Nghi thức Lăng Nghiêm - Tịnh Độ

Page 1

NGHI THỨC

LĂNG NGHIÊM TỊNH ĐỘ

Shurangama, tháng 03 năm 2018

Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

1


VÌ SAO CẦN PHẢI NIỆM PHẬT (Trích khai thị của Hòa thượng Tuyên Hóa) Lúc bình thường tại sao cần phải niệm Phật? Vì bình thường niệm Phật là để chuẩn bị cho khi lâm chung. Tại sao không đợi đến lâm chung mới niệm Phật? Vì hằng ngày niệm Phật chính là để huân tập hạt giống Phật vào trong tâm của bạn. Nếu bạn niệm mãi thì trải qua thời gian, hạt giống đó lớn dần lên trong mảnh đất tâm của bạn và đưa bạn đến kết quả giải thoát giác ngộ. Nếu bình thường bạn không niệm Phật thì bạn không biết gieo hạt giống Phật vào mảnh đất tâm của mình. Khi lâm chung, thần trí rối loạn thì làm sao nghĩ đến Phật mà niệm được chứ. Tại sao vậy? Vì hiện tại không thường xuyên niệm Phật. Do đó, hằng ngày cần phải niệm Phật, lạy Phật, tu pháp môn Tịnh độ. Được như thế thì hiện tại được bình an, khi lâm chung không bị hôn mê tán Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

2


loạn lại được tự tại vãng sanh về thế giới Tây phương Cực lạc. Tại sao phải vãng sanh về thế giới Tây phương Cực lạc? Bởi vì đức Phật A Di Đà khi chưa thành Phật tên là Tỳ kheo Pháp Tạng đã phát ra 48 lời nguyện, trong đó có một lời nguyện “Sau khi tôi thành Phật, chúng sanh trong khắp mười phương nếu niệm danh hiệu của tôi A Di Đà Phật, tôi nhất định tiếp dẫn họ về cõi nước của tôi, tương lai thành Phật… Chúng sanh trong cõi nước tôi đều hóa sanh từ hoa sen, nên thân thể thanh tịnh không bị nhiễm ô”. Với đại nguyện rộng lớn của Phật A Di Đà như thế, nên tất cả chúng sanh ai ai cũng tu “pháp môn niệm Phật”, vì đây là pháp môn hợp với mọi trình độ căn cơ và rất dễ tu.

Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

3


KỲ NGUYỆN (Dành cho vị Chủ lễ)

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế giới đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật, Nam Mô Đông Phương Giáo Chủ Tiêu tai diên thọ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật, Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Nam Mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát. Tam bảo chứng minh, oai thần hộ niệm, Bồ tát, Thanh Văn, Phạm Vương, Đế Thích, Tứ Thiên Vương, Chúng Thiên Long, Bát Bộ, Hộ Pháp, Thần Vương, Nhứt thiết Thiện Thần đồng quang giáng đạo tràng chứng minh, gia hộ. Đệ tử chúng đẳng cung tựu … phát nguyện phụng trì Kinh Chú, xưng tán hồng danh Chư Phật dâng lên cúng dường Thập phương Tam Bảo được bao nhiêu công đức nguyện hồi hướng Tây phương, trang nghiêm Tịnh độ, thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ, từ thuyền phổ độ, phước đức vô biên, đồng hóa hữu duyên, đồng thành Phật đạo. Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

4


Thứ nguyện cầu an cho mười phương pháp giới chúng sanh, tất cả đệ tử hiện tiền cùng thân bằng quyến thuộc được mạnh khỏe, hết thảy nghiệp chướng – báo chướng – phiền não chướng – bệnh tật đều tiêu trừ, tinh tấn tu tập đúng Chánh pháp, xa lìa tà ma ngoại đạo, phụng sự Phật Pháp, lợi lạc chúng sinh, mãn báo thân này đồng sanh Cực Lạc. Thứ nguyện cầu siêu cho tất cả chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn, thập loại cô hồn hữu danh vô vị hữu vị vô danh, các vị vong linh ngụ tại địa phương, thân bằng quyến thuộc đã quá vãng, cùng oan gia trái chủ nhiều đời nhiều kiếp của chúng đệ tử nghe tiếng Kinh giác ngộ trần lao, nhờ Phật lực thoát vòng mê tội chướng, tốc xả mê đồ siêu sanh Tịnh độ. Nguyện ... thiền môn thanh tịnh, đại chúng an hòa, đàn na tín thí, công phu công quả tăng ích phước điền, pháp giới nhơn thiên, tình dữ vô tình tề thành Phật đạo. Nam Mô Chứng Minh Sư Bồ Tát Ma Ha Tát. (3x)

Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

5


TÁN PHẬT Đại từ đại bi mẫn chúng sanh, Đại hỷ đại xả tế hàm thức, Tướng hảo quang minh dĩ tự nghiêm, Chúng đẳng chí tâm qui mạng lễ.  Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tận hư không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị lai thập phương Chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, Thường trụ Tam-Bảo. (1 lạy)  Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta bà Giáo chủ Điều ngự Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh sơn hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 lạy)  Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí BồTát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1 lạy) Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

6


(Ngồi ngay ngắn tụng Kinh Lăng Nghiêm)

NAM

LĂNG

NGHIÊM

THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT.

HỘI

(3 lần)

Diệu trạm tổng trì bất động tôn, Thủ Lăng Nghiêm Vương thế hy hữu, Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng. Bất lịch tăng kỳ hoạch Pháp thân, Nguyện kim đắc quả thành Bảo Vương, Hoàn độ như thị Hằng sa chúng, Tương thử thâm tâm phụng trần sát, Thị tắc danh vi báo Phật ân, Phụng thỉnh Thế Tôn vị chứng minh, Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập, Như nhất chúng sanh vị thành Phật, Chung bất ư thử thủ Nê hoàn. Ðại hùng đại lực đại từ bi, Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

7


Hi cánh thẩm trừ vi tế hoặc. Linh ngã tảo đăng Vô Thượng Giác, Ư thập phương giới tọa đạo tràng; Thuấn-nhã-đa tánh khả tiêu vong, Thước-ca-ra tâm vô động chuyển. Nam Mô thường trụ thập phương Phật. Nam Mô thường trụ thập phương Pháp. Nam Mô thường trụ thập phương Tăng. Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam Mô Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm. Nam Mô Quán Thế Âm Bồ tát. Nam Mô Kim Cang Tạng Bồ tát. Nhĩ thời Thế Tôn, tùng nhục kế trung, dõng bá bảo quang, quang trung dõng xuất, thiên diệp bảo liên, hữu hóa Như Lai, tọa bảo hoa trung, đảnh phóng thập đạo, bá bảo quang minh, nhất nhất quang minh, giai biến thị Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

8


hiện, thập Hằng Hà sa, Kim cang mật tích, kình sơn trì sử, biến hư không giới. Ðại chúng ngưỡng quán, úy ái kim bảo, cầu Phật ai hựu, nhất tâm thính Phật vô kiến đảnh tướng, phóng quang Như Lai, tuyên thuyết thần chú.

ĐỆ NHẤT Nam-mô tát đát tha, tô già đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam bồ-đà tỏa. Tát đát tha Phật đà cu tri sắc ni sam. Nammô tát bà bột đà bột địa tát đa bệ tệ. Nam-mô tát đa nẩm tam-miệu tam bồ đà, cu tri nẩm. Ta xá ra bà ca tăng già nẩm. Nam-mô lô kê A-La-Hán đa nẩm. Nam-mô tô lô đa ba na nẩm. Nam-mô ta yết rị đà dà di nẩm. Nammô lô kê tam-miệu dà đa nẩm. TamNghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

9


miệu dà ba ra để ba đa na nẩm. Nammô đề bà ly sắc nỏa. Nam-mô tất đà da tỳ địa da đà ra ly sắc nỏa. Xá ba noa yết ra ha, ta ha ta ra ma tha nẩm. Nam-mô bạt ra ha ma ni. Nam-mô nhơn dà ra da. Nam-mô bà dà bà đế. Lô đà ra da. Ô ma bát đế. Ta hê dạ da. Nam-mô bà dà bà đế. Na ra dả noa da. Bàn dá ma ha tam mộ đà da. Nam-mô tất yết rị đa da. Nam-mô bà dà bà đế. Ma ha ca ra da. Ðịa rị bác lặc na dà ra. Tỳ đà ra ba noa ca ra da. A địa mục đế. Thi ma xá na nê bà tất nê. Ma đát rị dà noa. Nam-mô tất yết rị đa da. Nam-mô bà dà bà đế. Ða tha dà đa câu ra da. Nam-mô bát đầu ma câu ra da. Nam-mô bạc xà ra câu ra da. Nam-mô ma ni câu ra da. Nam-mô dà xà câu ra Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

10


da. Nam-mô bà dà bà đế. Ðế rị trà du ra tây na. Ba ra ha ra noa ra xà da. Ða tha dà đa da. Nam-mô bà dà bà đế. Nam-mô A di đa bà da. Ða tha dà đa da. A ra ha đế. Tam-miệu tam bồ đà da. Nam-mô bà dà bà đế. A sô bệ da. Ða tha dà đa da. A ra ha đế. Tam-miệu tam-bồ đà da. Nam-mô bà dà bà đế. Bệ xa xà da, câu lô phệ trụ rị da. Bác ra bà ra xà da. Ða tha dà đa da. Nam-mô bà dà bà đế. Tam bổ sư bí đa. Tát lân nại ra lặc xà da. Ða tha dà đa da. A ra ha đế. Tam-miệu tam-bồ đà da. Nammô bà dà bà đế. Xá kê dã mẫu na duệ. Ða tha dà đa da. A ra ha đế. Tam-miệu tam-bồ đà da. Nam-mô bà dà bà đế. Lặc đát na kê đô ra xà da. Ða tha dà đa da. A ra ha đế. Tam-miệu tam-bồ Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

11


đà da. Ðế biều, nam-mô tát yết rị đa. Ế đàm bà dà bà đa. Tát đác tha dà đô sắc ni sam. Tát đác đa bát đác lam. Nammô a bà ra thị đam. Bác ra đế dương kỳ ra. Tát ra bà bộ đa yết ra ha. Ni yết ra ha yết ca ra ha ni. Bạt ra bí địa da sất đà nể. A ca ra mật rị trụ. Bát rị đác ra da nảnh yết rị. Tát ra bà bàn đà na mục xoa ni. Tát ra bà đột sắc tra. Ðột tất phạp bát na nể phạt ra ni. Giả đô ra thất đế nẩm. Yết ra ha ta ha tát ra nhã xà. Tỳ đa băng ta na yết rị. A sắc tra băng xá đế nẩm. Na xoa sát đác ra nhã xà. Ba ra tát đà na yết rị. A sắc tra nẩm. Ma ha yết ra ha nhã xà. Tỳ đa băng tát na yết rị. Tát bà xá đô lô nể bà ra nhã xà. Hô lam đột tất phạp, nan giá na xá ni. Bí sa xá tất đác ra. A kiết Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

12


ni ô đà ca ra nhã xà. A bát ra thị đa câu ra. Ma ha bác ra chiến trì. Ma ha điệp đa. Ma ha đế xà. Ma ha thuế đa xà bà ra. Ma ha bạt ra bàn đà ra bà tất nể. A rị da đa ra. Tỳ rị câu tri. Thệ bà tỳ xà da. Bạt xà ra ma lễ để. Tỳ xá lô đa. Bột đằng dõng ca. Bạt xà ra chế hắt na a giá. Ma ra chế bà bát ra chất đa. Bạt xà ra thiện trì. Tỳ xá ra giá. Phiến đa xá bệ đề bà bổ thị đa. Tô ma lô ba. Ma ha thuế đa. A rị da đa ra. Ma ha bà ra a bác ra. Bạt xà ra thương yết ra chế bà. Bạt xà ra câu ma rị. Câu lam đà rị. Bạt xà ra hắt tát đa giá. Tỳ địa da kiền dá na ma rị ca. Khuất tô mẫu bà yết ra đá na. Bệ lô giá na câu rị da. Dạ ra thố sắc ni sam. Tỳ chiếc lam bà ma ni giá. Bạt xà ra ca na ca ba ra bà. Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

13


Lô xà na bạt xà ra đốn trỉ giá. Thuế đa giá ca ma ra. Sát sa thi ba ra bà. Ế đế di đế. Mẫu đà ra yết noa. Ta bệ ra sám. Quật phạm đô. Ấn thố na mạ mạ tỏa.

ÐỆ NHỊ Ô hồng. Rị sắc yết noa. Bác lặc xá tất đa. Tát đác tha già đô sắc ni sam. Hổ hồng. Đô lô ung. Chiêm bà na. Hổ hồng. Đô lô ung. Tất đam bà na. Hổ hồng. Đô lô ung. Ba ra sắc địa da tam bác xoa noa yết ra. Hổ hồng. Đô lô ung. Tát bà dược xoa hắt ra sát ta. Yết ra ha nhã xà. Tỳ đằng băng tát na yết ra. Hổ hồng. Đô lô ung. Giả đô ra thi đế nẩm. Yết ra ha ta ha tát ra nẩm. Tỳ đằng băng tát na ra. Hổ hồng. Đô lô ung. Ra xoa. Bà già phạm. Tát đác tha Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

14


già đô sắc ni sam. Ba ra điểm xà kiết rị. Ma ha ta ha tát ra. Bột thọ ta ha tát ra thất rị sa. Câu tri ta ha tát nê đế lệ. A tệ đề thị bà rị đa. Tra tra anh ca. Ma ha bạt xà lô đà ra. Ðế rị bồ bà na. Man trà ra. Ô hồng. Ta tất đế bạt bà đô. Mạ mạ Ấn thố na mạ mạ tỏa.

ÐỆ TAM Ra xà bà dạ. Chủ ra bạt dạ. A kỳ ni bà dạ. Ô đà ca bà dạ. Tỳ xa bà dạ. Xá tát đa ra bà dạ. Bà ra chước yết ra bà dạ. Ðột sắc xoa bà dạ. A xá nể bà dạ. A ca ra mật rị trụ bà dạ. Ðà ra ni bộ di kiếm, ba già ba đà bà dạ. Ô ra ca bà đa bà dạ. Lặc xà đàn trà bà dạ. Na dà bà dạ. Tỳ điều đát bà dạ. Tô ba ra noa bà Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

15


dạ. Dược xoa yết ra ha. Ra xoa tư yết ra ha. Tất rị đa yết ra ha. Tỳ xá giá yết ra ha. Bộ đa yết ra ha. Cưu bàn trà yết ra ha. Bổ đơn na yết ra ha. Ca tra bổ đơn na yết ra ha. Tất kiền độ yết ra ha. A bá tất ma ra yết ra ha. Ô đàn ma đà yết ra ha. Xa dạ yết ra ha. Hê rị bà đế yết ra ha. Xả đa ha rị nẩm. Yết bà ha rị nẩm. Lô địa ra ha rị nẩm. Mang ta ha rị nẩm. Mê đà ha rị nẩm. Ma xà ha rị nẩm. Xà đa ha rị nữ. Thị tỷ đa ha rị nẩm. Tỳ đa ha rị nẩm. Bà đa ha rị nẩm. A du giá ha rị nữ. Chất đa ha rị nữ. Ðế sam tát bệ sam. Tát bà yết ra ha nẩm. Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di. Kê ra dạ di. Ba rị bạt ra giả ca hất rị đởm. Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di. Kê ra dạ di. Trà diễn ni hất rị đởm. Tỳ đà dạ xà sân Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

16


đà dạ di. Kê ra dạ di. Ma ha bát du bát đác dạ. Lô đà ra hất rị đởm. Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di. Kê ra dạ di. Na ra dạ noa hất rị đởm. Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di. Kê ra dạ di. Ðát đỏa dà lô trà tây hất rị đởm. Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di. Kê ra dạ di. Ma ha ca ra ma đác rị già noa hất rị đởm. Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di. Kê ra dạ di. Ca ba rị ca hất rị đởm. Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di. Kê ra dạ di. Xà dạ yết ra ma độ yết ra. Tát bà ra tha ta đạt na hất rị đởm. Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di. Kê ra dạ di. Giả đốt ra bà kỳ nể hất rị đởm. Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di. Kê ra dạ di. Tỳ rị dương hất rị tri. Nan đà kê sa ra dà noa bác đế. Sách hê dạ hất rị đởm. Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di. Kê ra dạ di. Na yết na xá ra bà Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

17


noa hất rị đởm. Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di. Kê ra dạ di. A-la-hán hất rị đởm, Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di. Kê ra dạ di. Tỳ đa ra dà hất rị đởm. Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di. Kê ra dạ di, bạt xà ra ba nể. Câu hê dạ, câu hê dạ. Ca địa bát đế hất rị đởm. Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di. Kê ra dạ di. Ra xoa võng. Bà dà phạm. Ấn thố na mạ mạ tỏa.

ÐỆ TỨ Bà dà phạm. Tát đác đa bát đác ra. Nam-mô tý đô đế. A tất đa na ra lặc ca. Ba ra bà tất phổ tra. Tỳ ca tát đác đa bát đế rị. Thập Phật ra thập Phật ra. Ðà ra đà ra. Tần đà ra tần đà ra, sân đà sân đà. Hổ hồng. Hổ hồng. Phấn Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

18


tra. Phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra. Ta ha. Hê hê phấn. A mâu ca da phấn. A ba ra đề ha da phấn. Ba ra bà ra đà phấn. A tố ra tỳ đà ra ba ca phấn. Tát bà đề bệ tệ phấn. Tát bà na dà tệ phấn. Tát bà dược xoa tệ phấn. Tát bà kiền thát bà tệ phấn. Tát bà bổ đơn na tệ phấn. Ca tra bổ đơn na tệ phấn. Tát bà đột lang chỉ đế tệ phấn. Tát bà đột sáp tỷ lê hất sắc đế tệ phấn. Tát bà thập bà lê tệ phấn. Tát bà a bá tất ma lê tệ phấn. Tát bà xá ra bà noa tệ phấn. Tát bà địa đế kê tệ phấn. Tát bà đát ma đà kê tệ phấn. Tát bà tỳ đà da ra thệ giá lê tệ phấn. Xà dạ yết ra, ma độ yết ra. Tát bà ra tha ta đà kê tệ phấn. Tỳ địa dạ giá lê tệ phấn. Giả đô ra phược kỳ nể tệ phấn. Bạt xà ra câu ma Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

19


rị. Tỳ đà dạ, ra thệ tệ phấn. Ma ha ba ra đinh dương xoa kỳ rị tệ phấn. Bạt xà ra thương yết ra dạ. Ba ra trượng kỳ ra xà da phấn. Ma ha ca ra dạ. Ma ha mạt đát rị ca noa. Nam-mô ta yết rị đa da phấn. Tỷ sắc noa tỳ duệ phấn. Bột ra ha mâu ni duệ phấn. A kỳ ni duệ phấn. Ma ha yết rị duệ phấn. Yết ra đàn tri duệ phấn. Miệc đát rị duệ phấn. Lao đát rị duệ phấn. Giá văn trà duệ phấn. Yết la ra đác rị duệ phấn. Ca bát rị duệ phấn. A địa mục chất đa ca thi ma xá na. Bà tư nể duệ phấn. Diễn kiết chất. Tát đỏa bà tỏa. Mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa.

Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

20


ÐỆ NGŨ Ðột sắc tra chất đa. A mạt đác rị chất đa. Ô xà ha ra. Dà ba ha ra. Lô địa ra ha ra. Ta bà ha ra. Ma xà ha ra. Xà đa ha ra. Thị tỉ đa ha ra. Bạt lược dạ ha ra. Kiền đà ha ra. Bố sử ba ha ra. Phả ra ha ra. Bà tả ha ra. Bát ba chất đa. Ðột sắc tra chất đa. Lao đà ra chất đa. Dược xoa yết ra ha. Ra sát ta yết ra ha. Bế lệ đa yết ra ha. Tỳ xá giá yết ra ha. Bộ đa yết ra ha. Cưu bàn trà yết ra ha. Tất kiền đà yết ra ha. Ô đát ma đà yết ra ha. Xa dạ yết ra ha. A bá tất ma ra yết ra ha. Trạch khê cách trà kỳ ni yết ra ha. Rị Phật đế yết ra ha. Xà di ca yết ra ha. Xá câu ni yết ra ha. Lao đà ra nan địa ca yết ra ha. A lam bà yết ra ha. Kiền độ ba ni yết ra ha. Thập phạt Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

21


ra yên ca hê ca. Trị đế dược ca. Ðát lệ đế dược ca. Giả đột thác ca. Ni đề thập phạt ra, tỉ sam ma thập phạt ra. Bạt đề ca. Tỷ để ca. Thất lệ sắc mật ca. Ta nể bát để ca. Tát bà thập phạt ra. Thất lô kiết đế. Mạt đà bệ đạt lô chế kiếm. A ỷ lô kiềm. Mục khê lô kiềm. Yết rị đột lô kiềm. Yết ra ha yết lam. Yết noa du lam. Ðản đa du lam. Hất rị dạ du lam. Mạt mạ du lam. Bạt rị thất bà du lam. Tỷ lật sắc tra du lam. Ô đà ra du lam. Yết tri du lam. Bạt tất đế du lam. Ô lô du lam. Thường dà du lam. Hắc tất đa du lam. Bạt đà du lam. Ta phòng án dà bát ra trượng dà du lam. Bộ đa tỷ đa trà. Trà kỳ ni thập bà ra. Ðà đột lô ca kiến đốt lô kiến tri, bà lộ đa tỳ. Tát bát lô ha lăng già. Du sa đát ra, ta na yết Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

22


ra. Tỳ sa dụ ca. A kỳ ni ô đà ca. Mạt ra bệ ra kiến đa ra. A ca ra mật rị đốt, đát liểm bộ ca. Ðịa lật lặc tra. Tỷ rị sắc chất ca. Tát bà na câu ra. Tứ dẫn dà tệ, yết ra rị dược xoa đác ra sô. Mạt ra thị, phệ đế sam ta bệ sam. Tất đát đa bát đác ra. Ma ha bạt xà lô sắc ni sam. Ma ha bát lặc trượng kỳ lam. Dạ ba đột đà xá dụ xà na. Biện đát lệ noa. Tỳ đà da bàn đàm ca lô di. Ðế thù bàn đàm ca lô di. Bát ra tỳ đà bàn đàm ca lô di. Ðát điệt tha. “Án, A na lệ. Tỳ xá đề. Bệ ra bạt xà ra đà rị. Bàn đà bàn đà nể. Bạt xà ra bán ni phấn. Hổ hồng đô lô ung phấn. Ta bà ha”. (3 lần)

Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

23


CHÚ ĐẠI-BI (Tụng 3 biến Chú Đại Bi)

Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần) Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni. Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát toả. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đá sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

24


thệ dựng. Tát bà tát đá na ma bà dà. Ma phạt đặc đậu. Đát điệt tha. Án a bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá lợi. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế lị dạ. Na ra cẩn trì. Địa lị sắt ni na. Ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

25


nghệ. Thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư da, ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lợi thắng yết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a lị da. Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ, ta bà ha. “Án, tất điện đô. Mạn đa ra. Bạt đa da, ta bà ha”. (3 lần)

Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

26


NGHI LỄ SÁM HỐI Nam Mô Hồng Danh Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần) Đại từ đại bi mẫn chúng sanh, Đại hỷ đại xả tế hàm thức, Tướng hảo quang minh dĩ tự nghiêm, Chúng đẳng chí tâm qui mạng lễ. Nam Mô Quy Y Kim Cang Thượng Sư (1 lạy) Quy Y Phật, Quy Y Pháp, Quy Y Tăng (1 lạy) Cúi đầu kính lạy mười phương chư Phật, cùng Tam Tạng Pháp, chư Hiền Thánh Tăng trong đời quá khứ và hiện tại, Nguyện rũ lòng chứng giám, con nay phát tâm, chẳng vì cầu phước báo của hàng Trời, Người, cùng Thanh-Văn, Duyên-Giác, hay của hàng Bồ-Tát Quyền Thừa. Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

27


Con chỉ nương theo Tối Thượng Thừa, mà phát Bồ-Đề tâm, nguyện cùng tất cả chúng sanh trong Pháp Giới, đồng thời chứng đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồđề. Nam mô quy y thập phương tận hư không giới nhứt thiết chư Phật (1 lạy) Nam mô quy y thập phương tận hư không giới nhứt thiết tôn Pháp (1 lạy) Nam mô quy y thập phương tận hư không giới nhứt thiết Hiền Thánh Tăng (1 lạy) Nam Mô Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh-Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. (1 lạy) 1. Nam Mô Phổ Quang Phật 2. Nam Mô Phổ Minh Phật 3. Nam Mô Phổ Tịnh Phật Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

28


4. Nam Mô Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Phật 5. Nam Mô Chiên Đàn Quang Phật 6. Nam Mô Ma Ni Tràng Phật 7. Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Ma Ni Bảo Tích Phật 8. Nam Mô Nhứt Thiết Thế Gian Nhạo Kiến Thượng Đại Tinh Tấn Phật 9. Nam Mô Ma Ni Tràng Đăng Quang Phật 10. Nam Mô Huệ Cự Chiếu Phật 11. Nam Mô Hải Đức Quang Minh Phật 12. Nam Mô Kim Cang Lao Cường Phổ Tán Kim Quang Phật 13. Nam Mô Đại Cường Tinh Tấn Dõng Mãnh Phật 14. Nam Mô Đại Bi Quang Phật 15. Nam Mô Từ Lực Vương Phật Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

29


16. Nam Mô Từ Tạng Phật 17. Nam Mô Chiên Đàn Khốt Trang Nghiêm Thắng Phật 18. Nam Mô Hiền Thiện Thủ Phật 19. Nam Mô Thiện Ý Phật 20. Nam Mô Quảng Trang Nghiêm Vương Phật 21. Nam Mô Kim Hoa Quang Phật 22. Nam Mô Bảo Cái Chiếu Không Tự Tại Lực Vương Phật 23. Nam Mô Hư Không Bảo Hoa Quang Phật 24. Nam Mô Lưu Ly Trang Nghiêm Vương Phật 25. Nam Mô Phổ Hiện Sắc Thân Quang Phật 26. Nam Mô Bất Động Trí Quang Phật Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

30


27. Nam Mô Hàng Phục Chúng Ma Vương Phật 28. Nam Mô Tài Quang Minh Phật 29. Nam Mô Trí Huệ Thắng Phật 30. Nam Mô Di Lặc Tiên Quang Phật 31. Nam Mô Thiện Tịch Nguyệt Âm Diệu Tôn Trí Vương Phật 32. Nam Mô Thế Tịnh Quang Phật 33. Nam Mô Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật 34. Nam Mô Nhựt Nguyệt Quang Phật 35. Nam Mô Nhựt Nguyệt Châu Quang Phật 36. Nam Mô Huệ Tràng Thắng Vương Phật 37. Nam Mô Sư Tử Hống Tự Tại Lực Vương Phật 38. Nam Mô Diệu Âm Thắng Phật Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

31


39. Nam Mô Thường Quang Tràng Phật 40. Nam Mô Quang Thế Đăng Phật 41. Nam Mô Huệ Oai Đăng Vương Phật 42. Nam Mô Pháp Thắng Vương Phật 43. Nam Mô Tu Di Quang Phật 44. Nam Mô Tu Ma Na Hoa Quang Phật 45. Nam Mô Ưu Đàm Bát La Hoa Thù Thắng Vương Phật 46. Nam Mô Đại Huệ Lực Vương Phật 47. Nam Mô A Súc Tỳ Hoan Hỷ Quang Phật 48. Nam Mô Vô Lượng Âm Thanh Vương Phật 49. Nam Mô Tài Quang Phật 50. Nam Mô Kim Hải Quang Phật 51. Nam Mô Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Phật Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

32


52. Nam Mô Đại Thông Quang Phật 53. Nam Mô Nhứt Thiết Pháp Tràng Mãn Vương Phật 54. Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật 55. Nam Mô Kim Cang Bất Hoại Phật 56. Nam Mô Bảo Quang Phật 57. Nam Mô Long Tôn Vương Phật 58. Nam Mô Tinh Tấn Quân Phật 59. Nam Mô Tinh Tấn Hỷ Phật 60. Nam Mô Bảo Hoa Phật 61. Nam Mô Bảo Nguyệt Quang Phật 62. Nam Mô Hiện Vô Ngu Phật 63. Nam Mô Bảo Nguyệt Phật 64. Nam Mô Vô Cấu Phật 65. Nam Mô Ly Cấu Phật 66. Nam Mô Dõng Thí Phật Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

33


67. Nam Mô Thanh Tịnh Phật 68. Nam Mô Thanh Tịnh Thí Phật 69. Nam Mô Ta Lưu Na Phật 70. Nam Mô Thủy Thiên Phật 71. Nam Mô Kiên Đức Phật 72. Nam Mô Chiên Đàn Công Đức Phật 73. Nam Mô Vô Lượng Cúc Quang Phật 74. Nam Mô Quang Đức Phật 75. Nam Mô Vô Ưu Đức Phật 76. Nam Mô Na La Diên Phật 77. Nam Mô Công Đức Hoa Phật 78. Nam Mô Liên Hoa Quang Du Hí Thần Thông Phật 79. Nam Mô Tài Công Đức Phật 80. Nam Mô Đức Niệm Phật

Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

34


81. Nam Mô Thiện Danh Xưng Công Đức Phật 82. Nam Mô Hồng Diệm Đế Tràng Vương Phật 83. Nam Mô Thiện Du Bộ Công Đức Phật 84. Nam Mô Đấu Chiến Thắng Phật 85. Nam Mô Thiện Du Bộ Phật 86.

Nam

Châu

Tráp

Trang

Nghiêm Công Đức Phật 87. Nam Mô Bảo Hoa Du Bộ Phật 88. Nam Mô Bảo Liên Hoa Thiện Trụ Ta La Thọ Vương Phật 89. Nam Mô Pháp Giới Tạng Thân A Di Đà Phật.

Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

35


Chí tâm sám hối: Đệ tử... và chúng sanh trong pháp giới, từ đời vô thỉ nhẫn đến ngày nay, bị vô minh che đậy nên điên đảo mê lầm, lại do sáu căn ba nghiệp quen theo pháp chẳng lành, rộng phạm mười điều dữ cùng năm tội vô gián và tất cả các tội khác, nhiều vô lượng vô biên nói không thể hết. Mười phương các Đức Phật thường ở trong đời, tiếng pháp không dứt, hương mầu đầy lấp, pháp vị ngập tràn, phóng ánh sáng sạch trong chiếu soi tất cả. Lý mầu thường trụ đầy dẫy hư không. Con từ vô thỉ đến nay, sáu căn che mù, ba nghiệp tối tăm, chẳng thấy, chẳng nghe, chẳng hay chẳng biết, vì nhân duyên đó trôi mãi trong vòng sanh tử, trải qua các đường dữ trăm nghìn muôn kiếp trọn không lúc nào ra khỏi. Kinh rằng: "Đức Tỳ-Lô-GiáNa thân khắp cả chỗ, chỗ của Phật ở gọi là Thường-Tịch-Quang, cho nên phải biết cả Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

36


thảy các pháp đều là Phật pháp, mà con không rõ lại theo giòng vô minh, vì thế trong trí bồ-đề mà thấy không thanh tịnh, trong cảnh giải thoát mà sanh ràng buộc. Nay mới tỏ ngộ, nay mới chừa bỏ ăn năn, phụng đối trước các đức Phật và A-Di-Đà Thế-Tôn mà phát lồ sám hối làm cho đệ tử cùng pháp giới chúng sanh, tất cả tội nặng do ba nghiệp sáu căn, gây tạo từ vô thỉ, hoặc hiện tại cùng vị lai, chính mình tự gây tạo hoặc biểu người, hay là thấy nghe người gây tạo mà vui theo, hoặc nhớ hoặc chẳng nhớ, hoặc biết hoặc chẳng biết, hoặc nghi hoặc chẳng nghi, hoặc che giấu hoặc chẳng che giấu, thảy đều được rốt ráo thanh tịnh. Đệ tử sám hối rồi, sáu căn cùng ba nghiệp trong sạch, không lỗi lầm, căn lành tu tập cũng trọn thanh tịnh, thảy đều hồi hướng dùng trang nghiêm Tịnh-độ khắp với chúng sanh, đồng sanh về nước An-Dưỡng. Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

37


Nguyện đức A-Di-Đà Phật thường đến hộ trì, làm cho căn lành của đệ tử hiện tiền tinh tấn, chẳng mất nhân duyên Tịnh-độ, đến giờ lâm chung, thân an lành, niệm chánh vững vàng, xem nghe đều rõ ràng, tận mặt thấy đức A-Di-Đà cùng các Thánh-chúng, tay cầm đài hoa tiếp dẫn đệ tử, trong khoảng sát-na sanh ra trước Phật, đủ đạo hạnh Bồ-Tát rộng độ khắp chúng sanh đồng thành Phật đạo. ***

Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

38


BÀI KỆ KHAI KINH Pháp vi diệu rất sâu Vô thượng. Trăm nghìn muôn ức kiếp khó gặp. Con nay nghe thấy được thọ trì. Nguyện hiểu nghĩa chơn thật của Như Lai. Nam Mô Lăng Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần)

Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

39


KINH THỦ LĂNG NGHIÊM CHƯƠNG QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT NHĨ CĂN VIÊN THÔNG Khi bấy-giờ, ngài Quán-thế-âm Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Thưa Thế-tôn, tôi nhớ vô-số hằng-sa kiếp về trước, có đức Phật ra đời, hiệu là Quán-thế-âm; từ đức Phật kia, tôi phát-tâm Bồ-đề. Đức Phật kia dạy tôi, do nghe, nghĩ và tu, mà vào Tam-ma-đề. Ban đầu, ở trong tính-nghe, vào được dòng viên-thông, không còn tướng sở-văn nữa. Trần-tướng đã vẳng-lặng, hai tướng động, tĩnh rõ thật không sinh. Như vậy thêm lần, các tướng năng-văn, sở-văn đều hết. Không dừng lại nơi chỗ dứt hết năng-văn, sở-văn mà tiến lên nữa, thì năng-giác, sở-giác, đều Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

40


không. Không-giác tột bậc viên-mãn, các tướng năng-không, sở-không đều diệt. Sinhdiệt đã diệt, thì bản-tính tịch-diệt hiện-tiền. Bỗng nhiên, vượt ngoài thế-gian và xuất thế-gian, sáng-suốt cùng khắp mười phương, được hai cái thù-thắng: Một là, trên hợp với bản-giác-diệu-tâm thập phương chư Phật, cùng với chư Phật Nhưlai đồng một từ-lực; hai là, dưới hợp với tấtcả chúng-sinh lục-đạo mười phương, cùng với các chúng-sinh đồng một bi-ngưỡng. Chi 2. - Do từ-lực, hiện ra 32 ứng-thân Bạch Thế-tôn, do tôi cúng-dường đức Quán-âm Như-lai, nhờ Ngài truyền-thọ cho tôi Như-huyễn Văn-huân Văn-tu Kimcương-tam-muội, được cùng chư Phật đồng một từ-lực, nên làm cho thân tôi thành-tựu 32 ứng-thân vào các cõi-nước. Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

41


Bạch Thế-tôn, nếu các vị Bồ-tát vào Tamma-đề, tiến-tu pháp vô-lậu, thắng-giải hiện đã viên-mãn, tôi hiện ra thân Phật, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được giải-thoát. Nếu các hàng hữu-học tu phép Diệu-minh vẳng-lặng, chỗ thắng-diệu đã viên-mãn. Tôi ở trước người kia, hiện ra thân Độc-giác, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được giảithoát. Nếu các hàng hữu-học đoạn 12 Nhânduyên; do các nhân-duyên đã đoạn mà phát ra thắng-tính và thắng-tính đó hiện đã viênmãn, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Duyên-giác, vì họ mà thuyết-pháp khiến cho được giải-thoát. Nếu các hàng hữu-học được phép-không của Tứ-đế, tu đạo-đế vào diệt-đế, thắng-tính hiện viên-mãn, tôi ở trước người kia, hiện Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

42


ra thân Thanh-văn, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được giải-thoát. Nếu chúng-sinh muốn tâm được tỏ-ngộ, không phạm vào cảnh ngũ-dục và muốn cho thân được thanh-tịnh, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Phạm-vương, vì họ mà thuyếtpháp, khiến cho được giải-thoát. Nếu các chúng-sinh muốn làm Thiên-chúa, thống-lĩnh chư thiên, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Đế-thích, vì họ mà thuyếtpháp, khiến cho được thành-tựu. Nếu các chúng-sinh muốn thân được tự-tại, đi khắp mười phương, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Tự-tại-thiên, vì họ mà thuyếtpháp, khiến cho được thành-tựu. Nếu các chúng-sinh muốn thân được tự-tại, bay đi trên hư-không, tôi ở trước người kia,

Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

43


hiện ra thân Đại-tự-tại-thiên, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu. Nếu các chúng-sinh muốn thống-lĩnh quỷthần, cứu-giúp cõi-nước, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Thiên-đại-tướng-quân, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thànhtựu. Nếu chúng-sinh muốn thống lĩnh thế giới, bảo hộ chúng sinh, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Tứ Thiên Vương, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành tựu. Nếu các chúng-sinh muốn sinh nơi thiêncung, sai khiến quỷ-thần, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Thái-tử, con của Tứ-thiênvương, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu. Nếu các chúng-sinh muốn làm vua cõi người, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

44


Vua, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu. Nếu các chúng-sinh muốn làm chủ gia-đình danh-tiếng, thế-gian kính-nhường, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Trưởng-giả vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thànhtựu. Nếu các chúng-sinh thích đàm-luận những lời hay, giữ mình trong-sạch, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Cư-sĩ, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu. Nếu các chúng-sinh muốn trị cõi-nước, chia-đoán các bang, các ấp, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Tể-quan, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu. Nếu các chúng-sinh thích các số-thuật, tựmình nhiếp-tâm giữ thân, tôi ở trước người

Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

45


kia, hiện ra thân Bà-la-môn, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu. Nếu có người con trai muốn học phép xuấtgia, giữ các giới-luật, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Tỷ-khưu, vì họ mà thuyếtpháp, khiến cho được thành-tựu. Nếu có người con gái muốn học phép xuấtgia, giữ các cấm-giới, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Tỷ-khưu-ni, vì họ mà thuyếtpháp, khiến cho được thành-tựu. Nếu có người con trai thích giữ ngũ-giới, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Ưu-bà-tắc, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu. Nếu có người con gái tự giữ ngũ-giới, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Ưu-bà-di, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thànhtựu. Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

46


Nếu có người con gái lập-thân trong nộichính, để tu-sửa nhà nước, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Nữ-chúa hay thân Quốcphu-nhân, mệnh-phụ, đại-gia, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu. Nếu có chúng-sinh không phá nam-căn, tôi ở trước người kia, hiện ra thân đồng-nam, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu. Nếu có người xử-nữ, thích thân xử-nữ, không cầu sự xâm-bạo, tôi ở trước người kia, hiện ra thân đồng-nữ, vì họ mà thuyếtpháp, khiến cho được thành-tựu. Nếu có chư-thiên muốn ra khỏi loài trời, tôi hiện ra thân chư-thiên, vì họ mà thuyếtpháp, khiến cho được thành-tựu.

Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

47


Nếu có các con rồng muốn ra khỏi loài rồng, tôi hiện ra thân rồng, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu. Nếu có dược-xoa muốn thoát khỏi loài mình, tôi ở trước họ, hiện ra thân dược-xoa, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu. Nếu có Càn-thát-bà muốn thoát khỏi loài mình, tôi ở trước họ, hiện ra thân Càn-thátbà, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu. Nếu có A-tu-la, muốn thoát khỏi loài mình, tôi ở trước họ, hiện ra thân A-tu-la, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu. Nếu có khẩn-na-la muốn thoát khỏi loài mình, tôi ở trước họ, hiện ra thân khẩn-nala, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu. Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

48


Nếu có ma-hô-la-già muốn thoát khỏi loài mình; tôi ở trước họ, hiện ra thân ma-hô-lagià, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu. Nếu có chúng-sinh thích làm người, tu cho được thân người, tôi hiện ra thân người, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thànhtựu. Nếu có loài phi-nhân, hoặc có hình, hoặc không hình, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, muốn thoát khỏi loài mình, tôi ở trước họ, hiện ra thân như họ, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu. Ấy gọi là 32 ứng-thân diệu-tịnh, vào các cõinước. Những thân ấy đều do vô-tác-diệu-lực của Văn-huân Văn-tu Tam-muội, mà tự-tại thành tựu.

Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

49


Chi 3. - Do bi-ngưỡng, bố-thí 14 công-đức vôúy. "Bạch Thế-tôn, do tôi lại dùng vô-tác-diệulực của Văn-huân Văn-tu Kim-cương-tammuội ấy, cùng với tất-cả lục-đạo chúng-sinh trong mười phương ba đời, đồng một lòng bi-ngưỡng, nên khiến các chúng-sinh, nơi thân-tâm tôi, được 14 thứ công-đức vô-úy: Một, là do tôi không tự quán cái tiếng, mà quán cái tâm năng-quán, nên khiến cho chúng-sinh khổ-não thập phương kia, quán cái âm-thanh, thì liền được giải-thoát. Hai, là tri-kiến đã xoay trở lại, khiến cho các chúng-sinh, dầu vào đống lửa, lửa không thể đốt được. Ba, là quán cái nghe đã xoay trở lại, khiến cho các chúng-sinh bị nước lớn cuốn đi, mà không chết-đuối. Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

50


Bốn, là diệt hết vọng-tưởng, tâm không sáthại, khiến các chúng-sinh vào những nước quỷ, quỷ không thể hại được. Năm, là huân-tập và thành-tựu được tínhnghe, cả sáu căn đều tiêu về bản-tính, đồng như cái nghe, cái tiếng, có thể khiến cho chúng-sinh, lúc đương bị hại, dao gãy từng đoạn, khiến cho các binh-khí chạm vào thân người như cắt dòng nước, như thổi ánhsáng, bản-tính không hề lay-động. Sáu, là huân-tập tính-nghe sáng-suốt thấu khắp pháp-giới, thì các tính tối-tăm không thể toàn được, có thể khiến cho chúng-sinh, tuy các loài Dược-xoa, La-sát, Cưu-bàn-trà, Tỳ-xá-già, Phú-dan-na, v.v ... ở gần một bên, con mắt chúng vẫn không thể thấy được.

Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

51


Bảy, là các tiếng đều viên-tiêu, thấy-nghe đã xoay vào tự-tính, rời các trần-cảnh hưvọng, có thể khiến cho các chúng-sinh, những thứ cùm, dây, gông, xiềng không thể dính vào mình được. Tám, là diệt tướng âm-thanh, viên-thông tính-nghe, phát-sinh từ-lực cùng khắp, có thể khiến cho chúng-sinh đi qua đường hiểm, giặc không cướp được. Chín, là huân-tập phát ra tính-nghe, rời các trần-tướng, sắc-dục không lôi-kéo được, có thể khiến cho tất-cả chúng-sinh đa-dâm, xa rời lòng tham-dục. Mười, là thuần một thật-tướng của âmthanh, không còn gì là tiền-trần, căn và cảnh điều viên-dung, không có năng, sở đốiđãi, có thể khiến cho tất-cả chúng-sinh nóng-giận, rời-bỏ lòng thù-ghét. Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

52


Mười một, là tiêu-diệt trần-tướng, xoay về tính bản-minh, thì pháp-giới, thân, tâm đều như ngọc lưu-ly, sáng-suốt không ngănngại, có thể khiến cho những kẻ ngu-ngốc umê, xa-rời hẳn sự si-mê tối-tăm. Mười hai, là viên-dung các hình-tướng, xoay tính-nghe trở về đạo-trường bất-động, hòa vào thế-gian mà không hủy-hoại thếgiới, cúng-dường được chư Phật Như-lai như số vi-trần, cùng khắp mười phương, ở bên mỗi mỗi Đức Phật, làm vị Pháp-vươngtử, có thể khiến cho trong pháp-giới, những chúng-sinh không con, cầu có con trai, sinh ra đứa con trai có phúc-đức trí-tuệ. Mười ba, là sáu căn viên-thông, soi-sáng không hai, trùm khắp thập phương thế-giới, thành-lập đại-viên-kính Không-như-laitạng, vâng-lĩnh pháp-môn bí-mật của thậpNghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

53


phương vi-trần Như-lai, không có thiếu-sót, có thể khiến cho trong pháp-giới, những chúng-sinh không con, cầu có con gái, sinh ra người con gái có tướng-tốt, đoan-chính, phúc-đức, dịu-dàng, được mọi người yêukính. Mười bốn, là trong tam-thiên đại-thiên thếgiới này, có trăm ức mặt trời, mặt trăng, các Pháp-vương-tử hiện ở trong thế-gian, sốlượng có đến 62 số cát sông Hằng, đều tu Phật-pháp, nêu gương-mẫu, giáo-hóa chúng-sinh, tùy-thuận chúng-sinh, phươngtiện trí-tuệ của mỗi mỗi vị không đồng nhau. Do tôi được tính viên-thông, phát ra diệu-tính của nhĩ-căn, cho đến thân-tâm nhiệm-mầu bao trùm khắp pháp-giới, nên có thể khiến cho chúng-sinh chấp-trì danhhiệu của tôi, so với những người chấp-trì danh-hiệu của tất-cả các vị Pháp-vương-tử Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

54


số-lượng bằng 62 số cát sông Hằng kia, phúc-đức hai bên thật bằng bậc, không sai khác. Bạch Thế-tôn, một danh-hiệu của tôi cùng với rất nhiều danh-hiệu kia không khác, là do tôi tu-tập được tính viên-thông chânthật. Ấy gọi là 14 sức thí-vô-úy, đem phúc khắp cho chúng-sinh. Chi 4. - Theo cơ-cảm hiện ra 4 diệu-đức không nghĩ-bàn. "Bạch Thế-tôn, do tôi đã được Đạo tuchứng viên-thông vô-thượng đó, nên lại khéo được 4 vô-tác-diệu-đức không nghĩbàn: Một, là do tôi chứng được tính-nghe chídiệu, nơi tâm-tính không còn có tướng năng-văn, các sự thấy, nghe, hay, biết không còn cách-biệt và đều thành một bảo-giác Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

55


viên-dung thanh-tịnh, nên tôi có thể hiện ra rất nhiều hình-dung nhiệm-mầu, nói ra vôsố thần-chú bí-mật. Trong đó, hoặc hiện ra một đầu, 3 đầu, 5 đầu, 7 đầu, 9 đầu, 11 đầu, như thế cho đến 108 đầu, 1000 đầu, 10000 đầu, 84000 cái đầu, đầy-đủ các tướng; hoặc hiện ra hai tay, 4 tay, 6 tay, 12 tay, 14, 16, 18, 20, 24, như thế cho đến 108 tay, 1000 tay, 10000 tay, 84000 cái tay bắt-ấn; hoặc hiện ra hai mắt, 3 mắt, 4 mắt, 9 mắt, như thế cho đến 108 mắt, 1000 mắt, 10000 mắt, 84000 con mắt báu thanh-tịnh; hoặc khi thì từ, hoặc khi thì oai, hoặc khi thì định, hoặc khi thì tuệ, cứu-giúp chúng-sinh được rất tự-tại. Hai, là do cái nghe, cái nghĩ của tôi, thoát ra ngoài sáu trần như cái tiếng qua bức tường, không thể bị ngăn-ngại, cho nên diệu-dụng của tôi có thể hiện mỗi mỗi hình, tụng mỗi mỗi chú, hình đó, chú đó đều có thể đem sức Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

56


vô-úy mà bố-thí cho các chúng-sinh; vì thế, cõi nước thập phương như vi-trần đều gọi tôi là vị Thí-vô-úy. Ba, là tôi tu-tập, phát ra căn-tính bản-diệu viên-thông thanh-tịnh, nên đi qua thế-giới nào, đều khiến cho chúng-sinh xả-thân, xả đồ trân-bảo, cầu tôi thương-xót. Bốn, là do tôi được tâm Phật, chứng đến chỗ rốt-ráo, nên có thể đem các thứ quý-báu cúng-dường thập phương Như-lai, cả đến chúng-sinh lục-đạo trong pháp-giới, ai cầu vợ thì được vợ, cầu con thì được con, cầu Tam-muội thì được Tam-muội, cầu sống lâu thì được sống lâu, như thế, cho đến cầu Đạiniết-bàn thì được Đại-niết-bàn. Chi 5. - Kết-luận về viên-thông nhĩ-căn. "Phật hỏi về viên-thông, tôi do văn-chiếu Tam-muội nơi nhĩ-căn mà duyên-tâm được Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

57


tự-tại; nhân tướng nhập-lưu, được Tamma-đề, thành tựu quả Bồ-đề, đó là thứ nhất. Bạch Thế-tôn, đức Phật Như-lai kia, khen tôi khéo được pháp-môn viên-thông, ở trong Đại-hội, thọ-ký cho tôi cái hiệu là Quan-thế-âm; do tôi thấy-nghe thấu-suốt mười phương, nên danh-tiếng Quan-âm cùng khắp thập phương thế-giới". MỤC V- CHỈ-ĐÍCH PHÉP VIÊN-TU ĐOẠN I- PHÓNG HÀO-QUANG, HIỆN ĐIỀM-LÀNH Khi bấy giờ, đức Thế-tôn nơi sư-tử tọa, năm vóc đồng phóng ra hào-quang báu, rọi xa trên đỉnh thập phương Như-lai số như vitrần và trên đỉnh các vị Pháp-vương-tử, các vị Bồ-tát. Các Đức Như-lai kia, năm vóc cũng đồng phóng ra hào-quang báu, từ các thế-giới số như vi-trần đến rọi trên đỉnh Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

58


Phật và trên đỉnh các vị Đại-bồ-tát và A-lahán trong Hội; rừng cây, ao hồ đều diễn ra pháp-âm; hào-quang giao-xen cùng nhau như lưới tơ báu. Cả trong đại-chúng được cái chưa từng có; tất-cả đều được Kimcương-tam-muội. Liền khi ấy, trời mưa hoa sen bách-bảo màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng xen-lộn lẫn nhau, thập phương hư-không hóa-thành sắc thất-bảo. Đất liền, núi sông của cõi Sa-bà nầy cùng một lúc không hiện ra, chỉ thấy vi-trần quốc-độ thập-phương hợp-thành một giới, tiếng hát ca-ngợi tự-nhiên nổi lên. ĐOẠN II - PHẬT BẢO NGÀI VĂN-THÙ LỰA-CHỌN CĂN VIÊN-THÔNG Khi bấy-giờ, Đức Như-lai bảo Ngài Vănthù-sư-lợi Pháp-vương-tử rằng: "Ông hãy xét trong 25 vị vô-học Đại-bồ-tát và A-laNghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

59


hán, mỗi mỗi đều trình-bày phương-tiện hành-đạo lúc đầu, đều nói tu-tập tính viênthông chân-thật; chỗ tu-hành của các vị kia, thật không có hơn, kém, trước, sau gì khác nhau. Nay tôi muốn khiến cho ông A-nan khai-ngộ, thì trong 25 phép tu, phép nào hợp với căn-cơ của ông ấy; lại, sau khi tôi diệt-độ rồi, chúng-sinh trong cõi nầy vào thừa Bồ-tát, cầu đạo vô-thượng, thì do pháp-môn phương-tiện gì, được dễ thànhtựu hơn?" ĐOẠN III- LỰA RA NHỮNG CĂN KHÔNG PHẢI VIÊN Chi 1. - Tán-thán tính-giác vốn diệu và chỉ rõ mê-vọng vốn không. Ngài Văn-thù-sư-lợi Pháp-vương-tử, vâng từ-chỉ của Phật, liền từ chỗ ngồi đứng dậy,

Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

60


đỉnh-lễ nơi chân Phật, dựa vào uy-thần của Phật, nói bài kệ đáp lại: "Bản-tính biển Giác khắp đứng-lặng, Tính khắp đứng-lặng vốn nhiệm-mầu, Bản-minh chiếu ra hình-như sở, Lập tướng sở, bỏ mất bản-minh. Do mê-vọng, mà có hư-không, Nương hư-không, lập-thành thế-giới; Tư-tưởng chăm-chú thành cõi-nước, Hay-biết mọi việc, là chúng-sinh. Hư-không sinh ra trong đại-giác, Như một bọt-nước sinh trong bể; Các nước hữu-lậu, như vi-trần Đều nương hư-không, mà phát-sinh; Bọt-nước diệt, vốn không hư-không, Huống nữa là, hình-tướng ba cõi. Chi 2. - Nêu rõ phương-tiện có mau chậm

Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

61


"Bản-tính xoay về, vốn không hai, Phương-tiện tu-chứng có nhiều cách, Cách nào cũng thông vào bản-tính, Nói thuận, nghịch, chỉ là phương-tiện; Do hàng sơ-tâm vào Tam-muội, Bên mau, bên chậm không đồng nhau. Chi 3. - Lựa ra 6 trần "Vọng-tưởng kết-lại thành sắc-trần, Hay-biết không thể thông-suốt được; Làm sao, chính chỗ không thông-suốt, Tu-hành, lại được tính viên-thông? Âm-thanh xen-lộn với lời nói, Chỉ nương theo ý-vị danh-từ; Nếu một, không trùm được tất-cả, Thì làm sao, được tính viên-thông? Hương, chỉ lúc hợp, mới rõ-biết, Lúc rời-cách, thì vốn không có; Nếu sở-giác, không được thường-xuyên, Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

62


Thì làm sao, được tính viên-thông? Vị, không phải bản-nhiên tự có, Cần phải nếm, mới biết có vị; Nếu giác-quan, không thường duy-nhất, Thì làm sao, được tính viên-thông? Xúc, do các vật chạm mà biết, Không vật chạm, thì không thành xúc; Khi hợp, khi ly, không nhất-định, Thì làm sao, được tính viên-thông? Pháp, cũng có tên là nội-trần, Nương theo trần, tất phải có sở; Năng sở, không viên-dung nhập một, Thì làm sao, được tính viên-thông? Chi 4. - Lựa-ra 5 căn "Cái thấy, tuy rỗng-suốt rất xa, Nhưng thấy trước, mà không thấy sau; Bốn-bề, còn thiếu mất một nửa, Thì làm sao, được tính viên-thông! Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

63


Mũi, có thở ra và thở vào, Chặng giữa, hiện không có hơi-thở, Nếu không viên-dung sự cách-bức, Thì làm sao, được tính viên-thông? Ngoài sở-nhập, tính-nếm không thành, Nhân các vị, mới có hay-biết; Không có vị, rốt-ráo không có, Thì làm sao, được tính viên-thông? Thân biết-xúc với cảnh sở-xúc, Đều có hạn, không phải cùng khắp; Nếu không nhận tính không bờ-bến, Thì làm sao, được tính viên-thông? Ý-căn xen với các loạn-tưởng, Đứng-lặng, rốt-cuộc không thấy gì; Nếu không thoát được các tưởng-niệm, Thì làm sao, được tính viên-thông?" Chi 5. - Lựa-ra 6 thức.

Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

64


"Nhãn-thức, phát-khởi nhờ căn trần, Gạn-cùng, vốn không có tự-tướng; Cả tự-thể, còn không nhất-định, Thì làm sao, được tính viên-thông? Tâm nghe rỗng-thấu cả mười phương, Là do sức hoằng-thệ rộng-lớn; Sơ-tâm, không thể đến chỗ ấy Thì làm sao, được tính viên-thông? Quán đầu-mũi, vốn là duyên-cơ, Chỉ để nhiếp-tâm được an-trụ; Nếu cảnh-quán, lại thành sở-trụ, Thì làm sao, được tính viên-thông? Thuyết-pháp, diệu-dụng các danh-từ; Cốt phải đã được khai-ngộ trước; Nếu lời nói, không phải vô-lậu, Thì làm sao, được tính viên-thông? Giữ giới, chỉ câu-thúc cái thân, Ngoài cái thân, lấy gì câu-thúc; Vốn không phải cùng khắp tất-cả, Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

65


Thì làm sao, được tính viên-thông? Thần-thông, do túc-tập từ trước, Nào dính gì ý-thức phân-biệt; Tưởng-niệm, không thoát-ly sự-vật, Thì làm sao, được tính viên-thông? Chi 6. - Lựa-ra 7 đại "Nếu quán cái tính của địa-đại, Thì nó ngăn-ngại, không thông-suốt; Pháp hữu-vi, không phải chân-tính, Thì làm sao, được tính viên-thông? Nếu quán cái tính của thủy-đại, Quán-tưởng, đâu phải là chân-thật, Nếu không đi đến Diệu-chân-như, Thì làm sao, được tính viên-thông? Nếu quán hỏa-đại, trừ dâm-dục, Chán cái có, không phải thật ly; Phương-tiện, không hợp với sơ-tâm, Thì làm sao, được tính viên-thông? Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

66


Nếu quán cái tính của phong-đại, Động, tĩnh, đâu phải không đối-đãi; Đối-đãi, trái với vô-thượng-giác, Thì làm sao, được tính viên-thông? Nếu quán cái tính của không-đại, Hư-không vô-tri, không hay-biết; Không biết, khác hẳn với Bồ-đề, Thì làm sao, được tính viên-thông? Nếu quán cái tính của thức-đại, Thức sinh-diệt, đâu phải thường-trụ, Để tâm trong phân-biệt hư-vọng, Thì làm sao, được tính viên-thông? Tất-cả các hành đều vô-thường, Tưởng-niệm, vốn trong vòng sinh diệt, Nhân và quả, khác nhau như thế, Thì làm sao, được tính viên-thông?" ĐOẠN IV- CHỌN-LẤY CÁI CĂN VIÊNTHÔNG Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

67


Chi 1. - Hợp với giáo-thể cõi Sa-bà "Tôi nay xin bạch đức Thế-tôn, Phật ra đời trong cõi Sa-bà, Trong cõi nầy, lối dạy chân-thật, Thanh-tịnh, do chỗ nói và nghe; Nay muốn tu-chứngTam-ma-đề, Thật nên do cái nghe mà vào." Chi 2. - Xưng-tán ngài Quán-thế-âm "Rời cái khổ và được giải-thoát, Hay thay cho ngài Quán-thế-âm; Trong kiếp số như cát sông Hằng, Vào cõi Phật như số vi-trần, Được sức tự-tại rất to-lớn, Bố-thí vô-úy cho chúng-sinh. Ngài Quán-thế-âm, tiếng nhiệm-mầu, Tiếng trong-sạch và tiếng hải-trào, Cứu đời, mọi việc được yên-lành, Xuất-thế-gian, được quả thường-trụ." Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

68


Chi 3. - Xưng-tán nhĩ-căn. "Tôi nay kính bạch đức Như-lai, Như lời ngài Quán-âm vừa nói: Ví-như, có người trong yên-lặng, Chung-quanh mười phương đều đánh trống, Thì đồng-thời nghe khắp mười nơi, Như thế, mới là viên-chân-thật. Mắt bị ngăn-che, không thấy được, Thiệt-căn, tỷ-căn cũng như vậy, Thân-căn, lúc hợp mới biết-xúc, Ý-căn, phân-vân không manh-mối; Cách tường, nhĩ-căn vẫn nghe tiếng, Dầu xa, dầu gần, đều nghe được; Năm căn so-sánh thật không bằng, Như thế, mới là thông-chân-thật. Tính thanh-trần, có động, có tĩnh, Trong tính-nghe thành có, thành không; Khi không tiếng, gọi là không nghe, Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

69


Đâu phải thật không còn tính-nghe; Không tiếng, tính-nghe đã không diệt, Có tiếng, tính-nghe đâu phải sinh; Trọn-rời cả hai thứ sinh-diệt, Như thế, mới là thường-chân-thật. Dầu cho, trong lúc đương ngủ mê, Không vì không nghĩ, mà không nghe; Tính-nghe ra ngoài sự suy-nghĩ, Thân, ý không thể so bằng được. Chi 4. - Chuyển mê thành ngộ “Hiện nay, trong cõi Ta-bà nầy, Các thứ thanh-luận được truyền-bá, Do chúng-sinh bỏ mất tính-nghe, Theo thanh-trần, nên bị lưu-chuyển; A-nan, tuy có tính nhớ dai, Vẫn không khỏi mắc các tà-niệm; Há không phải tùy chỗ chìm-đắm, Xoay ngược dòng, thoát khỏi hư-vọng. Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

70


A-nan, ông hãy nghe cho chín, Nay tôi nương uy-lực của Phật, Tuyên-nói phép Tam-muội chân-thật, Chắc như Kim-cương-vương, như-huyễn, Không nghĩ-bàn, xuất-sinh chư Phật. Ông nghe tất-cả pháp bí-mật Của chư Phật, số như vi-trần, Nếu trước hết, không trừ dục-lậu, Nghe nhiều, chứa-chấp thành lầm-lỗi; Dùng cái nghe thọ-trì Phật-pháp, Sao lại không tự nghe cái nghe? Tính-nghe không phải tự-nhiên sinh, Nhân thanh-trần mà có danh-hiệu, Xoay cái nghe, thoát-ly thanh-trần, Cái thoát-ly ấy, gọi là gì? Một căn, đã trở về bản-tính, Thì cả sáu căn, được giải-thoát, Thấy, nghe như bệnh lòa huyễn-hóa, Ba cõi như hoa-đốm hư-không; Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

71


Xoay tính-nghe, gốc lòa tiêu-trừ, Trần-tướng tiêu, giác-tính viên-tịnh. Tột thanh-tịnh, trí-quang thông-suốt, Thể tịch-chiếu trùm khắp hư-không, Trở lại xem các việc thế-gian Thật giống như chiêm-bao không khác. Nàng Ma-đăng-già là chiêm-bao Thì còn ai bắt ông được nữa? Như các huyễn-sư khéo trong đời, Làm trò, thành ra các trai, gái; Tuy thấy các căn đều cử-động, Cốt-yếu, do cái máy dật dây; Nghỉ máy, tất-cả đều yên-lặng, Các trò, trở thành không có tính. Cả sáu căn cũng giống như thế, Vốn đều nương một tính tinh-minh Chia ra thành sáu thứ hòa-hợp; Một nơi, đã rời-bỏ quay về, Thì cả sáu, đều không thành-lập; Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

72


Trong một niệm, trần-cấu đều tiêu, Chuyển-thành tính Viên-minh tịnh-diệu, Còn sót trần-cấu là học-vị, Sáng-suốt cùng-tột, tức Như-lai. Hỡi đại-chúng và ông A-nan, Hãy xoay lại cái nghe điên-đảo, Xoay cái nghe về, nghe tự-tính, Nhận tự-tính, thành đạo vô-thượng; Thật-tính viên-thông là như thế." Chi 5. - Chọn lấy nhĩ-căn làm phương-tiện thích-hợp. "Đây thật là một đường thẳng tiến Vào Niết-bàn của vi-trần Phật; Các đức Như-lai trong quá-khứ Đều đã thành-tựu pháp-môn nầy; Các vị Bồ-tát trong hiện-tại Điều viên-minh vào pháp-môn ấy; Những người tu-học đời vị-lai Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

73


Đều nên nương theo pháp-môn đó; Tôi cũng do pháp ấy mà chứng, Không phải chỉ ngài Quán-thế-âm. Thật như lời đức Phật Thế-tôn Đã hỏi tôi về các phương-tiện Để cứu-giúp, trong đời mạt-pháp, Những người cầu pháp xuất-thế-gian Thành-tựu được tâm-tính Niết-bàn Thì ngài Quán-âm là hơn cả. Còn tất-cả các phương-tiện khác Đều là nhờ uy-thần của Phật, Tức nơi sự, rời-bỏ trần-lao, Không phải phép tu-học thường-xuyên, Nông hay sâu cũng đồng nghe được. Chi 6. – Đảnh-lễ cầu gia-bị. "Xin đảnh-lễ tính Như-lai-tạng, Vô-lậu, không còn sự nghĩ-bàn, Nguyện gia-bị cho đời vị-lai, Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

74


Nơi pháp-môn nầy, không lầm-lẫn. Đây là phương-tiện dễ thành-tựu, Nên đem dạy cho ông A-nan Cùng những kẻ trầm-luân mạt-kiếp, Chỉ dùng nhĩ-căn mà tu-tập, Thì viên-thông chóng hơn pháp khác; Tâm-tính chân-thật là như thế." ĐOẠN V- NGHE PHÁP ĐƯỢC CHỨNG Lúc ấy, ông A-nan cùng cả đại-chúng, thân tâm tỏ-rõ, nhận được sự khai-thị to-lớn, xem quả Bồ-đề và Đại-niết-bàn của Phật, cũng như có người nhân có việc phải đi xa, chưa trở về được, song đã biết rõ con đường về nhà. Trong Pháp-hội, cả đại-chúng, thiên-long bát-bộ, hàng Nhị-thừa hữu-học và tất-cả các Bồ-tát mới phát-tâm, số-lượng bằng mười số cát sông Hằng, đều được bảntâm xa trần-tướng, rời cấu-nhiễm, được Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

75


pháp-nhãn thanh-tịnh. Bà Tính-tỷ-khưu-ni nghe nói bài kệ xong, thành quả A-la-hán; vô-lượng chúng-sinh đều phát-tâm Vôđẳng-đẳng-vô-thượng Chánh-đẳng-chánhgiác.

Nam Mô Lăng Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần)

Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

76


MA-HA BÁT-NHÃ BA-LA MẬT-ĐA TÂM-KINH Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ tưởng hành thức diệc phục như thị. Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm, thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức, vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý. Vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận, vô khổ tập diệt đạo, vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố. Bồ đề tát đỏa y bát nhã ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh niết bàn, tam thế chư Phật y bát nhã ba la cố đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Cố tri bát nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư, cố thuyết bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: “Yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha”. (03 lần) Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

77


VĂN TỤNG KINH SÁM HỐI HỒI HƯỚNG (Trích “Từ Bi Thuỷ Sám Pháp”)

Đệ tử chúng con… Vì sức nghiệp ma, tâm thần rối loạn, căn tánh mê mờ, bỗng nhiên lại nghĩ, thay đổi lung tung, tráo trở chất chồng, xem văn mờ ý, nhầm chữ sai câu. Trái với chính âm trong đục, nệ vào tà kiến giãi bày. Hoặc vì việc đoạt mất chí tâm chẳng để vào Kinh, đương khi tụng niệm dậy ngồi bỏ dở câu cách quãng. Ngồi lâu trễ nải, nhân việc giận hờn, chốn nghiêm tịnh để vướng bụi nhơ, nơi kính cẩn hoặc làm cẩu thả. Thân, khẩu mặc dùng nhếch nhác, xiêm y, lễ mạo lôi thôi, cung chẳng như nghi, ngồi không đúng chỗ. Mở cuốn rối ren, rớt rơi dơ nát, pháp khí sử dụng không nhịp nhàng. Hết thảy chẳng chuyên chẳng thành, thật là đáng thẹn đáng sợ. Kính xin Chư Phật Bồ Tát, trong cõi pháp giới hư không, hết thảy Hiền Thánh, thiện Thần, Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

78


Thiên, Long, Hộ pháp, từ bi thương xót, Sám rửa lỗi lầm, khiến cho công đức tụng Kinh, đều được chu viên thành tựu. Đệ tử chúng con nguyện tâm hồi hướng, còn e hoặc khi dịch nhuận lỗi lầm, hoặc lúc giải chua thiếu sót, truyền thọ sai thù, âm thích lẫn lộn. Những lỗi so sánh đổi thay, những lầm cắt, in, viết chép, dù thầy dù thợ, đều xin Sám hối. Nhờ sức thần của chư Phật, khiến cho tội lỗi tiêu tan. Thường quay xe pháp, cứu vớt hàm linh. Nguyện đem công đức trì chú tụng Kinh, hồi hướng về Hộ Pháp, Long thiên, Thánh chúng, thần núi, sông linh thiêng trong Tam giới, vị chủ tể thủ hộ chốn Già lam, cầu mong được hưởng phước thiện bình an, trang nghiêm quả Vô thượng Bồ-đề. Nguyện cho khắp cả pháp giới chúng sanh, cùng được vào bể Như Lai pháp tánh... Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần). Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

79


NGHI THỨC TỊNH ĐỘ

Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

80


KỆ KHAI CHUÔNG Nghe tiếng chuông buồn rầu nhẹ Trí-huệ lớn Đại-đạo-sanh. Lìa địa-ngục khỏi hầm lửa, Nguyện thành Phật độ chúng sanh. Án dà ra đế da ta bà ha (3 lần)

KỆ NIỆM HƯƠNG Hương giới, hương định, cùng hương huệ, Hương giải-thoát, Hương giải-thoát tri-kiến. Đài mây sáng chói trùm cõi Pháp; Cúng dường trước mười phương ngôi TamBảo. Nguyện các hương hoa nầy, Trải khắp đến mười phương. Không lường trong cảnh tịnh, Không lường hương trang-nghiêm. Đầy đủ hạnh Bồ-tát Thành-tựu hương Nhưlai. Nam mô hương cúng dường Bồ-tát (3 lần). Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

81


KỆ PHÁT NGUYỆN Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ. Phiền-não vô tận thệ nguyện đoạn. Pháp môn vô lượng thệ nguyện học. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành. Tự tánh chúng-sanh thệ-nguyện độ. Tự tánh phiền-não thệ-nguyện đoạn. Tự tánh Pháp-môn thệ nguyện học, Tự tánh Phật đạo thệ-nguyện thành (3 lần) Đệ-tử tên họ………….Pháp danh……….. Chí tâm khẩn nguyện chuyên trì danh hiệu Phật A-Mi-Đà cầu sanh Tịnh-độ hiện tiền một lòng chẳng rối, tỏ ngộ vô sanh, ngày khác mạng tròn báo đủ sanh về cõi Phật. Trên đài sen báu, hầu Phật nghe Pháp, bạn cùng Bồ-tát, vui cảnh lạc ban, mau lên quả vị Bất-thối, trở lại Ta-Bà, hóa độ chúng sanh làm nên đạo cả. Nam-mô Chứng-minh-sư Bồ-tát (3 lần). Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

82


KỆ NIỆM PHẬT Sóng ải bủa muôn trùng, Biển khổ sâu ngàn trượng. Mau gấp niệm Mi-Đà, Thẳng qua miền Cực-lạc.

Quy mạng lễ A Mi Đà Phật, Ở Phương Tây thế giới an lành, Con nay xin phát nguyện vãng sanh, Cúi xin Đức Từ Bi tiếp độ. Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế giới Đại từ Đại bi tiếp dẫn đạo sư A Mi Đà Phật. Nam Mô A Mi Đà Phật.

Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

83


Quan Âm Bồ Tát diệu khó bàn, Thanh tịnh trang nghiêm ức kiếp tu. Sen hồng tợ biển an chân tựa, Ðôi mày vòng nguyệt biển trăng thu. Bình nước cam lồ thường rưới khắp, Cành dương tay rảy chẳng kể năm, Ngàn xứ cầu xin ngàn xứ ứng, Biển khổ thường du độ chúng sanh. Nam Mô Phổ Ðà Sơn Lưu Ly Thế Giới, Ðại Từ Ðại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát. Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát (108 lần) Nam Mô Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát (3 lần) Nam Mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát. (3 lần) Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (3 lần) Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

84


KỆ KHEN CÔNG – ĐỨC NIỆM PHẬT Phiền-não bao nhiêu nguyện dứt trừ, Pháp môn vô lượng chẳng còn dư, Chúng-sanh độ hết nguyền không hết. Trọn cả nương về một thể như. Công đức niệm Phật hạnh rất tốt, Không ngần cõi Phước đều hồi hướng. Nguyện tiêu ba chướng trừ lo lớn, Nguyện đặng trí mầu ngộ tánh chơn. Nguyện khắp tội tình tan-rã hết, Nguyện hành Phật-đạo trả mười ơn. Nguyện sanh cảnh Phật thấy sen vàng, Chín phẩm hoa mầu phụ-mẫu trang. Hoa nở tỏ lòng khi ngộ chứng, Bạn bè Chánh-sĩ rất vui an.

Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

85


KỆ NIỆM PHẬT Tin sâu – Nguyện thiết – Hạnh chuyên

Nam Mô A Mi Đà Phật Không gấp cũng không hưỡn Tâm tiếng hiệp khắn nhau Thường niệm cho rành rõ. Nhiếp tâm là Định học Nhận rõ chính Huệ học Chánh niệm trừ vọng hoặc Giới thể đồng thời đủ. Niệm lực được tương tục Đúng nghĩa chấp trì danh Nhất tâm Phật hiện tiền Tâm-muội Sự thành tựu. Đương niệm tức vô niệm Niệm tánh vốn tự không Tâm làm Phật là Phật Chứng Lý Pháp thân hiện. Nam-mô A Mi Đà Nam-mô A Mi Đà Cố gắng hết sức mình Cầu đài sen thượng phẩm. Phật lịch 2500 – Dương lịch 1956 Tỷ-kheo THÍCH TRÍ TỊNH biên soạn Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

86


10 TÔNG CHỈ CỦA LIÊN HỮU CỰC LẠC Do Hòa Thượng Vạn Đức sáng lập

1. Tín sâu, nguyện thiết, hạnh chuyên 2. Giữ gìn giới luật, tứ hoằng chăm lo 3. Mỗi ngày chánh niệm mấy câu (Phật hiệu) 4. Cùng nhau nhắc nhở tín sâu, nguyện, trì 5. Thẳng thắn kiểm định thân tâm 6. Thói hư tật xấu tìm phương dứt trừ 7. Học hỏi nghiên cứu tịnh tông Tự mình thông suốt giúp người cùng thông. 8. Làm sao truyền bá pháp môn 9. Khán bịnh trợ niệm giúp người lâm chung 10. Tạo nhiều công đức thiện duyên Thất thất chi tuần hồi hướng vãng sanh. Phật lịch 2561 – Dương lịch 2017 Tỳ - kheo THÍCH HOẰNG TRI biên soạn. Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

87


 Nguyện ngày an lành đêm an lành, Đêm ngày sáu thời đều an lành, Tất cả các thời đều an lành, Xin nguyện Từ Bi thường gia hộ. Nguyện ngày an lành đêm an lành, Đêm ngày sáu thời đều an lành, Tất cả các thời đều an lành, Xin nguyện Tam Bảo thường gia hộ. Nguyện ngày an lành đêm an lành, Đêm ngày sáu thời đều an lành, Tất cả các thời đều an lành, Xin nguyện Hộ Pháp thường ủng hộ. Nam mô Tiêu Tai Giáng Kiết Tường Bồ Tát. (3 lần)

Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

88


SÁM PHỔ HIỀN Đệ tử chúng đẳng, Tuỳ thuận tu tập Phổ Hiền Bồ-Tát, Thập chủng đại nguyện Nhứt giả lễ kính chư Phật Nhị giả xưng tán Như Lai Tam giả quảng tu cúng dường Tứ giả sám hối nghiệp chướng Ngũ giả tuỳ hỷ công đức Lục giả thỉnh chuyển Pháp luân Thất giả thỉnh Phật trụ thế Bát giả thường tuỳ Phật học Cửu giả hằng thuận chúng sinh Thập giả phổ giai hồi hướng. Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

89


TÁN HỘ PHÁP Thiên A Tu La Dươ ̣c Xoa đẳ ng, Lai thính Pháp giả ứng chí tâm, Ủng hô ̣ Phâ ̣t pháp sử trường tồ n, Các các cầ n hành Thế Tôn giáo, Chư hữu tín đồ lai chí thử, Hoă ̣c ta ̣i điạ thươ ̣ng hoă ̣c hư không, Thường ư nhân thế khởi từ tâm, Trú da ̣ từ thân y pháp tru ̣, Nguyêṇ chư thế giới thường an ổ n, Vô biên phước trí ích quầ n sanh, Sở hữu tô ̣i nghiêp̣ tinh ̣ tiêu trừ, Viễn ly chúng khổ quy viên tich, ̣ Hằ ng du ̣ng giới hương đồ khuynh thể , Thường tri ̀ đinh ̣ phu ̣c di ̃ tư thân, Bồ đề diêụ hoa biế n trang nghiêm, Tùy sở tru ̣ xứ thường an la ̣c. Nam mô Hộ Pháp Chư Tôn Bồ-tát Maha-tát. (3 lần) Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

90


HỒI HƯỚNG Tụng niệm công đức thù thắng hạnh, Vô biên thắng phước giai hồi hướng. Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh, Tốc vãng vô lượng quang Phật sát. Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não, Nguyện đắc trí tuệ chơn minh liễu. Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ, Thế thế thường hành Bồ tát đạo. Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung, Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu, Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh. Bất thối Bồ tát vi bạn lữ, Nguyện dĩ thử công đức, Phổ cập ư nhứt thiết, Ngã đẳng dữ chúng sanh, Giai cộng thành Phật đạo. Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

91


TAM QUY Y Tự quy y Phật, Ðương nguyện chúng sanh, Thể giải đại đạo, Phát Vô thượng tâm. (1 lạy) Tự quy y Pháp, Ðương nguyện chúng sanh, Thâm nhập kinh tạng, Trí huệ như hải (1 lạy) Tự quy y Tăng, Ðương nguyện chúng sanh, Thống lý đại chúng, Nhứt thiết vô ngại (1 lạy)

NGUYỆN A Di Đà Phật, Thường lai hộ trì, Linh ngã thiện căn, Hiện tiền tăng tấn, Bất thất tịnh nhơn. Lâm mạng chung thời, Thân tâm chánh niệm. Thị thính phân minh, Diện phụng Di Đà dữ chư thánh chúng, Thủ chấp hoa đài, tiếp dẫn ư ngã, Nhất sát na khoảnh, sanh tại Phật tiền. Cụ Bồ Tát đạo, Quảng độ chúng sanh. Đồng thành chủng trí. Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

92


 Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tây phương Cực lạc Thế giới Đại từ Đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật. (1 lạy)  Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tây phương Cực lạc Thế giới Đại bi Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại lực Đại Thế Chí Bồ Tát, Phước Trí nhị nghiêm thân Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1 lạy)  Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tây phương Cực lạc Thế giới Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát, Nhất thiết Hiền Thánh Chúng, Chư Thượng Thiện Nhơn. (1 lạy)

Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

93


 Nguyện đem công đức này, Hướng về khắp tất cả, Đệ tử và chúng sanh, Đều trọn thành Phật đạo.

Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

94


PHỤ LỤC TÔNG CHỈ PHÁP MÔN NIỆM PHẬT Huynh đệ tu pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh nơi ao sen, thất bảo ở Cực Lạc Thế-giới nên nhớ.

1. Tin sâu, nguyện thiết, chuyên niệm câu Nammô A-mi-đà Phật để cầu thoát ly sanh tử, vãng sanh cực lạc thế giới. 2. Lấy giới luật làm căn bản, lấy tứ hoằng thệ nguyện làm bổn phận (chúng xuất gia thời trì giới xuất gia, chúng tại gia ít nhất phải đủ ngũ giới). 3. Trong một ngày đêm phải thành thật tự nhận rằng mình đã chánh niệm chắc chắn ít nhất là một ngàn câu Nam-mô A-mi-đà Phật. 4. Những huynh đệ ở gần nhau nên để ý khuyên răn nhau về những việc đến, đi, xem, coi, nói năng và sách tấn nhau đồng tinh tấn tu niệm. 5. Hằng ngày phải kiểm soát lấy tư tưởng, hành vi của mình một cách ngay thẳng. 6. Tự lập nguyện để sách tấn tùy theo tâm bệnh và những khuyết điểm cá nhơn (như người

Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

95


quen nói chuyện tạp nhiều thì phải tịnh khẩu v.v…) 7. Phải thường xem kinh sách và tìm học về pháp môn Tịnh độ cho được có một trình độ hiểu biết phổ thông và có thể chỉ dẫn người khác cùng hiểu cùng thật hành. 8. Phải gắng khuyên dạy, sách tấn những người gần và có duyên với mình đồng niệm Phật hoặc soạn những tài liệu về giáo lý Tịnh độ hay tùy sức gắng lo cho Kinh sách ấy được truyền bá lưu thông. 9. Những huynh đệ ở gần phải giúp đỡ và hộ niệm lẫn nhau khi vị nào có bịnh hoạn hoặc bị tai nạn. 10. Khi hay tin một huynh đệ nào quá cố, mỗi Liên-hữu phải có bổn phận hàng ngày hồi hướng, cầu nguyện cho Giác-linh suốt trong bảy tuần thất. Đạo Tràng Vạn Đức Ngày vía Phật Thích Ca xuất gia – năm Bính Thân

HÂN TỊNH TỲ KHEO THÍCH TRÍ TỊNH.

Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

96


Nghi thức Lăng Nghiêm – Tịnh Độ

97


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.