14 - PART 1 - LỊCH SỬ KIẾN TRÚC VIỆT NAM 1954-1986

Page 1

Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội

Khoa Kiến trúc

Bộ môn Lịch Sử Kiến trúc 2

Nguyễn Công Hiệp

Sinh viên thực hiện

Nguyễn Bích Ngọc

Vũ Thị Kim Anh

Nông Hoài Chi

Hoàng Sơn

Phạm Việt Dũng

– Với việc kí kết và thực hiện Hiệp định Giơnevơ, nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền, với hai chế độ chính trị khác nhau.

– Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng. Ngày 10 – 10 – 1954, bộ đội Việt Nam tiến vào tiếp quản Thủ đô. Ngày 16 -5 -1955, toán lính Pháp cuối cùng rút khỏi đảo Cát Bà. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành, tạo điều kiện cho miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

– Ở miền Nam, tháng 5 -1956, Pháp rút quân khỏi miền Nam khi chưa thực hiện cuộc hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất hai miền Nam – Bắc. Mĩ vào thay chân Pháp, đưa Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền, âm mưu chia cắt lâu dài nước Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mĩ.

Tiến hành đồng thời hai chiến lược cách

mạng ở hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc. Đây là đặc điểm lớn nhất, độc đáo nhât của cách mạng Việt Nam thời kỳ 1954

Vai trò và mối quan hệ của cách mạng hai miền: Miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với cách mạng cả nước, còn miền Nam có vai trò quyết định trực tiếp trong cuộc đấu tranh lật đổ ách thống trị của đế quốc Mĩ và tay sai, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất Tổ quốc. Cách mạng hai miền có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, phối hợp với nhau, tạo điều kiện cho nhau phát triển. Đó là quan hệ giữa hậu phương với tuyền tuyến.

Thời kỳ xây dựng lại miền Bắc , kháng chiến dành lại miền Nam, thống nhất đất nước

thắng lợi, nhân dân đẹp hơn… ”

BỐI CẢNH

GIAI ĐOẠN 1954-1975 MIỀN BẮC

Thời kỳ khôi phục kinh tế, Thời kỳ cải tạo và phát triển kinh tế.

Các công trình chủ yếu được xây dựng trong thời kỳ này là nhà ở, nhà công nghiệp và nhà công cộng.

Các công trình chịu ảnh hưởng rõ rệt của kiến trúc Liên xô – XHCN

Mười năm đầu là kế hoạch tạo dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật tối thiểu ban đầu cho nền kinh tế mới, trong đó chủ yếu là các công trình công nghiệp do các nước xã hội chủ nghĩa giúp đỡ.

Mười năm tiếp theo, đất nước lại phải đối phó với chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ. Vì vậy, thời gian này xây dựng chủ yếu là các công trình phòng không, sơ tán.

Chiến tranh cũng đã phá huỷ phần lớn thành quả mà mười năm trước đã tạo dựng, cho đến mãi sau này cũng không phục hồi hết được

KIẾN TRÚC

GIAI ĐOẠN 1954-1975 MIỀN BẮC

Với tầm nhìn chiến lược, ngay trong kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương thành lập tổ chức nghề nghiệp của giới KTS để phục vụ công

cuộc xây dựng đất nước sau chiến tranh.

Tháng 4/1948, tại làng Thản Sơn, xã Liên Sơn, huyện

Lập Thạch (Tỉnh Vĩnh Phúc) đã diễn ra Hội nghị

thành lập Đoàn KTS Việt Nam (nay là Hội KTS Việt Nam) với sự tham gia của 08 KTS sáng lập: Nguyễn Cao Luyện, Hoàng Như Tiếp, Nguyễn Ngọc Chân, Trần Hữu Tiềm, Võ Đức Diên, Tạ Mỹ Duật, Phạm Quang Bình.

Sau Hội nghị, tuân theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các KTS thế hệ đầu tiên của Hội đã vượt qua mọi khó khăn thiếu thốn của cuộc chiến, sáng tạo trong thiết kế và xây dựng nhiều công trình phục vụ cách mạng và nhân dân bằng vật liệu gỗ, tre, nứa, lá.

Năm 1954, hòa bình lập lại trên miền Bắc. Các KTS thế hệ đầu tiên vẫn là lực lượng chủ chốt trong giai đoạn đầu của công cuộc tái thiết. Trong đó, KTS Nguyễn Văn Ninh là Cục trưởng Cục Thiết kế dân dụng, KTS Hoàng Như Tiếp là Cục trưởng Cục Đô thị – Nông thôn.

KIẾN TRÚC

GIAI ĐOẠN 1954-1975 MIỀN BẮC

Những năm 1954 – 1975, cả miền Bắc như một đại công trường sôi động. Nhiều công trình được xây dựng với hình thức đơn giản, trong sáng phù hợp với đặc điểm văn hóa – xã hội và khí hậu của đất nước đã định hình phong cách kiến trúc hiện đại XHCN Việt Nam.

Đó là các công trình: Lễ đài Ba Đình (1955), Nhà sàn Bác Hồ (1958 – KTS Nguyễn Văn Ninh); Hội

trường Ba Đình (1962 – KTS Trần HữuTiềm, KTS

Nguyễn Cao Luyện), Trụ sở Ủy ban Hành chính

tỉnh Nghĩa Lộ (1956 – KTS Nguyễn Cao Luyện);

Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc (1958 – KTS

Nguyễn Ngọc Chân, KTS Trần Hữu Tiềm); Trụ sở

Tổng cục Thống kê (1960 – KTS Đoàn Văn Minh);

Học viện Thủy Lợi (1958 – KTS Đoàn Văn Minh);

Bảo tàng Việt Bắc, Thái Nguyên (1963 – KTS Hoàng

Như Tiếp); …

Bên cạnh đó là những công trình theo phong cách

kiến trúc hiện đại XHCN quốc tế, như: Khu Vnhà

ở Kim Liên; Khu công nghiệp Cao-Xà-Lá Hà Nội, Gang thép Thái Nguyên; Lăng Chủ tịch Hồ Chí

Minh (KTS Medenxep và Ixanovich); Trường Đại học Bách khoa, Hà Nội; Bệnh viện Nhi Olof Palme, Hà Nội; Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam – Cu Ba ở Đồng Hới; Khách sạn Thắng Lợi (KTS Quintana, Cu Ba); Cung Văn hóa Thiếu nhi, Hà Nội (KTS Lê Văn Lân)…

Khách sạn Thắng Lợi Bệnh viện hữu nghị VN - Cuba Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc
Trụ sở Tổng cục Thống kê Trường ĐH Bách Khoa Hội trường Ba Đình KCN Cao
Học viện Thủy Lợi Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc
KCN Gang thép Thái Nguyên Nhà sàn Bác Hồ
GĐ 1954-1975 KIẾN
TRÚC

I. QUY HOẠCH

Dựa trên cơ sở của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung và đất đai thuộc sở hữu nhà nước, miền Bắc tiếp thu các nguyên lý về quy hoạch xây dựng vùng, quy hoạch chung và quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị của các nước XHCN. Từ đây đã ra đời những đồ án quy hoạch cho trên 20 thành phố, trong đó có HN, Hải Phòng, Nam Định, Vinh và 2 trung tâm công nghiệp là Thái Nguyên, Việt Trì; trên cơ sở đó chúng ta đã xác định địa điểm xây dựng cho hàng trăm hạng mục công trình quan trọng của nền kinh tế quốc dân.

Năm 1960, mô hình tiểu khu nhà ở được áp dụng, bắt đầu từ HN.

Từ sau những năm 1970, kinh nghiệm về phát triển nhà ở đã được đúc kết một số tiểu khu được xây dựng theo công nghệ tấm lớn như Thanh Xuân Bắc (rồng 1 ha).

Trung Tu (rồng 15ha), Giảng Võ (rộng 18 ha) đều đã có những cái tiên. Nhiều hồ nước trong các khu Thành Công. Ngọc Khánh. Giảng Võ được kê sạch và có đường đi dạo chung quanh. Các công trình văn hóa – dịch vụ công cộng được xây đồng bộ bao gồm trung học cao cấp các cơ sở mua bán, sửa chữa, tram y lễ, nhà cho bạn điều hành Ngoài tiểu khu nhà ở, đáng chú ý là một số công viên mới như Thống Nhất (rộng 50ha), Thủ Lệ (rộng 35ha).

Sau ngày thống nhất đất nước, các nước XHCN anh em đã sang giúp chúng ta làm quy hoạch như Liên Xô (Hà Nội), Ba Lan (Hải Phòng), Hungari (Hòn Gai), Rumani (Nam Định). Bungari (Thái Bình), Trung Quốc (Thái Nguyên, Việt Trì), Triều Tiên (Bắc Giang), Cu Ba (Đồng Hới) và Cộng hòa Dân chủ Đức (Vinh), Kết quả là chúng ta đã xây hoàn chỉnh được khu nhà ở Quang Trung tại thành phố Vinh (Nghệ An), nhờ sự hỗ trợ tích cực của các bạn người Đức.

GĐ 1954-1975 MIỀN BẮC

II. NHÀ Ở

Việc phải làm thì nhiều, nhưng công tác kiến trúc ở

đô thị và nông thôn đang ngùng lại ở bước chỉ đạo chung. Với lục lượng nhỏ bé, từng đoàn cán bộ của nhà nước tới các thị xã để bàn bạc xếp đặt nơi ăn nơi ở, chuẩn bị cho đồng bào bồi cư. Phuong châm triệt để sử dụng cơ sở cũ đã chỉ đạo đúng đắn việc phục hồi thành phố

Các khu nhà ở, trong thời gian này, xây dựng còn í, ở miền núi lại càng ít hơn. Tuy vậy ở Cam Đường, cạnh Lào Cai, do yêu cầu khai thác a-pa-tít, đã xây dựng một khu nhà cho công nhân mỏ. Tuy tiện nghi chưa đủ, phòng ở còn đơn giản, nhưng bố trí thành từng nhà dài trên 10 gian, có nhà một tầng, có nhà hai tầng, đã gây ý thức đầu tiên về xây dựng một khu nhà ở tập trung có tổ chức, bảo đảm một số nhu cầu của đời sống hằng ngày.

Sau năm 1954, để giải quyết nhanh vấn đề nhà ở, một số cụm, nhóm nhà đã được xây dựng cao từ 1 - 2 tầng với thiết kế chỉ có phòng ở còn nhà vệ sinh, bếp là dùng chung (nhà gỗ tại phường Chương Dương, An Dương, Phúc Xá, Tương Mai…).

– Đầu tiên, được xây dựng nhiều nhất là các khu nhà ở một tầng, hoặc hai tầng.

• Đây là những ngôi nhà được xây dựng tạm thời (nhà tạm) có kết cấu bằng gạch hoặc khung gỗ, tường chèn gạch, mái ngói. Công trình gồm những phòng lớn xếp song song (không có công trình phụ).

• Mặc dù là công trình tạm, nhưng vì xây dựng bằng vật liệu gỗ tương đối tốt nên khi hết niên hạn sử dụng, các nhà này vẫn được tận dụng dù chất lượng kém.

.

II. NHÀ Ở

Đô thị (1960 - 1975)

Xuất hiện những khu tập

thể từ 4 đến 5 tầng như khu

tập thể dệt 8/3, khu Thọ Lão, Nguyễn Công Trứ và Kim

Liên… với sự hỗ trợ kĩ thuật

từ Bắc Triều Tiên. Giai đoạn

từ 1975-1986 với những khu

tập thể có dáng vẻ hiện đại

hơn, độc lập hơn với những

công trình phụ được khép

kín như Trung Tự, Thành

Công, Giảng Võ, Bách Khoa, Thanh Xuân, Kim Giang…

– Việc xây dựng các khu nhà

ở đã có bước tiến mới. Nhiều khu nhà tập thể được xây dựng. Kiến trúc đơn giản, theo hình thức đơn nguyên, nhưng các căn hộ dùng chung bếp và vệ sinh.

– Kết cấu công trình dùng tường gạch chịu lực hoặc panen tấm nhỏ, sàn panen hộp, nền lát gạch xi măng hoa hay xi măng nâu, mái ngói có sê nô.

KTT KIM LIÊN II. NHÀ Ở

Đối với khu nhà ở, một mặt có ý nghĩa thí điểm về tổ chức đời sống ở đô thị, một mặt có ý nghĩa về kỹ thuật lắp dựng những tấm lớn do ta làm lần đầu tiên ở khu Kim Liên -Hà Nội. -Trên cơ sở quy hoạch cải tạo và phát triển thủ đô Hà Nội, việc quy hoạch khu nhà ở Kim Liên đã được vạch ra. Nằm ở góc đường Nam Bộ và đường Đại La, khu nhà

ở Kim Liên chiếm 40 héc-ta, đất ruộng, dụ kiến xây dụng cho 16.916 người ở, chia làm 4 tiểu khu. Với các dãy nhà

ở 4 tầng, các công trình phục

vụ công cộng, các trường

học phổ thông, nhà ăn tập

thể, nhà trẻ, mẫu giáo được

thực hiện theo kiểu mẫu xã

hội chủ nghĩa, nhằm tạo

điều kiện thuận lợi tối đa

cho lao động, nghỉ ngơi, học

tập, giáo dục trẻ em, hạnh

phúc gia đình, giải phóng

phụ nữ khỏi nhiều công việc

bếp núc không cần thiết.

KTT NGUYỄN CÔNG TRỨ II. NHÀ Ở

Những năm 60 ghi nhớ nhiều khu nhà ở bắt đầu xây dựng với nhiều kiểu khác nhau, bằng gạch và sàn pa nen. Khu Nguyễn Công Trứ ở Hà Nội chiếm khoảng đất nghĩa trang cũ, có của hàng, nhà ăn, nhà trẻ, được coi là tốt cả về mặt phục vụ sinh hoạt và kiến trúc. Kiểu nhà hành lang giữa do kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn chủ trì thiết kế, có chú ý tỉ lệ hộ phòng, của thông thoảng cho các phòng hai bên hành lang. Mùa hè nếu mở các của phòng hai bên hành lang cho thoáng gió, trong khi người đi lại suốt ngày đêm, thì việc thuận tiện sinh hoạt của từng hộ giảm xuống tới mức thấp nhất so với tất cả các kiểu nhà có hành lang trong.

KTT CHỮ U HẢI PHÒNG II. NHÀ Ở

Những năm 60 ghi nhớ nhiều khu nhà ở bắt đầu xây dựng với nhiều kiểu khác nhau, bằng gạch và sàn pa nen. Khu Nguyễn

Công Trứ ở Hà Nội chiếm khoảng đất nghĩa trang cũ, có của hàng, nhà ăn, nhà trẻ, được coi là tốt cả về mặt phục vụ sinh hoạt và kiến trúc. Kiểu nhà hành lang giữa do kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn chủ

trì thiết kế, có chú ý tỉ lệ hộ phòng, của thông thoảng cho các phòng hai bên hành lang. Mùa hè nếu mở các của phòng hai bên hành lang cho thoáng gió, trong khi người đi lại suốt ngày đêm, thì việc thuận tiện sinh hoạt của từng hộ giảm xuống tới mức thấp nhất so với tất cả các kiểu nhà có hành lang trong.

NÔNG THÔN II. NHÀ Ở

Giai đoạn này, tại miền Bắc chúng ta đang ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà ở nông thôn vùng ĐBBB cũng được quan tâm và ngày càng xây dựng đàng hoàng hơn. Hàng loạt nhà ở tạm, tranh tre, nứa lá đã dần được thay thế bởi nhà tường gạch chịu lực, mái lợp ngói đỏ san sát làm cho bộ mặt nhà ở nông thôn mới kết hợp với những cánh đồng lúa chín vàng tạo nên bức tranh tuyệt đẹp. Kết cấu nhà ở nông thôn đã chuyển sang hệ kết cấu mới, phù hợp với vật liệu và sự tiến bộ của công nghệ xây dựng. Hệ thống kết cấu gỗ truyền thống với những bộ vì kèo giá chiêng đã được thế bởi hệ kết cấu kết hợp giữa vì kèo gỗ và tường gạch xây hoặc đá ong chịu lực.

Chạm khắc lộng lèo trên kết cấu gỗ thế hệ mới.

Nhà ở nông thôn sau năm 1954. Vi kèo kẻ truyền giá chiêng kết hợp chồng rường. Bộ vì kèo kẻ truyền giá chiêng Hệ vì kèo kẻ truyền giá chiêng kết hợp với tường chịu lực Vì kèo trước kẻ sau bẩy. Chồng rường cổ truyền với họa tiết tinh xảo

III. CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG

Trong kế hoạch 5 năm, kiến trúc cầu đã có những tiến bộ rõ rệt, phù hợp với yêu cầu giao thông vận tải ngày càng phát triển. Hàng chục cầu lớn, hàng trăm cầu trung và nhỏ được xây dựng mới. Đường sắt có cầu Hàm Rồng (1963-1964), cẩu

Cửa Tiền ở Vinh (1964), cầu Hoàng Mai, Đò Cấm, Đò Giao ở đoạn Thanh Hóa -Vinh. Đường ôtô cũng có các cầu vòm đá khe Kiên (1964), cầu vóm đá Ca Long (1965); cầu bê tông cốt thép lắp ghép: cầu Đông Hung, cầu Tế Tiêu (1961-1962),

cầu Ba Thá, cầu Bùng (1962-1963); cầu bê tông cốt thép dự ứng lực Phù lỗ; cầu bê tông cốt thép dự ứng lực dầm hẫng: cầu Đồi ở Thanh Hóa (1964).

Hai cầu Phủ Lạng Thuong và Lạng Giang có kết cấu kèo đơn giản với phong cách nhẹ nhàng, nhưng cầu Việt Trì cũng cũng bằng sắt, có vẻ đồ số khi vượt qua sông lớn ở độ cao, từ đó bao quát được khu công nghiệp Việt Trì. Nhịp rộng của cầu truyền cho kết cấu thép những khuôn khổ lớn, làm cho công trình góp phần quan trọng vào cảnh quan hùng vĩ của vùng trung du này

III. CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG

CẦU HÀM RỒNG

Cầu Hàm Rồng khánh thành ngày 19-5-1964 do Viện Thiết kế Bộ giao thông thiết kế có chuyên gia nước ngoài giúp đỡ, cầu là mục tiêu đánh phá ác liệt của giặc Mỹ, nhưng quân và dân địa phương đã lập những chiến công lẫy lừng suốt trong thời gian chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ. Cầu làm cho đường xe lửa một làn, ôtô 2 làn, người có lối đi riêng. Cầu dầm liên tục thép dàn hoa, không dùng hình thức một vòm khẩu độ 160m, mặc dầu có thể mỹ quan hơn, nhưng xét về mặt kết hợp kinh tế với quốc phòng, đã chọn vòm khẩu độ 80m. Thi công lao dầm bằng phương pháp lắp hẫng. Trụ móng bằng cột ống bê tông cốt thép đúc sẵn, đường kính 1,55m, thi công trụ bằng các máy chấn động, hạ cột qua tầng đất phủ. Như vậy một số kỹ thuật tiên tiến đã được áp dụng trong việc xây dựng cầu Hàm Rồng. Phần khung còn lại, sau chiến tranh, địa phương dự kiến bảo tồn để lưu niệm những chiến tích của quân và dân

Thanh Hóa

CẦU LONG BIÊN III. CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG

Những
ngày đầu thu năm 1954, cầu Long Biên vui mừng đón đoàn quân chiến thắng trở về giải phóng thủ đô.

IV. CÔNG TRÌNH CÔNG NGHIỆP

Thoát thai từ một nước nông nghiệp lạc hậu kéo dài, nền công nghiệp Việt Nam

được thực sự bắt đầu từ sau năm 1954 ở miền Bắc với sự giúp đỡ công nghệ và kĩ thuật từ phía các nước bạn XHCN.

Giai đoạn 1954 – 1975 ở miền Bắc đã xuất hiện hàng trăm cơ sở công nghiệp vừa và lớn. Khai thác, chế tạo có Apatit Lào Cai, thiếc Cao Bang, crôm Cổ Định (Thanh Hóa), Supe phốt phát Lâm Thao (Phú Thọ), cơ khí Trần Hưng Đạo, cơ khí Gia Lâm (Hà Nội), các nhà máy điện Lào Cai, Uông Bí, Vinh, Ninh Bình, hóa chất Việt Trì, cơ khí Cẩm Phả, cơ khi Duyên Hải, đóng tẩu Bạch Đằng (Hải Phòng), v.v. Đặc biệt, các nhà máy thủy điện Thác Bà, cơ khí Hà Nội, gang thép Thái Nguyên và phân đạm Hà Bắc là những trọng điểm công nghiệp quy mô lớn đầu tiên được xây dựng với sự trợ giúp kỹ thuật toàn diện của Liên Xô và Trung Quốc.

Công nghiệp miền Bắc phục vụ dân sinh có các nhà máy dệt 8-3, dệt kim Đông

Xuân, đường Vạn Điểm, các nhà máy xay, mì sợi, bánh mì, chế biến hoa quả, thức ăn gia súc, khu công nghiệp Thượng Đình (cao su, xã phòng, thuốc lá, bóng đèn phích nước). Gỗ diễm Cầu Đuống, văn phòng phẩm, dược phẩm, In Tiến Bộ ở Hà

Nội, cá hộp và sắt tráng men Hải Phòng, che Phú Thọ,….

Nhà máy cơ khí Hà Nội
Nhà máy cơ khí Hà Nội.
Nhà máy điện Lào Cai năm 1959

Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.