3 minute read
1.3.2. Thế giới
from NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH HÀM LƯỢNG MỘT SỐ KIM LOẠI TRONG ĐẤT TRỒNG VÀ CÂY THUỐC BẰNG PHƯƠNG PHÁP ICP - MS
lần). Trong trầm tích mƣơng Hanel, 2 kim loại nặng có hàm lƣợng vƣợt quá hàm lƣợng nền là Pb (3,3-10,25 lần); Hg (1,56-2,24 lần). Đất gần công ty Pin Văn Điển có hàm lƣợng Zn cao hơn hàm lƣợng tối đa gây độc cho thực vật ở đất nông nghiệp theotiêu chuẩn Anh từ 1,33-1,79 lần [9]. Tác giả Phạm Luận và các cộng sự đã nghiên cứu và xác định Cd trong lá cây thuốc Đông y ở Việt Nam, trong thực phẩm tƣơi sống bằng phổ hấp thụ nguyên tử [19, 20]. Tác giả Nguyễn Ngọc Nông (2003) đã xác định hàm lƣợng các nguyên tố Cd, Pb, As trong đất ở Bắc Cạn và ở Thái Nguyên cho thấy ở vùng gần đô thị, khu công nghiệp và khu dân cƣ tập trung hàm lƣợng càng lớn. Tuy hàm lƣợng các nguyên tố chƣa vƣợt quá tiêu chuẩn cho phép nhƣng hàm lƣợng Cd, Pb, As khá cao trong vài loại đất ở vùng thành phố Thái Nguyên đang là sự cảnh báo về môi trƣờng [24].
1.3.2. Thế giới
Advertisement
E. W. I. Hajar, A. Z. B. Sulaiman và A. M. M. Sakinah [37] đã xác định hàm lƣợng các kim loại nặng trong thân, lá và hoa của cây cỏ ngọt bằng ICPMS Agilent 7500a. Honggang ZANG và các cộng sự [38] đã sử dụng phƣơng pháp ICPAES để đánh giá hàm lƣợng kim loại nặng trong mẫu đất và mẫu cây trồng ở vùng nghiên cứu so sánh với mẫu đất chuẩn (GBW07401,GSS-1), mẫu cây (GBW08153) từ trung tâm nghiên cứu chuẩn quốc gia Trung Quốc, hiệu suất thu hồi đạt 91-97%. Hye-Sook Lim và các cộng sự [39] đã đánh giá sự ô nhiễm các kim loại nặng ở vùng mỏ Songcheon, Hàn Quốc. Các mẫu đất, nƣớc, thực vật,… xung quanh khu mỏ đƣợc thu thập, xử lí sau đó đem xác định hàm lƣợng kim loại nặng bằng ICP-AES và ICP-MS. Hàm lƣợng As và Hg trong đất trồng cao hơn rất nhiều so với giới hạn cho phép, kết quả As cao nhất là 626mg/kg và Hg là 4,9mg/kg. Hàm lƣợng cao nhất trong cây trồng As là 33 mg/kg và Hg là 3,8
mg/kg (trong củ hành), Cd là 87mg/kg và Zn là 226mg/kg (trong rễ rau diếp), Cu là 16,3 mg/kg (trong lá cây vừng). Điều này đƣợc giải thích do cây trồng trên vùng đất đó đã bị ô nhiễm As và các kim loại nặng. Mặt khác, hàm lƣợng cao nhất của As, Cd và Zn đƣợc tìm thấy trong nƣớc suối và nguồn nƣớc uống chủ yếu của khu vực này lần lƣợt là: 0,71 mg/L, 0,19 mg/L và 5,4 mg/L, cao hơn rất nhiều so với giới hạn. I. Chuan-Chuang, Yeou-Lih Huang và Te-Hsien Lin [40] đã ứng dụng phƣơng pháp GF-AAS để xác định Pb và Cd trong 5 mẫu thuốc cổ truyền Trung Quốc sử dụng (NH4) H2PO4 làm chất cải biến hóa học và đƣa ra giới hạn định lƣợng của Pb là 11,6 pg và 2,0 pg với Cd. Jozep Szkoda và Jan Zmudzki [41] đã xác định Pb và Cd trong mẫu sinh học bằng phƣơng pháp phổ hấp thụ nguyên tử không ngọn lửa với hiệu suất thu hồi là 82,0% với Pb và 98,4% với Cd. Mahmut Coskun và cộng sự [43] đã sử dụng phép đo GF-AAS với chất cải biến nền cho Pb và Cd là NH4H2PO4 + Mg2O3, cho As là Pd(NO3)2 và các nguyên tố Cu, Co, Mn, Ni, Zn xác định bằng F-AAS trong mẫu đất bề mặt. Mustafa Tüzen [45] đã xác định một số kim loại nặng trong đất và cây trồng ở Tokat, Thổ Nhĩ Kỳ bằng phƣơng pháp GF-AAS và F-AAS với hiệu suất thu hồi (Rev) đạt 95-103%. Peter Heitland và Helmut D. Koster [48] đã sử dụng ICP-MS để xác định lƣợng vết 30 nguyên tố Cu, Pb, Zn, Cd... có trong mẫu nƣớc tiểu trẻ em và ngƣời trƣởng thành. Pilar Vinas [49] cùng các cộng sự đã ứng dụng phƣơng pháp phổ hấp thụ nguyên tử không ngọn lửa để xác định trực tiếp Pb, Cd, Zn, Cu trong mật sử dụng H2O2 làm chất cải biến giảm tín hiệu đƣờng nền. Các tác giả S. L. Jeng, S. J. Lee, S. Y. Lin [54] đã sử dụng GF-AAS xác định Pb và Cd trong 107 mẫu sữa nguyên liệu và thu đƣợc kết quả trung bình của Pb là 2,03 ng/g; Cd là 0,04 ng/g.