G IAI P H Ẩ M M ÙA TH U 2 0 0 8 c h ủ đ ềề : y h ọ c & v ă n h ọ c / bệnh tật & văn chương NỘI DUNG: CHỦ ĐỀ 2 thư tòa soạn LƯU DIỆU VÂN 3 cái chết của một thi sĩ RAYMOND CARVER 4 giáo đường NHẬT NGUYỄN 23 mọi thứ đều tình cờ TRANG THANH TRÚC 35 café đắng HOÀNG CHÍNH 41 chuyện kể bên giường THINH VĂN 55 loạn động TRẦN VĂN TÍCH 56 y học trong văn học NGỰ THUYẾT 79 tuyết trên đỉnh kilimanjaro và bướm trắng HẢI PHƯƠNG 98 bởi vì màu trăng đã lỗi thời THINH VĂN 100 bệnh rác NGUYỄN ĐỨC TÙNG 103 phân tâm học và tiểu thuyết ĐỖ QUYÊN 108 diễn đàn tóc NGUYỄN VY- KHANH 122 về cứu rỗi và thế giới nan y HOÀNG XUÂN SƠN 136 đau chìm . thay câu trả lời NGUYỄN TẤT ĐỘ 139 (những) người điên KHẾ IÊM 140 đọc thơ nguyễn tất độ TRẦN VĂN TÍCH 146 văn khoa tâm-thể PHAN XUÂN SINH 171 đêm ĐẶNG MAI LAN 172 lá chuyển mùa THIỀN ĐĂNG 179 mệ NGUYỄN TRUNG DŨNG 180 cục bướu TRẦN THỊ DIỆU TÂM 189 còn lại với đời NGUYỄN THỊ THẢO AN 195 người tốt việc tốt HÀ NGUYÊN DU 214 bệnh tật và nhà thơ ĐỨC PHỔ 216 tương tư NGUYỄN MINH TRIẾT 217 những bệnh trạng của hồn NAM DAO 238 xổ lồng BIỂN BẮC 255 sấm ngày cùng ngôn ngữ NGUYỄN TRUNG HỐI 256 sự bệnh hoạn của văn chương Tranh bìa (upsidedown) của Nguyễn Đại Giang, Father is Sick, Oil on canvas, 35.5” x 35.5”, 2000.
chủ đề 14/1
CHỦ ĐỀ thư tòa soạn Độc giả thân mến,
Tòa soạn xin chân thành cám ơn quý vị độc giả thân mến đã nồng nhiệt đón nhận CHỦ ĐỀ vừa tục bản! Sự tiếp tay hăng hái của các nhà văn, nhà thơ khắp mọi nơi và sự hỗ trợ quý báu của các vị hảo tâm, các bạn bè thân thiết và độc giả dài hạn mà đa số là những người đã từng ủng hộ tờ báo ngay thuở ban đầu là niềm khích lệ quý giá để cho CHỦ ĐỀ mạnh tiến. Với chủ trương cổ vũ cho sự đổi mới của văn học Việt Nam và mỗi số báo, như tên gọi của nó, có một chủ đề nhất định: do đó bài viết (thơ, văn, tiểu luận) ngoài hình thức (nỗ lực) đổi mới, nội dung phải đi vào chủ đề. Và, mỗi giai phẩm được ấn hành sẽ là một tập tài liệu tương đối đầy đủ về một vấn đề thiết thân của văn học, được cô đọng trong hơn 200 trang, thay vì quý bạn phải đọc hàng chục cuốn sách, hàng nghìn trang giấy hay mạng… Xin thử giới thiệu với các bạn một vài chủ đề để suy nghiệm: Nhìn lại 100 năm văn học (CĐ.1); Về Mỹ học (CĐ.7); Dục tính & Đồng tính luyến ái trong Văn chương (CĐ.9)… Chính vì thế đã có những bài viết hay, công phu nhưng không sát với chủ đề, chúng tôi rất tiếc phải giữ lại, chờ dịp thích hợp. Ngoài ra, với chủ trương “viết mới”, chúng tôi sẵn sàng chào đón những tác phẩm mang phong cách mới nhưng không chấp nhận văn chương rập khuôn, a dua, dung tục, vô bổ… Bất kỳ ở đâu nhưng gốc là người Việt Nam, viết văn làm báo bằng tiếng Việt Nam, chúng tôi sẽ không đồng hóa với người bản xứ dù không ngừng học tập, tiếp thu văn hóa của họ. Chúng ta có một truyền thống văn hóa và đạo đức dân tộc cần được duy trì. Chủ đề của số tới, Giai Phẩm Mùa Xuân Kỷ Sửu 2009 là: “Về Chiến tranh và Chiến tranh…” Một chủ đề cũ, rất cũ, nhưng vẫn rất nóng và nhất là…mênh mông! Bất kỳ thể tài nào của văn học, các thi văn hữu cũng ý thức được cơ hội để thi thố tài năng vô hạn của mình. Hân hoan mong chờ tác phẩm của các bạn! Chúc các bạn và gia đình luôn an vui và hạnh phúc! CĐ.
chủ đề 14/2
LƯU DIỆU VÂN cái chết của một thi sĩ
Không phải là một con sóc băng ngang tìm hạt dẻ! Không phải là một trang báo cũ mải mê ùa theo gió! Không phải là một cơn lốc lạc hướng tiếng gió báo bão! Hình như, có thể, ước chừng bóng lưng một người đàn ông có lẽ là một tên vô gia cư rủi vận thất tình sa thế loại người thích đánh cược đời mình đổi khoản bồi thường vô vọng hay kẻ đang muốn tìm lại những thứ vừa thua mất. Ma lực quái gở nào thúc đẩy hắn hối hả vượt lối cấm? ai đó vừa làm rơi tờ hai mươi đô? tình nhân đổi ý quay trở lại? một chai bia còn dở bên cạnh gốc cây? nỗi tuyệt vọng ngấm ngầm? Vụt thoáng qua thể xác xa lạ của một người đàn ông rất quen. LƯU DIỆU VÂN
chủ đề 14/3
R AY M O N D C AR V E R giáo đường
PHẠM VŨ HELGA chuyển ngữ. Raymond Carver sinh ở Clatskanie, tiểu bang Oregon năm 1938. Năm 19 tuổi ông đã lập gia đình và là cha của hai đứa bé. Sau nhiều năm làm những công việc nặng nhọc với lương hạng bét – như hái hoa, bơm xăng, lau chùi ở bệnh viện – năm 1963 ông lấy được một chứng chỉ ở Humboldt State University, và đến năm 1966 tốt nghiệp Master ở Đại học Iowa. Tác phẩm đầu tiên của ông là một tập thơ, Near Klamath (1968); cũng như tác phẩm mới nhất xuất bản sau khi ông mất, A New Path to the Waterfall (1989). Nhiều cuốn truyện của ông đã được ca ngợi khắp nơi, như Will You Please Be Quiet, Please? (1977), What We Talk About When We Talk About Love (1981), Cathedral (1984) và một tuyển tập gồm những truyện chọn lọc và mới, Where I’m Calling From (1988). Raymond Carver đã dạy nhiều lớp viết văn tại Đại học California ở Berkeley và Santa Cruz, Đại học Texas ở El Paso, ĐạI học Goddard,
chủ đề 14/4 và Đại học Syracuse... Trong những năm cuối cuộc đời, ông sống ở Port Angeles, một thành phố biển ở tiểu bang Washington với người vợ thứ hai là một nhà thơ và viết truyện ngắn, Tess Gallagher. Ông mất năm 1988 vì ung thư phổi. Raymond Carver được xem như là một người viết truyện ngắn sâu sắc nhất đương đại mà X. J. Kennedy trong cuốn Văn Học Sử (Literature: An Introduction to Fiction, Poetry, and Drama, Harper Collins Publishers, 1991) đã từng so sánh với Anton Chekhov (18601904) và Flannery O’ Connor (1925-1964). Ông được xem như là chủ soái của Khuynh hướng Truyện ngắn Cực thiểu (Short Stories Minimalism) văn học hậu-hiện đại Hoa Kỳ. Những tác phẩm của Raymond Carver đã được dịch ra trên hai mươi ngôn ngữ khác nhau.
Người đàn ông mù này là một người bạn cũ của vợ tôi. Ông ta dự định sẽ ngủ lại đêm. Vợ ông ta đã chết. Ông đang đi thăm bà con của người vợ đã mất ở Connecticut. Ông gọi điện thoại cho vợ tôi từ nhà người bà con ấy. Moi chuyện đã được thỏa thuận. Ông ta sẽ đến bằng tàu hỏa, chuyến tàu chạy suốt năm tiếng, và vợ tôi sẽ đón ông ta ở ga. Vợ tôi đã không gặp ông từ khi nàng làm việc cho ông suốt mùa hè ở Seattle mười năm trước đây. Nhưng nàng và người đàn ông mù vẫn đều đặn liên lạc với nhau. Họ gửi cho nhau những cuốn băng và thư từ. Tôi không nhiệt tình mấy về chuyện viếng thăm này. Ông ta là người tôi không hề biết. Và sự mù lòa của ông làm tôi thấy phiền phức. Ý nghĩ của tôi về người mù hiện ra như trong phim ảnh. Trong phim, người mù thường đi lại chậm chạp và chẳng bao giờ cười. Đôi khi họ được các con chó hướng đạo dẫn đường. Người đàn ông mù ở trong nhà tôi là điều tôi không mong đợi. Mùa hè năm ấy ở Seattle nàng đang cần một viêc làm. Nàng không có một món tiền nào. Người đàn ông mà nàng sẽ lấy vào cuối mùa hè năm ấy đang được huấn luyện trong một trường sĩ quan. Anh ta cũng không có một tí tiền còm nào cả.Nhưng nàng yêu anh ta, và anh ta cũng rất yêu nàng, vân vân. Nàng đọc được một tin trên báo: CẦN NGƯỜI GIÚP VIỆC – Đọc cho người mù, và một số điện thoại. Nàng gọi điện thoại đến, bàn việc và sau đó được thuê ngay. Nàng đã làm việc cho người đàn ông mù
chủ đề 14/5 này suốt cả mùa hè. Nàng đọc tài liệu, thư từ cho ông ta, bàn thảo với nhau, viết báo cáo, công việc chỉ có thế. Nàng giúp ông ta mở một văn phòng nhỏ trong khu vực của sở công tác xã hội. Họ trở nên bạn bè thân thiết với nhau, vợ tôi và người đàn ông mù ấy. Làm cách nào mà tôi biết những chuyện ấy? Nàng đã kể cho tôi nghe. Và nàng còn kể nhiều chuyện khác nữa. Trong ngày làm việc cuối cùng của nàng ở văn phòng, người đàn ông mù hỏi có thể cho ông ta sờ mặt nàng không. Nàng bằng lòng. Nàng đã kể lại với tôi ông ta đã rà những ngón tay trên khắp các phần mặt nàng, mũi nàng – cả cổ của nàng nữa. Nàng chẳng bao giờ quên chuyện ấy. Nàng đã thử làm một bài thơ về chuyện ấy. Nàng vẫn luôn luôn thử làm một bài thơ. Nàng đã làm một bài thơ hoặc hai bài mỗi năm, thường là những bài thơ làm sau khi có những sự việc quan trọng xảy ra cho nàng. Khi chúng tôi lần đầu quen nhau, nàng đã cho tôi xem những bài thơ đó. Trong thơ, nàng kể lại những ngón tay của ông ta và cách những ngón tay ấy di chuyển quanh mặt nàng. Trong thơ, nàng nói về những gì nàng cảm thấy trong lúc ấy, về những gì đã ăn sâu vào cảm giác của nàng khi người đàn ông mù sờ lên mũi và môi. Tôi có thể nhớ tôi là tôi đã không nghĩ ngợi nhiều về thơ. Dĩ nhiên, tôi đã không nói với nàng điều đó. Có thể tôi không hiểu lắm về thơ ca. Tôi phải thú nhận rằng thơ không phải là thứ đầu tiên tôi tìm khi tôi muốn có một cái gì đó để đọc. Dẫu sao thì anh chàng người tình đầu tiên của nàng, gã sĩ quan tương lai ấy vẫn hiện diện trong mối tình ngọt ngào thời hoa niên của nàng. Như thế đấy. Tôi đang nói về những ngày cuối của mùa hè mà nàng đã cho người đàn ông mù sờ tay lên mặt mình, chào từ biệt ông ta, rồi đi lấy chồng, vân vân. Chồng nàng bấy giờ là một sĩ quan tại ngũ, và nàng đã phải từ giã Seattle ra đi. Nhưng họ vẫn liên lạc đều đặn, nàng và người đàn ông mù. Nàng thực hiện cuộc liên lạc đầu tiên một năm sau đó hoặc vào khoảng ấy. Nàng gọi cho ông ta trong một đêm ở tại căn cứ không quân Alabama. Nàng muốn nói chuyện. Họ nói chuyện với nhau. Ông ta yêu cầu nàng gửi cho ông ta một băng thu âm và kể cho ông ta nghe về cuộc sống của nàng. Nàng làm theo yêu cầu của ông. Nàng gửi cuốn băng đi. Trong cuốn băng, nàng kể cho người đàn ông mù về người chồng của nàng và về
chủ đề 14/6 cuộc sống chung của hai người trong đời sống quân ngũ. Nàng nói với người đàn ông mù nàng yêu chồng nàng nhưng nàng không thích cuộc sống mà họ đang sống và nàng cũng không thích cuộc sống mà chồng nàng là một thành phần của nền kỹ nghệ quân sự. Nàng nói với người đàn ông mù là nàng đã làm thơ và có hình ảnh ông trong đó. Nàng nói với ông ta rằng nàng đang làm một bài thơ về những gì là đời sống của vợ một sĩ quan không quân. Bài thơ vẫn chưa xong. Nàng vẫn còn đang làm. Người đàn ông mù thu âm một cuốn băng. Ông ta gửi cuốn băng cho nàng. Nàng cũng thu một cuốn. Sự liên lạc này cứ thế trải qua nhiều năm. Gã sĩ quan của vợ tôi đã di chuyển từ căn cứ này đến căn cứ khác. Nàng đã gửi những cuốn băng đi từ Moody AFB, McGuire, Mc Connell, và cuối cùng từ Travis, gần Sacramento. Ở đó có một đêm nàng cảm thấy cô đơn và bị cắt ngăn khỏi xã hội loài người vì cuộc sống cứ bị chuyển dời liên tục. Nàng đã cảm thấy nàng không thể sống theo nhịp bước ấy. Nàng đã tìm trong tủ thuốc và nuốt hết tất cả các loại thuốc, cả những thuốc viên và thuốc con nhộng với một chai rượu gin. Rồi nàng đi tắm nước nóng và chờ chết. Nhưng thay vì chết, nàng đã bi bệnh. Nàng quằn quại. Gã sĩ quan của nàng – tại sao gã phải cần có một cái tên? Gã chỉ là người tình thuở hoa niên của nàng, và có gì cần phải biết nhiều về gã chứ? - đã về nhà từ một nơi nào đó, tìm thấy nàng, và gọi xe cứu thương. Lần ấy, nàng kể tất cả vào cuốn băng và gửi cho người đàn ông mù. Nhiều năm trôi qua, nàng đã kể tất cả mọi chuyện trong đời mình vào những cuốn băng và gửi cả những cuốn băng nói về chuyện tan vỡ nữa. Về sau mỗi năm nàng làm thơ, và tôi nghĩ thơ là tính chất chủ yếu để tiêu khiển của nàng. Trong một cuốn băng, nàng nói với người đàn ông mù rằng nàng đã quyết định sống xa gã sĩ quan của nàng một thời gian. Trong một cuốn băng khác, nàng nói với ông ta về chuyện ly dị của nàng. Chuyện nàng và tôi bắt đầu quen nhau, tất nhiên nàng cũng đã kể cho người đàn ông mù nghe. Nàng nói với ông mọi chuyện như từng kể cho tôi. Có một lần nàng hỏi tôi có thích nghe cuốn băng mới nhất của người mù không. Chuyên này đã một năm rồi. Tôi đã được nói tới trong cuốn băng đó, nàng nói thế. Tôi nói okay và tôi sẽ nghe cuốn băng đó.Tôi mang đồ uống tới và
chủ đề 14/7 chúng tôi ngồi ở phòng khách. Chúng tôi sẵn sàng để nghe. Trước tiên nàng cho cuốn băng vào máy và nhấn hai cái vào phím. Đọan nàng đẩy cái cần máy. Cuốn băng kêu kin kít và một người nào đó bắt đầu nói với một giọng khá lớn. Nàng vặn nhỏ âm thanh lại. Sau vài phút tán gẫu không đâu vào đâu, tôi nghe được tên tôi từ miệng của người lạ mặt này, người đàn ông mù mà tôi chưa từng biết. Và sau đó là lời này: ”Từ tất cả những điều cô nói về anh ấy, tôi chỉ có thể kết luận – “Nhưng chúng tôi bị cắt đứt vì một tiếng gõ cửa, một tiếng gì đó, và chúng tôi không có dịp nghe lại cuốn băng được. Có lẽ chừng ấy cũng tốt rồi. Tôi đã nghe tất cả những gì tôi muốn. Bây giờ thì chính người đàn ông mù này sắp đến ngủ ở nhà tôi. “Có lẽ anh sẽ tiếp ông ta đàng hoàng,” tôi nói với vợ tôi. Nàng đứng cạnh bên bàn và đang làm món khoai tây cắt theo hình vỏ sò. Nàng đặt con dao đang dùng xuống và quay lại. “Nếu anh yêu em,” nàng nói, “anh có thể làm điều ấy vì em. Nếu anh không yêu em, cũng được thôi. Nhưng nếu anh có một người bạn, bất cứ người bạn nào, và người bạn ấy đến thăm, em sẽ làm cho người ấy cảm thấy thoải mái.” Nàng chùi tay vào chiếc khăn lau chén dĩa. “Anh không có người bạn mù nào cả,” tôi nói. “Anh không có một người bạn nào cả,” nàng nói. “Đã từ lâu rồi. Ở bên cạnh,” nàng nói, “ điều ấy thật đáng buồn, vợ ông ta đã chết! Anh không hiểu điều ấy sao? Một người đàn ông bị mất vợ!” Tôi không trả lời. Nàng đã nói cho tôi nghe một ít về người vợ của người đàn ông mù. Tên bà ta là Beulah. Beulah! Đó là tên của một người đàn bà da màu. “Vợ ông ta có phải là một nô lệ không?” tôi hỏi. “Anh điên hả?” vợ tôi nói. ”Anh vừa mới uống rượu hả?” Nàng nhặt lên củ khoai tây. Tôi thấy nó rơi xuống sàn nhà, rồi lăn vào dưới lò bếp. “Anh làm sao thế?” nàng nói. “Anh say hả?” “Anh chỉ hỏi thôi,” tôi nói. Rồi ngay đó nàng cho tôi biết nhiều chi tiết hơn mà tôi cần biết. Tôi lấy rượu, ngồi vào bàn ở bếp, để nghe. Nhiều chi tiết của chuyện bắt đầu diễn ra.
chủ đề 14/8 Beulah đến làm việc cho người đàn ông mù mùa hè năm ấy sau khi vợ tôi nghỉ làm việc cho ông ta. Ngay sau đó Beulah và người đàn ông mù làm đám cưới ở nhà thờ. Chỉ là một đám cưới nhỏ thôi - ai mà muốn tổ chức một đám cưới như thế tại nơi sang trọng chứ? – chỉ có hai người họ, thêm ông mục sư và ông mục sư của người vợ nữa. Nhưng vẫn là một đám cưới ở nhà thờ với đầy đủ lễ nghi. Đấy là những gì cô ấy muốn, ông ta nói. Nhưng ngay sau đó Beulah bị ung thư nội tuyến. Sau tám năm trời sống không xa rời nhau, vợ tôi nói, không xa rời nhau, sức khỏe của Beulah sa sút rất nhanh. Cô mất ở bệnh viện Seattle, người đàn ông mù ngồi bên giường bệnh, cầm lấy tay cô. Họ đã cưới nhau, sống, làm việc và ngủ với nhau – và làm tình, chắc thế - rồi sau đó người đàn ông mù mai táng cô. Tất cả sự việc là như thế trong khi người đàn ông mù không hề thấy dung nhan của người đàn bà khốn khổ ấy như thế nào. Chuyện đó ở ngoài sự hiểu biết của tôi.Nghe chuyện này, tôi cảm thấy hơi ân hận đối với người đàn ông mù. Và rồi sau đó tôi chuyển suy nghĩ của tôi về cuộc đời đáng thương của người đàn bà ấy. Hãy tưởng tượng một người đàn bà, một người chẳng bao giờ nhìn thấy hình bóng mình trong mắt người yêu. Một người đàn bà có thể sống ngày này tiếp sau ngày nọ của cuộc đời mình mà chẳng bao giờ nhận được dù chỉ là một lời khen ngợi nhỏ nhất từ ánh mắt của người yêu. Một người đàn bà chẳng bao giờ được chồng đọc thấy những cảm xúc biểu lộ trên mặt mình, buồn khổ hay vui sướng. Một người nào đó, dù có trang điểm hay không – thì đối với ông ta có khác gì nhau? Nếu cô ta muốn, cô ta có thể quàng một dải khăn xanh che một bên mắt, đội một chiếc nón có cái kim thẳng đứng, bận một cái quần màu vàng, và xỏ một đôi giày màu tím, thì cũng chẳng sao cả. Và sau đó khi trượt chân vào cõi chết, người đàn ông mù cầm tay vợ mình, đôi mắt mù lòa đầm đìa nước mắt – Bấy giờ tôi đang tưởng tượng – suy nghĩ cuối cùng của cô ta có thể là: rằng chồng mình chẳng bao giờ biết cô là người như thế nào, và chẳng biết cô đang ở trên chuyến tàu tốc hành được đưa đến nghĩa địa. Robert chỉ còn một số tiền bảo hiểm nhỏ và một nửa trong số hai mươi peso tiền lẻ của Mễ. Nửa số tiền lẻ còn lại ông đã cho vào hộp mai táng cùng với cô. Thật cảm động. Khi đã đến giờ hẹn, vợ tôi ra ga để đón ông ta. Không có việc
chủ đề 14/9 gì để làm và chỉ chờ đợi – tôi cảm thấy bực mình, chắc chắn rồi – Tôi đang nhắm nháp một cốc rượu và coi TV thì nghe tiếng xe lăn bánh vào nhà. Tôi rời sofa với ly rượu và đến bên cửa sổ để nhìn. Tôi thấy vợ tôi cười khi nàng đậu xe. Tôi thấy nàng ra khỏi xe và đóng cửa lại. Nàng vẫn giữ nụ cười trên môi. Thật là lạ. Nàng đi vòng qua phía bên kia chiếc xe nơi người đàn ông mù đang bắt đầu bước ra. Người đàn ông mù này, nét đặc biệt của ông ta là có một bộ râu rất rậm. Bộ râu của một người mù! Rậm quá, tôi nghĩ. Người đàn ông mù với tay ra chiếc ghế sau và kéo ra một chiếc túi đựng hành lý. Vợ tôi nắm cánh tay ông ta, đóng cửa xe lại, và, mải chuyện trò trong lúc dẫn ông ta đi trên các bậc cấp về phía cửa chính. Tôi tắt TV. Tôi uống hết ly rượu, rửa sạch ly, lau khô tay rồi bước ra cửa. Vợ tôi nói, “Em muốn giới thiệu với anh Robert. Robert, đây là chồng tôi. Tôi đã kể cho ông nghe tất cả những chuyện về anh ấy. Nàng trông có vẻ rạng rỡ. Nàng vẫn nắm chặt tay áo khoác của người đàn ông mù. Người đàn ông mù bỏ chiếc túi hành lý xuống và đưa tay ra. Tôi bắt lấy. Ông ta nắm chặt tay tôi, giữ một lúc rồi bỏ ra. “Tôi cảm thấy như chúng ta đã từng gặp nhau rồi,” ông nói oang oang. “Tôi cũng thế,” tôi nói. Tôi không biết phải nói gì nữa. Một lát tôi nói, “Hân hạnh được tiếp ông. Tôi đã nghe kể rất nhiều về ông.” Rồi chúng tôi bắt đầu đi từ cổng vào phòng khách, vợ tôi cầm tay ông dẫn đi. Người đàn ông mù xách chiếc va li bằng tay kia. Vợ tôi nói những lời như, “Ở bên trái ông đây, Robert. Đúng rồi. Bây giờ hãy chú ý, có một cái ghế. Đúng đó. Ngồi xuống đây đi. Đây là sofa. Chúng tôi vừa mới mua nó hai tuần trước.” Tôi bắt đầu nói vài điều về chiếc sofa cũ. Tôi thích chiếc ghế cũ. Nhưng tôi không nói gì về chuyện ấy. Rồi tôi nói qua những chuyện khác, nói ít thôi, về con đường rất đẹp dọc theo dòng Hudson. Nếu đi đến New York, bạn nên ngồi phía bên phải của con tàu, và nếu đi từ New York thì nên ngồi phía bên trái. “Ông đi tàu khỏe khoắn chứ? Tôi hỏi. “Thế ông ngồi phía bên nào của con tàu?” “Hỏi cái gì vậy? Phía bên nào!” vợ tôi lên tiếng. “Ngồi phía
chủ đề 14/10 nào thì có sao?” Nàng nói. “Tôi hỏi thế thôi.” Tôi nói. “Phía bên phải,” người đàn ông mù nói. “Tôi đã không đi tàu hỏa gần bốn mươi năm rồi. Trừ lúc tôi còn bé. Với mấy người bạn. Chuyện ấy đã lâu rồi. Tôi gần như quên hết những cảm giác ấy.” Ông ta nói. “Như tôi đã từng nói. Tôi trông có khác không, cưng? Người đàn ông mù hỏi vợ tôi. “Trông ông khác lắm, Robert,” nàng nói “Robert, tôi rất vui mừng được gặp lại ông.” Sau cùng vợ tôi không nhìn người mù nữa mà nhìn tôi. Tôi có cảm giác như nàng không thích hình ảnh nàng vừa thấy. Tôi nhún vai. Tôi chưa từng gặp hay quen biết một người mù nào cả. Người đàn ông mù này đã gần năm mươi, người nặng nề, đầu hói với đôi vai hơi chúi về đằng trước như thể ông ta đang xách một vật gì đó rất nặng. Ông vận chiếc quần nâu, đi giày nâu, áo sơ mi màu nâu nhạt, mang cà vạt và áo khoác thể thao. Trông thật lịch sự. Ông còn có bộ râu thật rậm. Nhưng ông không dùng gậy và không đeo kính đen. Tôi thường nghĩ kính đen rất cần cho đôi mắt của bất cứ người mù nào. Tôi muốn ông đeo kính. Thoạt nhìn, mắt của ông trông giống như mắt của bất cứ người nào. Nhưng nếu bạn nhìn kỹ hơn, có một cái gì khác với những người khác. Có nhiều màu trắng trong tròng đen, còn con ngươi thì hình như chuyển động hoài trong hốc mắt mà ông ta không biết và không làm cho nó dừng lại được. Thật kỳ quái. Khi tôi nhìn vào mặt ông, tôi thấy con ngươi mắt trái quay về phía mũi trong lúc con ngươi kia đứng yên một chỗ. Nhưng chỉ được một khoảnh khắc thôi, bởi vì con mắt ấy cứ đi rong hoài bất kể chủ nhân của nó có biết hay muốn không. Tôi nói, “Để tôi lấy rượu cho ông. Ông thích lọai nào? Chúng tôi có khá nhiều rượu. Đấy là một trong những thú tiêu khiển của chúng tôi.” “Bồ ạ, tôi là một người Scotch (Tô Cách Lan) chính cống đấy,” ông ta nói nhanh và lớn tiếng. “Tốt lắm,” tôi nói. Bồ! “Ông an tâm. Tôi biết.” Ông ta đưa những ngón tay sờ vào chiếc va li đang đặt cạnh sofa. Đó là tác phong riêng của ông. Tôi không chê trách ông
chủ đề 14/11 điều ấy. “Tôi sẽ mang nó lên phòng ông,” vợ tôi nói. “Không cần đâu, được thôi,” người đàn ông mù nói lớn. “Khi nào lên tôi sẽ xách lên.” “Cho một chút nước vào whisky chứ?” tôi hỏi. “Ít thôi.” Ông ta trả lời. “Tôi biết,” tôi nói. Ông ta nói, “Một chút thôi. Anh biết tài tử Ái Nhĩ Lan Barry Fitzgerald? Tôi giống anh chàng đó. Fitzgerald nói, khi tôi uống nước là tôi uống nước. Khi tôi uống whisky thì phải là whisky.” Vợ tôi cười. Người đàn ông mù luồn tay vào bộ râu. Ông nâng nó lên từ từ rồi thả xuống. Tôi rót rượu, ba ly Scotch lớn có pha thêm chút soda. Rồi chúng tôi ngồi nhấm nháp thoải mái và nói chuyện về chuyến du hành của Robert. Đầu tiên ông đáp chuyến bay dài từ bờ biển miền Tây đến Connecticut, chúng tôi biết thế. Rồi từ Connecticut ông đi đến đây bằng tàu hỏa. Chúng tôi uống một ly nữa khi nói đến chặng cuối của cuộc hành trình. Tôi nhớ đã đọc đâu đó rằng người mù không hút thuốc bởi vì, khi hút họ sẽ không thể thấy được khói họ nhả ra. Tôi nghĩ tôi biết rõ điều đó và đó cũng là điều duy nhất tôi biết về người mù. Nhưng người mù này cứ hút hết điếu này lại hút đến điếu khác. Người đàn ông mù này làm đầy ứ cái gạt tàn và vợ tôi lại mang đi đổ. Khi chúng tôi ngồi vào bàn để ăn tối, chúng tôi còn uống rượu nữa. Vợ tôi múc đầy dĩa của Robert thịt bò lúc lắc, khoai tây hình vỏ sò, đậu Hòa Lan. Tôi phết bơ hai lát bánh mì cho ông ta. Tôi nói, “Đây là bánh mì đã phết bơ của ông.” Tôi uống vài ngụm rượu. ”Bây giờ chúng ta hãy cầu nguyện,” tôi nói, người đàn ông mù cúi đầu xuống. Vợ tôi nhìn tôi, mồm nàng há ra. “Cầu cho điện thoại đừng reo và thức ăn không nguội,” tôi nói. Chúng tôi háo hức ăn. Chúng tôi ăn tất cả những gì dọn ra trên bàn. Chúng tôi ăn như thể không có ngày mai nữa. Chúng tôi không nói chuyện. Chỉ ăn. Chúng tôi ăn một cách ngon lành. Người đàn ông mù nhận định chính xác vị trí món ăn của mình, ông biết rõ những thức ăn nằm ở đâu trên dĩa. Tôi nhìn với sự chủ đề 14/12
ngưỡng mộ khi ông ta dùng dao và nĩa để cắt thịt. Ông ta cắt hai miếng thịt, dùng nĩa đưa lên miệng, và tiếp theo là ăn khoai tây hình vỏ sò, đậu Hòa Lan rồi bẻ miếng bánh mì phết bơ mà ăn. Ông ta kết thúc bữa ăn bằng một ly sữa bự. Chúng tôi ăn hết mọi món, kể cả nửa chiếc bánh nướng nhân dâu. Trong một khoảng thời gian sau đó chúng tôi ngồi im lặng. Mồ hôi rớm đầy mặt. Cuối cùng, chúng tôi rời bàn ăn để lại những chiếc dĩa dơ. Chúng tôi không nhìn lại. Chúng tôi vào phòng khách và ngồi lại chỗ cũ. Robert và vợ tôi ngồi ở ghế sofa. Tôi ngồi ở cái ghế bành. Chúng tôi uống hai hay ba ly rượu nữa trong khi hai người say sưa nói về những chuyện quan trọng xảy ra cho họ trong suốt mười năm qua. Phần lớn là tôi chỉ nghe. Thỉnh thoảng mới chêm vào một câu. Tôi không muốn ông ta nghĩ rằng tôi đã rời khỏi phòng và tôi cũng không muốn vợ tôi nghĩ rằng tôi muốn ra ngoài. Họ kể cho nhau nghe những chuyện đã xảy ra cho họ - cho họ! – trong mười năm đã qua ấy. Tôi chờ đợi trong tuyệt vọng để nghe tên tôi được nhắc đến trên đôi môi ngọt ngào của nàng: “Và rồi thì người chồng thân yêu của tôi đã đến trong đời tôi” – vài lời đại loại như thế. Nhưng tôi không nghe một lời nào như thế cả. Chỉ nói quanh chuyện Robert. Robert có thể làm một tí các công việc như những người mù khác. Như gần đây ông và vợ làm công việc phân phối các sản phẩm của Amway, do đó, tôi nghĩ họ làm để kiếm sống. Người đàn ông mù cũng đã từng là nhân viên của tổng đài nghiệp dư. Ông lớn tiếng kể lại những cuộc đàm thoại với những đồng nghiệp ở Guam, ở Philippines, ở Alaska, và cả ở Tahiti nữa. Ông nói ông có rất nhiều bạn bè ở đó, và nếu muốn ông có thể đến thăm các nơi ấy. Thỉnh thoảng, ông ta quay mặt về phía tôi, đưa tay vuốt râu, hỏi tôi vài câu. Tôi đã làm công việc hiện tại của tôi được mấy năm rồi? (Ba năm.) Tôi có thích việc làm của tôi không (Tôi không thích.) Tại sao tôi vẫn làm công việc ấy? (Biết lựa chọn cái gì?) Cuối cùng, khi tôi nghĩ ông ta đã bắt đầu thấm mệt, tôi đứng dậy và mở TV. Vợ tôi nhìn tôi một cách tức giận. Nàng bắt đầu nổi nóng. Một lát nàng nhìn người đàn ông mù và hỏi, “Robert, ông có TV chứ?” Người đàn ông mù nói, “Tôi có hai cái, cưng ạ. Tôi có một chủ đề 14/13
cái TV màu và một cái đen-trắng, đó là một kỷ vật. Nói thì nghe buồn cười, nhưng hễ tôi bật cái TV này thì tôi cũng bật luôn cái kia. Buồn cười lắm, phải không?” Tôi không biết nói gì về chuyện ấy cả. Tôi tuyệt đối không có một điều gì để nói. Không ý kiến. Thế là tôi xem chương trình tin tức và lắng nghe những gì người phát thanh viên nói. “Đây là một cái TV màu,” người đàn ông mù nói. “Đừng hỏi tại sao tôi biết, nhưng tôi có thể nói vậy.” “Chúng tôi mua đã lâu rồi,” tôi nói. Người đàn ông mù nhắp một ngụm rượu nữa. Ông ta nâng chòm râu lên, hít nó, rồi thả xuống. Ông nhổm người khỏi sofa. Ông ta đặt cái gạt tàn lên bàn xa lông, đoạn lấy bật lửa để châm thuốc. Ông ngồi dựa lưng trở lại ở sofa và gác chân chữ ngũ. Vợ tôi che miệng và sau đó thì ngáp dài. Nàng duỗi người ra. Nàng nói, “Tôi nghĩ tôi phải lên lầu để thay áo. Và tôi còn phải sửa soạn vài thứ khác. Robert, ông cứ thoải mái nhé,” nàng nói. “Tôi rất thoải mái,” người đàn ông mù nói. “Tôi muốn ông cảm thấy thoải mái ở nhà này,” nàng nói. “Tôi rất thoải mái,” người đàn ông mù nói.
Sau khi nàng rời phòng, ông ta và tôi ngồi nghe dự báo thời tiết và sau đó là tin tức thể thao. Trong khoảng thời gian này, nàng đi khá lâu, tôi không biết nàng có trở lại hay không. Tôi nghĩ có thể nàng đã đi ngủ. Tôi mong nàng trở xuống lại. Tôi không muốn còn lại một mình với người đàn ông mù. Tôi hỏi ông ta có muốn uống thêm rượu không, và ông ta nói uống. Sau đó tôi hỏi ông có muốn hút thuốc phiện với tôi không. Tôi nói tôi đã quấn sẵn một số rồi. Thật ra thì không có nhưng tôi tính tôi sẽ quấn xong trong vài giây. “Tôi sẽ hút với anh vài điếu,” ông ta nói. “Tốt lắm,” tôi nói. “Thế mới là dân chịu chơi.” Tôi đi lấy rượu và ngồi xuống sofa với ông ta. Sau đó tôi đã quấn xong hai điếu bự. Tôi châm lửa một điếu và chuyền cho ông ta. Ông ta đón lấy và hút. “Hãy ngậm khói cho lâu nếu ông có thể,” tôi nói. Tôi có thể chủ đề 14/ 14
nói là ông ta chưa hề biết cái thú chơi bậc nhất này. Vợ tôi bước xuống thang gác trong bộ áo màu hồng với đôi dép màu hồng. “Có mùi gì vậy?” nàng hỏi. “Chúng tôi đang hút bồ đà,” tôi nói. Vợ tôi nhìn tôi giận dữ. Đoạn nàng nhìn người đàn ông mù, nói, “Robert, tôi không biết là ông đã hút.” Ông ta nói, “Tôi đang hút, cưng ạ. Đây là lần đầu tiên tôi hút. Nhưng tôi chưa cảm thấy thế nào cả.” “Thú chơi này rất đã. Nó dịu nhẹ ông cũng thấy chứ,” tôi nói. “Nó không làm mệt ông nhiều đâu.” “Không nhiều lắm đâu, bồ,” ông ta nói và cười lớn. Vợ tôi ngồi giữa người đàn ông mù và tôi ở sofa. Tôi đưa cho nàng điếu thuốc. Nàng cầm lấy hút một hơi rồi trả lại. “Thuốc này sẽ ra sao đây?” nàng nói. Rồi nàng lại nói “Tôi không nên hút nó thì hơn. Tôi dám không mở nổi mắt khi hút nó. Tôi lại ăn tối quá no. Đáng lý tôi không nên ăn nhiều như thế.” “Là tại cái bánh nướng nhân dâu đấy,” người đàn ông mù nói. “Nó được làm bằng thứ gì vậy,” ông ta nói, và ông lại cười lớn. Một lát ông lắc đầu. “Còn nhiều bánh nhân dâu đấy,” tôi nói. “Ông có thích ăn nữa không, Robert?” Vợ tôi hỏi. “Có lẽ một lát nữa,” ông ta nói. Chúng tôi chăm chú xem TV. Vợ tôi lại ngáp. Nàng nói, “ Giường của ông đã làm xong, khi nào ông thấy muốn ngủ thì cứ việc, Robert. Tôi biết ông đã phải đi suốt một ngày. Khi nào ông muốn ngủ cứ bảo nhé.” Nàng kéo tay ông ta. “Robert?” Ông ta vươn người và nói, “Tôi đã có những giây phút tuyệt vời. Cuộc chuyện trò này có thể thu vào băng được chứ?” Tôi nói, “Tùy ông thôi,” và tôi đưa điếu thuốc cho ông. Ông ta rít một hơi, giữ lại khói, rồi thì phà ra. Nhìn cử chỉ của ông trông giống như ông còn là một cậu bé lên chín vậy. “Cám ơn bồ,” ông ta nói, “Nhưng tôi nghĩ thế này là quá đủ đối với tôi rồi. Tôi thấy như tôi đang bắt đầu say,” ông ta nói và chuyển điếu thuốc đang cháy cho vợ tôi. “Tôi cũng thế,” nàng nói. “Như ông. Tôi, cũng đủ rồi.” Nàng cầm điếu thuốc và chuyền sang cho tôi. “Tôi có thể ngồi giữa hai chủ đề 14/15
người mà chợp mắt một lát được không? Nhưng không làm phiền ai chứ, okay? Nếu có ai thấy phiền thì cứ nói. Còn không thì tôi sẽ nhắm mắt ngồi đây cho đến lúc nào hai người buồn ngủ,” nàng nói. “Giường của ông đã làm rồi, Robert, khi nào muốn ngủ cứ việc. Phòng ông bên cạnh phòng chúng tôi, ở đầu cầu thang ấy. Chúng tôi sẽ đưa ông lên khi nào ông muốn ngủ. Giờ thì các người sẽ đánh thức tôi dậy nếu tôi ngủ quên chứ.” Nàng nói thế rồi thì nhắm mắt ngủ. Chương trình thời sự kết thúc. Tôi đứng lên để đổi kênh rồi ngồi trở lại ở sofa. Tôi mong vợ tôi không trăn trở nhiều quá khi ngủ. Đầu của nàng tựa vào lưng sofa, miệng há ra. Nàng cứ trăn trở hoài làm cái áo ngủ tuột khỏi chân, phô ra một bắp vế nõn nà. Tôi đưa tay kéo lại chiếc áo, và liếc nhanh người đàn ông mù. Ôi bậy thật! Tôi cứ để chiếc áo của nàng hở hang như cũ. “Ông bảo ông muốn ăn thêm bánh nhân dâu nữa phải không?” tôi hỏi. “Tôi sẽ ăn,” ông đáp. Tôi nói, “Ông mệt rồi phải không? Ông có muốn tôi dìu ông lên phòng ngủ không? Ông đã muốn ngủ chưa?” “Chưa,” ông nói. “Không, tôi sẽ ngồi lại với anh, bồ ạ. Nếu anh đồng ý. Tôi sẽ ngồi đây cho đến lúc anh muốn đi ngủ. Chúng ta không có may mắn được chuyện trò với nhau đâu. Anh có biết những gì tôi nói không? Tôi cảm thấy như tôi và cô ấy ngồi với nhau những buổi tối ngày xưa. Ông nâng bộ râu lên rồi thả xuống. Ông cầm lên bao thuốc lá và chiếc bật lửa. “Tốt lắm,” tôi nói. Một lát tôi lại nói, “Tôi rất vui vì tình bạn ấy.” Và tôi nghĩ về tôi. Mỗi đêm, tôi thường hút bồ đà và ngồi ở đây rất lâu trước khi đi ngủ. Vợ tôi và tôi thường như chẳng bao giờ đi ngủ cùng một lúc. Trong khi ngủ tôi mơ những giấc mơ này. Thỉnh thoảng tôi bị đánh thức vì một trong những giấc mơ ấy, tim tôi đập điên cuồng. TV đang chiếu cảnh nhà thờ và những hình ảnh thời Trung cổ. Chương trình của TV không có gì đặc biệt. Tôi muốn xem một chương trình khác. Tôi vặn qua nhiều kênh. Nhưng không còn chương trình nào nữa. Thế là tôi lại mở lại kênh ban đầu và nói xin lỗi. chủ đề 14/16
“Bồ ạ, không sao,” người đàn ông mù nói. “Tốt thôi. Với tôi những gì anh thích xem là tôi thích. Tôi luôn luôn muốn học hỏi mà việc học thì chẳng bao giờ hết. Nó chẳng hề làm tổn thương tôi khi tôi muốn học một điều gì đó tối nay. Tôi có tai mà,” ông ta nói.
Chúng tôi không nói gì trong một lúc lâu. Ông ta ngồi chúi mình về phía trước, đầu ngoảnh về phía tôi, tai phải của ông hướng thẳng về phía TV. Vẻ rất bối rối. Thỉnh thoảng mi mắt ông khép lại rồi lại mở ra. Thỉnh thoảng ông đưa tay lên vuốt râu giống như đang suy nghĩ về một điều gì đó nghe được ở TV. Trên màn hình, một nhóm người đội nón trùm đầu đang bị hành hạ bởi những người mặc quần áo hóa trang thành những bộ xương người và hóa trang thành những con quỷ sứ. Những người hóa trang thành quỷ sứ mang mặt nạ quỷ, có sừng và có những cái đuôi thật dài. Hoạt cảnh này chỉ là một phần của đám rước. Phát thanh viên người Anh tường thuật cảnh ấy cho biết đây là lễ hội hàng năm ở Tây Ban Nha. Tôi cố giải thích cho người đàn ông mù biết những gì đang diễn ra. “Những bộ xương người,” ông nói. “Tôi biết các bộ xương người,” ông nói, và gật gù cái đầu. TV chiếu cảnh một ngôi giáo đường. Sau đó chiếu thật lâu và thật chậm một giáo đường khác. Cuối cùng, hình ảnh chuyển sang một giáo đường nổi tiếng ở Ba Lê với nhiều trụ ốp vút cao và những chóp nhọn vươn thẳng lên tầng mây. Máy quay phim lại quay viễn cảnh bao quát của ngôi giáo đường đang in hình trên nền trời. Có nhiều lúc khi người phát thanh viên đang nói về cảnh này thì máy quay phim lại hướng về những cảnh trí chung quanh nhà thờ. Hoặc máy quay phim hướng về miền quê có những người đàn ông đang đi sau những con bò trên đồng ruộng. Tôi phải chờ đợi khá lâu cho đến lúc tôi cảm thấy phải lên tiếng. Tôi nói, “Bây giờ thì họ đang quay ngoại cảnh của ngôi giáo đường này. Đó là nhà thờ Gargoyles. Nhiều pho tượng nhỏ được tạc trông như hình những con quỷ. Bây giờ thì tôi đoán họ đang ở Ý Đại Lợi. Đúng rồi, ở Ý Đại Lợi.Có nhiều tranh trên những bức tường chủ đề 14/17
của nhà thờ này.” “Những bức tranh đó được vẽ như thế nào hở bồ?” Ông ta hỏi, và nhấp một hớp rượu. Tôi nâng ly của mình. Nhưng là cái ly không. Tôi cố nhớ những gì tôi còn nhớ được. “Có phải ông hỏi tôi về những bức tranh vẽ trên tường kia không?” Tôi hỏi. “Câu hỏi rất hay. Tôi lại không thấy gì”. Máy quay phim chuyển sang một ngôi giáo đường ở ngoại vi thành phố Lisbon. Những sự khác biệt của giáo đường Bồ Đào Nha so sánh với giáo đường ở Pháp và Ý Đại Lợi không nhiều lắm. Nhưng mà có đấy. Đa phần là ở sự trang trí bên trong nhà thờ. Bỗng một ý tưởng xuất hiện trong tôi, và tôi nói, “Có một điều khiến tôi phải suy nghĩ. Ông có ý nghĩ gì về một ngôi giáo đường? Nó như thế nào? Ông có hiểu ý tôi không? Nếu có một người nào đó nói với ông về ngôi giáo đường, ông có khái niệm gì về những điều họ nói? Ông có biết sự khác biệt giữa ngôi giáo đường ấy với một ngôi nhà thờ của đạo Tin Lành không, nói nghe nào?” Ông ta từ từ nhả khói ra khỏi miệng. “Tôi biết họ đã dùng hàng trăm công nhân trong năm chục năm hay một trăm năm để xây dựng,” ông ta nói. “Dĩ nhiên, tôi chỉ nghe người ta nói lại. Tôi biết nhiều thế hệ trong cùng một gia đình đã ra công để xây dựng một ngôi giáo đường. Tôi đã nghe người ta nói với tôi như thế. Nhiều người từ khi bắt tay vào công việc, họ không bao giờ được sống để trông thấy thành quả việc làm của họ. Trong chiều hướng đó, bồ ạ, họ chẳng khác gì chúng ta, phải không? Ông ta cười. Rồi thì mi mắt của ông ta nhắm lại. Ông ta lại gật gật cái đầu. Trông ông ta như đang buồn ngủ. Có lẽ ông ta tưởng tượng ông ta đang ở Bồ Đào Nha. Bây giờ TV đang chiếu một ngôi giáo đường khác. Nhà thờ này ở Đức. Tiếng nói của phát thanh viên người Anh vẫn đều đều. “Những ngôi giáo đường,” người đàn ông mù nói. Ông ta ngồi dậy và lắc đầu. “Nếu anh muốn biết sự thật, bồ ơi, đó là tất cả những gì tôi biết. Những gì tôi vừa nói. Những gì tôi đã nghe người ta kể lại. Nhưng có lẽ anh không có thể diễn tả nó cho tôi hiểu? Tôi mong anh làm điều này. Tôi muốn như thế. Còn nếu anh muốn biết thì tôi thực sự không có một ý tưởng nào hay ho cả.” chủ đề 14/18
Tôi ngắm kỹ theo đường ống kính quay cảnh nhà thờ trên TV. Biết làm sao để tôi bắt đầu miêu tả nó? Nhưng cuộc sống của tôi đang tùy thuộc vào nó. Cuộc sống của tôi đang bị đe dọa bởi một tên điên rồ, người đang bắt tôi phải làm điều này điều kia. Tôi ngắm thật kỹ ngôi giáo đường trước khi hình ảnh chuyển sang cảnh đồng quê. Không ích gì. Tôi quay sang người đàn ông mù và nói, “Bắt đầu là những giáo đường rất cao.” Tôi nhìn quanh phòng để tìm thêm những điều mà tôi không biết. “Những giáo đường vươn cao. Vươn cao và vươn cao. Cao đến tận trời. Có nhiều ngôi rất lớn. Chúng phải có những cái trụ này. Để chống đỡ chúng, có thể nói như vậy. Những cái trụ để chống đỡ này gọi là trụ ốp. Vì một vài lý do nào đó, những cái trụ ốp này làm tôi nhớ đến những cây cầu đúc. Nhưng có lẽ ông cũng không biết những cây cầu đúc? Đôi khi những ngôi giáo đường còn tạc hình những con quỷ ở mặt tiền. Đôi khi là những đức ông và những đức bà. Đừng hỏi tôi tại sao như thế,” tôi nói. Ông ta gật đầu. Nửa người phía trên thân hình ông ta như đang xoay qua xoay lại. “Tôi miêu tả chưa được rõ, có phải không?” Tôi nói. Ông ta ngừng gật đầu và cúi người về phía viền ghế sofa. Trong khi nghe tôi nói ông đưa tay vuốt vuốt chòm râu. Tôi đã không làm cho ông ta hiểu được, tôi có thể thấy rõ điều ấy. Nhưng ông ta vẫn đợi tôi diễn tả cho đến cùng. Ông ta gục gặc đầu, như để động viên tôi. Tôi cố nghĩ làm sao để diễn tả. “Những giáo đường thật lớn,” tôi nói. “Chúng thật đồ sộ. Chúng được xây bằng đá. Cũng có khi bằng cẩm thạch. Ngày xưa, khi người ta xây nhà thờ là người ta muốn đến gần Chúa. Ngày xưa, Chúa giữ một địa vị quan trong trong cuộc sống của mọi người. Ông có thể nói như thế khi nhìn cách xây dựng những giáo đường của họ. Tôi xin lỗi,“ tôi nói, “nhưng đấy là cách tốt nhất mà tôi miêu tả cho ông. Tôi thật tình không thể miêu tả tốt hơn.” “Được rồi, bồ,” người đàn ông mù nói. “Này, hãy nghe đây. Tôi hy vọng anh không phiền lòng khi tôi yêu cầu anh. Tôi có thể nhờ anh một việc được không? Cho tôi hỏi anh một câu giản dị thôi, được hay không. Tôi chỉ tò mò và không có ý xúc phạm anh. Anh là chủ nhân. Nhưng cho tôi hỏi anh có theo một tôn giáo nào không? Anh không phật lòng vì câu hỏi của tôi chứ?” chủ đề 14/19
Tôi lắc đầu. Nhưng, ông ta không thể thấy. Một cái nháy mắt cũng giống như một cái gật đầu đối với người mù. “Tôi nghĩ rằng tôi không tin ở tôn giáo. Trong bất kỳ lĩnh vực nào. Đôi khi thật khó nói. Ông biết tôi nói gì chứ?” “Chắc rồi, tôi biết,” ông ta đáp. “Tốt,” tôi nói. Tiếng nói người phát thanh viên vẫn đều đều. Vợ tôi thở dài trong giấc ngủ. Nàng hít vào một hơi thật dài và lại tiếp tục ngủ. “Xin ông tha lỗi,” tôi nói. “Nhưng tôi không thể diễn tả cho ông một ngôi giáo đường là như thế nào. Trong tôi không có ngôi giáo đường nào để miêu tả cả. Tôi không thể miêu tả những gì nhiều hơn những điều tôi đã làm.” Người đàn ông mù vẫn ngồi yên, đầu cúi xuống, khi nghe tôi nói thế. Tôi nói, “Sự thật là, những ngôi giáo đường chẳng có ý nghĩa gì đặc biệt đối với tôi. Không là gì cả. Những ngôi giáo đường. Đôi khi chúng xuất hiện trong chương trình TV lúc về khuya. Tất cả chỉ có thế.” Đến lúc đó, người đàn ông mù khẽ hắng giọng. Ông ta đưa một cái gì đó lên. Ông rút một cái khăn tay từ túi sau ra. Đoạn ông ta nói, “Tôi biết điều đó, bồ ạ. Được thôi. Chuyện xẩy ra phải thế. Đừng quá băn khoăn về nó,” ông ta nói. “Này, nghe tôi hỏi đây. Anh sẽ cho tôi một ân huệ chứ? Tôi có ý tưởng này. Tại sao anh không kiếm cho chúng ta một tờ giấy dày? Và một cây viết. Chúng ta sẽ làm vài việc. Chúng ta sẽ cùng nhau vẽ một ngôi giáo đường. Lấy cho chúng ta một cây viết và vài tờ giấy dày. Đi đi, bồ, lấy những thứ đó,” ông ta nói. Thế là tôi đi lên gác. Đôi chân tôi cảm thấy như không còn sức lực nữa. Cảm thấy như đôi chân vẫn thường như thế sau khi làm vài cuốc chạy bộ. Tôi tìm quanh trong phòng của vợ tôi. Tôi kiếm được mấy cây viết bi trong cái rổ nhỏ ở trên bàn của nàng. Sau đó tôi cố nghĩ xem nơi nào tôi có thể kiếm được loại giấy mà ông ta muốn có. Đi xuống gác, vào trong bếp, tôi thấy một cái túi đựng đồ mua ở chợ còn mấy cái vỏ hành bên trong. Tôi lấy vỏ hành ra hết và giũ sạch nó. Tôi cầm nó ra phòng khách và ngồi xuống bên chủ đề 14/20
cạnh chân ông ta. Tôi dọn sạch vài thứ, vuốt thẳng những nếp nhăn của chiếc túi rồi trải ra trên bàn sa-lông. Người đàn ông mù rời khỏi sofa ngồi xuống thảm sát bên cạnh tôi. Ông dùng những ngón tay sờ lên tờ giấy. Ông sờ xuống, sờ lên hai mặt của tờ giấy. Sờ rìa giấy, sờ cả mấy phía. Ông còn sờ những góc giấy nữa. “Được rồi,” ông nói, “Được rồi, chúng ta vẽ đi.” Ông tìm tay tôi, tay đang cầm viết. Ông áp tay ông lên tay tôi. “Bắt đầu nào, bồ ơi, vẽ,” ông ta nói. “Vẽ đi. Anh sẽ thấy. Tôi sẽ theo anh. Sẽ tốt thôi. Hãy bắt đầu như tôi nói. Anh sẽ thấy. Nào vẽ đi,” người đàn ông mù nói. Thế là tôi bắt đầu. Đầu tiên tôi vẽ một cái hộp giống như một cái nhà. Nó có thể là cái nhà mà tôi đang ở. Đoạn tôi vẽ một cái mái nhà bên trên. Ở hai đầu mái nhà, tôi vẽ những cái tháp nhọn. Thật khùng! “Cừ quá,” ông ta nói. “Thật kinh khủng. Anh vẽ tuyệt quá,” ông ta nói. “Chưa bao giờ anh nghĩ là những điều như thế này có thể xảy ra trong đời mình, có phải không, bồ? Được quá, cuộc sống thật kỳ lạ, tất cả chúng ta đều biết như thế. Bây giờ thì hãy tiếp tục. Vẽ đi.” Tôi vẽ những cái cửa sổ có mái che. Tôi vẽ những chiếc trụ ốp đang bay lên. Tôi vẽ những cái cửa ra vào lớn. Tôi không thể dừng lại. Đài TV đã hết. Tôi đặt viết xuống và co ruỗi mấy ngón tay. Người đàn ông mù rà quanh trên tờ giấy. Ông ta rà bằng đầu ngón tay lên tờ giấy, trên tất cả những gì tôi vẽ, và ông gục gặc đầu. “Vẽ tuyệt thật,” người đàn ông nù nói. Tôi lại cầm viết lên, và ông ta lại tìm tay tôi. Tôi lại tiếp tục vẽ. Tôi không phải là họa sĩ. Nhưng tôi vẽ cứ như họa sĩ vậy. Vợ tôi mở mắt và nàng nhìn chúng tôi. Nàng ngồi dậy trên sofa, áo ngủ vẫn hở rộng. Nàng hỏi, “Các người làm gì thế? Nói cho tôi, tôi muốn biết.” Tôi không trả lời nàng. Người đàn ông mù nói, “Chúng tôi đang vẽ một giáo đường. Tôi và anh ấy cùng vẽ. Quệt mạnh lên,” ông ta bảo tôi. “Thế đấy. chủ đề 14/21
Tốt quá,” ông nói. “Chắc chắn là anh đã vẽ được nó rồi, bồ ạ, tôi có thể nói như thế. Anh không nghĩ là anh vẽ được. Thế mà anh đã vẽ được, phải không? Bây giờ thì anh đang kết thúc. Anh có biết tôi nói gì không? Chúng ta sẽ thực sự đạt được điều chúng ta muốn trong một phút nữa. Người già thì sao?” ông ta nói. “Bây giờ thêm vài người vào đấy nữa. Một giáo đường vắng bóng người là thế nào?” Vợ tôi hỏi, “Chuyện gì đang xảy ra? Robert, các người đang làm gì thế? Chuyện gì đang xảy ra?” “Tốt cả thôi,” ông ta trả lời vợ tôi. “Bây giờ thì anh nhắm mắt lại,” người đàn ông mù nói với tôi. Tôi làm theo. Tôi nhắm ngay hai mắt khi ông nói. “Nhắm mắt chưa?” ông nói. “Chớ giả bộ đấy.” “Tôi nhắm rồi,” tôi đáp. “Giữ chúng như thế,” ông ta nói. Ông lại nói, “Bây giờ đừng có ngừng lại. Vẽ đi.” Thế là tôi tiếp tục vẽ. Những ngón tay của ông đặt trên những ngón tay của tôi khi tay tôi lướt trên mặt giấy. Cho đến bây giờ trong tôi vẫn không có một cảm giác nào khác. Đoạn ông ta nói, “Tôi nghĩ nó đấy rồi. Tôi nghĩ anh đã vẽ được nó,” ông nói. “Nhìn đi. Anh đang nghĩ gì?” Nhưng tôi vẫn còn nhắm hai mắt. Tôi nghĩ mình nên giữ như thế thêm một lát nữa. Tôi nghĩ đó là điều mà tôi nên làm. “Sao?” ông hỏi. “Anh đang nhìn chứ?” Hai mắt tôi vẫn nhắm nghiền. Tôi đang ở trong nhà của tôi. Tôi biết như thế. Nhưng tôi không cảm thấy giống như tôi đang ở bên trong một vật gì. “Ngôi giáo đường thực sự thành hình,” tôi nói. PHẠM VŨ HELGA chuyển ngữ.
chủ đề 14/22
NHẬT NGUYỄN mọi thứ,đều tình cờ
Giữa khuya, cô choàng tỉnh giấc. Miệng khô và đắng, cô với tay qua đầu giường, tìm công tắc bật đèn. Quờ quạng mấy lần, tay cô chạm phải vật gì đó, như là bình hoa bằng sứ, hay đại loại là chiếc bình bằng thủy tinh, mát lạnh. Cái mát lạnh làm cô giật mình đẩy mạnh, nó văng xuống kêu lạch cạch trên nền thảm. Cô làu nhàu, chồm qua thành giường, một tay chống cùi chỏ, tay kia tiếp tục huơ về phía trước, ở trong tư thế chênh vênh, cái nệm giường lún qua một bên, đầu cô đập vào thành gỗ đau điếng. Cô xoa đầu, ngồi hẳn dậy. Đưa mắt ngái ngủ, cô nhìn quanh. Lạ quá. Không phải chỗ nằm của cô. Căn phòng này cũng không phải là phòng cô. Miệng khô đắng và cổ rát bỏng, cô bật ho khan, rồi gập người ho dữ dội, bụng quặn thắt như ai vặn xoáy từng vòng, vị đắng trong cuống họng muốn trào ra ngoài. Cô lấy tay bụm miệng và nằm vật xuống giường… Đầu nặng chình chịch như bị một tảng đá đè nghiến, cô nghĩ mình đang chóng mặt. Không phải nghĩ, mà thật sự, cô đang muốn buồn nôn lần nữa. Cái gì đang xẩy ra đây? Đưa hai tay cào cấu mớ tóc bết rin rích, sợi nọ cuốn qua sợi kia, cô lại bật dậy lần nữa. Rồi lại nằm vật xuống. Rồi bật dậy. Nhã ơi. Mày phải nhớ lại, chuyện gì đang xảy ra. Tại sao mày lại ở đây? Cô kêu thầm, cau có với chính mình, tay nắm chặt từng mảng tóc chủ đề 14/23
giật mạnh và cơn ho lại kéo tới, liên hồi hơn. Một đường ánh sáng mỏng kéo lê ngay cửa phòng. Tiếng đàn ông lạ. - Are you wake up? Trời. Tôi đang lọt vào thế giới của người Mỹ. Tại sao vậy nè trời? Miệng, lưỡi cô tê cứng. “Trời ơi. Tôi đã bị bắt cóc. Hắn bắt cóc tôi. Ai đó, làm ơn cứu tôi. Cứu tôi…” Mắt cô hốt hoảng đảo quanh. Cái điện thoại ở chỗ nào? Chỗ nào? Vẫn giọng khi nãy: - How do you feel? Tao không feel gì hết. Tao đang sợ mày đây nè. Trời ơi là trời. Cô ngồi sững ở tư thế cũ, toàn thân bắt đầu run. Đầu tiên là mấy ngón chân, rồi cơn lạnh từ từ bò lên bắp đùi bần bật như đánh nhịp. Nó mà di chuyển dần lên cánh tay là mình bị tê liệt luôn. Cô muốn kéo cái mền, quấn quanh người. Nếu hắn lôi mình, mình có thể nắm chặt mí mền rồi nghĩ cách nào đó để vùng ra, sau đó tống mạnh cho hắn một đạp. Có thể bất ngờ, hắn sẽ chúi nhũi, đập mặt vào cái bàn kia. Sau đó, mình - Don’t worry. I don’t do any harm to you. I just want to help…
Giúp tao. Tao cần mày giúp tao sao? Thằng khốn nạn nầy, bắt tao nhốt vào đây mà gọi là just help. Mày đã làm gì tao? Mày xé quần xé áo tao rồi… Mắt cô nhìn nhanh hàng cúc áo, lướt xuống chiếc váy dài… - I saw you last night. You drove a silver Honda and… Hắn nói chầm chậm, từng chữ, từng chữ, từng chữ và cô dần dần nhớ lại… - Ông mở giùm đèn. Cô nói. Giọng vẫn chưa hết sợ hãi. Ánh sáng làm chóa mắt cô mấy giây. Người đàn ông Mỹ vẫn đứng ở ngạch cửa. Hắn không có ý bước vào. A, ít ra hắn cũng biết mình đang sợ. Cô vẫn ngồi ở tư thế cũ, hai bàn tay vuốt lại mớ tóc rối. Chắc ngó mình buồn cười lắm. Son phấn trôi hết rồi, lại nghe như mùi nôn mửa đâu đây. Chà, thiệt là trớ trêu. - Cho tôi miếng nước. Làm ơn. Bây giờ thì hắn tiến lại phía cái bàn khi nãy, nhặt bình hoa lên, hắn đưa cô ly nước.Mấy giờ rồi ông? - Khoảng ba giờ sáng. chủ đề 14/24
- Sao tôi… - Cô cần gì nữa không? - Không. Cám ơn. Xin… (cô định nói xin ông làm ơn xéo đi giùm). Tôi còn buồn ngủ.
Hắn đi ra, khép nhẹ cửa phòng và không nhìn cô. Tốt. Hắn có vẻ tử tế đây. Nhưng biết đâu chừng hắn sẽ quay trở lại, tao làm sao tin mày được. Cô nhào đến cửa phòng. Khóa chặt và như chưa yên tâm, cô đứng áp chặt lưng vào cửa. Hắn nói chiếc Honda màu bạc. Ô, mình nhớ rồi. Xe của Thiện. Mình chạy xe của hắn lúc hắn ngừng ở trạm đổ xăng. Nhưng tại sao lại chạy chiếc xe đó, và tại sao lại ở đây. Hắn nói hắn đã giúp mình, thì cho là như vậy đi. Nhưng tại sao lại ra cớ sự nầy. Tai nạn? Cô xòe hai bàn tay, nhấc thử hai chân. Sao mình chưa thể nhớ lại chuyện gì đã xảy ra hôm qua? Chắc còn mệt và buồn ngủ nên đầu óc mụ mẫm mất rồi. Phải ngủ tiếp một giấc rồi tới đâu thì tới. Có thể sau khi tỉnh dậy, mình sẽ minh mẩn hơn. Ủa, mà sao hơi thở mình lại nồng nặc mùi rượu vậy nè… Rượu. Thôi, chết rồi. Phải gọi cho Tùng, phải gọi cho anh ấy biết rõ ràng chuyện xảy ra lúc nầy. Phải gọi trước khi tên Thiện mách mọi thứ sai lệch với anh. Đứng dựa cửa, cô nhắm mắt, cố mày mò nhớ lại. Mà thôi, ngủ đã, may ra đỡ nhức đầu.Cửa khóa chặt thì chắc cũng tương đối an toàn, mà ngộ nhỡ hắn có chiếc chìa khóa phòng riêng thì sao. Nhà của hắn mà. Cái giường nặng quá không thể lê kéo chặn cửa được. Cố ráng sức mấy lần không xong. Dùng cái gì đây? Kéo đỡ cái bàn đêm vậy. Không chắc lắm nhưng ít ra, khi hắn tông cửa vào, tiếng động sẽ báo nguy cho mình. Sắp xếp đâu đó, cô nốc sạch phần nước còn lại và nhảy tót lên nệm. Gì thì gì. Ngủ thêm chút nữa. Không thể gọi ai vào cái giờ quá sớm như vầy. Hơn nữa, đến bây giờ cô cũng khá an toàn. Mai tính. Nhưng rồi cô không thể nào nhắm mắt được. Bữa tiệc họp bạn. Chiếc Honda màu bạc, rượu, cây xăng. Thiện với chiếc cà vạt màu xanh đậm xộc xệch vừa đi vừa nắn… Cô muốn gạt mọi thứ qua một bên trong trí nhớ lộn xộn của mình. Từ từ mình sẽ nhớ lại hết thẩy. Còn ở đây, căn phòng nầy. Trí tò mò nổi lên. Cô bật dậy, mở đèn. Mọi thứ hiện ra trước mắt. Căn phòng bày biện chủ đề 14/25
khá đơn sơ. Ngoài giường ngủ queen size bằng gỗ đậm, một kệ lớn áp sát tường đầy sách, cái bàn đêm, không còn thứ gì khác. Trên tường treo vài bức tranh chụp cảnh rừng thong, cảnh biển. Có lẽ phòng nầy ít khi đựoc xử dụng. Mọi thứ có vẻ phẳng phiu, cô độc. Cô lắng tai nghe tiếng động quanh nhà. Im vắng quá. Chỉ tiếng máy lạnh thỉnh thoảng chạy ù ù và đều đều tiếng đồng hồ ti tách ti tách…
Hắn ngồi đối diện với cô, dưới chùm ánh sáng vàng nhạt của ngọn đèn bếp. Ly café làm cô tỉnh táo đôi chút, dù vậy, cô vẫn nghe mùi rượu váng vất trong từng hơi thở ra. Quá sức tệ hại. Người đàn ông trung niên Mỹ, tóc hói màu bắp nâu, ánh mắt xanh nhạt làm đôi mắt sâu có nhiều vết nhăn mang dáng vẻ tử tế, miệng cười rộng hơi chút tin cậy. (Thì cứ cho là vậy đi. Ít ra đến lúc nầy hắn chưa biểu lộ cử chỉ sỗ sàng nào làm cho cô phải thủ thế). Hắn giải thích: “Tôi thấy xe cô đậu ở lề đường trước cổng nhà tôi, đầu gục vào tay lái. Tôi gọi hoài cô không tỉnh, tôi định gọi cấp cứu nhưng không hiểu sao lại xốc cô vào đây. Lúc đó cô say rượu”. - Tôi bất tỉnh à? - Không, cô say rượu. - Bất tỉnh chứ? - Không, say rượu. - May mà gặp ông, nếu không tôi bị phiền phức với cảnh sát tội say rượu lái xe rồi. - Tôi chỉ lo cô có vấn đề gì, may là cô không sao. Nếu không, chính tôi cũng bị phiền to”. Hắn cười hóm hỉnh. “Khu vực tôi ở vắng vẻ lắm. Buổi tối ít xe cộ chạy qua. Lần đầu tiên tôi thấy một cô bé Á châu lọt vào khu nầy, ban đêm mà lại say rượu”. Mình say rượu. Lạ chưa. Mình uống rượu hồi nào mà say với tỉnh? Hắn có lầm lẫn không đây? Hình như chỉ nhấp một chút bungundy thôi mà. Mầu rượu đỏ chát đẹp mắt mà Thiện còn khen giống màu áo mình đang mặc kia mà. Phải cố nhớ thêm chút nữa, trước và sau đó. Mình làm gì. Tại sao. Chịu. Cô lắc đầu.
chủ đề 14/26
- Cô muốn ăn gì không? - Không. Cám ơn. Tôi… có thể… - Điện thoại đằng kia. Chỗ bếp đấy. - Cám ơn ông. (Hắn quả thật tinh tế). - Gọi tôi là Andy. - Tôi tên Nhã, tiếng Việt, ông cứ gọi là nha, nhá, nhà… gì gì cũng được. Tôi không ngại đâu. Cô bấm số gọi Tùng. Ít khi (họa hoằn lắm) cô mới gọi anh vào sáng sớm nên có thể, giờ nầy anh mới thức dậy. Hy vọng anh đang thay quần áo hoặc đang uống café. Anh chẳng khi nào nhấc nghe điện thoại khi đang tắm. “Phiền nhất là bị gọi khi đang tắm. Mất đi cảm giác ấm áp khi dòng nước tuôn chảy tẩy rửa mọi thứ mệt mỏi trong ngày. Đừng khi nào gọi anh lúc đó nghe”. Anh vẫn căn dặn cô như vậy. Hồi chuông reo mấy chặp, sốt ruột quá đi. Chắc phải gọi lại chờ anh tắm xong. Đến lúc cô sắp sửa thất vọng thì bên kia, phone được nhấc lên. - Hello… nghe đây… Ủa, sao kỳ vậy nè. Giọng phụ nữ. Ngôi nhà chỉ có mình anh thì lấy đâu ra cái giọng lạ hoắc ở đây? Hay mình gọi nhầm số. Gọi nhầm số rồi, cái con bé bộp chộp nầy. Cô hớn hở. - Hello. Ai đó? - Chắc tôi gọi nhầm số. Tôi…. Cô lắp bắp. - Hỏi anh Tùng hả? Ảnh đang tắm. Chị có gì nhắn không? Cô buông điện thoại xuống, chết điếng. Bây giờ thì cái xe Honda màu bạc, rượu, người đàn ông tên Andy đã trở thành quá khứ rồi. Tai cô ù ù giọng phụ nữ…anh Tùng hả. Anh đang tắm. Chị nhắn gì…Trời ơi! Nửa căn nhà đó là phần của tôi, tôi đã dành tiền lương hàng tuần để hai đứa gom góp mua nhà chuẩn bị đám cưới sang năm. Tự nhiên một bà nào từ trên trời rơi xuống ở chình ình trong nhà hỏi ai đó, chị muốn nhắn gì…Hay là… Cô muốn ứa nước mắt. - Sao vậy? Không gặp à? Ông Andy hỏi. - Không. - Thì lát nữa gọi lại. Ông dọn ra bàn ăn nhỏ bánh sandwich kẹp ham, macaroni và liver. Đẩy đĩa về phía cô, ông rót thêm ly nước cam từ trong hộp chủ đề 14/27
giấy, và chuẩn bị phần ăn cho mình. Lấy bánh từ lò nướng, đặt nó ngay ngắn trong đĩa giấy, ông từ từ bóc từng lớp giấy trong các hộp ham, xếp lên phía trên. Sau đó ông rắc thêm muối và tiêu. Có lẽ ông đã quen với việc nội trợ nầy nên mọi thứ đều gọn gàng chậm rãi. Cô lơ đãng nhìn ông, nhìn qua khung cửa sổ mờ mờ sáng phía ngoài, nhìn qua bậc thềm có khung cửa chính màu xám ở đâu đó, đâu đó, cái buồng tắm đứng, hơi nước nóng phả mù mịt, tiếng xối nước và tiếng hát nho nhỏ như thói quen của Tùng. Ngoài phòng ngủ, sát đầu giường, trên bàn đêm đặt chiếc điện thoại. Cô ta nằm đó, nhấc điện thoại ngay giường ngủ đó. - Cô thích bức hình đó sao? Ông nhìn theo mắt cô, tưởng cô đang ngó một bức ảnh phóng lớn phía sau lưng ông. - Hình nào? Ờ, hình đó… Hay lắm. Cô nói lấy lệ. Thật tình không hiểu hay ở chỗ nào. Ông chụp à? - Ờ, photography là nghề của tôi mà. - Sao toàn sa mạc không vậy? Cô cố gắng theo tiếp câu chuyện. Ông ta tử tế thì mình cũng nên làm người lịch sự một chút. Người lịch sự lại lơ mơ. Không biết sa mạc và giường ngủ giống nhau khác nhau chỗ nào. - Đâu phải sa mạc. Nó là thung lũng chết ở Cali. Cái hòn đá mầu nâu sậm cô thấy đó nặng gần 700 lbs, nó tự di chuyển hàng dặm trong thung lũng, nền đá nhìn giống mấy cái bánh donut khô cứng. Nó là một trong những bức ảnh nghệ thuật mà tôi thích nhất đó. Giọng hào hứng của ông lây sang cô. Cô nhìn kỹ ông. Thật là thú vị khi người ta có nỗi đam mê để theo đuổi, mình chỉ có một mơ ước tầm thường mà cả đời cũng không bắt được. - Chắc ông chụp nhiều hình và đi nhiều nơi? - Tôi thường xa nhà. Tôi thích công việc của tôi. Nhiều hình ảnh tôi phải chờ đợi đúng thời điểm để bấm máy phải hàng tháng trời. Công việc đôi khi làm mình khuây khỏa những buồn bã trong cuộc sống. Nhất là khi người ta gặp những điều quá buồn. Ồ, cô ăn đi. Bánh còn nóng. - Tôi không đói. Cô đẩy chiếc đĩa ra xa. - Cô phải ăn chút gì chứ. Hôm qua cô… nôn hết rồi. Ông ta lại đẩy xịch chiếc đĩa về phía cô. Làm sao tôi có thể ăn được khi mọi thứ rối tinh rối mù, chủ đề 14/28
chuyện kia chưa kịp nhớ thì chuyện nọ đã ập tới. Mà chuyện nọ còn ghê gớm hơn chuyện kia. Giọng phụ nữ, cái giường ngủ cứ vang vang trong đầu. Họ đã làm gì ở đó, giờ nầy? Cái giường chính cô lựa chọn và có một phần tiền đóng góp. Chẳng lẽ Tùng đã… Không. Anh đâu phải vậy? Mọi thứ đã sắp xếp tính toán đâu ra đó rồi. Họ sẽ làm đám cưới, một bữa tiệc ra mắt nho nhỏ đơn giản, anh vẫn nói, tổ chức rình rang chi cho tốn kém mà sống với nhau mang nợ nần trả bạc đầu không hết, chưa kể, vài ngày lại bỏ nhau. Cô cũng đâu câu nệ chuyện cưới hỏi. Quan trọng là thật sự yêu nhau và cùng bồi đắp cho cuộc sống chung trước mắt. Cô và anh để dành một số tiền, không nhiều lắm nhưng cũng đủ để đi hưởng tuần trăng mật và sắm sửa mọi thứ tiện nghi cho tổ ấm của họ (Tổ ấm mà cô, nói thẳng ra, góp hơn phân nửa). Cơn nhức đầu quay lại lần nữa. Mặt cô nóng bừng, có cảm giác như đang bị hoa mắt. Tay ghì chặt mép bàn, cô cố giữ nước mắt khỏi trào ra bất chợt. - Cô ăn chút gì đi. Tôi lấy thuốc cho cô uống. Cô bị nhức đầu phải không? Sau khi uống rượu thường bị nhức đầu. Tôi cũng hay bị như vậy. Cô cúi gằm mặt cố nuốt cho trôi miếng bánh vừa bẻ ra. Tôi nhức đầu, tôi buồn nôn, tôi đủ thứ. Tôi đang muốn đi chết đây. Tại sao điều đó lại xẩy ra vào lúc nầy. Giá khi nãy đừng gọi điện thoại. Ủa, mà nhờ vậy mình mới biết sự thực cơ mà. Nhưng đã chắc gì những điều mình suy đoán là đúng. Ngộ nhỡ là ai đó. Mà ai mới được chứ? Tùng đâu có em gái, đâu bà con gì ở thành phố nhỏ đó, chỗ anh làm việc cách cô một giờ bay? Hay người hàng xóm, hàng xóm cũng chẳng ai nhấc điện thoại ở phòng ngủ người khác vào sáng sớm như vậy. Ông thu dọn mấy thức ăn còn lại, rời khỏi bàn, không hỏi han gì thêm mặc cô ngồi đó, hai tay ôm đầu dáng thiểu não. Không có gì phải giải thích thêm với cô bé Á châu nầy. Ông nghĩ. Cô có vẻ tiều tụy quá, chắc phải tìm cho cô cái lược chải tóc trước khi ra khỏi nhà. Ông quay lại định với lấy tờ napkin trên kệ, thì vừa vặn, chân ông va phải bánh xe đẩy. - Ồ, mẹ. Good morning. Mẹ ông, đã ngoài tám mươi, bị bịnh từ hơn một năm nay. Bà phải ngồi xe lăn sau khi không còn thể tự mình đứng lên được. chủ đề 14/29
Gương mặt bà pha trộn nét thanh tú của người Pháp, nét mặn mà của người Tây Ban Nha nên tuy già, vẫn còn phảng phất vẻ đặc biệt từ đôi mắt hạt dẻ đến mái tóc nâu sậm chải cong trên vầng trán. Bà đưa mắt nhìn cô, phía sau lưng và tia mắt hướng về ông. - Mẹ. Đây là cô Nha. Cô quay lại, ngỡ ngàng khi thấy gương mặt cười rạng rỡ của bà. Mắt cười. Miệng cười. Sao bà có vẻ thích thú khi nhìn thấy mình vậy kìa. - Andy. Người làm mới của mẹ à con? Đến lượt ông cà lăm: - Mẹ. Cô đây là – - Mẹ thích người Á châu. Bà Marian có cô bé giúp việc người Á châu giỏi lắm. Bà nói, họ rất chịu khó và thành thật. Cô đứng lên, xoay hẳn về phía bà. Trời ơi, tôi lại là người giúp việc của bà sao? Bà có… điên không vậy? Thật hóa rồ rồi. Có nghèo cũng đâu đến nỗi đi làm công cho gia đình bà. Cô định lên tiếng cải chính thì, hình như, bàn tay của ông Andy kéo nhẹ vạt áo cô. Lòng cô chùng xuống khi nhìn qua ánh mắt của ông. - Cô bé. Tôi thích cô lắm. Cô đẹp lắm. Người Á châu đẹp lắm. Cám ơn con nhé, Andy. Nào cô bé, chải tóc đi. Lược đây nầy. Lúc nào tôi cũng có sẵn gương lược trong túi. Bà bạn Marian của tôi thường qua chơi mà chẳng bao giờ bà ấy gọi điện thoại báo trước. Tôi gặp khách mà không chút phấn son là bất tiện lắm. Bố của thằng Andy hồi còn sống, lúc nào cũng muốn thấy gương mặt tôi trang điểm như đi chơi, ổng hay càu nhàu nếu tôi để đầu tóc bê bối, không giống ai. Bà nói một hơi và cô cũng muốn hụt hơi. Thật trớ trêu. Chưa khi nào cô rơi vào tình huống dở hơi như thế nầy. Hình như vạt áo của cô vẫn còn bàn tay ông nắm giữ. Cô dịch mạnh qua một bên như muốn dằn mặt ông cái tội đặt cô vào tình thế thật oái oăm. Bà lấy từ trong túi ra chiếc lược, vẫn cặp mắt vui vẻ, bà nói với cô: - Ngồi xuống, cạnh đây, để tôi chải tóc cho. Phải xoa chút dầu cho tóc đỡ bị rối. Andy. Lọ dầu trong phòng mẹ ấy. Lấy cái lọ mầu vàng, mùi thơm hơn. Cô bé. Thằng Andy nhà tôi cứ đi hoài, nay chỗ nầy, mai chỗ nọ, không biết cái nghề chụp hình có gì hay mà nó mê mẩn vậy. Tôi nói nó lập gia đình đi mà nó chủ đề 14/30
không chịu. Nhưng nó tử tế lắm. Nó kiếm cho tôi người làm để tôi có bạn. Hồi trước tôi cũng có cô bé người làm, nhưng cô ta đi học xa rồi. Có thêm một cô khác nữa, người Ý, nhưng tôi không mấy thích cô nầy. Thằng Andy bảo tại tôi khó tính, không phải vậy đâu. Người già chúng tôi không khó tính đâu. Chỉ là đôi khi không hiểu nhau thôi. Gương mặt ông cũng khổ sở như cô. Ông nhìn cô ái ngại và cô thì loay hoay không biết phải giải thích như thế nào. Không ai nỡ cướp mất niềm vui hiếm hoi, đơn giản trên khuôn mặt già nhăn nheo kia, trên chiếc xe lăn mà bà tới lui tội nghiệp hàng ngày không người trò chuyện. - Nhà cô ở đâu? Cô ở lại đây đến tối chứ? Thằng Andy có nói với cô, nếu cô cần thì ở lại nhà tôi. Có một phòng trống không dùng tới. Phòng đó hồi ông nhà tôi còn sống dùng làm phòng đọc sách. - Tôi phải… Tôi định… - Tôi ngó vậy mà còn khỏe lắm, chỉ đi đứng bất tiện thôi. Công việc của cô không quá vất vả để chăm sóc cho tôi đâu. Chỉ đi đứng hơi bất tiện một chút. Tôi suy sụp từ sau tai nạn xe hơi của gia đình chúng tôi, ông nhà tôi và… Ông Andy vội chen vào: - Mẹ à, bữa khác cô ấy tới. Mẹ đi uống thuốc nhé. Mẹ vào phòng nhé. Ồ, bà Marian sẽ đến lát nữa đây, mẹ thay quần áo đi. Chọn cái áo màu xanh, mẹ nhé. - Nhưng cô bé nầy, mẹ muốn… Bà dùng dằng, cố ngoáy cổ lại nhìn cô khi ông con đẩy vòng chiếc xe về hướng phòng ngủ. “Cô sẽ đến chứ, cô bé”. - Mẹ muốn mua gì không? Lát nữa con chở cô Nha về và ghé chợ luôn. Ông vừa đẩy xe vừa quay lại nhăn nhó với cô. Không tả được gương mặt ông lúc bấy giờ. Vừa buồn cười vừa tội nghiệp. Vẻ tội nghiệp làm cô không nỡ nói gì them. Bà già cũng tội quá, mà ông con cũng quá sức hiếu thảo. Thật hiếm có gia đình Mỹ nào ông con chừng đó tuổi còn săn sóc mẹ thay vì vất vào viện dưỡng lão như đa số con cái bên nầy. Tuổi già thường gây phiền toái cho họ. - Xin lỗi cô. Tôi thành thật xin lỗi vì điều đó. - Tôi… giống người làm của mẹ ông lắm à? chủ đề 14/31
- Kìa cô Nha. Chắc mẹ tôi quá cô đơn nên gặp ai cũng tưởng họ đến giúp bà cụ. - Còn vợ con ông đâu? Ông đừng nói với tôi ông chưa có gia đình nghe. - Vợ con tôi. Xin lỗi cô…Tôi không thể nói điều đó vào lúc nầy. Ông quày quả bước đi. Cô không kịp nhìn thấy gương mặt đau đớn của ông lúc đó nên không hiểu, có điều gì làm ông không tiện nói. Kệ ổng đi. Đâu phải việc của mình. Mấy giờ rồi kìa. Có nên gọi cho anh lần nữa để hỏi cho ra lẽ hay không? Không gọi thì ấm ức mà nếu anh xác nhận thì còn đau khổ hơn, mà anh chối quanh thì cứ mang trong lòng nỗi nghi ngờ, ngày nay qua tháng nọ không làm sao chịu nỗi. Nhưng cũng phải gọi cho anh chứ. Mình có quyền làm vậy mà. Dù gì cũng phải đối mặt với sự thật. Phone trên bàn bếp cạnh xâu chìa khóa. Chùm chìa khóa có miếng bảng nhỏ in hình xe hơi viền xanh, cái nọ chồng lên cái kia ngó quen quen. A, cái xe Honda mầu bạc của Thiện. Một tia sáng chớp trong óc cô. Thiện. Hôm qua, trong bữa tiệc họp mặt, cô có uống rượu với bạn bè, một vài ly rượu đỏ không dễ say. Lúc Thiện đến bàn cô ngồi, anh ta lại mời cô ly rượu đỏ khác, mùi rượu nồng, hơi chát, không phải Bungundy, cô chỉ nhấp một hớp, ho sặc sụa và anh ta lại đưa cho cô ly nước chanh mà anh ta nói là giải rượu. Lẽ nào hắn… - Hello, cho tôi gặp anh Thiện. - Thiện đây, Nhã hở? Em đang ở đâu đó? - Em cái khỉ mốc. Anh định giở trò gì với tôi hôm qua? - Trò gì. Em nói anh không hiểu. Cái tội em lấy xe của anh chạy mất làm anh phải đi taxi về nhà tốn mấy chục đồng còn chưa tính. Còn nói… - Dẹp anh qua một bên đi. Cô nhớ lại. Lúc ra xe, hắn choàng tay ôm vai cô, dúi cái bản mặt đỏ gay đầy hơi rượu vào tóc cô và phả vào mũi cô cái mùi nồng nặc làm cô muốn ói. Lúc biết hắn giở trò, cô đợi hắn vào cây xăng, mở xe chạy mất. Nhưng giữa đường, chắc một phần say rượu, một phần đói, một phần buồn ngủ, cô tấp xe vào lề đường, định là chỉ chợp mắt một chút là quay xe lại, nào ngờ… chủ đề 14/32
- Anh là bạn của anh Tùng mà. Anh biết rõ tụi nầy sắp làm đám cưới mà, anh sàm sỡ như vậy, nếu anh Tùng… - Cũng dẹp anh Tùng của em qua một bên luôn đi. - Sao… Nếu tôi nói với anh Tùng là… - Tùng, tùng lùng tùng xèng. Em cưng ơi. Thằng Tùng nó nhờ anh mời em uống rượu, nhờ anh chở em về… motel đó. Xui cho anh là em chạy mất… Giọng phụ nữ sáng nay. Căn nhà có phần mình hơn một nửa. Đám cưới sang năm… Mọi thứ lùng bùng trong đầu cô. “Ủa, nó không nói nó muốn chia tay với em rồi sao? Nó muốn… nhường em lại cho anh”. Sự việc phơi bày đã quá sức rõ ràng sao cô không nhận ra. Phải rồi, từ mấy tháng trước, Tùng nói với cô anh có công việc mới ở tiểu bang khác, nên chuyện cô xin đổi về gần anh là điều không cần thiết. Căn nhà nên bán càng sớm càng tốt vì cho thuê lắm điều bất tiện. Cô không cần qua bên anh sắp xếp, anh lo liệu xong xuôi hết rồi. Lúc ấy, cô còn khen anh chu đáo, tính toán đâu vào đó. Thiện nói thêm lung tung gì gì nữa và cô không muốn nghe. Tay chân rã rời, cô muốn bịnh rồi. Chắc tôi xỉu ngay lập tức, ngay bây giờ. Anh Tùng… sao lại như vậy được. Chúng ta đang yêu nhau mà. Chia tay, chỉ cần thẳng thắn nói với nhau. Thôi mình chia tay. Anh không còn thương em nữa. Em chịu đựng được mà. Đâu cần phải… Uổng công tôi nuôi tình đổ sông đổ biển. Uổng bao năm tôi đã chờ đợi anh. - Hello, Nhã. Xe của anh đâu. Mang xe… Cô không còn nghe thêm được chút nào. Căn nhà bỗng tối sầm, từng vòng tròn xanh, đỏ, tím vàng… xoáy binh binh bục bục trong đầu cô, cô nghe như mình đang ngã xuống. Tôi đang ngã đây. Nhã ơi. Mày thua cuộc rồi. Chưa ai ngu ngốc hơn mày. Mày sáng mắt ra chưa. Nước mắt cô trào ra. Ôi, đầu tôi sẽ đập trên nền nhà nầy, óc vỡ toang từng mảng, máu me tuôn lai láng, mắt sẽ trợn trừng trợn ngược, tay chân cứng đơ, mồm méo xệch giật đùng đùng. Tôi sẽ trả thù bằng hết những kẻ phản bội, căn nhà đó, tôi cần gì tiền chia hai cơ chứ, ai trả cho tôi, hằng ba năm trời không dám tiêu xài, có bao nhiêu gom góp cho hạnh phúc đó. Nhà hả, tôi sẽ đốt, sẽ băm thành tro, thành bụi, băm, băm… Ủa, sao nhà cháy hết mà cái giường còn nguyên vậy? Còn nguyên hả, băm nè, băm tiếp nè… cái xe màu bạc, tôi sẽ… Chẳng biết té chủ đề 14/33
dập đầu có đau nhiều không? Cầu cho tôi đừng đau đớn, tôi sợ đau lắm. Cha mẹ thánh thần ơi, con sợ đau lắm. Hãy cứu con. Làm ơn cứu con. Mà té dập đầu óc tung tóe cũng dễ sợ lắm. Mặt mũi biến dạng thiệt quá sức khó coi. Ủa, sao té êm ái như vầy nè. Hay mình đã lên thiên đàng rồi và đang nằm trên lớp bông mây? Trời, nếu tôi chết đi mà không nói được một câu nào với anh, hay rủa xả anh, khóc lóc, năn nỉ… thì thiệt thòi cho tôi biết bao nhiêu. Tôi phải thấy tận mặt người đàn bà đó, còn tên Thiện, cái xe của hắn… Ủa, có phải thiệt là lớp bông gòn trên thiên đường không đây? Sao chẳng đau gì hết… Cô ngã xuống, té trong vòng tay vững chải của ông… NHẬT NGUYỄN
chủ đề 14/34
T R AN G T H AN H T R Ú C café đắng
1
Tui thề với bà là tui không có "đá" ổng! 2 Phòng trọ của anh nhỏ như hộp diêm. Ngày anh đưa em về, (lần đầu tiên năm ấy), mùi ẩm mốc không khỏi làm em khựng lại vài giây. Phòng gì ngó tối âm u. Phòng gì không có đến một cánh cửa sổ. Người chủ nào mà tàn nhẫn quá như thế này không biết. Em còn nói thêm rằng phòng này mà trọ cái gì, phòng tồn kho thì có! Anh đứng im lặng nhìn em cười. Vậy mà anh ở đây mấy năm trời rồi đó Thuấn. Ông chủ tàn nhẫn mà em vừa gọi là anh bạn rất thân của anh. Phòng cho thuê rẻ mạt. Lại đầy đủ tiện nghi. Em liếc nhìn anh, phòng vậy mà anh gọi là "đầy đủ tiện nghi", anh hay thiệt! Anh vuốt nhè nhẹ trên cánh tay trần của em. Thuấn biết không, đối với anh tìm được một nơi để tối tối về ngả lưng, sáng tà tà thả bộ ra nhà ga là hạnh phúc lắm rồi. Ở ngay trong thành phố, mà mướn được một phòng trọ như thế này, là diễm phúc lắm rồi. Mặc cho em có nói vô trăm điều anh cũng sẽ nói ra hết trăm lẻ một điều. Vậy là anh thuyết phục được em. Từ trong phòng anh, không thấy mặt trời, nên tấm chiếu trải ra cho anh và em như ướp sương lạnh mong manh. Sợ đau lưng nên hai đứa nằm nghiêng. Mặt đâu mặt vào nhau. Anh cho em chủ đề 14/35
mượn cánh tay anh để làm gối. Em thì thầm vào đôi mắt anh, chiếc mũi anh. - Đêm hôm qua, chiêm bao nữa đó! Anh nháy mắt. - Thấy anh không? Em cười, không trả lời. Em không trả lời bởi môi anh gắn lên môi em ngay sau đó. Khi anh buông em ra, đồng hồ trên cánh tay anh chỉ mấy giờ há? Khi không mà nhắc thời khắc vào lúc này. Đợi anh chút. Anh lồm cồm ngồi dậy, với công tắc, vặn cho ngọn đèn trong căn phòng sáng hơn. Rồi hai đứa lại nằm đâu mặt vào nhau. Bao giờ anh giàu, anh sẽ dọn ra khỏi đây ngay. Em biết chuyện đầu tiên anh sẽ mua sắm là gì không? Em lắc đầu chờ đợi. Anh hăm hở, một tấm nệm hiệu Epéda đó! Khuôn mặt anh cười rạng rỡ như đứa bé ham muốn được quà. Tấm nệm thật dày nè, thật lớn nè, dành cho hai đứa mình nghe. Ồ, hai chữ "hai đứa mình" anh vừa thốt ra nghe mới bình an làm sao. Anh lại kê cánh tay phải cho em làm gối như ban nãy. Anh thổi vào tai em những ngọt ngào tháng Sáu. Tháng Sáu có gì ngoài cái nắng bên ngoài và những cơn mưa vội vã bất chợt về lại thành phố. Anh thả những nồng nàn xuống cổ em. Đoạn nhạc cổ điển, "Sonate Au Claire De Lune" của Beethoven dịu dàng, lâng lâng, như muốn thôi miên người thưỡng lãm. Tháng Sáu, nếu như bên ngoài có đầy đủ nắng mưa và gió mát thì ngay trong căn phòng nhỏ như hộp diêm (dành riêng, để đón em đến), đang thắp lên ngọn nến tình tự lãng mạn nhất. Tin anh không Thuấn? 3 - Tui thề với bà là như thế đó… 4 Em vào tắm đi. Anh ngồi đây canh chừng cho. Em la hớt hãi. Không được đâu. Đừng anh. Nhưng anh lại cho là... rất được. Anh biện hộ rằng điều dễ thương nhất khi người ta yêu nhau là hai cơ thể đồng tình, đồng tâm với nhau. Anh nhấn mạnh thêm, chủ đề 14/36
phải thân và thương nhau lắm thì mới ân cần với nhau được. Chuyện đó bình thường mà. Em nói, lúc người ta yêu nhau khác. Còn lúc người ta tắm là chuyện khác. Hai chuyện hoàn toàn không giống nhau. Ngượng thấy mồ! Ai mà tắm bình thản khi có mặt một người thứ hai như thế chứ? Mỗi một phần trên cơ thể có đời sống riêng của nó. Anh cười, thôi thì em kéo tấm màn lại vậy. Anh ngồi ngoài tấm màn canh chừng, coi như không có nhìn thẳng thừng lắm. Vậy được chưa? Rồi, vậy cũng được. Em ậm ừ cho xong. Khi em bước ra khỏi dòng nước mát tự dưng như có ai đó dùng chiếc đũa thần gõ nhẹ trên người em. Một chiếc áo choàng mỏng, phủ lên người em. Những ngón tay bối rối tìm sợi dây thắt lưng. Em thấy anh ăn gian, anh không quay mặt đi (dù chưa một lần, mình ra điều kiện này bao giờ.) Anh bất chợt đứng lên. Anh tự dưng cũng có chiếc áo bằng khăn lông như người mới vừa tắm gội xong. Anh bần thần nhìn em. Có một giọt nước hờ hững đậu chỗ trái tim em phía bên trên chấm nâu hồng bé nhỏ. Anh vái trời cho cho giọt nước sẽ từ từ lăn xuống. Dừng lại. Ở ngay cái chấm nâu hồng ấy. Em biết gì không? Anh đang khát và anh sẽ uống giọt nước thơm ngời trên da em. Anh nương người em tựa sát vào tường. Áo em có cài thắt lưng hồi nãy nhưng những ngón tay anh đã tháo gỡ dây thắt lưng của em lúc nào không hay. Anh áp người anh vào người em. Như thể hai thỏi nam châm gặp nhau thì phải hút vào nhau. Dính rồi thì không cách nào tách ra được. Hai bàn tay anh luồn phía sau lưng em. Những ngón tay tự do bay nhảy. Cái cảm giác như người say nắng. Sốt. Mê man. Một lúc hai bàn tay anh thả xuống chạm vào hai bàn tay em. Những ngón tay tìm lấy nhau, siết chặt nhau, bám víu nhau. Anh nhẹ nhàng kéo hai bàn tay em lên cao, lên cao. Chúng ta sẽ như hai quả bong bóng nghe Thuấn, cùng bay lượn trên mây, băng qua sông, xuyên qua núi. Anh lau khô những giọt nước ướt trên người em. Trong mơ màng em nhớ mang máng anh hỏi: - Em thương anh nhiều hay ít? Em nói: - Nhiều là sao và, ít là sao? Không có tiếng trả lời. Em bất chợt rùng mình. Một điều linh thiêng nào đó đang vào trong em. Người em tự dưng khom lại. chủ đề 14/37
Hai cơ thể chúng ta lại lần nữa tìm đến nhau. Chắc là phải nhớ nhau lắm, thì cơ duyên mới cho tìm đến nhau như thế. Em quàng tay vào cổ anh. Em đan những ngón tay vào tóc anh. Em sờ lên mặt anh. Em cắn vào môi anh. Đau không? Hình như tất cả đều bay bổng. Những bong bóng xà phòng đang bay lượn khắp phòng. Cho đến khi bong bóng tan thành giọt nước thì hơi thở hai chúng ta cũng ngập trong sự thất thanh. Em rùng mình. Anh rùng rình. Tóc em che khuất khuôn mặt anh. Những sợi tóc em đâm vào mắt anh, có làm anh đau không? Anh không trả lời câu hỏi em nhưng lại nói một câu không ăn nhằm gì hết. Chúng ta sẽ có nhau hoài như thế này nghe, Thuấn? Em nhắm mắt, dúi mặt vào ngực anh. Em sẽ không bao giờ cho anh biết sự xúc động trong lòng em. Bởi tiếng thở và nhịp đập của trái tim đang bận rộn quyện vào nhau. Còn thời giờ đâu cất tiếng trong cõi vô cùng. 5 Bên ngoài bất chợt có tiếng lạch cạch như ai đó tra ống khóa vào cửa. Em là người nhận ra tiếng động lạ ấy đầu tiên. - Trộm anh ơi! Anh bịt miệng em lại, ra dấu cho em im lặng. - Bạn anh về đó mà. Ông chủ tàn nhẫn về đó mà! Ngọn đèn trong phòng tắt vội. Giai điệu của Beethoven bị đẩy lùi nấp sau cạnh ghế. Anh thì thầm, - Mấy giờ rồi vậy em? - Em không có đeo đồng hồ. - À, em có bao giờ đeo đồng hồ đâu. Anh quên mất. Để anh xem nghe. Mới có bốn giờ rưỡi hơn mà sao ông thần này đã về rồi vậy ta? Kỳ quá há! - Anh ơi, em mỏi cổ… Anh xoa nhè nhè lưng em. - Thuấn lên nằm trên người anh đi. Anh cắn vào vành tai em. - Anh làm nệm cho em ngủ một giấc nghe. Em đừng có nhúc nhích để gây lên tiếng động. - Tại sao? - Tại vì... chủ đề 14/38
6 Em gọi anh mấy lần mà không được. Lần nào người ta cũng nói anh bận họp hoặc mới vừa ra khỏi văn phòng. Em không để lại lời nhắn. (Mình quen thân như vậy. Mình thương nhau như vậy, mà chưa một lần anh tìm đến em qua điện thoại. Thành thử cho đến giờ em cũng không hiểu, Khoa Học tiến bộ, sáng tạo ra điện thoại dùng để làm gì?) 7 Thuận. Người thanh niên trạc tuổi anh. Vậy là biết được cái tên. Em cứ tưởng Thuận già khụ, (vì phải già nên mắt mới mờ, mới không thấy cái phòng Thuận cho anh thuê nhỏ như cái lỗ mũi). 8 Lần khác, chờ tin anh lâu quá nên em tạt ngang qua nhà trọ ghé thăm anh đại. Anh không có ở nhà nhưng Thuận, Thuận lại có mặt ở nhà. Ông chủ tàn nhẫn vô tâm của anh lại có mặt ở nhà! Thuận hỏi em uống nước gì để Thuận đi lấy. Em lí nhí lời cám ơn. Khi đi ngang qua căn phòng nhỏ như hộp diêm của anh, em mang một nỗi buồn hụt hẫng lạ kỳ. Thuận bỗng đẩy tách trà nóng, ngọt ngào, nhắc nhở. - Uống đi chứ, Thuấn! 9 Thật ngần ngại khi nghĩ rằng, em xao lãng nhớ anh? 10 Hành lý của em mang theo không gì khác hơn ngoài cái túi nhỏ y như là mỗi khi em đi công tác, đi học và ngủ lại trong chủ đề 14/39
khách sạn đài thọ của hãng. Máy chụp hình, máy nhạc, thuốc men phòng thân đau ốm, mấy tờ tạp chí và, sách. Em ung dung dọn hẳn về nhà Thuận ở. Như người ta điềm tĩnh mời anh bước ra khỏi nhà. Vậy là anh sẽ không có cơ hội dành dụm để mua được tấm nệm hiệu Epéda cho em dựa lưng thật êm. Nên từ đó, mưa biến thành những nốt chuông. Gõ xuống mùa Thu những giọt đắng. 11 - Trong Chùa không biết có lá đa không há? - Sao bà lại hỏi tui? - Thì thắc mắc vậy vậy đó mà. Bộ ổng là Phật Tử à? - Tui có biết đâu á! -… - Mà chuyện không có ăn nhặp gì tới tui cả! 12 (Nhất định là như thế. Chuyện không ăn nhập gì tới em cả. Mưa suốt một ngày bên trong Sainte-Anne (*). Mưa chắn lối anh đến. Mưa dật dờ yếu đuối hoang mang. Những lần động kinh chưa đủ lớn, thiếu tiêu chuẩn, nên anh không được phép nhập viện. Gương mặt áo trắng nhân ái nhìn anh. Tờ giấy ghi chằng chịt chữ rối trí anh. Ông hãy cố gắng nhớ uống thuốc cho đúng giờ đúng giấc. Ở nhà nghỉ ngơi tịnh dưỡng. Với nghị lực, mọi việc rồi sẽ qua. Anh không hiểu tại sao anh lại có mặt ở nơi này. Anh không nhớ gì nữa sau đó. Loáng thoáng dắt nụ cười khờ khạo nghe chữ có chữ không. Chữ gì hình như là nhà. Phải không? Người ta có nói câu gì đó anh nghe ra được chữ nhà mà, đúng không?) TRANG THANH TRÚC
(*) Sainte-Anne - Tên một bệnh viện tâm thần – Paris, quận 14.
chủ đề 14/40
H OÀNG CHÍNH chuyện kể bên giường
1
Bằng ngôn ngữ không chủ từ, bằng câu kệ không đầu đuôi, tôi cố thuyết phục bệnh nhân rằng chết không phải là chọn lựa thích hợp, rằng đâu đó trên thế gian này vẫn còn một người yêu thương cô hơn yêu thương chính mình, rằng trong những thứ con người có được, không gì quý bằng mạng sống. Tôi nói cho một mình tôi nghe. Tôi kể chuyện mẹ tôi. Tôi kể chuyện cha tôi. Tôi kể chuyện em gái tôi. Tôi kể chuyện nửa đêm tôi quýnh quáng lại nhà người bệnh. Con mắt đứa bé đã đứng tròng, chân tay co giật từng hồi. Đã muộn mất rồi. Nhưng người mẹ khóc lóc nài van. Chích cho cháu mũi thuốc hồi sinh. Hay thuốc gì cũng được. Miễn là có chích. Biết đâu cháu nó lại không chết. 2
Có nên vô thăm con nhỏ đó không. Cô y tá hỏi tôi. Những người mới ra trường – những con ma mới - hay hỏi lẩn thẩn. Cách tốt nhất là đừng bận tâm trả lời. Tôi ngó đôi mắt một mí rồi đón lấy tập hồ sơ mỏng, nhìn lướt dòng chữ nguệch ngoạc mà đêm trước loay hoay với con bệnh, tôi đã sai y tá viết vội. Cái tên đồng quê, nơi những bụi chuối rì rào sau khoảng vườn xanh um cây trái. Cái tuổi là của một người vừa bắt đầu biết liếc dọc liếc ngang khi đi qua quán nước có bọn trai trẻ ồn ào cụng ly, gõ muỗng. Tôi nheo mắt cố nhớ cái địa danh ở tuốt đâu trong xó chủ đề 14/41
kẹt một huyện lỵ miền sông Hậu, nơi phải quá giang đò máy mỗi lần ra phố chợ. Ông thầy nhớ cẩn thận. Cô y tá dặn dò. Hồi hôm con nhỏ đó dợt bác y công ể mình luôn. Tôi nhìn cái dáng mỏng như tàu lá chuối. Sao vậy? Ông thầy hỏng tin hả. Cô đẩy khẽ tôi đứng yên một chỗ rồi chạy vụt đi. Cái bóng nhỏ bé trong chiếc áo choàng lùng thùng luồn lách giữa những giường bệnh, ghế ngồi, chiếu rách và người chen chúc nhau trong khoảng hành lang hẹp. Cái bóng thoăn thoắt gợi nhớ đến đám chuột nhắt thường xục xạo kiếm ăn ở phòng trực. Những con chuột bé tí nhưng khôn và nhanh hết biết. Vài giây sau cô trở lại, kéo theo người y công. Nhùng nhằng như hai người bắt nợ. Ông thầy coi mặt chú Tư nè. Sưng thấy sợ luôn. Tôi nhìn cái trán giồ lên một cục mầu đỏ thẫm. Sao vậy? Con nhỏ đó đó. Ma mới trả lời hớt. Người đàn ông thấp bé đưa tay đỡ một bên đầu, nheo mắt suýt soa. Hồi đêm con nhỏ tỉnh dậy, thấy nó khát nước tội nghiệp, tui đem nước cho nó uống ai dè nó quăng cái ly lên đầu tui. Đồ quỷ cái. Tôi chạm ngón tay lên u trên trán người y công. Có nhức không, lấy thuốc trong phòng khám uống đỡ. Người đàn ông lắc đầu. Nhằm nhò chi đâu ông thầy. Hổng sao đâu, chú Tư bị thím Tư uýnh hoài à. Ma mới chêm vào rồi che miệng cười khúc khích. Chuyện bác y công bị vợ đánh xưa lắm rồi, chỉ ai mới nghe lần đầu mới có thể bật cười như thế. Cô y tá này chưa được bà trưởng phòng nhân viên huấn luyện kỹ lưỡng. Tôi tự nhủ sẽ giảng cho cô ta bài học xử thế. Bệnh nhân và người nhà nằm ngồi la liệt thế này mà y tá, y công đùa giỡn thì còn gì thể thống. Thấy tôi chăm chú nhìn vào hồ sơ bệnh lý, con ma mới và người y công kín đáo liếc nhau rồi ngập ngừng bước về phía phòng “săn sóc đặc biệt”. Nghe có vẻ trầm trọng, thực ra chỉ là căn phòng cũ kỹ, hôi mốc mà nhân viên đã cố làm cho ra vẻ “chuyên môn” bằng cách kéo lên những bức vách xiên xẹo rồi tẩm thật nhiều mùi cồn và thuốc sát trùng lên nền nhà và những tấm khăn trải giường. chủ đề 14/42
Vừa lách qua khung cửa, bắt gặp cái bọc nhựa có chai thuốc tẩy mầu và bộ quần áo nhăn nhúm, tôi quay sang hỏi ma mới. Sao lại để những thứ đó ở đây. Cô lúng túng tìm câu trả lời. Chút bối rối trong những chớp mắt tan vào cái nghịch ngợm trẻ con. Ngôn từ nhảy nhót trên cánh môi. Dạ, mấy chị bên cấp cứu chuyển nguyên con lên như vậy đó. Ma mới nháy mắt với người y công. Anh ta nhanh nhẹn chộp lấy bọc hành lý của Thần Chết, thoăn thoắt bước đi, đôi dép nhựa quét xàn xạt trên nền xi măng. May mà bệnh nhân không uống nửa chai còn lại. Tôi nói. Hai con mắt một mí bối rối nhìn ra cửa sổ nơi chút nắng đầu ngày nhấp nháy trên khung kính mờ. Không còn gì để nói. Cô y tá sượng sùng chôn chân trên nền nhà. Cái đầu hơi cúi nhưng con mắt nhìn lên, dán lên tôi một nửa tia nhìn nghi ngại, thân mình khẽ đu đưa như vướng mắc một điều muốn nói. Nhưng cô chưa kịp nói gì thì người y công đã vạch đám bệnh nhân và thân nhân tụ tập trong hành lang hẹp, hổn hển trở về. Vào phòng săn sóc đặc biệt, hai ngưòi chia nhau đứng hai bên giường bệnh như sẵn sàng ra tay can thiệp khi có chuyện bất ngờ. Bốn con mắt dán vào cái khối lùng nhùng chăn gối võng xuống trên chiếc giường cũ mà lò so đã giãn tới cực độ. Cô y tá run run giở mép tấm khăn, thì thào. Thắm ơi, Thắm à! Tiếng thở phì phò vọng ra từ dưới lớp vải. Vệt vàng sậm loang trên tấm khăn trông giống hình một bàn tay bốn ngón. Cái thân người nằm nghiêng co quắp ấy khẽ nhúc nhích. Hai chân hơi duỗi ra. Một bên vai lay động, chiếc lưng uốn éo. Tôi gấp hồ sơ lại, bước tới bên giường. Đã ngửi không biết bao nhiêu năm tháng cái mùi phòng săn sóc đặc biệt mà tôi vẫn không khỏi thấy ngứa hai hốc mũi. Cái ngứa sần sượng khiến mình chỉ muốn luồn chiếc bàn chải nhỏ vào mà chà sát cho thoả thuê. Cô y tá lay nhẹ chỏm vai người bệnh. Thức dậy, sáng rồi. Tiếng ậm ừ trong cuống họng luồn ra khỏi chiếc gối ủ quanh đầu và lớp vải khăn trải giường cũ kỹ nghe xa xôi như vọng ra từ trong vách tường xi măng tróc lở. Bàn tay cô y tá lay mạnh hơn.
chủ đề 14/43 Âm thanh ngầu đục lại phát ra, lần này nghe như tiếng gầm gừ của con thú bị bỏ đói lâu ngày. Giọng cô y tá khẩn trương hơn. Thức dậy, Thắm à. Hổng muốn thức. Trong chuỗi âm thanh sần sượng tôi nghe ra ba chữ ấy. Chắc cô y tá cũng nghe được nên cô kéo bật hẳn góc khăn trải giường ra khỏi đầu người bệnh. Góc khăn tuột ra nhưng khuôn mặt vẫn vùi sâu dưới tấm gối trắng. Mảng tóc đen lòa xòa trên nệm. Người y công đánh nhịp bàn chân phải. Trong mắt anh ta thẫm cái mầu tối ám. Tui không muốn thức. Tui muốn chết. Câu nói mạch lạc luồn ra từ chiếc gối nhàu. Cánh tay vòng quanh đầu như vòng gai cứu chuộc. Những móng dài tróc loang lổ. Buổi chiều hôm trước, lúc rửa ruột cho bệnh nhân, tôi không để ý cái màu sơn máu bầm ấy. Tui không muốn thức. Để tui ngủ luôn. Cô y tá lắc nhẹ chiếc vai gầy. Nói gì nói lại nghe coi. Trường lớp nào đào tạo ra cô học trò y tế nói chuyện không chút năng khiếu nghề nghiệp như thế. Tôi chưa kịp nói gì thì ngưòi y công xen vào. Thức dậy cho bác sĩ khám bệnh. Tấm khăn đắp nhăn nhúm như mặt nước ém con sóng ngầm. Bất chợt mặt nước ấy bung ra thành lòng sông sủi bọt giữa những đợt sóng cuồng. Bàn tay móng đỏ giật mặt gối sang một bên. Cái đầu rũ rượi rồi cả thân hình nhàu nhò xoay lại phía giọng đàn ông vừa mới phát ra. Bác sỉ hả. Thằng cha bác sỉ bất nhân đó hả. Chả còn lại đây làm chi. Cả thân người vùng vẫy như con cá bị đập đầu. Hai chân đạp nhùng nhằng trong tấm khăn. Thân thể oặt oẹo cơn động kinh hoảng loạn. Tui không muốn thấy mặt cái người bất nhơn. Kêu thằng chả đi đi. Thắm à. Thắm. Cô y tá vừa luống cuống đặt hai bàn tay lên vai ngưòi bệnh vừa rối rít gọi.Thắm ơi.Ngoan đi cưng. Ngoan đi mà. Bác sỉ H. nè, bác sỉ H. đã cứu Thắm hồi hôm qua đó, biết không? Bác sỉ hả, bác sỉ gì mà dô nhân đạo dị chớ. Cái đầu lắc lư, tóc rối như miếng bùi nhùi rách. Con mắt nhắm nghiền, răng nghiến vào nhau. Hai tay vung đập cả lên thành giường. Mấy người đi hết đi. Rồi con mắt bỗng nhiên trợn trừng. Tay vồ lên mặt cào cấu. Mười vệt móng tay vạch đỏ lừ hai má.
chủ đề 14/44 Những đường kẻ răng cưa tươm máu. Cái lưỡi tím ngắt thè dài, nhớt rãi trào ra. Mấy người không đi tui cắn lưỡi tự sát cho coi. Âm thanh đọng lại nơi hai hàm răng kềm chặt chiếc lưỡi nhầy nhụa nước bọt.
3
Lúc ra ngoài hành lang, cô y tá đi sát vào tôi, thì thầm. Đúng là làm ơn mắc oán, thày há. Phải trả lời sao đây. Nếu coi là việc phải làm thì có chi là ơn nghĩa và có gì đáng gọi là oán. Ý nghĩ xoay trong đầu. Nhưng đó đâu chỉ thuần túy là công việc. Thân xác tím bầm vật vã trên chiếc giường xô lệch đâu thể coi như chiếc máy bơm hư, chỉ cần thay những ống cao su mới. Trong cái thân thể nhàu nhò ấy còn cả một thế giới tâm linh. Nhắm chừng con nhỏ có sống được hông, hả thày? Thân thể mỏng gầy của cô chạm nhẹ vào người tôi trong lúc rảo bước nhưng câu hỏi thì chạm mạnh vào một góc vắng tư duy. Trong một giây, cái thắc mắc ngàn đời ấy khuấy động cả tâm tư người thầy thuốc. Niềm tự hào bốc lên như luồng hơi nóng trong nồi nước tự ái đang sôi. Sống chứ.Tôi quả quyết.Dù cô ta không muốn cũng không được. Rồi tôi ngưng ngay câu nói. Kẻ nào đó trong tôi nhắc nhỏ rằng nói năng như thế có quá đáng không. Hình ảnh những lọ thuốc lem luốc, những bọc nước biển đục lờ, những ống chích với kim tà đầu xài đi xài lại, những dao kéo cùn mằn kéo nhay vết mổ diễu hành trong trí. Nhưng bên những trang bị nghèo hèn ấy còn một thứ mà bệnh nhân của tôi có thể sẽ cần đến, thứ ấy là hàng ngoại, quà tặng nhân đạo từ Bắc Âu. Thế nên tôi tạm yên lòng. 4
Ngoài ba mươi tuổi. Những nếp nhăn trên trán và mái tóc lốm đốm sợi bạc khoe với cuộc đời như thế. Anh là người nhà của cô Thắm à. Hai bàn tay đang thả xuôi theo thân mình, bắt gặp câu hỏi, vội xoắn vào nhau. Dạ thưa. Một chút ngần ngừ. Hai con mắt ngó chủ đề 14/45
nghiêng. Rồi hai con mắt vẽ xuống nền xi măng lồi lõm câu trả lời vòng quanh nét bút chì trẻ con nguệch ngoạc trang giấy. Dạ hỏng phải người nhà. Tôi nhìn những ngón tay như những đốt mía gầy guộc tìm chiếc nhẫn làm tin. Nhưng những ngón tay anh chỉ đeo đầy vết sẹo. Sao mà ngây ngô. Tôi mắng mình như thế. Xứ sở miếng ăn còn không có, nói gì chiếc nhẫn đính hôn giữa những kẻ yêu nhau. Hay là bạn. Tôi hỏi. Cái đầu toan lắc bỗng gật dồn dập như chiếc dùi gõ hoang lên mặt trống. Con mắt nhìn tôi. Cái nhìn lo âu của đứa bé ăn trộm sợ chủ nhà phát hiện thêm món đồ còn giấu trong cạp chiếc quần tây nhăn nhúm. Tôi hỏi vì tôi muốn biết thêm chi tiết về cô ấy mà điều trị cho đúng. Rồi nhìn những ngón tay đang xoắn lấy nhau trước cái bụng hõm vào sát xương sống, tôi nói nhỏ, đủ cho một mình anh ta nghe. Tôi không phải công an, đừng sợ. Dạ, tui mang ơn. Câu nói nhỏ đủ để một mình tôi nghe thấy. Anh đứng trơ ra đấy. Cái mặt cúi gằm, con mắt nhỏ. Tia nhìn lấp ló phía sau hốc mắt sâu. Vành xương ổ mắt cong và vồng lên như vết điêu khắc trên pho tượng thạch cao làm cho tia nhìn sâu hun hút. Vào đây cho tôi hỏi thăm vài chuyện. Hai bàn tay đặt lên nhau ngại ngần. Dạ. Tôi xoay lưng bước đi. Được vài bước tôi quay lại. Người đàn ông vẫn đứng đó. Tôi dừng lại, nhướng mắt nhìn anh ta. Hai bàn tay vẫn đắp lên nhau. Những ngón sần sượng xoắn xuýt. Rồi cặp môi thâm co lại, vạch ra những chiếc răng khập khiễng. Tôi đưa tay, vạch một cử chỉ mơ hồ. Vào phòng trực, tôi hỏi chút chuyện. Hàm răng mở ra. Câu nói phều phào như hơi thở. Dẫu khoảng cách chỉ ba bước chân, tôi vẫn không nghe được cái câu anh nói. Tôi bước ngược về phía anh. Đợi tôi đến gần, anh thì thào. Sợ em Thắm hổng chịu. Tôi ngạc nhiên. Sao vậy. Co người lại như cố giấu mình ở phía sau một thân cây vô hình, tránh luồng gió lạnh, anh nhìn quanh, nhớn nhác. Sao lại sợ cô ấy không chịu. Mà không chịu cái gì.
chủ đề 14/46 Hổng cho gặp. Tôi nhìn chăm chú vào con mắt sâu. Sao lại không cho. Tại em Thắm hổng thương. Bọn y tá y công trong trại bệnh tất tả với công việc nhưng chẳng người nào quên ném về phía chúng tôi cái nhìn soi mói. Cái tin bác sĩ trưởng khoa nội bị bệnh nhân xỉ vả giữa thanh thiên bạch nhật chỉ một buổi là lan rộng khắp thị xã. Nhân viên các trại bệnh tạt ngang phòng trực hỏi thăm xa gần. Những con mắt ái ngại giùm cái đời "làm ơn mắc oán" nhưng cũng có những ánh mắt xét nét, hả hê. Tôi nắm lấy tay áo anh, kéo về phía phòng trực. Anh cưỡng lại một chút rồi nhùng nhằng bước theo, như đứa học trò hư bị giám thị lôi vào phòng hỏi tội. Ngồi xuống đây đi. Tôi khẽ đẩy anh vào chiếc ghế có lưng dựa bằng nệm vải. Dạ cho tui đứng, tui mang ơn. Tôi nhìn vào con mắt sâu. Anh biết cô Thắm bị gì không. Dạ biết, em Thắm tui uống thuốc tẩy tự sát. Mấy người học chung lớp đổ thừa em Thắm tui ăn trộm chiếc cà rá, em Thắm tui hổng có lấy. Tui biết em Thắm tui hổng bao giờ làm chuyện đó. Dù em Thắm tui không thương tui, bỏ tui lên tỉnh học nhưng tui hống giận em Thắm tui. Tui biết em Thắm tui hổng tham lam. Hổng ai tin em Thắm tui, em Thắm tui uống thuốc tẩy để minh oan. Em Thắm tui có bề gì tui sống với ai. Cái mặt cúi gằm bỗng ngước lên, vẩy ra những giọng nước mắt. Mà em Thắm tui có sao hông bác sỉ. Anh ngừng lại để thở. Nước mắt lăn dài hai gò má. Hai bàn tay vẫn níu lấy nhau, mặc cho nước mắt khơi dòng. Tôi nhìn đám bệnh nhân và thân nhân hiếu kỳ lấp ló ngoài khung cửa, vẫy tay ra dấu cho họ để chúng tôi yên. Thiệt tình, cánh cửa phòng trực không biết đến bao giờ mới sửa xong. Nhắm chừng em Thắm tui có sống được hông, bác sỉ. Anh lặp bặp câu hỏi. Sống chứ. Câu trả lời của tôi đầy ắp tự tin. Vấn đề là làm sao thuyết phục cho cô bệnh nhân ấy yêu được cuộc sống này, để mai mốt về, cô không phải tìm cách quyên sinh nào khác. Nhưng tôi không thể nói với anh điều đơn giản ấy. Cô Thắm sẽ hết bệnh, sẽ về... Tôi ngưng ngang. Sẽ về đâu. Ngôi
chủ đề 14/47 trường có nhà tập thể nơi người ta nghĩ cô là quân trộm cắp hay về với người thanh niên chất phác đến ngẩn ngơ này. Dạ, tui mang ơn. Câu nói và cái gật đầu nhanh nhảu của anh gỡ tôi ra khỏi cái điều khó nói. Anh vừa đi khỏi, ma mới lách ngay vào phòng trực. Và ném xuống mặt bàn gỗ câu hỏi quen thuộc. Nhắm chừng con nhỏ đó có sống không hả thày. 5
Chiếc giường trĩu nặng. Không gian võng xuống cái mùi thân thể đã lâu không tắm gội. Tôi nói cho một mình tôi nghe. Tôi kể đủ thứ chuyện. Chiếc ghế có lưng tựa lung lay và bốn chân lỏng lẻo biết than van vì sức nặng kẻ ngồi lên nó. Tôi nhúc nhích để chiếc ghế nhắc nhở xa xôi với bệnh nhân rằng chuyện tôi kể sẽ không bao giờ có đoạn kết. Và tôi sẽ ngồi đây mỗi tối. Trong căn phòng này, nói chuyện với bốn bức tường, với những linh hồn lẩn khuất trong bệnh viện vẫn mỗi tối, trong cái chập choạng của buổi hoàng hôn, lũ lượt kéo nhau về qua chốn này. Tôi kể chuyện mẹ tôi. Tôi kể chuyện cha tôi. Tôi kể chuyện em gái tôi. Tôi kể chuyện nửa đêm tôi quýnh quáng lại nhà người bệnh. Con mắt đứa bé đã đứng tròng, chân tay co giật từng hồi. Muộn mất rồi. Nhưng người mẹ khóc lóc nài van. Chích cho cháu mũi thuốc hồi sinh. Hay thuốc gì cũng được. Miễn là có chích. Biết đâu cháu nó lại không chết. Mũi kim nhọn ánh lên dưới ánh đèn dầu trong đêm tối. Lần nào kể đến đó tôi cũng ngừng lại bởi tiếng thở rất đều cái nhịp bình yên của đứa bé say ngủ. Cô gái mười chín tuổi. Cô ngủ dễ như trẻ thơ. Biết đâu cháu nó lại không chết. Mũi kim nhọn ánh lên dưới ánh đèn dầu trong đêm tăm tối. Lần này kể đến đó tôi không ngưng vì hơi thở đều nhịp mà vì tiếng sụt sùi. Khuôn mặt mà tôi chỉ thấy được khi cô ngủ say đang áp sát vách tường. Mùi vôi khô chắc phải quyện vào hơi thở. Cô nhất quyết không thèm nhìn mặt cái kẻ đã giữ cô lại nơi chốn trầm luân. Và cô tịnh khẩu kể từ cái hôm đòi cắn lưỡi ngay
chủ đề 14/48 trên chiếc giường này. Nhưng sao tiếng khóc tấm tức ấy lại làm lòng tôi bình yên. Thày ăn mì hông thày. Ma mới hỏi và đứng yên chờ câu trả lời. Mình có ăn mì không. Tôi thầm hỏi tôi. Hay hủ tíu Mỹ Tho. Ma mới hỏi tiếp. Mình có ăn hủ tíu Mỹ Tho không. Tôi lại nghe tôi hỏi tôi như thế. Hay thày thích hủ tíu Nam Vang. Ma mới nhanh nhảu đổi qua món khác. Mình có thích hủ tíu Nam vang không. Tôi lại hỏi tôi. Hủ tíu Nam Vang thì có gì trong đó và khác hủ tíu Mỹ Tho chỗ nào. Tôi hoàn toàn không nhớ ra. Chắc chắn giống nhau ở những sợi hủ tíu trắng tinh. Thày. Con ma mới gằn giọng. Và tôi bắt đầu bực mình. Cô đói thì đi ăn đi, tôi không đói. Nhưng ma mới không chịu thua. Em mua về cho thày, thày khỏi mắc công đi. Từ trưa tới giờ thày chưa ăn gì mà. Tôi vẫn dán mắt vào cuốn cẩm nang in đầy tiếng nước ngoài. Trên trang giấy bóng, những hình ảnh nhảy múa như đám nghệ sĩ non tay nghề cố dành chỗ đứng trên chiếc sân khấu hẹp. Thì mua gì cũng được. Hủ tíu Nam Vang hay hủ tíu Mỹ Tho hả thày. Gì cũng được. Hủ tiếu Mỹ Tho được không thày. Khi muốn được chú ý, người ta dễ thành lố bịch. Tôi dùng tất cả sức lực đang có trên tay để gập cuốn sách lại thay cho một lời giận dữ. Nhưng khi ngước lên, bắt gặp đôi mắt có tia nhìn khẩn thiết, lòng tôi chùng xuống. Giọng tôi mềm oặt. Mua giùm tôi tô cháo lòng. Đôi mắt chợt tròn xoe. Vậy mà thày nói gì cũng được. Cô xoay lưng dợm bước nhưng đôi chân bất ngờ sựng lại. Tóc lòa xòa trên trán. Tóc đùa cái lưng thon. Môi mỏng như miếng mứt dừa. Nhắm chừng con nhỏ đó có sống được hông hả thày. 7
Bằng ngôn ngữ không chủ từ, bằng câu kệ không đầu đuôi, tôi cố thuyết phục bệnh nhân rằng chết không phải là chọn lựa thích hợp,rằng đâu đó trên thế gian này vẫn còn một người yêu thương
chủ đề 14/49 cô hơn yêu thương chính mình, rằng trong những thứ con người có được, không gì quý bằng mạng sống. Tôi nói cho một mình tôi nghe. Tôi kể chuyện mẹ tôi. Tôi kể chuyện cha tôi. Tôi kể chuyện em gái tôi. Tôi kể chuyện nửa đêm tôi quýnh quáng lại nhà người bệnh. Con mắt đứa bé đã đứng tròng, chân tay co giật từng hồi. Muộn lắm rồi. Nhưng người mẹ khóc lóc nài van. Chích cho cháu mũi thuốc hồi sinh. Hay thuốc gì cũng được. Miễn là có chích. Biết đâu cháu nó lại không chết. Mũi kim nhọn ánh lên dưới ánh đèn dầu trong đêm tăm tối. Vậy mà thằng bé lại sống, cô Thắm biết không. Bây giờ cô Thắm biết thằng bé ấy đang làm gì không. Nó học y tá. Nhà nó nghèo không vào trường y được nhưng nó nhất định làm y tá để cứu người. Cô gái vẫn nằm nghiêng quay mặt vào tường. Lạnh băng tượng gỗ. Đôi vai khẽ chuyển động như vật trôi bồng bềnh trên mặt sóng. Tôi thầm đếm nhịp thở bệnh nhân. Rất đều. Dấu hiệu nguy kịch đã qua. Thần kinh ổn định. Bao tử chắc xốn xang ít nhiều nhưng rồi cũng bình yên. Có lo là lo hai trái thận vất vả lọc ra những chất độc. Rồi chỉ cần thuyết phục cô một cách đơn giản rằng chả tội gì phải chết. Nhưng chỉ điều nhỏ nhoi ấy thôi cũng đã vô cùng khó khăn. Tôi nói chuyện với bốn bức tường vôi trắng. Tôi nói chuyện với lũ sóng bạc nhược dắt díu nhau trải lên bờ cát những vẩy bọt xám. Biển ở bên kia con phố le lói ánh đèn. Ngày xưa có thời tôi nghĩ sống hay chết cũng vậy thôi. Cái thời mới vào đại học. Cái thời suy tư triết lý trẻ con. Cuộc sống đầy những mâu thuẫn. Có bao nhiêu người cố bám lấy sự sống một cách vô vọng. Chiến tranh. Sự nghèo đói, bệnh tật. Nỗi đau đớn thể xác, sự khổ đau tâm hồn. Tôi nói dông dài như gã bán thuốc dạo trong gánh xiệc. Tôi nói với bốn bức tường. Tôi nói với những ngày còn đi học của tôi. Tôi nói với những người bệnh mà tôi đã bỏ cuộc trong trận giằng co với Thần Chết. Tôi quên là cô bệnh nhân của tôi mới mười chín tuổi, cái tuổi bắt đầu biết chọn mầu sơn móng tay cho đẹp mắt. Thì đã sao. Nếu cô ấy không nghe thì tôi nghe. Và bốn bức tường này cũng nghe. Cả những người đã chết trong căn phòng này mà linh hồn còn lẩn khuất quanh đây cũng nghe. Còn nữa, những nhân viên trực đêm đang lấp ló ngoài khung cửa, tai ép sát vách tường, lắng nghe tôi trò chuyện. Cuộc chiến đấu gay go. Chúng tôi mới chỉ thắng trận đánh thứ
chủ đề 14/50 nhất. Chúng tôi mới chỉ đổ quân xuống được một đầu cầu. Nhưng tôi vẫn kiên trì kể lể. Tôi kể chuyện cho cả thế gian cùng nghe. Chợt cô bệnh nhân của tôi trở mình, tôi nín thở chờ một cơn phẫn nộ. Tôi nghe được cả tiếng những trái tim đập lỡ nhịp ngoài khung cửa. Giầy dép lao xao dẵm lên nhau. Nhân viên trực đang săn tay áo, chuẩn bị giải cứu tôi. Nệm giường nhún nhẩy theo cái trở mình. Chiếc vai xuôi nghiêng. Bệnh nhân bỗng dưng xoay người ra phía tôi. Con mắt ướt nhòe. Con mắt nhìn tôi. Trong tia nhìn có chút gì đó như ánh nắng le lói sau cơn giông. Con gặp người đó được hông? Câu hỏi bất ngờ làm lồng ngực tôi thắt lại. Có tiếng reo vui hớn hở nào đó bị nén lại bên ngoài khung cửa. Tôi hình dung đám nhân viên ôm lấy nhau mừng rỡ như khi gặp lại nhịp đập hồi sinh của trái tim bệnh nhân hấp hối. Người nào, cô Thắm muốn gặp người nào. Tôi lắp bắp. Cái người học y tá đó. Tiếng reo hò trong lòng tôi át cả tiếng cười nói vỡ òa ngoài khung cửa. Thắng rồi, mình thắng rồi. Giọng ma mới - không lẫn được với ai - hòa với giọng đàn ông trầm đục. Vậy là em Thắm tui chịu sống rồi. Cô níu lấy bàn tay tôi. Những móng dài sắc cạnh cứa lên da thịt tôi như khắc ghi lời nguyền. Con hổng muốn chớt đâu, con nhớ nhà, con nhớ má con, con nhớ ngoại con. Bác sĩ đừng bỏ con chớt tội nghiệp... Không bỏ đâu. Tôi luống cuống với cơn xúc động. Bác sỉ phải hứa hổng bỏ con. Hứa. Tôi trả lời, lòng đầy ắp niềm tin. Cô nuốt nước bọt một cách khó khăn; nụ cười nhòe nhoẹt chợt méo xệch trên khuôn mặt trẻ thơ Ngoéo tay mới tin. 8
Ma mới đi rồi, tôi lại loay hoay với cuốn cẩm nang giấy láng chằng chịt những chữ. Tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng
chủ đề 14/51 Nhật, tiếng Ả Rập, tiếng Thụy Điển. Làm sao biết được đó là tiếng Ả Rập, lỡ tiếng Miên tiếng Lào thì sao nhỉ. Lúc khui cái máy ra khỏi thùng, bọn y tá đã cãi nhau những chuyện trẻ con như thế. Tiếng Miên tiếng Lèo ngoằn ngoèo giun sán còn tiếng Ả Rập có mẫu tự đàng hoàng, chữ tượng hình sang trọng quý phái.
Làm như rành văn minh Ả Rập lắm vậy. Chứ sao. Ngôn ngữ của một phần tư nhân loại. Ngưòi chuyên viên phòng xét nghiệm gật gù. Người chuyên viên phòng thí nghiệm đã trải qua bao nhiêu thăng trầm. Anh ta kể lại như thế. Thử bao nhiêu nghề cuối cùng dừng lại ở nghề hút máu người. Cho dù hút qua mũi kim cũng là hút máu, cũng là ma dơi, ma cà rồng. Mấy cô y tá hay xúm vào chọc ghẹo anh ta như thế. Có mặt trong cuộc tranh luận ấy nhưng tôi chỉ lặng thinh. Không biết chắc có phải một phần tư nhân loại nói tiếng Ả Rập không nên tôi im lặng. Nhưng bà y tá ngoại khoa quay qua tôi để tìm đồng minh. Phải không ông thầy. Phải tiếng Ả Rập không. Đang loay hoay với những cái nút, những ngọn đèn xanh đỏ, tôi buộc lòng lật vội những trang giấy bóng. Đây rồi. Ở góc mỗi trang, có cái chữ nhỏ xíu ghi tên ngôn ngữ trình bày. Tôi dõng dạc gật đầu. Người chuyên viên phòng xét nghiệm hét lên mừng rỡ. Đám y tá trẻ thích thú hùa theo. Cái máy ấy người ta còn giữ hay đã bán đi rồi. Tiếng dép lê ngoài cửa. Tôi ngước lên, bắt gặp cái nhìn đắc thắng của gã đẹp trai. Trong bệnh viện này ngoài hai ông bác sĩ sắp về hưu, người nhân viên phòng quang tuyến, vài anh y công trong đó có người đàn ông bị ném cái ly lên đầu, chỉ còn lại tôi và gã chuyên viên xét nghiệm. Hai gã đàn ông độc thân. Hai con cọp bị nhét chung một xó rừng. Ông thầy. Vừa nghĩ đến là hắn hiện ngay trước mặt tôi như bóng ma. Như thể con người này vừa từ bậc thềm trí tưởng tượng tôi bước ra. Hắn đấy. Mảnh giấy phất phơ trong tay. Kết quả thử máu con nhỏ đó có rồi. Hôm nay hắn sơ mi nhét trong quần, tươm tất như cậu học trò. Ông thầy nghĩ con nhỏ ấy sống nổi không. Cái điệp khúc quen thuộc. Tôi khẽ nhún vai, đưa tay đón lấy mảnh giấy kết quả xét nghiệm. Kết quả coi bộ không êm hả ông. Gã trai lơ tiếp. chủ đề 14/52
Tôi liếc những con số. Kết quả thế này thì không êm thật. Phải mượn cái máy về gấp. Tôi kết luận. 8
Cơn mê nhận chìm người bệnh vào đêm tối. Những con số nhảy múa trên tờ kết quả xét nghiệm. Những con số khốn nạn khiêu khích chúng tôi. Những con số trần truồng khiêu vũ trên mầu vũng mầu trắng bệch của làn da sũng nước. Lay gọi vô phương. Mới nói chuyện sáng nay, giờ đã mê man gỗ đá. Mới tíu tít kể cho nghe về những buổi chống ghe lùa bầy vịt hàng trăm con kêu réo vang động một góc trời đã con mắt lạc thần, ngón tay co quắp. Tôi giộng mạnh cái ống nghe điện thoại như gõ cho rụng bớt bụi bặm đóng trong đầu những người quyền thế ở đầu dây kia. Anh cần máy lọc thận làm gì. Kẻ nào đó lập lại cái câu cũ rích. Tôi muốn hét vào mặt cái kẻ giằng co ở đầu kia nhưng cô học trò đứng ngay trước mặt tôi, hai tay chắp lại, van xin. Bọn họ nói nhiều quá. Đủ thứ lý do. Tôi chỉ mượn lại cái máy ấy ít hôm. Phái đoàn y tế Thụy Điển qua thăm cho chúng tôi cái máy làm phép lạ ấy nhưng bọn họ lấy đi. Chúng tôi lý sự với nhau đủ cách. Rồi bọn họ lại hỏi tôi cần máy lọc thận làm gì. Tôi đã nói bệnh nhân của tôi suy thận cấp tính. Họ lại hỏi vì sao suy thận. Rồi kẻ nào đó nói vọng vào rằng có phải con bé uống thuốc tẩy mầu để tự tử đó không. Đáng đời quá rồi. Kẻ nào đó cười rộ lên thích thú. Có phải con bé chửi ông như tát nước vào mặt đó không. Chuỗi cười dài như những toa xe lửa chạy sầm sập trên đoạn đường sắt bắc ngang óc não tôi. Cô y tá quơ tay ra dấu. Cái miệng thì thào. Môi mỏng như miếng mứt dừa ngày tết. Đầu lắc cuống cuồng. Đừng nổi nóng, ông thày ơi. Nổi nóng hư chuyện hết ráo trọi. Nhưng không nổi nóng sao được. Tôi đã làm đơn xin mượn cái máy làm phép lạ ấy ngay khi rửa ruột xong cho bệnh nhân. Quân khốn nạn. Răng tôi cắn chặt môi dưới. Thế nào cũng có máu bầm. Vết bầm trên môi đặm mầu như bị cắn khi được hôn. ch ủ đề 14/53
Bảo nó ráng chờ tới tháng sau đi. Kẻ kia nói thế rồi đập cái ống nghe xuống mặt bàn. Tai tôi điếc ù. Vậy là xong. Tôi nhìn cái ống nghe điện thoại. Tôi căm thù cái điện thoại đen bóng này biết chừng nào. Tôi vừa mới thuyết phục được cho một người ham sống. Tôi vừa mới hứa sẽ không bỏ người ta. Mười chín tuổi, vừa mới bắt đầu yêu lại cuộc đời. Cô y tá mỏng như trang giấy. Trang giấy nhìn tôi. Trang giấy sột soạt. Con mắt một mí long lanh ngấn nước. Cánh môi mấp máy cái điệp khúc xưa quá là xưa.
Nhắm chừng con nhỏ đó có chết hông hả thày? HOÀNG CHÍNH 31 tháng 07, 2008
chủ đề 14/54
THINH VĂN loạn động
Chiếc ấm Trà cạn queo Những cốc đất bình tịnh Ngồi quanh Bóng Tiếng chim cu hiển lộ Trí tưởng Phân tâm Loạn động Chết trong từng khoảnh khắc Nên đã vượt ra ngoài cái chết Sống như đang sống Cuộc sinh thể nhảy múa Hôm qua Ngày mai Rơi tỏm vào: NƠI ĐÂY- BÂY GIỜ Cây Tre Bám chặt vào Đất Cây tre mọc lên trong đầu Rỗng không Những nhánh Những chồi Trở mình loạn động Buông lơi Không còn gì để tra gạn Những sợi tóc rụng Ung dung bên Chiếc ấm đất không trà THINH VĂN
chủ đề 14/55
TRẦN VĂN TÍCH y học trong văn học
Y học trong Phổ thuyết tứ sơn
Vua Trần Thái Tông từng nghiên cứu cả Nho học lẫn Phật học. Hoàng đế sáng tác nhiều nhưng chỉ còn truyền lại cho chúng ta hai bài thơ, hai bài văn, hai bài đề tựa và một tác phẩm nổi tiếng là Khóa hư lục. Thuộc tác phẩm này có bài nói về bốn núi (Tứ sơn); cho nên người đời sau đặt cho nó đầu đề Phổ thuyết tứ sơn. Tứ sơn mô tả tứ khổ (sinh, lão, bệnh, tử) của giáo lý nhà Phật. Sau phần dẫn nhập trình bày tổng quát lẽ sinh hóa sắc không, tác giả dành cho mỗi núi một đoạn văn giảng giải chi tiết về sinh lý bệnh lý của mỗi nỗi khổ rồi kết thúc bằng một bài kệ. Cả bốn đoạn cùng có kết cấu giống nhau, đặt dưới bốn tiểu đề: Nhất sơn, Nhị sơn, Tam sơn, Tứ sơn. Người xưa tuy theo Nho theo Phật nhưng thường vẫn tự trang bị cho mình một số kiến thức về y học. Chư vị không đủ trình độ, bản lĩnh để hành nghề thầy thuốc, không đủ kiến thức kinh nghiệm để biện chứng luận trị nhưng có thừa can đảm và nhiệt tình để góp ý góp lời với y sĩ điều trị. Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến đều không phải là lương y. Tác giả Truyện Kiều có những tri thức cơ bản về y dược, như đa số – nếu không là tất cả
chủ đề 14/56 – các nhà nho. Qua thơ chữ hán, nhiều lần thi bá nhắc đến khí hậu vận hành trong trời đất theo phép âm dương ngũ hành của Trung y hoặc sử dụng các khái niệm chuyên môn y học cổ truyền xuân hàn hạ thử, đông hàn hạ thử v.v… Khi vận dụng hai chữ bát bát với nghĩa y học, sinh học đặc thù là sáu mươi tư thay vì nghĩa toán học, số học phổ biến là tám mươi tám trong thi phẩm quen thuộc Di chúc, Nguyễn Khuyến đã dựa vào tri thức cơ bản về sinh lý bệnh lý đông y trình bày nơi thiên Thượng cổ thiên chân luận của sách Hoàng Đế Nội kinh Tố vấn. Tác giả Dụ am ngâm lục Phan Huy Ích đề cập đến biểu chứng thuộc triệu chứng học, đến tà thuộc dương thuộc bệnh nguyên học, đến sâm linh thuộc phương tễ học trong cùng một bài thơ của tập Cúc thu bách vịnh: Biểu chứng thăng đằng tà thuộc dương (……...) Sâm linh vô hạ chất y phương. (Bệnh ở bộ phận nông bốc lên do khí tà thuộc dương, Không còn rảnh rỗi hỏi đến phương thuốc sâm linh). Hoàng giáp Phạm Văn Nghị, qua văn bản Tự ký, biết rất rõ rằng đàn ông phải tiết dục, cụ thể là chỉ nên lấy hai vợ, lấy ba vợ là điều không nên không phải (chí ư tam tắc bất khả) vì phòng sự quá độ tất sẽ háo thương tinh huyết (tinh huyết chi tổn). Trong Thượng kinh ký sự, Lãn Ông kể chuyện khi lên kinh chữa bệnh cho hai cha con chúa Trịnh, Trịnh Sâm và Trịnh Cán, các đại thần túc trực nơi phủ chúa đều tự động đóng góp ý kiến, tham gia bàn thảo về những thang phương do cụ kê đơn bốc thuốc. Lê Quí Đôn rất ưa bàn luận về dược học, dược lực, dược tính. Cho nên rất tự nhiên, vị vua đầu tiên của triều Trần đã đưa một số tri thức y học vào tác phẩm văn học của mình. Nhất sơn: sinh tướng Tướng sinh phác họa quá trình thụ tinh giữa noãn và tinh trùng và diễn tiến phát triển của thai nhi. Tác giả hạ bút: “Thác hình hài ư phụ mẫu chi tinh, giả dựng dục ư âm dương chi khí.” (Gửi gắm hình hài từ tinh cha mẹ, cậy nhờ thai nghén nuôi ở khí âm dương). Chúng ta gặp ngay các học thuyết cơ sở của nền y khoa cổ truyền phương đông: âm, dương, tinh, khí. Học thuyết âm dương nói lên mối quan hệ giữa con người và
chủ đề 14/57 tự nhiên. Trong y học, âm dương chi phối (1) giải phẫu học (bên trong năm tạng là âm, sáu phủ là dương; bên ngoài gân xương là âm, bì phu là dương); (2) sinh lý học (âm là đại biểu cho vật chất được cất giữ, là nguồn năng lượng của dương khí; dương là đại biểu cho cơ năng hoạt động và có tác dụng bảo vệ bên ngoài cho sự gìn giữ âm tính); (3) bệnh lý học (dương thắng thì nhiệt, âm thắng thì hàn; dương hư thì ngoại hàn, âm hư thì nội nhiệt; dương thịnh thì ngoại nhiệt, âm thịnh thì nội hàn); (4) chẩn đoán học (qui loại thuộc tính của chứng bệnh, phân biệt thành dương chứng và âm chứng làm yếu lĩnh định bệnh; xem sắc án mạch trước hết phải phân biệt âm dương); (5) điều trị học (bệnh dương chữa từ âm, bệnh âm chữa từ dương; bệnh hàn dùng thuốc nhiệt, bệnh nhiệt dùng thuốc hàn); (6) dược liệu học (tính năng khí vị của các vị thuốc như hàn lương thuộc âm, ôn nhiệt thuộc dương; toan khổ hàm thuộc âm, tân cam đạm thuộc dương); (7) lâm sàng học (chứng trạng thuộc dương hoặc chứng trạng thuộc âm; trị liệu theo dương hoặc trị liệu theo âm); (8) châm cứu học (có huyệt âm, có huyệt dương). Tinh là vật chất cơ bản cấu tạo nên thân thể và duy trì hoạt động của cơ quan. Phần tạo thành cơ thể gọi là tinh của sinh thực hoặc tinh của tiên thiên. Phần tất yếu để duy trì hoạt động chức năng tức là tinh của thủy cốc hoặc tinh của hậu thiên. Tinh của tiên thiên là cơ sở của nòi giống kế tiếp; tinh của hậu thiên do thức ăn thức uống hóa sinh. Khí chỉ năng lực hoạt động của tạng, phủ; như khí của năm tạng, khí của sáu phủ, khí của kinh mạch. Nhị sơn: lão tướng Núi thứ hai là tướng già. Người già khí huyết suy, ăn uống nghẹn vướng. Tóc xanh má đỏ hóa thành tóc hạc da gà. Dẫu rằng mắt sáng Ly Lâu cũng khó phân rành màu sắc, dù cho tai tinh Sư Khoáng cũng không nhận rõ âm thanh (Khí huyết ký suy; yết tại tiền, ngạnh tại hậu. Lục mấn đan kiểm, phiên vi hạc phát kê bì. Túng sử Ly Lâu chi mục, thị sắc nan minh, nhậm giao Sư Khoáng chi thông, văn âm mạc biện). Nhà vua không còn vận dụng kiến thức lý thuyết trừu tượng mà chuyển qua mô tả tình trạng lão hóa một cách cụ thể theo các
chủ đề 14/58 tài liệu tham khảo kinh điển của đông y. Sách Hoàng Đế Nội kinh Tố vấn chẳng hạn mô tả ở chương Thượng cổ thiên chân luận nhân bàn về sinh lý sinh dục chính thường nam nữ : “thất thất, nhâm mạch hư, thái xung mạch suy thiểu, thiên quý kiệt, địa đạo bất thông, cố hình hoại nhi vô tử dã.” (đến năm bảy bảy, nhâm mạch hư, thái xung mạch kém, thiên quý hết, địa đạo không thông, cho nên thân thể hao mòn mà không có con.) và “bát bát, thiên quý kiệt, tinh thiểu, thận tượng suy, hình thể giai cực, tắc xỉ phát khứ.” (đến năm tám tám, thiên quý hết, tinh thiếu, thận suy, hình thể tột bực, răng tóc đều rụng.) Y học cổ truyền cho rằng nữ giới đến bốn mươi chín tuổi (thất thất, bảy lần bảy = bốn mươi chín) và nam giới đến sáu mươi bốn tuổi (bát bát, tám lần tám = sáu mươi bốn) là bước sang giai đoạn già lão. Ở giai đoạn cao niên, nam nữ ăn uống khó khăn, hay nghẹn hay hóc, nguyên do bởi khí hư dương kém. Đồng thời khi tuổi già thì can huyết bất túc, thận khí hư nhược, đầu tóc – vốn có nguồn gốc từ huyết mà ra, phát vi huyết dư, tóc là phần thừa của huyết – mất nét xanh tốt mềm mại, mất dáng rậm rạp đen nhánh mà trở nên khô khan, trắng xóa, dễ rụng, dễ gãy. Dinh dưỡng đầu tóc tuy nguồn gốc từ huyết nhưng sự phát triển và tồn tại của tóc lại gốc từ thận khí. Thận khí ở bên trong cơ thể có thể biểu hiện qua lông tóc ở bên ngoài. Thận, kỳ hoa tại phát: thận phát huy nét tươi đẹp ở tóc. Thị lực tốt hay xấu có quan hệ trực tiếp đến can vì can khai khiếu vu mục (can khai khiếu ở mắt). Công năng điều tiết của can huyết phụ trách cung ứng đầy đủ khí huyết cho mắt; người lớn tuổi can huyết bất túc, mắt không được nuôi dưỡng đầy đủ nên mắt sẽ khô, nhìn không rõ hoặc quáng gà. Khiếu của thận vốn ở tai, thận khí thông suốt lên tai trong điều kiện sinh lý bình hòa. Thận hòa thì tai nghe được ngũ âm. Thận tinh đủ thì thính lực mạnh; ngược lại, tuổi cao thận yếu, tai Sư Khoáng cũng trở thành tai Beethoven. Tam sơn: bệnh tướng Núi thứ ba là tướng bệnh. Tác giả trình bày những chi tiết thuộc bệnh lý học, bệnh nguyên học, nhấn mạnh hai khía cạnh lâm sàng và điều dưỡng. “Tật nhiễm cao hoang. Tứ chi quyện nhi mạch lạc nan thông, bách tiết đọa nhi hàn ôn mị thuận. Táng
chủ đề 14/59 quyết chân thường chi tính, thất kỳ điều sướng chi nguyên. Khởi tọa gian tân, khuất thân thống khổ (…) Thân hữu đồ lao tỉnh thị, đệ huynh không tự phù trì. Trầm kha lũy nguyệt nhi phất liêu, phục chẩm kinh tuần nhi vị dụ.” (Bệnh nhiễm cao hoang. Chân tay mỏi mệt mà mạch lạc khó thông, gân cốt rã rời mà nóng lạnh chẳng thuận. Mất cả tính chân thường, không còn nguồn điều dẫn. Đứng ngồi vất vả, co duỗi khó khăn (…) Những mệt anh em nâng giấc, lại phiền bè bạn thăm nom. Ốm lâu mấy tháng chưa lành, nằm liệt nhiều tuần chẳng khỏi.) Cao hoang vốn là tên một huyệt vị châm cứu thuộc kinh Thủ Thái dương bàng quang. Theo từ nguyên học, cao là chỉ bộ phận dưới tâm, hoang là chỉ bộ phận trên cách. Ứng dụng vào lâm sàng học, cao hoang chỉ bộ vị sâu kín của bệnh, dùng dược liệu hay châm cứu đều ít hiệu quả; vì thế nói bệnh nhiễm cao hoang, bệnh nhập cao hoang đều hàm nghĩa chứng bất trị hay chứng khó trị. Bệnh trầm trọng hoặc bệnh mạn tính gây suy yếu dương khí, âm khí quá thịnh dẫn đến chứng trạng cơ năng hoạt động và sự trao đổi chất toàn thân giảm sút, sức đề kháng yếu kém; sắc mặt trắng xanh, nằm co, ưa ấm, sợ rét, tinh thần uể oải, tay chân đau nhức vô lực, xương khớp gân cơ lỏng lẻo khó chống đỡ, đi đứng loạng choạng dễ ngã quị. Hoạt động bình thường bị hạn chế, châu thân không tự chủ được nữa; cơ thể đòi hỏi sự điều dưỡng chăm sóc của bà con, sự viếng thăm giúp đỡ của bằng hữu. Đó là hoàn cảnh khốn khó Phan Huy Ích ký thác trong Dụ am ngâm lục, phần Dật thi lược toản, bài Hạ trung tiếp đáo khuê vi hung tấn ai cảm kỷ thực (Giữa mùa hạ được tin vợ mất ghi nỗi đau buồn): Tòng lang khứ hậu đới tiều dung, Thang thiện hy sơ quang thái yết. (Từ thuở chàng đi thiếp tiều tụy dung nhan, Biếng thuốc nhác ăn vẻ tươi vui đều hết). Tứ sơn: tử tướng Bệnh càng trầm trọng, mệnh sắp cáo chung: núi thứ tư là tướng của sự chết. Nhà vua không vận dụng được tri thức y học vào tử tướng vì y khoa có mục đích hiển nhiên bảo vệ sự sống, chống lại cái chết. Hoàng đế trình bày những nhận thức thực tế
chủ đề14/60 hoặc biện biệt những suy tư triết học: chết là hết, thê thiếp bỏ lại, anh em vĩnh biệt, nhà cửa ngọc vàng cũng chẳng thể đem theo. Đó là một tình huống thê lương : âm tinh cực thịnh, khắp một trời mưa tuyết bời bời; dương khí tan dần, nước tám sông đóng băng càng giá lạnh (âm tinh cực thịnh, nhất thiên vũ tuyết cánh phân phi; dương khí tiềm tiêu, bát thủy ngưng ba tăng lẫm liệt). Như vậy, lý luận âm dương cũng vẫn còn là chỗ dựa lập thuyết của tác giả. Về hai chữ bát thủy, nhóm biên soạn Thơ văn Lý Trần, Tập II, Quyển Thượng, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà nội, 1988, chú thích như sau nơi trang 51 : “thuật ngữ đạo Phật chỉ có từ bát công đức thủy, tức thứ nước có tám tính chất tốt như trong sạch, mát ngọt…nhưng ở đây có thể tác giả nói gọn. Hòa thượng Phúc Điền dịch là vào nước, tức là nhập thủy.” Từ luận điểm đó, các soạn giả dịch hai câu chữ hán sang Việt ngữ : “âm tinh cực thịnh, khắp một trời mưa tuyết bời bời; dương khí tan dần, nước tám tính đóng băng càng giá lạnh.” Cả lời chú thích của nhóm Nguyễn Huệ Chi lẫn lời chuyển dịch của hòa thượng Phúc Đường đều không đúng. Hai câu văn nhà vua dùng để tả cảnh thiên nhiên cụ thể. Đó là những thông tin vật lý, khí tượng, thời tiết cho nên không thể dính dáng đến tính chất nước trong nước ngọt, như nhóm chủ biên tưởng tượng suy diễn. Và hoàng đế chủ nhân nguyên tác chắc chắn không hề “nói gọn”. Còn Hòa thượng Phúc Điền thì vì không hiểu nội dung thuật ngữ bát thủy nên đã sửa lại cổ văn để biến bát thành nhập, do hai chữ hán này vốn rất giống nhau! William Edward Soothill and Lewis Hodous, A Dictionary of Chinese Buddhist Terms, Kegan Paul, Trench, Trubner & Co. Ltd., London, 1937 giảng nghĩa dứt khoát rõ ràng nơi trang 38 : “Bát thủy : eight rivers of India – Ganges, Jumna, Sarasvatì, Hiranyavatì or Ajiravatì, Mahì, Indus, Oxus, and Sità.” Trong số tám con sông này có những con sông quen thuộc hay có tên chữ hán : Hằng hà (Ganges), Ấn hà (Indus), Ma hà (Mahi), Tát la (Sarasvatì). Trong Tây du ký ở hồi cuối cùng, hồi thứ một trăm, Đường Thái Tông tuyên dương hành trình thỉnh kinh của đại sư Huyền Trang: Chu du Tây vũ, thập hữu tứ niên. Cùng lịch dị bang, tuần cầu chính giáo. Song lâm bát thủy, vị đạo san phong (Đi khắp trời Tây trong mười bốn năm, trải qua
chủ đề 14/61 nhiều nước nhằm tìm học đạo, viếng hai cây tám sông, sống đời khổ hạnh). Anthony C.Yu (The Journey to the West, Volume Four, The University of Chicago Press, Chicago and London, 1983, trang 421) chuyển dịch ngữ đoạn Tây du ký này thành : “He toured throughout the Western World for fourteen years, going to all the foreign nations in quest of the proper doctrines. He led the life of an ascetic beneath the twin sàla trees and by the eight rivers of India”. Chú thích số 18 tại trang 451 cho biết: “Eight rivers of India, bát thủy: Ganges, Jumna, Sarasvatì, Hyranyavatì, Mahì, Indus, Oxus, and Sità”. Tóm lại, hai chữ bát thủy phải được dịch thành “nước tám sông” thay vì “nước tám tính”. Tứ tướng và tứ thời Tác giả Phổ thuyết tứ sơn đặt song hành bốn núi sinh lão bệnh tử với bốn mùa xuân hạ thu đông. Đông y cho rằng xuân sinh, hạ trưởng, thu liễm, đông tàn. Trong khi đó thì nhà vua mô tả tướng sinh của người là mùa xuân, nhất thiên minh mị, thôn thôn liễu lục hoa hồng (một trời sáng đẹp, xóm thôn liễu biếc đào hồng). Tướng già của người là mùa hạ, viêm thiên thước thạch, nhi vạn vật giai khô (trời nồng chảy đá nên vạn vật héo khô). Tướng bệnh của người là mùa thu, thích nghiêm sương thủy giáng chi thần, giới chúng thảo câu phì chi hậu (gặp khi sương buốt mới sa, vừa lúc cỏ xanh đều úa). Tướng chết của người là mùa đông, càn khôn ứng thái tuế nhi chu, nhật nguyệt hướng huyền hiêu nhi hội (càn khôn ứng thái tuế mà vần xoay, nhật nguyệt ứng huyền hao mà tụ hội). Những kiến thức y học cổ truyền do vị vua khai sáng triều Trần vận dụng trong Phổ thuyết tứ sơn là những phạm trù khoa học và triết học cổ đại về nhận thức của tiền nhân đối với các tính chất sự vật trong giới tự nhiên và qui luật biến hóa của chúng, cụ thể là đối với bốn hiện tượng sinh lý học gồm xuất sinh, lão hóa, lâm bệnh và tử vong nơi con người. Bệnh tật trong thơ văn Tiền nhân thường hà tiện lời khi nói về bệnh tật. Thông thường chư vị chỉ bảo mình ốm chứ không nói rõ mình lâm bệnh
chủ đề 14/62 gì. Các thiền sư đời Lý như Mãn Giác, Quảng Nghiêm chỉ cáo tật, thị tật (cáo bệnh, cáo ốm) mà không cho biết bệnh trạng. Trần Nguyên Đán phiền muộn chung chung : Bệnh dũ bất như do bệnh thì . (Bất mị) (Bệnh khỏi không bằng khi còn bệnh) (Không ngủ) Nguyễn Phi Khanh nhiều lần cho biết đại khái : Bệnh căn vị khứ dược hoàn kiêu. (Thu dạ tảo khởi ký Hồng Châu Kiểm chính) (Căn bệnh chưa dứt, thuốc còn phải sắc) (Đêm thu dậy sớm gửi Kiểm chính Hồng Châu) Chỉ kim ngọa bệnh vị năng triều. (Thôn cư cảm sự ký trình Băng Hồ tướng công) (Nay đang nằm trên giường bệnh chưa thể đi chầu) (Ở quê xúc động trước việc xảy ra gửi trình tướng công Băng Hồ) Hồ hải tứ niên đa tật bệnh. (Thiên trường chu trung) (Hồ hải bốn năm nay nhiều bệnh tật) (Trong thuyền ở Thiên trường) Đa bệnh hoàn liên Mã Trưởng Khanh. (Thu trung bệnh) (Bệnh nhiều lại càng thương cho Mã Trưởng Khanh) (Ốm vào mùa thu) Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ nói sơ lược về bệnh già : Lão lai khước dữ bệnh tương kỳ. (Nguyên đán thuật hoài) (Già đến lại cùng bệnh tật hẹn hò nhau) (Tỏ nỗi lòng vào dịp tết) Kịch túy na tri lão bệnh thôi. (Ngụ hứng) (Cứ say mềm nào biết bệnh già đang giục giã) (Ngụ hứng) Nguyễn Cư Trinh nói tổng quát là đa mang nhiều bệnh:
chủ đề 14 /63 (Thiên mông chướng lệ khách đa bệnh) (Long Hồ ngọa bệnh) (Trời đầy chướng lệ gây cho khách nhiều bệnh) (Mắc bệnh nằm ở Long Hồ) Bùi Huy Bích thì than thân đau ốm : Bệnh thân ưu quốc hựu ưu gia. (Bạch liên trì thượng tiểu trai ngọa bệnh, dạ khởi đối hoa tác) (Thân bệnh lo cả việc nước lẫn việc nhà) (Nằm bệnh trong phòng khách nhỏ trên ao sen trắng, đêm dậy đối hoa làm thơ) Hà Tôn Quyền chỉ bảo là bệnh đã lâu: Chương giang nhất ngọa động kinh tuần. (Xuân nhật bệnh khởi) (Ốm liệt tại vùng Chương giang tới mấy tuần) (Ngày xuân ốm dậy) Nguyễn Khuyến than thở một cách mơ hồ: Tôi bị đau trước bác mấy ngày. (Khóc Dương Khuê) Ngay đến Lãn Ông Lê Hữu Trác, mặc dầu là một danh y, cũng chỉ làm thơ với những câu thuộc vào loại: Ngã bệnh kinh tuần nhũng cánh gian. (Bệnh trung liệu bệnh) (Mình ốm hơn tuần lại càng phải lo lắng) (Chữa bệnh trong khi mình ốm) Tuy nhiên có lần Lãn Ông xác nhận trong bài tựa tập Ấu ấu tu tri là thể chất bẩm sinh vốn ốm yếu nên khi lập gia đình thì sinh con muộn và sinh con rồi thì cũng khó nuôi. Nhưng nạn hữu sinh vô dưỡng không phải chỉ nhằm vào mỗi gia đình Lãn Ông, ngược lại, cảnh các bà ngày xưa sinh nhiều nuôi ít có thể xem là rất phổ biến: - năm 1232, con Trần Cảnh là hoàng thái tử Trịnh mất. Toàn thư chỉ chép vỏn vẹn như thế. Nhưng đáng chú ý hơn là lời bàn của sử thần Ngô Sĩ Liên : “Xét phép chép sử, hoàng tử sinh tất phải chép rõ năm, tháng, ngày; khi mất cũng thế. Đây chỉ chép khi mất thôi, có lẽ là mới sinh chết ngay, cho nên không chép ngày tháng.”
chủ đề 14/64 - vợ cả vua Trần Anh Tông tuy sinh con trai, đáng lẽ đã lập làm thái tử, nhưng không nuôi được (đích mẫu sinh nam, bất dục, Hồ Nguyên Trừng, Nam ông mộng lục) nên con thứ là hoàng tử Trần Mạnh lên ngôi, tức Trần Minh Tông. Ông vua này thuở nhỏ không do cha mẹ ruột nuôi mà do Trần Nhật Duật chăm nom bảo dưỡng vì các hoàng tử đàn anh sinh trước đó đều hữu sinh vô dưỡng nên cha mẹ đẻ tuy là vua chúa mà cũng sợ thánh thần ma quỉ chẳng dám nuôi, phải cho người khác nuôi giúp. - bài Thần đạo biểu chạm khắc vào bia đá do Tùng Thiện Vương chấp bút cho biết là trong số các anh em cùng mẹ với ông, hoàng tử thứ mười bốn, thứ mười chín và thứ ba mươi chín đều bị tảo thương. - chị ruột Nguyễn Hữu Chỉnh, vợ Phạm Nguyễn Du, “rơi máu ở nhân gian năm bảy bận, chỉ còn hai cháu gái” (Nguyễn Hữu Chỉnh, Văn tế chị). - bà vợ Nguyễn Cao “niên nhi thập bát nhi sinh tử Hào, ngũ bá nhất hoạch, thương hùng hủy chi đa khí ” (năm hai mươi tám tuổi sinh được thằng Hào, năm lần gieo một lần được gặt, sinh đẻ nhiều mà nuôi được hiếm hoi) (Nguyễn Cao, Tế Lê phu nhân Chất Khanh văn, Văn tế vợ họ Lê hiệu là Chất Khanh). Phân suất tử vong ở trẻ sơ sinh cao không có gì là lạ khi mà bà thân mẫu Phạm Đình Hổ chẳng hạn mang tác giả Vũ trung tùy bút trong bụng đến “bảy tám tháng vẫn chưa biết là có thai”. Có lẽ bà cụ nghĩ mình bị báng hoặc không cảm thấy gì bất thường cả! Cũng vì vậy nên tỷ lệ biến chứng sản khoa gây tử vong chắc hẳn phải lớn : - Toàn thư xác nhận năm 1330, Vương thị, một nữ quan trong cung vua Trần bị bệnh sản hậu chết. - Vợ Ngô Thì Sĩ cả hai bà cùng mất sớm, bà trước lúc ba mươi hai tuổi, bà sau lúc hai mươi chín tuổi và đều do sinh đẻ khó khăn nên khóc vợ, nhà thơ vật vã nhắc lại sản nạn mà vợ đã trải qua : Bồn nhục gian nan tưởng vãng thì. (Thập tư) (Nhớ lại lúc sinh nở khó khăn ngày trước) chủ đề 14/65
(Mười nỗi nhớ) - Nhân vật hư cấu Mộng Thê Triền của Nguyễn Đình Chiểu trong Y tiều vấn đáp y thuật có bốn bà vợ lần lượt theo nhau qui tiên vì “người đau sản hậu, người đau thai tiền“. - Nhân vật truyền kỳ Hàn Than của Nguyễn Dữ trong Truyền kỳ mạn lục (Đào thị nghiệp oan ký, Chuyện nghiệp oan của Đào thị) cũng quằn quại chết trên giường cữ năm Kỷ sửu 1349. Những số phần oan khiên đồng loại đã được tổ tiên chúng ta nhắc đến trong những dòng thơ nhiều khi vắt ra từ con tim. Nguyễn Du chẳng hạn trong Văn chiêu hồn đã cảm thông sâu sắc với các phụ nữ mang nặng đẻ đau trong mối đe dọa thường xuyên của thai sản : Có người hay đẻ không nuôi, Có người sa sẩy, có người khốn thương.
Thi nhân cũng xót xa vì định mệnh của những ấu nhi bất hạnh không hưởng được ánh dương quang : Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé, Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha. Nỗi đau khổ vì sinh nở là nỗi đau khổ của riêng nữ giới: “một lần sa bằng ba lần đẻ; đàn ông vượt biển có chúng có bạn, đàn bà vượt cạn chỉ có một mình“. Cho nên cũng vẫn Nguyễn Du và nhất là không phải chỉ một lần mà hai lần, trong Văn chiêu hồn và trong Truyện Kiều, Tố Như đã thống thiết kêu lên: Đau đớn thay phận đàn bà! Sinh con không nuôi được trở nên phổ biến đến nỗi chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát đã qui định là con trai vua chúa phải được gọi bằng chị, mụ, mệ; tuy rằng lẽ ra phải gọi là ông hoàng, là đức ông! Lệ này còn tồn tại cho đến thời hiện đại!
Tất nhiên chẳng phải tất cả các trường hợp bệnh lý phụ sản đều đưa đến tử vong. Vợ Phạm Tôn Kiều, anh họ Phạm Đình Hổ, mắc chứng sản hậu, đau bụng huyết thống thành hòn, được danh y Nguyễn Quý cho uống chỉ một lạng Toàn qui, ba đồng Nhục quế là khỏi liền.
- Có phụ nữ băng huyết nặng, máu chảy xối xả, sắc mặt tái xanh (huyết băng như chú, diện sắc sảo thanh) may được chủ đề 14/66
- lương y Phạm Bân, ông ngoại Hồ Quí Ly tận tình cứu thoát, như Hồ Nguyên Trừng ghi lại trong Nam ông mộng lục. Lãn Ông Lê Hữu Trác trong Y dương án cũng trình bày một số bệnh án sản khoa với dự hậu rất tốt. Nhiều trường hợp sinh quái thai được ghi nhận ở cả người lẫn vật. Toàn thư chép cho chúng ta một số cas; ví dụ năm 1300, người đàn bà ở lộ Hồng sinh con trai có hai đầu; năm 1304, người đàn bà là Lê thị ở phường Các Đài tại cầu bên hữu kinh thành sinh đứa con trai có hai đầu bốn chân và bốn tay; năm 1449; người ở kinh thành sinh con hai đầu, cho là quái bỏ cho chết. Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ chép đời Gia long, năm Ất sửu 1805, mùa thu ở huyện Tiên lữ trấn Sơn nam có người sinh quái thai con trai hai đầu, từ rốn trở lên chia ra hai thân thể có ngấn liền nhau, khoảng giữa hai cổ lại mọc ra một bàn tay tám ngón, còn thì hai tay hai chân cũng giống như người thường. Một đầu cũng mút vú và ăn như thường, không có gì khác; còn một đầu thì không ăn được, chỉ lấy sữa nhỏ vào cho; được vài ngày thì đứa bé chết. Quan địa phương có cho vẽ hình chuyển tư lên quan Tổng trấn Bắc thành. Bức hình được Phạm Đình Hổ đề cập, nếu còn truyền lại cho chúng ta, chắc chắn phải có giá trị không kém gì hình ảnh hai anh em Siamese twins. Sang qua loài vật, Lê quí dật sử của Bùi Dương Lịch kể rằng năm Cảnh Thịnh thứ nhất, Quí sửu 1793, tại thôn Kim liên xã Trung lữ huyện Nam đường trấn Nghệ an có con bò đẻ một con bê một thân hai đầu ba đuôi sáu chân, người ta thấy kỳ lạ đem vứt đi. Những trường hợp ái nam ái nữ hoặc bất định tính phái cũng được sử sách ghi chép. Chẳng hạn 1351, người con gái ở Thiên cương trấn Nghệ an biến thành con trai, theo Toàn thư. Năm 1796, Vương Hữu Hòe khi diễn nôm Tẩy oan tập lục của Tống Từ, người khai sáng nghành pháp y học Trung hoa, đã thuật lại câu chuyện một phụ nữ có mối giao lưu phạm pháp với một phụ nữ khác. Quan sở tại cho điều tra và phát hiện rằng người này từ tuổi mới thành niên đã có một cục thịt mềm ở âm hộ. Tuy vậy nàng vẫn có thể giao hợp cùng chồng nhưng cục thịt khi cương cứng thì kéo dài ra cả hai, ba tấc, lớn gần bằng ngón tay cái và do đó khiến người thiếu phụ có thể giao hoan với những người cùng tính phái. chủ đề 14/67
Người hình dạng bình thường nhưng vóc dáng to lớn, ăn uống phi phàm cũng được thư tịch ghi nhận, từ những nhân vật truyền thuyết như ông Đùng bà Đà, Lý Ông Trọng, Phù Đổng Thiên Vương đến các nhân vật lịch sử như Lê Phụng Hiểu đời Lý, mới mười hai mười ba tuổi mà thân hình đã cao bảy xích tức khoảng 2,30 mét (Hồ Nguyên Trừng, Nam ông mộng lục) hay Lương Hữu Khánh đời Lê trung hưng, sức ăn gấp mấy người thường (Vũ Phương Đề, Công dư tiệp ký). Phạm Đình Hổ trong Tang thương ngẫu lục, truyện Đại nhân, còn viện dẫn lời quan Bình chương Phan Lê Phiên cho biết ở miền biên giới tây nam có một giống người to lớn, thân thể cao hơn hai trượng, từng được chính quyền các chúa Nguyễn cho lột da nhồi trấu để làm tư liệu nghiên cứu nhân chủng học. Chính sử thường chép chi tiết về bệnh tật của vua chúa. Tỷ như vua Trần Dụ Tông, theo Toàn thư, bị bệnh liệt dương, được Trâu Canh chữa cho khỏi; do đó ông thầy thuốc này rất được nhà vua sủng ái. Hơn nữa, Trâu Canh cũng từng cứu nhà vua bằng châm cứu khi nhà vua ngồi thuyền dạo chơi trên hồ Tây và bị té xuống nước xuýt chết đuối. Trâu Canh vốn là người Tàu, con lương y Trâu Tôn, từng theo quân Nguyên sang xâm lăng nước ta dưới đời vua Trần Anh Tông và bị bắt làm tù binh. Sau đó y được giữ lại chữa bệnh cho các vương hầu. Trâu Canh nối nghiệp cha, nhưng đã lợi dụng địa vị để làm những việc phạm thuần phong mỹ tục nên đến đời vua kế nhiệm là Trần Minh Tông thì vị vua này lại không ưa họ Trâu. Do đó khi lâm bệnh nặng, sử sách cho biết nhà vua tỏ ra không tin tưởng vào y thuật của người thầy thuốc nước ngoài, lại còn không chịu cho cầu đảo, phóng sinh và cũng không chịu uống thuốc nhưng chỉ chịu…làm một bài thơ : Chẩn mạch hưu luân phiền muộn đa, Trâu công lương tễ yếu điều hòa. Nhược ngôn phiền muộn vô hưu yết, Chỉ khủng trùng chiêu phiền muộn gia. (Xem mạch chớ nói phiền muộn nhiều, Tễ thuốc hay của Trâu công hãy điều hòa cho tốt. Nếu bảo nỗi phiền muộn không bao giờ dứt được, chủ đề 14/68
Thì chỉ sợ càng khiến phiền muộn tăng thêm mà thôi) Sở dĩ nhà vua bảo “chớ nói phiền muộn nhiều“ là vì Trâu Canh khi bắt mạch đã bảo “mạch phiền muộn“ mà nhà vua thì vốn ghét họ Trâu nên mới mượn lời thơ để tỏ ý. Cái chết của vua Trần Minh Tông được chính sử (Toàn thư) cũng nhu dã sử (Công dư tiệp ký) tường thuật là do vua bị ong vàng đốt ở má bên tả rồi băng. Còn vị thần dược mang lại chức năng bình thường cho cơ quan sinh dục của vua Trần Dụ Tông, vẫn theo Vũ Phương Đề trong Công dư tiệp ký, là những sợi dây chìa vôi phơi khô buộc quanh bụng dưới! Tuy vậy, ông vua này vẫn tuyệt tự, nên mới sinh ra mối loạn Dương Nhật Lễ. Một ông vua khác cũng nổi tiếng trong sử xanh vì chứng đam mê sắc dục đến nỗi phải mang một hỗn danh không mấy oai phong là Lê Ngọa Triều. Sử gia Trần Trọng Kim ghi trong Việt nam sử lược : “vì lúc sống dâm dục quá độ, mắc bệnh không ngồi được, đến buổi chầu thì cứ nằm mà thị triều, cho nên tục gọi là Ngọa Triều“. Có thể Lệ Thần tiên sinh đã tham khảo Cương mục, phần cẩn án: Long Đỉnh thị lập, hoang dâm thành tật, ngọa nhi thị triều, nhân hiệu Ngọa Triều (Long Đỉnh giết vua và tự lập làm vua, hoang dâm thành bệnh tật, nằm mà coi chầu, nhân đó gọi là Ngọa Triều). Nhưng nếu nhìn từ góc độ y khoa thì cũng đáng thắc mắc vì khi hoang dâm quá độ thói thường bệnh nhân không đến nỗi không ngồi được. Có lẽ lời thuật của Toàn thư hợp lý hơn: “Mùa đông, tháng mười, ngày Tân hợi vua băng ở trên tẩm điện; gọi là Ngọa Triều vì có bệnh trĩ, phải nằm mà coi chầu.“ Một chẩn đoán phổ biến liên hệ đến bệnh trạng hay tử vong của các hoàng đế là ác tật. Vua Lý Thần Tông thân mang ác tật nhưng rồi được Nguyễn Minh Không chữa khỏi bằng phép balneotherapy : nhà sư nấu nước để tắm rửa cho thế tử, tay cọ đến đâu lông hết đến đấy, thân thể liền bình phục [chữ thủy dĩ tẩy thế tử, ứng thủ mao thoái, thể toại bình phục (Hồ Nguyên Trừng, Nam ông mộng lục)]. Vua Lê Thái Tông cũng bị ác tật mà băng nơi Lệ chi viên, khiến ba họ nhà Nguyễn Trãi chết theo một cách oan khốc. Khái niệm ác tật là một khái niệm có phần mơ hồ, khái quát, cho nên Trung quốc y học đại tự điển không hề ghi nhận. Ngày nay chúng ta chỉ có thể hình dung là các sử thần, chủ đề 14/69
ghi nhận. Ngày nay chúng ta chỉ có thể hình dung là các sử thần, các tác gia ngày trước muốn đề cập đến những chứng bệnh hiểm nghèo, quái lạ, nan trị qua khái niệm liên hệ. Vua Lý Cao Tông được Việt sử lược mô tả là chết trong cơn mơ sảng : “Đông, thập nguyệt, vương bất dự. Nhâm ngọ, vương tẩm tật, hốt kiến nhị thanh y chấp trượng lập tọa trắc…“ (Mùa đông tháng mười vua mệt. Ngày Nhâm ngọ vua nằm trên giường bệnh bỗng thấy hai người mặc áo xanh cầm trượng đứng cạnh…). Rồi đêm đó vua mất, thọ ba mươi bảy tuổi. Cái chết của vua Quang Trung năm 1792 lúc mới bốn mươi tuổi cũng được mô tả trong một bệnh cảnh với những tiền chứng là những ảo giác thị giác, nếu căn cứ vào chính sử nhà Nguyễn là bộ Đại nam chính biên liệt truyện, phần Ngụy Tây liệt truyện: một hôm về chiều Quang Trung đang ngồi bỗng xây xẩm tối tăm, kế thấy một ông già đầu bạc mặc áo trắng từ trên trời xuống, tay cầm gậy sắt, mắng rằng : “Ông cha ngươi sống ở đất các chúa, đời đời làm dân của chúa, ngươi sao dám phạm đến lăng tẩm?“ Rồi lấy gậy đánh vào trán, Quang Trung mê man ngả xuống bất tỉnh nhân sự lâu lắm. Lúc tỉnh dậy nhà vua đem chuyện ấy nói với quan Trung thư Trần Văn Kỷ. Từ đó bệnh chuyển nặng, mới triệu quan trấn thủ Nghệ an là Trần Quang Diệu về bàn bạc để dời đô ra đó. Thương nghị chưa xong thì Thế tổ ta (tức vua Gia Long) đã lấy lại được Gia định, chiếm Bình thuận, Bình khang, Diên khánh, thanh thế chấn động. Quang Trung nghe được lo buồn, bệnh ngày càng kịch liệt. Chẩn đoán xác định đưa đến cái chết của vua Quang Trung, vẫn theo sử sách nhà Nguyễn, là chứng huyễn vựng. Khác với ác tật, huyễn vựng là một từ thuộc thuật ngữ y khoa. Lãn Ông chẳng hạn, trong Y trung quan kiện, đã mô tả chi tiết chứng trạng này cùng các phương pháp trị liệu. Hiểu theo cách hiểu của y học hiện đại thì huyễn vựng là xây xẩm mặt mày, tối tăm trước mắt,ngả té đột ngột, có thể bất tỉnh, có thể bán thân bất toại; như thế tương ứng với bệnh cảnh lâm sàng của chứng xuất huyết não do tổn thương động mạch. Có lẽ bởi thế nên vua Quang Trung không chết ngay và nếu đúng là nhà vua có thể còn tiếp tục bàn bạc với quần thần – nghĩa là không có rối loạn ngôn ngữ – thì tổn thương phải ở bán cầu phía phải. Và vì cái chết của nhà vua không đột ngột nên chủ đề 14/70
Ngọc Hân công chúa đã từng chăm sóc điều dưỡng chồng lâu ngày, như bà viết trong Ai tư vãn : Từ nắng hạ mưa thu trái tiết, Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên. Xiết bao kinh sợ lo phiền, Miếu thần đã đảo, thuốc tiên lại cầu. Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước, Phương pháp nào đổi được cùng chăng? Huyễn vựng có thể có nhiều cấp, có khi nhẹ, chỉ là choáng váng, chóng mặt hoặc ngất đi trong một thời gian ngắn. Đó là trường hợp Thúy Kiều khi khóc than vì phải đành đoạn phụ tình Kim Trọng : Cạn lời hồn dứt máu say, Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng. Xuân huyên chợt tỉnh giấc nồng, Một nhà tấp nập kẻ trong người ngoài. Kẻ thang người thuốc bời bời, Mới dầu cơn vựng chưa phai giọt hồng. Tai biến mạch máu não cũng xẩy ra cho mẹ đẻ Tùng Thiện Vương Miên Thẩm. Theo Thương Sơn văn di thì năm 1850, “mẹ tôi bị thương phong, tuy nhờ thuốc ở trong cung ban ra, bệnh có tạm yên, song cánh tay tả chưa cử động được như thường, đầu lưỡi còn tê, tiếng nói cũng không được rõ.“ Lãn Ông trong Thượng kinh ký sự ghi lại khá chi tiết về tình trạng bệnh tật của hai cha con nhà chúa Trịnh Sâm và Trịnh Cán. Thế tử Trịnh Cán thì “thánh thể gầy gò, mạch lại tế xác, âm dương hư tổn, tinh huyết hao kiệt, da mặt khô, rốn lồi, gân xanh, chân tay khẳng khiu“. Chung qui cũng chỉ vì “sinh trưởng ở nơi màn the trướng gấm, ấm no quá sức, mà tạng phủ bẩm sinh kém yếu lại thêm bị ốm đau lâu“. Còn chúa Trịnh Sâm thì “mình mẫy gầy rọc, da dẻ khô, ợ hơi, lại có cơn nóng bốc lên, miệng khát, lưỡi rộp, ho mất tiếng. Các chứng nầy đều do tinh khô huyết kiệt, mạch lại gấp quá; quan thốn hai bên tả hữu đều rất to, nhanh mà căng; tả xích lại trầm, nhanh, hữu xích lại to, nhanh; ấn mạnh đều yếu ớt.“ Kết quả điều trị là một thất bại không tránh được trong tâm trạng ngậm ngùi của vị nho y : Vô dược khả y khanh tướng mệnh. (Vô đề) chủ đề 14/71
(Không có thuốc nào chữa được mệnh khanh tướng) (Không đề) Nguyên nhân thăng hà của vua Minh Mệnh lại là do nhiễm ký sinh trùng. Hoàng tử Miên Thẩm cho biết năm Canh tý nhà vua bị kiết lỵ, viện Thái Y chữa không bớt; Tùng Thiện Vương nhớ lại mấy năm trước mình từng bị lỵ nhiều phen chỉ dùng một thứ nghệ tẩm mật ong mà khỏi nên liền dâng toa thuốc ấy. Hoàng đế ngự dụng chỉ bớt chút ít rồi băng năm năm mươi tuổi. Ba mươi năm sau, đến lượt mình người chủ trì Mặc Vân thi xã cũng lại bị kiết lỵ tái phát mà mất. Về phần lê dân, nếu có dị tật bẩm sinh hay có bệnh chứng di truyền thì đó có khi là do…đất cát mồ mả. Người họ Nguyễn làng Vịnh Kiều, Hải Dương, tiền bối và hậu duệ của Nguyễn Danh Nho, tiến sĩ khoa 1676, tác giả một số bài thơ còn truyền tụng, qua nhiều thế hệ luôn luôn có khuôn mặt lệch; những người đỗ đạt nét mặt đều thót hay là hơi khuyết một bên (Vũ Phương Đề, Công dư tiệp ký). Đó là do mộ ông tổ chôn phải kiểu đất hoàng xà thích cáp (rắn rình bắt nhái). Kiểu đất độc đáo này cũng tọa lạc ở làng Phạm Đình Hổ, người xã Đan Loan, huyện Đường An, phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương và được tác giả Vũ trung tùy bút mô tả như sau : đó là một cái gò hình như con rắn dài ngòng ngoèo, phía tây bắc lại nổi lên hai gò Kim tinh. Còn sách Công dư tiệp ký thì tường thuật rằng một dòng họ ở xã Hoàng Xá, tỉnh Hải Dương, tự nhiên phát sinh bệnh đau mắt hàng loạt, về sau truy tìm mãi mới biết được lý do là mộ ông tổ động, phải cải táng mới hết! Nhưng bệnh mắt không phải chỉ do phong thủy và người phụ trách điều trị không phải lúc nào cũng chỉ là thầy địa lý. Có những trường hợp mục tật xẩy ra do những nguyên nhân ít huyền hoặc hơn, ví dụ các trường hợp có nguyên nhân tâm thần hay tâm thể. Lục Vân Tiên hỏng mắt vì quá đau thương sau cái chết của mẹ : Tiên rằng : “Khô héo lá gan!“ Ôi thôi, con mắt đã mang lấy sầu. Đông y cho rằng can khai khiếu tại mắt nên khi lá gan khô héo thì mắt bị ảnh hưởng trực tiếp và nặng nề. Kỳ Nhân Sư, cũng là một nhân vật hư cấu của Nguyễn Đình Chiểu, lại tự xông cho chủ đề 14/72
mù mắt trong tâm trạng không muốn cộng tác với giặc : Thầy ta chẳng khứng sĩ Liêu, Xông hai con mắt bỏ liều cho đui. Bản thân nhà nho đất Bình Dương thì chẳng những mắc khuyết tật nhãn khoa mà thính lực còn bị hạn chế mạnh mẻ. Eugène Bajot ghi nhận : Mais hélas, une nouvelle infirmité devait frapper le poète aveugle : peu à peu l’entendement se voilait, ses rapports avec le monde extérieur devenaient de plus en plus difficiles.(Nhưng than ôi, một tật nguyền mới dồn đến cho nhà thơ mù: thính quan của cụ dần dần bị che ám, sự giao thiệp của tiên sinh với ngoại giới càng ngày càng trở nên khó khăn). Đáng để ý là hậu duệ của cụ Đồ cũng có người phải sống trong tăm tối, tuy rằng vai trò của các gen ở đây khó có thể có tính cách quyết định. Người con gái thứ năm, nổi danh qua bút hiệu Sương Nguyệt Anh, chủ bút tờ báo phụ nữ đầu tiên xuất bản tại Sàigòn năm 1918, cũng bị đau mắt rồi bị lòa và cũng như thân phụ, bà vừa dậy chữ hán vừa làm thuốc chữa bệnh. Nhưng một bệnh án loại y khoa tâm-thể như trường hợp Nguyễn ĐìnhChiểu cũng đã từng được ghi chép trong chính sử mà tiên lượng lại còn đen tối hơn. Toàn thư ghi về cái chết của con gái Trần Thái Tông: Ngày thượng hoàng băng, công chúa Thiều Dương đang ở cử, chợt nghe tiếng chuông đánh lên hồi, nói rằng “Có lẽ Thượng hoàng mất chăng?“. Những người hầu cận nói dối, nhưng không nghe, cứ thương khóc kêu gào mắt mờ đi rồi chết. Bệnh mắt trong huyết thống nhà Trần không phải chỉ gắn liền với thể nhiễm sắc X. Các vua nhà Trần cũng hay bị bệnh thị giác. Vua Trần Anh Tông “từng hoạn nhãn nguyệt dư, y dược bất hiệu, nhật dạ đông thống“ (đau mắt hơn một tháng, chữa thuốc không hiệu quả, ngày đêm chói nhức), theo Hồ Nguyên Trừng, tác giả Nam ông mộng lục. Có vẻ như nhà vua bị viêm kết mạc cấp tính. Vị lương y chữa khỏi bệnh cho hoàng thượng là thiền sư Quán Viên, trụ trì chùa Động Sơn. Năm 1335, vua Trần Hiến Tông chuẩn bị đi đánh Ai Lao nhưng bị đau mắt nên đình thần có người bàn hãy hoãn lại. Tuy nhiên nhà vua vẫn cứ lên đường hành quân và rồi mắt cũng khỏi, dẫu vậy khi đến Nghệ An bệnh lại phát ra, ngồi thuyền cố gượng mà đi, khi lên bộ thì khỏi hẳn. (Toàn thư ). chủ đề 14/73
Nếu Nguyễn Khuyến từng tự coi là mù để thối vi sư thì trước ông nhiều thế kỷ, khi quân Minh ép buộc các nho sĩ ra làm quan, những người hơi có tiếng đều ra, duy có Bùi Ứng Đẩu từ chối, lấy cớ đau mắt (Toàn thư ). Tai điếc nhiều khi cũng giúp người xưa tỏ thái độ hành tàng xuất xử. Khi Hồ Quí Ly chiếm ngôi, Cung chính vương Sư Hiền, tông thất nhà Trần và Trần Đình Thâm, Thám hoa khóa 1374, đều giả cách nghễnh ngãng để, người thì thoát khỏi bàn tay tàn sát của họ Hồ, người thì tránh được cảnh phải cộng tác với “ngụy triều“. Ông đồ Cự Lộc, bạn của Nguyễn Khuyến, đỗ cử nhân đời Tự Đức, cũng dùng cùng một chiến thuật để chối từ không nhận mệnh triều đình gọi ra làm quan, nên đã trở thành đối tượng của bài hát nói Anh giả điếc : Trong thiên hạ có anh giả điếc, Khéo ngơ ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây! Chẳng ai ngờ “sáng tai họ, điếc tai cày“. Âu đó cũng là thái độ của Nguyễn Công Trứ trong thơ quốc âm : Nghe như chọc ruột tai làm điếc. (Nhẫn nhục) hay của Nguyễn Khuyến trong thơ chữ hán : Thế tình mạc yếm dữu như sung. (Hí tặng song hữu Lê Xá Tú tài) (Đối với thói đời hãy cứ điếc mà cười xòa càng hay) (Đùa tặng bạn học, ông Tú Lê Xá) Bên cạnh bệnh mắt và tai có thể kể các bệnh về răng và hàm. Nguyễn Khuyến có hàm răng lỏng lẻo : Động dao bạch ngận, nha tương lạc. (Xuân nhật hữu cảm) (Trên lợi những chiếc răng lung lay sắp rụng) (Cảm nghĩ ngày xuân) Phạm Nhữ Dực, sống đồng thời với Nguyễn Phi Khanh, chắc đã bị hỏng một loạt răng nên ông mới làm riêng một bài thơ để giỡn chơi nhan đề Phá xỉ hý tác (Làm đùa khi răng gẫy) : Bất đãi vong thần hàn chí cốt, Chính sầu giảo thái hận vô nha. (Chẳng đợi môi hở đã lạnh thấu xương, chủ đề 14/74
Đáng buồn khi nhai rau, giận nỗi không răng) Theo đông y thì răng và xương vốn thuộc thận tượng; người thận yếu răng dễ lung lay và cũng thường hay bị phong thấp. Nguyễn Thông ngại ngần khi ít vận động cơ thể : Ngọa cửu hiềm cốt ngạnh. (Ngọa bệnh thư hoài) (Nằm lâu hiềm cứng khớp xương) (Nằm bệnh tả nỗi lòng) Phan Huy Chú chắc là bị viêm mạn tính khớp xương chân nên ông đã nêu lý do này để xin từ quan. Nếu hiểu từ ngữ theo nghĩa đen thì Trương Hán Siêu có lẽ cũng bị bệnh về hệ xương khi trấn nhậm Hóa Châu trong tư cách Chiêu dụ đại sứ năm 1353 : Dĩ biện hoang giao mai bệnh cốt. (Hóa Châu tác) (Đã sửa soạn chốn hoang vu để chôn mớ xương bệnh) (Làm ở Hóa Châu) Bà vợ Nguyễn Cao thì có vẻ mắc chứng đa khớp viêm mạn tính đã đến giai đoạn trầm trọng, khiến các khớp xương bị biến dạng, biên độ cử động bị hạn chế. Trong bài văn viết gửi cho bà ở bên kia thế giới, chồng bà mô tả là bà bị phong thấp đã nhiều năm rồi, dần đà thành cố tật, chữa mãi không khỏi (khanh ngộ phong thấp, lũy niên vu tư, tiệm thành cố tật, bách dược nan y). Nhà thơ làng Yên Đổ bị tê thấp nhẹ hơn nhưng mỗi khi trái gió trở trời cũng thực là khó chịu, khốn khổ: Bì cốt lão lai hàn thử dị. (Bệnh trung) (Xương da về già mỗi khi đổi thay thời tiết lại thấy khác) (Trong lúc ốm) Bệnh học tâm thần có một số bệnh án trong thư tịch cổ, lắm khi chỉ là những dòng sơ sài, lắm khi lại là những đoạn khá đầy đủ. Bà cháu gái Lê Quí Đôn được ông bảng gả cho ông nghè Nguyễn Bá Tôn, tiến sĩ khoa Nhâm thìn 1772. Ông này lại còn có vợ lẻ, hai bà ghen nhau kịch liệt, kình chống nhau dữ dội, khiến bà vợ cả thành loạn trí (Phạm Đình Hổ, Vũ trung tùy bút). Còn ngoại thích nhà Trần là Lý Cát thì được pháp luật xem là ở vào tình trạng không thể nhận trách nhiệm về các hành động của mình vì bệnh tật: năm 1268, ông ta chễm chệ leo lên ngồi trên chủ đề 14/75
ngai vua ở điện Thiên An, nhưng khi pháp quan xét hỏi thì phát hiện đương sự bị chứng điên, do đó chỉ đánh trượng rồi tha (Toàn thư). Vua Trần Thuận Tông trong tờ chiếu nhường ngôi xác nhận là mình bị bệnh thần kinh thường phát ra, thờ cúng và chính trị đều không làm được (Toàn thư). Nhẹ hơn nhưng kéo dài, chúng ta có các thể loại suy nhược tinh thần mà điển hình là bệnh án Lê Chiêu Thống do Lê quí dật sử cũng như Hoàng Lê nhất thống chí đồng ghi lại khá tường tận. Theo Lê quí dật sử, năm 1793 vua Chiêu Thống ở bên nước Thanh muốn về nước cũ nhưng mưu kế không thành nên rất lo buồn. Ngày 20 tháng 5, con đầu của nhà vua mắc bệnh sởi chết, vua vì thế buồn sinh ốm, tháng 9 vua ốm nặng, tháng 10 bệnh càng nặng, bèn triệu các bề tôi đến nhận di mệnh. Ngày 16 vua mất ở bên nhà Thanh. Bốn lần trong một năm, sử liệu nhắc đến vị vua cuối cùng triều Lê thì cũng là bốn giai đoạn tiến triển của bệnh : thoạt tiên rất lo buồn chứ chưa hẳn lâm bệnh, rồi sinh ốm vì quốc phá tử vong, kế ốm nặng, tiếp đến càng nặng và cuối cùng mệnh chung. Không theo lối viết nặng phần biên niên như Bùi Dương Lịch, các tác gia thuộc Ngô gia văn phái trong bộ tiểu thuyết lịch sử đặc sắc đã điểm diện đầy đủ những nhân vật chính trị thuở bấy giờ và đã viết linh hoạt, súc tích về bệnh nhân Lê Chiêu Thống. Vua Lê trong bụng lúc nào cũng vẫn bực tức, rồi lại càng lo nghĩ, dần dà thành bệnh, lệt bệt không dậy được, năm sau bệnh lại càng nặng, chẳng bao lâu bệnh đã thấy nguy kịch… Cao Bá Nhạ trong Tự tình khúc viết năm 1862 lại tự mô tả tình trạng suy sụp tinh thần của mình lúc đi lánh nạn sau khi bỗng dưng bị liên lụy vào vụ ông chú ruột nổi dậy chống đối triều đình. Đó là một tâm cảnh bi thương vì lỗi đạo làm con : Lòng hiếu dưỡng trăm năm đã lỡ, Lời di danh hai chữ còn mang. Đó là một cuộc sống viễn trích sầu thảm, một thân phận lữ thứ đau khổ : Một vùng khách địa, muôn vàn thương tâm. Cảnh sống đó thủ tiêu tất cả sức đề kháng và xô đẩy tâm thể vào bệnh cảnh suy nhược thần kinh : Mối ưu sầu gở mãi chưa xong. Chứng thổ huyết và khái huyết từng xẩy ra cho quốc tổ và chủ đ ề 14/76
cho con cháu. Toàn thư cho biết vua Hùng Vương thứ mười tám thổ huyết, nhảy xuống giếng tự tử khi bị Thục Phán bất ngờ tấn công. Nguyễn Thông cũng từng mắc chứng thổ huyết dây dưa mãi không khỏi. Nguyễn Hành thì khạc ra máu, vì vậy người cháu ruột Nguyễn Du tự ví mình với chim cuốc, con chim sầu oán kêu suốt đêm, kêu đến nhỏ cả máu; cho nên bài thơ Đỗ quyên của ông có kèm chú thích nhân khách huyết tác (làm nhân khi nhổ ra máu). Bệnh hủi từng được Toàn thư ghi nhận ở phần Bản kỷ thực lục năm 1426. Trong tuồng Kim Thạch Kỳ Duyên của Bùi Hữu Nghĩa nhân vật chính là Kim Ngọc cũng bị bệnh phong. Các loại bướu đã xuất hiện từ trong đêm dài huyền thoại học. Theo chuyện Việt tỉnh trong Lĩnh Nam chích quái thì tiên nữ Ma Cô muốn đền ơn Thôi Vỹ đã trao cho chàng một bó lá ngải và dặn giữ cẩn thận, sau này thấy ai có bướu trên đầu thì đem cứu cho tan. Quả nhiên về sau Thôi Vỹ dùng lá ngải cứu cho một con rắn có bướu và được rắn báo ơn, trở nên giàu có. Chứng ung thư đã gây tử vong cho một vị thái tử : năm 1373, Trần Duệ Tông phong con trưởng là Vỹ làm Chương vũ Đại vương khi mười bốn tuổi, muốn lập làm hoàng thái tử, nhưng sau bị bệnh thư nên chết (Toàn thư ). Dịch bệnh tất nhiên là một tai họa rất phổ biến trong dòng lịch sử, ví dụ theo Toàn thư : Mậu dần năm thứ sáu (1278), mùa xuân, tháng hai, dân nhiều người chết vì bệnh đậu. Hồ Xuân Hương tương truyền mặt rỗ hoa vì thuở bé từng là nạn nhân của siêu vi Variola major. Người hầu gái Trần Lý Hà của Ngô Thì Sĩ chết vì đậu mùa năm hai mươi mốt tuổi. Con trưởng vua Lê Chiêu Thống cũng chết ở Bắc kinh do bệnh đậu (có tài liệu ghi là bệnh sởi). Qua Y dương án, Lãn Ông từng ghi lại cảnh chữa bệnh đậu mùa cho trẻ em. Nguyễn Thọ Xuân, người đời Lê Trịnh, lại mang chứng bệnh khá độc đáo là bệnh Tề Tuyên. Bệnh này khiến ông lúc nào cũng phải có nàng hầu bên cạnh. Đến nỗi khi được cử giữ chức Đề điệu (Chánh chủ khảo) trường thi Nghệ An, vì thể lệ thi cử cấm đưa phụ nữ vào trường thi nên ông phải cho hai thị nữ mặc giả làm lính hầu để đưa vào trường. Việc bị phát giác, bị đàn hặc, tưởng ông đã nguy, nhưng may lại được chúa Trịnh xúy xóa cho chủ đề 14/77
(Vũ Phương Đề, Công dư tiệp ký). Ông có một hậu bối khá xứng đáng là Trần Tế Xương: Một trà một rượu một đàn bà, Ba cái lăng nhăng nó quấy ta. Chừa được cái gì hay cái nấy, Có chăng chừa rượu với chừa trà. Phạm Đình Hổ hiền hậu hơn nhiều. Ông chỉ trót nghiện chè tàu, khay chén không đủ, tiền không đủ mua chè mà vẫn nghiện; nghiện quá, các thứ chè tùng quế thơm tho, thứ nào cũng mua nếm qua cả; đã nhiều lần muốn chừa hẳn mà không chừa được. Vì thế nên đêm thanh vắng, suy xét, hối hận vô chừng (Vũ trung tùy bút). Cuối cùng, trước khi chấm dứt, và để cho phù hợp với nội dung văn học của bài viết trong khi vẫn ở trong lĩnh vực các chứng bệnh nghiện ngập, xin nhắc đến chứng bệnh hi hữu, bệnh nghiện thơ. Nguyễn Bỉnh Khiêm từng mắc bệnh này : Lão cuồng huống hựu đam thi tích. (Tức sự) (Kẻ già ngông cuồng lại có bệnh nghiện thơ) (Thơ tức sự) Nhưng mắc cùng bệnh mà còn nặng hơn Trạng Trình rất nhiều là Tùng Thiện Vương Miên Thẩm. Trong bài tựa tập Ngộ ngôn, bộ Thương sơn văn di, ông hoàng xác nhận là mình kỳ ư thi, phả hữu tịch (chỉ có bệnh ham thơ, gần như nghiện vậy). Vì quá ham mê thơ nên ông cát nhà thờ các thi bá nổi tiếng như Khuất Nguyên, Tô Thức. Những người vì di truyền nòi giống mà mang cùng bệnh với hoàng tử chắc hẳn hiện nay rất đông. Westpreussenstr., 18.07.08 TRẦN VĂN TÍCH
chủ đề 14/78
N G Ự TH UYẾT tuyết trên đỉnh kilimanjaro và bướm trắng
Văn hào Pháp, Marcel Proust, có lần phát biểu: “Một ngươì mang bệnh, một Baudelaire, hay thuyết phục hơn nữa, một Dostoevsky, trong ba mươi năm, giữa những cơn động kinh chẳng hạn, có thể sáng tạo một công trình mà một số đông nhà văn mạnh khỏe không thể nào viết ra nổi một chữ như trong đó.”1 Phát biểu có cường điệu đấy nhưng vẫn mang một sức thuyết phục. Friedrich Nietzsche cũng ca ngợi Dostoevsky, và cho rằng nghệ thuật chỉ đạt đến mức vĩ đại khi ngươì nghệ sĩ trải qua nỗi thống khổ cùng cực về thể xác và tinh thần. Nietzsche định nghĩa ngươì là “con vật bệnh hoạn”, the sick animal, và bệnh tật kích thích những cảm giác mạnh mẽ nhất, những suy tưởng sâu xa nhất và những năng lực lớn lao nhất. Bệnh tật, vẫn theo Nietzsche, có thể mang đến cho ngươì nghệ sĩ một nhận thức mới mẻ khiến hắn có thể sống sót trước sức công phá mãnh liệt của căn bệnh ấy, và những tổn thất do bệnh tật gây nên cũng có giá trị khi cái đau thể xác chuyển biến thành những thành tựu tinh thần. Nietzsche còn viết: “Muốn bất tử, ta phải trả giá rất cao: ta phải chết nhiều lần khi đang còn sống.”2 Cũng cùng một quan niệm như trên của Nietzsche và Proust, có rất nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà tư tưởng như Johann Wolfgang Goethe, André Gide, Thomas Mann, v.v... Đối với những tên tuổi lớn vừa viết vừa bị bệnh hoạn dày xéo từ thể xác đến tâm hồn thì danh sách càng dài: Arthur Rimbaud, John Keats, Lord Byron, Katherine Mansfield, Guy de Maupassant, Virginia Woolf, Franz Kafka, v.v... trong đó có các vị vừa nêu trên, Baudelaire, Dostoevsky, Goethe, Proust. Các nhà văn, nhà thơ Việt Nam như Vũ Trọng Phụng, Hàn Mạc Tử, Thạch Lam, Nguyễn Nhược Pháp, Bích Khê... của thời tiền chiến, Quách
1 Marcel Proust, “About Baudelaire,” Pleasures and Days, trans. Gerard Hopkins (New York, 1957). 2 Friedrich Nietzsche, Ecce Homo, trans. Walter Kaufmam (New York, 1967) chủ đề 14/79
Thoại, Bùi Giáng, v.v... gần đây, cũng là những người vừa viết vừa chống trả những cơn bệnh ngặt nghèo. Và hẳn nhiên ta không thể không nhớ đến thi hào Nguyễn Du gần như suốt đời mang bệnh - thời trẻ thì lao đao trong khói lửa, loạn ly trên đất bắc, ba năm bệnh hoạn vì nghèo không thuốc thang (tam xuân tích bệnh bần vô dược3), khi về được nơi quê hương ở ẩn trong núi xanh, cạnh gối chỉ có chồng sách đỡ tấm thân bệnh tật (Chẩm bạn thúc thư phù bệnh cốt 4), và ngay cả khi làm quan tại kinh đô Huế dươí triều vua Gia Long cũng vẫn ở một góc “đông thành vua, một thân nằm bệnh” (Nhất thân ngọa bệnh Đế thành đông5 )
Trên đây là mấy ý kiến sơ lược về tương quan giữa bệnh tật và tác giả. Nay ta thử đặt lại vấn đề có khác một chút, ta thử tìm xem nhà văn không bệnh tật vào thời điểm sáng tác đã viết như thế nào khi sáng tạo ra nhân vật của mình đang bị cơn bệnh hành hạ. Nói cách khác, thể chất lẫn tinh thần của nhân vật đã trải qua những biến thái gì khi nhân vật ấy bị cơn bệnh dày vò, bị cái chết đe dọa. Tôi nghĩ đến The Snows of Kilimanjaro của Hemingway và Bướm Trắng của Nhất Linh. Nhớ năm cuối thập niên 50 của thế kỷ trước. Có những anh chàng vừa mới lớn, vừa bước qua khỏi cổng trường trung học, “trôi giạt” vào Sài Gòn từ miền Bắc, từ miền Trung. Xa quê nhà, xa tập tục, thoát khỏi những gò bó, ràng buộc của gia đình, của xã hội nhỏ tủn mủn, mở to con mắt nhìn những chân trời mới lạ, quyến rủ nhưng cũng đầy đe dọa, cho nên vừa bỡ ngỡ, vừa sung sướng, vừa kinh ngạc, vừa hoảng sợ. Như con chim chưa đủ lông cánh đã rời bỏ tổ ấm bay vào không gian bao la. Không có và cũng không muốn có người đưa đường chỉ lối dù trong thâm tâm tự biết mình còn ngu ngơ, vụng về, ngờ nghệch.Tự cho đã làm người lớn lớn rồi, “độc lập, tự do”, không muốn nhờ cậy ai, nhưng “Cơm áo không đùa với khách thơ.” Thì cố mà kiếm sống và lao vào cuộc đời như con thiêu thân lao vào lửa. Đam mê, bê tha nhiều thứ. Không tin tưởng vào bất cứ thứ gì, điều gì, ngờ vực mọi giá trị. Càng ngày càng thấy bơ vơ, lạc đường.Trong hoàn cảnh ấy “Les Neiges du 3 Quách Tấn, Tố Như Thi (Mạn Hứng) 4 Quách Tấn, Tố Như Thi (Tạp Ngâm) 5Quách Tấn, Tố Như Thi(Ngẫu Đề)
chủ đề 14/80
Kilimanjaro”xuất hiện. Đó là tên cuốn phim Mỹ nói tiếng Pháp, phụ đề tiếng Việt, dựa theo một tác phẩm của Hemingway, với những tài tử “gạo cội” Gregory Peck, Ava Gardner, Susan Hayward, và vài vai phụ khác như Leo Carroll, Hildegarde Neff. Các tài tử đẹp, đóng hay, rất hợp với vai trò. Câu chuyện dẫn dắt người xem theo nhân vật chính thuộc “thế hệ lạc lỏng” (the lost generation) đi phiêu lưu qua nhiều vùng thuộc Âu châu, trong chiến tranh, trong hòa bình, trong các hộp đên, trong yêu đương, trong cuồng nộ, rồi đi sâu vào rừng Phi châu trong những chuyến đi săn mạo hiểm, để rồi chân bị gai đâm nhiễm độc nằm chờ chết trong lều vải dựng tạm. Tử thần từ từ tiến đến bên tiếng nói tha thiết của người vợ vừa chắp nối Helen, tiếng thú dữ gầm gừ từ xa, tiếng tru gớm guốc của giống linh cẩu đánh hơi được mùi thịt hôi thối. Đêm thì lửa trại và tiếng trống Phi Châu bập bùng, ngày thì những đàn kênh kênh lượn lui lượn tới, những đàn sơn dương chạy vờn vờn như khói cuộn. Xa xa, tận chân trời, đỉnh Kilimanjaro hiện lên sừng sửng. Trong cơn tuyệt vọng, cuối cùng máy bay xuất hiện, đám người cứu trợ đến kịp thời. Cuốn phim mở ra nhiều chân trời, cuốn hút những tâm hồn của thanh niên mới lớn như chúng tôi một cách kỳ lạ dù chúng tôi không tìm thấy ý nghĩa của câu chuyện.Thì thử tìm đọc cuốn truyện xem có nhận ra được điều gì khác không. Nguyên tác The Snows of Kilimanjaro tuy là một truyện ngắn, nó mang vóc dáng một truyện dài mà tác giả Hemingway đã từng cho là một trong những tác phẩm ưng ý nhất của mình. Phim không theo đúng nguyên tác của Hemingway, nhất là ở đoạn kết thúc, có lẽ vì muốn chuyện có hậu (happy ending). Trong nguyên tác, kết thúc bi thảm: Nàng nhìn thấy thân hình chủ đề 14/81
chàng qua chiếc mùng nhưng không hiểu sao chân của chàng thò ra ngoài và buông xuống cạnh giường. Băng bó cũng rơi
vung vãi, nàng không chịu nổi cảnh tượng ấy. Nàng gọi, “Molo! Molo!” Rồi nàng kêu, “Harry, Harry!” Tiếng nói của nàng bỗng vang lên,“Harry! Xin anh. Ôi Harry!”Không có tiếng trả lời; nàng cũng không nghe thấy chàng thở. Bên ngoài lều, con linh cẩu tru lên thứ tiếng lạ lùng đã đánh thức nàng hồi nẫy. Nhưng vì tiếng tim nàng đập mạnh, nàng không nghe thấy tiếng tru.” Đọc xong nguyên tác, hồi còn trẻ, tôi cảm thấy lạc lõng, chẳng nhận thấy được gì ngoại trừ những hồi ức của một người sắp chết về cuộc sống đầy biến động, về tình yêu, về chiến tranh, một loại chiến tranh khác hẳn cuộc chiến đang xẩy ra trên quê hương mình. Tuổi trẻ dễ xúc động mà cũng mau quên, quên cuốn phim, quên tác phẩm, cũng như quên biết bao nhiêu dòng nước chảy dưới biết bao nhiêu chiếc cầu. Mới đây tôi có dịp đọc cuốn Disease and the Novels, 1880-1960 của Jeffrey Meyers, giáo sư Đại Học Colorado, trong đó có bài viết so sánh The Snows of Kilimanjaro với The Death of Ivan Ilych của Tolstoy. Tác giả Jeffrey Meyers cho rằng trong cả hai truyện nói trên, trước cái chết khủng khiếp, các nhân vật chính của truyện đều khước từ quá khứ – quá khứ chẳng qua chỉ là cái chết đang diễn tiến - và, trong những khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời, họ đã đạt được sự chuyển biến tinh thần và tự cứu rỗi lấy mình (The dreadful confrontation with mortality forces them to repudiate the past – which has been nothing more than a living death – and allows them to gain, in their final moments, spiritual conversion and self-redemption. sđd). Do đó, vẫn theo Jeffrey Meyers, nếu bệnh hoạn, những cơn đau và nỗi sợ chết của nhân vật Ilych khiến hắn phải phấn đấu để vượt ra khỏi một cuộc sống tầm thường và đạt đến những chuyển biến phi thường, từ đó hắn có thể nhìn sâu vào bản ngã, tự phán xét bản thân nhờ thế hắn chứng nghiệm được sự hiện hữu của thượng đế, thì Harry, nhân vật của Hemingway, cũng có những trải nghiệm tương tự, nhưng đã thay thế đức tin vào Chúa Trời như điều tôi đẹp cao cả nhất bằng sự trung thành với Nghệ Thuật - replaces faith in God as the highest good with fidelity to Art (ý nói sắp chủ đề 14/82 chết nhưng Harry vẫn nghĩ đến những tác phẩm đáng lẽ phải viết. NT).
Trong một đoạn khác, Jeffrey Meyers nói rõ hơn, “In Tolstoy disease has a positive quality: it emphasizes the spiritual element in man, provides insight and illumination, teaches the Christian acceptance of death. Hemingway subtitutes Art for Christanity, but reveals a Tolstoyan pattern of personal redemption. (Tạm dịch: Ở Tolstoy bệnh hoạn có một giá trị tích cực: nó nhấn mạnh đến yếu tố tâm linh nơi con ngươì, đi sâu vào bản chất, khai sáng, và dạy cho ta chấp nhận cái chết đúng với tinh thần Cơ Đốc Giáo. Hemingway thì lấy Nghệ Thuật thay cho đạo Cơ Đốc, nhưng vẫn biểu lộ mô hình của Tolstoy về sự cứu rỗi của con người). Ivan cuối cùng được về với Chúa thì Harry trong giấc mơ cũng được đưa đến những vùng tuyết tinh khiết của đỉnh Kilimanjaro mà người Masai gọi là ngôi nhà của Chúa (Ivan is led to God ... ; Harry is led to the pure snows of Mount Kilimanjaro, which the Masai call “the House of God”. Sđd). Những đoạn so sánh nói trên khiến tôi bỡ ngỡ. Bèn đọc lại The Snows of Kilimanjaro, hiểu Hemingway hơn ngày xưa khi còn là một thanh niên mới lớn, tôi càng thấy khó đồng ý với những nhận định trên. Cơn đau và cái chết từ từ đến quả đã có tác dụng lớn đối với hai nhân vật Ivan và Harry, nhưng đó là những tác dụng khác nhau chứ không nhất thiết dẫn dắt con người về một hướng. Bệnh hoạn cuối cùng quả đã đưa Ivan về với Chúa nhưng đối với Harry thì sao? Nhân vật Harry của Hemingway là một nhà văn rất “đàn ông”, sống sôi nổi, dữ dội. Dường như Harry muốn sống nhiều để thu thập chất liệu cho những tác phẩm sắp viết. Nhưng cứ lần khân chưa chịu viết, vì đam mê, vì bị cuốn hút trong cuộc sống xa hoa, phung phí. Đến lúc sắp chết, nằm dài suốt ngày đêm trong lều vải vì vết thương nhiễm độc trong một cuộc đi săn với một người đàn bà giàu có trong rừng sâu, lúc ấy mới chiêm nghiệm lại cuộc đời, hồi tưởng quá khứ, nhớ lại những cuộc tình tan vỡ, những thú nhục dục bừa bãi, rượu chè, cờ bạc, hận thù, chiến tranh một trộn lẫn của những khoái lạc, xúc cảm và băn khoăn, những thứ đó đã in đậm nét lên thân phận của một con người thất bại, một nhà văn không đạt được ước nguyện của chủ đề 14/83 mình, và chết trong ân hận, nuối tiếc. Hemingway không phải là người ngoan đạo. Ông không tin ở Thượng Đế,
không chấp nhận ý nghĩ rằng Thượng Đế canh chừng từng hành động của con người để duy trì công lý, đạo đức, v.v... cho thế gian, và do đó thiên nhiên cũng thường lãnh đạm nếu không muốn nói đối nghịch với con người. Nhân vật Harry của Hemingway, do đó, cũng hành xử theo quan niệm của tác giả về nhân sinh, về vũ trụ và chỉ cố gắng tìm giá trị của mình, nếu có, từ lòng can đảm, sự trung thực, nhân cách của chính mình chứ không ở đâu khác. Cơn đau và cái chết từ từ đến khơi dậy nơi Harry những chuỗi hồi ức. Đây, một lễ Giáng Sinh xa xưa: “Cũng có tuyết rơi suốt tuần lễ Giáng Sinh năm đó trên vùng Gauertal, năm đó bọn họ sống trong ngôi nhà của ngươì thợ rừng có cái lò bếp to lớn bằng sứ vuông vức choáng hết nửa căn phòng, và họ ngủ trên những tấm nệm độn lá giẻ gai, thời gian anh chàng đào ngũ đến đấy hai bàn chân đầy máu lội trong tuyết. Nó bảo cảnh sát đang đuổi theo nó bén gót và bọn họ đã cho nó đôi vớ len rồi giữ đám cảnh sát lại nói chuyện cho đến khi dấu vết nó để lại trên tuyết bị xóa nhòa...Hồi đó đánh bạc lu bù. Khi không có tuyết đánh bạc và khi tuyết đổ xuống quá nhiều đánh bạc. Hắn nghĩ đến biết bao thời gian trong cuộc đời của hắn dùng vào việc đánh bạc. Nhưng hắn không bao giờ viết một hàng nào về chuyện ấy, cũng không viết gì về ngày Giáng Sinh lạnh lẽo, sáng rực ấy, núi non chạy băng ngang những vùng đồng bằng mà Barker đã bay vượt qua những phòng tuyến để dội bom xuống chuyến xe lửa chở sỹ quan Áo đi nghỉ phép, đồng thời xả đại liên vào bọn ấy khi chúng bung ra chạy. Hắn nhớ sau đó Barker đi vào phòng ăn và kể chuyện ấy. Căn phòng im phăng phắc, một ngươì nào đó bỗng nói, “Đồ sát nhân ghê tởm.” Anh cũng không thể quên một cuộc tình đổ vỡ, một thế giới đổi thay: “Hắn nghĩ đến hồI đó một mình ở Constantinople, chủ đề 14/84 sau những lần cãi cọ ở Paris trước khi hắn bỏ đi. Hắn ngủ với điếm suốt thời gian sau đó, rồi khi đã thôi, hắn
không thể nào giết chết nỗi cô đơn, mà còn thấy cô đơn thêm, hắn viết thư cho cô ta, ngươì đàn bà thứ nhất, ngươì đã rời bỏ hắn, cho cô hay rằng hắn không thể nào giết chết cô đơn...Rằng một lần hắn tưởng hắn thấy cô bên ngoài cửa hiệu Regence hắn muốn ngất đi, đau nhói trong lòng; và hắn cũng đã đi theo một ngươì đàn bà trông hao hao giống cô ta, đi dọc Đại Lộ, lòng lo ngại không phải cô ấy, lo ngại mất đi cái cảm xúc bồi hồi. Rằng những người đàn bà mà hắn đã cùng chăn gối lại càng làm hắn nhớ cô ta hơn. Rằng những gì cô đã gây nên không còn là vấn đề nữa vì hắn biết rằng hắn không thể nào thôi yêu cô... Hắn nhớ những thời gian êm đẹp sống với tất cả những ngươì đàn bà ấy, và những trận cãi vã. Bọn chúng luôn luôn chọn những nơi tốt đẹp nhất để cãi nhau. Và tại sao hắn và những ngươì đàn bà ấy luôn luôn cãi cọ khi hắn cảm thấy sung sướng nhất? Hắn chưa bao giờ viết gì về chuyện đó là vì, trước tiên, hắn không muốn làm thương tổn ngươì nào và dường như đã có đủ đề tài để viết mà không cần đến những chuyện ấy. Nhưng hắn luôn luôn nghĩ rằng rốt cục hắn cũng sẽ viết về những chuyện ấy. Có quá nhiều điều để viết. Hắn đã thấy thế giới thay đổi; không phải chỉ các biến cố mà thôi; mặc dù hắn đã chứng kiến nhiều biến cố và đã quan sát con ngươì, nhưng hắn đã thấy những thay đổi tinh tế hơn và còn nhớ con ngươì đã biến đổi như thế nào vào những thời điểm khác nhau. Hắn là ngươì trong cuộc, đã quan sát cuộc sống ấy, và có bổn phận ghi chép lại; nhưng bây giờ hắn không bao giờ viết được nữa rồi.” Cũng có hồi ức về những cảnh trí êm đềm, thơ mộng: “Không, hắn không bao giờ viết về Paris. Không phải Paris mà hắn thích. Nhưng những thứ khác hắn cũng chưa bao giờ viết đến thì sao? Chẳng hạn cái trang trại, màu xám trắng bạc của chủ đề 14/85 lùm ngải đắng, dòng nước trong chảy nhanh dùng để tưới cây dưới những mương rãnh, và màu xanh đậm của
cỏ linh lăng. Con đường mòn chạy lên những ngọn đồi và đàn gia súc vào mùa hè nhút nhát như nai. Tiếng kêu và tiếng động đều đều và cả một đàn súc vật di chuyển chậm chạp làm bụi tung lên khi ngươì ta lùa chúng xuống vào mùa thu. Và sau những dãy núi, đỉnh núi cao in đậm nét trong ánh sáng buổi chiều. Bây giờ hắn lại nhớ đã đi xuống qua khu rừng cây trong đêm tối tay níu lấy đuôi con ngựa khi không thấy đường, và nhớ lại tất cả những mẩu chuyện hắn định viết.” Và lẽ dĩ nhiên chiến tranh đã để lại những dấu ấn sâu đậm: “Hắn nhớ đã lâu lắm khi Williamson, viên sỹ quan oanh tạc, bị một tên lính Đức của đội tuần tiễu ném quả bom chùm trúng vào người khi nó chui qua hàng rào kẽm gai đêm hôm đó, rồi vưà la hét vừa xin mọi ngươì hãy giết chết nó đi. Nó mập mạp, gan dạ, một sỹ quan giỏi, dù rất ghiền những màn trình diễn kỳ quái. Nhưng đêm hôm đó nó bị vướng vào dây kẽm gai, hỏa châu soi sáng phía bên trên, chùm ruột của nó đổ lên trên dây kẽm, cho nên khi chúng nó mang nó vào, còn sống, chúng nó phải cắt mọi thứ lòng thòng vướng víu. Bắn tôi đi, Harry. Trời ơi, Harry bắn tôi đi.” Xen lẫn trong những chuỗi hồi ức là những ăn năn, hối tiếc được lặp đi lặp lại: mình đã không viết gì về chuyện đó. Cứ thế, những chuỗi hồi ức liên tiếp đến khi tử thần cũng đồng thời tiến lại gần, và Harry càng cảm thấy ngực của mình bị đè nặng đến nỗi anh không nói năng gì được nữa. Bỗng nhiên khi bọn người tùy tùng đến khiêng chiếc giường anh đang nằm đưa vào trong lều vải, Harry cảm thấy sứ nặng đè lên ngực mình không còn nữa, và anh lìa đời. Nhưng trước đó một khoảnh khắc ngắn, Harry mơ thấy máy bay kịp đến đưa anh lên cao cho anh thấy đỉnh Kilimanjaro hùng vĩ trắng xóa dưới ánh mặt trời. Mở đầu truyện, Hemingway viết một đoạn ngắn: “Kilimanjaro is a snow-covered mountain 19,710 feet high, and is said to be the highest mountain in Africa. Its western smmit is called the Masai 'Ngàje Ngài,' the House of God. Close to the chủ đề 14/86 western summit there is the dried and frozen carcass of a leopard. No one has explained what the leopard was seeking at that altitude. (Kilimanjaro là ngọn núi tuyết
phủ cao 19,710 feet, mà ngươì ta bảo là cao nhất Phi Châu. Đỉnh phía tây của nó gọi là Masai “Ngàje Ngài,” ngôi Nhà của Thượng Đế. Gần đỉnh phía tây đó có xác của một con báo đã khô và đóng băng. Không ai giải thích con báo ấy đi tìm cái gì ở độ cao ấy.) Phải chăng Harry thì cũng như con báo ấy thôi. Suốt đời sục sạo kiếm tìm. Tìm cho đủ chất liệu để viết, tìm cho ra ý nghĩa cuộc sống của mình. Tìm cho lắm, đã tìm thấy chưa, nhưng chưa kịp viết lại, thì đã chết vì cơn bệnh bất ngờ. Hầu hết các nhân vật trong những tiểu thuyết chính của Hemingway đều là những kẻ thất bại (The Sun Also Rises, For Whom The Bell Tolls, A Farewell to Arms, The Old Man and The Sea).
Một nhà văn nổi tiếng của Việt Nam có rất nhiều nét tương đồng với Hemingway, đó là Nhất Linh. Cả hai sống và chết gần như đồng thời với nhau: Nhất Linh sinh năm 1906, mất năm 1963; Hemingway sinh năm 1899, mất năm 1961.Cả hai đều là những người uống rượu mạnh và hút thuốc lá liên miên. Cả hai đều sống cuộc đời chìm nổi – Hemingway sống lang bạt nhiều nơi trên thế giới như Mỹ, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Cuba, từng tình nguyện vào quân đội Ý trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất, sau đó làm phóng viên cho một tờ báo lớn trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha; Nhất Linh thì sống nhiều nơi trên quê hương, từng du học ở Pháp, tham gia và lãnh đạo cuộc cách mạng giành độc lập cho đất nước, bôn ba nhiều năm trên đất Tàu như Côn Minh, Hồng Kông. Những năm cuối đời, Hemingway bị trầm cảm, hoang tưởng (depression and continued paranoia. Ernest Hemingway- Charles Scribner’s Sons, New York, 1966) phải nằm bệnh viện nhiều lần, Nhất Linh thì suy nhược tinh thần, thể xác, và có triệu chứng bệnh thần kinh (Theo Thế Uyên, Bác Sĩ Phiếm: Chân Dung Nhất Linh – Văn, Sài Gòn, 1966). Cuối cùng cả hai tác giả đều kết liễu đời mình bằng tự sát, Hemingway dùng súng bắn vào đầu, Nhất Linh uống thuốc độc. Về phương chủ đề 14/87 diện văn chương, Hemingway và Nhất Linh đều ca tụng Tolstoy tuy phong cách hoàn toàn khác nhau, và cả hai đều có địa vị lớn trong nền văn học của nước mình.
Riêng tác phẩm The Snows of Kilimanjaro ra đời năm 1936, thì Bướm Trắng của Nhất Linh cũng được viết vào cuối thập niên 1930 và cả hai tác phẩm cùng đề cập đến cái chết và ảnh hưởng của nó đối với nhân vật trong truyện. Nhưng trước khi đề cập đến Bướm Trắng, ta thử nhìn khái quát văn nghiệp của Nhất Linh. Năm 1925 Nhất Linh cho xuất bản Nho Phong, một cuốn tiểu thuyết ái tình trung hậu, nhẹ nhàng, viết bằng lối văn cổ lỗ, nhiều chỗ sáo, kêu, rỗng. So với Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách viết trước đó vài năm, Nho Phong kém phần ảo não, tha thiết, so với Hồ Biểu Chánh viết sau đó mấy năm thì không đậm đà, hấp dẫn, kỳ thú bằng. Đó là thời kỳ phôi thai của tiểu thuyết Việt Nam. Cuốn Người Quay Tơ của Nhất Linh ra đời năm sau (1927) là một bước tiến nhỏ trong đó những băn khoăn, suy tưởng bắt đầu mọc rể, đâm chồi, báo hiệu cho những sáng tạo ngày càng giá trị về sau. Qua thập niên 1930, Nhất Linh lột xác trở thành một nhà văn luôn luôn đi tiên phong và không ngừng chuyển biến. Tác phẩm sau thường là một phủ nhận tác phẩm trước về phong cách, về tư tưởng, về ý hướng nghệ thuật. Riêng về mặt tư duy, phải thừa nhận rằng kể từ Bướm Trắng của Nhất Linh, nhân vật tiểu thuyết Việt Nam mới bắt đầu biết dò tìm những chiều sâu trong tâm hồn mình, trong tiềm thức, vô thức, suy nghĩ, trăn trở, đắn đo. Trước đó, trong tất cả các tiểu thuyết của những tác giả khác, các nhân vật đều sống nhiều bằng cảm tính: thương nhớ, yêu đương, buồn vui, mừng giận, v.v... Ngoài ra, tuyệt đại đa số các tác giả một khi đã theo một xu hướng nào thì theo suốt đời. Chẳng hạn Phan Trần Chúc đã viết 7 cuốn đều thuộc thể loại ký sự lịch sử và tiểu thuyết lịch sử, và cùng một văn phong như nhau (Vua Hàm Nghi, Lê Hoàn, Vua Quang Trung, Triều Tây Sơn, Cần Vương, Dưới Lũy Trường Dục, Danh Nhân Việt Nam qua các Triều Đại). Tóm lại các tác giả nào theo xu hướng lãng mạn, tùy bút, phóng sự, bút ký, tả chân, phong tục, hoặc xã hội chẳng hạn, hầu hết đều đi theo con đường đã vạch ra từ đầu cho đến hết đời. Nhất Linh, trái lại, biến chủ đề 14/88 chuyển không ngừng trong một thời gian ngắn. Một trào lưu văn học thường kéo dài trên dưới 50 năm. Lấy nước Pháp làm thí dụ, nền văn học cổ điển tồn tại gần trọn thế
kỷ 17, văn học lãng mạn bắt đầu từ cuối thế kỷ 18 qua giữa thế kỷ 19, rồi chuyển qua những dòng văn học khác như các trường phái Thi Sơn, Tượng Trưng v.v... Nhất Linh, trong chỉ hơn 20 năm mà đã đi kinh qua nhiều trào lưu, thể loại, và phong cách. Ở nước ta, và cả thế giới, không có một trường hợp nào như thế. Ông đã để lại ba đỉnh cao về tiểu thuyết: Đôi Bạn, Bướm Trắng, Xóm Cầu Mới. Đã có nhiều bài viết của nhiều tác giả miền Nam trước năm 1975, hoặc hải ngoại sau 1975 nhận định về Nhất Linh. Chỉ xin dẫn ra đây một vài đoạn trong Mơ Hương Cảng xuất bản tại Sài Gòn năm 1971, của Vũ Khắc Khoan: “... Bởi vào năm 1940, không chỉ có một Dũng, Dũng của Đoạn Tuyệt, mà còn có một thứ Dũng nữa, tuy sinh sau đẻ muộn mà ma lực quyến rũ (nhất là đối với chính Nhất Linh) lại khủng khiếp gấp bội người anh đầu lòng. Dũng của Đôi Bạn... Trong ma túy lên đường, chướng khí rừng mạn ngược và sương độc núi lam biên giới, quân cờ (được gọi tên là Dũng) dần dần trút bỏ hình thù thô kệch giả tạo ban đầu, vụt lớn lên thần tượng, vóc dáng bao trùm cả một thế hệ, quân cờ hay là Dũng bỗng một đêm thấy tỏa ra tự thân xác một vùng ánh sáng mang một hấp lực dị thường dấy lên theo một đường quỹ đạo mà chính Dũng là nơi trung tâm phát xuất...Dũng kỳ dị, beau ténébreux, hiện lên lãng mạn trên một nền mờ dịu của mây trắng mùa thu và gió heo may thổi lộng mặt sông hoang vắng...” Ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, rất ít tác giả viết về Nhất Linh một cách đầy đủ và khách quan. Tuy nhiên, trong số ít ỏi đó, nhà phê bình, nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu trong cuốn Thi Pháp Hiện Đại xuất bản tại Hà Nội năm 2000 đã để dành hẳn ba chương đề cập đến Đoạn Tuyệt, Đôi Bạn và Bướm Trắng của Nhất Linh. Về cuốn Đôi Bạn, ông viết: “Trời muốn trở rét...” “Nhất Linh mở đầu tiểu thuyết Đôi Bạn như vậy – một thời gian đang chuyển động, một nốt nhạc buồn, chưa chủ đề 14/89 chấm dứt. Nhiều khi câu mở đầu chứa đựng linh hồn của truyện, nó ngân lên, báo hiệu một số phận con
người, một định mệnh ... Đôi Bạn là bài thơ của chia ly, là bản nhạc 'hiu hắt buồn' của Loan và Dũng từ biệt nhau...Lạnh, lặng yên, gió thổi là âm điệu chủ yếu của bản nhạc này, là chất thơ man mác của cuốn tiểu thuyết... Đôi Bạn có cấu trúc chặt chẽ, có những âm chủ đạo, những nhịp nhẹ xen lẫn những nhịp mạnh – một hòa âm thật đẹp, biểu đạt những tình cảm, suy tư của thời đại ...Nhặt lá bàng là những trang văn xuôi thuộc loại hay nhất của văn học hiện đại Việt Nam.” Ông cũng không tiếc lời ca tụng Bướm Trắng: “Bướm Trắng là một tiểu thuyết hiện đại; nó không phải 'cái viết về những cuộc phiêu lưu' (như Don Quichotte, Thủy Hử, Quả Dưa Đỏ, Tiêu Sơn Tráng Sĩ...) mà là 'phiêu lưu của cái viết'. 'Phiêu lưu' ở đây là những hành trình qua các ngóc ngách của tình cảm, tư duy, cảm xúc, giấc mơ đẹp, hoảng loạn, cái sống và cái chết... Từ những băn khoăn của người trí thức trước xã hội và con người, văn phong của Nhất Linh vút bay cao như một cánh chim. Trí tuệ, trầm tư và chất thơ, đó là phong cách tiểu thuyết Nhất Linh.” Đỗ Đức Hiểu không viết gì về Xóm Cầu Mới. Có thể chưa kịp viết về cuốn tiểu thuyết đồ sộ và đầy cao vọng ấy thì ông đã qua đời, cách đây vài năm. Tôi cũng ngạc nhiên khi thấy rất ít người ở trong nước cũng như ở hải ngoại đề cập đến cuốn tiểu thuyết cuối cùng ấy của Nhất Linh. Theo tôi, trong ba đỉnh cao của Nhất Linh, Xóm Cầu Mới là đỉnh cao nhất trong đó tác giả đã đi thăm thẳm vào tâm hồn của nhiều hạng người khác nhau, nắm bắt được cuộc đời, những cuộc đời tầm thường, nhỏ nhặt, những “cuộc đời 'bèo giạt' đến tụ hội ở xóm nhỏ cũng như những bèo giạt đến, trong ít lâu, vương bám vào chân cầu, rồi lại trôi đi theo dòng nước, không biết về đâu?” Trước kia Hàn Mạc Tử từng nói: Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút Mỗi lời thơ đều dính não cân ta. Còn Xóm Cầu Mới, theo tôi, đã toát ra hơi thở của cuộc sống, xương máu của cuộc sống, linh hồn của cuộc sống. Nhất Linh đã chủ đề 14/90 viết tác phẩm ấy một cách vô cùng rung cảm, mặc dù đôi khi tác giả áp dụng phương pháp cũ để kể chuyện, không quan tâm đến quan điểm (point of view) của các nhân
vật trong truyện. Nhờ viết hay, tác giả khiến người đọc quên hẳn vấn đề quan điểm, say sưa theo dõi “Đông Chu Liệt Quốc của những đời sống tầm thường” (Chữ của Nhất Linh). Văn hào Đức Thomas Mann cũng chẳng hề tuân theo quy tắc quan điểm, tự cho phép biết tất cả mọi ngỏ ngách trong lòng nhân vật của mình và dành quyền phê phán, khen, chê, hoặc nhảy từ quan điểm của ngôi thứ nhất qua ngôi thứ hai, thứ ba khi cần.
Bây giờ, xin trở lại đề tài của bài viết này.
Cũng như Harry trong The Snows of Kilimanjaro, Trương trong Bướm Trắng bị cơn bệnh và cái chết ngày đêm ám ảnh. Một thời gian trước đó anh đang bị lao phổi thì tình yêu đến.Tưởng là tiện thì yêu, không tiện thì thôi, không yêu. Nào ngờ anh yêu Thu đắm đuối. “Trương nhận ra rằng từ trước đến giờ chàng đã sống như một người đi tìm tình yêu mà ngày hôm nay là ngày chàng đã tìm thấy.” 6 Bởi thế, anh phải nghĩ đến tương lai và hạnh phúc đôi lứa, nghĩ đến bệnh tình của mình một cách nghiêm túc và kỹ lưỡng hơn, cho nên anh lo đi khám bệnh lại, tìm cách nói như thế nào để bác sĩ cho biết sự thật là mình có thể lành bệnh hay không, hoặc nếu không khỏi bệnh thì sẽ sống thêm trong bao lâu. Kết quả, theo lời bác sĩ: “... Phổi ấy và tim ấy cũng còn được một năm nữa là ít.” Đúng là một bản án tử hình. Tuy nhiên hoàn cảnh của Trương có khác so với Harry. Nhân vật của Hemingway đang chờ chết, tử thần đang lù lù xuất hiện khi thì dưới cái dáng đi, dáng ngồi trông gớm ghiết của những con chim kênh kênh, khi thì trong tiếng tru lạ lùng giống tiếng người khóc của loài linh cẩu. Harry bức xúc, hối hả, cáu kỉnh, có khi hoảng hốt. Dù sao, trong khuôn khổ của truyện ngắn, Hemingway không thể đi sâu vào mọi ngỏ ngách của tâm hồn nhân vật của khổ ấy vào những trạng thái tâm lý đối nghịch - cái thiện cái ác xung đột, sự hèn hạ và lòng cao thượng chen lẫn, tiềm thức và cả vô thức nhiều lúc biểu hiện bằng thái độ, 6 Từ đoạn này trở xuống, những hàng chữ nghiêng được trích từ cuốn Bướm Trắng của Nhát Linh. chủ đề 14/91
lời nói, cử chỉ, ước mơ, mê sảng (... những ngôi sao chàng thấy xa dần mờ hẳn đi và hiện ra hai con mắt đen của Thu. Hình như nàng mặc áo tang, đội mấn, tóc bỏ xõa đi theo sau một chiếc áo quan và chính chàng lại nằm trong chiếc áo quan ấy, người chàng liệm toàn vải trắng. Phảng phất có mùi thơm của những vòng hoa.../ Trương không nghe Tuyển nói; mắt chàng nhìn vào cửa sổ hé mở để lộ ra một khu vườn nắng... Hình như trời nắng ở bên kia thế giới. Tai chàng không nghe thấy tiếng Tuyển nói bên cạnh, nhưng nghe rõ cả những tiếng rất nhỏ ở ngoài kia, tiếng gió trong lá cây, tiếng một con chim sâu bay chuyền trong giậu.../ Nghĩ đến việc định đánh lừa Thu rồi tự tử, Trương chợt lặng người đi một lúc; sao chàng lại cứ tự dối mình làm gì mãi thế.../ Trương nhìn ra xa; ở tận chân trời, chen giữa hai lũy tre làng lộ ra một mẩu đê cao với một chòm cây đứng trơ vơ, cô đơn. Trương dịu lòng lại, tha thiết cần có một thứ gì đến để an ủi mình, một thứ gì rất êm dịu... Cái chết! Trương lim dim hai mắt nhìn quãng đê vắng tanh tưởng như con đường đưa ngươì ta đến một nơi xa xôi và yên tĩnh lắm. Ngay lúc đó Trương thấy không cần phải có can đảm mới tự tử được; chàng không sợ cái chết nữa, chàng mong nó đến.) Nhiều lúc anh quẫn trí: “Phải, mình cần gì nữa. Chắc chắn là sẽ chết thì còn cần cái quái gì!” Và quyết định: “Chàng sẽ nếm đủ các khoái lạc ở đời, chàng sẽ sống đến cực điểm, sống cho hết để không còn ao ước gì nữa, sống cho chán chường.” Trong tuyệt vọng, có khi anh cảm thấy như được thoát nợ: “Trương thấy mình náo nức, hồi hộp mà lại sung sướng nữa. Chàng sung sướng chỉ vì chàng thấy mình như con chim thoát khỏi lồng, nhẹ nhàng trong một sự tự do không bờ bến. Những cái ràng buộc, đê hèn của cuộc đời sống thường không còn nữa, chàng sẽ hết băn khoăn, hết e dè, được hoàn toàn sống như ý mình.” chủ đề 14/92 Nhưng tâm trạng ấy chỉ xuất hiện ngắn ngủi, như phản ứng của bản năng sinh tồn, thường thì anh vẫn cảm thấy tất cả nỗi tịch liêu của đời mình :
“Khi nói mấy tiếng 'tôi về nhà' sao chàng buồn thế; chàng như thấy thấm vào người tất cả nỗi buồn đìu hiu của thế gian. Chàng lặng người đi, lấy làm ngạc nhiên tại sao vì một câu nói cỏn con lại có thể đau buồn đến như thế được.” Trong khi ấy con người cũng như vạn vật quanh anh vẫn như đang mở hội: “Trời ấm và trong. Trên một cây bàng nhỏ, những lộc mới đâm, màu xanh non hơi phớt hồng, trông như một đàn bướm ở đâu bay về đậu yên. Chàng nghĩ cây bàng năm nào cũng nhớ đâm lộc, đã bao lần rồi, vẫn chỉ như thế mà không chán. Chàng thấy cây cỏ cũng như người, khao khát được sống, tuy đời bao giờ cũng giống như bao giờ.” Nỗi đau khổ càng tăng lên gấp bội khi anh nghĩ đến người yêu: “Lúc đó Trương cảm thấy rất rõ rệt rằng chàng là một người thừa đối với đời, đối với Thu. Giữa vẻ đẹp rực rỡ của mùa xuân, cạnh một người đẹp mà chàng yêu, Trương vẫn riêng thấy lẻ loi, trơ vơ với nỗi buồn nản thầm kín của lòng mình.” Trong tuyệt vọng, ý định giết người và tự tử trổi dậy: “Trương ruỗi chân, và quặt hai tay lên đầu làm gối; lạ nhất là ngay trong lúc có ý tưởng tự tử và giết người, Trương lại thấy trong mình khoan khoái, mạch máu lưu thông đều đều và hơi thở nhẹ nhàng. Sức nóng của ánh nắng mặt trời đã thấm qua quần áo vào làm cho da thịt chàng ấm áp dễ chịu...Chàng nhớ đến cái ý định giết Thu lúc nãy, và bất giác nhìn vào cổ Thu. Lần đầu chàng nhận thấy vẻ đẹp của cái cổ tròn màu trắng dịu và non như một búp hoa ngọc lan sắp nở.” Có lúc Trương không khác gì nhân vật Harry của Hemingway nhớ người yêu quay quắt. Nếu Harry nhận ra “Rằng những người đàn bà mà hắn đã cùng chăn gối lại càng làm hắn nhớ cô ta hơn”, thì Trương: “Chàng buồn nghĩ đến những cảnh mưa trong trăng, đến những quãng không rộng rãi mờ mờ và một cái bến đò ở rất xa với một con thuyền ngủ im dưới mưa... Liên miên chàng nghĩ đến Thu, giờ này chắc đang chủ đề 14/93 ngủ yên và cũng như đêm nào, bàn tay nàng đang đặt trên nền chăn trắng với mấy ngón tay thon đẹp để soãi và khẽ lên xuống theo nhịp thở. Trương đưa mắt nhìn người con gái nằm cạnh hai tay bỏ xuôi, ngực đều đều
lên xuống. Nàng cũng mặc một chiếc áo cánh lụa hơi giống chiếc áo cánh của Thu. Trương nằm xuống gục đầu vào ngực cô gái, nhắm mắt lại muốn quên. Người con gái giật mình thức giấc, toan ẩy Trương ra, nhưng nghĩ lại, chiều khách, nàng giơ tay nhẹ vuốt tóc Trương. Trương thầm nhủ: Không thể được. Mình không sao bỏ được Thu. ” Trong một dịp khác, Harry “...một lần hắn tưởng hắn thấy cô ta bên ngoài cửa hiệu Regence hắn muốn ngất đi, đau nhói trong lòng; và hắn cũng đã đi theo một người đàn bà trông hao hao giống cô ta, đi dọc Đại Lộ, lòng lo ngại không phải cô ấy...” thì Trương cũng trải qua hoàn cảnh tương tự: “Một hôm đang ngồi ngắm các vũ nữ nhẩy lượn, chàng giật mình tưởng Thu ôm một người đàn ông trước mặt. Sao lại có người giống Thu đến thế, cũng cái miệng ấy, cái mũi hơi cong cong và xinh xinh như của Thu. Nhưng tiếc thay đến khi nhìn trước mặt, người ấy lại không còn gì giống Thu nữa. Chàng không nhảy với vũ nữ lần nào, suốt tối cứ ngồi đấy nhìn và bàng hoàng nghĩ đến Thu. Ở ngoài trời mưa và lẫn với tiếng kèn, thỉnh thoảng cơn gió lại rít lên một tiếng dài. Cũng giờ này, Thu yêu quý của chàng trong bộ quần áo lụa trắng chắc đang bình tĩnh ngủ...” Trong tâm trạng của một người đã chán sống, Trương nhìn lại cuộc tình đã làm anh băn khoăn, bứt rứt, đau đớn: “Trương chợt nhận thấy mình là một người hấp hối cần phải suy nghĩ bao quát cả đời sống của mình trước khi nhắm mắt. Ngay lúc đó, thực tình chàng còn mệt mỏi chán sống hơn cả thân thể chàng. Chàng đã tới được mục đích: là không sợ cái chết nữa. Giá đời chàng không có Thu! Giá Thu không yêu chàng hoặc hơn thế nữa, chàng ghét được Thu thì thực là hoàn toàn thoát nợ, thoát khỏi ngục đời. Ái tình của Thu đối với chàng lúc nào cũng chỉ như một sự ăn năn thương tiếc không bao giờ nguôi, thương tiếc một thứ gì có lẽ đẹp lắm mà chàng không bao giờ được biết tới. Ngoài cái mong chết vì chán sống, chàng lại còn mong chết để thoát được chủ đề 14/94 tình yêu của Thu. Chính chàng đã thấy sợ chàng, sợ sẽ có những hành vi rất xấu đối với Thu, đối với đời nếu chàng còn sống ít lâu nữa. Chắc chắn chàng sẽ quấy rầy đến Thu, không thể khác được.”
Trương và Harry đã được hai tác giả Nhất Linh và Hemingway mô tả một cách linh động, sâu sắc. Hai nhân vật ấy tuy có vài điểm tương đồng, nhưng mỗi người, tùy hoàn cảnh của mình trước đe dọa của bệnh hoạn và tử thần , đã phản ứng khác nhau. Với Harry, một nhà văn, sống để viết. Lúc gần chết, mới biết mình đã bỏ sót biết bao nhiêu điều định viết, biết bao nhiêu chuyện muốn đưa vào tác phẩm. Cái chết từ từ đến có giá trị như hồi chuông báo tử làm trổi dậy trong Harry những ăn năn, tiếc nuối đã không làm được điều muốn làm. Trương sống trong cô đơn, không bà con thân thích. Lại sinh vào buổi nhiễu nhương, đất nước bị ngoại bang đô hộ, anh đau đớn, uất ức. Có người yêu, thì người yêu chết vì bệnh lao phổi. Trong khi anh cũng đang bị bệnh lao phổi, có lẽ do người yêu truyền nhiễm, đang lo âu, và trong sâu xa, trong tiềm thức, anh sợ chết, Thu xuất hiện. Thu rực rỡ, đẹp đẽ bội phần so với người yêu cũ: “Chàng đăm nhìn hai con mắt to và đen, sáng long lanh như còn ướt nước mắt và đôi gò má không phấn son ửng hồng ẩn trong khung vải trắng. Vẻ buồn của tang phục làm lộ hẳn cái rực rỡ của một vẻ đẹp rất trẻ và rất tươi...Thu từ lúc lên xe không nói gì; nàng ngả đầu vào cánh cửa và lim dim mắt lại vì buồn ngủ quá. Thỉnh thoảng Thu lại mở mắt để cố chống lại giấc ngủ vì nàng cho ngủ ở trên xe như vậy là không lịch sự. Trương đứng lên kéo cửa kính cho gió khỏi lọt vào chỗ Thu ngồi. Thu mỉm cười nói:'Cảm ơn ông.' Giọng nói mệt nhọc và ấm áp, Trương nghe có một vẻ quyến rũ mê đắm. Trong lúc Thu nhắm mắt lại, Trương tha hồ ngắm nghía; chàng cố trấn tĩnh sự cảm động bàng hoàng để nhìn thật kỹ nét mặt Thu...” Tình yêu của anh bắt đầu từ đó, và cũng được đáp lại một cách dịu dàng, âu yếm. Càng lúc anh càng tìm thấy nơi Thu chủ đề 14/95 những nét xinh đẹp, duyên dáng, thông minh, ý nhị, cao sang. Vừa lúc sắp nắm bắt được hạnh phúc, anh cũng vừa biết mình chỉ còn sống một năm nữa thôi. Anh đâm ra chán chường, liều lĩnh, ngụp lặn trong trụy lạc, tội lỗi,
như về sau khi vì anh mà mọi chuyện đã hầu như tan vỡ, anh từng nói với một người bạn ở Pháp mới về - một cách gián tiếp bộc bạch hoàn cảnh riêng của mình: “Anh ở Pháp về không biết, chứ thanh niên Việt Nam không lý tưởng, chưa sống đã già cỗi như sắp chết, biết mình sắp chết nên không còn chống lại làm gì nữa, buông xuôi tay để mặc cho trôi đến đâu thì đến. Không cưỡng lại nữa ắt trụy lạc sẽ tiến mau lắm... Hoàn cảnh không làm cho ngươì ta phấn khới. Chẳng giấu gì anh, tôi, tôi chán lạ.Một phần vì chán, một phần vì yếu nên tôi...” Anh đã đi đến cuối đường của liều lĩnh, của sa ngã, nhưng đối người yêu, anh vẫn luôn luôn cố gắng “gìn vàng giữ ngọc”, vẫn tìm thấy nơi Thu một hình ảnh rất xinh đẹp, lung linh, trong sáng. Trong tiềm thức của anh, những lúc anh lâm vào tình cảnh khốn đốn, con bướm trắng xuất hiện. Có khi là, “Trên một cây bàng nhỏ, những lộc mới đâm, màu xanh non hơi phớt hồng, trông như một đàn bướm ở đâu bay về đậu yên.” Có khi, “những con bướm bay trong nắng một ngày chủ nhật đã xa xôi lại hiện ra trước mắt.” Ngay cả lúc nằm cạnh gái giang hồ, “ngủ thiếp đi, chàng thấy mình cứ cố nhoi lên để tránh mũi dao mà Thu đưa vào cổ mình, nhưng có một sức mạnh ghê gớm giữ chặt lấy chàng, đè nặng lên hai bên ngực... Trương kêu thét lên:’Em giết anh' và giật mình tỉnh dậy... Ngoài đường cái có tiếng lăn lạch cạch của một chiếc xe bò đi qua, Trương đoán là một xe rau ở ngoại ô lên chợ sớm. Lòng chàng lắng xuống và từ thời quá vãng xa xăm nổi lên một hình ảnh yêu quý của tuổi thơ trong sáng: khu vườn rau của mẹ chàng với những luống rau riếp xanh thẳm, những luống thìa là lá nhỏ như sương mù và một hôm nào trời nắng, những mầm đậu hòa lan tươi non nhú lên qua lần rơm ủ dột. Rồi đến khi luống đậu nở hoa trắng có những con bướm rất xinh ở đâu bay về...”Vâng, phải chăng Thu đã “ở đâu bay về”. Cho đến khi đã tụt dốc một cách thảm hại, tự thấy mình không còn xứng đáng với Thu, kể cả mặt tinh thần, (Trương không ngờ rằng chàng đã chủ đề 14/96 đến ngày tâm hồn cũng trụy lạc rồi. Chàng không khác nào một người ở bẩn thỉu đã quen lắm, quen đến nỗi sự sạch sẽ đã bắt đầu làm cho chàng khó chịu như một vết dơ), đành về quê tìm người em họ (Chàng cần một thứ
êm dịu để an ủi lòng mình, thứ đó là tấm tình yêu của Nhan, người vẫn dịu dàng yên lặng yêu chàng và đợi chàng ở chốn quê xa xôi và yên tĩnh), đi bên cạnh cô em mà lòng cứ thầm nhủ: “Anh không đời nào quên được Thu.” Cả hai nhân vật Harry và Trương đều bị tử thần đánh phá tan tành. Harry chưa kịp thực hiện được ý nguyện thì anh lìa đời, chết trong ăn năn, hối tiếc. Nhưng thử hỏi, trừ những người không còn khả năng sáng tạo, dễ có một ai thoát khỏi số kiếp như Harry? Trương mới bị tử thần đe dọa đã lao đao muốn ngã xuống vực thẳm, đánh mất người yêu. Suy cho cùng, nếu không có niềm tin mãnh liệt vào tôn giáo, vào một kiếp sống ở một thế giới khác, con người không khác gì một lữ khách phải chấm dứt mọi cuộc hành trình mà lòng không thỏa đáng khi cái chết xuất hiện. NGỰ THUYẾT
chủ đề 14/97
HẢI PHƯƠNG bởi vì màu trăng đã lỗi thời
Bởi vì màu trăng đã lỗi thời ta thường ngụy trang kẻ lưu linh bởi vì màu trăng không còn xanh chén rượu thánh không thơm mùi phú lục người phong nhã uống chén rượu chia tay không còn sóng sánh môi mặc dù ta đã uống cạn cả một bầu trời xưa cũ (trong em) nhưng chưa bao giờ uống cạn nỗi cô đơn (trong ta) thường có.
Bởi vì màu trăng đã lỗi thời ta thường ngụy trang thành kẻ hành lữ ngồi giữa chợ đời mình nghe cơn mê đầy không nơi cư trú hè phố xưa buồn vui đêm ngày khung cửa hẹp treo linh hồn ta sợi dây thừng thõng. Bởi vì màu trăng đã lỗi thời ta thường ngụy trang chút nắng gió sơ sinh là lúc ta nguy nga nỗi chết là lúc ta tái sinh trong em là khi ta vong thân tất cả chủ đề 14/98
Bởi vì màu trăng đã lỗi thời
ta thường ngụy trang tiếng đêm giao hưởng bởi cánh của lời là ngôn ngữ của hoàng hôn bởi lời của ta bay vào lãng quên bởi lời của ta vô nghĩa đời thường bởi lời của em là thơ thổi ta bay xa từng vị trí. Bởi vì màu trăng đã lỗi thời ta thường ngụy trang pho tượng đá tình si ngồi trong vườn nhà em đong đếm thời gian mùa thu rụng lá tồn lưu mùa sau mầm non tượng hình trong đất ấm. Bởi vì màu trăng đã lỗi thời ta thường ngụy trang kẻ quyền năng như người làm thơ gặp lại giấc mơ thời tuổi nhỏ hoa trái em bày biện cùng lá cỏ quyến rũ ta cũng có lúc tin là cớ sự của cải em thượng đế dành riêng tặng ta là kẻ làm thơ thua thiệt. Bởi vì màu trăng đã lỗi thời ta thường ngụy trang kẻ lưu đày biệt xứ ở một nơi biền biệt lộng lẫy nghĩa trang mùa xuân tang nghi quán thơ khai mở. Bởi vì màu trăng đã lỗi thời Ta Nguyệt Thực Em Biển Nguy Nga Rụng Trứng Khi ở San Jose, tháng bảy 2008 HẢI PHƯƠNG chủ đề 14/99
THINH VĂN bệnh rác
Ông Duệ đã nằm bệnh viện hơn một tuần rồi, các bác sĩ định bệnh mỗi người mỗi khác: bị rối loạn tiền đình (tên bệnh mới xuất hiện trong những năm gần đây), hệ thần kinh bị phân liệt, trầm cảm cấp tính… và cuối cùng họ cho một vài loại thuốc trước khi xuất viện vì gia đình ông không còn tiền đóng tiếp. Ông Duệ thuộc lớp người đã trải qua hai thời kỳ chiến tranh, ông đã lớn lên ở vùng đất mà tiền nhân ta cho rằng, “ Vẻ non sông tốt đẹp chung đúc ra nhiều vương tướng, khí linh thiêng tụ lại sản sinh nhiều văn nho.” Quả vậy, đến cái tuổi nầy; cái tuổi mà những cơn ho vẫn như cơn nghiện thuốc lá, mỗi ngày phải có đôi ba lần họa hoằn mới để ông yên. Cái tuổi mà kỷ niệm như chiếc bóng đè nặng lên cái “đang là” mà ông phải hứng. Thế đó, mà ông vẫn cứ tiếc cái thói gàn dở của một thời trai trẻ nay còn đâu! Và cho đến giờ nầy đây ông vẫn còn muốn thể nghiệm cái bản chất ấy như muốn mình được hiện hữu. Cho dù thế nào đi nữa , ông vẫn có cái nét khí phách của con nhà tướng, vẻ nhàn nhã của lớp nho giáo còn sót lại ở thế kỷ nầy. Gia tài ông Duệ giờ nầy là mái hiên nhà được nới ra bằng thứ vải dù thời Mỹ để lại làm quán café và tủ thuốc lá lẻ; góc hiên là chủ đề 14/100 chút đất trống vừa đủ kê vài chiếc ghế cho khách. Căn nhà lụp xụp trông cô đơn ở một con hẻm cụt, nơi trú thân cho cả già trẻ lớn bé. Trước và bên cạnh là những ngôi nhà cao tầng mọc lên còn phảng phất
mùi sơn trông như những con tàu há mồm cạnh chiếc thuyền nan. Những đêm nóng bức, ông Duệ mặc quần xà lỏn ngồi trước hiên nhà, giọng bỡn cợt,“một lũ gà què ăn quẩn cối xay.” Từ ngày xuất viện, ông Duệ không còn bình tĩnh như những ngày trước đây, xem ra bệnh tình mỗi ngày một thêm nặng. Đêm đêm, ông rảo ra con hẻm, đấm ngực, lầm bầm một thứ ngôn ngữ không đầu đuôi với cây chổi thật dài. Ông quét từ đầu con hẻm mãi đến gần sáng, đêm nào cũng vậy. Bà Duệ và những người con có hỏi thì ông cười sặc sụa, rồi khóc, rồi chửi thề… Gia đình ông quyết định đưa ông trở lại bệnh viện, ông nhất mực chống đối và la ỏm tỏi, “Tao chẳng có bệnh gì cả!” Cứ thế, ông thức cả đêm quét sạch bong con hẻm. Những ngày gần đây ông laị cầm chổi quét cả ban ngày. Cả nhà bắt đầu hoang mang, đi xem bói. Thiên hạ xôn xao, bạn hữu xa gần hoang mang ra vào thăm hỏi.
Quán café bắt đầu thưa khách, một phần vì chứng bệnh lạ của ông Duệ, mà lý do lớn hơn vẫn là đống rác to tổ bố ở góc quán không được ai dọn dẹp ngoài ông Duệ. Cứ mỗi sáng sớm, tốp người từ các ngôi nhà cao tầng trước quán café đóng sập cánh cửa sắt, bắt đầu xí xố với nhau bằng các thứ tiếng lạ, quần short áo thun, giày tennis trắng, tay dắt chó, tay cầm túi rác ném xuống góc quán café. Những lần sau nầy họ vừa ném các túi rác vừa để các con chó tự do thải uế. Chút đất trống nơi góc quán café ông Duệ giờ đây là kho rác của bọn họ. Một lớp người mới chào đời; một lối sống mới chào đời. Và một chứng bệnh mới cũng chào đời… Ông Duệ rít một hơi thuốc Lào, âm thanh sột soạt. Dáng vẻ thông thoáng như tạo thêm ấm cúng với mấy người bạn già đến thăm. Mọi người đều ngạc nhiên trước sự bình phục lạ lùng nơi căn bệnh ông ta. Có ai hỏi, ông chỉ mỉm cười và kể lại những kỷ niệm một thời vang bóng của tuổi thanh xuân gàn dở, thích đấu chủ đề 14/101
hót văn chương, thích công bằng, thích cả những điều đi trước thiên hạ…
Từ các ngôi nhà cao tầng trước quán café của ông Duệ giờ nầy là bóng dáng của những người ngoại quốc ra vào. Họ đóng các cánh cửa sắt rất khẽ. * Ông Duệ rung mình khó thở, nhớ lại mối tình xa xưa. Nhớ lại vài câu thơ đâu đó: “Cái ao xưa Con ếch nhảy vào Bỏm…” Và ông nghe cái đầu đang nói chuyện với trái tim mình. THINH VĂN
chủ đề 14/102
NGUYỄN ĐỨC TÙNG phântâm học và tiểu thuyết
Phân tâm học ra đời trong ánh bình minh của thế kỷ hai mươi. Ảnh hưởng của nó đối với sáng tạo và phê bình văn học khởi đi từ cuốn Diễn dịch các giấc mơ (The Interpretation of Dreams) của Freud và được nối dài sau đó bởi nhiều công trình của các tác giả khác nhau. Freud cũng trực tiếp viết về văn học, như trong các tác phẩm “Đóng góp cho tâm lý học tình yêu”, “Mối quan hệ giữa nhà thơ và giấc mơ”…Các tác phẩm này có thể chia làm hai loại là các bài viết về nghệ thuật, văn học nói chung và các công trình đặt nền tảng cho phương pháp phê bình phân tâm học (psychoanalytic literary criticism). Đặc biệt thú vị là Freud cũng bàn nhiều đến Dostoevsky, nhà văn Nga lỗi lạc với các tác phẩm thơ mộng và bí hiểm của ông. Tuy nhiên ảnh hưởng của phân tâm học đối với văn học về căn bản là từ các quan điểm của nó đối với tâm lý con người. Freud tin rằng các quá trình tâm lý mang tính vô thức sau đây chi phối các hoạt động tinh thần, đặc biệt là đối với sáng tạo của tác giả và hành vi ứng xử của nhân vật. Xin điểm qua một số cơ chế tự vệ (defense mechanism). -
Chối không nhận (denial): Điều gì không thích hợp thì chủ đề 14/103
-
-
-
-
không được cảm nhận. Điều gì không được cảm nhận thì không hiện hữu trên đời. Một người mẹ nuông chiều đứa con duy nhất của mình có thể hoàn toàn tin rằng con mình vô tội ngay cả khi có những bằng chứng ngược lại. Quên vô thức (repression): Được Freud cho là quá trình vô thức phổ biến nhất trong các quá trình tâm lý. Đây là sự quên lãng hoàn toàn không có chủ ý. Những kỉ niệm âm tính đối với một người có thể bị quên đi mau chóng vì chúng không mang lại những giá trị tích cực. Ngược lại, nếu người đó cho rằng chúng là những bài học cho tương lai thì họ sẽ ghi nhớ kĩ. Phản ứng ngược lại (reaction formation): Một nhân vật nữ thù ghét đàn ông vì những kinh nghiệm trong thời thơ ấu, có thể trở thành một người yêu mến cuồng nhiệt những người phụ nữ khác, hoặc là trẻ con, hoặc là súc vật. Tự biện hộ (rationalization): Cơ chế vô thức phổ biến, nhưng thường gặp hơn trong một số xã hội cổ truyền hoặc thiếu tự do. Chẳng hạn khi chứng kiến những cảnh bất công, người trí thức thường phân vân giữa hai lựa chọn: hoặc lên tiếng một cách dũng cảm để bảo vệ những nạn nhân bị áp bức, hoặc tìm cách thỏa hiệp để mưu cầu những lợi ích cho bản thân, gia đình hay an toàn cá nhân. Nhưng người trí thức, theo định nghĩa, là kẻ có những hiểu biết đặc biệt hơn người bình thường: vì vậy đến lượt chúng, những hiểu biết này trở thành sức ép về tâm lý. Anh ta buộc phải tìm cách giải thích sự vật theo khuynh hướng vừa có lợi cho mình vừa có lợi cho… lương tâm. Và anh ta tin vào sự giải thích của mình một cách thành thật, vì đó là quá trình vô thức vượt khỏi sự kiểm soát chủ ý. Tự đồng hoá mình với người khác (identification): Một trong những hành vi quan trọng của con người là lấy người khác làm mẫu mực. Những người trẻ tuổi hâm mộ các ngôi sao màn bạc, các anh hùng trong truyện kiếm hiệp, những nhân vật chính trong các tiểu thuyết nổi tiếng.
chủ đề 14/104
Phân tâm học để lại dấu ấn mạnh mẽ đối với các công trình nghiên cứu phê bình và sáng tác trong thế kỷ hai mươi. Có lẽ tiểu thuyết chịu ảnh hưởng nhiều nhất, ít nhất là ở phương Tây. Mười ba năm sau tác phẩm Diễn dịch các giấc mơ của Freud, ở nước Pháp ra đời bộ tiểu thuyết lừng danh Đi tìm thời gian đã mất (À la recherche du temps perdu) của Marcel Proust (1913). Gần như cùng lúc hoặc sau đó khoảng một năm, bên kia eo biển, James Joyce hoàn thành tiểu thuyết Chân dung chàng nghệ sỹ trẻ tuổi (A Portrait of the Artist as a Young Man). Trong khoảng thời gian của hai cuốn sách này là Hành Hương (Pilgrim-Age) của Dorothy Miller Richardson, một tác phẩm độc đáo của nhà văn nữ người Anh có xu hướng nữ quyền. Tiểu thuyết của Proust, Richardson, Joyce về sau được mệnh danh là các tiểu thuyết độc thoại, tiểu thuyết nội tâm, hay là tiểu thuyết dòng ý thức. Điều ngạc nhiên thú vị là ba nhà tiểu thuyết nói trên không biết đến nhau, không đọc nhau, và họ viết bằng những phong cách hoàn toàn khác biệt. Sự trùng hợp lịch sử này có thể được giải thích như là kết quả của sự phát triển đến mức cao nhất của nền tiểu thuyết lấy hiện thực xã hội, tức là hiện thực bên ngoài, làm trung tâm và, như càng ngày càng được chứng tỏ, dưới tác động của phê bình phân tâm học. Xuyên suốt thế kỷ hai mươi, khuynh hướng này như một dòng sông càng chảy càng nhận vào nó nước của những con sông khác. Đọc các nhà văn đương đại như Coetze hay Pamuk, giải Nobel, ta thấy được dấu ấn rất rõ của khuynh hướng tiểu thuyết nội tâm. Tiểu thuyết nội tâm có những đặc điểm sau. Chúng có tính tự truyện, kể lại những điều dường như có thật xảy ra trong cuộc đời của tác giả, có tính tiểu sử. Trong cuốn tiểu thuyết Đi tìm thời gian đã mất, tác giả kể lại những chi tiết của cuộc sống hàng ngày trong một gia đình trưởng giả ở thôn quê. Về mặt ngôn ngữ, tiểu thuyết nội tâm sử dụng nhiều các thủ pháp nghệ thuật của thơ ca. Đặc điểm thứ ba là sự phân tích sâu xa về tâm lý của nhân vật. Tác giả có nhu cầu biểu hiện những suy nghĩ và cảm xúc thầm kín, thám hiểm cõi vô thức sâu thẳm mà trước đó không có tiểu thuyết gia nào khai phá. Đặc điểm thứ tư là cấu trúc không sắp xếp theo trật tự thường gặp, chúng tản chủ đề 14/105
mạn, rời rạc, cố tình chống lại một tuyến tính chặt chẽ. Đặc điểm này chịu ảnh hưởng của lý thuyết phân tâm học đối với các quá trình vô thức mà tôi vừa đề cập đến ở trên. Đọc một chương cùa tiểu thuyết cổ điển , ta có thể thấy tác giả miêu tả cẩn thận các chi tiết như khu vườn, ngôi nhà, đồ đạc, các nhân vật đi đi lại lại, mặt mũi, giọng điệu ra sao. Đọc James Joyce hay Coetze, ta chỉ biết họ suy nghĩ và cảm xúc thế nào chứ không biết mặt mũi họ thế nào, đẹp xấu ra sao. Bằng cách tự giam mình giữa bốn bức tường ngăn cách với thế giới bên ngoài, trong những ngày đau yếu bệnh tật, Marcel Proust đã có khả năng hồi tưởng lại một cách sâu sắc mãnh liệt cuộc đời trong quá khứ. Quá khứ đối với ông đẹp đẽ và thanh bình, đã trở thành một phần của hiện tại. Nếu Proust đi tìm quá khứ thì James Joyce lại sống trong hiện tại, đi tìm những giây phút sung sướng mà ông gọi là sự khoái cảm. Thế giới của Joyce đầy âm thanh có lẽ vì ông bị mù từ thuở nhỏ. Trong ba tiểu thuyết gia nhắc ở trên, James Joyce sử dụng bút pháp thơ mộng nhất. Một mặt giọng văn của ông lại đậm chất hiện tại. Đó là những quan sát trực tiếp đối với đời sống, để lộ rất ít các yếu tố của cốt truyện. Chân dung của chàng nghệ sĩ trẻ chính là chân dung của đời sống nội tâm, dệt bằng cảm nhận và hoài bão, những ý tưởng và những ước mơ. Theo tôi đó là cuốn sách dễ đọc nhất của ông mà các nhà văn Việt Nam người nào cũng nên đọc. Các tiểu thuyết cổ điển không phải là không ghi lại tâm trạng chủ quan, nhưng ở đó các tâm trạng chỉ được ghi nhận mà không phát lộ quyền năng của nó như một động lực chính. Nếu nhà tiểu thuyết cổ điển tạo ra một ảo giác rằng chúng ta đang đứng trong một ngôi nhà có thật, thì nhà tiểu thuyết đương đại cũng có khả năng mang lại ảo tưởng là chúng ta đang bước đi trên sàn nhà tâm hồn của một nhân vật. Tôi mạnh dạn cho rằng lý thuyết phân tâm học cũng có ảnh hưởng đến phong trào thơ tượng trưng. Bài thơ tượng trưng có thể ví như một thứ độc thoại nội tâm, một thứ khí quyển tâm trạng (atmosphere of mind) của nhân vật hay của tác giả. Người ta thường nhắc đến một đặc tính của kịch Bertolt Brecht, trong đó khán giả cảm thấy mình tham dự vào vở kịch. chủ đề 14/106
Mặc dù không có một bằng chứng rõ rệt nào, tôi tin là về phương diện này, nhà viết kịch tài ba cũng phần nào chia sẻ, thậm chí chịu ảnh hưởng, một số quan điểm của Freud: độc giả được mời gọi tham gia tích cực vào cuộc phiêu lưu của nhân vật. Anh ta trở thành một phần của cuốn tiểu thuyết hay vở kịch của đời sống đang xảy ra trước mắt. Tôi muốn nói thêm: các lý thuyết tâm lý học khác, không phải là phân tâm học, cũng tạo nhiều ảnh hưởng lên kỹ thuật tiểu thuyết. Chủ nghĩa hành vi, Gestalt, tâm lý thần kinh học, khía cạnh tâm lý của hiện tượng học, y học tâm thần … rọi nhiều ánh sáng lên các trang viết của các nhà văn. Sự thành công của phân tâm học trong việc giải thích các vấn đề sáng tạo và đưa ra những gợi ý hấp dẫn đối với các nhà văn khi xây dựng nhân vật và cốt truyện, không che giấu được các khuyết điểm của nó như một phương pháp khoa học. Bị tấn công không ngừng bởi các trường phái phê bình hiện thực kiểu Marx, phân tâm học sống sót và lớn mạnh một phần nhờ ở công sức của các nhà phân tâm học lừng danh sau Freud, nhưng mặt khác, là nhờ ở cái chết bất ngờ của đối phương của nó. Để tiếp tục là một trong những lý thuyết dẫn đường, phân tâm học cần từ bỏ bóng ma của mặc cảm Oedipus, các lý thuyết có tính quả quyết một cách quá đáng về căn bệnh thần kinh của nghệ sỹ, sự diễn dịch các giấc mơ có phần nhảm nhí, và di chuyển trọng tâm của nó về hướng giải thích làm thế nào để một công trình nghệ thuật, một tác phẩm văn học, một bài thơ hay một cuốn tiểu thuyết, đã làm người đọc rung động sâu xa, bất kể anh ta hay chị ta là một người bình thường hay một người bị bệnh hysteria. Và làm thế nào để lập lại một điều tốt đẹp ở một nơi khác và vào một thời điểm khác. NGUYỄN ĐỨC TÙNG
chủ đề 14/107
Đ Ỗ Q U Y Ê N* diễn đàn tóc
*CĐ
số 13, vì nhà in để mất tiểu sử của tác giả, nay xin đăng lại để độc giả tiện tham cứu khi cần. Xin lỗi quý bạn đọc và nhà văn Đỗ Quyên! ĐỖ QUYÊN sinh tại Hà Nội (1955). Tốt nghiệp Kỹ sư Vật lý Hạt nhân Đại học Bách khoa Hà Nội (1977). Hiện ở Vancouver, BC (Canada). Sáng tác chính: thơ, phỏng vấn, truyện ngắn. Tác phẩm đã in: - Nhìn Cây Thấy Rừng, phỏng vấn (California: Văn Nghệ, 1997); - Tuyển Tập Thơ Văn Hải Ngoại Năm 2000, in chung (California: Văn Mới, 2000); - 26 Nhà Thơ Việt Nam Đương Đại, in chung (California: Tân Thư, 2002).
Thân tặng hoiluan.vanhocvietnam.org
Nhà viết kịch Ăn-tóc mở đầu buổi luận đàm tay ba: - Nói đến ăn tóc, nhiều người nghĩ về một hình phạt của nhà tù. Trộn tóc cắt vụn vào đồ ăn, phạm nhân xoắn ruột lại, chết. Theo tôi, đó chỉ là ví dụ thậm sai về tính nhân văn (nhân đạo + văn chương) của sự ăn tóc. Đành rằng tóc rắc rối, lại là thành phần chết không còn chất dinh dưỡng. Chả hứng thú gì, ngay cả xét về màu sắc và hình thể. Không bật ra các dòng máu đỏ gợi lại thú chủ đề 14/108
hoang sơ của loài người, như ăn tim. Không sần sật rần rật tiết dịch vị cho hiện tại và bồi bổ cho tương lai, như khi nhai dương vật… - Có cần phải… tách riêng… vấn đề ăn tóc và tự ăn tóc… ra không ạ? - Người Bị-ăn-tóc ngập ngừng ngắt lời. Ngắt lời kẻ khác trong phong độ ngập ngừng, đó là một nét đẹp mảnh mai trong văn hóa đối thoại, dù là đối thoại về tóc hay không về tóc. Khẽ vuốt mái tóc hung đen như trời đất ban tặng chứ không phải máu thịt cha mẹ dành cho, Nhà thơ Tự-ăn-tóc nhìn vào trang giấy mở sẵn. Người không có thói quen ứng khẩu. - Tôi nghĩ là không cần. Thoạt tiên, khi mới có thói quen tự ăn tóc để chuyển cách làm thơ vần theo phương pháp hiện thực trào phúng sang thể thơ tự do với khuynh hướng mông lung, tôi cứ nghĩ một cách Freud rằng, mọi hành vi thực hiện trên một phần nào đó của cơ thể mình mà tạo ra khoái cảm đều có nguồn gốc thủ dâm. Sau, qua hai ca tự ăn tóc điển hình của y học hiện đại – sẽ được dẫn trình dưới đây – tôi đã được hiểu khác đi. - Vậy chuyện ăn tóc và tự ăn tóc của dân viết lách được phân biệt bằng điều gì nhỉ? - Người Bị-ăn-tóc sốt ruột. – Và chúng tôi là chủ động hay là đầy tớ động trong công việc của các vị? Nhà viết kịch Ăn-tóc chậm rãi, chỉ vào tập sách nằm thao láo trên bàn: - Tôi mang bộ tuyển tập kịch đến đây cũng chỉ để phóng viên họ quay phim chụp hình làm phóng sự thôi. Và không nghĩ rằng nếu mình bỗng trở thành kịch tác gia tự ăn tóc thì hàng vạn con chữ trong pho sách rùng rùng chuyển mình đổi hàng lối thay quan điểm, khiến chúng hóa thành các trang thơ hoặc những bản trường ca! - Cứ theo các truyện tình báo, trinh thám thì tóc ẩn mật nhiều thông tin của nhân vật cần theo dõi. Văn sĩ mà dám ăn tóc, của mình hay của người khác, chắc không phải là những kẻ ngại bị tầm tra? - Miệng Người Bị-ăn-tóc chủng chẳng nói. Cặp mắt và trí tưởng tượng của người thì làm phép so sánh giữa mái tóc trời ban đất tặng của kẻ kia với những gì còn lại trên đầu mình. Nhà thơ Tự-ăn-tóc cầm hẳn tập giấy lên, nói gần như đọc. Có những sợi tóc trườn trườn, muốn bứt khỏi khuôn trán nhà thơ để nhập vào các dòng chữ trên trang giấy. Kỳ thật, trên vầng dacăng chủ đề 14/109
hồng mịn đó, tự các sợi tóc ấy đã là những hàng thơ đẹp rồi! Chúng còn muốn bỏ đi đâu nữa? Nhưng, cũng đúng. Thơ của thời đại di dân là phải động chuyển. Tĩnh yên, thơ sống mà như chết. Tính sinh tử của thơ đi tới đi lui giữa vần điệu và không vần điệu. “Đối với các thế hệ gần đây, văn vần đã mục kích những tiến triển đáng chú ý về vấn đề hư cấu, tu từ và chủ đề. Nhưng thi pháp, "khoa học của niêm luật thi phú mà khía cạnh nghiên cứu ngôn ngữ của nó dùng để ứng phó với các thể thức sáng tác có niêm luật", như dẫn chứng trong định nghĩa của OED, đã phần lớn không còn hiện diện trong thi ca Anh ngữ. (…) Qua lịch sử, niêm luật liên lụy đến sự hỗn hợp giữa đo vận (meter) và nhịp điệu. Sự đo vận dẫn đến qui tắc cố định và cô đọng của dòng thơ. Nhịp điệu liên lụy đến những chuyển âm linh động của diễn văn. Sự đo vận thì khách quan và bất biến trong khi nhịp điệu thì chủ quan và đổi thay. (…) Trong thi ca thế kỷ 20, đo vận và nhịp điệu không những chỉ kinh qua "quan hệ gượng ép" mà còn tiềm tàng một cuộc ly hôn đầy tổn thất; trong đó án tòa qui định nhịp điệu được lấy xe và bằng chủ quyền ở Aspen trong khi độ vận còn có cái lò nướng bánh và con cái. Thơ tự do, thi ca có nhịp điệu mà không có độ vận, xuất hiện thật rộng và thật nhanh, đã cưu mang nó vào năm 1977 như Stanley Kunitz đã nhận xét trong một cuộc phỏng vấn của Antaeus: "Thơ không vận đã chiếm lĩnh cánh đồng nên không còn bất cứ đối thủ thực sự nào từ phía hữu vận nữa. Khía cạnh được định nghĩa của thi ca không còn hữu vận cũng chẳng không vận... Thi ca đúng ra được định nghĩa bởi một chuyển biến nào đó của âm giọng hơn là bởi giới hạn của thực tiễn niêm luật cá biệt". (…) Với một xu thế như vậy, thơ tự do tự nó sẽ tàn úa và mai một. Thơ tự do chỉ thực sự tự do nếu nó được thoát từ một cái gì đó. Nếu thi nhân chúng ta có thể phục hồi sự tán thưởng thi pháp, chúng ta cũng có thể phục hồi ý niệm là nhịp điệu và đo vận không cần thiết phải đối nghịch, trái lại có thể được bổ sung thêm đồng ngũ trong việc khai phá thi ca. (…) Phép làm thơ hưởng lợi từ cả nhịp điệu lẫn độ vận. Không có nhịp điệu, thơ sẽ vô sinh (lifeless). Không có độ vận, thơ có nguy cơ thiệt thòi về tính dễ nhớ, huyền ảo, sức mạnh và sự tập chú. Nếu thực nghiệm ở thế kỷ 20 đã tách biệt nhịp điệu và độ vận, thách đố ở thế kỷ 21 có thể sẽ nối chúng lại một cách sinh động và hiệu quả để thi nhân lại giữ được cả Luật lẫn Năng Lực trong tầm mắt, như Thom Gunn đã viết trong "To Yvor Winters 1955": Một thứ chỉ mạnh hơn, nhưng có cả hai thứ cân đối sẽ mạnh nhất. (Hợp đoàn gây sức mạnh!) 1
- Hai trường hợp thích ăn tóc từ chính cơ thể mình được y giới chủ đề 14/110
nhắc đến đều thuộc về phái nữ. Một ở tuổi mười sáu, kiểu như gì nhỉ? À, “Em mười sáu tuổi trăng mười sáu”… - Bọn con gái chim chíp ấy chúng nó dám xơi tái cả cuộc đời chớ vài ba cộng tóc nhằm nhò gì! - Người Bị-ăn-tóc xen vào. Xin bạn đọc lưu ý: Ngắt lời kẻ khác và không ngập ngừng! Sự thạo đời mà diện mạo cơ thể đang là một bằng chứng ở người Bị-ăn-tóc bật ra qua mỗi sợi tóc nham nham nhở nhở phía trên gáy. Người Bị-ăn-tóc toan kéo dài ý vừa nêu, nhưng vì biết đám tóc của mình có thói phản chủ nên ngưng. Phải rồi! Tóc đã nổi cơn lanh chanh thì không biết đằng nào mà lường, trời đất nổi cơn gió bụi cũng phải gọi bằng cụ. - “Năm đó, các bác sĩ tại tỉnh Dharamphur (Ấn Độ) đã giải phẫu lấy ra một cuộn tóc rối nùi như quả bóng nặng 1,2 kg từ trong bao tử của một thiếu nữ mười sáu tuổi. Suốt trong năm cô thường than phiền bị đau thốn trong bụng. Được biết từ thơ ấu, cô có chứng tật lạ đời: thường bứt tóc, bỏ vào mồm nhai nuốt. Cha cô nói: “Càng lớn lên nó... mê ăn tóc nhiều hơn. Bây giờ, bác sĩ đã giúp cho nó hết đau, hy vọng nó sẽ bỏ cái thói kỳ quặc đó, kẻo không người ta lại bảo vợ chồng tôi bỏ đói con cái thì khổ lắm!” Chứng bệnh thích giật tóc có tên khoa học là trichotillomania, còn bệnh mê ăn tóc là trichophagia.” 2
Tôi sẽ gởi tới các Diễn đàn viên bản sao tư liệu này trong ít phút sau… - Chắc người mang bệnh ăn tóc mình dễ trở thành nhà văn ăn thịt người? - Nhà viết kịch Ăn-tóc rời bàn tròn, đi lại đi lại về phía cánh cửa sổ mở ra bầu trời lộng gió và tràn nắng. - Có thể đó chỉ là điều kiện cần. Có thể cũng không là điều kiện cần; và khi đó tôi gọi là điều kiện không cần. Văn bút Thế giới PEN, theo tôn chỉ, thì chỉ quan tâm bảo vệ quyền tự do truyền thông tư tưởng và sáng tạo của nhà văn ở khắp các quốc gia, nhất là các vị không may cầm tinh chữ tù đày hoặc có số bị đàn áp, cho dù họ có ăn thịt người khi viết lách hay không. PEN không đủ nhân tài vật lực để tìm hiểu vấn đề vừa được nêu thành câu hỏi nói trên. Nói ngoài lề: Bản thân tôi thấy không cần phải có thêm danh xưng ‘PEN Ăn-thịt-người’ song song với ‘PEN Không-Ăn-thịt-người.’ chủ đề 14/111
- Nhưng riêng với vụ thủ dâm thì tôi cá một ăn mười rằng tất cả các ông bà văn sĩ đều thủ dâm dưới mọi hình thức trong khi hành nghề. Chúng tôi còn hay tin đồn thổi rằng thậm chí có trường phái cho rằng bản thân việc viết đã là một hành động thủ dâm suy tư, ý tưởng bằng ngôn ngữ, chữ viết. - Người Bị-ăn-tóc lên giọng có âm vực cao tót. Cao tót. Đúng là cái trò hay gặp ở các giọng lùn về thẩm quyền. Đám tóc nham nhở hết còn vẻ lanh chanh. Chúng hiền và thực như những người dân lành bên luống cày của mình. - Nếu tin này còn đồn còn thổi, thì Viện Ngôn ngữ của mỗi quốc gia té ra là các… nhà sản xuất dụng cụ thủ dâm! Hi hi hi… Một trang trong tập giấy của Nhà thơ Tự-ăn-tóc cong dần lên. Nó lườm về phía Người Bị-ăn-tóc. Bàn tay với những ngón tay phẳng lặng vẫn dụt dè chưa mở đến trang đó. Trước những phẳng lặng ấy, ít ai đoán được rằng bão tố thi ca của cả một quốc gia từng từ đó sinh ra. - Còn trường hợp này xảy ra ở một vầng trăng nửa mười sáu… “Theo tờ China Daily, hiện tại đầu của bé Ping không còn một sợi tóc. Cách đây 2 năm, đang chơi trên phố với bạn bè, Xiao Ping, 8 tuổi, tự nhiên giựt một nắm tóc trên đầu, nhét vào mồm và nuốt chửng. Vài tiếng sau, em cảm thấy buồn ngủ và ngủ cả ngày hôm đó. Cuối cùng, tỉnh dậy, Ping ăn hết bốn tô cơm. Thường cô bé chỉ ăn hai chén nhỏ. Từ đó, Ping thường thấy đói và cứ thể giựt tóc để ăn đến khi đầu trọc lóc không còn sợi tóc nào! Đáng ngạc nhiên là da đầu cô bé không có dấu hiệu lạ thường. Cô giáo của Ping nói: “Em bé rất đáng yêu, nhưng không theo kịp các bạn học vì em không thể tập trung. Lực học của Ping thường là đứng cuối lớp.” Theo chuyên gia nhi khoa, Ping có thể đang bị bệnh thèm thức ăn kỳ lạ. Bệnh này gây ra do những thay đổi tâm lý.” 2
- Thế thì các tác giả ưa ăn tóc khi hành văn rất nên tìm người có chứng giựt tóc mà ăn tranh với họ. - Người Bị-ăn-tóc bật cười khanh khách.- Cái này có phải là… cướp cơm chim không nhỉ? Trang giấy cong cớn đã thẳng thớ trở lại sau khi các câu chữ trên nó được thoát ra. Nhà thơ Tự-ăn-tóc dời ngón tay khỏi trang giấy, cho ngược trở lại mái tóc của mình. Các ngón tay của thi sĩ, khi về bên lớp tóc, chúng không còn lặng lẽ nữa. Những ngón tay đang múa trên bề mặt tóc. Như sóng như biển… Nhà viết kịch Ăn-tóc vẫn đi đi lại lại. Chắc chắn người đang chủ đề 14/112
phải chia trí khi tham dự diễn đàn tay ba này. Diễn đàn cứ diễn cứ đàn, các nhân vật trong vở kịch dang dở của người cứ đi cứ lại trong đầu người. Họ chưa diễn, vì chưa ra sân khấu. Họ ở trong đầu tác giả. Có khi họ kéo nhau tụ xuống các đầu ngón tay của nhà viết kịch, đòi xông ra trang kịch bản. Rồi nghe nghe ngóng ngóng sao đó, các nhân vật, chính cũng như phụ nhưng – tất nhiên! - chủ yếu là chính, lại âm thầm bảo nhau trở ngược lên đầu chủ nhân. Chắc họ cũng biết Nhà viết kịch Ăn-tóc đang gặp khó trong diễn đàn. Ai từng bảo rằng văn sĩ thương yêu nhân vật thì cần nói tiếp vế sau: nhân vật cũng kính cảm cha đẻ của họ lắm lắm. Chứ không à? Nếu Nhà viết kịch Ăn-tóc mà là chủ nhân của những vở như Miss Saigon, hay một vài opéra Pháp, hay bất kỳ ca kịch Trung Quốc nào, thì chắc các đầu ngón tay đã nổ tung. Cũng may. Nói cho ngay, vì người viết theo lối của Samuel Beckett nên nào có mấy nhân! Vật cũng chỉ lưa thưa vài cái ghế đẩu, cánh cửa. Thứ kịch bản này khi trình diễn chỉ tốn ánh sáng (chuyển các cái có lý thành ra phi lý) và nước miếng (cho các thoại). Đài từ của diễn viên không cần công suất cao như Đào Mộng Long đâu, chỉ cần lào thào mấp máy môi, và nếu cà lăm bẩm sinh thì tuyệt! Cái phi lý luôn có tính không trôi chảy. Kìa, kịch tác gia của chúng ta vẫn cứ đi vòng đi vèo quanh cái bàn tròn. Như thể người đang tuyên ngôn, rằng “Tôi viết kịch; vậy thì tôi đi đi lại lại!” Tới lúc tuyên ngôn đó đã rành mạch tương đương với Tuyên Ngôn Cộng Sản của Marx, nhà viết kịch Ăn-tóc dừng chân: - Nếu trên đầu mỗi chúng ta trung bình có khoảng 100,000 tới 150,000 sợi tóc thì trong đầu cũng của chúng ta bình quân - đổ đồng nhà văn và không nhà văn - có thể sản sinh khoảng 100,000 tới 150,000 câu cú. Nhà văn hơn nhà không văn ở chỗ trong số lượng câu cú bẩm sinh đó có bao nhiêu chục ngàn câu cú tạo nên hình tượng văn học. Tức là cú thành văn. Còn nữa, có bao nhiêu ngàn (câu) cú là bản quyền của riêng mình trong tư cách văn sĩ. Rồi có mấy trăm (câu) cú được người đương thời nhắc tới, mấy chục (câu) cú được lưu lại trên nền văn học, trong sách giáo khoa. Và, cuối cùng, được mấy cái câu con cú truyền sang hậu thế. Sau khi nhà văn - hói cũng như không hói, nam cũng như nữ - nằm xuống lòng đất trong quan tài buồn hoặc tung bay lên trời chủ đề 14/113
theo ống khói nhà hỏa táng, lông tóc là một trong các thành tố đầu tiên của thi thể nhập vào cát bụi gió mây. Và văn chương của họ ở lại với người đời hay là cũng cuốn theo chiều lông tóc, ấy là phụ thuộc vào việc họ có câu cú nào ra hồn câu cú hay không. Vậy thôi. - Thế vụ phân biệt màu da sắc tóc thì sao? - Người Bị-ăn-tóc càu nhàu. – Tôi là tôi không thể tin rằng đã không có chuyện đó, chừng nào nhìn lên bầu trời trước nhà sau cơn mưa cầu vồng còn năm tia bảy tía… Thật ra, với hai chữ “Vậy thôi” của Nhà viết kịch Ăn-tóc, không một diễn đàn viên nào hiểu hết ý nghĩa. Người nghe, tùy tri thức chung và khả năng thẩm văn, có thể thấy nó có chức năng vớ va vớ vẩn gì đó trong cả câu hoặc cú của một diễn đàn viên Diễn Đàn Tóc. Đành là vậy. Song, hơn thế nữa. Đó là lời thở hắt ra của một kịch tác gia, khi người vừa để nhân vật cuối cùng (trong hai nhân vật ở vở kịch của mình) chết. Nghe nói Dostoevsky, hay ai đó vĩ đại cỡ vậy, không thể ngờ khi một nhân vật đã chết. Nhà viết kịch Ăn-tóc chưa vĩ đại cỡ vậy, nên người ngờ được. Bằng hai chữ “Vậy thôi” trong một lần đăng đàn, tức là ngoài lề trang văn, người đã khóc thầm cho nhân tử - nhân vật tử vong trong quá trình sáng tác văn học. (Tiện đây, đề nghị bổ sung vào tự điển văn học vì hình như chưa cuốn nào có chữ “nhân tử”, cùng lắm là tới chữ “nhân tử lưu danh” thôi!) Lau mồ hôi trán - nước mắt của trí tuệ - nhà viết kịch Ăn-tóc bắt đầu quan sát các ngón tay từng làm nên vũ bão thi ca của cả quốc gia. Hừm! Đang chịu tang cho văn của mình, cũng khá nhiều văn sĩ vẫn có thói quen đú đởn với văn kẻ khác như vậy. - Tất nhiên, tùy theo chủng tộc… Y giới nhận thấy rằng dân mang màu tóc vàng thì có nhiều tóc hơn. - Thế có nghĩa càng nhiều tóc, càng ngốc nghếch! - Người Bị-ăntóc buột miệng! - Xin lỗi, ý tôi muốn nói đến các cô gái mà thôi. “Một nhân viên hành lý thuộc hãng hàng không quốc gia Úc Qantas phải lãnh án tù, vì chuyên lấy trộm tóc trong đồ đạc hành khách nữ để thỏa mãn sở thích quái đản. Rodney Peterson, 30 tuổi, thừa nhận trước tòa tiểu bang Victoria, 50 cáo trạng ăn trộm. Peterson chuyên lục hành lý thất lạc hay bị chuyển chậm mà anh ta có nhiệm vụ phải trả lại cho hành
chủ đề 14/114
khách, rồi thu thập tóc, lược và cho chúng vào những cái cặp nhựa, rồi ghi lại thông tin cá nhân của các nữ chủ nhân. Cảnh sát nói rằng anh ta từng thu thập tóc vào trong hơn 80 túi đồ. Ngoài ra nhân vật này bị những chứng bệnh tâm lý về tình dục…” 3
Kịch tác gia Ăn-tóc bỗng giật mình (đã đành là vừa đi đi lại lại con người ta dễ giật mình!), nhớ đến số tóc từng được ăn cho vở bi hài kịch đang soạn. Không hề có một cộng tóc vàng nào, dù nhuộm. Không hề có khổ chủ là các thiếu nữ, mà đều là các bà hồi xuân hoặc đám baby. Một sự sắp đặt của Chúa: Ơn huệ hay trừng phạt? - Ngoại suy với giới văn bút, nhà văn mang tóc đồng màu với Anna Akhmatova và Wislava Szymborska có khoảng 140,000 câu cú; Còn ở văn sĩ màu tóc như Salman Rushdie sở hữu độ 105,000 câu cú; Nếu giống màu tóc Octavio Paz hoặc Gabriel García Márquez: chừng 90.000 câu cú; Giống Nguyễn Bính, Bắc Đảo thì cỡ 80,000 thôi! – Bàn tay Chúa không cản trở miệng lưỡi của kịch tác gia. Tất nhiên càng không ăn nhằm gì tới bàn chân của người! Đi đến vòng thứ ba, vừa đi đi lại lại vừa liếc tình các ngón tay làm nên giông tố thi ca của cả quốc gia, kịch tác gia tiếp tục nói. - Mỗi tháng, theo độ tuổi, một câu cú nào đó của một người sáng tác có thể tăng thêm vài ba ngữ nghĩa; trong khi tóc tăng thêm khoảng một cm hàng tháng. Và cũng còn theo thời tiết. Bên cơ thể học, nếu như tóc mọc nhanh khi khí hậu ấm và mọc chậm lại khi khí hậu lạnh, thì bên văn học, ý nghĩa của ngôn từ vào mùa hè phì nhiêu hơn vào mùa đông. Đó cũng là tiêu chí về thời vụ để các Trại sáng tác của những Hội nhà văn ở các nước có nền văn học bao cấp theo đó mà làm việc. - Hèn chi, về mùa hạ phía trên tôi hoang vu hơn… - Người Bịăn-tóc gật gù. Nhà thơ Tự-ăn-tóc vẫn cười vu vơ. Mặc dù cười vu vơ đâu có nghĩa là nhà thơ tồn tại. Khỏi tranh cãi: Nhà thơ tồn tại bằng thơ. Thôi bỏ vụ tồn tại đấy! Nhìn kìa… Các ngón tay. Chúng phi, lồng lên. Chúng đĩ ngựa với cặp mắt của Nhà viết kịch Ăn-tóc. Của đáng tội, ngón út vừa vờ khẽ gãi gãi, kỳ thực là nó đang dấu các sợi tóc lục bát và thơ vần vào sâu bên trong. Điều đó không cần thiết. Người Bị-ăn-tóc không phải là dân chơi thơ, như bao người bình thường không cần biết thơ ở thể tạng nào chủ đề 14/115
miễn thơ là được rồi. Nên chuyện lừa thơ, đánh đĩ thơ trước mặt Người Bị-ăn-tóc dễ hơn cả việc mang thuốc phiện vào nước Úc. Còn Kịch tác gia Ăn-tóc thì chỉ để mắt vào các ngón tay của nhà thơ; nói thẳng tưng ra là cặp mắt của người làm tình với các ngón tay của nhà thơ. Chơi tuốt! Ngón tay ngọt đánh cả cụm. Từ ngón cái già khú sồ sề, ngón giữa sồn sồn còn ham, qua ngón nhẫn một con mòn con mắt, ngón trỏ trần truồng ngọ ngậy, tới ngón út còn trinh. (Xin mở ngoặc nói luôn vì chúng ta sẽ không có dịp trở lại xì-căng-đan này, kể cả tới chương ăn các bộ phận sinh dục: Sau hội thảo, Kịch tác gia Ăn-tóc bị khởi tố vì tội xâm phạm trẻ vị thành niên là ngón út. Cũng đáng đời! Nhưng, tức cười và phản đạo đức văn nghệ sĩ ở chỗ: đó lại là đòn bôi bẩn giành phiếu trước kỳ bầu cử Phân Hội Nhà Văn Ăn-Tóc). Các sợi tóc thuộc về dòng thơ tự do và thơ tân hình thức đứng dựng cả lên. Những liền anh liền chị lục bát và thơ vần không bị ngón út kịp dấu đi thì xẹp lép như con tép. Thật ra, không phải là Nhà thơ Tự-ăn-tóc không biết các điều đó. Biết tuốt, mà người tự nhủ: “Thây kệ! Trong ngón tay và trong sợi tóc có những trái tim của chúng mà trái tim nhà thơ không thể nào thấu nổi.” Thế nên ngón út của nhà thơ và những sợi tóc cổ điển cứ như vờn nhau hoài, vờn nhau mãi. Đẹp hơn cả cảnh một chú cá voi đang đùa sóng biển. Đúng như lời thơ “Một ngón út đủ làm nên mê hoặc”. Hèn chi Nhà viết kịch Ăn-tóc không kiềm chế nổi! Tội nghiệp! Nếu là người viết ăn (ngón) tay lại là một lẽ. Lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên nhưng trong khi đi tìm mục đích nhân văn may ra còn được tòa châm chước, nếu như ở xứ sở trọng văn chương quốc gia hơn nhân phẩm con nít. Đàng này, ăn tóc để hành văn, xơi tái các ngón tay chỉ để thỏa mãn dục vọng. Kể cũng tội cho cái nghiệp văn ăn thịt đồng loại ở Nhà viết kịch Ăn-tóc của chúng ta. - Mỗi ngày nếu ở một người không rụng đi khoảng 50 tới 100 sợi tóc thì loài người đã mang tên là loài tóc; như một loài cỏ, loài lau sậy của đời. Nếu Chúa mà sinh ra toàn tóc với tóc thì trái đất này chỉ là một góc chứ không được là cái rốn của vũ trụ như đã và đang từng. May thay, tóc phải rơi xuống rụng đi, để con người còn là người. Để không có một trái đất toàn tóc là tóc; tức là trái đất không bị biến thành trái tóc! Thay cho viễn tưởng đó, chủ đề 14/116
mặt trái đất luôn tự hào với sự nhấp nhô những người là người với các mái đầu mà những sợi tóc nhỏ chụm lại làm đại diện ở nơi cao nhất của tầm vóc con người. - Đích thị Pascal cũng là một tác giả Ăn-tóc, thì mới sinh ra lối ví von con người ta là cái cây sậy tư tưởng gì gì đó! - Người Bịăn-tóc bắt đầu quờ tay lên mớ tư tưởng lơ thơ của mình, vẻ tiêng tiếc… Trang giấy của Nhà thơ Tự-ăn-tóc trở mình, bắt đầu lại muốn cong cong. Chúng nói với nhau lần thứ 101, tất nhiên là bằng ngôn ngữ của giấy (đừng nhầm với ngôn ngữ trên giấy!): “Thiệt không gì ngán bằng việc phục vụ cho các tay chủ đã hiền lành lại chậm chạp.” Ngón tay út của nhà thơ bèn phải buông các sợi tóc và khỏa thân trong không trung, và lúc đó Nhà thơ Tự-ăn-tóc mới mở được miệng: - Xin lỗi. Thời gian của diễn đàn chắc còn nhiều? Tôi không phản đối kịch tác gia điều gì, chỉ muốn nhắc là tôi phải còn những hai đề tài lận. Một mang tựa đề “Ăn lại ‘Tóc chị Hoài’ của Nguyễn Tuân theo hình thức mới”. Hai, “Thạch Lam với ‘Sợi tóc’ không dễ vượt qua”. Nếu như sau đó vẫn còn thời gian thì là… - “Beckett: Một dòng kịch nghệ rối mù”. Tôi phải nghe xong bài này mới biết đóng góp của thân thể mình cho văn học nghệ thuật ra sao. - Người Bị-ăn-tóc bắt đầu thấy vui vui… - May mà mỗi ngày đêm (với nhà văn tự do), mỗi ngày tám tiếng (với nhà văn công chức) câu cú của các văn sĩ cứ từ trần khuất núi băng hà tịch ngỏm chính ngay trong tim của văn sĩ hàng trăm cái, sau đến đầu cũng phải hàng chục cái, và đến các ngón tay quằn quại hàng chục câu cú nữa! Để thân thể các nhà văn chúng ta không phải là những cái bao biết đi đựng câu chữ. Để chúng ta mang danh cao đẹp Nhà Văn. (Văn đây tức là Đẹp đấy ạ, thưa diễn đàn!); Chứ không phải Nhà Chữ (hoặc Nhà Con Chữ, nếu nói cho sướng miệng; còn nói cho khổ cái miệng là Nhà Phu Chữ!) Để các trang bản thảo không phải cái chợ chữ. Và cuối cùng, để các trang truyện, hàng thơ, hồi kịch khi đến độc giả không phải là bãi chiến trường cho các câu cú giành vẻ đẹp cuối cùng khi vươn tới tầm thẩm mỹ của độc giả. Nhờ các câu văn tự chết - nói theo giọng nhà nghề là nhà văn tự kiểm duyệt - mà văn chủ đề 14/117
chương tồn tại. Không có hàng sư đoàn câu cú tự tử đó, không có chiến thắng cuối cùng của thi ca, của kịch nghệ! Ôi, “những mùa tóc rụng ngang đầu!“ Kìa, “đừng động vào đầu mùa tóc rụng!” Những sợi tóc rơi rụng muôn năm! Những câu chữ tự hủy diệt muôn năm! Tất nhiên là Nhà viết kịch Ăn-tóc không còn đi đi lại lại nữa. Tất nhiên. Đến cả Kama Sutra cũng chẳng có thuật “moving sex”! – Mắc cái chứng gì mà bỗng nói năng hay ho thế? À há, đ. đã đời với mấy cái ngón tay quái quỷ của nhà thơ, thế là kịch tác gia nhà ta làm thơ luôn. Thiệt tình! - Người Bị-ăn-tóc nhủ thầm cười tủm… Bạn đọc thân mến! Người Bị-ăn-tóc chỉ nhủ thầm chỉ cười tủm vì lịch sự, không nói thẳng ra một cách tự nhiên. Cũng có thể vì sự tìm tòi nhân-quả mà thôi. Chúng ta chớ hiểu nhầm rằng có sự ghen tuông gì đó ở đây. Như một người bình thường một cách rất bình thường, Người Bị-ăn-tóc không thể nào có được các trò ghen chéo theo kiểu văn nghệ văn giềng; giản đơn vì người không giao hợp theo kiểu bỏ túi, không chim chuột theo kiểu cặp mắt ngón tay, mà màn sex vừa được mục kích là một hy hữu trong con mắt phi văn học của người. Như một thi nhân chân chính và hiền từ, và như bao lần khác với nhiều phần thân thể khác, Nhà thơ Tự-ăn-tóc bất lực trước các ngón tay của mình đang ngoại tình với Nhà viết kịch Ăn-tóc. Mà thi ca của người là hiển hiện cho các nỗi bất lực trước bản thân và trước tha nhân. Nếu nhà thơ hữu lực và vô tâm, tất sẽ đi bổ củi kiếm cơm độ nhật, đi đánh ghen với cuộc đời để xả xú báp, đi nhậu rượu thịt chó rồi đẻ con sinh cái thay vì tự nhai tóc mình đẻ sách, và đi làm nhiều vụ việc khác với cái sự làm thơ. Nhà thơ - người không thể làm gì khác hơn là làm thơ! Thật ra và nói chung, kịch tác gia qua mặt nhà thơ là chuyện thường ngày ở huyện văn chương; Tức là nó xảy ra với giới văn sĩ đủ các loại: văn sĩ ăn tiền, văn sĩ ăn tình, văn sĩ ăn gạo chân quê, văn sĩ ăn bơ (thừa) sữa (cặn), văn sĩ ăn đô Nobel, văn sĩ ăn bạc cắc của vợ “quanh năm buôn bán ở mom sông”, văn sĩ ăn khí trời, văn sĩ ăn nghị quyết, văn sĩ ăn order, văn sĩ ăn cơm Chùa, văn sĩ ăn hố xí hai ngăn, văn sĩ ăn thuốc phiện, v.v… (Nói chủ đề 14/118
gọn, đó là danh sách một số văn sĩ không ăn thịt người. Nếu không ăn thịt người thì văn sĩ phải ăn một cái gì, một điều gì trên đời này chớ!) Nhà thơ Tự-ăn-tóc bị kịch tác gia cắm sừng là phải! Kịch là thứ thơ thăng hoa; nó thăng lên quá mái tóc bồng bềnh của những “chàng thi sĩ ngày xưa hay sầu lắm”, để còn chạm với các thử thách của Thượng đế - các khán giả bỏ tiền cất công tới rạp ngồi coi. Kịch luôn có đĩ (chữ này trong ngôn ngữ kịch nghệ mang cả giống đực và cái) tính là xung đột. Xin viết lại cho bạn đọc dễ đọc và cho dịch giả dễ dịch: Kịch luôn có đĩ tính là xung đột. Không có đĩ tính xung đột, không thành kịch; nên người ta quen đó là kịch tính. Và thuật ngữ sinh tử này của ngành kịch nghệ được dùng trong xã hội, cuộc sống phổ biến tới mức người đời coi phép so sánh “Thiên địa đại hí trường, hí trường tiểu thiên địa” như một định luật tương hỗ đời và kịch. À, thuật ngữ kịch tính nghe có vẻ đao to búa lớn, như Việt tính chẳng hạn. Kỳ thực đó không phải là cách nói đao to búa lớn. Bởi, kịch không có đủ thời gian để đao to búa lớn (thường thường sau ba-bốn tiếng đồng hồ thì màn được treo kiểu gì cũng hết chịu nổi sự treo, phải hạ xuống) và càng thiếu không gian để búa lớn đao to (sân khấu khác sân vận động, dù đôi khi sân vận động bị lạm dụng thành sân khấu). Có lẽ để tránh cho đám cập kê bọn teen khỏi bị sốc và cũng ngại đối diện với các nữ quyền gia, người ta bèn gọi đĩ tính của kịch là kịch tính. Trong khi đó, thơ thủy chung với cái tứ. Nhân vật trong thơ, thật ra, chỉ như Nhật hoàng của Nhật Bản, Nữ hoàng của Anh quốc thời nay. Thôi thì nói cho thơ mộng: nhân vật của thơ - kể cả của trường ca là thứ có lớp lang, chương hồi - cũng không hơn gì Hòn Vọng Phu. Bên cạnh các tình tiết, những nhân vật trong thi ca đứng khơi khơi thi gan cùng tuế nguyệt vậy thôi, chớ đọ sao nổi với lòng dạ đàn bà con gái thời a-còng. Cho dù tuần trước lấy luật vần làm tấm lòng son sắt, hôm qua thủ tiết tu từ; bữa nay vụt vắt dòng, phá cách chút đỉnh ngó nghiêng sang ông hàng xóm văn xuôi, hay í ới hú gọi tranh ảnh, nhưng kể cả đến ngày mai và ngày mốt, thi ca cũng chỉ ngồi đó với cái tứ của mình mà gom hết thiên địa. Thơ chẳng cần cái gì, cần ai ngoài chính nó. Nhà thơ là tự yêu mình. Thi ca hạng một là cho thi ca, chủ đề 14/119
rồi đến cho thi sĩ. Thi ca hạng hai là cho thi sĩ, rồi đến cho thi ca. Thi ca hạng ba là các thứ thi ca còn lại. Đại để là thế, nên khái niệm ngoại tình không quá nặng nề với thi ca. Bạn khỏi cần thương thay Nhà thơ Tự-ăn-tóc, nhân vật của chúng ta ở đây, và những nhà thơ ăn các thứ khác của thịt người cùng biết bao nhà thơ không ăn thịt người mà ăn các thứ khác. Nhà thơ, họ tự yêu mình còn chưa hết. Bạn cũng khỏi phải giận Kịch tác gia Ăn-tóc. Đấy chỉ là một ví dụ con. Ví dụ cái thì phải kể tới một nhà thơ kiêm nhà viết kịch, tên là Hiếp Thống, đến từ một quốc gia thành viên trong khối APEC. Ông từng làm những vở kịch thơ khét tiếng. Nhà viết kịch kiêm nhà thơ, tức là nam tính lồng ngoài nữ tính. Cương nhu có cả, âm dương khôn lường. Vì thế với ông, chuyện trai gái trò yêu đương thuận tiện bội phần. Hiếp thi nhân, khi đã ngoại thất thập vẫn còn được một thanh nữ nhan sắc mộ tài dụ lên đồi trọc, đè ngửa ra. Chậc, rồi đã đến cái việc phải đến. Đây là chuyện được chính người đàn ông trong cuộc kể lại, chớ không phải chuyện đàn bà đồn đại. Ta có quyền khẳng định: Kịch thơ là tiếng thét cuối cùng của ngôn ngữ; như khúc kêu thống khoái của người nữ kia đồi trọc nọ. Nhà viết kịch Ăn-tóc ngấm mệt. Hết còn đi đi lại lại đã đành. Đứng ngay để nhằm thẳng diễn đàn mà đăng đàn - như anh hùng liệt sĩ Nguyễn Bút Xuân - cũng không nổi. Đành chứng tỏ ta vẫn còn đây theo kiểu chiến hữu Trần Thơ Bá xuống tàu. Người lom khom. Bị cả một đàn ngón tay tồng ngồng như vậy bề hội đồng thì có ăn gan giời cũng không lại. Ba cái sợi tóc đã là gì! Rồi, bây giờ chúng ta đang có một Nhà viết kịch Ăn-tóc ở tư thế khác, “Tôi lom khom, vậy thì tôi diễn thuyết”. - Văn hóa nước Nam trong cả ngàn năm phải lồng ghép ba lưỡi dao Nho, Phật và Đạo vào một cái cán Việt để chẻ sợi tóc làm năm làm bảy, qua các dòng điệu ca dao tục ngữ với những ngón tâm lý sặc mùi lý trưởng nồng giọng mẹ chồng. Mãi ít trăm năm nay, các nhà cơ thể học đã ung dung vừa xỉa răng vừa dùng kính hiển vi săm soi sợi tóc. Nhưng, kể cả đến giai đoạn kính hiển vi điện tử, tới hồi cuối thế kỷ trước là siêu điện tử, rồi laser mà các kết quả cũng không khác với phương pháp truyền thống Tam Giáo Đồng Cán là bao. Tất nhiên, nó điện khí hóa và long trọng chủ đề 14/120
hóa hơn, hiện đại hóa và rắc rối hóa hơn và thậm chí, đến lúc Diễn Đàn Tóc đang được diễn ra, nó còn hậu hiện đại hóa và tóc hóa hơn. Nhưng - vẫn cái chữ Nhưng to đùng – nó không văn hóa hơn; Tức là không dân tộc cùng chẳng đại chúng hơn. Hiển nhiên, nếu đưa được xảo thuật Tam Giáo Đồng Cán vào công nghệ kính hiển vi siêu điện tử thì sự nghiệp săm soi các sợi tóc đã có “Ngày 30 tháng Tư” của mình rồi. Vậy mà ngày ấy vẫn chưa tới. Hélas! - Phải công nhận có sex xong thì nói năng đâu ra đấy, đúng là một diễn thuyết viên đầy chất kịch sĩ! Chắc tóc tai của ta cũng có công, ít nhất ở cái chữ Hélas. - Người Bị-ăn-tóc gật gật. Các cộng tóc sắp sửa dời chủ nhân một đi không trở lại bỗng vụt trở nên tự hào. Đầu Người Bị-ăn-tóc lại một lần hóa thành sân ga Hàng Cỏ đưa tiễn những chàng tóc trai Nam tiến… ĐỖ QUYÊN (Trich tiểu thuyết đang viết Đẻ Sách) Melbourne, 19/11 -- 3/12/2006; Sửa chữa 2 -- 6/2007; Vancouver, Tu chỉnh 7/2008.
Chú thích: 1. Timothy Steele, Thi Pháp Cho Thi Sĩ Của Thế Kỷ 21, LinhVũ dịch, thotanhinhthuc.org - 26/3/2007. 2. Theo trang vnexpress.net 3. Tin Reuters, dantri.com.vn - 6/3/2007.
chủ đề 14/121
N G U YỄ N VY- K HAN H về cứu rỗi và thế giới nan y nhân đọc hoàng chính
Giới y-sĩ Việt-Nam cầm bút không nhiều trước biến cố 30 tháng Tư 1975 (Hoàng Văn Đức, Trần Ngọc Ninh, Nguyễn Văn Thọ, Trần Văn Tích, Dương Tấn Tươi, Anh Tuấn Nguyễn Tuấn Phát, Nguyễn Hữu Phiếm, v.v.); sau ra đến hải-ngoại thì có tăng nhân-số nhưng là tăng theo cùng tỉ lệ với số cây bút tài tử và cộng đồng ngoài giới này, và cũng lão hóa có phần nặng nề hơn khuynh hướng chung. Những cây bút y-sĩ sau 1975 viết nhiều thể loại từ thơ văn đến nghiên cứu, từ điển, hồi ký, ... Tuy vậy những ngòi bút thuần túy văn-chương thì vẫn không nhiều so với tổng-số người hành nghề y-khoa - trong khi những ngành nghề khác cung cấp nhiều nhà văn thơ hơn như giáo chức, nhà báo, điện toán, v.v. Đã khởi viết từ trước, nay tiếp tục sáng tác vănchương ở hải ngoại có Trang Châu, Ngô Thế Vinh, ... thật mới và tương đối mới thì có Nguyễn Xuân Quang, Mai Kim Ngọc, Hoàng Chính, Trần Long Hồ, ... Mặt khác, các nhân-vật y-sĩ trong tiểu-thuyết hải ngoại cũng không hẳn nhiều hoặc có những đặc tính tiêu biểu, gây chú ý. Phần các nhân-vật y-sĩ này, có thể tìm thấy rải rác ở các tác-giả y-sĩ như Nguyễn Xuân Quang, Mai Kim Ngọc, Trang Châu, Hoàng Chính, v v... Các tác phẩm này dĩ nhiên có thể tương đối so được về qui mô kỹ thuật với những Le Médecin de Campagne chủ đề 14/122
của H. Balzac (chuyện viên sĩ quan Genestas và Benassis y-sĩ vùng quê), chuyện tình Docteur Zhivago với nàng Lara của B. Pasternak, Les Hommes en Blanc của André Soubiran (nhiều tập, 1-Tu seras médecin đến 6-Au revoir docteur Roch), hay chuyện tình bác sĩ tên Naôê đã cả đời nghiên cứu bệnh ung thư xương nhưng chính định mệnh khiến ông mắc bệnh nan y đó; dù thân xác đau đớn vẫn mãi giữ kín bí mật với người yêu, và rồi trầm mình xuống lòng hồ giá lạnh - trong Đèn Không Hắt Bóng của Junichi Watanabe, ... Có thể ghi nhận Mây Bão (1963), Vòng Đai Xanh (1970) của Ngô Thế Vinh và truyện ký Y Sĩ Tiền Tuyến (1970) của Trang Châu là những tác-phẩm đặc biệt mà nhân-vật chính là các y-sĩ quân đội. Nhân-vật Vũ, sinh viên rồi y-sĩ, của Mây Bão đã nhận biết sứ mạng khi "thấy các bệnh nhân mệt lả rên xiết trong bộ áo trắng, lồm cồm bò giữa đống gạch vữa như những con bọ trắng ngầy ngụa trong một đống rác. Vũ hơi rùng mình, đồng thời chàng thấy đời mình có thể hy sinh trọn vẹn cho những nơi như đây, cho những con người bất hạnh của chiến tranh và bệnh tật cần được chăm sóc..." vì chiến tranh đã hiện diện khắp nơi, hết còn chuyện “nhà thương như một nơi bất khả xâm phạm của các tai hoạ chiến tranh”! Nhân-vật của Mây Bão lý-tưởng, phức-tạp, chính-trị bao nhiêu thì nhân-vật Tôi trong Vòng Đai Xanh bất chấp hiểm nguy nơi các chiến trường Cao nguyên. Sau Ngô Thế Vinh, Trang Châu qua nhân-vật Tôi trong Y Sĩ Tiền Tuyến đã không còn lựa chọn, không chỉ cứu người ở bệnh xá mà ngay cả nơi giao chiến, cứu chiến hữu và cứu cả kẻ thù đồng nghiệp. Từ đó, người y-sĩ nhập cuộc không tránh khỏi những suy tư, "Một ngày máu lửa đã cho tôi cảm nghĩ gì? Điều tôi ước mong đã đến: có đụng độ lớn, có chiến thắng. Nhưng trong vinh quang tôi thấy buồn hơn vui. Chiến tranh ở giờ phút này, trong tư tưởng tôi, không còn là một ván cờ như tôi thường ví. Quân cờ bị loại là quân cờ vứt đi, nhưng những cái xác nằm kia còn liên hệ ảnh hưởng đến biết bao nhiêu người". Sau 1975, các nhân-vật y-sĩ và bệnh-nhân trong các truyện ngắn dài của Trần Long Hồ, Nguyễn Xuân Quang và Hoàng Chính mang sắc thái của thời đại và tình cảnh mới. Bài viết này ngừng lại ở một số sáng tác của Hoàng Chính mà chúng tôi có dịp thưởng thức. chủ đề 14/123
Nếu những Mây Bão, Vòng Đai Xanh, Mặt Trận Ở Sài-gòn, Y Sĩ Tiền Tuyến đặc biệt do ở khung cảnh chiến-tranh, nhà văn trực diện với cái chết và sự sống-còn thì ở Hoàng Chính là tình cảnh di trú, lưu đày, xa lạ nơi xứ người. Thế-giới thơ văn của Hoàng Chính căn bản là không-gian của tình yêu, nhưng đó đây vẫn có những cảnh tượng bệnh-viện và nhân-vật thuộc ngành ytế, xảy ra trước và sau biến cố 30-4-1975, trong nước và ở hải ngoại sau khi rời khỏi nước, ở các trại tạm trú tị nạn và nơi định cư mới - phần chính là ở Canada 'đất lạnh tình nồng' vốn cũng là đề tài và không gian quen thuộc trong các sáng tác của ông: những nhà thương, những cảnh cấp cứu, những con bệnh nan-y bên cạnh những cảnh tượng tòa án và các văn phòng dịch-vụ xã hội và thế giới ghetto Việt Nam. 1- Ở Việt Nam. Trước hết, thế-giới khổ-nạn của Hoàng Chính bắt đầu ở quê nhà sau biến cố tháng Tư năm 1975. Sau cái ngày gọi là 'giải phóng', một mỹ từ ngược ngạo cho vết hằn thô bạo mà lịch sử sẽ ghi sâu, tập đoàn toàn trị vì thù hằn, thiển cận, đã đày ải con người, những con người sống ở miền Nam đã hành-xử như những kẻ dấn thân trọn vẹn - họ là người lính, người công chức, nhưng cả những y-sĩ và những người Hoa, người Thượng. Cuộc 'gặp gỡ' lịch sử giữa một y-sĩ và một 'ông già Tàu' trong truyện Gửi Riêng, Chốn Nào đã xác nhận rằng con người còn sống với tình cảm và những cảm xúc hướng thượng, hơn là những lýthuyết ngoại nhập. Truyện như tuyên ngôn cho một trường phái: "Chời ơi nị viết gì lên tường vậy. Ông già Tầu vừa la khẽ vừa chăm chăm nhìn vách tường. Rồi lẩm nhẩm đọc. Ngày ta buồn thần thánh cũng thôi linh. Rồi cái cổ gật gù. Hay đó. Cái này nị nghĩ ra hả. Đâu có. Vậy ai nghĩ ra… (...) Nhưng hắn biết chắc những người đã đặt bút xuống viết bất cứ một điều gì chân thật, bao giờ cũng là viết cho một người nào đó… (…)Và hắn tin, nếu mình viết với cả tấm lòng thì hôm nay, ngày mai, hay cả ngàn năm sau nữa, thế nào cũng có ít là một người ở đâu đó, nói một ngôn ngữ nào đó, đón nhận với cả tấm lòng. Và hắn viết, là viết cho những cõi người xa xôi ấy".
Ý-hướng của một loại văn-chương nhân-bản, vị nhân-sinh: một tuyên ngôn cho con người, chăng? Ở miền Nam, một cuộc chiến-tranh ý thức hệ đã xảy ra nơi chủ đề 14/124
các lớp 'học tập chính trị', trong lớp học và cả nơi nhà xí. Truyện Mùa Thu Cuối Cùng ghi lại rằng chỉ vì một cơn gió làm người sinh viên y-khoa mất chăm chú nghe anh chàng giảng viên của 'đỉnh cao trí tuệ' đến từ Bắc phương, đã phải chịu tên này nhồi sọ rằng "Con người xã-hội xã-hội chủ nghĩa cũng biết rung cảm, và rung cảm nhiệt tình nữa kia. Tôi nhắc lại, trước khi rung cảm, phải xác định quan-điểm của mình. Nếu cậu đứng trên lập trường tư sản, mọi rung cảm sẽ lệch lạc, thoái bộ, và phản động. Từ cảm xúc đi tới hành động là một bước ngắn. Cậu sẽ đi ngược chiều của cả ba dòng thác cách mạng thế giới. Tuy nhiên, nếu đứng trên lập trường quan- điểm vô sản, những rung động vô sản sẽ thuận lợi cho cuộc cách mạng vô sản trên bình diện thế giới. Nếu được như thế, cậu sẽ đi cùng chiều với bánh xe lịch sử". Phòng vệ sinh của khu Cơ thể học vương mùi "formol dùng để ướp xác chết đặm nồng trong không khí" trở thành nơi "đấu tranh giaicấp gay gắt giữa các đại biểu (hoặc cũng có thể là bọn cáchmạng theo đuôi) của giai-cấp thống trị với giai-cấp bị trị trong đám sinh viên". Truyện gợi lại cái không khí rùng rợn mất nhân tính của ... khung trời đại-học đáng ra phải đầy thơ mộng và tình người - Hoàng Chính đã khôi hài hóa những lời lẽ đấu tranh chính trị phát ra từ những cửa miệng xinh xắn của những cô sinh viên Nha, Y tuổi đáng phải biết yêu, biết người khác phái ra sao! Ở Việt Nam, cái nghèo của con bệnh (ở đây là bệnh sâu răng) khiến liên hệ con bệnh với ông nha-sĩ cũng khó khăn. Nhân-vật chính có "cái răng sâu, làm độc. Một bên má anh sưng phù". Người bố cần tiền nhưng đã giúp cho người con số tiền để dành để đi chữa răng, "cái răng đau làm mất ăn mất ngủ cả tuần lễ rồi. Thiếu ngủ, hai con mắt thâm quầng". Tìm nha sĩ, nhưng vì không hẹn, nên "ông nha sĩ cau có, ục ịch những bước đi. Mắt kính cận gọng vàng đẩy người đối diện ra xa, phía bên ngoài vòng phấn trắng giai cấp. Cái khoảng cách viền bằng vũng không gian nồng mùi băng phiến tỏa ra từ chiếc áo choàng trắng nõn. "Được rồi. Cậu vào đây đi. Đau sao? Há miệng lớn ra!" Anh run rẩy, há miệng. Nước mắt trào ra hai khóe. "Ồ, tởm quá! tởm quá! Người lớn mà răng để đến thế này ư. Phải thuốc trụ sinh mới được. Tuần sau lại đây tôi trám nó lại. Tởm quá!" (…)"Chỉ có bấy nhiêu thôi ư!" Ông nha sĩ chép miệng, "Tởm quá!"
chủ đề 14/125
Anh ngẩn ngơ. Nghèo mà cũng đáng tởm sao. Hay tại những ngón tay nhà giầu mũm mĩm phải sờ vào những tờ giấy bạc mềm nhũn và lạnh như miếng cá ươn. "Có bấy nhiêu thì làm sao mà trám được cái răng cho ra hồn mà ăn chứ! Thôi được rồi! Bấy nhiêu cũng được. Tôi giúp cậu làm phước." Ông nha sĩ nhét tiền vào túi áo blouse trắng muốt. hoài thế này, tiền nào chịu cho nổi" (Vời Vợi Non Cao).
Trong hoàn cảnh xã hội thiếu phương tiện và tình người đó đã khiến xảy ra những chuyện thương tâm khác, như chuyện người phụ nữ trong truyện vượt cạn một mình và đã chết sau khi sanh thằng con trai sẽ côi cút trên đường đời trong Khó Đi Mẹ Dẫn Con Đi. Có những chứng bệnh bất thường trong một xã-hội bất an. Hoàng Chính đã tả tài tình một người bị mắc bệnh 'liên tưởng'. Nhân-vật Hắn bị bạn bè nghi bị "mát dây" mà chính hắn cũng nghi mình bị chứng gàn. "Hắn bị một chứng bệnh mà tự hắn chẩn đoán lấy là Bệnh Liên tưởng. (Mấy cha biết không? Tôi bị cái bệnh tạm gọi là "Hội chứng pháo dây". Hồi còn nhỏ mỗi lần tết đến, mấy cha đi lượm pháo, chắc là còn nhớ pháo dây chứ gì. Sợi pháo dây dài, đốt ở một đầu, ngọn lửa sẽ ngoằn ngoèo cháy theo sợi dây cho tới hết. Cái bệnh của tôi y chang như vậy. Nghĩa là một khi bị "đốt" bởi một ý tưởng nào, là tôi cứ bị ám ảnh bởi ý tưởng đó, cho tới khi bị đánh thức bởi một ý tưởng khác. Chẳng hạn như thấy con nhỏ N.- tạm dấu tên nó nghe mấy cha, không khéo mấy cha làm um lên, nó dám giải phẫu cắt bỏ một trái thận của tôi à - kể tới đâu rồi? ầ, tới chỗ con nhỏ N - trong phòng mổ, phải rồi - con nhỏ N. trong phòng mổ, mặc vỏn vẹn có một cái áo blouse - không có gì ở trong hết ráo - đường nét, núi đồi, sông rạch vân vân ... cứ làm hai con mắt tôi xốn xang như bị đau mắt cấp tính, thế là cóc có cầm con dao mổ được đúng cách nữa, và đầu óc cứ bần thần mụ mẫm như thằng cha bệnh nhân tai biến mạch máu não sắp sửa mê man bất tỉnh, đến nỗi hôm ấy chút xíu nữa cắt đứt cha nó cái dây thần kinh của thằng cha bệnh nhân vô tội vạ. Cho tới khi con nhỏ y-tá gây mê tới đứng cạnh con nhỏ N, tôi mới được cứu rỗi, nhưng rồi lại bị đôi mắt long lanh của con nhỏ y-tá thôi miên. Bố khỉ! Không hiểu sao mình biết rõ như ban ngày rằng dưới cái vỏ căng phồng, mơn mởn gọi mời ấy cũng chỉ là da, mỡ dưới da, những sợi cơ trơn, cơ vân, những mạch máu li ti chạy ngoằn ngoèo, những phiến mỡ dưới da trắng ơn ởn, những tuyến bài tiết mồ hôi uốn khúc quanh co, sâu hơn chút nữa là xương sườn, xương sống, xương chậu, xương hông, xương mu...
chủ đề 14/126
Vậy mà mỗi lần nhìn thấy khối vật chất dễ thương ấy, lòng vẫn mềm rũ xuống như bánh tráng nhúng nước mưa". (Phiên Tòa).
2- Ở đảo tị-nạn Hàng triệu người Việt trở thành người-không-xứ-sở khi bước chân lên đảo tị nạn. Không những vậy, một số trong họ còn là những con bệnh bất thường. Và may mắn thay, trong số tị-nạn có những y-sĩ. Vầng Trăng Lưu Lạc viết về người y-sĩ làm ở phòng khám ngoại chẩn trại tỵ nạn Mã Lai và một thiếu nữ 'bệnh nhân' tên Liên: "Em muốn biết mình có sức khỏe tốt để mong sớm được định cư, mới giúp đỡ được ba mẹ em bên nhà..." Trốn đi để thoát khỏi bàn tay đồng loại tàn độc, lại rơi vào tay những kẻ lợi dụng ở đảo, những tay cảnh sát Mã lai, "ở đâu (thì) quyền lực và tiền bạc cũng giết đi được bao nhiêu thứ trên cõi đời (...) Trong một thoáng, chàng thấy mình hẹp hòi, nhỏ bé ngay trong cõi đời vốn đã quá đỗi nhỏ bé, hẹp hòi. Chiếc ống nghe rơi xuống đất, xoắn lại rồi bật ra như con rắn giẫy chết dưới trăng. Chàng không dám nhìn vào mặt cô. Chàng nhìn xuống chiếc bóng con gái nhỏ bé mảnh mai nhập nhằng bên cái bóng gầy nhom lỏng khỏng của chàng, miệng chàng thều thào cái tên vừa mới nắn nót ghi vào dòng đầu một trang trong trí nhớ, "Liên ơi, Liên ơi..." Con bệnh đáng thương ! Chuyện đảo tị-nạn có Nàng Tiên Cá, một chuyện tình thống thiết, giữa người nam tị nạn và một thiếu nữ bệnh tâm thần suốt ngày ra bờ biển để kiếm tìm ở tha nhân một giải thoát, một cứurỗi. Và nàng đã tìm ra ở nhân-vật Tôi. "Nàng ngả người, gục đầu vào vai tôi như nương nhờ sự chở che, cứu vớt, "Em ghét mấy người trong bệnh viện Sickbay. Họ cứ đòi mang em đi chạy điện." Tôi vòng tay qua vai nàng, vỗ về, "Em có bị gì đâu mà chạy điện." Nàng thì thầm, "Họ nói em điên." "Họ nói giỡn chơi." "Không có, họ rất nghiêm trang. Họ thành thật." "Đừng tin họ." "Em không tin họ. Nhưng họ vẫn bắt em uống thuốc. Em sợ những viên thuốc; em ghét những viên thuốc. Những viên thuốc màu trắng đắng ngắt và những viên thuốc màu hồng không chua, không ngọt, không đắng, người ta bắt em uống mỗi ngày. Những viên thuốc làm tim em đập mạnh, làm tay em run. Làm miệng em khô đắng, làm
chủ đề 14/127
đầu óc em mịt mờ u ám. Nguyên ơi tại sao người ta lại làm ra những viên thuốc không chua không ngọt không đắng nhỉ? Em thù những viên thuốc như thế..." (…)"Nếu có Nguyên làm bác sĩ, em sẽ làm y tá. Em sẽ chích cho họ một trăm mũi thuốc mỗi ngày. Nguyên biết không. Những buổi sáng, họ hay bắt em phải chích thuốc. Em trốn, nhưng họ hứa tìm Nguyên cho em nên em mới chịu uống và chích thuốc. Họ hứa hoài mà chẳng bao giờ tìm cho em. Thành ra sáng nào em cũng ra tìm Nguyên ngoài biển. đâu biết là Nguyên ở rất gần bên em từ bao lâu nay." Nhân viện bệnh-viện tìm con bệnh để cho uống thuốc, nhưng nàng không muốn trở lại nhà thương 'điên' và cuối cùng đã tự vẫn. "Nàng ném cho tôi cái nhìn thù oán, "đồ phản bội!" (…)Ngoài kia, biển vẫn thản nhiên như con bệnh tâm thần không còn ý niệm nào về thời gian và sự đau khổ của kiếp người. Cơn bệnh dửng dưng với mọi đổi thay của cuộc đời".
3- Ở xứ người. Những người tị-nạn may mắn cuối cùng đến được một quốcgia thứ ba. Đời sống mới với văn minh vật chất và với những đảo lộn, biến thái về gia-đình, xã hội. Nơi đây còn là thế-giới mới của những cuộc tự do tình dục, phá thai, như Hoàng Chính ghi lại trong các truyện Tai Họa, Vực Sâu Khổ Lụy, Di Chúc, ... Vực Sâu Khổ Lụy là chuyện người con gái có chửa vì bị chính người quen cưỡng hiếp, sanh con xong tìm cách biến con đẻ thành con nuôi ký giấy đem cho một gia đình người bản xứ vớI ước mong con có tương lai. Di Chúc ghi lại chuyện của một y-sĩ người Việt tị-nạn không được tiếp tục hành nghề và một "người đàn bà già nua, nghèo nàn, bệnh tật, sống một mình ở thành phố lạ, và chết một mình cũng trong cái thành phố chưa quen biết". Với bà cụ thì người y-sĩ này "có tấm lòng nhân ái, ông lại mát tay như ông bác sĩ Kính ở đầu ngõ nhà tôi bên Phú Nhuận, vậy thì ông còn thiếu cái gì nữa mà không cho mở phòng mạch chứ. - Mảnh giấy ngoại à, cháu thiếu mỗi một mảnh giấy thôi. Mảnh giấy có mấy chữ bằng hành nghề ấy mà". Mà rồi bà cụ đã làm thật, di chúc của bà là chứng chỉ hành nghề viết tay : "Bằng hành nghề Bác sĩ Y khoa. Cấp cho Bác sĩ Châu, đã tốt nghiệp Y khoa ở Việt Nam, đã đậu bằng tương đương ở Canada. Bác sĩ Châu có tấm lòng, có khối óc, có bàn tay của người thầy thuốc lý tưởng. Nếu không có bác sĩ Châu, tôi đã chết lâu rồi. Bằng hành nghề này có giá trị trên toàn thế giới" chủ đề 14/128
Người y-sĩ hành nghề ở xứ người nhưng tâm tư và tham chiếu vẫn là ở Việt Nam, một quê hương của ngày nào, một quê hương thật! Ông Thầy là một vị y-sĩ 'nhân bản', không máy móc: "Ông Thầy chợt bối rối. Theo đúng sách vở, chàng sẽ phải làm hồ sơ bệnh lý đầy đủ, khám cổ tử cung và thử nước tiểu, tìm dấu hiệu mang thai, nhưng nhìn đôi mắt trẻ thơ trên khuôn mặt trái soan, chàng đâm ra ngại ngần. Chàng viết nguệch ngoạc những dòng đầu tiên trên hồ sơ bệnh lý của cô, rằng cô lập gia đình đã được gần hai tháng, rằng hiện nay sức khỏe của cô bình thường. Ông Thầy tìm kế hoãn binh. Vào y khoa lâu rồi, mà chàng vẫn chưa "khoa học hóa" được chút nào. . (Ông Thầy). Y-sĩ mà nhiều tình cảm và lãng mạn! Những khốn khó của kiếp người, của sinh-lão-bệnh-tử, không nơi nào và thời nào con người có thể tránh. Trốn khỏi những địa ngục trần gian và những tập đoàn tàn độc có thể thành công, nhưng bệnh tật thì như lưỡi hái định-mệnh cứ chực-chờ con người : "Cô...cô..à, bác sĩ... nói sao? chồng tôi bị bệnh gì?" "Leukemia. Ngoài bắc gọi là bệnh bạch cầu trong nam gọi là ung thư máu; tất cả đều dịch ra từ chữ leukemia của Mỹ.” Giọng cô bác sĩ trẻ chợt buồn thiu, "Yes, I'm sorry but he has leukemia. Nothing can be done here. Tôi muốn cho chuyển lên Los Angeles nhưng ông ấy không chịu. I don't know why..." (Cây Gậy Lão Ăn Mày).
Bệnh-viện không hẳn là nơi vui sống, hấp dẫn, dù có thể cứu vớt con người khỏi bệnh tật và những tai-biến hiểm nghèo. Một nhân-vật nữ của truyện Hôn Lễ vốn "không thích bác sĩ. Nàng sợ bệnh viện. Nàng ghét cái mùi hôi nồng của phòng cấp cứu. Mùi của bệnh tật và sự chết. Vì vậy mà không muốn nói chuyện với bất cứ ai về cõi u mặc ấy. Với nàng, bệnh viện là thế giới âm u của những người chờ chết, và những người thầy thuốc khoác lên mình chiếc áo choàng trắng dài tới đầu gối là đám phù thuỷ đầy quyền năng, đầy pháp thuật đáng ngờ". Nàng không thích, vì ở đó còn có những cái nhìn của tha nhân, những cái nhìn như soi mói, như muốn làm yếu lòng người đối diện, những cái nhìn thấp hèn: "Những cái đầu tóc đen đồng loạt ngước lên; những con mắt đen nâu hau háu tia nhìn. Nàng thấy rõ những con mắt tạt át xít vào người nàng rát bỏng. Những con mắt gỡ mái tóc nàng rối bù; những con mắt luồn lách dưới mảnh áo ngực nhỏ bé của nàng; chủ đề 14/129
những con mắt mầy mò đôi bắp đùi thon gọn dưới lớp vải quần jeans dày; những con mắt bò loanh quanh trên bụng nàng... Những con mắt đồng hương; những con mắt Việt Nam quen thuộc. Phòng đợi đầy ắp bệnh nhân. Phòng đợi nêm cứng những mắt nhìn xoi mói. Trong không đầy một phút đứng ủ rũ đợi hắn đưa thẻ y tế cho người thư ký ghi vào sổ, nàng đã bị những con mắt cào xước hết thịt da". Nhưng nàng vẫn phải đến đó, vì cần phẩu thuật ngón tay thứ sáu, phẩu thuật luôn cảm giác thừa thãi." Nàng nhắm nghiền mắt, như muốn lả đi bên hắn. Nếu không vì cái đám cưới mà hắn hứa hẹn sẽ rình rang cho cha mẹ nàng nở mày nở mặt bên nhà, nàng chắc không thể nào đủ can đảm bước vào đây, chìa bàn tay ra cho người ta xăm xoi. Rồi sẽ còn phải nằm trên bàn mổ cho người ta lấy đi cái ngón tay thừa thãi. Hắn nói sẽ yêu nàng dù nàng có thế nào đi nữa... Nàng cố nghĩ đến những bộ áo cưới trắng như mây trời mùa hạ; đến những chiếc găng tay có năm ngón thon dài. Ơi, những chiếc găng tay sang trọng biết bao nhiêu! Bụng nàng nôn nao. Nàng muốn ói. Đầu óc nàng quay cuồng. Sao lại khó chịu giống như có thai vậy nè. Và nước mắt (ơi cái thứ không làm sao mà ngăn được ấy!) lũ lụt đổ xuống má, môi nàng. Giọng hắn vẫn sôi nổi bên tai nàng, "Vị hôn thê của tôi... Bác sĩ nhắm chừng kịp làm đám cưới không? Tôi thuyết phục cô ấy hoài mà cô ấy không nghe... Như thế này làm sao mang găng tay, làm sao làm đám cưới... rồi làm sao tôi biết đeo nhẫn cưới ngón nào cho đúng..." Một kết thúc truyện bất ngờ! Mất quê hương, mất điểm tựa, dễ gây ra hội-chứng xa-lạ, trong khi tâm trí vô định, mà sự cứu-rỗi lắm khi bi đát, bất ngờ và khó hiểu. Có thể gọi là cứu-rỗi nhưng tàn nhẫn nhất có thể là trường hợp một ông già người Việt làm sở rác nhìn đâu cũng thấy toàn rác rưởi, kể cả con ông và đám bận của nó. Mất ngũ, thất vọng về người con và lo sợ khi chết con nó sẽ đưa về quê nhà, ông đã lựa chọn cái chết, với lò thiêu rác ngay tại sở làm. Tony, người bản xứ làm chung đã vô tình làm nhân chứng lờ mờ về quyết định tự cứu của ông già: "Trước khi ra về, Tony trở ra chỗ lò thiêu thêm một lần, kiểm lại những nút bấm cho chắc ăn là máy sẽ tự động tắt sau ba tiếng đồng hồ. Hơi nóng hừng hực phả lên người anh. Anh mỉm cười nghĩ tới ông già. Hồi nãy ông già nhắc mở lửa cho thật cao. Thiệt tình, ông già dễthương chủ đề 14/130
mà lẩm cẩm. Rác cỡ nào bỏ xuống lò thiêu này mà không thành tro, thành bụi. Toan bước đi, anh bỗng nảy ra ý nghĩ chỉnh máy cho đốt thêm hai giờ nữa, ngày mai ông già trở lại, sẽ thấy cái lò sạch sẽ, khô rang. Mùi khét quyện lấy mũi anh. Ừ, sao rác hôm nay có cái mùi khét lạ kỳ... Chắc chỉ ông già mới biết được đó là mùi của thứ gì bị đốt. Tony lẩm bẩm. Ông già có chơi trò chiến tranh ở nước ông hồi đó. Ông già vẫn bảo mùi thịt người cháy nó kỳ lạ lắm. Mai mình sẽ kể cho ông già nghe về cái mùi kỳ lạ này. Tội nghiệp ông già. Poor old man!" (Rác) 4- Khổ nạn và cứu rỗi. - Truyện Một Đoạn Trong Thánh Kinh có thể xảy ra ở Việt Nam nhưng hãy cứ xem như chuyện của con người và có thể xảy ra bất cứ ở nơi đâu. Chuyện của những con người bị bệnh nan y và đến giai đoạn chót ở viện Ung Thư; những ung thư ruột già, cuống họng, v.v. "Ung thư thì cầm bằng như lãnh án tử hình rồi còn hy vọng mẹ gì nữa!", "những xác người vặt vẹo, những thân thể khô đét không còn chút vướng bận chuyện cõi sống này". Nhưng ở đó, tất cả đã lớn tuổi, chỉ có Tâm hãy còn trẻ, 28 tuổi đời, nên hắn trở nên phẩn nộ từ đó, từ khi hắn là tử tội đã được kêu án - còn sống được "... khoảng sáu tháng nữa. Có thể dài hơn một chút." Ông bác sĩ đã lên giọng, mắt nhìn hắn đăm đăm, ngừng một chút rồi hạ thấp giọng nói, như cố tình không để hắn nghe thấy, "Cũng có thể ngắn hơn." Tâm thường được dì phước Têrêsa thăm hỏi, giúp đỡ và ủi an. "Hắn ngồi bên cạnh giường, nhìn đăm đăm cuốn Kinh Thánh. Ma sơ à. Gì con? Ma sơ đừng đọc Thánh Kinh nữa được không? Được chứ. Thôi thì dì để cuốn Kinh Thánh đây, lúc nào buồn con mở thử một trang đọc xem sao nhé. Một đoạn cũng được nữa. Nghe Tâm. Lúc buồn, lúc giận, hắn gọi "ma-sơ" nghe cho xa một chút, như người ngoài; lúc lòng lắng xuống, hắn gọi "dì", như người trong dòng tộc. .. (…)"Dì phước dặn thì cũng cố ngoan ngoãn gật đầu cho bà vui chứ thời buổi này làm gì có ai làm phép lạ mà mơ tưởng". Tâm trách móc cả Chúa, cả định mệnh phủ phàng, hắn cho rằng già 70 như ông già nằm cạnh và cả bà xơ mới đáng bị bệnh nan y Ung thư : "Sao Chúa không bắt những người già như ma-sơ bị ung thư. Ma chủ đề 14/131
sơ chán đời, bỏ đi tu thì có ung thư cũng là hợp lý. Tôi còn trẻ; tôi chưa
đầy ba mươi tuổi; tôi còn ham sống." Giọng hắn chợt nhão đi, "Dì ơi, con còn ham sống..." Nước mắt dàn dụa trên má hắn. Dì phước lau vội nước mắt cho hắn bằng những ngón tay xương". Nhưng bà xơ cũng bị bệnh ung thư! Mà còn nặng hơn Tâm nhưng hắn không hay biết, có thể vì vị-kỷ, vô tâm. Nan y với đủ thứ sợ hãi của bệnh, nào tác dụng của thuốc gây tóc rụng, và cả chuyện xài thuốc lâu bị bất lực, làm giảm sự thèm muốn đàn bà. Tâm hy vọng hắn chưa đến thời kỳ đó, do đó khi có cơ hội, hắn thử, hắn nhìn chăm chú như muốn nuốt cô y tá đến đo máu : "Bệnh vậy mà vẫn còn thèm. Giời ạ! Hay là không phải bệnh. Hắn thầm nghĩ. Bác sĩ cũng nói sai được chứ. Mấy ông ung thư chung phòng vẫn ghẹo hắn rằng cái bướu sẽ lớn dần mãi lên, sẽ ăn mòn hết sinh lực hắn. Hắn sẽ liệt bại dần từng phần cơ thể. Cái bộ phận tí teo kia chắc cũng rũ liệt thôi. Nhưng lúc này thì chưa. Cơn thèm muốn vẫn còn. " Phẫn-nộ đồng nghĩa với những khốn-cùng của nhân sinh. "Dì phước hăng hái tháo cúc áo cổ hắn. Hắn gạt tay dì ra. Dì đưa tay vuốt ve cái đầu tóc bù xù ướt sũng. Hắn vùng dậy giận dữ giật tấm khăn choàng trên đầu dì xuống. Một cái đầu trọc, lơ thơ những sợi tóc ngả mầu, khô như lá thông mục hiện ra trước mặt hắn. Dì phước cuống cuồng giật vội cái khăn ra khỏi tay hắn, "Lạy Chúa tôi, con đừng làm vậy chứ!" …Nhưng tin đến như tiếng sét : "Ông bác sĩ ngập ngừng nhìn hắn, "Bà ấy chết rồi cậu không biết sao?" Những tiếng kêu bàng hoàng từ đám bệnh nhân đồng loạt réo lên từ đầu đến cuối phòng. Hắn lao đao một giây như người bước hụt..." Con người phải cộng tác với ơn cứu rỗi của một đấng Bề Trên (Thượng đế, Thiên Chúa, v.v.) thì mới được cứu rỗi. Đức tin đã có thể cứu rỗi! Ơn cứu độ phải khởi từ bản thân. Cứu rỗi mình chưa xong, nói gì đến cứu độ thế gian! Lịch sử người Việt sau khổ nạn tháng Tư 1975, có những cái chết vì đòn thù, của những người miền Nam bị lừa đi 'cải tạo'. Hoàng Chính kể chuyện Cuối đường Khổ Nạn, nhưng không hẳn là cuối thật, cho biết người mẹ và người con từ ngoài nước khó khăn tìm về đến đó mới biết người cha sau gần 20 năm bị giam chủ đề 14/132
giữ không lý do, đã chết ở trại 'cải tạo' sáu tháng trước đó! Trong Đoạn Chúc Thư Dang Dở, một trong những truyện ký viết gần đây, Hoàng Chính nói đến những ám ảnh bị nan-y như bệnh ungthư, đến cả với người y-sĩ. Việc chuẩn bị và đương đầu với cái chết: "Rồi một buổi sáng, dặn lòng rằng ừ thì trước sau gì cũng chết. Phải chết sao cho coi được. Như tụi Mỹ vẫn bảo die in style. ... Có người hỏi anh có cầu nguyện với Chúa không. Mỉm cười bảo không, bởi ai lại đi làm phiền Chúa vì cái chuyện nhỏ nhoi". Rồi : "Hôm qua, trong bệnh viện, thử máu xong, lăn quay ra xỉu. Cái cảm giác lúc vừa tỉnh lại thấy lạ lẫm chi đâu. Chắc lúc gần chết, cũng thấy lâng lâng như thế." đối đầu với những người bạn hay thân quen, mới biết cái nhìn, cái ái ngại của tha nhân là một khó vượt qua : (...) Bao nhiêu là cái nhìn ái ngại của bạn bè ở chỗ làm. Bạn khỏe không. Đã bảo hình ảnh cuối cùng để lại cho nhân gian phải là hình ảnh đẹp, nên rộn ràng, vâng tôi khỏe. Thật không đó. Bạn có vẻ mệt mỏi. Đã cố che dấu bằng nụ cười. Nhưng nét tiều tụy thì che làm sao được. Bạn xanh quá. Lúc nào tôi cũng cầu nguyện cho bạn (...) Hay là thử đến với đông y xem sao. Người bạn thơ chân tình. Mày phải để ý kỹ những triệu chứng hô hấp. Thằng bạn học cùng lớp ngày xưa. Không sao đâu. Thời tiết cả đấy. Chỉ cần ăn uống đầy đủ, uống thuốc bổ và tập thể dục đều. Những người thân yêu. Dễ gì mà chết. Sách tướng số bảo anh sống tới chín mươi hai tuổi. Chắc không đó. Sao không. Chín mươi hai tuổi vẫn còn nhớ thế nào là thơ lục bát. Những giọt nước mắt. Ơi, yêu quá là yêu, cõi sống này. Bỏ đi sao đành! Thế giới vây quanh. Bao nhiêu là thương mến. Ai mà nỡ bỏ đi. Nhưng sao cứ nóng, lạnh, nhức đầu và mệt đuối người. Hay mình có cái gì đó xa lạ, đang lớn lên dần trong bộ óc đã già; ..." Lại cái nhìn của người khác, những cái nhìn xuồng xả, chủ quan, của những người ngoài cuộc. Cuối cùng lại là một chuyến trở về: "Chuyến này về, hứa mỗi ngày sẽ đi nhà thờ với mẹ, sẽ ngồi uống cà phê với bố, sẽ coi bóng đá với bố và đứa em trai, coi phim tập Hàn quốc với mấy cô em gái. Và hứa tới những đoạn cải lương Hồ Quảng (hình như bên nhà, người ta dùng chữ sến) mình sẽ cố dấu đi nụ cười chế nhạo. …Mai mốt trở về đây lại, tha hồ mà viết. Hình ảnh cuối cùng để lại cõi chủ đề 14/133
sống này sẽ không là hình ảnh gã bệnh nhân èo uột trong trại ung thư (phải ung thư không?) mà là hình ảnh kẻ làm thơ gục chết trên trang bản thảo vừa viết xong chương cuối… "
Sống cho ra con người thật khó, vì hiểm nguy, gian khổ và sinh-lãobệnh-tử lúc nào cũng chực chờ. Cuộc sinh tồn như một nan-y, mà cứurỗi khả-dĩ có khi lại là những trang chữ, những vần thơ. Với nhân-vật chính trong bút ký vừa kể, cũng như với người y-sĩ và một 'ông già Tầu' trong trại 'cải tạo' trong Gửi Riêng Chốn Nào ở một đoạn trên. * Có thể nói rằng hoàn cảnh và mục đích sáng tác là những yếu tố tham gia gián tiếp vào nội dung sáng tác nhưng có khi những động cơ sáng tác trở thành chính. Nhìn chung, những truyện của Hoàng Chính có thể được xuất phát từ ý-tưởng 'cứu-rỗi', 'chữa lành' cho nhân-vật và những tình cảnh xảy ra; tác giả chúng vốn xuất thân từ y-giới. Hoàng Chính theo thiển ý đã vừa chú tâm thể hiện tâm-tư bản thân hoặc theo chủ quan của tác-giả mà cũng vừa viết theo nhu cầu cấp thiết, đã xảy ra, của hiện-thực cộng đồng bản xứ hoặc của ghetto người Việt. Nói như một nhân-vật trong Gửi Riêng Chốn Nào,“những người đã đặt bút xuống viết bất cứ một điều gì chân thật, bao giờ cũng là viết cho một người nào đó (...), nếu mình viết với cả tấm lòng thì hôm nay, ngày mai, hay cả ngàn năm sau nữa, thế nào cũng có ít là một người ở đâu đó, nói một ngôn ngữ nào đó, đón nhận với cả tấm lòng”. Ông viết các truyện này dĩ nhiên trong thời gian sống lưu-xứ, xa quê, xa cả môitrường nghề-nghiệp gốc. Chúng tôi không tin các sáng-tác đó là do phẫn chí, nhưng có thể đây là cách ông tìm đến văn chương vì hoàn cảnh và thời thế không thuận lợi. Ông viết để đền bù và có thể để bày tỏ sự phẫn nộ với hoàn cảnh cũng như những tàn độc của con người. Trong một số truyện, Hoàng Chính đi tìm thông cảm với tha nhân qua những nỗi buồn đau, bệnh tật và cùng tìm giải thoát với nhân-vật của ông. Nếu đặt khung cảnh xã-hội văn hóa vào văn-bản thì việc đọc lại sẽ cho thấy những ngẫu nhiên trùng hợp ở một tác giả, hoặc đặc điểm của một nhà văn khác với các cây viết khác. Người ta còn có thể tìm thấy quan hệ của chuyện kể trong tiến trình chữa chủ đề 14/134
trị, xác và cả hồn, vì có thể có những liên hệ khả dĩ giữa y khoa và vănchương qua bệnh tật, qua các nhân-vật y-sĩ và bệnh nhân, qua sự sử-dụng và diễn-văn, suy-nghĩ về bệnh tật trong cuộc sống cũng như sinh hoạt qua văn-chương.
Có chăng một thứ ý-thức cơ-thể khi đã có thể có sự thể-hóa của văn-bản và sáng-tác? NGUYỄN VY-KHANH 7-2008. Các tác-phẩm trưng-dẫn trong bài được trích từ các tuyển-tập: Mùa Thu Cuối Cùng (Làng Văn, 1994): Mùa Thu Cuối Cùng; Cây Gậy Lão Ăn Mày; Phiên Tòa; Nàng Tiên Cá. Lời Tỏ Tình Đã Cũ (Văn Mới, 2000): Rác; Cuối đường Khổ Nạn. Viết Cho Mẹ Ở Quê Nhà (Văn Mới, 2005): Khó Đi Mẹ Dẫn Con Đi; Vời Vợi Non Cao; Vực Sâu Khổ Lụy; Di Chúc. Một Đoạn Trong Thánh Kinh (Nhân Ảnh 2006): Ông Thầy; Một Đoạn Trong Thánh Kinh. Tình Ở Đài Bắc (Nhân Ảnh 2007): Hôn Lễ; Vầng Trăng Lưu Lạc. Khi Loài Chim Thôi Hót (2007): Gửi Riêng, Chốn Nào. Núi Không Còn Linh Thiêng (2008): Viết Lên Bia Mộ. Trang Internet Hoàng Chính: Đoạn Chúc Thư Dang Dở.
chủ đề 14/135
HOÀNG XUÂN SƠN thay câu trả lời . đau chìm
thay câu trả lời
Không còn thời gian tỉ tê về cái đẹp buồn cũ kỹ tôi lãng mạn chết đuối hôm qua không ngóng chờ dòng sông cứ biền biệt trôi bởi vì mặt trăng hàm ân loài chiến mã người kỵ sỹ hắt ánh vàng rục chết phương hoa cứ cho là máu xương đã tròng trành êm ấm ánh thép vẫn ngời loan khắp bầu trời hỡi ơi Hoàng mùa xuân lên đều trái rạ nước mắt hồng hoa vẫn rỏ xuống nhiều gai trên cuống mạ chiếc bóng đèn chấp chóa có nhớ gì đêm khuya hồn lạp chong tôi chết tôi ôm ấp tôi bừng tỉnh và khóc bết chữ nhạt nhoè sao Đến một lúc nào xác thân độc chứa mầm ung đã lần lượt buông theo bằng- hữu-tôi-căn-bệnh-héo-mòn rất nhiều anh em tôi chủ đề 14/136 mấy ai ngăn được hạch đời từng khối u trí óc lấn tràn tâm phế chúng tôi đang lịm dần tháng năm rầm rộ
em ơi mưa không còn bay trong đầu nắng không còn trên tóc Ở đó mà ngồi không đếm lá vàng thơ thẩn lá trên rừng liệm lá vườn hoang tôi trích dọc ngang thơ và nhạc như một loài lý lịch điếm đàng mùa thu đã chết không còn trăng rơi bên thềm nous ne nous verrons plus sur terre em nhớ cho bão táp cuồng nộ đã xáo tung hệ phần phương nam hiền hòa là thế nắng có ấm hoài mãi đâu từng ngăn ô đóng lại cửa nhà đã khóa trái hoàng hôn một chuyến về ở nơi thu quén.
đau chìm
Tôi mang từng phân vuông da kỳ thị trắng đánh bạt vàng màu đất khô sự chết da dẻ tôi cùng kiệt ôi thân rướm máu mặt đỏ hoàng hôn tia cực tím trời lặn sâu thi thể hỏa lò cháy bỏng đêm thâu rền rĩ than hồng dính rát bình minh màu sương chưa kịp tới con chim hót vầng trắc trên đồi khô lỏng chỏng từng đốt mía gẫy gập những cây sồi rừng gai mọc ngược chủ đề 14/137 Thịt da mỗi một giờ co rút chân giò gà khô quắp hóng bếp chằng chịt kinh rạch bàn tay u ơ
tôi biết về đâu chống chọi mạn thuyền gỗ nát tâm tư một tấc sào hoang phế con trăng nằm lì nguyệt động kinh niên đêm mơ thấy biển dằn đau độ sóng chiều mặn mà cấp số bão sinh sôi lướt lướt tới . đất trùm mộ địa Nguyệt quế mùi hương sông chảy gái trinh nào cứu vớt hồn tôi trầm mình khuất khúc oan mười sáu lạy trẻ lên ngôi lạy đời thất tán Tháng năm đóng bợn vô hình lớp quyển vây nhọc từng cơn khó đời rung tôi chưa một lần ngân ca tới cực nồng sinh điệu hát . hát mãi thế bài vãn ai lời thán xú khí ngập đòng con máu thê thiết ôm đầu chạy loạn sợi căng đàn âm chỏi bát bát như không tôi mướn xác thân này bàn tay này và nỗi đau trầm túy. HOÀNG XUÂN SƠN Juin 2006
chủ đề 14/138
NGUYỄN TẤT ĐỘ (những) người điên
Hắn thích chạy vòng vòng và vừa chạy vừa quay vậy mà hắn không chóng mặt thậm chí hắn còn cười khoái chí hắn cứ chạy vòng vòng ngày này qua ngày khác và vừa chạy vừa quay lúc tỉnh cũng như lúc say ban ngày cũng như ban đêm hắn không ngủ người ta bảo hắn điên và khăng khăng bảo hắn điên hắn vẫn chạy vòng vòng và vừa chạy vừa quay cho giống sự chuyển động của cái hành tinh mà hắn và loài người đang sống ... NGUYỄN TẤT ĐỘ chủ đề 14/139
KHẾ IÊM đọc thơ nguyễn tất độ
NGUYỄN TẤT ĐỘ Sinh ngày 05.06.1983 Sống tại Việt Nam. “Với tôi (NTĐ) thơ là không khí để thở, là phương tiện giãi bày bức xúc. Thơ Tân Hình Thức đã cho tôi một lối đi”.
(NHỮNG) NGƯỜI ĐIÊN Hắn thích chạy vòng vòng và vừa chạy vừa quay vậy mà hắn không chóng mặt thậm chí hắn còn cười khoái chí hắn cứ chạy vòng vòng ngày này qua ngày khác và vừa chạy vừa quay lúc tỉnh cũng như lúc say ban ngày cũng như ban đêm hắn không ngủ người ta bảo chủ đề 14/140
hắn điên và khăng khăng bảo hắn điên hắn vẫn chạy vòng vòng và vừa chạy vừa quay cho giống sự chuyển động của cái hành tinh mà hắn và loài người đang sống … “(Những) Người Điên”. “(Những)” mang tính toàn bộ, trong khi “Người Điên” mang tính cá thể. Hắn vừa chạy vòng vòng vừa quay, như trái đất tự quay chung quanh nó vừa quay quanh mặt trời. Khi nhập vào cái toàn bộ, hắn không còn nhận biết được chính mình, bởi không có sự phân chia giữa chủ thế và khách thể, giữa điên và không điên. Cá thể cũng là toàn bộ. Điên là trạng thái ở ngoài tâm trí, giữa hỗn mang và trật tự, giữa mơ và tỉnh. Một tác phẩm nghệ thuật luôn luôn bước ra ngoài sự phân biệt của tâm trí, bao gồm cái toàn bộ cả hỗn mang (mơ) lẫn trật tự (tỉnh).
Jackson Pollock, Autumn Rhythm, 1950. Oil on canvas 8’9”x 17’3”
Bức tranh sơn dầu “Nhịp Điệu Mùa Thu” (Autumn Rhythm), 1950 của họa sĩ Jackson Pollock, người mở đầu phong trào Trừu chủ đề 14/141
tượng Biểu tượng (Abstract Expressionism) Mỹ vào thập niên 1950, vẽ bằng cách vẩy, đổ, vung vãi màu sắc trên vải bố, theo nhịp chuyển động của cơ thể. Ảnh hưởng nghệ thuật trừu tượng của họa sĩ Đức, Hans Hofmann và trường phái Siêu thực (Surrealism), ông đưa ra quan điểm hội họa hành động (The act of painting) chẳng khác nào viết tự động (Automatic writing) của Siêu thực. Kết quả, người xem bị choáng váng, không hiểu gì, bởi bức tranh chỉ là phần hỗn mang của hội họa, còn phần trật tự chính là quan điểm nghệ thuật của tác giả mà người xem không thấy. Hiểu cặn kẽ lý thuyết là bước đầu của sự thưởng ngoạn. Vì trong khi thưởng ngoạn, tâm trí không thể xen vào, nên lý thuyết không còn tác dụng phê phán. Lý thuyết phải nằm sẵn trong vô thức, hoá giải hỗn mang để người xem dễ dàng cảm nhận tác phẩm. Cũng như thơ THT, nếu không hiểu lý thuyết thì làm sao có thế cảm nhận cái hay của dòng thơ này. Trở về bài thơ “(Những) Người Điên”. Hình thức bài thơ được đặt ngay ngắn giữa trang giấy, mang tính trật tự và tỉnh táo. Nội dung là hành động của một người điên (hỗn mang), vừa chạy vòng vòng vừa quay. Bài thơ viết theo thể lục bát, không chấm phẩy, mang tính đều đặn, đọc miên man, không ngừng nghỉ, giống như những vòng quay. Ba dấu chấm làm thành câu cuối cùng, như một điệp khúc, nhắc nhở phải đọc lại từ đầu, cứ thế và cứ thế… Bài thơ có khả năng lôi kéo người đọc đọc lại nhiều lần, và ba dấu chấm trở thành một phần quan trọng của bài thơ. Đây là một bài thơ tân hình thức điển hình. *
Nhà thơ Nguyễn Tất Độ, khi mới xuất hiện, những sáng tác đầu tiên của anh có thể được coi như có giá trị ngang với bất cứ bài thơ nào của những tác giả đã nổi danh. Bởi cách diễn đạt và ngôn ngữ trong thơ vẫn còn gắn bó với truyền thống thơ Việt, chỉ khác là cú pháp liên tục, không đứt đoạn như thơ vần điệu hay thơ tự do. Hình ảnh trong thơ dùng để diễn đạt chính xác đời sống nội tâm phong phú. … Hãy cho tôi đi chủ đề 14/142
bằng đôi chân của anh vì chân tôi không còn nữa. Cho tôi sờ cuộc đời bằng đôi tay của anh vì tay tôi không còn nữa. Cho tôi nhìn cuộc đời bằng đôi mắt của anh vì mắt tôi không còn nữa. Cho tôi nói tiếng người bằng thanh quản anh vì cổ họng tôi không còn nữa... (Cà Phê Sáng) Hay như: Hỡi em, ta và những linh hồn đã ra đi trong cơn tuyệt vọng hãy về đây chiều nay, hãy ngồi lại trong cơn buồn bã này, rồi cùng nhau chết thêm lần nữa... (Chủ Nhật Buồn) Không thiếu những câu chữ rất đẹp đó trong những sáng tác đầu tiên của anh. Nhưng sau đó, những bài thơ của anh đã mang tính kể, một đặc tính của thơ tân hình thức Việt.
VỆT MỰC & TỜ GIẤẤY Tôi quệt một vệt đen lên tờ giấy trắng. Một vệt đen trên tờ giấy trắng. Tôi mang đi hỏi người. Có người nói: ”Một vệt đen”. Có người nói: ”Một tờ giấy trắng”. Có thể vì không thấy một vệt đen, hay thấy tờ giấy trắng kia chủ đề 14/143
còn hữu dụng. Tôi thì nói: ”Một tờ giấy trắng có vệt đen”. Lại nữa, tôi quệt một vệt đen lên tờ giấy đen. Tôi mang đi hỏi người. Ai cũng bảo: ”Một tờ giấy đen”. Có thể vì không ai thấy vệt đen. Một vệt đen trên tờ giấy đen thì làm sao mà thấy! Duy chỉ mình tôi biết rõ, trên tờ giấy đen có vệt đen. Lại nữa, tôi … Một vệt đen trên tờ giấy trắng, có người chỉ thấy vệt đen mà không thấy tờ giấy, ngược lại, có người chỉ thấy tờ giấy và không thấy vệt đen. Bởi họ chỉ nhìn thấy một mặt của vấn đề, mà không thể một lúc nhìn thấy toàn bộ vấn đề. Còn một vệt đen trên tờ giấy đen thì người xem và vật được xem, không còn phân hai, mà đã nhập lại thành một. “Người Đàn Ông Ở Trạm Xe Buýt” kể chuyện một người đàn ông ngồi chờ ở một trạm xe buýt nhưng khi mỗi chuyến xe tới ông chỉ ngước nhìn và không hề bước lên. Những người hành khách khác cũng không bận tâm tới ông vì hiểu lầm là ông lỡ chuyến này hay đang chờ chuyến khác…
HAI CÂU Tôi nhặt được một câu thơ bên vệ đường trên gói xôi nóng hổi mà bà lão bán xôi vừa cho người ăn mày, bên hông xe đẩy của bà lão tôi thấy một tấm biển nhỏ ghi chữ “1 ngàn / gói”. Tôi nhặt được một câu thơ trong một nhà hàng trên món Cua Hoàng Đế mà một đại gia vừa gọi để làm vừa lòng cô gái ăn mặc như một con điếm, men chủ đề 14/144
đề giá “1 triệu 5 trăm ngàn”. Tôi ghép hai câu ấy lại thành bài Tân Hình Thức và tôi viết phía sau những con chữ đang hiển hiện này, ai đọc được thì đọc! Nếu bài thơ “Vệt Mực & Tờ Giấy” vẫn còn trong những khái niệm mơ hồ, thì bài “Hai Câu” đúng thực là ngôn ngữ và câu chuyện đời thường. Bài thơ rõ ràng, không cần phải giải thích gì thêm, ngoài điều tác giả viết đằng sau những con chữ, điểm một nét bí ẩn để hoàn tất bài thơ. Khi mới xuất hiện, thơ Nguyễn Tất Độ đã là một ngạc nhiên. Và chỉ trong một thời gian rất ngắn, chúng ta lại thấy những bước đi rõ nét của thơ anh. Anh hẳn phải là một con chim báo bão, một nhà thơ tiên phong? Điều này chỉ có thể do chính anh khẳng định bằng những bước đi kế tiếp của anh. Mong thay. KHẾ IÊM
chủ đề 14/145
TRẦN VĂN TÍCH văn khoa tâm-thể
Trên Văn Học số 207 tháng 07.2003, viết về hồ sơ bệnh lý Nguyễn Du dựa vào thơ chữ hán của thi bá, tôi có đề cập đến nỗi sợ của tác giả Truyện Kiều như là một phần không thể thiếu của bệnh án theo nhãn quan đông y. Bài viết tạo phản ứng bất ngờ ở một số độc giả vì có người cho rằng bảo Nguyễn Du sợ giặc, sợ chết, sợ nghèo, sợ đói, sợ đồng môn, sợ tha nhân, sợ quyền thế, sợ cấp trên, sợ đường đi, sợ sương gió, sợ cảnh già, sợ sai lầm, sợ sẩy chân, sợ sông nước, sợ thị phi, sợ thất bại v.v… là vô hình trung xúc phạm đến nhà thơ, là cho rằng nhà thơ nhát gan, hoặc còn tệ hơn nữa, cho rằng nhà thơ hèn nhát. Thật ra một cung cách suy nghĩ như vậy chỉ có thể xẩy ra nơi những ai không quen với đường lối biện chứng luận trị của y học cổ truyền phương đông. Khi biện biệt chứng trạng để căn cứ vào đó mà luận giải trị pháp thì đông y luôn luôn chú trọng đến khía cạnh tâm thần tình cảm và người lương y cổ truyền lúc viết y án thường đề cập đến ngũ chí thất tình. Chẳng hạn Lãn Ông trong Y Dương Án khi bàn đến chứng uất ở một phụ nữ đã bảo rằng “lo nghĩ thì hại tỳ, buồn thương thì hại phế.“ Hoặc khi chẩn bệnh kê toa cho Lâm Đại Ngọc, thầy lang họ Vương trong Hồng Lâu Mộng, hồi tám mươi ba, đã cho rằng “sáu mạch đều huyền là do ngày thường hay tư lự mà ra” và còn nêu rõ mối liên hệ giữa nộ và can: “dù nghe những việc không liên quan đến mình cũng cứ tức giận, chủ đề 14/146
(…) thực ra chỉ vì can âm bị suy kém“.
Ngũ chí là năm loại biến động của tình chí. Nội kinh cho rằng sự xáo trộn của tình chí có liên quan đến cơ năng của năm tạng. Chí của can là giận (nộ), chí của tâm là mừng (hỷ, lạc), chí của phế là buồn (bi), chí của thận là sợ (khủng, kinh), chí của tỳ là lo (ưu, tư); tất cả gọi chung là ngũ chí ứng với ngũ tạng (tâm, can, tỳ, phế, thận). Khi hoạt động của năm loại tình chí mất điều hòa, thường là thái quá, nhưng cũng có khi ức chế, thì sẽ dẫn đến bệnh lý cơ năng rối loạn khiến chân âm của tạng phủ khuy tổn, từ đó xuất hiện nhiều chứng trạng phức tạp như phiền táo, dễ cáu giận, choáng váng, mất ngủ, miệng đắng, sườn đau, đầu nhức, thậm chí suyễn khái, thổ huyết; tất cả đều là biểu hiện thuộc hỏa gây nên; được giới lương y tổng quát hóa thành khái niệm hội chứng ngũ chí hóa hỏa. Về mặt lý thuyết, có thể kể đến thất tình (hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục: mừng, giận, buồn, sợ, thương, ghét, muốn) nhưng trong thực tế chẩn đoán điều trị hằng ngày, thường chỉ đan cử ngũ chí trong hồ sơ bệnh lý. Khi ứng dụng vào học thuyết kinh lạc, vì có tất cả sáu cặp kinh mạch nên cảm xúc tương ứng với lục kinh theo mối tương quan phế-đại trường: bi, tỳ-vị: ưu, tâm-tiểu trường: hỷ, thận-bàng quang: khủng, tâm bào lạc-tam tiêu: lạc, can-đảm: nộ. Dầu sao đi nữa, trong tình trạng sinh lý chính thường, thường xuyên vẫn có tình trạng phản ảnh tình chí của từng cá nhân đối với ngoại cảnh. Đồng thời ngũ chí cũng là nhân tố gây bệnh: khi những hoạt động tâm lý-tinh thần vừa kể bị kích thích quá mức và kéo dài quá chừng thì sẽ ảnh hưởng tới công năng tạng phủ khí huyết. Nhưng cũng có khi tạng phủ phát bệnh từ trước quay qua ảnh hưởng tới hoạt động tâm lý-tinh thần. Chính vì thế nên thầy lang họ Vương phụ trách điều trị cho Lâm Đại Ngọc đã lập luận là chỉ vì can âm khuy tổn mà bệnh nhân nghe những việc chẳng dính líu gì đến mình cũng lên cơn phẫn nộ. Vận dụng hệ thống các định đề y học đó, Cung Oán đưa ra nhận định đơn giản, hiển nhiên về y khoa tâm-thể: Cuộc thành bại hầu cằn mái tóc, Nét cùng thông như đốt buồng gan. Những mái tóc Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến v.v… cằn cỗi, bạc màu vì lẽ đắc thất; còn lúc thông hiển thì can khí thư sướng điều đạt, trái lại khi khốn cùng thì can nhiệt cang thịnh, chủ đề 14/147
đưa đến tình trạng can hỏa thượng viêm, can dương hóa hỏa. Trong thơ chữ hán Nguyễn Du, chúng ta gặp nhiều câu thơ ký thác nỗi sợ, thi bá vận dụng một tập hợp phong phú các động từ mô tả sự lo sợ, từ nhẹ đến nặng, từ thấp đến cao. Nhà thơ nói đến phạ: Bình sinh dĩ tuyệt vân tiêu mộng, Phạ kiến bàng nhân vấn vũ mao. (Ngẫu thư công quán bích) (Bình sinh đã dứt giấc mộng bay lên mây xanh, Chỉ e người bên cạnh hỏi đến lông cánh) (Tình cờ đề thơ trên vách công quán) đến tuất: Sinh bần do bất tuất, Lão tử phục hà bi? (Vinh Khải Kỳ thập tuệ xứ) (Sống nghèo còn không biết sợ, Già chết lại buồn chi?) (Nơi Vinh Khải Kỳ mót lúa) đến úy: Dị hương dưỡng chuyết sơ phòng tục, Loạn thế toàn sinh cửu úy nhân. (U cư) (Ở đất khách tu dưỡng vụng về để phòng thói đời, Sống đời loạn muốn yên thân từ lâu phải sợ người) (Ở nơi u tịch) Như hà thế gian nhân, Thừa hiểm bất tri úy. (Lam giang) (Thế sao người trên đời, Dựa vào hiểm không biết sợ) (Sông Lam) Hoa dĩ tặng sở úy, Thực dĩ tặng sở liên. (Mộng đắc thái liên) (Hoa tặng người mình sợ, Gương tặng người mình thương) (Mơ thấy hái sen) chủ đề 14/148
Tâm huyền huyền đa sở úy, Nguy hồ đãi tai cốt một vô để. (Ninh Minh giang chu hành) (Lòng chơi vơi vì sợ nhiều, Nguy thay hiểm thay chìm sâu không đáy) (Đi thuyền trên sông Ninh Minh) Lực suy thường úy lộ, Phát đoản bất câm phong. (Phượng hoàng lộ thượng tảo hành) (Sức yếu thường sợ sương móc, Tóc ngắn tha hồ cho gió thổi) (Buổi sớm trên đường núi Phượng Hoàng) đến hãi: Hốt phùng hãi thú thụ gian xuất, Tri hữu tiều phu lâm hạ lai. (Sơn trung tức sự) (Bỗng gặp con thú sợ hãi trong lùm cây chạy ra, Biết là người hái củi ở dưới rừng đi đến). (Tả cảnh trong núi) đến khủng: Vô lụy vị ưng chiêu quỉ trách, Bất tài đa khủng tốc quan phi. (Giang đầu tản bộ) (Không lụy nên chưa chuốc lấy sự trách móc của quỉ, Bất tài nên hay sợ rước lấy sai lầm trong việc quan) (Dạo bước bên sông) Thường khủng nhất thất túc, Cốt một vô để chỉ. (Lam giang) (Thường sợ lỡ sẩy chân, Chìm nghỉm không có đáy) (Sông Lam) đến kinh: Tiễn đăng độc chiếu sơ trường dạ, Ác phát kinh hoài mạt nhật tâm. (Thu dạ) (Một mình khêu ngọn đèn soi đêm mới bắt đầu dài, chủ đề 14/149
Vắt tóc thường sợ cho chí nguyện của mình trong các ngày cuối) (Đêm thu) Tiêu tiêu bồng mấn lão phong trần, Ám lý thiên kinh vật hậu tân. (Xuân tiêu lữ thứ) (Bơ phờ mái tóc rối như cỏ bồng, già cùng gió bụi, Âm thầm lo sợ thấy cảnh vật và thời tiết thay đổi) (Đêm xuân quán khách) Hốt kinh lão cảnh kim triêu thị, Hà xứ tu thanh tạc dạ văn. (Thu nhật ký hứng)
(Sáng nay chợt kinh sợ cho cảnh già, Đêm qua nghe tiếng thu ở chốn nào) (Ngày thu gởi hứng) Lao lạc xuân vô phận, Sa đà lão tự kinh. (Quế Lâm công quán) (Lo buồn mãi xuân không đến, Lần lữa thêm sợ tuổi già)
(Công quán Quế Lâm) đến cụ: Thùy vân ư thế vô công liệt, Vạn cổ do năng cụ loạn thần. (Tần Cối tượng)
(Ai bảo nó không có công gì góp với đời, Nó làm gương cho bọn loạn thần phải sợ). (Tượng Tần Cối)
Sợ là một phản ứng tự vệ, một phản xạ sinh tồn. Hơn nữa, nếu nói về quan hệ giữa tâm và thể thì hầu như bất kỳ hiện tượng bệnh lý nào cũng mang hai mặt ấy ít hay nhiều; tuy nhiên có lắm trường hợp bệnh chứng biểu hiệu là thực thể nhưng về căn nguyên thì những yếu tố tâm lý – trong đó có sợ – đóng một vai trò quan trọng. Y khoa tâm-thể, theo quan điểm của tây y, nhấn mạnh một điều là cần lưu tâm đến yếu tố tâm lý, và hầu hết các bệnh chứng, kể cả những trường hợp đòi hỏi phẫu thuật, cũng đều có mặt tâm lý, không nhiều thì ít. Ngày nay đa số tác giả xếp chủ đề 14/150
vào loại tâm-thể những bệnh như loét dạ dày tá tràng, hen suyễn, một số bệnh dị ứng, một số chứng đau nhức xương khớp, đau đầu v.v… Sartre từng viết: “Tất cả mọi người đều sợ hãi, tất cả. Người không biết sợ vốn không bình thường. Điều đó chẳng ăn nhằm gì đến sự can đảm.” Nghiên cứu cơ chế bệnh nguyên học về phương diện tâm thần thấy rằng sợ có thể có nhiều hình thức, nhiều cường độ, nhiều lý do. Sợ có thể tồn tại như một tình huống kinh niên thường trực nhưng cũng có thể xẩy ra đột ngột ngắn ngủi. Như vậy, khi lập hồ sơ bệnh án cho Nguyễn Du, nếu chúng ta nêu ra nỗi sợ, thì đó là điều cần thiết bắt buộc. Nói chung, cảm xúc là những hình thức tri giác nguyên thủy tạo thành một hệ thống báo động có mục đích duy trì sự sống. Sợ đưa đến trốn chạy, con người tìm nơi an toàn. Giận giúp phân rõ ranh giới tồn tại và khi cần thì chiến đấu cho không gian sinh tồn. Lo là căn cơ của sự chăm nom săn sóc, tình cảm cơ bản xây dựng gia đình và cộng đồng. Buồn tạo khả năng chịu đựng những mất mát phân ly trong đời sống. Vui là đặc tình của tim, gắn bó với tình thương và lòng trắc ẩn. Động vật cũng có cảm xúc. Loài mèo lúc tự vệ thì cong gù lưng, lúc sợ hãi thì dựng thẳng lông. Nhưng khác với loài người, động vật không lưu giữ kỷ niệm cảm xúc. Khi tác nhân gây hấn qua đi thì cảm xúc loài mèo cũng biến mất. Trái lại, con người một khi đã sợ, một lần đã giận thì vẫn bảo trì tỳ vết các cảm xúc đó nơi chiều sâu tâm khảm. Trong những điều kiện sinh sống hàng ngày và ở cơ thể khỏe mạnh không bệnh, mỗi người trong chúng ta vẫn có những phản ứng thực vật đối trước một tình huống tâm lý nào đó; chẳng hạn ngày thi thí sinh vì lo lắng thường bị tiêu chảy hay co thắt dạ dày; khi nghe một tin tức vui mừng hay gặp một hoàn cảnh kinh hãi, nhịp tim tự động đập nhanh lên, căng thẳng thần kinh trong một chuyến du hành nhiều giờ có thể gây đầy hơi trướng bụng. Cuộc sống ở các quốc gia kỹ nghệ dễ gây stress với những biến động sinh học, sinh lý, biến dưỡng, tâm lý gắn bó cùng tình trạng sản xuất gia tăng corticoides và adrénaline. Hậu quả là cơ thể được tăng cường khả năng tự vệ vì hệ thần kinh-nội tiết khích động, trục thể chất-linh hồn hưng phấn. Nhưng stress mạnh mẽ hoặc kéo dài lại trở thành tác nhân gây rối loạn: lo âu, khắc khoải chủ đề 14/151
mệt nhọc, loét dạ dầy, đau thắt cơ tim, eczéma, v.v… Về căn bản sinh lý chính thường, hoạt động về tình chí chung qui chỉ là sự phúc đáp về tâm lý và vốn không gây rối loạn cơ thể; nhưng khi tình cảm biểu thị quá mức (quá lo, quá giận v.v…) thì có thể đưa đến mất mối quân bình âm dương, đổ vỡ điều hòa khí huyết, bế tắc lưu thông kinh lạc, từ đó bệnh tật phát sinh.
Đông y vốn rất minh bạch và cụ thể khi bàn về mối tương quan giữa tình chí và khí hóa. Khủng tắc khí hạ, nộ tắc khí thượng, hỷ tắc khí hoãn, tư tắc khí kết, bi tắc khí tiêu, ưu tắc khí háo, kinh tắc khí loạn; đấy là những nhận định mấu chốt kinh điển được trình bày trong Hoàng Đế Nội Kinh Tố Vấn, chương ba mươi chín, Cử thống luận thiên. Khí hóa hàm ý chỉ sự vận hành biến hóa của khí trong cơ thể, bao gồm chẳng hạn công năng và tác dụng của tạng phủ, lưu trú phân bố của khí huyết, thăng giáng mở đóng của cơ quan. Bách bệnh giai sinh vu khí, trăm bệnh đều bởi khí sinh ra: sợ thì khí giáng, giận thì khí bốc, mừng thì khí chùng, nghĩ thì khí kết, buồn thì khí tiêu, lo thì khí khô, kinh thì khí loạn. Như vậy, có rất nhiều nguyên nhân gây bệnh có thể ảnh hưởng tới hoạt động của khí, khiến cho cơ năng tạng phủ mất điều hòa mà đưa đến rối loạn. Khủng tắc khí hạ: sợ hãi quá mức háo thương thận khí, khiến tinh khí bị nén xuống không nâng lên được; chứng trạng xẩy ra có thể là đại tiểu tiện không tự chủ, di tinh, hoạt tiết… Cho nên trẻ em hoảng sợ có thể đái dầm, người lớn hoảng sợ có thể són tiểu; vả lại ngôn ngữ thông dụng vẫn bảo sợ đến són đái, sợ đến vãi đái. Kinh tắc khí loạn: kinh hãi quá thì khí cơ rối loạn, khí huyết mất điều hòa, xuất hiện chứng trạng tâm thần không yên, thậm chí tinh thần lẫn lộn. Bi tắc khí tiêu: buồn thương có thể làm cho thượng tiêu bị uất kết không thông, vinh vệ mất bố tán, nhiệt khí tích lũy bên trong mà làm tiêu hao khí. Tư tắc khí kết: suy nghĩ quá độ có thể khiến tỳ bị uất kết, công năng vận hóa thất thường; biểu hiện qua các chứng trạng hung quản đầy nghẽn, trướng bụng, kém ăn, đại tiện lỏng loãng. Ưu tắc khí háo: lo lắng (ưu hoạn), buồn bã (ưu sầu) khiến khô ráo (phế) khí, gây tình trạng mỏi mệt vô lực, ra nhiều mồi hôi, suyễn thở. Nộ tắc khí thượng: khi tức giận khí vận chuyển trái nghịch, thăng phát quá độ, dẫn lên phần trên cơ thể; chủ đề 14/152
cho nên có tình huống nộ phát xung quan, tức tối đến độ tóc dương dựng cả mũ; nộ khí xung thiên, khí giận bốc lên tận trời. Hỷ tắc khí hoãn: niềm vui mang đến tình trạng khí hòa, chí đạt, vinh vệ thông lợi, do đó khí hoãn đãi v.v… Tuy nhiên, nếu quá mừng thì lạI khiến tinh thần rờI rạc, chùng xuống, tâm khí trì trệ, xuất hiện những triệu chứng như hồi hộp, mất ngủ, thậm chí thần chí thất thường. Thận chủ khủng, chí của thận là khủng (Tố Vấn). Người xưa cho rằng tinh khí của năm tạng đều dồn về thận. Nếu kinh mạch của thận không thông, hoặc thận thủy bất túc, hoặc tâm can mắc một bệnh nào đó thì đều có khả năng xuất hiện triệu chứng khủng. Điều chủ yếu là nhân tố bản thân tạng thận, vì thận thủy đủ thì can huyết cũng vượng mà đởm cũng khỏe; thận thủy hư thì can huyết bất túc mà đởm yếu dễ sợ hãi. Đương nhiên ở đây còn phải xét đến nhiều yếu tố gây bệnh khác như ảnh hưởng di truyền, lục dâm dịch lệ, ngoại lực chấn thương, tác động xã hội, hoàn cảnh sinh hoạt v.v… Và cũng đương nhiên là không phải cứ hễ có sợ thì bắt buộc phải có những triệu chứng thuộc thận tượng hoặc ngược lại, tất cả những hội chứng thuộc thận tượng đều phải có yếu tố tâm lý sợ đứng đằng sau. Can khí bất túc hay đởm khí khiếp nhược chẳng hạn thì dễ xuất hiện chứng trạng sợ sệt. Trong thực tế bệnh lý học, chỉ có thể nói là thường có điểm tương liên nào đó giữa kinh, khủng với một số rối loạn thuộc thận cũng như thường có mối quan hệ nhất định giữa nộ với một số bất ổn thuộc can. Ví như ù tai, lãng tai thường có nền tâm thần là chứng sợ bởi thận khai khiếu ở tai; hoặc chứng đầu thống ở phụ nữ thường gắn bó với nhân tố nộ vì giận (nhất là giận chồng!) khiến can dương thượng nghịch hay can hỏa thượng viêm. Nhưng sợ không phải chỉ có ảnh hưởng tiêu cực. Trong mối liên quan ràng buộc với thận tượng, kinh hãi tạo khả năng mềm dẻo thích nghi, dẫu gặp khó khăn trở ngại vẫn có thể đạt thành công thành tích và khi lâm cảnh sống thiếu thốn ngặt nghèo vẫn có thể đương cự chống đỡ. Hội chứng adaptation syndrom của Tây y chủ yếu thử thách thận tượng. Quá trình thiết lập bệnh án Nguyễn Du căn cứ vào thơ chữ hán tất nhiên phải dành ưu tiên quyết định cho lâm sàng. Chúng chủ đề 14/153
ta thấy Nguyễn Du tự mô tả các triệu chứng bất bình thường sau đây:
- cơ thể suy nhược, sức vóc yếu ớt. Triệu chứng này thuộc thận tượng, vì thận chủ kỹ xảo, thận tác cường chi quan. Thận sở dĩ có những tác dụng đó là do sự gắn bó của thận với các chức năng tàng tinh sinh tủy không tách rời nhau. Thận khí đầy đủ thì tinh thần mạnh mẻ, kỹ xảo linh hoạt, gân xương cứng cáp, động tác có sức. Trái lại thận suy thì tinh hư tủy thiếu lưng mỏi xương yếu, tinh thần bạc nhược, chóng mặt, hay quên, cử động lười biếng chậm chạp. - đầu tóc lông mày sớm bạc. Triệu chứng này thuộc thận tượng, vì thận giả (…) hoa kỳ tại phát. Sức sống của tóc vốn có gốc nguồn từ thận khí. Người trẻ tuổi thận khí đầy đủ thì đầu tóc rậm rạp đen nhánh, người tuổi già sức yếu thì thận khí hư nhược nên tóc khô khan rụng nhiều, chải dễ gãy và mất hết màu xanh. - rất sợ lạnh. Triệu chứng này thuộc thận tượng, vì thận là thủy hỏa chi tạng. Thận thủy là chân âm, thận dương là chân dương, còn gọi là mệnh môn chi hỏa. Vì thận dương hư yếu nên hỏa bất sinh thổ, do đó khiến cơ thể rất mẫn cảm đối với khí lạnh. - mất ngủ, ngủ không ngon, không ngủ được. Triệu chứng này thuộc thận tượng, và do tâm thận bất giao. Thận thủy không đủ đến nỗi thủy không giúp hỏa khiến tâm hỏa thiên vượng, vượng một bên, gây bất quân bình âm dương thủy hỏa; từ đó xuất hiện chứng tâm phiền với hợp chứng tâm thần mất ngủ, ngủ không ngon, hay mê, hồi hộp, sợ sệt. Trung y gọi là tâm thận bất giao, thủy hỏa bất tế (thủy = thận, hỏa = tâm). Ngoài ra Nguyễn Du có hoạt động tình dục khá mạnh mẽ: vợ cả, vợ kế, vợ thiếp, cả ba bà sinh cho nhà thơ đến mười hai trai và sáu gái : Quyên ai mạc báo sinh hà bổ, Nhi nữ thành quần tử bất phương. (Giang đầu tản bộ) (Chưa báo đáp được mảy may sống chẳng ích gì, Trai gái hàng đàn, chết cũng chẳng ngại) (Dạo chơi đầu sông) chủ đề 14/154
Phòng sự quá độ thì thận khí suy vì thận chủ sinh thực: thận là tạng chứa tinh, có tác dụng trọng yếu đối với sự sinh trưởng phát dục và gây nòi giống cho đời sau; cơ quan và cơ năng sinh dục của nam nữ thành thục và hữu hiệu phải nhờ vào tình trạng đầy đủ của thận khí, cụ thể là tinh khí của bản thân tạng tượng. Ít nhất các triệu chứng bệnh lý lâm sàng vừa kể là những thông tin văn học do thơ chữ hán Nguyễn Du cung cấp. Cho dầu rời rạc ít ỏi nhưng cũng tạm đủ để qui chúng vào hợp chứng rối loạn chức năng thận tượng. Bước thứ hai mới chuyển sang biện luận về yếu tố tâm tư tình cảm tương ứng, và trong trường hợp này, là kinh, là khủng bởi lẽ kinh, khủng là tình chí của thận tượng. Nếu muốn nghiên cứu về mối liên hệ giữa một bên là thi ca văn phẩm của tiền nhân và một bên là chẩn đoán thể chất tâm thần ở quí vị thì đương nhiên phải có hai điều kiện cần và đủ: thơ văn phải nói đến bệnh tật và tiểu sử phải cung cấp bệnh án. Tiếc thay trong hầu hết – nếu không phải là tất cả – các trường hợp, không có hai điều kiện này. Trường hợp Nguyễn Thông có lẽ là một ngoại lệ: chính Nguyễn Thông tự kể bệnh mình và cũng chính Nguyễn Thông ký thác tâm tư trong thơ văn. Nơi vị tiền bối này, dường như có sự tao ngộ kỳ thú giữa một bên là y khoa tâm-thể của tây y và một bên là học thuyết tình chí của đông y. Nguyễn Thông là người nhiệt tình, sẵn sàng nhận trách nhiệm; nhưng hoạn lộ nhiều khi đứt đoạn vì một chứng bệnh kinh niên từng hồi: Đỗ Phủ vô gia biệt, Tương Như trường niên bệnh. (Ngọa bệnh thư hoài)
(Không nhà ly biệt như Đỗ Phủ, Bệnh hoạn liền năm giống Tương Như 1) (Nằm bệnh viết tả nỗi lòng) Năm 1867, lúc 40 tuổi, đang làm Án sát tỉnh Khánh Hòa thì Nguyễn Thông bị ốm, phải xin nghỉ về quê nhà; gần hai năm sau mới trở lại nhậm chức Bố chánh Quảng Ngãi. Năm 1873, lại cáo bệnh về nghỉ dưỡng ở Bình Thuận. Năm 1874, triều đình điều về kinh phục vụ ở bộ Lễ, vừa đến Huế thì lại xin cáo quan vì bệnh tật. Năm 1877, lãnh chức Doanh điền sứ Bình Thuận, vừa đáo chủ đề 14/155
nhiệm thì lại lâm bệnh nặng, chết đi sống lại nhiều lần: Lịch tận nguy cơ toái phách tô, Hải thiên hà xứ nhận quy đồ. (Giang đình đề bích)
(Trải hết nguy nan, thể phách tan nát rồi sống lại, Góc bể chân trời biết đường về nơi đâu) (Đề vách đình bên sông) nhưng vẫn gắng sức tiếp tục ở lại nhiệm sở cho đến năm sau 1878 thì bệnh cũ tái phát trầm trọng và Nguyễn Thông đành xin nghỉ dài hạn về ở trại núi thôn Vĩnh Hòa, Phan Thiết. Trong Ngọc Sơn thọ doanh chí (Bài mộ chí ở Ngọc sơn), Nguyễn Thông tự soạn bia mộ cho mình và chú dẫn là: “Tháng ba năm Đinh sửu (1877), tôi mắc bệnh thổ huyết, bệnh kỳ quái trải bảy, tám năm, thuốc men đủ thứ vẫn không khỏi, đến mùa đông nhiễm lạnh lại thành nặng.” Đông y phân biệt nhiều hình thức xuất huyết. Thổ huyết là nôn ra máu, nục huyết là chảy máu mũi, khái huyết là ho ra máu, tiện huyết là đi tiêu ra máu, niệu huyết là đi tiểu ra máu, băng lậu, nguyệt kinh quá đa là kinh nguyệt ra quá nhiều. Trong chứng thổ huyết, huyết dịch ra từ đằng miệng, bao gồm nôn ra máu, khạc ra máu lượng nhiều, cũng có khi gọi là ẩu huyết. Luận điểm y học cổ truyền về công năng của can cho rằng can tàng huyết. Can vừa chứa giữ huyết dịch, vừa điều tiết huyết dịch. Khi con người đi ngủ bộ phận huyết dịch quay trở về nơi tàng trữ; khi con người thức dậy, hoạt động của can dẫn huyết đi toàn thân, cung cấp năng lượng cho mọi tổ chức. Nếu nộ thương can, có thể ảnh hưởng xấu tới công năng huyết dịch, thậm chí gây nên các chứng xuất huyết hoặc có tính chất xuất huyết. Theo học thuyết ngũ hành, can mộc khắc tỳ thổ, can có thể chế ức tỳ. Trong trường hợp can khí thiên cang, có khi còn gọi là can khí phạm tỳ, do sơ tiết quá mức, tỳ vị bị ảnh hưởng đến nỗi cơ năng tiêu hóa rối loạn. Nếu bệnh tình dằng dai – trường hợp y án Nguyễn Thông – thì tác dụng hiệp điều mất đi, chuyển sang tình huống can tỳ bất hòa, thường gặp ở các bệnh viêm dạ dày mạn tính, loét dạ dày tá tràng. Nguyên nhân có thể là do nhiệt nung nấu ở can kinh, cũng có khi do can dương hóa hỏa; trong cả hai trường hợp, thường có quan hệ nhất định với tình chí bị kích thích quá độ; cụ thể là nộ (thương can) và ưu chủ đề 14/156
(thương tỳ). Can chủ mưu lự, công năng của can là lo toan. Nguyễn Thông làm quan khác với Nguyễn Du; Nguyễn Thông chủ động, hăng hái; Nguyễn Du trầm mặc, điềm đạm. Nguyễn Thông chủ xướng dời mộ Võ Trường Toản, đứng ra trùng tu Văn miếu Vĩnh long, dũng cảm “tỵ địa” ở Bình Thuận, nhiều lần gửi sớ lên nhà vua đề bạt những ý kiến thuộc các lĩnh vực khác nhau, xông xáo đảm trách công việc thủy lợi v.v… Với Nguyễn Thông, được một vài phút giây thư giãn, thanh thản trong công vụ là niềm hoan lạc: Lại hữu lâm thê bạn, Tương qua phú Khảo bàn. (Thôn cư)
(May nhờ có bạn ở chốn rừng trúc, Thường qua lại đọc bài thơ Khảo bàn [cũng vui]) (Ở nơi thôn xóm) Thơ Khảo bàn là thơ Kinh Thi, thiên Vệ Phong, ca ngợi cảnh hang núi khe suối chỗ bậc hiền giả ở ẩn, không lo nghĩ việc đời. Tuy nhiên Nguyễn Thông từng nhiều lần bị đàn hặc, khiển trách, giáng chức, nên còn mang tâm sự u uất, giận dữ: Cao ngọa tiệm thành Kê Thúc lãn, Phóng ca thùy tín Liễu Châu ngu. (Giang đình đề bích) (Nằm khểnh dần trở nên lười như Kê Thúc, Ca tràn ai tin được cái ngu của Liễu Châu) (Đề vách đình bên sông) Liễu Châu là Liễu Tông Nguyên đời Đường, có thời kỳ bị biếm làm Tư Mã Vĩnh Châu, ở nơi rừng núi xa xôi hoang vắng nên phẫn hận làm mấy chục bài thơ Ly Tao, tự cho mình là ngu. Trong bài “Phụng họa Vân Lộc Lại bộ Thượng thư tống hành nguyên vận” (Kính họa nguyên vần bài thơ tiễn của ông Vân Lộc Thượng thư bộ Lại) sáng tác năm Ất hợi 1875, Nguyễn Thông tự mô tả thân thế mình, buổi đầu muốn bay cao song gặp quá nhiều trở lực nên trở thành giống con diều không cất cánh được nữa đến nỗi sa xuống nước mang cái thân tàn trở về miền Nam:
Tần niên thoái phi diên thiếp thủy, Mao tồi vũ sát hạ Nam kỷ! (Liền năm như diều bay lui rồi sa xuống nước, chủ đề 14/157
Xác xơ lông cánh đáp xuống phương Nam!)
Năm Ất Hợi này là năm Nguyễn Thông cáo bệnh, không nhận chức ở bộ Lễ. Nhà nho tội nghiệp xướng họa cùng người bạn rất thân Nguyễn Tư Giản mà có vẻ như đang mang chứng burn out syndrom 2: sức tàn lực kiệt, chán nản thất vọng, thiên hướng trầm cảm. Như vậy, ở Nguyễn Thông, có tình trạng can khí uất kết, can khí hoành nghịch xâm phạm tỳ vị, vị mất chức năng hòa giáng, tỳ mất chức năng vận hóa; đưa đến viêm dạ dày, loét dạ dày khiến thổ huyết. Theo quan điểm y khoa tâm-thể của tây y, nuốt giận (nộ của đông y!) từng được xem như một trong những nhân tố có thể gây đau bao tử. Cao Bá Quát cũng bị chứng xuất huyết như Nguyễn Thông. Viết lời nguyên chú cho bài thơ “Tặng Thổ Khối Đỗ Vệ Úy xuất Thanh Hóa” (Tặng ông Vệ Úy họ Đỗ người Thổ Khối ra Thanh Hóa), nhà nho làng Phú Thị tự khai bệnh: “Dư bệnh niệu huyết cơ khốn giả du niên, thư cái đạo kỳ thực dã.” (Ta mắc bệnh tiểu ra máu, suýt nguy, hơn một năm mới khỏi, đây là nói thực); còn trong chính văn thi phẩm thì nhà thơ nhắc đến huyết: Xa trần mã túc lão tiêu ma, Trừu đáo can trường không thị huyết. (Bụi xe vó ngựa đã mòn mỏi, Rút hết ruột gan cuối cùng chỉ còn lại máu) Kiếm tìm nguyên nhân chứng đi tiểu ra máu đương nhiên phải nghĩ đến thận. Nhưng hành trạng, thể chất, sinh hoạt, tâm tư Cao Bá Quát không có những điểm giống với Nguyễn Du. Và đời sống tình dục của ông cũng khiêm tốn hơn nhiều. Có lẽ chỉ có vóc dáng ngoại hình là tương tự tác giả Truyện Kiều. Cao Bá Quát ưa dùng chữ sấu (gầy) để tự phác họa chân dung: Vạn lý ức qui sầu Tử Mỹ, Nhất quan đa bệnh sấu Hưu Văn. (Biệt Phạm Lang trung)
(Muôn dặm mong về Tử Mỹ buồn, Một quan nhiều bệnh Hưu Văn gầy) (Từ biệt Lang trung họ Phạm) Át đồng bất thức Duy Ma bệnh, chủ đề 14/158
Sát vấn yêu vi sấu tổn vô. (Bệnh trung)
(Chú bé không hiểu bệnh Duy Ma của ta, Cứ hỏi đai lưng có gầy đi phần nào) (Trong lúc ốm) Cứ ngô tiêu tán tự trường ca, Sấu cốt chi ly ủng mấn hoa. (Thương Sơn công hữu sở quỹ vật…) (Phờ phạc ngồi tựa ghế những nghêu ngao hát, Nắm xương gầy rời rạc mang mái đầu hoa râm) (Ông Thương sơn tặng quà…) Khách trung đối kính tam phần sấu, Bệnh lý khán hoa nhất dạng dung. (Bệnh trung hữu hữu nhân chiêu ẩm tịch thượng tác)
(Ở đất khách soi gương thấy mình gầy ba phần, Trong lúc ốm xem hoa cùng một vẻ biếng nhác) (Đang ốm có bạn mời uống rượu làm ngay trên tiệc) Cao lang chi tự mai hoa sấu, Xuân tứ hồn như bệnh hạc nhàn. (Du Tây hồ bát tuyệt)
(Chàng Cao khác nào cây hoa mai gầy, Tứ xuân lặng lẽ như con hạc ốm) (Tám bài tứ tuyệt Chơi Hồ tây) Xuân lai tâm lực lưỡng kham tăng, Tổn tận yên vi sấu bất thăng. (Bệnh trung)
(Xuân sang tâm lực đáng phàn nàn, Vòng lưng sút đi gầy không xiết kể). (Trong lúc ốm) Nhưng tính khí Cao Bá Quát mới thực hoàn toàn đối lập với Nguyễn Du. Từ lĩnh vực “di truyền“, đã có những nhân tố khác thường. Sự kiện hai anh em sinh đôi được thân phụ đặt tên theo danh tính tám kẻ sĩ đời Chu, chuyện ông tự đặt hiệu cho mình là bầy tôi nhà Chu; hai điều đó nói lên tấc lòng muốn dấn thân phục vụ. Rồi bao nhiêu lời thơ ký thác hùng khí hào hán, chẳng hạn: chủ đề 14/159
Thủy vi bách luyện cương, Khảng tảng nhất sĩ hùng. (Chính nguyệt nhị thập nhất nhật…)
(Trước kia cứng rắn như sắt trăm lần luyện, Ngang tàng làm một kẻ sĩ đầy hùng khí) (Ngày hai mươi mốt tháng giêng…) Ngô khế tại huyền hư, Tự bão khuê tổ thượng. (Tương đáo cố hương)
(Chí hướng của ta ở nơi hư không xa tắp, Từ lúc nuôi chí cầm ngọc khuê đeo dây ấn) (Sắp đến quê nhà) Cử thụ thị thiên biểu, Nguyện ngôn túng cao phan. (Du vân)
(Ngẩng đầu nhìn tận ngoài trời, Muốn vin mây mà leo lên mãi)
(Đám mây trôi) Khổ nỗi bao nhiêu lần đi thi, đầu đề nào cũng thấy dễ, bài làm nào cũng thấy hay, mà vẫn cứ hỏng đi hỏng lại. Lều chõng tuy nhiều, mà cân đai thì không. Rốt cuộc mộng khoa cử tan tành và suốt đời ông chỉ có cử nhân. Chí khí ngang dọc khi mới vào đời rút lại chỉ thu vào công việc một chân thư lại, một viên giáo thụ! Kết quả, về phương diện tình cảm xúc động tình chí biến động, tâm tạng bị ảnh hưởng trực tiếp; mà tâm tàng thần, tâm là đại chủ của năm tạng, là nơi ở (xá) của tinh thần. Ít thấy nhà nho nào tự nhận là tâm trí tâm thần mình không bình thường như Cao Bá Quát. Nếu ngày thường tính nết ông ngông nghênh qua truyền thuyết (ví dụ qua dật sự mấy bồ chữ, qua câu đối dán nơi dạy học) thì khi lâm bệnh thi ca tự vạch rõ là Cao Bá Quát đứng ngấp nghé bên bờ rối loạn tâm thần: Hảo bằng báo thân thức, Bạch dã chính dương cuồng. (Vãn Lưu Nguyệt Trì bắc hành…)
(Nhờ báo cho các bạn thân biết, Rằng Lý Bạch lúc này đang giả điên) chủ đề 14/160
(Nghe tin Lưu Nguyệt Trì ra bắc…) Thả báo cố nhân Lê Hy Vĩnh, Đạo ngã hảo tại, bất tử duy mệnh cuồng. (Tống Nguyễn Trúc Khê xuất lỵ…) (Và cũng báo cho bạn cũ Lê Hy Vĩnh, Tôi còn khỏe không chết chỉ mắc chứng điên) (Tiễn Nguyễn Trúc Khê…) Đương nhiên Cao Bá Quát không mất trí, trái lại ông điên cái điên sáng suốt của những Khuất Nguyên, Tôn Tẫn. Nhưng có thể nỗi uất hận to lớn và lâu ngày khiến tâm tạng bị thương tổn lây lan sang tiểu trường, từ đó gây chứng niệu huyết. Tâm ở vị trí cao nhất trong tạng phủ, và chi phối hoạt động các trung khu thần kinh. Công năng đó do tâm chủ trì và thực hiện, nên đông y bảo là tâm chủ thần minh. Tạng phủ, khí huyết trong cơ thể, dưới ảnh hưởng chi phối của tâm và hệ thống trung khu thần kinh, tiến tới sự hoạt động hiệp điều về sinh lý. Nếu tâm có bệnh biến, đánh mất tác dụng chỉ đạo, sẽ tương tác lên chức năng sinh lý của các tạng phủ khác. Ngoài ra, tâm hợp tiểu trường. Giữa tâm và tiểu trường có quan hệ biểu lý tạng phủ (tạng là âm thuộc lý, phủ là dương thuộc biểu). Mối quan hệ biểu lý giữa tâm và tiểu trường chủ yếu thông qua đường kinh lạc của tâm và tiểu trường cùng một số thể hiện về công năng sinh lý. Chữa bệnh chứng tâm và tiểu trường có khi thông qua ảnh hưởng của các quan hệ tương hợp và tương tác biểu lý. Tâm hỏa vượng thịnh sẽ xuất hiện chứng trạng tâm phiền, gây hợp chứng cơ năng với miệng lở loét, nặng hơn, sẽ ảnh hưởng tới chức năng phân biệt trong đục của tiểu trường; từ đó xuất hiện chứng trạng tiểu tiện sẻn đỏ và đau buốt hoặc tiểu tiện ra máu; bệnh chứng này đông y mệnh danh là tâm di nhiệt vu tiểu trường. Như thế, đối với Cao Bá Quát, một phức thể tình chí bất thường đã là nhân tố gây bệnh: uất hận giận dữ (vì thất bại), sợ hãi kinh hoàng (vì tù đày), bi lụy buồn thương (vì vợ con). Nhà nho này sống cuộc sống nội tâm rắc rối nên bệnh nguyên cũng trở thành đa dạng, mặc dầu chủ chứng chỉ là đi tiểu ra máu cả năm ròng. Bây giờ xin chuyển qua Nguyễn Đình Chiểu. Trường hợp mù mắt đột ngột do khóc mẹ của cụ Đồ là một bệnh án minh bạch bởi chính lương y-bệnh nhân Đồ Chiểu-Vân Tiên đã tự viết chủ đề 14/161
y án cho mình. Nhưng muốn truy tìm nguyên nhân tâm lý đưa đến khuyết tật nhãn khoa thì chúng ta thoạt nhìn dường như có điểm băn khoăn vì buồn chỉ tiêu hao phế khí chứ không trực tiếp ảnh hưởng đến can khí. Mà chứng bạo manh, chứng mù đột ngột có nguyên nhân là can khí thượng nghịch, khí huyết uất bế; với yếu tố tình cảm chủ yếu là nộ (giận) chứ không phải bi (buồn). Huống chi can khai khiếu vu mục, can khai khiếu ra mắt; do đó các bệnh chứng như phức thị (nhìn một vật thành hai), liệt cơ mắt thường là do can phong nội động; mắt mờ, mouches volantes 3 thường là do can huyết hư tổn. Tuy nhiên mạch tượng cung cấp thông tin quyết định về bệnh nguyên học, khi Thầy Ngang chẩn trị cho Lục Vân Tiên:
Ngang rằng: Lục bộ đều suy, Bộ quan bên tả mạch đi phù hồng. Tại mỗi rãnh mạch, đông y phân biệt ba bộ vị là thốn, quan, xích nên ở cả hai cổ tay, có sáu bộ vị (lục bộ). Ở bên trái, bộ quan tương ứng với mạch của can. Lúc bấy giờ, Thầy Ngang thấy rằng mạch can của bệnh nhân đi phù hồng. Phù mạch là thể loại mạch tượng nổi căng, sờ thấy ngay, ấn nặng tay lại thấy yếu đi; chủ bệnh ở biểu, thường gặp ở một số bệnh cấp tính thời kỳ sơ khởi. Hồng mạch là thể loại mạch tượng cuồn cuộn như làn sóng, đến mạnh, đi yếu, đa số thuộc nhiệt tà cang thịnh. Như vậy, có hiện tượng can hỏa vượng ở người bệnh đang đau mắt nặng nếu căn cứ vào vị trí mạch tượng (tả quan) và tính chất mạch tượng (phù hồng). Tóm lại người y sĩ-bệnh nhân tác gia-tự chẩn Nguyễn Đình Chiểu-Lục Vân Tiên đã minh chứng hùng hồn rằng tổn thương cấp tính của tạng can gây nên khuyết tật thị giác, dẫu rằng nguyên ủy tâm lý của chứng can hỏa vượng không bắt buộc phải là nộ. Vả lại rồi ra người thanh niên gặp trắc trở trên hoạn đồ sẽ tự chẩn đoán bổ túc là mình bị hợp chứng can thận âm hư khi người y sĩ mắc tai nạn khiến khiếm thị, ở tuổi đời cao hơn, ghi nhận rằng tai mình ù điếc. Can khai khiếu ở mắt: thương tổn can khiến mắt mất ánh sáng, thận khai khiếu ở tai: rối loạn thận làm tai thiếu âm thanh. Tai Nguyễn Đình Chiểu phát bệnh từ từ trái với bệnh mắt – thoạt tiên sức nghe suy kém, tức là nặng tai, thuật ngữ chuyên môn gọi là trọng thính. Nguyên nhân do hạ nguyên khuy tổn, thận tinh bất túc. chủ đề 14/162
Nguyễn Khuyến tại thế được bảy mươi bốn năm thiếu mười ngày. Thời kỳ trai trẻ yêu đời và giai đoạn hoạn lộ hanh thông, không tìm thấy men rượu trong thơ, ngoại trừ đôi ba lần nhàn tản thù tạc, nhấm nháp đưa cay: Công dư đối khách hà bôi túy, Triều hậu luân văn thảo mộng viên. (Nhàn vịnh)
(Rỗi việc công cùng khách say men chuốc chén, Sau buổi chầu bàn văn chương mơ cỏ cây) (Vịnh nhàn)
Nhưng từ khi từ quan trở về Yên đổ, độ nồng của rượu thấm đẫm từng câu từng chữ trong cả trăm bài thơ, điển hình như Tửu, Túy ngâm, Túy hậu v.v… Có khi ngồi một mình, nhà nho rầu rỉ nâng ly uống tràn [Kỷ sửu cửu nguyệt liên dạ phong vũ, độc tọa vô liêu, dẫn mãn bất chỉ (…) (Tháng chín năm Kỷ sửu mưa gió mấy đêm liền, một mình ngồi buồn, dốc chén uống mãi (…)]. Đó là năm 1889, Nguyễn Khuyến mới năm mươi bốn tuổi: Cận lai bất tác đăng cao hứng, Túy ngọa hàn song bão úng miên. (Kỷ Sửu trùng dương)
(Gần đây không còn hứng lên chơi núi, Say nằm dưới cửa sổ vắng ôm vò rượu ngủ) (Tiết trùng dương năm Kỷ Sửu) Tâm trạng cô đơn buồn khổ đó bàng bạc khắp thi ca, chẳng những trong các bài tự thuật, cảm hoài, mà còn nơi những bài thù tạc tặng hữu và/hoặc tả cảnh, vịnh vật. Có người uống rượu với tâm trạng sảng khoái phấn khởi, trong tinh thần tỉnh táo vui vẻ. Nguyễn Khuyến uống rượu vịnh rượu chỉ biểu lộ một nỗi buồn bực phiền muộn não ruột nẫu lòng. Rượu trở thành nơi trú ẩn của vị Tam nguyên. Không nhiều thì ít, trường hợp Nguyễn Khuyến là một cas lạm dụng rượu, dẫu chưa phải là nghiện ngập: Nhân hứng cũng vừa toan cất chén, Sấm đông rầm rập gió nồm đưa. (Vịnh mùa hè)
Thừa hứng triếp túng ẩm, Nhất ẩm lũy thập trường. chủ đề 14/163
(Hạ nhật ngẫu thành)
(Hứng lên rót rượu uống tràn, Mỗi lần uống hàng mấy chục chén) (Ngày hè, ngẫu nhiên viết) Dùng tửu kế đo nồng độ cồn êthylic trong máu vị tam nguyên, chắc thường gặp lượng rượu tương đối cao. Tác dụng trực tiếp của độc tố ngoại nhân này là gây nên chứng trạng can âm hư, can âm bất túc, phần nhiều khiến huyết không nuôi dưỡng được can tạo thành. Can âm hư thường dẫn đến can dương thượng cang (vì quân bình âm dương đổ vỡ nên âm khuy tổn thì dương thiên thắng). Chứng trạng chủ yếu có chóng mặt, đau đầu, mắt mờ, mắt khô, quáng gà; ở phụ nữ thì kinh bế, kinh ít…nói tóm lại, thường gặp ở các bệnh thần kinh cơ năng, cao huyết áp, các bệnh thuộc nhãn khoa, bệnh về kinh nguyệt… Chứng mắt lòa của Nguyễn Khuyến được nhà nho mô tả trong nhiều bài thơ chữ hán, chữ nôm: Thụy khởi giang sơn vọng vị chân, Mông lung bệnh nhãn lệ triêm cân. (Ngẫu thành)
(Ngủ dậy nhìn non sông chưa thật rõ, Mắt đau lờ mờ, lệ ứa thấm khăn)
(Ngẫu thành) Quốc ân vị báo đầu tiên bạch, Thế sự vô cùng nhãn hựu hoa. (Thượng kinh hậu chỉ qui tác)
(Ơn nước chưa đền đầu đã bạc, Việc đời không cùng mắt đã mờ) (Vào kinh đợi chỉ, trở về) Khả liên ngũ thập tứ niên ông, Diện cấu tu ban nhãn hựu hồng. (Tự thán)
(Đáng thương ông già năm mươi tư tuổi, Mặt sạm, râu đốm bạc, mắt lại đỏ hoe) (Tự than) Nhập nhèm bốn mắt tranh mờ tỏ, Khấp khểnh ba chân dở tỉnh say. (Than già)
chủ đề 14/164
Năm mươi mốt tuổi tôi hay, Xem chừng tóc bạc, răng lay, mắt lòa. (Mừng cụ Đặng Tự Ý bảy mươi tuổi)
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt, Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe. (Thu ẩm)
Mắt không dụi, xát, sờ, mó mà vẫn cứ tự dưng đỏ: rõ ràng là triệu chứng y khoa tâm-thể vì cơ quan (mắt) phản ứng thuần do tác nhân tâm lý chứ không phải do tác nhân vật lý (cọ xát). Mà mắt đỏ như vậy thường xuyên: nhãn hựu hồng. Chính bản thân Nguyễn Khuyến ký thác tình cảm tình chí của mình vào thi ca. Đó là sự tức giận trước tình thế, sự phẫn nộ vì thời cuộc. Đương nhiên đây không phải là những trận nổi giận đùng đùng, những cơn bừng bừng thịnh nộ; mà là một tình trạng uất ức kéo dài kiêm thất vọng chán nản: Khổ hận sở cầu thiên nhật túy, Phóng ngâm hà tất vạn nhân truyền. (Ký Khắc Niệm Dương niên ông)
(Tức giận muốn say hàng nghìn ngày, Ngâm tràn đâu cần vạn người truyền) (Gửi bạn đồng khoa họ Dương ở Khắc Niệm) Nhiều lần chữ hận trở về trong thi ca vị tam nguyên: Không lưu nhân thế vô cùng hận, Uổng phí sa trường kỷ độ công. (Vịnh Nhạc Vũ Mục)
(Luống để lại mối hận vô cùng cho nhân thế, Mất không công lao bấy lâu nơi chốn sa trường) (Vịnh Nhạc Vũ Mục) Khả hận nhất thân táng tỉnh khứ, Từ chương hiệp khách khẳng tòng vô. (Vịnh Trần Hậu Chủ)
(Đáng giận một thân bị vùi dưới giếng, Nào hiệp khách, nào bạn văn, có ai chịu theo) (Vịnh Trần Hậu Chủ) Gặp quốc nạn, sống đời loạn mà không phương cứu chữa, nhà nho ta thán vì thực tại đen tối và uất ức vì sinh chẳng phùng thời chủ đề 14/165
Nghiêu Thuấn: An tri bất ngộ Đường Ngu thánh Tiếu sái hà nhân Thạch lạn ca. (Nhàn vịnh) (Biết đâu không gặp vua thánh Đường Ngu, Nực cười cho ai hát bài “Đá trắng”) (Thơ nhàn) Tuy cáo quan về làng nhưng lòng vẫn chẳng yên, chí vẫn không thoả; trái lại thi nhân hằng mong mỏi gặp được vua hiền thời thịnh.
Do tình chí tức tối phẫn nộ, mang tâm hồn vơ vất buồn thương vì đỗ giải nguyên, hội nguyên rồi đình nguyên mà vận nước ơn vua chỉ cho làm quan được có mười hai năm nên tinh thần không thoải mái, luôn ấm ức; từ đó can khí uất kết, khí uất hóa nhiệt mà triệu chứng đặc thù, signe pathognomonique là đôi mắt không dụi vẫn đỏ: nộ thương can. Bệnh án tâm-thể Nguyễn Khuyến, nói chung, có tính cách thuyết phục hơn bệnh án tâmthể Nguyễn Đình Chiểu, mặc dầu cả hai đều mang khuyết tật nhãn lực suy đồi hoặc tiêu vong. Giờ thử bàn đến trường hợp Nguyễn Trãi. Đọc thơ văn Ức Trai, thấy có kinh, phạ, khiếp: - kinh: Mãn giang hà xứ hưởng đông đinh, Dạ nguyệt thiên kinh cửu khách tình. (Cả sông nơi nào cũng nghe tiếng thình thình, Trăng đêm riêng kinh động lòng người làm khách lâu ngày) (“Thôn xá thu châm” - Tiếng châm mùa thu ở thôn xóm); - phạ: Khứ phạ phiền hoa đạp nhuyến trần, Nhất lê nham bạn khả tàng thân. (Sợ chốn phồn hoa đạp bụi bặm mềm dịu mà phải bỏ, Với một cây cày vỡ ruộng nơi bờ đá có thể ẩn thân được) (“Đề Từ Trọng Phủ Canh Ẩn đường”- Đề Canh Ẩn đường của Từ Trọng Phủ). - khiếp: Hoạn tình dị khiếp thương cung điểu, Mộ ảnh nan lưu phó hác xà. (Tình hình làm quan dễ khiếp con chim đã bị cung bắn, Bóng xế buổi chiều khó giữ được con rắn đương vào hang) (“Mạn hứng” - Hứng chơi). nhưng chủ yếu là ưu, tư, lự: - ưu: Bình sinh độc bão tiên ưu chí, Tọa ủng hàn khâm dạ chủ đề 14/166
bất miên. (Bình sinh một mình ôm cái chí lo trước, Ngồi cuốn chăn lạnh không ngủ suốt đêm) (“Hải khẩu dạ bạc hữu cảm” Đêm đậu thuyền ở cửa biển); Nhân sinh thức tự đa ưu hoạn, Pha lão tằng vân ngã diệc vân. (Ở đời kẻ biết chữ lại nhiều lo lắng hoạn nạn, Ông già Tô Đông Pha nói thế, ta cũng nói thế) (“Mạn hứng” - Hứng chơi). - tư: Dục vấn tương tư sầu biệt xứ, Cô trai phong vũ dạ tam canh. (Muốn hỏi chỗ nhớ nhung sầu biệt, Ấy là một phòng vắng gió mưa suốt ba canh) (“Ký cữu Dịch Trai Trần công” Gởi cậu Dịch Trai Trần công); Liêu bả nhất bôi hoàn tự cưỡng, Mạc giao nhật nhật khổ tư gia. (Khuây nâng một chén phải cố gượng uống, Để đừng có ngày ngày khổ vì nhớ nhà) (“Thanh minh” - Thanh minh); Thập niên phiêu chuyển thán bồng binh, Qui tứ 4 dao dao nhật tự tinh. (Mười năm phiêu giạt như cỏ bồng cánh bèo, Lòng muốn về nhà ngày nào cũng như cờ rung động luôn) (“Qui Côn Sơn chu trung tác” - Về Côn Sơn làm trong thuyền). - lự: Nhất hồ bạch tửu tiêu trần lự, Bán tháp thanh phong túc ngọ miên. (Một hồ rượu trắng tiêu niềm lo trần tục, Nửa giường gió mát đủ để ngủ trưa) (“Hạ nhật mạn thành” - Ngày hạ làm chơi); Bắc hải đương niên dĩ lục kình, Yến an do lự cật nhung binh. (Biển Bắc năm ấy từng giết cá kình, Yên ổn mà còn phải lo luyện quân sự) (“Quan duyệt thủy trận” - Xem duyệt thủy trận). Như vậy qua thi ca Nguyễn Trãi, chúng ta có thể thu góp được những vần thơ ký thác tình chí, nhưng lại không biết gì về hồ sơ bệnh lý! Cái chết đột ngột vì bị bức tử của vị thạc nho khiến chuyện tìm hiểu văn khoa tâm-thể trở thành mission impossible. Dầu sao đi nữa thì Nguyễn Trãi địa vị cao hơn, trách nhiệm nặng hơn Nguyễn Du, tráng chí cũng dồi dào hơn, phục vụ đúng lý tưởng hơn Nguyễn Du nên từ đáy sâu tiềm thức, đã sống cùng ưu còn Nguyễn Du thì mang nỗi khủng. Bà vợ Phan Huy Ích chung sống với tác giả Dụ Am Ngâm Lục hai mươi tám năm: Ta tai kết phát trấp bát niên, Trường khế khoát, Tương Tần Việt. chủ đề 14/167
(Hạ trung tiếp đáo khuê vi hung tấn ai cảm kỷ thực) (Than ôi, kết tóc hai mươi tám năm, Mà nay phải mãi mãi xa nhau, Kẻ Tần người Việt) (Giữa mùa hạ được tin vợ mất ghi nỗi đau buồn) Trong phần nguyên dẫn bài thơ “Xuân trung khuê dạng quải hoài ngẫu thuật” (Mùa xuân vợ ốm làm thơ nói nỗi lòng lo lắng), tác giả kể rằng bà vợ sinh đẻ nhiều, khí huyết dần dần hao tổn; lại do chăm chỉ tận tụy việc nhà nên cơ thể càng hư nhược: Khổn chính gian lao lộc dưỡng khuy, Na kham vinh vệ xác cầu y. (Việc nội trợ đã vất vả, lộc nuôi thân lại thiếu thốn, Khí huyết nào mà kham nổI nên luôn phải thuốc thang) Bệnh phát từ mùa thu trước, ngày một nặng thêm. Sâm, quế, thuốc men nửa năm chưa đỡ. Năm Nhâm Tí 1792, tháng tư, bệnh chuyển sang nguy kịch và giữa mùa hạ thì bà mất: Tòng lang khứ hậu đới tiều dung, Thang thiện hy sơ quang thái yết. (Hạ trung tiếp đáo khuê vi hung tấn ai cảm kỷ thực) (Từ thuở chàng đi thiếp tiều tụy dung nhan, Biếng thuốc nhác ăn vẻ tươi vui đều hết) (Giữa mùa hạ được tin vợ mất ghi nỗi đau buồn) Người sản phụ sau khi sinh ít nhiều bị mất máu nên kinh mạch hư tổn, vinh vệ suy nhược. Đồng thời chức năng nội trợ tạo nên nhiều nỗi lo âu, đòi hỏi thường xuyên tính toán. Ưu, tư là tình chí cùa tỳ. Lo nghĩ quá độ khiến tỳ khí uất kết, vận hóa thất thường, xuất hiện triệu chứng bụng đầy, sôi ruột, kém ăn, ăn không tiêu, mệt nhọc ưa nằm, tay chân rời rã vô lực. Bệnh kéo dài đưa đến teo cơ, vàng mặt, dung nhan tiều tụy, như thi nhân mô tả. Thực ra đi tìm nguyên nhân tâm lý của những chứng bệnh tiền nhân là một việc làm lắm khi mạo hiểm. Trước hết, vì thi ca không phải là y án. Nhà thơ thường chỉ hé cho chúng ta thấy một chủ đề 14/168
chút phong thái suy tư về đau ốm. Lại nữa, thành quả trí tuệ của tổ tiên thường mất mát, lẫn lộn; những gì chúng ta thừa kế được chỉ là một phần nhiều khi rất khiêm tốn và không nguyên chất. Như vậy văn khoa tâm-thể thực chất chỉ là một tiến trình gian nan, căn cứ vào cách điệu tâm hồn thi nhân để thử xác lập mối tương quan thi ca-bệnh tật, trình bày từ góc nhìn tình chí. Tất nhiên đây là một cách nhìn lấy cái mới đánh giá cái cũ với tất cả những hạn chế, những dè dặt của lối nhìn liên hệ; nhưng dầu sao thì cũng có thể chọn nơi cái mới một điểm tựa, một chỗ bám để thử nhìn cung cách đáp ứng tâm thần bệnh học vào trường hợp những Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Thông, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Đình Chiểu, trong lĩnh vực tiềm thức, trong hố thẳm vô thức.
Nhưng làm công việc này dễ gặp ngộ nhận. Bài viết hôm nay đã mở đầu với sự kiện có người cho rằng bảo Nguyễn Du sợ đủ thứ là vô tình động chạm đến hình ảnh đáng kính của thi bá. Nhưng người đọc, nhất là giới theo tây y, lại còn có thể hiểu lệch cung cách nhìn bệnh vì vấn đề ngôn ngữ. Cho nên có lẽ cũng cần nhấn mạnh rằng thận của đông y không phải là kidney, càng không phải là kidneys, có thêm chữ “ét”! Ngôn ngữ vốn là công cụ để truyền bá tư tưởng của con người, nó có những tập quán, những thông lệ của nó. Khi người đông y sĩ nói đến thận là muốn nói đến thận tượng, tức là cả một lĩnh vực chức năng, chứ không hề muốn nói đến hai trái cật hay hai bồ dục, như là những cơ quan. Vả lại nhiều khi, nhiều chỗ đông y xem thận ở bộ vị bên trái mới là thận, còn thận ở bộ vị bên phải là mệnh môn. Bởi vậy nên thận trong hệ thống tiền đề y lý cổ truyền luôn luôn ở vào số ít và không nên có “ét” cuối chữ khi chuyển sang Anh, Pháp ngữ (nếu chuyển đúng tinh thần của khái niệm thận). Bởi vậy cho nên y học của Lãn Ông, Đồ Chiểu mới sẵn sàng chấp nhận những quan điểm kinh điển thận âm, thận thủy, chân âm, chân thủy, nguyên âm; thận dương, nguyên dương, chân hỏa, mệnh môn hỏa; thận tàng tinh; thận hợp bàng quang; thận thủy bất túc, chân âm bất túc, hạ nguyên hư tổn; thận chủ khai hạp; thận chủ khủng, thận chủ kỹ xảo, thận chủ nạp khí, thận vi thủy tạng, thận chủ tiên thiên; thận khai khiếu vu nhĩ; thận, kỳ hoa tại phát v.v… chủ đề 14/169
Thật ra tình cảm, xúc cảm vốn rất phức tạp. Tiền nhân chủ xướng tình chí họa hoằn lắm mới tác động đơn độc. Mừng, trên nguyên tắc và theo lý thuyết, vốn hại tâm. Nhưng tâm mừng thời khí tán, từ đó khiến phế phải thụ thương. Giận tuy hại can nhưng can giận quá thì hại đến chí mà thận phải suy tổn. Lại nữa uất giận còn hại đến tỳ; cho nên mừng giận thì ngũ tạng đều có thể cùng tổn thương. Mặt khác, làm người ai cũng có thất tình lục dục. Cao Bá Quát chẳng hạn, qua thơ chữ hán, chẳng những chỉ hận mà còn bi, sầu, phạ, kinh, úy, hãi, khủng, hỷ. Nguyễn Khuyến cũng mô tả những hoàn cảnh tâm lý với phạ, kinh, khủng, sầu. Hơn nữa mỗi tình chí lại có nhiều phẩm chất, cường độ khác nhau (ví dụ trường hợp nỗi sợ của Nguyễn Du). Tuy nhiên trong y khoa tâm-thể, khi một cảm xúc nào đó có vẻ nổi bật so với các cảm xúc khác thì đấy là một chỉ dẫn nhiều khi tương đối hữu giá. Ước mong lý giải mối tương quan giữa ngũ chí và bệnh lý ở người xưa chung qui cũng chỉ là làm công việc đãi cát tìm vàng, đãi văn tìm bệnh. Westpreussenstr., 22.06.2008 TRẦN VĂN TÍCH Chú thích: 1. Tư Mã Tương Như đời Hán bị bệnh tiêu khát (tức bệnh đái đường), là một bệnh kinh niên. 2. Burn out syndrom: người bệnh thường làm việc quá độ nên bị suy nhược cơ thể, mệt mỏi uể oải, trầm cảm, thất vọng; có khi bị ù tai, nhức đầu v.v… Thống kê ở Đức cho thấy thành phần bị bệnh thường là giới quản lý tài chánh, doanh nhân, giáo chức. Nguyễn Thông cũng từng là nhà giáo, tự chọn cho mình hiệu là Hy Phần, hàm ý mong đào tạo được nhiều đồ đệ giỏi. 3. Rối loạn thị giác khiến người bệnh thấy những điểm sáng hay điểm đen trong thị trường. 4. Chữ này là chữ tư (không dấu) nhưng do thanh điệu nên đọc thành tứ (dấu sắc).
chủ đề 14/170
P HAN X U Â N S I N H đêm
đêm của những ngụp lặng chìm sâu xác thịt những đôi mắt trũng sâu lềnh bềnh háo hức của bàn tay sục sạo mò mẫm tìm nhau những cặp môi quện lại của phi thuyền con thoi ráp nối đêm của tiếng rên vỡ òa va chạm nhau nổ tung như pháo bông ngày hội đêm của những tình nhân nuốt lấy nhau như nguyệt thực những cọng cỏ chết dí dưới lực đè nóng hổi xác thân giọt cường toan cháy rụi hầm hầm tiếng rên vỡ òa não tạng nguyên nhung thần linh trố mắt thất kinh để những hồn ma mở hội làm tình giữa thiên hà cuộn tròn nghiêng ngã đêm không còn thấy nhau ngại ngùng sau cuộc tình đẫm mùi phản phúc những cọ sát còn đọng rần rần da thịt như một vết cứa hành hình của người nghiện ngập đêm của những cuộc lữ hành miệt mài tìm kiếm dung nhan trần trụi đêm của anh và em vô tận
chủ đề 14/171
Đ Ặ N G M AI LAN lá chuyển mùa
Đó là một nhóm tám người phụ nữ. Bắc- Trung- Nam, đầy đủ ba miền. Tính thứ tự tuổi tác, năm sinh của từng người thì có hai người sinh vào khoảng giữa thập niên bốn mươi, số còn lại khoảng đầu và giữa thập niên năm mươi. Duy chỉ một người trẻ nhất ra đời vào thập niên bảy mươi. Bốn mươi - Bảy mươi. Ba mươi năm nối thành một vòng tròn. Không ở gần, nhưng thỉnh thoảng vẫn gặp nhau dù chẳng hò hẹn. Thường thì họ hay gặp ở những buổi sinh họat văn nghệ. Dĩ nhiên là chuyện trò, cười nói rôm rả… Câu chuyện sẽ kéo dài cho đến vài ngày sau bằng những e-mail gửi qua gửi lại, bay đi bay về như bươm bướm vì có những chuyện gì đó thú vị mà trong buổi văn nghệ họ không có thì giờ nói. Nhưng chỉ vài ngày thôi rồi im ắng. Mỗi người mỗi đời sống, bận rộn với công việc. Những dòng thư qua màn ảnh vi tính bây giờ chỉ dùng khi cần thiết và rất giới hạn, không còn là niềm vui như thuở xa xưa mới làm quen với chúng. Đó là những cuộc gặp vô tình, hữu duyên. Còn có những cuộc gặp có lý do hẳn hoi và đầy toan tính. Không hẳn là một ngày đặc biệt như mừng sinh nhật của một người nào đó, hay vào những dịp lễ lộc, tết nhất… Mà với một lý do gọi là tình cảm vì nó chỉ nằm trong một chữ « nhớ » ngắn gọn. Họ nhớ
chủ đề 14/172 cái không khí vui nhộn, đầy những tiếng cười. Một người lên tiếng trước : - Lâu quá không gặp, nhớ nhau ghê ! - Nhớ thiệt đó, chắc phải tổ chức một buổi gì cho vui. - Ừ, cũng lâu lắm rồi, nhớ chứ ! Thì gặp, vì lần này có nhiều chuyện để nói, nhiều tin vui. Phụ nữ trẻ nhất trong đám đang chờ cho ra đời một bé gái, và một phụ nữ khác lần đầu tiên vừa mới được lên chức Bà Ngoại. Trừ người phụ nữ trẻ tuổi út ít kia đang chờ sinh con im lặng không bàn ra tán vào, còn những người đồng trang lứa thì xoắn xuýt gọi nhau « bà goại, bà goại »… rất là hớn hở. Bươm bướm lại rộn rịp bay tới bay lui, thả những thông điệp bàn tính chọn ngày. Chọn ngày nào mà khi gặp nhau sẽ có mặt bé gái ấy. Rồi đến phần ẩm thực, chuyện này bao giờ cũng là một đề tài sôi động. Thực đơn bị thay đổi lia lịa. Còn có những món ăn được giấu kín để mọi người và cái bao tử hồi hộp. Lần nào cũng thế, chọn lựa suy tính cách mấy thì cuối cùng cũng có người vắng mặt. Paris, tháng Sáu trời hay mưa, mưa nhiều hơn nắng. Ngày nắng, ánh nắng chỉ đủ làm bốc hơi cái ẩm ướt ủ ê phố xá trong những ngày mưa. Người trẻ nhất đã sinh con, không thể mang cháu bé còn non tháng ra ngoài với một khí hậu không mấy ấm áp. Vậy là một người vắng mặt.
Bên ngoài bây giờ mưa phơ phất. Những người đàn bà đang ngồi với nhau. Khung cảnh cũ, lũ bàn ghế cũ. Có mới là ba bức tranh mà chủ nhân vừa vẽ xong, vừa được treo trên tường. Lâu lắm rồi họ mới gặp lại nhau nên có thể tính thêm vài cái mới nữa là thời gian và con người. Thời gian luôn luôn mới, chạy dài, bất tận. Bảy người phụ nữ ấy cũng đổi mới theo ngày tháng, thời gian. Một cái mới rất âm thầm khoác lên họ những chiếc áo màu không mấy gì tươi thắm. Ngôi nhà xinh, nằm khuất cuối một con đường nhỏ, cửa sổ nhìn ra những rặng cây rậm lá. Mùa thu lá đỏ lá vàng đã đành, mùa hạ vẫn có thể nhìn thấy những chiếc lá ánh đỏ. Nhưng lá chỉ đỏ vào buổi tối bằng cái nhìn ảo, lừa mị bởi bóng tối và ánh sáng tỏa xuống từ những ngọn đèn hai bên đường.
chủ đề 14/173 Không gần Paris, nhưng ngôi nhà này như một trung tâm gặp gỡ vì chủ nhân là người có cuộc sống tương đối rảnh rỗi, không bận rộn vì con cái như những người khác. Người phụ nữ này có gương mặt thanh tú, một nét Á Đông hài hòa giữa Việt Nam và Nhật Bản. Ở những xứ sở khác thì không nói làm gì, ngay khi ở Việt Nam, đi ra phố, vào các trung tâm thương mại người ta thường dùng Anh ngữ để mời mọc mua bán với chị. Họ tin chị là người Nhật. Nhưng trong nhóm khi đùa giỡn mọi người vẫn gọi chị bằng tên của một nữ minh tinh khả ái trong phim In The Mood For Love. Dường như lần nào cũng vậy, chị thường quàng một chiếc khăn trên cổ. Không phải để làm dáng mà vì chị hay đau. Khi thì đau cuống họng vì gió chướng, khi thì yếu trong người, đau bụng, ăn không tiêu… Lần này cũng khăn voan quàng cổ. Không nghe chị than thở. Chẳng hiểu chị có đang đau gì không hay chỉ mệt mỏi vì lo nấu nướng đãi khách? Họ đang nói về món ăn, món tôm ướp cốm xanh chiên phồng mà một người vừa học được ở Việt Nam trong chuyến về thăm nhà. Những con tôm bọc cốm, từng cánh cốm xanh, nhỏ li ti như những chiếc lá me được bày biện khéo léo trên đĩa, nhìn như những món đồ chơi làm bằng lá dừa thời thơ ấu của họ. Món bánh bột lọc cũng được gói bằng lá chuối, rồi bánh bèo tôm chấy, chè khoai môn… Người này ca tụng tài làm bếp của người kia. Thưởng thức những món ăn quê hương thì phải nhắc nhớ về nơi chốn ấy nên Việt Nam là một đề tài. Hai tháng nữa một người sẽ nghỉ hưu, sẽ về Việt Nam không biết lúc nào quay lại. Một người cũng đã mua một miếng đất ở vùng cao nguyên, dự định sẽ mở một quán cà phê văn nghệ, một thú an nhàn sau nhiều năm dài miệt mài trả nợ áo cơm. Người thì phân vân nói chắc là không về được, vì ở đâu đã quen đấy mất rồi. Người thì còn tuổi làm việc chưa tính tóan được gì. Tất cả đang cùng nhìn về một hướng. Chủ nhân đứng lên, rời khỏi bàn. - Hồi nãy giờ tui có chuyện muốn nói, nhưng trước khi tui nói cho tui một phút nghe. Quả thật từ nãy giờ chị chỉ im lặng lắng nghe. Những đôi mắt ngước nhìn theo chị khi chị vén cao chiếc áo đang mặc. Ai
chủ đề 14/174 cũng tin là chị sẽ cống hiến một trò đùa nào đó như chị vẫn hay đùa. Nhưng nhẹ nhàng, chậm rãi, người phụ nữ tháo gỡ một tấm nịt bằng thun dầy, ôm kín khoảng lưng và bụng. Chị ném nó lên chiếc ghế bành và chị ngã người nằm xuống băng ghế nệm dài cạnh đó. - Xin lỗi nghe, tui đau lưng quá, hết chịu nổi rồi. Có những tiếng cười khúc khích, rồi im. Một phụ nữ khác, tự thân là một bác sĩ rời ghế đến ngồi cạnh chủ nhân đang nằm, khuôn mặt xanh mướt. - Đau lắm hả, mỗi ngày bà phải ráng tập như thế này nè, tốt lắm. Người phụ nữ nói và quỳ xuống đất, đôi tay vươn dài về phía trước và hai bàn tay cũng chống xuống nền nhà. Một, hai, ba,… thở ra nè, hít vào nè…Thân người chị tiến rồi lui, xoay qua rồi xoay lại, đưa lên rồi đưa xuống đều đặn. Nhìn chị như một người lính đang thao dượt, hoặc bị phạt hít đất ở quân trường. Người phụ nữ nằm với cái lưng đau chỉ dõi theo những động tác của bạn.Vì chị biết chắc chắn những động tác ấy mình chỉ có thể làm trong một lúc nào khác, không thể trong lúc này, giữa cơn đau. Một phụ nữ ở xa đã đến đây từ tối hôm trước. Cũng để phụ giúp chủ nhân nấu nướng. Chị nói với những người ngồi quanh bàn, bà ấy đau từ mấy ngày trước, mình nói hay là nên hủy lại một ngày khác nhưng hủy thì phải đợi đến bao giờ? Người ngồi kế bên nghe, im lặng không trả lời mà chỉ nhìn tấm gương to đặt trên tủ buffet trước mặt. Người đàn bà nhìn thấy khuôn mặt mình lờ mờ trong tấm gương. Nhưng những chân tóc ánh bạc thì lại hiện ra rất rõ ràng. Chúng như in trong đầu chị vì chị đã nhìn thấy chúng từ cả hơn tuần nay. Đúng ra, chúng không bao giờ có quyền hiện diện cùng chị trước khách khứa, bạn bè. Bận bịu cách mấy chị cũng phải thay màu cho tóc khi thấy bạc nhú ra. Nhưng thời gian gần đây thì chị không thiết tha gì nữa. Chị để chúng tự do. Có những điều cần thiết khác làm chị phải tạm quên chúng đi. Chị đưa bàn tay của mình lên ngắm nghía, xoa nắn từng ngón. Xoa nắn chán rồi chị lại đưa bàn tay lên cao, bóp lấy bả vai của mình như thể nâng niu làm dáng. Bờ vai ngoan và những ngón tay ngoan. Ngoan như thế vì sáng nay chị đã phải dùng hai viên thuốc giảm đau cực mạnh. Nếu không thì có thể chị cũng
chủ đề 14/175 phải tìm một chỗ ngã lưng như chị chủ nhân kia. Thực ra, chị cũng muốn hoãn lại cuộc gặp hôm nay, nhưng chị không thể làm vì chính chị là người đầu tiên lên tiếng rằng lâu quá không gặp, nhớ nhau ghê! Lẽ nào chị bỏ cuộc. Người nằm, người ngồi, người thả mình lười biếng trong lòng ghế. Người lớn tuổi nhất ôm đầu, lùa những ngón tay trong tóc, không nói gì nhưng có lẽ cũng đang đau đầu, chóng mặt. Mỗi người một góc. Như những ly cốc, bát đĩa đã vơi chưa được thu dọn, lây lất trơ trẽn trên bàn. Không khí, khung cảnh mang một vẻ ủ ê, nhạt nhẽo. Người phụ nữ tóc bạc chợt nhớ tới người bạn trẻ của mình. Ngoài giờ làm việc sở, việc nhà, thú tiêu khiển của cô ta là mua những maquette miniature. Đó là những hình nhân, đồ vật được thu nhỏ lại. Những vật thể nhỏ nhoi bằng nhựa, bằng kim loại hoặc đất nung ấy có thể gắn thành tàu thủy, máy bay, bàn ghế, nhà cửa và nhiều thứ khác nữa. Chúng mang tất cả hình ảnh của đời sống, một đời sống được cắt ra từng mảnh nhỏ và tùy sở thích của mỗi người. Cứ mua về ráp lại thành những đồ vật, hình thể mà tự nó có thể biểu lộ niềm mong ước nào đó mà mình chưa đạt được trong cuộc sống. Người bạn trẻ này đã lắp ghép một ngôi nhà to với vườn tược và nhiều gian phòng. Mỗi phòng là mỗi sinh hoạt riêng. Trong ngôi nhà chỉ toàn phụ nữ. Cả một đời sống linh động hiện ra nơi những hình nhân. Những người đàn bà xinh đẹp ngồi trong phòng ăn, phòng khách. Họ trò chuyện, thêu thùa, đan áo. Người rửa bát, quét nhà. Người ngồi đàn hát, người đọc sách trên ghế xích đu ngoài vườn. Người nằm, người ngồi… Sao lại giống khung cảnh mà chị đang nhìn thấy trước mặt chị đến thế nhỉ ? Cô bạn trẻ này phải mất nhiều năm mới hoàn tất được ngôi nhà và cô đã nói đó là mơ ước của cô từ những ngày còn rất bé. Phải chăng cô đã có một tuổi thơ hẩm hiu, thiếu vắng bạn bè ?
Vài người vào bếp để gói ghém cho nhau những thức ăn còn lại, một thói quen quà cáp mang về sau mỗi tiệc vui. Có tiếng một phụ nữ từ chối. - Thôi, đừng cho tui chè nghe. Phải chích Insuline mà lúc nãy tui ăn hết một bát chè là liều lắm rồi đó.
chủ đề 14/176 Mưa vẫn mưa, chủ nhân nói khi nhìn thấy mọi người lục tục sửa sọan ra về: - Còn mưa, thôi ở lại dùng cơm tối luôn đi. Còn nhiều đồ ăn lắm, về nhà khỏi phải lo cơm. Người phụ nữ ở xa cũng lên tiếng. - Ở lại đi vì biết đến bao giờ mới gặp. Chị nói như vậy vì chị và chủ nhân không cùng một lúc, nhưng cả hai đang chuẩn bị hành trang, trở về Việt Nam sống. - Thì về Việt Nam gặp. Người khác lên tiếng: - Ở đây gặp còn khó huống hồ Việt Nam.
Mọi người đã tay xách tay mang, nhưng họ quên chuyện này lại nhớ chuyện kia. Vì vậy lời từ giã lúc nào cũng như sợi thun dùng dằng, co giãn. Người phụ nữ tóc bạc lại đến bên cửa sổ nhìn ra ngoài trời ngẫm nghĩ. Không rõ đây là lần thứ mấy họ gặp nhau? Chị nhận ra rằng những câu chuyện, đề tài mà họ vừa nói với nhau ngày hôm nay khác xa những lần gặp gỡ trước. Họ không còn làm cố vấn thời trang, khoe nhau cái áo, cái quần, chiếc vòng, chiếc nhẫn… những vặt vãnh của đàn bà. Không rủ rê nhau du lịch nơi này nơi kia nữa. Bây giờ là đau, là bệnh. Bây giờ chỉ hỏi thăm nhau về thuốc men, kiêng cử. Lần này giã từ nhau mà không hứa hẹn sẽ gặp lại lúc nào. Lần gặp tới có thể là ở Việt Nam hay một nơi nào khác? Và lần ấy sẽ còn bao lâu nữa? Hè tới, xuân sau ? Làm sao biết được sự đẩy đưa của cuộc sống. Biết đâu đến khi gặp lại nhau, người này sẽ trố mắt hỏi người kia : - Ai đấy ?. Lúc ngồi vào xe người đàn bà còn ngoái lại nhìn ngôi nhà, hàng cây và những tán lá ủ dột dưới mưa. Lá hãy còn xanh vì chiều chưa qua, đêm chưa tới. Những ngọn đèn đường chưa thức giấc, lá chưa chuyển màu thắm đỏ bởi ánh sáng của đèn và bóng tối của đêm. Chủ nhân vẫn đứng ở khung cửa sổ nhìn theo tiễn bạn như bao lần trước với khuôn mặt mệt mỏi, bần thần. Lần nào bạn đến nhà chị cũng đau, về Việt Nam chị thấy mình khỏe hơn nhiều. Chị đã nói như thế. Chị có vẻ sung sướng hạnh phúc với chuyến trở về nay mai.
chủ đề 14/177 Ngày mai, ngày mốt nơi này, những cuộc vui sẽ thiếu vắng nhiều người. Cuộc chơi có lẽ đã tàn. Bây giờ chỉ còn tuổi đau, tuổi nghỉ ngơi, tịnh dưỡng để đi tiếp, sống tiếp với cuộc đời phía trước. Người đàn bà ngã đầu trên nệm xe, một cơn đau đầu ập tới. Cơn đau bình thường vẫn xảy ra ở những ngày không ngơi nghỉ. Bữa nay chị lại suy nghĩ nhiều thứ quá. Chị ôm đầu, những ngón tay xoa nắn thái dương, luồn sâu trong tóc và những ngón tay chạm phải một nỗi buồn. Nỗi buồn không thể dấu, nằm phơi trên những chân tóc bạc, chúng làm trì trệ hết những niềm vui của chị khi chị nhìn thấy chúng. Chị lại nhớ đến người bạn trẻ và ngôi nhà mơ ước của cô. Tuổi đời còn biếc nên những người đàn bà poupée trong ngôi nhà của cô đều năng động, tươi vui. Đến một lúc nào khi tuổi chớm vàng không biết cô có ý nghĩ sáng tạo một ngôi nhà chỉ toàn những người đàn bà ốm đau mệt mỏi hay không? Chắc là không, vì nếu trò chơi ấy chỉ là những ước mơ thì chẳng ai đi mơ ước nỗi buồn cạn kiệt thanh xuân. Đó là một nỗi buồn to tát hơn tất cả mọi nỗi buồn. Những câu chuyện vui, bao tiếng cười, giọng nói hồn nhiên nghịch ngợm của những người bạn trong buổi tiệc vừa tàn lại vang vang trong đầu người đàn bà lúc này. Ồ, tại sao mình lại bi quan thế nhỉ ? Người đàn bà tự trách mình và tự vỗ về. Có gì đâu ! Như những chiếc lá, sắt se ủ rũ đôi chút khi trời đất chuyển mùa. Đời sống vẫn đầy những mời mọc quyến rũ khác. Vẫn luôn là một bắt đầu, một lên đường mà những người bạn của mình đã chẳng đang hân hoan tìm đến đấy sao?
Ngày mai chị sẽ nhuộm tóc, chị phải chống chọi che dấu nỗi buồn của chị và cũng để giúp chị tự tin hơn. Những sợi tóc chưa kịp nhuộm làm chị âu sầu cũng phải mà thôi. (tháng bảy - 08) ĐẶNG MAI LAN
chủ đề 14/178
THIỀN ĐĂNG mệ
Mệ, tuổi ngoài tám mươi, thường lẫn mình đang mười tám, thỉnh thoảng đánh ghen với những bóng ma, và oán trách ông (sinh thời ông lui tới với người đàn bà mà mệ gọi là con đĩ) Ngày nay ông đã khuất, người đàn bà kia cũng đã khuất, chỉ còn mệ mỗi trưa ngồi nhai trầu, thỉnh thoảng ngó ra mảnh sân đầy nắng, như tìm bóng ai, thỉnh thoảng lại nhổ ra những ngụm đỏ như máu và phá lên cười. THIỀN ĐĂNG chủ đề 14/179
NGUYỄN TRUNG DŨNG cục bướu
Gần cả tiếng đồng hồ, hắn ngồi đợi được gọi, nhưng tên trong danh sách, rõ ràng vẫn chưa đến lượt hắn để được xướng danh. Trong thời gian ngồi đợi như thế, hắn thấy hai mí mắt cứ chực chờ xụp xuống. Nếu lúc này hắn ở nhà, hắn sẽ lăn kềnh ra giường, ngủ mặc sức. Còn hiện tại bây giờ, hắn đang có mặt ở cái phòng mạch để chờ vào gặp bác sĩ khám bệnh, lăn kềnh ra giường và ngủ một giấc mặc sức thì hắn biết, chính hắn và mọi người ở chung quanh hắn không bao giờ cho phép hắn làm điều đó như thế bao giờ cả. Đêm qua, hắn nghĩ đến đêm qua, hắn đã thức từ khuya cho tới rạng sáng. Thức. Ờ thức. Nhưng thức để làm gì. Thức chẳng để làm gì cả mà để chống cự với cơn đau đang hành. Cái bụng nó anh ách. Cái ruột nó khó chịu. Thế cho nên hắn mất ngủ. Đấy chính là lý do sáng nay hắn phải có mặt ở nơi phòng mạch. Mà phòng mạch vào cái giờ hẹn của hắn, bữa nay số con bệnh lại quá đông. Hắn ghi tên trên tờ giấy danh sách, tờ giấy đã chi chít những tên người. Và ghi rồi, hắn phải ra ngồi ở cái ghế để đợi. Để tìm mọi cách chống cưỡng giấc ngủ, hắn đảo mắt nhìn quanh
chủ đề 14/180 ba bức tường ở trước mắt. Một bức sau cái quày của ba cô nhân viên giúp việc trong văn phòng ngồi, hắn thấy mấy cái kệ cao gần tới trần, kệ để đầy những tập hồ sơ của những con bệnh. Một bức tường ở bên trái, hắn thấy có treo một bức tranh. Nền tranh màu vàng của những bông cúc dại. Cúc nở rộ trên cánh đồng. Ở xa xa, nhìn thấy một ngọn đồi thấp. Dưới chân đồi hiện lên một ngôi nhà thờ. Toàn cảnh của bức tranh được vẽ chỉ có thế. Nhưng nhìn, hắn thấy rất đẹp. Rời bức tranh, mắt hắn quét sang bức tường bên phải, bức tường chỉ là chỗ để treo những tấm giấy có khung kính, chẳng cần phải mất công chăm chú nhìn, ai cũng có thể nhận ra những tấm giấy có khung lộng kính đó là những tấm bằng tốt nghiệp của bác sĩ, người chủ của phòng mạch này. Không còn gì để nhìn nữa, hắn ngó xuống tấm thảm trải trên nền nhà. Những tia nắng từ bên ngoài lợi dụng những kẽ hở ở hai cánh cửa, chúng rủ nhau rọi vào. Đó là những tia nắng như những ống thủy tinh tròn và dài, chúng bò trên tấm thảm làm cho hắn liên tưởng đến những con rắn nhỏ cọ quậy, trườn đi. Không biết có phải vì chú mục đến những vật thể ở trong phòng như thế, đã làm hắn quên cái buồn ngủ cố tình quấy rày hắn, quên luôn cả cái đau ê ẩm trong ruột hắn, hắn không biết nhưng sự thực là như vậy. “Danh Nguyễn.” Lơ đãng, hắn đã không nghe thấy tên hắn đang được cô nhân viên gọi. Phải đến lần thứ hai, hắn mới giật mình khi nghe đến cái danh xưng của mình. Như một cái lò so, hắn chồm người đứng bật dậy. “Có tôi.” “Chú cho cháu cái Medicare.” “Tôi không có Medicare.” “Vậy chú có thẻ gì đưa cho cháu thẻ đó.” “Bảo Hiểm Sức Khỏe được không cô.” “Được chú.” Cô gái cười nói thêm: “Trong khi chờ đợi cháu làm giấy tờ cho chú, chú có thể ngồi đợi cháu hoàn tất hồ sơ cho chú được không.” “À, phiền cô nếu có thể, cô nói giúp với bác sĩ cho tôi soi ruột
chủ đề 14/181 sớm cô nhé“. “Chuyện đó ngoài thẩm quyền của cháu. Khi khám xong, bác sĩ sẽ quyết định cho chú soi sớm hay trễ. Chú cảm phiền.” Hắn nhận ra câu nói đó đáng lẽ không cần thiết phải nói. Nhưng đã chót nói, bằng cách im lặng, hắn rút lời lại. Lại ra cái ghế để ngồi đợi, hắn kiên nhẫn chờ cô nhân viên gọi đến tên mình. Ruột trong bụng vẫn lâm râm đau. Hắn có cảm tưởng ruột trong bụng hắn có giun hay có một vật gì đó gây cho hắn đau. Cái đau êm ái và nhẹ nhàng nhưng làm cho hắn khó chịu mỗi lúc lên cơn. Chưa kịp để đầu óc tưởng tượng đi xa hơn, hắn nghe đến tên mình được cô nhân viên của phòng mạch gọi. Cái giọng của cô gái êm ái và nhẹ nhàng nghe dễ thương quá. Nhưng điều đó không phải là điều để hắn phải quan tâm vào lúc này. “Mời chú Danh Nguyễn.” Hắn đứng dậy. Cánh cửa của căn phòng ở mé trái vừa mở. Một bà người nhỏ bé, mặc áo choàng màu trắng, cùng lúc cánh cửa mở, bước ra. Tay cầm một tờ giấy, vừa thấy hắn, bà ta đứng tránh qua một bên nhường lối cho hắn bước vào, nhỏ nhẹ bảo: “Ông vào đi.” Vào, hắn thấy ở bên trong, căn phòng thực sự không rộng lắm. Đó là phòng làm việc của bà phụ tá cho bác sĩ. “Ông đứng lên bàn cân để tôi cân.” Hắn nghe bà ta bảo sao thì làm vậy. “Được rồi đấy. Bây giờ ông ra cái bàn kia để tôi đo áp huyết. Ông kéo tay áo lên đi rồi ngồi xuống cho tôi đo.” Hắn làm theo mỗi lời nói của bà ta. Tay ruỗi thẳng. Cánh tay để trên mặt bàn. Bắp tay được một cái bao bó chặt. Những con số bắt đầu hiện lên trên mặt cái hộp có gắn kính. Nó nhẩy một lúc thì hàng số ở trên và hàng số ở dưới thôi nhẩy. Cái bao bó bắp tay được bà phụ tá cho bác sĩ từ từ tháo ra. “Áp huyết của ông hơi cao.” “Bình thường đo ở phòng mạch bác sĩ gia đình, huyết áp của tôi ở mức trung bình. Nếu có cao thì chỉ có thể đêm qua tôi đã mất ngủ. Không những vậy, đầu óc căng thẳng, tinh thần khủng hoảng, có lẽ nguyên nhân chỉ có thế mà ra.” “Chuyện đó tôi không biết nên không hiểu rõ được. Lát nữa vào gặp bác sĩ, ông sẽ giải thích cho bác sĩ nghe, bác sĩ sẽ cho ông rõ
chủ đề 14/182 sau nhé.” Mở cánh cửa ở căn phòng đối diện, trên tấm gỗ của cánh cửa đó có gắn một cái bảng nhỏ bằng đồng, trên bảng có ghi mấy chữ, bà phụ tá đưa tay ra đẩy vừa nói: “Ông có thể vào đây ngồi đợi bác sĩ.” Nói rồi chờ hắn đã vào, bà ta khép cửa lại. Ở cái ghế kê trước cái bàn khá lớn, trên bàn để vài sấp hồ sơ có bìa cứng, hắn còn thấy một cái “laptop” đặt dưới một ngọn đèn có chụp. Trong lúc đợi bác sĩ vào, hắn có thói quen đảo mắt quanh căn phòng để nhìn hết cái này đến cái kia. Bức tường sau cái ghế của bác sĩ, hắn thấy vẫn chỉ là những tấm khung gỗ, mặt kính, đấy là những bằng cấp tốt nghiệp và bằng hành nghề bác sĩ, và ở bức vách bên trái gần sát cửa sổ, ở đó có treo những bức hình chụp bộ phận cơ thể của con người. Một đoạn cuối của bức hình là phần của một khúc ruột già. Ruột được tách ra để người ta có thể thấy rõ bên trong là thành ruột một cách khá rõ nét. Đang chăm chú nhìn cái khúc ruột đó thì cánh cửa mở. Người mở cánh cửa bước vào không ai khác là vị bác sĩ mà hắn đang chờ. “Chào ông.” “Chào bác sĩ.”
Ngồi xuống ghế đặt sau cái bàn, ông bác sĩ đưa tay bật cái đèn, mở nắp cái “laptop”, vào lúc đợi được hỏi, hắn chăm chú nhìn ông bác sĩ, thấy cử chỉ của ông khoan thai, gương mặt phúc hậu, ăn mặc nghiêm chỉnh, ông ngồi lặng lẽ khỏ những ngón tay trên những phiếm chữ. “Từ trước đến giờ, ông đã soi ruột lần nào chưa.” “Thưa bác sĩ, đây là lần đầu.” “Theo hồ sơ bác sĩ Thái là bác sĩ gia đình của ông, bác sĩ Thái cho biết ông khai đau bụng. Ông cho biết có đúng thế không.” “Vâng. Đúng. Một vài ngày nay, tôi có cảm tưởng trong ruột có triệu chứng bất thường. Khi ăn no, khi bụng đói, phần dưới bụng tôi nó nôn nao khó chịu. Có thể đó là nguyên nhân phát xuất ở phần ruột già của tôi không, thưa bác sĩ.” “Tôi chưa thể trả lời dứt khoát cho ông ngay được. Hãy để cho tôi tìm ra chứng cớ cụ thể bệnh phát sinh do đâu mà ra. Ông có
chủ đề 14/183 thường bị ợ chua không. Ông có thấy dưới ngực bị nóng ran không. Nếu thấy, đó là do chất át xít đưa lên làm ông thấy ngực nóng.” Cứ mỗi câu hỏi được bác sĩ hỏi và mỗi câu trả lời được hắn trả lời, để có dữ kiện chuẩn đoán bệnh, bác sĩ Hùng đều đưa vào máy điện toán, thay vì như trước đây, những dữ kiện chuẩn đoán bệnh đó, hầu hết các bác sĩ đều hỏi con bệnh rồi hỏi tới đâu, ghi tới đó trên tập hồ sơ. “Ông có thể cho biết trong gia đình ông gồm bố mẹ, anh em, có người nào mang bệnh mãn tính không?” “Thưa không.” “Về thuốc lá, ông có hút không?” “Thưa bác sĩ, thuốc lá tôi không hút. Nhưng thuốc lào, tôi có hút. Theo bác sĩ, bác sĩ thấy thuốc lào hút có độc hại không?” “So với thuốc lá, thuốc lào ít độc hại. Nếu bỏ được, ông cũng nên bỏ. Thời gian từ bao giờ ông hút nó vậy.” “Hồi tôi đi tù, ở miền Bắc, thời tiết rất lạnh, tôi bắt đầu hút, thưa bác sĩ. Hút để chống rét và để đỡ buồn.” Hắn nghĩ gì không biết, lưỡng lự một lúc mới lên tiếng hỏi: “Trong các “case” soi ruột, thưa bác sĩ, có “case” nào bệnh nhân bị thủng ruột không?” “Với các bác sĩ khác thì tôi không biết, còn riêng tôi, từ ngày tốt nghiệp cho đến lúc ra hành nghề, hơn 15 năm tôi soi ruột cho các bệnh nhân, tôi chưa gặp “case” nào bệnh nhân bị thủng ruột cả. Thủng ruột, rủi ro nếu có chỉ là tỷ lệ phần ngàn. Ông không hỏi thì thôi, đã hỏi, tôi cảm thấy cần trình bày để ông biết mà vững tâm. Với kỹ thuật hiện đại bây giờ, phương pháp nội soi đã đạt tới mức tinh vi tuyệt xảo, nếu so với kỹ thuật y khoa sơ đẳng trước đây. Chỉ cần một ống cao su nhỏ mềm mại, ống có gắn đèn điện quang rọi sáng, đầu có con “chip” điện tử, qua hậu môn dẫn vào đường ruột già, ta có thể thấy hết những gì ở bên trong ruột. Những gì ở bên trong đường ruột đó, nó sẽ hiện lên màn ảnh đầy đủ hết, dù nhỏ dù lớn, mắt có thể nhìn thấy rất rõ ràng cụ thể. Nhờ đó, nếu phát hiện trong ruột có bướu, bướu được cắt bỏ. Mầm mống ung thư kết tụ ở những cái bướu trong đường ruột, nếu không kịp thời cắt bỏ, thì, bệnh ung thư sẽ phát triển gây ra tử vong.”
chủ đề 14/184 “Đường đột hỏi bác sĩ như thế, chẳng qua vì tôi cứ nghĩ rồi sợ. cái sợ đã ám ảnh tôi nên tôi muốn hỏi để yên tâm. Được trả lời rồi, tôi hết còn sợ để khỏi bị ám ảnh nữa.” Hắn thấy ông bác sĩ nghe xong thì cười. Ngồi khai bệnh để bác sĩ tìm hiểu căn bệnh trong một không khí thoải mái, hắn cảm thấy thực sự dễ chịu không như trên đường từ nhà đến đây, hắn nghĩ là sẽ ngột ngạt khó chịu như hắn tưởng. Thêm ít câu hỏi nữa, thấy chẳng còn gì cần để hỏi, thì, bác sĩ đưa bàn tay ra cho hắn bắt, vừa nói để kết thúc cuộc đối thoại. “Bây giờ ông có thể ra ngoài. Ở bên ngoài, ông gặp nhân viên của tôi. Họ sẽ giúp ông biết thêm chi tiết và hướng dẫn ông những gì cần thiết để làm.” “Cám ơn bác sĩ. Chào bác sĩ.” Với bàn tay đưa lên, nụ cười trên miệng, thay cho lời nói, và vẫn ngồi ở bàn, ông bác sĩ nhìn hắn đứng dậy, rời khỏi ghế, đi ra cửa. Cái cửa khép lại, khi hắn đã ở phòng bên ngoài, có bà phụ tá cho bác sĩ đang ngồi ở cái bàn, bà ta cắm cúi hí hoáy viết. “Ông Danh. Ông có thể ngồi đây cho tôi dặn ông các điều cần biết để trước khi soi ruột, ông hiểu phải uống những thứ thuốc gì, uống trong thời gian bao lâu, và liều lượng thuốc là bao nhiêu.” Cái ghế đối diện với bà phụ tá cho ông bác sĩ để ở đầu bàn được bà ta kéo ra. Hắn biết phải làm gì với cái ghế đó nên tự động ngồi xuống. “Tất cả những gì tôi nói đã ghi rõ trong tờ giấy này, ông có thể mang nó về để đọc nếu như ông quên những điều tôi nói bây giờ. Đây là toa thuốc có ghi tên thuốc để ông có thể đến các “pharmacy” mua nó. Thuốc có tên Golytely hay Nulytely là loại thuốc bột, chứa trong bình nhựa, ông đem về pha với nước lọc vừa đúng một gallon. Trước khi uống, ông phải lắc cho chất bột của thuốc hòa tan vào nước, rồi cứ 15 phút ông uống một ly. Thuốc này có công dụng làm phân loãng ra và khi đi đại tiện, phân sẽ ở thể lỏng để dễ dàng bài tiết ra ngoài. Đơn giản tôi chỉ dẫn chỉ có thế, còn về phần ông, ông phải nhớ kỹ và theo đúng cách thức mà làm. Nếu ông không có điều gì để hỏi, ông có thể ra gặp cô thư ký ngoài văn phòng, cô ấy sẽ cho ông biết ngày giờ, địa điểm ông phải có mặt ở phòng soi ruột.” Hắn chào và cám ơn rồi bước ra. Vừa thấy hắn, cô thư ký đã đưa
chủ đề 14/185 tay lên để ra dấu ngoắc hắn lại. “Có chỗ trống cho chú soi ruột ngày thứ tư. Hôm nay là thứ ba thì ngày mai là thứ tư. Chú thấy ngày mai có được không? Nếu được, thì đây là giờ giấc, địa chỉ của phòng mạch, tất cả có ghi trên giấy, chú cứ theo đó mà đến. Nhớ đến sớm đấy chú nhé.” “Đường Forest là con đường có cái bệnh viện O’ Connor đấy có phải không cô?” “Phải đấy chú.” “Còn gì nữa không, nếu không, tôi về được chứ?” “Không còn gì. Chú có thể về được.” “Vậy chào cô nhé.” Hắn đẩy cửa phòng mạch bước ra đường. Buổi trưa, nắng San Jose như nắng mùa hạ ở Sàigòn. Ngồi trong xe, điều khiển tay lái, mắt hắn bị chóa bởi nhìn ra bên ngoài, ánh sáng sáng đến độ nhấp nháy như tấm gương soi. Trưa rồi chiều. Bụng rỗng suốt một ngày không được ăn, hắn cảm thấy mệt lả. Căn đúng giờ giấc, hắn đem cái bình thuốc, đổ nước lọc và rồi lắc cho bột hòa tan với nước. Uống đủ liều lượng như đã được chỉ dẫn, xong, hắn ra ngồi đọc báo ở phòng khách. Đường phố nhá nhem tối. Đèn ở vỉa hè bắt đầu rọi ánh sáng xuống mặt lộ. Tờ báo đọc chưa hết một trang, hắn đã thấy buồn đi cầu. Hắn vào nhà cầu. Phân lỏng và nước xổ ra làm bụng hắn nhẹ. Lại ra ngồi tiếp tục cầm trên tay tờ báo đọc, khoảng nửa giờ sau, hắn lại phải chạy vào nhà cầu, ngồi xả chất thải. Tưởng đi cầu như thế, còn đâu phân mà ra, nhưng không, đêm với nhiều lần chạy vào chạy ra như thế, lúc ít, lúc nhiều, hắn thấy vẫn còn chất bã. Hắn lên giường nằm, thiếp được một lúc, mở mắt thì thấy trời rạng sáng. Bạn của hắn lái xe đưa hắn đến phòng soi ruột. Một cô người Mỹ nhận bệnh nhân, yêu cầu hắn xuất trình giấy tờ cần thiết, rồi cô đưa tay chỉ cái ghế ở phòng đợi bảo hắn ngồi. Hắn ngồi vẫn có thói quen là đưa mắt nhìn quanh căn phòng. Căn phòng nhỏ và hẹp. Ghế kê chỉ vừa đủ bốn năm cái. Hai cái ghế đã có hai người khách tới trước hắn ngồi. Đó là hai ông bà già. “Danh Nguyễn”. Một cô gái nhỏ nhắn người Việt từ cái cửa vừa mới mở bước ra. Hắn nghe thấy gọi đúng tên mình thì đứng dậy.
chủ đề 14/186 “Chú có thể vào thay quần áo ở cái phòng này. Quần áo chú đang mặc, chú để trong ngăn tủ sắt. Cái áo choàng ngoài để chú tạm thời xử dụng.” Hắn gật đầu. Bước vào rồi bước ra với cái áo choàng dài từ vai đến quá đầu gối, hắn được cô gái trẻ, tay cầm tờ giấy có tấm nhựa cứng, hướng dẫn: “Chú lên giường nằm để cháu chích thuốc tê cho chú. Trước khi chích, có vài câu hỏi cháu cần hỏi để ghi vào hồ sơ. Xin chú vui lòng trả lời cho cháu biết.” Rồi sau vài lời vấn đáp, những câu hỏi giữa hắn và cô gái cũng xong. Cánh tay hắn được cô gái cầm lấy để đặt xuống giường, hắn cảm thấy nhói. Mũi kim đã ghim vào da thịt. Hắn nằm. Mắt nhìn. Hắn thấy ở đầu giường, có một cái bình nước treo lủng lẳng. Và một sợi dây cao su. Sợi dây chuyền từ cái bình xuống đến cánh tay hắn. Khoảng khắc không lâu, hắn mất cảm giác. Hắn thấy đầu óc mất tri thức. Rồi ... hắn mê. Ở trạng thái ngầy ngật như thế, hắn vẫn còn một chút tỉnh táo để nhận biết cái giường có bánh xe đang từ từ di chuyển. Khi cái giường không còn di chuyển nữa, đấy là lúc cái giường đã ngừng lại ở trong một căn phòng, mà ở đó, mắt hắn nhìn lên thấy lờ mờ cái trần nhà, trên trần có ống đèn sáng màu trắng, và một cô người Mễ thân thể mập mạp, cô đứng ở cạnh giường nhìn xuống hắn. Hắn còn nhìn ra một người khác là bác sĩ mặc áo choàng màu trắng, ngồi ở cái ghế cạnh giường hắn nằm. Một bàn tay đẩy hắn nằm nghiêng, rồi ở phần dưới hậu môn, hắn nhận ra có một vật lạ như thể một con giun đang tìm cách để bò vào đường ruột. Vật lạ hay con giun như hắn có cảm giác nhận thấy, chỉ là cái ống cao su nhỏ đang được bác sĩ từ từ luồn nhẹ nó vào sâu bên trong đường ruột. Mê không hẳn là mê, tỉnh không hẳn là tỉnh, lúc mắt nhìn lên màn ảnh ở trước mặt, hắn vẫn nhận ra trên cái màn ảnh đó, phần trong ruột già của hắn đã hiện ra quá rõ. Nom nó giống như một cái ống cống, vách gồ ghề gờ nếp. Hắn còn thấy ánh sáng của ngọn đèn quét qua quét lại mỗi khi cái ống cao su được điều khiển bởi bác sĩ nhích tới nhích lui. Với gần một tiếng đồng hồ, khi bác sĩ đứng dậy, cái giường có bánh xe được đẩy ra ngoài, thì công việc soi ruột đã xong. Xong, nhưng bệnh nhân vẫn phải nằm nghỉ để hồi sức, để thực sự tỉnh táo trước khi rời
chủ đề 14/187 khỏi giường. Lúc sau, cô gái trẻ phụ việc ở phòng soi ruột vén màn bước vào, cô nhìn hắn bảo: “Bây giờ chú có thể ra thay quần áo, để về được đấy. Chú thấy sao. Bình thường chưa?”
“Bình thường.” “Bác sĩ cho biết, trong ruột chú có ba cái bướu.” “Những ba cái sao. Bướu độc hay bướu lành hả cô?” “Bướu độc. Bác sĩ chuẩn đoán bảo ba cái bướu đó có thể là bướu tiền ung thư. Chú yên tâm, bác sĩ đã cắt bỏ rồi.” Hắn vào phòng thay quần áo. Hắn thay quần áo xong thì bước ra phòng ngoài. Vừa lúc đó bạn hắn đến ký giấy xác nhận là người tới chở hắn. Từ phòng soi ruột về đến nhà, trên đường xe chạy, hắn đã tỉnh táo để có thể nói đùa với bạn. Hắn bảo rằng: “Chưa soi ruột, cứ nghĩ đến soi, tưởng tượng đã đủ làm mình khiếp sợ. Thủng một cái thì bỏ mẹ. Nhưng soi rồi, mình thấy nhẹ nhàng êm ru. Chẳng thấy đau. Chẳng biết gì. Cảm tưởng cứ như lúc mình đi tầu biển bị say sóng, uống rượu quá chén bị ngầy ngật, mê mê mơ mơ thế thôi. Ruột cậu đã soi chưa? Chưa thì đi soi cho yên tâm.”
Hắn nói. Nghe, ngồi tỉnh như bụt, bạn hắn lặng thinh không trả lời. Xe vẫn chạy. Xe leo lên cây cầu treo. Hắn nhìn từ độ cao xuống thấp, mắt hắn thấy lố nhố những nóc nhà. Nhà nhiều như bát úp. Nhà nhấp nhô giữa những tàng lá cây cao. Và đường phố, như những con rắn uốn khúc, bò. 7. 08 NGUYỄN TRUNG DŨNG
chủ đề 14/188
T R ẤẦ N T H Ị D I Ệ U T Ấ M còn lại với đời
Chiếc xe chúng tôi đang chạy về hướng Ermenonville, trên con đường đến tham dự một lễ cưới tại nhà thờ thuộc tu viện Chaalis. Con đường trải nhựa màu nâu đỏ khác thường. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy tối sầm lại, mất hết cảm giác, rơi vào một khoảng trống không. Sau đó một khoảng bao lâu tôi không biết, mở mắt ra thấy trời còn chiếu ánh nắng vàng rực.Tôi thấy nhà tôi bên cạnh, anh ấy ngả đầu sang một bên. Tôi hỏi trong hơi thở thều thào "Tại sao anh không tiếp tục lái, hay anh mệt hả?" Tôi không hiểu rằng có thật tôi đã nói được những lời như thế với nhà tôi không, hay chỉ là ý tưởng mới thoáng hiện ra trong đầu. Hình như nhà tôi trả lời " Ừ anh mệt ". Tôi trôi nổi trong một trạng thái bồng bềnh, nửa ý thức nửa vô thức. Với phản ứng thật nhanh chóng của một cơ thể bắt đầu hồi sinh, tôi nhìn xung quanh. Chiếc xe hơi của chúng tôi phía sau bị bẹp dúm như một cái hộp giấy do bàn tay ai bóp lại. Tôi biết tại nạn vừa xảy ra tức thời
chủ đề 14/189 Đầu tôi bắt đầu nhức buốt, hình như có máu chảy xuống vai. Nghĩ đến máu, tôi lại mê thiếp vì sợ hãi. Tôi nghe thấy rất mơ hồ, tiếng nói tiếng ồn ào, tiếng còi của xe cứu thương. Tôi cố gắng mở mắt ra. Cảnh tượng trước mắt diễn ra giống y hệt cảnh tượng tôi thường thấy trên con đường đi làm hằng ngày. Một tai nạn xe hơi, có người bị thương nặng. Nhưng trước đây tai nạn ấy xảy ra cho người khác, nay thì xảy ra với mình. Tuy toàn thân tôi đau đớn ê ẩm và nhức buốt, nhưng đây là một sự kiện lạ nên tôi ghi nhận hết tất cả mọi chi tiết. Tôi đang đóng vai chính của mẩu chuyện ngắn này. Nhà tôi mở cửa xe bước xuống, ngơ ngác như một người đang ở trong bóng tối lâu năm, vừa chợt thấy ánh sáng. Anh ấy cũng như tôi đã qua một cơn mê thiếp vì bị cú sốc quá nặng. Nhà tôi không việc gì. Nhưng tôi bị thương trầm trọng. Cả thân thể tôi như dán chặt vào chiếc ghế xe, không thể nào cựa quậy. Hai ba người cấp cứu cố đỡ tôi đem ra khỏi xe. Nhưng chiếc cửa xe đã bị kẹt. Họ đang cưa cánh cửa xe. Khi cửa xe mở ra, hai người cứu thương nâng tôi dậy nói " Bà hãy nằm yên". Cái lưng tôi hình như đã gãy nát. Trên xe cấp cứu, bác sĩ đang chuyền nước biển vào tay tôi, vì máu ra nhiều quá. Ông nói "Bà hãy mở mắt ra". Vì nếu tôi cứ nhắm mắt, sợ rằng tôi sẽ mê vào cơn mê bất tận, không thể nào tỉnh dậy được. Cây cối hai bên đường vùn vụt chạy ngược chiều. Mình đi đâu đây? Mình có thể chết trước khi vào bệnh viện chăng? Tuy tự hỏi thế nhưng tôi bình tĩnh. Đối đầu với cái chết, người ta không thấy sợ nữa. Nếu chết, thì tôi đã chết từ lúc nãy rồi. Nhờ suy nghĩ được như thế nên tôi yên tâm. Xe vào đến bệnh viện Senlis, các y tá đã túc trực sẵn sàng đẩy tôi vào phòng "urgenc "(sau này tôi nghe kể lại có một bác sĩ làm việc tại đây đi làm về gặp thấy tai nạn, đã gọi điện thoại ngay cho bệnh viện báo tin và nhờ chuẩn bị cứu cấp). Các y tá nhẹ nhàng cởi bỏ hết áo quần tôi đang mặc. Bộ áo đầm tôi mới mua ở hiệu "Un jour ailleurs". Bộ áo màu chủ đề 14/190
pastel mà tôi đã đi lui đi tới mấy lần trước khi quyết định mua. Màu sắc nhã nhặn vừa ý, nhưng lại không vừa với túi tiền vì hơi đắt. Tôi yêu quý biết bao nhiêu bộ áo mới này. Nhưng giờ đây, chiếc áo đã ướt đẫm máu từ đầu chảy ra. Chiếc nịt ngực trắng đăng ten, chiếc júp bó sát người, đôi vớ mỏng manh, tất cả mọi thứ bị cởi bỏ. Các món nữ trang trên người cũng lần lượt tháo ra. Những thứ mà mới hồi chiều, tôi đứng trước gương cẩn thận trang hoàng cho thân thể. Bây giờ, cái lớp vỏ ấy đối với tôi đúng là những thứ vô nghĩa nhất. Vô nghĩa trước cái chết. Mùi nước hoa Christian Dior từ tấm áo để bên cạnh chen lẫn mùi máu còn tươi nồng lặng lẽ thấm vào mũi tôi. Tôi chảy nước mắt, không hiểu tại sao mình khóc nhanh thế. Điều gì làm xúc cảm? Phải chăng là tính chất vô thường phù ảo tôi vừa kịp nhận ra. Cái tính chất tôi thường nghe rất nhiều, nói rất nhiều, nhưng giờ đây mới thấu hiểu. Cách đây chỉ có mấy giờ đồng hồ, tôi sang trọng, tôi lịch sự, nhờ ở cách ăn mặc điểm trang. Sau khi cởi bỏ hết mọi thứ ấy ra, tôi còn lại gì. Một thân thể trần truồng bẹp dúm của con người rất mong manh yếu đuối trước định mệnh. Cô y tá cố gắng hỏi han cho tôi quên đi phần nào đau đớn: "Bà đi đâu mà ăn mặc đẹp thế?" Tôi trả lời nhẹ nhàng qua hơi thở: "Chúng tôi đi ăn đám cưới, chứ không phải đi nhà thương". Nếu biết vào bệnh viện như thế này thì việc gì tôi phải mất công loay hoay cả buổi chiều sửa soạn tươm tất. Un jour ailleurs ! Một ngày ở một nơi khác. Đúng thế. Một ngày không như mọi ngày, và nơi khác là nơi nào? Sau khi chụp hình thân thể, mấy tấm phim được treo lên giá ánh sáng. Kết quả cho thấy: Xương vai gãy làm ba khúc, nhô lên nhô xuống. Xương sườn phía sau, một hai ba bốn... đều gãy. Tôi không dám nghe, tôi không dám tin. Tôi bất động như một xác chết, chỉ còn cái đầu. Nhưng máu còn chảy, cô ý tá thấy da đầu bị rách, khâu mấy mũi kim. Hỏi tôi có đau không, tôi lắc đầu. Tôi chẳng hề sợ sệt trong phút giây này. chủ đề 14/191
Đau đớn về thể xác thấm gì với nỗi đau tinh thần. Phút giây này, một mình tôi chống chọi với khắc nghiệt của định mệnh. Nó bắt tôi phải nhẫn nhục, thần phục quyền lực nó. Vì thế tôi phải tỏ ra mình rất vững tinh thần, không hề bối rối trước nguy nan nào. Tôi chưa hề chết, tôi còn sống. Còn sống, tôi cần phải vượt qua mọi trở ngại. Tôi nằm chờ đưa vào phòng mổ. Banh da xẻ thịt. Tôi chờ đợi người ta chụp thuốc mê một cách bình tĩnh. Nhưng chờ mãi tôi sốt ruột hỏi y tá tôi có phải bị mổ không. Nhưng cô y tá trả lời: Bác sĩ nói không cần mổ. Và họ bắt đầu bó thân thể tôi bằng một cái đai cứng ở vai và ngực. Mỗi lúc tôi mỗi thấy đau hơn trước. Có lẽ sau khi thấy mọi chuyện đã bắt đầu ổn định, bớt nguy hiểm, ý chí tôi nghỉ ngơi không căng ra để đương đầu với sợ hãi. Cho nên cơn đau có cơ hội tấn công dữ dội. Trong lúc nằm chờ đợi bác sĩ làm hồ sơ bệnh lý, và để được theo dõi sức khỏe trước khi cho về phòng, tôi lan man nghĩ ngợi cho bớt đau. Trên giá ánh sáng, mấy tấm phim vẫn còn treo.Thân tôi chỉ là bộ xương ốm yếu, trơ trọi, chiếc rời, chiếc gãy. Bộ xương khẳng khiu vô hồn. Bộ xương chẳng định nghĩa được điều gì về tôi, về một người đàn bà đã sống trên năm mươi năm với đời. Khổ đau và hạnh phúc. Thế đấy! "Nhà văn nữ DT" cái tên người, những người lạ thường gọi tôi. Bây giờ lại càng xa lạ hơn nữa. Tôi chỉ là những chiếc xương vô tình được ghép lại với nhau, lỏng lẻo. Chẳng còn nỗi bí ẩn nào của một đời người, với riêng tôi. Tôi không còn một chút giá trị nào qua ánh sáng X . Đừng đòi hỏi gì nữa nhé, tôi ơi ! Tiền bạc, tình yêu, danh vọng. Bộ xương này không hề có nhu cầu ấy. Nó biết nó sẽ trở về với đất. Tôi nuốt ực xuống. Không còn nước miếng để trôi xuống trong tôi niềm tuyệt vọng thăm thẳm. Hãy nhìn cho rõ mọi chi tiết tấm phim con người mình. Để thôi cao ngạo, thôi mơ tưởng. Vì ta chỉ là những chiếc xương sườn, đã vỡ. Tôi hướng mắt lên trần nhà lợp bằng thứ kiếng mờ, nghe tiếng mưa rơi lộp độp. Cô y tá nói: "Mưa lớn quá." Tôi tự hỏi không chủ đề 14/192
biết mấy giờ rồi, tiệc cưới bên ngoài chắc đến hồi rộn rã tiếng cười, tiếng chúc tụng. Tại sao trời mưa lớn thế này. Mới buổi chiều nắng đang tươi, vàng ấm rực rỡ. Nắng ấm đến độ tôi đã phải tháo sợi dây nịt trên ghế xe hơi vì nóng. Nhưng sau đó tôi cẩn thận gài lại. Nếu không, với tai nạn này, tôi bị bể sọ đầu vào tấm kính xe phía trước. Mọi chuyên xảy ra thật lạ lùng. Sống và chết, sinh và tử chỉ cách nhau một tích tắc đồng hồ. Nhanh hơn tốc độ âm thanh và ánh sáng. Sẽ có những người tham dự tiệc cưới hôm nay, tuần sau đi đưa tang mình nếu mình chết. Tôi thích thú vì ý nghĩ này. Bầu nước trợ lực nhỏ từng giọt đều đặn thánh thót vào cánh tay. Những giọt nước bé nhỏ di động, còn tôi bất động nằm lặng một mình nơi này. Người ta chờ những phản ứng khác có thể xảy ra trên cơ thể tôi. Bác sĩ và y tá trở vào hỏi han đôi ba câu, họ yên tâm khi thấy tôi trả lời sáng suốt, đôi khi còn tỏ ý khôi hài. Người ta đưa tôi về phòng, chiếc giường được đẩy đi nhẹ nhàng nhanh chóng qua các hành lang bệnh viện. Các cô y tá tóc vàng mắt xanh xinh đẹp, hình như chúng ta, mọi người đang đóng phim. Một cảnh trong phim "Les choses de la vie". Chuyện đời. Một phim Pháp tôi xem đã mấy chục năm nay, hồi còn ở Việt Nam. Mới đây, xem lại với các tài tử Mỹ đóng. Cuốn phim với đề tài cũ không mới lạ gì, nhưng gây một cảm nhận sâu đậm với người xem là tôi vì cái chết bất ngờ của nhân vật chính trong một tai nạn xe hơi. Cuốn phim nhắc tôi rằng chết là xóa bỏ mọi vấn đề tình cảm với người sống. Sống là mở ra , chết là đóng lại. Trong lúc này, tôi nghe một giọng nói tiếng Việt rất lớn, giọng của nhà tôi. Có lẽ anh kể với mọi người về tai nạn xảy ra. Nhưng với ai, với các bạn bè đến thăm chăng. Tôi tưởng chừng mình đã lìa khỏi xác, bạn bè đến thăm viếng an ủi nhà tôi. Tôi không còn phân biệt nổi trạng thái nào tôi đang sống. Nhưng đồng thời tôi biết tôi đi vào một cảnh giới khác rồi, trong đó tôi phải sống một mình không thể chia xẻ cùng ai sự bất hạnh này. Tuy nhiên tôi mừng cho nhà tôi, không bị thương tích nào. Tôi yên tâm. Anh là chủ đề 14/193
một người đàn ông có tinh thần lạc quan, tin tưởng vào đời sống, nhờ thế thường gặp may mắn. Sau khi vào nằm yên trong căn phòng rộng, tôi chợt mở mắt. Thấy nhà tôi đứng cạnh, tôi hỏi hồi nãy anh nói với những ai mà ồn ào thế. Anh ngạc nhiên trả lời: Nãy giờ anh nằm trong máy chiếu scanner để xem cái đầu có bị gì không, làm sao anh có thể nói chuyện với ai. Có lẽ trong lúc nửa mê nửa tỉnh, tôi thấy cần thiết có bóng dáng một người thân bên cạnh. Bóng dáng của người chồng. Tôi không bao giờ muốn sống một mình, và cũng không thể sống một mình. Nhưng mọi lúc mọi ngày tôi vẫn hằng nói: chỉ mong ở một nơi không có bóng người. Vì luật đời sống đôi khi làm cho tôi mệt mỏi , nghẹt thở. Nằm bất động trên chiếc giường nệm trắng phau, mỗi cử động là cả toàn bộ cơ thể tôi chống cự mãnh liệt. Cả thân xác này không còn phục tùng tuân lệnh trí óc nữa. Đành phải nằm im đưa mắt nhìn vào khỏang trống bức tường bệnh viện, khoảng trống thật mênh mông. TRẦN THỊ DIỆU TÂM
chủ đề 14/194
N G U Y ỄỄ N T H Ị T H Ả O A N người tốt việc tốt
Nói về kinh nghiệm nghề nghiệp ư? Làm sao nói hết một khi tôi đã trải qua 20 năm làm báo? Kể ra thì lâu rồi, từ thời còn bao cấp, cái thời con người chỉ biết đánh vật với cái ăn, còn viết, bài nào cũng na ná, nếu không phải phổ biến những thông tư, nghị quyết thì cũng là tin tức sản xuất đại loại như “lúa nhảy múa”, “lúa reo cười” vì trúng mùa hoặc những tin chiến thắng từ xa do cấp trên đưa xuống. Kinh nghiệm thời đó là kinh nghiệm bỏ đi, nghề ra nghề phải kể từ thời đổi mới. Thời đổi mới, xã hội thay đổi với tốc độ chóng mặt. Thành phố đối diện với những vụ tham nhũng truyền kỳ liên quan tới những cán bộ cao cấp, tỉnh ủy, thành ủy, kể cả những thành phần “già tuổi Đảng, sạn tuổi đời” mà đầu mối còn lằng nhằng tới tận Trung Ương. Rồi còn biết bao vụ băng đảng, trộm cướp, sát nhân, mại dâm, ma túy, lường gạt, tiền bạc, ghen tuông...và những sì-căng-đan cỡ lớn. “Anh thấy không, chưa bao giờ xã hội lại đầy rẫy tội ác như bây giờ.”Chủ nhiệm kiêm tổng biên tập nói. “Đổi mới chẳng bao lâu mà mình cứ như là đang sống trong thời kỳ quá độ, ngay cả Paris, New York cũng không bằng.” Tôi không hiểu, ý ông muốn nói quá độ cái gì, Xã Hội Chủ Nghĩa hay Tư Bản Chủ Nghĩa? Tuy nhiên, tôi phụ họa, “Trước khi mưa bao giờ trời chẳng chuyển giông? Cứ coi như mnình đang sống trong thời kỳ tồi tệ đi. “Rồi mọi thứ sẽ qua thôi”. Ông gật gù, “Quan trọng là mình chủ đề 14/195
xây dựng một cơ chế thị trường tự do có định hướng, phải không?” “Ờ,” tôi ậm ừ cho qua, trong đầu mường tượng hình ảnh một đàn cá tung tăng bơi trong một cái rọ. Cả cụm từ này hình như đã là một mâu thuẫn lớn. Nhưng tôi làm thinh vì chủ nhiệm đang cao hứng. “Trong đó nhiệm vụ báo chí phải là một cây kim chỉ nam dẫn đường.” Chủ nhiệm tiếp. Tôi ngạc nhiên, không lẽ ông ta muốn lộn lại thời bao cấp. Kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt như chiến trường, làm báo như cũ, ai mua? Chưa kịp mở miệng, ông ta đã cướp lời. “Tôi đã thấy những thứ như chống giết vợ, con lừa cha, cháu chắt bóp cổ ông bà chỉ vì mấy chỉ vàng. Ông ta nhíu mày, nhìn thẳng như soi vô mắt tôi như thể tôi chính là nạn nhân hay thủ phạm. “Ngày nào cũng toàn những tin cà chớn không à...tôi có cảm tưởng chúng mình đang quậy lên một dòng nước vốn đã đục rồi.” “Nhưng mà...đó là hiện thực.” Tôi chống chế, “Mình cũng đâu có bịa mấy thứ đó ra được đâu?” Tự nhiên tôi chợt nhận ra cái giọng mình yếu thấy phát sợ. Cũng may, chủ nhiệm không để ý. Ông ta rút một điếu thuốc rồi đẩy nguyên cái bao về phía tôi. Trở ngược cán thuốc, ông gõ gõ mặt bàn vài cái trước khi đưa lên môi. Tôi cũng đỡ lấy một điếu, lập bập ngậm. Một đốm lửa từ cái Zippo giả lóe lên kéo hai mái đầu chụm lại. Rít một hơi, cả hai cùng ngửa mặt lên trần, thở ra khói. Lim dim, mơ màng nhưng tôi biết, giờ phút này một quyết định nào đó đã hình thành. Tiếng máy lạnh dỏm chạy sè sè, hơi không đủ xua khói thuốc đang mù mịt trong căn phòng nhỏ xíu. Nóng, lưng tôi tươm mồ hôi. Giọng chủ nhiệm cũng bắt đầu hấp tấp. “Bắt đầu từ tháng sau, tôi muốn mình phải có những tấm gương điển hình trong xã hội. Nói chung, cái tốt phải đẩy lui cái xấu. Mình sẽ góp tay xây dựng lại.” “Ờ,” tiếng ờ nhẹ hều ai ngờ cũng làm ông ta phấn khởi. “Này, anh lo mục Người Tốt Việc Tốt, được chứ hả?” “Úi trời ơi!” mình mẩy tôi giật nẩy. Điếu thuốc mới bật ra khỏi môi. “Trần Thượng Nhân đâu? Hắn vẫn trách nhiệm mục này mà.” Mười trang báo, không có mục nào tôi ghét như mục này. Xã chủ đề 14/196
hội nhiễu nhương đầy ắp cả mười trang, duy chỉ có một góc nhỏ trang ruột của Trần Thượng Nhân cứ như là thiên đường. Cả tòa soạn không ai biết hắn đào đâu ra những tấm gương Người Tốt Việc Tốt. Vậy mà đều đều, mỗi ngày hắn đẻ một người. Cứ như là thần thoại. Mà nói chi, ngay cả bút hiệu cũng đã hoang đường. Trần Thượng Nhân hay Hà Thiện Nhân cũng là một. Hắn giải thích, Trần Thượng Nhân tức người cao thượng vẫn đang ở trần gian; còn Hà Thiện Nhân (?) đúng ra đó là một câu hỏi người thiện ở đâu (?). Rồi hắn chỉ ngay vô cái mục Người Tốt nở một nụ cười xảo trá, “Thì ở trong đây nè.” Nghe hỏi tới hắn, chủ nhiệm xua tay, “Cứ như hắn mất tích với cái đám Người Tốt của hắn đi.” Lật bật dụi đầu thuốc, ông ta than, “Cái thằng...chỉ biết viết mà không đọc lại. Cái mục Người Tốt Việc Tốt mà hắn cứ viết giông giống như mục vui cười.” Rồi ông mở ngăn kéo, lấy ra mấy bài bút khoanh đỏ hoét được cắt cẩn thận từ trong trang ruột. “Tôi cầm tờ giấy dẫn đường vẽ nguệch ngoạc theo cú điện thoại người khách hàng vừa gọi hôm qua. Đây phường 20, quận 6, hẻm 259/79/...Con hẻm dành cho những người dưới quê tràn về thành phố kiếm việc. Lối đi hẹp, ngoằn ngoèo, sâu hun hút. Hai bên, nhà lụp xụp chen chúc dưới những tấm bạt rách bươm. Chân bước thấp bước cao, đôi khi tôi phải phóng qua những thau nước rửa chén người ta bày biện giữa đường. Một con bé độ mười tuổi đang ngồi bệt trước cửa, vừa húp cơm xì xụp, vừa giương mắt hỏi, “Chú kiếm ai?” Tôi nói, tôi kiếm Nguyễn Văn Thiệt, lái taxi...chưa nghe hết con bé đã bỏ tô cơm xuống, reo lên, “A, chú Thiệt Cần Đước phải hông? Con biết rồi, mấy ngày trước có người khách bỏ quên bọc tiền 35 triệu trên xe nên chú phải kiếm người ta trả lại.” Tôi hỏi, “Sao con biết?” Con bé nhanh nhảu, “Cả xóm ai cũng biết” Rồi nó tài lanh, “Sau đó, chú được thưởng một triệu đồng nữa nè.” Con bé đắc chí nhìn tôi, hất mặt tự tin như nó là người biết hết trơn mọi sự...” “Có lẽ ở những người dân huyện Long Thành không ai là không biết bác Trần Văn Rõ, người nông dân ròng rã hơn ba năm trời đã cất ba mươi căn nhà tình thương để tặng cho bà con nghèo trong huyện...” chủ đề 14/197
“Những người dân ở miền đất mũi Cà Mau đều gọi chị công nhân Lê Thị Thủy là thiên thần của những người mù trong tỉnh bởi năm năm liền chị đã bảo trợ cho một trăm ca giải phẫu thủy tinh thể thành công, đem ánh sáng đến cho cả trăm cuộc đời tăm tối...” “Mấy người này... không có thật à?” Tôi vừa lật sơ thêm mấy mẫu giấy nữa vừa nghi ngờ hỏi. Chủ nhiệm ngã người trên ghế xoay mộ vòng rồi cười lớn. “Chú nghĩ sao?” Tôi cười gượng, lúng túng chưa biết trả lời sao thì ông chợt nghiêm giọng, “Thật giả không cần biết, điều quan trọng là phải nhân được điển hình. Muốn vậy phải viết thật sống động, bởi vậy nên mới chọn anh. Thôi, anh nhận cho tôi nhờ.” Nghe khen, lẽ ra mũi tôi đã nở to, nhưng cái viễn cảnh “mò kim đáy bể” để kiếm người tốt trong những ngày sắp tới khiến tôi khó thở. “Chủ nhiệm...” tôi nằn nì, “Chưa viết mục này bao giờ chỉ sợ tôi viết không đạt. Hay chủ nhiệm cứ để tôi lấy những tin hình sự, băng đảng, xã hội đen...đen cỡ nào tôi cũng săn được những tin giật gân về, như vụ Năm Cam, Hai Chi chẳng hạn.” “Phải, công nhận anh là một ngòi bút sắc bén, một mũi nhọn của tờ báo. Nhưng mà...” Chủ nhiệm ra chiều chăm sóc, “Chúng mình lớn tuổi rồi, còn vợ con chi? Mấy vụ nguy hiểm hãy để tuổi trẻ.” Nhắc tới vợ con là tôi mềm lòng, lẽ ra tôi phải kiên trì dứt khoát, thuyết phục đủ điều ngay thời khắc đó. Rằng thì là tôi có thể lấy tin kinh tế, thể thao, lễ lộc, hội hè...thậm chí những trang hiếu hỉ, ma chay, tìm trẻ lạc hay bất kể những mục linh tinh nào cũng được, trừ Người Tốt. Nhưng mà lúc đó không hiểu sao tôi lại làm thinh. Một sự xuôi xị hèn hèn mà sau này nghĩ lại tôi phải hối hận. Tôi còn nhớ lúc đó chủ nhiệm đứng lên kết thúc câu chuyện bằng một tiếng thở phào, “Thôi, cho tụi trẻ có cơ hội, để chúng nó ra ngoài lấy kinh nghiệm.” Rồi bất chợt ông đổi đề tài, thân mật hất hàm, “Cà phê không?” Và chẳng thèm nghe tôi đáp, ông ta bước vội ra ngoài. Chúng tôi cùng băng qua phía bên kia đường. quán cà phê Cõi chủ đề 14/198
Riêng mới mở mấy ngày nay. Đây là quán thứ tám trên một khúc đường chỉ đúng một trăm mét. Tôi vốn nghĩ, trời sanh đàn ông đàn bà là đã đặt họ ở hai thái cực. Hễ cái gì tôi cho là khó thì vợ tôi nói dễ, và khi tôi nói dễ thì vợ lại than khó. Bữa tối hôm đó thấy tôi lo ra, vợ tôi phá lên cười. Bả nói như chơi, cả xóm mình ai cũng làm cật lực, sống bằng mồ hôi nước mắt của mình, không trộm cắp, tơ hào, tham ô, móc ngoặc, mánh mung, luồn lách, chạy chọt...đều là người tốt cả, tha hồ mà lên báo. Tôi nhăn mặt, “Đó là người lương thiện, không phải là người tốt.” Ý tôi muốn nói người tốt điển hình kia nhưng nhất thời cấp bách, giải thích không rõ ràng làm bả nổi sùng. “Bộ người tốt của anh không cần phải lương thiện sao?” Linh cảm cho tôi biết chiến tranh đang châm ngòi và chỉ cần tôi mở miệng là bùng nổ ngay. Mà không khéo thì trước sau tôi cũng là nạn nhân của những cuộc cãi vã tầm phào. Tôi vội lôi mấy bài của Trần Thượng Nhân mà chủ nhiệm đưa. Vợ tôi xem xong, phán “Mấy người này là người khờ đâu phải người tốt.” Rồi bả chép miệng, thời buổi này kiếm đâu ra người tốt tới cỡ này. Mà có kiếm được, cho lên báo cũng chẳng ai cảm phục mà bắt chước đừng nói chi tới vụ nhân điển hình. Điểm này tôi hoàn toàn đồng ý với vợ. Tôi không tin những kẻ bịp bợm, xảo trá, hiếp dâm, cướp bóc, giết người khi cầm tờ báo lại dán mắt tới cái mục này. Mấy ngày sau, tôi bắt tay ngay vào việc. Mục tiêu là những cơ quan, trường học, trung tâm cô nhi viện, trung tâm bảo trợ người cùi, trung tâm nuôi dạy người khuyết tật...Mấy nơi này đón tiếp tôi bằng những nụ cười ảm đạm, tôi biết ngay mình là khách không ai đợi. Người họ mong là các vị Mạnh Thường Quân, những người vai vế có thể tổ chức lạc quyên hay phát động những phong trào toàn dân đóng góp. Phải kiên trì, tôi nhủ thầm, và liên tiếp tôi ròng rã khắp các phường xã quận huyện nội ngoại thành. Những nơi tới được đều đã tới, những nơi xa quá đành gọi điện thoại để giữ liên lạc. Nhiều chỗ người ta lắng nghe như nghe chuyện trăng sao trên trời. Một vị chủ tịch huyện ái ngại bảo tôi, người tốt việc tốt thật ra không thiếu, nhiều người tâm huyết có đề án bắc cầu, làm đường chodân nhưng huyện nghèo,thiếu ngân sách đành gác lại.Tôi ngẫm ra, người tốt chủ đề 14/199
không cần khen, họ cần tiền, cần rất nhiều. Có tiền, người tốt mới làm nên chuyện tốt. Nhưng mà, Nguyễn Văn Thiệt nghèo rớt mòng tơi, Trần Văn Rõ tá túc trong căn nhà (lá bức ảnh do Trần Thượng Nhân đăng cạnh bài báo), Lê Thị Thủy sống với đồng lương công nhân thì tiền ở đâu để cất nhà, tiền đâu trang trải y phí cho dân. Có một điều tôi chợt nhân ra, kể từ lúc giữ mục này hầu như không lúc nào tôi không nghĩ đến Trần Thượng Nhân. Hắn và những Người Tốt của hắn. Nói người ta không tin chứ thiệt ra có lần tay tôi đang ôm vợ mà tâm trí cứ quay quắt nhớ Trần Thượng Nhân kinh khủng. Trong một lúc “cùng tất biến, biến tất thông”, tôi phát giác mình ngu dễ sợ. Các bạn hẳn còn nhớ những câu đố bằng hình vẽ trong sách giáo khoa hồi nhỏ. Đại khái là tìm lối ra cho con chuột hay thỏ, kế bên có một sơ đồ vẽ đường ra lối vào trong một hang động ngoằn ngoèo như một tổ ong. Hồi đó tôi đã nhức đầu, hoa mắt cả buổi để dò tìm lối ra, sau cùng mới khám phá câu đố dễ ợt. Bạn cứ chọt bút ngay lối ra rồi kéo ngược thẳng tới hướng vào. Đó là đáp án, nhanh và gọn. Còn bây giờ, thay vì đi kiếm người tốt, tôi kiếm Trần Thượng Nhân, chẳng phải hắn đang nắm trong tay một tấm địa đồ dẫn tới những người tôi muốn kiếm đó sao? Theo chỉ dẫn, đi tìm Trần Thượng Nhân không khó. Tôi gặp hắn đang phì phèo bên tách cà phê trong quán Mimosa. Cái quán này tôi biết, nó đang trong tầm ngắm của công an, báo chí thỉnh thoảng cũng gài người đến đó. Trong khi tôi kể mọi sự gian nan vất vả từ khi giữ mục Người Tốt Việc Tốt (cốt ý gợi lòng thương hại để hắn chỉ cho vài chiêu) thì hắn cười sặc sụa. “Ối trời! Tội nghiệp bố tôi quá đi mất,” Nói xong, hắn vẫn cười đến chảy nước mắt. Tôi im lặng chờ với sự chịu đựng. “Người tốt thì không có tiền, người có tiền thì không tốt. Bố nhìn xem...” Hắn đảo mắt một vòng. Tôi nhìn quanh, đây là một quán cà phê sang trọng, thiết trí theo kiểu Tây Phương, tường có thác nước lấp lánh, tiếng chảy róc rách reo vui như nhạc, giữa quán có sàn diễn catwalk cho thời trang theo mùa vào cuối tuần. Khách hàng, hai ba bàn là người nước ngoài, số còn lại có vẻ là chủ đề 14/200
các bộ, giám đốc, chủ doanh nghiệp, dân môi giới, dân chạy án. Mỗi bàn được trang điểm bằng một hai em “chân dài”. Cả quán, nếu tính luôn tiếp viên thì xem ra tôi với Trần Thượng Nhân là nghèo nhất. “Ê...” Tôi huých nhẹ hắn, “Cà phê ở đây bao nhiêu một ly?” “Ba mươi lăm ngàn?” Mắt tôi trợn ngược. “Tiền đâu mà trả?” Hắn ung dung cười. “Công tác phí chi.” “Cái gì?” Tôi lắp bắp và chợt hiểu. Thì ra hắn chuyển công tác đến đây trong khi tôi phải ôm của nợ do hắn bỏ lại. Chưa nhắp một giọt cà phê nào mà tôi đã đắng lòng đắng dạ, nhất thời quên béng mục tiêu tới đây. Nhưng Trần Thượng Nân không quên, hắn nói. “Đừng ghen bố ạ. Truy lùng kẻ xấu cũng gian nan như đi tìm người tốt vậy.” Rồi hắn lắc đầu làm bộ chán, “Bắt hết kẻ xấu, cái xấu vẫn còn.” “Vậy anh có tin nêu gương...” Tôi chưa dứt lời hắn đã ngắt ngang, trở giọng bỡn. “Bố khỉ ơi...Tới giờ này mà bố và cha chủ nhiệm còn chạy theo mấy vụ nhân điển hình đó hả?” Hắn đâm cười lớn, “Tôi giữ mục ấy 5 năm, đọc đi đọc lại những tấm gương người tốt đến mòn con mắt, đến bây giờ vẫn chưa tốt nổi đây.” Nói xong hắn nâng tách cà phê lên nhắp, cung cách rất sành. Thời may, tôi sực nhớ ra mục tiêu của mình. “Quới nhân...” Tôi hạ mình hết cỡ, “Làm ơn chỉ cho tôi làm sao kiếm ra những người như Nguyễn Văn Thiệt, Trần Văn Rõ, Lê...” “Nguyễn Văn Thiệt nào?” Hắn nhíu mày hỏi. “Thì Nguyễn Văn Thiệt, người Cần Đước, lái taxi...” Chưa nghe hết lời hắn đã chận ngang, giọng mềm như bún. “Thôi, lạy bố. Bố làm ơn xem như những người tốt của con đã chết hết cho con nhờ.” Mấy ngày sau, khi trở về tòa soạn, tôi có tin nhắn của Hội Phụ Nữ. Chị Cao Thị Miệt, ba mươi ba tuổi, bị liệt hai chân, một mình nuôi ba em tốt nghiệp đại học. Một tấm gương thật. Một tấm lòng vàng. Một sự hy sinh cao cả, tận tụy, vô bờ. Như bắt được vàng, tối hôm đó tôi chuẩn bị câu hỏi và phim ảnh để sáng chủ đề 14/201
mai qua sông sang quận 8. Đúng, phải sang sông mà không phải phóng xe bon bon qua cầu theo đường bộ. Có cảnh sang sông, bài viết mới sống động, nhân vật của tôi sẽ nổi bật. Chưa gặp Cao Thị Miệt nhưng sự hy sinh của người đàn bà bị liệt hai chân đã đánh động trái tim tôi. Và tôi muốn, độc giả cũng rung động như chính bản thân tôi đã. Sáng hôm sau, tôi gửi xe trên bến Lê Quang Liêm rồi gọi đò qua sông sang quận Tám. Mới quá chín giờ, nắng đã gắt như sắp đúng Ngọ. Đò trôi lừng lững, chiếc sào đẩy mạnh, gió háo hức mơn man thổi lồng trong áo. Bên kia sông, dưới hàng dừa rợp bóng, nắng rọc không gian thành một bức tranh lập thể hai mầu. Thoáng chốc, đò cập bến. Tôi cẩn thận bước lên chiếc cầu liêu xiêu bắc lỡ. Một phiên chợ nhỏ quanh quẩn bán đồ ăn sáng. Tôi đi dọc bờ sông, dò theo những quán cốc lô nhô bày giữa lối đi. Tay cầm mảnh giấy mà địa chỉ đã thuộc lòng, hẻm 13, nhà số 33B, màu xanh, trước hiên có phơi những bó cói. Khi tôi đứng trước nhà, mấy chị trong hội Phụ Nữ cũng đến sẵn từ sớm. Trong khi vồn vã chào hỏi, tôi liếc mắt quan sát. Căn nhà nhỏ, vách cây, mà là đủ thứ cây ván tạp nham đóng lại. Dọc theo vách là cói, những bó cói cuộn tròn, dựng men theo hai bên vách. Bàn ghế đơn sơ, nền xi măng bóng lưỡng như được lau chùi kỹ. Cao Thị Miệt không đứng được nên tất cả cùng ngồi đất. Chị Hội Trưởng bày trà nước và bắt đầu câu chuyện bằng một giọng ngậm ngùi. Khi mới sanh ra, chị Miệt vốn là một đứa trẻ bình thường, đến lúc lên ba thì bị một cơn bệnh thập tử nhất sinh lớn nhất trong đời. Cơn bệnh qua đi, khi hồi phục lại, cha mẹ mới phát giác đứa con gái nhỏ của mình sẽ không bao giờ còn cơ hội đứng lên được nữa. Mọi nỗ lực cứu chữa đều vô vọng trước căn bệnh nan y. Đôi chân mỗi ngày mỗi teo, cơ bắp rút lại, chỉ có đầu gối là to ra. Người đàn bà ba mươi ba tuổi mang đôi chân của một đứa trẻ mười ba. Kể tới đây, mấy chị giục chị Miệt vén quần lên.Hai ống chân nhỏ xíu, tong teo duỗi ngay ra trông giống như hai khúc củi cong queo, khô đét. Cứ nhìn xương thịt con người ta bị biến dạng thì tôi bị sốc.Trong khi mọi người xuýt xoa thương xót thì chị Miệt che miệng cười miết. Chị nhột vì bị săm soi, hay từ lâu sự bất chủ đề 14/202
hạnh lớn nhất trong đời đã biến thành một điều gì đó nhỏ nhoi, bình thường không đáng kể. Nếu không kể vể bệnh tật đã cướp đi quá nửa đời sống thì tôi tin giờ này chị đã có một gia đình khá. Bề ngoài không đẹp lắm, nhưng làn da trắng mịn đã thắp sáng ánh mắt và nụ cười đôn hậu. Một người đàn bà bình dị, dễ chấp nhận mọi nghịch cảnh. Chị kể, khi cha mẹ lần lượt qua đời năm chị mười lăm. Không thể đi đâu được nên chị nhờ bà con trong xóm giúp đỡ xin vào tổ hợp Mây Tre Lá lãnh cói về đan. Chị chống hai tay, lết thụt lùi, xoay trở gọn gàng bằng sức mạnh của một nửa người, rồi đem mấy cái khay bằng tre đã đan xong đưa tôi xem. Tôi coi sơ sơ, cái vụ Mây Tre Lá xuất khẩu này tôi biết quá rõ vì con gái lớn ở nhà cũng lãnh về làm trong những dịp hè. Vợ tôi dị ứng với vụ này, bả thấy con làm thì chửi, chửi tổ hợp, chửi cán bộ thu mua rồi chửi luôn nhà nước. Một cái khay đan mất cả ngày mà họ trả chỉ khoảng hai chục ngàn (chỉ đủ mua một chục trứng). Như vậy, không biết Cao Thị Miệt làm sao nuôi nổi gia đình chỉ bằng cái vụ Mây Tre Lá? Nghĩ vậy nhưng tôi không dám hỏi. Chị nói, cả nhà làm cật lực thu nhập cũng không nhiều. Ba người em tiếp tay nhưng tụi nó mau chán, chỉ có chị đóng trụ là lao động chính. Nhưng cũng chưa có ngày nào được hơn mười cái. Mỗi ngày chị sống với hy vọng, ngày mai rồi sẽ vượt. Và ngày nào cũng có mây tre để làm. Mười cái? Tôi giật mình, kinh ngạc trước sức làm việc kinh khủng của một người đàn bà tàn tật. Có lẽ khi con người bị đường cùng mới bật ra một sức mạnh phi thường? Nhưng đã vậy chưa hết, mấy chị trong hội Phụ Nữ tán thêm. Ngoài việc nhà, chị còn tham gia đóng góp nhiều phong trào tại địa phương. Bà hội trưởng ca ngợi không tiếc lời, Cao Thị Miệt còn là một phụ nữ tiên tiến, điển hình của phường, của quận trong năm năm liền. Năm nay, hội dự định đưa chị lên thi đua danh hiệu cấp thành. Sau đó, chúng tôi mỗi người một câu, tất cả đều ngưỡng mộ và thán phục trước những thành tích của chị. Đang nói chuyện thì người em kế chị về. Một cô gái khá xinh, cao ráo, tương phản với người chị bé nhỏ, choắt cheo. Cô chủ đề 14/203 bé không ở lâu, thoắt về rồi đi như một cơn gió. Chúng tôi bắt đầu nói về cô.
“Hết cơn bỉ cực tới hồi thới lai”. Tôi nói, bây giờ các em đã tốt nghiệp, có việc làm, chúng nó sẽ chăm sóc chị.” “Con nhỏ đó sắp lấy chồng, tụi nó xin ra riêng sau khi cưới.” Chị bật cười, giọng chất đầy mãn nguyện, “Mình cũng mong mấy em lớn lên đều hạnh phúc như vậy.” “Còn hai đứa kia?” Tôi hỏi. Chị thở dài, lo lắng. “Một đứa đang lông bông, còn đứa kia mới kiếm được một chỗ nhưng xa lắm, nay mai còn phải kiếm cho nó một chiếc xe làm chân đi lại.”
Buổi tối hôm đó, tôi soạn một bài thật công phu. Chủ yếu làm nổi bật nghị lực phi thường, sự hy sinh vô tận và sức làm việc không biết mệt mỏi của chị Cao Thị Miệt. Sáng hôm sau chủ nhiệm đọc, khen nức lời. Chúng tôi vội giao bài cho tổ kỹ thuật, rồi về. Thường ngày tới khâu này là hết. Nộp bài xong thì tôi quẳng sự việc lên chín tầng mây và kiếm một đề tài mới. Nhưng lần này thì khác. Hình ảnh Cao Thị Miệt cứ lởn vởn trong tôi như một nỗi ám ảnh không rời. Chỗ này thì Cao Thị Miệt đang cúi mặt, hai tay bấu lấy khung mây, mười ngón tay thoăn thoắt. Hình như tôi thấy cả mười ngón cùng đan chứ không phải chỉ có hai ngón trỏ và hai ngón cái. Góc kia thì đầy rẫy hình ảnh Cao Thị Miệt lết, hai tay chống đất như hai cái trụ, nhấc đít lên, cả thân hình tiến thoái tới lui trong bốn góc nhà. Ngươi đàn bà này làm cho người ta vừa thương hại vừa kính nể. Hẳn, khi bài lên báo, cả nước đọc, ắt chị sẽ hãnh diện và tự hào lắm. Nhưng mà điều này giống như một con dao hai lưỡi. Chị sẽ cố gắng không ngừng, và phải phấn đấu liên tục để đạt thành tích hoặc phá kỷ lục của chính mình. Người ta sẽ có cách để những anh hùng lao động, những chiến sĩ thi đua không có chỗ dừng chân. Chế độ không chấp nhận những thành tích thụt lùi. Không có ai vỗ tay hoan hô những người ngưng chạy. Vậy thì Cao Thị Miệt sẽ tới đâu trong cái vòng đua không có đích? Mà chính tôi và bài báo cũng đang góp sức xô Cao Thị Miệt tiến về phía trước. Một con chủ đề 14/204 người lẽ ra cả gia đình và xã hội phải có trách nhiệm chăm sóc, thăm nom.
Mấy tuần sau có tin vui từ Đông Hà, Quảng Trị. Lần nầy tôi không phải nhọc tâm vì “đụng” với anh hùng lao động hay chiến sĩ thi đua. Đây là một tấm gương chung thủy. Một túp lều tranh, hai quả tim vàng. Anh tên Phạm Văn Minh, chị là Hà Thị Nguyệt, cưới nhau năm mười tám, hai năm sau chưa kịp có con thì chị bị bán thân bất toại. Anh, với tình yêu vô bờ, hàng ngày vẫn cơm bưng, nước rót, tắm rửa cho vợ mà không một lần than vãn. Trải bốn mươi năm, tình yêu của họ đúng như tên gọi, sáng như trăng rằm. Bất chợt, trông người mà nghĩ tới ta, tôi xấu hổ. Lấy nhau hai mươi năm, chưa lần nào tôi tặng vợ một món quà ra hồn. Còn vợ tôi cũng vậy, chửi nhiều hơn nói. Không sao, tôi nghĩ mình nghèo. Cái nghèo khiến những lo toan trong đời sống vật vã nhau. Nhưng mà, anh Minh chị Nguyệt, họ đang sống ở Đông Hà, một địa danh nổi tiếng trong chiến tranh, cái vực máu và nước mắt của hai miền Nam Bắc. Thời bình thì là xứ “chó ăn đá, gà ăn muối” thế mà họ vẫn yêu nhau thắm thiết đó thì sao? Chuyến ra Đông Hà, chủ nhiệm cho quá giang bằng xe hơi, lượt về tôi phải đón xe ghé Huế trước khi về thẳng thành phố. Đây không phải là lần đầu công tác xa, tôi đã ra Đông Hà, tới Gio Linh, Vinh, Thanh và Nghệ. Càng ra Bắc, đất nước càng nghèo. Cái nghèo ẩn hiện, bàng bạc khắp nơi, cảnh vật giống như một bức tranh thiếu màu, nhợt nhạt. Tôi đã từng ghé qua, từng hít thở trong cái không gian khô khốc và buồn tênh, từng ngắm nghía những doi đất trơ trụi, những làng cát chạy dài, những thôn xóm xác xơ, những con người nhếch nhác...với một chút niềm thương cảm ơ hờ. Nhưng mà chuyến đi kỳ này tôi đặc biệt được anh em trong tòa soạn giao “trọng trách”. Thứ nhất, năm bắt chiếc chìa khóa tình yêu của anh Minh chị Nguyệt. Thứ hai, giải mã ẩn số của hạnh phúc. Buổi tối hôm qua, Tuấn Kiệt (người đẹp trai và lịch sự nhất tòa soạn), nói như thật. “Chộp ngay hay cướp lấy đều được cả, bố phải giật cho bằng được chiếc chìa khóa để cứu con.” chủ đề 14/205 “Sao phải cứu?” Tôi hết sức ngạc nhiên, vợ Kiệt tôi biết, là con gái đẹp, nhà giàu, làm quản lý ở khách sạn ngoại quốc. Anh em vẫn trêu, hai vợ chồng xứng đôi nhất nước.
Thi sĩ Ớt (một tay chăm sóc Vườn Thơ Cay), ghé tai nói nhỏ, “Chúa Nhật tuần sau là ngày cưới của vợ Kiệt, chú rể mới là Kim-Yung-Yi.” “Tài tử Hàn Quốc à?” Tôi trố mắt hỏi. “Không phải, Kim-Yung-Yi là chủ khách sạn Đại Hàn.” Tôi vẫn chưng hửng, đưa mắt nhìn quanh tưởng như mình bị gạt. Nếu là đùa, anh em có kẻ đã phá ra cười, nhưng bây giờ ai nấy đều cúi mặt. Gia Huy, phụ trách mục tư vấn Pháp Luật, nói. “Theo thống kê, bên Tư Pháp báo động, năm rồi có sáu mươi tám ngàn ba trăm đơn ly dị, Kiệt không phải là trường hợp duy nhất đâu, đừng có buồn.” “Hèn gì hồi đám cưới, tôi chả nhận được tấm thiệp nào có ghi “Trăm năm hạnh phúc” hay “Răng long đầu bạc”. Con người bây giờ thực tế đến dễ sợ, ở được mười năm thì đã trọn kiếp ba sinh, còn hơn nữa có thể là oan nghiệt tiền duyên, tôi cũng không biết nữa.” “Hôm qua”, thi sĩ Ớt nói, tôi viết một mẫu chuyện vui mà cười không được: Có hai vợ chồng mới cưới nắm tay nhau đi dạo, ai cũng hiểu, “À, họ hạnh phúc”; Ba mươi năm sau, thấy họ cũng tay trong tay, mọi người đều hỏi, “Ủa, tại sao?” Kể xong, thi sĩ nhìn tôi thở dài, “Anh ra gặp anh Minh chị Nguyệt, hỏi giùm tôi một tiếng, tại sao?” “Tôi cũng muốn biết.” Gia Huy lên tiếng. “Tôi nữa.” Bích Ngọc cộng vào. “Tôi với.” Tuấn Kiệt cũng giơ một ngón tay. Mang trong mình “sứ mạng” của anh em giao phó, lần này đi tôi chăm chú quan sát nhà cửa, người và vật. Xe chạy chầm chậm khi qua những căn nhà tạm bợ, phong phanh dựng sát hai bên bờ quốc lộ. Mắt tôi luồn tuột qua những liếp cửa mở hờ soi mói tận bên trong, làm như thể mỗi một nhà đều có một anh Minh chị Nguyệt. Và trong tâm trí, tôi tưởng tượng ra trăm ngàn hình ảnh của họ. “Canh tôm nau voi ruot bau, Chồng chan vợ húp, gật đầu khen ngon.” Nhưng mà bây giờ đập vô mắt tôi là chủ đề 14/206 những căn nhà trống hoác, đồ đạc lỏng chõng, trẻ con ở truồng nheo nhóc, ruồi bu không đuổi. Xa xa, đằng sau những xóm nhà là những doi đất lở lói, khô cằn, cây cỏ héo queo. Mùa Hè, những cơn gió Lào hong tới bừng mặt. Môi tôi khô, mắt nóng
ran, cơ hồ tôi đang thấy nhựa đường bốc hơi, không khí như tan loãng qua lần cửa kính. Tôi đã qua đây nhiều chuyến mà chưa lần nào tệ như lần này, không hiểu con người ở đây làm sao bám nổi cái mảnh đất “cày lên sỏi đá”. Hoặc không có sự lựa chọn, hoặc người ta phải yêu nơi chôn nhau cắt rốn bằng một thứ tình sâu đậm lắm. Chỉ có sức mạnh mãnh liệt của tình yêu mới làm con người chịu đựng được hoàn cảnh khắc nghiệt để tồn tại. Lý giải như vậy nhưng trong thâm tâm tôi vẫn cảm thấy có điều bất ổn. Nhan nhãn hàng ngày trên mặt báo không thiếu chi những người bỏ làng xóm lấy chồng Đài Loan, Đại Hàn, Singapore để đổi đời. Tối qua khi tiệc tàn, Tuấn Kiệt nói, “Thời buổi bây giờ hôn nhân là phương tiện, tình yêu phải có điều kiện.” Nói xong, mắt hắn đỏ hoe. Tôi định nói một lời chi đó để an ủi nhưng cuối cùng vẫn không mở miệng. Có lẽ nghèo tới một mức nào đó thì người ta không chấp nhận nổi hay mỗi con tim đều có một giá biểu riêng? Cuối cùng rồi xe cũng bỏ tôi xuống Đông Hà. Thị trấn nhỏ, đi loanh hoanh một hồi tôi cũng tìm được địa chỉ. Họ không nghèo như tôi tưởng. Một ngôi nhà vườn, ngói đỏ, ba gian, chung quanh có rào bao bọc. Đằng sau là là khu vườn rộng, những hàng cau thẳng tắp xen giữa là đám lá trầu xanh mơn mởn. Cơ ngơi này, mấy mươi năm một tay anh chăm sóc. Anh Minh tuy lớn tuổi nhưng trông còn phong độ, chị Nguyệt dáng mảnh khảnh, da mướt xanh, nằm dốc người trên chiếc gối thêu. Cả hai đều tiếp tôi niềm nỡ. Họ ăn ý tới nỗi mỗi người một câu kể cho tôi nghe chuyện tình của họ. Mà họ tin, duyên nợ là số mệnh, dây tơ hồng đã buộc chặt họ từ năm mười sáu. Thuở ấy anh Minh là học trò nghèo, làm thuê do cha chị mướn về. Vườn cau nhà chị do anh tưới tiêu từ dạo ấy. “Một trăm cây cau ngoài ấy đều có tên cả anh ạ.” Chị cười vui vẻ, “Một trăm cái tên như một trăm đứa con, nhà em thuộc lòng từ tên một đấy.” chủ đề 14/207 “Nằm đây cả ngày không thấy mặt ‘con’ mình có buồn không? Anh Minh bóp nhẹ bàn tay chị, pha trò. Úi chao! Những lời đường mật như vậy vợ chồng tôi đã quên phứt tự kiếp nào.
Tôi nhìn quanh giữa căn phòng lờ mờ, chị nằm đó trong tư thế bất động, mọi sự sống tập trung trên gương mặt. Quan sát một hồi tôi phát giác, người đàn bà này “đi” bằng đôi mắt. Một cặp đồng tử khô nhỏ và đen, linh hoạt di chuyển trong khi anh Minh đi đứng tới lui. Ánh mắt chỉ “bước” qua tôi khi anh Minh ra ngoài có việc. Nhân tiện tôi muốn hỏi chị nhiều thứ riêng tư trong đời sống, về tình yêu, về hạnh phúc, về bệnh tật, về những bất tiện trong việc ăn uống tắm rửa và những sinh hoạt riêng tư. Nhưng nhìn chị nằm một chỗ tôi lại ngại, không khéo mình khơi trúng vết thương của họ. Rà soát lại những câu hỏi trong đầu, tôi đổi ý. Bốn mươi năm mà phải tắm rửa, sữa sùng, tả tiết cho con cũng đuối huống chi cho vợ. Có lẽ tình yêu của họ là một ngọn lửa mãnh liệt và bền bỉ lắm. Nhưng nhiên liệu của nó là gì? Không có tình dục, tình yêu giống như một ngọn lửa thiêng bập bùng mà không có khói. Suy cho cùng, anh Minh mới là người giữ lửa, điều này chờ có dịp tôi phải hỏi riêng cho ra lẽ. Chị Nguyệt hình như đọc được những suy nghĩ của tôi, chị lên tiếng, “Nghĩ tội cho anh Minh, nhiều lần em xin anh ấy kiếm một người đàn bà khác mà anh cứ gạt ngang.” Mắt chị rươm rướm xem như mình có tội. “Em cũng chả biết làm sao hơn.” Hình như trong nước mắt có pha lẫn một chút gì kiêu hãnh nên tôi không đưa ra lời an ủi nào. Cơm trưa hôm ấy, anh Minh tăng cường thêm chai nếp than làm quà khai vị. Nhắp một chút rượu anh Minh huyên thiên kể về sự nghiệp của mình. Một trăm cây cau ngoài kia quả thật là một trăm “đứa con”, cây này khô rễ, cây kia vàng lá, anh thuộc làu làu chứng bệnh từng “đứa”. Cũng có lẽ anh yêu trầu cau ngang bằng như yêu vợ. Mà “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, chúng tôi lan man qua những chuyện tình ngang trái bắt đầu từ truyện Trầu Cau. Nhắc những nhân vật xưa tôi mới có dịp thán phục anh, một tấm lòng thủy chung tưởng chỉ có trong cổ tích. “Số mệnh sắp cả, anh ạ.”Anh Minh giải thích.Tôi không tin trên trời có một Đấng Cao Xanh nào đó tỉ mỉ sắp xếp số phận buồn chủ đề 14/208 vui của mấy tỉ người. Số mệnh ư? Con người vẫn có quyền chọn lựa cơ mà. Ví như như những tuyến đường Đông Tây, bạn có thể chọn hướng nào là tùy bạn. Nếu đi tuyến Đông sẽ gặp mặt trời mọc, đi hướng Tây sẽ gặp mặt trời lặn. Quy luật đã có sẵn nên người ta gọi đó là số mệnh chăng?
Cơm trưa xong, anh Minh rủ tôi ra vườn. Đi giữa hai hàng cau xanh mướt, mà lòng không thấy bình yên, trong đầu ngổn ngang trăm mối. Đang tìm cách gợi chuyện thì anh kêu chỉ cho coi một bộ rễ cau treo hay còn gọi là rễ cau nối, một phần rễ cau còn lơ lửng trên mặt đất. Anh cười, giới thiệu, đây là thuốc Viagra “ta” đấy, “ngon lành” hơn Viagra tây nhiều. Tôi chưa kịp bái phục kinh nghiệm tưới tiêu của anh, lại đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Với một người vợ bại liệt, người chồng sắt son như anh cần chi nghiên cứu những thứ này. Anh Minh vẫn chưa lý gì tới tôi điềm nhiên chỉ vẽ, dùng dao cắt bộ rễ thành từng đoạn, mỗi đoạn cỡ 2 phân, đem sao vàng, hạ thổ, cứ lấy 5 lạng sắc bốn phân còn một, dùng trước khi “hành sự” khoảng ba mươi phút, bảo đảm an toàn và hiệu quả một trăm phần. Nếu lấy rễ lúc trời sắp mưa, đầu mút có màu trắng thì tác dụng sẽ cao hơn. Tới đây, không nhịn được nữa, tôi cười lớn. “À há! Thôi, mau mau khai cho tôi nghe những mối tình ngoài luồng của anh đi.” “Tình ngoài luồng?” Anh Minh ngạc nhiên. “Làm gì có?” Tôi không tin, tôi nói. Vả, chứng cớ nghiên cứu Viagra còn rành rành ra đó. Anh Minh vẫn chối bai bãi. Anh than, tiêu, trà, cà phê đều xuất khẩu được nhưng trầu cau thì không, sự nghiệp của anh đành dậm chân tại chỗ. Nghiên cứu những vị thuốc là để tìm lối thoát cho cau trầu. “Thật không?” Tôi gằn giọng. “Thật.” Anh cương quyết, chắc như đinh đóng cột. “Nhưng đàn ông mà, làm thế nào mà anh ‘nhịn’ được?” Tôi vẫn chưa hết nghi ngờ, “Chả lẽ, nhịn cả đời à?” Anh Minh cười cười, “Tôi có bài thuốc nhịn, anh có muốn nghe không?” Là con nhà nghèo, từ nhỏ tôi đã nhịn đủ thứ, tới tuổi này tôi đã là một thứ ”Chúa nhịn” rồi, còn gì? Hôm ấy,trong chuyến về Nam lòng tôi bất ổn.Tôi viết gì về .. chủ đề 14/209 chuyến đi này? Nhất là làm thế nào trả lời cho đám bạn đã ủy thác ở nhà. Cái cảm giác vào đền không gặp thần, vào cung không gặp vua ám ảnh tôi nặng nề. Anh Minh nói, nhịn gì anh cũng chịu ngoại trừ nhịn đói. Điều này anh đã học từ năm mười sáu. Bỏ vợ ư? Anh không nỡ. Và anh cũng không biết sống ra sao nữa? Anh nói, tình yêu không tồn tại trong xác chết. Trước
khi yêu, con người phải sống cái đã. Tôi nghĩ, đó không phải thuần khiết là tình yêu. Khi yêu, người ta mong “cho” hơn là “nhận”, cảm thấy hạnh phúc trong sự hy sinh, phải thấy mình nhỏ nhoi, không đáng kể. Nhưng mà, tình yêu là gì? Tới Huế, tôi đang tìm vé về thì gặp người quen. Một đồng nghiệp làm ở báo Lao Động đang tháp tùng chiếc xe Hội Chữ Thập Đỏ trên đường ra Hà Nội. Tôi hỏi, đi đâu? Anh nói, làm phóng sự. Một thanh niên bị liệt bẩm sinh tự nguyện hiến đôi mắt để tặng ánh sáng cho một người con gái mù nào đó. Tin tức phát sóng mấy ngày nay, làng mù khắp nơi xao động. Tôi không mù mà cũng bị sốc. Hai con mắt còn quý hơn hai hòn ngọc. Vậy mà có người muốn xả thân để cứu người ư? Chao ơi, sao mà cảm động. Ai nói trên đời không có tình yêu, tự thân trước hết không phải nó là tình người với người đây sao? Một niềm cảm xúc dâng trào khiến tâm trí tôi liên tưởng tới hình ảnh Đức Phật xẻ thịt để nuôi sống diều hâu hay Chúa Jesus đang trân mình bị ném đá. Không cưỡng được, tôi cũng nài nỉ xin theo. Suốt trên đường đi, đầu óc tôi đầy dẫy hình ảnh của Du Thản Chi. Bạn nào đã lớn lên trong Nam trước 75 đã từng đọc truyện Kim Dung phải biết bộ Lục Mạch Thần Kiếm. Đây là một pho kiếm hiệp nổi tiếng được đăng hàng ngày trên báo Tia Sáng thuở trước. Nó nổi tiếng đến nổi đã được chuyển thể thành tuồng cải lương Kiều Phong A Tỷ. Trước khi nhắc đến Kiều Phong A Tỷ, phải nói sơ qua nội dung của Lục Mạch Thần Kiếm. Lục Mạch Thần Kiếm là tên một pho kiếm pháp tuyệt học bị thất truyền mà cả câu truyện là một cuộc truy tìm, tranh đoạt. Bối cảnh là một nước Tống loạn lạc trước âm mưu xâm lược của người Khiết Đan (Mông Cổ). Vì vậy, Lục Mạch Thần Kiếm trở thành hy vọng chống xâm lăng của người Tống, là hy vọng giữ nước của hoàng gia Đại Lý, và người Khiết Đan cũng bí mật đi tìm thứ vũ khí này. Mượn nội dung đó nhưng tác giả muốn lồng chủ đề 14/210 vào một chủ đề lớn hơn, đó là tình yêu muôn đời của nhân loại. Chủ đề này được dàn dựng xoay quanh chữ tình của bốn nhân vật. Kiều Phong, nhân vật chính trong truyện, một chánh nhân quân tử, một đại anh hùng tài ba đảm lược được mọi người tôn kính để trở thành minh chủ trong cuộc chiến chống âm mưu xâm lăng của người Khiết Đan. Nhưng sau này khi biết mình lại chính là người Khiết Đan, Kiều Phong đã trở về Bắc. Chính trên
quê hương mình, Kiều Phong mới nhận ra cuộc sống của người Tống hay người Khiết Đan đều cùng khổ như nhau, cả hai dân tộc đều bị đẩy vào cuộc chiến và trở thành vật hy sinh cho tham vọng của bọn vua chúa. Đặc tính nổi bật ở Kiều Phong là tình yêu giữa người và người, tình quê hương, tình bằng hữu. Trong mắt Kiều Phong, Vương Ngọc Yến (đại mỹ nhân trong truyện) không khác gì con số 0, (còn thua bà lão ăn mày). Trong lúc nhân vật thứ hai là Đoàn Dự (thái tử Đại Lý du hành) lại đúng là một anh chàng dại gái. Chàng tôn thờ sắc đẹp đến nỗi bằng lòng đánh đổi giang sơn vì Vương Ngọc Yến, (trong khi Vương Ngọc Yến xem chàng như một thứ công tử bột, lông bông, rỗi nghề). Người Vương Ngọc Yến hết lòng yêu thương chính là Mộ Dung Phục(đây là nhân vật thứ ba trong truyện). Mộ Dung Phục là một vị vương gia cuối cùng của tôn thất nước Yên, mang hoài bão phục quốc suốt cuộc đời. Tình yêu của Mộ Dung Phục là sự đam mê quyền lực, tham vọng cuối cùng mơ ước được ngồi trên ngai báu (cho dù phải bán luôn Vương Ngọc Yến). Đối với Du Thản Chi (nhân vật thứ tư), tình yêu là một thứ tình tuyệt đối. Khi yêu, Du Thản Chi tôn thờ người yêu ngang bằng thánh nữ và hạ mình làm kẻ tôi đòi. Vì yêu, Du Thản Chi cam tâm biến mình thành một thứ đồ chơi cho người yêu tiêu khiển. Trong khi A Tử (người yêu của Du Thản Chi, thực chất là một nữ ma đầu, một thứ cùng hung cực ác) suốt ngày chỉ mơ tưởng tới Kiều Phong, và xem Du Thản Chi còn thua súc vật. Vở cải lương Kiều Phong A Tỷ trích đoạn và xoay quanh mối tình tay ba: Kiều Phong, A Tỷ và Du Thản Chi. Đoàn Hương Mùa Thu trình diễn với Diệu Hiền vai A Tỷ, Tấn Tài vai Du Thản Chi. Tôi nhớ tới đoạn trong trại quân Khiết Đan, Du Thản Chi quần áo tả tơi, bị trói và cột như một con chó. A Tử sai quân quất những trái cầu gai vào người Du Thản Chi. Mỗi lần bị trái chủ đề 14/211 cầu gai xáng trúng đầu, Du Thản Chi thét lên đau đớn, A Tử lại cười ré. Tới những đoạn này, đám khán giả con nít hồi xưa lết gần tới ti vi, phẫn uất chửi. “Đồ đĩ ngựa.” “Con đĩ chó.” “Mày mà ra đây, tao xé miệng mày.” Một đứa thách thức.
Nhưng Du Thản Chi mấy ngày không thấy bị đem ra làm tấm bia thịt thì lo lắng, chỉ sợ A Tử buồn. A Tử trông thấy “tên tội đồ” đầu cổ máu me te tua quá bèn truyền niền đầu Du Thản Chi bằng một cái lồng sắt cho đỡ gớm. (Trên sân khấu người ta chụp vào đầu kép Tấn Tài một cái cối nhôm sáng loáng). A Tử trông thấy thích chí, gọi là “thằng mặt sắt”. Rồi nghĩ ngay ra một trò chơi, bắt “thằng mặt sắt” đút đầu vào chuồng thú cho sư tử nhai. Bị con sư tử (giả) ngoạm lấy đầu cạp cạp, Du Thản Chi kêu rú thất thanh. A Tử khoái trá, nhảy lưng tưng, vỗ tay đôm đốp. Từ đó, cứ buồn thì A Tử lại bắt “thằng mặt sắt” ra chơi. Du Thản Chi tuy kinh khiếp và đau khổ nhưng vẫn thấy an ủi vì mỗi ngày đều được gặp mặt A Tử. Chàng hy vọng một ngày nào đó A Tử sẽ động lòng và thay đổi. Mơ ước lớn nhất của chàng là được hôn vào chân của A Tử một lần. Tới đoạn gần cuối, A Tử bị mù. Du Thản Chi đau đớn và tuyệt vọng. Chàng dẫn A Tử lang thang khắp nơi đi kiếm danh y để hiến đôi mắt cho người yêu. Coi tới đây, bà Hai hàng xóm không nhịn được chửi, “Đồ ngu.” “Thằng bư.” Một bà khác phang thêm.“Cái thằng đần.” Người ta bắt đầu quay ra tấn công nạn nhân. Tới một mức nào đó họ cho rằng thái độ của nạn nhân đồng lõa với thủ phạm. Khi A Tử sáng mắt, Du Thản Chi bị mù. Tuy cảm động nhưng A Tử vẫn không yêu được Du Thản Chi. Phần đoạn kết, Kiều Phong bị lôi kéo vào cuộc chiến tranh không tránh khỏi. Để không phải tàn sát người dân vô tội, Kiều Phong đã nhảy xuống vực sâu. Quá tuyệt vọng, A Tử cũng lao đầu chết theo. Cảnh hạ màn, khi mọi người lục tục ra về, trên đỉnh núi chơ vơ chỉ còn một mình Du Thản Chi đứng ngửa mặt mà cười. Kép Tấn Tài rất nhập vai ở chỗ này. Tiếng cười thê thiết, chơi vơi. Tôi không hiểu cảm giác của Du Thản Chi lúc đó. Một giọng cười đau khổ, chủ đề 14/212 cười phẫn uất hay cười tự ngạo? Mấy chục năm qua nhiều khi nhớ lại tôi cũng chưa diễn tả được.Bây giờ, hơn lúc nào hết tôi muốn gặp người thanh niên có tấm lòng vàng này. Một Du Thản Chi bằng xương bằng thịt, sống thật ngoài đời. Đoàn Chữ Thập Đỏ dừng chân ở gần con “đê” ven sông Hồng. Nói là “đê” nhưng nhà cửa, tiệm quán đã mọc tràn lan khiến không ai còn nhận ra được nữa. Mùa Hè, mực sông thấp, nước
cạn trông rõ cả đáy. Mấy bè rau muống được cắm sào, thả lơ thơ. Đó là tài sản duy nhất của gia đình “Du Thản Chi”. “Du Thản Chi” thật ra không phải là đứa con duy nhất bị liệt bẩm sinh. Nhà có 5 người. Trước cậu còn có một người anh trai cũng liệt, và sau là đứa em gái mới 4 tuổi. Cha mẹ đã ngoài sáu mươi, ngồi trước sân, vừa bó từng bó rau, vừa kể với chúng tôi. Mấy tháng trước, hàng ngày nó cứ bắt ông cõng đi khắp nơi gần xa để tìm vợ. Nó sắm được cái này, ông lục trong túi ra một cái khăn gói cẩn thận bỏ trong cái bọc nylon mới tinh. Một cặp nhẫn cưới mỏng dính như sợi chỉ. Với cái này mà đòi mua con gái người ta ư? Ông bật cười khan, bây giờ nó lại nghĩ ra một trò mới cơ đấy. Tặng mắt? Mắt mày có mấy đôi hở? Từ trong nhà, “Du Thản Chi” lết vọt ra, nói như thét, “Thế sau này bố mẹ chết, ai nuôi chúng tôi?” “Thế mày tặng mắt, người ta lấy mày à?” “Tôi giao trước chứ, mà còn phải lựa nữa. Một người con gái phải ngoan, phải hiền, phải siêng năng, và chung thủy nữa.” “Ơ hơ,” Ông bố lại cười khan, “Nằm mơ con ơi! Mày tìm người mù chứ có kiếm người ngu đâu?” “Câm ngay.” Trong nhà, một giọng quát dữ dội kèm theo tiếng đồ đạc vỡ loang xoang vang ra. “Câm hết cho tôi nhờ”. Cậu con lớn nổi giận. Chúng tôi lục đục ra về sau khi để những món quà khắp nơi gửi tặng. “Du Thản Chi” có vẻ hể hả tuy rằng người Chữ Thập Đỏ giải thích hy vọng của cậu không thể thực hiện. Cho tới bây giờ y học vẫn chưa ghép mắt được. Lượt về, xe chạy bon bon xuôi thẳng về Nam, nhưng sao tôi có cảm giác lòng mình đang dạt về một hướng khác. NGUYỄN THỊ THẢO AN (Viết theo phóng sự laodong.co.vn) chủ đề 14/213
HÀ NGUYÊN DU bệnh tật và nhà thơ
1
về căn bệnh tim mạch nguồn cơn xốc nổi dậy sóng gợn tình yêu em trong tôi đọa nòi tình về căn bệnh ốc đảo ngược ngạo mạn cực ly tâm tôi em giao thoa đau thương tràn ta bà về căn bệnh tự kỷ ám thị giác ngộ độc đạo tà tâm nguyện cầu chúa phật cứu độ về căn bệnh hãnh tiến thoái trào lộng hành hạ thủ trí thức tỉnh mơ mộng thực chất rỗng về căn bệnh háo danh mê sắc dục vọng động vật vã u minh chứng tật nghệ sĩ nghiện ngập về căn bệnh nhân danh nhân nghĩa cả quyết tung tác quái quỷ quyệt ma thuật trị chính trị tà … chủ đề 14/214
2
về chứng tật tằm còn đói dâu tằm ham nhả tơ tơ non tơ tơ chẳng dệt tơ nên vải …
về chứng tật ngọng chữ thường hay nói nghĩa không chân văn cứ nhảy tọt vào thơ nhảy cò cò … về chứng tật lớn cái ta tà cái tâm tiểu nhân ưa cố chấp thiếu từ bi thừa tham sân dư si mê !! ?? về chứng tật đập loạn mà không biết xây khi cầm bay bổng ú a ú ớ nguyên vật liệu … về chứng tật làm toán không rõ công thức làm văn không hiểu sử văn làm chính trị không thấu lịch sử … về chứng tật tham sống động cái thật là sợ chết không có lý tưởng lại có lý thú tính nhiều tham vọng !! HÀ NGUYÊN DU July 10/ 08 . 9:00 am
chủ đề 14/215
ĐỨC PHỔ tương tư
Vắng xa em. Hồn đọng giọt buồn
cây cỏ kém xanh hoa lá kém tươi đường sá thưa người phố sốt từng cơn chim chóc rồ điên giọng hót vạn vật sẵn sàng chờ tin thần chết và anh, được buồn thê thiết, với đêm. Vắng xa em. Anh không thể nào quên những nụ-mầm-hương-sắc không thể nào hiện hữu kể cả trong phút giây mê đắm với đời. Vắng xa em. Anh tiếc nụ cười một sớm người mê đò dọc như một hôm đánh liều lâm cuộc mặc phần thua dành sẵn, kẻ si tình. Vắng xa em. Mùa hạ trở mình treo ngược ngọn sầu lên, đỉnh nắng ôi, màu phượng ngày xưa nhạt nhòa hương phấn một góc trời hè rụng giữa hư không. chủ đề 14/216
NGUYỄN MINH TRIẾT những bệnh trạng của hồn
HỒN LÀ AI? “Hồn là ai là ai? tôi không biết ”Hồn theo tôi như muốn cợt tôi chơi…” Hàn Mặc Tử đã từng nhiều lần thắc mắc muốn biết hồn là ai mà sao hồn đã làm cho ông phải “đau rùng rợn đến vô biên”, phải “ngả nghiêng lặn lộn giữa muôn hình”, và phải “gào thét đến rởn óc cả thiên đường trần gian và địa ngục”. Như vậy hồn quả thực là kỳ bí và không chỉ Hàn Mặc Tử mà rất nhiều người trong chúng ta cũng không hiểu nổi hồn là ai hay hồn là gì. Thực tế thì hồn hiện diện khắp nơi trong ngôn ngữ và trong cuộc sống. Hằng ngày chúng ta vẫn thường nói một bản nhạc, một câu chuyện thật hay làm rung động con tim là “có hồn”, hoặc một người nào đó có những hành động đi thẳng vào tim mọi người và làm cho tim ta xúc động là một người “có tâm hồn”…Khi nói như vậy ta biết là ta muốn nói gì, nhưng lại rất khó xác định ý nghĩa của điều ta muốn nói. Tuy nhiên, ta có thể hiểu khi nói tới hồn là ta nói một điều gì có liên hệ tới sự chân thực, sự gắn bó, nó cũng biểu lộ sự liên hệ đến tình yêu, đôi khi hồn cũng chỉ một cộng đồng, một tập thể như trong cụm từ “hồn dân tộc”… Một cách khái quát có thể hiểu hồn hay linh hồn là yếu tố tinh thần được coi là đối lập với thể xác gồm ý nghĩ và tình cảm, làm thành đời sống nội tâm, thế giới bên trong của một con người.Hồn cũng có thể hiểu như là tinh thần, là phần trí tuệ thuộc phương diện trừu tượng của đời sống con người.Ngoài hồn chủ đề 14/217 hồn đôi khi cũng được cho là đồng nghĩa với tâm linh là phần u việt của con người có khả năng cảm nhận, đoán định được trước các biến cố sắp xảy ra với mình. HỒN TRONG TRIẾT HỌC Nhưng để có một định nghĩa chánh xác cho hồn và biết thấu đáo hồn là ai hay là gì là một việc không đơn giản vì nó liên
quan đến phạm trù triết học và tôn giáo. Triết học từ lâu đã bận tâm thảo luận về sự hiện hữu và đặc tánh của hồn cũng như sự liện hệ giữa hồn và xác. Theo nhiều nhà phân tâm học và triết gia thì linh hồn nằm ở giữa ý thức và vô thức nằm giữa tinh thần và thân xác, nó không là công cụ của tinh thần cũng như của thân xác mà là công cụ của trí tưởng tượng. Hồn không là một vật thể mà là một đặc tính (quality) hay một chiều kích (dimension) của sự thể nghiệm cuộc sống và chánh chúng ta (1). Về phương diện triết lý và tôn giáo, hồn là bản chất tự nhận thức đặc biệt của từng con người. Trong ý nghĩa này, hồn được coi như nhứt thể với bản chất u linh của con người, nó hàm chứa yếu tố cơ bản của sự khôn ngoan trừu tưọng hơn là bộ óc sinh học. Không như thân xác có thể bị hủy diệt, nhiều tôn giáo cho hồn là bất tử và hồn có thể hoá kiếp để tái sinh vào những thân xác khác ở kiếp sau. Quan niệm hồn là bất tử nảy sinh ra nhiều ý kiến khác nhau về kiếp sau hồn sẽ như thế nào sau khi rời khỏi thân xác hữu hạn. Khi quan niêm là hồn bất tử đưa tới quan niệm là hồn có một sự sống riêng tách biệt với thân xác. Sự huyền nhiệm của sinh và tử, sự kỳ diệu của trí nhớ và trí tưởng tượng cũng như sự vận hành của ý thức khi ngủ hay khi ngất xỉu cho thấy có một sự sống bên trong sự sống của thân xác sinh học, nhưng lại không lệ thuộc vào thân xác sinh học. Quan niệm về sự hiện hữu của hồn trong thân xác đã có từ lâu đời. Vào thời Ai Cập cổ đại người ta đã tin là có hồn và tin là có một cuộc sống tương lai sau khi chết. Các ngôi mộ cổ chứa người và đầy ấp của cải là bằng chứng cho niềm tin là sau khi thân xác đã chết một cách vật lý hồn người đó sẽ được tái sinh và của cải vật chất tích trữ trong hầm mộ sẽ được dùng đến ở kiếp sau. chủ đề 14/218 Ở phương đông, Ấn Độ giáo và Phật giáo đều tin là có hồn và hồn sẽ tái sinh sau khi thân xác chết đi. Vòng luân hồi là vòng xoay của cái chết và tái sinh được điều khiển bởi Nghiệp (Karma). Nghiệp là tổng thể các hành động của một người, và là lực sẽ quyết định sự đầu thai kế tiếp của người đó. Trong những xã hội bán khai hay chậm tiến sự hiện hữu của hồn này được thể hiện rất rõ rệt qua những tập tục tế lễ, chữa bịnh… Riêng tại Việt
Nam, hồn cũng đưọc thừa nhận từ lâu trong tín ngưỡng dân gian qua những tin tưởng bình dân về hồn ma của người chết hiện về quấy phá người sống hoặc những nghi lễ gọi hồn trong các buổi ngồi đồng, hoặc cầu cơ, cầu vong… Trên bình diện triết học, phương đông nói chung và Việt Nam nói riêng chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo và quan niệm này đã dựa trên ba nguyên lý căn bản là “Hòa, Nhân, Linh”. Hòa là hòa hợp được hai đối cực như âm với dương, trời với đất, vuông với tròn, chẵn với lẻ, hữu với vô... Nhân là nhân chủ, con người phải làm chủ lấy vận mạng của mình không lệ thuộc vào Trời hoặc Đất vì Người là một trong Tam Tài Thiên Địa Nhân. Con Người được đặt ngang hàng cùng Trời và Đất, một gạch nối sống động giữa Trời và Đất, không thiên về Trời quá mà cũng không dựa vào Đất quá. Linh là tâm linh, một quan niệm then chốt để đạt được hai mục tiêu trên. Tâm linh là điểm quang linh ẩn sâu thẳm trong con người, nhưng có tiềm lực huyền diệu vô cùng vì nhỏ cũng không trong mà lớn cũng không ngoài. Như vậy, theo quan niệm của Nho giáo thì để đạt được quân bình, cuộc sống phải có âm có dương, có hồn có xác, gồm cả trong lẫn ngoài. Con người không phải chỉ gồm những phần thân thể bên ngoài nhìn thấy, sờ mó được mà còn gồm cả phần bên trong vô hình, không nhìn thấy được đó là phần tâm linh hay còn gọi là hồn hay thần. Và tiến trình của tâm thức con người là một tiến trình tiến hóa mà tận cùng là nhân tính tức là tiến đến chỗ làm con người đạt hết các chiều kích của con người để đáng được gọi là “nhơn linh ư vạn vật”. Linh hay Thần hay Hồn không ở hẳn nơi nào, nên không đâu là không có. Nói khác, Linh hay Hồn hay Thần có thể ở khắp nơi, ở khắp trong vũ trụ, đúng như trong câu nói “Thần vô phương”. Mặt khác, Nho giáo cũng quan niệm con người là một “Đại chủ đề 14/219 Ngã Tâm Linh”. Từ xưa đã có hai triết lý đối nghịch nhau về con người. Một bên là Tâm linh, một bên là Luận lý. Theo duy lý thì con người chỉ có một chiều kích gọi là Tiểu ngã là phần con người bị giới hạn trong khía cạnh vật lý và tâm lý, nghĩa là con người chỉ là con vật biết sống theo bản năng. Trong khi đó, phái Tâm linh lại quan niệm con người có 2 phần là Tiểu Ngã và Đại Ngã. Ngoài Tiểu Ngã như vừa được trình bày, Đại Ngã là phần
con người không có biên giới đóng khung, con người to lớn bằng vũ trụ như trong câu "vũ trụ chi tâm", có nghĩa là tâm con người cũng to lớn như vũ trụ. Nói một cách khác, tất cả mọi vật chỉ là một, vạn vật đồng nhất thể, vạn vật chỉ có một linh hồn, một Đại Hồn, một Chân Ngã của con người mà cũng của tất cả. Cũng theo quan niệm này thì loài người không đồng đều như nhau từ ý, tình và chí. Hàng triệu trẻ con không thể có cùng tiếng khóc; hàng triệu con người không thể có cùng tâm trí. Sự khác biệt đó gọi là cá tính cũng gọi là hồn hay tâm linh. Cá tính là sự tiếp nối cá thể. Cá tính chủ ý đến cái độc nhất vô nhị trong mổi cá nhân, cái mà Nho giáo gọi là 'thận kỳ độc' do trời ủy thác cho mỗi người và một người mà thôi. Không ai có thể thay đổi cá tính được; nó là cái tư nội, mới mẻ, tự nhiên không ước lệ, không bị sai khiến điều động, mà là đột khởi. Và vì cá tính vốn là tương quan sống động giữa âm dương, nên khi con người không nhìn ra đựơc cá tính con người sẽ đánh mất cuộc sống. Trong các xã hội phương tây xa xưa cũng tin có hồn và được quan niệm hồn như là một vi tố của lực vũ trụ được thiên nhiên truyền đạt sinh khí. Thời Hy Lạp mặc dù thừa nhận sự tách biệt giữa hồn và thân xác, nhưng lại cho hồn không có một sự sống riêng, hồn chỉ là một cái bóng không có khả năng sinh động. Đến thời Plato hồn được quan niệm gồm ba thành phần gồm lý trí hay tâm trí (logos) nằm ở đầu, tình cảm (thymos) nằm ở tim, và dục vọng (eros) nằm ở bụng. Theo Plato hồn và thân xác là hai thực thể (substance) riêng biệt và sự sinh tồn của thân xác có nhiều liên hệ đến các bạo lực của thiên nhiên đa hợp và thân xác là nhà tù giam giữ linh hồn. Các đệ tử của Plato sau này còn đi xa hơn và cho thân xác là địa ngục của linh hồn. Nhận thấy sự quá đà này nên sau đó triết gia Aristotle đã chỉnh sửa quan niệm trên và đưa ra một quan niệm ngược lại với sự phân biệt nhị nguyên triệt chủ đề 14/220 để giữa hồn và xác của Platon khi ông xác nhận hồn là một thực thể quan yếu có cuộc sống tiềm năng riêng và hợp nhứt với thân xác. Ông cũng phân biệt giữa hồn và trí, một bên không thể hiện hữu độc lập với vật chất, một bên thì vô chất. Sau này giáo lý Ki tô giáo cũng công nhận tánh cách nhị nguyên của linh hồn và thân xác nhưng lại đặt trọng tâm vào khía cạnh tinh thần của con
người và sự cứu rỗi cho linh hồn được coi như một mục tiêu quan trọng của cuộc sống. Đến thời Trung cổ các triết gia đã khai triển thêm các quan niệm về linh hồn của Plato và Aristotle và cho rằng phần hồn lý trí là một phần của thân xác mà sau này được gọi là niềm tin (faith). Họ cũng cho linh hồn là một thực thể, nhưng là một thực thể không hoàn chỉnh nên cần phải dựa vào thân xác để hiện hữu. Nhưng tuy dựa vào thân xác linh hồn là một thực thể tuyệt đối, không đan kết hoàn toàn vào thân xác và tự bản chất độc lập với các cơ chế sinh học. Trong các triết thuyết cận đại linh hồn cũng được thừa nhận nhưng theo những hướng nhìn khác nhau của hai học thuyết duy tâm và học thuyết duy vật. Theo khuynh hướng duy tâm, Descartes quan niệm linh hồn là một thực thể có ý thức trong khi thân xác chỉ là một thực thể mở rộng (extended substance). Cả hai đều là những thực tế khác biệt và không có mối liên hệ sinh tử nào với nhau. Điều nổi bật của học thuyết này là cho linh hồn được trú ngụ tại hạch tuyến yên (pineal gland), và linh hồn kiểm soát các cơ quan khác nhờ một chất lỏng luân lưu khắp cơ thể. Các triết gia sau Descartes phân biệt linh hồn gồm hai phần là thượng hồn (superior monad) và hạ hồn (inferior monad) được tạo dựng như hai cái đồng hồ với một nghệ thuật tinh xảo nên luôn luôn chạy một cách đồng bộ. Về sau, các học thuyết linh hồn nhị nguyên gồm hai phần thượng hạ đã bị triết gia Spinoza hoàn toàn bác bỏ. Theo Spinoza linh hồn chỉ có một và là một thực thể vô biên, trong đó tư tuởng và phần mở rộng (extension) là những thuộc tánh. Linh hồn và thân xác cả hai đều không là thực thể mà mỗi thứ chỉ là một đặc tánh của một thực thể. Linh hồn là đối trọng của thân xác và ngược lại. Gần đây nhứt giáo sư phân tâm học Stuart Hameroff thuộc Viện Ý Thức Lượng Tử (Quantum Consciousness Institute) của chủ đề 14/221 trường đại học Arizona tại Tucson đã giải thích sự tồn tại của hồn bằng quan niệm quá trình di chuyển lượng tử. Theo giả thuyết của ông não bộ của con người gồm hàng tỉ vi tố siêu nhỏ liên kết với nhau qua quá trình di chuyển của các lượng tử. Khi thân xác ngừng họat động, các vi tố siêu nhỏ đó cũng ngừng họat động nhưng sự di chuyển của các lượng tử không mất đi mà
thóat ra ngoài và các lượng tử này sẽ ghi nhận những gì xảy ra ở không gian chung quanh. Nếu người đó tỉnh lại, các lượng tử sẽ nhập trở lại não bộ và những gì chúng ghi nhận được khi thoát ra ngoài cũng được não bộ tiếp nhận. Đó là lý do tại sao một người hấp hối rồi tỉnh lại biết được nhiều chuyện đã xảy ra khi người đó hôn mê (2). Nhưng nếu người đó không tỉnh lại thì các lượng tử sẽ đi đâu? Để trả lời câu hỏi này, nhà phân tâm học Ian Stevenson triển khai giả thuyết của giáo sư Stuart Hameroff và cho rằng các lượng tử thoát ra đó được não bộ các trẻ sơ sinh tiếp nhận. Ông và sau này con ông là Tucker Stevenson đã phỏng vấn nhiều ngàn trẻ em và được biết trên một ngàn trẻ em có khả năng biết được nhiều sự kiện xảy ra trước khi chúng sanh ra đời. Trong thực tế những giả thuyết này còn cần rất nhiều nghiên cứu nữa trước khi có thể đi đến những xác định có tánh cách khoa học về sự tồn tại của linh hồn, nhưng những thử nghiệm này đã trong một giới hạn nào đó đã chứng minh được sự hiện hữu của hồn và thuyết tái sinh luân hồi của Phật giáo (3). Trong khi đó, học thuyết duy vật phủ nhận tất cả những quan niệm về linh hồn của học thuyết duy tâm và cho linh hồn chỉ là ảo tưởng của trí tưởng tượng hay chỉ là vật chất ở trang thái rất hiếm hoi. Học thuyết duy vật cho rằng chỉ có một vật duy nhất hiện hữu là vật chất mà chúng ta thấy được, sờ được hoặc cảm nhận được qua ngũ quan. Hay nói một cách khác, tất cả những gì chúng ta không cảm nhận được bằng ngũ quan đều không hiện hữu. Theo như luận lý của học thuyết duy vật thì tình yêu, trí tuệ, ngôn ngữ, tư tưởng, luận lý… tự bản thể không là vật chất nên không hiện hữu. Nếu chấp nhận điều này thì học thuyết duy vật tự mình đã tự phủ nhận sự hiện hữu của mình vì nếu tư tưởng, luận lý không hiện hữu thì học thuyết duy vật tự nó cũng không thể nào hiện hữu ngay từ đầu. Nếu con người không có linh hồn chủ đề 14/222 thì con người có khác gì một cục đá, một khúc cây đâu. Và điều này hoàn toàn không thể chấp nhận được. NHỮNG BỆNH TRẠNG CỦA HỒN. Như vậy hiển nhiên con người ngoài thân xác còn có linh hồn. Và giống như xác vẫn thường hay ốm đau, hồn cũng có thể
bị bệnh hoạn. Hồn cũng có những căn bệnh của hồn là những bệnh do những cảm xúc mạnh mẽ từ sự buồn giận cho đến sự vui sướng, kể cả sự cuồng nhiệt tạo ra. Khi hồn bị bệnh khả năng suy nghĩ, cảm xúc, tánh khí của con người bị thay đổi. Đồng thời khả năng liên hệ với người chung quanh và với đời sống hằng ngày cũng không còn được bình thường. Bệnh của hồn hay bệnh tâm thần vẫn thường hay được nhắc tới như bệnh mất ngủ, bệnh bị ám ảnh, bệnh chán nản, bệnh phiền muộn, bệnh ảo giác, bệnh sợ hãi, bệnh suy yếu tinh thần, bệnh điên loạn…Theo Diagnostic and Statistical Manual of Mental Illnesses được các nhà phân tâm học Mỹ dùng trong việc định bệnh thì có khoảng 300 bệnh tâm thần khác nhau, và con số này càng ngày càng tăng theo thời gian (4). Ngoài ra, thời đại mới ngày nay với quá nhiều những phương tiện truyền thông đại chúng, quá nhiều những biến động chính trị, quá nhiều những thay đổi trong cuộc sống gia đình và tính dục cũng đem lại cho hồn và xác nhiều bệnh trạng mới mà trước kia chưa có hoặc chưa được nhắc tới. Do đó, nền phân tâm học cổ điển cũng chịu nhiều biến đổi và xáo trộn để thích ứng với những bệnh trạng mới này. Hậu quả của cuộc sống hiện đại quá dồn dập là làm con người ngày nay không còn thì giờ nghĩ tới hồn và dành một chỗ trong chốn u linh của mình cho hồn dung thân. Con người ngày nay bị quá nhiều căng thẳng, vội vã thu hoạch, vội vã chi tiền, vội vã hưởng thụ, và cũng vội vã chết…đã xem nhẹ những biểu hiện của cuộc sống mà các nhà phân tâm học gọi là đời sống tâm linh (psychic life). Một người chỉ sinh tồn khi nào người đó có một đời sống tâm linh. Dầu cho cuộc sống có buồn đau không chịu nỗi, hay vui vẻ. hồ hởi cách mấy, đời sống tâm linh gồm có nhiều hệ thống biểu hiện liên hệ đến ngôn ngữ sẽ giúp cho ta tìm đường về với thân xác và với tha nhân. Nhờ có hồn mà con người có khả năng hành động và cuộc sống tâm linh là diễn trình chủ đề 14/223 cho các hành động đó (5). Vì sống vội vã nên thay vì giải thích và tìm hiểu ý nghĩ của các biểu hiện, con người ngày nay đã hành động hàm hồ, sống một cách buông thả, quên mất giá trị của hồn cũng như không tha thiết tìm hiểu nó. Con người ngày nay không có thời gian nghĩ đến hồn cũng như dành một không gian cho hồn. Con người
ngày nay quá tự yêu mình và quên hết mọi thứ khác. Họ lần lần không còn hiểu được diện mạo thật của mình, cá tánh luân lý của mình và do đó thân xác lần lần xâm phạm vào lãnh vực vô hình của hồn. Sự xâm phạm này đã đưa tới hậu quả là tình trạng đánh mất linh hồn. Vì mất linh hồn nên ta không thấy hài lòng với bất kỳ cái gì ta có. Vì thiếu hồn tính, ta cố thâu tóm mọi thứ cho thật nhiều với aỏ tuởng là số lượng có thể thay cho phẩm lượng. Tóm lại, có thể nói ngày nay là thời đại của phân hoá trầm trọng trong đó tinh thần chia lià với thân xác, tánh chất duy linh xung khắc với tư tưởng duy vật. Để thoát khỏi tình trạng đối kháng và xung khắc của hai cực này theo tác giả Marsilio Ficino chúng ta cần đến một khả thể thứ ba vẫn thường hay bị quên lãng đó là hồn. Hồn sẽ đứng giữa làm trung gian nối kết cho tinh thần và thân xác, liên kết ý niệm với cuộc sống, và tinh thần với vũ trụ (6). Điều này cho thấy Nho giáo cách đây mấy ngàn năm cũng đã nhận thức được vai trò của hồn trong việc làm trung gian giữa tinh thần và thân xác để làm cho cuộc sống được quân bình và vũ trụ được thái hòa. Như vậy Đông và Tây đều thừa nhận vai trò quan trọng của hồn vì nó mang lại nhân cách và cuộc sống tâm linh cho con người. Một nhân cách có hồn tính rất là phức tạp và phong phú và được hình thành bởi cả đau thương và hạnh phúc, thành công lẫn thất bại. Một cuộc sống có hồn không phải chỉ gồm có những ngày tươi sáng mà còn gồm cả những lúc tối tăm và điên rồ vì theo Proust “những người bị đau khổ mới cảm thấy gần gũi với hồn hơn”(7). Hồn là cội nguồn xác định ta là ai, nhưng ta lại không có khả năng họach định và kiểm soát hồn. Hồn phải được khám phá vì hồn luôn có nhiều bí ẩn và hành động khám phá này làm cho cuộc sống của hồn thêm phong phú và tươi đẹp bất ngờ. Sự bí ẩn nghịch lý đan kết giữa hồn và xác, giữa tối tăm và ánh sáng sẽ làm thăng hoa cho cuộc sống con người. chủ đề 14/224 Ngoài ra, để giúp cho sự thăng bằng và đan kết giữa hồn và xác theo triết gia người Đức C.G. Jung ta không thể tách phân tâm học ra khỏi tôn giáo vì sự tín ngưởng cũng như sự tin vào hồn giúp ích rất nhiều cho đời sống tinh thần và rất cần thiết cho việc có được một sức khoẻ tâm lý tốt đẹp (8). Tuy vậy, ngày nay rất nhiều người không còn tin vào tôn giáo cũng như vào hồn
nữa nên hồn không còn được đặt vào thang giá trị của cuộc sống của họ nữa. Và tình trạng này đã đem đến nhiều hậu quả tai hại cho cuộc sống vì khi hồn bị quên lãng và không được chăm sóc, hồn không những chỉ đi mất mà hồn còn để lại nhiều triệu chứng khủng hoảng về tâm thần như sự ám ảnh, sự mê muội, sự lo lắng thái quá, tâm hồn luôn bị giao động, không lúc nào được yên. Thêm vào đó, vì sống khép kín, con người ngày nay trở thành những người vị kỷ, ít giao tiếp với mọi người khiến họ có thể cảm thấy đau khổ nhưng không cảm thấy hối tiếc và khả năng giao dịch bằng ngôn từ mất dần hoặc không còn ý nghĩa khiến cho họ gặp nhiều khó khăn trong tương tác với xã hội. Vì thiếu hồn trong cuộc sống nên nhiều triệu chứng khác cũng được biểu hiện qua những lời than trách khác như nào cuộc sống vô nghĩa, trống rỗng, đời sống buồn chán hoặc quá căng thẳng, nhiều áp lực, vỡ mộng về hôn nhân, về gia đình, và về cuộc sống sinh lý... Tất cả những hình thái bệnh hoạn nêu trên của hồn đều có một mẫu số chung là người bị bệnh không còn có khả năng tự biểu hiện cũng như trí tưởng tượng bị cạn kiệt (9). Ngoài ra, cuộc sống hiện đại với quá nhiều phương tiện truyền thông đại chúng khiến con người bị tràn ngập bởi hình ảnh và hình tượng. Tất cả những ảnh tượng đó đã mê hoặc con người, chinh phục con người. Và hậu quả là làm cho con người trở thành hoang tưởng, không còn nhận thức rõ đuợc lằn ranh giữa mộng và thực, giữa chân và giả. Do đó, cuộc sống tâm linh (psychic life) của con người ngày nay luôn bị giao động giữa những triệu chứng vật thể và những ảo tưởng của thị giác …khiến con người như lúc nào cũng như mơ màng giữa hai thế giới thực và ảo và một nhân cách giả cũng trở thành phổ biến trong nhiều trường hợp. Nhưng trầm trọng nhứt trong các căn bệnh của hồn phải kể là bệnh tâm thần phân liệt, bệnh mất trí, bệnh điên loạn, hay còn được gọi là bệnh “hồn bị khủng hoảng” hay bệnh “hồn bị lưu đày”… chủ đề 14/225 Thông thường các nhà khoa học cho bệnh điên lọan là bệnh của thân xác và nguyên nhân gây ra bệnh là do nơi sự mất quân bình về phương diện hóa học hay cấu trúc của não bộ. Thực ra, theo nhiều cuộc nghiên cứu thì bệnh điên loạn là hậu quả của nhiều yếu tố như sự di truyền, ảnh hưởng của văn hóa cũng như các yếu tố về môi trường sống và nhứt là yếu tố tâm lý. Những
người bị bệnh này thường cảm thấy cô đơn, tâm hồn bất định, không còn cảm nhận được thực tại, không còn khả năng phân biệt được thực và giả, và thường sống trong ảo tưởng và ảo giác. Nhiều người bị bệnh không có khả năng biểu hiện bằng ngôn ngữ những suy nghĩ và những xúc cảm của mình một cách chánh xác. Không giống như bệnh của xác thường dễ dàng tìm ra nguồn gốc, bệnh của hồn phát xuất từ đâu, từ tim hay từ óc hay từ một nơi nào đó, cho đến nay dù khoa học đã bỏ nhiều công sức vẫn còn là một điều bí ẩn không dễ tìm ra câu trả lời. Tuy chưa tìm ra căn nguyên bệnh của hồn, nhưng từ xa xưa các triết gia Hy Lạp như đã trình bày ở trên cho hồn chỉ là cái bóng của xác nên bệnh của hồn và bệnh của xác có liện hệ với nhau. Vì vậy, muốn trị bệnh cho hồn có thể thực hiện bằng các phương pháp trị liệu cho xác. Dựa trên ý niệm cổ điển đó, Freud đưa ra một quan niệm nhị nguyên trong phương cách trị liệu tâm bệnh bằng “thiết bi tâm linh” (psychic apparatus) là một cấu trúc lý thuyết qua đó bệnh của hồn được thể qua hiện những triệu chứng tâm lý và triệu chứng thể lý. Quan niệm của Freud về tâm linh đã đưa nhiều khía cạnh của phân tâm học vượt lằn ranh giữa hồn và xác để khai phá nhiều lãnh vực đặc biệt của phân tâm học như các động năng của sự nỗ lực, sự xác định ý nghĩa của dục vọng…Bằng đề nghị những mô hình linh hồn khác nhau, khoa phân tâm học đã mở rộng ý niệm tâm linh, thừa nhận sự dị biệt của các phương cách biểu hiện, và tiếp thụ khoa bệnh lý học vào hệ thống luận lý của mình (10). Theo tường trình của các nhà phân tâm học thì ngoài các phương tiện thuốc men các người bị bệnh “hồn trong cơn khủng hỏang” có thể được trị khỏi bệnh nhờ tích cực tham dự chương trình trị liệu có tánh cách tâm lý xã hội như phương cách hành chủ đề 14/226 xử có nhận thức, phương cách tương giao cá nhân, phương cách sinh họat trong nhóm đồng sở thích, v.v… Trong khi đó, theo các nhà phân tâm học trọng hồn (soulcentered psychiatrist) thì bệnh điên lọan không thể chỉ chửa trị bằng thuốc và các phương tiện y khoa bệnh lý được. Vì bệnh điện loạn là một bệnh thuộc tâm lý, thuộc về phần hồn của con
người, bệnh của “hồn trong cơn khủng hoảng”, là tiếng kêu khẩn thiết của hồn để tìm sự quan tâm của xã hội nên các phương pháp phân tâm học đặc biệt phải được áp dụng trong trị liệu. Theo các nhà phân tâm học trọng hồn này, phương pháp trị liệu bằng thuốc và phương pháp cưỡng chế không những không hữu hiệu mà còn làm tỗn hại đến bệnh nhân. Có nhiều trường hợp người bị bệnh “hồn trong con khủng hỏang” rất là khôn ngoan, tài giỏi, và sâu sắc. Theo C.G. Jung một nhà phân tâm học giàu kinh nghiệm trong việc đưa bệnh nhân ra khỏi cơn “khủng hoảng của hồn” thì cách chửa trị là một nghệ thuật đòi hỏi sự thấu cảm, sự kiên trì, một chút hiểu biết đồng cảm về bản chất con người, và trên hết là một trái tim (11). Ông cũng hoàn toàn chống lại cách chửa trị có tánh cách cưỡng chế và nghiêng về vật thể vì nó vi phạm đến nhân phẩm và sự tự do của bệnh nhân. C.G. Jung chủ trương người chửa bệnh là nhà phân tâm học và người bị bệnh phải mặt đối mặt một cách bình đẳng, phải cởi mở, phải thành thật và phải tin cậy nhau trong các cuộc hỏi đáp để tìm phương cách trị liệu hữu hiệu để cả hai cùng học hỏi và cùng tăng trưởng. Nhìn chung, những người bị bệnh liên quan đến hồn này, ngoại trừ người bị điên loạn nặng cũng có cuộc sống bình thường. Những lúc không bị lên cơn, ngọai trừ những trường hợp đặc biệt, họ đắm chìm vào những đối tượng vô nghĩa và vô giá trị có thể đem lại cho họ những thoả mãn nhất thời, nhưng không phải là sự hài lòng làm cho hồn được thăng hoa. Do đó, để tránh tình trạng đánh mất hồn hoặc làm cho “hồn bị đi hoang” hay “hồn bị khủng hoảng” chúng ta phải biết chăm sóc hồn. Chăm sóc hồn đòi hỏi khéo léo và quan tâm. Giống như nhà nông chăm sóc và vun quén ruộng vườn, con người phải biết chăm sóc và vun quén cho hồn mình được phát triển lành mạnh. Một hồn lành mạnh là một hồn có một cuộc sống được triển khai chủ đề 14/227 tỉ mỉ, có liên hệ với xã hội và vạn vật chung quanh, cũng như đan kết vào cuộc sống văn hoá của gia đình, quê hương và thế giới (12). SỰ PHÁT TIẾT CỦA HỒN TRONG VĂN CHƯƠNG
Từ rất lâu, quan niệm về hồn và xác, về sự tái sinh của hồn đã phổ cập và hiện hữu trong rất nhiều tác phẩm văn học và văn chương Việt Nam. Kho tàng văn chương Việt Nam mênh mông nên người viết không thể và không có khả năng để tra cứu và duyệt xét tất cả các áng văn chương, thi phú có đề cập đến vấn đề hồn xác hay những tác phẩm văn chương phát sanh từ những bệnh trạng của hồn được. Ở đây người viết chỉ xin được đề cập sơ lược đến một vài trường hợp khá tiêu biểu dưới khía cạnh phân tâm học như vừa được trình bày ở các phần trên. Ngoài một Nguyễn Du từng tin tưởng “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” và “Thác là thể phách, còn là tinh anh” trong số các tác giả cận đại tin tưởng và đề cập đến hồn nhiều nhứt trong văn học Việt Nam phải kể thi sĩ Hàn Mặc Tử. Hàn Mặc Tử vì bị bệnh phong nên đã phải bị sống cô lập cách biệt với mọi người. Sự cô độc về vật thể cũng như về tinh thần này đã làm ông rất khổ sở tột cùng nên đã phải thốt lên: “Chao ôi! Ghê quá trong tư tưởng, “Một vũng cô liêu cũ vạn đời”. Tình cảnh cô liêu đó theo năm tháng đã lắng sâu vào vô thức của ông để cuối cùng đưa đến một kết quả rùng rợn lạ lùng là ông cảm thấy được sự hiện hữu của linh hồn và linh hồn này luôn quanh quất bên mình. Ngoài ra, vì phải sống cô độc nên tất cả những ham muốn và khát vọng từ thân xác, trái tim, trí tuệ của một chàng trai đang đầy sức sống đã bị dồn nén vào tâm thức và vô thức để cuối cùng phát tiết ra thành những vần thơ đầy đau thương và điên loạn cùng với những vần thơ yêu đương hoang tưởng cho những người yêu có thật và không có thật. Những cơn hành của bệnh đã ảnh hưởng rất nhiều đến linh hồn của ông và tất cả các đặc trưng về bệnh trạng của “hồn bị khủng hoảng” như đã trình bày ở phần trên đều được thể hiện nơi ông. Nhưng khác với người thường, sự đau đớn của linh hồn và thể xác này đã được phát tiết ra thành những vần thơ lãng mạn tuyệt chủ đề 14/228 vời mà ông đã để lại cho đời. Trước hết, Hàn Mặc Tử cho chúng ta thấy tầm kích siêu việt của con người và cuộc sống không chỉ có thân xác mà còn có một phần hồn kỳ diệu và không được bình thường như trong trường hợp của ông:
“Hồn đã cấu, đã cào, nhai ngấu nghiến “Thịt da tôi sượng sần và tê điếng”. Vì hồn đã làm cho ông quá đau đớn nên ông nhiều lúc cũng muốn diệt hồn để diệt sự đớn đau mà hồn mang đến cho mình: “Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng êm “Cho trăng ngập, trăng dồn lên tới ngực…” Nhưng không được và hồn cứ bám theo ông nên nhiều lúc bị hồn hành đau đớn quá ông đã phải hét lên hỏi hồn là ai, nhưng thực ra hồn không có gì xa lạ mà là một thực thể của chính ông bàng bạc khắp nơi. Nhiều đêm hồn của ông đã xuất khỏi thân xác để đi vào cõi trăng sao trùng trùng: “Vì không giới, nơi trầm hương vắng lặng “Nên hồn bay vùn vụt tới trăng sao.”
Hoặc hồn quẩn quanh đùa cợt cùng ông: “Ai đi lẳng lặng trên làn nước “Với lại ai ngồi khít cạnh tôi.” Và rồi ông tự ngắm xem mình: “Sáng trưng sáng cả vùng tiên động “Ta ngắm hồn ta dáng trẻ măng.” Hồn với Hàn Mặc Tử đã trở thành người bạn thân thiết vì hồn chính là máu là não của ông và hiển hiện trong cùng khắp thơ văn của ông: “Ta muốn hồn tràn ra đầu ngọn bút “Mỗi hồn thơ đều dính não cân ta.” Tuy vậy, không phải lúc nào thơ ông cũng lãng mạn và tuyệt vời. Trong sự nghiệp của ông để lại cho đời cũng có không ít những bài thơ, những câu thơ không vần điệu hoặc đầy rối rắm và khó hiểu. Những câu thơ dưới đây là một thí dụ cho sự rối rắm và khó hiểu đó: “Ta đi tìm nụ tầm xuân “Gặp vua nhà Nguyễn bay trên mây “Rượu nắng hồng vào thì say chủ đề 14/229 “Áo ta rách rưới trời không vá “Suốt bốn mùa trăng mặc vải trăng…” Ngoài sự rối rắm khó hiểu thơ của ông còn gồm những mạch ngôn từ nhiều khi đứt đọan, và mạch tâm tư bất định cũng như đầy những hình ảnh kinh dị hoặc dị kỳ. Tất cả những chỉ dấu đó
là những đặc trưng của một tâm hồn bị khủng hoảng trầm trọng. Trong rất nhiều bài thơ của Hàn Mặc Tử đặc biệt là những bài thơ trong tập Thơ Điên của ông hầu như đều mang các đặc trưng của một tâm hồn điên loạn này. Nhưng sự điên loạn nơi Hàn Mặc Tử không phải là một sự điên loạn theo tình trạng bệnh lý bình thường mà là một sự điên loạn đầy tánh sáng tạo đúng như nhà phân tâm học C.G. Jung đã từng nhận xét. Qua những bài thơ trong tập Thơ Điên ta thấy Hàn Mặc Tử đã thực sự bước lên lằn ranh giữa thực và hư, sắc và không, hữu hình và vô hình, nội tâm và ngọai giới, trần gian và xuất thế, ông đã để “hồn vội thoát ra khỏi bờ trí tuệ” cho nên:
“Hồn hỡi hồn, lên nữa, quá thinh gian “Tìm tới chốn chiêm bao ngoài sự thực. “Hồn hỡi hồn, bay ra ngoài kia mức, “Nơi thiên sầu địa thảm giới Lâm Bồ.” Tuy đã nhiều lần đối diện với hồn, bao đêm cùng hồn ngao du khắp cùng đây đó nhưng ông vẫn không biết: “Hồn là ai, là ai, hồn là ai, tôi chẳng biết “Dẫn hồn đi, hồn đi ròng rã một đêm nay!” Dưới sự hành hạ của thể xác hồn ông thường bước qua bước về hai bên lằn ranh này khiến tâm thần ông khi bị rối lọan lúc lại sáng suốt, khiến giác quan bị đảo lộn và hồn thơ của ông rung cảm bén nhậy khác thường để viết nên những vần thơ độc đáo đầy kinh ngạc: “Tôi chết giả và no nê vô vạn “Cười như điên sặc sụa sụa cả mùi trăng” Hoặc: “Hãy theo ta! Hãy theo ta chầm chậm “Xuống bờ sông mà vớt mảnh hồn trôi.” Và đầy kinh dị: “Rồi hồn nhắm tử thi hồn tan rã, “Bốc thành âm khí loãng nguyệt cầu xa c h ủ đề 1 4 / 2 3 0 “Hồn mất xác, hồn sẽ nghiêng ngả,
“Và kêu rêu thảm thiết khắp bao la...” Và nhiều, nhiều lắm những dòng thơ độc đáo, ngông cuồng, rồ dại như vậy trong khắp các bài thơ ông để lại cho đời sau:
“Ôi ngông cuồng! Ôi rồ dạ,i rồ dại! “Ta đi thuyền trên mặt nước lòng ta “Ôi ngông cuồng, ôi rồ dại, rồ dại! “Ta cắm thuyền chính giữa vũng hồn ta.” Cuối cùng, biết mình phận số mong manh nên ông không dám say mê một điều gì chỉ xin cuộc đời hãy rộng lượng cho những rồ dại ngông cuồng của ông: “Thưa tôi không dám say mê “Một mai tôi chết bên khe Ngọc Tuyền “Bây giờ tôi dại, tôi điên “Chấp tay tôi lạy cả miền không gian.” Thực ra, cuộc đời phải cám ơn ông, phải cám ơn mạng số đã làm ông bị bệnh phong vì nhờ căn bệnh này mà nền văn học Việt Nam mới có được những vần thơ kỳ diệu. Nói đến sự điên loạn, ngông cuồng, ta không thể không nhắc tới một thi sĩ “đại điên” khác danh nổi như cồn trong những thập niên cuối của thế kỷ vừa qua, đó là thi sĩ Bùi Giáng. Viết về ông quả là việc làm liều lĩnh vì Bùi Giáng là một hiện tượng độc đáo của nền văn học Việt Nam. Văn nghiệp của Bùi Giáng vô cùng đồ sộ. Trong mấy mươi năm rong chơi cuộc đời ông đã để lại hơn hàng ngàn bài thơ và khoảng 55 tác phẩm khảo luận về triết học và dịch thuật. Đồng thời ông cũng để lại không biết bao nhiêu là giai thoại kỳ thú. Trong vòng nửa thế kỷ vừa qua, chưa có nhà thơ nào tạo được một bóng dáng lồng lộng trên vòm trời văn học Việt Nam như Bùi Giáng. Cho nên, không có gì ngạc nhiên khi có rất nhiều cây bút nổi danh và uy tín trên văn đàn đã viết về ông, đã ca tụng những công trình trước tác và dịch thuật to lớn của ông cũng như về những vần thơ kỳ ảo của ông. Ở đây người viết không dám lạm bàn về những lãnh vực ấy mà chỉ nhân bàn về các bệnh trạng của hồn muốn trình bày về phương diện phân tâm học một vài đặc trưng của bệnh tâm thần hay bệnh “hồn bị khủng hoảng” đã được chủ đề 14/231 chứng nghiệm như thế nào vào trường hợp của nhà thơ “đại điên” Bùi Giáng. Một nghi vấn vẫn được nhiều người đặt ta là Bùi Giáng có điên thực hay chỉ là điên giả? Muốn tìm câu trả lời chánh xác
chắc chắn không phải là một việc làm dễ dàng. Tuy nhiên nhìn lại những diễn tiến của cuộc đời Bùi Giáng ta thấy có nhiều cú sốc quan trọng đã ảnh hưởng rất nhiều đến những giai đoạn điên loạn trong đời sống của ông cũng như những đặc trưng của bệnh tâm thần như cho cuộc sống vô nghĩa, trống rổng, đời sống buồn chán hoặc quá căng thẳng, nhiều áp lực về tinh thần, chịu đau khổ về hôn nhân, về gia đình, và về cuộc sống sinh lý.v.v...đều chập chùng hiện diện trong suốt những ngày tháng Bùi Giáng rong chơi trong cõi ta bà. Theo sự tiết lộ của bản “Tiểu sử tự ghi” (13) thì ngay từ lúc hãy còn rất trẻ đời ông đã khởi đầu bằng một việc bất thường, đó là việc ông bị té bể trán lúc mới được 2 tuổi. Nguyên nhân không rõ vì đâu, nhưng vết thương chắc chắn phải rất trầm trọng nên ông đã phải khổ sở vì vết thương này suốt 2 năm trời và vết thẹo này vẫn còn nguyên trên trán cho đến khi ông khôn lớn. Điều này cho thấy về phương diện y khoa, óc của ông có thể đã bị chấn thương nặng nề từ lúc hãy còn rất trẻ và đây có thể là nguyên nhân gây ra tất cả các chuyện có tánh cách điên loạn trong đời ông sau này: “Lỡ từ lạc bước chân ra “Chết từ sơ ngộ màu hoa cuối cùng”. Mới sanh ra đời đã chịu một cú sốc nặng nề nên không có gì lạ khi vào tuổi thanh thiếu niên thay vì đi học bình thường như các người trẻ khác ông bỏ ngang việc học để về quê chăn bò và làm thơ. Đây đích thực là một chuyện làm rất không bình thường trong giai đọan đầu của cuộc đời ông. Một chuyện không bình thường khác là đối tượng cảm xúc cho thơ của ông không phải là cảnh đẹp, người đẹp mà là những con dê, chuồn chuồn, châu chấu… Trong bài thơ “Nỗi lòng Tô Vũ” sáng tác trong thời gian này ông đã so sánh chuyện đeo vòng mây cho dê với việc trao vòng cầu hôn cho vị hôn thê của mình ngày nào: "Ngẩng đầu lên nhìn anh mờ mắt lệ “Từ lần đầu vòng ngọc tuổi hai mươi chủ đề 14/232 “Trao người em trăm năm lời ước thệ “Đây lần đầu cảm động nhất mà thôi". Mối tình đầu mà ông nhắc tới ở đây đã không được trọn vẹn, vì lấy nhau không bao lâu người vợ yêu thương đầu đời đã vĩnh
viễn ra đi để lại cho ông một cú sốc khác cũng không kém phần nặng nề và làm cho hồn ông mang một vết thương lòng sâu đậm và những đổ vỡ cùng cực: “Tình thứ nhất? mộng mưa nguồn “Từ nay vĩnh viễn con đường chẻ đôi” ………. “Bỏ người yêu bỏ bóng ma “Bỏ hình hài của tiên nga trên trời “Bây giờ riêng đối diện tôi “Còn hai con mắt khóc người một con.” Từ đó, bóng dáng của người vợ đầu đời đã biến hiện chập chùng trong tiềm thức và ám ảnh ông suốt đời. Các đặc tánh về nữ tánh, về nguyên lý mẹ dần dần thấm sâu vào vô thức của ông để rồi phát hiện ra trong bóng dáng bất kỳ một người nữ nào khác mà ông sẽ gặp trong đời sau này: “Em ở lại với đời ta em nhé “Em đừng đi cho ta nắm tay em” …….. “Ôi người thục nữ Long Xuyên “Tìm đâu thấy lại thuyền quyên một lần”. Sự ám ảnh đó cũng đã làm ông say mê rất nhiều người nữ khác trong một trạng thái tâm thần rất không bình thường gồm từ Nam Phương Hoàng Hậu, nữ nghệ sĩ Kim Cương, nữ ca sĩ Hà Thanh, nữ tài tử Brigitte Bardot của Pháp, nữ tài tử Marilyn Monroe của Hoa kỳ... và nhiều người nữ tiếng tăm khác nữa… Đặc biệt ni sư Trí Hải đã được Bùi Giáng tôn lên làm mẹ, mẫu thân Phùng Khánh hay Phùng Thăng vì có lẽ ông đã tìm thấy nơi người nữ tu này điều gì đó gần gũi với hình bóng người mẹ xa xưa của ông: "Con thương Phùng Khánh vô ngần “Phùng Thăng thân mẫu cũng gần như nhiên…” Và nữ nghệ sĩ Kim Cương được ông trân trọng phong làm công chúa, còn ông thì làm vua của đường phố: chủ đề 14/233 “Kính thưa công chúa Kim Cương “Trẫm từ vô tận ven đường ngồi đây, “Tờ thư rất mực mỏng dày “Làm sao định nghĩa đêm ngày yêu nhau?”
Nhưng với Marilyn Monroe những lời tiếc thương của ông lại nhuốm đầy màu sắc dục: “Giữa hư vô nếu em còn “Nhớ ta em gửi cái hồn cho ta “Úp môi ôm mặt khóc òa “Cồn lê lên miệng là ba bốn lần". Hai câu chót bài thơ đặc biệt có giọng điệu dục tình kiểu Hồ Xuân Hương tuy không được bóng bẩy bằng, cho thấy tánh cách nói lái tinh quái của Bùi Giáng. Mặt khác cũng cho thấy sự ẩn ức về dục tính của ông. Kiểu nói lái này ta vẫn thấy được lập đi lập lại nhiều lần rải rác trong rất nhiều bài thơ của ông như các từ: tồn lưu, lưu tồn, tồn liên, liên tồn, tồn lí tí ngọ, tồn lập, lá hoa cồn …: “Lọt cồn trận gió đi hoang “Tồn liên ở lại xin làn dôn ra” ……. “Cá ở ngoài khe có ít nhiều “Cồn lau cỏ lách có hoang liêu…” Một vài chỗ khác ông lại rõ ràng không cần nói lái: “Bây giờ em ở nơi đâu “Cỏ trong mình mấy em sầu ra sao?” Sau thời gian chăn bò tuy không học hành một cách bình thường và liên tục ở nơi trường ốc ông vẫn thi đậu Tú Tài 2 vào năm 1950 ở Liên Khu 5 vùng do Việt Minh kiểm soát. Hai năm sau ông vào Sài Gòn thi lại Tú Tài 2 của vùng quốc gia rồi ghi danh học Đại học Văn Khoa. Nhưng sau đó lại bỏ trường và đắm mình vào trong những nghiên cứu tư tưởng triết học phương tây. Điều này cho thấy ông rất thông minh nhưng không thích ép mình theo khuôn sáo và nề nếp do xã hội đặt ra. Trong các tác phẩm của ông dù thơ văn hay tư tưởng triết học lúc nào ta cũng thấy tràn ngập một tư tưởng phóng khóang, phá bỏ nếp cũ, và những dòng thơ kỳ ảo sâu sắc. Trong những năm giữa thập niên 60 khi sức sáng tạo của ông chủ đề 14/234 rất dồi dào thì một cú sốc khác nữa lại xảy đến với Bùi Giáng: nhà ở của ông bị hỏa họan, rất nhiều sách vở quý hiếm và nhiều bản thảo đã hoàn chỉnh bị cháy rụi. Không rõ bao nhiêu bản thảo đã bi mất, nhưng chắc chắn là nếu không có biến cố tai hại này
có thể danh sách các tác phẩm của ông ngày nay đã dài thêm được vài ba tác phẩm nữa. Có thể vì sự mất mát này đã ảnh hưởng rất nhiều đến tâm hồn ông, nên sau đó những cơn điên loạn của ông trở thành thường xuyên và cao độ nên người nhà đã đưa ông vào bệnh viện tâm thần ở Biên Hòa chữa trị. Một thời gian ngắn sau không rõ lý do ông được xuất viện. Cuộc sống của ông lại tiếp tục trong trạng thái lúc tỉnh lúc điên và chập chùng những chiêm bao, mộng mị. Trong các bài thơ của Bùi Giáng hiển hiện đầy ấp những giấc mộng của Freud về từ vô thức nên có ít nhứt cũng gần 30 bài với tựa đề chiêm bao, và từ “chiêm bao” hay “mộng” cũng được dùng rất thường xuyên:. “Hỗn mang về giữa hiên nhà “Bây giờ cố quận tên là chiêm bao…”
“Anh về từ cuối nguyệt hoa Nhìn em như mộng mị xa xa dần …” “Giã từ cõi mộng điêu linh ”Tôi về buôn bán với mình phôi pha...” Rồi biến cố 30 tháng 4 năm 1975 xảy ra làm tất cả xã hội miền Nam đảo lộn. Dầu có điên ông cũng nhận biết được tình hình và những chấn động này lại là một cú sốc khác đã đẩy ông đến bờ vực chon von và đưa cuộc đời ông ra sống lang thang nơi vĩa hè và đường phố trong một trạng thái nửa điên loạn nửa thách thức:
“Anh đi đứng phố ngồi hè “Thiu thiu nằm ngủ lắng nghe chuyện gì.
“Bao ngày nằm đất ngủ trời “Lúc đi ngắm gió lúc ngồi ngắm sương…” Nhiều lúc Bùi Giáng đứng giữa đường la lối hoặc làm chủ đề 14/23 5 cảnh sát lưu thông chỉ đường: “Tráng niên ra đứng giữa đàng “Làm trò cảnh sát công an điều hành.”
Theo ông, tất cả những cái điên khùng của ông là do người, do xã hội đảo điên đã dồn nén và biến ông thành như vậy: “Tại người đâu phải tại ta
“Tại người như thế thành ta điên rồ.” Tuy vậy, sau năm 1975 cái điên của Bùi Giáng rất được nhiều người yêu thích vì một phần nào ông đã dám làm, dám phản kháng, và dám nói thay cho nhiều người những điều cấm kỵ trong một xã hội kỷ luật toàn trị chặt chẽ. Thông qua những dòng thơ và cách xử sự của ông nhiều người cho Bùi Giáng không điên hay nói một cách khác Bùi Giáng là một người điên đặc biệt. Ông biết rõ là mình điên, ý thức về cái điên của mình một cách rõ ràng. Đúng như C.G. Jung đã từng xác nhận cái điên của Bùi Giáng là cái điên sáng suốt trong một tình thế không có cứu cánh nào khác nếu không tìm về bản thể của con người. Tuy bệnh trạng của ông đã được xác nhận về phương bệnh lý nhưng cũng có nhiều yếu tố cho thấy sự điên khùng của ông cũng có thể là một nhân sinh quan. Thấm nhuần những tư tưởng triết học phương tây đặc biệt là tư tưởng hiện sinh của Martin Heidegger mà ông dày công nghiên cứu nên chắc chắn là ông phải bị ảnh hưởng rất nhiều nên có thể nói ông đã chọn lựa cho mình một quan niệm sống tự hủy để chứng tỏ sự tự do tuyệt đối của bản thân, sự chán ngấy cuộc sống, và sự phản kháng lại cuộc đời, phản kháng lại định mệnh: “Tôi xin chịu cuồng si để sáng suốt “Tôi đui mù cho thỏa dạ yêu em.” Não trạng đặc biệt của ông đã công phá chánh tâm hồn ông, đưa ông dong rủi giữa sầm uất của tri thức và mông lung của vô thức, vật vờ giữa mộng và thực, chập chờn giữa trí và hồn: “Người điên ngôn ngữ điệp trùng “Dở chừng như mộng dở chừng như mê” Ông đã điên, điên đủ kiểu, ông điên để quên phận người dâu bể và cuộc đời trầm luân biến đổi vô thường và khác với mọi người khi điên như vậy ông đã tìm thấy hạnh phúc: chủ đề 14/236
“Đời này đất đá cằn khô “Điên duỗi dọc, điên ngửa nghiêng “Điên là hạnh phúc thần tiên ở đời”...
Tuy vậy, mỗi khi sực tỉnh, hồn cũng cảm thấy đau đớn vô cùng: “Điên rồi rốt cuộc hỡi ôi “Cũng đành chấm dứt lìa đời hết điên.” Con người điên loạn hay cuộc đời đảo điên rồi cũng chấm hết khi nhắm mắt xuôi tay và cùng hẹn nhau về một thế giới khác có thể sẽ yên bình hơn…
Và Bùi Giáng đã giã từ chúng ta cũng bằng một té ngã làm vỡ mạch máu trong đầu như lúc mới chào đời chưa được hai tuổi để về trùng lai với thi sĩ Hàn Mặc Tử ở thế giới bên kia, một người cũng bị bệnh “hồn bị khủng hoảng” như ông. Bùi Giáng và Hàn Mặc Tử hai nhà thơ, hai thời đại nhưng có chung một căn bệnh của hồn. Hồn các ông đã trải qua nhiều cơn khủng hoảng trầm trọng do hậu quả của thể xác bị đớn đau vì bệnh tật hay vì trí bị nhiều cú sốc vật thể cũng như tinh thần. Những cơn bệnh của hồn đó của hai ông đã vô tình để lại cho đời nhiều công trình văn chương ngời sáng và ảo diệu. Cho hay bệnh tật chưa hẳn lúc nào cũng là tai ương. NGUYỄN MINH TRIẾT 07/08
Chú thích: (1) (6)(8) (12) Thomas Moore, Care of The Soul, New York: Harper Perennial, 1992, trang 5, xiv, xii và xviii. (2) http://www.quantumconsciousness.org (3) http://www.ial.goldthread.com/kidspage/stevenson.html (4) http://en.wikipedia.org/wiki/Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders
(5) (7) (9) (10) Julia Kristeva, New Maladies of The Soul, New York: Columbia University Press, 1995, trang 6, 28, 9 và 5. (11) Trích dẫn bởi Maureen B. Roberts, Ph.D., Soul in Exile, http://www.jungcircle.com/exile.html (13)http://vnthuquan.net/Truyen/truyen.aspx? tid=2qtqv3m3237n2n0n0nvn31n343tq83a3q3m3237nvn
chủ đề 14/237
N AM D AO
xổ lồng
Cửa sập lại, và như thế chút nắng ngoài kia chỉ còn hắt qua những chiếc chấn song sắt han rỉ. Người đàn bà bước đến, lông mày xếch lên, môi trề ra. Tại sao anh lại đánh ông ấy? Câu nói vừa dứt, ánh nắng chao nghiêng. Hắn giụi mắt, nhướng lên nhìn, ngô nghê, hỏi tại sao đánh, mà đánh ai mới được cơ chứ! Người đàn bà lúc lắc cái đầu to quá khổ. Tay giơ chiếc nạng gỗ lên ngang tầm mắt, bà ta gằn, xem đây, còn dính cả máu, không phải anh thì ai quật vào đầu ông ấy. Ới giời ơi là giời, ông ấy có sao không? Sao chứ lại không sao! Chết rồi à? Chết thì chưa, nhưng chỉ tí nữa là toi. Lạy Giời, thật là may. Ai may, người đàn bà sẵng giọng, anh hay tôi, hay ông ấy? Chắc không phải tôi đâu, bà ta mỉa mai, giọng chua như mẻ. Hắn cúi gằm mặt, hai tay đấm thùm thụp vào ngực. Đúng thế, viết đi, cứ kiểm điểm là xong. Bắt đầu, khai ra tên tôi là… Tên… tôi… là… Phan Thượng Nhân, xã…huyện… tỉnh…Người đàn bà ghé mắt nhìn, gắt, không phải thế! Anh không phải là Phan Thượng Nhân. Thế ư? Vậy tôi là ai? Là Dân, bà ta cố trấn tĩnh. Hai tay đưa lên rồi bỏ cho rơi thõng xuống, bà ta bước ra khỏi căn phòng hẹp cuối hành lang. Tiếng chìa khoá tra vào ổ. Rồi tiếng xâu khóa leng keng đập nhau nhịp cho bước chân xa dần, mất hút. Hắn thở ra. Hắn dập chữ Nhân. Tôi tên là Phan Thượng Dân, quê ở…Khai thế này từ thuở học cấp hai, chán thế, như bát cơm vừa khê vừa nhão. Quơ chủ đề 14/238 chiếc nạng, hắn lảo đảo đứng lên. Đến dựa bên cửa sổ, hắn lẩm nhẩm, Nhân chứ. Thằng Dân là đứa em song sinh của mình cơ
mà. Hai anh em, chỉ khác nhau chỗ một thằng đầu có một khoáy, thằng kia tham lam, đầu có những hai khoáy. Mình nhường, một cũng được. Nhưng mình chưa bao giờ thấy tận mắt đầu mình một hay hai khoáy. Ở với nhau được đến năm lên sáu, lẽ ra mình có thể kiểm nghiệm trên đầu thằng anh hay thằng em kia. Vì không làm, nên mình là thằng nào, Nhân hay Dân? Con mụ hoạnh họe mình ngu thật, nó nhầm chứ mình làm sao lẫn được mình với người khác. Thôi, vào xóa chữ Dân vậy. Ơ mà này, nghe đâu có tiếng ầm ì từ cuối trời vẳng lại. Gió bất chợt bốc từng cơn cuốn thốc những chiếc lá bàng từ nền sân đất nện lên trời. Lá bay, nhìn xa tựa một đàn bướm nhởn nhơ chao lượn. Những con bướm này chẳng khác bướm bản Chênh Vênh chân Trường Sơn, bom đạn thế mà cứ ngu dại nhởn nhơ. Thời còn nằm ở địa đạo Vĩnh Mốc, thỉnh thoảng bắt được con nào thật đẹp là mình rút ruột rồi kẹp vào quyển sổ tay ép khô. Đồng đội trêu, ê này thủ trưởng, lính mà sao lại lãng mạn ủy mị như đàn bà con gái thế hả. Chúng nó nào có biết, xưa yêu quê hương vì có hoa có bướm. Có những lần trốn học bị đòn roi7…Còn nay ? Im miệng, cấm hỏi, tiên sư chúng mày, chuyện riêng tư. Ái chà, đồng đội đồng chí với nhau, ép bướm cho người yêu chứ gì! Cái con bé mắt lá dăm trong đội thanh niên xung phong thỉnh thoảng tải gạo đến đơn vị mình, có đúng không? Thình lình sấm động. Mưa thưa hột lộp bộp. Bóng ai như Thắm thì phải. Bầu trời nhoáng lửa bổ dọc thành hai mảnh run rẩy. Tiếng sét xé không gian tưa ra như tấm áo mục rách tả tơi. Nay yêu quê hương vì trong từng nấm đất… Khốn nạn, Thần Sấm vừa qua, Con Ma đã tới. F-4 hay F-108 đây ? Nhìn ra ngoài cửa sổ, mình kêu toáng lên, bướm ơi, có cánh thì bay, bay đi cho nhanh. Nhưng sao đàn bướm vẫn cứ chập chờn lượn quanh Thắm. Thắm ơi, vào hầm trú, nó đánh bom. Con Ma rú rít sẹt ngang đầu. Đất đá tung tưởi. Có một phần xương thịt của em tôi. Mưa nặng hột, rào rào vỗ lên những mái tôn cười từng tràng phụ chủ đề 14/239 họa cho trận bom nổ trên thân thể Thắm đang bị vây hãm trong đàn bướm nhởn nhơ. Hắn vung chiếc nạng thẳng cánh quật vào khung cửa sổ, miệng há hốc gọi tên Thắm, mắt lồi ra đỏ lè như lửa bốc cháy 7 Thơ Giang Nam
rừng. Quị xuống, hắn rúc đầu giữa hai đầu gối, người co giật, bọt mép nhễ nhại ứa trắng, và cứ thế gào thét cho đến lúc có người tung cửa xông vào. *
Cuộc hội chẩn gồm 3 giọng. Giọng 1, ề à, miệng thỉnh thoảng chép chép như thể đang xỉa răng, có lẽ là giọng một chức sắc trong ngành nghề. Giọng 2, đa dạng, lắm lúc the thé rồi bất chợt hạ xuống thầm thì bí mật, đúng là giọng con mụ ấy, đang ở tuổi mãn kinh nhưng vẫn lăm le lên chức trưởng khoa một ngành trị liệu trong cái nhà thương Sài Đồng chẳng mấy ai để ý đến này. Giọng 3, giọng thanh niên, phát ngôn kiểu có chút nóng nẩy của anh y sĩ nào đó chắc mới ra trường. Giọng 2 : Báo cáo anh, đây là lần đầu bệnh nhân nổi hung đánh người chứ bình thường, anh ta ngồi đâu ngồi đó, im như thóc, lành như đất. Em theo rõi anh ta từ gần năm nay, không thấy triệu chứng gì, lắm lúc còn nghi vấn anh ta giả bệnh để khỏi phấn đấu kiếm ăn bên ngoài… Giọng 1 : Ờ…cũng có thể, thương phế như thế khối người vờ vịt chứ ra khỏi nhà thương là chỉ có đói… (chép, chép) Thời này hết bao cấp nên thấy tống khứ đứa nào được cứ tống, ngân sách chẳng có bao nhiêu, tỉnh cứ dùng dằng, cuối năm rồi mà vẫn chỉ giao chưa đến năm mươi phần trăm. Ờ ờ… Thuốc men thì từng bước chuyển dần sang Đông Y (tiếng mở giấy loạt xoạt) Ờ… Phan thượng Dân, thiếu úy Quân Đội Nhân Dân…ờ ờ…Mặt trận Quảng Trị, bị bom…ờ ờ …Huân Chương Chiến công, phục viên, về Kiến Thụy rồi được lên Hà Nội học Tổng Hợp, khoa Văn… Bộ Thương Binh Xã Hội báo cáo y phát rồ, suốt ngày đi bắt châu chấu, không lao động. Y lại có tật chửi đổng…(cười) có thể gây hoang mang cho quần chúng…Ờ ờ…Thỉnh thoảng y khóc rống lên rồi gọi tên Thắm, gọi mẹ. Bộ đẩy đương sự về địa phương, rồi Ủy ban Nhân Dân Xã khiếu nại trả đương sự lại cho cơ quan quản lý xã hội thương binh....Hừm …kéo qua giằng lại chủ đề 14/240 và cuối cùng thì là nhà thương đây (thở dài, tiếng gấp giấy loạt xoạt). Các đồng chí nghĩ thế nào?
Giọng 2 : Báo cáo thủ trưởng, em cho là hung bạo gây thương tích thì phải xử lý nội bộ, có biện pháp cải tạo, không được thì trừng trị… Giọng 3 : Em xin phép được phát biểu…(hắng giọng) Đó là đối với những người bình thường, chứ với người bệnh thì hành động của bệnh nhân vô ý thức. Vì thế xử lý, cải tạo, trừng trị là thế nào ? Nhà thương chỉ có một việc là chữa bệnh cho người ốm, và muốn chữa thì phải đi tìm căn do… Giọng 2 (cười, khinh khỉnh) : Ai chả biết thế, học ở trường mà. Chú không biết chứ thực tế nó khác. Làm bậy, cai bệnh cứ đánh, đánh cho đau thì sợ. Cái sự chú gọi là vô ý thức được thay bằng cái sự sợ…Thế là vào khuôn phép, cứ răm rắp cả. Báo cáo thủ trưởng, mềm thì nắn, vào đến đây có rắn cũng nắn cho mềm. Giọng 3 (ngắt) : Nhà thương khác, nhà tù khác. Cai tù đánh thì khả dĩ còn hiểu được, chứ cai bệnh khác cai tù, chức năng là góp phần trị bệnh cho những người tâm thần. Cứ là cai thì có quyền đánh thì quả (cười nhạt)... ‘‘ta có cách của ta’’ thật… Giọng 1 (xen vào): Ờ…này nhé, đại đoàn kết thì đại thành công, phải không nào? Chúng ta trao đổi chuyên môn trên tinh thần nội bộ, các đồng chí nhớ cho…Ờ ờ…(miệng chép chép) Thế hệ mới được đào tạo có khác với cái thời của mình. Cứ như mình, học y được hai năm thì lệnh đi B, thế là khăn gói lên đường, vừa đi vừa học, phấn đấu…dưới ba ngọn cờ trong ba dòng thác Cách Mạng. Nhưng chuyên không bằng hồng, thằng nào cũng biết cái thời đó là như thế…Ờ ờ (nhìn người đàn bà, cười nháy mắt) Sau thì khác, phải lấy hồng xen chuyên mới được. (Quay sang thanh niên) Thời của cậu thì thế nào đây… Giọng 3 ( chậm rãi) : Thời chúng tôi là thời làm y sĩ thì công việc là chữa bệnh, tất phải chuyên. Còn hồng hay xanh hay đen hay trắng thì là chuyện quản lý, chuyện lãnh đạo ! Công nào việc nấy… Giọng 2 (cười nhạt, mỉa) : Cái thời trứng khôn hơn rận mà lại! Giọng 1 : Thôi, thôi! Tôi giao cho chú bệnh nhân này nhé… chủ đề 14/241 Phương án trị liệu của chú thế nào? Chú trình bày sơ qua cho chúng tôi biết, được không?
Giọng 3 : Phải tìm căn do. (tần ngần, lẩm nhẩm nói một mình) ...những con châu chấu, Thắm, lẫn lộn Nhân với Dân… Khung hiện thực vật chất chao đảo trên cái nền tâm linh hỗn mang… Giọng 2 (bực bội) : Báo cáo thủ trưởng, cái nền vật chất là cơ bản. Nền, chứ không phải khung! Cơ sở của duy vật biện chứng không chấp nhận đi ngược lại… Giọng 1 ( ê a) : Thôi, cho tôi xin…Đã bảo phải đoàn kết mà lị! *
Tôi tiếp cận với anh bác sĩ trẻ trong tư thế một con lợn bị trói. Phần trên ngực và hai tay tôi nong tròn trong chiếc áo vải cứng như mo mặc ngược từ trước ra sau, cột bó giò vào chiếc giường đơn bằng gỗ tạp. Phần dưới, cổ chân bị trói vào chân giường bằng một sợi chão chắc nịch, càng đụng đậy chão càng xiết vào khiến máu không lưu thông, lâu chân tê liệt đi. Nằm ngửa như thế hai ngày, bụng rỗng. Tôi biết đang trong Hỏa Lò, cái tên bệnh nhân gọi ‘’phòng cách ly’’ dành cho những kẻ lên cơn hay phạm kỷ luật. Thế nên kêu cũng chẳng ai nghe, mà dẫu nghe thì cũng không thay đổi gì, chỉ tổ khát nước. Đói còn chịu chứ khát thì lâu là mê mụ đi, mà chao ơi, những cơn mê lại kinh hoàng gấp trăm gấp ngàn lúc tỉnh. Nghe tiếng kẹt cửa, tôi giả tảng nhắm mắt, thở gấp lên, họng khò khè. Phương án này là để chống bọn cai bệnh, chúng thấy thế ngại mạnh tay, sợ bệnh nhân có thể ‘’ tút’’ qua bên kia thế giới. Bác sĩ cúi xuống, tay thò vào nắm lấy mạch tay tôi, hỏi anh thấy trong người thế nào? Được dịp, tôi rên lên. Tôi lắc đầu, thều thào, nước, cho tôi nước. Rồi vừa uống, tôi vừa nhướng mắt lên. Anh ta nhỏ nhẹ, cứ uống, từ từ thôi. Tôi gật gật, nhìn kỹ. Anh ta còn rất trẻ. Sau anh kể tôi mới biết anh tốt nghiệp Đại Học Y, tu nghiệp ở Cộng Hòa Dân Chủ Đức về ngành Tâm Lý, mới quay lại Hà Nội hai năm nay. Đây là một ngành tương đối mới, chỉ gần đây mới được chính thức đào tạo. Bệnh đường ruột, dạ dày, tim, phổi…có thuốc, thuyên giảm thấy và đo được. Đến chủ đề 14/242 mất ngủ, nhức đầu, đái đêm, di tinh, mộng tinh.. chẳng thuốc tây thì thuốc ta, cứ uống mãi, cơ thể cũng dần dần điều chỉnh quân
bình. Nhưng bệnh tâm là thứ bệnh nhập nhằng, bệnh không ra bệnh, kẻ mắc vào thì nhẹ gọi là hâm, là gàn, là dở người. Nặng hơn, là “chập dây”, là rồ, là tâm thần, là điên loạn. Đánh người đến suýt gây mạng vong thuộc diện điên ác, không phải điên lành. Và không khéo người ta đưa qua khu ‘’thế giới bên kia’’, tên biệt khu dành cho những bệnh nhân xếp loại nhà thương bó tay, không chữa trị, chỉ lăm le ghi tên vào sổ Nam Tào mong nhẹ gánh càng sớm càng tốt. Anh bác sĩ trẻ nhìn sao mà giống Chính Ủy tiểu đoàn mình đến thế. Cũng cặp kính trắng trễ xuống trên sống mũi nhô cao. Cũng cái cười nửa miệng. Cũng nhỏ nhẹ, hai bàn tay xoắn vào nhau lúc nói, đầu gật gù, giọng khi nhỏ khi to. Kéo tôi ra một góc vườn, anh hỏi, đã hồi sức chưa? Làm gì mà phải hồi sức? Anh quên rồi ư, mấy hôm trước nằm phòng cách ly vì đánh người. Thế à? Đánh ai? Tôi đáp, lơ đãng nhìn xuống thảm cỏ lung linh chút nắng vàng còn sót buổi cuối thu. Anh nhìn gì vậy? Ngóng quân. Đây này, đây này! Nó đấy, thế là bổ xung được một tốt. Tay bỏ chiếc nạng, tôi rón rén ngồi, tay kia với lên rồi thình lình từ cao chụp xuống. Mất thăng bằng, tôi chao người. Anh bác sĩ nhanh tay nắm được áo tôi, kéo lại, miệng kêu làm gì thế ? Đứng thẳng dậy, tôi từ từ mở bàn tay nắm hờ. Một con châu chấu còn non ngỏng cổ, mình đen, cánh ánh sắc xanh, râu lúc lắc, chân đạp, càng giơ cao. Tôi nghiêm trang, đưa tay lên chào: - Báo cáo Chính Ủy, bổ xung đợt này như vậy chỉ toàn lính trẻ, lại nhỏ giọt thế này, số quân trung đội tôi chưa lên được một nửa thời chốt ở Gio Linh. Anh bác sĩ lắc đầu, ai là Chính Ủy? Thì còn ai nữa! Theo chân tôi, Chính Ủy xăm xăm bước. Đến chỗ nằm, tôi bỏ nạng, mắt đảo một vòng, cảnh giác đề phòng rồi mới cúi xuống lôi từ gầm giường chiếc hộp các tông nắp có đục sáu cái lỗ thông hơi. Tôi mở nắp, chìa cho Chính Ủy xem. Trong hộp có năm con châu chấu ma cúi cổ dương càng rồi rút hết vào một góc. Thả con vừa bắt vào, tôi trầm giọng: -Báo cáo đồng chí, cách đây mấy ngày bị phi pháo, trung đội chủ đề 14/243 chúng tôi mất bẩy còn ba, yêu cầu bổ xung quân số càng sớm càng hay!
Thò tay vào nắm lấy con châu chấu non, tôi vặn béng một càng. Thấy Chính Ủy nhìn chòng chọc, tôi vội nói, tay vỗ vào cái nạng: - Đồng chí cứ kiểm soát, đội viên đứa nào cũng mất một càng. Đơn vị tôi đặt chỉ tiêu bình đẳng lên hàng đầu, quân trang quân dụng như nhau, tim một trái, chân một cái, cơm sấy lương khô chia đều. Thoáng một cái bóng thoắt qua. - ...Lại Nó ! Báo cáo đồng chí, chuẩn bị tác chiến, tôi gầm lên. Nhưng Nó là ai? Giằng lấy cái hộp, tôi luồn xuống gầm giường, nói vội, chắc đám lính Lữ Dù 2. Không, làm gì có ai đâu? Nó đấy, tôi hét, tay chỉ một người đầu quấn băng trắng vụt biến mất. - Nó làm gì ? - Báo cáo đồng chí, chính nó đã dập pháo vào đơn vị tôi, đạp một đạp, trung đội toi mất nửa. - Anh ta nằm cùng viện, có phải lính Dù đâu! - Chính nó đạp, anh em mới phản công, phạng cho một cú chí mạng. - À, ra thế! Anh bác sĩ chép miệng, lẩm nhẩm, tất cả là vì những con châu chấu ma… *
Sổ tay : ...người bệnh hai tháng liền không nói thêm một câu. Thăm anh, anh nhìn, cái nhìn vô cảm. Hỏi, anh quay đi. Vẫn vô cảm. Y tá kể, anh ôm hộp các tông có những con châu chấu, thỉnh thoảng mở ra ngắm nghía, lẩm bẩm chuyện trò. Thỉnh thoảng lại khóc, rấm rứt, tức tửi. Đêm đêm, anh mơ, miệng lảm nhảm. Bệnh nhân nằm giường bên nói, anh ngủ được thì ngáy to lắm, nhưng chỉ thế, không biết gì thêm…. Làm sao để anh nói cho bật ra cái phần vô thức? Vô thức = vô minh? Có phải phục hồi được phần ý thức là hết điên? Chắc chủ đề 14/244 gì! Có những cơn điên tập thể. Quẳng cả triệu người Do Thái vào lò thiêu chẳng hạn. Một xã hội cùng rủ nhau lên cơn điên thì
ý thức trong trường hợp ấy là cái gì? Vừa trình bày một chút lý luận, bà X, bác sĩ vừa hồng vừa chuyên bĩu môi. Bà nói nhỏ, nhưng vừa đủ cho mọi người nghe, rỗi hơi…Đồng chí Giám Đốc bệnh viện ề à phán, chủ nghĩa xã hội nghĩa là làm sao điên mà vẫn lao động cho tốt! Và nhất định cứ một câu, đoàn kết đoàn kết. Bà X gợi ý sang xin bên Công An thuốc ‘‘sự thật’’ cứ tiêm vào là có gì nói hết, vô thức nào cũng lòi mặt chuột, chẳng thể giả điên trốn lao động mãi được! Nóng mắt lên, mình bảo: chúng ta không phải là công an. Đồng chí Giám Đốc ề à, cái thứ thuốc sự thật đó bên nhà thương dân sự không có vì đất nước chúng ta còn nghèo. Và lại đoàn kết, đoàn kết, để chấm dứt buổi họp … Điên-tập thể. Nhắc chuyện này lại nhớ ông Elhanan Donnefeld, thầy hướng dẫn mình ở Berlin. Ông là Đức, gốc Do Thái, chạy sang Liên Xô vào đầu Thế Chiến 2 lúc 16 tuổi, xung phong vào Hồng Quân và là một trong số những người lính đầu vào giải phóng Berlin. Sau ông qua Moscova, học Y và chuyên ngành tâm bệnh trước khi trở về công tác ở Đức. Ông bị ám ảnh bởi cái chết của cả dòng họ ông, nội cũng như ngoại, khi tất cả mười sáu người máu mủ lủi thủi leo lên xe lửa đi qua Ba Lan dưới mũi súng phát-xít. Thời gian ấy ông mới mười ba tuổi, may được một bà già vốn là bà giáo dậy ông cưu mang, giấu xuống hầm trong một vùng ngoại ô. Bà bảo:’’ này Elhanan, con cũng sang BaLan, nhưng đi bằng con đường khác, và đi với một cái tên khác, một cái tên arien 8 chính hiệu...’’ Bà buồn rầu, thì thào:’’ Trong cái nước Đức này, họ phát điên lên cả rồi!’’. ‘’ Nhưng họ là ai?’’. Bà ngoảnh mặt, thở dài ‘’ Lạ một cái, họ chính là hậu duệ của những Holderlin, Heidegger 9...Tại sao những đứa con của một nền văn minh bỗng chốc thành bầy quỉ đi tàn hại con người hả ?’’. Elhanan được những người Đức theo Cộng Sản đưa qua Liên Xô. Khi về Berlin sáu năm sau, ông đi tìm nhưng bà giáo cứu ông đã chết. Elhanan nói, câu hỏi của chủ đề 14/245 bà cho đến nay ông chưa tìm được giải đáp hoàn toàn thỏa đáng. ‘’ Đó là món nợ với bà mà tôi còn phải trả! ‘’. 8 Giòng người Đức nguyên thủy, được Phát-xít Đức tuyên truyền là giòng đặc tuyển khai sáng và lãnh đạo loài người. 9 Nhà thơ và Triết gia Đức nổi tiếng.
*
Chính ủy dạo này thật lạ, hỏi han chuyện nhà chuyện cửa. Tôi thành khẩn : - Thưa đồng chí, tôi không nhớ được gì…Cha đi công tác ở đâu tôi không biết. Còn mẹ, mẹ tôi chết khi tôi còn bé. Tôi chỉ còn bà ngoại, già lắm rồi! Khi tôi lên đường đi B, bà dặn, sống khôn thì chớ chết, thác thiêng mà bà đi về hầu các cụ thì mày cũng chỉ có cháo lá đa thôi con ạ! Chính ủy lắc đầu, tay ghi chép. Vỗ vai tôi, Chính ủy thân mật : - Thế những người đồng đội, thân nhất là ai? Có kỷ niệm gì không? Nhất định là có, báo cáo đồng chí. Khi ấy, tôi đã bị điều qua sư đoàn 325, toàn tân binh mới vào để bổ sung chiến trường. Cùng qua coi bọn lính trẻ, có Tạ, Trung đội phó, đi B từ năm 67. Nó người Bãi Cháy, vạm vỡ, nhanh như vượn và khôn như quỉ. Tội một điều là nó hay nói, nói nặng, và nói thẳng với mọi người, kể cả cấp trên. Trước đó, có Trường Sơn chết ở Bàu Bính. Tay này yêu Giang, cô bé giao liên đi mua thuốc Tây bị chặn khám. Cô ta nuốt hết đủ loại thuốc để phi tang, nhưng sau đó thuốc hành đến phát điên. Bàu Bính bị tấn công, Giang cứ lừng lững đi trong lửa đạn. Sơn nhảy ra tính cứu, nhưng dẵm phải mìn chính ta gài để chặn địch. Rồi khi rút từ bờ bắc sông Nhung về An Thái, thằng Phi người làng, nói gở là thèm một bát cháo gà. Nó cũng chết, không hiểu chết thế nào, trừ chuyện khi chết nó vẫn đói. Cũng trong đợt ấy, có thằng An. Nó còn măng tơ, lãng mạn, ra trận sợ nên cứ i ỉ ngâm “…chiến trường đi chẳng tiếc ngày xanh.” Về đến An Thái mới biết nó lạc đâu mất. Cả trung đội không ai nói gì, nhưng đứa nào cũng nghĩ chắc nó toi, không bom đạn thì mìn chông, chẳng thể thoát được… Đầu tháng tám, hội nghị Paris tái họp. Chiến trường đột nhiên yên tĩnh. Hội đàm, tiếng nói át tiếng bom. Tạ ngửa mặt nhìn trời chi chít sao, cười khẩy “… nhưng át chủ đề 14/246 được bao lâu. Tiên sư chúng nó!” Tôi không đáp. Bọn lính “tơ”hoàn hồn, rủ rỉ tâm sự với nhau, kháo là hòa bình đến nơi
rồi. Ngồi bên Tạ, tôi nghe tiếng sột soạt. Quay nhìn, mặt nó đờ đẫn, tay thọc trong quần. Nó hự lên một tiếng, mặt áp vào đất ẩm, chân từ từ duỗi ra. Lát sau, nó thở phào, giọng bẽn lẽn “…tớ nhớ vợ tớ quá. Cứ đêm thế này, không bom không đạn là lại nhớ!” Rồi nó kể, vợ tớ kháu lắm nhé. Ngày làm than thì nhem nhuốc, nhưng nó về tắm một cái là trắng như tiên trên giời, sờ vào là má hây hây, người hừng hực. Nó hỏi tôi “…thế cậu đã… ấy với cái Thắm chưa?” Ấy à ? Ấy chứ lị. Nó hềnh hệch, ừ, làm ma không chồng quỉ không vợ thì phí của giời. Tôi khẽ quát “… lại nói gở.” *
Sổ tay : … Bất ngờ, bệnh nhân buột miệng nhắc Thắm. Hỏi gặng về Thắm đôi ba lần, bệnh nhân nín lặng, làm như điếc. Điều gì bí ẩn? Tuần trước, tôi lại lân la khơi chuyện. Vùng đứng lên, bệnh nhân réo tên Thắm gọi ầm ĩ, xông ra vườn, lết chạy đến kiệt lực rồi ngất đi. Thời gian sau, anh ta lại im lìm, không nghe, không nhìn. Xem lại hồ sơ bệnh lý, anh ta bị thương ở đùi, sau phải cắt vì vết thương nhiễm trùng tấy lên…Nhưng làm thế nào để gần gũi anh ta thì mới có thể chẩn cho sát bệnh? Mấy hôm nay, mình đi bắt châu chấu mang đến gửi bệnh nhân, miệng bảo, này quân tăng viện đây. Bà X bảo mình « lây » điên. Bệnh nhân có vẻ mừng rỡ. Ít nhất, anh ta cũng ngước lên nhìn mình, miệng kêu ‘’Cám ơn Thủ trưởng!‘’. Lân la hỏi anh về Thắm, anh quay mặt, tay trả lại những con châu chấu... ...Elhanan xưa có đề cập rất nhiều đến trạng thái psychose 10 vì sự tổn thương libido 11 mà bệnh nhân không chấp nhận. Ông ta cho rằng libido không phải chỉ là tình yêu và khả năng thỏa mãn dục tính trai gái. Libido rộng hơn thế, gần với Eros trong thần thoại Hy Lạp, chỉ thứ tình yêu giành cho cả cái thế giới bên ngoài của một cá thể. Nếu cái tình yêu đó mất và không có gì chủ đề 14/247 đền bù được, cá nhân trở thành cô độc và chỉ tồn tại được bằng cách tạo ra thế giới của riêng mình với những qui luật của nó, 10 Loạn tâm. 11 Dục năng.
dần dần tiến đến trạng thái tâm thần phân lập12, có thể mất hết ý thức về mọi hiện thực khách quan. Nhưng khi cái hiện thực khách quan - Elhanan chép miệng - tương ứng với một cơn điên tập thể như trong thời Nazi ở nước Đức, thì tạo ra và sống trong thế giới phân lập của mình là điên hay tỉnh? Vì vậy, Elhanan cho rằng chữa bệnh ‘’điên’’ của một người không thể tách được sự chẩn đoán những cơn điên của cả xã hội! *
Dân đáp, giọng quả quyết: - Tôi không thể là Phan Thượng Dân. Thằng anh em song sinh của tôi chết rồi. Chính mắt tôi, tôi thấy nó chết ngày 19 tháng tám. Phan Thượng Nhân thì còn sống. - Dân chết ngày 19 tháng tám? Chết ra sao? Anh cố nhớ lại đi… Dĩ nhiên là nhớ vì muốn quên cũng chẳng được! Phải, tôi kể cho Chính Ủy, đầu tháng tám, chiến trường yên tĩnh. Bên ta ngưng pháo, địch cũng thôi bom. Lính kháo, hòa đàm ở Paris nhất định sẽ thành công. Chúng tôi chuyển thương binh về phía bắc sông Thạch Hãn. Xác lính chết đầy giòi bọ, sau khi kiểm tra đơn vị, tên tuổi, đem xúc tất cả vào những căn hầm chữ A, thắp hương cúng kiếng rồi lấp. Bọn lính “tơ” lầm rầm khấn, các anh phù hộ, cho hòa đàm suôn sẻ, chúng em nguyên vẹn mà về lại hậu phương. Chính ủy tiểu đoàn đến động viên, báo ta thắng lớn ở Paris, Ních-xơn nhượng bộ, chỉ cần ta cho phép nó rút hết sáu mươi ngàn lính Mỹ an toàn là cái gì nó cũng chịu. Tạ cao giọng ‘’…thì cho chúng nó cút, giữ làm gì ! Cuốn xéo sớm lúc nào hay lúc đó !” Chính ủy cười, dĩ nhiên, nói “nhưng còn nhiều vấn đề. Bồi thường chiến tranh chẳng hạn. Các cậu yên trí, “trên” lo hết. Lính chúng mình sẽ được đền bù .” Chỉ ba ngày ba đêm không bom không đạn đã là một đền bù chủ đề 14/248 rồi. Lính chúng tôi không phải bò, không phải lết, không phải kéo xác đồng đội, không phải há mồm để giảm sức áp của bom trong không khí, không phải giỏng tai nghe tiếng đạn xé gió để 12 Schrizophenie
đoán địch đang đến từ đâu. Chúng tôi đi đứng thẳng thắn khoan thai, hít thở thảnh thơi, thong dong tỉ mẩn lau súng, thông nòng, soát lại cơ bẩm. Tạ cười ‘’ Đéo mẹ nó, súng với đạn ! Bây giờ đánh đấm gì nữa mà lau với chùi! Sờ vào nòng, ghê cả tay - nó quay lại bọn lính tơ, hềnh hệch - chúng mày may, vừa ra chiến trường là hoà bình, toàn mạng về với cha, với mẹ…” Thằng Thao, mới mười bảy tuổi, rú lên “Em ấy à, em sẽ đi học nốt cấp ba…” Nó vỗ ngực “’…đây, học sinh chuyên toán nhé. Loại giỏi nhất Ý Yên, Nam Định nhé.” Nghe đến quê Thắm, tôi nhìn sang nó, lòng bỗng nôn nao. “Cậu Ý Yên hở, nhưng làng nào?” “Em ở ngay thị xã…” “Cậu tả cho tôi xem, tôi có người quen ở Ý Yên.” Tôi nghe nó nói, ghép hình bóng Thắm vào phố, vào chợ. Vào con sông Đáy lững lờ. Tạ ngồi nghe, thình lình lên tiếng “… thằng bé con mình năm nay mới học xong cấp 2.” Nói xong, nó quay mặt về phía biển, tay quệt nước mắt. Sáng tinh mơ ngày thứ tư, Quảng Trị bị lùa dậy bằng một trận mưa pháo đại bác 105 ly. Quà sáng, điểm tâm bằng bom bướm do một đoàn Con Ma bay qua rắc xuống. Ôi, thế là những ngày hòa bình bèo bọt. Tạ quát lính xuống công sự, chửi địt mẹ nó, vừa đánh vừa đàm, hết đàm lại đánh, hết đánh đến đàm. Thằng Thao vội vã kẹp súng, quơ nón cối, nhảy ào xuống giao thông hào. Mặt nhớn nhác, rỉ mắt tép nhèm, nó nắm lấy tay tôi, hỏi “…thế lại đánh nữa à?” Chúng tôi nằm trong công sự cầm cự có lẽ đến hàng tuần. Ngày qua ngày, tiếng cánh quạt những đợt trực thăng đổ quân tiếp viện. Tiếng xích sắt M-113. Lính Lữ Dù 1 đang lấn đất tiến vào. Ống liên hợp điện đài réo lên. Chính trị viên trung đoàn phổ biến đến toàn thể bộ đội lệnh từ Quân Ủy Trung Ương, ta không lùi một bước, bám công sự giữ vững trận địa để mừng ngày kỷ niệm Cách mạng Tháng tám. Lữ Dù 1 xua quân đánh thẳng vào những công sự phòng thủ đúng ngày đó. Trước khi xung phong, máy bay địch thả bom xăng, lửa hừng hực bốc cháy trong chiến hào. Hàng chục con người mình mẩy thành những ngọn đuốc sống vùng nhẩy lên mặt đất, cắm đầu chạy, miệng la thét đau đớn, làm bia cho hàng tràng chủ đề 14/249 đạn đại liên tới tấp ghim vào thân thể. Họ co giật rồi ngả xuống như những thân cây đổ, mỡ người cháy xèo xèo bốc khói lẫn vào mùi xăng hăng hắc. Không còn cách nào tránh chết cháy, tôi hô
lính bỏ công sự, bò về phía lính Dù. Đêm tối, lính rút lưỡi lê, trùi người vào cát, cứ trước mặt bò tới. Khi hỏa châu bựt sáng, nằm im giả chết. Đạn veo véo bay sát đầu, gió xé rách khoảng không vạch ra một hấp lực vô hình xô đẩy lính vào vòng tay thần chết đang mở ra đón đợi. Lính hai bên trộn vào nhau trong đêm đen mịt mùng, một tay nắm lưỡi lê, tay kia quơ lên. Nón sắt, ta đâm. Nón cối, là bạn. Và ngược lại, nón cối, địch đâm… Cứ như thế, những con người đâm nhau, máu phọt ra thấm xuống cát trắng, cát thản nhiên nhấm nháp vị tanh tưởi của máu đổ ra mặt đất khốn khổ. Pháo tắt, người đâm, kẻ bị đâm rú lên. Pháo sáng, tất cả nằm im giả chết. Vũ trụ thu lại thành một trò chơi kinh dị, sống chết lập đi lập lại, xác người văng vãi khắp nơi. Tiếng thằng Thao, thằng bé ở Ý Yên, hực lên “Giời ơi, em vừa đâm lòi ruột một người, thủ trưởng ơi. Em… em …!” Pháo sáng lại chiếu rọi một vùng trời. Thằng Thao thình lình nhổm lên đứng thẳng người, hai tay đưa lên trời, kêu “…Thôi, bắn đi… Bắn cho tôi chết đi…” Một loạt đạn vang lên chát chúa. Tôi nhắm mắt lại, lẩm bẩm, Thao ơi, sao mày lại tự tử kiểu ấy. Có cái gì lành lạnh dí vào trán. Tôi mở mắt. Nòng khẩu súng M-16 đưa đẩy nghịch ngợm. Người lính dù, miệng nhếch cái cười khinh mạn, mắt nháy tôi như trêu trọc. Tôi nhìn kỹ. Anh ta giống tôi.Cũng mắt.Cũng mũi, cũng mồm. Anh chỉ khác bộ quần áo rằn ri. Tôi, quân phục xanh rêu. Anh, nón sắt. Tôi, mũ cối. Anh có thể bóp cò. Tôi buông con dao găm vấy máu. Bỗng nhiên thật bình thản, tôi chậm rãi nhắc lại lời thằng Thao ‘’Thôi… bắn đi!’’ Anh ta lắc đầu. Có lẽ anh là Nhân chăng? Tôi hỏi. Anh lắc đầu, buồn bã ‘’Là ai cũng thế! Bắn làm gì nữa. Chết vậy quá đủ rồi!’’Anh không bắn, thế thì anh là Nhân, anh em của tôi, không thể khác được. Tôi vui mừng đứng dậy, tay giơ về phía anh. Đúng lúc đó, tôi nghe một tiếng nổ lớn. Như khán giả xem ảo thuật, tôi nhìn thấy cả thân thể mình bật lên đu bay trên những đám mây rám sắc thép tôi đỏ đêm 19 tháng tám. Không mong nó rơi xuống, tôi biết tôi chỉ muốn từ biệt trái đất kinh hoàng này. Và tôi bay, mỗi lúc một cao… chủ đề 14/250
Sổ tay:
.... Thằng Thao điên hay tỉnh? Anh lính dù điên hay tỉnh? Trong cái tập thể lính hai bên đang chém giết như thế, tách khỏi hành vi giết người bằng cách giết chính mình chắc không ai trong cơn điên cuồng đó cho là tỉnh! ... Nhưng cái gì là cơn điên của tập thể? Mình hỏi, rồi nghe tiếng Elhanan đáp, là hiện tượng ám thị của đám đông bị thôi miên! Trong trường hợp này, người điên tách khỏi đám đông hóa ra kẻ tỉnh nhất. Vì hắn là kẻ chối bỏ hiện thực bên ngoài hầu giữ được nguyên vẹn ý thức về bản thể của mình ! *
Tôi nhớ những buổi tối, bà tôi lẩm nhẩm cầu kinh, tiếng thì thầm, lạy Chúa ba ngôi lòng lành, Chúa không cứu rỗi thì ai cứu được bày cừu con Chúa tội nghiệt khi vào giờ lâm tử. Bà cầu kinh một mình, giấu giếm cả tôi. Cho đến khi tôi phát hiện cây thập tự làm bằng hai đõn tre buộc lại, bà mới bảo, cháu ơi, người ta bảo tôn giáo là thuốc phiện, nghiện ngập tất sa đọa, thiếu đạo đức cách mạng. Một mình bà, bà cầu Đức Mẹ che chở. Phần cháu, muốn sống như mọi người thì chỉ được phép tin vào Cách Mạng... Thế đi, cho bà yên lòng… Vâng, để yên lòng bà, tôi ngậm tăm, lớn tiếng hô phất ba lá cờ trong ba dòng thác cách mạng như mọi người, được quàng khăn đỏ, làm cháu ngoan bác Hồ. Nhưng khi học hết cấp 3, tôi không được vào đại học, lý do úp úp mở mở nhưng tôi sau cũng hiểu được rằng tôi gốc công giáo. Muốn tiến thân, chỉ có một cách là đăng ký đi bộ đội, thề diệt Mỹ Ngụy, góp tay vào công cuộc thống nhất đất nước. Để có hy vọng nhập ngũ, tôi biếu bà Bí thư xã cái nhẫn đính hôn của mẹ tôi, vừa khóc vừa van xin bà nói với ông Bí thư lờ đi cái khoản tôn giáo trong lý lịch tôi. Và đấy là lần đầu tiên tôi thành công. Oái oăm thay, đó là sự thành công cho phép tôi khoác lên mình cái áo màu xanh xỉn, đeo lên vai vũ khí giết người, kẹp vào hông lựu đạn “ù ét”, cứ từng bước lò dò đến chỗ chết. Bác sĩ chủ đề 14/251 biết, tôi không chết, chỉ cụt một chân. Hạ bộ mất một ít cơ năng, đái dắt cả ngày, lắm khi sót đến không chịu nổi. Tất cả để đổi lấy cái Huân chương Chiến Công năm 72 tôi đã vất đi đâu mất.
Cuối năm 73, tôi ra viện, về làng. Thương binh Phan Thượng Dân được đón tiếp như một vị anh hùng. Tôi nhìn xuống phần thân thể gửi tặng lại những ngày tháng chiến tranh, vừa mừng, vừa tủi. Ông Chủ tịch xã bảo, bà tôi đã qua đời, nhân dân xã ta lo lắng ma chay đầy đủ. Tôi điếng người, nước mắt chạy quanh. Vào nhà, trống trơn vẫn một chiếc trõng con, dưới gầm trõng là hai cái nồi, một cái xoong và dăm cái bát, cái đĩa dân làng đã xếp gọn. Tôi vất cây nạng, ngồi thụp xuống, khóc nức lên, khóc tức tưởi. Chao ôi, những ngày đầu tàn cuộc chiến là cái tang bà tôi. Ngồi trong căn nhà gianh, tôi gục đầu, ôm mặt khóc suốt đêm như một đứa trẻ con lạc đường. Bây giờ, tôi là người cô độc. Không thân thích. Không nghề nghiệp. Không đồng đội. Những thằng Tạ, thằng Phi, thằng Thao… chúng mày đâu cả rồi? Thắm nữa, em ở đâu? Nếu em còn, em sẽ thấy thân thể tôi tật nguyền, liệu em có nhắc lại cái câu ngày xưa dưới địa đạo Vĩnh mốc, rằng em không muốn mất tôi nữa không? Gặp lại thằng Thành, cũng thương phế, tôi đi với nó và em gái nó ra nghĩa địa viếng mộ bà. Hôm sau thì tôi qua nhà bà Nhiều ở làng bên, người gần gũi giúp đỡ bà tôi. Lúc đó tôi mới biết bà tôi trối trăn để lại cho tôi vài chữ do ông bác viết, dặn lên Hưng Nguyên tìm một người tên Tín. Hóa ra đấy là chú tôi. Còn người tôi cứ tưởng là bác thì chính là cha tôi, cũng chết và chôn ở làng...Tôi kín đáo tìm hiểu. Chủ tịch xã bảo ‘’Bác nhà về quê đây thì đồng chí đang ở mặt trận, khoảng giữa vụ mùa năm 72‘’. ‘’Thế sao bác tôi lại chôn ở đây ?’’. Ông bí thư gãi đầu ‘’Ấy là khi bà ốm nặng thì bác nhà từ Hưng Nguyên về. Nhưng bà chưa đi, bác nhà đã lăn đùng ra đâu hai tuần sau khi đến đây, đúng lúc Mỹ ném bom mọi nơi trước khi ta ‘’bắt’’ nó ký Hiệp Định Paris… Đồng chí biết, chúng tôi cũng cố gắng nhưng chỉ có thể ma chay sơ sài cho bác nhà. Nghĩa tử là nghĩa tận mà ’’... *
Sổ tay : chủ đề 14/252 …Ông giám đốc ề à “ Trên điều cậu đi Qui Nhơn, công tác trong một bệnh viện chuyên sâu về tâm thần đấy!” Bà X chua loét, giọng hồ hởi “…mừng cho anh. Cứ ở cái nhà thương Sài
Đồng này, chữa trăm thứ bệnh, thuốc lại không có, nửa Tây y nửa Đông y mãi, làm sao lên tay nghề được!” Tôi cám ơn cả hai. Trong đợt bàn giao bệnh nhân, tôi đề nghị, để Phan Thượng Dân cùng tôi vào Qui Nhơn. Lý do: bệnh nhân đang ở giai đoạn bình phục, đổi bác sĩ có thể làm chậm, thậm chí đảo ngược hẳn tiến trình hồi phục. Bà X, nay đã lên chức Trưởng khoa, đỏng đảnh “ Vâng, tôi đồng ý, đi cho có cặp. Trên đường, tha hồ bắt cào cào, châu chấu!” Nhìn bà, tôi cười mỉm. Tôi nhớ, y tá kể lại, là bà từng lớn giọng “…đám bác sĩ trẻ chúng nó có cái cười hỡm thế nào ấy, không ưa được!”. Dù sao, thời gian trước mắt vẫn cứ phải lo cho Dân. Anh ta đang có đà bình phục, bỏ thì phí, sợ lắm khi không còn dịp… ...Chúng tôi lên đường vào đầu mùa mưa. Dân không hỏi gì, tay giữ rịt hộp đựng châu chấu, lẳng lặng lên ngồi cạnh tôi trong chiếc xe của bộ Thương Binh Xã Hội. Đi được một ngày mới đến địa phận Vinh. Quốc lộ 1 có sửa sang, nhưng còn những đoạn xe ì ạch tránh hầm hố lồi lõm. Hôm sau xe vào địa phận Quảng Bình. Từ lúc đó, nét mặt Dân bỗng âu lo, ôm hộp châu chấu vào lòng, miệng mím lại. Cơn xúc động lúc một mạnh khi xe đến Vĩnh Linh. Dân lắp bắp: “Thủ Trưởng, mình vào chiến trường rồi hẳn?” Tôi lắc đầu, nói giọng chắc nịch “Hết chiến tranh lâu rồi, làm gì có chiến trường nào nữa!” Dân không tin, tai giỏng lên nghe ngóng, miệng lẩm bẩm “ đã chiến tranh rồi, làm sao thật sự hết để có được hòa bình !” Chợt có tiếng máy bay. Dân hoảng hốt quát: “Bom...Ngừng lại. Nó sắp đánh.” Anh nhổm người lên, nhưng thật may, tiếng máy bay xa dần. Dân thở ra, lẩm bẩm “ chắc bọn thám thính. Nó phát hiện thì tí nữa thế nào Con Ma cũng bay đến.” Đột nhiên, Dân quay sang nhìn tôi, hỏi: “Cứ đi thế này là đi đến đâu? Đi làm gì?” Tôi chưa kịp trả lời thì Dân nhoài người về phía anh lái xe, khẩn khoản “ đồng chí, vào đường mòn mà đi chứ thế này trống hếch trống hoác nó đánh thì mình phăng teo ngay!” Tôi lại phải ghì Dân xuống. Và cho đến nay tôi cũng chẳng hiểu động lực nào khiến tôi khi đó bật miệng đáp “ đi tìm Thắm...” Dân nghe, ngơ ngác một lúc chủ đề 14/25 3 rồi trở nên hiền hòa. Anh nhìn tôi, “đây đâu có phải đường về Ý Yên đâu!” Tôi không biết phải nói gì, bỗng hối hận. Nói mà
không có, bệnh nhân có thể mất hết niềm tin tuởng vào người y sĩ. Và khi không thể chinh phục lại được cái niềm tin ấy thì coi như là vô phương chữa chạy. ... Xe chạy thêm nửa ngày thì vào địa phận Quảng Trị. Tay chỉ về hướng Tây, Dân bảo: “ Cổ thành ở bên kia... Đi tí nữa thì đến Ngã Ba Máu !” Nói xong, mặt Dân tái mét, người run lên như sốt rét. Dạo gần đây, tôi dùng phương pháp thôi miên trấn an Dân. Tôi yêu cầu Dân lập lại một số động tác, rồi đưa anh ta vào giấc ngủ. Dân nhắm mắt nhưng chân tay vẫn thỉnh thoảng co giật... (còn nữa) NAM DAO (Trích truyện dài Bể Dâu) Chú thích: 1. 2. 3. 4. 5. 6.
Thơ Giang Nam. Dòng người Đức nguyên thủy, được Phát-xít Đức tuyên truyền là dòng đặc tuyển khai sáng và lãnh đạo loài người. Nhà thơ và triết gia Đức nổi tiếng. Loạn tâm. Dục năng. Schizophrénie.
chủ đề 14/254
B I Ể N B ẮẤ C sấm ngày cùng ngôn ngữ
Cho tới khi nào họ tiến bộ hạ được khuôn hạn chế tạo ra cách phòng và chữa bệnh tình yêu đương nhiên hậu quả sẽ là sự diệt vong linh hồn của chúng tôi trong nghệ thuật sử dụng chúng tôi để phô diễn con tim bệnh hoạn nạn truyền nhiễm trùng (tìnhyêu) vây họ trên con đường đi đến bờ huyệt mộ phần họ cũng sẽ mất đi chứng minh sự kiện mang và lây nhau bệnh chứng chỉ riêng biệt tích trữ trong trái tim họ
BIỂN BẮC (cuối 7, không 8) chủ đề 14/25 5
NGUYỄN TRUNG HỐI sự bệnh hoạn của văn chương
The disease of language should be one of those that see death near and emanate an odor of final judg- ment, otherwise life, the disease of Being, cannot be reflected in it. Guido Ceronetti, “È ancora possibile scrivere versi galanti?”
Nếu Thị Nở, nhân vật nữ trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao là một người bình thường, thị có thể được người đời nhắc nhở như một mỹ nhân hay một con người của lịch sử, chẳng hạn như Bao Tự, Tây Thi, Dương Quý Phi, Marilyn Monroe, Jacqueline Kennedy, Diana, vân vân… Nhưng thị lại là một người ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn… Đã thế thị lại dở hơi; đó là một ân huệ đặc biệt của Thượng đế chí công: nếu sáng suốt thì người đàn bà ấy sẽ khổ sở ngay từ khi mua cái gương thứ nhất 1. Thị Nở không mua gương. Và thị cũng không cần phải mua. Không phải vì thị biết mình không đẹp, nên không muốn soi gương. Sở dĩ thị không cần gương là vì thị đã từng soi bóng mình mỗi lần ra sông kín nước… Có nhìn bóng mình trong nước, thị cũng không biết mình xấu, bởi lẽ thị không biết thế nào là xấu hay đẹp, và thị cũng chưa thấy ai là đẹp, thì cũng như chuyện thị không hề sợ Chí Phèo có thể phạm đến thị bởi cái lẽ rất giản dị là thị chưa thấy ai phạm đến thị bao giờ. Nhưng lần đầu tiên thị thấy “yêu” vì hắn muốn làm nũng thị như với mẹ, ôi sao mà hắn hiền… Chí Phèo cũng “say” Thị Nở, đàn bà không men như rượu nhưng cũng làm người say, và hắn say thị lắm chủ đề 14/256
Nhưng do đâu mà Thị Nở “yêu” và Chí Phèo “say”?
Thị Nở tất nhiên là thấy Chí Phèo “đẹp” cũng như Chí Phèo thấy thị “đẹp” vậy (có những kẻ nào đang yêu mà lại không đẹp?) cho dù mặt chàng như một tấm thớt ngang dọc đầy dấu dao bằm, còn nàng mặt thì bề ngang dài hơn bề dài, hai má lại hóp vào… mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ. Nếu Thị Nở có “xấu” (chữ xấu hiểu theo quan niệm hay nguyên ngữ của chúng ta) thì cũng không sao cả. Pho tượng Venus of Willendorf (30,000 năm Trước Công Nguyên) đâu có gì đẹp? Nàng Vệ Nữ không có tay và cũng không có mắt, lại còn mang mặt nạ nữa, vì có thể nghệ thuật thời ấy chưa thấy vẻ đẹp của đôi mắt. Pho tượng Venus of Milo (TK 2 TCN) cũng không có tay (sau này người ta đã thử nối thêm tay vào thì thấy không đẹp và nhìn không ra gì), mũi lại có một vệt nám đen, hai bầu vú lổ đổ lốm đốm rất nhiều lỗ thủng, có lẽ do nước ăn mòn khi bị chôn vùi dưới đất hơn 2000 năm (pho tượng này tìm được năm 1820). Nhìn thật kỹ tảng cẩm thạch này, chúng ta thấy chẳng khác gì Thị Nở dưới ngòi bút của Nam Cao! Nhà mỹ học nổi tiếng Roman Ingarden (tác giả cuốn Tác phẩm Nghệ thuật về Văn chương – Das literarische Kuntwert, Halle 1931), trong một cuốn sách khác viết bằng tiếng Ba Lan về sự nhận thức tác phẩm văn chương (Lwów 1937) mà ông bảo là phần bổ sung cho cuốn sách nói trên, cũng đã nhắc đến trường hợp chiêm ngưỡng pho tượng Venus of Milo này. “Đấy là một ngày chúng ta đến Paris, có dịp vào xem bảo tàng viện Louvre. Sau khi đi qua các khu trưng bày tranh tượng với dáng vẻ thờ ơ hay chăm chú vừa phải, cuối cùng trước mắt chúng ta hiện ra pho tượng Venus of Milo trắng như tuyết với dáng vẻ thon thả và rực rỡ tuyệt trần. Chúng ta thấy mũi của nữ thần như được tạc ra cùng một màu trắng, như thể bề mặt của bầu vú vẫn trơn phẳng, như thể những vết lốm đốm lổ đổ đã được lấp đầy, núm vú vẫn là núm vú bình thường, không có một dấu vết gì mà chúng ta thường thấy ở đá. Với tính cách nhận thức pho tượng như thế, trong chúng ta đã hiện diện cái gọi là kinh nghiệm thẩm mỹ hay kinh nghiệm mỹ học (an aesthetic experience)” 2 -- Thị Nở và Chí Phèo nhìn nhau cũng đã “thấy” như thế -- Đây là trường hợp mà chúng ta có thể nói đặc tính của kinh nghiệm mỹ học là tính cách chủ đề 14/257
riêng của sự nhận thức của chúng ta về những đối tượng mỹ học. Có một điều đáng lưu ý là kinh ngiệm mỹ học có hay không có tính cách chung nhất, hay chỉ có thể được sử dụng một cách riêng rẽ tùy tình huống? Đây là một nghi vấn được nêu ra dựa vào kinh nghiệm, mở ra một giải đáp. Và đã có nhiều giải đáp, tuy nhiên vẫn còn không ít vấn nạn tồn tại… Thế nhưng, chúng ta có thể tin chắc một cách hợp lý về một vài điều tổng quát hoá mà một số nhà văn đã thu hoạch được bởi sự mặc tưởng minh mẫn, và đối với những điều này, mọi người chúng ta có thể trắc nghiệm được theo những kinh nghiệm riêng của bản thân mình. Cũng theo Ingarden, có một sự khác biệt giữa quan niệm nhận thức về đối tượng thật và đối tượng mỹ học. Sự khác biệt ấy là do ở kinh nghiệm mỹ học. Mikel Dufrenne, trong Hiện tượng luận về Kinh nghiệm mỹ học (Phénoménologie de l’Expérience Esthétique) khi phân tích học thuyết của Ingarden, gọi là “sự khác biệt giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện”. Trong nghệ thuật hội họa, điêu khắc, kịch nghệ hay điện ảnh, sự khác biệt này chúng ta rất dễ nắm bắt. Trong âm nhạc và văn chương, đối tượng mỹ học có tính dị danh: nó chịu sự chi phối của những phát triển chủ quan nhằm vào nó và cấu thành nó. Chính vì thế, Ingarden khẳng định tác phẩm văn chương không thể tự trị vì trước hết, nó là một hệ thống những ý nghĩa. “Ai đồng ý sự hiện hữu dị danh của những câu (và cả tác phẩm) cũng phải chấp nhận tất cả những cơ sở tự trị và không thể bằng lòng với những hành vi ý thức thuần túy”3. Người ta thường nhận thức sai lầm về kinh nghiệm mỹ học, bao gồm trong ý kiến cho rằng đối tượng của kinh nghiệm là đồng bộ với những thành phần của thế giới thật và những đối tượng của sinh hoạt hay nhận thức của chúng ta. Điều gì sẽ xẩy ra cho chúng ta khi một sáng mùa xuân nào đó kéo bức mành cửa sổ lên bất chợt thấy khu vườn nhà đã nở đầy hoa rực rỡ trong đêm? Chúng ta có vui thích nhìn ngắm cái cảnh tượng ấy không, những đối tượng thật mà chúng ta nhìn thấy ở thế giới chung quanh ta, cùng những kinh nghiệm mà chúng ta đã nhận thức trước khi có kinh nghiệm về cảm thức xuất thần này? Monroe C. Beardsley, người có ảnh hưởng rất lớn trong giới lý luận mỹ học nói tiếng Anh ở thế kỷ 20 sau John Dewey, cho chủ đề 14/258
rằng kinh nghiệm mỹ học là kinh nghiệm mà trong đó sự chuyên tâm chú ý phải được vận dụng một cách vững vàng trên sự dị thể nhưng có tương quan với nhau, giữa những phần tử cấu thành của đối tượng mỹ học, chẳng hạn trong cách nhìn ngắm những tác phẩm hội họa hay điêu khắc; nghe âm nhạc; đọc và nhận định về những từ ngữ hay biến cố trong tác phẩm văn chương. Do đó, chúng ta có thể nói một cách không ngoa rằng đối tượng mỹ học chính là nguyên nhân của kinh nghiệm mỹ học 4. Kinh nghiệm mỹ học còn là kinh nghiệm của sức mạnh. Kinh nghiệm mỹ học là kinh nghiệm bị chế ngự một cách sâu sắc bởi cảm giác hay sự xúc động mãnh liệt, nhưng những phạm trù này còn đang chiếm giữ một vị thế mập mờ trong lý thuyết tâm lý học. Điều mà chúng ta gọi là sự xúc động trong kinh nghiệm mỹ học có thể chỉ đơn giản là sức mạnh của chính nó. Như đã nói trên, đối tượng mỹ học cho chúng ta kinh nghiệm. Mắt nhìn đối tượng, và đối tượng kiểm tra kinh nghiệm. Kịch nghệ hay điện ảnh chỉ trình diễn những mảnh đời của con người, có phần nào có ý nghĩa và đáng chú ý, nhưng chúng ta chỉ nhận thức được chừng ấy thôi; hội họa và âm nhạc mời gọi chúng ta những gì mà chúng ta ít khi thực hiện trong cuộc sống, chỉ tạo sự quan tâm vào những gì chúng ta đang thấy và nghe, hoặc không thấy không nghe gì cả. Hội họa và âm nhạc còn tận dụng khả năng nhận thức của chúng ta cho những phạm vi hạn hẹp bất thường. Văn chương thì không thế. Đặc biệt là đối với những cuốn tiểu thuyết viết về chiến tranh, có nhiều sự kiện đột biến, chúng có thể thủ tiêu sự chuyên tâm chú ý của chúng ta bằng cách mở rộng ra ngoài giới hạn thông thường những sự hiểu biết của chúng ta. Đây là lý do tại sao chúng ta có thể nói “cảm giác không đau đớn” (feeling no pain) là đặc biệt thích hợp cho kinh nghiệm mỹ học. Theo Beardsley, kinh nghiệm mỹ học còn là kinh nghiệm hỗ tương, kết hợp với nhau một cách chặt chẽ. Sự kiện này hướng dẫn sự kiện khác, liên tục phát triển không ngừng nghỉ. Không có một khoảng trống, một sự gián đoạn nào. Ngay cả khi kinh nghiệm tạm thời bị mất đi như trường hợp chúng ta phải ngưng đọc cuốn tiểu thuyết hấp dẫn vì đến bữa cơm hoặc có khách đến thăm, kinh nghiệm vẫn tiếp tục sự liên kết khi chúng ta đọc lại chủ đề 14/259
cuốn sách, chúng ta lập tức trở về với thế giới văn chương, gần như không gián đoạn chút nào. Ngưng lại một bản nhạc đang nghe vì bị trở ngại về máy móc hay có chuông điện thoại reo, nhưng khi chúng ta nghe lại bản nhạc, chỉ cần hai nhịp thôi là đủ để thiết lập lại sự nối kết với những gì vừa mất đi và chúng ta tức thời nhận lại được cùng với những kinh nghiệm cũ. Đây là những động tác có ý nghĩa làm cho người ta tin, do đó, đối tượng mỹ học là đối tượng để làm-tin (make-believe). Cùng một cách gọi tương tự như thế, thật thú vị khi trong tình yêu, đối tượng mỹ học sẽ là đối tượng để làm… yêu (make-love), như trường hợp Chí Phèo và Thị Nở đã làm. “Chúng sẽ làm thành một cặp rất xứng đôi. Chúng cũng nhận thấy thế, và nhất định là lấy nhau. Như thế năm ngày chẵn, thị ở nhà hắn cả ngày lẫn đêm, trừ những lúc đi kiếm tiền. Hắn không còn kinh rượu nhưng cố uống thật ít. Để cho khỏi tốn tiền, nhưng nhất là để tỉnh táo để yêu nhau. Đàn bà không men như rượu nhưng cũng làm người say. Và hắn say thị lắm. Nhưng thị lại là người dở hơi. Đến hôm thứ sáu thị bỗng nhớ rằng thị có một người cô ở đời. Người cô ấy nội ngày nay sẽ về. Thị nghĩ bụng: hãy đừng yêu để hỏi cô thị đã.” 5
Thị Nở và Chí Phèo yêu nhau xuất phát từ một cái gì rất “ảo”, “phi thực” (nói theo Sartre) trong tiềm thức của hai người. Tâm lý học giải thích đấy là do những yếu tố di truyền. Mỹ học thì gọi là kinh nghiệm mỹ học. Chúng ta yêu thích Catherine Zeta-Jones ngay khi vừa xem phim đầu tiên của nữ tài tử điện ảnh này, là vì trước đó chúng ta đã yêu mến Joan Collins, và trước nữa là Ava Gardner, một mẫu người phụ nữ vừa đài các quý phái, vừa có cái gì là hoang dã quê mùa… Vì trong ý/tiềm thức của chúng ta do di truyền, đã có sẵn mẫu người như thế. Cho nên khi chợt gặp người “trong mộng/ảo”, chúng ta bị chạm điện, bị “sét đánh” ngay! Trong bài “Nguyễn Nhật Duật và niềm thao thức lặng lẽ” (Chủ Đề số 2, Mùa Hạ 2000), Đào Ngọc Phong, giáo sư triết học, người từng viết luận án về Giải Minh Giấc Mơ (Die Traumdeutung) của Sigmund Freud, đã viết: “Khi Nam Cao mô tả các nhân vật từ con người vô văn hoá như Chí Phèo, đến người có học thức như Giáo Thứ, ông đứng từ nhiều quan điểm khác nhau để phân tích, nhưng ở bất cứ nhân vật nào trong văn Nam Cao vẫn tỏa ra một sức vượt
chủ đề 14/260 thoát của chủ thể tính siêu nghiệm lên trên những điều kiện hóa khách quan. Nam Cao không hề chấp nhận một quan điểm giai cấp trước khi và trong khi viết. Văn Nam Cao là một thứ ngôn ngữ hiện tượng luận, khác hẳn văn của những nhà văn nhà nước mác xít. Nếu Nguyễn Nhật Duật khẳng định với học sinh của mình: ”Các nhà văn hiện nay ở nước ta không có một người nào đáng xách giép cho Nam Cao” thì đó chính là ý thức phản kháng biện chứng đối với lối văn kinh viện lỗi thời.”
Khi Nguyễn Nhật Duật nói “các nhà văn hiện nay ở nước ta”, chúng ta nghĩ là Duật chỉ nói đến những nhà văn ở trong nước. Nhưng chúng ta thấy nhiều nhà văn ở ngoài nước cũng tệ hại không kém… Ra ở nước ngoài rồi mà họ vẫn mải miết như còn quanh quẩn sau lũy tre xanh. Bịt tai nhắm mắt lầm lũi đi hoài trên con đường mòn vẫn đi với vốn liếng nhỏ nhoi mà thầy, cô giáo đã mớm cho từ thời học trung, tiểu học. Nhà báo, nhà giáo, cán bộ (ai dám bảo đảm là ở hải ngoại không có cán bộ VC?), thậm chí có nhiều kẻ không ở trong ba giới trên, nghĩa là chưa bao giờ đụng đến chữ nghĩa cũng nhếch nhác nhảy vào chiếu văn chương để giành chỗ…6. Không hề có một tí ý thức gì về mỹ học -- thua cả Thị Nở và Chí Phèo --, không có một quan niệm hay kinh nghiệm thẩm mỹ nào để thưởng thức cho được một tác phẩm văn chương đáng gọi là văn chương thì nói gì đến sáng tạo văn chương? Nhưng, thông thường những kẻ điếc thì không sợ sấm. Đó là những kẻ mà Nguyễn Tuân xem là hạng người vô liêm sỉ; Mai Thảo gọi là những kẻ ngoại đạo; Võ Phiến thì xem như là những tài xế không có “lai xăng”; Hoàng Ngọc-Tuấn thì cho là những kẻ bất tài và vô đạo đức (chuyên nghiệp); Nguyễn Hưng Quốc thì nói thẳng là những kẻ hay xả rác và ỉa bậy, là những tên bất lương …
Giáo sư Duncan Williams trong Trousered Apes
đã quan niệm rằng nghệ thuật có thể làm đồi trụy con người, “nghệ thuật thường không chỉ là một tấm gương phản ánh xã hội và những giá trị văn hóa mà, trái lại còn là những động lực mạnh mẽ đẽo nặn nên con đường trên đó con người đi và cư xử.” 7
chủ đề 14/261 Vì thế những chủ đề khủng khiếp đã chi phối văn học ngày nay, như bạo dâm, thống dâm, gian dâm, thủ dâm, kê gian, ma túy văn hóa, vân vân… và nhất là những cảnh biểu diễn “tươi mát” của chúng đã tiêm thuốc độc vào thân thể của xã hội. Kết quả là gì? -- Chủ nghĩa thú vật. “Chúng ta đang dạy sự dã man”, (ghi chú của Williams). Vì thế ông đã liên kết “những con dã nhân mặc quần” ngày nay với tổ tiên của chúng. Thực chất mục đích của giáo sư là trình bày, qua lăng kính văn học đương đại, với những Dos, Camus, Osborne, Jarry và nhiều người khác, bằng những tài liệu tuyệt vời, những sự kiện gì đã xẩy ra khi con người đánh mất cái nhìn của trung tâm (như Yeats đã nói “những sự vật rơi tách ra, trung tâm không thể nắm lấy”). Trousered Apes là nhân vật cuối cùng, với bạo lực, loạn thần kinh đã đi lang thang qua hàng nghìn kịch bản và tiểu thuyết, những phản-anh hùng của văn minh chúng ta. Từ khi J. J. Rousseau, hơn hai trăm năm trước lần đầu tiên đã vinh danh “sự quý phái man rợ”, giải phóng hết thảy những sự kiềm chế của những ứng xử xã hội văn minh, chúng ta đã chứng kiến sự tiến triển dần dần vào trung tâm của những phòng khách văn chương man rợ không quý phái – hậu-văn minh, như đối lập với tiền-văn minh của con người, con người càng ngày càng bị mất cảm giác của mục đích, những định mức giá trị, của trật tự, sự hòa thuận và đạo đức -- về cơ bản đã giảm và chắc chắn sẽ bị triệt tiêu nhiều hơn bản năng thú vật của mình. Khi Gs Williams trình bày, văn học không còn là một lãnh vực bị cô lập, mà có những gì nhiều hơn điện ảnh, hội họa hay bất cứ những ngành nghệ thuật nào khác. Những ngành nghệ thuật này không chỉ là những thú tiêu khiển, nhưng với những tấm gương chân thật của sự bận tâm của thời gian, trong đó con người không chỉ tìm kiếm những gì họ nghĩ là lạc thú hoặc quan trọng mà còn là những khuôn mẫu thuộc tiềm thức cho những giá trị và sự ứng xử của chính mình. Khi con người ngừng tham vọng về lý tưởng, về sự Thiện Mỹ, về sự kiềm chế bản thân – trong nghệ thuật hoặc trong đời sống của mình – họ sẽ không đứng yên ở đó mà thường quay sang con đường khác, đi tìm sự toàn thành của bản thân trong đam mê của mình, trong sự ám ảnh ba biểu cảm tối thượng của tổng thể trung tâm của bản năng:
chủ đề 14/262 Dục tính, Bạo lực và Điên loạn. Đó là con đường chúng ta đã đi để đến một cứu cánh. Ít ra trong nghệ thuật, sau nửa thế kỷ gần đây, đã có nhiều hy vọng hơn nữa trong sự thoái hóa và vô nghĩa đã được khảo sát. Cái gì là nguyên nhân thật của tình trạng khó xử của con người hiện đại từ đó Gs Williams đã phân tích? Câu trả lời ngầm chứa trong tác phẩm của ông bắt buộc con người phải cố gắng đứng vững trên đôi chân của mình để tìm ý nghĩa cuối cùng trong thế giới vật chất này. Những gì Williams miêu tả là những gì theo đó con người mất quan điểm của ý nghĩa vĩnh cửu của họ và của niềm tin vào Thượng Đế. Và, với một tầm nhìn bao quát hơn có phải là chúng ta không đồng ý cho rằng con người Phương Tây đã liên hợp trong cuộc phiêu lưu này quá lâu hơn hai trăm năm qua – có thể từ Thời Phục Sinh --, mà ai đó đã tự hào tuyên bố rằng con người có thể trở thành “cán cân của mọi sự vật”? Williams chứng minh những người này đã đi theo con đường chẩn đoán tính chất thực của bệnh tật. Trước hết là những lời của Yeats đã có sẵn để chứng minh những điều nói trên; sau nữa là những điều khác từ Dunciad của Alexander Pope, một cuốn sách đã hình thành trên đá. Ngoài ra cũng đã có ít ra hai lời trích dẫn khác không đi ra ngoài phạm vi, đã tổng kết sự phát triển bệnh tật của nền văn minh Phương Tây, mặc dù cả hai đến sớm hơn thế kỷ 18: Đầu tiên là Ulysses, văn bản nổi tiếng từ Troilus and Cressida; và sau đó là, từ First Anniversarie của Donne, miêu tả thế nào khi con người mất niềm tin ở Thượng Đế và danh dự … Sau đó bằng một cách chắc chắn, và dần dần, đã làm cho “tất cả khuôn khổ của thế giới” rơi rớt đảo lộn lung tung; cho đến cuối cùng thế giới trở nên bệnh hoạn đến nỗi “một cơn sốt vì bệnh lao (Hectique fever) đã được chữa toàn bằng những chất gì mà không hề được kiểm tra.” Nhiều lần cứ lập đi lập lại như thế, không phải đến hôm nay, nhưng thông qua lịch sử, chúng ta lại trở về cùng một vấn đề: khi con người đánh mất trung tâm, đời sống sẽ không còn ý nghĩa nữa, và thế giới của họ cũng tiêu tan luôn. Đó là sự thật của cá nhân mỗi con người. Đó cũng là sự thật của thế giới La Mã trước chúng ta… Nhưng dù sao thì “sự phạm tội” cũng là một hiện tượng xã hội và là một khía cạnh của văn học đương đại.
chủ đề 14/263 Norman Mailer nói tỉnh bơ và rất nhân bản: “…đời sống có phạm tội hay không, sự xác định là để khích lệ những người bị bệnh tâm thần…” Ernst Junger, triết gia Đức cũng đã đi đến một kết luận tương tự như Mailer: “Phạm tội dù sao cũng tốt hơn là làm quý tộc.” Sartre cũng đã ra mặt để góp phần bảo vệ luận thuyết này khi ông phong thánh cho Jean Genet (trong Saint Genet, Comédien et Martyr), một nhà văn đã tự nhận mình là một kẻ hư hỏng và là một tên đạo chích. T. S. Eliot viết, khi ông đề cập đến Baudelaire: “Trong cách nói đối nghịch lại, thực hiện một điều ác thật tốt hơn là không làm gì cả: vì ít ra cũng chứng minh được rằng chúng ta hiện hữu.” Dĩ nhiên, ở đây Eliot chỉ trình bày lại một cách giản dị tư tưởng của Blake: “Điều ác tích cực tốt hơn điều thiện tiêu cực.” Nhận định về Bũnuel, nhà làm phim Tây Ban Nha, người đã đưa lên màn bạc những hình ảnh đầy đủ của sự bạo/thống dâm (sado/masochistic), Henry Miller viết: “Hoặc là anh điên rồ giống như phần còn lại của nhân loại văn minh, hoặc là anh lương thiện và khỏe mạnh như Bũnuel. Nhưng nếu anh là người lương thiện và khỏe mạnh thì anh là một kẻ vô chính phủ và là một tên khủng bố.” Do đó, đôi lúc phải thừa nhận trong chiều hướng này có vài điều nhiều hơn là một hiện tượng thuần túy văn chương và nghệ thuật. Nó xuất hiện để quên đi hoặc không biết rằng văn học và nghệ thuật thông thường là rất thực, có tính định hình, có sức mạnh xã hội, uốn nắn nên khuôn mặt của thời đại trong khi cũng đồng thời nêu rõ chân dung của chúng. Nếu chúng ta nhìn nhận Poetics và Ethics của Aristotle và Essay on Criticism và Essay on Man của Pope như những lý thuyết căn bản của mỹ học và đạo đức học trong thời đại của họ thì những lý thuyết đó cũng đã xuất hiện để trở thành sự thật một cách rõ ràng. Trong cả hai giai đoạn xã hội đã nhắm đến một cách ý thức sự tuyệt hảo đang đạt được, không chỉ trong kiến trúc, âm nhạc, thi ca và những hình thái khác của nghệ thuật, mà đồng thời cũng ở trong thế giới đạo đức nữa. Thánh Thomas Aquinas đã thấy vũ trụ: “như một thánh lễ tổng thể…[như một] nguyên tắc của lý tưởng trong đó nhà nghệ sĩ cố gắng tái hiện và kết thúc tối thượng tất cả những gì đã là, là và sẽ là qui luật tối cao của tất cả những gì chúng ta nên làm…”
chủ đề 14/264 Ngày nay, tất cả những phim ảnh được quảng cáo trước đều nhấn mạnh đến khía cạnh bạo lực và dục tính của bộ phim, kể cả những phim thực hiện theo những tác phẩm của Shakespeare. Khi giới thiệu trước cuốn phim Romeo and Juliet của Zeffirelli, tạp chí Playboy đã hô hào: “…TUYỆT ĐẸP! Toàn bộ cuốn phim là một bài thơ của tuổi thanh xuân, của tình yêu và bạo lực…một sự tái hiện truyện West Side Story đã được các tài tử đóng với sự đam mê tinh khiết (sic)...” Cùng lúc đó, Richard Burton (tài tử chính của phim West Side Story) xuất hiện trong một phim mới về Macbeth, cũng phóng tác theo tác phẩm của Shakespeare, lại được quảng cáo “truyện phim đã được viết (viết lại) cho ta một hương vị nên thơ của Bonnie và Clyde!” Trường phái lãng mạn Anh đôi khi cũng dung hòa Thiện và Ác. Thiên thần của Blake là “quỷ sứ” và ngược lại. Họ còn gọi Satan là người hùng của Milton. Satan, với sức mạnh sung mãn, với sự can đảm và oai hùng, đã được lựa chọn tự nhiên như là biểu tượng của sự nổi loạn và được nhìn nhận như một anh hùng, chứ không phải là một phản-anh hùng! Ở thời kỳ mà nhiều người Phương Tây nghi ngờ, thế hệ trí thức Nga đã tìm ra và tự động công nhận văn hóa đơn thuần của nhân loại. Con Người Dưới Hầm (trong Notes From Underground) của Dos đã nhìn nhận với một sự khẳng định: “Tôi là một người bệnh họan… Tôi là một người đầy hằn học…Tôi là một người không dịu dàng…” và cộng vào đó là sự hưởng thụ đặt trên “siêu ý thức” của “sự thoái hóa riêng tư” của anh ta. Hơn hẳn ý thức anh ta là “điều thiện và tất cả sự cao thượng và sự tốt đẹp…” -- giống như Jimmy Porter đã nói: “Tôi là một dân đen, bởi vì tôi là người kinh tởm nhất, ngu đần nhất, thú vật nhất, ngớ ngẩn nhất và là tất cả những gì xấu xa nhất trên đời này…” Ở đây là Người Dưới Hầm đang hân hoan trong tinh thần bệnh hoạn và thú vật, tự so sánh anh ta với những thứ phải diệt trừ. Trong ý nghĩa này, tính cách Dos là nguyên mẫu phản-anh hùng đương đại của giai cấp vô sản, và những nhân vật chính của cả Dos và Osborne (Porter của Look Back in Anger) cùng một ước muốn tự thoái hóa họ, tự lột trần họ của tất cả kỳ vọng và đắm mình trong sự tuyệt vọng cũng như lòng xót thương của họ. Những nhà hiện sinh đánh giá thế giới và toàn thể vũ trụ là
chủ đề 14/265 ngẫu nhiên, tình cờ và đôi khi là hiện tượng không có ý nghĩa đặc biệt gì và cũng không có tính cách đạo đức. Tuy nhiên, con người giữ lại sự cân nhắc của sự lựa chọn khi phải đương đầu với sự vô nghĩa của thế giới này, họ có thể quyết định như thế để “hướng dẫn một sự hiện hữu tràn đầy nhiệt tình và danh giá” (chữ của William Barett) hoặc họ có thể sa ngã vào trong sự tuyệt vọng. Cơ bản của kẻ vô thần trong triết học là quá hiển nhiên để cần chi tiết hóa, nhưng có vài vấn nạn vẫn tồn tại không có câu giải đáp. Tại sao không nằm lại và gào thét thỏa thích trong động tác điên khùng nào đó mà trong ấy có lẽ có ít nhiều ý nghĩa triết lý hoặc hoạt động thuần túy nào khác? Tại sao sáng tác kịch bản và tiểu thuyết? Tại sao không hủy diệt sự tự tử hay một chủ nghĩa khoái lạc ý thức nào đó được thừa nhận (công khai)? Sắp tới, chúng ta hãy xem Situational Ethics như một biểu thị khác của sự thất bại đương đại để chấp nhận một trật tự thần thánh phi phàm siêu nhiên. Julian Huxley thừa nhận: “Mọi xã hội, trong mọi thời đại, đều cần có vài hệ thống của niềm tin, bao gồm một trình độ cơ bản của đời sống, một tập hợp có tổ chức của tư tưởng bao quanh nó là sự xúc động và chủ định có thể tập hợp, và một quan niệm về con người vĩnh cửu. Cần phải có một khoa triết học và một niềm tin mạnh mẽ để đạt tới một hướng dẫn để sống một cách có trật tự -- nói một cách khác là một cách có đạo đức.”8
Mọi người đều có thể thiết lập một hệ thống đạo đức riêng cho mình: Sartre có thể phong thánh cho Genet, Mailer có thể khích lệ con người để “khai triển bệnh tâm thần”cho chính họ; không-nghệ thuật thì có thể làm thành nghệ thuật, vân vân… Một điểm khác là của ý nghĩa căn bản. Nhà văn nhấn mạnh đến bạo lực trong những hoàn cảnh họ dùng để giãi bày những chi tiết về niềm tin của họ. Trong Le Mur của Sartre, có ba người bị kết án tử hình trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha. Truyện đã kể lại chi tiết những hành động và cảm nghĩ của họ trong đêm trước khi bị xử bắn. Fletcher kể lại, trong Situation Ethics chuyện một người phụ nữ trong một chuyến đi vất vả về Miền Tây vào thế kỷ 18 ở Kentucky. Gia đình bà và nhiều người bị rớt lại. Đứa con nhỏ của bà bị bệnh nên khóc lóc không ngừng. Tiếng khóc của đứa bé có thể làm cho những thổ dân Da Đỏ phát
chủ đề 14/266 hiện và giết chết tất cả bọn họ, nên một người phụ nữ khác đã tự tay giết chết đứa bé. Fletcher hỏi, người phụ nữ ấy đã quyết định đúng hay sai? Chúng ta thấy cả hai nhà văn đã quan niệm không nghi ngờ rằng bạo lực bi kịch hóa tình trạng và, sống trong một thế giới bạo lực thì phải có ý định lừa gạt một cách thông minh và mang tính xã hội để minh họa cuộc sống theo một phong cách nào đó. Điều làm cho chúng ta có thể thông cảm là lời của T. S. Eliot viết trong “Những Tư Tưởng Sau Lambert”: “Thế giới đang cố gắng thể nghiệm để hình thành một hình thái văn minh không mang tính Thiên Chúa giáo. Cuộc thể nghiệm sẽ thất bại, nhưng chúng ta phải vô cùng kiên nhẫn trong lúc chờ đợi sự sụp đổ của nó; trong lúc chuộc lại thời gian, để Đức Tin có thể bảo tồn sự sống qua những thời đại mù tối trước chúng ta; để tân trang và xây dựng lại sự văn minh và cứu vãn Thế giới thoát khỏi nạn tự hủy diệt”
Mặc dù có sự liên hợp với những kịch tác gia hiện đại như Ionesco, Beckett, Hildesheimer, Durrenmatt…, kịch Phi Lý đã có nguồn gốc từ cuối thế kỷ 19 khi kịch bản Ubu Roi của Alfred Jarry được trình diễn ở Nhà Hát Mới (Le Théâtre Nouveau) năm 1896. Bi kịch này bị bóp méo bởi một vài tiêu chuẩn của thời đại, phô bày vài điểm giống nhau (bề ngoài, hời hợt) nào đó với Macbeth và bạo lực và thú tính vẫn là những luận đề chi phối toàn bộ kịch bản. Nhưng khi phê bình Ubu Roi, Wellwarth lại cho nó là mầm mống của kịch tiền phong (avant-garde) – có thể là do ở những lời đối thoại thô lỗ, tục tĩu, không lịch sự, “không văn chương”, khác với kịch cổ điển, như cứt, đái, đánh rắm, đít 9… chưa kể những cảnh trắng trợn, khiêu dâm được phô bày trên sân khấu, cũng như trong những vở Le Balcon của Genet, Le Désir Attrapé Par La Queue của Picasso…đã có những vai nữ đi tiểu ngay trên sân khấu, trên đó cũng đã dàn dựng cả nhà vệ sinh, ổ điếm, nhà thương điên… Nói chung, hố sâu ngăn cách giữa đạo đức và mỹ học không hề rộng hơn những gì đã có từ trước, nhưng nhiều người thừa nhận rằng không có sự nối kết gì cả giữa chúng. Susan Sontag, nhà phê bình và tiểu thuyết gia người Mỹ cho rằng Lolita của Nabokov là một “kiệt phẩm” không thể phủ nhận, bên cạnh Naked Lunch của Burrough đuợc viết ở Anh từ Thế Chiến II. –
chủ đề 14/267 “Tất cả những chuyện kể của Nabokov đều tập trung vào ý thức của một người bị loạn trí, ngay cả sự ám ảnh dục tính và phạm tội giết người.”- Lolita, một lần nữa cũng đã được các nhà phê bình văn học và điện ảnh lớn tiếng bênh vực như thế nào (nhất là khi tác phẩm được đưa lên màn bạc lần thứ hai ở Âu Châu mấy năm trước đây), cũng như Lady Chatterley’s Lover của D. H. Lawrence xưa kia vậy… đã tốn biết bao nhiêu giấy mực, (và tác giả đã phải ra tòa)… nhưng rồi tất cả cũng qua đi. Và điều gì còn ở lại? Đó là Tự Do, điều mà thế kỷ trước Sartre đã đề cập đến trong Qu’est-ce que la Littérature (Văn học là gì?) và trong nhiều tác phẩm khác của ông, tiểu luận cũng như tiểu thuyết. “Như thế, tác giả viết là để mời gọi sự tự do của người đọc và ông ta cần nó để làm cho tác phẩm của mình tồn tại. Nhưng ông ta không chỉ dừng lại ở đó, ông còn đòi hỏi người đọc trả lại cho ông niềm tin mà ông đã cho họ, đòi họ công nhận sự tự do sáng tạo của ông và đến lúc họ phải thúc nó dậy bằng một tiếng gọi đối xứng và đảo nghịch. Quả thật ở đây xuất hiện một biện chứng đối nghịch khác của việc đọc: ta càng cảm nghiệm rõ tự do của ta bao nhiêu thì ta càng công nhận tự do của người khác bấy nhiêu; họ càng đòi hỏi ở ta bao nhiêu thì ta càng đòi hỏi ở họ bấy nhiêu.” 10 Và như thế thì việc đọc là một thỏa ước cao thượng (généro sité - chữ của Sartre) giữa tác giả và người đọc: người này tin cậy người kia và ngược lại. Vì niềm tin ấy là cao thượng nên không ai có thể bắt buộc tác giả tin rằng người đọc đã sử dụng tự do của ông ta và ngược lại, ông ta đã sử dụng tự do của người đọc. “Đấy là một quyết định tự do mà người này cũng như người kia đã chọn,” Sartre nhấn mạnh. Ở một phần khác, Sartre viết: “Nhà văn chọn cách kêu gọi sự tự do của những người khác để, bằng những mối liên quan hỗ tương trong những yêu cầu của họ, họ làm cho con người trở lại thích hợp với cái hiện hữu toàn vẹn và kết hợp nhân loại và vũ trụ lại với nhau.” 11 và: “Mặt khác, vì đối tượng mỹ học rõ ràng là thế giới trong chừng mực nào đó được nhìn qua các điều tưởng tượng, nên niềm vui mỹ học theo sau ý thức có lập trường cho rằng thế giới là một giá trị, nghĩa là một nhiệm vụ được đề cử cho tự do của nhân loại.” 12
chủ đề 14/268 Bây giờ xin trở lại với Thị Nở thân yêu của chúng ta! Đúng như Sartre đã viết, đối tượng mỹ học là thế giới -- nghĩa là đối tượng thật – được nhìn trong chừng mực nào đó qua các điều tưởng tượng của nhà văn. Thị Nở trong Chí Phèo (hay Đôi Lứa Xứng Đôi, hay Cái Lò Gạch Cũ) không phải là Thị Nở ở làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam quê hương của Nam Cao. Thị Nở mà chúng ta đề cập ở đây (trong truyện Chí Phèo) là đối tượng mỹ học đã được Nam Cao xây dựng trong chừng mực nào đó với ý thức có lập trường (la conscience positionnelle), một chủ điểm quan trọng trong quan niệm dấn thân của Sartre. Như Đào Ngọc Phong đã phân tích, văn của Nam Cao trong Chí Phèo và những tác phẩm viết trước năm 1945 là một thứ ngôn ngữ hiện tượng luận, khác với văn Nam Cao của Ở Rừng, Đôi Mắt, Chuyện Biên Giới… và bất kỳ một nhân vật nào của Nam Cao (trong các tác phẩm viết trước 1945), từ vô học như Chí Phèo, Lão Hạc; có học thức như Giáo Thứ, cũng tỏa ra một sức vượt thoát chủ thể tính siêu nghiệm lên trên những điều kiện hóa khách quan. Trước khi và trong khi viết, Nam Cao không hề chấp nhận một quan điểm giai cấp nào. Thật không có gì đáng ngạc nhiên khi một nhà văn mà tác phẩm khi nào cũng đứng về phía những người lao động nghèo khổ và luôn luôn mơ ước một cuộc sống ấm no hạnh phúc cho giống nòi như Nam Cao, thế mà khi được “giải phóng” lại có lúc băn khoăn tự hỏi: “Ta không còn phải là ta khi trước nữa. Những người quanh ta không còn phải là những người quanh ta khi trước nữa thì tại sao lại có thể cứ viết, cứ vẽ như trước được?” Hình như Tô Ngọc Vân cũng đã có lần bày tỏ quan điểm tương tự, và cả hai người sau đó đều hy sinh trong khi đi công tác vùng hậu địch… Bị bắt buộc từ bỏ cái tôi cá nhân, từ bỏ tự do sáng tác, viết rập khuôn theo đường lối lãnh đạo của đảng Lao Động, Nam Cao nhiều lúc thấy mình bất lực: “Cây bút của tôi bất lực. Nó không khạc ra lửa và đạn như cây súng. Nó ỳ ạch chạy theo phong trào mãi mà không kịp…lắm lúc chúng tôi muốn vứt cả bút đi để cầm súng.”13 Đó là ý thức phản kháng để đòi quyền tự do sáng tác, nhưng không được, như Chí Phèo đã thét lên trong vô vọng lúc muốn trở lại làm người lương thiện: “Tao muốn làm người lương thiện,… Nhưng ai cho tao lương thiện? Biết không?…” chủ đề 14/269
Và khi Nguyễn Nhật Duật khẳng định trước học sinh thân yêu của mình “những nhà văn hiện nay ở nước ta không có một người nào đáng xách giép cho Nam Cao” để phải bị “mất dạy”, là Duật đã đứng trên cơ sở phê bình hiện tượng luận và sự liên cảm sâu sắc tâm trạng của Nam Cao.
…Thị Nở cũng như Chí Phèo, cũng như Lão Hạc, cũng như Giáo Thứ… đều là những đối tượng mỹ học mà người đọc có toàn quyền tự do để thưởng ngoạn (vì chủ yếu là người viết mời gọi tự do người đọc), toàn quyền tự do để tìm đến niềm vui mỹ học (joie esthétique – chữ của Sartre). Các nhà phê bình mác-xít kinh viện, khi đọc lại những tác phẩm của Nam Cao thời “tiền chiến” đã thi đua chụp mũ những hạn chế đầy rẫy lên tác phẩm của ông: bế tắc về tinh thần của tầng lớp trí thức tiểu tư sản; sự bần cùng hóa, lưu manh hóa của đại bộ phận nhân dân lao động; nhân vật cũng như tác giả chưa biết cái sắp tới sẽ là cách mạng, là lối thoát duy nhất, vân vân và vân vân…14 Và mặc dù tán dương hết mình quá trình chuyển biến cách mạng trong sáng tác của ông, nhưng ai đã đọc Đường Vô Nam, Cách Mạng, Ở Rừng, Đôi Mắt… cũng có cảm tưởng như đọc những feuilleton của Mai Thảo trên các nhật báo Sài Gòn trước 1975, sau khi ông rời Sáng Tạo và những truyện ngắn như “Đêm Giã Từ Hà Nội”, “Chuyến Tàu Trên Sông Hồng”… Vì “tác giả viết là để mời gọi tự do của người đọc” và “ta --người viết hoặc người đọc -- càng cảm nhận tự do của ta bao nhiêu thì càng phải tôn trọng tự do của người khác bấy nhiêu,” do đó, thật có nên không áp đặt người đọc và ngược lại, người đọc có nên không áp đặt người viết, viết ra những “tác phẩm” mang những chủ đề khủng khiếp như khiêu dâm, bạo dâm, thống dâm, thủ dâm, điên loạn… nói chung là bạo lực và thú tính, với những từ ngữ “thời thượng” trần truồng dung tục mà cho là… avant-garde? Cien Anos de Soledad (Trăm Năm Cô Đơn) của Gabriel García Márquez, nếu không mang đặc tính huyền ảo thần kỳ của văn chương hậu-hiện đại, không mang tinh thần kêu gọi đoàn kết để đấu tranh, đấu tranh để chống bạo lực, đấu tranh để chiến thắng tình trạng chậm phát triển của châu Mỹ-Latinh, vân vân…thì cũng chỉ là một dâm thư, mô tả chuyện làm tình đủ kiểu, và chuyện loạn luân… Norwegian Wood (Rừng Na Uy) của chủ đề 14/270
Haruki Murakami được quảng cáo là “trong bảy người Nhật thì có một người là độc giả”, cũng chỉ là một cuốn sách khiêu dâm không hơn không kém, mô tả tỉ mỉ thẳng thừng những cách làm tình, lại còn lớn tiếng cổ vũ cho bệnh thủ dâm… Không thể lấy một lý do nào để có thể bênh vực như Trăm Năm Cô Đơn, ngoài “…những điểm quy chiếu tới văn hóa Mỹ, đặc biệt là âm nhạc đại chúng… khiến người ta liên tưởng tới giới trẻ Tây phương và những tiểu thuyết theo trường phái cực thiểu (minimalism) của những năm bảy mươi…”15 Như thế cũng chỉ là bắt chước? Cũng chính vì vậy nên sau khi Rừng Na Uy được in ra (1987), tác giả của nó phải đào thoát sang Âu Châu một thời gian dài, vì chúng ta biết, nước Nhật dù đã bại trận, đã đầu hàng, nhưng với văn hóa, phong tục, nhất là truyền thống đạo đức/tinh thần võ sĩ đạo, chắc chắn không thể chấp nhận cuốn sách của Murakami gọi là đã phản ánh xã hội Nhật những năm cuối thập niên 60 của thế kỷ trước! Tuy nhiên, hoàn cảnh của Trăm Năm Cô Đơn và Rừng Na Uy có thể chấp nhận được: chúng ta chỉ cần nhìn lại tình trạng và hiện thực xã hội Mỹ-La Tinh thời ấy, tình trạng xã hội cùng sự băng hoại của một số thanh niên Nhật sau Thế Chiến II như thế nào… Còn hoàn cảnh xã hội và văn học đương đại của chúng ta thì sao? Có phải những hình thức dung tục trong văn chương thường thấy trên mạng là phong cách mới và là ý thức phản kháng như một số các nhà văn trẻ trong nước đã tuyên bố khi được hỏi nguyên nhân tại sao các bạn viết như thế không? Thế còn trường hợp của những người cầm bút ngoài nước thì thế nào? Họ muốn phản kháng cái gì? Hoặc họ chỉ muốn chứng tỏ mình là avant-garde như Wellwarth đã phong chức cho Ubu Roi? Hoặc chỉ là một hình thức thời thượng, làm dáng… vì chắc chắn không phải họ muốn nhanh chóng nổi tiếng, vì họ vốn đã nổi tiếng? Hoặc là nói một cách riêng tư như nhà thơ Dương Tường là, khi về già càng “cảm thấy cần gần gũi các bạn trẻ”? 16
Chú thích: 1. Nam Cao, Truyện ngắn Nam Cao (Đồng Nai: Nxb. Đồng Nai, 2001). Những đoạn in nghiêng là văn của Nam Cao trích từ truyện ngắn Chí Phèo. 2. Matthew Lipman, Contemporary Aesthetics (Boston: Allyn & Bacon, 1973).
chủ đề 14/271
3. 4. 5. 6. 7. 8. 9.
10. 11. 12. 13. 14. 15.
16.
X. Mikel Dufrenne, “Bản thể của đối tượng mỹ học”, bản dịch của Lê Châu trong Chủ Đề số 7, Mùa Thu 2001. Alan Singer & Allen Dunn, Literary Aesthetics, A Reader (Oxford: Blackwell Publishers, 2000). Nam Cao, Sđd. Nguyễn Hưng Quốc,’Nhà văn không là ai’, Tạp chí Hợp Lưu số 60, 2001. Sđd, New York: Arlington House, 1971. Julian Huxley, “World Population”, trong Scientific American, March 1956. Thử trích một đoạn trong vở Ubu Roi của Alfred Jarry: Mẹ Ubu: Này, Bố Ubu, ông có bằng lòng với những gì ông có không? Bố Ubu: Này bà, nhân danh cây đèn xanh của ta, đôi lúc ta bằng lòng… Mẹ Ubu: Vậy ai đã ngăn cản ông bằng cách tiêu diệt hết dòng họ của ông và đặt ông vào tình trạng hiện nay? Bố Ubu: Ôi! Bà Ubu, bà lăng mạ ta, ta sẽ cho bà vào chảo hầm trong một lát nữa. Mẹ Ubu: Hả? Con cá tội nghiệp! Nếu ta ở trong chảo thì ai chiếm chỗ trong quần của ông? Bố Ubu: Được, đó là cái gì? Không phải đít của ta cũng giống như đít của bất cứ người nào khác sao? Và trong một đoạn sau đó, Mẹ Ubu độc thoại: Đồ đánh rắm, đồ cứt, thật là khó đuổi hắn đi, nhưng đồ đánh rắm, đồ cứt, ta cũng đã quậy hắn tơi bời rồi… Sđd, (Paris: Gallimard, 1948), tr. 65. Sđd, tr. 73. Sđd, tr. 75 X. “Nam Cao” của Hà Minh Đức trong Nhà Văn Việt Nam (1945-1975) tập 2 của Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức (Hà Nội: Nxb. Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, 1983). X. “Cách mạng tháng Tám và Nam Cao” của Phong Lê trong Tác Gia Văn Xuôi Việt Nam Hiện Đại của nhiều tác giả (Hà Nội: Nxb. Khoa Học Xã Hội, 1977). Nhận định của John Updike trong tuần báo The New Yorker. John Updike và Raymond Carver (người mà Murakami đã dịch nhiều tác phẩm và chịu ảnh hưởng nặng) là những nhà văn hậu-hiện đại Mỹ theo trường phái Cực thiểu. X. Dương Tường: “Biết mình phài làm gì quả không đơn giản.” Phỏng vấn của Nguyễn Vĩnh Nguyên, Talawas .org.
chủ đề 14/272