Số đặc biệt phục vụ Diễn đàn Quốc tế Mỗi Xã Một Sản phẩm Special edition for the International forum on One Commune One Product
2
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
LỜI NÓI ĐẦU
PREFACE
Việt Nam là một đất nước có chiều sâu văn hóa, lịch sử hàng nghìn năm, có nhiều tiềm năng, lợi thế vô cùng to lớn về đa dạng sinh học, về cảnh quan, văn hóa, dân tộc, sản vật của mỗi vùng miền. Trong tiến trình phát triển, các dân tộc đã sáng tạo ra nhiều sản phẩm truyền thống, chất lượng phục vụ cuộc sống từ ăn, mặc đến trang trí làm cho cuộc sống thêm tươi đẹp.
Vietnam has a rich culture and a long, thousand years’ history. It has huge potential and advantages in biodiversity, great landscapes, culture, ethnics, and region - al specialties. During their development, our people have created many quality traditional products for better living, from foodstuffs and clothing, to home decoration.
Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (One Commune One Product, OCOP) là một nội dung quan trọng trong Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới nhằm phát huy lợi thế, tiềm năng của mỗi vùng miền trong cả nước, nhất là ở khu vực nông thôn để tạo ra các sản phẩm hàng hóa nông nghiệp, phi nông nghiệp, dịch vụ chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của thị trường trong nước và quốc tế.
The program of One Commune, One Product (OCOP) plays a key role in the National Target Programs for New Rural Development. It aims for realizing the potential of each region, especially rural areas, to produce high quality agricultural and non-agricultural products and services to meet market demands, both nationally and internationally.
Ấn phẩm Mỗi xã một sản phẩm lần này tiếp tục giới thiệu những tinh hoa sản vật của Việt Nam từ ẩm thực, đến thảo dược, đến dệt vải và may mặc, đến sản phẩm lưu niệm, trang trí và đến các làng quê có phong cảnh tươi đẹp, đậm đà bản sắc văn hóa - nơi miền quê đáng sống của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đặc biệt ấn phẩm lần này tập trung vào giới thiệu phong trào mỗi làng xã̀ một sản phẩm tại rất nhiều quốc gia thế giới, các bài học kinh nghiệm… nhằm cung cấp cho độc giả các thông tin rất hữu ích về tiềm năng hợp tác để cùng phát triển phong trò mỗi làng xã trên thế giới.
The magazine, One Commune, One Product (OCOP), keeps focusing on introduction of Vietnamese specialties, from foodstuffs to herbal products, from textile weaving to souvenirs, home décor, and beautiful countryside with a rich culture – livable environments for a myriad of Vietnamese communities. Especially this special edition spends its majority to introduce the One village One product movement in many countries over the world to provide readers very useful information on the potential of co-operation to develop the global network of One village one product.
Ban biên tập rất mong nhận được sự cộng tác và ý kiến đóng góp quý báu của các bạn để ấn phẩm trong những lần xuất bản tới được hoàn thiện hơn.
We always gladly look forward to your collaboration and feedback for better magazine in the next issues.
B Ộ N Ô N G N G H I Ệ P VÀ P H ÁT T R I Ể N N Ô N G T H Ô N
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
3
4
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
5
OCOP Việt Nam hội nhập cùng phong trào
mỗi làng một sản phẩm trên thế giới Ngày đó là những năm 60 của thế kỷ 20…, Nhật Bản đối mặt với tình trạng thiếu lương thực nghiêm trọng do thiếu lao động sản xuất ở vùng nông thôn. Những thanh niên trẻ luôn muốn di cư lên các thành phố lớn kiếm sống... Oyama, một vùng quê nghèo có rất ít đất nông nghiệp có thể canh tác do địa hình chủ yếu là đồi núi…. Chính phủ Nhật Bản khuyến khích trồng lúa để cứu đói nhưng người dân Oyama lại lựa chọn cây mận, một loại cây phù hợp hơn với địa hình đồi núi, để rồi với những thành công ngoài mong đợi những năm tiếp theo, đến năm 1979, ông Morihiko Hiramatsu, Tỉnh trưởng của Tỉnh Oita đã quyết định triển khai chương trình “mỗi làng một sản phẩm” ở Oita … Ngày đó, cách đây đã tròn 40 năm… Phong trào “mỗi làng một sản phẩm” Nhật Bản như một điển hình của việc phát triển ngành nghề nông thôn trên cơ sở tận dụng các nguồn lực địa phương. Phong trào đã lan tỏa trên khắp đất nước Nhật Bản, là một trong những nhân tố quan trọng góp phần vào sự phát triển thần kỳ của ngành nông nghiệp nói riêng cũng như nền kinh tế Nhật Bản nói chung. Từ một tỉnh nghèo, Oi-ta không lâu sau đó đã được thế giới biết đến nhờ các nông sản tuyệt hảo như mận, nấm hương khô, chanh kabotsu, rượu shouchu, lúa mạch, ngựa seiki... Từ Nhật bản, phong trào OVOP đã nhanh chóng được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia ở Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh. Trung Quốc, Đài Loan là các quốc gia và vùng lãnh thổ triển khai sớm nhất chương trình mỗi làng một sản phẩm từ những năm 1989. Phong trào “Nhất thôn, nhất phẩm” hay “Mỗi làng một báu vật” ở Trung Quốc được phát triển mạnh mẽ với sự tham gia của 155.000 doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp kéo theo sự phát triển của gần 91 triệu hộ sản xuất. Thái Lan, Brunei, Malawi, Malaysia, Philippine, Mông Cổ triển khai những năm từ 2001-2005, tiếp theo đó là Nepal, Kenya, Campuchia, Pakistan, Colombia, Madagascar, Peru …trong giai đoạn 2006-2010 trước khi các quốc gia khác triển khai như Senegal, Ấn Độ, Costa Rica, Ecuador, Ai Cập, Afghanistan, Việt Nam và Argentina…Đến
6
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
nay, trên thế giới đã có 43 quốc gia và vùng lãnh thổ triển khai chương trình mỗi làng xã một sản phẩm với nhiều tên gọi khác nhau, tại Philippine, Đài Loan có phong trào “Mỗi thị trấn một sản phẩm”, tại Malaysia và rất nhiều nước khác như Campuchia, Kenya… có phong trào “Mỗi làng một sản phẩm”, tại Inđônêsia có phong trào “Trở lại làng quê” trong khi Lào lại có chương trình ODOP- mỗi huyện một sản phẩm… Biết bao những bài học kinh nghiệm đã được tích lũy trong suốt hành trình 40 năm hình thành và phát triển của phong trào mỗi làng một sản phẩm. Nếu như Nhật Bản phát triển hệ thống bán hàng qua các siêu thị, xây dựng các nhà hàng trải nghiệm các sản phẩm của phong trào mỗi làng một sản phẩm, xây dựng hệ thống phân phối thông qua các trạm dừng chân bên đường cửa hàng bán sản phẩm ngay tại địa phương, thì Thái Lan lại ưu tiên cho việc nâng cao chất lượng các mặt hàng, chuyển giao công nghệ cho nông dân nhằm tạo ra sản phẩm độc đáo hướng tới thị trường xuất khẩu. Thái Lan cũng thực hiện chương trình “Quỹ Làng”, mỗi làng sẽ nhận được một triệu baht từ chính phủ để cho dân làng vay mượn. Một số nước khác ở Châu Á và Châu Phi như Philippines, Indonesia, Campuchia, Nepal, Madagascar, Tanzania… cũng đã có những chính sách ưu tiên phát triển các làng nghề, nhưng khó khăn lớn nhất cho phong trào tại các nước này là huy động các nguồn lực địa phương, duy trì động lực của người dân và tăng cường sự tham gia của chính quyền. Là một đất nước nông nghiệp có lịch sử trên 4.000 năm, Việt Nam tự hào là là quê hương của những sản phẩm đặc sắc trải dài theo các vùng miền của cả nước. Mời bạn cùng chúng tôi lên miền Tây Bắc nơi có những điệu múa, điệu khèn của những chàng trai, cô gái Thái, Hmông để nhâm nhi bên ánh lửa hồng món thịt trâu gác bếp tuyệt diệu trong men rượu cần tránh cái rét mùa đông. Về với cái nôi của nền văn minh lúa nước sông Hồng, hãy cùng chúng tôi thưởng thức cốc trà sen Hà Thành cùng kẹo lạc Sìu Châu… Đến với dải đất miền Trung, bạn sẽ đến với nem chua xứ Thanh, tôm chua xứ Huế, nhút chua xứ Nghệ…Bạn cũng không thể không đến với những bãi biển trải dài cát trắng nơi những tinh túy của đất trời được lắng đọng trong những giọt nước mắm lừng danh của dải đất Nha Trang hay quê hương Phan Thiết… đến với vùng đất Thanh Long Bình Thuận đang được xuất khẩu sang nhiều thị trường quốc tế, đến với Tây Nguyên đầy nắng và gió để nhâm nhi ly cà phê Ban Mê với mùi hương lan tỏa làm ta ngất ngây…Hành trình của bạn sẽ chưa trọn vẹn nếu bạn chưa đến được với miền sông nước Miền Tây, để du ngoạn trong những
miệt vườn bốn mùa cây trái, đến với bưởi Năm roi, xoài cát Hòa Lộc, vú sữa lò rèn… Nhận thức rõ tiềm năng của các sản phẩm vùng miền của Việt Nam, trên cơ sở lĩnh hội kinh nghiệm của chương trình mỗi làng xã từ nhiều nước trên thế giới, từ năm 2018 Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt chương trình quốc gia mỗi xã một sản phẩm OCOP, là một chương trình được triển khai trên cơ sở thực hiện 03 nguyên tắc trụ cột của phòng trào mỗi làng một sản phẩm đó là địa phương hóa rồi hướng tới toàn cầu; tự chủ và nỗ lực sáng tạo; phát triển nguồn nhân lực. Đối tượng chủ yếu của chương trình được tập trung vào phát triển 6 nhóm sản phẩm hàng hóa và dịch vụ gồm thực phẩm, đồ uống, thảo dược, hàng lưu niệm, vải dệt thủ công và dịch vụ du lịch nông thôn, bên cạnh đó phát triển các tổ chức kinh tế trên cơ sở tiếp cận của chuỗi giá trị. Chương trình OCOP của Việt Nam là một chương trình kinh tế, là giải pháp quan trọng cho tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp, phát triển sản xuất và xây dựng nông thôn mới, động lực cho phát triển bền vững của đất nước. Chương trình OCOP của Việt Nam được điều hành trực tiếp bởi Chính phủ, cơ quan tham mưu là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Sau gần một năm triển khai thực hiện, cả nước đã có 42 trong tổng số 63 tỉnh, thành phố phê duyệt đề án triển khai ở cấp tỉnh. Nhiều hoạt động đã được triển khai rầm rộ trên cả nước, từ việc phát động Chương trình khởi nghiệp từ OCOP trong thanh niên, sinh viên, chương trình phát triển du lịch nông thôn gắn với OCOP và xây dựng nông thôn mới, các hội chợ xúc tiến thương mại sản phẩm OCOP ở các địa phương… Chặng đường phía trước còn dài, OCOP Việt Nam muốn là đối tác tin cậy của các phong trào mỗi làng xã một sản phẩm trên thế giới. Sáng kiến xây dựng mạng lưới liên kết và hợp tác toàn cầu là một nỗ lực, một đóng góp của Việt Nam với mong muốn được học hỏi, được chia sẻ những kinh nghiệm quý báu, những cách làm hay trong triển khai phong trào mỗi làng xã một sản phẩm trên thế giới, cùng giúp Việt Nam nhận diện những thách thức, những yếu tố mới tác động đến khu vực nông thôn, đến việc triển khai Chương trình OCOP Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế toàn cầu, để rồi cùng với trên 40 quốc gia trên thế giới, Vietnam muốn viết tiếp một chương mới của phong trào mỗi làng một sản phẩm nhằm đem lại sự phát triển bền vững cho người dân ở vùng nông thôn, để xây dựng nên biết bao những vùng quê đáng sống, những vùng quê của niềm tự hào....
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
7
8
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
OCOP Vietnam joins
the journey of
One Village One Product development in the world
Back then, during the 60s of the 20th century ..., Japan faced a serious food shortage due to the lack of productive labor in rural areas. Young people used to want to migrate to big cities to earn a living ... Oyama, a poor countryside with very little agricultural land that could be cultivated because it was mainly mountainous .... The Japanese government encouraged rice cultivation to save hunger, but the Oyama people opted for plum trees - a type of plant that is very suitable for hilly terrain. Then with unexpected successes in the following years, until 1979 when the then-Governor of Oita Prefecture Mr. Morihiko Hiramatsu, advocated the program “one village one product” in Oita ... It was 40 years ago already... Japan’s “one village one product” movement is a typical example of developing rural industries on the basis of utilizing local resources. The program has been rolled out all over Japan, which is one of the important factors contributing to the miraculous development of the agricultural sector in particular and the Japanese economy as a whole. From a poor province, Oita was soon known to the world for its excellent agricultural products such as plums, dried shiitake, kabotsu lemon, shochu wine, barley, seiki horse ... From Japan, the OVOP movement has been spread throughout the world rapidly, especially Asia, Africa and Latin America. China and Taiwan were the second first country and territory that implemented the program of one village one product in 1989. The “One Town, One Product” movement or One-village-one-treasure movement in China has been dramatically developed with the initiation in developing agricultural enterprises. Under this movement, China has had 155,000 agribusinesses that led to the development of nearly 91 million production households. Thailand, Brunei, Malawi, Malaysia, the Philippines and Mongolia which started the implementation in 2001-2005, followed by Nepal, Kenya, Cambodia, Pakistan, Colombia, Madagascar, Peru ....in 2006-2010 before some other countries such as Senegal, India, Costa Rica, Ecuador, Egypt, Afghanistan, Vietnam and Argentina.... So far, there have been 43 countries and terri-
tories in the world employing the program one village one product with different names and different ways of implementation. In the Philippines and Taiwan, it is One-town-oneproduct movement. In Malaysia and many other countries such as Cambodia, Kenya ... the movement is known as “One village one product”. There is a “Return to the countryside” movement in Indonesia while there is an ODOP program - one district one product in Laos... A lot of experience has been gained gradually during the 40-year journey of formation and development of one-village-one-product movement. On the one hand, Japan developed a sales system through supermarkets and restaurants to let consumer experience the OVOP products, as well as developing a distribution system through 16 roadside rest stops and 52 local stores in Oita. On the other hand, Thailand prioritized improving the quality of products, transferring technology to farmers to create unique products towards the export market. Thailand has also implemented the “Village Fund” program that the government is to provide one million Baht to each village to lend to the villagers who require financial support. Some other countries such as the Philippines, Indonesia, Cambodia, Nepal in Asia and Madagascar, Tanzania in Africa... also have had policies of prioritizing the development of craft villages. However, the biggest difficulties for this movement in these countries are mobilizing local resources, motivating people and strengthening government participation. Being an agricultural country with a history of over 4,000 years, Vietnam is proud to be the home of specialties across regions of the country. Please join us for the Northwestern region where there are dances and melodies of Thai, Hmong boys, girls to savor delicious dried carabeef in the wine yeast around the fire to avoid the winter cold. Please come to the cradle of the Red River wet rice civilization to enjoy a cup of Ha Thanh lotus tea and Siu Chau peanut candy with us... Coming to the land of the Central, you will enjoy the sour spring rolls of Thanh Hoa, sour shrimp of Hue, and sour edible fiber of jackfruit of Nghe An... You cannot help but come to the long white sand beaches where the essence of heaven and earth is deposited in the famous fish sauce of Nha Trang or Phan Thiet ... to the land of Thanh Long, Binh Thuan are exported to many international markets, to the sunny and windy Central Highlands to sip the Ban Me Thuot coffee with a pervasive scent that makes us ecstatic ... Your journey will not be complete if you have not yet reached the western region of the river,
to tour in the four seasons of fruit trees, to Nam Roi pomelos, Cat Hoa Loc mangos, Lo Ren milk fruits ... Recognizing the potential of regional products of Vietnam, based on the experience of the OVOP program from many countries around the world, since 2018, the Vietnamese Government has approved the national OCOP program, which is a program implemented based on the three-pillar concept of the one village one product movement that are localization to globalization; autonomy and creative efforts; human resource development. The main object of the program is to develop 6 groups of products and services including food, beverages, herbs, souvenirs, handmade textiles and rural tourism services, in parallel with developing economic organizations based on access of the value chain. Vietnam’s OCOP program is an economic program, an important solution for restructuring agricultural production, developing production and developing new rural areas, a driving force for sustainable development of the country. Viet Nam’s OCOP program is run directly by the Government, the advisory body is the Ministry of Agriculture and Rural Development. After nearly a year of implementation, the country has 42 out of 63 provinces and cities approved the project at provincial level. Many activities have been carried out extensively across the country, from launching a startup program from OCOP in youth, students, rural tourism development program in association with OCOP and new rural construction, trading and promotion exhibitions for OCOP products locally ... It will be a long journey ahead, OCOP Vietnam is expected to be a reliable partner of every village movement in the world. The initiative to grow a global network and cooperation is an effort, a contribution of Vietnam with the desire to learn, to share valuable experiences, good practices in implementing one village one product movement in the world. This helps Vietnam identify challenges and new factors affecting rural areas when implementing OCOP Program in the context of global economic integration, along with over 40 countries around the world, Vietnam wants to start a new chapter of one village movement in order to contribute to the sustainable development to the people in rural areas, to make livable countryside communities, the countryside of pride ....
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
9
10
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
SẢN PHẨM 0C0P VIỆT NAM OCOP PRODUCTS IN VIETNAM MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
11
Một ngày
với các làng nghề của
Hà Nội 12
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Đến với Hà Nội là đến với Thủ đô ngàn năm văn hiến của Việt Nam, trung tâm văn hóa, chính trị của cả nước với nhiều thắng cảnh tự nhiên cũng như các di tích lịch sử lâu đời. Đến với Hà Nội bạn sẽ được đến với tháp Rùa rêu phong, đến với 36 phố phường xưa với những tên phố, tên đường là niềm tự hào của mỗi người Hà Nội… Đến với Hà Nội là bạn đã đến với mảnh đất dù chỉ gọi khiêm tốn là đất trăm nghề nhưng thực ra bạn đã đến với mảnh đất có bề dày 1000 năm lịch sử, là nơi lưu giữ tới 1.350 làng nghề mà không có nơi nào trên thế giới có được…
Làng nghề Hà Nội nằm cách trung tâm thành phố không xa, nép mình bên những lũy tre hay bên những dòng sông là nơi cung cấp nguyên liệu và vận chuyển hàng hóa cho các làng nghề. Bạn không nên bỏ lỡ cơ hội để đến với các làng nghề của Hà Nội, mỗi làng nghề mang trong mình những nét đặc trưng văn hóa riêng, thể hiện từ cổng làng, đền thờ tổ nghề hay trong từng sản phẩm tinh xảo được tạo thành… Chỉ khoảng 30km từ trung tâm thành phố, bạn sẽ đến được nhiều làng nghề nổi tiếng, các làng nghề liền kề ngay nhau, có khi chỉ cách nhau một cánh đồng lúa, một dòng sông như làng gốm sứ Bát
Tràng, làng thêu Quất Động, làng may Trạch Xá, làng sơn mài Duyên Thái, làng khảm trai Chuyên Mỹ, làng Nhân Hiền giỏi nghề điêu khắc, làng cổ Nhị Khê có nghề tiện gỗ, làng Vác làm quạt giấy, làng Chuông làm nón, làng mây tre đan Phú Vinh với hàng mây xiên được mệnh danh là đỉnh cao của nghệ thuật đan lát Việt Nam… Không thể kể hết làng nghề Hà Nội, cũng khó có thể kể hết những bất ngờ đầy thú vị trong tour du lịch tại các làng nghề này nhưng có lẽ khi nói đến du lịch làng nghề Hà Nội, người ta vẫn nhắc nhiều nhất đến làng gốm Bát Tràng, làng lụa Vạn Phúc, làng đan lát Phú Vinh.
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
13
One day
In Hanoi’s
Craft Villages Hanoi, the millennial capital of fine cultural traditions, is the center of culture and politics of Vietnam with many natural attractions as well as historic sites. Coming to Hanoi, you have the opportunities to visit the ancient Turtle Tower, the Old Quarter of 36 streets whose names give each and every Hanoian a great sense of pride, etc. Even though modestly called an “area of one hundred handicraft villages”, Hanoi, the city with more than a thousand years of history, is where up to 1350 craft villages have been preserved, which cannot be found in any other place in the world. Located not too far from the city center, Hanoi’s craft villages lie next to the bamboo tree clusters or rivers, which are also their sources of material and transportation. Such villages are must-visit places as each of them has its own cultural features, shown through the village’s gate, the tradition of worshipping the man who first taught the villagers to do these handicraft works or sophisticatedly created products. Only about 30 kilometers from the Old Quarter, there are a large number of famous handicraft villages, which are adjacent to each other, or are separated just by a paddy field or a river, such as Bat Trang pottery village, Quat Dong embroidery village, Trach Xa sewing village, Duyen Thai lacquer village, Chuyen My mosaic village, Nhan Hien sculpture village, Nhi Khe wood-carving village, Vac paper fan-making village, Chuong conical hat village, Phu Vinh bamboo-weaving village (whose spun bamboo ware products are praised as the peak of Vietnamese weaving art), etc. Though it is not able to mention all of Hanoi’s handicraft villages as well as interesting surprises in craft village tours, Bat Trang pottery village, Van Phuc silk village and Phu Vinh bamboo-weaving village are the most popular names of such tours in Hanoi.
14
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Làng lụa Vạn Phúc Nằm bên bờ sông Nhuệ, làng lụa Vạn Phúc vẫn còn giữ được nét cổ kính quê ngày xưa như hình ảnh chiếc giếng làng với những bông hoa sen, cạnh cây đa cổ thụ, buổi chiều vẫn họp chợ trước đình. Làng lụa Vạn Phúc từ lâu đã rất nổi tiếng với nghề dệt lụa truyền thống, ngôi làng có tuổi nghề 1.000 năm này đã được ghi nhận kỷ lục Việt Nam là “Làng nghề dệt lụa tơ tằm lâu đời nhất còn duy trì hoạt động đến ngày nay”. Các sản phẩm của làng lụa Vạn Phúc rất đa dạng về màu sắc, phong phú về chủng loại như gấm, lụa, the, sa, xuyến, băng quế, lĩnh, đoạn, đũi, sa tanh, vải... Trong lịch sử, lụa Vạn Phúc từng được dùng để may quốc phục. Lần đầu tiên lụa Vạn Phúc có mặt trên thị trường quốc tế là tại hội chợ Marseille (1931) và được người Pháp đánh giá là loại sản phẩm tinh xảo của vùng Đông Dương. Và từ năm 1990, lụa Vạn Phúc đã được xuất khẩu sang nhiều quốc gia trên thế giới như: Pháp, Ba Lan, Thụy Sỹ, Campuchia… Đến với làng lụa Vạn Phúc, trong tiếng thoi đưa rộn rã, bạn sẽ hòa vào dòng chảy nhộn nhịp, tấp nập với nhiều du khách ra vào, mua sắm và chọn lựa sản phẩm. Các gian hàng trưng bày sản phẩm lụa Vạn Phúc nằm dọc hai bên đường làng, bày bán những xấp vải nhiều màu sắc đẹp mắt. Sản phẩm nơi đây nổi tiếng về sự mềm mại, nhẹ nhàng và đặc biệt rất bền và đẹp, đây là những nét đặc sắc làm nên tên tuổi của nghề dệt lụa tơ tằm này. Ngoài ra, đến với làng nghề lâu đời này, du khách còn có dịp tham quan quy trình dệt lụa, bạn cũng có thể tận mắt chứng kiến công việc thiết kế, vẽ và thêu hoa văn của các nghệ nhân, thợ dệt trong làng. Chuyến thăm quan làng lụa Vạn Phúc chắc chắn sẽ để lại cho bạn nhiều ấn tượng sâu sắc và thú vị.
Van Phuc Silk Village Located on the bank of the Nhue River, Van Phuc silk village still retains the original characteristics of an ancient village of Vietnam, with age old banyan trees, wells, communal house and the regular afternoon markets. Van Phuc has been famous for the traditional craft of silk weaving for a long time and the history of 1,000 years, making it recognized as “the oldest silk weaving craft village in Vietnam” recently. Van Phuc silk products have a wide range of colors and kinds (brocade, silk, chiffon, satin, etc.). In the past, Van Phuc silk was used to sew the national costumes. At Marseilla Fair in 1931, Van Phuc silk was introduced in the international market for the first time and appraised as a delicate product of Indochina by French people. Since 1990, Van Phuc silk has been exported to many countries such as France, Poland, Switzerland, Cambodia, etc.
Coming to Van Phuc silk village, in the joyful sounds of the looms moving back and forth, you will find yourself in a busy crowd of visitors going in and out of the shops, trying and buying silk products. The shops are placed on the side of the village’s main road, selling stunning and colorful fabrics. The silk products here are famous for being soft, light, and especially resistant and appealing, which created the brand name for this silk weaving village. Besides, when visiting this old craft village, tourists have an opportunity to observe the process of silk weaving themselves, from designing, drawing to embroidering. A tour to Van Phuc silk village will surely leave you with long-lasting and interesting impressions. MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
15
Làng gốm Bát Tràng Một trong những địa chỉ cho bất kỳ du khách nào khi đến với Hà Nội chính là làng nghề gốm sứ Bát Tràng, một làng nghề có niềm tự hào nhất của làng nghề Hà Nội là làng gốm Bát Tràng với lịch sử hình thành và phát triển đã trên 600 năm. Làng gốm Bát Tràng nằm thanh bình bên dòng sông Hồng hiền hòa với hơn 2.000 lò gốm, sản phẩm sản xuất ra từ xưa đến nay đã lưu hành trên khắp mọi miền đất nước, thậm chí ra cả nước ngoài. Sản phẩm gốm Bát Tràng như lọ hoa, độc bình, song bình, bát, đĩa, ấm trà…. vẽ chuồn, bát vẽ các tích cổ... đã và đang được xuất khẩu đi nhiều quốc gia trên thế giới từ hàng trăm năm nay các lái thương Bồ Ðào Nha, Nhật Bản, Hà Lan, Pháp... mua với số lượng lớn. Đến với Bát Tràng, không ai có thể bỏ qua một điểm đến vô cùng hấp dẫn đó là làng cổ Bát Tràng. Những con đường nhỏ dài hun hút được bao quanh bằng những bức tường gạch cổ rêu phong màu sương gió thời gian, những bức tường than đen nhánh, những con đường lát gạch, đó đây những vòm cổng nhà cong cong thấp thoáng sau những giàn hoa đầy sắc màu… là cảm nhận đầu tiên khi đến với ngôi làng cổ này… Người Bát Tràng xưa giàu có vì nghề, những con đường nhỏ với vô số các đường nhánh là cách họ muốn làm để bảo vệ tài sản của mình, một người lạ vào làng thì rất khó tìm đường ra, rất khó đưa đồ ra… Trong ngôi làng cổ đó cũng còn đó đây những lò gốm cổ, từ lò đàn, lò bầu, lò hộp… gắn với các giai đoạn phát triển khác nhau, từng nhóm sản phẩm khác nhau của làng nghề… Cũng trong ngôi làng cổ đó còn có đình làng, có nhà thờ các dòng họp cũng như rất nhiều những ngôi nhà cổ cùng những câu chuyện gắn với tình yêu nghề gốm của người Bát Tràng… Người làng cổ Bát Tràng rất mến khách, họ không chỉ giỏi làm gốm mà còn rất giỏi trong việc chế biến những món ăn truyền thống được lưu truyền trong làng nghề. Đến đây du khách sẽ được thưởng thức món mực nấu với măng, món xôi vò hay nhâm nhi li chè hoa sói… Khó có thể diễn tả hết những bất ngờ và thú vị khi đến với làng gốm cổ Bát Tràng…
Bat Trang Pottery village A place of interests that any tourist should visit when they travel to Hanoi is Bat Trang pottery village - a famous craft village of Hanoi with a history of more than 600 years. Bat Trang is located on the side of the peaceful Red river with over 2,000 ceramics factories whose products have been well known across Vietnam and even by overseas markets for decades. Bat Trang ceramic products such as flower vases, decorative vases, bowls, plates, dishes, tea sets, etc… are often decorated with the ancient patterns. They have already been exported to many countries, including Portuguese, Japanese, Holland, French and so on, around the world for hundred years in large quantities. Once visit Bat Trang, visitors should not miss an attractive Bat Trang ancient village. The small long roads are surrounded by the mossy antique brick walls, the charcoal black walls, the curving gates of the houses hidden by colorful flower trusses somewhere. It is the first feeling when people first arrive at this ancient village. In the past, Bat Trang villagers were well – off thanks to their traditional business. This can be told by looking at the tiny roads with many smaller paths that was the way they used to protect their properties, a stranger could hardly find the way out or to take something out of the village. In this ancient village, there are still some ancient ceramic furnaces used in different development periods or to make different products. In this ancient village, there are a lot of pagodas, churches, or old houses, each of which would be related to a story of love for the ceramics production of Bat Trang. Bat Trang people are very friendly and they are also good at making ceramics as well as cooking tradition foods. When tourists come across this village, they will have opportunities to try the dish of calamari mixed with bamboo shoots, crunchy sticky rice or a cup of the sip flower tea. It is hard to describe the impressions and feelings when visit Bat Trang ceramic village.
16
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
17
Làng đan lát Phú Vinh Chỉ cách làng Vạn Phúc chưa đến 30 phút đi xe là một địa chỉ du lịch làng nghề rất hấp dẫn nữa của Hà Nội – làng nghề đan lát Phú Vinh. Đây có lẽ là làng nghề duy nhất ở Việt Nam bạn có thể được chiêm ngưỡng những tác phẩm đan lát mà có lẽ không đến đây bạn sẽ không bao giờ có thể tưởng tượng ra được. Phú Vinh thực sự là làng nghề của những người thợ, những nghệ nhân hay nói đúng hơn là những nghệ sỹ tài ba của nghệ thuật đan lát. Các nghệ nhân ở đây như ông Nguyễn Văn Tĩnh, ông Nguyễn Văn Trung… có thể đan được chân dung của các lãnh tụ, nhìn vào tranh thấy toát lên hồn của nhân vật… rồi vợ chồng ông Nguyễn Văn Khá mặc dù tuổi đã ngoài 60 nhưng có lẽ là những người duy nhất trên thế giới đan được chiếc lồng bàn nhẹ như lụa với những nan mây bé không thể bé hơn… Đến Phú Vinh, bạn cũng sẽ được hòa mình vào không gian thanh bình của làng nghề đan lát, không gian đậm chất làng quê của đồng bằng Bắc bộ với những lũy tre, rặng mây, với những nếp nhà san sát nơi những chàng trai, cô gái, cụ ông, cụ bà và cả các em nhỏ quây quần ngồi đan đủ loại sản phẩm khác nhau, từ các loại giỏ hoa, túi xách, rổ đựng… Phú Vinh cũng là làng nghề duy nhất ở Việt Nam có kỹ thuật xâu xiên sử dụng chất liệu sợi mây vô cùng tinh tế… là đỉnh cao của nghệ thuật đan lát Việt Nam. Những nghệ nhân giỏi và lâu năm ở Phú Vinh như những “bảo tàng sống” của làng nghề, là người giữ lửa và truyền lửa yêu nghề đến các thế hệ con cháu. Đến thăm Phú Vinh, bạn có thể tìm gặp và trò chuyện cùng các nghệ nhân này, để nghe họ say sưa kể về lịch sử làng nghề, về quá trình hình thành và phát triển, đặc biệt là xem họ trình diễn nghề thật điêu luyện và tài khéo. Với lòng yêu nghề sâu sắc, chắc chắn những nghệ nhân này sẽ là những “hướng dẫn viên” tài tình và tận tâm nhất, đưa du khách vào không gian văn hóa làng nghề đặc sắc.
Phu Vinh bamboo
strips. Once visiting Phu Vinh village, you can also be charmed by its peacefulness which is typical of the Northern countryside with bamboo and rattan tree clusters together with attached town houses where the villagers regardless of ages or genders are gathering to weave thousands of products every day, from flower baskets, bags to storage baskets and so on. Phu Vinh is also the only village in Vietnam that produces delicate spun bamboo ware products which are praised as the best of Vietnamese weaving art.
Only less than 30 minutes driving from Van Phuc village, Phu Vinh bamboo-weaving village is another handicraft attraction of Hanoi. This may be the only craft village in Vietnam where you can find the woven craftworks that you can hardly ever imagine. Phu Vinh is truly a craft village of craftsmen, or more precisely, talented artists of the bamboo-weaving art. Such craftsmen as Nguyen Van Tinh, Nguyen Van Trung, etc. here are capable of weaving soulful portraits of the nation’s leaders. It is possibly that only Nguyen Van Kha and his wife in their 60s can be the only ones in the world who are still able to make Vietnamese food cover tents by using the smallest possible rattan
The experienced and skillful craftsmen in Phu Vinh are considered as the village’s “living museums” that maintain the love of bamboo weaving and transfer it to younger generations. When visiting this village, you can look for and talk to craftsmen who will passionately tell you about the history and development of the village and show you their professional weaving skills. With a great passion for their village and the knowledge of a local, these craftsmen can possibly be ideal “tour guides” who can walk their tourists into an impressive world of the craft village.
and rattan weaving
18
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
19
20
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Thổ cẩm
Tây Nguyên Tây Nguyên, một dải Trường Sơn xanh thẳm với những cánh rừng đại ngàn nguyên sinh, trắng xóa bao dòng thác bạc với một nền văn hóa độc đáo và phong phú. Mỗi bước chân ta đi đều có thể bắt gặp ở mọi nơi, mọi lúc cái đẹp hiển hiện nguyên sơ mà kỳ bí của núi, của sông,... Từ những căn nhà “dài hơn một tiếng chiêng ngân” của người Ê Đê đến những mái nhà rông cao vút tựa dáng lưỡi rìu tạc vào bầu trời xanh thăm thẳm của cao nguyên của người Bana, Xê Đăng hay nét uyển chuyển trong điệu múa xoang của những chàng trai, cô gái Ba Na và có lẽ trên hết là những sắc màu quyến rũ của thổ cẩm Tây Nguyên… Đã thành truyền thống, bất cứ cô gái Tây Nguyên nào khi lớn lên đều được người mẹ bày cho cách dệt vải để không chỉ dệt cho mình những bộ váy đẹp mà cho cả gia đình sau này. Những bộ váy đẹp nhất được dành cho những ngày lễ hội, cưới xin khi dân làng tụ họp vui vẻ trong tiếng cồng chiêng, cô gái nào có bộ váy đẹp cũng được coi là người chăm chỉ giỏi giang. Để có những tấm vải thổ cẩm đẹp với những đường nét, hoa văn độc đáo là cả một quá trình lao động khá công phu và mệt nhọc từ trồng bông, cán bông, kéo sợi, nhuộm màu và dệt. Khung dệt của đồng bào Tây Nguyên tuy đơn giản nhưng rất đa dạng, có loại chuyên dành cho việc dệt váy, dệt chăn, lại có loại chuyên dệt những tấm vải có kích thước nhỏ hơn như là túi thổ cẩm, là khăn địu, là khố... Dưới đôi bàn tay uyển chuyển của người thiếu nữ, những họa tiết đều mang tính cách điệu cao và thường thể hiện bằng các hoa văn chấm
dải, gồm các mô típ: bông hoa, con chim, con ba ba, chiêng, ché, ngà voi...dần được hiện lên với nhiều sự phối trộn màu sắc tinh tế khác nhau. Theo quan niệm của các dân tộc Tây Nguyên: nền vải màu đen đặc trưng cho đất đai mà cả cuộc đời họ gắn bó - lúc sống cũng như lúc chết; màu đỏ biểu tượng cho sự đam mê, cho sự vươn lên, cho khát vọng, tình yêu; màu xanh là màu của đất trời, cây lá; màu vàng là màu của ánh sáng, là sự kết hợp hài hòa giữa con người và thiên nhiên. Với người Êđê, màu đen và đỏ là 2 màu được ưa chuộng nhất, còn đối với người Thượng là sự kết hợp các sợi màu đỏ, vàng rực rỡ ở “gam màu” nóng tương phản rõ nét với nền đen. Cũng có màu trắng nhưng dường như nó xuất hiện đột khởi nhắc nhở sự tiềm ẩn như đã mờ phai theo thời gian năm tháng để phù hợp với hoàn cảnh sống, canh tác, nơi núi rừng. Dày và thô - rất “rừng”, là hàng người Kơ Ho, người Lạch còn vải dệt của một số dân tộc phía Nam Cao Nguyên hay ven biển như những dân tộc Chàm, Châu Ro, người Stiêng lại lấy màu nền trắng làm chủ đạo, tựa như để hòa lẫn với sóng biển bạc đầu…Công phu, ấn tượng, hoa văn tỉ mỉ và có độ dày đáng “nể”. được ngoại khách chuộng nhất có lẽ là hàng của người Mạ. Nếu người Anh, Đức, Bỉ thích thổ cẩm dân tộc Mạ, Kơ Ho thì người Hà Lan, Nhật lại chuộng hàng người Chàm. Đến Tây Nguyên hôm nay, du khách sẽ được tận hưởng những âm sắc ngân nga của những điệu cồng chiêng, đắm mình và ngất ngây trong những chén rượu cần, để rồi sẽ chẳng bao giờ quên những nét chắt lọc cả tinh hoa của đất, của trời, của rừng xanh, thác bạc trong mỗi mặt hàng thổ cẩm Tây Nguyên.
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
21
Brocade in
The Central Highland Central Highland is a very special place with a green range of Truong Son mountains, with immense primeval forest, with dazzling white waterfalls and with original and rich culture. We can see and feel the natural & mysterious beauty anywhere at any times: from the Ede’s house which is “longer than a resound of a gong” to immeasurably high of communal house’s roof which look like a axe head carved in deep blue sky of Bana & Xe Dang people, from nice landscape of mountain & forest to the lissome dance of Bana’s people,...but above all may be the charming colors of brocade in Central Highland,... As traditional culture of Central Highland, any girl will be tough by her mother the weaving skills in order to serve for her need and for her family in the future. The most beautiful skirts are wore in festival or important events such as weeding ceremony. In the festival ceremonies full of resound of gong, the girl with the most beautiful skirts is considered as the most assiduous and skillful girl. A nice brocade with original patterns is created through hard work process from cotton planting, cotton rolling, hand spinning, dyeing and weaving. People in Central Highland use very simple loom but variable types, some are specialized in weaving skirt, blanket, some are specialized in smaller products such as brocade handbag, cloth band, loin-cloth,... Stylized designs with fineness of colors mixing are little by little created under the skillful hands, embellished designs with many types: flower, bird, tortoise, gong, jar, elephant’s tusk...According to ethnic people in Central Highlands, black foundation means the land where they spend all the life whether they alive or even after dead; red color represents for the passion, the improvement, the aspiration and the love; the green is the color of trees, sky...; yellow is the color of the light & the harmony coordination between human and nature. Red and black are two most favorite colors for the Ede people; red, bright yellow on the black foundation are colors of Thuong people. The white color appears very random as the implicit of the living condition, plantation field, mountain & forest. Ko Ho & Lach people created products very thick, husky and “forest” type. People living in the south of Central Highland such as Cham, Chau Ro, S’tieng people use white foundation as main color as to mingle with the wave with a crest of sea foam. The most meticulous, impressive brocade that attracts most foreign tourists may be those of Ma people. If English, German & Belgium people love brocade of Ma & Ko Ho ethnic people, then Dutch & Japanese love brocade of Cham ethnic people. Visiting Central Highland, you will enjoy the resound of gong, feel delight with the wine drunk out of far through pipes (ruou can) and you will never forget the quintessence of blue sky, immense forest, white waterfall filled with the brocade designs of Central Highland.
22
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
23
24
BỘ BỘ NÔNG NÔNG NGHIỆP NGHIỆP VÀ VÀ PHÁT PHÁT TRIỂN TRIỂN NÔNG NÔNG THÔN THÔN
MINISTRY MINISTRY OF OF AGRICULTURE AGRICULTURE AND AND RURAL RURAL DEVELOPMENT DEVELOPMENT
25
26
BỘ BỘ NÔNG NÔNG NGHIỆP NGHIỆP VÀ VÀ PHÁT PHÁT TRIỂN TRIỂN NÔNG NÔNG THÔN THÔN
MINISTRY MINISTRY OF OF AGRICULTURE AGRICULTURE AND AND RURAL RURAL DEVELOPMENT DEVELOPMENT
27
Ngôn ngữ hoa văn
dân tộc H’mong Nằm khuất trong sườn núi cách Hòa Bình 30 cây số, xã Pà Cò là quê hương của cộng đồng người Hmông xanh. Tên gọi này có nguồn gốc từ chính màu sắc quần áo và thổ cẩm nơi đây. Phụ nữ Hmông xanh mặc những chiếc váy xoè rộng được tô điểm bởi hoa văn sáp ong, chắp vải và thêu chữ thập để tạo thành các mẫu hoa văn đa dạng. Những người Hmông kể lại rằng, xưa kia người Hmông cũng có chữ viết, song do cuộc sống phiêu dạt bốn phương nên chữ viết của họ bị thất lạc dần. Để giữ lại chữ viết cho mình, người Hmông đã tạo ra các hoa văn thay cho chữ viết trên y phục của mình... Họ cũng dùng ý nghĩa của những họa tiết hoa văn để cảm nhận cuộc sống, để gửi gắm những tình cảm yêu thương lứa đôi, để báo tin cho họ hàng về mình... Hãy cùng chúng tôi khám phá các câu chuyện về hoa văn của người Hmông ở Pà Cò nhé…
H’mong
traditional patterns Hidden in the mountainous area, 30 km from Hoa Binh, Pa Co is the home to the blue H’mong community. The name came from the colors of their clothes and brocade. Blue H’mong women dress in indigo pleated skirts adorn with sophisticated batik, appliqué, and baby blue cross-stitch patterns. It is said that the H’mong people used to have their own writings but due to their wandering unsettled life they gradually lost their writings. In order to retain them, the H’mong created the pattern instead of their writings on their clothes. The meanings of their patterns are also to express their feelings about life, about love and affection, to make announcements…Let’s join us and learn about the stories of H’mong traditional patterns in Pa Co then.
28
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Hoa văn Tổ nhện Ngày xưa con dâu của bà chúa Hmông mang thai đứa con đầu lòng. Một hôm cô ra suối giặt áo, thấy có con nhện nằm trên cái mạng rất đẹp; bóng nhện che cho cô khỏi ánh nắng chói chang. Về nhà, cô nhớ lại hình ảnh tổ nhện và vẽ lên cái địu con. Hoạ tiết này vừa thể hiện ước muốn của người mẹ mong tổ nhện che nắng che mưa cho đứa con bé bỏng, vừa thể hiện ao ước cho các con của mình lớn lên khoẻ mạnh, có thể sống trong điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt như con nhện. Các cô gái Hmông ngày nay tiếp tục truyền thống này và vẽ hoa văn tổ nhện lên cái địu con.
Spider web pattern A long time ago, a Hmong princess was pregnant with her first child. When she went to the stream to wash her clothes, a spider rested on its beautiful web and blocked the intense sunlight for her. She came back and drew the spider’s web on the fabric for her baby, hoping that the spider would protect her baby and that the baby would grow up to be strong against nature like a spider does. Hmong mothers continue keeping this tradition and draw the spider web pattern on their baby swings.
Hoa văn mâm cơm Hàng ngày cả gia đình người Hmông phải lên làm nương rẫy, khi mặt trời lặn trở về nhà người phụ nữ lại phải vất vả chuẩn bữa ăn cho cả gia đình. Trước đây còn có sự phân biệt trong gia đình: khi bữa cơm được dọn ra thì người bố và con trai ăn riêng một mâm trước, sau đó vợ, con dâu và những người phụ nữ trong gia đình mới được ăn ở mâm riêng. Cái sâu xa của hình vẽ này là ước muốn không có sự phân biệt trong bữa cơm và trong gia đình nói chung. Ngày nay, tục lệ ăn riêng này không còn nhưng phụ nữ Hmông vẫn vẽ hoạ tiết này như một biểu tượng cho sự đoàn kết vui vẻ trong mâm cơm gia đình.
Food tray pattern During the day, every Hmong villager goes to work on the field. When they return home at sunset, the women have to cook the dinner for the whole family. In the old time, the food is served first to the father and the sons. The mother, daughters-in-law and any other women in the family would have to eat after, in a separated meal. Elder women in the Hmong tribe in Pa Co drew this pattern with a wish that this separation would one day be gone and the family could have dinner together. Nowadays when this tradition is gone, Hmong women still draw this pattern as a symbol of unity and equality within a family.
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
29
Hoa văn Dương xỉ Người phụ nữ Hmông lên rừng làm nương, làm rẫy luôn được ngắm nhìn các cảnh đẹp của thiên nhiên ban tặng cho dân tộc mình, như các dòng suối trong vắt và các loại cây rừng phủ kín triền núi. Họ thấy cây dương xỉ dù mọc trong các khe đá, bờ suối nhưng sức sống luôn mãnh liệt; lá cây dương xỉ luôn xanh tươi bất chấp điều kiện sống khắc nghiệt. Phụ nữ Hmông vẽ và thêu hoạ tiết Dương xỉ lên bộ váy chuẩn bị đi làm dâu để cầu mong hạnh phúc của hai vợ chồng trường tồn qua mọi khó khăn như cây dương xỉ.
Fern pattern Hmong women work on highland agriculture fields surrounded by jungle and mountains. Every day at work, a Hmong woman can enjoy the amazing views of wild trees and mountains streams running through the rocky hillside. Fern is a type of plant that favors the rocky land by the stream. Hmong women admire the durability and strong survival quality of the fern despite harsh living conditions. When a girl prepares textiles for her marriage, she draws or embroiders the Fern pattern to wish for the strength and longevity of the marital bond.
Hoa văn sa quay sợi Hoa văn này mô phỏng cái sa quay sợi lanh của người H’Mông. Làm vải lanh là một quá trình lao động vất vả, đòi hỏi sự cần cù tỉ mỉ của người phụ nữ, từ trồng cây đến tước vỏ, luộc nước tro và lăn bằng cối đá nhiều lần cho mềm, sau đó xoắn thành sợi, xe sợi và dệt thành vải. Vất vả là vậy nên dệt ra được tấm vải lanh là một điều đáng quí mà chỉ những người phụ nữ H’Mông mới thấu hiểu. Mẹ dạy cho con gái, bà truyền cho cháu gái, để dệt ra vải may quần áo cho gia đình và làm tang ma cho cha mẹ.
Spinning wheel pattern This pattern resembles the traditional spinning wheel that Hmong women use to spin hemp yarn. Making hemp fabric is a tedious process that requires dexterity and hard labor. The entire process goes from cultivating hemp, harvesting and removing the best fiber, grinding it with a stone wheel and washing with water, then twinning, spinning and eventually weaving. The art of hemp making has been transferred to the next generations of women in the family. Hemp fabric is very valuable to Hmong people, especially to the women who make clothes for their family or for the funerals.
30
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Hoa văn dương xỉ Người phụ nữ Hmông lên rừng làm nương, làm rẫy luôn được ngắm nhìn các cảnh đẹp của thiên nhiên ban tặng cho dân tộc mình, như các dòng suối trong vắt và các loại cây rừng phủ kín triền núi. Họ thấy cây dương xỉ dù mọc trong các khe đá, bờ suối nhưng sức sống luôn mãnh liệt; lá cây dương xỉ luôn xanh tươi bất chấp điều kiện sống khắc nghiệt. Phụ nữ Hmông vẽ và thêu hoạ tiết Dương xỉ lên bộ váy chuẩn bị đi làm dâu để cầu mong hạnh phúc của hai vợ chồng trường tồn qua mọi khó khăn như cây dương xỉ.
Fern Pattern Hmong women work on the highland agriculture field surrounded by jungle and mountains. Everyday at work, a Hmong woman can immense herself in the scenic views of wild trees and mountains streams running through the rocky hillside. Fern is a type of plant that favors the rocky land by the stream. Hmong women admire the durability and strong survival quality of the fern despite harsh living conditions. When a girl prepares textiles for her marriage, she draws or embroider the Fern pattern to wish for the strength and longevity of the maritial bond.
Hoa văn nước giải trâu Cũng như người dưới xuôi, con trâu cũng là đầu cơ nghiệp của đồng bào dân tộc Hmông. Ngoài việc dùng trâu trong việc cày ruộng, nương còn được sử dụng trong việc cưới xin, ma chay. Không có trâu không lấy được vợ, không có trâu không làm được nhà… Mặc dù còn có nhiều khó khăn và áp lực như vậy, nhưng người Hmông vẫn hồn nhiên yêu đời trong cuộc sống, khi hai vợ, chồng dắt trâu lên nương: « Chồng dắt trâu đi trước Vợ đi sau, nhìn cái nước giải trâu cung keo (vòng vèo).» Đơn giản như vậy nhưng hoa văn này vừa thể hiện cách nhìn thế giới hồn nhiên và lạc quan, vừa là minh chứng cho sự quan sát tinh tế và trí tưởng tượng của người H mông.
Water buffalos URINE PATTERN The buffalo is an important property to any H’mong family. The buffalo not only helps in agricultural work but also used in many important events such as weddings (as the exchange from the groom’s family) or funerals (as the offers to the ancestors and food for the three-day feast). No matter how difficult their life is, H’mong people still maintain a sense of optimism. They usually cite a traditional folk poem that says: “The husband walks the buffalo, the wife follows, seeing the zigzag urine.” Through this, we can somehow feel their simple yet optimistic perspective of life as well as the keen observation and imagination of H’mong people.
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
31
Làng cây cảnh
Vị Khê Làng Vị Khê nằm ven sông Hồng, thuộc xã Điền Xá, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định) là một làng cây cảnh truyền thống đã có tuổi đời hơn 800 năm và được mệnh danh là đất tổ của nghề trồng hoa, cây cảnh ở Việt Nam. Nơi đây nổi danh với cây cảnh, cây thế, bonsai... được uốn tỉa chăm sóc công phu thành các dáng, thế, đầy nghệ thuật và đẹp mắt. Người làng kể, ông tổ nghề trồng hoa của làng là Tô Trung Tự- một vị quan thời nhà Lý ( thế kỷ XIII). Khi ông 32
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
đến Nguyễn Gia Trang (nay là thôn Vị Khê), thấy nơi đây là vùng đất đẹp, ruộng đồng màu mỡ, dân cư thuần phác, ông đã cho lập hành cung làm nơi đi lại. Tại đây, ngoài việc khuyến khích sản xuất mở rộng nghề nông, ông còn dạy dân địa phương trồng hoa, trồng cây cảnh để làm kế sinh sống lâu dài. Vị Khê là quê hương của nhiều giống hoa như bạch đào, phong lan, địa lan, bạch trà, hồng trà, đỗ quyên, hải đường… cùng hàng trăm các giống
hoa khác như thược dược, lay ơn, đồng tiền... Đặc biệt là hoa Ngâu dùng làm hương liệu ướp chè được trồng rất nhiều, nên ở đây không chỉ có vườn ngâu mà còn hàng rào bằng ngâu, những bờ dậu ngâu, những vòm cổng bằng ngâu xanh biếc. Không chỉ có vậy, đến Vị Khê, du khách còn được chiêm ngưỡng và trầm trồ trước sự khéo léo của các nghệ nhân khi uốn tỉa cây xanh ra những khuôn hình chim thú, Chùa Một Cột, Khuê Văn Các, Tháp Phổ Minh... một cách tài tình như chính thiên nhiên khởi tạo. Cây cảnh ở Vị Khê thật đa dạng, từ đa, sung, lộc vừng, sanh, si, với nhiều thế cây phong phú như thế huyền, thế song phục, huynh đệ, mẫu tử tương thân…, mỗi thế cây lại mang một vẻ đẹp khác nhau, ẩn sau đó một triết lý riêng biệt. Những nghệ nhân cây cảnh ở Vị Khê bảo rằng, dù có tỉa, có uốn theo dáng nào đi nữa, với những triết lý thổi hồn vào từng thế cây, ông cha ta cũng luôn hướng đến chân - thiện - mỹ, cái gốc trường tồn của sự sống bao đời.
Vi Khe bonsai village
Located on the banks of the Red River (Dien Xa, Nam Truc, Nam Dinh), Vi Khe bonsai village is a traditional village with the history of more than 800 years and known as the land of flowers and ornamental plants in Vietnam. The village is famous for its bonsai and ornamental plants which are meticulously trimmed or shaped into unique, artistic and beautiful forms.
century). When he arrived at Nguyen village (Vi Khe village of Dien Xa commune now), he so impressed with the beautiful land, the fertile rice fields and the naive locals that he decided to build his own house to stay here. Not only encouraging agricultural production expansion, he also taught local people how to plant flowers and ornamental trees to earn their living in long term.
According to the villagers, the ancestor of flower cultivation was To Trung Tu - a mandarin of the Ly dynasty (13th
Vi Khe is a place with a wide variety of flowers such as white peach-blossom, orchid, cymbidium, white camellia,
pink camellia, azaleas... with hundreds of other flowers like peony, gladioli, gerbera… Since the flowers of mock lemon trees are used to scent tea, they are planted a lot across the village, for instance, in gardens, on fences or gates… At Vi Khe bonsai village, visitors also admire the craftsmen for their talents of making the trees to look like birds, the One Pillar Pagoda, the Temple of Literature, Pho Minh temple, etc. Vi Khe also has many kinds of ornamental trees such as banyan, Chinese banyan, cluster fig, freshwater mangrove, weeping fig, with so various shapes such as full cascade shape, a love-bird couple (“song phuc”), siblings, or mother-child shape… Each shape has its own beauty, containing a hidden philosophy. According to Vi Khe artists, no matter how different the shape is or the philosophy hidden behind each shape, the Vietnamese people have always considered The True, the Good and the Beautiful, and the eternity of life as a rule of thumb.
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
33
Cà phê Arabica Arabica coffee trên đất Việt of Vietnam Việt Nam nổi tiếng là một quốc gia trồng và xuất khẩu cà phê Robusta, sản lượng đứng thứ 2 thế giới. Tuy nhiên ít người biết được rằng, cà phê Arabica, giống cà phê được đánh giá là có chất lượng tốt nhất trên thế giới cũng đã được du nhập vào Việt Nam từ đầu thế kỷ XIX và được trồng ở nhiều vùng miền của Việt Nam đem lại những hương vị rất tuyệt vời.
Vietnam is famous for growing and exporting Robusta coffee as the world’s 2nd largest exporter. However, few people know that Arabica coffee, which is considered the higest quality coffee in the world, has been grown in Vietnam since the early 19th century and in many parts of Vietnam with great flavors.
Dọc theo chiều dài đất nước, cà phê Arabica được trồng ở vùng Tây Nguyên, vùng miền Trung đến vùng miền núi phía Bắc, từ Lâm Đồng đến Quảng Trị, Sơn La hay Điện Biên…, phổ biến trên vùng chất đất Bazan và ở vùng có độ cao từ 1.450 đến 1.650 m so với mực nước biển, nhiệt độ quanh năm mát mẻ.
Arabica coffee is grown around the country, in the Central Highlands, in Central and the Northern mountainous regions, from Lam Dong to Quang Tri, Son La or Dien Bien, etc. and in the area of 1,450 - 1,650 meters above sea level with the cool temperature all year round.
Các chủng cà phê Arabica thơm ngon ở Việt Nam có Bourbon và Typica. Đặc biệt là Bourbon, hay còn gọi là moka, có thể xem là giống có giá trị cao nổi tiếng ở Việt Nam với hương vị sánh ngang các loại cà phê nổi tiếng trên thế giới. Giống moka này lần đầu được đưa vào canh tác năm 1875. Sau khi thu hoạch và chế biến, người Pháp tung ra thị trường sản phẩm với thương hiệu “ Arabica du Tonkin”, nổi tiếng vì cực kỳ thơm ngon, chỉ dành cho tầng lớp quý tộc, thượng lưu. Hạt cà phê Moka sau khi rang xay toát ra mùi nồng ấm của gỗ lâu năm. Tách cà phê arabica có màu nâu nhạt, trong trẻo. Hơi nóng toả ra mang mùi chua nhẹ của trái cây rừng, quyện với mùi mật ong đặc trưng. Vị cà phê đủ cân bằng, chua nhè nhẹ, không quá đắng, hậu vị ngọt và kéo dài. Với hương vị tinh tế như vậy, Arabica Việt Nam được đánh giá rất cao và được các hãng cà phê lớn trên thế giới ưa chuộng.
The delicious type of Arabica in Vietnam is Bourbon and Typica. Especially Bourbon, which is also known as mocha and is considered to have a high value in Vietnam since its taste can be compared to other famous coffee in the world. The mocha was first cultivated in 1875 and sold in the market under the brand name “Arabica du Tonkin” by the French, which became very popular among the upper class only. The mocha beans have a warm aroma after being roasted and grinded. Arabica coffee often has a clear, light brown color. The taste is just right, slightly sour, not too bitter, and there is a long lasting sweet taste when it goes through the throat. With such a delicate taste, Arabica of Vietnam is highly appreciated and favored by many large coffee brands in the world.
34
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Chè Shan tuyết
Tà Xùa Dọc theo đất nước Việt Nam, mỗi vùng miền đều mang trong mình những đặc điểm riêng và chính điều này đã tạo nên những sản vật tự nhiên mang đậm nét đặc trưng của từng vùng. Theo kinh nghiệm lâu đời từ những người làm trà, vùng trà của người Mông bao giờ cũng là vùng trà rất ngon bởi hộ thường chon địa bàn cư trú là đỉnh núi cao, quanh năm sương mù bao phủ, độ ẩm lớn, phù hợp cho sự sinh trưởng và phát triển giống trà Shan tuyết cổ thụ và chè Tà Xùa trên mảnh đất Sơn La được biết đến là một loại chè ngon nhất.
Ta Xua
Shan Tuyet Tea Throughout the country, Vietnam, each region has its own nature which helps them develop their own specialties. According to the experienced tea producers, the H’mong tea always has high quality since the people normally live in moutainous areas, which are foggy and highly humid all year round. It is so suitable for the ancient Shan Tuyet tea and Ta Xua tea trees in Son La to grow.
Sinh trưởng ở độ cao gần 2.000 mét so với mực nước biển, những cây chè cổ thụ Tà Xùa có tuổi đời đến hàng trăm năm, gốc cây to chừng hai, ba người ôm không xuể. Đây là giống chè mọc tự nhiên, búp trắng cánh vàng, lá chè to, búp trà sau khi chế biến vẫn còn một lớp lông tơ trắng gọi là tuyết chứa các vi chất rất có lợi cho sức khỏe.
Growing at an altitude of nearly 2,000 meters above sea level, the ancient Ta Xua tea trees are hundreds of years old and so big that two to three adults are not enough to hold hands to reach all the way around. These tea trees grow naturally with white bud, yellow petals and big tea leaves. After being processed, the tea buds still have a white lanugo layer called snow, it contains micronutrients that are good for health.
Chè Tà Xùa có lẽ đã gửi hương của mình nơi vùng đất này rồi vì nếu đem cây chè tới trồng ở nơi khác thì không còn được hương vị đặc trưng của nó nữa. Nét truyền thống làm nên sự độc đáo của trà Tà Xùa chính là việc sao trà ở đây duy nhất do phụ nữ đảm nhiệm, sao hoàn toàn bằng tay với sự cảm nhận tinh tế được truyền lại từ tổ tiên, bà truyền cho mẹ, rồi mẹ truyền cho con, mối liên kết vững bền ấy từ bao đời nay vẫn không hề mai một. Khi rót trà ra cốc, hơi nước có màu trắng tựa như khói bay lả lơi trong khung cảnh hữu tình làm cho con người tiêu tan hết mệt mỏi, xa rời thế giới thực tại để hòa mình vào thiên nhiên.
It is believed that Ta Xua tea trees only favor to grow in this land as if they are planted elsewhere they may no longer keep its natural flavor. The tradition of making such special Ta Xua tea is that only women are in charge of the tea roasting process, completely manually, with the delicate techniques passed down from their ancestor to their mothers to the next generations now and then. When people pour the tea into a cup, the white foggy smoke comes out which helps them forget their tiredness, leave the realistic world behind and simply feel the connection with the nature. MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
35
Gốm Biên Hòa Lịch sử nghề gốm sứ của Việt Nam có từ hơn 10.000 năm trước, từ thời tiền sử, thời đồ đồng, thời Lý, Trần… Đến nay gốm sứ đã đạt những đỉnh cao về kỹ thuật lẫn mỹ thuật. Nhiều trung tâm gốm sứ đã hình thành trong cả nước, trong đó có gốm Biên Hòa, một sự kết hợp hài hòa từ kỹ thuật chế tác của gốm bản địa, tiếp thu kỹ thuật tạo tác của gốm Cây Mai (Sài Gòn - Chợ Lớn) và kỹ thuật làm gốm cổ của người Hoa. Năm 1903, Trường Bách nghệ Biên Hòa được thành lập, dưới sự hỗ trợ của các chuyên gia người Pháp, những giáo viên thế hệ đầu tiên của trường đã tập trung nghiên cứu, cải tạo quy trình sản xuất, tạo mẫu, pha chế men màu, đặc biệt là cải tạo nguyên liệu gốm. Qua nhiều lần thử nghiệm, năm 1923, các nghệ nhân Biên Hòa đã chế tạo thành công gốm mỹ nghệ Biên Hòa. Liên tiếp từ năm 1925 đến năm 1955, gốm mỹ nghệ Biên Hòa đã làm rạng danh tinh hoa văn hóa Việt khi vinh dự được tham dự các triển lãm quốc tế và giành được nhiều huy chương vàng. Xưa, gốm Biên Hòa đẹp về kiểu dáng, họa tiết và cả chất men. “Đặc biệt, chất men ở gốm Biên Hòa có nét độc đáo riêng, không giống như những địa phương khác. Độ lửa, chấm men và kỹ thuật khắc đã làm nên sự hấp dẫn kỳ lạ cho gốm Biên Hòa. Ngày nay, với công nghệ làm gốm ngày càng hiện đại, kỹ thuật làm gốm ngày càng được cải tiến, nhiều tổ hợp, công ty xí nghiệp đi vào sản xuất gốm chuyên nghiệp, theo quy trình công nghiệp… làm cầu nối đưa sản phẩm gốm Biên Hòa tự hào góp mặt tại nhiều nước trên thế giới.
Sơn mài Bình Dương Với bất kỳ người làm nghề sơn mài nào, Bình Dương hay nói chính xác hơn là sơn mài của làng nghề Tương Bình Hiệp ở Thị xã Thủ Dầu Một luôn là một niềm tự hào về đỉnh cao của nghệ thuật. Được hình thành từ thế kỷ 18, đến này các sản phẩm sơn mài của Tương Bình Hiệp đã và đanh được sử dụng rộng rãi ở các công trình kiến trúc, khách sạn cao cấp, được xuất khẩu đến trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Sơn mài gồm nhiều thể loại như sơn mài vẽ lặn, vẽ phẳng, vẽ nổi, thếp vàng bạc, sơn mài cẩn ốc, cẩn trứng và sơn khắc,… Sơn truyền thống dùng ở Tương Bình Hiệp là một hỗn hợp sơn Nam Vang (từ Cam Pu Chia) và sơn Phú Thọ được pha chế theo bí quyết riêng. Để tạo sơn quang đen, người thợ cho sơn sống vào chảo sắt và phải dùng chày sắt đánh sơn ở ngoài trời nắng để sơn được đẹp màu. Còn đánh sơn cánh gián thì ngược lại, sơn sống được đổ vào loại chậu gỗ và dùng chày gỗ đánh quấy sơn. Người thợ đánh sơn trong nhiều ngày cho đến khi sơn chín, nổi bọt lăn tăn, sơn trong suốt tựa màu cánh con gián nên gọi là sơn cánh gián. Sau khi đã có nguyên liệu sơn, tùy theo loại sản phẩm mà cốt được tạo bằng những chất liệu khác nhau, như: gỗ dùng làm bàn ghế, tủ, bình; ván ép dùng làm tranh, hộp; gốm dùng làm bình, tượng; vải hay giấy dùng làm cốt cho những sản phẩm thường có kiểu dáng nhẹ, mỏng như bát đĩa, lục bình. Từ đây, người nghệ nhân bắt đầu sáng tác lên trên bề mặt sản phẩm, với những gam màu truyền thống son, đen, nâu, cánh gián, vàng, bạc, các sắc màu đa dạng từ xà cừ, ngọc nữ, bào ngư, trai đỏ, trai trắng… Từng lớp sơn sau ủ khô, đều được mài dần ra, cắt bỏ lớp sơn, màu phía trên để lộ lớp màu cần giữ lại. Sau khi đã mài hoàn chỉnh là công việc đánh bóng, cũng hết sức công phu, tỉ mỉ. Một điều không thể phủ nhận, là độ bền, độ bóng đẹp của chất liệu sơn mài Tương Bình Hiệp trở thành thứ ngôn ngữ của thời gian. 36
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Bien Hoa Pottery The history of pottery in Vietnam has been existed for over 10,000 years, from the Neolithic/ Stone Age era, the Bronze and Iron Ages, the Ly and Tran Dynasty (XI – XIV century) to today. Since then the pottery industry have evolved and expanded widely all over Vietnam, making ceramic products reach their perfection in shape, decoration and coloring while representing the quintessence of the arts in ceramic. Many ceramic pottery villages have been developed across the country, including Bien Hoa pottery which has evolved through a harmonious combination between the local techniques, Cay Mai techniques (the old Sai Gon) and the Chinese techniques. In 1903, Bien Hoa Vocational school was established with the support of French experts and its first generations of the teachers mainly focused on researching, improving the production process, styling, mixing yeast, and ceramic material management. After a plenty of experiments until 1923, Bien Hoa ceramic art was created successfully. Continuously from 1925 to 1955, the development of Bien Hoa ceramic art and pottery reflected aesthetic aspects of Vietnamese culture since it was invited to participate in many international exhibitions and achieved many gold awards. In the past, Bien Hoa pottery was known for its appealing designs, patterns and unique materials (referred to as clay) unlike any other regions, with a comprehensive process from decoration and glazing to firing. Nowadays, the modern technology have made a huge impact on Vietnamese pottery industry, which results in many professional and qualified ceramics manufacturers, helping Bien Hoa pottery recognized by the international market.
Binh Duong Lacquerware To many lacquerware craftsmen, Binh Duong or more precisely the lacquerware of Tuong Binh Hiep village in Thu Dau Mot commune has always been proud of its pinnacle of art. Since its first establishment in the 18th century till today, lacquerware products of Tuong Binh Hiep have been widely used on many architecture works or luxury hotels in Vietnam, and also exported to more than 100 countries or other regions worldwide. There are several existing decorative techniques of lacquerware, such as creating images with crushed eggshell, painting pigment over gold and tin foil and adding sand to lacquer, inlaid with lacquer of a different color, and deep carved lacquer … Traditional lacquer used in Tuong Binh Hiep is a mixture of Nam Van (from Cambodia) and Phu Tho lacquer with a secret recipe. To have a shiny black color lacquer, the craftsmen have to use an iron pestle to stir the raw lacquer liquid in an iron pan, place under the heat of the sun in order to have a nice color. By contrast, to make a cockroach-wing color lacquer, the raw liquid is poured into a wooden pot and stirred with a wooden pestle. The craftsmen will have to continue stirring for many days until the liquid is well done, frothy, and as brown as cockroach wings. After the lacquer color is done, it will be used in different materials to make different products, such as wood for tables, chairs, cupboards, or vases; plywood for picture frames, boxed; ceramic for vases, statuettes; fabric and paper for light and thin product such as bowls, plates, and vases. After this, each lacquer product will be created with many traditional colors as red, black, brown, puce, gold, silver, and a wide range of colors from conch, pearl, abalone, red pearl, to white pearl…. Each painting layer will be sliced after being dried which only the bottom layer will be kept. After completely the filing process, the product will be polished in a meticulous and skillful manner. One thing that can’t be denied is the long – lasting shininess and durability of Tuong Binh Hiep lacquerware products are the outcomes of a time-consuming process. MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
37
Nguyên liệu chính để làm ra những sợi mỳ là gạo, tuy nhiên không phải gạo nào cũng làm được mỳ ngon mà chỉ có gạo bao thai hồng, loại gạo duy nhất chỉ được trồng ở đồi Chũ, xã Nam Dương mới đem lại hương vị đặc trưng riêng cho mỳ và được gọi là Mỳ Chũ. Sự hòa quyện của gạo quê và nguồn nước trong lành từ vùng núi đồi sông Lục, cùng những kinh nghiệm truyền thống đã mang lại cho mỳ Chũ độ giòn, dẻo dai và thơm ngon cho Mì Chũ. Đặc điểm nổi trội nhất của Mì Chũ là nếu chưa kịp ăn ngay khi để nguộivẫn không bị nát mà vẫn giữ được hương vị riêng Bí quyết thành công của làng nghề mỳ Chũ là luôn giữ uy tín bằng chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm, là sự liên kết chặt chẽ giữa các thành viên trong chuỗi sản xuất. Mỳ Chũ được Bộ Khoa học và Công nghệ đã cấp bằng chứng nhận nhãn hiệu độc quyền và hiện đang được xuất khẩu sang nhiều quốc gia trên thế giới như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan…
Hometown of Chu Rice Noodles It has been a long time that Thu Duong village, Nam Duong commune, Luc Ngan district, Bac Giang province, has been a place that produces rice noodles, which are used by many Vietnamese grandmother and mother to make breakfasts for their families’ members.
QUÊ HƯƠNG MỲ CHŨ Đã từ rất lâu làng nghề truyền thống Thủ Dương, xã Nam Dương, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang được biết đến là miền quê sôi động với nghề sản xuất mỳ gạo được các bà, các mẹ ưa chuộng, nấu bữa ăn sáng cho người thân yêu trong gia đình. 38
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
The main material of Chu rice noodles is rice, however not all types of rice can be used, Chu noodle only uses ‘Bao Thai Hong’ rice, the only kind planted on Chu hill, Nam Duong commune that can produce a unique noodle and is called Chu noodle. With the combination of the village rice and clean water source from Luc river, together with the traditional experience that have created the level of crispiness, softness, and nice scent for Chu noodle. The outstanding point of this noodle is that if it is left to cool for a while, it will not be too mushy and still have its own fragrance. The successful secret recipe of Chu noodle is the preservation of its quality, assurance of food cleanliness and the close cooperation between production members. Chu noodles is certified by the Ministry of Science and Technology to be an exclusive brand and exporting to many countries around the world at present such as Japan, Korea, China, Laos, Cambodia, Thailand….
Khô mắm An Giang Hầu như du khách nào đến với An Giang cũng sẽ không quên ghé thăm vương quốc mắm ở chợ Châu Đốc, một khu chợ nổi tiếng với các loại mắm, khô cá, bánh, hoa quả, đặc sản của miền Tây. Đến với chợ Châu Đốc, bạn sẽ như được lạc vào không gian của hàng trăm gian hàng các loại mắm và cá khô với vô vàn màu sắc đỏ, trắng, tím, vàng... Nơi đây cũng là địa điểm của hàng nghìn tấn đồ khô được xuất bán ra thị trường. Mắm Châu Đốc ngon có tiếng, hương vị mặn đậm đà. Và để cho dễ nhớ, mỗi loại mắm bày bán sẽ được đặt tên theo tên cá được sử dụng làm nguyên liệu.
With years of experience, the villagers have figured out that though any kind of fish could be used to make sauces, but only a few of them like snakehead, ompok, gourami, mystus, are qualified to produce good quality ones. Each household will have their own secret recipe to make an individual brand of special quality and taste. For example, fresh fish can be used directly to make sauces without being cooked. In the cuisine culture of Chau Doc in particular and the South – Western areas of Vietnam in general, fish sauce is very essential. The existence and development of sauce production in Chau Doc do not only have its economic benefit but more importantly help promote the cuisine culture of Vietnamese ethnic groups.
Theo kinh nghiệm lâu năm của làng nghề, mặc dù loại cá nào cũng có thể làm mắm, nhưng chỉ một số loại cá như cá lóc, cá trèn, cá sặc, cá chốt, cá linh là làm mắm thơm ngon, do thịt cá có độ dai, khi đem làm mắm mới đạt tiêu chuẩn của mắm ngon. Mỗi một hộ dân làm mắm đều sẽ có những bí quyết riêng để tạo nên thương hiệu nổi tiếng, với chất lượng và hương vị đặc biệt. Ví dụ như có thể biến cá tươi thành mắm mà không cần nấu chin. Trong văn hóa ẩm thực của người dân Châu Đốc nói riêng và nhiều địa phương miền Tây Nam Bộ nói chung, mắm cá có một vị trí khá đặc biệt. Sự tồn tại và phát triển bền vững của nghề làm mắm cá ở Châu Đốc không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế, mà quan trọng hơn, nó cộng hưởng, làm giàu thêm bản sắc văn hóa ẩm thực của dân tộc Việt Nam.
An Giang
Dried Salted Fish Most visitors in An Giang may have visited the land of salted fish, which is Chau Doc market, a famous place with various types of sauces, dried fish, cakes, fruits and specialties of the west of Vietnam. Once visit Chau Doc Market, people will be lost among hundreds of shops with many types of sauces, and dried fish of many colors like red, white, purple, yellow…. This is a place with tones of dried products which are then exported to the international market. Chau Do sauce is famously delicious and salty. To remember easily, each type of sauce is given with the name according to the kind of fish used as the ingredient. MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
39
Tôm Chua
xứ Huế
Không chỉ để lại nỗi nhớ quê hương da diết trong lòng người con xa xứ, tôm chua xứ Huế còn bén rễ và gửi lại trong lòng du khách mầm lưu luyến không nguôi…Trong ẩm thực xứ Huế, tôm chua là món ăn quê nhà, món ăn bình dị nhưng được rất nhiều người ưa thích. Cái vị chua thanh của tôm, cay nồng của các loại gia vị làm cho ai đã một lần thưởng thức thì không thể quên Tôm chua mang đủ sự tinh tế của người Huế trong cách chế biến. Người ta không chọn loại tôm biển to, mập, và thay vào đó là những con tôm nước ngọt như tôm sông, tôm đồng, tôm đất. Để chế biến thành công món ăn tổng hòa giữa sắc và vị này, người làm phải thật khéo léo và chú ý đến từng những chi tiết nhỏ nhất trong quá trình làm. Tôm được trộn đều với măng, tỏi, ớt, riềng, nêm vào một chút nước mắm ngon. Theo chia sẽ của những kinh nghiệm lâu đời, tôm nên được ủ trong vại sành, lấy vài thanh tre mỏng gài lại và đậy nắp, để ở nơi có nắng ấm. Cầu kỳ hơn, người ta có thể chôn xuống đất để đảm bảo nhiệt độ ổn định trong quá trình lên men, việc này có thể làm cho tôm càng ngọt và thơm hơn. Tôm chua xứ Huế là một món có sự tổng hòa của âm và dương, cái mát lành của tôm hòa trong cái cay nồng của gia vị, tất cả đem lại 1 sự hài hòa và dễ chịu. Tôm chua có thể ăn không với cơm nóng, hoặc có thể sử dụng là 1 loại nước chấm cho thịt luộc, bánh tráng và các loại rau sống, đem lại cho người ăn cảm giác thích thu và cũng ngon miệng hơn.
Hue Sour Shrimp Sauce In Hue cuisine, sour shrimp sauce is a home dish and many people like it. The fine sour taste of shrimp and the hot spicy taste of the spices may leave an unforgettable memory for anyone who just tries once. Sour shrimp sauce carries the delicacy of Hue people in making. Usually, freshwater shrimps in the rivers, fields, or ponds are often chosen instead of the bigger saltwater shrimps. To successfully make this sauce with good taste, the makers will have to be very careful and pay attention in every single detail during the making process. Shrimps are mixed with fresh bamboo 40
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
shoots, garlic, chili, galingale, and spices with some fish sauce or salt. Such mixture will be poured into a glass container. To be more delicious, the container could be buried under the ground to ensure a stable temperature during the fermentation stage, which would make the shrimps sweeter and tastier. Hue sour shrimp sauce is a sauce with a combination of both yin and yang. The sour shrimp can be used with boiled rice, steamed meat and raw vegetables, allowing people to enjoy a tastier meal.
Muối Tôm Dù không có biển nhưng Tây Ninh lại là quê hương của một loại muối thơm ngon, trở thành đặc sản nổi tiếng của vùng miền Đông Nam Bộ – đó là muối tôm. Muối tôm, như tên gọi, có thành phần chính là sự kết hợp giữa tôm và muối được chế biến theo một công thức riêng để có những hạt muối đậm màu gạch, thơm ngon. Nghe có vẻ đơn giản nhưng để có những hạt muối thơm và đậm đà mang thương hiệu Tây Ninh đòi hỏi sự tỉ mỉ và công phu. Muối và tôm được chọn lọc từ những nguồn tươi và ngon nhất, Chỉ loại muối hột đã được sơ chế sạch sẽ mới được lựa chọn. Ớt và tôm được xay nhuyễn, trộn đều với muối theo một tỉ lệ nhất định, thêm một chút các loại gia vị ngoài lề như tỏi và sả... Sau đó, tất cả được cho lên chảo và rang đều, đây sẽ là quá trình quan trọng nhất khi có thế quyết định chất lượng hạt muối. Người thợ phải canh lửa và rang đều tay để hạt muối có màu gạch, cũng như hương thươm đặc trưng của muối tôm. Trong đời sống của người dân Tây Ninh, muối tôm trở thành một thức chấm quen thuộc cho các loại trái cây như: xoài, ổi....và đây cũng là loại gia vị chính làm nên món bánh tráng trộn của tuổi học trò. Sản phẩm này được rất nhiều khách du lịch lựa chọn làm quà tặng mỗi khi đến đây. Món ăn dân dã, bình dị ấy đã trở thành nét độc đào trong văn hóa ẩm thực, góp thêm hương vị sắc xảo trong cuộc sống người Việt.
Shrimp Salt Despite not having direct access to the sea, Tay Ninh is still the hometown of a special and delicious type of salt, become the local specialty of this Southeast region – that is the shrimp salt. Shrimp salt, just like its name, has the main ingredient is the combination of shrimp and salt, and are processed under a private method in order to have a brick colored salt grain, which is so tasty. Sounds simple but to have a fine and delicious grain of salt of Tay Ninh brand, it requires meticulousness and carefulness. Salt and shrimp is carefully chosen from the best and freshest source, only big grain salt which is cleaned is selected. Chili and shrimp is grinded, mixed with salt under a specific proportion, added with some other spices like garlic and citronella and so. After that, such mixture is roasted on a pan. The quality of the salt depends on this process. Because it is essential to look after the heating level and ensuring the roasting process is done uniformly to a have pink color, as well as the fragrance of the shrimp salt. In the life of Tay Ninh people, shrimp salt becomes an im-
portant spice for many types of fruits such as mango, guava, etc. and it is the main spice for the ‘stirred rice paper salad’ that many Vietnamese students love. This product is chosen by many tourists as a gift whenever they visit this place. This ordinary salt has become a special spice in the Vietnamese cuisine, being part of the Vietnamese lifestyle. MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
41
42
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Vietnam Home of famous
Southern herbs 408
và 75
70 loài 5.000
1.500
18.000 1.500
1.300
80%
5.117 loài
1.500
Vietnam is proud to be home to a variety of herbs with its Zen master Tue Tinh (real name: Nguyen Ba Tinh) traditional medicine. As long ago as the XIIIth century, Tue Tinh planted medicinal herbs, collected healing experiences, and wrote it all down in a valuable book named Nam duoc than hieu (Great Southern herbal). Even then he showed an appreciation for an emerging form of nationalism with his philosophy of “Southern herbs for Southern people”. His sincere wish was that the Vietnamese people should use medicines from their own motherland. According to the WHO, 80% of the population of developing countries use traditional medicines or herbal medicines for health care. The global annual revenue of herbal medicines is more than 80 billion USD. The demand for herbal medicines and other products from herbs is increasing day by day. According to the Herbal Medicine Department, up to now, Vietnam has recognized 5117 plants and mushrooms, 408 animals, and 75 minerals which can be used as medicines, with 70 species that have potential to be exploited up to 18.000 tons/ year. Vietnam has a special role in this market as the home of many valuable and rare herbs, such as Ngoc Linh ginseng, Bakich, Chau thu, and Ngan dang to name but a few. Vietnam has also collected more than 1300 traditional remedies which play a key role in developing other herbal products for customers. The Vietnamese government, especially the Prime Minister, is paying increasing attention to developing sustainable herbal medicine, not only for traditional medicine, but also for supplements. The aim is to establish a greater herbal medicine profession which is recognized by national and international customers and which will help to establish Vietnam as its true home.
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
43
44
BỘ BỘ NÔNG NÔNG NGHIỆP NGHIỆP VÀ VÀ PHÁT PHÁT TRIỂN TRIỂN NÔNG NÔNG THÔN THÔN
MINISTRY MINISTRY OF OF AGRICULTURE AGRICULTURE AND AND RURAL RURAL DEVELOPMENT DEVELOPMENT
45
46 46
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
47 47
Vai trò của OCOP trong bối cảnh
phát triển bền vững P hát triển bền vững nhằm đáp ứng nhu cầu của các thế hệ hiện tại đồng thời đảm bảo sự tiếp tục phát triển trong tương lai. Phát triển bền vững hướng tới tiếp cận toàn diện, tương hỗ giữa các khía cạnh về kinh tế, xã hội và môi trường. Trong Chương trình nghị sự 2030 của Liên hợp quốc được thông qua vào năm 2015 đã thể hiện khuôn khổ phát triển bền vững toàn cầu mới và đặt ra 17 mục tiêu phát triển bền vững (SDGs), cam kết xóa đói giảm nghèo và đạt được sự phát triển bền vững vào năm 2030 trên toàn thế giới, đảm bảo không ai bị bỏ lại phía sau. Các mục tiêu phát triển bền vững giúp thúc đẩy sự hội tụ giữa các quốc gia, trong xã hội và với phần còn lại của thế giới.
Việt Nam đã có các chiến lược, chính sách phát triển bền vững như Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 (theo Quyết định số 432/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ), Nghị quyết về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường (24-NQ / TW năm 2013), Quyết định về ban hành kế hoạch hành động của Bộ Công thương về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường… cũng như các chính sách khác nhau ở các cấp. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã nhanh chóng vươn tới tầm cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu với quy mô và năng lực sản xuất ngày càng tăng. Số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ có sản phẩm bền vững với môi trường và có trách nhiệm xã hội cũng gia tăng nhanh chóng. Trên thị trường nội địa, nhóm người trẻ có thu nhập trung bình trở lên muốn sử dụng các sản phẩm bền vững ngày càng nhiều hơn. Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) Việt Nam nhằm mục đích cải 48
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
thiện kinh tế địa phương dựa trên các nguồn lực và đổi mới sáng tạo của địa phương, tôn trọng văn hóa, môi trường và thúc đẩy tăng trưởng xanh. Bắt đầu vào năm 1979 tại Nhật Bản, OCOP đang mở rộng ra hơn 40 quốc gia trên thế giới, tạo ra hàng triệu việc làm cho người dân địa phương. Triết lý của OCOP gắn liền với sự phát triển bền vững với nguyên tắc: (i) tạo ra các sản phẩm / dịch vụ được chấp nhận toàn cầu dựa trên nguồn lực địa phương, (ii) tự lực và sáng tạo và (iii) phát triển nguồn nhân lực. OCOP đóng góp vào hầu hết các mục tiêu phát triển bền vững, trong đó trực tiếp liên quan đến các mục tiêu sau: SDG 1 – Giảm nghèo, SDG 2 – Xoá đói, SDG 8 – Việc làm và tăng trưởng kinh tế, SDG 11 – Cộng đồng và đô thị bền vững, SDG 12 – Sản xuất và tiêu dùng bền vững, SDG 17 – Phát triển quan hệ đối tác nhằm đạt được các mục tiêu. – đoạn này bị lặp Ở Việt Nam, OCOP thúc đẩy các chính sách định hướng phát triển để hỗ trợ cho hoạt động sản xuất, tạo việc làm bền vững, tinh thần làm chủ doanh nghiệp, sáng tạo và đổi mới, khuyến khích hợp thức hóa và phát triển các các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ. OCOP góp phần tăng trưởng kinh tế bền vững, thúc đẩy du lịch bền vững, tạo việc làm, khuyến khích các sản phẩm và văn hóa địa phương. Bằng sự phát triển kinh tế địa phương, OCOP đóng góp cho mục tiêu xoá đói nghèo tại nông thôn, xây dựng khả năng phục hồi của người nghèo và những người dễ bị tổn thương; giảm rủi ro và tổn thất của những người này đối với các vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu. Chỉ sau gần một năm triển khai thực hiện, cả nước đã 100% các tỉnh xây dựng đề án, kế hoạch, trong đó có 42 trong tổng số 63 tỉnh, thành phố
phê duyệt và tổ chức triển khai với hơn 200 sản phẩm được xét hạng từ 3 sao trở lên. Nhiều hoạt động đã được triển khai sôi nổi trên cả nước: Phó Thủ tướng Chính phủ trực tiếp phát động Phong trào khởi nghiệp từ OCOP trong thanh niên, sinh viên; Xây dựng một chương trình phát triển kinh tế du lịch gắn với OCOP và xây dựng nông thôn mới, tổ chức nhiều hội chợ xúc tiến thương mại sản phẩm OCOP ở các địa phương… Việc dựng hệ thống đối tác OCOP trong nước theo phương thức hợp tác cùng có lợi ích và thiết lập mối quan hệ đối tác OCOP toàn cầu vì mục đích phát triển, trao đổi, giao lưu thương mại sản phẩm quốc tế, tham gia hoạt động của mạng lưới OCOP toàn cầu sẽ góp phần vào thực hiện và hoàn thành mục tiêu phát triển và xóa bỏ đói nghèo ở Việt Nam.
OCOP Vietnam and Sustainable Development
S
ustainable development aims to meet the needs of present generations without jeopardising the ability of future generations to meet their own needs. It provides a comprehensive approach bringing together economic, social and environmental considerations in ways that mutually reinforce each other. Sustainable development is described in the UN’s 2030 Agenda which was adopted by world leaders in 2015, represents the new global sustainable development framework and sets 17 SDGs. It is a commitment to eradicate poverty and achieve sustainable development by 2030 worldwide, ensuring that no one is left behind. The SDGs help to promote convergence between countries, within societies and with the rest of the world.
Vietnam has sustainable policies such as Vietnam Sustainable Development Strategy for the period 2011-2020 (according to Decision No. 432 / QD-TTg of the Prime Minister), the Resolution on National Action Plan 24-NQ/ TW, in 2013.This Action Plan is for actively responding to climate change, strengthening natural resources management and environmental protection. It was promulgated by the Minister of Industry and Trade (Decision 9792 QD-BTC in 2014) as well as different policies at government and ministerial levels. In recent years, Vietnam has been moving rapidly to higher levels in the global value chain with increasing production scales and capacities. The number of SMEs with green and responsible products is increasing, the number of businesses that are capable and willing to produce these products is increasing even more. On the domestic market, the group of young population with middle-income who wants to use sustainable products grows higher and higher. OCOP aims to improve local economic based on local resources and innovation while respecting cultural and environment and fostering inclusive and green growth. OCOP started in 1979 in Japan and being expanding to more than 40 countries in the world which created millions of jobs for local people. OCOP has aligned philosophy with sustainable development. According to Oita OCOP International Exchange Promotion Committee, there are three principles in the OCOP movement: (i) creation of globally acceptable products/services based on local resources, (ii) self-reliance and creativity, and (iii) human resource development.
1 – No poverty, SDG 2 – Zero hunger, SDG 8 – Decent work and economic growth, SDG 11 – Sustainable cities and communities, SDG 12 – Responsible consumption and production and SDG 17 – Partnerships for the goals In Vietnam, OCOP promote oriented policies to support production, create sustainable jobs, create entrepreneurship morale as well as creativity and innovation, encourage the development of micro and SMEs. OCOP strives for the sustainable economic growth, promotes sustainable tourism, creates jobs, promotes local products and cultures. By the local economic development, OCOP contributes to the goal of eliminating poverty in rural areas, building the resilience of the poor and vulnerable people; reduce the risks and losses of these people on climate change issues. After nearly a year of implementation, the country has 42 out of 63 provinces and cities approved the project at provincial level. Many activities have been carried out extensively across the country, from launching a startup program from OCOP in youth, students, rural tourism development program in association with OCOP and new rural construction, trading and promotion exhibitions for OCOP products locally ... The development of a co-operative domestic OCOP partnership system benefits and establishes global OCOP partnerships for the purpose of developing and exchanging international product trade and activities. The dynamic of the global OCOP network will contribute to the implementation and fulfillment of the development and elimination of poverty in Vietnam.
OCOP aligns to almost SDGs, but directly with the following SDGs: SDG MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
49
50
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
OVOP Quốc tế The international “one
village one product” MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
51
CHÍNH SÁCH
OVOP TOÀN CẦU
Phong trào ovop (mỗi làng một sản phẩm) được khởi xướng tại quận Oita, nhật bản, vào năm 1979. chính sách này được đưa vào hoạt động lần đầu tiên vào năm 1979, dưới sự chỉ đạo của nguyên lãnh đạo quận tỉnh Oita, ông Morihiko Hiramatsu. hoạt động này đã không ngừng phát triển trong suốt 24 năm nhiệm kỳ của vị lãnh đạo này. ovop được cho là một trong những mô hình thành công trong việc tái cơ cấu khu vực đựa trên 3 nguyên tắc: địa phương nhưng toàn cầu hóa, tự lực & sáng tạo, và phát triển nguồn nhân lực. chính quyền địa phương luôn khuyến khích người dân biết tận dụng cơ hội và năng lực của mình để có thể tạo ra các sản phẩm mới, tập trung chế tác những đặc trưng riêng của từng khu vực với khả năng tiếp cận thị trường trên phạm vi toàn cầu.
52
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Một điều thú vị là chính sách OVOP vẫn liên tiếp được tổ chức và mở rộng ngay cả khi tỉnh Oita đã ngừng hoạt động chương trình. Tuy nhiên, người dân địa phương Oita vẫn có dấu hiệu duy trì thông qua các hoạt động như cung cấp hướng dẫn nằm ngoài chính sách chính phủ. Chương trình vẫn tiếp tục được triển khai trong phạm vi quốc gia như hoạt động OVOP Neo: Công nghiệp hóa lần thứ 6 (Bộ Nông Nghiệp, Lâm Nghiệp, Thủy Sản), Sản phẩm quốc tế chỉ định (Bộ Kinh Tế, Thương Mại và Công Nghiệp), Các trạm bên đường (Bộ Đất Đai, Cơ Sở Hạ Tâng, Giao Thông và Du Lịch)
Các hoạt động OVOP được đánh giá qua 3 cấp bậc. Đặc điểm đầu tiên được nhận thấy là sản phẩm đặc trưng theo khu vực đã tạo nên một nhóm riêng biệt ở mỗi địa phương, được gọi là nhóm “duy nhất một sản phẩm”. Đặc điểm của xã hội khu vực (ở trục a) được so sánh với đặc điểm (ở trục b) của nền kinh tế khu vực. Đặc điểm thứ ba là tạo dựng nền văn hóa vùng miền (ở trục c). Tác động đầu tiên của cộng đồng khu vực, nói theo cách khác, là để thiết lập một khái niệm tự lực cho việc phát triển cộng đồng. Tác động thứ hai của ngành công nghiệp địa phương là sản xuất các sản phẩm để bán tới nhóm khách tiêu dùng, tập trung vào các nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tác động thứ ba của nền văn hóa địa phương là duy trì kết nối cách thức hoạt động OVOP dựa trên những giá trị ưu tiên của cuộc sống. Biểu đồ dưới đây sẽ chỉ rõ các mối liên hệ trong chính sách vùng miền “một sản phẩm”. Phong trào OVOP Nhật Bản được tiếp tục mở rộng hoạt động như một một hệ thống chính sách được giới thiệu ở nhiều quốc gia khác, nhằm thúc đẩy một phương án tổng hợp cho việc truyền tải năng lượng. OVOP được áp dụng rộng rãi khắp Châu Á, Châu Phi, và Nam Mỹ và nhiều nơi khác trên thế giới. Tên gọi và nội dung thường sẽ được thay đổi ví dụ như OTOP ở Thailand và OVOI ở Ma-lai-xia. Chính phủ Nhật Bản áp dụng phong trào OVOP như một chiến lược hỗ trợ quốc tế như JICA hoặc APEC. Sau năm 2003, Ông Hiramatsu, lãnh đạo ban tổ chức chương trình Trao Đổi Quốc Tế OVOP ở Oita đã tiếp tục liên kết với các hội thảo OVOP quốc tế khác, từ mùa hội thảo đầu tiền vào năm 2004 đến thứ 8 được tổ chức ở Băng Cốc vào năm 2012. Ông Hiramatsu đã tuyên bố rằng chương trình đã nhận được tài trợ từ rất nhiều chính phủ trên thể giới. Trong khi hội đồng tổ chức chương trình Trao Đổi Quốc Tế OVOP đảm nhận vai trò kết nối, Liên Hiệp Chính Sách OVOP Quốc Tế đảm nhận vai trò chia sẻ thông tin từ năm 2006, liên quan tới
luận văn tốt nghiệp tiến sĩ của ông Hiramatsu “Chính sách và Chiến lược cho một nền Độc lập địa phương”. Một diểm quan trọng của buổi thảo luận học thuật ngày hôm nay là: Chiến lược thương hiệu nào mới thực sự hiệu quả cho các hoạt động OVOP?” Bảng biểu dưới đây liệt kê một số thương hiệu OVOP khác nhau, thương hiệu vùng miền được sử dụng cho cộng động và khu vực nói chung, thương hiệu sản phẩm được dựa trên chất lượng hoặc giá trị.
Một điều thú vị là chính sách OVOP vẫn liên tiếp được tổ chức và mở rộng ngay cả khi tỉnh Oita đã ngừng hoạt động chương trình. Tuy nhiên, người dân địa phương Oita vẫn có dấu hiệu duy trì thông qua các hoạt động như cung cấp hướng dẫn nằm ngoài chính sách chính phủ. Chương trình vẫn tiếp tục được triển khai trong phạm vi quốc gia như hoạt động OVOP Neo: Công nghiệp hóa lần thứ 6 (Bộ Nông Nghiệp, Lâm Nghiệp, Thủy Sản), Sản phẩm quốc tế chỉ định (Bộ Kinh Tế, Thương Mại và Công Nghiệp), Các trạm bên đường (Bộ Đất Đai, Cơ Sở Hạ Tâng, Giao Thông và Du Lịch)
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
53
POLICY OF
OVOP Worldwide
The ovop (one village one product) movement started in Oita prefecture in Japan in 1979. the ovop as a local government policy was originated formally by Oita governor Morihiko Hiramatsu in 1979 and developed for 24 years until formally finished when he left office in 2003. the Oita prefecture’s ovop movement could be identified as one of the successful model of regional revitalization based on building community capacity along with the ovop ideas of three principles; local but global, self-reliance & creativity, and human resource development. the local government encouraged local people themselves for increasing their opportunities and possibilities to create new ovop products by focusing local specialty with a global perspective approach. the figure shows the 40 years history of ovop after 1979 including the Oita ovop ideas and introduction of ovop movement to overseas.
54
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
The interesting point of OVOP is the particularity of continuity and expansion of the movement even after the OVOP policy in Oita finished in the period of the next governor. The continuity has been seen in local people’s activities in Oita such as women facilitators outside of government policies and at the same time the essence of OVOP continues nationwide in Japan as Neo OVOP activities such as the 6th (1x2x3) industrialization (Ministry of Agriculture, Forestry and Fisheries), the traditional excellent products designated (Ministry of Economy, Trade and Industry), and the Roadside stations (Ministry of Land, Infrastructure, Transport and Tourism).
The OVOP activities can be evaluated according to three axes classifying OVOP features in the next Figure. The first fundamental feature is seen in creating a regional society by a particular regional product, so to say ‘only one product’. The feature of this regional society axis (a) is compared to the second feature in creating a regional economy on its axis (b) by the regional product aimed for ‘Number one’, and the third feature in creating a regional culture on its axis (c) by the regional product aimed for a ‘selected one’. The first effect of a regional community is, in other words, to establish an identity of self-reliance through the OVOP movement focused on community development or community capacity. The second effect of regional industry functions to produce products to sell in a consumer society focused on the development of small and medium regional enterprises. The third effect of regional culture focuses on people’s behavior to maintain networks for various kinds of self-actualization in the OVOP movement focused on values prioritized in life. This chart of the three axes shows more clearly in order to understand the significance of the regional one-product policy. The OVOP approach in Japan continues to expand its function as a policy system that has been introduced to a number of different countries to promote a synthesized approach of various existent activities for regional vitalization. The OVOP approach has been widely adopted in Asia, Africa and South America and so on even though the names of movements and the contents of policies are different such as OTOP in Thailand and OVOI related to SDSI in Malaysia. The Japanese national government has used an OVOP approach as a foreign aid strategy like JICA’s or APEC’s objects. In Oita after 2003, Hiramatsu as the director of Oita OVOP International Exchange Promotion Committee continued making a worldwide network like OVOP International Seminars, from the1st seminar in 2004 to the 8th seminar in 2012 in which seminar held in Bangkok Hiramatsu declared the end of international seminars sponsored by foreign governments, while Oita OVOP International Exchange Promotion Committee continues to function role for an OVOP network. On the other hand International OVOP Policy
Association (IOPA) has taken an role of an academic network by sharing OVOP information since 2006 when Dr. Murayama was asked to make an academic association regarding OVOP by Hiramatsu who finished PhD dissertation “Policy and Strategy for Local Independence” under the supervision of Dr. Murayama. One important point of academic discussions today is “What kind of branding strategies can be effective for OVOP activities?” Though OVOP itself has been an attractive bland, there are various OVOP contents for useful targets to be branded on. The Figure below indicates the different types of OVOP brands; the region brand type of branding on the community or the area, and the product brand type of branding on its quality general or its value-added appeal together with each example of a subtype.
Another important point is “Who initiates an OVOP movement?” The OTOP in Thailand and the OVOI in Malaysia were initiated by its national government in comparison to the Oita’s OVOP by the local government. Today private sector’s initiation of facilitators becomes important more and more for many types of OVOP in the world in cooperating with business entrepreneurs such as ‘International OVOP networking: Global connections for local impact’ held in Vietnam in 2019. MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
55
Các nguyên tắc và hoạt động
của phong trào OVOP ở Oita OVOP ở Nhật Bản được coi là một “phong trào”, chứ không phải là một chính sách hay chương trình. Ý tưởng này xuất phát từ việc nghiên cứu tìm hiểu các phong trào khác nhau ở Nhật Bản. Kiểu phong trào thứ nhất được thực hiện bởi một nhóm các tổ chức phi chính phủ nhằm tìm kiếm một sự thay đổi về mặt xã hội hoặc chính trị, tương tự như các cuộc cách mạng ở phương Tây. Kiểu phong trào thử hai được chính phủ dẫn dắt để vận động sự tham gia của các tổ chức trong việc xây dựng chính sách cho từng mục tiêu cụ thể. Đối với OVOP, các tổ chức địa phương được tự do thực hiện các hoạt động. Các cấp chính quyền sẽ hỗ trợ dựa trên tình hình hoạt động cụ thể. Vì OVOP không hoạt động theo một mô hình nào nói trên, OVOP có thể được coi là một phong trào định hướng theo quá trình và dưới sự điều khiển của nhiều bên. Mục tiêu của phong trào OVOP bao gồm các yếu tố kinh tế và xã hội. Mục tiêu đầu tiên là giảm thiểu sự chảy máu chất xám bằng cách tạo công ăn việc làm trong ngành công nghiệp địa phương; Mục tiêu thứ hai là
56
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
tăng ý thức cộng đồng và nâng cao niềm tự nào trong mỗi người dân về địa phương của họ. Tỉnh Oita coi OVOP như một phong trào nhằm tìm kiếm hoặc phát triển các sản phẩm thành những biểu tượng của địa phương mà người dân có thể tự hào, và có thể cạnh tranh ở cấp quốc gia cũng như toàn cầu. Vì vậy, OVOP vừa có thể được coi là chính sách xã hội , lại vừa được coi là chính sách công nghiệp địa phương. Có ba nguyên tắc trong OVOP: NGUYÊN TẮC 1: SẢN PHẨM ĐỊA PHƯƠNG NHƯNG MANG TÍNH TOÀN CẦU Nguyên tắc định hướng cách phát triển sản phẩm. Theo đó, các sản phẩm được phải được chấp nhận trên toàn cầu và cần phản ánh được tính đặc sắc trong văn hóa địa phương, điều đó ngụ ý rằng việc sử dụng các nguồn lực địa phương là năng lực cốt lõi của sản phẩm. Hiramatsu tập trung vào giá trị vô hình của nguồn gốc địa phương và cho rằng một sản phẩm có “hương vị và văn hóa địa phương” riêng biệt có thể cạnh tranh trên thị trường miễn là chất lượng của nó không ngừng được cải thiện. Vì vậy, các nguồn lực địa
phương trong OVOP tồn tại dưới nhiều hình thức, miễn là chúng mang giá trị của “địa phương”. NGUYÊN TẮC 2: TỰ LỰC VÀ SÁNG TẠO Nguyên tắc này nhấn mạnh sự độc lập của các tổ chức địa phương và đồng thuận của các cấp nhà nước. Theo Hiramatsu, một phong trào phát triển địa phương khó có thể bền vững nếu bị áp đặt bởi chính phủ. Sự áp đặt của chính phủ sẽ hạn chế sự sáng tạo và tự chủ của địa phương. Địa phương đưa ra sáng kiến, ra quyết định và sẵn sàng mạo hiểm là chìa khóa của OVOP. Chính quyền tỉnh chỉ hỗ trợ bổ sung về mảng kỹ thuật và tiếp thị chứ không hỗ trợ kinh phí hay chịu lỗ. Theo hướng này, OVOP có cùng quan điểm với Neoliberal về “chính phủ nhỏ”. Tự lực có nghĩa là địa phương tự quyết định và hành động dựa trên sự tự tin của mình. Sự phát triển chỉ có thể được thực hiện bởi chính người dân dưới sự hỗ trợ của chính phủ và các tổ chức. Lý thuyết của OVOP ngụ ý rằng sự tự chủ của người dân địa phương đòi hỏi chính phủ tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tự phát triển bản thân để đóng góp hiệu quả nhất cho phát triển địa phương.
NGUYÊN TẮC 3: PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Nguyên tắc này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển năng lực của các diễn viên địa phương. Nguồn nhân lực là một yếu tố thiết yếu để thực hiện OVOP một cách thành công và bền vững. OVOP tập trung vào việc thúc đẩy các nhà lãnh đạo địa phương liên tục làm việc để phát triển địa phương với tinh thần không ngại thách thức. Những nhà lãnh đạo cộng đồng này dự kiến sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc gây dựng sức sống của các địa phương và tạo điều kiện cho sự tự lực của họ. OVOP nhấn mạnh mối liên hệ giữa phát triển con người và phát triển sản phẩm. Việc phát triển nguồn nhân lực đạt được trong quá trình phát triển sản phẩm OVOP. Mặt khác, các sản phẩm OVOP được sản xuất bởi các nguồn nhân lực có kỹ năng cao và có tinh thần đóng góp phát triển địa phương của mình. Phát triển sản phẩm là một phương pháp đơn giản để huy động một cộng đồng đạt được các mục tiêu kinh tế và xã hội của nó.
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
57
CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA OVOP TẠI OITA Các hoạt động của OVOP ở Oita rất đa dạng, tùy thuộc vào mục đích kinh tế và xã hội, nhưng vẫn có sự kết nối chặt chẽ với nhau. Các hoạt động chính có thể được kêt đến như sau: Lựa chọn và đăng ký sản phẩm OVOP Mỗi thành phố lựa chọn ít nhất một sản phẩm với sự tham vấn của các bên liên quan tại địa phương. Sản phẩm được lựa chọn dựa trên nhiều tiêu chí, ví dụ như được quảng bá từ các hợp tác xã, mang nét đặc sắc của địa phương, có tiềm năng trên thị trường, cũng như những thành tựu trước đó. Thông thường, sự sẵn có của nguyên liệu không phải là yếu tố quyết định để OVOP lựa chọn sản phẩm. Phát triển và cải tiến sản phẩm nhờ chính bàn tay của người địa phương Một khi sản phẩm được lựa chọn, các nhà sản xuất địa phương có nhiệm vụ cải thiện và quảng bá sản phẩm. Trong khí đó, các chính quyền thành phố sẽ tham gia hỗ trợ tài chính và kỹ thuật. Chính quyền tỉnh Oita cũng hỗ trợ tài chính cho các thành phố để tập trung phát triển kỹ thuật và đào tạo tay nghề. Hỗ trợ kỹ thuật và tài chính cho nhà sản xuất Tỉnh Oita chủ yếu giúp đỡ địa phương về mặt kỹ thuật và tổ chức. Một phòng kỹ thuật chế biến thực phẩm tại trung tâm nghiên cứu nông nghiệp mới được thành lập để cung cấp dịch vụ đào tạo và tư vấn. Nhiều trung tâm kỹ thuật (cắt hoa, chế biến hải sản, nấm) tại Oita được sử dụng để hỗ trợ các hoạt động OVOP. Ngoài ra, các nhà sản xuất và hợp tác xã nông nghiệp sẽ được tỉnh hỗ trợ vay vốn với lãi suất thấp. Tiếp thị và quảng bá tại các thị trường trong nước và quốc tế OVOP có các chiến lược tiếp thị khác nhau tùy thuộc vào loại sản phẩm. Chiến lược đầu tiên là tập trung vào thị trường địa phương, đặc biệt với các sản phẩm có số lượng nhỏ. Phong trào “Mỗi làng một phiên chợ sáng” là một ví dụ về sự phối hợp giữa các làng nghề và chính quyền để tạo thị trường tiêu thụ ngay tại địa phương của họ. Các dự án phát triển cơ sở hạ tầng như các “Trạm dừng chân bên đường” hay các nhà hàng nông sản cũng được xúc tiến để kích hoạt thị trường địa phương. Những hoạt động này giúp kết nối nhà sản xuất địa phương và người tiêu dùng cũng như giúp các nhà sản xuất địa phơng tiếp cận các sản phẩm cạnh tranh và từ đó cải thiện sản phẩm của mình. Thứ hai, chính quyền tỉnh làm việc với các siêu thị để thiết lập gian hàng OVOP, và tổ chức triển lãm các sản phẩm OVOP tại các hội chợ thương mại. Đặc biệt, đối với các sản phẩm có năng lực sản xuất cao, tỉnh đã cố gắng thiết lập một kênh giữa các nhà sản xuất và thị trường đô thị thông qua hỗ trợ các hiệp hội sản xuất và cá hội chợ thương mại. 58
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Thúc đẩy các nhà sản xuất địa phương thông qua trao thưởng và tổ chức hội thảo Các giải thưởng đã được trao cho các nhóm sản xuất có hiệu quả cao để khuyến khích họ sản xuất phục vụ địa phương. Ngoài ra, nhiều hội thảo được tổ chức để thảo luận các vấn đề phát triển địa phương. Đào tạo các nhà lãnh đạo tương lai Tỉnh Oita đã thực hện các chính sách phát triển nguồn nhân lực, nhất là trong việc đào tạo các nhà lãnh đạo tương lai. Tỉnh đã hỗ trợ các chuyến tham quan đến nhiều mô hình thành công tại Nhật Bản và cả nước ngoài. Đồng thời, tỉnh còn hỗ trợ các hoạt động cộng đồng vì mục đích xã hội, văn hoá, và kinh tế. Hoạt động nổi bật nhất của OVOP Oita là chương trình giáo dục bán thời gian hai năm, trong đó người tham gia được học các phương pháp để phát triển địa phương của mình. Chương trình này còn giúp thiết lập một mạng lưới giữa các nhà lãnh đạo địa phương để họ có thể thúc đẩy, học hỏi và cạnh tranh với nhau trong suốt quá trình hoạt động sau này. Nguyên lý hoạt động của OVOP Như đã mô tả ở trên, lý thuyết hoạt động của OVOP tập trung ở các điểm sau. Đầu tiên là tạo mối liên kết giữa các nhà sản xuất và thị trường tiêu thụ (tại Nhật Bản và quốc tế). Sự phối hợp ở cấp đô thị cho phép tạo ra một thương hiệu địa phương làm tăng thêm giá trị cho sản phẩm và duy trì mối liên kết với người tiêu dùng. Thứ hai là kết nối phát triển kinh doanh với phát triển con người và xã hội. OVOP không tập trung vào các nhà sản xuất cụ thể mà hướng đến xây dựng các sản phẩm như những biểu tượng chung của địa phương, kế nối chặt chẽ với các kế hoạch phát triển du lịch, các sự kiện văn hóa và các hoạt động phúc lợi. Thứ ba là tạo sự kết nối giữa các địa phương. Các nhà lãnh đạo cộng đồng được mong đợi sẽ học hỏi và cạnh tranh lẫn nhau. Những hoạt động của OVOP Oita đều dựa trên sự nhiệt tình và sáng tạo của các nhà sản xuất địa phương cũng như sự hỗ trợ kinh tế và kỹ thuật từ chính quyền.
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
59
Principles and types of OVOP activities in Oita OVOP in Japan is regarded as a “movement”, not a policy or programme. This idea comes from the understanding about different types of movements in Japan. One is driven by non-governmental actors forming a group to seek a social or political change, which is the same as the one in a Western context. The other is led by government to involve other actors to take important roles in policy for a particular purpose. The OVOP movement didn’t have a clear framework as a policy, but instead the Prefecture let other local actors lead activities while the Prefecture provided only supplemental support based on the progress of movement. Since policy is not driven only by blueprint of public bodies in the definition of this paper, the OVOP movement can be regarded as a process-oriented policy involving many actors. The objectives of the OVOP movement consist of economic and social elements. Firstly it aims to stop the migration of young people by creating employment in local industry; secondly it intends to invigorate the local society and to enable people to be proud of their localities. Oita Prefecture describes OVOP as the movement of finding or developing products which can be a symbol of locality, of which residents can be proud, and which can be competitive on the national and global level. Thus OVOP can be regarded as social policy as well as local industrial policy. There are three principles in the “movement”: 60
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
PRINCIPLE 1: LOCAL YET GLOBAL This principle guides the way to develop products. As this is explained as ‘creating globally accepted products that reflect pride in the local culture’, it implies that utilisation of local resources is a core competency of products. Hiramatsu focuses on the intangible value of originality of local resources and contends that a product with distinct ‘local flavours and culture’ can be competitive in a market as long as its quality is continuously improved. Thus local resources in OVOP include various types of shape and element as long as they entail the value of “local”. PRINCIPLE 2: SELF-RELIANCE AND CREATIVITY This principle emphasises independence of local actors and the attitude of government for it. According to Hiramatsu, a local development movement is unlikely to be sustainable if it is imposed by government because such an attitude discourages local people. Local initiative, decision making, and risk-taking are keys of OVOP. The prefectural government only provides supplementary support such as technical assistance and marketing, but it does not provide direct subsidies to the commodity especially for any possible losses. In this sense, the OVOP approach shares the neoliberal view of “small government”. Self-reliance is a condition where ‘decisions and
actions taken at all levels are based on self-confidence and self-determination’. It can be learned, but it cannot be given’ and development can only be done by the people themselves perhaps with the assistance of government and other development agents. OVOP theory implies that self-reliance of local people requires the role of government to facilitate people to develop self-reliance themselves to make their most productive contribution to local development. PRINCIPLE 3: HUMAN SOURCE DEVELOPMENT
RE-
This principle emphasises the importance to develop capacity of local actors. Human resources are an essential factor for successful and sustainable implementation of OVOP. OVOP focuses on promoting local leaders who continuously work for local development with a spirit of challenge. These community leaders are expected to play a role to draw out the vitality of the localities and to facilitate their self-reliance. OVOP emphasises a link between human development and product development. The logic behind this is that human resource development is achieved in the process to develop OVOP product, but on the other hand, OVOP product can be produced by committed and capable human resources who are motivated to contribute to their locality. Developing products is a mere method to mobilise a community to achieve its social and economic goals.
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
61
TYPE OF OVOP ACTIVITIES IN OITA
to municipalities for technical research and study tours.
The Instruments of OVOP in Oita consist of various activities for economic and social purpose, although all activities are connected with each other. The main activities and their logic of intervention are as follows.
Technical and financial assistance to producers
Selecting and registering OVOP products at municipality level Each municipality selected at least one product with consultation of local stakeholders and the product was registered in the Prefecture. Products were chosen for various reasons such as being promoted by cooperatives, aptitude for local natural conditions, future potential in the market, and past achievements; it seems that not many products were selected just because of availability of local resources Developing and improving products by local actors Once products were selected, the efforts of local producers were expected to improve and promote the products; however, municipalities were also deeply involved in the activities providing financial and technical support utilising existing governmental schemes. The Prefectural government additionally provided assistance such as subsidies
62
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Technical and institutional assistance to producers were the main instruments of the Prefectural government. A food processing technical support department in the agricultural research centre was newly established to provide training and consultation service. Moreover, some more newly founded prefectural technical centres in various fields (cut flowers, seafood processing, mushrooms) were fully utilised to support OVOP activities. In addition, financial schemes such as low interest loans were prepared for agricultural producers and cooperative. Marketing and promotion in local and national markets OVOP had different marketing strategies depending on the types of products. The first strategy focused on the local market: products of small quantities were recommended to start from there. The “One-Village One-Morning-Market movement” was one strategy in which local actors coordinate local open markets in their villages. Other development infrastructures such as “Road-side Station’’ and farmer’s restaurant were also promoted to activate the lo-
cal market. These instruments aimed to create local linkages between producer and consumer. The local market was also expected to provide a place for producers to find and improve competitive products. Secondly, the Prefectural government strongly intervened for local supermarkets to set up OVOP corners, and to hold an exhibition of OVOP products at trade fairs. Especially for products with high production capacity, the government tried to establish a channel between producers and the urban market place by providing subsidies to producers’ associations and also holding trade fairs. Motivating local actors by prize and seminar Prizes were given to high performing producers and groups to motivate leaders to contribute to the whole locality. Additionally, a public seminar was held at the village level to discuss local development issues. Training for community leaders Capacity building programmes were conducted by the Prefectural government targeting various community leaders, which included subsidies for observation tours to successful cases in Japan and other developed countries, and also for community activities for social, cultural and economic purposes. The most prominent activity of Oita’s OVOP was adult education on local development, which was a twoyear part-time programme, in which participants could learn practical know-how of local development; it also aimed to create a network among local leaders so that they could motivate, learn, and compete with each other even after the programme. Intervention theory of OVOP As described above, the intervention theory of OVOP deals with several linkages. The first is between producers and the market. OVOP creates institutions which help producers to develop products and link with local and national markets. Coordination at the municipality level enables to create a local brand which adds value to the product and maintains the linkage with consumers. The second is to connect business development with human and social development. OVOP doesn’t exclusively focus on particular producers. OVOP product is a symbol of locality, involving other activities such as tourism, cultural events, and welfare activities. These instruments with different purposes are connected with each other. The third link is a social capital among different localities. Community leaders are expected to learn and compete with each other. These links are based on participation and initiatives of local actors while the Prefectural government provides various technical and institutional assistance.
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
63
Câu chuyện về
“Konohana Garten” 64
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
“Konohana Garten” là một trong những mô hình thành công nhất ở thị trấn Oyama thuộc tỉnh Oita, Nhật Bản, góp phần cải thiện sinh kế của nông dân, thúc đẩy nông nghiệp và sự giao thoa giữa nông thôn và thành thị. “Konohana Garten” được điều hành bởi Hợp tác xã nông nghiệp thị trấn Oyama, là một chợ nông sản, gồm cả nông sản tươi và thực phẩm chế biến kết hợp với một nhà hàng kiểu tự chọn. “Konohana Garten” khai trương vào năm 1990 với 210 người nông dân tham gia với doanh số đạt 68.000.000JPY (14 tỷ đồng) và phát triển thành một tổ chức lớn hơn rất nhiều vào năm 2014 với 3.800 nông dân tham gia với doanh số 1.700.000.000JPY (350 tỷ đồng), có nghĩa là tăng doanh số bán hàng đã tăng lên hơn 25 lần trong 25 năm đầu tiên. Mô hình vẫn đang được nhân rộng và đã có 10 cửa hàng “Konohana Garten” trong năm 2019.
Hơn nữa, người nông dân ở thị trấn Oyama đã tạo ra nhiều loại thực phẩm đã qua chế biến có giá trị cao được làm từ các sản phẩm nông nghiệp tươi nhất vì các sản phẩm thực phẩm chế biến có thể bảo quản lâu hơn các sản phẩm nông nghiệp tươi. 6 kỹ thuật truyền thống được áp dụng để tạo ra các sản phẩm thực phẩm chế biến, đó là ngâm, sấy khô, đun sôi, hun khói, lên men, và ép & chiên ngập dầu. Để khuyến khích nông dân cải thiện kỹ thuật và kỹ năng chế biến, thị trấn Oyama tổ chức một cuộc thi về “ume-boshi”, một loại mơ muối Nhật Bản, cứ sau 4 năm một lần. Hiện tại, hơn 1.200 loại ume-boshi làm tại nhà đăng ký tham dự từ khắp cả nước và cuộc thi đã trở thành cơ hội tốt để nông dân tiếp xúc với nhau để trao đổi kinh nghiệm và kiến thức cũng như cố gắng cải thiện kỹ thuật và kỹ năng chế biến hiện tại.
Do đâu mà “Konohana Garten” có thể đạt được thành công lớn như vậy? Lí do là “Konohana Garten” được coi như một trường hợp lý tưởng của “Ngành Công nghiệp thứ 6”, trong đó giá trị mới được tạo ra bằng cách xây dựng chuỗi giá trị từ ngành công nghiệp chính đến ngành công nghiệp thứ cấp sang ngành cấp ba (1 x 2 x 3 = 6), tức là từ sản xuất nông sản đến chế biến, sau đó đến phân phối & bán hàng. Thuật ngữ và khái niệm về “Ngành công nghiệp thứ 6” đã được đưa ra bởi Giáo sư Naraomi Imamura, giáo sư danh dự tại Đại học Tokyo.
Điều gì hấp dẫn hơn nữa ở dịch vụ tại “Konohana Garten” là một nhà hàng kiểu tự chọn. Vô số các món ăn làm từ nông sản tươi theo mùa từ thị trấn Oyama được chế biến bởi những người “shu-fu” tại địa phương, người nội trợ, chủ yếu ở độ tuổi 60 và 70, thay vì đầu bếp chuyên nghiệp. Vì những người shu-fu, có kinh nghiệm nấu ăn cho gia đình họ trong 40-50 năm, họ hoàn toàn hiểu làm thế nào để phát huy hết hương vị từ nông sản một cách tốt nhất. Nhiều khách hàng của nhà hàng ngạc nhiên khi thưởng thức hương vị của các món ăn và họ thường mua các sản phẩm nông nghiệp tươi và thực phẩm chế biến sau khi dùng bữa ăn tự chọn.
Trước đây, người nông dân tại thị trấn Oyama đã cố gắng tuân theo tiêu chuẩn vận chuyển hàng nông sản cho các kênh phân phối phổ biến như siêu thị lớn, v.v. Tuy nhiên, tiêu chuẩn chủ yếu áp dụng về hình dạng, kích thước và bao bì, không nhất thiết liên quan đến hương vị. Ví dụ, nếu người nông dân tuân theo tiêu chuẩn vận chuyển dưa chuột, họ cần phân loại dưa chuột thành 3 loại “hình dạng”, A: ít cong <1.5 cm, B: cong vừa <3 cm và C: cong nhiều <4 cm. Sau đó, họ cần phân loại thêm dưa chuột trong mỗi loại “hình dạng” thành 4 loại “Kích cỡ”, 2L:> 23cm, L: 21 ~ 23cm, M: 19 ~ 21cm và S: 16 ~ 19cm. Cuối cùng, họ cần phải đóng gói dưa chuột với mỗi loại “Kích cỡ” cho từng loại “Hình dạng” phù hợp với số lượng dưa chuột được chỉ định trên mỗi hộp, loại lớn 2L: 37 ~ 40 quả / hộp, L: 42 ~ 47 quả / hộp, loại trung bình M: 52 ~ 57 quả / hộp và loại bé S: 60 ~ 65 quả/ hộp. Hợp tác xã nông nghiệp của thị trấn Oyama biết rằng đa số khách hàng đều ưu tiên về hương vị hơn là hình dạng và kích cỡ và đó là lý do tại sao Hợp tác xã nông nghiệp Oyama quyết định mở ra “Konohana Garten”, nơi người nông dân có thể bán các sản phẩm nông nghiệp thực sự tươi ngon của họ với hình dạng và kích thước thậm chí vượt ngoài tiêu chuẩn đã được đề ra. Kể từ đó, những người nông dân ở thị trấn Oyama đã bắt đầu trồng nhiều loại nông sản thực sự ngon mà không cần bận tâm đến các tiêu chuẩn vận chuyển. Khách hàng có thể thưởng thức những hương vị tuyệt vời nhất theo mùa trong suốt cả năm tại “Konohana Garten”.
Vào năm 2011, Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản (MAFF) của Nhật Bản đã bắt đầu quảng bá cho “Ngành công nghiệp thứ 6” bằng cách áp dụng một đạo luật. MAFF gọi chính sách đó là “AFFriinovation”, nghĩa là “thúc đẩy toàn diện và lồng ghép nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản như một ngành công nghiệp chính, công nghiệp sản xuất như một ngành công nghiệp thứ cấp và kinh doanh bán lẻ như một ngành công nghiệp cấp thứ 3, và để tạo ra giá trị gia tăng mới sử dụng tài nguyên khu vực”. Ngoài ra, vào năm 2012, Tập đoàn Quỹ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản cho Đổi mới, Chuỗi giá trị và Mở rộng Nhật Bản (A-FIVE) đã được thành lập với tư cách là quỹ của chính phủ và khu vực tư nhân. A-FIVE đã hỗ trợ 143 đơn vị tại Nhật Bản khuyến khích “công nghiệp hóa thứ 6” với số lượng đăng ký khoảng 12.000.000.000JPY (110.000.000USD) cho đến nay (tính đến tháng 2 năm 2019). Hy vọng rằng ngày càng có nhiều trường hợp thành công hơn nữa của “Công nghiệp thứ 6”, ví dụ như “Konohana Garten”, sẽ được tạo ra tại Nhật Bản. Nguồn: Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản Nhật Bản; Chính quyền tỉnh Oita; Hợp tác xã nông nghiệp Nhật Bản; Hợp tác xã nông nghiệp thị trấn Oyama; Tập đoàn Quỹ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản cho Đổi mới, Chuỗi giá trị và Mở rộng Nhật Bản
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
65
Story of
“Konohana Garten” 66
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
“Konohana Garten” is one of the most successful cases in Oyama town in Oita prefecture, Japan, which contributes to livelihood improvement of farmers, promotion of agriculture and activation of interaction between rural areas and urban areas. “Konohana Garten” is operated by Oyama town Agricultural Cooperative, which includes a farmer’s market of both fresh agricultural products and processed food products, and a buffet-style restaurant. “Konohana Garten” opened in 1990 with 210 farmers involved at a sales of 68,000,000JPY (610,000 USD) and grew to be a much bigger organization in 2014 with 3,800 farmers involved at a sales of 1,700,000,000JPY (15,000,000USD), which means it scaled its sales 25 times larger in the first 25 years. It is still expanding and there are 10 “Konohana Garten” shops in 2019.
ing a wide variety of high-valued processed food products which are made from fresh agricultural products at their best because processed food products can last longer than fresh agricultural products. 6 traditional techniques are applied for the creation of processed food products, which are pickling, drying, boiling, smoking, fermentation, and squeeze&deep-fry. To encourage farmers to improve their processing techniques and skills, Oyama town holds a contest of “ume-boshi”, pickled Japanese apricots, once every 4 years. Currently, more than 1,200 kinds of homemade “ume-boshi” are nominated from across the nation and the contest has become a good opportunity for farmers to communicate with other farmers to exchange their experience and knowledge as well as to try to improve their current processing techniques and skills.
Why was “Konohana Garten” able to achieve such a great success? This is because “Konohana Garten” is an ideal case of “the 6th Industry”, in which new value is created by building a value chain from the primary industry to the secondary industry to the tertiary industry (1 x 2 x 3 = 6), i.e. from production of agricultural products to processing to distribution & sales. The term and the concept of “the 6th Industry” was proposed by Prof. Naraomi Imamura, professor emeritus at the University of Tokyo.
What is even more appealing service at “Konohana Garten” is a buffet-style restaurant. Numerous dishes made of fresh agricultural products in season from Oyama town are prepared by local “shu-fu”, housekeepers, mainly at the age of 60s and 70s, instead of by professional “chef”. Since the “shu-fu” have experiences of cooking for their families for 40-50 years, they fully understand how to bring out the full flavors in agricultural products at their best. Many customers of the restaurant get surprised to enjoy the deliciousness of the dishes and they frequently buy fresh agricultural products and processed food products after having the buffet meal.
Previously, farmers in Oyama town tried to follow shipping standard of agricultural products for common distribution channels such as a big supermarket etc. However, the standard mainly focuses on shape, size and packaging, which is not necessarily related to taste. For example, if farmers follow a shipping standard of cucumber, they need to classify their cucumbers into 3 “Shape” categories, A: less curve < 1.5 cm, B: middle curve < 3 cm and C: more curve < 4 cm. Then, they need to additionally classify the cucumbers in each “Shape” category into 4 “Size” categories, 2L: > 23 cm, L: 21~23 cm, M: 19~21 cm and S: 16~19 cm. Finally, they need to pack the cucumbers in each “Size” category of each “Shape” category in accordance with designated number of cucumbers per box, 2L: 37~40 pcs/box, L: 42~47pcs/box, M: 52~57pcs /box and S: 60~65pcs/box. Agricultural Cooperative of Oyama town knew that almost all the customers put a high priority on taste rather than on shape and size and that’s the reason why Oyama town Agricultural Cooperative decided to open “Konohana Garten” where farmers were able to sell their truly delicious agricultural products even out of spec of the shape and size standard. Since then, farmers in Oyama town have started to grow a wide variety of truly delicious agricultural products without thinking of shipping standards. Customers can enjoy the best flavors in season throughout the year at “Konohana Garten”. Furthermore, farmers in Oyama town have been creat-
In 2011, the Ministry of Agriculture, Forestry and Fisheries (MAFF) of Japan started to promote “the 6th Industry” by putting a law on it in force. MAFF calls the initiative “AFFriinovation”, which is “to comprehensively and integrately promote the agriculture, forestry, and fisheries as a primary industry, the manufacturing industry as a secondary industry, and the retail business as a tertiary industry, and to generate new added value utilizing regional resources”. In addition, in 2012, “Agriculture, forestry and fisheries Fund corporation for Innovation, Value-chain and Expansion Japan (A-FIVE)” was established as government and private sector funds. A-FIVE has supported 143 entities in Japan which encourage “the 6th Industrialization” with subscription of about 12,000,000,000JPY (110,000,000USD) so far (as of February 2019). It is expected that more and more successful cases of “the 6th Industry” such as “Konohana Garten” will be created in Japan. Source: The Ministry of Agriculture, Forestry and Fisheries of Japan, Oita Prefectural Government, Japan Agricultural Cooperatives, Oyama town Agricultural Cooperatives, Agriculture, forestry and fisheries Fund corporation for Innovation, Value-chain and Expansion Japan
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
67
Thành công của dự án OTOP trên Bầu trời Thái Lan
Dự án Mỗi Làng Một Sản Phẩm (OTOP) của Thái Lan đã bắt đầu được triển khai từ năm 2001 với mục đích chủ yếu để giúp các cộng đồng chủ động tự cung tự cấp, tạo việc làm và các cơ hội tăng thu nhập từ các sản phẩm và dịch vụ của mình, đồng thời hỗ trợ việc gìn giữ và phát triển kiến thức địa phương, cũng như góp phần phát triển du lịch và tăng cường phát triển nông thôn bền vững hơn nhằm đem lại chất lượng cuộc sống tốt hơn trên cả nước. 68
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Trong quá trình thực hiện, nhiều vấn đề về chất lượng sản phẩm, kỹ năng tiếp thị hay kinh doanh cơ bản, quản lý, thuế, kế toán, v.v đã nảy sinh. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp OTOP địa phương thường có khá ít vốn đầu tư dẫn đến việc một số chủ doanh nghiệp đã cố gắng đi vay tiền ngân hàng - nhưng không phải ai cũng đủ điều kiện để vay dẫn đến việc họ phải đi vay cá nhân với mức lãi suất cao khoảng 2-3% hàng tháng. Thỉnh thoảng có những sản phẩm địa phương bị bên mua hàng từ chối do chậm trễ trong việc giao hàng, hay thiếu thông số kỹ thuật hay thậm chí là hư hỏng, khiến cho các chủ doanh nghiệp hầu như không thể thu được một chút lợi nhuận nào cả. Tuy nhiên chỉ tới năm 2016 dự án OTOP mới thực sự được quảng bá chính thức theo chỉ đạo của thủ
tướng chính phủ thông qua Cục phát triển Cộng đồng (CDD) và hãng Hàng không Quốc gia Thái Lan. Chính phủ chỉ đạo việc lựa chọn các sản phẩm OTOP đồng thời phê duyệt cho phép hãng Hàng không Thái Lan bán các sản phẩm OTOP trên các chuyến bay của họ. Dự án OTOP Uy tín (Prestige) trên không được điều hành bởi CDD với sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước trong khâu phát triển thiết kế bao bì song song với sự hỗ trợ của các bên liên quan như hãng Hàng không Thái Lan, Cảng vụ hàng không Thái Lan, Bưu điện Thái Lan, Bộ Thương mại, Bộ Nội vụ, v.v ... cùng hợp tác triển khai và cùng nhau hỗ trợ các chi phí đầu ra cho những sản phẩm OTOP trên không. Những sản phẩm này hiện nay đã được chính thức công nhận là thương hiệu OTOP chính thức.
Tạp chí hàng không OTOP Prestige lần đầu được ra mắt vào tháng 4/2016 và được in bằng tiếng Thái, tiếng Anh và tiếng Trung, song song với việc phát hành những thước phim quảng bá sản phẩm, văn hóa và di sản địa phương Thái trên các chuyến bay. Các khách hàng trong nước và quốc tế đều có thể đặt mua hàng trên các trang web những sản phẩm OTOP mà họ đã thấy trên các tạp chí này với cùng mức giá. Tính cho tới tháng 8/2016, doanh thu từ các sản phẩm OTOP hàng không đã đạt tới 14,5 triệu baht tương đương 0,5 triệu USD. Thông qua các tạp chí hàng không, các doanh nghiệp OTOP có thể bán hàng trên máy bay thông qua các trang web, tại các quầy hàng sân bay, gian hàng hội chợ/ triển lãm, cửa hàng OTOP ở hai trạm xăng trên địa phương họ, hoặc tại các cửa hàng địa phương của chính họ. Qua đó, doanh số bán hàng của họ đã tăng
khoảng 3 lần so với trước. Điều này chứng tỏ rằng các khách hàng của hãng hàng không Thái rất quan tâm đến các sản phẩm OTOP. Cụ thể là với chủ đề đầu tiên, ‘Di sản Thái Lan’, giới thiệu những giá trị của OTOP Thái Lan, đã bán ra khoảng 10.300 sản phẩm trên không và 3.000 sản phẩm trực tuyến mỗi tháng. Chủ đề thứ hai giới thiệu về ‘Phong cách sống hiện đại của Thái’ với những ý tưởng thực tế minh họa việc sử dụng các sản phẩm OTOP như thế nào, đã giúp bán ra khoảng 11.000 sản phẩm trên không và 3.100 sản phẩm trực tuyến mỗi tháng. Chủ đề thứ ba là ‘Mùa hè’ nhằm quảng bá các sản phẩm OTOP và sự kiện lễ hội Songkran đã giúp bán được 3.000 sản phẩm trên không và 1.600 trực tuyến. Chủ đề thứ tư đưa ra các cách sử dụng các sản phẩm OTOP trong ‘Phong cách
sống gia đình’ dựa trên ý tưởng trang trí nhà cửa. Đáng chú ý là sau khi dự án OTOP trên không được triển khai, khách du lịch chủ yếu quan tâm đến di sản Thái, thảo mộc Thái, những đặc sản và thực phẩm Thái Lan. Cụ thể là vòng đeo tay và các sản phẩm spa là những sản phẩn bán chạy nhất với doanh số cao. Khách hàng Trung Quốc và Hàn Quốc là những khách hàng mua hàng nhiều nhất. Ngoài ra, các sản phẩm hoa quả tươi và trái cây nhiệt đới cũng được khách du lịch mua nhiều. Với hương vị ẩm thực độc đáo, khách du lịch đến Thái Lan đều hi vọng sẽ được tận hưởng chuyến du lịch của mình qua việc ăn uống ở đây vì họ quan niệm rằng chi phí du lịch ở Thái Lan rẻ hơn so với nhiều quốc gia châu Á khác.
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
69
A success story
of Thai OTOP
Fly to the Sky Project
The Thai government launched the One Tambon One Product (OTOP) project more than a decade ago in 2001. Its main areas are community-level self-reliance, creating employment and supporting additional income opportunities by making products and services, helping to keep and encourage local knowledge, enhancing the tourism industry, and strengthening more sustainable rural development for a better quality of life throughout the country. The products are divided into 6 categories which are Food, Beverage, Textile and Garments, Household and Decorations, Handicrafts and Souvenirs and Herbal products. However, there were problems with product quality, marketing skills, basic business skills, management, tax planning, accounting, and so on. Local OTOP entrepreneurs normally have less capital investment. Some have tried to get a loan from banks but most are not qualified. Then, they go for a personal loan with high interest rates at 2-3% per month. Sometimes, those local products were rejected because of late delivery, missing specifications, and even damage, which resulted in less profit most of the time. In 2016, OTOP was significantly promoted under the Prime minister’s policy through CDD and Thai Airways International. The government gave the advice to select products and allowed the International Airline to bring OTOP products to their business and services. The OTOP Prestige project was hosted by CDD to help OTOP entrepreneurs. The government budget was to develop the packaging design. The stakeholders such as Thai Airways, Airport Authority of Thailand, Thailand Post Office, and the Ministry of Commerce, Ministry of Interior, etc. were signed to collaborate and share the support cost for OTOP inflight products. Now, those products have been certified as the official OTOP brand. The first OTOP Prestige onboard magazine was finally launched in April 2016. Thai, English, and Chinese languages were used in the magazine. The in-flight videos were prepared to show the local culture product process and heri70
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
tage. During and after OTOP products were shown in the magazine, both domestic and international customers could make an order from the website at a compatible price. Since August 2016, inflight OTOP products were sold at 14.5 million baht or 0.5 million USD. With the onboard magazine, OTOP entrepreneurs can sell from in-flight via www, at the airport stores, fair/exhibition booths, OTOP shops in each of the two national gas stations in their area, or at their own local stores. The sales volume increased about 3 times from the past. This showed that flight customers are interested in OTOP products. For instance, the first theme was set as “Thai Heritage” to introduce the value of Thai OTOP, which sold about 10,300 products onboard and 3,000 products online per month. The second introduced “Modern Thai Life Style” to illustrate the applicable idea using OTOP products today, selling around 11,000 products onboard and 3,100 products online per month. The third magazine was “Summer” to promote OTOP products as well as the Songkran festival event that helped sell 3,000 products onboard and 1,600 online. The fourth showed how to use OTOP products as “Home Life Style” using the home decoration theme. Interestingly, after the OTOP inflight project have been commenced, inbound tourists were found to be mostly interested in Thai heritage, Thai herbs, Thai symbols, and Thai food. For instance, bracelets and spa products are the most popular, creating a large sales volume. Chinese and Korean customers bought the most onboard products. On the other hand, fresh tropical food and fruit are the other tourist perspectives. With the unique taste, those tourists expect to enjoy their trip eating and drinking in Thailand that is considered to offer economically cheaper travel costs than many other Asian countries.
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
71
Mỗi huyện một sản phẩm
ở Lào
Lào hiện đang sở hữu hàng ngàn sản phẩm dệt mang tính thẩm mỹ cao. Mỗi bộ tộc Lào có hoa văn độc đáo riêng cũng như cách thức dệt và màu sắc riêng. Phong trào Mỗi huyện một sản phẩm (ODOP) ở Lào có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ những giá trị truyền thống đó cũng như cải thiện thu nhập của người dân. Những bài viết sau đây là các ví dụ về phong trào ODOP ở Lào. LÀNG VIENGKEO, HUYỆN HONGSA (TỈNH XAYABOURY) Làng Viengkeo nổi tiếng với các sản phẩm bông nhuộm chàm tự nhiên. Những người dân sống trong ngôi làng này thuộc bộ lạc Tai Lue. Lần đầu tiên tình nguyện viên JICA đến thăm để hỗ trợ sự phát triển của họ là vào năm 2015 với “Dự án ODOP”. Tuy nhiên, các nhà sản xuất ở làng Viengkeo đã từ chối sự hỗ trợ của tình nguyện viên JICA vì họ không muốn vượt qua những thách thức mới mặc dù họ muốn cải thiện tình hình kinh tế của mình, nhưng với những cách tiếp cận hợp lí từ “Dự án ODOP”, người dân ở đây đã dần thay đổi suy nghĩ của mình. Khi họ tạo ra các sản phẩm với thiết kế mới và được khách hàng để ý, họ đã bắt đầu cảm nhận được rằng sau khi nhìn thấy các sản phẩm truyền thống đó và thốt lên những từ như “beautiful” (đẹp tuyệt), “cute” (thật dễ thương), và “cool” (ổn đó), niềm hạnh phúc vô bờ đã đến với họ. Giờ đây, rất nhiều khách hàng muốn hiểu rõ hơn về các sản phẩm truyền thống từ bộ lạc Tai Lue. Trong năm 2017, các sản phẩm của họ được đăng ký dưới “ODOP”. Người dân tại đây vẫn thường nói rằng “Cảm ơn Dự án ODOP, chúng tôi thấy rằng
rất thú vị khi được đương đầu với thử thách mới”. Hiện tại họ đã nhận được một giải thưởng từ cuộc thi trong “Lễ hội Thủ công mỹ nghệ Lào 2018” và tham dự “Triển lãm quà tặng quốc tế 2019” vào tháng 2, 2019 tại Nhật Bản. Trong triển lãm, họ đã nhận được yêu cầu từ các công ty Nhật Bản và đang cố gắng để có được những khách hàng đầu tiên từ Nhật Bản. LÀNG CHENGSAVANG, HUYỆN KHAMKEUD (TỈNH BOLIKHAMXAY) Tại khu vực Laksao của tỉnh Bolikhamxay, dân tộc Moei có hoa văn nhiều màu sắc, sử dụng kỹ thuật ikat. Họ từng dệt vải chỉ để làm Sinh (váy truyền thống của Lào) và bán ở chợ địa phương. Thu nhập của họ từ hàng dệt may không đủ cho cuộc sống vì giá hàng dệt ở Lào rẻ hơn nhiều so với mặt bằng chung, do đó công sức bỏ ra cho công việc dệt không được đền đáp xứng đáng. Năm 2018, Tình nguyện viên JICA đã bắt đầu hỗ trợ nhóm với “Dự án ODOP” để hỗ trợ về kỹ thuật và thiết kế, tạo ra các loại sản phẩm mới như đồ lót ly, túi xách,… để đáp ứng nhu cầu khách hàng mới như khách du lịch từ các quốc gia khác. Các nhà sản xuất không biết cách tạo ra các sản phẩm mới từ vải dệt Sinh, nhưng họ dần hiểu người nước ngoài thích loại gì và tại sao họ nên cố gắng cải thiện chất lượng sản phẩm. Họ đã bắt đầu tìm một số nơi để bán sản phẩm của họ, với mục đích bán sản phẩm ở nhiều nơi hơn để nhiều người biết đến truyền thống của họ, qua đó góp phần cải thiện đời sống. Cô Chap, người đứng đầu nhóm cho biết: “Chúng tôi rất thích thử làm những điều mới vì chúng tôi có mục đích, và chúng tôi tự hào về hàng dệt may của riêng mình, vì vậy cảm thấy vui mừng vì “Dự án ODOP” lan toả đến nhiều người cơ hội biết đến các sản phẩm của chúng tôi. Thử thách của họ chỉ vừa mới bắt đầu.
72
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
One district one product
it is very interesting to try to do new challenge.” Currently they got price of a contest in “Lao Handicraft Festival 2018” and attended “International Gift Show 2019” in February.2019 in Japan. In the exhibition, they got inquiry from Japanese companies, and they are struggling to get a customer in Japan for the first time.
Laos is filled with thousands of beautiful textiles. Each ethnic group has their own unique patterns, the ways of weaving and colors. The ODOP movement in Laos has important meaning for protecting those tradition as well as improving their income. The following articles are the example cases of ODOP movement in Laos.
CHENGSAVANG VILLAGE, KHAMKEUD DISTRICT (LAKSAO), BOLIKHAMXAY PROVINCE
in Laos
VIENGKEO VILLAGE OF HONGSA DISTRICT (XAYABOURY PROVINCE) Viengkeo Village is famous for natural indigo cotton products. Those who live in this village are Tai Lue tribe. Using natural material and producing by hand are their tradition. The first time that JICA volunteer visited to support their development as “ODOP Project” is 2015. However the producer in Viengkeo village refused JICA volunteer’s support because they didn’t want to do new difficult challenge even though they wanted to improve their economical situation. In the way of “ODOP project”, they gradually change their thought. When they managed to make new designed products and met many customer’s eye, they were becoming to think that you can get great happiness when you hear customer saying “beautiful”, “cute”, and “cool”, seeing their traditional products. Now they think that they would like to know the products filled with Tai Lue tribe’s tradition. In 2017, their products are registered as “ODOP”. They said “Thanks to ODOP Project supported by JICA, we found that
In Laksao area of Bolikhamxay Province, Moei ethnic group has their own colorful pattern, which uses ikat technique. They used to weave the textiles only for Sinh (traditional Lao skirt) and sold only in local market. Their income from the textiles was not enough for their life because the price of textiles in Laos is much cheaper. It meant their hard work for weaving doesn’t pay. In 2018, JICA Volunteer has started to support them as “ODOP Project”to provide technique and design for making new kind of products such as coaster, bag etc to meet the demand for new customers like tourists from other countries. The manufacturers had no idea to make other product from textile for Sinh, but they gradually understand what kind of things foreigners like, and why they should try to improve the quality of the products. They have started to find some places to sell their products. They have the goal to sell their products in more places for many people to know their tradition, and to improve their life. Ms. Chap, who is the leader of the group said, “We enjoy trying to do new things because we have a goal. And we are proud of our own textiles, so feel glad that ODOP Project offers many people the opportunity to know our products.” Their challenge has just started. MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
73
CÁC SÁNG KIẾN MỖI LÀNG MỘT SẢN PHẨM TẠI KHU VỰC XUYÊN BIÊN GIỚI TAIJIK AFGAN Shirinmoh Rahimova, người thừa kế dự án LITACA, là trụ cột duy nhất của gia đình. “Chúng ta đang sống ở khu vực xuyên biên giới Tajik – Afghan, là một nơi cách xa khu vực thành phố. Vì vậy, rất khó để có thể tìm được một công việc thích hợp cho phụ nữ ở những vùng nông thôn như thế này. Tôi rất vui vì đã có cơ hội được làm việc tại nhà mày sản xuất hành. Đồng hành cùng 20 đồng nghiệp khác, tôi đã được đào tạo với một cách thức sản xuất tốt hơn, truyền thông tiếp thị và cách quản lý quy trình sản xuất. Chúng tôi đã bắt đầu bán sản phẩm của chúng tôi trên toàn quốc, bao gồm Dushanbe. Chúng tôi cũng có dự định mở rộng cửa hàng và thị trường kinh doanh của chúng tôi.” Sáng kiến Mỗi Làng Một Sản Phẩm (OVOP) đã được thí nghiệm lần đầu tiên tại Tajikistan và Afghanistan nhằm hỗ trợ cho sự phát triển cộng đồng, quy trình sản xuất và sản phẩm thị trường nội địa của hai nước, đồng thời cũng nhằm thúc đẩy sự liên kết kinh tế xuyên biên giới. Nghiên cứu đã cho thấy sự ghi nhận đối với sáng kiến OVOP ở cả hai quốc gia. Ở Tajikistan, sản phẩm độc đáo là hành giầm “Wild Onion Anzur” được trồng trên núi vùng Shamiddin Shohin và chanh của quận Jayhun, khu vực xuyên biên giới với Afghanistan. Ở Afghanistan, sản phẩm đặc trưng là Gilimi (các loại thảm được làm từ len long cừu, Nashpati Peers, cây lựu Yangii – Qala và Dashte – Qala của tỉnh Taklar. Tại Afghanistan, nằm trong chương
74
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
trình đào tạo hướng nghiệp được cung cấp cho 185 doanh nghiệp (bao gồm 55 người là nữ giới), hội thảo về sản xuất nông nghiệp được khởi xướng và các dụng cụ cần thiết cho việc sản xuất hành giầm (piyozi anzur) và các sản phẩm khác như cà chua giầm, dưa chuột giầm, mứt hoa quả, hoa quả sấy khô, v.v đã được cung cấp đầy đủ. Bên cạnh đó, dự án cũng đã LITACA đã hỗ trợ việc xây dựng nhà kính cho mục đích gieo trồng chanh ở quận Jayhun (Qumsangir). Năng lực sản xuất là khoảng 100 tấn chanh mỗi năm. Vào mùa thu năm 2017, giá mua buôn cho mỗi kg chanh là 8 TJS (khoảng US$0.90/kg). Đến tháng 12 năm 2017, sáng kiến OVOP ở Tajikistan đã giúp ích cho 350 hộ gia đình (hưởng lợi trực tiếp: 1000 người (520 người là phụ nữ), 20 vị trí công việc thời vụ và 10 vị trí công việc cố định. Sáng kiến OVOP đã giúp những người dân ở vùng biên giới biết được cách thức tạo nên những sản phẩm nội địa và nông nghiệp chất lượng cao. Không chỉ về mặt chất lượng và cách thức giao dịch thương mại, OVOP còn lên kế hoạch cho các chiến lược tiếp thị, ví dụ như buổi gặp mặt giữa các doanh nghiệp, sự kiện kết nối, diễn đàn và hội chợ giao dịch thương mại, giữa các doanh nghiệp 2 nước, tạo dựng cơ hội thành lập và phát triển hợp tác ngày một tốt hơn. Người dân địa phương hoàn toàn có đủ khả năng kinh doanh tự lập và duy trì cơ sở kinh doanh của họ, việc này có thể hỗ trợ thúc đẩy mối liên hệ và hợp tác giữa Tajikistan và Afghanistan.
DEVELOPING ONE VILLAGE ONE PRODUCT INITIATIVE IN TAJIK – AFGHAN CROSS-BORDER AREAS Shirinmoh Rahimova, beneficiary of LITACA project is the only breadwinner in the family “We are living in Tajik-Afghan cross-border dis trict which is far away from the city. It’s not easy to find a relevant job for women in rural areas. I am happy for the opportunity to work in an onion processing workshop. Together with 20 other colleagues I have received a series of trainings on better processing, communicative marketing and on management of processing. We’ve started to sell our products around the country, including Dushanbe. We plan to expand our business and sell products widely.” One Village One Product (OVOP) initiative was piloted for the first time in Tajikistan and Afghanistan to enable rural communities in both countries to grow, process and market local products and develop cross-border economic cooperation. Feasibility study was conducted to identify OVOP initiatives in both countries. In Tajikistan, a unique product – pickled Wild Onion Anzur that grows in the mountainous areas in Shamsiddin Shohin and Lemons in Jayhun District cross-border districts with Afghanistan. In Afghanistan, it is Gilimi products (carpet goods that made of sheep wool), Nashpati Peers, Pomegranates in Yangi-Qala and Dashte-Qala of Takhar Province. In Tajikistan under this initiative vocational trainings were provided to 185 entrepreneurs (including 55 women), agro processing workshop was constructed and necessary equipment for production of pickled wild onion (piyozi anzur) and other feasible products (pickled tomatoes, cucumbers, fruits compotes, dry fruits, etc.) were provided.
In addition to agro processing workshop, LITACA project, through small grants initiative, supported construction of green houses for cultivation of lemons in Jayhun (Qumsangir) district. The production capacity is about 100 tones of lemons annually. In autumn of 2017, the bulk price of lemons per kilo was 8 TJS (US$0.90) per kilogram. By December 2017, the OVOP initiative in Tajikistan covered 350 households (direct beneficiaries: 1,000 (520 female) people, 20 seasonal and 10 permanent jobs. OVOP initiative allowed Beneficiaries along borders start to know how to provide high quality local and agricultural products. Not only quality and trade but also plan the marketing strategy such as business-to-business meetings, match making events, business forums and trade fairs, between entrepreneurs from both countries that created new opportunities to establish and develop better cooperation. This whole sequence can make local people independent to run their business self-sufficient and sustainable, also support to energize the communication along borders that enhance the partnership between Tajikistan and Afghanistan.
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
75
Các vấn đề bất cập khi triển khai chương trình
OVOP ở Nepal Chương trình Mỗi làng một sản phẩm (OVOP) ở Nepal dựa trên mối quan hệ đối tác công tư (PPP) được chính thức ra mắt vào ngày 17 tháng 7 năm 2006, là một dự án thí điểm được thực hiện trong vòng 5 năm. Bộ Phát triển Nông nghiệp (MoAD) và Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Nepal (FNCCI) là đối tác chính của chương trình. MoAD là đại diện của Chính phủ cung cấp ngân sách hàng năm cho chương trình còn FNCCI thực hiện triển khai chương trình thông qua Phòng Thương mại và Công nghiệp quận trực thuộc. Trung tâm doanh nghiệp nông nghiệp phụ trách về kỹ thuật của FNCCI làm việc trên tư cách là Ban thư ký cho Chương trình OVOP. Năm đầu tiên chương trình được triển khai tại 7 quận với 4 sản phẩm là cam ngọt, lapsi (loại hoa quả chỉ có ở Nepal), 76
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
cá hồi cầu vồng và Bel (1 loại hoa quả mọc hoang của Nepal, còn được gọi là táo đá/vàng). Trong vòng 11 năm, chương trình đã được triển khai ở hầu hết các quận của Nepal. Tiếc thay, chương trình OVOP đã hoàn toàn chấm dứt trong năm 2017/18. Đây là một điều đáng tiếc và là tổn thất nặng nề với Nepal. Có rất nhiều nguyên nhân đằng sau sự cố này: Nguyên nhân chính của sự thất bại này là do những nguyên tắc quan trọng nhất trong triết lý OVOP Nhật Bản là các nguồn lực sẵn có ở địa phương, kỹ năng, lãnh đạo cộng đồng và sản phẩm mũi nhọn của địa phương đã không thực sự được áp dụng ở Nepal. Những đơn vị thực hiện chính của chương trình thì không hiểu hết các nguyên tắc này. Những đơn vị nòng cốt thì lại không ng-
hiêm túc trong việc lựa chọn sản phẩm cho chương trình. Hầu hết các sản phẩm được chọn đều không dựa trên nguyên tắc “Nghĩ theo xu thế toàn cầu, hành động theo điều kiện địa phương”. Chắc chắn, ngay từ đầu, những sản phẩm như Lapsi và Junar (cam ngọt) đã được lựa chọn rất cẩn thận dựa theo điều kiện địa phương. Tuy nhiên, sau đó, hơn 50 sản phẩm khác đã được lựa chọn ngẫu nhiên mà không tính đến việc giá trị thị trường của các sản phẩm này đã vượt quá khả năng quảng bá như các tiêu chí của OVOP. Cụ thể là đến tháng 6 năm 2017, OVOP đã dần dần được triển khai tại 75 quận huyện trên toàn quốc, Trung tâm Doanh nghiệp Nông nghiệp (AEC) của FNCCI đã đề xuất thêm 10 quận huyện cùng với các sản phẩm đa dạng, từ vùng núi, đồi núi và đồng bằng như là Tanahun (cam); Tweetsekh (hạt giống rau); Siraha và Mahottari (xoài);
nhà lãnh đạo hoặc chuyên gia nào – những người có khả năng chỉ đạo thực hiện có kiến thức vững vàng về OVOP. Điều đó đã dẫn tới sự chậm trễ trong quá trình ra quyết định. Quá trình phê duyệt ngân sách và chương trình rườm rà, ngân sách hạn chế, chủ yếu phụ thuộc vào Ngân sách Chính phủ là những hạn chế lớn trong việc thực hiện chương trình. Ngân sách được phân bổ bởi chính phủ không đủ để đáp ứng những nhu cầu ngày càng nhiều đối với các sản phẩm mới của những quận mới triển khai. BÀI HỌC KINH NGHIỆM Chương trình OVOP nên được chỉ đạo bởi chính quyền địa phương vì đây chỉ là chương trình phát triển địa phương. Các địa phương hoặc kể cả các thành phố lớn nên triển khai ít nhất một chương trình OVOP vì bản thân họ biết rõ hơn các cơ quan trung ương về các sản phẩm và tiềm năng của địa phương mình. Vì vậy, họ nên được toàn quyền triển khai chương trình để tăng cường phát triển kinh tế địa phương.
Darchula và Baitadi (chăn nuôi cừu), Humla (du lịch sinh thái), Sarlahi (củ nghệ), Parsa (thức ăn cho cá) và Kalikot (trang trại nuôi dê). Sản xuất và tiếp thị (Cải thiện chất lượng, Giá trị gia tăng, Phát triển doanh nghiệp, Hợp tác xã, xúc tiến thị trường, v.v.) phải được phát triển song song nhưng ít nhất là phải tập trung vào quảng cáo tiếp thị. Người ta có thể tìm thấy quầy bán hàng OTOP ở khắp mọi nơi trên đất Thái Lan nhưng điều này hầu như là không thể tìm thấy đối với các sản phẩm OVOP của Nepal. Ngày nay, mọi người rất quan tâm đến sức khỏe. Họ mong muốn mua được những thực phẩm sạch và chất lượng nhưng điều kiện tiên quyết đó cũng chưa bao giờ được xem xét. Thậm chí, hầu như không có mấy nỗ lực để giúp cho các sản phẩm OVOP ở Nepal được biết đến
đồng thời sự tham gia của địa phương vào chương trình cũng là rất hạn chế. Trong vòng 11 năm, không hề có bất kỳ một hội chợ thương mại OVOP đặc biệt nào được tổ chức ở cấp địa phương hoặc cấp quốc gia. Trong khi các hợp tác xã và các nhóm nông dân hiện có thì chưa đủ. Hầu hết người dân địa phương đều chưa hiểu OVOP là gì. Họ chỉ đơn giản nghĩ rằng OVOP là một dự án nông nghiệp khác vì hầu hết các sản phẩm được lựa chọn theo chương trình OVOP là các sản phẩm nông nghiệp chứ không phải các sản phẩm theo định nghĩa đúng của OVOP Nhật Bản. Do vậy mà 80% người dân Nepal không hề biết gì về OVOP trước khi chương trình này chính thức bị chấm dứt. Thiếu lãnh đạo và chuyên gia chuyên ngành là một nhược điểm khác của chương trình. Không hề có bất kỳ một
Các sản phẩm (hữu hình hoặc vô hình) không nên được chọn ngẫu nhiên. Người dân địa phương nên được tham gia vào việc lựa chọn các sản phẩm OVOP – phải là những sản phẩm mũi nhọn địa phương và có nhiều tiềm năng để có thể cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Sau khi xác định các sản phẩm tiềm năng, đặc biệt phải chú ý đến việc phân loại và đóng gói cũng như các vấn đề đảm bảo vệ sinh. Cuối cùng, sản phẩm phải có thương hiệu gắn liền với bản sắc văn hóa từng địa phương và được bán tại địa phương cũng như trên toàn quốc thông qua các quầy hàng địa phương, thị trường trong nước và quốc tế. Nếu chương trình OVOP được điều hành bởi chính quyền địa phương, nó chắc chắn sẽ tạo ra việc làm cho địa phương đó cũng như giúp giảm thiểu vấn đề phát triển mất cân đối trong nước. Hơn nữa, điều này sẽ giúp thúc đẩy nền kinh tế địa phương và góp phần tăng GDP quốc gia.
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
77
The issues of OVOP program
in Nepal
The One Village One Product (OVOP) in Nepal was a Public Private Partnership Program (PPP) based program which was officially launched in July 17, 2006 for five years as a pilot project. The Ministry of Agriculture Development (MoAD) and the Federation of Nepalese Chamber of Commerce and Industry (FNCCI) are the key partners of the program. The MoAD – from the Government sector provides annual budget for the program while the FNCCI implements the program through its related District Chamber of Commerce and Industry in the field level. Agro Enterprise Centre – the technical wing of FNCCI works as
78
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Secretariat of The OVOP Program. The program in its first year has launched the program in seven districts with 4 products, which were sweet oranges, lapsi (unique fruit of Nepal), Rainbow trout fish, and Bel (wild fruit of Nepal, also known as stone/golden apple). Within the period of 11 years, the program has been extended in almost all districts of Nepal. Most unfortunately, OVOP program was terminated in fiscal year 2017/18 which was a big unexpected and unpleasant incident for Nepal. There are many reasons behind such termination which are as follows: The crucial cause of failure is that local resource, local skills, local leadership and the local pride are the most important factors of OVOP Japan philosophy which was not well addressed in Nepal. The core implementing agencies involved in the program failed to understand the principles. The core actors were not serious in product selection for the program. Most of the products selected were not substanti-
ated with the principle “Think globally, act locally”. Certainly, at the very beginning, the products like Lapsi and Junar (sweet orange) are prudently selected which have local essence. But, later more than 50 different products were randomly chosen without considering their marketing value which was beyond capacity to promote as desired by OVOP norms. For instance, by June 2017, OVOP had gradually been launched in all 75 districts of the country, the Agro Enterprise Centre (AEC) of the FNCCI has proposed 10 additional districts and various products includes districts from every region – mountainous, hilly and lowland region – namely, Tanahun (orange); Dailekh (vegetable seed); Siraha and Mahottari (mango); Darchula and Baitadi (sheep farming), Humla (eco-tourism), Sarlahi (turmeric), Parsa (fish feed) and Kalikot (goat farming). Production and marketing (Quality improvement, Value addition, Enterprise development, Cooperatives, market promotion, etc.) had to be developed side by side but the fo-
cus on marketing was least. One can find OTOP sales counter everywhere in Thailand but in Nepal there is no even single sales counter for OVOP products. Today, people are very much concerned about health. They want quality and hygienic food but the most important thing as such has never been considered. Even worst, in Nepal, the effort made for OVOP products publicity and local participation in the program was very limited. Within a period of 11 years, no special OVOP trade fair has been organized either in local level or in national level. While the existing cooperatives and farmer groups were not active enough. Most of the local people were not yet cleared of the concept of OVOP. They thought OVOP was simply a just another agriculture project because most of the products selected under OVOP program were agriculture products which was not the concept of OVOP Japan. Hence, it was no doubt that 80 percent of Nepalese people knew nothing about OVOP before its termination. Lack of leadership and sufficient
subject matter specialists is another drawback of the program. There is no leader or specialists having perfect knowledge on OVOP who can direct the program. Thus, there were delays in decision making process. Lengthy process in budget and program approval, limited budget which was mainly dependent on Government Budget is the major constraint in program implementation. The budget allocated by the government was not enough to fulfill the increasing demand for new products in new districts. LESSONS LEARNT The OVOP program should be run by the local government because it is solely local development program. Villages or towns or even metropolitan cities should launch at least one OVOP program since they know better than the central government about potential local products and skills. Thus, they should run the program with full authority to enhance local economy.
The products (tangible or intangible) should not be selected randomly. Local people should be involved in identifying OVOP products as the selected product should have local pride and as much as potential to compete in national and international market. After identification of potential products, special attention should be given to grading and packaging aspect. Hygienic matter should not be ignored. Finally, the product should be branded with local identity and should be sold in local and national market through sales counters in the local areas, the national and international markets. Finally, if OVOP program is run by the local government, it would sure generate employment in the local level as well as help reducing regional unbalanced development problem of the country to great extent. Furthermore, it will help uplifting the local economy directly and contribute to increase national GDP indirectly.
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
79
Mô hình Mỗi làng một sản phẩm của
Malawi
Nguồn gốc của chương trình Mỗi làng một sản phẩm (OVOP) ở Malawi có thể là bắt nguồn từ các chuyến thăm của các quan chức cấp cao của chính phủ Malawi đến Tỉnh Oita ở Nhật Bản trước đây để tìm hiểu phương pháp áp dụng OVOP với sự phát triển địa phương đã thay đổi cuộc sống địa phương ở đó như thế nào. Bộ trưởng Nông nghiệp đã đến thăm lần đầu tiên vào tháng 12 năm 1997, tiếp theo là cựu tổng thống của Malawi, Tiến sĩ Bakili Muluzi, vào tháng 10 năm 2003. Cả hai chuyến thăm này đã gây ấn tượng với chính phủ Malawi và đi đến việc đề xuất một quyết định chiến lược về việc áp dụng OVOP là một chương trình phát triển xuyên quốc gia. Mục tiêu chung của chương trình là “một địa phương tự trị có khả năng tạo ra thu nhập và của cải một cách công bằng”, trong khi nhiệm vụ của nó là “tạo ra thu nhập và của cải cho cả xã hội Malawi bằng cách huy động toàn dân để sản xuất hàng hóa và dịch vụ có giá trị nhằm giảm chênh lệch giàu nghèo”. Theo chương trình này thì phải có sự phân vùng sản xuất, chế biến và tiếp thị hàng hóa và dịch vụ, cùng với ý tưởng là “từng địa phương cần nỗ lực sản xuất hàng hóa và dịch vụ có lợi thế so sánh so với các địa phương khác.: Chương trình OVOP của Malawi được quản lý thông qua một thể chế phức tạp, từ chính quyền trung ương tới các địa phương. Ở cấp trung ương, chương trình OVOP được giám sát bởi Ủy ban OVOP quốc gia do Chủ tịch nước chủ trì và được quản lý bởi Bộ Chính quyền địa phương và Phát triển nông thôn (MLGRD) thông qua Cục dịch vụ phát triển nông thôn (RDSD). Ban thư ký OVOP thuộc RDSD trực tiếp kiểm soát hoạt động của chương trình trong khi Phó Giám đốc Phát triển Nông thôn trực tiếp đứng đầu. Ban đầu, Ban thư ký được đặt tại Bộ Nông nghiệp, nhưng sau đó được chuyển giao lại cho MLGRD phụ trách. Ủy ban điều phối giám sát chung việc thực hiện dự án OVOP họp sáu tháng một lần. Ban điều phối chung gồm có Bộ trưởng chính, Bộ Nông nghiệp; Bộ trưởng chính, Bộ Kế hoạch và Phát triển Kinh tế; Bộ trưởng chính, Bộ Công nghiệp, Thương mại và Phát triển khu vực tư nhân; Bộ trưởng chính, Bộ Tài chính; Bộ trưởng chính, Bộ Lao động và Phát triển xã hội; Bộ trưởng chính, Bộ Tài nguyên và đất đai; Bộ trưởng chính, Bộ Du lịch và Văn hóa; Bộ trưởng chính, Bộ Thông tin và Giáo dục công dân; Trường Cao đẳng Nông nghiệp Bunda; Quỹ phát triển nông thôn Malawi (MARDEF); Trung tâm nghiên cứu và phát triển công nghiệp Malawi (MIRTDC); Quỹ ủy thác Phát triển doanh nghiệp của Malawi (DEMAT); Hội đồng xúc tiến xuất khẩu của Malawi (MEPEC); Cục xúc tiến đầu tư Malawi (MIPA); Quỹ dành cho các hoạt động xã hội Malawi (MASAF); và Tổ chức phát triển doanh nghiệp nhỏ của Malawi (SEDOM). Trách nhiệm điều phối các hoạt động OVOP ở cấp quận được giao cho một quận ủy của từng quận trong 28 quận. Mỗi Quận có một Ủy ban OVOP báo cáo với Hội đồng Quận. Ủy ban OVOP của quận có nhiều vai trò khác nhau bao gồm (i) thúc đẩy triển khai OVOP ở cấp xã phường (ii) tạo điều kiện cho việc xây dựng các dự án OVOP (iii) hỗ trợ chuẩn
80
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
bị các đề án OVOP (v) nộp các đề xuất khả thi cho Ban thư ký OVOP (vi) hỗ trợ triển khai các dự án OVOP đã được phê duyệt và (vii) làm việc với Ban thư ký về bất kỳ vấn đề nào có liên quan đến OVOP. Thấp hơn là Ủy ban Phát triển OVOP Khu vực và Làng nhằm thúc đẩy các hoạt động OVOP trong từng khu vực. Trong khi OVOP được quản lý từ trên xuống, thì việc hình thành, phát triển và phê duyệt dự án lại đi theo hướng tiếp cận từ dưới lên. Ở cấp địa phương, bất kỳ nhóm sản xuất nào đăng ký tham gia vào hoạt động sản xuất tại địa phương thì đều có thể nộp đơn lên văn phòng quận OVOP để được chứng nhận là một thực thể OVOP. Nghĩa là chỉ cần một đề xuất bao gồm đầy đủ kế hoạch kinh doanh và những yêu cầu về kỹ thuật, tài chính và tiếp thị cần thiết. Ở cấp huyện, văn phòng hoặc ủy ban OVOP phân tích kế hoạch và cung cấp hướng dẫn cho các nhóm sản xuất những việc liên quan đến các kế hoạch tự cải thiện, tự quản lý và kinh doanh với sự giúp đỡ của những nhân viên khuyến nông để được chứng nhận là một thực thể OVOP. Ở cấp trung ương, Ban thư ký OVOP quốc gia đánh giá các đề xuất được chuyển đến văn phòng OVOP của quận và trao chứng nhận. Ban thư ký OVOP cung cấp theo các yêu cầu về tài chính, đồng thời hỗ trợ kỹ thuật trong các khâu khác nhau bao gồm đóng gói, chế biến thực phẩm, kiểm soát chất lượng và quản lý kinh doanh. Điều này được thực hiện với sự giúp đỡ của Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật OVOP, nơi điều phối các
tổ chức chính phủ và trường đại học khác nhau. Chính phủ cũng cung cấp vốn cho các dự án và hoạt động của OVOP, nhưng điều này mới chỉ nằm trong kế hoạch là việc này sẽ được bàn giao lại cho các tổ chức tài chính vi mô. Sự phân chia trách nhiệm giữa các cấp chính quyền trung ương và địa phương là khá rõ ràng. Chính quyền trung ương tập trung vào việc xây dựng chính sách và chiến lược, lập ngân sách và phối hợp với các bộ chịu trách nhiệm phát triển nông thôn, cụ thể là: nông nghiệp; giới tính; phúc lợi trẻ em và cộng đồng; giáo dục; phát triển thương mại và khu vực tư nhân; thương mại; kế hoạch và phát triển kinh tế; tài chính; đất đai và tài nguyên thiên nhiên; và du lịch và văn hóa. Nó cũng điều phối (thông qua Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật OVOP) các hoạt động của các tổ chức khác nhau, đồng thời hỗ trợ kỹ thuật trong việc thực hiện các dự án OVOP trên toàn quốc. Những bên liên quan bao gồm Trường Cao đẳng Nông nghiệp Bunda, Quỹ Phát triển Nông thôn Malawi (MARDEF), Trung tâm Phát triển và Nghiên cứu Công nghiệp Malawi (MIRTDC), Quỹ Ủy thác Phát triển Doanh nghiệp Malawi (DEMAT), Hội đồng Xúc tiến Xuất khẩu Malawi (MEPEC), Cục quan xúc tiến đầu tư Malawi (MIPA), Quỹ dành cho các hoạt động xã hội Malawi (MASAF), Tổ chức phát triển doanh nghiệp nhỏ của Malawi (SEDOM) và Cơ quan đào tạo và phát triển doanh nghiệp (EDETA). Chính phủ Nhật Bản, thông qua JICA, đã và đang hỗ trợ về tài chính cũng kỹ thuật tạo điều kiện cho chương trình.
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
81
The Malawi OVOP Model The origin of the Malawi OVOP programme can be traced to earlier visits to the Oita prefecture in Japan by high ranking Malawi government officials to see how the OVOP approach to local development had transformed local communities there. The minister of agriculture visited first in December 1997, followed by the former president of Malawi, Dr Bakili Muluzi, in October 2003. Both visits made such an impression on the Malawi government that a strategic decision was made to adopt OVOP as a fully fledged national development programme. The overall goal of the programme is “an empowered community generating equitable incomes and wealth”, while its mission is “To generate incomes and wealth for the Malawians society by community mobilisation to produce value added goods and services that are marketable in order to reduce wealth disparities”. Underlying the programme is zoning of production, processing and marketing of goods and services, the idea being that “… communities should direct their efforts towards the production of goods and services which they have a comparative advantage over other communities” The Malawi OVOP programme is managed through an elaborate institutional arrangement that starts from the central government and cascades down to the district and community levels. At the central level the OVOP programme is overseen by the National OVOP Board chaired by the President, and is managed by the Ministry of Local Government and Rural Development (MLGRD) through its Rural Development Services Department (RDSD). Operational control of the programme is in the hands of the OVOP Secretariat under the RDSD which is headed by the Deputy Director of Rural Development. Initially the Secretariat was located in the Ministry of Agriculture but it was later moved to MLGRD because the latter was considered more immediate. A Joint Coordination Committee harmonises the implementation of the OVOP project and meets every six months. The Joint Coordination Committee comprises Principal Secretary, Ministry of Agriculture; Principal Secretary, Ministry of Economic Planning and Development; Principal Secretary, Ministry of Industry, Trade and Private Sector Development; Principal Secretary, Ministry of Finance; Principal Secretary, Ministry of Labour and Social Development; Principal Secretary, Ministry of Lands and Natural Resources; Principal Secretary, Ministry of Tourism and Culture; Principal Secretary, Ministry of Information and Civic Education; Bunda College of 82
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Agriculture; Malawi Rural Development Fund (MARDEF); Malawi Industrial Research and Technology Development Centre (MIRTDC); Development of Malawian Enterprises Trust (DEMAT); Malawi Export Promotion Council (MEPEC); Malawi Investment Promotion Agency (MIPA); Malawi Social Action Fund (MASAF); and the Small Enterprises Development Organization of Malawi (SEDOM) The responsibility for coordinating OVOP activities at district level is assigned to a District Commissioner in each of Malawi’s 28 districts. Each District has an OVOP Committee which reports to the District Assembly. The District OVOP committee has multiple roles which include (i) promoting the OVOP concept at village level (ii) facilitating formulation of OVOP projects (iii) supporting preparations of OVOP proposals (v) submitting viable proposals to the OVOP Secretariat (vi) supporting implementation of approved OVOP projects, and (vii) liaising with the Secretariat on any OVOP related issue. Lower down are Area and Village OVOP Development Committees which promote OVOP activities in their respective areas. While the OVOP administrative structure is “top-down”,
project conception, development and approval takes a â&#x20AC;&#x153;bottom-upâ&#x20AC;? approach. At the community level any group that is engaged in a local productive activity can apply to the OVOP district office for certification as an OVOP entity. It submits a proposal containing an annual business plan and the required technical, financial and marketing support. At district level the OVOP office or committee analyses the plan and provides guidance to the relevant community group on how its plan can be improved, and how the group should manage itself and its business with the help of extension workers to be certified as an OVOP entity. At the central government level the National OVOP secretariat examines the proposals forwarded to it by the District OVOP office and awards certification to those with merit. The OVOP Secretariat arranges for the necessary financing, in addition to providing technical support in various areas including packaging, food processing, quality control and business management. This is done with the help of the OVOP Technical Support Centre which coordinates various government institutions and universities. Government has been providing financing to OVOP projects and activities but plans are under way to hand over this function to micro-finance institutions.
The division of responsibilities between central and local government levels is quite clear. Central government focuses on formulation of policies and strategies, budgeting and coordinating between the ministries responsible for rural development, namely: agriculture; gender; child welfare and community; education; trade and private sector development; commerce; economic planning and development; finance; lands and natural resources; and tourism and culture. It also coordinates (through the OVOP Technical Support Centre) the activities of the various institutions that provide technical assistance to the implementation of OVOP projects countrywide. These include the Bunda College of Agriculture, the Malawi Rural Development Fund (MARDEF), the Malawi Industrial Research and Technology Development Centre (MIRTDC), the Development of Malawian Enterprises Trust (DEMAT), the Malawi Export Promotion Council (MEPEC), the Malawi Investment Promotion Agency (MIPA), the Malawi Social Action Fund (MASAF), the Small Enterprises Development Organisation of Malawi (SEDOM), and the Enterprise Development and Training Agency (EDETA). The Japanese government, through JICA, has been facilitating the programme with financial support and technical assistance.
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
83
84
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
85
Mỗi Làng Một Sản Phẩm (OVOP)
tại Senegal Dự án thúc đẩy các hoạt động thủ công thông qua Chương trình Mỗi Làng Một Sản Phẩm (Dự án OVOP) đã được triển khai tại Sénégal từ tháng 3 năm 2011 đến tháng 4 năm 2014 bởi Tổng cục Công nghiệp Thủ công mỹ nghệ và được Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) hỗ trợ. Dự án OVOP ở Sénégal nhằm mục đích thúc đẩy các hoạt động tạo thu nhập của các chủ cơ sở sản xuất địa phương thông qua gia tăng giá trị tài nguyên địa phương ở hai (2) khu vực mục tiêu được biết đến với sự phong phú của các sản phẩm địa phương, đặc biệt có tiềm năng trở thành sản phẩm OVOP. Các sản phẩm OVOP được chọn nằm trong các hạng mục sau: Thực phẩm và đồ uống (đã qua chế biến), Hương liệu / Xà phòng và các sản phẩm mỹ phẩm khác, Vải / Quần áo và Sản phẩm Thủ công (gỗ, kim loại). Gói hỗ trợ Chương trình 86
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
OVOP có phạm vi từ nâng cao năng lực, mở rộng quy mô tiếp thị và quan hệ công chúng.
Qua việc triển khai Dự án, nhiều chủ cơ sở sản xuất và Phòng Công nghiệp Thủ công mỹ nghệ ở các khu vực khác bày tỏ mong muốn được tham gia Dự án OVOP vì kết quả rõ rêt đã đạt được từ các khu vực mục tiêu. Về khía cạnh đó, dự kiến rằng Tổng cục Công nghiệp Thủ công mỹ nghệ được hỗ trợ bởi các nhà tài trợ sẽ tiếp tục theo đuổi các hoạt động OVOP và đảm bảo mở rộng để lan ra các khu vực khác trong nước. TÚI ĐAY - CÂU CHUYỆN THÀNH CÔNG CỦA OVOP SENEGAL
Kể từ khi chính thức kết thúc chương trình, Tổng cục Công nghiệp Thủ công mỹ nghệ phối hợp với Phòng Công nghiệp Thủ công đã cố gắng hết sức để duy trì hiệu quả OVOP trong các khu vực mục tiêu (lựa chọn Nhóm OVOP xuất sắc, cung cấp thiết bị chế biến và đào tạo, tham gia các hội chợ và điểm bán hàng tại Boutique OVOP ở thủ đô Dakar).
Nằm ở Fimela, một khu nghỉ mát nổi tiếng của vùng Fatick, Espace Beauté Yagora là một công ty chuyên sản xuất và bán các phụ kiện thủ công, đặc biệt thông qua nhuộm và may. Một trong những sản phẩm hàng đầu là túi đay đã được chọn là sản phẩm OVOP xuất sắc năm 2012.
Sản phẩm thủ công Senegal nổi tiếng trong Tiểu vùng và quốc tế bởi sự độc đáo, đa dạng và sáng tạo. Tiềm năng xuất khẩu xoay quanh các sản phẩm rổ, hàng da, nhuộm, tranh và điêu khắc, thời trang, mỹ phẩm, hàng nông sản, trong khi cũng cung cấp những điểm du lịch phong phú.
Qua hành trình tìm kiếm sự độc đáo, công ty đã thành công trong việc thiết kế một sản phẩm thân thiện với môi trường kết hợp một số kỹ năng: vẽ, tái chế, nhuộm, cắt, thiết kế, dệt và thương mại hóa. Các túi đay thường được mua để sử dụng làm đóng gói khoai tây, hành tây và các mặt hàng nông sản khác.
One Village One Product (OVOP)
Senegal craft creation renowned within the Sub-region and internationally is unique, diverse and innovative. Promising businesses for export purposes revolve around basketry, leather goods, dyeing, painting and sculpture, fashion, cosmetics, agro-food sector, while offering abundant tourist destination treasures.
The Project for Promotion of Artisanal Activities through One Village One Product Program (Project OVOP) has been implemented in Senegal from March 2011 to April 2014 by the Directorate of Craft Industry supported by the Japan International Cooperation Agency (JICA).
Through the Project’s implementation, the entrepreneurs and Chambers of Craft Industry in other regions expressed their strong wish to benefit from the OVOP Project because of the conclusive results achieved in the targeted areas. In that respect, it is expected that the Directorate of Craft Industry backed by Donors will further pursue the OVOP activities and ensure its expansion to cover other areas in the country.
IN Senegal
The Project OVOP in Senegal aimed at promoting income-generating activities of local entrepreneurs through local resources value addition in two (2) targeted areas recognized for their abundance of specific local products likely to be OVOP products. The selected OVOP products belonged to the following product categories: Foods and Drinks (processed), Aromas / Soaps and other cosmetic products, Fabrics / Clothes, and Craft Products (wood, metal…). The OVOP Program support package ranged from capacity building, marketing and public relations opportunities. Since its official ending, the Directorate of Craft Industry in collaboration with the Chambers of Craft Industry has been trying its best to sustain OVOP achievements in targeted areas (selection of Excellent OVOP Groups, provision of processing equipment and training, participation to fairs and sales outlet at the Boutique OVOP in Dakar, the capital city).
Jute Bag - OVOP Senegal Success Stories Located in Fimela a famous resort area of Fatick region, Espace Beauté Yagora is a company specializing in the manufacturing and sales of artisanal accessories particularly through dyeing and sewing. One of the leading products of the group namely jute bag has been selected as Excellent OVOP product in 2012. Through its search for uniqueness, the company succeeded in designing an eco-friendly product which combines several skills: drawing, recycling, dyeing, cutting, designing, weaving and commercialization. The jute bags it buys are often used for packaging potatoes, onions and other farming products
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
87
Những thách thức
lớn nhất trong việc triển khai
OVOP ở Kenya
OVOP được đưa vào Tầm nhìn Kenya 2030 nhằm mục đích biến Kenya thành một quốc gia công nghiệp hóa mới với mức thu nhập trung bình cung cấp chất lượng cuộc sống cao cho mọi công dân vào năm 2030. Chương trình OVOP là thành phần trong tầm nhìn nhằm nâng cao thu nhập của cộng đồng thông qua mục tiêu gia tăng giá trị sản phẩm và tiếp cận thị trường. Chương trình nâng cao năng suất và gia tăng giá trị là một trong những dự án hàng đầu cho Kế hoạch trung hạn (MTP) 20132017 nhằm thúc đẩy giá trị gia tăng và thương mại hóa các nguồn lực của các ngành công nghiệp vừa và nhỏ, cải thiện năng suất lao động và năng suất yếu tố tổng hợp, thúc đẩy hiệu quả tài nguyên và sản xuất thân thiện với môi trường hơn, và cải thiện khả năng cạnh tranh ở cấp doanh nghiệp để tăng giá trị gia tăng. Tại Quận Taita Taveta, khái niệm OVOP cũng đã được đưa vào Kế hoạch Phát triển Tổng hợp của Quận 2018-2022 như một định hướng chính để cải thiện thu nhập và đa dạng hóa sản phẩm trong cộng đồng địa phương. Mục tiêu của kế hoạch là trở thành quận hàng đầu với nền kinh tế sôi động ở Kenya và chính quyền quận nhắm đến cải thiện sự phát triển kinh tế và xã hội của các cộng đồng thông qua việc gia tăng giá trị của các sản phẩm địa phương như một sứ mệnh của họ. Mặc dù Hiệp hội Giỏ Taita đã đạt được dấu ấn trong việc xây dựng thương hiệu để được công nhận thông qua một số đặc điểm độc đáo từ sản phẩm, có thể coi là một trong những
88
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
câu chuyện thành công của OVOP tại Taita Taveta, họ vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức khi triển khai OVOP như sau; không đủ sự hỗ trợ, vốn đầu tư thấp, vận chuyển không đảm bảo, lợi ích chính trị, hội chứng phụ thuộc giữa các nhóm, kỳ vọng cộng đồng cao hơn và khả năng lãnh đạo kém trong các nhóm. Phân bổ ngân sách không hợp lí cản trở sự phát triển của các dự án OVOP. Do các nguồn vốn riêng rất thấp, dẫn đến không đủ ngân sách để hỗ trợ các nhóm OVOP và cộng đồng OVOP. Ví dụ, các cán bộ chính quyền quận không thể sắp xếp việc đào tạo để cải thiện các kỹ năng kinh doanh của nhóm do không đủ ngân sách và thăm các cộng đồng do cơ sở hạ tầng kém.
Chiến lược và động cơ chính trị chưa hợp lí, sự hỗ trợ hạn chế của các quan chức cấp cao và sự chưa hiểu rõ về dự án OVOP cũng cản trở việc phân bổ ngân sách và phương tiện đầy đủ để hỗ trợ các hoạt động của OVOP và sự phát triển của chương trình. Không chỉ các vấn đề của chính quyền quận, mà cả cộng đồng thành viên cũng cần có ý chí và quyết tâm mạnh mẽ để tự lực kinh doanh. Họ vẫn có xu hướng phụ thuộc và kỳ vọng của họ cũng rất cao vào chính quyền quận và các đơn vị cung cấp dịch vụ phát triển kinh doanh khác. Để cải thiện sự phát triển kinh tế xã hội của cộng đồng, lãnh đạo tốt là một yếu tố quan trọng. Lãnh đạo tốt có thể truyền cảm hứng và làm cho cho các thành viên
cộng đồng nhận ra tiềm năng của họ trong sự phát triển kinh tế của quận. Nếu người lãnh đạo nhóm có thể thúc đẩy và quản lý nhóm của mình một cách hợp lí, các thành viên trong nhóm sẽ giữ được động lực mạnh mẽ để có thể tự mình mở rộng mô hình kinh doanh của họ và sự đoàn kết của nhóm sẽ được tăng cường để hoạt động hiệu quả và tối ưu nhất. Các nhóm OVOP ở Taita Taveta có rất nhiều tiềm năng để tiếp tục tăng trưởng và phát triển. Chính quyền quận nên làm việc cùng với các nhóm OVOP để tăng số lượng các mô hình nhóm mẫu với quy trình triển khai tốt nhất và chia sẻ những câu chuyện thành công này cho các nhóm OVOP khác để phát triển hơn nữa.
GIỎ TAITA “Những chiếc giỏ Taita” được đan qua đôi bàn tay những người phụ nữ địa phương ở huyện Taita Taveta nằm ở phía đông nam của Kenya, làm từ cây sisal nổi tiếng về sự cứng cáp, độ bền và khả năng chống hư hại trong môi trường nước mặn. Người thợ đan tạo ra các sợi bện rất mịn từ các sợi sisal bằng cách xoắn tay trên lòng của họ. Thành phẩm được tạo nên bởi công sức lao động miệt mài, hoàn toàn thủ công theo phương thức truyền thống đòi hỏi những kỹ năng tuyệt vời từ người đan. Kinh nghiệm về làm giỏ được truyền từ mẹ đến con gái qua nhiều thế hệ. Những người phụ nữ địa phương đan giỏ trong thời gian rảnh rỗi của họ khi ở trang trại hay
tại nhà hộ, thường phải mất từ một tuần đến hai tháng theo kích thước để hoàn thành giỏ. Thu nhập từ việc bán giỏ đã góp phần cải thiện đời sống hàng ngày cho các hộ gia đình tại đây. Giỏ Taita nổi tiếng bởi chất lượng cao và thiết kế độc đáo với nhiều màu sắc và hoa văn khác nhau, cùng với khả năng có thể sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau như để đựng thực phẩm, thực vật, đồ trang sức, văn phòng phẩm, chăn, đồ dùng vệ sinh, hay có thể sử dụng để trang trí với các màu sắc và hoa văn tuỳ chọn theo sở thích!
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
89
Biggest challenges
in implementation
of OVOP in Kenya OVOP is anchored on the Kenya Vision 2030 which aims to transform Kenya into a newly industrialized middle-income country providing high quality of life to all its citizens by 2030. OVOP programme is the components in the vision to increase incomes of communities through targeted value addition and market access. Value addition and productivity improvement programme is one of the flagship projects for Medium Term Plan (MTP) 2013-2017 to promote value-addition and commercialization of resource endowments by small and medium size industries, improve labor and total factor productivity, promote resource efficiency and cleaner production, and improve competitiveness at the enterprise level for enhanced value-addition. In Taita Taveta County, the OVOP concept has also been factored into the County Integrated Development Plan 2018-2022 as a key driver to improve incomes and product diversification in local communities. Its vision is to be the leading county with a vibrant economy in Kenya and the county government aims to improve the social and economic development of communities through value addition of the local products as the mission. Though Taita Basket Association achieved to have a branding mark to be recognized through some uniqueness of products as one of OVOP success stories in Taita Taveta County, the County is facing many challenges in implementation of OVOP as follows; inadequate stuffing, poor flow of funds, inadequate transport, political interests, dependency syndrome among groups, higher community expectation, and poor leadership in groups. Inadequate allocation of budgets interferes with a development of OVOP projects. As the result of very low own sources, there is not enough budget to support the OVOP groups and its communities. For instance, the county government officers could not arrange the training for improving groups’ business skills due to poor flow of funds and visit the communities due to poor infrastructure. Inadequate political good will and strategy, limited support by high level officials and misunderstanding of OVOP project by officers also hinder the adequate allocation of budgets and stuffs for supporting OVOP activities and its development.
90
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Not only problems of the county government, but also community members should have strong will and determination for self-reliance of their business. They still tend to depend on the county government and other business development service providers, and the groups’ expectation of them is also high. To improve the socio-economic development of the community, good leadership is an important factor. Good leadership could inspire and empower the community members to realize their potential in the county’s economic development. If the group leader can motivate and manage its group appropriately, group members would keep strong motivation for expanding their business by themeselves and group solidarity would be strengthened for efficient and effective operation.
OVOP groups in Taita Taveta has a lot of potential for growth and development. The county government works together with OVOP groups to increase the number of model groups with best practices and share these success stories to other OVOP groups for further development. TAITA BASKET “Taita Baskets” are hand-woven baskets made by local women in Taita Taveta County located in southeastern part of Kenya. The baskets made from a sisal plant which is famous for strength, durability and resistance to deterioration in saltwater. Weavers make very fine twine from sisal fibers by hand-twisting on their lap. The baskets are labo-
riously crafted in a traditional way which requires amazing skills. The knowledge of basket-making has been passed down from mothers to daughters. Local women weave the baskets in their spare time from farm and household. It takes from a week to two months according to the basket size to make the baskets. Sales of the baskets contributes to the daily household of local community. Taita Baskets are well-known for high-quality products and unique design with various colors and patterns. Use these baskets for storing food, plants, jewelries, stationaries, blankets, toiletries… many uses to decorate your place with your favorite color and pattern!
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
91
CÁC YẾU TỐ CẦN THIẾT
DẪN TỚI SỰ
THÀNH CÔNG
CỦA OVOP
UGANDA
CHƯƠNG TRÌNHMỘT LÀNG MỘT SẢN PHẨM ĐƯỢC GIỚI THIỆU VÀO UGANDA TỪ NĂM 2008 NHƯ LÀ MỘT GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG VỚI TẦM NHÌN LÀ GIÚP TĂNG THU NHẬP VÀ CỦA CHO NGƯỜI DÂN UGANDA; MANG LẠI GIÁ TRỊ GIA TĂNG CHO NGUỒN LỰC ĐỊA PHƯƠNG, PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC VÀ TIẾP THỊ CÁC SẢN PHẨM VÀ DỊCH VỤ CÓ GIÁ TRỊ GIA TĂNG. OVOP đã được thực hiện và triển khai thành công ở Uganda phụ thuộc vào một số yếu tố cần dược đánh giá cẩn thận. Ngay cả OVOP ở Oita cũng đã
phải đối mặt với nhiều thách thức, cho dù kinh tế và công nghệ của Nhật Bản có tiên tiến thế nào thì vẫn không thể tránh khỏi sự kháng cự của các yếu tố địa phương cũng như bên ngoài, huy động sự tham gia của các địa phương và phát triển các sản phẩm cạnh tranh. Những thách thức mà Uganda phải vượt qua bao gồm: CAM KẾT CỦA CẤP LÃNH ĐẠO HÀNG ĐẦU QUỐC GIA Kinh nghiệm đã cho thấy rằng OVOP đã được triển khai thành công như một chương trình quốc gia (ví dụ ở Thái Lan, Malawi, v.v.), rằng việc chấp thuận của các cấp lãnh đạo hàng đầu quốc gia là vô cùng quan trọng để đẩy nó lênmột tầm cao trong các chương trình phát triển. Điều này rất quan trọng đối với Uganda, nơi mà có một số lượng lớn các chương trình xóa đói giảm nghèo đang được thực hiện bởi các ngành khác nhau. Điều này sẽ rất hữu ích cho cấp lãnh đạo chính quyền hàng đầu quốc gia - đặc biệt là tổng thống, những cố vấn cấp cao của ngài đứng ra chịu trách nhiệm về các chính sách phát triển nông thôn và các quan chức phụ trách kỹ thuật quan trọng trong các bộ - nên đến thăm Nhật Bản, để tìm hiểu xem phong trào này đã thay đổi nền kinh tế nông thôn ở nước này như thế nào. Đối với các vị quan chức thì điều quan trọng nhất là việc hiểu được rằng mặc dù OVOP chủ yếu là một phương pháp phát triển kinh tế địa phương, nhưng nó đồng nghĩa với việc phát triển nguồn nhân lực và các khía cạnh cộng đồng quan trọng khác chứ không chỉ có việc xóa đói giảm nghèo. MÔ HÌNH ÁP DỤNGPHÙ HỢP OVOP chủ yếu là một mô hình phát triển kinh tế địa phương nhưng cũng có nhiều thay đổi trong quá trình định hướng và thực hiện. Như đề cập trước đó, mô hình của Nhật Bản (Oita) nhấn mạnh vào sự tự lực và lợi ích của cộng đồng, cũng như phát triển từ từ để mang lại sự hài lòng quốc gia (GNS). Tất nhiên, việc phát triển và tiếp thị các sản phẩm cạnh tranh trong nước và quốc tế là quan trọng hàng đầu, nhưng phát triển nguồn nhân lực và tăng cường sự gắn kếtvà niềm tự hào dân tộc cũng là những yếu tố mang lại sự thành công của chương trình. Mặt khác, mô hình của Thái Lan nhấn mạnh vào việc phát triển và nâng cấp sản phẩm theo định hướng thị trường nước ngoài với sự
92
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
hạn chế trong việc phát triển cộng đồng nói chung. Nên áp dụng mô hình OVOP nào và theo cách còn tùy thuộc vào hoàn cảnh ở Uganda. Thứ hai, điều quan trọng là phải xem xét khuôn khổ thể chế phù hợp cho chương trình. Ví dụ, nên thành lập một ban thư ký chuyên ngành hay chỉ cần một đơn vị phối hợp trong một bộ cụ thể là đủ? Thành phần của ban chỉ đạo bao gồm những ai? Thành phần lãnh đạo thực hiện chương trình từ cấp trung ương xuống cấp địa phương, bao gồm việc thúc đẩy quan hệ đối tác công-tư – Tổ chức Phi chính phủ Cộng đồng? Làm thế nào để các hoạt động của các bên liên quan khác nhau sẽ được theo dõi và phối hợp với các mục tiêuxóa đói giảm nghèo đang diễn ra? Quan trọng nhất là chương trình sẽ được đánh giá như thế nào và tác động của nó sẽ được đánh giá như thế nào để đảm bảo rằng nó thực hiện được các mục tiêu và mục đích của mình? Điều này là vô cùng quan trọng vì việc đánh giá sự tác động thường bị bỏ qua trong nhiều chương trình của chính phủ. Dù mô hình được chọn là gì thì chương trình OVOP tốt hơn hết là không nên được triển khai thử trên toàn quốc trước khiđưa ra các điều kiện có thể có lợi hoặc bất lợi trong việc thực hiện. OVOP cần phải được thực hiện thí điểm tại các quận đã được lựa chọn kỹ lưỡngdựa trên việ lập ra các phương án thực hiện lý tưởng nhất, đặc biệt là liên quan đến các yêu cầu về phát triển lãnh đạo địa phương, hỗ trợ thể chế (cho các dịch vụ kinh doanh, tài chính và kỹ thuật) và phối hợp đồng bộ của chính phủ (trung ương và địa phương), khu vực tư nhân, các tổ chức phi chính phủ và nỗ lực của toàn cộng đồng. Sự thành công của Chương trình Phát triển Chính quyền Địa phương (LGDP) từ việc thí điểm Chương trình Phát triển Quận Huyện (DDP) sẽ là một ví dụ điển hình về giá trị của việc triển khai thực hiện chạychương trình thí điểm trước khi nó được nhân rộng. PHÁT TRIỂN LÃNH ĐẠO ĐỊA PHƯƠNG Thành công của OVOP phụ thuộc rất nhiều vào sự lãnh đạo năng động và tài tình của địa phương. Các hệ thống chính quyền địa phương của Uganda và các chương trình phân cấp rộng rãi đã tạo ra mảnh đất màu mỡ cho sự phát triển lãnh đạo địa phương, nhưng sự lãnh đạo này chủ yếu tập trung vào điều kiện chính trị, hành chính và khả năng cung cấp dịch vụ. Theo đó một lãnh đạo có đầu óc kinh doanh nên được khuyến khích phát triển để đưa ra các định hướng trong việc chuyển đổi kinh tế địa phương thông qua OVOP. Lãnh đạo địa phương phát sinh theo hướng tự phát ngay chính trong nội tại của các địa phương sẽ có hiệu quả hơn nhiều so với việc chỉ định. CHỐNG LẠI HỘI CHỨNG Ỷ LẠI CỐ HỮU Mặc dù ở Uganda đã có những nỗ lực lớn trong việc phát triển nông thôn, địa phương và cộng đồng, nhưng vô hình chung thì những nỗ lực này lại dẫn đến sự cố chấp của hội chứng ỷ lại cao trongphần lớn các nhà lãnh đạo địa phương. Hầu hết các nhà lãnh đạo địa phương và các đối tượng của họ đều quen với việc chờ đợi các giải pháp thúc đẩy phát triển từ chính quyền trung ương xuống và tất
cả các hệ thống chính quyền địa phương được cấu hình để hoạt động như các ống dẫn để chuyển tài nguyên từ trung ươngxuống tới địa phương mình. Khung tinh thần này chạy ngược lại với khái niệm OVOP trong đó nhấn mạnh sự tự lực và sáng tạo. Các biện pháp cần phải được thực hiện để phát triển, nuôi dưỡng tinh thần và văn hóa kinh doanh cũng như sự tự lực giữa các địa phương để họ có thể thấy mình là người nắm giữ chìa khóa cho sự thịnh vượng và thành công của nền kinh tế địa phương của chính mình. Chính phủ nên chỉ đóng vai trò cung cấp hỗ trợ cho các nghiên cứu phát triển sản phẩm, thông tin thị trường, cơ sở hạ tầng giao thông và truyền thông, và xúc tiến xuất khẩu. TÀI CHÍNH Tiếp cận tài chính và tín dụng là rất quan trọng đối với các doanh nghiệp kinh tế. Tuy nhiên, thật rủi ro khi chính phủ tài trợ cho các hoạt động kinh tế được thực hiện bởi các địa phương theo chương trình OVOP, bởi vì toàn bộ ý tưởng về hoạt động kinh doanh của địa phương tự lực sẽ không còn. Một sáng kiến hỗ trợ tài chính vi mô của chính phủ
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
93
trước đó có tên là“Entandikwa” (hạt giốngtiền) đã sụp đổ vì nhiều người nhận nhầm tiền là quà tặng để ủng hộ đảng cầm quyền trong cuộc bầu cử năm 2001. Văn hóa vay và trả phải được trao dồi cẩn thận cho mục đích đó. Chính phủ nên để lại tài chính cho các hoạt động OVOP cho các tổ chức tài chính vi mô để các địa phươngtự hình thànhthói quen là phải tự liên hệ với các tổ chức tín dụng. SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG Sự tham gia của cộng đồng vào sự phát triển địa phương ở Uganda khá thấp. Những lý do cho điều này bao gồm nhận thức kémdo thiếu nhạy cảm, tham gia rời rạc, mất rất nhiều thời gian kiếm sống mưu sinh qua ngày và sự thất vọng lặp đi lặp lại từ những kỳ vọng không được thực hiện trong các quy trình lập kế hoạch theo phương thức từ dưới lên. Bởi vì người dân không được cung cấp đủ không gian cho việc tham gia vào việc ra quyết định, họ thường không nhận thức được các cơ hội phân cấp. Do đó, việc tạo và duy trì sự quan tâm của cộng đồng đối với các hoạt động của OVOP phải được đặt lên tầm cao. Điều này chỉ có thể đạt được khi lợi ích kinh tế có thể được chứng minh rõ ràng. Để các cộng đồng ở cấp cơ sở tham gia hiệu quả vào các dự án phát triển địa phương không phải là một nhiệm vụ đơn giản, ngay cả khi họ sẽ là những người hưởng lợi chính. Ngoài các trở ngại đã đề cập ở trên, các địa phương cũng cần tính đến chi phí cơ hội khi tham gia vào chương trìnhcũng như đánh giá xem các dự án đang được đề cập có phù hợp với quan điểm của mình hay không, (ví dụ: liệu các dự án đó có thể dẫn đến các giải pháp hữu hình cho các vấn đề của địa phương hay không). Về mặt này, một cách tiếp cận mang lại cái lợi lâu dài và bền vững sẽ có khả năng tạo ra mức độ tham gia cao hơn các phương pháp khác. Một vấn đề liên quan phải được giải quyết đó là sự căng thẳng tiềm tàng giữa lợi ích cộng đồng (nhóm) và lợi ích cá nhân đối với các doanh nghiệp tạo ra lợi nhuận, đặc biệt là người dân Ugandakhông có nhiều kinh nghiệm về hợp tác xã. Hợp tác cộng đồng ở Uganda chủ yếu thiênvề các hoạt động xã hội (như đám cưới, đám tang, v.v.) hơn là với các doanh nghiệp kinh tế nơi chủ nghĩa cá nhân cũng như quan hệ gia đình và quan hệ họ hàng trở nên rõ rệt hơn. Phải tìm ra các cách để đảm bảo rằng tinh thần cá nhân, động lực chính của doanh nghiệp kinh tế, không ngăn cản sự phát triển của sự gắn kết và niềm tự hào dân tộc - một trong những mục tiêu quan trọng nhất của OVOP.
CRITICAL SUCCESS FACTORS FOR OVOP IN UGANDA THE ONE VILLAGE ONE PRODUCT PROGRAM WAS INTRODUCED IN UGANDA IN 2008 AS AN INTEGRATED COMMUNITY DEVELOPMENT APPROACH WITH A VISION TO INCREASE INCOMES AND WEALTH FOR UGANDANS THROUGH; VALUE ADDITION TO LOCAL RESOURCES, HUMAN CAPITAL DEVELOPMENT AND MARKETING OF HIGH VALUE ADDED PRODUCTS AND SERVICES. Successful introduction and implementation of OVOP in Uganda is contingent on a number of factors that must be given careful thought. Even in Oita OVOP faced several challenges, notwithstanding Japan’s advanced economy and technology, which included local and external resistance, mobilising communities effectively and developing competitive products. The challenges that must be overcome in Uganda include the following. COMMITMENT BY THE TOP NATIONAL LEADERSHIP Experience has shown where OVOP has been successfully implemented as a national programme (e.g. Thailand, Malawi, etc.) that ‘buy in’ by the top national leadership is extremely important to give it a high profile among contending development programmes. This is very important for Uganda where a large number of poverty reduction programmes are being implemented by different sectors. It would be very helpful for the top national political and technocratic leadership – especially the president, his senior advisors responsible for rural development policy and key technical officials in service delivery ministries – to visit Japan, to see how this approach has transformed rural economies in those countries. It is crucial for those officials to understand that while OVOP is primarily a local economic development approach, it also has important community and human resource development dimensions as well. Otherwise its total value might be lost if it is looked at from its poverty reduction benefit alone.
APPROPRIATE MODEL TO ADOPT While OVOP is primarily a local economic development model, there are important variations in its concept and implementation. As indicated earlier, the Japanese (Oita) ‘model’ emphasises community self-reliance and benefit, as well as gradual build-up to generate gross national satisfaction (GNS). Developing and marketing products that are competitive nationally and internationally is, of course, of primary importance, but developing human resource and enhancing community cohesion and pride are also crucial considerations for the success of the programme. On the other hand, the Thai model places emphasis on rapid, government aided externally market-oriented product development and upgrade with very limited focus on overall community development. Which OVOP model to adopt, and how to customise it to Ugandan circumstances, should be clearly thought through in advance. Secondly, it is important to consider the appropriate institutional framework for the programme. For example, should a dedicated secretariat be set up or would a coordination unit in a specified ministry be enough? What should be the composition of the steering committee? What structures should set up all the way from the central government level down to community level to implement the programme, including promotion of public-private-NGO-Community partnerships? How would the activities of the different stakeholders be monitored
and coordinated with other ongoing poverty reduction strategies? Most importantly, how will the programme be evaluated and its impact assessed to ensure that it realises its goals and objectives? This last point is extremely important because impact assessment is often not built into many government programmes. Whatever the model selected, it might not be a good idea to try to implement the OVOP programme country-wide without first establishing on the ground the conditions that might favour or hinder its successful implementation. OVOP should be piloted in carefully selected districts to establish its most ideal implementation modalities particularly with respect to local leadership development, institutional support (for business, financial and technical services), and coordination of government (central and local), private sector, NGO and community efforts. The successful development of the Local Government Development Programme (LGDP) from the District Development Programme (DDP) pilot should serve as a good example of the value of piloting before scaling up. DEVELOPMENT OF LOCAL LEADERS The success of OVOP is highly contingent on dynamic and entrepreneurially minded local leadership. Uganda’s local government systems and extensive decentralisation programmes has provided fertile ground for generation and development of local leadership, but this leadership has focused predominantly on politics, administration and service provision. Means must be found by which an entrepreneurially minded leadership can be developed to give direction to local economic transformation through OVOP. Local leadership that emerges spontaneously from communities would be far more effective than that which is engineered from the above. COUNTERING THE ENTRENCHED DEPENDENCY SYNDROME
While the rural, local and community development efforts that have been made in Uganda in the past have meant well, they have also inadvertently led to the entrenchment of a highly developed dependency syndrome among local level operatives. Virtually all local leaders and their subjects are accustomed to looking up to the central government for development solutions and all local government systems are configured to act as mere conduits for transfer of resources from the centre to the local level. This mental frame runs counter to the OVOP concept which emphasizes self-reliance and creativity. Measures must be taken to develop and nurture an entrepreneurial and self reliant spirit and culture among local communities so that they can see themselves as holding the key to their economic well being and success. Government should be seen as only providing support towards product development research, market information, transport and communication infrastructure, and export promotion. FINANCING Access to finance and credit is critical to economic enterprise. However, it is risky for government to finance the economic activities undertaken by communities under the OVOP programme, because the whole idea of self-reliance community entrepreneurial action will be lost. An earlier government microfinance support initiative called ‘Entandikwa’ (seed money) collapsed because many of the recipients mistook the money to be gifts for supporting the ruling party during the 2001 elections. A culture of borrowing and paying back must be carefully nurtured for that purpose. Government should leave financing of OVOP activities to microfinance institutions so that communities develop a culture of working with credit institutions. COMMUNITY PARTICIPATION Community participation in local development in Uganda is quite low. The reasons for this include low awareness arising from inadequate sensitisation, participation fatigue, pre-occupation with the daily struggle for survival, and repeated disappointment from unfulfilled expectations arising from bot-
96
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
tom-up participatory planning processes. Because citizens are not provided with adequate space for involvement in decision making, they are often not aware of opportunities decentralization offers. Thus, generating and sustaining community interest in the OVOP concept activities must be of paramount importance. This is achievable if the economic benefit can be clearly demonstrated. Getting communities at the grassroots level to participate effectively in local development projects is not a simple task, even if they are expected to be the primary beneficiaries. In addition to the impediments mentioned above, communities also take account of the opportunity cost of participation and whether the projects in question are â&#x20AC;&#x2DC;sensibleâ&#x20AC;&#x2122; from their point of view, (i.e. whether they can lead to tangible solutions to their problems). In this respect, an approach that has sustainable and long-term beneficial outcomes is likely to generate higher levels of participation than others. A related issue that must be addressed is the potential tension between community (group) and individual interest in money generating enterprises, especially given that Ugandans have very little experience with cooperatives. Community cooperation in Uganda is more common with respect to social activities (weddings, funerals, etc) than with economic enterprises where individualism as well as family and kinship ties are more pronounced. Ways must be found to ensure that the individuals spirit, a key driver of economic enterprise, does not prevent development of community cohesion and pride â&#x20AC;&#x201C; one of the most important objectives of OVOP.
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
97
Thủ công mỹ
nghệ Colombia
tăng tính cạnh tranh với OVOP
Đối với bất kỳ ai đã quen thuộc với phong trào Mỗi Làng Một Sản Phẩm (OVOP) được khởi xướng tại Oita Nhật Bản từ 39 năm trước, đều hiểu rằng công việc phát triển làng nghề tại địa phương nằm ở chính cốt lõi của nó. Đối với một đất nước có sự phong phú về kỹ thuật thủ công với nhiều vùng miền như Colombia, các yếu tố đó đã tạo nên một sự kết hợp hoàn hảo và chứng minh sự thành công của phong trào qua gần 6 năm nay. Khi Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA), lần đầu tiên giới thiệu phong trào tới Colombia (2013), Artesanías de Colombia, cơ quan chính phủ với nhiệm vụ đảm bảo đời sống cho các thợ thủ công Colombia thông qua các chương trình phát triển bền vững và đổi mới, đã xác định ba làng nghề với các nghệ nhân có tay nghề điêu luyện hàng đầu để phát triển các dòng sản phẩm mới giúp củng cố các kỹ năng thông qua việc truyền đạt kiến thức từ các nghệ nhân bậc thầy đến các thợ thủ công khác trong khu vực. Các làng nghề nơi được chọn để bắt đầu giai đoạn thử nghiệm sẽ được thực hiện trong thời gian ba năm (2015-2017). Làng nghề đầu tiên là ở thị trấn La Chamba, thuộc tỉnh Tolima, một vùng làm gốm được biết đến với đồ sành được làm bằng đất sét đen và đỏ. Nghề thủ công này tận dụng các tính chất phong phú trong đất để tạo ra các sản phẩm độc đáo, nổi bật với màu sắc tự nhiên. Những người phụ nữ chịu trách nhiệm nhào nặn và tạo khuôn đất sét, trong khi nam giới chịu trách nhiệm đưa chúng vào lò nung, mang lại độ nguyên bản và sự đồng đều. Làng nghề thứ hai được chọn do sự phù hợp với các yêu cầu OVOP là ở Tuchin, một vùng thuộc tỉnh Córdoba được biết đến với các sản phẩm thủ công được dệt bằng sợi, caña flecha (gynerium sagittatun). Mũ vueltiao, một trong những sản phẩm thủ công nổi tiếng nhất của Colombia được tạo ra bằng kỹ thuật này vào năm 2008 đã được cấp chứng nhận Chỉ dẫn địa lý. Cuối cùng là làng nghề chạm lộng trang sức tại Mompox, một thị trấn nhỏ kỳ diệu ở tỉnh Bolívar. Chạm lộng là một kỹ thuật sử dụng các sợi vàng và bạc mỏng để tạo ra các sản phẩm khác nhau, nổi bật vì sự tinh tế của chúng. Một khi các làng nghề được chọn, giai đoạn đầu tiên bắt 98
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
đầu vào năm 2015 với hình thức hợp tác JICA và các cơ quan chính quyền địa phương khác. Mục tiêu chính là tăng cường phát triển địa phương với triết lý OVOP thông qua các dự án củng cố năng lực địa phương của làng nghề với định hướng nghề thủ công. Các xưởng và đơn vị sản xuất trong ba làng nghề nơi khuyến khích sản xuất dòng sản phẩm thủ công để tham gia Expoartesanías, hội chợ dành cho nghệ nhân lớn nhất ở Colombia, được coi là một trong những hội chợ quan trọng nhất ở Mỹ Latinh. Giai đoạn thứ hai diễn ra vào năm 2016. Trong giai đoạn này, hai làng nghề mới ở El Guamo (Tolima) và ở San Jacinto (Bolívar) đã được chọn thêm cùng với ba làng nghề trước đó. El Guamo được biết đến với những chiếc mũ được dệt bằng sợi Cây cọ hoàng gia (Roystonea regia) và thị trấn San Jacinto nổi tiếng với sản phẩm võng và các đồ thủ công khác được dệt bằng sợi bông từ khung cửi. Với cơ hội này, các nghệ nhân cùng xưởng của họ đã được khuyến khích và hỗ trợ để triển khai ba dự án sản xuất và thương mại bao gồm một dự án với yêu cầu sản phẩm thủ công mang tính sáng tạo cao. Những sản phẩm này là thành quả của sự hoà quyện giữa các yếu tố địa phương gắn liền với chuỗi công đoạn chế tác các nghệ nhân, người thiết kế và từ cộng đồng, đáp ứng nhu cầu thị trường Colombia đã được nhận biết qua nghiên cứu từ Artesanías de Colombia Trong năm 2017, với kinh nghiệm của 2 năm trước, dự án khởi xướng chuyển giao kiến thức từ Trung tâm giải pháp thiết kế và đổi mới của Artesanías de Colombia đã được xây dựng. Phương pháp này được cấu thành dựa trên các vấn đề mấu chốt để tạo nên sự thành công khi văn hóa địa phương vẫn được bảo tồn trong khi các cơ hội phát triển kinh tế mới tăng lên. Các phương pháp thành phần bao gồm các buổi trao đổi kiến thức, kĩ năng (workshop), phối hợp thiết kế cùng với Artesanías de Colombia để phát triển các sản phẩm mới đáp ứng xu hướng thị trường toàn cầu và mở rộng dải sản phẩm của nghệ nhân. Một thành phần quan trọng khác là các workshop nâng cao năng lực về xúc tiến thương mại và thương mại hóa. Tất cả các phương pháp trên bắt đầu bằng cách thu thập thông tin từ các yếu tố địa phương tạo nên phong trào OVOP. Dữ liệu cơ bản về kinh tế xã hội, văn hóa và sản xuất được thu thập bởi Hệ thống thông tin và thống kê hoạt động làng nghề của Artesanías de Colombia để xây dựng một cơ sở bao gồm các đơn vị chủ chốt ở chính quyền địa, doanh nghiệp và yếu tố nhân xã hội / khu vực (tổ chức, tổ chức phi chính phủ…) để biên soạn một “bản đồ kinh tế xã hội” về hoạt động của các làng nghề trên các khu vực khác nhau. Lấy trường hợp mũ caña flecha làm ví dụ, sau mô hình OVOP, cộng đồng thợ thủ công của Tuchín đã tái thiết uy tín của họ và nhận ra tầm quan trọng của việc làm việc
theo nhóm, giải quyết xung đột, trao đổi thông tin một cách hiệu quả. Những cải tiến trong quy trình hoạt động của làng nghề cũng giúp củng cố khả năng sản xuất. Sau nhiều năm chỉ sản xuất mũ vueltiao, họ bắt đầu phát triển các dòng sản phẩm khác như đồ lót đĩa, đồ đựng giấy ăn, đồ trang trí, ví nam / nữ, thắt lưng, nhẫn, v.v. Điều này không chỉ đảm bảo việc bảo tồn kỹ thuật làm nghề mà còn tăng cường sức mạnh cho nền kinh tế địa phương của khu vực. Kết quả của giai đoạn thí điểm này đã mang lại kết quả rất thuận lợi. Về doanh số, trong hai năm (2015-2017), năm (05) làng nghề đã thu về hơn 70.000 USD, doanh thu chưa từng có trong tiền lệ, chứng minh rằng mô hình được phát triển dựa trên triết lý OVOP đã tăng tính cạnh tranh và khả năng tiếp cận thị trường mới cho 250 thợ thủ công trực tiếp tham gia. 7 nguyên tắc chiến lược phát triển của triết lý OVOP ở Colombia Những nguyên tắc này đến từ các kết luận rút ra sau giai đoạn thử nghiệm, cho phép thiết lập cơ sở khái niệm để chuyển mô hình OVOP sang Trung tâm thiết kế và đổi mới của Artesanías de Colombia. 1. Chìa khóa cho chiến lược là thương mại hóa sản phẩm thủ công hiệu quả và công bằng trên phương diện địa phương, khu vực, toàn quốc và quốc tế khác nhau. 2. Chiến lược dựa trên nhận thức định ban đầu của thợ thủ công và các nguồn lực xã hội về tự quản lý, tổ chức, thiết kế, sản xuất và thương mại hóa sản phẩm thủ công. 3. Chiến lược phải mang tính sáng tạo phản ánh bản sắc riêng dựa trên sự kết hợp giữa các yếu tố địa phương khác nhau, cũng như những lợi thế của việc có tính đặc thù từ các làng nghề. 4. Phải thể hiện bản sắc văn hóa của khu vực. 5. Sản phẩm phải có giá bán hợp lý là nguyên tắc, rút ngắn khoảng cách giữa người mua và đơn vị sản xuất. 6. Chiến lược phải có các giai đoạn ngắn hạn (thí điểm 2015), trung hạn (2015-2016) và dài hạn (2019-2023). 7. Chiến lược phải củng cố niềm tin và niềm tự hào trong cộng đồng để tạo ra các dự án phát triển địa phương.
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
99
COLOMBIA HANDICRAFT INDUSTRY HAS INCREASED
COMPETITIVENESS AND LOCAL DEVELOPMENT WITH OVOP MOVEMENT For anyone familiar with the One Village One Product (OVOP) movement created in Oita Japan, 39 years ago, it is well known that community work for local development lies at its core. For a country with such richness in artisan techniques and so many regions like Colombia, it was a perfect match that has proved successful for almost 6 years. When the International Japanese Cooperation Agency (JICA), first introduced the movement to Colombia (2013), Artesanías de Colombia, the government entity that works for Colombian artisan’s wellbeing through productive, innovative and sustainable development programs, identified three artisan communities with a flagship, specific and unique crafts to develop new product lines that would strengthen techniques through the transmission of knowledge from master craftsmen to others artisans in the region. These communities where chosen to start a pilot phase to be implemented in a three year horizon (20152017). The first one was the town of La Chamba, in the Tolima department, a pottery region known for its crockery made with black and red clay. The craft takes advantage of the rich properties in the soil to create unique pieces that standout for its natural colours. Women are in charge of kneading and moulding the clay, while men are in charge of putting them in the ovens that give the purity and uniformity. The second community that was chosen for its affinity with the OVOP requirements is in Tuchin, a municipality in the Córdoba department known for mastering crafts weaved with the caña flecha fiber (gynerium sagittatun). The “vueltiao hat”, one of Colombia´s most famous handicrafts is made using this technique that in 2008 was granted the Denomination of Origin seal. The last one is the filigree jewelry community of Mompox, a magical small town in the Bolívar department. Filigree is a technique in which thin threads of gold and silver are used to make different pieces that stand out for their delicacy. Once the communities where chosen, the first phase started on 2015 with cooperation form JICA, and other local government entities. The main objective was to strength-
100 BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
en local development with the OVOP philosophy through projects that reinforced local capacities of the communities with high artisan vocation. Workshops and productive units in these three communities where encouraged to produce a craft line to participate in Expoartesanías, the biggest artisan fair in the country, considered to be one of the most important ones in Latin America. The second phase took place in 2016. For this stage the three communities remained the same and two new ones in El Guamo (Tolima) and in San Jacinto (Bolívar) were added. El Guamo is known for the hats weaved with the Royal Palm fiber (Roystonea regia) and the municipality of San Jacinto is recognized for hammocks and other crafts weaved with cotton yarn and handlooms. On this opportunity artisans and their workshops were encouraged and supported to formulate three productive and commercial projects that included an offer of innovative crafts. These pieces were a result of creation process between local actors associated with the artisan activity´s chain of value, designers and the community. They responded to national market needs previously identified by Artesanías de Colombia. During 2017, with the experience of the prior 2 years, an initiative for a transference of knowledge of the Artesanías de Colombia´s Innovations and Design Labs methodology was consolidated. This methodology is structured on a series of components that are key to generate successful processes where culture is preserved while new economic opportunities rise. The components or modules include co-design workshops with Artesanías de Colombia´s in house local team to develop new pieces that respond to global market trends and broaden artisan’s portfolio. Another crucial component are the workshops and capacitations on promotion and commercialization. All of the modules above begin by gathering information from the local actors that make up the OVOP initiative. Basic socio economic, cultural and productive data is collected by the Artesanías de Colombia´s Artisan Activity´s Information and Statistic System (AAISS) to build a baseline that identifies key agents in local politics, business forces and socio/regional actors (organizations, NGOs…) to then compile a “socio economic cartography” of artisan activity in different populations. To use the caña flecha case as an example, after the OVOP model, the artisan community of Tuchín reestablished their trust relations and they understood and acknowledged the importance of team work, resolution of conflicts, assertive communication. These improvements within the community’s operational routines also helped to consolidate the production possibilities. After years of making only the “vueltiao hat” they started to develop different
line of products like placemats, napkin holders, centerpieces, wallets, belts, rings, purses etc. This not only guarantees the preservation of the technique, but it strengthens the local economy of the region. The result of this pilot phase had very favorable results. In terms of sales, in two years (20152017), the five communities sold over USD 70.000, a sum never seen before that confirms that the model developed based on the OVOP philosophy increased competitively and the access to new markets to the 250 artisans that where attended directly. 7 PRINCIPLES THAT GUIDED THE DEVELOPMENT STRATEGY OF THE OVOP PHILOSOPHY
These principles come from the conclusions drawn after the pilot phase. They allow to establish the conceptual base to transfer the OVOP model to Artesanías de Colombia´s Innovation and Design Labs. 1. The key for the strategy is effective and fair craft commercialization on different local, regional, national and international artisan scenarios. 2. The strategy relies on initial identification of the community´s human and social resources for self-management, organization, identity design, production and commercialization of crafts. 3. The strategy must include an innovative offer that reflects its own identity based on cooperation between different local actors, as well as the advantages of having distinctive signs in the artisan activity. 4. The offer must represent the cultural identity of the terriotories.in which they take place. 5. The crafts demand must have fair price sales as a principle as well as the shortening of the producer buyer gap. 6. The strategy must have short (pilot 2015), mid (2015-2016) and long (2019-2023) term phases. 7. The strategy must strengthen trust an pride within the communities to generate local development projects.
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
101
Đồ gốm từ La Chamba Sẽ không là quá lời khi nói rằng hầu hết các gia đình ở Colombia đều sở hữu một món đồ gốm từ La Chamba, một thị trấn nhỏ trù phú cây ăn quả được bao quanh bởi những cánh đồng và cây keo. Đồ gốm tối và sáng màu là biểu tượng trong dụng cụ nấu ăn truyền thống của Colombia, vậy nên vào năm 2013, khi Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản - JICA, giới thiệu phong trào OVOP đến Colombia, làng nghề gốm ở khu vực này đã trở một ứng viên hoàn hảo cho giai đoạn thử nghiệm của OVOP. Dấu vết của những người thợ làm gốm từ La Chamba được tìm thấy có thể được để lại từ cách đây ít nhất 700 năm. Định cư ở bờ sông Magdalena, miền Trung Colombia, trong nhiều thế kỷ, họ đã dựa vào nghề gốm của mình để tạo ra một nguồn thu nhập ổn định. Trong vài năm qua với sự áp dụng kế hoạch phát triển cộng đồng từ phong trào OVOP, cùng với các buổi chia sẻ kinh nghiệm, kỹ năng về đổi mới và phối hợp thiết kế, được thúc đẩy bởi Trung tâm đổi mới và thiết kế của Artesanías de Colombia, các sản phẩm từ La Chamba đã mang đến một ý nghĩa mới
102 BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
như là một biểu tượng của sự khát khao và hiện đang rất được chú ý trên thị trường quốc tế. Điều làm cho sản phẩm này trở nên độc đáo là vẻ ngoài khác biệt và quý phái của nó. Đồ gốm La Chamba có màu đen tự nhiên, nhờ vào trầm tích của Magdalena. Bằng cách trộn đất sét đen với một ít cát thô, những người thợ gốm nữ nặn ra những sản phẩm của họ trước khi đặt chúng vào lò nung để làm khô. Một khi các sản phẩm gốm được xử lý bởi mặt trời nhiệt đới và lửa, chúng được đánh bóng bằng đá mã não. Sự sang trọng và độ chắc chắn đủ để sử dụng trên bếp, lò nướng hoặc lò vi sóng, là những yếu tố đã khiến các công ty lớn như Williams-Sonoma, ở California, Takashimaya, New York và The Conran Shop, ở Vương quốc Anh để đặt mắt để mắt đến những sản phẩm gốm thủ công Colombia. Ngoài ra, đồ gốm từ La Chamba có thể được tìm thấy trong cửa hàng quà tặng của bảo tàng Quai Branly Museum, ở Paris, và các nhà thiết kế như Sebastian Herkner của Đức đã thực hiện một bộ sưu tập Chamba đặc biệt cho công ty thiết kế nội that Ames. Với số lượng lớn các sản phẩm được xuất khẩu sang các quốc gia như Bỉ, Hoa Kỳ và Nhật Bản, đồ gốm La Chamba đang chinh phục những vùng đất mới cách xa nơi mà chúng được tạo nên từ đôi bàn tay của những nghệ nhân Colombia.
Pottery from La Chamba It is not farfetched to say that most Colombian homes own a piece of pottery from La Chamba, a small town rich in fruit surrounded by rice fields an acacia trees. This black and bright crockery is so iconic in Colombian traditional cookware that when in 2013 the Japanese International Cooperation Agency, JICA, introduced the OVOP movement in the country, this artisan community was a perfect match for its pilot phase. Potters from La Chamba can be traced back at least 700 years. Settled on the bank of the Magdalena River, in Central Colombia, for centuries they have relied on their craft to find a sustainable way of living. In the past few years and due to the appliance of the OVOP movement´s philosophy of participative planning for community development, along with workshops on innovation and co-design, promoted by Artesanías de Colombia´s Innovation and Design Lab in the region, pieces from La Chamba have acquired a new meaning as an object of desire and are now highly demanded on international markets. What makes this craft so unique is its distinctive and elegant look. La Chamba’s pottery is naturally black, thanks to the sediment of the Magdalena. By mixing the black clay with some coarse sand, the women mold their creations before placing them in ovens to dry. Once the objects are cured by the tropical sun and fire, they are polished with an agate stone. That luxurious feel and the fact that it is strong enough to use on the stovetop, oven or microwave, is what made important stores like Williams-Sonoma, in California, The Takashimaya, in New York, and The Conran Shop, in the United Kingdom, to set their eye on this Colombian craft. Also, pottery from La Chamba can be found on the Quai Branly Museum’s gift shop, in Paris, and designers like the German Sebastian Herkner made a special Chamba collection for the Ames Interiors firm. With large amount of pieces being exported to countries like Belgium, the U.S.A and Japan, La Chamba Pottery conquers new grounds far from those where it is mold by Colombian artisan´s hands.
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
103
Tiềm năng mỗi làng một sản phẩm
từ Châu Đại Dương Welcome to the South Pacific, otherwise known as Oceania. This is a region of islands, ranging from the oldest continent of Australia to the thousands of smaller islands scattered across the Pacific, covering 8.4m square kilometres. The most common religion is Christianity and English is the most widely spoken language. After European colonisation, there continues to be a strong indigenous presence, including Aboriginal Australians, Māori in New Zealand and Melanesian, Polynesian and Micronesian peoples across the Pacific. While some crafts continue to be practised in the traditional manner, many have adapted to modern forms, such as studio practice and souvenir trade. Some of the more remote areas of the South Pacific still practice craft in a traditional context, according to custom and tied to important cultural rituals. Barkcloth tends to be the most common craft across the Pacific. With globalisation, cultures are increasingly subject to influence from other regions, particularly China. Australia and New Zealand are largely migrant nations that reflect a great diversity of cultures and a growing Asian population. The crafts of the South Pacific reflect a diverse region that preserves traditions in a modern world. Its crafts are very much of the people. CRAFT CLASSICS Craft classics have evolved as products that successfully embody creativity, skill and need. They are often conceived by a maker, who is attuned to the materials and their possibilities. Key to the successful production is an intrinsically handmade component. Craft products can become victims of their own success, as others seek to capitalise on their demand by reverse engineering their design for industrial production. This handmade quality then provides the user with a local story which he or she will continue to support. Not only will they purchase it for their own use, telling the story to guests, they will also favour it as a gift that supports local culture as well as pleasing its owner. 104 BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Craft classics from Oceania
Potential for future
One village One Product Welcome to the South Pacific, otherwise known as Oceania. This is a region of islands, ranging from the oldest continent of Australia to the thousands of smaller islands scattered across the Pacific, covering 8.4m square kilometres. The most common religion is Christianity and English is the most widely spoken language. After European colonisation, there continues to be a strong indigenous presence, including Aboriginal Australians, MÄ ori in New Zealand and Melanesian, Polynesian and Micronesian peoples across the Pacific. While some crafts continue to be practised in the traditional manner, many have adapted to modern forms, such as studio practice and souvenir trade. Some of the more remote areas of the South Pacific still practice craft in a traditional context, according to custom and tied to important cultural rituals. Barkcloth tends to be the most common craft across the Pacific. With globalisation, cultures are increasingly subject to influence from other regions, particularly China. Australia and New Zealand are largely migrant nations that reflect a great diversity of cultures and a growing Asian population. The crafts of the South Pacific reflect a diverse region that preserves traditions in a modern world. Its crafts are very much of the people. CRAFT CLASSICS Craft classics have evolved as products that successfully embody creativity, skill and need. They are often conceived by a maker, who is attuned to the materials and their possibilities. Key to the successful production is an intrinsically handmade component. Craft products can become victims of their own success, as others seek to capitalise on their demand by reverse engineering their design for industrial production. This handmade quality then provides the user with a local story which he or she will continue to support. Not only will they purchase it for their own use, telling the story to guests, they will also favour it as a gift that supports local culture as well as pleasing its owner.
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
105
ÚC – BÌNH HAYMAN
AUSTR ALIA - HAYMAN JUG
Chiếc bình Hayman là một tác phẩm kinh điển thủ công xuất phát từ xưởng Ben Edols và Kathy Elliott ở Sydney. Chúng tôi đã chứng kiến việc tạo ra món quà cưới mang tính biểu tượng và đượctruyền cảm hứng bởi người đã tạo ra nó.
The Hayman jug is a craft classic that comes from the Sydney workshop of Ben Edols and Kathy Elliott. We glimpse the making behind the iconic wedding present and discover its greatest fan who inspired it.
Theo nhà sản xuất, Ben Edols, “Quá trình thổi thủy tinh tạo ra thứ gì đó từ hư vô, từ tinh thần đồng đội và sự tiếp nối lịch sử truyền thống thổi thuỷ tinh”. Tôi đặc biệt yêu thích quá trình làm thanh thuỷ tinh và đã thực hiện kể từ lần đầu tiên tôi thử nó trong khoá học nghệ thuật tại trường. Bình Hayman được chế tạo với lõi trung tâm bằng kính trong suốt, sau đó được hình thành với khoảng 40 thanh thủy tinh màu đã được kéo ở giai đoạn trước. Những thanh thuỷ tinh đầu tiên dài khoảng 6m, sau đó được cắt thành các thanh ngắn khoảng 120mm để sử dụng làm thành bình. Mỗi bình đựng nước Hayman là một chiếc duy nhất bởi sự kết hợp giữa thanh thuỷ tinh màu vào thành bình và tay cầm tạo nên sự độc đáo ngẫu hứng.
According to the maker, Ben Edols, “The process of glass blowing, that making of something from nothing, the teamwork, the continuation of the history and traditions of glass making are so important to me. I particularly love the process of cane making and have done since the very first time I tried it in art school days. The Hayman Jug is made with a central core of clear glass that is then formed up with around 40 coloured glass canes that have been pulled at an earlier stage. The canes are around 6m long at first, then cut down into 120mm lengths to use in the jugs. Each Hayman water jug is a single “pick up” off a steel plate, formed firstly into the body of the jug and secondly leaving enough material to shape up the handle with the same cane colours.” ÚC - JARWUN Đây là một từ trong các ngôn ngữ Girramay, Jirrbal và Gulnay để gọi một cái giỏ có hai góc. Những ngôn ngữ này được sử dụng trong khu vực rừng nhiệt đới, như Tully, Murray Upper và Cardwell trên bờ biển phía đông bắc của Queensland. Trong khu định cư xảy ra vào cuối thế kỷ XIX, nhiều người dân Jirrbal đã được tập hợp để làm một số nhiệm vụ, dẫn đến sự suy tàn của nhiều nghề truyền thống như làm jawun. Một số giỏ đã được bán để đổi lấy thuốc lá. Một trong những nhà sưu tập jawun là Joseph Campbell, phó giám mục và hiệu trưởng tại Cairns (1904-9). Năm 1916, ông đã bán bộ sưu tập của mình cho Bảo tàng Queensland với giá 30 bảng, và đến nay nó vẫn lưu giữ một kỷ lục quan trọng của nền văn hóa vật chất. Việc chế tạo Jawun đã được hồi sinh vào cuối thế kỷ XX nhờ vào những nỗ lực của những người như Abe Muriata, các chiếc giỏ này được trân trọng như di sản văn hóa sống của Úc. Niềm vui khi làm giỏ jawun của Abe là kết nối với một truyền thống cổ xưa. “Đối với tôi, nó là một sản phẩm hoàn hảo, kiểu dáng hoàn hảo, thiết kế kỹ thuật hoàn hoản. Nó là duy nhất. Văn hóa của tôi có từ nền văn hóa cổ xưa và bạn sẽ không thể tìm thấy jawun này ở nơi nào khác trên thế giới. Nó có mục đích sử dụng đa dạng như để chuẩn bị thức ăn, thu thập thực phẩm, để mang trẻ sơ sinh, đây là một sản phẩm đa năng” AUSTR ALIA - THE JARWUN “Jawun” is a word in the Girramay, Jirrbal and Gulnay
106 BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Được tạo ra chính bởi phụ nữ và được dùng cho mọi người, đây là một ví dụ điển hình về văn hóa vật chất bản địa đã tồn tại và phát triển mạnh mẽ trong thời đại công nghệ. Bilum có nhiều tên địa phương, chức năng, hình dạng và kích cỡ và có thể mang được tất cả sản phẩm như đồ dùng cá nhân, ví, điện thoại di động, cho đến đồ dùng cho trẻ sơ sinh. Ngoài ra, chúng còn được sử dụng như “trang phục, vũ điệu regalia, bùa hộ mệnh, đồ chơi, hàng hóa thương mại, vật phẩm có giá trị, dấu ấn bản sắc, vật phẩm tinh thần và là nguồn gốc của tất cả các tài nguyên văn hóa”. Trước khi khi chưa có dây len và sợi nylon, túi dây bilum được làm bằng sợi tự nhiên, như vỏ của cây siria (Gnetum gnemon Gnetaceae), để làm túi dây tại tỉnh PNG Nott Oro. PAPUA NEW GUINEA - BILLUM languages for a bicornual basket. These languages are spoken in the rainforest region, which incorporates Tully, Murray Upper and Cardwell on the north-east coast of Queensland. In the white settlement that occurred in the late nineteenth-century, many Jirrbal peoples were rounded up of communities into missions, which led to the decline of traditions such as jawun making. Some baskets were traded for tobacco. One of the avid collectors of jawun was Joseph Campbell, archdeacon and rector at Cairns (1904-9). In 1916, he sold his collection to the Queensland Museum for 30 pounds, where it remains as important record of material culture. Jawun making was revived in the late twentieth century thanks to the efforts of people like Abe Muriata, whose baskets are treasured as Australia’s living cultural heritage.
One of the most popular and noteworthy objects in Papua New Guinea must be the bilum or the looped netbag or stringbag as it is also referred to. Both in the past and in the present, the bilum is stated to be one of the most culturally significant objects in Papua New Guinea. Made predominantly by women “but carried by everyone, they are a notable example of indigenous material culture that has persisted – indeed, flourished – in the face of introduced technologies”. The bilum has many local names, functions, shapes and sizes and carries everything from garden and market produce to private belongings, such as wallets and mobile phones, to newborn babies. Moreover, they are also used as “attire, dancing regalia, amulet, toy, trade commodity, wealth item, marker of identity, spirit catcher, shrine and source of all cultural resources” . Before wool and nylon string became available and popular, stringbags were made with natural fibres, such as the inner bark of the siria tree (Gnetum gnemon – Gnetaceae), which has been used in PNG’s Oro province for making stringbags
Part of the pleasure of jawun making for Abe is the connection to an ancient tradition. “To me, it is an object that is a perfect form, it is a perfect engineering design. It is unique. My culture is an ancient culture and you find this jawun nowhere else in the world. Its manifold use as an object such as for food preparation, for food collection, for carrying babies—it is a multi-purpose utility object.” PAPUA NEW GUINEA - BILLUM Một trong những sản phẩm phổ biến và đáng chú ý nhất ở Papua New Guinea là bilum hay còn được gọi là túi lưới hoặc túi dây. Cả trong quá khứ và hiện tại, túi dây bilum được coi là một trong những sản phẩm có ý nghĩa văn hóa nhất ở Papua New Guinea.
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
107
FIJI - MASI Tapa là thuật ngữ gọi chung cho vải từ vỏ cây của Thái Bình Dương. Tuy nhiên, mỗi quốc đảo Thái Bình Dương có tên riêng cho sản phẩm này. Masi là vải vỏ cây truyền thống của Fiji. Được làm từ thân cây dâu tằm, masi được sản xuất tại một số hòn đảo trên khắp Fiji. Đảo Vatulele là nơi sản xuất nhiều vải vỏ cây nhất, cả gia đình cùng tham gia sản xuất masi. Đàn ông trồng, chăm sóc và thu hoạch cây masi, phụ nữ đập vỏ cây và sản xuất thành vải. Khi vải masi được in, nó trở thành masikesa. Người ta dùng nguyên liệu tự nhiên để in vải massi, bao gồm màu đỏ và nâu từ đất sét, màu đen từ bồ hóng của loại hạt bị cháy hoặc từ đèn dầu hỏa. Đảo Namuka-i-Lau sở hữu phong cách in rất đẹp với việc sử dụng khuôn kim loại mỏng. Các hoa văn được bố trí ở nhiều góc độ khác nhau của tấm masi và duy trì sự cân bằng hài hòa. Các hoa văn bao gồm các hình dạng hình học tượng trưng cho đời sống động thực vật, sản phẩm văn hóa, dòng họ và đất. FIJI - MASI Tapa is the generic term for bark-cloth of the Pacific. However, each Pacific Island nation has their own specific name. Masi is the traditional bark-cloth of Fiji.
NEW ZEAL AND – CHẠM KHẮC GỖ
Made from the paper mulberry tree, Broussonetia papyrifera, masi is made on several islands throughout Fiji. Vatulele Island is the most prolific at bark cloth production, with whole families partaking in masi making. The men plant, maintain and harvest the masi plants, and the women beat the bark and felt it into cloth.
Chạm khắc gỗ Māori được tổ tiên người Thái Bình Dương mang đến khi họ di cư đến New Zealand từ những năm 900CE. Trong nhiều thế kỷ, nó đã phát triển từ các thiết kế hình học đến những nét cong uốn lượn cùng với sự phát triển văn hóa và được gọi là Maori.
When masi is printed, it becomes masikesa. Kesa or print is applied with natural pigments from clay for reds and brown, and soot from burnt nuts or from kerosene lamps for black.
Người Whakairo được biết đến sớm nhất là chạm khắc Kaitaia và có niên đại từ năm 1300. Có lẽ được thiết kế như một mái nhà, bố cục chạm khắc có hình một người đàn ông ở trung tâm với cánh tay và chân uốn cong, rất giống với chạm khắc từ Rurutu ở quần đảo Austral. Những người Whakairo đầu tiên đến từ khu vực này và các khu vực xung quanh bờ biển của cả hai hòn đảo của New Zealand.
The island of Namuka-i-Lau produces a very fine print style with the use of stenciling. Motifs are laid in various angles throughout a sheet of masi whilst maintaining a harmonious balance. Motifs comprise of geometric shapes symbolizing plant and animal life, cultural items, clans, and the vanua, or land.
NEW ZEAL AND - WOOD CARVING Whakairo (Māori wood carving) was brought over by Pacific ancestors when they migrated to New Zealand c900CE. Over the centuries, it evolved from geometric designs to distinctly curvilinear work as the culture evolved and became known as Maori. The earliest known Whakairo is the Kaitaia Carving and dates to c1300. Probably designed as a roof combing, the carving’s composition features a central male figure with bent arms and legs, very similar to carvings from Rurutu in the Austral Islands. Many of the earliest Whakairo come from this area, and around the coast of both islands of New Zealand.
108 BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
109
Xu hướng mới ở Châu Âu
Một xu hướng thị trường có thể dự đoán đầu tiên là tình trạng dư cung. Dư cung là kết quả của việc có quá nhiều sản phẩm được cung cấp trong một thị trường đã bão hòa, và nếu tiếp tục, dư cung sẽ là sự bắt đầu của một cuộc suy thoái kinh tế.
trang trí gia đình
Dư cung dẫn tới tình trạng người tiêu dùng cảm thấy “ngột ngạt” với quá nhiều sản phẩm cùng loại trên thị trường. Tất nhiên, người tiêu dùng trẻ tuổi luôn mong đợi có sự thay đổi thường xuyên đối với các dòng sản phẩm nhưng khi khách hàng đã quan tâm ít đi thì doanh số bán hàng của các công ty cũng sẽ giảm. Phản ứng của thị trường đối với sự dư cung là cạnh trạnh về giá giữa các nhà cung cấp và áp lực về lợi nhuận, và điều này có thể dẫn tới tình trạng phá sản của một vài công ty. Về phía cầu thì người tiêu dùng mong muốn sản phẩm đơn giản hơn và chất lượng cao hơn. Điều này có nghĩa là những sản phẩm đơn giản sẽ có vòng đời dài hơn. Tiếp theo, người tiêu dùng muốn quyết định phong cách riêng của họ, khác với những sản phẩm được người bán tiêu chuẩn hóa bày bán trên thị trường. Quyết định mua sắm hàng hóa của người tiêu dùng do đó sẽ trở nên cảm tính hơn và ít lý trí. Điều này có nghĩa ở đó có nhu cầu về sản phẩm cá nhân mang giá trị cảm xúc cao hơn, và cũng tương tự là các sản phẩm gắn với di sản hoặc huyết thống/gia đình và các sản phẩm do người tiêu dùng đặt hàng.
đối với các mặt hàng
và dệt gia dụng
Trong những năm tới, dự báo mô hình xã hội châu Âu sẽ có nhiều thay đổi với dân số thuộc tầng lớp trung lưu ở các nước Đông Âu ngày càng tăng, những sản phẩm có trách nhiệm xã hội ngày càng được coi trọng và nhu cầu đối với các sản phẩm mang tính cá nhân, đơn giản và có sức truyền cảm cũng sẽ cao hơn. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải nhận biết và thích ứng với những thay đổi này bởi vì đó sẽ là những cơ hội tốt cho họ để xuất khẩu. Việc đánh giá các xu hướng thị trường chính đối với các sản phẩm trang trí gia đình và dệt gia dụng ở châu Âu dưới đây có xem xét tới các yếu tố kinh tế, xã hội và môi trường sẽ giúp các nhà xuất khẩu chuẩn bị cho những cơ hội xuất khẩu trong tương lai và đặt ra chiến lược tiếp thị xuất khẩu phù hợp. TÌNH TRẠNG DƯ CUNG
110 BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Người tiêu dùng phản ứng theo hai hướng đối với hiện tượng dư cung. Một số muốn quay trở lại với thời trẻ của họ những năm 50, 60, 70 và 80. Họ cũng muốn sống với một tốc độ chậm hơn. Một số khác phản ứng bằng cách quay lại xu hướng đơn giản và bền vững. Điều này có nghĩa là nhu cầu đối với các sản phẩm đơn giản, thoải mái, có chất lượng cao và bền sẽ nhiều hơn. Điều đó cũng có nghĩa là nhu cầu thông tin về điều kiện sản xuất và độ minh bạch về giá cũng sẽ cao hơn.
Do dó, việc các nhà xuất khẩu Việt nam chuẩn bị và phản ứng lại bằng cách nhận ra rằng sự thoái mái và tính hữu dụng là các yêu cầu quan trọng đối với thị trường trang trí gia đình và dệt gia dụng, đặc biệt là đối với các khách hàng có thu nhập thấp. Để theo kịp những xu hướng này, các nhà xuất khẩu nên tạo ra dòng sản phẩm đơn giản với một thiết kế vượt thời gian hoặc tạo ra bản sắc riêng thông qua “câu chuyện”, “tầm nhìn” hoặc “không gian”. Điều này sẽ lôi cuốn những người có cùng ý tưởng của bạn, những người đánh giá cao nghệ thuật của bạn, bản sắc văn hóa hoặc đồng cảm với đất nước Việt Nam. Lý do thứ hai của sự dư cung là do suy thoái kinh tế. Châu Âu vẫn còn trong tình trạng khủng hoảng về kinh tế, tài chính. Người dân không thể chắc chắn về tương lai của họ khi tỷ lệ thất nghiệp gia tăng và giá trị của đồng Euro không thể dự đoán được. Sư suy thoái kinh tế này sẽ dẫn tới có nhiều người nghèo hơn và làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo. Điều này có nghĩa là người nghèo sẽ khó có khả năng chuyển tới nhà ở mới và làm cho thị trường trang trí gia đình và hàng dệt gia dụng thêm trầm lắng. Nếu người tiêu dùng muốn mua sản phẩm mới, họ sẽ rất ý thức về giá và có thiên hướng chọn nhãn hiệu riêng. Tình trạng bấp bênh về tương lai sẽ làm cho người tiêu dùng quan tâm hơn đến các sản phẩm mang lại giá trị cảm xúc và có hồn. Sản phẩm “có hồn” là phản ứng lại với tình trạng sản phẩm được sản xuất hàng loạt như từ Trung Quốc. Sự suy thoái kinh tế cũng tạo ra những cơ hội cho các nhà xuất khẩu Việt nam như dành hết sự quan tâm cho các sản phẩm có hồn, có thương hiệu, cho cá nhân và theo yêu cầu cụ thể của khách hàng. Các nhà xuất khẩu nên tập trung vào việc tạo ra các sản phẩm văn hóa bằng cách trộn lẫn các giá trị văn hóa sâu sắc từ vùng miền của mình vào trong thiết kế. Hoặc cách khác họ cũng nên cải thiện hiệu quả quá trình sản xuất của họ để tiết kiệm chi phí và giảm giá sản phẩm nhằm đáp ứng khả năng tài chính của người tiêu dùng nghèo. BỐI CẢNH XÃ HỘI ĐANG THAY ĐỔI Một xu hướng thị trường khác trong ngành trang trí gia đình và hàng dệt gia dụng là được kết hợp với sự thay đổi của bối cảnh xã hội. Có bốn lý do dẫn đến sự thay đổi này. Thứ nhất, trình độ học vấn của nữ cũng như nam ngày càng cao hơn dẫn tới nhu cầu nhiều “sản phẩm dành cho nữ giới” hơn, sự gia tăng tầng lớp trung lưu và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và sự công bằng xã hội ngày càng được coi trọng. Thứ hai, tình trạng dân số già dẫn đến nhiều gia đình có qui mô nhỏ hơn, nhu cầu trở nên cụ thể hơn đối với hàng dệt gia dụng như tính thoải mái, kích cỡ hay chức năng của sản phẩm và cơ hội kinh doanh bán buôn (theo các hợp đồng) ngày càng tăng. Thứ ba, sự đô thị hóa cũng như dân số già đi, sẽ dẫn đến nhiều gia đình nhỏ hơn, sự đa dạng trong phong cách và số lượng người nhập cư tăng. Lý do cuối cùng là internet và các phương tiện truyền thông sẽ dẫn đến nhu cầu gia tăng đối với các sản phẩm nước ngoài, nhưng cũng muốn nhiều những sản phẩm mang lại sự thuận tiện trong thời đại thông tin và bận rộn. Những lý do này sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu thị trường trang
trí gia đình và hàng dệt gia dụng cũng như sự gia tăng nhu cầu đối với các sản phẩm nhỏ hơn do quy mô hộ gia đình nhỏ hơn, sự đa dạng sản phẩm do quá trình đô thị hóa và các sản phẩm hữu cơ do sự thay đổi bối cảnh xã hội. Đối với nhà xuất khẩu Việt Nam những sự thay đổi này trong nhu cầu thị trường sẽ tạo ra cơ hội xuất khẩu mới. BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Cuối cùng, biến đổi khí hậu là một xu hướng mới quan trọng. Lý do thứ nhất của việc thích ứng sản phẩm đối với việc thay đổi khí hậu này là do các dấu vết sinh thái. Dấu vết sinh thái sẽ trở thành nhu cầu quan trọng hơn trong hệ sinh thái và điều này sẽ dẫn đến giảm thiểu việc vận chuyển không cần thiết và sự gia tăng sử dụng các sản phẩm của địa phương. Thay vào đó, sản xuất địa phương, bán tại địa phương sẽ tăng. Người tiêu dùng châu Âu đang tập trung vào các sản phẩm thân thiện với môi trường. Các chứng chỉ, nhãn mác liên quan tới xuất xứ và sinh thái là thuộc tính thiết yếu của sản phẩm. Nhãn mác và các chứng chỉ như EMAS, CE và nhãn mác sinh thái châu Âu giúp nâng cao độ tin cậy của sản phẩm xuất khẩu và làm cho việc giả mạo khó khăn. Lý do thứ hai cho việc thích ứng sản phẩm đối với các yêu cầu của thị trường châu Âu do việc thiếu hụt năng lượng ngày càng tăng. Khi sự thiếu hụt năng lượng nghiêm trọng hơn và ít có khả năng phù hợp với nhu cầu công nghiệp hoá ngày càng tăng thì sẽ dẫn đến hệ quả về quy định pháp luật của quốc gia và thế giới. Nhà xuất khẩu nên tuân thủ các quy định mới về môi trường tại châu Âu bằng việc tận dụng sự hỗ trợ của CBI trong lĩnh vực này - xem www.cbi.eu/marketinfo để biết thêm về các qui định luật pháp ở Châu Âu trong ngành trang trí gia đình và dệt may gia dụng. Cải tiến sản xuất nhằm tăng hiệu suất lao động có thể giúp nhà xuất khẩu Việt Nam thích ứng được với những thay đổi này. Lý do cuối cùng của việc thích ứng sản phẩm đối với xu hướng của thị trường Châu Âu là nhu cầu mang lại sự thoải mái hơn của người tiêu dùng. Hậu quả của biến đổi khí hậu sẽ tác động xấu đến thời tiết và điều này sẽ có tác động đến mức độ thoải mái của các sản phẩm trang trí gia đình và dệt gia dụng. Các nhà xuất khẩu có thể thích ứng với sự thay đổi này bằng cách như sử dụng nguyên liệu tái chế hoặc cải tiến sản phẩm. KẾT LUẬN Vì những lí do đã đề cập ở trên, thị trường hàng trang trí gia đình và dệt gia dụng tại châu Âu đang thay đổi. Mặc dù môi trường xã hội thay đổi, tình trạng dư cung và biến đổi khí hậu sẽ làm thay đổi các xu hướng mới của thị trường châu Âu, nhưng chúng cũng tạo ra những cơ hội xuất khẩu mới. Để tìm hiểu thêm về thị trường bạn quan tâm ở châu Âu, bạn có thể vào trang web của CBI (www. cbi.eu/marketintelligence). Tại đây bạn sẽ luôn tìm được các thông tin mới nhất về thị trường châu Âu trong các ngành hàng sản phẩm khác nhau . CBI thường xuyên cập nhật thông tin mới trên trang web này vì vậy bạn sẽ luôn luôn tìm thấy các thông tin thương mại và xu hướng thị trường mới nhất.
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
111
New Trends In The European Union For
HOME DECORATION ITEMS & TEXTILES In coming years, we can expect changes in the social patterns of EU, with a rising middle class in Eastern European countries, the growing importance of CSR-certified products (Corporate Social Responsibility) and more demand for personalized/simplified as well as products with a soul. Vietnamese exporters will have to keep informed and adapt as these changes will still offer good opportunities for them. The following review of key market trends in the EU home decoration and textiles sector, considering the economic, social and environmental levels, will help exporters to prepare for future export opportunities and devise report marketing strategies accordingly. 112 BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
OVERSUPPLY The first foreseeable market trend is an oversupply of products. This would result from too many products being offered on an already satisfied market which, to make things worse, has entered into an economic recession. This leads to consumer ‘suffocation’ as many of the same products are being presented. Of course, younger people still expect regular changes in the product collections, but nevertheless there is decreasing consumer interest, which means falling sales. The market reaction to an oversupply of products is more price competition and a pressure on margins, which can even lead some companies to bankruptcy. On the demand side, consumers want a simplification of their choices and better quality. This calls for simplified products that last longer. Next, consumers want to decide their own styles, contrary to retailers’ standardized offers. Consumer decisions will be more emotional and less rational. This implies that there is a need for: personalized products with a higher emotional value, products with a heritage or pedigree and customized products. Consumers react in two ways to an oversupply of products. Some want to go back to their younger years and cultivate nostalgia for the 50’s, 60’s, 70’s and 80’s. They also want to live at a slower pace. Others react by going back to simplicity and durability. This implies a growing need for more modest and comfortable products with high quality and
longer usage. It also implies that there is a greater demand for information about the conditions of production and for price transparency. The Vietnamese exporter should be prepared to respond by recognizing that comfort and functionality remain essential requirements in home decoration and textiles, especially among less affluent consumers.. So, in order to keep up with these trends, exporters should introduce simplified products with a timeless design or create their own focused identity by a telling a ‘story’, creating a ‘vision’ or ’atmosphere’. This will appeal to people who share their ideas, who appreciate their artistic culture and originality or empathize with Vietnam. The second reason for oversupply is the recession. Europe is still in an economic and financial crisis. People are not sure about their future anymore as unemployment rates rise and the position of the Euro is unpredictable. This ongoing recession leads to rising poverty that is widening the gap between the rich and the poor. This means that poor people will be less able to move to new houses and will have to make their existing home decoration and textiles last longer. If consumers buy new products, they will be very price-conscious and most likely will prefer private labels. The growing insecurity about the future will lead to more interest in emotional products and products with a soul. Products with a soul are a reaction to the mass production coming from e.g. China. The recession also creates new opportunities for Vietnamese exporters, such as devoting more attention to products with a soul, product branding, personalization and customization. Exporters should try to concentrate on creating cultural products integrating (blending) deep values from their region or village into their design. Or otherwise they should improve the efficiency of their production process to save costs and lower prices in order to meet the lower budgets of poorer consumers.. THE SOCIAL CONTEXT IS CHANGING Another market trend in the home decoration and textile sector is linked to the changing social context. There are four main reasons for these changes. First, the higher educational level of girls as well as boys will result in more ‘female products’, a growing middle class and the greater importance of CSR and equity (fairness). Second, ageing of the population leads to smaller households, more specific needs for home textiles, for example in comfort, size or functionality and more B-to-B opportunities (contract markets). Third, urbanization, like the ageing of population, will result in more smaller households, a diversity in styles and a rising number of immigrants. Last, the spread of Internet and social media will result in a growing need for foreign or overseas products, but also for more convenient and comfortable products be-
cause of a busier style of life in the information age. These reasons have consequences and effects on the market for home decoration and textiles, such as increasing demand for smaller products because of smaller households, diversification of products because of urbanization and more organic products because of the changing social context. For a Vietnamese exporter, these changes in demand will create new export opportunities. CLIMATE CHANGE Finally, climate change is an important new trend. The first main reason for adapting products to climate change is the ecological footprint. Ecological footprints will become more demanding on the ecosystems, which will result in the reduction of unnecessary transport movements and the increase of the usage of local products. To produce local, to sell local will be increasingly regarded as the alternative. Consumers in Europe are focussing on eco-friendly products. Certifications, labelling concerning countries of origin and eco-labeling will be essential attributes of a product.. Labelling and certification schemes such as the EU Eco-Management and Audit Scheme (EMAS), CE (European Conformity) and European Eco-label will enhance the credibility of exported products and make counterfeiting more difficult. The second reason for adapting products to European requirements is the growing energy shortage. As energy sources become scarcer and less able to match the bigger needs of industrialization, there will be consequences on national and international regulations. Exporters should follow developments in EU environmental regulations by accessing CBI (Dutch Centre for the promotion of imports from developing countries) website www.cbi.eu/market info. CBI can also be contacted for assistance on the EU legislation in the home decoration and textile sector. Similarly, making the production process more efficient through innovation may also help Vietnamese exporters to adapt to this change. The last reason for adapting products to European market trends is the need for more comfort by the consumers. The consequences of climate change will have an impact on the weather and this will have an impact on the level of comfort in home and furnishing textiles. You can adapt to this change by, for example, using recyclable material or consider innovating.
IN SUMMARY For the several reasons mentioned above, the home and furnishing textile market in Europe is changing. Even though the changing social environment, oversupply and climate change are new trends affecting the European market, they also create new export opportunities. You may learn more about your market sector in Europe by visiting CBI website (www.cbi.eu/market intelligence). There you will find information about European markets in different product sectors. CBI regularly posts new information so you will always find up to date market and trade information.
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
113
Du lịch kỹ thuật số
Xu hướng hiện tại ở EU
Du lịch là một trong những ngành kinh tế phát triển nhanh nhất và quan trọng nhất trên thế giới mang lại lợi ích cho cả cộng đồng các nước và khu vực điểm đến. Năm 2017, lượng khách du lịch quốc tế đạt mức cao kỷ lục mới với hơn 1,3 tỷ lượt khách theo số liệu từ UNWTO Tourism Highlights. Ngành du lịch cho đến nay đã được ghi nhận với lượng khách đến tăng trưởng không ngừng trong tám năm liên tiếp. Chiếm 10,4% GDP và trong năm 2017, ngành du lịch đã hỗ trợ 313 triệu việc làm hoặc cứ 1 trên 10 việc làm trên toàn cầu. Cuộc cách mạng kỹ thuật số đã có tác động sâu sắc đến du lịch ở EU. Mặc dù trước đây, nhiều khách hàng đã đặt các chuyến du lịch của họ qua các công ty du lịch truyền thống tại ngay cơ sở nhưng ngày nay họ có xu hướng tự lên kế hoạch và đặt các chuyến đi thông qua các công ty du lịch trực tuyến hoặc các công cụ tìm kiếm và meta-search, và ngày càng sử dụng công nghệ di động và ứng dụng nhiều hơn. Công nghệ kỹ thuật số cũng giúp cho mọi người có thể chia sẻ kinh nghiệm du lịch của họ thông qua trao đổi cá nhân trên các nền tảng mạng xã hội, blog du lịch hoặc thông qua các kênh thương mại như TripAdvisor. Các nền tảng mạng xã hội đã có ảnh hưởng đặc biệt đến việc định hình các quyết định liên quan đến du lịch của người trẻ tuổi. Hơn nữa, các phần mềm thời gian thực đang giúp khách du lịch đi đến những nơi sử dụng ngôn ngữ mà họ không nói được một cách dễ dàng hơn. Hầu hết các cơ sở phục vụ khách du lịch đã hiểu nhu cầu sử dụng các công nghệ kỹ thuật số. Phần lớn các doanh nghiệp du lịch có quyền truy cập internet và có một trang web hoặc trang chủ. Trong năm 2015, 99% doanh nghiệp trong lĩnh vực lưu trú du lịch tại EU đã kết nối internet, 95% có trang web hoặc trang chủ và 74% cung cấp tùy chọn đặt phòng hoặc giữ phòng trực tuyến. Nhiều cam kết dịch vụ phục vụ nhu cầu của khách du lịch cũng cung cấp các dịch vụ trực tuyến và tự động khác nhau. Hầu hết các sân bay, tại các thành phố lớn của châu Âu nói riêng, hiện nay đều cung cấp dịch vụ check-in trực tuyến, ki-ốt tự checkin và vé lên máy bay trên điện thoại di động. Chẳng hạn như, tự động hóa và robot cũng được sử dụng trong lĩnh vực khách sạn để khách check-in, trả lời câu hỏi của khách hàng, cung cấp thông tin về các điểm tham quan, thời tiết hoặc chuyến bay địa phương hoặc cung cấp các chuyến tham quan ảo của khách sạn. Một số nhà hàng thậm chí sử dụng robot để phục 114 BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
vụ thức ăn, một số khác đã thay thế menu giấy của họ bằng máy tính bảng. Một số bảo tàng ở Châu Âu sử dụng thực tế ảo và / hoặc thực tế ảo tăng cường để thu hút nhiều du khách hơn. Ví dụ, Trung tâm quốc tế về nghệ thuật hang động ở phía tây nam nước Pháp tái tạo chính xác không không gian và các bức hoạ bên trong hang động Lascaux. Trung tâm cũng cung cấp một bộ phim hoạt hình 3D cho phép trải nghiệm lại các chu kỳ khí hậu trong quá khứ và hậu quả của chúng đối với con người và động vật. Ngành du lịch cũng đã bắt đầu sử dụng phương tiện không người lái. Chẳng hạn, Hang động Han ở Bỉ đã khởi động một dự án thí điểm vào tháng 9 năm 2018 để đưa du khách từ bãi đỗ xe đến lối vào của hang bằng xe buýt đưa đón không người lái. Cách mạng kỹ thuật số đã mang lại một số tiện ích cho khách du lịch và cho các doanh nghiệp lữ hành và du lịch, nhưng cũng mang đến cho họ những thách thức, đặc biệt với sự xuất hiện của nền kinh tế hợp tác (còn gọi là nền kinh tế chia sẻ). Ngày càng nhiều cá nhân đang đề xuất chia sẻ tạm thời với khách du lịch những gì họ sở hữu (ví dụ: nhà hoặc xe hơi của họ) hoặc những hoạt động của họ (ví dụ: ăn uống hoặc du ngoạn) thông qua các nền tảng trực tuyến. Sự tăng trưởng này là đáng chú ý nhất trong lĩnh vực nhà ở và vận tải hành khách, nhưng cũng ảnh hưởng đến các lĩnh vực khác như dịch vụ tham quan và ăn uống. Các nền tảng chia sẻ nhà hiện là đối thủ cạnh tranh lớn với ngành khách sạn cũng như các nền tảng chia sẻ xe hơi với dịch vụ taxi. Tuy nhiên, những lo ngại đã được đặt ra về chất lượng và quy định của các nền tảng trực tuyến này. Một số quốc gia EU đã cố gắng điều tiết hoặc ban lệnh cấm, trong khi nhiều nước khác vẫn đang cân nhắc cách làm thế nào để thích ứng tốt nhất với xu hướng hiện tại.
Digital
tourism Recent trends in EU
Tourism is one of the fastest growing and most important economic sectors in the world providing benefits to both host communities and destination areas. In 2017, international tourist arrivals reached a new record high at over 1.3 billion according to the latest UNWTO Tourism Highlights. The sector has now seen uninterrupted growth in arrivals for eight straight years. It also represents 10.4% of GDP and in 2017 the tourism industry supported 313 million jobs or 1 in 10 jobs globally. The digital revolution has had a profound impact on tourism in the EU. While in the past many customers booked their trips in high-street travel agencies, now-
adays they tend to plan and book trips on their own through online travel agencies or search and meta-search engines, and are making increasing use of mobile technology and apps. Digital technologies have also provided people an opportunity to share their travel experiences through personal exchanges on social media platforms, travel blogs or through commercial channels such as TripAdvisor. Social media platforms have been particularly influential in shaping younger peopleâ&#x20AC;&#x2122;s tourism-related decisions. Furthermore, real-time software is making it easier for tourists to travel to places whose language they do not speak. Most establishments serving tourists have understood the need to use digital technologies. The majority of tourism businesses have access to the internet and have a website or a homepage. In 2015 99 % of businesses in the EU tourist accommodation sector had access to the internet, 95 % had a website or a homepage, and 74 % provided online reservation or booking options. Many undertakings serving tourist needs also offer various online and automated services. Most airports, in major European cities in particular, nowadays offer online check-in, self-check-in kiosks and mobile boarding passes. Automation and robots are also used in the hospitality sector, for instance, to allow guests to check in, to answer customersâ&#x20AC;&#x2122; questions, to offer information on local attractions, weather or flights, or to offer virtual tours of a hotel. Some restaurants even use robots to serve food. Others have replaced their paper menus with tablets. Several museumsin Europe use virtual and/or augmented reality to attract more visitors. For instance, the International Centre for Cave Art in south-west France recreates precisely the atmosphere of the Lascaux cavesâ&#x20AC;&#x2122; interior and paintings. The centre also offers a 3D animated film which allows to revisit past climate cycles and their consequences for people and animals. The tourism sector has also started using driverless vehicles. For example, the Caves of Han in Belgium launched a pilot project in September 2018 to transport visitors from the car-park to the entrance of the caves with a driverless shuttle bus. While the digital revolution has brought some conveniences to tourists and to travel and tourism businesses, it has also offered them challenges, in particular with the emergence ofthe collaborative economy (also referred to as the sharing, shared, peer or access economy). A growing number of individuals are proposing to temporarily share with tourists what they own (for example,their house or car) or what they do (for example, dining or excursions) via online platforms. This growth has been most notable in the accommodation and transport sector, but has also affected other areas such as excursions and meals. Home-sharing platforms are now significant competitors to the hotel industry, and car-sharing platforms to taxis. However, concerns have been raised over the quality and regulation of these online platforms. Some EU countries have tried to regulate or ban them, while others are still thinking on how to best respond to this recent trend.
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
115
LỜI CẢM ƠN Ấn phẩm “Mỗi xã một sản phẩm” được xây dựng nhờ những nỗ lực và đóng góp quý báu từ các chuyên gia, bạn bè và đối tác của chúng tôi, những người đang ngày đêm đam mê xây dựng những mô hình nông thôn mới. Chúng tôi trân trọng cảm ơn những chỉ dẫn sâu sắc từ Ủy ban Hợp tác quốc tế Mỗi làng Một sản phẩm Tỉnh Oita (Nhật Bản), những đóng góp từ Hiệp hội xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam, Viện Nghiên cứu và Phát triển ngành nghề Nông thôn Việt Nam, các tổ chức OVOP, OTOP, ODOP, IOVOP... các nước. Chúng tôi cũng gửi lời cảm ơn chân thành đến các Cố vấn của chúng tôi, đến ông Alain Chevalier và Ông Tadashi Uchida đã giúp chúng tôi biên tập và hiệu đính ngôn ngữ bản thảo. Chúng tôi rất biết ơn sự hỗ trợ của các thiết kế, các nhà báo, các nhiếp ảnh gia đã phối hợp để đưa ấn phẩm đến với tay bạn đọc và mong muốn tiếp tục cộng tác với các bạn trong những số xuất bản tới!
ACKNOWLEDGEMENT This magazine was made possible thanks to valuable contributions from our friends and partners. We are grateful to the Oita One Village One Product International Exchange Committee, Vietnam Handicraft Exporters Association (Vietcraft), Vietnam Rural Industries Research and Development Institute (VIRI) for their intellectual guidance as well as the great contribution from OVOP, OTOP, ODOP, IOVOPPA... from different countries. Our deep thanks to our Consultants, especially Mr. Alain Chevalier and Mr. Tadashi Uchida, for their constant guidance and contributions in drafting and editing. For their generous professional support, we are also much indebted to our Vietnamese and foreign writers and designers, photographers who have worked enthusiastically to introduce this beautiful magazine to our readers. 116 BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
117
BAN BIÊN TẬP EDITORIAL BOARD CHỈ ĐẠO NỘI DUNG Thứ trưởng Trần Thanh Nam
CONTENT SUPERVISOR Vice Minister Tran Thanh Nam
BAN BIÊN TÂP Nguyễn Minh Tiến Ngô Tất Thắng Đặng Văn Cường Lê Bá Ngọc Nguyễn Bảo Thoa Ngô Phương Dung Tadashi Uchida Lê Thị Hằng Nguyễn Hồng Minh Kuniharu Yamada Dr. Hiroshi Murayama
EDITOR Nguyen Minh Tien Ngo Tat Thang Dang Van Cuong Le Ba Ngoc Nguyen Bao Thoa Ngo Phuong Dung Tadashi Uchida Le Thi Hang Nguyen Hong Minh Kuniharu Yamada Dr. Hiroshi Murayama
ĐƠN VỊ THỰC HIỆN Vietcraft
IMPLEMENTING AGENCY Vietcraft
CỐ VẤN TIẾNG ANH Alain Chevalier
ENGLISH CONSULTANT Alain Chevalier
THIẾT KẾ MỸ THUẬT ART DESIGN Hoang Minh Cuc Hoang Minh Cuc Phạm Trần Dũng Pham Tran Dung ẢNH Lê Việt Khánh Vietcraft
PHOTO Le Viet Khanh Vietcraft
Giấy phép đăng ký xuất bản số 26/GP-XBĐS Do Bộ Thông Tin và Truyền Thông Nước CHXHCN Việt Nam cấp ngày 24/01/2018 118 BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
3 6
Lời nói đầu | Preface OCOP Việt Nam hội nhập cùng phong trào mỗi làng một sản phẩm trên thế giới OCOP Vietnam joins the journey of One Village One Product development in the world
SẢN PHẨM OCOP VIỆT NAM OCOP PRODUCTS IN VIETNAM
12
Một ngày với các làng nghề của Hà Nội One day in Hanoi’s Craft Villages
HÀNG THỦ CÔNG | HANDICRAFTS
21
Thổ cẩm Tây Nguyên Brocade in The Central Highland
24
Ngôn ngữ hoa văn dân tộc H’mông The hemp of the Hmong
32
Làng cây cảnh Vị khê Vi Khe bonsai village
OVOP QUỐC TẾ | THE INTERNATIONAL “ONE VILLAGE ONE PRODUCT”
34
Cà phê Arabica trên đất Việt Arabia coffee of Vietnam
52
Chính Sách OVOP Toàn Cầu Policy of OVOP worldwide
35
Chè San tuyết Tà Xùa TaX ua Shan Tuyet tea
64
Câu chuyện về “Konohana Garten” Story of “Konohana Garten”
36
Gốm Biên Hòa Bien Hoa Pottery
68
Thành công của dự án OTOP trên bầu trời Thái Lan A success story of Thai OTOP Fly to the Sky Project
37
Sơn mài Bình Dương Binh Duong Lacquerware
74
Sáng kiến Phát Triển Mỗi Làng Một Sản Phẩm Tại Khu Vực Xuyên Biên Giới Tajik – Afghanistan Developing One Village One Product Initiative In Tajik – Afghan Cross-Border Areas
44
Múa rối nước Vietnam water puppets
104 Châu Đại Dương
48
Vai trò của OCOP trong phát triển bền vững OCOP Vietnam and Sustainable Development
114
Các sản phẩm thủ công tiêu biểu từ Craft classics from Oceania Du lịch kỹ thuật số - Xu hướng hiện tại ở EU
Digital tourism - Recent trends in EU
MINISTRY OF AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
119
120 BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN