International Conference Proceedings: The Ecosystem for Social Entrepreneurship & Social Innovation

Page 1


CONFERENCE PROCEEDINGS KỶ YẾU HỘI THẢO



MỤC LỤC TT 1.

Tên bài viết, tác giả

Trang

Forewords Lời nói đầu

PART 1. KEYNOTE PRESENTATIONS PHẦN 1. CÁC BÀI PHÁT BIỂU PHIÊN TOÀN THỂ

2.

3.

4.

5.

Social Entrepreneurship and Social Innovation in the Context Tinh thần Kinh doanh Xã hội và Sáng tạo Xã hội: Bối cảnh thảo luận Truong Thi Nam Thang National Economics University Innovation and Creativity for Society: Practice and Policy Implications Sáng tạo và Đổi mới vì xã hội: Thực tiễn và Kiến nghị Chính sách Nguyen Minh Thao Central Institute of Economic Management The Ecosystem Needed for the Development of Social Enterprises - Some Lessons from Israel Hệ sinh thái cho sự phát triển DNXH – Một số bài học từ Israel Benjamin Gidron College of Management Academic Studies (COMAS) A comparative overview of social enterprise ecosystems in Scotland and England: An evolutionary perspective Nghiên cứu so sánh về hệ sinh thái cho DNXH ở Anh quốc và Scotland: quan điểm phát triển Richard Hazenberg University of Northampton

3

9

15

19

PART 2. THE ECOSYSTEM FOR SOCIAL ENTREPERNEURSHIP AND SOCIAL INNOVATION PHẦN 2. HỆ SINH THÁI CHO TINH THẦN KINH DOANH XÃ HỘI VÀ SÁNG TẠO XÃ HỘI

6.

Ecosystem of social enterprise: Social culture, legal framework and policy review in Indonesia Hệ sinh thái cho doanh nghiệp xã hội: khung văn hóa, xã hội, pháp lý và chínhsáchtại Indonesia Aluisius Hery Pratono Universitas Surabaya

29

7.

Publicity as an element of social enterprise ecosystem (on the example of Russian Federation) Truyền thông như một cấu phần của hệ sinh thái doanh nghiệp xã hội (ví dụ của Liêng bang Nga) Vladimir Vainer GLADWAY Foundation Natalia Gladkikh Moscow State University of Psychology and Education

45

8.

Institutionalizing Social Enterprise in Vietnam Thể chế hóa doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam

51 Thu Trang Tran Foreign Trade University


TT

Tên bài viết, tác giả

Trang

9.

Policies to promote applied patentsin Vietnam’s social enterprises Chính sách phát triển bằng sáng chế ứng dụng trong doanh nghiệp xã hội Việt Nam Nguyen Huu Xuyen National Institute of Patent and Technology Exploitation Duong Cong Doanh Do Thi Hai Ha National Economics University

81

10.

Policies to Promote Applied Patents in Vietnam’s Social Enterprises Chính sách thuế nhằm thúc đẩy doanh nghiệp xã hội phát triển tại Việt Nam Nguyen Trong Hieu Nguyen Hong Diep National Institute of Patent and Technology Exploitation

89

11.

Social enterprise, the model of sustainable development for social organizations Doanh nghiệp xã hội, mô hình phát triển bền vững cho các tổ chức xã hội Ngo Van Thao Saigon University

93

PART 3. EMBEDDING SOCIAL ENTREPRENEURSHIP AND SOCIAL INNOVATION INTO HIGHER EDUCATION PHẦN 3. LỒNG NGHÉP TINH THẦN KINH DOANH XÃ HỘI VÀ SÁNG TẠO XÃ HỘI VÀ TRƯỜNG ĐẠI HỌC

12.

13.

14.

15.

Developing an Ecosystem for Social Innovation through an Interdisciplinary Workbased Learning Model in Higher Education The Case of the Learning Community for Social Impact Phát triển hệ sinh thái cho sáng tạo xã hội thông qua Mô hình học tập giựa trên công việc trong trường đại học, tình huống của cộng đồng học tập tạo tác động xã hội Roger Epworth Do Thi Huong Nhu RMIT University-Social Enterprise Ecosystem for creating socially responsible knowledge, practices and graduates Trường đại học – Hệ sinh thái cho doanh nghiệp xã hội nhằm tạo ra kiến thức, thực hành và những người học có trách nhiệm xã hội Rahul Singh Abha Rishi Birla Institute of Management Technology

109

Implementation of social entrepreneurship nurturing activities: experiences from the uk and implications to VietVam Các hoạt động nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh xã hội: kinh nghiệm ở một số Trường Đại học ở anh và một vài gợi ý đối với Việt Nam Do Thi Dong National Economics University Developing social entrepreneurship in university students: the role of educational factors

133

121

151


TT

Tên bài viết, tác giả Phát triển tinh thần kinh doanh xã hội trong sinh viên đại học: Vai trò của các yếu tố giáo dục Nguyen Thu Thuy National Economics University

Trang

16.

Measuring Social Impact in Emerging Economies: The Case of Fargreen In Vietnam Đo lường Tác động xã hội trong nền kinh tế mới nổi: tình huồng của DNXH Fargreen tại Viêtnam Yolanda Sarason Colorado State University/Foreign Trade University

165

17.

Mekong quilts, social enterprise in VietNam & CamBodia Mekong Quilts,Doanhnghiệpxãhội ở Việt Nam & Cambodia Trần Diễm Phượng (Director) Bernard Kervyn (advisor) Mekong Plus

173

PART 4. RELATED ISSUES PHẦN 4. CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN 18.

The impact of corporate social responsibility on consumer awareness: the case of Giao Long Tác động của trách nhiệm xã hội lên nhận biết của khách hàng: tình huống của Công ty Giao Long Nguyen Ngoc Thang Ngo Vi Dung Nguyen Ngoc Phu Hanoi School of Business, Vietnam National University, Hanoi

181

19.

Corporate social responsibility from the point of organizational culture view - the case of saigon beer, alcohol and beverage join-stock corporation Lồng ghép trách nhiệm xã hội trong văn hóa doanh nghiệp – trường hợp tổng công ty cổ phần bia rượu nước giải khát Sài Gòn Nguyen Thi Hoai Dung Ha Son Tung National Economics University

191

20.

An empirical study of understandings of social entrepreneurship in practice Nghiên cứu thực nghiệm quan điểm về tinh thần kinh doanh xã hội Lai Manh Khang Nguyen Thi Phuong Linh National Economics University

203

21.

Referring the legal framework and policy for social enterprise in VietNam to Asean socio- cultural community Khung pháp lý và chính sách cho Doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam với Cộng đồng Văn hóa – xã hội ASEAN Nguyen Thuong Lang National Economics University

199


TT 22.

Tên bài viết, tác giả Applying triple bottom line model in vietnamese comercial banks Áp dụng mô hình phát triển bền vững triple bottom line tại các ngân hàng Việt Nam Tran Trong Phong Nguyen Ngoc Tram National Economics University

Trang 209


PART 1. KEYNOTE PRESENTATIONS PHẦN 1. CÁC BÀI PHÁT BIỂU PHIÊN TOÀN THỂ

1


2


International Conference “The Ecosystem for Social Entrepreneurship and Social Innovation” ICSE Hanoi, March 17 & 18, 2016

Social Entrepreneurship & Social Innovation in the Context Dr. Truong Thi Nam Thang Associate Professor National Economics University

Social Entrepreneurship • •

Social Entrepreneurship: The way of using entrepreneurial principles/business solution to solve social problems Social Innovation seeks new answers to social problems (deals with improving the welfare of individuals and communities through employment, consumption and/or participation, OECD 2010)

Different Schools – Outcome vs. Process – Social Enterprise vs. Social Innovation vs. Enterprising Social Innovation

Different Approaches

Different Callings

– American /European /UK /Australasia – Non profit sector / Non government sector/ Third sector / Voluntary sector / Community sector

Different Forms –

Cooperatives / Associations / SMEs/NGOs/Charities

3


Hybridity • • • • • •

Market – Community -Government Civic sector - Private sector - Public sector Non profit structure – For profit structure Philanthropic capital – Commercial Capital Social returns – Financial returns Creating values – capturing values

European Social Democraci es

Market

Government

UK Eastern Europe

Asia

Latin America

Civil Society

The Ecosystem for Social Entrepreneurship Indonesia Korea

Israel

Legal framework

Corporp orates, MNCs

Singapore

England

Global, International, Regional factors Supporting policies

Chambers, Accreditati on

Social Enterprise Sector Higher education, research activities

Funding, financing infrastruct ure

Awareness, networking, media

Scotland

Incubators, innovation labs

Intermediaries, supporting org.

Intern ationa l donor s

Russia

India USA Vietnam

4


Country Perspectives Indonesia

Russia

Korea

• AKSI (2009) • 10,000 SEs • Role of British Council • 3 main sectors: agriculture, small business, Islam community

• Oxfarm (2008) • Publicity • Distribution network • “Our Future” Foundation

• Hub of SE in Asia • KOSEA (Ministry of Family & Social Dev) • Social economy, 5 year national plan • 1,200 SE • Focus on employment opportunities • Social investment bonds • SE Master program

Israel

Singapore

• Innovation, entrepreneurship Hub • Newly established 2000 • Commercial SB, NPOs, Cooperatives • Small (10-25 staff) • Marginalised population

• Hub of impact investment • No specific legal framework • 200 SE self defined • Social innovation labs, fundings, competition • IIX (asia impact investment exchange) • SEA (SE Association)

England/Scotland • 19th century cooperative movement • 70,000 SE (9,500 CIC) • Scotland: government support & grant funding • England: Social Innovation, Big Society • Higher education: policy, funding, curricula

USA • Small in size (40% less than 5 staff0 • 45% less than $250,000 revenue • 35% non profit, 30% C. Corp • Economic development, workforce, enegery, education • 60% created 2006, 29% in 2011

The Ecosystem for Social Entrepreneurship in Vietnam Enterprise Law 2014 CIEM Legal framework

CSR Responsible procurement

Corporp orates, MNCs

Tax? Specific Procurement? sectors Capacity building? SMEs Specific sectors Self defined Supporting policies

Chambers, Accreditati on

Universities, coo working spaces competition Incubators, innovation labs

1,000 SE, micro companies education, crafts, agriculture, tourism, health care, energy, environment Small businesses, NGOs, center, cooperatives, schools

Higher education, research activities Research reports Curricula SE, mentor training (BIR) CIEM, CSIP, BC, NEU, VNU

Funding, financing infrastruct ure Oxfarm, LGTVP, Lotus Impact, Microcredit funds Thriive, IPP, Nafosted

Awareness, networking, media

Intermediaries, supporting org.

Intl donor s

Funding, capacity building, awareness raising BC, Oxfarm, IrishAid, USAid

HanoiTV Awareness, VSEN, VSES capacity, Workshops funding, Enactus, AIESEC network Forbes Vietnam CSIP, Spark

5


SWOT Analysis • Social Entrepreneurs • Motivation • Creativity

• Business, Management , Financial Skills • Business Model • Impact

Strengths

Weaknesses

Challenges

Opportuniti es

• Supporting policies • Awareness (government, public) • Opportunism

• Legal definition • SE movement • Fundings

Pending Issues The Ecosystem

6

SE sector

Higher education

Supporting Policies?

Change Perception?

Learnings?

Synergy Efforts?

Building Capacity?

Institutionalise?

Push & pull factors?

Impact?

How?


Xin cảm ơn!

7


8


Vi n nghiên c u qu n lý kinh t Trung

ng

Đ i m i sáng t o vì xã h i: Th c ti n và ki n ngh chính sách

Nguy n Minh Th o Vi n Nghiên c u qu n lý kinh t Trung ương

17/3/2016

Đ i m i sáng t o vì xã h i • Đ i m i sáng t o vì xã h i là vi c đ a ra gi i pháp m i đ gi i quy t các v n đ xã h i m t cách hi u qu h n, b n v ng h n so v i các gi i pháp hi n t i. Giá tr đ c t o ra ch y u ph c v xã h i h n là vì m c tiêu cá nhân (Trung tâm sáng t o xã h i, Tr ng ĐH kinh doanh Standford). • Th c hi n trong c khu v c công và khu v c t • Quá trình đ i m i sáng t o vì xã h i g m 4 y u t chính: – Nh n di n các v n đ xã h i c n gi i quy t – Phát tri n các gi i pháp m i đ gi i quy t các v n đ xã h i – Đánh giá hi u qu c a các gi i pháp m i trong gi i quy t các v n đ xã h i – Phát tri n, c i ti n mô hình đ i m i sáng t o vì xã h i

9


M t s đ c đi m c a Đ i m i sáng t o vì XH • Có tính m i, sáng t o • Xác đ nh rõ m c tiêu ch đ o là nh m gi i quy t m t v n đ xã h i c th • Không d ng m t ý t ng hay k ho ch, mà ph i đ c tri n khai trên th c t (work-out) đ ki m ch ng v hi u qu tác đ ng xã h i, ý nghĩa th c t • Đ c xã h i ch p nh n • Gi i pháp th ng đ c phát tri n và đi u ch nh m t cách t nh ti n, có tính thích ng d n d n (adaptive) • Có tính m và h ng đ n kh năng nhân r ng, không có rào c n v chi phí gia nh p th tr ng, b n quy n, bí quy t công ngh ,…

Các giai đo n c a Đ i m i sáng t o vì xã h i Mô hình xo n c v các giai đo n đ i m i sáng t o vì XH

10


Vai trò c a Đ i m i sáng t o vì xã h i M i quan h gi a các khu v c Nhà n

c - Doanh nghi p - Xã h i

M t s đi n hình sáng t o vì xã h i

Nhà tr đ u tiên c a Friedrich Frobel sáng l p năm 1837

11


M t s đi n hình sáng t o vì xã h i

M t s thách th c trong quá trình Đ i m i sáng t o vì XH

Ngu n: Geoff Mulgan (2006)

12


C u trúc môi tr ng cho các ho t đ ng đ i m i sáng t o vì XH

Ngu n: Geoff Mulgan (2006)

Ki n ngh : T o l p h sinh thái cho phát tri n DNXH

13


Ki n ngh : Coi n khích, M trt sng,đ khuy c đi m c a h tr phát tri nĐcáci m ý t i sáng ng sáng t XH o vì xã h i t o vì Coi tr ng các ý t ng sáng t o Bi u d ng các ho t đ ng sáng t o vì xã h i Thành l p các v n m T ch c các gi i th ng ý t ng sáng t o vì xã h i Các c quan QLNN, t ch c s nghi p công l p là nh ng ch th c n đi tiên phong trong vi c áp d ng các sáng ki n vì xã h i trong ho t đ ng QLNN và cung c p d ch v công • Hoàn thi n khung kh pháp lý, th ch • Phát tri n các t ch c trung gian • Phát huy văn hóa c ng đ ng… • • • • •

Xin c m n!

14


The Ecosystem for Social Enterprises: Some Lessons from Israel Prof. Benjamin Gidron School of Business Administration College of Management Academic Studies (COMAS) Rishon Le’Zion, Israel THE INTERNATIONAL CONFERENCE ISCE HANOI, March 17-18, 2016

The Changing Relationship between Business and Society • Classical capitalist thinking advocates separation between business and society

• Milton Friedman – “the business of business is business” • Such outlook also means institutional separation – public sector and NGOs/NPOs are responsible for dealing with social issues

• CSR – 1980’s-1990’s – in light of privatization and retreat of governments – devoting a (small) share of profits to social causes outside the business venture – business and society still separated

• Social Business – Muhamad Yunus 2006 Nobel Peace Prize – attempt to create organizations that combine the social and the commercial

15


Forms of Business Contributions to Society – The 3 P’s

• A business venture can contribute to society in one of 3 ways:

• Profit – it can take a share of the profits and donate it to a social cause • Product – it can manufacture a product that has social implications, such as a chip in the brain that can help blind people see

• Process – it can manufacture a product or provide a service whereby the process of creating that product is social, such as when the business employs handicapped persons

• (Only the last requires internal organizational changes).

Social Enterprises: An Exciting Form of Combining Business and Social Goals

• In a world that faces major challenges in overcoming gaps between rich and poor, regarding the environment, in health, the concept of “shared value” and “double/triple bottom line”, when taken seriously present new opportunities for the business sector and for society

• In the 21st century it is done through entrepreneurs within social enterprises. Entrepreneurs who combine business, social and possibly technological skills can create exciting ways to help themselves as well as contribute to society

• How can a state encourage activity along these lines?

16


The Eco-System Needed to Develop Social Enterprises Social enterprises – an entrepreneurial endeavor, need to be built bottom-up, not top-down (as in WISEs in the 1990’s) The Eco-System needed is composed of 4 components:

• A spirit of entrepreneurship in the population, one that encourages people to think creatively and “follow their dreams”

• A legal framework, which defines institutions that combine business and social goals and gives them legitimacy

• A financial base, which enables investments in those • An awareness by different stakeholders (primarily customers) to these institutions.

• The first of these depends on individuals, the other three on policy

The Israeli Experience

• Strong entrepreneurial spirit expressed in the 1990’s in high-tech

entrepreneurship. • Model of high tech development – government supported venture funds • Entrepreneurship encouraged at high school level – competitions; at universities , especially schools of business , have hubs and labs where entrepreneurship í s practiced

• Existence of entrepreneurs, development of hubs and accelerators, role of educational system Four existing legal avenues to establish and incorporate Social Enterprises: Business organizations, NPOs, public organizations, cooperatives. • Each of those has a different ideological base, suggesting one can contribute to society from different ideological stances.

It is agreed that there is no need to create a specific legal framework for SEs. However, there is a need to change funding regulations to allow investments, turn donations into investments, change governance frameworks in businesses etc.

• Public and private funding sources •

Inauguration of a new public/private fund of 50 million Shekels to help new entrepreneurs

Awareness – at the beginning stage

• Not enough exposure for the concept in the media

17


Conclusions

• In building an infrastructure to encourage and support social

enterprises the first step is to encourage people to think creatively, “out of the box” • Then, if the dreams are good, help them, namely create organizational and financial tools, to make their dreams come true, first on a small scale – as a pilot and then disseminate the idea. • There is a difference, in terms of length of time, between developing an idea and create a pilot and the process of dissemination of an idea, which entail changes in policy. Entrepreneurs are often frustrated by the process. • Furthermore, it requires changes in the public opinion, which also takes time and calls for the involvement of the media.

Thank you

18


A comparative overview of social enterprise ecosystems in Scotland and England: An evolutionary perspective

Dr Richard Hazenberg, Institute for Social Innovation and Impact, University of Northampton, UK.

Presentation Overview

In this presentation we will cover the following: – Research overview. – Prior literature. – Research aims and methodology. – Research data and results. – Discussion. – Summary. – Implications for Vietnam.

I am also indebted to the contribution of my co-authors in this research (Dr Meanu Bajwa-Patel; Dr Micaela Mazzei; Dr Michael Roy & Dr Simone Baglioni).

19


Research Overview •

The research seeks to utilise biological evolutionary theory to explain the development of social enterprise ecosystems. Specific focus on: – The regional divergence of SE ecosystems within nation-states. – Scotland and England used as case-study countries. – Semi-structured interviews with key SE stakeholders in each country used to explore this.

The research explores the applicability of evolutionary theory in explaining the development of SE ecosystems.

The research is part of the European Commission FP7 funded EFESEIIS project http://www.fp7-efeseiis.eu/

Prior Literature

Social and cultural understanding of entrepreneurship varies across regions (and countries) (Dodd et al., 2013)

Research has identified the differences inherit in the understanding of social enterprise around the world (Kerlin, 2010).

Despite this there has been little research that has explored regional differences in the understanding of SE within nation-states. – Despite many modern states being the amalgamation of several different cultures (e.g. UK, Spain, Belgium).

20


Scotland & England

Scotland and England have been politically united since the 1707 Act of the Union.

This has led to some cultural alignment through a mutual embrace of Enlightenment; the Industrial Revolution and a universal education system (Herman 2003; Buchan 2007; Allan, 1993; Young, 2009). – However, both countries still have separate legal systems and distinct social and political cultures.

Social enterprise in both countries shares a common heritage with the 19th Century cooperative movement (Pearce, 2003; Kay, 2003).

However, despite these commonalities the SE sectors in both countries could be argued as being distinct.

Evolutionary Theory •

Biological concepts have been used before to explain entrepreneurship, notably economic ecosystem theory and social system theory (Nambisan and Baron, 2013; Van Assche et al., 2013). – However, to date no attempt has been made to use evolutionary theory to explain social enterprise (During, 2014).

Evolutionary Theory states that ecosystem change occurs due to: 1. Genetics: Traits are inherited and change occurs through random mutations. 2. Phenotypes: Varied types of organism produced by genetic and environmental factors. 3. Epigenetics: Genetic changes are driven by external environmental factors and experience.

• However, organisms have internal structures (i.e. cell reproduction) that respond to external factors. Therefore, environmental influence is subject to internal interpretation.

21


Research Aims & Methods •

The research explored the following 2 research aims: 1.

2.

To comparatively explore the social enterprise ecosystems in Scotland and England in reference to their historical development, present state and future progress. To assess the explanatory power of evolutionary theory in explaining social enterprise sectors as ecosystems.

• Semi-structured interviews were undertaken with key stakeholders from the SE sectors in both countries (18 Scotland; 17 England) including: – social entrepreneurs, NGOs, lobby organisations, social enterprise support organisations, policy-makers, social bankers, national bodies, policy-makers, trade unions and law firms.

• Narrative approach was used to analyse the data (Reissman, 1993).

Language, Values & Definition •

Scotland and England remain closely aligned in this area, in the main due to shared historical roots (genetic). However, epigenetic factors (political divergence) have led to both governments adopting different formal definitions of SE. – Scotland: Focused on values such as dignity, common ownership, equality, fairness and cooperation (SENSCOT). – England: Broad and inclusive definition that is also market-aligned (OTS, 2006).

22

There was also a frustration in both countries around the continued focus on definition and language, as one participant stated: "I think people attach so much importance to defining the words that go around it. For me, when you actually get to the nitty gritty of doing it the words are not the important thing. It is what is behind it, and it is about how you approach things and about your own values that you bring to it. For me, it is not about all of those terms." [Practitioner, Scotland]


Ecosystem Support •

The support systems in both countries had also developed differently over the last 15 years: – Scotland: More government support and grant funding. – England: Withdrawal of state funding and the promotion of social investment and the Big Society. – The ‘Big Society’ policy in Scotland has gained less traction as it is seen as both a Conservative policy and Scottish policy is more centred on Local Authority support.

Both countries were seen to have supportive environments for the SE ecosystem: “Social needs are always changing and evolving, as are economic circumstances. I think the combination of changing economic circumstances, and changing needs, have given rise and created the opportunity for social enterprises to become more prevalent and better known, over the last decade in particular.” [Practitioner, Scotland]

International Factors •

The role of the EU was also widely acknowledged and in part credited with the strength of the SE sectors, as EU political and financial support had helped drive the growth of both sectors. “I think the EU’s money and programmes have been absolutely essential [to] its growth and development. I think without that money half the stuff that is out there just wouldn’t exist anymore.” (Academic, Scotland).

The EU was also seen to be ahead the national governments in some areas: “I think a lot of the EU’s stuff is ahead of the national UK government…Some of the recent directives and strategies, particularly around procurement directives, are really welcome.” (Lawyer, England)

The role of international institutions like the EU could also be seen as an homogenising epigenetic factor in the development of both ecosystems.

23


Comparative Development of the Scottish and English Ecosystems

Epigenetic Factors

Policy Community Enterprise Phenotype

Politics

Scottish SE Ecosystem

Devolution

Epigenetic Factors

Epigenetic Factors

EU

Policy

Macroeconomic Company Structure

Shared History Genetic Factors

English Ecosystem

24

English SE Ecosystem

Politics

Devolution

Social Business Phenotype


Higher Education & SE •

Higher Education Institutions in the UK have taken a lead in promoting SE by: – Developing undergraduate and post-graduate courses that explore social entrepreneurship. – Embedding SE into existing curricula. – Identifying and supporting social entrepreneurs amongst the student/staff populations. – Using research to shape government policy by providing evidence of what works (and what doesn’t). – By directly supporting SEs through the use of University: • Funding. • Academic expertise.

However, the UK remains relatively poor at embedding social entrepreneurship education in compulsory education. This represents a missed opportunity to teach young children about the impact that they could make.

Summary •

Both countries have a closely shared history and hence the SE ecosystems have many inherited (genetic) traits.

There is a tension between the countries in relation to political discourse and language. This further exacerbates ecosystem divergence as differences in language and how this is interpreted internally shapes development (epigenetic) (Luhmann, 1988).

The Scottish and English ecosystems both benefit from high-levels of political/financial support, but this support is different in nature. This difference means that different epigenetic factors will lead to different types of SEs (Phenotypes) emerging.

International organisations such as the EU are creating a similar epigenetic environment and therefore reducing the divergence of SE forms (phenotypes) in Scotland and England.

25


Implications for Vietnam •

In England a strong SE sector has been developed through: – Diverse funding streams (local, national and international) & state and NGO support. – Innovative policy. – Placing Higher Education at the centre of enterprise development. – Use of market forces to shape SE sector.

In Scotland a strong SE sector has also been achieved. However, in contrast to England this has been achieved through: – A greater focus on localism and state funding.

These represent two similar, but also ideologically different approaches to developing SE that Vietnam could possibly adapt for its own cultural context.

Thank you for listening

26


PART 2. THE ECOSYSTEM FOR SOCIAL ENTREPERNEURSHIP AND SOCIAL INNOVATION PHẦN 2. HỆ SINH THÁI CHO TINH THẦN KINH DOANH XÃ HỘI VÀ SÁNG TẠO XÃ HỘI

27


28


ECOSYSTEM OF SOCIAL ENTERPRISE: SOCIAL CULTURE, LEGAL FRAMEWORK AND POLICY REVIEW IN INDONESIA Aluisius Hery Pratono Universitas Surabaya, Indonesia

Abstract This article aims to explore the dynamic ecosystem of social enterprise in Indonesia, especially legal framework and policy review upon social enterprise. The study also involves multiplecase studies of organizations that play pivotal role on establishing social enterprises in various sectors. The result confirms the role social culture, legal form, and politics in shaping the evolution of social enterprise in Indonesia. Keywords: social enterprise, entrepreneurial ecosystem, legal form, organization field

Introduction The concept of social enterprise has been emerging in Indonesia over the last decades. One of thesis is the Indonesian Social Enterprise Association (AKSI), which was established in 2009. The organization has intention to build networks for more 100,000 social enterprises to share knowledge and best practices with sustainable movements. Another movement comes the British Council Indonesia, which has facilitates a series of workshops to introduce social enterprise to civic society organizations since 2012. The rapid adoption of ecosystem terminology in social entrepreneurship research and policy calls for investigation. The burgeoning practices races ahead of theoretical and emphirical work. The previous studies highlight the macro-level determinants of entrepreneurship, including economic opportunities, quality of governance, macro-level resources and abilities, performance-based culture and socially-supportive culture (Thai & Turkina, 2014). The concept of entrepreneurial ecosystems draws to explain why firms gain benefit from clustering area that concerns on external environment rather than its internal characteristics and operations (Mason & Brown, 2014). Hence, it is necessary to stress the dynamic nature of ecosystems as evolutionary rather than a static phenomenon. However, it is difficult to understand the influence of the entrepreneurship process because the theoretical concept of ecosystem remain underdeveloped (Spigel, 2015). On the other hand, main literatures indicate the internal attributes of social enterprise, including social mission statement, services as a model for social change, promoting collective identity, and multiple purposes with various degree of value change and mutual-aid(Hasenfeld & Gidron, 2005).As the concept of social enterprises still raises debates as to what social enterprises actually are (Chandra, 2015), there is research in the

29


context of entrepreneurial ecosystem. The research gap raises a question on how ecosystemof social enterprise is distinquised from other business models in the context of markets, clusters, industries, value chains, networks, and organizational fields. This article aims to explore the dynamic ecosystem of social enterprise in Indonesia, includinglegal framework and policy review upon social enterprise. The studyalso provides observation upon three largest organizations in Indonesia, namely Muhammadiyah, Bina Swadaya and PUPUK. As development agents, the organizations play pivotal role on establishing social enterprises in various sectors. The result is expected to support the emerging concept of entrepreneurial ecosystem, specifically social enterprise in Indonesia. Literature review The first concept of entrepreneurial ecosystem was coined by James More with aims of understanding the rationally embedded nature of how firms interact (Hechavarria & Ingram, 2014). Hence, the entrepreneurial ecosystem theory outlines the holistic understanding what specific types of environments that supports firms to gain benefit from cluster (Mason & Brown, 2014). The ecosystem approach higlights both the changes in entrepreneurial system and policy that address the complex challenges faced by entrepreneurs (Hechavarria & Ingram, 2014). It appears that the active intervention of policy makers in business affairs springs from obsolete political system and economic model toward the formation of entrepreneurial ecosystem (Soto-Rodríguez, 2014).In addition, the successful entreprenurial system requires some pre-existing economic advantage including cultural, social, and material attributes (Spigel, 2015). Kshetri (2014) demonstrates various ways of entrepreneurial success. The economy may performs better with high institutional quality, while other economy experiences strong entrepreneurship with heavy R&D and aggressive strategy. The strong relationship among the institution provides risk reduction of the entrepreneurial activity, especially when policy makers’s approach has no pay off (Soto-Rodríguez, 2014). Hence, the strong financial market facilitates entrepreneurship through reducing costs of external finance to firms (Kshetri, 2014). Turning to ecosystem of social enterprise, the multiple stakeholders provides greater distinction in conducting entrepreneurship within the social context (Lumpkin, Moss, Gras, Kato, & Amezcua, 2011). In order to transform the equilibrium, social entrepreneurs involves new actors to the existing ecosystem: customers who play role to shift the power balance and government who alters the economics (Martin & Osberg, 2015). Alliance building and lobbying are acknowledged as main driver of social enterprise impact, however most organizations experience few opportunities for allies and get supporting public policy that did not provide much room for lobbying success (Bloom & Smith, 2010).

30


The local context Indonesia is considered as low middle-income countries. The Indonesia economy experienced a dramatic economic evolution with annual growth rate at 7% between 1965 and 1997. The Asian financial crisis hit the economy resulting low economic growth of just 0.3% in 1999 (Asian Development Bank, 2015). After that, the country has recovered with moderate economic growth of between 4% and 6%. This has brought a slowdown in poverty reduction, while 15% of population were living under poverty rate at $1.90 per day (Wold Bank, 2015). As the largest archipelago in the world, the marine are of 580 hectares provide 9 million tons of valuable marine products, such as tuna, shrimp, seaweed, and pearl. The total land area is allocated for agriculture and forest, 55 million and 129 million ha respectivelly. More than 40 million people work at agriculture sector or 33% of the labor forces. However, the agriculture only contributes to 14% of GDP. This country now becomes main importer for agriculture products, such as grains, holticulture and livestock. The agriculture becomes a place where poverty is most prevalent and the the poors spend twothird of their income on food, mainly rice (Quincieu, 2015).Food security becomes challenging issue due to declining irigation sytem and poor logistic chain infrastructure. The country’s competitiveness was ranked at 34th place in 2015. That was far below its potential as the economy heavily relies on commodity export, while most of labor forces work for small and medium enterprises (Tabor, 2015). The SMEs plays pivotal role on this largest country in Southeast Asia region, as more than 54% of Indonesia private enterprises were small-scale business that operate in informal sector (Rahman, 2015).There is an opportunity for Indonesia development agency to set their priority on small businesses in agriculture, manufacture and service sectors through shifting resources from low-value food grain production to fisheries, lifestock, and tree crop production. Indonesia has more than 200 million Muslim, which becomes the largest Muslim population in the world. The Islamic groups have been most directly involved in shaping the politics in general, while the Indonesian foreign policy discourse emphasis a moderate Muslim nation.The first Indonesia general ellection in 1955 showed that the dominant of four major political parties, i.e. Indonesia Nationalist Party obtained 22.3%, the Masjumi (Consultative Council of Indonesia Moslem) obtained 20.9%, and Indonesia Communist Party obtained 16.4% (Pauker, 1967). In 2009 general election, the moslem political parties seemed to get fewer voters than before. The two largest islamic parties, PKB and PPP, that close ties to the largest Muslim organizations, Nahdatul Ulama and Muhamadiyah, obtained 10.6% and 8.1% at third and fourth position (Jakarta Post, 2012). The policy review At the early of development, the Indonesia Constitution 1945 shapes the economic system and mentions cooperative as a main element for economy. Specifically, Article 38(1) of

31


Indonesia Constitution states: “national economy shall be organized on a co-operative basis�. The principle of free competition was rejected. The reason of such initiative comes from the Indonesian experiences that foreigners controlled over the top of economy, while the local indigenous people had no education and experiences to set up firms (Hatta, 1957). Hence, the archipelago country experiences the changing public policy from dictatorship to democracy governance. During the Japan occupation, the government considered Islam as the most effective vehicle for ideological penetration through establishing the office of religious affairs (Boland, 1982). Indonesian third sector experiences dictatorship government for over fifty years, followed by transition government toward democracy. During the years of the independent struggle, mass organizations were encouraged to mobilize with a wide range of members, from farmers and labors (Sakai, 2002). Under the authoritarian regime, the social mission of civic social organizations could be distinguished with three main issues: community development, awareness raising and advocacy oriented organizations (Antlov, 2003). The community-development organization worked mainly as contractors or consultants for the government, while the second one concern to popular mobilization in the form of raising awareness. The first dictatorship began in 1959, which called as Soekarno’s Guided Democracy, when the elected parliament was suspended. Soekarno outlined his vision on Indonesia development, namely the Manipol/USDEK (acronym of politic manifestation, the constitution of 1945, Indonesia socialism, lead democracy, lead economy, and Indonesian personality. During that time, all social and political organisations were required to join the Manipol and support Soekarno to achieve the revolution vision (Pohlman, 2011). In 1950s, the local leaders blamed imperalism for the mess of social economy in the country (Pauker, 1967). There were three major alliances of Soekarno: Nationalists, Muslims, and Communists. Along with more than three million members, the Communists concerned with a revolutionary program of mass mobilization (Hefiner, 2000). At early of 1960s, the government allowed the Communist party to arm themselves and neutralize the conservative army. However, the triple-digit inflation hit the Indonesia economy. Soekarno appointedthe membersof communist party to take position in bureaucracy and political position, such as mayor and provincial governor. The parties also gained benefit from mass membership, engaging in frequent shows of force in mass rallies and street politics (McGregor, 2013).Sudenly, the unexplained coup attempt occurred on 30 September 1965. The second dictatorship era occurred between 1965 and 1998, when Soeharto came into power. The government changed the foreign policy by strengthening ties with Western countries and allowing foreign aids. The government also introduced press censorship, while the political parties, third sectors, and other mass organisations were under the 32


control of government. Law No 8/1985 allowed the government to dissolve any third organisations, which are considered not to support the government. In 1990s, the Ministry of Home Affair encouraged third sector organisations to register and establish cooperative to support the government’s developing programs, including basic education, health, microfinance, and the like (Hadi, 2014). Between 1965 and 1998, cooperative was the only one type of community-based organization that government accept, while other mass organizations were strickly restricted. However, that was highly regulated and the government mandated cooperatives in rural area as development agent to promote food self-sufficient program. Hence the government allocated more resources to handle micro credit scheme to farmers, supplying agriculture inputs (fertilizers and rice varieties) and marketing farm commodities. The government also protected the market price. The government granted all the equity capital and members contributed a very small amount or paid even nothing (Zanden & Marks, 2012). This against the principles that cooperative should be based on join economic needs of their members. After Soeharto regime, the coalition of international NGO, local community-based organizations, and local government proactively addressed the local needs (NixStevenson, 2013). Natural disaster makes effect on social capital, risk, and time preference. The Aceh Tsunami provides evident that humanitarian response indicates a sense of reciprocity and mutual support at national and global level. The disaster has brought Indonesia as the 36th largest donor recipient with US$51 million from international humanitarian assistance organizations in 2012. The largest assistance comes from Australia with US$27 million, followed by Japan and Norway at US$13 million and US$ 3 million respectively (Global Humanitarian Assistance, 2013). During the autonomy regime, civic society organizations are encouraged to get involve in all development planning activities. The Law No 22/1999 and Law No 25/1999 provide autority to local government. This policy allows local-government proliferation practices followed by fragmentation of regional development (Firman, 2009). The policy encouraged local-government proligeration practices. Many local religious leaders took position as mayor and began to establish their own ‘kingdom of authority’. However, in memory of previous dictactorship regime, most government leaders still hesitate to marginalize anyone for fear of anti-democratic, while the Islamic militant group sent recruits to fight for the Muslim side to any religious conflict area. In 2009, the Indonesian Social Enterprise Association (AKSI) was established with aim of enhancing networks for more 100,000 social enterprises to share knowledge and best practices with sustainable movements. Another movement comes the British Council Indonesia, which has facilitates a series of workshops to introduce social enterprise to civic society organizations since 2012. Hence, the Ministry of Cooperative has intention to promoting social enterprise with 1000 targeted young entrepreneurs in 2016. The

33


program is part of 14 training activities, including entrepreneurship and cooperative training. The Legal Form Apparently, there are three major categories of third sector organisations in modern countries: cooperative, mutual societies and association, while legal form in different countries are varying (Defourny, 2001). In Indonesia, there are four legal forms that business organisations register it to comply with the law: limited corporation, cooperative, foundation, association or societal organisation. The social enterprise has not yet become a legal form in this country. However, the dynamic government transition brings about a change of the legal forms. First, foundation is the most popular model for third sector organisation. This type of legal form is associated with non-profit organisation because the asset should belong to the community instead of management. The Indonesian Law No 16/2001 states that foundation is a legal entity constituted by founder that dedicating their asset into social activity (act 1). From administrative perspective, foundation legal form requires less capital and simpler registration process than Limited Corporation. However, this is nonmembership organisation, which implies on more centralistic governance instead of participation approach. The Law states that foundation has no members and do exist exclusively of legally independent assets. In 2004, a new law was enacted with new definition of foundation, which should be a non-membership legal entity, separated-asset based organisation, and social-goal orientation. Another article states that payment is allowed to the staff and management. However, the regulation was amended for some reasons, including ambiguity on profit versus non-profit orientation. Secondly, cooperative refer to member-based organisation with cooperative and collegiality principle (Indonesian Law No 25/1992). There are more than 200,000 cooperative, which become the largest number of social enterprise model in this country (MOC, 2014). In 2012, Law No 17 was introduced to redefine the Indonesia cooperative that should be a legal form with separated liability from the owners. This regulation does not only require the minimum asset of cooperative but also mandate the goal of cooperative, which should fulfil economic, social and cultural value. However, the Constitutional Court amended this law in May 2014. Third, Limited Corporation basically is legal form to for-profit organisations. Law No 40 2007 states that this legal form requires at least two parties holding shares and at least one director and one commissioner need to be appointed by these shareholders. Firms with Limited Corporation legal form are allowed to exercise public offering to shares in accordance with the provisions and legislation in the field of capital market. However, foreigner is not allowed to own any corporation with such legal form. They should register as foreign owned company and register at Investment Bureau (BKPM).

34


Last is association, which refers to a membership-based organisation. This legal form represents fraction interest, which determine the decision-making process. Law No 13/2013 requires that all societal organisations should maintain the value of religion and believe in Almighty God. All society organisations need to register at Home Affair Ministry. This regulation raises a concern to international organisation with different religious values or secularism (Council on Foundation, 2014) The Case Studies 1: Muhammadiyah The organization was formally established in 1914. According to the Government Letter on Augt 22, 1914, the Dutch Colonial Government in Indonesia acknowledged the Muhammadiyah United as a legal form. On September 7, 1971, Government of Indonesia acknowledged Muhammadiyah Islamic United as social organization through letter of the Social Ministry. Through letter of Ministry of Home Affair No 14/DDA/1972, the Government of Indonesia acknowledged Mohammadiyah as legal form and has rights to own and manage its assets. In 1997, the Government of Indonesia stated that the Muhammadiyah works on education. In 1987, the Government of Indonesia, through statement letter of Ministry of Law, stated that the Muhammadiyah works on health services. In 2004, Ministry of Law and Human Rights underlines that the legal form of Muhammadiyah is a united and should follow Law No 8/1985. In 2010, the Ministry of Law and Human Rights states that Muhammadiyah works on social activities and da’wah (preaching of Islam), education and health services (Muhammadiyah, 2013). As the governments were unable to provide education service to all level of society; the organization found the opportunity to fill this gap. The organization used to be focused on urban and middle-class societies and more likely to be professional, bureaucrats and teacher than farmers or fishermen (Bush, 2014). The organization also opts the partnership strategy with the ruling governments in order to sustain throughout period of colonialization until Suharto government. Recently, Muhammadiyah is the largest civic society organization in Indonesia. With more than IDR 20 trillion, the organization does not only involve in education and health care services, but also trading and financial sectors (Sadewo, 2014). The members of Muhammadiyah come middle class societies, including traders and entrepreneurs across Indonesia. They play pivotal role on the economy, while followers provide great contributions, especially in helping the growth of the populist economy. The organization is managing more than 350 micro finance institutions, more than 14,000 schools, 192 universities, 400 hospitals. For social purposes, the organization established more than 200 orphanages and homes for senior citizens (Syamsuddin, 2015). Muhammadiyah has a strategic vision until the year 2025. Every five years, the organization manages a national congress to align periodic programs with the 2025 vision. In August 2015, the organization hold the 47th congress in Makasar. The congress

35


aimed to elect new leaders. Along with other Moslem organization, Muhammadiyah plays pivotal role in presenting the Indonesian moderate Islam through enhancing the international networks and engaging in many interfaith dialogues (Sukma, 2015).In politic practices, the Muhammadiyah meeting forum declared to be neutral during the last presidential ellection. However, the organization allows their members to do political practices. For example, the young members of the organization joined the Surya Madani to support one of president candindate (Sudibyo, 2014). The Case Study 2: Bina Swadaya Bina Swadaya is an NGO that shifted towards a strategy of social entrepreneurship to deal with the challenge of sustainability. Since 1967, the organization has emerged into a selfsustaining group and is serving over 100,000 farmerss. Bina Swadaya manages 17 subsidiary companies engaged in eco-tourism, agriculture, printing and publishing. Employing about 1,500 people and providing sustainable livelihoods for many others, these social enterprises generate profits of over USD5 million annually, which is used tofinance 95% of Bina Swadaya's budget for development work among the poor. Trubus Magazine is the most popular business among the other subsidiary company. The business organization sells over 70,000 copies per month (Dacanay, 2005). Mr Bambang Ismawan established the organization in 1967. During the Soeharto government, the organization went partnership with the government to promote community-based income generating activities in wide areas, such as agribusiness, microfinance, environment and tourism(Bina Swadaya, 2014). Many of these programmes were in line with the ruling government’s development programme agendas. Accordingly, the institution established closer interaction with the state and the community, than with the private sector. However, the form of interaction with the private sector has evolved gradually as the institution has shifted its strategy. Agriculture is main business of Bina Swadaya. The organization has intention to promote agriculture intensification, post-harvest management, human and research development, and advocacy to farmer communities. To spread the information, the organization published an agriculture magazine in 1969, namely TRUBUS. The magazine experienced many difficulties at the early stage of development. It aimed to provide information about agriculture to its constituents (i.e. farmers); however, many of them were illiterate. As a result, it was difficult to find the appropriate readers as well as contributors, who had capabilities to provide high quality articles for uneducated farmers. From financial perspective, the magazine struggled to generate sufficient income to cover its operational costs. Print advertising revenue was low due to lack of commercial interest in the magazine; whilst, the cost of distribution was high. Hence, the organization changed the targeted customers, from the farmers to wealthier customers with hobby farm. As the business emerged and became profitable, the organization established a limited corporation in 1980, namely PT Penebar Swadaya. The institution considered that legal institutional separation between the foundation and the limited cooperation (PT) were appropriate in order to 36


accommodate the growing magazine business. Since 1999, the organization considers entrepreneurship approach as the vehicle to enhance self-supporting community empowerment program. In 2005, the corporation began to publish some other magazines, i.e. Penebar Plus, Griya Kreasi, and Cif. In 2006, another company, PT Trubus Media Swadaya, was established to handle the distribution. In 2012, the company manages 668 agencies in 32 provinces (Oriza, 2014). Magazine is not the only business that the foundation runs. To respond the hobby community, the organization established farm shop company, namely PT Trubus Mitra Swadaya. The shops provide a huge variety of small crops and fruits to hobby farmers, namely Toko Trubus. With legal form of a limited corporation, the first shop was established in Central Jakarta. In 2012, there were more than 15 farm shops in Jakarta, Bogor, Bandung, Semarang, Yogyakarta, and Surabaya. In addition, the organization also manages other 15 limited corporations with various businesses, from microfinance, agribusiness, tourism, and community development. Overall, the organization handled more than Rp20billion (USD2million) per annum with more than 1,000 workers(Adi, 2011). Today, Bina Swadaya is financially self-sustained and relies on its own income generating businesses. To reach its vision and to carry out its missions Bina Swadaya diverts its activities into seven business groups.There are some business units of Bina Swadaya:  Bina Swadaya Consultant: Community Empowerment. In the form of regional development activities, Public Health, Sanitation, Environment, Farming, and Labor by way of: research, training, consultation, and facilitation. (Educational and Training Center, Center of Studies, Consultancy and Branch Office)  The Cooperative of Bina Swadaya Nusantara: Micro Finance Development. Micro Finance Services is carried out through Banking Financial Institution and NonBanking institution; reaching the poor and the marginalized. (Bina Arta Swadaya, Rural Banks, Micro Finance Institution)  Trubus Mitra Swadaya: Agribusiness Development. By way of product marketing activities and farm production facilities, developing farm shop toward franchise system (Trubus Mitra Swadaya).  Trubus Swadaya: Development Communication. Supply information to different field of development area through publishing magazine, book, radio and TV program, VCD. (Trubus Swadaya, Penebar Swadaya, Puspa Swara, Trubus Media Swadaya and Niaga Swadaya).  Bina Swadaya Tours: Alternative Tourism Development. Organize Tour Program orientated to education, environment, culture and development (Bina Swadaya Tours).  Penebar Swadaya Printing House: Printing Service. Managing printing industry to support development communication activities and increase institutional income. (Penebar Swadaya Printing House)

37


Wisma Hijau Training Centre. Provide facilities for meeting, training, workshop and seminar. (Wisma Hijau – Kampus Diklat Bina Swadaya). The Case Study 3: PUPUK PUPUK stands for Association for Promoting Small Enterprises (Perkumpulan Untuk Pengembangan Usaha Kecil). The organization was established in Bandung and recently has representative office in Surabaya, Yogyakarta, Makasar and Tegal. The organization declare lawful in the Charther of Association by Justice Minister of Indonesia Republic on Registration Number C2-765.HT01.03.TH88. The annual financial report was audited by the registered public accountant, AF Rachman & Soetjipto WS. It was established in 1979 by Germany Stiftung, Bandung Chambers of Commerce, and some local leaders. PUPUK focused on training activities for small medium enterprises. In addition, the Friedrich-Ebert-Stiftung was established in Indonesia Representative in 1968 with various activities to support the process of democratisation and social economic development (Friedrich Ebert Stiftung, 2015). At this early years, the Stiftung provided financial support for PUPUK’s activities. In 1988, the organization gained the process of formalization from Ministry of Law. This allows the organization to do business with government. For example, the organization went partnership with Treasury Minister to encourage the stated owned companies to allocate their profit to promote small and medium enterprises. In 1991, PUPUK was awarded “Jasa Kepeloporan” from the President of Indonesia for the pioneer efforts to promote small and medium businesses. This includes technical suppot for SMEs, research, SME program developments, and other direct activities with SMEs (training, consultancy, assistance) seminars, workshops, model business unit, as well as other activities. In 1990s, PUPUK established the branches in Jakarta, Surabaya, and Madura. It is not efficient if the organization still focused in Bandung. In Yogyakarta, PUPUK worked with Sahid Group to encourage the local artists’ brand. Recently, there is no more traditional grabah. They have developed with many niche products. In 2000s, PUPUK changed the strategy from micro level to messo level, from conducting technical assistance to promoting a community-based organization, such as SMEs forum and Indonesia BDS association. PUPUK also gets involve in macrolevel through advocating policy. Source of fund also expanded. Previously, the activities relied on international funding and hence gain support from government and private sector. In 2010s, PUPUK worked with many group of small businesses. Seaweed farmers in Palopo; soybean industries in Jabodetabek, West Java and Central Java; cocoa and rattan industries in Palu, cassava industries Trenggalek and Sampang, tofu and tempe industries in Jabodetabek and many other industries. The organization also works for various international funding agencies, including Ford Foundation, Japan International

38


Cooperation Agency, Chevron Geothermal Indonesia, PT Kaltim Prima Coal, AusAID, USAID, and British Petrolium. Discussion The study shows dynamic nature of Indonesia ecosystems in Indonesia, from Dutch colonization, autoritarian regimes, and decentralization approach. Preposition 1: the social and economic context is quite relevant to the entrepreneurial ecosystem as organization field. In Indonesia context, agriculture, small business and Islamic community give market opportunities of conducting social enterprises to the observed organizations. It appears that the three observed organizations conduct their business that in agriculture, small business and in majority of societies. Muhammadiyah runs a business on basic needs, including education, health sector and cooperative. Bina Swadaya runs business in agriculture with various level of farmers. PUPUK works with small business enterprises to establish social enterprises, including cooperative, village enterprises, and formal private enterprises. Those observed organizations have capability to carry out a set of activities to deliver products and services to the market. They also create value for their customers. As the government faill to provide education service to all level of society, the organization found the opportunity to fill this gap. Similarly, Bina Swadaya provides information to the farmers as they had no access to information on agriculture. PUPUK is quite different. The organization does not get involved directly on the business but rather providing support to the small business communities, so they can establish cooperative or have access to the main distributor with fair trade principle. Preposition 2: the way government acknowledges the business model of social enterprise as a formal legal form is essential element to the ecosystem of social enterprises. Many states in developing countries do not set priority in identifying their citizens (Sud & VanSandt, 2015). The legal framework of social business model is key mechanism for achieving mission control. The process of institutionalization, including decision to choose allows the interaction among various organizational form levels(Cooney, 2012). From a macro perspective, the third sector is an intermediate sector among three main stakeholders: the state, private sector and community. In Indonesia context, the informal sector is not only associate with poor farmers and small enterprisesbut also activities at the third sector, including the social enterprises. The government of indonesia has not yet recognize social enterprise as a legal form at business activities. Organizations that emphasises on social mission may prefer a foundation as legal form, while business organizations may consider the limited corporation.Cooperative may become the best option for member-based organizations

39


with profit orientation. In fact, many social and business activities in third sectors become informal sector. Institution, social norm, and patterns of behavior enable accumulation of capital and knowledge to enhance innovation and to develop a good policy (Wydick, 2008). Without recognition from state, the organization finds difficult to develop the business model, while some small-scale organization may find difficulty to get involved in formal economy and own property. If the definition merely focuses on the social mission statement, it appears that private sectors also have intention to help their family, neighbours, and local economy through generating incomes and providing job opportunities. Preposition 3: Social enterprise may emerge when government failure or market failure or even community failure occurs. The business model combines the advantages of the three players that may provide the best model to overcome the social and economic problems. The third sector emerges from the interaction among the three main stakeholders, i.e. market, government and civil societies. It appears that theshift to a new non-market based as a self-regulating market fails to prevail over market failures(Polanyi, 1944).Under stiff market competition, companies can survive if they can produce with certain level of efficiency. However, the mechanism is not working when market failure occurs, such as monopoly, asymmetric information and externality. The unethical behavior also becomes phenomenon in market competition. This calls for intervention from government. Unfortunately, there is lack of trust on government and NGO institutions. Despite the best effort of new president, the administration finds difficulty to address the regulatory clarity. Along with a survey on 1,150 respondents with general population and 200 middle class people, Edelman (2016) indicated that there is a fall in trust across the institutions of government, media and NGO in Indonesia, while trust in business ramains stable. The problem of unethical behavior is manifested when the effort of individuals to pursuit their own interests ignores general interests(Stiglitz, 2003). Preposition 4: social enterprises with strong social network resources may gain advantage from developing their marketing capability. The social networks allow the organizations enhance their marketing capability and expanding their services through adopting social enterprises or encouraging their target groups to adop social enterprise model. Transforming the social works to business activities raises a quite challenging tension. Unless the social organizations have strong cohesion in networks with various stakeholders, including customers and business partners, the transformation process faces high posibility of failure. Social enterprises may gain benefit from social networks with clustering area that the development agents provide for.Hence, the start-up social enterprises may emerge as agent of development, non-profit organizations enhance the capability of government to access community with various community development program.

40


Conclusion Entrepreneurial ecosystemin social enterprise context is differ from for-profit institutions. This may involves different markets, clusters, industries, value chains, networks, and organizational fields. Public policy also plays pivotal role on entrepreneurial ecosystem in social enterprise. Formalizing the model allows the social enterprises to define their customized set of strategies, policies, and procedures. This is not only about unique identity but also the way organization deal with business environment, especially policy turbulence. In fact, the institutionalization process of social activitie with business approach mayraise a potential conflict of interest that springs from changing direction from social to economic goals. References 1. Asian Development Bank. (2015). Asian Development Outlook Supplement. Manila: Asian Development Bank. 2. Bina Swadaya. (2014). The History of Bina Swadaya. Jakarta: Bina Swadaya. 3. Bloom, P., & Smith, B. (2010). Idetifying the drivers of social entrepreneurial impact: Theoretical development and an exploratory empirical test of SCALERS. Journal of Social Enterpreneurship, 1 (1), 126-145. 4. Boland, B. (1982). The Struggle of Islam in Modern Indonesia. Leiden, Netherland: Springer. 5. Bush, R. (2014). The snapshot of Muhammadiyah social change and shifting markers of identity values. Asian Research Institute. Singapore: National University of Singapore. 6. Chandra, Y. (2015). The darkside, myths, and reality of social enterprises: A social accounting view. 5th EMES International Research Conference on Social Enterprise Building a scientific .5. Helsinky: EMES. 7. Cooney, K. (2012). Mission control: examining the institutionalization of new legal forms of social enterprise in different strategic action field. In B. Gidron, & Y. Hasenfeld, Social Enterprise: An organizational perspective. Hamshire, England: Palgrave Macmillan. 8. Dacanay, M. (2005). Getting a handle on social entrepreneurship. Open Symposium on Social Entrepreneurship. Taiwan. 9. Edelman. (2016). The 2015 Edelman Trust Barometer. Chicago: Edelman. 10. Firman, T. (2009). Decentralization reform and local-government proliferation in Indonesia: Toward a fragmentation of regional development. Review of Urban & Regional Development Studies, 21 (2-3), 143-157. 11. Friedrich Ebert Stiftung. (2015). Promoting Social Democracy and International Understanding. 12. Global Humanitarian Assistance. (2013). Indonesia Key Figures 2012. London: Development Initiative. 13. Habaradas, R., & Umali, M. (2013). The microfinance industry in the Philippines: Striving for financial inclusion in the midst of growth. National Business and Management Conference. Cebu: University of San Carlos. 14. Hasenfeld, Y., & Gidron, B. (2005). Understanding multi-purpose hybrid voluntary organizations: The contributions of theories on civil society, social movements and nonprofit organizations. Journal of Civil Society, 1 (2), 97-112.

41


15. Hechavarria, D., & Ingram, A. (2014). A review of the entrepreneurial ecosystem and the entrepreneurial society in the United States: an exploration with the global entrepreneurship monitor dataset. Journal of Business and Entrepreneurship, 26 (1), 1-35. 16. Jakarta Post. (2012, October 15). Islamic parties lose relevance. Jakarta Post . 17. Kshetri, N. (2014). Developing successful entrepreneurial ecosystems: Lessons from a comparison of an Asian tiger and Baltic tiger. Baltic Journal of Management, 9 (3), 356330. 18. Lumpkin, G., Moss, T., Gras, D., Kato, S., & Amezcua, A. (2011). Entrepreneurial processes in social context: how are they different, if at all? Small Business Economics . 19. Martin, R., & Osberg, S. (2015, May). Two keys to sustainable social enterprise. Harvard Business Review . 20. Mason, C., & Brown, R. (2014). Entrepreneurial ecosystem and growth oriented entrepreneurship. Entrepreneurial ecosystem and growth oriented entrepreneurship (pp. 1-38). The Hague: OECD LEED Program and Dutch Ministry of Economic Affair. 21. McGregor, K. (2013). Mass violence in the Indonesia transition from Sukarno to Suharto. Global Dialogue, 15 (1). 22. McGuire, P., & Conroy, J. (1998). Effects on microfinance of the 1997-1998 Asia Financial Crisis. the Second Annual Seminar on New Development Finance (pp. 1-22). Frankfurt: Goethe University. 23. Muhammadiyah. (2013). Legal form of Muhammadiyah. Retrieved February 20, 2015, from Pimpinan Pusat Muhammadiyah: http://www.muhammadiyah.or.id/id/downloadbadan-hukum-muhammadiyah.html 24. Nix-Stevenson, D. (2013). Human response to natural disasters. SAGE Open, 3 (3). 25. Oriza, I. D. (2014). Business as an agent of world benefit. Case Western Reserve University. Ohio: Weatherhead School of Management. 26. Pauker, G. (1967). Toward a new order in Indonesia. Foreign Affair, 45 (4), 503-519. 27. Polanyi, K. (1944). The Great Transformation: the political and economic origins of our time. Boston: Beacon Press. 28. Quincieu, E. (2015, October). Indonesia's agriculture, natural resources, and environmental sector assessment. ADB Papers on Indonesia, 8. 29. Rahman, L. (2015, December). Indonesia's private sector development assessment. ADB Papers on Indonesia, 13. 30. Sadewo, J. (2014, August 21). Muhammadiyah's asset is more than IDR20 trilion. Republika . 31. Sakai, Y. (2002). Indonesia: Flexible NGOs vs inconsistent state control. In S. Shigetomi, The State and NGOs: Perspective from Asia. Singapore: ISEAS. 32. Soto-RodrĂ­guez, E. (2014). Entrepreneurial ecocystems as a pathway towards competitiveness: The case of Puerto Rico. Competition Forum, 12 (1), 31-40. 33. Spigel, B. (2015). The relational organization of entrepreneurial ecosystems. Entrepreneurship Theory and Practice . 34. Stiglitz, J. (2003). Ethics, market and government failure, and globalization. In E. Maulinvaud, & L. Sabourin, The Governance of Globalisation: the Proceedings of the Ninth Plenary Session of the Pontifical Academy of Social Sciences. Vatican: The Pontifical Academy of Social Sciences.

42


35. Sud, M., & VanSandt, C. (2015). Identity rights: A structural void in inclusive growth. Journal Business Ethics, 132 (3), 589-601. 36. Sudibyo, A. (2014, June 25). Surya Madani supports 4 million votes for Prabowo. Suara Merdeka . 37. Sukma, R. (2015, August 4). Insight: Muhammadiyah and Indonesia's international identity. Jakarta Post . 38. Syamsuddin, D. (2015, August 3). Discourse: Muhammadiyah and modernizing Islam. Jakarta Post . 39. Tabor, S. (2015, December). Constraints to Indonesia's economic growth. ADB Papers on Indonesia, 10. 40. Thai, M., & Turkina, E. (2014). Macro-level determinants of formal entrepreneurship versus informal entrepreneurship. Journal of Business Venturing, 29 (4), 490-510. 41. Wold Bank. (2015). Country Dashboard: Indonesia. Washington, DC: World Bank. 42. Wydick, B. (2008). Games in Economic Development. Cambridge, UK: Cambridge University Press.

43


44


PUBLICITY AS AN ELEMENT OF SOCIAL ENTERPRISE ECOSYSTEM (ON THE EXAMPLE OF RUSSIAN FEDERATION) Vladimir Vainer Director of GLADWAY Foundation Natalia Gladkikh Moscow State University of Psychology and Education

Abstract One of important elements of social enterprise ecosystem is general public – it’s knowledge, attitudes and behaviour towards the social entrepreneurship. Level of understanding of “sociality” of this type of business, it’s specific in comparison with ordinary business, positive attitudes to the people who choose to have social business etc. affect many aspects of development of social entrepreneurship – from the growing number of new social enterprises, to the success in promotion of their products and services. Because of that, special programs for promotion of social entrepreneurship have been launched in many countries. In the article, we present classification of ways for promotion (raising publicity) of social entrepreneurship, on the example of Russian Federation. We defined three main vectors in the development, which are: using of professional media, distribution networks, and mass media campaigns. Each of the vectors is illustrated with case-studies, among which are National Crossmedia Project about social entrepreneurs named DeloZhizni (in English, Lifework) with approximate coverage 3-5 millions of people, Catalogue of Russian Social Entrepreneurs and others. We summarize the analysis by recommendations for promotion of social entrepreneurship in other countries. Keywords: Social entrepreneurship, ecosystem, promotion, public attitude, publicity, Russia Social entrepreneurship, in its core, offers altruistic form of entrepreneurship that is focused on benefits for society, and stressed on social good, not personal benefits. In this form, entrepreneurship becomes a “way” of integration of society (with its problems), and initiative people, which can make contribution in solving of the social problems. “Social” element in the entrepreneurship transforms social capital in concrete positive changes in social life. Because of such important connection with society, success of social entrepreneurship is related with the close connection with social interests. The more actively public supports social entrepreneurship, the more sustainable and rapid will be growth of the sector of economy. It helps in getting interest from politicians, big corporations and their funds, and in particular, it helps in development of regulation policy, educational programs, financial support etc. Thus, we can say that one of the key elements of ecosystem for development of social entrepreneurship is public awareness and positive attitude of people to the social entrepreneurship. In many countries, raising awareness and publicity is one of important parts of programs for development of social entrepreneurship. For example, in South Korea there is a special governmental organization named Korean Social Enterprise Promotion Agency (KoSEA) aimed to promote social entrepreneurship[1]. Every year the Agency realizes media campaigns, which are aimed to promote social enterprise among public. They produce video stories with celebrities, webtoons drawn by popular artist, radio advertising etc. Another famous example is Buy Social

45


campaign developed in United Kingdom and aimed to boost trade for social enterprises[2]. It also makes significant contribution in promotion of social entrepreneurship within and out of the country. In the article, we want to present main vectors in development of positive public attitudes towards social entrepreneurship, based on experience of Russia which is at the beginning (or a little bit closer to the middle) stage in development of social entrepreneurship. What is interesting is that Russian way of thedevelopment is characterized by the significant role of promotion and communication with public. We want to start with brief historical introduction. In Russia, system support of social entrepreneurship started in 2008, with first programs of several non-government foundations like Oxfam, Our Future and Reach for Change. As for governmental programs, its influence becomes more and more significant for the past 4 years: Ministry of Economics issued a special regulation document about social entrepreneurship and forms of its support. The support is mainly related to the activity of special governmental structures – Centers of Innovations in Social Field[3]. From 2012, these centers have been established in 32 out of 89 regions of Russia; total budget of financial support for the centers was about 1,5 billion of Russian rubles (about 20 million of USD). In spite of that, in fact, all of the activities have been addressed to the audience of small enterprises - those who already self-named as “social” enterprises (there is no official juridical status of social entrepreneurs in Russia), and those who are looking for grants, subsidies etc., to launch their business. Nowadays, we can see three main vectors in development of promotion of social entrepreneurship in Russia. The first vector is “Using of professional media”. The most evident is informational support in form of aggregation of various information about social entrepreneurship, on several web-sites. They are web portals New Business[4],Soidex.ru[5],and special column on the one Russian informational portal – Agency of Social Information[6]. There are also several professional groups in social media, with general coverage about 7-10 thousand of people. What is interesting is that Russian business mass media, which could be flagman in development of the agenda, do not really active in coverage of the issues related to social economy. Leading Russian business journals like Kommersant, Vedomosti, RBC publish about 1 material related to social enterprise, per month. Same situation we can see on TV: even ObshestvennoeTelevidenieRossii(translation: Public TV of Russia), produced no more than 20 TV stories related to social entrepreneurship, in 2015 year. Good coverage had only news about grants, for example, from Reach for Change Foundation, because of their partners, international telecommunication and media companies Tele2, VIASAT, and newspaper Metro. The most interesting project within the vector isCatalogue of social entrepreneurs of Russia[5]. In frame of the project, special web-platform has been created. Any social entrepreneur may upload information about his business on the platform – like, general information, history, presentation, video story, information about product and services etc. The most detailand fully presented companies are including in the printed version of the catalogue. In 2015, 3 000 copies of the catalogue were issued. The catalogue is a source for many exhibitions with stories of best entrepreneurs in different regions of Russia, as well as for analytic reports, and educational courses at Universities.

46


To conclude, we can say, that for the past 3-4 years this vector created circumstances for development of “core” audience of social entrepreneurs and experts, as well as their “environment” – heroes, thesaurus, contests, etc., and much less active discussions about meaning of the term “social entrepreneurship”. The second vector of support, developing more dynamically, is a direct support and a choice by the consumer of goods and services of social entrepreneurs. This vector can be named as “distribution networks”. First of all, this direction is realized thanks to the noticeable growth of distribution of goods and services of social entrepreneurs. In 2015, in tens cities of Russia charity shops began to open. The first shops appeared three years before, and already became famous: Spasibo! (which means “Thank you” in Russian) Project [7], LavkaRadostey (translation: “Shop of Joy”) [8] ,CharityShop[9],Danke-Shop[10].These shops becamegood and easy understandable by public examplesof what social entrepreneurship means, as well as they became a platform for growth of many new projects. On the basis of Spasibo! Project the first country's social franchises were created. On the basis of CharityShops, points of collecting and processing of salvage are open, and the program of employment of the homeless is open as well. The Danke-Shop project started charity shop bus for remote districts of the city. All shops actively used direct social advertising that was a big rarity and innovationfor social enterprises in Russia, especially, those days. Other possibility of growth of distribution is specialized racks of goods (and services) of social enterprises – first of all, in grocery networks of natural products. Also, the project of the leading network of gas stations from the company Lukoil where the It is more, than a Purchase program works, is specific[11].Enterprises, which want to sell their goods in this network, have to pass the corporate certification based on experience of the British certification of SocialEnterprise Market and to prove the social importance. One more direction of distribution is vending shops with goods of social entrepreneurs. As an example, one of the enterprises, self-employed mothers,produce souvenir “valenoks” (boots in traditional Russian style), bought and placed in hotels special devices for sale of souvenirs for city guests. It is interesting that except their own goods, there are also goods of other social entrepreneurs in the vending devices. Thus, distribution creates conditions for cooperation between social entrepreneurs. But the main role for advance and sale of goods and services of social enterprises within the last five years charitable fairs got. Beginning in Russia as platforms for collecting donations by the Russian and international charity foundations, in worthless time they became incentive for start at charity foundations of own productions and even creations of new charitable brands. For example, AdvitaFoundation from St. Petersburg, whichhelps children and adults suffering from cancer, in partnership with Animation studio Da, created a media brand and the Russian cartoon serial Flying Animals[12], in 2012. The series are designed for children from 6 to 12 years and are shown on a number of children's TV-channels, and the license is provided to producers of children's goods. All profit from the project goes to AdvitaFoundation. Separately on this background it is necessary to allocate projects of social agricultural cooperation which isLavkaLavkaproject[13], purposefully opening points of sales of exclusively regional small farms both separately, and in large international trade spaces. At the moment, this social

47


cooperative has the largest publicity among the social enterprises in the country, initiatingabout 200 news a year. When opening each new shop, authors of the project actively use crowd investing – suggesting consumers to purchase shares in future social enterprise.It is interesting that LavkaLavkademonstrates high market flexibility; for example, after last year’s national currency recession, they started selling products to USA market, because of highly competitive prices. One more, special role in distributionscan be given to the crowdfunding platforms and platforms of collective donations, created on an model of Kickstarter, popular in the world, and others. In Russia, there two major platform: Planeta.ru andBoomstarter.ru.Russian social entrepreneurs actively use the platforms for their projects. They also can be named as tool for raising projects’ publicity. In general, the distribution vector, when strengthening a role of marking of goods and services as goods and services of social entrepreneurs, can become a key vector, when forming good, “ecological” environment for development of business in this segment of economy. Third vector can be named as a vector of mass media communications. What can really change attitudes of millions of citizens – potential consumers, beneficiaries, supporters and even fans?How to change the relation to business which settled in Russia – as to a synonym of negative, capitalist, parasitizing, oligarchical one? This attitude towards entrepreneurship and entrepreneurs has been forming since 1917. Perhaps todays, after 100 years, we have a chance to change this negative attitudeby the new category which is social entrepreneurship. As we mentioned before, there is no big coverage of the topic in business and public mass media. In frame of the vector, the most significant project was created in form of video stories, and movie. At the end of 2015, the first national cross-media project about social entrepreneursnamed Lifeworkstarted in Russia [14]. The project was established by GladwayFoundationand film studio Laboratory of Social Movie.Media campaign is based onabout fifty professional inspiring plots (episodes) with examples of social entrepreneurs in tens regions. In each region of the country the plots unite in a film episode, with the independent name, and even the independent distribution certificate. The movie is accompanied by the set of various activities - public discussions, training programs, lectures, advertising etc. In total, 11 regional movies and the final big movie, which will include stories from the all regions, will be created and shown on one of national TV channels. The first episode namedPeople of the North. The movie includes four stories of social entrepreneurs froma large regional city, a small town and two Russian northern villages. Presentations of the first episode are organized across all Russia – from Arkhangelsk to Yuzhno-Sakhalinsk, from polar Norilsk to the southern Astrakhan [15]. According to forecasts and plans of organizers,coverage of the Lifework project will reach 3-5 million peoplein 2016, and will become a basis for many local campaigns for promotion of social entrepreneurship. Media campaign plans to be beyond Russian-speaking audience – the site of the Delo.life project and the movie Lifework. People of the North are already translated into English and German languages, the version in the Korean language is being prepared. Campaigns supported by the largest in different forms Russian corporations, even competing among themselves in other markets: Severstal, Norilsk Nickel, RUSAL, Lukoil and many others.

48


Conclusion On the basis of five years' experience of start of promotion of social entrepreneurship in Russia it is possible to draw some conclusions as recommendations: •

Simultaneous and parallel multi-vector development of idea of social business in several target audiences is necessary at once: among ordinary entrepreneurs, among those who looks for the direction for new business, among heads of non-profit and charitable organizations, among heads of corporations and among representatives of media market. In a number of countries, with the dominating role of the state in questions of development of market and social economy, it is required to show positive attitude of state to social entrepreneurship.

The main direction which is, on the one hand,providing financial stability, and on the other, formation of positive public opinion (publicity), is based on the main category: consumer’s choice. It means that we should stress development on development of programs of distribution of the products made by social enterprises. Thus usual points of sales, both vending, and crowd funding with opportunities of preorder of future goods or services, fundraising of private donations, and crowd investing on the basisof venture philanthropy can be formats of distribution.

National and international information campaigns should be focused on formation of new type of consumer behavior, with “deliberate”search and choice of goods and services of social entrepreneurs.

As a result, all of the activities can lead to the creation of an important element of ecosystem for development of social entrepreneurship that is publicity - an important factor for sustainable development of social entrepreneurship around the globe.

References 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. 11. 12. 13. 14. 15.

Korea Social Enterprise Promotion Agency, official web-site, English version http://www.socialenterprise.or.kr/eng/intro/intro.do Buy Social campaign, web-site: http://www.socialenterprise.org.uk/policy-campaigns/latestcampaigns/buy-social Catalogues of Russian Centers of Innovations of Social Field (in Russian): http://www.cisscatalog.ru/ Portal New Business (in Russian) http://www.nb-forum.ru/ Catalogue of Social Entrepreneurs of Russia (in Russian) www.soindex.ru Agency of Social Information(in Russian):www.asi.org.ru Spasibo! Charity Shop: http://spasiboshop.org/ LavkaRadostey Charity Shop(in Russian): http://lavkaradostej.ru/ Charity Shopproject(in Russian): http://charity-shop.ru/ Danke Shop, charity shop(in Russian): http://www.danke-shop.ru/ It is more than a purchase project (in Russian)http://rus-sp.ru/ Flying Animals cartoons, (in Russian; English page is under construction): http://flyani.ru/ LavkaLavka, English page: http://lavkalavka.com/page/english-version Lifework project (in Russian; English page is under construction): http://delo.life Presentation of Lifework project on Krasnoyarsk International Economic Forum: http://philanthropy.ru/blogs/2016/02/20/35070/#.VsxNexiLSfU

49


Authors: 1.

Vladimir Vainer, Director of GLADWAY Foundation Full Address: 105120 Moscow, NizhnyayaSyromyatnicheskaya 10, build.3, office 30, Gladway Foundation Contact information: e-mailvovainer@gmail.com mobile phone: +7-916-322-33-55

2.

Natalia Gladkikh, PhD in Psychology, Associate Professor, Moscow State University of Psychology and Education Full Address: 111033 Moscow, Samokatnaya 3/8, 19 Contact information:e-mail: n.gladkih@gmail.com mobile phone: +7-916-88-999-55

Biographical description: Vladimir Vainer works in the field of public sector, from 1996. He is a researcher, trainer, lector, and author of several books and educational courses about social marketing and PR, fundraising and social entrepreneurship. Natalia Gladkikh conducts scientific researchers about social issues (public service advertising, corporate social responsibility, social project and program’s evaluation), from 2004. She is an author of two books and many articles about public service advertising, marketing and social entrepreneurship.

50


INSTITUTIONALIZING SOCIAL ENTERPRISE IN VIETNAM Thu Trang Tran Foreign Trade University

Abstract This paper shows how transnational actors (e.g., international NGOs, development agencies) work along local actors to favor the institutionalization of a new organizational model. Drawing upon a longitudinal case study of the emerging social entrepreneurship field in Vietnam, we examine how some organizations acting as brokers in the field engaged in institutional work to create an enabling environment for the development of social enterprises. We found that these organizations performed seven types of institutional work, including mapping, operationalizing, theorizing, educating actors, brokering relationships, advocacy and legalizing. These types of practices ultimately contribute to shape three pillars of the new institution of social enterprise (i.e., culturalcognitive, normative, and regulative). In addition, we emphasize brokerage as the key mechanism to facilitate institutionalization of social enterprise. Our study contributes to the institutional literature by focusing on the practices to create a new institution; shedding light on the importance of brokerage in the social entrepreneurship field and highlighting the main conditions that enabled institutional work. Keywords: Institutional work; brokerage; social enterprise; institutionalization Introduction In the last decades, social enterprises or organizations with double mission (economic and social) have emerged globally as an innovative approach to address complex social and environmental issues (Dacin, Dacin, & Tracey, 2011). However, being organizations that combine elements of both nonprofit organizations and for-profit enterprises, in many countries, social enterprises face considerable challenges in establishing legitimacy and acquiring resources necessary for their development (Hervieux, Gedajlovic, & Turcotte, 2010; Battilana & Lee, 2014). For social enterprises to persist, a supportive social structure such as a new legal form, financial support, and the assimiliation of values associated to these organizations is needed (Dees, 2007; Florek, 2013; Sud, VanSandt, & Baugous, 2009). Until now, the question of how such a social structure is created for social enterprises is rarely addressed in the social entrepreneurship literature (Hervieux et al., 2010; Nicholls, 2010). Our aim in this paper is to examine institutional work – purposive activities of individuals and organizations to shape the institutional environment (Lawrence & Suddaby, 2006). More specifically, we consider the types of institutional work undertaken by actors to institutionalize a new organizational form, i.e., social enterprise, in Vietnam. Our study was motivated by the following research question: 51


“How do actors engage in institutional work to institutionalize social enterprise?” To answer this question, we conducted an exploratory case study of the emerging social enterprise sector in Vietnam. We interviewed a wide range of organizations that were directly involved in the institutional building project and that we felt would offer valuable insights into the process of institutionalization of social enterprise. Thus, these organizations include not only social enterprises, but also intermediary organizations, international nongovernmental organizations, local nonprofit organizations, impact investors, universities, and State agencies. In total, we conducted 34 interviews with 29 informants. We also consulted a large body of secondary materials to provide further evidence and substantiate findings. Our study makes three main contributions. First, our study presents a detailed account of institutional work or “the world inside” the process of institutionalization of social enterprise (Lawrence & Suddaby, 2006). Prior social entrepreneurship research has focused on the discourse of social entrepreneurs and that of other actors in the field (Hervieux et al., 2010; Nicholls, 2010; Ruebottom, 2013); however, our study highlights specific activities of different actors in the process. We found that interested actors engaged and collaborated in seven types of institutional work, including mapping, operationalizing, theorizing, educating actors, brokering relationships, advocacy and legalizing. To our knowledge, our study is the first to examine multiple practices or types of institutional work to institutionalize social enterprise. Second, our study sheds new light on brokerage and its role in institutional processes. While recent research of institutional work has highlighted that social position and social relationships of an actor, either individual or organizational, (Currie, Lockett, Finn, Martin, & Waring, 2012; Empson, Cleaver, & Allen, 2013; Micelotta & Washington, 2013) enabled institutional work, it has not explored how an actor brokers relationships between different actors, and thereby, contributes to creating new institutions. This paper focuses on examining the activities of some organizations that played the role of a broker. By facilitating the introductions and exchanges between different actors in the social entrepreneurship field, these organizations contribute to the creation, adoption, and diffusion of a specific institution: the social enterprise model. Third, our study responds to recent calls for taking context seriously in research on institutional work (Hwang & Colyvas, 2011). Our study demonstrates that, in the social entrepreneurship field, institutional work is contextual. That is, institutional context determines what sorts of actors would engage in what types of institutional work. In addition, actors’ engagement in institutional work is mainly motivated by the institutional context in which they operate. This article is structured as follows. First, we review the literature on social entrepreneurship and explain the concept of institutional work. Second, we describe our methodology and introduce our case. Third, we present the findings of our study, focusing 52


on the types of institutional work performed to create and maintain the new institution. We conclude with a discussion on the implications of our findings, summarize our contributions and conclude with directions for future research. THEORETICAL FRAMEWORK

Social entrepreneurship literature In practice, social enterprises have developed rapidly over the world in recent years with numerous examples of dedicated and visionary social entrepreneurs working to satisfy unmet social needs (Bornstein, 2007; Pless, 2012). By contrast, the study of social entrepreneurship in general and social enterprise in particular is still in an embryonic state. A unified definition of social entrepreneurship is missing (Short, Moss, & Lumpkin, 2009). Scholars struggle to clarify the concept and delineate boundaries of the social entrepreneurship field (Brouard & Larivet, 2010; Dacin, Dacin, & Matear, 2010; Dacin, Dacin, & Tracey, 2011). For some authors, social entrepreneurship refers to “the activities” of individuals (Roberts & Woods, 2005) or collectives (Austin, Stevenson, & Wei-Skillern, 2006; Peredo & McLean, 2006) to create social value (Austin et al., 2006; Peredo & McLean, 2006) and social change (Roberts & Woods, 2005). Others regarded social entrepreneurship as “the process” starting from the identification of a social problem to the implementation of a solution to generate social value and social change (Mair & Martí, 2006; Martin & Osberg, 2007; Zahra, Gedajlovic, Neubaum, & Shulman, 2009; Bacq & Janssen, 2011). More importantly, there has been no consensus on whether social entrepreneurship can be applicable to nonprofit organizations or all types of organization (i.e., nonprofit, for profit, and public organizations). In this paper, we follow Cochran (2007) to define social entrepreneurship as “a process of applying the principles of business and entrepreneurship to social problems” (Cochran, 2007: 451). In addition, we contend that social entrepreneurship is implemented through the creation of social enterprises that are “organizations seeking business solutions to social problems” (Thompson & Doherty, 2006: 362), regardless of their legal structures and degrees of financial self-sufficiency (Brouard & Larivet, 2010; Bacq & Janssen, 2011). Therefore, social enterprises can operate within or across the civil society, private and public sectors (Austin et al., 2006). Much of the social entrepreneurship literature has highlighted social enterprises as new organizational forms that combine elements of both charity and business (Battilana & Lee, 2014; Ebrahim, Battilana, & Mair, 2014; Hervieux et al., 2010). As such, these organizational forms are underpinned by dual logics (the logic of non-profit and that of for-profit) and identities (Battilana & Dorado, 2010; Moss, Short, Payne, & Lumpkin, 2011; Tracey, Phillips, & Jarvis, 2011). Previous scholars demonstrated that institutions mattered in the emerging social entrepreneurship field and that social enterprises faced considerable challenges in establishing legitimacy and acquiring resources (Battilana & Lee, 2014; Hervieux et al., 2010; Sud et al., 2009) because of their hybridity and liability

53


of newness. These authors also argued that a supportive social structure such as a new legal form, financial support and the assimilation of the values associated to this organizational form is needed for the persistance of social enterprises (Dees, 2007; Florek, 2013; Sud et al., 2009). Recent research has started to examine how social entrepreneurs and other actors in the field institutionalize the social enterprise form. However, these studies have mainly focused on actors’ use of discourse to provide social enterprises with legitimacy and other resources (Di Domenico, Haugh, & Tracey, 2010; Hervieux et al., 2010; Nicholls, 2010; Ruebottom, 2013). For example, Di Domenico et al. (2010) showed how social entrepreneurs drew on persuasion tactics to gain legitimacy and thus, attract the resources they needed. Hervieux et al. (2010) found that three groups of actors, including academics, foundations, and consulting firms legitimized social enterprises by replicating the discourse of social enterprise as “a dual logic organizational form”. Similarly, Nicholls (2010) demonstrated that powerful actors institutionalize the field by diffusing two dominant discourses – the discourse of heroic social entrepreneurs and that of an ideal business model. Ruebottom (2013) illustrated how social entrepreneurs used rhetorical strategies to build legitimacy for their social enterprises. Although prior research contributes to our understanding of how social enterprise becomes institutionalized, it does not provide adequate detail concerning the practices and mechanisms underlying the institutionalization of this new organizational form (for an exception, see Tracey et al., 2011). To explore how different actors in the social entrepreneurship field draft the institutionalization process of social enterprise, we turn to the literature on institutional work. In the following section, we explain the institutional work perspective and link it to the institutionalization of social enterprise. Institutional work perspective Institutional theory is a dominant approach to the study of organizations (Greenwood, Oliver, Sahlin, & Suddaby, 2008). The focus of institutional studies is on institutions – “cultured-cognitive, normative, and regulative elements that, together with associated activities and resources, provide stability and meaning to social life” (Scott, 2008: 8). Institutions provide “templates for actions, as well as regulative mechanisms that enforce those templates” (Lawrence et al., 2009: 7). Early institutional studies emphasized organizations’ conformity with their institutional environments (Meyer & Rowan, 1977) and the processes by which institutions shape organizational structures and behaviors (DiMaggio & Powell, 1983). As such, this line of research failed to explain institutional change. Recently, Lawrence & Suddaby (2006) proposed the concept of institutional work. Institutional work is defined as “the purposive action of individuals and organizations aimed at creating, maintaining and disrupting institutions” (Lawrence & Suddaby, 2006: 215). By definition, institutional work focuses on activities to change or maintain

54


institutions rather than accomplishments (i.e., institutional creation, maintenance, and disruption) and thereby takes into account unintended consequences of these activities (Lawrence, Suddaby, & Leca, 2009). Moreover, institutional work is more or less intentional and requires actors’ effort to move beyond their taken-for-granted beliefs and behaviors to achieve certain effect on institutions (Lawrence et al., 2009). Since the institutional work approach focuses on how actors affect institutions, it represents a significant departure from institutional theory (Hwang & Colyvas, 2011). Prior institutional studies concentrated on institutions and the ways they shape the behavior and beliefs of individuals and organizations (Meyer & Rowan, 1977; DiMaggio & Powell, 1983; Scott, 2008). In contrast, the study of institutional work aims at bringing actors and agency to the center stage of institutional theory and providing an alternative explanation for institutional change (Lawrence, Suddaby, & Leca, 2011; Hwang & Colyvas, 2011). So far, much of the literature on institutional work has focused on identifying the types of institutional work of some particular actors, mainly professionals in the developed world (Lawrence, Leca, & Zilber, 2013; Martí & Mair, 2009). For example, Ritvala & Kleymann (2012) illustrated that scientists, by performing issue framing, counterfactual thinking, bridging, networking, resource mobilization, and authentic leadership, contributed to the formation of a functional food cluster in Finland. Heaphy (2013) showed different ways that patient advocates used rules to maintain institutionalized roles of the patients, family, and staff in hospitals. Riaz, Buchanan, & Bapuji (2011) provided an empirical account of how bank executives engaged in institutional work to shape public discourse during the 2007-2010 financial crisis. Currie et al. (2012) showed how elite medical professionals engaged in institutional work such as “educating” and “theorizing” to reinforce their dominant roles in the context of new labor policies in the United Kingdom. Although the previous literature has demonstrated the potential of the institutional work perspective to account for institutional change or maintenance, it has not yet explored how different actors engage in institutional work to institutionalize a new organizational form such as social enterprise. Institutionalization refers to the processes by which something (e.g., a new practice, structure, or organizational form) comes to take on a rule-like status (Meyer & Rowan, 1977). These processes of institutionalization require substantial institutional work from actors who support the novel practice, structure, or organizational form (Lawrence & Suddaby, 2006). However, studies of institutionalization have focused attention on “the macro dynamics of fields – the processes through which large-scale social and economic changes occur” (Lawrence et al., 2011: 52), neglecting “the practical, creative work” necessary to make institutionalization happen (Lawrence & Suddaby, 2006: 247). Based on the underlying ideas of institutional work, we expect that the institutional work lens will unpack the microfoundations of the institutionalization of social enterprise. In this paper, we contribute to the literature on institutional work by analyzing seven types of institutional work aimed at creating the institution of social enterprise in Vietnam, including mapping, operationalizing, theorizing, educating, brokering 55


relationships, advocacy and legalizing. In addition, these types of institutional work were interrelated, contextual and synchronous, garnering momentum from unexpected and serendipitous sources. Furthermore, we show how actors in the social entrepreneurship field brokered relationships and drew on networks to facilitate the process of institutionalization. METHODS

Research site The Social Entrepreneurship Field in Vietnam We explored institutional work of key actors in Vietnam’s emerging social entrepreneurship field from 2008 to 2015. We chose this study context for two main reasons. First, Vietnam is a transition economy characterized by the fragility of government and institutions (Tran et al., 2009). Although the Vietnamese government has encouraged private sector development, the country’s market institutions are still largely underdeveloped (Nguyen et al., 2009) and institutional implementation remains relatively weak (Tran et al., 2009). Thus, examining efforts of actors to shape an favourable institutional environment for Vietnamese social enterprises will offer new insights into institutional work (Mair & Martí, 2009; Martí & Mair, 2009). Second, social enterprise has grown in Vietnam in recent years as a new approach to solving complex social and environmental issues. However, because social enterprises have double mission (social and economic) and combine conflicting logics (nonprofit and for profit), the public frequently questions about their purpose and activities. As a result, social enterprise still face numerous difficulties in communicating, collaborating with and acquiring resources from different stakeholders such as the government, businesses, investors, donors, traditional non-profit organizations, and customers. In addition, before 2014, social enterprise has no specific legal form. There were only two legal options for establishing a social enterprise: (1) a company status under the Enterprise Law, and (2) a social organization (or non-profit organization) status under a number of disparate legal documents concerning community-based organizations, charities, social funds, and science and technology organizations. Nevertheless, both legal forms have limitations (e.g., complex procedures for establishing a social enterprise under the form of a social organization due to incomplete and overlap regulations and mission drift for a social enterprise adopting a company status) and seem to be inappropriate for hybrid organizations such as social enterprises. For that reason, key actors in the social entrepreneurship field, mainly some intermediary organizations, sought government recognition and supportive institutions for social enterprise. So, Vietnam is an interesting site for examining how organizations, particularly those who promote and adopt the social enterprise model struggle over the institutionalization of this new organizational form. Table 1 presents a chronology of key events in the social entrepreneurship field.

56


----------------------------------------Insert Table 1 about here ------------------------------------------Key actors in the institutionalization process The Centre for Social Initiatives Promotion (CSIP), British Council (BC), and the Central Institute for Economic Management (CIEM) were three main actors in the process of institutionalization of social enterprise. CSIP is a Vietnamese non-governmental and nonprofit organization established by Ms. Pham Kieu Oanh in 2008. Unlike other local NGOs, during the first years of operation, CSIP received tremendous strategic, technical, and financial support from One Foundation (a private philanthropic fund based in Ireland) to pursue a mission: supporting the development of social enterprises in Vietnam. Since its establishment, CSIP has mainly worked at grassroots level, providing direct support to social enterprises at two stages of development: Incubation and Acceleration. To date, the centre has nurtured and supported more than 80 social enterprises across Vietnam. During the process of institutionalization of social enterprise, CSIP plays the role of a representative of social enterprises. BC is another important actor that strongly promotes the development of social enterprises in the UK and around the world. BC is the UK’s international cultural relations organization, which has offices in 110 countries and territories worldwide. BC has been in Vietnam since 1993 under the status of a foreign independent cultural and education and non-profit organization. BC launched its Global Social Enterprise Program in 2009 and currently operates this program in 24 countries. During the first period of social enterprise development in Vietnam, BC and CSIP worked together to introduce the concept of social enterprise into Vietnam and implement social enterprise support programs. After, BC partnered with CIEM in 2012 to seek supportive policies for social enterprises. CIEM is a government think tank under Ministry of Planning and Investment. The institute’s main functions include doing research, proposing economic management and business environment development policies to the government, and training economic managers. So, during the 2012-2014 period, BC worked with CIEM at macro level to promote the legalization of social enterprise. As a result, social enterprise was officially introduced into the revised Enterprise Law in 2014. During the process of revising that law, BC acted as “an enabler”, “a catalyst”, sharing experience of the UK and other countries in developing social enterprises with Vietnamese policy makers. Meanwhile, CIEM played the leading role in proposing and defending the revised Enterprise Law. Despite their different roles, CSIP, BC and CIEM made important contributions to the creation of the institution of social enterprise in Vietnam.

57


Data Collection The data gathering for this research involves multiple field trips during two years (20132014). Data were collected from three main sources: interviews, observation and archival data. Given the emerging state of the field and the phenomenon under examination, interviews were the primary source of data. In total, we conducted 34 interviews with 29 informants. Informants were recruited following the logic of purposeful sampling in qualitative research (Patton, 2002). That is, “selecting information-rich cases from which one can learn a great deal about issues of central importance to the purpose of the inquiry” (Patton, 2002: 230). Specifically, we select informants from organizations that have contributed to the development of social enterprises in Vietnam by providing direct support (e.g., financial, technical, etc.) to social enterprises, by raising awareness about this new organizational form, and by creating a supportive legal framework. Since 2013, we have built relationship with CSIP – the first intermediary organization that has nurtured and supported more than 80 social enterprises across Vietnam. So, we start with the Founder of CSIP. Then, we ask this person who else to talk with. This sampling approach allows us to choose “information-rich key informants” (Patton, 2002: 237) from local NGOs and international NGOs, social enterprises, State agencies, and impact investing organizations. Informants were asked about the process of institutionalization of social enterprise in Vietnam (particularly the process of policy advocacy for social enterprise), the stakeholders involved in the process, their roles, activities and relationships during the process. These interviews were semi-structured and lasted between 30 minutes and one and a half hours. All but one participant permitted the use of a recording device; the single unrecorded interview was conducted with thorough note taking during and immediately following the interview to ensure accurate representation of the participant’s responses. A second important source of data was direct, non-participant observation. We attended a number of events organized by key actors in the field. Key observation events include Social investment forum Vietnam 2013, CSIP’s networking events, training course (both online and offline) for social enterprises, and workshop on Policy and Implementation, BC’s workshops on social enterprise and partnership signing ceremony. We also visited and interviewed a number of social enterprises and Civil Society Organizations (CSOs) in the framework of CSIP’s programs (Social Enterprise Support Program and Innovating Civil Society Organizations Program). In addition, we had access to a range of internal documents from CSIP, including its business plan, materials of training courses and programs’ materials (e.g., master plans, information sheets, PowerPoint presentations, research and reports). These documents provided important background information about this pioneering organization and insights into its strategic direction and activities. We also consulted websites of other organizations (i.e., BC and CIEM), which were directly involved in the social enterprise institutionalization project. Moreover, we searched newspaper articles on social 58


enterprises in Vietnam, especially those on the legalization of social enterprise. Overall, we consulted 90 documents of various types: business plans, programs’ materials, press releases, newsletters, websites, event documents, reports, legal documents, news articles, and television news, reports and programs. Data Analysis The data analysis took place in two main stages. The first stage involved drawing on accounts of our interviewees, field notes and archival data – the internal documents and the media coverage on social enterprise in order to identify key actors and construct chronological lists of key events and activities by actor. We then composed a narrative of the process of institutionalization of social enterprise from the raw data (Langley, 1999). This narrative allowed us to develop a detailed understanding of what happened and who did what when in the process. In addition, we compared events and ideas discussed by the informants. Given that several informants were involved in the same events and activities, some of their ideas and perspectives could be compared and confirmed against one another. In the second stage of the analysis, we adopted Corley & Gioia’s (2004) method of data analysis to identify the types of institutional work. Specifically, we performed open coding by identifying initial codes and grouping them into categories. We reexamined interview transcripts, noting passages which refer to how, why, when and by whom the social enterprise form was diffused and adopted and wrote general comments about the perspective of the informant. Then we read the transcripts again and engaged in “line-byline coding” (Charmaz, 2014). We conceptually coded each sentence by using “in-vivo” or first-order codes, which were the terms used by the informants or simple descriptive phrases when in-vivo codes were not available. Next, we employed axial coding, searching for relationships between and among first-order categories. This allowed us to collapse the first-order categories into a smaller number of second-order themes. And finally, we gathered similar themes into several aggregate theoretical dimensions. So, we proceeded coding iteratively, moving between data, emergent concepts and theory until the data were refined into adequate conceptual themes. Through this process of coding, we identified seven types of institutional work respectively: mapping, operationalizing, theorizing, educating, brokering relationships, advocacy and legalizing. The data structure is illustrated in Figure 1 as follows. -----------------------------------------Insert Figure 1 about here ------------------------------------------FINDINGS

We now return to our research question and provide some initial answers about the types of institutional work undertaken by key actors to institutionalize social enterprise. Based

59


on our data analysis, we identified three stages of institutionalization of social enterprise in Vietnam, which were underpinned by a particular set of institutional work: (1) Introducing a new concept (i.e., social enterprise); (2) Engaging stakeholders; and (3) Formalizing institutional change. These stages were contiguous with some overlap. Figure 2 maps emergent categories of institutional work onto three stages of institutionalization. -----------------------------------------Insert Figure 2 about here ------------------------------------------Stage 1: Introducing a New Concept (2008-2010) Being concerned with the question “How to make a transformational change for a better society?” and inspired by Declan Ryan, a maverick Irish entrepreneur and also co-founder of the One Foundation (a private philanthropic fund based in Ireland), Pham Kieu Oanh established CSIP in October 2008. CSIP was registered as an NGO under Vietnam Union of Science and Technology Associations (VUSTA). Unlike other NGOs in Vietnam, CSIP received tremendous strategic, technical, and financial support from the One Foundation from the beginning. Its mission is to support the development of social enterprises in Vietnam. At that time, social enterprise was a very new concept in this developing country. Therefore, the objective of CSIP during the first three years (20092011) was to introduce the concept into Vietnam. To do this, CSIP engaged in mapping, operationalizing, theorizing and educating. All these types of institutional work were conducted at grassroots level. Mapping. Mapping involves the definition of an emerging field, its boundaries, and current state. Before establishing CSIP, the founder of CSIP engaged a group of friends to conduct a preliminary study on social entrepreneurship practices and existing models in Vietnam. Based on interviews with leading social and business champions across Vietnam, this study identified the characteristics of social entrepreneurs and mapped out the emergence and boundaries of social entrepreneurship in Vietnam. According to this study, although some initial forms of social enterprise (e.g., cooperatives and NGOs with income generating activities) had existed for quite a long time in the country, these organizations did not call themselves as such. In addition, social entrepreneurship was likely to be “a part of the growing civil society in Vietnam” (CSIP, 2008). “To my knowledge, the starting point is that as the founder, Mrs. Oanh conducted a small baseline survey nationwide. She went from the North to the South to interview…then wrote a report on current situation of Vietnamese social enterprises. In her 2008 report, she found that preliminary forms of social enterprises existed somewhere but they did not call themselves as such. They were either a social organization or a business, whose primary objective is not profit, but used the (business) tool, adopted this (business) approach to realize their inner wish, their aspiration, their dream.” (Informant 2)

60


Remarkably, the study highlighted a number of challenges to social entrepreneurs and the kinds of supports necessary for promoting social entrepreneurship in Vietnam. These findings provided the basis for the design of CSIP’s social enterprise support program, which enabled another type of institutional work – Operationalizing. Operationalizing. Operationalizing involves the search for potential organizational models and the provision of direct support to nurture and develop these models. To activate the movement of social entrepreneurship in Vietnam, CSIP started with a core program: the Social Enterprise Support Program (SESP). Being first launched in June 2009, this program provided intensive support to social enterprises at early development stages. Specifically, selected social entrepreneurs received seed capital ($3,000-$5,000 for start-up and $20,000-$30,000 for take-off), support in capacity building (training courses and business consultancy), networking and promotional campaigns. According to some of the informants, the criteria for selection at that time were quite simple in order to attract participation. For example, individuals having innovative ideas to solve social and/or environmental problems were eligible to participate in the program. If selected, they received fund from CSIP to realize their ideas. Thus, during the first three years, the number of applications was quite high (around 100-200 applications per year). But only 10-15 social entrepreneurs were chosen. The objective of CSIP (via its SESP program) was to encourage the adoption of the social enterprise model and to nurture pilot models. A program coordinator told us: “This program aims at mapping out potential models then we provide support to social entrepreneurs so that they realize their ideas, they make existing models more effective.” (Informant 4) Based on our analysis, we therefore argue that operationalizing is an important type of institutional work. Operationalizing contributes to the creation of a network of social enterprises by which best practices were shared, norms and values associated with the social enterprise model was dissemminated. Operationalizing also served as the basis for other types of institutional work during the next stages. “At the time of CSIP’s establishment, it means in 2008, no one knew what was social enterprise…So, the first thing to do, to say about social enterprise, we should have the models so people understand what is social enterprise…So, through this program (SESP), we have social enterprise showcases, which then provide material for communications, raising awareness and policy advocacy.” (Informant 4) We found that in addition to materialize the new institution (i.e., social enterprise), since the beginning CSIP engaged in two interrelated types of institutional work (i.e., theorizing and educating) to shape the cultural-cognitive dimension of the new institution. While theorizing refers to “the development and specification of abstract categories and the elaboration of chains of cause and effect” (Greenwood, Suddaby, & Hinings, 2002: 60), educating actors requires providing stakeholders with knowledge necessary to support the new institution (Lawrence & Suddaby, 2006).

61


Theorizing. In fact, the 2008 preliminary study on social entrepreneurs in Vietnam was also CSIP’s first attempt to define the new concepts of social entrepreneur, social entrepreneurship and social enterprise and to clarify the characteristics of Vietnamese social entrepreneurs. Building on widely quoted definitions in the world as well as perspectives of this study’s participants, CSIP constructed its own definition of social entrepreneur. Accordingly, social entrepreneurs were considered as “visionary and pragmatic leaders who apply entrepreneurial manner and skills to address social problems” (CSIP, 2008). Later, being influenced by the discourse on heroic social entrepreneurs in the world, CSIP also referred social entrepreneurs to “change agents”, “unreasonable, but powerful persons” (CSIP, 2011) and social enterprise as “a new trend of the time” or “a new approach…to address a social issue” (VTV1, 2011). It should be noted that CSIP was the first organization that introduced and translated the terms “social entrepreneur”, “social enterprise” and “social entrepreneurship” into Vietnamese. Therefore, when mentioning CSIP, most informants referred to CSIP’s role as a pioneer in introducing the new concepts into Vietnam. As an informant stated: “At that time, social enterprise was unknown. No one knew that concept. It was not theorized, not generalized as an approach. Thus, with such a starting point, CSIP in the role of a pioneer…promoted communications a lot.” (Informant 2) Educating actors. Since the concept of “social enterprise” was unknown to many people at CSIP’s establishment, CSIP focused on raising public awareness about social enterprise. Specifically, the centre organized a variety of workshops and events on social enterprise. It also engaged the mass media (more than 200 journalists and 17 radio/television stations) in making news and reports on social enterprise. As a result, during three years (2009-2011) nearly 200 news, articles, and TV reports on social enterprise were produced (CSIP report, 2013). In addition, CSIP itself actively disseminated the concepts of “social enterprise” and “social entrepreneur” and inspiring stories of successful social entrepreneurs via its own communications channels (e.g., website, facebook, twitter, youtube and e-newsletter). Obviously, the aim was to educate the public about the new organizational form and to attract potential adopters. As a member of CSIP noted: “The focus at this stage was on communications to implant the concept of social enterprise into the community and society. Communicate continuously through the TV, radio, and events so that people are aware of social enterprise.” (Informant 2) When CSIP launched its first SESP program in 2009, BC also wanted to promote social enterprise in Vietnam. Thus, two organizations quickly became strategic partner. During the first period, BC supported CSIP in building capacity for CSIP’s officers, trainers and social enterprises in the framework of the SESP program. This collaboration was rooted in the UK’s expertise in social enterprise development. In addition, as the UK’s leading international cultural relations organization, BC also has a network of journalists and 62


mass media that accompany its various programs in Vietnam. Thus, since 2009 BC collaborated with CSIP in many promotional campaigns for social enterprises.: “(BC’s support to CSIP) was capacity building. Capacity building involves their support in ToT training, that is training of local experts. And in communications. The budget (of BC) has been mainly allocated into their interested parts.” (Informant 1) In addition to building its own network, CSIP initiated the creation of social entrepreneur clubs in three big cities of Vietnam (Hanoi, Da Nang, and Ho Chi Minh city). Moreover, networking events were frequently organized, allowing social entrepreneurs to build partnerships as well as to learn from each other by sharing their business models, experiences and practices. These activities aimed at supporting networks for newly established social enterprises of the SESP program. In summary, our analysis revealed that CSIP and BC were two main actors engaging in institutional work during the first stage of institutionalization. Because social enterprise was a new concept at that time, the interested organizations collaborated in supporting potential social enterprise models to support institutional creation and diffusion at grassroots level. Their main objective was to introduce the concept of social enterprise as well as to set up the social entrepreneurship movement in Vietnam. Stage 2: Engaging Stakeholders (2011-2013) During the second period, we found that BC and CSIP collaborated with CIEM to perform theorizing and educating at macro level in order to raise awareness of government officials about the importance of social enterprise. At the same time, these organizations engaged in two important types of institutional work: brokering relationships and advocacy. Brokering means facilitating introductions and exchanges among different stakeholders of the field (McKague et al., 2015). Advocacy is “the mobilization of political and regulatory support through direct and deliberate techniques of social suasion” (Lawrence & Suddaby, 2006: 221). The objective of these types of institutional work was to seek stakeholders’ consensus and support for the legalization of social enterprise. Theorizing. In this period, interested organizations engaged in more theorization by conducting a series of researches. Doing research was in fact part of the partnership between BC and CIEM with a view to advocating a supportive legal framework for social enterprises. But CSIP also participated into this work, providing case studies of social enterprises in Vietnam. The first joint research of three interested organizations – “Social Enterprise in Vietnam: Concept, Context and Policies” was published in 2012. This research was “a landmark” at that time, setting the foundation for policy advocacy through a comprehensive analysis of the concept of “social enterprise” and a detailed examination of the current situation of social enterprises in Vietnam and international experiences. An informant put it:

63


“We began with preliminary research. We did research to see whether there were social enterprises in Vietnam or not, if yes, what was their development level compared to that of social enterprises in the region and in the UK. So, by a series of research. Certainly, you read the research entitled ‘Social enterprise in Vietnam: Concept, Context and Policies’. So, that research was really a landmark at that time, analyzing the current situation in Vietnam and based on that research as well as its results, the next steps emerged: should or should not advocate for a policy, should or should not have the government recognition or create a more favorable environment for social enterprise development?” (Informant 6) Thus, we contend that doing research was a kind of theorizing to elaborate the new concept of social enterprise and justify the necessity of institutionalizing social enterprise in Vietnam. Since this concept was introduced into the country for just several years, indepth research on social enterprise was required before creating a legal framework for this new organizational form. “For policy advocacy, we have to do research…Whenever any law is made, doing research is required. A supporting research is necessary to give to the government or something like that. This (research) is in the framework of policy advocacy.” (Informant 3) More importantly, in our case we focused attention on the process of theorizing (i.e., how the interested actors did research). Based on CIEM’s advice, BC invited stakeholders, mainly policy makers (e.g., representatives of the National Assembly, Ministry of Planning and Investment, and Vietnam Fatherland Front) to participate in field trips to the UK and other South East Asian countries where social enterprises are more developed and there is government support for these organizations. After these field trips, BC also engaged these stakeholders in writing the research. The objective was to educate the latter and then to seek their support. As such, theorizing was closely associated with types of institutional work such as engaging, educating and advocacy. “Before doing research, we invited people working in the institute (CIEM), organizations considered as stakeholders…we invited them to visit Singapore and Indonesia where social enterprises are more developed than those in Vietnam…And there is government involvement there…Since they participated in some events and had exposure to such organizations (social enterprises), when coming home, they could figure out what a social enterprise is. Then (they) did research.” (Informant 6) Educating. In addition to doing research, CSIP, BC, and CIEM co-organized a variety of research dissemination workshops in order to raise government officials’ awareness about social enterprise. The leaders of three organizations also spoke at the National Assembly’s local meetings to share knowledge about social enterprise with the National Assembly’s representatives. At these meetings, they also invited relevant social enterprises to demonstrate how social enterprises can support the State to implement policies related to disadvantaged communities. 64


“Once the concept was defined, we began to raise awareness of representatives of the National Assembly, awareness of Government officials, because if we want to advocate, they have to understand (social enterprise) before supporting us. So, we co-organized talks with Mr. X and Ms. Y as guest speakers at that time. We frequently made jokes with each other as ‘a circus team’. The ‘circus team’ included British Council, CIEM, and CSIP who co-organized the talks.” (Informant 6) Advocacy. CSIP and BC co-organized a multi-stakeholders dialogue on social entrepreneurship in August 2011. The event was a success, attracting participation of many State agencies, research institutes, donors, international development agencies, businesses, social enterprises and civil society organizations. In a press release, CSIP stated that this event aimed at raising awareness of stakeholders about social enterprise and calling for their co-operation in supporting the development of social enterprises in Vietnam. As such, this multi-stakeholders dialogue was considered as the first advocacy effort of CSIP and BC. As an informant recalled: “In the late 2011, CSIP organized a multi-stakeholder meeting on social enterprise…We invited ministries…In fact, if we had invited them earlier, obviously they didn’t come because they didn’t know (about social enterprise). But after 2-3 years of (CSIP) activity, they saw that the television and radio talked a lot about social enterprise. State officials themselves were aware of it (social enterprise) and felt something appealing here. So, when we organized the meeting, they began to participate.” (Informant 1) Later, CSIP, BC collaborated with CIEM in policy advocacy. They organized a variety of events and carried out mass media programs on social enterprise (e.g., policy dialogues on social enterprise on the national television). The objective of these activities is to raise awareness of policy makers. During the process of advocacy, CIEM was to be the leading actor. Specifically, the think tank repeatedly framed social enterprise as a “companion” rather than a “substitute” of the government in solving social problems. It often aligned the social mission of social enterprise with the macro discourse. That is, the social mission of social enterprise is consistent with the government’s attention to social issues or attempts to balance economic and social development. From time to time, CIEM problematized the role of the government, arguing that “the government is no longer able to address all social problems” due to “its limited budget” and “increasing social issues”. Furthermore, it recommended the government to adopt a new public management approach by creating a market for social enterprises, allowing social enterprises to provide public services. Brokering relationships among stakeholders. In addition to advocacy, the key actors engaged in brokering relationships among stakeholders - facilitating introductions and exchanges between stakeholders of the field (McKague et al., 2015) to promote the institutionalization of social enterprise. For example, BC connected CSIP to CIEM in doing the first research on social enterprise in Vietnam. Since 2012, CSIP brokered

65


relationships between social enterprises and policy makers (e.g., CIEM and National Assembly), engaging social enterprises in CIEM’s surveys, field trips, and consultative meetings. As such, brokerage was the main mechanism of institutionalization. “When we participated in policy advocacy, we also helped to connect policy makers with social enterprises because this policy is for social enterprises, serving the benefits of social enterprises… Therefore, via our network, we connected social enterprises to participate directly in interviews, workshops of policy makers. In addition to our role of facilitating policy advocacy, we were also a representative of social enterprises in the fact that we listened to social enterprises’ opinions, then we gathered (these opinions) into recommendation documents to submit to CIEM.” (Informant 1) “For example, CSIP organized field visits to directly consult some enterprises. CSIP is responsible for introducing enterprises in CSIP’s network.” (Informant 10) In summary, during the second stage, CIEM, BC and CSIP collaborated in different types of institutional work to seek stakeholders’ consensus on the institutionalization of social enterprise. Through a variety of workshops and forums, the key actors could raise awareness of highly legitimate actors then persuade them to support social enterprise. Stage 3: Formalizing Institutional Change (2014-now) Our data analysis revealed that during this stage, actors focused mainly on institutional work to create the regulative pillar of the new institution. In addition, CIEM was the key actor that directly legalized and advocated for social enterprise at macro level. Meanwhile, BC and CSIP played the role of supporting agencies. Legalizing. Legalizing refers to the creation of new law on the new organizational form. At the beginning of 2014, after consulting different stakeholders, CIEM introduced an article on social enterprise into the Revised Enterprise Law. The think tank published the Revised Law on its website for public comments. Then, it first presented the Revised Law Draft at the National Assembly’s general meeting in May. There were multiple viewpoints on the article on social enterprise; however, the general response was positive. Therefore, the article on social enterprise was first approved in June with some minor revision requirements. “We (CIEM) introduced the (social enterprise) concept into the law. There are three new articles in the revised enterprise law, which are under discussion at the National Assembly. After the first approval in June, a final decision will be made in October.” (Informant 7) Advocacy. In addition to legalizing, CIEM played a key role in seeking approval for the new article on social enterprise. Meanwhile, BC and CSIP acted as enablers, supporting CIEM with convincing evidence of social enterprises at home and abroad.

66


“Recently, during the criticism process of the National Assembly, CIEM, specifically Mr. X directly called me to collect data and information many times. We provided him with a series of data and new information so that he has evidence.” (Informant 1) At the same time, to diffuse the new institution, BC collaborated with the national television broadcaster (VTV) to make policy dialogue programs on social enterprise with CIEM and CSIP as the main speakers. Most recently, BC has partnered with another big television station – Hanoi Radio – Television to launch the “Social Innovation and Development” program series. In one of the program series, it is stated that the aim of this program is to introduce Vietnamese social enterprise models and enhance their legal and social status. In addition to educational purposes, both TV programs illustrated actors’ efforts to persuade stakeholders, especially policy makers to adopt the social enterprise model. Repeatedly, it is suggested that social enterprise is a helping hand of the government in solving social problems and a proper business model for pursuing the socialist-orientation of Vietnam. In summary, our exploratory study examines the microfoundations of the institutionalization process of social enterprise in Vietnam. We found that CSIP, BC, and CIEM were the main actors engaging in seven practices or institutional work: mapping, operationalizing, theorizing, educating, brokering relationships, advocacy, and legalizing. Remarkably, most of these types of institutional work (e.g., theorizing, educating, and advocacy) happened simultaneously and reinforced each other. In addition, we found the same types of institutional work (e.g., educating and advocacy) in different stages of institutionalization. So, we suggest that these types of institutional work are particularly important for the diffusion and adoption of the new institution (i.e., social enterprise) and thus should be used persistently. Table 2 presents empirical data that support our interpretations of institutional work. ----------------------------------------Insert Table 2 about here ------------------------------------------DISCUSSION AND CONCLUSION In this paper, we sought a better understanding of how social enterprise became institutionalized. Based on our analysis of institutional work in Vietnam’s emerging field of social entrepreneurship, we found that institutionalization of social enterprise was underpinned by seven types of institutional work (mapping, operationalizing, theorizing, educating, brokering relationships, advocacy and legalizing). In addition, we recognized that organizations acting as brokers in the field (e.g., BC and CSIP) played an important role in the process of institutionalization. Moreover, it is the local context that motivated actors to engage in institutional work. Our findings contribute to the study of institutional work and social entrepreneurship. In this section, we discuss these contributions in more detail.

67


Implications for the social entrepreneurship literature Prior research on social entrepreneurship has focused on how actors use discourse to legitimize social enterprise (Hervieux et al., 2010; Nicholls, 2010). In this study, we concentrate, however, on the types of institutional work undertaken by actors to institutionalize social enterprise. Our analysis demonstrates that actors engaged in multiple types of institutional work and used both bottom-up and top-down approaches to institutionalizing social enterprise. Specifically, they performed seven types of institutional work at both grassroots and macro levels: mapping, operationalizing, theorizing, educating, brokering relationships, advocacy, and legalizing. These types of institutional work contributed to form three pillars of an institution (i.e., social enterprise): cultural-cognitive, normative, and regulative. Each types of institutional work has a different meaning in the process of institutionalization. Prior institutional work research has emphasized the need for exploring “multiple means by which agents interact with institutions, including discourse, social relations, symbols as well as material artifacts” (Lawrence et al., 2013: 1028). Our data suggest that during the first stage of institutionalization, actors focused on mapping and operationalizing social enterprise to create material artifacts (i.e., social enterprise models) that enabled the instantiation, diffusion and institutionalization of this new model in later stages. In addition, actors in our case strategically showcase social enterprise models in various study visits and events to educate, inspire, and engage stakeholders into the field. So, mapping and operationalizing provided the basis for formalizing institutional change. Meanwhile, educating actors, which was persistently used in different stages of institutionalization, seems to be a critical type of institutional work in an emerging field. Finally, by legalizing social enterprise, key actors in the social entrepreneurship field provide this new organizational model with legitimacy necessary for its development. Implications for the literature on institutional work Much of the literature on institutional work has focused on identifying the types of institutional work of particular actors, mainly professionals in the developed world (Lawrence, Leca, & Zilber, 2013; Martí & Mair, 2009). Our study highlighs institutional work of organizations acting as brokers in the social entrepreneurship field in the context of a transitional economy. Remarkably, social brokerage is an important mechanism to facilitate the institutionalization of social enterprise. When considering how actors can actively manage social relations, network analysts point to the notion of brokerage. Brokerage is traditionally considered as an opportunistic behavior whereby brokers position themselves between disconnected actors in order to reap the benefits of this connection while maintaining disconnected actors isolated. Such benefits include access to more diverse information, resources and opportunities (Burt, 1992). This behavior is named tertius gaudens (rejoicing third) after Simmel’s work (1950) which insisted on the benefits that an actor might obtain from exploiting conflict between two other parties egoistically for her own good. More recently, authors have paid attention to another form 68


of brokerage called tertius iungens to refer to brokers who (Obstfeld, 2005) ensure coordination among disconnected actors and possibly introduce them to each other, then closing gaps in the social structure rather than benefiting selfishly from them. In our case, both CSIP and BC performed this form of brokerage. Transnational actors operated as brokers among multiple local partners to build a stronger coalition. For example, BC organizes stakeholder meetings every three months to promote exchanges and partnerships throughout the field. The participants include social enterprises, intermediary organizations, policy makers, investors and international donors. As such, BC uses its own legitimacy and resources as an international NGO to facilitate trust among participants. Meanwhile, CSIP is an intermediary organization. Since its establishment, CSIP has built a network of social enterprises via a core program – the Social Enterprise Support Program and brokered relationships among social enterprises and those between social enterprises and other stakeholders (e.g., policy makers). Lawrence & Suddaby (2006) suggest that actors use different types of institutional work in different stages of an institutional lifecycle (i.e., creation, maintenance, and disruption). Our study challenges this view. Our findings suggest that the use of specific types of institutional work depends on the context. During the first period, actors in our case focused on institutional work at grass-roots level to build experimental social enterprise models and raise public awareness about social enterprise. However, during later periods, they engaged in institutional work at macro-level to legitimize social enterprise. The types of institutional work performed by key actors in the field depend on the context of Vietnam, in which these actors operate. Our findings resonate with the observation that “institutional contexts determine what sorts of actors would perform what kinds of institutional work” (Hwang & Colyvas, 2011: 64). In addition to arguing that institutional work is contextual, our study suggests that institutional work is time-dependent and that good timing is critical for achieving certain institutional outcomes. Our case shows that actors initiated the institutionalization of social enterprise in a transitional economy at the moment the Enterprise Law was revised. As a result, they can speed up the process of institutionalization of social enterprise. Prior research suggested different temporal orientations in institutional work (Battilana & D’Aunno, 2009). However, we know little about the role of time in institutional work. Our findings shed more light on time, a dimension that has not yet been fully understood in institutional work research. To conclude, this study responds to calls for more empirical studies of institutional work in the developing world (Martí & Mair, 2009). While the study contributes to institutional work research by discussing the role of brokers in institutional work, it also contributes to the social entrepreneurship literature by analyzing specific activities by which actors institutionalize social enterprise.

69


The study has some implications for a number of potential areas for future research. First, there is a need to explore why and how organizations playing the role of brokers can engage in institutional work. Second, our analysis reveals how actors mobilized material artifacts to influence potential adopters of the new organizational form as well as government stakeholders. This suggests an interesting avenue for investigating further what sorts of actors employ what kinds of artifacts under which conditions. Third, we propose that context and time are important factors that constrain or enable actors to perform certain types of institutional work, thus influencing the pace of diffusion and adoption. Further research is needed to explore how timing and context sensibility help actors attain the intended institutional effects. References 1. Austin, J., Stevenson, H., & Wei-Skillern, J. 2006. Social and commercial entrepreneurship: same, different, or both? Entrepreneurship theory and practice, 30(1): 1-22. 2. Bacq, S., & Janssen, F. 2011. The multiple faces of social entrepreneurship: A review of definitional issues based on geographical and thematic criteria. Entrepreneurship & Regional Development, 23(5-6): 373–403. 3. Battilana, J. & D’Aunno, T. 2009. Institutional Work and the Paradox of Embedded Agency. In T.B. Lawrence, R. Suddaby & B. Leca (Eds.), Institutional Work: Actors and Agency in Institutional Studies of Organization: 31-58. New York: Cambridge University Press. 4. Battilana, J., & Dorado, S. 2010. Building sustainable hybrid organizations: The case of commercial microfinance organizations. Academy of Management Journal, 53(6): 1419–1440. 5. Battilana, J. & Lee, M. 2014. Advancing Research on Hybrid Organizing – Insights from the Study of Social Enterprises. The Academy of Management Annals, 8(1): 397-441. 6. Bornstein, D. 2007. How to Change the World: Social Entrepreneurs and the Power of New Ideas. Oxford University Press, Oxford, UK. 7. Brouard, F. & Larivet, S. 2010. Essay of clarifications and definitions of the related concepts of social enterprise, social entrepreneur and social entrepreneurship. In A. Fayolle & H. Matlay (Eds.), Handbook of research on social entrepreneurship: 29-56. Edward Elgar. 8. Charmaz, K. 2014. Constructing grounded theory (2nd ed.). Sage Publications. 9. Cochran, P. L. 2007. The evolution of corporate social responsibility. Business Horizon, 50(6): 449-454. 10. Corley, K. G. & Gioia, D. A. 2004. Identity Ambiguity and Change in the Wake of a Corporate Spin-Off. Administrative Science Quarterly, 49(2): 173- 208. 11. Currie, G., Lockett, A., Finn, R., Martin, G., & Waring, J. 2012. Institutional Work to Maintain Professional Power: Recreating the Model of Medical Professionalism. Organization Studies, 33(7): 937–962. 12. Dacin, P.A., Dacin, M. T. & Matear, M. 2010. Social Entrepreneurship: Why We Don’t Need a New Theory and How We Move Forward From Here. Academy of Management Perspectives, 24(3): 37-57.

70


13. Dacin, M. T., Dacin, P. A., & Tracey, P. 2011. Social Entrepreneurship: A Critique and Future Directions. Organization Science, 22(5): 1203–1213. 14. Dees, J. G. 2007. Taking Social Entrepreneurship Seriously. Society, 44(3): 24-31. 15. Di Domenico, M., Haugh, H., & Tracey, P. 2010. Social Bricolage: Theorizing Social Value Creation in Social Enterprises. Entrepreneurship Theory and Practice, 34(4): 681-703. 16. DiMaggio, P. J. & Powell, W. W. 1983. The Iron Cage Revisited: Institutional Isomorphism and Collective Rationality in Organizational Fields. American Sociological Review, 48(2): 147-160. 17. DiMaggio, P. J. 1988. Interest and Agency in Institutional Theory. In L.G. Zucker (Ed.), Institutional Patterns and Organizations Culture and Environment: 3-22. Cambridge Mass.: Ballinger. 18. Ebrahim, A., Battilana, J., & Mair, J. 2014. The governance of social enterprises: Mission drift and accountability challenges in hybrid organizations. Research in Organizational Behavior, 34(2014): 81-100. 19. Empson, L., Cleaver, I., & Allen, J. 2013. Managing Partners and Management Professionals: Institutional Work Dyads in Professional Partnerships: Managing Partners and Management Professionals. Journal of Management Studies, 50(5): 808–844. 20. Florek, N. E. 2013. Enabling social enterprise through regulatory innovation: a case study from the United Kingdom. Journal of Sustainable Finance & Investment, 3(2): 155175. 21. Gawer, A., & Phillips, N. 2013. Institutional Work as Logics Shift: The Case of Intel’s Transformation to Platform Leader. Organization Studies, 34(8): 1035–1071. 22. Greenwood, R., Suddaby, R., & Hinings, C. R. 2002. Theorizing change: The role of professional associations in the transformation of institutionalized fields. Academy of management journal, 45(1): 58–80. 23. Heaphy, E. D. 2013. Repairing Breaches with Rules: Maintaining Institutions in the Face of Everyday Disruptions. Organization Science, 24(5): 1291–1315. 24. Hervieux, C., Gedajlovic, E., & Turcotte, M.-F. B. 2010. The legitimization of social entrepreneurship. Journal of Enterprising Communities: People and Places in the Global Economy, 4(1): 37-67. 25. Hwang, H., & Colyvas, J. A. 2011. Problematizing Actors and Institutions in Institutional Work. Journal of Management Inquiry, 20(1): 62–66. 26. Jones, C., & Massa, F. G. 2013. From novel practice to consecrated exemplar: Unity Temple as a case of institutional evangelizing. Organization Studies, 34: 1099–1136. 27. Langley, A. 1999. Strategies for Theorizing from Process Data. The Academy of Management Review, 24(4): 691-710. 28. Lawrence, T. B. & Suddaby, R. 2006. Institutions and Institutional Work. In S. R. Clegg, C. Hardy, T. B. Lawrence & W. R. Nord (Eds.), The SAGE Handbook of Organization Studies: 215-254. London: SAGE Publications. 29. Lawrence, T. B., Suddaby, R. & Leca, B. 2009. Introduction: theorizing and studying institutional work. In T.B. Lawrence, R. Suddaby & B. Leca (Eds.), Institutional Work: Actors and Agency in Institutional Studies of Organization: 1-27. New York: Cambridge University Press.

71


30. Lawrence, T. B., Suddaby, R., & Leca, B. 2011. Institutional Work: Refocusing Institutional Studies of Organization. Journal of Management Inquiry, 20(1): 52–58. 31. Lawrence, T. B., Leca, B., & Zilber, T. B. 2013. Institutional Work: Current Research, New Directions and Overlooked Issues. Organization Studies, 34(8): 1023–1033. 32. Mair, J. & Martí, I. 2006. Social entrepreneurship research: A source of explanation, prediction, and delight. Journal of World Business, 41(1): 36–44. 33. Mair, J. & Martí, I. 2009. Entrepreneurship in and around institutional voids: A case study from Bangladesh. Journal of Business Venturing, 24(5): 419–435. 34. Martí, I. & Mair, J. 2009. Bringing change into the lives of the poor: entrepreneurship outside traditional boundaries. In T.B. Lawrence, R. Suddaby & B. Leca (Eds.), Institutional Work: Actors and Agency in Institutional Studies of Organization: 92-119. New York: Cambridge University Press. 35. Martin, R. J. & Osberg, S. 2007. Social entrepreneurship: The case for a definition. Stanford Social Innovation Review, Spring 2007: 29-39. 36. McKague, K., Ziestma, C., & Oliver, C. 2015. Building the social structure of a market. Organization Studies, 36(8): 1063-1093. 37. Meyer, J. W. & Rowan, B. 1977. Institutionalized organizations: Formal structure as myth and ceremony. American Journal of Sociology, 83(2): 340– 363. 38. Micelotta, E. R., & Washington, M. 2013. Institutions and Maintenance: The Repair Work of Italian Professions. Organization Studies, 34(8): 1137–1170. 39. Moss, T.W., Short, J.C., Payne, G.T., & Lumpkin, G.T. 2011. Dual Identities in Social Ventures: An Exploratory Study. Entrepreneurship Theory and Practice, 35(4): 805-830. 40. Nicholls, A. 2010. The Legitimacy of Social Entrepreneurship: Reflexive Isomorphism in a Pre-Paradigmatic field. Entrepreneurship Theory and Practice, 34(4): 611-633. 41. Patton, M. Q. 2002. Qualitative research & evaluation methods (3rd ed.). Thousand Oaks, Calif.: Sage Publications. 42. Peredo, A. M., & McLean, M. 2006. Social entrepreneurship: A critical review of the concept. Journal of World Business, 41(1): 56–65. 43. Pless, N. M. 2012. Social Entrepreneurship in Theory and Practice-An Introduction. Journal of Business Ethics, 111(3): 317-320. 44. Raviola, E., & Norback, M. 2013. Bringing Technology and Meaning into Institutional Work: Making News at an Italian Business Newspaper. Organization Studies, 34(8): 1171–1194. 45. Riaz, S., Buchanan, S., & Bapuji, H. 2011. Institutional work amidst the financial crisis: emerging positions of elite actors. Organization, 18(2): 187–214. 46. Ritvala, T. & Kleymann, B. 2012. Scientists as Midwives to Cluster Emergence: An Institutional Work Framework. Industry & Innovation, 19(6): 477–497. 47. Roberts, D. & Woods, C. 2005. Changing the world on a shoestring: The concept of 48. social entrepreneurship. University of Auckland Business Review, 7(1): 45-51. 49. Ruebottom, T. 2013. The microstructures of rhetorical strategy in social entrepreneurship: Building legitimacy through heroes and villains. Journal of Business Venturing, 28(2013): 98-116.

72


50. Scott, W. R. 2008. Institutions and Organizations (3rd ed.). Thousand Oaks London: Sage Publications. 51. Short, J. C., Moss, T. W., & Lumpkin, G. T. 2009. Research in social entrepreneurship: past contributions and future opportunities. Strategic Entrepreneurship Journal, 3(2): 161-194. 52. Slager, R., Gond, J.-P., & Moon, J. 2012. Standardization as Institutional Work: The Regulatory Power of a Responsible Investment Standard. Organization Studies, 33(5-6): 763–790. 53. Smets, M., & Jarzabkowski, P. 2013. Reconstructing institutional complexity in practice: A relational model of institutional work and complexity. Human Relations, 66(10): 1279–1309. 54. Sud, M., VanSandt, C. V., & Baugous, A. M. (2009). Social Entrepreneurship: The Role of Institutions. Journal of Business Ethics, 85: 201–216. 55. Thompson, J., & Doherty, B. 2006. The diverse world of social enterprise: A collection of social enterprise stories. International Journal of Social Economics, 33(5/6): 399-410. 56. Tracey, P., Phillips, N., & Jarvis, O. 2011. Bridging Institutional Entrepreneurship and the Creation of New Organizational Forms: A Multilevel Model. Organization Science, 22(1): 60–80. 57. Zahra, S. A., Gedajlovic, E., Neubaum, D. O., & Shulman, J. M. 2009. A typology of social entrepreneurs: Motives, search processes and ethical challenges. Journal of Business Venturing, 24(5): 519–532. 58. Zietsma, C., & Lawrence, T. B. 2010. Institutional Work in the Transformation of an Organizational Field: The Interplay of Boundary Work and Practice Work. Administrative Science Quarterly, 55(2): 189–221.

73


Table 1. Chronology of key events Year Event 2008 Establishment of Centre for Social Initiatives Promotion (CSIP) 2009 Launch of the first Social Enterprise Support Program of CSIP Launch of the Global Social Enterprise Program of British Council (BC) Partnership between CSIP and BC 2011 Launch of the first Vietnam social enterprises mapping project by CSIP, BC, and Spark Centre from January to June Multi-stakeholders dialogue on social entrepreneurship in Vietnam (co-organized by CSIP, BC, and MSD) in August 2012 Partnership between BC and Central Institute for Economic Management (CIEM) Research “Social Enterprise in Vietnam: Concept, Context and Policies” (conducted by BC, CIEM, and CSIP) and Research Dissemination Workshop in May Workshop on contribution and responsibility of Social Enterprises in creating jobs and implementing the Law for People with Disabilities (LPD) in Quang Ninh (coorganized by BC and the Committee for Social Affairs of the National Assembly – CSANA) in September 2013 Workshop on contribution and responsibility of Social Enterprises in creating jobs and implementing the Law for People with Disabilities (LPD) in Da Nang (co-organized by BC and CSANA) in January Workshop “Elected representatives at South region with policy, law on the elder people and social enterprises” in Ho Chi Minh City (co-organized by BC and CSANA) in March Consultative meetings with social enterprises (co-organized by BC, CIEM, and CSIP) The first Vietnam social investment forum (co-organized by CSIP, BC, and CIEM) in August 2014 Workshop on building sustainable environment for Social Enterprise development: Experiences from Vietnam and the United Kingdom (co-organized by BC and CIEM) in February Revised Enterprise Law with Article 11 on social enterprise (drafted by CIEM) The National Assembly’s first approval of the revised law in June Final approval in November 2015 Issuance of Decree 96/2015/ND-CP regulating some articles of the Enterprise Law in detail in October Workshops “Social Enterprise: Policy and Implementation” to introduce the Decree in Hanoi and Ho Chi Minh city in October and November (organized by CSIP with support from CIEM) Author biography: Thu Trang Tran is lecturer at Foreign Trade University and PhD candidate in management at HEC Montreal. Her research focus is on the institutionalization of social enterprise in Vietnam, more particularly the role and strategies of organizational actors in this process. Acknowledgement: I thank Center for Social Initiatives Promotion (CSIP) for generously supporting this research effort and connecting me to social enterprises. I also thank the members of Central Institute for Economic Management (CIEM) and British Council in Vietnam for their time during the study. Finally, I thank all the social entrepreneurs for their help and support.

74


Table 2. Data supporting interpretations of institutional work Types of institutional work 1. Mapping

Main actors

Representative data

CSIP, BC “Personal characteristics among social entrepreneurs in Vietnam as other social entrepreneurs around the world such as: Mission oriented, committed, passionate for social change; Innovative, challenge taking; Confident, persistent to pursue the social goals; Resourceful, socialized.” (CSIP, 2008: 11) “A part from some social enterprises supported and connected by CSIP, in many provinces/cities in Vietnam there is a number of social enterprises which often are unknown...These organizations need to be located, and their current situation including strengths, weaknesses, opportunities, and threats should be well understood in order to supports their further development. The survey of social enterprises will also provide important and systematic inputs for the Vietnam 2011 Social Enterprises Directory.” (BC, CSIP, & Spark, 2011: 6) “During the first period, CSIP’s objectives were to introduce a new concept…and to map out social enterprises.” (Informant 2)

2. Operationalizing

3. Theorizing

CSIP, BC “Probably at this stage, with our supports including money, networks, promotional campaigns, advocacy and so on, honor and so on. Thus, some of them (social enterprises) will survive and grow up.” (Informant 2) “The core of CSIP’s strategy is to identify potential social enterprises to support them, develop them so that we create a really vibrant and strong network of social enterprises.” (Informant 3) “When partnering with CSIP during two years 2009-2010, we simply supported CSIP in building capacity for CSIP’s officers, trainers and social enterprises.” (Informant 6) CSIP, BC, CIEM

“Then, in 2012, the idea of (policy advocacy)…at that time, we didn’t think about the issuance of a relevant law. However, we wanted to carry out a deeper research for policy advocacy. And BC invited CIEM and CSIP to do the first research entitled ‘Social enterprise in Vietnam: Concept, Context, and Policies’. It was the first research we participated with CIEM.” (Informant 1) “Social enterprise is a concept that refers to the work of social entrepreneurs under different legal entities depending on specific purposes and operating conditions. Social enterprises directly target at social benefits, and are led by a strong entrepreneurial spirit to achieve both social benefits as well as economic returns.” (BC, CIEM, & CSIP, 2012: 6)

75


Types of institutional work 4. Educating

Main actors CSIP, BC, CIEM

Representative data “During the first stage, the objective (of CSIP) is to introduce a new concept, to raise awareness of the public and all stakeholders: what is a social enterprise and who are social entrepreneurs?” (Informant 2) “During the process of educating, of raising awareness, we always have to repeat: What is a social enterprise? How do Vietnamese social enterprises look like? What are the development trends of social enterprises in Vietnam? What is their current situation? What are the opportunities and challenges for social enterprises? And how the community can join hands to develop social enterprises?” (Informant 4) “British Council was also active in this work (policy advocacy). Remarkably, they began to work with the National Assembly to introduce the (social enterprise) topic into National Assembly workshops… CSIP with other social enterprises directly attended the workshops to share our views, to present the socalled social enterprise to delegations of the National Assembly’s provincial representatives.” (Informant 1) “We also co-operated with the office of the National Assembly and invited Mr. Cung and Mrs. Oanh as two main guest speakers to talk about social enterprise…When the National Assembly’s representatives had meetings, we introduced the social enterprise model to them, thus they could understand what a social enterprise is and how it can support these laws when coming into effect.” (Informant 6)

5. Brokering relationships

BC, CSIP, CIEM

“With CIEM, we organized the so-called consultative meetings, although small, in different localities. We did that at least in Hanoi, Ho Chi Minh city and other localities, I did not go but did consult with social enterprises in those localities. At that time, we introduced the guiding article in the law to poll social enterprises, asking questions such as: Should or should not introduce this article in the law? If yes, how to introduce? How to define social enterprise? The issue of an appropriate reinvested profit ratio?” (Informant 1) “Because the concept is very new, we spent a lot of time to mobilize the participation of relevant partners, especially government bodies, ministries, the National Assembly as well as international organizations.” (HTV, 2014).

6. Advocacy

76

BC, CSIP, CIEM

“We advocate in the way that social enterprise is a model to assist the State in implementing policies related to relevant disadvantaged groups.” (Informant 1) “Social entrepreneur and social enterprise are very new but important concepts in society nowadays.


Types of institutional work

Main actors

Representative data Why? Because they will apply sustainable business models to solve social issues that are unmet by the public and private sectors.” (VTV4, 2011) “According to the old conception, the government is responsible for solving social issues. However, there is a type of enterprise that is solving social issues by creating and providing their products. It can be said that (it) is supporting the government. In my opinion, the government in this case should share responsibilities with or support this type of enterprise to solve more social issues more effectively and to reduce the burden of the government in dealing with social issues.” (VTV1, 2012) “I find that the government policy always emphasizes the balance between economic development and social problem solving. So, I find that social enterprises have great potential to exist and develop in our country.” (VTV1, 2013) “The government should have policies on promoting this economic model based on the laws of markets. If so, government spending will be more effective and social enterprises will definitely flourish.” (VTC10, 2014) “If social enterprises develop, we think that they won’t replace the State, won’t compete with the State, but will join hands with the State in solving social issues…The approach is that they won’t replace but join hands with the State.” (VTV1, 2014) “Now, by using market forces in stead of subsidy mechanism, the State can buy better (public services) at lower cost, with greater impact. This should be the approach to dealing with public service provision and to creating markets (for social enterprise).” (VTV1, 2014) “It’s interesting to note that the socialist orientation is within the business approach (social enterprise).” (VTV1, 2014)

7. Legalizing

CIEM

“So, at the beginning of 2014, (the article) was drafted and approved in the first meeting of the National Assembly in May…After the meeting in May, now reviewing the opinions; revising (the article) to submit for final approval in October.” (Informant 6) “We will create a decree on registration, a decree on incentives for enterprises registered under that form (social enterprise). We will have to create a particular decree on social enterprise. We are doing that.” (Informant 7)

77


Figure 1. Data structure First-order categories Aggregate dimensions  Conducting a baseline survey 

Mapping out social enterprises

   

Setting up pilot models Nurturing the seeds Supporting social entrepreneurs/social enterprise Building capacity

   

Defining what is a social enterprise Defining who are social entrepreneurs Doing research Providing case studies

        

Raising public awareness Introducing the concept of social enterprise Promoting communications Organizing field trips Organizing workshops Sharing knowledge Presenting Sharing expertise Raising awareness of government officials

   

Involving (stakeholders) Organizing consultative meetings Consulting Connecting CSIP to CIEM/ SE to policy makers

       

Advocating Organizing a multi-stakeholder meeting Seeking government recognition Providing evidence Convincing Submitting the law for approval Seeking approval Promoting

   

Making policies Supporting social enterprises with policies Introducing the concept into the law Recognizing

78

Second-order themes Mapping FORMING NORMATIVE PILLAR Operationalizing

Theorizing

FORMING COGNITIVE PILLAR

Educating

Brokering relationships

Advocacy

Legalizing

FORMING REGULATIVE PILLAR


Figure 2. Mapping of types of institutional work onto stages of institutionalization

STAGES OF INSTITUTIONALIZATION

INSTITUTIONAL WORK

Stage 1 – Introducing a new concept (2008-2010)

Mapping Operationalizing

Theorizing Educating

Stage 2 – Engaging stakeholders (2011-2013)

Stage 3 – Formalizing institutional change

Theorizing Educating

Brokering relationships Advocacy

Advocacy Legalizing

(2014-now)

79


80


POLICIES TO PROMOTE APPLIED PATENTSIN VIETNAM’S SOCIAL ENTERPRISES Nguyen Huu Xuyen, Ph.D, National Institute of Patent and Exploitation Technology Duong Cong Doanh, MSc; Do Thi Hai Ha, Ass.Prof. Dr National Economics University

Summary: Social enterprises not only support the Government/State in sharing of difficulties in the implementation of the social objectives but also contribute to economic stabilization sustainably. Development of social enterprises has been taken account into the Government/ State and has been institutionalized in Article 10 of Law on Enterprise (2014). In fact, the number and scale of the social enterprise are not large, particularly the application of the patents for production and business activities are limited, and these things have a significant impact on social enterprise’s operational efficiency. This paper clarifies: (i) The characteristics of social enterprises and barriers in applying patents of social enterprises, (ii) The status of policies to promote social enterprises in implementing of patents for production activities, (iii) Propose for solutions to promote the application of social enterprises’ patents in accordance with the circumstances and conditions of Vietnam. Keywords: social enterprise, patent, policy 1.

Introduction

Before broadening to other countries, the perception of social enterprises first was seen formally in the United Kingdom nearly four centuries ago. However, Social Enterprises is considered as a new concept in Vietnam. Over 20 years, revolution and open door policies have created favorable conditions for dramatic development non-state and social organizations. The fact indicated that the social enterprises have contributed significantly to achievements of economic growth as well as attaining the social-economic objectives such as poverty reduction, environmental protection. From the needs of daily life, many social initiatives are implemented in the realities which based on using business activities as effective tools in order to give sustainable solutions for the society and community. This model is called Social Enterprises. In the world, social enterprises have become a wide social movement, the positive policies were promulgated by many countries to encourage and promote the social enterprises. Social Enterprises have been created from social initiatives with the aim of solving existing problems of the communities and societies. Nowadays, nearly 200 organization in Vietnam are seen as having adequately typical characteristics of Social Enterprises, nevertheless, Social Enterprise conceptualization is considered very new in Vietnam. Because of the diversity of social enterprises, there are many definitions of social

81


enterprises. Basing on the social enterprise development strategy 2002, the UK government has defined as following: “A social enterprise is a business with primarily social objectives whose surpluses are principally reinvested for that purpose in the business or in the community, rather than being driven by the need to maximize profit for shareholders and owners”. The basic characteristics of social enterprise are shown clearly in this definition. Firstly, running a business should be aware of a model, a proactive approach, and solutions that the organizations have adopted in its operation than blind it tightly to the form of company, which should not be seen more than an organization tool. Secondly, social objectives need to consider as the primary mission of organizations and social enterprises must be created to pursue social goals. Finally, the profits of business activities in social enterprises have to be redistributed back to organization or community, not to individuals. The OECD has defined “Social enterprises are organizations which are operating under several different legal forms applying entrepreneurship spirit to pursue both social and economic goals at the same time. Social enterprises often provide social services and employment for disadvantaged groups in both urban and rural areas. In addition, social enterprises also provide community services in education, culture and environment sectors”. While Centre for Social Initiatives Promotion (CSIP) stated “Social enterprise is a concept that refers to the work of social entrepreneurs under different legal entities depending on specific purposes and operating conditions. Social enterprises directly target at social benefits, and are led by a strong entrepreneurial spirit to achieve both social benefits as well as economic returns” Speaking generally, social enterprises that are seen as organizations have 3 characteristics: (i) social mission is the top priority, (ii) using business activities, and fair competition as tools to meet social objectives, (iii) re-invest profit generated from business activities into the organizations, communities, and social objectives. As mentioned above, there are many definitions of social enterprises, which depend on the level of development of each country and areas. However, some typical characteristics of social enterprises is widely recognized: - Social enterprises must carry out the business activities: Business operation is considered as a basic characteristics and strength of social enterprises which are compared with NGOs, nonprofit organizations, charities funds. Thus, business activities are an inevitable part of social enterprises model. Moreover, having to compete fairly and equally with traditional business in the same field become a significant challenge to social enterprises - Social mission as the top priority: Social enterprises need to consider social goals as their core mission. In other words, each social enterprises was established for their specific social goal. All business either produce products or provide services to customers. However, the difference is that traditional enterprises trying to meet the needs of the customer or figure out social solutions to maximize profit for enterprise owners, shareholders. Contrary to traditional enterprises, social enterprises use business model as a tool to achieve their social purposes. 82


- Re-distribution of profit: Social enterprises requires profit to be redistributed back to the activities of the organization or the community. The basic principles of social enterprises are not to distribute profit to individuals, but the profits need to be redistributed to business activities of organizations in order to contribute to the society and community. - Social ownership: Managerial structure needs to participate by communities and other stakeholders and beneficiaries. This helps social enterprises to obtain the high level of autonomy. In fact, most social enterprises operate with open and democratic management structure in order to connect closely the community, the beneficiaries, and partners. - Meeting the needs of the Base of Pyramid Group: One of the basic missions of Social Enterprises is to meet the need of the Base of Pyramid Group. This group includes the poorest and most disadvantaged people, they are seen as the biggest group at the bottom of the society. While state areas could not endure the welfare burden, private sector neglect this group, thus, social enterprises play the important role in filling this gap, only social enterprises can provide products and services at cheap prices to this group. Based on qualitative researches with using secondary data, which consists of theoretical and empirical research on this topic, the authors would like to specify: The status of policies to promote social enterprises in applying for patents for production activities, and propose for solutions to promote the implementation of social enterprises’ patents in accordance with the circumstances and conditions of Vietnam. 2. The roles of patents to social enterprises Patents promote innovation and creativity in social enterprises: The protection of innovation and patent becomes an important issue for enterprises, especially social enterprises in terms of these organization’s proprietary development. Intellectual property protection systems such as patents are extremely important to secure its innovative positioning in the market over the long-term. Patents not only offer sustainable competitive advantages but also strengthen an enterprises’ competitiveness because they guarantee high investment security. The serious enforcement of intellectual property will reduce unhealthy competition between competitors in the market, which protects the benefits and achievements of creativeness in order to encourage the creativity- a motivation for innovation in science and technology- a sound foundation for sustainable development. Patents are considered as a motivation factor to R&D activities in social enterprises: Excepted to promoting the innovation and activity process, patents system also create the suitable conditions to implement the patents in the real business from foundational research period to empirical research in order to create new products and commercialization. Also, patents and its rights bring to authors and owners many benefits, which is seen an important motivation of research process through tools of policies in order to reduce risks in R&D activities Patents impulse technological transfer in social enterprises: Patents is a prerequisite condition of technological transfer activities and investment, and patents also create a safe environment to do business and R&D. 83


3. Public policies enhancing the implementation of patents in social enterprises The goal of Vietnam is to become an industrial country. To achieve this goal Vietnam needs to promote innovation and creativeness in business and to create new and higher value markets. Therefore, the creation, protection and exploitation of innovative ideas are crucial. The government should have a strategy for Intellectual Property development to promote creation, protection and exploitation of Intellectual Property for both traditional business and social enterprises. For many decades, intellectual property, especially the patent has been being under-utilized by almost all Vietnamese business. For this reason, their products cannot compete with the products of other countries, not mentioned the global markets. The National Assembly of Vietnam passed the Intellectual Property Law on November 19, 2005. The enactment of the Intellectual Property Laws 2005 was a dramatic milestone of Vietnam in enhancing a modern system of intellectual property legislation, which is appreciated in harmonization with the Intellectual Property Legislation of developed countries and meets international norms and standards. On 19 June 2009, this Law is amended to clarify the inconsistencies to ensure Vietnam’s better fulfillment of the obligations under TRIPS and the US-Vietnam Bilateral Trade Agreements, especially since its accession to WTO on 11 January 2007. However, like many other developing countries, due to limited knowledge and expertise in intellectual property of staff of enforcement authorities and the concept of intellectual property in general and industrial property in particular is still something rather new to the great majority of Vietnamese people, intellectual property infringements in Vietnam are in alarm and have become more and more complicated and serious. In order to illustrate the drawbacks of implementing patents in social enterprises, first of all, showing the disadvantages of applying patents for the real business is extremely necessary. The patent is seen as technical approach such as products or process to solve a specific issue by implementing the natural laws (Law of intelligent property, 2009). Bach Khoa Vietnam dictionary (2003) stated: Patent is considered as a new technical approach comparing to the level of international techniques and technology, which enables to implement in social-economic sectors. Moreover, the patent is one of the objects of the industrial property protected by the laws. Exploration and implementation of research results and patent on production directly related to two objectives: (i) researchers play the role on supplying the result of researches and patents, (ii) enterprises play the role on implementing the studied results. In fact, a patent is seen as an important factor in the economics competitive market with having large numbers of producers compete with each other to satisfy the wants and needs of a large number of customer. Enterprises and state area are more and more interested in implementing patents to protect their own inventions. The aim of patent policies in the countries is to improve this trend for encouraging investment in innovating and enhancing knowledge dissemination. In the world, the economic power of OECD countries (Organization for Economic Cooperation and Development) also is shown in

84


the number of the patent registered every year, which illustrates their high creative capacity. With the faster development of science and technology, many new fields were opened. Thus, patent protection and intellectual property should be taken into account. In Vietnam, patent protection also contributed significantly to the process of global economic integration. Intellectual property Law is promulgated by the National Assembly (Legislature XI, Session 8) has stepped up this process of integration. The country has also approved and enforced international intellectual property conventions such as the Paris Convention for the Protection of Industrial Property, the Berne Convention for the Protection of Literary and Artistic Works, The Rome Convention, TRIPS Agreement. Following the local and foreign specialists at the conference on intellectual property (May 2010), Vietnam has obtained initial achievements in intellectual property protection and improving related laws, encouraging inventions, new ideas and technology transfer. Vietnamese businesses are increasingly aware of the importance of intellectual property, appreciated Vietnam’s endeavor in protecting intellectual property, manifested by the number of intellectual property applications increasing to 28,700 in 2014 from 5,600 in 1995. The number of intellectual licenses in that period also increased dramatically. However, piracy in Vietnam is becoming more and more complicated while the number of applications for patents and useful solutions remains small, many business leaders have poor knowledge about intellectual property, and the law system to enforce intellectual property laws remains inefficient. Le Ngoc Lam, Deputy Head of National Office of Intellectual Property (NOIP) believed that Intellectual property law enforcement not only protects enterprises but also pushes them to create and innovate, it is vital for Vietnamese business to expand their budget for research and innovation or technological transfer, facilitating the development of technology nationwide. In 2014, The NOIP received over 38,700 applications for trademark protection registration. Over 29,000 patents were granted, nearly 1,270 of which were for inventions, 86 for utility solutions and over 1,630 for industrial designs, and the number of industrial property registration applications has grown by 10% annually, which reflected the increase of public awareness of the significance of intellectual property rights. However, implementations from Vietnamese businesses remains low. In addition, the lack of business acknowledgment of the issue couple with poor application quality were the main contributing factors to the low number of applications. The number of applications also varied geographically, with Ho Chi Minh City leading the way with 12,000 applications followed by Hanoi with 8,000. Northern Lai Chau province had the lowest number of applications with only 2, followed by northern Bac Kan and Dien Bien provinces with 5 and 9, respectively. In order to enhance the capacity of implementing patents to produce in enterprises in general and in social enterprises, in particular, Vietnamese Government has passed some policies to promote the application of patents such as laws, decrees, decisions and circulars: 85


- Laws: Technological transfer law (2006), high technology law (2008), Intellectual property law (2009), Science and Technology law (2013), enterprise law (2014). Passed some articles of these laws, government affirmed that the application of patents and technological innovation into production is seen as one of the areas of priorities to develop, and improve the technological capacity of enterprises which contributes to obtaining the goals of technological innovation to the year 2020. - Decisions: Decision No.68/2005/QĐ-TTg dated April 04, 2005 of Prime Minister approving the program in support of development of enterprises’ intellectual properties of developing intellectual (Program 68), Decision No.2204/ QĐ-TTg dated December 6, 2010 of the Prime Minister approving the program to support intellectual asset development during 2011-2015, Decision No.2075/ QĐ-TTg dated November 8, 2013, of the Prime Minister approving the technology market development programme by 2020, Decision No. 1069/ QĐ-TTg, issued on July 4, the programme aims at seeking, evaluating, consulting and transferring globally advanced technology…The decisions gave goals, visions, and solutions to promote the patents and technological innovation in the future. - Decrees and Circulars: Decree No. 103/2006/ND-CP of September 22, 2006, detailing and guiding the implementation of a number of Articles of the Law on the Intellectual Property regarding Industrial Property, Decree No.85/2011/ND-CP of September 20, 2011, amending and supplementing a number of Articles of the Government’s decree No.100/2006/ND-CP of September 21, 2006, detailing and guiding a number of Articles of the Civil Code and the Intellectual Property Law regarding Copyright and Related Rights, or on 23 April 2014, the Ministry of Finance, Ministry of Science and Technology issued Joint Circular No. 49/2014/TTLT-BTC-BKHCN guiding financial management of the support program on development scientific and technology enterprises and scientific institutions and public technology to implement autonomy, self-responsibility…The decrees and circulars had given the rules and regulations related to patents, and intellectual property. - In fact, the government promulgated many documents to promote enterprises in general and social enterprises in particular in order to implement patents and technological innovation. The policies create the legal corridor for enterprises to apply patents in the production. However, the implementation of policies still have many difficulties, thus, government need to reduce unnecessary administrative procedures and try to increase transparency and disseminate all information among the public and business, which help enterprises implementing patents into production. Government play a very important role in promoting the implementation of patents in enterprises, although the recent years still have many drawbacks. Particularly, following the results of online survey (http://vnexpress.net), Specifically, based on online survey results (http://vnexpress.net/, until 05/10/2015), it is shown that the Government's role is not very clear, only 17% (49 votes) have agreed that the Government will be the best sponsor to bring inventions to markets, 62% (182 votes) have voted the investors and 21% (62 votes) have voted the inventors themselves. 86


Thus, in general, the regulatory environment for application and development of patents are not really favorable, the state management in patents are too general, not really clear. This makes it difficult for businesses in the course of policy implementation. In particular, many shortcomings have been exposed in the course of performance such as inappropriateness with the market mechanism, ownership of research results is not clear, support policies are not comprehensive resulting in low effectiveness. 4. Solution Therefore, although the implementation of patents in businesses has improved in several recent years, policies to encourage the application of patents in business should be taken into account adequately from Government. In addition, social enterprises are still seen as a new concept in Vietnam, also, the number and scale of the social enterprise are not large, particularly the application of the patents for production and business activities are limited, and these things have the significant impact on social enterprise’s operational efficiency. Thus, Government should have the appropriate policies to encourage the application of patents in social enterprises in Vietnam. In the context of globalization, to speed up patents into practice, especially application and development of patents in the social enterprises, the State should have appropriate policies towards capacity enhancements, position, and contribution of the social enterprises in the implementation of the social objectives in a sustainable way. To do this, the state should: - Firstly, there is a need to develop specific decrees, circulars to specify Article 10 on criteria, rights, and obligations of social enterprises in Enterprise Law (2014). Thereby it will develop criteria and specific legal framework for social enterprises, especially evaluation criteria, incentives for social enterprises in applications of patents to serve and solve social problems such as environmental pollution, climate change, social security. - Secondly, to review policies related to application and development of patents in the social enterprises to minimize overlapping of policy documents, contributing to create a legal framework for the application of patents. The policies should be transparent, clear and consistent with international legal systems. Also on the basis of current legislation, the State needs to develop the system of indicators, standards and statistics of the development of patents in each quarter or annual period, towards building national databases for patents and patent development, especially patents used for solving social problems, low-income people. - Thirdly, there is a need to support training activities to improve the quality of human resources in technology to serve social enterprises in the course of application and development of patents. Thereby, methods to support businesses can be approached, such as mastering in all machinery, equipment, technological lines through technology transfer, then will support enterprises in research and deployment for technology innovation

87


toward solving social problems; The State also needs close cooperation between central agencies and localities to disseminate policies and laws on application and development of patents. - Fourthly, it is necessary to develop intermediary organizations to support legal activities, valuation of patents, contributing to accelerate putting the patents into practice. To do this, the state should develop evaluation criteria to support the establishment of intermediary organizations, and develop a roadmap to promote the development of intermediary organizations on technology markets in conformity with market rules and trends of international cooperation. - In addition, for more effective policies, in the process of planning and performance of policies, the State should have a certain dialogue with enterprises as served object. This is the basis to put policies of application and development of patents into practice, and promoting social enterprise in technological innovation to create products and services that meet market's demand. References 1. David Bornstein, How to change the world: Social Entrepreneurs and the Power of New Ideas, Oxford University Press, 2007. 2. Ed Humpherson, PPP, Social Enterprise and lessons from the Private Financial Initiative, National Audit Office, at OECD workshop on PPP, Paris, March 2011. 3. Elkington J., Hartigan P., The strength of outstanding people Sứcmạnhcủanhữngngười phi lý, Labour- Social Publishing House, 2008

-

4. Lưu Minh Đức, CSR: how is enough? Tráchnhiệmxãhộicủadoanhnghiệp: thếnàolàđủ?, Saigon Economic Times, Vol 45, 30/10/2008, pages 22-23 5. Social enterprise in Vietnam: concept, context and policies, 2012, Hanoi 6. Lee, Sheng-Hsien (2010), An analysis of technology market from the perspective of technology life cycle, African Journal of Business Management Vol. 4(17), pp. 3641-3654, 4 December 2010 7. Riedel, J. (2000), The role of the state and the market in the economy of Vietnam, Johns Hopkins University, Washington, DC 20036. 8. Swamidass, M.P.&Vulasa, V.(2009), Why university inventions rarely produce income? Bottlenecks in university technology transfer, Journal of Technology Transfer, 34: 343 – 363. 9. VGP News (2010), Vietnam progressing in intellectual property protection [Online] Available at:http://www.ipmax.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=128:vi etnam-progressing-in-intellectual-property-protection&catid=35:newsevents&Itemid=55n [Accessed: 20th January 2016] 88


SOME POLICIES SUPPORT FOR SOCIAL ENTERPRISES IN VIETNAM CHÍNH SÁCH THUẾ NHẰM THÚC ĐẨY DOANH NGHIỆP XÃ HỘI PHÁT TRIỂN TẠI VIỆT NAM Dr. Nguyen Trong Hieu MSc. Nguyen Hong Diep Hieu.ctm.hut@gmail.com; nhiep1983@gmail.com National Institute of Patent and Technology Exploitation, Ministry of Science and Technology

Abstract Social enterprises play an important role for the sustainable economic growth in Vietnam. In recent years, there are governmental incentives for social enterprises such as: Encouraging the establishment of social enterprises; Giving priority to tax policies; Enhancing supports, grants for social enterprises.... Still, social enterprises encounter numerous difficulties in the establishment, operation and development. Thus in order to favorize Vietnamese social enterprises, more governmental support policies in the future are needed. This article consists: i: current situation of support policies for social enterprises; ii: the opportunities and challenges for Vietnamese social enterprises; iii: policy measures to promote social enterprise in Vietnam. Keywords: Social enterprises, Tax Policy, Vietnam Tóm tắt Doanh nghiệp xã hội có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế bền vững. Do vậy, phát triển doanh nghiệp xã hội được Nhà nước rất quan tâm, thể hiện thông qua một loạt các chính sách hỗ trợ phát triển, trong đó có chính sách thuế. Tuy nhiên, doanh nghiệp xã hội vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình thành lập, hoạt động và phát triển. Do đó để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xã hội Việt Nam phát triển hơn nữa, rất cần thêm những chính sách hỗ trợ của Chính phủ trong thời gian tới. Trong bài viết này, nhóm nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính dựa trên các dữ liệu thứ cấp, nhằm làm rõ: i: thực trạng chính sách thuế đối với doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam; ii: những khó khăn mà doanh nghiệp xã hội Việt Nam gặp phải; iii: đề xuất các giải pháp chính sách nhằm thúc đẩy doanh nghiệp xã hội phát triển phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam. Từ khóa: Doanh nghiệp xã hội; Chính sách thuế; Việt Nam 1. Thực trạng chính sách thuế đối với doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam Khái niệm Doanh nghiệp xã hội (DNXH) được sử dụng từ cuối những năm 70 của thế kỷ trước để chỉ những doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường, nhưng mục đích chủ yếu là giải quyết các vấn đề xã hội thay vì lợi nhuận thuần túy. Nở rộ ở các quốc gia phát

89


triển như Anh, Mỹ, Hàn Quốc... loại hình doanh nghiệp này đã phát triển mạnh mẽ trên thế giới trong thập kỷ vừa qua và hứa hẹn trở thành trào lưu của tương lai. Hiện nay ở Việt Nam DNXH đã và đang nhận được nhiều chính sách ưu đãi về thuế. Bộ Tài chính nói riêng và Nhà nước nói chung đã đưa ra các chính sách miễn hoặc giảm thuế cho DNXH. Điều 19; 20; 21 của Thông Tư số 78/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính đã nêu rõ các doanh nghiệp nói chung trong đó bao hàm cả DNXH nói riêng được hưởng các ưu đãi như: * Được hưởng thuế suất ưu đãi 10% trong thời hạn mười lăm năm (15 năm) áp dụng đối với thu nhập của doanh nghiệp từ: - Thực hiện dự án đầu tư mới tại: địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. - Thực hiện dự án đầu tư mới thuộc lĩnh vực bảo vệ môi trường, bao gồm: sản xuất thiết bị xử lý ô nhiễm môi trường, thiết bị quan trắc và phân tích môi trường; xử lý ô nhiễm và bảo vệ môi trường; thu gom, xử lý nước thải, khí thải, chất thải rắn; tái chế, tái sử dụng chất thải. * Được hưởng thuế suất ưu đãi 10% trong suốt thời gian hoạt động áp dụng đối với thu nhập của doanh nghiệp từ: - Hoạt động xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao và môi trường (sau đây gọi chung là lĩnh vực xã hội hóa). - Thực hiện dự án đầu tư - kinh doanh nhà ở xã hội để bán, cho thuê, cho thuê mua đối với các đối tượng quy định tại Điều 53 Luật nhà ở. - Thực hiện trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng; nuôi trồng nông, lâm, thủy sản ở địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn; sản xuất, nhân và lai tạo giống cây trồng, vật nuôi; sản xuất, khai thác và tinh chế muối trừ sản xuất muối. - Hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp không thuộc địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn và địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. * Định hướng miễn thuế, giảm thuế cho DNXH Hiện nay, để khuyến khích phát triển loại hình DNXH theo quy định của Luật doanh nghiệp 2014 và dựa trên các kiến nghị về xác định phần thu nhập không chia dùng để tái đầu tư của các cơ sở xã hội hóa trong khi các Luật chuyên ngành chưa có quy định thì Bộ Tài chính đang đề xuất bổ sung quy định miễn thuế đối với phần thu nhập không chia của DNXH, đồng thời bổ sung quy định rõ nội dung hướng dẫn việc xác định thu nhập không chia của các cơ sở xã hội hóa hiện hành và DNXH như sau: “Phần thu nhập không chia của cơ sở thực hiện xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo, y tế, lĩnh vực xã hội hoá khác và của DNXH để lại để đầu tư phát triển cơ sở đó theo quy định của luật chuyên ngành về lĩnh vực giáo dục – đào tạo, y tế, lĩnh vực xã hội hoá khác và DNXH; phần thu nhập hình thành tài sản không chia của hợp tác xã được thành lập và hoạt động theo quy 90


định của Luật hợp tác xã. Cơ sở thực hiện xã hội hoá, DNXH phải đáp ứng đồng thời 2 điều kiện: + Phần thu nhập không chia là lợi tức từ kinh doanh không chia theo quy định của luật chuyên ngành; + Phần lợi tức từ kinh doanh khi chia không vượt quá lãi suất trái phiếu Chính phủ.” Nhìn chung quy định và định hướng của nhà nước về việc miễn, giảm thuế cho DNXH cũng tương đối phức tạp và còn có nhiều sự thay đổi lớn. Do đó DNXH cần tìm hiểu kỹ và được sự tư vấn chuyên sâu. II. Những khó khăn mà doanh nghiệp xã hội Việt Nam gặp phải Ở Việt Nam những khó khăn mà DNXH gặp phải cũng tương tự các doanh nghiệp khác. Ngoài ra, thị trường của DNXH có đặc thù rất nhỏ và phục vụ nhu cầu của tầng lớp có thu nhập không cao. Việc phải bảo đảm lợi nhuận đồng thời với các nghĩa vụ cộng đồng thật sự là thách thức không nhỏ. Một số DNXH còn bị suy giảm niềm tin trong dân chúng vì lợi dụng người yếu thế, khuyết tật để kêu gọi tài trợ… Một khó khăn khác nữa đó là các sản phẩm hay dịch vụ của DNXH còn đơn giản, không sử dụng nhiều công nghệ, đồng thời giá cả sản phẩm do DNXH sản xuất ra còn cao hơn so với mặt bằng giá của những sản phẩm thông thường. Nhiều chủ DNXH không được đào tạo bài bản, thiếu tư duy kinh doanh và kỹ năng quản trị. Vì vậy, các doanh nghiệp này khó cạnh tranh được với các doanh nghiệp phục vụ nhu cầu xã hội. Điều này dẫn đến hiện trạng DNXH vẫn chiếm số ít trong cộng đồng doanh nghiệp nói chung. Cũng vì chỉ chiếm số ít nên tiếng nói của cộng đồng DNXH chưa đủ mạnh trong các cuộc tham vấn chính sách cho cộng đồng nói chung. DNXH là một định chế phù hợp với quy luật thị trường và chứa đựng trong đó sự nhân văn. Khi một quốc gia lựa chọn con đường phát triển bền vững hướng đến một xã hội công bằng thì DNXH vừa là sự lựa chọn vừa là xu hướng. Tuy nhiên lựa chọn đi theo con đường DNXH cần có sự tỉnh táo và can trường khi đối diện với các thách thức. III. Đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam phát triển Ở Việt Nam, hiện có hàng chục nghìn tổ chức và doanh nghiệp mang những đặc điểm của DNXH được hình thành tự phát từ rất lâu. Bình quân một DNXH ở Việt Nam có số vốn đăng ký ban đầu khoảng 1,2 tỷ đồng, tạo việc làm cho khoảng 50 lao động, trong đó khoảng 1/3 lao động có hoàn cảnh đặc biệt, lợi nhuận thu về khoảng 400 triệu đồng/năm. DNXH có thể cải thiện cuộc sống cho hơn 2.000 đối tượng, bên cạnh việc kiến tạo các giá trị xã hội và môi trường khác. Tuy vậy, tỷ lệ phá sản và thất bại trong kinh doanh của DNXH ở Việt Nam hiện nay khá cao. Đứng trên góc độ là một đơn vị trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ, chuyên nghiên cứu về công nghệ và sáng chế, nhằm thúc đẩy DNXH tăng cường ứng dụng công nghệ để nâng cao chất lượng và giảm giá thành sản phẩm, nhằm nâng cao sức cạnh tranh, chúng tôi có một số đề xuất như sau: 91


-

Miễn thuế thu nhập cho DNXH áp dụng công nghệ trong nước.

-

Miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu cho DNXH đối với hàng hóa nhập khẩu để sử dụng trực tiếp vào hoạt động đổi mới công nghệ, bao gồm máy móc, thiết bị, phụ tùng, vật tư, phương tiện vận tải trong nước chưa sản xuất được, công nghệ trong nước chưa tạo ra được đối mới công nghệ.

-

DNXH đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất mới, mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong mười năm. DNXH ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn khi thực hiện dự án đầu tư có tiếp nhận công nghệ được hưởng ưu đãi như sau: a) Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp mười năm, kể từ khi có thu nhập chịu thuế;

-

b) Miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hoá phục vụ việc thay thế, đổi mới công nghệ và nguyên liệu, vật tư, linh kiện dùng để sản xuất trong thời hạn mười năm, kể từ khi bắt đầu sản xuất theo công nghệ mới.

Kết luận DNXH khác doanh nghiệp khác ở chỗ, nó hoạt động để giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường. Như vậy, tìm kiếm lợi nhuận không phải là mục tiêu cuối cùng, lợi nhuận chỉ là mục tiêu trung gian, lấy lợi nhuận để tiếp tục phát triển và giải quyết các vấn đề xã hội. Xã hội càng phát triển thì các vấn đề xã hội càng nhiều thêm và đấy là cơ hội để kinh doanh. Các nhà đầu tư xã hội tìm kiếm cơ hội và người ta thu được lợi ích như các doanh nghiệp bình thường nhưng có thêm phần giải quyết các vấn đề xã hội. Do đó, số DNXH của các nước ngày càng nhiều và Việt Nam cũng tương tự. Tuy nhiên, để cho các loại hình DNXH phát triển, ngoài chính sách thuế rất cần có chính sách khác của Nhà nước cũng như các bộ, ngành như chính sách kinh tế, giáo dục, y tế, khoa học công nghệ,… nhằm hỗ trợ về tài chính, đào tạo nhân lực, áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ mới, giúp cho các DNXH ngày càng nâng cao chất lượng và phạm vi hoạt động. Tài liệu tham khảo Luật Doanh nghiệp năm 2014 Nghị định 96/2015/NĐ-CP Tính pháp lý cho doanh nghiệp xã hội, 25/02/2014, HẢI VÂN http://www.doanhnhansaigon.vn/chinh-tri-xa-hoi/tinh-phap-ly-cho-doanh-nghiep-xahoi/1079856/ 4. Chặng đường mới cho doanh nghiệp xã hội, 09/10/2015, http://www.nhandan.com.vn/cuoituan/chuyen-de/item/27649802-chang-duong-moi-chodoanh-nghiep-xa-hoi.html, TS Phan Thị Thùy Trâm 1. 2. 3.

5.

92

Chính sách ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp xã hội, Nguyễn Huân, http://luathieugia.com/chinh-sach-uu-dai-thue-doi-voi-doanh-nghiep-xa-hoi.html.


SOCIAL ENTERPRISE, THE MODEL OF SUSTAINABLE DEVELOPMENT FOR SOCIAL ORGANIZATIONS DOANH NGHIỆP XÃ HỘI, MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CHO CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI Dr. Ngo Van Thao Saigon University

Abstract Social work major of universities provides human resources with expertise in social work for social organizations. However, the social organizations in certain limits such as: dependence on donors; unstable; lack of efficacy; and especially when foreign resources from the aid program for Vietnam in the coming years will be limitted because Vietnam has become the national average income. Therefore, the Vietnam society organizations want to survive and develop must change their directions; and social enterprise model will be a new way for Vietnam social organizations in the future. This article focuses on analyzing the difference between social enterprise with social organizations and traditional businesses; Differences of traditional business and social entrepreneurs; the differences between the social workers and social entrepreneurs. As such as to determine the gap that social workers and social organizations must be updated to change the activity direction of social organizations as the social entreprises. Tóm tắt Ngành công tác xã hội của các trường đại học cung cấp nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn về công tác xã hội cho các tổ chức xã hội. Tuy nhiên, các tổ chức xã hội với những hạn chế nhất định như: phụ thuộc vào nhà tài trợ; thiếu tính ổn định; hiệu quả kém; và nhất là khi nguồn vốn từ các chương trình viện trợ nước ngoài cho Việt Nam trong những năm tới sẽ bị cắt giảm do Việt Nam thuộc vào nhóm các nước có thu nhập trung bình. Do đó, các tổ chức xã hội của Việt Nam muốn tồn tại và phát triển thì cần phải thay đổi phương hướng hoạt động; và mô hình doanh nghiệp xã hội sẽ là hướng đi mới cho các tổ chức xã hội ở Việt nam trong những năm sắp tới. Bài viết này tập trung phân tích sự khác biệt giữa doanh nghiệp xã hội với các tổ chức xã hội và doanh nghiệp truyền thống; những khác biệt giữa doanh nhân truyền thống với doanh nhân xã hội; giữa nhân viên xã hội với doanh nhân xã hội. Từ đó xác định các khoảng trống mà các tổ chức xã hội và nhân viên xã hội cần phải bổ sung để có thể duy trì chuyển hướng hoạt động của các tổ chức xã hội theo mô hình doanh nghiệp xã hội. Keywords: Social enterprise, Social entrepreneur, Social work; Từ khóa: Doanh nghiệp xã hội, Doanh nhân xã hội, Công tác xã hội;

93


1. Khái niệm về doanh nghiệp xã hội và các tổ chức xã hội 1.1. Doanh nghiệp xã hội Doanh nghiệp xã hội là hoạt động của một tổ chức được tạo lập ra nhằm thực hiện một giải pháp hay phương án kinh doanh cụ thể để đưa đến một giải pháp xã hội cụ thể cho chính các thành viên của tổ chức đó và cộng đồng. Do đó, Doanh nghiệp xã hội bao gồm sự đa dạng của các tổ chức có định hướng kinh doanh mà không theo đuổi mục đích cuối cùng là tối đa hóa lợi nhuận cho các chủ sở hữu. Định nghĩa này nó bao trùm hợp tác xã, liên hiệp tín dụng, hỗ trợ xã hội. Theo điều 10 của Luật Doanh nghiệp sửa đổi 2014 thì Tiêu chí, quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp xã hội được qui định như sau: 1. Doanh nghiệp xã hội phải đáp ứng các tiêu chí sau đây: a) Là doanh nghiệp được đăng ký thành lập theo quy định của Luật này; b) Mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng; c) Sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hàng năm của doanh nghiệp để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường như đã đăng ký. 2. Ngoài các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp theo quy định của Luật này, doanh nghiệp xã hội có các quyền và nghĩa vụ sau đây: a) Duy trì mục tiêu và điều kiện quy định tại điểm (b) và (c) khoản 1 Điều này suốt quá trình hoạt động; trường hợp doanh nghiệp đang hoạt động muốn chuyển thành doanh nghiệp xã hội hoặc doanh nghiệp xã hội muốn từ bỏ mục tiêu xã hội, môi trường, không sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư thì doanh nghiệp phải thông báo với cơ quan có thẩm quyền để tiến hành các thủ tục theo quy định của pháp luật; b) Chủ sở hữu doanh nghiệp, người quản lý của doanh nghiệp xã hội được xem xét tạo thuận lợi và hỗ trợ trong việc cấp giấy phép, chứng chỉ và giấy chứng nhận có liên quan theo quy định của pháp luật; c) Được huy động và nhận tài trợ dưới các hình thức khác nhau từ các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ và các tổ chức khác của Việt Nam và nước ngoài để bù đắp chi phí quản lý và chi phí hoạt động của doanh nghiệp; d) Không được sử dụng các khoản tài trợ huy động được cho mục đích khác ngoài bù đắp chi phí quản lý và chi phí hoạt động để giải quyết vấn đề xã hội, môi trường mà doanh nghiệp đã đăng ký. Mô hình doanh nghiệp xã hội đầu tiên hoạt động tại Việt Nam là hợp tác xã. Tuy nhiên, doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam phát triển mạnh chủ yếu từ sự chuyển đổi của các tổ chức phi chính phủ hơn là sự phát triển của các hợp tác xã như mô hình ở các nước châu Âu. Hiện tại, các doanh nghiệp xã hội đang hoạt động dưới bốn loại hình pháp lý: doanh

94


nghiệp, hợp tác xã, trung tâm, câu lạc bộ - hiệp hội. Trong số đó, trung tâm là hình thức được ưa chuộng hơn cả với 33%, loại hình doanh nghiệp đứng thứ hai với gần 30%, câu lạc bộ và hiệp hội chiếm khoảng 15% và hợp tác xã khoảng 10%(1). Hình thức trung tâm phổ biến vì dễ thành lập và có tính linh hoạt trong hoạt động. Các doanh nghiệp xã hội Việt Nam hoạt động tương đối rộng trên khắp các lĩnh vực, giải quyết rất nhiều vấn đề từ việc làm, giáo dục, xóa đói, giảm nghèo cho tới các cộng đồng người bị thiệt thòi và bị cách ly. Ba lĩnh vực phổ biến nhất là: đào tạo nghề và tạo công ăn việc làm, thủ công mỹ nghệ, dịch vụ chăm sóc sức khỏe. 1.2. Tổ chức xã hội Khái niệm tổ chức xã hội được xem như là một thành tố của cơ cấu xã hội; tổ chức xã hội chính là một hệ thống các quan hệ, tập hợp liên kết cá nhân nào đó để đạt được một mục đích nhất định (theo https://vi.wikipedia.org/wiki). Định nghĩa này nhấn mạnh đến hệ thống các quan hệ liên kết cá nhân chứ không phải chính tập hợp cá nhân trong các tổ chức và các quan hệ ở đây là các quan hệ xã hội. Tổ chức xã hội dân sự là một tập hợp không đồng nhất những tổ chức xã hội không là Nhà nước, tự nguyện và không định hướng vào lợi nhuận. Người ta còn gọi chúng là tổ chức phi chính phủ (NGO), tổ chức phi lợi nhuận (NPO)(2). Những mặt tích cực của các tổ chức xã hội trên thế giới được tổng hợp như sau:(3) - Các cơ quan chính phủ và cứu trợ chính thức thường phải trãi rộng trên nhiều đối tượng và nhóm mục tiêu, thì một tổ chức dân sự có khả năng chỉ tập trung vào vài hoạt động. Vì thế nó có thể làm việc một cách tập trung và hiệu quả. - Các tổ chức xã hội thường đề cao triết lý “tham gia” trong làm dự án, khiến cho dự án có tính hiện thực và người dân thấy như họ được làm chủ. - Các tổ chức xã hội có vai trò xúc tác làm cho người ra quyết định có thể nắm bắt được những quan điểm của người nghèo. Những tổ chức này đóng vai trò là những kênh thúc đẩy dân chủ ở cơ sở. - Các tổ chức xã hội ít bị ràng buộc quá chặt vào những giáo điều phát triển như các tổ chức tài trợ chính thức và cơ quan chính phủ. Nhân viên của họ thường năng động hơn với những thử nghiệm, tỏ ra thích nghi và sẳn sàng với những tiếp cận mới. Tuy nhiên, các tổ chức xã hội cũng còn một số hạn chế nhất định sau: - Sự phụ thuộc vào nhà tài trợ: Hầu hết các tổ chức NGO đều phụ thuộc rất lớn vào nhà tài trợ (cá nhân và tổ chức) về cả sứ mệnh, phương hướng và địa bàn hoạt động vì họ không thể tự chủ về mặt tài chính;

1

Nguyễn Đình Cung (2012) Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam – khái niệm, bối cảnh và chính sách, Trung tâm hỗ trợ sáng kiến phục vụ cộng đồng, tr.24 2,3 Bùi Thế Cường (2001) Các tổ chức xã hội ở Việt Nam

95


- Thiếu tính bền vững: Các dự án của NGO thường thiếu tính bền vững ngay trong cách tiếp cận cũng như khả năng có hạn của nguồn lực tài trợ. Các dự án đều được xây dựng trên một số lượng nguồn lực nhất định, cho một số mục tiêu nhất định. Do không tự làm sinh sôi nảy nở từ nguồn vốn ban đầu, cho nên dù đạt được mục tiêu hay không, các chương trình đều không thể kéo dài khi thời hạn chấm dứt, trừ khi chủ dự án kêu gọi được nguồn tài trợ mới để thực hiện chương trình nối tiếp. Các dự án vốn đứt đoạn và có tính biệt lập; do đó hiệu quả xã hội mà các giải pháp xã hội của NGO đem lại thường không vượt quá phạm vi và thời hạn của dự án; - Hiệu quả kém: Những đối tượng hưởng lợi không có động cơ để tự lập hay tạo cho bản thân một nguồn “vốn đối ứng” khi tiếp cận tài trợ, mà ngay cả các NGO trong nhiều trường hợp cũng không có động lực để hướng tới những giải pháp xã hội bền vững. Không ít NGO trở thành công cụ giải ngân một cách bị động cho các nguồn tài trợ. Trên thực tế, các nhóm đối tượng hưởng lợi cũng hiếm khi có cơ hội phản ánh trực tiếp tâm tư nguyện vọng, lợi ích của mình với nhà tài trợ. Chính các NGO biến thành một rào cản vô hình giữa nhà tài trợ và đối tượng hưởng lợi; - Xu hướng vốn tài trợ dành cho Việt Nam đang giảm dần: Khi nền kinh tế tăng trưởng tốt, đưa Việt Nam trở thành nước có mức thu nhập trung bình (năm 2010), cũng là lúc nguồn vốn tài trợ chính thức ODA và tư nhân đều bắt đầu xu hướng giảm. Một số quốc gia và tổ chức đã công bố lộ trình rút dần các chương trình tài trợ ra khỏi Việt Nam để dành cho các khu vực khác có nhu cầu hơn. Xét theo chiều hướng tích cực thì doanh nghiệp xã hội sẽ khắc phục được những hạn chế mà các tổ chức xã hội gặp phải; nó thể hiện trong cách tiếp cận và tính sáng tạo trong phương án kinh doanh bền vững. Tuy nhiên, doanh nghiệp xã hội cũng có những đặc điểm tương đồng với doanh nghiệp truyền thống và doanh nghiệp xã hội. 2. So sánh doanh nghiệp xã hội với các tổ chức xã hội Doanh nghiệp xã hội (DNXH) thường được so sánh với các tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận và từ thiện. Khái niệm Tổ chức phi chính phủ (NGO) ra đời sau Thế chiến II để nhấn mạnh tính trung lập, phân biệt với các tổ chức có sự tham gia và chịu ảnh hưởng của các chính phủ như Liên hợp quốc, WTO, EU... Tổ chức phi lợi nhuận (NPO) lại phổ biến ở Mỹ nhằm phân biệt với khu vực doanh nghiệp vì lợi nhuận. Trong khi đó, Tổ chức thiện nguyện (philanthropy/ charity) để chỉ các chủ thể tài trợ vốn không hoàn lại cho các mục tiêu từ thiện. Đây là ba loại hình tổ chức rất giống nhau nhưng không hoàn toàn trùng khớp. Đối với DNXH, bản chất phi lợi nhuận (chính xác hơn là “không vì mục tiêu lợi nhuận”) cần được nhấn mạnh hơn cả; và do là doanh nghiệp nên nó cũng có những điểm tương đồng với doanh nghiệp truyền thống là phải có hoạt động sản xuất kinh doanh và có lợi nhuận. Do đó, cần có ranh giới giữa Doanh nghiệp xã hội với doanh nghiệp truyền thống và các tổ chức xã hội.

96


2.1. Doanh nghiệp xã hội trong mối tương quan với Doanh nghiệp truyền thống và tổ chức phi chính phủ (NGO) Từ khái niệm có thể nhận diện DNXH nằm ở chính giữa các doanh nghiệp và tổ chức NGO truyền thống, là hai tổ chức gần gũi nhất đối với DNXH. Nếu ở một cực là các doanh nghiệp hoạt động vì mục đích tối đa hóa lợi nhuận tài chính, thì ở cực còn lại là các NGO được thành lập nhằm theo đuổi lợi ích xã hội thuần túy. Ngày càng nhiều doanh nghiệp có nhận thức tốt hơn về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) và gắn kết các yêu cầu CSR vào hoạt động của mình. Tuy vẫn đặt mục tiêu chủ đạo là tối đa hóa lợi nhuận, nhưng các doanh nghiệp cam kết thực hiện CSR coi các nguyên tắc đạo đức kinh doanh, bảo vệ môi trường, đóng góp cho cộng đồng là các nhiệm vụ đi kèm với hoạt động kinh doanh. Ngược lại, một số NGO cũng xây dựng các ‘nhánh’ hoặc dự án cụ thể thực hiện một số hoạt động kinh doanh trong cơ cấu tổ chức của mình. Các bộ phận này tuy không phải là hoạt động chính của tổ chức NGO nhưng là một trong những minh chứng cho sự năng động của NGO là vượt ra khỏi tính “thụ động” cố hữu trong quan hệ một chiều giữa nhà tài trợ và các NGO. Ở vị trí trung tâm, DNXH là mô hình kết hợp hài hòa cả hình thức và nội dung của hai loại hình tổ chức để lấy kinh doanh làm phương châm hoạt động chính, nhưng không vì mục tiêu lợi nhuận mà nhằm giải quyết các vấn đề xã hội cụ thể. Mức độ thành công của một doanh nghiệp truyền thống thường được đánh giá số lượng lợi nhuận luôn được tiền tệ hóa chính xác ở trong báo cáo tài chính cuối năm. Kết quả hoạt động của một tổ chức NGO có thể được đo lường bằng hiệu quả xã hội mà tổ chức này mang lại... Tuy nhiên, đánh giá hiệu quả của một DNXH lại phải dựa trên cả hai hệ tiêu chí về giá trị xã hội và kinh tế. Đây là điều mà hơn ai hết, các doanh nhân xã hội sáng lập và nhà đầu tư xã hội luôn thấu hiểu đối với DNXH của mình, nhưng nó là đặc điểm mà công chúng và người làm chính sách cần nâng cao nhận thức về mô hình mới này. 2.2. Doanh nghiệp xã hội và Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) DNXH thường được so sánh với phong trào Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) nên hay bị hiểu nhầm là CSR. Trên thực tế, đây là hai khái niệm hoàn toàn khác biệt, DNXH là mô hình hoạt động, một là trào lưu, vận động xã hội. CSR là một phong trào tự vận động, tự nâng cao nhận thức ở các doanh nghiệp để ràng buộc các hoạt động kinh doanh của mình theo các tiêu chuẩn đạo đức kinh doanh. Phong trào CSR kêu gọi các công ty ứng xử một cách có trách nhiệm với người lao động, khách hàng, cộng đồng và môi trường như một “công dân của xã hội”. Archie.B Carroll (1999) cho rằng “trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp bao gồm sự mong đợi của xã hội về kinh tế, luật pháp, đạo đức và lòng từ thiện đối với các tổ chức tại một thời điểm nhất định”. Xét về trách nhiệm cơ bản nhất, doanh nghiệp phải đảm bảo lợi nhuận, thu nhập cho người lao động, và lợi tức cho cổ đông. Thứ hai là tuân thủ các quy định pháp luật tại nơi doanh nghiệp đăng ký hoạt động nhưng đó mới chỉ là các trách nhiệm tối thiểu của mọi doanh nghiệp. Trách nhiệm thứ ba, họ phải hoàn thành và cũng là tâm điểm của CSR là trách nhiệm về 97


đạo đức trong kinh doanh, điều kiện làm việc của công nhân, trong chất lượng sản phẩm và dịch vụ, bảo vệ môi trường, lợi ích cộng đồng. Cuối cùng, trách nhiệm từ thiện, vốn được coi là trách nhiệm không bắt buộc của doanh nghiệp. Tuy nhiên, rất nhiều công ty lấy đây làm địa bàn chính để thể hiện CSR như một công cụ trong quan hệ cộng đồng, trong khi các trách nhiệm cơ bản lại chưa hoàn tất. Do đó, có thể thấy CSR và DNXH là hai khái niệm hoàn toàn độc lập. Các doanh nghiệp cam kết CSR vẫn là các doanh nghiệp truyền thống, nên CSR chỉ làm cho các doanh nghiệp “tốt” lên mà không thay đổi bản chất và mô hình của doanh nghiệp. Trong khi đó, DNXH lại là một mô hình hoạt động khác các doanh nghiệp truyền thống về bản chất. 2.3. Doanh nghiệp xã hội và Thương mại công bằng (Fair Trade) DNXH còn có nhiều điểm tương đồng với phong trào Thương mại công bằng (Fair Trade). Fair Trade là một phong trào xã hội có tổ chức, với cách tiếp cận dựa trên nguyên tắc thị trường, nhằm giúp các nhà sản xuất, người dân của các nước đang phát triển có được các điều kiện thương mại tốt hơn và phát triển bền vững hơn. Phong trào Fair Trade vận động các công ty đa quốc gia như Nike, Gap, Nesle, Unilever từ bỏ các hành vi ép giá, tạo điều kiện thương mại công bằng hơn để các nhà sản xuất nhỏ lẻ và người dân nghèo ở các nước đang phát triển có điều kiện phát triển bền vững hơn, cùng hưởng lợi trong chuỗi giá trị đó. Phong trào Fair Trade được dẫn dắt bởi một số tổ chức NGO có quy mô toàn cầu như Fair Trade Label Organization (FLO). FLO thực hiện việc kiểm tra chất lượng, quy trình sản xuất để dán nhãn Fair Trade cho các sản phẩm đáp ứng các tiêu chuẩn Thương mại công bằng. Việc dán nhãn có thể giúp tiêu thụ các sản phẩm tốt hơn, bởi người tiêu dùng ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ ngày càng quan tâm hơn đến các tiêu chuẩn xã hội và môi trường của sản phẩm (moral consumerism). 3. So sánh doanh nhân xã hội với doanh nhân truyền thống và nhân viên xã hội 3.1. Doanh nhân xã hội với doanh nhân truyền thống Doanh nhân xã hội cũng giống như doanh nhân kinh doanh truyền thống với các đặc điểm cơ bản như: sử dụng tư duy kinh doanh kết hợp với tính kỹ luật, sự đổi mới và các quyết định để đạt được mục tiêu đề ra. Nhưng không giống như doanh nhân kinh doanh, doanh nhân xã hội đóng góp vốn, khả năng huy động nguồn lực nhằm đầu tư cho cộng đồng không với hy vọng thu về lợi nhuận cho cá nhân. Họ là người khởi xướng cho nỗ lực kinh doanh xã hội và tạo dựng thành công qua sự đổi mới xã hội và quá trình thay đổi xã hội. Doanh nhân xã hội có vai trò trong việc hình thành giá trị xã hội và tạo dựng giá trị xã hội qua mô hình kinh doanh, nhằm giảm nghèo đói, cải thiện sức khỏe con người và giảm tác động của thay đổi khí hậu(4). Những điểm nổi bật của doanh nhân xã hội so với doanh nhân truyền thống bao gồm: 4 Đỗ Thị Đông –Đề xuất đào tạo tinh thần doanh nhân xã hội tại các trường đại học ở Việt Nam – Kỷ yếu hội thảo quốc tế “Doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam: vai trò của các trường đại học và các tổ chức nghiên cứu”, Tháng 3 năm 2015.

98


- Họ phát hiện các vấn đề xã hội và tìm được mô hình kinh doanh từ xã hội, đưa sáng kiến vào thực tiễn mang lại hiệu quả tích cực cho bản thân và cộng đồng. Chỉ có những con người gắn bó với cộng đồng, thậm chí là bản thân cũng thuộc nhóm đối tượng hưởng lợi của sáng kiến đó mới có thể phát hiện và thấu hiểu một vấn đề xã hội cụ thể; - Tính cách của doanh nhân xã hội là sẳn lòng chia sẻ và kết nối, họ không câu nệ, và chính việc gắn bó với cộng đồng nên thấu hiểu và chia sẻ các vấn đề xã hội hay môi trường cụ thể như cô Mai Thúy Hằng từ mong muốn người sản xuất không lạm dụng hóa chất trong sản xuất nông sản và hướng họ sang sản xuất sản phẩm an toàn, nhằm đảm bảo sức khỏe cho người sản xuất, người tiêu dùng và thân thiện với môi trường nên thành lập công ty Xanhshop thông qua việc liên kết với các nhóm nông hộ sản xuất cây trồng vật nuôi theo tiêu chuẩn an toàn của công ty đề ra; tổ chức thu mua sản phẩm phân phối đến tận nhà cho người tiêu dùng tại Tp. Hồ Chí Minh; - Họ là những người có lòng trắc ẩn và mối quan tâm cao về xã hội hơn người khác, họ nhận thấy trách nhiệm của mình trong các vấn đề xã hội nên thường là những người tiên phong trong việc phát triển khai các sản phẩm hay dịch vụ như: các doanh nghiệp sản xuất nông sản hữu cơ, các sản phẩm phong cách, phải bỏ ra chi phí rất lớn để giáo dục khách hàng về sản phẩm mới của mình. 3.2. Doanh nhân xã hội với nhân viên xã hội Nhân viên xã hội là những người hành nghề công tác xã hội, theo wikipedia.org thì công tác xã hội là một chuyên ngành để giúp đỡ cá nhân, nhóm hoặc cộng đồng tăng cường hay khôi phục việc thực hiện các chức năng xã hội của họ và tạo những điều kiện thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu đó. Nghề Công tác xã hội thúc đẩy sự thay đổi xã hội, giải quyết vấn đề trong mối quan hệ của con người, tăng năng lực và giải phóng cho người dân nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày càng thoải mái, dễ chịu. Vận dụng các lý thuyết về hành vi con người và hệ thống xã hội, Công tác xã hội tương tác vào những điểm giữa con người với môi trường của họ. Nhân quyền và Công bằng xã hội là các nguyên tắc căn bản của nghề. Với khái niệm trên thì có thể thấy nhân viên xã hội với vốn kiến thức về hành vi con người và hệ thống xã hội, mà thiếu đi các kiến thức như: phát hiện và giải quyết vấn đề thông qua giải pháp hay sáng kiến kinh doanh, thiếu và yếu về năng lực quản lý điều hành, thể hiện ở các mặt như: phát triển sản phẩm dịch vụ xã hội có định hướng thị trường, năng lực marketing, năng lực quản lý tài chính, tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh. 4. Các vấn đề xã hội ở Việt Nam và khả năng chuyển đổi các tổ chức xã hội thành doanh nghiệp xã hội 4.1. Các vấn đề xã hội ở Việt Nam - Xóa đói giảm nghèo và chênh lệch giàu nghèo Theo số liệu của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, tính đến cuối năm 2014, Việt 99


Nam còn 6% hộ nghèo (giảm 2,0% so với năm 2013). Riêng tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo vẫn còn ở mức 33,2% (giảm 5% so với năm 2013). Tuy nhiên, theo chuẩn nghèo mới thì số hộ nghèo và cận nghèo của cả nước ở mức 20% (Theo chuẩn nghèo của Bộ lao động đề xuất cho giai đoạn 2016 – 2020; khu vực thành thị là dưới 1,3 triệu đồng/tháng và khu vực nông thôn là 1triệu đồng/người/tháng; dự báo khu vực thành thị là 11,23% và khu vực nông thôn là 20,61%) 5. Như vậy, có thể ước tính số hộ nghèo của Việt Nam giai đoạn (2015-2020) lên tới mứ 4,27 triệu hộ. Do đó, giảm tỷ lệ đói nghèo một cách bền vững tiếp tục là một trong những thách thức cơ bản của Việt Nam trong thời gian tới. Người khuyết tật

-

Theo ước tính của Bộ Lao Động – Thương binh - Xã hội đến năm 2015 cả nước có khoảng 6,7 triệu người khuyết tật, chiếm gần 7,8% dân số cả nước. Trong đó, 69% số người khuyết tật đang ở độ tuổi lao động, nhưng chỉ có 30% số người này có việc làm và thu nhập ổn định. Do đó, trợ giúp người khuyết tật học nghề và tìm việc làm phù hợp với điều kiện thể trạng cho họ là vấn đề nan giải đối với các tổ chức xã hội trong tình hình hiện nay và cả những năm sau này. Người mãn hạn tù

-

Mỗi năm có hàng chục nghìn phạm nhân được ân xá và chấp hành xong hình phạt. Trong số họ đa phần không có trình độ tay nghề và các doanh nghiệp lại không sẳn lòng tiếp nhận lực lượng lao động này nên tỷ lệ tái phạm ở Việt Nam là 27% ( trong khi trung bình ở khu vực từ 15-20%). Nhóm đối tượng này rất cần được hỗ trợ về việc làm, nghề nghiệp, tư vấn pháp luật, hòa nhập cộng đồng... Người nhiễm HIV/AIDS

-

Tính đến ngày 31 tháng 05 năm 2015(6), Việt Nam có khoảng 227.144 người chung sống với HIV/AIDS, và hơn 12.000 người bị nhiễm mới mỗi năm. Chi phí mất việc và mất tay nghề đối với cả người lao động và doanh nghiệp là rất lớn. Do vậy, cả hai đối tượng đều cần được tư vấn, truyền thông và tạo việc làm mới. Bảo trợ trẻ em

-

Theo tạp chí Gia đình và trẻ em (04/12/2015), tính đến 2013 cả nước có khoảng 1,5 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn: trong đó có 200.000 trẻ em khuyết tật và nhiễm chất độc hóa học; 176.00 trẻ em mồ côi, không nơi nương tựa, bị bỏ rơi; 16.650 trẻ em nhiễm HIV/AIDS; 500.000 trẻ em bị tự kỷ và thiểu năng trí tuệ; 83.000 trẻ em là nạn nhân của thảm họa, thiên tai. Các tổ chức xã hội có thể tham gia rất nhiều mảng trong lĩnh vực này như tư vấn, đại diện, dạy học, dạy nghề, tạo sân chơi, kết nối thông tin, cung cấp nhà ở, quần áo, thức ăn, chăm sóc y tế...

5 6

Bùi Lan, Chuẩn nghèo mới: Hộ nghèo, cận nghèo có thể chiếm 20%, www:thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/xa-hoi/2015-07-31/ Lý Văn Sơn, Tình hình nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam; www.hiv.thuathienhue.gov.vn ngày 31/07/2015

100


- Chăm sóc người cao tuổi: Theo số liệu thống kê thì lượng người cao tuổi ở Việt Nam đang tăng nhanh hơn bất kỳ nhóm dân số nào. Tỷ lệ dân số cao tuổi từ mức 6,5% (2009) đã tăng lên 7,1% (2014)7. Đáng chú ý, tỷ lệ người cao tuổi không có vợ, không có chồng (cô đơn) lên tới 61,0%, và trong các phân nhóm tỷ lệ người cao tuổi nữ giới luôn cao hơn so với nam giới. Có thể dự báo vấn đề dân số già hóa cũng sẽ là một trong những vấn đề xã hội lớn của Việt Nam trong thời gian tới. Bên cạnh đó có đến 14,8% dân số (tương đương 12 triệu người) mắc một trong những bệnh về sức khỏe tâm thần thuộc 10 loại bệnh tâm thần thường gặp (Cục bảo trợ xã hội, 2015) và những đối tượng này đang cần sự giúp đỡ chuyên nghiệp. - Người di cư từ nông thôn ra các khu công nghiệp và đô thị(8): số lao động di cư nội địa năm 2012 là 6,57 triệu người và dự báo đến năm 2019 sẽ là 8 triệu người (Tổng cục thống kê). Người lao động di cư thường gặp những khó khăn trong cuộc sống, đặc biệt là trong thời gian đầu của di cư. Khó khăn mà họ thường gặp là khó khăn về nhà ở, phương tiện đi lại, nuôi dạy con cái, hưởng thụ sự trợ giúp từ phía Nhà nước, tiếp cận các dịch vụ an sinh xã hội cho người nghèo, hộ khẩu. Báo cáo nghiên cứu của Actionaid (2009) tại các khu công nghiệp nằm trên địa bàn của ba thành phố lớn (Hà Nội, Đà Nẵng, Tp Hồ Chí Minh) cho thấy, người lao động di cư thường không có bảo hiểm xã hội, bảo hiểm nghề nghiệp hay tai nạn lao động; không thể tự bảo vệ mình khỏi những rủi ro về sức khỏe và an toàn bản thân. Nhiều người lao động di cư do không có hợp đồng lao động hoặc có hợp đồng không rõ ràng và bất lợi cho họ, ít có cơ hội bảo vệ bản thân trước những tranh chấp kinh tế với chủ thuê lao động. Nhiều doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp nhà nước, đã thuê lực lượng lao động không có nghề theo mùa vụ để làm việc mà không ký hợp đồng. Mặc khác, một số đối tượng di cư để lại bố mẹ lớn tuổi, con cái còn nhỏ đang cần người lớn chăm sóc, đã tạo thêm gánh nặng cho các địa phương và cộng đồng nơi có nhiều lao động di cư. 4.2. Khả năng chuyển đổi của các tổ chức xã hội thành các doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam Mặc dù mỗi tỉnh thành của Việt nam hiện nay đều có các trung tâm bảo trợ xã hội thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ cho các đối tượng yếu thế, có điều kiện khó khăn như trẻ mồ côi, bị bỏ rơi, người già cô đơn không nơi nương tựa, người khuyết tật hoặc người tâm thần. Nhưng các cơ sở này hầu hết đều thực hiện các hoạt động mang tính cứu trợ xã hội dưới dạng nuôi dưỡng tập trung mà ít có các hoạt động hỗ trợ cộng đồng. “Mái ấm tình thương tre xanh (GBWS= Green Bamboo Warm Shelter ) là một dự án của Tổ Chức Chăm Sóc Trẻ Em Thành Phố Hồ Chí Minh Ra đời từ năm 1992. Mái ấm nhắm đến việc giúp các thanh, thiếu niên đường phố có một mái ấm, và hòa nhập lại với gia đình và xã hội nhưng số lượng trẻ em được nuôi dạy tập trung hiện nay khá khiêm tốn và mái ấm cũng chưa có được tài trợ ổn định để có kế hoạch tiếp nhận thêm trẻ em đường phố mới dù hiện tại cũng có nhiều đối tượng thuộc nhóm này cần được mái ấm cưu mang”. Trong khi ở một số cơ sở khác thì trọng tâm ưu tiên lại nhằm vào phục hồi mà thiếu đi các kế 7 8

Tỷ lệ dân số từ 65 tuổi trở lên – Tổng cục Thống kê Lê Văn Sơn, Lao động di cư nội địa ở Việt Nam

101


hoạch, hỗ trợ và theo dõi đối tượng tái hòa nhập cộng đồng, cung ứng dịch vụ chăm sóc sức khỏe, tham vấn tâm lý và hỗ trợ những người dễ bị tổn thương. “Trung tâm Chữa bệnh-Giáo dục-Lao động xã hội Bến Tre ra đời năm 2010 tại ấp Tân An, xã Tân Xuân, Ba Tri. Trung tâm được xây dựng trên diện tích 9,8 ha, gồm: khu hành chính; khu học viên. sân thể thao, khu vực đất dành cho lao động, sản xuất… Đối tượng vào trung tâm là phạm phải tệ nạn mại dâm và nghiện hút ma túy, Người cai nghiện bắt buộc (thời hạn 2 năm), mỗi tháng được Nhà nước hỗ trợ tiền ăn. Người cai nguyện tự nguyện, gia đình phải đóng tiền cho chí phí điều trị và ăn uống. Hàng ngày, học viên học tập, sinh hoạt nhóm và lao động sản xuất theo hướng dẫn của giáo viên. Trong giờ nghỉ, học viên được xem tivi, nghe loa truyền thanh phát các chương trình phòng, chống ma túy, AIDS. Những học viên chấp hành tốt nội quy, được cán bộ quản lý phân công làm tổ trưởng, nhóm trưởng và hàng tuần đều có bình bầu học viên tốt theo tổ, nhóm để làm căn cứ đánh giá, xếp loại cho “ra trường” trước hạn. Mỗi học viên đều được mở “sổ tiết kiệm”, ghi chép cập nhật các khoản thu (từ tiền gia đình gửi vào hoặc tiền có được do trồng rau cải), chi (mua các vật dụng sinh hoạt cần thiết). Do trung tâm chỉ tập trung vào cắt cơn mà chưa có hoạt động đào tạo nghề và giới thiệu việc làm cho các đối tượng của mình nên sau khi cai nghiện xong thì các đối tượng này rất khó có thể tái hòa nhập cộng đồng và nguy cơ tái nghiện rất cao”. Bên cạnh các dịch vụ xã hội của khu vực công thì hiện tại ở Việt Nam cũng có những mạng lưới của các tổ chức phi chính phủ cung cấp các hoạt động và nguồn lực trợ giúp các nhóm cá nhân, cộng đồng yếu thế. Dù có những khác biệt nhất định của hai khu vực này nhưng phần lớn họ cũng gặp khó khăn về mặt tài chính do phụ thuộc vào nguồn vốn dự án, phạm vi và thời gian hoạt động hạn chế. Do đó, các dịch vụ của các trung tâm này chưa thật sự giải quyết tận gốc vấn đề xã hội phát sinh mà còn khiến gánh năng cho ngân sách phải chi trả nhưng chất lượng dịch vụ không được cải thiện; còn thiếu các mô hình cung cấp dịch vụ xã hội dựa vào cộng đồng, hướng tới cộng đồng sử dụng dịch vụ sẽ chi trả hoàn toàn hay một phần chi phí dịch vụ, phần còn lại do ngân sách Nhà nước hay từ nguồn vốn từ xã hội hóa(9). Do dịch vụ xã hội là hoạt động không thể thiếu trong nền kinh tế và bản chất của nó dù mang tính xã hội cao nhưng nó cũng mang tính kinh tế bên trong. Tính kinh tế ở đây do dịch vụ xã hội là đối tượng của kinh tế học dịch vụ trên cả khía cạnh vĩ mô và vi mô. Xét trên khái cạnh vi mô do dịch vụ xã hội là một bộ phận hợp thành ngành kinh tế dịch vụ của đất nước mà trong chiến lược phát triển của quốc gia phải nhắm đến; trong khi ở tầm vi mô thì một đơn vị cung ứng dịch vụ xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường, có cạnh tranh, nên luôn phải đặt ra và giải đáp các câu hỏi: Cần tạo ra dịch vụ gì, dịch vụ cho ai và tổ chức cung ứng dịch vụ đó như thế nào?. Xét trong mức độ lợi ích của doanh nghiệp thì dịch vụ xã hội có thể là đối tượng kinh doanh, nếu nó mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp; trong khí xét ở góc độ người tiêu dùng thì bất kỳ ai sử dụng dịch vụ cũng phải trả tiền có thể là trả trực tiếp hay gián tiếp (gián tiếp có thể từ nguồn ngân sách hay các nguồn viện trợ nhân đạo - từ thiện). Do đó, các tổ chức xã hội với vai trò là cung ứng các 9

Phạm Văn Hảo – Thực trạng cung cấp dịch vụ công tác xã hội ở nước ta hiện nay.

102


dịch vụ xã hội thì hơn ai hết phải hiểu được đối tượng mà bản thân tổ chức họ phục vụ và khả năng chi trả (có thể trực tiếp hay gián tiếp cho đối tượng này). Do đó, để nâng cao chất lượng dịch vụ xã hội cũng như giảm bớt sự lệ thuộc vào nguồn ngân sách và nhà tài trợ thì các tổ chức xã hội phải tự chủ về mặt tài chính. Ở các quốc gia có phong trào doanh nghiệp xã hội phát triển như Anh, Hoa kỳ thì các nhân viên của doanh nghiệp xã hội đều là những người làm công tác xã hội, và nó là một nghề công tác xã hội thật sự chứ không phải là tình nguyện viên. Riêng Việt Nam thì nghề công tác xã hội mới được công nhận từ năm 2010 theo quyết định số 32/2010/QĐTTg ngày 25/03/2010 và Doanh nghiệp xã hội mới được Luật hóa và đi vào cuộc sống từ 1/7/2015 nên chưa có những điển hình của doanh nghiệp xã hội được tạo lập từ các tổ chức xã hội. Một nghiên cứu của sinh viên trường đại học University of Ostrava - của Cộng Hòa Czech, năm 2012 “nghề công tác xã hội trong các doanh nghiệp xã hội” đã kết luận chính những nhân viên làm công tác xã hội giúp những đối tượng lao động bị thiệt thòi tái hòa nhập vào cộng đồng là người tạo lập ra doanh nghiệp xã hội do chính họ gắn bó với cộng đồng trong công tác xã hội lâu năm. Do đó, các tổ chức xã hội sau một thời gian hoạt động có thể chuyển đổi sang doanh nghiệp xã hội do chính những nhân viên xã hội của họ khởi xướng. Tử các vấn đề xã hội ở Việt Nam nêu trên, một số tổ chức xã hội có thể chuyển hướng sang một số loại hình doanh nghiệp xã hội như sau: -

Các tổ chức dịch vụ xã hội

Các dịch vụ cung cấp phúc lợi cho các nhóm cá nhân chuyên biệt hoặc cho một cộng đồng dân cư xác định. Bản chất của việc tạo cơ hội tham gia cho các cá nhân thể hiện những lợi thế đặc biệt trong khả năng thu hút sự tham gia của các bên liên quan trong việc thiết kế và phân phối dịch vụ, đóng góp vào nguồn tài nguyên phi tiền tệ, xác định các lỗ hổng trong dịch vụ cung cấp và tiên phong trong việc đưa ra các dịch vụ mới tới gần hơn với xã hội. Nó được thể hiện như: nhà ở xã hội, tín dụng cho người nghèo, qũy tín dụng nhân dân, các quỹ tương trợ của hội, nhóm. -

Các tổ chức giáo dưỡng, tái hòa nhập xã hội

Các tổ chức này với vai trò tư vấn và đào tạo kỹ năng cho nhóm lực lượng lao động là những người chịu thiệt thòi trong xã hội (những người dân tộc thiểu số, những người khuyết tật, những bệnh nhân AIDS/HIV, những người nghèo và thất nghiệp, những người lầm lỗi...) bằng cách kết hợp đào tạo và phát triển kỹ năng cho họ thông qua việc đưa đến cơ hội việc làm tạm thời hoặc ổn định lâu dài trong một doanh nghiệp xã hội hay trong một doanh nghiệp truyền thống. Hiện tại có một số doanh nghiệp xã hội thuộc dạng này như: Trung tâm nghị lực sống đào tạo và giới thiệu việc làm cho người khuyết tật, chuỗi nhà hàng KOTO đào tạo và giới thiệu việc làm cho trẻ em đường phố.

103


-

Các tổ chức xã hội dân sự

Các tổ chức hỗ trợ cho sự phát triển bền vững về tài chính và pháp lý cho các sáng kiến xã hội dân sự nhằm mục đích hỗ trợ các nhóm người có hoàn cảnh khó khăn. Nó có thể đại diện cho một chiến lược của các tổ chức xã hội dân sự nhằm huy động các nguồn lực từ cộng đồng, khuyến khích sự hoạt động của công dân và phát triển quan hệ đối tác cho sự đổi mới xã hội. Chủ thể của xã hội dân sự ở đây là các thiết chế xã hội ngoài nhà nước và thị trường, được thiết lập trên các nguyên lý huyết thống (gia đình, dòng họ), nghề nghiệp- lợi ích – nhân đạo (hội, đoàn thể), đức tin (tổ chức tôn giáo, tín ngưỡng), láng giềng địa vực (làng/bản)… được tổ chức vận hành đề cao giá trị nhân văn, đạo lý, vô vụ lợi, tự nguyện. Cung ứng dịch vụ xã hội qua các tổ chức dân sự đã có mặt ở nhiều lĩnh vực của đời sống như: y tế, giáo dục, văn hóa – nghệ thuật, thể thao, trợ giúp xã hội. Trong lĩnh vực y tế như hoạt động khám chữa bệnh của các lương y trong các tổ chức tôn giáo dưới dạng từ thiện và huy động sự đóng góp của các nhà hảo tâm và cộng đồng. Trong giáo dục như việc mở lớp tình thương cho trẻ em tàn tật, câm điếc, tự kỷ, mồ côi không nơi nương tựa. Trong văn hóa nghệ thuật là các hoạt động văn hóa nghệ thuật làng xã trong tổ chức lễ hội, hoạt động tín ngưỡng dân gian, bảo tổn nghệ thuật truyền thống…. 4.3. Những điều kiện tiên quyết để tổ chức xã hội chuyển đổi sang doanh nghiệp xã hội Với những hạn chế của các tổ chức xã hội như đã phân tích như: phụ thuộc vào nhà tài trợ hay nguồn ngân sách cấp phát, thiếu tính bền vững, hiệu quả hoạt động kém, nguồn vốn tài trợ và gánh nặng ngân sách khi các vấn đề xã hội và các đối tượng xã hội ngày càng gia tăng. Do đó, để các tổ chức xã hội chuyển hướng sang doanh nghiệp xã hội thì điều tiên quyết là các tổ chức này phải xây dựng mục tiêu ổn định lâu dài; tự chủ hoặc tự chủ một phẩn về mặt tài chính; nâng cao chất lượng dịch vụ và hướng đến dịch vụ có thu để bù đắp cho các chi phí hoạt động gắn với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tổ chức. - Mục tiêu, định hướng hoạt động: Các tổ chức xã hội thành lập từ các chương trình, dự án tài trợ của các tổ chức phi chính phủ, chương trình mục tiêu xã hội của Nhà nước thì hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn viện trợ và ngân sách cấp phát cho các hoạt động nên bản thân các tổ chức này hoàn toản bị động. Một số tổ chức thành lập từ sự thiện nguyện thì có những hoạt động linh động hơn do không vướng vào cơ chế xin cho từ ngân sách và tài trợ nhưng nguồn lực cũng bị giới hạn. Do đó, việc các tổ chức định hướng chiến lược lâu dài và xét đến mức độ phát triển của các vấn đề xã hội mình đang giải quyết là rất cần thiết. Nó là hướng đi và cũng là động lực để cho các nhân viên của tổ chức gắn bó với công việc của họ và đó cũng là một nghề nghiệp thực sự cho họ mưu sinh. - Tự chủ về mặt tài chính: Để đạt được mục tiêu ổn định và phát triển tổ chức thì chính tổ chức phải tự chủ về mặt tài chính. Nguồn vốn cho tổ chức hoạt động có thể được đến từ các nguồn như: ngân sách, các nhà tài trợ, các cuộc quyên góp vận động, thu từ cung cấp các dịch vụ và cần có kế hoạch thu và sử dụng hợp lý cho từng giai đoạn phát triển

104


của tổ chức. Phải tự cân đối tài chính cho tổ chức theo lộ trình cắt giảm của các nguồn cung cấp và tài trợ; - Nâng cao năng lực quản lý và công tác chuyên môn cho cán bộ công tác xã hội: Nguồn nhân lực phục vụ cho công tác quản lý và điều hành các tổ chức xã hội hiện nay hầu như chỉ được trang bị kiến thức về xã hội học và chuyên môn chuyên sâu; họ chưa có được các kiến thức về kinh doanh và quản lý. Vì thế, các cơ sở đào tạo nghề công tác xã hội cần trang bị thêm các kiến thức về quản trị kinh doanh, khởi tạo doanh nghiệp, tài chính doanh nghiệp, bên cạnh là các cuộc thi tìm kiếm các giải pháp kinh doanh từ các dịch vụ xã hội và thông qua đó có những hỗ trợ và nhân rộng mô hình đến các tổ chức xã hội. Bên cạnh nguồn nhân viên chuyên trách thường xuyên thì nguồn nhân lực tình nguyện và hỗ trợ từ bên cũng không kém phần quan trọng giúp cho tổ chức mở rộng tầm ảnh hưởng và phục vụ cộng đồng được tốt hơn. Do đó, tổ chức cần xây dựng cơ chế, chính sách thu hút đầu tư sự hỗ trợ kỹ thuật của các chuyên gia trong công tác tư vấn, chuẩn đoán; thông qua các kênh truyền thông thu hút lực lượng tình nguyện viên thường xuyên và thời vụ. -

Nâng cao chất lượng dịch vụ của tổ chức

Dịch vụ của tổ chức không chỉ đáp ứng nhu cầu hiện tại của các đối tượng mà cần hướng tới những giải pháp căn cơ lâu dài như trường hợp điển hình là các cơ sở trợ giúp các bà mẹ đơn thân tại thành phố Hồ Chí Minh ban đầu là cưu mang các thiếu phụ mang thai không đủ nguồn lực nuôi con có chỗ ở và hỗ trợ chi phí sinh nỡ và nuôi con từ 3 đến 6 tháng. Tiếp theo đó là giúp tìm việc làm hay cho các bà mẹ đi học nghề và giới thiệu công việc để có thể nuôi con; hay các cơ sở cay nghiện, giáo huấn các đối tượng phạm tội, lầm lỗi ngoài việc tổ chức cai nghiện giáo dục tại chổ, dạy kỹ năng sống, thì cần dạy nghề và tìm kiếm việc làm hay tạo việc làm cho các đối tượng này để giúp họ hòa nhập cuộc sống và tránh tái phạm. - Phát triển dịch vụ hướng vào nhu cầu xã hội Nhu cầu dịch vụ xã hội rất đa dạng, ngoài các đối tượng xã hội cần được trợ giúp thì một số đối tượng có khả năng tài chính để chi trả. Do đó, việc mở rộng các dịch vụ phục vụ cho các đối tượng có nhu cầu có khả năng chi trả chính là khách hàng mục tiêu của các tổ chức xã hội. Dịch vụ chăm sóc người già, trông giữ trẻ, cai nghiện tự nguyện…và chính các tổ chức xã hội chính thống cũng cần định giá dịch vụ hợp lý và có thể mở rộng thêm đối tượng này nhằm tận dụng các điều kiện cơ sở vật chất hiện có và cũng nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ của tổ chức. Tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Đình Cung (2012) Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam – khái niệm, bối cảnh và chính sách, Trung tâm hỗ trợ sáng kiến phục vụ cộng đồng; 2. Bùi Thế Cường (2005) Các tổ chức xã hội ở Việt Nam, Tạp chí khoa học xã hội số 2/2005, Tr 10 – 20;

105


3. Đỗ Thị Đông (2015) Đề xuất đào tạo tinh thần doanh nhân xã hội tại các trường đại học ở Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo quốc tế “Doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam: vai trò của các trường đại học và các tổ chức nghiên cứu”, 3/ 2015; 4. Trần Hậu (2012) Phát triển dịch vụ xã hội ở nước ta đến năm 2020 – một số vấn đề lý luận và thực tiễn; 5. Phạm Văn Hảo 92016) Xây dựng mô hình đào tạo thức hành công tác xã hội gắn với mô hình cung cấp dịch vụ công tác xã hội cho công đồng trong bối cảnh ở nước ta hiện nay, Hội thảo khoa học quốc tế “Nâng cao chất lượng đào tạo công tác xã hội với chuyên nghiệp hóa dịch vụ công tác xã hội”, Tháng 1/2016 6. Ngô Văn Thạo (2015) Phát triển doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long, Luận án tiến sỹ kinh tế, Tháng 8/2015; 7. http://tuyensinh.ussh.edu.vn/program/cong-tac-xa-hoi/khung-chuong-trinh; 8. Yanto Chandre, Ph.D (2015) Teaching and learning socail entrepreneurship: A cityu’s experience, SE in Vietnam: The roles of higer educatuon and research institutions. Hanoi, Vietnam. 17 march 2015.

106


PART 3. EMBEDDING SOCIAL ENTREPRENEURSHIP AND SOCIAL INNOVATION INTO HIGHER EDUCATION PHẦN 3. LỒNG NGHÉP TINH THẦN KINH DOANH XÃ HỘI VÀ SÁNG TẠO XÃ HỘI VÀ TRƯỜNG ĐẠI HỌC

107


108


DEVELOPING AN ECOSYSTEM FOR SOCIAL INNOVATION THROUGH AN INTERDISCIPLINARY WORK-BASED LEARNING MODEL IN HIGHER EDUCATION THE CASE OF THE LEARNING COMMUNITY FOR SOCIAL IMPACT Roger Epworth and Do Thi Huong Nhu RMIT

Abstract: The use of Social Enterprises as the focus of workbased learning in Higher Education offers many benefits to universities, their students, social enterprises and society in general. However so far, universities and business schools worldwide tend to concentrate on the mere training of the next generation of social entrepreneurial leaders. The truth is that, not everyone was born to become a social entrepreneur. Others just wish to contribute their skills and capabilities to the society without being labelled. On another level, while social enterprises are short of resources to be able to afford talented people, vast numbers of students are trying every semester to look for a volunteering opportunity to get themselves more ready for work. An Interdisciplinary Workbased Learning Model in Higher Education will allow business students to gain a holistic understanding of how complex organisations work and prosper, and enjoy an immense opportunity to develop themselves. This is also useful for students from other disciplines who may not necessarily be an entrepreneurship student. In doing so such activity helps social enterprises through the input of interdisciplines aiding the development of sustainable business models, as well as the opportunity of networking. This paper outlines an interdisciplinary, workbased learning model for students studying through aiding social enterprises, under rigorous coaching, and examines the case study of RMIT Vietnam’s Learning Community for Social Impact as an example of how such endeavours can be structured and what challenges are present in making such endeavours work. Keywords: interdisciplinary curriculum, learning community, social enterprise, social innovation, work based learning model, 3P learning model Introduction The use of Social Enterprise as the focus of workbased learning in Higher Education offers many benefits to universities, their students, social enterprises and society in general. The interdisciplinary nature of Social Enterprises including an understanding of marketing, strategy, human resources, accounting/finance, public policy and social welfare together with the benefits of workbased learning including the development of communication, creativity, critical thinking, problem solving, teamwork and leadership skills means that students undertaking workbased placements in social enterprises gain a holistic understanding of how complex organisations work and prosper, and enjoy an immense opportunity to develop themselves in both job specific and transferrable skills.

109


Furthermore, this is not only useful in equipping future social entrepreneurial leaders with the tools and knowledge to succeed but is also useful for both undergraduate and postgraduate students from a diverse range of disciplines who may not necessarily be an entrepreneurship student or intend to be an entrepreneur. In doing so such activity helps social enterprises through the input of interdisciplines aiding the development of sustainable business models. This is particularly important for social enterprises in such countries as Vietnam, who struggle to access appropriate expertise and funding. On another level, while social enterprises are short of resources, especially with respect to talented people who can accept to work for them at almost no cost, vast numbers of Vietnamese students are trying every semester to look for an internship or volunteering opportunity to get themselves better prepared for work. Again, this situation suggests that while solving a social problem, social enterprises, social entrepreneurship and business students should work together for greater social impact. This paper outlines an interdisciplinary, workbased learning model for students studying through aiding social enterprises, under rigorous coaching, and examines the case study of RMIT Vietnam’s Learning Community for Social Impact as an example of how such endeavours can be structured and what challenges are present in making such endeavours work. The challenges faced by social enterprises, and society at large While the world economy has developed rapidly in the last few decades with a correspondingly larger, wealthier middle class with new comforts and more relaxing lifestyle, it has also created emerging serious social and environmental problems, such as population displacement, social inequality, abusive labour practice, and natural disasters, from which the poor in developing countries suffer most (Bornstein, D. and Davis, S., 2010). In response and as a result of this economic activity, better education and healthcare and advances in communication, the world has seen the establishment of millions of social purposed organisations. This led to social enterprises becoming a global movement during 1980s and 1990s, though not to the same extent in closed economies such as Vietnam where the concept of entrepreneurship in general and social entrepreneurship in particular was unknown or not tolerated (Bornstein, D. and Davis, S., 2010), due to its contradiction with the communist economic ideology, based on collective ownership of production materials. The definition of “social enterprise” still divides scholars. Some consider “social enterprise” all activities or initiatives which have the objective of enabling disruptive changes to an existing problematic social situation (social transformation), and thereby creating social value or social impact (Pearce, 2003; Alvord, Brown, and Letts, 2004; Bornstein, 2004; Nicholls, 2006). Others pay more attention to the hybrid model or the institutional character of “social enterprise”, which, according to them, involves building an organisation that pursues both financial and social sustainability (Borzaga and Defourny, 2001; EMES European Research Network).

110


(For a comprehensive review of the concept: T. L. Hill ,Tanvi H. Kothari & Matthew Shea, 2010. Vietnamese Law on Enterprises, and its implementation guidelines Decree 96/2015/NĐCP dated 19/10/2015 tend to support the latter definition.) This lack of a universally accepted definition of social enterprise (and social entrepreneurship) does not prevent professionals from agreeing on the common challenges faced by social entrepreneurs, and more specifically by nascent ones: (i) access to finance and investment, which is harder for social enterprises where the time to benefit is usually longer than in mainstream businesses; (ii) lack of understanding of the concept of social enterprise by the general public, therefore of established mechanisms facilitating its growth (most social enterprises have to bricolage the existing systems to make their own way to a proven model) (Desa, G., 2012); (iii) pricing of service and managing cash flow; (iv) recruiting and retaining staff (Hynes, B., 2009); and, especially in developing countries like Vietnam, (v) lack of business management skills, such as business planning, accounting, social impact measurement (Smith, W. and Darko, E., 2014). These challenges dramatically hamper the development of a sustainable business model which is exaggerated due to the increased complexity of social enterprises. The hybrid business model of social enterprise in itself implies that social entrepreneurs have a particularly demanding job (Tracey, P. and Phillips, N., 2007) and have to assume a large number of management roles (Hynes, B., 2009) to achieve their firms’ growth. Research suggests this achievement through internal delegation of core responsibilities to employees (Hynes, B., 2009) – many of them are volunteers when social enterprises are still at an early age of their development (O’Hara, 2001), or externally through networking with other social entrepreneurs or government agencies (Shaw and Carter, 2007), allowing social entrepreneurs to actively engage in the social environment to gain access to the necessary resources (Renko, M., 2013). Bornstein and Davis (2010) have argued that social problems have spread so quickly that solutions addressing them can no longer be centralised. They have to be decentralised, integrated, and deployed in real time (Bornstein, D. and Davis, S., 2010). This prevailing trend helps to highlights why it is important to develop an ecosystem that facilitates the flourishing of social enterprises. The next question then becomes what is the role of higher education in such an ecosystem and how best can that role be structured and delivered? The need of a better learning model in higher education Higher education, particularly in the area of entrepreneurial education has traditionally contributed to this ecosystem through the education and training of the next generation of entrepreneurial leaders. Generally and historically this has tended to focus on traditional or for profit type entrepreneurs rather than social entrepreneurs even though the literature clearly identifies that the skills and knowledge required for both are different (Howorth, Smith and Parkinson 2012). More recently however there has been increased academic 111


interest in dedicated social entrepreneurial courses. Gregory Dees is known to be the “father” of the first social entrepreneurship course at Harvard University in 1994. In 2008, the Social Entrepreneurship Teaching Resources Handbook counted 350 professors in 35 countries teaching this course (Brock, D.D., 2008). This however remains a small proportion of entrepreneurial education. There has also been increased debate about whether the classroom based model of educating entrepreneurs is the most effective (Honig 2004, Bechard and Gregoire 2005). The interdisciplinary and inherently complex nature of entrepreneurship has led some commentators to argue for a more interdisciplinary, action learning model (Kickul, Terjesen, Bacq and Griffiths 2012). Given the absence of formal social entrepreneurial educational offerings in Vietnam, there is justification in exploring alternative ways that higher education can contribute to the ecosystem for social innovation and that also benefit students, universities and society. From another perspective, receptive of concerns about the work ready capabilities of management students by industry, students and the academy has driven increased interest in both workbased educational options and the exploration of interdisciplinary learning (Freudenberg et al, 2011), to the point where most universities worldwide have included workbased educational options into their curricula, under different forms, from placements, internships, field work, sandwich year degrees, job shadowing (Von Treuer et al. 2010), to community service learning (Clinton and Thomas 2011) or full time service learning capstone (Ballard, A., 2013). In a less traditional way, knowing the benefits of a work based learning model in terms of personal development, skill acquisition and employability (Low et al, 2007; Brewis et al, 2010), students themselves are also more and more active in looking for volunteering opportunities, where they are required to offer their time voluntarily, more often than not, in an area not directly reflective of their learning subjects. Unfortunately, this seems to dissociate “volunteering” from “work experience” (Weston, C. et al, 2013), making it less valuable to both students and universities. Management as a practice is inherently multidisciplinary with much of the understanding coming from the interfunctionality of multiple disciplines including strategy, marketing, human resource management, finance and accounting (Raelin, 1998)). Practical success is also often largely determined through the application of tacit knowledge in the areas of communication, leadership, problem solving and teamwork (Raelin, 1998). However traditional educational models tend to focus on theory rather than application and on explicit knowledge rather than tacit (Raelin 1998). This is often exaggerated by the discipline nature of higher education where disciplines are treated as standalone entities. That is, the standard model of management education in higher education focuses on knowledge of explicit theory within a single discipline environment when practical demand calls for multi or interdisciplinary approaches which emphasises the practical application of theory and the explicit acknowledgement and support for the development of tacit knowledge skills. 112


Workbased educational models which emphasise an interdisciplinary approach have developed to fill this educational void. Work based models involving students working within a real world context on action learning type assignments allow for the merger of theory and practice and the acknowledgement of the interdisciplinary nature of management and the solutions to common management issues. Such educational models also allow for the practical exploration of such skills as teamwork, decision making, communication and leadership in a practical rather than theoretical context. This is significant for the development of managers as much of this knowledge is tacit and so not explicitly acknowledged in theory though profoundly important in practical application. For example multidimensional teams are often dysfunctional and achieve results below those of the individual members (Stalmeijer et al, 2007). This is due to a number of factors including poor specification of the tasks, faulty communication processes and differing expectations (Stalmeijer et al, 2007). To prepare future social entrepreneurs and business graduates in general, an understanding of and experience with this added complexity would appear to be more than desirable. That is to say, there is great potential in the utilisation of work based educational models for the holistic development of work ready management graduates. Such models also provide value to a range of other disciplines which are taught in isolation but in practice require a holistic understanding such as public policy and social welfare. Social entrepreneurship offers a particularly rich environment for such work based interdisciplinary placements while at the same time addressing some of the challenges faced by social entrepreneurs as outlined above. The needs of management and entrepreneurship education to develop holistic interdisciplined graduates and of social enterprises to access a wide range of appropriate management expertise suggests some synergy which can be used as the basis of a model of interdisciplinary workbased learning in higher education. Solution: Aiding Social Enterprises as an Interdisciplinary Workbased Learning Model in Higher Education 4.1 RMIT’s Learning Community for Social Impact Case Study RMIT Vietnam is a microcosm of the above mentioned challenges for management education. Feedback from industry suggested that employers want students to be more work ready, to have practical knowledge of working in a complex organisation and of the so called soft skills essential for success such as problem solving, teamwork and communication. At the same time surveying of students found that while they had a good understanding and appreciation of their discipline they lacked a holistic understanding of how the elements fitted together. They also expressed a desire to get practical experience with many of the students never having worked even in a part time capacity. At the same time a number of academic staff at RMIT were involved in social enterprises and were aware of their complex challenges. Anecdotally there was also strong demand from the students to help out social enterprises as a way of helping their community and society in general. Within this environment the RMIT Learning Community for Social Impact

113


(LCSI) was formed. The LCSI was conceptualised as an interdisciplinary group of students and academic mentors who were engaged in aiding a specific social enterprise through facilitating the development of a sustainable business model and in aiding the enterprise through the application of their management knowledge. Students from a range of disciplines volunteered for the project to work in such areas as strategic planning, IT development, fundraising and marketing. One element of the program was that students could volunteer for any function not just their area of major so that they could get experience across a wider range of issues and get a holistic understanding of the organisation. These groups were then supervised by an academic mentor who instilled a rigorous framework within which to operate. An open system approach was employed where groups communicated within group through shared google documents and where other groups had access to these documents to remain informed of what was happening in each area. This was designed to facilitate a true interdisciplinary understanding. For practical reasons the LCSI was initially a nonaward extra circular activity the students could participate in. Mainly this was due to the complexities of establishing a multidisciplinary unit of study which functions across business units. A number of outcomes from the LCSI were informative with respect to the utilisation of social enterprises as the focus of an interdisciplinary work based model for management education. Firstly, there was strong interest from the students to participate even though it was non-credit bearing. Feedback suggested that this was due to its work based nature and the benefits of an interdisciplinary approach. It is worth mentioning that interest in the project came not just from those interested in social entrepreneurship or entrepreneurship in general but also from those who never intended to work in this space. They saw the complex nature of social enterprises as being good experience and being young they wanted to work to improve their community and society. In this way a focus on social enterprises was seen as being optimal for their desire to get practical experience in the management of complex organisation as these enterprises were seen as being particularly complex, were seen as needing access to the level of expertise they offered and where they could help out their community and society in general. In developing the LCSI several challenges were observed. While the LCSI was established as a nonaward opportunity, to integrate the learning opportunity into the curriculum of particularly management education, such a model should ideally be part of an award based unit of study. One reason for this is the inherent time demands of such projects as well as the explicit recognition and control that bringing such a program into the structure of degrees would bring. This requires coordination across disciplines and in some cases schools. This would also provide structure and accountability to the program which aids the student in understanding expectations of input and the quality of that input. From this experience together with the identified needs of social enterprises and management education a model for an interdisciplinary, workbased model focusing on social enterprises has been developed. 114


4.2 What is needed for the model to work? That is an important question in any model development process. The journey that we experienced with the LCSI, and the quest for a formulas for success bring us to a system model of learning and teaching, developed by Dunkin and Biddle's (1974), adapted by Biggs, J.B., (1993) and Della Freeth& Scott Reeves (2004), which is especially useful for collaborative learning, known as the 3P Learning Model, with 3Ps standing for Presage, Process and Product. The nature of multidisciplinary or interdisciplinary teamworking makes the model more complex, due to potential professional territory boundaries. Good practice suggests considering some factors which would turn a group of professionals from different disciplines into an effective working team. Wilson, V. and Pirie, A. (2000) argue that the factors encouraging multidisciplinary teamworking include a common goal, clarity of roles and communication, and institutional support, while the factors that could inhibit interdisciplinary teamwork include logistics, the role of professional bodies, and attitudes of team members (Wilson, V. and Pirie, A., 2000). Let’s put together all the above elements for a thorough analysis of what could make an interdisciplinary workbased learning model for social impact in higher education a successful model. For practical reasons, we categorise the different factors for success into three levels: Individual (students or staff joining the model), Team (a specific interdisciplinary working team) and Institution (where the learning model is hosted). Figure 1 shows how these factors relate to and influence each other.

Figure 1 Key Success Factors for an Interdisciplinary Workbased Learning Model for Social Impact in Higher Education 115


4.2.1 Individual Level At the Individual Level, personal commitment of the students and teachers who will join the learning team is one of the critical factors. Usually, people, motivated by good cause, can have a strong personal commitment when they start the programme, but may find difficult to maintain it at the same level throughout the learning journey, especially during the examination period when the formal workload is high for both students and teachers. Researches in other parts of the world showed evidence of students’ reluctance to take on additional volunteering responsibilities in order to stay focus on their studies to gain credit (Cox, 2002). A credit recognition mechanism offered by the hosting institution could therefore help to ensure a consistently high level of personal commitment from learners. The charisma of experienced team leaders, academic coaches and social entrepreneurs could also be magnetic (Wilson, V. and Pirie, A., 2000) to young people. Students are at the stage of looking for a role model in their life. Individual attitude of the participants, most importantly their teamwork spirit, and a good cause motivation in this particular learning community case are crucial for vision sharing and an effective communication, which constitute success factors at the Team Level. 4.2.2 Team Level At the Team Level, the factors defining the success of the Learning Team will be a clear concept outline of the learning model, professional involvement of academic staff, and an effective communication. Biggs (1993) emphasised the utility of using 3P model to describe student learning (Biggs, J.B., 1993).Wilson, V. and Pirie, A. (2000) confirmed the benefits of a planned educational experience to everyone involving in it. We have had the same approach in our own experience. Initially, we shared a discussion paper, with a clear context, common goal, description of roles and biography of all the mentors, and send out an announcement to students of different programmes, with clear expectations and requirements, and get them register. Next, the social enterprise, mentors and students are involved in a strategic planning exercise to outline organisational needs and priorities. We documented all the ideas. Based on the outcomes of the strategic planning session, groups are formed with a lead mentor assigned. Each group may contain students majoring in that area or students who are just interested in helping in that area. The students’ interest and the professional involvement of the mentors actually made learning happen. The mix of students aided decision making by widening the perspective taken on task drawing on a wide range of disciplinary perspectives. Each group of students then works with the enterprise under the supervision of the mentor to enact agreed outcomes of the plan within a specified timeframe working with other groups where necessary. Assessment of the students are based around the completion of the agreed upon tasks. The communication within and between the groups were dynamic, reflective, result focus, thanks to the aid of online shared tools and possibly due to a relatively small size of the community. The cost would be higher when being scaled up for the need of maintaining small size groups to facilitate active learning and interprofessional interaction (Wilson, V. and Pirie, A. (2000)).

116


4.2.3 Institutional Level Institutional support has huge impacts on personal commitment of team members (both students and mentors) (at Individual Level), the involvement of professional academic staff, effective communication, and learning process (at Team Level), and has an interrelated relationship with the concept of the learning model itself (at Team Level too). The LCSI was fortunate to receive a great support from RMIT Vietnam in terms of infrastructure/logistics. Staff working hours dedicated to the LCSI are also counted in the staff workload as time for community service. Other supports would need more time to occur, which is common in traditional organisations with departmental structures, that may find the introduction of a matrix management with functional divisions to support an interdisciplinary working team challenging (Wilson, V. and Pirie, A. (2000)). Conclusion The model focuses on the development of a higher education unit of study aiding social enterprises in their community through interdisciplinary teams working in a work based context. Such a unit would be interdisciplinary in respect to the students who could take such a unit and in the focus of their work. In addition to students within an entrepreneur major any student within the university can enrol. This multidisciplinary approach aids the program and so social enterprises through providing a wide range of expertise and perspectives beyond entrepreneurship. Students would work with academic mentors who are experts in different areas to work on practical management tasks in areas of most need for the enterprise but including marketing, accounting, human resource management, fund raising or IT related areas. The added complexity of social enterprises means that students are exposed to areas of public policy and social welfare and similarly students of social welfare and public policy can be involved to aid their understanding of management disciplines. Such a model can be seen to develop an ecosystem for social innovation and enterprise through aiding a range of stakeholders. For social enterprises it provides access to high level management skills through the supervision of the mentors and the knowledge of students. It also provides much needed hands on aid as students get in and undertake the agreed upon tasks. Over time it also facilitates a wider appreciation of their needs as nonentrepreneur students from a range of other disciplines become involved. This will also over time increase the networks that such enterprises can access in government, banking and other services. For students it allows them to experience and so understand complex organisations, to develop work ready skills and importantly to aid society in the process. For universities it enables them to provide to students a holistic understanding of complex organisations, to fulfil their charter to aid society and especially those less fortunate and as a marketing message to attract the best students. For society it aids social enterprises in the development of sustainable business models, increases empathy and networks for such enterprises and helps develop well rounded work ready graduates who will go on to be leaders not only social enterprises but also in business and government. Therefore such a model looks to develop an ecosystem where all ingredients for success are included and support each other and where action leads to the betterment of society and life for those less fortunate. 117


References 1. Alvord, S. H., Brown, D. L., & Letts, C. W., 2004.Social entrepreneurship and societal transformation. Journal of Applied Behavioral Science, 40(3): 260–282 2. Ballard, A., 2013. 9. Reducing the Boundaries Between the Community and the Academy With a FullTime Service Learning Capstone. Collected Essays on Learning and Teaching, 6, pp.4853. 3. Bechard, J. and Gregoire, D. 2005. Entrepreneurship Education. Research Revisited: The Case of Higher Education. Academy of Management Learning and Education, 41(1), pp 2243 4. Biggs, J.B., 1993. From theory to practice: A cognitive systems approach.Higher education research and development, 12(1), pp.7385. 5. Bornstein, D. and Davis, S., 2010. Social entrepreneurship: What everyone needs to know. 6. Bornstein, D., 2004. How to change the world: Social entrepreneurs and the power of new ideas. Oxford: Oxford University Press 7. Borzaga, C. and Defourny, J. (Eds), 2001. The Emergence of Social Enterprise, Routledge, London 8. Brock, D.D., 2008.Social entrepreneurship teaching resources handbook.Available at SSRN 1344412. 9. Clinton, I. and Thomas, T.H.E.D.A., 2011. Business students’ experience of community service learning. AsiaPacific Journal of Cooperative Education,12(1), pp.5166. 10. Cox, E., 2002. Rewarding volunteers: a study of participant responses to the assessment and accreditation of volunteer learning. Studies in the Education of Adults, 34(2): 156–70 11. Defourny, J. and Nyssens, M. (Eds), 2008. Social enterprise in Europe: recent trends and developments, EMES Working Papers No. 08/01, p. 5, available at: www.emes.net 12. Desa, G., 2012. Resource mobilization in international social entrepreneurship: Bricolage as a mechanism of institutional transformation. Entrepreneurship Theory and Practice, 36(4), pp.727751 13. Freudenberg, B., Brimble, M. and Cameron, C., 2011. WIL and generic skill development: The development of business students' generic skills through workintegrated learning. AsiaPacific Journal of cooperative education, 12(2), pp.7993. 14. Honig, B. 2004. Entrepreneurship Education:Towards a Model of Contingency Based Business Planning. Academy of Management Learning and Education, 3(3), pp 258273 15. Howorth, C., Smith, S. and Parkinson, C. 2012. Social Learning and Social Entrepreneurship Education. Academy of Management Learning and Education, 11(3), pp.371389 16. Hynes, B., 2009. Growing the social enterpriseissues and challenges. Social Enterprise Journal, 5(2), pp.114125 17. Kickul, J., Terjesen, S., Bacq, S. and Griffiths, M. 2012. Social Business Education: An Interview With Nobel Laureate Muhammad Yunis. Academy of Management Learning and Education, 11(3), pp 453462 18. Nicholls, A., 2006. Social entrepreneurship: New models of sustainable social change. Oxford, UK: Oxford University Press 19. O'Hara, P., 2001. Social Enterprises and local development. The emergence of social enterprise, pp.149165 20. Pearce, J., 2003. Social enterprise in anytown. London: CalousteGulbenkian Foundation 21. Raelin, J. 1998. Workbased Learning in Practice. Journal of Workplace Learning, 10 (6/7), pp280283

118


22. Renko, M. 2013. Early challenges of nascent social entrepreneurs. Entrepreneurship Theory and Practice, 37(5), pp.10451069 23. Shaw, E. and Carter, S., 2007. Social entrepreneurship theoretical antecedents and empirical analysis of entrepreneurial process and outcomes, Journal of Small Business and Enterprise Development, Vol. 14 No. 3, pp. 41834 24. Smith, W. and Darko, E., 2014. Social enterprise: constraints and opportunities–evidence from Vietnam and Kenya. Overseas Development Institute Report, p. 17 25. Stalmeijer, R., Gijselaers, W., Wolfhagen, I., Harindza, S. and Scheipbier, A 2007. How interdisciplinary teams can create multidisciplinary education: the interplay between team processes and educational quality. Medical Education, 41, pp10591066 26. T. L. Hill ,Tanvi H. Kothari & Matthew Shea, 2010. Patterns of Meaning in the Social Entrepreneurship Literature: A Research Platform, Journal of Social Entrepreneurship, 1:1, 531, DOI: 10.1080/19420670903442079 27. Tracey, P. and Phillips, N., 2007. The distinctive challenge of educating social entrepreneurs: A postscript and rejoinder to the special issue on entrepreneurship education. Academy of Management Learning & Education,6(2), pp.264271 28. Weston, C., Guardini, E., Minnion, A. and Kwiatkowska, G., 2013. Volunteering and learning in HE: exploring and acknowledging student experience. Research in teacher education, 3(2), pp.714.

29. Wilson, V. and Pirie, A., 2000.Multidisciplinary teamworking indicators of good practice.Scottish Council for Research in Education.

About the authors Dr. Roger Epworth, Lecturer Email to: roger.epworth@rmit.edu.vn Dr Roger Epworth teaches Management and Entrepreneurship at RMIT. He has a bachelor’s degree in Sociology and Philosophy, a Master’s degree in Psychology and a PhD in Services Marketing. He has taught in universities in Australia, the United States, China and Vietnam in such areas as Marketing, Consumer Behaviour, Strategy, HRM and Organisational Behaviour. Dr. Do ThiHuongNhu, Lecturer Email to: nhu.dothihuong@rmit.edu.vn Dr Do ThiHuongNhu graduated from Hanoi Law University, then got her Master's degree and a PhD in Business Laws from University Pantheon-Assas Paris II (France). She has 15 years of experience in international law firms and international businesses, and more than 13 years of experience in teaching positions in higher education and legal professional institutions. She teaches Law and Management at RMIT.

119


120


UNIVERSITY-SOCIAL ENTERPRISE ECOSYSTEM FOR CREATING SOCIALLY RESPONSIBLE KNOWLEDGE, PRACTICES AND GRADUATES1 Rahul Singh Abha Rishi Associate Professor Birla Institute of Management Technology, Greater Noida, India abha.rishi@bimtech.ac.in

Abstract The change from social values driven society to economic values driven society is observed and measured through the human resources utilization factor and innovation towards economic development. The assumption that talent producing education influencing the economic growth will make a good society also proved wrong with increased inequality and conflicts; however it does prove that education contributes to economic progress. The capitalism structure offered no compromise on social development and communism philosophy remained utopian for extreme egalitarianism. If a method is being explored for egalitarianism with capitalism, the assumption is wrong. The schools of integral humanism from past and market socialism from present offer a better method in co-creation of society with economic equity. This paper examines the developments in social entrepreneurship space, reads the social entrepreneurship ecosystem, and attempts to analyze the systems and impact of university ecosystems in social entrepreneurship education, and how is it influencing the next generation’s socioeconomic matrix. Key Words: Social Enterprise, Social Entrepreneurship, University Ecosystem, Social Entrepreneurship Ecosystem, Capitalism, Market Socialism

Present Context: The purpose of the economic development, institutional structures and the speed of compromised growth which has polarized the global wealth in hands of few are being reviewed in intellectual and polity domain. An Economy for The 1%, Oxfam report 2016 on economic development and inequality presents that the global inequality crisis is reaching new extremes. The richest 1% now have more wealth than the rest of the world combined. Power and privilege is being used to skew the economic system to increase the gap between the richest and the rest. A global network of tax havens further enables the richest individuals to hide $7.6 trillion (Oxfam, 2016). The economic entities i.e. firms are being categorized in either following a strong commoditization irrespective of their area of operations or being a facilitator to the society in an unsustainable manner such as not for profit organizations which is often treated as charity.The development models like Millennium Development Goals are treated as independent and compensatory efforts by governments for development of society to which business or economic actors do not

121


have direct responsibility. The consumerism has separated the social development with economic growth, which is also indicated by the rise in the wealth of selected groups and increase in Ginni index. Last two decades came up with a shift in its discourse away from the ‘idea of charity’ as simply giving alms to the poor to charity as something that can create lasting and systemic change (Fulton, 2006), offering Social Entrepreneurship as a recognized alternative to the existing systems of social development funding. However, to no theoretical recognition, the domain is still in exploratory treatment for a better definition that is presently formed in the interpretation value of actors in “social enterprise,” “philanthropy,” “non-governmental organizations,” “non-profits,” “charities,” “social purpose firms”, and “third sector” are often used interchangeably, or with only small differences in meaning. The initiatives of Ela Bhatt founder of SEWA (India, 1972) which serves to women empowerment through economic engagement and literacy; Muhammad Yunus, founder of Grameen Bank (Bangladesh, 1983) and winner of the 2006 Nobel Peace Prize; and Victoria Hale of Institute for OneWorld Health (USA, 2000) who taps existing but abandoned pharmaceutical research to bring new drugs to the world’s poorest people, gave models of social organizations’ sustainability to the theorists to make a ‘Charity-Sustainable’ organization. These organizations are Social Enterprises and actors in the domain are Social Entrepreneurs. In early 1980s, the emergence of two schools of practices i.e. “social innovation school” and the “social enterprise school” was signal to growing interest in social entrepreneurship. The ideological progression of Ashoka (founded by Bill Drayton) and New Ventures Consulting (NVC founded by ED Skloot) gave the new dimensions in the methods of engagement with the social issues and sustainability in their operations. Their approaches and motto of Ashoka and NVC “the most effective way to promote positive social change is to invest in social entrepreneurs with innovative solutions that are sustainable and replicable, both nationally and globally” and “concerned with helping nonprofits find new streams of revenue to make them more financially viable” respectively may be seen as divergent but they are technically complimentary and were aggregating the purpose and sustainability of an organization benefiting society. This was a start of a debate for possible practices in underlying social values and economic systems of any nation. During the same time, Victorian liberalists, enlightened entrepreneurs or socially conscious capitalists, who thought they should reform, improve, and civilize the world and work to balance the commercial growth with social progress, raised attention of non-believers (Bradley, 1987). This impressed upon the need of an organized effort to raise the awareness and skills for advocating and practicing social entrepreneurship. Hanushek and Woessmann (2010) established strong evidence that the cognitive skills of the population – rather than mere school attainment – are powerfully related to long-run economic growth. In another study in USA about possible networks in economic systems and education systems, it finds a strong correlation between the educational attainment of a state’s workforce and median wages in the state (Berger & Fisher, 2013). Stevens and Weale (2003) found that education delivers economic benefits to individuals whereas 122


Sianesi and Van Reenen (2003) observed that education acquired by individuals provides social returns at the macroeconomic level, yielding additional indirect benefits to growth. With the evidence of the education being a strong force to transform a society and increase economic progress, this paper builds this as assumption and aims to frame ecosystem for social entrepreneurship space and university ecosystem space. Paper also aims to develop a framework in which two ecosystems explore common grounds to motivate the institutional mechanismto produce more socially conscious graduates, create relevant knowledge and generate new practices to strengthen the social entrepreneurship, in a newly industrialized nation context. It analyses the shift in the value system of the economic development with higher purpose especially in new industrialised nations as their population, resource, social and economic mapping is different from the developed nations. This paper also debates the historical and contemporary perspectives on introduction of market socialism school (west) over the integral humanism school (east). Historical Perspective: In last two centuries, the journey of the higher education from an elite prerogative of society to democratized product for commercial use has been influenced by the change of society, specially the economic structure change in the societies. Since last century, the negotiations between free market and socialism offered the concept of Market Socialism (1920), as also debated by Adam Smith in classical economics, which function on cooperative model in a free market economy. This was aimed to negate the exploitation by introducing the large group beneficiary structures as economic operatives and eliminating the market-distorting effects of concentrated ownership and wealth in the hands of few private owners. Neoclassical economic theory provided the theoretical basis for more comprehensive models of market socialism (Bowles, 1978). The strong negotiations among socialism, neo-liberalism, market socialism and free market continued to create a new balance in economic structure power with designed interventions of the political will. The evolution of economic structure in recent long term is the basis for the context of this paper, which assumes that higher education system has positive influence on the rate of economic growth and distribution of economic rewards, in reversible or irreversible format. Economists Ronnie Lessem and Alexander Schieffer (2011), in their research book on Integral Economics, argued on how the conventional economic theory and practice succeeded in keeping the majority of humankind in an impoverished and powerless state and advocated to a less recognized socio-economic theory and practice based on Integral Living philosophy, Integral Economics. In the context, ‘The question is how to make the practice and academicco-conceptualize the value of society and right of co-living?’. One of prominent Indian philosopher and political leader DeendayalUpadhyay (1962) presented his views on contemporary economic models as ‘… all these are good ideas. They reflect the higher aspirations of mankind. But by itself each of these doctrines is incomplete. Not only that, each stands opposed to the rest in practice….. democracy and capitalism join hands to give a free reign to exploitation. Socialism replaced capitalism and brought with it an opposition to democracy and individual freedom. ….. these 123


ideologies have arisen in certain special situations and time. These are not necessarily universal. They cannot be free from the limitations of the particular people and their culture, which gave birth to these ‘Isms’, besides many of these ideas are already out of date’. The debate by Lessem and Schieffer (2011) and Upadhyay (1962) observed the limitations of any combination of capitalism and socialism and found it as a temporary arrangement to meet contemporary challenges, not long lasting socio-economic models and not humanistic and sustainable approach. More recent economic and structural changes, 1980 onwards, are an evolution from capitalism to conscious capitalism to social enterprises due to an oppressive reaction. The capitalism theory fundamentals offered no space to democratize the economic benefits and continued the centralization of power and authority for product economy, in the same manner as observed in socialism structure for factor economy. The damages of the economic developments have been extremely powerful and sizeable in free market approach. Whereas the Right, in the form of the Front National in France, the Tea Party in USA and even UK Independence Party (UKIP), has more radical approaches and growing support and political influence,extra political movements (‘Occupy Wall Street’) vent their anger but lacked a coherent alternative. These examples could not gather mass to reflect a theoretical interpretation (Lane, 2013). In the earlier generation, new economic schools were conceptualizing the introduction of Third Way, as initiated by progressives and recognized by Wilhelm Röpke (1950), defined as ‘... something different and distinct from liberal capitalism with its unswerving belief in the merits of the free market and democratic socialism with its demand management and obsession with the state. The Third Way is in favour of growth, entrepreneurship, enterprise and wealth creation but it is also in favour of greater social justice and it sees the state playing a major role in bringing this about’. So, the Third Way rejects top down socialism as it rejects traditional neo liberalism(Giddens, 1998).The modern economic shifts and development theories did not debate the economic theories of east i.e. Integral Humanism or Regional Economic models, which were deeply rooted to social needs of the society along the economic prosperity. These were more regional and local and did not offer up-scalability to create a large multinational organization, binding interest of globalization of corporations. The Third way can be treated as foundation school of thought to social entrepreneurship. The modern school and underpinning of the social entrepreneurship became strong in few European countries like UK, Germany and in USA by adoption of new approach in 1999. Third Way was also seen as a form of benevolent pragmatism - a philosophy that asked of each policy - is it good, does it work? For this reason he argued it was hated by the old left and the new right - the new right because they never did anything that was good and the old left because they never did anything that worked (BBC, 1999).

124


Definition and Ecosystems Social enterprise / entrepreneurship Social entrepreneurship has variations in its understanding leading to a conceptual ambiguity. The terminological presentations from social enterprise, foundations, not for profit organizations, conscious firms, social sector, third sector etc have been used as convenience concept in researches ranging from development sector to business and quasi government sectors. The time is ripe for the development of an organized and theoretical concept and bridge the gap in social development. Government initiatives and social sectors have been victim of less efficiency, effectiveness and responsiveness due to their institutional mechanism and activism respectively, barring few exceptions. The terminology is recent but school is old. There have been many examples of not for profit or for profit organizations with high social consciousness and with approach to offer socially beneficial products or services such as in areas of micro finance and traditional products. There is no settled definition of social entrepreneurship. It means different for different set of people (Dees, 1998).In scholarly definitions, Thompson (2002) defines social entrepreneurship as practice by entrepreneurs with same qualities and behaviours as the business entrepreneurs but they operate in the community and are more concerned with caring and helping than making money. Frumpkin(2002) defines it as a vehicle which combines commercial and charitable goals. There are two schools in the definition of the social entrepreneurship. One school defines social entrepreneurship categorically as not for profit organisations meant for helping social cause and creating social values (Barendsen and Gardner, 2004). The other school defines it as commercial venture with social consciousness (Thomson, Alvy, Lees, 2000). Social entrepreneurship can also be defined as the development of innovative, mission supporting, earned income, job creating or licensing, ventures undertaken by individual social entrepreneurs, nonprofit organizations, or nonprofits in association with for profits (Pomerantz, 2003). Whereas in practice, Social Enterprises as defined by Government of UK is ‘Social enterprises are businesses that exist primarily for a social or environmental purpose. They use business to tackle social problems, improve people’s life chances, and protect the environment. They create shared wealth and give people a stake in the economy’.In this definition, the fundamental of social enterprises is social value ‘A concept which seeks to maximize the additional benefit that can be created by procuring or commissioning goods and services, above and beyond the benefit of merely the goods and services themselves’. In nutshell, ‘a business with primarily social objectives whose surpluses are principally reinvested for that purpose in the business or in the community, rather than being driven by the need to maximise profit for shareholders and owners’. We define the social entrepreneurship as; ‘Social enterprises are organizations delivering first needs of society with social mission through not for profit or commercial ventures, at affordable price to community and in sustainable model to organizations, with centrality of no above average profits for

125


stakeholders and exclusion of government agencies. Social professional with operating such organizations are known as social entrepreneurs’. The definitions recognize the values system, execution theory, agents, structures and institutions in quest to identification of social entrepreneurship. The structuration and Institutional design of social entrepreneurship presents variations in the ecosystem but does not present a theoretical ground to establish this as a theory. The structuration design functions on the embeddedness of agents (social entrepreneurs) in the structure (society), and institutional design operates through modification or change in the institutional mechanism for cause of good. Although, the use of the concept ‘ecosystem’ has been criticized by many, it is a simile to describe the ‘complex networks of actors , such as private industries, financiers, universities, governmental agencies that are linked together through the pursuit of common goals and mutual economic gains’ (Mars et al, 2012). The ecosystem of the social progress allows interaction of various stakeholders in different combinations for creation of institutions, delivery of commodity & services, formation of policy and guidelines, creation of market, institutionalization of funding, development of value chain and aggregators, and advances in academic and research activities. These interactions of social entrepreneurship ecosystems, as discussed in figure 1, create opportunities for the economic advancements, which when engaged and enforced fittingly with the knowledge and education ecosystem i.e. university and research organizations may produce the optimal result in changing social and economic value of the nation. Figure 1: Social enterprise / entrepreneurs’ ecosystem

Source: Authors’ production.

126


Higher education and research Universities have an essential role to play in growing the next generation of economic progress and social values. The corporatization of methods of universities and culture of universities under influence of the general neoliberal assault on the society and population, the progress also has been more commoditized bottom line was the success indicator.Any commoditization follows hard resources and data for optmisation, soft resources and values are ignored in the process. The treatment to higher education and research met the same fate like economic commoditization, where each innovation in higher education and research was filtered for economic benefits of the organizations or the nations. The community and values have been separated from the prosperity which remained merely economic. Noam Chomsky (2014), renowned scholar and philosopher, writes that universities are opening and operating on the Wal-Mart model to bring more in output; this commoditization will not create social values but only balance sheet of performance. The pressures of much argued economic progress has forced higher education also becoming costlier and elitist. In response, innovations in learning like much hyped MOOC, challenges to drop school on reward are only indicators but the larger problem is that students are not receiving value, society is not getting equal, and economy is not becoming democratic. In Ashoka U-exchange meeting in 2013, it came as a principle of development that ‘creating a learning and practice environment around society and entrepreneurship is key to solve contemporary problems and new challenges’. In this perspective, ‘a higher education institution is expected to have collaborations and linkages with stakeholders to create new knowledge and generate new sources of income’ (Bloom et al, 2006). Entrepreneurs (social) are defined by their sense of drive and determination, their willingness to fail and then try again, and their vision for applying their learning in productive ways (Forbes, 2013), adding social in the central or periphery of the growth will modify the development agenda for the world. Mwasalwiba (2010) found that academics view entrepreneurship education as a tool to encourage innovation and establish entrepreneurial societies. Hansemark (1998) emphasized that entrepreneurship education is an integral part of the business venture support system which includes incubators, innovation centres, and technology transfer offices and so on. Matlay and Westhead (2005) looked at entrepreneurship education as an effective method to shift the student focus from education for employment to knowledge for self employment. It took several ‘academic revolutions’ ( Etzkowitz, 2003) before the university took the shape as it is known now. In recent years, in response to demand, colleges and universities have taken up social entrepreneurship as a field of academic study and more than 148 institutions globally are teaching some aspect of social entrepreneurship (AshokaInnovators, 2011).Like challenges in the social entrepreneurship ecosystem, there are various issues and challenges in the ecosystem of higher education and research institutions as well to 127


contribute in the education and research with social sensitivities. Attention on social concerns is placed as opposition to economic development. While university ecosystem i.e. higher education and skill building, research and studies, purposeful engagement with society and economy has already mainstreamed the industrial development and institutions in its systems, the social enterprises or other socially conscious stakeholders in the social enterprise ecosystem have not yet received structural or system intervention. Though, there are few initiatives which have invited universities on volunteer basis addressing principles of responsible management (i.e. PRME) with a broad perspective, the mainstreaming of the social enterprise ecosystem and university ecosystem need more comprehensive understanding and common points of interaction. The higher education ecosystem is, as discussed in the figure 2, offers incredible space for the development of the social entrepreneurship as a new domain for education, research, training and capacity building to contribute to develop a new economic model in turbulent times of capitalism and fall of socialism. While Market socialism stands a chance, socio-economic integral humanism remains new socially relevant and economically progress philosophy. Figure 2: higher education /university socio-economic ecosystem

Source: Authors’ production.

128


The stakeholders in the ecosystem are highly influenced by the heavy duty institutional mechanism, structure and performance for present economic growth. The transformation in the economic progress with higher social purpose is managing the change towards more engaged and socially relevant knowledge and graduates. It is this debate that is bringing a new definition or working relation in the economic agents and the education systems. The methods of interaction, as discussed in figure 3, require a broad perspective from national value or vision with high support from government, with active involvement of demand side stakeholders and high engagement from supply side stakeholders. It is in this partnership, the new value systems of education and research will evolve. Figure 3: Interaction possibilities of Social Entrepreneurship – Higher Education space Government Initiatives and Support

Diverse pool of professors, students, researchers and workforce

Culture of social sensitivity, social values, and contribution Higher Education Social Entrepreneurship Partnership Financial support / infrastructure support / tax incentives

Community / social enterprises publications and dissemination

Collaborative plans & programs with social entrepreneurship ecosystem

Mars et al (2008) and Mars and Rhoades (2012) described the case of ‘academic capitalism’ which encourages entrepreneurship among students, in areas which are closely linked to the knowledge economy and contributes to the values added to society or economy. Brown and Duguid ( 1991) in their study pointed out that the adjective ‘social’ points to the localization of learning and knowing, not in an individual’s mind but in the collective, as a subject that simultaneously thinks, learns, works and innovates. Conclusion The Mainstreaming of higher education and research, enterprises, policies and programs tend to be ‘money streamed’ and too often do not take into account the specific needs of society, social enterprises and social entrepreneurs.With the rise of fundamentals of market socialism in west and integral humanism in east, the higher education and research 129


community is gearing up in addressing the knowledge and training needs of the social enterprises and management of these, i.e. social entrepreneurship. The ecosystems approach has identified the guiding, mentoring and executive stakeholders of the both the worlds and offers possible interactions. With the social enterprises, research organizations and associations developing more congenial environment for universities to engage in meaningful manner with social entrepreneurship, there is higher purpose education, knowledge and practice. Social enterprises and social entrepreneurships will redefine the business and society. While we do not offer a specific model of interaction of social enterprises and higher education institution, it is proposed to prepare own context and model of interaction to create socially responsible knowledge, practices and graduates. References: 1. An Economy for The 1%, 210 Oxfam Briefing Paper, 18 January 2016. https://www.oxfam.org/sites/www.oxfam.org/files/file_attachments/bp210economy-one-percent-tax-havens-180116-en_0.pdf 2. Annual Report, Ashoka Innovators, 2011. 3. Barendsen, Lynn and Howard Gardner. (2004). “Is the Social Entrepreneur a New Type of Leader?” Leader to Leader, V. 34, 43-50. 4. Bloom, D., Canning, D., & Chan, K. (2006), Higher education and economic development in Africa, Washington, DC: The World Bank. 5. Bowles, Samuel. 1978. Capitalist Development and Educational Structure, World Development. Vol. 6. pp. 183 -196. 6. Bradley, I C. 1987. Enlightened Entrepreneurs. Weidenfeld and Nicholson, London. 7. Chomsky Noam and CounterPunch, 2014, How America's Great University System Is Being Destroyed. Prof. Chomsky’s remarks in this transcript were elicited by questions from Robin Clarke, Adam Davis, David Hoinski, Maria Somma, Robin J. Sowards, Matthew Ussia, and Joshua Zelesnick. 8. Dees G, 1998, The meaning of social entrepreneurship, https://centers.fuqua.duke.edu/case/wpcontent/uploads/sites/7/2015/03/Article_Dees_MeaningofSocialEntrepreneurship_ 2001.pdf 9. Etzkowitz, H. (2003). Innovation in innovation: The triple helix of university– industry–government relations, Social Science Information, 42(3), 293–337 10. Frumpkin, Peter. (2002). On Being Nonprofit: A Conceptual and Policy Primer, Cambridge, MA: Harvard University Press, 2002. 11. Fulton, Katherine. 2006. “The Past, Present, and Future of Social Entrepreneurship: A Conversation with Greg Dees. https://centers.fuqua.duke.edu/case/wpcontent/uploads/sites/7/2015/02/Interview_Fulton_Dees_ThePastPresentFutureofS ocialEntrepreneurship_2006.pdf 12. Giddens, Anthony. The Third Way: The Renewal of Social Democracy (1998).

130


13. Hansemark, O. C. (1998). ‘The effects of an entrepreneurship programme on need for achievement and locus of control of reinforcement’, International Journal of Entrepreneurial Behaviour& Research, 4(1),28–50 14. Hanushek Eric A. and WoessmannLudger (2010) in International Encyclopedia of Education, edited by Baker Eva, McGaw Barry and Peterson Penelope (ed.), Amsterdam: Elsevier, pp. 245-252. 15. Lane David, 2013. Why market socialism is a viable alternative to neoliberalism, extracted on 12 January 2016. http://blogs.lse.ac.uk/politicsandpolicy/37396/ 16. Lessem, Ronnie and Alexander Schieffer, 2010, Integral Economics, Gower publishing. 17. Mars, M. M., & Rhoades, G. (2012). Socially oriented student entrepreneurship: A study of student change agency in the academic capitalism context, The Journal of Higher Education, 83(3), 435–459 18. Mars, M. M., Bronstein, J. L., &Lusch, R. F. (2012). The value of metaphor: Organizations and ecosystems, Organizational Dynamics, 41(4), 271–280 19. Matlay, H., &Westhead, P. (2005). Virtual teams and the rise of eentrepreneurship in Europe, International Small Business Journal, 23(3), 279–302 20. Mwasalwiba, E. S. (2010). Entrepreneurship education: A review of its objectives, teaching methods, and impact indicators, Education Training, 52(1), 20–47 21. Noah Berger and Peter Fisher, A Well-Educated Workforce Is Key to State Prosperity, Report of Economic Policy Institute, August 22, 2013. http://www.epi.org/publication/states-education-productivity-growth-foundations/ 22. Pomerantz, M. (2003) The business of social entrepreneurship in a "down economy". In Business, 25(3): 25-30. 23. Public Services (Social Value) Act 2012, A brief guide; Social enterprise Coalition. 24. Shane, S., &Venkataraman, S. (2000), The promise of entrepreneurship as a field of research, The Academy of Management Review, 25(1), 217–226. 25. Sianesi, Barbara, and John Van Reenen. 2003. "The returns to education: Macroeconomics." Journal of Economic Surveys, 17, no. 2: 157-200. 26. Social Entrepreneurship Is Bringing Purpose To Higher Education, Forbes, March 27, 2013. 27. Stevens, Philip and Weale, Martin. 2003. “Education and Economic growth” NIESR dp 221. 28. Thompson John L., (2002) "The world of the social entrepreneur", International Journal of Public Sector Management, Vol. 15 Iss: 5, pp.412 – 431. 29. Thompson, John, Geoff Alvy, and Ann Lees. (2000). “Social Entrepreneurship – A New Look at the People and Potential.” Management Decision, 38:5, 328-338. 30. UK Politics - What is the Third Way?, September 27, 1999. http://news.bbc.co.uk/2/hi/458626.stm

131


132


IMPLEMENTATION OF SOCIAL ENTREPRENEURSHIP NURTURING ACTIVITIES: EXPERIENCES FROM THE UK AND IMPLICATIONS TO VIETNAM CÁC HOẠT ĐỘNG NUÔI DƯỠNG TINH THẦN KINH DOANH XÃ HỘI: KINH NGHIỆM Ở MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở ANH VÀ MỘT VÀI GỢI Ý ĐỐI VỚI VIỆT NAM Dr. Do Thi Dong National Economics University

Abstract In recent years, the number of social enterprises in Vietnam has increased significantly. Social enterprises are expected to bring benefits to society especially to vulnerable groups. They are expected to support the development of comprehensive and sustainable country by harmonizing the three pillars of sustainable development, including economy, society and environment. It is therefore needed to promote social enterprises in Vietnam. However, constraints in developing these enterprises existed because of their limited ecosystem. Given the fact that social enterprises in Vietnam are in the early stage of development, learning experience in building a rich ecosystem for them is important. This article refers to the implementation of social entrepreneurship nurturing activities in some universities in the UK and thereby makes some implications to Vietnam. Key words: social enterprises, social entrepreneurship, social entrepreneurship nurturing activities Tóm tắt Được kỳ vọng là mang lại nhiều lợi ích cho xã hội, phục vụ cộng đồng mà đặc biệt là những nhóm yếu thế trong xã hội và tạo ra sự phát triển công bằng hơn giữa ba trụ cột là Nhà nước, thị trường và xã hội, số lượng các doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam trong những năm gần đây đã ngày càng tăng lên. Tuy nhiên, hoạt động của các doanh nghiệp xã hội lại có nhiều hạn chế bởi hệ sinh thái để phát triển loại hình doanh nghiệp này ở Việt Nam còn chưa hình thành rõ nét.Bởi vậy, học hỏi việc phát triển hệ sinh thái dành cho các doanh nghiệp xã hội ở các quốc gia khác, từ đó tìm ra những gợi ý đối với việc phát triển loại hình doanh nghiệp này ở Việt Nam là điều quan trọng.Bài viết này đề cập đến việc triển khai các hoạt động nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh xã hội ở một số trường đại học ở Anh và từ đó đưa ra những gợi ý đối với Việt Nam với mục tiêu hướng đến xây dựng một hệ sinh thái phong phú nhằm giúp các doanh nghiệp xã hội phát triển. Từ khóa: doanh nghiệp xã hội, tinh thần kinh doanh xã hội, hoạt động nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh xã hội

133


1. Giới thiệu Với mục đích xây dựng cộng đồng lành mạnh và bền vững thông qua việc giải quyết các vấn đề có liên quan đến xã hội, môi trường và cộng đồng, loại hình doanh nghiệp xã hội từ lâu đã phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới.Do thường có được sự hỗ trợ, ưu tiên trong quá trình hoạt động nên các doanh nghiệp xã hội có các ưu thế riêng để tồn tại và phát triển. Nhiều quốc gia đã có các chính sách hỗ trợ, thúc đẩy doanh nghiệp xã hội phát triển với quan điểm rằng, nếu việc cung cấp phúc lợi xã hội được thực hiện thông qua sự hợp tác giữa Nhà nước và các doanh nghiệp thì hiệu quả đạt được sẽ cao hơn. Thực tế đã chứng minh rằng, các doanh nghiệp xã hội đã trở thành những đối tác hiệu quả của Nhà nước, giúp Nhà nước thực hiện được các mục tiêu xã hội (Nguyễn và các cộng sự). Chẳng hạn như ở Anh, quốc gia được coi như một trong những nơi doanh nghiệp xã hội sớm phát triển trên thế giới, tính đến năm 2015, số lượng doanh nghiệp xã hội đăng ký là khoảng hơn 70.000 và đóng góp khoảng 24 tỷ Bảng Anh vào GDP của đất nước, đồng thời cung cấp việc làm cho khoảng 1 triệu lao động (Social enterprises UK, 2015). Hoặc ở Phillipines, mặc dù khung pháp lý về doanh nghiệp xã hội ở quốc gia này được hoàn thiện vào năm 2004 nhưng đến nay, đã có 30.000 doanh nghiệp xã hội (British Council Phillipines, 2015) hoạt động ở nhiều lĩnh vực. Các doanh nghiệp xã hội tập trung vào các đối tượng yếu thế trong xã hội chẳng hạn như những người nhập cư, người khuyết tật ở Anh, người nghèo, nông dân, người vô gia cư ở Phillipines,…hoặc các vấn đề mà cộng đồng còn chưa có người giải quyết và đã đạt được những thành quả đáng ghi nhận ở các quốc gia. Sau một thời gian dài phấn đấu thoát nghèo, Việt Nam đã bước chân vào nhóm nước có mức thu nhập trung bình thấp trên thế giới vào năm 2008. Kể từ đó đến nay, nền kinh tế của Việt Nam có những bước phát triển đáng kể, nhưng đi kèm với sự phát triển này là việc nảy sinh những vấn đề về xã hội và môi trường: Một bộ phận dân số vẫn sống ở mức nghèo, khó tìm được cơ hội để cải thiện, khoảng cách thu nhập giữa các nhóm người trong xã hội ngày càng khác biệt, sự phát triển kinh tế cũng như dân số đi kèm với việc khai thác tài nguyên thiên nhiên nhiều hơn, phát thải ngày càng nhiều vào môi trường đã làm cho môi trường sống bị ảnh hưởng nghiêm trọng,… Bởi vậy, việc khuyến khích các doanh nghiệp xã hội phát triển để cùng với Nhà nước giải quyết các vấn đề về xã hội và môi trường hiệu quả hơn là một vấn đề quan trọng đối với Việt Nam. Mặc dù thực trạng cho thấy sự phát triển của doanh nghiệp xã hội là cần thiết ở Việt Nam nhưng loại hình doanh nghiệp này hiện nay lại đang ở giai đoạn phát triển sơ khai. Theo đánh giá của các chuyên gia, hoạt động của các doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam còn có nhiều hạn chế thể hiện ở điểm những doanh nghiệp này còn khá non trẻ, có vốn đầu tư nhỏ và nhiều doanh nghiệp có hoạt động quản trị chưa chuyên nghiệp. Lý do như vậy là vì hệ sinh thái để phát triển loại hình doanh nghiệp này ở Việt Nam còn chưa hình thành rõ nét. Bởi vậy, học hỏi việc phát triển hệ sinh thái dành cho các doanh nghiệp xã hội ở các quốc gia mà tại đó doanh nghiệp xã hội đã phát triển, từ đó tìm ra những gợi ý đối với việc phát triển loại hình doanh nghiệp này ở Việt Nam là điều quan trọng. Trong các hoạt 134


động để phát triển hệ sinh thái cho các doanh nghiệp xã hội thì hoạt động nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh xã hội nhằm tạo ra một đội ngũ nhân lực có đủ trình độ, kỹ năng mà đặc biệt là sự tâm huyết đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội là điều rất quan trọng. Bài viết này đề cập đến việc triển khai các hoạt động nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh xã hội ở một số trường đại học ở Anh và từ đó đưa ra những gợi ý đối với Việt Nam với mục tiêu hướng đến xây dựng một hệ sinh thái phong phú nhằm giúp các doanh nghiệp xã hội phát triển. Nước Anh được lựa chọn để nghiên cứu bởi quốc gia này có lịch sử phát triển lâu dài của các doanh nghiệp xã hội. Khái niệm doanh nghiệp xã hội lần đầu tiên được đề cập đến ở Anh vào những năm 1840s, sau đó nhận được sự chú ý và các doanh nghiệp này bắt đầu phát triển từ những năm 80, 90 của thế kỷ trước.Kể từ đó đến nay, số lượng các doanh nghiệp xã hội phát triển mạnh mẽ và giải quyết hiệu quả nhiều vấn đề xã hội.Nếu như những năm 1970s,ở Anh có tổng số khoảng 700.000 doanh nghiệp thì đến năm 2013, riêng số doanh nghiệp được thành lập mới đã lên đến khoảng 500.000. Trong đó, khoảng 20% số doanh nghiệp, tức là khoảng 100.000 doanh nghiệp được định hướng là doanh nghiệp xã hội. Trong số các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có khoảng 15% là giống với doanh nghiệp xã hội, tương đương với khoảng 175.000 doanh nghiệp, những doanh nghiệp này tạo công ăn việc làm cho khoảng 2,2 triệu lao động, tương ứng với khoảng 5,5% lực lượng lao động tại Anh và tạo ra thu nhập khoảng 54,9 tỷ Anh, tương đương với 5% GDP của quốc gia này. Khoảng 6% số doanh nghiệp vừa và nhỏlà rất giống với doanh nghiệp xã hội, tương đương với khoảng 70.000 doanh nghiệp. Những doanh nghiệp này tạo ra khoản thu nhập xấp xỉ 24 tỷ bảng Anh (Oxford Brookes University, 2015). Chính vì sự phát triển lâu đời và mạnh mẽ của lực lượng doanh nghiệp xã hội mà Anh được nhiều quốc gia trên thế giới học hỏi về việc phát triển doanh nghiệp xã hội. 2. Tổng quan nghiên cứu 2.1. Quan niệm về doanh nghiệp xã hội, khởi sự doanh nghiệp xã hội và tinh thần kinh doanh xã hội Doanh nghiệp xã hội Cho đến nay đã có nhiều quan điểm về doanh nghiệp xã hội.Trong đó, quan điểm phổ biến cho rằng doanh nghiệp xã hội là một mô hình kinh doanh trong đó việc quản lý và sử dụng lợi nhuận đều hướng vào các mục tiêu xã hội (Đỗ và Nguyễn, 2015). Doanh nghiệp xã hội được hiểu theo cách chung nhất là những doanh nghiệp hoạt động không vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận (Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2014). Các doanh nghiệp xã hội được thành lập với mục tiêu là giải quyết một hoặc một vài vấn đề xã hội nào đó mà doanh nghiệp theo đuổi và phần lớn lợi nhuận thu được được sử dụng để phục vụ mục tiêu xã hội và môi trường. Doanh nghiệp xã hội có một số đặc điểm như: (1) trực tiếp giải quyết các vấn đề xã hội như bảo vệ giá trị văn hóa, bảo vệ môi trường, cứu trợ, hỗ trợ người nghèo và những

135


người có hoàn cảnh khó khăn, giải quyết các xung đột,… (2) tạo nguồn thu được tạo ra từ các hoạt động mang tính kinh doanh; và (3) lấy việc mang những giá trị tốt đẹp cho xã hội làm mục tiêu cơ bản. Doanh nghiệp xã hội có thể được phân loại thành nhiều hình thức khác nhau, chẳng hạn như chia làm doanh nghiệp phi lợi nhuận, doanh nghiệp không vì lợi nhuận, và doanh nghiệp có định hướng xã hội và có lợi nhuận. Các doanh nghiệp xã hội có phạm vi hoạt động rộng và thông thường việc quản lý các doanh nghiệp xã hội phần nào phức tạp do việc đảm bảo mục tiêu tài chính và mục tiêu xã hội (Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2014). Tinh thần kinh doanh xã hội Do tính phức tạp của doanh nghiệp xã hội mà hoạt động khởi sự doanh nghiệp xã hội cũng có nhiều điểm cần chú ý. Doanh nghiệp xã hội được thành lập và điều hành bởi các doanh nhân xã hội, những người tổ chức và quản lý hoạt động kinh doanh vì mục tiêu xã hội, hướng vào giải quyết các vấn đề xã hội. Để có thể nhận ra, theo đuổi các hoạt động kinh doanh xã hội này, doanh nhân được cho là có tinh thần kinh doanh xã hội. Theo từ điển tiếng Anh, tinh thần doanh nhân (entrepreneuship) là khả năng và sự sẵn sàng phát triển, tổ chức và quản lý một công việc kinh doanh mà chấp nhận những rủi ro có thể gặp phải. Đây chính là khả năng sẵn sàng kết hợp các yếu tố đầu vào, trên cơ sở sử dụng sự sáng tạo của mình, thực hiện các hoạt động tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ để cung cấp cho xã hội, đồng thời chấp nhận những rủi ro có thể xảy ra. Tinh thần doanh nhân được đặc trưng bởi sự đổi mới sáng tạo và tính chấp nhận rủi ro. Như vậy, có thể thấy rằng, tinh thần kinh doanh xã hội là sự sẵn sàng và khả năng tìm kiếm, nhận diện và tận dụng các cơ hội kinh doanh để tạo ra các giá trị về mặt xã hội với thái độ chấp nhập các rủi ro có thể gặp phải (Đỗ và Nguyễn, 2015). Quan niệm về doanh nghiệp xã hội và tinh thần kinh doanh xã hội không đơn giản là khái niệm như đã trình bày trên đây, mà bản chất của hai phạm trù này là đổi mới xã hội. Đứng trên góc độ trường học, việc tham gia vào giải quyết những vấn đề có liên quan đến xã hội và môi trường một mặt trực tiếp giúp các sinh viên đổi mới tư duy, tăng cường các kỹ năng mà đặc biệt là kỹ năng giải quyết vấn đề, mặt khác những việc làm này đã nâng cao các giá trị nhân văn cho xã hội, thúc đẩy việc xây dựng một nền văn hóa trường học tiên tiến và bền vững. Nếu xét ở góc độ xã hội thì nỗ lực giải quyết các vấn đề cũng như kết quả của những nỗ lực này tạo ra một sự đổi mới trong xã hội, phấn đấu để đưa xã hội đến một trạng thái tốt hơn. Các hoạt động nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh xã hội Để có nhiều doanh nghiệp xã hội, cần có nhiều người có tinh thần kinh doanh xã hội, những người nhận ra các vấn đề xã hội cần phải giải quyết, tâm huyết với việc giải quyết những vấn đề này, có năng lực và khả năng sẵn sàng thực hiện các hoạt động kinh doanh để tạo ra các sản phẩm hay dịch vụ, mang lại những giá trị cho xã hội. Bởi vậy, cũng giống như tinh thần doanh nhân, tinh thần kinh doanh xã hội cần được phát hiện, hoặc kiến tạo và nuôi dưỡng để khi trưởng thành, tinh thần này được chuyển biến thành những 136


hoạt động thiết thực. Đó là khi các doanh nhân xã hội thực hiện các hoạt động kinh doanh nhằm giải quyết các vấn đề xã hội.Các hoạt động này lan tỏa trong cộng đồng ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực, từ đó, các vấn đề xã hội được giải quyết hiệu quả hơn. Các hoạt động nuôi dưỡng tinh thần doanh nhân xã hội khá phong phú.Trong đó, điển hình là hoạt động đào tạo, thông hình thức đào tạo qua trường lớp hoặc đào tạo thông qua trải nghiệm (Hannah và Nick, 2010).Mục đích của đào tạo về kinh doanh xã hội là nhằm làm tăng kiến thức và kỹ năng của các cá nhân mà đặc biệt là những người trẻ tuổi để kiến tạo và nuôi dưỡng sự say mê của họ đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội. Bên cạnh đó, việc thực hiện tốt trách nhiệm xã hội cũng được coi là một cách thức để nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh xã hội (Aron, 2007). Thiết lập và thúc đẩy hoạt động của các tổ chức, đoàn thể trong các trường học hoặc các tổ chức nhằm khuyến khích các sáng kiến, tìm kiếm các cơ hội và thực thi các hoạt động để giải quyết các vấn đề xã hội cũng được nhiều tổ chức ở nhiều quốc gia thực hiện. Cùng với đó, việc tăng cường hợp tác giữa các trường học, các doanh nhân, các doanh nghiệp và các cơ quan Nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề xã hội cũng góp phần tăng cường các hoạt động giải quyết các vấn đề xã hội (Tan, 2014). Ngoài ra, một số hoạt động khác có thể được thực hiện để nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh xã hội như hoạt động khen thưởng và công nhận đối với những người có đóng góp vào việc giải quyết các vấn đề xã hội, đào tạo những lãnh đạo doanh nghiệp xã hội (British Council, 2015). 2.2.Tổng quan nghiên cứu về các hoạt động nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh xã hội trong các trường học Nghiên cứu về nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh xã hội trong các trường học đã được thực hiện bởi một số tác giả, chủ yếu là những tác giả ở các nước phương Tây. Trong các hoạt động đó, hoạt động đào tạo luôn được đề cao, mà đặc biệt là đào tạo người trẻ (Hannah và Nick, 2010). Hoạt động đào tạo có thể được thực hiện một cách chính thức hoặc là phi chính thức, tức là thông qua việc trải nghiệm. Khi so sánh quá trình đào tạo chính thức và không chính thức, việc đào tạo không chính thức dường như lại có kết quả tốt hơn so với đào tạo chính thức (Hannah và Nick, 2010). So với phương thức đào tạo truyền thống, nghĩa là đào tạo thông qua việc giảng bài, đọc, viết, … thì việc đào tạo tinh thần kinh doanh xã hội thông qua học hỏi kinh nghiệm và đặc biệt là học hỏi từ việc giải quyết các vấn đề thực gặp sẽ có hiệu quả hơn (Anis và các cộng sự, 2015). Việc đào tạo tinh thần kinh doanh xã hội không chỉ cần được thực hiện ở các trường đại học mà còn cần được bắt đầu từ khối cấp 1 và cấp 2, trước khi đi đến các cấp cao hơn (Nareatha và các cộng sự, 2016). Bên cạnh đó, trong quá trình đào tạo về kinh doanh xã hội, đào tạo về lãnh đạo doanh nghiệp xã hội là một vấn đề quan trọng và cần được quan tâm vì sự thành công của doanh nghiệp xã hội phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của đội ngũ lãnh đạo và quản lý doanh nghiệp (British Council, 2015). Để nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh xã hội, bên cạnh việc đào tạo, việc thành lập và thúc đẩy hoạt động của các tổ chức đoàn thể trong trường học, mà đặc biệt là các tổ chức của

137


sinh viên có ý nghĩa quan trọng. Hoạt động tìm kiếm, nuôi dưỡng, và hỗ trợ các ý tưởng của sinh viên sẽ được thực hiện hiệu quả hơn thông qua các tổ chức này. Bên cạnh đó, hoạt động liên kết và hợp tác giữa các trường học với các doanh nhân, doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước cũng cần được tăng cường nhằm giúp các sinh viên đến gần hơn với những ý tưởng, cơ hôi, giải pháp để giải quyết các vấn đề xã hội (Tan, 2014). Ở Việt Nam, khái niệm về doanh nghiệp xã hội và tinh thần kinh doanh xã hội còn khá mới mẻ, khuôn khổ pháp lý về doanh nghiệp xã hội cũng mới được xây dựng và công bố trong Luật doanh nghiệp sửa đổi vào ngày 26/11/2014. Các nghiên cứu về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam mới được thực hiện trong những năm gần đây. Các nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào làm rõ các khái niệm, đặc điểm, các điều kiện thuận lợi để phát triển và các hạn chế gặp phải, định hướng phát triển, các vấn đề pháp lý và việc đưa nội dung doanh nghiệp xã hội vào giảng dạy trong trường đại học ở Việt Nam. Hầu như chưa có nghiên cứu nào công bố về các hoạt động nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh xã hội ở Việt Nam, ngoại trừ công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Hoài Dung trên Tạp chí Châu Á Thái Bình Dương số tháng 5 năm 2015. Mặc dù chưa xác định đây là các hoạt động nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh xã hội nhưng tác giả này đã mô tả việc thực hiện các hoạt động đào tạo và kết nối sinh viên của một số trường đại học ở Anh Quốc và từ đó đưa ra một số gợi ý đối với việc thực hiện các hoạt động liên quan đến tinh thần kinh doanh xã hội ở các trường đại học ở Việt Nam. Đặt trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam, khi khuôn khổ pháp lý về doanh nghiệp xã hội mới được hình thành, vai trò của doanh nghiệp xã hội ngày càng cần thiết, số lượng các doanh nghiệp này ngày càng phát triển, thì việc nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh xã hội được đặt ra như một đòi hỏi cấp thiết. Các nghiên cứu để thúc đẩy các hoạt động nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh xã hội cũng đòi hỏi phải phát triển để xây dựng hệ sinh thái phong phú cho các doanh nghiệp xã hội phát triển. 3. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu này sử dụng hai nguồn dữ liệu thứ cấp và sơ cấp, trong đó dữ liệu thứ cấp là chủ yếu. Các dữ liệu thứ cấp được thu thập thông qua các tài liệu mà tác giả nhận được trong chuyến thăm quan học tập tại Anh diễn ra vào thời gian từ 4 - 13/4 năm 2015. Trong chuyến đi này, tác giả đã thu thập được nhiều tài liệu mà đặc biệt là các tài liệu về các hoạt động nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh xã hội ở một số trường đại học ở Anh như Đại học Southampton, Đại học Southampton Solent, Đại học Northampton, Đại học Oxford Brookes. Các nguồn tài liệu khác như các sách, báo, tạp chí, các bài viết được đăng tải trên các trang web có liên quan đến vấn đề nghiên cứu cũng được sử dụng. Các dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua việc trao đổi trực tiếp với các diễn giả trong chuyến đi tham quan học tập và phỏng vấn 5 doanh nhân là các cựu sinh viên của Trường Đại học Kinh tế quốc dân và Đại học Thương mại, hiện đang làm việc tại địa bàn Hà Nội. Nội dung phỏng vấn xoay quanh việc những nội dung đào tạo về doanh nghiệp xã hội cần thiết đưa vào chương trình đào tạo nhằm giúp các sinh viên khi tốt nghiệp có được những hiểu biết cơ bản về doanh nghiệp xã hội, sự sẵn sàng của các doanh nhân/ doanh nghiệp 138


trong việc liên kết đào tạo với các trường đại học nhằm thúc đẩy nhận thức và hỗ trợ, nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh xã hội của các sinh viên. Thời gian thực hiện phỏng vấn là tháng 12 năm 2015 bởi chính tác giả.Các dữ liệu được phân loại và tổng hợp thành các nhóm ý kiến chính để trả lời các câu hỏi mà tác giả đưa ra đối với vấn đề nghiên cứu. 4. Các hoạt động nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh xã hội ở một số trường đại học ở Anh 4.1. Hoạt động đào tạo Nhận thức về sự cần thiết phải giải quyết những vấn đề xã hội và hoạt động của doanh nghiệp xã hội là điều quan trọng trong việc hình thành và phát triển tinh thần kinh doanh xã hội ở các cá nhân. Khi đề cập đến các hoạt động nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh xã hội, hoạt động đào tạo luôn được đề cập tới đầu tiên. Ở Anh, với quá trình phát triển doanh nghiệp xã hội khá lâu dài, hoạt động đào tạo được thực hiện rộng rãi ở nhiều trường đại học ở cả hình thức đào tạo chính thức và hình thức đào tạo không chính thức. Cụ thể là những hoạt động này được thực hiện như sau: Thứ nhất, các học phần về doanh nghiệp xã hội được giảng dạy trong các chương trình đào tạo đại học ở nhiều chuyên ngành. Chẳng hạn như học phần Doanh nghiệp xã hội được giảng dạy ở trong chương trình đào tạo ở bậc cử nhân ở nhiều trường đại học như Đại học Southampton, Đại học Oxford Brookes, Đại học Oxford, Đại học Stirling, … với hình thức là một học phần lựa chọn, hoặc được giảng dạy ở chương trình cao học như ở Đại học Northampton, Đại học Goldsmiths London,… như một học phần bắt buộc. Nhìn chung, ở nhiều trường đại học, nội dung của học phần tập trung vào bốn vấn đề cơ bản bao gồm: giới thiệu về doanh nghiệp xã hội, quản lý doanh nghiệp xã hội, đo lường tác động của doanh nghiệp xã hội, và thực trạng doanh nghiệp xã hội (Tham khảo thông tin trong Bảng 1 về một khóa học cụ thể). Bảng 1: Giới thiệu khái quát học phần Doanh nghiệp xã hội tại Đại học Oxford Mục tiêu của khóa học

Mục tiêu của khóa học là cung cấp những kiến thức nền tảng về doanh nghiệp xã hội và các kỹ năng vận hành doanh nghiệp xã hội hoạt động bền vững cho các sinh viên. Sau khi kết thúc khóa học này, sinh viên sẽ: - Hiểu được khái niệm về thay đổi xã hội và doanh nghiệp xã hội. Cụ thể là hiểu về khái niệm, các đặc điểm và các nguyên tắc hoạt động của doanh nghiệp xã hội;

Kết quả của khóa học

- Hiểu được cách thức đánh giá các tác động xã hội của doanh nghiệp xã hội; - Hiểu được các mô hình doanh nghiệp xã hội và cách thức để vận hành và phát triển bền vững doanh nghiệp xã hội; - Biết được cách thức (cả về kiến thức và kỹ năng) mà các doanh nhân xã hội áp dụng để khiến cho những nhóm yếu thế trong cộng đồng có thể tạo ra sự thay đổi xã hội

139


Phương pháp giảng dạy sử dụng các hình thức:

- Bài tập cá nhân hoặc bài tập nhóm về thay đổi xã hội;

- Thảo luận hàng tuần về các câu hỏi về bài học;

Phương pháp

- Các bài tập ngắn để hỗ trợ bài đọc;

giảng dạy

- Các tình huống nhỏ về doanh nhân xã hội;

- Các bài tập viết hàng tuần về thay đổi xã hội;

- Các bài thảo luận (qua blog hoặc sử dụng các công cụ qua mạng khác) để chia sẻ thông tin với các sinh viên khác. 

Nội dung của học phần được chia làm 10 bài bao gồm: - Khái quát về doanh nghiệp xã hội - Tạo ra sự thay đổi xã hội - Tìm hiểu về nghèo đói - Phát triển lấy con người làm trung tâm Nội dung

- Phát triển lý thuyết về thay đổi - Đổi mới xã hội - Xây dựng mô hình kinh doanh xã hội - Tạo vốn cho doanh nghiệp xã hội - Đo lường tác động xã hội - Suy ngẫm và chia sẻ kinh nghiệm

Thời gian

Đánh giá kết quả

10 tuần Kết quả của học phần được đánh giá thông qua 2 bài tập: một bài viết ngắn được thực hiện ở giữa kỳ học và một bài viết dài sau khi hoàn thành xong khóa học. Mỗi bài viết, sinh viên cần khoảng 2 tuần để hoàn thành.

Nguồn: University of Oxford, Course Syllabus,https://www.conted.ox.ac.uk/L100-9, 2016

Thứ hai, việc đào tạo kiến thức về doanh nghiệp xã hội phát triển thành chương trình cao học ở một số trường đại học, chẳng hạn như Đại học Northampton hoặc Đại học Goldsmiths London. Đối với Đại học Northampton, Trường đại học này đã xác định thách thức đối với Nhà trường là cần tăng khả năng xin được việc làm của các học sinh tốt nghiệp đồng thời nuôi dưỡng nhiệt huyết làm thay đổi thế giới của các sinh viên. Bởi vậy, Trường Đại học này đã gắn nội dung về đào tạo doanh nghiệp xã hội vào hầu hết những chương trình đào tạo của Nhà trường. Các nội dung đào tạo một phần được lồng ghép vào chương trình học, một phần được tổ chức thông qua các hoạt động hỗ trợ. Hiện 140


Trường đại học này có ba chuyên ngành đào tạo cao học lần lượt là Đổi mới xã hội, Tuổi trẻ và cộng đồng, và Quản trị kinh doanh thì ở cả ba chương trình này, học phần doanh nghiệp xã hội đều là học phần bắt buộc.Điều đặc biệt nữa là chuyên ngành đào tạo cao học về Đổi mới xã hội chỉ tuyển sinh những học viên là những người có tham gia vào các hoạt động quản lý doanh nghiệp xã hội. Thứ ba, đào tạo làm việc theo định hướng xã hội không chỉ được thực hiện thông qua các học phần ở các trường đại học mà thậm chí còn được coi như là một giá trị cốt lõi trong quá trình phát triển của trường đại học. Chẳng hạn như đối với Đại học Northampton, một trong những mục tiêu của Trường đại học này là xây dựng văn hóa tâm huyết với việc giải quyết các vấn đề xã hội và Nhà trường đã sử dụng điều này như một sự khác biệt trong xây dựng thương hiệu của Nhà trường. Vì vậy, việc đào tạo về doanh nghiệp xã hội đã được gắn với hầu hết những chương trình đào tạo của Nhà trường. Nhà trường cũng có một cơ chế hoạt động để các giáo viên thấm nhuần và hiểu rõ ràng về việc đào tạo về doanh nghiệp xã hội trong các chương trình giảng dạy của họ ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Thứ tư, bên cạnh hoạt động đào tạo chính thức, hoạt động đào tạo phi chính thức được đẩy mạnh thông qua nhiều hình thức như tổ chức buổi tọa đàm, chia sẻ kiến thức hoặc cách thức giải quyết các vấn đề giữa các sinh viên, chia sẻ thông tin qua mạng internet chẳng hạn như thông qua mạng xã hội hoặc viết blog, tham gia thực tập tại các doanh nghiệp xã hội, tham gia các dự án, chương trình về đổi mới xã hội,… Một phần những hoạt động này được thực hiện trong chính các học phần theo yêu cầu của chương trình đào tạo, một phần được thực hiện riêng lẻ, thậm chí là tự phát của các sinh viên. 4.2. Hoạt động ươm tạo tài năng kinh doanh xã hội Hoạt động ươm tạotài năng kinh doanh xã hội được thực hiện ở rất nhiều trường đại học ở Anh chẳng hạn như ở Trường đại học Southampton Solent và Trường đại học Oxford Brookes. Ở Trường đại học Southampton Solent, một trường đại học công, được nâng cấp từ một trường cao đẳng, có 3 khoa là Kinh doanh, Thời trang, và Sáng tạo, hoạt động ươm tạo tài năng kinh doanh xã hội được thực hiện thông qua bốn giai đoạn cơ bản bao gồm: - Giai đoạn hình thành ý tưởng: Trong giai đoạn này, Nhà Trường tổ chức các bài giảng về doanh nghiệp và đổi mới xã hội trong chương trình đào tạo hoặc là thông qua các hoạt động khác như hoạt động của hội sinh viên, cộng đồng doanh nghiệp, hoạt động tìm kiếm thành viên enactus, mời các khách mời đến nói chuyện trong các sự kiện, tổ chức các buổi hội thảo, trại huấn luyện,… Trong giai đoạn này, những người tham gia sẽ hình thành ý tưởng và sắp xếp và cân nhắc các ý tưởng để đảm bảo là có thể khả thi. - Giai đoạn tư vấn đào tạo: Các doanh nghiệp (thông qua những người quản lý) tư vấn cá nhân đối với những sinh viên đăng ký tham gia phát triển dự án. Đây là những hoạt động nhằm khẳng định sinh viên vẫn còn theo đuổi ý tưởng của mình và giúp sinh viên hình dung cụ thể hơn nữa về ý tưởng của họ. Trong giai đoạn này, những người tham gia sẽ xây dựng kế hoạch kinh doanh và trao đổi với các tư vấn viên về kế hoạch kinh doanh đó. 141


- Giai đoạn thực hành: Thực hiện hỗ trợ tài chính để hiện thực hóa các hoạt động. Các ý tưởng có thể được Đại học Southampton Solent tài trợ đến 2000 bảng Anh. Tài chính hỗ trợ có thể đến từ nhiều nguồn như hội sinh viên, sinh viên cũng có thể gây quĩ thông qua trang web, hoặc chính phủ cấp. Trong nhiều trường hợp, nếu dự án là khả thi và hấp dẫn thì có thể kêu gọi tài trợ từ các doanh nghiệp. Bên cạnh hỗ trợ tài chính, các sinh viên thực hiện dự án đến giai đoạn này còn nhận được các hỗ trợ khác như hỗ trợ đào tạo và văn phòng. - Giai đoạn ứng dụng: Trên cơ sở nhận được những hỗ trợ trên, các sinh viên sẽ triển khai dự án. Hoạt động ươm tạo tài năng tại Trường đại học này trong thời gian qua đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Tính cho năm 2013/2014, các sinh viên tham gia phong trào đã nhận được số vốn tài trợ là 79.400 bảng Anh.Trong số các ý tưởng mà các sinh viên đưa ra, họ đã khởi nghiệp được 48 doanh nghiệp. Có 105 sinh viên được đào tạo và 221 sinh viên được các doanh nghiệp tư vấn cá nhân trực tiếp.Những kết quả này đóng góp không nhỏ vào sự phát triển doanh nghiệp xã hội ở Anh. Đối với Trường Đại học Oxford Brookes, hoạt động ươm tạo tài năng được thực hiện thông qua Giải thưởng doanh nhân xã hội Oxford Brookes (OBSEA). Giải thưởng này được khởi xướng từ năm 2012 với mục đích chunglà gắn kết tinh thần kinh doanh xã hội vào Trường đại học Brookes. Giải thưởng này nhằm: - Tìm kiếm, cấp vốn và hỗ trợ những doanh nhân xã hội trong số các sinh viên hiện tại, các sinh viên mới tốt nghiệp và các nhân viên của Trường; - Phát triển một công đồng những người thay đổi và những nhà tư tưởng cấp tiến; - Kết nối với phong trào khởi sự kinh doanh xã hội rộng hơn. Tất cả các sinh viên đang theo học ở trong trường, các cựu sinh viên mới tốt nghiệp và các nhân viên đều có thể tham gia giải thưởng mà không cần đáp ứng yêu cầu gì về chuyên môn hoặc nghiệp vụ, miễn là có niềm say mê, khả năng quyết đoán và định hướng trở thành những nhà thay đổi- những người muốn làm cho thế giới tốt đẹp hơn. Các cá nhân tham gia giải thưởng không chỉ có cơ hội nhận được giải thưởng mà còn có cơ hội được tham gia các chương trình đào tạo và tư vấn về khởi nghiệp. Có ba loại hình giải thưởng: giải thưởng nhỏ có giá trị tối đa 500 bảng Anh dành cho những người đưa ra các ý tưởng hay; giải thưởng vừa có giá trị tối đa 5.000 bảng Anh dành cho các cá nhân phát triển ý tưởng kinh doanh; và giải thưởng lớn có giá trị lên đến 15.000 bảng Anh dành cho những dự án có tiềm năng có thể triển khai và phát triển với qui mô rộng. Ngân quỹ của các giải thưởng tối đa lên đến 50.000 bảng Anh mỗi năm.

142


Bảng 2: Kết quả giải thưởng OBSEA trong những năm qua Loại giải thưởng

Đơn vị tính

Giải thưởng nhỏ về ý tưởng kinh doanh

2012/2013

2013/2014

2014/2015

Giải thưởng

23

8

14

Giải thưởng vừa dành cho các cá nhân phát triển ý tưởng kinh doanh

Giải thưởng

2

3

3

Giải thưởng lớn dành cho các cá nhân có các dự án có tiềm năng triển khai trên phạm vi rộng

Giải thưởng

3

1

2

£

37.285

31.000

40.000

Tổng giá trị

Nguồn: OBSEA, 2016 Trong những năm qua, Giải thưởng doanh nhân xã hội đã được trao cho nhiều cá nhân có tiềm năng kinh doanh định hướng xã hội. Gần đây nhất, năm 2014/2015, Chương trình đã trao thưởng cho 14 cá nhân có ý tưởng tốt, 3 dự án đã được triển khai và 2 dự án có tiềm năng phát triển ở phạm vi rộng với tổng giá trị của các giải thưởng là 40.000 £. Các dự án đều hướng đến việc giải quyết các vấn đề xã hội và xa hơn nữa là thay đổi xã hội. Điển hình là những dự án như Knowledge Project – dự án tổ chức các khóa học vào buổi tối cho cộng đồng mà tại đó những người đi giảng dạy là tình nguyện viên. Số tiền thu được từ học phí của các học viên sẽ được gửi đến quỹ từ thiện Jacari để chi tiêu vào những việc vì lợi ích cộng đồng. Một dự án khác có thể kể đến là Art Excite- dự án tạo ra một sân chơi cho những người trẻ tuổi tài năng nhưng có hoàn cảnh khó khăn để họ được hỗ trợ và và phát triển,… 4.3. Hoạt động tổ chức hội sinh viên Tổ chức hội sinh viên đáng chú ý đối với việc nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh xã hội ở Anh Quốc là Hội điểm kết nối sinh viên (Student Hubs). Đây là tổ chức từ thiện do sinh viên làm chủ được tổ chức tại 10 trường đại học ở Anh Quốc với mục đích là nuôi dưỡng, kết nối, và hỗ trợ sinh viên để làm cho thế giới tốt đẹp hơn. Các trường đại học có Hội điểm kết nối sinh viên lần lượt là: Bristol, Brookes, Cambridge, West London, Kington, Oxford, SOAS, Southampton, Warwick, và Winchester.Hội điểm kết nối sinh viên được thành lập từ năm 2007, bởi hội sinh ở cả viên Oxford. Hội điểm kết nối sinh viên Oxford được thành lập ban đầu bởi lý do: - Thiếu sự tham gia của sinh viên đối với các vấn đề xã hội và môi trường; - Các sinh viên chưa nhận thức được các cơ hội sẵn có để làm nên sự khác biệt; - Các hoạt động tự nguyện vì xã hội được thực hiện bởi các sinh viên còn phân tán, chưa hiệu quả và chưa bền vững như mong đợi. Chính từ những lý do đó, cùng với mong muốn rằng các trường đại học ở Anh Quốc 143


không những có thể tạo ra những tư duy hàng đầu mà còn cần tạo ra những công dân hàng đầu thế giới nên Hội điểm kết nối sinh viên được thành lập và tập trung hoạt động vào 6 mảng bao gồm: Hành động vì cộng đồng, Giáo dục, Môi trường và bền vững, Doanh nghiệp xã hội, Phát triển quốc tế, và Các nghề nghiệp tác động đến xã hội. Hội điểm kết nối mong muốn xây dựng văn hóa thay đổi trong các trường đại học, để từ đó các sinh viên, những người sẽ trở thành các nhà lãnh đạo, nhà tư tưởng, những người ra quyết định trong tương lai được chuẩn bị để đối mặt với các thách thức và đồng thời có tâm huyết đối với việc giải quyết các vấn đề có liên quan đến xã hội và môi trường. Hội điểm kết nối sinh viên được tổ chức theo ba cấp là các Ủy ban sinh viên, Các nhân viên Hội điểm địa phương, và các nhóm quốc gia. Kinh phí hoạt động đến từ hai nguồn.Thứ nhất là các đối tác và các nhà tài trợ.Đối tượng này bao gồm các trường đại học, các doanh nghiệp và các nhà tài trợ hảo tâm khác. Thông thường, các nhà quản lý nguồn thu cá nhân phải đảm bảo nguồn tài trợ từ các tổ chức này ở một mức độ nhất định và thường đây sẽ là nguồn thu chủ yếu của các Hội điểm kết nối. Nguồn thu thứ hai đến từ các hoạt động tự tạo ra thu nhập của các Hội điểm kết nối, chẳng hạn các dự án thu nhận các đồ từ thiện và bán với giá rẻ, hoặc các dự án vì cộng đồng khác. Từ khi ra đời đến nay, hoạt động của Hội điểm kết nối sinh viên tại Anh Quốc đã đạt được những thành tựu đáng kể. Hội điểm đã hỗ trợ hơn 50 dự án trên toàn lãnh thổ Anh Quốc và mạng lưới này thu hút sự tham gia của hơn 25.000 sinh viên. Kết quả hoạt động của Hội điểm này được thể hiện trong bảng sau: Bảng 3: Kết quả hoạt động của Hội điểm kết nối trong thời gian qua 2013/2014 2014/2015 Số lượng các dự án ươm mầm trên toàn quốc (dự án)

93

NA

Số lượng các dự án được triển khai (dự án)

64

NA

Tỷ lệ sinh viên cảm thấy có động lực hơn để tham gia các hoạt động giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường (%)

82

92

Tỷ lệ sinh viên cảm thấy hiểu biết hơn về các vấn đề xã hội và môi trường (%)

82

90

Tỷ lệ sinh viên cảm thấy được trang bị tốt hơn về kiến thức và kỹ năng để giải quyết các vấn đề về môi trường (%)

73

90

Tỷ lệ sinh viên có kế hoạch thực hiện những hoạt động theo đuổi dự định về giải quyết vấn đề xã hội mà họ quan tâm (%)

73

67

Tỷ lệ sinh viên chưa từng tham gia vào hoạt động xã hội nào (%)

NA

17.5

Nguồn: Student Hubs, 2015 Đối với các đối tác là các doanh nghiệp, trường học, các kết quả đánh giá sự tác động của hoạt động của Hội điểm kết nối thông qua điều tra 27 giáo viên vào hè năm 2015 cho thấy sự khả quan khi 100% các giáo viên cho rằng sự quan tâm và sự tự tin của các học sinh đã tăng

144


lên. Đồng thời, kết quả điều tra các doanh nghiệp có liên kết với Hội điểm kết nối cũng cho thấy đánh giá của họ về sự tham gia của các sinh viên trong mạng lưới rất khả quan. Trong số các Hội điểm kết nối, đáng kể đến là Hội điểm kết nối Oxford bởi những kết quả mà tổ chức này mang lại. Năm 2014/2015, Hội điểm này đã có 47 dự án về cộng đồng được ươm mầm. Hàng tuần, có hơn 600 sinh viên tình nguyện tham gia giải quyết các vấn đề xã hội có liên quan đến người vô gia cư, người già và người nghèo. Hội điểm còn có chương trình thực tập dành cho các vị trí thực hiện các hoạt động vì cộng đồng và xã hội và đã đưa được 150 sinh viên ở khắp các tụ điểm của hệ thống vào trong các tổ chức thuộc khu vực thứ 3. Các dự án tiêu biểu của tụ điểm được trình bày trong Hộp 1. Hộp 1: Các dự án tiêu biểu của Hội điểm kết nối sinh viên Oxford HogAcre Eco- Café HogAcre Café còn được gọi là HogAcre Common là một quán cà phê với diện tích rộng 14 mẫu Anh (tương đương với khoảng 5,6 mẫu theo hệ đo lường của Việt Nam), được xây dựng từ năm 2010 trên không gian trước đây từng là sân thể thao của một trường đại học. Nơi này cách trung tâm Thành phố Oxford chưa đầy 1 dặm. Đây được coi như công viên sinh thái dành cho cộng đồng bởi nó nằm trong vùng đồng bằng màu mỡ, ba bên tiếp giáp với suối nước và có hệ sinh thái đa dạng với đầy đủ cánh đồng, rừng, suối. Người ta chỉ có thể đi bộ vào khu vực này. Đây là nơi sinh hoạt, tổ chức sự kiện cho nhiều gia đình và cá nhân trong cộng đồng với các hoạt động có hàm lượng cacsbon thấp. Các thức ăn được cung cấp tại nơi này hầu như chủ yếu là từ những sản phẩm trong vùng. Đất và các dự án ở đây được quản lý bởi một công ty vì lợi ích cộng đồng. Trong đó, nhiều hoạt động tại đây được tổ chức và quản lý bởi các sinh viên trong Hội điểm kết nối Oxford. Magic Beans Dự án Những hạt đậu thần kỳ được khởi xướng bởi 4 sinh viên y khoa vào giữa năm 2012 với ý tưởng ban đầu là tìm cách để cho các bệnh nhi cảm thấy thời gian ở bệnh viện không nhàm chán, thậm chí là rất thú vị. Với khả năng có thể thực hiện một số trò ảo thuật, ý tưởng từ câu chuyện “Jack và cây đậu thần” đã khiến nhóm đặt tên dự án là Những hạt đậu thần kỳ - Magic Beans. Mặc dù những sinh viên này có một chút năng lực về trình diễn ảo thuật nhưng họ đã phải tập miệt mài từ khi lên ý tưởng đến tháng 10/ 2013 mới có thể trình diễn được buổi đầu tiên trong Bệnh viện John Radcliffe ở Oxford. Sau đó, lịch biểu diễn được ấn định đều đặn là mỗi tuần một lần mà khán giả là các bệnh nhi, gia đình của các em và các nhân viên bệnh viện. Chỉ sau vài tuần thành công, nhóm đã nhanh chóng đào tạo các sinh viên tình nguyện khác để đi trình diễn và hơn 20 sinh viên khác đã tham gia vào việc trình diễn trò ảo thuật này. Hiện tại, Dự án phát triển thành doanh nghiệp xã hội và được quản lý bởi các sinh viên y khoa thuộc Hội điểm kết nối Oxford. Về sau này, các màn trình diễn được thay đổi để phù hợp với các khán giả từ 3 đến 103 tuổi, và phù hợp với nhiều sự kiện hơn như tiệc sinh nhật, đám cưới, các sự kiện khác. Mỗi khi có khách hàng yêu cầu, nhóm sẵn sàng đi trình diễn và thu nhập từ những hoạt động này được sử dụng để gây quỹ của Hội điểm kết nối sinh viên Oxford. Nguồn: www.hogacrecommon.org.uk và www.magicbeans.org.uk

145


Các hoạt động của Hội điểm kết nối Oxford đã gắn văn hóa kinh doanh xã hội vào trường Oxford.Hội điểm kết nối này đã trao nhiều phần thưởng với giá trị từ 100 đến 10.000 Bảng Anh cho các cá nhân và doanh nghiệp xã hội. Tính trong 3 năm gần đây, Hội điểm này đã trao 31 giải thưởng về doanh nghiệp xã hội cho các sinh viên, những cựu sinh viên mới tốt nghiệp và các nhân viên. Bên cạnh đó, hoạt động đào tạo mà Hội điểm kết nối thực hiện cũng rất phong phú và mang lại nhiều kết quả đáng ghi nhận. 4.4. Hoạt động liên kết giữa trường học với các doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước Hoạt động liên kết giữa trường học với các doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước được thực hiện chặt chẽ trong nhiều trường đại học ở Anh. Từ những ví dụ trên đây có thể thấy rằng nhiều trường đại học ở Anh chẳng hạn như Đại học Southampton Solent, Đại học Oxford Brookes có mối liên hệ chặt chẽ với các doanh nhân, doanh nghiệp xã hội và các cơ quan quản lý nhà nước. Chẳng hạn như ở Đại học Southampton Solent, hàng năm, có một số lượng lớn các nhà quản lý từ các doanh nghiệp đến trường đại học này và tư vấn cho các sinh viên tham gia vào phong trào khởi nghiệp. Nếu trong trường hợp các sinh viên có nhiều ý tưởng hay, cần hỗ trợ để phát triển mà ngân sách của trường không đáp ứng được thì trường cũng có thể tìm sự giúp đỡ của Hội đồng Thành phố. Hoặc như ở Đại học Oxford Brookes, hàng năm cũng có một số lượng lớn các nhà quản lý từ các doanh nghiệp giúp đỡ những sinh viên, cựu sinh viên mới tốt nghiệp và những nhân viên trong việc thực hiện các ý tưởng giải quyết các vấn đề xã hội của họ. 5. Một số gợi ý về nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh xã hội ở Việt Nam Ở Việt Nam, việc phát triển doanh nghiệp xã hội mới nhận được sự quan tâm trong những năm gần đây.Việc thông qua Luật sửa đổi về doanh nghiệp trong đó có điều khoản về doanh nghiệp xã hội vào tháng 11/2014, sau đó ban hành Nghị định hướng dẫn triển khai luật về doanh nghiệp xã hội vào tháng 10/2015 thực sự là một dấu mốc đáng ghi nhận trong chặng đường xây dựng hành lang pháp lý, hoàn thiện và tạo điều kiện thuận lợi các doanh nghiệp xã hội phát triển. Tuy nhiên, những điều kiện hỗ trợ cho sự phát triển của những doanh nghiệp này còn có nhiều hạn chế nên hoạt động của các doanh nghiệp xã hội còn đang ở trong giai đoạn sơ khai. Hoạt động nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh xã hội ở Việt Nam cũng đã được thực hiện nhưng nhìn chung còn mỏng và nhiều hạn chế. Hoạt động đào tạo về doanh nghiệp xã hội đã được thực thi ở một số tổ chức như Trung tâm hỗ trợ sáng kiến phục vụ cộng đồng (CSIP), Trung tâm phát triển doanh nghiệp xã hội Tia sáng (Sparks), Trung tâm quản lý Pháp Việt và Bộ môn Văn hóa kinh doanh thuộc Khoa Quản trị kinh doanh, Trường Đại học kinh tế quốc dân và một số tổ chức khác. Tuy nhiên, nội dung về doanh nghiệp xã hội chưa được phát triển ở qui mô rộng chẳng hạn như chưa trở thành một học phần độc lập trong chương trình đào tạo hoặc chuyên ngành như ở một số trường đại học ở Anh. Các hoạt động ươm tạo doanh nhân xã hội cũng đã được thực hiện nhưng nhìn chung là còn ở phạm vi hẹp, mới chỉ dừng lại ở việc tham gia chương trình Enactus và một số dự án được thành lập nhằm hỗ trợ các cá nhân tư duy và/ hoặc khởi nghiệp theo định hướng giải quyết các vấn đề xã hội như Dự án 146


hỗ trợ và Phát triển doanh nghiệp xã hội Việt Nam (VSEED). Các hoạt động liên kết giữa nhà trường và các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và các cơ quan quản lý nhà nước cũng còn hạn chế. Dữ liệu từ các cuộc phỏng vấn các doanh nhân cho thấy cả năm doanh nhân đều chưa từng tham gia học tập theo một chương trình hoặc khóa học nào đó về đổi mới xã hội hoặc doanh nghiệp xã hội. Họ cũng chưa từng đọc cuốn sách hay tài liệu gì về những vấn đề này. Các doanh nhân này đã tham gia vào các hoạt động thiện nguyện như tổ chức các chuyến đi đến các khu vực miền núi để tặng quà cho những người dân có hoàn cảnh khó khăn, gây quĩ và trao tặng học bổng,phần thưởng cho các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn trong các trường học, đặc biệt là những trường học mà các doanh nhân này đã từng theo học trong quá khứ, đóng góp vào các phong trào từ thiện với các hình thức tặng quà hoặc xây lớp học cho các em học sinh ở vùng miền núi phía Bắc,... Mặc dù các công ty của các doanh nhân này không phải là các doanh nghiệp xã hội và cũng không giống như doanh nghiệp xã hội nhưng các doanh nhân đều khẳng định rằng tư tưởng kinh doanh định hướng xã hội nên được phổ biến với các sinh viên từ khi họ học tập trong trường đại học. Khi được hỏi về sự sẵn sàng liên kết với các trường đại học để hỗ trợ các sinh viên cả về vật chất lẫn thời gian (chẳng hạn như tài trợ vốn cho các sinh viên khởi nghiệp, tham gia tư vấn khởi nghiệp) thì các doanh nhân đều khẳng định là sẵn sàng hỗ trợ, thậm chí mong muốn hợp tác lâu dài. Đặt trong bối cảnh xã hội và môi trường còn có nhiều vấn cần được giải quyết ở Việt Nam, việc nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh xã hội là điều rất cần thiết. Để làm tốt điều này hơn nữa ở các trường đại học, từ những phân tích về thực trạng các hoạt động này ở các trường đại học ở Anh ở trên, các trường đại học ở Việt Nam cần tập trung vào một số những hoạt động sau: Thứ nhất là tăng cường đào tạo về đổi mới xã hội trong các trường đại học. Đây được coi là giải pháp cần thực hiện trước tiên bởi nhận thức về đổi mới xã hội là điều quan trọng nhất để thực hiện những hoạt động thiết thực hơn về sau. Việc đào tạo không nên giới hạn là các trường đại học ở khối kinh tế và quản trị kinh doanh mà cả các trường đại học ở các lĩnh vực khác như môi trường, công nghệ, xây dựng, mỏ địa chất, ... Mỗi một lĩnh vực chuyên môn lại có một cách nhìn, quan điểm về đổi mới xã hội khác nhau. Nội dung về đổi mới xã hội nên được thiết kế là một môn học chung cho các chuyên ngành. Tư tưởng về đổi mới, làm cho xã hội và môi trường tốt hơn cần được truyền bá rộng rãi hơn nữa ở mọi lĩnh vực để nâng tầm nhận thức của các sinh viên về những vấn đề mà xã hội cần phải đối mặt trong tương lai, khuyến khích lối sống theo giá trị nhân văn của con người. Riêng ở các trường đại học khối kinh tế và quản trị kinh doanh, ngoài việc tìm hiểu về đổi mới xã hội, các sinh viên cần được đào tạo chi tiết về cách thức vận hành doanh nghiệp xã hội. Trong chương trình đào tạo nên có một học phần về doanh nghiệp xã hội. Ở một số trường đa ngành như Đại học Kinh tế quốc dân, trong chương trình đào tạo thậm chí nên có chuyên ngành đào tạo về doanh nghiệp xã hội. Phương thức giảng dạy môn học này

147


cũng cần được đổi mới theo hướng hiện đại, chẳng hạn như sử dụng các công cụ như mạng xã hội, blog,... trong quá trình đào tạo để ngay từ đầu, mức độ phổ biến của kiến thức về doanh nghiệp xã hội rộng rãi hơn. Thứ hai là cần tăng cường các hoạt động ươm tạo tài năng kinh doanh xã hội trong các trường đại học. Các chương trình về ươm tạo tài năng kinh doanh xã hội cần được xây dựng và triển khai trong các trường đại học thường xuyên và bền vững hơn. Một số trường đại học cần xây dựng và duy trì những chương trình như khuyến khích và hỗ trợ sinh viên đưa ra những ý tưởng sáng tạo để giải quyết các vấn đề xã hội hoặc xa hơn nữa là khởi nghiệp và duy trì những hoạt động này thường xuyên. Thứ ba là tăng cường liên kết với các doanh nghiệp, doanh nghiệp xã hội và các tổ chức khác để thực hiện những hoạt động đào tạo, ươm tạo tài năng,... một cách hiệu quả. Như đã trình bày ở trên, dữ liệu điều tra cho thấy rằng một số doanh nghiệp sẵn sàng hỗ trợ cả về mặt vật chất và công sức trong việc khởi nghiệp, việc hợp tác có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tìm kiếm, cơ chế kết hợp giữa các trường đại học và các doanh nghiệp. Thứ tư là tăng cường hoạt động của các đoàn, hội sinh viên trong việc thúc đẩy đổi mới và sáng tạo xã hội. Cần khuyến khích để các tổ chức giống như Hội điểm kết nối sinh viên ở các trường đại học ở Anh ra đời trong các trường đại học ở Việt Nam. Ngày nay, công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, việc trao đổi thông tin qua mạng internet có thể giúp con người chia sẻ, trao đổi thông tin được một cách khá chi tiết nên việc học tập những mô hình này có thể được thực hiện thông qua mạng internet. Trước sự sẵn sàng chia sẻ thông tin cũng như bí quyết hoạt động của những tổ chức như vậy ở nước ngoài, các trường đại học ở Việt Nam mà cụ thể là các sinh viên ở Việt Nam có thể chủ động liên hệ với những tổ chức này, hoặc thông qua những tổ chức có uy tín như Hội đồng Anh và các trường đại học ở Việt Nam để quá trình trao đổi thông tin hoặc học hỏi có thể thực hiện hiệu quả hơn. Ở Việt Nam, để các sinh viên hiểu được sự cần thiết của việc giải quyết các vấn đề xã hội, yêu thích công việc này, chủ động tìm kiếm các cơ hội để thực hiện các công việc giải quyết các vấn đề xã hội, gắn bó với những công việc này và coi đó như là một sự nghiệp của mình, hay nói một cách khác, là để có thể nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh xã hội, nỗ lực của các trường đại học là chưa đủ mà còn cần đến nỗ lực của nhiều bên có liên quan. Chẳng hạn như, Nhà nước cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về doanh nghiệp xã hội để có hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp phát triển; bên cạnh các trường đại học, nhiều tổ chức khác trong cộng đồng như các viện nghiên cứu, các doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ, ... cũng cần tham gia vào quá trình đào tạo, phổ biến rộng rãi kiến thức cũng như định hình giúp các cá nhân phát huy sở thích làm việc vì xã hội; các tổ chức trong cộng đồng cần tích cực tham gia hỗ trợ cho các trường đại học trong đào tạo, nghiên cứu và ươm tạo tài năng, đặc biệt là các tổ chức như Hội đồng Anh, CSIP, SPARKS, các doanh nghiệp xã hội, các tổ chức thiện nguyện,... Hy vọng rằng trong thời gian tới đây, sự

148


kết hợp giữa các tổ chức ở Việt Nam mà trong đó trung tâm là các trường đại học được thực hiện một cách hiệu quả, tạo ra một lực lượng doanh nhân có tinh thần kinh doanh xã hội để thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp xã hội, hướng đến xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn. Tài liệu tham khảo 1. Đỗ Thị Đông và Nguyễn Thị Phương Linh (2015), Đề xuất đào tạo tinh thần kinh doanh xã hội tại các trường đại học ở Việt Nam: Nghiên cứu tình huống tại Đại học Kinh tế quốc dân. Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế Doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam: Vai trò của trường đại học và các tổ chức nghiên cứu. Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân. 2. Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức, Phạm Kiều Oanh, Trần Thị Hồng Gấm (2012), Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam – Khái niệm, bối cảnh và Chính sách, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung Ương (CIEM), trang 4&5. 3. Nguyễn Thị Hoài Dung (2015), Tinh thần kinh doanh xã hội và hành động của Trường đại học ở Việt Nam, Tạp chí Châu Á Thái Bình Dương, số tháng 5 năm 2015 4. Quốc hội nước cộng hòa xã hội (2014) Luật doanh nghiệp sửa đổi năm 2014. 5. Anis Amira Ab Rahman, Shah Iskandar Fahmie Bin Ramlee, và Rosliza Binti Che Ramhim (2015), Nurturing social entrepreneurship knowledge through experience: an action research, 1st International conference on Entrepreneurship empowerment 2015, Malaysia. 6. Aron Embaye (2007), Nurturing social entrepreneurship through corporate social responsibility, ICCA CSR briefing note, 01/07. 7. Brishtish Council (2015), Social Enterprise in the UK: Developing a thriving social enterprise sector. 8. British Council Phillipines (2015), A review of social enterprise activity in the Phillipines 9. Debbi D. Brock and Ashoka Global Academy for Social Entrepreneurship (2008), Social entrepreneurship: Teaching resources handbook, Arlington. 10. Hannah McDowall and Nick Micinski (2010), Young social entrepreneurs: a vehicle for social change and skills development. 11. HogAcre Cafe, HogAcre history, http://www.hogacrecommon.org.uk/about/history. 12. Social Enterprise UK (2015), Leading the world in social enterprise 13. Nareatha Studdard, Maurice Dawson, Sharon L. Burton, Naposhia Jackson, Brian Leonard, William Quisenberry, và Emad Rahim (2016), Nurturing Social Entrepreneurship and Building Social Entrepreneurial Self-Efficacy: Focusing on Primary and Secondary Schooling to Develop Future Social Entrepreneurs. 14. Oxford Brookes University (2015), Oxford Brookes social entrepreneur awards and Oxfordshire social entrepreneruship partnership. 15. Student Hubs (2015), Introduction to Student hubs 16. Tan Sri Ahmad Fuzi Abdul Razad (2014), Nurturing socially responsible entrepreneurship, 10th World Bank Islamic Economic Forum, Dubai. 17. The Magic Beans, http://www.magicbeans.org.uk/history.html 18. UnLtd (2010), Young social entrepreneurs: learning by doing. 19. University of Oxford (2016), Course Syllabus, https://www.conted.ox.ac.uk/L100-9.

149


150


DEVELOPING SOCIAL ENTREPRENEURSHIP IN UNIVERSITY STUDENTS: THE ROLE OF EDUCATIONAL FACTORS Nguyen Thu Thuy

Abstract: Drawing on the theory of planned behavior in entrepreneurship, we propose a model linking educational determinants, perceived entrepreneurial behavior control and entrepreneurial intentions. The model is tested in a sample of 163 students at National Economics University. The result show that university education factors including entrepreneurship inspiration, work integrated learning and extra curricular activities have impact to students’ entrepreneurial behavior control and then entrepreneurial behavior control as a platform through which the educational factors have impact to overall entrepreneurial intention. The findings give several implications for developing social entrepreneurship in higher educational institutions. Keywords: Education, social entrepreneurship, university students, teaching methods, entrepreneurial intention.

1. Introduction Developing social entrepreneurship is important in facilitating community economic development and well-being of societies because social entrepreneurs tailor their activities to be directly tied with the ultimate goal of creating social value. Recent actions of many countries also highlight the growing attention to fostering social entrepreneurship through university education and training (Mair and Martí, 2006). Lots of countries such as Hongkong, Britain... have national programs and policy supports for setting up social businesses, especially in university students. The reason why there is a special interest in encouraging university students’ entrepreneurship activities is that researchers believe well educated entrepreneurs can build fast and big fortune businesses than lower educated people. Social entrepreneurship combines commercial enterprises with social impacts. In this perspective, social entrepreneurs have used business skills and knowledge to create enterprises that accomplish social purposes in addition to being commercially viable. In order to encourage potential student entrepreneurs for setting up social oriented businesses after graduated, students should be well prepared and influenced when they are in higher education institutions (Béchard and Grégoire, 2005). However, there are endless controversial and opposite opinions between researchers about the impact of university education to students entrepreneurship intention (Fiet, 2000). Previous studies maintain that entrepreneurs are cultivated during their lifetime, and education is very important to build entrepreneurship in people’s mind but several researches cannot show the relationship between educational factors, university students’ 151


entrepreneurial perceptions and entrepreneurial intentions (Lüthje and Franke, 2004). Thus, whether education influences entrepreneurial perceptions and intentions “requires further research” (Collins et al., 2004- cited in Wu and Wu, 2008). Drawing on the theory of planned behavior and theories of entrepreneurship intention, these study objectives are modeling and hypothesis testing the relationship between four proposed educational determinants: entrepreneurship learning, inspiration, extracurricular activities and work integrated learning to perceived entrepreneurial behavior control. In addition, we test the mediating role of perceived entrepreneurial behavior control in the relationship between proposed educational factors and entrepreneurial intention, which have never been tested in previous researches. The study results reconfirmed the impact of educational factors to students' entrepreneurship behavior control and intention. The results show that university education impact to students’ entrepreneurial behavior control and then entrepreneurial behavior control as a platform through which the educational factors have impact to overall entrepreneurial intention. The findings give implications for higher institutions in developing social entrepreneurship in university. 2. Theoretical foundations 2.1 Concept Recently, entrepreneurial intentions of university students have received considerable interests among researchers (Krueger et al., 2000). Since entrepreneurship represents planned, intentional behavior and based on the fact that intention is said to precede action, entrepreneurial intention is said to be a reliable predictor or measure of entrepreneurial behavior and entrepreneurial activity (Ajzen, 1991). Entrepreneurship is a process, an entrepreneur before acting entrepreneurship activities must have entrepreneurship intention, and entrepreneurship intention will be best predictor of actual entrepreneurship behaviors. Encouraging entrepreneurship activities should proceed from encouraging entrepreneurship intention. “Entrepreneurial intentions are a state of mind, which directs and guides the actions of the individual toward the development and the implementation of new business concepts” (Bird, 1988- cited in Krueger et al., 2000). In the Theory of Planned Behavior of Ajzen (1991), three variables precede the formation of intention, which itself predicts behavior. One of the determinants is the subject's perception of his or her control over the behavior.

152


Subject's attitude Entrepreneurs hip intention

Entrepreneurs hip behavior

Subjective norms

Perception of behavioral control

Figure 1: Ajzen's Theory of Planned Behavior (Source: Ajzen, 1991) Perceived behavioral control refers to someone’s perception of the ease or difficulty of performing the behavior, a construct which is more important than the actual control over the behavior of interest (Ajzen, 1991) Behavioral control indicates if an individual feels she/he can easily engage in entrepreneurial venture. Perceived behavioral control base on the evaluation of one’s controllability and self-efficacy during the process of new venture development. Perceived behavioral control has also been referred to as perceived feasibility and selfefficacy concept as it reflects an individual’s personal judgement of their ability to perform a prospective behavior (Krueger et al., 2000). 2.2. Literature reviews the relationship between educational factors, perception of behavioral control and entrepreneurship intention. 2.2.1. Relationship between educational factors and perception of behavioral control Recently most management research assumes business-behaviors are learned and that the human mind is a blank slate that can be shaped by parents, schools, and culture. There is a growing acceptance that many aspects of entrepreneurship can be taught and learned (Verzat and Bachelet, 2006). Based on works by previous researchers engaged with these topics, this study proposed several educational characteristics that have impact to perception of entrepreneurship behavioral control and entrepreneurship intention. Inspiration and perception of behavioral control Souitaris et. al. (2007) defined ‘entrepreneurial inspiration’ as “a change of hearts (emotion) and minds (motivation) evoked by a revelation (trigger) events or inputs of entrepreneurship program and directed towards considering becoming an entrepreneur. Souitaris et. al. (2007) ague that a trigger that makes one considers becoming an entrepreneur could be the first step to a change of perception and intentions towards entrepreneurship. Another work of Jens Uwe Martens focuses on changing behaviors and

153


attitudes also claims that changes in these two areas can be accomplished by addressing emotions in a targeted way. Martens acknowledges that perception of something is not only governed through intellect; rather, thinking, feeling and doing influence each other mutually. Therefore, educating knowledge should accompany with educating cognition... Fiet (2000), Nguyen and Nguyen (2014) researches had identified the impact of transferring emotion to perception of entrepreneurship feasibility. Therefore, we suggest that university’s entrepreneurial inspiration would raise the participants' entrepreneurial perception of behavioral control. H1: Entrepreneurship inspiration is positively related to perceived entrepreneurship behavior control Work integrated learning and perception of behavioral control Work integrated learning: A learning method that students' knowledge will be acquired by application of academic theory in real works (Balan and Metcalfe, 2012) The theory of experiential learning David Kolb point out that people do learn from their experiences, experience is a valuable source for learning and development (cited in Vesa (2010). Experiential learning links education, work, and personal development. Fiet (2000) also show that changes in efficacy beliefs do not result from the performance per se but from the cognitive processing of the information that performances convey about capabilities. The qualitative entrepreneurship researches of El-Khasawned (2008) and Vesa (2010) has recommended in their research that university should educate potential entrepreneurs with high application teaching methods such as experimental learning, action learning, learning by doing methods, rather than lecture base learning method. Luthje and Franke (2004) suggested that the educational formats which more emphasize on the application of theory in reality and enable the creation of knowledge through the transformation of experience would increase students ‘entrepreneurship self-efficacy [8]. Nguyen (2014) quantitative research also confirmed the effect of work integrated learning method to perceived entrepreneurship feasibility, we propose the hypothesis: H2: Work integrated learning method is positively related to perceived entrepreneurship behavior control Entrepreneurship extra-curricular activities and perception of behavioral control Entrepreneurship extra-curricular activities: the frequency of students' participations in entrepreneurship related activities, which may be organized in or outside universities and fall outside the realm of the official higher education curriculum (. Many studies Luthje and Franke (2004), Florin et. al., (2007) [6], [Error! Reference source not found.], El-Khasawned (2008) [4] have set out to examine how participation

154


in such activities is beneficial for students. They found that extra-curricular activities participation was for many a means of being included in social groups, is linked to improved academic outcomes, knowledge gain, and social relationships. Group membership through participation in activities is seen as providing access to the business relationships and entrepreneurship networks that influence and support positive outcomes for students, as well as improving the opportunities to access information, knowledge and skills which support perceived capability. H3: Participation in entrepreneurship extra-curricular activities is positively related to perceived entrepreneurship behavior control Entrepreneurship course and perception of behavioral control Entrepreneurship education: Students do attend or not attend the entrepreneurship courses in university higher education program (Lüthje, C., and Franke, N. (2004). Several previous studies find a positive impact of entrepreneurship education courses or programs at universities on perceived attractiveness and feasibility of new venture initiation or even on actual startup activity (Peterman and Kennedy, 2003; Fayolle et al., 2006 (cited in Lüthje and Franke, 2004); Souitaris et al., 2007; Nguyen & Nguyen, 2014). Peterman & Kennedy (2003) research showed that students with a major in entrepreneurship have a higher intention to become entrepreneurs and are more likely to found companies. This observation was confirmed by Florin et. al. (2007), who pointed out those students who graduated in entrepreneurship reached higher scores in entrepreneurial intention and entrepreneurial self-efficacy than students who graduated in other disciplines. Also, they observed that the intentions of students to become selfemployed could be increased through entrepreneurship classes. These results were confirmed by Fayolle et al., who showed that perception and intentions towards becoming an entrepreneur are influenced through entrepreneurship classes (cited in El-Khasawneh, 2008). Other studies find evidence that the effects are negative (Luthje & Franke 2004). Following Nguyen and Nguyen (2014) research, we propose: H4: Taking entrepreneurship course is positively related to perceived entrepreneurship behavior control 2.2.2. Relationship between perception of behavioral control, educational factors and entrepreneurship intention The Ajzen TBP model assumes that attitudes, social norm and perceived control are the most proximal predictor of behavior intentions (Ajzen, 1991). H5: Perceived entrepreneurship behavior control is positively related to entrepreneurship intention In the TBP theoretical model (figure 1), intentions are determined by perceived entrepreneurial behavior control, and perceived entrepreneurial behavior control in turn are affected by ‘exogenous influences’ such as traits and situational variables (Ajzen,

155


1991; Krueger et al., 2000). Entrepreneurship education as such an ‘exogenous influence’. Souitaris et.al. (2007) suggest higher education differentially prepares people humanistic and technical. Then individual who grasp different knowledge which may act as a mediate role for entrepreneurship intention. Since education enhances the ability to acquire and use codified information about specific aspects of working and non-working life. Hence, appropriately explored data on educational attainment should reveal the cognitive abilities possessed by individuals. A high level of perceived behavioral control then should strengthen a person’s intention to perform the behavior, and increase his/her effort and perseverance (Ajzen, 1991). Accordingly, the next four hypotheses are to be tested in present circumstance are: H5a: Perception of behavioral control mediates the relationship entrepreneurship inspiration and entrepreneurship intention H5b: Perception of behavioral control mediates the relationship between work integrated learning method and entrepreneurship intention H5c: Perception of behavioral control mediates the relationship entrepreneurship extra-curricular activities and entrepreneurship intention

between

H5d: Perception of behavioral control mediates the relationship between taking entrepreneurship course and entrepreneurship intention Control variables include gender (men or women), parents' occupations (self- employed or others), role model (entrepreneurs whose behavior, example, success is or can be emulated by others) and previous entrepreneurial exposure (ever start a business or not) 3. Research methodology This study is mainly a quantitative research targeting to test the thesis hypotheses and model. However, before conducting quantitative research, the author implements an qualitative study to revise, double check the relationship between variables in the theoretical model and to make necessary adjustments to the research measures, which were borrowed from previous research to ensure that the questionnaire comply with Vietnamese context. 5 in - depth interviews were conducted with final year students in National Economics University during August 2014. After that a quantitative study were conducted from October to December 2014 by using questionnaire table. The questionnaire is included 25 items and in Vietnamese. The research questionnaire was designed by borrowing measures from previous research with adaptation for Vietnamese context. Data collection was conducted in 2 ways: First, send soft electronic copies survey questionnaire online via Google docs. Second, hard paper copies of survey questionnaire were sent directly to students. After collecting the questionnaires, I check the data to ensure that the sample consist of the research designed subjects, eliminate questionnaires with missing important information or bias answers. Thus, 163 final year students were included in the final dataset. 156


Author analyzed data via SPSS software version 20 to examine the validity and reliability of measures, test the research model and hypotheses. 4. Research findings 4.1. Sample statistic descriptions Total responses consisted of 163 questionnaires have been used for analyses. Gender: Out of 163 respondents, 91 (55,8%) are men, 72(44,2%) are women. Role model: 77,9% respondents knew entrepreneurs and 22,1% do not know a successful entrepreneur. Self-employed experiences: 15,3% of sample respondents have been create a business or joint raising capital to create a business, 84,7% of respondents have never involved in entrepreneurship activities. Family business experiences: 57, 1% of the respondents ‘parents are not business owners or involved in business activities and 42,9% of respondents ‘parents are doing business related jobs. 4.2. Measures assessment EFA analysis at the same time for 5 variables with 25 items with varimax rotation loaded in 5 factors, Almost all items are loading in original factors with factor loading in all cases above 0.5 (except BC4 and BC5 loaded in wrong factor). After consider the variable content and Cronbach’s Alpha analysis, 2 items BC4 and BC5 of the "behavior control" measure have been eliminated step by step. After the reduction of these two variables, the exploratory factor analysis was conducted again and the variables were then loading on the factors appropriate to the variables. The analysis provided evidence to support the validity of the measurement instrument. Table 1: Variables' measurements Variables Entrepreneurship extracurricular activities Work integrated learning Entrepreneurship Inspiration Perceived entrepreneurship behavioral control Entrepreneurship intention

No of items

Research

Cronbach’s alpha

6 items 5 items 4 items

Nguyen (2014) Balan and Metcalfe (2012) Souitaris et al. (2007)

0.807 .777 0.676

3 items 5 items

Linan and Chen (2009) Linan and Chen (2009)

0.700 0.818

(Source: author' research)

157


Cronbach’s Alpha analysis for this research independent and dependent variables shows that all variables' Cronbach’s Alpha are at minimum 0.676, all the research variables have “Cronbach’s Alpha if item deleted” are lower than its Cronbach’s Alpha; and all the value of “Corrected item total correlation" are bigger than 0.3. Therefore, we can assume all variables are internally consistent scales and are reliability. 4.3. Result of hypothesis testing Before using regression to test the research hypothesis, the indexes for all variables have been tested for normal distribution; the correlation matrix has been used to examine the bivariate correlation between factors and the regression assumptions are checked. To test our hypothesis, we followed steps suggested by Baron and Kenny (1986) for testing the mediation relationship (cited in Nguyen, 2011). - Step 1: Regress the mediator on the independent variable. - Step 2: Regress the dependent variable on the independent variable. In other words, confirm that the independent variable is a significant predictor of the dependent variable. - Step 3: Regress the dependent variable on both the mediator and independent variable. Testing Hypotheses 1 to 4 We tested the relationship between educational factors with perceived entrepreneurship behavioral control by using hierarchical regression analysis. In the first regression model, the dependent variable is perceived entrepreneurship behavioral control (table 2). Model 1 - control model with 4 control variables, the model is significant (Adjusted R2 = 0.047, F = 3.010, p < .05). Prior entrepreneurship activities have significant and positive relation with perceived entrepreneurship behavioral control (β = .402, p < . 01) but it is not the case of gender, role model and parents' business occupations. The model 2 with four control variables and four educational independent variables, the model is significant (Adjusted R2 = 0.204, F = 6.179, p < .001). Three control variables (gender, role model and prior entrepreneurship activities) have not got significant relationship with perceived entrepreneurship behavioral control except parents' occupations. Only 3/4 independent variables have significant and positive relations with perceived entrepreneurship behavioral control. Taking part in entrepreneurship course has not got significant relation with perceived entrepreneurship behavioral control (P > .1). Three other factors' impact in descendent level are: (1) Work integrated learning: standardized β = .402, p < 0.001, (2) level of attending entrepreneurship extracurricular activities: Standardized β = .184, p < .05 (3) entrepreneurship inspiration: Standardized β = .156, p < .05.

158


Table 2: Regression model with perceived entrepreneurship behavioral control as dependent variable

Model 1 (Constant) Gender Parents' occupations Prior entrepreneurship activities Role model 2 (Constant) Gender Parents' occupations Prior entrepreneurship activities Role model Entrepreneurship Inspiration Level of attending entrepreneurship extracurricular activities Attending entrepreneurship course Work integrated learning a. Dependent Variable: BC

Coefficientsa Unstandardized Standardized Collinearity Coefficients Coefficients Statistics Std. B Error Beta t Sig. Tolerance VIF 2.769 .145 19.059 .000 .022 .109 .016 .205 .838 .974 1.027 .190 .109 .135 1.746 .083 .982 1.019 .402

.150

.208

2.689 .008

.979 1.021

.211 1.142 .030 .226 .243 .208 .089

.130 .298 .101 .100 .144 .118 .041

.126

.106 .000 .771 .025 .093 .080 .032

.977 1.023

.021 .161 .126 .124 .156

1.625 3.832 .291 2.265 1.688 1.764 2.166

.152

.064

.184

2.377 .019

.802 1.247

.131 .329

.098 .080

.093 .297

1.334 .184 4.084 .000

.979 1.021 .906 1.103

.914 .953 .862 .971 .930

1.094 1.049 1.160 1.030 1.076

(Source: author' research) The tolerance and VIF statistics were calculated and indicated high tolerance values of >0.802 and low VIF < 1.3 and therefore (multi-) collinearity was not evident. Hypothesis H1, H2, H3, are supported and H4 is not supported by the research data. Testing Hypotheses 5 to 8 The results of testing mediating impact of perceived entrepreneurship behavioral control were showed in models 4 and 6 (table 3) Model 4 is obtained by regressing perceived entrepreneurship intention on 4 educational factors. Model 6 regress perceived entrepreneurship intention on the same set of variables together with the perceived entrepreneurship behavioral control variable. Both of the linear regression models are significant. Model 4 has the R2 change is significant and the independent variables are able to explain 29.2% of the changing in dependent variable perceived entrepreneurship intention (adjusted R2 = .292; F of model = 9.371, p <. 001; all the independent variables have significant and positive correlation with dependent variable. Model 6 has the R2 change is significant and the independent variables are able to explain 36.4% of the changing in dependent variable perceived entrepreneurship intention (adjusted R2 = .364; F of model = 11.296, p <. 001) and all the independent variables have significant and positive correlation with dependent variable. 159


Model 6 show that, when the perceived entrepreneurship behavioral control variable is added to the list of independent variables the unstandardized β of work integrated learning variable decreased from .295 to .179; the unstandardized β of level of attending entrepreneurship extracurricular activities variable decreased from .229 to .175; the unstandardized β of entrepreneurship inspiration variable decreased from .175 to .144. Perceived entrepreneurship behavioral control has significant and positive correlation with entrepreneurship intention variable (β = .351, sig. <.001) The tolerance and VIF statistics of entrepreneurship intention models were calculated and indicated high tolerance values of >1.019 and <1.354, therefore (multi-) collinearity was not evident. Hypothesis H5, H6a, H6b, and H6c are supported by the research data. The unstandardized β of attending entrepreneurship course variable decreased from .273 to .227 but in model 2, taking part in entrepreneurship course variable has not got significant relation with perceived entrepreneurship behavioral control (P>.1). Therefore, perceived entrepreneurship behavioral control failed to mediate the relationship between taking part in entrepreneurship course and entrepreneurship intention. Hypothesis H6d is not supported by the research data.

160


Table 4: Regression model with perceived entrepreneurship intention as dependent variable

Model 3,5 (Constant) Gender Parents' occupations Prior entrepreneurship activities Role model 4,6 (Constant) Gender Parents' occupations Prior entrepreneurship activities Role model TCH EA Etre course WE BC

Coefficientsa Unstandardized Standardized Collinearity Unstandardized Standardized Collinearity Coefficients Coefficients Statistics Coefficients Coefficients Statistics t Sig. t Sig. Std. Std. B Beta Tolerance VIF B Beta Tolerance VIF Error Error 3.138 .164 19.083 .000 3.138 .164 19.083 .000 .113 .123 .071 .914 .362 .974 1.027 .113 .123 .071 .914 .362 .974 1.027 -.174

.123

-.110

-1.410 .160

.982

1.019

-.174

.123

-.110

-1.410

.160

.982

1.019

.276

.169

.127

1.628 .105

.979

1.021

.276

.169

.127

1.628

.105

.979

1.021

.330 1.188 .109

.147 .320 .109

.175

.977

1.023

.063

2.243 2.474 .953

.026 .014 .342

1.023

1.094

.147 .318 .103

.977

.914

.330 .787 .099

.175

.069

2.243 .026 3.707 .000 1.000 .319

.914

1.095

-.126

.107

-.080

-1.179 .240

.953

1.049

-.206

.103

-.130

-1.991

.048

.923

1.084

.041

.155

.019

.267 .790

.862

1.160

-.044

.148

-.020

-.298

.766

.847

1.181

.322 .175 .229 .273 .295

.127 .044 .069 .106 .087

.171 .273 .245 .172 .236

2.544 3.982 3.321 2.582 3.404

.971 .930 .802 .979 .906

1.030 1.076 1.247 1.021 1.103

.249 .144 .175 .227 .179 .351

.121 .042 .067 .101 .086 .082

.132 .224 .188 .143 .144 .312

2.054 3.402 2.636 2.250 2.073 4.276

.042 .001 .009 .026 .040 .000

.952 .902 .774 .968 .818 .738

1.051 1.109 1.292 1.033 1.223 1.354

.012 .000 .001 .011 .001

(Source: author' research) 161


5. Implications for developing social entrepreneurship intention in university students The results of this study suggest that it is possible to promote entrepreneurial intentions in general and social entrepreneurship intention in particular through effectively designed entrepreneurship training and teaching. In order to develop social entrepreneurship intention in university students, the social side of entrepreneurship should be emphazised. In the following sections, the most salient implications from the study for developing social entrepreneurship in universities are presented. 5.1. For Universities Universities should recognize their important role in developing students’ social entrepreneurship intention. As educators, we have multiple possibilities to influence social entrepreneurial intention, especially by means of increasing perceived behavioral control. The study revealed that perceived behavioral control can be impacted by various course characteristics such as practical experience, extra-curricular activities, or inspiration processes. In order to increase social entrepreneurship intention and then behavior, first, educator should provide social entrepreneurship course which have the above characteristics. Since entrepreneurial intention is mainly influenced by attitudes and perceptions, teaching methods which comprise emotions and experiential learning should come to the fore. Lecture base-teaching can be used when cognitive knowledge needs to be conveyed, but is not sufficient to change intentions. Social entrepreneurship inspiration activities should be promoted in universities. The implication for program developers is that whereas knowledge and resources might increase the likelihood of success for those who are going to start a new venture, the inspiration can also raises perceived entrepreneurship behavior control (self-efficacy) and intention of students and then may increases the chances that students will actually attempt an entrepreneurial career at some point in their lives. Therefore, if the target is to increase the number of social entrepreneurs in the student population, then the inspirational part of the programs has to be designed purposefully and instructors should be trained not only to teach the entrepreneurship curriculum, skills, knowledge, but also to change ‘hearts and minds’. Since the results showed that inspiration was driven by the views of professors, external guest speakers, universities should focus on their instructors. Instructors (academics and practitioners) should receive training not only on how to teach entrepreneurship, but also on how to change ‘hearts and minds’. Instructors should know how to inspire and encourage emotions of the observer (the student). Universities should encourage instructors to communicate their enthusiasm for social entrepreneurship through non-verbal expressiveness or by telling story of successful social entrepreneurs, expressing the respect of social entrepreneurship role model in society. We propose that universities should invite social entrepreneur guest speakers, charity or non profit managers for inspiring students with their social spirit. Successful social business role models should be introduced widespread in universities entrepreneurship related activities. 162


Work integrated learning or experiential learning should be promoted in higher education. If we want to change students’ entrepreneurial intention, work integrated learning teaching methods should be a core element of entrepreneurship education. Teaching methods which allow students to explore the subject matter and gain their own experience seem to be imperative if we want to substantially increase students’ self-efficacy beliefs. Educators should provide a learning environment in which students can apply knowledge in reality. Universities should establish programs linking classroom experience with market experience, student networks with social entrepreneur networks, current students with alumni in business, and student entrepreneurs with experienced entrepreneurs who serve as mentors. There is a need to have a concerted effort by the university authorities to enhance the entrepreneurial intention of students via different mediums such as seminars, social entrepreneurship workshop, training courses or similar hands on experience. University should provide more extracurricular options like social business plan competitions, idea development competitions, and entrepreneurship student clubs for students. There is also a need to set up a business incubator in university. Students should be encouraged to participate in charity, social and not for profit activities such as visiting poor people, providing free food for poor and elderly people.... to sympathize, share the social view and discover social entrepreneurship opportunities. 5.2. For policy makers Encouraging social entrepreneurship intention in universities students should be done in society as a whole since students' perception and activities are impacted by the environment. From the research results, several implications for policy makers have been drawn: First, we should put more promotion activities to introduce successful social business role models in order to convey entrepreneurship desire and motivation to students to imitate successful social entrepreneurs. Second, more national entrepreneurship programs should be set up and the government should put more support to universities in order to help them organize extra-curricular entrepreneurship activities for students: for example, organize national competitions of business planning writing, social entrepreneurship ideas developing. The government should help universities to set up business incubators. This is the place where students can apply their theories, academics knowledge in real business issues. References 1. 2.

Ajzen, I. (1991), “The theory of planned behavior”, Organizational Behavior and Human Decision Processes 50 (2), 179–211. Balan, P., Metcalfe, M. (2012), “Identifying teaching methods that engage entrepreneurship students”, Education & Training, Vol. 54 (5), pp. 368-384.

163


3.

4.

5. 6.

7. 8.

9.

10. 11. 12.

13.

14.

15.

16. 17.

164

Béchard, J. P., và Grégoire, D. (2005), “Entrepreneurship Education Research Revisited: The Case of Higher Education”, Academy of Management Learning & Education, 4(1), pp 22- 38. El-Khasawneh, B. (2008), “Entrepreneurship Promotion at Educational Institutions: A Model Suitable for Emerging Economies”, WSEAS transactions on business and economics, 5 (2), pp 27-35 Fiet, J. O. (2000). "The theoretical side of teaching entrepreneurship." Journal of Business Venturing, 16 (1), pp 1-24. Florin, J., Karri, R., and Rossiter, N. (2007), “Forstering entrepreneurial drive in business education: an attitudinal approach”, Journal of management education, 31(1), pp:17-42. Krueger, N.F., Reilly, M.D., Carsrud, A.L. (2000), “Competing models of entrepreneurial intentions”, Journal of Business Venturing 15 (5/6), 411–432. Liñán, F., Chen, Y.W. (2009), Development and Cross-Cultural Application of a Specific Instrument to Measure Entrepreneurial intentions, Entrepreneurship Theory and Practice, 33 (3), pp. 593-617. Lüthje, C., and Franke, N. (2004), “Entrepreneurial Intentions of Business Students: A Benchmarking Study”, International Journal of Innovation and technology Management, 1 (3), pp. 269-288. Nguyễn Đình Thọ (2011), “Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh- thiết kế và thực hiện”, Nhà xuất bản Lao động Xã hội, 2011. Nguyễn Thu Thủy và Nguyễn Ngọc Huyền, “Các nhân tố tác động tới tiềm năng khởi sự kinh doanh của sinh viên đại học”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số tháng 7/ 2014. Mair,J. and Martí, I., (2006), “Social entrepreneurship research: A source of explanation, prediction, and delight”, Journal of World Business, Volume 41, Issue 1, Pages 36–44. Peterman, N.E. & Kennedy, J. (2003), “Enterprise Education: Influencing Students’ Perceptions of Entrepreneurship”, Entrepreneurship Theory and Practice, 28 (9) 2, pp 129–144. Souitaris, V., Zerbinati, S. & Al-Laham, A., (2007), “Do entrepreneurship programmes raise entrepreneurial intention of science and engineering students? The effect of learning, inspiration and resources”, Journal of Business Venturing, 22 (4), pp 566-591. Verzat, C., and Bachelet, R., (2006) “Developing and Entrepreneurial Spirit among engineering college students: what are the educational factors?“, Entrepreneurship education, Fayolle, A., and Klandt, H., Elgar, E., (eds) chapter 11. Vesa P. T. (2010), “Learning entrepreneurship in higher education”, Education and Training, 52 (1), pp 48-61. Wu, S., Wu, L., (2008), “The impact of higher education on entrepreneurial intention of university students in China”, Journal of small business and enterprise development, 15, pp 752- 774.


Measuring Social Impact in Emerging Economies: The Case of Fargreen In Vietnam Professor Yolanda Sarason Colorado State University Foreign Trade University Fulbright Scholar 2015-2016 Kristi Yuthas Portland State University

“The Ecosystem for Social Entrepreneurship and Social Innovation� International Conference on Social Entrepreneurship March 2016 @Sarason 2016

Outline

1.

Definitional Differences of Social Enterprise (US and Vietnam)

2.

Managing Social Enterprises for Excellence

3.

Value Chain Analysis: The Case of Fargreen

4.

Social Return on Investment and Financial Performance

@Sarason 2016

165


Understanding of Social Enterprises

Nonprofit

For Profit Commercial Enterprise

Social Enterprise Enterprise Income Generating CSR NGO

NGO

Vietnam (Europe)

United States CIEM CSIP 2012

@Sarason 2016

Social Enterprise

Non-profit

Social Enterprise

For Profit

@Sarason 2016

166


What is a Social Enterprise (Includes Financial and Social Goals) 1.

Intent Address a social need Be financially profitable in the long term

2.

Action – Alignment with social mission Mission Processes Shared Values Business Model

3.

Consequences Social issue addressed Financially sustainable @Sarason 2016

How is Managing Social Enterprises for Profit Different than Managing only for Social Mission or for only Profit 1. Disciplined People, Disciplined Thought, Disciplined Action 2. Scaling the Venture 3. Value Chain Analysis 4. Measurement of Impact not Output 5. Financial Return on Investment

@Sarason 2016

167


Managing Social Ventures for Excellence (Action) Passion: What does your organization stand for and why does it exist?

BHAG Best at: What can do to the people it touches better than any other organization?

Resource Engine: What Drives your resource engine broken into three parts: time, money brand

Good to Great and The Social Sectors (Collins, 2005)

@Sarason 2016

Scaling Social Ventures • Imperative of the Social Mission • Manage the Tension of Social and Financial • Bake Mission into the Brand • Grow Organically • Match Value Chain to Social Mission • Finance Your Independence

Bamburg (2006) Getting to Scale Growing Your Business Without Selling Out

168

@Sarason 2016


Fargreen http://www.fargreenvn.com/ @Sarason 2016

Value Chain Analysis (The case of Fargreen)

Greenhouse Rice Hay Substrate

Fargreen packages mushrooms

Farmers grow mushrooms

Less Pollution

Farmers learn new skill

Biofertilizer created

Farmers earn money

Retail and Restaurants

Fargreen Profit

Mushroom Consumed

Healthier Food Consumed

Improved Social and Economic Welfare in Vietnam

169


Fargreen’s Impact Measurement •

Less Pollution. Tons of straw not burned

• Farmers learn new farming technique. Percent farmers not needing further assistance • Biofertilizer Created. Pounds created • Farmers earn extra income. The amount earned • Farmers stay on land. Reduction in migration • Fargreen’s profit. Normal financial calculation • Healthier food consumption. Amount mushrooms sold • Improved Social and Economic Welfare. Sum of the previous with financial estimates for each. @Sarason 2016

Research on Firms with Competitive Advantage (That are Great or Excellent) • More than profits • Strong shared values • Alignment of strategy/structure/processes • Capabilities that are socially complex

Managed for excellence, social enterprises will outperform commercial enterprises

@Sarason 2016

170


Financial Return on Investment Sacrifice Financial Return for Social Return on Investment

SROI Social Return on Investment

ROI @Sarason 2016

Immodest Proposal: Managed for excellence, social enterprises can return more social return than non-profits and more financial return than commercial enterprises.

Social Enterprise SROI

Non-Profit

Commercial Enterprise

ROI @Sarason 2016

171


Thank you Cảm ơn

@Sarason 2016

172


MEKONG QUILTS, SOCIAL ENTERPRISE IN VIETNAM & CAMBODIA Trần Diễm Phượng (Director) Bernard Kervyn (advisor) Mekong Plus

Key words: community development, employment, hand-made, social enterprise; women; Mekong Plus Mekong Plus is a Belgian/French NGO, which focuses on community development in remote districts of Bình Thuận, Hậu Giang and Svay Riêng (Cambodia) provinces. Employment and income are key factors for reducing poverty. In the 90’s, Mekong Plus tried various projects like subcontracting for enterprises exporting handicrafts. However in a number of cases the women were not even paid: maybe the ultimate customer abroad refused the products for some reason. It was uncertain if the products were at fault or not, as the workload was split in several regions, and quality control was difficult. These handicrafts were for cheap labor and volume. Mekong Quilts was established in 2001 by a ‘Viet Kieu’ (overseas Vietnamese) based in Saigon who was passionate about quilting. From the start, 2 goals were set: to provide sustainable employment to poor, rural women and to generate profits to support social programs in their villages. The product strategy was set as high quality, hand made quilts. The designs are thus mostly targeting tourists and expatriates. In 2010, at the request of the founder, Mekong Plus (NGO) was engaged to take over management of the social enterprise. The NGO was faced with a steep learning curve. However, through trial and error, Mekong Plus managed to build upon and expand the existing social enterprise. 2010 also saw the launch of new product ranges, with the same goal: 

Bamboo

Papier mâché

Cross stich (discontinued)

Rag-rugs (discontinued)

Durries (discontinued)

Water hyacinth

Rattan (orders only)…

Today, some product groups are equally successful such as papier-mâché, bamboo bikes and water hyacinth. Priority is always set on natural materials easily available near the production sites. Bamboo products for example are made near the forests where the tamvong, trúc & lo-o bamboo are widely available.

173


New retail outlets were also introduced in Vietnam and Cambodia so as to boost sales and create even more jobs: from 1 store in 2003 to 7 in 2012 (Hồ Chí Minh city, Hà-Nội, Hội An, Siem Reap and Phnom Penh). The quality and design along with the objectives of Mekong Quilts has always been key, garnering several awards and recognition. This includes the Japan Good Design Award from the Japanese Chamber of Commerce in 2013 for the water hyacinth Craft Viva bag. It has also led to international quilt and design experts to share their knowledge and provide training in Vietnam and Cambodia on a voluntary basis. However, in 2013-2015 a severe economic crisis hit Vietnam and Cambodia. Sales dropped by 30%, forcing Mekong Quilts to downsize production and reduce costs. Store expansion continued until 2012, but after 2013 some shops became less profitable.

174


The decision was made to close these stores: in Phnom Penh, Hồ Chí Minh city and HàNội. In fact anywhere we had 2 shops we decided to close the smallest and less profitable. Employment remains a top priority. Mekong Quilts is a social enterprise owned by the 2 Vietnamese partners of Mekong Plus: Anh Duong & Thiện Chí, who operates projects in 5 districts. The main activity is to support 4500 (ongoing) very poor households with community development initiatives. Currently around 213 women are engaged in sustainable employment with Mekong Quilts, down from 400, 3 years ago.

Everyone is very much aware that the general economic context for the poor is harder than ever. The dream of hundreds of villagers is to be selected to join the craftswomen of Mekong Quilts. Instead Mekong Quilts has been forced to reduce the workforce, the consequences of which include the risk of children dropping out of school and of people suspending their medical treatment due to loss of income. In regards to the current craftswomen at the social enterprise, all they want are more orders: when they have work, their income is approximately doubled; it is also independent from all the misfortunes affecting farmers. The craftswomen of Mekong Quilts also have access to training in health, legal issues to combat domestic violence, support for their children’s education along with agricultural best practice training. Many issues remain: 1. Less sales: Where to? Firstly, it is a question of whether it is just our stores dealing with a decline in sales, or is it the market as a whole? The answer is clearly the latter: government statistics are sometimes misleading when they show a stable number of tourists. In fact, the tourist demographic and spending habits have changed within the region, high end tourists (Anglo-Saxons, Europeans) have declined and spend less; regional tourism (Chinese and Koreans) has increased, but their interest in handmade products is low, thus generally 175


spend less. Siem Reap is an extreme case with sales dropping by 30% in all similar high end handmade handicrafts shops. The response of Mekong Quilts has been to re-assess the pricing structure on many products and concentrate on innovation as a point of differentiation within an increasingly saturated market place. Quality must be maintained high or else Mekong Quilts would fall into the same market segment as many souvenir shops. Mekong Quilts makes every effort to reduce costs so that its gross margin would not be affected too harshly because of lower average retail prices. A growing trend is that customers are seeking cheaper products and they often opt for smaller items as well. (units)

sold 2013 sold 2014 sold 2015

Small accessories Quilts Papier mâché

(units)

19.370

24.903

31.652

2.669

2.619

2.939*

12.501

11.230

22.009

sold 2013 sold 2014 sold 2015

Big quilts

1.085

800

1.236*

Small quilts

1.584

1.819

1.702

*with discounts Adjusting production for sales has serious implications: the quilters are specialized in certain types of products. Some groups are excellent for the big quilts (double bed), others for baby quilts, and yet other groups are unbeatable for cushions and small items. Changing the product mix incurs additional costs such as training, quality control, time wasted on transport back and forth between the Hồ Chí Minh city office and the production regions… precisely when the social enterprise is in dire straits. Quality and productivity can differ between quilters’ groups, and because the women are paid on a piece rate basis, this affects their income enormously. So much so that they tend to refuse to produce items they are not familiar with. Management of production and the distribution of orders among the 20 production groups in 3 regions (Hậu Giang, Bình Thuận, Svay Riêng –in Cambodia) is also an everyday challenge.

176


2. Social enterprise and some contradictions There is a potential contradiction between quality products & employment for the poorest. The women are paid on a piece rate basis. Perfect quality is not only difficult and expensive to achieve for the social enterprise (training, quality checks, delays, etc), but also bears a high cost for the craftswomen. The gap between the village conditions and the quality demanded by foreign customers is indeed huge. It would be nice to give less trouble to the craftswomen and accept average quality, if one could still sell their products at a profitable price. The competition is such that this will not happen. Mekong Quilts wants to provide employment to women in remote villages, in different regions, where it is most needed. This is an expensive option. If only Mekong Quilts could centralize its production in one place, near the Hồ Chí Minh City office, close to the design and marketing team, substantial savings could be done with fewer overheads. Production would be a lot more flexible and quicker to respond to orders. Today, a new design takes over 4 months to reach the shops, a custom order - a minimum of 6 weeks. As Mekong Quilts insists on good working conditions and fair pay for the producers, its costs are higher than its competitors in-country. Retail prices are moderate to boost volume, and generate more employment, thus we end up with a relatively low gross margin (55%), which leaves little room for wholesales. Mekong Quilts cannot open many more shops, especially in foreign markets; therefore wholesaling would be a good option, along with online sales. Wholesale buyers expect high discounts but there is little room for this. Another difficult issue is the legal context. Social enterprise laws in Vietnam to date exist in theory and is still in its infancy, making it neither clear nor encouraging to operate. On top of which exists different rules and regulations between cities and regions and sometimes corruption. Copyright in Vietnam is well known as “the right to copy!”, Mekong Quilts products have not been spared; quickly and easily copied into a diluted version at a lower price. In spite of the challenges, we have a high sense of our mission as the craftswomen always remind us how important these jobs are. The 2 Vietnamese NGOs, which own Mekong Quilts, are hopeful for the future. In the past, Mekong Quilts has generated some profits, all going to support the social programs. More than ever, as external funding for social programs is more difficult to raise, the profits from Mekong Quilts would be most welcome. 2016 will be a key year for Mekong Quilts.

177


178


PART 4. RELATED ISSUES PHẦN 4. CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN

179


180


THE IMPACT OF CORPORATE SOCIAL RESPONSIBILITY ON CONSUMER AWARENESS: THE CASE OF GIAO LONG Nguyen Ngoc Thanga* Ngo Vi Dunga Nguyen Ngoc Phua a Hanoi School of Business, Vietnam National University, Hanoi * Correspondence author: Assoc. Prof. Nguyen Ngoc Thang. E-mail: thangnn@hsb.edu.vn

Abstract: This paper aims to examine the influence of Corporate Social Responsibility (CSR) on the behavior of Vietnamese consumers, especially the consumer’s awareness level and whether they consider a corporation's CSR initiatives before making any purchase decisions of the products and services. The theoretical model used was based on Carroll’s pyramid CSR model with 20 items divided into 4 components of CSR such as economic responsibility, legal responsibility, ethical responsibility, and philanthropic responsibility, and 1 component of consumer awareness with 2 items. By studying Giao Long Investment Corporation, we found that some CSR components have positive impacts on consumer awareness. The results of the study provide more evidence for the theories about CSR and contribute to the growing knowledge in CSR by using a specific Vietnamese case. In this study, we also draw some limitations and recommendations for future research. Keywords: CSR, consumer awareness, Giao Long Investment Corporation, Vietnam. 1. Introduction In recent years, the issue of corporate social responsibility (CSR) has become one of the important and indispensable contents in strategic management activities of all enterprises in Vietnamese economy. However, previous studies mainly focused on limited aspects of corporate social responsibility, such as community involvement or corporate giving or have considered corporate social responsibility in general without inquiring into consumers’ understanding of this notion. As Sen and Bhattacharya (2001) pointed out, there is little known about the effects of CSR activities on consumers despite increasing emphasis on CSR in the marketplace. In addition, the concept of corporate social responsibility and most empirical works on this topic originated from Anglo-Saxon countries—mainly the U.S. and the U.K. Given the international scope of corporate activities today, it is important for businesses and society to know whether corporate social responsibilities are perceived in the developing country contexts. Thus, this study aims to examine the relationship between CSR activities and consumers’ awareness in one specific company - Giao Long Investment Corporation in Vietnam. 181


2. Literature review 2.1. Corporate social responsibility According to Business dictionary defines CSR as "a company’s sense of responsibility towards the community and environment (both ecological and social) in which it operates. Companies express this citizenship (1) through their waste and pollution reduction processes, (2) by contributing educational and social programs and (3) by earning adequate returns on the employed resources.” The final purpose of any company has been change from traditional paradigm is focuses not only economic performance but also broader to the triple goal - the triple bottom line which includes social and environmental issues. The drive behind the idea of CSR within a business is to decrease the damage created by their operations, increase the well-being of the local community, preserving the environment while at the same time generating a profitable and efficient business (Henderson, 2007). In summary, CSR is about how companies manage the business processes to produce an overall positive impact on society. There are many models and theories to view CSR. Carroll’s pyramid is one of the most popular models using to assess firm’s CSR and including four levels of social responsibility - economic, legal, ethical, and philanthropic. Economic responsibilities relate to business’s provision of goods and services of value to society. Profits result from this activity and are necessary for any other responsibilities to be carried out. It is assumed that corporations will be as profitable as possible, maintain a strong competitive position, and maintain a high level of operating efficiency. These are responsibilities that the corporation “must do” and the key stakeholders are shareholders, creditors, and consumers. Legal responsibilities refer society expects business to conform to laws and regulations formulated by governments that act as the ground rules under which business must operate. Corporations are expected to pursue profits within the framework of the law, which establishes what are considered fair operations. Society expects that all goods and services and relationships with stakeholders will meet at least minimal legal requirements. Ethical responsibilities include those activities that are not expected or prohibited by society as economic or legal responsibilities. Standards, norms, or expectations that reflect concern for select stakeholder input is fair, just, or in keeping with their moral rights. Ethics may be reflected in laws or regulations, but ethical responsibilities are seen as embracing the emerging values that society expects of business even if not currently required by law. Philanthropic responsibilities involve being a good corporate citizen and include active participation in acts or programs to promote human welfare or goodwill. Examples are 182


contributions to the arts, charities, and education. Such responsibilities are not expected in an ethical or moral sense, making philanthropy more discretionary or voluntary on the part of business even though society may have such expectations of business. Few in society expect corporations to have these. 2.2. Relationship between CSR and customer awareness As mentioned, consumers are one of the stakeholders that are influenced by company’s CSR activities. Past researches have shown that CSR can influence consumer’s attitude, purchase intention, loyalty and satisfaction. Companies’ active involvement in CSR initiatives also influences consumers buying decision. Due to the positive link between the consumers and CSR; companies are investing huge capital to CSR initiatives. Consumer’s response to CSR initiatives is heterogeneous; impact of CSR initiatives on invisible outcome (attitude, awareness) is higher than visible outcome (buying behavior, word-of-mouth). As customers are more aware of negative information of CSR than positive information company needs to take care and only give positive information about the CSR. Many consumers are not aware of CSR initiatives that are practiced by the company. Therefore, company need to make consumers aware of these initiatives. Consumers all around the world do not have same conception of CSR and it varies (Thang, 2014). A study on consumers’ perception of CSR has found that to improve the company CSR reputation, company should spend less on advertising their green product and pay more attention to safety and job creation. To judge the company’s CSR reputation people first think about its employees then customers (Maignan, 2001). For consumers of developing countries CSR is not of much important and it might not affect their buying decision. Price and quality are very important for consumers of developing countries when making purchasing decisions. However, in developed countries CSR truly do matter for customer decision and consumers support companies that launched CSR (Thang, 2014). CSR have positive effect on attitude towards the company and will increase financial efficiency. 2.3. Research framework and hypotheses In this study, we used the Carroll’s pyramid for analyzing CSR and consumer awareness issues. This framework is shown in Figure 1.

183


Figure 1: A framework for analyzing CSR and consumer awareness issues From the above theoretical framework, we proposed four hypotheses for this research as following: H1: Economic responsibilities and customer awareness have a positive relationship. That means the higher/lower customer evaluate economic factor, the higher/lower level of customer awareness. H2: Legal responsibilities and customer awareness have a positive relationship. That means the higher/lower customer evaluate legal factor, the higher/lower level of customer awareness. H3: Ethical responsibilities and customer awareness have a positive relationship. That means the higher/lower customer evaluate ethical factor, the higher/lower level of customer awareness. H4: Philanthropic responsibilities and customer awareness have a positive relationship. That means the higher/lower customer evaluate philanthropic factor, the higher/lower level of customer awareness. 3. Methodology The study takes a case-based approach, using questionnaire and examining internal and external documents to codify and access knowledge. As Yin (1984) suggests, this approach is considered to be useful in gaining an in-depth, holistic understanding of the phenomenon studied. The case selection criteria required Vietnamese companies that were more likely to have been in the proactive stage of CSR, to have had its CSR practices available for access, and to have systematically linked CSR with practices to create competitive advantage. Based on the above criteria, Giao Long Investment Corporation (GLI) was chosen for this study. 3.1. Introduction to Giao Long Investment Corporation GLI was established on September 6th, 2011 with the initial charter capital of 100 billion

184


VND. Head office is located at No.22, Thanh Cong, Ba Dinh, Hanoi. After more than 3 years of operation and development, GLI is stronger and has strong competitive advantage in the marketing service field including online marking, publishing emagazine, advertising and operating some projects related to agriculture. By the time of March 31st 2014, GLI has opened one more branch located at Ho Chi Minh City. For the size of nearly 100 staffs, the leader’s GLI intends to become a high effective investment enterprise with strong brand name in the market that provides good valuable product to customer and community. GLI continues focusing more on investing into small and medium green agriculture projects. 3.2. Research design In this research, the author built measurement scale based on Carroll’s model which is popular used in the world in order to study in CSR field. Questionnaire was designed in Vietnamese, and divided into three main parts. Part I included questions about customers’ basic information to classify participants. Part II was designed to collect assessments from customers about the implementation CSR of GLI, and their awareness level. Part III asked participants about their expectation and attitude in using safety foods. More specifically, part II comprised 22 variables in total. Assessing implementation of CSR under Carroll’s model included 20 variables to measure 4 above components (CSR1 – economic responsibilities, CSR2 – legal responsibilities, CSR3 – ethical responsibilities, CSR1 – philanthropy responsibilities) while the research used 2 variables to measure customer awareness. This measurement based on a 5-point rating scale which corresponding to 1 = strongly disagree, 2 = somewhat disagree, 3 = neither agree nor disagree, 4 = somewhat agree, 5 = strongly agree. Customers gave points for 22 statements. 3.3. Sampling and collecting data According to Hair et al, (1998), the sample size should be at least 5 respondents per 1 observed variable. This paper has 22 variables in totals, therefore in order to collect at least 5 respondents per 1 observed variable, the study need to collect at the minimum sample size of 110 respondents. Data was taken from conducting surveys with Giao Long’s customers who come to make purchase in shops of Giao Long Corporation in Hanoi. In addition, surveys were conducted from online channels such as lamchame.com, webtretho.com, etc. which consist of potential customers of Giao Long. Survey process was carried out between March and April, 2015.

185


4. Results and analysis 4.1. Descriptive analysis A final total of 124 persons participated in the study. As the result from Figure 2, it can be seen that there was unbalance of gender among 124 participants who answered questionnaires. The number of males is one third the number of males. There are 96 females and 28 males give their responses back which correspond to 77.4% and 22.6%, respectively.

Gender

23%

Male Fem ale

77%

Figure 2: Gender distribution among 124 participants In survey sample, the participant group who belongs to between 22 and 30 years old dominated the rest of interviewees with 69.4% (figure 3). The second largest group is in age of 30 – 39 years old. It accounts for 20.2% of total with 24 participants. The last groups in age of under 22 years old which are 12 responses represented for 10.4% of total participants. It can be seen that, most of participants are young people with age under 30 years old.

Figure 3: Age distribution among 124 participants

186


As the chart shows, a great deal of participants is in college and university level. It account for a largest ratio of 83.5% with 104 people. Participants who have secondary level or higher education stand for a small volume of 4 and 16 people which are 3.6% and 12.9%, respectively. It can be seen that education level of survey participants is relatively homogenous.

Figure 4: Education level As the result, a big number of participants have high income level between 5 and 10 million VND which accounts for 38.7% in total. The second largest ratio is 30.6% with 38 people who have income in range of 3 up to 5 million VND. The income level stands for a small volume of 16 and 22 people. These numbers correspond to 12.9% and 17.7%, respectively. It can be seen that income level of survey participants is relatively high in average of Vietnamese people.

Figure 5: Income level As the chart shows, participants get the information about corporate responsibility mainly from traditional mass media which are magazine & newspaper accounting for 32% and television with smaller number is 28%. Other channels are friends, conference and radio with the rate of 20%, 16% and 5%, respectively.

187


Figure 6: Information sources of CSR 4.2. Regression analysis In table 1, adjusted R-square value accounts for 68.6%. This value indicates that 68.6% of the variance in customer awareness can be explained by four variables, namely CSR 1, CSR 2, CSR 3 and CSR 4. The INOVA table shows that the Sig. value associated with this F value is very small (0.000). This value confirms that group of three factors have a statistically significant relationship with customer awareness variable.

Independent variables (Constant) CSR 1 CSR 2 CSR 3 CSR 4 N R2

Unstandardized Coefficients Std. B Error .051 .231 .221 .070 .320 .090 .383 .067 .334 .073 124 0.686

Coefficients Standardized Coefficients

t

Sig.

Beta

.189 .299 .396 .303

Collinearity Statistics Tolerance

2.435 4.587 3.557 -.222

.000 .000 .001 .825

.322 .362 .535 .585

Table 1: Regression results With coefficients presented in Table 1 and Y is CUSTOMER AWARENESS, regression function is as following: Y = 0.051 + 0.221*CSR1 + 0.32*CSR2 + 0.383*CSR3 Positive coefficients indicate that CSR1, CSR2, and CSR3 have positive relationship with customer awareness while CSR3 has highest impact on customer awareness. Overall, these findings provide preliminary support for Hypothesis 1, 2 and 3. However, this regression results is not supported for Hypothesis 4. It means that philanthropy 188


responsibilities have no significant impact on customer awareness. The results suggested that GLI need to pay more attention on economic responsibilities, legal responsibilities, and ethical responsibilities if they want to improve customer awareness to GLI. 5. Conclusion This research examined the implementation of CSR at Giao Long Investment Corporation and describes the relationship between CSR’s components and overall consumer awareness level. The theoretical model used was based on Carroll’s pyramid CSR model with 20 items divided into 4 components of CSR such as economic responsibility, legal responsibility, ethical responsibility, and philanthropic responsibility; and 1 component of consumer awareness with 2 items. With 124 responses, data was used to make reliability analysis. Our finding shows that economic responsibilities, legal responsibilities, and ethical responsibilities have positive relationship with consumer awareness while philanthropy responsibilities have no significant impact on customer awareness. This study only looked at the directly relationship between CSR and customer awareness at a specific company. Thus, future studies using other case studies are needed in order to gain further insights into the CSR and customer awareness relationship.

References 1. Carroll A. B. (1999). Corporate social responsibility: Evolution of a definitional construct. Business & Society, 38(3), pp. 268–295. 2. Henderson, J. (2007). Corporate social responsibility and tourism: Hotel companies in Phuket, Thailand, after the Indian Ocean tsunami International Journal of Hospitality Management, 26(1), 228-239. 3. Maignan, I. (2001). Consumers’ perceptions of corporate social responsibilities: A cross-cultural comparison. Journal of Business Ethics, 30(1), 57–72. 4. Morhardt, J.E. (2010). Corporate social responsibility and sustainability reporting on the Internet. Business strategy and the environment, 19(7), 436-452. 5. Sen, S., & Bhattacharya, C. (2001). Does doing good always lead to doing better? Consumer reactions to corporate social responsibility? Journal of Marketing Research, 38(2), 225–243. 6. Thang, N. N. (2014) “CSR: theory and implications for Vietnamese firms”. Journal of Economics studies, 429, 21-27

189


190


CORPORATE SOCIAL RESPONSIBILITY FROM THE POINT OF ORGANIZATIONAL CULTURE VIEW - THE CASE OF SAIGON BEER, ALCOHOL AND BEVERAGE JOIN-STOCK CORPORATION LỒNG GHÉP TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI TRONG VĂN HÓA DOANH NGHIỆP – TRƯỜNG HỢP TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN BIA RƯỢU NƯỚC GIẢI KHÁT SÀI GÒN Ph.D. Associate Professor Nguyễn Thị Hoài Dung PhD. Hà Sơn Tùng National Economics University

Abstract Corporate Social Responsibility (CSR) is no more a new concept to business and is considered a global trend in today’s business world. Both organizations and non-profit organizations think that CSR need to be implemented to create a strong brand communication of corporates. CSR and organizational culture are two different issues yet there has a mutual relationship between them. Applying OCAI (Organizational Culture Assessment Instrument) model, a validated research method to assess organizational culture, on researching organizational culture of Saigon Beer-Alcohol-Beverage Joint Stock Corporation (SABECO) with 800 respondents (including employees, customers and mid-agencies) in all over Vietnam, the authors found out that the expected corporation’s culture is the mixed one. Though CSR is not reflected in OCAI model but with such expected culture, SABECO needs to care about CSR as a part of the coporation’s culture. In the light of organizational culture, this paper aims at: (1) providing fully understanding of CSR and organizational culture and the relationship between them; (2) suggesting recommendations about CSR for SABECO when choosing mixed culture as the expected one and (3) from which, comparing CSR of such profit oriented organization to CSR of other non-profit oriented organizations. Keywords: Corporate Social Responsibility (CSR), organizational culture, OCAI model Tóm tắt (abstract) Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (TNXHDN) không còn là khái niệm mới và đã trở thành xu thế với các doanh nghiệp trên toàn cầu. Từ doanh nghiệp xã hội cho tới các doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận đều cho rằng việc đảm bảo TNXHDN sẽ tạo ra những hình ảnh tích cực. TNXHDN và văn hóa doanh nghiệp (VHDN) là hai khái niệm khác biệt nhưng nhiều nghiên cứu đã chứng minh 2 khái niệm này có mối quan hệ. Gần đây, nhóm tác giả thực hiện nghiên cứu văn hóa Tổng công ty cổ phần Bia Rượu nước giải khát Sài Gòn (Bia Sài Gòn) bằng việc ứng dụng mô hình OCAI. Thông qua việc nghiên cứu ý kiến của 800 thành viên Tổng công ty (gồm công nhân viên, khách hàng, đại lý), mô hình văn hóa hiện tại và mong muốn của Tổng công ty đều là văn hóa hỗn hợp. Đồng thời, nhóm tác giả nhận thấy trách nhiệm xã hội luôn được lồng ghép và thấm đậm trong từng giá trị văn hóa của Tổng công ty. Vì vậy, bài nghiên cứu tập trung một số nội 191


dung sau: (1) Cung cấp khái niệm về TNXHDN, VHDN và mối quan hệ giữa chúng; (2) Dựa trên kết quả nghiên cứu văn hóa Bia Sài Gònlàm căn cứ cho việc lồng ghép giữa TNXHDN và VHDN; (3) Một số ý kiến trao đổi xung quanh việc thực hiện TNXHDN của doanh nghiệp xã hội và doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Key words 1. Đặt vấn đề Sự phát triển đa dạng của các loại hình doanh nghiệp cùng tốc độ tăng trưởng nền kinh tế tất yếu sẽ dẫn tới những vấn đề về môi trường và xã hội. Điều này đòi hỏi các chủ thể kinh tế, trong đó có cả doanh nghiệp phải có trách nhiệm góp phần giải quyết. Thử tìm kiếm trên Google cụm từ “trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp”, gần 100.000 bài viết có liên quan bằng tiếng Việt và có tới hơn 156.000.000 bài viết có liên quan bằng tiếng Anh là con số đáng ghi nhận. Kết quả này cho thấy, TNXHDN ngày càng trở nên quan trọng và thậm chí có tác động ngược, trở thành “lợi thế cạnh tranh” của một số doanh nghiệp. Ra đời khoảng những năm 1950 của thế kỷ XX, quan niệm về TNXHDN trở nên đa chiều hơn bao giờ hết. Bowen (1953) đề cập “TNXHDN là trách nhiệm của các doanh nhân trong việc thực hiện các chính sách, các quyết định, hay chí ít là các định hướng nhằm đạt được mục tiêu và giá trị xã hội. David (1960) thì cho rằng TNXHDN là một khái niệm không rõ ràng nhưng nên được nhìn nhận trong bối cảnh kinh doanh. Các quyết sách của người chủ doanh nghiệp không chỉ tập trung vào lợi ích kinh tế mà cần nhiều hơn thế. Cũng theo luồng ý kiến đó, Frederick (1960) khẳng định TNXHDN là việc người chủ doanh nghiệp cần đảm bảo sự trông đợi của xã hội, việc sản xuất kinh doanh cần tạo ra không chỉ lợi ích kinh tế mà cả lợi ích xã hội. Cụ thể hơn, Walton (1967) nhìn nhận “có mối quan hệ mật thiết giữa doanh nghiệp và xã hội. Mối quan hệ này cần được ghi nhớ bởi các quản trị viên cấp cao trong quá tình hiện thực hóa mục tiêu của doanh nghiệp”. Một trong những nhà nghiên cứu rất nổi tiếng về TNXHDN vào những năm 1970 là George Steiner đã cho rằng “TNXHDN không chỉ là thái độ của doanh nghiệp với xã hội mà cần là một động thái rõ ràng, quan tâm tới lợi ích xã hội cần là triết lý kinh doanh trong dài hạn chứ không phải trong ngắn hạn”. Để thực hiện TNXHDN, doanh nghiệp cần 3 điều kiện cơ bản: (1) thiết lập mục tiêu; (2) ra quyết định hiện thực hóa mục tiêu; và (3) tài chính hóa các mục tiêu đó (Wallich, 1972). Tới những năm 80, quan niệm về TNXHDN dần rõ ràng hơn. John (1980) định nghĩa “TNXHDN là ý niệm mà doanh nghiệp cần có đối với các đối tượng hữu quan, không chỉ với cổ đông hay theo quy định pháp luật. Điều đó có nghĩa, TNXHDN phải thực hiện tự nguyện và doanh nghiệp phải có trách nhiệm với khách hàng, nhân viên, nhà cung cấp và cả cộng đồng trong quá trình sản xuất, kinh doanh”. Đến năm 1991, Caroll đã mở rộng khái niệm về TNXHDN, theo đó TNXHDN được chia thành bốn trách nhiệm như trách nhiệm về kinh tế (tối đa hóa lợi nhuận), trách nhiệm pháp lý (tuân thủ theo các quy chế và pháp luật), trách nhiệm đạo đức (tuân theo tiêu chuẩn đạo đức), trách nhiệm từ thiện (cống hiến cho xã hội). Góc nhìn TNXHDN những năm gần đây được mở rộng hơn, Mohr et.al. (2001) cho rằng TNXHDN “là hoạt động tối thiểu hóa hoặc loại bỏ trước các mối hiểm nguy phát sinh trong xã hội cũng như tối đa hóa hiệu quả nhất định trong thời gian dài”.Khi con người ra các quyết định trong 192


việc sử dụng nguồn lực, họ cần cân nhắc quá trình khai thác và sử dụng nguồn lực đó sao cho những thế hệ kế tiếp có thể tiếp tục sử dụng và duy trì (Bodea và cộng sự, 2010). Rõ ràng, cho tới nay dù có nhiều nghiên cứu khác nhau về TNXHDN và góc nhìn về vấn đề này cũng rất đa dạng. Nhưng dù hiểu theo cách nào thì TNXHDNcũng là những hành động, cam kết của doanh nghiệp với xã hội để đảm bảo sự phát triển bền vững, đảm bảo quyền lợi cho nhân viên, khách hàng, nhà cung cấp, cộng đồng... theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội”. Doanh nghiệp sẽ thành công trong việc áp dụng TNXHDN nếu có sự cam kết của ban lãnh đạo. Nếu đội ngũ này thực sự hiểu rõ tầm quan trọng và lợi ích của TNXDNvà biến nó thành một phần của VHDN thì doanh nghiệp sẽ phát triển bền vững bởi TNXHDN có thể góp phần nâng cao thương hiệu doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tăng thị phần và tạo thêm nhiều lợi nhuận hơn thông qua việc giúp doanh nghiệp tăng tính cạnh tranh. Như một xu hướng bắt nguồn từ những nước phát triển, người tiêu dùng hiện nay không chỉ quan tâm đến chất lượng sản phẩm mà còn quan tâm tới quy trình sản xuất sản phẩm của các công ty. Sẽ có “điểm cộng” dành cho các doanh nghiệp thân thiện với môi trường sinh thái, với cộng đồng, có tính nhân đạo, và không “chụp giật”. Đã từ lâu, nhiều nhà nghiên cứu tìm thấy mối liên hệ nhất định giữa TNXHDN và VNDH. VHDN sẽ tác động đến TNXHDN thông qua một chuỗi các giá trị (Hatch &Schultz, 1997). Các giá trị này bao gồm tập hợp các giá trị xã hội, sự hợp tác qua lại, mang lại lợi ích giữa các thành viên trong tổ chức (Jones và cộng sự, 2007). Nói thêm về VNDH, Williams, A., Dobson, P. & Walters, M. (1993) khẳng định “VNDH là những niềm tin, thái độ và giá trị tồn tại phổ biến và tương đối ổn định trong doanh nghiệp”. Như vậy, việc lồng ghép TNXHDN trong VHDN là hoàn toàn phù hợp. Ở một góc độ, TNXHDN phản ánh VHDN. TNXHDN, ở một chừng mức nhất định, là cái cần phải hướng tới khi tìm kiếm những giá trị, quan niệm, chuẩn mực chung trong kinh doanh, là sự hiện thực hóa những yêu cầu luật pháp. Trên thực tế, TNXHDN thẩm thấu vào tất cả các tầng bậc VHDN, nó trở thành sức mạnh, nhân tố chi phối VHDN của doanh nghiệp. Việc nhận diện, định hướng VHDN bởi vậy không phải chỉ có tác động trong nội bộ doanh nghiệp mà có ảnh hưởng lớn tới xã hội, cộng đồng. Từ đó, câu hỏi đặt ra là “Làm sao nhận diện được doanh nghiệp thuộc loại hình văn hóa nào? Ảnh hưởng của từng yếu tố cấu thành tạo nên diện mạo VNDHra sao?... Để trả lời những câu hỏi đó, Cameron và Quinn (2006) đã xây dựng bộ công cụ chuẩn đoán VNDHOCAI (Organiational Culture Accessment Instrument). Bộ công cụ OCAI được hình thành với mục tiêu đánh giá cụ thể các yếu tố cấu thành văn hóa doanh nghiệp, từ đó định dạng VNDHdựa trên khung giá trị cạnh tranh. Theo các tác giả này, văn hóa tổ chức được phân tích theo hai khía cạnh: Tính linh hoạt & xu hướng của tổ chức và được nhận dạng theo sáu đặc tính sau: (1) Đặc điểm nổi trội; (2) Tổ chức lãnh đạo; (3) Quản lý nhân viên; (4) Chất keo kết dính của tổ chức; (5) Chiến lược nhấn mạnh và (6) Tiêu chí của sự thành công. Mô hình OCAI chia văn hóa doanh nghiệp thành 4 loại cơ bản: (1) mô hình văn hóa hợp tác, (2) mô hình văn hóa sáng tạo, (3) mô hình văn hóa thị trường, (4) mô hình văn hóa thứ bậc. Sáu đặc tính được lồng ghép trong 4 mô hình văn hóa như sau:

193


VĂN HÓA HỢP TÁC

Bảng 1: Mô hình văn hóa doanh nghiệp và các đặc tính (Nguồn: Kim Cameron và Robert Quinn, 2006) Tuy mô hình OCAI không phản ánh hay định hướng VHDN thực hiện các TNXHDN nhưng dưới góc độ quản trị, người lãnh đạo doanh nghiệp cần lồng ghép TNXHDN trong VHDN mình. Lý do cho điều này đã được đề cập xuyên suốt trong những phân tích trên của nhóm tác giả. 2. Kết quả phân tích văn hóa Bia Sài Gòn 2.1. Mô hình văn hóa hiện tại và những đặc tínhvăn hóa cơ bản của Bia Sài Gòn 2.1.1. Kết quả nhận diện mô hình văn hóa hiện tại của Bia Sài Gòn Với mục đích lồng ghép TNXHDN trong VHDN, nhóm nghiên cứu sử dụng Bia Sài Gòn làm trường hợp điển hình.Tổng công ty cổ phần Bia Sài Gòn được hình thành từ một xưởng bia nhỏ do ông Victor Larue lập ra tại Sài Gòn vào năm 1875 với cơ sở vật chất thô sơ. Năm 1910, xưởng phát triển thành một nhà máy hoàn chỉnh sản xuất bia, nước ngọt và nước đá. Đến tháng 9 năm 1927, nhà máy được sáp nhập vào hệ thống hãng BGI của Pháp và đến năm 1945 đã đạt sản lượng khoảng 20 đến 25 triệu lít bia/ năm.Đến nay, Tổng công ty đã có 28 đơn vị thành viên là các công ty con, đơn vị trực thuộc và công ty liên kết với địa bàn hoạt động trải rộng trên khắp cả nước.Bia Sài Gòn đã đạt vị trí thứ 21

194


trong các tập đoàn sản xuất bia lớn nhất thế giới, nằm trong top 3 các nhà sản xuất Bia hàng đầu khu vực Đông Nam Á, giữ vị trí dẫn đầu trong ngành bia Việt Nam và liên tục là Thương hiệu Quốc gia. Hiện nay, Bia Sài Gòn chiếm lĩnh tới 35% thị phần bia tại Việt Nam.Công ty đã thành công với khẩu hiệu “Uy tín tạo nên đẳng cấp ”. Bởi vậy, dù trên thị trường xuất hiện rất nhiều thương hiệu bia nổi tiếng trên thế giới, nhưng bia Sài Gòn vẫn đang là thương hiệu Việt dẫn đầu thị trường bia Việt Nam và đang tiếp tục chinh phục những thị trường khó tính như: Đức, Mỹ, Nhật, Hà Lan... Bảng 2. Một số chỉ tiêu kinh doanh chủ yếu của Bia Sài Gòn

TT

Chỉ tiêu chủ yếu

ĐVT

1

Sản lượng Bia

Triệu lít

768

906

1069

1169

1263

1361

1356

1466

2

Doanh thu

Tỷ đồng

9860

12477

14102

29138

32052

35068

29788

32000

3

Nộp ngân sách

Tỷ đồng

2709

3328

3653

7509

9011

10168

13077

13000

4

Lợi nhuận trước thuế

Tỷ đồng

729

1071

1221

4105

4352

4285

3914

4231

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2015

2014

Nguồn: Bản công bố thông tin của Tổng công ty Bia Sài Gòn hàng năm Trong một nghiên cứu vận dụng mô hình OCAI thực hiện năm 2015, nhóm tác giả đã xác định được mô hình văn hóa hiện tại của Bia Sài Gòn là mô hình văn hóa hỗn hợp. Điều này có nghĩa, tại Bia Sài gòn không có giá trị văn hóa nào thực sự nổi trội đến mức chi phối mạnh mẽ để hình thành một mô hình VHDN cụ thể như trong số 4 loại hình VHDN đề cập trong mô hình OCAI. Trong mô hình văn hóa hỗn hợp hiện tại, nhóm tác giả nhận thấy mô hình văn hóa thứ bậc có điểm cao hơn, nhưng cao hơn không nhiều (27.6), tiếp đến là văn hóa thị trường (26.6). Tuy nhiên, độ lệch chuẩn của hai giá trị này cũng cao nhất. Điều đó phản ánh mô hình văn hóa Bia Sài Gòn định hướng nhiều hơn (nhưng không hoàn toàn rõ nét) tới sự ổn định và kiểm soát. Sự gắn kết trong tổ chức có xu hướng xoay quanh các thể chế, quy định, quy tắc, luật lệ. Bảng 3. So sánh mô hình văn hóa hiện tại và mong muốn của Bia Sài Gòn

Hợp tác Sáng tạo Thị trường Thứ bậc Tổng

Hiện tại Trung bình Độ lệch chuẩn 23.9 6.46 21.6 4.95 26.6 6.75 27.6 6.73 100

Mong muốn Trung bình Độ lệch chuẩn 28.2 7.72 23.0 5.25 23.2 6.13 25.2 7.53 100

Khoảng cách 4.3 1.4 -3.4 -2.4

Nguồn: Khảo sát của nhóm tác giả

195


Giá trị văn hóa hợp tác có điểm số gần thấp nhất (23.9) và độ lệch chuẩn cao. Kết hợp với các dữ liệu định tính khác cho thấy, môi trường làm việc tại các doanh nghiệp thành viên của Bia Sài Gòn khá đa dạng. Có những doanh nghiệp có môi trường làm việc thân thiện như một gia đình mở rộng, tính cam kết và sự gắn bó người lao động ở mức cao. Tuy nhiên, cũng có những nơi sự hợp tác không phải là giá trị rõ nét. Dấu ấn của người lãnh đạo tại các đơn vị thành viên khá lớn và ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc tạo dựng văn hóa hợp tác của tổ chức. Trong khi đó, toàn hệ thống vận hành theo tính tuân thủ (đặc biệt ở khối sản xuất) điều này cũng ảnh hưởng tới sự phát huy giá trị hợp tác. Bài toán quản trị đặt ra là trong một hệ thống đa dạng như Bia Sài Gòn, làm thế nào để lan tỏa mạnh mẽ giá trị hợp tác này trong toàn hệ thống. Giá trị văn hóa sáng tạo của Bia Sài Gòn có điểm trung bình và độ lệch chuẩn thấp nhất (21.6 và 4.95). Điều đó cho thấy sáng tạo là nét văn hóa khá mờ nhạt trong Tổng công ty. Hay nói cách khác có tỷ lệ đồng thuận khá cao cho rằng môi trường làm việc Bia Sài Gòn ít năng động, sáng tạo và tinh thần doanh nhân của đội ngũ không cao. 2.1.2. Những đặc tính văn hóa cơ bản hiện tại của Bia Sài Gòn Với mô hình văn hóa hỗn hợp được nhận diện trong thời điểm thực hiện nghiên cứu, nhóm nghiên cứu nhận thấy Tổng công ty đã thực hiện một số TNXHDN như:  Bia Sài gòn chung tay với cộng đồng Trách nhiệm với cộng đồng, là tính cách nổi trội hình thành bản chất của Bia Sài Gòn, thể hiện sự gần gũi và chia sẻ, cảm thông. Sự chia sẻ đã làm nên văn hóa của Bia Sài Gòn.Thông điệp “ Bia Sài gòn chung tay với cộng đồng” đã là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Tổng công ty và lan tỏa trên toàn hệ thống. Mỗi năm Tổng công ty đã đóng góp hàng chục tỷ đồng vào các hoạt động an sinh xã hội như:Góp quỹ vì Trường Sa thân yêu, quỹ “tấm lưới nghĩa tình”, kịp thời triển khai công tác cứu trợ đồng bào miền Trung và các chương trình định kỳ như “Bia Sài Gòn và những ngôi nhà tình nghĩa”, phụng dưỡng Mẹ Việt Nam anh hùng, các hoạt động cộng đồng hướng về khu vực nông thôn hưởng ứng chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới...cũng như các hoạt động phối hợp với các tổ chức như: cùng Trung ương Đoàn đồng hành với chương trình thực tế “Sinh ra từ làng“, chương trình Mùa hè xanh …  Bia Sài Gòn thân thiện với môi trường Trách nhiệm với cộng đồng còn được Bia Sài Gòn thể hiện bằng sự thân thiện với môi trường trên toàn hệ thống các nhà máy. Bia Sài Gòn nêu cao khẩu hiệu “Nhà máy xanh – sạch – đẹp”. Các nhà máy của Bia Sài Gòn không chỉ hiện đại, mà còn áp dụng hệ thống quốc tế “Nhà máy xanh”với 3 tiêu chí: tiết kiệm nhiên liệu; hiệu quả cao; và đặc biệt là công nghệ lọc chất thải. Bia Sài Gòn đã triển khai và áp dụng thành công hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001 – 2008, ISO 1400 và HACCP tại Tổng công ty, các Công ty thành viên. Chất lượng bia Sài Gòn được công nhận bởi hệ thống quản lý chất lượng – An toàn thực phẩm – môi trường do Burear Verita Certificatiar chứng nhận.Bảo vệ môi trường, hướng đến một nền công nghiệp xanh là tiêu chí hàng đầu của Bia Sài Gòn.

196


 Bia Sài Gòn tri ân với khách hàng Bia Sài Gòn, thương hiệu hàng đầu Việt Nam từ lâu đã gắn bó với người tiêu dùng bằng thông điệp "Bia Sài gòn –Niềm tự hào của Việt Nam". Tổng Công ty đã nỗ lực không ngừng để luôn giữ vững được sự tin yêu và ủng hộ của người tiêu dùng - chìa khóa thành công của Bia Sài Gòn.Với mục tiêu hướng về người tiêu dùng, từ cuối năm 2013, Bia Sài Gòn đã triển khai một chương trình đặc biệt “Lời tri ân – đến với người uống bia” nhằm tri ân các khách hàng trung thành và các khách hàng tiềm năng của Bia Sài gòn.  Bia Sài Gòn nêu cao sự đoàn kết và gắn bó Sự đoàn kết và gắn bó càng cao càng thể hiện việc doanh nghiệp thực hiện tốt TNXHDN đối với người lao động.Bia Sài Gòn chỉ có thể phát triển bền vững khi có nguồn nội lực được hun đúc từ sức mạnh tập thể của hàng chục ngàn lao động Bia Sài Gòn trên toàn quốc. Bảng 4.Sự gắn bó của người lao động (theo vùng miền) với Bia Sài Gòn (tính theo% đồng ý) TT

Sự gắn bó của người lao động

Bắc

Trung

Nam

1

Tôi rất tận tụy với Bia Sài Gòn.

90,8

93,0

92,9

2

Tôi muốn giới thiệu những người khác làm việc cho Bia Sài Gòn.

73,9

83,0

81,7

3

Tôi thấy mình là một thành viên trong gia đình Bia Sài Gòn.

87,3

95,2

91,9

4

Tôi không muốn rời Bia Sài Gòn để tìm công việc khác.

78,9

85,2

81,7

Nguồn: Khảo sát của nhóm tác giả

Công việc cho tôi thêm năng lượng

Tôi r t t

hào khi làm vi c cho Bia Sài Gòn.

Tôi hào h ng khi làm vi c cho Bia Sài Gòn.

Công vi c khi n tôi ph i luôn tìm tòi và h c h i

0

20

40

60

Không đồng ý/Khô ng ý kiến

80

100

Đ ng ý

Hình 1. Cảm nhận của người lao động tại Bia Sài Gònvề sự gắn kết công việc Nguồn: Khảo sát của nhóm tác giả 197


Nhóm tác giả sử dụng các câu hỏi có một phần tương đồng về ý nghĩa để kiểm tra tính chính xác câu trả lời của đáp viên.Kết quả khảo sát cho thấy, đa số người lao động thể hiện sự gắn kết và tận tụy với Bia Sài Gòn. Bên cạnh đó, vẫn còn có một tỷ lệ không nhỏ người lao động lưỡng lự về việc tiếp tục gắn bó với tổ chức.

Tôi không muốn rời Bia Sài Gòn để tìm công việc khác.

Tôi thấy mình là một thành viên trong gia đình Bia Sài gòn

Tôi muốn giới thiệu những người khác làm việc cho Bia Sài gòn

Tôi rất tận tụy vì Bia Sài Gòn.

0

20

40

60

Không đồng ý/Không ý kiến

80

100

Đồng ý

Hình 2. Sự gắn bó của người lao động với Bia Sài Gòn Nguồn: Khảo sát của nhóm tác giả Xét về sự gắn bó với công việc, có sự khác biệt về vùng miền. Trong đó đội ngũ cán bộ nhân viên trong các công ty ở miền Nam dường như kém hào hứng với công việc hơn. So với các miền khác, tỷ lệ này thấp hơn ở miền Nam. Bảng 5. Quan niệm của người lao động (theo vùng miền) về sự gắn kết với công việc (tính theo % đồng ý) TT

Yếu tố

Bắc

Trung

Nam

1

Công việc khiến tôi phải luôn tìm tòi và học hỏi

87,3

92,6

90,2

2

Tôi hào hứng khi làm việc cho Bia Sài Gòn

91,5

86,9

82,6

3

Tôi rất tự hào khi làm việc cho Bia Sài Gòn

87,3

91,7

87,0

4

Công việc cho tôi thêm năng lượng

70,4

67,7

66,0

Nguồn: Khảo sát của nhóm tác giả

198


2.2. Mô hình văn hóa mong muốn và những đặc tính văn hóa cần được khẳng định trong tương lai của Bia Sài Gòn 2.2.1. Mô hình văn hóa mong muốn của Bia Sài Gòn Mô hình OCAI đòi hỏi bên cạnh việc nhận diện mô hình văn hóa hiện tại còn cần nhận diện mô hình văn hóa mong muốntrong tương lai. Cũng theo kết quả nghiên cứu, mô hình văn hóa mong muốn của Bia Sài Gòn một lần nữa giống như mô hình văn hóa hiện tại, thể hiện sự đa dạng, không có giá trị nào quá nổi bật. Độ lệch chuẩn của các giá trị mong muốn thậm chí còn cao hơn cả các giá trị văn hóa hiện tại. Đội ngũ cán bộ công nhân viên Bia Sài Gòn có xu hướng cho rằng mô hình văn hóa hợp tác cần được phát huy tốt hơn. Tiếp theo là mô hình văn hóa sáng tạo mặc dù khoảng cách hầu như không đáng kể (1.4). Trong khi đó, các giá trị của mô hình văn hóa thứ bậc và thị trường được đánh giá nên giảm hơn. H p tác 40.0 35.0 30.0 25.0 20.0 15.0 10.0 5.0 Th b c

0.0

Sáng t o

Hi n t i Thị trường

Mong mu n

Hình 3.Khoảng cách giữa mô hình văn hóa hiện tại và mong muốn Nguồn: Khảo sát của nhóm tác giả Như vậy, mô hình VHDN mong muốn của Bia Sài Gòn cũng là mô hình văn hóa hỗn hợp, có sự kết hợp của nhiều giá trị. 2.2.2. Những đặc tính văn hóa cần được khẳng định trong tương lai của Bia Sài Gòn Để phù hợp với mô hình văn hóa mong muốn và xu thế thị trường nhằm phát triển bền vững, Bia Sài Gòn đã xác định rõ những giá trị văn hóa cần được xây dựng:3S

199


Bảng 6. Ý nghĩa cụ thể của Hệ giá trị văn hóa Nguồn: Sổ tay văn hóa Bia Sài Gòn TT 1.

2.

3.

Giá trị văn hóa Sáng tạo Sẻ chia

Son sắt

Ý nghĩa - Sáng suốt trong tư duy - Sáng kiến trong công nghệ - Đổi mới trong quản lý - Hợp tác và đoàn kết - Trách nhiệm với cộng đồng - Vì một mái nhà chung - Tự hào về truyền thống - Gắn bó với công ty - Tâm huyết trong công việc

Các giá trị trên cho thấy, trong mô hình văn hóa tương lai, Bia Sài Gòn cần tiếp tục quan tâm đến TNXHDN thể hiện trong trách nhiệm với cộng đồng, đề cao tính bền vững trong hoạt động sản xuất kinh doanh; trách nhiệm với người lao động để tạo sự gắn bó giữa người lao động với doanh nghiệp;trách nhiệm với với khách hàng để giữ vững và phát huy truyền thống của một Tổng công ty với gần 150 năm kinh nghiệm. Chúng ta có thể nhận thấy rõ, TNXHDN luôn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt hệ giá trị văn hóa hiện tại và mong muốn của Bia Sài Gòn. Với một Tổng công ty lớn như Bia Sài Gòn, để xây dựng được VHDN, để tồn tại và phát triển bền vững, đồng thời khẳng định được uy tín và thương hiệu trong xu thế hội nhập luôn phải đề cao TNXHDN. TNXHDN cần được thẩm thấu vào từng giá trị văn hóa của Tổng công ty. Thông qua các hoạt động truyền thông, mọi thành viên trong Tổng công ty cần hiểu rõ, thấm nhuần, duy trì và phát huy những giá trị văn hóa đó. 3.Một số trao đổi xung quanh việc thực hiện TNXHDNtrong các DNXH và doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận 3.1. TNXHDN trong DNXH và doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận TNXHDN của mỗi nhóm doanh nghiệp là khác nhau. Nếu TNXHDN của doanh nghiệp xã hội (DNXH) vì mục tiêu phi lợi nhuận là phát triển xã hội, đảm bảo công bằng, bình đẳng, nhân văn, tăng phúc lợi xã hội cho các đối tượng yếu thế trong xã hội như người nghèo, người khuyết tật... hay bảo vệ môi trường sống (Nguyễn Mạnh Quân, 2015); thì TNXHDN của doanh nghiệp vì mục tiêu lợi nhuận là cam kết của doanh nghiệp với xã hội để đảm bảo sự phát triển bền vững, đảm bảo quyền lợi cho nhân viên, khách hàng, nhà cung cấp, cộng đồng... theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội. Luật doanh nghiệp (sửa đổi) được Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2014 cũng đã quy định rõ: Mục tiêu

200


hoạt động của DNXH nhằm giải quyết vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng. DNXH phải sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hằng năm của doanh nghiệp để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường như đã đăng ký. Như vậy, dù đối tượng, khách hàng hướng tới của 2 nhóm doanh nghiệp là khác nhau nhưng đều cần thực hiện TNXHDNnhằm đáp ứng các đòi hỏi của cả 6 đối tượng hữu quan: Nhà nước, người lao động, chủ sở hữu, giám đốc điều hành, khách hàng và cộng đồng địa phương. 3.2. Sự thẩm thấu TNXHDN trong các giá trị văn hóa của DNXH và doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận Ở một góc độ, VHDN là lợi thế cạnh tranh, là yếu tố quyết định sự trường tồn của doanh nghiệp. Vì vậy, DNXH cũng như các doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận cần xây dựng và phát triển văn hóa riêng có của doanh nghiệp mình. Khi thực hiện sứ mệnh này, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp cần ý thức rõ rằng doanh nghiệp chỉ có thể thành công khi họ tìm được nghệ thuật lồng ghép TNXHDN với VHDN, đồng thời lãnh đạo doanh nghiệp phải là người “truyền lửa” để văn hóa đó luôn được bảo tồn và phát huy. 3.3. Liên kết giữa các DNXH và doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận trong việc thực hiện TNXHDN Theo quy định của pháp luật Việt Nam, DNXH được huy động và nhận tài trợ dưới các hình thức khác nhau từ các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ và các tổ chức khác của Việt Nam và nước ngoài để bù đắp chi phí quản lý và chi phí hoạt động của doanh nghiệp. Do vậy, để đảm bảo nguyên tắc tập trung hóa và chuyên môn hóa sâu, các doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận nên có sự liên kết với các DNXH trong việc tổ chức thực hiện một số các hoạt động cộng đồng vì mục tiêu xã hội như: xây dựng cơ sở hạ tầng (đường xá, cầu, cống…), trường học, bệnh viện, nhà dưỡng lão… hoặc cùng góp vốn để thành lập DNXH nhằm giải quyết việc làm cho những nhóm người yếu thế… Việc các doanh nghiệp vì mục tiêu lợi nhuận có sự liên kết nhất định với các DNXH trong thực hiện TNXHDN sẽ tạo ra những giá trị nhất định: - Đảm bảo nguyên tắc tập trung và chuyên môn hóa sâu (như đã nêu ở trên) do ngay từ khi thành lập và trong suốt quá trình tồn tại, mục tiêu của DNXH luôn là nhằm giải quyết vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng, nên các DNXH sẽ có kinh nghiệm và chuyên nghiệp hơn trong việc thực hiện các nhiệm vụ này. - Tránh lãng phí, tăng tính chuyên nghiệp trong hoạt động. Trường hợp của Bia Sài Gòn cho thấy nếu có sự kết hợp với các DNXH trong thực hiện TNXHDN sẽ giảm thiểu được các chi phí không cần thiết khi thực hiện TNXHDN, vừa đảm bảo được tính nhất quán, lâu dài trong quá trình thực hiện; - Như đã phân tích trên, việc thực hiện TNXHNDN của các doanh nghiệp vì mục tiêu lợi nhuận ở một góc độ cũng để quảng bá hình ảnh cho doanh nghiệp, còn các DNXH cũng cần nguồn tài chính để duy trì các hoạt động. Vậy trong trường hợp này, sự kết hợp là win – win, cả 2 bên đều có lợi. Kết luận TNXHDN và VHDN là khác biệt nhưng lại có mối quan hệ. Việc thực hiện TNXHDN của các doanh nghiệp vì mục tiêu lợi nhuận hay của các DNXH dù có khác nhau nhưng cũng đều nhằm hướng tới các đối tượng hữu quan của doanh nghiệp. Thông qua trường hợp của Tổng công ty cổ phần Bia Sài Gòn, nhóm tác giả muốn nhất mạnh tầm quan 201


trọng của việc lồng ghép TNXHDN với VHDN. Hàm ý rằng, cho dù doanh nghiệp vì mục tiêu lợi nhuận có tìm cách để tối đa hóa lợi nhuận thì vẫn cần đảm bảo các TNXHDN cần có. Để thực hiện các TNXHDN này một cách đúng đắn và chuyên nghiệp, một trong những gợi ý từ bài viết là các doanh nghiệp vì mục tiêu lợi nhuận có thể liên kết với các DNXH.

Tài liệu tham khảo 1. D.J. Vogel, “Is there a market for virtue? The business case for corporate social responsibility.” California Management Review, 47, 2005, pp. 19–45 2. Bowen,H.R.(1953).Socialresponsibilitiesofthebusinessman.NewYork:Harper&Ro. 3. Edgar H. Schein (2004), Văn hóa doanh nghiệp và sự lãnh đạo, Nhà xuất bản Thời đại, Hà Nội. 4. Luật doanh nghiệp (sửa đổi) được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2014. 5. Lý Trường Chiến (2014), Vai Trò Của Nhà Lãnh Đạo Trong Việc Xây Dựng Văn Hóa Đội Ngũ Gắn Kết, Truy cập ngày 15 tháng 02 năm 2016, Từhttp://engagement.vn/vai-trocua-nha-lanh-dao-trong-viec-xay-dung-van-hoa-gan-ket/ 6. Nguyễn Mạnh Quân, Phạm Đình Toàn, Trần Hồng Việt (2015), Xây dựng “Cụm liên kết” hay “chuỗi” doanh nghiệp xã hội để phát triển bền vững, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế “Doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam: Vai trò của trường đại học và các tổ chức nghiên cứu” 7. Nguyen Dinh Tai (2009), Corporate Social Responsibility in Vietnam, APEC Symposium “Enhancing Public-Private Partnership on Corporate Social Responsibility”, Hanoi. 8. Sổ tay văn hóa Bia Sài Gòn 2015. 9. Walton, C. C. (1967). Corporate social responsibilities. Belmont, CA: Wadsworth. 10. Williams A.P.O, Dobson P.and Walters, M. (1993), 'Changing Culture, 2nd edition', Institute of Personnel Management. Ph.D. Associate Professor Nguyễn Thị Hoài Dung, Vice Head of Business Administration Faculty, is a researcher and lecturer at National Economics University, Hanoi, Vietnam PhD. Hà Sơn Tùng, Head of Enterprise Management Division, Business Administration Faculty, is a researcher and lecturer atNational Economics University, Hanoi, Vietnam Correspondence of the authors: Dr. Ha Son Tung, Office 311, Building 7, National Economics University, Tran Dai Nghia, Hanoi, Vietnam. Email: hasontungneu@yahoo.com Correspondence of the authors: Dr. Ha Son Tung, Office 311, Building 7, National Economics University, Tran Dai Nghia, Hanoi, Vietnam. Email: hasontungneu@yahoo.com

202


AN EMPIRICAL STUDY OF UNDERSTANDINGS OF SOCIAL ENTREPRENEURSHIP IN PRACTICE Lai Manh Khang* Nguyen Thi Phuong Linh**

Abstract The aim of this paper is to examine the divergence in understandingsof social entrepreneurship in practice. The authors reviewed previous literature on social entrepreneurship in order to posit a unified definition of social entrepreneurship comprisingfourconstructs: (1) Social objectives, (2) Socially responsible management of financial flows, (3) Organizational forms of social entrepreneurship and (4) Social innovation. On the basis of these constructs, an empirical investigation was then conducted through focussed interviewsto shed light on how divergent perceptions among different groups are. The results provide empirical evidence of how social entrepreneurship is understood in the practical world in the context of Vietnam. Also this study suggests that there are significant discrepancies between current understandings of social entrepreneurship among surveyed groups. Regarding theoretical implications, this research provides insights into how social entrepreneurship is defined in Vietnam based on empirical evidence. The research limitations lie in the scope of the empirical investigation, which did not cover a broader range of groups, therefore implying further research directions. Keywords: social entrepreneurship, Practice, Perceptions of social entrepreneuship. 1. 1. Introduction The discipline of Social Entrepreneurship emerges as a dynamic area of research and practicein the recent decades. There are numerous studies on social entrepreneurship and its surrounding elements in literature (Austin, Stevenson & Wei-Skillern 2006; Dacin, Dacin & Matear 2010; Shaw & Carter 2007). In practices, thousands of non-for-profit organizations, social enterprises and social ventures have been developed to bring benefits to the community. In the context of Vietnam, legal frameworks and regulations have been put in effects, providing the legal basis for the establishment and operations of social enterprises. The proliferation of social entrepreneurship has led to large-scale developments of social enterprise forums, workshops and conferences in Vietnam. Despite theemergenceof social entrepreneurial activities, the conceptualization of social entrepreneurship becomesproblematic. There is no consensus in relation to conceptualizing social entrepreneurship. A variety of definitions have been proposed; yet, ambiguity and confusions still exist in the domain of social entrepreneurship. Choi and Majumdar (2014)recognized that social entrepreneurship is ‘an essential contested concept’, leading to a proposal of its cluster concept. Dacin, Dacin and Matear (2010)examined 37 definitions of social entrepreneurship to reveal that there is a lack of a 203


unified definition. The difficulty of clearly definingsocial entrepreneurship has impeded the development of social entrepreneurship, theoretically and practically. Given the literature gaps in theory, this paper attempts to provide insights into this phenomenon and its issues. The overarching research question (RQ) is formulated in this study as follows: RQ: What is the current level of understandings of social entrepreneurship in the context of Vietnam? Particularly, the paper summarizes key issues and themes arising in the literature on social entrepreneurship. Then the authors develop four definitional constructs to provide a framework for developing social entrepreneurship informed by the authors’ literature review. The paper then describes methodology used in the research, which arefocussed interviewsof key experts working on the field of social entrepreneurship.Analysis of rich data collected is provided to answer research questions, followed by discussions and research limitations. 2. Literature review Issues and themes in the conceptualization of social entrepreneurship The field of social entrepreneurship has encountered several definitional problems. Researchers and practitioners fail to build a consensus in relation tohow social entrepreneurship is universally defined. In fact, given the recent developments of social entrepreneurship research, there areeven a variety of competing definitions. Many authors define social entrepreneurship as not-for-profit initiatives seeking funding strategies to achieve social values(e.g. Boschee & McClurg 2003; Certo & Miller 2008; Peredo & McLean 2006). This school of thought focuses on the not-for-profit nature and social values of initiatives.Some definessocial entrepreneurship as processes of identifying opportunities and leveraging resources in innovative ways to address unmet social needs, thus catalyzing social transformations(e.g. Alvord, Brown & Letts 2004; Austin, Stevenson & Wei-Skillern 2006; Mair & Martí 2006).From this view, social entrepreneurship createsminor social valuesthat can be sustained to produce large-scale changes in the society in the long term.Also this view explicitly stress the role of innovation in creating values. Others define it as practices or ventures creating social impacts and carried out by anyenterprisesregardless of their commercial or social missions(Dees, J. Gregory & Anderson 2003; Doherty, Haugh & Lyon 2014).That is, social entrepreneurship exists not only in social enterprises but also in commercially viableactivities from which revenue is generated to create social impacts.It is clearly seen that divergence in perspectives of social entrepreneurship still exists in its conceptualization.Choi and Majumdar (2014, p. 365)assert that social entrepreneurship itself is ‘an essentially contested concept’ which comprises a range of different aspects and can be variously describeddepending on the views of theterm users.To date there is a lack of a unified definition in this field of social entrepreneurship(Dacin, Dacin & Matear 2010).

204


However, based on a literature review, this paper points to several key themes that gain commonalitiesin the discussions among previous authors.  First, social entrepreneurship is characterized by social value creation(Austin, Stevenson & Wei-Skillern 2006; Dees, J. Gregory & Anderson 2003; Peredo & McLean 2006).The focus of social entrepreneurship is on creating social wealth rather than personal wealth(Boschee & McClurg 2003; Zahra et al. 2009), bringingabout solutions to social problems(Shaw & Carter 2007)or catalyzing social changes(Alvord, Brown & Letts 2004). While this theme seems toobtain a certain of agreementas to social goals of entrepreneurship, arguably,social values in the literature still mean something vague. Choi and Majumdar (2014)statethat what is social in value creation remains complex and ambiguous. As a result, it remains controversial to evaluate what is social value andwhich projects/initiatives can create social value.  Second,discussions of how wealth is distributed areintegral to conceptualizing social entrepreneurship. Throughdelivery of products/services, profits are gained and then fairly distributed tobenefit all stakeholdersinvolved, e.g. employees, shareholders(Austin, Stevenson & Wei-Skillern 2006; Shaw & Carter 2007). As opposed to business entrepreneurship, social entrepreneurship pursue dual missions of social purposes and financial sustainability (Doherty, Haugh & Lyon 2014).  Third, previous literature also discussesthe organizationalforms of social entrepreneurship. The most popular form of organization used to describe social entrepreneurship is social enterprise, which is established by an individual entrepreneurand involved in entrepreneurial activities to generate profits for community(Dees, J. Gregory & Anderson 2006; Sharir & Lerner 2006). In contrast, some authors state that social entrepreneurship is realized through initiatives, activities or ventures conducted by any person across different sectors, e.g. non-for-profit, government orprivate sector (Alvord, Brown & Letts 2004; Austin, Stevenson & Wei-Skillern 2006).  Finally, the manner in whichsocial entrepreneurial activities are often carried out to generate social outcomes is also central to discussions in prior literature. Most of authors agree thatsocial entrepreneurship is involved in social innovation that drives social changes(Austin, Stevenson & Wei-Skillern 2006; Dees, J. Gregory & Anderson 2003). Nicholls (2010)strongly emphasizesthat innovation is essential in social entrepreneurial activities to achieve missions. Similarly, social entrepreneurs are driven towards innovative approaches to theexploitation of resources and the satisfaction of unmet social needs (Peredo & McLean 2006; Shaw & Carter 2007). On the other hand, some authors do not emphasize the essenceof innovation in social entrepreneurship (Dacin, Dacin & Matear 2010; Seelos & Mair 2005). Instead, social entrepreneurial activities could exploit resources in conventional ways as long as such activities create social values(Dacin, Dacin & Matear 2010).

205


Towards definitional constructs of social entrepreneurship Literature recognizes that the confusion and ambiguitycan impede further developments in practices and theoriesin relation to social entrepreneurship.Dacin, Dacin and Matear (2010, p. 38) state that this conceptual confusion ‘serves as a barrier to cross-disciplinary dialogue and theory-based advances in the field’.Short, Moss and Lumpkin (2009) emphasize the lack of a unified definition becomesa barrier to empirical examination of social entrepreneurship in practices. Inspired by a need to seek a more comprehensive conceptualization of this issue, this paper proposesa multi-dimensionalapproach to social entrepreneurship. As suggested by Mort, Weerawardena and Carnegie (2002), social entrepreneurship can be operationalized as a multi-dimensional construct.Choi and Majumdar (2014) also considersocial entrepreneurship as a cluster conceptfrom which different configurations based on subconcepts can be established.Various elements of sub-concepts are combined to constitute various forms of social entrepreneurship, so-called ‘both-and’ approachto defining social entrepreneurship. To do so, the commonalities among discussions in the previous section lend a conceptual support to our paper. Accordingly, we developeda set of definitional constructs, instead of a single sentence,reflecting distinct features that characterize social entrepreneurship Construct 1: Social objectives (in relation to social value creation) Construct 2: Socially responsible management of financial flows Construct 3: Organizational forms of social entrepreneurship Construct 4: Social innovation The first construct emphasizes the role of social value creating objectives in social entrepreneurship. Through literature review, the key objectives are identified in Table 1 including:  To create benefits for marginalized/disadvantaged groups  To address social problems  To meet social needs  To create social impacts  To catalyze social transformations in the long term Social entrepreneurship involves settingone or more of these key objectives in their missions, which is the ‘both-and’ approach mentioned earlier. Construct 2 recognizes the social nature of financial flows in social entrepreneurship. Austin, Stevenson and Wei-Skillern (2006)suggest that social entrepreneurship does not focus on maximizing profits, but at least generatescompetitive returns for investors.So social entrepreneurshiphas to be reliant on financial resources outside (Austin, Stevenson & Wei-Skillern 2006)and/or at least economically viable in delivering 206


products/services(Anderson, Dees & Emerson 2002; Emerson & Twersky 1996; Shaw & Carter 2007).Also, Dacin, Dacin and Matear (2010) and Ascigil (2012)consistently assert that social entrepreneurship needs to reinvestwealth in socially responsible manner, taking into account all stakeholders involved. Construct 3 highlights the organizational forms of social entrepreneurship, which has a broad range. This construct reflects the scope and boundary of social entrepreneurship, spanning across different sectors and types of business. The forms of social entrepreneurship are not restricted to social enterprise as indicated in many authors (Dart 2004; Korosec & Berman 2006).Other forms could be commercial ventures (Adams & Perlmutter 1991), social ventures (Dees, J. Gregory & Anderson 2003), public sector organizations (Austin, Stevenson & Wei-Skillern 2006), non-for-profit organizations (Ascigil 2012), commercial enterprises (Boschee & McClurg 2003) or even hybrid forms of enterprises (Doherty, Haugh & Lyon 2014). Construct 4stresses innovativeness and creativity involving social entrepreneurship. Austin, Stevenson and Wei-Skillern (2006)suggest that social entrepreneurship is associated with complexities of dual missions, social value and commercial viability. Thus, social entrepreneurship involves a range of creative and innovative activities to be developed and sustained.So social innovation is an integral part of social entrepreneurship, which can be realized through innovative initiatives and flexible resource mobilization. For example, social entrepreneurship likely involves the use of creative ideas to develop their products/service to satisfy general public and/or the use of volunteers to pursue cost-saving strategies.

207


Table 1: Key constructs and elements of social entrepreneurship Social objectives

Key elements

Organizational forms

Socially responsible management of financial flows Reference

Key elements

Reference

Key elements

Social innovation

Reference

Key elements

Reference

To create benefits for community (e.g. jobs, support, local capacity buildingfor marginalized/disadvantaged groups, philanthropy)

(Alvord, Brown & Letts 2004; Maclean, Harvey & Gordon 2013)

Viable incomeearning strategies (e.g. delivery of goods/products)

(Anderson, Dees & Emerson 2002; Ascigil 2012; Shaw & Carter 2007)

Social enterprise

(Dart 2004; Korosec & Berman 2006)

Innovative initiatives

(Mair & MartĂ­ 2006)

To solve social problems (e.g. poverty, environmental issues, inequality)

(Doherty, Haugh & Lyon 2014)

Fundraising strategies (e.g. funding from outside organizations, angel investors)

(Austin, Stevenson & Wei-Skillern 2006; Certo & Miller 2008)

Commercial ventures

(Adams & Perlmutter 1991)

Creative resource mobilization (e.g. volunteers, supporters, social capital)

(Austin, Stevenson & WeiSkillern 2006)

To meet social needs (e.g. provide goods/services to marginalized/disadvantaged groups)

(Sean & McKenzie 2014; Shaw & Carter 2007)

Wealth distribution to all stakeholders

(Dacin, Dacin & Matear 2010)

Social ventures

(Dees, J. Gregory & Anderson 2003),(Sharir & Lerner 2006)

To catalyze social

(Adams &

Public

(Austin, Stevenson

186


Social objectives

Key elements transformations in the longterm (e.g. complementing social welfare system)

Socially responsible management of financial flows Reference

Perlmutter 1991; Alvord, Brown & Letts 2004)

Key elements

Reference

Organizational forms

Key elements

Reference

organizations

& Wei-Skillern 2006)

Non-profit organizations

(Ascigil 2012; Dees, J Gregory 1998; Lasprogata & Cotten 2003)

Commercial organizations

(Boschee & McClurg 2003; Emerson & Twersky 1996; Seelos & Mair 2005)

Hybrid enterprises

(Doherty, Haugh & Lyon 2014; Douglas 2015)

Social innovation

Key elements

Reference

187


3. Methodology The aim of this paper is to examine the divergence in perceptions of social entrepreneurship in practice. Two groups were selected for analysis: practitioners including a member of a network of Vietnamese social enterprises and an owner of social enterprise; professional trainers including two university lecturers about social enterprises. Because the investigation involved exploring “how” and “why” questions, focusing on the awareness of social entrepreneurship, rich data were really essential. Extant literature does not offer sufficient conceptual grounding as well as empirical evidence to enable us to develop hypotheses to link the complex relationships among above groups related to social entrepreneurship. The case study approach was thus considered most appropriate for our purpose (Eisenhardt 1989; McCutcheon & Meredith 1993; Yin 2003). Formal interviews took place in mid-February 2016. Each interview was focused on four fundamentals of social entrepreneurship: social objectives, socially responsible management of financial flows, organization forms and social innovation. Following the interviews, interviewees were subsequently re-contacted by either phone or email to request their assistance in verifying the recorded information. In line with analytical approaches recommended for qualitative research (Miles & Huberman 1984), the analysis sought common as well as contrasting patterns across the two cases, focusing on how they perceivefourconstructs of social entrepreneurship. Firstly, we conducted a within-case analysis of practitioners and trainers to make a specific description of the views. Secondly, we performed a cross-case analysis, comparing and contrasting the two approaches. The comparison led to development of theoretical framework. 4. Analysis 4.1.Within case analysis 4.1.1. As a practitioner From a Networker’sviews Ms. NNNN - Chairman of a network of Vietnamese social enterprise. This network was established primarily to connect businesses in the creative industries who had the desire to develop into social enterprises, then openedto other sectors, non-governmental organizations, charity funds, businesses doing social responsibilities, to build a network of mutual supports, tied up for the goal of solving social issues in Vietnam, building a better society of more eco-friendly and more sustainable development. As a network builder, Ms. NNNN considered social enterprises as sub-sectors of highly innovative industries. Seeking business opportunities, creating innovative products or services and motivating other businesses not only created profit for social enterprises but

188


also generated social outcomes. She argued that the development oflegal framework for innovative industries would be a catalyst for social enterprises. In this orientation, an entrepreneur should build their image to go towards ‘social innovative entrepreneurship’. In her perspective,social entrepreneurial innovation wasan entrepreneurial activity withowner’s willingness and capacity to create innovative products/services to solve social problems under the privatization and market-driven mechanisms. As a socialenterprise, social entrepreneurial innovators had a legitimate right to become wealthier, but shouldgive priority to the social responsibility and social values based on profit and personal gains.She also emphasized that the philanthropic naturelies in thecentral missions of each social enterprise, e.g. providing employment to marginalized and disadvantaged people. Simultaneously,social enterprisesindirectly create opportunities for them to participate in the value chain of the products or services. From a Social Entrepreneur’s views Mr. SSSS is a co-founder and an owner of a social enterprise in Vietnam. He has developed a social project based on an initiative that provides photographic services to target customers. His enterprise employsand trains young people with disability to be professional technicianswith capacity to work with photographs and devices based on information technology (IT). He and his peer founder are also designing other business models to provide jobs and training for disadvantaged people. He aims at creating social impacts on public awareness about people with disability and their self-awareness of their competencies. Mr.SSSS definedsocial entrepreneurship as a person who ‘aims at social value/surplus creation for community with risk-taking attitude and action-driven thinkingthroughinitiatives and collaborative relationships’. He cites social value creationas processes of initiating a social enterprise, addressing social problems, being influential to groups of community and changing public awareness aboutdisadvantaged groups. For example, one of his projectsfocuses on providing IT training and improving employability for young people with disability. Those people, after training, are able to seek their job with higher levels of confidence and self-awareness. As a result, the public is more aware of their skills and competencies.He also emphasized the importance of opportunity recognition and exploitation through which a social enterprise creates social value.He asserted that individual social entrepreneurs had capacity to identify social problems as an opportunity and ultimately address them. Social entrepreneurs, he cited,pursue dual objectives of personal gains and benefits for the whole community. 4.1.2. As a professional trainer Professional trainer1 Mr. PPPP was a trainer working on the field of social entrepreneurshipata university in 189


Hanoi.He hadbeen teachingand training social entrepreneurship for more than 10 years.He had expertise in entrepreneurship and business management, which provided a strong basis for his research on social entrepreneurship. So he recognized that social entrepreneurship involved both entrepreneurial thinking and actionstowardsthe society through profit generation and social value creation. Accordingly, Mr. PPPP conceptualized social entrepreneurship as ‘businessesaiming at addressing social problems and catalyzing social changes throughincome-earning strategies’.Social entrepreneurship, in his perspective, isdeveloped through the establishment of social enterprisesproviding solutions to social problems and generating profit in asocially responsible manner.He stressed the role of delivery of products/services to improve financial viability in social value creating activities of social enterprises. He suggested that social entrepreneurship could existacross varioussectors and types of organizations with different levels of awareness andaction taking. However, he insisted that social entrepreneurship primarily relies on the development of social enterprises, rather than other organizational forms. Professional trainer 2 Ms. TTTTwas a professional trainer collaborating with social entrepreneurs and a network of social enterprises and teaching undergraduate and postgraduate programs at a universityin Hanoi.Her background was business management and entrepreneurship. She gained understandings of social entrepreneurship through workshops andconferences on this issue and from networks of social enterprises that she worked with. She defined social entrepreneurship as ‘expressions of entrepreneurial behaviors and thinking towards sustainable development in society and expressions of willingness to make personal sacrifices in order to address social problemstowards sustainable development’. She cited that sustainable social development involvedresolutions to social problems (e.g. unemployment, environmental issues) and provision of opportunities to disadvantaged people.She considered social entrepreneurship asprocesses starting with pursuing philanthropic and ethic goals as key priority, andthen carrying out economic viable activitiesthrough for-profit projects. 4.2. Intra-group analysis A comprehensive comparison was made to see similarities and differences between perspectives of respondents within each group as demonstrated in Table 2 and Table 3. The practitioner group The similarities in views of the practitioner grouplie in key social values created by social entrepreneurship. Both practitionersagree thatsocial valuecreation includes yielding benefits for community and catalyzing the long-term changes for the society. Another point gaining agreements from both practitioners is socially responsible strategies to 190


manage financial flows. They have a consensus that social entrepreneurship involves the capacity to generate corporate income from provision of products/services to market and obtain funding from various sources to finance their ventures. On the other hand, social entrepreneurship has to be financiallyresponsible for all stakeholders (e.g. employees as disadvantaged people) and individual social entrepreneurs as well.Social innovation is also a similar aspectmentioned by both practitioners, especially in innovative ideas and initiatives through which social values are delivered. However, there are some disparities in their perspectives. First, their primary social objectives vary depending on experiences they gain from reality.While Ms. NNNN asserted that philanthropic natureof activities are one of the key aspects of social entrepreneurial goals, Mr. SSSS thought it is better and useful for disadvantaged groups to be well trained and socially recognized in the labor market. Second, social entrepreneurship exists only in social enterprises according to the networker, while the social entrepreneurindicated thatit could span across all forms of organizations and social groups. Mr. SSSS has experiences for ventures created by government officers to provide training and employment for poor farmers. The trainer group There are some common points in trainers’ view of social entrepreneurship. First, both trainers unanimously agree that social entrepreneurship must in essence involve addressing social problems, e.g. unemployment, and catalyzing social changes towards social sustainable development. The second commonality is that socially responsible management of financial flowsencompasses provision of services/products, e.g. handicrafts, innovative products,to meet customers’ needs in the market, as well as fundraising activities from various organizations. Finally, both trainers have common understandings of social innovation in which products/services are created in an innovative manner. On the other hand, several discrepancies also arise in their views of social entrepreneurship. Mr. PPPPemphasized the importance of social responsibility in social entrepreneurial activities while Ms. TTTT stated that job creation for marginalized people is essentialin social entrepreneurship. Second, the mannerswith which wealth is distributed in social entrepreneurship differ in that Mr. PPPP mentioned that social returns and personal gains are paralleled whereas Ms. TTTT emphasized the personal sacrifices in expense of social values. Third, Mr. PPPP stated that social entrepreneurship could span across different organizations while Ms. TTTT primarily focused on the role of social enterprises in developing social entrepreneurship. 4.3. Cross-group analysis Another set of comparisons was conducted to see how perspectives adopted by two

191


groups differ with each other and with suggested theoretical framework.The intra-group analysis suggests that there are collectively consent ideas within each group. We continues to make comparison between common points obtained from each group’ perspectives as presented in Table 4. Most ofconstructs of social entrepreneurship were well recognizedand commonly understood by both groups. For example, both groups realized the importance of social benefits for community and social problem solutions in social entrepreneurial activities, e.g. unemployment. Or financial strategies, as suggested by both groups, primarily rely on delivery of products/servicesas well as fundraising activities to finance social entrepreneurial operations. However, the objectives of social transformations vary in different ways. Practitioners stated that social entrepreneurship catalyzes societal changes through explicit and specific objectives, e.g. improving awareness about disadvantaged people.Meanwhile,professional trainers viewed general objectives such as sustainable development, social long-term developmentas social values. 5. Discussions and concluding remarks This paper examines the current understandings of social entrepreneurship in Vietnam in relation to theoretical framework. We propose a conceptual framework that reflects key distinct features of social entrepreneurshipcomprising four definitionalconstructs: (1) Social objectives, (2) Socially responsible management of financial flows, (3) Organizational forms and (4) Social innovation. This framework is applied in focussedinterviews to see how practitioners and trainers in the context of Vietnam understand social entrepreneurship. The analysis suggests that while all proposed constructs are well recognized by trainers and practitioners,there are major gaps in understandings of social entrepreneurship. First, social objectives regarding social value creation are perceived as the key and foremost characteristics of social entrepreneurship among trainers and practitioners. Besides, the manners of socially responsible financial management involving social entrepreneurship are quite clear and well understood, which placed priority on social benefits over personal gains. Exceptionally, there is a view that social entrepreneurs should sacrifice personal benefits to social missions. Similarly innovation and creativity in operations are also emphasized in perspectives of social entrepreneurship. However, research subjects have differentviewsof how social objectives are understood. This finding is in line with theoreticalresearch by Choi and Majumdar (2014), suggesting that what is social value creation is still vague and is understood in various ways. Second, while some respondents recognized that the organizational forms of social entrepreneurship couldhave a broad range, othersrestrictedorganizational forms to social enterprise. This perspective can be seen in research by Dart (2004)whostressed the role of social enterprise in disseminating and developing social entrepreneurship.We

192


argue that this gap could be attributed to the personal bias towards respondents’experience of social entrepreneurship in practices and their networks they are embedded in. So this finding leads to the four propositions as follows: Proposition 1: The understandings of social objectives towards social value creation are dependent on experience, background and networks where respondents are embedded. Proposition 2: The understandings of organizational forms of social entrepreneurshipare dependent on experience, backgrounds and networks where respondents are embedded. 6. Limitations and future research directions This study’s emphasis on qualitative method with focussed interviewscauses the bias in the research towards paradigmatic preferences in responses. Particularly, the random selection of two respondents from two groups may not be sufficient to have insights into understandings of social entrepreneurship in practices in the context of Vietnam. To answer the overarching research question, a larger-scale research design need to be proposed, covering different groups and larger research samples.The further research needs to have the phase of focus group interviews, which obtains collective ideas of different groups to bring a complete picture of social entrepreneurship. Moreover, quantitative methods are also essential to test the implementation of a concept or a theory into practices as suggested by Sweeney, Grant and Mangan (2015). The quantitative data will provide better empirical evidence regarding how four constructs are reflected in understandings among respondents of various experience and backgrounds.

193


Table 2: Intra-group comparison among practitioners Constructs of Elements Social Entrepreneurship Social Objectives  To create benefits for community  To solve social problems

Networker’s perspectives

Yes - Through creation of creative products/services and philanthropic activities Yes

 To meet unmet social needs  To catalyze social transformations in the long-term  Income-earning strategies

Yes Yes – Spread of social values

 Fundraising strategies

Networks of supporters, funders, NGOs

 ‘Social’ wealth distribution

 Social gains are top priority (for all stakeholders)  Personal gains are second important

Organizational forms

 Range of organizations

 Social enterprises in innovative and creative industries  Commercial andnon-for-profit organizations not mentioned

Social innovation

 Innovative initiatives

Yes - Innovative products/services

 Creative resource mobilization

Not mentioned

Socially responsible management of financial flows

194

Yes - Delivery of innovative products/services

Social Entrepreneur’s perspectives

Yes - Through provision of training and employment for disadvantaged groups Yes – Addressing unemployment and environmental issues Not mentioned Yes – changing disadvantaged people’s self-awareness and public awareness Yes – Information technology-based services Individual capital contributions Supporters, Angel investors  Personal gains in line with social gains  Fairness salary and rates for employees who are disadvantaged people  Social enterprises, Social ventures  Varying across different sectors  Commercial, non-for-profit organizations and government sector not mentioned Yes –Brainstormingtasks among cofounders to design a social entrepreneurial plan  Volunteer human resources  Voluntary funding resources from social networks with non-for-profit organizations, CSIP and other funders


Table 3: Intra-group comparison among professional trainers Elements Trainer 1’s perspectives

Constructs of Social Entrepreneurship Social Objectives  To create benefits for community  To solve social problems

Socially responsible management of financial flows

 To meet unmet social needs  To catalyze social transformations in the long-term  Income-earning strategies  Fundraising strategies  ‘Social’ wealth distribution

Organizational forms

 Range of organizations

Social innovation

 Innovative initiatives  Creative resource mobilization

Yes – through social responsibilities Yes – Addressing unemployment and environmental issues Not mentioned Yes – Social development in the long term Yes - Delivery of products/services Individual contributions and investors Public supporters  Social gains are top priority (for all stakeholders)  Personal gains are second important

 Varying across different sectors  Social enterprises are most important  Commercial, non-for-profit organizations and government sector not mentioned Yes - Products/services Not mentioned

Trainer 2’s perspectives

Yes - Through provision of employment for marginalized groups Yes – Addressing unemployment and environmental issues Not mentioned Yes – Sustainable development Yes – Provision of handicrafts Individual capital contributions NGOs, Commercial enterprises  Benefits for the disadvantaged are top priority  Personal wealth sacrifices  Reinvestment of at least 50% of profit for social purposes  Social enterprises, Social ventures  Commercial, non-for-profit organizations and government sector not mentioned Yes –Creative handicrafts and environmental initiatives Not mentioned

195


Table 4: Cross-group comparison Constructs of Social Elements Entrepreneurship Social Objectives  To create benefits for community

 To solve social problems  To meet unmet social needs  To catalyze social transformations in the long-term Socially responsible management of financial flows

 Income-earning strategies

 Fundraising strategies

 ‘Social’ wealth distribution

Organizational forms Social innovation

 Range of organizations  Innovative initiatives

 Creative resource mobilization

196

Practitioner’s perspectives Yes - Through creation of creative products/services and philanthropic activities Through provision of training and employment for disadvantaged groups Addressing unemployment and environmental issues Yes – Spread of social values Changing disadvantaged people’s selfawareness and public awareness Yes - Delivery of innovative products/services Information technology-based services Networks of supporters, funders, NGOs Individual capital contributions Supporters, Angel investors  Social gains are top priority (for all stakeholders)  Personal gains are second important Differed Yes - Innovative products/services Brainstorming tasks among co-founders to design a social entrepreneurial plan -

Professional Trainer’s perspectives Yes - Through provision of employment for marginalized groups Through social responsibilities Yes – Addressing unemployment and environmental issues Not mentioned Yes – Sustainable development Social development in the long term Yes –Delivery of products/services Provision of handicrafts Individual capital contributions NGOs, Commercial enterprises Public supporters Differed

Differed Yes –Creative handicrafts and environmental initiatives Products/services Not mentioned


Reference list

1. Adams, C & Perlmutter, F 1991, 'Commercial Venturing and the Transformation of America's Voluntary Social Welfare Agencies', Nonprofit and Voluntary Sector Quarterly, vol. 20, no. 1, pp. 25-38. 2. Alvord, SH, Brown, LD & Letts, CW 2004, 'Social Entrepreneurship and Societal Transformation: An Exploratory Study', The Journal of Applied Behavioral Science, vol. 40, no. 3, pp. 260-82. 3. Anderson, BB, Dees, J & Emerson, J 2002, 'Developing viable earned income strategies', Strategic tools for social entrepreneurs: Enhancing the performance of your enterprising nonprofit, pp. 191-234. 4. Ascigil, SF 2012, 'Social Entrepreneurship: From Definition to Performance Measurement', American Journal of Entrepreneurship, vol. 5, no. 1, pp. 26-36. 5. Austin, J, Stevenson, H & Wei-Skillern, J 2006, 'Social and Commercial Entrepreneurship: Same, Different, or Both?', Entrepreneurship Theory and Practice, vol. 30, no. 1, pp. 1-22. 6. Boschee, J & McClurg, J 2003, 'Toward a better understanding of social entrepreneurship: some important distinctions'. 7. Certo, ST & Miller, T 2008, 'Social entrepreneurship: Key issues and concepts', Business Horizons, vol. 51, no. 4, pp. 267-71. 8. Choi, N & Majumdar, S 2014, 'Social entrepreneurship as an essentially contested concept: Opening a new avenue for systematic future research', Journal of Business Venturing, vol. 29, no. 3, pp. 363-76. 9. Dacin, PA, Dacin, MT & Matear, M 2010, 'Social Entrepreneurship: Why We Don't Need a New Theory and How We Move Forward From Here', Academy of Management Perspectives, vol. 24, no. 3, pp. 37-57. 10. Dart, R 2004, 'The legitimacy of social enterprise', Nonprofit management and leadership, vol. 14, no. 4, pp. 411-24. 11. Dees, JG 1998, The meaning of social entrepreneurship, Kauffman Center for Entrepreneurial Leadership. 12. Dees, JG & Anderson, BB 2003, 'For-Profit Social Ventures', International Journal of Entrepreneurship Education, vol. 2, pp. 1-26. 13. ---- 2006, 'Framing a theory of social entrepreneurship: Building on two schools of practice and thought', Research on social entrepreneurship: Understanding and contributing to an emerging field, vol. 1, no. 3, pp. 39-66. 14. Doherty, B, Haugh, H & Lyon, F 2014, 'Social Enterprises as Hybrid Organizations: A Review and Research Agenda', International Journal of Management Reviews, vol. 16, no. 4, pp. 417-36. 15. Douglas, H 2015, 'Embracing hybridity: a review of social entrepreneurship and enterprise in Australia and New Zealand', Third Sector Review, vol. 21, no. 1, p. 5. 16. Eisenhardt, KM 1989, 'Building Theories from Case Study Research', The Academy of Management Review, vol. 14, no. 4, pp. 532-50. 17. Emerson, J & Twersky, F 1996, New social entrepreneurs: The success, challenge and lessons of non-profit enterprise creation, The Homeless Economic Fund, the Roberts

197


Foundation. 18. Korosec, RL & Berman, EM 2006, 'Municipal Support for Social Entrepreneurship', Public Administration Review, vol. 66, no. 3, pp. 448-62. 19. Lasprogata, GA & Cotten, MN 2003, 'Contemplating" enterprise": The business and legal challenges of social entrepreneurship', American business law journal, vol. 41, no. 1, p. 67. 20. Maclean, M, Harvey, C & Gordon, J 2013, 'Social innovation, social entrepreneurship and the practice of contemporary entrepreneurial philanthropy', International Small Business Journal, vol. 31, no. 7, pp. 747-63. 21. Mair, J & MartĂ­, I 2006, 'Social entrepreneurship research: A source of explanation, prediction, and delight', Journal of World Business, vol. 41, no. 1, pp. 36-44. 22. McCutcheon, DM & Meredith, JR 1993, 'Conducting case study research in operations management', Journal of Operations Management, vol. 11, no. 3, pp. 239-56. 23. Miles, MB & Huberman, AM 1984, 'Qualitative data analysis: A sourcebook of new methods'. 24. Mort, GS, Weerawardena, J & Carnegie, K 2002, 'Social entrepreneurship: Towards conceptualization and measurement', American Marketing Association. Conference Proceedings, vol. 13, p. 5. 25. Nicholls, A 2010, 'The Legitimacy of Social Entrepreneurship: Reflexive Isomorphism in a Pre-Paradigmatic Field', Entrepreneurship Theory and Practice, vol. 34, no. 4, pp. 61133. 26. Peredo, AM & McLean, M 2006, 'Social entrepreneurship: A critical review of the concept', Journal of World Business, vol. 41, no. 1, pp. 56-65. 27. Sean, K & McKenzie, K 2014, 'Social entrepreneurship and services for marginalized groups', Ethnicity and Inequalities in Health and Social Care, vol. 7, no. 1, pp. 3-13. 28. Seelos, C & Mair, J 2005, 'Social entrepreneurship: Creating new business models to serve the poor', Business Horizons, vol. 48, no. 3, pp. 241-6. 29. Sharir, M & Lerner, M 2006, 'Gauging the success of social ventures initiated by individual social entrepreneurs', Journal of World Business, vol. 41, no. 1, pp. 6-20. 30. Shaw, E & Carter, S 2007, 'Social entrepreneurship: Theoretical antecedents and empirical analysis of entrepreneurial processes and outcomes', Journal of Small Business and Enterprise Development, vol. 14, no. 3, pp. 418-34. 31. Short, JC, Moss, TW & Lumpkin, GT 2009, 'Research in social entrepreneurship: past contributions and future opportunities', Strategic Entrepreneurship Journal, vol. 3, no. 2, pp. 161-94. 32. Sweeney, E, Grant, DB & Mangan, DJ 2015, 'The implementation of supply chain management theory in practice: an empirical investigation', Supply Chain Management: An International Journal, vol. 20, no. 1, pp. 56-70. 33. Yin, RK 2003, Case study research: Design and methods, 3rd edn. Applied Social Research Methods Series, vol. 5, Sage Publications, Thousand Oaks.

34. Zahra, SA, Gedajlovic, E, Neubaum, DO & Shulman, JM 2009, 'A typology of social entrepreneurs: Motives, search processes and ethical challenges', Journal of Business Venturing, vol. 24, no. 5, pp. 519-32.

198


REFERRING THE LEGAL FRAMEWORK AND POLICY FOR SOCIAL ENTERPRISE IN VIETNAM TO ASEAN SOCIO- CULTURAL COMMUNITY Nguyen Thuong Lang National Economics University

Abstract The revised Enterprise Law of Vietnam in 2014 has stipulated the type of Social Enterprise (SE) to achieve two targets at the same time. On the one hand, it would fully mobilize all of the resources for development; on the other hand, it would assist the persons with disabilities to have their incomes to improve their lives. Besides, ASEAN Socio-Cultural Community (ASCC) has been effective since 2016 that would solve the social problems among several purposes agreed by all of ASEAN members. The legal framework for Social Enterprise in Vietnam and ASCC has some shared regulations and requirements. However, in comparison with the diversified scale of ASCC, the legal framework for Social Enterprise in Vietnam needs to be made perfection to proactively integrate into ASEAN Community. In other words, ASCC may be the first comprehensive standard to that the legal framework and policy would be referred. The paper would make comparison of the Vietnam’s legal framework and policy with the ASCC to determinate the specific dimension to be perfected. So, the main research method that would be used to achieve the research purpose is the benchmarking. The research results would be the criteria to analyze and to evaluate the legal framework and policy of Vietnam to be improved in the most effective way. It would also provide the important experience to develop such the Social Enterprise in Vietnam in line with the regional tendency. Key words: Legal Framework, Policy, Social Enterprise, ASEAN Socio-Cultural Community. Introduction Social enterprise has been developed in the world for some decades and they have revealed their advantages over that of the ordinary enterprises. Generally speaking, the social enterprise is a special kind of institution for value making in the economy as a whole. It also partly solves the social problems such as the job creating for persons with disability, the youths and the elderly. For the countries with low income and modest social welfare, in which there are great number of invalids, elderly, persons with disability and high rate of unemployment, the social enterprises play a very important role for solving the social problems. If well being organized, the social enterprises would be the effective tool to economize the national budget for social problems. 199


In parallel with establishing ASEAN Political Security Community (APSC) and ASEAN Economic Community (AEC), ASCC is a new unified socio-cultural base among ASEAN members. ASCC, on the one hand, is the community characterized by people-centered framework in which there have a lot of social problems inside all of the members; on the other hand, is a set of common standards among regional countries to be considered as the normal and unofficial terms of reference for establishing and implementing the policy applied to every member country. ASCC opens the members a new approach to go to one-identity region in which all of the social problems are understood and solved at the higher and wider scale. The framework of ASCC covers most social problems in all member countries including Vietnam. Vietnam is a country having a lot of social problems related to job creation, war invalids, youths, elderly, the crimes and the issue of social security in the integration heavily pressed by international competition. The Enterprise Law in 2014 stipulates the new legal form of enterprise called the SE despite of the spontaneous establishment of social groups of person with disability functioning SE. SE can be considered as one of the most effective tools to support the strategy of social problem solving. The analyzing the situation of SEs of Vietnam can be used as a case study to make analysis on the legal framework and policy of Vietnam in comparison with the ASCC. In other word, ASCC provides a very wide and comprehensive standard or the terms of reference for Vietnam to make the necessary changes of the legal framework and policy to gradually adapt to the tendency of socio-cultural integration. However, so far, there have not had many researches on this specific issue in Vietnam although some have focused on the SE conducted by British Council, Central Institute for Economic Management (CIEM). Unfortunately, ASCC has not been taken into consideration of these scientific works, therefore, this research tries to do the first attempt to make perfect Vietnam’s legal framework and policy in term of reference to it. In order to achieve the purpose of research, the paper would use the benchmarking with the database gathered from Vietnam General Statistical Office, ASEAN database and other official sources of information. The content of ASCC covers both social issues and cultural aspects in a very wide range so it needs to be narrowed to a suitable range of issues closely related to social problems. Then the narrowed range will be analyzed and selected to serve the research as the standards to make benchmarking in the research. Because of the comprehensive and large range of the social problems stipulated by ASCC meanwhile in Vietnam the legal framework and policy for SE has been built for 2 years, hence, it can be used as the term of reference for improving Vietnam’s legal framework and policy for SE.

200


ASEAN SOCIO-CULTURAL COMMUNITY AS THE COMPREHENSIVE TERM OF REFERENCE FOR SOCIAL ENTERPRISE

Compared to other integrations like EU10, NAFTA11 and WTO12 that is a kind of “rule by law”-based institution, ASEAN mainly is a “rule by man”-based framework. The terminology “Association”13 or “Community”14 partly says about the higher level of flexibility than that of “Union” in EU, “Agreement” in NAFTA and “Organization” in WTO implying the soundness and high stability of the structure. That means the enforcement and efficiency of almost commitments within ASEAN is not high enough to put the strong and sound pressure on all of actions of the members. ASCC is a very first agreement about socio-cultural issues within ASEAN in which Vietnam is a member. Specifically, the guideline of ASCC is not an international legal agreement and written only in the form of the blueprint, it provides a full content of socio-cultural issues in the way of thinking of ASEAN. The commitments of ASCC15 range on 5 main areas including the human development, social welfare and protection, social justice and rights, ensuring environmental sustainability and building ASEAN identity. By nature, such these main areas construct 5 basic dimensions of the term of reference for the perception on the social problem to that SE tries to approach. (FIGURE 1) FIGURE 1: ASCC AS THE TERM OF REFERENCE FOR SOLVING SOCIAL PROBLEM

Human development

Social welfare and protection Social problem

Social justice and rights

Ensuring environmental sustainability Building identity

Source: Author

Among all of 5 dimensions in Figure 1, the first four dimensions can be explained by ASCC in connection with the social problem –based legal framework and policy as follows: Human development mainly contains advancing and prioritizing education, investing in human resource development, promotion of decent work, and strengthening entrepreneurship skills for women, youth, elderly and persons with disabilities. According to the dimension, the women, youth, elderly and persons with disabilities are the main subjects to be solved by SE. Social welfare and protection basically focuses on the poverty alleviation, social safety 10

European Union Northern American Free Trade Agreement 12 World Trade Organization 13 This is the first word of the Acronym “ASEAN” representing the nature of this form. 14 ASEAN Community has three pillars including ASEAN Political Security Community (APSC), ASEAN Economic Community (AEC) and ASEAN Socio- Cultural Community that come into effect from the 1st January 2016. 11

15

Available at: www.fes-asia.org/media/Programs/ASEAN Blueprint

201


and protection from the negative impacts of integration and globalization, accessing to healthcare and promotion of healthy lifestyles and ensuring a drug freedom. Social justice and rights greatly concentrates on the promotion and protection of the rights and welfare of women, children, the elderly, and person with disabilities; protection and promotion of the rights of migrant workers, promoting corporate social responsibility. Ensuring the environmental sustainability pays much attention to promoting sustainable development through environmental education and public participation, promoting environmentally sound technology, promoting quality living standards in cities/urban areas, promoting the sustainable use of coastal and marine environment, etc. ANALYZING THE NATURE FRMEWORK AND POLICY

OF

SOCIAL ENTERPRISE

AND

ITS

LEGAL

SE is a common kind of enterprise in different countries that aims to simultaneously achieve two purposes- financial and social ones, and there have been a lot of ways of expressing its meaning. The Social Enterprise Promotion Act (SEPA) of the South Korea in 2007 defines “SE is a kind of enterprise established to contribute to social integration and the improvement of citizen’s quality of life by expanding social services which are not sufficiently support for the establishment and operation of SEs and the promotion of SEs”. (Ministry of Employment and Labor, 2012). SE can be defined as a business created to further a social purpose in a financially sustainable way. (http://www.nesst.org/social-enterprise). According to SE has been recognized by many words or terms: “social businesses,” “social-purpose businesses,” “mission-driven businesses,” “social ventures,” etc. Whatever the word, SE operates with a “double bottom-line” of generating financial return while simultaneously advancing a social mission. (http://www.nesst.org/social-enterprise) Besides, there have some complementary definitions (http://www.centreforsocialenterprise.com/what-is-social-enterprise): - SE applies an entrepreneurial approach to addressing social issues and creating positive community change. - SE is a business that uses entrepreneurial methods to accomplish social goals and/or feed profits to a parent charity or non-profit to enable it to fulfill more of its own social mission. - SE is a revenue-generating business with primarily social objectives whose surpluses are reinvested for that purpose in the business or in the community, rather than being driven by the need to deliver profit to shareholders and owners. From the definitions above, the nature of SE can be mainly understood in 3 following aspects. 202


- In term of economic term, SE is a value-added agent for economy as a whole by using the capital, labor and other factors of production. SE can supply goods and services to meet the market demand in the most effective way including the profitable one. It also accelerates the circulation of the transactions in the economy as a whole. This aspect provides the important characteristic of SE to differentiate it from other similar institutions like charity organizations or donation institution, etc what mainly focus on the non-profitable purpose. To some extent, SE still sets the purpose of profit making then distributes in majority it to all of its members in the appropriate way. It also enjoys the incentives from the policy in term of exempted and reduced corporate income tax, low rent for land using and easy approaching to the favorable funds. - In term of legal aspect, SE is a legal entity with juridical person of consistency in accordance with the law. Therefore, the administrative procedures of its establishment, operation and termination are stipulated by the law. Moreover, its structure and scope of business are consistent with the legislation. Besides, all of the disputes related to SE shall be settled in the lawful formality. - In term of social dimension, SE is an organizational way to solve the social problems like unemployment, people with disability, the elderly, women, children, war victim, criminal prisoner, invalids, prostitution, etc. SE, on the one hand, produces the products or/and service; on the other hand, tries to help the people with disability or with sensitive situation overcome their lives’ difficulties. From this aspect, SE is an instrument to make sure of the equality to all people by the way of the welfare redistribution among its stakeholders. SE greatly differs from the concept “corporate social responsibility (CSR)� that only refers to the small and irregular part of the corporate responsibility on the form of spending some time and money to serve the community in the specific cases. CSR is voluntary and it does not exclude the possibility to be used as the advertisement instrument for improving the corporate reputation. In contrary, SE is a long-term and sustainable business institution. The legal framework and policy for SE can be understood as a set of regulations issued by the government or any other authoritative agency to build the mechanism in which SE operates. It has been changed from the center of negative selection (business is only permitted) towards that of the positive selection (business is not prohibited) under the pressure of the trade liberalization. The range of the business for SE is very wide and it can be expanded in parallel with the development of the scope and scale of the business in the large space of connected countries in the suitable form of integration like a regional association or an international community. BENCHMARKING LEGAL FRAMEWORK AND POLICY OF SOCIAL ENTERPRISE IN VIETNAM WITH ASCC

Vietnam has been being a full member of ASEAN in general since 1995 and of ASCC in 203


particular since 2009, therefore, the rights and obligations of Vietnam have been committed to them. The content of ASCC, by nature, is a full socio-cultural institution being equivalent to the framework of APSC and AEC. All of these interrelated communities construct ASEAN community as a unified system. In other words, ASCC can be considered as the ASEAN standardized values for socio-cultural referencing in which SE is only an agent to make value. ASCC is specially characterized by a unity in diversity that covers all of the socio-cultural spheres of all countries including Vietnam. The legal framework and policy in Vietnam for developing SE has been being officially established in the Law of Enterprise 2014 although the social problems have been taken into consideration in several laws and policies like Law of Cooperative, Civil Code, National Objective Program on New Rural Building and National Objective Program on Sustainable Poverty Alleviation. The Law of Enterprise, firstly, creates the widest playing field for business from Vietnam and foreign countries by that all businesses have the right to do their business in the not prohibited field. The Law of Cooperative (Article 3) focuses on the building cooperatives to foster the job creation and mutual assistance among its members in different business activities as the agro-fishery, forestry, handicraft, mechanism repair. The Civil Code sets the rule for political-social, professional and socio-professional associations what have functions to solve the social problems. The National Programs are lengthened in 5-10 years to improve the livelihood for farmers in the rural areas and for inhabitants in the socio-economic difficult and special socio-economic difficult regions16 in Vietnam. Besides, the campaigns for assisting the poor are often activated by Vietnam’s Father Front- the largest national organization with the function to fully mobilize all of the forces in the society in order to achieve the national goals in term of economic development, social equality ensuring and others. Furthermore, Vietnam suffered in about 30 consecutive years of war has a great number of war victims, homeless people, the elderly, persons with disability, etc who need much assistance for their livelihood. The charity and donation associations in the pagodas or other organizations have not enough capacity to continuously solve the social problems so that need the strong coordination among these stakeholders to serve the purpose. According to the Law of Enterprise 2014, SE in Vietnam must satisfy the compulsory criteria. The first is that it must be registered and established in accordance with the Law of Enterprise. The second is that its operation is for solving the social and environmental problems to serve the interest of the community as a whole. And the third is that at least 51% of its annum gross profit must be spent to make reinvestment to serve the social and environmental objectives. SE in Vietnam still has the right to be converted into non-social enterprise and vice verse in conformity with the legal procedure. Moreover, the owner or 16

The criteria for socio-economic difficult and special socio-economic difficult regions are stipulated by Government mainly from the very low level of its income in comparison with the average level of income of the country. The income of these regions is about a half of the countrywide level.

204


manager of SE shall be considered to get the assistance, support in achieving the license, certificate and the related permits. SE has the right to mobilize and receive the assistance in different forms from individual, enterprise, non-governmental organization and other organization of Vietnam and of foreign countries only to cover the management and operational cost of the enterprise and otherwise is not allowed. In case of getting the support and assistance, the performance of SE must be annually reported to the authoritative agencies. From the issuing the regulation on SE on Vietnam in 2014, the campaign on developing SEs has been appeared. Many SEs have been established in different fields like in the field of handicraft making, service providing or farm doing. However, the real supporting mechanism for SEs has been being experienced although some models of social cooperatives for invalids, person with disability or for prostitutions have been operated that provide a lot of jobs for their livelihood. The reality for doing business including the starting up and running SE in Vietnam in 2016 shows the low rank (90) of Vietnam out of 189 countries surveyed by World Bank. (FIGURE 2) The most worry criterion for SE in Vietnam is the set of procedures to starting up a business (108) and protecting the minority investors (122). The clarity of the legal framework and policy has not been enough for fast running business that may cause the low level of transparency for their implementation. Consequently, the low enforcement of legal framework and policy possibly nullifies all of the efforts of the entrepreneurship. FIGURE 2: RANKING DOING BUSINESS IN VIETNAM INCLUDING SOCIAL ENTERPRISE Overall ranking

Starting a Business

Dealing with Construction Permits

Getting Electricity

Registering Property

Getting Credit

Protecting Minority Investors

Paying Taxes

Trading Across Borders

Enforcing Contracts

Resolving Insolvency

90

119

12

108

58

28

122

168

99

74

123

Source: Doing Business (2016) There are different aspects being the term of reference for legal framework and policy of SE to ASCC in purpose, range of the social problems, structure, enforcement and others. (FIGURE 3) Despite of the difference in perception and legal framework and policy for SE among ASEAN countries, there are some common characteristics in term of social problems and environmental issues.

205


FIGURE 3: BENCHMARKING BETWEEN VIETNAM’S LEGAL FRAMEWORK AND POLICY WITH ASCC Vietnam’s legal framework and policy for SE

ASCC as the terms of reference

Purpose

Concentrating SE on direct solving the social problem and environmental issues.

Establishing the peoplecentered community, environmentally friendly geared development, building a caring and sharing society,

The range of the social problems

Narrowing a list of the social problems and environmental issues for Vietnam case

Widening a great set of social problem, human rights and environment for ASEAN as a whole.

Structure

A specific kind of enterprise with clear structure

A community being symmetric with political security community and economic community.

Enforcement

SE is a legal form being suitable with the national legislation.

A guideline for value creating for ASEAN identity has high flexibility for all countries.

Others (time and definition on “social problem”)

Firstly introducing in 2014 and lacking of the precise and clear definition on social problem

Firstly launching in 2009 and dealing with full definition on social problem in the ASEAN vision.

Source: Author The benchmarking has shown that in comparison with ASCC, Vietnam’s legal framework and policy of SE is very narrow and it only focuses on the social problems and environmental issues. Referring to the ASCC in which the range of the social problems and environmental issues is very large, Vietnam’s framework and policy reveals its shortage of the clarity and of the full coverage over all of social problems and environmental issues. In Vietnam, the framework and policy has not fully explained about the nature and domain of SE specifically the difference between SE and other kinds of organization. SE is an instrument to connect Vietnam with the other members of ASEAN in the socio-cultural aspect. In other words, Vietnam’s framework and policy is easily controversy when it comes into enforcement because there are omissions and discrepancy in the range of social problems and environmental issues. The hesitation of the businessmen in front of the fast changes of the business environment in Vietnam is inevitable. Such this situation forces Vietnam fall in the “left-behind” situation.

206


SOME RECOMMENDATIONS

Vietnam has integrated into ASEAN for 20 years and joining ASEAN may be considered as the intermediate step to help Vietnam go further into the rest of the world. ASEAN has been being developed in the direction towards a comprehensive union, to some extent, like European Union. The conformity between Vietnam’s legal framework and policy with ASEAN framework in general and ASCC in particular becomes necessary for changing the thinking and doing actions. By benchmarking Vietnam’s legal framework and policy for SE with ASCC it can be seen that there are some asymmetries between them that requires Vietnam do some change to fit to the ASCC. ASCC may be used as the term of reference for improving Vietnam’s legal framework and policy for SE. Firstly, it is necessary to build full and precise definition on the social problems and environmental issues to catch up with the wide framework of ASCC. The most optimal choice for Vietnam policy makers in regard of SE is to look for the most effective way to apply the content of ASCC in term of SE to Vietnam’s situation. It is necessary to invest the efforts of the scientists, managers, business, policymakers and other stakeholders into clear making this definition as the starting point of basic change of the legal framework and policy. Besides, it is vital to simplify all of the procedures for SE setting up and apply the most effective supporting formality in term of finance, personnel and knowledge skills for SEs. Secondly, a countrywide propaganda for developing SE should be undertaken to improve the perception of the public on SE both in term of cost and benefit. Such the action program should be realized by the organizing conference, seminars, workshops, forum and discussion in pubic setting, exchange experiences within ASEAN countries or by using the mass media like television, radio and newspapers or internet devices to get much attention from different stakeholders to establishing SE. The successful cases for developing SEs in ASEAN should be gathered and analyzed to serve the learning process for managers of SE or other interested people. The public pressure is the strong motivation to look for and to collect all of the resources to invest into SE. Hopefully; this propaganda becomes the largest spillover effect on the community not only in Vietnam but also in ASEAN region. Thirdly, it is needed to build the network of SE in ASCC to closely connect between managers and policymaker for SE in all members of ASCC. This work is, on the one hand, to establish a cooperation mechanism among members of ASEAN dealing with SE; on the other hand, to realize the commitments in ASCC. It is to establish the club or association or the like for SE in ASEAN. This is the way to help to each other for developing SEs in ASEAN. The SE experts in ASEAN should be used to spread their knowledge on SE on all countries. 207


Conclusion It is said that in order to solve the social problem, there are different ways. SE is a kind of enterprise solving the social problem in the enterprise way that differs from the way implemented by another kind of organization or association like charity, non- profitable organization or by realizing the CSR. Vietnam has been proactively integrating into ASEAN as a friend, a reliable partner and a responsible member, ASCC is one of the 3 most important pillars of the system. ASCC is, possibly, the largest set of commitments among ASEAN members to the social problem solving and cultural setting to achieve the goal of establishing ASEAN community as a whole, therefore, it can be taken into consideration of term of reference for Vietnam’s legal framework and policy for SE. In Vietnam, there have been having a lot of social and environmental problems; therefore, SE is the most effective way to solve these for a long-term vision. In order to solve such these very complicated issues, it is necessary to improve the legal framework and policy for SE as the pre-condition to take advantage of the impact institution for developing SE. Besides that the experience and reality of solving the social problems for a long time needs the improvement of institution for SE, the ASCC may be the important source for referencing for Vietnam. Vietnam’s legal framework and policy for SE shall be improved in the direction that makes clear and perfect the regulations to assist SE effectively operate. In additions, the supporting and encouraging mechanism for SE in Vietnam should be in line with the ASCC to accelerate the integration into ASEAN. References 1. ASEAN (2007), ASEAN Socio-Cultural Community Blueprint (www.asean. org) 2. NUS (2014), Landscape of Social Enterprises in Singapore, Available at bschool.nus.edu/.../Social-Entrepreneurship-in-Asia-Working%20PaperLandscape-of-Social-Enterprises-in-Singapore.pdf 3. Prime Minister (2010), National Objective Program on New Rural Building and National Objective Program on Sustainable Poverty Alleviation. (In Vietnamese language). 4. Vietnam Communist Party (2016), The Political Document of the 12th Congress. Vietnam’s National Political Publishing House. The line on “Proactive integration” of Vietnam in the period 2016-2020. 5. Vietnam’s Constitution in 2013. 6. Vietnam’s Civil Code in 2015. 7. Vietnam’s Law of Cooperative in 2012. 8. Vietnam’s Law of Enterprise in 2014, Article 10. 9. World Bank (2016), Doing Business in Vietnam, http://www.doingbusiness.org/data/exploreeconomies/vietnam. 208


APPLYING TRIPLE BOTTOM LINE MODEL IN VIETNAMESE COMERCIAL BANKS ÁP DỤNG MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRIPLE BOTTOM LINE TẠI CÁC NGÂN HÀNG VIỆT NAM Tran Trong Phong Email: trantrongphong@gmail.com Nguyen Ngoc Tram School of Banking and Finance, National Economics University

Abstract: In this society, the banks develop under the sustainability criteria which linked to social responsibility is a proof for the diversity development of social enterprise model. Currently, the commercial bank system in the world is tending oriented sustainable development but it still has some difficulties. From the analysis of the achievements of some financial institutions in the world such as ShoreBank (USA) and a credit union Vancity (Canada) to see the importance the sustainable development of social responsibility in the world in general and Vietnam in particular. This study also analysis the achievements and difficulties at Sacombank and PGBank associated with social responsibility to make suggestions and solutions for the improvement of social responsibility in Vietnamese commercial banks. Keywords: corporate social responsibility, sustainable development, Triple Bottom Line model, commercial banks. Tóm tắt: Trong thời đại ngày nay, ngân hàng phát triển theo tiêu chuẩn bền vững gắn với trách nhiệm xã hội và cộng đồng cũng là một minh chứng của sự phát triển đa dạng mô hình doanh nghiệp xã hội. Hiện nay, hệ thống ngân hàng trên thế giới đang có xu hướng định hướng phát triển bền vững tuy nhiên các ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn trong vấn đề này. Tuy nhiên cũng đã có một số ngân hàng đang dẫn đầu trong việc định hướng chính sách gắn liền trách nhiệm xã hội và cộng đồng. Từ việc phân tích thành tựu của một số ngân hàng trên thế giới như ngân hàng ShoreBank (Hoa Kỳ) và Hiệp hội tín dụng Vancity (Canada) để thấy tầm quan trọng của việc phát triển bền vững gắn liền trách nhiệm xã hội và cộng đồng hiện nay trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng. Đồng thời, từ việc phân tích thành tựu và khó khăn về các chính sách đã triển khai tại một số ngân hàng ở Việt Nam với việc gắn liền trách nhiệm xã hội và cộng đồng để đưa ra đề xuất và giải pháp về việc nâng cao trách nhiệm xã hội và cộng đồng của các ngân hàng tại Việt Nam. Từ khoá: mô hình Triple Bottom Line, ngân hàng, phát triển bền vững,trách nhiệm xã hội.

209


Abstract: In this society, the banks develop under the sustainability criteria which linked to social responsibility is a proof for the diversity development of social enterprise model. Currently, the bank system in the world is tending oriented sustainable development but it still has some difficulties. From the analysis of the achievements of some financial institutions in the world such as ShoreBank (USA) and a Credit union - Vancity (Canada) to see the importance ofsustainable development in association withsocial responsibility in the world in general and Vietnam in particular. This study also analysis the achievements and difficulties at Vietnamese banks associated with social responsibility to make suggestions and solutions for the improvement of social responsibility in Vietnamese banks. Keywords: TripleBottom Line model, banks, sustainable development, corporate social responsibility.

Các quốc gia trên thế giới trong quá trình phát triển, chủ yếu tập trung vào phát triển kinh tế mà quên mất việc duy trì sao cho việc phát triển đó được bền vững, lâu dài. Đến thập kỷ 70 – 80 của thế kỷ XX, những hệ luỵ đầu tiên mà 2 thập kỷ phát triển kinh tế thuần túy mang lại đã xuất hiện, thể hiện qua sự biến động bất thường của thiên nhiên, sự ô nhiễm của môi trường… Những biến động này đã đánh thức nhận thức của nhân loại và làm xuất hiện một nhu cầu về phát triển các yếu tố xã hội, môi trường song song với phát triển kinh tế. Trong nội dung của bài viết, các tác giả giới thiệu mô hình Bộ ba cốt lõi bền vững(Triple Bottom Line- TBL) là một trong những mô hình định hướng phát triển bền vững dành cho các doanh nghiệp. Thông qua đánh giá việc áp dụng mô hình TBL tại một số ngân hàng Việt Nam, tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy việc các ngân hàng lưu ý hơn đến mô hình này. Tuy nhiên, các tình huống nghiên cứu trong bài mới chỉ dừng lại ở việc xem xét các ngân hàng lưu ý đến mô hình Bộ ba cốt lõi bền vữngtrong việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ cho khách hàng, chứ chưa tập trung vào việc áp dụng cho nội bộ ngân hàng. 1. Tổng quan chung về mô hình TBL Mô hình Triple Bottom Line (Bộ ba cốt lõi bền vững) được John Elkington (1997) giới thiệu lần đầu, sau đó được mở rộng và chính thức in với tên gọi “the Triple Bottom Line of 21st Century Business” (Bộ ba cốt lõi bền vững trong kinh doanh thế kỷ XXI). Một cách khái quái nhất, mô hình TBL cho rằng: Một doanh nghiệp cần tối ưu hóa cả 3 yếu tố kinh tế (Economic), xã hội (Society) và môi trường (Environment) để đảm bảo sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Khái niệm “phát triển bền vững” trong mô hình TBL có thể được hiểu là “sự phát triển trong đó đáp ứng các nhu cầu của hiện tại mà không làm ảnh hưởng đến lợi ích của các thế hệ tương lai”. Đây là khái niệm được Ủy ban Brundtland (1983) đưa ra và được chấp nhận rộng rãi trên thế giới. Mỗi doanh nghiệp tồn

210


tại trên thế giới đều có sự kết nối với cơ cấu xã hội và môi trường tự nhiên xung quanh chúng. Hoạt động của doanh nghiệp sẽ có tác động lên môi trường và xã hội, đồng thời môi trường và xã hội cũng có ảnh hưởng ngược lại đến kết quả và hiệu quả của doanh nghiệp. Chính vì vậy, doanh nghiệp có trách nhiệm bảo vệ và tác động tích cực tới môi trường, xã hội tại nơi mà nó đang hoạt động, không chỉ vì lợi ích chung mà còn vì lợi ích trước mắt cũng như lâu dài của chính bản thân doanh nghiệp. Mô hình TBL đã chỉ ra 3 yếu tố cốt lõi mà doanh nghiệp cần cân bằng và tối ưu hóa. Ba điểm mấu chốt “xã hội, môi trường, kinh tế” có thể được hiểu một cách rõ ràng hơn là “con người, hành tinh và lợi nhuận”.

Nguồn: Brian Boissonneault(2014) Yếu tố “Con người” phản ánh mối quan hệ của doanh nghiệp với lợi ích của người lao động cũng như cộng đồng dân cư trong khu vực mà doanh nghiệp hoạt động.Đây là mối quan hệ biện chứng, phụ thuộc lẫn nhau. Yếu tố “Hành tinh” lại phản ánh một mối quan hệ khác: quan hệ giữa doanh nghiệp với môi trường tự nhiên của địa bàn mà doanh nghiệp hoạt động. Một doanh nghiệp áp dụng mô hình TBL sẽ nỗ lực để bảo vệ và mang lại nhiều giá trị cho tự nhiên thông qua các hành động như:kiểm soát và cố gắng giảm thiểu mức tiêu thụ năng lượng cần thiết, giảm thiểu và xử lý chất thải một cách an toàn và hợp pháp… Yếu tố“Lợi nhuận” được xác định là lợi ích kinh tế tạo ra bởi doanh nghiệp sau khi trừ đi các khoản chi phí. Tóm lại, mô hình TBL thêmyếu tố môi trường và xã hội vào xem xét cùng với yếu tố lợi nhuận của doanh nghiệp. Nó làm thay đổi cách thức hoạt động của các doanh nghiệp, vì giờ đây doanh nghiệp đã có ý thức sâu sắc hơn về trách nghiệm đối với thế giới xung quanh chứ không chỉ tính đến yếu tố kinh tế, lợi nhuận như trước đây. Trong xu thế chung toàn cầu hiện nay, các vấn đề môi trường – xã hội ngày càng được quan tâm. Các ngân hàng thương mại cũng không thể đứng ngoài cuộc nếu không muốn bị cô lập. Thực tế đã chỉ rõ mối quan hệ hai chiều giữa doanh nghiệp với thế giới xung quanh, vì vậy ngân hàng, với tư cách một hình thức doanh nghiệp đặc biệt, cũng cần thể hiện trách nhiệm của mình đối với xã hội và môi trường. Việc áp dụng mô hình Triple Bottom Line vào hoạt động của các ngân hàng thương mại là cực kỳ cấp thiết vì lợi ích 211


của bản thân ngân hàng cũng như lợi ích chung của toàn cộng đồng. Ngân hàng cần quản lý rủi ro môi trường – xã hội của bản thân thông qua việc xem xét các yếu tố môi trường, xã hội của doanh nghiệp, dự án khi thẩm định tín dụng; chú trọng, hỗ trợ cho vay những dự án sạch, xanh, những dự án nhân văn, vì lợi ích cộng đồng…Tóm lại, việc áp dụng mô hình TBL vào hoạt động của các ngân hàng thương mại sẽ là một bước đi thức thời và cần thiết để ngân hàng hạn chế rủi ro, bảo toàn nguồn vốn cho vay, nâng cao uy tín và hướng tới sự phát triển bền vững, toàn diện, lâu dài, hòa nhập vào xu thế chung của thế giới. 2. Thực trạng áp dụng mô hình TBL của các ngân hàng trên thế giới Leanne Watson và Dan Larson (2009) trong tác phẩm “Ngân hàng áp dụng mô hình Triple Bottom Line: Đóng góp tốt cho xã hội là đóng góp tốt cho lợi nhuận bản thân” (The case for triple – bottom – line banking: How doing good means doing well) cũng chỉ ra tác động tích cực của việc áp dụng mô hình TBL vào hoạt động đối với các ngân hàng tại Hoa Kỳ, thông qua 3 ví dụ cụ thể là các ngân hàng: Shore Bank, Vancity và E3bank. Cả 3 tổ chức tín dụng này đều áp dụng mô hình TBL là kim chỉ nam cho hoạt động của mình. Tinh thần bảo vệ môi trường và đóng góp cho xã hội được thể hiện một cách trực tiếp như giảm lãi suất cho nhân viên, tiết kiệm năng lượng trong hoạt động của trụ sở ngân hàng hoặc một cách gián tiếp như cấp vốn cho các dự án cải tạo khu dân cư, hỗ trợ cấp tín dụng cho các doanh nghiệp muốn cải tiến công nghệ thân thiện với môi trường… Các hoạt động này đã xây dựng uy tín và lòng tin cho ngân hàng, đưa tên tuổi của ngân hàng lên cao, không chỉ giúp ngân hàng đứng vững trong thời kỳ khủng hoảng mà còn góp phần thu hút khách hàng, mở rộng thị phần so với các đối thủ cạnh tranh. Bài báo cũng chỉ ra, áp dụng mô hình TBL trong hoạt động là một hướng đi mới trong ngành ngân hàng, thậm chí có thể là một nhân tố giúp các ngân hàng vừa và nhỏ vươn lên cạnh tranh với các ngân hàng lớn đang nắm giữ hầu hết thị trường hiện nay. Một ví dụ minh họa sinh động cho thấy lợi ích của việc quan tâm đến yếu tố phát triển bền vững là trường hợp của Ngân hàng ShoreBank (Hoa Kỳ).ShoreBank là ngân hàng đầu tiên tại Hoa Kỳ hoạt động với mục tiêu lợi nhuận, sự phát triển cộng đồng và bảo vệ môi trường. Ngân hàng này đã thực hiện chính sách cấp tín dụng để nâng cấp và mua nhà ở cho người thu nhập thấp, đồng thời hỗ trợ cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ có chiến lược kinh doanh kết hợp phát triển bền vững. Cụ thể, đối với nhiều tòa nhà cần được nâng cấp nhưng người dân không có đủ nguồn lực tài chính để thực hiện, ShoreBank sẽ làm việc với các chủ nhà và chủ sở hữu tiềm năng, xem xét cẩn thận và phê duyệt các khoản vay để cải tạo, tu sửa các tòa nhà này, giúp đưa chúng vào sử dụng có hiệu quả. Từ năm 1973 đến năm 2011, ShoreBank đã tài trợ 35 tỷ đô la để cải tạo và mua hơn 50000 căn nhà. ShoreBank cũng tạo ra một sản phẩm thế chấp sớm. Ra mắt vào mùa thu năm 2007, gói tín dụng Rescue đã giúp hơn 170 gia đình ở thành phố Chicago (Hoa Kỳ) tiếp cận với các khoản vay thông qua các tổ chức khác để tái cấp vốn và có được một lãi suất thế chấp cố định 30 năm. Bên cạnh việc hỗ trợ dân cư trong cộng đồng, ShoreBank cũng thể hiện sự quan tâm đến môi trường thông qua việc tài trợ và cấp tín dụng cho việc xử lý chất thải gây ô nhiễm, tái phát triển các doanh nghiệp đã bỏ sản xuất, 212


giúp các doanh nghiệp có nguồn tài chính để thay đổi quá trình xử lý chất thải, giảm hoặc loại bỏ việc sử dụng các vật liệu độc hại. Năm 2007, các khoản cho vay với mục đích bảo vệ môi trường của công ty đã đạt 185 triệu đô la, số tiền đó được sử dụng để khôi phục và bảo vệ đất và nguồn nước. Cam kết của ShoreBank đối với cả ba yếu tố của mô hình TBL đã tạo sự khác biệt đối với các ngân hàng truyền thống và giúp ngân hàng này vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính 2007 – 2008. Trong giai đoạn khủng hoảng, khách hàng đã đặt sự an toàn lên trên và gửi tiền vào một ngân hàng mà họ tin tưởng, đây chính là lúc uy tín mà ShoreBank xây dựng thông qua các hoạt động hỗ trợ xã hội và môi trường trước kia phát huy tác dụng. Tiền gửi vào ShoreBank đã tăng đáng kể trong khoảng thời gian từ tháng 9 năm 2008 đến tháng 2 năm 2009 nhờ vào các cá nhân và các tổ chức từ thiện lớn. Ngân hàng này đã nhận được một lượng yêu cầu lớn từ các nhà thờ, các tổ chức cộng đồng để thuyết minh về thị trường, về các cuộc khủng hoảng nhà ở và hoạt động của ngân hàng trong thời gian này. Có thể thấy rằng: tầm nhìn xa thể hiện qua các gói sản phẩm, dịch vụ đã giúp ShoreBank đứng ngoài tình trạng khủng hoảng của hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ và vươn lên phát triển thịnh vượng (Watson và Larson, 2009). Không chỉ ở Hoa Kỳ, xu thế phát triển bền vững còn diễn ra ở các quốc gia khác.Có thể lấy một ví dụ là Vancity.Vancity là một hiệp hội tín dụng Canada có trụ sở chính ở Vancouver, British Columbia. Cũng như ShoreBank, Vancity có được thành công của mình nhờ áp dụng mô hình TPL, tập trung những sản phẩm của mình vào các lĩnh vực xóa đói giảm nghèo, chống lại biến đổi khí hậu và hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội. Hàng năm, Vancity dành 30% lợi nhuận của mình để hỗ trợ cho cộng đồng và các thành viên thông qua các hoạt động như: áp dụng lãi suất cho vay ưu đãi đối với các thành viên, tài trợ cho các hoạt động cộng đồng… Vancity cũng là một tổ chức tài chính đầu tiên giúp bù đắp lượng carbon từ việc sử dụng năng lượng trực tiếp và gián tiếp, kinh doanh du lịch, hoạt động di chuyển của nhân viên và việc tiêu dùng giấy. Theo báo cáo năm 2006 – 2007, tổ chức này đã giúp thiết lập một thị trường Canada cho việc bồi hoàn, thu mua 6.000 tấn để đạt được mục tiêu trung lập carbon. Vancity cũng cung cấp sản phẩm khuyến khích phát triển bền vững.Ví dụ, khách hàng sẽ có những khoản vay tốt hơn khi mua ô tô hoặc sửa chữa nhà cửa tiết kiệm năng lượng.Quỹ tương hỗ của Vancity cho phép khách hàng đầu tư vào những công ty có đầy đủ những yếu tố về tiến bộ xã hội, môi trường, và quản trị doanh nghiệp tốt. Trong khi các ngân hàng Hoa Kỳ lao đao và người dân Hoa Kỳ mất lòng tin vào hệ thống tài chính, 85 phần trăm người dân Canada rất tự tin vào các ngân hàng của họ, và các tổ chức tài chính Canada đã không chịu tổn thất lớn như các tổ chức tương tự ở Hoa Kỳ (Watson và Larson, 2009). Điểm chung của cả 2 ngân hàng kể trên chính là họ đã xây dựng, giữ gìn và tận dụng ở một thương hiệu tốt thông qua trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR). Họ đo lường sự thành công không chỉ bởi lợi nhuận, mà còn do tác động tích cực của họ về cộng đồng và môi trường. Chính nhờ mục tiêu rõ ràng và bền vững, cả 3 ngân hàng này đã khởi sắc mạnh mẽ trong khi các tổ chức tài chính khác chìm trong khủng hoảng. Vượt ra ngoài châu Mỹ, xu thế phát triển bền vững tiếp tục lan tỏa đến các ngân hàng ở châu Úc. Các ngân hàng tại Úc đã bắt đầu quan tâm tới mô hình TBL từ những năm 1990. 213


Tại thời điểm này, khi có không ít những hoài nghi về việc có hay không cần ba điểm chính cho sự phát triển bền vững, thì một số ngân hàng Úc đã ý thức được sự cần thiết cần phải có một kỷ luật, một giới hạn trên la bàn đạo đức kinh doanh, cái mà vượt qua nó thì lợi ích của công ty sẽ bị tổn hại. Họ đã ý thức được họ là những đại lý gắn kết trong xã hội và cộng đồng. Lợi nhuận của ngân hàng, hay lợi ích của các cổ đông, cần phải được kiềm chế, cân bằng với những nghĩa vụ đạo đức có liên quan tới chi phí môi trường, xã hội. Các ngân hàng có tác động quan trọng đến việc ra quyết định của các chủ thể khác trong nền kinh tế. Nếu ngân hàng giãn điều kiện cho vay, sẽ tạo điều kiện cho người dân mua nhà, các doanh nghiệp nhỏ có cơ hội để đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại, nếu ngân hàng thắt chặt điều kiện cho vay, người dân khó tiếp cận vốn, các doanh nghiệp cũng gặp bất lợi, lúc này, để cải thiện nền kinh tế cần phải có một khoản chi phí xã hội (Galamadien, 2011). 3.Thực trạng áp dụng mô hình TBL ở một sốngân hàng Việt Nam. Hiện nay ở Việt Nam, mô hình TBL còn khá mới mẻ và chưa được chính thức áp dụng, triển khai đối với các ngân hàng. Tuy nhiên các ngân hàng Việt Nam cũng đang từng bước áp dụng các chính sách hướng đến một trong ba yếu tố của mô hình là kinh tế, xã hội và môi trường. Về khía cạnh kinh tế, các ngân hàng luôn rất quan tâm, thậm chí coi đây là mục tiêu lớn nhất để theo đuổi. Những nỗ lực mở rộng cung cấp các dịch vụ nhằm tìm kiếm lợi nhuận, đồng thời đảm bảo duy trì hệ số an toàn vốn liên tục được đẩy mạnh. Về yếu tố xã hội và môi trường, nhiều ngân hàng đã và đang triển khai các chính sách hợp tác chú trọng và quan tâm hơn đến vấn đề xã hội và môi trường, đặc biệt là trong các gói tài trợ và tín dụng. Có thể kể đến một số ngân hàng đầu tiên có những bước đi hướng đến phát triển bền lâu thông qua xã hội và môi trường như NHTMCP Sài Gòn Thương tín (Sacombank), NHTMCP Công thương (Vietinbank), NHTMCP Kỹ thương (Techcombank)… 3.1. Những kết quả đạt được Là một ngân hàng phát triển theo định hướng an toàn bền vững và tiên phong nhận các nguồn vốn ủy thác từ các định chế tài chính quốc tế như IFC, FMO, ADB… nên từ năm 2005 Sacombank đã bắt đầu xây dựng những nguyên tắc về bảo vệ môi trường, con người và xã hội. Theo đó, Sacombank đưa ra chương trình đánh giá các tác động đến môi trường và xã hội đối với các khoản vay từ khâu thẩm định cho đến suốt quá trình sử dụng vốn của các khách hàng. Ngoài ra, Sacombank cũng đã ban hành danh mục các ngành nghề không cấp tín dụng dựa theo đánh giá mức độ rủi ro đến môi trường và xã hội. (Báo cáo thường niên của Sacombank, 2012) Ngày 10/12/2012, Sacombank chính thức tiếp nhận và trở thành ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên tại Việt Nam áp dụng “Hệ thống quản lý trách nhiệm với môi trường và xã hội” (ESMS) theo chuẩn mực quốc tế do Price waterhouse Coopers (PwC) Hà Lan tư vấn nhằm tăng cường quản lý các tác động đến môi trường – xã hội trong hoạt động cấp tín dụng đến các khách hàng. (Sacombank, 2012) Hệ thống ESMS mới của Sacombank được xây dựng theo các chuẩn mực quốc tế phù hợp với điều kiện tại Việt Nam thông qua việc đưa vào áp dụng nguyên tắc xích đạo (là hệ

214


thống các nguyên tắc được xây dựng cho ngành tài chính nhằm xác định, đánh giá và quản lý rủi ro môi trường - xã hội trong các giao dịch tài trợ dự án) và các chuẩn mực thực thi của IFC kết hợp với tiêu chuẩn về môi trường – xã hội của Việt Nam. Hệ thống này bao gồm bộ văn bản lập quy về chính sách môi trường – xã hội và quy trình thẩm định tác động đến môi trường – xã hội, bộ công cụ thẩm định tác động đến môi trường – xã hội và một chương trình đào tạo, triển khai hệ thống quản lý môi trường – xã hội trong quy trình cấp tín dụng. Bên cạnh đó, Sacombank còn thành lập nhóm ESMS tham gia vào quá trình thẩm định tác động đến với môi trường – xã hội trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các khách hàng vay vốn tại Sacombank. Hệ thống này bao gồm bộ văn bản lập quy về chính sách môi trường – xã hội và quy trình thẩm định tác động đến môi trường – xã hội, bộ công cụ thẩm định tác động môi trường – xã hội và một chương trình đào tạo, triển khai hệ thống quản lý trong quy trình cấp tín dụng. Nguyên tắc xích đạo trong hệ thống ESMS áp dụng cho 4 loại sản phẩm tài chính bao gồm các dịch vụ tư vấn tài trợ dự án và tài trợ dự án có tổng vốn đầu tư từ 10 triệu đô la trở lên; Các khoản vay doanh nghiệp liên quan dự án đáp ứng 4 tiêu chí: phần lớn khoản vay liên quan tới một dự án riêng mà bên nhận tài trợ có Hệ thống Giám sát hoạt động hiệu quả (trực tiếp hoặc gián tiếp), tổng gộp giá trị các khoản vay từ 100 triệu USD trở lên, cam kết riêng rẽ của EPFI (trước khi hợp vốn hoặc chuyển nhượng) đạt mức tối thiểu 50 triệu USD, thời hạn vay tối thiểu 2 năm; Các khoản vay bắc cầu có thời hạn vay dưới 2 năm có dự định tái cấp vốn bằng hình thức tài chính dự án hoặc khoản vay doanh nghiệp liên quan tới dự án có khả năng đáp ứng 4 tiêu chí trên. Với hệ thống ESMS mới, Sacombank sẽ đạt được các mục tiêu: quản lý rủi ro phát sinh từ các vấn đề có liên quan đến môi trường và xã hội để tránh tổn thất, giảm thiểu rủi ro danh tiếng, gia tăng hiệu quả trong hoạt động kinh doanh và gia tăng cơ hội đầu tư vào các hoạt động bảo vệ môi trường; thể hiện cao nhất trách nhiệm đối với môi trường và cộng đồng xung quanh; trở thành ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam triển khai áp dụng hệ thống ESMS đạt tiêu chuẩn quốc tế. Đặc biệt, thông qua việc áp dụng hệ thống ESMS này, sẽ tạo điều kiện cho Sacombank cơ hội tiếp cận và và thu hút các nguồn vốn tài trợ nước ngoài tín chấp với giá rẻ, bởi các định chế tài chính quốc tế khi ủy thác vốn cho các nước phát triển, luôn đòi hỏi các đơn vị tiếp nhận vốn phải đảm bảo các chuẩn mực ESMS. Sacombank hiện là ngân hàng thương mại cổ phần có đủ điều kiện tiếp cận các nguồn vốn nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam với tổng giá trị giải ngân đến thời điểm tháng 12/2012 là 2.100 tỷ đồng (các nguồn vốn ủy thác) và 105 triệu USD (nguồn vốn thứ cấp) từ các định chế như IFC, ADB, FMO, Proparco (Mỹ Quyên, 2012)... Theo đó, các dự án của ngân hàng này được phân loại dựa trên mức độ tác động đến môi trường. Trên cơ sở đó, Sacombank có thể ra quyết định có cấp tín dụng cho dự án hay không và có những kế hoạch giám sát, kiểm tra, thỏa thuận với khách hàng để giảm thiểu tối đa những ảnh hưởng của dự án đến môi trường. Giữa năm 2010 Techcombank và IFC đã ký một hợp đồng hợp tác về tín dụng cho vay trong lĩnh vực tiết kiệm năng lượng và sản xuất sạch hơn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo đó IFC sẽ đóng góp nguồn vốn 25 triệu USD và phần đối ứng còn lại là của 215


Techcombank. Techcombank định hướng phát triển mang đến cho khách hàng những giải pháp tài chính an toàn và hiệu quả nhất và tập trung phát triển phân khúc khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ, do đó hoàn toàn phù hợp với chương trình Tài trợ các dự án tiết kiệm năng lượng (Techcombank, 2015). Bên cạnh dự án hợp tác với IFC Techcombank đã tham gia vào nhiều dự án khác liên quan đến lĩnh vực tiết kiệm năng lượng như: dự án tín dụng xanh SECO do Chính phủ Thụy Sĩ tài trợ, Chương trình tiết kiệm năng lượng thương mại thí điểm (CEEP) và dự án phát triển Năng lượng tái tạo (REDP) do Word Bank tài trợ (Techcombank, 2015). Bên cạnh đó, một nhóm ngân hàng gồm Techcombank, ACB và VIB cũng đã tham gia làm đối tác của “Quỹ ủy thác tín dụng xanh” - GCTF ở Việt Nam. GCTF được thành lập từ sáng kiến của Cục Kinh tế Liên bang Thụy Sĩ (SECO) với mục đích thúc đẩy các dự án đầu tư trung và dài hạn trong đổi mới thiết bị, công nghệ theo hướng thân thiện môi trường thông qua việc hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mới đây, tại TP.HCM, GCTF đã giới thiệu các điều kiện cụ thể trong bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp Việt Nam. Theo đó, GCTF sẽ bảo lãnh đến 50% tổng giá trị khoản vay từ ngân hàng cho doanh nghiệp (khi doanh nghiệp cần vay để đổi mới dây chuyền, thiết bị sản xuất sạch hơn, cải thiện môi trường…) và thưởng đến 25% tổng giá trị khoản vay khi dự án đạt trên 50% mức độ cải thiện môi trường, thưởng 15% khi đạt trên 30% mức độ cải thiện môi trường. Mức thưởng tối đa một dự án là 200 ngàn USD. Thời gian GCTF cho vay một dự án kéo dài từ 2-3 năm và có thể hỗ trợ bảo đảm tín dụng từ 10 ngàn USD đến 1 triệu USD cho một dự án. Tuy nhiên, GCTF không can thiệp vào chính sách lãi suất của các ngân hàng và lãi suất này do doanh nghiệp thỏa thuận với ngân hàng (Phùng Long, 2011). Tại Việt Nam, GCTF có 3 đối tác tham gia là các ngân hàng thương mại Việt Nam gồm: ACB, Techcombank, VIBank; Trung tâm Sản xuất sạch Việt Nam – VNCPC; Trung tâm tham vấn tại Thuỵ Sĩ và Cục Kinh tế Liên bang Thụy Sĩ. Vai trò của ba ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ đánh giá doanh nghiệp về hiện trạng tài chính, đàm phán, thiết lập điều kiện vay (lãi suất, thời hạn vay, các điều khoản…), giải ngân và thu hồi vốn vay, khai thác khách hàng mới. Trung tâm Sản xuất sạch Việt Nam sẽ thẩm định dự án của doanh nghiệp về mặt kỹ thuật để xác định tính khả thi của dự án, tư vấn cho ngân hàng về tài chính của công nghệ sản xuất sạch hơn trong dự án và các vấn đề tác động đến môi trường, kiểm tra, đánh giá hiệu quả của dự án để xác định mức trả thưởng. Trung tâm tham vấn tại Thuỵ Sĩ sẽ tư vấn cho VNCPC về kỹ thuật đối với các dự án có giá trị tín dụng trên 100 ngàn USD. Cục Kinh tế Liên bang Thuỵ Sĩ phát hành thư tín dụng, chuyển tiền cho 3 ngân hàng Việt Nam thông qua RBC (Royal Bank of Canada)(Phùng Long, 2011). Tại Việt Nam, GCTF tập trung vào hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn điều lệ dưới 5 triệu USD và số nhân viên dưới 1 ngàn người. Theo đó, sẽ có rất nhiều doanh nghiệp trong ngành công nghiệp tại Việt Nam nằm trong mục tiêu hỗ trợ của GCTF như: các ngành như sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất thủy tinh, ngành nhựa, ngành dệt nhuộm, ngành chế biến thực phẩm, sản xuất thép, luyện kim, thuộc da, sản xuất hóa chất, sơn, pin, ắc quy… Cụ thể Techcombank đã giải ngân cho Công ty TNHH thép Việt –

216


Pháp được GCTF thẩm định dự án và hỗ trợ với dự án thay thế 4 lò trung tấn và máy đúc phôi liên tục bằng những thiết bị hiệu quả hơn nhằm giảm tiêu thụ điện năng và tuần hoàn nước làm mát; dự án thứ hai được GCTF hỗ trợ giải ngân thông qua ngân hàng ACB của Công ty Cổ phần nhựa Tân Phú với dự án đổi mới thiết bị và công nghệ sản xuất thùng 5 gallon, vỏ ắc quy N150. Một số dự án khác đang được phê duyệt về mặt kỹ thuật và trong quá trình thương lượng với ngân hàng như dự án của Công ty Cổ phần PLATO Việt Nam về việc thay thế dây chuyền mạ điện Niken – Crom thủ công bằng dây chuyền bán tự động với hệ thống mạ thu hồi dòng chảy ngược thiết kế hợp lý, dự án của Công ty Cổ phần giấy Đông Nam về việc thay thế dây chuyền sản xuất giấy Kraft giảm tiêu thụ điện năng và tăng năng suất, dự án của HTX Hồng Tiến về việc thay thế lò nung lạc hậu bằng lò nung công nghệ mới thẳng đứng nhằm giảm phát thải khí CO2, đang trong giai đoạn chuẩn bị như dự án thay thế buồng đốt lạc hậu bằng thiết bị mới sử dụng năng lượng mặt trời và thay lò sấy củ bằng lò tầng sôi của Công ty Cổ phần chè Văn Hưng, dự án thay thế thiết bị đúc nhựa của Công ty TNHH nhựa Hữu Tín…(Phùng Long, 2011). Bên cạnh các NHTM thì NHCSXH cũng đã tích cực triển khai chương trình tín dụng đặc trưng của ngân hàng, cũng là một trong những kênh tín dụng xanh mang lại hiệu quả cho xã hội và môi trường. Cụ thể, chương trình tín dụng nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn của NHCSXH được triển khai năm 2004 mang lại hiệu quả thiết thực cho công tác bảo vệ môi trường, cải thiện môi sinh, nâng cao chất lượng cuộc sống cho cư dân vùng nông thôn. Với chương trình này, hộ nghèo khu vực nông thôn được vay tiền với lãi suất ưu đãi để xây dựng công trình nước sạch và vệ sinh. Mỗi hộ gia đình được vay tối đa 6 triệu đồng (mức cũ 4 triệu đồng) cho một công trình nước sạch hoặc một công trình vệ sinh, với thời hạn vay 5 năm kể từ ngày giải ngân. Mức vay tối đa để một hộ thực hiện cùng lúc cả 2 công trình là 12 triệu đồng/hộ. Sau thời gian triển khai, thống kê cho thấy NHCSXH tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong 5 tháng đầu năm 2004, chi nhánh đã giải ngân cho Chương trình tín dụng nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn 8,82 tỷ đồng/1.440 hộ, nâng tổng dư nợ cho vay của Chương trình này đến 2013 là gần 69 tỷ đồng/10.136 hộ vay/11.576 công trình. Sau gần 10 năm thực hiện Chương trình tín dụng nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn trên địa bàn, chi nhánh đã hỗ trợ vốn cho các hộ nghèo ở nông thôn vay xây dựng hơn 50 ngàn công trình nước sạch, nhà vệ sinh đủ tiêu chuẩn, hầm ủ khí biogas (NHCSXH, 2014). Trước những tín hiệu phản hồi mạnh mẽ từ sự biến đổi của môi trường và tổn thất xã hội do các dự án được cấp tín dụng mang lại, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng đã có những chỉ thị thể hiện động thái tích cực trong việc định hướng phát triển tín dụng xanh đối với các ngân hàng. Vào ngày 24/03/2015 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ra Chỉ thị số 03/CT-NHNN về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lí rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng. Theo đó, về mục tiêu và nhiệm vụ tổng quát, Chỉ thị nêu rõ: Thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh, ngay từ năm 2015, hoạt động cấp tín dụng của ngành Ngân hàng cần chú trọng đến vấn đề bảo vệ môi trường, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, năng lượng; cải thiện chất lượng môi 217


trường và bảo vệ sức khỏe con người, đảm bảo phát triển bền vững. Thực hiện rà soát, điều chỉnh và hoàn thiện thể chế tín dụng cho phù hợp với mục tiêu tăng trưởng xanh; tập trung nguồn lực để cấp tín dụng cho các dự án, phương án sản xuất kinh doanh thân thiện với môi trường và xã hội, góp phần hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện tăng trưởng xanh, qua đó thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. 3.2. Một số hạn chế trong việc áp dụng mô hình TBL tại các ngân hàng Việt Nam Thứ nhất, bên cạnh những điều mà một số ngân hàng Việt Nam đã làm được thì thực tế nhìn nhận việc áp dụng mô hình TBL vào các ngân hàng Việt Nam vẫn chưa được chú trọng và chính thức triển khai. Khái niệm mô hình TBL vẫn còn mới mẻ ở Việt Nam và các ngân hàng chỉ đang dừng lại ở việc hướng đến một trong các yếu tố kinh tế, xã hội hoặc môi trường chứ chưa áp dụng đồng thời cả 3 yếu tố, đưa mô hình TBL thành mục tiêu phát triển lâu dài của ngân hàng. Điều này được thể hiện thông qua thái độ của các ngân hàng về “tín dụng xanh”, về quản lí rủi ro môi trường – xã hội. Kết quả khảo sát thực trạng hoạt động quản lý rủi ro môi trường – xã hội trên thị trường tài chính của Ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2012 đã chỉ ra, với 54 tổ chức tín dụng có tổng tài sản chiếm 79% tổng tài sản toàn thị trường cho thấy: 89% ngân hàng không biết đến bất kỳ tài liệu hướng dẫn hay tiêu chuẩn nào về quản lý rủi ro môi trường – xã hội trong ngành tài chính. Cũng theo kết quả khảo sát nêu trên, các doanh nghiệp nhỏ và vừa nằm trong danh mục nhóm có tỷ lệ rủi ro môi trường - xã hội đứng thứ hai, sau doanh nghiệp ngành khai khoáng. Tuy nhiên, 22 ngân hàng cung cấp dịch vụ với tỷ trọng lớn, 10 ngân hàng phân bổ 30% tổng vốn vay, 10 ngân hàng phân bổ 30 - 60% tổng vốn vay cho nhóm khách hàng này. Đặc biệt, 1 ngân hàng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa vay tới 70% tổng vốn vay và 1 ngân hàng dành 100% tổng vốn vay cho danh mục khách hàng này (NHNN, 2012). Thứ hai, hầu hết các tổ chức tài chính chưa có chính sách và quy trình hay hệ thống chính thức để quản lý các rủi ro về môi trường – xã hội của khách hàng. Ngân hàng Nhà nước cũng thiếu hướng dẫn về đánh giá và quản lý rủi ro môi trường – xã hội trong hoạt động tín dụng. Trong khi đó, phát triển bền vững môi trường – xã hội sẽ mang lại cho các ngân hàng cơ hội kinh doanh mới trong lĩnh vực tiết kiệm năng lượng và năng lượng tái tạo. Những khó khăn chung của nền kinh tế Việt Nam và thế giới trong những năm gần đây cùng với chính sách tiền tệ theo hướng kiểm soát lạm phát đã khiến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Kèm theo đó là những bất cập trong công tác quản trị của chính bản thân các ngân hàng đã khiến các ngân hàng Việt Nam bộc lộ nhiều điểm yếu, ảnh hưởng tới sự ổn định và phát triển bền vững của toàn hệ thống. Ðiều này đặt ra yêu cầu trong việc phải xác định và xây dựng được một bộ các chỉ tiêu có thể đánh giá được các mức độ phát triển bền vững của khu vực tài chính – ngân hàng nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung, đặt trong mối tương quan với các điều kiện xã hội và môi trường tương ứng.

218


4. Giải pháp thúc đẩy phát triển bền vững và đề xuất áp dụng mô hình phát triển bền vững TBL tại các ngân hàng Việt Nam. Thứ nhất, các ngân hàng Việt Nam cần tăng cường nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của phát triển bền vững, tín dụng xanh đối với hoạt động của ngân hàng. Mỗi ngân hàng tồn tại trong hệ thống tài chính Việt Nam đều có sự kết nối với cơ cấu xã hội và môi trường tự nhiên xung quanh. Hoạt động của ngân hàng sẽ có tác động lên môi trường và xã hội, đồng thời môi trường và xã hội cũng có ảnh hưởng ngược lại đến kết quả và hiệu quả của doanh nghiệp. Do đó, ngân hàng cần có trách nhiệm bảo vệ và tác động tích cực tới môi trường, xã hội tại nơi mà nó đang hoạt động, không chỉ vì lợi ích chung mà còn vì lợi ích trước mắt cũng như lâu dài của chính bản thân ngân hàng. Thứ hai, Chính phủ cần có những chính sách và các hướng dẫn bằng văn bản cho các tổ chức tín dụng về việc thực hiện các chương trình hỗ trợ và thúc đẩy phát triển bền vững ở Việt Nam. Cụ thể, NHNN cần có những hướng dẫn chi tiết và đưa ra các khuyến nghị thực hiện hỗ trợ cho các tổ chức đặc thù như NHCSXH, thúc đẩy các chương trình hợp tác với các tổ chức tài chính quốc tế nước ngoài về kiểm soát rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam. Thứ ba, trên cơ sở các bộ chỉ tiêu được áp dụng trên thế giới hiện nay để đánh giá mức độ phát triển bền vững quốc gia và các tổ chức tài chính, Ngân hàng nhà nước cần nghiên cứu để đưa ra một bộ chỉ tiêu hợp lí triển khai chung cho hệ thống ngân hàng Việt Nam. Hiện nay, trên thế giới đã có khá nhiều bộ chỉ tiêu được sử dụng, phổ biến nhất là bộ chỉ tiêu do Liên hiệp quốc soạn thảo, ngoài ra còn có bộ chỉ tiêu “Phát triển bền vững Dow Jones” (Dow Jones Sustainability Indexes) hay bộ chỉ tiêu của tổ chức Global Reporting Initiative (GRI). Điểm chung các bộ chỉ tiêu được thiết lập nhằm đánh giá thành tích của từng quốc gia trên ba khía cạnh của phát triển bền vững: kinh tế, môi trường và xã hội của các doanh nghiệp lớn. Ví dụ về khía cạnh môi trường, mỗi nước sẽ đánh giá lượng khí thải CO2 trong năm qua hoạt động sản xuất và kinh doanh, lượng nước sạch đã sử dụng, tổng lượng tiêu thụ các loại năng lượng (điện, xăng dầu…), tổng lượng rác thải… Các quốc gia cũng phải giải trình về chiến lược của mình trong tương lai về việc giảm thiểu có lộ trình các chỉ số nêu trên. Về khía cạnh xã hội, bộ chỉ số tập trung vào việc đánh giá có hay không phân biệt đối xử về giới tính trong vấn đề lương bổng (lương trung bình của lao động nam và lao động nữ), tỷ lệ nữ đảm trách các trách nhiệm lãnh đạo, các vấn đề đảm bảo sức khỏe và an toàn cho người lao động, tổng kinh phí cho các hoạt động từ thiện... Tuy nhiên, các bộ chỉ tiêu này lại chưa đề cập đến việc đánh giá sự phát triển bền vững trên khía cạnh kinh tế nói chung và khu vực tài chính ngân hàng nói riêng. Với hệ thống ngân hàng, đến nay, chưa có một bộ chỉ tiêu chính thức đánh giá sự phát triển bền vững của khu vực này. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào những phân tích nêu trên, theo quan điểm của nhóm tác giả, hệ thống các tiêu chí đánh giá sự phát triển ổn định và bền vững của ngân hàng Việt Nam phải đồng thời thỏa mãn yêu cầu về phát triển bền vững của Liên hiệp quốc song song với việc đáp ứng các khía cạnh bền vững khác của ngân hàng, cụ thể: 219


- Bền vững về kinh tế: Sự phát triển của ngân hàng phải đảm bảo mọi hoạt động của ngân hàng được thiết lập và duy trì trên cơ sở đảm bảo sự lành mạnh của các tương tác kinh tế. Khi đó, các hoạt động của ngân hàng như huy động vốn, đầu tư, tín dụng… đều phải được đảm bảo sự phát triển cân bằng giữa ngắn hạn và dài hạn, giữa một bộ phận, một loại hình hoạt động với các bộ phận và các loại hình hoạt động khác của ngân hàng, giữa hệ thống ngân hàng trong nước, trong thị trường tài chính và đảm bảo sự bền vững của nền kinh tế. - Bền vững về chính trị - xã hội: Xã hội có lòng tin đối với ngân hàng khi ngân hàng đó hoạt động hiệu quả, có năng lực tài chính tốt, đảm bảo khả năng thanh khoản tốt. Ðặc biệt, sự phát triển ổn định của ngân hàng còn giúp phòng ngừa rủi ro khủng hoảng. Lịch sử phát triển của ngân hàng nói riêng cho thấy khủng hoảng tài chính luôn gắn liền với những bất ổn về chính trị, xã hội, thất nghiệp và suy thoái kinh tế. Hệ thống tài chính nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng là một bộ phận nhạy cảm của nền kinh tế. Nếu khu vực này phát triển không lành mạnh sẽ tạo ra các tương tác tiêu cực đến các khu vực khác và có thể gây suy yếu toàn bộ nền kinh tế, đồng thời dẫn đến những bất ổn về chính trị và xã hội. Do đó, việc duy trì bền vững về chính trị, xã hội trong phát triển ngân hàng chính là việc hoạt động an toàn, phòng ngừa rủi ro gây khủng hoảng hệ thống tài chính. -Bền vững về môi trường: Các hoạt động của ngân hàng phải hỗ trợ cho nền kinh tế chuyển dịch đến một cơ cấu kinh tế hợp lý, tạo ra các hàng hóa công cộng như đường xá, cầu cống, các công trình thủy lợi, các dự án trồng rừng, giúp gia tăng lợi ích cho cộng đồng và góp phần bảo vệ môi trường.

Tài liệu tham khảo 1. Boissonneault, B. (2014), “3 Steps to EH&S Sustainability with Backend Tactics”, truy cập ngày 12 tháng 02 năm 2016, < http://www.triumvirate.com/blog/growing-your-triplebottom-line-three-steps-to-front-end-sustainability-using-back-end-tactics>. 2. Elkington, J. (1997), “Cannibals with Forks: the Triple Bottom Line of 21st Century Business”, Capstone. 3. Galamadien, P.A. (2011), “Sustainability and triple bottom line reporting in the banking industry”, Mini-dissertation, the North-West University. 4. NHCSXH (2014), “Chính sách tín dụng “xanh”, truy cập ngày 18 tháng 02 năm 2016, <http://vbsp.org.vn/chinh-sach-tin-dung-xanh.html>. 5. NHNN (2012), “Xanh hoá ngành ngân hàng: Áp dụng chuẩn mực bắt buộc hay khuyến khích tham gia tự nguyện?”, truy cập ngày 18 tháng 02 năm 2016, <http://www.cepf.net/SiteCollectionDocuments/indo_burma/FinalReport_PanNature_Eco systemServicesVietnam_Annex3.pdf>. 6. NHNN (2015), “Thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng”, ban hành ngày 24 tháng 03 năm 2015. 7. Long, P. 2011, “GCTF (Thụy Sĩ) bảo lãnh tín dụng đến 1 triệu USD cho sản xuất sạch hơn”, truy cập ngày 16 tháng 02 năm 2016, <http://ven.vn/vi-VN/vi/chuyen-muc-tintuc/cong-nghiep/san-xuat-sach-hon/gctf-thuy-si-bao-lanh-tin-dung-den-1-trieu-usd-chosan-xuat-sach-hon_t114c424n9164>. 8. Quyên, M. (2012), “Sacombank áp dụng hệ thống ESMS theo chuẩn mực quốc tế”, truy

220


cập ngày 16 tháng 02 năm 2016, <http://dantri.com.vn/kinh-doanh/sacombank-ap-dunghe-thong-esms-theo-chuan-muc-quoc-te-1355621065.htm>. 9. Sacombank (2012), “Báo cáo thường niên năm 2012”, truy cập ngày 14 tháng 02 năm 2016, <http://www.sacombank.com.vn/nhadautu/baocaothuongnien/BCTN_2012.pdf>. 10. Sacombank (2012), “Sacombank áp dụng Hệ thống quản lý trách nhiệm với môi trường và xã hội (ESMS) theo chuẩn mực quốc tế”, truy cập ngày 14 tháng 02 năm 2016, <http://www.sacombank.com.vn/tintuc/Pages/Sacombank-ap-dung-He-thong-quan-lytrach-nhiem-voi-moi-truong-va-xa-hoi-ESMS-theo-chuan-muc-quoc-te.aspx>. 11. Techcombank (2015), “Techcombank đẩy mạnh hỗ trợ sáng kiến sử dụng năng lượng hiệu quả”, truy cập ngày 16 tháng 02 năm 2016, <https://www.techcombank.com.vn/gioithieu/goc-bao-chi/thong-cao-bao-chi/techcombank-day-manh-ho-tro-cac-sang-kien-sudung-nang-luong-hieu-qua>. 12. Watson, L. và Larson, D. (2009), “The case for triple – bottom – line banking: How doing good means doing well”, truy cập ngày 12 tháng 02 năm 2016, <https://iupe.files.wordpress.com/2009/11/watson-larson.pdf>.

221



Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.