VÔ THƯỜNG
ĐẠO HỌC
Hầu hết nội dung do kết nối các luận ngắn nên không khỏi có những trùng lắp, xin thông cảm.
2011 - 2013 1
1. BIỆT HIỆU VÔ THƯỜNG
Sau khi phổ biến cuốn ‘Đông Y với truyền thống Đạo học Khí Hóa‘, có người bạn biết sách này do tôi soạn nên có hỏi: Anh có biệt hiệu là Vô Thường à? Tôi chỉ mỉm cười gật đầu. Cũng có người bạn góp ý :’Biệt hiệu này cũng hay nhưng đã có một nhạc sĩ người Canada gốc Việt sử dụng, ông này hiện đã quá cố.’Tôi cũng im lặng tiếp nhận nhưng có phải tôi chọn lấy biệt hiệu này hay không thì tôi xin kể một chuyện liên quan: Nguyên khi tôi thảo xong nội dung cuốn ‘Đông Y với truyền thống Đạo học Khí Hóa’ tôi đề tên thật là Huỳnh Hiếu Hữu vì tôi vốn không sử dụng biệt hiệu mà chỉ đề tên thật để chịu trách nhiệm việc mình làm. Lúc còn đi học tôi cũng thích làm thơ và tập viết văn nhưng khi theo học Đông Y và sau khi học tập các Bản Nghĩa Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận, tôi không còn muốn làm thơ viết văn, tôi thấy cũng không cần có bút hiệu vì chỉ một bút danh ‘Việt Nhân Lưu Thủy’ cũng đủ để tôi học tập cả đời. Sau này tiếp thu thêm đạo Phật, tôi càng thấy danh phận là phù du. Khi đề tên thật trên dự thảo tôi bổng thấy nổi lên một cái tôi khá lớn: ‘Tôi đã khám phá được thể loại Dịch Trung Thiên và đã tìm thấy 16 Tạng Tượng, một việc mà ngàn năm nay chưa ai làm‘. Tôi giật mình tự hỏi:’Nhờ phá chấp tôi mới biết được như vậy tại sao tôi còn chấp ngã như thế? ‘. Tôi liền xóa tên thật và để vào đó chữ Vô Thường. Vô thường là một trong Tam Pháp Ấn của Phật giáo tôi dùng nó để nhắc nhở tôi đang học tập hạnh Vô Ngã để bớt Khổ. Tôi không cố ý tạo lập, nhưng biệt hiệu Vô Thường cũng từ duyên do này đến với tôi. Thôi thì trong cuộc đời này tùy duyên phải chăng là vậy.
2
2. HỌC TẬP Trong đời sống nhân loại không có việc làm nào lợi ích hơn việc học, không học gì lợi ích hơn học Đạo.Học Đạo thường được gọi là Tu. Ba chữ HỌC TU HÀNH đã được nói tại bài 4 nơi cuốn ĐẠO GIÁO ; ở đây nói thêm con đường học tập và những trở ngại trong việc dùng lời (Từ).Thông thường có câu : Tu mà không học là Tu mù. Học mà không Tu là con mọt sách. Chữ Tu hàm nghĩa chữ Hành (Tu hành). Hai chữ Tu Hành hàm nghĩa trong 2 chữ học tập, cho nên chỉ lược dùng 2 chữ học tập. Trong di cảo, Cụ Lưu Thủy có dùng 2 chữ ’Phân hiểu‘ [chia để hiểu]; lần đầu tiên tôi mới thấy một người dùng 2 chữ này, giúp tôi thay đổi được nhiều suy nghĩ.Tâm lý học nói con người có 3 tầng : Tâm ,Ý, Thức. Ý là con đường giữa [Trung đạo]nối liền Tâm và Thức. Con đường này có 2 chiều ,từ Tâm đến Thức gọi là Ý Thức, từ Thức đến Tâm gọi là Ý căn (Mạt na thức).Bệnh của Ý thức là phân biệt [cắt đứt, chia lìa] .Bệnh của Ý căn là cố chấp [chọn lựa , lấy bỏ]. Chúng sanh vì bệnh này mà trôi lăn dai dẳng trong 3 cỏi, 6 đường. Tâm chỉ duy nhất, Thức lại đa(nhiều).Tâm là bất biến,Thức là tùy duyên; Tâm là nhân,Thức là quả.Tu là thống nhất Tâm Thức, làm cho Ý thức thành diệu quan sát trí , Ý căn thành bình đẳng tánh trí; Dứt bặt mọi duyên khiến cho Nhơn không thành Quả ,tất cả chỉ còn là Tâm thanh tịnh . Con đường tu học vừa mới nghe qua xem chừng dễ, nhưng thực tế bước đi thì rất khó. Phật giáo thường dạy : Văn : nghe kinh để thông Lý. Tư : suy niệm để thống nhất Tâm thức . Tu : thực tập để đạt Sự. .
3
Tóm tắt thành chủ trương Lý Sự viên dung; LÝ vô ngại + SỰ vô ngại
SỰ SỰ vô ngại.
Lý có thể đốn [nhanh] để thông , Sự phải tiệm [chậm] mới đạt. Thông thường thì Lý Sự đồng tu, nhưng nếu Lý chưa thông thì Sự được gì ; Còn như Lý đã thông mà biết kiên trì, khiêm tốn, thực tập thì sớm muộn cũng đạt Sự . Muốn thông được Lý , trước hết phải vượt được các trở ngại về lời [từ]: 1) PHÂN HIỂU SỰ KHÁC NHAU GIỮA HỆ VÀ SỐ : Lão Tử , Đạo đức kinh, Chương 42 nói : ‘ Đạo sinh nhất , nhất sinh nhị , nhị sinh tam, tam sinh vạn vật‘. Nhiều người dịch là: Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba , ba sinh ra muôn vật ‘. Dịch như vậy thì người đời sau dựa vào đâu để hiểu? Cần biết rằng Lão Tử dùng Hệ Đại diễn của Kinh Dịch để nói Chương này, Ngài nói: Đạo (tuyệt đối)sinh (Hệ) 1 hào gồm có 2 quẻ (Số) gọi là Thái cực thị sinh lưỡng nghi, hoặc là Nhất Âm Nhất Dương (tương đối) chi vị Đạo. Hệ 1 hào sinh Hệ 2 hào gồm có 4 quẻ gọi là Tứ Tượng. Hệ 2 hào sinh Hệ 3 hào gồm có 8 quẻ gọi là Bát quái.Hệ 3 hào sinh Hệ 6 hào gồm có 64 quẻ là Tượng của Vạn vật. Có phân hiểu được chổ khác nhau giữa Hệ và Số như vậy thì mới vượt được trở ngại này. 2) PHÂN HIỂU CHỖ KHÁC NHAU GIỮA TƯƠNG ĐỐI VÀ TUYỆT ĐỐI : Cuộc sống thế gian là tương đối, cho nên dù phát triển đến đâu, ngôn ngữ vẫn nằm trong tương đối như Âm đối Dương , Hàn đối Nhiệt , Đực đối Cái .v.v… .Muốn nói đến tuyệt đối thì không có Từ , người xưa thường mượn một Từ Dương trong cặp Âm Dương tương đối khi nói về tuyệt đối .Tỉ dụ : Chữ Thiên có 2 nghĩa : Thiên có nghĩa tương đối là Thiên đối với Địa (Trời đối với Đất). Thiên có nghĩa tuyệt đối là Trời (duy nhất) gọi là Thượng đế hoặc con đường giữa (Trung đạo)như thường nói Thiên thượng và thiên hạ . 4
Chữ Đạo cũng có 2 nghĩa : Đạo có nghĩa tương đối là Đạo đối với Đời hoặc Đạo là Thái cực thị sinh lưỡng nghi tức Âm Dương tương đối (Kinh Dịch). Đạo có nghĩa tuyệt đối là vô cực (không rõ đầu đuôi) hoặc là con đường giữa (Trung đạo)nối liền giữa Đạo và Đời, giữa một và tất cả, giữa bất biến và tùy duyên . Chữ Thiện cũng có 2 nghĩa : Thiện có nghĩa tương đối là thiện đối với ác [lành đối với dữ ]. Thiện có nghĩa tuyệt đối là chân thiện [duy nhất, không có đối lập]. Nếu không phân hiểu được nghĩa tương đối và tuyệt đối của một chữ thì sẽ gặp trở ngại rất lớn trên đường học tập. 3) PHÂN HIỂU MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA TỪ, TƯỢNG, SỐ : Khi chưa có chữ viết, loài người chỉ dùng Tượng và Số để biểu thị mọi vấn đề. Khi đã có chữ viết loài người dùng Từ thay cho Tượng, Số. Trải qua ngàn năm cách biệt, ngày nay nhiều người không còn biết mối tương quan giữa Từ, Tượng ,Số; cho nên cũng là một trở ngại lớn khi đọc kinh sách xưa .Mối quan hệ này được gọi là Hệ Từ đã được Đức Khổng Tử làm truyện nơi kinh Dịch .Ví dụ : Phật giáo dùng 2 chữ Viên Trung. Viên chỉ vòng tròn Tùy duyên. Trung chỉ một Tâm bất biến. Nho giáo dùng 2 chữ Trung Dung.Trung chỉ một Tâm bất dịch,thường hằng. Dung chỉ vòng tròn biến dịch ,vô thường .
Cầu nguyện người người thong dong trên đường Học Tập. 5
3. HỆ TỪ Văn hóa Phương Đông nổi bật là nền Triết học dựa trên học thuyết Âm Dương được mô tả rất sớm nơi Kinh Dịch từ khi chưa có chữ viết. Ngày nay người phương Đông dễ dàng nhận biết các hiện tượng Âm Dương như ngày đêm, sáng tối, cao thấp, nam nữ, đực cái .v.v.. Nhưng hời hợt là vậy, còn sâu rộng đến trình độ hiểu được các sách kinh điển thì rất hiếm. Do đâu mà có trở ngại như vậy ?, đó là thói quen của người ngày nay đọc sách xưa chỉ hời hợt hiểu theo nghĩa chữ, không chịu biết người xưa diễn đạt mọi vấn đề đều là nhận thức tự nhiên, mỗi từ được dùng đều phù hợp với sự vật chân thật, mà trước khi có chữ viết những nhận thức này đã được truyền khẩu dính liền [Hệ] với hình tượng và số đếm. Sau này khi có chữ viết thì hầu hết các thuật ngữ được dùng đều là Hệ Từ. Cho nên, người học tập sách xưa không biết về Hệ Từ tất nhiên không thể thấu triệt. 1) ĐẶC TÍNH CỦA ÂM DƯƠNG: Người học tập lý luận cơ bản về Âm Dương, ai cũng biết chúng nó có 3 đặc tính cần và đủ là tương đối, hổ căn, bình hành: a. Tương đối : là Âm Dương đối lập qua Tâm của một vòng tròn. b. Hổ căn: cùng có một gốc là toàn thể sự vật (Thái Cực), cùng song sinh, cùng tồn vong nơi sự vật. Không nên cố chấp là Dương sinh Âm, hoặc Âm sinh Dương (nghĩa trắng là chồng sinh vợ, hoặc vợ sinh chồng) mà chỉ có thể hiểu đúng với sự thật là cha sinh con gái, mẹ đẻ con trai, trai gái thành đôi vợ chồng. c. Bình hành: nhiều người cố chấp với nghĩa ngang bằng nhau nhưng không thể hẹp hòi như vậy dù cho Âm Dương có đồng là 2 bán của 1 đường kính, thì 2 chiều thuận nghịch của Âm Dương cũng diễn đạt 2 chiều hướng tâm và ly tâm (Dương bình hướng tâm, Âm hành ly tâm). 6
Nhấn mạnh các chữ cần và đủ là ngụ ý chỉ với 3 đặc tính này là cần để diễn đạt về Âm Dương và đủ để thấy rõ Đạo Tam Cực gồm cả Âm Dương thống nhất tại Tâm và Âm Dương đối lập qua Tâm. HỆ TỪ VỚI 3 ĐẶC TÍNH CỦA ÂM DƯƠNG ĐỐI LẬP
THỐNG NHẤT # HỔ CĂN
BÌNH HÀNH
DƯƠNG
DƯƠNG
DƯƠNG
BÌNH
TRUNG HÒA
HÀNH
ÂM
ÂM
ÂM
HỆ TỪ VỚI CÁC NGÔN NGỮ THƯỜNG DÙNG THÁI HÒA
HÒA BÌNH
ĐẠI TIỂU
ĐỒNG DỊ
THÁI
BÌNH
ĐẠI
ĐỒNG
HÒA
HÒA
TIỂU
DỊ
.
2) VAI TRÒ CỦA HỆ TỪ: Từ là lời lẽ (lý luận) dùng làm thuật ngữ trong các sách lưu truyền xưa nay; cận đại thì việc dùng Từ có nghĩa gần với Khoa học [ngọn] nhưng xa với Đạo học [gốc]; còn các kinh sách cổ truyền thì trái lại dùng Từ dính liền (Hệ) với Tượng Số. Cho nên có thấu được Hệ Từ thì mới hiểu được cội nguồn văn minh Phương Đông. Người xưa tạo lập chữ viết (chữ Nho) hầu hết là theo Tượng Số (tượng hình, tượng thanh, tượng số .v.v…). Ví dụ: chữ Nhơn là người gồm tượng 2 nét, 7
nét phết bên trái tượng Dương, nét chấm bên phải tượng Âm; chữ Nhất là một có 1 nét ngang; chữ Nhị là hai có 2 nét ngang; chữ Tam là 3 có 3 nét ngang. a. Tượng : Hình tròn: Tượng Vô Cực, Thái Cực, toàn thể sự vật. Hình tam giác: Tượng Tam Cực, Tam Tài, Tam Vận. Hình hai tam giác đối đỉnh: Tam giác có đỉnh trên (màu đỏ) tượng Tam Dương, Tam Cực Tiên Thiên. Tam giác có đỉnh dưới (màu đen) tượng Tam Âm, Tam Cực Hậu Thiên. Hình vuông: Tượng Tứ Kinh, Tứ Khí, Tứ Kỳ Kinh. Hình tròn có hình vuông nội tiếp: Tượng Thái Cực nhi Tứ Tượng (sự tích bánh chưng bánh dầy, lời chúc mẹ tròn con vuông trong văn hóa Việt Nam). .v.v… b. Số: Về các số thủy chung, Âm Dương đã nhiều lần trình bày nên không lập lại; nơi đây chỉ nhắc lại các số dùng chung với Hào được gọi là Hệ, trình bày nơi Kinh Dịch: Hệ 1 Hào: Tượng Lưỡng Nghi có 2 quẻ là Âm và Dương. Hệ 2 Hào: Tượng Tứ Tượng có 4 quẻ là Dương Nhiệt, Âm Hàn, Dương Hàn, Âm Nhiệt. Hệ 3 Hào: Tượng Bát Quái có 8 quẻ là Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn. Hệ 4 Hào: Tượng 16 Tứ Trung Hào cũng là 16 Tạng Tượng nơi thân người. Hệ 5 Hào: Tượng 32 quẻ chưa Hệ tên (ngờ là 32 Tướng tốt của Phật). Hệ 6 Hào: Tượng Vạn Vật có 64 quẻ đã được Hệ tên. 8
3) SỰ TIẾN HÓA CỦA NHÂN LOẠI: Hiện tại loài người đang tiến theo xu thế toàn cầu hóa, Phương Tây với sở trường Khoa học Thực Nghiệm đã hướng về Phương Đông để phát triển kỹ thuật; Phương Đông với sở trường Đạo học Khí Hóa cũng tương ứng hướng tới Phương Tây để củng cố pháp tắc. Khoa học hổ trợ Đạo học, Đạo học giúp đỡ Khoa học; Gốc và ngọn vốn không thể rời, tương giao tốt càng thêm tươi đẹp.Từ là ngôn ngữ liên tục phát triển theo kịp Khoa học, Tượng Số là những biểu tượng để lưu truyền Đạo học, muốn nối liền Khoa học với Đạo học hoặc ngược lại không thể chỉ riêng biết về Từ hoặc về Tượng Số mà phải kết hợp, đó là sử dụng Hệ Từ. Văn hóa Việt Nam có truyền tụng lâu dài hai câu thơ lục bát: Mười phần hết bảy còn ba Hết hai còn một mới ra thái bình Nhiều người bàn đến gọi là Sấm Trạng Trình, có người thay chữ hết là chữ chết hoặc chữ mất nhưng hầu hết có luận bàn tiên đoán là một cuộc tang thương sẽ xảy đến cho dân tộc với thảm họa mười phần chỉ còn một. Có hành giả tu Phật lại nói hai câu thơ này ngụ ý chỉ ra con đường tiến hóa của nhân loại. Con đường này là vui bỏ tánh phức tạp của chúng sanh để nuôi dưỡng tính giản dị của người hành Đạo Tam Cực (mười phần hết bảy còn ba); kế tiếp là hành pháp không hai (xuất gia) rời lối sống tương đối hướng tới đích tuyệt đối (hết hai còn một mới ra thái bình). Một nhà Khoa học muốn nắm vững nguồn gốc, một nhà Đạo học muốn hiện đại hợp thời tức nhiên không thể không biết vai trò của Hệ Từ là Trung Đạo, con đường tiến hóa của nhân loại.
.
9
4. PHÁP TẮC
THIÊN TẮC
TÙY THUẬN
ĐỊA PHÁP
Pháp tắc là thuật ngữ thường dùng trong Triết học Đông phương mở đầu bằng kinh Dịch. Nhân loại xưa nay không có vị thầy nào cao quý hơn Tự nhiên, quan điểm này chẳng những giới khoa học ngày nay công nhận mà ngày xưa Lão Tử cũng đã xác định nơi Đạo Đức kinh:”Nhân pháp Địa, Địa pháp Thiên,Thiên pháp Đạo, Đạo pháp Tự nhiên”. Ứng dụng học thuyết Âm Dương thay chữ pháp bằng chữ thuận( Nhân thuận Địa, Địa thuận Thiên,Thiên thuận Đạo, Đạo thuận Tự nhiên) thì chữ tắc tất nhiên được thay bằng chữ tùy(Tự nhiên tùy Đạo, Đạo tùy Thiên,Thiên tùy Địa, Địa tùy Nhân).Tùy Thuận là pháp tắc tương giao ngàn đời của vạn vật. Đông phương từ rất lâu đã có một ngành Y với truyền thống Đạo học Khí Hóa (thuận Tự nhiên) gọi tắt là Đông Y có 4 di sản quý giá là ‘ Nội Nạn Thương Kim’.Cổ Thánh đã thuận Tự nhiên lưu truyền Nội kinh (Linh khu và Tố vấn),Ngài Biển Thước tiếp theo viết Nạn kinh, Đức Trọng Cảnh thời Hậu Hán cũng thuận Tự nhiên làm 2 sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận. Từ đó đến nay Đông Y phát triển trong tình trạng không đầy đủ truyền thống thuận Tự nhiên này.Chẳng những các thế hệ sau này tại Trung Hoa không chịu hiểu ý nghĩa tên sách ‘Thương Hàn Luận’ mà còn dù có tán tụng Tạp Bệnh Luận, tôn thờ Đức Trọng Cảnh là Y Tổ,Y Thánh, cũng đổi tên sách này thành ‘ Kim Quỷ yếu lược’ .Học và làm Đông Y ai cũng biết Lý Pháp Phương Dược là 4 điều cốt yếu. Bốn điều vừa kể rất thiết thực và gắn bó với nhau nhưng dần dà người đời sau có tham vọng tách riêng cho gọn nhẹ.Thực tế chứng minh 4 vấn đề này luôn gắn bó và tồn tại với các từ Dược Lý [Lý dụng Dược]và Phương Pháp [Pháp dụng Phương]. 10
Đạo Phật chỉ có một cứu cánh là Giải thoát,nhưng Đức Phật giảng nhiều Pháp môn vì chúng sanh có nhiều trình độ.Tuy nhiều Pháp môn lại gọi chung là ‘Pháp bất nhị ’ để xác định chỉ dẫn chúng sanh đi trên một Trung Đạo tiến tới Giác ngộ là rời bỏ giới tương đối đến chổ tuyệt đối. Cũng không ngoài ý này,Phật pháp chỉ dùng một chữ ‘pháp’ để gọi vạn sự vạn vật là muôn pháp. Trong tương đối thì sử dụng cả 2 chữ Pháp Tắc hoặc Tùy Thuận còn trong tuyệt đối thì chỉ dùng một chữ ‘tùy’ hoặc một chữ ‘thuận’ như nói về Thánh nhân dạy chân lý thì ‘tùy’ Thời còn nói về người thường làm khoa học thì ‘thuận’Tự nhiên. Truyền thống sử dụng các thuật ngữ Pháp Tắc và Tùy Thuận rất sâu xắc và tế nhị.
5. TƯ DUY CỦA NGƯỜI THUẬT KINH DỊCH VÀ ĐẠO LÀM NGƯỜI
Tôi tự học và cổ động nhóm học tập Đông Y Hán Việt cùng học Kinh Dịch để tìm hiểu nguồn gốc của Đông Y theo quan điểm của Cụ Lưu Thủy “ Y đạo có gốc từ Dịch đạo “ để hiểu được các di cảo của Cụ. Suốt gần 10 năm chúng tôi chưa thấy loé một tia sáng nào,mặc dù chúng tôi đã đọc qua nhiều sách Dịch bằng chữ Hán và hầu như các sách bằng chữ Việt về Kinh Dịch của thế kỷ 20 chỉ để lại cho chúng tôi một nhận định : Các sách Kinh Dịch chữ Hán chỉ có Chính văn và Thập truyện của Đức Khổng Tử là có giá trị. Còn lại các sách như Dịch Trình truyện của Trình Di hoặc Dịch bản nghĩa của Chu Hy từ đời Tống đến nay..v..v…đều không có giá trị khoa học thực tiễn nào mà còn có dấu tích của các chủ trương xuyên tạc và hạn chế của các nhà cầm quyền phong kiến và độc tài.
11
Các sách Kinh Dịch chữ Việt chỉ thấy đáng chú ý là của Phan Bội Châu và Nguyễn Hiến Lê. Đến khoảng 1997 chúng tôi mới đọc được cuốn Chu Dịch và Tứ thư Thiền giải của Thiền sư Trí Húc (Minh) rồi liên tưởng đến Cụ Lưu Thủy cũng là một cư sĩ tu Thiền chúng tôi mới nảy được tư duy : Dịch học mô tả quá trình Đại diễn phân ra từ một đến tất cả vạn vật (Xu hướng Nhất bản tán vạn thù). Thiền học chủ trương rèn luyện quay vào từ tất cả về một (Xu hướng Vạn thù Qui nhất bản). Từ đó chúng tôi thấy ngày một rõ con đường Trung Đạo nối liền tương giao giữa 2 cực Âm Dương tuy là một mà luôn có hai chiều ra vào. Chúng tôi dần dần nhận thức được Đạo Tam cực là cơ cấu của Dịch lý và cũng là cơ cấu chung của vạn vật, của mọi khoa học phát xuất từ nền văn minh này.Chúng tôi bắt đầu đọc lại và hiểu dần các di cảo của Cụ Lưu Thủy. Từ đầu thập niên 2000 đến nay, chúng tôi đã cùng tạm dịch và học tập các di cảo của Cụ Lưu Thủy và đúc kết được quá trình này thành một luận đề ngắn gọn:”Đông Y với truyền thống Đạo học Khí Hóa “.Ngoài ra để đáp ứng nhu cầu, tôi đã tóm tắt tư duy của bản thân qua cuốn Đạo giáo mà tôi đã phổ biến.Tôi thiết tưởng đã làm hết sức mình nhưng lại có người bạn yêu cầu tôi ghi lại một vài tâm đắc khi học Dịch,nhưng tôi cứ dần dà và ngần ngại về khả năng và trí thức hạn hẹp.Tôi không thể làm được các việc mà các bậc tiền bối của tôi đã làm.Nhưng khi nghĩ đến các thế hệ sau này phải vất vả vượt qua đoạn đường trở ngại ngàn năm hậu quả do Kinh Dịch bị xuyên tạc và hạn chế bởi các chủ trương xấu,tôi lại miễn cưỡng nhận lời.Tôi thuật cuốn Kinh Dịch và Đạo làm người vỏn vẹn chỉ có 5 chương vắn tắt: Chương 1: Cơ cấu Dịch lý. Tôi ngắn gọn khẳng định Kinh Dịch là sách mô tả nhận thức của con người về cơ cấu sinh sống của vạn vật trong đó có con người.Cơ cấu Dịch lý là bao hàm hiện tượng của vạn vật là Âm Dương và bản chất tương giao, biến hóa trong 2 qui 12
luật không rời là Âm Dương thống nhất và Âm Dương đối lập. Nếu như người học tập Kinh Dịch muốn tìm hiểu sâu xa hơn thì khảo sát thêm: 3 cách diễn đạt : Tượng, Số, Từ. 3 đặc tính: Thể, Tướng, Dụng. 3 Thời loại: Tiên thiên, Trung thiên, Hậu thiên. 3 Đạo lý: Đạo Trú dạ, Đạo Tam Cực, Đạo Vuông tròn. Chương 2: Dịch thư và Dịch học. Tôi rất ngần ngại khi trình bày Chương này vì tự thấy kiến thức hạn hẹp nhưng bắt buộc phải làm vì Thiền sư Trí Húc đã nêu ra 3 yêu cầu cho người học là: Dịch lý, Dịch thư và Dịch học.Dịch lý đã nói ở Chương trước, còn Chương này tôi đành nói ra cái biết thô thiển của mình về Dịch thư và Dịch học. Chương 3: Âm Dương và đời sống. Tôi khẳng định 2 qui luật Âm Dương thống nhất và Âm Dương đối lập không lúc nào tách rời.Các chế độ xã hội dù có nguỵ biện thế nào thì cũng hình thành 2 giai cấp thống trị và bị trị.Và sự tốt xấu không phải bởi chủ nghĩa mà chỉ do lòng tham, cho nên muốn xây dựng chủ nghĩa gì thì trước hết phải đào tạo con người. Chương 4: Kinh Dịch và Đạo làm người. Sách có tựa trùng với tên Chương vì nó là chủ đề của toàn bộ.Tôi chủ yếu thuật Chương này để tưởng nhớ đến lòng trắc ẩn của 3 vị tiền bối : Trước hết là Đức Khổng Tử đã nhiều công phu sang định Kinh Dịch và làm Thập truyện, chẳng những đã để lại cho đời sau một di sản vô giá mà còn với một tấm lòng ưu tư về Đạo làm người biểu hiện nơi Hệ Từ truyện chương 7, ba lần nói về chín Đức [3x3=9],(phải chăng bảo nhỏ với người sau cái cốt lõi của Dịch là Đạo Tam cực và 3 Thời loại).Chẳng những thế, người còn làm Đại tượng truyện dùng tượng của 64 quẽ Dịch để hướng dẫn người quân tử tu thân.
13
Kế tiếp là Cụ Phan Bội Châu tại Việt Nam trong thế kỷ 20 đã diễn giải Kinh Dịch không mê tín với cả lòng yêu nước thương dân . Sau cùng là Nguyễn Hiến Lê đã để lại một bản thảo về Kinh Dịch trong tinh thần khoa học với chủ trương cổ vũ ‘Học làm người’ có một tựa đề khiêm tốn là ‘Kinh Dịch,văn minh thời tiềnTần‘(Trong thập niên 1990 nhà xuất bản thành phố HCM đã xuất bản sách này với tên‘Kinh Dịch, Đạo của người quân tử‘). Chương 5: Tổng luận [Âm Dương và Nhân Đạo] Người thuật tuy có dài dòng tại Chương này vì không chỉ tóm tắt các Chương trước, cũng không phải để ca tụng tính siêu tuyệt của Kinh Dịch mà là để khẳng định Kinh Dịch là dấu ấn văn minh của nhân loại dù rằng lịch sử có chứng minh nó phát xuất từ một đất nước, nhân loại cũng nên hình dung nó chỉ là nhận thức của con người về vũ trụ và vạn vật không có giới hạn thời gian xưa nay, cũng không có biên cương Đông Tây….v.v…Lợi ích của nó cũng không dành riêng cho giới nào mà là chung của mọi người,mỗi người đều phải biết trong giới hạn tri thức của mình để sống cho trọn Đạo làm người. Tâm đắc về Kinh Dịch nếu có chỉ là Lý luận. Người được tâm đắc còn phải bước qua giai đoạn Sự hành thì mới đạt được đầy đủ yêu cầu thông đạt tất yếu của Đạo làm người.
6. ĐẠI DIỄN Văn Hóa Phương Đông từ xưa vốn có 1 quan niệm thống nhất, từ lớn nhất như vũ trụ cho đến nhỏ nhất như 1 nguyên tử, đều gọi là Đạo, cũng gọi Thái Cực, là đơn vị đầu tiên của toàn thể sự vật. Quan điểm này đã được Kinh Dịch trình bày nơi Đồ Đại Diễn. Ngày nay chữ Đại thường được dùng với ý quên Đạo toàn thể chỉ còn nghĩa tương đối [Đại nghĩa là lớn đối lập với Tiểu nghĩa là nhỏ] dẫn đến cực đoan gây ra nhiều thảm họa bởi kỳ thị và chiến tranh. 14
1. NGHĨA TƯƠNG ĐỐI: Tương đối là Âm Dương đối lập: Trong cơ thể có Đại Trường là ruột già chủ bài tiết cặn bã thì đối lại Tiểu Trường là ruột non hấp thu dưỡng chất. Trong xã hội có Đại nhân là quan cai trị đối lập với dân bị trị; Đại nhân là chủ thì đối lại có Tiểu nhân là tớ. Trong giáo dục có Đại học dành cho người đã qua Trung học thì đối lại có Tiểu học dành cho người mới học. Trong anh em (xưng hô) có đại huynh (anh lớn) thì có tiểu đệ (em nhỏ). 2. NGHĨA CỰC ĐOAN: Cực đoan là cố chấp không có tương giao 2 chiều giữa 2 cực Âm Dương hoặc là giữa 2 cực Tương đối và Tuyệt đối; Ví như trong chế độ phong kiến chỉ có tôi phải trung với vua, con phải hiếu với cha mẹ; Đại nhân là vua quan giai cấp quý tộc cầm quyền cai trị còn Tiểu nhân là giai cấp nô lệ ,dân đen bị trị. 3. ĐẠO TOÀN THỂ: Từ lâu đời chữ Đại vốn đã có 2 nghĩa, 1 nghĩa Tương đối như đã trình bày, còn có 1 nghĩa Tuyệt đối là toàn thể sự vật. Kinh Dịch là 1 tác phẩm rất xưa đã khẳng định đạo toàn thể bằng Đồ hình Đại Diễn, mô tả quá trình theo hướng phân nhị (Nhất Bản tán Vạn Thù) : Thái Cực (đạo toàn thể gọi là Nhất Bản) thị sinh Lưỡng nghi là Âm Dương (hệ quẻ 1 hào, mỗi quẻ bằng 1/2), Lưỡng nghi lại phân Âm Dương thành Tứ Tượng (Dương Nhiệt - Dương Hàn - Âm Nhiệt – Âm Hàn) (hệ quẻ 2 hào, mỗi quẻ bằng 1/4), Tứ Tượng lại phân nhị thành Bát Quái (hệ quẻ 3 hào, mỗi quẻ bằng 1/8), Bát Quái lại phân nhị thành 16 Tạng Tượng (hệ quẻ 4 hào, mỗi quẻ bằng 1/16), Tạng Tượng lại phân nhị thành 32 Tượng (hệ quẻ 5 hào,mỗi quẻ bằng 1/32), 32 Tượng quẻ 5 hào lại phân nhị thành 64 quẻ 6 hào Tượng vạn vật (mỗi quẻ bằng 1/64) (tất cả). Ngược lại từ Vạn Vật quay về Thái Cực là tất cả bao gồm trong một (Vạn Thù qui Nhất Bản). 15
Tiếp nối truyền thống này Đức Khổng Tử đã để lại bộ Tứ Thư trong đó có sách Đại Học dạy Đạo làm người (rèn luyện đại nhân) với trình tự : TU THÂN – TỀ GIA – TRỊ QUỐC – BÌNH THIÊN HẠ Đường lối rèn luyện 4 bước này có trật tự không đổi, bước đầu là Tu thân với Đức dục: Chính Tâm: ngay thẳng giữ Tâm chân chính. Thành Ý: thành thật tác ý khi hành động. Có Chính Tâm, Thành Ý thì mới biết thuận được đạo Trời, sáng suốt công bằng trong các bước kế tiếp như Tề gia – Trị quốc – Bình thiên hạ . Sách này cũng dạy ‘Thành tắc Minh, Minh tắc Thành’ nghĩa là thật thà thì sáng suốt, người sáng suốt tự biết phải thật thà. Như vậy sách Đại học có mục đích rèn người trở thành Đại nhân có nhiệm vụ lãnh đạo bản thân, nhà, nước và cả nhân loại, Đại có nghĩa toàn thể bao gồm cả Tiểu còn tương đối dù là Âm Dương cũng chỉ là Tiểu đối lập với Tiểu ( tại vòng Tùy Duyên). Theo lý này Đại nhân cũng là quân tử là người hiểu đạo Âm Dương chứ không phải chỉ hiểu theo nghĩa tương đối và cực đoan quân tử là Dương, tiểu nhân là Âm để nuôi dưỡng kỳ thị như chủ trương xuyên tạc Kinh Dịch của chế độ phong kiến và độc tài. Theo đạo toàn thể, chữ Đại còn được dùng: - Đại Dục: lòng muốn phụng sự xã hội nhân loại. - Tiểu Dục: chỉ muốn vì danh lợi cá nhân. - Đại Đồng: lớn là hiệp (kết) các vật giống nhau. - Tiểu Dị: nhỏ là phân (chia) các vật khác nhau. - Đại Từ: lòng thương lớn của mẹ hiền. - Đại Bi: lòng xót lớn của cha lành. 16
Ở đây chữ Đại được dùng gần như chữ Thái với nghĩa toàn thể sự vật (Thái Cực), vừa có nghĩa là lớn, vừa có nghĩa bao trùm toàn thể. Ví như quân tử là người hiểu Đạo toàn thể gồm cả Âm Dương trái lại cực đoan tại Dương hoặc tại Âm đều là tiểu nhân. (Đạo Cơ đốc nói Chúa Kytô là con một của Đức Chúa Trời nên hiểu theo Đạo toàn thể (tuyệt đối), Chúa là Vũ trụ hiệp một với Chúa Trời; không nên hiểu lầm là Chúa Trời chỉ có 1 đứa con theo nghĩa tương đối). 4. CHÍNH & TÀ: Đời sống nhân loại xưa nay có nhiều thảm họa phần lớn do nhầm lẫn không phân hiểu được Chính và Tà. a. Chính trị: Khi còn truyền thống là đạo toàn thể, trị bệnh cũng như trị loạn lấy Chính làm gốc. Kinh Dịch có định nghĩa theo toàn thể về chữ Chính rất sớm với Tứ thời Nguyên – Hanh – Lợi –Trinh, Chính mở đầu từ Dương là Nguyên, Chính kết thúc tại Âm là Trinh; bao gồm Âm Dương, xuyên suốt thỉ chung đều là Chính. Phật pháp cũng dùng chữ Chính theo nghĩa toàn thể như Bát Chính Đạo, danh hiệu Đức Phật là Vô Thượng – Chính đẳng – Chính giác; Các Tỳ kheo hành trì Trung Đạo tu lục hòa tức là hòa với tương đối (tất cả), đồng với tuyệt đối (một). b. Tà trị: Khi đã mất truyền thống chỉ dựa theo nghĩa tương đối và cực đoan thì lúc đầu phân biệt Chính với Tà rồi dần dần cực đoan trở nên kỳ thị - tham ác – bạo ngược (chủ trương thực dân xâm lược hoặc độc tài Đảng trị,hoặc phân giai cấp bằng giàu nghèo, xóa giai cấp bằng thù hận thay vì tương giao bằng tình nhân loại), che đậy bằng các danh xưng – chiêu bài giả hiệu làm cho người bị trị không thể phân hiểu Chính – Tà nhằm mục đích kéo dài sự cai trị. 5. NHẬN ĐỊNH: Đạo toàn thể sự vật từ lâu đã được dùng với chữ Đại (tuyệt đối). Ngày nay do bỏ quên Lý Đạo toàn thể chỉ còn dựa theo Sự Nghĩa tương đối dẫn đến 17
nhiều quan niệm sai lầm gây ra kỳ thị, chia rẽ, hận thù làm khổ loài người. Đạo Nghĩa không thể chia lìa là gốc ngọn không thể tách rời, Đạo học và Khoa học cần phải gắn bó bổ sung nhau, mới thuận với Chân Lý Đại Diễn (Đại = một = tất cả Tiểu) .
ĐỒ HÌNH ĐẠI DIỄN
Gần đây có vài Tỳ kheo khi giảng luận cho các Phật tử có so sánh Phật giáo là nhân bản và khoa học còn Nho giáo là mê tín và định kiến. Phải chăng đó là chỉ hiểu theo Nho giáo đã bị xuyên tạc? Nếu là Kinh Dịch và Nho giáo chính thống thì rất khoa học và thuận tự nhiên cũng như Phật giáo (rất 18
khoa học và thuận tự nhiên) không có gì khác; Điều này đã được Thiền Sư Trí Húc (Minh) khẳng định nơi sách Chu Dịch Thiền giải: Phương dĩ loại tụ Thiền giải Dịch Vật dĩ quần phân Dịch giải Thiền Nhờ Dịch mà Thiền được giải rõ, nhờ Thiền mà Dịch được sáng tỏ; Cho nên Dịch và Thiền đã bổ sung cho nhau, người học Dịch có Thiền mau thấy biết, người tu Thiền có học Dịch dễ Thông Lý - Đạt Sự. Thực tế này ngoài lý giải của Thiền Sư Trí Húc còn thể hiện nhiều bằng chứng nơi Phật Pháp.
KINH DỊCH
ĐẠI
HIỆP
NHO GIÁO
PHẬT GIÁO
TRUNG
BẤT BIẾN
DUNG
TÙY DUYÊN
PHÂN
TIỂU
7. KINH DỊCH VÀ NHO GIÁO
Kinh Dịch là một tác phẩm rất xưa ghi lại nhận thức của người phương Đông từ khi chưa có chữ viết về sinh hoạt của vạn vật trong Vũ Trụ, Nhân Sinh.Kinh Dịch mở đầu Triết học và mọi ngành khoa học của Đông phương.Nho Giáo là một đạo giáo triển khai và ứng dụng từ Kinh Dịch,nên có thể nói Kinh Dịch và Nho Giáo gần như là một. Ngày nay muốn học tập nghiên cứu Triết Đông tất 19
nhiên phải tham khảo Kinh Dịch và Nho Giáo nhưng không khỏi hoang mang vì vấn đề này hiện có hai luồng truyền tải khác nhau,một luồng chính thống trong dân gian và một luồng đã bị xuyên tạc bởi chủ trương phổ biến của nhà cầm quyền phong kiến và độc tài.Phân hiểu được hai luồng truyền tải này chẳng những rút ngắn con đường học tập nghiên cứu mà còn bảo vệ được giá trị thiết thực của Kinh Dịch và Nho Giáo. 1. KINH DỊCH VÀ NHO GIÁO CHÍNH THỐNG: Trải qua hơn ngàn năm lịch sử,hiện nay người bắt đầu học Dịch và Nho Giáo rất khó phân biệt vì hai bản Kinh Dịch chính thống và đã bị xuyên tạc chỉ khác nhau rất ít. Sau khi thông hiểu cơ cấu thì mới có thể nhận ra. Chính thống là phù hợp với tự nhiên và sự thật.Không thể chối cải tự nhiên của một sự vật là gồm đủ hai mặt hiện tượng và bản chất. Một sự vật có hiện tượng là Âm Dương và bản chất là cơ cấu tương giao biến hóa tuần hoàn của cặp Âm Dương đó. a. Đạo Âm Dương và Đạo Tam Cực: Kinh Dịch có định nghĩa ‘Nhất Âm Nhất Dương Chi Vị Đạo’;cần lưu ý ngoài hai chữ Âm Dương còn có các chữ Nhất và Đạo;chỉ vỏn vẹn có 7 chữ đã mô tả đầy đủ một sự vật bao gồm hiện tượng là Âm Dương đối lập và bản chất là Âm Dương thống nhất,còn chữ Đạo bao gồm cả hai qui luật của toàn thể sự vật (đạo Thái Cực). Do đó,chữ Đạo trong các từ Đạo Âm Dương, Đạo Trú Dạ, Đạo Tam Cực, Đạo Vuông Tròn là một chữ nói đến toàn thể sự vật,các chữ còn lại chỉ để diễn đạt tính cách của sự vật mà thôi. (Kinh Dịch có Bát Quái gồm 8 quẻ 3 hào Thượng-TrungHạ gọi là Tiểu Thành,có 64 quẻ 6 hào với 2 lần Bát Quái gọi là Đại Thành;Trong dân gian có học thuyết Tam Tài,Tam Vận; Trong Nhân Thân Khí hóa có 3 Bộ Vị Biểu-LýTấu..v..v….cũng đều là xác minh Đạo Tam Cực). b. Kinh Dịch và Nho Giáo: Như trên đã khẳng định Kinh Dịch và Nho Giáo gần như là một, nói gần như tức là có chỗ khác chút ít. Chỗ khác đó là Kinh Dịch mô tả một sự vật bằng Đạo Tam Cực, Trung Đạo giữa cặp Âm Dương tương đối – hổ căn - bình hành là đường 20
kính của một vòng tròn mà 2 cực Âm Dương ở 2 đầu của đường kính đối lập qua Tâm gọi là cực Trung Hòa; còn Nho Giáo có chủ trương trình bày Trung Đạo là đường tương giao giữa 2 cực Nhất(Tâm bất biến,tuyệt đối) và Đa (vòng tùy duyên, tương đối),lúc này Trung Đạo là bán kính, 1 đường giữa có 2 chiều từ Đa vào Nhất gọi là Đạo,từ Nhất ra Đa gọi là Giáo.Nho Giáo dùng từ Trung Dung (Trung là Tâm bất biến,Dung là vòng tùy duyên)không khác với Phật Giáo dùng từ Viên Trung(Viên là vòng tùy duyên và Trung là Tâm bất biến);suy rộng ra cũng không khác các tôn giáo còn lại. KINH DỊCH
NHO GIÁO
+
TRUNG TRUNG DƯƠNG
ÂM HÒA
ĐẠO
-
GIÁO
DUNG
Tóm lại nội dung của Kinh Dịch không khác với Nho Giáo cũng như với Phật Giáo nhưng chỉ khác cách trình bày; Kinh Dịch trình bày Âm Dương theo tương đối [Âm Dương cùng trên vòng tròn, có Trung Đạo là đường kính], còn Nho Giáo chú trọng liên kết giữa tuyệt đối và tương đối [Âm Dương là 2 chiều hướng tâm và ly tâm, của 1 Trung Đạo và bán kính]. 2. KINH DỊCH VÀ NHO GIÁO BỊ XUYÊN TẠC: Do Kinh Dịch và Nho Giáo chính thống có chủ trương phù hợp với tự nhiên và sự thật,trái với tham vọng của nhà cầm quyền đương thời nên thay vì chống đối,hủy bỏ,họ đã xuyên tạc tinh vi và có hiệu quả. a. Chủ trương xuyên tạc: Không ai khác hơn là tập đoàn cầm quyền Phong kiến đương thời. Bằng chứng là họ bỏ qua các đề nghị của Lão Tử nơi Đạo Đức kinh;không dùng Đức 21
Khổng Tử khác hẳn bề ngoài khen ngợi và tán dương Kinh Dịch và Nho Giáo của họ.Chủ trương xuyên tạc với các mục đích: Bảo vệ lâu dài ngôi vị quân chủ. Đào tạo quan lại các cấp thành một hệ thống đầy tớ trung thành. Làm cho dân bị trị cam phận an tâm, khuất phục. b. Nội dung xuyên tạc: Nhằm đạt được các mục đích kể trên,nhà cầm quyền đương thời đã có một chủ trương xuyên tạc rất tinh vi : Chẳng những không chống đối hủy bỏ, không thay đổi nguyên văn nếu có chỉ 1 vài chữ, mà còn hết lời ca tụng làm cho người dân đương thời và các thế hệ sau này không thể nghi ngờ. Ngữ pháp cổ rất sâu sắc,ví dụ tại Hệ Từ truyện,câu ‘Thái cực thị sinh lưỡng nghi’ thì lược bỏ chữ ‘thị’ (chữ thị rất quan trọng để chứng minh Thái Cực là toàn thể sự vật đã được phân 2 cực Âm Dương) ; tại Thuyết Quái truyện câu ’Nơi Trời là Âm Dương,nơi Đất là Cương Nhu,nơi người là Nhân Trí thì đổi một chữ Nhân Trí thành Nhân Nghĩa (trong tứ bộ Nhân – Nghĩa- Lễ- Trí thì Nhân là Âm Hàn [ ] đối lập với Trí là Dương Nhiệt [ ]; Nghĩa là Âm Nhiệt [ ] đối lập với Lễ là Dương Hàn [ ] thì mới đúng là Âm Dương tương đối) .Người nghĩ cạn thấy rất phù hợp với hiện tượng nhưng suy thấu bản chất thì mới thấy tánh quan trọng của các chữ này. Tỏ ra trân quý Kinh Dịch và Nho học trong giáo khoa để đào tạo Nho sĩ và dùng khoa cử để tuyển chọn quan lại (không cho phổ biến tự do mà kiểm soát trong giới hạn nhằm phục vụ quyền lợi của họ). Che giấu sự thật về Trung Đạo và Bản Chất tuyệt đối, chỉ dùng hiện tượng tương đối dễ thấy để luận mọi sự vật, chứng minh các chủ trương cai trị và làm cớ áp đảo dân bị trị. Ví dụ Âm Dương có đủ 3 qui luật thì chỉ dùng qui luật Tương đối là hiện tượng dễ thấy còn 2 qui luật Hổ căn và Bình hành thì chỉ bàn qua loa để chứng minh các hiện tượng trọng Nam khinh Nữ,chính tà phân
22
tranh.Còn đối với Thuyết Định mệnh thì chỉ dùng Dịch Tiên Thiên để chứng minh (thay vì Dịch có đủ 3 Thời loại TiênThiên,Trung Thiên và Hậu Thiên). c. Kết quả xuyên tạc: Với các chủ trương nội dung tinh vi kể trên,việc xuyên tạc Kinh Dịch và Nho Giáo đã có một kết quả nhất định kéo dài ngàn năm cho đến hôm nay: Trung Đạo thay vì có 2 chiều chỉ còn 1 chiều là Tôi trung với Vua,Con hiếu với Cha,Quân trung với Đảng..v.v..cụ thể của việc này là lịch sử Trung Hoa đã chứng minh từ đời Tống đã có chuyện Nhạc Phi. Chữ ‘Đạo‘nói đến toàn thể sự vật đã dần dà bị quên lãng,chỉ còn nỗi bật chữ ‘Nghĩa’ để chú trọng hiện tượng dễ thấy mà thôi. Điển hình là các sách Dịch đời Tống của Chu Hy và Trình Di;nối tiếp là các quan điểm trọng Nam khinh Nữ,chồng chúa vợ tôi,chính tà phân tranh,quân tử tiểu nhân kỳ thị. Xã hội Trung Hoa,một đất nước sớm có nền Triết học phương Đông lỗi lạc với Kinh Dịch và Nho Giáo,đã phân hóa thành 2 giai cấp rõ rệt,một thiểu số cầm quyền kéo dài,có đặc quyền,đặc lợi,giàu có,tham nhũng,hối lộ và đa số còn lại là bị trị,dốt nát và cam phận đói nghèo.Một nước nhỏ lân cận phía Nam Trung Hoa là Việt Nam có ngàn năm bị Trung Hoa đô hộ cũng chưa thoát khỏi hậu quả của sự xuyên tạc này. 3. ĐẠO HỌC VÀ KHOA HỌC: Đạo là toàn thể sự vật (Thái cực).Đức Lão Tử, Đạo Đức kinh nói ‘Đạo pháp tự nhiên’ tức là vạn vật có đời sống thuận tự nhiên.Chủ trương xuyên tạc Kinh Dịch và Nho Giáo là trái Đạo,chỉ nhằm phục vụ lợi ích của một thiểu số cầm quyền còn hầu như đã lãng phí một vốn quí của đất nước và dân tộcTrung Hoa là Kinh Dịch và Nho Giáo. Đạo học dùng nguyên lý Khí Hóa để diễn đạt mọi sinh hoạt của vạn vật. Khoa học dùng kỹ thuật Thực Nghiệm để xác minh đời sống của vạn vật. Một cổ truyền và một hiện đại,một gốc và một ngọn không thể tách rời.
23
Đạo học chủ trương cần thừa kế.Khoa học chủ trương cần phát huy Đạo học không Khoa học như cây thiếu ngọn,không thể phát triển;Khoa học không Đạo học như cây mất gốc,không thể cân bằng. Trong tương đối thì mới có Đạo học đối lập với Khoa học còn trong tuyệt đối thì Đạo chỉ có một bao gồm cả gốc Đạo học và ngọn Khoa học với Trung Đạo của chúng. Tiếc rằng người ngày nay không chịu hiểu để cho Đạo học kỳ thị Khoa học và ngược lại Khoa học kỳ thị Đạo học làm cho Đạo học không phát triển và Khoa học mất định hướng.Điển hình là Truyền thống Đạo học Khí Hóa của Đông Y bị mai một khiến cho ngành Y Tế hiện đại chưa thể thừa kế được vốn quý cổ truyền này. Các thức giả nghiên cứu Triết Đông cần phải sáng suốt nhận định: Kinh Dịch và Nho giáo chính thống là những nhận thức thuận tự nhiên,những qui luật đã được ứng dụng làm nền tảng cho mọi khoa học tại phương Đông không thể vì bị xuyên tạc mà phế bỏ những lợi ích của nền văn minh này; trái lại cần phải làm cho nó thêm trong sáng. Chủ trương xuyên tạc Kinh Dịch và Nho giáo là những tội đồ của các nhà cầm quyền phong kiến và độc tài. Kinh Dịch và Nho giáo là vốn quý, văn minh của nhân loại cần được học tập và phát huy, không nên chỉ vì chống đối quân chủ, độc tài mà kỳ thị người thừa kế nền khoa học tự nhiên này..
8. KINH DỊCH & PHẬT GIÁO Một tu sĩ có tâm đắc nói Phật Pháp là ‘một’ trong khi nhiều kinh sách nói Phật Pháp là Pháp ‘không hai’; Phải chăng Phật Pháp cũng như câu ca dao: Mình với ta tuy hai mà một Ta với mình vốn một mà hai 24
Tôi học Đông Y tìm tòi truyền thống với Bản Nghĩa của Cụ Lưu Thủy đã nhiều năm chưa hiểu được, tiếp đến tìm hiểu Kinh Dịch rồi đọc đến Chu Dịch và Tứ Thư Thiền Giải của Thiền Sư Trí Húc. Từ đó tôi mới nhận ra một sự thật tự nhiên hằng có đã lưu hành khắp thế gian, trong kinh sách. Dịch chẳng những đã trình bày 2 hiện tượng Âm Dương mà còn ẩn chứa 1 bản chất là cơ cấu của mọi sự vật; kết hợp 2 hiện tượng và 1 bản chất thành ra Đạo Tam Cực chứng tỏ Thái Cực là toàn thể sự vật. Thử liên tục vẽ 1 vòng tròn nếu nửa trước bắt đầu từ trên xuống thì nửa sau từ dưới lên và ngược lại; nếu nửa trước bắt đầu từ ngoài vào thì nửa sau từ trong ra và ngược lại. Kinh Dịch đã xử dụng hình tròn để tượng vạn vật, mỗi sự vật có 2 cực hiện tượng Âm Dương trên vòng tròn tại 2 đầu của 1 đường kính (Trung Đạo giữa 2 cực Âm Dương) và bản chất tại Tâm là Cực Trung Hòa. Toàn thể của sự vật là Đạo Thái Cực, cũng là Đạo Tam Cực. Nho Giáo tiếp nối Kinh Dịch thể hiện Trung Đạo là bán kính nối liền giữa 2 cực Tâm (nhất) và vòng tròn (đa) điều này đã xác minh nơi sách Trung Dung và Đại Học. Phật Giáo cũng dùng hình tròn để tượng vạn pháp với cách gọi tóm lược là Viên Trung (Viên là vòng tùy duyên, Trung là Tâm bất biến). Muốn tìm hiểu Phật Pháp dễ dàng, tất yếu phải tìm hiểu Kinh Dịch và Nho Giáo, con đường này đã được Thiền Sư Trí Húc chỉ dẫn nơi sách Chu Dịch và Tứ Thư Thiền Giải. Ngôn từ dùng truyền tải Phật Pháp cũng là những từ thể theo Tượng Số như : Vạn pháp : dùng tượng hình tròn, Trung Đạo dùng đường bán kính; còn lại dựa theo số thì cũng không ngoài 10 con số Âm Dương, số Dương có 5 là 13 - 5 - 7 – 9, số Âm cũng có 5 là 2 – 4 – 6 – 8 – 10; Dương khởi đầu với số 1 Nguyên Thỉ, Âm dứt cuối với số 10 Trinh Chung; từ những số Âm Dương đã biểu hiện 2 cực tuyệt đối và tương đối rõ ràng [3 = 2 + 1, 5 = 4 + 1, 7 = 6 + 1, 9 = 8 + 1] điển hình ví như nói về tuyệt đối thì dùng từ Nhất Như, còn nói lìa khỏi đời tương đối là ‘xuất gia’, ’hành pháp không hai’. Đạo Tam Cực thì rất nhiều như Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng), Tam Độc (Tham, Sân, Si), Tam Nghiệp (Thân, Khẩu, Ý), Tam Pháp Ấn (Khổ, Vô Thường, Vô Ngã), Tam Tâm (quá khứ, hiện tại, vị lai),3 tầng Tâm Thức 25
(Tâm, Ý, Thức), 3 mối Nhân quả (Nhân, Duyên, Quả) làm nổi bật Phật Pháp là pháp dứt tuyệt Ý Duyên để đạt cứu cánh Nhất Tâm, .v.v…. TAM BẢO
TAM PHÁP ẤN
TỊNH PHẬT
GIÁC
PHÁP CHÁNH
TĂNG TỊNH
KHỔ
LẠC
VÔ NGÃ NGÃ
VÔ THƯỜNG THƯỜNG ĐỘNG
GIẢI THOÁT
GIÁC NGỘ DUYÊN GIÁC
BẤT GIÁC
Tứ Diệu Đế (Khổ,Tập , Diệt, Đạo), Tứ Chánh Cần còn gọi là Tứ ý đoạn,Tứ chính đoạn,Tứ chính thắng (một - cần dứt điều ác đã sinh, hai – nên ngăn điều ác chưa sinh, ba – cần phát sinh điều thiện, bốn –nên nuôi lớn điều thiện), Tứ Đại (Đất , Nước , Gió , Lửa), Tứ Tướng (Ngã,Nhân, Chúng Sanh,Thọ Giả), Tứ niệm xứ còn gọi là Tứ niệm trụ, Tứ niệm xứ quán (quán thân bất tịnh, quán thụ các khổ, quán Tâm Vô Ngã, quán pháp Vô thường),Tứ Khổ (Sinh, Lão, Bệnh, Tử), Tứ thời (Sanh, Trụ, Dị, Diệt), Tứ Vô Lượng Tâm (Từ,Bi, Hỉ,Xả)..v.v…. Ngũ Giới cấm (Sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, uống rượu), Ngũ Quán (Chân ,Thanh Tịnh, Trí Tuệ, Bi, Từ), Ngũ Tâm (Tầm, Cầu,Quyết, Nhiếp,Lưu), Ngũ Uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức),Ngũ Ý cũng là Ngũ Thức (Nghiệp, Chuyển, Hiện, Trí,Tương tục) .v.v…. Lục căn (Nhãn,Nhĩ, Tỉ,Thiệt, Thân, Ý), Lục Độ (Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tiến,Thiền định, Trí tuệ), Lục Hòa (Thân, Khẩu, Ý, Giới,Kiến, Lợi), Lục tặc tức Lục trần cám dỗ, quấy phá người hành Đạo (Sắc, Thanh, Hương, Vị,Xúc, Pháp).v.v….. Thất Cấu (Dục,Kiến, Nghi,Mạn,Kiêu, Miên, Xan), Thất Đại (Địa, Thủy, Hỏa,Phong, Không, Kiến, Thức), Thất Hữu còn gọi là Thất sinh (địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ, thiên, nhân, nghiệp,trung), Thất Không (Trí Độ luận: Tính,Tự tướng,chư pháp,bất khả đắc,vô pháp,hữu pháp, vô hữu pháp),Thất 26
Kiến (Tà, Ngã,Thường,Đoạn,Giới, Quả,Nghi), Thất Mạn ( cao, quá, mạn quá,ngã,tăng thượng,ti,tà), . .v.v….
Bát Chánh Đạo [Chánh Mạng, Chánh Nghiệp, Chánh Tư Duy, Chánh Kiến, Chánh Ngữ, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định] [nếu thay 8 chữ Chánh bằng 1 từ Chánh Tâm vì Tâm là chủ thể tạo tác mọi Nghiệp hiển hiện nơi Mạng và Nghiệp của Thân thì rõ ra Bát Chánh Đạo là 8 phép tu dùng để dứt Tam Nghiệp với Thân có 3 Pháp là Tâm - Mạng- Nghiệp; Khẩu có 3 Pháp là Tư Duy – Kiến - Ngữ; Ý cũng có 3 Pháp Tinh Tấn – Niệm – Định]. Bát Phong (những cơn gió làm động Tâm nghiêng ngã thoái hóa con người như được mất, khen chê, sướng khổ, vinh nhục) (Bát Phong còn được gọi là Bát Pháp) , Bát Tà ( 8 điều tạo nghiệp ngược lại với Bát Chánh)..v.v…
BÁT QUÁI
BÁT CHÁNH
BÁT TÀ [BÁT PHONG]
MẠNG TƯ DUY
NGỮ
KIẾN
LỢI
CHÁNH
TINH TẤN
NIỆM
ĐỊNH NGHIỆP
CƠ
DỰ
LẠC
TÀ
XƯNG
KHỔ
HỦY SUY
Dân gian có câu ‘Chín phương Trời mười phương Phật’ , nhiều người hiểu lầm theo so sánh là Phật hơn Trời 1 phương. Phật Pháp không hề có so sánh như vậy vì phương vị là tương đối, sự vật ở giữa có 8 phương hướng (Đông,Tây, Nam, Bắc, Đông Bắc, Tây Bắc, Đông Nam, Tây Nam), trên là Trời, dưới là Đất, Phật là người giác ngộ, Phật tánh đồng nghĩa với chân Tâm bao gồm cả Trời Đất. Phật thành Đạo là 1 thể tuyệt đối không phải là tương đối như đã nhầm lẫn so sánh hơn thua.
27
Tín ngưỡng là 1 nhu cầu thiết yếu của nhân loại nên trong thế gian cũng có nhiều Tôn Giáo như Nho Giáo thờ Trời, Cơ Đốc Giáo tin có Chúa toàn năng (Thiên Chúa), Hồi Giáo thờ Thánh A-La; Các Tôn Giáo này đều chủ trương có đấng Giáo chủ duy nhất; Phật Giáo vừa là Đạo học vừa là Khoa học không đề cập 1 đấng chủ tể có quyền năng sinh sát nhưng cũng nói về cái duy nhất và gọi nó là Tâm. Nếu thế gian này chỉ có 1 đấng duy nhất thì Giáo chủ của họ có thể như đã có người gọi chung là Thượng Đế [Đế là Chân thật – Tự nhiên, Thượng là danh từ gọi tôn của thiên hạ nhưng có nghĩa tuyệt đối bao gồm toàn thể vũ trụ, không có nghĩa như Thượng đối lập với Hạ trong Âm Dương bình hành tương đối]. Phật Pháp là Pháp chỉ đường Trung Đạo từ tương đối đến tuyệt đối, hành giả là người xuất gia rời cực tương đối để đi đến cực tuyệt đối, khi chưa đến thì còn phải hành pháp ‘không hai’ , khi đã đến (tuyệt đối) là đã Giác Ngộ - Giải Thoát thì còn đâu để phân biệt Sắc - Không, Phiền Não – Bồ Đề. TƯƠNG ĐỐI KHÔNG RỜI TUYỆT ĐỐI (Khoa học không rời Đạo học, toàn thể sự vật bao gồm gốc lẫn ngọn)
SÁNG
XÓT
TRÍ + BI
TUYỆT ĐỐI
SUỐT
THƯƠNG
CHÂN = TÂM ĐẠO GIÁO
TƯƠNG ĐỐI - TỪ Trí tuệ là óc sáng suốt, Trí thuộc Dương, Tuệ thuộc Âm. Từ bi là lòng thương xót, Từ thuộc Âm, Bi thuộc Dương. Âm Dương cũng đối lập như Tuyệt đối và Tương đối. TUỆ
Phật Giáo cũng như Kinh Dịch và Nho Giáo đều có nhận thức tuyệt đối là toàn thể Vũ Trụ (khi chưa phân cực gọi là Vô Cực), tương đối là vạn vật đã được sinh ra từ Vũ Trụ có tiến trình phân cực Âm Dương liên tục từ vô hình (Vô) đến có hình (Hữu). 28
KINH DỊCH & PHẬT PHÁP TIÊN THIÊN VÔ CỰC nhi THÁI CỰC
THÁI CỰC
HẬU THIÊN
TIÊN TRUNG HẬU THIÊN
VẠN VẬT các hữu THÁI CỰC
TAM ÂM
TỔ TIÊN sinh CON CHÁU CHA
MẸ
ÔNG
BÀ CON CHÁU
Vô Cực = Toàn thể sự vật chưa phân cực (vô hình) Thái Cực = Toàn thể sự vật đã phân cực (hữu hình) Kinh Dịch chính thống nói ‘Thái Cực thị sinh lưỡng nghi’ có nghĩa Thái Cực là toàn thể sự vật đã phân cực; còn Kinh Dịch đã bị xuyên tạc chỉ khác là bỏ đi chữ thị (Thái cực sinh lưỡng nghi) lại còn có người định nghĩa Thái là lớn, Cực là rất, Thái Cực là vật rất lớn khiến cho Đạo toàn thể phải lu mờ kéo dài ngàn năm. Xưa nay có người dịch Vô Cực nhi Thái Cực là Vô Cực sinh Thái Cực , ý nghĩa tuy không sai nhưng văn pháp xưa dùng chữ nhi để diễn đạt 1 quá trình chuyển biến của sự vật không giống như mẹ sinh con trong giới tương đối. Kinh Dịch nêu rõ Thời loại Tiên Thiên là Vô Cực nhi Thái Cực (phân nhị tức Lưỡng nghi Âm - Dương), Âm Dương là tương đối rồi lại giao hiệp thành tuyệt đối để sanh Âm Dương kế tiếp, giai đoạn kế tiếp liên tục này gọi là Hậu Thiên, Tiên Thiên và Hậu Thiên đắp đổi không rời gọi là tuần hoàn; giữa 2 cực Tiên Hậu có hệ liên kết Trung chuyển là cơ cấu của toàn thể sự vật, phải chăng cơ cấu này là Trung Thiên. Như vậy Dịch có 3 Thời loại Tiên Thiên,Trung Thiên và Hậu Thiên không khác với tự nhiên vốn có Tam Tài ( Thiên – Nhân – Địa), Tam Vận (Khai – Khu – Hạp), Tam Thời ( Quá khứ Hiện tại – Vị lai), Tam Vị ( Thượng – Trung – Hạ, Ngoại – Trung – Nội). Kinh Dịch tuy không đề cập đến Thời loại Trung Thiên nhưng rất tỏ rõ bằng Đạo Tam Cực ( cực Dương, cực Âm, cực Trung Hòa) điển hình hệ 3 hào ( Thượng – Trung - Hạ) có 8 quẻ là Bát Quái gọi là Tiểu Thành, phát triển đến hệ 6 hào (2 lần Đạo Tam Cực) 29
có 64 quẻ gọi là Đại Thành, Tượng Vạn Vật; mỗi mỗi đều phù hợp với tự nhiên như Trời Đất có Lục Khí, người có Lục Kinh .v.v… . Tương đối bình hành là Âm Dương đối lập có Trung Đạo là đường kính; còn Phật Giáo cũng như Nho Giáo dẫn loài người đi theo Trung Đạo (tu tâm dưỡng tánh) từ vòng tùy duyên (Đời) đến tâm bất biến (Đạo). Người học cần phân hiểu : Đồng được gọi là Trung Đạo nhưng Kinh Dịch diễn đạt Âm Dương đối lập qua Tâm và cùng ở trên vòng tùy duyên khác với Nho Giáo và Phật Giáo thì hướng dẫn hành giả từ vòng tùy duyên (tương đối) đến tâm bất biến (tuyệt đối). Chổ giống nhau của 2 Trung Đạo (dù là đường kính giữa Âm Dương đối lập hoặc là bán kính giữa vòng tùy duyên và tâm bất biến) cũng là 1 đường có 2 chiều, chiều hướng tâm gọi là Dương tương đối với chiều ly tâm gọi là Âm. Phật Giáo cũng không khác Nho Giáo và Kinh Dịch, hành trì Phật Pháp cũng tức là hành trì Trung Đạo, giác ngộ khối liên kết giữa 2 cực tương đối [Đời] và tuyệt đối [Đạo] tức là giải thoát khỏi các cực đoan tại tương đối (không còn tướng chúng sanh) và tại tuyệt đối (không còn tướng thọ giả); chứng đắc thực tại hiện tiền khi còn sống ở đời tương đối gọi là hữu dư Niết Bàn và khi đã chết không còn phải luân hồi sinh diệt trong tương đối gọi là vô dư Niết Bàn. Kinh Dịch với nhận thức Thái Cực làm nền tảng thiết lập Nho Giáo thì Phật Giáo bằng Pháp môn Thiền Định cũng làm phương tiện cứu cánh của người tu. Tiếp nối đề xướng ‘Tri Hành Hợp Nhất’, hy vọng lịch sử nhân loại sẽ gặt hái được nhiều thành quả kết hợp của Dịch và Thiền.
9. ÂM DƯƠNG VÀ ĐỜI SỐNG Âm Dương là cốt lõi của Dịch, ở đây không bàn rộng đến Quái hào, chỉ tóm gọn với hai quy luật Âm Dương Thống nhất và Âm Dương Đối lập. Đời sống nói chung là của vạn vật, nhưng ở đây chỉ bàn riêng về loài người. Ai cũng biết những hiện tượng tự nhiên về Âm Dương như ngày đêm, sáng tối, đực cái, cao thấp, rộng hẹp .v.v… Nhiều người nghe câu ca dao: 30
Mình với ta tuy hai mà một. Ta với mình vốn một mà hai. Tưởng rằng ca dao này chỉ nói về nghĩa vợ chồng nào ngờ nó còn nhắc nhớ hai quy luật Âm Dương chi phối toàn bộ đời sống của nhân loại. Âm Dương Thống nhất= một. Âm Dương Đối lập= hai. A. NHẬN THỨC SAI LẦM VỀ ÂM DƯƠNG: Dù phủ nhận hay công nhận, biết hay không biết thì Âm Dương cũng biến hóa và hiện diện trong đời sống.Người học Dịch hoặc chỉ khảo sát Âm Dương cũng đều biết 3 qui luật: Âm Dương tương đối, Âm Dương hổ căn. Âm Dương bình hành. Nhưng nhận thức hời hợt thì tưởng chừng dễ còn chính xác thì rất khó. a. Âm Dương tương đối: Kinh Dịch Thuyết Quái truyện, chương II có ghi: “Đạo của Trời gọi là Âm Dương, của Đất là Cương Nhu, của Người là Nhân Nghĩa”, tưởng là đúng, không ngờ nhìn lại toàn câu thì Âm Dương và Cương Nhu đều là đối lập, tại sao Nhân Nghĩa không phải là đối lập? Dịch, Hệ Từ Thượng Chương V nói “Nhân đối với Trí “ Như vậy phải chăng điều này đã được chép lầm ?
Nhân Nghĩa đồng thuộc Âm loại
TRÍ
Nghĩa không tương đối với Nhân NGHĨA
LỄ
Nghĩa là tương đối với Lễ NHÂN
Trí mới là tương đối với Nhân
.
31
Như vậy câu trên, đoạn sau nên sửa lại là: “Của Người là Nhân Trí ”. Hiện nay có nhà Dịch học còn nói: “ Quân tử là Dương, tiểu nhân là Âm”. Điều này thoạt nghe dễ tưởng lầm là phù hợp với nghĩa tương đối. Đúng ra lệch một bên hoặc Dương hoặc Âm đều là tiểu nhân; trái với quân tử là người hiểu Đạo gồm cả Âm Dương. Tóm lại, Âm Dương tương đối là hiện tượng đối lập của sự vật. b. Âm Dương hổ căn: Hổ căn là Âm Dương cùng được sinh ra từ một gốc Thống Nhất, cùng tồn tại nơi hai ngọn Đối Lập. Do nhận định sai lầm về Âm Dương hổ căn nên suốt ngàn năm nay lịch sử Trung Hoa luôn xảy ra hiện tượng ‘ chánh diệt tà, tà diệt chánh’; làm đề tài cho các truyện dài võ thuật. Tóm lại, Âm Dương Hổ Căn là bản chất thống nhất của sự vật. c. Âm Dương bình hành: Bình hành là thăng bằng và điều hòa tại Tâm; Tuy Đối Lập nhưng Âm Dương đều có con đường đến Tâm là bán kính của vòng tròn. Dù cho có Dương cao Âm thấp, Dương trước Âm sau thì Âm Dương cũng hòa bình. Do có nhận thức sai lầm về việc này nên xã hội Phong kiến có hiện tượng “trọng Nam khinh Nữ” và “chồng chúa vợ tôi”. Tóm lại, Âm Dương Bình Hành là Âm Dương vừa thống nhất (bình), vừa đối lập (hành) trong sự vật, hiện tượng và bản chất của sự vật không thể chia lìa. B. CÁC CHẾ ĐỘ XÃ HỘI: Chế độ xã hội tuy hình thành theo đà tiến hóa của nhân loại nhưng đều có thực thể giống nhau là không ra khỏi Đạo Âm Dương và khác nhau là do chủ trương của nhà cầm quyền: a. Phong kiến: Thực thể: Thống trị: Giai cấp quí tộc. Bị trị: Giai cấp nô lệ. 32
Chủ trương: Quân chủ. Vua là Thiên tử, ngôi vua không thời hạn và cha truyền con nối. Các quan do vua chọn, quan lớn chọn quan nhỏ. Còn lại là đa số dân bị trị. b. Tư bản: Thực thể: Thống trị: Giai cấp Sĩ, Thương. Bị trị: Giai cấp Công, Nông. Chủ trương: Tư sản, tự do, dân chủ. Phân quyền rõ rệt (Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp). Theo chính thể Công Hòa. Công nhận đối lập, đa Đảng. c. Cộng sản: Thực thể: Thống trị: Giai cấp Công, Nông (Đảng viên). Bị trị: Giai cấp Sĩ, Thương (không Đảng viên). Chủ trương: Cộng sản, độc Đảng lãnh đạo. Chuyên chính vô sản. 33
Xóa bỏ giai cấp. C. VAI TRÒ CON NGƯỜI TRONG CHẾ ĐỘ: Xưa nay nhiều người lầm tưởng xã hội tốt xấu hoàn toàn tùy thuộc vào chế độ, thực ra không phải như vậy. Chế độ mở ra xu hướng đào tạo con người. Con người tốt xấu cầm quyền mới chính là nhân tố tạo ra xã hội tốt xấu. a. Trong chế độ Phong kiến: Vua quan xấu gây chiến tranh bành trướng lãnh thổ cai trị, đào sâu hố ngăn cách giữa giai cấp thống trị và bị trị. Vua quan tốt biết thương xót người bị trị thì dưới chế độ quân chủ cũng có dân chủ và được thái bình thịnh trị (như thời Nghiêu, Thuấn của Trung Hoa, như vua Trần tại Việt Nam mở hội nghị Diên Hồng và đánh thắng giặc Nguyên). b. Trong chế độ tư bản: Chủ trương tư sản, tự do, dân chủ là khuyến khích cạnh tranh và tiến bộ. Phân quyền là thực hiện Đạo Tam cực. Theo chính thể Cộng Hòa và công nhận đối lập là tuân thủ Đạo Trú Dạ (đạo Âm Dương). Thoáng nhìn thì chế độ Tư bản rất phù hợp với đà tiến hóa, nhưng phải tùy thuộc nhà cầm quyền. Nhà cầm quyền xấu biến tư sản thành tài phiệt, biến tự do thành mạnh hiếp yếu, thành thực dân xâm lược và cai trị các nước yếu kém, gây lũng đoạn kinh tế. Nhà cầm quyền tốt đất nước và dân tộc văn minh, tiến bộ, ảnh hưởng lan rộng khắp hoàn cầu. Các chế độ An sinh xã hội, trợ cấp thất nghiệp, giáo dục phổ thông miễn phí, y tế cộng đồng không lấy tiền mà hiện nay 34
chủ nghĩa Tư bản đã làm, phải chăng cũng là mục tiêu đang phấn đấu của chủ nghĩa xã hội. c. Trong chế độ Cộng sản: Hầu hết các chủ trương đều lý tưởng thái quá đến nỗi không thực hiện được, phải chăng là ‘không tưởng’. Muốn thực thi Cộng sản cần có những cá nhân không tham lam. Muốn độc Đảng lãnh đạo (không có đối lập giám sát) thì phải có nhiều Đảng viên đủ tài, trí, đức. Muốn chuyên chính vô sản thì phải có người cầm quyền trong sạch. Muốn xóa giai cấp thì phải có tình thương không hận thù. Chủ trương cũng đã từng nói: “ Muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Con người xã hội chủ nghĩa có những đức tính điển hình là “Cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư ”. Không thể thực hiện chủ nghĩa cộng sản, không phải vì chủ trương mà chỉ vì thiếu người đủ đạo đức. Lãnh đạo xấu: không những không thực hiện nổi chủ trương mà còn trở thành độc tài Đảng trị. Tuy biết rõ phải lấy dân làm gốc, tuyên bố: “Dân biết, dân bàn, dân kiểm tra”. Nhưng chỉ thông tin một chiều làm sao dân biết sai đúng, không được phép hội họp tự do, dân nào có chỗ được bàn; oan ức còn khiếu nại không được, quyền đâu dân kiểm tra ? Chủ trương chỉ có ở lời nói, không có ở việc làm. Lãnh đạo được tuyên truyền nói tốt, ngôi vị không hạn kỳ (không bầu cử hoặc chỉ bầu cử hình thức), cha truyền con nối như thời Phong kiến. Các Đảng viên cầm quyền trở nên tham nhũng, hối lộ, quấy nhiễu dân lành cũng không khác thời Phong kiến. Muốn tổ chức một chế độ xã hội tốt hơn để chống lại Tư bản, nhưng thất bại chỉ vì chưa hợp thời, chưa đủ người đạo đức; còn phải lùi lại gần như chế độ Phong kiến và theo đuôi chế độ Tư bản. Lãnh đạo tốt: Không có hoặc không đủ để tiến lên chủ nghĩa xã hội (Thất bại này còn được biện minh là “thời kỳ quá độ”, thực ra quá độ không phải là chạy theo kinh tế thị trường, một sở trường của chủ nghĩa Tư bản, mà phải là đào tạo cán bộ đủ đạo đức để thực hiện chủ trương). D. NGHĨA THỰC CỦA CHÍNH THỂ CỘNG HÒA: Hai chữ Cộng Hòa được dùng phổ biến trong nhiều quốc gia : 35
Hoa kỳ theo chính thể Cộng Hòa. Trung Quốc hiện nay có tên nước là “Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa”. Miền Bắc Việt Nam từ năm 1954 đặt tên nước là “Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa”. Sau năm 1975 gọi tên chung là “Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Miền Nam Việt Nam trước năm 1975 cả hai đời Tổng Thống đều đặt tên nước là “Việt Nam Cộng Hòa”. Thì ra, 2 chữ Cộng Hòa được dùng chung cho cả 2 chế độ xã hội vì nó có ý nghĩa phù hợp với luật Trời: Âm Dương Thống nhất tại Tâm = 1 = Cộng. Âm Dương Đối lập qua Tâm = 2 = Hòa.
Ai ngờ rằng Chính thể Cộng Hòa gồm có: Cộng = Thống nhất là hợp với đạo Trời. Hòa = Đối lập là hợp với lòng Người
NGÔN NGỮ HỆ TỪ THƯỜNG DÙNG CÓ CHỮ HÒA & TRUNG ĐẠO HAI CHIỀU ĐỐI LẬP
TRUNG
CỘNG
ĐỒNG
HIỆP
HÒA
HÒA
HÒA
HÒA
36
Các tên nước trên dùng hai chữ “Cộng Hòa” đã đủ nói lên chính thể, lại còn thêm hai chữ “dân chủ” tỏ lộ quyết tâm xóa bỏ Phong kiến; lại còn thêm hai chữ “Nhân dân” nêu lên xu hướng lấy dân làm gốc. Nhãn hiệu cũng như lời nói quá tốt đẹp còn việc làm thì thế nào? Chẳng lẽ chỉ là chiêu bài hoặc chỉ là trang sức giả? Xin để “người trong cuộc” tự suy gẫm và trả lời. E. CON ĐƯỜNG HẠNH PHÚC : Đạo Cơ Đốc nói Chúa là: CON ĐƯỜNG – SỰ THẬT – SỰ SÁNG – TÌNH THƯƠNG. Con đường là Trung Đạo, là đường kính gồm một bán kính Dương và một bán kính Âm. Sự thật ở tại Tâm duy nhất và bất biến. Sự sáng ở tại Dương và Tình thương tại Âm cùng ở trên vòng tròn Tùy duyên. SỰ SÁNG
BẤT BIẾN
SỰ THẬT
TÌNH THƯƠNG
TÙY DUYÊN
Điều này không riêng mà hầu hết Đạo giáo đều có chủ trương như vậy. Phật giáo nói Chúng sanh đều có Phật tính. Cơ Đốc giáo nói Chúa ngự nơi mỗi người.Vậy thì Đời và Đạo cũng như Vật chất và Tinh thần cùng ở trong một người. Con đường của Đạo giáo đề ra cũng là con đường hạnh phúc của loài người. Đi trên con đường hạnh phúc là biết sống hợp lý giữa hai qui luật Âm Dương Thống nhất và Âm Dương Đối lập. Âm Dương Thống nhất tại Tâm = một = bất biến = Trung. Âm Dương Đối lập qua Tâm = tất cả = tùy duyên = Hòa. Nhân loại hạnh phúc nhờ biết sống Trung Hòa. 37
F. ĐẠO VÀ ĐỜI: Phần đông chưa thấy được mối liên quan không thể tách rời giữa Đạo và Đời sống của nhân loại. Cũng như đời sống của vạn vật, loài người ở thế gian này sinh hoạt không ra ngoài 2 qui luật Âm Dương thống nhất tại Tâm gọi là Trung và Âm Dương đối lập qua Tâm gọi là Hòa. Thống nhất là Đạo tuyệt đối, đối lập là Đời tương đối. Vạn vật sống trong Đạo Tam Cực là không rời thống nhất và đối lập thì Đạo và Đời đương nhiên cũng không lìa khỏi nhau:
Đạo = Trời = Qui tắc = Tuyệt đối Đời = Người = Pháp luật = Tương đối Đạo Tam Cực = Đời sống của vạn vật (Dương = Âm) Đời sống của loài người cũng không khác Đời sống của vạn vật,cũng là Đạo Tam Cực với 3 ký hiệu + = - ( = là thống nhất thuận ĐạoTrời, + và - là đối lập tùy Đạo Người). Hiện nay, người tu tự cao, người thường lại cung kính thái quá, tạo ra hướng phân biệt Đạo và Đời ;Nhiều người than thở là thời ‘mạt pháp’ không nên hiểu chữ mạt theo nghĩa Nôm là tàn mạt ,mà nên hiểu theo nghĩa gốc mạt là ngọn đối với bản là gốc; Mạt pháp đã thiên về ngọn . Do Đạo và Đời không tách rời nên người tu tại tu viện cũng như cư sĩ tại gia nếu đạt Phúc đức và Công đức như nhau thì cũng được Đạo phẩm giống nhau.
G. KẾT LUẬN: Mọi mặt của đời sống nhân loại luôn luôn dời đổi trong 2 qui luật là Âm Dương thống nhất và Âm Dương Đối lập: Âm Dương Thống nhất: Âm Dương giao hiệp thì Đạo sinh trường tồn. Âm Dương giao hòa thì Đạo sống lâu bền.
.
38
Âm Dương Đối lập: Âm Dương giao thái thì Đời sống nảy sinh. Âm Dương cạnh tranh thì Đời sống phát triển. Đạo tuyệt đối là Trời, là = 0 (vô cực, không Âm không Dương). Đời tương đối là Người, là + = - (Thái cực, Âm Dương Trung Hòa). Thực tế có Thời quá khứ, hiện tại, vị lai thì = là hiện tại còn tiến hóa theo Đạo Trời thì vị lai > quá khứ tức là Nghiệp + > Nghiệp - , tức là đời sau > đời trước (tiến hóa). Có ý tưởng phân biệt Đạo và Đời là sai lầm và không thực tế.
10. ÂM DƯƠNG THỐNG NHẤT VÀ ĐỐI LẬP Âm Dương trong đời sống của muôn loài có hiện tượng dễ thấy dễ hiểu, ai cũng biết và công nhận như ngày đêm, sáng tối, đực cái .v.v.; Nhưng bản chất của Âm Dương luôn tồn tại trong 2 qui luật Âm Dương thống nhất và Âm Dương đối lập thì ít ai biết. Do sự không biết này mà đời sống của nhân loại xảy ra nhiều sai lầm và đau khổ, cho nên con người cần phải biết . 1) SAO GỌI LÀ THỐNG NHẤT: Vạn vật được sanh ra từ cái một,loài người không thấy, không gặp nên miễn cưỡng gọi là Trời ,Thiên Chúa,Thánh A-La.Và vì không lìa khỏi cái gốc này mặc dù đã chia ra thành 2 thành 4…..mà vẫn gồm lại một thể gọi là Thống nhất . Gọi là Thái cực, còn gọi là Thái cực thị sinh lưỡng nghi.Thái cực là đã phân cực.Khi chưa phân cực gọi là Vô cực.Âm Dương trong một thể không gọi là Hiệp nhất vì Hiệp nhất tức đã là một, không còn phân thành Âm Dương nhưng đây chỉ 39
là Thái cực đã phân thành Âm Dương. Do tồn tại song song với cặp Âm Dương đối lập nên Thái cực là một thể được gọi Thống nhất thay vì Hiệp nhất. 2) SAO GỌI LÀ ĐỐI LẬP: Thống nhất có tính Dương biểu thị bằng một hào liền (-) Đối lập có tính Âm biểu thị bằng một hào đứt (- -) Trong muôn loài, giống cái (Âm) gọi là mẹ có khả năng sinh đẻ, hào đứt cũng có tượng phân nhị (- -).Thái cực phân nhị thành Âm Dương đối lập qua Tâm và gọi là Âm Dương đối lập. Do Âm Dương đối lập không rời Âm Dương thống nhất (tại Tâm) cho nên khi biểu thị 2 qui luật này bằng một hình tròn thì : Tâm của vòng tròn biểu thị Âm Dương thống nhất [tại Tâm]. Vòng tròn biểu thị Âm Dương đối lập [qua Tâm].
3) ĐỘC LẬP VÀ THỐNG NHẤT: Tại Sài gòn có 1 cái dinh, trước 1975 chế độ cũ gọi nó là Độc Lập, sau 1975 nhà cầm quyền mới đổi lại là Thống Nhất. Hai cái tên này đều khiến cho người Việt Nam chân chính phải suy gẫm: a. Độc Lập: không có nghĩa là không có đối lập, không có tương giao như nghĩa cô lập mà chính là dù có đối lập, có tương giao vẫn có quyền tự quyết . Hiệp định Genève 1954 chia đất nước Việt Nam thành 2 miền Nam Bắc do các thế lực quốc tế, miền Bắc lệ thuộc khối Cộng Sản xưng là ‘lá cờ đầu của chủ nghĩa xã hội’, miền Nam lệ thuộc khối Tư Bản xưng là ‘tiền đồn của thế giới tự do’, như vậy đâu có quyền tự quyết mà gọi là độc lập, có chăng chỉ là ước mơ của 1 dân tộc. b. Thống Nhất: có nghĩa là vẫn còn Âm Dương đối lập nhưng hòa hợp trong 1 thể gọi là Âm Dương thống nhất. Sau 1975 miền Bắc thống trị và lãnh đạo cả nước với chủ trương từ chối đối lập, không có hòa giải hòa hợp đâu có thể gọi là thống nhất. 40
Thống nhất và Đối lập là chân lý muôn đời của sự vật, còn trái đạo thì còn phải thay đổi cho hợp Đạo mới được bình an. Độc lập và Thống nhất có cùng gốc tuyệt đối, một lãnh tụ cộng sản đã dùng nó để hô hào ‘Không có gì quí hơn Độc lập Tự do ’; Quả thật rất quí vì cùng tại Nhân Tâm (lòng người), Độc lập là cứu cánh (cuối cùng) của Tâm chủ quyết, Tự do là khởi động (bắt đầu) của Tâm phóng dật. ĐỘC LẬP VÀ THỐNG NHẤT ĐẠO TAM CỰC
+
CHIẾN TRANH NGOẠI LAI
HÒA BÌNH GIẢ HIỆU
TƯ BẢN
NAM
TỰ DO
ĐỘC LẬP
XÃ HỘI
THỐNG NHẤT
CỘNG SẢN
BẮC
= .
_
4) ĐỘC LẬP VÀ TỰ DO : Trên 50 năm cuối của thế kỷ 20, một lãnh tụ Cộng Sản đã hô hào “Không có gì quí hơn độc lập tự do” ; những lời này chẳng những kích động được lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam mà còn thúc đẩy một số dân tộc các quốc gia bị thực dân đô hộ đứng lên dành độc lập. Nhiều người chỉ hiểu nôm na những lời này, còn sâu xa hơn theo nghĩa Nhân Quả thì ít ai biết đến khiến cho lầm lẫn và dễ bị kích động. Cần phân hiểu rõ ràng để có lợi ích thiết thực hơn. a. Độc lập: Độc là một mình, Lập là đứng, Độc Lập là đứng một mình. Phật Giáo có dụ ngôn về Độc Lập nơi Kinh ’Người biết sống một mình’ ; Nho học lại có lời răn ‘Quân tử thận kỳ độc’ nghĩa là người quân tử phải thận trọng khi chỉ một mình.Thoạt nghe dường như hai chủ trương này trái ngược nhau, kỳ thật rất phù hợp và bổ sung lẫn nhau; người biết sống một mình tất nhiên dũng cảm, tự chủ, tự quyết cần phải cảnh giác thận trọng tránh bị cám dỗ hoặc sanh lòng phóng túng. 41
Cần phân biệt Độc Lập với Cô Lập. Độc Lập tuy tự chủ tự quyết nhưng có quan hệ đầy đủ với chung quanh, còn Cô Lập là tự kỷ, cô đơn, giam mình không liên lạc với chung quanh. Độc lập là đứng tại Tâm bất biến, tại chỗ tuyệt đối, có nghĩa như Tự Tại. b. Tự do : Tự Do ngoài nghĩa thông thường là không bị ngăn cản, còn có nghĩa Nhân Quả rất sâu sắc; Tự là tự mình, Do là do Nhân, Tự Do là tự mình tạo Nhân và do Nhân cũng chính mình gặt quả (Phật pháp có dụ ngôn Bồ Tát sợ Nhân, Chúng sanh sợ Quả là nghĩa này). Tự là tại Tâm bất biến, Do là từ Tâm bất biến tuyệt đối đi ra vòng tùy duyên tương đối (do Tâm tác Ý, do Ý khởi Thức, tùy Thức tạo Nghiệp). Tóm lại 4 chữ Độc Lập Tự Do ngoài nghĩa đã dùng để kích động, còn có nghĩa Triết học thiết thực cho một nước hoặc một người, đó là Tự quyết và Tự tạo nghiệp. c. Tự giác : Giác là biết đủ, biết toàn thể sự vật; chỉ biết cực đoan hoặc chỉ biết từng phần không đầy đủ sự vật đều là không biết (bất giác). Tự Giác tức là tự mình biết đủ, biết toàn thể sự vật, cụ thể là biết đủ 2 mặt Âm Dương của sự vật như xấu tốt, ngày đêm, đực cái .v.v… . Do tính giác mà tạo nghiệp nên Tự Do dính liền Tự Giác, hoặc nói 1 cách khác Tự Do hoàn toàn tùy thuộc Tự Giác. Tự Giác thế nào thì nhơn quả của Tự Do như thế đó. d. Đạo và Đời : Nho Giáo cũng như Phật Giáo đều dùng tượng hình tròn để mô tả Vũ trụ pháp giới. Hình tròn gồm có một Tâm thống nhất và một vòng tròn với các cặp Âm Dương đối lập; Nho Giáo gọi Tâm là Trung, vòng tròn Tượng vạn vật gọi là Dung, ghép thành hai chữ Trung Dung để mô tả Thái Cực (toàn thể sự vật). Phật Giáo cũng gọi Tâm bất biến là Trung, còn vòng tròn tùy duyên gọi là Viên; ghép thành 42
hai chữ Viên Trung để mô tả Phật Pháp. Tâm bất biến là Đạo tuyệt đối thì đối lại vòng tùy duyên là Đời tương đối.
TUYỆT ĐỐI
BẤT BIẾN
ĐẠO
ĐỘC LẬP TỰ DO DỨT TẠO
TƯƠNG ĐỐI
TÙY DUYÊN
ĐỜI
NGHIỆP
e. Kết luận : Độc Lập và Tự Do quả là không có gì quí hơn nhưng nó là vốn tự nhiên, là Đạo tuyệt đối, tùy thuộc nội lực của từng cá thể hướng vào Đạo hoặc hướng ra Đời, tức hoàn toàn tùy thuộc tánh Tự Giác của từng người, có phải đâu chịu lệ thuộc hoặc đấu tranh ngoại lai mà có được. 5) THỐNG NHẤT KHÔNG RỜI ĐỐI LẬP: Loài người có sự sống cao linh nhất trong vạn vật .Cơ thể gồm có 2 phần Vật chất và Tinh thần. Dù là phần nào cũng gồm đủ Âm Dương .Làm thành hình thể gọi là Âm, làm cho hình thể này sống động gọi là Dương. Con người có sự sống liên tục là nhờ quá trình Âm chuyển thành Dương gọi là Hóa, Dương đổi ra Âm gọi là Biến.Người xưa gọi tắt việc này là Chuyển hóa.Gọi năng lực chuyển đổi là Khí và gọi tắt quá trình chuyển đổi là Khí hóa. Từ nhận thức về Âm Dương ,một khoa học tự nhiên ,con người hoặc mô tả ra kinh Dịch hoặc tóm lược thành Đạo học và 4 từ ’Đạo học Khí Hóa’ được dùng cho đến ngày nay. Do sự sống gồm cặp Âm Dương không rời cho nên 2 qui luật Âm Dương thống nhất là gốc gọi là Đạo, Âm Dương đối lập là ngọn gọi là Đời không bao giờ rời nhau. Âm Dương chia lìa (ly) là chết . Kinh Dịch có lược giải về Âm Dương gồm 3 đạo lý là Đạo Trú Dạ, Đạo Tam cực và Đạo vuông tròn. Cả 3 đều có chữ Đạo ở đầu để nói dù cho Âm Dương có mô tả cách nào cặp đối lập này cũng không rời khỏi cái thể Thái cực (Nhất Âm Nhất Dương chi vị Đạo) của nó. 43
Đạo Trú Dạ mô tả một cặp Âm Dương đối lập. Đạo Tam cực nói rằng 2 qui luật Âm Dương thống nhất tại Tâm gọi là Trung và Âm Dương đối lập qua Tâm gọi là Hòa. Kết hợp 2 qui luật này bằng một Tâm duy nhất. Tam cực là gồm Dương cực, Âm cực (trên vòng tròn) và Tâm gọi là cực Trung Hòa . Đạo vuông tròn mô tả 2 cặp Âm Dương đối lập Thống nhất là gốc, Đối lập là ngọn. Sự sống của muôn loài gồm cả gốc và ngọn (gọi gốc là Đạo,gọi ngọn là Đời). Đời sống dù có phát triển đến đâu cũng không rời khỏi Đạo tức là Đối lập không rời Thống nhất . 6) CON ĐƯỜNG TRUNG CHUYỂN: TRUNG ĐẠO GIỮA HAI CỰC ÂM DƯƠNG
GIỮA HAI CỰC TƯƠNG ĐỐI VÀ TUYỆT ĐỐI
+ LAI
=
BẤT BIẾN VÃNG
LAI
-
VÃNG
TÙY DUYÊN
Trung chuyển bằng một con đường ở giữa gọi là Trung Đạo nối liền sự giao tế của các cặp quan hệ : Trong mối quan hệ giữa Âm Dương đối lập qua Tâm (trên vòng tròn) thì Trung Đạo là một đường kính chia thành 2 gồm 1 bán kính Dương hướng Tâm và 1 bán kính Âm ly Tâm. Trong mối quan hệ giữa 2 cực tuyệt đối (Âm Dương thống nhất tại Tâm) và tương đối (Âm Dương đối lập qua Tâm), Trung Đạo là bán kính có 2 chiều từ vòng tròn vào Tâm gọi là Lai, từ Tâm ra vòng tròn gọi là Vãng. 44
Tâm duy nhất gọi là Bất biến (tuyệt đối). Vòng tròn gồm nhiều cặp Âm Dương đối lập gọi là Tùy duyên (tương đối). Bất biến gọi là Đạo,Tùy duyên gọi là Đời. Đối lập không rời Thống nhất, Hậu Thiên không rời Tiên Thiên cũng không khác Tùy duyên không rời Bất biến, nối liền các mối quan hệ vừa kể là Trung Đạo tức là Con đường Trung chuyển. Nắm lấy(chấp)Trung Đạo, người lãnh đạo cũng như thầy thuốc mới có thể thông lý và đạt sự. 7) TIÊN THIÊN VÀ HẬU THIÊN: Kinh Dịch chỉ gồm 2 phần Tiên Thiên nói về Đạo và Hậu Thiên nói về Đời. Đời sống phát triển từ qui luật Âm Dương đối lập có 2: a. Đối lập không rời Thống nhất là đối lập qua Tâm, là Đạo Tam cực ,là Âm Dương hòa. Trong trường hợp này Dương qua Tâm biến thành Âm và Âm qua Tâm hóa thành Dương phù hợp với Đạo biến hóa. Dịch gọi là Thác (đổi theo Thời,hào Dương đối lập hào Âm như tại Tiên Thiên Bát Quái có các cặp đều là Âm Dương vừa Thống nhất vừa Đối lập). Đúng theo Kinh Dịch Đạo Âm Dương thống nhất là hệ một hào (Nhất Âm Nhất Dương Chi Vị Đạo). Hệ một hào tức là Thái Cực thị sinh Lưỡng Nghi, từ hai hào trở lên tuy cũng phân Âm Dương nhưng đều gọi bằng tên khác như Dương Nhiệt [Thái Dương], Âm Hàn [Thái Âm], Dương Hàn [Thiếu Âm], Âm Nhiệt [Thiếu Dương]. (Việc dùng chữ gọi tên như vậy khiến người sau dễ hiểu lầm với Tạng Tượng gọi đủ Kinh Khí bốn hào). b. Đối lập không qua Tâm mà qua một trục (hoặc một mặt phản chiếu) là Đối lập đã rời Thống nhất. Trong trường hợp này tổng số Âm Dương không đổi chỉ có quẻ sau là đảo ngược của quẻ trước. Ví như quẻ này Dụng cương nhu tại Hạ thì quẻ kia trở thành Dụng cương nhu tại Thượng tức là chỉ đổi theo Vị mà không đổi theo Thời (Âm Dương không biến hóa) Dịch gọi là Tổng (như tại Bát Quái Tiên Thiên có 2 cặp quẻ Đoài - Tốn, Chấn - Cấn không phải là Âm Dương Thống nhất và Đối lập). Dịch Tiên Thiên từ Lưỡng Nghi cho đến 64 quẻ cũng chỉ gồm trong một luật là Thác. Trái lại Dịch Hậu Thiên gồm cả 3 luật: 4 cặp Thác,4 cặp vừa Thác vừa Tổng, 24 cặp Tổng. 45
Văn Vương (Chu) làm Dịch Hậu Thiên ngụ ý bảo với người học rằng: Dịch Hậu Thiên không rời Dịch Tiên Thiên. Tuy dùng 24 cặp Tổng để nói Hậu Thiên là Đời, lại còn dùng 4 cặp Thác để nói là Đạo ,4 cặp vừa Thác vừa Tổng để nói Hậu Thiên không rời Tiên Thiên mà cơ chuyển hóa từ Tiên đến Hậu (tạm gọi là Trung chuyển )cũng đủ ngầm bảo rằng cơ Trung chuyển đó là Dịch Trung Thiên. Dịch Trung Thiên ở giữa chuyển vào Tiên Thiên, chuyển ra Hậu Thiên. Ai học Dịch cũng biết Tiên Thiên thuộc hệ Đại Diễn (phân nhị từ một hào đến 6 hào với cách đọc từ dưới lên); Hậu Thiên cũng có 64 quẻ có Tượng không khác Tiên Thiên nhưng có thứ tự khác hẳn, lại hình thành hệ quẻ 6 hào = 2 lần Bát Quái với cách đọc từ trên xuống. Kinh Dịch truyền tải nội dung chỉ có 2 Thời loại Tiên Thiên - Hậu Thiên và Lưỡng Nghi là Âm Dương, khiến cho người học qua loa dễ hiểu lầm là không có Thời loại Trung Thiên. Nào có biết Trung Thiên chính là con đường Trung chuyển nối liền Tiên Thiên và Hậu Thiên, là cơ cấu Dịch Lý đã được Hệ Từ truyện nhấn mạnh nơi Đạo Tam Cực (gọi Bát Quái có 8 quẻ 3 hào Tượng căn bản là Tiểu thành; gọi 64 quẻ 6 hào có 2 lần Đạo Tam Cực Tượng vạn vật là Đại thành). Bằng chứng Trung Thiên đã hiện hữu nơi Đồ Đại Diễn gồm có 3 hệ: 2 hào (4 quẻ, Tứ Tượng), 4 hào (16 quẻ, Tạng Tượng), 6 hào (64 quẻ, Tượng vạn vật). Hệ Từ truyện còn lưu ý thêm tầm quan trọng của Tứ Trung Hào và 2 Hào Bản Mạt cho thấy Hệ này có Tâm ở giữa với định hướng có 3 hào từ trên xuống và 3 hào từ dưới lên gợi ý rất nhiều cho việc tìm thấy Tạng Tượng và Trung Đồ. Thời loại Trung Thiên là tự nhiên, hằng có nơi cơ cấu Dịch Lý, xưa nay không biết đến do không nhận ra thực tại hiện tiền, có phải đâu là cố ý thêm bớt ! Suốt thời gian ngàn năm mà người học Dịch cố chấp chỉ có 2 Thời loại Tiên Thiên và Hậu Thiên cũng như chỉ nắm lấy hiện tượng của sự vật là Âm Dương còn bản chất của sự vật là Trung Hòa với một sự thật là Đạo Tam Cực gồm cả 2 qui luật Âm Dương thống nhất và Âm Dương đối lập biểu hiện trong đời sống nhân loại suốt xưa nay (thời gian vốn có 3 là quá khứ, hiện tại, vị lai; không gian cũng vốn có 3 là trên, giữa, dưới hoặc ngoài, giữa, trong; có ai suy gẫm 2 chữ vẫn thường dùng là Trung Tâm chăng ? ) .
.
46
8) ĐẠO NGHĨA Ở ĐỜI: Thông thường trong thiên hạ hai chữ Đạo và Đời cũng dùng như hai chữ Đạo và Nghĩa, tuy nhiên cần lưu ý Đạo và Đời đã không rời thì Đạo và Nghĩa cũng vậy. Nếu như Đạo không có Nghĩa thì không phát triển còn vì Nghĩa mà bỏ Đạo thì chỉ có hận thù, cả hai sự thiếu sót này đều là trái Đạo. 9) BIỂU HIỆN TRONG ĐỜI SỐNG: Đời sống hiện thực của nhân loại biểu hiện rất rõ Đạo thống nhất và Nghĩa đối lập của Âm Dương: a. Vợ chồng: Là một biểu hiện về Âm Dương rất rõ trong đời sống, kết hợp nam nữ thành một đôi là đặc trưng mầu nhiệm của Đạo thống nhất; nam có lòng bảo trợ cho nữ, nữ có lòng săn sóc cho nam cùng gọi là Nghĩa. Đạo Nghĩa vợ chồng đã thắm nhuần trong văn hóa Việt Nam thành truyền thống vợ chồng gọi nhau là mình, ngoài ra còn có câu ca dao : Mình với Ta tuy hai mà một Ta với Mình vốn một mà hai b. Tín ngưỡng: Tín ngưỡng là nhu cầu thiết yếu hiện hữu khắp nơi trong đời sống. Nho giáo và Phật giáo đồng gọi thống nhất tại Tâm (Đạo,bất biến) là Trung; Nho giáo gọi đối lập tại vòng tròn (Đời) là Dung và có từ Trung Dung; Phật giáo gọi đối lập tại vòng tròn (Tùy duyên) là Viên và có từ Viên Trung. Cơ Đốc giáo tuy không dùng từ như Nho giáo và Phật giáo nhưng lại có câu ‘Chúa là con đường – sự thật – sự sáng – tình thương’ với một biểu hiện rất rõ: Con đường: Trung Đạo nối liền hai cực Đời - Đạo, tương đối - tuyệt đối. Sự thật: Toàn thể sự vật gồm cả hiện tượng là Âm Dương đối lập và bản
chất là Âm Dương thống nhất. Sự sáng: Chức năng của Dương (Phật giáo gọi là Trí Huệ). Tình thương: Chức năng của Âm (Phật giáo gọi là Từ bi). 47
Cơ đốc giáo có lễ xưng tội và biết ơn; xưng tội là nguyện không tái phạm lỗi lầm, xa lánh mọi cám dỗ để khỏi xuống Địa ngục; biết ơn là dựa vào lòng thương xót của Chúa, xin được cứu rỗi, thánh hóa tiến lên Thiên đàng. Phật giáo cũng không khác, có lễ sám hối và xuất gia hành Trung Đạo (hành pháp không hai) bỏ Đời tương đối hướng tới Đạo tuyệt đối. c. Y Dược: Đời sống nhân loại xưa nay tồn tại song song với Y Dược; Y học cổ truyền hiệp Y Dược chỉ một ngành diễn đạt toàn thể sự vật bao gồm bản chất [khó thấy] là Âm Dương thống nhất và hiện tượng [dễ thấy] là Âm Dương đối lập; Y học hiện đại đáp ứng đà phát triển tuy phân Y Dược thành 2 ngành, nhưng ngành Dược có chủ trương Dược Lý (ghép chữ Lý ở đầu với chữ Dược ở cuối) và Phương Pháp (ghép chữ Phương với chữ Pháp); Rõ ràng vẫn là Nhất quán (Thái Cực nhi Tứ Tượng). Dược lý và Y lý vốn không thể rời cũng như Âm Dương thống nhất và Âm Dương đối lập là 1 thể không rời của mọi sự vật. Chỉ cần thấy rõ thống nhất là 1, đối lập là 2; hai mặt của một vấn đề, hai chiều của một Trung Đạo; Người nghiên cứu khoa học tất nhiên sẽ khẳng định mối quan hệ này. 10)
NHẬN ĐỊNH:
Có gốc từ tuyệt đối nên vạn vật có bản chất khó thấy là Âm Dương thống nhất, có ngọn là tương đối nên vạn vật có hiện tượng dễ thấy là Âm Dương đối lập. Thống nhất và Đối lập tồn tại song song là Đạo Tam Cực ; Nhân loại không thể từ chối lý sự chân thật này. Trị loạn cũng không khác trị bệnh.Chuyển chiến tranh trở lại hòa bình cũng không khác chuyển bệnh lý trở thành sinh lý. Người trị nước cũng như người trị bệnh cần thấu hiểu 2 qui luật này.
.
48
11. PHƯƠNG PHÁP LUẬN ÂM DƯƠNG Bước vào tòa nhà Đông Y , người học nào cũng thấy rất tự hào về cách luận Âm Dương Tương Đối – Hổ Căn – Bình Hành của nó, nhưng khi tham khảo đến cách luận Âm Dương nơi pháp Dưỡng Sinh Ohsawa thì ai cũng ngờ vực. Tôi cũng không thoát khỏi thông lệ ấy kịp đến khi phân hiểu được hai cách luận Âm Dương, ngờ vực này mới chấm dứt. Gần đây khi nghe một vị tu Phật Giáo nói về lợi ích của việc áp dụng pháp Dưỡng Sinh và tinh thần Dưỡng Sinh trong Phật Giáo, tôi rất tâm đắc nhưng dường như có người vốn đã biết Đông Y còn phân vân về việc áp dụng pháp Dưỡng Sinh này vì chưa phân hiểu được chỗ khác nhau về cách luận Âm Dương của Đông Y và pháp Dưỡng Sinh Ohsawa nên tôi mạo muội đóng góp như sau: 1) ĐÔNG Y LUẬN ÂM DƯƠNG : Là 1 khoa học tự nhiên thừa kế từ Kinh Dịch, Đông Y luận Âm Dương theo Đạo Tam Cực với 2 qui luật Âm Dương thống nhất tại Tâm và Âm Dương đối lập qua Tâm; Do đó Tâm là cực Trung Hòa nằm giữa 1 Trung Đạo là đường kính có 2 cực Âm Dương ở 2 đầu; Âm Dương đối lập qua Tâm của vòng tròn có đi qua 2 cực này. Sách Trung Dung của Nho học có nói: “ … chưa phát gọi là Trung, đã phát gọi là Hòa; Vạn vật đến chổ Trung Hòa thì có trật tự và được nuôi dưỡng tốt.“. Rõ ràng Đạo Tam Cực gồm có Tâm là cực Trung Hòa, cực Âm và cực Dương, như vậy Âm Dương là tương đối trên vòng tròn, Hổ Căn tại Tâm Trung Hòa và Bình Hành do mỗi Âm Dương đều là 2 bán kính. Thầy Siêu Thiền viết “Nguyên Lý Bất Triệt Để “ là nhìn về tương đối. 2) PHÁP OHSAWA LUẬN ÂM DƯƠNG: Pháp này luận Âm Dương không theo Đông Y mà dựa theo 2 chiều Trung Đạo của Nho Giáo không khác với Phật Giáo và 1 vài Tôn Giáo khác. Trung Đạo này là 1 bán kính, 1 đầu là Tâm bất biến (tuyệt đối), đầu còn lại là 1 điểm trên vòng Tùy Duyên (tương đối). Âm Dương là 2 chiều của Trung Đạo, chiều ly Tâm từ Tâm ra vòng tròn gọi là Âm, chiều hướng Tâm từ vòng tròn vào Tâm gọi là Dương.
49
Ví dụ Tiên sinh phân loại đường là Âm vì chất ngọt này cần được sử dụng ngay trong các hoạt động cần Calo và thể lực, trái cây cũng là Âm vì nó là quả (trái với nhân) dễ gây chứng nhức đầu..v.v.. . Tiên sinh Ohsawa thuật “Vô Song Nguyên Lý” là hướng tới tuyệt đối. 3) NHẬN ĐỊNH: Âm Dương theo hai cách luận đều là giống nhau vì đều là tương đối nhưng rất khác nhau vì Đông Y luận Âm Dương là 2 cực tương đối trên 1 vòng tròn; còn Phương pháp Dưỡng Sinh , Nho Giáo thì luận Âm Dương tương đối theo 2 chiều ly Tâm và hướng Tâm của 1 Trung Đạo. Cách luận này rất phù hợp với Phật Giáo và rất thuận lợi cho người hành trì Phật pháp. Đông Y luận Âm Dương tương đối trong xã hội loài người nhưng khẳng định Âm Dương đối lập(tương đối) không rời Âm Dương thống nhất (tuyệt đối). Còn Nho Giáo không khác với Phật Giáo nhưng có hướng tiến hóa hơn là xuất gia (rời khỏi Âm Dương đối lập) để hành Pháp môn bất nhị trên Trung Đạo hướng tới tuyệt đối. Thực Dưỡng là dùng ăn uống chẳng những để nuôi thân mà còn nuôi Tâm với xu hướng tiến hóa từ tương đối đến tuyệt đối rất phù hợp với chủ trương của nhiều Tôn Giáo. Cần nhấn mạnh cho rõ ràng hơn: Đông Y luận Âm Dương thực tế phổ thông trong xã hội có tính tự do, có hiệu quả tùy trình độ người điều trị. Thực Dưỡng luận Đông Y lý tưởng, giới hạn trong Tôn Giáo có tính giới răn,có hiệu quả tùy tư tưởng người hành trì. Hai phương pháp luận có hình thức khác nhau nhưng đều dựa theo đặc tính căn bản là Âm Dương tương đối (đối lập); đồng có một mục đích là bảo toàn sức khỏe bằng cách quân bình Âm Dương, chứng tỏ Âm Dương là 2 thành phần hằng có trong vạn vật mà sức khỏe của người là Âm Dương quân bình. Người bệnh không phải do Âm hay Dương mà do tính thái quá (thực) hoặc bất cập (hư) của 2 thành phần này. 50
Trị bệnh hoặc là bảo vệ sức khỏe cũng đều là điều hòa đem lại thăng bằng Âm Dương cho cơ thể. Cho nên vấn đề cần phải lưu tâm là quân bình Âm Dương, không để chúng hoặc thái quá hoặc bất cập. Theo thực tế tiến hóa là Dương > Âm vừa phải, thoái hóa thì ngược lại Âm >Dương vừa phải; không còn vừa phải tất nhiên bệnh tật xảy ra. Người trị bệnh hoặc người dùng pháp Thực Dưỡng cần biết rõ như vậy.
ĐÔNG Y
THỰC DƯỠNG
DƯƠNG
TUYỆT ĐỐI
TRUNG HÒA
DƯƠNG
ÂM
TƯƠNG ĐỐI
ÂM
.
12. ĐẠO NGHĨA ÂM DƯƠNG Đông Phương lưu truyền câu ‘Vạn vật đồng nhất thể’ với ý nói sự vật dù lớn như vũ trụ hoặc nhỏ như nguyên tử đều có một thể gồm 1 Âm và 1 Dương vừa thống nhất vừa đối lập nhau. Âm Dương là nồng cốt của luận lý triết học Đông Phương mà Đông Y đã thừa kế để xây dựng một nền Y học. Luận thuyết Âm Dương bắt đầu từ Kinh Dịch được lưu truyền nhưng vì có sự hiểu không còn đúng với tự nhiên nên người học cần lưu ý phân hiểu 2 hệ thống : Nay cũng như xưa gọi là Kinh Dịch [hoặc Đông Y] truyền thống. Nay trái lại khác xưa gọi là Kinh Dịch [hoặc Đông Y] sai trái. Lịch sử chứng minh vấn đề sai trái này không hoàn toàn do lưu truyền mà chính là do người ngày nay không còn hiểu đúng truyền thống. Cụ thể là 3 đặc 51
tính cần và đủ của Âm Dương vẫn được truyền thừa nhưng cách hiểu của người ngày nay có khác: a. Âm Dương tương đối: Sự vật nào cũng gồm có hiện tượng là 2 mặt Âm Dương tương phản, đối lập nhau ví như Thời có ngày đêm sáng tối, Vị có trên dưới trong ngoài, Giống có nam nữ đực cái, Việc có tốt xấu mới cũ .v.v… . Xưa nay cũng đều hiểu như vậy. b. Âm Dương hổ căn: Toàn thể sự vật bao gồm hiện tượng đã nói và bản chất là Âm Dương thống nhất. Xưa hiểu Âm Dương hổ căn của sự vật đầy đủ hiện tượng và bản chất. Nay trái lại chỉ hiểu Âm Dương hổ căn theo hiện tượng [dễ thấy] là Âm sinh Dương và Dương sinh Âm; còn bản chất [khó thấy] là Âm Dương có cùng 1 gốc tuyệt đối gọi là Căn thì không để ý. c. Âm Dương bình hành: là 2 mặt Âm Dương của sự vật vừa có bản chất cân bằng[bình], vừa có hiện tượng lưu chuyển sinh hoạt [hành]. Xưa hiểu 2 chữ bình hành đúng theo truyền thống của sự vật gồm đủ 2 đặc tính bản chất và hiện tượng. Nay trái lại chỉ hiểu 2 chữ bình hành theo 1 nghĩa là cân bằng. Kinh Dịch truyền thống có câu: ‘Nhất Âm Nhất Dương Chi Vị Đạo’ có thể hiểu là vũ trụ vạn vật gồm 1 Âm 1 Dương gọi là Đạo [Đạo là bản chất của toàn thể sự vật có 2 tướng Âm Dương hiệp một gọi là thống nhất]; lại có câu: ‘Âm Dương chi Nghĩa phối Nhật Nguyệt’ có thể hiểu là Âm Dương của sự vật có Nghĩa tương phản như mặt trời mặt trăng [Nghĩa là hiện tượng của toàn thể sự vật có 1 thể Âm Dương phân hai gọi là đối lập]. Hiện tượng và bản chất của sự vật là một thể không rời nên có thể khẳng định Đạo Nghĩa Âm Dương cũng không thể chia lìa. Hiện nay do Kinh Dịch sai trái nên người học trị loạn và trị bệnh không hiểu rõ ràng Đạo Nghĩa Âm Dương đúng với truyền thống thì làm sao tránh được nhầm lẫn ? Những hiện tượng loạn lạc chiến tranh hoặc sai lầm khi chữa bệnh đều là do nhiều người còn cực đoan theo Nghĩa đối lập mà bỏ Đạo thống nhất. Ngày nay sử dụng học thuyết Âm Dương theo một nhận thức hời hợt ‘tất cả đều gọi là Âm Dương’, ví như Hàn Nhiệt gọi là Âm Dương,Thấp Táo gọi là Âm Dương, Phong Hỏa cũng gọi là Âm Dương; đành rằng cách gọi này không hoàn toàn sai trái nhưng thực tế rất dễ lẫn lộn. 52
Ngày xưa sử dụng học thuyết Âm Dương rất thận trọng chỉ gọi Âm Dương theo tượng Lưỡng Nghi, còn từ Tứ Tượng trở đi thì dù cho thuận Đạo Trung Thiên không rời Tiên Thiên [còn dùng 2 chữ Âm Dương] cũng gọi theo khí là Dương Nhiệt - Dương Hàn – Âm Nhiệt – Âm Hàn; Bát Quái thì gọi theo tượng là Càn (cha) – Khôn (mẹ) – Khảm (trung nam) - Ly (trung nữ) – Chấn (trưởng nam) – Tốn (trưởng nữ) - Cấn (thiếu nam) – Đoài (thiếu nữ)… . Cụ Việt Nhân Lưu Thủy nhờ có sở tập độc đáo nên hiểu được thâm ý của Đức Trọng Cảnh, thể hiện với 3 câu: Nhất Âm Nhất Dương Chi Vị Đạo. Nhị Âm Nhị Dương Chi Vị Khí. Tam Âm Tam Dương Chi Vị Kinh. vừa đủ cho người sau này hiểu được Đạo là toàn thể sự vật đã chia thành Lưỡng Nghi gọi là Thái Cực gồm có 1 Âm và 1 Dương [Tiên Thiên]; Khí là toàn thể sự vật đã chia thành Tứ Tượng là Âm Dương Hàn Nhiệt gồm có Dương Hàn – Dương Nhiệt - Âm Hàn – Âm Nhiệt [Trung Thiên]; Kinh là toàn thể thân người đã được quản lý bởi Bát Mạch (Bát Kỳ Kinh) gồm có Đốc – Nhâm – Đái - Xung- Dương Duy – Âm Duy – Dương Kiểu- Âm Kiểu [Hậu Thiên]. (Đông Y truyền thống hoàn toàn không khác với Kinh Dịch truyền thống là như thế! Căn bản từ cách luận Âm Dương gọi là Đạo học Khí Hóa). Đạo Âm Dương thống nhất và Nghĩa Âm Dương đối lập là một thực tế không thể chia lìa. [Đạo là đường lối của các tôn giáo như dân gian thường nói đạo Khổng, đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Cao Đài, đạo Hòa Hảo…. có mục đích hướng dẫn nhân loại tiến hóa theo hành trình đến tuyệt đối; Nghĩa là đời sống của loài người còn xoay vần trong Âm-Dương tương đối như ngày sáng, đêm tối, công Cha nghĩa Mẹ, nghĩa Vợ tình Chồng… ]. Muốn tiếp thu luận Âm Dương từ Kinh Dịch hoặc Đông Y nhất thiết phải thừa kế tận nguồn, phải là Âm Dương truyền thống với căn bản Đạo học Khí Hóa tức là phải phân hiểu rõ ràng Đạo Nghĩa Âm Dương: Đạo Vô Cực: Toàn thể sự vật khi chưa phân cực như Lão Tử đã nói: ‘Đạo là lúc còn mập mờ thấp thoáng,chưa rõ đầu đuôi ’ mà Lão giáo gọi là ‘Mẹ mầu nhiệm’, Phật giáo gọi là Chơn Tâm, một số tôn giáo khác gọi là Thượng đế [Tiên sinh Oshawa thuật ‘Vô Song Nguyên Lý’ là hướng theo Đạo tuyệt đối]. 53
Đạo Thái Cực: Toàn thể sự vật khi đã phân cực [phân nhị theo lý một thành hai] bắt đầu là Lưỡng Nghi (Âm Dương) rồi tiếp đến Tứ Tượng – Bát Quái – Vạn Vật. Gọi đạo Thái Cực cũng tợ như nói đạo Lưỡng Nghi, đạo Âm Dương, đạo Càn Khôn, đạo Trú Dạ…. [Thầy Siêu Thiền viết ‘Nguyên Lý Bất Triệt Để’ là hướng theo Nghĩa Âm Dương tương đối]. Đạo Tam Cực: Toàn thể sự vật đã phân cực thành Âm Dương theo quan niệm Tam Tài trong tự nhiên gồm có 2 cực Âm - Dương trên vòng tròn tượng Nghĩa Âm Dương đối lập và 1 cực Trung Hòa tại Tâm tượng Đạo Âm Dương thống nhất. Đạo Tam Cực không khác như đạo Tam Vận [Khai – Khu – Hạp], đạo Chúa 3 Ngôi, đạo Phật Tam Bảo….(Đông Y hiện nay xem nhẹ hệ Kinh Lạc và vai trò Khí Hóa, bỏ qua Bộ vị Tấu, không chú ý đến 2 Phủ Tạng Tam Tiêu và Tâm Bào Lạc, có lẽ là do chưa hiểu rõ ràng Đạo Tam Cực là một nhận thức thực tế về Âm Dương rất phù hợp với quan niệm Tam Tài). Đạo Vuông Tròn: Toàn thể sự vật đã phân cực gồm có Tròn là tượng Thái Cực, tượng Tiên Thiên; Vuông là tượng Tứ Tượng [2 cặp Âm Dương đối lập], tượng Trung Thiên, Trung Đạo chuyển Âm Dương vào gốc Tiên Thiên và ra ngọn Hậu Thiên; là cơ cấu hằng có trong vũ trụ mà Kinh Dịch không bàn đến có lẽ vì chính nó là Tự Nhiên mà người trị loạn, trị bệnh cần phải hiểu đúng truyền thống về Đạo Nghĩa Âm Dương. Kinh Dịch Trung Thiên có 3 hệ quẻ gồm Tứ Tượng có 4 quẻ 2 hào [2x2], Tạng Tượng có 16 quẻ 4 hào đồng với 16 quẻ Tứ Trung Hào [4x4], Tượng Vạn Vật có 64 quẻ 6 hào, cũng là 16 Tạng Tượng hoặc 16 Tứ Trung Hào kết hợp với 2 hào Bản Mạt [16x4]. Đức Trọng Cảnh ứng dụng tuyệt vời hệ Kinh Dịch này nên đã để lại cho hậu thế một hệ thống Bệnh Lý học với Cơ Trung chuyển là tứ bộ Kinh Khí Âm Dương Hàn Nhiệt. (Dân tộc Việt Nam có sự tích ‘Bánh chưng bánh dầy ’, Cụ Lưu Thủy làm được Bản Nghĩa 2 sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận của Đức Trọng Cảnh, phải chăng là nhờ thấm nhuần Đạo Vuông Tròn ? ). Văn hóa Việt Nam truyền tụng ca dao: Mình với ta tuy hai mà một (Đạo = 1) Ta với mình vốn một mà hai (Nghĩa = 2) phải chăng ngụ ý ngầm bảo về Đạo Nghĩa Âm Dương ?
54
Có tư tưởng chia lìa Đạo và Nghĩa hoặc Đạo và Đời làm cho xã hội loài người rối loạn và bệnh tật không trị được là bởi chưa thật hiểu Đạo Nghĩa Âm Dương; ví như các thảm cảnh phá thai, ly dị trong đạo nghĩa vợ chồng hoặc là các hiểm họa chiến tranh, độc tài do nhà cầm quyền xách động theo Nghĩa cực đoan 1 chiều mà bỏ Đạo tương giao 2 chiều là NHÂN ÁI – HÒA BÌNH vốn có của nhân loại. Người xưa thường nói ‘Âm Dương thống nhất chi Đạo’, chữ Đạo được dùng theo nghĩa tương đối với mục đích cho thấy xu hướng tiến hóa của toàn thể nhân loại là từ tương đối đến tuyệt đối; nhưng với người có tư tưởng cực đoan dễ theo đó cố chấp Đạo chỉ là bản chất; sự thật nên hiểu đúng chữ Đạo còn có nghĩa tuyệt đối là gồm cả bản chất và hiện tượng của toàn thể sự vật; với quan niệm toàn thể như vậy thì chữ Đạo bao gồm chữ Nghĩa và do đó phân hiểu được 2 cách nói của Lão Tử và Khổng Tử. Đức Lão Tử nói Đạo là Vô Cực, khi vũ trụ vạn vật chưa phân cực, lúc nguyên sơ chỉ có tuyệt đối [1]; Đức Khổng Tử nói Đạo là Thái Cực, lúc vũ trụ vạn vật đã phân cực, khi đã thành hình tức là đã nhị phân Âm Dương tương đối [2]. Mặc dù theo nghĩa tương đối Dương là tiến hóa (dẫn trước), Âm là biến thoái (theo sau) nhưng Âm Dương là một cặp tương sinh tương khắc đồng 1 gốc gọi là Hổ Căn; đồng tồn tại trong 1 sự vật vừa có bản chất quân bình vừa có hiện tượng sinh hoạt gọi là Bình Hành. Tự hào về học thuyết Âm Dương mà chưa phân hiểu được Âm Dương đồng [cùng] 1 ‘Thời’ mà dị [khác] tại 2 ‘Vị’; có phân hiểu được rõ ràng như vậy thì mới hiểu được Đạo Nghĩa Âm Dương. Kinh Dịch là một nhận định tuyệt vời của người xưa về Âm Dương có đồ Đại Diễn [Nhất Bản tán Vạn Thù], thì ngược lại rất dễ thấy hướng Tiểu Qui [Vạn Thù qui Nhất Bản]; 1 đường mà 2 chiều ra vào rõ ràng là hiện tượng Âm Dương trùm khắp, người học Âm Dương còn gì phải ngờ vực ? Gần đây có Thiền Sư tỏ bày quan điểm ‘Nhà Khoa học nắm tay nhà Đạo học’ rất thực tế vì Đạo học phân ra thành Khoa học trái lại Khoa học hiệp vào thành Đạo học [không khác với nội dung nơi bài TÍN TÂM MINH mà Tam Tổ Tăng Xán đã khẳng định : ‘Cảnh do Năng Cảnh, Năng do Cảnh Năng’].
55
Trung Đạo là đường tương giao 2 chiều vào Đạo ra Nghĩa xưa nay vốn không khác. Cực đoan 1 chiều ra Nghĩa Âm Dương đối lập [khoa học] hoặc chỉ 1 chiều vào Đạo Âm Dương thống nhất [đạo học] đều là trái với TỰ NHIÊN (mất gốc hoặc thiếu ngọn), người tìm hiểu Đạo Nghĩa Âm Dương ắt phải nắm vững Trung Đạo là đường 2 chiều giữa 2 cực khoa học và đạo học.
13. ĐẠO TAM CỰC Vũ trụ vạn vật từ nguyên thủy đến nay,từng sự vật có hiện tượng là Âm Dương đối lập,có bản chất là biến dịch trong một thể Âm Dương thống nhất.Nhận định này là văn minh của nhân loại đã ghi lại nơi kinh Dịch rất sớm bằng Tượng-Số từ khi chưa có chữ viết. Đạo Tam cực là kết quả giản lược cơ cấu của Dịch lý,nó bao gồm cả 2 qui luật Âm Dương đối lập và Âm Dương thống nhất.Tam cực là Dương cực (+),Âm cực (-) và Trung hòa cực (=).Dương cực và Âm cực đều nằm trên vòng tròn tại 2 đầu của 1 đường kính và đối lập qua Tâm của vòng tròn, trường hợp này Tâm gọi là Hòa. Dương cực và Âm cực lại biến dịch không ra khỏi vòng tròn là Âm Dương thống nhất tại Tâm,trường hợp này Tâm gọi là Trung.Cho nên,Trung Hòa cực chính là Tâm Bất biến [tuyệt đối] của vòng tròn Tùy duyên [tương đối].Nói cách khác,Đạo Tam cực là cốt tủy của kinh Dịch và là đầu mối của mọi nhận định suốt xưa nay, khắp Đông Tây. Kinh Dịch thể hiện Đạo Tam cực rất rõ bằng 2 hệ quẻ,Bát quái có 8 quẻ 3 hào là hào thượng,hào trung,hào hạ gọi là Tiểu thành;Thành quái có 64 quẻ 6 hào là 2 lần Tam cực,tượng của vạn vật,gọi là Đại thành. Y học Đông phương cũng theo đó mô tả thân người có 3 thể Tinh-Khí- Thần, 3 Bộ Vị Biểu-Lý-Tấu, Kinh Lạc nơi thân người cũng có 3 là Khí-Kinh- Lạc; Rồi cũng phân chia con người thành Âm Dương,lục Khí,lục Kinh,lục Phủ,lục Tạng thống thuộc bằng tam Dương và tam Âm. 56
Trong dân gian cũng lưu truyền học thuyết Tam tài (Thiên, Nhân, Địa) và Tam vận (Khai, Khu, Hạp). Thiên Chúa giáo cũng dạy Chúa có 3 ngôi (Chúa cha, Chúa con, Chúa thánh thần). Phật giáo cũng nói có Tam bảo (Phật, Pháp,Tăng),Tam pháp ấn (Khổ,Vô thường,Vô ngã),Tam độc(Tham,Sân,Si),Tam Nghiệp (Thân, Khẩu, Ý)...v..v…. Các Đạo giáo đều tuân thủ Đạo Tam cực,đều hướng dẫn nhân loại tìm về Chân-Thiện -Mỹ. Các chế độ xã hội cũng chủ trương phân 3 quyền (Hành pháp,Tư pháp,Lập pháp). Tóm lại đâu đâu cũng thấy thể hiện Đạo Tam cực. Dân tộc Việt Nam hấp thụ một nền văn hóa hội đủ tinh hoa của Nho giáo có nguồn gốc là Dịch học và tinh hoa của Phật giáo có cứu cánh là Thiền học;Dịch diễn đạt từ một tán ra tất cả, Thiền qui nạp tất cả quay về một;một ra một vào tuy hai mà một,tuy một mà hai;Nhập Tâm điều này thì rất dễ dàng thấu hiểu Đạo Tam cực.Cốt lõi của Đạo Tam cực không phải là 2 cực hiện tượng Âm(-), Dương(+) mà là một cực bản chất,một Tâm bất biến là cực Trung Hòa (=).Thi hào Nguyễn Du, nơi bài ‘Văn tế Thập loại chúng sanh’ có câu Ai ơi lấy Phật làm lòng, gọi Tâm là Lòng rất thực tế không khác dân gian thường nói Nhân Tâm là lòng người; Các nhà cầm quyền đã chủ trương ‘lấy dân làm gốc’tất nhiên biết hành động thích hợp lòng dân. Văn hóa Việt Nam còn đậm nét đề cao vai trò của Tâm trong Đạo Tam cực bằng ngôn từ ’Bình tỉnh’; Bình nghĩa là bằng (=) chỉ tại Tâm; Tỉnh là không mê, không si, không Vô minh cũng chỉ Tâm, mỗi mỗi đều pháp nơi Tâm rất là phù hợp với Đạo Tam cực,với Nho giáo và Phật giáo. Có thể giản dị hóa Đạo Tam cực bằng 3 ký hiệu:
+
= 57
Nếu như thay + là lợi và - là hại thì có đẳng thức: Lợi = Hại Do thấu hiểu Đạo Tam cực và đẳng thức này nên Văn hóa Trung quốc đã dùng từ Lợi Hại để gọi chung những người có năng lực.Bằng (=) là Chơn Lý,Sự Thật,Tâm,Trời.Vạn vật thể hiện Đạo Tam cực với hiện tượng (ngọn) là Âm Dương luân hồi trên vòng tròn Tùy duyên và có bản chất [gốc] là Tâm Bất biến (Trời là Đạo tuyệt đối);Có sự sống không rời 2 qui luật Vô Thường và Thường. Thường là Ngã (=),Ngã là Ta hoặc nói rõ hơn là trình độ tâm thức hiện tại của ta.Mỗi người tiến hóa từ Chúng sanh đến Phật cho nên Vô Ngã và hướng tới Phật tánh chẳng qua là đáp ứng mục đích Giác Ngộ giải thoát. Nếu thay ký hiệu + là Học và – là Hành thì có đẳng thức: Học = Hành Như vậy trong 3 cực Học Tu Hành thì Tu là Tu Tâm (=).Đạo học gọi là Tâm thì Khoa học gọi là Não.Tâm Não chỉ huy mọi tư tưởng,giác quan,hành động của người.Tu Tâm là rèn luyện Não,Học có phương pháp thì ít mệt óc[Tâm],Làm có phương pháp thì ít nhọc thân.Phật pháp chẳng qua là pháp Tu Tâm(rèn luyện Não)mà thôi. Thử thay + là Muốn, - là Được thì có đẳng thức: Muốn = Được Thấy biết Đạo Tam cực thì cũng như có một chìa khóa vạn năng, mở được mọi cánh cửa trong đời sống. Trong đời sống nhân loại có 1 nhu cầu thiết yếu là Tín Ngưỡng, thể hiện tùy thuộc đức tin như sau: Bất tín: Không tin. Mê tín:Tin mù quáng theo tư tưởng giới hạn của cá nhân. Chánh tín: Tin biết sự thật.
Ba trình độ của đức tin như vậy cũng là thể hiện Đạo Tam cực: 58
Mê tín và Bất tín là thuộc vòng tùy duyên Tương đối. Chánh tín là tại Tâm bất biến Tuyệt đối.
Ví như người trong xã hội thường dùng lý lẽ (lời) Tương đối để bàn luận về Tuyệt đối trong khi Đức Phật khi nói đến Tuyệt đối thì dùng 4 chữ ‘không thể luận bàn’ [bất khả tư nghị]. Suy rộng ra thì Chúa Trời hoặc Thượng Đế ,Thánh A La chỉ hiện ra trong tư tưởng của người Tín Ngưỡng, còn đối với người không Tín Ngưỡng thì không bao giờ tin và thấy.Nhưng có 1 điều không thể phủ nhận là song song với đức tin có Chúa Trời của người Tín Ngưỡng thì người không có Tín Ngưỡng cũng dựa theo 1 qui luật bất biến không thể chối cãi: Có đức tin nói Chúa Trời giúp đỡ hoặc trừng phạt. Không có đức tin nói Qui Luật giúp đỡ hoặc trừng phạt.
Nếu như Chúa Trời và Qui Luật cũng chỉ là Tuyệt đối thì 2 cách gọi này có khác nhau cũng chỉ là danh từ và Tín Ngưỡng hoặc không Tín Ngưỡng cũng không ra khỏi Đạo Tam cực gồm cả Tương đối và Tuyệt đối.
ĐẠO TAM CỰC TAM TÀI THIÊN + THIỆN
TAM VẬN KHAI
+ HUỆ
NHÂN
=
CHÂN
KHU = GIỚI
ĐỊA
-
MỸ
HẠP
CHÚA 3 NGÔI
CHÚA CHA CHÚA THÁNH THẦN
CHÚA CON
– ĐỊNH
TAM ĐỘC
TAM NGHIỆP
SÂN
KHẨU
SI
Ý
THAM
THÂN
TAM BẢO
TAM Ý
PHẬT GIÁC
TÂM
NHÂN
Ý
DUYÊN
PHÁP CHÁNH TĂNG TỊNH
THỨC
59
TAM DUYÊN
QUẢ
Lịch sử nhân loại từ xưa đến nay trải qua nhiều giai đoạn hình thành các chế độ xã hội cũng không ra ngoài Đạo Âm Dương thống nhất và Nghĩa Âm Dương đối lập là Đạo Tam Cực: a. Chủ nghĩa tư bản: Chủ trương: Tư sản, lạm dụng thì sinh tài phiệt. Xã hội: Dân sự, lạm dụng thì phát sinh tự do quá trớn, giàu hiếp nghèo. Cầm quyền: Phân quyền, lạm dụng thì sinh độc quyền, thực dân. b. Chủ nghĩa cộng sản: Chủ trương: Cộng sản, lạm dụng sinh tham nhũng. Xã hội: Do Đảng lãnh đạo, lạm dụng thì thành Đảng trị. Cầm quyền: Tập quyền, lạm dụng thì phát sinh độc tài. c. Chủ nghĩa xã hội: Chủ trương: Dân sinh (phục vụ đời sống của dân). Xã hội: Dân chủ (bầu cử tự do, trưng cầu dân ý ). Cầm quyền: Dân quyền (nhà cầm quyền do dân và vì dân). Thực tế cho thấy có 3 chủ nghĩa nhưng chỉ là do nhu cầu phát triển của 1 xã hội nhân loại, tư bản và cộng sản là cặp Âm Dương đối lập (cực Âm và cực Dương), còn xã hội là mục tiêu của Âm Dương thống nhất (cực Trung Hòa). Chủ nghĩa tư bản thì hình thành xã hội tư bản, chủ nghĩa cộng sản thì hình thành xã hội cộng sản; Có chủ trương đồng hóa chủ nghĩa cộng sản với chủ nghĩa xã hội là không đúng và có ý không tốt (dùng chiêu bài xã hội để che dấu những sự lạm dụng), nếu thực tế vì dân thì chủ nghĩa xã hội không khác chủ nghĩa tam dân (dân sinh, dân chủ, dân quyền), chẳng những có chủ trương làm cho xã hội thăng bằng, điều hòa, tiến bộ, tức là Trung Dung không cố chấp tư công mà kết hợp mọi ưu điểm của tư bản và cộng sản mà không bao giờ lạm dụng, đúng với thực nghĩa lấy dân làm gốc.
.
60
ĐẠO TAM CỰC TẠI NHÂN THÂN KHÍ HÓA PHẾ THIÊN
THẦN
THẦN
MẮT
KHÍ
(TRỜI)
HÀN
NGOẠI
THƯỢNG
(DƯƠNG)
TÂM BÀO LẠC
HỒN NHÂN
KHÍ
(NGƯỜI)
VÍA
HỒN LINH
TÂM
TỲ - VỴ TAI
MŨI
KINH
PHONG
TRUNG
(TRUNG HÒA)
PHÁCH
CAN - ĐỞM
PHÁCH TÁN
THẬN - T T RƯỜNG TAM TIÊU
ĐỊA (ĐẤT)
TINH
TINH
MIỆNG
LẠC
NHIỆT
NỘI
(ÂM)
HẠ
BÀNG QUANG
XÁC TIÊU
ĐẠI TRƯỜNG
Khí Hóa (sự sống) nơi thân người thể hiện rõ ràng Đạo Tam Cực : Tam Tài: Thiên (Trời), Nhân (Người), Địa (Đất). Tam Vật Thể: Xưa nay thường nói mỗi người là một bầu Trời Đất nhỏ, nơi thân người có 3 vật thể Thần (Trời), Khí (Người), Tinh (Đất). 3 Linh Thể: Sự sống nơi thân người gồm có: Thần Khí thuộc Trời ngự nơi Người gọi là Hồn, Linh Khí hoạt động nơi Người gọi là Vía, Tinh Khí thuộc Đất phát động nơi người gọi là Phách. 3 loại Khiếu: Nơi mặt người có mắt ở trên, tai - mũi ở giữa, miệng ở dưới. 3 thành phần Kinh Lạc: Nơi thân người có 6 Kinh (3x2), mỗi Kinh có 3 thành phần là Khí (Trời)- Kinh (Người)- Lạc (Đất). 3 Khí Hóa: Khí Hóa nơi thân người gồm Hàn (Dương) – Phong (Trung Hòa) – Nhiệt (Âm). 3 Bộ vị: nơi thân người cũng có 3 Bộ vị Biểu (Trời)- Tấu (Người)- Lý (Đất). Bộ vị tại Biểu cũng có 3 thứ tự ngang (Hoành) là Bì Phu (ngoài)- Cơ Nhục (giữa)-
61
Tấu Biểu (trong). Bộ vị tại Lý cũng có 3 thứ tự dọc (Tung) là Thượng (trên)Trung (giữa)- Hạ (dưới). 3 tầng Tạng Phủ: tại Thượng (trên) có 3 Tạng Phế, Tâm, Tâm Bào Lạc; tại Trung (giữa) có 3 cặp Tạng Phủ Tỳ Vỵ, Can Đởm, Thận Tiểu Trường; tại Hạ (dưới) có 3 Phủ Tam Tiêu, Bàng Quang, Đại Trường. 3 giai đoạn của đời sống: Một đời sống bắt đầu từ sinh rồi đến sống, rồi đến chết. Kinh Dịch nói Sinh Sinh chi vị Dịch (Sinh sống gọi là Dịch); Đức Phật mô tả đời sống có Sinh – Lão – Bệnh – Tử, có Sinh thì hẳn nhiên có Tử còn Lão Bệnh chính là cảnh tượng Sống. Khi Khí Hóa không còn ( sự chết) cũng thể hiện rõ ràng Đạo Tam Cực là Xác (Tinh) tiêu, Phách (Khí) tán, Hồn (Thần) linh. Đúng như câu thơ của thi hào Nguyễn Du: Chết là thể Phách còn là tinh anh; hoặc như lời Sấm Trạng Trình: Mười phần hết bảy còn 3, hết 2 còn 1 mới ra thái bình. Mỗi đời sống bắt đầu từ Thái (Sinh) kế tiếp là Sống, cuối cùng là Bình (Chết). 3 cõi luân hồi: Sau khi chết luân hồi trong 3 cõi là Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới; cũng không ra ngoài Đạo Tam Cực.
14. TRUNG ĐẠO Trung là giữa, Đạo là con đường. Trung Đạo là con đường nối liền gồm cả năng lực giao dịch và biến hóa giữa sự vật.Trung Đạo là một nghi tình lớn nhất của tôi từ khi học tập. Một hôm tôi bổng thấy như được mở trói, như đang ngộp thở có được một luồng dưỡng khí dồi dào, tôi thấy được ý nghĩa của Trung Đạo như vậy. Sau ngày đó tôi biết những việc trước đây chưa biết ,làm được những việc trước đây còn bế tắc. Tôi tưởng chừng như vừa khám phá được một kho tàng và làm được những việc ngàn năm chưa ai làm nên tôi rất tự hào. Nhưng rồi ngày tháng trôi qua, tôi đã bình tỉnh và nhận ra điều tôi tự hào là vô lối vì tôi chỉ biết cái người xưa vốn biết và làm cái người xưa đã làm.Nho giáo điển hình là Dịch, Trung Đạo đã biểu hiện nơi cơ cấu của Dịch lý; Phật giáo điển hình là Thiền, Trung 62
Đạo đã được chỉ bày tại chổ tu tập Thiền quán. Trung Đạo chỉ là một thực tại tự nhiên hằng thường trong đời sống, chỉ bởi tôi bây giờ mới biết sao còn tự cho là khám phá ? 1) TRUNG ĐẠO GIỮA HAI CỰC ÂM DƯƠNG: Ai cũng biết hai qui luật Âm Dương thống nhất tại Tâm và Âm Dương đối lập qua Tâm.Từng cặp Âm Dương nằm trên vòng tròn thì Trung Đạo của nó là đường kính.Dù cùng ở 2 đầu của 1 đường kính,2 cực Âm Dương cũng qui tụ tại Tâm (=0)theo 2 hướng đối lập.Trong trường hợp thống nhất Tâm được gọi là Trung;Trong trường hợp đối lập Tâm được gọi là Hòa và Tâm là cực Trung Hòa.Sự vật nào cũng gồm 2 cực Âm Dương và cực Trung Hòa nên được gọi là Đạo Tam Cực. 2) TRUNG ĐẠO GIỮA TUYỆT ĐỐI VÀ TƯƠNG ĐỐI: Tuyệt đối là Tâm bất biến.Tương đối là vòng tròn Tùy Duyên .Trung Đạo là đường bán kính, 1đường mà 2 chiều:Chiều từ vòng tròn đến Tâm gọi là Đạo; Chiều từ Tâm đến vòng tròn gọi là Giáo.Dù là đường kính hoặc là bán kính,Trung Đạo cũng là 1 đường có 2 chiều cho nên bàn đến Trung Đạo phải lưu ý điều này. Trước đây tôi hiểu hai chữ Trung Dung trong Nho học theo nghĩa Trung Đạo của Phật học; điều này không hoàn toàn sai nhưng cũng chưa hợp lý vì Trung chính là Tâm bất biến, Dung chính là Vòng tròn tùy duyên.Trung Dung chỉ là hai cực Tuyệt đối và Tương đối, đường nối giữa hai cực này mới là Trung Đạo. TRUNG ĐẠO GIỮA 2 CỰC ÂM DƯƠNG
GIỮA TƯƠNG ĐỐI VÀ TUYỆT ĐỐI
DƯƠNG LAI TUYỆT ĐỐI LAI VÃNG
VÃNG .
TƯƠNG ĐỐI
ÂM 63
3) TRUNG ĐẠO HƯỚNG TỚI TUYỆT ĐỐI: Một nhà tu Phật Giáo trong luận Duy Thức đã khẳng định Phật Pháp là một,điều này không thể phủ nhận vì hành trì Phật Pháp chính là hành Pháp không hai, lìa bỏ tương đối để hướng tới Niết Bàn tuyệt đối.Đồng là một nhưng Trung Đạo là một đường giữa nối liền hai cực Tương đối và Tuyệt đối,còn Tuyệt đối là một điểm đến nơi cuối đường này.Hành giả không nên lầm lẫn Trung Đạo với Tuyệt đối. Tiên sinh Ohsawa chủ trương Thực Dưỡng nói ‘Vô song nguyên lý’ với ngụ ý hướng dẫn tâm thức đến chỗ tuyệt đối. Học giả Siêu Thiền viết ‘nguyên lý bất triệt để’ ngụ ý xác định đời sống xã hội loài người là tương đối. Hai tri kiến này tuy có hiện tượng khác nhau nhưng cũng đều xác định Trung Đạo của nó có hai chiều là Âm Dương tương đối . Cùng thừa kế Kinh Dịch, Đức Lão Tử viết Kinh Đạo Đức, Đức Khổng Tử làm Kinh Dịch Truyện, có định nghĩa về Đạo khác nhau, thoạt đọc người đời sau không khỏi ngờ vực; nhưng xét kỹ chẳng qua họ luận về Đạo tại 2 thời điểm khác; Đức Lão Tử nói về Đạo khi Vũ trụ còn sơ khai chưa phân cực (Vô cực) còn Đức Khổng Tử luận về Đạo khi sự vật đã hình thành, đã phân cực (Thái cực). Thánh nhân mô tả sự thật về thể của vạn vật không khác, chỉ khác do Tùy thời Dụng sự mà thôi. 4) VAI TRÒ CỦA TRUNG ĐẠO: Trung Đạo là một thực tại tự nhiên hằng thường nên có vai trò rất lớn trong sự hiểu biết của nhân loại. a. Trong lý luận: Người muốn có lý luận sâu sắc về các qui luật Âm Dương tương đối, Hổ căn, Bình hành tất nhiên phải nắm vững lý Trung Đạo. b. Trong tự nhiên: Trung Đạo biểu hiện Đạo Tam cực khá nhiều trong tự nhiên: Tam Tài Thiên Nhân Địa: Người là Trung Đạo giữa cặp Âm Dương Trời và Đất. Tam vận Khai Khu Hạp: Khu(bản lề) là Trung Đạo giữa hai Thời Mở (Khai) và Đóng (Hạp). 64
Cơ đốc giáo có Chúa 3 ngôi gồm Chúa Cha,Chúa Thánh Thần, Chúa con: Chúa Thánh Thần là Trung Đạo giữa Chúa Cha và Chúa con. Phật giáo có Tam Bảo gồm Phật Pháp Tăng: Pháp là Trung Đạo giữa Phật và Tăng. Trong tự nhiên Trung Đạo còn nhiều không thể kể hết. c. Trong sử dụng: Xưa nay trong xã hội do nhận thức sai lầm nên nhiều người đã đổ lỗi cho các chính thể nhưng dù là phong kiến hoặc tư bản, hoặc cộng sản mà nhà cầm quyền không tuân thủ Trung Đạo thì cũng xảy ra độc tài, đấu tranh,bạo ngược. Trong kinh tế, giáo dục,y tế nếu không có tương quan hai chiều thì cũng thành bất công rối loạn. 5) NHẬN ĐỊNH: Tập đoàn lãnh đạo một quốc gia cũng như thầy thuốc đối với người bệnh cũng phải nắm chắc Trung Đạo mới mong trị được loạn,chữa được bệnh. TÂM
= MỘT = BẤT BIẾN = THƯỜNG - LẠC – NGÃ = TỊNH
VÒNG TRÒN = TẤTCẢ =TÙY DUYÊN =VÔTHƯỜNG – KHỔ -VÔ NGÃ = ĐỘNG Bán kính nối liền Tâm và Vòng tròn cũng là Trung Đạo của Tịnh và Động.Người có Động Tịnh hợp thời là Thánh Nhân đã Thông Đạt (từ Tâm ra Vòng tròn gọi là Thông, suốt khắp Vòng tròn gọi là Đạt, từ Vòng tròn vào Tâm gọi là Cảm). Giữa 2 cực Âm – Dương hoặc tuyệt đối – tương đối đều có 1 Trung Đạo tương giao 2 chiều chứng tỏ hiện tượng và bản chất của 1 sự vật không thể chia lìa cũng như không thể tách rời trật tự của Vũ trụ đúng như Đức Lão Tử đã khẳng định ‘Đạo Pháp Tự nhiên’.
.
65
15. CỰC ĐOAN Phật pháp tóm gọn các pháp môn hành trì thành Tam Pháp Ấn: KHỔ: Thực tế trong đời sống cần chấm dứt. VÔ THƯỜNG: Dứt Khổ phải rời bỏ những gì Vô Thường vì nó là nguyên nhân tạo Khổ. VÔ NGÃ: Lìa Vô Thường để hướng tới Hữu Thường. Hành pháp Vô Thường tức là không Cực đoan. Hành pháp Vô Ngã tức là đi theo Trung Đạo. Vạn vật trên quả đất biến hóa, dời đổi (Dịch) không ngừng trong 1 trật tự Vũ trụ (Bất Dịch) là Đạo Tam Cực gồm cả 2 qui luật Âm Dương thống nhất và Âm Dương đối lập. Tam Cực là cực Âm, cực Dương, cực Trung Hòa; Trung Đạo giữa 2 cực Âm Dương là đường kính của 1 vòng tròn có Tâm là cực Trung Hòa; Tuy chỉ 1 Trung Đạo là đường kính nhưng tại 2 cực Âm Dương đối lập đối với Tâm có 2 chiều khác nhau; Dương từ ngoài đi vào hướng đến Tâm (Lai), từ Tâm đi ra hướng đến Âm tại ngoài (Vãng). Hình ảnh đã nêu giúp chúng ta thấy rõ toàn thể sự vật là Đạo Tam Cực gồm cả 2 cực Âm Dương và cực Trung Hòa là cực giữa Trung Đạo. Các tư tưởng thiên lệch cố chấp tại 1 cực trong 2 cực tương đối đều là Cực đoan. 1) CỰC ĐOAN TẠI 2 CỰC ÂM DƯƠNG : Âm Dương là 2 cực đối lập cùng trên 1 vòng Tùy Duyên tương đối, trong Đạo Tam Cực Âm Dương Hổ Căn có nghĩa song sinh trong 1 sự vật, Âm Dương Bình Hành có nghĩa bằng nhau (tương đương, cùng là 2 bán kính). Âm Dương quân bình trong Đạo Tam Cực thì sự vật lành mạnh; trái lại Âm Dương bất hòa hoặc thiên lệch tại 2 cực là bệnh loạn. Người học tập Kinh Dịch đã bị xuyên tạc (phân chia Âm Dương cực đoan theo nghĩa tương đối) xưa nay mê tín hiểu rằng quân tử là Dương, tiểu nhân là Âm ; sự thật không phải như vậy, Kinh Dịch dạy quân tử là người hiểu Đạo gồm cả Âm Dương còn cực đoan hoặc tại Dương hoặc tại Âm đều là tiểu nhân. Học tập Kinh 66
Dịch cần hiểu rõ lý này (Cực đoan tại Âm Dương sanh phân biệt tướng Ta, tướng Người). 2) CỰC ĐOAN TẠI 2 CỰC TƯƠNG ĐỐI VÀ TUYỆT ĐỐI: Tương đối là vòng Tùy Duyên, Tuyệt đối là Tâm Bất Biến. Hành trì Phật pháp là hành pháp không 2 (xuất gia lìa bỏ đời sống Tương đối để đi theo Trung Đạo hướng tới Tuyệt đối, kiến tánh thành Phật).Cố chấp tại các cực với quan niệm có không – không có – không không đều là cực đoan (Cực đoan tại 2 cực Tuyệt đối và tương đối sanh phân biệt tướng Thọ giả, tướng Chúng sanh). 3) CỰC ĐOAN VÀ TỨ TƯỚNG: Hành trì Phật Pháp có cứu cánh là dứt tứ tướng, người còn các tướng này chẳng qua là bởi cực đoan : Cực đoan tại Âm Dương nên phân biệt Ngã tướng, Nhân tướng (tướng ta, tướng người). Cực đoan tại tương đối và tuyệt đối nên phân biệt chúng sanh tướng, thọ giả tướng (tướng chúng sanh, tướng thọ giả). Người tu hành còn tứ tướng tức là còn cực đoan. 4) NHẬN THỨC SAI LẦM: Nhận thức của mỗi người tùy thuộc trình độ, giáo dục, xã hội, đời sống; Trải qua ngàn năm nay dường như vẫn kẹt trong cực đoan tạo ra đau khổ, thảm họa, chiến tranh. Phật pháp có Tam độc là 3 thứ làm khổ loài người, Si vì không chịu biết Lý Sự Chân Thật của toàn thể sự vật là Đạo Tam Cực gồm đủ 2 hiện tượng là Âm Dương tương đối (Tùy Duyên) và 1 bản chất là Trung Đạo tuyệt đối có Tâm (Bất Biến) ở giữa là cực Trung Hòa, Tham vì muốn có được tất cả những gì mình ưa, lầm tưởng quyền lợi tách rời trách nhiệm nên ích kỷ chỉ nhớ đến lợi mình mà quên chung quanh mình cũng cần lợi, Sân vì không muốn gặp phải tất cả những gì mình ghét, lầm tưởng mỗi người có trình độ như nhau còn khác nhau là do xấu tốt, siêng lười mà thôi. Làm người có trình độ giới hạn lại được lớn lên trong giáo dục và đời sống xã hội đã bị giới cầm quyền xuyên tạc đạo lý tất nhiên không 67
tránh khỏi Cực đoan, tự gây thiệt hại cho mình và cho Đạo chỉ nhằm mục đích phục vụ lợi ích cho người sai khiến mình. Sống là tương giao 2 chiều, là qua lại giữa 2 cực đối lập. Nếu chỉ có 1 chiều thì không còn là Trung Đạo tức là trái Đạo, trái thường, khổ, bệnh, loạn, hận thù, chia rẽ, chiến tranh..v.v.. . Các hiện tượng 1 chiều như vua không biết thương dân mà dân vẫn phải trung với vua, chồng không biết thương vợ mà vợ vẫn cam phận chồng chúa vợ tôi ..v.v.. . Nhận thức sai lầm dẫn đến Cực đoan và rời bỏ Trung Đạo trái với Đạo Tam Cực hằng thường trong tự nhiên. Suốt hơn ngàn năm nay Nho học từ Trung Quốc truyền sang Việt Nam bằng luận điệu cố chấp quân tử là Dương, tiểu nhân là Âm; thoạt nghe nhiều người lầm tưởng là đúng nhưng hiểu ra mới thấy đó là luận điệu Cực đoan từ Kinh Dịch đã bị xuyên tạc. Kinh Dịch khẳng định Đạo là Thái Cực, là toàn thể sự vật gồm cả Lưỡng Nghi là Âm Dương. Đạo của người quân tử là điều hành cả Âm lẫn Dương với chủ trương quân bình Âm Dương để ổn định và phát triển chứ phải đâu thiên lệch tự xưng là Dương để rồi kỳ thị với Âm. Học giả dùng luận Âm Dương trong học tập Đông Y, học tập làm người, nhất là trong hoạt động chính trị cần lưu tâm ra khỏi Cực đoan này.
ĐẠO TAM CỰC
CỰC ĐOAN SANH TỨ TƯỚNG
+
TA
THỌ GIẢ
=
NGƯỜI
-
.
68
CHÚNG SANH
16. HỮU & VÔ Nói cụ thể theo nghĩa tiếng Việt là có và không. Chúng tôi cũng như mọi người thường hiểu có là có này có kia, không là không gì cả. Sự thật không thể như vậy, vì phủ nhận và chấp nhận chỉ là tương đối, dùng chữ để diễn đạt cũng là tương đối. Tương đối thì không thể khẳng định, huống chi là khẳng định những điều chúng ta chưa biết. Cho nên, xưa nay những gì được mô tả đều là dùng lời tương đối, sự vật được mô tả không phải là sự vật thật. Có là tương đối với không, nếu có và không là 1 cặp Âm Dương không rời thì nói theo luận Đại Thừa Khởi Tín như thật có và như thật không chẳng là khó hiểu hay sao ? (Luận này xác định có và không đều là hiện tượng, còn bản chất của sự vật mới là thật nên mới nói như thế). 1) HỮU HÌNH VÀ VÔ HÌNH: Kinh Dịch Hệ Từ Truyện có đoạn: “ Hình nhi Hạ vị chi Khí, Hình nhi Thượng vị chi Đạo” nghĩa là: có hình gọi là Dụng cụ, không hình gọi là Đạo. Nói Hạ, nói Thượng chẳng qua là 2 vị trí của không gian, nói Dụng cụ nói Đạo chẳng qua là 2 thời kỳ của 1 sự vật. Như vậy chỉ khác nhau ở chỗ có hình hay không hình chớ thành tố tạo nên sự vật đâu có khác. Lão Tử Đạo Đức Kinh, Thiên 1 bàn về Đạo cũng nói Hữu danh, Vô danh, Hữu dục, Vô dục chứng tỏ cũng nói về Hữu hình và Vô hình của 1 sự vật. Bát Nhả Tâm Kinh có câu: “ Ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách” nghĩa là 5 Uẩn đều không thì thoát khỏi hết thảy khổ nạn. Chân Lý phải đốn ngộ như vậy, còn Sự Thật mỗi cá nhân phải tiệm tu để chuyển nghiệp mới thành quả Phật. 2) HỮU TƯỚNG VÀ VÔ TƯỚNG: Kinh Phật nói: “ Vô tướng tức Thực tướng”. Vô là tương đối với Hữu, thực là tương đối với giã; Hữu và Vô không cần bàn thêm, riêng thực có nghĩa là Hữu thường còn giã có nghĩa là tạm thời, Vô thường cần phải lưu ý. Vô tướng tức là không có hình tướng, còn Thực tướng có nghĩa là tướng Hữu thường; vậy thì Vô tướng hay Hữu tướng cũng đều là Sự vật. 69
Kinh Phật cũng nói: ”Sắc tức thị không, không tức thị sắc hoặc sắc bất dị không, không bất dị sắc” nghĩa là Sắc (vật có hình) không khác Không (vật không hình). Hành trì Phật pháp để thành quả Phật phải không có 4 Tướng, Tướng Nhân Tướng Ngã là 2 hiện Tướng của 2 cực Âm Dương trong vòng tương đối; Tướng chúng sanh Tướng thọ giã là 2 hiện Tướng ở 2 cực đối lập tương đối và tuyệt đối. 3) HỮU THƯỜNG VÀ VÔ THƯỜNG: Phật pháp thường nhắc nhở chỗ khác nhau giữa Thân và Tâm, giữa Ngoại cảnh và Nội Tâm, nhấn mạnh Thân và Ngoại cảnh là Vô thường, Tâm và Nội Tâm là Hữu thường. Người hành trì cần phân hiểu rõ ràng để vun đắp đúng chỗ phù hợp với sự tiến hóa. Người tu thường lầm chấp Thân là giã nên khinh bỏ quá đáng làm sai lệch Lý Trung Đạo không ngờ rằng trong khi bồi dưỡng Tâm Hữu thường vẫn phải cần cái Thân Vô thường. Phật pháp tóm gọn các Pháp môn thành Tam Pháp Ấn giúp người tu dễ hành trì. Dứt Khổ là cứu cánh, phân hiểu Lý Vô thường và Hữu thường là Tu học, rèn luyện Sự Vô Ngã để tiến đến chỗ Giác Ngộ là Tu tập. 4) TƯƠNG ĐỐI VÀ TUYỆT ĐỐI: Tương đối là Âm Dương tại 2 cực đối lập trên 1 vòng tròn. Tuyệt đối là Âm Dương đã hiệp tại 1 cực không còn đối lập (không còn gọi là Âm Dương) cho nên không thể nhầm lẫn giữa tương đối và tuyệt đối vì tuyệt đối đã là một, còn tương đối là hai (1 cặp hoặc nhiều cặp Âm Dương). Phật pháp tóm gọi tất cả là Pháp môn bất nhị chính là 1 con đường duy nhất để hành trì rời bỏ Tương đối đến Tuyệt đối. Phải tỉnh táo nhận định chỉ có Trung Đạo là một còn người hành trì khi chưa đến Tuyệt đối cũng vẫn còn ở trong Tương đối. Trong trường hợp Trung Đạo giữa Tuyệt đối và Tương đối thì 2 đầu của Trung Đạo vẫn là 2 cực. Không thể nhầm lẫn 1 Trung Đạo với 2 cực cũng như không thể cố chấp Tương đối và Tuyệt đối không phải là Đạo vì nó ở 2 cực của Đạo, nó chỉ khác nhau ở 2 xu hướng mà thôi. 70
Phật giáo có định nghĩa Hữu Dư Niết Bàn là trạng thái tâm linh của người đắc Đạo khi còn xác phàm (1 trong 2), và Vô Dư Niết Bàn là trạng thái tâm linh của người đắc Đạo khi đã chết không còn xác phàm (chỉ còn tâm linh Tuyệt đối). 5) NHẬN ĐỊNH: Âm Dương đối lập không rời Âm Dương thống nhất cũng như Tương đối không rời Tuyệt đối, Hữu không rời Vô là định luật muôn đời của vạn sự, vạn vật.
17. BIẾT ĐỦ Thế gian cố chấp biết đủ [tri túc] chỉ là tiết dục (giảm ham muốn) dẫn đến cực đoan khổ hạnh, thực ra tiết dục là chưa đủ mà biết đủ chính là biết toàn thể sự vật gồm đủ Đạo Tam Cực; đạo là toàn thể [Thái Cực], Tam Cực gồm 2 cực Âm Dương đối lập (hiện tượng của sự vật trên vòng tùy duyên) và 1 cực thống nhất gọi là cực trung hòa (bản chất của sự vật tại Tâm bất biến). Biết đủ là biết trật tự vũ trụ có nguồn gốc từ tuyệt đối chuyển hiện bằng Trung Đạo đến tương đối, Trung Đạo là đường liên kết giữa 2 cực Âm Dương tương đối trong một cá thể hoặc của 2 cực tương đối và tuyệt đối trong tập thể; có đặc điểm là một con đường có 2 chiều, chiều Dương hướng Tâm là tiến hóa, chiều Âm ly Tâm là biến thoái. Văn hóa ngôn ngữ Anh Mỹ biểu hiện tánh biết đủ bằng 5 từ có chữ đầu Wh, biết đủ là biết tại sao (Why), cái gì (What), ai (Who), khi nào (When), ở đâu (Where). Văn hóa ngôn ngữ Việt Nam biểu hiện tánh biết đủ bằng Đạo Nghĩa vợ chồng trong ca dao: Mình với ta tuy hai mà một Ta với mình vốn một mà hai 71
Câu trước dùng chữ tuy hàm ý từ ngọn tương đối (2) vào gốc tuyệt đối (1); Câu sau dùng chữ vốn [bản] hàm ý từ gốc tuyệt đối (1) ra ngọn tương đối (2); đáng chú ý là giữa 2 và 1 hoặc ngược lại giữa 1 và 2 đều có chữ mà đồng nghĩa với chữ nhi trong Hán Việt (Vô cực nhi Thái cực).Trong ngôn ngữ, các chữ mà, nhi, chi.v.v.. được phân loại hư tự (chữ đệm không có nghĩa) nhờ vậy nó lại được dùng thay tính sinh động của Trung Đạo; phải chăng cụ Lưu Thủy nhờ thấu hiểu đạo lý này nên thấy được nghĩa chữ nhi dùng nói ‘Mạch Phù nhi khẩn’ trong Thương Hàn Luận. Truyền thuyết về Nguyễn Bỉnh Khiêm tục gọi Trạng Trình có sấm: Mười phần hết bảy còn ba Hết hai còn một mới ra thái bình Trước đây nhiều người bàn về thời sự hoặc đã qua, hoặc chưa tới nhưng hiểu theo đạo lý thì phải chăng hai câu lục bát này hướng dẫn một tiến trình tu tập; câu trước ngụ ý dạy người đời dứt hết phức tạp chỉ còn giản dị nhận thức về Đạo Tam Cực, câu sau ngụ ý hết Âm Dương tương đối (2) chỉ còn tuyệt đối (1) và khi đạt tuyệt đối thì được thái bình, thái là toàn thể, bình là bằng (vạn vật công bằng là định luật suốt xưa nay, khắp Đông Tây). Biết đủ là biết đúng với tự nhiên cũng như các Đạo Giáo đồng chủ trương thuận tự nhiên; Tự nhiên có 3 vấn đề: BIẾT– HỌC – LÀM (= + -). Có trật tự là BiếtHọc – Làm. Ai làm trái trật tự này thì gọi là trái Đạo.Trong xã hội loài người có 3 loại chủ trương khác nhau, tùy theo chủ trương mà họ tự phân loại đời sống của họ: a) Người chủ trương theo trật tự Làm - Học - Biết (- + =) Làm trước nên người làm tự biện hộ đã lỡ làm; việc học và biết là thứ yếu của người này. Cho nên người chủ trương làm trước thường sai lầm vì không chịu học, cũng không chịu biết; muốn sửa cũng không sửa được và tự phân loại họ vào hạng thấp nhất trong 3 loại gọi là Biến Thoái (thụt lùi). Họ thường cố chấp, cực đoan về làm, làm nhiều vẫn thấy chưa đủ, học ít đã thấy đủ, chưa biết cũng không cần, có hiện tượng làm nhiều học ít, háo danh lợi [Tham – Khổ mới chịu biết] 72
b) Người chủ trương theo trật tự Học – Làm - Biết (+ - =). Học trước mà không cần biết do đó không có cách học hợp lý nên người này rất tốn công và làm mất nhiều thời gian. Người chủ trương học trước tuy có khá hơn người chủ trương làm trước, nhưng cố chấp học là đủ, sau đó là làm nên vẫn loanh quanh trong phạm vi học và làm mà không thể tự biết, tự tu để tiến hóa nhanh hơn, đôi khi còn phải biến thoái. Người này thường cố chấp, cực đoan về học, học lấy lượng nhiều vẫn chưa thấy đủ, biết ít đã thấy đủ, có hiện tượng ít tham lợi nhưng còn háo danh, mọi hành động đều cốt để được khen, thấy người còn tham lợi và ít học hơn thì chê và giận (Sân – Học để thêm biết]. c) Người chủ trương theo trật tự Biết - Học - Làm (= + -) là chủ trương có trật tự thuận theo sự tự nhiên và tất yếu sẽ Tiến Hóa. Người này không hoàn toàn cố chấp, không hoàn toàn cực đoan mà hiểu rằng Biết là căn bản (cội nguồn) của Học và Làm. Nói rõ hơn là biết thuận trật tự tự nhiên và biết đủ Tam Cực của sự vật. Nếu còn cực đoan về biết thì vẫn còn là Vô Minh [Si], có hiện tượng ít tham danh lợi nhưng vẫn còn sân với người có hiểu biết kém hơn. Tuy có hiểu biết hơn 2 loại trên nhưng chưa thể gọi là biết đủ [Sanh đã sớm biết]. Phật Pháp giản dị chủ trương con người khổ vì nghiệp, và nói có tam nghiệp là Tham- Sân- Si, nhiều người cố chấp hiểu rằng biết đủ là bớt tham, nhưng thử hỏi nếu chủ trương làm và học trước biết, thì biết thế nào cho vừa. Biết là = , văn hóa Việt Nam thâm thúy với từ bằng lòng vì Tâm Não là chỗ để biết của con người nôm na gọi là lòng, còn đối tượng phải biết là công bằng; đó là định luật muôn đời của trật tự vũ trụ, nên Phật Giáo cũng thuận theo tự nhiên này mà nói Trí Huệ Bát Nhã là ngọn đuốc dẫn đường tiến hóa của mỗi chúng sanh. Cho nên có thể kết luận biết đủ là biết không cực đoan mà có trật tự tự nhiên gồm đủ 3 cực của một sự vật (Biết, Học, Làm) còn nếu bớt tham, bớt sân và bớt si thì dù là đúng cũng là chưa đủ nên không thể nào cố chấp tự cho là biết đủ.
73
ĐẠO TAM CỰC VÀ XU HƯỚNG TIẾN THOÁI ĐẠO TAM CỰC Thăng bằng Tự nhiên
+
HƯỚNG TIẾN THOÁI Gốc ngọn Âm Dương
3 cách chủ trương BIẾT
GỐC LÀM
HỌC
LÀM
HỌC
=
-
NGỌN
BIẾT
Mỗi người tùy cách chủ trương mà tự phân loại trong xã hội: 1) LÀM: chủ trương làm rồi mới học, làm rồi mới biết nên tự phân loại thấp kém nhất. 2) HỌC: chủ trương học chỉ để làm, không cần biết cách học, có tiến hóa hơn loại một. 3) BIẾT: chủ trương biết cách làm, biết cách học nhưng còn thiên lệch cố chấp tại cực biết, có tiến hóa hơn loại hai và một. Các loại kể trên đều là chưa biết đủ vì còn cố chấp, thiên lệch tại các cực gọi là CỰC ĐOAN – BẤT GIÁC. BIẾT ĐỦ chẳng những là biết toàn thể sự vật [Âm Dương thống nhất] mà còn biết trật tự tự nhiên, biết điều hòa thăng bằng [Âm Dương đối lập],bắt đầu là THỈ GIÁC rồi đến cuối tức là VIÊN GIÁC (Toàn Giác). Nói dễ hiểu hơn, BIẾT ĐỦ là biết công bằng, người biết đủ là người có lương tâm, có bổn phận, luôn luôn thấy được trách nhiệm bằng với quyền lợi đang có của mình. Có biết đủ mới làm tròn được thiên chức của cá nhân tái thế Học Làm Người.
74
18. TRÌNH ĐỘ Trình độ là sức hiểu biết của mỗi người trong đời sống hiện tại. Chi tiết có thể phân ra 3 loại là trí thức, tri giác, thích nghi : A. Trình độ trí thức [Đời]: Trí thức là sức biết của mỗi người gồm gia đình sinh dưỡng, cá nhân học tập và xã hội đào tạo. Thông thường xã hội đánh giá trình độ trí thức bằng 3 yếu tố : Học lực: Sức thấy biết bằng học vấn theo Hệ giáo dục.Ví dụ,người tốt nghiệp Đại học có trình độ thấy biết cao hơn người tốt nghiệp Trung học. Năng lực: Sức hoàn thành các chức trách phân công của xã hội.Ví dụ,một Giám đốc có khả năng quản lý,kinh doanh,kỹ thuật hơn những người thợ;người lao động trí óc có trình độ hơn người lao động chân tay. Năng khiếu:Có hiệu năng sử dụng vượt trội các khiếu và các cơ năng chuyên môn.Ví dụ,các thể tháo gia,các nghệ sỹ có năng khiếu vượt trội người thường. Các đánh giá kể trên là thể hiện trong xã hội loài người dù trí thức cao tột cũng không thể ra khỏi tam Nghiệp và vẫn lẩn quẩn trong các nẽo luân hồi. B. Trình độ tri giác [Đạo]: Tri là biết còn ẩn tại Tâm bất biến [tuyệt đối]. Giác là biết đã hiện thành Âm Dương nơi vòng tùy duyên [tương đối]. Khoa học tự nhiên khẳng định từ lúc mỗi người sinh ra đã có sẳn một trật tự về trình độ tri giác dễ quan sát:Trên hết là 2 mắt,kế đến là 2 tai, 2 mũi,rồi đến 1 miệng và thấp hơn cả là 2 tay,2 chân.Chỉ cần quan sát một người có sở trường ở cơ năng nào thì biết rõ trình độ cao thấp của người đó.Ví dụ: chẩn đoán Đông Y có 4 phép trình bày theo trật tự Vọng, Văn,Vấn,Thiết.Vọng Văn là trình độ dùng mắt,tai,mũi của người thầy thuốc giỏi còn Vấn Thiết là trình độ dùng miệng và tay,chân của người thầy thuốc kém hơn.Người thầy thuốc nào dùng được cả 4 phép Chẩn đoán mới là toàn diện. 75
Trần Tu Viên một danh Y thời Thanh có luận về Cửu (9) khiếu nơi thân người đại khái như vầy:’Trong Tam Tài(Thiên, Nhân, Địa),người ở giữa là kết quả giao thái của Trời Đất nên Cửu khiếu có tượng quẻ Thái:2 mắt,2 tai,2 mũi có 6 lổ là tượng của 3 nét đứt [tam Âm],chỉ Đất mở khiếu thông với Trời;1 lổ miệng,1 lổ đái,1 lổ ỉa là tượng của 3 nét liền [tam Dương],chỉ Trời mở khiếu thông với Đất. Giữa Đất Trời là Người nên có rãnh Nhân trung’.Cửu khiếu của người có tượng quẻ Địa Thiên Thái là qui luật tự nhiên trong Trời Đất. Người muốn rèn luyện nâng cao trình độ tri giác không nên xem thường qui luật tự nhiên đã hiện rõ nơi thân mình. Người hiểu Đạo xét trình độ với 3 dấu hiệu của Đạo Tam cực, cơ cấu của mọi sự vật: = là Tâm hiện tại. + là Tâm hướng tiến. - là Tâm hướng thoái.
Tâm hiện tại là Ngã,là Ta [tôi]. Ta là chúng sanh thì Tâm hiện tại là nhiễm Tâm, chúng sanh tính. Ta là Phật thì Tâm hiện tại là Chơn Tâm,Phật tính. Cố chấp Tâm hiện tại (=) thì không tiến thoái,Tâm hướng + thì tiến hóa,Tâm hướng - thì thoái hóa.Tâm hướng + hoặc hướng – là tạo Nghiệp của mỗi người trong đời sống,là trình độ thay đổi của họ.Trình độ lúc chết bằng (=) trình độ khi sanh ở đời sau; Do đó xét trình độ như vậy là rất thực tế. Người tu diệt Khổ chẳng những phải phân hiểu Vô Thường mà còn phải Vô Ngã theo hướng tiến hóa đến khi Giác Ngộ. Đức Phật là người Giác Ngộ,một nhà đại giáo dục.Phật pháp có nhiều pháp môn thích hợp trình độ của chúng sanh và gọi Đức Phật theo tri giác là bậc Chánh Biến Tri, đại Giác ngộ.
.
76
C. Trình độ thích nghi [Đạo]: Thích là vừa, không thái quá, không bất cập. Nghi là nên, biết nên thì làm, không nên thì không làm. Thích nghi là vừa phải và phù hợp với mọi sinh hoạt trong đời sống hiện tại, sở dĩ thích nghi được nhờ biết đủ, biết bổn phận, biết trách nhiệm, biết công bằng chỉ thụ hưởng quyền lợi bằng với trách nhiệm của mình mà thôi. Phật pháp dạy chúng sanh thích nghi với tánh bình đẳng vốn có của Phật. D. Kết luận: Tóm lại trình độ Tri Giác Thích Nghi là biết chắc Trung Đạo không thiên trên lệch dưới,không thiên tả lệch hữu, không thiên trước lệch sau, không thiên thiện lệch ác..v.v….. Phật dạy người tu Chánh niệm,Niệm là nhớ mãi hoặc giữ gìn hoài Chánh là Trung Đạo.Như vậy Chánh Niệm không hề khác với Tri Giác Thích Nghi. Xưa nay người đời gọi tuyệt đối là Đạo, tương đối là Đời .Đạo và Đời cũng như tương đối và tuyệt đối không hề rời nhau nhưng đa số vẫn vì Tham Sân Si mà phân biệt cho nên tạo ra cho xã hội loài người muôn điều rối loạn .Cụ Lưu Thủy dạy các thầy thuốc thay ý thức phân biệt [chia rời] bằng ý phân hiểu [chỉ chia để hiểu mà không chia riêng,chia lìa] là nhất Ý để hiệp với nhất Tâm. Lại dạy nắm chắc Bộ Vị Tấu Lý trong Nhân Thân Khí Hóa là biết giữ gìn Trung Đạo cho mình,cho người. Nhiều người tự hào biết rộng, biết khoa học, không biết rằng đó chỉ là ngọn mà chối bỏ không thèm biết đến gốc,cũng nên hiểu rằng biết cả gốc lẫn ngọn, biết cả con đường tương giao từ gốc đến ngọn và từ ngọn đến gốc thì mới là Trung Đạo. Người biết Trung đạo không những tôn trọng ngọn, tôn trọng gốc mà còn biết rõ sự tương giao cần thiết của chúng. Tri Giác Thích Nghi là số đo trình độ tiến hóa của mỗi người. Trình độ tiến hóa là trình độ tâm thức, cũng là trình độ thấy biết của mỗi người, là kết quả của một quá trình sống nhiều đời bằng một trong ba nguyên nhân là Khổ nhọc ,Học tập, Tu hành. Cùng một trình độ thấy biết nhưng tùy từng nguyên nhân mà thời gian luân hồi rất khác nhau theo tỉ lệ Khổ > Học > Tu. Trong 77
xã hội thường có chủ trương mở mang việc học, còn muốn nhanh hơn nữa thì đi tu cho mau thấy biết. Đức Phật là người có thấy biết sâu rộng vô cùng. Tri giác thích nghi nói vắn tắt là biết đủ [Tri túc]. Đời sống nhân loại cho thấy người có trình độ cao nhu cầu rất giản dị, có vừa đã biết đủ; người có trình độ thấp có nhu cầu rất phức tạp, có nhiều vẫn chưa thấy đủ; Dựa theo điều này để nhận xét sẽ thấy rõ ràng.
19. MUỐN BẰNG ĐƯỢC Văn hóa ngôn ngữ Việt Nam có từ ‘ Muốn bằng được ‘.Có người giải nghĩa muốn bằng được là muốn lấy được , hoặc là muốn cho kỳ được . Giải nghĩa này không sai, nhưng từ ‘ muốn bằng được ‘ còn hàm ý một qui luật muôn đời không đổi : MUỐN = ĐƯỢC Từ khi còn đi học tôi đã nghe một nhà hiền triết phương Tây có nói: ‘Muốn thì được ‘ .Câu này khiến tôi suy gẫm nhiều năm và thấy thực tế không như vậy.Tôi thường thấy muốn lớn hơn được hoặc được nhỏ hơn muốn,chứ ít khi thấy muốn bằng được : MUỐN > ĐƯỢC ; ĐƯỢC < MUỐN Đến tuổi 60 , tôi mới rõ mình chưa hiểu được lời nói của nhà hiền triết này vì tôi cứ đứng về phía chữ muốn hoặc chữ được, chứ nếu tôi đứng trên chữ thì và thay chữ thì là dấu = thì còn gì là không đúng . Tóm lại, nếu muốn lớn hơn được thì tất nhiên được nhỏ hơn muốn, trường hợp này được gọi là tham vì người muốn không bằng lòng: MUỐN > ĐƯỢC = THAM . 78
Nền văn minh Nho giáo, trong ngôn ngữ Hán có chữ Nhân ( ) nghĩa là lòng TỪ có 4 nét gồm 2 nét Nhân đứng và 2 nét là dấu =.Phải chăng hàm ý có lòng Từ là người Công bằng . Văn hóa Việt Nam lại thường dùng từ’ bằng cấp’ với hàm nghĩa bằng thì được cấp, rất là sâu sắc hiểu rõ một qui luật tự nhiên tồn tại muôn đời . Tóm lại, thuận với qui luật MUỐN = ĐƯỢC tức là nếu muốn mà không được đương nhiên là vì không bằng.
20. CHẤP VÀ XẢ Đức Đạt Ma sơ Tổ của Thiền Tông đã khẳng định: ”Bất lập văn tự,giáo ngoại biệt truyền,trực chỉ nhơn Tâm,kiến tánh thành Phật”.Kinh Pháp Bửu Đàn lại khẳng định lần nữa bằng chuyện kể ngay tại đầu kinh về hai bài thơ của Thần Tú,một giáo thụ rất giỏi chữ nghĩa văn chương và một Huệ Năng [Tổ thứ 6] dốt nát không biết chữ. Hiện nay có nhiều người cố chấp các Dụ ngôn trên cho rằng theo Thiền Tông thì không cần phải học giáo lý, đó là một sai lầm rất lớn. Nên biết rằng Thiền là một pháp phương tiện nhằm giúp người đạt Đạo.Người tu từ bắt đầu cho đến cuối phải qua hai giai đoạn Thông Lý và Đạt Sự.Có thể mỗi chút Thông Lý liền Đạt Sự nhưng thứ tự Thông Lý trước rồi Đạt Sự sau là tự nhiên không đổi.Cho nên, những ý kiến tu Thiền không cần biết Phật pháp là tiêu cực và trái Đạo. Phật pháp dạy người tu phá chấp, không phải buông bỏ hoàn toàn không chấp, vì chấp là nắm, xả là buông; Chấp và Xả là một cặp Âm Dương tuần tự trao đổi trong đời sống. Phá chấp chỉ là phá bỏ sự cố chấp hoặc thiên chấp,cái tánh vốn có của loài người.Ai cũng biết Âm Dương hoà thì an lành, bất hoà thì loạn bệnh; cũng như vậy chấp và xả phải điều hoà , thời chấp nên chấp, thời xả nên xả, chấp xả hợp thời là hợp Đạo. Sách Trung Dung dạy:’Doãn quyết chấp Trung ‘(Tin tưởng và cương quyết nắm giữ ngôi Trung) ;tức là như Đạo Tam cực có Thượng 79
Trung Hạ, Tiên Trung Hậu thì không chấp Thượng Hạ, Tiên Hậu mà chấp Trung; tức là như Đạo Trú Dạ có Thời Vị thì chấp Thời không chấp Vị vì Thời thì Thống nhất còn Vị thì Đối lập. Chấp Thời là thuận theo kịp Thời như hai chữ ‘Thời Trung’đã nêu tại Trung Dung. Tóm lại,chấp Trung Đạo là chân lý muôn đời của nhân loại,không thiên (nghiêng một bên) chấp, không thiên xả,không thiên Âm,không thiên Dương là không tạo ra thái quá hoặc bất cập thì không bao giờ có loạn bệnh, tất nhiên sẽ được an lành. Chữ nghĩa là phương tiện rất tốt để học Phật Pháp nhưng biết dùng đúng chổ, biết dừng đúng lúc thì hiệu quả sẽ vô cùng lớn; nhưng nếu cố chấp mà không chịu học Phật Pháp và bỏ nó trước khi Thông Lý thì là bất cập. Trái lại biết lợi dụng nó để học tập Phật Pháp nhưng không chịu dừng khi đã Thông Lý khiến trở ngại cho việc Đạt Sự tức là thái quá.Cho nên chữ nghĩa là phương tiện, con dao hai lưỡi, cần phải biết dùng hợp lý và biết dừng đúng lúc như lời dạy của chư Tổ Thiền tông kể trên. Chuyện cổ tích Phật giáo kể về bầy khỉ thò tay vào hủ, nắm chặt đậu phộng không chịu buông, không rút được tay nên bị bắt là một dụ ngôn Chấp và Xả rất cụ thể. Chấp Trung [chân] là tĩnh lặng nơi Tâm bất biến [Tuyệt đối], chân thật củng cố
Bồ Đề Tâm hướng tới Chân Tâm - Phật Tính. Chấp Thượng Hạ [vọng] là động loạn nơi vòng Tùy Duyên [Tương đối], vọng
tưởng trôi lăn trong luân hồi giữa 2 mặt được mất – hơn thua – xấu tốt, cụ thể có những tình trạng như sau : Chấp tại Thượng (+), thái quá bất cập là bệnh [cực đoan]. Chấp tại Hạ ( - ) thái quá bất cập cũng là bệnh [cực đoan]. Phật Pháp là pháp không hai tức là hành Trung Đạo Xả Tương đối hướng tới Tuyệt đối. Tuyệt đối thì đã là một, đâu còn phân biệt Chấp và Xả cho nên khi đã Giác Ngộ có dụ ngôn ‘không Tu cũng không Chứng’ phải chăng đã là Tuyệt đối.
80
Phật Pháp tóm gọn chỉ còn Tam Pháp Ấn (Khổ, Vô Thường, Vô Ngã); tìm hiểu Phật pháp ai cũng thấy kinh sách nói rất nhiều về Duyên Khởi và Nghiệp. Nhiều người lầm tưởng Vô Ngã là không có Ta; Sự thật không phải như vậy vì khi còn là chúng sanh thì Ta (Ngã) là chúng sanh, khi đã thành Phật thì Ta là Phật.Không nên hiểu Vô Ngã là không có Ngã mà phải hiểu Vô Ngã là 1 Pháp hành buông xã cái Ngã chúng sanh để tiến tới cái Ngã Phật. Chúng ta có thể giản dị thấy Khổ là do Nghiệp, tạo Nghiệp là do cố chấp ; chấp Pháp [vô thường] là Thường nên sinh nhiều luyến ái trong đời sống và mãi chịu luân hồi; chấp Ngã thì ngoan cố bảo thủ, không chịu vô ngã để tinh tấn tu hành.
21. BA CÕI LUÂN HỒI Sau khi đại ngộ Đức Phật thấu hiểu hết thảy các khổ, nguyên nhân sinh khổ, các pháp hành trì để diệt khổ và giải thoát .Ngài đã tóm lược các vấn đề này trong Tứ Diệu Đế: Khổ: Kể hết các loại khổ. Tập: Giải rõ nguyên nhân sinh khổ. Diệt: Nói ra các pháp dứt khổ. Đạo: Con đường hành trì chánh pháp. Sau đó bằng nhiều lần thuyết pháp ngài đã dạy rất nhiều pháp môn và phương pháp hành trì để dứt khổ gọi chung là Phật pháp và được tóm gọn bằng Tam Pháp Ấn (Khổ, Vô thường, Vô ngã).Người học Phật cần thấy rõ Khổ chính là còn luân hồi trong 3 cõi (Tam pháp giới: Dục, Sắc và Vô sắc).Như vậy làm người cần biết 2 điều kiện phải luân hồi và được giải thoát: 1) Tam giới và điều kiện phải luân hồi (theo Tam Pháp Ấn) : Dục giới
Chấp Thường + Chấp Ngã 81
Sắc giới
Vô Thường + Chấp Ngã (Còn muốn nghe Thinh thấy Sắc)
Vô Sắc giới
Vô Thường + Chấp Ngã Tri Kiến.
2) Tam giới và điều kiện để giải thoát (theo phép hành trì, Niệm 5 hương) : Niệm 3 hương Giới Định Huệ để giải thoát khỏi Dục giới. Niệm 1 hương giải thoát Sắc Thinh khỏi Sắc giới. Niệm 1 hương giải thoát Tri Kiến Vô sắc giới.
Do không chịu biết các điều kiện kể trên nên chúng sanh Vô minh (Si), không công bằng (Tham) và không bằng lòng (Sân) nên thường xuyên đắm chìm trong Tam độc (Tham Sân Si) và luân hồi trong 3 cõi.
22. NGŨ UẨN Ngũ uẩn là 5 sự kiện chứa trong một túi,túi đó là người.Mỗi người gồm có sự sống của Vật chất và Tinh thần.Vật chất thì dễ thấy ,còn Tinh thần thì khó thấy, nhiều người xem Vật chất quý hơn Tinh thần nên rất dễ đuổi theo các Vật chất vô thường mà bỏ quên cái Tinh thần hằng có của mình.Ngũ uẩn đã được trình bày nơi cuốn Đạo giáo,bài Học Tu Hành;nơi đây nói rõ hơn về Ngũ uẩn theo quan điểm Nhân Quả. 1) NGŨ UẨN : Khổng học chủ trương 5 bước:
Học -Vấn –Tư - Biện – Hành
Nhân là Học,Quả là Hành,giữa Học và Hành có 3 bước Vấn,Tư,Biện là Duyên chuyển hóa. Phật học chủ trương 5 uẩn: Sắc - Thọ - Tưởng – Hành - Thức 82
Nhân là Sắc, Quả là Thức,giữa Sắc và Thức có 3 bước Thọ,Tưởng,Hành là Duyên chuyển hóa. Sắc là sự vật(vòng tròn),Thức là tánh thấy biết(Tâm);tùy thuộc Duyên chuyển hóa (Thọ,Tưởng, Hành)mà Thức thấy biết sự vật ‘như nó là’ hoặc đổi khác theo dục vọng của từng người. Sắc x Duyên = Thức Nếu Duyên = o thì Thức = o và Tâm Chơn không còn Ý Thức đúng như Bát Nhã Tâm Kinh đã nói “Ngũ uẩn đều không, thoát khỏi mọi khổ ách”. 2) NHÂN QUẢ: Mỗi người được sanh là Nhân của một Quả từ đời trước [quá khứ].Trong đời sống (từ sanh đến chết) mỗi người tùy Tâm Thức riêng tạo ra Duyên Nghiệp mới đến khi chết lại kết thành Quả [hiện tại].Sau khi chết lại tái sanh Nhân đời sau (tương lai). Cần thấy rõ Nhân Quả là Âm Dương, cũng là hiện tượng;còn Duyên(Ý) mới là bản chất cho nên Phật Pháp khuyên tu Giải thoát không gì bằng dứt tuyệt các Duyên. Nhân x Duyên = Quả Nhân x Không = Không = Giải thoát 3) NHẬN ĐỊNH: Ai cũng biết Ngũ uẩn là 5 thứ che lấp Chơn Tâm,làm choTâm ô nhiễm thành tánh Chúng sanh. Làm người muốn phục hồi Phật tánh cần phải : Tu Phúc để Dứt Nghiệp. Tu Huệ để Dừng Nghiệp. Phúc Huệ song tu để Giải thoát. Giải thoát chính là chấm dứt Nhân Duyên Quả, nói khác đi cũng là ‘Ngũ uẩn đều không’. 83
23. PHÚC ĐỨC VÀ CÔNG ĐỨC Phân hiểu Phúc đức và Công đức là yêu cầu tất yếu của một hành giả Phật pháp.Câu chuyện vua Lương Vũ đế hỏi Đức Bồ Đề Đạt Ma: “Xây Chùa, in kinh có Công đức gì không? “. Sơ Tổ trả lời: ”Không có Công đức”.trong lịch sử Phật giáo là xác minh Công đức quan trọng hơn Phúc đức và nhắc nhở người tu hành phải thấu triệt vấn đề này. 1) PHÚC ĐỨC: Phúc đức là hiệu năng đối đãi (tương đối) trong đời sống xã hội giữa người và người: Ích kỷ, hưởng thụ, hại người là Phúc trừ (-). Vị tha, bố thí, lợi người là Phúc cộng (+). Phúc trừ và Phúc cộng là cặp Âm Dương trên vòng tròn Tùy duyên,ai còn mê mãi trên vòng này tức là còn luân hồi. Mỗi người từ khi sinh ra đến khi chết là một kiếp sống.Từng kiếp sống luôn luôn không ra ngoài luật Công bằng: Nhân kiếp này = Quả tích lũy nghiệp từ các kiếp trước. Nghiệp quá khứ + Nghiệp hiện tại = Nghiệp tương lai. Như vậy Phúc đức là thể hiện các tạo nghiệp: Nghiệp dữ = Phúc trừ > Phúc cộng. Nghiệp lành= Phúc cộng > Phúc trừ. Dứt nghiệp = o (Phúc cộng = Phúc trừ) 2) CÔNG ĐỨC: Công đức là hiệu năng tuyệt đối của người qui y [quay về nương tựa Tâm Bồ đề của chính mình] chuyên lo tu tâm dưỡng tánh, làm cho tánh chúng sanh tiến hóa thành Phật tánh và tâm ô nhiễm tiến hóa thành Chơn tâm.
84
3) PHÚC HUỆ SONG TU: Phật giáo hướng dẫn thực hành Phúc Huệ song tu bằng 4 câu trong kinh Pháp cú: Chư ác mạc tác Chúng thiện phụng hành Tự tịnh kỳ ý Thị chư Phật giáo.( là lời Phật dạy ) Tu Phúc là không làm điều ác [để không Phúc trừ]; vâng làm việc thiện [để có Phúc cộng] : Phúc trừ + Phúc cộng = o là Dứt nghiệp. Tu Phúc là chủ trương ‘làm lành lánh dữ ‘của mọi Tôn giáo. Thanh tịnh tâm ý [Không tạo Phúc trừ, cũng không tạo Phúc cộng] là Công đức, là tu Huệ,là Dừng nghiệp. Giác ngộ giải thoát là vừa dứt nghiệp,vừa dừng nghiệp,cứu cánh của Phúc Huệ song tu.Nếu như chỉ tu Phúc, chỉ chuyên lo Phúc đức thì dù đã dứt nghiệp lại tạo thêm nghiệp do thiếu Công đức thì sao khỏi trôi lăn trong cõi luân hồi. 4) KẾT LUẬN: Tóm lại không những cần phải phân hiểu Phúc đức và Công đức mà còn phải chú trọng Công đức (tu tâm dưỡng tánh) hơn là Phúc đức (việc xã hội); đó mới là Chánh Pháp.
.
85
24. THỰC HÀNH TAM PHÁP ẤN Ai cũng biết Tam Pháp Ấn là tóm lược các pháp môn của Phật Giáo gồm 3 pháp Khổ,Vô Thường, Vô Ngã; nhưng số đông không khỏi ngạc nhiên khi nghe nói thực hành vì là vấn đề xưa nay ít ai đề cập.Vậy thì Tam Pháp Ấn có ý nghĩa gì, và phải thực hành như thế nào? 1) Ý NGHĨA: Phật dạy Tam Pháp Ấn, cũng nói Tam độc đều là thể hiện đạo Tam cực trong tự nhiên.Trình bày Tam Pháp Ấn và Tam độc (Tham,Sân,Si) còn hàm chứa một qui luật hằng thường trong Phật Giáo là Nhân Quả. Nếu Tam Pháp Ấn có Khổ là một Quả (Tâm,bất biến,tuyệt đối) của 2 Nhân không biết Vô Thường và không biết Vô Ngã (vòng tròn, tùy duyên, tương đối)thì ngược lại Tam độc có Si là Nhân sinh ra 2 Quả Tham và Sân.Suy ra hành trì Tam Pháp Ấn là tạo Nhân để kết quả diệt trừ Tam độc. a. Khổ: Làm người phải khổ vì Vô Minh (tối tăm) hoặc là Si [không chịu biết đúng và đủ].Vô Minh hoặc Si không phải là không biết gì mà là làm cái không nên làm, biết cái không đáng biết, rối loạn trật tự,không chịu biết toàn thể mà chỉ biết cố chấp từng phần ..v.v..Vô Minh (tối) được gọi là bất Giác [không biết] đối lập với Minh (sáng) và Giác [biết]. Cho nên Phật pháp dùng Trí Huệ dẫn đầu mọi pháp diệt Khổ. b. Vô Thường: Vô Thường là trạng thái Sinh Lão Bệnh Tử của cái Thân từ khi sanh ra đến khi chết.Đối lập với Thân là Tâm có đời sống tinh thần trường cửu gọi là Thường.Do nhầm lẫn,mãi lo chăm sóc cái Thân Vô Thường bỏ quên cái Tâm thường hằng tạo nhiều Khổ nghiệp. Nói rõ hơn,Vô Thường là đời sống Tùy Duyên tương đối,có hạn kỳ,tạm bợ,không dài lâu,là Âm Dương đối lập [Hiện tượng của sự vật]. Thường là đạo lý Bất Biến tuyệt đối,trường cửu,là Âm Dương thống nhất [Bản chất của sự vật]. Do 86
không tự biết nuôi dưỡng đời sống tâm linh thường hằng,mãi mê chạy theo đời sống vật chất vô thường nên loài người trôi lăn kéo dài trong nghiệp quả luân hồi. c. Vô Ngã: Ngã là tâm thức hiện tại của mọi chúng sanh.Trong quá trình tiến hóa từ chúng sanh đến ngôi vị Phật nếu cứ ôm chặt Ngã thì không tiến thoái,còn nếu Chấp Ngã theo xu hướng thấp hèn để được khen tặng, thỏa mãn tính khoe khoang thì trái lại phải thoái hóa, triền miên đau khổ trong luân hồi. Nói rõ hơn,Vô Ngã không phải là không có Ta vì Ngã chính là Ta với tánh biết hiện tại.Vô Ngã là xóa bỏ thói quen xấu,tính cố chấp,không chịu biết,không chịu tiến hóa để rèn luyện thói quen tốt,tính cởi mở,chịu biết,kịp thời tiến hóa.Vô Ngã để không lỗi thời,không tự kỷ(chậm phát triển),không tự ái(không tham,sân),không tự ti(tưởng mình dỡ),không tự cao(tưởng mình giỏi),không tự tung(nghĩ ngợi phóng túng),không tự tác(làm theo ý mình); Để kịp thời xã bỏ thói quen xấu rèn luyện thói quen như là chịu biết sự thật,tự do(lành dữ do mình),tự trọng(giữ mình được tốt),tự giác(biết mình),tự chủ(không nói,không nghĩ,không làm theo sự cám dỗ bên ngoài mà chỉ nói,chỉ nghĩ,chỉ làm theo lương tâm). 2) THỰC HÀNH: Mục đích cốt lõi của hành trì Tam Pháp Ấn là tận diệt Tam độc. a. Khổ: Mục đích hành trì pháp này là diệt Khổ.Diệt Khổ là Tịnh Tâm Ý, lắng Tâm tĩnh lặng,trong sạch hóa nhiễm Tâm,làm cho Tâm không cònVô Minh, không còn Si mê.Không Vô Minh thì sáng suốt,không Si mê thì không bị che lấp.Chuyển nhiễm Tâm thành chơn Tâm là pháp tối thượng để diệt Khổ.Hai pháp môn Thiền và Tịnh lưu hành là đáp ứng mục đích này. b. Vô Thường: Hành pháp Vô Thường là rời bỏ dòng đời, tránh xa cám dỗ của Dục giới và Sắc giới (vật chất,màu sắc,âm thanh) để không còn trôi lăn trong cõi Vô Thường mà tiến tới đỉnh Giác Ngộ,thường hằng bất biến. Mọi pháp môn của Phật Giáo 87
đều để đạt mục đích này và được gọi chung là Pháp môn bất nhị (quyết tâm lìa bỏ cõi tương đối,Vô Thường). c. Vô Ngã: Thực hành Vô Ngã là dọn Tâm tiến hóa theo hướng đạt tới đỉnh Giác Ngộ, không những lìa cõi Vô Thường mà còn thoát khỏi tứ tướng(ta,người, chúng sanh,thọ giả). 3) NHẬN ĐỊNH: Thực hành Tam Pháp Ấn không ngoài 3 yêu cầu là Không làm điều ác [diệt Tham] Vâng làm việc thiện [diệt Sân] để dứt nghiệp; Thanh tịnh tâm ý [diệt Si] để dừng nghiệp; và một mục đích là Giác Ngộ,giải thoát mọi khổ đau. Một Pháp hành có giá trị xuyên suốt từ đầu đến cuối đối với nhân loại.
25. VÔ NGÃ
Vô Ngã là một trong Tam Pháp Ấn của Phật giáo.Tam Pháp Ấn là tóm gọn Phật pháp rải rác trong các kinh điển .Tam Pháp Ấn gồm có: Khổ, Vô Thường và Vô Ngã. Phật pháp là Tâm pháp, dùng Tâm để biết mọi thứ khổ đều do Vô Minh, không phân hiểu được Tùy duyên là Vô Thường, Bất biến là Thường, cũng không biết Ngã là gì và vì sao phải dùng pháp Vô Ngã? Tam Pháp Ấn cũng không khác với Tam độc Tham,Sân,Si; Vì Si nên khổ, Tham vì không phân hiểu Vô Thường và Thường, Sân vì cố chấp không chịu biết Ngã là gì, vì sao phải hành pháp Vô Ngã . Lắng nghe thuyết giảng của các bậc Thượng tọa, Đại đức, nhiều Phật tử đã hiểu được hai Pháp Khổ và Vô Thường, riêng Pháp Vô Ngã thì còn chưa sáng tỏ. Tôi tạm mượn nội dung bài này để góp thêm chút ý mọn, cầu nguyện có bổ sung được gì chăng? .
88
1) NGÃ LÀ GÌ? Ngã là Ta với Tâm 3 Thời: Tâm hiện tại là Ngã, Tâm quá khứ đã qua và Tâm vị lai chưa tới đều không phải là Ngã (Vô Ngã hoặc Chấp Ngã). Ngã chính là Ta, một người đang sống giữa hai cực Chúng sanh và Phật: PHẬT
TIẾN = TÂM VỊ LAI + VÔ NGÃ HƯỚNG TIẾN
NGÃ = TA = TÂM HIỆN TẠI = KHÔNG TIẾN THOÁI
THOÁI = TÂM QUÁ KHỨ + CHẤP NGÃ HƯỚNG THOÁI
CHÚNG SANH Có người chỉ giảng theo nghĩa chữ,Vô là không, Ngã làTa ;Vô Ngã là không có Ta; Rồi dùng Lý Vô Thường để chứng minh Vô Ngã. Cách giảng này làm cho người nghe thắc mắc, nếu không có Ta thì ai là Chúng sanh, ai làm, ai học, ai sửa đổi, ai tiến hóa, ai tu, ai thành Phật ? Nếu không trả lời được các câu hỏi này thì là do người giảng chưa thấu hiểu, chứ sự thật thì Phật pháp đã khẳng định: NGÃ = TA = TÂM [Tâm gồm có Chân Tâm và Nhiễm Tâm] CHÂN TÂM = NHẤT TÂM = PHẬT NHIỄM TÂM = TÂM 3 THỜI (Quá khứ, Hiện tại, Vị lai) = CHÚNG SANH Như vậy khi Ta chưa thành Phật thì: NGÃ = TA = TÁNH = NHIỄM TÂM (Tâm + Nghiệp). 89
Không ai có thể phủ nhận Ngã là Ta với Tâm hiện tại. Chơn Tâm là Tâm Tự Tại của Thánh nhân,là một hiệp với Tâm Thượng Đế toàn Năng (không trụ nơi Sở).Nhiễm Tâm là Tâm nhiễm Trần của người chưa thành Phật gọi chung là chúng sanh. Kinh Kim Cang có câu ‘Ưng vô Sở trụ nhi sanh Kỳ Tâm’. Chơn Tâm là Kỳ Tâm vì nó là Tâm không có Sở trụ. Trái lại sống trong vòng luân hồi tương đối tất nhiên có nhiễm Tâm, là Tâm vừa Trụ nơi Năng, vừa Trụ nơi Sở. Trong trường hợp Tâm ít phóng dật Trụ nơi Năng [Tâm bất biến]nhiều thì
Năng > Sở. Trong trường hợp Tâm phóng dật Trụ nơi Sở(vòng tùy duyên)nhiều thì
Năng < Sở. Do đó từng người có trình độ khác nhau do trụ Tâm hiện tại của mỗi cá nhân. 2) LÝ DO HÀNH PHÁP VÔ NGÃ: Mỗi người trên đường [Đạo] tiến hóa từ Chúng sanh đến Phật, như lời Phật đã nói: ”Mỗi chúng sanh đều có Phật tính, Ngã (= Ta) là Phật đã thành, Chúng sanh là Phật sẽ thành”. Cho nên : NGÃ = CHÚNG SANH + NGHIỆP Nghiệp có 2 loại: Nghiệp lành thì tiến hóa, Nghiệp dữ thì biến thoái ; Nếu như người nào cố chấp giữ chặt Tâm hiện tại là Ngã thì không tiến thoái,còn nếu Chấp Ngã theo hướng Chúng sanh thì biến thoái ,trái lại Vô Ngã theo hướng Phật thì tiến hóa. Phật thường dạy Phúc Huệ song tu, tu Phúc là không làm việc ác, siêng làm việc thiện để dứt Nghiệp, tu Huệ là thanh tịnh tâm ý mình để dừng Nghiệp, tiến lên trên đường giải thoát. Tóm lại, rõ Lý Vô Ngã và dùng Sự dứt Nghiệp và dừng Nghiệp là hành trang cốt yếu của hành giả trên đường Trung Đạo tới đỉnh Giác Ngộ. 90
Tâm bất biến (tuyệt đối) : Thường - Lạc - Ngã - do Tịnh. Vòng tùy duyên (tương đối) : Vô Thường – Khổ - Vô Ngã – do Động. Cực đoan tại tương đối thì Ngã là chúng sanh; Cực đoan tại tuyệt đối thì Ngã là thọ giả. Người xuất gia hành trì Phật pháp, pháp không 2, cũng tức là hành trì Trung Đạo, tức không Cực đoan mà còn hành pháp Vô Ngã để Thánh hóa đến đích Giác Ngộ.
26. TỰ TỊNH Trên đường giải thoát Đức Phật dạy chúng sanh hành trì 3 điều cốt yếu: Không làm điều ác [dữ]. Vâng làm việc thiện [lành]. Tự tịnh tâm ý. Phật pháp căn bản cũng dạy Phúc Huệ song tu để giải thoát. Hành trì điều 1 và 2 nêu trên là tu Phúc [Phúc đức] để Dứt nghiệp; Hành trì điều 3 là tu Huệ [Công đức] để Dừng nghiệp. Công đức là pháp tối thiết để Giác ngộ; như vậy Ý nghĩa và pháp Hành trì Tự Tịnh cần được sáng tỏ. A. Ý NGHĨA CỦA TỰ TỊNH: Tự (mình) là đối lập với Tha (người).Tự là hành vi của riêng mình không có tác động,xúi giục ở ngoài mình.Quan sát tượng của một hình tròn gồm có một Tâm duy nhất (gọi là Bất biến) và một vòng tròn (gọi là Tùy duyên) thì Tự là hành vi phát xuất từ Tâm. Tịnh là đối lập với động,nhưng trong cuộc sống Tịnh không là bất động hoàn toàn, vì nếu bất động thì là không còn sống hoặc là như cây khô,củi
91
mục.Kinh Dịch,Hệ Từ truyện nói: ’Cát Hung Hối Lẫn sinh do động’,động này là tại vòng tròn. Đại tượng truyện,quẻ Lôi Phong Hằng nói:’ Người quân tử học tượng quẻ này để lập thế đứng không dời đổi phương hướng’,tức là đứng tại Tâm,một vị trí bất biến. Nho giáo nói Trung Dung,Phật giáo nói Viên Trung là cùng dùng một tượng hình tròn. Tự Tịnh không khác với Tự Tại;Tâm kinh Bát nhã có đề cập Bồ Tát quán Tự Tại và một Thiền sư đã dịch 2 chữ Tự Tại thành 6 chữ :’Tự bây giờ và Tại ở đây’ có ý nghĩa tuyệt vời là vạn pháp luôn lệ thuộc Không Thời. Tự Tại tuy 2 chữ nhưng cùng là một Tâm bất biến,không khác với các ý ‘ thì hiện tại’ và ‘ thực tại hiện tiền’. Tóm lại Tự Tịnh là vẫn sống nhưng chỉ động tại Tâm bất biến mà thôi. B. HÀNH TRÌ PHÁP TỰ TỊNH: Phật pháp có 2 phép Thiền và Tịnh hàm súc,phép tu Chỉ Quán.Thiền khởi từ Quán đến khi thấy sự vật’ như nó là’ liền thôi,là dừng tại Chỉ.Tịnh là khởi từ Chỉ [tại Tâm] để từ Định đạt đến Huệ tức là từ Chỉ đến Quán. Thiền Tịnh cũng chỉ một mục đích,chẳng qua khác nhau 2 pháp Khởi Chỉ mà thôi.Cho nên Hành trì pháp TựTịnh cũng tức là Hành trì một trong 2 pháp Thiền và Tịnh. C. NHẬN ĐỊNH: Muốn sống đúng chánh pháp tất nhiên phải hiểu rõ ý nghĩa và cách hành trì Phật pháp.
27. BẤT NHỊ PHÁP MÔN Các pháp hành trì của người tu Phật gọi là Pháp môn,các phép này có chung một cứu cánh là giải thoát, kiến tánh, thành Phật nên đều gọi là Pháp môn ‘bất nhị ’. Pháp bất nhị đã có người dịch rất nôm na dễ hiểu là phép’ không hai ’ Không hai cần hiểu rõ không phải là hai.Lại có Luận Duy thức nói rằng:” Phật pháp là một không phải là hai ”. Điều này rất giống với chủ trương phép không hai kể trên 92
nhưng nếu khẳng định Phật pháp là một thì làm cho người tu dễ lẫn lộn giữa Tuyệt Đối và Trung Đạo.Ý này cần được minh định: Phật pháp là Pháp hành trì giúp người tu thành Phật, ngay nơi Tam Bảo đã định nghĩa rõ ràng là : TĂNG
PHÁP
PHẬT
Pháp là con đường giữa nối liền Tăng với Phật. Nói một cách khác Pháp là Trung Đạo giữa Tăng và Phật. Phật tử nào cũng ngưỡng mộ Phật là bậc Giác Ngộ nhưng thật sự hiểu rõ hai chữ Giác Ngộ theo lý Nhân Quả thì rất hiếm. Giác là biết [Nhân], Ngộ là gặp [Quả]. Giác được dùng với nghĩa cứu cánh thành Phật đến ngôi vị tuyệt đối là Niết bàn nhưng cần hiểu rõ Giác có thời gian để trải qua một quá trình gồm 3 thời kỳ: Mới bắt đầu gọi là Thỉ Giác. Sau Thỉ Giác người tu lần lượt biết các sự việc nhờ hành trì các Pháp môn hoặc giao dịch trong đời sống, các sự biết này đến mau chậm tùy người, đều gọi chung là Tùy phần Giác. Khi nào Tùy phần Giác tròn đầy gọi là Viên Giác. Ngộ là Quả của Giác cho nên sau Thỉ Giác hoặc Tùy phần Giác đều có Ngộ. Và được gọi là những Tiểu Ngộ, chỉ sau Viên Giác mới gọi là Đại Ngộ.(Giác Ngộ = Đại Ngộ). GIÁC
NGỘ
Tóm lại định nghĩa Phật Pháp là Pháp không hai không bị hiểu lầm như nói Phật Pháp là một không phải là hai. Nói không hai chẳng những đã là Tăng không còn là chúng sanh bất Giác [2] [không kể chúng sanh giả danh Tăng] mà còn hàm ý cũng chưa phải là một [1],vì Tăng chưa thành Phật (chưa phải tuyệt đối, chưa được ngôi vị Niết bàn và chưa bằng một). Điều này càng xác định vấn đề Đạo Cơ Đốc có dụ ngôn Chúa Giêsu là ‘con một’ của Thiên Chúa (Ngài đã là bậc Đại Ngộ, đã gặp lại [Ngộ] Thiên Chúa, các tín đồ còn lại cũng là con nhưng chưa phải là con một) . Bất nhị hàm ý không phải là 2 mà Giác ngộ là thong dong trên Trung Đạo không còn cố chấp giữa tương đối và tuyệt đối. 93
28. HÒA THƯỢNG
Từ Hòa Thượng chẳng những để chỉ danh hiệu một vị tu hành Phật Giáo mà còn hàm chứa một Phật pháp vô cùng quí báu cho tất cả mọi người. A. Ý NGHĨA CỦA HÒA: Trong Đại chúng,Hòa có nghĩa là điều hòa khi nói đến sự vật như Âm Dương thăng bằng,không thiên lệch;hoặc để nói một tình trạng yên ổn như Hòa bình,hoặc khiêm nhường như Hòa thuận,dĩ Hòa vi quý…v..v… Trong Nho giáo,sách Trung Dung,Hòa được dùng trong từ Trung Hòa,hàm nghĩa Đạo Tam cực,gồm 2 qui luật Âm Dương thống nhất tại Tâm gọi là Trung và Âm Dương đối lập qua Tâm gọi là Hòa. Trong Phật giáo,Hòa được dùng trong giới luật của Tăng Sĩ gồm có 6 gọi là Lục Hòa : Thân Hòa đồng trụ (Hòa mình chung sống). Khẩu Hòa vô tránh (Miệng không tranh cải) Ý Hòa đồng duyệt (đồng ý vui vẻ) Giới Hòa đồng tu (Cùng giữ giới tu hành) Kiến Hòa đồng giải (Cùng chia xẻ thấy biết) Lợi Hòa đồng quân (Chia đều lợi lộc) Từ Lục Hòa vừa kể,cho thấy 6 chữ Hòa là đời sống trong vòngTùy duyên [tương đối] gắn liền với 5 chữ Đồng và 1 chữ Vô đều tại Tâm bất biến [tuyệt đối] nêu rõ 2 chữ Hòa Đồng không khác 2 chữ Dị Đồng. Dùng cách diễn tả Lục Hòa cũng không khác Lục Khí trong Vũ trụ và Lục Kinh trong con người,Lục Hào trong 64 Quẻ Dịch đều là 2 lần Đạo Tam cực: 94
Thân Khẩu Ý là Tam Nghiệp,Hòa để tu Dứt Nghiệp. Giới Kiến Lợi là phép tu Giới Định Huệ để Dừng Nghiệp. Tu Lục Hòa không ra ngoài mục đích tiến tới chân tâm để Giác Ngộ. B. Ý NGHĨA CỦA THƯỢNG: Chữ Thượng này không phải Chữ Thượng 3 nét (bộ Nhất 2 nét) có nghĩa là cao mà chính là chữ Thượng 8 nét (bộ Tiểu 5 nét) có nghĩa là Chuộng (chọn hướng đến). C. Ý NGHĨA CỦA HÒA THƯỢNG: Người tu đang sống trong vòng Tùy duyên tương đối chẳng những dùng pháp Hòa mà còn dùng pháp Thượng (Chuộng)để tiến đến cõi Phật. D. Ý NGHĨA CỦA THẤT THÁNH TÀI: Phật pháp có 10 Pháp giới, ngoài Lục Đạo (6 cõi luân hồi) cóTứ Thánh [Thanh văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật]. Nhiều người cố chấpThất Thánh Tài là 7 tài sản quí của bậc Thánh. Bậc Thánh không lấy của cải vật chất làm tài sản mà lấy công đức tu tập làm tài sản, cần hiểu rõ đấy là 7 yêu cầu cần thiết giúp một người chuyển Phàm thành Thánh: Tín : Đức tin , vì có tin mới huân tập công đức được , kinh Hoa Nghiêm nói Tín vi công đức mẫu nghĩa là tin là mẹ sinh ra các công đức. Tấn : nổ lực cố gắng siêng năng . Tàm : tự xấu hổ với lòng mình khi làm điều sai . Quý : Thẹn với người khác khi làm điều sai. Đa văn : Học hỏi nhiều, có tri thức cao rộng. Bố thí : chia sẻ tài vật của mình cho người khác, giúp đỡ khi người gặp tai nạn. Xả : xả bỏ không hối tiếc . 95
Tu tập 7 pháp này sẽ có Công Đức nên gọi là Thất Thánh Tài , 7 tài sản của bậc Thánh. E. NHẬN ĐỊNH: Hai pháp Hòa Thượng và Thất Thánh Tài không chỉ dành riêng cho người tu mà là lợi ích cho tất cả mọi người dùng nó để chuyển Nghiệp, chuyển Phàm đến Thánh,tiến hóa từ Chúng sanh đến Phật.
29. XƯNG TỘI VÀ BIẾT ƠN
Cơ đốc giáo dạy tín đồ 2 điều cốt yếu Xưng tội và Biết ơn: Xưng tội là tự nhận biết lỗi lầm và trình bày với Linh mục,một đại diện của Chúa Trời toàn năng.Trái lại với xưng tội là che giấu tội,không chịu biết lỗi lầm. Xưng tội là so sánh mình với người cao và cao tột chính là Chúa Trời;Người xưng tội có xu hướng tín ngưỡng cao thượng để tiến hóa.Trái lại che dấu tội là so sánh mình với người thấp hơn và có xu hướng thoái hóa. Biết ơn là cảm nhận được lòng thương xót của Chúa Trời,cảm nhận lòng thương của Trời ban cho ta được xin và mọi phương tiện sống,cảm nhận lòng xót của Trời tha thứ tội lỗi và cứu vớt ta mọi khổ nạn.Trái với biết ơn là kể công tự mãn.Người biết ơn có xu hướng thánh hóa,ngược lại người kể công tự mãn chính là nuôi lớn cái Ta,chẳng những không tiến mà còn là thoái (lùi).
Noi gương Phục-Sinh của Chúa Ki-Tô, một tín đồ dự Thánh lễ Xưng tội và Biết ơn cũng như được Phục Sinh, có ý nghĩa tương tợ như chết đi đời sống tội lỗi cũ, sống lại đời sống Thánh thiện mới. 96
Phật giáo cũng dạy Sám hối và Từ bi.Thoạt đầu tưởng rằng khác,nào ngờ: Sám hối là ăn năn tội trước,chừa lỗi sau. Từ bi cũng có nghĩa là thương xót. Cùng một chủ trương mà Đạo Cơ đốc dạy tín ngưỡng Chúa Trời; Đạo Phật dạy cá nhân tự lực. Do không hiểu tùy theo trình độ mà bề trên có giáo lý khác nhau nên người tin theo Cơ đốc thì chê Đạo Phật dạy người không biết ơn Chúa; Người tin theo Đạo Phật thì chê Đạo Cơ đốc giảng Mê tín.Không chịu biết Đức tin của một người thể hiện 3 giai đoạn: Bất tín: Không tin vì không biết. Mê tín: Tin lúc còn mê (chưa biết đúng và đủ). Chánh tín: Tin khi đã thấy biết đúng và đủ. Như vậy mọi giáo lý của các Tôn giáo đều tùy theo trình độ,văn hóa địa phương; Người rao giảng và mọi tín đồ cũng không nên cố chấp,tị hiềm,gây hận thù chia rẽ. Tóm lại Đạo là vốn quý của nhân loại,là duy nhất,không có cao thấp;còn Giáo tuy có khác nhau cũng chẳng qua tùy theo trình độ dân chúng mà thiết lập. Người biết rõ Đạo giáo không nên có ý thức phân biệt. Tiến hóa là xu thế tất yếu của loài người, mỗi người được sinh ra giữa 2 cực, trên cao gọi là Thiên đàng, dưới thấp gọi là Địa ngục; Xưng tội là cương quyết từ chối thoái hóa (xuống tận Địa ngục); Biết ơn là cầu nguyện hướng theo tiến hóa (lên tới Thiên đàng). Đạo giáo có chung mục đích hướng dẫn nhân loại tiến hóa thì việc hành các lễ cầu nguyện, xưng tội biết ơn, sám hối tất nhiên không cần gì phải phân biệt. Xưng tội và Biết ơn thì tiến hóa, trái lại chối tội và kể công thì thoái hóa, là thông lệ chung của nhân loại tiến hóa.
.
97
30. TRÍ TUỆ BÁT NHẢ
Hành Phật Pháp ai cũng được hướng dẫn Vô Minh là nguồn gốc phát sinh Tội Nghiệp luân hồi, nhưng thật biết Vô Minh là gì thì ít ai hiểu thấu. Phật giáo gọi Minh là Giác, Vô Minh là Bất Giác; Bất Giác là không biết Lý Sự Chơn Thật. Do không biết Lý Sự Chơn Thật nên chúng sanh mãi mãi trôi lăn; muốn giúp đỡ chúng sanh nên Phật đã dạy Trí Tuệ Bát Nhả là trên hết, là cốt tủy để không còn Vô Minh, tiêu tan mọi lầm lẫn phát sanh Tội Nghiệp do Tam độc (Tham, Sân, Si). Nhưng nghĩa thật của Trí Tuệ Bát Nhả thì phần nhiều chưa rõ nên là trở ngại rất lớn trong việc hành trì Phật Pháp. A. NGHĨA THẬT CỦA TRÍ TUỆ BÁT NHẢ: Phần nhiều hiểu Trí Tuệ Bát Nhả tổng quát là sáng suốt to lớn, ít ai phân hiểu được rõ ràng thật nghĩa của Trí Tuệ Bát Nhả để áp dụng phù hợp với lý Âm Dương và thực tế phải hành trì. Trí Tuệ có nghĩa tương đối: Trí là sự sáng (Dương) biểu hiện của Tâm Đại Bi (lòng xót lớn của cha lành). Tuệ là sức sáng (Âm) biểu hiện của Tâm Đại Từ (lòng thương lớn của mẹ hiền). Bát Nhả nói đủ là Bát Nhã Ba La Mật, Hán tự thường dịch Ba La Mật là Đại (lớn), ý nói Trí Tuệ Bát Nhả là sáng suốt rất to lớn nhưng to lớn như thế nào thì chưa cụ thể; Phật tính là tánh thấy biết sâu rộng vô cùng (không biên giới); các chữ Bát Nhả Ba La Mật cần được hiểu đúng nghĩa chữ Đại với hàm ý toàn thể sự vật dù lớn hoặc nhỏ cũng đều như vậy. Tóm lại, Trí Tuệ Bát Nhả là sự thấy biết chân thật về toàn thể sự vật, từ lớn nhất như vũ trụ đến nhỏ nhất như siêu vi trùng .v.v.. B. VAI TRÒ CỦA TRÍ TUỆ BÁT NHẢ: Mỗi chúng sanh có sự sống giữa cái biết và cái không biết; Biết là nhận ra sự vật chân thật, không biết mà lầm tưởng mình biết; lầm tưởng là Nhiễm Tâm, còn thật biết là Chơn Tâm, Lương Tâm, Chánh Niệm. Chúng sanh không biết sợ Nhân, 98
chỉ sợ Quả cũng do không biết (Vô Minh) cũng là do không có Trí Tuệ, cho nên Phật Pháp chủ trương Trí Tuệ trên hết là như vậy. Trí Tuệ không gì khác hơn là thấy biết mọi sự vật bằng Lý Sự Chơn Thật. Không biết mà lầm tưởng mình biết là Vô Minh, kéo dài Tâm Si, mở rộng lòng Tham, ấp ủ lòng Sân, luôn mãi tạo Nghiệp vì Tam độc. Mãi mê Si vì lầm tưởng mình đã biết, còn Tham vì tự cho mình đã biết đủ, còn Sân vì tự cho mình đã thật biết. Giác là biết toàn thể sự vật trái với Bất Giác chỉ là biết không nguyên vẹn do kiến chấp Cực đoan. Nếu Vô Minh đi đôi với Bất Giác thì đối lại Trí Tuệ song hành với Giác Ngộ; Từ bắt đầu rời Tương đối đến Tuyệt đối, hành giả trải qua 2 giai đoạn chính là Tùy Duyên Giác (còn gọi là Từng phần Giác) để có Tiểu Ngộ rồi đến cuối là Viên Giác để có Đại Ngộ. Chúng sanh tu hành thường nhầm lẫn Tiểu Ngộ với Đại Ngộ gọi là Kiến Tánh (thấy Tánh = Ngộ Chơn Tâm). Trí Tuệ là sự sáng soi rõ bóng tối Vô Minh và làm cho chúng sanh thức tỉnh biết rõ Đạo Tam Cực là + = - , Lợi = Hại, Phúc = Họa, Được = Mất .v.v.. . Hễ có Độc Lập thì có Tự Do, có Công Bằng thì có Tự Do; còn nếu lệ thuộc mà đòi Tự Do hoặc bất công mà ao ước Tự Do đương nhiên là trái Đạo. Có Trí Tuệ Bát Nhả tức là Giác Ngộ, cần nhấn mạnh Giác là biết đủ [Tri túc]; Biết Thái Cực là toàn thể sự vật đã phân cực gồm đủ 3 cực Âm – Dương – Trung Hòa, biết Âm Dương tương đối là đường tương giao của chúng có đủ 2 chiều Tùy Thuận [Dương Tùy – Âm Thuận, tuyệt đối tùy – tương đối thuận], biết Âm Dương Hổ Căn là gồm đủ Đạo thống nhất có gốc từ tuyệt đối và Nghĩa đối lập có ngọn tại tương đối, biết Âm Dương Bình Hành là 2 mặt đối lập của sự vật thường sinh hoạt hòa hợp trong 1 thể thăng bằng. Không nên nhầm lẫn Bất Giác với Giác, Bất Giác là Cực đoan chỉ biết 1 chiều như biết lợi không biết hại, biết tốt không biết xấu, biết nên không biết không nên, biết mình không biết người [ích kỷ], biết quyền lợi không biết trách nhiệm (Tham), nhớ ngoài quên trong, nhớ trước quên sau, tách rời đầu và cuối, chia cắt cất và tìm, hấp thu không bài tiết, biết lợi trước mắt không biết hại lâu dài, v.v.. . C. GƯƠM BÁU CHẶT ĐỨT NHÂN DUYÊN NGHIỆP QUẢ: Như chúng ta thường hiểu theo Đạo Tam Cực, Ý là Trung Đạo giữa Tâm và Thức, Duyên là Trung Đạo giữa Nhân và Quả; Tu là tịnh Ý để đạt Nhất Tâm, Hành 99
là dứt Duyên để tiêu trừ Nghiệp Quả. Một khi Tâm đã Nhất, Nghiệp Quả đã không còn tức là Giác Ngộ. Nhờ có Trí Tuệ mới biết Tu Hành nên Phật pháp chủ trương dùng Trí Tuệ Bát Nhả để soi sáng Vô Minh, diệt trừ Tam độc [Tham, Sân,Si] để Giải thoát chúng sanh khỏi Nghiệp Quả luân hồi. Gốc của Tam độc từ Si do không biết 1 qui luật thường hằng trong đời sống của vạn vật là Công Bằng (ai cũng biết câu ‘Bình đẳng không cần giữ Giới’, Bình có nghĩa bằng, đẳng có nghĩa tất cả, giữ Giới có nghĩa tuân thủ qui luật mà hết thải đã Công Bằng thì còn gì phải giữ Giới); Tham vì chỉ thấy lợi trước mắt mà không biết mỗi cá thể đều được thưởng phạt đúng với luật Công Bằng; Sân vì muốn không được và ghét người xấu mà không biết hết thải đều không thể ra ngoài sự Công Bằng.
31. NHẤT TÂM Vạn vật gồm cả loài người đồng sinh hoạt trong một trật tự vũ trụ, nhưng luận này chỉ bàn về nhân loại cho dễ nhận định. Lịch sử suốt xưa nay khắp Đông Tây đều chứng tỏ một qui luật bất biến, đạo Cơ đốc có Dụ ngôn Chúa Ki-Tô là “con một” của Thiên Chúa; Đức Khổng Tử [đạo Nho] cũng nói ‘Ngô Đạo Nhất dĩ quán chi ’ (Đạo của ta dùng cái một xem xét tất cả) ; Phật pháp có pháp môn niệm Phật ‘Nhất Tâm bất loạn’ ; Mỗi mỗi đều là chữ Nhất (một). Vậy thì lý do nào mà khẳng định như vậy ? A. TỰ DO: Tự do là điểm khởi đầu của mọi sinh hoạt trong kiếp sống. Tự là không có tác động bên ngoài, từ Tâm động tác ý, rồi từ Ý sinh thức, từ Thức phát khởi lời nói việc làm tạo ra Tam Nghiệp [Thân, Khẩu, Ý]. Do là từ Nhiễm Tâm (động Tâm, tác Ý, vọng Thức) tạo ra Nghiệp Quả luân hồi.
100
Mỗi người sinh tử giữa 2 cực thấp nhất là Địa Ngục, cao nhất là Phật (hoặc là Thiên đàng); Tự do tạo Nghiệp theo xu hướng thoái hóa [hướng xuống Địa Ngục] hoặc tiến hóa [hướng lên thiên đàng]. B. CÔNG BẰNG: Công bằng là điểm kết thúc tất yếu của mỗi kiếp sống. Công là vạn sự vạn vật hoặc là mọi người đồng chịu một qui luật. Bằng là hai mặt đối lập của một sự vật không thiên lệch trong toàn thể sự vật (Âm Dương , cao thấp, trong ngoài .v.v…) . Công bằng thể hiện nơi mỗi sự vật bằng Đạo Tam Cực (+ = - , cực Dương = cực Âm, = là ký hiệu của cực Trung Hòa). C. GIÁC NGỘ: Giác Ngộ là quá trình tu đắc của một hành giả, nói rõ hơn là hành trình trên đường từ tương đối đến tuyệt đối (Trung Đạo). Giác là biết [phân hiểu] Đời tương đối là Vô Thường còn Đạo tuyệt đối là Thường, quyết tâm xuất gia rời bỏ tương đối (hành pháp không hai) để đi đến tuyệt đối. Ngộ là chứng gặp đích tuyệt đối gọi là Niết Bàn. Giác Ngộ là Quả tu đắc giải thoát của người hành Đạo. D. NHẬN ĐỊNH: 3 vấn đề TỰ DO – CÔNG BẰNG – GIÁC NGỘ đều có gốc là 1 Tâm Bất Biến, thì ra vạn sự vạn vật cũng như loài người đều có 1 cội nguồn; hoặc gọi là đấng duy nhất, Thượng đế hoặc gọi là Nhất Tâm hoặc là Tự nhiên; Các thuật ngữ trở về mái nhà xưa, tìm lại cội nguồn, gặp lại chính mình, trong thể Nhất Tâm đâu có gì sai khác. Vạn sự vạn vật trong trật tự vũ trụ (tự nhiên), không ra ngoài Đạo Tam Cực gồm cực Dương , cực Trung hòa và cực Âm (+ = - ). Từ ngàn xưa phương Đông đã 101
biểu lộ một nền văn minh, một hiểu biết sâu sắc về tự nhiên thể hiện bằng loại chữ tượng hình, chữ Nho đã diễn đạt chữ Nhân là Người gồm 2 nét Âm Dương, chữ Vương là vua cũng đọc là Vượng (cai trị) gồm 4 nét là 3 nét ngang của chữ Tam và nối liền bằng 1 nét dọc, chữ Chủ cũng đọc là Chúa gồm chữ Vương có thêm chấm đầu, chữ Thiên là Trời cũng gồm 4 nét dưới là 2 nét chữ Nhơn trên là 2 nét ngang tượng dấu bằng (phải chăng ngụ ý người có não thăng bằng cũng không khác Trời), chữ Nhân là lòng thương xót cũng có 4 nét bên trái là 2 nét Nhơn đứng bên phải là 2 nét ngang tượng dấu bằng (phải chăng ngụ ý có lòng Nhân là người Công Bằng). Văn hóa Việt Nam bao hàm ý đầu não là Tâm và Tâm là Lòng càng cho thấy ý nghĩa của 2 chữ Nhất Tâm. Dịch học mô tả con đường đi ra từ tuyệt đối (Đạo) đến tương đối (Đời) gọi là Đại Diễn. Thiền học diễn đạt con đường quay vào từ tương đối (Đời) đến tuyệt đối (Đạo) gọi là Nhất Quán. Biết gốc của mình là tuyệt đối, cũng biết mình đang ở ngọn tương đối, lại biết hành pháp không hai (xuất gia rời ngọn tiến về gốc) để về nguồn gọi là Giác. Không biết mình gốc từ tuyệt đối, cũng không biết mình đang ở ngọn tương đối, lại không biết cách tìm về nguồn gọi là Bất Giác. Bất Giác trôi lăn lâu dài nơi vòng Tùy Duyên gọi là luân hồi. Nhất Tâm là biết nguồn gốc và biết tìm về nguồn gốc của chính mình là mục tiêu giải thoát của nhân loại.
32. GIÁC NGỘ Giải thoát là cứu cánh của việc tu, Niết Bàn là ngôi vị khi đắc Đạo, nhưng Giác ngộ mới là trạng thái tâm linh của người tu để đạt tới 2 vấn đề vừa nói.Ai cũng biết yêu cầu đó,nhưng thật hiểu Giác ngộ là gì thì rất ít;cho nên cần phải giải bày minh bạch. 102
A. BẢN NGHĨA CỦA GIÁC NGỘ: Đời sống của vạn vật, không rời 2 qui luật Âm Dương thống nhất và Âm Dương đối lập thì con đường đạt tới Giác ngộ cũng không rời khỏi 2 qui luật này: Giác là biết, đối lập là bất giác [không biết].Trong đời sống, biết thường được dùng với thấy gọi là thấy biết [tri kiến]: Thấy là cái biết có giới hạn của giác quan mắt, mắt người thường chỉ thấy vật có hình và giới hạn trong một khoảng không gian. Biết bao trùm cả vật hữu hình và vô hình,ít bị giới hạn bởi không thời . Phật có sự thấy biết rộng vô cùng gọi là Tri kiến Phật. Thế gian thường gọi danh hiệu Ngài bằng tính biết là bậc Chánh biến tri [biết suốt khắp].Chánh biến tri là biết suốt xưa nay [thời],khắp Đông Tây Nam Bắc ..v..v…[không]. Chúng sanh thì khác hẳn với Phật ,chỉ biết trong giới hạn.Có thể nói muốn đạt Tri kiến Phật chẳng những cần biết cả 2 qui luật Âm Dương thống nhất và đối lập mà còn phải biết 2 qui luật này luôn hiện diện và không rời trong đời sống của vạn vật ,trong đó có loài người. Ngộ là chứng, gặp.Chứng gặp cái duy nhất. Nói tóm tắt dễ hiểu, Giác là cứu cánh của Lý [kết quả rốt ráo của học],Ngộ là cứu cánh của Sự [kết quả rốt ráo của hành]. Chân lý phải thông, sự thật phải đạt. Giác Ngộ là một trạng thái tâm linh của người tu đã thông đạt.
B. SỰ ĐỒNG DỊ CỦA DỊCH VÀ THIỀN: Khoa học mô tả 1 vụ nổ ‘ Big- Bang’ không khác Dịch học mô tả Hệ Đại diễn của Tiên thiên, cũng không khác Thiền học mô tả tình trạng chứng ngộ của 1 người tu Thiền .
103
DƯƠNG
DỊCH
PHÂN 2
VÔ TRI
ÂM
LÝ
TRI
TÂM
SỰ
VÔ VI
HIỆP 1
THIỀN
HÀNH
Trong hệ tuyệt đối Dịch và Thiền không khác [đồng là một].Tuy nhiên trong hệ tương đối Dịch chủ trương phân nhị trước, dường như thiên về Lý; Thiền chủ trương hiệp nhất trước, dường như thiên về Sự.Thật ra Dịch chủ trương vô tri vô vi Thiền cũng không khác.Cho nên Thiền sư Trí Húc (Minh) thuộc hệ phái của ông Vương Dương Minh đã dùng thuyết ‘Tri hành hợp nhất’ của Nho giáo phỉ báng Phật Giáo. Nhưng về sau tỉnh ngộ đốt bỏ mọi tài liệu phỉ báng rồi tiếp đó tu Thiền và viết sách Chu Dịch Thiền giải và Tứ thư Thiền giải có nội dung chứng minh Dịch và Thiền không khác .Nơi tác phẩm này ông có mượn 1 câu trong Hệ Từ Thượng truyện để làm câu đối như sau : Phương dĩ loại tụ,Thiền giải Dịch. Vật dĩ quần phân,Dịch giải Thiền.
C. VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM: Đất nước Việt Nam nằm trên bán đảo Ấn- Hoa..Dân tộc Việt Nam có nguồn gốc từ Ấn độ và từ 1 dân tộc Việt phía Nam sông Hoàng Hà hấp thụ được nền văn minh Phật giáo ,lịch sử còn chứng minh bị Trung quốc đô hộ ngàn năm không khỏi hấp thụ nền văn minh của Nho giáo .Dù cho Nho giáo và kinh Dịch đã bị các tập đoàn phong kiến xuyên tạc vẫn còn lưu lại trong dân gian 1 nền Nho giáo và kinh Dịch chính thống ;làm cho dân tộc Việt Nam thành tựu 1 nền văn hóa kết tập tinh hoa của Dịch và Thiền . 104
Ví dụ 1 : Trong ngôn ngữ văn hóa Việt Nam có dùng từ Trí Khôn : Trí thuộc Dương là lược từ của Trí Huệ Bát nhã dùng trong Thiền học Phật giáo. Khôn thuộc Âm là lược từ của Càn Khôn, cặp Âm Dương sinh thành vạn vật dùng trong kinh Dịch của Nho giáo.Đức của Khôn là thuận với Càn cũng như Người thuận với Trời, tiếng Việt thẳng thắn dùng chữ Khôn,trong đó đã hàm nghĩa chữ Thuận. Ngôn ngữ Việt dùng từ Trí Khôn từ nhiều đời nay đã chứng minh được 1 nền văn hóa kết tập tinh hoa của Dịch và Thiền. Ví dụ 2 : Đức Trọng Cảnh sau khi làm sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận bởi Nho giáo và kinh Dịch bị các tập đoàn phong kiến bạo quyền xuyên tạc nên kéo dài gần 2000 năm nay tại xứ này không có người hiểu được .May mắn tại Việt Nam có Cụ Việt Nhân Lưu Thủy là 1 nhà Nho tu Phật hiểu được mà làm Bản Nghĩa 2 sách này đồng thời đề xướng người sau học tập để chấn hưng Đông Y.Sự kiện này không những nói lên Trí Khôn của người Việt Nam mà còn cho thấy 1 nền văn hóa kết tập được tinh hoa của Dịch và Thiền .
D. PHÁT HUY CƠ DUYÊN GIÁC NGỘ: Nền văn minh Phật giáo với đỉnh cao là Thiền không thể phát triển tại Ấn độ vì tệ nạn kỳ thị giai cấp vẫn còn ở xứ này .Nền văn minh của Nho giáo có nguồn gốc từ kinh Dịch cũng đã mai một tại Trung Hoa do sự xuyên tạc của phong kiến và bạo quyền.Tuy vậy ,tinh hoa của Dịch học và Thiền học vẫn là vốn quý của nhân loại .Một dân tộc biết kế thừa vốn quý này để phát huy thì tất yếu sẽ tiến lên trong trường quốc tế và người tu hành biết kết hợp chúng ắt cũng dễ dàng có cơ duyên Giác Ngộ vì Giác Ngộ cũng chính là mục tiêu giải thoát.
.
105
GIÁC NGỘ LÀ GIẢI THOÁT ĐỜI SỐNG MINH TRIẾT
TUYỆT ĐỐI THUẬN HÒA TƯƠNG ĐỐI
HÀNH TRÌNH TIẾN HÓA
TÂM TU TỈNH THỨC
TIÊU CHÍ ĐẠO HẠNH
ĐẠO GIÁC NGỘ ĐỜI
33. TỰ NHIÊN Đạo Đức Kinh chương 25 có câu Nhân pháp Địa Địa pháp Thiên Thiên pháp Đạo Đạo pháp Tự nhiên. Dân gian thường nói Không làm gì hơn học, không học gì hơn học Đạo. Tại sao Đức Lão Tử lại nói Đạo pháp Tự nhiên ? Vấn đề này cần phân hiểu minh bạch Đạo là nhận thức của loài người về sự vật, còn tự nhiên là vạn sự vạn vật hằng xảy ra theo trật tự của vũ trụ suốt xưa nay, khắp Đông Tây. Nhận thức về Đạo thuận tự nhiên thì gọi là Pháp vì tự nhiên có những đặc tính hằng thường. A. TÍNH CHÂN THẬT: Kinh Dịch truyện Hệ Từ, Đức Khổng Tử khẳng định Nhất Âm Nhất Dương Chi Vị Đạo. Đạo là toàn thể sự vật gồm có Âm Dương là hiện tượng, còn bản chất của nó mới là sức sống, sinh hoạt, tuần hoàn của cặp hiện tượng này. Lời lẽ mô tả sự vật là chân lý, hoạt động của sự vật là sự thật, đều hiện bày nơi tự nhiên tạo thành một đặc tính là Chân thật. B. TÍNH TRẬT TỰ: Xưa nay vạn vật có một trật tự không đổi như Đạo Đức Kinh đã nói Đạo sinh Nhất Nhất sinh Nhị Nhị sinh Tam Tam sinh Vạn Vật. Trật tự này chính là 1 bản chất sinh 2 hiện tượng Âm Dương với 2 qui luật bất dịch là Âm Dương thống nhất 106
và Âm Dương đối lập thể hiện bằng Đạo Tam Cực gồm cực Dương, cực Âm và cực Trung hòa với 3 đặc tính của Âm Dương là Tương đối - Hổ căn – Bình hành. C. TÍNH TOÀN DIỆN: Vạn vật gồm đủ 2 mặt hiện tượng và bản chất thì toàn thể của nó không hề thiếu mặt nào. Đó là đặc tính bao hàm của tự nhiên. Cho nên luận Âm Dương mà bỏ sót mặt nào thì cũng là không công bằng và thế gian phán xét là Vô Đạo, thất Đức. Công là chung cho tất cả, Bằng là quân bình trong mọi sinh hoạt; là định lệ suốt khắp của vũ trụ, vạn vật. D. TỔNG LUẬN: Tự nhiên vốn có những đặc tính hằng thường vừa kể là căn bản nhận định của người học Dịch. Kinh Dịch còn nói Dịch vô tư – vô vi cũng là pháp tự nhiên vì trong tương đối (hai), loài người linh hơn vạn vật, là động vật có tư tưởng. Tư là suy theo bản chất, tưởng là nghĩ về hiện tượng của sự vật; Nhân loại tiến hóa với xu hướng tư > tưởng và thoái hóa với xu hướng tư < tưởng. Người tu xuất gia hành Trung Đạo tức là rời hiện tượng tương đối (giảm tưởng) tiến đến bản chất tuyệt đối (thêm tư). Một khi đã đến đỉnh tuyệt đối (một) tất nhiên tư tưởng không còn và cũng không có tác ý nên gọi là Vô tư – Vô vi. Đạo học cổ truyền trước đây đã pháp tự nhiên thì Khoa học hiện đại ngày nay cũng thuận tự nhiên; Mỗi mỗi dựa theo tự nhiên mà phát triển phương pháp; Ai có thể phủ nhận tự nhiên là vị thầy lớn của cả Đạo học (gốc) và Khoa học (ngọn) ?. KINH DỊCH & ĐẠO GIÁO ĐỒNG CHỦ TRƯƠNG THUẬN TỰ NHIÊN KINH DỊCH
CƠ ĐỐC GIÁO
LÃO & NHO GIÁO
PHẬT GIÁO
TƯƠNG GIAO 2 CHIỀU
CON ĐƯỜNG
TRUNG ĐẠO
TRUNG ĐẠO
CHÂN
DŨNG TÙY DUYÊN – BẤT BIẾN
ĐẠO TAM CỰC ĐỐI LẬP THỐNG NHẤT
SỰ THẬT
TRUNG DUNG
DƯƠNG
SỰ SÁNG
THIỆN
TRÍ
BI
ÂM
TÌNH THƯƠNG
MỸ
TUỆ
TỪ
.
107
a. KINH DỊCH: Tương giao 2 chiều: Vạn vật có gốc hiệp 1, có ngọn phân 2 liên tục; gốc ngọn không rời, một ra một vào là 2 chiều thường hằng của sự vật sống động. Đạo Tam Cực: Trung hiện hai mặt đối lập - thống nhất của mọi sự vật. Dương: Hướng vào thống nhất. Âm: Hướng ra đối lập b. CƠ ĐỐC GIÁO: Con đường: Xu thế tiến thoái của nhân loại. Sự thật: Mỗi sự vật đồng có hiện tượng (sự thật) không rời bản chất (chân lý). Sự sáng: Tiến hóa xua tan bóng tối. Tình thương: Thánh hóa xóa bỏ hận thù. c. LÃO - NHO GIÁO: Trung Đạo: Con đường giữa nối liền tương đối - tuyệt đối. Chân: Đỉnh đến duy nhất của nhân loạI trên đường tiến hóa từ tương đối (Dung) đến tuyệt đối (Trung). Thiện: Phẩm hạnh của Thần. Mỹ: Nết đẹp của Thánh. d. PHẬT GIÁO: Trung Đạo: Con đường tiến thoái của vạn Pháp giữa Phật và Chúng sanh. Dũng: Chánh Tâm của người hành trì Phật Pháp. Trí Tuệ: Tính sáng suốt hướng tới Phật. 108
Từ Bi: Lòng thương xót nhìn lại chúng sanh. ĐẠO HỌC VÀ KHOA HỌC LÀ GỐC NGỌN TRONG TỰ NHIÊN Thân cây chỉ một gốc mà có rất nhiều ngọn. Kinh Dịch mô tả sự thật này bằng Đồ Đại Diễn, một gốc phân nhị thành Âm Dương liên tục đến 64 quẻ 6 hào tượng vạn vật; Phật Pháp nói một là tất cả (tất cả = 1) và cũng gọi vạn vật là Vạn Pháp. Dân gian có câu Nhất bổn vạn lợi, có người theo nghĩa thương mại dịch một vốn muôn lời rồi lại thấy vô lý vì thông thường trong buôn bán một vốn chỉ lời trong khoảng 10 – 20 phần trăm, nếu kể cả công thì vốn một cũng thường lời một. Xưa nay thời gian liên tục, gốc ngọn cũng không thể tách rời thì Đạo học với Khoa học cũng không thể vượt khỏi lệ này. Gần đây có nhầm lẫn gọi Đông Y là Y học cổ truyền, Tây Y là Y học hiện đại; Điều này trái với tự nhiên vì Đông - Tây đều có xưa nay nên đã xét lại và giản dị gọi là Đông Y – Tây Y. Chủ trương kết hợp Đông – Tây Y để xây dựng một nền Y học toàn cầu là xu thế tất yếu và thuận tự nhiên. Người hành trì thường hiểu Mạt Pháp là thời kỳ Phật Pháp suy tàn, cần hiểu đúng là thời kỳ nhân loại bỏ quên gốc chạy theo ngọn của sự vật. Cây có gốc thiếu ngọn thì không phát triển, còn ngọn mất gốc ắt phải héo tàn; Người học Đạo và làm Khoa học cần lưu tâm phù hợp nguyên lý tự nhiên .
Tôi không giữ bản quyền với kỳ vọng thế hệ nối tiếp sẽ làm trong sáng và lợi ích hơn các di sản văn hóa của dân tộc Việt.
109
MỤC LỤC ĐỀ MỤC
TRANG
1- BIỆT HIỆU VÔ THƯỜNG
2
2- HỌC TẬP
3
3- HỆ TỪ
6
4- PHÁP TẮC
10
5- TƯ DUY CỦA NGƯỜI THUẬT KINH DỊCH VÀ ĐẠO LÀM NGƯỜI
11
6- ĐẠI DIỄN
14
7- KINH DỊCH VÀ NHO GIÁO
19
8- KINH DỊCH VÀ PHẬT GIÁO
24
9- ÂM DƯƠNG VÀ ĐỜI SỐNG
30
10- ÂM DƯƠNG VÀ THỐNG NHẤT VÀ ĐỐI LẬP
39
11- PHƯƠNG PHÁP LUẬN ÂM DƯƠNG
49
12- ĐẠO NGHĨA ÂM DƯƠNG
51
13- ĐẠO TAM CỰC
56
14- TRUNG ĐẠO
62
15- CỰC ĐOAN
66
16- HỮU VÀ VÔ
69
17- BIẾT ĐỦ
71
18- TRÌNH ĐỘ
75
19- MUỐN BẰNG ĐƯỢC
78
20- CHẤP VÀ XẢ
79
110
21- BA CÕI LUÂN HỒI
81
22- NGŨ UẨN
82
23- PHÚC ĐỨC VÀ CÔNG ĐỨC
84
24- THỰC HÀNH TAM PHÁP ẤN
86
25- VÔ NGÃ
88
26- TỰ TỊNH
91
27- BẤT NHỊ PHÁP MÔN
92
28- HÒA THƯỢNG
94
29- XƯNG TỘI VÀ BIẾT ƠN
96
30- TRÍ TUỆ BÁT NHẢ
98
31- NHẤT TÂM
100
32- GIÁC NGỘ
102
33- TỰ NHIÊN
106
110
MỤC LỤC
111