khiến tôi tràn đầy niềm vui; Ở bên tay phải CHÚA tôi vô cùng sung sướng. 8

- 630 -


Thánh Thi 17 Cầu nguyện xin Chúa bảo vệ Lời cầu nguyện của Đa-vít [a].

17 Lạy CHÚA, xin nghe lời tôi nài xin được đối xử công bằng; xin nghe tiếng kêu cứu tôi. Xin nghe lời cầu nguyện tôi vì tôi chân thật. 2 Ngài sẽ xử rằng lẽ phải về tôi; mắt Ngài thấy điều chân thật. 3 Ngài đã dò xét lòng tôi; thử nghiệm tôi suốt đêm. Ngài tra xét tôi nhưng không thấy có gì quấy. Miệng tôi cũng không phạm tội. 4 Tôi vâng giữ các mệnh lệnh CHÚA, tôi không làm giống kẻ ác. 5 Tôi làm theo lời Ngài dạy bảo; không hề đi sai lệch. 6 Lạy CHÚA, tôi kêu cầu cùng Ngài, và Ngài trả lời tôi. Bây giờ xin lắng nghe tôi, nghe lời tôi thưa. 7 Tình yêu CHÚA thật tuyệt diệu. Quyền năng Ngài cứu những kẻ tin cậy Ngài khỏi tay các kẻ thù nghịch. 8 Xin hãy giữ gìn tôi như con ngươi [b] của mắt Ngài. Xin che phủ tôi dưới bóng cánh Ngài. 9 Xin giữ tôi khỏi kẻ ác đang tấn công tôi, khỏi các kẻ thù đang vây quanh tôi. 10 Chúng nó ích kỷ và khoe khoang. 11 Chúng đuổi theo tôi cho đến khi vây được tôi. Chúng dự định xô tôi ngã xuống đất. 12 Chúng như sư tử sắp giết con mồi; chúng rình rập như sư tử. Lạy CHÚA, xin hãy đứng dậy, đối đầu với kẻ thù tôi, và đánh hạ chúng nó. Xin hãy dùng gươm Ngài giải cứu tôi khỏi kẻ ác. 14 Lạy CHÚA, xin dùng quyền lực Ngài cứu tôi, khỏi những kẻ trông cậy đời nầy. Xin dành nhiều sự trừng phạt cho con cái chúng, và dành sự khốn khổ cho dòng dõi chúng. 13

Vì tôi sống ngay thẳng, nên tôi sẽ nhìn thấy mặt CHÚA. Lúc thức dậy, tôi sẽ mãn nguyện khi nhìn thấy Ngài. 15

- 631 -


Thánh Thi 18 Bài ca đắc thắng [a]

Soạn cho nhạc trưởng. Do Đa-vít, tôi tớ CHÚA sáng tác. Đa-vít ca bài nầy cho Chúa khi Ngài cứu ông khỏi tay Sau-lơ và mọi kẻ thù.

18 Lạy CHÚA, tôi yêu mến Ngài. Ngài là sức mạnh tôi. CHÚA là tảng đá, nguồn che chở tôi, Đấng Cứu Rỗi tôi. CHÚA là khối đá, nơi tôi chạy đến ẩn núp lúc lâm nguy. Ngài là cái thuẫn và là sức mạnh cứu tôi [b], Đấng bênh vực tôi. 2

3

Tôi kêu xin cùng CHÚA, chỉ một mình Ngài là Đấng đáng được ca ngợi. Tôi sẽ được giải thoát khỏi tay kẻ thù. 4 Các dây sự chết đã vây quanh tôi; sông sự chết bao phủ tôi. 5 Các dây sự chết quấn chặt tôi. Bẫy sự chết ở trước mặt tôi. Trong cơn khốn khó, tôi kêu cầu cùng CHÚA. Tôi van xin Ngài giúp đỡ. Từ đền thánh Ngài nghe tiếng tôi; Lời kêu cứu tôi thấu đến tai CHÚA. 7 Đất rung chuyển mạnh. Các nền núi non bị lay động. Chúng rung chuyển vì CHÚA nổi giận. 8 Khói xịt ra từ lỗ mũi Ngài, miệng Ngài phát ra ngọn lửa hừng, than hồng đi trước mặt Ngài. 9 CHÚA xé toạc các từng trời và ngự xuống trong đám mây đen kịt dưới chân. 10 Ngài cỡi thú có cánh và bay. Ngài lượn trên cánh gió. 11 CHÚA dùng bóng tối che phủ mình, nơi ở Ngài có mây mù vây kín. 12 Từ sự hiện diện rực rỡ của Ngài phát ra mây chứa mưa đá và sấm chớp. 13 CHÚA làm sấm rền trời; Đấng Tối Cao lên tiếng, liền có mưa đá và sấm sét [c]. 14 Ngài bắn tên làm quân thù chạy tán loạn. Ngài làm sấm chớp khiến chúng lúng túng và kinh hãi. 6

Lạy CHÚA, Ngài nạt một tiếng. Gió xịt ra từ lỗ mũi Ngài. Các đáy biển sâu lộ ra, và các nền lục địa phơi bày. 15

- 632 -


Từ trên cao CHÚA với tay nắm tôi; kéo tôi lên khỏi đáy nước sâu. 17 Ngài cứu tôi khỏi tay kẻ thù mạnh hơn tôi, khỏi tay kẻ ghét tôi, vì chúng nó mạnh hơn tôi. 18 Trong cơn khốn khó chúng tấn công tôi, nhưng CHÚA nâng đỡ tôi. 19 Ngài đưa tôi đến chỗ an toàn. Vì ưa thích tôi nên Ngài cứu tôi. 20 Ngài thưởng cho tôi vì tôi sống ngay thẳng. Ngài ban thưởng tôi vì tôi không làm điều gì ác. 21 Tôi đã đi theo đường lối CHÚA dạy; Tôi không làm điều ác bằng cách quay khỏi CHÚA. 22 Tôi không quên luật lệ CHÚA, không vi phạm qui tắc của Ngài. 23 Tôi trong sạch trước mặt CHÚA; tôi tránh không làm điều ác. 24 CHÚA thưởng tôi vì tôi điều ngay thẳng, và làm điều đẹp ý CHÚA. 16

Lạy CHÚA, người nào trung tín, Ngài cũng trung tín lại, người nào nhân từ Ngài cũng nhân từ lại. 26 Đối với kẻ trong sạch, CHÚA tỏ ra trong sạch nhưng Ngài nghịch lại kẻ xấu xa. 27 CHÚA cứu người khiêm nhường, nhưng hạ kẻ tự phụ xuống. 28 Lạy CHÚA, Ngài ban ánh sáng cho ngọn đèn tôi. Thượng Đế chiếu sáng chỗ tối quanh tôi. 29 Nhờ Ngài giúp đỡ, tôi có thể tấn công cả đạo binh. Nhờ Ngài yểm trợ, tôi có thể nhảy qua tường thành. 25

Đường lối Thượng Đế vô cùng hoàn hảo. Lời CHÚA rất tinh sạch. Ngài là thuẫn đỡ cho kẻ nào tin cậy nơi Ngài. 31 Ai là Thượng Đế? Chỉ một mình CHÚA thôi. Ai là Khối Đá? Chỉ một mình Thượng Đế của chúng ta thôi. 32 Thượng Đế là Đấng khiến tôi thêm sức mạnh. Ngài khiến các lối đi của tôi không vấp váp. 33 Ngài làm cho tôi chạy nhanh như nai mà không vấp ngã; Ngài giúp tôi đứng trên các núi cao. 34 Ngài luyện tay tôi thành thiện chiến, nên cánh tay tôi có thể giương nổi cung đồng. 30

Ngài che chở tôi bằng cái khiên cứu rỗi của Ngài. Ngài dùng tay phải nâng đỡ tôi. Sự giúp đỡ của Ngài khiến tôi thêm mạnh mẽ. 36 Ngài ban cho tôi một lối sống tốt đẹp hơn, để tôi sống theo ý muốn Ngài. 35

- 633 -


Tôi rượt đuổi theo kẻ thù và bắt kịp chúng. Tôi không ngưng tay cho đến khi chúng nó hoàn toàn bị tiêu diệt. 38 Tôi chà đạp chúng nó đến nỗi chúng không ngóc đầu dậy được. Chúng nằm mọp dưới chân tôi. 39 Ngài thêm sức cho tôi trong chiến trận. Ngài khiến kẻ thù phải quì lạy trước mặt tôi. 40 Ngài khiến kẻ thù lui bước, tôi tiêu diệt những kẻ ghét tôi. 41 Chúng kêu cứu nhưng không ai đến giúp. Chúng kêu cầu CHÚA nhưng Ngài chẳng trả lời. 42 Tôi đánh tan nát các kẻ thù tôi, giống như bụi bị gió thổi bay. Tôi trút chúng ra như bùn trên đường. 37

Khi chúng tấn công tôi thì Ngài đến cứu tôi. Ngài lập tôi làm lãnh tụ các quốc gia. Những dân chưa hề biết tôi sẽ phục vụ tôi. 44 Khi nghe đến tôi, họ sẽ vâng phục tôi. Các người ngoại quốc cũng sẽ khúm núm trước mặt tôi. 45 Họ sẽ sợ hãi và run rẩy khi bước ra khỏi nơi trú ẩn của mình. 43

CHÚA muôn đời! Khối Đá tôi đáng được ca ngợi. Đáng tôn vinh Thượng Đế là Đấng cứu tôi! 47 Thượng Đế giúp tôi đắc thắng kẻ thù tôi, Ngài đặt mọi dân dưới quyền tôi. 48 Ngài cứu tôi khỏi tay kẻ thù. Ngài đặt tôi lên trên kẻ ghét tôi. Ngài cứu tôi khỏi kẻ hung ác. 49 Cho nên, CHÚA ôi, tôi sẽ ca ngợi Ngài giữa các dân. Tôi sẽ hát khen danh Ngài. 46

CHÚA ban sự đắc thắng cho vua của Ngài. Ngài thành tín đối với vua Ngài đã lập, với Đa-vít và dòng dõi người cho đến mãi mãi. 50

Thánh Thi 19 Công việc và lời phán của Thượng Đế Soạn cho nhạc trưởng. Bài ca của Đa-vít.

19 Các từng trời thuật lại sự vinh hiển của Thượng Đế, bầu trời loan báo công việc tay Ngài làm. 2 Ngày nầy sang ngày khác, chúng thuật chuyện, đêm nọ sang đêm kia [a], chúng bày tỏ quyền năng Ngài. - 634 -


Chúng chẳng dùng tiếng hay lời; không ai nghe âm thanh chúng. 4 Thế nhưng thông điệp chúng vang dội bốn phương; lời nói chúng truyền ra khắp đất. 3

Ngài tạo không gian làm chỗ ở của mặt trời. Mặt trời xuất hiện như chàng rể bước ra khỏi phòng tân hôn. Hớn hở như lực sĩ sẵn sàng chạy đua. 6 Mặt trời mọc từ phương trời nầy chạy giáp vòng đến phương trời kia. Không gì tránh khỏi sức nóng của nó được. 5

Những lời dạy dỗ CHÚA thật hoàn hảo để tăng thêm sức mới. Qui tắc CHÚA thật đáng tin khiến kẻ tầm thường nên khôn ngoan. 8 Mệnh lệnh của CHÚA đều đúng, khiến con người vui mừng. Mệnh lệnh của CHÚA rất tinh sạch, soi sáng lối đi. 7

Sự kính sợ CHÚA là tốt lành, sẽ còn mãi mãi. Phán đoán CHÚA là thật, hoàn toàn hợp lý. 9

Chúng quí giá hơn vàng, thật báu hơn cả vàng ròng. Ngọt hơn mật, hơn cả mật nguyên chất. 11 Những điều đó cảnh tỉnh tôi tớ CHÚA. Ai vâng giữ thì được phần thưởng lớn. 10

Người ta thường không thấy lỗi lầm của mình. Xin CHÚA tha các tội của tôi. 13 Xin đừng để tôi phạm tội tự phụ; đừng để chúng cai trị tôi. Thì tôi sẽ trong sạch và không bị hoen ố bởi những tội trọng. 14 Nguyện những lời nói và tư tưởng của tôi đẹp lòng Ngài. Lạy CHÚA, Ngài là Khối Đá, Đấng cứu tôi. 12

Thánh Thi 20 Lời cầu nguyện của vua Soạn cho nhạc trưởng. Bài ca của Đa-vít.

20 Nguyện CHÚA đáp lời ngươi trong cơn nguy khốn. Nguyện Thượng Đế của Gia-cốp bảo vệ ngươi. 2 Nguyện Ngài sai ơn cứu giúp ngươi từ đền thánh Ngài, phù trợ ngươi từ núi Xi-ôn. - 635 -


Nguyện Ngài nhớ lễ vật ngươi và chấp nhận sinh tế của ngươi. Xê-la 4 Nguyện Ngài ban cho ngươi điều lòng ngươi ước ao, và hoàn thành các dự định ngươi. 5 Chúng ta sẽ reo vui khi Ngài giúp đỡ ngươi, Chúng ta sẽ ca ngợi danh Ngài. Nguyện Ngài ban cho ngươi điều ngươi cầu xin. 3

Nay ta biết CHÚA giúp đỡ vua là người được Ngài bổ nhiệm. Từ trên trời thánh, Ngài sẽ trả lời người, và dùng tay phải mạnh mẽ giải cứu người. 7 Có người ỷ vào xe cộ, kẻ khác nhờ vào binh sĩ, nhưng chúng tôi nhờ cậy CHÚA là Thượng Đế chúng tôi. 8 Chúng bị vây phủ và bị đánh bại, nhưng chúng tôi cứ tiến tới và đắc thắng. 6

9

Lạy CHÚA, xin bảo vệ vua Ngài! Xin đáp lời kêu cứu của chúng tôi.

Thánh Thi 21 Lời cảm tạ vì vua Soạn cho nhạc trưởng. Bài ca của Đa-vít.

21 Lạy CHÚA, vua vui mừng trong sức mạnh Ngài; vua hớn hở khi được Ngài cứu! 2 Ngài ban cho vua điều người ao ước và không từ chối điều gì người xin. Xê-la Ngài đặt mọi điều tốt đẹp trước mặt người và đội mão triều bằng vàng trên đầu người. 4 Người xin được sống lâu, CHÚA liền ban cho, nên năm tháng người kéo dài vô tận. 5 Người được hiển vinh vì Ngài cho người sự đắc thắng. Ngài ban cho người vinh dự và lời ca tụng. 6 Ngài luôn ban phước cho người; Ngài khiến người vui mừng vì Ngài ở với người. 7 Vua thật tin cậy nơi CHÚA. Vì Thượng Đế Chí cao luôn yêu mến người cho nên người sẽ không dao động. 8 Tay CHÚA chống lại các kẻ thù nghịch mình; những kẻ ghét Ngài sẽ nếm biết quyền năng Ngài. 9 Khi Ngài xuất hiện, Ngài sẽ thiêu chúng trong lò lửa. Đang cơn giận, Ngài sẽ thiêu đốt chúng trong lửa [a]. 10 Ngài sẽ diệt gia đình chúng khỏi đất, và con cháu chúng cũng không còn. 11 Chúng âm mưu ác nghịch cùng Ngài, nhưng mưu mô chúng bất thành. 12 Ngài khiến chúng nó xoay lưng khi Ngài nhắm tên bắn chúng nó. 3

- 636 -


13

Lạy CHÚA, chúng tôi sẽ tôn cao Ngài bằng bài ca, Sẽ ca ngợi quyền năng cao cả của Ngài.

Thánh Thi 22 Lời cầu nguyện của kẻ đau khổ Soạn cho nhạc trưởng theo điệu “Con nai bình minh.” Bài ca của Đa-vít.

22 Thượng Đế tôi ơi, Thượng Đế tôi ơi, sao Ngài lìa bỏ tôi? Sao Ngài đứng xa, không cứu giúp tôi, không nghe tiếng tôi rên rỉ? 2 Lạy Thượng Đế tôi, ban ngày tôi kêu xin cùng Ngài, nhưng Ngài chẳng đáp lời, ban đêm cũng vậy, tôi có im lặng đâu. 3

Ngài là Đấng thánh đang ngự trị. Lời ca ngợi của Ít-ra-en là ngôi Ngài.

Tổ tiên chúng tôi tin cậy Ngài; Vì họ tin cậy Ngài cho nên Ngài cứu họ. 5 Họ kêu xin cùng CHÚA liền được giải cứu. Họ tin cậy Ngài nên không thất vọng. 6 Nhưng tôi là loài sâu bọ chứ không phải con người. Ai cũng khinh chê và ganh ghét tôi. 7 Ai thấy tôi đều chê cười. Chúng trề môi, lắc đầu. 8 Chúng giễu, “Hãy kêu CHÚA cứu giúp đi. Có thể Ngài sẽ cứu ngươi. Nếu Ngài thích ngươi, Ngài sẽ giải cứu ngươi!” 4

Ngài để mẹ tôi sinh ra tôi. Khi tôi còn là hài nhi Ngài khiến tôi tin cậy Ngài. 10 Từ khi mới chào đời tôi đã nương cậy nơi CHÚA, Ngài đã là Thượng Đế tôi từ khi tôi lọt lòng mẹ. 9

Cho nên Thượng Đế ôi, xin đừng đứng xa tôi. Nay cơn khốn khó gần kề, không ai cứu giúp. 12 Người ta vây tôi đông như bò đực hung tợn. Chúng vây kín tôi bốn phía, như bò đực cường bạo của Ba-san. 13 Chúng hả miệng chực ăn nuốt tôi như sư tử đói gầm thét. 11

Sức lực tôi tiêu tan như nước đổ xuống đất. Xương cốt tôi rời rã. Tinh thần tôi như sáp, tan chảy trong lòng tôi. 15 Sức lực tôi khô cằn như bình thợ gốm, lưỡi tôi dính nơi vòm họng. Ngài để tôi nằm trong bụi đất của sự chết. 14

- 637 -


Kẻ ác vây tôi; chúng đánh bẫy tôi như lũ chó. Chúng cắn xé tay và chân tôi [a]. 17 Tôi có thể đếm được các xương cốt tôi; mọi người nhìn chăm vào tôi. 18 Chúng chia nhau áo xống tôi, và bắt thăm lấy quần áo tôi. 16

Nhưng CHÚA ôi, xin chớ đứng xa tôi. Ngài là sức lực tôi. Xin hãy mau đến cứu giúp tôi. 20 Xin hãy cứu tôi khỏi lưỡi gươm; và cứu mạng tôi khỏi loài chó. 21 Xin hãy cứu tôi khỏi hàm sư tử; và khỏi sừng bò đực [b]. 19

Rồi tôi sẽ thuật về CHÚA cho đồng bào Ít-ra-en của tôi; tôi sẽ ca ngợi Ngài trong buổi họp công cộng. 23 Tất cả những ai kính sợ CHÚA, hãy ca ngợi Ngài. Các con cháu Gia-cốp ơi, hãy tôn trọng Ngài; Toàn dân Ít-ra-en, hãy kính sợ Ngài. 24 Ngài không bỏ quên kẻ lâm cảnh khổ. Ngài không lánh mặt khỏi họ nhưng nghe tiếng kêu xin của họ. 22

Lạy CHÚA, tôi ca ngợi Ngài giữa hội lớn của dân CHÚA; những kẻ thờ phụng Ngài sẽ thấy tôi thực hiện lời hứa. 26 Nầy kẻ nghèo, hãy đến và ăn no nê [c]; những ai trông đợi CHÚA sẽ ca ngợi Ngài. Nguyện lòng các ngươi vui mừng [d] mãi mãi! 27 Dân chúng khắp nơi sẽ nhớ và quay về cùng Ngài. Mọi gia tộc trên thế gian sẽ thờ phụng Ngài; 28 vì CHÚA là Vua, Ngài cai quản mọi quốc gia. 29 Dân chúng đã ăn no nê, rồi cúi xuống thờ phụng Ngài. Thật vậy, mọi người sẽ cúi mình trước mặt Ngài— tất cả những người sẽ qua đời. 30 Những kẻ hậu sinh sẽ phục vụ Ngài; Thế hệ mai sau sẽ nghe biết CHÚA. 31 Chúng sẽ rao ra rằng Ngài làm điều công chính; Những kẻ sắp chào đời sẽ nghe biết những điều Thượng Đế đã làm. 25

Thánh Thi 23 Chúa là Đấng chăn giữ Bài ca của Đa-vít.

23 CHÚA là Đấng chăn giữ tôi; nên tôi có đầy đủ mọi sự cần dùng [a]. - 638 -


Ngài để tôi nghỉ ngơi nơi đồng cỏ tươi xanh. Dẫn tôi đến suối nước an tịnh. 3 Ngài thêm sức mới cho tôi, dắt tôi vào các lối ngay thẳng [b] vì danh tốt của Ngài. 4 Dù phải băng qua thung lũng tối tăm [c], tôi sẽ không sợ hãi gì, vì Ngài cùng đi với tôi. Cây trượng và cây gậy [d] của CHÚA an ủi tôi. 5 Ngài bày tiệc cho tôi trước mặt kẻ thù tôi, Ngài đổ dầu lên đầu tôi; và rót tràn chén tôi. 6 Chắc chắn lòng nhân từ và tình yêu của Ngài sẽ ở cùng tôi suốt đời. Còn tôi sẽ ở trong nhà [e] CHÚA mãi mãi 2

Thánh Thi 24 Nghênh đón Thượng Đế vào đền thờ Bài ca của Đa-vít.

24 Đất và muôn vật trên đất đều thuộc về CHÚA. Thế gian và mọi dân trên hoàn cầu cũng thuộc về Ngài. 2 Vì Ngài lập đất trên các khối nước, và đặt nó đứng vững trên các sông. Ai có thể lên núi của CHÚA [a]? Ai có thể đứng trong đền thánh Ngài? 4 Chỉ những người có tay tinh sạch và lòng thánh khiết, những ai không thờ lạy hình tượng, không hứa nguyện nhân danh các thần giả. 3

Họ sẽ nhận phước lành từ CHÚA; Thượng Đế, Đấng cứu họ sẽ tuyên bố họ là công bình. 6 Họ cố gắng đi theo Thượng Đế; trông cậy Thượng Đế của Gia-cốp giúp đỡ mình. Xê-la 5

Nầy các cửa, hãy mở toang ra. Còn các cửa lâu đời, hãy mở rộng ra, để vua vinh hiển vào. 8 Vua vinh hiển nầy là ai? Chính là CHÚA mạnh dạn và quyền năng. CHÚA là chiến sĩ dũng cảm. 9 Nầy các cửa, hãy mở toang ra. Các cửa lâu đời, hãy mở rộng ra để vua vinh hiển vào. 10 Vua vinh hiển nầy là ai? Đó là CHÚA Toàn Năng, Ngài là vua vinh hiển. Xê-la 7

- 639 -


Thánh Thi 25 Lời cầu xin Chúa hướng dẫn Bài ca của Đa-vít.

25 Lạy CHÚA [a], tôi đặt mạng sống tôi trong tay Ngài; 2 Lạy Thượng Đế, tôi tin cậy nơi Ngài. Xin đừng để tôi bị xấu hổ; đừng để kẻ thù chế nhạo tôi. 3 Không ai tin cậy Ngài mà lại bị xấu hổ, chỉ những kẻ vô cớ phạm tội mới bị xấu hổ. 4

Lạy CHÚA xin chỉ cho tôi biết đường lối Ngài; Dạy tôi cách sống.

Hãy hướng dẫn tôi đi trong chân lý của Ngài, và dạy dỗ tôi, lạy Thượng Đế là Đấng Cứu Chuộc tôi. Hằng ngày tôi tin cậy CHÚA. 6 Lạy CHÚA, xin nhớ lại lòng nhân từ và tình yêu Ngài mà Ngài đã tỏ ra từ xưa. 7 Xin đừng nhớ lại tội lỗi và hành vi sai quấy của tôi lúc tôi còn trẻ tuổi. Nhưng xin CHÚA luôn nhớ yêu thương tôi vì Ngài là Đấng nhân từ. 5

CHÚA rất nhân từ và chính trực; Ngài hướng tội nhân vào đường ngay thẳng. 9 Dạy kẻ khiêm nhường làm điều phải, và chỉ cho họ đường lối Ngài. 10 Các đường lối CHÚA đều là nhân từ và chân thật cho những người làm theo giao ước Ngài. 8

11

Lạy CHÚA, vì danh Ngài, xin hãy tha thứ các tội lỗi tôi.

Ai là người kính sợ CHÚA? Ngài sẽ chỉ cho họ con đường chính đáng. 13 Họ sẽ hưởng một đời phước hạnh, và con cháu họ sẽ thừa hưởng đất đai. 14 CHÚA sẽ tỏ sự bí mật cho người kính sợ Ngài; và cho họ biết giao ước Ngài. 15 Mắt tôi luôn trông mong CHÚA cứu giúp. Ngài sẽ giữ chân tôi khỏi rơi vào bẫy [b]. 12

Xin CHÚA hãy quay lại và thương xót tôi, vì tôi cô đơn và đau khổ. 17 Những nỗi nguy khốn của tôi tăng thêm nhiều; xin hãy giải thoát tôi khỏi hoạn nạn. 18 Xin hãy xem xét những đau khổ và khốn khó tôi; và cất lấy các tội lỗi tôi. 16

- 640 -


Xin CHÚA hãy xem tôi có biết bao nhiêu kẻ thù! Chúng ghét tôi quá sức. 20 Xin hãy bảo vệ và cứu giúp tôi. Tôi tin cậy nơi Ngài, xin đừng để tôi bị xấu hổ. 21 Nguyện sự nhân từ và ngay thẳng giữ gìn tôi, vì tôi đặt hi vọng trong Ngài. 22 Lạy CHÚA, xin hãy cứu Ít-ra-en khỏi mọi khốn khó. 19

Thánh Thi 26 Lời cầu nguyện của một tín hữu thanh liêm Bài ca của Đa-vít.

26 Lạy CHÚA, xin hãy bênh vực tôi vì tôi sống đời thanh liêm. Tôi đã tin cậy nơi Ngài, không hề lay động. 2 Lạy CHÚA, xin hãy thử nghiệm tôi; dò xét lòng dạ và tâm trí tôi. 3 Tôi thấy được tình yêu CHÚA nên tôi sống trong chân lý Ngài. 4 Tôi không giao du với người dối trá, cũng không kết bạn với kẻ che giấu tội lỗi mình. 5 Tôi ghét giao du với kẻ ác, không ngồi chung với bọn gian tà. Lạy CHÚA, tôi rửa tay để chứng tỏ mình vô tội, rồi bước đến bàn thờ Ngài. 7 Tôi lớn tiếng ca ngợi và thuật lại những phép lạ Ngài làm. 8 Lạy CHÚA, tôi yêu đền thánh, nơi Ngài ngự, chỗ có vinh hiển Ngài. 6

Xin chớ giết tôi chung với kẻ có tội, hoặc cất mạng sống tôi chung với kẻ giết người. 10 Trong lòng chúng nó đầy dẫy gian ác, chúng nhận hối lộ để làm quấy. 11 Nhưng tôi đã sống một đời thanh liêm, nên xin Ngài hãy giải cứu và thương xót tôi. 12 Tôi đứng một nơi vững vàng. Lạy CHÚA, tôi ca ngợi Ngài giữa buổi hội lớn. 9

- 641 -


Thánh Thi 27 Bài ca tin cậy Thượng Đế Bài ca của Đa-vít.

27 CHÚA là ánh sáng và là Đấng cứu tôi, tôi sẽ chẳng sợ ai. Ngài bảo vệ mạng sống tôi, tôi sẽ không e ngại người nào. 2 Kẻ ác tìm hại mạng sống tôi. Bọn thù nghịch và những kẻ ghét tôi tấn công tôi nhưng chúng nó lúng túng và bị đánh bại. 3 Dù cho cả đạo quân vây quanh tôi, tôi sẽ chẳng nao núng. Nếu tranh chiến xảy ra, tôi sẽ tin cậy CHÚA. Tôi sẽ xin CHÚA một điều và là điều tôi ao ước: Đó là trọn đời được ở trong nhà CHÚA, để ngắm xem vẻ đẹp của CHÚA và cầu hỏi trong đền thờ Ngài. 4

Trong cơn nguy biến Ngài sẽ cho tôi chỗ trú ẩn an toàn. Ngài sẽ ẩn núp trong Lều Thánh [a] của Ngài, mang tôi đến nơi an toàn của Ngài. 6 Nếu Ngài giúp tôi đánh bại kẻ thù quanh tôi, thì tôi sẽ dâng sinh tế trong đền thánh Ngài với lòng hân hoan. Tôi sẽ đờn hát ca tụng CHÚA. 5

Lạy CHÚA, xin nghe khi tôi kêu cầu; xin thương xót và trả lời tôi. 8 Khi lòng tôi bảo tôi, “Hãy đi thờ phụng Ngài!” Lạy CHÚA, tôi liền đi thờ phụng Ngài. 9 Xin đừng quay khỏi tôi. Đang khi giận xin chớ xua đuổi kẻ tôi tớ Ngài; Ngài đã giúp tôi. Lạy Thượng Đế là Đấng cứu giúp tôi, xin đừng xua đuổi hay để tôi cô đơn. 10 Dù cho cha mẹ tôi từ bỏ tôi, thì CHÚA sẽ tiếp nhận tôi. 11 Lạy CHÚA xin chỉ dạy tôi đường lối Ngài, hướng dẫn tôi làm điều ngay thẳng vì tôi có vô số kẻ thù. 12 Xin đừng trao tôi vào tay kẻ thù vì chúng đặt điều nói dối về tôi và hăm dọa hại tôi. 13 Tôi tin chắc tôi sẽ sống để thấy sự nhân từ của CHÚA trước khi tôi qua đời [b]. 14 Hãy trông đợi sự cứu giúp của CHÚA. Hãy vững chí, can đảm và chờ đợi Ngài tiếp cứu. 7

- 642 -


Thánh Thi 28 Lời cầu nguyện trong cơn khốn khó Bài ca của Đa-vít.

28 Lạy CHÚA là Khối Đá tôi, tôi kêu cứu cùng Ngài. Xin đừng làm ngơ. Nếu Ngài làm thinh thì tôi sẽ giống như kẻ đi xuống huyệt. 2 Xin nghe lời khẩn nguyện tôi, khi tôi kêu Ngài cứu giúp, lúc tôi giơ tay hướng về Ngài trong đền thánh Ngài. 3 Xin đừng lôi tôi đi chung với kẻ ác, cùng những kẻ xấu xa; là kẻ ngoài miệng nói hòa bình cùng người láng giềng mà trong lòng thì âm mưu ác. 4 Xin CHÚA phạt chúng nó cho xứng với điều ác chúng làm. Vì những hành vi gian tà của chúng, xin hãy báo trả chúng cho tương xứng. 5 Chúng chẳng hề biết những việc Ngài làm hay những gì Ngài tạo nên. Cho nên Ngài hất chúng nó xuống, không thèm đỡ dậy. Hãy ca ngợi Thượng Đế vì Ngài nghe tiếng kêu cứu của tôi. CHÚA là sức mạnh và là cái khiên che chở tôi. Tôi tin cậy nơi Ngài, Ngài liền giúp tôi. Tôi vui mừng hát ca ngợi Ngài. 8 CHÚA ban sức mạnh cho dân Ngài; Ngài giải cứu người được chọn lựa [a] của Ngài. 6 7

Xin hãy cứu dân CHÚA và ban phúc lành cho những người thuộc về Ngài. Xin chăn giữ và chăm sóc [b] họ đời đời. 9

Thánh Thi 29 Thượng Đế hiện diện trong thời tiết Bài ca của Đa-vít.

29 Nầy các thiên sứ [a], hãy ca ngợi CHÚA; hãy ca ngợi CHÚA vinh hiển và quyền năng. 2 Hãy ca ngợi vinh hiển của danh Ngài; hãy thờ phụng Ngài vì Ngài là thánh. 3 Tiếng của CHÚA vang trên các biển. Thượng Đế vinh quang trong sấm sét; Ngài làm sấm chớp trên các đại dương. 4 Tiếng CHÚA rất hùng mạnh; tiếng CHÚA vô cùng uy nghi. - 643 -


Tiếng CHÚA bẻ gãy cây cối; làm gãy cây hương nam Li-băng. 6 Ngài khiến đất Li-băng nhảy múa như bò con và núi Hẹt-môn nhảy dựng như bò con đực. 7 Tiếng CHÚA tạo ra lằn sét. 8 Tiếng CHÚA làm rung chuyển sa mạc; làm rúng động sa mạc Ca-đe [b]. 9 Tiếng CHÚA rung chuyển cây sồi [c] và khiến lá cây trong rừng rụng hết. Trong đền thờ Ngài, mọi người đều nói, “Thượng Đế đáng được vinh hiển!” 5

CHÚA cai quản nước lụt. CHÚA làm vua đến muôn đời. 11 CHÚA ban sức lực cho dân Ngài; và chúc bình an cho họ. 10

Thánh Thi 30 Cảm tạ Chúa vì thoát chết Bài ca của Đa-vít vào dịp khánh thành đền thờ.

30 Lạy CHÚA, tôi sẽ ca ngợi Ngài vì Ngài đã giải cứu tôi. Ngài không để kẻ thù nhạo cười tôi. 2 Lạy CHÚA là Thượng Đế tôi, tôi kêu xin Ngài, Ngài đã chữa lành cho tôi. 3 Ngài đem tôi lên khỏi mồ mả; không để tôi xuống âm phủ. 4

Hỡi những người thuộc về CHÚA hãy hát tôn vinh Ngài; hãy ca tụng danh [a] thánh của Ngài.

Cơn giận Ngài chỉ trong chốc lát, còn lòng nhân từ Ngài kéo dài suốt đời. Tiếng khóc than đến trú ban đêm, nhưng buổi sáng đến mang theo vui mừng. 6 Khi tôi cảm thấy an ninh, tôi liền nói, “Tôi sẽ không sợ hãi gì.” 5

Lạy CHÚA, nhờ lòng nhân từ Ngài núi tôi được vững chắc. Nhưng khi Ngài quay đi, tôi đâm ra hoảng sợ. 8 Tôi nói, “Lạy CHÚA, tôi kêu cầu cùng Ngài, và nài xin Ngài thương xót tôi.” 9 Tôi thưa, “Nếu tôi qua đời hay đi xuống mồ mả thì có ích gì chăng? Bụi đất không thể ca ngợi CHÚA; chúng không thể rao truyền chân lý của Ngài. 10 CHÚA ơi, xin nghe tiếng tôi và thương xót tôi. Lạy CHÚA, xin giúp đỡ tôi.” 7

- 644 -


Ngài biến nỗi sầu thảm của tôi ra vui mừng. Ngài cất lấy bộ áo tang buồn thảm của tôi, và mặc niềm vui mừng cho tôi. 12 Lạy Thượng Đế là CHÚA tôi, tôi sẽ ca tụng Ngài, tôi sẽ không im lặng. Tôi sẽ đời đời ca ngợi CHÚA. 11

Thánh Thi 31 Lời cầu nguyện xin thêm đức tin trong cơn khốn khó Soạn cho nhạc trưởng. Bài ca của Đa-vít.

31 Lạy CHÚA tôi tin cậy nơi Ngài; xin đừng để tôi bị sỉ nhục. Xin giải cứu tôi vì Ngài là Đấng làm điều ngay thẳng. 2 Xin hãy nghe tiếng tôi, mau đến giải cứu tôi. Xin làm khối đá bảo vệ tôi, làm thành lũy vững chắc để cứu tôi. 3 Ngài là khối đá và là nơi trú ẩn tôi. Vì danh tốt của Ngài, xin hãy hướng dẫn tôi. 4 Xin giải thoát tôi ra khỏi bẫy mà chúng nó gài để bắt tôi, vì Ngài là nguồn che chở tôi. 5 Tôi dâng đời [a] tôi cho Ngài; lạy CHÚA là Thượng Đế chân thật, xin hãy cứu tôi. 6 Tôi ghét những kẻ thờ thần giả. Tôi chỉ tin cậy một mình CHÚA thôi. 7 Tôi sẽ vui mừng trong tình yêu CHÚA vì Ngài thấy được nỗi khổ của tôi; biết những khốn khó tôi. 8 CHÚA không giao tôi vào tay kẻ thù nhưng để tôi nơi an toàn. Lạy CHÚA, xin thương xót vì tôi gặp khốn đốn. Mắt tôi lòa vì than khóc, người tôi rã rời vì buồn thảm. 10 Sinh mạng tôi gần tàn vì sầu khổ, các năm tháng tôi tiêu hao vì than khóc. Những nỗi khổ làm tiêu hao sức lực tôi, xương cốt tôi run rẩy. 11 Vì những hoạn nạn tôi, các kẻ thù ganh ghét tôi, cả đến những láng giềng cũng quay mặt đi. Khi bạn hữu nhìn thấy tôi, họ đều lo sợ và tránh xa. 12 Tôi như mảnh bể của bình gốm. Tôi bị quên lãng như kẻ đã qua đời. 9

- 645 -


Tôi đã nghe nhiều điều sỉ nhục. Sự kinh hoàng bao quanh tôi. Chúng âm mưu hại tôi, muốn giết tôi đi. 13

Lạy CHÚA, tôi trông cậy nơi Ngài. Tôi thưa, “Ngài là Thượng Đế tôi.” 15 Mạng sống tôi ở trong tay CHÚA. Xin giải cứu tôi khỏi các kẻ thù và những kẻ rượt đuổi tôi. 16 Xin hãy tỏ lòng nhân từ cùng tôi là tôi tớ Ngài [b]. Xin hãy giải cứu tôi vì tình yêu thương của Ngài. 17 Lạy CHÚA, tôi kêu xin Ngài giúp đỡ, xin đừng để tôi bị xấu hổ. Nguyền xin cho kẻ ác bị sỉ nhục và nằm lặng thinh nơi mồ mả. 18 Do kiêu căng và ganh ghét chúng bêu xấu người làm điều thiện. Xin hãy khiến môi dối trá của chúng câm lặng. 19 Sự nhân từ mà Ngài dành cho những người kính sợ và tin cậy Ngài thật lớn lao. Ngài làm điều đó cho mọi người xem thấy. 20 Nhờ sự hiện diện của Ngài, CHÚA bảo vệ họ khỏi những kẻ âm mưu ám hại họ. Ngài che chở họ khỏi những lời độc ác. 21 Cảm tạ CHÚA, vì khi tôi bị tấn công như thành bị vây hãm, thì tình yêu CHÚA đối cùng tôi thật lạ lùng. 22 Trong cơn nguy khốn, tôi thưa, “CHÚA không nhìn thấy tôi nữa!” Nhưng khi tôi kêu cứu cùng Ngài thì Ngài nghe tiếng tôi. 14

Hãy yêu mến CHÚA, hỡi tất cả những ai thuộc về Ngài. CHÚA bảo vệ những người thật tâm tin cậy; nhưng Ngài trừng phạt những kẻ tự phụ như kẻ phạm tội. 24 Hỡi tất cả những ai đặt hi vọng nơi CHÚA, hãy can đảm và vững chí. 23

Thánh Thi 32 Nên xưng tội Bài mạch-kinh của Đa-vít.

32 Phúc cho người nào mà tội lỗi được tha, mọi lầm lỗi được bôi xóa. 2 Phước cho người mà CHÚA không kết tội và trong lòng không có gì giả dối. Khi tôi im lặng, tôi cảm thấy yếu đuối. Tôi rên rỉ suốt ngày. 4 Ngày và đêm tay CHÚA đè nặng trên tôi. Sức lực tôi suy yếu vì sức nóng mùa hè. Xê-la 3

- 646 -


Rồi tôi xưng tội cùng CHÚA, không giấu diếm tội lỗi tôi. Tôi nói, “Tôi sẽ xưng tội cùng CHÚA,” còn Ngài sẽ tha thứ cho tôi. Xê-la 5

Vì thế những ai vâng lời Ngài hãy cầu nguyện trong khi còn có cơ hội. Để khi khốn khó xảy đến như nước lụt, họ sẽ không bị tổn hại gì. 7 Ngài là nơi trú ẩn của tôi. Ngài bảo vệ tôi khỏi mọi gian nan và khiến lòng tôi đầy dẫy những bài ca cứu rỗi của CHÚA. Xê-la 6

CHÚA phán, “Ta sẽ khiến con khôn ngoan, và sẽ chỉ cho con biết đường phải đi. Ta sẽ dắt dẫn và trông nom con. 9 Đừng giống như lừa và ngựa vốn không hiểu biết gì. Người ta phải dùng hàm khớp và dây cương để dắt dẫn, nếu không chúng sẽ chẳng chịu đến gần con.” 8

Kẻ ác gặp nhiều nỗi khổ đau nhưng tình yêu CHÚA bao phủ những kẻ tin cậy Ngài. 11 Hỡi những người nhân đức, hãy hớn hở vui mừng trong CHÚA. Còn những ai có lòng ngay thẳng, hãy ca hát lên. 10

Thánh Thi 33 Ca ngợi Chúa là Đấng sáng tạo và cứu rỗi 33 Hỡi những người làm điều ngay thẳng, hãy hát tôn vinh CHÚA; và những ai lương thiện hãy ca ngợi Ngài. 2 Hãy dùng đờn cầm mà ca ngợi CHÚA; hát khen Ngài bằng đờn sắt mười dây. 3 Hãy hát một bài ca mới [a] cho Ngài; hãy dạo đờn thật hay và thật vui. 4 Lời CHÚA rất chân thật, mọi việc Ngài làm đều thành tín. 5 Ngài chuộng sự công bình và ngay thẳng; tình yêu Ngài phủ đầy cả đất. 6 Trời đất được tạo nên do lời phán của Ngài. Do hơi thở từ miệng Ngài, các ngôi sao xuất hiện. 7 Ngài gom nước lại thành một khối; và đặt nước biển trong kho chứa. 8 Khắp đất nên thờ phụng Ngài; muôn dân nên kính sợ Ngài. 9 Ngài phán, thì sự vật liền có. Ngài ra lệnh, sự vật liền xuất hiện [b].

- 647 -


CHÚA làm đảo lộn mưu kế các quốc gia; phá hỏng mọi chương trình của họ. 11 Nhưng những kế hoạch CHÚA còn muôn đời; các chương trình của Ngài tồn tại mãi mãi. 12 Phúc cho quốc gia nào chọn Thượng Đế làm CHÚA mình, hay dân tộc nào được Ngài nhận làm của riêng Ngài. 13 Từ trời cao CHÚA nhìn xuống thấy từng người. 14 Từ ngôi Ngài, Chúa quan sát những kẻ sống trên đất. 15 Ngài tạo dựng lòng họ, nên hiểu hết những hành vi của họ. 16 Không vua nào nhờ vào quân số đông mà được giải cứu. Không chiến sĩ nào thoát chết nhờ sức mạnh. 17 Ngựa không mang lại chiến thắng; sức mạnh chúng chẳng cứu được ai. 18 Nhưng CHÚA chăm sóc người kính sợ Ngài, và kẻ đặt hi vọng nơi tình yêu Ngài. 19 Ngài cứu họ thoát chết và giữ gìn sinh mạng họ trong cơn đói kém. 20 Vì thế chúng tôi đặt hi vọng nơi CHÚA. Ngài là Đấng cứu giúp, là thuẫn bảo vệ chúng tôi. 21 Chúng tôi vui mừng trong Ngài, tin cậy nơi danh thánh Ngài. 22 Lạy CHÚA, xin hãy tỏ tình yêu Ngài đối với chúng tôi vì chúng tôi đặt hi vọng nơi Ngài. 10

Thánh Thi 34 Thượng Đế là Đấng phân xử và giải cứu Bài ca của Đa-vít khi ông giả vờ điên dại trước mặt A-bi-mê-léc, vua xứ Gát để bị đuổi đi.

34 Tôi [a] sẽ chúc tụng CHÚA luôn luôn; lời ca ngợi Ngài lúc nào cũng ở trên môi tôi. 2 Toàn thân tôi là bài ca tôn vinh CHÚA. Những người nghèo khổ sẽ nghe và vui mừng. 3 Hãy cùng tôi tôn vinh Thượng Đế, chúng ta hãy chung nhau ca ngợi danh Ngài. Khi tôi kêu cứu cùng Thượng Đế, thì Ngài đáp lời tôi. Ngài giải cứu tôi khỏi những điều làm tôi sợ hãi. 5 Ai kêu xin CHÚA thì vui mừng, không bao giờ bị sỉ nhục [b]. 6 Kẻ khốn cùng nầy kêu cầu thì CHÚA nghe và giải cứu người khỏi mọi gian nan. 7 Thiên sứ của Thượng Đế đóng trại quanh những người kính sợ Ngài và giải cứu họ. 8 Hãy nếm biết CHÚA tốt lành biết bao. Phúc cho ai tin cậy Ngài. 4

- 648 -


Hỡi những người thuộc về CHÚA hãy kính sợ Ngài! Những ai kính sợ CHÚA không hề thiếu thốn gì hết. 10 Sư tử có lúc ốm yếu vì thiếu mồi, nhưng những ai trông cậy nơi CHÚA sẽ luôn luôn nhận được điều tốt lành. 11 Các con ơi, hãy đến nghe ta. Ta sẽ dạy các con biết cách thờ phụng Thượng Đế. 12 Các con hãy làm điều đó thì sẽ sống phước hạnh và vui thỏa. 13 Đừng nói xấu cũng đừng nói dối. 14 Hãy tránh điều ác, làm điều lành. Tìm sự hoà bình mà theo đuổi. 15 CHÚA nhìn thấy người ngay thẳng, Ngài nghe lời cầu nguyện của họ. 16 Nhưng Ngài nghịch lại kẻ làm điều ác; Ngài khiến thế gian không còn nhớ đến chúng nữa. 9

Người ngay lành kêu xin cùng CHÚA, Ngài liền nghe và giải cứu họ khỏi cảnh khổ. 18 CHÚA ở cạnh những người có lòng tan vỡ và nâng đỡ những người lụn bại tinh thần. 19 Người ngay thẳng có thể gặp nhiều hoàn cảnh khó khăn nhưng CHÚA giúp người thoát khỏi hết. 20 Ngài giữ gìn các xương cốt người, chẳng một cái nào bị gãy. 21 Điều ác sẽ giết kẻ ác; những kẻ ghét người ngay thẳng sẽ bị kết tội. 22 Nhưng CHÚA giải cứu mạng sống tôi tớ Ngài; chẳng ai tin cậy Ngài mà bị kết tội. 17

Thánh Thi 35 Lời cầu xin Chúa giúp đỡ Bài ca của Đa-vít.

35 Lạy Chúa, xin hãy chống nghịch cùng kẻ chống nghịch tôi. Hãy chiến đấu cùng kẻ chiến đấu chống tôi. 2 Xin hãy lấy khiên và áo giáp, đứng lên giúp đỡ tôi. Xin rút gươm giáo lớn và nhỏ, ngăn chận kẻ rượt đuổi tôi. Xin trấn an tôi rằng, “Ta sẽ giải cứu ngươi.” 4 Xin khiến kẻ lăm le giết tôi bị sỉ nhục. Xin làm cho những kẻ âm mưu hại tôi quay lưng chạy trốn. 5 Xin khiến chúng như trấu bị gió thổi bay tứ tung, giống như thiên sứ Ngài làm chúng chạy tán loạn. 3

- 649 -


Nguyện lối đi chúng nó bị tối tăm và trơn trợt, giống như đang bị thiên sứ CHÚA rượt đuổi. 7 Chúng nó vô cớ giăng lưới đánh bẫy tôi; chẳng hiểu lý do gì mà chúng đào hố cho tôi sụp. 8 Cầu cho sự tàn hại bắt lấy chúng thình lình. Nguyện chúng nó mắc vào lưới mình đã giăng, rơi vào hố mình đã đào và chết trong đó. 9 Bấy giờ tôi sẽ vui mừng trong CHÚA; tôi sẽ hớn hở khi Ngài giải cứu tôi. 10 Ngay đến xương cốt tôi cũng nói, “Lạy CHÚA, có ai giống như Ngài không? Ngài giải thoát kẻ yếu khỏi tay kẻ mạnh, cứu kẻ kém thế và nghèo khổ khỏi tay kẻ cướp bóc.” 11 Bọn làm chứng gian xuất hiện. Chúng tra hỏi những điều tôi không hề biết. 12 Chúng lấy xấu trả tốt, khiến tôi hết sức buồn nản. 13 Còn khi chúng nó đau yếu, tôi mặc áo quần bằng vải sô và buồn rầu cữ ăn. Tôi cúi đầu cầu xin nhưng không được đáp lại. 14 Tôi đối với chúng như bạn hữu hay anh em. Tôi buồn bã gục đầu như đang than khóc mẹ tôi. 15 Nhưng khi tôi gặp khốn khó, chúng vui cười họp lại; tụ tập để hãm hại tôi nhưng tôi chẳng biết. Chúng không ngừng sỉ nhục tôi. 16 Chúng chế giễu tôi và độc ác đối với tôi, chúng nghiến răng nghịch tôi. 6

CHÚA ơi, Ngài chứng kiến chuyện nầy cho đến bao giờ? Xin giải cứu tôi khỏi sự công kích của chúng nó; cứu tôi khỏi tay những kẻ hung dữ như sư tử. 17

Tôi sẽ ca ngợi Thượng Đế giữa hội lớn. Tôi sẽ tôn vinh Ngài giữa đám quần chúng đông đảo. 19 Xin đừng để kẻ thù nghịch cười giễu tôi; chúng nó ghét tôi vô cớ. Xin đừng để chúng chế nhạo tôi và ghét tôi vô cớ [a]. 20 Chúng nó không nói lời ôn hòa nhưng lường gạt kẻ yêu hoà bình. 21 Chúng chống nghịch tôi bảo rằng, “A ha, ta đã thấy điều ngươi làm rồi!” 22 Lạy CHÚA, Ngài đã thấy. Xin đừng làm thinh. Lạy CHÚA, xin đừng để tôi cô đơn. 23 Lạy Thượng Đế và CHÚA tôi, xin hãy thức dậy và đến bênh vực tôi, tranh chiến hộ tôi. 18

- 650 -


Lạy CHÚA xin lấy lẽ phải của Ngài mà bênh vực tôi. Đừng để chúng cười nhạo tôi. 25 Đừng để chúng la lên, “A ha, ta đã đạt được ý nguyện rồi!” Xin đừng để chúng reo lên, “Ta đã diệt được hắn rồi.” 26 Nguyện chúng bị sỉ nhục và xấu hổ, vì chúng hớn hở khi tôi bị thiệt hại. Nguyền cho sự sỉ nhục và xấu hổ trùm lấy chúng vì chúng nghĩ chúng tốt hơn tôi. 27 Nguyền cho các bạn hữu tôi hát và reo vui. Nguyền cho họ luôn luôn nói, “Đáng ca tụng sự cao cả oai nghi của CHÚA là Đấng muốn tôi tớ Ngài thành công.” 24

28

Tôi sẽ thuật lại sự nhân từ CHÚA, ca ngợi CHÚA mỗi ngày.

Thánh Thi 36 Thượng Đế nhân từ và kẻ ác Soạn cho nhạc trưởng. Do Đa-vít, tôi tớ Chúa sáng tác.

36 Tội lỗi nói trong lòng kẻ ác. Chúng không hề kính sợ Thượng Đế. 2 Chúng tin chắc rằng tội lỗi của chúng sẽ không bị phơi bày. 3 Lời nói chúng nó toàn là gian ác dối gạt; chúng không còn khôn ngoan hay nhân đức nữa. 4 Ban đêm chúng lập mưu ác; chẳng có hành vi nào của chúng gọi là tốt lành cả. Chúng không bỏ qua chuyện làm ác. Lạy CHÚA, tình yêu Ngài cao đến tận trời; sự thành tín Ngài vút đến mây xanh. 6 Lòng nhân từ Ngài như núi cao hùng vĩ. Sự công bình Ngài như vực sâu đại dương. Lạy CHÚA, Ngài bảo tồn nhân loại và sinh vật. 7 Lạy Thượng Đế, tình yêu Ngài thật cao quí vô cùng! Ngài bảo vệ con người dưới bóng cánh của Ngài. 8 Họ ăn những món ngon trong nhà Ngài. Ngài cho họ uống nước sông khoái lạc. 9 Vì Ngài là Đấng ban nguồn sống. Ánh sáng CHÚA khiến chúng tôi an hưởng cuộc đời. 10 Xin hãy cứ yêu những kẻ biết Ngài và làm ơn cho những người ngay lành [a]. 11 Xin đừng để kẻ tự phụ tấn công tôi hoặc kẻ ác đánh đuổi tôi. 5

12

Những kẻ làm ác đã bị đánh bại. Chúng bị xô ngã; không còn làm ác được nữa. - 651 -


Thánh Thi 37 Thượng Đế sẽ báo trả công bằng Bài ca của Đa-vít.

37 Đừng bất bình vì kẻ ác. Chớ ganh tị với kẻ làm quấy, 2 vì chẳng bao lâu chúng sẽ bị khô héo như cỏ và chết khô như cây xanh. 3 Hãy tin cậy CHÚA và làm điều lành. Hãy cư ngụ trong xứ và nuôi mình bằng sự trung tín. 4 Hãy vui thỏa trong CHÚA thì Ngài sẽ ban cho điều ngươi ao ước. 5 Hãy tin cậy nơi CHÚA thì Ngài sẽ chăm sóc ngươi. 6 Ngài sẽ chứng tỏ ngươi rõ ràng vô tội, Mọi người sẽ thấy rằng ngươi công chính. 7 Hãy chờ đợi và tin cậy CHÚA. Đừng bực tức khi người nầy được giàu có, hay người kia thành công. 8 Đừng nổi giận hay bực mình vì những điều đó chỉ đưa đến rắc rối. 9 Kẻ ác sẽ bị tiêu diệt nhưng ai tin cậy CHÚA sẽ hưởng được đất. 10 Chẳng bao lâu nữa kẻ ác sẽ không còn. Ngươi tìm nhưng chúng đã biến mất rồi. 11 Người khiêm nhường sẽ thừa hưởng đất đai và sống vui sướng trong sung túc. Kẻ ác lập mưu hại người lành. Chúng nghiến răng giận dữ cùng họ. 13 Nhưng CHÚA sẽ cười chúng nó vì thấy phần số chúng đã gần kề. 14 Kẻ ác rút gươm và giương cung định giết kẻ nghèo và những người cô thế, cùng tìm cách hãm hại những người lương thiện. 15 Nhưng gươm chúng nó sẽ trở lại đâm vào lòng chúng nó, còn cung chúng nó sẽ bị gãy. 16 Thà có ít của mà ngay thẳng, còn hơn có của nhiều mà cong quẹo. 17 Sức mạnh của kẻ ác sẽ bị bẻ gãy, nhưng CHÚA phù hộ người ngay thẳng. 18 CHÚA trông nom mạng sống người vô tội và phần thưởng Ngài dành cho họ còn mãi mãi. 19 Trong hoàn cảnh khó khăn họ không bị xấu hổ. Vào thời kỳ đói kém họ được no đủ. 20 Nhưng kẻ ác sẽ bị tiêu diệt. Những kẻ thù nghịch CHÚA sẽ khô héo như hoa cỏ trong đồng nội; chúng sẽ tan biến như khói. 12

- 652 -


Kẻ ác mượn mà không trả, nhưng người ngay thẳng có lòng nhân từ và ban phát rộng rãi. 22 Người được CHÚA ban phúc lành sẽ hưởng được đất nhưng những kẻ bị Ngài nguyền rủa sẽ bị tiêu diệt. 23 CHÚA trông chừng bước đi của người làm vừa lòng Thượng Đế. 24 Dù người vấp cũng không té ngã vì CHÚA nắm tay người. 25 Trước tôi trẻ, nay tôi già nhưng chưa hề thấy người nhân từ lâm cảnh khốn khó, hoặc con cháu người đi ăn xin. 26 Người nhân từ cho kẻ khác vay mượn rộng rãi, còn con cháu người là nguồn phúc cho người. 27 Hãy tránh điều ác, làm điều lành để ngươi được sống mãi. 28 CHÚA yêu công lý, Ngài không từ bỏ kẻ thờ phụng Ngài. Ngài luôn bảo vệ họ, nhưng dòng dõi kẻ ác sẽ bị tiêu diệt. 29 Người nhân từ sẽ hưởng được đất và cư ngụ ở đó mãi mãi. 30 Người tốt nói chuyện khôn ngoan, ngôn ngữ người chứa điều hợp lý. 31 Lời dạy dỗ của Thượng Đế ở trong lòng người ấy, và người luôn luôn giữ lời đó [a]. 21

Kẻ ác rình rập và tìm cách hãm hại người lành. Nhưng Thượng Đế luôn luôn bảo vệ người và không khi nào để kẻ nhân từ bị kết tội. 34 Hãy chờ đợi CHÚA giúp đỡ và bước theo Ngài. Ngài sẽ tôn trọng ngươi và cho ngươi hưởng được đất, rồi ngươi sẽ thấy kẻ ác bị xua đuổi. 32 33

Tôi đã thấy kẻ ác trông có vẻ hung bạo như cây mọc vững vàng trong đất tốt. 36 Nhưng nó chết đi và biến mất. Tôi tìm nó nhưng không thấy nữa. 37 Hãy để ý người ngay thẳng và quan sát kẻ lương thiện. Người có lòng hiền hoà sẽ có con cháu nối dòng. 38 Nhưng tội nhân sẽ bị tiêu diệt; chúng sẽ không có con để nối dòng [b]. 39 CHÚA giải cứu người ngay thẳng; Ngài là sức mạnh của họ trong cơn nguy biến. 40 CHÚA giúp đỡ và giải cứu họ; Ngài cứu họ khỏi kẻ ác vì họ trông cậy Ngài. 35

- 653 -


Thánh Thi 38 Lời cầu nguyện trong khi đau yếu Bài ca của Đa-vít để ghi nhớ [a].

38 Lạy CHÚA, xin đừng sửa phạt tôi đang khi Ngài nổi giận. Đừng trừng trị tôi đang khi Ngài bực tức. 2 Các mũi tên CHÚA làm tổn thương tôi, tay CHÚA hành hại tôi. 3 Toàn thân tôi đau yếu vì bị Ngài trừng phạt. Vì tội lỗi tôi, thịt xương tôi không còn lành lặn. 4 Tội lỗi tôi tràn ngập tôi, đè trên tôi như gánh nặng. 5 Vì các lỗi lầm tôi nên những vết lở của tôi tanh hôi và làm độc. 6 Tôi đi khòm lưng; suốt ngày buồn thảm. 7 Thân thể tôi nóng sốt, tứ chi tôi đau nhức. 8 Tôi yếu ớt và xây xẩm. Tôi rên rỉ vì đau buồn. 9 Lạy CHÚA Ngài biết các nhu cầu tôi; tiếng khóc tôi không giấu được CHÚA. 10 Tim tôi hồi hộp, sức lực tôi tiêu tan. Mắt tôi mù lòa. 11 Vì các thương tích tôi, cho nên bạn hữu và láng giềng đều xa lánh, còn các thân nhân cũng tránh né. 12 Có kẻ giăng bẫy định giết tôi. Những kẻ rắp tâm hại tôi lập mưu ác; suốt ngày chúng tính chuyện dối gạt. 13 Tôi như người điếc, không nghe thấy gì. Tôi như kẻ câm, chẳng nói tiếng nào. 14 Tôi như người không biết nghe, chẳng đáp một lời. 15 Lạy CHÚA, tôi tin cậy nơi Ngài. Lạy CHÚA là Thượng Đế tôi, Ngài sẽ trả lời. 16 Tôi thưa, “Xin đừng để chúng cười nhạo hay huênh hoang khi tôi bị thua thiệt.” 17 Tôi sắp chết, tôi không thể quên những đau đớn tôi. 18 Tôi xưng tội tôi ra; các tội lỗi tôi khiến tôi bối rối. 19 Những kẻ thù nghịch tôi mạnh dạn, lắm người ghét tôi vô cớ. 20 Chúng lấy dữ trả lành. Chúng chống đối tôi, vì tôi muốn làm điều ngay thẳng. 21 CHÚA ôi, xin đừng lìa bỏ tôi; Lạy Thượng Đế, xin đừng bỏ đi. 22 Xin hãy mau mau đến giúp tôi, lạy CHÚA là Đấng Cứu Chuộc tôi.

- 654 -


Thánh Thi 39 Đời sống ngắn ngủi Soạn cho nhạc trưởng theo điệu Giê-đu-thun [a]. Bài ca của Đa-vít.

39 Tôi nói, “Tôi sẽ thận trọng về những hành vi tôi và sẽ không phạm tội trong lời nói. Trong khi ở gần kẻ ác tôi phải hết sức thận trọng lời ăn tiếng nói [b].” Cho nên tôi giữ im lặng. Thậm chí đến lời lành cũng không ra khỏi miệng tôi, nhưng vì vậy mà tôi càng thêm bực bội. 3 Trong lòng tôi tức giận, càng nghĩ đến, tôi càng tức tối. Nên tôi phải lên tiếng; 2

Lạy CHÚA, xin cho tôi biết bao giờ đời tôi sẽ chấm dứt và tôi còn sống được bao lâu nữa. Xin cho tôi biết đời tôi dài bao nhiêu. 5 Ngài cho tôi một đời ngắn ngủi; mạng sống tôi chẳng nghĩa lý gì đối với Ngài. Đời người giống như hơi thở. Xê-la 4

Đời người như bóng thoảng qua [c]. Công trình họ làm thật vô ích; họ tích lũy của cải nhưng chẳng biết ai sẽ hưởng thụ. 6

Cho nên, CHÚA ơi, hi vọng tôi là gì? Ngài là hi vọng của tôi. 8 Xin cứu tôi khỏi mọi tội lỗi tôi. Đừng để kẻ ác ngu dại chế diễu tôi. 9 Tôi im lặng, không mở miệng vì Ngài là Đấng làm việc ấy. 10 Xin đừng trừng phạt tôi; roi vọt của CHÚA hầu như sắp giết tôi. 11 Ngài sửa phạt và trừng trị tội lỗi con người; Ngài tiêu diệt điều họ ưa thích như con thiêu thân. Mạng sống con người chẳng khác gì hơi thở. Xê-la 7

Lạy CHÚA, xin nghe lời cầu nguyện tôi, nghe tiếng kêu than của tôi. Đừng quên nước mắt tôi. Tôi như lữ khách trên đời nầy với Ngài. Đời tôi chỉ tạm thời thôi, chẳng khác nào các tổ tiên tôi. 13 Xin cho tôi yên thân [d] để tôi được vui mừng trước khi tôi biến mất, không còn nữa. 12

- 655 -


Thánh Thi 40 Ca ngợi và cầu xin được cứu giúp Soạn cho nhạc trưởng. Bài ca của Đa-vít.

40 Tôi kiên nhẫn chờ đợi [a] CHÚA. Ngài đã quay lại nghe tiếng kêu xin của tôi. 2 Ngài nhấc tôi lên khỏi hố hủy diệt [b], khỏi vũng bùn nhão [c]. Ngài đặt tôi đứng trên tảng đá, khiến chân tôi vững vàng. 3 Ngài đặt một bài ca mới vào miệng tôi, bài ca ngợi tôn Thượng Đế. Nhiều người sẽ thấy điều đó và thờ phụng Ngài. Rồi họ sẽ tin cậy Chúa. 4 Phước cho người tin cậy Chúa, không quay sang lũ kiêu ngạo hay chạy theo kẻ lường gạt [d]. 5 Lạy Chúa là Thượng Đế tôi, Ngài đã làm nhiều phép lạ. Các chương trình của Ngài cho chúng tôi thật nhiều, không ai có thể so với Ngài. Nếu tôi thử thuật lại các chương trình đó, thật quá nhiều đếm không hết. Ngài không muốn sinh tế hay các của dâng. Ngài đã mở lỗ tai cho tôi [e] để nghe và vâng lời Ngài. Ngài không muốn của lễ thiêu hay sinh tế chuộc tội. 7 Rồi tôi nói, “Nầy tôi đến. Trong sách có viết về tôi. 8 Lạy Thượng Đế, tôi đến để làm theo ý muốn Ngài. Lời dạy dỗ của Ngài ở trong lòng tôi.” 9 Tôi sẽ thuật lại sự nhân từ [f] Chúa trong các hội lớn. Chúa ơi, Ngài biết môi tôi không im lặng. 10 Tôi không giấu diếm sự nhân từ Ngài trong lòng tôi. Tôi rao ra sự thành tín và sự cứu rỗi của Ngài. Trong hội lớn đông người, tôi không giấu diếm tình yêu và chân lý Ngài. 11 Lạy Chúa xin đừng khép lòng nhân từ Ngài đối với tôi. Xin hãy để tình yêu và chân lý luôn luôn bảo vệ tôi. 6

Những nỗi khốn khổ vây phủ tôi; nhiều quá không đếm nổi. Tội lỗi đã bắt lấy tôi khiến tôi không còn lối thoát. Tội lỗi tôi còn nhiều hơn tóc trên đầu tôi, cho nên tôi đâm ra thất vọng. 12

- 656 -


13

Lạy Chúa xin hãy cứu tôi. Lạy Chúa, xin mau mau đến giúp tôi.

Nhiều kẻ tìm giết mạng sống tôi. Xin khiến chúng nó bị hổ nhục và nhuốc nhơ. Kẻ nào muốn hại tôi, xin khiến chúng nó bỏ chạy vì xấu hổ. 15 Kẻ nào chế giễu tôi, xin khiến chúng nó câm miệng vì xấu hổ. 16 Nhưng xin hãy cho những ai theo Ngài được vui mừng hớn hở. Họ yêu mến Ngài vì Ngài cứu họ. Nguyền cho họ luôn luôn nói, “Đáng ca ngợi Chúa [g]!” 14

Lạy Chúa, vì tôi nghèo khổ và khốn đốn, xin hãy nhớ đến tôi. Ngài là Đấng giúp đỡ và là Đấng cứu chuộc tôi. Lạy Thượng Đế, xin đừng chậm trễ. 17

Thánh Thi 41 Lời cầu nguyện trong khi đau yếu Soạn cho nhạc trưởng. Bài ca của Đa-vít.

41 Phúc cho người nào giúp đỡ kẻ nghèo [a]. Khi gặp hoạn nạn, Ngài sẽ giải cứu người. 2 Chúa sẽ gìn giữ mạng sống người và ban phước cho người trên đất. Ngài không để kẻ thù nghịch thắng hơn người. 3 Khi bị đau yếu, Ngài sẽ thêm sức cho người, và khiến người lành mạnh lại. 4 Tôi nói, “Lạy Chúa, xin thương xót tôi. Chữa lành tôi vì tôi phạm tội cùng Chúa.” 5 Những kẻ thù tôi trù ẻo tôi rằng, “Chừng nào thì hắn qua đời và bị quên lãng?” 6 Vài người đến thăm tôi nhưng lòng chúng không thật. Chúng đến để mong kiếm tin dữ. Rồi chúng đi ra đồn đãi. 7 Nhiều kẻ thù xầm xì nghịch tôi, mong tôi gặp điều chẳng lành. 8 Chúng nói, “Hắn mắc cơn bệnh hiểm nghèo, Hắn sẽ không thể nào ngồi dậy khỏi giường nổi.” 9 Đến nỗi người bạn thân nhất của tôi, vốn ăn chung bàn cùng tôi cũng quay lại phản tôi. 10 Lạy Chúa xin thương xót tôi. Thêm sức để tôi báo thù chúng nó. 11 Vì kẻ thù tôi không thể đánh bại tôi nên tôi biết Ngài hài lòng về tôi. 12 Vì tôi thanh liêm, nên Ngài yểm trợ tôi và ở cùng tôi mãi mãi.

- 657 -


13

Hãy ca ngợi Chúa là Thượng Đế của Ít-ra-en. Từ nay cho đến muôn đời.

A-men, A-men.

Thánh Thi 42 Quyển 2 (Thi thiên 42-72) Mong được gần Chúa Soạn cho nhạc trưởng. Bài mạch-kinh của con cháu Cô-rê.

42 Thượng Đế ôi, tôi khao khát Ngài như con nai thèm suối nước. 2 Tôi khát khao Thượng Đế hằng sống. Chừng nào tôi mới được đi gặp Ngài? 3 Ngày đêm nước mắt làm thức ăn cho tôi. Người ta luôn luôn hỏi tôi, “Thượng Đế anh đâu?” Khi tôi nhớ lại thời tươi đẹp ấy, thì tôi thốt ra nỗi lòng của tôi. Trước kia tôi thường đi cùng dân chúng, hướng dẫn họ vào đền thờ để hát ca ngợi Ngài. 4

Tại sao tôi buồn bã đến thế? Tại sao tôi bực dọc đến thế? Tôi phải tiếp tục hi vọng nơi Thượng Đế, và sẽ vẫn ca ngợi Ngài là Cứu Chúa 6 và Thượng Đế tôi. Tôi rất buồn thảm. Tôi nghĩ đến Ngài nơi nguồn sông Giô-đanh, gần đỉnh núi Hẹt-môn và núi Mít-xa. 7 Thác lũ của Ngài vang động. Những đợt sóng Chúa ập vào tôi [a]. 5

Mỗi ngày Chúa tỏ lòng nhân từ của Ngài cùng tôi. Mỗi tối tôi hát ca ngợi Ngài, như lời cầu nguyện cùng Thượng Đế hằng sống. 9 Tôi thưa cùng Thượng Đế, là Khối Đá của tôi rằng, “Sao Chúa quên tôi? Tại sao tôi buồn thảm và bị kẻ thù quấy rối?” 10 Những sự sỉ nhục của kẻ thù muốn giết chết tôi. Chúng luôn luôn hạch hỏi, “Thượng Đế anh đâu rồi?” 8

- 658 -


Tại sao tôi buồn thảm? Tại sao tôi bực dọc? Tôi sẽ tiếp tục đặt niềm hi vọng nơi Chúa, và sẽ vẫn ca ngợi Ngài là Cứu Chúa và là Thượng Đế tôi. 11

Thánh Thi 43 Lời cầu xin được che chở 43 Lạy Chúa, xin hãy bênh vực tôi. Xin biện hộ cho tôi chống lại những kẻ chẳng theo Ngài. Xin giải cứu tôi khỏi những kẻ dối trá và những kẻ làm ác. 2 Lạy Thượng Đế, Ngài là sức mạnh của tôi. Sao Ngài từ bỏ tôi? Tại sao tôi phải buồn thảm và bị kẻ thù quấy rối? 3 Xin Ngài ban cho tôi ánh sáng cùng chân lý để hướng dẫn tôi. Cầu xin ánh sáng và chân lý đó dẫn tôi đến núi thánh, nơi Ngài ngự. 4 Rồi tôi sẽ đi đến đền thờ Chúa, đến cùng Thượng Đế là niềm vui và nguồn hạnh phúc của tôi. Tôi sẽ lấy đờn cầm ca ngợi Ngài, là Thượng Đế tôi. Tại sao tôi buồn thảm? Tại sao tôi bực dọc? Tôi sẽ tiếp tục đặt niềm hi vọng nơi Thượng Đế và sẽ vẫn ca ngợi Ngài, Cứu Chúa và là Thượng Đế tôi. 5

Thánh Thi 44 Cầu xin Chúa cứu giúp Soạn cho nhạc trưởng. Bài mạch-kinh của con cháu Cô-rê.

44 Lạy Chúa, chúng tôi có nghe về Ngài. Tổ tiên chúng tôi đã thuật lại những điều Ngài làm trong đời họ, ngày xưa lâu lắm rồi. 2 Ngài dùng quyền năng đánh đuổi các dân tộc ra khỏi đất rồi cho tổ tiên chúng tôi vào sinh sống trong đất ấy. Ngài tiêu diệt các dân tộc khác nhưng Ngài giải thoát tổ tiên chúng tôi. 3 Họ chiếm được đất không nhờ gươm giáo, cũng chẳng phải nhờ sức mạnh của họ mà là nhờ quyền năng lớn lao và sức mạnh của Ngài. Ngài ở cùng họ vì Ngài yêu thương họ.

- 659 -


Lạy Thượng Đế, Ngài là vua của tôi. Nhờ mệnh lệnh Ngài dân cư Gia-cốp được đắc thắng. 5 Nhờ sự giúp đỡ Ngài chúng tôi đánh đuổi được kẻ thù. Nhân danh Ngài chúng tôi chà đạp đối phương. 6 Tôi chẳng nhờ cung tên để giúp tôi hay gươm giáo để cứu tôi. 7 Ngài mới là Đấng cứu chúng tôi khỏi tay kẻ thù, Ngài khiến kẻ nghịch chúng tôi xấu hổ. 8 Chúng tôi sẽ ca ngợi Chúa mỗi ngày; ca tụng danh Chúa mãi mãi. Xê-la 4

Nhưng Chúa đã từ bỏ chúng tôi, khiến chúng tôi xấu hổ. Chúa không còn ra trận với đạo binh chúng tôi nữa. 10 Ngài để cho kẻ thù xua đuổi chúng tôi và để những kẻ ghét chúng tôi cướp đoạt của cải chúng tôi. 11 Chúa đưa chúng tôi đi như chiên sắp bị làm thịt, phân tán chúng tôi trong các nước. 12 Ngài bán dân sự Ngài với giá rẻ mạt, và không buồn kiếm lời khi bán họ nữa. 13 Ngài khiến chúng tôi thành lời giễu cợt cho láng giềng chúng tôi; những người sống quanh chúng tôi trêu chọc chúng tôi. 14 Ngài khiến chúng tôi thành trò đùa giữa các nước; mọi người nhìn chúng tôi lắc đầu. 15 Tôi luôn luôn bị nhục nhã và sự xấu hổ bao trùm lấy tôi. 16 Các kẻ thù tôi trả đũa tôi bằng lời mắng chưởi và nguyền rủa. 17 Mọi điều đó xảy đến cho chúng tôi, nhưng chúng tôi không quên Chúa, hay phá lời giao ước Ngài. 18 Lòng chúng tôi không quay khỏi Ngài, chúng tôi vẫn luôn luôn theo Ngài. 19 Nhưng Chúa đã đè bẹp chúng tôi nơi chó rừng ở và lấy bóng tối bao trùm chúng tôi. 20 Nếu chúng tôi quên Chúa hay giơ tay hướng về các thần lạ, 21 Ngài hẳn đã biết vì Ngài thấy rõ đáy lòng chúng tôi. 22 Vì Chúa mà chúng tôi luôn luôn bị đe dọa tính mạng. Người ta xem chúng tôi như chiên sắp bị làm thịt. 23 Lạy Chúa, xin hãy thức dậy! Sao Ngài ngủ? Xin hãy thức dậy! Đừng quên chúng tôi mãi mãi. 24 Sao Chúa giấu mặt khỏi chúng tôi? Sao Chúa quên những nỗi đau khổ và gian nan của chúng tôi? 25 Chúng tôi đã bị chà đạp xuống đất đen; chúng tôi nằm sấp mặt xuống đất [a]. 26 Xin hãy đứng dậy giúp chúng tôi. Vì tình yêu Ngài, xin hãy cứu chúng tôi. 9

- 660 -


Thánh Thi 45 Bài ca chúc mừng hôn lễ vua Soạn cho nhạc trưởng theo điệu “Hoa huệ.” Thể mạch-kinh. Một khúc nhạc tình ái do con cháu Cô-rê soạn.

45 Lòng tôi tràn đầy những lời hoa mỹ. Tôi hát bài ca cho vua. Lưỡi tôi như ngòi viết của văn sĩ có tài. Ngài đẹp trai hơn tất cả mọi người, Ngài ăn nói hoạt bát cho nên Thượng Đế đã ban phúc lành cho Ngài đến đời đời. 3 Hỡi chiến sĩ anh dũng, hãy đeo gươm vào. Hãy chứng tỏ sự oai nghi của Ngài. 4 Hãy xông ra trong chiến thắng oai nghi, vì lẽ phải và công bằng. Hãy dùng quyền năng Ngài [a] làm nhiều điều diệu kỳ. 5 Các mũi tên bén nhọn của Ngài đâm thủng tim kẻ thù. Các quốc gia sẽ bị đại bại trước mặt Ngài. 6 Lạy Thượng Đế, ngôi vua còn bền mãi vô cùng. Ngài lấy sự công minh cai trị nước mình. 7 Ngài yêu điều lành và ghét điều ác cho nên Thượng Đế đã chọn Ngài riêng ra từ giữa các bạn hữu Ngài [b]; Thượng Đế đã vui mừng biệt Ngài riêng ra, Xức dầu sang trọng trên đầu Ngài. 8 Áo xống Ngài thơm phức mùi mộc dược, trầm hương và nhục quế. Từ trong điện bằng ngà có tiếng nhạc trỗi lên làm vui lòng Ngài. 9 Các con gái vua thuộc vào hàng phụ nữ đáng kính. Cô dâu [c] Ngài đứng bên phải Ngài, đeo vàng Ô-phia quí giá. 2

Hỡi con gái ta, hãy nghe đây! Hãy để ý và chú tâm. Hãy quên dân tộc và gia đình cha của con đi. 11 Vua ưa thích nhan sắc con. Vì Ngài là Chúa của con, con hãy vâng lời Ngài. 12 Dân chúng thành Tia đã mang đến một lễ vật. Nhiều người giàu có sẽ muốn gặp con. 10

Nàng công chúa thật xinh đẹp. Áo xống nàng dệt bằng vàng. 14 Nàng sẽ mặc áo đẹp ra mắt vua. Các nàng phụ dâu sẽ đi theo sau và cũng sẽ được trình diện vua. 15 Họ sẽ vui mừng và hớn hở đi đến rồi vào cung vua. 13

- 661 -


Ngài sẽ có các con trai để thay thế tổ tiên mình. Ngài sẽ đặt chúng cai trị cả đất. 17 Từ nay về sau tôi sẽ làm cho danh Ngài vẻ vang, để dân chúng sẽ ca ngợi Ngài đời đời. 16

Thánh Thi 46 Thượng Đế gìn giữ dân Ngài Soạn cho nhạc trưởng. Theo điệu a-la-mốt [a]. Thi thiên của con cháu Cô-rê.

46 Thượng Đế là nơi che chở và là sức mạnh của chúng tôi. Ngài luôn luôn cứu giúp trong lúc nguy nan. 2 Cho nên chúng tôi chẳng sợ dù cho đất rung động hay núi non sụp xuống biển, 3 Dù cho biển gầm và sủi bọt, hay núi lay chuyển vì sóng vỗ ầm ầm cũng vậy. Xê-la Có một con sông mang lại niềm vui cho thành của Thượng Đế, nơi thánh mà Thượng Đế Chí Cao ngự. 5 Thượng Đế ở trong thành đó, nó sẽ không bị rúng động. Vừa bình minh Chúa sẽ giúp đỡ thành ấy. 6 Các dân tộc và vương quốc chuyển lay. Thượng Đế gầm thét, đất liền sụp đổ. 7 Chúa Toàn Năng ở cùng chúng tôi; Thượng Đế của Gia-cốp là Đấng bảo vệ chúng tôi. Xê-la 4

Hãy đến xem những việc Chúa làm, những điều diệu kỳ Ngài đã làm ra trên đất. 9 Ngài dẹp yên giặc khắp nơi trên đất. Ngài bẻ gãy cung tên, gươm giáo và thiêu rụi các chiến xa. 8

Thượng Đế phán, “Hãy im lặng và biết ta là Thượng Đế. Ta là Chủ Tể các dân tộc; Ta là Đấng Chí Cao trên khắp đất.” 10

11

CHÚA Toàn Năng ở cùng chúng ta; Thượng Đế của Gia-cốp là Đấng bảo vệ chúng ta. Xê-la

Thánh Thi 47 Thượng Đế, vua của thế gian Bài ca của con cháu Cô-rê.

47 Nầy các dân, hãy vỗ tay. Hãy reo vui cho Thượng Đế. - 662 -


Thượng Đế Chí Cao là Đấng diệu kỳ. Ngài là vua cao cả trên khắp thế gian! 3 Ngài giúp chúng ta đánh bại các quốc gia, và đặt chúng dưới quyền quản trị của chúng ta. 4 Ngài chọn đất cho chúng ta thừa hưởng. Chúng ta là con cái Gia-cốp, tức những kẻ được Ngài yêu. Xê-la 2

Thượng Đế thăng lên trong tiếng reo hò; Chúa ngự lên trong tiếng kèn thổi vang dậy. 6 Hãy ca ngợi Thượng Đế. Hãy xướng hát lên. Hãy hát ca tụng vua chúng ta. Hãy ca lên. 7 Thượng Đế là Vua trên khắp thế gian nên chúng ta hãy hát ca ngợi [a] Ngài. 8 Thượng Đế là vua các dân tộc. Ngài ngự trên ngôi thánh Ngài. 9 Những nhà lãnh đạo các dân tộc cùng nhóm lại chung với dân cư của Thượng Đế của Áp-ra-ham vì các nhà lãnh đạo trên đất đều thuộc về Ngài. Ngài là Đấng cao cả. 5

Thánh Thi 48 Giê-ru-sa-lem, thành thánh của Thượng Đế Bài ca của con cháu Cô-rê.

48 Chúa là Đấng cao cả; Ngài đáng được ca ngợi trong thành của Thượng Đế, trên núi thánh Ngài. 2 Núi ấy rất cao, ngoạn mục là nguồn vui cho cả thế giới. Núi Xi-ôn nổi cao lên về hướng Bắc [a]; đó là thành của vua lớn. 3 Thượng Đế ngự trong đền Ngài; Ngài là Đấng bảo vệ thành ấy. 4 Các vua họp nhau lại để tấn công Xi-ôn. Họ tiến về phía thành ấy. 5 Nhưng khi họ thấy thành thì sửng sốt, và hoảng sợ bỏ chạy. 6 Họ đâm ra sợ hãi và quặn thắt như đàn bà đau đẻ. 7 Thượng Đế dùng ngọn gió Đông hủy diệt các tàu lớn. 8 Trước kia chúng tôi đã nghe, nay chúng tôi thấy rằng Thượng Đế luôn luôn bảo vệ thành Ngài. Đó là thành của CHÚA Toàn Năng, thành của Thượng Đế chúng tôi. Xê-la 9

Lạy Chúa, chúng tôi đi vào đền thờ Ngài để suy tư về tình yêu Ngài.

- 663 -


Lạy Thượng Đế, Ngài nổi danh khắp nơi. Khắp đất mọi người đều ca ngợi Ngài. Tay phải Chúa đầy sự cứu rỗi. 11 Núi Xi-ôn vui mừng, các thành của Giu-đa hớn hở vì những quyết định của Chúa rất công minh. 12 Hãy đi quanh Giê-ru-sa-lem và đếm các tháp canh của nó. 13 Xem chúng vững chắc ra sao. Hãy nhìn các đền đài trong đó. Rồi các ngươi hãy kể lại cho con cháu mình biết. 14 Chúa là Thượng Đế chúng ta cho đến đời đời. Từ nay trở đi Ngài sẽ hướng dẫn chúng ta. 10

Thánh Thi 49 Ỷ lại vào của cải là dại dột Soạn cho nhạc trưởng. Bài ca của con cháu Cô-rê.

49 Nầy các dân hãy nghe đây; các người sống trên đất hãy để ý. 2 Tất cả những người thượng lưu hay hạ lưu, giàu sang hay nghèo hèn, hãy nghe đây. 3 Những lời tôi nói ra đều là khôn ngoan, lòng tôi phát ra sự thông sáng. 4 Tôi sẽ chú tâm đến những châm ngôn; và giải câu đố tôi qua đờn cầm. Tại sao tôi phải sợ hãi trong ngày khốn khó? Tại sao tôi lo sợ khi kẻ ác vây quanh tôi? 6 Chúng ỷ lại vào tiền tài, lợi lộc và khoe khoang của cải. 7 Không ai có thể chuộc được mạng sống kẻ khác. Chẳng ai có thể hối lộ [a] Thượng Đế, 8 vì giá trả cho mạng sống mình vô cùng đắt, không ai trả nổi. 9 Có ai sống mãi mãi đâu? Trước sau mọi người cũng phải lìa đời. 10 Người khôn ngoan cũng phải chết như kẻ dại dột [b]. Kẻ điên dại và ngu xuẩn cũng qua đi, để lại của cải cho người khác. 11 Nơi ở cuối cùng của chúng là nấm mồ. Đó là nơi ở của chúng từ nay về sau dù cho chúng lấy tên mình đặt cho các địa danh đi nữa. 12 Người giàu sang cũng không thể sống mãi; rốt cuộc chúng cũng phải chết đi như thú vật. 13 Đó là số phận của những kẻ ỷ lại vào chính mình và những kẻ tin tưởng nơi chúng. Xê-la 5

- 664 -


Chúng sẽ chết như đàn cừu, mồ mả là chuồng của họ, và cái chết là người chăn giữ chúng. Nhưng bình minh đến thì người thanh liêm sẽ đắc thắng, còn thân xác chúng sẽ bị mục nát trong mồ mả, cách xa nơi ở sang trọng của mình. 14

15

Nhưng Thượng Đế sẽ cứu mạng sống tôi và rút tôi ra khỏi mồ mả. Xê-la

Đừng thấy nhà cửa kẻ giàu sang đẹp đẽ hơn mà sợ hãi họ. 17 Họ chẳng mang được gì theo khi xuống huyệt; của cải họ cũng chẳng xuống mồ với họ đâu. 18 Dù cho khi còn sống họ được tán dương, người ta hay ca tụng những kẻ thành công 19 nhưng rốt cuộc họ cũng nối gót tổ tiên. Chẳng bao giờ còn nhìn thấy ánh sáng nữa. 20 Những kẻ giàu mà thiếu khôn ngoan cũng giống như thú vật chết mất thôi. 16

Thánh Thi 50 Thượng Đế muốn sự thờ phụng chân thật Bài ca của A-sáp.

50 Thượng Đế, Chúa của các Chúa, phán. Từ hướng mặt trời mọc cho đến hướng mặt trời lặn Ngài gọi cả thế giới. 2 Ngài chiếu sáng ra từ Giê-ru-sa-lem, thành phố có vẻ đẹp tuyệt vời [a]. 3 Thượng Đế của chúng tôi đến, Ngài không im lặng đâu. Trước mặt Ngài có ngọn lửa cháy, và quanh Ngài có trận bão dữ dội. 4 Ngài bảo trời cao và đất thấp làm nhân chứng, khi Ngài phân xử dân sự Ngài. 5 Ngài phán, “Hỡi những kẻ thờ phụng ta hãy tập họp lại đây, là những người đã dùng sinh tế lập giao ước với ta.” 6

Thượng Đế là quan án, đến nỗi trời cao kia cũng tuyên bố sự công chính của Ngài. Xê-la

Thượng Đế phán, “Hỡi dân Ít-ra-en ta, hãy nghe đây. Ta sẽ làm chứng nghịch các ngươi. Ta là Thượng Đế, Chúa của các ngươi. 8 Ta sẽ chẳng trách ngươi vì các của lễ ngươi. Các ngươi luôn dâng cho ta các của lễ thiêu. 9 Nhưng ta không cần bò đực trong chuồng hay dê đực trong ràn của các ngươi 10 vì tất cả muôn thú trong rừng đều thuộc về ta. Các gia súc ăn cỏ trên ngàn núi cũng là của ta. 7

- 665 -


Ta biết từng con chim trên núi, mọi sinh vật trong đồng nội cũng thuộc về ta. 12 Nếu ta đói, ta chẳng nói cho ngươi biết, vì đất và mọi vật trong đất đều thuộc về ta. 13 Ta không ăn thịt bò đực hay uống huyết dê đực. 11

Hãy dâng của lễ để tỏ lòng cảm tạ Thượng Đế. Hãy dâng cho Thượng Đế Chí Cao điều ngươi đã hứa. 15 Hãy kêu cầu ta trong khi gặp gian nan. Ta sẽ giải cứu ngươi rồi ngươi sẽ tôn kính ta.” 14

Nhưng Thượng Đế phán cùng kẻ ác rằng, “Tại sao ngươi nói đến luật lệ ta, và đề cập đến giao ước ta làm gì?” 17 Ngươi ghét lời dạy ta và quay lưng khỏi điều ta dặn bảo. 18 Khi ngươi thấy kẻ trộm liền nhập bọn với nó. Ngươi tham dự vào chuyện ngoại tình. 19 Miệng ngươi tuôn ra lời nói xấu, lưỡi ngươi phát ra điều dối trá. 20 Ngươi nói xấu anh em ngươi, và đặt điều dối trá về con của mẹ ngươi. 21 Trong khi ngươi làm như vậy thì ta làm thinh, cho nên ngươi tưởng ta [b] cũng như ngươi. Nhưng ta sẽ quở phạt ngươi tận mặt. 22 “Vậy, hỡi những người quên Thượng Đế hãy suy nghĩ điều nầy. Nếu không ta sẽ xé banh xác ngươi, không ai giải cứu nổi. 23 Kẻ nào dâng của lễ tỏ lòng biết ơn ta là kẻ tôn kính ta. Còn những kẻ đi trong đường lối ta, Ta là Thượng Đế sẽ giải cứu họ.” 16

Thánh Thi 51 Lời cầu nguyện xin Chúa tha thứ Soạn cho nhạc trưởng. Bài ca của Đa-vít soạn khi nhà tiên tri Na-than khiển trách ông sau khi ông phạm tội với Bát-sêba.

51 Thượng Đế ôi, xin hãy đối nhân từ cùng tôi vì Ngài là Đấng thành tín. Xin hãy xoá sạch các sai lầm tôi vì Ngài là Đấng vị tha. 2 Xin hãy rửa tội lỗi tôi và làm cho tôi tinh sạch trở lại. 3 Tôi biết các sai lầm tôi, tôi không bao giờ quên chúng được. 4 Tôi đã phạm tội với riêng Chúa; làm điều Chúa ngăn cấm. Ngài rất công minh khi phán xử, và phán quyết Ngài dành cho tôi rất công bằng. - 666 -


Tôi chào đời trong vi phạm. Mẹ tôi sinh tôi ra trong tội lỗi. 6 Chúa muốn tôi hoàn toàn chân thật, nên xin hãy dạy tôi khôn ngoan. 7 Xin cất lấy tội lỗi tôi thì tôi sẽ tinh sạch [a]. Hãy rửa tôi thì tôi sẽ trắng hơn tuyết. 8 Xin cho tôi nghe tiếng mừng rỡ và hân hoan; Xin hãy làm cho các xương cốt tôi mà Chúa đã bẻ gãy được vui sướng trở lại. 9 Xin hãy ngoảnh mặt làm ngơ khỏi các tội lỗi tôi và lau sạch mọi gian ác tôi. 10 Lạy Thượng Đế, xin hãy tạo một tấm lòng trong sạch trong tôi và chỉnh đốn tâm linh tôi lại. 11 Xin đừng đuổi tôi đi khỏi mặt Ngài hay cất Thánh Linh Ngài ra khỏi tôi. 12 Xin hãy ban lại cho tôi niềm vui vẻ về sự cứu rỗi Chúa. Xin giữ tôi vững mạnh qua ý muốn sẵn lòng. 13 Rồi tôi sẽ dạy đường lối Ngài cho những kẻ làm quấy, và tội nhân sẽ quay về cùng Ngài. 14 Lạy Chúa là Thượng Đế của sự cứu rỗi tôi, xin giải cứu tôi khỏi tội giết người [b], rồi tôi sẽ hát ngợi ca sự nhân từ Ngài. 15 Lạy Chúa, xin cho phép tôi nói để tôi ca ngợi Ngài. 16 Chúa không thích của lễ, nếu không thì tôi đã dâng. Ngài không màng của lễ thiêu. 17 Của lễ đẹp lòng Ngài là tấm lòng tan vỡ. Lạy Thượng Đế, Ngài không gạt bỏ tấm lòng tan vỡ và hối hận. 5

Xin Chúa hãy làm điều tốt lành cho Giê-ru-sa-lem theo ý muốn Ngài. Xin hãy xây lại vách thành Giê-ru-sa-lem 19 rồi Chúa sẽ vui lòng nhận sinh tế [c] và của lễ toàn thiêu, và người ta sẽ dâng bò đực trên bàn thờ Ngài. 18

Thánh Thi 52 Chúa sẽ trừng phạt kẻ tự phụ Soạn cho nhạc trưởng. Bài mạch kinh của Đa-vít khi Đô-E người Ê-đôm đến mách với Sau-lơ rằng “Đa-vít hiện trú trong nhà A-hi-mê-léc.”

52 Nầy dũng sĩ, sao ngươi khoe khoang việc ác mình? Tình yêu của Thượng Đế sẽ còn đời đời. 2 Ngươi lập mưu ác. Lưỡi ngươi như dao cạo bén, toàn bịa đặt điều dối trá.

- 667 -


3

Ngươi thích điều quấy hơn lẽ phải, ưa chuyện dối trá hơn sự thật. Xê-la

Ngươi thích lời cay cú và lưỡi bịa đặt. Nhưng Thượng Đế sẽ tàn hại ngươi đến đời đời. Ngài sẽ túm lấy ngươi, ném ra khỏi trại ngươi; Ngài sẽ kéo ngươi ra khỏi đất người sống. 6 Người thanh liêm sẽ thấy điều đó và kính sợ Thượng Đế. Họ sẽ cười ngươi và bảo, 7 “Hãy xem số phận của kẻ không nhờ cậy Thượng Đế mà ỷ lại vào tiền tài. Nó càng ngày càng mạnh thêm trong mưu ác.” 4 5

8

Còn tôi như cây ô-liu mọc trong đền thờ Chúa. Tôi sẽ tin cậy nơi tình yêu Chúa mãi mãi.

9

Lạy Thượng Đế, tôi sẽ cảm tạ Ngài muôn đời về những việc Ngài làm. Tôi sẽ tin cậy danh Ngài [a] cùng với những người thờ phụng Ngài vì Ngài nhân từ.

Thánh Thi 53 Kẻ vô tín thật dại dột Soạn cho nhạc trưởng theo điệu “ma-ha-lát [a].” Một bài mạch kinh của Đa-vít.

53 Kẻ ngu dại nghĩ thầm, “Chẳng có Thượng Đế đâu.” Kẻ dại dột đều gian ác và hành động nhơ nhuốc; Chẳng có ai làm điều phải. 2 Thượng Đế từ trời nhìn xuống loài người xem thử có ai khôn ngoan, hoặc tìm kiếm Ngài để xin chỉ dạy chăng. 3 Nhưng mọi người đều quay đi. Ai nấy đều gian ác. Chẳng có ai làm điều thiện, kiếm một người cũng không ra. Kẻ ác không biết sao? Chúng ăn nuốt dân ta như ăn bánh. Chúng không hề nhờ cậy Chúa. 5 Kẻ ác bị kinh hoảng dù không có gì phải sợ. Thượng Đế sẽ phân tán xương cốt của kẻ thù ngươi. Chúng sẽ bị ô nhục, vì Thượng Đế đã từ bỏ chúng. 4

Tôi cầu xin cho chiến thắng đến với Ít-ra-en từ núi Xi-ôn! Cầu Chúa mang họ trở về. Lúc đó dân của Gia-cốp sẽ vui mừng, còn người Ít-ra-en sẽ hớn hở. 6

- 668 -


Thánh Thi 54 Cầu xin Chúa giúp đỡ Soạn cho nhạc trưởng để dùng với nhạc khí bằng dây. Bài mạch kinh của Đa-vít làm khi người Xíp đến mách với Sau-lơ rằng, “Đa-vít hiện trốn giữa chúng tôi.”

54 Lạy Chúa, xin hãy vì danh Chúa mà giải cứu tôi. Dùng năng lực Ngài để chứng minh tôi vô tội [a]. 2 Xin hãy nghe lời cầu nguyện tôi; lắng nghe tiếng kêu của tôi. 3 Biết bao người lạ nổi lên chống nghịch tôi, Những kẻ hung ác muốn giết tôi. Chúng không cần biết đến Ngài. Xê-la Nầy, Thượng Đế sẽ giúp đỡ tôi; Chúa sẽ yểm trợ tôi. 5 Cầu cho kẻ thù tôi bị trừng phạt chung với mưu ác của chúng. Xin hãy tiêu diệt chúng vì Ngài thành tín đối với tôi. 4

Tôi sẽ dâng sinh tế cho Chúa. Lạy CHÚA, tôi sẽ cảm tạ Ngài vì Ngài nhân từ. 7 Ngài đã giải cứu tôi khỏi mọi gian nan, mắt tôi đã thấy kẻ thù tôi bị đánh bại. 6

Thánh Thi 55 Lời cầu nguyện vì gặp bạn giả Soạn cho nhạc trưởng để dùng với nhạc khí bằng dây. Bài mạch kinh của Đa-vít.

55 Thượng Đế ôi, xin nghe lời cầu nguyện tôi, đừng làm ngơ trước tiếng kêu cứu tôi. 2 Xin lắng nghe và đáp lời tôi. Tôi bị bối rối và buồn bực 3 vì những lời của kẻ thù và cách kẻ ác nhìn tôi. Chúng gây khó khăn cho tôi và tấn công tôi trong khi giận dữ. 4 Lòng tôi lo sợ; sự kinh hoàng về cái chết hãm bắt tôi. 5 Tôi lo sợ và run rẩy; kinh khiếp chụp lấy tôi. 6 Tôi nói, “Ước gì tôi có cánh như bồ câu. Tôi sẽ bay đi để được yên thân. 7 Tôi sẽ bay thật xa đến trú ẩn nơi sa mạc. Xê-la Tôi sẽ vội vã đến nơi trú ẩn của tôi, xa khỏi giông bão mãnh liệt.” 9 Lạy Chúa, xin hãy tiêu diệt và làm rối loạn tiếng nói chúng nó, vì tôi chứng kiến sự hung bạo và cãi vã trong thành. 8

- 669 -


Ngày và đêm chúng đi quanh vách thành, bên trong đó toàn là điều ác và chuyện rối loạn. 11 Sự tàn phá xảy ra khắp nơi trong thành; những chuyện rối loạn và dối trá không khi nào ra khỏi đường phố. 10

Dù kẻ thù sỉ nhục tôi cũng không sao, Tôi có thể chịu được. Dù kẻ ghét tôi cũng không đáng kể. Tôi có thể trốn khỏi nó. 13 Nhưng chính là ngươi, kẻ thân thiết, thân hữu và bạn đồng hành. 14 Chúng tôi trước kia là bạn thân. Cùng nhau đi đến đền thờ Chúa. 12

Cầu cho cái chết chụp bắt kẻ thù tôi. Cầu cho chúng nó chết non [a] vì lòng chúng âm mưu điều ác. 15

Nhưng tôi sẽ kêu cứu cùng Thượng Đế, CHÚA sẽ giải cứu tôi. 17 Sáng, trưa, chiều lòng tôi bối rối và bực dọc, nhưng Ngài sẽ nghe tiếng tôi. 18 Nhiều kẻ chống nghịch tôi nhưng Chúa giữ tôi an toàn trong chiến trận. 19 Thượng Đế là Đấng sống đời đời sẽ nghe tôi và trừng phạt chúng nó. Xê-la 16

Nhưng chúng nó không thay đổi cũng chẳng kính sợ Thượng Đế. 20 Người vốn trước là bạn tôi tấn công bằng hữu mình và bội ước. 21 Miệng lưỡi nó trơn láng như mỡ nhưng trong lòng đầy chiến tranh. Lời nói nó dịu dàng hơn dầu nhưng sắc bén hơn dao. Hãy trao những nỗi lo âu cho Chúa, Ngài sẽ chăm sóc ngươi. Ngài không bao giờ để người nhân đức bị thất vọng. 22

Nhưng Chúa ơi, Ngài sẽ hạ kẻ gian ác xuống nơi mồ mả. Kẻ sát nhân và kẻ dối trá chỉ sống được nửa đời người. Nhưng tôi sẽ tin cậy nơi Ngài. 23

- 670 -


Thánh Thi 56 Trông cậy Thượng Đế giúp đỡ Soạn cho nhạc trưởng theo điệu “Chim bồ câu của cây sồi phương xa.” Thể mịch-tâm của Đa-vít khi người Phi-li-tin bắt được ông ở Gát.

56 Lạy Chúa, xin hãy thương xót tôi vì người ta rượt đuổi tôi; chiến trận vây tôi bốn bề. 2 Kẻ thù tôi suốt ngày đuổi theo tôi; vô số kẻ đánh nhau với tôi [a]. 3 Khi tôi sợ hãi, tôi liền tin cậy nơi Ngài. 4 Tôi ca ngợi vì lời Ngài. Tôi tin cậy nơi Ngài nên chẳng sợ hãi gì. Loài người chẳng làm gì được tôi. 5 Hằng ngày chúng xuyên tạc lời nói tôi; lập mưu ác chống nghịch tôi. 6 Chúng chờ đợi, ẩn núp, theo dõi các bước đi của tôi để chực giết tôi. 7 Lạy Thượng Đế, hãy xua đuổi chúng vì điều ác chúng làm; xin nổi giận trừng phạt chúng. 8 Chúa đã ghi nhớ những nỗi khổ tôi. Ngài ghi sổ những giọt nước mắt tôi. Chẳng phải chúng đều nằm trong nhật ký Ngài sao? 9

Ngày nào tôi kêu cứu, kẻ thù tôi sẽ quay lưng bỏ chạy. Tôi biết rõ điều ấy vì Thượng Đế đứng về phía tôi.

Tôi ca ngợi Thượng Đế về lời Ngài phán cùng tôi. Tôi ca ngợi lời Ngài. 11 Tôi tin cậy nơi Thượng Đế. Tôi sẽ không sợ hãi gì. Loài người làm gì tôi được đâu? 10

Lạy Thượng Đế, tôi sẽ giữ lời hứa tôi cùng Ngài. Tôi sẽ dâng của lễ cảm tạ cho Ngài, 13 vì Ngài đã cứu tôi khỏi chết. Ngài giữ chân tôi khỏi vấp té. Cho nên tôi bước đi với Chúa trong ánh sáng của sự sống. 12

Thánh Thi 57 Lời cầu nguyện trong cơn khốn khó Soạn cho nhạc trưởng theo điệu “Chớ tiêu hủy.” Bài mịch-tâm Đa-vít làm khi ông trốn trong hang khỏi tay Sau-lơ.

57 Thượng Đế ôi, xin thương xót tôi, đoái đến tôi vì tôi chạy đến xin Ngài che chở. Xin cho tôi núp dưới bóng cánh Chúa cho đến lúc tai họa qua đi.

- 671 -


Tôi kêu cầu cùng Thượng Đế Chí Cao, Đấng thực hiện mọi điều cho tôi. 3 Từ thiên đàng Ngài cứu giúp tôi. Ngài trừng phạt kẻ rượt đuổi tôi. Xê-la Sai tình yêu và sự chân thật Ngài đến cùng tôi. 2

Kẻ thù tôi vây quanh tôi như sư tử. Tôi phải nằm giữa đám sư tử. Răng chúng nó nhọn như lưỡi giáo và mũi tên, lưỡi chúng nó sắc bén như gươm. 4

Thượng Đế cao cả hơn các từng trời; sự oai nghiêm Ngài bao trùm cả đất. 6 Chúng giăng bẫy cho tôi sập. Chúng đào hố trên lối đi tôi, nhưng chính chúng lại té xuống đó. Xê-la 5

Thượng Đế ôi, tôi đã sẵn sàng cả linh hồn và tấm lòng, để hát ca ngợi Ngài. 8 Linh hồn ơi, hãy thức dậy. Tôi sẽ đánh thức bình minh. Đờn cầm và đờn sắt ơi, hãy tỉnh giấc! 9 Lạy Chúa, tôi sẽ ca ngợi Ngài giữa muôn dân; Tôi sẽ hát ca ngợi Ngài giữa các nước. 10 Tình yêu cao cả của Chúa vượt trên các từng trời; chân lý Ngài vút đến tận mây xanh. 11 Lạy Chúa, Ngài vượt cao hơn các từng trời. Nguyện vinh hiển Ngài bao phủ khắp đất. 7

Thánh Thi 58 Các quan án bất công Soạn cho nhạc trưởng theo điệu “Chớ tiêu hủy.” Bài mịch-tâm của Đa-vít.

58 Hỡi các quan cai trị, các ngươi cân nhắc đúng đắn chăng? Có phân xử công minh chăng? 2 Không, lòng các ngươi chỉ âm mưu điều ác; Các ngươi dự định chuyện hung tàn trong xứ nầy. 3 Từ lúc mới sinh, kẻ ác đã xa lánh Thượng Đế; vừa mới lọt lòng chúng đã xa lìa và học nói dối. 4 Cơn giận chúng như rắn độc [a], như rắn hổ mang điếc, bịt tai lại 5 để không nghe tiếng sáo của thầy ếm chú, dù thổi hay đến mấy đi nữa. 6 Lạy Thượng Đế, xin bẻ răng trong miệng chúng! Lạy CHÚA, xin nhổ nanh các sư tử ấy. 7 Cho chúng biến mất như nước chảy đi. Xin cho chúng bị dẫm lên như cỏ, khô héo tàn tạ đi [b]. 8 Xin khiến chúng như ốc sên, vừa bò vừa tan chảy. Nguyện chúng nó như đứa con sảo thai, sinh ra không thấy ánh mặt trời.

- 672 -


9

Cơn giận Ngài sẽ thổi bay chúng nó, nhanh hơn gai gốc đun nóng ấm nước.

Người thanh liêm sẽ vui mừng khi thấy hắn bị báo trả. Họ sẽ rửa chân mình trong huyết kẻ ác. 11 Bấy giờ người ta sẽ nói, “Quả có phần thưởng cho kẻ làm điều ngay thẳng. Quả có Thượng Đế phân xử thế gian .” 10

Thánh Thi 59 Cầu xin Chúa bảo vệ Soạn cho nhạc trưởng theo điệu “Chớ tiêu hủy.” Bài mịch-tâm của Đa-vít khi Sau-lơ cho người tới canh gác nhà để giết ông.

59 Thượng Đế ôi, xin cứu tôi khỏi kẻ thù tôi. Xin bảo vệ tôi khỏi tay kẻ chống nghịch tôi. 2 Xin giải thoát tôi khỏi kẻ làm ác và kẻ giết người. 3 Kìa, chúng rình phục kích tôi. Những kẻ hung ác tấn công tôi nhưng Chúa ôi, tôi có phạm tội hay làm gì quấy đâu. 4 Dù tôi không làm gì hại chúng, nhưng chúng chực tấn công tôi. Xin thức dậy giúp tôi, xin Ngài hãy nhìn. 5 Ngài là Chúa Toàn Năng, Thượng Đế của Ít-ra-en. Xin đứng dậy trừng phạt chúng nó. Đừng thương xót bọn phản bội. Xê-la Buổi tối chúng trở lại, gầm gừ như chó và đi rảo quanh thành. 7 Xin để ý lời ra từ miệng chúng nó. Môi chúng nó nói toàn lời xấc xược vì chúng bảo, “Có ai nghe đâu?” 6

Nhưng Chúa ơi, Ngài sẽ cười và chế diễu chúng nó. Lạy Thượng Đế là sức mạnh tôi, tôi trông cậy Ngài cứu giúp [a], vì Ngài là Đấng bảo vệ tôi. 10 Thượng Đế tôi yêu thương tôi, Ngài đi trước tôi. Ngài sẽ giúp tôi đánh bại kẻ thù. 11 Lạy Chúa là Đấng bảo vệ chúng tôi, xin đừng giết chúng, nếu không dân cư tôi sẽ quên. Hãy dùng quyền năng Chúa phân tán chúng và đánh hạ chúng. 12 Xin hãy trừng phạt chúng về điều chúng nói. Chúng chưởi rủa và nói dối, nguyền cho sự kiêu căng chúng đánh bẫy chúng. 13 Xin Ngài nổi giận tiêu diệt chúng đi; xin hãy tiêu diệt chúng hoàn toàn! Lúc đó chúng sẽ biết Thượng Đế cai trị trên Ít-ra-en và đến tận cùng trái đất. Xê-la 8 9

- 673 -


Buổi tối chúng trở lại, gầm gừ như chó và đi rảo quanh thành. 15 Chúng đi lang thang tìm mồi và nếu không tìm đủ miếng ăn liền tru lên. 16 Nhưng tôi sẽ hát ca ngợi sức mạnh Chúa. Buổi sáng tôi sẽ ca ngợi tình yêu Ngài. Ngài là Đấng bảo vệ tôi, nơi trú ẩn trong lúc gian nan. 17 Lạy Thượng Đế, sức mạnh tôi, tôi sẽ hát ca ngợi Ngài. Lạy Thượng Đế, Đấng bảo vệ tôi, Ngài là Thượng Đế yêu thương tôi. 14

Thánh Thi 60 Lời cầu nguyện khi thua trận Soạn cho nhạc trưởng theo điệu “Hoa huệ giao ước.” Bài mịch-tâm của Đa-vít. Dùng để dạy dỗ khi ông đánh dân Aram ở phía tây bắc Mê-sô-bô-ta-mi và Xô-ba và khi Giô-áp trở lại đánh bại mười hai ngàn quân Ê-đôm trong Thung lũng Muối.

60 Thượng Đế ôi, Ngài đã từ bỏ và phân tán chúng tôi. Ngài đã nổi giận, nhưng xin hãy trở lại cùng chúng tôi. 2 Ngài làm đất rung động và nứt nẻ. Xin hãy hàn gắn lại các khe nứt vì đất rung chuyển. 3 Chúa khiến dân Ngài gặp khốn khổ. Ngài cho chúng tôi uống ly rượu khiến chúng tôi đi loạng choạng. 4 Ngài đã giương cờ lên cho những người kính sợ Ngài, để tập họp họ lại xa tầm tên bắn của kẻ thù. Xê-la 5

Xin hãy đáp lời và dùng quyền năng Ngài giải cứu chúng tôi để dân Ngài yêu dấu được giải thoát.

Từ đền thờ Ngài [a], Chúa đã phán rằng, “Sau khi ta thắng trận, ta sẽ phân chia Sê-chem và đo thung lũng Su-cốt. 7 Ghi-li-át và Ma-na-xe đều thuộc về ta. Ép-ra-im là mũ sắt ta. Giu-đa cầm cây trượng vàng ta. 8 Mô-áp là chậu ta tắm rửa. Ta ném giày dép ta qua Ê-đôm. Ta quát tháo Phi-li-tin.” 6

Ai sẽ đưa tôi đến thành có vách kiên cố? Ai sẽ dẫn tôi đến Ê-đôm? 10 Lạy Chúa chính Ngài là Đấng đã từ bỏ chúng tôi; Ngài không còn ra trận với đạo quân chúng tôi nữa. 11 Xin giúp chúng tôi chiến đấu chống kẻ thù vì sự giúp đỡ của loài người thật vô dụng. 9

- 674 -


12

Nhưng chúng tôi có thể thắng được nhờ Ngài giúp đỡ. Ngài sẽ đánh bại kẻ thù chúng tôi.

Thánh Thi 61 Cầu xin được bảo vệ Soạn cho nhạc trưởng để dùng với nhạc khí bằng dây. Bài ca của Đa-vít.

61 Chúa ôi, xin nghe tiếng kêu và lời khẩn nguyện tôi. 2 Từ cuối đất, khi tôi sợ hãi liền kêu xin Ngài. Xin mang tôi lên một ngọn núi cao hơn. 3 Ngài là nơi che chở tôi, như tiền đồn kiên cố chống địch quân. 4 Xin cho tôi ở trong Lều Thánh [a] Ngài mãi mãi, và được an ninh khi núp dưới cánh Ngài. Xê-la Lạy Chúa Ngài đã nghe hứa nguyện tôi. Những gì kẻ thờ kính Ngài có được là do Ngài ban cho. 6 Nguyện vua được sống lâu; để người được trường thọ. 7 Hãy để người cai trị trước mặt Chúa đời đời. Xin dùng tình yêu và chân lý Ngài bảo bọc vua. 8 Rồi tôi sẽ ca ngợi danh Chúa muôn đời, và hằng ngày tôi sẽ giữ lời tôi hứa nguyện. 5

Thánh Thi 62 Chỉ nên nhờ cậy Thượng Đế Soạn cho nhạc trưởng theo điệu “Giê-đu-thun” [a]. Bài ca của Đa-vít.

62 Tôi tìm được sự an nghỉ trong Thượng Đế; chỉ một mình Ngài có thể cứu tôi. 2 Ngài là khối đá và là sự cứu rỗi tôi. Ngài là Đấng bảo vệ tôi; tôi sẽ không bao giờ bị đánh bại. Các ngươi sẽ tấn công ta cho đến chừng nào? Tất cả các ngươi sẽ tìm giết ta sao? Ta giống như vách nghiêng hay một hàng rào sắp sập. 4 Các ngươi âm mưu khiến xô ta ngã. Các ngươi thích đặt điều nói dối về ta. Ngoài miệng thì nói ngon ngọt, mà trong lòng thì nguyền rủa ta. Xê-la 3

5

Tôi tìm được sự an nghỉ nơi Thượng Đế; chỉ một mình Ngài ban cho tôi hi vọng.

- 675 -


Ngài là khối đá và là sự cứu rỗi tôi. Ngài là Đấng bảo vệ tôi; tôi sẽ không khi nào bị đánh bại. 7 Vinh dự tôi và vinh hiển tôi đến từ Thượng Đế. Ngài là khối đá vững mạnh và là nơi che chở tôi. 8 Hỡi muôn dân, hãy luôn luôn tin cậy nơi Chúa. Hãy trút hết tâm sự mình với Ngài, vì Thượng Đế là nguồn che chở của chúng tôi. Xê-la 6

Người hạ lưu chỉ như hơi thở, còn kẻ thượng lưu chỉ là giả dối. Để lên cân, chúng chổng lên; chung nhau lại, chúng giống hơi thở. 10 Đừng ỷ vào sức mạnh. Trộm cắp cũng vô ích. Dù ngươi giàu sang đến đâu, cũng đừng ỷ lại vào của cải. 11 Thượng Đế đã phán một lần; lỗ tai tôi lại nghe nhiều lần: Thượng Đế rất quyền năng. 9

Thượng Đế là Đấng yêu thương. Ngài báo trả mỗi người theo việc họ làm. 12

Thánh Thi 63 Ao ước được gần Chúa Bài ca của Đa-vít khi ông trốn trong sa mạc Giu-đa.

63 Lạy Chúa, Ngài là Thượng Đế tôi. Tôi tìm kiếm Ngài. Tôi khao khát Ngài như người đi lạc trong đất khô khan, hoang vu, không nước. 2 Tôi đã thấy Ngài trong đền thờ [a], đã nhìn sức mạnh và vinh hiển Ngài. 3 Vì tình yêu Ngài quí hơn mạng sống, nên tôi sẽ ca ngợi Ngài. 4 Tôi sẽ ca ngợi Chúa suốt đời tôi. Tôi sẽ giơ tay lên cầu nguyện cùng danh Ngài. 5 Tôi sẽ thích thú như được nếm thức ăn ngon. Môi tôi sẽ hát, miệng tôi sẽ tôn vinh Ngài. 6 Đang khi nằm trên giường, tôi nhớ đến Ngài; tôi suy nghĩ về Ngài suốt đêm. 7 Ngài là sự cứu giúp tôi; vì được Ngài bảo vệ nên tôi hát. 8 Tôi ở gần Ngài; tay phải Ngài nâng đỡ tôi. Có mấy kẻ tìm giết tôi nhưng chúng sẽ đi xuống huyệt. 10 Chúng sẽ bị gươm giết và bị chó sói xé xác. 11 Nhưng vua sẽ vui mừng nơi Thượng Đế mình. 9

- 676 -


Những ai hứa nguyện trong danh Ngài sẽ ca ngợi Ngài. Còn miệng của kẻ dối trá sẽ ngậm lại.

Thánh Thi 64 Lời cầu nguyện vì kẻ thù Soạn cho nhạc trưởng. Bài ca của Đa-vít.

64 Lạy Chúa xin nghe lời kêu xin của tôi. Tôi sợ kẻ thù; xin bảo vệ tôi khỏi tay chúng. 2 Xin giấu tôi khỏi kẻ lập mưu ác, khỏi lũ tính chuyện gian tà. 3 Chúng mài lưỡi mình cho bén như gươm, và bắn ra những lời cay đắng như tên. 4 Từ nơi ẩn núp, chúng lén bắn người vô tội; chúng bắn bất chợt, không sợ hãi gì. 5 Chúng thi nhau làm quấy, bàn định chuyện giăng bẫy, nghĩ rằng không ai thấy. 6 Chúng lập mưu ác và tự nhủ, “Chúng ta có kế hoạch hoàn hảo.” Tâm địa con người thật khó lường. Nhưng Chúa đã lấy tên bắn chúng nó; chúng bất ngờ bị bắn ngã. 8 Lời nói chúng trở lại hại chúng. Mọi người thấy chúng sẽ lắc đầu. 9 Bấy giờ mọi người sẽ kính sợ Chúa. Họ thuật lại những việc Thượng Đế làm, và học được từ đó. 10 Những người ngay thẳng sẽ vui mừng trong CHÚA và được Ngài bảo vệ. Những ai ngay thẳng hãy ca ngợi Ngài. 7

Thánh Thi 65 Bài hát tạ ơn Soạn cho nhạc trưởng. Bài ca ngợi của Đa-vít.

65 Lạy Chúa, Ngài đáng được tán dương tại Giê-ru-sa-lem. Chúng tôi sẽ giữ lời hứa cùng Ngài. 2 Ngài nghe lời cầu xin của chúng tôi. Mọi dân sẽ đến cùng Ngài. 3 Tội lỗi chúng tôi bao phủ chúng tôi, nhưng Chúa tha hết. 4 Phúc cho người được Chúa chọn ở trong triều đình Ngài. Trong nhà Chúa, trong đền thánh Ngài chúng tôi nhận lãnh mọi điều tốt lành.

- 677 -


Lạy Chúa là Đấng Cứu chuộc chúng tôi, Ngài đáp lời chúng tôi bằng sự giải thoát diệu kỳ. Muôn dân trên đất và bên kia các đại dương sẽ trông cậy vào Ngài. 6 Ngài dùng quyền năng dựng nên núi non; nai nịt bằng sức mạnh. 7 Ngài dẹp tiếng biển gào thét, ngăn chận các lượn sóng ầm ầm, và sự náo loạn của các dân. 8 Thậm chí các dân ở cuối đất cũng sợ hãi các phép lạ Chúa. Người ta ca ngợi Ngài từ hướng mặt trời mọc đến hướng mặt trời lặn. 9 Chúa chăm sóc đất và nhuần tưới nó; khiến nó ra phì nhiêu. Các sông ngòi Chúa đầy nước. Ngài khiến ngũ cốc mọc lên. 10 Ngài sai mưa tưới các luống cày, tràn ngập các luống bừa. Ngài cho mưa làm mềm đất và ban phước cho mùa màng. 11 Đầu năm Ngài ban cho trúng mùa cuối năm Ngài ban cho nhiều hoa lợi [a]. 12 Cỏ xanh mọc kín sa mạc, sự vui mừng bao phủ đồi núi. 13 Các đồng cỏ đầy dẫy gia súc, các thung lũng tràn ngập ngũ cốc. Mọi thứ trên đất đều reo mừng. 5

Thánh Thi 66 Ca ngợi Chúa vì những việc cao cả Ngài làm Soạn cho nhạc trưởng. Bài ca ngợi.

66 Hỡi cả trái đất, hãy reo vui cho Thượng Đế. 2 Hãy ca ngợi uy danh của Ngài! Hãy ca ngợi Ngài. 3 Hãy thưa cùng Chúa rằng, “Các công việc Ngài làm thật lạ lùng! Vì quyền năng cao cả Ngài, các kẻ thù đều phải phục tùng Ngài. 4 Cả đất thờ phụng Ngài và ca ngợi Ngài. Chúng hát khen danh Ngài.” Xê-la 5

Hãy đến xem điều Thượng Đế đã làm, những việc kỳ diệu Ngài thực hiện cho con người.

Ngài hóa biển ra đất khô [a]. Người ta đi bộ qua sông [b]. Chúng ta hãy hát mừng vì công việc Ngài làm. 6

- 678 -


Chúa dùng quyền năng cai trị đời đời. Ngài trông chừng các dân để chúng không chống nghịch Ngài. Xê-la 7

Hỡi các dân, hãy ca ngợi Thượng Đế chúng ta; hãy lớn tiếng hát khen Ngài. 9 Ngài bảo vệ mạng sống chúng ta, trông nom chúng ta. 10 Lạy Thượng Đế, Ngài đã thử chúng tôi; Ngài đã luyện chúng tôi như luyện bạc. 11 Chúa khiến chúng tôi sập bẫy, chất gánh nặng trên chúng tôi. 12 Ngài để kẻ thù đè đầu cỡi cổ chúng tôi. Chúng tôi đi qua lửa và lụt lội, nhưng Chúa đưa chúng tôi đến nơi tốt lành. 13 Tôi sẽ mang của lễ thiêu vào đền thờ Chúa. Tôi sẽ thực hiện điều tôi hứa, 14 là những điều tôi cam kết đang khi gặp khốn khó. 15 Tôi sẽ mang cho Ngài súc vật mập béo, dâng cho Ngài chiên, bò đực và dê đực. Xê-la 8

Tất cả những ai kính sợ Chúa, hãy đến nghe, ta sẽ cho các ngươi biết điều Chúa đã làm cho ta. 17 Miệng tôi kêu cầu cùng Thượng Đế và lưỡi tôi hát ca ngợi Ngài. 18 Nếu lòng tôi có chứa điều ác, chắc hẳn Chúa sẽ không nghe tôi. 19 Nhưng Thượng Đế đã nghe; Ngài nhận lời khấn nguyện tôi. 20 Chúc tụng Thượng Đế vì Ngài không bỏ ngoài tai lời cầu nguyện tôi hay rút lại tình yêu Ngài đối với tôi. 16

Thánh Thi 67 Mọi người nên ca ngợi Thượng Đế Soạn cho nhạc trưởng. Dùng với nhạc khí bằng dây. Bài ca ngợi.

67 Lạy Chúa, xin thương xót chúng tôi, xin ban phước và tỏ lòng nhân từ Ngài với chúng tôi, Xê-la 2 để thế gian học biết đường lối Ngài và muôn dân sẽ biết quyền năng cứu chuộc của Ngài. 3

Lạy Thượng Đế, muôn dân phải ca ngợi Ngài; mọi người hãy tôn vinh Ngài.

Các dân hãy vui vẻ và hát khen Ngài vì Ngài phân xử các dân một cách công minh. Ngài hướng dẫn các dân trên đất. Xê-la 4

- 679 -


Lạy Thượng Đế, muôn dân nên ca ngợi Ngài; mọi người phải tôn vinh Chúa. 6 Đất đã sinh sản hoa màu. Thượng Đế chúng tôi ban phúc cho chúng tôi. 7 Ngài ban phúc lành cho chúng tôi để mọi người trên đất kính sợ Ngài. 5

Thánh Thi 68 Ca ngợi Thượng Đế, Đấng giải cứu dân tộc Soạn cho nhạc trưởng. Bài ca ngợi của Đa-vít.

68 Nguyện Chúa đứng lên phân tán các kẻ thù Ngài; nguyện những kẻ ghét Ngài trốn chạy trước mặt Ngài. 2 Xin hãy thổi bay chúng nó như khói bị gió thổi tạt. Như sáp tan chảy trước lửa ra sao nguyện kẻ ác cũng bị tan biến trước Thượng Đế như thế. 3 Nhưng những ai làm điều công chính sẽ vui mừng, và hớn hở trước mặt Thượng Đế; họ sẽ mừng rỡ. 4 Hãy hát cho Thượng Đế; ca ngợi danh Ngài. Hãy ca tụng Đấng cỡi trên mây gió, danh Ngài là CHÚA [a]. Hãy reo vui trước mặt Ngài. 5 Thượng Đế ngự trong đền thánh Ngài. Ngài là cha của kẻ mồ côi, Đấng bênh vực kẻ góa bụa. 6 Thượng Đế chuẩn bị nơi ở cho kẻ cô đơn không nhà. Ngài giải phóng tù nhân trong tiếng reo mừng, còn những kẻ chống nghịch Ngài sẽ phải sống trong đất khô cằn. Lạy Thượng Đế, Ngài dẫn dắt dân Ngài ra khỏi Ai-cập, khi Ngài đi qua sa mạc. Xê-la 8 Đất rung chuyển, các từng trời đổ mưa xuống khi Thượng Đế của Ít-ra-en ngự đến núi Si-nai, 9 Lạy Thượng Đế Ngài sai mưa nhuần tưới; Ngài phục hồi lại đất khô cằn. 10 Dân Ngài định cư tại đó. Lạy Thượng Đế, Ngài chăm sóc kẻ nghèo khổ do lòng nhân từ Ngài. 11 Chúa truyền lệnh, thì vô số người loan tin: 12 “Các vua và đạo binh họ bỏ chạy. Trong trại quân họ chia nhau của cướp được nơi chiến trận. 13 Những kẻ ngồi quanh lửa trại sẽ phân chia những của cướp nơi chiến trận.” 14 Đấng Toàn Năng phân tán các vua như tuyết trên núi Sanh-môn. 7

15

Núi Ba-san cao vút; núi Ba-san có nhiều chóp. - 680 -


Tại sao núi có nhiều chóp ganh tị nhìn ngọn núi Thượng Đế đã chọn làm nơi ở Ngài? Chúa sẽ ngự ở đó đời đời. 17 Thượng Đế đến cùng với hàng ngàn quân xa; từ núi Si-nai Chúa đi đến nơi thánh Ngài. 18 Khi Ngài lên núi cao, dắt theo một đoàn tù nhân. Ngài nhận lễ vật của loài người [b], ngay cả lễ vật của kẻ chống nghịch, không muốn Ngài là Thượng Đế ở đó. 19 Hãy ca ngợi Chúa, Thượng Đế của chúng ta, Đấng cứu giúp chúng ta mỗi ngày. Xê-la 16

Thượng Đế chúng ta là Thượng Đế giải cứu; Ngài cứu chúng ta khỏi chết. 21 Thượng Đế sẽ đập đầu kẻ thù Ngài, là đầu tóc của những kẻ hay phạm tội. 22 Chúa phán, “Ta sẽ dắt kẻ thù ta về từ Ba-san; Ta sẽ mang chúng về từ đáy biển sâu. 23 Lúc đó các ngươi sẽ dẫm trong huyết chúng, cho đến mấy con chó các ngươi cũng liếm láp được phần của chúng nó.” 20

Lạy Thượng Đế, người ta đã thấy Ngài bước đi trong chiến thắng; Lạy Thượng Đế tôi, vua chúng ta đi vào nơi thánh Ngài [c]. 25 Các ca sĩ đi trước, nhạc khí trỗi lên sau; còn các thiếu nữ đánh trống cơm đi ở giữa. 26 Hãy ca ngợi Thượng Đế ở nơi nhóm họp [d]; hãy ca tụng Ngài giữa hội chúng Ít-ra-en. 27 Bên-gia-min, một chi tộc nhỏ nhất hướng dẫn họ. Trong số có các trưởng tộc Giu-đa cùng các trưởng tộc Xê-bu-lôn và Nép-ta-li. 24

Lạy Thượng Đế, xin tỏ ra sức mạnh Ngài; xin tỏ ra quyền năng Ngài đã thi thố cho chúng tôi trước đây. 29 Các vua sẽ đem của cải đến cho Ngài, đến đền thờ Ngài tại Giê-ru-sa-lem. 30 Xin hãy trừng phạt dân Ai-cập. Chúng như con thú sống trong đầm lầy, như bò đực ở giữa các bò con. Xin hãy sỉ nhục chúng, Hãy để chúng bò đến cùng Ngài, mang theo của lễ bằng bạc. 31 Các sứ giả của Ai-cập mang của lễ đến; Ê-thi-ô-bi cũng dâng đồ triều cống cho Ngài. 32 Hỡi các vua trên đất, hãy hát khen Chúa; hãy ca tụng Ngài. Xê-la 28

Hãy hát ca tụng Đấng cỡi trên các từng trời thái cổ. Tiếng Ngài rền như sấm. 34 Hãy cho mọi người biết Thượng Đế vô cùng quyền năng. Ngài cai trị trên Ít-ra-en, quyền năng Ngài ở trong các từng trời. 33

- 681 -


Lạy Thượng Đế, Ngài thật diệu kỳ trong đền thờ Ngài. Thượng Đế của Ít-ra-en ban cho dân Ngài sức lực và quyền năng. Hãy ca tụng Ngài! 35

Thánh Thi 69 Lời kêu cứu Soạn cho nhạc trưởng theo điệu “Hoa huệ.” Bài ca của Đa-vít.

69 Lạy Chúa, xin hãy cứu tôi vì nước đã ngập đến cổ tôi. 2 Tôi đang lún xuống bùn hụt chân. Tôi chìm trong nước sâu, nước lụt bao phủ tôi. 3 Tôi mệt mỏi vì kêu cứu; cổ họng tôi khan. Mắt tôi lòa vì trông đợi Ngài cứu tôi. 4 Số người ghét tôi vô cớ nhiều hơn tóc trên đầu tôi; Nhiều kẻ muốn diệt tôi. Lắm kẻ thù vu cáo tôi. Chúng bắt tôi trả lại vật mà tôi không hề lấy. 5 Lạy Thượng Đế, Ngài biết tôi phạm tội. Tôi không thể che đậy tội mình trước mặt Ngài. 6 Lạy Chúa là Thượng Đế Toàn Năng, xin đừng để kẻ đặt hi vọng nơi Ngài bị xấu hổ vì tôi. Lạy Thượng Đế của Ít-ra-en, xin đừng để kẻ thờ phụng Ngài bị sỉ nhục vì tôi. 7 Vì Ngài mà tôi mang nhục, mặt tôi đầy nhơ nhuốc. 8 Tôi như người xa lạ đối với thân nhân, như người ngoại quốc đối với các con trai của mẹ tôi. 9 Lòng sốt sắng về đền thờ Chúa hoàn toàn chế ngự tôi. Tôi đau đớn khi người ta sỉ nhục Ngài. Khi tôi hạ mình và cữ ăn, điều đó chỉ khiến chúng chế giễu tôi. 11 Chúng trêu chọc tôi khi tôi mặc áo quần tang. 12 Chúng chế giễu tôi giữa chốn công cộng. Kẻ say rượu đặt bài ca chế nhạo tôi. 13 Nhưng, Chúa ôi, tôi cầu khẩn Ngài đáp lời tôi, vào thời điểm CHÚA định, vì tình yêu lớn lao của Ngài. Chỉ Ngài mới cứu tôi được thôi. 10

Xin rút tôi lên khỏi bùn lấm, đừng để tôi lún xuống. Xin hãy cứu tôi khỏi những kẻ ghét tôi và khỏi nước sâu. 14

- 682 -


Đừng để nước lụt khiến tôi chết đuối, hoặc để nước sâu trùm lấy tôi hay mồ mả khép kín quanh tôi. 16 Lạy Chúa, xin hãy trả lời tôi vì tình yêu Ngài thật tuyệt diệu. Vì lòng nhân từ lớn lao Ngài xin hãy quay sang tôi. 17 Xin đừng giấu mặt Ngài khỏi tôi, kẻ tôi tớ Chúa. Tôi đang gặp khốn khó. Xin hãy mau giúp đỡ tôi! 18 Xin hãy đến gần và cứu tôi; cứu tôi khỏi kẻ thù tôi. 19 Chúa thấy sự sỉ nhục và xấu hổ tôi. Chúa biết các kẻ thù tôi. 20 Những lời sỉ nhục đã làm tan vỡ lòng tôi, khiến tôi kiệt lực. Tôi mong có người thông cảm nhưng chẳng có ai; tôi tìm người an ủi, nhưng chẳng thấy người nào. 21 Chúng bỏ thuốc độc vào thức ăn tôi, cho tôi uống giấm. 22 Nguyện bữa tiệc chúng trở thành bẫy sập cho chúng, thành bẫy cho bạn bè chúng. 23 Nguyện chúng nó bị đui mù để không còn nhìn thấy. Nguyện lưng chúng nó khòm xuống vì khốn khổ. 24 Xin hãy đổ cơn giận trên chúng nó; nguyện cơn thịnh nộ Ngài bắt lấy chúng. 25 Nguyện chỗ ở chúng bỏ hoang; cầu cho không ai trú trong lều chúng. 26 Chúng nó rượt đuổi kẻ Ngài đã đánh, và bàn tán về nỗi đau của kẻ mà Ngài đã làm tổn thương. 27 Xin Chúa kết án chúng từ tội ác nầy đến tội ác khác, đừng tha cho chúng. 28 Xin hãy xóa tên chúng khỏi sách sự sống, và đừng kể tên chúng nó vào sổ chung với người công chính. 29 Tôi đau buồn. Lạy Thượng Đế, nguyện quyền năng cứu vớt của Ngài đến giúp tôi. 30 Tôi sẽ lấy bài hát ca tụng Ngài và tôn vinh Ngài bằng lời cảm tạ. 31 Điều đó sẽ làm vừa lòng Ngài hơn dâng súc vật, hơn cả sinh tế bằng bò đực có sừng và có móng. 15

Người khốn khổ sẽ thấy điều nầy và vui mừng. Hỡi những ai kính thờ Thượng Đế, hãy vững lòng lên. 33 Chúa lắng nghe những kẻ cùng khốn, Ngài không khinh dể người bị giam cầm. 34 Trời đất hãy ca ngợi Ngài, biển và mọi sinh vật trong biển hãy hát tôn vinh Ngài. 32

35

Thượng Đế sẽ cứu Giê-ru-sa-lem và xây lại các thành Giu-đa. Rồi dân chúng sẽ sống ở đó và nhận lấy nó làm tài sản.

- 683 -


36

Dòng dõi của kẻ tôi tớ Ngài sẽ hưởng đất ấy, những người yêu mến Ngài sẽ sống trong đó.

Thánh Thi 70 Lời kêu xin Chúa mau đến cứu giúp Soạn cho nhạc trưởng: Bài ca của Đa-vít để nhắc nhở.

70 Lạy Chúa, xin mau đến cứu tôi. Lạy Chúa xin đến giúp tôi ngay. 2 Xin hãy khiến những kẻ định giết tôi phải hổ nhục và nhuốc nhơ. Nguyện những kẻ muốn hại tôi phải bỏ chạy vì xấu hổ. 3 Nguyện những kẻ chế giễu tôi ngưng lại vì nhục nhã. 4 Nhưng nguyện cho những kẻ thờ phụng Ngài vui mừng hớn hở. Nguyện những người yêu mến sự cứu rỗi Ngài luôn luôn nói, “Đáng ca ngợi sự cao cả của Thượng Đế.” Tôi nghèo khổ và cùng khốn; lạy Chúa xin hãy mau đến với tôi. Chúa giúp đỡ và cứu rỗi tôi. Lạy Chúa, xin đừng chậm trễ. 5

Thánh Thi 71 Lời cầu nguyện của người già cả 71 Lạy Chúa, Ngài là nơi che chở tôi. Xin đừng để tôi bị sỉ nhục. 2 Vì Ngài luôn làm điều công chính, xin hãy cứu tôi; hãy lắng nghe và giải cứu tôi. 3 Xin làm nơi trú ẩn an toàn cho tôi. Xin làm đồn lũy bảo vệ tôi, vì Ngài là khối đá và là nơi tôi ẩn náu. 4 Lạy Thượng Đế, xin cứu tôi khỏi quyền lực kẻ ác, khỏi tầm tay của kẻ bất công và người hung ác. 5 Lạy Chúa, Ngài là hi vọng của tôi, là Đấng tôi tin cậy từ buổi ấu thơ. 6 Tôi đã nhờ cậy Ngài từ khi mới lọt lòng mẹ; Chúa đã giúp tôi từ lúc tôi mới chào đời. Tôi sẽ luôn luôn ca ngợi Ngài [a]. 7 Tôi sẽ là một tấm gương cho nhiều người, vì Ngài là Đấng che chở tôi. 8 Tôi luôn luôn ca tụng Ngài; suốt ngày tôi tôn kính Ngài. 9 Xin đừng từ bỏ tôi khi tôi về già; đừng xa tôi khi sức tôi suy tàn. - 684 -


Kẻ thù lập mưu hại tôi, chúng nhóm họp lại định giết tôi. 11 Chúng bảo nhau, “Thượng Đế bỏ nó rồi. Chúng ta hãy đuổi theo bắt lấy nó vì chẳng ai cứu nó đâu.” 12 Lạy Thượng Đế, xin chớ đứng xa. Lạy Chúa của tôi, xin hãy mau đến giúp tôi. 13 Xin hãy khiến những kẻ tố cáo tôi bị xấu hổ và tiêu diệt. Nguyện kẻ lập tâm hại tôi bị sỉ nhục và nhuốc nhơ bao trùm. 14 Nhưng tôi sẽ luôn luôn nuôi hi vọng và ca tụng Ngài càng ngày càng gia tăng. 15 Tôi sẽ thuật lại sự công chính của Chúa. Suốt ngày tôi sẽ kể lại sự cứu rỗi Chúa, dù tôi không đếm hết được. 16 Lạy Chúa, tôi sẽ thuật lại các việc quyền năng Chúa. Tôi sẽ nhắc nhở mọi người rằng chỉ một mình Ngài làm điều công chính. 17 Lạy Thượng Đế, Ngài đã dạy tôi từ khi tôi còn thơ ấu. Cho đến nay tôi vẫn thuật lại phép lạ Ngài làm. 18 Dù khi tôi già yếu, tóc bạc hoa râm, lạy Chúa, xin đừng rời tôi cho đến khi tôi thuật lại cho con cháu tôi biết quyền năng Chúa; cho đến khi tôi kể lại cho dòng dõi đến sau tôi về sức mạnh Ngài. 19 Lạy Chúa, sự công minh Chúa vượt cao hơn các từng trời. Chúa đã làm nhiều việc lớn lao; Thượng Đế ôi, không ai giống như Ngài. 20 Chúa đã cho tôi gặp nhiều cảnh khốn khó gian nan, nhưng Ngài sẽ hồi sức lại cho tôi. Dù khi tôi gần qua đời, Chúa sẽ khiến tôi sống. 21 Chúa sẽ khiến tôi được sang trọng hơn bao giờ hết, Ngài sẽ an ủi tôi trở lại. 22 Tôi sẽ ca ngợi Chúa bằng đờn cầm, Về sự thành tín của Ngài là Thượng Đế tôi. Lạy Đấng thánh của Ít-ra-en, tôi sẽ hát cho Ngài bằng đờn sắt. 23 Tôi sẽ lớn tiếng vui mừng ca ngợi Ngài vì Ngài đã cứu tôi. 24 Suốt ngày tôi sẽ thuật lại sự công minh của Chúa. Còn những kẻ muốn hại tôi sẽ xấu hổ và bị sỉ nhục. 10

Thánh Thi 72 Lời cầu nguyện cho vua Bài ca tặng Sô-lô-môn [a].

72 Lạy Chúa, xin ban sự công minh cho vua và ban sự nhân từ Ngài cho hoàng tử. 2 Xin giúp vua biết phân xử dân chúng một cách công bằng và bênh vực kẻ nghèo khó. - 685 -


Nguyện các núi mang lại hoà bình và các đồi mang lại nhân từ. 4 Xin giúp vua đối xử công bằng cho kẻ nghèo, cứu người túng thiếu và trừng phạt kẻ hiếp đáp. 5 Hễ mặt trời còn chiếu sáng và mặt trăng còn soi bóng bao lâu, nguyện họ biết kính sợ Chúa bấy lâu. 6 Nguyện vua như mưa rơi xuống cỏ, như mưa rào tưới đất. 7 Nguyện sự nhân từ được dồi dào trong đời vua. Nguyện sự hoà bình còn mãi như mặt trăng. 8 Nguyện nước vua trải rộng từ biển nầy đến biển kia, và từ sông Ơ-phơ-rát cho đến tận cùng trái đất [b]. 9 Nguyện dân cư sống trong sa mạc cúi đầu trước Ngài và các kẻ thù Ngài phải liếm bụi đất. 10 Nguyện các vua Tạt-si và các vùng đất xa xăm hãy mang tặng vật đến cho vua. Các vua Sa-ba và Sê-ba hãy mang của lễ đến cho Ngài. 11 Nguyện các vua cúi đầu trước Ngài, và các dân tộc phục vụ Ngài. 12 Ngài sẽ giúp kẻ nghèo khổ khi họ kêu cầu và cứu kẻ túng thiếu không ai giúp đỡ. 13 Ngài sẽ tỏ lòng nhân ái đối với kẻ yếu đuối nghèo nàn, cứu vớt mạng sống họ. 14 Ngài sẽ cứu họ khỏi tay kẻ hung bạo đang tìm cách ức hiếp họ vì mạng sống họ là quí trước mặt vua. 15 Vua vạn tuế! Cầu cho vua nhận được vàng từ Sê-ba. Mọi người hãy cầu nguyện cho vua, hằng ngày chúc phước cho vua. 16 Nguyện ruộng đất sinh sản đầy ngũ cốc, các đồi đầy hoa màu, và phì nhiêu như Li-băng, các thành trì mọc lên như cỏ trong đồng nội. 17 Nguyện vua được uy danh mãi mãi; hễ mặt trời còn chiếu sáng bao lâu, nguyện vua được ghi nhớ bấy lâu. Nguyện các dân được phước vì vua, muôn dân chúc phước cho người. 3

Chúc tụng Chúa là Thượng Đế, Thượng Đế của Ít-ra-en là Đấng duy nhất làm được các phép lạ đó. 19 Nguyện danh vinh hiển Ngài được ca ngợi mãi mãi. Nguyện vinh hiển Ngài đầy dẫy đất. A-men! A-men! 18

20

(Đến đây chấm dứt các bài cầu nguyện của Đa-vít, con trai Gie-xê.)

- 686 -


Thánh Thi 73 Quyển 3 (Thi-thiên 73-89) Kẻ ác có giàu được không? Bài ca ngợi của A-sáp.

73 Thượng Đế thật nhân từ cùng Ít-ra-en, cùng những kẻ có lòng trong sạch. 2 Nhưng chân tôi gần vấp té; suýt nữa tôi trượt ngã vào tội lỗi. 3 Tôi ganh tức với kẻ tự phụ. Tôi thấy kẻ ác được thịnh vượng. 4 Chúng chẳng gặp đau khổ; chúng khoẻ mạnh và sung sức. 5 Chúng chẳng hề gặp khốn khó như người khác; không vướng hoạn nạn như kẻ khác. 6 Chúng mang tính tự kiêu như kiềng đeo cổ, mặc sự hung bạo như áo quần. 7 Mắt chúng sáng rỡ vì của cải, chẳng kiềm chế dục vọng ích kỷ. 8 Chúng chế diễu kẻ khác, buông lời bêu xấu kẻ khác; kiêu căng đe dọa mọi người. 9 Chúng khoe khoang chuyện trời đất, hành động như thể đất nầy là của chúng. 10 Đến nỗi dân của Thượng Đế cũng chạy theo chúng, nghe theo điều chúng nói [a]. 11 Chúng bảo, “Làm sao Trời biết được? Đấng Chí Cao có biết gì đâu?” Dân nầy là dân độc ác, nhưng chúng sống thoải mái, càng ngày càng hưng thịnh. 13 Vậy thì tôi lo giữ lòng thanh sạch để làm gì? Tại sao tôi phải giữ cho tay mình khỏi phạm tội? 14 Suốt ngày tôi chịu khổ sở; mỗi sáng tôi chịu hình phạt. 12

Lạy Thượng Đế, nếu tôi bảo, tôi sẽ nói những điều ấy, thì tôi hẳn đã phản bội dân Chúa. 16 Tôi cố gắng hiểu thấu việc ấy, thấy khó giải thích vô cùng, 17 mãi đến khi vào đền thờ của Thượng Đế, tôi mới hiểu chung cuộc của chúng nó. 15

- 687 -


Ngài đưa chúng vào chỗ hiểm nguy; khiến chúng bị tiêu diệt. 19 Trong chốc lát chúng bị tiêu diệt; bị cơn kinh hoàng thổi bay đi. 20 Giống như người tỉnh mộng liền quên hết chiêm bao. Lạy Chúa, khi Ngài đứng lên, chúng sẽ tan biến. 18

Khi lòng tôi buồn bã và bực tức, tôi không hiểu biết và ngu xuẩn. Tôi hành động như thú vật đối cùng Ngài. 23 Nhưng tôi ở cùng Chúa luôn luôn; Ngài nắm tay phải tôi. 24 Ngài dùng lời để khuyên dạy tôi, rồi nghênh tiếp tôi trong vinh dự. 25 Trên trời, tôi không có ai ngoài Chúa; Dưới đất, tôi chẳng mong ai ngoài Ngài. 26 Thân thể và tinh thần [b] tôi suy yếu, nhưng Thượng Đế là sức mạnh tôi [c]. Ngài là di sản của tôi cho đến đời đời. 27 Những kẻ lìa xa Chúa sẽ chết; Ngài tiêu diệt các kẻ bất trung. 28 Nhưng tôi sống gần Chúa, đó là điều tốt. Chúa, Thượng Đế là nơi trú ẩn của tôi. Tôi sẽ thuật hết các công việc Ngài. 21 22

Thánh Thi 74 Lời cầu nguyện của một dân tộc đang gặp khốn đốn Bài ca theo thể mạch-kinh của A-sáp.

74 Lạy Thượng Đế, sao Ngài từ bỏ chúng tôi quá lâu? Sao Ngài nổi giận cùng chúng tôi là bầy chiên của đồng cỏ Ngài? 2 Xin nhớ lại rằng dân mà Ngài đã chuộc từ xưa. Ngài cứu chúng tôi, chúng tôi thuộc riêng về Ngài. Ngài ngự tại núi Xi-ôn. 3 Xin hãy bước đến các nơi đổ nát lâu đời nầy; kẻ thù đã phá tan đền thờ Ngài. Những kẻ chống nghịch Ngài hò hét trong nơi nhóm họp, giương cờ của chúng nó tại đó. 5 Chúng đến giơ cao búa rìu, lăm le chặt phá mọi thứ như đốn cây. 4

6

Chúng dùng rìu và búa nhỏ, đập phá các vật chạm trổ.

7

Chúng thiêu rụi đền thờ Ngài; làm nhơ nhớp nơi mang danh Ngài.

- 688 -


Chúng nghĩ thầm, “Ta sẽ phá hết!” Chúng thiêu đốt hết những nơi thờ phụng [a] của Ngài trong xứ. 9 Chúng tôi không còn thấy dấu hiệu [b] gì cho chúng tôi. Không còn nhà tiên tri, cũng chẳng ai biết chuyện nầy sẽ kéo dài đến bao giờ. 10 Lạy Chúa, Ngài để kẻ thù trêu chọc Ngài đến bao giờ? Chẳng lẽ chúng sỉ nhục Ngài mãi sao? 11 Sao Ngài không thi thố quyền năng Ngài? Xin hãy tỏ quyền năng Ngài ra để diệt chúng đi! 12 Lạy Thượng Đế, Ngài là vua chúng tôi từ xưa. Ngài mang sự cứu rỗi đến cho đất. 13 Dùng quyền uy tách biển ra và đập bể đầu các quái vật trong biển. 14 Ngài đập nát đầu quái vật Lê-vi-a-than, ném nó làm thức ăn cho muông thú trong sa mạc. 15 Ngài mở các suối và khe; khiến các sông ngòi đang chảy xiết bỗng cạn khô. 16 Ngày cũng như đêm đều thuộc về Chúa; Ngài làm ra mặt trời và mặt trăng. 17 Ngài đặt giới hạn trên đất; Ngài làm ra mùa hè và mùa đông. 18 Lạy Chúa, xin nhớ rằng kẻ thù sỉ nhục Ngài. Đừng quên một dân ngu dại chế giễu danh Ngài. 19 Xin đừng trao chúng tôi là bồ câu của Ngài cho dã thú. Xin đừng quên dân chúng đáng thương của Ngài mãi mãi. 20 Xin nhớ lại giao ước Ngài lập với chúng tôi, vì sự hung tàn tràn ngập mọi ngõ ngách đen tối [c] của xứ nầy. 21 Xin đừng để dân chúng đau khổ của Ngài bị sỉ nhục. Nguyện kẻ nghèo khó khốn cùng ca ngợi Ngài. 22 Lạy Thượng Đế, hãy đứng lên và tự vệ. Xin đừng quên lời nhục mạ Chúa hằng ngày của dân ngu dại. 23 Xin đừng quên tiếng kẻ thù Ngài; hay tiếng gầm thét của bọn luôn luôn dấy nghịch cùng Ngài. 8

Thánh Thi 75 Thượng Đế là thẩm phán Soạn cho nhạc trưởng theo điệu “Chớ tiêu hủy.” Một bài ca ngợi của A-sáp.

75 Lạy Thượng Đế, chúng tôi cảm tạ Ngài; Chúng tôi cảm tạ Ngài vì Ngài ở gần. Chúng tôi thuật lại các phép lạ Ngài làm. Ngài phán, “Ta đã định kỳ hạn cho phiên xử, ta sẽ phân xử công minh. 3 Đất cùng mọi dân trên đất xao động, nhưng ta là Đấng khiến nó đứng vững vàng. Xê-la 2

4

Ta bảo kẻ tự phụ, ‘Chớ khoe khoang,’ và nói với kẻ ác, ‘Đừng tìm cách phô trương sức mạnh ngươi ra.

- 689 -


5

Đừng huênh hoang, tự phụ. Chớ ương ngạnh.’”

Sự cao sang không đến từ Đông, Tây hay vùng núi trong sa mạc. 7 Nhưng Thượng Đế là quan án; Ngài hạ người nầy xuống, nâng người khác lên. 8 Chúa cầm chén trong tay; là chén đầy rượu hòa với ngũ vị hương. Ngài trút chén ra. Kẻ ác sẽ uống cạn chén ấy. 9 Tôi sẽ mãi mãi thuật lại điều nầy; tôi sẽ ca ngợi Thượng Đế của Gia-cốp. 10 Ngài sẽ lấy sức mạnh khỏi kẻ ác, nhưng sức mạnh của người nhân đức sẽ gia tăng. 6

Thánh Thi 76 Chúa là Đấng luôn đắc thắng Soạn cho nhạc trưởng để dùng với nhạc khí bằng dây. Bài ca ngợi của A-sáp.

76 Tại Giu-đa người ta biết đến Thượng Đế; Ngài được cả Ít-ra-en tôn kính. 2 Lều Ngài ở Giê-ru-sa-lem; nơi ngự Ngài trên núi Xi-ôn. 3 Nơi đó Chúa bẻ gãy các tên lửa, thuẫn, gươm và khí giới chiến tranh. Xê-la Lạy Thượng Đế, Ngài thật diệu kỳ! Ngài oai nghi hơn đồi núi đầy súc vật [a]. 5 Kẻ thù Ngài tưởng mình mạnh mẽ lắm, nhưng nay chúng nằm chết la liệt ngoài đồng. Người ta lột những của cướp khỏi thây chúng. Chúng không còn đủ sức tự vệ. 6 Lạy Thượng Đế của Gia-cốp, khi Ngài nạt, ngựa và người cỡi đều sửng sốt như chết. 7 Ngài thật đáng sợ; khi Ngài nổi giận không ai đứng nổi trước mặt Ngài. 8 Từ trời Chúa ra quyết định, cả đất đều sợ hãi và im lặng. 9 Lạy Thượng Đế, Ngài đứng lên phân xử và cứu vớt kẻ khốn cùng trên đất. Xê-la 10 Mọi người ca ngợi Ngài vì cơn giận Ngài nghịch lại điều ác. Ngài ngăn không để những kẻ thoát khỏi cơn giận Ngài làm ác nữa. 4

Hãy hứa nguyện và giữ lời hứa với Chúa là Thượng Đế ngươi. Mọi người khắp nơi hãy mang lễ vật dâng cho Thượng Đế, Đấng đáng kinh sợ. 12 Ngài làm các nhà lãnh đạo mất tinh thần; các vua trên đất kinh sợ Ngài. 11

- 690 -


Thánh Thi 77 Nhắc lại những sự giúp đỡ của Thượng Đế Soạn cho nhạc trưởng theo điệu Giê-đu-thun. Một bài ca ngợi của A-sáp.

77 Tôi kêu la cùng Thượng Đế; tôi kêu cầu cùng Ngài, thì Ngài liền nghe tiếng tôi [a]. 2 Trong ngày hoạn nạn tôi tìm kiếm Chúa. Suốt đêm tôi giơ tay ra, lòng tôi bất an. 3 Khi nhớ đến Thượng Đế; Tôi muốn nói nỗi lòng tôi ra nhưng không biết nói sao. Xê-la 4 Chúa không cho tôi chợp mắt. Tôi không nói nên lời vì quá bực dọc. 5 Tôi nhớ lại thuở xưa, những năm về trước. 6 Ban đêm tôi hồi tưởng lại các bài ca của tôi. Tôi suy nghĩ và tự hỏi: 7 “Chúa sẽ từ bỏ chúng ta mãi sao? Ngài sẽ không còn tỏ lòng nhân từ đối với chúng ta nữa sao? 8 Tình yêu của Ngài tan biến rồi sao? Ngài không còn phán với chúng ta nữa sao? 9 Phải chăng Thượng Đế đã quên mất lòng thương xót Ngài? Phải chăng vì Ngài quá nóng giận, không còn tội nghiệp cho chúng ta nữa hay sao?” Xê-la 10

Rồi tôi suy nghĩ lại và nói, “Đây là điều khiến tôi buồn bã: Quyền năng của Thượng Đế Chí Cao đã lìa bỏ chúng ta.”

Tôi nhớ những điều Ngài làm; hồi tưởng lại những điều kỳ diệu Ngài làm xưa kia. 12 Tôi suy gẫm những điều ấy, và xem xét các điều Ngài đã làm. 13 Lạy Thượng Đế, các đường lối Ngài thật thánh thiện. Không có thần nào cao cả như Thượng Đế chúng ta. 14 Ngài là Thượng Đế của những việc diệu kỳ; Ngài chứng tỏ quyền năng Ngài cho người ta thấy. 15 Ngài đã dùng quyền năng giải cứu dân Ngài tức con cháu Gia-cốp và Giô-xép. Xê-la 11

Lạy Thượng Đế, các dòng nước trông thấy Ngài; chúng thấy Ngài liền đâm ra sợ hãi; đến nỗi các vực nước sâu cũng run rẩy. 17 Trời đổ mưa xuống. Mây rền sấm. Các tia chớp xẹt qua lại như tên bay. 18 Tiếng sấm Ngài vang rền trong gió lốc. Chớp lòe sáng thế gian. Đất rung động mạnh. 16

- 691 -


Ngài bước đi qua biển, vạch lối qua các vực nước sâu, nhưng không để lại dấu chân. 20 Ngài dùng Mô-se và A-rôn dẫn dắt dân Ngài như bầy chiên. 19

Thánh Thi 78 Thượng Đế giải cứu dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập Bài dạy dỗ [a] của A-sáp.

78 Hỡi dân ta hãy lắng nghe lời dạy dỗ ta; hãy để ý lời ta nói đây. 2 Ta sẽ dùng truyện tích để nói chuyện; sẽ tiết lộ những bí mật từ xưa. 3 Chúng ta đã nghe biết những chuyện đó vì tổ tiên đã kể lại cho chúng ta. 4 Chúng ta sẽ không giấu các chuyện ấy với con cháu; chúng ta sẽ thuật cho những kẻ hậu sinh về Ngài. Chúng ta sẽ ca ngợi Chúa về các phép lạ Ngài làm. 5 Chúa đã lập ước với Gia-cốp, Ngài ban luật lệ cho Ít-ra-en, truyền dặn tổ tiên chúng ta dạy lại cho con cháu mình. 6 Thì chúng nó sẽ biết những lời dạy ấy, cả đến thế hệ sau chúng ta là các con cháu chưa sinh ra nữa. Rồi chúng sẽ tiếp tục dạy lại cho con cháu chúng. 7 Để chúng nó tin cậy Thượng Đế, không quên những điều Ngài làm, nhưng luôn luôn vâng theo mệnh lệnh Ngài. 8 Chúng sẽ không như các tổ tiên mình vốn ương ngạnh và bướng bỉnh. Lòng họ không trung thành cùng Thượng Đế, không thành thật cùng Ngài. Người Ép-ra-im dùng cung tên làm vũ khí, nhưng bỏ chạy trong ngày chiến trận. 10 Họ không giữ giao ước với Thượng Đế cũng không nghe theo lời dạy dỗ Ngài. 11 Họ quên những điều Ngài làm cùng những việc diệu kỳ Ngài thực hiện trước mặt họ. 12 Ngài làm các việc diệu kỳ ngay trước mắt các tổ tiên, trong cánh đồng Xô-an xứ Ai-cập. 9

Ngài rẽ biển ra, dắt họ đi qua. Ngài khiến nước dựng đứng lên như vách tường. 14 Ban ngày Ngài dẫn dắt họ bằng đám mây, ban đêm bằng ánh lửa. 15 Ngài chẻ đá trong sa mạc cho họ uống nước tràn trề như nước phun ra từ biển sâu. 13

- 692 -


Ngài khiến suối phun ra từ tảng đá, cho nước chảy ào ào như sông. 17 Nhưng họ cứ tiếp tục phạm tội cùng Ngài; họ phản nghịch Thượng Đế Tối Cao trong sa mạc. 18 Họ thách thức Thượng Đế, đòi Ngài ban cho thức ăn mình muốn. 19 Rồi họ thách Ngài rằng, “Thượng Đế làm sao cấp thức ăn trong sa mạc được? 20 Khi Ngài đập tảng đá, nước liền phun ra tuôn tràn như sông. Nhưng làm sao Ngài ban bánh cho chúng ta được? Làm sao Ngài cấp thịt cho dân Ngài được?” 21 Khi Chúa nghe biết liền nổi giận, cơn thịnh nộ Ngài nổi phừng cùng Gia-cốp; cơn giận Ngài nghịch cùng Ít-ra-en. 22 Họ không tin Thượng Đế và không nhờ cậy Ngài giải cứu họ. 23 Tuy nhiên Ngài ra lệnh cho các đám mây trên cao, mở cửa các từng trời. 24 Cho mưa ma-na [b] xuống nuôi họ; Ngài ban cho họ thức ăn từ trời. 25 Họ được ăn bánh của các thiên sứ. Ngài cho họ ăn no nê. 26 Ngài đưa gió đông đến từ trời, dùng quyền năng Ngài dẫn gió Nam lại. 27 Ngài cho mưa thịt rơi xuống phủ họ như bụi. Chim bay đến nhiều như cát biển. 28 Ngài khiến chim rơi xuống trong doanh trại, quanh các lều. 29 Nên họ ăn uống no nê. Thượng Đế ban cho họ thứ họ thèm khát. 30 Trong khi họ còn muốn ăn thêm, thức ăn còn trong miệng, 31 Ngài bỗng nổi giận cùng họ; giết một số người khoẻ mạnh trong đám họ; đánh ngã những thanh niên tráng kiện nhất trong Ít-ra-en. 32 Nhưng họ vẫn cứ phạm tội. Dù đã trông thấy các việc diệu kỳ, họ vẫn cứ không chịu tin. 33 Cho nên Ngài chấm dứt chuỗi ngày vô nghĩa và những năm tháng kinh hoàng của họ [c]. 34 Khi Ngài đánh giết họ, họ liền kêu cứu cùng Ngài; họ trở lại cùng Thượng Đế và tìm kiếm Ngài. 35 Họ nhớ lại rằng Thượng Đế là Khối Đá mình và Đấng Tối Cao là Đấng đã giải cứu mình. 36 Nhưng lời nói họ không thành thật, lưỡi họ dối trá. 16

37

Lòng họ không trung thành cùng Thượng Đế; chẳng giữ giao ước với Ngài.

- 693 -


Tuy vậy Thượng Đế vẫn nhân từ. Ngài tha thứ và không tiêu diệt họ. Nhiều lần Ngài nén giận, không tuôn ra cơn thịnh nộ Ngài. 39 Ngài nhớ lại rằng họ chẳng qua chỉ là con người, như gió thoảng qua, không bao giờ trở lại. 40 Trong sa mạc họ chống nghịch Ngài và làm Ngài buồn lòng nhiều lần. 41 Họ cứ thách thức Ngài, làm đau lòng Đấng Thánh của Ít-ra-en. 42 Họ không hề nhớ lại quyền năng Ngài hoặc lúc Ngài giải cứu họ khỏi tay kẻ thù. 43 Họ quên những dấu kỳ Ngài làm ở Ai-cập và phép lạ trong cánh đồng Xô-an. 44 Ngài biến các sông ra máu để không ai uống nước sông được. 45 Ngài sai ruồi mòng chích người Ai-cập, sai ếch nhái tàn hại họ. 46 Ngài cho cào cào ăn nuốt mùa màng họ, và ném nông sản họ cho châu chấu ăn. 47 Ngài sai mưa đá hủy phá vườn nho họ, và tàn hại các cây sung. 48 Ngài cho mưa đá tiêu diệt các súc vật, và sét đánh giết gia súc. 49 Ngài đổ cơn thịnh nộ Ngài ra trên họ. Ngài phát cơn thịnh nộ và sai thiên sứ hủy diệt đến với họ. 50 Ngài tìm cách tỏ ra cơn giận Ngài. Ngài không tha chết cho họ, nhưng giết họ bằng dịch hạch. 51 Thượng Đế giết các con đầu lòng xứ Ai-cập, các con trưởng nam của Cham [d]. 52 Rồi Ngài dẫn dân Ngài ra như đàn chiên, dắt họ như bầy chiên băng qua sa mạc. 53 Ngài đưa họ đến nơi an toàn không sợ hãi gì, còn kẻ thù họ bị chết đuối trong biển sâu. 54 Thượng Đế đưa dân Ngài vào đất thánh Ngài, đến hòn núi Ngài đã chiếm lấy bằng quyền năng Ngài. 55 Ngài đánh đuổi các dân tộc khác, cho dân Ngài thừa hưởng đất đai họ. Ngài cho các chi tộc Ít-ra-en định cư tại đó, trong các lều trại. 56 Nhưng họ thách thức Thượng Đế, chống nghịch Đấng Tối Cao; họ không tuân giữ luật lệ Ngài. 57 Họ quay đi và bất trung y như tổ tiên mình. Họ giống như cây cung cong vẹo, không thể bắn thẳng được. 58 Họ chọc giận Thượng Đế bằng cách xây những bàn thờ cho các thần khác; chọc giận Ngài bằng các thần tượng họ. 59 Khi nghe họ làm như vậy, Ngài liền nổi giận và từ bỏ dân Ít-ra-en hoàn toàn. 60 Ngài rời khỏi nơi ngự tại Si-lô [e], Lều mà Ngài ở với dân chúng. 38

- 694 -


Ngài để cho rương Giao Ước, tức quyền năng Ngài bị cướp đoạt; Ngài để rương Giao Ước, dấu hiệu của quyền năng và vinh hiển Ngài bị kẻ thù cướp đi. 62 Ngài để dân Ngài bị giết vì Ngài tức giận con cái Ngài. 63 Thanh niên thì bị lửa thiêu, thiếu nữ trẻ không còn được nghe bài ca hôn lễ. 64 Các thầy tế lễ ngã chết vì lưỡi gươm, nhưng các vợ goá của họ không được phép than khóc chồng mình. 65 Rồi Chúa như thức giấc, Ngài thức dậy như người vừa tỉnh rượu. 66 Ngài đánh hạ kẻ thù và sỉ nhục chúng đời đời. 67 Nhưng Thượng Đế đã từ bỏ nhà Giô-xép; Ngài không còn chọn chi tộc Ép-ra-im. 68 Thay vào đó, Ngài chọn chi tộc Giu-đa và núi Xi-ôn mà Ngài ưa thích. 69 Ngài xây đền thờ trên ngọn núi cao ấy. Ngài dựng nó vững bền như trái đất. 70 Ngài chọn Đa-vít, tôi tớ Ngài, và mang người ra từ các ràn chiên. 71 Ngài mang người ra từ nghề chăn chiên, để người dắt dẫn dân Ngài, tức Gia-cốp, dân Ít-ra-en, tài sản Ngài. 72 Đa-vít lãnh đạo họ với tấm lòng trong sạch và dắt dẫn họ do tay khéo léo của người. 61

Thánh Thi 79 Quốc gia than khóc về Giê-ru-sa-lem Bài ca của A-sáp.

79 Thượng Đế ôi, các dân đã chống nghịch lại dân được chọn lựa của Ngài. Chúng đã làm dơ bẩn đền thánh Ngài, biến Giê-ru-sa-lem ra nơi hoang tàn. 2 Chúng đã ném xác các đầy tớ Ngài làm thức ăn cho chim trời; quăng thây kẻ thờ phụng Ngài làm mồi cho dã thú. 3 Chúng đổ huyết chảy lênh láng như nước quanh Giê-ru-sa-lem. Không còn ai để chôn kẻ chết. 4 Chúng tôi trở thành lời giễu cợt cho các dân tộc khác; chúng cười đùa và chế giễu chúng tôi. 5 Chúa ôi, việc nầy kéo dài đến bao lâu? Ngài sẽ tức giận mãi sao? Cơn thịnh nộ của Ngài sẽ tiếp tục cháy phừng mãi sao? 6 Xin hãy nổi giận cùng các quốc gia không biết Ngài và các vương quốc không kêu cầu Ngài. 7 Chúng ăn nuốt dân cư Gia-cốp và tiêu hủy đất đai họ. 8 Xin đừng phạt chúng tôi vì tội lỗi xưa kia của chúng tôi. Xin sớm tỏ lòng thương xót Ngài đối với chúng tôi vì chúng tôi kiệt quệ. - 695 -


Lạy Thượng Đế là Đấng Cứu Rỗi chúng tôi, vì sự vinh hiển của danh Ngài, xin cứu giúp chúng tôi; vì uy danh Ngài xin cứu giúp và tha tội chúng tôi. 10 Đừng để các dân có cớ để hỏi, “Thượng Đế chúng đâu rồi?” Trước mặt Ngài xin hãy cho các dân khác và chúng tôi thấy rằng, Ngài sẽ trừng phạt những kẻ giết hại các đầy tớ Ngài. 11 Xin hãy nghe lời rên rỉ của các tù nhân. Xin dùng quyền năng vĩ đại của Ngài giải cứu kẻ bị án tử hình. 12 Chúa ôi, xin báo trả bảy lần những điều chúng sỉ nhục Ngài. 9

Chúng tôi là dân Ngài, bầy chiên của Ngài. Chúng tôi sẽ luôn luôn cảm tạ Chúa; muôn đời chúng tôi sẽ ca ngợi Ngài! 13

Thánh Thi 80 Cầu xin Chúa mang dân Ít-ra-en trở về Soạn cho nhạc trưởng theo điệu “Hoa Huệ Giao ước.” Bài ca của A-sáp.

80 Lạy Đấng chăn dắt Ít-ra-en, xin hãy nghe chúng tôi. Ngài dẫn dắt dân cư Giô-xép [a] như một đàn chiên. Ngài ngự trên ngôi giữa các sinh vật bằng vàng có cánh. Xin hãy tỏ sự cao cả của Ngài 2 cho dân Ép-ra-im, Bên-gia-min và Ma-na-xe thấy. Xin hãy dùng sức mạnh Ngài đến giải cứu chúng tôi. 3 Thượng Đế ôi, xin mang chúng tôi trở về. Xin tỏ lòng nhân từ Ngài cùng chúng tôi để chúng tôi được giải cứu. 4 Lạy Chúa là Thượng Đế Toàn Năng, Ngài sẽ tức giận về lời cầu nguyện của con dân Ngài cho đến bao giờ? 5 Ngài khiến dân Ngài sống bằng nước mắt; Ngài bắt họ uống giọt lệ tràn trề. 6 Ngài khiến những kẻ quanh chúng tôi dành giựt chúng tôi, khiến chúng tôi làm trò cười cho các dân tộc chung quanh chúng tôi. 7 Lạy Thượng Đế Toàn Năng, xin mang chúng tôi trở về. Xin tỏ lòng nhân từ Ngài cùng chúng tôi để chúng tôi được giải cứu. Ngài bứng chúng tôi ra khỏi Ai-cập như dây nho. Ngài đánh đuổi các dân khác và trồng chúng tôi vào đất ấy. 9 Ngài dọn đất cho chúng tôi. Chúng tôi đâm rễ và mọc tràn đất. 10 Bóng mát chúng tôi che phủ các núi. Nhánh của chúng tôi che phủ các cây hương nam hùng mạnh. 11 Cành lá chúng tôi đâm ra đến Địa-trung-hải, và các chồi chúng tôi mọc đến sông Ơ-phơ-rát. 12 Lạy Thượng Đế, tại sao Ngài phá sập các vách tường che chở nó? Nay thì người qua kẻ lại đều hái trái nó. 8

- 696 -


Heo rừng đạp trên nó; thú hoang ăn nuốt lá nó. 14 Lạy Đấng Toàn Năng, xin hãy trở lại. Từ trời xin hãy nhìn xuống mà xem. Xin hãy che chở cây nho của Ngài. 15 Chính tay Ngài trồng mầm non [b] nầy và vun xới nó. 16 Nhưng nay nó bị chặt và chụm lửa; Cái nhìn giận dữ của Ngài cũng đủ tiêu diệt chúng tôi. 13

Xin hãy dùng tay Ngài tiếp sức cho kẻ Ngài đã chọn lựa [c]. Xin giúp đỡ những người [d] mà Ngài đã nuôi nấng. 18 Như thế chúng tôi sẽ không lìa xa Ngài. Xin khiến chúng tôi sống lại, thì chúng tôi sẽ kêu cầu Ngài. 19 Lạy Chúa là Thượng Đế Toàn Năng, xin mang chúng tôi trở về. Xin tỏ lòng nhân từ Ngài với chúng tôi để chúng tôi được giải cứu. 17

Thánh Thi 81 Bài hát lễ Soạn cho nhạc trưởng để dùng với đàn ghi-tít. Bài ca của A-sáp.

81 Hãy hát mừng cho Thượng Đế, sức mạnh của chúng ta; hãy cất tiếng hoan hô Thượng Đế của Gia-cốp. 2 Hãy trỗi nhạc và đánh trống cơm vang rền. Hãy tấu nhạc dịu dàng bằng đờn cầm và đờn sắt. 3 Hãy thổi kèn vào ngày Trăng Mới [a], trỗi lên lúc trăng tròn [b] để ăn mừng. 4 Đây là luật lệ cho Ít-ra-en; và là mệnh lệnh của Thượng Đế của Gia-cốp. 5 Ngài ban qui tắc nầy cho nhà Giô-xép, khi họ ra khỏi đất Ai-cập. Tôi nghe một thứ tiếng mà tôi không hiểu bảo rằng, 6 “Ta đã cất gánh nặng khỏi vai chúng nó; Ta lấy giỏ nặng khỏi tay chúng. 7 Khi gặp khốn đốn ngươi kêu van, ta liền giải cứu ngươi. Ta trả lời ngươi qua tiếng sấm. Ta thử ngươi tại các suối Mê-ri-ba [c]. Xê-la Hỡi dân ta, hãy nghe. Ta muốn cảnh tỉnh các ngươi. Hỡi Ít-ra-en, hãy lắng nghe ta! 9 Ngươi không được có các thần khác; ngươi không được thờ phụng các thần ngoại quốc. 10 Ta, Chúa và là Thượng Đế ngươi, Đấng mang ngươi ra khỏi Ai-cập. Hãy hả miệng ra ta sẽ đút cho ngươi ăn. 8

11

Nhưng dân ta không chịu nghe ta; Ít-ra-en không muốn có ta.

- 697 -


Cho nên ta để họ tự ý đi đường ương ngạnh, tự làm theo ý muốn riêng mình. 13 Ta mong dân ta lắng nghe ta; Ta ao ước Ít-ra-en sống theo đường lối ta. 14 Như thế ta mới có thể mau chóng đánh bại kẻ thù của họ và trở tay nghịch lại địch thủ họ. 15 Những kẻ ghét Chúa sẽ cúi đầu trước mặt Ngài. Chúng sẽ bị trừng phạt đời đời. 16 Nhưng ta sẽ ban cho ngươi lúa mì hảo hạng và cho ngươi no nê mật ong từ tảng đá.” 12

Thánh Thi 82 Lời kêu xin công lý Bài ca ngợi của A-sáp.

82 Thượng Đế chủ tọa hội của các thần [a]; Ngài phân xử giữa các thần. 2 Ngài hỏi, “Các ngươi bênh vực kẻ ác cho đến chừng nào? Các ngươi thiên vị người bất lương cho đến bao giờ?” Xê-la Hãy bênh vực người yếu thế và kẻ mồ côi; hãy bênh vực quyền của người nghèo khó và kẻ khốn khổ. 4 Hãy cứu người yếu đuối và kẻ cô thế; giải thoát họ khỏi quyền lực kẻ ác. 3

“Các ngươi [b] chẳng biết gì cả. Các ngươi không hiểu gì hết. Các ngươi dò dẫm đi trong bóng tối trong khi thế gian đang sụp đổ.” 6 Ta bảo, “Các ngươi là thần [c]. Các ngươi đều là con của Thượng Đế Chí Cao. 7 Nhưng các ngươi sẽ chết như loài người; sẽ sụp đổ như mọi lãnh tụ.” 5

8

Thượng Đế ôi, xin hãy đến phân xử thế gian vì tất cả các dân đều thuộc về Ngài.

Thánh Thi 83 Cầu xin Chúa diệt kẻ thù Bài ca ngợi của A-sáp.

83 Thượng Đế ôi, xin chớ làm thinh và bất động. 2 Kẻ thù Ngài đang tự phụ, những kẻ ghét Ngài đang chuẩn bị tấn công.

- 698 -


Chúng âm mưu chống lại dân Ngài; chúng định tâm nghịch những kẻ Ngài yêu dấu. 4 Chúng bảo, “Chúng ta hãy tiêu diệt toàn quốc gia nầy đi để không ai còn nhớ tên ‘Ít-ra-en’ nữa.” 5 Chúng liên kết lập mưu. Bọn đó đã lập ước nghịch Ngài: 6 các gia tộc Ê-đôm cùng người Ích-ma-ên, Mô-áp và Ha-ga-rít, 7 các dân Ghê-banh [a], Am-môn, A-ma-léc, Phi-li-tin và Tia. 8 Đến cả A-xy-ri cũng nhập chung với chúng để giúp Am-môn và Mô-áp, là dòng dõi của Lót. Xê-la 3

Thượng Đế ôi, xin ra tay đánh chúng nó như Ngài đã ra tay đánh Mi-đi-an, và như Ngài đã làm cho Si-sê-ra và Gia-bin ở sông Kít-sôn. 10 Chúng ngã chết tại Ên-đô-rơ, thây chúng mục nát trên đất. 11 Xin đối xử với các lãnh tụ chúng như Ngài đã làm cho Ô-rép và Xê-ép. Xin phạt các lãnh tụ chúng như Ngài đã làm cho Xê-ba và Xanh-mu-na. 12 Chúng bảo, “Chúng ta hãy chiếm lấy các đồng cỏ của Thượng Đế.” 13 Lạy Thượng Đế, xin hãy khiến chúng như cỏ rơm, như trấu bị gió thổi bay. 14 Xin Ngài hãy thiêu đốt chúng như lửa đốt rừng, như các luồng lửa thiêu rụi các đồi núi. 15 Xin dùng giông bão của Ngài rượt đuổi chúng, và dùng gió lốc khiến chúng hoảng sợ. 16 Xin lấy sỉ nhục bao phủ chúng. Lạy Chúa, bấy giờ chúng sẽ tìm kiếm Ngài. 17 Xin khiến chúng sợ hãi và sỉ nhục mãi mãi. Xin hãy sỉ nhục và tiêu diệt chúng đi. 18 Bấy giờ chúng sẽ biết Ngài là Chúa, và rằng chỉ một mình Ngài là Đấng Chí Cao cai trị khắp thế gian. 9

Thánh Thi 84 Ao ước được ở trong đền thờ Chúa Soạn cho nhạc trưởng để dùng với đàn ghi-tít. Bài ca của con cháu Cô-rê.

84 Lạy Chúa Toàn Năng, đền thờ Ngài thật đẹp! 2 Tôi chỉ ao ước được ở trong sân của đền thờ Ngài. Con người tôi chỉ muốn hát ca ngợi Thượng Đế hằng sống. 3 Con chim sẻ tìm được nơi ở, và chim én tìm được nơi xây tổ. Chúng nó nuôi con gần bàn thờ Ngài. 4 Phúc cho người được sống trong đền thờ Ngài; họ sẽ luôn luôn ca ngợi Ngài. Xê-la

- 699 -


Phúc cho người nhận được sức lực từ nơi Ngài, tức những người muốn đi đến Giê-ru-sa-lem. 6 Đang khi họ đi qua thung lũng Ba-ca, họ sẽ biến nó ra suối nước. Mưa thu làm ngập các vũng nước. 7 Họ càng bước tới Giê-ru-sa-lem càng sung sức, mỗi người ra mắt Thượng Đế tại đó. 5

Lạy Thượng Đế Toàn Năng, xin hãy nghe lời cầu nguyện tôi, Thượng Đế của Gia-cốp ôi, xin hãy lắng nghe tôi. Xê-la 8

Lạy Thượng Đế, Đấng che chở [a] chúng tôi; xin hãy đối xử nhân từ cùng vua mà Ngài đã bổ nhiệm. 10 Một ngày trong sân đền thờ Thượng Đế, quí hơn một ngàn ngày ở nơi khác. Tôi thà giữ làm người gác cửa cho đền thờ Chúa, hơn là sống trong nhà kẻ ác. 11 Chúa là Thượng Đế giống như mặt trời và cái thuẫn; Chúa ban nhân từ và vinh dự. Ngài không từ chối ban những điều tốt cho những ai ăn ở lương thiện. 12 Lạy Chúa Toàn Năng, phúc cho những ai tin cậy nơi Ngài. 9

Thánh Thi 85 Lời cầu nguyện cho quốc gia Soạn cho nhạc trưởng. Bài ca ngợi của con cháu Cô-rê.

85 Lạy Chúa, Ngài đã tỏ lòng nhân từ cùng đất nước Ngài; Ngài mang con dân Gia-cốp trở về. 2 Ngài tha thứ lầm lỡ của họ và xóa bỏ tội lỗi họ. Xê-la Ngài không còn tức giận; và thu hồi cơn thịnh nộ Ngài. 4 Lạy Thượng Đế là Đấng Cứu Chuộc chúng tôi, xin hãy mang chúng tôi trở về. Xin đừng giận chúng tôi nữa. 5 Ngài sẽ giận chúng tôi mãi sao? Ngài vẫn còn tức giận từ đời nầy sang đời kia sao? 6 Ngài sẽ không khiến chúng tôi sống lại nữa sao? Dân Ngài sẽ vui mừng trong Ngài. 7 Lạy Chúa, xin hãy tỏ ra tình yêu Ngài và cứu chúng tôi. 3

Tôi sẽ lắng nghe lời Chúa là Thượng Đế tôi. Ngài nói về sự an bình cho dân Ngài và những người thờ kính Ngài. Họ không nên trở lại con đường ngu dại nữa. 9 Thượng Đế sẽ sớm cứu những kẻ kính sợ Ngài, và đất nước chúng ta sẽ nhận được vinh hiển Ngài [a]. 8

- 700 -


Tình yêu và lòng trung tín của Chúa sẽ gặp nhau; sự công chính và hoà bình sẽ chào nhau, để ban phúc cho dân Ngài. 11 Sự trung thành sẽ mọc lên từ đất, và sự công chính sẽ nhìn xuống từ trời [b]. 12 Thật vậy, Chúa sẽ ban những điều tốt lành, đất đai chúng ta sẽ sinh sản hoa màu. 13 Sự công chính sẽ đi trước Thượng Đế để dọn đường cho Ngài. 10

Thánh Thi 86 Lời kêu cứu Lời cầu nguyện của Đa-vít.

86 Chúa ôi, xin hãy nghe và đáp lời tôi, vì tôi khốn khổ và bị áp bức. 2 Xin hãy bảo vệ tôi vì tôi trung thành với Ngài. Xin hãy cứu tôi, kẻ tôi tớ hằng tin cậy nơi Ngài, là Thượng Đế tôi. 3 Lạy Chúa, xin hãy thương xót tôi vì suốt ngày tôi kêu cầu cùng Ngài. 4 Lạy Chúa, xin ban hạnh phúc cho tôi, kẻ tôi tớ Chúa, vì Chúa ôi, tôi dâng mạng sống tôi cho Ngài. 5 Lạy Chúa, Ngài nhân từ và hay tha thứ, Ngài hằng tỏ lòng yêu thương lớn lao cho những kẻ kêu xin Ngài. 6 Chúa ôi, xin hãy nghe lời cầu nguyện tôi, lắng nghe khi tôi nài xin ơn thương xót. 7 Tôi kêu cầu Ngài đang khi gặp khốn khó vì Ngài đáp lời tôi. 8 Lạy Chúa, không có thần nào giống như Ngài, cũng không có công việc nào giống công việc Chúa làm. 9 Lạy Chúa, các nước mà Ngài đã lập sẽ đến thờ phụng Ngài. Họ sẽ tôn trọng Ngài. 10 Ngài là Đấng cao cả và hay làm những điều kỳ diệu. Chỉ một mình Chúa là Thượng Đế. 11 Lạy Chúa, xin chỉ cho tôi biết ý muốn Ngài, thì tôi sẽ sống bằng chân lý Ngài. Xin dạy cho đời tôi biết hết lòng kính sợ Ngài. 12 Lạy Chúa là Thượng Đế tôi, tôi sẽ hết lòng ca ngợi Ngài, và tôn kính danh Chúa muôn đời. 13 Ngài đã tỏ tình yêu lớn lao đối với tôi. Ngài đã cứu tôi khỏi chết. 14 Lạy Thượng Đế, bọn kiêu căng tấn công tôi; một lũ côn đồ tìm cách giết tôi. Chúng không kính sợ Ngài. 15 Nhưng Chúa ơi, Ngài là Thượng Đế giàu lòng thương xót và nhân từ. Ngài chậm giận, dạt dào tình yêu và thành tín. 16 Xin hãy quay qua tôi và tỏ lòng thương xót. Xin thêm sức cho kẻ tôi tớ Chúa. Xin hãy cứu vớt con trai [a] của tớ gái Ngài.

- 701 -


Xin hãy tỏ dấu hiệu rằng Ngài lo cho tôi. Để các kẻ thù của tôi nhìn thấy thì chúng sẽ bị xấu hổ vì Ngài là Đấng giúp đỡ và an ủi tôi. 17

Thánh Thi 87 Chúa ưa thích Giê-ru-sa-lem Bài ca ngợi của con cháu Cô-rê.

87 Chúa xây dựng Giê-ru-sa-lem trên các núi thánh. 2 Ngài ưa thích các cổng Xi-ôn hơn các nơi khác trong Ít-ra-en. 3 Hỡi thành của Thượng Đế, người ta nói rất nhiều điều kỳ diệu về ngươi. Xê-la Thượng Đế phán, “Ta sẽ đặt Ai-cập [a] và Ba-by-lôn trong danh sách các quốc gia biết ta. Các dân Phi-li-tin, Tia và Ê-thi-ô-bi đều sinh trưởng từ nơi đó.” 5 Họ nói về Giê-ru-sa-lem như sau, “Người nầy, người nọ sinh ra ở đó.” Thượng Đế Chí Cao sẽ thêm sức cho thành ấy. 6 Chúa sẽ giữ một danh sách các quốc gia. Ngài ghi chú rằng, “Người nầy sinh tại đó.” Xê-la 4

7

Họ sẽ nhảy múa hát xướng, “Mọi điều tốt lành đều từ ngươi mà ra, hỡi Giê-ru-sa-lem.”

Thánh Thi 88 Lời kêu ca buồn thảm Bài ca ngợi của con cháu Cô-rê soạn cho nhạc trưởng. Lời cầu nguyện xin CHÚA chữa bệnh. Theo giọng Ma-ha-lát Lêan-nốt. Thể mạch-kinh của Hê-man người Ếch-ra-hít.

88 Chúa ôi, Ngài là Thượng Đế, Đấng cứu tôi. Cả ngày lẫn đêm, tôi kêu cầu cùng Chúa. 2 Xin hãy nghe lời khẩn nguyện tôi, lắng nghe tiếng kêu xin của tôi. 3 Đời tôi đầy khốn khổ, tôi hầu như sắp chết. 4 Người ta nghĩ rằng tôi đang đi xuống mồ. Tôi như người kiệt sức. 5 Tôi bị bỏ mặc cho chết, như xác nằm trong mồ, như những kẻ mà Ngài không nhớ tới nữa, hoàn toàn bị cách xa quyền năng Chúa. 6 Chúa đã đặt tôi trong mồ sâu tăm tối của sự chết. 7 Cơn giận Ngài nổi phừng cùng tôi; các lượn sóng Chúa bao trùm tôi. Xê-la

- 702 -


Chúa đã làm cho bạn hữu tôi xa lánh tôi, khiến họ ghét tôi. Tôi bị mắc kẹt không thoát được. 9 Mắt tôi lòa vì than khóc. Chúa ôi, tôi cầu nguyện cùng Chúa mỗi ngày. Tôi giơ tay lên cầu nguyện cùng Chúa. 10 Ngài có tỏ phép lạ cho người chết không? Họ có sống dậy để ca ngợi Ngài không? Xê-la 8

Tình yêu Ngài có được rao truyền nơi huyệt mả không? Sự thành tín Ngài có được rao giảng nơi cõi chết [a] không? 12 Phép lạ Ngài có được biết đến trong mồ mả đen tối không? Sự nhân từ Ngài có được biết đến nơi đất lãng quên không? 13 Nhưng Chúa ôi, tôi đã kêu cứu cùng Ngài; mỗi sáng tôi cầu nguyện với Ngài. 14 Lạy Chúa, sao Ngài lìa bỏ tôi? Sao Ngài ẩn mặt cùng tôi? 15 Tôi yếu ớt và hấp hối từ khi còn trẻ. Tôi gánh chịu sự kinh khiếp của Ngài, tôi hoàn toàn kiệt quệ. 16 Ngài đã nổi giận cùng tôi, cơn kinh khiếp của Chúa tàn hại tôi. 17 Chúng vây tôi hằng ngày như nước lụt. Chúng đến quanh tôi. 18 Ngài đã lấy người thân và bạn bè tôi đi. Tôi phải làm bạn với bóng tối. 11

Thánh Thi 89 Bài ca về sự thành tín của Thượng Đế Do Ê-than người Ếch-ra-hít soạn theo thể mạch-kinh.

89 Tôi sẽ luôn luôn ca ngợi tình yêu Chúa; Từ nay về sau tôi sẽ thuật lại sự thành tín Ngài. 2 Tôi sẽ nói, “Tình yêu Chúa còn đời đời; sự thành tín Chúa vững bền như bầu trời,” Ngài phán, “Ta đã lập giao ước với người ta đã chọn; Ta đã hứa cùng tôi tớ ta là Đa-vít. 4 Ta hứa với người, ‘Ta sẽ khiến gia tộc ngươi còn mãi. Nước ngươi sẽ còn đời đời.’” Xê-la 3

Lạy Chúa, các từng trời ca ngợi phép lạ Ngài. Các người thánh Chúa ca tụng sự thành tín Ngài. 6 Trên trời có ai bằng Chúa? Không có thần nào giống như Ngài. 7 Những người thánh, tức các thiên sứ quanh ngôi, họp nhau lại thì họ kính sợ Ngài; Ngài đáng kinh sợ hơn cả các thiên sứ chầu quanh Ngài. 8 Lạy Chúa là Thượng Đế Toàn Năng, có ai giống như Ngài? Chúa ôi, Ngài quyền năng và thành tín. 5

- 703 -


Ngài cai quản đại dương gầm thét và dẹp các lượn sóng cồn. 10 Chúa đập nát Ra-háp [a], con quái vật của nó trở thành xác chết. Ngài dùng sức mạnh phân tán các kẻ thù Ngài. 11 Trời đất đều thuộc về Chúa. Chúa tạo nên thế giới và muôn vật trong đó. 12 Chúa lập ra phương Bắc và phương Nam. Các núi Ta-bô và Hẹt-môn hát mừng. 9

Cánh tay Ngài có quyền năng lớn lao. Tay Ngài mạnh mẽ; tay phải Ngài giơ cao lên. 14 Nước Ngài được xây dựng trên nền công bằng và chính trực. Tình yêu và sự thành tín đi trước Ngài. 15 Phúc cho người học tập ca ngợi [b] Ngài. Lạy Chúa, đó là những người bước đi trong ánh sáng của sự hiện diện Ngài. 16 Họ vui mừng trong Chúa mỗi ngày, luôn luôn ca tụng lòng nhân ái Ngài. 17 Ngài là sức mạnh vinh hiển của họ, Quyền năng của họ do Ngài mà ra. 18 Thuẫn che chở của chúng tôi là vua, Đấng thánh của Ít-ra-en. 19 Trước đây, trong sự hiện thấy, Chúa phán với những kẻ trung thành đi theo Ngài. Ngài bảo, “Ta đã ban sức mạnh cho dũng sĩ, Từ trong dân ta, ta đã cất nhắc một chàng trai trẻ. 20 Ta đã tìm được Đa-vít, kẻ tôi tớ ta; Ta đã đổ dầu thánh ta lên người để bổ nhiệm người. 21 Tay ta sẽ giữ người đứng vững, cánh tay ta sẽ thêm sức mạnh cho người. 22 Không có kẻ thù nào kiểm soát người, cũng không có kẻ ác nào đánh thắng người được. 23 Ta sẽ đè bẹp kẻ thù người trước mặt người; Ta sẽ đánh bại các kẻ ghét người. 24 Lòng thành tín và tình yêu ta sẽ ở cùng người. Người sẽ vững mạnh trong ta. 25 Ta sẽ ban cho người quyền trên đại dương, và quyền kiểm soát các sông ngòi. 26 Người sẽ thưa với ta, ‘Ngài là Cha tôi, Là Thượng Đế, Khối Đá và là Đấng Cứu Rỗi tôi.’ 27 Ta sẽ lập người làm con trưởng nam ta, vua cao sang nhất trên đất. 28 Tình yêu ta sẽ chăm nom người mãi mãi, giao ước ta với người sẽ không bao giờ chấm dứt. 29 Ta sẽ làm cho gia tộc người còn mãi, và nước người bền như bầu trời. 30 Nếu con cháu người gạt bỏ sự dạy dỗ ta, không theo luật lệ ta, 31 nếu chúng không đếm xỉa đến điều ta muốn, bất vâng phục mệnh lệnh ta, 32 thì ta sẽ trị tội chúng bằng roi, chỉnh sự sai lầm chúng bằng roi quất. 13

- 704 -


Nhưng ta sẽ không rút lại tình yêu ta cho Đa-vít, hay ném bỏ sự thành tín ta. 34 Ta sẽ không phá giao ước hoặc thay đổi điều ta đã hứa. 35 Ta đã hứa qua sự thánh khiết ta, ta sẽ không nói dối với Đa-vít, 36 Gia tộc người sẽ còn đời đời. Nước người sẽ bền mãi trước mặt ta như vầng thái dương. 37 Vương quốc người sẽ còn đời đời, như mặt trăng, một nhân chứng đáng tin trên bầu trời.” Xê-la 33

Nhưng nay Chúa đã từ chối và gạt bỏ vua Ngài bổ nhiệm. Chúa đã nổi giận cùng người. 39 Chúa đã bỏ giao ước với tôi tớ Ngài và ném mão triều người xuống đất. 40 Chúa đã phá sập các tường thành người; biến các thành kiên cố người ra nơi hoang tàn. 41 Người qua kẻ lại đều cướp đoạt người. Láng giềng người sỉ nhục người. 42 Chúa đã tiếp tay cho kẻ thù nghịch, khiến chúng đâm ra khoái trá. 43 Chúa khiến gươm giáo người ra vô dụng; Ngài không giúp đỡ người trong chiến trận. 44 Chúa khiến người bại trận, và dẹp quyền cai trị vinh hiển của người. 45 Chúa đã cắt ngắn đời người, bao phủ người bằng sỉ nhục. Xê-la 38

Lạy Chúa, tình trạng nầy kéo dài đến bao giờ? Chúa sẽ lánh mặt mãi sao? Cơn giận phừng của Chúa sẽ còn đến bao giờ? 47 Xin nhớ rằng đời tôi rất ngắn ngủi. Phải chăng Chúa muốn chúng tôi trở nên vô dụng [c]? 48 Có người nào sống mà không phải chết? Có ai thoát được sức mạnh của mồ mả đâu? Xê-la 46

Lạy Chúa, tình yêu xưa kia mà Ngài đã hứa? Ngài hứa với Đa-vít rằng Ngài sẽ thành tín với gia đình người. 50 Chúa ôi, xin nhớ rằng chúng sỉ nhục các tôi tớ Chúa; đừng quên rằng tôi đã gánh chịu sự sỉ nhục của các dân. 51 Chúa ôi, các kẻ thù nghịch đã chế giễu tôi; hễ gặp vua được Ngài chọn ở đâu thì chúng sỉ nhục đến đó. 49

Ca ngợi Chúa mãi mãi! A-men! A-men! 52

- 705 -


Thánh Thi 90 Quyển 4 (Thi thiên 90-106) Thượng Đế còn đời đời; còn con người chỉ sống tạm thời Lời cầu nguyện của Mô-se, người của Thượng Đế.

90 Lạy Chúa, từ xưa đến nay Ngài là nguồn cứu giúp của chúng tôi. 2 Trước khi núi non sinh ra, trước khi Ngài sáng tạo trái đất và thế gian, Chúa là Thượng Đế, Ngài có từ xưa và còn đời đời. 3

Ngài biến loài người trở thành bụi đất. Ngài phán, “Hỡi loài người, hãy trở về với cát bụi.”

Đối với Chúa, ngàn năm như một ngày qua đi, hay một vài giờ trong đêm. 5 Đời sống chúng tôi như giấc mộng, chấm dứt khi buổi sáng đến. Chúng tôi giống như cỏ, 6 buổi sáng đâm chồi và mọc lên, nhưng đến chiều đã chết héo. 7 Chúng tôi bị cơn giận Ngài tiêu diệt; và kinh hoàng vì cơn thịnh nộ Ngài. 8 Chúa đặt những điều ác mà chúng tôi làm trước mặt Ngài; Ngài thấy rõ các tội lỗi kín giấu của chúng tôi. 9 Chuỗi ngày chúng tôi chấm dứt khi Ngài nổi giận. Các năm tháng chúng tôi kết thúc như tiếng thở dài. 10 Đời chúng tôi chỉ có bảy mươi tuổi còn nếu khỏe mạnh thì được tám mươi. Nhưng các năm tháng ấy đều đầy lao khổ. Chúng qua mau, rồi chúng tôi biến mất. 11 Ai biết được sức mạnh của cơn giận Ngài? Sự kính sợ của chúng tôi đối với Ngài cũng lớn bằng cơn giận Ngài. 12 Xin dạy chúng tôi biết đời mình ngắn ngủi ra sao để chúng tôi thêm khôn ngoan. 13 Chúa ơi, bao giờ thì Chúa sẽ trở lại và tỏ lòng nhân từ cho các tôi tớ Ngài? 14 Mỗi sáng xin hãy đổ tình yêu Ngài trên chúng tôi. Thì trọn đời chúng tôi sẽ hát mừng. 15 Chúng tôi đã thấy những năm tháng khốn khó. Bây giờ xin hãy ban sự vui mừng cho chúng tôi tương xứng với những khổ đau mà Ngài đặt trên chúng tôi. 16 Xin hãy cho các tôi tớ Ngài thấy những việc diệu kỳ của Ngài; hãy tỏ sự cao cả Ngài cho con cái họ. 4

- 706 -


Lạy Chúa là Thượng Đế chúng tôi, xin ban ơn cho chúng tôi. Xin giúp chúng tôi thành công trong mọi việc. Xin giúp chúng tôi thành công. 17

Thánh Thi 91 An ninh trong Chúa 91 Người nào ẩn náu trong Đấng Chí Cao sẽ được Đấng Toàn Năng bảo vệ. 2 Tôi thưa cùng Chúa rằng, “Ngài là nơi ẩn náu và thành lũy tôi. Ngài là Thượng Đế tôi, nên tôi tin cậy nơi Ngài.” 3 Chúa sẽ giải cứu ngươi khỏi những hiểm nguy ngầm và những bệnh tật hiểm nghèo. 4 Ngài sẽ che phủ ngươi, Ngươi có thể ẩn náu dưới cánh Ngài. Sự thành tín Ngài là cái thuẫn che chở ngươi. 5 Ngươi sẽ không sợ nguy hiểm ban đêm hay tên bay ban ngày. 6 Cũng không sợ dịch lệ trong bóng tối, hay bệnh tật tàn phá giữa trưa. 7 Dù bên cạnh ngươi có hàng ngàn người chết, bên phải ngươi hàng vạn người gục ngã, nhưng ngươi sẽ không bị tổn hại gì. 8 Ngươi chỉ cần nhìn và chứng kiến kẻ ác bị trừng phạt. 9 Chúa là nơi che chở ngươi; ngươi đã chọn Đấng Chí Cao làm nơi trú ẩn của mình. 10 Sẽ không có điều gì chẳng lành đến cho ngươi, cũng chẳng có thảm họa nào viếng lều ngươi. 11 Ngài đã sai thiên sứ chăm nom ngươi bất cứ nơi nào ngươi đi. 12 Các thiên sứ sẽ giữ ngươi trong tay để chân ngươi khỏi vấp nhằm đá. 13 Ngươi sẽ đạp trên sư tử và rắn; ngươi sẽ dẫm lên sư tử hung hăng và rắn rít. 14 Chúa phán, “Ai yêu mến ta, ta sẽ giải cứu người ấy. Ta sẽ bảo vệ những người biết ta. 15 Họ sẽ kêu xin ta, ta sẽ đáp lời. Ta sẽ ở cùng họ trong cảnh nguy khốn; Ta sẽ giải cứu họ và tôn trọng họ. 16 Ta sẽ cho họ mãn nguyện sống lâu, và họ sẽ thấy ta sự cứu rỗi của ta.”

- 707 -


Thánh Thi 92 Cảm tạ sự nhân từ Chúa Bài ca dùng vào ngày Sa-bát.

92 Ca ngợi Chúa và chúc tụng Đấng Chí Cao là điều tốt. 2 Thuật lại sự yêu thương Chúa vào buổi sáng và sự thành tín Ngài vào buổi chiều là điều tốt. 3 Kèm theo đờn sắt mười dây và đờn cầm dìu dặt. 4 Lạy Chúa, những việc Ngài làm khiến tôi hớn hở; Tôi sẽ hát mừng về những việc tay Ngài làm. 5 Lạy Chúa, Ngài đã làm những việc lớn lao! Tư tưởng Ngài vô cùng sâu sắc! 6 Kẻ ngu si không thể hiểu biết, người điên dại không am tường. 7 Lũ gian ác mọc lên như cỏ. Bọn gian tà thịnh vượng, nhưng chúng sẽ bị tiêu diệt đời đời. 8 Nhưng, Chúa ôi, Ngài sẽ được tôn cao muôn đời. 9 Lạy Chúa, hãy nhìn các kẻ thù Ngài, Chúng sẽ bị tiêu diệt. Tất cả các kẻ gian ác sẽ bị tản lạc. 10 Nhưng Ngài làm cho tôi mạnh như trâu [a]. Ngài đổ dầu hảo hạng trên tôi. 11 Khi tôi nhìn thì tôi thấy kẻ thù tôi bị ngã xuống; tôi nghe tiếng kêu la của bọn gian ác nghịch tôi [b]. Nhưng người nhân đức sẽ lớn mạnh như cây chà là, sẽ cao vút như cây hương nam ở Li-băng. 13 Những người được trồng trong đền thờ Chúa, họ lớn mạnh trong sân Thượng Đế. 14 Dù đã già, họ vẫn sinh hoa quả; vẫn khoẻ mạnh xanh tươi. 15 Họ chứng tỏ rằng Chúa rất nhân lành. Ngài là Khối Đá tôi, luôn làm điều chân chính 12

Thánh Thi 93 Sự oai nghi của Chúa 93 Chúa là vua, Ngài mặc sự uy nghi. Chúa mặc oai nghi và nai nịt bằng sức mạnh. Thế gian đã được an bài, sẽ không lay chuyển. 2 Nước Ngài vững lập từ xưa; Ngài còn đời đời.

- 708 -


Chúa ơi, biển vang dội, các đại dương gầm thét, biển cả đập sóng ầm ầm vào bờ. 4 Tiếng nước sóng vang rền; các luồng phong ba mãnh liệt, nhưng Chúa còn vĩ đại hơn. 5 Lạy Chúa, luật lệ Ngài vững bền mãi [a]. Đền thờ Ngài muôn đời thánh khiết. 3

Thánh Thi 94 Thượng Đế sẽ báo trả kẻ thù nghịch Ngài 94 Lạy Chúa là Thượng Đế trừng phạt. Xin hãy đến trừng phạt chúng. 2 Hỡi quan án của thế gian, hãy đứng dậy và trừng phạt đích đáng bọn kiêu căng. 3 Bọn gian ác sẽ hớn hở đến bao giờ? Bao lâu nữa, thưa Chúa? 4 Chúng nói toàn lời ngạo mạn; Những kẻ gian ác huênh hoang chuyện chúng làm. 5 Chúa ôi, chúng chà đạp dân Ngài, làm khổ những kẻ thuộc về Ngài. 6 Chúng giết kẻ góa bụa, lữ khách tạm trú trong xứ chúng ta. Chúng tàn sát trẻ mồ côi. 7 Chúng ngạo nghễ bảo rằng, “Chúa không thấy đâu; Thượng Đế của Gia-cốp chẳng thèm biết đến.” 8

Nầy bọn ngu xuẩn, hãy chú ý, Còn kẻ điên cuồng, bao giờ các ngươi mới hiểu?

Đấng tạo ra lỗ tai mà không nghe được sao? Đấng tạo ra con mắt mà không thấy à? 10 Đấng sửa trị thế gian mà không trừng phạt các ngươi sao? Ngài là Đấng dạy khôn cho loài người. 11 Chúa biết ý nghĩ con người. Ngài biết tư tưởng họ chỉ như luồng gió thoảng [a]. 9

Lạy Chúa, kẻ được Ngài sửa trị thật có phúc. Ngài dạy họ luật lệ Ngài. 13 Ngài cho họ nghỉ ngơi khỏi cảnh khốn khổ cho đến khi hố dành cho kẻ ác đã đào xong. 14 Chúa không lìa bỏ dân Ngài hay bỏ rơi những kẻ thuộc về Ngài. 15 Sự công chính sẽ trở lại, mang theo sự công bình, Những người ngay thẳng sẽ có mặt ở đó và nhìn thấy điều ấy. 12

- 709 -


Ai sẽ giúp tôi chống kẻ ác? Ai sẽ cùng tôi chống lại kẻ gian tà? 17 Nếu Chúa không giúp đỡ thì chắc trong phút chốc tôi đã mất mạng rồi. 18 Tôi thưa, “Tôi sắp ngã,” nhưng, Chúa ôi, tình yêu Ngài nâng đỡ tôi. 19 Tôi rất lo lắng nhưng Ngài an ủi tôi và khiến tôi vui vẻ. 16

Những kẻ lãnh đạo bất lương không thể kết thân với Chúa được. Chúng dùng luật lệ để gây khổ đau. 21 Chúng hợp lực chống lại người làm điều phải, và kết án tử hình kẻ vô tội. 22 Nhưng Chúa là Đấng bảo vệ tôi, Thượng Đế tôi là Khối Đá che chở tôi. 23 Chúa sẽ trừng phạt tội lỗi chúng và sẽ diệt chúng vì tội ác chúng làm. Chúa là Thượng Đế chúng tôi sẽ tiêu diệt chúng. 20

Thánh Thi 95 Khuyên mọi người hãy ca ngợi và vâng phục Thượng Đế 95 Hãy đến hát mừng Chúa. Hãy lớn tiếng ca ngợi Khối Đá đã giải cứu chúng ta. 2 Hãy đến với Ngài bằng bài ca tạ ơn [a]. Hãy hát tôn vinh Ngài, 3 vì Chúa là Thượng Đế cao cả, vua lớn trên tất cả các thần. 4 Mọi vực thẳm sâu nhất trên đất thuộc về Ngài, các núi cao tột đỉnh cũng là của Ngài. 5 Biển cả là của Chúa vì Ngài tạo nên chúng, Ngài tạo đất khô bằng chính tay mình. 6 Hãy đến cúi xuống thờ kính. Chúng ta hãy quì gối trước mặt Chúa là Đấng dựng nên chúng ta. 7

Ngài là Thượng Đế chúng ta, chúng ta là dân mà Ngài chăm sóc, là đàn chiên Ngài chăn giữ.

Hôm nay hãy nghe tiếng Ngài phán dạy: “Đừng ương ngạnh như tổ tiên các ngươi tại Mê-ri-ba, và như việc các ngươi làm tại Mát-xa [b] trong sa mạc, 9 Nơi mà tổ tiên các ngươi thách thức và thử ta mặc dù họ đã thấy mọi điều ta làm. 10 Ta nổi giận với họ trong bốn mươi năm. Ta bảo, ‘Họ không trung thành cùng ta, chẳng hiểu đường lối ta.’ 11 Ta nổi giận và thề quyết, ‘Họ sẽ không bao giờ được vào sự an nghỉ ta.’” 8

- 710 -


Thánh Thi 96 Ca ngợi vinh quang Chúa 96 Cả trái đất, hãy hát một bài ca mới [a] cho Chúa; hãy hát tôn vinh Ngài. 2 Hãy hát xướng cho Chúa và ca ngợi Ngài; mỗi ngày hãy thuật lại ơn giải cứu lớn lao của Ngài. 3 Hãy thuật cho các nước biết vinh quang Ngài, và muôn dân biết các điều diệu kỳ Ngài làm, 4 vì Chúa rất cao cả; Ngài đáng được ca ngợi luôn luôn. Ngài đáng được tôn trọng hơn tất cả các thần. 5 Các thần khác hoàn toàn vô ích, nhưng Chúa tạo lập các từng trời. 6 Chúa đầy vinh hiển và uy nghiêm; Ngài có năng lực và vẻ đẹp trong đền thánh Ngài. 7 Hỡi các nước trên đất, hãy ca ngợi Chúa; hãy ca ngợi sự vinh hiển và quyền năng Ngài. 8 Hãy ca ngợi xứng đáng với vinh hiển Ngài. Hãy mang của lễ đi vào sân của đền thờ Ngài. 9 Hãy thờ phụng Chúa vì Ngài là thánh [b]. Mọi người trên đất, hãy run sợ trước mặt Ngài. 10 Hãy bảo cho các nước rằng, “Chúa là vua.” Trái đất đã được Chúa an bài, sẽ không lay chuyển. Ngài sẽ phân xử các dân tộc một cách công minh. 11 Các từng trời hãy reo vui, đất hãy mừng rỡ; biển và mọi vật trong biển hãy la lớn lên. 12 Đồng ruộng và mọi vật trong đó hãy hớn hở, Mọi cây cối trong rừng hãy hát mừng 13 trước mặt Chúa vì Ngài đang ngự đến. Ngài đến để phân xử thế gian; Ngài sẽ phân xử thế gian bằng sự công chính và các dân tộc bằng sự thành tín.

Thánh Thi 97 Bài hát ca ngợi quyền năng Chúa 97 Chúa là Vua. Cả trái đất hãy reo vui; các hải đảo hãy hớn hở. 2 Quanh Ngài có đám mây đen kịt. Nước Ngài được xây trên nền chính trực và công bằng. 3 Trước mặt Ngài có đám lửa thiêu đốt các thù nghịch Ngài bốn phía. 4 Lằn chớp Ngài chiếu sáng khắp thế gian; trái đất thấy liền run sợ. - 711 -


Núi non tan chảy như sáp trước mặt Chúa, trước mặt Chúa của cả trái đất. 6 Các từng trời thuật lại lòng nhân từ Ngài mọi người thấy vinh hiển Ngài. 5

Những kẻ thờ phụng tượng chạm sẽ bị xấu hổ; họ khoe khoang về các thần vô dụng của mình. Tất cả các thần đều thờ phụng Chúa [a]. 8 Giê-ru-sa-lem nghe liền hớn hở, các thành Giu-đa vui mừng. Chúng vui mừng vì sự phân xử của Ngài, thưa Chúa. 9 Lạy Chúa, Ngài là Đấng Chí Cao trên khắp đất; Ngài được suy tôn trên tất cả các thần. 10 Những ai yêu mến Chúa ghét điều ác. Chúa chăm nom những kẻ trung tín theo Ngài và giải thoát họ khỏi quyền lực của kẻ ác. 11 Ánh sáng chiếu trên những ai làm theo lẽ phải; sự vui mừng đi theo những kẻ lương thiện. 12 Hỡi những ai làm theo lẽ phải, hãy vui mừng trong Chúa. Hãy ca ngợi danh Ngài. 7

Thánh Thi 98 Chúa quyền năng và công minh Bài ca ngợi

98 Hãy hát một bài ca mới cho Chúa vì Ngài đã làm những việc diệu kỳ. Tay phải mạnh mẽ và thánh [a] của Ngài giúp Ngài chiến thắng. 2 Chúa đã dùng quyền năng giải cứu; cho muôn dân thấy sự đắc thắng của Ngài dành cho dân tộc Ngài. 3 Ngài nhớ lại tình yêu và sự thành tín mà Ngài dành cho dân Ít-ra-en. Các nơi xa xăm của đất đã thấy quyền năng giải cứu của Thượng Đế. 4 Cả thế gian hãy reo hò vui vẻ cho Chúa; hãy trỗi tiếng ca và dạo nhạc. 5 Hãy dạo nhạc cho Chúa bằng đờn cầm, dùng đờn cầm và âm nhạc. Hãy thổi kèn cùng tù và; hãy lớn tiếng hát mừng cho Chúa, là vua. 7 Biển và mọi vật trong biển hãy nổi tiếng ầm ầm lên, thế gian và mọi người đang sống trên đất hãy xướng hát lên. 8 Các sông hãy vỗ tay; các núi hãy cùng nhau hát mừng. 9 Tất cả hãy hát xướng trước mặt Chúa, vì Ngài đến để phân xử thế gian. Ngài sẽ phân xử thế gian bằng sự công bằng; Ngài sẽ phân xử các dân trong công chính. 6

- 712 -


Thánh Thi 99 Chúa, vua công bằng và thánh khiết 99 Chúa là Vua. Các dân hãy run sợ trước mặt Ngài. Ngài ngự giữa các con thú bằng vàng có cánh. Đất hãy rung động. 2 Chúa của Giê-ru-sa-lem rất vĩ đại; Ngài được suy tôn trên khắp các dân. 3 Mọi người hãy ca ngợi danh Ngài; danh Ngài rất lớn, Ngài là Đấng thánh và đáng sợ. 4 Vua có quyền năng, Ngài chuộng công lý. Ngài thiết lập sự công bằng; Ngài thi hành điều công chính và phải lẽ giữa dân Gia-cốp. 5 Hãy tôn cao Chúa là Thượng Đế chúng ta, hãy thờ phụng Ngài nơi bệ chân [a] Ngài. Ngài là Đấng thánh. 6 Mô-se và A-rôn là thầy tế lễ của Ngài, Sa-mu-ên cũng kêu cầu cùng Ngài. Họ kêu xin cùng Chúa, Ngài liền đáp lời họ. 7 Ngài phán với họ trong trụ mây. Họ giữ các qui tắc và luật lệ Ngài ban cho. 8 Lạy Chúa là Thượng Đế chúng tôi, Ngài đáp lời họ. Ngài cho họ thấy Ngài là Đấng hay tha thứ, nhưng sửa trị xứng đáng những hành vi sai lầm của họ. 9 Hãy tôn cao Chúa là Thượng Đế chúng ta, hãy cúi xuống thờ phụng Ngài trên núi thánh Ngài, vì Chúa, Thượng Đế chúng ta là Đấng thánh.

Thánh Thi 100 Khuyên mọi người hãy ca ngợi Chúa Bài ca cảm tạ.

100 Hỡi cả thế gian, hãy reo vang ca ngợi Chúa. 2 Hãy vui mừng phục vụ Chúa; hát xướng mà đến trước mặt Chúa. 3 Phải biết rằng Chúa là Thượng Đế. Ngài tạo nên chúng ta, chúng ta thuộc về Ngài. Chúng ta là dân Ngài, là bầy chiên Ngài chăn giữ. 4 Hãy hát cảm tạ mà đi vào thành thánh Ngài và bước vào sân đền Ngài bằng tiếng ca tôn vinh. Hãy cảm tạ và ca ngợi danh Ngài.

- 713 -


5

CHÚA rất nhân từ. Tình yêu Ngài còn đời đời, sự thành tín Ngài kéo dài vô tận.

Thánh Thi 101 Lời cam kết sẽ trị nước công minh Bài ca của Đa-vít.

101 Tôi sẽ hát ca về tình yêu và lòng công minh; Chúa ôi, tôi sẽ ca ngợi Ngài. 2 Tôi sẽ cố gắng sống cuộc đời toàn thiện. Bao giờ thì Ngài sẽ đến cùng tôi [a]? Tôi sẽ sống cuộc đời toàn thiện trong nhà tôi. 3 Tôi sẽ không nhìn điều gì xấu xa [b]. Những điều ấy sẽ không bám vào tôi. 4 Tôi không muốn liên can đến điều bất lương; Tôi không muốn dính vào việc ác. 5 Tôi sẽ ngăn chận kẻ nói lén người láng giềng mình, luôn cả những kẻ tự phụ và kiêu căng. Tôi sẽ tìm người đáng tin trong xứ để sống chung với tôi. Chỉ những ai có đời sống thanh liêm mới được làm tôi tớ cho tôi thôi. 7 Kẻ bất lương không được ngụ trong nhà tôi; bọn nói dối phải dang xa khỏi tôi. 8 Mỗi sáng tôi sẽ tiêu diệt mọi kẻ ác trong xứ. Tôi sẽ trừ khử mọi kẻ gian tà khỏi thành của Chúa. 6

Thánh Thi 102 Lời kêu xin cứu giúp Lời cầu nguyện của người đang khốn khổ khi người yếu đuối và bày tỏ lòng buồn bực cùng Chúa.

102 Lạy Chúa, xin nghe lời cầu nguyện tôi; nguyện lời kêu xin của tôi lên đến Ngài. 2 Xin đừng lánh mặt trong khi tôi gặp khốn khó. Xin hãy lưu ý đến tôi. Khi tôi kêu cầu, xin Ngài nghe tiếng tôi. 3 Đời tôi tan đi như mây khói, xương cốt tôi cháy như than đỏ. 4 Lòng tôi như cỏ bị cắt và phơi khô. Tôi quên cả ăn. 5 Vì quá sầu khổ, tôi chỉ còn da bọc xương. 6 Tôi như chim cú trong sa mạc, như chim cú sống trong các nơi đổ nát.

- 714 -


Tôi nằm thao thức. Tôi giống như chim lẻ bạn đậu trên mái nhà. 8 Suốt ngày kẻ thù sỉ nhục tôi; những kẻ chế giễu tôi nguyền rủa tôi [a]. 9 Thức ăn của tôi là điều buồn bã, nước mắt là thức uống. 10 Trong cơn giận, Chúa đã túm bắt và ném tôi thật xa. 7

Những ngày tháng của tôi sắp qua đi như bóng câu; Tôi héo như cỏ. 12 Nhưng Chúa ôi, Ngài cai trị muôn đời, uy danh Ngài còn đời nầy qua đời kia. 13 Ngài sẽ đến và thương xót Giê-ru-sa-lem, đã đến lúc Ngài tỏ lòng nhân từ cùng thành ấy; nay chính là thời điểm đó. 14 Các kẻ tôi tớ Chúa yêu thích các tảng đá của thành ấy, cả đến bụi bặm của nó nữa. 15 Các dân sẽ kính sợ danh Chúa, các vua trên đất sẽ tôn trọng Ngài. 16 Chúa sẽ xây lại Giê-ru-sa-lem; người ta sẽ nhìn thấy vinh hiển Ngài ở đó. 17 Ngài sẽ đáp lời cầu nguyện của kẻ khốn cùng, và không từ chối lời khẩn cầu của họ. 18 Hãy viết những điều nầy để thế hệ mai sau ca ngợi Chúa. 19 Từ nơi thánh Ngài trên cao Chúa trông xuống; từ thiên đàng Ngài nhìn xuống đất. 20 Ngài nghe tiếng than vãn của các tù nhân, Ngài giải thoát những kẻ bị kêu án tử hình. 11

Để người ta sẽ rao truyền danh Chúa tại Giê-ru-sa-lem; lời ca ngợi Ngài sẽ được nghe ở đó. 22 Các dân sẽ cùng họp nhau, các nước sẽ phục vụ Ngài. 21

Chúa khiến tôi chán sống; Ngài đã cắt ngắn đời tôi. 24 Cho nên tôi thưa, “Lạy Chúa tôi ôi, xin đừng cất mạng tôi nửa chừng. Các năm Chúa còn mãi mãi. 25 Thuở xưa Chúa dựng nên trái đất, bàn tay Ngài làm ra các bầu trời. 26 Trời đất sẽ tiêu tan, nhưng Chúa sẽ tồn tại mãi. Trời đất sẽ mòn cũ như áo quần, Ngài sẽ thay và ném bỏ chúng đi như quần áo. 27 Nhưng Chúa không bao giờ thay đổi, các năm tháng CHÚA không hề chấm dứt. 23

- 715 -


28

Con cái chúng tôi sẽ sống trong sự hiện diện của Ngài, và cháu chắt chúng tôi sẽ được bình an trước mặt Ngài.”

Thánh Thi 103 Ca ngợi Chúa của tình yêu Bài ca của Đa-vít.

103 Linh hồn ta ơi, hãy ca ngợi Chúa; toàn thân ta ơi, hãy ca tụng danh thánh Ngài. 2 Linh hồn ta ơi, hãy ca ngợi Chúa, đừng quên sự nhân từ Ngài. 3 Ngài tha thứ mọi tội lỗi tôi, chữa lành mọi bệnh tật tôi. 4 Ngài cứu tôi khỏi mồ mả, Ngài lấy tình yêu và lòng thương xót làm mão triều đội cho tôi. 5 Ngài ban cho tôi mọi điều tốt lành, và làm tôi trẻ lại như chim phượng hoàng. 6 Chúa làm điều phải lẽ và công bằng cho những kẻ bị ức hiếp. 7 Ngài cho Mô-se biết đường lối Ngài và cho Ít-ra-en biết việc làm của Ngài. 8 Chúa đầy lòng thương xót và nhân từ. Ngài chậm giận, giàu tình yêu. 9 Không phải lúc nào Ngài cũng luôn luôn bắt tội chúng ta, Ngài không căm giận mãi. 10 Chúa không trừng phạt chúng tôi xứng với tội lỗi chúng tôi; không báo trả chúng tôi đáng với sự gian ác chúng tôi. 11 Hễ các từng trời cao hơn đất bao nhiêu, thì tình yêu Ngài dành cho kẻ kính sợ Ngài cũng lớn bấy nhiêu. 12 Phương đông xa phương tây bao nhiêu, thì Ngài cũng mang tội lỗi xa khỏi chúng tôi bấy nhiêu. Chúa tỏ lòng nhân từ đối cùng những ai kính sợ Ngài, như cha tỏ lòng nhân từ cùng con cái mình. 14 Ngài biết chúng tôi được tạo nên như thế nào; Ngài nhớ rằng chúng tôi chỉ là bụi đất. 15 Đời người giống như cỏ; Nó trổ hoa trong đồng. 16 Gió thổi, hoa bay mất, không còn để lại dấu tích. 17 Nhưng tình yêu Chúa dành cho những kẻ kính sợ Ngài còn đời đời, và lòng nhân từ Ngài kéo dài đến con cháu họ 18 là những người giữ giao ước Ngài và vâng theo mệnh lệnh Ngài. 19 Chúa đặt ngôi Ngài trên trời, nước Ngài quản trị mọi loài. 13

- 716 -


Hỡi các thiên sứ Ngài, hãy ca ngợi Ngài. Các ngươi là những chiến sĩ bạo dạn, làm theo lời phán và vâng theo mệnh lệnh Ngài. 21 Hỡi các đoàn quân của Chúa [a] là các tôi tớ Chúa làm theo ý muốn Chúa, hãy ca ngợi Ngài; Các ngươi là tôi tớ Chúa, hãy làm theo ý muốn Ngài. 22 Mọi vật Chúa dựng nên hãy ca ngợi Ngài bất cứ chỗ nào Ngài cai trị. Linh hồn ta ơi, hãy ca ngợi Chúa. 20

Thánh Thi 104 Ca ngợi Thượng Đế, Đấng Tạo Hóa 104 Linh hồn ta ơi, hãy ca ngợi Chúa. Lạy Chúa là Thượng Đế, Ngài rất cao cả. Ngài mặc vinh hiển và oai nghi; 2 áo Ngài là ánh sáng. Ngài giăng bầu trời ra như cái lều. 3 Xây phòng Ngài trên các đám mây [a]. Ngài dùng mây làm xe, và lượn trên cánh gió. 4 Ngài dùng gió làm sứ giả mình, ngọn lửa làm tôi tớ mình. 5 Chúa xây trái đất trên nền nó, nó sẽ không bị di động. 6 Ngài phủ trái đất như chiếc áo; nước dâng ngập các ngọn núi cao. 7 Nhưng khi Chúa ra lệnh, nó liền hạ xuống. Khi Ngài gầm thét, nó vội vàng trôi mất. 8 Nước chảy qua núi non; rồi xuống thung lũng, đến nơi Ngài định cho nó. 9 Ngài đặt ranh giới biển, không cho nó vượt qua, để nước không còn làm ngập lụt đất nữa. Ngài khiến suối đổ vào các sông ngòi; chúng chảy giữa các núi non. 11 Suối cấp thức uống cho muông thú; các lừa hoang đến đó uống nước. 12 Chim muông làm tổ gần nước; hót thánh thót giữa các cành cây. 13 Từ trời Ngài tưới các núi non. Đất đầy dẫy những thành quả của công trình Ngài. 14 Ngài khiến cỏ mọc lên cho súc vật, và rau cỏ cho con người. Ngài khiến đất sinh ra thực phẩm. 15 Ngài cho chúng tôi rượu ngon khiến chúng tôi vui vẻ, và dầu ô liu làm mặt chúng tôi sáng rỡ. Ngài ban bánh mì để chúng tôi thêm sức. 10

- 717 -


Cây cối của Chúa được tưới đầy đủ; đó là các cây hương nam của Li-băng mà Ngài đã trồng. 17 Chim trời làm tổ trên đó; con cò xây tổ trong các nhành thông. 18 Núi cao là lãnh thổ của dê rừng. Các khe đá là nơi trú ẩn của con rái đồng [b]. 16

Ngài dùng mặt trăng để định ngày tháng, mặt trời luôn biết giờ lặn. 20 Chúa khiến nó tối lại, thì hóa ra đêm. Bấy giờ các thú rừng đi ra. 21 Sư tử gầm thét khi kiếm mồi. Chúng trông đợi Thượng Đế ban thức ăn. 22 Khi mặt trời mọc lên, chúng trở về hang động để nghỉ ngơi. 23 Rồi con người đi ra làm việc, mãi đến chiều tà. 19

Lạy Chúa, Ngài đã làm thật nhiều điều; nhờ sự khôn ngoan Ngài dựng nên tất cả mọi thứ. Đất đầy dẫy các vật mà Ngài tạo nên. 25 Hãy nhìn đại dương to rộng, cùng vô số sinh vật lớn nhỏ sống trong đó. 26 Tàu bè đi lại trên biển, cũng có Lê-vi-a-than [c] mà Ngài khiến nô đùa trong đó. 24

Tất cả đều trông đợi Ngài ban thức ăn theo giờ. Khi Ngài ban thức ăn thì chúng nhận lấy. Khi Ngài xoè tay ra, chúng được no nê thức ăn ngon. 29 Khi Ngài quay đi, chúng đâm ra hoảng sợ. Ngài lấy hơi thở [d] chúng, chúng dãy chết và trở về bụi đất. 30 Khi Ngài hà hơi sống trên chúng, chúng được dựng nên, Ngài làm đất trở nên mới. 31 Nguyện vinh hiển của Chúa còn mãi mãi. Nguyện Chúa vui hưởng điều Ngài sáng tạo. 32 Ngài nhìn đất, đất liền rung chuyển, Ngài sờ vào núi, núi liền bốc khói. 27 28

Tôi sẽ hát xướng cho Chúa suốt đời tôi; Tôi còn sống bao lâu, thì tôi sẽ ca ngợi Thượng Đế tôi bấy lâu. 34 Nguyện tư tưởng tôi đẹp lòng Ngài; Tôi vui mừng trong Chúa. 35 Nguyện tội nhân bị diệt khỏi đất, nguyện kẻ ác không còn tồn tại. Linh hồn ta ơi, hãy ca ngợi Chúa. 33

Hãy ca ngợi Chúa.

- 718 -


Thánh Thi 105 Tình yêu Thượng Đế dành cho Ít-ra-en 105 Hãy cảm tạ Chúa và rao truyền danh Ngài. Hãy thuật cho các quốc gia những việc Ngài làm. 2 Hãy hát xướng; hãy ca ngợi Ngài. Hãy thuật lại các việc diệu kỳ của Ngài. 3 Hãy vui mừng trong sự kiêu hãnh; những người tìm kiếm Chúa hãy vui mừng. 4 Hãy tìm kiếm nơi Chúa và sức mạnh của Ngài; hãy luôn luôn đến cùng Ngài để xin cứu giúp. 5 Hãy nhớ lại các việc diệu kỳ Ngài đã làm; những việc lạ lùng và các phán quyết của miệng Ngài. 6 Các ngươi là dòng dõi của tôi tớ Ngài là Áp-ra-ham, con cháu Gia-cốp, dân được lựa chọn của Ngài. 7 Chúa là Thượng Đế chúng ta. Ngài cai trị toàn thế giới. 8 Ngài sẽ mãi mãi tôn trọng giao ước Ngài, và luôn luôn giữ lời hứa. 9 Ngài giữ giao ước đã lập với Áp-ra-ham và lời hứa Ngài cùng Y-sác. 10 Ngài xác nhận giao ước cho Gia-cốp; lập thành giao ước với Ít-ra-en cho đến đời đời. 11 Chúa phán, “Ta sẽ cho ngươi đất Ca-na-an, xứ đó sẽ thuộc về các ngươi.” 12 Khi Ngài tuyên bố những điều ấy thì dân cư của Ngài hãy còn ít oi. Họ là kiều dân trong xứ. 13 Họ lưu lạc từ nước nầy sang nước khác, từ vương quốc nầy đến vương quốc nọ. 14 Tuy nhiên Chúa không cho ai ức hiếp họ; Ngài cảnh cáo các vua không được làm hại họ. 15 Ngài bảo, “Chớ có đụng đến dân được chọn lựa của ta, không được làm hại các nhà tiên tri ta.” 16 Thượng Đế đưa thời kỳ đói kém đến trong xứ, Ngài tiêu hủy mọi nguồn thực phẩm. 17 Sau đó Ngài sai một người đi trước họ tức Giô-xép, bị bán làm nô lệ. 18 Chúng xiềng chân người và đeo gông vào cổ người. 19 Cho đến thời kỳ mà người đã tiên đoán xảy đến, lời của Chúa chứng tỏ Giô-xép nói đúng. 20 Vua Ai-cập cho gọi Giô-xép đến và thả người ra; nhà lãnh đạo quần chúng phóng thích người. 21 Vua đặt người cai quản cả cung vua; Giô-xép quản trị mọi tài sản vua. 22 Người có quyền sai khiến các hoàng thân. Người dạy khôn cho các bậc lão thành. 23 Sau đó cha người là Ít-ra-en đến Ai-cập; Gia-cốp trú ngụ tại xứ Cham.

- 719 -


Chúa khiến dân Ngài sinh sôi nẩy nở, làm cho họ lớn mạnh hơn kẻ thù họ. 25 Ngài làm cho người Ai-cập ghét dân Ngài để họ nghịch các tôi tớ Ngài. 26 Rồi Ngài sai tôi tớ Ngài là Mô-se, và A-rôn là người Ngài đã chọn. 27 Họ làm các dấu lạ giữa người Ai-cập và thực hiện các phép lạ trong xứ Cham. 28 Chúa sai bóng tối đến khiến xứ tối mịt, nhưng người Ai-cập chống nghịch lời Ngài. 29 Chúa liền biến nước ra máu khiến cá đều chết. 30 Rồi xứ bị ếch nhái tràn ngập, thậm chí tràn vào phòng ngủ của các quan cai trị. 31 Chúa phán thì ruồi nhặng bay đến, muỗi mòng tràn lan khắp xứ. 32 Ngài khiến mưa đá rơi xuống thay vì mưa và sai sấm vang chớp loè khắp xứ. 33 Ngài tàn phá các dây nho và cây vả họ, Ngài tiêu diệt cây cối khắp xứ. 34 Ngài phán thì cào cào liền bay tới ào ạt nhiều vô kể. 35 Chúng ăn sạch các cây xanh trong xứ cùng những gì do đất họ sinh ra. 36 Chúa cũng giết các con trai đầu lòng trong xứ, tức con trưởng nam của mỗi gia đình. 37 Sau đó Ngài dẫn dân Ngài ra khỏi Ai-cập, họ mang theo bạc và vàng, không một ai trong vòng họ vấp té hay bị bỏ lại. 38 Dân Ai-cập quá mừng khi dân sự Ngài ra đi, vì người Ai-cập rất sợ họ. 39 Chúa dùng đám mây làm bóng mát cho họ, và soi sáng bóng đêm bằng ánh lửa. 40 Họ xin, Ngài liền sai chim cút đến và cho họ ăn no nê bánh từ trời. 41 Chúa chẻ tảng đá, nước liền phun ra; chảy như sông giữa sa mạc. 24

Chúa nhớ lại lời hứa thánh mà Ngài lập với Áp-ra-ham tôi tớ Ngài. Thượng Đế mang dân Ngài ra trong niềm hân hoan, là dân chọn lựa của Ngài trong tiếng ca hát. 44 Ngài cấp cho họ đất đai của các dân tộc khác, họ nhận lãnh công lao của kẻ khác. 42 43

45

Ngài làm như thế để họ giữ mệnh lệnh Ngài và vâng theo lời dạy của Ngài.

Hãy ca ngợi Chúa!

- 720 -


Thánh Thi 106 Dân Ít-ra-en không tin cậy Thượng Đế 106 Hãy ca ngợi Chúa! Hãy cảm tạ Chúa vì lòng nhân từ của Ngài. Tình yêu Ngài còn mãi mãi. 2 Không ai có thể thuật hết các việc quyền năng Chúa đã làm. Không ai có thể hát hết lời ca ngợi Ngài. 3 Phúc cho ai làm điều công chính, và kẻ luôn làm điều phải. Chúa ôi, xin nhớ đến tôi khi tỏ lòng nhân từ cùng dân tộc Ngài; giúp tôi khi Ngài cứu họ. 5 Xin hãy cho tôi thấy sự sung túc của dân Ngài lựa chọn. Xin cho tôi cùng chung vui với dân Ngài; cùng nhập chung với dân Chúa mà ca ngợi Ngài. 4

Chúng tôi đã phạm tội giống như tổ tiên chúng tôi trước kia. Chúng tôi làm quấy, chúng tôi gian ác. 7 Trong xứ Ai-cập, tổ tiên chúng tôi không hiểu được các phép lạ Chúa. Họ chẳng ghi nhớ lòng yêu thương bao la của Ngài, trái lại họ chống nghịch Ngài tại Biển Sậy [a]. 6

Nhưng vì danh Ngài, Chúa đã cứu họ, để tỏ ra quyền năng lớn lao của Ngài. 9 Ngài ra lệnh cho biển Sậy, nó liền cạn khô. Ngài dẫn họ qua biển sâu như thể bước đi trong sa mạc. 10 Ngài cứu họ khỏi những kẻ ghét họ, giải thoát họ khỏi tay kẻ thù, 11 Ngài khiến nước phủ ngập lên kẻ thù họ. Không một ai thoát chết. 8

Bấy giờ họ tin điều Chúa phán, và ca ngợi Ngài. 13 Nhưng rồi họ vội vàng quên điều Ngài làm; không chờ đợi huấn lệnh Chúa. 14 Họ thèm muốn đang khi ở trong sa mạc, thách thức Ngài tại đó. 15 Ngài cho họ điều họ ao ước, nhưng sai dịch lệ đến với họ. 16 Dân chúng trong doanh trại đố kỵ với Mô-se và A-rôn, thầy tế lễ thánh của Chúa. 17 Đất liền nứt ra nuốt Đa-than và chôn sống bè lũ A-bi-ram. 18 Một ngọn lửa thiêu đốt những kẻ đi theo chúng, hỏa thiêu bọn gian ác. 12

- 721 -


Dân chúng tạc một bò con vàng tại núi Hô-rếp, bái lạy một tượng đúc, 20 Họ đánh đổi Thượng Đế vinh hiển của mình lấy hình tượng con bò ăn cỏ. 21 Họ quên Thượng Đế là Đấng đã giải cứu và làm những phép lạ trong xứ Cham [b], 22 Đấng đã làm nhiều phép lạ ở Ai-cập và những việc diệu kỳ nơi biển Sậy. 19

23

Nên Thượng Đế nhất quyết tiêu diệt họ. Nhưng Mô-se, người được Chúa chọn, đứng trước mặt Ngài, cản không để cơn thịnh nộ Ngài tiêu diệt họ.

Họ không chịu đi vào xứ Ca-na-an đẹp đẽ; không tin lời hứa của Ngài. 25 Trong lều trại họ oán trách và không vâng lời Chúa. 26 Nên Ngài thề là họ sẽ chết trong sa mạc. 27 Ngài phán rằng con cháu họ sẽ bị các dân khác đánh bại, và rằng họ sẽ bị tản lạc trong các nước khác. 24

Họ họp nhau bái lạy thần Ba-anh Phê-ô, và ăn đồ đã được cúng cho các người chết [c]. 29 Chúa nổi giận cùng họ, nên nhiều người mắc bệnh hiểm nghèo. 30 Nhưng Phi-nê-a đứng lên và can thiệp [d]. 31 Thượng Đế xem đó là việc làm phải lẽ, sẽ được mãi mãi ghi nhớ. 28

Họ cũng chọc Ngài giận ở các suối nước Mê-ri-ba, và vì họ mà Mô-se lãnh hậu quả không hay. 33 Dân chúng phản nghịch lại Thánh Linh của Chúa, khiến Mô-se nổi giận. 32

Dân chúng cũng không tiêu diệt các dân khác như Chúa dặn bảo. Nhưng lại sống chung chạ với chúng và học đòi theo phong tục của các dân ấy. 36 Thần tượng của các dân khác trở thành cạm bẫy cho họ. 37 Đến nỗi họ giết con trai con gái mình làm của lễ hi sinh cho các ác quỉ. 38 Họ giết trẻ con vô tội, tức chính con trai con gái mình để làm sinh tế cho các thần tượng xứ Ca-na-an. Cho nên đất trở nên dơ bẩn vì huyết chúng. 39 Họ tự làm cho mình dơ bẩn vì các hành động của họ; Họ không trung thành bằng các hành động của họ. 40 Nên Ngài tức giận và chán ngán con dân Ngài. 41 Ngài trao họ cho các quốc gia khác, cho phép kẻ thù cai trị họ. 42 Kẻ thù áp bức và thống trị họ. 34 35

- 722 -


Nhiều lần Chúa giải cứu dân Ngài, nhưng họ tiếp tục phản nghịch Ngài. Càng suy sụp trong tội lỗi. 44 Nhưng khi nghe tiếng kêu than, Ngài thấy cảnh khốn đốn họ. 45 Ngài nhớ lại giao ước với họ và an ủi họ do lòng yêu thương lớn lao của Ngài. 46 Ngài khiến các kẻ áp bức họ cũng thương hại họ. 47 Lạy Chúa là Thượng Đế chúng tôi, xin hãy cứu và mang chúng tôi trở về từ các nước khác. Chúng tôi sẽ cảm tạ Ngài và vui mừng ca ngợi Ngài. 48 Hãy ca ngợi Chúa, là Thượng Đế của Ít-ra-en. Đấng sẽ còn mãi mãi. 43

Mọi người hãy nói, “A-men!” Hãy ca ngợi CHÚA!

Thánh Thi 107 Quyển 5 (Thi thiên 107-150) Thượng Đế giải cứu khỏi nhiều gian nguy 107 Cảm tạ Chúa vì Ngài nhân từ. Tình yêu Ngài còn đời đời. 2 Hỡi những ai được Chúa cứu hãy ca ngợi như thế. Ngài đã giải cứu họ khỏi tay kẻ thù 3 và đã tập họp họ lại từ các quốc gia, từ Đông đến Tây, từ Bắc đến Nam [a]. Một số đã lưu lạc trong sa mạc, không tìm được thành nào để sống. 5 Họ bị đói khát, chán nản cùng cực. 6 Trong cơn khốn đốn họ kêu la cùng Thượng Đế, thì Ngài giải thoát họ khỏi mọi cảnh khốn khổ. 7 Ngài dẫn họ thẳng đến thành có thể ở được. 8 Họ phải cảm tạ Chúa vì tình yêu và những phép lạ Ngài làm cho dân Ngài. 9 Ngài cho họ đã khát và no đủ. 4

Một số ngồi trong cảnh ảm đạm tăm tối; họ đang đau khổ trong xiềng xích. 11 Họ đã chống báng lời phán của Thượng Đế, không thèm nghe lời khuyên của Đấng Chí Cao. 12 Do đó Ngài bắt họ lao khổ để hạ tính tự phụ của họ, không ai giúp đỡ họ. 13 Trong cơn khốn đốn, họ kêu xin cùng Chúa, Ngài liền giải cứu họ ra khỏi cảnh hiểm nghèo. 10

- 723 -


Ngài mang họ ra khỏi cảnh ảm đạm đen tối, bẻ xiềng xích họ. 15 Họ phải cảm tạ Chúa vì lòng yêu thương và các phép lạ Ngài làm cho dân Ngài. 16 Ngài phá các cổng đồng và cắt song sắt. 14

Một số ngu dại chống nghịch Thượng Đế, mang lấy khốn khổ do hậu quả của việc ác mình làm. 18 Họ không thiết ăn uống đến nỗi suýt chết. 19 Trong cơn khốn đốn họ kêu la cùng Chúa, Ngài liền giải cứu họ ra khỏi cảnh khốn khổ. 20 Ngài ra huấn lệnh và chữa lành, cứu họ khỏi chết. 21 Họ phải cảm tạ Chúa vì tình yêu và các phép lạ Ngài làm cho dân Ngài. 22 Họ phải dâng của lễ cảm tạ Ngài. Hớn hở thuật lại những việc tay Chúa làm. 17

Có kẻ dùng tàu biển buôn bán trên các đại dương. Họ thấy những điều Chúa có thể làm, những phép lạ Ngài thực hiện trong biển sâu. 25 Chúa phán thì giông tố nổi lên, thổi sóng cuồn cuộn. 26 Tàu bè bị chòng chành, khi trồi lên cao chót vót, lúc sụp xuống nơi thẳm sâu. Trận bão dữ dội đến nỗi họ hết hi vọng. 27 Họ đi lảo đảo và ngã té như người say. Họ lúng túng không biết làm sao. 28 Trong cơn khốn khổ họ kêu la cùng Chúa, Ngài liền giải cứu họ khỏi nỗi hiểm nguy. 29 Ngài khiến bão lặng và dẹp yên các lượn sóng. 30 Họ vui mừng vì bão yên. Thượng Đế hướng dẫn họ đến bến mà họ muốn đi. 31 Họ phải cảm tạ Chúa về tình yêu và các phép lạ Ngài làm cho dân Ngài. 32 Họ phải ca ngợi sự cao cả Ngài trong hội các dân; họ phải ca ngợi Ngài trong buổi hội các bô lão. 23 24

Ngài biến sông ngòi ra sa mạc, và suối nước ra đất khô. 34 Ngài biến đất màu mỡ ra đất mặn vì dân cư sống ở đó gian ác. 35 Chúa biến sa mạc ra ao hồ, và đất khô ra suối nước. 36 Ngài cho kẻ đói khổ lập nghiệp tại đó để họ xây thành định cư. 37 Họ gieo giống trong đồng ruộng và vườn nho, họ được trúng mùa. 38 Thượng Đế ban phước cho họ, dân số họ gia tăng. Gia súc cũng không sụt giảm. 33

- 724 -


Nhưng vì thiên tai, khốn khổ và buồn thảm, dân số gia đình họ sút giảm và suy yếu. 40 Chúa cho thấy Ngài bất bình với các nhà lãnh đạo họ cho nên Ngài bắt họ lưu lạc trong sa mạc không lối đi. 41 Nhưng Ngài mang kẻ nghèo khó ra khỏi cảnh khổ, khiến gia đình họ gia tăng như bầy cừu. 42 Những người ngay thẳng vui vẻ khi nhìn thấy điều nầy, nhưng kẻ ác làm thinh. 43 Kẻ nào khôn ngoan sẽ ghi nhớ việc đó và suy gẫm về tình yêu của Chúa. 39

Thánh Thi 108 Lời cầu xin được chiến thắng Bài ca ngợi của Đa-vít.

108 Lạy Thượng Đế, lòng tôi ổn định. Linh hồn tôi sẽ hát ca ngợi Chúa. 2 Hỡi đờn sắt và đờn cầm, hãy tỉnh giấc! Tôi sẽ đánh thức bình minh dậy. 3 Chúa ôi, tôi sẽ ca ngợi Ngài giữa các dân; tôn vinh Ngài trong các nước. 4 Tình yêu lớn lao của Ngài vượt trên các từng trời, chân lý Ngài cao vút đến mây xanh. 5 Lạy Thượng Đế, nguyền Ngài được tôn cao hơn các từng trời. Nguyện vinh quang Ngài lan tràn khắp đất. 6 Xin hãy trả lời chúng tôi qua quyền năng Ngài, để dân mà Chúa yêu được giải cứu. Từ đền thánh Ngài Thượng Đế phán, “Sau khi thắng, ta sẽ chia Sê-chem và đo thung lũng Xu-cốt. 8 Ghi-lê-át và Ma-na-xe đều thuộc về ta. Ép-ra-im là mũ sắt ta. Giu-đa cầm cây trượng vàng ta. 9 Mô-áp là chậu ta rửa ráy. Ta ném giày dép ta ở Ê-đôm [a]. Ta reo hò đắc thắng trên Phi-li-tin.” 7

Ai sẽ đưa tôi đến thành có vách kiên cố? Ai sẽ dẫn tôi đến Ê-đôm? 11 Chính là Thượng Đế, Đấng đã từ bỏ chúng tôi; Ngài không còn ra trận với đạo quân chúng tôi nữa. 12 Xin hãy giúp chúng tôi đánh quân thù. Sự giúp đỡ loài người thật vô dụng, 13 nhưng nhờ Thượng Đế giúp, chúng tôi có thể chiến thắng quân thù. Ngài sẽ đánh bại kẻ thù chúng tôi. 10

- 725 -


Thánh Thi 109 Lời cầu nguyện chống kẻ thù Soạn cho nhạc trưởng. Bài ca của Đa-vít.

109 Thượng Đế ôi, tôi ca ngợi Ngài. Xin đừng im lặng. 2 Bọn gian ác và dối trá phao vu về tôi; chúng đặt điều nói dối về tôi. 3 Chúng đồn đãi tiếng xấu cho tôi và vô cớ tấn công tôi. 4 Dù rằng tôi yêu thương và cầu nguyện cho chúng, chúng vẫn công kích tôi. 5 Chúng lấy xấu báo tốt, lấy dữ trả lành. Tôi yêu thương chúng, nhưng chúng ghét tôi. Chúng nói về tôi rằng, “Hãy kiếm một tên gian ác chống lại nó, hãy cho một kẻ tố cáo nó. 7 Khi nó bị phân xử, mong cho nó bị xử có tội, nguyện lời cầu nguyện của nó phô bày tội lỗi nó ra. 8 Nguyện đời nó bị rút ngắn, nguyện không ai thay thế địa vị lãnh đạo của nó. 9 Nguyện con cái nó thành mồ côi và vợ nó thành goá bụa. 10 Nguyện con cái nó thất thểu đi ăn xin. Nguyện chúng bị đuổi khỏi chốn hoang tàn mà chúng đang trú ngụ. 11 Nguyện chủ nợ tịch thu hết các tài sản nó, nguyện kẻ xa lạ ăn cắp hết những gì nó làm ra. 12 Nguyện không có ai thương nó hay tội nghiệp cho đàn con côi cút của nó. 13 Nguyện dòng dõi nó chết không còn lưu lại kỷ niệm cho hậu thế. 14 Chúa ôi, xin nhớ lại tổ tiên chúng nó gian ác ra sao, xin đừng bôi xóa tội lỗi của mẹ nó. 15 Chúa ôi, xin luôn nhớ tội lỗi chúng nó. Xin Ngài khiến chúng nó bị lãng quên hoàn toàn. 16 Nó không hề nghĩ đến chuyện làm ơn. Nó làm hại người nghèo, kẻ túng thiếu và kẻ đau buồn cho đến khi họ gần chết. 17 Nó thích nguyền rủa người khác, nguyện những lời trù ẻo đó lại rơi trên nó. Nó không thích chúc lành cho kẻ khác, nên nguyện nó không nhận được ơn lành nào. 18 Nó nguyền rủa người khác hằng ngày như mặc áo. Nguyền rủa kẻ khác là bản tính của nó, giống như uống nước hay dùng dầu thoa thân thể. 19 Nguyện những lời nguyền rủa phủ nó như áo xống, quấn nó như cái nịt.” 6

20

Nguyện Chúa đối như vậy cho kẻ tố cáo tôi, tức những kẻ bêu xấu tôi.

- 726 -


Nhưng, Chúa ôi, xin tỏ lòng nhân từ cùng tôi, để kẻ khác biết rằng Ngài nhân hậu. Vì tình yêu Chúa rất tốt lành, xin hãy cứu tôi. 22 Tôi nghèo khổ, khốn đốn và buồn thảm. 23 Tôi hấp hối như bóng chiều ngã dài; bị xua đuổi như cào cào. 24 Đầu gối tôi run rẩy vì thiếu ăn, tôi trở nên ốm yếu. 25 Kẻ thù tôi sỉ nhục tôi; chúng nhìn tôi lắc đầu. 26 Lạy Chúa là Thượng Đế tôi, xin giúp đỡ tôi; vì Ngài nhân ái, xin hãy cứu tôi. 27 Bấy giờ chúng sẽ biết rằng Ngài làm việc ấy; và hiểu rõ rằng chính quyền năng Chúa đã giúp đỡ tôi. 28 Chúng nguyền rủa tôi, nhưng Ngài ban phước cho tôi. Chúng công kích tôi, nhưng sẽ bị hổ nhục. Bấy giờ, tôi là kẻ tôi tớ Chúa sẽ vui mừng. 29 Nguyện những kẻ tố cáo tôi bị hổ nhục và bị nhuốc nhơ bao trùm như cái áo. 30 Tôi sẽ dùng môi miệng ca ngợi Chúa; tôi sẽ ca tụng Ngài trước mặt mọi người. 31 Ngài bênh vực kẻ cô thế, cứu họ khỏi tay kẻ tố cáo họ. 21

Thánh Thi 110 Chúa chỉ định một vua Bài ca của Đa-vít.

110 Chúa phán cùng chúa tôi [a], “Hãy ngồi bên phải ta cho đến khi ta đặt mọi kẻ thù con dưới quyền quản trị của con.” Chúa sẽ nới rộng nước con quá ranh giới Giê-ru-sa-lem, rồi con sẽ cai trị kẻ thù con. 3 Trong ngày chiến trận, dân tộc con sẽ nhập với con. Từ khi mới sinh con đã được mặc đức thánh thiện; Con tươi mát như đứa trẻ [b]. 2

4

Chúa đã hứa và sẽ không đổi ý rằng, “Con là thầy tế lễ đời đời, giống như Mên-chi-xê-đéc.”

Chúa sẽ ở bên con để giúp con. Khi nổi giận, Ngài sẽ đè bẹp các vua. 6 Ngài sẽ xử đoán các nước, làm khắp nơi đầy xác chết; Ngài sẽ đánh bại các lãnh tụ của mọi quốc gia trên thế giới. 5

- 727 -


7

Vua sẽ uống nước khe đang khi đi đường. Rồi người ngước đầu lên và trở nên mạnh mẽ

Thánh Thi 111 Cảm tạ sự nhân từ Chúa 111 [a] Ca ngợi Chúa! Tôi sẽ hết lòng cảm tạ Chúa trong buổi họp của các người ngay thẳng. 2 Chúa đã làm những việc lớn lao; hơn mọi điều chúng ta cầu xin. 3 Điều Chúa làm thật hiển vinh và rực rỡ, lòng nhân ái Ngài còn đến đời đời. 4 Ngài nổi danh qua các phép lạ Ngài làm. Chúa đầy lòng nhân từ và thương xót. 5 Ngài ban thức ăn cho kẻ kính sợ Ngài. Ngài mãi mãi ghi nhớ giao ước mình. 6 Ngài chứng tỏ quyền năng khi ban đất của các nước khác cho dân Ngài. 7 Mọi điều Ngài làm đều tốt đẹp và công bằng; Các huấn lệnh Ngài thật đáng tin cậy. 8 Các huấn lệnh ấy sẽ còn đời đời, vì chúng đều được thực hiện trong sự thành tín và chân thật. 9 Chúa giải phóng dân Ngài. Ngài lập giao ước đời đời. Ngài là Đấng thánh và kỳ diệu. 10 Kính sợ Chúa là khởi điểm của khôn ngoan; ai theo vâng theo huấn lệnh Ngài có tri thức lớn. Ngài đáng được ca ngợi muôn đời.

Thánh Thi 112 Người thanh liêm sẽ được phước 112 [a] Hãy ca ngợi Chúa! Phúc cho người kính sợ Chúa, ao ước làm theo ý muốn Ngài. 2 Dòng dõi người sẽ cường thịnh trong xứ; con cháu của người thanh liêm sẽ được phước. 3 Nhà người sẽ đầy dẫy của cải, và sự nhân từ người sẽ còn mãi. 4 Ánh sáng chiếu trong tối cho những người thanh liêm, và cho những ai có lòng phúc hậu, nhân từ và ngay thẳng. 5 Con người nên tỏ ra nhân từ và rộng rãi, phải chăng trong công việc. 6 Vì họ sẽ không bao giờ bị lay chuyển. Người ta sẽ luôn ghi nhớ người ngay thẳng. 7 Họ không sợ tin dữ; lòng họ ổn định vì họ tin cậy nơi Chúa.

- 728 -


Họ rất tin tưởng nên không sợ hãi gì. Họ sẽ chứng kiến sự thất bại của kẻ thù. 9 Họ bố thí rộng rãi cho kẻ nghèo. Lòng nhân từ của họ sẽ còn mãi. Họ sẽ được tôn trọng trong chiến thắng. 10 Kẻ ác sẽ thấy điều ấy và đâm tức giận. Chúng sẽ tức tối nghiến răng rồi biến mất. Những ao ước của kẻ ác sẽ chẳng đi đến đâu. 8

Thánh Thi 113 Ca ngợi lòng nhân từ của Chúa 113 Hãy ca ngợi Chúa! Hỡi các tôi tớ CHÚA, hãy ca ngợi danh Ngài. 2 Danh Chúa đáng được tán tụng từ nay cho đến mãi mãi. 3 Danh Chúa đáng được ca ngợi từ phía mặt trời mọc cho đến phía mặt trời lặn. 4 Chúa được suy tôn trong các quốc gia; vinh quang Ngài lên đến tận các từng trời. 5 Không ai giống như Chúa là Thượng Đế chúng ta, Đấng cai trị từ thiên đàng, 6 Đấng nhìn xuống các từng trời và đất. 7 Chúa nâng người nghèo khổ lên khỏi đất đen, đem kẻ cô thế ra khỏi bụi tro. 8 Ngài đặt họ ngồi với các kẻ quyền quí, với các lãnh tụ của dân Ngài. 9 Ngài khiến đàn bà hiếm muộn sinh con cái, được hớn hở làm mẹ. Hãy ca ngợi Thượng Đế!

Thánh Thi 114 Thượng Đế mang dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập 114 Khi dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập, nhà Gia-cốp rời bỏ một xứ ngoại quốc. 2 Giu-đa trở thành nơi thánh cho Chúa; Ít-ra-en trở nên đất Ngài cai trị. 3 Hồng hải nhìn xong liền bỏ chạy; sông Giô-đanh chảy lùi lại. 4 Núi nhún nhảy như dê đực, và đồi nhảy nhót như cừu non. Nầy biển, sao ngươi bỏ chạy? Nầy sông Giô-đanh, sao ngươi chảy lùi lại? 6 Nầy núi, sao các ngươi nhảy như dê đực? Còn đồi, sao các ngươi nhảy nhót như cừu non vậy? 5

- 729 -


Hỡi trái đất, hãy run sợ trước mặt Chúa, trước mặt Thượng Đế của Gia-cốp. 8 Ngài biến tảng đá ra ao nước, biến khối đá cứng ra suối nước. 7

Thánh Thi 115 Chỉ có một Thượng Đế chân thật mà thôi 115 Chúa ôi, vì tình yêu và sự thành tín Ngài, vinh hiển thuộc về Chúa, chứ không thuộc về chúng tôi! 2 Tại sao các dân hỏi, “Thượng Đế của chúng đâu rồi?” 3 Thượng Đế chúng tôi trên thiên đàng. Ngài làm điều Ngài thích. 4 Các tượng chạm của họ bằng bạc và bằng vàng, do tay người làm ra. 5 Chúng có miệng mà chẳng nói được. Có mắt chẳng thấy. 6 Có lỗ tai chẳng nghe. Có mũi chẳng ngửi được. 7 Có tay không sờ được. Có chân chẳng đi được. Cổ họng chẳng phát ra được tiếng nào. 8 Người nào tạc tượng cũng sẽ y như thế, còn ai tin tưởng vào các tượng ấy cũng vậy. Hỡi dòng họ Ít-ra-en, hãy tin cậy Thượng Đế. Ngài là Đấng cứu giúp và bảo vệ ngươi. 10 Hỡi gia đình A-rôn, hãy tin cậy Thượng Đế. Ngài là Đấng giúp đỡ và bảo vệ các ngươi. 11 Những ai tôn kính Thượng Đế hãy tin cậy Ngài. Vì Ngài là Đấng giúp đỡ và bảo vệ ngươi. 9

Chúa nhớ chúng ta và chúc phước cho chúng ta. Ngài sẽ ban phước cho dòng họ Ít-ra-en; Ngài sẽ ban phúc lành cho gia đình A-rôn. 13 Chúa sẽ ban ân phúc cho những ai tôn trọng Ngài, từ người lớn nhất cho đến người nhỏ nhất. 12

Nguyện Chúa ban cho ngươi thành công, nguyện Ngài giúp ngươi và con cái ngươi được may mắn. 15 Nguyện ngươi được phúc lành từ Chúa [a], Đấng tạo nên trời đất. 16 Trời thuộc về Chúa, nhưng Ngài ban đất cho dân Ngài. 17 Người chết không thể ca ngợi Chúa; kẻ nằm trong mồ mả im lặng. 18 Nhưng chúng tôi sẽ ca ngợi Chúa từ nay cho đến mãi mãi. 14

Hãy ca ngợi Chúa!

- 730 -


Thánh Thi 116 Tạ ơn Chúa vì thoát chết 116 Tôi yêu mến Chúa vì Ngài nghe tiếng kêu cứu của tôi. 2 Ngài để ý đến tôi, cho nên hễ tôi còn sống bao lâu thì tôi sẽ kêu xin Ngài bấy lâu. 3 Dây tử thần trói buộc tôi, và mối lo sợ về cái chết nắm giữ tôi. Tôi lo lắng và buồn bã. 4 Tôi liền kêu đến danh Chúa. Tôi thưa, “Chúa ôi, xin cứu tôi!” 5 Chúa rất nhân từ và làm điều phải; Thượng Đế chúng tôi đầy lòng thương xót. 6 Chúa trông chừng kẻ yếu thế; khi tôi bị cô thế thì Ngài liền cứu tôi. 7 Tôi tự nhủ, “Hãy yên tâm, vì Chúa sẽ lo cho ngươi.” 8 Lạy Chúa, Ngài đã cứu tôi khỏi chết. Lau nước mắt cho tôi; Giữ tôi khỏi bị thua thiệt. 9 Cho nên tôi sẽ cùng đi với Chúa trong đất người sống. 10

Tôi tin nên tôi nói, “Tôi hoàn toàn thất thế rồi.” 11 Trong cơn nguy biến tôi bảo, “Người nào cũng nói dối cả.” Tôi sẽ lấy gì đền đáp những ơn lành Chúa ban cho tôi? Tôi sẽ nâng chén cứu rỗi lên, rồi cầu nguyện cùng Chúa. 14 Tôi sẽ thực hiện lời tôi hứa với Chúa trước mặt dân của Ngài. 12 13

Sự chết của những kẻ theo Chúa rất quí báu trước mặt Ngài. Chúa ôi, tôi là tôi tớ Chúa; tôi là đầy tớ, con trai của kẻ nô lệ Ngài. Ngài đã giải thoát tôi khỏi xiềng xích. 17 Tôi sẽ dâng của lễ cảm tạ Ngài, tôi sẽ cầu nguyện cùng Chúa. 18 Tôi sẽ thực hiện lời tôi hứa cùng Chúa trước mặt dân Ngài, 19 trong sân đền Ngài ở Giê-ru-sa-lem. 15 16

Hãy ca ngợi Chúa!

Thánh Thi 117 Bài ca chúc tụng 117 Hỡi các nước, hãy ca ngợi Chúa. Hỡi các dân hãy chúc tụng Ngài 2 vì Chúa rất yêu chúng ta, chân lý Ngài còn đời đời. Hãy ca ngợi Chúa! - 731 -


Thánh Thi 118 Tạ ơn vì đắc thắng 118 Cảm tạ Chúa vì Ngài nhân ái. Tình yêu Ngài còn đến đời đời. 2 Toàn dân Ít-ra-en hãy nói, “Tình yêu Ngài còn đến đời đời.” 3 Nhà A-rôn [a] hãy nói rằng, “Tình yêu Ngài còn đến đời đời.” 4 Những người tôn kính Chúa hãy nói, “Tình yêu Ngài còn đến đời đời.” Khi tôi bị khốn đốn, tôi kêu la cùng Chúa. Ngài trả lời tôi và giải thoát tôi. 6 Tôi không sợ vì Chúa ở với tôi. Không ai làm gì được tôi. 7 Chúa ở với tôi và giúp đỡ tôi, tôi sẽ thấy kẻ thù tôi bị đánh bại. 8 Nên tin cậy Chúa hơn tin cậy loài người. 9 Nên tin cậy Chúa hơn tin cậy các kẻ tước vị. 5

Các quốc gia vây tôi, nhưng tôi nhờ quyền năng Chúa đánh bại chúng. 11 Chúng vây tôi tứ phía, nhưng nhờ quyền năng Chúa, tôi đánh bại chúng. 12 Chúng vây tôi như bầy ong, nhưng chúng tàn lụi nhanh như gai cháy. Nhưng nhờ quyền năng Chúa, tôi đánh bại chúng. 10

Chúng đuổi theo tôi cho đến khi tôi gần bại trận nhưng Chúa giúp tôi. 14 Chúa là nguồn năng lực và là chủ đề của bài ca tôi. Ngài đã cứu tôi. 15 Từ lều của những người thanh liêm vang tiếng reo hò vui vẻ rằng, “Chúa đã làm những việc quyền năng.” 16 Quyền năng Chúa đã mang đến chiến thắng; nhờ quyền năng Ngài Chúa đã làm nhiều việc lớn lao. 13

Tôi sẽ không chết nhưng được sống để thuật lại những việc Chúa làm. 18 Chúa đã dạy tôi một bài học đắt giá nhưng Ngài không để tôi phải chết. 19 Xin hãy mở cửa đền thờ cho tôi. Thì tôi sẽ vào cảm tạ Chúa. 20 Đây là cửa của Chúa; chỉ có những người nhân đức mới được vào đó. 21 Lạy Chúa, tôi cảm tạ Ngài vì Ngài đã trả lời tôi. Ngài đã giải cứu tôi. 17

- 732 -


Tảng đá bị thợ xây nhà loại ra lại trở thành viên đá góc nhà. 23 Đó là điều Chúa làm, thật là kỳ diệu dưới mắt chúng ta. 24 Hôm nay là ngày Chúa đã dựng nên. Chúng ta hãy hớn hở vui mừng trong ngày ấy! 22

Lạy Chúa, xin hãy cứu chúng tôi. Lạy Chúa xin giúp chúng tôi thành công. 26 Nguyện Chúa ban phúc cho Đấng đến trong danh Ngài. 25

Từ đền thờ Chúa, ta chúc phước cho tất cả các ngươi. 27 Chúa là Thượng Đế, Ngài tỏ lòng nhân từ đối với chúng ta. Hãy cầm nhành chà là cùng nhau nhập tiệc vui. Hãy đến gần bàn thờ. Ngài là Thượng Đế tôi, tôi sẽ cảm tạ Ngài; Ngài là Thượng Đế tôi, tôi sẽ ca ngợi sự cao cả của Ngài. 29 Hãy cảm tạ Chúa vì Ngài nhân từ. Tình yêu Ngài còn đến đời đời. 28

Thánh Thi 119 Lời của Thượng Đế A-lép [a] 119 Phúc cho những ai sống cuộc đời trong sạch, và đi theo sự dạy dỗ của Chúa. 2 Phúc cho những ai giữ theo các qui tắc Ngài, hết lòng vâng lời Chúa. 3 Họ không làm điều sái bậy; nhưng đi theo các đường lối Ngài. 4 Lạy Chúa, Ngài đã truyền các mệnh lệnh Ngài để người ta tuyệt đối tuân theo. 5 Tôi ao ước được thêm trung tín khi tuân theo những điều Chúa dặn. 6 Để tôi không cảm thấy xấu hổ khi nghiên cứu luật lệ Ngài. 7 Khi tôi hiểu ra luật lệ Chúa là công bằng thì tôi hết lòng ca ngợi Ngài. 8 Tôi sẽ luôn luôn vâng theo các qui luật Chúa, xin đừng lìa bỏ tôi.

Bết Người trẻ tuổi làm thế nào để sống cuộc đời trong sạch? Bằng cách vâng theo lời Chúa. 10 Tôi hết lòng vâng lời Ngài. Đừng để tôi vi phạm các mệnh lệnh của Chúa. 9

- 733 -


Tôi ghi tạc lời Chúa trong lòng tôi để tôi không phạm tội cùng Ngài. 12 Lạy Chúa, Ngài đáng được ca ngợi. Xin hãy dạy tôi các luật lệ Ngài. 13 Môi tôi sẽ thuật lại những luật lệ mà Chúa đã phán ra. 14 Tôi vui thích sống theo qui tắc của Ngài như người ta ham thích của cải. 15 Tôi học hỏi mệnh lệnh Chúa và đi theo đường lối Ngài. 16 Tôi vui thích vâng theo luật lệ Chúa, sẽ không bao giờ quên lời Ngài. 11

Ghi-men Xin hãy tỏ lòng nhân từ đối với tôi, kẻ tôi tớ Ngài, để tôi được sống và vâng theo lời Chúa. 18 Xin mở mắt tôi để tôi được nhìn thấy những điều lạ lùng trong lời dạy của Chúa. 19 Tôi là khách lạ trên đất. Xin đừng giấu luật lệ Ngài khỏi tôi. 20 Tôi mòn mỏi vì luôn ao ước luật lệ Ngài. 21 Chúa quở trách những kẻ tự phụ; những kẻ lơ là đối với luật lệ Ngài sẽ bị nguyền rủa. 22 Xin đừng để tôi bị sỉ nhục hay bị ghét bỏ vì tuân theo qui tắc của Ngài. 23 Dù cho các quan quyền bàn luận nghịch tôi, thì tôi là kẻ tôi tớ Chúa vẫn suy tư về luật lệ Chúa. 24 Luật lệ Chúa mang cho tôi niềm vui sướng; Luật lệ Chúa hướng dẫn tôi. 17

Đa-lét Tôi sắp sửa qua đời. Xin hãy cho tôi sống như Ngài đã hứa. 26 Tôi thuật cho Ngài biết về đời tôi, Chúa liền trả lời tôi. Xin hãy dạy tôi các luật lệ Chúa. 27 Xin hãy giúp tôi hiểu mệnh lệnh Ngài. Tôi sẽ suy tư về phép lạ Ngài. 28 Tôi buồn bã và mệt mỏi. Xin hãy thêm sức cho tôi như Ngài đã hứa. 29 Xin đừng để tôi trở nên bất lương; xin thương mà giúp tôi vâng theo lời dạy của Ngài. 30 Tôi đã chọn con đường chân lý; Tôi đã dùng luật lệ Ngài làm hướng đi cho tôi. 31 Tôi hết lòng tuân theo các qui tắc của Ngài. Chúa ôi, xin đừng để tôi bị xấu hổ. 32 Tôi sẽ nhanh nhẹn vâng theo luật lệ Ngài, vì Ngài làm tôi vui mừng. 25

- 734 -


Hê 33

Lạy Chúa, xin hãy dạy tôi luật lệ Ngài, thì tôi sẽ vâng giữ chúng đến cùng.

Xin giúp tôi hiểu, để tôi giữ lời dạy của Chúa, hết lòng vâng theo. 35 Xin dẫn tôi đi trong con đường luật lệ Chúa vì điều ấy khiến tôi vui mừng. 36 Xin hãy khiến tôi vâng giữ qui luật Ngài, chứ đừng thèm khát của cải. 37 Xin đừng để tôi chú tâm về những chuyện vô ích. Hãy cho tôi sống nhờ lời Ngài. 38 Xin hãy giữ lời hứa cùng tôi, kẻ tôi tớ Chúa, là những người tôn kính Chúa. 39 Xin hãy cất khỏi tôi sự hổ nhục mà tôi sợ, vì luật lệ Chúa rất tốt lành. 40 Tôi mong muốn vâng theo mệnh lệnh Ngài. Vì Ngài nhân từ xin hãy cho tôi sống. 34

Vau Chúa ôi, xin tỏ tình yêu Ngài đối với tôi và cứu giúp tôi như Ngài đã hứa. 42 Tôi đối đáp kẻ sỉ nhục tôi vì tôi tin cậy điều Chúa phán. 43 Xin đừng ngăn cấm tôi nói ra chân lý của Chúa, vì tôi nhờ cậy vào luật lệ tốt lành của Ngài. 44 Tôi sẽ vâng theo lời dạy dỗ của Ngài mãi mãi. 45 Để tôi được sống trong tự do, vì tôi mong muốn vâng theo mệnh lệnh Ngài. 46 Tôi sẽ trình bày các qui luật Chúa với các vua, không ngượng ngùng gì. 47 Tôi vui thích vâng theo luật lệ Ngài; là điều tôi yêu mến. 48 Tôi ca ngợi phép tắc Ngài, là điều tôi thích, và suy tư về các điều đòi hỏi của Chúa. 41

Gia-in Xin đừng quên lời hứa của Ngài cùng tôi, kẻ tôi tớ Chúa vì lời hứa đó mang cho tôi hi vọng. 50 Khi tôi gặp khốn khổ, thì tôi được an ủi; vì lời hứa Ngài khiến tôi sống. 51 Những kẻ tự phụ chế giễu tôi, nhưng tôi không ném bỏ lời dạy của Ngài. 52 Chúa ôi, khi tôi nhớ lại luật lệ Chúa ban ra từ xưa, thì lòng tôi được an ủi. 53 Tôi nổi giận với kẻ gian ác là kẻ không nghe theo lời dạy của Ngài. 49

- 735 -


Hễ tôi ở đâu thì tôi sẽ ca ngợi luật lệ Ngài ở đó. 55 Chúa ôi, ban đêm tôi nhớ đến Ngài, tôi sẽ vâng theo lời dạy của Ngài. 56 Đây là điều tôi thường làm: Tôi vâng theo mệnh lệnh Ngài. 54

Hết Lạy Chúa, Ngài là sản nghiệp của đời tôi; Tôi đã hứa vâng theo lời Ngài. 58 Tôi hết lòng cầu nguyện cùng Ngài, Xin hãy tỏ lòng nhân từ cùng tôi như Ngài đã hứa. 59 Tôi suy tư về đời sống tôi, rồi tôi nhất quyết theo các qui tắc của Ngài. 60 Tôi mau mắn vâng theo luật lệ Ngài, không chậm trễ. 61 Kẻ ác đã trói buộc tôi, nhưng tôi không quên sự dạy dỗ Chúa. 62 Giữa đêm tôi thức dậy để cảm tạ Ngài vì luật lệ Chúa là đúng. 63 Tôi là bạn thân của những người kính sợ Chúa và kẻ vâng theo mệnh lệnh Ngài. 64 Chúa ôi, tình yêu Chúa tràn đầy mặt đất. Xin hãy dạy tôi điều Chúa muốn. 57

Tết Lạy Chúa Ngài đã đối tốt cùng kẻ tôi tớ Ngài như Ngài đã hứa. 66 Xin dạy tôi khôn ngoan và hiểu biết vì tôi tin cậy nơi các luật lệ Ngài. 67 Trước kia tôi bị khốn khổ, và làm điều sai lầm, nhưng nay tôi vâng theo lời Ngài. 68 Chúa là Đấng nhân đức, hay làm điều nhân đức. Xin hãy dạy tôi luật lệ Ngài. 69 Những kẻ tự phụ đặt điều phao vu về tôi, nhưng tôi vẫn hết lòng vâng theo mệnh lệnh Ngài. 70 Lòng chúng nó chai đá, nhưng tôi yêu mến lời dạy của Ngài. 71 Cảnh khổ là điều tốt cho tôi; tôi đã học các luật lệ Ngài. 72 Sự dạy dỗ Chúa đối với tôi quí hơn hàng ngàn lượng vàng và bạc. 65

Giót Ngài đã chính tay tạo ra và uốn nắn tôi. Xin cho tôi tri thức để tôi học hỏi các luật lệ Ngài. 74 Nguyện những ai kính sợ Chúa vui mừng khi thấy tôi vì tôi đặt hi vọng nơi lời hứa của Ngài. 75 Lạy Chúa, tôi biết luật lệ Ngài là đúng và khi Ngài trừng phạt tôi cũng đúng nữa. 76 Xin hãy lấy tình yêu Ngài an ủi tôi, như Ngài đã hứa cùng tôi, kẻ tôi tớ Ngài. 73

- 736 -


Xin hãy thương xót tôi để tôi được sống. Tôi yêu mến sự dạy dỗ Ngài. 78 Xin hãy khiến kẻ tự phụ xấu hổ vì chúng đặt điều phao vu cho tôi. Nhưng tôi sẽ suy tư về mệnh lệnh Chúa. 79 Nguyền những ai kính sợ Chúa trở lại cùng tôi, tức những người biết luật lệ Chúa. 80 Nguyện tôi hoàn toàn vâng theo qui tắc của Ngài để tôi không bị xấu hổ. 77

Cáp Tôi mòn mỏi vì trông đợi Ngài giải cứu tôi, nhưng tôi hi vọng nơi lời Ngài. 82 Mắt tôi mòn mỏi vì tìm kiếm lời hứa Ngài. Chừng nào Ngài sẽ an ủi tôi? 83 Dù cho tôi như bầu rượu bằng da bị ném vào đống rác, tôi sẽ không quên luật lệ Ngài. 84 Tôi còn sống bao lâu nữa? Chừng nào thì Ngài sẽ phân xử bọn làm khổ tôi? 85 Những kẻ tự phụ đã đào hố cho tôi sụp. Chúng chẳng hề quan tâm đến sự dạy dỗ Ngài. 86 Tất cả các qui luật Ngài đều đáng tin. Những kẻ dối trá đang hại tôi. Xin hãy giúp tôi! 87 Chúng suýt đưa tôi xuống mồ, nhưng tôi không từ bỏ mệnh lệnh Chúa. 88 Xin cho tôi sống do tình yêu Ngài để tôi vâng theo các qui tắc Ngài. 81

La-mết Lạy Chúa, lời Ngài còn đời đời; lời Chúa tồn tại mãi trên thiên đàng. 90 Sự thành tín Ngài kéo dài vô tận; Ngài tạo lập trái đất, nó vẫn đứng vững. 91 Mọi vật còn đến ngày nay là do luật lệ Chúa, vì muôn vật phải phục vụ Ngài. 92 Nếu tôi không yêu mến sự dạy dỗ Ngài, tôi hẳn đã chết trong sự khốn khổ tôi. 93 Tôi sẽ không quên các mệnh lệnh Ngài, vì nhờ đó mà Chúa cho tôi sống. 94 Tôi thuộc về Ngài, xin hãy cứu tôi. Tôi muốn vâng theo mệnh lệnh Ngài. 95 Kẻ ác chực giết hại tôi, nhưng tôi sẽ suy tư về qui luật Chúa. 96 Tôi nhìn thấy mọi vật mà Ngài dựng nên đều có giới hạn, nhưng luật lệ Chúa có những lợi ích vô hạn. 89

- 737 -


Mem Tôi yêu mến lời dạy Chúa biết bao! Suốt ngày tôi suy tư về lời dạy ấy. 98 Luật lệ Chúa khiến tôi khôn ngoan hơn kẻ thù tôi, vì đời đời luật lệ ấy thuộc về tôi. 99 Tôi khôn ngoan hơn các giáo sư tôi, vì tôi suy tư về các qui tắc Chúa. 100 Tôi hiểu biết hơn các vị lãnh đạo lão thành, vì tôi tuân theo các mệnh lệnh Chúa. 97

Tôi đã tránh mọi lối gian tà để tôi vâng theo lời Ngài. 102 Tôi không đi lạc xa các luật lệ Chúa, vì Ngài dạy dỗ tôi. 103 Lời hứa Ngài rất ngọt ngào cho tôi, ngọt hơn mật trong miệng tôi! 104 Những mệnh lệnh Ngài giúp tôi hiểu biết, nên tôi ghét con đường dối trá. 101

Nun Lời Chúa là đèn soi bước chân tôi và là ánh sáng chiếu trên lối tôi đi. 106 Tôi sẽ làm điều tôi hứa nguyện và vâng theo luật lệ công minh của Ngài. 107 Tôi chịu khổ quá lâu. Chúa ôi, xin hãy cho tôi sống theo lời Ngài đã hứa. 108 Chúa ôi, xin hãy chấp nhận lời ca ngợi tôi và dạy tôi luật lệ Ngài. 109 Mạng sống tôi hằng gặp nguy biến, nhưng tôi không quên lời dạy của Chúa. 110 Kẻ ác giăng bẫy bắt tôi, nhưng tôi không đi lạc xa khỏi mệnh lệnh Ngài. 111 Tôi sẽ vâng theo các qui luật Ngài mãi mãi, vì chúng làm tôi vui mừng. 112 Tôi sẽ mãi mãi làm theo điều Ngài đòi hỏi, cho đến cùng. 105

Xa-méc Tôi ghét kẻ bất trung, nhưng yêu lời dạy của Chúa. 114 Ngài là nơi tôi ẩn náu và là cái khiên che chở tôi; tôi đặt hi vọng vào lời Ngài. 115 Hỡi kẻ làm ác, hãy tránh xa khỏi ta để ta giữ các luật lệ của Thượng Đế ta. 116 Xin Chúa hãy hỗ trợ tôi như Ngài đã hứa thì tôi sẽ sống. Tôi tin cậy Ngài, xin đừng làm tôi thất vọng. 117 Xin giúp tôi thì tôi sẽ được cứu. Tôi sẽ luôn luôn tôn trọng luật lệ Ngài. 118 Chúa gạt bỏ những kẻ không tôn trọng luật lệ Ngài. Vì chúng bị lầm lạc bởi những sự dối trá của chúng. 113

- 738 -


Chúa ném bọn gian ác như người ta ném rác. Cho nên tôi yêu mến các qui tắc Ngài. 120 Tôi run sợ trước mặt Chúa; tôi tôn trọng luật lệ Chúa. 119

A-in Tôi đã làm điều phải và công chính. Xin đừng để tôi rơi vào tay kẻ hãm hại tôi. 122 Xin hứa giúp tôi, kẻ tôi tớ Chúa. Xin đừng để kẻ tự phụ làm hại tôi. 123 Mắt tôi mờ vì trông đợi sự cứu rỗi và lời hứa tốt lành của Chúa. 121

Xin hãy cho tôi, kẻ tôi tớ Chúa, thấy tình yêu Ngài và dạy tôi điều Ngài muốn. 125 Tôi là kẻ tôi tớ Chúa. Xin cho tôi sự khôn ngoan để tôi hiểu qui luật Ngài. 126 Chúa ôi, đến lúc Ngài phải ra tay, vì loài người đã bất tuân sự dạy dỗ Chúa. 127 Tôi yêu mến luật lệ Chúa hơn yêu vàng ròng. 128 Tôi tôn trọng các mệnh lệnh Ngài, nên tôi ghét con đường giả dối. 124

Bê Các qui tắc Chúa thật diệu kỳ, nên tôi tuân theo. 130 Việc học hỏi lời Chúa mang lại sự khôn ngoan, và ban hiểu biết cho người khờ dại. 131 Tôi rất thèm khát, muốn học hỏi luật lệ Ngài. 132 Xin hãy nhìn tôi và thương xót tôi như Ngài thương xót kẻ yêu mến Ngài. 133 Xin hãy chỉ dẫn các bước của tôi như Ngài đã hứa; đừng để tội lỗi kiểm soát tôi. 134 Xin hãy cứu tôi khỏi kẻ ác hại để tôi vâng theo mệnh lệnh Ngài. 135 Xin hãy tỏ lòng nhân từ cùng tôi, kẻ tôi tớ Ngài. Xin dạy tôi các luật lệ của Ngài. 136 Tôi rơi lệ vì người ta không vâng theo lời dạy của Ngài. 129

Xa-đê Lạy Chúa, Ngài làm điều phải, luật lệ Ngài thật công minh. 138 Những qui tắc Chúa truyền đều đúng và hoàn toàn đáng tin cậy. 139 Tôi bực dọc và mòn mỏi, vì kẻ thù tôi đã quên lời Ngài. 140 Những lời hứa Chúa đã được trắc nghiệm, cho nên kẻ tôi tớ Chúa yêu mến lời ấy. 137

- 739 -


Tôi vô danh và bị ghét bỏ, nhưng tôi không quên mệnh lệnh Ngài. 142 Lòng nhân từ Ngài còn mãi mãi, những lời giáo huấn của Ngài là chân thật. 143 Tôi gặp khó khăn và khốn khổ, nhưng tôi yêu mến luật lệ Ngài. 144 Các qui tắc Chúa đều mãi mãi tốt lành. Xin giúp tôi hiểu để tôi được sống. 141

Cốp Chúa ôi, tôi hết lòng kêu xin Ngài. Xin trả lời tôi thì tôi sẽ tuân giữ các điều đòi hỏi của Ngài. 146 Tôi kêu cầu Ngài. Xin giải cứu tôi để tôi vâng theo các qui tắc Ngài. 145

Buổi sáng tôi dậy sớm và kêu xin. Tôi đặt hi vọng nơi lời Ngài. 148 Tôi thao thức suốt đêm để suy tư về lời hứa Ngài. 149 Vì tình yêu Ngài xin hãy lắng nghe tôi; Chúa ôi, xin cho tôi sống bằng luật lệ Ngài. 150 Những kẻ làm điều ác đang theo sát gần tôi, nhưng chúng rất xa lời giáo huấn Ngài. 151 Nhưng Chúa ôi, Ngài cũng ở gần, mọi luật lệ Ngài đều chân thật. 152 Xưa kia tôi học biết qui tắc Ngài là những qui tắc Ngài lập nên còn đời đời. 147

Rết Xin hãy nhìn sự khốn khổ tôi và giải cứu tôi, vì tôi không quên lời dạy của Chúa. 154 Xin hãy bào chữa cho tôi và cứu tôi. Hãy cho tôi sống theo lời hứa Ngài. 155 Kẻ ác sẽ không được cứu đâu, vì chúng nó không tuân theo các luật lệ Ngài. 156 Lạy Chúa nhân từ; xin cho tôi sống bằng luật lệ Ngài. 157 Vô số kẻ thù đuổi theo tôi, nhưng tôi không ném bỏ luật lệ Chúa. 158 Tôi nhìn thấy kẻ phản bội, tôi ghét chúng, vì chúng không vâng lời Ngài dạy. 159 Hãy xem tôi yêu mến mệnh lệnh Ngài biết bao nhiêu. Lạy Chúa, xin hãy cho tôi sống bằng tình yêu Ngài. 160 Từ đầu, lời Chúa vốn chân thật, các luật lệ Ngài đều công chính cho đến đời đời. 153

Sin Các quan quyền tấn công tôi vô cớ, nhưng lòng tôi luôn kính sợ luật lệ Ngài.

161

- 740 -


Tôi vui mừng về lời hứa Ngài như vừa tìm được của báu. 163 Tôi gớm ghét và khinh bỉ chuyện dối trá, nhưng tôi yêu mến lời dạy Ngài. 164 Tôi ca ngợi Ngài bảy lần mỗi ngày vì luật lệ Ngài rất công chính. 165 Những ai yêu mến lời dạy của Ngài sẽ tìm được sự bình an thật, không gì thắng nổi họ được. 166 Chúa ôi, tôi trông đợi Ngài giải cứu tôi, Tôi sẽ vâng theo luật lệ Ngài. 167 Tôi tuân theo qui tắc Ngài, hết lòng yêu mến các qui tắc ấy. 168 Tôi vâng theo mệnh lệnh và qui tắc Ngài, vì Chúa biết mọi điều tôi làm. 162

Tau Chúa ôi, xin nghe tiếng kêu cứu tôi. Nguyện lời Ngài giúp cho tôi hiểu. 170 Xin lắng nghe lời cầu xin tôi; và cứu tôi như Ngài đã hứa. 171 Xin cho tôi ca ngợi Ngài, vì Ngài đã dạy tôi các điều đòi hỏi của Ngài. 172 Xin cho tôi hát chúc tụng lời hứa Ngài, vì các luật lệ Ngài đều công chính. 173 Xin giơ tay giúp đỡ tôi, vì tôi đã chọn luật lệ Ngài. 174 Lạy Chúa, tôi mong Ngài cứu tôi. Tôi yêu mến lời giáo huấn của Ngài. 175 Xin cho tôi sống để tôi ca ngợi Ngài. Xin để các luật lệ Ngài nâng đỡ tôi. 176 Tôi đã đi lang thang như chiên lạc. Xin hãy tìm kiếm tôi tớ Ngài, vì tôi không quên các luật lệ Chúa. 169

Thánh Thi 120 Lời cầu nguyện của kẻ xa nhà Bài ca khi đang đi lên đền thờ.

120 Khi tôi gặp khốn đốn, tôi kêu xin Chúa, Ngài đáp lời tôi. 2 Chúa ôi, xin cứu tôi khỏi kẻ nói dối cùng những kẻ lập mưu ác. Ê bọn lập mưu ác, Thượng Đế sẽ đối xử với các ngươi ra sao? Ngài sẽ trừng phạt các ngươi như thế nào? 3

- 741 -


4

Ngài sẽ lấy tên nhọn của chiến sĩ và than lửa đỏ mà phạt các ngươi.

Thật kinh khủng khi tôi sống trong đất Mê-siếc, ở giữa lều của dân Kê-đa [a]. 6 Tôi đã sống quá lâu giữa bọn ghét hòa bình. 7 Khi tôi nói hoà bình, chúng lại thích chiến tranh. 5

Thánh Thi 121 Chúa gìn giữ dân Ngài Bài ca khi đang đi lên đền thờ.

121 Tôi ngước trông lên đồi, ơn cứu giúp tôi đến từ đâu? Ơn cứu giúp tôi đến từ Chúa, Đấng tạo nên trời đất. 3 Ngài sẽ không để ngươi bị thất bại. Đấng canh giữ ngươi không hề chợp mắt. 4 Đấng canh giữ Ít-ra-en không hề mệt mỏi, Ngài không cần ngủ nghỉ. 5 Chúa gìn giữ ngươi. Ngài là bóng mát che ngươi khỏi nắng nóng. 6 Mặt trời không cháy sém ngươi ban ngày, mặt trăng cũng không hại ngươi ban đêm. 7 Chúa sẽ gìn giữ ngươi khỏi mọi nguy biến; Ngài sẽ bảo vệ mạng sống ngươi. 8 Chúa sẽ gìn giữ khi ngươi đi vào, lúc ngươi bước ra [a], từ nay cho đến mãi mãi. 2

Thánh Thi 122 Dân cư hạnh phúc ở Giê-ru-sa-lem Bài ca khi đang đi lên đền thờ. Do Đa-vít sáng tác.

122 Tôi hân hoan khi người ta bảo tôi, “Chúng ta hãy đi đến đền thờ Chúa.” 2 Hỡi Giê-ru-sa-lem, chúng ta đang đứng tại cổng ngươi. 3 Giê-ru-sa-lem mới là thành được xây bằng một khối. 4 Các chi tộc sẽ đi lên đó, tức những chi tộc thuộc về Chúa. Thể lệ buộc Ít-ra-en phải ca ngợi Chúa tại Giê-ru-sa-lem. 5 Đó là nơi dòng dõi Đa-vít đặt ngôi để phân xử dân chúng.

- 742 -


Hãy cầu hoà bình cho Giê-ru-sa-lem; “Nguyện những ai yêu mến thành ấy được an ninh. 7 Nguyện sự hoà bình ngự bên trong các vách ngươi, và sự an ninh ở bên trong các tháp kiên cố ngươi.” 6

Vì cớ các thân nhân và bạn hữu ta, ta nói, “Nguyện Giê-ru-sa-lem hưởng thái bình.” 9 Vì cớ đền thờ của Chúa là Thượng Đế chúng ta, ta cầu cho ngươi được phúc lành. 8

Thánh Thi 123 Lời cầu xin được thương xót Bài ca khi đang đi lên đền thờ.

123 Lạy Chúa, tôi hướng lòng về Ngài, Đấng ngự trên thiên đàng. Kẻ tôi mọi trông chờ nơi chủ mình, đứa tớ gái trông chờ bà chủ mình. Cũng vậy, chúng tôi trông chờ nơi Chúa là Thượng Đế chúng tôi. Chúng tôi trông chờ Ngài tỏ lòng thương xót. 3 Chúa ôi, xin thương xót chúng tôi. Xin thương xót chúng tôi vì chúng tôi đã bị sỉ nhục. 4 Chúng tôi mang sự sỉ nhục của những kẻ tự phụ, gánh sự hung hăng của kẻ tự phụ. 2

Thánh Thi 124 Chúa cứu giúp dân Ngài Bài ca khi đang đi lên đền thờ. Do Đa-vít sáng tác.

124 Ít-ra-en nên nói, Nếu Chúa không đứng về phía chúng ta thì sao? 2 Nếu Chúa không đứng về phía chúng ta khi chúng ta bị tấn công thì sao? 3 Chắc hẳn kẻ thù đã ăn tươi nuốt sống chúng ta trong cơn nóng giận. 4 Chúng có thể như nước lụt ào đến dìm chết chúng ta; hay tràn ngập chúng ta như sông lớn. 5 Chúng có thể cuốn trôi chúng ta đi như thác lũ. 6

Ca ngợi Chúa, Ngài không để chúng ăn nuốt chúng ta.

Chúng ta thoát như chim thoát khỏi bẫy sập. Bẫy bị hỏng, nên chúng ta thoát. 8 Sự tiếp trợ chúng ta đến từ Chúa, Đấng tạo nên trời đất. 7

- 743 -


Thánh Thi 125 Thượng Đế gìn giữ người tin cậy Ngài Bài ca khi đang đi lên đền thờ.

125 Những ai tin cậy Chúa giống như núi Xi-ôn vững chãi, 2 Các rặng núi bao bọc Giê-ru-sa-lem ra sao, Chúa cũng bao bọc dân Ngài như vậy, từ nay cho đến mãi mãi. 3 Kẻ ác không thể cai trị người thanh liêm. Nếu không người thanh liêm có thể dùng quyền lực đó để làm ác. Lạy Chúa, xin hãy đối nhân từ cùng kẻ nhân từ, tức những người có lòng ngay thẳng. 5 Nhưng khi Ngài diệt kẻ ác, thì Ngài cũng sẽ diệt luôn những kẻ từ bỏ Ngài. 4

Nguyện sự hoà bình ngự trên Ít-ra-en.

Thánh Thi 126 Lời cầu xin Chúa mang dân Ngài trở về Bài ca khi đang đi lên đền thờ.

126 Lúc Chúa mang các tù nhân trở về Giê-ru-sa-lem [a], thì chúng tôi tưởng như đang nằm mơ. 2 Chúng tôi vui cười sung sướng, hát lên bài ca hân hoan. Các nước khác thấy thế liền nói, “Chúa đã làm các việc lớn cho họ.” 3 Chúa đã làm những việc lớn lao cho chúng ta, chúng ta lấy làm mừng rỡ. Chúa ôi, xin mang các tù nhân chúng tôi về, như Ngài đã mang suối nước vào sa mạc. 5 Kẻ nào vừa trồng vừa khóc, sẽ hát mừng vào mùa gặt. 6 Kẻ vừa gieo giống [b] vừa rơi nước mắt, sẽ trở về vui hát, mang bó lúa mình. 4

- 744 -


Thánh Thi 127 Mọi điều tốt lành đều do Thượng Đế ban cho Bài ca khi đang đi lên đền thờ. Do Sô-lô-môn sáng tác.

127 Nếu Chúa không cất nhà, thì thợ xây cũng trở thành vô dụng. Nếu Chúa không canh giữ thành, thì các lính canh chẳng làm được gì. Uổng công cho các ngươi là kẻ thức dậy sớm, đi ngủ trễ, lo làm ăn. Chúa ban giấc ngủ ngon cho kẻ Ngài yêu. 2

3

Con cái là món quà [a] Chúa ban; trẻ thơ là phần thưởng của lòng mẹ. 4 Con cái sinh ra trong khi cha còn trẻ như mũi tên trong tay chiến sĩ. 5 Phước cho người nào có đầy tên trong giỏ. Họ sẽ có ưu thế khi chống nhau với kẻ thù nơi cửa thành

Thánh Thi 128 Gia đình hạnh phúc Bài ca khi đang đi lên đền thờ.

128 Phúc cho người nào kính sợ Thượng Đế và vâng lời Ngài. Ngươi sẽ vui hưởng điều tay mình làm ra, ngươi sẽ được phước về mọi phương diện. 3 Vợ ngươi sẽ sinh nhiều con cho ngươi, như dây nho sai trái. Con cái ngươi cũng mang niềm vui cho ngươi, như nhành ô liu sai trái. 4 Người kính sợ Chúa được phước như vậy. 5 Nguyện Chúa ban phước cho ngươi từ núi Xi-ôn; nguyện ngươi vui hưởng những điều tốt lành từ Giê-ru-sa-lem trọn đời ngươi. 6 Nguyện ngươi nhìn thấy cháu chít mình. 2

Nguyện hoà bình ngự giữa Ít-ra-en.

- 745 -


Thánh Thi 129 Cầu nguyện xin Chúa phạt kẻ thù Bài ca khi đang đi lên đền thờ.

129 Ít-ra-en hãy nói, Suốt đời tôi bị kẻ thù tấn công. 2 Tuy chúng đã ngược đãi tôi suốt đời tôi nhưng chưa đánh thắng tôi. 3 Như nông gia cày ruộng, chúng cày bừa trên lưng tôi, để lại những luống thương tích dài. 4 Nhưng Chúa đã làm điều phải; Ngài đã giải thoát tôi khỏi tay kẻ ác. 5 Nguyện những người ghét Giê-ru-sa-lem phải lùi lại vì xấu hổ. 6 Nguyện họ giống như cỏ mọc trên mái nhà, bị chết héo trước khi đâm rễ. 7 Không đầy một nắm tay hay bó cho được một ôm. 8 Người qua kẻ lại cũng không nói, “Cầu Chúa ban phước cho ngươi. Chúng tôi nhân danh quyền năng Chúa ban phúc lành cho ngươi.”

Thánh Thi 130 Cầu xin ơn thương xót Bài ca khi đang đi lên đền thờ.

130 Chúa ôi, tôi đang gặp nguy khốn, nên kêu cứu cùng Ngài. 2 Lạy Chúa, xin nghe tiếng tôi; lắng nghe lời cầu cứu tôi. 3 Chúa ôi, nếu Ngài trừng phạt con người theo tội lỗi họ, thì Chúa ôi, còn ai sống sót? 4 Nhưng Chúa tha tội lỗi chúng tôi, vì thế Ngài được tôn kính. Tôi trông đợi Chúa giúp tôi, tôi tin cậy lời Ngài. 6 Tôi mong đợi Ngài cứu giúp tôi hơn người lính canh trông chờ sáng. 7 Hỡi dân Ít-ra-en, hãy đặt hi vọng của các ngươi trong Chúa vì Ngài là Đấng yêu thương và đầy lòng cứu rỗi. 8 Ngài sẽ cứu Ít-ra-en khỏi mọi tội lỗi của họ. 5

- 746 -


Thánh Thi 131 Hãy tin cậy Thượng Đế như trẻ thơ Bài ca khi đang đi lên đền thờ. Do Đa-vít sáng tác.

131 Lạy Chúa, lòng tôi không tự phụ; tôi không xem thường kẻ khác. Tôi không nghĩ đến những việc lớn lao, hay những điều không thể làm được. 2 Nhưng tôi nằm yên lặng, như hài nhi nằm trong tay mẹ. Tôi an bình như hài nhi nằm với mẹ. 3

Hỡi dân Ít-ra-en, hãy đặt hi vọng mình trong Chúa từ nay cho đến đời đời.

Thánh Thi 132 Ca ngợi đền thờ Chúa Bài ca khi đang đi lên thờ phụng.

132 Lạy Chúa, xin nhớ lại Đa-vít và những cảnh khốn khổ người chịu. 2 Người đã thề cùng Chúa, hứa nguyện cùng Đấng Toàn Năng của Gia-cốp. 3 Người hứa, “Tôi sẽ không đi vào nhà tôi, hay nằm xuống giường, 4 chợp mắt, hay ngủ 5 cho đến khi tôi tìm được một nơi cho Chúa ngự. Tôi muốn tìm một nơi ở cho Đấng Toàn Năng của Gia-cốp.” Chúng tôi đã nghe về Rương Giao Ước Chúa tại Bết-lê-hem. Chúng tôi tìm được rương ấy ở Ki-ri-át Giê-a-rim. 7 Chúng ta hãy đi đến nhà Chúa. Chúng ta hãy thờ phụng nơi bệ chân Ngài. 8 Lạy Chúa, xin đứng dậy đi đến nơi nghỉ ngơi của Ngài; bước vào cùng với Rương Giao Ước để tỏ ra quyền năng Ngài. 9 Nguyện các thầy tế lễ của Ngài luôn làm điều phải. Nguyện dân Ngài ca hát mừng rỡ. 10 Vì cớ Đa-vít kẻ tôi tớ Ngài, xin đừng từ bỏ vua mà Ngài đã bổ nhiệm. 11 Chúa đã hứa cùng Đa-vít, lời hứa chắc chắn không thay đổi. Ngài hứa rằng, “Ta sẽ đặt một người trong dòng dõi ngươi làm vua kế vị ngươi. 12 Nếu con cái ngươi giữ giao ước và các qui tắc mà ta dạy chúng, thì con cháu chúng nó sẽ tiếp tục ngồi trên ngôi ngươi mãi mãi.” 6

13

Chúa đã chọn Giê-ru-sa-lem; Ngài chọn thành ấy làm nơi ở Ngài.

- 747 -


14

Ngài phán, “Đây là nơi ta nghỉ ngơi. Đây là nơi ta muốn ngự. 15 Ta sẽ ban phước nhiều cho thành nầy; cho những kẻ nghèo dồi dào thức ăn. 16 Ta sẽ lấy sự cứu rỗi mặc cho các thầy tế lễ và những kẻ thờ phụng ta sẽ vui hát. 17 Ta sẽ chọn ra một vị vua từ gia tộc Đa-vít. Ta sẽ chọn trong dòng dõi người một người làm vua để kế vị Đa-vít. 18 Ta sẽ lấy sỉ nhục bao trùm kẻ thù nghịch người, nhưng mão triều người sẽ sáng chói.”

Thánh Thi 133 Tình yêu của dân Chúa Bài ca khi đang đi lên thờ phụng Do Đa-vít sáng tác.

133 Khi con dân Chúa cùng chung sống trong hoà thuận thật rất tốt đẹp. 2 Giống như dầu thơm đổ lên đầu thầy tế lễ chảy xuống râu. Chảy xuống râu A-rôn và chảy lên cổ áo người. 3 Như sương trên núi Hẹt-môn rơi xuống các đồi quanh Giê-ru-sa-lem. Đó là nơi hưởng phước lâu dài của Chúa cho đến đời đời.

Thánh Thi 134 Mọi người hãy ca ngợi Ngài Bài ca khi đang đi lên thờ phụng.

134 Hỡi các tôi tớ Chúa, là những kẻ phục vụ ban đêm ở đền thờ, hãy ca ngợi Ngài. 2 Hãy giơ tay lên trong đền thờ mà ca ngợi Chúa. 3 Nguyện Chúa ban phước cho các ngươi từ núi Xi-ôn, Ngài là Đấng dựng nên trời đất.

Thánh Thi 135 Chúa là Đấng cứu, các thần tượng đều vô ích 135 Hãy ca ngợi Chúa! Hãy ca ngợi danh Chúa; Hỡi các tôi tớ Chúa và 2 những kẻ đứng trong đền thờ Chúa cùng trong sân đền thờ, hãy ca ngợi Ngài.

- 748 -


3

Hãy ca ngợi Ngài, vì Ngài nhân từ; hãy hát ca ngợi Ngài vì Ngài tuyệt vời.

Chúa đã chọn dân Gia-cốp cho mình; Ngài tuyển chọn dân Ít-ra-en cho chính mình. 5 Tôi biết Chúa là Đấng cao cả. Chúa chúng tôi vĩ đại cao cả hơn tất cả các thần. 6 Ngài làm điều đẹp ý Ngài, ở trên trời và dưới đất, trên biển và trong các đại dương sâu. 7 Ngài mang mây đến từ cuối trái đất, Sai sấm chớp đến với mưa. Mang gió ra từ các kho chứa mình. 8 Ngài tiêu diệt các con trai đầu lòng xứ Ai-cập của người lẫn gia súc. 9 Ngài làm nhiều dấu kỳ và phép lạ ở Ai-cập nghịch lại vua và các tôi tớ người. 10 Ngài đánh bại các quốc gia và giết các vua hùng mạnh: 11 Tức Si-hôn, vua dân A-mô-rít, Óc, vua của Ba-san, và tất cả các vua Ca-na-an. 12 Rồi Ngài ban đất của họ làm món quà cho dân Ngài, tức dân Ít-ra-en. 4

Lạy Chúa, danh Chúa còn đến đời đời; Lạy Chúa, Ngài sẽ được ghi nhớ mãi mãi. 14 Chúa bênh vực dân Ngài và tỏ lòng thương xót cho các tôi tớ Ngài. 15 Hình tượng của các dân đều làm bằng bạc hay vàng, sản phẩm của tay người. 16 Chúng nó có miệng mà không nói được. Có mắt mà chẳng thấy. 17 Có lỗ tai mà không nghe. Miệng không hơi thở. 18 Những kẻ tạc hình tượng cũng giống như các hình tượng ấy, những ai tin chúng nó cũng như vậy. 13

Hỡi nhà Ít-ra-en, hãy ca ngợi Chúa. Hỡi nhà A-rôn, hãy ca ngợi Chúa. 20 Hỡi nhà Lê-vi hãy ca ngợi Chúa. Những ai kính sợ Chúa hãy ca ngợi Ngài. 19

21

Hỡi cư dân Giê-ru-sa-lem, hãy ca ngợi Chúa trên núi Xi-ôn.

Hãy ca ngợi Chúa!

- 749 -


Thánh Thi 136 Tình yêu Chúa vững bền mãi mãi 136 Hãy cảm tạ Thượng Đế vì Ngài nhân từ. Tình yêu Ngài vững bền đời đời. 2 Hãy cảm tạ Thượng Đế của các thần. Tình yêu Ngài vững bền đời đời. 3 Hãy cảm tạ Chúa các Chúa. Tình yêu Ngài vững bền đời đời. 4 Chỉ một mình Ngài làm được các phép lạ. Tình yêu Ngài còn đời đời. 5 Nhờ sự khôn ngoan, Ngài tạo nên bầu trời. Tình yêu Ngài vững bền đời đời. 6 Ngài trải đất ra trên biển. Tình yêu Ngài vững bền đời đời. 7 Ngài tạo ra mặt trời và mặt trăng. Tình yêu Ngài vững bền đời đời. 8 Ngài đặt mặt trời cai trị ban ngày. Tình yêu Ngài vững bền đời đời. 9 Ngài để mặt trăng và các ngôi sao cai trị ban đêm. Tình yêu Ngài vững bền đời đời. 10 Ngài giết các con đầu lòng của người Ai-cập. Tình yêu Ngài vững bền đời đời. 11 Ngài mang dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập. Tình yêu Ngài vững bền đời đời. 12 Ngài dùng quyền năng và sức mạnh lớn lao mình thực hiện điều đó. Tình yêu Ngài vững bền đời đời. 13 Ngài rẽ Hồng hải [a] ra. Tình yêu Ngài vững bền đời đời. 14 Ngài đưa dân Ít-ra-en đi ngang giữa biển. Tình yêu Ngài vững bền đời đời. 15 Nhưng vua và toàn thể đạo quân Ai-cập bị chết đuối trong Hồng hải. Tình yêu Ngài vững bền đời đời. 16 Ngài dẫn dân Ngài ra qua sa mạc. Tình yêu Ngài vững bền đời đời. 17 Ngài đánh bại các vua lớn. Tình yêu Ngài vững bền đời đời. 18 Ngài giết các vua hùng mạnh. Tình yêu Ngài vững bền đời đời. 19 Ngài đánh bại Si-hôn, vua dân A-mô-rít. Tình yêu Ngài vững bền đời đời. 20 Ngài đánh bại Óc, vua của Ba-san. Tình yêu Ngài vững bền đời đời. 21 Ngài ban đất của họ cho chúng ta. Tình yêu Ngài vững bền đời đời. 22 Ngài ban đất ấy cho dân Ít-ra-en, tôi tớ Ngài như một quà biếu. Tình yêu Ngài vững bền đời đời. 23 Ngài nhớ chúng ta khi chúng ta gặp khốn đốn. Tình yêu Ngài vững bền đời đời. 24 Ngài giải thoát chúng ta khỏi tay kẻ thù. Tình yêu Ngài vững bền đời đời.

- 750 -


Ngài ban thực phẩm cho mọi sinh vật. Tình yêu Ngài vững bền đời đời. 26 Hãy cảm tạ Thượng Đế của các từng trời. Tình yêu Ngài vững bền đời đời. 25

Thánh Thi 137 Dân Ít-ra-en bị lưu đày 137 Chúng tôi ngồi bên các sông Ba-by-lôn và khóc khi tưởng nhớ đến Giê-ru-sa-lem. 2 Chúng tôi treo đờn cầm trên cây dương liễu gần đó. 3 Những kẻ bắt chúng tôi làm tù binh bảo chúng tôi hát; Kẻ thù chúng tôi muốn nghe bài ca vui. Chúng bảo, “Hãy hát cho chúng ta nghe một bài về Giê-ru-sa-lem đi!” 4 Nhưng chúng tôi làm sao hát về Chúa được trong khi chúng tôi đang bị lưu đày ở nước người? 5 Giê-ru-sa-lem ơi, nếu ta quên ngươi, nguyện tay phải ta mất khả năng đi. 6 Nếu ta không còn nhớ ngươi nữa hay nếu ta không nghĩ đến ngươi như là niềm vui nhất của ta thì nguyện lưỡi ta kẹt dính nơi vòm họng. Lạy Chúa, xin hãy nhớ lại điều dân Ê-đôm làm trong ngày Giê-ru-sa-lem thất thủ. Chúng bảo, “Hãy phá sập nó đi! Hãy phá sập cho đến tận nền nó đi!” 8 Hỡi dân Ba-by-lôn, các ngươi sẽ bị tiêu diệt. Những kẻ báo trả các ngươi về điều các ngươi làm cho chúng ta sẽ vui mừng. 9 Chúng sẽ bắt con nhỏ các ngươi ném vào tảng đá. 7

Thánh Thi 138 Bài hát tạ ơn Thi thiên của Đa-vít.

138 Lạy Chúa, tôi hết lòng cảm tạ Ngài; Tôi sẽ hát ca ngợi Ngài trước mặt các thần. 2 Tôi sẽ cúi mình hướng về đền thờ Ngài, và cảm tạ Chúa vì tình yêu và sự thành tín của Ngài. Ngài đã làm cho danh Chúa và lời Ngài được tôn cao. 3 Trong ngày tôi kêu cầu cùng Chúa, Ngài trả lời tôi. Ngài làm cho tôi mạnh mẽ và can đảm. 4

Lạy Chúa, nguyện các vua trên đất ca ngợi Ngài khi họ nghe lời Ngài phán.

5

Họ sẽ ca ngợi Ngài về những điều Ngài làm, vì sự vinh hiển của Ngài rất lớn. - 751 -


Dù là Đấng Chí Cao, Chúa cũng chăm sóc đến những kẻ khiêm nhường, nhưng Ngài lánh xa kẻ tự phụ. 7 Chúa ôi, khi những cảnh nguy khốn vây quanh tôi tứ phía, Ngài sẽ gìn giữ mạng sống tôi. Khi kẻ thù tôi nổi giận, Chúa sẽ lấy quyền năng với tay xuống cứu tôi. 8 Lạy Chúa, Ngài làm mọi sự cho tôi. Lạy Chúa, tình yêu Ngài còn đời đời. Xin đừng lìa bỏ chúng tôi, là những kẻ Ngài dựng nên. 6

Thánh Thi 139 Thượng Đế biết hết mọi việc Thi thiên của Đa-vít. Soạn cho nhạc trưởng.

139 Lạy Chúa, Ngài đã tra xét và thấu hiểu tất cả về tôi. 2 Chúa biết khi tôi ngồi, lúc tôi đứng dậy. Ngài rõ các tư tưởng tôi, trước khi tôi nghĩ tới chúng. 3 Chúa biết chỗ tôi đi, nơi tôi nằm xuống. Ngài thấu rõ mọi hành vi tôi. 4 Trước khi tôi mở miệng nói nửa câu, thì, Chúa ôi, Ngài đã biết trước rồi. 5 Ngài bao quanh tôi phía trước lẫn phía sau, và đặt tay Ngài trên tôi. 6 Sự khôn ngoan của Ngài thật quá diệu kỳ đối với tôi; vượt quá khả năng hiểu biết của tôi. 7 Tôi đi đâu để tránh khỏi Thánh Linh Chúa? Chạy đâu để tránh mặt Chúa? 8 Nếu tôi lên trời, Chúa có ở đó. Nếu tôi nằm trong mồ mả, Chúa cũng có ở đó. 9 Nếu tôi mọc lên từ phía Đông cùng với mặt trời, hay lặn xuống phía Tây quá bên kia biển, 10 thì Chúa cũng có ở đó để dẫn dắt tôi. Tay phải Chúa sẽ nắm tôi. Nếu tôi nói, “Bóng tối sẽ che kín tôi. Nguyện xin ánh sáng quanh tôi biến thành bóng tối.” 12 Nhưng bóng tối không che được mắt Ngài. Bóng tối cũng sáng như ban ngày; Vì đối với Chúa tối và sáng chẳng khác gì nhau. 13 Chúa đã tạo nên con người tôi; Ngài nắn nên tôi từ trong bụng mẹ. 11

- 752 -


Tôi ca ngợi Ngài vì Ngài dựng nên tôi một cách kỳ diệu. Điều Chúa làm thật lạ lùng. Tôi biết rất rõ. 14

Chúa thấy xương cốt tôi được tạo nên trong khi tôi thành hình trong bụng mẹ tôi. Khi tôi được tạo dựng nên trong đó, 16 Ngài thấy thân thể tôi thành hình. Trước khi tôi chào đời được một ngày thì số các ngày đã định cho tôi đã được ghi vào sổ Chúa. 17 Thượng Đế ôi, tư tưởng Chúa thật quá quí báu đối với tôi. Số tư tưởng đó thật quá nhiều. 18 Nếu tôi thử đếm thì nhiều hơn cát bãi biển. Khi tôi thức giấc, tôi vẫn ở với Chúa. 15

Chúa ôi, tôi mong Ngài diệt kẻ ác! Bớ bọn sát nhân, hãy đi xa khỏi ta! 20 Chúng nói xấu Ngài. Kẻ thù Chúa dùng danh Chúa cách bữa bãi. 21 Chúa ôi, tôi ghét kẻ ghét Chúa; Tôi ghét kẻ chống nghịch Ngài. 22 Tôi ghét chúng quá sức; chúng nó là kẻ thù tôi. 23 Lạy Chúa, xin hãy tra xét tôi và hiểu lòng tôi; xin thử nghiệm tôi và biết các sự lo lắng trong lòng tôi. 24 Xin đừng để tôi bước trên lối sai lạc. [a] Xin dẫn tôi vào con đường phải lẽ. 19

Thánh Thi 140 Cầu xin được bảo vệ Thi thiên của Đa-vít. Soạn cho nhạc trưởng.

140 Chúa ôi, xin giải cứu tôi khỏi kẻ ác; bảo bọc tôi khỏi người hung bạo 2 là những kẻ lập mưu ác, lúc nào cũng gây hấn. 3 Lưỡi chúng chích như rắn; lời nói chúng như nọc rắn. Xê-la Lạy Chúa, xin giữ gìn tôi khỏi quyền lực kẻ dữ; bảo vệ tôi khỏi những kẻ hung bạo chỉ lăm le đánh bẫy tôi. 5 Kẻ tự phụ lén gài bẫy hại tôi. Chúng giăng lưới bên đường; Chúng gài bẫy cho tôi sụp. Xê-la 4

- 753 -


Tôi thưa cùng Chúa, “Ngài là Chúa tôi.” Lạy Chúa, xin nghe tiếng kêu cứu của tôi. 6

Lạy Chúa là Thượng Đế, Đấng Cứu Chuộc mạnh mẽ của tôi, Ngài gìn giữ tôi trong chiến trận. 8 Lạy Chúa, xin đừng ban cho kẻ ác điều chúng ao ước. Xin đừng để các mưu mô chúng thành tựu, Nếu không chúng sẽ đâm ra tự phụ. Xê-la 7

Những kẻ quanh tôi âm mưu mờ ám. Nguyện âm mưu đó trở lại hãm hại chúng. 10 Nguyện than lửa rơi trên đầu chúng. Xin hãy ném chúng vào lửa hay vào hố không lối thoát. 11 Xin đừng để kẻ gian dối thành công. Nguyện tai họa theo đuổi chúng. 12 Tôi biết Chúa sẽ mang công lý đến cho kẻ nghèo, Ngài sẽ bênh vực kẻ khốn khó nơi tòa án. 13 Người nhân đức sẽ ca ngợi danh Ngài; Kẻ lương thiện sẽ sống trong sự hiện diện của Ngài. 9

Thánh Thi 141 Cầu xin được tránh xa tội lỗi Thi thiên của Đa-vít.

141 Lạy Chúa, tôi kêu xin Ngài. Xin hãy mau mau đến cùng tôi. Khi tôi kêu cầu, xin hãy lắng nghe. 2 Nguyện lời cầu nguyện tôi như trầm hương bay tỏa lên trước mặt Ngài, và lời ca ngợi tôi như của lễ buổi chiều. Lạy Chúa, xin giúp tôi kiềm chế lưỡi tôi; giúp tôi thận trọng trong lời ăn tiếng nói. 4 Xin cất khỏi tôi ý muốn làm ác hay nhập bọn làm điều sái bậy. Xin đừng để tôi ngồi ăn tiệc chung với kẻ ác. 5 Hãy để người chân chính sửa trị tôi, vì đó là điều tốt cho tôi. Nếu người sửa dạy tôi, tôi sẽ vui mừng đón nhận. Tôi sẽ mãi cầu xin được chống nghịch lại kẻ làm ác. 6 Nguyện các người lãnh đạo chúng bị xô xuống vực. Bấy giờ mọi người sẽ biết rằng tôi nói đúng: 3

“Đất đã bị cày lên và bể vụn ra. Cũng vậy, xương cốt chúng sẽ bị phân tán trong huyệt mả.” 8 Thượng Đế ôi, tôi trông đợi Ngài cứu giúp. Lạy Chúa, tôi tin cậy nơi Ngài. Xin đừng để tôi phải chết mất. 7

- 754 -


Xin bảo hộ tôi khỏi những cạm bẫy mà chúng gài để bắt tôi và khỏi lưới kẻ ác giăng ra. 10 Nguyện kẻ ác mắc vào lưới chúng nó đã giăng, Nhưng nguyện tôi đi qua vô sự. 9

Thánh Thi 142 Cầu xin được an toàn Bài mạch kinh của Đa-vít khi ông trốn trong hang. Lời cầu nguyện.

142 Tôi kêu xin cùng Chúa; Tôi nài xin Chúa thương xót. 2 Tôi trút đổ tâm tư tôi cùng Ngài; Tôi trình bày cùng Chúa nỗi sầu khổ của tôi. 3 Chúa ôi, khi tôi lo sợ, thì Chúa chỉ cho tôi lối ra. Trên đường tôi đi, Có cái bẫy gài kín. 4

Xin hãy nhìn quanh tôi. Chẳng ai lo lắng cho tôi. Tôi chẳng tìm được chỗ nào an ninh cả. Nào có ai lo cho mạng sống tôi. 5 Chúa ôi, tôi kêu cầu cùng Ngài. Tôi thưa, “Ngài là nơi bảo vệ tôi. Ngài là niềm mong ước tôi trên đời nầy.” 6 Xin hãy lắng nghe tiếng kêu của tôi. Vì tôi cô thế. Xin giải cứu tôi khỏi những kẻ rượt đuổi tôi, Vì chúng mạnh hơn tôi. 7 Xin giải thoát tôi khỏi ngục tù, rồi tôi sẽ ca ngợi danh Ngài. Những người nhân đức sẽ ở chung quanh tôi, vì Ngài chăm sóc tôi.

Thánh Thi 143 Cầu xin được thoát chết Thi thiên của Đa-vít.

143 Lạy Chúa, xin nghe lời cầu xin tôi. Lắng nghe tiếng tôi kêu xin được cứu giúp. Xin cho tôi thấy Ngài thành tín và nhân từ. 2 Xin đừng xét xử tôi, kẻ tôi tớ Chúa, vì không có con người nào vô tội trước mặt Ngài. 3 Kẻ thù tôi đang rượt đuổi tôi; Chúng chà đạp tôi xuống đất. Chúng bắt tôi sống trong tăm tối như kẻ đã chết lâu đời rồi. - 755 -


Tôi quá run sợ; tôi hết can đảm rồi. Tôi nhớ lại ngày xưa; Tôi xem xét mọi việc Chúa làm. Tôi suy nghĩ những kỳ công của Ngài. 4 5

Tôi giơ tay lên cùng Ngài và cầu nguyện. Như đất khô hạn cần nước. Tôi khao khát Ngài. Xê-la 6

Lạy Chúa, xin hãy mau mau trả lời tôi, vì tôi đang suy yếu. Xin đừng tránh mặt tôi, Nếu không tôi sẽ giống như kẻ đã qua đời. 8 Buổi sáng xin tỏ cho tôi biết tình yêu Ngài, vì tôi tin cậy nơi Chúa. Xin cho tôi biết điều tôi phải làm, Vì lời cầu xin tôi lên đến trước mặt Ngài. 9 Chúa ôi, xin giải cứu tôi khỏi kẻ thù tôi; Tôi ẩn núp trong Ngài. 10 Xin dạy tôi biết ý muốn Ngài, vì Ngài là Thượng Đế tôi. Xin Thánh Linh nhân lành của Chúa đặt tôi đứng trên thế đất bằng phẳng. 11 Lạy Chúa, xin cho tôi được sống để người ta ca ngợi Ngài. Vì sự nhân từ Chúa, xin hãy cứu tôi ra khỏi mọi gian nan. 12 Vì tình yêu Ngài, xin hãy đánh bại kẻ thù tôi. Xin hãy tiêu diệt mọi kẻ quấy rối tôi, Vì tôi là tôi tớ Ngài. 7

Thánh Thi 144 Lời cầu xin được chiến thắng Do Đa-vít sáng tác.

144 Tôi ca ngợi Chúa là Khối Đá tôi, Đấng dạy tôi đánh giặc, Ngài dạy tôi chiến đấu. 2 Ngài yêu thương và bảo vệ tôi. Ngài là nơi ẩn náu an toàn của tôi trên núi cao. Ngài là Đấng bảo vệ và Đấng Cứu Chuộc tôi, Là cái thuẫn [a] và nguồn che chở tôi. Ngài giúp tôi quản trị dân tộc tôi. Lạy Chúa, loài người là gì mà Chúa lưu tâm? Tại sao Chúa lo nghĩ đến con người? 4 Loài người như hơi thở; sự sống con người như bóng thoảng qua. 3

- 756 -


Lạy Chúa, xin mở bầu trời và nhìn xuống. Xin đụng đến núi cho chúng bốc khói lên. 6 Xin sai sấm chớp xuống làm kẻ thù tôi chạy tán loạn. Xin hãy bắn tên để chúng bỏ chạy. 5

Xin hãy với tay xuống từ trời. Giải cứu tôi khỏi nước lũ, khỏi các kẻ thù nghịch, và khỏi tay bọn ngoại quốc. 8 Bọn chúng là đồ láo khoét và bất lương. 7

Lạy Thượng Đế, tôi sẽ hát một bài ca mới cho Ngài; Tôi sẽ khảy đờn cầm mười dây cho Ngài thưởng thức. 10 Ngài ban chiến thắng cho các vua. Ngài cứu Đa-vít kẻ tôi tớ Ngài khỏi lưỡi gươm hiểm độc. 9

Xin hãy giải cứu tôi khỏi bọn ngoại quốc nầy. Chúng nó toàn là dối trá và bất lương. 12 Xin cho các con trai thanh xuân của chúng tôi lớn lên như cây cối, và con gái chúng tôi như đá chạm trổ trong đền thờ. 13 Xin hãy cho các kho chứa chúng tôi tràn đầy hoa lợi đủ loại. Xin cho bầy chiên chúng tôi ngoài đồng sinh sản hằng ngàn hằng vạn chiên con. 14 Xin khiến bầy gia súc chúng tôi sinh sôi nẩy nở. Nguyện không có kẻ trộm lẻn vào. Không có tranh chiến hay tiếng la hãi hùng trên đường phố chúng tôi. 11

15

Phúc cho người nào được hưởng khung cảnh như vậy; Phúc cho dân tộc nào có Thượng Đế làm Chúa mình.

Thánh Thi 145 Ca ngợi Thượng Đế là vua Thi thiên ca ngợi của Đa-vít.

145 Lạy Chúa là vua, tôi ca ngợi sự cao cả của Ngài; Tôi sẽ ca ngợi Ngài mãi mãi. 2 Hằng ngày tôi sẽ ca ngợi Ngài. Tôi sẽ ca ngợi Ngài đời đời kiếp kiếp. 3 Chúa là Đấng cao cả đáng được tán tụng; không ai dò được sự cao cả của Ngài. 4 Cha mẹ thuật lại cho con cái điều Ngài đã làm. Họ sẽ thuật lại những kỳ công của Ngài, 5 sự oai nghi lạ lùng và vinh hiển Ngài. Tôi sẽ suy nghĩ về những phép lạ Ngài. 6 Họ sẽ thuật lại những việc diệu kỳ Ngài đã làm, còn tôi sẽ thuật lại sự cao cả của Ngài. - 757 -


Họ sẽ nhớ lại sự nhân từ lớn lao của Ngài, và ca tụng sự công chính Ngài. 8 Chúa thật nhân từ, giàu lòng từ ái. Ngài chậm giận và đầy lòng yêu thương. 9 Chúa nhân từ đối với mọi người; Ngài luôn thương xót những vật Ngài tạo nên. 10 Lạy Chúa, mọi vật Ngài làm nên sẽ ca ngợi Ngài; những ai thuộc về Ngài sẽ chúc tụng Ngài. 11 Họ sẽ thuật lại sự vinh hiển của nước Ngài, và kể lại quyền năng Ngài. 12 Mọi người sẽ biết những việc lớn lao Ngài làm cùng quyền năng và sự oai nghi của nước Ngài. 13 Nước Ngài sẽ còn đời đời, Ngài sẽ mãi mãi cai trị. 7

Chúa sẽ luôn luôn giữ lời hứa Ngài; Ngài thành tín đối với những vật Ngài tạo nên. 14 Chúa giúp những ai đang bị thất thế và chăm sóc những kẻ đang lâm cảnh khó khăn. 15 Mọi sinh vật đều trông đợi Chúa ban thức ăn. Ngài cho chúng đồ ăn đúng giờ. 16 Chúa xòe tay ra, thoả mãn muôn vật. 17 Mọi điều Chúa làm đều đúng. Ngài thành tín đối với những vật Ngài tạo nên. 18 Chúa ở gần những kẻ cầu xin Ngài, tức những ai thật lòng tìm kiếm Ngài. 19 Ngài ban cho những kẻ tôn kính Ngài điều họ ao ước. Ngài nghe tiếng họ khi họ kêu cứu và giải cứu họ. 20 Chúa bảo vệ những ai yêu mến Ngài, nhưng Ngài tiêu diệt kẻ ác. 21 Tôi sẽ ca ngợi Chúa. Tất cả mọi người hãy ca ngợi danh thánh của Ngài cho đến đời đời.

Thánh Thi 146 Ca ngợi Thượng Đế vì Ngài giúp đỡ kẻ yếu thế 146 Hãy ca ngợi Chúa! Hỡi linh hồn ta, hãy ca ngợi Ngài. 2 Tôi sẽ ca ngợi Ngài trọn đời tôi; Hễ tôi còn sống bao lâu tôi sẽ ca ngợi Chúa bấy lâu. 3 Chớ nên tin cậy vua chúa hay loài người, là những kẻ không thể cứu ngươi. 4 Khi con người chết, họ bị chôn trong đất. Bao nhiêu dự định họ đều tan theo mây khói. 5 Phúc cho những kẻ được Thượng Đế của Gia-cốp giúp đỡ. Họ đặt hi vọng đặt trong Chúa là Thượng Đế của mình. 6 Ngài tạo nên trời, đất, biển và mọi vật trong đó. Ngài giữ lòng thành tín đến đời đời.

- 758 -


Ngài xử công bằng cho kẻ bị ức hiếp. Ban thức ăn cho kẻ đói khổ. Chúa giải phóng người bị tù. 8 Khiến kẻ mù được sáng mắt. Chúa nâng đỡ kẻ gặp khó khăn. Ngài yêu mến người làm điều phải. 9 Chúa bảo vệ các ngoại kiều. Ngài bênh vực trẻ mồ côi và người góa bụa, Nhưng Ngài cản đường kẻ ác. 10 Chúa sẽ làm vua cho đến đời đời, Hỡi Giê-ru-sa-lem, Thượng Đế ngươi còn đời đời. 7

Ngợi ca Chúa!

Thánh Thi 147 Ca ngợi Chúa là Đấng giúp đỡ dân Ngài 147 Hãy ca ngợi Chúa! Hãy nên ca tụng Thượng Đế chúng ta vì đó là điều tốt lành. Ngài đáng được chúng ta ca ngợi. 2 Chúa xây dựng lại Giê-ru-sa-lem, Ngài mang các tù nhân Ít-ra-en trở về. 3 Ngài hàn gắn lại những tấm lòng tan vỡ, băng bó các vết thương họ. 4 Ngài đếm các ngôi sao và đặt từng tên cho chúng. 5 Chúa chúng ta vô cùng vĩ đại và quyền năng. Sự thông hiểu Ngài thật vô hạn. 6 Ngài bênh vực người khiêm nhường, nhưng xô kẻ ác té xuống đất. 7 Hãy ca ngợi Chúa; khảy đờn cầm mà chúc tụng Ngài. 8 Ngài phủ mây đầy bầu trời, sai mưa tưới đất và khiến cỏ mọc phủ các đồi núi. 9 Ngài ban thức ăn cho súc vật và các chim non kêu ríu rít. 10 Ngài không quan tâm đến sức mạnh của ngựa hay sức lực của con người. 11 Ngài hài lòng với người kính sợ Ngài, với những người tin cậy nơi tình yêu Ngài. 12 Hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy ca ngợi Chúa; Hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy ca ngợi Thượng Đế ngươi. 13 Ngài củng cố các cửa thành ngươi, ban phước cho các con cái sống trong thành ngươi. 14 Ngài ban hòa bình cho xứ ngươi và cho ngươi đầy dẫy ngũ cốc tốt nhất. 15 Ngài ra lệnh cho đất, nó liền vâng lời Ngài. 16 Ngài trải tuyết ra như lông chiên và rải sương tuyết ra như tro.

- 759 -


Ngài rắc mưa đá xuống như sỏi. Không ai chịu nổi luồng gió lạnh của Ngài. 18 Rồi Ngài ra lệnh, tuyết giá liền tan. Ngài sai luồng gió đến, nước liền chảy. 17

Ngài ban mệnh lệnh cho Gia-cốp, và luật lệ cùng mệnh lệnh Ngài cho Ít-ra-en. 20 Không có quốc gia nào khác được ân huệ đó. Họ không biết luật lệ Ngài. 19

Hãy ca ngợi Chúa!

Thánh Thi 148 Cả thế giới nên ca ngợi Chúa 148 Hãy ca ngợi Chúa! Hãy ca tụng Chúa từ các từng trời. Hãy ca ngợi từ chốn không trung. 2 Hỡi các thiên sứ, hãy ca ngợi Ngài. Hỡi các đạo binh thiên quốc, hãy ca tụng Ngài. 3 Hỡi mặt trời, mặt trăng hãy ca ngợi Chúa. Hỡi các ngôi sao sáng hãy ca tụng Ngài. 4 Hỡi các từng trời cao và nước trên các từng trời hãy ca ngợi Ngài. 5 Tất cả hãy ca ngợi Chúa, vì mọi vật được tạo nên đều do mệnh lệnh Ngài. 6 Ngài đặt chúng vào vị trí cho đến đời đời, Ngài đặt ra luật pháp bất di bất dịch. 7 Hãy ca ngợi Chúa từ dưới đất, hỡi các sinh vật to lớn sống trong biển cùng các đại dương, 8 Hỡi sấm chớp và mưa đá, tuyết và sương, gió bão vâng lời Ngài. 9 Hỡi các núi đồi, các cây trái và các cây hương nam, 10 các dã thú và gia súc, các sinh vật bò sát cùng các loài chim muông, 11 hỡi các vua thế gian cùng các dân tộc, các quan tước và các nhà cầm quyền trên đất, 12 hỡi các thanh niên thiếu nữ, người già cả cùng trẻ em, 13 Hãy ca tụng Ngài vì chỉ một mình Ngài là Đấng cao cả. Sự oai nghi Ngài vượt hơn trời đất. 14 Thượng Đế đã ban cho dân Ngài một vị vua. Những ai thuộc về Ngài hãy ca ngợi Ngài. Toàn dân Ít-ra-en hãy ca ngợi Chúa, tức là dân thuộc về Ngài. Hãy ca ngợi Chúa!

- 760 -


Thánh Thi 149 Ca ngợi Thượng Đế của Ít-ra-en 149 Hãy ca ngợi Chúa! Hãy hát một bài ca mới cho Ngài; Hãy ca ngợi giữa buổi họp của dân Ngài. 2 Toàn dân Ít-ra-en hãy vui mừng vì Thượng Đế, Đấng dựng nên mình. Dân cư Giê-ru-sa-lem hãy vui mừng vì vua mình. 3 Hãy nhảy múa mà ca ngợi Ngài. Hãy đánh trống cơm và dùng đờn cầm mà ca tụng Chúa. Chúa hài lòng với dân Ngài; Ngài cứu kẻ khiêm nhường. 5 Hỡi những ai thờ phụng Ngài hãy vui mừng trong vinh hiển Ngài. Dù khi đang nằm trên giường cũng hãy ca tụng Ngài! 4

Mọi người hãy lớn tiếng ca tụng Chúa bằng gươm hai lưỡi trong tay. 7 Họ sẽ trừng phạt các nước, đánh bại các dân. 8 Họ sẽ trói các vua bằng xiềng và cột những người có quyền thế bằng xích sắt. 9 Họ sẽ trừng phạt chúng theo bản án Thượng Đế định. Đó là vinh dự cho những kẻ theo Ngài. 6

Hãy ca tụng Chúa!

Thánh Thi 150 Hãy dùng âm nhạc mà ca ngợi Chúa 150 Hãy ca ngợi Chúa! Hãy ca tụng Thượng Đế trong đền thờ Ngài; Hãy tán dương Chúa trên các từng trời hùng vĩ. 2 Hãy ca ngợi sức mạnh Ngài, tán tụng Chúa vì sự cao cả của Ngài. 3 Hãy thổi hồi kèn vang dội mà ca tụng Chúa. Hãy khảy đờn cầm với đờn sắt mà tán dương Ngài. 4 Hãy đánh trống cơm và nhảy múa mà ca ngợi Ngài. Hãy dùng nhạc khí bằng dây và sáo mà ca tụng Chúa. 5 Hãy đánh chập chỏa và phèn la vang rền để ca ngợi Ngài. 6

Mọi vật có hơi thở hãy ca ngợi Chúa.

Hãy ca tụng Ngài!

- 761 -


Châm Ngôn 1 (Proverbes-Proverbs) Tầm quan trọng của Châm ngôn 1 Sau đây là những châm ngôn của Sô-lô-môn, con Đa-vít, vua Ít-ra-en 2 để dạy sự khôn ngoan và tiết độ; giúp con chấp nhận sự sửa dạy, am hiểu những lời thông sáng. 3 Không những chúng dạy con tiết độ và khôn ngoan mà còn biết làm điều phải, công bằng và chính trực. 4 Những lời ấy khiến kẻ mộc mạc, chất phác trở nên khôn ngoan, và giúp người trẻ tuổi thêm hiểu biết và dè dặt. 5 Kẻ khôn ngoan có thể nghe và học hỏi! Người thông minh cũng tìm được ý tưởng hay. 6 Ai nấy có thể hiểu biết lời lẽ và truyện tích khôn ngoan, cùng những lời của người khôn và câu đố của họ. 7 Kính sợ Chúa là khởi điểm của sự hiểu biết, còn kẻ ngu dại ghét sự khôn ngoan và tiết độ.

Lời khuyên con Con ơi [a], hãy nghe lời dạy dỗ của cha con, đừng quên lời khuyên răn của mẹ con. 9 Những lời dạy bảo ấy như hoa cài trên tóc, như vòng xuyến đeo quanh cổ con. 10 Con ơi, nếu tội nhân tìm cách dẫn con vào lối lầm lạc, thì đừng nghe theo. 11 Chúng sẽ nói, “Hãy cùng chúng ta rình rập giết hại kẻ khác; hãy tấn công người nào đi ngang qua. 12 Hãy ăn tươi nuốt sống chúng nó như sự chết; hãy nuốt sống chúng nó như mồ mả. 13 Chúng ta sẽ cướp mọi của báu, và chất của ăn cắp đầy nhà chúng ta. 14 Hãy đến nhập bọn với chúng ta. Chúng ta sẽ chia của ăn cắp [b] với anh.” 15 Con ơi, chớ nhập bọn với chúng theo con đường ấy, hãy tránh lối đi của chúng. 16 Chúng vội vàng làm điều ác, và nhanh tay giết người. 17 Giăng lưới mà để chim nhìn thấy được thì thật vô ích. 18 Nhưng chúng lại tự giăng bẫy cho mình, và rình rập mình. 19 Đó là phần số của những kẻ tham lam; Chúng sẽ chết vì tính tham lam của mình. 8

Sự khôn ngoan lên tiếng Sự khôn ngoan [c] lên tiếng nơi đường phố; nàng [d] lên tiếng chỗ công cộng. 21 Nàng kêu lên trong đường phố ồn ào, và la lên nơi cửa thành như sau: 20

- 762 -


“Hỡi kẻ ngu dại, các ngươi sẽ chuộng sự ngu dại cho đến chừng nào? Các ngươi sẽ chế giễu sự khôn ngoan, và ghét sự thông sáng cho đến bao giờ? 23 Nếu các người chịu nghe khi ta sửa dạy các ngươi, thì ta sẽ cho các ngươi biết tư tưởng của ta; ta hẳn đã cho các ngươi biết ý nghĩ trong trí ta. 24 Tuy nhiên vì ta kêu mà các ngươi chẳng trả lời; ta giơ tay ra mà các ngươi không thèm để ý. 25 Các ngươi chẳng thèm nghe lời khuyên ta, và không đếm xỉa khi ta sửa dạy. 26 Cho nên khi các ngươi gặp khốn khó ta sẽ chế diễu các ngươi. Ta sẽ chế diễu khi thảm hoạ chụp bắt các ngươi. 27 Khi thảm họa đến với các ngươi như giông bão, khi khốn khó lao vào ngươi như gió lốc, khi sự đau đớn và khốn khó chụp lấy ngươi, 28 Lúc ấy, chúng nó sẽ cầu cứu ta nhưng ta sẽ không trả lời. Chúng nó sẽ tìm kiếm ta nhưng không gặp. 29 Vì chúng đã gạt bỏ sự hiểu biết và không kính sợ Chúa. 30 Chúng không thèm nghe lời khuyên ta, bỏ ngoài tai mọi sự sửa dạy ta. 31 Cho nên chúng sẽ lãnh hậu quả của hành động mình; chúng sẽ lãnh lấy những điều chúng dành cho kẻ khác. 32 Những kẻ ngu dại sẽ chết vì tính nết hư hỏng, chúng sẽ bị tiêu diệt vì tính tự mãn. 33 Nhưng ai nghe lời ta sẽ sống an toàn, bình an vô sự, không sợ hãi điều gì.” 22

Châm Ngôn 2 Phần thưởng của sự khôn ngoan 2 Con ơi, hãy chú ý nghe lời ta và ấp ủ điều ta dạy bảo. 2 Hãy nghe kỹ điều khôn ngoan; lưu ý đến điều thông sáng. 3 Hãy đòi cho được sự khôn ngoan, van xin sự thông sáng. 4 Hãy tìm kiếm nó như bạc, săn lùng nó như kho tàng kín giấu. 5 Thì con sẽ biết kính sợ Chúa, và tìm được sự hiểu biết về Thượng Đế. 6 Chỉ một mình Chúa là Đấng ban sự khôn ngoan; Ngài ban sự thông sáng và hiểu biết. 7 Ngài dành khả năng cho những kẻ liêm chính. Ngài bảo vệ người ngay thẳng như cái thuẫn. 8 Ngài trông chừng để mọi người được đối xử công bằng, và bảo vệ những kẻ trung thành với Ngài. 9 Lúc ấy con sẽ hiểu biết điều ngay thẳng và công chính, cùng sự thanh liêm và các lối đi phải lẽ. 10 Sự khôn ngoan sẽ nhập vào tâm trí con, con sẽ ưa thích sự hiểu biết.

- 763 -


Lẽ phải sẽ bảo vệ con; sự hiểu biết sẽ canh chừng con. 12 Nó sẽ giữ chân con khỏi lối đi của kẻ ác, khỏi những kẻ ăn nói thô bỉ, 13 khỏi những kẻ bỏ lối đi chính trực, mà theo ngõ tăm tối. 14 Chúng thích làm quấy, ưa làm những chuyện không ngay thẳng và gian ác. 15 Các lối chúng đều cong quẹo, các đường chúng đều bất lương. 16 Sự khôn ngoan sẽ giúp con tránh người đàn bà bất chính, kẻ quyến dụ con ngoại tình bằng những lời đường mật. 17 Nàng bỏ chồng mình lấy lúc thanh xuân, không đếm xỉa đến lời hứa trước mặt Thượng Đế. 18 Nhà nàng dẫn đến sự chết; các lối đi của nàng đưa đến chỗ chết. 19 Không ai đi đến nàng mà trở về, hay sống lại cả. 20 Sự khôn ngoan sẽ giúp con đi trên đường chính trực, và đi trong lối ngay thẳng. 21 Người lương thiện sẽ sống trong xứ, và những ai vô tội sẽ ở trong đó. 22 Nhưng kẻ ác sẽ bị trục xuất khỏi xứ, những kẻ bất trung sẽ bị ném ra khỏi đó. 11

Châm Ngôn 3 Lời khuyên con cái 3 Con ơi, đừng quên lời dạy của ta, hãy ghi nhớ lời giáo huấn của ta trong trí. 2 Thì con sẽ sống lâu, nó sẽ cho con sự bình an. 3 Đừng bao giờ từ bỏ sự yêu thương và lòng thành tín. Hãy đeo nó như vòng xuyến nơi cổ. Ghi tạc nó vào lòng con như ghi trên tập vở. 4 Để con được ơn và sự kính nể trước mặt Thượng Đế cùng người đời. 5 Hãy hết lòng nhờ cậy Chúa. Đừng ỷ lại vào sự hiểu biết riêng của con. 6 Trong mọi việc làm hãy nhớ đến Chúa, thì Ngài sẽ giúp con đi đúng lối. Đừng ỷ lại vào sự khôn ngoan của con. Hãy kính sợ Chúa và tránh làm điều quấy. 8 Như thế thân thể con sẽ khỏe mạnh, và xương cốt con sẽ vững chắc. 7

Hãy dùng tài sản và hoa lợi đầu mùa của con mà tôn kính Chúa. 10 Thì các kho chứa con sẽ đầy ắp, và các thùng rượu con sẽ tràn rượu mới. 9

- 764 -


Con ơi, đừng khinh thường sự sửa phạt của Chúa, chớ nổi giận khi Ngài sửa trị. 12 Vì Chúa sửa dạy kẻ Ngài yêu như người cha sửa dạy con cái mình. 11

Phúc cho người nào tìm được sự khôn ngoan, và kẻ có được sự hiểu biết. 14 Sự khôn ngoan có giá trị hơn bạc, nàng [a] mang lợi ích hơn cả vàng ròng. 15 Sự khôn ngoan quí hơn châu ngọc; không gì sánh với nó được. 16 Tay phải nàng cho con sống lâu, còn tay trái nàng cho con sự giàu có và danh dự. 17 Các lối đi của nàng đều thoải mái và các đường đi của nàng đều an tịnh. 18 Nàng là cây sự sống cho kẻ nào nắm lấy nó. Ai ôm ấp nàng sẽ được hạnh phúc. 13

Chúa tạo nên trái đất nhờ sự khôn ngoan Ngài. Ngài đặt bầu trời vào vị trí nó nhờ sự thông sáng của Ngài. 20 Nhờ sự hiểu biết, Ngài khiến các suối phun nước, và mây tạo ra mưa. 19

Con ơi, hãy nắm giữ sự khôn ngoan và trí sáng suốt. Đừng để chúng rơi khỏi tầm mắt con. 22 Chúng sẽ giúp con sống lâu và thêm trang sức như vòng xuyến nơi cổ con. 23 Lúc đó con sẽ bước đi vững vàng trên đường lối mình, chân con sẽ không vấp ngã. 24 Khi nằm xuống con sẽ không sợ hãi; con sẽ nằm ngủ bình yên. 25 Con không sợ tai họa bất chợt xảy đến; con cũng không e ngại sự tàn phá rơi trên kẻ ác, 26 vì Chúa là nguồn tin tưởng của con. Ngài sẽ giúp chân con khỏi mắc bẫy. 27 Nếu sự việc nằm trong tầm tay con, hãy giúp đỡ người cần được giúp. 28 Nếu con có trong tay đồ vật mà người láng giềng xin, thì đừng nói, “Mai đến đây tôi sẽ cho anh.” 29 Đừng lập tâm hại người láng giềng là người sống cạnh con và tin cậy con [b]. 30 Đừng vô cớ vu cáo người khác, hay thưa gởi kẻ không làm hại mình. 21

Đừng ganh tức với kẻ hung bạo, cũng đừng theo đường lối họ. 32 Chúa ghê tởm kẻ lươn lẹo, nhưng Ngài kết bạn với người thanh liêm. 33 Chúa nguyền rủa nhà kẻ ác, nhưng chúc phước cho nhà kẻ làm điều lành. 34 Chúa chế giễu những kẻ chế diễu Ngài, nhưng Ngài ban ơn cho kẻ khiêm nhường. 35 Những kẻ khôn ngoan sẽ nhận được vinh dự, nhưng kẻ ngu dại sẽ bị sỉ nhục. 31

- 765 -


Châm Ngôn 4 Sự khôn ngoan vô cùng quan trọng 4 Các con ơi, hãy nghe lời dạy dỗ của cha; hãy chú ý để hiểu biết. 2 Lời ta nói ra đều tốt lành, cho nên chớ quên điều ta dạy con. 3 Khi ta còn là con trong nhà cha ta, ta như đứa con duy nhất của mẹ ta, 4 Cha ta thường dạy ta như sau, “Hãy hết lòng nghe lời dạy của cha. Vâng theo lời chỉ dạy của cha thì con sẽ sống. 5 Hãy tìm kiếm sự khôn ngoan và trí hiểu biết. Đừng quên hay bỏ qua lời ta dạy. 6 Đừng lìa xa sự khôn ngoan thì nó sẽ chăm sóc con. Yêu mến nó thì nó sẽ giữ con an toàn. 7 Sự khôn ngoan vô cùng quan trọng; cho nên hãy cố gắng có được sự khôn ngoan. Dù tốn kém bao nhiêu cũng hãy ráng tìm được sự thông hiểu. 8 Hãy quí trọng sự khôn ngoan, nó sẽ khiến con được cao trọng; nắm giữ nó thì nó sẽ mang vinh dự đến cho con. 9 Nó sẽ như hoa trên tóc con, như mão triều rực rỡ trên đầu con.” Con ơi, hãy lắng nghe và chấp nhận điều cha nói, thì con sẽ sống lâu. 11 Cha dạy con đi theo đường khôn ngoan, cha dẫn con đi trên lối ngay thẳng. 12 Khi con đi, sẽ không có gì kềm giữ con lại; lúc con chạy, con sẽ không bị vấp ngã. 13 Hãy luôn luôn ghi nhớ điều con đã được dạy, đừng quên lãng. Hãy giữ lấy điều con đã học vì nó vô cùng quan trọng cho đời con. 14 Đừng bước vào con đường kẻ ác; cũng đừng làm như chúng. 15 Hãy tránh xa lối ấy, chớ chạy theo chúng. Hãy tránh xa khỏi đường ấy và tiếp tục đi đường con. 16 Chúng không thể ngủ yên được cho đến khi làm cho người khác vấp ngã. Chúng không nghỉ ngơi được cho đến khi đã làm hại người khác. 17 Chúng ăn nuốt điều ác và điều hung bạo như thể ăn bánh và uống rượu. 18 Đường lối của người công chính như ánh bình minh, càng ngày càng rực sáng cho đến giữa trưa. 19 Nhưng con đường kẻ ác rất tăm tối; chúng không biết tại sao mình vấp ngã. 10

- 766 -


Con ơi, hãy lưu ý lời cha, nghe cho kỹ điều cha nói đây. 21 Đừng bao giờ bỏ qua lời cha; hãy ghi tạc nó trong trí con. 22 Vì chúng là sự sống cho ai tìm được; chúng mang sức khoẻ cho cả thân thể. 23 Trên hết mọi việc hãy giữ tấm lòng của con, vì sự sống phát xuất từ đó [a]. 24 Chớ dùng miệng lưỡi mình mà nói dối; Hãy lấy môi gian dối ra khỏi con. 25 Mắt con hãy nhìn thẳng phía trước, hãy nhìn thẳng trước mặt. 26 Hãy thận trọng điều con làm, thì các bước đi của con sẽ vững chắc. 27 Chớ quay qua bên phải hay bên trái; hãy tránh xa con đường độc ác. 20

Châm Ngôn 5 Khuyên răn về tội ngoại tình 5 Con ơi, hãy để ý đến sự khôn ngoan ta; hãy lắng nghe sự hiểu biết của ta. 2 Hãy thận trọng mà sống cho khôn ngoan, đừng để môi miệng mình nói điều không phải. 3 Vì lời dụ dỗ của vợ người khác nghe ngon ngọt như mật; trơn láng hơn dầu ô-liu. 4 Nhưng cuối cùng nàng sẽ mang đến cho con sự cay đắng, đâm con đau như gươm hai lưỡi. 5 Nàng đang đi trên con đường dẫn đến sự chết; các bước chân nàng hướng thẳng vào mồ mả. 6 Nàng đã bỏ con đường sự sống, cũng không hề biết đường mình đi là sai quấy. Nầy các con ta, hãy nghe cha, đừng bỏ qua điều cha dặn. 8 Hãy tránh xa hạng đàn bà như thế. Chớ bén mảng đến gần cửa nhà nàng 9 nếu không con sẽ phải trao danh dự mình cho kẻ khác, và dâng cuộc đời con cho kẻ hung ác. 10 Các người dưng sẽ hưởng của cải con, và những gì con khổ công gây dựng sẽ lọt vào tay kẻ khác. 11 Cuối đời con sẽ rên rỉ vì sức khoẻ con không còn. 12 Lúc đó con sẽ nói, “Tại sao tôi ghét sự dạy dỗ? Tại sao tôi không thèm nghe sự sửa dạy? 13 Tôi chẳng thèm nghe thầy dạy tôi, và bỏ ngoài tai sự sửa dạy. 14 Cho nên bây giờ tôi phải chịu khốn khổ đủ điều, đến nỗi ai cũng biết.” 7

15

Hãy chung thủy với vợ con, như uống nước giếng nhà mình. - 767 -


16

Nếu không nước sẽ chảy ra ngoài đường, nước con sẽ chảy ra chỗ công cộng.

Nước ấy chỉ cho một mình con dùng, không nên san sẻ với người lạ. 18 Nguyện nguồn nước của con được phước. Hãy hưởng khoái lạc với vợ con cưới lúc còn trẻ. 19 Nàng dễ thương như nai tơ, và duyên dáng như dê rừng. Nguyện thân hình nàng làm con vui sướng; và tình yêu nàng mãi mãi mê hoặc con. 20 Con ơi, đừng bị quyến dụ bởi người đàn bà, Chớ ôm ấp vợ người khác. 21 Chúa nhìn thấy lối đi của con người, và Ngài dò xét đường lối họ. 22 Kẻ ác sẽ sụp vào mưu ác mình; Dây tội lỗi sẽ buộc chặt nó. 23 Nó sẽ chết vì không biết tự chế, và sự ngu dại nó sẽ dẫn nó đi lầm lạc. 17

Châm Ngôn 6 Đừng bảo lãnh cho ai 6 Con ơi, nếu con bảo lãnh cho người láng giềng, nhất là cam kết trả nợ cho người khác. 2 Thì con có thể bị mắc kẹt trong lời cam kết mình; bị vướng trong lời hứa mình. 3 Con ơi, nếu số phận con nằm trong tay người láng giềng, thì hãy gỡ mình ra như sau. Con hãy hạ mình, đi đến người ấy van xin được gỡ khỏi lời hứa của con. 4 Chớ ngủ hay chợp mắt 5 nhưng hãy tự giải thoát như con nai chạy thoát khỏi tay thợ săn, như con chim bay vụt khỏi kẻ đánh bẫy.

Cái nguy của sự biếng nhác Nầy kẻ lười biếng, hãy quan sát loài kiến. Hãy nhìn chúng mà học khôn. 7 Tuy chúng không có kẻ chỉ huy, người lãnh đạo hay quan tướng, 8 nhưng chúng biết tích trữ thực phẩm lúc mùa hè, và thu chứa lương thực vào mùa gặt. 9 Nầy kẻ biếng nhác, các ngươi nằm nướng như thế cho đến bao giờ? Chừng nào thì các ngươi thức dậy? 10 Ngủ một chút; chợp mắt một chút. Khoanh tay nghỉ ngơi một chút 11 thì sự nghèo khổ sẽ nhanh chóng đến trên con; và cảnh thiếu thốn sẽ ập đến như kẻ cướp. 6

- 768 -


Những kẻ gây rối Có những người gian ác và vô tích sự. Chỉ đi quanh phao tin thất thiệt, 13 chúng chớp mắt, làm dấu bằng chân, ra hiệu bằng tay. 14 Lòng hư hỏng của kẻ âm mưu điều ác, lúc nào cũng muốn gieo xích mích. 15 Cho nên bỗng chốc tai hoạ sẽ chụp bắt chúng; thình lình chúng bị thiệt hại đến nỗi không ai giúp được. 12

Điều Chúa ghét Có sáu điều Chúa ghét. Có bảy điều Ngài không chịu nổi: 17 cái nhìn tự phụ, lưỡi dối gạt, tay giết người vô tội, 18 lòng định mưu ác, chân vội vàng làm điều ác, 19 kẻ chứng gian tuôn ra điều dối gạt, và gây chuyện hục hặc trong gia đình. 16

Lời răn dạy về tội ngoại tình Con ơi, hãy vâng theo lời dạy bảo của cha, đừng quên sự dạy dỗ của mẹ con. 21 Buộc nó vào lòng con, đeo nó quanh cổ con. 22 Nó sẽ hướng dẫn khi con bước đi. Nó sẽ bảo vệ con khi con ngủ nghỉ. Nó sẽ chuyện trò với con khi con thức dậy. 23 Những lời dạy bảo ấy giống như ngọn đèn; lời giáo huấn đó là ánh sáng. Sự sửa trị của nó là con đường sống cho con. 24 Chúng sẽ giúp con tránh khỏi người đàn bà tội lỗi, và những lời đường mật của người vợ bất chính. 25 Chớ mê nhan sắc nàng. Đừng để cái liếc mắt đưa tình của nàng quyến rũ con. 26 Gái làng chơi chỉ tốn có một ổ bánh, nhưng vợ người khác săn lùng đời sống quí báu của con. 27 Con không thể nào ôm lửa đỏ vào lòng, mà không cháy quần áo, 28 cũng không thể bước trên than hồng mà không bị phỏng chân. 29 Nếu con ăn nằm với vợ người khác thì cũng giống như vậy. Ai làm chuyện đó thế nào cũng lãnh trừng phạt. 30 Kẻ nào vì đói mà phải ăn cắp thì không bị khinh chê. 31 Nhưng nếu bị bắt thì phải bồi thường bảy lần vật nó đánh cắp, có thể phải lấy hết tài sản mình mà bồi thường nữa. 32 Kẻ phạm tội ngoại tình thiếu hiểu biết; nó sẽ tự hủy hoại mình. 33 Nó sẽ bị đánh đập và bị sỉ nhục, cái nhục đó không bao giờ phai. 34 Vì một khi đàn ông nổi ghen thì tràn đầy thịnh nộ, khi người đó báo thù thì chẳng bao giờ nương tay. 20

- 769 -


35

Người sẽ không bao giờ chấp nhận món bồi thường nào cho chuyện quấy ấy cả; đền bù bao nhiêu người cũng không nhận.

Châm Ngôn 7 Người đàn bà ngoại tình 7 Con ơi, hãy ghi nhớ lời cha dạy, ấp ủ điều cha khuyên răn, 2 Vâng theo lời dạy dỗ của cha thì con sẽ sống, Hãy bảo vệ lời răn dạy cha như con ngươi của mắt con. 3 Buộc nó trên ngón tay con; ghi tạc nó vào tập vở của lòng con. 4 Hãy gọi sự khôn ngoan rằng, “Ngươi là chị em với ta” [a] và hãy gọi sự hiểu biết rằng “Ngươi là bạn thân ta.” 5 Sự khôn ngoan và hiểu biết sẽ giúp con tránh khỏi tội ngoại tình, tránh khỏi người vợ bất chính và những lời dụ dỗ đường mật của nàng. 6 Thỉnh thoảng ta ngồi tựa cửa sổ nhìn qua bức sáo, 7 ta thấy có mấy chàng thanh niên khờ khạo. Ta thấy có một anh chàng chẳng hiểu biết gì cả. 8 Anh ta đang đi trên phố gần góc đường dẫn đến nhà nàng. 9 Lúc đó là hoàng hôn; màn đêm vừa chụp xuống. 10 Người đàn bà đến gần anh ta, nàng ăn mặc như con điếm, định tâm dụ dỗ anh chàng. 11 Nàng sỗ sàng và ương ngạnh, không bao giờ ở nhà. 12 Nàng luôn luôn ở ngoài phố hay nơi công cộng, rình rập nơi các góc đường. 13 Nàng ôm chầm và hôn anh ta. Mặt mày trơ trẽn, nàng nói, 14 “Em đã làm sẵn của lễ thân hữu [b]. Hôm nay em đã giữ lời khấn hứa của em, 15 Cho nên em ra đón anh; Em đã tìm anh lâu lắm rồi mà bây giờ mới gặp. 16 Em đã lấy khăn màu Ai-cập trải trên giường em. 17 Em đã làm giường em thơm phức bằng nhũ hương, hoa hồi và quế. 18 Bây giờ chúng mình hãy cùng nhau làm tình cho đến sáng. Chúng mình hãy tận hưởng tình yêu cho nhau. 19 Chồng em không có nhà; anh ấy đang du hành xa lắm, 20 Mang theo một số tiền lớn, mấy tuần nữa mới về.” [c] 21 Nàng dùng lời khôn khéo dụ dỗ chàng trai ấy; dùng lời đường mật, nàng dẫn anh chàng làm chuyện bậy bạ. 22 Thế là anh chàng đi theo nàng, như con bò bị dắt đến hàng làm thịt, như con nai lao vào bẫy, - 770 -


23

cho đến khi bị tên bắn xuyên qua lá gan. Như chim sa nhanh vào bẫy, anh ta không hề biết rằng hành động của mình sẽ giết hại mình.

Bây giờ, hỡi các con, hãy nghe cha; lắng nghe lời cha nói đây. 25 Đừng bao giờ để lòng con xiêu theo lối của nàng, đừng lạc vào lối của nó. 26 Nàng đã làm cho nhiều người đàn ông quỵ ngã, nàng giết hại vô số người. 27 Nhà của nàng nằm trên con đường dẫn đến cái chết, đó là con đường đi sâu xuống âm phủ. 24

Châm Ngôn 8 Hãy nghe sự khôn ngoan dạy dỗ 8 Sự khôn ngoan kêu lớn; sự thông biết cất cao giọng. 2 Từ trên đỉnh đồi dọc theo đường, từ nơi ngã tư, sự khôn ngoan đứng kêu. 3 Từ nơi cửa thành, và từ các lối vào thành, sự khôn ngoan kêu lên: “Mọi người hãy nghe đây, ta kêu gọi các ngươi; Ta kêu gọi mọi người. 5 Những ai thiếu hiểu biết hãy học tính thận trọng. Những ai ngu dốt hãy học sự hiểu biết. 6 Hãy lắng nghe đây vì ta có điều quan trọng nói cùng các ngươi, lời ta nói là đúng. 7 Điều ta nói là chân thật vì môi miệng ta ghét việc ác. 8 Ta nói mọi điều ngay thật; ta không nói điều gì thiếu ngay thẳng hay giả dối. 9 Ta nói thật rõ ràng cho những ai hiểu biết; và những ai tìm sự khôn ngoan đều thấy lời ta là đúng. 10 Đừng chọn bạc mà nên chọn lời dạy dỗ ta, hãy chọn sự hiểu biết, đừng chọn vàng ròng. 11 Sự khôn ngoan quí hơn châu ngọc. Chẳng có gì con ưa thích mà sánh với nó được. 4

Giá trị của sự khôn ngoan Ta là sự khôn ngoan sống chung với sự thận trọng. Ta cũng có trí hiểu và tri thức thông thường. 13 Kính sợ Chúa nghĩa là ghét điều ác. Ta ghét tính tự phụ và khoe khoang, ta ghét đường lối gian ác và môi miệng lừa gạt. 12

- 771 -


Ta có sự khôn ngoan và lời khuyên tốt, ta có hiểu biết và quyền lực. 15 Nhờ ta mà các vua cai trị, cũng nhờ ta mà các quan quyền làm ra những luật lệ công bằng. 14

Các quan trưởng cần ta để lãnh đạo, và những người quyền cao chức trọng cần ta để phân xử công bằng. 17 Ta yêu những kẻ yêu ta, ai tìm ta sẽ gặp ta. 18 Trong tay ta có sự giàu sang và danh dự cùng của cải và sự công chính lâu dài [a]. 19 Điều ta cho quí hơn vàng ròng, sản phẩm của ta tốt hơn bạc nguyên chất. 20 Ta làm điều phải, và đi theo con đường công lý. 21 Ta ban của cải cho kẻ yêu thích ta, cho nhà cửa họ đầy châu báu. 16

Ta là sự khôn ngoan, ở với Chúa khi Ngài khởi công, và có mặt bên cạnh Ngài trước khi Ngài tạo dựng nên bất cứ vật gì. 23 Từ nguyên thủy ta đã được dựng nên, trước khi có trời đất. 24 Ta được sinh ra trước khi có đại dương, trước khi có các suối phun nước, 25 trước khi có đồi, trước khi núi non được đặt vào vị trí, thì ta đã được sinh ra rồi. 26 Trước khi Thượng Đế dựng nên đất đai và đồng ruộng, trước khi có bụi đất trên thế gian. 27 Ta đã có ở đó khi Thượng Đế đặt bầu trời vào chỗ, lúc Ngài trải chân trời trên biển cả [b], 28 khi Ngài tạo mây trên trời và đặt các suối ngầm của biển khơi vào chỗ. 29 Ta có ở đó khi Ngài ra lệnh cho biển không được vượt quá giới hạn Ngài định cho nó. Ta có ở đó khi Ngài đặt nền trái đất. 30 Ta như người thợ giỏi đứng cạnh Ngài [c]. Mỗi ngày ta là nguồn vui của Ngài, Nhảy múa trước mặt Ngài, 31 Ta chơi đùa trên thế gian mà Ngài tạo dựng, và vui thích nơi loài người mà Ngài đặt vào đó. 22

Bây giờ, các con ơi, hãy nghe ta, vì những ai đi theo đường ta sẽ hạnh phúc, 33 Hãy nghe lời dạy dỗ ta, các ngươi sẽ khôn ngoan; đừng bỏ qua lời dạy ta. 34 Phúc cho ai lắng nghe ta, canh chừng nơi cửa ta mỗi ngày, dựa cửa chờ ta. 32

- 772 -


Những ai tìm được ta là tìm được sự sống, Chúa sẽ ban ơn cho những người ấy. 36 Những ai không tìm ta là tự hại mình. Những ai ghét ta là yêu sự chết.” 35

Châm Ngôn 9 Lời mời mọc của sự khôn ngoan 9 Sự khôn ngoan xây nhà mình và dựng bảy cột trụ [a]. 2 Nàng đã chuẩn bị rượu và bày bàn ăn. 3 Nàng sai các tớ gái đi ra, và từ các điểm cao nhất trong thành phố nàng gọi xuống [b]. 4 Nàng kêu những kẻ kém hiểu biết rằng, “Hãy quay vào đây!” và những kẻ ngờ nghệch rằng, 5 “Hãy đến dùng thức ăn ta, và uống rượu ta đã pha chế. 6 Hãy bỏ đường lối ngu dại của các ngươi thì các ngươi sẽ sống; hãy đi con đường hiểu biết.” Nếu các ngươi sửa dạy những kẻ xấc láo, các ngươi sẽ bị sỉ nhục. Nếu các ngươi sửa dạy người ác, các ngươi sẽ bị thiệt hại. 8 Đừng thèm sửa dạy kẻ xấc láo vì nó sẽ ghét ngươi. Nhưng hãy sửa dạy người khôn, thì người sẽ yêu mến ngươi. 9 Hãy dạy người khôn, thì người sẽ khôn ngoan hơn. Hãy dạy bảo người tốt thì người sẽ học biết thêm. 7

Kính sợ Chúa là khởi điểm của khôn ngoan, nhìn biết Đấng Thánh là thông hiểu. 11 Nhờ ta, ngươi sẽ sống lâu; đời ngươi sẽ thêm năm tháng. 12 Người khôn nhận được sự khôn ngoan làm phần thưởng, nhưng kẻ xấc láo sẽ chịu khốn khổ một mình. 10

Sự ngu dốt là người đàn bà lớn miệng; Nó ngu dốt, chẳng hiểu biết gì. 14 Nó ngồi nơi cửa nhà, trên ghế ở nơi cao nhất của thành phố. 15 Nó kêu người qua kẻ lại, những người đang đi lo công việc mình. 16 Nó gọi những kẻ ít học rằng, “Hỡi kẻ ngu dại! 13

- 773 -


Nước ăn cắp thật ngọt ngào, món ăn vụng thật ngon lành.” 18 Nhưng họ không biết rằng hồn ma đang lảng vảng nơi nhà nó, và tất cả các khách khứa của nó đều về chốn âm phủ. 17

Châm Ngôn 10 Lời khôn ngoan của Sô-lô-môn 10 Đây là những châm ngôn của Sô-lô-môn: Con trai khôn ngoan làm cha mình vui, nhưng con trai ngu dại gây buồn khổ cho mẹ nó. 2 Của bất nghĩa không có giá trị gì, những ai công chính sẽ cứu mình khỏi chết. 3 Chúa không bao giờ để người lành bị đói khổ, nhưng Ngài cản không cho kẻ ác đạt được ý muốn. 4 Ai lười biếng sẽ nghèo khổ, nhưng ai chịu khó sẽ được giàu có. 5 Ai thu chứa hoa quả đúng mùa là khôn ngoan, nhưng kẻ ngủ suốt mùa gặt là điều sỉ nhục. 6 Người nhân lành sẽ được nhiều ân phúc, nhưng miệng kẻ ác che dấu điều hung bạo. 7 Người nhân đức để lại những nguồn phước hạnh, nhưng tên tuổi kẻ ác sẽ bị tiêu diệt [a]. 8 Người khôn làm theo điều chỉ bảo, nhưng kẻ nói nhiều sẽ bị tổn hại. 9 Ai thanh liêm sẽ sống bình an, nhưng kẻ bất lương sẽ bị bại lộ. 10 Kẻ dùng mắt mình làm dấu sẽ gặp lôi thôi, và ai nói nhiều sẽ gặp tổn hại [b]. 11 Lời nói của người tốt giống như suối nước tươi mát [c], nhưng miệng kẻ ác sẽ bị thiệt hại. 12 Sự ghen ghét gây ra điều lôi thôi, còn tình yêu thương tha thứ mọi lỗi lầm. 13 Sự khôn ngoan ở trên lưỡi người thông minh, nhưng roi đập xuống lưng kẻ ngu dại [d]. 14 Người khôn ngoan thận trọng khi nói ra điều mình biết, còn miệng kẻ ngu dại mang tai hoạ cho mình. 15 Kẻ giàu được bảo vệ nhờ tiền nhiều, nhưng kẻ nghèo bị tổn hại vì thiếu tiền. 16 Phần thưởng của người công chính là sự sống, còn lợi tức của kẻ ác là sự trừng phạt. 17 Ai chịu sửa dạy là đi theo đường sự sống, còn kẻ xem thường sự sửa trị sẽ dẫn kẻ khác lầm lạc. 18 Người che giấu điều ganh ghét là kẻ dối trá. Kẻ loan tin đồn là dại [e]. 19 Nói nhiều chỉ đưa đến lỗi lầm; còn ai canh chừng miệng lưỡi mình là khôn. 20 Lời nói của người nhân đức như bạc nguyên chất, nhưng tư tưởng của kẻ ác chẳng có giá trị gì.

- 774 -


Lời nói của người nhân đức giúp đỡ kẻ khác, nhưng kẻ dại dột sẽ chết vì thiếu hiểu biết. 22 Phước lành của Chúa ban của cải, còn vất vả cũng chẳng thêm được gì. [f] 23 Kẻ dại thích làm bậy, còn người hiểu biết thích làm việc khôn. 24 Kẻ ác sẽ lãnh điều chúng nó sợ, còn người nhân đức sẽ nhận được điều mình ao ước. 25 Trận bão sẽ thổi bay kẻ ác đi, nhưng người nhân đức sẽ đứng vững vàng. 26 Kẻ biếng nhác làm hại người chủ sai mình đi, như giấm buốt răng hay khói cay mắt. 27 Ai kính sợ Chúa sẽ sống lâu, nhưng đời của kẻ ác sẽ bị cắt ngắn. 28 Niềm hi vọng của người lành mang lại vui mừng [g], còn hi vọng kẻ ác sẽ tiêu tan. 29 Chúa gìn giữ người liêm chính, nhưng Ngài diệt kẻ ác. 30 Người liêm chính sẽ không bao giờ bị lay chuyển, còn kẻ ác sẽ bị đuổi ra [h] khỏi xứ. 31 Người nhân đức nói ra những lời khôn ngoan, nhưng lưỡi của kẻ nói dối sẽ bị cắt đi. 32 Người nhân đức biết điều mình phải nói, nhưng kẻ ác chỉ chuyên nói dối. 21

Châm Ngôn 11 11 Chúa ghét cái cân gian, nhưng Ngài hài lòng với trái cân đúng. 2 Sự kiêu căng đưa tới nhục nhã; còn sự khiêm nhường dẫn đến khôn ngoan. 3 Người nhân đức dùng tính lương thiện hướng dẫn mình; còn tính bất lương sẽ tiêu diệt kẻ bất trung. 4 Đến giờ qua đời thì giàu có chẳng ích gì, còn sống phải lẽ sẽ giúp con trong kỳ tai hoạ. 5 Sự công chính của người ngay thẳng khiến đời sống người dễ chịu, nhưng kẻ ác sẽ bị diệt trong mưu ác mình. 6 Lòng thanh liêm của người chính trực giải thoát người ấy, nhưng kẻ bất trung sẽ bị mắc kẹt trong ước vọng của chúng. 7 Khi kẻ ác chết, hi vọng chúng cũng chết theo; hi vọng giàu sang của chúng cũng tan theo mây khói [a]. 8 Người lành thoát khỏi mọi khó khăn; nhưng khó khăn đó lại rơi trên đầu kẻ ác. 9 Lời nói kẻ ác làm hại người láng giềng, nhưng người nhân đức nhờ hiểu biết mà thoát hiểm. 10 Khi người nhân đức thành công, cả thành đều hớn hở. Nhưng khi kẻ ác bị tiêu diệt thì mọi người reo vui. 11 Sự thịnh vượng của người nhân đức nâng đỡ thành mình, còn kẻ ác dùng miệng lưỡi mình phá sập nó. 12 Người ngu dại khinh dể láng giềng mình [b], còn người hiểu biết im lặng. 13 Kẻ bép xép không thể giữ điều kín giấu, còn người đáng tin không tiết lộ điều bí mật.

- 775 -


Quốc gia suy sụp vì thiếu lãnh đạo, còn nhiều cố vấn cứu được dân tộc. 15 Ai bảo lãnh người lạ [c] sẽ phải chịu thiệt. Cho nên tốt hơn đừng bảo lãnh. 16 Người đàn bà duyên dáng được kính nể, còn đàn ông hung dữ chỉ được của cải. 17 Kẻ nhân từ làm ơn cho chính mình, còn kẻ hung bạo chỉ mang khổ vào thân. 14

Công việc của kẻ ác chỉ là dối trá, còn người nhân đức chắc chắn sẽ được thưởng [d]. 19 Người nhân đức sẽ được sống, nhưng kẻ theo đuổi điều ác sẽ chết. 20 Chúa ghét những kẻ có lòng gian ác, nhưng Ngài thích kẻ ngay thẳng. 21 Kẻ ác chắc chắn sẽ bị phạt, còn ai làm điều phải sẽ được giải phóng. 22 Người đàn bà đẹp mà thiếu khôn khéo, như vòng vàng đeo vào mũi heo. 23 Hi vọng của người chân chính sẽ mang kết quả, còn hi vọng của kẻ ác sẽ đưa đến cơn thịnh nộ của Thượng Đế. 24 Có người cho ra nhiều nhưng lại thêm giàu có. Còn có kẻ keo kiệt, bủn xỉn thì lại nghèo thiếu. 25 Ai ban phát cho người khác sẽ trở nên sung túc hơn; còn ai giúp người sẽ được người giúp lại. 26 Dân chúng nguyền rủa kẻ tích trữ lúa thóc, nhưng chúc phước cho kẻ bán lúa ra. 27 Người nào tìm điều tốt lành sẽ nhận được ân phúc, còn kẻ tìm điều ác sẽ gặp điều ác. 28 Ai trông cậy vào của cải sẽ bị tàn hại, còn người nhân đức sẽ tươi tốt như lá cây xanh. 29 Ai mang hiềm khích cho gia đình, sẽ chẳng nhận được gì ngoài gió lốc. Người ngu dại sẽ làm tôi cho kẻ khôn ngoan. 30 Người nhân đức ban sự sống cho kẻ khác, nhưng sự hung bạo giết sinh mạng [e]. 31 Người nhân đức được phần thưởng trên thế gian, còn kẻ ác và tội nhân bị trừng phạt. 18

Châm Ngôn 12 12 Ai yêu học vấn sẽ yêu sự sửa dạy, còn kẻ ghét sự sửa dạy là dại dột. 2 Người chân chính nhận được ân lành từ Chúa, nhưng Ngài trừng phạt kẻ mưu đồ việc ác. 3 Làm ác không mang lại an ninh, còn nền tảng của người đạo đức sẽ không bị lay chuyển. 4 Vợ đảm đang như mão triều cho chồng mình, nhưng vợ gây sỉ nhục giống như bệnh xương cốt.

- 776 -


Những dự định của người chân chính đều phải lẽ, còn lời khuyên của kẻ ác sẽ phỉnh gạt con. 6 Lời nói của kẻ ác như cuộc phục kích đẫm máu, nhưng lời nói của người công chính sẽ cứu mình. 7 Kẻ ác bị diệt khỏi đất, nhưng gia đình người nhân đức sẽ vững chắc. 8 Người biết lẽ phải sẽ được ca tụng, còn người lươn lẹo sẽ bị khinh khi. 9 Làm người tầm thường mà có kẻ hầu, còn hơn giả vờ quan trọng mà không có thức ăn. 10 Người nhân đức chăm sóc gia súc mình, nhưng hành vi nhân từ của kẻ ác vẫn mang dấu hiệu độc ác [a]. 11 Ai cày bừa nơi đất mình sẽ dư ăn, còn kẻ chạy theo ảo vọng là dại dột. 12 Kẻ ác thèm muốn điều kẻ ác chiếm đoạt, nhưng người nhân đức mọc rễ sâu và mang kết quả nhiều [b]. 13 Kẻ ác bị sập bẫy trong lời ác mình, nhưng người nhân đức thoát khỏi chuyện lôi thôi. 14 Nhờ lời nói mình mà được hưởng phúc, cũng nhờ công khó mình mà được lợi ích. 15 Kẻ dại tưởng mình làm đúng, nhưng người khôn nghe lời khuyên dạy. 16 Kẻ dại tỏ dấu hiệu giận dữ, nhưng người khôn bỏ qua điều sỉ nhục. 17 Nhân chứng lương thiện khai sự thật, còn nhân chứng bất lương bịa đặt điều dối trá. 18 Lời nói xấu đâm buốt như gươm, nhưng lời khôn ngoan khiến vết thương lành. 19 Lưỡi chân thật sẽ còn mãi, nhưng lưỡi dối trá chỉ tồn tại trong chốc lát. 20 Những kẻ âm mưu điều ác đầy dẫy dối trá, nhưng người tính chuyện hoà bình tràn ngập vui mừng. 21 Người nhân đức không gặp tổn hại gì, còn đời kẻ ác đầy dẫy khốn khó. 22 Chúa ghét những kẻ nói dối, nhưng Ngài thích những người thật thà. 23 Người khôn khéo giữ điều mình biết trong lòng, còn kẻ ngu dại phơi bày sự ngu dại mình. 24 Người siêng năng sẽ giữ vai trò lãnh đạo, còn kẻ lười biếng sẽ phải làm tôi tớ. 25 Sự lo lắng là gánh nặng cho tinh thần, nhưng lời nói êm dịu khiến lòng phấn khởi. 26 Người chân chính giúp ý hay cho bạn hữu, còn kẻ ác dẫn người khác đi lầm lạc [c]. 27 Kẻ biếng nhác không nướng thịt mình đã săn được [d], nhưng ai chăm chỉ sẽ được giàu sang. 28 Làm điều phải dẫn đến sự sống, ai đi theo đường đó sẽ không gặp sự chết 5

Châm Ngôn 13 13 Con khôn ngoan nghe lời cha khuyên bảo, nhưng con hỗn láo chẳng thèm để ý đến lời răn dạy.

- 777 -


Người nhân đức ăn lấy hoa quả của miệng mình, nhưng kẻ gian tà chỉ ham thích sự hung bạo. 3 Ai thận trọng trong lời ăn tiếng nói bảo vệ mạng sống mình, còn kẻ phát ngôn bừa bãi sẽ bị tàn hại. 4 Kẻ lười biếng mong mỏi nhiều mà chẳng được gì, nhưng sự ao ước của người siêng năng sẽ được thoả mãn. 5 Người công chính ghét điều giả dối, còn kẻ ác làm điều ô nhục. 6 Sự công chính bảo vệ người thanh liêm, nhưng làm điều ác khiến kẻ có tội bị tàn hại. 7 Có người làm bộ giàu mà thực ra chẳng có gì. Kẻ khác làm bộ nghèo nhưng thực ra lại giàu có. 8 Kẻ giàu có thể phải trả tiền chuộc mạng mình, nhưng người nghèo sợ bị đe dọa. 2

Người nhân đức nhìn tương lai xán lạn, còn tương lai kẻ ác như lửa tắt [a]. 10 Tánh kiêu căng chỉ đưa đến cãi vã, nhưng ai nghe lời khuyên răn là người khôn. 11 Tiền phù vân tiêu tan nhanh chóng, nhưng tiền dành giụm sẽ từ từ gia tăng. 12 Không đạt được ý nguyện khiến lòng buồn rầu. Nhưng điều ao ước thành tựu giống như ăn trái cây sự sống. 13 Ai gạt bỏ điều dạy bảo sẽ phải trả giá đắt, còn kẻ vâng theo mệnh lệnh sẽ được ban thưởng. 14 Lời dạy dỗ của người khôn là mạch sống. Nó giúp người ta tránh được cạm bẫy nguy hiểm. 15 Người biết phải chăng sẽ được kính trọng, nhưng đời của kẻ không đáng tin sẽ lâm cảnh khốn khổ. 16 Người thông sáng hành động khôn ngoan, còn kẻ ngu dại phơi bày bản chất dốt nát của mình. 17 Sứ giả gian ác gây lôi thôi [b], nhưng sứ giả đáng tin khiến mọi việc suông sẻ. 18 Ai không chịu sửa dạy sẽ lâm cảnh nghèo khó và nhục nhã, nhưng ai nghe lời khuyên dạy sẽ được tôn trọng. 19 Ước muốn thành tựu khiến tâm hồn sảng khoái, còn kẻ ngu dại chẳng bao giờ muốn thôi làm điều ác. 20 Ai kết bạn với người khôn sẽ trở nên khôn ngoan, nhưng làm bạn với kẻ dại sẽ bị tổn hại. 21 Kẻ có tội sẽ bị chuyện lôi thôi theo đuổi, nhưng người nhân đức sẽ vui hưởng thành công. 22 Người tốt để lại gia tài cho con cháu, còn của cải kẻ có tội sẽ dành cho người công chính. 23 Ruộng nương kẻ nghèo sinh sản nhiều hoa lợi, nhưng kẻ bất công cướp lấy hết [c]. 24 Không sửa dạy con là ghét nó, nhưng ai thương con mình sẽ lo sửa dạy nó. 25 Người công chính sẽ đủ ăn, còn kẻ ác sẽ bị đói khổ. 9

- 778 -


Châm Ngôn 14 14 Đàn bà khôn ngoan gây dựng gia đình, còn đàn bà ngu dại làm tan hoang cửa nhà [a]. 2 Ai sống ngay lành kính sợ CHÚA, còn kẻ sống gian ác khinh dể Ngài. 3 Trong miệng kẻ ngu dại có cái roi quất vào lưng nó, nhưng lời lẽ của người khôn sẽ che chở người ấy. 4 Nơi nào không có trâu, kho chứa vắng thực phẩm. Nhưng có trâu cày ruộng thì ngũ cốc sinh sản nhiều. 5 Nhân chứng thành thật không khai gian, còn nhân chứng dối chỉ khai điều giả trá. 6 Kẻ tự phụ tìm sự khôn ngoan mà không thấy, nhưng người hiểu biết gặp tri thức dễ dàng. 7 Hãy tránh xa kẻ ngu dại, vì con chẳng học được gì nơi chúng đâu. Sự khôn ngoan của người thông sáng giúp người biết phải làm gì, còn sự dốt nát của kẻ ngu dại phỉnh gạt nó. 9 Kẻ ngu dại chê bai của lễ chuộc lỗi [b], nhưng người liêm chính nhận được ân huệ. 10 Không ai biết được nỗi buồn trong lòng con, người dưng không chia xẻ được niềm vui của con. 11 Nhà cửa kẻ gian ác sẽ bị tiêu hủy, nhưng lều người lành sẽ vững bền. 12 Có kẻ tưởng mình làm phải, nhưng cuối cùng dẫn đến chỗ chết. 13 Có người bên ngoài vui cười mà trong lòng sầu thảm, Sau khi niềm vui ra đi thì nỗi buồn vẫn còn lại. 14 Kẻ phản nghịch trả giá cho điều ác mình, còn người nhân đức sẽ được ban thưởng về phong cách của mình. 15 Kẻ ngây ngô tin hết mọi điều, nhưng người khôn cân nhắc hành vi mình. 16 Người khôn khéo léo tránh lôi thôi, nhưng kẻ ngu dại quá tự tin và hành động cẩu thả. 17 Người nào nóng tính hành động dại dột, còn kẻ mưu mô bị ghét bỏ. 18 Kẻ ngu dại nhận được điều xuẩn ngốc của nó, nhưng người khôn ngoan nhận được tri thức làm mão triều. 19 Kẻ ác sẽ phải cúi đầu trước người nhân đức; Nó sẽ cúi đầu trước cổng nhà của người công chính. 20 Người nghèo khó thì dù cho đến láng giềng cũng ruồng bỏ, nhưng kẻ giàu sang có rất đông bạn hữu. 21 Ghét người láng giềng là phạm tội, nhưng tỏ lòng nhân từ đối với kẻ khốn cùng mang hạnh phúc. 22 Kẻ âm mưu điều ác sẽ bị lầm lạc, nhưng ai tính chuyện tốt lành sẽ được yêu thương và tin cậy. 23 Ai chịu khó sẽ kiếm được lợi, nhưng kẻ đa ngôn sẽ gặp túng quẫn. 24 Người khôn ngoan nhận được của cải làm phần thưởng, nhưng kẻ ngu dại chỉ lãnh lấy sự dại dột. 8

- 779 -


Nhân chứng thành thật cứu mạng người khác, nhưng nhân chứng giả dối là kẻ phản bội. 26 Ai kính sợ Chúa sẽ có lòng tự tin, con cái họ cũng được che chở. 27 Sự kính sợ Chúa là nguồn sống, giúp người ta tránh được cạm bẫy, 28 Dân số đông là niềm vinh dự cho vua, nhưng quan trưởng mà không có dân thì xem như chẳng có gì. 29 Người kiên nhẫn có thông sáng lớn, nhưng kẻ nóng tính phơi bày sự ngu dại mình. 30 Tinh thần trầm tĩnh khiến thân thể khoẻ mạnh, nhưng sự ganh ghét làm mục xương cốt. 31 Ai ngược đãi người nghèo là sỉ nhục Đấng Tạo Hóa mình, nhưng ai tử tế với người thiếu thốn tôn trọng Thượng Đế. 32 Kẻ ác bị tàn hại vì mưu mô mình, nhưng ai làm điều phải tìm được sự liêm chính làm nơi trú ẩn [c]. 33 Sự khôn ngoan sống trong lòng người có trí hiểu biết, nhưng kẻ ngu dại chẳng hiểu biết khôn ngoan là gì [d]. 25

Thực thi điều phải khiến quốc gia phồn thịnh, nhưng tội lỗi mang sỉ nhục cho bất cứ dân tộc nào. 35 Vua thích tôi tớ khôn ngoan, nhưng tôi tớ mang sỉ nhục khiến vua nổi giận. 34

Châm Ngôn 15 15 Lời đáp êm dịu làm nguôi cơn giận, nhưng lời đáp cộc cằn khiến cơn giận phừng thêm lên. 2 Lời nói của người khôn làm cho sự hiểu biết được chấp nhận, nhưng kẻ ngu dại tuôn ra sự ngu xuẩn mình. 3 Mắt Chúa thấy hết mọi điều; Ngài trông chừng kẻ ác cùng người thiện. 4 Lời lành là cây ban sự sống, nhưng lời dối trá đè bẹp tâm linh, 5 Kẻ ngu dại gạt bỏ lời cha mẹ khuyên răn, nhưng ai chịu nhận sửa dạy là người khôn. 6 Trong nhà người công chính có nhiều của cải, còn kẻ ác chẳng nhận được gì ngoài chuyện lôi thôi. 7 Người khôn dùng lời nói mình rao truyền tri thức, nhưng đầu óc của kẻ ngu dại không thể tin cậy được [a]. 8 Chúa ghét của lễ của kẻ ác dâng lên, nhưng Ngài ưa thích lời cầu khẩn của người ngay thật. 9 Chúa ghét hành vi kẻ ác, nhưng Ngài thích kẻ theo đuổi sự chính trực. 10 Kẻ từ bỏ điều phải sẽ bị trừng phạt nặng nề, Vì kẻ ghét sửa dạy sẽ bị tiêu diệt. 11 CHÚA biết thế giới của kẻ chết, Ngài cũng rõ tư tưởng của kẻ sống. 12 Kẻ kiêu căng không thích được sửa dạy; và chẳng thèm hỏi ý người khôn. 13 Hạnh phúc khiến mặt mũi tươi vui,

- 780 -


nhưng buồn rầu khiến tinh thần lụn bại. Người hiểu biết muốn thêm tri thức, còn kẻ ngu dại chỉ thích điều dốt nát. 15 Kẻ khốn khó chịu vất vả mỗi ngày, nhưng lòng vui mừng giống như tiệc tùng không dứt. 16 Thà nghèo khổ mà kính sợ Chúa, hơn là giàu có mà gặp lôi thôi. 17 Thà ăn rau cùng với người yêu thích mình, còn hơn ăn thịt ngon với kẻ ghét mình. 18 Người nóng tính gây chuyện cãi cọ, nhưng ai trầm tĩnh ngăn được cuộc cãi vã. 19 Lối đi của kẻ lười biếng bị gai gốc ngăn chận, còn lối đi của người công chính như đường lộ bằng phẳng. 20 Con khôn ngoan làm cho cha vui, nhưng con dại dột khinh rẻ mẹ mình. 21 Kẻ thiếu hiểu biết thích chuyện ngu dại, nhưng người khôn ngoan làm điều ngay thẳng. 22 Chương trình bị thất bại vì thiếu ý kiến, nhưng kế hoạch thành tựu do sự góp ý của nhiều người. 23 Biết cách đối đáp khiến cho con người vui thích. Lời đáp đúng lúc thật tuyệt diệu. 14

Lối đi của người khôn dẫn đến sự sống, để họ tránh được âm phủ [b]. 25 Chúa phá sập nhà kẻ tự phụ, nhưng Ngài bảo vệ tài sản của người góa bụa. 26 Chúa gớm ghét các tư tưởng bậy bạ, nhưng ưa thích lời nói nhân hậu. 27 Kẻ tham lam mang họa cho gia đình, nhưng người ghét của hối lộ sẽ được sống. 28 Người nhân đức suy nghĩ trước khi trả lời, còn miệng kẻ ác tuôn ra điều ác. 29 Chúa tránh xa kẻ ác, nhưng Ngài nghe lời khẩn nguyện của người ngay thẳng. 30 Nụ cười [c] khiến người khác vui mừng. Tin vui làm cho thân thể thêm sức lực. 24

Nếu con nghe lời sửa dạy bổ ích, thì con sẽ sống giữa vòng người khôn ngoan. 32 Ai gạt bỏ sự sửa dạy ghét bản thân mình, nhưng ai nghe lời khuyên răn tiếp nhận sự hiểu biết. 33 Kính sợ Chúa khiến con khôn ngoan. Đức khiêm nhường đi trước sự tôn trọng. 31

Châm Ngôn 16 16 Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. 2 Các đường lối loài người đều trong sạch theo mắt họ, nhưng Chúa nhìn thấy động lực trong lòng. 3 Hãy nhờ cậy Chúa trong mọi điều con làm, thì các kế hoạch con sẽ thành công.

- 781 -


Mọi việc CHÚA làm ra đều có mục đích. Ngài cũng đã dành kẻ ác cho ngày tai họa. 5 Chúa ghét kẻ kiêu căng. Trước sau chúng cũng bị phạt. 6 Tình yêu và lòng trung thành gỡ được tội lỗi [a]. Kính sợ Chúa tức tránh khỏi điều ác. 7 Đời sống ai đẹp lòng Chúa, thì cho đến kẻ thù cũng sống hoà bình với người ấy. 8 Thà nghèo khó mà thanh liêm, còn hơn giàu có mà bất lương. 9 Con người hoạch định đường lối mình, nhưng Chúa chỉ dẫn các bước của người. 10 Những quyết định khôn ngoan do vua mà đến, cho nên các phán quyết của vua đều công bằng. 11 Chúa muốn cái cân đúng; trái cân là công việc Ngài. 12 Vua ghét những kẻ làm quấy [b], quyền cai trị của vua được thiết lập do sự công chính. 13 Vua thích lời nói chân chính; và chuộng kẻ nói chân thật. 14 Cơn giận của vua có thể khiến người dân mất mạng, nhưng người khôn có thể làm vua nguôi giận. 15 Nụ cười của vua là nguồn sống; sự nhân từ của vua rải xuống như mưa xuân. 16 Thà được khôn ngoan hơn vàng vòng, thà chuộng hiểu biết hơn bạc quí! 17 Đường người công chính giúp họ tránh điều ác. Nhờ trông chừng các bước mình mạng sống họ được bảo toàn. 18 Sự kiêu căng đi trước sự bại hoại; thái độ tự phụ dẫn đến thất bại. 19 Thà khiêm nhường mà sống với người nghèo khổ, còn hơn chia của cắp với kẻ kiêu căng. 20 Ai nghe điều khuyên dạy sẽ thành công, ai tin cậy Chúa sẽ vui mừng. 21 Người khôn được kẻ khác nhận ra. Lời lẽ đắn đo của họ giúp thuyết phục kẻ khác. 22 Sự hiểu biết là nguồn sống cho ai uống nó, nhưng sự ngu xuẩn mang trừng phạt đến cho kẻ dại dột. 23 Đầu óc người khôn dạy họ biết cách ăn nói, và giúp họ dạy dỗ kẻ khác. 24 Lời nói khôn khéo dịu ngọt cho lưỡi, và là sức khoẻ cho thân thể. 25 Có người tưởng mình làm điều phải, nhưng cuối cùng lại dẫn đến nẻo chết. 26 Bụng đói khiến người ta ra sức làm việc, bao tử trống giục người ta cố gắng. 27 Kẻ ác âm mưu ác, lời nói của nó như lửa đốt. 28 Kẻ lươn lẹo gây tranh chấp, cố phá tan tình bằng hữu. 29 Kẻ hung ác lường gạt người láng giềng, và xúi giục họ làm bậy. 30 Kẻ nháy mắt làm hiệu âm mưu điều lường gạt, Kẻ bĩu môi manh tâm điều ác. 4

- 782 -


Tóc bạc là vinh dự, đạt được do nếp sống công chính. 32 Lòng kiên nhẫn tốt hơn sức mạnh. Biết tự chế tốt hơn chiếm được thành trì. 33 Người ta bắt thăm để quyết định, nhưng kết quả do Chúa mà đến. 31

Châm Ngôn 17 17 Thà ăn bánh mì khô mà hoà thuận, còn hơn nhà đầy thức ăn mà cãi vã. 2 Đầy tớ khôn ngoan sẽ quản trị con trai gây sỉ nhục, và thừa hưởng một phần gia tài chủ để lại cho con cái. 3 Lò luyện bạc và nồi thử vàng, còn Chúa thử lòng. 4 Kẻ ác hay nghe ý kiến ác độc. Kẻ nói dối để tâm đến lời cay cú. 5 Ai ngược đãi người nghèo sỉ nhục Đấng Tạo Hóa mình, ai hớn hở trên sự đau khổ người khác sẽ bị phạt. 6 Con cháu là niềm kiêu hãnh của người già, và cha mẹ là niềm kiêu hãnh của con cái. 7 Lời tao nhã không thích hợp cho kẻ dại, Lời nói dối càng không phù hợp với người cai trị. Kẻ hối lộ tin vào may mắn. Hắn cho rằng làm gì cũng thành công. 9 Ai tha thứ lỗi lầm kẻ khác tìm thêm bạn hữu, nhưng nhắc mãi lỗi cũ khiến bạn bè xa lánh. 10 Người khôn học được nhiều qua lời trách móc, còn kẻ ngu dại có đánh trăm roi cũng như không. 11 Kẻ ác tìm điều dấy loạn, cho nên sứ giả hung bạo sẽ được sai đi trị chúng. 12 Thà gặp gấu cái mất con, hơn gặp kẻ ngu dại làm chuyện ngu xuẩn. 13 Ai lấy ác báo thiện, sẽ luôn luôn gặp khó khăn trong gia đình. 14 Gây cãi vã chẳng khác nào chỗ nứt trong đập nước, cho nên hãy ngăn chận nó trước khi nó nổ bùng. 15 Chúa rất ghét hai điều sau: phóng thích kẻ có tội và trừng phạt người vô tội. 16 Kẻ dại dù có mua khôn ngoan cũng vô ích, vì nó không ước muốn học hỏi. 17 Bạn bè thương nhau mọi lúc, còn anh em sinh ra để giúp nhau trong cảnh khốn khó. 18 Ai dại dột mới bảo lãnh cho láng giềng. 19 Ai ưa tranh biện thích phạm tội. Ai hay khoác lác rước lấy lôi thôi vào mình [a]. 20 Kẻ có lòng gian ác chẳng thể thành công, kẻ ăn nói phỉnh gạt sẽ gặp lôi thôi. 21 Sinh con dại dột thật đáng buồn; làm cha mẹ của đứa ngu dại chẳng vui sướng gì. 8

- 783 -


Lòng vui mừng là phương thuốc hay, còn tinh thần chán nản làm suy yếu sức khoẻ. 23 Khi kẻ ác nhận của hối lộ, thì công lý cất cánh bay đi. 24 Người thông hiểu luôn tìm sự khôn ngoan, nhưng mắt kẻ ngu dại nhìn mông lung. 25 Con ngu dại gây buồn bực cho cha, là niềm sầu khổ của mẹ. 26 Trừng phạt người vô tội là sai, đánh đập người lãnh đạo lương thiện là quấy. 27 Người khôn ngoan dè dặt trong lời nói, kẻ biết điều mình làm tỏ ra bình thản [b]. 28 Khi im lặng thì kẻ ngu cũng được xem là khôn, nếu làm thinh thì kẻ dại cũng được xem như thông sáng. 22

Châm Ngôn 18 18 Những kẻ thiếu thân thiện tỏ ra ích kỷ, và cãi vã với sự khôn ngoan thật. 2 Kẻ dại không muốn hiểu biết gì. Chúng chỉ muốn nói điều mình nghĩ. 3 Khi điều ác đến, thì sự khinh rẻ cũng xuất hiện. Khi sỉ nhục đến thì lời chửi bới cũng sẽ đến. 4 Lời nói có thể như nước sâu, nhưng sự khôn ngoan như dòng suối chảy. 5 Không nên thiên vị kẻ ác, hay xử bất công với người vô tội. 6 Lời nói kẻ ngu dại đưa đến cãi vã. Lối ăn nói của chúng khiến người ta muốn đánh chúng. 7 Ngôn ngữ của kẻ dại sẽ hại nó; lời nói của nó là cái bẫy cho nó. 8 Lời nói của kẻ bép xép như món ăn ngon, đi sâu vào ruột gan người nghe. 9 Kẻ biếng nhác trong công việc, là anh em với kẻ phá hoại. 10 Danh của Chúa như cái tháp vững chắc; ai làm điều phải chạy đến đó trú ẩn an toàn. 11 Kẻ giàu trông cậy vào của cải, tin rằng của cải là thành có vách cao vững chãi. 12 Sự kiêu căng đi trước sự tàn hại, sự khiêm nhường đi trước sự tôn trọng. 13 Trả lời trước khi nghe, là ngu dại và sỉ nhục. 14 Tinh thần của con người có thể khiến họ chịu đựng bệnh tật, nhưng nếu mất tinh thần thì mọi việc đều bó tay [a]. 15 Trí óc người hiểu biết thu nhận tri thức; người khôn lắng nghe để học thêm kiến thức. 16 Quà cáp mở cửa cho người biếu xén, và giúp người ấy gặp kẻ có quyền. 17 Người đầu tiên trình bày lý lẽ có vẻ hợp lý, cho đến khi bị chất vấn.

- 784 -


Bắt thăm giải quyết được cuộc tranh luận giữa hai người mạnh bạo. 19 Anh em bị tổn thương khó được lòng lại hơn thành có vách kiên cố, còn tranh luận phân rẽ anh em như then cài cổng lâu đài. 20 Nhờ lời nói mà được hưởng phúc; cũng nhờ môi miệng mà được khen ngợi. 21 Sống chết đều do lời nói mà ra. Ăn nói thận trọng sẽ được khen thưởng [b]. 22 Ai kiếm được vợ tức tìm được hạnh phúc, và nhận được phúc lành từ Chúa. 23 Kẻ nghèo van xin nhưng người giàu đáp xẳng xớm. 24 Người có nhiều bạn đôi khi bị hại [c], nhưng có một người bạn còn thân thiết hơn anh em ruột. 18

Châm Ngôn 19 19 Thà nghèo mà sống lương thiện, còn hơn ngu dại mà ăn nói quanh co. 2 Ao ước mà thiếu hiểu biết không ích lợi gì. Nếu con hành động hấp tấp con sẽ sai lầm. 3 Người nào ngu dại sẽ làm hại đời mình, nhưng trong lòng người lại oán trách Chúa. 4 Giàu có tăng thêm bạn, còn nghèo khó bị bạn bè xa lánh. Làm chứng gian thế nào cũng bị phạt; còn kẻ nói dối sẽ không thoát khỏi tội. 6 Nhiều người muốn lấy lòng người rộng rãi, ai cũng thích kết thân với kẻ hay biếu xén. 7 Kẻ nghèo bị thân nhân ghét bỏ; đến nỗi bạn bè cũng xa lánh. Họ chạy theo van xin bạn hữu, nhưng ai cũng tránh xa [a]. 8 Ai hiểu biết yêu linh hồn mình, Ai giữ gìn tri thức sẽ thành công. 9 Làm chứng gian thế nào cũng bị phạt, kẻ nói dối sẽ bị diệt. 10 Kẻ dại dột không nên sống xa xỉ, Còn kẻ nô lệ không nên cai trị quan trưởng. 11 Người hiểu biết thường chậm nóng giận; Họ lấy làm vinh dự mà bỏ qua sự tổn thương. 12 Cơn thịnh nộ của vua giống như sư tử gầm thét, còn lòng nhân từ của vua giống như giọt sương mai đọng trên cỏ. 13 Con trai ngu dại làm hại cho cha mình, còn người vợ hay gây gổ giống như nhà dột. 14 Con cái thừa hưởng gia sản từ cha mẹ, nhưng người vợ khôn ngoan do Chúa ban cho. 5

- 785 -


Sự lười biếng khiến người ta thích ngủ, còn kẻ biếng nhác sẽ đói khổ. 16 Kẻ vâng theo luật lệ tự bảo vệ mình, nhưng ai cẩu thả sẽ phải thiệt mạng. 17 Ai nhân từ đối với kẻ nghèo là cho Chúa vay mượn; Ngài sẽ đền đáp tương xứng với điều con đã làm. 18 Hãy sửa dạy con cái trong khi còn có hi vọng; đừng để chúng tự hại mình. 19 Ai nóng tính sẽ phải trả giá đắt. Nếu con giúp hắn con sẽ phải giúp mãi. 20 Hãy nghe lời khuyên và chấp nhận sự sửa dạy, về sau con sẽ khôn ngoan. 21 Con người có nhiều dự tính, nhưng chỉ có chương trình của Chúa là thành tựu mà thôi. 22 Ai cũng thích người trung thành, cho nên thà nghèo còn hơn nói dối. 23 Ai kính sợ Chúa sẽ dẫn đến sự sống, Người sẽ mãn nguyện không tổn hại gì. 24 Kẻ lười biếng thò thay vào dĩa, nhưng không buồn đưa thức ăn vào miệng. 25 Hãy trừng phạt kẻ khinh dể sự khôn ngoan, thì kẻ ngờ nghệch sẽ hiểu biết. Hãy sửa dạy người hiểu biết, thì họ sẽ thêm tri thức. 26 Đứa con hung dữ với cha và xua đuổi mẹ mình, là đứa con sỉ nhục. 27 Con ơi, nếu con thôi nghe lời răn dạy, thì con sẽ rời xa sự hiểu biết. 28 Chứng gian xem thường công lý, còn miệng kẻ ác chỉ thích ngốn ngấu điều gian tà. 29 Kẻ kiêu căng sẽ lãnh trừng phạt, còn lưng của kẻ ngu dại sẽ bị đánh đập. 15

Châm Ngôn 20 20 Rượu và bia khiến người ta ăn nói bừa bãi và xấc láo, Kẻ say sưa thiếu khôn ngoan. 2 Cơn giận của vua như sư tử gầm thét. Chọc giận vua là mất mạng. 3 Kẻ ngu dại luôn luôn tranh cãi, còn ai tránh được đôi co mang lại vinh dự cho mình. 4 Nông gia biếng nhác không chịu cày bừa đúng lúc; đến mùa họ mong gặt hoa lợi mà chẳng thấy gì. 5 Tư tưởng con người ta như giếng sâu, nhưng ai khôn ngoan sẽ hiểu được các tư tưởng ấy. 6 Nhiều người tự cho mình trung thành, nhưng kiếm được người đáng tin cậy không phải dễ. 7 Người công chính sống đời ngay thẳng, là nguồn phước cho con cái. 8 Khi ngồi trên ngôi phân xử, vua phải thận trọng phân biệt điều lành và điều ác. 9 Ai dám nói, “Tôi vô tội; Tôi không hề làm điều gì quấy”?

- 786 -


CHÚA ghét hai điều sau: trái cân giả và lít giả. 11 Nhìn hành động trẻ con cũng biết tính tình nó ra sao; xem tác phong nó cũng biết nó làm điều phải hay quấy. 12 CHÚA tạo dựng nên hai thứ sau: tai để nghe, mắt để thấy. 13 Kẻ hay ngủ sẽ nghèo khó. Nếu muốn có đầy đủ lương thực phải thức. 14 Người mua chê, “Món nầy xấu.” Rồi bước khỏi đó khoe món hàng mình đã mua được. 15 Vàng và châu ngọc dễ kiếm, nhưng lưỡi nói ra sự hiểu biết là châu ngọc quí giá. 16 Hãy giữ lấy áo của kẻ bảo lãnh cho người lạ, giữ nó làm của tin cho đến khi người trả xong nợ. 17 Thức ăn đánh cắp có vẻ ngon, nhưng về sau giống như miệng ngậm sỏi. 18 Các kế hoạch nhờ ý kiến hay sẽ thành công. Trước khi ra trận hãy góp nhặt nhiều ý kiến. 19 Kẻ bép xép không thể giữ được điều bí mật, cho nên hãy tránh xa kẻ nói nhiều. 20 Kẻ chưởi rủa cha mẹ mình, giống như đèn bị tắt trong đêm tối mịt. 21 Tài sản kiếm được vội vàng lúc đầu chẳng có bền lâu [a]. 22 Đừng nói, “Tôi sẽ lấy ác trả ác.” Hãy chờ đợi CHÚA, Ngài sẽ cứu ngươi [b]. 23 CHÚA ghét trái cân giả, và cái cân gian. 24 Các bước con người đều do CHÚA định; Ai biết được đường lối mình sẽ ra sao? 25 Đừng vội hứa nguyện gì với Thượng Đế, vì con có thể hối hận về sau. 26 Vua khôn ngoan thanh lọc kẻ ác, và trừng phạt chúng [c]. 27 Thần linh của con người là ngọn đèn của CHÚA. Ngài dùng nó để dò xét tư tưởng họ [d]. 28 Sự trung kiên và thành tín giúp vua bảo vệ ngôi báu; vua ngự trị nhờ lòng trung kiên. 29 Sức lực là niềm kiêu hãnh của thanh niên, còn tóc bạc là điều hãnh diện của người già. 30 Hình phạt nặng sẽ trừ khử được điều ác, còn roi vọt luyện sạch cõi lòng. 10

Châm Ngôn 21 21 Ý nghĩ của vua như nước suối do CHÚA điều khiển, Ngài muốn hướng dẫn thế nào theo ý Ngài. 2 Điều con người làm cho là phải, nhưng CHÚA xem xét động lực trong lòng người ấy. 3 Làm điều công bằng hợp lý, CHÚA sẽ hài lòng hơn dâng của lễ. 4 Cái nhìn kiêu căng, tư tưởng tự phụ và hành động gian ác đều là tội lỗi [a]. 5 Dự định của người chịu khó mang lợi ích, còn kẻ hành động hấp tấp sẽ trở nên nghèo khó.

- 787 -


Của cải có được nhờ gian manh là một cái bẫy giết người, nó sẽ biến mất như sương mù tiêu tan theo mây khói. 7 Sự hung bạo của kẻ ác sẽ lôi chúng đi, vì chúng không làm điều phải. 8 Những kẻ có tội sống đời bất lương, còn người thanh liêm làm điều phải. 9 Thà sống một góc trên mái nhà [b] hơn sống trong nhà chung với người vợ hay gây gổ. 10 Kẻ ác âm mưu ác. Nó chẳng ngó ngàng gì đến người láng giềng. 11 Nếu con trừng phạt kẻ xấc láo, thì kẻ khờ dại sẽ trở nên khôn [c]. Nếu con dạy người khôn thì họ sẽ thêm hiểu biết. 12 Thượng Đế công bình luôn canh chừng nhà kẻ ác, Ngài sẽ khiến chúng nó bị tàn hại. 13 Ai bịt tai không nghe lời kêu xin của người nghèo, cũng sẽ kêu xin mà không ai ngó ngàng đến. 14 Của hối lộ làm nguôi cơn giận; của đút lót làm mất cơn thịnh nộ. 15 Khi công lý được thực thi, thì người công chính sẽ vui mừng, nhưng công lý sẽ làm kẻ ác hoảng sợ. 16 Ai không thận trọng sẽ cùng chung số phận với kẻ chết. 17 Ai ham vui sẽ trở nên nghèo khó; ai thích rượu và dầu [d] sẽ không giàu nổi. 18 Đôi khi kẻ ác trở thành của chuộc cho người công chính, kẻ phản bội sẽ làm vật cầm thế cho người thanh liêm. 19 Thà ở một mình trong sa mạc, hơn ở chung với người vợ hay gây gổ, phàn nàn. 20 Nhà người khôn đầy thức ăn ngon và dầu ô liu, nhưng kẻ dại tiêu tán của cải mình. 21 Ai theo đuổi sự ngay thật và nhân từ sẽ tìm được sự sống, thành công và vinh dự. 6

Người khôn có thể chiến thắng một thành trì đầy chiến sĩ và phá sập chiến lũy mà chúng trông cậy. 23 Ai thận trọng trong lời nói sẽ tránh gặp lôi thôi. 24 Những kẻ kiêu căng được gọi là kẻ “xấc láo.” Nó hành động tự phụ. 25 Sự ham muốn của kẻ biếng nhác sẽ giết nó, vì nó không chịu làm việc. 26 Mỗi ngày nó thèm muốn đủ thứ, nhưng người công chính phân phát rộng rãi. 27 CHÚA gớm ghiếc của lễ kẻ ác mang đến, nhất là khi chúng dâng của lễ với ý xấu. 28 Chứng gian sẽ bị phơi bày và bị trừng phạt, nhưng chứng nhân thành thật sẽ được nghe. 29 Kẻ ác phải giả bộ, còn người chân chính đắn đo lời nói mình. 30 Không có sự khôn ngoan, hiểu biết hoặc ý kiến hay nào mà chống nghịch CHÚA được. 22

- 788 -


31

Ngựa chuẩn bị cho chiến trận, nhưng sự chiến thắng do CHÚA mà đến.

Châm Ngôn 22 22 Danh tiếng tốt quí hơn tiền của. Uy tín quí hơn vàng bạc. 2 Kẻ giàu và người nghèo đều giống nhau ở chỗ nầy: CHÚA dựng nên cả hai. 3 Người khôn thấy trước nguy hiểm và tránh né, kẻ khờ dại cứ đâm đầu vào rồi gặp rắc rối. 4 Nếu con tôn kính CHÚA và khiêm tốn, con sẽ được giàu có, vinh dự và sống lâu. 5 Đời kẻ ác giống như lối đi đầy chông gai và bẫy dò. Nhưng người thận trọng giữ mạng sống mình và tránh những lối đi ấy. 6 Hãy dạy dỗ con cái biết cách sống, để khi về già nó cũng không lạc lối. 7 Kẻ giàu quản trị người nghèo, ai mắc nợ là tôi tớ của chủ nợ. 8 Kẻ gieo điều ác sẽ gặp thảm họa. Sự kiêu căng giận dữ của chúng sẽ không kéo dài. 9 Người rộng rãi sẽ được phước, vì họ biết san sẻ thức ăn với người nghèo khó. 10 Hãy đuổi kẻ xấc láo đi, thì những cuộc tranh biện sẽ ngưng, và những cuộc cãi vã sẽ chấm dứt. 11 Ai ham thích tư tưởng trong sạch và lời nói thanh nhã sẽ được làm bạn với vua. 12 CHÚA canh giữ sự hiểu biết, nhưng Ngài phá hỏng âm mưu của kẻ vô tín. 13 Kẻ biếng nhác bảo, “Có con sư tử ngoài kia! Tôi có thể bị nó xé xác ngoài phố!” 14 Lời dụ dỗ của người vợ bất chính như bẫy sâu. Những kẻ chọc giận CHÚA sẽ rơi vào đó. Trẻ con nào cũng dại dột, nhưng nhờ sửa phạt mà chúng sẽ trở nên khôn ngoan [a]. 16 Ai làm giàu do ngược đãi người nghèo, hay do hối lộ kẻ giàu sẽ trở nên nghèo khó. 15

Những câu châm ngôn khác Hãy nghe thật kỹ lời người khôn nói; hãy để ý lời ta dạy con. 18 Nên ghi tạc những lời nầy trong trí con để lúc nào con cũng sẵn sàng dùng đến. 19 Nay ta dạy con những điều ấy để con đặt lòng tin cậy nơi CHÚA. 20 Ta đã viết ba mươi câu châm ngôn và hiểu biết nầy cho con. [b] 21 Ta dạy con những lời chân thật và đáng tin để con có thể trả lời chân thật cho những ai hỏi con. 17

- 789 -


—1— Đừng thấy kẻ nghèo mà hiếp đáp họ, chớ nên lợi dụng họ nơi tòa án. 23 CHÚA sẽ bênh vực họ. Ngài nâng đỡ người nghèo khổ. Ngài sẽ tước đoạt những kẻ nào tước đoạt họ. 22

—2— Chớ nên làm bạn với người nóng tính, hay kết thân với kẻ dễ nổi giận. 25 Nếu không con cũng sẽ giống chúng. Rồi con sẽ mắc bẫy. 24

—3— Chớ nên bảo lãnh cho ai, hay bảo đảm nợ của kẻ khác. 27 Vì nếu con không trả nổi, thì cho đến cái giường con nằm cũng bị lấy đi. 26

—4— 28

Chớ dời lằn ranh cũ, vì đó là ranh do tổ tiên con dựng lên.

—5— 29

Con có thấy người khéo tay trong việc mình làm không? Họ sẽ làm việc cho vua chứ không phải cho người thường đâu.

Châm Ngôn 23 —6— 23 Nếu con ngồi ăn với người có chức tước, hãy để ý thức ăn dọn ra trước mặt con. 2 Hãy biết tự chế, nếu con có tính háu ăn. 3 Đừng thèm muốn cao lương mỹ vị của họ, vì thức ăn ấy có thể chỉ là bẫy sập thôi.

—7— Đừng vất vả làm giàu; phải biết khôn ngoan và tiết độ. 5 Của cải có thể tan biến trong nháy mắt, Chúng chắc chắn sẽ mọc cánh và bay mất như chim ưng. 4

- 790 -


—8— Đừng ăn thức ăn của kẻ ích kỷ; đừng tham muốn thức ăn ngon của chúng. 7 Kẻ ích kỷ lúc nào cũng lo lắng về phí tổn thức ăn [a]. Chúng mời mọc, “Mời anh ăn và uống,” nhưng trong lòng thì không muốn. 8 Con sẽ phải mửa ra miếng thực phẩm con đã nuốt vào, con sẽ phí lời nói nhân hậu. 6

—9— 9

Đừng uổng lời với kẻ ngu dại, nó sẽ khinh dể lời khôn ngoan của con.

— 10 — Chớ nên dời ranh giới cũ của con, cũng đừng chiếm ruộng đất của kẻ mồ côi. 11 Thượng Đế, Đấng bênh vực họ rất mạnh; Ngài sẽ đứng về phía họ mà nghịch lại con. 10

— 11 — 12

Hãy để ý nghe lời dạy bảo, hãy nghe cho kỹ lời thông sáng.

— 12 — Đừng ngần ngại trong việc sửa dạy trẻ con. Dù trừng phạt bằng roi nó chẳng chết đâu. 14 Khi trị nó bằng roi vọt là con cứu nó khỏi chết. 13

— 13 — Con ơi, nếu con khôn ngoan, cha sẽ rất vui mừng. 16 Tâm hồn cha sẽ mãn nguyện, nếu con ăn nói phải cách. 15

— 14 — Đừng ganh tị với kẻ có tội, nhưng hãy luôn luôn kính sợ CHÚA. 18 Con sẽ có hi vọng trong tương lai, và ước vọng con sẽ thành đạt. 17

— 15 — Con ơi, hãy lắng nghe và học khôn. Hãy chuyên chú điều phải. 20 Đừng giao du với kẻ chè chén say sưa. 19

- 791 -


21

Những kẻ ăn uống quá độ sẽ trở nên nghèo túng. Kẻ ngủ li bì sẽ trở nên rách rưới.

— 16 — Hãy nghe lời cha là người sinh ra con, đừng khinh rẻ mẹ con khi người trở nên già yếu. 23 Hãy mua sự thật, đừng bán nó [b]. Hãy học khôn, tiết độ và hiểu biết. 24 Cha của đứa nhân đức sẽ vui mừng; Con khôn là nguồn vui cho cha. 25 Hãy làm cho cha mẹ con vui mừng; hãy làm cho người mẹ sinh ra con được hớn hở. 22

— 17 — Con ơi, hãy hết lòng nghe lời cha, hãy quan sát đường lối của cha. 27 Gái điếm nguy hiểm như hố sâu, còn người vợ bất chính giống như giếng hẹp. 28 Cô ta rình rập con như bọn cướp, khiến đàn ông bất chính với vợ mình. 26

— 18 — Ai gặp lôi thôi? Ai bị đau khổ? Ai đánh nhau? Ai hay phàn nàn? Ai bị thương tích vô cớ? Ai có đôi mắt đỏ ngầu? 30 Đó là những kẻ khề khà bên rượu, những kẻ nếm các thứ rượu pha. 31 Đừng ngắm nhìn ly rượu khi nó đỏ, lúc nó lóng lánh trong ly, và rót chảy dễ dàng. 32 Nhưng về sau nó cắn như rắn tiêm nọc độc. 33 Mắt con sẽ hoa lên, trí con sẽ bấn loạn. 34 Con sẽ thấy choáng váng như bị say sóng trên tàu, như thể nằm trên cột buồm. 35 Con thầm nghĩ, “Họ đánh nhưng tôi không biết đau. Họ đập tôi nhưng tôi chẳng nhớ gì. Khi tôi tỉnh dậy tôi sẽ tiếp tục uống rượu nữa.” 29

Châm Ngôn 24 — 19 — 24 Đừng ganh tị với kẻ ác, cũng đừng mong ước kết bạn với chúng. 2 Đầu óc chúng chỉ âm mưu hung bạo, và lúc nào cũng nói đến chuyện gây rối.

- 792 -


— 20 — Muốn dựng gia đình tốt phải có khôn ngoan, muốn tạo gia đình mạnh phải có hiểu biết. 4 Có hiểu biết phòng ốc mới đầy đủ, và chứa những châu báu và của cải quí giá. 3

— 21 — Người khôn ngoan hơn kẻ có sức mạnh, ai hiểu biết mạnh hơn kẻ có sức. 6 Khi ra trận phải có chiến thuật hay. Muốn chiến thắng phải có nhiều cố vấn giỏi. 5

— 22 — 7

Kẻ dại không hiểu nổi sự khôn ngoan. Khi họp nơi công cộng chúng chẳng biết nói gì.

— 23 — 8 9

Kẻ âm mưu điều ác sẽ bị gọi là kẻ quấy rối. Âm mưu ngu xuẩn là phạm tội, người ta ghét kẻ xấc láo.

— 24 — 10

Nếu con tỏ ra yếu hèn khi gặp khó khăn, chứng tỏ sức con quá kém.

— 25 — 11

Đừng ngần ngại giải cứu những kẻ sắp bị đưa đến chỗ chết; giải thoát những kẻ sắp bị giết.

Nếu con nói, “Chúng ta chẳng hay biết gì về việc nầy cả,” thì Thượng Đế, Đấng thấu rõ tâm tư con sẽ thấy. Đấng đang trông chừng con sẽ biết. Ngài sẽ đền đáp cho mỗi người theo điều họ làm. 12

— 26 — Con ơi, hãy ăn mật ong vì nó ngon. Mật ong từ tổ ong thật ngon ngọt. 14 Cũng vậy, sự khôn ngoan rất ngọt ngào cho đời con. Nếu con tìm được sự khôn ngoan, con sẽ có hi vọng trong tương lai, ước vọng con sẽ không bị cắt đứt. 13

- 793 -


— 27 — Đừng làm như kẻ gian ác rình rập nhà người công chính; đặng cướp phá nơi ở họ. 16 Dù người công chính gặp khó khăn bảy lần, họ sẽ không quỵ ngã, nhưng kẻ ác sẽ bị sụp đổ vĩnh viễn vì một tai ương. 15

— 28 — Chớ vui mừng khi kẻ thù con bị gục ngã; đừng hớn hở khi nó gặp lôi thôi. 18 CHÚA sẽ thấy điều đó và không hài lòng. Ngài sẽ không còn nổi giận cùng nó nữa. 17

— 29 — Đừng ganh tị với kẻ ác, đừng đố kỵ với kẻ gian tà. 20 Kẻ ác chẳng có gì mà trông mong; chúng sẽ bị diệt đi như đèn tắt. 19

— 30 — Con ơi, hãy kính trọng CHÚA và vua. Đừng nhập bọn với kẻ không vâng phục vua và CHÚA. [a] 22 CHÚA và vua sẽ mau chóng tiêu diệt bọn đó. Hai vị đó có thể gây đại họa cho chúng. 21

Những lời khôn ngoan khác Sau đây là lời lẽ của người khôn: Khi ngồi phân xử không nên thiên vị bên nào. 24 Đừng xử kẻ ác mà cho rằng chúng vô tội; vì dân chúng sẽ chưởi rủa con, các nước sẽ hận thù con. 25 Nhưng nếu con phạt kẻ có tội thì mọi việc sẽ êm xuôi, con sẽ nhận được ân phúc. 26 Lời đáp thẳng thắn như cái hôn lên môi. 27 Trước hết hãy thu xếp việc bên ngoài và chuẩn bị ruộng nương của con. Rồi sau đó hãy xây nhà. 28 Đừng vô cớ làm chứng nghịch người láng giềng mình. Đừng khai những điều không thật. 29 Không nên nói, “Ta sẽ trả đũa; Ta sẽ làm cho hắn như hắn đã làm cho ta.” 30 Ta đi ngang ruộng của kẻ biếng nhác và đi qua vườn nho của kẻ thiếu hiểu biết. 31 Ta thấy gai gốc mọc khắp nơi. Cỏ dại phủ kín đất, còn vách đá thì đổ nhào. 32 Ta suy nghĩ điều ta thấy; và học được bài nầy. 23

- 794 -


Ngủ một chút, chợp mắt chốc lát. Khoanh tay nằm xuống nghỉ giây lát. 34 Thì cái nghèo sẽ đến với con như chiến sĩ mang vũ khí; con sẽ thiếu thốn như bị cướp. 33

Châm Ngôn 25 Những câu châm ngôn khác của Sô-lô-môn 25 Sau đây là những lời khôn ngoan khác của Sô-lô-môn mà các cận thần của Ê-xê-chia, vua Giu-đa thu thập. Thượng Đế được tôn trọng vì Ngài giữ kín điều Ngài làm. Còn vua được tôn kính nhờ khám phá những điều kín giấu. 3 Không ai đo được chiều cao của trời hay độ sâu của đất. Cũng thế, không ai biết được ý nghĩ của vua. 4 Hãy lấy cáu cặn ra khỏi bạc, để thợ bạc sử dụng bạc đó. 5 Hãy dẹp kẻ ác khỏi trước mặt vua; thì chính thể vua sẽ công chính và tồn tại lâu dài. 6 Đừng khoe khoang với vua, cũng đừng đứng chung với những người quan trọng. 7 Thà để vua cất nhắc con lên địa vị cao hơn là bị vua hạ bệ trước mặt người tước vị. Điều con đã thấy, 8 không nên hấp tấp trình ra trước tòa. Vì con sẽ xử trí ra sao nếu láng giềng con chứng tỏ rằng con sai? 9 Cứ tranh cãi với láng giềng con, nhưng đừng tiết lộ chuyện riêng của người khác. 10 Kẻo người nghe điều ấy sẽ làm nhục con, và con sẽ không còn được tôn trọng nữa. 11 Lời nói phải lúc giống như trái táo vàng nằm trong chén bạc. 12 Lời khuyên răn khôn ngoan cho kẻ chịu nghe quí báu như bông tai vàng hay nữ trang cao giá. 13 Sứ giả đáng tin khiến kẻ sai thoải mái, như tuyết mát rơi trong ngày mùa gặt. 14 Ai hứa biếu quà cáp mà không thực hiện, chẳng khác mây và gió không mang mưa đến. 2

Nếu kiên nhẫn, con có thể thuyết phục quan quyền, và lời nói hòa nhã có thể phá hủy những sự chống đối mãnh liệt. 16 Nếu con tìm được mật ong thì chỉ nên ăn vừa phải, vì nếu ăn quá nhiều con sẽ bị nôn mửa ra thôi. 17 Đừng hay lui tới nhà người láng giềng con; vì người có thể đâm ra chán ghét con. 18 Kẻ đặt điều vu oan cho người láng giềng giống như kẻ dùng gươm giáo phân tán mọi người. 19 Lúc gặp khó khăn mà trông cậy vào người không đáng tin, chẳng khác nào nhai bằng răng lung lay hay bước bằng chân què. 15

- 795 -


Hát cho người có tâm sự buồn chẳng khác nào đoạt áo khoác ngoài của họ khi trời lạnh giá hay đổ dấm vào vết thương. 21 Nếu kẻ thù con đói hãy cho nó ăn. Nếu nó khát hãy cho nó uống. 22 Làm như thế chẳng khác nào chất than lửa trên đầu nó, rồi CHÚA sẽ thưởng cho con. 23 Gió bấc mang mưa lại thế nào thì lời nói bép xép cũng khiến kẻ khác giận dữ như thế. 24 Thà ở trên xó nóc nhà còn hơn ở trong nhà chung với người vợ hay gây gổ. 25 Tin vui từ xa mang lại giống như nước mát cho người đang khát. 26 Người công chính mà vấp ngã trước kẻ ác, thật giống như suối vấy bùn hay giếng bị ô dơ. 27 Không nên ăn quá nhiều mật ong, cũng không nên tìm vinh dự nầy tiếp theo vinh dự khác [a]. 28 Kẻ nào không biết tự chế như thành trì bị đổ vách. 20

Châm Ngôn 26 26 Tuyết không rơi vào mùa hè, hay mưa vào mùa gặt. Cũng vậy, không nên tôn trọng kẻ dại dột. 2 Lời chưởi rủa không thể làm hại người vô tội; chẳng khác nào như chim sẻ hay chim én lượn đi lượn lại không chịu đáp. 3 Roi dành cho ngựa, hàm thiếc dành cho lừa, còn roi vọt dành cho lưng kẻ ngu dại. 4 Không có cách nào đối đáp với kẻ ngu theo kiểu ngu của nó, vì nếu đối đáp với nó thì con cũng sẽ giống như nó. 5 Nếu con không đối đáp với nó, thì nó lại tưởng nó khôn lắm. 6 Nhờ kẻ ngu dốt mang tin tức, chẳng khác nào tự chặt chân hay uống điều hung ác. 7 Châm ngôn phát ra từ miệng kẻ ngu dại chẳng khác nào chân của kẻ què. 8 Tôn trọng kẻ ngu dại chẳng khác nào tra viên đá vào ná. 9 Châm ngôn phát ra từ miệng kẻ ngu dại chẳng khác nào gai đâm vào tay kẻ say rượu. 10 Thuê mướn kẻ ngu hay khách qua đường chẳng khác nào giương cung bắn lung tung. 11 Kẻ ngu lặp lại cái ngu của nó giống như chó ăn lại đồ nó đã mửa ra. 12 Con có thấy kẻ tự nghĩ mình khôn ngoan không? Kẻ ngu còn có hi vọng hơn nó. 13 Kẻ biếng nhác bảo, “Có con sư tử ngoài đường! Có con sư tử ngoài phố!” 14 Kẻ biếng nhác lăn trở trên giường giống như cửa xoay quanh bản lề. 15 Kẻ biếng nhác thò tay vào dĩa, rồi không thèm đưa đồ ăn lên miệng.

- 796 -


Kẻ biếng nhác nghĩ mình khôn ngoan hơn bảy người biết đối đáp hợp lý. 17 Liên can vào chuyện người khác như nắm lỗ tai chó. 18 Như kẻ khùng bắn các tên lửa chết người ra sao 19 thì kẻ gạt người láng giềng rồi bảo, “Tôi chỉ đùa thôi” cũng y như thế. 20 Lửa tắt vì thiếu củi, khi không ai bép xép thì không còn chuyện cãi vã. 21 Như than nuôi bếp hồng và củi giữ cho lửa cháy đỏ thế nào, thì kẻ khơi ra cãi vã cũng như thế. 22 Lời nói của kẻ bép xép giống như thức ăn ngon; mà người ta thích ăn nuốt. 23 Lời nhân hậu từ đầu óc kẻ ác giống như lớp men sáng lên bên ngoài bình bằng đất [a]. 24 Kẻ ghét con sẽ tìm cách dùng lời nói để ngụy trang, trong đầu nó âm mưu điều lường gạt. 25 Dù cho nó ăn nói ngon ngọt, con chớ tin, vì đầu óc nó đầy ý nghĩ gian ác. 26 Nó lấy lời nói dối để che đậy sự lường gạt, nhưng mưu ác nó sẽ bị lộ ra giữa công chúng. 27 Ai đào hố cho kẻ khác sẽ sụp vào đó. Ai lăn đá để đè kẻ khác sẽ bị đá lăn đè trở lại. 28 Kẻ nói dối ghét người mà nó làm hại, miệng nịnh hót tiêu diệt con người. 16

Châm Ngôn 27 27 Chớ khoe về tương lai; vì con chưa biết sẽ ra sao. 2 Đừng tự tán dương mình. Hãy để cho người khác làm. Hãy để người ngoài ca tụng con, miệng con đừng làm. 3 Đá nặng, cát cũng nặng, nhưng lời châm chọc của kẻ ngu còn nặng hơn cả hai. 4 Cơn giận thật hung dữ, phá hủy như nước lụt, nhưng ai chịu nổi sự ganh tị! 5 Thà công khai sửa dạy hơn yêu thương giấu kín. 6 Sự tổn thương do bạn hữu gây ra vẫn tốt hơn những cái hôn giả dối của kẻ thù. 7 Khi no bụng, con cũng chẳng thấy thèm mật ong, nhưng khi bụng đói thì thức ăn dở cũng hóa ngon. Ai đi ra khỏi nhà giống như chim rời xa tổ. 9 Nước hoa và trầm hương thật dịu dàng cho tâm hồn, như lời khuyên của bạn tốt hơn ý kiến của chính mình [a]. 10 Đừng quên bạn con hay bạn của cha mẹ con. Khi lâm cảnh khó khăn hãy đến xin láng giềng giúp đỡ. Thân nhân xa thua láng giềng gần. 8

- 797 -


Con ơi, hãy khôn ngoan lên để cha vui mừng. Để cha đối đáp những lời nhục mạ. 12 Người khôn thấy lôi thôi và tránh đi, kẻ dại đâm đầu vướng phải tai ương. 13 Hãy đoạt lấy áo của kẻ bảo lãnh người dưng, giữ cho đến khi anh ta trả hết nợ cho người ấy. 14 Sáng sớm mà lớn tiếng chào người láng giềng, người sẽ xem đó như lời nguyền rủa. 15 Người vợ hay cãi cọ như mưa lộp độp rả rích suốt ngày. 16 Ngăn chận nàng như ngăn gió hay nắm dầu trong tay. 17 Sắt mài bén sắt, bạn hữu giúp bạn hữu cải tiến. 18 Ai chăm sóc cây vả sẽ ăn trái nó, Còn ai phục vụ chủ mình sẽ được tôn trọng. 19 Nước phản chiếu gương mặt ra sao, thì lòng người cũng phản ảnh con người như thế. 20 Âm phủ và hỏa ngục [b] không bao giờ đầy, Cũng vậy, mắt con người không bao giờ thoả mãn. 21 Lò dùng để luyện vàng và nồi để luyện bạc, còn lời khen ngợi dùng để thử con người. 22 Dù cho con nghiền kẻ ngu như nghiền gạo trong cối, thì con cũng không thể nào lấy cái ngu ra khỏi nó được. 23 Hãy chăm sóc bầy chiên mình, lo cho gia súc mình. 24 Giàu có không còn mãi, không chính thể nào còn đời đời. 25 Hãy gom cỏ khô để cỏ tươi mọc lên. Hãy gom cỏ từ các đồi. 26 Chiên sẽ giúp con có áo quần mặc, Và dê giúp con có tiền mua ruộng. 27 Con sẽ có tràn trề sữa dê để nuôi gia đình con, và nuôi các tôi tớ gái con. 11

Châm Ngôn 28 28 Kẻ ác bỏ chạy dù không ai đuổi theo, còn người công chính vững vàng như sư tử. 2 Khi quốc gia hỗn loạn thì quan quyền liên tiếp thay thế nhau; nhưng khi có người tài đức, khôn ngoan lãnh đạo thì khi quốc gia trở nên vững mạnh. 3 Quan quyền ngược đãi kẻ nghèo, như mưa lũ làm hại mùa màng. 4 Ai không vâng lời dạy dỗ tức tán dương kẻ ác, còn ai nghe dạy là chống lại chúng. 5 Kẻ ác không hiểu được công lý, nhưng kẻ theo CHÚA hiểu rõ công lý. 6 Thà nghèo mà thanh liêm, hơn giàu mà sống lươn lẹo. 7 Con khôn ngoan nghe lời khuyên dạy, nhưng ai làm bạn với kẻ hoang đàng khiến cho cha mẹ mình tủi nhục.

- 798 -


8

Ai làm giàu nhờ cho vay cắt cổ sẽ thấy tài sản mình lọt vào tay kẻ nhân từ đối với người nghèo.

Nếu con bịt tai không nghe lời khuyên dạy, thì lời cầu nguyện của con cũng sẽ là điều CHÚA gớm ghiếc. 10 Ai dẫn người công chính vào đường lầm lạc sẽ bị tiêu diệt vì mưu ác mình, nhưng người thanh liêm sẽ hưởng hạnh phúc. 11 Kẻ giàu tự cho mình khôn ngoan, nhưng người nghèo mà sáng suốt thấy rõ bộ mặt thật của họ. 12 Khi người công chính đắc thắng, ai cũng vui mừng, nhưng khi kẻ ác lên cầm quyền, ai cũng bỏ trốn. 13 Người nào che giấu tội lỗi sẽ không thành công. Nhưng ai xưng tội và từ bỏ nó sẽ được thương xót. 14 Phúc cho kẻ luôn luôn biết sợ, còn ai ương ngạnh sẽ gặp tai ương. 15 Quan quyền độc ác mà cai trị kẻ nghèo là một mối nguy, giống như sư tử gầm thét hay gấu vồ mồi. 16 Quan quyền mà thiếu sáng suốt sẽ trở nên độc ác, nhưng ai từ chối những lợi lộc bất chính sẽ cai trị lâu dài. 17 Hãy để cho kẻ sát nhân trốn tránh cho đến khi chết; Đừng giúp đỡ nó. 18 Người thanh liêm sẽ an toàn, còn kẻ bất lương sẽ bị tiêu diệt bất thần. 19 Ai trồng trọt ruộng vườn sẽ dư ăn, nhưng kẻ đuổi theo ảo vọng sẽ trở nên nghèo khó. 20 Ai trung tín sẽ nhận được nhiều phúc, nhưng kẻ vội làm giàu sẽ bị trừng phạt. 21 Thiên vị là điều không tốt, nhưng có kẻ chỉ vì miếng ăn mà phạm tội. 22 Kẻ ích kỷ mong làm giàu nhanh chóng mà không biết rằng cái nghèo đi liền theo sau. 23 Ai sửa dạy người khác về sau sẽ được biết ơn, hơn kẻ buông lời nịnh hót. 24 Ai ăn cắp của cha mẹ mà nói, “Chẳng có gì quấy cả,” là đồng lõa với kẻ phá hoại. 25 Kẻ tham lam gây chuyện lôi thôi, nhưng ai tin cậy CHÚA sẽ thành công. 26 Ai tự ỷ lại là dại dột, nhưng ai sống khôn ngoan sẽ được an toàn. 27 Ai giúp đỡ kẻ nghèo sẽ không bao giờ thiếu thốn, nhưng ai không đếm xỉa đến kẻ nghèo sẽ bị nguyền rủa. 28 Khi kẻ ác chiếm quyền, mọi người đều lẩn trốn, nhưng khi chúng bị diệt, người công chính sẽ gia tăng. 9

Châm Ngôn 29 29 Kẻ bị sửa trị nhiều lần sẽ trở nên bướng bỉnh, nó sẽ bị tổn hại bất thần, không phương cứu chữa.

- 799 -


Khi người công chính cai trị thì ai nấy vui mừng, còn khi kẻ ác cai trị thì dân chúng than van. 3 Ai yêu thích khôn ngoan mang vui mừng cho cha mẹ, nhưng kẻ làm bạn với gái điếm phung phí tiền bạc. 2

Vua công minh khiến quốc gia hùng mạnh, nhưng vua thích của hối lộ phá tan đất nước [a]. 5 Nịnh hót ai là giăng bẫy dưới chân người ấy. 6 Kẻ ác sập vào bẫy mình giăng, nhưng người công chính hát mừng vui vẻ. 7 Người công chính quan tâm đến công lý cho kẻ nghèo, còn kẻ ác không hề để ý đến. 8 Kẻ xấc láo gây rối cho thành trì, nhưng người khôn làm nguôi cơn giận. 9 Khi người khôn ngoan tranh tụng với kẻ ngu, thì kẻ ngu chế diễu, cười cợt, không lúc nào yên. 10 Kẻ sát nhân ghét người thanh liêm, còn kẻ ác tìm cách giết người công chính. 11 Kẻ ngu dại để cơn giận bộc phát, nhưng người khôn luôn giữ bình tĩnh. 12 Khi người lãnh đạo chuyên tâm đến chuyện dối trá, thì tất cả cấp dưới trở nên độc ác. 13 Kẻ nghèo và người hung ác đều giống nhau như sau: CHÚA ban sự sống cho cả hai [b]. 14 Nếu vua phân xử công bình cho người nghèo, ngôi vua sẽ vững bền. 15 Sửa trị và trừng phạt giúp trẻ con khôn ngoan, nhưng trẻ con bị thả lỏng sẽ mang sỉ nhục cho mẹ mình. 16 Khi kẻ ác gia tăng, tội lỗi cũng gia tăng, nhưng người công chính sẽ nhìn thấy chúng bị sụp đổ. 17 Hãy sửa dạy con cái, chúng nó sẽ khiến con hãnh diện; chúng sẽ không làm con xấu hổ. 18 Nơi nào không có lời CHÚA thì dân chúng đâm ra phóng túng, nhưng ai vâng lời dạy dỗ sẽ được tôn trọng. 19 Nói suông không đủ để sửa dạy đầy tớ, dù nó hiểu biết đi nữa nó cũng chẳng thèm nghe theo. 20 Con có thấy kẻ ăn nói hấp tấp không? Người ngu còn có hi vọng hơn hắn. 21 Nuông chiều đứa đầy tớ, thì nó sẽ trở thành hoang phí. 22 Người nóng tính gây chuyện cãi vã; kẻ nóng nảy dễ phạm tội. 23 Tánh tự phụ hạ thấp con người, còn ai khiêm nhường sẽ được tôn trọng. 24 Kẻ đồng lõa với trộm cướp ghét mạng sống mình [c]. Mặc dù được gọi ra làm chứng trước toà nhưng nó không chịu khai [d]. 25 Sự lo sợ là cái bẫy cho mình, nhưng ai tin cậy CHÚA sẽ được an toàn. 26 Nhiều người muốn xin ân huệ nơi quan quyền, nhưng công lý chỉ do CHÚA mà đến. 27 Người công chính ghét kẻ gian tà, còn kẻ ác gớm ghét người lương thiện. 4

- 800 -


Châm Ngôn 30 Lời dạy khôn ngoan của A-gu-rơ 30 Sau đây là những lời giáo huấn của A-gu-rơ con trai Gia-kê, người xứ Mát-xa. Ông bảo, “Lạy Thượng Đế, tôi mệt mỏi, tôi đuối sức và kiệt lực.” [a] 2 Ta là kẻ dại dột hơn mọi người, ta không hiểu biết gì. 3 Ta chưa học khôn, và không biết gì về Thượng Đế, Đấng Thánh. 4 Ai đã lên trời rồi lại xuống? Ai có thể nắm gió trong tay? Ai có thể bọc nước trong áo choàng? Ai đã đặt ranh giới cho đất? Tên Ngài hay tên con trai Ngài là gì? Nếu ngươi biết hãy nói cho ta đi! 5 Mỗi một lời nói của Thượng Đế đều chân chính. Ngài bảo vệ những ai đến với Ngài. 6 Đừng thêm bớt gì vào lời Ngài, nếu không Ngài sẽ trừng phạt con và cho con là kẻ nói dối. 7 Con cầu xin Ngài hai điều. Xin đừng từ chối trước khi con chết. 8 Xin đừng để con nói dối và bất lương. Đừng để con giàu sang hay nghèo khổ; xin cho con đủ đồ dùng hằng ngày. 9 Nếu quá sung túc, con có thể chối bỏ Ngài và bảo, “Tôi không biết CHÚA là ai cả!” Nếu quá nghèo khổ con có thể trộm cắp làm nhục danh Thượng Đế của con. 10 Đừng nói xấu đầy tớ với chủ nó, nếu không nó sẽ nguyền rủa con, rồi con sẽ phải mang tội. 11 Có người chưởi rủa cha mình cũng chẳng chúc phước cho mẹ mình. 12 Có người tự nghĩ mình trong sạch nhưng thực sự chưa tẩy sạch được điều dơ bẩn trong lòng. 13 Có người mang tính tự phụ, xem thường người khác. 14 Có kẻ có răng bén như gươm; hàm của chúng như dao nhọn. Chúng muốn giết kẻ nghèo khỏi xứ và đuổi kẻ túng thiếu ra khỏi loài người. 15 Con đỉa có hai con gái [b] gọi là “Cho thêm” và “Cho thêm.” Có ba điều không bao giờ thỏa mãn, và bốn điều không bao giờ nói, “Đủ rồi!” 16 Đó là nghĩa địa, dạ không sinh con, đất không bao giờ đủ mưa, và lửa không bao giờ nói “Đủ rồi!”

- 801 -


Con mắt chế giễu cha mình, không vâng lời mẹ mình, thì chim trời sẽ móc mắt ấy, kên kên sẽ ăn nó. 17

Có ba điều rất lạ lùng đối với ta, và bốn điều ta chưa hiểu được: 19 Đó là đường chim ưng bay trên trời, đường con rắn bò trên đá, lối tàu chạy trên biển, và đường người nam đi lại với người nữ. 20 Người đàn bà ngoại tình hành động như sau: Nàng làm như thể vừa mới ăn xong rồi rửa mặt; và bảo, “Tôi có làm gì quấy đâu.” 21 Có ba điều làm rung chuyển đất, và bốn điều mà đất không chịu nổi: 22 Đó là khi kẻ tôi tớ lên làm vua, Người ngu có dư thức ăn, 23 Người đàn bà bị chồng ghét nhưng vẫn cưới nàng, và đứa tớ gái lên làm bà chủ. 24 Có bốn loài nhỏ xíu trên đất nhưng lại rất khôn: 25 Con kiến chẳng có sức mạnh gì, nhưng biết dự trữ thức ăn lúc mùa hè. 26 Con chồn núi không mạnh mẽ gì, nhưng sống giữa các tảng đá. 27 Cào cào tuy không có vua, nhưng bay ra theo hàng ngũ. 28 Con thằn lằn mà người ta lấy tay bắt được, vậy mà lại ở trong cung vua. 29 Có ba thứ bước đi hiên ngang, và bốn thứ bước đi hùng dũng: 30 Đó là sư tử, con vật oai phong nhất, không biết sợ ai, 31 con gà trống đi hiên ngang [c], con dê đực, và nhà vua khi hướng dẫn dân chúng. 32 “Nếu con vừa ngu mà lại tự phụ, hay nếu con định mưu ác thì hãy lấy tay bịt miệng. 33 Sữa quậy lên làm ra bơ, mũi bị đập sẽ chảy máu. Chọc giận người khác gây ra chuyện lôi thôi.” 18

Châm Ngôn 31 Lời khuyên khôn ngoan của vua Lê-mu-ên 31 Sau đây là những lời khuyên của vua Lê-mu-ên, xứ Mát-xa, do mẹ ông dạy: 2 “Con ơi, hãy nghe [a] mẹ, đứa con của lòng dạ mẹ, Đứa con cầu tự của mẹ. 3 Con đừng nên phí năng lực cho đàn bà, hay phí thì giờ cho kẻ làm hại vua. - 802 -


Lê-mu-ên ơi, vua không nên uống rượu, bậc quan quyền không nên uống men say. 5 Nếu không, họ sẽ say sưa và quên luật pháp không còn bênh vực quyền lợi kẻ nghèo. 6 Hãy cấp rượu cho kẻ sắp lìa đời và thức uống say cho người buồn thảm. 7 Hãy cho họ uống để họ quên nỗi khổ để không nhớ đến cảnh khổ của mình. 4

Hãy lên tiếng bênh vực kẻ không dám nói; bảo vệ quyền lợi của kẻ bất hạnh. 9 Hãy lên tiếng và phân xử công bằng, hãy bênh vực quyền của người nghèo khó và túng thiếu.” 8

Người vợ đảm đang Người vợ đảm đang [c] rất khó kiếm, vì nàng quí giá hơn châu ngọc. 11 Chồng nàng tin cậy nàng hoàn toàn. Chồng nàng không thiếu lợi lộc. 12 Suốt đời nàng làm ích lợi chứ không làm hại cho chồng. 13 Nàng đi tìm len và vải [d] và thích dùng tay mình làm ra nhiều thứ. 14 Nàng như chiếc tàu buôn, mang thực phẩm về từ xứ xa. 15 Nàng thức dậy khi trời còn tối chuẩn bị thức ăn cho gia đình và cấp phần [e] ăn cho các đầy tớ gái. 16 Nàng đi xem xét miếng ruộng rồi mua nó. Nhờ tiền kiếm được nàng trồng một vườn nho. 17 Nàng hết lòng làm việc [f], tay nàng rất mạnh. 18 Nàng biết công việc làm ăn mang lợi ích. Ban đêm, đèn nàng không bao giờ tắt. 19 Nàng xe chỉ và dệt vải. 20 Nàng mở lòng rộng rãi cho người nghèo giúp đỡ kẻ túng thiếu. 21 Khi trời tuyết nàng không lo gia đình bị lạnh, vì mọi người đều có đủ áo quần ấm. 22 Nàng may khăn trải giường cho mình; áo quần nàng làm bằng loại vải mịn tốt và vải tím đắt tiền. 23 Người ta biết đến chồng nàng nơi cửa thành [g] trong các buổi họp công cộng của thành phố, nơi chồng nàng ngồi với các người lãnh đạo trong xứ. 24 Nàng dệt áo quần và bán nó, cung cấp đai lưng cho thương gia. 25 Nàng có uy tín [h] và được dân chúng kính nể. Nàng nhìn về tương lai mà lòng hớn hở. 26 Nàng nói ra lời khôn ngoan và trung tín dạy kẻ khác. 27 Nàng trông nom gia đình chẳng bao giờ ở không. 10 [b]

- 803 -


Con cái nàng khen ngợi nàng. Chồng nàng cũng tấm tắc ca ngợi nàng 29 bảo rằng, “Có nhiều người đàn bà đảm đang, nhưng nàng giỏi hơn tất cả.” 30 Duyên là giả dối, sắc chỉ tạm bợ, nhưng người đàn bà nào kính sợ CHÚA sẽ được ca tụng. 31 Hãy cấp cho nàng phần thưởng xứng với công khó nàng; Hãy ca tụng nàng công khai vì tài đảm đang của nàng. 28

- 804 -


Giảng Sư 1 (Ecclésiaste-Ecclesiastes) 1 Sau đây là lời của Thầy, con trai Đa-vít, vua tại Giê-ru-sa-lem. Thầy nói, “Vô ích! Vô ích! Hoàn toàn vô nghĩa! Mọi sự đều vô ích [a].” 3 Người ta lao khổ trên đời nầy [b] để làm gì? 2

Mọi việc chẳng bao giờ thay đổi Người ta sống, rồi chết, nhưng đất vẫn còn mãi vô tận. 5 Mặt trời mọc, mặt trời lặn, rồi nó vội vàng chạy trở về nơi nó mọc. 6 Gió thổi về hướng Nam; xong quay sang hướng Bắc. Rồi xoay vần trở lại, theo chu kỳ cũ nhưng chẳng đi tới đâu. 7 Mọi sông đều đổ vào biển, nhưng biển không bao giờ đầy. 8 Mọi việc ấy khiến người ta mỏi mệt, đến nỗi không ai muốn nhắc tới [c] nữa. Chuyện nghe rồi lại nghe lần nữa, tai không hề nhàm nghe, mắt không hề chán ngó. 9 Việc gì cũng diễn tiến giống y như lúc ban đầu. Việc gì đã xảy ra rồi lại cũng sẽ xảy ra nữa. Dưới đất nầy chẳng có gì mới lạ. 10 Có người nói, “Kìa! Cái nầy mới,” nhưng thực ra đã có từ lâu rồi. Có trước khi chúng ta sinh ra nữa. 11 Người ta chẳng nhớ lại việc xảy ra đời xưa, người thời tương lai cũng không nhớ chuyện hiện đang xảy ra. Tương lai sau nầy cũng chẳng ai nhớ người thời trước đã làm gì. 4

Khôn ngoan có mang lại hạnh phúc không? Ta là Thầy, đã là vua trên Ít-ra-en tại Giê-ru-sa-lem. 13 Ta quyết định dùng sự khôn ngoan mình để tìm hiểu mọi chuyện xảy ra trên đất. Nỗ lực ấy là một mối bận tâm mà Thượng Đế trao cho loài người. 14 Ta nhìn mọi sự việc trên đời và thấy việc nào cũng vô ích, giống như đuổi theo mây gió [d]. 12

Việc gì cong quẹo, không thể làm cho ngay được. Vật gì khiếm khuyết, không thể bảo là đầy đủ được. 15

Ta tự nhủ, “Ta đã trở nên khôn ngoan và hiện nay ta khôn hơn những người trị vì trước ta tại Giê-ru-salem. Ta rõ sự khôn ngoan và hiểu biết là gì.” 16

Cho nên ta quyết chí đi tìm khôn ngoan và hiểu biết đồng thời tìm sự ngu xuẩn, nhưng ta thấy rốt cuộc chẳng khác nào chạy theo mây khói. 17

- 805 -


18

Càng khôn ngoan càng bực dọc nhiều; người càng hiểu biết càng chuốc thêm đau khổ.

Giảng Sư 2 Vui chơi có mang hạnh phúc không? 2 Ta tự nhủ, “Ta sẽ đi tìm lạc thú. Ta sẽ vui chơi.” Nhưng ta thấy cũng vô ích. 2 Cười mãi cũng dại, vui chơi cũng chẳng đi tới đâu. Ta quyết định thử dùng rượu để mua vui trong khi trí ta còn minh mẫn. Ta tìm cách hưởng lạc thú để xem có gì ích lợi cho con người đang khi sống tạm trên đời nầy không. 3

Lao lực có mang hạnh phúc không? Cho nên ta thực hiện các đại công tác: ta xây nhà cửa và trồng vườn nho. 5 Ta trồng vườn và lập công viên, ta trồng đủ loại cây trái trong đó. 6 Ta đào hầm chứa nước để tưới cây. 7 Ta mua tôi trai tớ gái, ta cũng có các tôi mọi sinh trưởng trong nhà ta. Ta có nhiều bầy gia súc hơn tất cả những người có trước ta tại Giê-ru-salem. 4

Ta gom góp bạc vàng cho mình, vật quí từ các vua chúa. Ta có các nam nữ ca sĩ cùng đủ mọi thứ mà ai cũng thích. 8

Ta nổi danh hơn tất cả những người sống trước ta tại Giê-ru-sa-lem. Sự khôn ngoan giúp ta có được những điều ấy. 9

Điều gì mắt ta thấy, lòng ta thích là ta có. Ta không thiếu thốn bất cứ lạc thú nào. Ta mãn nguyện với những điều ta làm, và lạc thú ấy là phần thưởng của công khó ta. 11 Nhưng rồi ta nhìn điều ta đã làm, và suy nghĩ về những công khó của tay ta. Bỗng ta nhận thấy các thứ đó đều vô ích, giống như chạy theo mây khói. Trên đất nầy dù có làm gì đi nữa thì cũng chẳng ích lợi gì dưới mặt trời. 10

Sự khôn ngoan có thể mang lợi ích Ta ngẫm nghĩ lại về sự khôn ngoan, và về sự ngu dại hay những hành động điên rồ. Nhưng thử hỏi, có ai làm gì hơn được đâu? Vua mới cũng chẳng làm gì hơn vua trước kia đã làm. 13 Ta thấy chắc chắn là khôn tốt hơn dại, cũng như ánh sáng tốt hơn bóng tối. 14 Người khôn biết mình đi đâu, còn kẻ dại lần mò trong đêm tối. Nhưng ta nhận thấy rằng dù khôn hay dại thì rốt cuộc cả hai đều chung số phận. 12

Ta tự nghĩ, “Điều gì xảy ra cho người ngu cũng sẽ xảy ra cho ta nữa, cho nên khôn ngoan mà được gì?” Ta tự nhủ, “Khôn ngoan cũng chẳng ích lợi gì.” 15

- 806 -


16

Cả người khôn lẫn kẻ dại đều chết, Trong tương lai người ta không nhớ ai cả. Mọi người đều bị quên lãng.

Tìm đâu ra hạnh phúc trên đời? Cho nên ta ghét cuộc đời. Khi ta nhìn thấy mọi việc trên đời đều vô ích như đuổi theo mây khói, ta đâm ra buồn chán. 18 Ta ghét những điều ta đã làm ra trên đời vì phải để lại cho kẻ sống sau ta. 19 Người khác sẽ hưởng những điều ta đã khổ công gây dựng mà ta chẳng biết là nó khôn hay dại. Điều ấy cũng thật vô ích. 20 Vì thế ta đâm ra buồn chán cho những điều ta đã làm ra trên đất nầy. 21 Ai cũng khổ công dùng mọi khôn ngoan, hiểu biết, tài năng nhưng rồi chết, để lại điều mình tạo dựng cho kẻ khác. Những kẻ đến sau không bỏ công sức mà lại hưởng tất cả mọi thứ. Quả là bất công và vô ích. 22 Người ta khổ công chật vật trên đất nầy để làm gì? 23 Suốt đời con người triền miên đau khổ và buồn thảm, thậm chí đến ban đêm tâm trí cũng không an nghỉ được. Quả là vô ích. 17

Cho nên tốt hơn cả là ăn, uống, hưởng thụ công việc tay mình làm ra. Ta thấy điều đó cũng do CHÚA ban cho, 25 vì nếu Ngài không cho thì chẳng ai ăn uống hay thụ hưởng gì được. 26 Nếu ai làm vừa lòng Thượng Đế thì Ngài sẽ cho người ấy sự khôn ngoan, hiểu biết và vui mừng. Nhưng kẻ không làm vừa lòng Ngài chỉ lo thu trữ tài sản cho người làm vừa lòng Thượng Đế. Điều ấy thật vô nghĩa, chẳng khác nào đuổi theo mây khói. 24

Giảng Sư 3 Việc gì cũng có định kỳ 3 Mọi việc đều có định kỳ, mọi sự trên đất đều có thời kỳ riêng. 2

Có lúc sinh, và có lúc tử. Có lúc trồng và có lúc nhổ. 3 Có lúc giết hại và có lúc chữa lành. Có lúc hủy phá và có lúc xây dựng. 4 Có lúc khóc và có lúc cười. Có lúc buồn bã và có lúc nhảy múa. 5 Có lúc ném đá và có lúc thu đá lại [a]. Có lúc ôm ấp và có lúc ruồng rẫy. 6 Có lúc tìm kiếm và có lúc thôi tìm. Có lúc giữ đồ vật và có lúc ném đồ vật đi. 7 Có lúc xé rách và có lúc vá lại. Có lúc im lặng và có lúc lên tiếng.

- 807 -


8

Có lúc yêu và có lúc ghét. Có lúc chiến tranh và có lúc hoà bình.

Thượng Đế cầm quyền trên thế giới Người ta có được lợi ích gì từ công lao của mình không? 10 Ta thấy công việc nhọc nhằn mà Thượng Đế giao cho con người làm. 11 Thượng Đế cho chúng ta khả năng suy nghĩ về thế gian nầy nhưng chúng ta không thể hiểu hết mọi việc Ngài làm. 9

Cho nên ta thấy tốt nhất là con người vui hưởng công việc của tay mình đang khi còn sống. 13 Vì thế ai có thể ăn uống, vui hưởng công khó mình làm thì đó là ân huệ Ngài cho. 12

Ta biết mọi việc Thượng Đế làm đều còn đời đời. Không ai thêm hay bớt được điều gì Ngài đã làm. Ngài làm như thế để mọi người kính sợ Ngài. 14

Việc gì hiện đang xảy ra thì trước kia đã xảy ra rồi, và việc gì sẽ xảy ra trong tương lai thì trước đó cũng đã xảy ra. Thượng Đế khiến sự việc tái diễn nhiều lần. 15

Cảnh bất công trên đời Ta cũng nhận thấy điều nầy trên đời [b]: Chỗ đáng có công lý, thì lại thấy gian ác; chỗ đáng có lẽ phải, thì lại thấy điều trái. 17 Ta tự nhủ, “Thượng Đế dự liệu thời kỳ cho mỗi việc và mỗi hành vi, để Ngài có thể phân xử người tốt, kẻ xấu.” 16

Con người có giống thú vật không? Ta suy nghĩ điều con người làm và tự nhủ: Thượng Đế muốn thử nghiệm con người, để họ thấy rằng họ chẳng hơn gì loài thú. 19 Việc xảy ra cho loài thú cũng xảy ra cho loài người; cả hai loài cùng có hơi thở [c], cả hai loài cùng chết. Loài người không hơn gì loài thú vì cả hai đều vô ích. 20 Cả hai cùng chung số phận; cả hai đều từ bụi đất mà ra rồi cả hai cũng sẽ trở về với bụi đất. 21 Có ai biết chắc được là hồn loài người sẽ lên ở với Thượng Đế và hồn loài thú sẽ đi xuống đất không? 22 Do đó ta thấy tốt nhất là con người vui hưởng công việc mình làm vì đó là phần số mình. Vì chẳng ai biết được những việc gì sẽ xảy ra sau khi mình qua đời. 18

Giảng Sư 4 Chết có tốt hơn không? 4 Ta lại thấy những người bị ngược đãi trên đất nầy. Ta thấy nước mắt của họ mà không ai an ủi. Kẻ hung bạo có quyền thế, nhưng không ai an ủi những người bị họ làm hại. 2 Cho nên ta thấy người chết sướng hơn người sống. 3 Còn những kẻ chưa sinh ra lại còn sướng hơn; vì họ chưa thấy những chuyện gian ác trên đất nầy.

- 808 -


Vất vả mà làm gì? Ta thấy có người vất vả làm việc để thành công: Họ đố kỵ nhau. Điều nầy thật cũng vô ích như đuổi theo mây khói. 4

Có người cho rằng khoanh tay không làm gì cả là dại, vì sẽ chết đói. 6 Chẳng thà có ít của mà thảnh thơi còn hơn có nhiều của mà khốn khổ, rồi rốt cuộc giống như đuổi theo mây khói. 7 Ta lại cũng thấy chuyện vô ích nầy trên đất: 8 Ta thấy một người không gia đình, không con cái, không anh em. Anh ta làm việc vất vả nhưng không bao giờ mãn nguyện. Anh ta không bao giờ tự hỏi, “Mình làm việc vất vả như thế nầy cho ai? Sao không dành thì giờ hưởng thụ?” Chuyện đó thật đáng buồn và vô nghĩa. 5

Bạn bè và gia đình tăng thêm sức mạnh Hai người tốt hơn một, vì cả hai chung sức thì làm được nhiều việc hơn [a]. 10 Nếu một người ngã, thì người kia đỡ lên. Nhưng nếu chỉ có một mình mà ngã, thì không có ai đỡ mình lên. 11 Nếu hai người nằm chung thì ấm, còn một người làm sao ấm được? 12 Một người có thể bị kẻ thù đánh thắng, nhưng hai người chung sức có thể tự vệ được. Một dây thừng bện bằng ba sợi rất khó đứt. 9

Danh vọng, quyền lực đều vô ích Chú bé nghèo mà khôn còn hơn ông vua già mà dại vì không nghe ý kiến hay. 14 Chú bé lên làm vua. Nó được sinh ra trong cảnh nghèo trong vương quốc của vị vua già ấy, thậm chí đã từng ngồi tù trước khi lên làm vua. 15 Ta nhìn xem những người sống trên đất theo nó để tôn nó làm vua. 16 Nhiều người theo nó lúc đầu nhưng về sau không thích nó nữa. Cho nên danh vọng quyền hành đều vô ích giống như chạy theo mây khói. 13

Giảng Sư 5 Phải thận trọng khi hứa 5 Phải thận trọng khi ngươi thờ phụng nơi đền thờ. Thà lắng nghe hơn là dâng của lễ như người ngu dại không biết mình làm bậy. Trước khi nói phải đắn đo, phải thận trọng về lời ngươi thưa cùng Thượng Đế. Thượng Đế ở trên trời, còn ngươi ở dưới đất, cho nên hãy ít nói trước mặt Ngài. 3 Câu ngạn ngữ rất chí lý: Ác mộng là do quá lo lắng sinh ra, Còn người dại dột do nói nhiều. 2

- 809 -


Nếu ngươi hứa điều gì cùng Thượng Đế thì hãy mau lo thực hiện. Thượng Đế không thích kẻ dại, cho nên hứa thì làm. 5 Thà không hứa còn hơn là hứa mà không làm. 6 Đừng để lời nói mình khiến mình phạm tội và đừng nói với thầy tế lễ [a] nơi đền thờ, “Hứa như thế là sai lầm.” Nếu không Thượng Đế sẽ nổi giận với ngươi và tiêu diệt những gì ngươi gây dựng. 4

Các quan quyền cũng lừa gạt nhau Đừng để chiêm bao vô dụng và tính khoe khoang khiến ngươi gặp lôi thôi. Ngươi phải kính sợ Thượng Đế. Có khi ngươi thấy kẻ nghèo bị ngược đãi thì đừng ngạc nhiên. Quan nầy bị quan trên điều động, rồi quan ấy bị quan trên nữa điều động. 9 Tài sản quốc gia được chia cho mọi người. Ngay cả vua cũng được hưởng phần mình trong đó [b]. 7 8

Giàu sang không mua được hạnh phúc Ai yêu tiền tài sẽ không bao giờ có đủ tiền; Ai yêu của cải sẽ không bao giờ mãn nguyện. Điều ấy cũng thật vô ích. 11 Tiền của càng có bao nhiêu, thì càng có nhiều bạn phung phí giùm bấy nhiêu. Cho nên lợi lộc gì? Chẳng có lợi gì ngoài việc ngắm nhìn của cải mình. 12 Ai làm việc cực nhọc thì ngủ ngon; dù ăn ít hay nhiều cũng không sao. Nhưng người giàu dư ăn dư mặc, lại khó ngủ. 13 Ta cũng thấy điều bất hạnh nầy trên đời: Tiền bạc dành giụm trở thành tai họa cho sở hữu chủ. 14 Họ mất hết của cải vì thất bại trong việc làm ăn, không còn gì để lại cho con cái. 15 Người sinh ra đời với hai tay không, rồi chết buông xuôi với hai tay trắng. Làm việc cực nhọc lúc còn sống, đến khi qua đời rồi cũng để lại y như lúc chào đời. 16 Điều nầy cũng là chuyện bất hạnh: Chào đời ra sao thì qua đời cũng y như vậy. Cho nên cực nhọc đuổi theo mây khói mà làm gì? 17 Đời người là chuỗi ngày buồn thảm, đen tối, bệnh tật và sầu não. 10

Hãy vui hưởng công lao mình Ta thấy làm thế nầy là tốt nhất: ăn, uống, hưởng thụ công lao mình trong cuộc đời ngắn ngủi mà Thượng Đế giao cho. Vì đó là phần thưởng của mình. 18

Tùy người mà Thượng Đế ban cho của cải, giàu có. Ngài cũng cho người ấy hưởng thụ các của cải đó cùng với công lao mình. Nó là món quà của Thượng Đế. 20 Người ấy không bao giờ bận tâm về cuộc đời ngắn ngủi vì Thượng Đế khiến họ bận rộn với công việc họ ưa thích. 19

Giảng Sư 6 6 Ta cũng thấy một điều nghịch lý khác trên đời đã gây bực dọc cho con người không ít. 2 Một số người được Thượng Đế ban cho của cải, giàu sang và danh dự. Họ có đủ thứ. Nhưng Thượng Đế không cho họ hưởng những thứ đó mà là một người dưng. Điều đó quả thật vô ích và hết sức nghịch lý. - 810 -


Dù ai sống lâu đến đâu đi nữa nhưng nếu không hưởng được điều Thượng Đế cho hoặc được an táng tươm tất thì ích lợi gì? Ta cho rằng hài nhi sảo thai còn may mắn hơn người ấy. 4 Hài nhi sảo thai thật vô dụng. Nó sinh ra trong sương mù rồi chết đi trong bóng tối, không tên tuổi. 5 Hài nhi ấy không hề thấy ánh mặt trời, không biết gì cả nhưng nó còn được an nghỉ hơn người kia. 6 Dù cho người ấy sống đến hai ngàn năm đi nữa mà không tận hưởng được cuộc đời thì có phải cả hai đều về chung một chỗ không? 3

Ai cũng làm việc để nuôi thân, nhưng hình như chẳng bao giờ đủ. 8 Vì thế cho nên người khôn cũng không hơn gì kẻ ngu dại. Và người nghèo cho dù biết sống trên đời cũng không ích lợi gì cho mình. 9 Thà hài lòng với điều mình có còn hơn ham muốn thêm. Càng ham muốn càng vô ích, giống như chạy theo mây khói [a]. 7

Ai hiểu được chương trình của Thượng Đế? Điều gì đang xảy ra thật đã được trù liệu từ lâu. Ai cũng biết loài người chỉ là người thôi. Không ai có thể biện luận với Thượng Đế, vì Ngài mạnh hơn tất cả mọi người. 11 Ngươi càng nói nhiều bao nhiêu, càng vô ích bấy nhiêu. Có lợi gì đâu? 10

Loài người chỉ sống tạm mấy ngày vô nghĩa trên đất; đời người như bóng câu qua cửa sổ. Lúc còn sống ai biết được điều gì tốt nhất cho mình đâu? Có ai biết tương lai ra sao đâu? 12

Giảng Sư 7 Biết suy tư rất có ích 7 Uy tín hơn dầu thơm. Ngày chết hơn ngày sinh. 2 Thà đi đến đám ma hơn đến đám tiệc. Chúng ta ai cũng chết, cho nên khi còn sống phải nghĩ đến chuyện ấy. 3 Buồn bã hơn cười vui, vì có khi gương mặt buồn mà lòng lại khoan khoái. 4 Người khôn nghĩ đến cái chết, nhưng kẻ dại chỉ nghĩ đến cuộc vui chơi. 5 Thà bị người khôn chỉ trích hơn được kẻ dại ca tụng. 6 Tiếng cười của kẻ dại như tiếng nổ lẹt đẹt của gai cháy trong lò. Cả hai đều vô dụng. 7

Tiền tài khiến người khôn hóa dại. Của hối lộ làm hư hỏng lòng người.

- 811 -


8

Hoàn tất công việc tốt hơn khởi công. Thà hòa nhã và kiên nhẫn hơn tự phụ và nóng nảy.

Đừng vội nóng giận, vì tức giận là dại dột. 10 Chớ hỏi, “Tại sao thời trước tốt hơn thời bây giờ?” Vì hỏi như thế là chẳng khôn. 11 Sự khôn ngoan mà có tiền bạc đi kèm thì tốt. Người khôn [a] sẽ có nhiều của cải. Cả hai giúp những kẻ sống. 12 Sự khôn ngoan như tiền tài: cả hai đều có ích. Nhưng sự khôn ngoan tốt hơn vì có thể cứu được mạng sống. 13 Hãy xem điều Thượng Đế làm: Việc gì Ngài đã bẻ cong, không ai chữa cho ngay lại được. 14 Hãy tận hưởng đời sống đang khi mọi việc tốt đẹp. Khi đời sống gặp khó khăn nên nhớ: Thượng Đế tạo thời kỳ tốt và thời kỳ xấu, vì không ai biết ngày mai ra sao. 9

Khó có thể hoàn thiện Trong chuỗi đời vô ích của ta, ta chứng kiến cả hai điều nầy: Ta thấy người tốt, dù tốt vẫn chết bất thần, còn kẻ ác, dù ác vẫn sống lâu. 16 Đừng làm ra vẻ công chính quá, cũng đừng tỏ ra khôn ngoan quá. Tại sao tự hại lấy mình? 17 Đừng quá độc ác, cũng đừng ngu dại. Tại sao muốn chết non làm gì? 18 Ngươi làm cái nầy nhưng đừng buông cái kia thì tốt [b]; ai kính trọng Thượng Đế sẽ giữ được cả hai. 19 Sự khôn ngoan khiến người ta thêm mạnh hơn mười người lãnh đạo trong thành. 20 Thật ra trên đời không có một người nhân đức nào làm lành mà chẳng hề phạm tội. 21 Đừng nghe mọi điều người ta nói, nếu không ngươi sẽ nghe tôi tớ mình nguyền rủa mình. 22 Vì ngươi biết nhiều khi chính mình cũng đã nguyền rủa kẻ khác. 23 Ta dùng sự khôn ngoan để thử nghiệm mọi điều nầy. Ta muốn được khôn ngoan nhưng quá khó khăn đối với ta. 24 Những gì đang xảy ra thật xa vời và sâu thẳm, Ai hiểu nổi? 25 Ta nghiên cứu và cố gắng kiếm sự khôn ngoan, để tìm ý nghĩa mọi việc, thì ta thấy rằng gian ác là dại, và hành động ngu xuẩn là điên. 15

- 812 -


Ta thấy sự ngu xuẩn [c] còn đáng sợ hơn cái chết nữa, nó nguy hiểm như cái bẫy. Tình yêu nó như màn lưới, tay nó ôm chặt như dây xích. Ai sống đẹp lòng Thượng Đế sẽ thoát khỏi móng vuốt nó, nhưng kẻ có tội sẽ bị nó bắt lấy. 27 Thầy nói, “Ta học được điều nầy: Ta gom chung mọi điều lại để tìm ý nghĩa mọi việc. 28 Ta tìm tòi thì nhận thấy điều nầy: Trong một ngàn người thì ta tìm được một người đàn ông tốt, nhưng ta không tìm được một người đàn bà nào trong số ấy. 29 Nhưng ta học được một điều: Thượng Đế dựng nên con người toàn thiện, nhưng con người tìm mọi cách để làm ác.” 26

Giảng Sư 8 Sự khôn ngoan và quyền thế 8 Ai giống như người khôn ngoan, hiểu biết đủ mọi thứ? Ai có thể giải thích mọi điều? Sự khôn ngoan khiến mặt buồn hóa vui. Hãy vâng phục lệnh vua vì ngươi đã hứa nguyện cùng Thượng Đế. 3 Đừng vội xa lìa vua. Đừng ủng hộ điều quấy, vì vua muốn làm gì thì làm. 4 Lời vua nói là luật lệ; không ai bảo vua rằng, “Tại sao ngài làm như thế?” 2

Ai vâng phục vua thì được an toàn. Người khôn làm đúng việc và đúng lúc. 6 Có lối làm đúng cách và đúng thì cho mỗi việc nhưng người ta thường gặp nhiều khó khăn. 7 Họ không biết tương lai ra sao, cũng không ai có thể cho họ biết chuyện gì sẽ xảy ra. 8 Không ai điều khiển gió được hay ngăn chận cái chết của mình. Không binh sĩ nào được giải ngũ trong thời chiến, và điều ác không buông tha cho kẻ làm ác. 5

Công lý, phần thưởng và trừng phạt Ta nhìn thấy mọi điều đó trong khi ta quan sát mọi việc xảy ra trên đất. Người có quyền ức hiếp kẻ dưới quyền. 10 Ta cũng nhìn thấy đám ma của những kẻ ác đã từng vào ra nơi thánh. Chúng được tôn trọng nơi thị trấn chúng làm việc ác. Điều ấy cũng quả thực phi lý. 11 Vì kẻ ác không bị phạt ngay nên người khác cũng muốn làm ác. 12 Dù kẻ có tội làm một trăm điều ác và sống lâu đi nữa, nhưng ta thấy người kính sợ CHÚA vẫn được phần tốt hơn. 13 Kẻ làm ác sẽ không được yên thân, đời chúng như chiếc bóng, không sống lâu được vì chúng không kính sợ Thượng Đế. 14 Đôi khi có những việc vô ích xảy ra trên đất. Chuyện rủi xảy ra cho người tốt đáng lẽ phải xảy ra cho kẻ ác. Chuyện may xảy ra cho kẻ ác đáng lẽ phải xảy ra cho người tốt. Ta cho điều đó thật phi lý. 15 Nên ta thấy rằng không có gì hơn cho con người trên cõi trần [a] là tận hưởng cuộc đời, bao lâu mà Thượng Đế còn cho mình sống. Tốt nhất là con người nên ăn, uống, tận hưởng cuộc đời, vì niềm vui ấy giúp họ làm nổi những việc nhọc nhằn. 9

- 813 -


Con người không thể hiểu được điều Thượng Đế làm Ta cố gắng tìm hiểu mọi việc xảy ra trên đất. Ta thấy con người bận rộn làm việc ngày đêm không ngủ. Ta cũng thấy mọi điều Thượng Đế làm. Không ai hiểu được điều Ngài làm trên đất nầy. Dù cố gắng đến đâu con người cũng không hiểu nổi. Kẻ khôn ngoan cho rằng mình hiểu nhưng thực ra chẳng hiểu gì; không ai có thể hiểu được. 16 17

Giảng Sư 9 Cái chết có công bằng không? 9 Ta suy nghĩ và tìm hiểu những điều đó. Ta thấy rằng Thượng Đế cai quản người công chính và người khôn ngoan cùng những điều họ làm, nhưng không ai biết họ sẽ được yêu hay ghét. Kẻ xấu người tốt đều về chung một đường: người làm phải, kẻ làm quấy, người làm lành, kẻ làm ác, người trong sạch, kẻ dơ bẩn, người hi sinh, kẻ vị kỷ. Việc xảy ra cho người nhân đức, cũng xảy ra cho kẻ có tội, điều xảy ra cho người hứa nguyện với Thượng Đế cũng như kẻ chẳng hứa nguyện gì. 2

Đây là điều tệ hại nhất xảy ra trên đất nầy: Mọi người đều cùng chung số phận. Cho nên trong khi còn sống, tâm trí con người đầy dẫy điều ác và tư tưởng xấu. Sau đó họ nhập bọn với kẻ chết. 4 Nhưng ai còn sống thì còn hi vọng; vì con chó sống hơn con sư tử chết! 3

Người sống biết mình sẽ chết, nhưng kẻ chết chẳng biết gì cả. Người chết không còn nhận được phần thưởng gì, và bị người đời quên lãng. 6 Sau khi qua đời, không ai còn yêu hay ghét hoặc đố kỵ gì. Họ không còn dự phần gì vào những việc xảy ra trên đất. 5

Hãy tận hưởng cuộc đời trong khi còn cơ hội Cho nên hãy ăn và hưởng thụ; hãy uống rượu và vui chơi, vì đó là điều Thượng Đế ban thưởng cho ngươi. 8 Hãy luôn luôn mặc quần áo đẹp và xức dầu thơm trên đầu. 7

Hãy vui hưởng lạc thú bên người vợ mình yêu. Hãy vui hưởng những chuỗi ngày vô dụng của cuộc đời vô dụng mà Thượng Đế đã cho ngươi trên đất vì đó là điều ngươi có. Cho nên hãy tận hưởng công khó của ngươi trên đời nầy. 10 Việc gì ngươi làm hãy làm hết sức vì mồ mả là nơi ngươi sắp đi đến chẳng có việc làm, chương trình, hiểu biết hay khôn ngoan gì. 9

- 814 -


Đời nầy không thấy công bằng Ta cũng thấy việc khác nữa trên đời nầy: Người chạy nhanh nhất không phải lúc nào cũng thắng cuộc đua, chiến sĩ dũng cảm nhất không phải lúc nào cũng thắng trận, người khôn ngoan nhất không phải lúc nào cũng đủ ăn, người thông minh nhất không phải lúc nào cũng giàu có, và người có tài năng nhất không phải lúc nào cũng được ca tụng. Thời thế và cơ hội xảy ra cho mỗi người. 11

Không ai biết được tương lai. Như cá mắc lưới, như chim sa bẫy, con người bị điều ác bắt lấy khi việc ác thình lình chụp lấy họ. 12

Sự khôn ngoan không phải lúc nào cũng thắng lợi Ta cũng thấy điều khôn ngoan nầy trên đất khiến ta chú ý. 14 Tỉnh nhỏ kia có ít dân. Một vị vua mạnh đến đào hào, đắp lũy để bao vây và tấn công nó. 15 Có một người nghèo mà khôn trong tỉnh, dùng trí khôn mình giải cứu cho cả tỉnh, nhưng về sau chẳng ai nhớ đến người ấy. 16 Ta vẫn cho sự khôn ngoan hơn sức mạnh. Người ta quên lãng sự khôn ngoan của người nghèo và lời nói của người chẳng ai thèm nghe. 13

Lời êm dịu của người khôn đáng được nghe, hơn tiếng la hét của kẻ cầm quyền ngu dại. 18 Sự khôn ngoan hơn khí giới chiến tranh, nhưng một kẻ ngu dại [a] có thể làm thiệt hại lớn lao. 17

Giảng Sư 10 10 Con ruồi chết làm thối bình dầu thơm. Cũng vậy, một chút ngu dại làm hỏng sự khôn ngoan và danh dự. 2 Lòng của người khôn hướng về điều phải, còn lòng của kẻ dại hướng về điều quấy. 3 Dù cho đang khi đi đường, kẻ dại cũng chứng tỏ nó chẳng hiểu gì; nó cho thấy sự ngu dốt mình. 4 Đừng buông tay bỏ việc, khi ông chủ nổi giận với mình. Sự bình tĩnh giải quyết được nhiều lỗi lầm lớn [a]. 5 Có một việc khác rất phi lý xảy ra trên đời [b] nầy. Đó là lỗi lầm mà các kẻ cầm quyền phạm phải: 6 Kẻ dại được giữ chức vụ quan trọng trong khi người có khả năng bị giao cho chức vụ thấp kém; 7 Ta từng thấy kẻ tôi tớ cỡi ngựa còn quan quyền thì đi bộ như tôi tớ.

Việc gì cũng có cái nguy của nó Ai đào hố có thể sẽ rơi vào đó; ai phá đổ vách tường có thể bị rắn cắn; 9 ai lăn tảng đá sẽ bị dập vì đá; còn ai đốn cây sẽ bị cây đè. 8

- 815 -


Lưỡi rìu cùn khiến thêm nhọc nhằn. Sự khôn khéo làm việc nhanh hơn. 11 Nếu bị rắn cắn trước khi nó bị ếm, thì thầy ếm chú chẳng ích gì. 10

Lời của người khôn mang sự ca tụng, còn lời của kẻ dại chỉ mang đến sự hủy diệt. 13 Kẻ dại mở miệng nói chuyện ngu dại và kết luận bằng những lời điên khùng và độc ác. 14 Kẻ dại hay lắm lời. Chẳng ai biết được tương lai, cũng không ai biết được chuyện gì xảy ra sau khi chết. 12

Sự cực nhọc của kẻ dại khiến nó mệt mỏi; đến nỗi nó không biết đường về nhà. 15

Giá trị của việc làm Thật khốn đốn cho quốc gia nào có vua khờ khạo như trẻ con và các quan quyền chỉ ăn uống thâu đêm suốt sáng. 17 Thật may mắn cho quốc gia nào có vua xuất thân từ gia đình đàng hoàng [c], và các quan quyền ăn uống đúng giờ giấc để lấy sức, không phải để say sưa. 16

Kẻ nào biếng nhác thì mái nhà nó sẽ bị sập. Nếu không lo sửa chữa, nhà sẽ dột. 18

19

Tiệc tùng khiến ngươi thoải mái, rượu giúp ngươi giải sầu, còn tiền bạc mua được mọi thứ.

Đừng nói xấu vua, dù trong phòng ngủ cũng đừng bêu xấu kẻ giàu có. Vì chim con sẽ đồn tiếng ngươi ra; và chim chóc sẽ bay đi thuật lại điều ngươi nói. 20

Giảng Sư 11 Phải thẳng thắn đương đầu với tương lai 11 Hãy làm điều tốt ở những nơi ngươi đến [a], vì sau một thời gian những điều ấy sẽ trở lại cùng ngươi. 2 Hãy đầu tư điều ngươi có vào nhiều thương vụ khác nhau [b], vì ngươi không biết vận rủi sẽ xảy ra lúc nào. 3 Nếu mây chứa đầy mưa, mưa sẽ tưới đất. Cây có thể ngã về hướng bắc hay hướng nam, hễ ngã hướng nào thì nó nằm ngay chỗ đó. 4 Ai chờ cho thời tiết thuận hoà sẽ không gieo, ai nhìn mây sẽ không gặt. 5 Ngươi không biết gió thổi hướng nào, ngươi không biết thai nhi lớn lên trong bụng mẹ ra sao. Cũng thế, ngươi không biết Thượng Đế hành động thế nào, hoặc Ngài dựng nên mọi vật ra sao. - 816 -


Hãy gieo giống lúc sáng sớm, đừng ngưng tay vào buổi chiều, vì ngươi không biết hột nào sẽ kết quả, hoặc mọi hột đều kết quả. 6

Hãy phục vụ Thượng Đế khi còn trẻ Ánh nắng thật êm dịu; nhìn thấy ánh bình minh thật thích thú. 8 Hãy tận hưởng mỗi ngày của đời mình, dù sống lâu đến đâu đi nữa. Nhưng hãy nhớ điều nầy: Ngươi qua đời rồi đi mất. Chuyện gì xảy ra sau cái chết đều vô ích. 7

Hỡi thanh thiếu niên, hãy tận hưởng cuộc đời khi còn trẻ; hãy vui thích khi còn thanh xuân. Hãy làm điều lòng mình muốn, nhìn điều mắt mình ưa thích. Nhưng nên nhớ rằng Thượng Đế sẽ xét xử điều ngươi làm. 10 Đừng để cơn giận nhập vào lòng, hãy xua đuổi tội lỗi ra khỏi thân thể [c], hãy quên đi những nỗi đau đớn của thân thể, vì tuổi xuân và thời thơ ấu thật hoàn toàn vô dụng thôi. 9

Giảng Sư 12 Vấn đề của tuổi già 12 Khi còn trẻ hãy tưởng nhớ Đấng Tạo hóa mình, trước khi thời buổi khó khăn đến, và những năm tương lai khi ngươi nói, “Tôi không mãn nguyện về những năm tháng ấy.” [a] 2 Khi ngươi về già, thì ánh mặt trời, mặt trăng và ngôi sao sẽ trở nên tăm tối, mây mưa hình như không dứt. 3 Lúc đó tay ngươi sẽ run rẩy, chân ngươi sẽ yếu ớt. Răng ngươi sẽ rụng, không còn nhai được, mắt ngươi sẽ lòa không thấy rõ nữa. 4 Tai ngươi sẽ bị lãng không nghe được tiếng ồn ào trong đường phố, và ngươi không còn nghe rõ tiếng xay cối. Ngươi sẽ thức giấc khi chim bắt đầu hót, nhưng ngươi sẽ không nghe rõ tiếng hót. 5 Ngươi sẽ hãi hùng khi lên những chỗ cao và sợ sệt lúc đi đường. Tóc ngươi sẽ bạc trắng như hoa hạnh nhân. Ngươi sẽ đi cà nhắc như cào cào. Ngươi sẽ ăn không biết ngon [b]. Rồi ngươi sẽ về nhà đời đời của mình, người ta sẽ dự đám ma ngươi.

- 817 -


Chẳng bao lâu đời ngươi sẽ đứt như dây xích bạc, hay bể ra như chén vàng. Ngươi sẽ như bầu nước nát vụn bên suối, hay bánh xe gãy nằm cạnh giếng. 7 Ngươi sẽ trở về bụi đất, là nơi xuất xứ của ngươi, và thần linh ngươi sẽ trở về cùng Thượng Đế là Đấng dựng nên nó. 6

8

Mọi việc đều vô ích! Thầy nói rằng mọi việc đều vô ích.

Kết luận: Hãy tôn kính Thượng Đế Thầy là người rất khôn ngoan và dạy người khác điều mình biết. Thầy đã suy nghĩ, nghiên cứu và sắp xếp kỹ lưỡng mọi lời dạy dỗ khôn ngoan của mình. 10 Thầy đã đắn đo tìm đúng chữ để viết ra những lời đáng tin và chân thật. 9

[c]

Lời của người khôn ngoan như gậy nhọn dùng dẫn súc vật. Những lời đó như đinh đóng thật chắc. Tất cả đều là những lời dạy dỗ khôn ngoan do một Vị Chăn Chiên dạy dỗ. 12 Cho nên, con ơi, hãy thận trọng về những lời dạy bảo khác. Người ta luôn luôn biên soạn thêm sách vở, còn học quá khiến con mệt mỏi. 11

Sau khi đã học hỏi trong sách nầy [d], lời khuyên cuối cùng của ta là: Hãy tôn kính Thượng Đế và vâng theo mệnh lệnh Ngài, đó là nghĩa vụ của con. 14 Thượng Đế sẽ phân xử mọi việc, kể cả việc làm lén lút, dù thiện hay ác cũng vậy. 13

- 818 -


Nhã Ca 1 (Cantique-Song of Solomon) 1 Bài thơ tình nổi tiếng nhất của Sô-lô-môn.

Thiếu nữ nói với người yêu Hãy hôn em bằng môi anh, vì tình yêu của anh ngon hơn rượu. 3 Mùi nước hoa anh thật thơm dịu, và danh tiếng [a] của anh trải ra như dầu thơm đắt giá. Vì thế nên các thiếu nữ yêu anh. 4 Hãy mang em đi với anh; chúng ta hãy cùng chạy trốn chung với nhau. Vua đưa tôi vào phòng chàng. 2

Bạn hữu nói với người thanh niên Chúng tôi sẽ hớn hở vui mừng cùng anh; Chúng tôi ca tụng tình yêu của anh hơn ca tụng rượu. Các cô gái trẻ yêu anh là phải.

Thiếu nữ nói Tôi ngăm đen nhưng xinh đẹp, các thiếu nữ Giê-ru-sa-lem ơi, tôi ngăm đen như các lều của Kê-đa và Sanh-ma [b], như các màn trướng của Sô-lô-môn. 6 Đừng nhìn màu da rám nắng của tôi, màu sậm đó do mặt trời cháy nám. Các anh tôi bất bình với tôi, Bắt tôi chăm sóc vườn nho của họ, Còn vườn nho tôi thì tôi bỏ bê! 7 Người yêu của em ơi, anh chăn chiên nơi nào? Buổi trưa anh cho chúng nằm nghỉ ở đâu? Tại sao em phải tìm anh gần bầy chiên anh, Như người thiếu nữ mang khăn che mặt [c]? 5

Thanh niên nói với thiếu nữ Em đẹp nhất trong tất cả các thiếu nữ. Chắc hẳn em biết theo bầy chiên. Hãy đi theo các con chiên, Hãy cho các dê con ăn gần lều các kẻ chăn chiên. 9 Em yêu dấu ơi, em như con ngựa cái ở giữa bầy ngựa đực [d] kéo xe cho Pha-ra-ôn. 10 Má em xinh vì đồ trang sức, cổ em đẹp vì nữ trang. 11 Chúng ta sẽ làm cho em các đồ trang sức bằng vàng có cẩn bạc. 8

- 819 -


Thiếu nữ nói Mùi hương của nước hoa tôi tỏa ra trên ghế dài của vua. 13 Người yêu tôi như bao mộc dược nằm giữa nhũ hoa tôi. 14 Người yêu tôi như một chùm hoa, hái từ vườn nho Ên-ghê-đi. 12

Thanh niên nói 15

Em yêu ơi, em đẹp tuyệt trần, Em quá xinh, đôi mắt em như mắt bồ câu.

Thiếu nữ trả lời chàng thanh niên Tình nhân của em ơi, anh đẹp trai lắm, anh dịu dàng lắm! Giường chúng ta như thảm cỏ xanh [e]. 17 Mái nhà chúng ta làm bằng cây hương nam; Trần nhà chúng ta làm bằng gỗ cây tòng. 16

Nhã Ca 2 Thiếu nữ lại nói 2 Em là hoa hồng trong đồng bằng Sa-rôn, là hoa huệ trong thung lũng.

Thanh niên nói 2

Trong đám thiếu nữ, thì em giống như hoa huệ giữa bụi gai!

Thiếu nữ đáp 3

Trong đám thanh niên, người yêu của em như cây táo giữa rừng!

Tôi thích ngồi dưới bóng chàng; Trái cây của chàng dịu ngọt cho lưỡi tôi. 4 Chàng mang tôi vào phòng tiệc yến, và phất trên tôi lá cờ tình yêu. 5 Hãy lấy trái nho [a] bổ sức cho tôi, và dùng trái táo làm sức tôi hồi phục, vì tôi bủn rủn vì tình yêu [b]. 6 Tay trái của người yêu tôi kê dưới đầu tôi, tay phải chàng ôm chặt lấy tôi.

- 820 -


Thiếu nữ nói chuyện với bạn gái 7

Các thiếu nữ Giê-ru-sa-lem ơi, hãy hứa với tôi bên đàn sơn dương hay bầy nai, đừng đánh thức hoặc kích động tình yêu cho đến khi nó sẵn sàng.

Thiếu nữ nói tiếp Tôi nghe tiếng người yêu tôi, Chàng đến, nhảy qua các núi, vượt qua các đồi. 9 Người yêu tôi giống như con sơn dương hay con nai tơ, Kìa, chàng đứng sau tường lén nhìn qua cửa sổ, qua bức mành [c]. 10 Người yêu tôi nói thỏ thẻ với tôi, “Em yêu ơi, hãy thức dậy; người đẹp của anh ơi, chúng ta hãy đi xa. 11 Nầy, mùa đông đã qua, mưa đã dứt không còn rơi. 12 Bông hoa nở ra khắp đất, Thời kỳ hát xướng [d] đã đến; Tiếng chim ngân vang lên trong xứ. 13 Có trái vả non mọc trên cây, và giàn nho trổ hoa thơm nức. Người yêu của anh ơi, hãy thức dậy. Chúng ta hãy đi xa, người đẹp của anh ơi.” 8

Thanh niên nói Chim bồ câu núp trong kẽ đá, trong nơi bí hiểm của ghềnh. Hãy cho anh nhìn mặt em, cho anh nghe tiếng em. Tiếng em dịu ngọt, gương mặt em dễ thương. 14

15

Hãy bắt các con chồn cho chúng tôi, mấy con chồn nhỏ phá vườn nho trong khi hoa đang trổ.

Thiếu nữ nói Người yêu tôi thuộc về tôi, tôi thuộc về chàng. Chàng chăn bầy giữa đám hoa huệ 17 cho đến khi bình mình ló dạng và bóng tối tan đi. Anh yêu ơi, hãy quay lại. Hãy như con sơn dương hay nai tơ trong khe núi Bê-the 16

- 821 -


Nhã Ca 3 Thiếu nữ mơ mộng 3 Ban đêm trên giường tôi, Tôi tìm người tôi yêu; Tôi tìm anh ấy nhưng không thấy. 2 Tôi thức dậy đi vòng quanh thành, tìm người yêu tôi nơi đường phố và công viên. Tôi tìm người tôi yêu, nhưng không gặp. 3 Các lính tuần canh thành phố gặp tôi, tôi liền hỏi, “Các anh có thấy người yêu tôi ở đâu không?” Vừa khi tôi rời họ, thì tôi gặp người yêu tôi. Tôi ôm chầm lấy anh, không chịu buông ra cho đến khi tôi đưa anh ấy về nhà mẹ tôi, vào phòng nơi tôi sinh ra [a]. 4

Thiếu nữ nói với bạn Các thiếu nữ Giê-ru-sa-lem ơi, hãy hứa với tôi bên cạnh con sơn dương hay nai tơ rằng đừng đánh thức hay khiêu khích tình yêu cho đến khi nó sẵn sàng. 6 Người nữ bước ra khỏi sa mạc [b] giữa đám người đông đảo là ai? Người nào thơm phức mùi mộc dược, trầm hương và hương liệu khác? 5

Nầy, đó là kiệu của Sô-lô-môn có sáu mươi binh sĩ hầu quanh, những chiến sĩ tinh nhuệ nhất của Ít-ra-en. 8 Các binh sĩ đó đều cầm gươm, đã được huấn luyện để chiến đấu. Mỗi người đeo gươm nơi hông và sẵn sàng đối phó với mối nguy hiểm ban đêm. 7

Vua Sô-lô-môn làm một cái giường cho mình bằng gỗ cây hương nam Li-băng. 10 Vua đóng các cột bằng bạc và các cây tréo bằng vàng. Chỗ ngồi bọc vải tím mà các thiếu nữ Giê-ru-ra-lem đã dệt bằng tình yêu. 9

11

Các thiếu nữ Giê-ru-ra-lem ơi, hãy ra mà xem vua Sô-lô-môn. Vua đang đội mão triều [c] mà mẹ ông đặt trên đầu ông trong ngày cưới, khi lòng vua vui mừng hớn hở.

- 822 -


Nhã Ca 4 Thanh niên nói với thiếu nữ 4 Em ơi, em đẹp lắm! Em đẹp tuyệt trần! Đôi mắt em phía sau khăn mỏng che mặt giống như bồ câu. Tóc em như bầy dê đang đi xuống triền núi Ghi-lê-át. 2 Răng em trắng tựa đàn chiên vừa mới hớt lông sau khi tắm. Tất cả đều sinh đôi, không sót con nào. 3 Môi em tợ sợi chỉ hồng, miệng em thật xinh xắn. Má em ẩn sau khăn mỏng che mặt như hai lát trái lựu. Cổ em giống như tháp Đa-vít, xây trên hàng dãy khối đá [a]. Một ngàn tấm khiên treo trên vách; Mỗi tấm thuộc về một chiến sĩ. 5 Nhũ hoa em như hai con nai tơ, như con sơn dương sinh đôi, đang ăn cỏ giữa đám hoa huệ. 6 Cho đến khi ngày ló dạng và bóng tối tan đi, anh sẽ đi đến núi nhũ hương và đi đến đồi trầm hương đó. 7 Em ơi, cái gì trong người em cũng xinh đẹp, thân thể em thật hoàn mỹ. 8 Cô dâu của anh ơi, hãy từ Li-băng đi đến cùng anh. Hãy từ Li-băng đi đến cùng anh, từ đỉnh núi A-ma-na [b], Từ đỉnh núi Xê-nia [c] và núi Hẹt-môn. Hãy đến từ hang sư tử và từ các đồi núi của beo. 9 Tân nương [d], em gái anh ơi, em làm tim anh rung động; em làm tim anh rung động bằng cái liếc mắt đưa tình của em, và ánh lóng lánh của vòng đeo cổ em. 10 Tình yêu em thật dịu dàng, em gái và cô dâu của anh ơi. Tình yêu em ngon hơn rượu, nước hoa của em dịu dàng hơn hương liệu. 11 Nàng dâu của anh ơi, môi em nhễu mật ong; mật ong và sữa nằm dưới lưỡi em. Quần áo em thơm nức mùi cây hương nam Li-băng. 4

- 823 -


Em gái, cô dâu của anh ơi, em như khu vườn rào kín, như suối có tường cao, như suối nước giấu kín. 13 Tay chân em như vườn lựu sai trái ngon, đầy hoa và cây cam tòng, 14 hồng hoa, xương bồ [e] và nhục quế, trầm hương, mộc dược, và lô hội, toàn các hương liệu nổi tiếng. 15 Em như giếng nước mát, như suối nước chảy từ các núi Li-băng. 12

Thiếu nữ nói Gió Bắc ơi, hãy thức dậy. Gió Nam ơi, hãy đến. Thổi trên vườn ta, để hương thơm nó tỏa ra. Để cho người yêu ta vào vườn ăn trái ngon nhất của nó. 16

Nhã Ca 5 Thanh niên nói 5 Em gái anh, cô dâu của ta ơi, anh đã vào vườn của anh. Anh đã gom mộc dược cùng với hương liệu ta. Anh đã ăn tàng ong cùng với mật. Anh đã uống rượu và sữa.

Các thiếu nữ nói với người yêu của mình Nầy các bạn, hãy ăn và uống, hãy say men tình, hỡi các tình nhân.

Thiếu nữ mơ mộng Tôi ngủ nhưng tim tôi thức. Tôi nghe tiếng người yêu tôi gõ cửa. “Hãy mở cửa ra cho anh, em gái, cô dâu của anh, chim bồ câu và người toàn hảo của ta ơi. Đầu anh ướt đẫm giọt sương, tóc anh sũng ướt sương đêm.” 3 Tôi đã cởi áo [a] rồi, mặc lại làm gì? Tôi đã rửa chân rồi, làm dơ trở lại sao? 4 Người yêu tôi thò tay qua then cửa [b], làm tim tôi hồi hộp. 2

- 824 -


Tôi đứng dậy mở cửa cho người yêu tôi. Mộc dược nhỏ xuống từ tay tôi chảy giữa các ngón tay, rơi xuống tay cầm ổ khóa. 6 Tôi mở cửa cho người yêu tôi, nhưng chàng đi mất rồi. Khi chàng nói, tôi nín thở [c]. Tôi kiếm chàng nhưng không thấy. Tôi gọi chàng, nhưng chàng không trả lời. 7 Các lính canh gặp tôi khi đang tuần hành trong thành phố. Chúng đánh và làm tổn thương tôi; các lính gác trên vách thành giật cái khăn mỏng che mặt của tôi. 8 Các cô gái Giê-ru-ra-lem ơi, hãy hứa với tôi, nếu các chị gặp người yêu tôi, thì bảo anh ấy rằng tôi đang lụy vì tình [d]. 5

Các bạn hữu đối đáp với thiếu nữ Người yêu của chị hơn các người yêu khác như thế nào, hỡi thiếu nữ tuyệt trần? Người yêu của chị hơn các người yêu khác ra sao? Tại sao chị muốn chúng tôi hứa như vậy? 9

Thiếu nữ đáp lời các bạn hữu Người yêu tôi khoẻ mạnh và ngăm ngăm, số một trong hàng vạn người. 11 Đầu chàng như vàng thượng hạng; tóc chàng dợn sóng và đen như quạ. 12 Mắt chàng như bồ câu đậu bên suối nước. Trông giống như vừa tắm trong sữa và nạm ngọc. 13 Má chàng như luống hương liệu; thơm phức như vườn hoa. Môi chàng như hoa huệ chảy mộc dược ròng. 14 Tay chàng như bản lề vàng cẩn ngọc, Thân chàng như ngà voi bóng láng cẩn ngọc xanh. 15 Hai chân chàng như cột cẩm thạch, dựng trên các đế bằng vàng ròng. Chàng giống như cây hương nam Li-băng, xinh tốt nhất trong các cây. 16 Miệng chàng rất êm dịu cho nụ hôn, nên tôi rất thích chàng. Các thiếu nữ Giê-ru-ra-lem ơi, người yêu tôi và bạn tôi như thế đó. 10

- 825 -


Nhã Ca 6 Các bạn hữu nói chuyện với thiếu nữ 6 Hỡi người con gái xinh đẹp nhất trong các người nữ, người yêu chị đi đâu rồi? Người tình của chị quay phía nào? Chúng tôi sẽ cùng chị đi tìm anh ấy.

Thiếu nữ đáp lời các bạn hữu Người yêu tôi đi xuống vườn anh ấy, đến luống thuốc thơm, để cho bầy chiên ăn, và hái hoa huệ. 3 Tôi thuộc về người yêu tôi, và người yêu tôi thuộc về tôi. Chàng cho bầy chiên ăn giữa đám hoa huệ. 2

Thanh niên nói với thiếu nữ Em yêu ơi, em đẹp như thành Tiệt-xa [a], dễ thương như thành Giê-ru-ra-lem, như một đội quân phất cờ [b]. 5 Em hãy quay nhìn chỗ khác, vì mắt em làm anh rung động quá mức. Tóc em như bầy dê, đang chạy xuống triền núi Ghi-lê-át. 4

Răng em trắng như bầy chiên vừa mới tắm xong; con nào cũng sinh đôi, không sót con nào. 7 Má em lấp ló sau cái lúp giống như hai lát trái lựu. 8 Có sáu mươi hoàng hậu và tám mươi tì nữ còn gái trẻ thì vô số, 9 nhưng chỉ có một thiếu nữ toàn hảo giống như chim bồ câu của anh. Nàng là con gái một của mẹ nàng, đứa con cưng nhất mà mẹ nàng sinh ra. Các thiếu nữ thấy nàng và cho nàng có phúc; Các hoàng hậu và tì nữ cũng ca ngợi nàng. 6

Các Thiếu nữ trẻ ca tụng cô gái 10

Cô gái trẻ sáng rỡ như bình minh kia là ai? Nàng đẹp như tiên nga, tươi sáng như mặt trời, kỳ diệu như một đạo quân phất cờ.

- 826 -


Thanh niên nói Tôi đi xuống vườn hạnh đào xem các chùm hoa của thung lũng, tìm các nụ hoa trên dây nho, để xem cây lựu đã trổ hoa chưa. 12 Không ngờ lòng tôi khao khát nàng khiến tôi cảm thấy mình như hoàng tử đang cỡi quân xa của vua [c]. 11

Bạn hữu gọi thiếu nữ 13

Thiếu nữ Su-lam [d] ơi, hãy trở lại, trở lại. Hãy trở lại, trở lại, để chúng tôi ngắm nhìn chị.

Thiếu nữ đối đáp với bạn hữu Tại sao các chị muốn nhìn người thiếu nữ Su-lam như nhìn cuộc nhảy múa giữa hai hàng khán giả

Nhã Ca 7 Thanh niên nói với thiếu nữ 7 Chân em mang dép thật dễ thương, em là con gái của một ông hoàng. Đùi em tròn trịa như nữ trang do họa sĩ có tài làm ra. 2 Rún em tròn như cốc rượu luôn luôn đầy. Bụng em như đống lúa mì có hoa huệ mọc quanh. Nhũ hoa em như hai con nai con, như con hoàng dương sinh đôi. 4 Cổ em như tháp ngà. Mắt em như các hồ nước Hết-bôn gần cổng Bát Ra-bim. Mũi em như núi Li-băng nhìn xuống Đa-mách. 5 Đầu em như núi Cạt-mên, tóc em như vải tím; có lọn làm say đắm lòng vua. 6 Em xinh đẹp và dịu dàng; tình yêu của ta ơi, em làm anh say mê. 7 Em cao như cây chà là, nhũ hoa em như hai chùm trái chà là. 8 Anh nói, “Anh sẽ trèo lên cây chà là và vin các trái nó.” Nguyện nhũ hoa em như chùm nho, hơi thở em thơm mùi trái táo, 9 và miệng em như rượu mới hảo hạng. 3

- 827 -


Thiếu nữ nói với thanh niên Nguyện rượu nầy chảy đến người yêu tôi; chảy nhẹ nhàng qua môi và răng. 10 Tôi thuộc về người yêu tôi; chàng chỉ thích một mình tôi. 11 Anh yêu ơi, hãy đến, chúng ta hãy đi vào vùng quê ngủ đêm trong đồng. 12 Hãy đi sớm vào vườn nho xem dây nho đã nứt lộc chưa. Để xem thử hoa đã trổ và cây lựu ra bông chưa. Ở đó em sẽ cho anh tình yêu của em. Các hoa ngải sâm [a] tỏa ra mùi dịu dàng, và tất cả các trái thơm ngon nhất đều có sẵn tại cổng nhà chúng ta. Anh yêu ơi, em đã để dành các trái đó cho anh, cả cũ lẫn mới đủ loại. 13

Nhã Ca 8 8 Ước gì anh là anh của em bú vú của mẹ em. Để nếu em thấy anh ngoài đường, em sẽ hôn anh, mà không sợ ai chê cười. 2 Em sẽ đưa anh vào nhà mẹ em; người đã dạy em. Em sẽ cho anh uống rượu thơm pha lựu của em.

Thiếu nữ nói với bạn Người yêu tôi kê tay trái dưới đầu tôi, tay phải chàng ôm chặt lấy tôi. 4 Các cô gái Giê-ru-ra-lem ơi, hãy hứa với tôi là sẽ không đánh thức hay kích động tình yêu cho đến khi nó muốn. 3

Các bạn hữu nói 5

Thiếu nữ nầy là ai từ sa mạc đi ra tựa vào người yêu mình?

Thiếu nữ nói với thanh niên Tôi đánh thức anh dưới gốc cây táo nơi anh sinh ra; đó là nơi mẹ anh sinh ra anh.

- 828 -


Hãy để em như cái ấn trong lòng anh, như con dấu trên cánh tay anh. Tình yêu mạnh như sự chết; Sự ghen tương hung bạo như mồ mả [a]. Tình yêu bộc phát và bốc cháy như lửa nóng [b]. 7 Nước bao nhiêu cũng không dập tắt được lửa tình; lụt lội cùng không đè nén nổi ái tình. Ai có thể khinh dể người bằng lòng đánh đổi mọi thứ cho tình yêu? 6

Các anh của thiếu nữ nói Chúng tôi có một em gái nhỏ chưa có nhũ hoa. Chúng tôi phải làm gì cho em gái chúng tôi trong ngày hứa hôn của nó? 9 Nếu nó là vách thành, thì chúng tôi sẽ xây các trụ đỡ [c] trên đó. Nếu nó là cái cửa, chúng tôi sẽ lấy ván hương nam bảo vệ nó. 8

Thiếu nữ nói 10

Em là vách thành, còn nhũ hoa em như cái tháp. Đối với chàng, em là người làm chàng mãn nguyện [d]. 11 Sô-lô-môn có một vườn nho ở Ba-anh Ha-môn. Ông cho người khác thuê mướn, và người thuê phải trả hai mươi lăm cân [e] bạc để hái nho. 12 Nhưng vườn nho tôi thì tôi cho không vì là của tôi. Sô-lô-môn ơi, hai mươi lăm cân bạc là của anh, Còn năm cân bạc là cho các người thuê mướn.

Thanh niên nói với thiếu nữ 13

Em ở trong các vườn, bạn hữu anh nghe tiếng em; hãy để anh nghe tiếng em.

Thiếu nữ nói Hãy đến mau, người yêu của em ơi, như con sơn dương hay con nai tơ nhảy trên các núi thuốc thơm. 14

- 829 -


Tiên tri * Les Prophètes * Prophets

- 830 -


I-sai-a 1 (Esaïe-Isaiah) 1 Sau đây là sự hiện thấy của Ê-sai, con trai A-mốt về tương lai của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. Ê-sai chứng kiến những sự hiện thấy nầy trong đời các vua U-xia [a], Giô-tham [b], A-cha, và Ê-xê-chia trị vì xứ Giu-đa.

Lời CHÚA phán nghịch cùng con cái Ngài 2

Hỡi trời và đất hãy nghe đây, vì nầy là lời CHÚA phán:

“Ta nuôi dưỡng con cái ta lớn lên, nhưng chúng nó chống nghịch ta. 3 Bò biết chủ mình, lừa biết máng của chủ, nhưng dân Ít-ra-en ta không hề biết ta; dân ta chẳng hiểu biết.” Thật gớm ghê chưa! Ít-ra-en là một nước tội lỗi, một dân bị gian ác đè nặng, một đám con làm ác, thật là một lũ con gian ác [c]. Chúng đã từ bỏ CHÚA; ghét Thượng Đế, Đấng Thánh của Ít-ra-en, và đã quay lưng khỏi Ngài như thể quay mặt khỏi người lạ. 4

Tại sao các ngươi muốn bị trừng phạt mãi? Tại sao các ngươi vẫn tiếp tục chống nghịch Ngài? Đầu các ngươi bị thương tích, lòng các ngươi bệnh hoạn [d]. 6 Từ bàn chân cho tới đỉnh đầu ngươi không có chỗ nào lành lặn; toàn thân ngươi đầy vết thương, trầy trụa và vết lở chưa được rửa hay băng bó, chưa được xức thuốc cho bớt đau. 5

Xứ ngươi bị tàn hại; các thành phố ngươi bị thiêu rụi. Trong khi ngươi nhìn thì kẻ thù ngươi bóc lột mọi thứ trong xứ ngươi; đất ngươi bị kẻ thù tàn phá [e]. 7

Giê-ru-sa-lem [f] bị bỏ hoang như lều trống trong vườn nho, như chòi bỏ hoang trong ruộng dưa, như thành bị kẻ thù vây hãm. 9 May mà CHÚA Toàn Năng đã để lại một số ít trong dân ta sống sót. Nếu không thì chúng ta đã hoàn toàn bị diệt như hai thành Xô-đôm và Gô-mô-rơ rồi. 8

Giê-ru-sa-lem ơi, các lãnh tụ ngươi chẳng khác nào những lãnh tụ Xô-đôm, và dân ngươi chẳng khác nào dân Gô-mô-rơ [g]. Hãy nghe lời CHÚA phán; lắng nghe lời dạy của Thượng Đế chúng ta! 11 CHÚA phán, “Ta không cần những sinh tế các ngươi. Ta đã có đủ của lễ thiêu bằng chiên đực và mỡ của các thú vật tốt nhất của ngươi rồi. Ta không thích huyết bò đực, huyết chiên đực hay huyết dê đực. 12 Khi ngươi đến gặp ta, ai bảo ngươi dẫm chân lên hành lang ta? 10

Thôi đừng mang sinh tế vô ích cho ta nữa! Ta ngấy các cuộc dâng hương, các ngày Trăng Mới, ngày Sabát hay các ngày lễ lộc khác của ngươi. Ta không chịu nổi những điều ác ngươi làm trong các buổi họp thánh. 14 Ta ghét những ngày lễ Trăng Mới và các lễ hằng năm khác. Chúng đã thành gánh nặng cho ta, ta mệt rồi không muốn mang nữa. 13

Khi các ngươi giơ tay ra cầu nguyện với ta, ta không thèm nhìn. Dù cho ngươi cầu nguyện dông dài, ta chẳng thèm nghe, vì tay ngươi dính đầy máu. 15

Hãy tắm rửa cho sạch đi. Đừng làm điều ác. Và thôi làm điều bất chính. 17 Hãy học làm điều lành. Tìm kiếm điều công bình. Trừng phạt kẻ làm hại người khác. Hãy giúp đỡ kẻ mồ côi. Bênh vực người góa bụa.” 16

CHÚA phán, “Hãy đến để chúng ta thảo luận việc nầy. Dù tội ngươi như hồng điều, dù lỗi ngươi như son đỏ, cũng sẽ trắng như lông chiên. 18

- 831 -


Nếu ngươi bằng lòng vâng lời ta, ngươi sẽ ăn sản vật của xứ. 20 Nhưng nếu ngươi không chịu vâng lời và chống nghịch ta, ngươi sẽ bị gươm kẻ thù tiêu diệt.” Đó là lời do chính CHÚA phán ra. 19

Giê-ru-sa-lem bất trung với Thượng Đế Thành Giê-ru-sa-lem trước kia theo CHÚA, nhưng nó không còn trung thành với Ngài nữa. Trước kia nó đầy dẫy điều công chính; dân chúng sống theo ý muốn Thượng Đế. Bây giờ nó là nơi lũ sát nhân trú ngụ. 21

Giê-ru-sa-lem ơi, ngươi giống như bạc đã biến thành cặn bã; như rượu pha với nước. 23 Các lãnh tụ ngươi là những kẻ phản loạn bạn bè với quân trộm cắp. Chúng đều nhận hối lộ để làm bậy, ăn của đút lót để lường gạt dân chúng. Chúng không đem công lý đến cho kẻ mồ côi hay đếm xỉa đến quyền lợi của người góa bụa. 22

Cho nên Thượng Đế Toàn Năng, Đấng Quyền Oai của Ít-ra-en phán như sau: “Ngươi, kẻ thù ta, sẽ không còn gây phiền cho ta nữa. Ta sẽ báo trả điều ngươi làm. 25 Ta sẽ chống nghịch ngươi và sẽ tẩy sạch cặn bã ra khỏi ngươi; ta sẽ loại bỏ những kim loại vô dụng [h]. 26 Ta sẽ mang các quan án ngươi về như xưa kia; các cố vấn ngươi giống như cũ. Rồi ngươi sẽ được gọi là thành Công Chính, thành Trung Kiên.” 24

Nhờ làm điều công chính, Giê-ru-sa-lem sẽ được tự do như trước. Nhờ làm điều phải, dân cư trở về với CHÚA sẽ được giải thoát. 28 Còn tội nhân và kẻ chống nghịch Thượng Đế sẽ bị tiêu diệt; kẻ rời bỏ CHÚA sẽ chết mất. 27

“Ngươi sẽ bị sỉ nhục vì đã bái lạy các thần khác dưới các cây sồi. Ngươi sẽ bị nhục nhã vì đã thờ lạy các thần khác trong vườn [i] mình. 30 Ngươi sẽ như cây sồi úa lá, như vườn không tưới. 31 Những kẻ quyền thế sẽ như những khúc củi nhỏ, khô queo, công việc họ như những tia lửa. Chúng sẽ cùng nhau cháy, không ai dập tắt.” 29

I-sai-a 2 Lời tiên tri về Giê-ru-sa-lem 2 Ê-sai, con trai A-mốt nói tiên tri như sau về Giu-đa và Giê-ru-sa-lem: Trong những ngày cuối cùng, núi nơi có đền thờ của CHÚA sẽ cao hơn các núi, cao hơn các đồi và các dân sẽ đổ về đó. 3 Nhiều dân tộc sẽ đến bảo rằng, “Chúng ta hãy lên núi của CHÚA, đi đến đền thờ Thượng Đế của Gia-cốp để Ngài dạy chúng ta đường lối Ngài, và chúng ta sẽ vâng theo lời giáo huấn của Ngài.” 2

Lời giáo huấn Ngài xuất phát từ Giê-ru-sa-lem; lời phán của CHÚA cũng ra từ Giê-ru-sa-lem. 4 Ngài sẽ giàn xếp những tranh chấp giữa các dân tộc và quyết định cho nhiều quốc gia. Lúc đó họ sẽ rèn gươm ra lưỡi cày và biến giáo mác ra dao cong. Các nước sẽ không còn đánh nhau, cũng không tập luyện chiến tranh nữa. 5

Hỡi nhà Gia-cốp, chúng ta hãy đi theo đường lối của CHÚA.

Ngày kinh khủng sẽ đến Lạy CHÚA, CHÚA đã bỏ dân Ngài, là nhà Gia-cốp, vì chúng đã đầy những tư tưởng bậy bạ theo các dân Đông phương [a]. Chúng bói toán như dân Phi-li-tin, và hoàn toàn chấp nhận các tư tưởng ngoại lai đó. 7 Xứ chúng đầy vàng và bạc; vô số châu báu. Xứ chúng đầy ngựa; và vô số quân xa. 8 Xứ chúng đầy hình tượng. Dân chúng bái lạy các hình tượng đó do tay mình làm ra và do chính ngón tay mình tạo nên. 9 Vì thế ai nấy sẽ xấu hổ. Lạy Thượng Đế, xin đừng tha thứ chúng [b]. 6

Hãy núp sau các tảng đá; đào hố và trốn trong đất để trốn cơn giận của CHÚA và tránh khỏi quyền năng lớn lao Ngài! 10

- 832 -


11

Kẻ tự phụ sẽ bị hạ xuống, chúng sẽ cúi đầu vì xấu hổ. Lúc đó chỉ có một mình CHÚA được tôn cao.

CHÚA Toàn Năng đã định một ngày để trừng phạt kẻ kiêu căng và khoác lác, chúng sẽ bị hạ xuống. Ngài sẽ đốn ngã các cây hương nam Li-băng cao vút, và các cây sồi to lớn của Ba-san, 14 Ngài sẽ hạ bệ các núi và đồi cao, 15 các tháp và vách cao, 16 các tàu buôn Tạt-si [c] và thuyền tráng lệ. 12 13

Lúc đó những kẻ kiêu căng sẽ bị hạ xuống, chúng sẽ cúi đầu xấu hổ, vì chỉ có một mình CHÚA được tôn cao, 18 còn các thần tượng sẽ bị tiêu diệt. 19 Người ta sẽ chạy vào các hang trong hốc đá và đào lỗ trốn trong đất để tránh cơn giận của CHÚA và quyền năng lớn lao của Ngài, khi Ngài đứng lên làm rung chuyển đất. 17

Lúc đó người ta sẽ ném bỏ các thần tượng vàng và bạc, mà họ đã làm ra để bái lạy; chúng sẽ ném các thần tượng đó cho dơi và chuột đồng. 21 Rồi họ sẽ trốn trong các hang hốc, các kẽ đá để tránh khỏi cơn giận của Thượng Đế và quyền năng lớn lao của Ngài, khi Ngài đứng lên làm rung chuyển đất. 22 Chớ nên nhờ cậy con người giải cứu ngươi, vì họ chỉ là người; chẳng thể nào giúp được ngươi. 20

I-sai-a 3 Thượng Đế sẽ trừng phạt Giu-đa và Giê-ru-sa-lem 3 Hãy hiểu biết điều nầy: CHÚA là Thượng Đế Toàn Năng sẽ cất lấy những nhu cầu của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem gồm thức ăn và nước uống, 2 các anh hùng và binh sĩ thiện chiến, các quan án và các nhà tiên tri, những thầy bói toán, các bô lão, 3 các nhà chỉ huy quân sự và các quan quyền, các cố vấn, những thợ khéo, và những người phù phép. CHÚA phán, “Ta sẽ đặt những chú bé lãnh đạo ngươi, các trẻ con khờ khạo sẽ cai trị ngươi. 5 Người nầy sẽ chống người kia; các láng giềng chống nghịch nhau. Thanh niên không tôn trọng người già cả, kẻ thứ dân khinh thường người thượng lưu.” 4

Lúc đó có người sẽ nắm một trong các anh em mình mà nói rằng, “Anh có áo choàng [a], hãy làm lãnh tụ chúng ta đi. Cảnh điêu tàn nầy sẽ do anh liệu định.” 6

Nhưng người đó sẽ đáp, “Tôi không thể cai trị các anh, vì tôi không có thực phẩm hay quần áo trong nhà tôi. Đừng cử tôi làm lãnh tụ.” 7

Việc đó sẽ xảy ra vì Giê-ru-sa-lem đã vấp ngã, Giu-đa đã té nhào. Những điều chúng nói và làm đều nghịch lại Thượng Đế; chúng chống lại Ngài. 8

Vẻ mặt của chúng cũng cho thấy chúng có tội; như dân Xô-đôm, chúng kiêu hãnh vì tội lỗi mình. Chúng không cần biết ai nhìn thấy. Khốn cho chúng vì chúng đã rước họa vào thân. 9

Hãy bảo những kẻ làm điều nhân đức rằng họ sẽ thịnh vượng, vì sẽ hưởng công lao mình làm ra. 11 Nhưng khốn cho kẻ ác! Chúng sẽ bị hình phạt vì tội lỗi mình. 12 Các trẻ nhỏ ngược đãi dân ta, còn đàn bà thì thống trị họ. 10

Hỡi dân ta, các lãnh tụ ngươi hướng dẫn ngươi đi lầm đường rồi và khuyến dụ ngươi bỏ đường chánh. CHÚA đã an vị nơi phòng xử án và đứng lên để xét xử dân Ngài. 14 CHÚA đã trình vụ án nghịch lại các bô lão và các lãnh tụ khác của dân Ngài: 13

“Các ngươi đã đốt vườn nho [b]. Nhà các ngươi đầy dẫy những vật lấy từ kẻ nghèo. 15 Ai cho các ngươi quyền chà đạp dân ta và giúi đầu kẻ nghèo xuống đất đen?” CHÚA Toàn Năng hỏi như vậy.

- 833 -


Lời cảnh cáo các đàn bà Giê-ru-sa-lem CHÚA phán, “Các đàn bà Giê-ru-sa-lem rất tự phụ. Chúng bước đi õng ẹo, liếc mắt đưa tình. Chúng bước thoăn thoắt, khua vòng đeo chân kêu leng keng.” 16

Cho nên CHÚA sẽ khiến đầu của các đàn bà Giê-ru-sa-lem lở lói, làm chúng rụng tóc. 18 Lúc đó Ngài sẽ cất lấy những thứ khiến chúng kiêu hãnh: các khoen đeo chân xinh đẹp, khăn vấn đầu, kiềng đeo cổ hình mặt trăng, 19 vòng đeo tai, vòng xuyến, màn mỏng, 20 khăn choàng cổ, xuyến đeo chân, nịt lưng, chai nước hoa, bùa đeo [c], 21 nhẫn, vòng đeo mũi, 22 áo dài đẹp nhất, mũ đội, khăn choàng, và ví, 23 gương soi mặt, áo vải gai, khăn quấn đầu, và khăn choàng dài. 17

Thay vì có mùi thơm sẽ có mùi thối. Thay vì thắt lưng đẹp, họ sẽ mang dây thừng tù nhân. Thay vì mái tóc đẹp, họ sẽ bị sói đầu [d]. Thay vì mặc áo quần đẹp, họ sẽ mặc quần áo tang. Thay vì hấp dẫn lộng lẫy, họ sẽ mang nhãn hiệu tù binh. 24

Lúc đó đàn ông các ngươi sẽ bị gươm giết, các anh hùng ngươi sẽ chết trong chiến trận. 26 Sẽ có tiếng than khóc gần cổng thành. Giê-ru-sa-lem sẽ như người đàn bà mất tất cả và ngồi bệt xuống đất. 25

I-sai-a 4 4 Lúc đó bảy người đàn bà sẽ nắm bắt một người đàn ông và năn nỉ, “Chúng tôi sẽ tự nuôi thân, tự may mặc lấy, nhưng xin anh hãy lấy chúng tôi, để chúng tôi mang tên anh. Xin cất sự xấu hổ chúng tôi đi.”

Nhánh của Chúa Lúc đó nhánh của CHÚA [a] sẽ rất xinh đẹp và lớn. Dân chúng còn sống trong Ít-ra-en sẽ rất hãnh diện về sự bành trướng của xứ. 3 Những ai còn sống sót trong Xi-ôn và Giê-ru-sa-lem sẽ được gọi là thánh; tên họ sẽ được ghi vào những kẻ sống trong Giê-ru-sa-lem. 2

CHÚA sẽ gột rửa những vết dơ bẩn [b] khỏi các con gái Xi-ôn [c]. Ngài sẽ rửa sạch vết máu khỏi Giê-ru-salem và tẩy sạch thành đó bằng thần linh công chính và thần linh bằng lửa. 5 Rồi CHÚA sẽ dùng đám khói ban ngày và trụ lửa sáng rực ban đêm [d] để che phủ núi Xi-ôn. Mỗi người [e] đều sẽ được một lọng che. 4

6

Mái che nầy sẽ giúp họ khỏi ánh nắng nóng và làm nơi trú ẩn khi mưa gió.

I-sai-a 5 Ít-ra-en, vườn nho của Chúa 5 Tôi sẽ hát cho bạn yêu dấu tôi về vườn nho của anh ấy. Bạn yêu dấu tôi có một vườn nho trên một sườn đồi phì nhiêu. 2 Anh đào và dọn hết sỏi đá trong vườn và trồng loại nho tốt nhất trong đó. Anh xây một cái tháp ở giữa vườn và xây một cái bàn ép rượu. Anh hi vọng loại nho tốt sẽ mọc trong vườn, nhưng hóa ra toàn loại nho xấu mọc thôi. 3

Bạn yêu dấu tôi bảo, “Hỡi các ngươi là kẻ sống trong Giê-ru-sa-lem và dân cư Giu-đa [a], hãy phân xử giữa ta và vườn nho ta.

- 834 -


4

Có điều gì tốt mà ta không làm cho vườn nho ta không? Tại sao ta mong nho tốt mọc lên, thì toàn thấy nho xấu?

Bây giờ ta sẽ cho các ngươi biết điều ta sẽ làm cho vườn nho ta: Ta sẽ tháo bỏ hàng rào, thì nó sẽ bị đốt cháy. Ta sẽ phá bỏ tường ngăn, thì nó sẽ bị dẫm lên. 6 Ta sẽ tiêu hủy vườn nho, không thèm tỉa sửa và vun xén, để cho cỏ dại tha hồ mọc. Ta sẽ bảo mây đừng mưa xuống trên nó.” 5

7

Vườn nho của CHÚA Toàn Năng là dân Ít-ra-en; vườn nho mà Ngài yêu thích là dân Giu-đa [b].

Ngài tìm điều công chính, thì chỉ thấy giết chóc. Ngài tìm nếp sống phải chăng, thì chỉ thấy tiếng kêu đau thương. Khốn cho các ngươi là kẻ tậu thêm nhà cửa, mua sắm thêm ruộng nương cho đến nỗi không còn gì cho kẻ khác nữa. Rồi chỉ có các ngươi là còn sót lại trong xứ. 9 CHÚA Toàn Năng phán với ta như sau: “Những nhà cửa xinh đẹp sẽ bị tiêu hủy; những nhà cửa to lớn sang trọng sẽ bị bỏ hoang. 10 Lúc đó vườn nho rộng mười sào chỉ làm được hai mươi hai lít [c] rượu, và sáu thùng hột giống chỉ lên được hơn nửa thùng [d] ngũ cốc.” 8

Khốn cho những kẻ dậy sớm để tìm rượu mạnh, thức khuya vì say men rượu. 12 Trong tiệc tùng của chúng có tiếng đờn sắt, đờn cầm, trống cơm, sáo, và rượu. Chúng không thấy điều CHÚA làm, hay để ý đến công việc của tay Ngài. 11

Vì thế nên dân ta bị bắt và lưu đày, vì chúng không biết đến ta. Các dân lớn sẽ chết đói, và thường dân sẽ chết khát. 14 Cho đến nỗi âm phủ hả miệng thật rộng đòi thêm người chết mãi. Những người sang trọng trong Giê-ru-sa-lem và các thường dân sẽ cùng nhau đi xuống đó, cùng với những kẻ hân hoan và ồn ào. 13

Cho nên thường dân và quan trưởng sẽ phải cúi đầu, cảm thấy nhục nhã. 16 CHÚA Toàn Năng sẽ được vinh hiển vì phân xử công bằng; Thượng Đế thánh sẽ tỏ mình ra thánh bằng cách làm điều phải. 17 Rồi các chiên con sẽ ăn cỏ trong đồng mà những kẻ giàu có trước đây làm chủ. 15

18

Khốn thay cho những kẻ ấy!

Chúng kéo lê tội lỗi sau mình như người ta kéo các xe bằng dây thừng [e]. 19 Họ bảo, “Thượng Đế muốn vội vã thì vội vã; hãy để Ngài sớm thực hiện việc của Ngài cho chúng ta thấy. Hãy để cho chương trình của Đấng Thánh trên Ít-ra-en sớm diễn ra để chúng ta biết nó như thế nào.” Khốn cho các kẻ gọi lành là dữ và gọi dữ là lành, bảo tối là sáng và sáng là tối, cho chua là ngọt và ngọt là chua. 21 Khốn cho những kẻ cho mình là khôn ngoan và nghĩ mình thông sáng. 22 Khốn cho kẻ nổi danh vì uống rượu và quán quân về hoà rượu. 23 Chúng nhận hối lộ để phóng thích kẻ có tội, và không để cho người lành được xét xử công bằng. 24 Chúng sẽ bị tiêu hủy như lửa thiêu đốt rơm hay cỏ khô. Chúng sẽ bị tiêu diệt như cây bị thúi rễ, và như hoa khô héo bị gió thổi bay đi như bụi bặm. 20

Chúng không chịu nghe lời giáo huấn [f] của CHÚA Toàn Năng và ghét sứ điệp từ Thượng Đế Thánh của Ítra-en. 25 Cho nên CHÚA đã nổi giận cùng dân Ngài, và giơ tay ra trừng phạt họ. Dù cho đến núi cũng kinh hoảng. Thây người nằm la liệt trên phố xá như rác rưởi. Nhưng CHÚA vẫn còn nổi giận; tay Ngài còn giơ ra để đánh phạt dân Ngài.

- 835 -


Thượng Đế sẽ mang quân lính đến trừng phạt Ít-ra-en 26

Ngài giương cờ cho các dân tộc ở xa.

Ngài huýt sáo gọi các dân tộc ở tận cùng quả đất. Kìa! Kẻ thù đang tràn tới! 27 Không một người nào trong chúng nó mệt mỏi hay vấp ngã. Không một ai trong chúng nó buồn ngủ hay ngủ gục. Không ai tháo vũ khí ra hay cởi dây giày. 28 Mũi tên chúng nó rất nhọn, và các cung chúng nó sẵn sàng để bắn. Vó ngựa chúng nó cứng như đá, và bánh quân xa chúng nó chạy mau như gió cuốn. Tiếng hò hét chúng nó như tiếng gầm của sư tử; vang rền như sư tử con. Chúng gầm gừ khi bắt tù binh. Không ai ngăn chận khi chúng nó cướp tù binh đi. 30 Trong ngày đó chúng sẽ gầm thét như sóng biển. Và khi người ta nhìn vào xứ, họ chỉ thấy đen tối và đau khổ; ánh sáng chỉ còn là bóng tối trong đám mây dầy đặc nầy. 29

I-sai-a 6 Ê-sai trở thành nhà tiên tri 6 Vào năm vua U-xia qua đời [a], tôi thấy CHÚA ngồi trên ngôi cao cả. Vạt áo Ngài phủ đầy đền thờ. 2 Các thiên binh bằng lửa đứng phía trên Ngài. Mỗi thiên binh có sáu cánh: hai cánh che mặt, hai cánh che chân, và hai cánh dùng để bay. 3 Các Xê-ra-phim kêu lên như sau: “Thánh thay, thánh thay, thánh thay là CHÚA Toàn Năng. Vinh hiển Ngài đầy dẫy đất.” 4 Tiếng kêu của các Xê-ra-phim khiến mọi khung cửa rung chuyển, trong khi đền thờ dầy đặc khói [b]. Tôi kêu lên, “Thôi, đời tôi tàn rồi. Tôi không tinh sạch, ở giữa một dân không tinh sạch [c], nhưng tôi đã thấy Vua, là CHÚA Toàn Năng.” 5

Một trong các Xê-ra-phim dùng cái kẹp lấy than lửa đỏ nơi bàn thờ. Rồi người bay đến tôi trong tay cầm than lửa đỏ. 7 Người lấy than lửa đụng vào môi tôi và bảo rằng, “Nầy, tội ngươi đã được tha vì than nầy đã chạm môi ngươi. Tội ngươi đã được xóa bỏ [d] rồi.” 6

8

Rồi tôi nghe tiếng CHÚA hỏi, “Ta sẽ sai ai đi? Ai bằng lòng đi cho chúng ta?”

Tôi liền thưa, “Có tôi đây. Xin Ngài hãy sai tôi!” Rồi CHÚA phán, “Hãy đi bảo dân nầy như sau: ‘Các ngươi nghe thì nghe, nhưng không hiểu. Các ngươi nhìn thì nhìn, nhưng không học được.’ 10 Hãy làm cho trí dân nầy đần độn. Hãy bít lỗ tai chúng lại. Hãy bịt mắt chúng. Nếu không chúng sẽ hiểu điều mình thấy bằng mắt và nghe bằng tai. Trí chúng hiểu được rồi trở lại cùng ta để được chữa lành.” 9

11

Nên tôi hỏi, “Thưa CHÚA, tôi phải làm như thế nầy trong bao lâu?”

Ngài đáp, “Cho đến khi các thành bị tiêu diệt và dân cư không còn, cho đến khi các nhà cửa bỏ hoang không người ở, cho đến khi đất bị tiêu diệt và hoang phế. CHÚA sẽ đày dân chúng đi rất xa, và đất sẽ bị bỏ hoang. 13 Một phần mười dân cư sẽ còn lại trong xứ, nhưng số đó cũng sẽ bị tiêu diệt luôn. Chúng như cây sồi còn lại gốc sau khi thân bị đốn xuống. Những người còn sót lại sẽ như gốc đâm chồi trở lại.” 12

- 836 -


I-sai-a 7 Gặp khốn khó với A-ram 7 A-cha là con Giô-tham, cháu U-xia. Khi A-cha làm vua Giu-đa thì Rê-xin, vua A-ram và Bê-ca, con Rêma-lia [a], vua Ít-ra-en, kéo lên đánh Giê-ru-sa-lem. Nhưng họ không chiếm nổi thành. Nhà Đa-vít nhận tin báo rằng, “Các lực lượng của A-ram và Ít-ra-en đã liên kết nhau.” Khi nghe vậy, vua và toàn dân đều hoảng sợ. Họ run sợ như cây trong rừng bị gió thổi. 2

Sau đó CHÚA bảo Ê-sai, “Ngươi và Sê-a Gia-súp [b], con trai ngươi hãy đi gặp A-cha chỗ nước chảy vào hồ trên [c], nơi con đường dân chúng hay giặt đồ. 3

Bảo A-cha: Hãy cẩn thận. Hãy yên tâm đừng lo sợ. Đừng để hai người đó, A-ram và con Rê-ma-lia [d], khiến cho ngươi hoảng hốt. Đừng sợ cơn giận của chúng hay cơn giận của A-ram vì chúng chỉ như hai que gỗ cháy sắp tàn. 5 Bọn A-ram đã lập kế hoạch cùng với Ép-ra-im và con trai Rê-ma-lia để hại ngươi, bảo rằng, 6 ‘Chúng ta hãy tấn công Giu-đa và phá nó tan hoang. Chúng ta sẽ cùng nhau chia đất và lập con trai Ta-bên làm vua Giu-đa.’” 4

Nhưng ta, CHÚA và Thượng Đế phán, “‘Kế hoạch chúng nó sẽ không thành; việc đó sẽ không xảy ra, 8 vì A-ram bị thành Đa-mách cai trị, còn Đa-mách thì bị Rê-xin cai trị. Trong sáu mươi lăm năm nữa Ép-ra-im sẽ không còn là một quốc gia nữa. 9 Ít-ra-en bị thành Xa-ma-ri cai trị, và Xa-ma-ri thì bị con trai của Rê-ma-lia cai trị. Nếu ngươi không đủ niềm tin để đứng vững, ngươi sẽ không còn sức tồn tại lâu [e].’” 7

Em-ma-nu-ên, Thượng Đế ở với chúng ta Rồi CHÚA phán cùng A-cha lần nữa rằng, 11 “Hãy xin một dấu hiệu từ CHÚA là Thượng Đế ngươi để cho ngươi tin rằng những điều nầy là thật. Có thể là dấu hiệu dưới âm phủ [f] hay trên trời cao kia [g].” 10

12

Nhưng A-cha đáp, “Tôi sẽ không xin dấu hiệu nào hay thử CHÚA.”

Ê-sai liền nói, “Hỡi nhà Đa-vít, hãy nghe kỹ đây! Ngươi thử lòng kiên nhẫn của dân chúng chưa đủ sao? Tại sao ngươi còn muốn thử lòng kiên nhẫn của Thượng Đế ta? 14 Chính CHÚA sẽ ban cho ngươi một dấu hiệu: 13

Một thiếu nữ sẽ mang thai [h] và sinh ra một bé trai và đặt tên là Em-ma-nu-ên [i]. 15 Đứa trẻ sẽ ăn sữa đông và mật ong [j] trước khi nó biết bỏ điều ác và chọn điều lành. 16 Hiện nay ngươi đang sợ vua Ít-ra-en và A-ram. Nhưng trước khi đứa trẻ biết chọn điều lành và bỏ điều ác, thì xứ Ít-ra-en và A-ram sẽ bị hoang phế. CHÚA sẽ mang khốn khó đến cho ngươi, dân tộc ngươi, và cho những người trong gia đình cha ngươi. Họ sẽ khốn khổ hơn bất cứ thời kỳ nào từ khi Ép-ra-im tách ra khỏi Giu-đa. CHÚA sẽ đưa vua A-xy-ri đến tấn công ngươi. 17

Lúc đó CHÚA sẽ huýt sáo gọi người Ai-cập, và chúng sẽ đến đông như ruồi từ các suối xa xăm của Aicập. Ngài sẽ gọi người A-xy-ri, và chúng sẽ tràn đến như ong. 19 Các quân thù nầy sẽ đóng quân trong hố sâu và trên ghềnh đá, gần các bụi cây, và nơi các giếng nước. 20 CHÚA sẽ thuê người A-xy-ri và dùng chúng như dao cạo để trừng phạt Giu-đa. Giống như CHÚA cạo trọc đầu, cạo lông [k] trên Giu-đa. 18

Lúc đó mỗi người chỉ có thể giữ một con bò cái tơ và hai con chiên còn sống thôi. 22 Chỉ có đủ sữa cho người đó ăn sữa đông. Ai còn sót trong xứ sẽ phải trở lại ăn sữa đông và mật ong. 21

- 837 -


Trong xứ nầy hiện nay đầy vườn nho và hàng ngàn dây nho, đáng giá hai mươi lăm cân bạc. Nhưng các vườn nho đó sẽ đầy cỏ dại và gai gốc. 24 Xứ sẽ trở thành hoang địa và chỉ dùng làm đất săn bắn. 25 Dân chúng trước kia làm lụng và trồng trọt hoa màu trên các sườn đồi nầy nhưng đến lúc đó họ sẽ không đến đó nữa vì đất sẽ đầy cỏ dại và gai gốc. Chỉ có chiên và trâu bò đến thôi.” 23

I-sai-a 8 A-xy-ri sắp đến rồi 8 CHÚA bảo tôi, “Hãy lấy một bảng viết [a] và ghi trên đó bằng cây viết thường [b]: ‘Ma-hê Sa-lanh HátBát.’ [c] Tôi sẽ triệu tập một số nhân chứng đáng tin: U-ria, thầy tế lễ, và Xa-cha-ri, con Giê-bê-rê-kia.” 3 Rồi tôi đi đến nhà của nữ tiên tri, nàng thụ thai và sinh một con trai. CHÚA bảo tôi, “Hãy đặt tên nó là Ma-hê Sa-lanh Hát-Bát, 4 vì vua A-xy-ri sẽ cướp tất cả những tài sản của cải của Đa-mách [d] và Xa-ma-ri trước khi đứa trẻ biết kêu cha hay mẹ.” 2

CHÚA lại phán cùng tôi rằng, 6 “Những người nầy [e] không chịu nhận nước chảy nhẹ từ hồ Xi-lôm [f] và kinh khiếp vì Rê-xin và con trai Rê-ma-lia. 7 Cho nên CHÚA tôi sẽ mang vua A-xy-ri cùng mọi đạo quân của người để nghịch lại chúng, giống như trận lụt ào ào đổ từ sông Ơ-phơ-rát xuống. Quân A-xy-ri sẽ giống như nước dâng lên từ bờ sông, chảy cả xứ. 8 Nước đó sẽ tràn và chảy vào Giu-đa, ngập lên đến cổ nó, 5

Hỡi Em-ma-nu-ên [g], đạo quân nầy sẽ giương cánh ra như chim cho đến khi bao phủ cả xứ.” Hỡi các dân, hãy tan nát, hãy bể vụn ra từng miếng. Hỡi các xứ xa xăm hãy nghe. Hãy chuẩn bị ra trận và hãy bể vụn ra! Hãy chuẩn bị ra trận và hãy bể vụn ra! 10 Hãy lập kế hoạch đánh nhau nhưng các kế hoạch đó sẽ thất bại. Hãy ra lệnh cho đạo quân ngươi, nhưng chúng sẽ vô dụng, vì Thượng Đế ở với chúng ta. 9

Lời cảnh cáo Ê-sai CHÚA phán cùng ta bằng quyền năng Ngài và cảnh cáo [h] ta chớ có theo đường lối của dân chúng. Ngài bảo, 12 “Dân chúng nói rằng những kẻ khác âm mưu nghịch họ, nhưng ngươi đừng tin chúng nó. Đừng sợ điều chúng sợ; và đừng kinh hãi những điều đó. 11

Nhưng hãy nhớ rằng CHÚA Toàn Năng là thánh. Ngài là Đấng ngươi phải sợ; Đấng ngươi nên kính nể [i]. Ngài sẽ làm nơi trú ẩn an toàn [j] cho ngươi. Nhưng còn về hai gia tộc Ít-ra-en, Ngài sẽ như hòn đá gây vấp ngã, như tảng đá khiến người ta té nhào. Ngài như cái bẫy cho Giê-ru-sa-lem, khiến họ rơi vào. 15 Nhiều kẻ sẽ rơi trên tảng đá nầy. Họ sẽ rơi và bị dập nát; Họ sẽ rơi vào bẫy và bị sập.” 13 14

16

Hãy lập giao ước [k]. Hãy niêm phong lời giáo huấn trong khi các môn đệ ta đang nhìn.

17

Ta sẽ đợi CHÚA giúp chúng ta, CHÚA xấu hổ về gia đình Ít-ra-en. Ta sẽ trông đợi Ngài.

Ta đang đứng đây. Cùng với ta là con cái CHÚA ban cho ta. Chúng ta là dấu hiệu và bằng cớ cho dân Ítra-en từ CHÚA Toàn Năng, Đấng ngự trên núi Xi-ôn. 18

- 838 -


Có ngươi đề nghị, “Hãy đi hỏi bọn đồng bóng và thầy bói là những kẻ chuyên thì thầm và lẩm bẩm để biết phải làm gì.” Nhưng ta bảo các ngươi rằng nên cầu xin Thượng Đế giúp đỡ. Tại sao người sống mà lại đi hỏi người chết? 20 Các ngươi phải vâng theo lời giáo huấn và giao ước [l] với CHÚA. Bọn đồng bóng và thầy bói không thể nói ra lời của CHÚA, cho nên lời nói chúng chẳng ra gì. 21 Dân chúng đi lang thang khắp xứ, bị hoang mang và đói khổ. Khi họ đói họ đâm ra giận dữ và ngước lên nguyền rủa vua cùng Thượng Đế mình. 22 Chúng nhìn quanh, khắp xứ chỉ thấy khốn đốn, tăm tối, và bi thảm, cái bi thảm của dân bị buộc phải xa xứ. 19

I-sai-a 9 Một ngày mới mở ra 9 Nhưng bỗng nhiên xứ bị khốn khổ không còn ảm đạm nữa. Trước kia Thượng Đế khiến đất Xê-bu-lôn và Nép-ta-li gục đầu xấu hổ, nhưng trong tương lai các vùng đất đó sẽ trở nên trù phú. Chúng sẽ kéo dài từ con đường dọc theo Địa-trung-hải cho đến vùng đất phía Đông sông Giô-đanh, chạy đến phía bắc tới Ga-li-lê, xứ của dân không phải Ít-ra-en. 2 Trước kia các dân đó sống trong tối tăm, nay thấy ánh sáng lớn. Trước kia sống trong đất tăm tối, thì nay ánh sáng chiếu trên họ. Lạy Thượng Đế, Ngài đã khiến dân tộc lớn mạnh và dân chúng hân hoan. Họ đã tỏ niềm vui cho Ngài thấy, như niềm vui lúc mùa gặt, hay niềm vui của kẻ chiếm được chiến lợi phẩm. 4 Giống như khi Ngài đánh bại Mi-đi-an [a], Ngài quăng bỏ ách nặng nề khỏi cổ họ, và cây đòn nặng khỏi lưng họ cùng cây roi kẻ thù dùng đánh phạt họ. 3

Mỗi một đôi giày đi ra trận chiến và mỗi một bộ đồng phục vấy máu đã bị ném vào lửa. 6 Có một con trẻ được sinh ra cho chúng ta; Thượng Đế ban cho chúng ta một con trai. Người sẽ dắt dẫn dân sự mình. Danh Ngài là Cố Vấn Tuyệt Vời, Thượng Đế Toàn Năng, Cha Đời Đời, Chúa Bình An. 7 Quyền năng và sự hòa bình sẽ ngự trong nước Ngài và gia tăng mãi không thôi. Ngài sẽ làm vua trên ngôi và nước của Đa-vít. Ngài sẽ làm cho nước đó vững mạnh bằng cách dùng công lý và nhân từ mà cai trị từ nay cho đến đời đời. CHÚA Toàn Năng sẽ làm điều đó vì lòng sốt sắng Ngài [b] dành cho dân sự mình. 5

Thượng Đế sẽ trừng phạt Ít-ra-en CHÚA phán sứ điệp nghịch lại dân cư Gia-cốp; bảo rằng Thượng Đế sẽ xét xử Ít-ra-en [c]. 9 Rồi mỗi người trong Ép-ra-im, cho đến các lãnh tụ của Xa-ma-ri, sẽ biết rằng Thượng Đế đã truyền sứ điệp đó. 8

Chúng kiêu căng và khoe khoang rằng, 10 “Tuy gạch đã đổ, nhưng chúng ta sẽ xây lại bằng đá đẽo. Những cây nhỏ đã bị đốn xuống, Nhưng chúng ta sẽ thế bằng các cây hương nam cao lớn.” Nhưng CHÚA đã mang các kẻ thù của Rê-xin nghịch lại chúng; Ngài đã khích động các kẻ thù nghịch lại chúng. 12 Dân A-ram từ miền Đông và dân Phi-li-tin từ miền Tây, chúng xua quân ăn nuốt Ít-ra-en. Nhưng CHÚA vẫn còn nổi giận; tay Ngài còn giơ ra để trừng phạt dân chúng. 11

Nhưng chúng không chịu trở lại cùng Đấng đã đánh mình; chúng không theo CHÚA Toàn Năng. 14 Nên CHÚA sẽ cắt đầu và đuôi của Ít-ra-en, cùng trong một ngày CHÚA cắt cả nhánh lẫn cọng. 15 Các bô lão và giới thượng lưu là đầu, còn các tiên tri dối là đuôi. 13

Những kẻ hướng dẫn dân chúng dắt họ đi lầm đường, còn những kẻ theo chúng bị hủy diệt. 17 Vì thế CHÚA tôi không hài lòng vì bọn trẻ, Ngài cũng không tỏ lòng từ bi đối với cô nhi quả phụ. Tất cả dân cư đã rời bỏ Thượng Đế và trở nên cực ác; chúng đều nói dối. 16

Nhưng CHÚA còn nổi giận; tay Ngài còn giơ ra để đánh phạt dân chúng.

- 839 -


Điều ác giống như đám lửa nhỏ. Trước hết nó chỉ thiêu đốt cỏ dại và gai gốc. Sau đó nó thiêu các bụi rậm trong rừng, rồi tất cả tiêu tan theo mây khói. 18

CHÚA Toàn Năng nổi giận, dân chúng như củi dành cho lửa; không ai tìm cách cứu anh chị em mình. Dân chúng quay qua bên phải để tóm lấy vật gì, nhưng vẫn đói. Họ tìm vật gì bên trái để ăn, nhưng không no. Ai nấy đều quay qua ăn thịt con cái mình. 21 Dân Ma-na-xe sẽ nghịch lại dân Ép-ra-im, và Ép-ra-im sẽ nghịch lại Ma-na-xe. Rồi cả hai nghịch lại Giu-đa. 19 20

Nhưng CHÚA còn nổi giận; tay Ngài còn giơ ra để trừng phạt dân chúng.

I-sai-a 10 10 Khốn cho những kẻ làm ra luật bất công, và những kẻ soạn luật để gây khốn khổ cho người khác. 2 Chúng bất công với người nghèo, và cướp đoạt quyền của những kẻ khốn khổ giữa vòng dân ta. Chúng để người ta ăn cắp của góa phụ và cướp đoạt của cải cô nhi. Ngươi sẽ làm gì khi sự hủy diệt ngươi đến từ phương xa? Ngươi chạy đến đâu để cầu cứu? Lúc đó ngươi sẽ giấu của cải mình ở đâu? 4 Ngươi phải cúi đầu xuống giữa đám tù nhân hay ngã gục giữa các xác chết. Nhưng CHÚA vẫn còn nổi giận; tay Ngài vẫn giơ ra để trừng phạt dân chúng. 3

Thượng Đế sẽ trừng phạt A-xy-ri Thượng Đế phán, “Khốn cho vua A-xy-ri. Ta dùng nó làm cái roi để tỏ cơn giận ta; trong cơn thịnh nộ ta dùng A-xy-ri làm dùi cui. 6 Ta sai nó nghịch lại một dân tộc lìa bỏ Thượng Đế. Ta nổi giận cùng dân ấy, nên ta bảo A-xy-ri đi đánh chúng, cướp của cải của chúng, để dẫm lên chúng như đất trên đường. 5

Nhưng vua A-xy-ri không hiểu rằng ta đang dùng nó; nó không biết rằng nó chỉ là dụng cụ của ta. Nó chỉ muốn tiêu diệt kẻ khác và đánh bại nhiều dân tộc. 8 Vua A-xy-ri tự nhủ, ‘Các cấp chỉ huy của ta như vua chúa. 9 Thành Canh-nô như thành Cạt-kê-mít. Thành Ha-mát như thành Ạc-bát. Thành Xa-ma-ri như thành Đa-mách. 10 Ta đánh bại các quốc gia thờ thần tượng, và những thần tượng đó nhiều hơn thần tượng của Giê-ru-sa-lem và Xa-ma-ri. 7

11

Như ta đã đánh hạ Xa-ma-ri và thần tượng nó, ta cũng sẽ đánh hạ Giê-ru-sa-lem và thần tượng nó.’”

Sau khi Chúa thi hành xong điều Ngài định làm cho núi Xi-ôn và Giê-ru-sa-lem, Ngài sẽ trừng phạt A-xyri. Vua A-xy-ri rất tự kiêu, lòng tự kiêu khiến nó phạm tội cho nên Thượng Đế sẽ trừng phạt nó. 12

Vua A-xy-ri bảo: “Nhờ sức lực ta, ta thực hiện những điều nầy; nhờ sự khôn ngoan ta, ta đánh bại nhiều dân tộc, ta đã cướp của cải chúng nó, và như một dũng sĩ, ta cướp luôn dân cư nó. 14 Ta đã lấy tài sản của những dân đó, như người ta thò tay vào tổ chim. Ta đã cướp các dân đó như người ta lấy trứng nằm trên đất. Không ai vỗ cánh hay mở miệng kêu chim chíp để thoát khỏi tay ta.” 13

Cái rìu không thể tốt hơn người dùng nó. Cái cưa cũng không khá hơn người sử dụng nó. Cái que không thể điều động người nhặt nó lên. Cái dùi cui không thể nhấc con người lên được! 16 Cho nên CHÚA Toàn Năng sẽ sai một bệnh tật khủng khiếp đến trên các binh sĩ A-xy-ri. Sức mạnh A-xy-ri sẽ bị tiêu hủy, như lửa thiêu đốt hết mọi thứ. 17 Thượng Đế, Ánh Sáng của Ít-ra-en [a], sẽ như lửa đốt; Đấng Thánh sẽ như ngọn lửa. Ngài sẽ như lửa bùng ra thiêu đốt cỏ dại và gai gốc trong một ngày. 18 Lửa sẽ đốt tiêu các rừng và ruộng vườn phì nhiêu của A-xy-ri, tiêu diệt hết. Ngài sẽ tiêu diệt cả xác lẫn hồn. A-xy-ri sẽ giống như kẻ đau yếu càng ngày càng suy nhược. 19 Chỉ một số rất ít cây còn sót lại mà một đứa trẻ có thể đếm được. 15

Lúc đó sẽ còn một số dân sót lại trong Ít-ra-en từ gia đình Gia-cốp. Chúng sẽ không còn lệ thuộc vào kẻ chiến thắng mình. Chúng sẽ thật sự học biết trông cậy CHÚA, Đấng Thánh của Ít-ra-en. 21 Những kẻ còn sống sót trong gia đình Gia-cốp sẽ lại theo Thượng Đế Toàn Năng [b]. 20

- 840 -


Ít-ra-en ơi, tuy dân ngươi đông, như cát bờ biển, nhưng chỉ còn một số rất ít sống sót để trở về cùng CHÚA. Thượng Đế đã tuyên bố rằng Ngài sẽ hoàn toàn tiêu diệt đất một cách công bằng. 23 Chúa là Thượng Đế Toàn Năng chắc chắn sẽ tiêu diệt đất nầy, như Ngài đã tuyên bố. 22

Đây là Thượng Đế Toàn Năng phán: “Hỡi dân ta đang sống trong Xi-ôn, đừng sợ người A-xy-ri, là kẻ lấy roi đánh các ngươi, và giơ gậy lên nghịch ngươi như Ai-cập đã làm. 25 Ít lâu nữa cơn giận ta đối với ngươi sẽ dứt, rồi ta sẽ quay cơn giận ta hủy diệt chúng.” 24

Rồi CHÚA Toàn Năng sẽ lấy roi đánh A-xy-ri như Ngài đã đánh Mi-đi-an ở tảng đá Ô-rép [c]. Ngài sẽ giơ gậy lên trên biển [d] như Ngài đã làm ở Ai-cập. 26

Rồi những khốn khổ A-xy-ri đặt trên ngươi sẽ không còn, và gánh nặng chúng bắt ngươi mang sẽ được lấy đi. 27

A-xy-ri tấn công Ít-ra-en Đạo quân A-xy-ri sẽ vào gần Ai-át. Lính của nó sẽ bước qua Mi-rôn. Chúng sẽ chứa lương thực ở Mích-ma. 29 Đạo quân đó sẽ vượt qua đèo. Các binh sĩ sẽ ngủ đêm ở Ghê-ba. Dân Ra-ma sẽ hoảng sợ, còn dân Ghi-bê-a của Sau-lơ [f] sẽ bỏ chạy. 28 [e]

Hỡi Bát-Ga-lim [g], hãy kêu lên! Hỡi Lai-sa, hãy nghe đây! Tội nghiệp cho A-na-tốt! 31 Dân ở Mát-mê-na đã bỏ chạy; còn dân ở Ghê-bim [h] đang lẩn tránh. 32 Hôm nay đạo quân sẽ dừng chân tại Nóp. Chúng sẽ giơ quả đấm nghịch cùng Núi Xi-ôn, nơi chân đồi Giê-ru-sa-lem. 30

Hãy coi chừng! Vì CHÚA Toàn Năng sẽ dùng quyền lực lớn lao đốn ngã chúng như cây cổ thụ. Những kẻ cao sang sẽ bị hạ xuống; những kẻ chức vị sẽ té xuống đất. 34 Ngài sẽ đốn ngã chúng như lưỡi rìu chặt ngã đám rừng. Còn các cây hương nam của Li-băng sẽ ngã dưới quyền lực của Đấng Toàn Năng. 33

I-sai-a 11 Vua Hòa bình đang đến 11 Một nhánh [a] sẽ mọc ra từ gốc; một vị vua sẽ xuất thân từ gia đình Gie-xê [b]. 2 Thần linh CHÚA sẽ ngự trên người. Thần linh đó sẽ ban cho người sự khôn ngoan, hiểu biết, tài hướng dẫn, và quyền năng. Thần linh đó sẽ dạy vua biết kính sợ CHÚA. 3 Vua sẽ vui mừng vâng theo CHÚA. Người sẽ không phán đoán theo mắt thấy, hay quyết định theo tai nghe. 4 Nhưng người sẽ phân xử thanh liêm cho kẻ nghèo; phán quyết của người sẽ rất công bằng cho người nghèo khổ trong xứ. Theo lệnh người kẻ ác sẽ bị trừng phạt, và theo lời người kẻ ác sẽ bị xử tử. 5 Sức mạnh của người là sự nhân từ và công chính, như thắt lưng quanh hông người. Lúc đó muông sói sẽ sống an lành với chiên con, hùm beo sẽ nằm nghỉ chung với dê. Bò con, sư tử, và bò đực tơ sẽ ăn chung nhau, rồi một đứa trẻ thơ sẽ dắt chúng nó. 7 Bò cái và gấu sẽ ăn chung nhau vô sự. Các con nhỏ chúng nó sẽ nằm nghỉ chung. Sư tử sẽ ăn cỏ khô như bò. 8 Một em bé sẽ chơi kề hang rắn hổ mang [c] , còn một đứa trẻ sẽ thò tay vào ổ rắn độc. 6

Chúng nó sẽ không làm hại hay tiêu diệt lẫn nhau trong khắp núi thánh ta, vì cả đất sẽ đầy sự hiểu biết CHÚA, như biển đầy tràn nước. 9

Lúc đó vua mới xuất thân từ gia đình Gie-xê sẽ đứng lên làm cờ xí cho mọi dân tộc. Các dân sẽ tập họp quanh người, và nơi người ở sẽ đầy vinh hiển. 10

- 841 -


Lúc đó CHÚA sẽ lại tìm kiếm mang về những kẻ sống sót từ A-xy-ri, Bắc Ai-cập, Nam Ai-cập, Cút, Êlam, Ba-by-lôn, Ha-mát, và các hải đảo ngoài biển khơi. 12 Thượng Đế sẽ giương cờ làm dấu cho các dân tộc, Ngài sẽ tập họp dân Ít-ra-en là những kẻ bị đày ra khỏi xứ mình. Ngài sẽ gom lại những dân bị tản lạc của Giu-đa từ khắp các nơi trên trái đất. 11

Lúc đó Ép-ra-im sẽ không còn ganh tức nữa, Giu-đa cũng sẽ không còn kẻ thù nào. Ép-ra-im không còn tỵ hiềm với Giu-đa, và Giu-đa cũng sẽ không còn ghét Ít-ra-en nữa. 14 Nhưng Ép-ra-im và Giu-đa sẽ tấn công Phi-li-tin về phía Tây. Hai bên cùng nhau chiếm của cải các dân phương Đông [d]. Họ sẽ chiến thắng Ê-đôm và Mô-áp, còn dân Am-môn [e] sẽ chịu phục tùng họ. 13

CHÚA sẽ làm cho Hồng hải của Ai-cập khô cạn [f], Ngài sẽ vẫy tay trên sông Ơ-phơ-rát và thổi cơn gió nóng khiến nó cạn nước. Ngài sẽ chia nó ra thành bảy con sông nhỏ để người ta có thể mang giày băng qua chúng được. 16 Cho nên dân sót lại của CHÚA còn sống sót sẽ có cách rời A-xy-ri, giống như lúc Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập. 15

I-sai-a 12 Bài hát ca ngợi Thượng Đế 12 Lúc ấy ngươi sẽ nói: “Lạy Chúa, tôi ca ngợi Ngài! Trước đây Ngài đã nổi giận cùng tôi, nhưng nay cơn giận Ngài không còn! Ngài đã an ủi tôi. 2 Thượng Đế là Đấng đã cứu tôi; Tôi sẽ tin cậy nơi Ngài, không sợ hãi gì. CHÚA, CHÚA ban sức mạnh cho tôi và khiến tôi hát xướng. Ngài đã cứu tôi [a].” 3 Ngươi sẽ vui mừng nhận sự cứu rỗi mình như khi ngươi lấy nước từ giếng lên. Lúc đó ngươi sẽ nói, “Hãy ca ngợi CHÚA và thờ lạy Ngài. Hãy cho mọi người biết điều Ngài đã làm và sự cao cả của Ngài. 5 Hãy hát ca ngợi CHÚA vì Ngài đã làm những việc lớn lao. Hãy cho cả thế giới biết việc Ngài làm. 6 Hỡi dân cư Xi-ôn, hãy vui hát lớn tiếng, vì Đấng Thánh của Ít-ra-en đã làm những việc lớn lao trước mặt các ngươi.” 4

I-sai-a 13 Sứ điệp của Thượng Đế cho Ba-by-lôn 13 CHÚA trao sứ điệp [a] nầy về Ba-by-lôn cho Ê-sai, con trai A-mốt: Hãy giương cờ trên núi trọi [b]. Hãy gọi chúng nó. Hãy giơ tay ra dấu bảo chúng nó vào các cửa dành cho bậc quyền quí. 2

- 842 -


3

Chính ta đã chỉ huy những kẻ ta biệt riêng ra cho mình. Ta đã gọi các chiến sĩ để chúng thi hành cơn giận ta. Chúng hớn hở vui mừng làm theo ý muốn ta.

Hãy nghe tiếng ồn ào huyên náo trên núi, tiếng của vô số người. Hãy nghe tiếng ồn ào trong các nước, tiếng của các dân tộc tập họp lại. CHÚA Toàn Năng triệu tập quân lực Ngài để ra trận. 5 Đạo quân nầy đến từ xứ rất xa, từ ven chân trời. Trong khi nóng giận CHÚA dùng đạo quân nầy làm vũ khí tiêu diệt cả nước. 4

Hãy khóc đi, vì ngày phán xử của CHÚA gần đến rồi; Đấng Toàn Năng đưa sự hủy diệt đến [c]. 7 Dân chúng sẽ yếu sức vì hoảng sợ, và lòng can đảm họ cũng tiêu tan. 8 Ai nấy đều lo sợ. Sự đau khổ xâm chiếm họ; họ sẽ đau đớn như đàn bà đau đẻ. Ai nấy đều lo sợ nhìn nhau, mặt nào cũng đỏ bừng như lửa. 6

Phán quyết của Thượng Đế nghịch cùng Ba-by-lôn Nầy, ngày phán xử của CHÚA sắp đến ngày kinh khiếp, ngày thịnh nộ của Thượng Đế. CHÚA sẽ tiêu diệt đất và mọi kẻ có tội sống trong đó. 10 Các ngôi sao không chiếu sáng nữa; bầu trời sẽ trở nên tối tăm. Mặt trời trở nên đen tối khi mọc lên, mặt trăng cũng không chiếu sáng. 9

CHÚA phán, “Ta sẽ trừng phạt thế gian vì tội ác nó và trừng phạt kẻ ác vì tội lỗi chúng. Ta sẽ trừ thói kiêu căng của những kẻ tự phụ, và ta sẽ diệt lòng tự kiêu của kẻ độc ác với người khác. 12 Sẽ chỉ còn lại có vài người, họ sẽ hiếm như vàng Ô-phia nguyên chất. 13 Ta sẽ làm cho trời rung, đất sẽ di chuyển ra khỏi chỗ nó, khi CHÚA Toàn Năng tỏ cơn thịnh nộ phừng phừng của Ngài. 11

Bấy giờ dân chúng Ba-by-lôn sẽ chạy trốn như nai bị săn đuổi, như chiên không người chăn. Ai nấy chạy trở lại với dân mình; mỗi người chạy trở về đất mình. 15 Người nào bị bắt sẽ bị giết; ai bị bắt giữ sẽ chết vì gươm. 16 Các con thơ của họ sẽ bị đánh chết ngay trước mắt họ. Nhà cửa sẽ bị cướp bóc, vợ họ bị hãm hiếp. 14

Nầy, ta sẽ khiến đạo quân Mê-đi tấn công Ba-by-lôn. Chúng không thèm bạc, cũng không màng đến vàng. Các binh sĩ chúng sẽ dùng tên bắn các thanh niên; chúng không tội nghiệp con trẻ, cũng chẳng thương hại trẻ thơ. 19 Ba-by-lôn là nước xinh đẹp nhất trong các nước, dân Ba-by-lôn [d] cũng rất hãnh diện về điều đó. Nhưng Thượng Đế sẽ tiêu diệt nó như tiêu diệt Xô-đôm và Gô-mô-rơ. 17 18

Sẽ không ai còn ở hay định cư tại đó nữa. Không người Á-rập nào dựng lều tại đó; cũng chẳng có kẻ chăn chiên nào mang bầy chiên mình đến đó. 21 Chỉ có thú hoang trong sa mạc ở đó, còn nhà cửa chúng sẽ là nơi trú của chó rừng. Chim cú sẽ làm tổ ở đó, dê rừng [e] sẽ nhảy tung tăng khắp nhà. 22 Chó sói sẽ tru giữa các vách thành kiên cố, chó rừng sẽ sủa giữa các tòa nhà sang trọng. Ngày tận số của Ba-by-lôn gần đến, thời kỳ của nó gần xong rồi.” 20

I-sai-a 14 Ít-ra-en sẽ hồi hương 14 CHÚA sẽ tỏ lòng từ bi đối với dân cư Gia-cốp, và Ngài sẽ lại chọn lựa dân Ít-ra-en. Ngài sẽ định cư họ trong xứ mình. Những dân ngoại quốc [a] sẽ nhập chung với dân Ít-ra-en và trở thành gia đình Gia-cốp. 2 Các dân tộc sẽ đưa Ít-ra-en về xứ mình. Bấy giờ đàn ông, đàn bà từ các dân khác sẽ làm nô lệ cho Ít-ra-en trong xứ của CHÚA. Trước kia dân Ít-ra-en làm nô lệ cho chúng, nhưng nay dân Ít-ra-en sẽ đánh bại các quốc gia đó và thống trị họ.

- 843 -


Vua Ba-by-lôn sẽ bị lật đổ 3

CHÚA sẽ cất sự nhọc nhằn khỏi Ít-ra-en và sẽ an ủi chúng. Chúng sẽ không còn làm cực như nô lệ nữa.

4

Trong ngày đó Ít-ra-en sẽ hát bài nầy về vua Ba-by-lôn:

Vua độc ác đã thống trị chúng ta không còn nữa; sự khống chế hung bạo của vua đã chấm dứt! 5 CHÚA đã bẻ cây trượng vàng của các kẻ cai trị độc ác, và đoạt lấy quyền lực của họ. 6 Trong cơn giận vua Ba-by-lôn đánh dân chúng nhiều lần. Vua đó thống trị các dân bằng thịnh nộ và luôn hành hạ họ. 7 Nhưng nay cả thế gian an nghỉ và bình yên. Bây giờ dân chúng cất tiếng hát. 8 Cho đến cây thông cũng vui mừng, cây hương nam của Li-băng cũng hớn hở. Chúng bảo, “Nhà vua đã đổ rồi, không còn đứng lên được nữa.” 9 Âm phủ rất vui mừng đón tiếp khi ngươi đến. Nó đánh thức các linh hồn kẻ chết, tức các lãnh tụ trên thế giới. Nó khiến vua của các dân tộc đứng dậy khỏi ngai mà chào mừng ngươi. 10 Các lãnh tụ đó sẽ chế giễu ngươi rằng, “Bây giờ ngươi cũng yếu ớt như chúng ta. Bây giờ ngươi cũng chẳng khác gì chúng ta.” 11 Sự kiêu căng ngươi đã đi xuống âm phủ với ngươi, Nhạc từ đờn cầm ngươi cũng đi theo luôn. Sâu bọ trải ra như cái giường bên dưới ngươi, và dòi bọ phủ trên ngươi như cái mền. 12 Hỡi vua Ba-by-lôn, ngôi sao mai, ngươi đã từ trời rơi xuống, dù ngươi vốn chói sáng như mặt trời đang mọc! Trước kia các dân tộc trên đất cúi lạy trước mặt ngươi, nhưng nay ngươi đã bị lật đổ. 13 Ngươi tự nhủ, “Ta sẽ lên trời. Ta sẽ đặt ngôi mình bằng với các ngôi sao của Thượng Đế. Ta sẽ ngồi ở Xa-phông [b], trên đồi của núi thánh. 14 Ta sẽ cất mình lên trên các từng mây. Ta sẽ như Đấng Tối Cao.” Nhưng ngươi đã bị đem xuống âm phủ, đến nơi sâu thẳm của mồ mả. 16 Những ai thấy ngươi cũng sững sờ. Họ nhìn điều xảy ra cho ngươi và nói, “Đây có phải là kẻ đã gây sợ hãi lớn lao trên đất, làm lung lay các nước, 17 biến thế giới ra sa mạc, tiêu diệt các thành phố, bắt các tù binh trong chiến tranh và từ chối thả họ trở về nhà không?” 18 Các vua trên đất đã được chôn cất trong vinh dự, mỗi người được chôn trong mồ mả mình. 15

- 844 -


Nhưng ngươi bị ném khỏi mồ ngươi, như một xác chết sình thối ghê tởm. Ngươi bị bao phủ bởi các thây chết vì chiến trận, bởi các xác sẽ được chôn trong hầm đá. Ngươi như thây ma bị các lính khác dẫm lên. 20 Ngươi sẽ không được chôn với các thây ma ấy, vì ngươi đã tàn phá xứ sở ngươi và giết hại dân chúng ngươi. Con cái của các kẻ gian ác sẽ không bao giờ được ai nhắc đến trở lại. 19

Hãy chuẩn bị giết con cái nó, vì cha chúng nó có tội. Chúng sẽ không bao giờ kiểm soát đất đai được nữa; chúng sẽ không bao giờ xây cất các thành phố tràn đầy mặt đất. 21

CHÚA Toàn Năng phán như sau: “Ta sẽ đánh các dân đó; Ta sẽ tiêu hủy Ba-by-lôn và dân cư, con cái và dòng dõi nó,” CHÚA phán vậy. 22

“Ta sẽ khiến Ba-by-lôn thành chỗ ở cho thú vật [c] và cho đầm lầy. Ta sẽ lấy chổi hủy diệt quét Ba-bylôn,” CHÚA Toàn Năng phán như vậy. 23

Thượng Đế sẽ trừng phạt A-xy-ri CHÚA Toàn Năng cam kết như sau: “Những điều sau đây sẽ xảy ra đúng y như ta dự định; chúng sẽ xảy ra y như ta đã sắp đặt. 25 Ta sẽ tiêu diệt vua A-xy-ri trong xứ ta; Ta sẽ chà đạp nó trên núi ta. Nó đặt gánh nặng trên dân ta, nhưng gánh nặng đó sẽ được lấy đi. 26 Đây là điều ta dự định làm cho cả đất. Đây là bàn tay ta đã giơ lên trên các dân tộc.” 24

Khi CHÚA Toàn Năng hoạch định, thì không ai ngăn cản nổi. Khi CHÚA giơ tay lên trừng phạt người ta, thì không ai ngăn cản Ngài được. 27

Tuyên ngôn của Thượng Đế nghịch cùng Phi-li-tin 28

Đây là sứ điệp [d] được loan báo trong năm vua A-cha qua đời [e]:

Xứ Phi-li-tin ơi, đừng vội mừng vì vua trước đây tấn công ngươi đã chết. Người như con rắn sinh ra rắn độc khác. Vua mới sẽ như một con rắn nguy hiểm, lanh lẹ cắn ngươi. 30 Ngay như những kẻ nghèo khó nhất của dân ta cũng sẽ ăn uống thỏa thích, và những người khốn cùng sẽ nằm nghỉ bình yên. Nhưng ta sẽ giết gia đình ngươi bằng nạn đói kém, và những ai còn sót lại của ngươi sẽ chết. 29

31

Dân cư gần cổng thành ơi, hãy kêu khóc đi! Hỡi Phi-li-tin, hãy hoảng sợ vì một đám bụi sẽ thổi đến từ phương bắc.

Đó là một đạo quân sẵn sàng chiến đấu [f] không ai chậm trễ. 32 Chúng ta sẽ bảo các sứ giả của nước ấy như thế nào? Hãy nói rằng CHÚA đã khiến Giê-ru-sa-lem thêm mạnh và những kẻ nghèo khó của Ngài sẽ đến đó để tìm sự an ninh.

- 845 -


I-sai-a 15 Tuyên ngôn cho Mô-áp 15 Đây là tuyên ngôn cho Mô-áp: Trong đêm mà thành A-rơ bị tiêu diệt thì Mô-áp cũng hoang tàn. Trong đêm mà Kiệt bị tiêu diệt thì Mô-áp cũng hoang phế. 2 Dân Đi-bôn [a] đi đến các nơi thờ phụng [b] để than khóc. Dân Mô-áp than khóc cho các thành Nê-bô [c] và Mê-đê-ba [d]. Mọi đầu và râu đều cạo nhẵn nhụi để tỏ nỗi sầu thảm của Mô-áp. 3 Trong phố chúng mặc vải sô để tỏ nỗi đau buồn. Trên nóc nhà và nơi công viên, chúng kêu khóc thảm thiết. Dân cư của các thành Hết-bôn và Ê-lê-a-lê kêu khóc. Ngươi có thể nghe tiếng khóc của chúng nó từ xa trong thành Gia-hát. Ngay đến các chiến sĩ Mô-áp cũng sợ sệt; chúng run lên vì kinh sợ. 4

Lòng ta khóc than vì đau buồn cho Mô-áp. Dân cư nó chạy trốn đến Xoa để trú ẩn; chúng chạy đến Ếch-la Sê-li-si-gia. Dân chúng chạy lên con đường trên núi để đi đến Lu-hít, vừa đi vừa khóc. Dân chúng đi trên đường đến Hô-rô-na-im, than khóc về cảnh điêu tàn của mình. 6 Nhưng nước ở Nim-rim đã khô cạn. Cỏ đều chết héo, cây cối đều chết; không còn thứ gì xanh cả. 7 Cho nên dân chúng thu góp những gì còn vớt vát được rồi mang chúng sang Hố Cây Liễu. 5

Người ta nghe tiếng khóc khắp nơi trong Mô-áp. Tiếng khóc chúng nó ở tận thành Ếch-la-im cũng nghe thấy; Tận thành Bê-e Ê-lim xa lắc cũng nghe tiếng khóc. 9 Nước của thành Đi-môn [e] đầy máu, và ta, CHÚA, sẽ mang thêm khốn khổ cho Đi-môn. Một số dân sống ở Mô-áp đã trốn thoát khỏi kẻ thù, nhưng ta sẽ sai sư tử giết chúng nó. 8

I-sai-a 16 16 Hãy gởi triều cống cho lãnh tụ của xứ. Hãy gởi một con chiên con từ Sê-la qua sa mạc đến núi của Con gái Xi-ôn [a]. 2

Các người đàn bà Mô-áp tìm cách băng qua sông Ạc-nôn như chim con rơi ra khỏi tổ.

- 846 -


Họ bảo: “Hãy giúp chúng tôi. Bảo chúng tôi phải làm sao. Hãy bảo vệ chúng tôi khỏi tay kẻ thù như bóng mát che chúng tôi khỏi ánh mặt trời buổi trưa. Xin hãy giấu chúng tôi, vì chúng tôi chạy tìm nơi an toàn! Đừng trao chúng tôi vào tay kẻ thù. 4 Hãy để những ai trong chúng tôi bị đuổi ra khỏi Mô-áp sống trong xứ ngươi. Xin giấu chúng tôi khỏi kẻ thù.” 3

Cảnh cướp bóc Mô-áp sẽ chấm dứt. Kẻ thù sẽ bị đánh bại; những kẻ hiếp đáp người khác sẽ biến mất khỏi xứ. 5 Rồi một vua mới trung thành sẽ đến; vua trung thành nầy sẽ xuất thân từ nhà Đa-vít [b]. Người sẽ phân xử công bằng và làm điều phải. Chúng ta đã nghe rằng dân Mô-áp rất kiêu căng tự phụ. Chúng rất hợm hĩnh và nóng giận, nhưng sự khoác lác của chúng không ra gì. 7 Vì thế dân Mô-áp sẽ khóc lóc; chúng nó sẽ buồn thảm. Chúng sẽ than vãn về các bánh nho khô mà chúng đã ăn trong Kiệt Ha-rê-sết [c]. 8 Nhưng các ruộng của Hết-bôn và cây nho của Xíp-ma không thể ra trái; các kẻ cầm quyền ngoại quốc đã tiêu diệt các dây nho. Kẻ thù đã tới Gia-xe, tràn đến sa mạc và ra đến tận biển [d]. 9 Ta than khóc với dân Gia-xe về các dây nho Xíp-ma. Ta than khóc với dân Hết-bôn và Ê-lê-a-lê. Sẽ không có tiếng reo vui, vì sẽ không còn mùa gặt hay trái cây chín nữa. 10 Sẽ không còn cảnh hớn hở vui mừng trong vườn cây ăn trái không còn bài ca và tiếng reo vui trong vườn nho. Không ai làm rượu nơi bàn ép rượu nữa, vì ta đã làm tắt tiếng mừng rỡ. 11 Lòng ta khóc cho Mô-áp như đờn cầm đánh bản ai ca; Ta rất đau buồn cho Kiệt Ha-sê-rết. 12 Dân Mô-áp sẽ đi đến nơi thờ phụng để cầu khẩn. Nhưng khi chúng đi đến đền thờ cầu nguyện cũng chẳng được nghe. 6

Trước đây CHÚA đã phán những lời nầy về Mô-áp. 14 Nhưng nay CHÚA phán, “Trong ba năm nữa, tức thời gian người làm thuê tính công, cả chúng nó và niềm kiêu căng chúng sẽ bị ghét bỏ. Chỉ sẽ còn sót lại một số rất ít người nhưng vô cùng yếu ớt.” 13

I-sai-a 17 Tuyên ngôn của Thượng Đế nghịch cùng A-ram 17 Sau đây là sứ điệp [a] về Đa-mách [b]: “Thành Đa-mách sẽ bị tiêu hủy; chỉ còn lại đống hoang tàn. - 847 -


Dân chúng sẽ bỏ các thành ở A-rô-e [c]. Các đàn súc vật sẽ đi thong dong trong các thị trấn bỏ hoang đó, không ai ngăn cản. 3 Các thành có vách kiên cố trong Ép-ra-im sẽ bị tiêu hủy. Chính phủ Đa-mách sẽ không còn. Những kẻ còn sót lại trong A-ram sẽ giống như vinh hiển Ít-ra-en,” Chúa Toàn Năng phán vậy. 2

4

“Lúc đó của cải Ít-ra-en sẽ tiêu tan. Ít-ra-en sẽ giống như những kẻ ốm yếu vì bệnh hoạn.

Lúc đó sẽ như mùa gặt lúa trong thung lũng Rê-pha-im [d]. Các nhân công gặt lúa mì. Cắt các bông lúa và gom về. 5

Lúc đó cũng sẽ giống như mùa gặt ô liu, chỉ còn sót lại một vài trái. Chỉ có hai ba trái ô liu còn lại nơi các nhánh trên cùng. Chỉ còn bốn hoặc năm trái còn sót trên các nhánh,” CHÚA, là Thượng Đế của Ít-ra-en phán vậy. 6

Lúc đó người ta sẽ hướng về Thượng Đế, Đấng Tạo Hóa mình; mắt của họ sẽ nhìn Đấng Thánh của Ít-raen. 8 Họ sẽ không còn tin tưởng nơi những bàn thờ mình đã xây, cũng sẽ không tin điều tay mình làm ra, không tin cả đến tượng A-sê-ra và bàn thờ [e] của họ. 9 Trong ngày đó các thành kiên cố sẽ bỏ hoang. Chúng sẽ giống như các thành của dân Hê-vít và A-mô-rít [f] để lại khi dân Ít-ra-en đến chiếm xứ. Mọi vật đều sẽ bị tiêu hủy. 10 Các ngươi đã quên Thượng Đế là Đấng cứu các ngươi; không nhớ Thượng Đế là nơi trú ẩn an toàn của mình. 7

Các ngươi trồng dây nho tốt nhất và các cây nho lấy từ xứ xa. 11 Ngươi trồng dây nho hôm nay và mong nó mọc lên, hôm sau ngươi ao ước nó trổ bông. Nhưng đến mùa gặt mọi thứ đều chết; các cây sẽ bị bệnh mà chết. Hãy nghe tiếng vô số người! Nghe như tiếng ồn ào của biển cả. Hãy lắng nghe tiếng của các dân! Nghe như tiếng của sóng vỗ ào ào. 13 Chúng gầm thét như sóng cồn, nhưng khi Thượng Đế quở trách, chúng sẽ bỏ chạy. Như trấu trên đồi bị gió thổi bay, hay những bụi cỏ dại bị giông bão thổi đi. 14 Ban đêm chúng sẽ hoảng sợ, Trước rạng đông, sẽ không còn ai sót lại. Kẻ thù sẽ đến trong xứ chúng ta nhưng chẳng làm được gì. 12

I-sai-a 18 Tuyên ngôn của Thượng Đế nghịch cùng Cút 18 Khốn cho xứ bên kia sông Cút, xứ đầy tiếng vỗ cánh ào ào.

- 848 -


Nó sai các sứ giả băng qua biển; lướt trên nước trong các thuyền bằng lau sậy [a]. Hãy đi nhanh lên, hỡi các sứ giả, đến với một dân tộc người cao da mịn, dân mà ai nấy đều kinh sợ. Chúng là một dân hùng mạnh đã đánh bại các dân tộc khác. Đất chúng có các con sông phân nhánh. 2

Hỡi dân cư trên đất, hãy nhìn! Mọi người sống trên thế giới, hãy trông! Các ngươi sẽ thấy một lá cờ giương trên núi. Các ngươi sẽ nghe tiếng kèn. 3

CHÚA phán cùng tôi, “Ta sẽ từ nơi ta ở [b] lặng lẽ quan sát, như hơi nắng nóng, như sương trong sức nóng mùa gặt. 5 Sẽ đến lúc, sau khi hoa đã nở và trước mùa gặt, khi nho mới sẽ nẩy mầm và lớn lên thì kẻ thù sẽ dùng dao tỉa hết nhánh; cắt dây nho mang đi. 6 Các cây đó sẽ dành cho chim trên núi và muông thú. Chim muông sẽ dùng chúng để nuôi thân suốt mùa hạ, và muông thú sẽ ăn chúng trong mùa đông ấy.” 4

Lúc đó người ta sẽ mang của dâng cho Chúa Toàn Năng từ những dân tộc người cao da mịn, mà khắp nơi ai cũng sợ. Chúng là dân đã chiến thắng các quốc gia khác. Xứ chúng có sông phân nhánh [c]. Những của dâng ấy sẽ được mang đến Núi Xi-ôn, nơi ở của Chúa Toàn Năng. 7

I-sai-a 19 Tuyên ngôn nghịch cùng Ai-cập 19 Đây là tuyên ngôn [a] dành cho Ai-cập: Nầy, CHÚA đến như đám mây bay nhanh vào Ai-cập. Các thần tượng nó sẽ run sợ trước mặt Ngài, và Ai-cập sẽ không còn can đảm. CHÚA phán, “Ta sẽ khiến cho dân Ai-cập tự đánh lẫn nhau. Thân nhân đánh thân nhân; láng giềng đánh láng giềng; thành đánh thành; vương quốc đánh vương quốc [b]. 3 Người Ai-cập sẽ hoảng sợ, ta sẽ phá hỏng kế hoạch chúng. Chúng sẽ cầu hỏi thần tượng mình và các vong linh người đã chết, hỏi các đồng bóng và thầy bói.” 4 Chúa Toàn Năng phán, “Ta sẽ trao Ai-cập cho một ông chủ khắc nghiệt, một vua hùng mạnh sẽ cai trị chúng.” 2

Biển sẽ khô cạn, nước sẽ biến mất khỏi sông Nin. 6 Các kênh rạch sẽ hôi thúi [c]; và các suối nước của Aicập sẽ khô cạn. Các cây mọc dưới nước sẽ thối; 7 các cây dọc theo bờ sông Nin sẽ chết. Ngay cả các cây mọc trong đồng bên bờ sông Nin sẽ khô héo, bị gió thổi đi, và biến mất. 5

Những người đánh cá cùng những kẻ bắt cá trong sông Nin, sẽ than khóc; những kẻ đánh cá trên sông Nin sẽ buồn rầu. 9 Những kẻ dùng cây đay dệt thành vải sẽ rầu rĩ, và những thợ dệt vải trắng sẽ tuyệt vọng. 10 Những thợ dệt vải sẽ phá sản, và kẻ làm công kiếm tiền sẽ thảm sầu. 8

Các viên chức của thành phố Xoan [d] toàn là đồ ngu ngốc; những cố vấn khôn ngoan cho vua Ai-cập đưa ra ý kiến bậy bạ. Làm sao các ngươi nói được cùng vua rằng, “Tôi là dòng dõi của những người khôn ngoan”? Làm sao ngươi bảo rằng, “Tôi là dòng vua xưa kia”? 12 Hỡi Ai-cập, kẻ khôn ngoan của ngươi đâu? Bảo chúng cho ngươi biết điều Chúa Toàn Năng đã định cho Ai-cập đi. 11

Các viên chức của Xoan đã bị gạt; các lãnh tụ của Mem-phít [e] tin chuyện nhảm. Cho nên các lãnh tụ Aicập hướng dẫn dân mình đi lầm lạc. 14 CHÚA đã khiến các lãnh tụ đó hoang mang. Chúng hướng dẫn dân Ai-cập đi lang thang không lối, như người say sờ soạng trong đồ mình mửa ra. 15 Ai-cập bó tay, dù sang hay hèn, lãnh tụ hay thường dân, không ai giúp nó được. 13

- 849 -


Trong ngày đó dân Ai-cập sẽ như đàn bà. Chúng sẽ khiếp sợ CHÚA Toàn Năng, vì Ngài sẽ giơ tay lên phạt chúng. 17 Đất Giu-đa sẽ làm cho Ai-cập hoảng sợ. Ai nghe đến tên Giu-đa cũng sẽ kinh khiếp, vì CHÚA Toàn Năng đã định nghịch cùng chúng. 18 Lúc đó năm thành trong Ai-cập sẽ nói tiếng Hê-bơ-rơ, ngôn ngữ của xứ Ca-na-an. Họ sẽ cam kết trung thành cùng CHÚA Toàn Năng. Một trong các thành đó sẽ có tên là Thành Hủy Diệt [f]. 16

Lúc đó sẽ có một bàn thờ cho CHÚA giữa xứ Ai-cập và một đền kỷ niệm cho CHÚA ở biên giới Ai-cập. Đây là dấu hiệu và nhân chứng cho CHÚA Toàn Năng trong xứ Ai-cập. Khi dân chúng kêu xin CHÚA cứu giúp thì Ngài sai người đến cứu và bênh vực họ. Ngài sẽ giải cứu họ khỏi những kẻ ức hiếp họ. 19 20

CHÚA sẽ tỏ mình cho dân Ai-cập, họ sẽ biết Ngài là CHÚA. Họ sẽ thờ lạy Thượng Đế và dâng của lễ. Họ sẽ hứa nguyện [g] cùng CHÚA và giữ lời hứa đó. 22 CHÚA sẽ trừng phạt dân Ai-cập, nhưng Ngài sẽ chữa lành cho họ. Họ sẽ trở lại cùng Ngài, Ngài sẽ nghe lời cầu khẩn của họ và chữa lành họ. 21

Lúc đó sẽ có một đường cái chạy từ Ai-cập đến A-xy-ri. Người A-xy-ri sẽ đi đến Ai-cập, và người Ai-cập sẽ đi đến A-xy-ri. Cả người Ai-cập lẫn A-xy-ri đều sẽ cùng thờ lạy Thượng Đế [h]. 24 Lúc đó Ít-ra-en, A-xyri, và Ai-cập sẽ hiệp chung nhau. Họ sẽ trở thành nguồn phước cho cả thế giới. 25 CHÚA Toàn Năng sẽ chúc phước cho họ rằng, “Hỡi Ai-cập, ngươi là dân ta. Hỡi A-xy-ri, ta đã dựng nên ngươi. Hỡi Ít-ra-en, ngươi là sản nghiệp ta. Tất cả các ngươi đều sẽ được phước!” 23

I-sai-a 20 A-xy-ri sẽ chiến thắng Ai-cập và Cút 20 Sạt-gôn [a], vua A-xy-ri sai một viên chỉ huy đến tấn công Ách-đốt. Viên chỉ huy đó tấn công và chiếm được thành. 2 Rồi CHÚA phán cùng Ê-sai, con trai A-mốt rằng, “Hãy cởi quần áo vải sô khỏi ngươi, cùng dép khỏi chân ngươi.” Vậy Ê-sai làm theo, ở trần đi chân đất. CHÚA phán, “Ê-sai, tôi tớ ta ở trần đi chân đất trong ba năm để làm dấu hiệu nghịch lại Ai-cập và Cút. Vua A-xy-ri sẽ mang các tù nhân đi khỏi Ai-cập và Cút. Mọi người từ già đến trẻ đều sẽ bị dẫn đi ở trần, chân không, phơi bày mông ra. Người Ai-cập sẽ cảm thấy nhục nhã. 5 Ai trông chờ Cút giúp đỡ sẽ hoảng sợ, còn ai sững sờ về sự huy hoàng của Ai-cập sẽ xấu hổ. 3 4

Dân cư sống gần biển sẽ bảo, ‘Hãy nhìn các nước đó. Chúng ta trông mong họ giúp đỡ chúng ta. Chúng ta chạy đến mong họ cứu chúng ta khỏi tay vua A-xy-ri. Như thế làm sao chúng ta thoát được?’” 6

I-sai-a 21 Tuyên ngôn nghịch cùng Ba-by-lôn 21 Đây là tuyên ngôn [a] nghịch cùng xứ sa mạc gần biển [b]: Thảm họa sẽ đến từ sa mạc như gió nam thổi đến. Thảm hoạ tới từ một xứ kinh khủng. 2 Ta đã nhìn thấy một hiện tượng đáng sợ. Ta thấy những kẻ phản bội bị phản bội và những kẻ phá hoại bị phá hoại. Hỡi Ê-lam, hãy tấn công dân chúng! Hỡi Mê-đi, hãy vây thành và tấn công nó! Ta sẽ chấm dứt sự đau khổ do thành đó gây ra.

- 850 -


Ta đã thấy những việc kinh khủng, và bây giờ đây ta đau đớn; cái đau của ta như người đàn bà đau đẻ. Điều ta nghe làm ta kinh sợ; Điều ta thấy khiến ta run rẩy. 4 Ta lo âu và run sợ. Buổi chiều êm đềm của ta đã biến ra đêm kinh hoàng. 3

Chúng bày bàn ăn; chúng trải thảm; chúng ăn uống. Hỡi các lãnh tụ, hãy đứng lên. Hãy chuẩn bị khiên để chiến đấu! 5

CHÚA phán cùng ta, “Hãy đi đặt lính canh cho thành, bảo nó báo cáo những gì trông thấy. 7 Nếu nó thấy quân xa, ngựa, lừa hay lạc đà, thì phải để ý đặc biệt.” [c] 6

8

Nếu người lính canh [d] kêu lên,

“Chủ ơi, mỗi ngày tôi đứng trên vọng canh [e] trông chừng; mỗi đêm tôi trực gác. 9 Nầy, tôi thấy một người cỡi quân xa do một đoàn ngựa kéo [f].” Người đó kêu lên, “Ba-by-lôn đã sụp đổ rồi! Nó sụp đổ rồi! Các thần tượng nó nằm bể tan tành trên mặt đất.” Dân ta bị chà nát như lúa trên sân đập lúa. Hỡi dân ta, ta cho các ngươi biết điều ta nghe từ Đấng Toàn Năng, từ Thượng Đế của Ít-ra-en. 10

Tuyên ngôn của Thượng Đế nghịch cùng Ê-đôm 11

Đây là tuyên ngôn về Đu-ma [g]:

Có kẻ từ Ê-đôm [h] gọi ta, “Nầy người gác, đêm còn bao lâu nữa? Nầy người gác, chừng nào thì hết đêm?” Người gác trả lời, “Buổi sáng đến, nhưng đêm cũng sẽ tới. Nếu ngươi muốn hỏi thì lát nữa hãy đến [i] mà hỏi.” 12

Tuyên ngôn của Thượng Đế nghịch cùng Á-rập 13

Đây là tuyên ngôn về Á-rập:

Một đoàn thương gia từ Đê-đăng ngủ đêm gần trong một khu rừng ở Á-rập. 14 Chúng cấp nước cho lữ khách đang khát; Dân cư Thê-ma cấp thức ăn cho họ. 15 Họ chạy trốn tránh lưỡi gươm, khỏi các lưỡi gươm giết hại, khỏi các cây cung nhắm bắn, khỏi cuộc chiến tàn khốc. - 851 -


CHÚA phán cùng tôi như sau: “Một năm nữa sự huy hoàng của xứ Kê-đa sẽ không còn. (Tức thời gian tính cho người làm thuê.) 17 Lúc đó chỉ còn rất ít lính cầm cung, trong đám lính Kê-đa sống sót.” CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en phán vậy. 16

I-sai-a 22 Tuyên ngôn cho Giê-ru-sa-lem 22 Đây là tuyên ngôn [a] về Thung lũng Hiện thấy [b]: Dân ngươi làm sao vậy? Tại sao ngươi đứng trên mái nhà? 2 Thành nầy phồn hoa, đầy tiếng huyên náo và tiệc tùng say sưa. Bây giờ dân ngươi đã bị giết, không phải bằng gươm, cũng không phải do chiến trận. Các lãnh tụ ngươi cùng nhau chạy trốn, nhưng đều bị bắt dù không tốn mũi tên nào [c]. Những người bị bắt là những người chạy trốn trước khi quân thù tới. 4 Nên ta bảo, “Đừng nhìn ta. Hãy để ta khóc to lên. Đừng vội an ủi ta về sự tàn phá của dân yêu dấu ta.” 3

CHÚA Toàn Năng đã chọn một ngày cho hỗn loạn. Người ta sẽ dẫm lên nhau trong Thung lũng Hiện Thấy. Vách thành sẽ bị phá sập, và người ta sẽ kêu la cùng núi non. 6 Các lính tráng từ Ê-lam sẽ gom các mũi tên lại cùng các quân xa và lính cỡi ngựa. Kiệt sẽ chuẩn bị khiên. 7 Các thung lũng xinh đẹp nhất của ngươi sẽ tràn ngập quân xa. Các lính cỡi ngựa sẽ được lệnh canh gác các cổng thành. 8 Các vách thành bảo vệ Giu-đa [d] sẽ sụp đổ. Lúc đó dân cư Giê-ru-sa-lem sẽ trông cậy vào các vũ khí cất giữ ở Cung điện trong Rừng [e]. 5

Ngươi thấy các vách thành Đa-vít có nhiều kẽ nứt cần được sửa chữa. Ngươi trữ nước trong hồ dưới. Ngươi đếm nhà cửa trong Giê-ru-sa-lem, và phá sập chúng để lấy đá sửa chữa vách thành. 11 Ngươi đào hồ nước giữa hai vách [f] để dành nước từ hồ cũ [g], nhưng ngươi không tin cậy vào Thượng Đế là Đấng làm các việc đó; ngươi không kính sợ Đấng đã trù liệu các việc ấy từ xưa. 9

10

CHÚA Toàn Năng bảo dân chúng khóc than buồn thảm, cạo đầu và mặc bao gai. 13 Nhưng xem kìa, dân chúng lại vui mừng và mở tiệc tùng say sưa. 12

Chúng giết bò và chiên; ăn nhậu say sưa và bảo nhau, “Chúng ta hãy ăn uống no say, vì ngày mai chúng ta sẽ chết.” CHÚA Toàn Năng phán cùng tôi rằng: “Dân chúng sẽ chết trước khi tội nầy được tha.” CHÚA là Thượng Đế Toàn Năng phán như vậy. 14

- 852 -


Tuyên ngôn cho Sép-na CHÚA Toàn Năng phán: “Hãy đi đến Sép-na, quản lý cung điện. 16 Bảo nó rằng, ‘Ngươi làm gì ở đây? Đâu có thân nhân nào của người được chôn cất ở đây? Tại sao ngươi chuẩn bị mả cho mình nơi cao thế nầy? Tại sao ngươi đục huyệt mả trong đá? 15

Nầy, người mạnh sức! CHÚA sẽ quăng ngươi đi. Ngài sẽ túm bắt ngươi 18 và cuốn ngươi thành một quả banh rồi ném ngươi vào một xứ khác. 17

Ngươi sẽ chết ở đó, nhưng các quân xa của ngươi sẽ còn lại. Ngươi sẽ là một điều sỉ nhục cho nhà chủ ngươi. 19 Ta sẽ khiến ngươi mất chức trọng, và sẽ ném ngươi ra khỏi địa vị cao sang của ngươi.’ 20 Lúc đó ta sẽ gọi tôi tớ là Ê-li-a-kim, con trai Hinh-kia. 21 Ta sẽ cởi áo dài ngươi ra, mặc cho người và cho người dây nịt của ngươi. Ta sẽ trao cho người chức trọng ngươi đang giữ, người sẽ giống như cha của dân Giê-ru-salem và gia đình Giu-đa [h]. Ta sẽ đeo chìa khóa nhà Đa-vít quanh cổ người. Nếu người mở, thì không ai đóng được; và nếu người đóng thì không ai mở được. 23 Người sẽ như một ghế danh dự trong nhà cha mình. Ta sẽ làm cho người mạnh mẽ như một cái đinh máng đóng chặt vào vách. 24 Những gì vinh dự và quan trọng trong gia đình người sẽ lệ thuộc vào người; từ người lớn đến trẻ nhỏ. Họ sẽ như chén bát và chai lọ máng trên người.” 22

CHÚA Toàn Năng phán, “Lúc đó cái đinh máng chặt sẽ suy yếu. Nó sẽ gãy và rớt ra, rồi những gì máng trên nó sẽ bị tiêu hủy.” CHÚA phán vậy. 25

I-sai-a 23 Tuyên ngôn cho Li-băng 23 Đây là tuyên ngôn cho Tia: Hỡi các tàu buôn Tạt-si [a], hãy than khóc lên! Vì các nhà cửa và bến tàu của Tia đã bị tiêu hủy rồi. Tin tức đó truyền đến cho các tàu bè từ đảo Chíp. Hãy im lặng, hỡi các ngươi là kẻ sống trên đảo Tia; hỡi các thương gia của Xi-đôn, hãy im lặng. Các thủy thủ đã khiến ngươi giàu có. 3 Chúng ra khơi để mang thóc gạo về từ Ai-cập; các thủy thủ của Tia mang thóc gạo về từ thung lũng sông Nin, và bán cho các nước khác. 2

Hỡi Xi-đôn, hãy xấu hổ đi! Hỡi Đồn của Biển [b] hãy xấu hổ, vì biển lên tiếng rằng: “Khi ta sinh, ta chẳng thấy đau đẻ; Ta không nuôi dưỡng các thanh niên thiếu nữ ngươi.” 4

Ai-cập sẽ nghe tin tức về Tia, tin đó sẽ làm cho Ai-cập đau buồn. 6 Các thuyền bè ngươi nên trở về Tạt-si. Dân ngươi sống gần biển hãy buồn rầu. 7 Hãy nhìn thành ngươi trước kia vui vẻ bao nhiêu! Hãy nhìn thành xưa cổ của ngươi! Dân cư thành đó đã đi định cư nơi xa [c]. 5

- 853 -


Ai đã dự định phá hủy thành Tia? Thành Tia đã mang giàu có đến cho các thành khác. Các thương gia nó được đối xử như bậc vương giả, và các con buôn nó được trọng vọng. 9 Chính CHÚA Toàn Năng đã hoạch định điều nầy. Ngài hạ những dân tự phụ nầy xuống; và làm sỉ nhục những kẻ trước kia được trọng vọng. 10 Hãy đi qua đất ngươi, hỡi dân Tạt-si, như sông Nin chảy qua Ai-cập. Bây giờ không còn bến đậu nào cho ngươi nữa! 11 CHÚA đã giơ tay ra trên biển khiến các nước rung động. Ngài ra lệnh cho các thành có vách kiên cố của Ca-na-an bị tiêu diệt. 12 Ngài phán, “Xi-đôn [d] ơi, ngươi sẽ không còn hớn hở nữa, vì ngươi đã bị tiêu diệt. Dù cho ngươi băng qua biển đến Chíp [e], cũng chẳng tìm được nơi an nghỉ đâu.” 8

Hãy nhìn đất dân Ba-by-lôn kìa; bây giờ đâu còn là nước nữa. A-xy-ri đã biến nó ra nơi ở của muông thú. A-xy-ri xây tháp để tấn công nó; các lính tráng nó lấy tất cả các của báu từ các thành nó, và biến chúng ra điêu tàn. 14 Hỡi các tàu buôn, hãy rầu rĩ đi, vì thành vững chãi của các ngươi đã bị tiêu diệt rồi. 13

Lúc đó người ta sẽ quên bẵng Tia trong bảy mươi năm, tức bằng một đời vua. Sau bảy mươi năm, Tia sẽ như cô gái điếm trong bài ca nầy: 15

“Hỡi cô gái điếm bị lãng quên kia ơi! Hãy lấy đờn cầm của chị mình và đi dạo qua thành. Hãy gảy đờn cho hay. Hãy hát nghêu ngao ca bài của mình. Thì sẽ được người đời nhớ đến.” 16

Sau bảy mươi năm, CHÚA sẽ xét lại trường hợp của Tia và định đoạt số phận nó. Việc kinh doanh của nó sẽ lại tái tục. Nó sẽ như gái điếm cho các dân trên đất. 18 Những doanh lợi của nó sẽ để dành cho CHÚA. Tia sẽ không cất giữ tiền mình kiếm được nhưng sẽ ban nó cho những ai phục vụ CHÚA để họ dư ăn dư mặc. 17

I-sai-a 24 Chúa sẽ trừng phạt thế gian 24 Nầy! CHÚA sẽ tiêu diệt xứ nầy [a] khiến nó hoang vu; Ngài sẽ tiêu hủy mặt đất và phân tán dân cư nó.

- 854 -


Lúc đó ai nấy đều đồng chung số phận: thường dân cũng như thầy tế lễ, nô lệ đàn ông cũng như chủ nhân, nữ nô lệ cũng như nữ chủ nhân, kẻ bán cũng như người mua, người vay cũng như kẻ cho vay, chủ nợ cũng như con nợ. 3 Đất sẽ hoàn toàn hoang vu. Của cải sẽ bị cướp đi, vì CHÚA ra lệnh đó. 4 Đất sẽ khô cằn và tiêu điều; thế giới sẽ héo mòn và biến mất; các đại lãnh tụ trong đất nầy sẽ mòn mỏi. 5 Dân cư trên đất đã tàn hại nó, vì chúng không đi theo lời giáo huấn của Thượng Đế, không vâng theo luật lệ Ngài, không tôn trọng giao ước với Thượng Đế là giao ước còn mãi mãi. 6 Cho nên sự nguyền rủa sẽ tiêu diệt đất, Dân trên thế gian có tội, nên sẽ bị tiêu diệt; chỉ còn lại một số ít. 7 Rượu mới sẽ hư, và cây nho sẽ chết. Những ai trước đây vui vẻ sẽ buồn rầu. 8 Sẽ không còn tiếng trống cơm tưng bừng, Tiếng tiệc liên hoan sẽ ngưng. Tiếng đờn cầm náo nức sẽ dứt. 2

Dân chúng không còn ca hát đang khi uống rượu. Bia sẽ hóa đắng cho kẻ nào uống nó. 10 Thành điêu tàn sẽ bị hoang vu, Mọi nhà sẽ đóng cửa kín mít không cho ai vào. 11 Người đi ngoài phố sẽ xin rượu, nhưng niềm vui sẽ biến nên sầu thảm; vì tất cả thú vui trên đời đã vỗ cánh bay đi. 12 Thành sẽ hoá ra điêu tàn, các cổng thành đều bể nát vụn. 9

Đó là điều sẻ xảy ra trên khắp đất cho tất cả mọi nước. Đất sẽ như cây ô liu sau mùa gặt hái, chỉ còn một vài trái nho sót trên cành sau mùa hái nho. 14 Dân chúng reo vui. Từ phương tây, họ ca tụng sự cao cả của CHÚA. 15 Hỡi dân phương đông, hãy ca tụng CHÚA. Hỡi dân trong các hải đảo, hãy ca ngợi danh CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en. 16 Từ khắp nơi trên đất chúng ta nghe các bài ca tán dương Thượng Đế, Đấng Công bình. Nhưng tôi nói, “Tôi đang hấp hối, tôi đang hấp hối! Khốn cho tôi! Những kẻ phản bội đã hại dân chúng; dùng lối lường gạt, chúng đã hại dân chúng.” 13

- 855 -


Dân cư trên đất sẽ gặp kinh hoàng, vấp phải hố, và bẫy. 18 Ai thoát được tiếng kinh hoàng sẽ rơi vào hố. Ai trèo ra khỏi hố sẽ bị sập bẫy. Mây sẽ đổ mưa xuống, và nền trái đất sẽ rung chuyển mạnh. 19 Mặt đất sẽ bể ra; đất sẽ nứt nẻ; đất sẽ rung chuyển mạnh. 20 Đất sẽ xiêu vẹo như người say; nó sẽ rung chuyển như lều gặp bão. Tội lỗi nó như gánh nặng trên lưng nó; nó sẽ ngã không ngồi dậy được. 17

Lúc đó CHÚA sẽ trừng phạt các thế lực trên trời và các quan quyền dưới đất. 22 Chúng sẽ nhóm lại như những tù nhân bị ném vào ngục tối; chúng sẽ bị nhốt vào ngục [b]. Bị trừng phạt một thời gian lâu. 23 Mặt trăng sẽ ngượng ngùng, mặt trời sẽ xấu hổ, vì CHÚA Toàn Năng sẽ làm vua cai trị trên núi Xi-ôn trong Giê-ru-sa-lem. Các lãnh tụ Giê-ru-sa-lem sẽ nhìn thấy sự oai nghi của Ngài. 21

I-sai-a 25 Bài ca tụng Thượng Đế 25 Lạy CHÚA, Ngài là Thượng Đế tôi. Tôi tôn trọng và ca tụng Ngài, vì Ngài đã làm những việc diệu kỳ. Ngài luôn luôn làm điều Ngài phán; và thực hiện điều Ngài hoạch định từ xưa. 2 Ngài đã biến thành phố ra đống đá vụn và tiêu hủy nó. Đền đài của kẻ thù nay không còn nữa; nó sẽ không được ai xây lại. 3 Dân cư từ các nước hùng cường sẽ tôn kính Ngài; thành phố của các dân hung bạo sẽ sợ hãi Ngài. 4 Ngài che chở kẻ nghèo; Ngài bênh vực kẻ cô thế khi họ gặp nguy khốn. Ngài như nơi trú ẩn lúc giông bão, như mái che họ khỏi nắng nóng. Kẻ ác tấn công như mưa bão đập vào tường, 5 như sức nóng trong sa mạc. Nhưng Thượng Đế ơi, Ngài ngăn chận cuộc tấn công hung bạo của chúng nó. Như mây làm mát ngày nóng nực thế nào, Ngài cũng làm tắt tiếng ca của những kẻ không có lòng từ bi như thế.

Bàn tiệc cho các đầy tớ Ngài CHÚA Toàn Năng sẽ dọn một bữa tiệc trên núi nầy cho các dân. Một bữa tiệc đầy cao lương mỹ vị, cùng với thịt ngon và rượu hảo hạng. 6

- 856 -


Trên núi nầy Thượng Đế sẽ ném bỏ tấm màn che mọi dân, tấm màn phủ trên mọi dân tộc; 8 Ngài sẽ tiêu diệt sự chết cho đến đời đời [a]. CHÚA là Thượng Đế sẽ lau khô nước mắt trên mọi gương mặt. Ngài sẽ cất sự sỉ nhục khỏi dân Ngài trên đất. CHÚA đã phán. 7

Lúc đó mọi người sẽ bảo, “Thượng Đế chúng tôi làm điều nầy! Chúng ta đã trông đợi Ngài, và Ngài đã đến giải cứu chúng ta. Đây là CHÚA. Chúng ta đã trông đợi Ngài, chúng ta sẽ vui mừng hớn hở khi Ngài cứu chúng ta.” 10 CHÚA sẽ bảo vệ núi nầy, nhưng Ngài sẽ giày đạp Mô-áp [b], kẻ thù chúng ta như rơm rạ bị giày xéo trong đống phân. 11 Chúng sẽ dang tay ra trong đó như người đang bơi. Nhưng Thượng Đế sẽ hạ lòng kiêu căng của chúng xuống, và những gì khôn khéo chúng làm sẽ không còn ra gì. 12 Thượng Đế sẽ phá sập các vách vững chắc của Mô-áp. Ngài sẽ ném chúng xuống đến bụi đất. 9

I-sai-a 26 Bài ca ngợi Thượng Đế 26 Lúc ấy người ta sẽ ca bài nầy trong Giu-đa: Chúng ta có một thành kiên cố. Thượng Đế bảo vệ chúng ta bằng vách và pháo đài vững chắc [a]. 2 Hãy mở toang các cổng ra, thì một dân tộc công chính sẽ vào, đó là những người theo Thượng Đế. 3

CHÚA sẽ ban hòa bình chân chính cho những kẻ nhờ cậy Ngài, vì họ tin tưởng nơi Ngài.

Vậy nên hãy tin cậy CHÚA luôn luôn, vì Ngài là Khối Đá đời đời của chúng ta. 5 Ngài sẽ tiêu diệt thành kiêu căng, và trừng phạt dân cư trong đó. Ngài sẽ hạ thành đó xuống đất, ném nó trong cát bụi. 6 Rồi những kẻ bị nó làm hại sẽ dẫm trên đống đổ nát của nó; những kẻ bị nó bóc lột đến nghèo khổ sẽ đạp nó dưới chân. 4

7

Con đường sự sống rất bằng phẳng cho những ai sống công chính. Lạy Chúa, xin Ngài hãy san bằng con đường sự sống cho họ.

- 857 -


Nhưng CHÚA ôi, chúng tôi trông đợi con đường công chính của Ngài. Linh hồn chúng tôi muốn nhớ lại Ngài và danh Ngài. 9 Ban đêm linh hồn tôi muốn ở cùng Ngài, và thần linh tôi tìm kiếm Ngài. Khi đường chân lý của Ngài đến trên đất, dân trên thế gian sẽ học biết lối sống phải lẽ. 10 Kẻ ác sẽ không chịu học làm điều nhân đức dù Ngài tỏ lòng nhân từ đối với chúng. Chúng sẽ tiếp tục làm điều ác, dù cho đang sống trong một xứ tốt đẹp; chúng không bao giờ thấy sự cao cả của CHÚA. 11 Lạy CHÚA, Ngài sẵn sàng trừng phạt chúng nó, nhưng chúng không thấy điều đó. Xin hãy tỏ cho chúng thấy tình yêu lớn lao [b] Ngài dành cho dân Ngài. Thì những kẻ ác sẽ xấu hổ. Xin hãy thiêu đốt chúng trong lửa mà Ngài dành cho kẻ thù Ngài. 12 Lạy CHÚA, chúng tôi thành công là vì điều Ngài làm, xin ban sự hòa bình cho chúng tôi. 8

Lạy CHÚA là Thượng Đế chúng tôi, trước kia chúng tôi đi theo các chúa khác, nhưng nay chúng tôi chỉ theo một mình Ngài [c]. 14 Những chủ nhân ông đó nay đã chết; linh hồn họ sẽ không sống lại từ cõi chết. Ngài trừng phạt và tiêu diệt họ, và không còn ai nhớ đến chúng nữa. 15 Lạy CHÚA, Ngài đã gia tăng dân số của Ngài; Ngài tăng dân số họ và mang vinh dự cho chính mình. Ngài mở rộng biên giới họ [d]. 16 Lạy CHÚA, dân chúng nhớ đến Ngài khi họ gặp gian nan; họ thầm nguyện cùng Ngài khi Ngài trừng phạt họ. 17 Lạy CHÚA, vì Ngài, chúng tôi như đàn bà đau đẻ; nàng kêu la vì đau đẻ. 18 Cũng vậy, chúng tôi bị đau đớn. Chúng tôi cũng sinh, nhưng sinh ra gió. Chúng tôi không mang sự cứu rỗi đến cho đất hay dựng nên người mới trên thế giới. 19 Dân cư Ngài đã chết, nhưng họ sẽ sống lại; thân xác họ sẽ sống lại từ trong cõi chết. Hỡi các ngươi là kẻ đang nằm dưới đất, hãy thức dậy và hớn hở! Sương bao phủ ngươi giống như sương của ngày mới; đất sẽ sinh ra kẻ chết. 13

Phán quyết: Thưởng và Phạt 20

Hỡi dân ta, hãy đi vào phòng đóng cửa lại. Hãy tạm ẩn trong phòng một thời gian, cho đến khi cơn giận của Thượng Đế nguôi đi. - 858 -


CHÚA sẽ rời nơi ở Ngài [e] để trừng phạt tội lỗi của dân cư trên thế gian. Đất sẽ phơi bày máu của những kẻ đã bị giết; nó sẽ không che giấu người chết nữa. 21

I-sai-a 27 27 Lúc đó CHÚA sẽ trừng phạt Lê-vi-a-than [a], con rắn uốn éo, Ngài sẽ trừng phạt Lê-vi-a-than, con rắn nằm cuộn tròn, bằng lưỡi gươm lớn, cứng rắn và mạnh mẽ của Ngài. Ngài sẽ giết con quái vật của biển [b]. Lúc đó người ta sẽ hát về vườn nho sai trái. “Ta, CHÚA, sẽ chăm sóc vườn nho đó; ta sẽ tưới nó đúng thì. Sẽ không ai làm hại nó, vì ta sẽ ngày đêm canh giữ nó. 4 Ta không tức giận. Nhưng nếu ai dựng hàng rào gai gốc [c] cho ta, Ta sẽ đến gây chiến và đốt rụi nó. 5 Nhưng nếu ai đến cùng ta để được an ninh và muốn làm hòa với ta, thì người đó hãy đến làm hòa với ta.” 6 Trong những ngày sắp đến, dân cư Gia-cốp như cây mọc rễ sâu; Ít-ra-en sẽ mọc như cây sắp trổ hoa. Thế gian sẽ đầy dẫy con cái chúng. 2 3

Chúa sẽ đày Ít-ra-en đi xa CHÚA không làm hại dân Ngài như đã làm hại kẻ thù của họ; dân Ngài không bị giết như những kẻ tìm cách giết họ. 8 Ngài sẽ giàn xếp tranh chấp của Ngài với Ít-ra-en bằng cách đày họ đi xa. Ngài sẽ đẩy họ đi như gió nóng sa mạc. 9 Đó là cách làm cho tội lỗi dân Gia-cốp được tha; đó là cách tội lỗi họ được xóa đi; Ít-ra-en sẽ nghiền đá của bàn thờ ra bụi, không còn hình tượng hay bàn thờ nào còn lại để thờ thần A-sê-ra. 10 Lúc đó thành vững chắc có vách kiên cố sẽ hoang vắng như sa mạc. Bò con sẽ ăn cỏ ở đó. Chúng sẽ nằm và nhơi lá từ các nhánh cây. 11 Các nhánh cây sẽ khô và gãy, để đàn bà dùng làm củi chụm. Dân chúng không chịu hiểu, nên Thượng Đế sẽ không an ủi họ. Đấng Tạo hóa sẽ không tỏ lòng nhân từ cùng họ. 7

- 859 -


Lúc đó CHÚA sẽ gom dân Ngài lại [d] từng người một, từ sông Ơ-phơ-rát cho đến suối Ai-cập [e]. Ngài sẽ tách họ ra khỏi những dân khác, như lúa tách ra khỏi trấu. 13 Nhiều người trong dân ta hiện nay lạc mất trong A-xy-ri. Một số đã chạy trốn sang Ai-cập. Nhưng đến lúc đó sẽ có tiếng kèn lớn thổi lên, mọi người sẽ đến thờ phụng CHÚA trên núi thánh ở Giê-ru-sa-lem. 12

I-sai-a 28 Lời cảnh cáo Xa-ma-ri 28 Khốn cho Xa-ma-ri, niềm kiêu hãnh của những kẻ say sưa trong Ít-ra-en! Mão triều bằng bông hoa xinh đẹp đó chỉ là một cây khô đặt trên đầu của những tên bợm rượu phì nộn. Nầy CHÚA đã có người mạnh dạn oai hùng. Giống như luồng mưa đá và cơn gió mạnh, như cơn nước lụt tràn đến bất chợt trên xứ, Ngài sẽ xô Xa-ma-ri ngã xuống đất. 3 Thành ấy, tức niềm kiêu hãnh của những bọn say sưa trong Ép-ra-im, sẽ bị người ta giày đạp dưới chân. 4 Cái mão triều bằng bông hoa xinh đẹp đó chỉ là một cây khô héo, đặt trên đồi nhìn xuống một thung lũng phì nhiêu. Thành đó giống như cây vả đầu mùa hạ. Ai thấy cũng muốn hái trái ăn. 2

Lúc ấy CHÚA Toàn Năng sẽ như mão triều xinh đẹp, như mão hoa tuyệt đẹp cho những người còn sót lại trong dân Ngài. 6 Ngài sẽ ban sự khôn ngoan cho các quan án xét xử và sức mạnh cho những kẻ chiến đấu ở cửa thành. 7 Nhưng nay những lãnh tụ đó đã say rượu; họ đi lạng quạng vì uống quá nhiều rượu. Các thầy tế lễ và nhà tiên tri say sưa vì rượu và uống quá nhiều rượu mạnh. Họ đi lạng quạng vì uống rượu quá nhiều. Các nhà tiên tri say rượu khi thấy dị tượng; các quan án đi lạng quạng khi phán quyết. 8 Bàn nào cũng đầy đồ mửa, không có chỗ nào sạch. 5

Thượng Đế muốn giúp đỡ dân Ngài CHÚA muốn dạy một bài học cho dân Ngài; Ngài tìm cách cho họ hiểu lời giáo huấn Ngài. Nhưng dân chúng như đứa bé quá lớn không thể bú sữa mẹ, không còn bú vú mẹ nữa. 10 Chúng chế giễu nhà tiên tri của CHÚA và bảo: 9

“Một mệnh lệnh ở đây, một mệnh lệnh ở đó. Chỗ nầy một qui tắc, chỗ kia một qui tắc. Nơi nầy một bài học, nơi nọ một bài học.”

- 860 -


Cho nên CHÚA sẽ dùng từ ngữ lạ và tiếng ngoại quốc mà nói cùng dân nầy. 12 Thượng Đế bảo họ, “Đây là chỗ nghỉ ngơi; ai mệt mỏi hãy đến mà nghỉ. Đây là chỗ bình yên.” Nhưng chúng không thèm nghe. 13 Cho nên lời của CHÚA sẽ như thế nầy, 11

“Một mệnh lệnh ở đây, một mệnh lệnh ở đó. Chỗ nầy một qui tắc, chỗ kia một qui tắc. Nơi nầy một bài học, nơi nọ một bài học.” Chúng sẽ vấp và ngã ngửa; chúng sẽ bị sập bẫy và bị bắt.

Không ai thoát khỏi sự xét xử của Thượng Đế Nầy những kẻ kiêu căng, hãy nghe lời CHÚA phán, hỡi những người ở Xi-ôn, kẻ cai trị dân nầy. 15 Các ngươi nói, “Chúng tôi đã lập ước với cái chết; chúng tôi đã kết ước với âm phủ. Khi sự trừng phạt ghê gớm đi qua, chúng tôi sẽ không tổn hại gì. Những sự dối trá của chúng tôi sẽ giữ chúng tôi bình yên, những mánh khoé chúng tôi sẽ che giấu chúng tôi.” 14

Vì thế nên CHÚA, là Thượng Đế phán: “Ta sẽ đặt một tảng đá nền ở Xi-ôn, một tảng đá thử nghiệm. Mọi thứ sẽ được xây trên tảng đá quan trọng và quí báu nầy. Ai có niềm tin cậy nơi CHÚA sẽ không bị xấu hổ [a]. 16

Ta sẽ dùng công lý làm thước đo, và nhân đức làm tiêu chuẩn. Những sự dối trá mà các ngươi núp sau sẽ bị tiêu hủy như bị mưa đá. Chúng sẽ trôi đi như trong cơn lụt. 18 Giao ước các ngươi với cái chết sẽ bị xóa bỏ; khế ước ngươi với âm phủ sẽ vô dụng. 17

Khi sự trừng phạt khủng khiếp xảy đến, ngươi sẽ bị nó đè bẹp. 19 Khi nào sự trừng phạt đến, nó sẽ mang ngươi đi. Nó sẽ đến hết buổi sáng nầy đến buổi sáng khác; nó sẽ đánh gục ngươi lúc ban ngày và ban đêm. Ai hiểu được sự trừng phạt nầy sẽ kinh hoảng.” 20 Các ngươi sẽ như người ngủ trên một cái giường quá ngắn đắp một cái mền quá hẹp không đủ ấm. CHÚA sẽ chiến đấu như Ngài đã làm ở núi Phê-ra-xim. Ngài sẽ nổi giận như lúc ở thung lũng Ghi-bê-ôn . Ngài sẽ hoàn tất công tác, một công tác kỳ lạ. Ngài sẽ làm xong công việc, một công việc khác thường. 22 Bây giờ các ngươi không nên chế giễu những điều nầy nữa, nếu không sợi dây thừng quanh ngươi sẽ siết chặt lại. 21

[b]

CHÚA là Thượng Đế Toàn Năng đã cho ta biết, cả thế gian sẽ bị tiêu diệt ra sao.

Chúa trừng phạt rất công bằng Hãy nghe kỹ điều ta bảo ngươi; hãy nghe điều ta nói đây. 24 Không phải lúc nào nông phu cũng cày bừa; không phải lúc nào cũng xới đất. 25 Nông phu cào đất cho phẳng. Rồi trồng tiểu hồi và gieo đại hồi. Trồng lúa mì theo luống, lúa mạch trong nơi riêng biệt, và lúa mì khác để làm ranh giới quanh ruộng mình. 23

Thượng Đế đã dạy người nông phu, chỉ cho người cách phải làm. 27 Nông phu không dùng vồ đập lúa để nghiền tiểu hồi; hay dùng xe có bánh để chà nát đại hồi. Người dùng que nhỏ để cạy hột tiểu hồi, và que thường để cạy hột đại hồi. 28 Ngũ cốc được nghiền làm bánh. Người ta không phải nghiền chúng mãi vì sẽ bị hư. Nông phu dùng xe cán trên lúa, nhưng không cho ngựa [c] dẫm lên. 29 Bài học ấy cũng từ CHÚA Toàn Năng mà đến, Đấng ban những sự khuyên bảo diệu kỳ vì Ngài rất khôn ngoan. 26

- 861 -


I-sai-a 29 Lời cảnh cáo Giê-ru-sa-lem 29 Hỡi A-ri-ên [a], A-ri-ên, khốn cho ngươi, là thành nơi Đa-vít đóng quân. Những lễ lộc ngươi kéo dài từ năm nầy qua năm khác. 2 Ta sẽ tấn công A-ri-ên, thành đó sẽ đầy sầu não khóc lóc. Nó sẽ thành một bàn thờ cho ta. 3 Nầy A-ri-ên, ta sẽ cho quân lính bao vây ngươi, Ta sẽ xây tháp vây ngươi và dùng hào lũy tấn công ngươi. 4 Ngươi sẽ bị kéo sập và phải đứng dưới đất mà nói; Ta sẽ nghe tiếng ngươi vang lên từ dưới đất. Nghe như tiếng ma; tiếng ngươi nghe tựa như tiếng thì thầm từ đất. Các kẻ thù ngươi vô số như bụi nhuyễn; những dân độc ác giống như trấu bị thổi bay tứ tung. Mọi việc sẽ diễn ra nhanh chóng. 6 Đấng Toàn Năng sẽ đến trong sấm chớp, động đất, và tiếng vang rầm, trong giông bão, gió mạnh và lửa thiêu đốt. 7 Rồi các dân đã nghịch lại A-ri-ên sẽ trở nên như mộng mị; các quốc gia tấn công nó sẽ giống như thấy mộng mị ban đêm. 8 Chúng sẽ giống như người đói nằm chiêm bao thấy mình ăn, mà khi thức dậy vẫn thấy đói. Như người khát nằm chiêm bao thấy mình uống, mà khi thức dậy thấy vẫn kiệt lực vì khát. Các dân đánh núi Xi-ôn cũng vậy. 5

Hãy kinh ngạc và sửng sốt. Hãy bịt mắt để các ngươi không thấy. Hãy say sưa nhưng không phải vì rượu. Loạng choạng nhưng không phải vì đồ uống say. 10 CHÚA đã khiến các ngươi ngủ mê. Ngài đã bịt mắt các ngươi. Các nhà tiên tri là con mắt của các ngươi. Ngài đã trùm đầu các ngươi. Các đấng tiên kiến là đầu của các ngươi. 9

Dị tượng nầy như lời của một quyển sách được xếp và niêm phong [b] lại. Ngươi trao quyển sách đó cho ai biết đọc rồi bảo họ đọc. Nhưng kẻ đó sẽ bảo, “Tôi không đọc sách nầy được vì đã bị niêm phong.” 12 Hoặc ngươi trao quyển sách cho người không biết đọc rồi bảo họ đọc. Họ sẽ bảo, “Tôi đâu có biết đọc.” 11

Chúa phán: “Dân nầy bảo là rất yêu ta; chúng tỏ lòng tôn kính bằng miệng, nhưng lòng chúng nó rất xa ta. Sự tôn kính chúng phô bày chỉ là qui tắc con người đặt ra thôi. 14 Cho nên ta sẽ tiếp tục làm cho dân nầy kinh ngạc bằng cách làm thêm nhiều phép lạ. Những kẻ khôn ngoan của chúng sẽ mất cái khôn của mình; người khôn ngoan của chúng sẽ không hiểu nổi.” 13

Cảnh cáo các dân tộc khác Khốn cho những kẻ giấu đút ý định của mình khỏi mắt CHÚA cùng những kẻ hành động lén lút trong bóng tối mà nghĩ rằng không ai thấy hay biết. 15

Các ngươi lầm rồi. Các ngươi tưởng rằng đất sét cũng chẳng khác gì thợ gốm. Các ngươi cho rằng đồ vật có thể bảo người làm ra mình rằng, “Ngươi chẳng làm ra ta.” Chẳng khác nào cái bình bảo người nặn ra nó rằng, “Ông chẳng biết gì cả.” 16

- 862 -


Tương lai tươi sáng sẽ đến Ít lâu nữa Li-băng sẽ trở thành ruộng nương phì nhiêu, và ruộng nương phì nhiêu sẽ giống như rừng rậm. Lúc đó kẻ điếc sẽ nghe lời trong sách. Thay vì bóng tối mờ mịt, kẻ mù sẽ thấy được. 19 CHÚA sẽ làm cho người nghèo khó vui mừng; họ sẽ hớn hở trong Đấng Thánh của Ít-ra-en. 17 18

Những kẻ không có lòng từ bi sẽ bị tiêu diệt; ai không kính sợ Thượng Đế sẽ biến mất. Kẻ thích làm điều ác sau đây sẽ không còn: 21 Đó là những kẻ làm chứng dối trước tòa, giăng bẫy cho người khác nơi tòa án, những kẻ nói dối và cướp công lý khỏi người vô tội trước tòa. 20

Đây là điều CHÚA, Đấng đã giải thoát Áp-ra-ham nói cùng nhà Gia-cốp: “Bây giờ dân Gia-cốp sẽ không phải hổ nhục nữa, mặt chúng cũng sẽ không tái nhợt. 23 Khi họ thấy tất cả con cái mình, con cái do tay ta tạo ra, chúng sẽ nói rằng danh ta được tôn thánh [c]. Chúng sẽ đồng ý rằng Đấng Thánh của Gia-cốp rất thánh thiện, và chúng sẽ tôn kính Thượng Đế của Ít-ra-en. 24 Những kẻ làm ác sẽ hiểu. Những ai hay phàn nàn sẽ chịu nghe dạy.” 22

I-sai-a 30 Dân Ít-ra-ên nên nương cậy Chúa 30 CHÚA phán, “Khốn cho con cái ương ngạnh. Chúng lập chương trình nhưng không thèm xin ta giúp đỡ. Chúng kết ước với các dân tộc khác, mà không hỏi ý Thần linh ta. Chúng chồng chất thêm tội trên mình. 2 Chúng đi xuống Ai-cập xin trợ lực mà không thèm cầu hỏi ta trước. Chúng hi vọng vua Ai-cập sẽ giải cứu mình; chúng muốn Ai-cập bảo vệ chúng. Nhưng núp bóng Ai-cập chỉ đưa đến hổ nhục; trông chờ Ai-cập bảo vệ mình chỉ chuốc lấy thất vọng. 4 Các quan chức ngươi đã đi đến Xoan, các sứ giả ngươi đã đi đến Ha-ne [a], 5 nhưng tất cả đều bị xấu hổ, vì Ai-cập chẳng giúp gì được. Chẳng giúp đỡ được và hoàn toàn vô dụng; chỉ đưa đến sỉ nhục và xấu hổ.” 3

Sứ điệp của Thượng Đế cho Giu-đa Đây là sứ điệp về các thú vật trong miền Nam Giu-đa [b]: Miền Nam Giu-đa là một nơi nguy hiểm, đầy sư tử đực và sư tử cái, cùng rắn mai gầm [c] và rắn độc [d]. Các sứ giả đi qua đó mang theo của cải mình trên lưng lừa, và chở của báu mình trên lưng lạc đà. Chúng chở các của đó đến cho một dân chẳng giúp gì mình được, 7 đến cho Ai-cập vô dụng chẳng giúp gì được. Cho nên ta gọi xứ đó là Ra-háp, Con Rồng Vô Dụng [e]. 6

Bây giờ hãy viết điều nầy trên một bảng hiệu cho dân chúng, ghi nó trên một cuộn giấy, để đến tương lai nó sẽ làm nhân chứng mãi mãi. 8

Dân nầy giống như trẻ con thích nói dối và bất vâng phục; chúng không chịu nghe lời dạy của Chúa. Chúng bảo người tiên kiến, “Thôi đừng thấy dị tượng [f] nữa!” và bảo các nhà tiên tri, “Thôi đừng nói sự thật cho chúng tôi nữa! Hãy nói những gì khiến cho chúng tôi sảng khoái; Hãy nhìn ảo ảnh mà chúng tôi thích. 11 Xin đừng cản lối đi của chúng tôi. Hãy tránh lối ra. Thôi đừng nói với chúng tôi về Thượng Đế, Đấng Thánh của Ít-ra-en nữa.” 9

10

- 863 -


Chỉ có Thượng Đế mới cứu giúp được thôi 12

Cho nên đây là điều Đấng Thánh của Ít-ra-en phán:

“Các ngươi không chịu nghe lời khuyên nầy mà cậy vào chuyện hung ác và dối gạt. 13 Các ngươi đã phạm tội. Nên các ngươi chẳng khác vách tường cao bị nứt sẽ đổ sập bất thần, vỡ ra thành nhiều mảnh. 14 Các ngươi sẽ giống như lu bằng gốm bể ra, tan tành thành nhiều mảnh. Những mảnh đó quá nhỏ không đủ để cào than ra khỏi lửa hay để múc nước giếng.” CHÚA là Thượng Đế, Đấng Thánh của Ít-ra-en phán như sau: “Nếu ngươi trở lại cùng ta, tin cậy ta, các ngươi sẽ được cứu. Nếu các ngươi bình tĩnh và tin cậy ta, các ngươi sẽ vững mạnh.” Nhưng các ngươi không muốn làm vậy. 16 Các ngươi bảo, “Không, chúng tôi muốn có ngựa cỡi để trốn chạy.” Cho nên các ngươi sẽ cỡi ngựa chạy trốn. Các ngươi bảo, “Chúng tôi sẽ cỡi ngựa chạy nhanh.” Nên những kẻ rượt theo các ngươi cũng nhanh. 17 Một kẻ thù đe doạ, một ngàn người trong các ngươi bỏ chạy. Năm kẻ thù đe doạ, tất cả các ngươi đều bỏ chạy. Các ngươi sẽ giống như cột cờ đứng chơ vơ một mình trên ngọn đồi, giống như lá cờ phất phới trên đồi. 15

CHÚA muốn tỏ lòng từ bi Ngài cho ngươi. Ngài muốn đứng dậy an ủi ngươi. CHÚA là Thượng Đế công bằng, ai trông đợi Ngài giúp đỡ sẽ hớn hở. 18

Chúa sẽ giúp đỡ dân Ngài Các ngươi là những kẻ đang sống trên núi Xi-ôn ở Giê-ru-sa-lem sẽ không than khóc nữa. CHÚA đã nghe tiếng khóc than của các ngươi, Ngài sẽ an ủi các ngươi. Khi nghe các ngươi, Ngài sẽ cứu giúp các ngươi. 19

Chúa đã ban cho ngươi sự sầu não và đau đớn như thể bánh và nước mà các ngươi dùng hằng ngày. Ngài là thầy giáo ngươi, Ngài sẽ không ẩn mặt mãi mãi khỏi ngươi, nhưng chính mắt ngươi sẽ thấy thầy mình. 21 Nếu ngươi đi sai lạc quay qua bên phải hay bên trái thì nghe đằng sau có tiếng bảo, “Đây là đường chánh. Hãy đi theo.” 20

Ngươi có những tượng chạm bọc bạc và vàng, nhưng ngươi sẽ phá hủy chúng để dùng vào việc khác. Ngươi sẽ ném chúng đi như giẻ rách dơ bẩn [g] và bảo rằng, “Quăng nơi khác đi!” 22

Lúc đó CHÚA sẽ sai mưa tưới hột giống ngươi trồng dưới đất, và đất sẽ sinh ra thực phẩm cho ngươi. Mùa gặt sẽ trúng lớn, ngươi sẽ có dư dật thức ăn ngoài đồng cho gia súc mình. 24 Bò và lừa của ngươi dùng cày ruộng sẽ đủ thức ăn. Ngươi sẽ phải dùng xẻng và bồ cào để trải thức ăn [h] ra cho chúng. 25 Mọi núi và đồi đều tràn đầy suối nước. Việc đó xảy ra sau khi nhiều người đã bị giết và các tháp bị kéo sập. 23

Lúc đó ánh trăng sẽ sáng như mặt trời, và ánh mặt trời sẽ sáng gấp bảy lần so với bây giờ, như ánh sáng của bảy ngày. Những điều nầy xảy ra khi CHÚA băng bó dân Ngài và chữa lành vết thương Ngài gây ra cho họ. 26

Nầy! CHÚA từ xa đến. Cơn giận Ngài như lửa và khói đen dầy đặc. Miệng Ngài đầy thịnh nộ, lưỡi Ngài như lửa cháy. 28 Hơi thở Ngài như sông chảy cuồn cuộn, dâng lên đến cổ. Ngài sẽ phân xử các dân như đang sàng sảy bằng cái rây hủy diệt. Ngài sẽ đặt trong miệng họ một hàm khớp để dẫn họ đi lạc đường. 27

Các ngươi sẽ hát một bài ca vui mừng như trong đêm các ngươi bắt đầu cử hành lễ. Các ngươi sẽ vui mừng như kẻ nghe thổi sáo đang khi đi lên núi của CHÚA, đến cùng Khối Đá của Ít-ra-en. 29

CHÚA sẽ khiến các dân nghe tiếng lớn của Ngài và thấy cánh tay mạnh mẽ của Ngài giáng xuống trong cơn thịnh nộ, như lửa thiêu đốt mọi vật, như cơn mưa bão và mưa đá. 31 A-xy-ri sẽ run sợ khi nghe tiếng CHÚA, vì Ngài sẽ lấy roi đánh A-xy-ri. 32 Khi CHÚA lấy roi trừng phạt A-xy-ri, thì Ngài quất chúng theo điệu nhạc trống cơm và đờn cầm; Ngài sẽ chiến đấu nghịch chúng bằng những vũ khí mạnh. 30

- 864 -


Từ lâu Tô-phết [i] đã chuẩn bị sẵn sàng; sẵn sàng để đón vua [j]. Củi lửa làm cho nó sâu và rộng thêm. Hơi thở của CHÚA sẽ đến như luồng lửa lưu hoàng làm nó bốc cháy. 33

I-sai-a 31 Ít-ra-en nên trông cậy vào Thượng Đế 31 Khốn cho những kẻ đi xuống Ai-cập nhờ cậy cứu giúp. Chúng nghĩ rằng ngựa sẽ cứu chúng, hoặc tin rằng nhiều quân xa và đông lính kỵ mã hùng mạnh là được giải cứu. Chúng không nhờ cậy Thượng Đế, Đấng Thánh của Ít-ra-en, hay xin CHÚA giúp mình. 2 Ngài là Đấng khôn ngoan đang mang thảm hoạ đến cho chúng. Chúng không thể thay đổi mệnh lệnh Ngài đã ra. Ngài sẽ nghịch lại kẻ ác và đồng lõa của chúng. Bọn Ai-cập cũng chỉ là người, không phải Trời. Ngựa của chúng cũng chỉ là thú vật, không phải thần linh. CHÚA sẽ giơ tay ra, thì kẻ giúp đỡ chúng sẽ ngã, và những người cầu cứu cũng té nhào. Tất cả chúng nó đều sẽ cùng bị tiêu diệt. 3

CHÚA phán cùng ta như sau: “Khi sư tử đực hoặc sư tử con giết con mồi, nó đứng trên con mồi đã chết và rống thật to. Dù các kẻ chăn chiên tụ lại để đánh đuổi nó, nó chẳng sợ tiếng họ hò hét, hay e ngại tiếng ồn ào của họ. 4

Cho nên CHÚA Toàn Năng sẽ ngự xuống, chiến đấu trên núi và đồi của Xi-ôn. 5 CHÚA Toàn Năng sẽ bảo vệ [a] Giê-ru-sa-lem, như chim bay trên tổ. Ngài sẽ bảo vệ và giải cứu thành; Ngài sẽ ‘vượt qua’ và giải cứu Giê-ru-sa-lem.” Hỡi các ngươi là con cái Ít-ra-en, hãy trở lại cùng Thượng Đế là Đấng các ngươi chống nghịch. 7 Đến lúc tất cả các ngươi phải thôi thờ lạy thần tượng bằng vàng và bằng bạc mà các ngươi làm ra và khiến mình phạm tội. 6

“A-xy-ri sẽ bị gươm đánh bại, nhưng không phải của con người; Nó sẽ bị tiêu diệt bằng giáo mác, nhưng không phải của con người. A-xy-ri sẽ trốn chạy khỏi gươm giáo của Thượng Đế, Còn các trai tráng của chúng sẽ bị bắt làm nô lệ. 9 Chúng sẽ hốt hoảng; nguồn bảo vệ của chúng sẽ bị tiêu diệt. Cấp chỉ huy của chúng sẽ kinh hoàng khi thấy lá cờ mặt trận của Thượng Đế,” 8

CHÚA, Đấng có lửa ở Xi-ôn và lò lửa hực [b] ở Giê-ru-sa-lem, phán vậy.

I-sai-a 32 Các lãnh tụ phải công bằng và ngay thẳng 32 Vua sẽ cai trị một cách công chính, và các lãnh tụ sẽ quyết định hợp lý. 2 Mỗi một lãnh tụ [a] như nơi tránh gió, như chỗ trú ẩn an toàn khỏi bão tố, như suối nước trong đất khô, và như bóng mát của khối đá lớn trong đất nóng. 3 Mắt của những kẻ thấy được sẽ mở ra, tai của những kẻ nghe được sẽ chú ý. 4 Ai đang nhẹ dạ sẽ hiểu biết. Ai hiện ú ớ sẽ nói rõ ràng và lưu loát. 5 Các ngươi sẽ không cho kẻ ngu là vĩ nhân, hoặc tôn kính kẻ ác nữa. Kẻ ngu [b] nói những lời ngu dại, trong lòng nó manh tâm chuyện ác. Kẻ ngu làm chuyện gian ác, nói phạm thượng nghịch cùng CHÚA. Kẻ ngu không cho người đói được miếng ăn hay cho người khát được miếng nước. 7 Kẻ ác dùng mưu ác. Nó âm mưu cướp đoạt hết của cải người nghèo. Dùng lời dối trá tiêu diệt kẻ nghèo, dù cho khi họ nắm phần phải. 6

8

Nhưng lãnh tụ tốt tính chuyện tốt lành, và những việc tốt đó giúp họ vững vàng.

- 865 -


Thời kỳ khó khăn sắp đến Hỡi các đàn bà hiện không âu lo, hãy đứng lên nghe ta. Hỡi các đàn bà hiện đang yên ổn, hãy nghe ta nói. Hỡi các đàn bà hiện đang an ninh, sau một năm các ngươi sẽ lo sợ. Vì sẽ không còn nho để hái cũng không còn hoa quả mùa hè để gom lại. 9

10

Hỡi các đàn bà hiện không âu lo, các ngươi nên run sợ. Hỡi các đàn bà hiện đang an ninh nên run rẩy. Hãy cởi bỏ áo quần tốt đẹp các ngươi và quấn vải sô quanh hông. 12 Hãy đấm ngực buồn rầu vì đồng ruộng trước kia tốt tươi nay hoang dại. 11

Hãy kêu khóc vì dây nho trước kia sai trái nay không ra trái nữa. 13 Hãy kêu khóc cho xứ dân ta, là nơi chỉ có gai gốc và cỏ dại mọc. Hãy khóc cho thành trước kia an vui và cho tất cả mọi nhà trước đây hớn hở. Cung vua sẽ bỏ hoang mãi mãi; dân chúng sẽ rời bỏ nơi phồn hoa đô hội. Các thành lũy và các tháp cao sẽ hoang vắng. Lừa rừng sẽ sống ở đó, và chiên sẽ đến đó ăn cỏ. 14

Tương lai sẽ khá hơn Việc đó sẽ kéo dài cho đến khi Thượng Đế đổ Thần linh Ngài trên chúng ta. Lúc đó sa mạc sẽ trở thành đồng ruộng phì nhiêu và đồng ruộng phì nhiêu sẽ trở thành rừng rú. 16 Và dù cho ở trong sa mạc cũng có công lý, và lẽ công bằng cũng sẽ có nơi đồng ruộng phì nhiêu. 17 Sự công bình đó sẽ mang lại hoà bình và an ninh mãi mãi. 18 Dân ta sẽ sống trong các nơi an ninh, trong các nhà yên ổn và ở những nơi an bình thảnh thơi. 15

Mưa đá sẽ tiêu hủy rừng rậm, thành phố sẽ hoàn toàn bị tiêu hủy. 20 Nhưng các ngươi sẽ hớn hở khi gieo giống gần các suối nước hoặc khi ngươi thả trâu bò và lừa đi rông. 19

I-sai-a 33 Lời cảnh cáo A-xy-ri và lời hứa cho dân Chúa 33 Khốn cho các ngươi là kẻ tiêu diệt người khác nhưng chính ngươi chưa bị diệt. Khốn cho các ngươi là kẻ phản bội, mà chưa bị ai chống nghịch. Khi ngươi phản bội xong thì chính ngươi sẽ bị phản bội. Khi ngươi thôi chống nghịch người khác, thì họ sẽ chống nghịch ngươi. Lạy CHÚA, xin hãy tỏ lòng nhân từ cùng chúng tôi. Chúng tôi đã trông mong Ngài cứu giúp. Mỗi sáng xin thêm sức cho chúng tôi. Xin giải cứu khi chúng tôi gặp nguy biến. 3 Tiếng nói vang rền của Ngài khiến chúng sợ hãi bỏ chạy, sự oai nghi Ngài khiến các dân bỏ trốn. 2

Các kẻ thù ngươi như cào cào sẽ cướp những chiến lợi phẩm ngươi đoạt trong chiến trận. Giống như đoàn cào cào bay ào tới, chúng sẽ cướp lấy của cải ngươi. 4

5

CHÚA rất oai nghi, Ngài ở nơi rất cao. Ngài đổ tràn lẽ công bằng và nền công lý trên Giê-ru-sa-lem.

Ngài sẽ là nơi an toàn cho ngươi. Ngài đầy sự cứu rỗi, khôn ngoan, và thông sáng. Không gì quí cho bằng kính sợ CHÚA. 6

Xem kìa, các sứ giả [a] đang kêu khóc trong đường phố; những kẻ đang cố mang lại hoà bình đang kêu khóc thảm thiết. 8 Không có ai trên đường, không ai đi trên nẻo. Dân chúng đã phá giao ước họ lập. Chúng không chịu tin vào bằng cớ do nhân chứng [b] đưa ra. Không ai tôn trọng ai cả. 7

- 866 -


Đất đang mắc bệnh và chết dần; Li-băng bị xấu hổ và hấp hối. Bình nguyên Sa-rôn khô khan như sa mạc, các cây cối của Ba-san và Cạt-mên đang rụng lá. 9

CHÚA phán, “Bây giờ ta sẽ đứng dậy tỏ sự oai nghi ta. Bây giờ ta sẽ được tôn cao. 11 Các ngươi mang thai trấu và sinh ra rơm rạ. Thần linh trong các ngươi là lửa đốt cháy các ngươi. 12 Chúng nó sẽ bị đốt cho đến khi xương chỉ còn chất vôi [c] trắng; chúng cháy phừng nhanh như bụi gai khô.” 10

13

Các ngươi là kẻ từ xứ xa, hãy nghe điều ta làm. Các ngươi là kẻ gần ta, hãy biết đến quyền năng ta.

Các kẻ phạm tội ở Giê-ru-sa-lem đang lo sợ; những kẻ lìa xa Thượng Đế run sợ. Chúng bảo, “Ai trong chúng ta sống sót qua được đám lửa thiêu hủy? Ai có thể sống gần đám lửa cháy đời đời [d]?” 14

Người làm điều công chính nói ra điều công chính, người không chịu nhận tiền hối lộ, không chịu lãnh của đút lót để làm hại người khác, không nghe những mưu mô giết người, không nghĩ đến điều ác. 16 Đó là người được an ổn. Người sẽ được che chở như đang ở trong một cái thành có vách cao kiên cố. Người sẽ luôn luôn đủ thức ăn, và không bao giờ thiếu nước uống. 15

Mắt ngươi sẽ nhìn thấy vua cùng vẻ huy hoàng của Ngài. Ngươi sẽ thấy đất chạy dài mênh mông. 18 Ngươi sẽ suy nghĩ đến sự kinh hoàng thuở trước: “Viên chức đó đâu rồi? Kẻ thu thuế đâu? Còn quan chịu trách nhiệm tháp canh phòng vệ đâu?” 19 Ngươi sẽ không còn thấy các dân hách dịch từ các quốc gia khác, nói thứ tiếng mà ngươi không hiểu. 17

Thượng Đế sẽ bảo vệ Giê-ru-sa-lem Hãy nhìn Xi-ôn, thành của những lễ lộc ta. Hãy nhìn Giê-ru-sa-lem, nơi nghỉ ngơi yên tĩnh, như lều không bao giờ bị dời đi; như những cọc lều không bao giờ bị nhổ lên, và các dây thừng buộc nó sẽ không bao giờ đứt. 21 Đó là nơi ngự của CHÚA, Đấng Oai Nghi của chúng ta. Đó là đất có suối và sông lớn, nhưng không có thuyền bè bơi bằng mái chèo; cũng chẳng có tàu lớn nào chạy trên sông. 20

Vì CHÚA là quan án của chúng ta. Ngài làm ra luật lệ của chúng ta. Ngài là vua chúng ta. Ngài sẽ giải cứu chúng ta. 23 Hỡi các thủy thủ từ các xứ xa hãy nghe: Dây thừng buộc thuyền các ngươi lỏng lẻo. Cột buồm không vững chắc nữa. Buồm không giương ra. Của cải vô số của các ngươi bị phân ra, Đến nỗi kẻ què cũng được phần chia. 24 Không ai sống trong Giê-ru-sa-lem nói rằng, “Tôi bị đau.” Vì mọi người sống ở đó đều được tha tội. 22

I-sai-a 34 Thượng Đế sẽ trừng phạt các kẻ thù Ngài 34 Hỡi các dân, hãy đến gần nghe. Hỡi các dân hãy chú ý! Đất và mọi người trên đất hãy lắng tai, thế gian và mọi vật trong đó cũng vậy. 2 CHÚA nổi giận cùng các dân; Ngài nổi thịnh nộ cùng quân đội của họ. Ngài sẽ tiêu diệt và giết hết tất cả. 3 Thây chúng nó sẽ bị ném ra ngoài. Mùi hôi thúi sẽ xông lên từ các xác chết, và huyết sẽ chảy ròng ròng xuống núi. 4 Mặt trời, mặt trăng, và các ngôi sao sẽ tiêu tan, và bầu trời sẽ cuốn lại như quyển sách [a]. Các ngôi sao [b] sẽ rơi như lá úa rụng xuống từ dây nho hay trái vả khô rơi xuống khỏi cây vả. - 867 -


Gươm của Chúa trên trời dính đầy máu. Nó sẽ chặt qua Ê-đôm và sẽ tiêu diệt hết dân đó làm của lễ dâng lên cho CHÚA [c]. 6 Gươm của Chúa sẽ vấy máu; gươm đó sẽ dính đầy mỡ, cùng máu của chiên con và dê, với mỡ của các trái cật của dê đực [d]. Vì CHÚA đã muốn rằng sẽ có sinh tế ở Bốt-ra [e] và sẽ có giết chóc lớn ở Ê-đôm. 7 Trâu rừng sẽ bị giết, cùng với các bò đực mạnh mẽ. Cả xứ sẽ đầy máu chúng nó, và đất sẽ ngập mỡ của chúng nó. 8 CHÚA đã chọn thì giờ báo thù. Ngài đã chọn năm mà dân chúng phải trả giá về những điều ác chúng làm nghịch lại Xi-ôn. 9 Các sông Ê-đôm sẽ giống như nhựa nóng. Đất nó sẽ như lưu hoàng đang cháy. Xứ nó sẽ như nhựa cháy. 10 Lửa sẽ cháy cả ngày lẫn đêm; khói sẽ bốc lên từ Ê-đôm cho đến đời đời. Thế hệ nầy sang thế hệ khác, đất sẽ hoang vu; Chẳng còn ai qua lại xứ đó nữa. 11 Chim chóc và các thú nhỏ sẽ chiếm đất ấy, chim cú và quạ sẽ sống ở đó. Dân chúng sẽ gọi nơi ấy là “Sa mạc Hoang Vu.” [f] 12 Các kẻ quyền quí [g] sẽ chẳng còn ai mà cai trị; các lãnh tụ sẽ không còn. 5

Gai gốc sẽ mọc choán hết các tháp canh, và các bụi cỏ dại sẽ mọc trên các thành có vách. Nó sẽ trở thành nơi ở của chó sói và chỗ trú ngụ của chim đà điểu. 14 Muông thú trong sa mạc sẽ sống chung với chó rừng [h], và dê hoang [i] sẽ kêu nhau nơi đó. Các loài thú sống ban đêm [j] sẽ lấy nơi đó làm chỗ ở và dùng đất đó làm chỗ nghỉ ngơi. 15 Rắn sống trên cây sẽ làm tổ và đẻ trứng ở đó. Khi trứng nở, rắn mẹ sẽ ấp con mình dưới bóng của nó. Kên kên sẽ tụ lại từng đoàn. 16 Hãy nhìn cuốn sách của Chúa và đọc những lời viết bên trong: Sẽ không thiếu con nào; con nào cũng có đôi có cặp. Thượng Đế đã ra lệnh, cho nên Thần linh Ngài tập họp chúng lại. 13

- 868 -


Thượng Đế đã chia đất cho chúng, Ngài đã ban cho mỗi con một phần. Để chúng chiếm hữu đất đó đời đời và sẽ cư ngụ ở đó, từ thế hệ nầy sang thế hệ khác. 17

I-sai-a 35 Thượng Đế sẽ yên ủi dân Ngài 35 Sa mạc và đất khô sẽ vui mừng; đồng hoang sẽ hớn hở và trổ hoa. 2 Sa mạc sẽ đâm chồi nẩy lộc. Nó sẽ mừng rỡ và reo vui hớn hở. Nó sẽ tươi đẹp như rừng Li-băng, xinh tươi như đồi Cạt-mên và bình nguyên Sa-rôn. Mọi người sẽ thấy vinh hiển CHÚA và sự huy hoàng của Thượng Đế chúng ta. 3 Hãy làm cho các bàn tay yếu ớt trở nên mạnh mẽ và giúp các đầu gối run run trở nên vững chãi. 4 Hãy nói cùng những kẻ đang sợ sệt rằng, “Hãy mạnh dạn. Đừng sợ hãi. Kìa, Thượng Đế ngươi sẽ đến, Ngài sẽ trừng phạt các kẻ thù ngươi. Ngài sẽ bắt chúng trả giá những điều ác chúng làm, nhưng Ngài sẽ giải cứu ngươi.” 5 Kẻ mù sẽ thấy đường, kẻ điếc sẽ nghe được. 6 Kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, còn kẻ bị câm sẽ lớn tiếng reo mừng. Nước sẽ chảy trong sa mạc, và suối sẽ chảy nơi đất khô. Người ta sẽ thấy ảo ảnh [a] giống như hồ nước, nhưng chính ra là hồ nước thật. Nơi chó rừng sống trước kia, nay cỏ và cây sống dưới nước sẽ mọc lên. 8 Nơi đó sẽ có lối đi; đường cái đó sẽ được gọi là “Con Đường dẫn đến Thánh thiện.” Những kẻ ngu dại [b] sẽ không được đi trên đó; đường ấy chỉ dành cho kẻ thuộc về Thượng Đế. Không một lữ khách nào, kể cả kẻ ngu dại, sẽ bị lạc trên đường ấy được. 9 Sẽ không còn sư tử sống ở đó, hay ác thú qua lại đường ấy. Sẽ không ai thấy chúng nó nữa. Đường đó sẽ chỉ dành cho những kẻ được Thượng Đế cứu chuộc; 7

- 869 -


những ai được CHÚA giải phóng sẽ trở về đó. Họ sẽ vui mừng đi vào Xi-ôn, và niềm vui của họ sẽ còn mãi mãi. Họ sẽ vô cùng vui mừng hớn hở, còn cảnh đau buồn khổ sở chỉ là chuyện xa xưa. 10

I-sai-a 36 Quân A-xy-ri xâm chiếm Giu-đa 36 Trong năm thứ mười bốn đời vua Ê-xê-chia thì San-chê-ríp, vua A-xy-ri tấn công và chiếm lấy tất cả các thành kiên cố của Giu-đa. 2 Vua A-xy-ri phái viên tư lệnh tác chiến cùng với một đạo quân rất đông từ Lakích đến đánh vua Ê-xê-chia ở Giê-ru-sa-lem. Khi viên tư lệnh đến gần đường dẫn nước [a] từ hồ trên, [b] chỗ đường dân chúng hay giặt đồ thì dừng lại. Ê-li-a-kim, Sếp-na, và Giô-ách đi ra gặp ông. Ê-li-a-kim, con Hinh-kia làm quản lý cung vua, Sếp-na là đổng lý văn phòng, và Giô-ách, con A-sáp là bí thư hoàng gia. 3

4

Viên tư lệnh tác chiến bảo họ, “Hãy nói với Ê-xê-chia như sau:

Đại vương A-xy-ri hỏi: Hiện nay ngươi đang tin tưởng vào cái gì? 5 Ngươi bảo mình có kế hoạch tác chiến và sức mạnh để chiến đấu nhưng lời nói ngươi rỗng tuếch. Ngươi hiện trông cậy vào ai để chống lại ta? 6 Nầy, ngươi hiện đang trông cậy Ai-cập để hỗ trợ mình nhưng Ai-cập là cây gậy dập. Ai tựa vào, nó sẽ đâm thủng tay. Vua Ai-cập cũng sẽ làm tổn thương những ai nhờ hắn giúp. 7 Ngươi có thể tự hào: ‘Chúng ta nhờ cậy vào CHÚA là Thượng Đế của chúng ta,’ nhưng Ê-xê-chia đã tiêu hủy các bàn thờ và các nơi thờ phụng CHÚA. Ê-xê-chia bảo Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, ‘Các ngươi chỉ được thờ phụng nơi bàn thờ nầy mà thôi.’ 8 Bây giờ hãy lập ước với chủ ta là vua A-xy-ri: Ta sẽ cấp cho ngươi hai ngàn con ngựa nếu ngươi tìm được đủ người cỡi. 9 Ngươi không thể thắng nổi một sĩ quan thấp kém nhất của chủ ta thì tại sao ngươi lại nhờ cậy Ai-cập để chúng cấp cho ngươi xe cộ và lính cỡi ngựa? 10 Ta đến tấn công và tiêu hủy xứ nầy là do mệnh lệnh CHÚA. Chính Ngài bảo ta đến tiêu diệt xứ nầy.” Ê-li-a-kim, Sếp-na, và Giô-ách nói cùng viên tư lệnh tác chiến rằng, “Xin nói với chúng tôi bằng tiếng Aram vì chúng tôi hiểu thứ tiếng đó. Đừng nói bằng tiếng Hê-bơ-rơ [c] vì dân trong thành có thể nghe được.” 11

Nhưng viên tư lệnh trả lời, “Chủ ta sai ta đến nói những chuyện nầy đâu phải chỉ cho các ngươi và vua các ngươi mà thôi đâu. Ngài sai ta đến để nói với những người đang ngồi trên vách thành là những kẻ sẽ ăn phân và uống nước tiểu mình như các ngươi vậy [d].” 12

13

Nói xong viên tư lệnh đứng la lớn bằng tiếng Hê-bơ-rơ rằng, “Hãy nghe lời đại vương A-xy-ri bảo,

‘Ngài bảo các ngươi không nên để Ê-xê-chia phỉnh gạt mình vì người không thể nào cứu các ngươi được đâu. 15 Đừng để Ê-xê-chia dụ dỗ các ngươi tin tưởng vào CHÚA rằng: CHÚA sẽ giải cứu chúng ta. Thành nầy sẽ không bị trao vào tay vua A-xy-ri. 14

Đừng thèm nghe Ê-xê-chia. Vua A-xy-ri khuyên: Hãy cầu hòa với ta, hãy từ thành kéo nhau ra đầu hàng ta thì mỗi người các ngươi sẽ được tự do ăn trái nho, trái vả và uống nước của giếng mình. 17 Sau đó ta sẽ đến đưa các ngươi vào một xứ giống như xứ các ngươi, xứ đầy thóc gạo, rượu mới, bánh và vườn nho.’ 16

Đừng để Ê-xê-chia gạt các ngươi bảo rằng: ‘CHÚA sẽ cứu chúng ta.’ Có thần nào của các dân khác cứu họ khỏi quyền lực của vua A-xy-ri chưa? 19 Các thần của Ha-mát và Ác-bát đâu? Các thần của Sê-phạt-vaim đâu? Chúng nó đâu có giải cứu Xa-ma-ri ra khỏi tay ta. 20 Không có một thần nào của các xứ đó giải cứu dân chúng khỏi tay ta cả. Vì thế CHÚA cũng sẽ không thể giải cứu Giê-ru-sa-lem khỏi quyền lực của ta.” 18

- 870 -


Dân chúng làm thinh. Họ không trả lời gì cả với viên tư lệnh vì vua Ê-xê-chia đã ra lệnh, “Đừng đối đáp gì hết với hắn.” 21

Sau đó Ê-li-a-kim, Sếp-na, và Giô-a xé quần áo mình để bày tỏ lòng đau buồn. Ê-li-a-kim, con trai Hinhkia là quản lý cung vua, Sếp-na làm đổng lý văn phòng, còn Giô-a, con A-sáp làm ký lục. Ba người đi gặp vua Ê-xê-chia và thuật lại những gì viên tư lệnh tác chiến nói. 22

I-sai-a 37 Ê-xê-chia cầu xin Thượng Đế giúp đỡ 37 Khi vua Ê-xê-chia nghe các điều đó thì ông xé quần áo và mặc vải sô. Ông liền đi vào đền thờ của CHÚA. Ê-xê-chia sai Ê-li-a-kim, quản lý cung vua, và Sếp-na, đổng lý văn phòng, cùng các thầy tế lễ lớn tuổi đến gặp nhà tiên tri Ê-sai. Tất cả đều mặc vải sô khi họ đến gặp nhà tiên tri Ê-sai, con A-mốt. 3 Họ nói với Ê-sai, “Vua Ê-xê-chia nói: Hôm nay là ngày buồn thảm, trừng phạt và hổ nhục, giống như đứa bé sắp sinh ra nhưng người mẹ quá yếu ớt, không sinh được. 4 Vua A-xy-ri đã sai viên chỉ huy tác chiến đến sỉ nhục Thượng Đế hằng sống. Nguyện CHÚA là Thượng Đế nghe điều viên chỉ huy đó nói và trừng phạt hắn. Xin ông hãy cầu nguyện cho số ít chúng tôi được sống sót.” 2

Khi các sĩ quan của vua Ê-xê-chia đến cùng Ê-sai, 6 thì Ê-sai bảo họ rằng, “Hãy nói với chủ các ngươi như sau: CHÚA phán, ‘Đừng sợ điều các ngươi nghe. Đừng kinh hoảng vì lời của các đầy tớ của vua A-xy-ri nói phạm đến ta. 7 Nghe đây! Ta sẽ đặt một thần linh trong vua A-xy-ri. Người sẽ nghe tiếng đồn khiến người sẽ trở về xứ mình rồi ta sẽ khiến cho người chết vì gươm tại đó.’” 5

Quân A-xy-ri rời thành Giê-ru-sa-lem 8 9

Viên tư lệnh tác chiến nghe vua A-xy-ri đã rời La-ki. Khi trở về thì thấy vua đang vây đánh thành Líp-na. Vua nghe rằng Tiệt-ha-ca [a], vua Cu-si của Ai-cập đang kéo đến đánh mình.

Khi vua A-xy-ri nghe vậy liền sai sứ đến nói với vua Ê-xê-chia rằng, 10 “Hãy bảo Ê-xê-chia, vua Giu-đa như sau: Đừng để thần mà ngươi tin cậy phỉnh gạt. Đừng nghe thần đó quả quyết rằng Giê-ru-sa-lem sẽ không bị trao vào tay vua A-xy-ri. 11 Ngươi đã nghe điều các vua A-xy-ri làm. Họ đã chiến thắng tất cả các nước cho nên đừng tưởng rằng các ngươi sẽ an thân. 12 Các thần của những dân tộc ấy có giải cứu họ không? Tổ tiên ta tiêu diệt chúng, đánh bại các thành Gô-xan, Ha-ran, và Rê-xếp, và dân Ê-đen ở Tên-Át-xa. 13 Các vua Hamát và Ác-bát đâu? Vua của các thành Xê-phạt-va-im, Hê-na và Y-va đâu rồi?”

Ê-xê-chia cầu nguyện cùng Chúa Khi vua Ê-xê-chia nhận được thư từ tay các sứ giả và đọc xong thì ông đi lên đền thờ của CHÚA. Ông mở thơ ra trước mặt CHÚA 15 và cầu nguyện: 16 “Ôi Lạy CHÚA Toàn Năng, Thượng Đế của Ít-ra-en, ngôi ngài ngự giữa các sinh vật bằng vàng có cánh, chỉ một mình Ngài là Thượng Đế của các nước trên đất. Ngài tạo nên trời và đất. 17 Lạy CHÚA, xin lắng tai nghe. Xin mở mắt ra nhìn. Xin hãy nghe mọi điều vua San-chê-ríp đã nói để sỉ nhục Thượng Đế hằng sống. 18 Lạy CHÚA, quả thật rằng các vua A-xy-ri đã tiêu diệt các xứ đó và đất đai chúng. 19 Họ đã ném những thần của các dân tộc đó vào lửa nhưng những thần đó chẳng qua chỉ là gỗ và đá do tay người làm ra vì thế các vua A-xy-ri đã tiêu diệt chúng. 20 Lạy CHÚA là Thượng Đế chúng tôi xin hãy giải cứu chúng tôi khỏi quyền lực vua A-xy-ri để các nước trên đất biết rằng Ngài là Thượng Đế duy nhất.” 14

- 871 -


Chúa trả lời Ê-xê-chia Sau đó Ê-sai, con trai A-mốt nhắn với Ê-xê-chia như sau, “CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en phán: Ngươi đã cầu nguyện cùng ta về San-chê-ríp, vua A-xy-ri. Ta đã nghe lời khẩn cầu của ngươi. [b] 22 Đây là điều CHÚA phán nghịch cùng San-chê-ríp: 21

Dân cư Ít-ra-en [c] ghét ngươi và sỉ nhục ngươi; dân cư Xi-ôn xinh đẹp chế nhạo ngươi khi ngươi bỏ chạy. 23 Ngươi đã sỉ nhục ta và nói phạm đến ta; ngươi đã lên tiếng nghịch cùng ta. Ngươi lên mặt ngạo mạn, xấc láo đối với ta, Đấng Thánh của Ít-ra-en! 24 Ngươi đã sai sứ đến sỉ nhục Chúa. Ngươi nói, ‘Nhờ vào vô số quân xa ta kéo lên các đỉnh núi, lên các núi cao nhất của Li-băng. Ta đã đốn ngã các cây hương nam và các cây thông tốt nhất của nó. Ta đã lên đến các đỉnh cao nhất và vào các rừng tốt nhất của nó. 25 Ta đã đào các giếng trong các nước ngoại quốc, và uống nước từ các giếng đó. Nhờ bàn chân ta, ta đã làm cạn khô hết các sông Ai-cập. Hỡi vua A-xy-ri, hẳn ngươi đã nghe. Từ xưa ta, CHÚA, đã dự liệu việc nầy. Từ lâu ta đã trù liệu việc ấy, bây giờ ta thực hiện chúng. Ta đã cho phép ngươi biến các thành kiên cố có vách thành đống gạch vụn. 27 Dân cư các thành ấy rất yếu ớt; chúng nó hoảng sợ và bị xấu hổ. Chúng như cỏ ngoài đồng, như cỏ non yếu ớt, như cỏ trên nóc nhà bị gió thiêu đốt trước khi mọc lên. 28 Ta biết khi ngươi nằm nghỉ, cả lúc ngươi đi hay đến, và cách ngươi nổi giận nghịch ta. 29 Vì ngươi nổi giận nghịch ta, và vì ta đã nghe những lời xấc láo của ngươi, ta sẽ đặt móc trong mũi ngươi và tra hàm thiếc vào miệng ngươi. Rồi ta sẽ đuổi ngươi ra khỏi xứ ta y như cách ngươi đến.’” 26

Rồi CHÚA phán, “Hỡi Ê-xê-chia, ta sẽ cho ngươi dấu hiệu nầy: Năm nay ngươi sẽ ăn thóc lúa mọc hoang, năm thứ hai ngươi sẽ ăn những gì mọc hoang từ thóc lúa đó. Nhưng đến năm thứ ba, hãy trồng trọt và gặt hái. Hãy trồng vườn nho và ăn trái. 30

Một số người trong gia đình Giu-đa sẽ trốn thoát. Giống như cây đâm rễ, họ sẽ mọc mạnh và sinh nhiều con cháu. 32 Một số người sẽ sống sót từ Giê-ru-sa-lem; một số ít từ núi Xi-ôn sẽ sống còn. Tình yêu lớn lao [d] của CHÚA Toàn Năng sẽ thực hiện điều đó.” 31

- 872 -


33

“Cho nên đây là điều CHÚA phán về vua A-xy-ri:

‘Người sẽ không vào thành nầy, cũng sẽ không bắn một mũi tên nào vào đây. Người cũng sẽ không dùng khiên hay đắp bậc thang lên để tấn công vách thành. 34 Người đến đây thể nào thì cũng sẽ trở về xứ mình như thế, người sẽ không vào thành nầy,’ CHÚA phán vậy. 35 Ta sẽ bảo vệ và giải cứu thành nầy vì Đa-vít, tôi tớ ta.” Sau đó thiên sứ của CHÚA đến giết một trăm tám mươi lăm ngàn người trong doanh trại A-xy-ri. Sáng sớm hôm sau khi người ta dậy thì thấy toàn xác chết. 37 San-chê-ríp, vua A-xy-ri liền trở về lại Ni-ni-ve. 36

Một ngày kia San-chê-ríp đang thờ lạy trong đền thờ Nít-rốc, thần của mình thì hai con trai vua là Ách-ramê-léc và Sa-rê-xe lấy gươm giết vua rồi trốn qua xứ A-ra-rát. Ê-xa-hát-đôn, con San-chê-ríp, lên ngôi vua A-xy-ri. 38

I-sai-a 38 Bệnh của vua Ê-xê-chia 38 Lúc đó vua Ê-xê-chia lâm bệnh nặng gần chết. Nhà tiên tri Ê-sai, con A-mốt đến thăm và bảo, “CHÚA phán như sau: Hãy thu xếp mọi việc vì ngươi sẽ không sống được đâu mà sẽ qua đời.” Ê-xê-chia xoay mặt vào vách và cầu nguyện cùng CHÚA, 3 “CHÚA ôi, xin nhớ rằng tôi đã luôn luôn vâng lời Ngài. Tôi đã hoàn toàn dâng hiến mình cho Ngài và làm điều phải trước mặt Ngài.” Rồi Ê-xê-chia khóc thảm thiết. 2

Sau đó CHÚA bảo Ê-sai: 5 “Hãy đi nói với Ê-xê-chia: ‘CHÚA là Thượng Đế của Đa-vít, tổ tiên ngươi phán như sau: Ta đã nghe lời cầu nguyện ngươi và đã thấy nước mắt ngươi. Cho nên ta sẽ thêm cho đời ngươi mười lăm tuổi nữa. 6 Ta sẽ giải cứu ngươi và thành nầy khỏi tay vua A-xy-ri; ta sẽ bảo vệ thành nầy. 4

CHÚA sẽ thực hiện điều Ngài phán. Đây là dấu hiệu CHÚA tỏ cho ngươi: 8 Bóng mặt trời đã đi xuống bàn trắc ảnh của A-cha [a], nhưng ta sẽ khiến bóng đó lui lại mười nấc.’” Vậy bóng mặt trời lui lại mười nấc. 7

Bài ca ngợi của vua Ê-xê-chia 9

Sau khi Ê-xê-chia, vua Giu-đa bình phục thì ông viết bài ca nầy:

Tôi nói, “Tôi đang ở giữa cuộc đời tôi. Tôi có phải đi xuống cửa sự chết không? Phần còn lại của đời tôi có bị lấy khỏi tôi không?” 11 Tôi thưa, “Tôi sẽ không thấy CHÚA [b] trong đất người sống nữa. Tôi sẽ không thấy những người sống trên đất nữa. 10

Nhà tôi đã bị phá sập và tước đoạt, như lều của kẻ chăn chiên. Đời tôi chấm dứt rồi, như miếng vải của thợ dệt cuốn lại và bị cắt khỏi khung cửi. Trong một ngày CHÚA đưa tôi đến đường cùng. 12

- 873 -


Suốt đêm tôi kêu khóc thảm thiết. Ngài nghiền nát xương cốt tôi như sư tử. Trong một ngày CHÚA đưa tôi đến đường cùng. 14 Tôi kêu lên như chim và than vãn như chim cu đất. Khi tôi mỏi mắt hướng về trời. Lạy Chúa, tôi vô cùng thất vọng. Xin giúp đỡ tôi.” 15 Bây giờ tôi biết nói gì? CHÚA đã cho tôi biết điều gì sẽ xảy ra, và Ngài khiến nó xảy ra. Tôi đã gặp những khốn đốn trong linh hồn tôi, cho nên suốt đời tôi sẽ khiêm nhượng. 16 Lạy CHÚA, vì Ngài, mọi người được sống. Vì Ngài, thần linh tôi cũng sống; Ngài chữa lành và cho tôi sống. 13

Những khốn đốn đó là ích lợi cho tôi. Vì Ngài rất yêu tôi, không để tôi chết nhưng ném tội lỗi tôi đi xa. 18 Những kẻ ở âm phủ không thể ca ngợi Ngài; người chết rồi không thể ca hát chúc tụng Ngài; những ai đã qua đời không thể nào nhờ Ngài giúp đỡ. 19 Chỉ những người sống mới có thể ca ngợi Ngài. Họ sẽ ca ngợi Ngài như tôi ca ngợi Ngài hôm nay. Các người cha phải thuật cho con mình biết rằng CHÚA giúp đỡ. 20 CHÚA đã cứu tôi, cho nên suốt đời tôi, chúng tôi sẽ gảy nhạc cụ bằng dây trong đền thờ CHÚA. 17

Rồi Ê-sai bảo, “Hãy làm chất dẻo bằng trái vả đắp lên mụt nhọt của Ê-xê-chia, vua sẽ được lành.” 22 Ê-xêchia liền hỏi Ê-sai, “Sẽ có dấu hiệu gì cho thấy tôi sẽ đi lên đền thờ CHÚA không?” 21

I-sai-a 39 Các sứ giả từ Ba-by-lôn đến 39 Lúc đó Mê-rô-đác Ba-la-đan, con trai Ba-la-đan làm vua Ba-by-lôn. Ông gởi thơ và quà cho Ê-xê-chia vì nghe vua Ê-xê-chia đau và bình phục. 2 Ê-xê-chia rất vui nên khoe với các sứ giả những vật quí trong kho mình: bạc, vàng, hương liệu, nước hoa đắt tiền, gươm và thuẫn, cùng mọi tài sản của mình. Ông khoe với họ tất cả những gì trong cung vua và trong nước. 3

Nhà tiên tri Ê-sai liền đi đến gặp vua Ê-xê-chia hỏi, “Mấy người nầy nói gì vậy? Họ ở đâu đến?”

Ê-xê-chia đáp, “Họ đến từ một xứ rất xa, từ Ba-by-lôn.” 4

Ê-sai hỏi tiếp, “Họ thấy gì trong cung vua?”

Ê-xê-chia đáp, “Họ thấy tất cả mọi thứ trong cung của ta. Ta khoe với họ tất cả của cải ta có.” Ê-sai liền nói với Ê-xê-chia rằng: “Hãy nghe lời CHÚA Toàn Năng phán: 6 ‘Trong tương lai những gì ngươi hiện có trong cung điện cùng những gì tổ tiên ngươi để dành lại cho đến hôm nay đều sẽ bị mang qua Ba-by-lôn, không chừa lại một món nào cả,’ CHÚA phán vậy. 7 Một số con cái ngươi, tức các con sinh ra cho ngươi cũng sẽ bị đày đi làm tôi tớ [a] trong cung vua Ba-by-lôn.” 5

- 874 -


Ê-xê-chia nói với Ê-sai, “Những lời của CHÚA rất phải.” Vua nói vậy vì tự nghĩ, “Ít ra trong đời ta sẽ có hòa bình và an ninh.” 8

I-sai-a 40 Sự trừng phạt Ít-ra-en sẽ kết thúc 40 Thượng Đế các ngươi phán, “Hãy an ủi, hãy an ủi dân ta. 2 Hãy nói lời hoà nhã cùng dân cư Giê-ru-sa-lem rằng thời kỳ phục dịch của chúng đã xong, chúng đã trả giá cho tội lỗi mình, và CHÚA đã trừng phạt Giê-ru-sa-lem gấp đôi về mỗi tội của chúng.” Đây là tiếng người kêu: “Hãy chuẩn bị đường trong sa mạc cho CHÚA. Hãy làm thẳng lối đi trong xứ khô khan cho Thượng Đế chúng ta. 4 Các thung lũng sẽ được nâng lên, núi đồi sẽ được lấp bằng. Đất gồ ghề sẽ được san phẳng, và những nơi lởm chởm sẽ được ủi láng. 5 Rồi vinh hiển CHÚA sẽ tỏ ra, mọi người sẽ thấy. Chính CHÚA đã phán vậy.” 3

Có tiếng bảo, “Hãy kêu lớn!” Nhưng tôi hỏi, “Tôi kêu như thế nào?” “Hãy nói rằng mọi người như cỏ, và vinh hiển chúng như hoa trong đồng ruộng. 7 Cỏ héo hoa rơi, khi hơi thở CHÚA thổi qua trên chúng. Thật vậy loài ngươi giống như cỏ. 8 Cỏ héo hoa rơi, nhưng lời của Thượng Đế chúng ta sẽ còn lại đời đời.” 6

Sự cứu rỗi của Thượng Đế Hỡi Xi-ôn, ngươi có tin vui phải loan báo. Hãy đi lên núi cao. Hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy rao lớn tin mừng. Hãy thông báo tin vui. Hãy tuyên bố lớn lên đừng sợ hãi. Hãy nói cùng các thị trấn Giu-đa rằng, “Thượng Đế ngươi đây.” 10 Kìa, Chúa là Thượng Đế đến với quyền năng để cai trị muôn dân. Nầy Ngài sẽ mang phần thưởng cho dân Ngài; Ngài sẽ trả công cho họ. 9

- 875 -


Ngài chăm sóc dân Ngài như người chăn chiên, Gom họ lại như chiên con bồng trong tay và mang họ đi sát với Ngài. Ngài dịu dàng dẫn các chiên mẹ. 11

Thượng Đế cao cả Ai đã lấy bàn tay đo biển cả? Ai đã dùng tay đo bầu trời? Ai đã dùng chậu để lường cát bụi trên đất? Hay lấy cân mà cân núi đồi? 13 Ai biết ý của CHÚA hay có thể góp ý với Ngài? 14 Ngài cần ai giúp đỡ? Ai dạy cho Ngài đường ngay? Ai dạy cho Ngài trí hiểu và ban cho Ngài sự thông sáng? 15 Các dân tộc đều giống như giọt nước nhỏ xíu trong thùng; chẳng khác nào một hạt bụi trên cân của Ngài. Đối với Ngài các hải đảo chỉ như bụi nhuyễn trên cân. 16 Tất cả các cây trong rừng Li-băng không đủ để đốt làm củi trên bàn thờ, và các súc vật của Li-băng không đủ làm của lễ thiêu. 17 Sánh với CHÚA các dân đều không ra gì; đối với Ngài họ chẳng có giá trị gì cả. 12

Con người không thể hiểu Thượng Đế Các ngươi so sánh CHÚA với gì? Các ngươi so Ngài với hình ảnh nào đây? 19 Thần tượng do thợ khéo làm ra, rồi thợ bạc bọc vàng và làm ra dây xích bạc cho nó. 20 Người nghèo không mua nổi các pho tượng đắt giá đó, cho nên đi tìm một loại cây không bị mục nát. Rồi nhờ một người thợ khéo tạc thành pho tượng để không bị ngã nhào. 21 Thật vậy các ngươi vốn biết. Hẳn các ngươi đã nghe. Từ ban đầu chắc đã có người bảo cho các ngươi biết. Chắc hẳn các ngươi được cho biết từ lúc tạo thiên lập địa. 22 Ngôi Thượng Đế ngự trên vòng trái đất, so với Ngài, loài người giống như cào cào. Ngài trải bầu trời ra như tấm vải và giăng chúng ra như cái lều che người ngồi bên dưới. 23 Ngài khiến những kẻ cai trị trở nên vô dụng và các quan án thế gian không ra gì cả. 18

- 876 -


Họ giống như cây cối trồng trong đất, như hột giống được gieo. Vừa khi bắt đầu mọc mạnh lên, Ngài thổi trên chúng, chúng liền khô héo, gió thổi chúng bay đi như trấu. 25 Thượng Đế, Đấng Thánh phán, “Các ngươi có thể sánh ta với ai không? Có ai ngang hàng với ta không?” 24

Hãy nhìn lên trời, Ai tạo ra những vì sao đó? Ngài kéo các đạo binh trên trời ra từng đoàn và đặt tên cho mỗi vì sao. Vì Ngài mạnh mẽ và quyền năng, cho nên không sót ngôi sao nào. 26

Hỡi dân cư Gia-cốp, sao các ngươi phàn nàn? Hỡi dân Ít-ra-en sao ngươi nói, “CHÚA không thấy thân phận tôi đâu; Ngài chẳng thấy tôi hay trừng phạt tôi” [a]? 27

Chắc hẳn các ngươi biết. Chắc chắn các ngươi đã nghe. CHÚA là Thượng Đế hằng hữu, Đấng tạo nên thế giới. Ngài không mệt mỏi hay cần nghỉ ngơi. Không ai hiểu được sự khôn ngoan Ngài. 29 Ngài ban sức mạnh cho kẻ mệt mỏi, thêm năng lực cho kẻ yếu đuối. 30 Dù cho trẻ thơ cũng mệt mỏi cần nghỉ ngơi, cho đến người trẻ tuổi cũng vấp ngã. 31 Nhưng ai trông cậy CHÚA sẽ sung sức. Họ sẽ cất lên như chim phượng hoàng tung cánh trên trời [b]; chạy mà không biết mệt; đi mà không đuối sức. 28

I-sai-a 41 Chúa sẽ giúp đỡ Ít-ra-en 41 CHÚA phán, “Hỡi các xứ xa xôi, hãy yên lặng nghe ta. Các dân hãy mạnh dạn lên [a]. Hãy đến nói chuyện với ta; Chúng ta sẽ gặp nhau thảo luận xem ai phải. 2 Ai đánh thức Đấng đến từ phương Đông? Ai ban cho Ngài chiến thắng bốn phía? Đấng mang Ngài lại, trao cho Ngài các dân tộc và đánh bại các vua. Ngài vung gươm thì các vua trở thành như bụi. Ngài bắn cung thì họ bị thổi bay như trấu. 3 Ngài rượt theo họ và không hề bị thương tích, Ngài đi mà chân không chạm đất. - 877 -


Ai làm ra những chuyện đó? Ai nắm lịch sử từ lúc ban đầu? Chính ta, CHÚA là Đấng ấy. Ta đã có đây từ ban đầu, và ta cũng sẽ vẫn còn đây khi mọi việc kết thúc.” 4

Hỡi các nơi xa xăm hãy nhìn và kinh sợ; Hỡi các nơi xa xăm trên đất, hãy run sợ. Hãy đến gần nghe ta. 5

Các người thợ giúp đỡ nhau bảo nhau rằng, “Hãy mạnh dạn lên!” 7 Người thợ khéo giục giã thợ bạc, thợ dùng búa gõ nhẵn kim khí, khuyến khích thợ rèn làm việc với cái đe [b]. Người nói rằng, “Mối hàn nầy tốt.” Người lấy đinh đóng cái tượng vào đế để nó khỏi ngã. 6

Chỉ một mình Chúa mới có thể giải cứu CHÚA phán, “Hỡi dân Ít-ra-en, các ngươi là đầy tớ ta. Hỡi dân cư Gia-cốp, ta đã chọn các ngươi. Các ngươi thuộc gia đình của Áp-ra-ham, bạn ta. 9 Ta rút ngươi ra từ xứ xa xăm trên đất và gọi ngươi từ một miền xa thăm thẳm. Ta bảo, ‘Các ngươi là đầy tớ ta.’ Ta đã chọn ngươi và không chống nghịch ngươi. 10 Cho nên đừng sợ, vì ta ở với ngươi. Chớ kinh khiếp vì ta là Thượng Đế ngươi. Ta sẽ khiến ngươi thêm mạnh và sẽ giúp đỡ ngươi; Ta sẽ lấy tay phải ta mà nâng đỡ và giải cứu ngươi. 11 Tất cả các dân đang nổi giận cùng ngươi sẽ bị hổ thẹn và nhục nhã. Những kẻ chống nghịch ngươi sẽ biến mất. 12 Các ngươi sẽ tìm kẻ thù mình, nhưng không thấy. Những kẻ đối địch ngươi sẽ hoàn toàn biến mất. 13 Ta là CHÚA, Thượng Đế ngươi, Đấng nắm tay phải ngươi, bảo ngươi, ‘Đừng sợ hãi, ta sẽ giúp đỡ ngươi.’ 14 Hỡi những kẻ sót lại trong Ít-ra-en, đừng sợ cho dù ngươi yếu ớt và vô dụng [c].” 8

CHÚA phán, “Chính ta sẽ giúp đỡ ngươi. Đấng giải cứu ngươi là Đấng Thánh của Ít-ra-en. 15 Nầy, ta đã làm cho ngươi mới lại như miếng ván đập lúa có răng bén. Để ngươi đi trên các núi và chà đạp chúng. Ngươi sẽ khiến đồi núi thành trấu [d]. 16 Ngươi sẽ ném chúng lên trời, để gió thổi chúng bay đi; gió bão sẽ phân tán chúng. Rồi ngươi sẽ vui mừng trong CHÚA; Ngươi sẽ hãnh diện trong Đấng Thánh của Ít-ra-en.

- 878 -


Kẻ nghèo khổ khốn cùng sẽ tìm nước, nhưng không tìm được. Lưỡi họ khô vì khát. Nhưng ta, CHÚA sẽ đáp lời cầu nguyện của họ; Ta, Thượng Đế của Ít-ra-en sẽ không để họ chết. 18 Ta sẽ khiến sông chảy trên đồi khô, và suối phun ra từ thung lũng. Ta sẽ biến sa mạc ra hồ nước và đất khô thành các suối. 19 Ta sẽ khiến cây mọc trong sa mạc: cây hương nam, cây keo, cây sim và cây thông. Ta sẽ đặt cây thông, cây bách, và cây tùng mọc chung nhau trong sa mạc. 20 Người ta sẽ nhìn thấy những điều đó và hiểu; họ sẽ suy nghĩ kỹ về những việc nầy. Và biết rằng quyền năng CHÚA làm ra việc đó, và rằng Đấng Thánh của Ít-ra-en đã thực hiện các việc nầy.” 17

Chúa thách thức các thần giả CHÚA phán, “Hãy trình bày lý lẽ ngươi ra.” Vua của Gia-cốp bảo, “Hãy cho ta thấy lý đoán của ngươi. Hãy mang các thần tượng ngươi vào để chúng tiết lộ chuyện tương lai. Bảo chúng cho chúng ta biết chuyện xảy ra lúc ban đầu. Rồi chúng ta sẽ cùng nhau suy nghĩ, để chúng ta biết kết cục ra sao. Hoặc cho chúng ta biết chuyện tương lai. 23 Hãy cho chúng ta biết chuyện tương lai, thì chúng ta sẽ tin các ngươi là thần. Hãy hành động đi, dù tốt hay xấu, để chúng ta sợ hãi. 21 22

24

Các ngươi là thần vô dụng; chẳng làm được gì cả. Những kẻ thờ phụng các ngươi đáng ghê tởm [e].

Chúa chứng tỏ rằng Ngài là Thượng Đế thật 25

Ta đã mang một người đến từ phương Bắc [f]. Ta đã gọi đích danh một người từ phương Đông, và người biết ta. Người dẫm đạp lên các vua như dẫm lên bùn, như thợ gốm đạp lên đất sét.

Ai cho chúng ta biết chuyện nầy trước khi nó xảy đến? Ai báo trước cho chúng ta biết để chúng ta nói, ‘Ngài đã nói đúng’? Không ai trong các ngươi cho chúng ta biết gì cả; không ai trong các ngươi bảo cho chúng ta biết trước khi việc xảy ra; không ai nghe các ngươi nói gì về chuyện đó cả. 27 Ta, CHÚA là Đấng đầu tiên nói cho Giê-ru-sa-lem biết rằng dân chúng sẽ hồi hương. Ta sai sứ giả đến báo tin mừng cho Giê-ru-sa-lem. 26

Ta nhìn các thần tượng, nhưng chẳng tượng nào có thể trả lời cả. Không ai trong chúng nó biết cho ý kiến; Chẳng ai trong chúng nó có thể trả lời câu hỏi ta. 28

- 879 -


Nầy, tất cả chúng nó đều là thần giả. Không biết làm gì cả; Chúng nó thật vô dụng.” 29

I-sai-a 42 Đầy tớ đặc biệt của Chúa 42 “Đầy tớ ta đây là kẻ ta yểm trợ, là kẻ ta chọn lựa, ta rất hài lòng về người. Ta đã đặt Thần Linh ta trên người, người sẽ mang công bình đến cho các dân. 2 Người sẽ không kêu la hay to tiếng trên đường phố. 3 Người sẽ không bẻ cọng sậy bị dập hay tắt ngọn lửa leo lét. Người sẽ mang lại công bình; 4 người sẽ không thất vọng hay bỏ cuộc cho đến khi đã mang công bình đến cho thế gian. Các dân ở xa sẽ tin cậy nơi sự dạy dỗ người.”

Chúa là Đấng cai trị và sáng tạo vũ trụ CHÚA là Thượng Đế đã phán những điều đó. Ngài tạo nên bầu trời và trải nó ra. Ngài trải đất ra cùng mọi vật trong đó. Ngài ban sự sống cho mọi người trên đất, tức cho mọi người đi lại trên đất. 5

CHÚA phán, “Ta là CHÚA kêu gọi các ngươi làm điều thiện, ta sẽ nắm tay và bảo vệ ngươi. Ngươi sẽ làm dấu hiệu của giao ước ta với dân chúng, làm ánh sáng chiếu cho mọi người. 7 Ngươi sẽ giúp kẻ mù thấy đường. Giải thoát người bị cầm tù, ngươi sẽ dẫn những kẻ sống trong bóng tối ra khỏi ngục thất. 6

Ta là CHÚA. Đó là danh ta. Ta sẽ không nhường vinh hiển ta cho ai khác; Ta sẽ không để thần tượng nào đoạt lấy sự ca ngợi của ta. 9 Những điều ta báo trước đều đã thành sự thật, và nay ta bảo cho các ngươi biết những điều mới. Trước khi chúng xảy ra, ta đã bảo cho ngươi biết rồi.” 8

Bài ca tụng Chúa Hãy hát một bài ca mới [a] cho CHÚA; hãy hát ca tụng Ngài khắp nơi trên đất. Hỡi các ngươi là kẻ lướt trên biển, hãy ca tụng Ngài cùng mọi sinh vật sống trong biển cũng vậy. Hỡi những kẻ ở xa xăm hãy ca tụng Ngài. 11 Sa mạc và các thành phố nên ca tụng Ngài. Những vùng định cư của Kê-đa hãy ca ngợi Ngài. Hỡi những dân sống ở Sê-la hãy hát mừng; họ nên la lớn lên từ các đỉnh núi. 10

- 880 -


Họ nên dâng vinh hiển cho CHÚA. Các dân sống ở những nơi xa xăm hãy ca tụng Ngài. 13 CHÚA sẽ bước ra như chiến sĩ mạnh dạn; Ngài sẽ thích thú như người sẵn sàng ra trận. Ngài sẽ hô xung trận và đánh bại kẻ thù Ngài. 12

Thượng Đế rất nhẫn nại CHÚA phán, “Đã lâu nay ta không nói gì cả; Ta đã làm thinh và kìm hãm mình. Nhưng bây giờ ta sẽ kêu lớn và ráng sức như đàn bà đang sinh nở. 15 Ta sẽ tiêu diệt núi đồi và làm khô héo tất cả các cây xanh trên đó. Ta sẽ khiến sông ngòi trở thành đất khô và làm cạn các ao nước. 16 Rồi ta sẽ dẫn kẻ mù theo con đường chúng chưa hề đi, Ta sẽ dắt chúng theo lối chúng chưa hề biết. Ta sẽ biến bóng tối ra ánh sáng cho chúng, và khiến đất gồ ghề trở nên bằng phẳng. Ta sẽ làm những điều ấy; Ta sẽ không rời bỏ dân ta. 17 Nhưng những kẻ tin tưởng nơi thần tượng, những kẻ nói cùng các tượng chạm rằng, ‘Các ngài là thần của chúng tôi’ sẽ bị thất vọng và sỉ nhục. 14

Dân Ít-ra-en không chịu nghe lời Chúa Hỡi các ngươi là kẻ điếc hãy nghe ta. Hỡi các ngươi là kẻ mù hãy nhìn và thấy. 19 Không ai đui mù hơn dân Ít-ra-en là tôi tớ ta, hay điếc hơn sứ giả ta đã sai đi. Không ai đui hơn những người thuộc về ta hay mù hơn tôi tớ của CHÚA. 20 Hỡi Ít-ra-en, ngươi đã thấy nhiều điều, nhưng không chịu vâng lời. Ngươi nghe nhưng không chịu để ý.” 21 CHÚA đã khiến cho những sự dạy dỗ của Ngài thật diệu kỳ, vì Ngài nhân đức. 22 Các dân nầy đã bị đánh bại và cướp bóc. Chúng bị sập bẫy trong hố hoặc bị nhốt trong lao tù. Các kẻ thù như bọn cướp đã bắt chúng đi, không ai giải cứu chúng. Các kẻ thù đã đày chúng đi, mà không ai lên tiếng bảo, “Hãy mang chúng về.” 18

Có ai chịu nghe điều nầy không? Trong tương lai các ngươi có chịu khó để ý nghe không? 24 Ai để cho Gia-cốp bị cướp đi? Ai để cho Ít-ra-en bị bóc lột? Chính CHÚA đã để cho những việc đó xảy ra, vì chúng ta đã phạm tội cùng Ngài. Chúng ta không sống theo ý muốn Ngài và không vâng theo lời dạy dỗ Ngài. 25 Vì thế nên Ngài nổi thịnh nộ cùng chúng ta và mang chiến tranh khủng khiếp đến cho chúng ta. Khiến lửa vây phủ quanh dân Ít-ra-en, nhưng họ chẳng hiểu đầu đuôi ra sao. Họ bị thiêu đốt, nhưng chẳng thèm để ý. 23

- 881 -


I-sai-a 43 Thượng Đế luôn ở cùng dân Ngài 43 Hãy nghe lời CHÚA phán như sau: Hỡi dân Gia-cốp, Ngài dựng nên các ngươi; hỡi dân Ít-ra-en, Ngài tạo thành các ngươi. Ngài phán, “Đừng sợ vì ta đã giải cứu ngươi. Ta đã gọi đích danh ngươi, và ngươi thuộc về ta. 2 Khi ngươi đi qua nước, ta sẽ ở cùng ngươi. Khi băng qua sông, ngươi sẽ không bị chết đuối. Khi băng qua lửa, ngươi sẽ không bị cháy. 3 Vì ta, CHÚA là Thượng Đế ngươi, ta là Đấng Thánh của Ít-raen, Cứu Chúa ngươi. Ta đã hi sinh Ai-cập để trả giá cho ngươi, ta đã đánh đổi Cút và Sê-ba để khiến ngươi thuộc về ta. 4 Vì ngươi rất quí đối với ta, nên ta ban cho ngươi vinh dự và yêu thương ngươi, ta sẽ hi sinh các dân khác vì ngươi; ta sẽ đánh đổi các dân tộc khác để chuộc mạng sống ngươi. Đừng sợ vì ta ở với ngươi. Ta sẽ mang con cái ngươi về từ phương Đông, và gom góp các ngươi lại từ phương Tây. 6 Ta sẽ bảo phương Bắc: Hãy trả dân ta lại cho ta. Và bảo phương Nam: Đừng nhốt dân ta trong ngục thất nữa. Hãy mang các con trai ta về từ nơi xa xăm và các con gái ta từ xứ thăm thẳm. 7 Hãy trả lại dân ta cho ta, là kẻ ta đã tạo nên cho vinh hiển ta, là dân mà ta đã tạo dựng.” 5

Giu-đa là nhân chứng cho Thượng Đế Hãy mang ra những kẻ có mắt mà không thấy, cùng những kẻ có tai mà không nghe [a]. 9 Các dân tộc đã nhóm họp với nhau, các dân đã quy tụ lại. Có thần nào của chúng từng tiên đoán rằng việc nầy sẽ xảy ra không? Thần nào của chúng có thể báo trước việc xảy ra từ ban đầu không? Hãy bảo các thần đó mang nhân chứng ra để cho thấy rằng là chúng đúng, thì mọi người sẽ bảo, “Quả đúng thế.” 8

CHÚA phán, “Các ngươi là nhân chứng cho ta, là đầy tớ ta đã chọn. Ta đã chọn các ngươi để các ngươi biết và tin ta, để các ngươi hiểu rằng ta là Thượng Đế thật. Trước ta không có Thượng Đế nào, và sau ta cũng chẳng có Thượng Đế khác. 11 Chính ta là CHÚA. Ta là Đấng Cứu Thế duy nhất. 12 Chính ta đã phán cùng các ngươi, giải cứu các ngươi, và cho ngươi biết các việc nầy. Chính ta chớ không phải thần lạ nào ở giữa các ngươi đâu. Các ngươi là nhân chứng cho ta, còn ta là Thượng Đế,” CHÚA phán vậy. 13 “Ta xưa nay vẫn là Thượng Đế. Không ai có thể giải cứu dân chúng khỏi quyền lực của ta; khi ta hành động, không ai có thể thay đổi được.” 10

Đây là điều CHÚA, Đấng giải cứu ngươi, Đấng Thánh của Ít-ra-en phán: “Ta sẽ phái đạo quân đến Ba-bylôn để giải thoát các ngươi, ta sẽ phá sập mọi cổng thành khóa kín. Tiếng hân hoan của người Canh-đê sẽ biến ra tiếng thảm sầu. 15 Ta là CHÚA, Đấng Thánh ngươi, Tạo Hóa của Ít-ra-en, Vua ngươi.” 14

Thượng Đế sẽ giải cứu dân Ngài Đây là điều CHÚA phán. Ngài là Đấng mở con đường băng qua biển và tạo lối đi băng qua nước ào ào. Ngài là Đấng đánh bại các quân xa cùng ngựa và các đạo quân hùng mạnh. Chúng cùng nhau ngã nhào không bao giờ ngồi dậy nữa. Chúng bị tiêu diệt như ngọn lửa tắt. 18 CHÚA phán, “Hãy quên chuyện đã xảy ra trước kia, đừng nghĩ đến việc quá khứ. 19 Hãy nhìn những điều mới ta sắp làm. Các ngươi không thấy sao? Việc đó đang xảy ra. Ta sẽ làm một con đường trong sa mạc và tạo ra sông ngòi trên đất khô. 20 Ngay đến dã thú cũng cảm tạ ta như chó rừng và chim đà điểu. Chúng sẽ tôn kính ta khi ta tạo ra nước trong sa mạc và sông chảy trên đất khô để cung cấp nước cho dân ta là những kẻ ta đã chọn. 21 Dân mà ta đã tạo lập nên cho ta sẽ ca ngợi ta. 16 17

Hỡi dân cư Gia-cốp, các ngươi không hề kêu cầu ta; hỡi dân Ít-ra-en, các ngươi đã chán ta. 23 Các ngươi không mang sinh tế bằng chiên cho ta hay dâng của lễ để tỏ lòng tôn kính ta. Ta không đòi sinh tế để làm gánh nặng cho ngươi hay khiến ngươi chán ngấy vì phải đốt hương. 24 Nên các ngươi không mua hương cho ta; các ngươi không tự ý mang cho ta mỡ của sinh tế các ngươi. Nhưng tội lỗi các ngươi khiến ta mệt nhọc; ngươi làm cho ta kiệt lực vì những điều sai quấy ngươi làm. 22

- 882 -


Ta, chính ta là Đấng tha thứ mọi tội lỗi các ngươi, vì danh ta, ta sẽ không nhớ tội lỗi các ngươi nữa. Nhưng các ngươi hãy nhắc nhở ta. Hãy họp nhau lại tranh luận. Hãy thuật cho ta điều ngươi làm, hãy chứng tỏ rằng các ngươi đúng. 27 Người cha đầu tiên của các ngươi đã phạm tội, các lãnh tụ [b] ngươi đã chống nghịch ta. 28 Cho nên ta sẽ khiến các lãnh tụ thánh các ngươi không còn thánh nữa. Ta sẽ hủy diệt Gia-cốp [c], và khiến cho Ít-ra-en bị sỉ nhục.” 25 26

I-sai-a 44 Chỉ có Thượng Đế là Chúa mà thôi 44 CHÚA phán, “Hỡi dân Gia-cốp, các ngươi là đầy tớ ta. Hãy nghe ta đây! Hỡi dân Ít-ra-en, ta đã chọn ngươi.” 2 Đây là điều CHÚA, Đấng tạo ra ngươi phán, Đấng tạo ra ngươi trong lòng mẹ, sẽ giúp đỡ ngươi: “Hỡi dân Gia-cốp, đầy tớ ta, đừng sợ. Hỡi Giê-su-run [a], ta đã chọn ngươi. Ta sẽ rưới nước cho đất đang khát và khiến suối chảy trên đất khô. Ta sẽ đổ thần linh ta trên con cái các ngươi và xuống phước lành [b] trên con cháu ngươi. 4 Con cái ngươi sẽ mọc lên như cây trong đồng cỏ, như cây liễu mọc cạnh suối nước. 3

Người nầy sẽ nói, ‘Tôi thuộc về CHÚA,’ người nọ sẽ dùng danh Gia-cốp. Kẻ khác nữa sẽ ghi trên bàn tay mình như sau, ‘Tôi thuộc về CHÚA,’ rồi người khác nữa sẽ dùng danh Ít-ra-en.” 5

CHÚA, vua Ít-ra-en, là CHÚA Toàn Năng, Đấng giải cứu Ít-ra-en. Ngài phán như sau: “Ta là đầu tiên và là cuối cùng. Ta là Thượng Đế duy nhất. 7 Có thần nào giống như ta không? Thần đó hãy đến chứng tỏ đi. Thần đó hãy thuật lại những việc từ xưa. Thần đó hãy cho biết việc tương lai đi. 6

Đừng sợ hãi cũng đừng lo âu! Ta đã cho các ngươi biết việc sẽ xảy ra. Các ngươi là nhân chứng [c] cho ta. Ngoài ta không có Thượng Đế nào khác. Ta không biết đến Khối Đá nào khác; ta là Khối Đá duy nhất.” 8

Các thần tượng thật vô dụng Có kẻ tạc ra thần tượng, nhưng chúng nó vô dụng. Người ta quí các thần đó, nhưng chúng chẳng ích lợi gì. Họ là nhân chứng cho các tượng chạm, nhưng chúng không thấy. Chúng chẳng biết hổ nhục là gì. 10 Ai làm ra những thần nầy? Ai đã tạo ra những thần vô dụng nầy? 11 Các thợ làm ra chúng sẽ bị xấu hổ, vì họ chỉ là người. Nếu họ họp chung nhau lại, thì họ cũng sẽ cùng nhau xấu hổ và sợ hãi. 9

Người thợ dùng dụng cụ để nung sắt, làm việc trên than đỏ. Dùng búa đập sắt để làm ra bức tượng bằng cánh tay lực lưỡng của mình. Nhưng khi người kiệt lực thì đói lả. Nếu không uống nước, người sẽ mệt lả. 12

Một người thợ khác dùng dây tẩm mực [d] và dụng cụ dùng để vẽ vòng tròn [e] trên gỗ. Rồi dùng cái đục để khắc ra tượng, dùng dụng cụ để đo tượng. Làm theo cách ấy người thợ tạc khúc gỗ giống y như hình người, và đặt tượng đó trong nhà. 13

Người đi đốn cây hương nam, cây lật, hay cây sồi. Những cây đó tự mọc bằng sức riêng trong rừng. Hoặc người trồng cây thông, mưa khiến nó mọc lên. 14

Rồi người đốt cây. Dùng một số gỗ làm củi sưởi ấm, người cũng nhen lửa nướng bánh mì. Nhưng dùng một phần gỗ làm một vị thần rồi thờ lạy nó. Làm ra một hình tượng rồi cúi xuống lạy nó! 16 Người đốt phân nửa gỗ làm củi chụm. Dùng lửa đó nấu thịt, và ăn thịt no nê. Người cũng đốt gỗ để sưởi ấm. Người nói, “Tốt! Bây giờ ta ấm áp rồi. Ta có thể thấy được nhờ ánh sáng của lửa.” 17 Nhưng người lấy gỗ còn lại tạc một bức tượng và gọi nó là thần. Người cúi xuống thờ lạy nó. Người cầu nguyện cùng nó rằng, “Ngài là thần của tôi. Xin hãy giải cứu tôi!” 15

- 883 -


Những kẻ đó không biết mình đang làm gì. Chúng không hiểu biết! Giống như đang bị bịt mắt nên không thể thấy. Trí óc chúng không hiểu gì. 18

Chúng không suy nghĩ đến những điều đó; chúng không hiểu biết. Chúng không tự suy xét rằng, “Ta đã đốt phân nửa gỗ làm củi chụm và dùng than đỏ nướng bánh mì ta. Ta đã nấu và ăn thịt đã nấu. Ta dùng số gỗ còn lại để làm ra vật đáng ghê tởm nầy. Ta thờ lạy một khúc gỗ!” 19

Chúng nó không biết mình làm gì [f]; trí não quẫn bách khiến người lầm lạc. Chúng không tự cứu hay nhìn nhận, “Hình tượng ta đang cầm trong tay là thần giả.” 20

Chỉ Chúa là Thượng Đế thật mới có thể giúp đỡ Ít-ra-en “Hỡi dân Gia-cốp, hãy nhớ những điều nầy! Hỡi dân Ít-ra-en, đừng quên rằng ngươi là đầy tớ ta. Ta tạo nên các ngươi, ngươi là đầy tớ ta. Cho nên hỡi Ít-ra-en, ta sẽ chẳng bao giờ quên ngươi. 22 Ta đã thổi sạch tội lỗi ngươi như đám mây; Ta đã cất tội lỗi các ngươi như mây tan biến vào không khí. Hãy trở lại cùng ta vì ta đã giải cứu ngươi.” 21

Hỡi các bầu trời, hãy hát mừng vì CHÚA làm những việc lớn lao! Hỡi đất, hãy reo vui từ những nơi thẳm sâu nhất của ngươi! Hỡi núi non, hãy hát lời cảm tạ cho Thượng Đế. Hỡi các cây cối trong rừng, hãy ca lên! CHÚA đã giải cứu dân cư Gia-cốp! Ngài bày tỏ vinh hiển mình khi giải thoát Ít-ra-en. 24 Đây là lời CHÚA, Đấng giải cứu ngươi, Đấng tạo ngươi ra trong bụng mẹ phán: “Ta, CHÚA, tạo nên mọi vật, một mình ta giăng các bầu trời và trải đất ra. 23

Ta vạch trần cho thấy những dấu hiệu của các nhà tiên tri nói dối là giả tạo; Ta khiến những kẻ làm ma thuật phải xấu hổ. Ta làm cho người khôn rối trí; chúng tưởng mình biết nhiều nhưng ta khiến chúng hóa ra ngờ nghệch. 26 Ta khiến cho những lời nói của các đầy tớ ta thành sự thật; Ta làm cho những lời khuyên của các sứ giả ta xảy ra. 25

Thượng Đế chọn vua Xi-ru để tái thiết Giu-đa Ta bảo Giê-ru-sa-lem, ‘Người ta sẽ lại đến ở giữa ngươi!’ Ta nói cùng các thị trấn Giu-đa, ‘Ngươi sẽ được tái thiết!’ Ta phán cùng chỗ đổ nát của Giê-ru-sa-lem rằng, ‘Ta sẽ sửa chữa ngươi.’ 27 Ta ra lệnh cho các chỗ nước sâu rằng, ‘Hãy khô cạn đi! Ta sẽ khiến các suối nước ngươi cạn khô!’

- 884 -


Ta nói về Xi-ru như sau, Người là kẻ chăn của ta và sẽ làm theo ý muốn ta. Người sẽ bảo Giê-ru-sa-lem rằng, ‘Ngươi sẽ được tái thiết!’ Người sẽ nói với đền thờ, ‘Người ta sẽ xây lại nền của ngươi.’” 28

I-sai-a 45 Thượng Đế dùng Xi-ru để giải thoát Ít-ra-en 45 Đây là điều CHÚA phán về Xi-ru, vua được chọn lựa [a] của Ngài: “Ta nắm tay phải ngươi và sẽ giúp ngươi chiến thắng các dân cùng tước đoạt quyền lực các vua. Ta sẽ mở các cửa cho ngươi các cổng thành sẽ không ngăn chận ngươi được. 2 Ta sẽ đi trước ngươi và san phẳng núi non. Ta sẽ phá sập các cổng thành bằng đồng và bẻ gãy mọi then cài sắt của chúng. 3 Ta sẽ ban cho ngươi của cải cất kỹ và những bửu vật kín giấu để ngươi biết rằng ta là CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en, Đấng gọi đích danh ngươi. 4 Ta làm những điều nầy vì dân cư Gia-cốp, kẻ tôi tớ ta và cho Ít-ra-en, dân được ta chọn. Hỡi Xi-ru, ta gọi tên ngươi, ban cho ngươi tước vị dù rằng ngươi không biết ta. 5 Ta là CHÚA. Không có Thượng Đế nào khác ngoài ta; Ta là Thượng Đế duy nhất. Ta sẽ khiến ngươi hùng mạnh [b], dù rằng ngươi không biết ta, 6 để mọi người biết rằng không có Thượng Đế nào khác. Từ Đông sang Tây mọi người sẽ biết rằng chỉ một mình ta là CHÚA. 7 Ta làm sáng làm tối. Ta mang thái bình, và tạo hỗn loạn. Chính ta, là CHÚA, làm những điều đó. Hỡi từng trời cao kia, hãy cho chiến thắng rơi xuống như mưa, Hỡi các đám mây, hãy đổ chiến thắng [c] xuống. Hãy để đất nhận lấy chúng, và hãy để chiến thắng mọc lên. Ta, CHÚA, đã tạo ra nó. 8

- 885 -


Thượng Đế cầm quyền trên muôn vật Khốn cho những kẻ biện bác với Thượng Đế, Đấng tạo ra mình. Chúng giống như mảnh vỡ của đống đồ gốm. Đất sét không bao giờ hỏi thợ gốm, ‘Ông làm gì vậy?’ Đồ vật không thể nào chất vấn người tạo ra mình. 10 Khốn cho kẻ nào nói với cha mình rằng, ‘Ông sinh gì?’ Khốn cho kẻ nào nói với mẹ mình rằng, ‘Bà đẻ ra gì?’” 9

11

Đây là điều CHÚA, Đấng Thánh của Ít-ra-en, Đấng dựng nên họ phán:

“Các ngươi hỏi ta về chuyện tương lai, Các ngươi chất vấn ta về con cái ta, Các ngươi muốn ta chứng tỏ những điều ta đã làm [d]. 12 Ta đã dựng nên đất cùng mọi người sống trên đất. Cánh tay ta giăng bầu trời, và điều động các đạo binh trên trời [e]. 13 Ta sẽ mang Xi-ru đến để làm những việc tốt lành [f], Ta sẽ khiến công tác người được dễ dàng. Người sẽ tái thiết lại thành ta và giải thoát dân ta mà không đòi thù lao hay phần thưởng. CHÚA Toàn Năng phán như vậy.” CHÚA phán, “Các hàng hoá làm từ Ai-cập và Cút, cùng những người cao lớn của Sê-ba sẽ đến cùng ngươi và trở thành tài sản ngươi. Người Sê-ba sẽ đi sau ngươi, kéo lê xiềng xích mình. Chúng sẽ cúi lạy trước mặt và khẩn cầu ngươi rằng, ‘Thượng Đế ở với vua, không có Thượng Đế nào khác.’” 14

Thượng Đế và Đấng Giải Cứu Ít-ra-en, Ngài là Thượng Đế mà loài ngươi không thể thấy. 16 Những ai tạc các thần tượng sẽ bị xấu hổ; chúng sẽ cùng nhau bị hổ nhục. 17 Nhưng Ít-ra-en sẽ được CHÚA giải cứu, và sự cứu chuộc đó sẽ còn đời đời. Dân Ít-ra-en sẽ không bao giờ bị sỉ nhục nữa. 18 CHÚA đã tạo nên trời. Ngài là Thượng Đế dựng nên đất. Ngài không muốn đất hoang vu, nhưng muốn có sự sống trên đất. Nên CHÚA phán như sau: Ta là CHÚA. Không có Thượng Đế nào khác. 19 Ta không nói nơi bí mật hay giấu lời ta ở nơi tăm tối. Ta không bảo gia đình Gia-cốp tìm ta nơi hoang vu. Ta là CHÚA, ta nói sự thật; và làm điều phải. 15

Chúa chứng tỏ rằng Ngài là Thượng Đế thật Các ngươi đã thoát khỏi các dân khác, hãy nhóm họp và đến ra mắt ta; hãy lại gần đây. Những kẻ mang tượng chạm bằng gỗ không biết mình làm gì. Chúng cầu nguyện cùng một thần không thể giải cứu mình. 20

- 886 -


Hãy bảo dân nầy đến cùng ta. Hãy trình bày trường hợp của các ngươi và thảo luận với nhau về những điều đó. 21

Ai đã từ lâu bảo cho các ngươi biết những chuyện nầy sẽ xảy ra? Ai đã từ lâu nói cho các ngươi biết? Ta, CHÚA là Đấng bảo những điều đó. Không có Thượng Đế nào khác ngoài ta. Ta là Thượng Đế công chính duy nhất. Ta là Đấng Cứu Thế. Không có Thượng Đế nào khác. 22 “Hỡi dân cư khắp nơi, hãy theo ta để được cứu. Ta là Thượng Đế. Không có Thượng Đế nào khác. Ta dùng quyền năng ta để tuyên hứa, và lời hứa ta chân thật. Điều ta nói sẽ không bao giờ thay đổi. Ta hứa rằng mọi người sẽ cúi lạy trước mặt ta và sẽ hứa nguyện đi theo ta. 24 Dân chúng sẽ nói về ta như sau, ‘Sự nhân từ và quyền năng đều đến từ CHÚA.’” 23

Những ai nổi giận cùng Ngài sẽ đến cùng Ngài và bị xấu hổ. 25 Nhưng nhờ CHÚA giúp, dân Ít-ra-en sẽ sống phải cách [g], và sẽ ca ngợi Ngài.

I-sai-a 46 Các thần giả đều vô dụng 46 Bên đã ngã xuống đất và Nê-bô [a] cúi lạy trước mặt ta. Các thần tượng của chúng nó do thú vật chuyên chở. Các tượng chạm chỉ là đồ nặng phải chở; chỉ khiến thú vật chở chúng mệt mỏi thôi. 2 Các thần nầy đều sẽ cúi lạy. Chúng không thể tự cứu mình được, mà bị mang đi như tù nhân. “Hỡi gia đình Gia-cốp, hãy nghe ta! Tất cả các ngươi là dân Ít-ra-en còn sống sót hãy nghe đây! Ta đã bồng ẵm các ngươi từ lúc mới sinh; Ta đã chăm sóc các ngươi từ khi mới lọt lòng mẹ. 4 Dù khi ngươi trở về già, ta cũng sẽ vẫn làm như vậy. Dù cho tóc ngươi đã bạc, ta cũng sẽ chăm sóc ngươi. Ta đã dựng nên ngươi, sẽ chăm sóc các ngươi. Ta sẽ bồng ẵm và giải cứu ngươi. 3

Các ngươi có thể so sánh ta với ai khác không? Không ai bằng ta hoặc giống ta. 6 Có kẻ giàu vì nhiều vàng và cân bạc trên cái cân. Họ thuê thợ bạc làm ra một vị thần. Rồi cúi xuống bái lạy nó. 7 Họ đặt nó lên vai rồi mang đi. Họ đặt nó ở chỗ nào thì nó đứng yên chỗ đó; nó không thể nào di động qua chỗ khác được. Người ta la hét vào mặt nó, nhưng nó không thể trả lời. Nó không thể tự cứu khỏi mọi thảm họa. 5

Hãy nhớ điều nầy, đừng bao giờ quên! Hãy suy nghĩ đến những điều nầy, hỡi các ngươi là kẻ chống nghịch Thượng Đế. 9 Hãy nhớ điều xảy ra từ xưa. Hãy nhớ rằng ta là Thượng Đế, không có Thượng Đế nào khác. Ta là Thượng Đế, không có ai giống như ta. 8

Từ đầu ta đã cho ngươi biết việc sẽ xảy ra lúc cuối cùng. Từ lâu ta đã cho ngươi biết việc chưa xảy đến. Khi ta dự định điều gì thì điều đó xảy ra. Điều ta muốn làm, ta sẽ làm. 11 Ta kêu gọi một người từ đông phương để thi hành kế hoạch ta; từ một xứ xa xôi người đến như diều hâu. Ta sẽ thực hiện điều ta phán. Ta sẽ làm điều ta đã trù liệu. 10

Hãy nghe ta, hỡi dân ương ngạnh [b], và dân xa cách sự cứu rỗi. 13 Ta sẽ sớm làm điều phải. Ta sẽ sớm mang đến sự cứu rỗi. Ta sẽ giải cứu Xi-ôn, và mang vinh hiển cho Ít-ra-en.” 12

- 887 -


I-sai-a 47 Lời Thượng Đế cảnh cáo Ba-by-lôn 47 CHÚA phán, “Hỡi thành Ba-by-lôn, hãy đi xuống ngồi trong bụi đất. Hỡi dân cư Ba-by-lôn [a], hãy ngồi xuống đất. Ngươi không còn làm quan quyền nữa. Ngươi sẽ không còn được gọi là dịu dàng xinh đẹp nữa. 2 Ngươi phải xay bột bằng cối đá nặng. Hãy gỡ bỏ khăn mỏng che mặt và cởi váy ra. Hãy túm váy và sẵn sàng băng qua sông [b]. Dân chúng sẽ thấy sự trần truồng ngươi; họ sẽ thấy sự hổ nhục ngươi. Ta sẽ trừng phạt ngươi; Ta sẽ trừng phạt mỗi người trong các ngươi.” 3

4

Cứu Chúa chúng ta là CHÚA Toàn Năng; Ngài là Đấng Thánh của Ít-ra-en.

Hỡi Ba-by-lôn, hãy ngồi trong bóng tối và im lặng. Ngươi sẽ không còn được gọi là hoàng hậu của các nước nữa. 6 Ta đã nổi giận cùng dân ta, và đã gạt bỏ những kẻ thuộc về ta. Ta trao họ cho ngươi, nhưng ngươi không tỏ lòng thương xót họ. Thậm chí ngươi hành hạ người già cả. 7 Ngươi bảo, “Ta sẽ mãi mãi là hoàng hậu.” Nhưng ngươi không thèm để ý đến những việc ngươi làm cho dân ta, cũng không suy xét đến việc sẽ xảy ra. 8 Bây giờ hãy nghe đây, hỡi ngươi là kẻ ham khoái lạc. Ngươi nghĩ mình bình an vô sự. Ngươi tự nhủ, “Chỉ có một mình ta là quan trọng. Ta sẽ không khi nào trở thành goá phụ hay mất con cái ta.” 9 Hai việc bất thần sẽ xảy ra cho ngươi cùng trong một ngày. Ngươi sẽ mất cả chồng lẫn con. Những việc nầy chắc chắn sẽ xảy ra cho ngươi, dù ngươi có ma lực đi nữa, dù ngươi dùng xảo thuật cao tay đi nữa. 10 Ngươi làm điều ác mà cảm thấy bình an vô sự [c] lại còn nói, “Không ai thấy điều ta làm.” Sự khôn ngoan và hiểu biết ngươi đã gạt ngươi. Ngươi tự nhủ, “Ta là Thượng Đế, không ai bằng ta cả.” 5

- 888 -


Nhưng khốn đốn sẽ đến với ngươi, mà ngươi không biết cách nào ngăn chận. Thảm họa sẽ rơi trên ngươi, mà ngươi không thể nào tránh được. Ngươi sẽ bị tiêu diệt nhanh chóng; Thậm chí ngươi không thấy nó đến nữa. 12 “Hãy cứ dùng âm mưu xảo quyệt đi, và dùng ma thuật mà ngươi đã dùng từ lúc còn trẻ. Có thể chúng sẽ giúp ích cho ngươi; có thể chúng sẽ hù dọa được một vài người. 13 Ngươi mệt mỏi vì những lời khuyên. Cho nên hãy để cho những kẻ nghiên cứu trời đất tức những kẻ nhìn sao và trăng mới mà đoán tương lai, giải cứu ngươi khỏi những việc sẽ xảy đến cho ngươi. 14 Nhưng chúng nó như rơm rạ; bị lửa thiêu đốt nhanh chóng. Chúng không thể tự cứu khỏi quyền lực của lửa. Chúng không giống như than cung cấp hơi ấm cũng không giống như lửa mà ngươi có thể ngồi kế bên. 15 Ngươi đã làm việc với chúng, là những kẻ đã tiếp xúc với ngươi từ khi ngươi còn trẻ, nhưng chúng không thể giúp ngươi. Ai nấy đều đi đường riêng mình, không ai còn lại để giải cứu ngươi.” 11

I-sai-a 48 Thượng Đế cai quản thế giới 48 CHÚA phán, “Hỡi nhà Gia-cốp, hãy nghe ta. Ngươi được gọi là Ít-ra-en, Ngươi xuất thân từ gia đình Giu-đa. Ngươi lấy danh CHÚA mà thề thốt và ca ngợi Thượng Đế của Ít-ra-en, nhưng lòng ngươi không chân thành. Ngươi tự gọi mình là dân cư của thành thánh [a], và nương cậy vào Thượng Đế của Ít-ra-en, Đấng được gọi là CHÚA Toàn Năng. 2

Từ xưa ta đã cho ngươi biết những gì sẽ xảy ra. Ta nói trước và cho ngươi hay; rồi bỗng nhiên ta hành động thì những việc ấy xảy ra. 4 Ta biết ngươi rất ương ngạnh; cổ ngươi cứng như bắp thịt sắt, và đầu ngươi như đồng. 5 Cho nên từ xưa ta đã bảo trước cho ngươi những điều đó; Ta cho ngươi biết trước khi chúng xảy ra để ngươi không thể nói, ‘Thần tượng của tôi làm những điều nầy, các tượng chạm bằng gỗ và sắt của tôi khiến những việc nầy xảy ra.’” 3

- 889 -


Thượng Đế trừng phạt dân Ít-ra-en để khiến họ tinh sạch “Ngươi đã nghe thấy mọi việc để ngươi có thể kể lại cho kẻ khác biết. Bây giờ ta sẽ cho ngươi biết những điều mới lạ, những điều kín giấu mà ngươi chưa rõ. 7 Những điều nầy hiện đang xảy ra chớ không phải xảy ra từ xưa; trước đây ngươi chưa hề nghe đến chúng. Nên ngươi không thể nói, ‘Chúng tôi biết chuyện đó rồi.’ 8 Nhưng ngươi không nghe ta; ngươi không thèm hiểu. Từ xưa kia ngươi cũng đã chẳng chịu nghe ta. Ta biết chắc ngươi sẽ phản ta; từ khi sinh ra ngươi đã chống ta. 6

9

Nhưng ta nén giận vì danh ta. Người ta ca ngợi ta vì ta nén giận không tiêu diệt ngươi.

Ta đã khiến ngươi tinh sạch mà không dùng lửa như luyện bạc. Ta đã dùng những thử thách để luyện lọc ngươi. 11 Ta làm những điều đó vì ta, vì danh ta. Ta sẽ không để ai nói xấu ta, cũng sẽ không nhường vinh hiển ta cho thần nào khác. 10

Ít-ra-en sẽ được giải thoát Hỡi dân Gia-cốp, hãy nghe ta. Hỡi dân Ít-ra-en, ta đã gọi ngươi làm dân ta. Ta là đầu tiên và cuối cùng. 13 Chính tay ta dựng nên trái đất. Ta dùng tay phải ta trải các bầu trời ra. Khi ta gọi, chúng nó sẽ đến trình diện ta. 12

14

Tất cả các ngươi hãy đến nghe. Có thần giả nào bảo trước cho các ngươi những điều nầy không?

CHÚA đã chọn người tấn công [b] Ba-by-lôn; để thực hiện ý muốn Ngài nghịch lại người Canh-đê. Ta đã phán; ta đã gọi người. Ta đã mang người đến và sẽ khiến người thành công. 16 Hãy đến cùng ta và nghe đây. Từ ban đầu ta đã nói tỏ tường. Từ lúc tạo thiên lập địa, ta đã có đó.” 15

Bây giờ CHÚA là Thượng Đế đã sai ta đi cùng với Thần linh Ngài. 17 Đây là lời CHÚA, Đấng giải cứu ngươi, Đấng Thánh của Ít-ra-en phán: “Ta là CHÚA, Thượng Đế ngươi, Đấng dạy ngươi làm điều thiện, chỉ cho ngươi con đường phải theo.

- 890 -


Nếu ngươi chịu nghe mệnh lệnh ta thì ngươi đã có hoà bình như sông chảy cuồn cuộn. Phước lành sẽ ào đến ngươi như sóng biển. 19 Ngươi sẽ có đông con như cát. Chúng sẽ không bao giờ chết hay bị tiêu diệt.” 18

Hỡi dân ta, hãy ra khỏi Ba-by-lôn! Hãy chạy trốn khỏi người Ba-by-lôn! Hãy vui mừng la lớn báo tin nầy cho dân chúng; hãy loan truyền cho khắp đất biết. Hãy nói rằng, “CHÚA đã giải cứu tôi tớ Ngài là con cháu Gia-cốp.” 21 Khi Ngài dẫn họ đi qua sa mạc, họ sẽ không bị khát. Ngài khiến nước chảy ra từ một tảng đá. Ngài chẻ đá, nước liền phun ra. 20

22

“Kẻ ác không thể hưởng hoà bình,” CHÚA phán vậy.

I-sai-a 49 Thượng Đế gọi đầy tớ đặc biệt của Ngài 49 Hỡi các dân ở gần biển, hãy nghe ta. Hỡi các dân tộc ở xa xôi, hãy lắng tai. Trước khi ta sinh ra, CHÚA đã gọi ta để phục vụ Ngài. CHÚA đã đặt tên cho ta từ khi ta còn nằm trong lòng mẹ. 2 Ngài khiến lưỡi ta như gươm bén. Ngài giấu ta trong lòng bàn tay Ngài. Ngài làm cho ta như mũi tên nhọn. Ngài giấu ta trong bao đựng tên của Ngài. 3

Ngài bảo ta, “Hỡi Ít-ra-en, ngươi là tôi tớ ta. Ta sẽ làm những việc kỳ diệu qua ngươi.”

Nhưng ta bảo, “Tôi đã làm việc cực nhọc không công; Tôi đã ráng sức mà chẳng làm được việc gì hữu dụng. CHÚA sẽ quyết định việc làm nào của ta có giá trị. Thượng Đế sẽ định phần thưởng cho ta.” 5 Từ trong bụng mẹ ta CHÚA đã khiến ta làm đầy tớ Ngài, để hướng dẫn dân Gia-cốp trở về cùng Ngài, để Ít-ra-en được tập họp về cùng Ngài. CHÚA sẽ tôn trọng ta, Ta sẽ nhận được sức lực từ Thượng Đế. 4

Nay Ngài bảo ta, “Ngươi là đầy tớ quan trọng của ta để mang các chi tộc của Gia-cốp trở về, để mang dân sót lại của Ít-ra-en trở về. Nhưng quan trọng hơn nữa là ta sẽ khiến ngươi làm ngọn đèn cho các dân tộc để tỏ cho mọi người trên thế gian biết con đường cứu rỗi.” 6

- 891 -


CHÚA Đấng cứu ngươi là Đấng Thánh của Ít-ra-en. Ngài phán cùng kẻ bị dân chúng ghét, phán với tôi tớ của các quan quyền. Ngài phán như sau: “Các vua sẽ nhìn thấy ngươi và sẽ tôn trọng ngươi, Các đại lãnh tụ sẽ cúi lạy trước mặt ngươi, Vì CHÚA là Đấng đáng tin cậy. Ngài là Đấng Thánh của Ít-ra-en, Đấng đã lựa chọn ngươi.” 7

Ngày Cứu Rỗi Đây là điều CHÚA phán: “Ta sẽ nghe lời khẩn nguyện của ngươi vào đúng lúc. Vào ngày cứu rỗi ta sẽ giúp đỡ ngươi. Ta sẽ bảo vệ ngươi, ngươi sẽ là dấu hiệu của giao ước ta với dân chúng. Ngươi sẽ mang dân chúng trở về xứ mình và hoàn trả đất hiện đang bị hư hại về cho nguyên chủ. 8

Ngươi sẽ bảo các tù nhân, ‘Hãy ra khỏi ngục.’ Và nói với những kẻ đang ở trong tối tăm rằng, ‘Hãy bước ra ánh sáng.’ Dân chúng sẽ ăn bên đường, và dù trên đồi trọc người ta vẫn tìm được thực phẩm. 10 Họ sẽ không còn đói khát nữa. Ánh nắng nóng hay gió sa mạc cũng sẽ không làm hại họ. Thượng Đế, Đấng an ủi họ sẽ dắt dẫn họ và đưa họ đến cạnh suối nước. 11 Ta sẽ biến núi đồi thành đường đi, và lối đi sẽ được nâng lên. 9

Nầy, từ khắp nơi xa xôi dân chúng đang đến cùng ta, từ phía Bắc và phía Tây, từ A-xu-an thuộc miền Nam Ai-cập.” 12

Hỡi trời và đất, hãy vui mừng lên. Hỡi núi đồi hãy reo vui, vì CHÚA yên ủi dân Ngài và tỏ lòng thương xót những kẻ bị khốn khổ. 13

Giê-ru-sa-lem cùng con cái mình 14

Nhưng Giê-ru-sa-lem nói, “CHÚA đã bỏ ta; Ngài quên ta rồi.”

CHÚA đáp, “Đàn bà có thể nào quên cho con bú không? Có thể nào nàng không có chút tình cảm gì đối với đứa bé mình sinh ra hay sao? Dù đàn bà quên con mình, Ta cũng sẽ chẳng quên ngươi. 16 Xem nầy, ta đã viết tên ngươi trên bàn tay ta. Ta lúc nào cũng tưởng nhớ đến các tường thành ngươi [a]. 15

- 892 -


17

Những kẻ xây dựng ngươi sẽ đông hơn kẻ tiêu diệt ngươi, còn những dân đã đánh thắng ngươi sẽ bỏ đi.

18

Hãy ngước lên và nhìn quanh ngươi. Tất cả các con cái ngươi đang tập họp lại để trở về cùng ngươi.”

CHÚA phán, “Như ta hằng sống, con cái ngươi sẽ như nữ trang mà cô dâu đeo vào một cách kiêu hãnh. 19 Ngươi đã bị tiêu diệt và bị đánh bại, đất đai ngươi đã trở nên vô dụng. Nhưng nay ngươi sẽ có đông dân đến nỗi đất không đủ chỗ chứa, Còn những kẻ đã tiêu diệt ngươi sẽ cuốn gói đi xa. 20 Con cái ngươi sinh ra trong khi ngươi đang âu sầu, sẽ nói cùng ngươi, ‘Nơi nầy quá chật chội. Hãy cho chúng tôi một nơi khác rộng hơn để sống.’ Rồi ngươi sẽ tự nhủ, ‘Ai cho tôi đàn con nầy? Tôi vốn buồn bã và không sinh sản được, bị đánh bại và phân ly khỏi dân tộc tôi. Vậy ai nuôi những đứa con nầy? Tôi bị bỏ rơi một mình. Các đứa con nầy từ đâu ra?’” 21

CHÚA tôi phán như sau: “Nầy, ta đã giơ tay lên làm dấu cho muôn dân; ta giương cờ lên cho mọi người trông thấy. Rồi chúng nó sẽ mang các con trai ngươi về trong cánh tay mình, và sẽ vác các con gái ngươi trên vai. 23 Các vua sẽ dạy dỗ con cái ngươi, và các công chúa sẽ chăm sóc chúng nó. Họ sẽ cúi lạy trước mặt ngươi và hôn đất nơi chân ngươi. Rồi ngươi sẽ biết rằng ta là CHÚA. Ai tin cậy ta sẽ không thất vọng.” 22

Có ai đoạt lấy chiến lợi phẩm mà binh sĩ chiếm được nơi chiến trận không? Nếu một tù nhân bị canh phòng bởi một chiến sĩ hùng mạnh, thì liệu nó có thể trốn thoát được không? 25 CHÚA phán như sau: “Các tù binh sẽ bị cướp khỏi tay các binh sĩ dũng mãnh. Những người bị các kẻ hung ác bắt sẽ trốn thoát. Ta sẽ đánh các kẻ thù ngươi, và sẽ giải cứu con cái ngươi. 26 Ta sẽ bắt những kẻ quấy rối ngươi ăn thịt của mình. Huyết chúng sẽ làm rượu khiến chúng no say sưa. Rồi mọi người sẽ biết Ta, CHÚA, Đấng giải cứu ngươi; Ta là Đấng Toàn Năng của Gia-cốp giải cứu ngươi.” 24

- 893 -


I-sai-a 50 Ít-ra-en đã bị trừng phạt vì tội lỗi mình 50 CHÚA phán: “Hỡi dân Ít-ra-en, ngươi nói rằng ta ly dị mẹ ngươi. Vậy chứng thư ly dị đâu? Hay ngươi cho rằng ta bán ngươi để trả nợ? Vì những điều ác ngươi làm, ta đã bán ngươi. Vì nhiều lúc mẹ ngươi đã chống nghịch ta nên ta đuổi mẹ ngươi đi. 2 Ta đi về nhà không thấy ai; Ta gọi, nhưng chẳng ai trả lời. Ngươi cho rằng ta không thể giải cứu ngươi sao? Ta không có quyền lực giải cứu ngươi sao? Nầy, ta chỉ nạt một tiếng thì biển liền khô. Ta biến sông ngòi ra sa mạc, và cá trong sông sẽ hôi thối vì thiếu nước. Chúng nó chết khát. 3 Ta có thể khiến trời đất tối sầm lại; Ta có thể lấy vải sô [a] đen che trời và đất.”

Đầy tớ của Thượng Đế trông cậy nơi Ngài CHÚA là Thượng Đế ban cho ta khả năng, dạy dỗ cho ta biết cách nói để giục giã kẻ yếu đuối. Mỗi sáng Ngài đánh thức ta. Ngài dạy ta lắng nghe như học trò. 5 Chủ tôi là CHÚA giúp ta học hỏi, ta không chống nghịch Ngài và không từ chối đi theo Ngài. 6 Ta đưa lưng cho kẻ đánh ta. Ta giơ má cho kẻ giật râu ta. Ta không ẩn mặt khi chúng chế giễu hay phỉ nhổ ta. 7 CHÚA là Thượng Đế giúp đỡ ta, nên ta sẽ không bao giờ bị xấu hổ. Ta đã quyết định, ta biết sẽ không bị hổ nhục. 4

Ngài chứng tỏ ta vô tội, Ngài gần gũi với ta. Cho nên ai có thể tố cáo ta được? Nếu có ai tố cáo, chúng ta hãy cùng nhau ra tòa. Nếu có ai muốn chứng tỏ ta sai quấy, người đó hãy đến nói cho ta biết. 9 Nầy, chính CHÚA là Thượng Đế giúp đỡ ta. Cho nên ai có thể chứng tỏ ta có tội? Nầy, những kẻ muốn tố cáo ta trở thành vô dụng như áo cũ bị mối mọt ăn. 8

Ai trong các ngươi kính sợ CHÚA và vâng theo lời đầy tớ Ngài? Người có thể đi trong bóng tối, không thấy ánh sáng. Người nhờ cậy CHÚA, trông mong vào Thượng Đế mình. 10

Nhưng tất cả các ngươi muốn tự đốt lửa lấy và tạo ánh sáng lấy cho mình. Cho nên hãy bước trong ánh lửa của các ngươi đi. Hãy trông vào ánh sáng của mình để soi đường. Nhưng đây là điều các ngươi sẽ nhận từ ta: Các ngươi sẽ nằm xuống trong nơi đau khổ. 11

I-sai-a 51 Giê-ru-sa-lem sẽ giống như Áp-ra-ham 51 CHÚA phán, “Hãy nghe ta, hỡi các ngươi là những kẻ muốn sống phải lẽ và đi theo CHÚA. Hãy nhìn tảng đá mà ngươi được đục ra. Hãy nhìn hầm đá mà ngươi được đào lên. 2 Hãy nhìn Áp-ra-ham, tổ tiên ngươi, và Sa-ra, người sinh ra tổ tiên ngươi. Khi ta gọi người thì Áp-ra-ham chưa có con, nhưng ta ban phước cho người và ban cho dòng dõi người đông đảo.

- 894 -


Nên CHÚA sẽ an ủi Xi-ôn; Ngài sẽ tỏ lòng từ bi cho những kẻ sống trong đống đổ nát của nó. Ngài sẽ biến sa mạc nó ra vườn Ê-đen; Khiến đất hoang vu nó thành vườn của CHÚA. Mọi người sống nơi đó sẽ vui mừng; Họ sẽ cảm tạ và hát xướng. 3

Hỡi dân ta, hãy nghe ta; hỡi dân tộc ta, hãy để ý lời ta nói. Ta sẽ ban lời giáo huấn cho dân ta, và những quyết định của ta sẽ như ánh sáng cho các dân. 5 Ta sẽ sớm chứng tỏ điều ta làm là đúng. Ta sẽ sớm giải cứu ngươi. Ta sẽ dùng quyền năng và phân xử các dân. Tất cả những nơi xa xôi đang chờ đợi ta; Họ chờ đợi quyền năng ta giúp họ. 6 Hãy nhìn lên trời. Hãy nhìn quanh các ngươi và dưới đất thấp nầy. Bầu trời sẽ biến mất như mây khói. Đất sẽ trở thành vô dụng như chiếc áo cũ, và dân chúng trên đất sẽ chết như ruồi. Nhưng sự cứu rỗi ta còn đời đời, và lòng nhân từ ta không bao giờ dứt. 4

Các ngươi là kẻ biết lẽ phải hãy nghe ta; Các ngươi là kẻ nghe theo lời giáo huấn ta hãy nghe ta nói. Đừng sợ những điều ác kẻ khác nói, và đừng bực dọc về lời sỉ nhục của chúng. 8 Mối mọt sẽ ăn nuốt chúng như áo quần, và dòi bọ sẽ tiêu nuốt chúng như lông chiên. Nhưng lòng nhân từ ta sẽ còn đời đời, và sự cứu rỗi ta sẽ kéo dài mãi mãi từ nay về sau.” 7

Quyền năng của Thượng Đế sẽ cứu dân Ngài Lạy CHÚA quyền năng, hãy thức dậy, thức dậy, và vận dụng sức mạnh Ngài. Hãy thức dậy như Ngài đã làm xưa kia, như Ngài đã thực hành thuở trước. Ngài dùng quyền năng chặt Ra-háp ra từng miếng và giết con quái vật dưới biển [a]. 10 Ngài làm cho biển khô cạn và rút nước ra khỏi đại dương sâu thẳm. Ngài biến nơi thẳm sâu của biển ra đường cái cho dân chúng băng qua và được giải cứu. 11 Dân chúng mà CHÚA đã giải thoát sẽ trở về và hớn hở đi vào Xi-ôn. Sự hân hoan của họ sẽ còn mãi mãi. Họ sẽ hớn hở vui mừng, Còn mọi điều sầu não đau buồn chỉ là chuyện xa xưa. 9

12

CHÚA phán, “Ta là Đấng an ủi ngươi. Thế thì tại sao ngươi sợ loài người là loài sẽ chết? Tại sao ngươi e ngại con người là loài sẽ biến mất như cỏ?

- 895 -


Ngươi đã quên CHÚA là Đấng tạo ra ngươi, Đấng đã trải bầu trời ra và làm nên trái đất. Sao ngươi mãi lo sợ những kẻ nổi giận quấy rối ngươi và muốn hủy diệt ngươi? Bây giờ chúng nó đâu rồi? 13

14

Những kẻ bị cầm tù sẽ được trả tự do; họ sẽ không chết trong ngục, và sẽ đủ ăn.

15

Ta là CHÚA, Thượng Đế ngươi, Đấng quấy động biển cả và làm nổi sóng cồn. Danh ta là CHÚA Toàn Năng.

Ta sẽ đặt lời vào miệng ngươi. Ta sẽ lấy bàn tay ta che phủ ngươi. Ta đã tạo nên trời đất, và sẽ bảo Xi-ôn rằng, ‘Ngươi là dân ta.’” 16

Thượng Đế trừng phạt Giê-ru-sa-lem Hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy thức dậy, thức dậy! CHÚA đã nổi giận cùng ngươi; Sự trừng phạt ngươi như rượu trong cốc. CHÚA đã khiến ngươi uống rượu đó; Ngươi đã uống cạn chén cho đến khi say sưa. 17

Giê-ru-sa-lem có đông dân cư, nhưng không có ai lãnh đạo họ. Trong số những kẻ lớn lên tại đó, chẳng có người nào hướng dẫn họ. 19 Những khốn khó đến với ngươi từng cặp, nhưng không ai tội nghiệp ngươi. 18

Ngươi gặp tàn hại, đại nạn, đói kém và giặc giã nhưng không người nào có thể an ủi ngươi hết. 20 Dân cư ngươi đã trở nên yếu ớt. Họ té nằm sóng sượt trên mỗi góc đường phố, như thú vật bị mắc vào lưới. Họ lãnh trọn cơn thịnh nộ của CHÚA và đã nghe tiếng gầm thét giận dữ của Thượng Đế. 21

Cho nên hỡi Giê-ru-sa-lem đáng thương hãy nghe ta, các ngươi là kẻ say nhưng không phải vì rượu.

Thượng Đế ngươi, Đấng Cao Cả sẽ bảo vệ dân Ngài. CHÚA là Thượng Đế ngươi phán như sau “Ta giao cho ngươi cốc rượu. Ngươi uống nó rồi đi liểng xiểng. Nhưng ta đang lấy cốc thịnh nộ ta ra khỏi ngươi. Ngươi sẽ không bị cơn giận ta trừng phạt nữa. 23 Nay ta sẽ trao cốc trừng phạt ấy cho các kẻ đã hành hạ ngươi, những kẻ đã ra lệnh cho ngươi, ‘Hãy cúi xuống để chúng ta bước qua trên ngươi.’ Lưng ngươi như đất để chúng bước qua; như đường đi cho chúng dẫm lên.” 22

I-sai-a 52 Xi-ôn sẽ được giải cứu 52 Hỡi Xi-ôn hãy thức dậy, thức dậy! Hãy tỏ ra mạnh dạn! Hỡi thành thánh Giê-ru-sa-lem, hãy trở nên xinh đẹp lại. Những kẻ không chịu cắt dương bì, cùng những người ngoại quốc chẳng tinh sạch [a] sẽ không được vào trong thành ngươi nữa.

- 896 -


Hỡi Giê-ru-sa-lem, trước kia ngươi là tù nhân, nay hãy phủi bụi và đứng dậy. Hỡi thành Xi-ôn [b], trước kia ngươi là tù nhân, Nay hãy cởi bỏ xiềng quanh cổ ngươi. 3 CHÚA phán như sau: “Vì ngươi bị bán mà không được trả đồng nào, nên ngươi sẽ được chuộc mà không tốn kém gì.” 2

CHÚA là Thượng Đế phán như sau: “Ban đầu dân ta đi xuống Ai-cập để cư ngụ một thời gian. Sau đó Axy-ri bắt chúng làm nô lệ.” 5 CHÚA phán, “Bây giờ hãy xem sự việc ra sao. Một dân khác đã cướp dân ta đi mà không tốn kém gì. Dân nầy là dân cai trị họ đã chế giễu ta. Suốt ngày chúng nói phạm đến ta. 4

Việc nầy xảy ra để dân ta biết ta là ai, và trong tương lai, họ sẽ biết ta là Đấng [c] nói cùng họ. Đấng đó chính là ta.” 6

Người trèo qua các núi để rao tin mừng quả thật xinh đẹp, đó là người loan tin hoà bình và mang tin mừng, người loan báo sự cứu rỗi và bảo Xi-ôn rằng, “Thượng Đế ngươi là Vua.” 7

Hãy lắng nghe! Các lính canh [d] ngươi đang hò hét. Tất cả bọn chúng đang reo hò! Chính mắt họ sẽ thấy khi CHÚA trở lại Xi-ôn. 8

Hỡi Giê-ru-sa-lem, hiện nay các tòa nhà ngươi đang bị tiêu hủy, nhưng hãy reo vui lên, vì CHÚA đã an ủi dân Ngài. Ngài đã giải cứu Giê-ru-sa-lem. 10 CHÚA sẽ tỏ quyền năng thánh thiện của Ngài cho mọi dân tộc. Rồi mọi người trên đất sẽ thấy sự cứu rỗi của Thượng Đế chúng ta. 9

Hỡi các ngươi, hãy đi ra, đi ra; hãy ra khỏi Ba-by-lôn! Đừng đụng đến những vật không sạch. Hỡi các ngươi là những kẻ mang các vật thánh dùng trong việc thờ phụng CHÚA, Hãy bỏ nơi đó và dọn mình cho sạch. 12 Các ngươi sẽ không phải bị buộc phải hấp tấp rời Ba-by-lôn; các ngươi sẽ không bị buộc phải bỏ chạy, vì CHÚA sẽ đi trước các ngươi, Thượng Đế của Ít-ra-en sẽ gìn giữ ngươi phía sau [e]. 11

Đầy tớ chịu khốn khổ của Chúa CHÚA phán, “Hãy xem, đầy tớ ta sẽ hành động khôn ngoan. Dân chúng sẽ tôn kính người. 14 Nhiều người sẽ sửng sốt khi nhìn thấy người. Diện mạo người thay đổi đến nỗi không giống con người nữa. Hình dạng người biến đổi đến nỗi họ không nhận ra người là con người nữa. 15 Nhưng nay người sẽ khiến các dân kinh ngạc. Các vua sẽ sửng sốt và câm miệng. Họ sẽ nhìn thấy những điều chưa ai nói với họ về người, và họ sẽ hiểu điều họ chưa hề nghe.” 13

I-sai-a 53 53 Ai tin điều chúng ta nghe? Ai đã thấy quyền năng CHÚA trong điều ấy? [a] Người lớn lên như một cây non trước mặt CHÚA, như rễ đâm xuống đất khô. Người không có vẻ đẹp hay hình thể để chúng ta lưu ý đến; Trông người không có vẻ gì hấp dẫn đối với chúng ta. 2

- 897 -


Người bị dân tộc ghét bỏ. Người chịu nhiều đau đớn và khốn khổ. Dân chúng không thèm nhìn người. Người bị ghét, thậm chí chúng ta cũng không để ý đến người. 3

Nhưng người đã mang sự khốn khổ chúng ta trên mình và cảm biết sự đau đớn cho chúng ta. Chúng ta thấy sự khốn khổ người và tưởng rằng Thượng Đế trừng phạt người. 5 Nhưng người đã vì tội chúng ta mà mang thương tích; người bị đè bẹp vì điều ác chúng ta làm. Sự trừng phạt người chịu để chúng ta bình phục, và thương tích người mang khiến chúng ta được chữa lành. 6 Tất cả chúng ta đều như chiên lạc; ai đi đường nấy. Nhưng Thượng Đế đã đặt sự trừng phạt trên người về điều ác chúng ta làm. 4

Người bị đánh đập, nhưng không hề nói một lời. Người như chiên bị dắt đến chỗ làm thịt. Người im lặng như chiên đang bị hớt lông; người không hề mở miệng. 8 Người ta hung hăng mang người đi và đối xử bất công cùng người. Dân chúng của người không biết rằng người đã bị giết [b]. Người bị xử tử [c] vì tội lỗi của dân ta [d]. 9 Người ta định chôn người chung với kẻ ác, nhưng người lại được chôn cất với kẻ giàu. Người không làm điều gì sai quấy, và không hề nói dối. 7

Nhưng chính CHÚA khiến cho người bị đè bẹp và làm cho người khốn khổ [e]. CHÚA làm cho đời người như của lễ chuộc lỗi, nhưng người sẽ nhìn thấy dòng dõi mình và sẽ sống lâu. Người sẽ hoàn thành điều CHÚA muốn người làm. 11 “Sau khi người chịu nhiều khốn khổ, người sẽ thấy ánh sáng [f] và thỏa mãn. 10

Đầy tớ trung thành của ta sẽ phục hòa nhiều người lại với Thượng Đế; người sẽ gánh chịu sự trừng phạt của họ. 12 Vì thế ta sẽ khiến người trở thành vĩ nhân giữa vòng nhiều người, và người sẽ san sẻ nhiều điều với những kẻ mạnh. Người sẽ hi sinh mạng sống mình và bị đối xử như tên tội phạm. Nhưng người sẽ gánh tội lỗi của nhiều người và cầu xin sự tha thứ cho những kẻ phạm lỗi.”

I-sai-a 54 Thượng Đế sẽ mang dân chúng trở về 54 CHÚA phán, “Hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy ca lên. Ngươi như đàn bà hiếm con. Hãy ca hát và reo vui lên. Ngươi chưa hề biết đau đẻ [a], nhưng sẽ đông con hơn đàn bà có chồng. 2 Hãy nới rộng lều ngươi ra; hãy căng cho màn nó rộng thêm. Đừng để chật chội. Hãy nối thêm các dây cột và các cọc lều, 3 vì ngươi sẽ mở rộng bên phải và bên trái. Con cái ngươi sẽ chiếm đoạt các nước khác, Chúng sẽ lại ở trong các thành trước kia bị tiêu diệt. 4 Đừng sợ, vì ngươi sẽ không bị xấu hổ. Đừng e thẹn vì ngươi sẽ không bị sỉ nhục. Ngươi sẽ không còn nhớ điều nhục nhã của mình trước kia; Ngươi sẽ không còn nhớ điều nhơ nhuốc mình khi bị mất chồng [b]. 5 Thượng Đế Đấng dựng nên ngươi là chồng ngươi, Danh Ngài là CHÚA Toàn Năng. Đấng thánh của Ít-ra-en là Đấng Giải Cứu [c] ngươi. Ngài được gọi là Thượng Đế trên khắp đất.

- 898 -


Ngươi trước kia như đàn bà bị chồng bỏ, âu sầu buồn bã. Ngươi như người đàn bà lấy chồng sớm rồi bị chồng ruồng bỏ. Nhưng CHÚA đã gọi ngươi thuộc riêng về Ngài,” Thượng Đế ngươi phán vậy. 7 Thượng Đế phán, “Ta đã bỏ ngươi một thời gian ngắn, nhưng vì lòng nhân từ lớn lao, ta sẽ mang ngươi trở về. 8 Ta đã nổi giận và ẩn mặt ta trong một thời gian, nhưng ta sẽ tỏ lòng từ bi đối với ngươi đời đời,” CHÚA là Đấng giải cứu ngươi phán vậy. 6

CHÚA phán, “Đối với ta hôm nay giống như thời Nô-ê. Ta hứa rằng sẽ không sai nước lụt đến trên đất nữa. Cũng vậy, ta hứa sẽ không nổi thịnh nộ với ngươi hay trừng phạt ngươi nữa. 9

Dù núi dời, dù đồi chuyển, nhưng tình yêu ta đối với ngươi sẽ không bao giờ dứt; lời hứa hòa bình của ta sẽ không bao giờ hết,” CHÚA là Đấng tỏ lòng từ bi cùng ngươi phán vậy. 10

Tội nghiệp cho thành ngươi. Bão tố đã làm thiệt hại ngươi, ngươi không được an ủi. Nhưng ta sẽ xây ngươi lại bằng cẩm thạch, và dựng nền ngươi lại bằng bích ngọc. 12 Ta sẽ dùng hồng ngọc xây tường ngươi, dùng ngọc lóng lánh nạm cửa, dùng ngọc quí bọc vách ngoài của ngươi. 13 Tất cả con cái ngươi sẽ được CHÚA dạy dỗ, chúng sẽ hưởng hòa bình. 14 Ta sẽ dùng sự công bình xây dựng ngươi. Ngươi sẽ không bị kẻ khác làm hại, nên không có gì phải sợ hãi. Không gì khiến ngươi lo sợ. 15 Ta sẽ không sai ai đến tấn công ngươi, ngươi sẽ đánh bại kẻ muốn tấn công mình. 11

“Nầy, ta làm ra người thợ rèn. Người quạt cho lửa nóng hơn, để chế ra dụng cụ mình cần. Cũng vậy ta làm ra kẻ hủy diệt để hủy diệt. 16

Cho nên không có vũ khí nào chống lại ngươi có thể thắng ngươi được. Ngươi sẽ chứng tỏ rằng những kẻ tố cáo ngươi là quấy. Đó là những điều tốt lành [d] mà kẻ tôi tớ ta hưởng.” CHÚA phán vậy. 17

- 899 -


I-sai-a 55 Chỉ một mình Thượng Đế mới ban thức ăn thật cho con người 55 CHÚA phán, “Hỡi những ai khát hãy đến mà uống. Những kẻ không tiền, hãy đến mua thức ăn. Hãy đến mua rượu và sữa mà không cần tiền, không phải trả gì. 2 Sao các ngươi trả tiền mua món không phải thức ăn? Sao các ngươi làm lụng để lấy vật không thỏa mãn mình? Hãy nghe ta cho kỹ rồi ngươi sẽ ăn vật tốt lành; linh hồn ngươi sẽ vui hưởng cao lương mỹ vị. 3 Hãy đến nghe ta; hãy nghe ta để được sống. Ta sẽ lập một giao ước với các ngươi, một giao ước bền vững đời đời. Ta sẽ ban tình yêu bền chặt của ta cho Đa-vít. 4 Ta sẽ khiến Đa-vít làm chứng nhân về quyền năng ta cho các dân tộc, lập người làm lãnh đạo và chỉ huy nhiều dân. Ngươi sẽ gọi những dân ngươi chưa hề biết. Các dân chưa biết ngươi sẽ chạy đến cùng ngươi vì ta là CHÚA, Thượng Đế ngươi, vì Đấng Thánh của Ít-ra-en là Đấng tôn trọng ngươi.” 6 Cho nên hãy tìm kiếm CHÚA trước khi quá trễ; hãy kêu xin Ngài trong khi Ngài ở gần. 5

Kẻ ác hãy thôi làm ác, hãy trừ bỏ những tư tưởng xấu. Hãy trở về cùng CHÚA để Ngài tỏ lòng từ bi đối với họ. Hãy đến cùng Thượng Đế chúng ta, vì Ngài giàu lòng tha thứ. 7

Loài người không thể hiểu được Thượng Đế CHÚA phán, “Tư tưởng ta không như tư tưởng các ngươi. Đường lối các ngươi chẳng phải đường lối ta. 9 Vì các từng trời cao hơn đất bao nhiêu, thì đường lối ta cũng cao hơn đường lối các ngươi và tư tưởng ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi bấy nhiêu. 8

Như mưa và tuyết từ trời rơi xuống không trở lại cho đến khi đã thấm nhuần đất. Khiến cho cây cỏ đâm chồi nẩy lộc, tạo ra hạt giống cho nông gia và bánh cho dân chúng. 10

- 900 -


Lời ta phán cũng vậy. Chúng sẽ không trở về với ta mà vô dụng, mà sẽ hoàn thành việc ta muốn, và thực hiện điều ta sai khiến chúng. 12 Cho nên các ngươi sẽ ra đi vui mừng và được dẫn đi trong hoà bình. Núi đồi sẽ ca hát trước mặt các ngươi, Cây cối trong đồng sẽ vỗ tay. 13 Cây tùng sẽ mọc lên thay cho gai gốc. Cây sim sẽ mọc thế chỗ cỏ dại. Chúng sẽ làm dấu hiệu về lời hứa CHÚA, một dấu hiệu đời đời về lòng nhân từ và quyền năng của Ngài, không bao giờ bị tiêu diệt.” 11

I-sai-a 56 Các dân sẽ vâng phục Chúa 56 CHÚA phán như sau: “Hãy ban công lý cho mọi người, hãy làm điều phải, vì sự giải cứu của ta sẽ mau đến với ngươi. Mọi người sẽ sớm biết điều ta làm là đúng. 2 Ai vâng giữ luật lệ về ngày Sa-bát sẽ được phước, và kẻ không làm ác sẽ lãnh phúc lành.” Người ngoại quốc nhập cùng CHÚA không nên nói, “CHÚA sẽ không chấp nhận tôi chung với dân Ngài.” Người hoạn không nên nói, “Tôi chỉ là cây khô, không thể có con.” 3

Đây là điều CHÚA phán: “Người hoạn cũng phải vâng giữ luật lệ về ngày Sa-bát làm điều ta muốn và giữ giao ước [a] ta. 5 Nếu họ làm như thế, ta sẽ khiến tên họ được ghi nhớ mãi mãi trong đền thờ và vách của đền thờ ta. Điều đó còn tốt hơn là con cái. Ta sẽ lưu danh họ đời đời, không bao giờ bị quên lãng [b]. 4

Người ngoại quốc sẽ nhập chung với CHÚA để thờ phụng và yêu mến Ngài, phục vụ Ngài, để giữ luật lệ ngày Sa-bát, và giữ giao ước ta. 7 Ta sẽ mang các dân nầy đến núi thánh ta và cho họ niềm vui trong nhà cầu nguyện của ta. Những của lễ và sinh tế họ đặt trên bàn thờ ta sẽ làm hài lòng ta, vì đền thờ ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân.” 6

8

CHÚA là Thượng Đế phán, tức Đấng qui tụ dân Ít-ra-en là dân đã bị đày ra khỏi xứ mình:

“Ta sẽ mang các dân khác nhập chung với những dân đã được gom về.”

Những lãnh tụ dân Ít-ra-en rất gian ác Hỡi tất cả các thú vật trong đồng, hỡi tất cả các muông thú trong rừng, hãy đến ăn. 10 Các lính canh [c] bị mù loà; chúng không biết mình đang làm gì. Tất cả đều như chó câm không biết sủa. Chúng nằm xuống và chiêm bao, chỉ thích ngủ thôi. 11 Chúng như chó đói không bao giờ biết no. Chúng như kẻ chăn chiên không biết mình làm gì. Tất cả đều đi theo lối riêng; chỉ muốn thỏa mãn bản thân mình. 9

- 901 -


Chúng bảo, “Hãy cùng đến uống rượu; hãy uống say sưa. Ngày mai cũng như ngày hôm nay, hoặc có thể còn tuyệt hơn nữa.” 12

I-sai-a 57 Dân Ít-ra-en không theo Thượng Đế 57 Những người đạo đức qua đời, nhưng không ai để ý. Những dân trung thành với Thượng Đế đã bị cất đi, nhưng không ai hiểu nguyên do tại sao. Họ được cất đi vì thời kỳ khó khăn sắp đến. 2 Nhưng hòa bình cũng đến nữa. Những kẻ tin cậy Thượng Đế sẽ tìm được sự an nghỉ trong cái chết. “Hỡi các thuật sĩ, hãy đến đây! Hỡi các ngươi là con trai của gái điếm và những kẻ ngoại tình, cùng những kẻ dự phần vào việc gian dâm, hãy đến đây! 4 Các ngươi chế diễu ai? Các ngươi sỉ nhục ai? Các ngươi thè lưỡi ra chọc ghẹo ai? [a] Các ngươi là dòng dõi phản nghịch và dối trá. 5 Các ngươi hành lạc dưới mỗi cây xanh để thờ lạy thần các ngươi. Các ngươi giết con cái mình dưới hố và dâng chúng nó dưới hố, giữa các tảng đá. 3

Ngươi nhận lấy các tảng đá láng bóng dưới hố cho mình. Ngươi đổ của lễ uống trên các thần đó để thờ phụng chúng, Ngươi dâng của lễ chay cho chúng. Làm như thế mà các ngươi mong ta tỏ lòng từ bi với ngươi sao? 7 Ngươi dọn giường mình trên mỗi đồi núi [b], rồi dâng sinh tế ở những nơi đó. 8 Ngươi giấu các thần tượng mình bên sau cánh cửa [c] và cột cửa. Ngươi lìa bỏ ta, và tự lột trần truồng mình. Ngươi kéo tấm khăn trải giường rồi trèo lên giường. Ngươi trao thân mình cho chúng [d], và ngươi thích nhìn thấy thân thể trần truồng [e] của chúng. 9 Ngươi đổ đầu và xức nước hoa dọn mình cho Mô-léc. Ngươi đã sai sứ đến các nơi xa xôi; đến nỗi ngươi sai họ đến chỗ người chết ở [f]. 6

- 902 -


Ngươi chán ngấy những chuyện đó, nhưng ngươi không chịu chấm dứt. Ngươi tìm được sức mới, nên ngươi không chịu dừng. 11 Ngươi sợ ai mà phải nói dối với ta? Ngươi không còn nhớ ta, cũng chẳng thèm suy nghĩ đến ta. Từ lâu nay ta im lặng. Có phải vì vậy mà ngươi không sợ ta chăng? 12 Ta sẽ cho ngươi biết cái ‘nhân từ’ trong hành vi của ngươi, những điều không ích lợi gì cho ngươi. 13 Khi ngươi kêu cứu, thì hãy để các thần mà ngươi gom góp đến giúp ngươi đi. Gió sẽ thổi bay chúng nó; Một luồng gió thoảng cũng đủ mang chúng nó đi. Nhưng ai trông cậy ta sẽ được hưởng đất đai, và làm chủ núi thánh ta.” 10

Chúa sẽ giải cứu dân Ngài Có kẻ bảo, “Hãy đắp đường! Hãy làm đường! Chuẩn bị lối đi! Hãy dọn đường thật sạch cho dân ta đi.” 14

Lý do như sau: Thượng Đế là Đấng Thánh và sống đời đời. Ngài được tôn cao. Ngài phán, “Ta ngự ở một nơi cao và thánh, nhưng ta sống cùng với những kẻ buồn bã và khiêm tốn. Ta ban sự sống mới cho những kẻ khiêm tốn và những kẻ có tâm hồn tan vỡ. 15

Ta sẽ không truy tố các ngươi đến đời đời, cũng sẽ không giận đến mãi mãi, vì nếu thế mạng sống con người sẽ suy yếu. Loài người do ta dựng nên sẽ chết. 17 Ta nổi giận vì chúng kiếm tiền kiểu bất lương, Ta trừng phạt chúng và tức giận quay mặt khỏi chúng. Nhưng chúng tiếp tục làm ác. 18 Ta đã thấy điều chúng làm nhưng ta sẽ chữa lành chúng. Ta sẽ hướng dẫn, an ủi chúng cùng những kẻ than khóc chúng. Mọi người sẽ ca ngợi ta. 19 Ta sẽ ban hoà bình, một nền hòa bình chân chính cho những kẻ ở xa và gần, ta sẽ chữa lành chúng,” CHÚA phán vậy. 16

- 903 -


20 21

Nhưng kẻ ác giống như biển động, không thể an nghỉ, các lượn sóng nó chỉ mang rác rưởi và bùn dơ. Thượng Đế của ta phán, “Kẻ ác sẽ không bao giờ có bình an.”

I-sai-a 58 Tôn kính Thượng Đế cách nào 58 CHÚA phán, “Hãy la lớn lên, đừng im lặng. Hãy kêu lớn lên như kèn. Hãy cho dân ta biết điều họ đã làm nghịch lại Thượng Đế mình; Hãy nói cho nhà Gia-cốp biết tội lỗi họ. 2 Hằng ngày họ đến tìm kiếm ta muốn học hỏi đường lối ta. Họ hành động như một dân biết làm điều phải, biết vâng theo mệnh lệnh của Thượng Đế mình. Họ xin ta phân xử công bằng cho họ. Họ muốn Thượng Đế ở gần mình. Họ bảo, ‘Chúng tôi có những ngày cữ ăn đặc biệt để tôn kính Ngài, nhưng Ngài không thấy. Chúng tôi đã hạ mình xuống để tôn kính Ngài, nhưng Ngài không để ý.’” 3

Nhưng CHÚA phán, “Trong những ngày đó các ngươi chỉ muốn làm vừa lòng mình, các ngươi áp bức người làm công. 4 Trong những ngày đặc biệt khi cữ ăn, ngươi cãi vã và đánh nhau. Ngươi không thể làm như thế mà tin rằng lời cầu nguyện của mình sẽ được nghe trên thiên đàng. 5 Ta không cần ngày đặc biệt như thế. Đó không phải là cách ăn năn mà ta muốn dân ta làm. Ta không muốn họ chỉ cúi đầu vâng dạ như cây non và mặc vải sô, nằm trong tro để tỏ dấu buồn rầu. Đó là điều ngươi làm trong ngày ngươi cữ ăn, nhưng đó có phải là điều CHÚA muốn không? Ta sẽ cho ngươi biết về ngày đặc biệt mà ta muốn: Hãy giải thoát kẻ bị cầm tù bất công cởi trói cho họ. Hãy trả tự do cho những kẻ ngươi đối xử bất công và giải thoát những người làm xâu. 7 Hãy san sẻ thức ăn với kẻ đói, mang những kẻ nghèo khổ, vô gia cư về nhà mình. Hãy mặc cho kẻ không áo quần, và đừng từ chối không giúp đỡ thân quyến mình, 6

thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu như ánh bình minh, và vết thương ngươi sẽ lành lặn mau chóng. Thượng Đế ngươi sẽ đi trước ngươi, và vinh hiển CHÚA sẽ bảo vệ phía sau ngươi. 8

9

Khi ngươi kêu thì CHÚA sẽ đáp lời. Ngươi kêu lớn Ngài sẽ đáp, ‘Có ta đây.’

Nếu ngươi đừng bắt kẻ khác làm xâu, nếu ngươi thôi tố cáo hay nói xấu lẫn nhau [a], 10 nếu ngươi ban thức ăn cho người đói và chăm sóc những kẻ gặp khốn khó thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu trong tối tăm, và ngươi sẽ chiếu sáng như ánh mặt trời giữa trưa. CHÚA sẽ luôn luôn hướng dẫn ngươi. Ngài sẽ thỏa mãn nhu cầu ngươi trong đất khô và ban sức mạnh cho xương cốt ngươi. Ngươi sẽ như vườn đủ nước, như suối không bao giờ cạn. 11

Ngươi sẽ xây dựng lại các thành cũ hiện đang đổ nát, sẽ dựng lại nền chúng. Ngươi sẽ nổi danh sửa chữa những nơi hư hỏng và tái thiết đường sá cùng nhà cửa. 12

- 904 -


Ngươi phải vâng giữ luật lệ của Thượng Đế về ngày Sa-bát không tìm cách làm vừa lòng mình trong ngày thánh đó. Ngươi hãy gọi ngày Sa-bát là ngày vui mừng và tôn kính ngày đó như ngày thánh của CHÚA. Ngươi phải tôn trọng ngày đó bằng cách cữ làm điều mình thích, kiêng nói điều mình muốn nói trong ngày đó 14 thì ngươi sẽ tìm được niềm vui trong CHÚA. Ta sẽ mang ngươi đến những núi cao nhất, cho ngươi ăn hoa quả của đất mà ta đã cấp cho tổ tiên ngươi là Gia-cốp.” CHÚA phán vậy. 13

I-sai-a 59 Kẻ ác hãy ăn năn 59 Quyền năng CHÚA đủ giải cứu ngươi. Ngài có thể nghe ngươi khi ngươi kêu cầu. 2 Nhưng chính điều ác ngươi phân cách ngươi khỏi Thượng Đế mình. Tội lỗi ngươi khiến Ngài quay mặt khỏi ngươi, để không nghe ngươi nữa. 3 Tay ngươi đã giết kẻ khác, ngón tay ngươi đã làm bậy. Môi miệng ngươi nói dối, và lưỡi ngươi nói điều ác. 4 Người nầy thưa kiện người khác một cách bất công, không ai nói thật khi trình bày phần mình. Ai nấy đặt điều tố cáo nhau bằng lời giả dối. Chúng gây chuyện và tạo ra thêm điều ác. 5 Chúng ấp điều ác như ấp trứng rắn độc. Ai ăn nhằm một trong các trứng đó sẽ chết, còn nếu ai đập trứng đó thì một con rắn độc sẽ chui ra. Chúng nói dối như thể dệt mạng nhện. 6 Mạng nhện chúng nó dệt không thể dùng may áo quần; không thể dùng mạng đó để che thân được. Những việc chúng làm là ác, chúng dùng tay mình để hại người khác. 7 Chúng hăng hái chạy làm điều ác, và sẵn sàng giết hại người vô tội. Chúng chỉ tơ tưởng điều ác. Nơi nào chúng đặt chân đến cũng gây hư hại và hủy phá. Chúng không biết sống hòa bình là gì, trong đời chúng không biết làm điều phải. Chúng bất lương. Những ai sống như chúng sẽ không bao giờ có hòa bình. 8

Tội lỗi của Ít-ra-en mang đến khốn đốn Lẽ phải cách xa chúng; sự công chính đã biến mất. Chúng ta chờ đợi ánh sáng nhưng chỉ thấy bóng tối. Chúng ta mong ánh sáng chói lọi nhưng chỉ thấy mù mịt. 10 Chúng ta như người mù lần mò theo vách tường, dò dẫm như không có mắt. Giữa ánh nắng ban ngày mà chúng ta vấp ngã như thể ban đêm, như người chết giữa những kẻ mạnh khoẻ, 11 Chúng ta gầm gừ như gấu, gù gù than vãn như bồ câu. Chúng ta tìm công lý nhưng chẳng thấy đâu, mong được cứu nhưng sự cứu rỗi lánh xa. 12 Chúng ta đã phạm nhiều lỗi lầm đối với Thượng Đế; tội lỗi chúng ta chứng tỏ chúng ta sai quấy. Chúng ta biết mình đã nghịch lại Thượng Đế; chúng ta biết những việc ác mình làm: 13 tức phạm tội và gạt bỏ CHÚA, quay khỏi Thượng Đế mình, âm mưu hại người khác và bất vâng phục Thượng Đế, âm mưu và nói dối. 9

- 905 -


Cho nên chúng ta đã xua đuổi công lý, không cho lẽ phải đến gần. Nơi phố chợ không thấy nói đến sự thật; điều thanh liêm không được phép đặt chân vào thành. 15 Không ai thấy chân lý đâu cả, và ai không chịu làm điều ác thì bị tấn công. 14

CHÚA nhìn và không thấy công lý đâu, nên Ngài rất bất bình. 16 Ngài không tìm được ai để giúp dân chúng, và hết sức sửng sốt vì không thấy ai giúp đỡ. Nên Ngài dùng quyền năng mình để giải cứu dân chúng; sự công chính của Ngài ban thêm sức cho Ngài. 17 Ngài dùng sự công chính bảo vệ mình như áo giáp. Ngài đội mũ sắt cứu rỗi trên đầu. Mặc áo quần của sự trừng phạt và quấn mình trong chiếc áo của tình yêu sâu đậm [a] của Ngài. 18 CHÚA sẽ báo trả kẻ thù Ngài về những điều chúng làm. Tỏ cơn thịnh nộ Ngài đối với những kẻ chống nghịch; trừng phạt những dân cư ở xa cho đáng tội chúng. 19 Rồi dân từ phương Tây sẽ kinh hãi CHÚA, và dân phương Đông sẽ tôn trọng vinh hiển Ngài. CHÚA sẽ đến mau chóng như sông chảy cuồn cuộn, được đưa đẩy bằng hơi thở [b] của CHÚA. 20 “Rồi một Đấng Cứu Rỗi [c] sẽ đến Xi-ôn [d] để cứu dân Gia-cốp là những kẻ đã quay khỏi tội lỗi,” CHÚA phán vậy. CHÚA phán, “Đây là giao ước của ta đối với dân nầy: Thần linh và lời phán của ta ban cho các ngươi sẽ không bao giờ rời bỏ ngươi, con cái và dòng dõi ngươi.” 21

I-sai-a 60 Giê-ru-sa-lem sẽ rất cao trọng 60 “Hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy đứng lên và chiếu sáng [a], vì vinh hiển ngươi đã đến, và vinh quang CHÚA chiếu trên ngươi. 2 Hiện nay bóng tối che phủ đất; bóng tối dày đặc bao trùm dân cư nó. Nhưng CHÚA chiếu sáng ngươi, và dân chúng sẽ thấy vinh hiển bao quanh ngươi. 3 Các dân sẽ đến với ánh sáng ngươi; các vua sẽ đến với ánh bình minh của ngươi. Hãy nhìn quanh ngươi. Dân chúng đang tụ họp và đến cùng ngươi. Các con trai ngươi đang từ xa đến, và các con gái ngươi cùng đến với chúng. 4

- 906 -


Khi ngươi nhìn thấy chúng, ngươi sẽ mừng rỡ; ngươi sẽ thích thú và hớn hở, vì của cải các dân bên kia biển sẽ được trao cho ngươi; sự giàu có của các dân tộc sẽ đến cùng ngươi. 6 Các bầy lạc đà sẽ phủ khắp xứ ngươi, các lạc đà con từ Mi-đi-an và Ê-pha. Dân chúng từ Sê-ba đến mang vàng và trầm hương, họ sẽ ca ngợi CHÚA. 7 Các bầy chiên từ Kê-đa sẽ được ban cho ngươi; bầy chiên từ Nê-bai-giốt sẽ được mang đến cho ngươi. Chúng sẽ làm sinh tế đẹp lòng ta trên bàn thờ ta, và ta sẽ khiến cho đền thờ ta vốn xinh đẹp càng thêm xinh đẹp. 8 Dân chúng sẽ trở về cùng ngươi như đám mây, như bồ câu bay về tổ. 9 Dân chúng từ các xứ xa xôi đang chờ đợi ta. Các thương thuyền lớn sẽ đến trước, chở các con cái ngươi về từ các xứ xa xôi, mang bạc vàng theo chúng. Để tôn kính CHÚA là Thượng Đế ngươi, tức Đấng Thánh của Ít-ra-en, Đấng làm những điều kỳ diệu cho ngươi. 10 Hỡi Giê-ru-sa-lem, người ngoại quốc sẽ xây lại tường ngươi, các vua chúng sẽ phục vụ ngươi. 5

Trước đây khi ta giận, ta đã làm tổn thương ngươi, Nhưng nay ta muốn tỏ lòng nhân từ cùng ngươi và an ủi ngươi. 11 Các cổng ngươi sẽ luôn luôn mở rộng; dù ngày hay đêm không bao giờ đóng để cho các dân mang của cải đến cho ngươi, và các vua chúng sẽ được dẫn đến cùng ngươi. 12 Dân nào hay nước nào không phục vụ ngươi sẽ bị tiêu diệt; bị tàn phá hoàn toàn. 13 Các cây cối quí báu của Li-băng sẽ được ban cho ngươi: cây thông, cây tùng, và cây bách. Ngươi sẽ dùng chúng để xây đền thờ đẹp đẽ [b] của ta, và ta sẽ ban vinh dự cho nơi nầy là nơi làm bệ chân ta. 14 Người nào đã từng làm hại ngươi sẽ cúi đầu trước mặt ngươi; kẻ ghét ngươi sẽ phủ phục dưới chân ngươi. Chúng sẽ gọi ngươi là Thành của CHÚA, tức Xi-ôn, thành của Đấng Thánh của Ít-ra-en. Trước đây ngươi bị ghét và hoang phế không ai thèm qua lại. Nhưng từ nay về sau ta sẽ khiến ngươi trở nên nổi danh; Ngươi sẽ là nơi hạnh phúc đời đời. 15

- 907 -


Ngươi sẽ nhận được những gì mình cần từ các dân và các vua của chúng, như đứa bé bú sữa mẹ nó. Rồi ngươi sẽ biết rằng ta, CHÚA Đấng giải cứu ngươi. Ngươi sẽ biết rằng Đấng Toàn Năng của Gia-cốp bảo vệ ngươi. 16

Ta sẽ mang cho ngươi vàng thay vì đồng, bạc thay vì sắt, đồng thay vì gỗ, sắt thay vì đá. Ta sẽ biến sự trừng phạt ngươi ra hòa bình, và ngươi sẽ được lẽ phải cai trị. 18 Trong xứ ngươi sẽ không có sự bạo ngược nữa; xứ ngươi sẽ không bị tàn hại hay hủy diệt. Ngươi sẽ gọi tường lũy ngươi là Cứu rỗi và gọi cổng là Ca ngợi. 17

Ngươi sẽ không cần mặt trời ban ngày và ánh trăng ban đêm nữa, vì CHÚA sẽ làm ánh sáng đời đời cho ngươi, và Thượng Đế sẽ là vinh hiển ngươi. 20 Mặt trời sẽ không bao giờ lặn, mặt trăng sẽ không bao giờ bị mờ tối, vì CHÚA sẽ làm ánh sáng đời đời cho ngươi, và thời gian sầu thảm của ngươi sẽ chấm dứt. 19

Tất cả dân cư ngươi sẽ làm theo lẽ phải. Họ sẽ hưởng được đất đời đời. Họ sẽ như cây non ta trồng trong vườn ta [c], Là kỳ công của tay ta để tỏ ra sự cao cả ta. 22 Gia đình nhỏ nhất sẽ lớn thành hàng ngàn người. Kẻ thấp kém nhất trong ngươi cũng sẽ trở thành một dân tộc hùng cường. Ta là CHÚA, và đến kỳ, ta sẽ khiến những điều nầy xảy ra nhanh chóng.” 21

I-sai-a 61 Lời phán của Chúa về sự tự do 61 CHÚA đã đặt thần linh Ngài trong ta, vì Ngài đã chỉ định ta rao tin mừng cho kẻ nghèo. Ngài sai ta đi an ủi những kẻ có tâm hồn tan vỡ, để loan tin giải phóng cho những kẻ bị cầm tù, để báo cho họ biết rằng họ đã được tự do. 2 Ngài sai ta loan báo thời kỳ CHÚA sẽ tỏ lòng nhân từ Ngài lúc Ngài sẽ trừng phạt kẻ ác. Ngài sai ta đến an ủi kẻ buồn rầu 3 và giúp người sầu thảm trong Giê-ru-sa-lem. Ta sẽ đội mão triều cho họ thay vì tro, và xức dầu vui mừng thay vì sầu thảm, và mặc cho họ sự ca ngợi thay vì lòng buồn bực. Rồi họ sẽ được gọi là Cây Nhân Từ, cây được CHÚA trồng để tỏ sự cao cả Ngài. Họ sẽ xây lại nơi đổ nát và phục hồi lại những nơi bị tiêu hủy xưa kia. Họ sẽ tái thiết những thành bị điêu tàn những nơi bị tiêu hủy quá lâu. 4

Hỡi dân ta, các kẻ thù ngươi sẽ chăn chiên cho ngươi. Con cái chúng sẽ chăm sóc đồng ruộng và vườn nho ngươi. 6 Ngươi sẽ được gọi là thầy tế lễ của CHÚA; là đầy tớ của Thượng Đế chúng ta. Ngươi sẽ hưởng giàu sang từ các dân trên đất, và ngươi sẽ kiêu hãnh vì các của cải giàu sang đó. 5

- 908 -


Thay vì xấu hổ, dân ta sẽ nhận được của cải gấp hai. Thay vì hổ nhục, họ sẽ vui mừng vì nhận được của cải đó. Họ sẽ nhận được gấp đôi phần đất để niềm vui họ kéo dài mãi mãi. 8 “Ta, CHÚA, yêu công lý. Ta ghét trộm cắp và mọi điều sai quấy. Ta sẽ rất công bình và ban cho dân ta điều thuộc về họ, và sẽ lập giao ước với họ, giao ước đời đời. 9 Các dân sẽ biết con cái của dân ta, con cái của họ sẽ được các dân biết đến. Ai nhìn thấy chúng cũng sẽ biết rằng chúng là dân được CHÚA ban phước.” 7

Tôi tớ của Thượng Đế mang sự Cứu Rỗi đến CHÚA khiến ta vui mừng; và linh hồn ta hớn hở trong Thượng Đế ta. Ngài đã mặc cho ta quần áo cứu rỗi và áo dài công chính, như chàng rể ăn mặc cho lễ cưới mình, như nàng dâu trang sức bằng châu báu. 11 Đất khiến cây cối mọc lên, vườn khiến hột nẩy mầm. Cũng vậy CHÚA là Thượng Đế sẽ khiến sự công chính và sự ca ngợi đến từ các dân. 10

I-sai-a 62 Giê-ru-sa-lem mới 62 Vì ta yêu núi Xi-ôn nên ta sẽ nói luôn về nó; vì cớ Giê-ru-sa-lem cho nên ta sẽ không bao giờ ngưng nói cho đến khi sự công chính [a] nó tỏa sáng rực rỡ, đến khi sự cứu rỗi nó rực lên như ánh lửa. 2 Hỡi Giê-ru-sa-lem, các dân sẽ thấy sự nhân từ ngươi, các vua sẽ thấy vinh hiển ngươi. Ngươi sẽ mang một tên mới, do chính Thượng Đế ban cho. 3 Ngươi sẽ như mão triều xinh đẹp trong tay Chúa, như mão triều của vua trong tay Thượng Đế. 4 Ngươi sẽ không còn bị gọi là dân bị Thượng Đế ruồng bỏ, xứ ngươi cũng không còn bị gọi là đất bị Thượng Đế hủy diệt. Ngươi sẽ được gọi là Dân được Thượng Đế Yêu mến, xứ ngươi sẽ được gọi là Cô Dâu của Thượng Đế, vì CHÚA yêu ngươi. Xứ ngươi sẽ thuộc về Ngài [b] như cô dâu thuộc về chồng mình. 5 Như thanh niên cưới thiếu nữ, Thượng Đế, Đấng nâng đỡ ngươi sẽ cưới ngươi [c]. Chồng vui mừng về vợ mới mình ra sao, Thượng Đế cũng sẽ vui mừng về ngươi như thế. 6

Hỡi Giê-ru-sa-lem, ta đã đặt lính canh trên tường thành để trông chừng.

Ngày đêm họ không được im lặng. Các ngươi là những kẻ nhắc nhở CHÚA về nhu cầu mình trong khi cầu nguyện đừng bao giờ im lặng.

- 909 -


7

Hãy tiếp tục cầu nguyện cho đến khi Ngài tái thiết Giê-ru-sa-lem, và khiến nó trở nên một thành mà muôn dân ca ngợi.

CHÚA đã hứa, và dùng quyền năng mình giữ lời hứa đó. Ngài phán, “Ta sẽ không bao giờ ban ngũ cốc của ngươi làm thực phẩm cho kẻ thù ngươi. Cũng sẽ không để kẻ thù ngươi uống rượu mới do tay ngươi làm. 9 Ai thu góp thực phẩm sẽ ăn nó, người đó sẽ ca ngợi CHÚA. Ai hái nho sẽ uống rượu trong sảnh đường của đền thờ ta.” 8

Hãy đi qua, qua các cổng! Hãy dọn đường cho dân ta. Hãy đắp, hãy đắp đường! Hãy dọn sạch đá khỏi đường cái. Hãy giương cờ lên làm dấu hiệu cho dân ta. 10

CHÚA phán cùng dân chúng các xứ xa xôi: “Hãy bảo dân Xi-ôn, ‘Nầy, Cứu Chúa ngươi đang đến. Ngài mang phần thưởng cho ngươi; và thù lao theo Ngài.’” 11

Dân Ngài sẽ được gọi là Dân Thánh, Dân Được Cứu của CHÚA. Giê-ru-sa-lem sẽ được gọi là: Thành Thượng Đế Muốn, Thành được Ngài Ngự. 12

I-sai-a 63 Chúa xét xử dân Ngài 63 Người đang đến từ Ê-đôm, từ thành Bốt-ra, mặc áo quần đỏ rực là ai? Ai ăn mặc áo quần sang trọng và đi tới hiên ngang cùng với quyền năng mình? Ngài phán, “Ta nói ra lẽ phải. Ta có quyền cứu ngươi.” 2

Có người hỏi, “Sao áo quần ngươi đỏ tươi như thể ngươi đã dẫm lên trái nho làm rượu?”

Ngài đáp, “Chỉ một mình ta dẫm lên bàn ép rượu, không ai trong các dân giúp ta. Ta nổi giận và dẫm lên các dân, và chà đạp họ trong cơn giận ta. Máu [a] vấy lên quần áo ta, làm hoen ố y phục ta. 3

- 910 -


Ta đã chọn một thời điểm để báo thù, và ta mang sự giải cứu đến với ta. 5 Ta nhìn quanh nhưng không thấy ai đến giúp ta. Ta sửng sốt vì không ai yểm trợ ta. Cho nên ta dùng quyền năng mình để giải cứu dân ta; sự tức giận ta yểm trợ ta. 6 Trong khi ta nổi giận, ta dẫm lên các dân. Trong cơn giận ta trừng phạt họ, đổ máu họ xuống đất.” 4

Lòng nhân từ Chúa đối cùng dân Ngài Tôi sẽ thuật lại lòng nhân từ CHÚA và ca ngợi Ngài về những việc Ngài làm. Tôi sẽ ca ngợi CHÚA về những việc tốt lành Ngài làm cho chúng ta và lòng nhân từ Ngài đối cùng dân Ít-ra-en. Ngài đã tỏ lòng từ bi lớn lao cho chúng ta và rất nhân từ đối với chúng ta. 8 Ngài phán, “Đây là dân ta; con cái ta sẽ không nói dối với ta.” Nên Ngài giải cứu chúng. 9 Khi chúng bị khốn khổ, Ngài cũng chịu khốn khổ. Ngài sai thiên sứ đến giải cứu chúng. Vì lòng yêu thương và nhân từ, Ngài giải cứu chúng. Từ lâu Ngài đã nâng đỡ và bồng ẵm chúng. 10 Nhưng chúng chống nghịch Ngài làm buồn Thánh Linh Ngài. Nên Ngài trở thành thù nghịch chúng, và đánh lại chúng. 7

Nhưng rồi dân Ngài nhớ lại chuyện xưa, thuở mà Mô-se và dân Ít-ra-en ở với Ngài. CHÚA, Đấng đã mang dân mình qua biển cả, cùng với các cấp lãnh đạo của dân chúng đâu rồi? Đấng đặt Thánh Linh ở giữa họ, 12 nắm tay phải dắt Mô-se, bằng quyền năng kỳ diệu, rẽ nước ra trước mặt họ để nổi danh mãi mãi, 13 là Đấng đã dẫn dân chúng qua nước sâu đâu rồi? Như ngựa đi qua sa mạc, dân chúng không bị vấp ngã. 14 Như trâu bò đi xuống thung lũng, Thần Linh của CHÚA ban cho dân chúng một nơi an nghỉ. Lạy CHÚA, đó là cách Ngài dẫn dắt dân Ngài, vì thế mà Ngài nổi danh lạ lùng. 11

- 911 -


Lời cầu xin Thượng Đế giúp đỡ dân Ngài Lạy Chúa, xin hãy từ trời nhìn xuống, xin hãy nhìn chúng tôi từ nơi ở cao cả và thánh khiết của Ngài trên trời. Tình yêu lớn lao [b] và quyền năng Ngài đâu rồi? Sao CHÚA cất tình yêu và lòng từ bi Ngài khỏi chúng tôi? 16 Ngài là cha chúng tôi. Áp-ra-ham không biết chúng tôi là con cháu người, còn Ít-ra-en cũng không nhận ra chúng tôi. Lạy Chúa, Ngài là cha chúng tôi. Ngài được gọi là “Đấng từ xưa nay vẫn giải cứu chúng tôi.” 17 Lạy CHÚA, sao Ngài khiến chúng tôi đi lầm lạc khỏi đường lối Ngài? Sao Ngài làm cho chúng tôi ương ngạnh đến nỗi chúng tôi không tôn kính Ngài? Vì cớ chúng tôi xin hãy trở lại cùng chúng tôi, kẻ tôi tớ CHÚA thuộc về Ngài. 18 Dân Ngài có được đất đai trong một thời gian, rồi bây giờ kẻ thù đến chà đạp nơi thánh Ngài. 19 Chúng tôi trở thành như dân chưa hề được Ngài cai trị, như những kẻ chưa hề mang danh Ngài. 15

I-sai-a 64 64 Xin hãy xé các từng trời và ngự xuống đất để núi non rung chuyển trước mặt Ngài. 2 Như lửa đốt nhánh cây, như lửa nấu sôi nước, xin hãy cho các kẻ thù biết Ngài là ai. Rồi các dân sẽ run sợ khi nhìn thấy Ngài. 3 Ngài đã làm nhiều việc diệu kỳ chúng tôi không ngờ tới. Ngài ngự xuống thì núi non liền rung chuyển trước mặt Ngài. 4 Xưa nay chưa hề ai nghe một Thượng Đế nào giống như Ngài. Chưa hề ai thấy một Thượng Đế nào khác ngoài Ngài, là Đấng giúp đỡ người tin cậy Ngài. Ngài giúp người thích làm điều thiện, giúp người nhớ lại cách Ngài muốn họ sống. Nhưng Ngài nổi giận vì chúng tôi phạm tội [a]. Trong một thời gian lâu chúng tôi đã bất vâng phục, cho nên làm sao chúng tôi được giải cứu? 6 Tất cả chúng tôi bị nhớp nhúa vì tội lỗi. Những việc lành chúng tôi như áo dơ. Tất cả chúng tôi như lá cây khô, tội lỗi chúng tôi như gió thổi mang chúng tôi đi. 7 Không ai thờ phụng Ngài hay nài xin Ngài giúp chúng tôi. Vì Ngài đã quay mặt khỏi chúng tôi và để cho tội lỗi tiêu diệt chúng tôi. 8 Nhưng lạy CHÚA, Ngài là cha chúng tôi. Chúng tôi như đất sét, Ngài là thợ gốm; Tay Ngài đã tạo nên chúng tôi. 5

- 912 -


Lạy CHÚA, xin đừng mãi nổi giận cùng chúng tôi; xin đừng ghi nhớ tội lỗi chúng tôi đến đời đời. Xin hãy đoái đến chúng tôi, vì chúng tôi là dân sự Ngài. 10 Các thành thánh của Ngài bị hoang vắng như sa mạc. Xi-ôn như đồng hoang; Giê-ru-sa-lem bị tiêu diệt. 9

Tổ tiên chúng tôi thờ phụng Ngài trong đền thờ thánh của chúng tôi, nhưng nay nó đã bị lửa thiêu đốt, mọi vật quí của chúng tôi đã bị tiêu hủy. 12 Khi Ngài nhìn thấy những điều nầy, mà Ngài vẫn không chịu cứu giúp chúng tôi sao? Lạy CHÚA, Ngài sẽ im lặng và trừng phạt chúng tôi mãi sao? 11

I-sai-a 65 Mọi người sẽ học biết về Thượng Đế 65 CHÚA phán, “Ta đã tỏ mình cho những người không tìm kiếm ta. Những kẻ không xin ta cứu giúp thì đã tìm được ta. Ta phán, ‘Ta đây. Ta đây,’ cùng một dân không cầu nguyện cùng ta. Suốt ngày ta chịu đựng một dân chống nghịch ta, nhưng lối sống của chúng không tốt đẹp; chúng hành động theo ý muốn mình. 2

Ngay trước mặt ta chúng vẫn làm những điều chọc giận ta. Chúng dâng sinh tế cho các thần ngay trong vườn mình [a], và đốt hương trên các bàn thờ bằng gạch. 4 Chúng ngồi giữa mồ mả và suốt đêm ngồi chờ người chết lên tiếng. Chúng ăn thịt heo, và nồi niêu chúng đầy thịt không tinh sạch. 5 Nhưng chúng bảo kẻ khác, ‘Hãy xê ra, đừng đến gần ta. Ta quá thánh khiết so với ngươi.’ Dân nầy như khói trong lỗ mũi ta. Như lửa cháy mãi, chúng cứ chọc giận ta hoài. 3

Ít-ra-en phải bị trừng phạt Nầy, việc đó đã được ghi tại đây trước mặt ta. Ta sẽ không im lặng; ta sẽ đền đáp ngươi đúng mức. Ta sẽ trừng phạt ngươi về điều ngươi làm. 7 Ta sẽ trừng phạt ngươi vì tội lỗi ngươi và tội lỗi của tổ tiên ngươi,” CHÚA phán vậy. “Chúng đốt hương cho các thần trên núi và làm nhục ta trên các đồi núi đó. Cho nên ta sẽ trừng phạt chúng cho xứng với tội lỗi chúng làm.” 6

CHÚA phán như sau: “Khi trái nho còn nước, người ta bảo ‘Đừng ném bỏ, vì còn dùng được.’” Cho nên ta cũng sẽ đối với các đầy tớ như vậy: Ta sẽ không hoàn toàn tiêu diệt chúng. 9 Ta sẽ để lại một số con cái của Gia-cốp, và một số người trong Giu-đa sẽ nhận núi của ta. Ta sẽ chọn dân sống ở đó; các đầy tớ ta sẽ định cư nơi đó. 10 Rồi Bình nguyên Sa-rôn sẽ làm đồng cỏ cho gia súc, và Thung lũng A-cô [b] sẽ là nơi cho các bầy gia súc nghỉ ngơi. Chúng sẽ là nơi dành cho những kẻ muốn theo ta. 8

“Nhưng riêng về phần các ngươi là những kẻ đã lìa bỏ CHÚA, những kẻ đã quên núi thánh ta [c], những kẻ thờ thần May Mắn, những kẻ giữ lễ cho thần Định Mạng. [d] 12 Chính ta định phần số cho ngươi, ta sẽ dùng gươm trừng phạt ngươi. Tất cả các ngươi đều sẽ bị giết, vì khi ta kêu các ngươi không thèm trả lời. Ta nói nhưng các ngươi không thèm nghe. Các ngươi làm điều ác và làm những việc ta ghét.” 11

- 913 -


Nên CHÚA phán như sau: “Các đầy tớ ta sẽ ăn, nhưng các ngươi là những kẻ gian ác sẽ đói. Các đầy tớ ta sẽ uống, nhưng các ngươi là những kẻ gian ác sẽ khát. Các đầy tớ ta sẽ vui mừng, nhưng các ngươi là những kẻ gian ác sẽ bị hổ nhục. 14 Các đầy tớ ta sẽ reo vui, nhưng các ngươi sẽ kêu la vì đau đớn [e]. Các ngươi sẽ kêu khóc thảm thiết vì tinh thần ngươi tan vỡ. 15 Tên các ngươi sẽ là vật nguyền rủa cho đầy tớ ta, CHÚA sẽ giết các ngươi. Nhưng Ngài sẽ gọi đầy tớ Ngài bằng một tên khác. 16 Dân cư trong xứ sẽ xin được phước họ sẽ cầu xin phước lành từ Thượng Đế thành tín. Còn dân trong xứ hứa nguyện sẽ nhân danh Thượng Đế thành tín mà hứa nguyện, vì những khốn khổ xưa kia sẽ không còn được ai nhớ tới nữa. Ta sẽ cất những khốn khổ đó đi khỏi các ngươi. 13

Thời kỳ mới sắp đến Nầy ta sẽ lập một trời mới và đất mới, dân chúng sẽ không nhớ những việc đã qua hay suy nghĩ đến những việc đó nữa. 18 Dân ta sẽ vui vẻ muôn đời vì những điều ta làm. Ta sẽ làm cho Giê-ru-sa-lem đầy tiếng vui mừng, Ta sẽ khiến dân cư thành đó trở nên một niềm hớn hở. 17

Ta sẽ vui về Giê-ru-sa-lem và hớn hở cùng với dân ta. Trong thành đó người ta sẽ không còn nghe tiếng kêu khóc và thảm sầu nữa. 20 Trong thành đó sẽ không còn hài nhi chết non. Cùng sẽ không có người già nào mà không sống lâu. Ai sống đến trăm tuổi vẫn xem như còn trẻ, Còn ai qua đời trước trăm tuổi được xem như là kẻ có tội. 19

Trong thành đó ai cất nhà sẽ được ở trong đó. Ai trồng vườn nho sẽ được ăn trái. 22 Không còn có cảnh kẻ cất nhà mà người khác ở. Không còn có cảnh người trồng vườn mà kẻ khác ăn trái. Dân ta sẽ sống lâu, như cây cối. Dân chọn lựa của ta sẽ sống ở đó và vui hưởng điều mình làm ra. 23 Họ sẽ không còn làm việc không công. Cũng sẽ không còn sinh con chết non. Tất cả dân ta đều sẽ được CHÚA ban phước; con cái họ cũng được phước. 21

- 914 -


Trước khi họ xin, ta sẽ ban cho họ điều họ cần, ta sẽ giúp đỡ khi họ xin ta. 25 Chó sói và sư tử sẽ ăn cùng nhau bình yên, Sư tử sẽ ăn cỏ khô như bò, và rắn trên đất sẽ không làm hại ai. Chúng sẽ không cắn giết nhau, trên tất cả các núi thánh ta,” CHÚA phán vậy. 24

I-sai-a 66 Chúa sẽ xét xử các dân 66 CHÚA phán như sau: “Trời là ngôi ta, đất là bệ chân ta. Cho nên các ngươi định cất nhà cho ta sao? Ta cần chỗ nghỉ ngơi sao? 2 Tay ta làm ra mọi vật. Mọi vật có được là do ta làm ra,” CHÚA phán vậy. “Hãy bảo dân nầy rằng: Ta thích những kẻ khiêm nhường, ăn năn và kẻ kính sợ mệnh lệnh ta. 3 Có kẻ giết bò đực làm sinh tế cho ta nhưng cũng hà hiếp người khác. Chúng giết chiên cừu làm sinh tế và bẻ cổ chó. Chúng dâng của lễ chay cho ta nhưng cũng dâng huyết heo [a] cho ta. Chúng dâng hương giống nhưng cũng bái lạy thần tượng. Chúng chọn đường lối riêng cho mình, yêu thích những thần tượng gớm ghiếc. 4 Nên ta sẽ chọn lựa sự trừng phạt chúng, sự trừng phạt mà chúng e sợ nhất. Vì khi ta kêu chúng không thèm chú ý. Khi ta nói, chúng không thèm nghe. Chúng làm điều ác; Chúng thích làm điều ta ghét.” Hỡi các ngươi là kẻ vâng theo lời CHÚA, hãy lắng tai nghe lời Ngài phán: “Anh em ngươi ghét ngươi và chống báng ngươi vì ngươi theo ta. Anh em ngươi nói, ‘Hãy tôn kính CHÚA để chúng ta thấy ngươi vui mừng,’ Nhưng chúng sẽ bị trừng phạt. 5

Sự trừng phạt và sự thành lập một dân tộc mới Hãy nghe tiếng kêu la từ thành; nghe tiếng ồn ào từ đền thờ. Đó là CHÚA đang trừng phạt kẻ thù Ngài, giáng trừng phạt tương xứng cho chúng. 6

7

Đàn bà sinh con trước khi đau đẻ; và đứa con trai lọt lòng mẹ trước khi chuyển bụng.

- 915 -


Chưa bao giờ ai nghe chuyện như thế; cũng chưa ai thấy chuyện đó xảy ra. Cũng vậy, chưa ai thấy một quốc gia khởi đầu trong một ngày; chưa ai thấy một tân quốc gia bắt đầu trong chốc lát. Nhưng Giê-ru-salem sẽ sinh con, khi vừa cảm thấy chuyển bụng. 8

Cũng vậy, ta sẽ không gây ra chuyển bụng mà không sinh sản ra một điều gì mới lạ,” CHÚA phán vậy. “Nếu ta gây chuyển bụng cho ngươi, ta sẽ không ngăn chặn ngươi sinh ra một dân tộc mới,” Thượng Đế ngươi phán. 9

“Hỡi Giê-ru-sa-lem hãy vui mừng lên. Tất cả những ai yêu Giê-ru-sa-lem hãy hớn hở. Những ai đau buồn vì Giê-ru-sa-lem hãy mừng rỡ với nó. 11 Các ngươi sẽ được an ủi từ nó và mãn nguyện, như đứa bé nằm bên vú mẹ. Ngươi sẽ bú say sưa từ đó.” 10

CHÚA phán như sau: “Ta sẽ ban hoà bình chảy đến cho nó như sông. Của cải các dân tộc sẽ đến với nó như sông dâng tràn bờ. Các ngươi sẽ như em bé được cho bú và được bồng ẵm trong tay ta và nhún nhảy trên đầu gối ta. 13 Ta sẽ an ủi ngươi như người mẹ an ủi con mình. Các ngươi sẽ được an ủi trong Giê-ru-sa-lem.” 14 Khi thấy những điều đó, ngươi sẽ vui mừng, ngươi sẽ mọc mạnh lên như cỏ. Đầy tớ CHÚA sẽ thấy quyền năng Ngài, nhưng kẻ thù Ngài sẽ thấy cơn thịnh nộ Ngài. 12

Kìa CHÚA đến với đám lửa và quân xa Ngài đến trong đám bụi mù. Ngài sẽ dùng cơn giận trừng phạt các dân đó; Ngài sẽ trừng phạt chúng bằng đám lửa. 16 CHÚA sẽ dùng lửa phân xử dân chúng, và dùng gươm mình tiêu diệt nhiều người; Ngài sẽ giết vô số người. 17 “Các dân nầy dọn mình ra thánh và tinh sạch để đi bái lạy các thần mình trong vườn [b]. Chúng xếp hàng đi vào các vườn tược, chúng ăn thịt heo, thịt chuột, và những vật đáng ghê tởm. Nhưng tất cả đều sẽ cùng nhau bị tiêu diệt,” CHÚA phán vậy. 15

“Ta biết tư tưởng và hành vi chúng rất độc ác, nên ta đến để trừng phạt chúng. Ta sẽ tập họp mọi dân, mọi người. Chúng sẽ đến và thấy vinh hiển ta. 18

Ta sẽ đánh dấu trên một số người, và ta sẽ sai một số người đã được cứu đến cùng các dân: Ta-rê-si, Ly-bi , Lút [d] (dân bắn cung giỏi), Tu-banh [e], Hi-lạp, và các xứ xa xăm. Các dân nầy chưa bao giờ nghe những điều ta làm hay thấy vinh hiển ta. Cho nên những người đã được cứu sẽ nói cho họ biết vinh hiển ta. 20 Rồi họ sẽ mang các đồng bào Ít-ra-en ngươi từ các dân đến núi thánh ta [f] ở Giê-ru-sa-lem. Các đồng bào Ít-raen ngươi sẽ đến bằng ngựa, lừa, lạc đà và xe cộ cùng xe ngựa có mui. Họ sẽ như của lễ chay mà người ta đem đến đền thờ đựng trong hũ sạch,” CHÚA phán vậy. 21 “Ta sẽ chọn một số người trong vòng họ để làm thầy tế lễ và người Lê-vi,” CHÚA phán vậy. 19

[c]

Trời mới và đất mới CHÚA phán “Ta sẽ làm trời mới và đất mới còn mãi mãi. Cũng vậy, tên tuổi ngươi và con cái các ngươi sẽ luôn luôn ở với ta. 23 Ai nấy đều sẽ đến thờ phụng ta vào mỗi ngày Sa-bát và ngày Trăng Mới. 22

- 916 -


Chúng sẽ đi ra và nhìn thấy các xác chết của những kẻ phạm tội nghịch ta. Dòi bọ ăn chúng nó sẽ không bao giờ chết và lửa thiêu chúng nó sẽ không bao giờ tắt. Mọi người đều ghê tởm khi nhìn thấy những xác chết ấy.” 24

- 917 -


WEBSITE http://vinh.tran.free.fr

YOUTUBE


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.