Cuộc đời và sự nghiệp định ninh

Page 1

Cuộc đời và sự nghiệp của người thợ già trị bệnh Định Ninh – Lê Đức Thiếp Đánh máy bởi Phan Tâm Đăng tại: VATMFORUM.NET

Vatmforum.net@2012


Mục lục Lời nhắn

3

Lời giới thiệu

5

Mấy lời ngỏ riêng cùng con cháu trong gia tộc

6

1. Phụ tử nhiều mới hồi dương

8

2. Bà lang chữa lỵ

11

3. Ngoại cảm phát nóng

14

4. Ngày hành kinh ho nóng

18

5. Hành kinh dài ngày

19

6. Khi sanh bà mụ cấu rách bọng đái, Đứa trẻ vừa sanh

23

hai ngày bỏ vú 7. Ung nhọt trong phổi (phế ung)

27

8. Mộc hương nhiều mới thông khí

30

9. Ông cụ già chảy nước mũi hàng năm (tỵ uyên)

32

10. Vị thuốc rất ngọt mới khỏi bệnh

34

11. Đau bụng hay đau tim

35

12. Bà cụ nhức chân (cước khí)

40

13. Một danh y không trị được bệnh lý của mình

45

Trai trẻ cồn cào trong ruột đưa lên ngực 14. Tuổi già cả người dộp lên như phong cùi

52

15. Môn thuốc mài

56

16. Bài thuốc sản hậu

59

17. Trẻ em ỉa chảy phân trắng như nước vo gạo

67

1


18. Thương hàn mới phát có thể ngang tắt mà chặn đứng

74

đường truyền kinh của nó chăng ? 19. Say thuốc phiện sống uống nhân trung hoàn

86

20. Trẻ em lở đầu nhọt bọc trên đầu

93

21. Nhức xương sống lấy chày nện

101

22. Trúng phòng và phạm phòng

107

23. Chân hàn giả nhiệt

116

24. Âm kiệt biến dương

120

25. Trẻ em hai lòng bàn tay hai lòng bàn chân phát nóng

126

26. Trẻ em hai lòng bàn tay hai lòng bàn chân đỏ hồng

130

27. Tỳ thận hàn thấp tích trệ, Ba đậu thay được Phụ tử

132

28. Nướng miếng chảy ra như bọt xà bông

137

29. Trẻ em xanh gầy kém ăn

143

30. Sản hậu phù thũng

148

31. Nước trong người úng thũng sưng lên

154

32. Lý âm tiễn

162

33. Tỳ thận hư hàn

173

34. Phản tạng

183

35. Thuốc ngủ cho người nghiện ma túy

185

Tổng kết

195

Chú ý: Bản ebook do vatmforum biên soạn lại không hoàn toàn giống sách in và bản đánh máy của bạn Phan Tâm.

2


Lời nhắn! Các bạn đang cầm trên tay cuốn sách “Cuộc đời và kinh nghiệm người thợ già trị bệnh” của cụ Định Ninh Lê Đức Thiếp. Đầu tiên mình xin được gửi lời cảm ơn đến bạn Lê Tri Ba, đã cung cấp cho mình bản gốc quyển sách, từ đó mình mới có cơ hội biết đến và đánh lại cuốn này, bạn Tô Thị Việt Hoa đã cố vấn lại cho mình phần chính tả, phần trình bày (hihi), bạn Trần Quốc Hiệp, bạn Nguyễn Thanh Việt cũng góp một phần công sức cùng mình đánh lại Cuộc đời… và đặc biệt là bạn Nguyễn Đức Tài trong thời gian mình ngồi đánh lại sách đã đôi khi cốc nước, đôi vài điếu thuốc những lúc mắt mờ, tay run, đã đôi khi câu chuyện trò những lúc mình trầm tư mệt mỏi, gục đầu trên bàn phím… Cảm ơn các bạn nhiều lắm! Có các bạn mình mời hoàn thành được cuốn Cuộc đời…. này. Nói về cuốn Cuộc đời… trong các bạn hẳn có người còn chưa nghe hay chưa thấy. Mình nhớ lần đầu tiên khi cầm nó, mình đã mê mẩn.. thật sự thích đến vô cùng.. Cuộc đời… là những câu chuyện nhưng là những câu chuyện mang trong đó nhiều điều làm chúng ta phải cúi mình học hỏi, những lý luận uyên thâm, những lời văn giản dị…. nếu có ai không học y đi nữa hẳn cũng thấy lôi cuốn và thú vị nhiều lắm.. mình xin không dám nói nhiều về Cuộc đời… vì khi các bạn đọc rồi các bạn sẽ tự lấy ra những nhận xét cho riêng mình! Còn nói chuyện vì sao Cuộc đời… đang trên tay các bạn . Chúng ta học cùng nhau 6 năm, nói 6 năm thật dài nhưng sắp qua rồi các bạn à! Thời gian còn lại chắc chỉ thấm thoát nữa thôi.! Nhiều chuyện lắm đã trôi qua, nhiều chuyện lắm đếnhớ, để tiếc khi 6 năm này qua đi, vui có, buồn có, giận hờn, ghen ghét nhau đều có và một thứ chắc chắn có nữa đó là tình thương mến, thương mến cho những lúc bên nhau học hành, cho những lúc ngân nga trà đá, cho những lúc ngà ngà hơi men, cho những lúc xôn xao chém gió, cho những lúc ngậm ngùi chia sẻ với nhau những chuyện trong cuộc sống ngày thường, những khó khăn, vất vả…cho những lúc… Với ngần ấy những điều và với những tình cảm thân thương, quý mến nơi mình dành cho một người, dành cho các bạn đã thôi thúc mình để Cuộc đời… được hoàn thành. Nay gửi tay các bạn làm một món quà nhỏ để thay cho lời cảm ơn , thay cho tình cảm của mình. Hy vọng Cuộc đời… sẽ góp một phần nhỏ nhoi giúp các bạn sau này trong y trị, giúp những người bệnh cần được các bạn chăm sóc. Và cũng rất mong các bạn khi cầm Cuộc đời… sẽ trân trọng giữ gìn nó, không phải vì Cuộc đời… là quà của mình mà vì những kiến thức , những nội dung sâu sắc hàm bên trong nó, những chân tình của chính tác giả và những sự kính cẩn nên có của chúng ta đối với người thầy đã viết để lại cho chúng ta cuốn Cuộc đời… này, cụ Đông y sỹ Định Ninh Lê Đức Thiếp! Vài dòng còn lại chân thành cầu chúc các bạn có được Tứ Thành: Thành Tài trong học hành rèn luyện, Thành Công trong sự nghiệp nhất là trong y nghiệp, Thành Đạt trong cuộc sống bon chen xô bồ, và giữ được Thành Tâmtrong trau dồi y đức nếu các bạn có làm Y.

3


Cuối cùng dù đã rất cố gắng để có thể giữ nguyên được như bản chính nhưng hẳn cũng có phần nào sai sót mong các bạn bỏ quá cho..Còn nhiều điều muốn viết.. nhưng thôi câu từ không thể chứa hết lời, lời không thể mang hết ý, ý không thể hàm đựng hết tâm can… chỉ xin nhắn vài dòng trên đây! Thân thiết lắm! Hà nội ngày 04 tháng 11 năm 2011 HYDK2A(*) Phan Tâm!

( * ) Lớp

ĐHK2A (2009-2012) – Học viện Y Dược học Cổ truyền Việt Nam

4


Lời giới thiệu Cuộc đời và kinh nghiệm người thợ già trị bệnh là một phần của bản thảo Định Ninh y dược tiểu tiểu sử của lương y Định Ninh Lê Đức Thiếp. Tác giả rất thích gọi mình là người thợ già trị bệnh và qua trên 85 tuổi đời và 65 tuổi nghề, cụ xứng đáng với cái tên khiêm tổn người thợ già trị bệnh. Khi đọc cuộc đời và kinh nghiệm người thợ già trị bệnh, chúng ta sẽ biết được rất nhiều điều thú vị qua bút pháp độc đáo của cụ Định Ninh Lê Đức Thiếp:

- Chúng ta sẽ thấy được trước mắt sinh hoạt của xã hội từ đầu thế kỷ tới nay, đặc biệt là sinh hoạt của các thầy thuốc cổ truyền. - Chúng ta sẽ nghe được nhiều mẩu chuyện tâm đắc trong đời làm thợ chữa bệnh của cụ kể cả những bệnh án xa xưa từ năm Tân Dậu 1921, những động cơ đầy cảm động và thú vị thúc đẩy cụ đi vào ngành y, nhũng lắt léo, tế nhị trong đời làm thuốc ... - Chúng ta sẽ khảm phá noi cụ một sở học uyên thâm, một lao động sáng tạo độc lập và độc đáo, từ đó cống hiến cho đời rất nhiều kinh nghiệm quý báu. - Cuộc đời đó, kinh nghiệm đó, dù kinh qua biết bao gian khổ nhung đầy hào sảng reo cười, dù cười trong đau đớn, cười trong chua chát, cười từ trong u mê, cười ra nước mất... tất cả đều trở thành trong sáng tươi vui lạc quan yêu đời. Đọc cuộc đời và kinh nghiệm của Đinh Ninh, chúng ta sẽ sung sướng dự một cuộc hành trình đầy thú vị của người thợ già trị bệnh. Người thợ già đó trong những năm qua là chủ tịch Ban chấp hành Hội YHDT TP Hồ Chí Minh, được giới y học yêu thương ngưỡng mộ. Cụ đang tiếp tục hành trình qua tác phẩm Đường vào rừng y học. “ Mặc dù tuổi đã tám hai. Coi như hai tám lúc tuổi trai đương thì Con đường đi tới rừng y Dù xa gấp mấy cũng đi hết rừng ”

Hội &CLB YHDT TP Hồ Chí Minh

5


Mấy lời ngỏ riêng cùng con cháu trong gia tộc Các anh chị thân mến! Nói về tuổi tác, trong số các anh chị ngày nay, cũng đã có nhiều anh chị nên cụ, nên ông, nên bà, nhưng đối với tôi đây, tôi đã là hàng ông cha chú bác của các anh chị, tôi là người nhiều tuổi hơn tất cả lại là người đầu ngành của cả một chi tộc, điều mà tôi vẫn được các anh chị thường kính yêu. Tôi rất vui mừng nền hiếu hữu lưu truyền của gia tộc chúng ta. Đây nói về nghề y dược của tôi cũng như của cả gia tộc, dù các anh chị đã biết, tôi cũng muốn ôn lại đôi lời để các anh chị biết rõ thêm: Làng Dịch Diệp chúng ta xưa - Trong làng có nhiều họ hợp lại (2 họ Lê, 2 họ Phạm, 1 họ Vũ, họ Trần, họ Đàm, họ Đỗ ..v.v.) Họ nào cũng có nhiều thầy thuốc - Tiếng đồn làng Dịch Diệp nhiều dao cầu nhất tỉnh Nam Đinh (nay là tỉnh Hà Nam Ninh). Trong đó, họ Lê Hữu chúng ta là họ có nhiều dao cầu nhất làng. Trong họ có ba ngành. Ngành cả chúng ta lại nhiều dao cầu hơn cả họ. Như vậy, ngành cả họ Lê Hữu chúng ta nhiều dao cầu bằng phân nửa cả làng. Trong số thầy thuốc khắp cả làng, trước tiên đã có những cụ Bát, cụ Cửu, cụ Bá, cụ Điều. Sau này lại có những cụ Hàn, cụ Đốc (những danh hiệu này làm thầy thuốc hay có tiếng được triều đình xưa ban tặng) tiếng tăm tài nghệ và đạo đức các cụ, có cụ vang khắp các vùng trong phủ huyện, có cụ vang khắp cả ba miền Trung Nam Bắc rộng lớn hơn. Như vậy y giới vùng ta khi ấy ít ai theo kịp. Nhưng tiếc thay! Bây giờ chúng ta có muốn biết đến chân tài thực nghiệp của các cụ xưa để học hỏi. Chúng ta chỉ nghe nói “Cụ Điều này đông khách, cụ Đốc kia hay thuốc...”mà thôi, ngoài ta chúng ta không có gì bằng chứng để lại cho biết là nghề nghiệp hay cả. Vì khi trong nghề các cụ chỉ chú ý đến trị bệnh cho nhân dân mà quên hẳn đi việc ghi lại nhưng thần phương bí pháp ấy vào tập sách để lưu truyền hòng trị bệnh cho lớp người sau. Ngay cả đến con cháu các cụ bây giờ chúng ta có hỏi cũng không mấy ai được biết rõ. Giờ đây nhìn chung cả làng có một mình tôi theo đòi nghề y dược từ thuở nhỏ! Tôi nhờ ơn sâu đầy tình nghĩa: Cha tôi cụ Đinh Ninh Lê Thế Trạch tự Tùng Hiên (thọ 86 tuổi). Ngoài công ơn cha mẹ sanh đẻ dưỡng nuôi, người dạy tôi học kinh sử, luyện y thư, đã khi bắt buộc bụng rau sáng tối ngồi ôn sách ; lúc lại trận đòn, áo mỏng đêm đông dậy đọc bài. Nhờ vậy, tôi biết chút Hán văn và y học. Anh ruột thứ ba tôi, ông Xuân Phương - Lê Bích Tuệ (thọ 72 tuổi) đã dạy tôi tân học thi đậu văn bằng tuyển sinh vào khóa sinh, lại cấm cản không cho làm nghề để ba hoa nét bút lấy tiền hại dân. Nhờ vậy, tôi thông quốc văn và quyết theo nghề y. Thầy là cụ Nguyễn Đình Thuần (thọ 80 tuổi) ở làng Ân Phú tỉnh Ninh Bình, dạy tôi phương pháp và lý luận trị bệnh mới phát. Nhờ vậy, tôi có đường lối để vào nghề

6


Lại cũng có công của người vợ hiền, bà Phạm Thị Điền (thọ 73 tuổi) con nhà khoa bảng, lúc trẻ đầu nặng chân trơn mua tìm dược vật, sao tẩm bào chế; khi già sắp xếp bút nghiên sách vở, lo toan săn sóc cho y nghiệp của chồng được tốt. Kết quả đến nay tôi soạn sách, in sách, viết tâm đắc kinh nghiệm vào tập tiểu sử này, so với tiền nhân tuy rất bé nhỏ, nhưng cũng gọi là có chút ít lưu lại làm kỷ niệm để chứng minh cụ thể cho nghề nghiệp của mình. Thiết tưởng đó cũng là niềm tự hào của riêng mình; cũng là tinh hoa của tổ tiên ta san sẻ lại mà cũng nhờ có mạch máu y dược bản căn của cả làng Dịch Diệp ta xưa. Các anh, các chị thân mến! Nghề y dược là một nghề, trước là trị bệnh cho mình, cho gia tộc minh, sau là trị bệnh cho người. Khi trị bệnh cho người, người thầy thuốc lấy nhân từ, liêm khiết và bất khi làm bản lãnh. Nhân từ là thấy thuốc chăm lo trị bệnh cho người, là đúng với bổn phận của mình, là vui mừng cho lương tâm nghề nghiệp của mình không kể gì gian lao, không nghĩ đến công ơn của mình. Liêm khiết là sau khi trị bệnh cho người rồi không lưu ý đòi hỏi thù lao hay lễ tạ ơn. Bất khi là không dọa nạt, không gây khó khăn làm cho người bệnh lo sợ, không tìm cách lừa dối lấy tiền của người ta. Được như vậy là thấy thuốc có đức. Còn nói riêng làm thầy thuốc là “cứu nhân độ thế”, là “ thọ thế thọ dân” nhân hiệu được mục tiêu to lớn ấy là các bậc thánh y vậy. Những bản lãnh làm thầy thuốc này các sách đã có dạy mà ông cha tổ tiên chúng ta xưa kia trong ngành vẫn chủ trì. Như vậy thấy rằng: Nghề y dược của ngành cả họ Lê Hữu chúng ta có mạch máu lưu truyền, có bản lãnh xưa. Thật là một bảo vật quý giá có tiền không thể mua được. Vậy mà tôi nhận thấy mấy chục năm gần đây các anh chị lơ là việc con cháu minh theo nghề y dược đếníu kéo lại bảo vật quý giá ấy. Tôi mong rằng từ nay các anh chị nên thúc giục con cháu mau mau tiến thân vào nghề y dược, nhất là trong lúc này “ Đông y đang gặp hội phục hưng, đông y đang đắc thời phát triển” Đó là nhờ có chế độ của nước Cộng hào xã hội chủ nghĩa Việt Nam chúng ta , Bộ y tế cách mạng ngành y dược, mở rộng môi trường đào tạo nghề thầy thuốc. Trong người thầy thuốc ấy phải có cả tài nghệ đông y và tài nghệ tây y kết hợp nên một người thầy thuốc Việt Nam. Thật là một nền khoa học to lớn , một kỷ nguyên mới lạ cho ngành y dược chúng ta, vang danh thế giới muôn đời. Các anh chị thân mến! Một lần nữa, tôi nói với anh chị rằng: Mau mau cho con cháu tiến thân vào ngành y dược giúp ích cho xã hội, đừng lơ là , đừng chậm trễ. Mong lắm thay! ĐỊNH NINH

7


1. PHỤ TỬ NHIỀU MỚI HỒI DƯƠNG (1921 - Tân Dậu)

NGƯỜI BỆNH: Bà cụ Nguyễn Thị Giản, ngoài 60 tuổi, thân hình gầy yếu, chậm chạp quê mùa. Cụ ở cùng gia đình đông con tại phố chợ Tam Thôn, xã Liễu Đề, tỉnh Nam Định. Cụ nuôi cô gái riêng để hầu hạ. CHỨNG BỆNH: Đau bụng, thượng thổ hạ tả: 2 - 3 thang không khỏi. Phụ tử lý trung thang (tức lý trung thang thêm Phụ tử ) cũng uống 2-3 ngày không khỏi. SỰ VIỆC: Cuối tháng 4 năm ấy , khí trời độc phát bệnh dịch Tả . Dân làng vùng ấy đã có mấy người chết, họ đang xôn xao lo sợ. Ông con rể bà cụ mở cửa hàng thuốc, làm thầy làng ở phố chợ ấy. Bỗng trong nhà ông có bà cụ mẹ vợ mắc bệnh nói trên. Ông lo sợ, điều trị gấp đã cho uống những thuốc trên mà chưa khỏi. Trong khi uống Phụ tử lý trung, còn chờ đợi đến ghe bệnh, nghe thuốc, tối hôm đó, ông bà và mấy người vào trong nhà đánh bài. Cô gái giúp việc vào trong nhà nói với ông là: Cụ cố nãy giờ đi tả hai lần, kêu đau bụng lại lạnh cả tay chân, mồ hôi ra nhiều mặt thâm đen. Vậy thuốc cũ con cứ rót cho cố uống hay thuốc khác ạ? Nghe qua, ông hầm hừ (mải mê nước bài) bảo: mầy lấy gói Phụ Tử cho thêm vài miếng vào thang thuốc ban nãy, sắc lấy một nước cho cụ uống hộ ông mau con nhá! Dạ! Cô gái hốt hoảng ra mở gói Phụ tử trút hết cả vào thang thuốc, sắc vội vàng cho cụ uống một bát, lát sau, cô lại cho cụ uống một bát vơi vơi nữa. Xong cô đi ngủ. Qua nửa đêm, qua canh bài ông bà lang bấy giờ mới nóng lòng ra thăm bà mẹ. Hỏi cụ, cụ không trả lời, thấy cụ cứ nằm yên, ông bà lang sợ quá, gọi cô gái dậy hỏi: Ban nãy ông bảo vậy, rồi mầy cho vào thang thuốc mấy miếng Phụ tử ? (ý ông sợ nó cho nhiều quá bà cụ ngộ độc cấm khẩu). Dạ! Dạ! Cô gái sực nhớ hai tiếng “mấy miếng” sợ quá, nhưng cũng phải nói thật. Dạ ông bảo con lấy gói Phụ tử, con bỏ cả sắc cho cụ uống rồi, mới uống có một lần ạ. Chết tao rồi (ông nói) tao bảo mầy, bỏ thêm vài miếng, mầy bỏ cả gói vào, gói ấy những một lạng, tao mới cho cụ uống 3-4 miếng. Bà lang cuống quýt chạy vào rờ mẹ, lát sau ra nói: Ông à! Ông vào đây coi mạch

8


mẹ xem. Tôi thấy tay chân mẹ hơi ấm mà da thịt và trán chỉ hơi âm ấm, chứ không ra nhiều mồ hôi quá như hôm qua. Ông vào xem mạch, thấy mạch hơi hữu lực mà sắc mặt đã hơi hơi tươi không thấy thâm đen nữa. Thầm nghĩ có lẽ Phụ tử nhiều mà hồi dương chăng! Rồi bảo: Cụ có thể khỏi. Thôi mầy sắc thuốc ấy nước nữa để cho cụ uống. Xong ông thở dài nhẹ nhõm, cả nhà đi ngủ. Ngày mai thức dậy, thấy cụ đã tỉnh tỉnh và cụ gọi xin miếng nước, lại thấy từ nửa đêm đến sáng không thấy cụ đi tả nữa, cả nhà mừng quýnh, ông gọi cô gái bảo: Vội vàng hấp tấp như thế, may mà cụ khỏi thì tao cũng nhờ mày, tao đội ơn mày. Nhưng lỡ bệnh khác mà lầm lẫn như vậy có ngày chết, nay phải cẩn thận nhé! Dạ! Cô gái thở dài, có vẻ vui mừng mà ra ngoài lầm hầm: “lầm với chẳng lẫn, tao không lầm thì chết toi”. Nói về ông rể ấy, ông là anh ruột mà là anh thứ ba của tôi. Ông là người trí thức, những sách vở đông tây kim cổ, hiểu sâu, biết rộng, từ chương thi phú, xuất khẩu thành văn, nhất là sử địa thế giới, hỏi đâu biết đấy, ứng đối mẫn tiệp. Ông thi hương khoa sau cùng, không đỗ bất đắc chí, ông đọc các sách cổ y dược, nhất là mục thương hàn ở Y học nhập môn, ông thuộc lòng cả chữ nhỏ, không sót một chữ. Ông ra làm thầy thuốc ở chợ Tam Thôn đầu tiên thủa ấy. Tôi là em ruột từ quê làng (Dịch Diệp, Nam Định) về thăm anh chị, tình cờ gặp bà cụ bị bệnh thời dịch về truyền nhiễm, tôi tuy có sợ, nhưng về y dược tôi là con nhà nghề đã hơi có ý thức nên có để ý và có nghe thấy cô gái có chửi như vậy. SUY XÉT:

l.. Nếu cô gái không lầm mà đổ cả lạng Phụ tử vào cho uống để bà cụ sống thì bệnh tình bà cụ sẽ ra sao? Ông lang ấy xoay trị cách nào và có dám dùng Phụ tử nhiều như thế hay không? Nếu ông lang chỉ dám dùng Phụ tử từ một đồng cân đến một đồng năm phân thì chắc là bệnh bà cụ chưa khỏi, mà chưa khỏi thì ông thêm Hồi hương hay Quan quế là cùng, chứ chẳng nghĩ ra Phụ tử phải làm nhiều như vậy. Nếu đã không dám làm nhiều thì vô tình cô gái ấy đã “giải phát“ ra cho những ai trong y giới, mà chưa biết thì sau đó có gặp nhưng bệnh nhân hư hàn tiết tả mà đã thoát dương thì sẽ dám dùng Phụ tử nhiều. Phải chăng?

2.. Mạch trầm tế, tạng hư hàn tiết tả, tay chân lạnh, mồ hôi ra là thoát dương, lại tuổi già thì Can khương, Phụ tử là dĩ nhiên. Nhưng phải dùng nhiều mới mau hồi dương, tại sao ? Bởi Phụ tử, tính nó nóng lại đi khắp các kinh rất nhanh, chứ không đứng lại, (tính

9


tẩu bất thủ). Nay dùng nhiều thì nó càng đi khắp nhanh mạnh hơn, nó lại được Can khương phụ tá, để dẫn chất nóng ấy đi nhanh vào Tỳ vị (Can khương nhập vào tỳ vị) thì ôn trung tán hàn càng mau, (Phụ tử vô Khương bất nhiệt) cho nên mau hồi dương.

3.. Như vậy, nếu không phải bệnh chân hàn và trường hợp cấp cứu như vậy, ta chớ dùng Phụ tử nhiều, biết rằng “Phụ tử bổ hư rất mạnh, nhưng cũng rất độc” ta phải dè dặt phải chăng? (Tri Phụ tử khả dĩ bổ hư, nhi bất chi kỳ độc). Trong lời tựa của Y học nhập môn còn nói rằng: “Có những ông lang bệnh gì cũng cho uống Phụ tử nhiều. Người ta gọi ông lang ấy là “ông lang Phụ tử” thì tôi không dám bàn tới. PHƯƠNG THUỐC: Phụ tử lý trung thang Đảng sâm: 5 đồng cân, sao vàng. Nói về dùng sâm thì cổ nhân dạy ta dùng sâm để bổ khí cho mau. Nhưng thị trường tối đa là sâm giả. Vậy ta nên dùng Dương sâm hay Nhị hồng sâm? Nhưng những sâm này nó lại hàn (mặc dù ta đã tẩm gừng sao) mà đã hàn thì không nên dùng, cho nên ta dùng Đảng sâm vì nó ôn vậy. Bạch truật: 5 đồng cân sao vàng. Can khương: 2 đồng cân. Nếu uống thuốc này bệnh tả đã cầm, dương đã hồi, mà sau đó con đau lưng thì ta đổi Can khương làm Bào khương vi Bào khương nó nhập thận. Cam thảo: 1 đồng 5 phân. Nướng than đỏ cho vừa chín, tẩm mật sao vàng, vì nướng thì nó ôn trung. Phụ Tử: 1 lạng, dùng Phụ tử đen đừng dùng Phụ tử trắng, vì Phụ tử trắng tức là Bạch Phụ tử nó chỉ khu phong mà thôi. Tất cả sắc lấy nước mà uống.

10


2. BÀ LANG CHỮA LỴ (1922 - Nhâm Tuất) NGƯỜI BỆNH: Bà cụ Phạm Thị Điệu (thân mẫu tôi), đức tính hiền hòa, không tranh giành cãi cọ, cư xử tùy nghi, không bán buôn vay trả, cảnh nghèo vui sống tự nhiên. Hưởng thọ 86 tuổi (1865 - 1950). Mùa hè năm ấy, thân mẫu tôi, người 58 tuổi. Xét về ẩm thực thì thanh đạm không có xô bồ, kinh kỳ thai sản thì ít có bệnh tật, không dầm mưa dãi nắng, không đầu nặng chân trơn, chỉ ở nhà vá may canh cửi bình thường, thế mà mắc bệnh lỵ. CHỨNG BỆNH: Trước đau bụng đi ỉa lỏng vài ngày, rồi đau bụng đi kiết (kết) biến thành bệnh lỵ: mỗi cơn quặn đau lại bắt lỵ, khi đỏ khi trắng, khi như gan thối, khi trắng đỏ hỗn tạp. Mỗi cơn lỵ rặn lòi dom, lỵ song toát mồ hôi thở mệt, ngày đêm 5-7 lần, thuốc thang không khỏi. Sau, ngày đêm vài chục lần, khi nóng, khi lạnh, ăn kém, ít ngủ xanh gầy mệt mỏi, mạch trầm, tay chân lạnh, lúc ấy đã hơn một tháng. SỰ VIỆC: Khi bệnh đã trầm trọng, thân phụ tôi sai tôi viết thư gọi các anh tôi đang làm thuốc ở các nơi (ông anh cả ở Hà Nội, anh hai làm y tá ở Hải Phòng, anh thứ ba ở chợ Tam Thôn) phải về cả, hội lại thảo luận cách trị: Nào tiêm thuốc tây, nào thuốc viên, thuốc nước đủ loại mà vẫn không khỏi. Cả nhà nóng lòng cho là bệnh lỵ này trở thành bất trị. Sau, bà con trong họ bàn: “ Phải đi lấy thuốc lỵ của bà lang ở làng Trí Yên, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, về sắc uống mới khỏi, người ta đồn đại hay lắm”. Đường đi từ nhà tới nơi lấy thuốc ấy, xa chừng 10 cây số đường bộ, không có xe cộ, đi lấy thuốc về được tới nhà phải mất một ngày. Tôi phải lãnh việc đi lấy thuốc. Tôi thăm hỏi mãi mới tới được nhà bà lang đã thấy 2-3 người ngồi chờ để lấy thuốc. Khi bà ở trong nhà đi ra, tay cầm 5 - 10 gói thuốc, tôi nhìn bà người phúc hậu, chừng ngoài 60 tuổi. Bà đưa cho người kia mỗi người một thang, trên bàn còn lại mấy thang. Đến lượt tôi (mấy người kia đã ra về) tôi nói: bệnh lỵ như thế, như thế. (Bà bảo) Xà! bất luận lỵ gì, tao chỉ cho một thang là khỏi. (Tôi nói) Xin bà cho cháu vài ba thang, nhà cháu xa lắm. (Bà nói ) Một thang khỏi rồi không phải 2-3 thang gì cả. Xong bà lấy trên bàn đưa cho tôi một thang. Bà giục về đi.

11


Tôi đem thuốc về tới nhà, trời đã tối sẩm. Cả nhà mở gói thuốc coi, thì thấy rặt là lá cây, chẳng biết là lá cây gì ? Thân phụ tôi bảo: Thôi cứ để vậy sắc ngay cho mẹ con uổng. Đêm đó, đưa thuốc cho người uống, mỗi lần uống một ít, vì còn có ý nghe thuốc, vài ba lần uống hết nước đầu. Khoảng nửa đêm lỵ có vẻ thưa thưa. Đến sáng thấy người có phần tỉnh tỉnh. Sáng mai cả nhà giục tôi đi lấy thuốc nữa. Tôi đi thật sớm tới nơi, gặp bà ở nhà. Thưa bà: Mẹ cháu nhờ thuốc bà, hôm nay lỵ có phần đã bớt, xin bà làm ơn cho cháu 2-3 thang luôn một thể, vì cháu ở xa đây 10 cây số đường bộ . (Bà bảo) Làm gì có thuốc mà 2-3 thang, còn phải để phần cho người khác chứ. Bây giờ chú cứ lấy một thang đi, rồi tao bảo cho về mà kiểm lấy cho mẹ chú uống. Trong thuốc đó chỉ có hai vị bằng lá hoa thôi. Biên lấy vị thuốc, cách sao chế và cân lạng rồi đi về kẻo tối. Dạ! Cám ơn bà rất nhiều, thưa bà cháu về. Hôm ấy, chiều muộn mới về tới nhà, các anh chị thấy tôi hớn hở chạy ra bảo: “Ngày hôm nay mẹ có vẻ bớt lỵ”. Tôi mừng quá đưa thuốc cho chị sắc. Xong, tôi vào thưa với cha và các anh những vị thuốc và những lời bà lang đã chỉ bảo, cũng nói luôn, vừa nãy con vừa qua đền làng ta, con nhìn bờ tường đã thấy rất nhiều cây Phượng vĩ thảo, còn hoa Tử vỉ chắc trong chùa cũng có ạ. Thân mẫu tôi uống hết thang thứ hai. Sáng hôm sau lỵ đã bớt nhiều hơn và đã ăn được chút cháo. Cả nhà vui mừng, tôi đi tìm đủ cả hai vị thuốc, sao chế như lời bà lang đã dậy. Thân mẫu tôi uống đến thang thứ năm, bệnh khỏi hoàn toàn, sau uống thuốc bổ cho khỏe. PHƯƠNG THUỐC: Tử vi hoa: một nắm chừng 50 gam, chỉ xé nhỏ sao vàng, không phải rửa. Phượng vĩ thảo: một nắm cũng chừng 50g (hai vị bằng nhau). Dùng cả lá cành và rễ, rửa sạch đất, phơi khô, sao vàng. Chỉ có hai vị, đổ chung sắc uống, không phải thêm gì cả. Cây Tử Vi: người ta hay trồng ở cửa đền, cửa chùa và vườn cảnh để chơi, thuộc loại cây dâu. Hoa nó nở về mùa hè, hoa nở từng chùm, hoa đỏ, hoa trắng, hoa đỏ hoa trắng lẫn lộn, còn có tên gọi là Bách Nhật Hồng. Phượng Vì Thảo: thuộc loại cỏ, hay tự mọc ở những nơi kẽ gạch, đá, bờ tường rậm rạp ẩm ướt. Cây nó có một ống cứng nhỏ mọc lên, bẻ gãy xuống lại mọc lên, đầu ống có một lá, rồi hai lá mọc hai bên như hình 3 chặng, không hoa quả, đầu lá nhọn tựa

12


lá trúc mà to hơn giữa lá có từng đốt, lưng lá có vân vàng vàng, nên còn gọi là Kim Tinh Thảo. Nó cũng thuộc loại cây cẩu Tích và Quán Chủng. Bài thuốc lỵ này trong các loại sách y học hình như chưa từng có, mà dược tính dược hiệu của nó tôi cũng chưa hiểu hết. Còn sự kiếm thuốc thì rất dễ. Hai vị thuốc trên là thuốc Nam đã trị khỏi bệnh lỵ, đã cứu sống bà cụ. Lại trị khỏi bệnh này trong một nhà có mấy danh y và một y tá. Như vậy, đã thấy rõ một trường họp “ thuốc nam đã đánh đổ thuốc bắc và thuốc tây” nơi đây. Bài thuốc gia truyền của bà lang (quên tên) này, mà bà đã bảo cho tôi chắc bà còn bảo cho nhiều người. Vậy bà là người có đức mà không bí truyền. Cảm ơn bà! Đến năm thân mẫu tôi 86 tuổi, bệnh lỵ tái phát (từ năm lỵ trước 58 tuổi đến năm lỵ sau 86 tuổi là 28 năm trường). Thân mẫu tôi tái phát bệnh lỵ này, người ở Hà Nội thiếu gì thuốc Nam, Tây, và Bắc đều có cả. Bệnh lỵ kỳ này đau bụng đi lỏng vài lần rồi quay ra lỵ ngay, vài lần bón rặn đỏ trắng rồi chỉ ra toàn bọt như gạch cua, 4-5 ngày sau á thanh không ăn. Tất cả trong vòng 7-8 ngày, người mất. Thưa quý vị độc giả trong y giới Đông Tây. Bệnh lỵ cá lưu lại trong thời gian nào đó rồi tái phát chăng? Việc này, anh em tôi luống nhưng đau lòng mà ngơ ngác nhìn nhau, vẫn chưa có câu trả lời, mặc dù đã cạn cùng suy nghĩ .Riêng tôi mãi về sau này, tôi đã ngẫm thấy có mấy người trong thời trung niên mà đã phát bệnh gì nặng (tỷ như thương hàn, đau tim, đau phổi, đau gan, mất máu... thuộc về kinh lạc tạng phủ). Sau khi trị khỏi bệnh nặng ấy một thời gian dài nào đó, nó sẽ tái phát thì thật khó trị. Phải chăng? Vậy, bệnh của thân mẫu tôi chắc cũng thuộc loại này.

13


3. NGOẠI CẢM PHÁT NÓNG (Cuối năm 1923 - Quý Hợi)

NGƯỜI BỆNH: Cậu Phúc 17 tuổi CHỨNG BỆNH: Ngoại cảm, lạnh ít nóng nhiều, nhức đầu, đau mình đã 2 - 3 ngày. PHƯƠNG THUỐC: Đơn số 1: Hoàng cầm: 3 đồng cân

Hoàng bá: 2 đồng cân

Chi mẫu: 2 đồng cân

Sinh địa: 3 đồng cân

Thạch cao: 5 đồng cân

Cam thảo: 1 đồng cân

(không khỏi) Đơn số 2: Y như trên thêm mỗi vị một đồng cân (không khỏi). Đơn số 3: Y như trên thêm Hoàng liên 3 đồng cân (cũng không khỏi). Đơn số 4: Sài hồ 3 đồng cân

Sa sâm 3 đồng cân

Cam thảo 1 đồng cân

Khương hoạt 2 đồng cân

Tế tân 3 đồng cân

Hoàng cầm 3 đồng cân

Bán hạ 1 đồng 5 phân

Phòng phong 2 đồng cân

Xuyên khung 1 đồng cân

Sinh khương 3 phiến

Uống một thang hết nóng, uống ba thang khỏi hẳn. SỰ VIỆC: Do sự giới thiệu nào, tôi hân hạnh đượccụ Bá Hòe (hình như là Vũ Đình Hòe) ở làng Ân phú, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình đến làng Lác Môn Trại, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định, nơi thân phụ tôi trọ làm thầy thuốc. Cụ nói với thân phụ tôi, mời tôi ra mở trường ở ngay nhà Cụ để dậy hai con trai cụ và lớp trẻ độ mười mấy em ở đấy học về quốc ngữ, luận toán và chữ nho sơ đẳng. Nghĩ mình lúc này, y chẳng phải y, nho chẳng ra nho, quốc ngữ mới đỗ tuyển

14


sinh (1915) và khóa sinh (1917) . Nhưng nhà nghèo vâng lời thân phụ ra đi mà vẫn ngại ngùng e sợ. Tới nhà cụ Bá, cụ đã làm tới chánh tổng Bá hộ, tính tình hòa nhã, lịch thiệp quảng đại. Nhà cửa rộng lớn, gần ngay bãi biển (từ nhà cụ ra tới bãi biển không tới một cây số), có thuyền đánh cá, có xe ngựa đi lại, kẻ hầu người hạ tấp lập, tân khách vãng lai đông đảo, đầy vẻ đường hoàng phong phú. Thời gian dạy học ở nhà cụ, mới được vài tháng, cậu Phúc con trai cụ bị bệnh ngoại cảm (đã nói ở trên). Cụ biết tôi con một danh y, cụ bảo: “Phúc cháu nó bị cảm nóng lạnh,Thầy xem có thể kê đơn, tôi cân thuốc cho cháu uống”. Dạ! Tôi xuống nhà xem cho cậu, thấy khắp người nóng rất dữ, tỉnh, không mê sảng (chưa biết xem mạch). Tôi kê đơn số một. Cậu uống không bớt. Ngày hôm sau, tôi kê đơn số hai. Cậu uống bệnh càng tăng. Ngày hôm sau nữa, tôi kê đơn số ba. Tôi thấy chưa được mát, tôi cho thêm Hoàng liên. Cậu uống càng nóng dữ. Sau cụ Bá cho người đi mời cụ lang Thuần (người ở gần làng) đến xem mạch cho cậu ấy. Cụ đến xem cắt cho thang số 4. Cậu uống vào bớt ngay, tiếp hai thang nữa cậu khỏi hắn. Hôm sau cụ đến xem lại, tôi tới yết kiến. Nhìn cụ người nhỏ mà cao, tóc bạc trắng, râu cũng trắng mà dài, nho nhã mà trọng hậu, tôi nói:

-

Thưa cụ, bệnh nóng của cậu Phúc, cháu đã cắt những vị giải nhiệt cho cậu uống không khỏi, qua tới tay cụ chỉ cắt một thang mà cậu bớt ngay. Tại sao? Xin cụ dạy cháu.

Cụ lang ngước mắt nhìn rồi mỉm cười: Tôi cũng cho uống như cậu đã cho, rồi thêm mấy vị nữa đấy thôi có gì đâu mà cậu hỏi. Dạ thưa cụ, mấy vị thuốc cụ cho thêm là những vị gì, cụ làm ơn dạy cho cháu ạ. Tôi (cụ nói) vừa được cụ Bá dạy cho biết: Cậu là con một nhà lang nổi tiếng, sao cậu không học mà nay lại hỏi ? Dạ, thú thật với cụ, hiện nay nhà cháu, cha và anh đều làm thuốc cả. Riêng cháu còn bơ bải chưa có định chí. Nay xin cụ dạy cho cháu. - Thì có gì đâu (cụ nói) “ Nhiệt giả lương chi, hàn chi”. Là phải lắm rồi ai còn chối cãi. Nhưng ta chỉ đem hàn lương mà trị nhiệt thì nhiệt nó ra lối nào. Bởi vậy:

-

Bệnh nội nhiệt, mạch phù sác thì dùng hàn lương trị nhiệt, nhưng trong đó phải lợi tiểu hay tả hạ cho nhiệt nó có đường ra. Nay bệnh ngoại nhiệt, mạch phù sác, cũng dùng hàn lương trị nhiệt, nhưng phải phát hãn cho nhiệt tòng hãn xuất chứ. Như cậu Phúc đây tôi cũng cắt thanh lương, rồi

15


thêm vài vị nữa để phát hãn trừ phong thấp mà hòa giải đấy thôi! Có gì thần bí đâu (Xem đơn số 4). Dạ! Cháu cám ơn cụ đã giảng dạy cho cháu ạ. Hôm nào cháu có giờ nghỉ dạy, cháu đến nhà hầu cụ có được không ạ? Được (cụ nói) hôm nào rảnh cậu cứ đến. Như vậy là cậu cũng hiếu học đấy. Xong, cụ Bá và tôi tiễn cụ ra về. Từ đó, tôi tuy giữ giờ dậy học mà trong tâm vẫn cảm thấy xấu hổ và trách mình lười biếng, không chịu học cha và anh ở nhà từ trước đến đây phải học người ngoài chuốc lấy những giọng mỉa mai. Nhưng lại cũng tự an ủi là học thì cũng phải có thời gian và cơ hội chứ. Rồi được ngày nghỉ,quyết định bảo một học trò dẫn thầy đến nhà cụ lang Thuần. Đến nơi, sau phần thi lễ, được giờ cụ vắng khách. Thưa cụ, may mắn cho cháu được gặp cụ nơi nhà cụ Bá. Nay cháu đến hầu cụ, xin cụ dạy cho cháu mấy điều về y học, có được không ạ ? Được (cụ nói) cậu muốn gì cứ hỏi, điều gì tôi biết tôi nói cậu nghe. Dạ! Thưa cụ, hôm rồi cụ dạy, hàn lương trị nội nhiệt thì thêm thuốc lợi giải, hàn lương trị ngoại nhiệt thì thêm thuốc phát hãn. Vậy bênh cậu Phúc vừa rồi, cụ dùng hàn lương trị nhiệt và trừ thấp để hòa giải. Hòa giải là thể nào xin cụ dạy cho? Ôi! Cậu muốn biết rõ thế cơ à! (cụ nói) Chính khí trong con người có hư suy thì ngoại tà nó mới xâm nhập. Khi ngoại tà nó mới xâm nhập thì nó còn ở biểu phận, nó đánh nhau với chính khí thì sẽ phát nóng lạnh trước. Nóng lạnh nó là “biểu chứng” thì ta phát hãn. Nếu tà khí đánh thắng chính khí thì tà khí sẽ chạy vào lý phận, biến sinh khát nước, nói mê, là “lý chứng” thì ta giải lợi. Trong lúc từ biểu chứng bước lào lý chứng, ví như chân trong chân ngoài hay như tranh giành nhau ở biên giới. Đó là “bán biểu bán lý chứng” thì ta phải hòa giải. Nay, câu Phúc bệnh đã phát 4-5 ngày thì ta phải hòa giải. Thưa cụ, thuốc cụ cho cậu Phúc uống đó thể nào là hòa giải ? Tiểu sài hò thang là hòa giải (cụ nói). (Sài hồ, Hoàng cầm, Bán hạ, Sa sâm, Cam thảo). Hoàng cầm giải nhiệt, Sa sâm thanh khí nhiệt, Sài hồ trừ biểu nhiệt, Phòng phong, Khương hoạt trừ phong thấp, Xuyên khung, Tế tân tán hàn tà, Bán hạ khai bĩ khí, Sinh khương dẫn thuốc ra bì phu. Thế là tán hàn, trừ phong, giải nhiệt để đuổi ra không cho đi vào, mà dùng thuốc loại nhẹ gọi là hòa giải. Còn như lúc phát hãn mà không biết phát hãn để đuổi ngay nó ra khiến cho nó có cơ hội chạy vào biển sinh chứng khác rất nguy gọi là “thất

16


hãn”. Như trường hợp bệnh cậu Phúc vừa rồi mà không phát hãn cấp thời, tức là thất hãn cũng nguy lắm chứ, nhưng trong lúc đó cũng may mắn còn hòa giải được, nếu quá ngày hòa giải cũng lôi thôi lắm đấy cậu ạ. Tôi giật mình tỉnh ngộ. Thưa cụ: Thế là cụ trị bệnh cho cậu Phúc, cũng như dạy cho cháu một bài học. Có học mà làm thầy chưa chắc đã hay, huống chi không học mà cũng làm thầy, có ngày rước lấy không may có chừng, phải không ạ. Tôi tạ từ ra về. Sau đó thời gian 4-5 tháng, mấy lần tôi tới hầu cụ, đều được cụ giảng cho. Thế nào là tân tán, nhiệt tán. Thế nào là hàn tán, lương tán. Thế nào là đại hãn. Thế nào là giải cơ...v.v. và cụ còn giảng đại thể cho về hãn, thổ, hạ, thấm, hòa giải, ôn, bổ mấy phép cần thiết. Nghĩ thật cám ơn cụ. Cụ đã là một ngoại sư đầu tiên về y học của mình. Cuối tháng 5 năm 1924 (Giáp Tý). Thầy trò nhịp nhàng, ham say con đường học hỏi. Gặp ngày “nghỉ mùa” (nghỉ hè) cụ Bá và các phụ huynh các trò đôn đốc tiến thầy về rất hậu. Cụ Bá nói sang đầu tháng 7, chúng tôi cho người vào đón thầy. Thầy và chủ, đính ước đồng ý vui vẻ. Tôi đến tạ ơn cụ lang Thuần để tạm biệt, tỏ tình thắm thiết biết ơn. Chiều hôm ra về. Ngồi tầu thủy từ bến Kim Sơn đến bến Ninh Cường, một đêm mới đến nhà. (làng Lác Môn Trại nơi thân phụ tôi trọ làm thuốc). Vài tuần sau gặp nạn thủy tai. Trời tạnh nắng nước biển dâng lên rất mau, tràn ngập suốt từ Kim Sơn đến Ninh Cường lan ra tứ phía, sóng nước cuồn cuộn trôi bay cả nhà cửa, người ngựa trâu bò mọi thứ. Từ chiều hôm trước đến chiều hôm sau nước mới rút xuống. Ninh Cường là nơi mức chót của thủy tai mà nước còn ngập lưng nhà, nước mặn thấm vào làm tôm cá chết nổi, cây cỏ héo, ruộng vượn năm sau mới cầy cấy lại được. Từ đấy chờ chực chẳng thấy tin cụ Bá cho người vào mời, mà thầy cũng chẳng có lối tàu xe nào ra nơi cụ được. Biệt tăm! Ôi thôi! Các cụ Bá, cụ lang, các phụ huynh học sinh, các trò đều là người thân mến của tôi, lại còn bao nhiêu người quen thân thuộc ở làng Ân Phú và muôn ngàn người đồng loại ở gần bãi biển. Hỡi nay có còn không! Tình cảm mến ghi sâu làm sao quên được…!

17


4. NGÀY HÀNH KINH HO NÓNG (Thảng 10 năm 1924 - Giáp Tỷ) NGƯỜI BỆNH: Bà Nguyễn Thị Khương (chị dâu thứ hai của tôi), 32 tuổi, từ tỉnh Hải Dương nơi anh hai (Bảo Nguyên) tôi mở phòng mạch, về Dịch Diệp, Nam Định là nơi quê chồng thăm gia đình. CHỨNG BỆNH: Ngẫu nhiên bà chị bị ngày hành kinh, nóng sốt nhức đầu, ho, nằm bẹp hai ngày chưa có thuốc gì. SỰ VIỆC: Sau khi tôi ở Ân Phú về chờ chực tin cụ Bá Hòe cho người vào mời tôi ra dạy học, phụ thân tôi nghe câu chuyện tôi học cụ lang Thuần ở Ân Phú (tôi kể lại) nên đem mục thương hàn tạp bệnh và mạch quyết trong Y học nhập môn (Hán tự) ra giảng bắt tôi học thuộc lòng và viết ám tả. Phụ thân tôi nghe đọc và chấm bài rất kỹ. Cuối tháng 10 ấy tôi về quê nhà (Dịch Diệp. Nam Định) chơi, gặp ngay lúc chị dâu thứ hai của tôi bị bệnh như trên. Tôi xem mạch phù hồng, tôi nhớ ngay rằng: “Phụ nữ đang khi hành kinh mà ngoại cảm trào nhiệt” thì cần nhất là đừng để “nhiệt nhập huyết thất”. Tôi ra ngay hiệu thuốc cân một thang về sắc. Chị tôi uống hết thang thuốc. Sáng hôm sau bệnh khỏi 6/10. uống tiếp hai thang nữa khỏi hoàn toàn. Tôi mừng phấn khởi là ra quân đầu tiên đã đúng như ý nghĩ. Tuy nhiên, tôi vẫn chưa quyết định theo y nghiệp, còn đang lo nộp đơn đi thi khóa thư lại để sau này làm thầy đề. Sau đó tôi lại trở về Lác Môn Trại. PHƯƠNG THUỐC: Xuyên khung 3 đồng cân

Hoàng cầm (sao vàng) 3 đồng cân

Xuyên quy 3 đồng cân

Sa sâm 3 đồng cân

Sinh địa 3 đồng cân

Trần bì 2 đồng cân

Bạch thược 3 đồng cân

Bán hạ 2 đồng cân

Sài hồ 3 đồng cân

Cam thảo 1 đồng cân

Cát cánh 2 đồng cân Tức là Tứ Vật thang hợp Tiểu Sài Hồ thang gia Trần bì, Cát cánh.

18


5. HÀNH KINH DÀI NGÀY (Tháng 2 năm 1925 - Ất Sửu) NGƯỜI BỆNH Bà Phán ở 81 Hàng Bát, Hà Nội, chồng bà là Thông Phán, khoảng 25 - 26 tuổi. CHỨNG BỆNH: Nghe bà kể với ông thầy: Bà hành kinh vào ngày đầu tháng rỉ rả kéo dài gần hết tháng. Cách quãng vài ba ngày, sang đầu tháng khác lại kéo dài. Như vậy đã 3 - 4 tháng nay. Hay ít ăn, ít ngủ, người xanh gầy mệt nhọc, đau lưng mỏi gối. Còn ông thầy xem mạch thế nào thì không được biết. (Nhìn trong sổ kê đơn thuốc, không ghi tên, không ghi bệnh, không ghi mạch, chỉ ghi số nhà, đường phố, rồi chức vụ và ghi vị thuốc. Tất cả bao nhiêu người, bao nhiêu sổ đều ghi vậy cả). SỰ VIỆC: Sau khi tôi thi song khóa thư lại, còn đang chờ kết quả, tôi xin phép gia thân từ Lác Môn Trại đi Hà Nội chơi. Tôi đến số 207 phố Bông lờ, nơi ông anh ruột Thụ Đức mở nhà thuốc. Lần đầu tiên tôi đi Hà Nội, và cũng là lần đầu tiên tôi tới nhà anh. Bỡ ngỡ mọi thứ và thấy sáng tầm con mắt, chẳng những cảnh rộng đẹp của Hà Nội hơn Nam Định, mà khung cảnh nhà thuốc của anh cả mình, cũng khác hẳn cảnh muôn ngàn nhà thuốc khác ở miền quê và tỉnh Nam Định. Ngoài cửa chỉ treo hai chữ Thụ Đức (chữ nho, sơn son, thiếp vàng) mở hai cửa kính hai bên, cửa giữa đóng kín, ai vào bấm chuông. Trong nhà treo la liệt những hoành phi, câu đối (cũng sơn son thiếp vàng) toàn là của những tổng đốc, án sát, tri phủ, tri huyện, và thông, ký, phán đứng tên khen tặng và cảm tạ, nhất là hán sắc từ Hàn lâm của nhà vua và bằng khen thưởng “Thảo mộc khoa y sĩ của toàn quyền. Thật là lộng lẫy huy hoàng. Nơi làm việc, có một cái bàn ông ngồi xem mạch, một tủ thuốc, một quầy hàng dài 4 - 5 người đứng trong gói thuốc, một viên thư ký biên sổ. Trên quầy hàng có 5 - 6 quyển sổ ghi thuốc toàn bằng chữ nho, viết thảo rất đẹp. Hằng ngày 7 giờ sáng, ông cưỡi xe “cao su nhà” đi xem mạch các nơi cần nhờ (thời ấy chưa có xe ô tô, ai có xe “cao su nhà” là hạng sang) đi đi về về luôn luôn. Mỗi khi về ông ghi số nhà, đường phố và bài thuốc vào sổ (không ghi ngày) gặp quyển nào ghi quyển ấy. Đại khái: Bà Phán 81 Hàng Bát “Sâm, hoài, linh, biển, thảo”. Ông Thông 12 Hàng Đồng “Sâm, kỳ, quy, truật, thăng, sài, trần, cam”. Cụ huyện số 8 Mã Mây “Sâm, hoài, linh, biển, đại táo,.ẽ.” Khi tiếp khách ở nhà, ông xem mạch rất nhanh, chỉ vài tích tắc là xem song cả hai tay. Ông nói những gì không nghe rõ, chỉ thấy bệnh nhân gật đầu dạ dạ. Lần 5-6 quyển

19


sổ đơn thuốc nhìn đi nhìn lại, quyển nào cũng tối đa là: “Sâm, hoài, linh, biển, thảo” và bổ trung ít có lục vị bát vị. Bởi vậy, trong y giới bấy giờ, có nhiều người đã chế nhạo ông, không gọi là ông Thụ Đức mà gọi ông “Sâm hoài lình biển”. Đặc biệt nơi phòng khách trên gác để tiếp khách quý như Tổng Đốc, Tuần Phủ, và Phủ Huyện, có tủ chè, bàn ghế, sập gụ và đồ gỗ trang hoàng rất là sang trọng. Khách ấy tiếp đãi hàng ngày. Nói về ông, giỏi chữ nho, không đọc, không viết được chữ quốc ngữ. Y phục theo thời trang rất là lịch sự, tiếp khách ứng đối rất là mẫn tiệp, tỏ ra tài ba và vui vẻ, xử thế hiếu khách mà tỏ ra hào hoa phong nhã bấy giờ ít người theo kịp. Thật vậy. Tôi thấy nhà thuốc đông vui trong cảnh mới lạ, lại nghĩ mình cũng chưa có việc làm nhất định, nên xin ở lại làm bào chế và cắt thuốc theo đơn để tập sự mấy tháng. Đầu tiên, tôi thấy bà Phán 81 Hàng Bát đến xin xem mạch về bệnh nói trên. Ông thầy bảo cắt đơn cũ, mở sổ nhìn “ sâm, hoài, linh, biển, thảo” 5 thang. (Sâm ở đây là Sa sâm, Đảng sâm thường hay Nam sâm mà thôi). Mấy hôm sau bà lại đến. Ông thầy xem mạch rồi kê đơn mới “ Sâm, kỳ, quy, truật, thăng, sài, trần,cam” 5 thang. Mấy hôm sau bà lại đến, nhưng gặp hôm ông thầy đi Lâm Thao, Phú Thọ. Bà ghé lại quầy thuốc. Thưa bà (tôi hỏi) bệnh kinh kỳ dài ngày của bà đã bớt chưa ? Tôi (bà nói) uống 6 lần 30 thang mà bệnh nó cứ trì trì thế thôi. Nay ông thầy đi vắng, cậu xem đơn cũ cắt cho tôi 5 thang nữa vậy. Bà thở dài nói thêm: không ăn, không ngủ, kinh cứ ra hoài, xanh quá rồi cậu ạ! Tôi cắt nguyên đơn Bổ trung như cũ, lén cho thêm Hắc Khương 2 đồng cân, Phá cổ chỉ 3 đồng cân. Mấy hôm sau bà lại đến may gặp ông thầy. Ông thầy xem lại mạch, đồng thời bà nói: “Hôm nay đỡ nhiều”. Tôi nghe như vậy trong lòng cũng vui vui, nhưng lo sẽ bị mắng liền lẻn vào trong nhà trong. Ông thầy bảo một anh cắt đơn cũ cho bà 5 thang. Khi anh (Phảng) này cắt, bà nhìn đến thuốc bà bảo: “Sao hôm nay không có hai vị gì đen đen mà hôm trước cậu khác cắt chứ không phải cậu này”. Ông thầy ngạc nhiên hỏi mấy anh, hôm rồi anh nào cắt thuốc cho bà Phán lúc ta đi vắng? Dạ! (anh Phảng) Cậu Thiếp ạ! Thiếp đâu? (ông thầy gọi giọng có vẻ gắt) Dạ! (tôi đáp)

20


Ông thầy bảo: Hôm rồi anh cắt 5 thang thuốc cho bà Phán có 2 vị gì đen đen đó cho thêm vào! Dạ! (tôi nói nhỏ) 2 vị ấy ông đã bảo chưa kịp ghi sổ. Tuy nhiên, tôi toát mồ hôi, run run lấy hai vị đó cho đều cả vào 5 thang. Bà nói: Hôm rồi, có hai vị này, uống vào kinh có vẻ ngưng, mà người cảm thấy dễ chịu. Nhớ ghi vào sổ cậu ạ. Xong bà ra về. Chuyện ấy để đấy để còn tiếp khách khác vì còn đông người ngồi chờ. Đến tối thong thả, anh gọi tôi: Tại sao chú dám thêm thuốc cho cái bà Phán ấy khi tôi đi vắng? Dạ! Em sơ ý, lầm tưởng khi đang cắt thuốc hầu việc thân phụ ở nhà quê, xin anh tha thứ cho em lần đầu tiên. (Anh nói) Có gì đâu mà tha, chú thêm hai vị gì vậy? Người ta nói bệnh bớt là được rồi. Dạ! Em thêm Hắc Khương và Phả cố Chỉ. (Anh) Chú nghĩ thế nào mà chú dám thêm hai bị ấy? Dạ! Em nghĩ rằng: Tỳ hư bất năng nhiếp huyết, nhưng cũng bởi tử cung hư hàn thì nó mới thẩm lậu ra. Nay anh cho Bổ trung chỉ mới bảo trợ Tỳ, chưa nói đến Thận, cho nên thêm Hắc Khương để ôn thận, và nó dẫn chất Bổ trung nhập thận thì Tỳ và Thận đều an. Còn thêm Phá Co Chỉ để hàn gắn lại khi thuốc đã dẫn vào tử cung thì huyết sẽ không rỉ ra nữa. Em lén thêm vào nếu không được, xin bỏ đi. (Anh) Hay lắm, có lý, giỏi đấy nhỉ! Từ đấy tôi được sự ưu ái trong tình huynh đệ, nào ăn cùng mâm, nào đàm đạo lý, nào trang bị y phục, được chiều chiều ngồi xe nhà đi chơi những danh lam thắng cảnh của Hà Nội không đồng hạng với mấy anh tài công tài phu nữa. Sau đó, tôi thầm nghĩ về anh trai mình: Thì ra ông cũng chẳng đọc sách, chẳng thuộc sách, chẳng thông hiểu y lý là bao nhiêu, mà chỉ xem mạch chớp nhoáng như vậy cũng chỉ là “nói dựa” mà thôi. Còn thuốc chỉ cắt nhưng vị vô hại ai uổng mà chẳng được. Vậy mà toàn những danh nhân uống thuốc, nếu không hay, không khỏi, tại sao lại đông khách như vậy? Tại sao danh tiếng lại lẫy lừng cả Trung Nam Bắc như vậy? Hẳn là phải có “thiên ỷ, thiên tài” nào đó trong thiên chức nên mới khác người như vậy chứ! Nhưng rồi từ đó ông đọc các sách y học, nhất là bộ Y tông tâm lĩnh của Hải Thượng Lãn Ông, ông khảo cứu rất kỹ. Sau ông lại nổi tiếng là một nhà “y học quảng đại, y lý tinh vi”. Ông trị được rất nhiều bệnh nan y. Danh tiếng còn vang truyền đến ngày nay. Tiện đây xin kể một chuyện vui, hầu chúng ta có thể chứng minh hai chữ “thiên tài” trong y nghiệp. Đó là hai ông (Quất Thiên và Thành Mỹ) đều là người minh y và thông nho, lại là người đồng hương biết rõ nội dung y trị lúc ban đầu của ông “sâm hoài linh biển”. Nỗi

21


lòng ghen tức cũng dọn ra Hà Nội mở nhà thuốc, sắp sẵn Sâm, Hoài sơn, Bạch linh, Biển đậu, Cam thảo toàn thứ tốt, yết bảng nơi cửa hàng, đăng lên các báo, quảng cáo rùm beng mà chẳng có ma nào đến xem mạch, cắt thuốc cả. Chuyện này ngày nay cũng còn nghe chuyện cười trong làng cũ.

22


6. KHI SANH BÀ MỤ CẤU RÁCH BỌNG ĐÁI ĐỨA TRẺ VỪA SANH HAI NGÀY BỎ VÚ (Tháng 11 năm 1925 - Ất Sửu)

Trong một lúc có hai việc khẩn cấp, ta hãy lo cho đứa trẻ trước. Theo danh từ y học có thế gọi là “cấp tắc trị tiêu” mà cũng là “cấp tắc tri kỳ bản” vậy. ĐỨA TRẺ VỪA SANH HAI NGÀY BỎ VÚ Mùa đông, đêm khuya giá lạnh. Đứa trẻ mới sanh ra, con so, thiếu tháng lại nhỏ bé, được hai ngày, nó bỏ bú, không chịu bú. Thật đáng lo ngại. Cách trị: Lấy ngọn ngải cứu, hơ trên than hồng cho ngọn ngải nóng lên. Đồng thời đặt khăn mỏng trên rốn đứa trẻ, rồi đếngọn ngải nóng đó chườm lên trên rốn đứa trẻ, (coi chừng bị phỏng) xong lấy khăn quấn lại. Liệu chừng hễ lá ngải nguội lại hơ nóng, lại chườm, độ 3 - 5 lần như vậy. Đồng thời cũng đốt lò lửa sưởi cho căn phòng được ấm. Khoảng chừng 1 5 - 2 0 phút đứa trẻ bắt vú ngay. Thật là tiên dược. KHI SANH BÀ MỤ CẤU RÁCH BỌNG ĐÁI: Trời đông giá lạnh, người đàn bà đau bụng đẻ. Khi sanh bị bà mụ lầm lẫn cấu rách bọng đái. Hôm sau nước đái thấm vào chỗ rách, buốt xót kêu rên, bắt đái luôn luôn, chỉ vài giọt một, mỗi đái mỗi buốt, bò lê bò càng dưới đất, không dám đứng dậy mà cũng không dám nằm xuống, sợ phải bò dậy đái, cọ sát thêm đau. Đã vậy còn phải lo con mình đang bỏ bứ, và vú tức sữa cũng thật gay go. Cách trị: Tôi theo sách cho uống một thang lành ngay, cho hai thang ăn ngon ngủ yên như thường, lại được thêm sữa cho con bú. PHƯƠNG THUỐC: Đảng sâm:

5 đồng cân

Sinh hoàng kỳ:

5 đồng cân

Bạch truật:

5 đồng (để bổ khí sinh cơ)

Xuyên quy:

6 đồng (để sanh tân huyết)

Xuyên khung:

3 đồng cân

Bạch linh:

2 đồng (hợp với Sâm Truật để bổ tỳ)

Trần bì:

3 đồng (để tiêu thực thông khí)

Đào nhân:

15 hạt bỏ vỏ sao khô (để thông huyết ứ)

Chích thảo:

1 đồng cân

23


Tất cả đổ chung sắc lấy nước uống. Thuốc chỉ bổ khí, bổ huyết, trục huyết ứ, sanh tân huyết, và thông khí khoái khí, thế mà mau lành chỗ rách trong hạ bộ, chẳng phải khâu và gì cả. Thật tài tình. SỰ VIỆC: Tháng 9 năm 1925. Tôi được thư của thân phụ gửi gọi về. Tôi từ Hà Nội xin phép anh về ngay ở nơi nhà trọ làm thuốc của thân phụ tôi ở làng Lác Môn Trại. Thân phụ cho biết có giấy báo đỗ thư lại và giấy báo đi làm ở huyện Mỹ Lộc. Tôi cầm văn thư lòng mừng khôn siết, những mong sửa soạn ra đi. Tuần sau lại được thư của anh thứ ba (Xuân Phương) từ Nghệ An nơi anh tôi làm thuốc gửi thư về nói với thân phụ tôi, không cho tôi đi làm Đề Lại và trong thư còn có câu: “Thiếp mầy làm Đề Lại tao đánh chết”. Tôi phân vân lo nghĩ, lúc này không làm đề lại thì còn làm gì? úi chào! Làm thầy thuốc lừng lẫy tiếng tăm như ông anh cả thì sướng đấy, nhưng ta làm sao nổi. Còn về lúc này y nghiệp của ông chỉ có bề ngoài, không tìm thấy thực tài nội tâm, chán lắm! Nếu ta lại học thuốc cho đến nơi đến chốn, thì cao sâu quá, trèo lội sao được. Thêm phần gia pháp phải trọng, nhưng không biết tại sao anh ba lại không cho tôi đi làm đề lại. Thật khó nghĩ quá! Tháng 10 năm ấy, vợ tôi có thai bảy tháng nghe tin chồng về Lác Môn Trại, cũng từ quê nhà tới thăm gia đình. Vợ chồng bàn nhau về việc đi Mỹ Lộc làm đề lại hay ờ nhà học nghề làm thuốc. “Làm Đề Lại thì gỡ tội cho người không có tội, làm thầy thuốc thì cứu sống người, không giết người” hai việc đều chủ ý giúp người như nhau có chi là khác. Đang chần chờ suy nghĩ với nhau. Đầu tháng 11, vợ tôi đau bụng đẻ, tính ra chưa đủ tháng, cắt thuốc an thai cho uống, càng đau ghê gớm mà lại xuất huyết. Phải nhờ bà mụ (Thị Ngâu) gần đấy đến xem hộ. (Thôn quê không có nhà hộ sinh, mà lại đêm khuya giá lạnh, làm sao được đành phải nhờ bà Ngâu này vậy. Biết rằng bà gầy xọm quê mùa). Bà đến ngay chẳng biết thăm lom thế nào, lát sau đứa bé ra đời, “con trai, tiếng khóc to” mừng cuống quýt. Thế là yên lành tốt đẹp cả, mặc dầu quê nghèo thiếu thốn mọi thứ cần thiết cho sản phụ và hài nhi. Sáng hôm sau, người vợ bò lê bò càng dưới đất, rên rỉ kêu la, xót buốt không đái được, đái luôn luôn vài giọt một, buốt cứng âm môn không thể chịu được. Hỏi bà mụ, bà mụ không biết. Hỏi bà chủ nhà (xã Thạch) bà quay bảo bà mụ: “hay lúc vội vàng bà cấu rách bọng đái chăng?”. Bà mụ rằng không, mụ làm cẩn thận lắm mà! Đang tìm nguyên nhân bệnh đái buốt rất là quẫn trí, bà chủ nhà kéo áo tôi chỉ vào đứa bé: Từ 5 giờ chiều đến giờ không bú mà thở cũng yếu. Tôi quay nhìn vào con, thấy cứng quai hàm mà lạnh cả người, nằm gọn trong váy cũ. (Lúc ấy bà chủ nhà theo

24


đạo Thiên Chúa bế giùm. Bà cứ nhăm nhăm chén nước lã bên cạnh hòng rửa tội cho nó, chắc là nó khó mà nuôi được vì bé quá, thiếu tháng, lại trời lạnh mà xem người nó cũng lạnh lắm) Tôi lúc đó, đầu óc quay cuồng bèn nói với thân phụ (năm ấy người đã 69 tuổi). Người bảo: “Trẻ con sơ sinh, đàn bà mới đẻ có bệnh, tao biết gì đâu?”. Quay hỏi mẫu thân (năm ấy người 61 tuổi), người bảo: “Con đầu lòng, thiếu tháng mà lại bỏ vú, khó lắm, tao sanh nhiều, bế nhiều rồi, giờ tao sợ lắm”. Tôi rên lên, thầm nghĩ chết rồi, con bỏ vú, vợ bò dưới đất, hỏi ai cũng không được, đêm khuya giá lạnh, mưa phùn thể này làm sao bây giờ? Xong cả nhà trùm chăn đi ngủ coi như sự đã rồi. Tôi nghĩ quanh quẩn, không còn phương kế nào chăng? Tôi đốt ngọn đèn dầu, để trên bàn, đem cuốn Tăng Quảng Đại Sinh ra đọc hòng cầu cứu. Lúc ấy, tay mở sách mà mắt hoa, dạ cuống cuồng lắm rồi. Tôi tìm đọc mục tiểu nhi đến câu “tiểu nhi bất doãn nhũ” (trẻ em không bú sữa). Sách dậy “lấy lá ngải chườm rốn”. Tôi lập tức mặc áo tơi, đội nón, dốt đuốc ra vườn tìm cây ngải (vườn rộng, cỏ rậm, nhiều rắn). Tôi lần mò tìm được cây ngải, cấu mấy ngọn mang vào chườm rốn cho đứa nhỏ như đã nói trên. Lát sau, đứa trẻ bú ngon lành, người ấm, mà lại ngủ ngon, thật hú hồn. Bấy giờ tôi đâu dám ngủ, cần phải lo cho vợ. Tôi đem quyển Tăng Đại Quảng Sinh ra đọc mục sản hậu. Đến câu “Ôn bà ngộ phá niếu bào” (Bà mụ lầm lỡ cấu rách bọng đái). Tôi học kỹ bài thuốc ấy. Nhà sẵn thuốc, tôi cắt ngay một thang, sắc cho vợ uống. Xong tôi đi nằm mà hồn vía vẫn chưa yên, lát lát lại xem con, xem vợ đều thấy êm ả cả. Khi trời sáng rõ, xem con bú ngon, tôi hỏi vợ thấy đỡ. Tôi mừng quá đem cuốn Tăng Đại Quảng Sinh ra lạy tạ. Sự việc yên lành tốt đẹp cả. Tôi mở tiệc mừng. Đoạn lại bàn thảo về việc làm thầy đề hay làm thầy thuốc rồi trình với gia thân. Người bảo: “Việc ấy bây giờ tùy con, lớn rồi”. Đồng thời người vợ nói: Gia đình hiện giờ các anh, các chị đều ở xa cả, anh nên ở nhà hầu hạ cha mẹ lúc tuổi già, luôn tiện học lấy tổ nghiệp là hơn. Nếu anh đi xa, ngộ lỡ ở nhà xảy ra những bệnh bất ưng như vừa rồi thì em biết làm ăn ra sao? Tôi tự nghĩ mình học thuốc mới biết sơ sài đại khái chưa có thực hành, đã ra môn mạch nào đâu! Thế mà dồn đến cho mình hai bệnh cần cấp mà lại là vợ là con, thật thiết đến thân. Ai ở trong vòng mới biết cái nỗi băn khoăn cố gắng. Băn khoăn cố gắng mà thành công quá sức tưởng tượng. Lòng thêm phấn khởi. Tôi nhớ lại lời Y tổ Lãn Ông dạy: “Y giả thân gia chi kế”. Thật vậy cái việc chữa khỏi bệnh cho vợ cho con này, hẳn là

25


có sự mầu nhiệm nào cản trở không cho đi làm đề lại, giữ mình ở nhà theo y nghiệp để sau này có thể làm lương y chăng? Tôi nói lớn: “Quyết định từ nay ở nhà học nghề thuốc”. Bắt tay ngay vào việc, đêm ngày đọc sách, sao tẩm bào chế, theo cha đi thăm bệnh hằng ngày. TÌM HIỂU VỀ LÁ NGẢI: Một thời gian dài sau. Tôi đem mục bản thảo trong bộ Y Học Nhập Môn ra đọc vị Ngải Diệp. Lấy lá Ngải nên lấy vào đêm đoan ngọ (mồng 5 tháng 5 âm lịch) mà lấy vào lúc mặt trời chưa mọc, khi lấy phải kín tiếng không nói chuyện rồi đem phơi khô mà dùng mới hay. Tỉnh chất: Tươi hơi hàn, khô thì ôn, vị đắng, khí ôn, không độc. Công dụng: Ôn tỳ vị, trừ phong hàn, lại có khí vị thơm hăng hướng dẫn để mau thông khí hoạt huyết. SUY XÉT: Sau khi đứa trẻ đã bắt vú bú sữa ngon lành từ đó rất dễ nuôi không vặn vẹo gì cả mà lại có vẻ khôi ngô thì đâu có phải là sanh thiếu tháng. Vậy thì khi nó bỏ bú chỉ là sơ ý để cảm lạnh trong lúc trời lạnh mà thôi. Nhưng cảm lạnh sao chườm lá Ngải mà lại hay như vậy ? Bởi tôi lấy lá ngải lúc bấy giờ đã quá nửa đêm (tuy không phải là đêm đoan ngọ) mà đi một mình lúc đêm khuya thì còn nói chuyện với ai mà không kín tiếng. Ngải tươi nhưng đã hơ than hồng, lại chườm ngay vào rốn thì khí vị thơm của ngải qua rốn non thấm dẫn ngay vào ruột, dạ dày, bong bóng cho ôn tiêu mà ấm lại, vả chăng ngải cũng còn có thần ngải huy động tinh thần của đứa trẻ cho linh động thông hoạt mới hay một cách thần kỳ như vậy. Nói về bệnh người đàn bà mới sanh khi bị đái buốt lúc bấy giờ là nhờ được thuốc của cổ thánh lưu truyền mà khỏi mau như vậy. Nhưng cũng có phần nào là thấy con mình đã bắt vú thì vui mừng yên dạ mà mau khỏi thêm. Biết rằng: Bệnh đứa bé này cần phải trị gấp, nếu để chậm sẽ nguy hiểm ngay. Còn bệnh người đàn bà này dầu có chậm trễ đôi chút, cũng chưa hại gì. Nhưng chậm trễ quá mức nó sẽ làm ung làm mủ trong cái chỗ âm u thầm kín ấy, hỏi rằng có nguy hại không? Nếu cả hai bệnh của hai người ấy trong một lúc mà chữa khỏi được như vậy là nhờ sách thánh, nhờ phước nhà mà cũng nhờ sự sáng suốt, sự kiên trì và sự điều trị có thần thủ linh hoạt vậy.

26


7. UNG NHỌT TRONG PHỔI (PHẾ UNG) (1926 - Bỉnh Dần) NGƯỜI BỆNH: Ông Nguyễn Văn Luận, khoảng ngoài 50 tuổi, ở làng Lác Môn Trại, tổng Ninh Cường,tỉnh Nam Định. Khi ấy, thân hình ông hồng hào khỏe mạnh, tính tình cương trực, mưu lự thâm sâu. Nhà ở rộng lớn, có vườn, có ao, có sân cây rậm mát. Ông là chức tuần xã ở trong làng ấy, thường hay trà tửu, cũng nhiều tuần tráng dưới tay trong những đêm khuya đi tuần phòng trong làng, ngoài ruộng. Địa phương ấy thường gọi ông là xã Luận. Ông ít có bệnh tật, chỉ có tiếng nói hay khan khàn và hướng đi trông có vẻ hơi ưỡn ngực ra. BỆNH CHỬNG: Mùa hè năm ấy, ông mắc bệnh ho, nóng lạnh từng cơn, khát nước, tức ngực. Sau, bệnh nặng hơn, mỗi chiều một cơn nóng lạnh rồi nóng rất dữ, môi miệng khô, khát nước, người buồn phiền, da thịt khô, lại khi xuất mồ hôi nhiều, nhâm nhẩm đau nơi huyệt Trung Phủ, tức huyệt Phế Mộ ở đốt xương ngực thứ 3 trên vú, tiểu tiện đỏ ít, đại tiện táo, ho có khi khạc ra máu mà phát thở xuyễn, ngày đêm cứ phải ngồi ôm chồng gối thật cao đếngồi gục đầu vào mà ho, mà thở, chẳng cho nằm xuống chút nào, ăn đôi chút cháo, ngủ vài phút lại ho. PHƯƠNG THUỐC: Kim lý thang: Cá chép: 1 con (vảy cá màu vàng, cá còn sống, nặng chừng 4 lạng tàu). Xuyên bổi mẫu: 2 đồng cân (tìm thứ chính, tán thành bột nhỏ). Cách chế: Cá đếnguyên cả vảy, lấy giấy bồi hay bông gòn lau sạch, lau khô, mổ bỏ hết ruột gan, lại lau bụng cá thật khô (nhớ đừng rửa nước). Đem cả số bột Bối mẫu đã tán nhỏ phết vào bụng cá, lấy chỉ quấn quanh cho bột Bổi mẫu khỏi rơi vãi ra. Bỏ cá vào xoong, nồi nào nho nhỏ, liệu cho vừa con cá. Lấy gần đầy chén nước tiểu đứa trẻ con khỏe mạnh đổ vào nồi cá, lật đi lật lại tẩm cho ướt đều con cá, lấy vung đậy nồi cá lại, bỏ nồi cá ấy vào nồi lớn, cho nước lã vào gần ngập nồi cá nhỏ ở trong, bắc lên bếp đun (tức là nấu cách thủy). Đun một lát hễ nước sôi mạnh, mở nồi cá xem, khi thấy mắt cá lồi ra thì để chừng vài phút nữa, liệu chừng cá chín đem nồi cá ra. Nhẹ tay mang con cá ra ngoài, cạo bỏ hết vảy, xương lớn, xương nhỏ và xương đầu, nghĩa là chỉ lấy nguyên có thịt của cá, bỏ thịt cá vào nồi nước tiểu vừa nấu cá ban nãy, đun lên cho nước tiểu và thịt cá nóng già lên .

27


Đem chia ra ba phần mà ăn trong một ngày cho hết cả cá và nước (nếu nước tiểu trong nồi cá còn quá ít thì chế thêm vào ít nước tiểu mới nữa cũng được). Nhớ rằng không nên cho bệnh nhân biết là thuốc có nước tiếu, vì để họ biết, có thể họ sợ mà không dám ăn. Nhưng bệnh nhân khi ấy ăn uống ít có biết mùi gì vậy. SỰ VIỆC Ông xã Luận bị mắc bệnh ấy, đã uống nhiều thuốc khu phong, thanh phế, lương phế, giải nhiệt độc của các cụ lang kéo dài gần một tháng mà không khỏi. Ông cho người đến mời thân phụ tôi ra chẩn trị. Khi ấy, thân phụ tôi trọ ở nhà ông xã Thạch (Nguyễn Văn Thạch) ở làng ấy đã làm thuốc 5-6 năm nổi tiếng cả huyện. Người ta thường gọi thân phụ tôi là “cụ Điều Huệ”. Tôi theo học và hầu hạ. Thân phụ tôi đến xem và bảo: “Mạch trì sác, ho có đàm lẫn máu mà hơi thở hôi khó trị lắm, có lẽ bệnh này là phế ung”. Đoạn cụ sai tôi: Mầy đem vài chục hạt đậu, vàng hoặc đậu xanh đến nói: Thầy con nói ông ăn vài hạt đậu này xem có ngon không rồi thầy con cắt thuốc. Ông ăn khen ngon (tôi về nói lại). Thân phụ tôi bảo: Đó là phép thử xem có phải nội ung không, ăn mà chê đậu tanh thì không phải nội ung, ăn mà khen ngon không biết mùi đậu thì đúng là ông xã này mắc bệnh nội ung rồi, mà đó là phế ung. (Kim lý thang ở Y Tông Kim Giám ngoại khoa quyển 7). Tôi tìm và tự chế xong, đem lại nói với bà xã: Thuốc này đem chia làm 3 lần cho ông ăn, từ giờ đến chiều nên ép ông ăn hết, thuốc này không để được lâu mà không ăn hết thì không đủ sức trị bệnh. Nói xong chính tay tôi xúc cho ông ăn một lần. Khi tôi ra về, tôi nói với bà xã: Sáng mai cụ tôi đến xem lại bệnh cho ông nhà. Sáng hôm sau, cụ tôi đến thăm, tôi cũng đi theo. Đến nơi, bà xã vui mừng nói ngay: Thưa cụ, ông xã nhà tôi uống hết số thuốc ấy vài giờ sau mửa ra hàng chậu máu và mủ, vừa đen vừa đỏ hôi thối cả phòng trong phòng ngoài. Xong cụ đã nằm xuống được, và bây giờ nằm yên và thở đều. Cụ tôi mừng, muốn vào xem ngay ra sao, nhưng không dám vào, căn phòng ông nằm mỗi bề 5 mét mà đóng kín cửa hôi thối không thể tả.Tôi và con ông ta, phải sấn vào mở hết các cửa, lấy hàng trăm cây nhang đen, nhang xạ đốt lên cắm la liệt trong phòng. Sau giờ lâu, cụ tôi phải lấy khăn bịt miệng mũi mới dám vào xem mạch. Khi ra cụ bảo tôi: Tốt lắm, mạch đã trì hoãn, tôi cũng vào xem và rờ vào người ông, da dẻ cũng nhuần.Ông nói nhỏ với tôi: Cám ơn cụ và cậu, cho tôi thuốc nữa đi. Sau đó ông uống Ninh phế cát căn thang độ 15 thang và Thanh kim ninh phế hoàn 1 tễ (2 bài thuốc này cũng ở mục Phế ung kim giám quyển 7). Rồi ông uống tiếp

28


Lục vị hoàn một tễ. Khỏe mạnh hoàn toàn. SUY XÉT: Tôi được theo trị bệnh ông xã này, tôi chứng minh cụ thể khoa học trong y khoa của cổ nhân thật là thánh: Chẳng chiếu điện, chẳng chụp phim mà biết ung nhọt trong phổi, chẳng phải giải phẫu mổ xẻ gì, chỉ uống thuốc mà mụn trong nội tạng tiêu tan, nhất là đã định sẵn bài thuốc phải khỏi. Những phương thuốc thần kỳ như vậy cổ nhân đã chép vào sách để truyền bá dạy đời thì đông y đâu có bí truyền, chỉ tại ta không chịu đọc sách. Những ai đã mang lấy y nghiệp vào mình đều có bổn phận cứu sống người trong lúc nguy nan, nếu không đọc sách trước, đọc sách nhiều, khi gặp bệnh nhân khó khăn kỳ lạ, chẳng lẽ đành chịu bó tay sao? Nguyên lý trong bài Kim lý thang này trị khỏi bệnh Phế ung tôi chưa thấu hiểu. Xin quý vị giải thích cho. Nếu ông xã không gặp thuốc này, hỏi rằng bệnh có khỏi không? Và những danh y đại tài bẩy giờ có nghĩ ra được phương thuốc nào khác để trị cho ông được lành mạnh mau chóng như vậy chăng?

29


8. MỘC HƯƠNG NHIỀU MỚI THÔNG KHÍ (1927 - Đinh Mão) NGƯỜI BỆNH: Cô Vũ Thị Nhiệm 26 tuổi ở làng Lác Môn Trại, tổng Ninh Cường, tỉnh Nam Định

CHỨNG BỆNH CHỨNG: Đau bụng ngăm ngăm cả ngày, đôi khi quặn đau một cơn dữ dội, hễ ợ ngược hay đi trung tiện được thì dễ chịu, không ói mửa, không ỉa lỏng, đái ít, đại tiểu bình thường, kém ăn, kém ngủ, mà trong người lạnh lạnh cả ngày. Bệnh đã hơn một tháng , không phải đau về kinh nguyệt. PHƯƠNG THUỐC: Trần bì 3 đồng cân (sao vàng)

Bạch linh 3 đồng

Bán hạ 3 đồng (tẩm gừng sao gần cháy)

Cam thảo 1 đồng (nướng than cho gần chín)

Đại phúc bì 3 đồng

Binh lang 3 đồng

Hậu phác 2 đồng

Mộc hương bắc 5 đồng

Hương phụ chế 2 đồng

Sinh khương 3 phiến

Tất cả đổ chung, sắc lấy nước uống, cô uống một thang, khỏi. SỰ VIỆC: Thân phụ tôi trọ làm thuốc ở làng ấy, tôi đang theo học. Một hôm tôi đến nhà cụ Vũ Đình Dương (thân phụ cô Nhiệm) chơi (chủ ý muốn đến gặp cô Nhiệm nói về “tình duyên sao lại bất thành” cho vui) tình cờ gặp cô đang bị đau bụng như trên. Cụ nói: Nhiệm em nó đau bụng đã hơn tháng, uống thuốc mãi không khỏi, chán quá. Đồng thời cụ đưa mấy đơn thuốc của các cụ lang mà cô đã uống cho xem.Cụ nói luôn: Đang định cho người lên mới cụ Điều đến xem cho em, may gặp cậu, cậu xem cân cho em nó vài thang xem có mau khỏi bệnh không? Dạ! Tôi nhìn cô, người đã xanh gầy hơn trước nhiều. Tôi hỏi: Cô có suy nghĩ gì riêng không mà đau bụng lâu vậy? Cô không trả lời mà đưa mắt nhìn có vẻ e thẹn.Tôi xem mấy đơn thuốc của các cụ: Tứ vật thêm Trần bì, Thanh bì, Mộc hương, Hương phụ đó là thuốc trị huyết khí

30


tích thống. Nhị trần thang thêm Thương truật, Hậu phác, Mộc hương và Hương phụ đó là thuốc trị đàm thấp khí tích thống . Sau đó tôi nghĩ “đàm thấp khí tích thống” là phải, sao lại không khỏi? Tôi đi cân cho cô hai thang. Thuốc đem về cụ hỏi: Không có miếng Mộc hương ở ngoài, mỗi khi uống thuốc đều mài vào thuốc hả cậu? Các cụ lang trước đều cho như vậy cả mà? Thưa không, cứ thế mỗi ngày sắc một thang cho cô uống. Xin phép cụ cháu về. Vài hôm sau, tôi lại đến, vừa vào cửa, cụ nói: Thuốc cậu hay quá, mới uống một thang mà em nó không đau nữa, nó mừng quá, còn một thang hãy còn để kia, nó nói đắng quá, mai nó sẽ uống tiếp. Tôi hỏi: Cô uống thuốc vào có thấy khó chịu trong bụng không? Cô nói: Lần đầu uống vào, đắng ơi là đắng, trong bụng vận chuyển lên đi tiêu hơi thật nhiều, uống lần nữa nó đi ra ngoài được rất nhiều. Cám ơn cậu. Biết vậy, uống thuốc của cậu ngay từ lúc đầu. Thôi trót rồi, cậu đừng suy nghĩ gì riêng nữa nhé . Ông cụ cũng vui mừng cám ơn. SUY XÉT: Thuốc này cũng chẳng khác gì đơn thuốc của cụ lang kê Nhị Trần thang nói trên . Có khác chăng là Mộc Hương dùng đến 5 đồng cân để trục tích khí, phá trệ khí cho mạnh. Thêm vào đó có Đại phúc bì, Bỉnh lang để Mộc hương trục xuống thì Đại phúc bì, Binh lang đem ra. Đặc biệt là Mộc hương bỏ ngay vào thuốc mà sắc để cho nó có lực thông hành cho mau, chứ không mài chút chút nó chậm lắm. Như vậy, ta gặp bệnh đau bụng nào giống như bệnh trên mà phải dùng đến Mộc hương thì nên tùy người, tùy sức, có phải dùng nhiều cứ dùng, chẳng phải rụt rè gì cả, và bỏ ngay vào thuốc mà sắc, chẳng cần phải mài. Dù trẻ em, hay người già yếu thì dùng ít đi một chút nhưng cũng bỏ vào thuốc mà sắc mới hay. Người xưa dạy Mộc hương đi qua lửa thì kém phần linh diệu và uống nhiều thì tán khí cho nên mới bảo mài vào thuốc mà uống. Nhưng thiết nghĩ cư xử ẩm thực của con người mỗi thời mỗi khác. Bất kể thuốc gì người xưa thanh đạm thì dùng ít đã hay. Người thời nay quá hậu phải dùng nhiều mới có công hiệu. Đó là ý kiến thô thiển của kẻ sơ học này.

31


9. ÔNG CỤ GIÀ CHẢY NƯỚC MŨI HÀNG NĂM (Tỵ uyên) (1928 - Mậu Thìn) Cụ Lê Thế Trạch (thân phụ tôi), người trọ ở làng Lác Môn Trại, làm thầy thuốc, tên hiệu Định Ninh Đường. Dân làng mấy phủ huyện ấy gọi là cụ Điều Huệ. Hưởng thọ 86 tuổi (1857 - 1942). Người vóc giáng cao cao, gân sức cứng mạnh, tính tình khiêm nhẫn, độ lượng khoan hòa và bình thản mà trang nghiêm. Cư xử ẩm thực điều độ, không rượu, chè, cà phê, thuốc lá, không bạn bè bài bạc chơi bời. Nho học uyên thâm, y lý tinh thông. Một nhà nho y thời bấy giờ. Thật vậy, tôi không giám tự đề cao. BỆNH CHỬNG: Mùa hè năm ấy, người 72 tuổi, mắc bệnh chảy nước mũi, trong người không nóng không lạnh, không nhức đầu, không nóng mũi, không ngứa trong mũi, không ho đàm, không hắt hơi khạc nhổ, cũng không đau lưng lạnh chân. Kể từ trước cũng không có bệnh gì khác, vẫn ăn ngủ làm việc như thường. Nước mũi trong, cứ chảy ra ròng ròng, hết ngày nọ qua ngày kia, một ngày mấy khăn lau, hàng tháng không khỏi. Qua tháng này sang tháng khác, điều trị không khỏi, cứ vậy kéo dài hàng năm, sáng chảy nước mũi trong, chiều chảy nước mũi đặc, sau đã có mùi hôi, sức người bấy giờ có giảm đi đôi chút. ĐIỀU TRỊ: Lúc đầu cho là cụ tôi trong mười mấy năm làm thầy thuốc ở vùng ấy, bất kỳ ngày mưa hay nắng, trời nóng hay lạnh, cứ 5 giờ sáng là dậy đi thăm lại bệnh cho những người đang uống thuốc (đi bộ, đồng quê không có xe) xa mấy cũng như gần, nghèo cũng như giàu, đều đi thăm cho tất cả. Đến 9 - 1 0 giờ mới về ăn sáng và cắt thuốc cho mọi người. Vì thế mà sương gió thấm vào đầu óc, gặp nhiệt độ trong người bốc lên hấp hơi hóa ra nước chảy xuống mũi. Đã uống những loại thăng dương tán hàn như Tỉa tô, Phòng phong, Kỉnh giới, Bạc hà, Te tân, Xuyên khung, Cao bản, Bạch chỉ... hàng mấy cân không khỏi. Hay là phế nhiệt, đởm nhiệt chăng? Đã uống thanh phế, lương đởm hàng tháng không khỏi. Hay là cảm nhiễm đã lâu, bây giờ già yếu thì dương hư không thu liễm được chăng? Đã uống Lục quân tử thang, Bổ trung ích khí thang hàng mấy chục thang cũng không khỏi.

32


Hay là âm tinh suy hư mà dương hỏa bốc lên chăng? Đã uống cả Lục vị thang, cả Bát vị gia Xa tiền, Ngưu tất để dẫn xuống cũng không khỏi, lại làm nhiều thuốc sát trùng nhét mũi cũng không khỏi, vả chăng mũi không đau, không đỏ, không ngứa thì làm gì có trùng. Sau cùng uống “cao” là khỏi. PHƯƠNG THUỐC: Cao Ban Long (Lộc giác giao) Cao ban long cắt nhỏ hòa vào cháo nóng mà ăn . Cao ban long: 5 đồng cân. Chảo gạo tẻ: nấu lỏng, nóng sôi, một bát hạng trung. Bỏ cao vào cháo quấy cho tan đều rồi ăn, hay là khi nào thích đường thêm đường, thích muối thêm muối, thích nước mắm thêm nước mắm, thích thịt lợn kho thêm thịt lợn kho. Nghĩa là cần ăn cao, ngoài ra tùy sở thích, tùy phương tiện. Nếu khi nào nỡ mà sức nóng của cháo không đủ để đánh tan được cao thì bắc lên bếp đun cách thủy cho cao tan hết sẽ ăn. Nhớ đừng ăn cháo nguội. Sáng sớm ăn một bát, hay tối có thể ăn một bát nữa càng tốt. Ăn như vây, 5 buổi sáng đã thấy có phần bớt.Một tháng khỏi hẳn. Sau cứ vậy ăn thêm vài tháng nữa, bệnh không tái phát mà lại tăng thọ. SUY XÉT: Bệnh chảy nước mũi kéo dài hàng năm này uống Cao Ban Long mà khỏi, bởi Ban Long là chất bổ âm tinh, rất mau rất bền. Vậy thì bệnh này bởi âm tinh ở thận thiếu và nóng thì dương hỏa bốc lên sinh ra, cho nên uống Ban Long mau khỏi. Nhưng tại sao đã uống Lục Vị hàng tháng không khỏi? Lục vị không phải là thuốc bổ âm tinh sao? Thiết nghĩ, Lục vị đúng là thuốc bổ âm tinh, nhưng Lục vị là chất thảo mộc vô tình không bằng Ban long là chất động vật hữu tình lại có chất keo uống đến đâu gắn chặt đến đấy cho nên mau khỏi. Xin độc giả thẩm định.

33


10. VỊ THUỐC RẤT NGỌT MỚI KHỎI BỆNH (1929 - Kỷ Tỵ) NGƯỜI BỆNH: Một bà (quên tên) ở xã Ninh Cường, tỉnh Nam Định. Thân hình vừa phải, không gầy, không béo, trang phục sạch sẽ, nhàn nhã không lam lũ, đã sinh 4 con. CHỨNG BỆNH: Nóng mình, váng đầu khó chịu mới vài hôm ăn ngủ hơi kém, đại tiếu bình thường. Ông chồng sang mời cụ tôi đến xem mạch cho bà. Cụ tôi sang xem mạch phù hoạt. Khi về cụ kê đơn: PHƯƠNG THUỐC: Tứ vật thang hợp Nhị trần thang thêm Phòng phong, Bạch chỉ, Hoàng cầm. Sáng mai cụ tôi sang thăm lại, tôi cũng đi theo. Bà nói: Thưa thầy, thuốc đắng lắm con uống không được lại nhức đầu thêm, xin thầy cứ cắt thuốc ngọt cho con uống là khỏi, không phải xem mạch. Cụ tôi về bảo cắt: Sinh địa, Bạch thược, Sa sâm, Cam thảo và Đại táo mỗi vị 3 đồng cân.Sáng mai cụ tôi lại sang. Bà nói: Thuốc ấy con uống được, hôm nay đã hơi dễ chịu, nhưng cũng chưa ngọt ạ. Cụ tôi nói: Nếu vậy bà pha đường sữa mà uống, uống thuốc làm chi? Bà nói: Cứ như thang thuốc hôm qua, thầy cắt ngọt hơn nữa con uống là khỏi. Đường sữa tuy ngọt mà con uống không chịu, chắc nó không có hương vị thuốc hay sao đấy ạ. Cụ tôi cũng thử theo ý bà: Cứ đơn Sinh địa và Cam thảo mỗi thứ một lạng, Táo tàu 20 quả. Sáng hôm sau, cụ tôi lại sang. Vừa đến cửa bà reo lên: Thuốc thế mới là ngọt. Hôm nay con khỏi nhiều, xin thầy cho con 3 thang như thế nữa. Mấy năm trước kia con đau cũng chỉ thuốc rất ngọt mới khỏi bệnh. Cụ tôi về bảo tôi, kể thế cũng kỳ lạ đấy. SUY XÉT: Đó cũng là điểm về dùng thuốc trị bệnh mà chúng ta nên suy nghĩ. Tại sao thích ngọt không uống đường sữa lại uống thuốc ngọt, mà thuốc phải rất ngọt mới vừa miệng, mới khỏi bệnh kể cũng ít thấy. Nói về ngũ vị của thuốc mà người ta thích uống: Bà này thích ngọt là một và tôi thấy một bà nữa thích uống thuốc thật đắng là hai. Còn 3 vị kia tôi chưa thấy. Vậy thì ngũ vị của thuốc có chủ yếu gì mà họ đòi hỏi? Chúng ta nên tìm hiểu.

34


11. ĐAU BỤNG HAY ĐAU TIM (1931 - Tân Mùi) Trị khỏi bệnh, được gọi thầy lang Bể. Năm 1931, tôi chính thức là thầy thuốc chuyên nghiệp. NGƯỜI BỆNH: Anh Huyền (Trương Văn Huyền) 25 tuổi, con cụ trùm Hồng (cụ Trương Văn Hồng, nhà cụ theo đạo Thiên Chúa, cụ làm trùm đạo), ở làng Thanh Hà, Mỹ Đức, Hà Đông. CHỨNG BỆNH: Anh tươi trẻ, đẫy đà, khỏe mạnh, đẹp trai. Khoảng 10 giờ sáng hôm đó, tự nhiên nổi cơn đau bụng dữ dội, nhảy lên chồm chồm. Mỗi cơn đau, anh đưa người lên nhảy chồm chồm 2-3 cái, đầu gần chạm lóc nhà bè, hai tay dang ra, mặt đỏ bừng bừng, tia mắt cũng đỏ, môi miệng khô, không khát nước, không ói ợ, không ỉa chảy và tay chân không lạnh. Nhảy xong anh ngồi phịch xuống, nằm ngửa ra thở. Vài phút sau lại dậy, lại nhảy, lại nằm xuống, từng cơn như vậy. Cả nhà lo sợ, bà con, anh em họ hàng xúm lại đỡ vực, đấm lưng, ấn bụng, xoa dầu, bóp nắn tay chân và rang cám chườm (ở vùng này không có môn cạo gió)... phần lo cử người đi mời cụ lang (có môn thuốc mài) đến mài thuốc cho uống, không bớt, phần lo cỗ bàn khách khứa đầy rạp. Cụ Quỹ Hạnh lên thăm bảo: “Ờ nhà tao có ông lang ở mạn bể lên đây chơi, đến mời đi!” SỰ VIỆC: Đầu năm 1931, thân phụ tôi người 75 tuổi, người từ nơi trọ làm thuốc (Lác Môn, Nam Định) dọn về làng (Dịch Diệp, Nam Định) nghỉ dưỡng già, không ở lại đấy làm thuốc nữa, cả gia đình cũng dọn hết. Vài tuần sau, tôi nghĩ mình theo cha về ở nhà thì chơi không sao, mà đi theo các anh làm việc thì chỉ là phụ tá mà thôi. Ta nên trở lại nơi trọ cũ hưởng thụ danh tiếng và nền nếp của cha, mà lại có tính cách tự lập, vạ gì phải đi đâu! Tôi liền xếp đặt quần áo và thuốc viên, thuốc tán lặt vặt mấy thứ cần thiết vào va li nhỏ, xin phép hai cụ tôi trở xuống nơi trọ cũ. Tôi tới nơi trọ cũ ở chơi vài ngày. Lần này, anh Nguyễn Văn Ngân (cháu ông chủ nhà, anh hơn tôi một tuổi, anh và tôi học cùng một lớp nho với thân phụ tôi, nhưng anh đã nghỉ để buôn bán) dụ tôi cùng đi buôn bán với anh. Anh Ngân bảo: Anh đi buôn bán với tôi vào trong làng Thanh Hà, Mỹ Đức, Hà Đông đồng thời bác làm thuốc ở đấy, mạn ấy thiếu thầy thuốc hay bác ạ! Tôi đang không có việc làm, nghe anh nói bùi tai cũng cứ đi xem sao.

35


Anh em hai người va li hành lý ra đi từ sáng, chiều tối đến một nhà bè ở làng Thanh Hà, nhà cụ Quỹ Hạnh (cụ Trần Văn Hạnh, cụ làm thủ quỹ làng ấy). Anh Ngân đi đi về về buôn bán vẫn trọ ở nhà cụ ấy. Khi có tôi cùng đến, anh giới thiệu tôi là thầy thuốc, nên cũng được hai cụ và cả gia đình tiếp đãi ân cần vui vẻ. Nói về làng Thanh Hà, làng này tên chữ là Thanh Hà, nhưng dân làng toàn bộ ở nhà bè trên mặt sông con, làm nghề chài lưới và buôn bương tre, nên còn gọi là làng dưới sông. Làng này ở trên mặt sông con, sông dài đến đâu họ cắm nhà bè đến đấy. Tính từ cửa sông Bến Đục, Yến Vĩ qua Yên Duyệt, Nống Hạ, Nống Thượng, Kẻ Sải ,Yên Đà, Đồng Chiêm, Hang Nước đến sát bãi phố Đồi (thuộc tỉnh Hòa Bình) dài chừng 20 cây số đều có nhà bè rải rác khắp nơi. Làng này tuy chỉ có bề dài nhỏ hẹp, nhưng sự sống liên hệ nhờ vả đến cả các làng trên đất hai bên ven sông thành ra rộng lớn. Tuy nhiên, việc hành chánh, hội hè vấn lấy khu nhà cụ Quỹ Hạnh (sát với làng Kẻ Sải trên đất) làm nơi giữa làng. Sự đi lại của làng ấy, chở nhiều thì có “thuyền danh” , đi chơi đi làm một hai người thì chỉ có “thúng bơi”. Nói về cái nhà bè: Nền nhà làm bằng cây luồng, cây bương và tre nứa kết lại thành mảng dưới nước. Nhà làm trên mảng cũng có nhà gỗ, nhà tre, nhà to, nhà nhỏ khác nhau nhưng đầy đủ tiện nghi, đặc biệt cũng có nhà gỗ chạm trổ sơn phết rất đẹp. Nói chung về kích thước, chiều cao từ nền đến nóc bề độ 2 mét trở lại, dài chừng 10 mét là nhiều, rộng chừng 3 mét là nhất. Nói về anh Ngân và tôi những ngày ở nhà cụ Quỹ Hạnh, ngày nào cũng thúc thuyền đến chơi mấy nhà dưới sông hỏi mua bương tre có ý chở về Lác Môn bán. Chiều chiều xem cảnh ở mấy làng trên đất. Quang cảnh gần rừng núi, nếp sống của dân cư cũng hơi lạ mắt, mộc mạc và thật thà. Anh Ngân mua được bương tre đóng bè mảng. Tôi có đồng nào cũng bỏ cả vào đấy với anh. Anh nói, về bán chia lời. Nhưng lòng tôi chẳng nghĩ gì đến giá cả lãi lời. Tôi chỉ nghĩ về nghề và tiếc rằng “nếu làm thầy đề thì giờ đã yên thân, chứ lẽo đẽo thế này mình là anh lái bè sao? Chán quá!”. Chiều hôm ấy, thấy trên bãi gần nhà cụ Quỹ Hạnh, người ta đang làm rạp, kê bàn ghế nồi niêu bát đũa xếp đầy. Hỏi chuyện, cụ Hạnh cho b i ết : Đó là anh Huyền, con cụ trùm Hồng lấy vợ, làm rể nhà ấy đã 3 năm. Sáng mai thứ 7 làm lễ cưới, nên người ta làm rạp mua lợn, mua bò làm cỗ mời hai họ và dân làng dưới sông, trên bờ đến ăn cưới đấy. Nhưng ăn thì chả biết vì lý do gì, ba ngày sau làm lễ cưới, đôi này mới được về với nhau. Luật đạo chúng tôi hễ đã có lễ cưới là thành vợ chồng. Kể cũng lạ sao không cho cưới ngay, chắc là họ kiêng cữ gì đây? Đen ngày lễ cưới của anh Huyền, cụ Quỹ Hạnh đi ăn cưới, tôi với anh Ngân nằm dài ở nhà đang bàn bương tre thế này thế nọ, chợt có hai người đến nói:

36


Thưa thầy: Chúng tôi có em Huyền đang đau bụng, nguy lắm, bè ờ gần ngay đây. Được cụ Quỹ Hạnh cho biết xin thầy làm ơn lại xem cho. Tôi ngôi dậy hỏi: À, có phải cái cậu sáng nay làm lễ cưới và giờ này đang ăn cưới đấy phải không? Dạ phải! Tôi đứng dậy lên bờ đi ngay, cách có nhà 4 bè thì tới (anh Ngân cũng đi theo). Thấy cảnh tượng cậu Huyền đang đau nhảy chồm chồm, tôi xem bệnh rất kĩ như đã nói trên. Lại thấy nhiều người xúm lại gần chìm đầu bè xuống và sặc mùi dầu gừng . Thưa các ông, các bà, bệnh này khó trị lắm, nếu sơ ý một tí sẽ nguy. Các ông các bà có đồng ý là “có thể nguy” tôi mới dám cho thuốc. Các ông các bà đều nói: “Xin thầy cứ cho thuốc”. Nếu vậy xin lấy nước mưa cho cậu uống vài chén con, chớ uống gừng, xoa dầu. Tôi về lấy thuốc cho cậu uống. Khi trở về nhà cụ Quỹ, tôi mở vali tìm gói thuốc, anh Ngân hỏi: Bệnh gì vậy bác, chữa được không ?

-

Bệnh “tâm lý” chớ bệnh gì, tôi chữa khỏi ngay cho mà xem.

Tôi đem thuốc sang, tôi sắc thuốc, tôi đổ thuốc cho cậu uống và nói chuyện đôi câu với cậu. Cậu uống hai lần thuốc, cậu khỏi hẳn, không đau nữa, thuốc thật là hay. Tôi cáo từ ra về, cả nhà vui vẻ đứng dậy tiễn chân. Khi trên đường về tôi thoáng nghe vài bà dưới bè, mấy ông trên bờ xì xào nhau: “Thằng Huyền nó đau kỳ quá! Ai chữa khỏi vậy? - Thầy lang bể”. Tôi bước lên bè gọi: “Ngân ơi! Cái anh Huyền ấy khỏi đau rồi, khỏi rất mau, lại mau tỉnh nữa”. Ngân ngồi choàng dậy: Khỏi rồi hả bác, hay quá nhỉ! Chợt có tiếng chân người bước lên bè. Tôi quay ra thấy ông cụ già. Thưa thầy (cụ già nói ngay) tôi là trùm Hồng, thân sinh ra cháu Huyền. Thưa cụ (tôi) chúng tôi đến đây còn lạ lắm, hân hạnh được biết cụ. Thưa thầy (cụ) Huyền con tôi, cháu nó được khỏi bệnh là nhờ thầy mà yên lành mọi sự, nhất là tiệc cưới của cháu như này là vui vẻ trọn vẹn. Tôi đến đây xin mời hai thầy đến dự tiệc cho chúng tôi được gọi là có chút lòng đền đáp. Thưa cụ (tôi), anh em chúng tôi đến đây chưa hiểu phong tục, xin cho chúng tôi từ cáo. Kẻ tha thiết mời, người cố tình chối, sau không thể chối từ, anh em ra dự tiệc cưới.

37


Tới rạp, cụ trùm Hồng nắm lấy tay tôi và thưa các cụ và bà con hai họ: Đây là thầy lang Bể, thầy vừa chữa khỏi bệnh cho chú rể, khỏi được ngay đấy ạ! Chúng tôi mời thầy ra dự tiệc. Các cụ đều đứng dậy chào và mời ngồi. Anh em tôi vái chào và xin ngồi ngoài này với anh em trẻ cho dễ nói chuyện, nhưng các cụ cố mời lên bàn trên. Trong khi tiệc, nhiều người ca tụng thuốc hay. Thưa các cụ (tôi), đó là dịp may của cậu mợ Huyền và phúc riêng của nhà cụ trùm đấy thôi ạ. Thế là từ đấy, tôi mang tên “thầy lang Bể” và cái tiếng thuốc hay của thầy lang Bể cũng kéo dài và lan rộng theo chiều sông Thanh Hà và các làng trên đất vùng này. Trở về nhà cụ Quỹ, liên tiếp từ hôm ấy, khu nhà bè này, nào bà già đau đầu, nào cô gái điều kinh, nào trẻ em đau bụng, cảm nắng hay sài kinh, bao nhiêu tôi đều trị cho khỏi cả mà chỉ cho thuốc, chẳng lấy xu nào. Sau mấy bữa, anh Ngân thu xếp nhổ bè xuôi nam. Tôi nói với anh: Anh Ngân à! Thế là tôi nhờ anh, tình cờ lên đất giáp ranh rừng núi này, ở đây người ta đơn sơ mộc mạc thật thà hợp với tôi nhiều. Tôi ở lại đây làm thuốc. Tôi nhờ anh về tới nhà, anh lên ngay nhà tôi (đừng chậm nhé) nói với hai cụ tôi là tôi ở lại đây làm thuốc vài ba tháng nữa mới về. Còn số tiền tôi đưa anh, anh cứ lấy mà buôn bán lấy lời. Anh Ngân vui vẻ ra về và hứa sẽ lên. PHƯƠNG THUỐC: Hoàng liên sống 3 đồng cân cắt nhỏ. Tôi sai người lấy niêu con. Tôi bỏ Hoàng liên vào, đổ một bát nước đầy đun sôi vài trấp. Tôi rót ngay một chén con, tôi đem cho cậu uống và nói với cậu đôi lời. Cậu uống khỏi cổ, thở phà ra một tiếng rất dài rồi nằm xuống nghỉ. Lát sau cho cậu uống hết chỗ thuốc đã sắc ấy. Cậu không đau nữa. sắc luôn nước thứ hai cho cậu uống, cậu khỏi hẳn. SUY XÉT: Bệnh này chẳng phải đau bụng, cũng chẳng phải đau tim, chỉ là bệnh “tâm lý”. Nếu đau bụng nhiệt thống thì phải ngấc đầu lên, nhăn mặt nhăn mũi hai tay phanh bụng, ưỡn người ra và ít nhất cũng phải ợ hơi vài cái chứ. Nếu đau tim là chân tâm thống, hay quyết tâm thống thì đỏ mặt nhảy chồm rồi người và tay chân lạnh, lát sau thâm đen, mấy tiếng đồng hồ sẽ chết. Tôi quyết đoán là bệnh về tâm lý, vì tôi được nghe câu chuyện kể trên. Tôi có cảm tưởng: Tình trai trẻ hay say, phải làm rể ba năm đằng đẵng đã là hãm phanh quá cỡ. Giờ đến ngày cưới, hy vọng sẽ hí hửng, mừng thầm với nhau. Đột nhiên lại hãm ba ngày nữa mới được gần nhau, mà trong nhà lại ăn uống linh đình như thúc dục và bạn bè lớp

38


trẻ tủm tỉm cười thầm thì tâm tình bồng bột, không thể chịu đựng quá mức được nữa (nguyện dục bất hài). Tất nhiên dóm lửa đã lâu, đúng lúc thì phải bốc cháy. Thiếu âm hỏa và Quyết âm hỏa, hai cái hỏa tâm và can nó hiệp nhau, góp cái thèm muốn vào cái uất giận chồi lên mà nhảy chồm chồm chứ có đau gì? Nay tôi đem Hoàng liên cho uống, đó là đem chất khổ hàn mà tả ngay vào tâm hỏa. Thêm vào đó, lúc tôi đổ Hoàng liên cho anh uống. Tôi nói với nhỏ với anh “anh đẹp trai quá, cuộc đời đang lên, phải bình tĩnh lo gì, sớm muộn gì đâu vào đấy cả” anh mở to mắt nhìn tôi, đó là tôi tả can hỏa. Bệnh tâm lý, dùng thuốc tâm lý đó có phải là tâm lý chăng? Nguyện dục bất hài hiệp phẫn nộ mà tả tâm và can hỏa là đúng rồi, làm sao không mau khỏi. Thưa độc giả: Một vị Hoàng liên đem trị một bệnh “kinh động đột xuất” của người thanh niên trên đất khách mới lạ, đối với tôi là kẻ mới vào nghề, kể ra tôi cũng có can đảm về trị liệu và cũng có ý thức về tâm lý nên tôi mới dám quyết đoán nhận lãnh để đi đến công hiệu thần tốc thì tôi cũng hãnh diện và tự hào phấn khởi về nghề nghiệp. Kể từ năm 1931, tôi mới chính thức là thầy thuốc chuyên nghiệp.

39


12. BÀ CỤ NHỨC CHÂN (CƯỚC KHÍ) (1936 - Bính Tỵ) Bà cụ già Phạm Thị Diệu (thân mẫu tôi). Niên kỷ và đức tính đã nói ở bài bệnh lý số 2 phía trên tập này. NGÀY BỆNH: Mùa đông năm ấy, trời sương khí lạnh. Người 72 tuổi, nhức buốt một đường thẳng trong gân xương chân bên phải, suốt từ đùi qua gối đến bắp chân, chằng lên ngang lưng, đi đứng nằm ngồi khó khăn, nhăn nhó, rỉ rên mệt mỏi, ăn uống kém, không nóng lạnh, đại tiểu thường. SỰ VIỆC: Năm ấy, thân phụ tôi 80 tuổi. Người đã trù định làm lễ mừng thọ vào ngày 10 tháng giêng năm mới (Đinh Sửu). Người thấy thân mẫu tôi đau bệnh như vậy, cần phải trị gấp để lo việc mừng thọ. Người viết thư cho cả bốn con ở bốn nơi cần phải thu xếp cho cả vợ con về, chậm lắm là 21 — 25 Tết. Anh cả (Thụ Đức) tôi ở tận Hà Nội được tin mẹ đau mà phải còn lo việc mừng thọ của cha. Nào mời dân làng, hàng tổng, hàng huyện, rất là bề bộn; nào là bệnh mẹ có mau khỏi mới vui chung cho đại gia đình. Ông nghĩ đó là bổn phận của mình, phải thu xếp về trước các em. Sâm nhung cao quế, thuốc men, tiền bạc sẵn sàng chu đáo, ngày 15 tháng chạp ông đã ở nhà. Lo liệu mọi việc thuốc thang cho mẹ, nhưng hàng tuần bệnh nhức chân của mẹ chẳng những trì trì không bớt lại còn đau nhức hơn. Ông nóng lòng đánh giây thép gọi cả ba anh em về gấp. Cả ba gia đình không bảo nhau, chiều 24 tháng chạp đều từ các nơi về cả. Anh hai (Bảo Nguyên) ở Hải Dương, anh ba (Xuân Phương) ở Nghệ An, tôi ở làng Thanh Hà miền quê rừng núi tỉnh Hà Đông. Lúc ấy, đại gia đình đông vui, nhưng mọi việc hãy để đấy, mấy anh em hãy bàn việc trị bệnh cho mẹ trước.

- Anh cả bảo: Các chú xem mạch mẹ chữa giúp anh. Anh đem cả Sâm nhung cao quế và quy thục các vị đại bổ về, mẹ uống mấy hôm nay không khỏi. Người còn kêu đau lắm. - Anh ba vào thăm mẹ xem mạch ra nói: Mẹ uống Bổ trung ích khí là khỏi, rồi kê ngay đơn thuốc. - Anh hai vào xem mạch sau ra nói: Bệnh của mẹ sâm nhung cao quế đã vứt đi, giờ là bổ trung cũng là loại bổ cả, khỏi sao được. Thằng này chỉ cắt một thang mai mẹ

40


khỏi cho mà xem.

- Thân phụ tôi thấy vậy bảo ngay: Chú đã quả quyết để cho chú cắt. - Tôi em út không dám có ý kiến. - Anh hai hăng hái lấy ngay giấy bút kê đơn. Bắt đầu ông viết chữ Đảng sâm (bằng chữ quốc ngữ). Tôi nói nhà có Dã sâm tốt hơn. Ông chừng mắt: Mầy ngu lắm, mẹ hàn, Dã sâm nó hàn có khỏi cóc. Anh hai viết xong không cho ai xem đơn thuốc cả, bắt tôi đi cân ngay. Tôi cầm đơn suy nghĩ toàn là phong thấp dược, người già chịu sao nổi. Tuy nhiên vẫn cân nguyên đơn, đem về đúng ý ông, ông bằng lòng sai người sắc ngay. Được nước đầu, tự tay ông bưng cho mẹ uống. Vài giờ sau, được nước thứ hai, cũng tự tay ông bưng cho mẹ uống và ông xem mạch. Khi ra, ông nói nhỏ với tôi: Sáng mai mẹ khỏi thật em ạ! Anh rờ vào mình mẹ đã dâm dấp mồ hôi. Song cả nhà ăn uống, chuyện trò hàn huyên rồi đi ngủ. Tuy nhiên, ông hai bảo đảm là “một thang mẹ khỏi” nên đêm đó ông nằm không yên, mặc dù đã có mấy bà dâu ngồi hầu. Nhưng ông vẫn luôn luôn ra vào thăm mẹ. Lúc gần sáng, ông mới dám khẽ hỏi: “Mẹ có thấy đỡ nhức chút nào hơn mọi đêm không mẹ?”. Người bảo: “Thuốc này đứa nào cắt đấy? Đêm nay tao thấy đỡ đau mà ngủ được đôi chút”. Dạ con cắt, ông hai mừng quýnh. Ông ra lấy rượu rót uống và ngả bàn đèn hút vài điếu chơi (chắc ông phởn). Sáng mai cả nhà thấy bà đỡ đau thật, vui mừng và vặn hỏi anh hai về y lý. Anh cả hỏi: “Chú cắt gì mà mẹ đỡ đau ngay vậy! Anh mừng lắm!” Thân phụ tôi cùng anh ba và các bà dâu xúm lại hỏi. Anh hai chắc tự nghĩ mình chỉ là y tá sang làm thầy thuốc ta, nếu nói sách vở không bằng anh và các em. Anh đang ngà ngà say lâng lâng mây gió, anh trả lời cộc lốc: Xà, tôi chả y lý, chả cước khí quái gì cả. Tôi chỉ cho là phong hàn và thấp nó cảm nhiễm vào, nó hành hạ mẹ, tôi hòa trung khinh tán là mẹ khỏi. Thể thôi! Các ông cứ cho là già thì khí huyết hư, cứ bổ cho nhiều, càng bổ càng bế, càng nhức thêm có khỏi cóc. Tôi tán phong hàn, trừ thấp đã, để mẹ uống vài thang nữa là khỏi hẳn, các ông tha hồ đem sâm nhung đại bổ cho mẹ uống. Bấy giờ mới đúng lúc phải bổ chứ.

- Hòa trung khinh tán là những vị gì? (anh cả hỏi). - Nhân sâm bại độc tán gia vị. (anh hai) - Gia vị là những vị gì, nói luôn đi. (anh cả)

41


- Thì thong thả nào đi đâu vội thế, chả “những” gì cả , chỉ có một vị thôi, (anh hai)

- Vị gì ? (anh cả) - Muốn để mấy ông đoán coi vị gì, nhưng ông nóng thì nói ngay là một vị Phụ tử.

- Ồ! Thế là Nhâm sâm bại độc tán gia Phụ tử. Kể cũng kỳ! - Kỳ với chả kỳ, hay là hơn, khỏi là hơn. Y lý cao sâu, không khỏi, nghĩ sao? (anh hai) Cả nhà cười!!! Thân mẫu tôi uống đơn ấy 3 thang, đi lại ăn ngủ, khỏe như trước, rồi uống thuốc bổ. Làm tiệc tung hô anh hai. Xong bắt tay vào lo lễ mừng thọ của cha. PHƯƠNG THUỐC: Nhâm sâm bại độc tán gia Phụ tử. Đảng sâm

3 đồng cân

Chỉ xác

2 đồng

Khương hoạt

3 đồng

Cát cánh

3 đồng

Độc hoạt

3 đồng

Xuyên khung

2 đồng

Tiền hồ

3 đồng

Bạch linh

3 đồng

Sài hồ

3 đồng

Cam thảo

1 đồng

Thêm Phụ tử đen 3 đồn , Sinh khương 3 phiến, Bạc hà 3 ngọn. Thang thuốc tổng cộng trọng lượng 3 lạng tầu bằng 120 g, sắc 2 lần uống. 1: Đổ 4 chén nước lã, đun còn 1 chén, gạn lọc uống 1 lần. 2: Đổ 3 chén uống còn 8 phân, uống 1 lần. Uống trong một ngày, uống trong lúc bụng không no, không đói. SUY XÉT: Muốn suy xét bệnh nhức chân và bài thuốc (nói trên) để tìm y lý, ta hãy đem hai bài thuốc Nhân sâm bại độc tán và Cửu vị khương hoạt thang ra đối chiếu tìm hiểu trong hai bài ấy có những vị gì và chủ bệnh gì?

42


Nhâm sâm bại độc tán đã nói ở trên. Đây là bài Cửu vị khương hoạt thang: Xuyên khung, Hoàng cầm, Phòng phong, Bạch chỉ, Khương truật, Cam thảo, Khương hoạt, Sinh địa, Te tản. Thêm Sinh khương, Đại táo, Thông bạch. Nói chung, cả hai bài thuốc đều trị ngoại cảm phong hàn thấp nhiệt. Nhưng nói rằng: Nhân sâm bại độc trị ngoại cảm thuộc “khí hư hữu thấp” vì trong đó có Nhâm sâm trị khí hư. Cửu vị khương hoạt trị ngoại cảm thuộc “huyết nhiệt sinh thấp” vì trong đó có Sinh địa trị huyết nhiệt. Cố nhân lập phương chủ trị rất có ý nghĩa khác biệt như vậy. Nếu ta gặp bệnh ngoại cảm mà không phân ra, phong hàn thấp nhiệt, huyết hư khí nhiệt hay khí hư huyết nhiệt mà trị thì vô hiệu. Nói về bệnh nhức chân của bà cụ: Hoàn cảnh gia đình hòa thuận thì không phải ưu tư mà suy tổn, an nhàn không xông pha ngoài sương gió thì không phải phong thấp thâm căn. Nhưng cụ đã lớn tuổi thì hẳn tỳ khí và thận khí có phần suy yếu, lại gặp lúc mùa đông giá lạnh thì hàn khí nó xâm nhập. Hàn khí đã xâm nhập mà tỳ khí hư không đủ chống đỡ thì sinh thấp. Phong hàn thì đau nhức.Thấp thì trệ, thì ủng tắc. Bệnh nhức chân của bà cụ thuộc “khí hư sinh thấp ” mà cũng là bệnh cước khí (phong hàn thấp khí chạy vào chân) thuộc tam dương kinh (tam dương kinh thuộc lục phủ). Bệnh ở lục phủ cũng là khí bệnh. Sở dĩ bệnh khỏi mau chóng là ông gia Phụ tử (Phụ tử tỉnh tẩu bất thủ) đếnó dẫn thuốc đi các kinh lạc mà trục phong hàn ra ngay vậy. Khí bệnh sinh thấp và cước khí thuộc tam dương kinh mà uống Nhân sâm bại độc là thuốc trị đúng bệnh, đúng lý, mà lại gia Phụ tử thì sự khỏi bệnh là cái lý tất nhiên. Ta lại muốn tìm hiểu tại sao bệnh nhức chân này đã uống Độc hoạt tang ký sinh và Toàn chân nhất khí thang lại không khỏi? Muốn vậy ta cũng phải đem hai bài thuốc ấy ra đối chiếu xem trong hai bài ấy có những vị gì và chủ bệnh gì? Độc hoạt tang ký sinh thang: Độc hoạt, Tang ký sinh, Đỗ trọng, Ngưu tất, Tế tân, Nhân sâm, Tần giao, Phục linh, Quế tâm, Phòng phong, Xuyên khung, Bạch thược, Sinh địa, Xuyên quy, Cam thảo. Thêm Sinh khương sắc uống. Chủ trị bệnh mỏi gò vai, lưng, co rút gân xương, yếu chân mỏi gối hay buồn tê

43


nhức nhối bởi thận khí hư nhược phát sinh. Toàn chân nhất khí thang: Thục địa, Nhân sâm, Bạch truật, Phụ tử, Mạch môn, Ngưu tất, Ngũ vị. Bài thuốc này chỉ có 7 vị, không được gia giảm nếu muốn gia thì chỉ được gia một vị Sinh đô trọng mà thôi. Chủ để bổ hỏa ở trong thủy, tàng dương ở trong âm mà tỳ thổ, phế kim, thận thủy cùng một khí hóa sinh, tự nhiên chân dương đi xuống, chân âm đi lên. Tâm với Thận giao nhau thấy rõ hình tượng “thủy hỏa kỷ Nhìn hai bài thuốc đó, nói chung thì đã có: Nhân sâm để bổ khí, Bạch linh để bổ tỳ thẩm thấp, Quế tâm, Tế tân để tán hàn, Phòng phong, Độc hoạt để khu phong tán thấp, lại cũng có Phụ tử để hành kinh lạc. Nhưng lại có Sinh địa,Thục địa là huyết dược, tính hàn trệ. Bệnh về khí bệnh mà uống huyết dược thì trì trệ thêm hơn. Tỳ khí là chính, đã trì trệ thì dù những vị thuốc kia có khu phong trừ thấp, ôn kinh tán hàn cũng không đủ sức cự lại. Bởi vậy, hai bài thuốc này chẳng những không khỏi mà còn đau nhức thêm là phải. Nói thêm về việc gia vị trong bài Nhân sâm bại độc: Đa số các vị y sư muốn gia vị vào bài thuốc này thì chỉ gia Phòng phong, Kinh giới hay Thương truật mà thôi. Nay ông không gia những vị ấy mà lại gia Phụ tử. Ke cũng là độc đáo mà vừa nghe cũng thấy lạ tai. Còn nói là lập luận chính xác hay hạnh ngộ thì không được biết. Nhưng dù sao ông cũng là một vị đông y có sáng kiến mới mẻ, mà cũng có tính cấp táo nữa. Để kết luận, biết rằng: Khí bệnh mà dùng huyết dược, huyết bệnh mà dùng khí dược cũng như thủy hỏa bệnh mà dùng thuốc khí huyết hay khí huyết bệnh mà dùng thủy hỏa dược đều là tréo cẳng ngỗng làm sao mà khỏi được. Lại như hàn thấp mà dùng nhu trệ hay hàn trệ mà dùng nhu nhuận dược thì cũng thế. Vậy làm thầy thuốc phải xét cho rõ cái bệnh lý, đến khi dùng thuốc phải xét cho đúng dược lý mới có thần diệu. Phải chăng?

44


13. MỘT DANH Y KHÔNG TRỊ ĐƯỢC BỆNH LỴ CỦA MÌNH (1936) Tôi được nghe một câu chuyện , ông Vũ Quang Lương người cùng làng với tôi. Ông mở cửa hàng thuốc ở ngã năm, gần nhà máy sợi Hải Phòng, yết bảng Quảng Tế đường “xem mạch trị bệnh nam nữ lão ấu”. Đã trên 10 năm, ông trị được nhiều bệnh, tiếng tăm lừng lẫy. Sách vở nhiều, y văn thụ huấn đông. BỆNH CHỬNG: Năm ấy ông khoảng 58 - 59 tuổi. Ông mắc bệnh lỵ phân đỏ, khi phân trắng đỏ lẫn lộn, ngày 5-7 lần, đêm 5-7 lần. Dĩ nhiên ông tự trị, ông uống nhiều những bài thuốc sơ khởi thuộc biểu chứng, rồi ông phân định: Hàn lỵ hay nhiệt lỵ, thử lỵ hay thấp lỵ, huyết lỵ hay khí lỵ... nhưng hàng tuần không khỏi lại gia tăng. Ông cuống quýt bắt mấy y sanh đem mục bệnh lỵ trong các sách (Y học tâm lãnh, Phùng Thị, Thọ thế và Cảnh nhạc) ra đọc, hết quyển này đến quyển khác để tìm y lý, bệnh lý và dược phương. Ông luận đúng bệnh, đúng thuốc thế mà ông uống hàng tuần nữa cũng không khỏi. Lại ngày đêm 1 5 - 2 0 lần, lý cấp hậu trọng, kém ăn, ít ngủ, mệt mỏi hơn. Ông nóng lòng bảo với bà: “Nguy quá! Lỵ mà thủy tương bất nhập thì nguy quá”. Lại đọc sách, lại cắt thuốc v.v... Sau được ông em trị hết. PHƯƠNG THUỐC Bình vị tán gia vị. 1. Thương truật: 3 đồng cân, để điều tỳ vị, trừ thấp, khoan trung. 2. Trần bì: 3 đồng cân, để hòa can vị tiêu đàm thấp. 3.Hậu phác: 3 đồng cân, để tiêu hóa cái khí đầy trướng. 4. Cam thảo: 1 đồng cân (nướng than cho chín) để điều hòa tỳ vị và ôn trung. Đó là bài Bình vị tán, còn gia vị: 5. Mạch nha: 3 đồng cân (sao vàng) để tiêu đờm và đưa hết phân ra. 6. Sơn tra: 2 đồng cân (sao gần cháy) để tiêu cả thịt và cũng là có phần chỉ lỵ. 7. Thần khúc: 3 đồng cân (chọn thứ chín nướng) để phá tích tiêu đàm, trừ phúc thống (chú ý vị Thần khúc ngoài thị trường tối đa là Thần khúc giả). Pháp chế Thần khúc chính: Chế vào ngày 6 tháng 6 hay trước giờ dần ngày tam phục mỗi năm. Rau răm 3 lạng, cỏ Thanh hao 6 lạng (lá, hoa, cây dùng thứ nào chỉ dùng một thứ), Thương nhĩ thảo (cây Ké đầu ngựa) 6 lạng, 3 vị này giã nát lấy nước tự nhiên.

45


Hạnh nhân 1 lạng, sao vàng giã dập nhỏ, Bột miến trắng 2 cân, Đậu đỏ 1 bát nấu chín nhừ, bóc bỏ vỏ, lấy nhân, giã nát. Xong lấy nước tự nhiên của 3 vị trên trộn với bột Hạnh nhân, bóp nắn Bột miến, bột Đậu đỏ cho dẻo, cắt thành từng miếng (to nhỏ tùy ý) rồi đem ủ như ủ men rượu. Khi nó mốc trắng là được, lấy ra phơi khô, để dành khi dùng sao qua cho thơm sẽ dùng. 8. Hoàng liên: 1 đồng cân, (chọn thứ tốt, tẩm nước gừng, sao vàng sẫm, cho giảm sức lạnh của nó), để thanh tâm nhiệt, sát cam trùng, trừ lỵ đỏ (nếu lỵ chỉ ra đàm mũi trắng không có lẫn đỏ thì bỏ Hoàng liên). 9. Mộc hương: 3 đồng cân, để tán tà khí, thông bĩ khí, chỉ phúc thống, khoan hung cách và cũng là kiện tỳ vị nữa. 10. Bạch thược-. 2 đồng cân (sao vàng sẫm), để bình can định thống và thu liễm hỏa khí. 11. Binh lang-. 3 đồng cân, để phá tích giáng khí và bài tiết không phải rặn. 12. Sinh khương: 3 phiến lớn, để dẫn thuốc mau tới các kinh lạc và khua động cho ấm nóng các thớ thịt, tức là nó tán hàn tà. 13. Đại táo: 1 hay 2 quả, để hiệp với Sinh khương mà tiêu thực và điều hòa dược chất. Tất cả đầy đủ, lấy nước sắc uống. Tóm lại, bài Bình vị tán để trừ thấp, điều hòa tỳ vị. Thần khúc, Mạch nha, Sơn tra để tiêu tích thực, thông khí. Mộc hương, Binh lang để định thống và trừ lỵ cấp hậu trọng. Hoàng liên thanh tâm Bạch thược bình can. Sinh khương, Đại táo tiêu thực và dẫn thuốc vào Tỳ Vị. Tất cả đều có tính cách kiện tỳ hòa vị, điều căn cố bản thì làm sao không chóng khỏi. SỰ VIỆC: Ông Vũ Quang Lượng và người em ruột là ông Vũ Chí Hiếu, hai anh em được cụ thân sinh trau rồi y thư, nho tịch và phương gia truyền kinh nghiệm rất nhiều. Ông anh tính tình thuần cẩn, siêng năng học hành, nghĩa lý uyên thâm. Ông em tính tình linh hoạt, học hành lấy lệ, mải mê theo đòi tân học.

46


Sau ông anh mở nhà thuốc ở Hải Phòng. Ông em đi tìm việc làm ở nha sở không được, nghĩ mình đã lớn, chưa có sự nghiệp lại thấy ông anh mở nhà thuốc đông khách phát tài, liền đến xin anh cho mở nhà thuốc. Tôi (ông anh) lạy chú, chớ làm nghề này, khó lắm, không chịu học mà cũng ra nghề, sát nhân vô đao kiếm, phúc nhà có bao nhiêu? Ông em thấy anh bảo vậy cũng ngàn ngừ e ngại. Nhưng thầm nghĩ mình thông minh linh hoạt hơn anh, lại cũng có thấm nhuần được ít nhiều kinh nghiệm của cha truyền. Ông nhất định mở nhà thuốc (cách xa nhà ông anh không cho anh biết) ở chợ Hải Phòng, yết bảng Hy Long đường “Nam nữ lão ấu, nội ngoại toàn khoa kiêm trị”. Sau đó mấy tháng, việc em mở nhà thuốc đến tai anh thì sự đã rồi, ông anh không tài nào dẹp được nữa (bấy giờ nghề thuốc là nghề tự do, ai muốn mở chỉ nộp môn bài là xong). Trớ trêu thay! Ông ra làm thầy thuốc được gần một năm, ông lại đông khách hơn anh, chữa đâu khỏi đấy. Danh ông nổi như cồn. Tiếng đồn “ông em hay hơn ông anh”. Tạo hóa đa đoan, đã trớ trêu lại càng trớ trêu hơn! Ông anh mắc bệnh lỵ, lay hoay chữa mãi không khỏi. Trong khi ông anh mắc bệnh lỵ, ngày nào sáng sớm ông em cũng tới thăm. Mấy ngày đầu sợ anh, chẳng dám nói gì. Nhưng khi thấy mấy y sanh đọc sách bô bô và thấy anh chị có vẻ lo sợ, ông em nói với bà chị: “Bệnh của anh thằng em này chỉ cắt một thang là khỏi, học cao hiểu rộng, nước đến chân, sự thiệt vào thân lại đem sách ra bô bô đọc thật là chán. Chị nói với anh đê em cắt thuốc cho mà uống”.

- Chú lên mà nói, chị chẳng dám nói. - Chị chả dám nói, thằng em đâu dám. Bàn đi, tính lại cũng cứ rụt rè không ai dám nói cả. Ông em ra về. Hôm sau lại đến nói với bà chị như vậy. 5 - 7 hôm nữa cũng cứ như vậy nữa. Tối hôm đó, bệnh lỵ nặng hơn. Bà chị nói với ông chồng: “Ông à, chú hai chú bảo bệnh ông chú trị chóng khỏi lắm, ông đổi tay để chú cắt thử một thang xem sao, chứ ông uống mãi thuốc nhà có khỏi đâu, lỡ nó quá ra thì sao? Lẩm cẩm gần tháng rồi đó”. Ông gắt lên bảo: “Thuốc như tôi lại còn có vấn đề đổi tay, mà lại đổi sang tay nó. Bà bảo tôi uống thuốc nó cho mau chết à!”. Cả nhà thấy ông gắt lên đều im lặng đi ra. Sáng hôm sau ông em lại lên thăm, lại nói với bà chị như mọi lần. Lần này nói lớn ngay giữa của phòng, có ý để anh nghe, rồi thừa lúc anh đau bụng bắt lỵ, lẻn vào phòng thẩm xét bệnh tình và ngầm bảo người nhà đem phân ra ngoài xem.

47


Khi ra về, ông nói với bà chị (có vẻ nóng giận bực mình): “Bà mà không nói với ông ấy để thằng này cắt thuốc cho mà uống, nếu có thế nào, bà chịu trách nhiệm nghe chưa?”. Bà chị lo sợ về tiếng nói của em chồng và cũng lo sợ về bệnh tình của chồng. Tối hôm đó bà buộc phải mạnh dạn nói với ông về cung cách và tâm trạng của chú em rất yêu anh không muốn để anh đau lâu, nhưng sợ “múa rìu qua mắt thợ” nên không dám nói. Vậy ông cứ để cho chú ấy cắt thuốc, biết đâu người lạ “phúc chỉ âm linh ” thì sao? Ừ hử! Ông tự nghĩ có phần mệt mỏi rồi, thần trí có phần kém thì thuốc thang cũng luẩn quẩn mà vợ nói cũng có lý. Ông đành bảo: “Mai nó có lên, bảo nó cắt thuốc cho tôi uống, mà nó cắt vị gì phải đưa tôi xem rồi sẽ sắc”. Sáng mai, ông em như thường lệ lại thăm anh. Bà chị thấy chú em, hớn hở vui mừng bảo: “Chú à, chị nói với anh rồi, gớm khó lắm, nói mãi anh mới bằng lòng để chú cắt thuốc đó. Chú vào xem mạch và định cắt những vị gì, nói cho anh nghe, anh bảo thế”. Ông em nói: “Chẳng phải mạch lạc gì cả, lỵ giả lợi dã, em cứ cho lợi là nó hết, còn về vị thuốc gì không thể nói ra được. Vì nói ra ông ấy chẳng chịu uống đâu, đã uống thuốc thì phải tin thầy chứ, không được hỏi vị thuốc. Nếu vậy, em phải sắc thuốc ở nhà rồi đem lên”. Nói rồi, vội vã ra về, cắt thuốc, sắc thuốc, đến chiều thân hành mang thuốc đến lên nói với bà chị hâm nóng lên đem cho anh uổng rồi ra về. Sáng hôm sau, ông lên sớm. Bà chị nói: “Này hay quá chú à, đêm nay anh có bót lỵ được vài lần mà đã ngủ được đôi chút. Thuốc uống hết rồi”. Ông mừng quá, quay về cắt thuốc, sắc thuốc đến chiều lại thân hành đem thuốc lên cho anh uống. Cứ như vậy, có 3 thang, bệnh lỵ của ông anh đã khỏi gần hết, uống luôn mấy thang nữa, bệnh lỵ khỏi hẳn, quay sang bổ tỳ mấy thang nữa là ông khỏe. Cả nhà vui mừng, chú hai ra về. Mẩy hôm sau, ông em lên chơi, gặp lúc ông anh đang ngồi ở y phòng pha trà uổng. Anh em tay bắt mặt mừng. Ông anh nói: “Anh đang mong chú, mời chú ngồi”. Ông em ngồi xuống ghế bành. Ông anh mời uống trà rồi nói: “Nhờ chú, hôm nay anh đã khỏe, có lẽ nào quên được hai chữ cám ơn”. Dạ! Em đâu dám, đó cũng là bổn phận và cũng là anh cho phép. Giờ đây anh muốn hỏi chú thật về thuốc, chú phải nói thật cho anh nghe nhá.

48


Dạ! Anh cứ hỏi. Chắc chắn là chú cho anh uống sái thuốc phiện, nên mới chóng khỏi như thế, có đúng không? Mấy hôm nay anh rất nghi ngờ về thuốc. Dạ thưa anh không, trăm phần trăm là không. Nếu em đem sái thuốc phiện cho anh uống, chả hóa ra em lang băm, lang vườn, lang vô học lắm sao. Em biết ràng trị bệnh lỵ thì “cửu giả khả cố, tận giả bất khả cố Nay bệnh lỵ của anh đâu đã phải hoạt lỵ, cũng không hẳn là hàn lỵ, và cũng chưa phải là cửu lỵ thì sao lại có thể dùng những loại sái thuốc phiện, Túc xác hay Kha tử mà cố sáp, mà vít nó lại được. Bất luận bệnh lỵ nào chưa nên cho vít mà đã cho thuốc vít lại thì lỵ độc ở lại trong bụng biến sinh ra nhiều bệnh khác, khó trị lắm. Nếu nó phát nóng mà mạch hồng thì phải chết. Có phải thế không thưa anh. Bởi vậy, em đã nói “lỵ giả lợi dã”, em dùng thuốc thông lợi để anh khỏi bệnh đó.

- Chú nói phải, bệnh lỵ của anh, bản hàn bán nhiệt, phúc trung giảo thông, nếu vít lại thì lỵ độc tác hại. Phải lắm, vậy chú vừa bảo chú cho uống thuốc thông lợi, chú cho anh uống Đạo trệ thang à ? - Dạ! Đâu có, bài Đạo trệ thang trong đó có vị Đại hoàng anh uống sao được. - Vậy chú cho anh uống thuốc gì mà chú bảo là thông lợi? - Thưa anh: Chẳng nói anh đã quá hiểu. Có phải sách dạy rằng: “ Phi tích bất thành lỵ”, nếu trong bụng không vì tích kết lâu ngày thì không thể phát lỵ được, phải thế chăng? Bởi vậy phải uổng thông lợi để phá tích kết. Nhưng thông lợi có hai cách: Thông uế chất và thông bĩ khí. Dùng Đại hoàng để thông uế chất, khác nào dội nước vào rồi lấy chổi quét ra. Dùng Hậu phác, Binh lang để thông bĩ khí, khác nào như bơm hơi vào để thụt hơi ra. Vậy chú cho anh uống thông lợi loại nào? Thưa anh: Thông bĩ khí thêm vào đó thẩm thấp, tiêu thực và vài phần thanh nhiệt. (Anh nói) Trong bài thuốc chú cắt cho anh uống những vị gì chú kể hết cho anh nghe, giải thích từng công dụng của mỗi vị và số lượng của mỗi vị nữa, được không? Bây giờ thì không dấu anh nữa chứ! Dạ thưa anh (vừa nói vừa tủm tỉm cười), em xin nói hết, phải hay không phải xin anh dạy thêm. Chú cứ nói cho anh biết đi.

49


Thưa bệnh lỵ của anh, bởi đã lâu nay, em thấy anh xông pha mưa nắng thăm bệnh cho người, làm việc tận tụy với lương tâm, ăn ngủ ít, thức khuya dậy sớm, suy nghĩ nhiều sinh ra nội hàn ngoại nhiệt, thanh khí bất thăng, trọc khí bất giáng, hàn nhiệt tương bác, bộ tiêu hóa không thông hành vận chuyển như thường mà phát bệnh lỵ thì bệnh lỵ ấy gần giống như bệnh lỵ của trẻ con, gọi là “cam lỵ”. Thưa anh có đúng thế không? Bởi vậy, em cắt Bình vị tán gia vị cho anh uống, chứ có phải mở sách tìm phương xa lạ nào đâu? Đây em xin kể hết cân lạng và công dụng của từng vị thuốc (như đã nói ở trên). Nhưng cái sự chóng khỏi đó phải là kịp thời gian tính. Nếu bệnh anh để thêm vài ngày nữa khí sức suy kiệt không chịu được thuốc ấy nữa. Bởi vậy, mấy ngày gần đây em đến thăm anh, em có gắt với chị, giờ em xin lỗi chị. Phải lắm rồi (anh). Em của anh khá lắm, thế mà lâu nay anh cứ coi thường ông em và còn giận ông em nữa. Thật anh không ngờ! Dạ! Nhưng tại sao bài thuốc này anh đã uống mà nó lại không khỏi, chã lẽ bệnh của anh mà anh không biết sao? Bài thuốc ấy anh đã quá hiểu (em nói). Nhưng thưa anh, vấn đề nó khỏi hay không khỏi nó còn thuộc vào “nhân tính” chứ không tại bệnh cũng không tại thuốc. Nhân tính là thể nào? Lạ tai quá (anh hỏi). Xà! Khó nói với anh quá, nhưng anh đã hỏi thì em phải nói: Khi anh em ta còn nhỏ, cha vẫn bảo: “Anh người đức tính thuần cẩn, em thì tính tình linh hoạt”. Bởi anh thuần cẩn, anh làm theo vương đạo, chính anh rụt rè với bản thân anh. Anh uống thuốc “y thủ úy vĩ”, ví dụ: Mộc hương anh sợ tán khí, anh theo cổ pháp, anh mài vào thuốc độ vài phân thôi. Binh lang, Hậu phác anh sợ hao khí huyết, anh chỉ dùng 1 đồng là nhiều. Mạch nha, Sơn tra anh sợ bào mỏng ruột cũng dùng rất ít... Thuốc đánh bệnh đã ít, anh lại còn sợ kiệt sức, rồi thêm Sâm, thêm Truật chẳng hạn để bố sức thêm. Thưa anh, con tàu ở trên cạn, bắt mấy đứa lực lưỡng túm vào mà đẩy thì nó phải đi. Nhưng nếu chọn rặt mấy thằng ốm bắt đẩy, đã vậy lại còn sai mấy thằng cường tráng giữ lại thì làm sao con tàu nó đi được. Bởi anh dùng thuốc cho anh cũng như vậy, cho nên mới bị mang tiếng “một danh y không trị được bệnh lỵ của mình”. Về phần em, những vị thuốc chủ bệnh, em dùng tới 2 - 3 đồng cân, để lấy sức nó

50


tiêu cho mạnh, trong đó chỉ có vài vị hòa dược, chứ không có bổ chi vội. Em làm mạnh ngay vài ba thang cho nó hết bén đi rồi sẽ cho uống Sâm linh bạch truật tán cho nó vừa tiêu vừa bổ. Sau đó, em dùng luôn mấy thang Bổ trung ích khí để đại bổ thì làm sao nó còn hậu hoạn. Như anh nay tuổi đã nhiều phải uổng vài chục thang Bổ trung nữa cho nó chắc. Chú nói phải, có lẽ lỗi tại anh. Nhưng chú vừa nói hậu hoạn thì hậu hoạn là gì? Thưa anh: sau khi bệnh lỵ hết có thể phát bệnh khác. Ví dụ: lỵ hậu khái thấu suyễn, lỵ hậu phù thũng, lỵ hậu hạc tất phong... Những hậu hoạn đó không đề phòng sao được “Thánh nhân trị vị bệnh, bất trị dĩ bệnh ” phải không anh? Ôi! Thế mà ta cứ khinh em ta, có lẽ ta mắc bệnh lỵ này là để ta biết đến người em yêu quý của ta chăng? Thật là “nan vi huynh”. Anh dạy quá lời, thôi em xin về . SUY XÉT: 1. Một gia đình theo cổ học, người cha đem đạo học nho y của mình đã thâu hoạch được nhồi nắn cho hai con, để sau này hai người con xuất thân trong y nghiệp cũng đều là người có thực học và chân tài cả. Vậy mà nghe thế tục có người nói: “Những người lớp xưa làm lang đa số thuộc loại không có nghề gì mới làm lang”. Nói thế là vơ đũa. 2. Trong một gia đình có tình huynh đệ hữu cung như vậy, cũng là một gia phong nề nếp đáng làm gương cho những gia đình nào ngược lại. 3. Điều đáng chê là người anh quá nghiêm khắc với gia đình và người em cũng quá sợ anh mình. Nếu cứ chấp nệ chữ nghiêm và cứ giữ lòng kính sợ mà không thông biến để trị bệnh cho người anh hay người anh cứ tự kiêu mà trị. Hỏi rằng bệnh anh sẽ ra sao? 4. Làm thầy lang dù học rộng hiểu sâu, nhưng do cá tính cẩn thận quá mà sinh ra do dự bất quyết thì việc trị bệnh cũng giảm hiệu năng mà những người thầy linh hoạt quá mức cũng lên hãm phanh lại cho vừa. Nghĩa là không nên vương đạo quá, mà cũng không nên bá đạo quá, phải tùy nghi, “khả bất khả vương”. Mới là chấp trung. 5. Những câu thành ngữ về bệnh lỵ: Lỵ thuộc thấp nhiệt, phi tích bất thành lỵ; lỵ giả lợi dã; cửu giả khả cố, tận giả bất khả cố; lỵ thân nhiệt, mạch hồng giả nan trị... cũng nên thuộc nằm lòng để phòng khi gặp bệnh lỵ mà trị mới mau kiến hiệu. 6. Những thầy thuốc đông y đang trị bệnh lỵ cho người nào đó và những người đang mắc bệnh lỵ hay những người mắc bệnh lỵ mới được khỏi đọc y thoại này có lẽ cũng thêm một vài phần suy luận nào chăng?

51


14. TRAI TRẺ CÒN CÀO ĐƯA LÊN NGựC (1937) TUỔI GIÀ CẢ NGƯỜI DỘP NHƯ PHONG CÙI (1970) Một người hai bệnh nặng khác nhau (thời gian cách xa 33 năm), cùng uống một bài thuốc đều được khỏi cả. Tại sao? Ông Lê Khắc Chỉnh hiệu là Nam Sơn, người làng Dịch Diệp, tỉnh Nam Định. Nội tổ làm lương y, được phong Điều hộ. Thân phụ là túc nho. Ông thông nho, giỏi nôm và chữ quốc ngữ, làm nghề da, khâu mui nệm xe ô tô sinh sống, ở phố Tiên Sinh Hà Nội. Ngoài giờ làm việc thích uống rượu, ngâm thơ và đánh bài mua vui, nhưng không hề chơi bời hoang đãng . Có vợ 11 con đều đã trưởng thành. Ông sinh năm 1899(Kỷ Hợi), đến nay 1978 ông tròn 80 tuổi, vẫn khỏe mạnh, đi lại làm việc như thường. Ông đi bộ 5 hay 6 cây số hay có khi ngồi cả ngày không đau lưng mỏi gối, không mệt mỏi. Người ta tặng ông ba chữ: “Nam sơn thọ”. Hiện đang ở số 91 phố Minh Khai, Hà Nội. CHỨNG BỆNH: Cồn cào trong ruột đưa lên ngực. Năm 1937, ông 39 tuổi, đang trong tuổi: “ tứ thập viết cường nhi sĩ”. Nhiều lúc ông đang ngồi làm việc, bất ưng trong ruột, nó cồn cồn cào cào, buồn buồn, xót xót, như đói mà không phải đói, rồi từ ruột đưa lên tức ngực, ứa nước chân răng, nhểu dãi ra, khó chịu lắm, phải bỏ việc làm, nghển lên mà vuốt ngực xuống. Lúc vớ được chút gì (cơm, cháo, bánh, khoai...) ăn vào thì nó hạ xuống ngay. Xong lại làm việc như thường. Mỗi ngày như vậy vài ba lần không chừng, bất kỳ là bụng no hay đói. Tuy nhiên, hằng ngày vẫn hai bữa cơm rượu, vẫn làm việc như thường. Trong thời gian ấy, đôi khi còn phát cơn sốt rét thì ngày hôm đó bỏ cơm, đại tiểu bình thường. Bệnh kéo dài 7 - 8 tháng, đã dùng nhiều loại thuốc. Nào bảo là thức khuya dậy sớm làm việc cần cù, ăn uống thất thường rồi lãnh tật bất tề mà sinh vưu trùng, đã uống Ô mai hoàn tử và Lý trung không khỏi. Nào bảo bệnh Tỳ vị bất hòa uống Bình vị tán không khỏi. Nào bảo là Tỳ vị hư hàn đã uổng Hương sa lục quân tử thang không khỏi. Nào bảo là vi trùng sốt rét (vì có một thời gian ông ở trong rừng) đã uổng nhiều loại thuốc tiệt ngược cũng không khỏi. Lâu ngày đã thấy trong người mất dần sức đi. Sau cụ Thụ Đức là đường thúc (chú họ) của ông cho uống Lục vị 10 thang, Ông khỏi, ông uống thêm Lục vị hoàn một tễ. Ông khỏe mạnh. PHƯƠNG THUỐC: Lục vị thang

52


Thục địa 6 đồng cân

Hoài sơn 4 đồng cân

Sơn thù nhục 3 đồng cân

Bạch linh 3 đồng cân

Mẫu đơn bì 3 đồng cân

Trạch tả 2 đồng cân

Thuốc cứ thế chẳng sao chế gì. Sắc lấy nước uống. (Bài Lục vị có mấy tên: Lục vị địa hoàng thang, Thận khí thang, Thận khí địa hoàng thang, Lục vị thận khí thang đều là một cả. Nếu thay đổi ra hoàn cũng vậy). Năm 1970, ông 72 tuổi, đã cao hơn tuổi “nhân sinh thất thập cổ lai hy”, ông mắc bệnh cả người, đầu mặt, tai mũi, mình mẩy, tay chân nó ngứa, cào gãi luôn tay, sứt thịt, rướm máu, phấn vẩy rơi ra đầy chỗ ngồi. Đêm không ngủ, sáng dậy lấy tay vơ vét chỗ nằm, vun gọn vào có đầy vốc tay toàn là phấn vụn trắng, trong người nóng uất muốn t tắm cả ngày. Tuy ăn ngủ như thường, nhưng cơn ngứa lên phải bỏ việc làm. Bệnh như vậy, vợ con cháu chắt gớm sợ. Anh em họ hàng đều bảo là cùi tìm cách xa lánh. Họ bảo ông này lây bệnh cùi vì nhà ông trước ở quê làng gần sát với miền thổ cư của người cùi xưa. Ông đã uống những loại thuốc thanh nhiệt, lương huyết, khu phong, sát trùng (tây tàu) đều không khỏi cả. Bệnh kéo dài đã 5 năm. Tháng 6 năm 1975, Định Ninh tôi là đường thúc của ông. Tôi chữa cho ông. Tôi làm một tễ thuốc cho ông uống và người con gái của ông cũng làm một tễ thuốc như vậy của tôi cho ông uống. Ông uống 2 tễ thuốc đó (tổng cộng 2 cân tàu, khoảng 1.200g) không ngứa, không dộp, người nhẵn trơn, da khỏe mạnh bóng sáng đến ngày nay. Ông nói trước mặt tôi: “Chú thật là cha tái sanh ra cháu”. PHƯƠNG THUỐC: Lục vị hoàn một tễ Thục địa 240g, chọn thứ tốt, cắt nhỏ tẩm nước gừng, sao khô Hoài sơn 100g, hấp trên mặt nồi cơm, đem ra cắt nhỏ, phơi khô. Sơn thù nhục 80g, bỏ hết hột, sao khô. Phục linh 80g, bỏ vỏ đen , cắt nhỏ. Mâu đơn bì 60g, tẩm rượu, sao khô, bỏ tim. Trạch tả 40g, cắt nhỏ, tẩm muối, sao khô. Tất cả đổ chung, tán nhỏ, dây nhỏ, luyện mật làm hoàn.

53


Mật mía nấu chín, có hơi đằng đặc, rót từ từ vào thuốc đã tán nhỏ ấy mà luyện đừng khô, đừng nhão, liệu cho vừa deo dẻo là được. Luyện xong, nắm lại, chia ra từng nắm, mỗi nắm 80g, chia làm 10 viên (mỗi viên 8g), sấy khô, bỏ lọ đậy kín. Mỗi ngày uống 2 lần (sáng tối), mỗi lần hai viên, uống với miếng nước nóng. Liên tục đừng gián đoạn. SUY XẺT: Một người, hai bệnh khác nhau, bệnh nọ, bệnh kia, thời gian xa cách nhau 1/3 đời người (33 năm) thế mà cùng uống một bài Lục vị đều được khỏi cả. Tại sao? Trước ta hãy suy xét: Bệnh cồn cào trong ruột, tựa như đói mà không phải là đói (tâm huyền tự cơ, phi cơ) tức là bệnh “tào tạp” triệu chứng sẽ phát bệnh phiên vị. Đã uống Bình vị và Hương sa lục quân. Lại như bất ưng khỏi từ ruột đưa lên lồng ngực (tim). Vậy thì là cái gì từ ruột đưa lên. Bảo là trùng đã uống Ô mai hoàn tử. Bảo là trùng sốt rét, đã uống tiệt ngược. Sao không thấy bảo là phong, đàm, hỏa khí mà cho uống thanh tâm hỏa, lương vị nhiệt, tiêu đàm, khứ phong lại cho uống Lục vị mà khỏi. Lục vị là thuốc bổ thận thủy, bổ dưỡng chân thủy cho mạnh để đè nén sức nóng của dương hỏa xuống cho thủy hỏa cân bằng (tráng thủy chi chủ dĩ chế dương quang và bổ thủy dĩ phối hỏa) mà ông này khỏi bệnh. Vậy thì bệnh cồn cào lên ngực là bệnh ở thận sao? Nhưng lấy nghĩa gì mà bảo là bệnh ở thận? Thận khí suy thì tim cồn cào như đói (thận khí suy, tũm huyền tự cơ). Thận có tích khí mà phát từ bụng, chạy lên phía dưới tim, khác gì như con heo động cỡn mà chạy bất kỳ lúc nào (Thận chi tích, phát vu tiểu phúc, thượng chí tâm hạ, như đồn chi bốn, phát tác vô thời). Vậy bệnh cồn cào lên tim này đúng là bởi thận. Cụ Thụ Đức cho uống Lục vị là cụ trị bệnh tận gốc (Trị bệnh tất cầu kỳ bản) cho nên phải khỏi. (Đến đây, cụ Thụ Đức đã là bậc Thượng y không phải là cụ Sâm hoài linh biển như trước nữa. Tiếc rằng cụ đông khách quá, nên những người làm bào chế sơ sài, làm cho thuốc có phần hơi chậm khỏi. Thế thôi). Giờ đây ta suy xét: Bệnh da dẻ dộp như phong cùi. Bệnh này rất dễ biết: Da dẻ thuộc phế (phế chủ bì mao) phế thuộc kim tính cay. Phế kim mà nhu

54


nhuận thì da dẻ tươi tốt. Phế kim cay nóng bốc ra bì phu thì làm nóng uất ngứa ngáy gãi dộp da dẻ. Tại sao phế kim khô nóng? Phế kim sinh thận thủy (con) ở dưới khô cạn thiếu nước thì rú bòn của phế (mẹ) ở trên cho đủ. Con rút mãi mẹ ở trên thì phải khô cạn sinh ra nóng thịt da, cào gãi tróc vảy. Đúng vậy, ta đem Lục vị bổ thủy cho thận, thận được đầy đủ chân thủy không quấy rầy phế nữa. Từ đó, phế được rảnh rang nhận lãnh nhưng tinh hoa bởi chất ăn uống vào từ vị đem lên tư dưỡng. Phế sẽ nhu nhuận tươi tốt thấm nhuần ra bì phu, làm sao không khỏi. Như vậy, đâu có phải dùng thuốc khu phong, sát trùng mà khỏi vì ông Nam Sơn đâu có phải bị cùi. Nói chung, một bệnh trong ruột, một bệnh ngoài da, hai bệnh khác nhau, đều là bệnh nặng khó trị. Nay tìm ra gốc bệnh ấy bởi thận. Bồi bổ cho thận đều được khỏi cả là thầy hay lắm mà ông này cũng gặp may lắm. Thật vậy! Tuy nhiên, ta cũng lên đặt vài câu hỏi: 1. Tại sao thận ông suy yếu? Chắc bởi hồi trang niên, ông cũng trác táng quá. Ông sinh 11 người con thì tinh khí trong thận cũng phải suy yếu đi mà cũng cần cù đếnuôi con nữa thì càng suy yếu thêm. 2. Tại sao ông mau khỏi? Chắc tại ông bấm thụ tiên thiên đầy đủ nên mới dễ bồi dưỡng mà mau khỏi. Thêm vào đó ông cũng được hậu thiên thực nhiệt nên mới thâu nhận được chất nhu nhuận của Thục, Thù mà mau khỏi. Nói thế ta thấy rằng: Nếu một bệnh này hay cả hai bệnh này hay bệnh gì khác đều bởi thận thì ta phải bố thận. Nhưng gặp người nào khác mà tỳ vị thấp trệ không chịu được chất Thục, Thù thì cũng khó mà khỏi lắm. Vì bổ thận âm thì Thục địa là duy nhất, nay người ấy không uống Thục địa thì lấy gì mà thay thế. Dù rằng Thục địa đã tẩm gừng sao khô. Lãn Ông ngài dạy rằng: “Thục địa sao hương, tỳ giai diệu phẩm”. Nhưng chính tôi đã dùng cho nhiều người tỳ hư hàn đều không chịu. Bởi vậy, bài Lục vị riêng tôi dùng rất ít. Vì Lục vị trị bệnh chỉ có công hiệu rất mau chóng mà bền bỉ với những người tiên thiên đầy đủ, hậu thiên cường thịnh mà thôi. Ngoài ra, Lục vị trị bệnh rất chậm không thích ứng ngay cho những bệnh muốn có công hiệu cấp tốc. Phải chăng?

55


15. MÔN THUỐC MÀI Mài thuốc cho uống cũng là một môn thuốc như môn thuốc thang, thuốc tán, thuốc viên.. .hay như môn châm cứu vậy, nhưng ở vùng này không có môn châm cứu. CÁCH MÀI THUỐC: Lấy một cái bát nhỏ (bằng bát ăn cơm hay lớn hơn một chút) trong lòng bát nham nháp (nghĩa là đừng láng, đừng nhẵn) để mài thuốc vào đó thì thuốc mới mau mòn, mau tan ra. Một chai, hay một bình, một bát nước lã để đấy. Khi mài thuốc, rót chút nước lã (một chút thôi) vào cái bát nháp ấy. Cũng có bệnh mài bằng rượu cho mau dẫn thuốc. Lấy một vị thuốc (mình cần dùng) mài vào cái bát nháp có nước ấy, mài nhiều hay ít, đặc hay lỏng tùy bệnh mà mình cần phải mài. Mài xong vị ấy, lấy tay gạt vét chất thuốc đã mài vào cái bát khác hay cái niêu cái xoong nhỏ nào đó để đấy. Lại mài vị khác xong, cũng gạt vét vào cái bát, cái niêu, hay cái xoong vừa đựng thuốc ấy. Xong mài mấy vị nữa (tùy bệnh phải dùng) cũng vét dồn chung cả vào cái bát đã đựng thuốc ấy. Khi mài xong, (vừa ý mình) đem cái bát thuốc ấy (hay cái niêu, xoong) để lên bếp than hồng cho nóng già hoặc cho sôi rồi đem cho bệnh nhân uống. Phần nhiều những thuốc thảo mộc thì đun chín, những thuốc kim thạch thì để sống. CÁCH GIỮ THUÔC Những vị thuốc để mài, mỗi vị một gói riêng một miếng vải nhỏ, bỏ chung vào một cái túi lớn hay để trong một cái cháp nhỏ (tùy tiện). Nhưng có người phân loại: -

Những loại kim thạch một túi: như Vàng sống, Hoạt thạch, Thạch cao, và Tam thần (Thần sa, Chu sa, Hùng hoàng) ...

-

Những loại thảo mộc một túi: như Phòng phong, Khương hoạt, Độc hoạt, Thương truật, Xuyên khung, Bạch chỉ, Cam thảo, Gừng, Giềng, Củ sả, Phong khương, Địa liền.

-

Những loại thuốc đặc biệt như Sâm, Nhung, Quy, Thục, Quế, Phụ …

-

Những loại sợ bay hương phải bỏ lọ một túi như Băng phiến, Long não, thuốc gió, thuốc trừ...

- Những vị nào mềm nhẹ, người ta chọn thứ tốt 2 - 3 cây, buộc chặt vào với nhau để mài cho chắc, buộc riêng vị nào ra vị ấy, như mấy cây Phòng phong, mấy miếng Khương hoạt....

56


Vị nào mài rồi, lấy khăn thấm khô rồi gói lại. Những vị thuốc gói vào miếng vải để mau khô và đỡ mốc, những người chuyên trị một môn nào đó, họ dùng ít vị, họ bỏ túi thuốc vào túi bên mình, đếnhờ sức nóng của người, thuốc vẫn được khô. Những người trị nhiều bệnh, dùng nhiều thuốc đôi khi phải đem phơi cho khô. Nói chung thuốc khô dễ mài, dễ biết chừng mực. Ý THỨC TRỊ BỆNH: Thầy thuốc mài nào cũng có ý thức riêng biệt, nào vì nhận định bệnh nặng nhẹ trước sau khác nhau, nào vì mài thuốc mỗi vị nhiều ít khác nhau dù cùng một loại bệnh mà tiếng đồn thầy này hay hơn thầy kia. Lại cũng vì tiếng đồn, tiếng hay đó để ăn tiền mà có thầy giấu giếm nhau một vài vị riêng biệt, cho là thần kỳ bí pháp không cho ai biết. Vậy thầy có môn thuốc mài cũng là dùng thuốc trị bệnh như các thầy trong các môn khác có chi là lạ. VÙNG NÀY CÓ BA THẦY THUỔC MÀI: Cụ lang Thanh ngoài 70 tuổi, người làng Thanh Hà (dưới sông) tóc bạc, râu dài, đẹp lão, tính tình vui vẻ. Khi xem bệnh nói lớn, rõ ràng dứt khoát, giỏi về môn tiểu nhi, đông khách. Túi thuốc mài có hai loại trẻ em và ngoại cảm. Cụ chỉ ngồi nhà đan lưới. Ai cần thì đến bè của cụ, kế bệnh cụ mài thuốc cho, rót vào chai lọ, đem về đun sôi lên mà uống. 1. Thầy lang Mừng tức Việt khoảng 45 tuổi, người làng Thanh Hà (dưới sông). Mập mạp đen bóng, tính tình vui vẻ, hiếu khách, hào phóng. Khi xem mạch nói giật dây mập mờ khó hiểu, chữa đủ mọi bệnh, rất đông khách, nổi tiếng.Túi thuốc mài có đủ loại. Thầy đi chài lưới quanh vùng nhà bè của thầy nhưng vẫn đem túi thuốc mài theo. Ai cần thì bơi thuyền tìm thầy. Thầy mài thuốc ngay đấy cho đem về đun sôi mà uống. Thầy còn kiêm cả môn thuốc thang, thuốc tán, thuốc viên nữa. Ai có bệnh cần mời thầy, thầy bỏ chài lưới đi về ngay, thầy hiện nay còn có cô con gái, là cô Mừng ở Xóm Mới, Gò vấp, Gia Định. 2. Ông lang Gấm khoảng 40 tuổi, người làng Sài Kẻ (Tuy Hiển, trên bờ) cao dỏng , trắng xanh, gầy yếu, tính tình chậm rãi, khi xem bệnh rủ rỉ trầm ngâm không rõ, chuyên trị bệnh trẻ con, ít khách.Túi thuốc mài chỉ có loại thuốc trẻ con, ông hay đi chợ phố Đồi buôn bán. Ông đem túi thuốc đi theo ai cần thì mài. Nói chung, ba thầy thuốc mài này, chỉ có thầy lang Thanh là thuộc mấy bài nôm về dược tánh, còn hai thầy kia là bắt chước học lỏm rồi quen tay nên nghề. Nói về bệnh: bệnh nặng như sài kinh, đau bụng, trúng phong... thì mời thầy đến nhà mài thuốc. Thầy phải ở lại trông chờ mài thuốc luôn luôn, bệnh đỡ mới về. (Dĩ nhiên khi ấy có cơm rượu). Bệnh nhẹ đến nhà thầy, thầy xem bệnh mài thuốc rót vào chai

57


đem về đun sôi mà uống. Mỗi ngày uống một lần thì đem một chai, nếu muốn uống 2 - 3 lần thì phải đem 2-3 chai, vì mỗi lần mài đều riêng biệt. Nói về tiền thuốc bấy giờ độ một xu hay xu rưỡi, 2 xu một chai là nhiều. Tôi đến vùng này thấy người ta hay dùng môn thuốc mài. Tôi theo đường lối tìm bệnh mà trị của Biển Thước: “Khi ông đến đất Hàm Đan, nghe người ta chiều chuộng phụ nữ, ông chế thuốc huyết đỏ, huyết trắng. Đen đất Lạc Dương thấy người ta kính trọng bậc già cả, ông chế thuốc sáng tai, sáng mắt. Đen đất Hàm Dương, thấy người ta yêu quý trẻ con, ông chế thuốc sài ghẻ, cam giun”. Đó là chịu theo sự cần dùng về thuốc của địa phương, hòng mau có tiếng hay lan rộng. Tôi cũng làm môn thuốc mài, soạn ra từng loại như mọi thầy, nhưng cũng có những vị sao tẩm riêng biệt. Tôi cũng được đông khách, vì dù sao về học thức tôi cũng trội hơn ba thầy ở vùng ấy ít nhiều. SUY XÉT: Dùng thuốc mài, kể ra rất giản dị, đỡ tốn thuốc, đỡ tốn tiền hơn các thứ thuốc khác. Khi cần, có thuốc dùng ngay không phải chờ đợi đun nấu như thuốc thang. Thay đổi thêm bớt ít nhiều, tùy nghi không cố định, như thuốc viên, thuốc tán. Lại tiện lợi cho những lúc đêm khuya hay ngày mưa gió xa chợ xa thầy có thuốc uổng ngay khi bệnh cần. Chỉ có những người thành phố quá cẩn thận, họ cho là tay mài bẩn, vải gói dơ, vị thuốc hỗn tạp hôi hám, mất vệ sinh, họ không dùng. Nhưng đã rửa tay, rửa bát trước khi mài, đã nấu chín là đã sát trùng, đâu có mất vệ sinh. Còn những người thôn quê mộc mạc dễ dãi, họ cho là mau chóng, tiện lợi, đỡ tốn tiền, nên họ ưu dùng. Thiết tưởng môn thuốc mài rất nên mở rộng.

58


16. BÀI THUỐC SẢN HẬU Bài thuốc sản hậu của mấy người thường chế ra bán cho những người mắc bệnh sản hậu ở vừng giáp rừng núi này uống. Bệnh sản hậu: Bệnh sau khi đẻ. Sau khi mới đẻ đứa con đầu lòng hay sau khi đẻ 5 - 10 đứa con khác mà có bệnh, gọi là bệnh sản hậu. Bệnh này nó có thể phát ngay hay mấy năm sau mới phát. Có khi ngay từ hồi trung niên hay đến khi tuổi giả mới phát đều gọi là bệnh sản hậu, chứ không phải tiếng nói "sản hậu" là bệnh ngay sau khi mới đẻ. Bệnh sản hậu là những bệnh gì ? Bệnh sản hậu do nhiều loại "khí, huyết, đàm, thực, thấp, nhiệt" liên kết với nhau, nên thăng lại giáng, nên giáng lại thăng, nên biến hóa lại đình trệ rồi hiệp với nội thương hay ngoại cảm thành uất, thành tích ở trong bụng làm ra: -

Trong bụng vẫn lên từng khúc ruột, khi đau, khi không. Tức ngực, đầy hơi, ợ ngược, vang váng nhức đầu.

-

Ăn không được, ăn vài miếng đã no, ăn rồi tức bụng, chỉ thích ăn vặt hay ăn chua, ăn ngọt, chứa đầy bụng giun.

-

Đàm nhớt hay hơi máu nóng xông đưa lên đóng chặt cổ họng, khác nào như hạt mơ, hạt mận hay như cục thịt nằm ngay giữa cổ họng, khạc mấy cũng không ra, nuốt mấy cũng không vào, nghẹn vít khó thở, làm mệt. Nấu được lúc nào thông cổ dễ thở thì khỏe một chút.

-

Trong bụng kết hòn, kết cục. Cục hòn ấy bằng hơi (khí), lấy tay nắn vào nó, đang ở chỗ này chạy chỗ khác, hay tan ra lát sau tụ lại. Cục hòn ấy bằng máu bằng thịt, lấy tay nắn vào, ở chỗ nào cứ nguyên chỗ ấy, làm cho kém ăn, ít ngủ, xanh xao, vàng yếu.

-

Ngủ chập chờn, thao thức rất khó ngủ, gần sáng mới ngủ được một chút thì mơ màng.

-

Tiểu, khi nhiều, khi ít, khi trong khi đục thất thường, mà đêm tiểu nhiều lần.

-

Đại, khi lỏng khi táo, khi như kiết lỵ.

59


- Người còn tuổi hành kinh, khi trồi khi sụt, không thông không đều, lại nhiều huyết trắng, huyết hôi. -

Người còn tuổi đẻ đã có bệnh ấy cũng khó mà thụ thai. Tất cả vân vân như vậy chẳng bị chứng nọ thì bị chứng kia là bệnh sản hậu. Nên biết thêm, bệnh sản hậu đã bởi "uất và tích " thì không chỉ những người đã

sinh đẻ mới mắc mà những cô không chồng, hay có chồng không đẻ đã có bệnh uất tích, tuy không hẳn là sản hậu, nhưng cũng thuộc loại sản hậu. Tại sao mắc bệnh sản hậu? Bởi khi mới sanh khí huyết vừa bị hao tổn, khí sức hãy còn non yếu, chưa ăn uống tẩm bổ để điều hòa cho quân bình như trước hay có phần tăng trưởng hơn mà có bệnh: Nào vì hoàn cảnh thiếu thốn không kiêng giữ được phải xông pha sương gió, dãi dầu nắng mưa để hòng no đủ mà cảm nhiễm vào. Nào vì hoàn cảnh dư thừa lại được chiều chuộng, ăn uống không chừng mực, những đồ ngon ngọt tống vào quá cỡ, không tiêu hóa kịp đình tích lại. Nào vì đơn chiếc, phải thức khuya dậy sớm, vất vả nuôi con, kém ăn ít ngủ, hao mòn khí huyết thêm. Nào vì ghen tức người chồng phụ bạc, ham mê hoa nguyệt mới lạ, bỏ bê chăn gối tình xưa "lá gan chồi lồng ngực", máu xấu ứ bào thai. Nào vì buồn giận chồng con bê tha bài bạc rượu chè, lười biếng công việc nhà cửa, khí tức xung lên. Nào vì máu dơ chưa sạch đã xông pha tắm gội cho nhiều đếngấm lạnh mà nước dư đọng lại. Nào vì máu non, sức yếu đã yêu đương chiều chuộng mặc tình mà tinh khí quấy phá tử cung. Nào vì những ngày hành kinh chưa sạch mà muốn đẹp dạ lang quân, cũng chép miệng đồng tình cho qua mà máu cũ tồn kho. Những cô gái chưa chồng hay những nàng thề nguyện chờ đợi ý trung nhân mà đóng cửa phòng the, thấy cảnh ngoại chồng con ríu rít mà lòng trong gan ruột quay cuồng, máu hồng đứng lại, nhớt trắng tràn ra, ăn vào nghẹn họng không tiêu, mình ngọc ngày đêm mòn mỏi, nghĩ lại tuổi già đã đến, lòng vàng luống những thở than.

60


PHÉP TRỊ: Phân loại mà trị mới là đúng phép, trong đó dưỡng chính trừ tích mới là hoàn hảo. Nhưng nói chung là nên "thanh khí khai uất, tiêu hóa đàm tích " mà thôi, không nghĩ đến thanh nhiệt giáng hỏa cho nên vùng giáp rừng núi này mấy người bán thuốc thông dụng một bài thuốc sản hậu. BÀI THUỐC: Hương phụ: 1 cân tầu Nam mộc hương: 1/2 cân tầu (Cân lạng nhiều ít tùy ý, cứ tính Hương phụ gấp đôi Mộc hương). Bài thuốc tuy trình bày có 2 vị chính, nhưng còn một vị nữa thuộc loại bí ấn và ý nghĩa điều trị khác nhau, nên tìm hiểu kỹ sau đây: Bào chế đúng phép, đổ chung hai vị tán nhỏ, rây nhỏ. Lấy giấy bản (giấy viết chữ nho) thứ tốt, loại dai, cắt từng miếng vuông, mỗi bề 3 phân tây. Xúc thuốc tán đổ vào giữa miếng giấy (liệu cho vừa) cầm 4 góc giấy dúm lại, thuốc ở giữa gọn thành cục, vê chặt đầu giấy, góc giấy vào với nhau, tựa như nụ bông cúc hay như cúc áo dài thời xưa, nên địa phương ấy còn gọi "thuốc sản hậu cúc áo". CÁCH DÙNG: Mỗi ngày uống 2 lần vào 2 bữa cơm (uống rồi ăn cơm ngay, hay ăn cơm rồi uống ngay). Mỗi lần uổng 1 viên hay 2 viên, sau uống quen thấy dễ chịu, mỗi lần có thể uống 3 viên. Bỏ viên thuốc vào miệng, lấy nước ấm nuốt ngay xuống, chớ nhai chớ động mạnh rách giấy, thuốc rơi ra đắng lắm. Thuốc này đắng và nóng, lại hơi say say, không uống lúc đói bụng được, phải uống trước hay sau bữa ăn cơm, đó là đếnhờ có hơi cơm mà không say, không nóng, lại mau tiêu nữa. Thuốc này là thuốc sản hậu, tức chủ trị bệnh khí tích, huyết tích, thực tích, tửu tích, trà tích, đàm tích, phòng tích v.v... bất luận già trẻ, trai gái đều uống được cả. Nhưng người già yểu suy nhược quá không nên uống và nhất là người có thai chớ uống. SỰ VIỆC:

61


(Xin lỗi, vài hàng dài dòng cho dễ biết chuyện) Trước ta hãy biết qua về cảnh tượng của những làng Đức Khê, Hương Tích, Yến Vĩ, Nông Khê qua Thanh Hà, Kẻ Sài tới Đồng Chiêm, Hang Nước v.v... dọc theo men núi vùng Mỹ Đức, Hà Đông. Nói chung, vùng này như một thung lũng, phía trước là sông Đáy, phía sau là dãy núi Trường sơn bao quanh. Hàng năm 4 tháng ngập lụt, 8 tháng khô cạn. Từ giữa tháng 4 (âm lịch) bắt đầu mùa mưa, thác lũ Trường Sơn trút xuống, phù sa sông Đáy chảy vào, tràn ngập lai láng khắp cả vùng, sóng nước mênh mông, nhìn những làng dân cư ấy giống như những cù lao trên mặt biển, đi lại phải có thuyền, có thúng. Những nhà bè làng Thanh Hà phải rải rác trú ẩn vào ven các làng để tránh mưa bão, sóng nước có thể đánh tan mảnh bè, nhấn chìm luôn cả nhà bè xuống. Mùa lụt xuống, người làng Thanh Hà và vài làng khác làm nghề chài lưới huê lợi về cá rất phong phú. Đến cuối tháng 8 nước dần dần khô cạn mói có đường bộ đi lại và lo việc cày cấy một vụ lúa chiêm. Sự buôn bán gần làng Thanh Hà có hai cái chợ. Chợ Sải (làng Tuy Hiền) một tháng 6 phiên vào những ngày 5 và 10. Chợ Sêu (làng Trinh Tiết) một tháng 6 phiên vào những ngày 2 và 6. Chợ Sêu rộng lớn hơn và đông đảo hơn chợ Sải. Tất cả cảnh tượng và phong tục vùng giáp rừng núi này khác với miền đồng bằng. Tôi ở nhà bè cụ Quỹ Hạnh làm thầy thuốc, tuy mới vài ba tháng, nhưng kể ra cũng có khách đến khẩn cầu. Tôi mua riêng một nhà bè đậu dưới sông Thanh Hà, sát bờ làng Nông Khê trên đất. Tôi cho cả vợ con vào làm ăn. Từ đó, cho đến hơi một năm tôi yên lòng vững dạ trong nghề, trị được nhiều bệnh, đông khách hơn trước. Rồi vì nhà bè nhỏ hẹp không đủ dung nạp, lại vì thân sức yếu không chèo chống nổi với mưa gió bão lụt, tôi thuê một căn nhà của bác Giảng (Nguyễn Văn Giảng) ở trên đất thuộc làng Nông Khê (sát ngay chỗ nhà bè cũ) cho vững chắc và rộng rãi. Tôi muốn nghề thuốc của tôi mở rộng hơn và thông hiểu nhiều khía cạnh về thuốc hơn nữa mới để cung cách làm thầy cho chu đáo. Tôi về Nam Định mua thuốc bắc (khi tôi ở Lác Môn với thân phụ, tôi mua thuốc của mấy người tầu đã quen) đem

62


vào Nông Khê. Tôi đóng hai gánh thuốc, cả hai vợ chồng đi bán ở hai chợ nói trên. Trong thời gian tôi ngồi bán thuốc ở hai chợ. Tôi thân thiện với hai bạn hàng (ông bà Hai My ở Đặng Giang và cha con ông Hai Si ờ Danh Xuyên) cùng bán thuốc ở hai chợ ấy. Trong khi tôi và ông bà Hai My bán thuốc tại chợ Sêu, thấy nhiều người hỏi mua thuốc sản hậu cúc áo mà mình không có. Sau tìm ra mới biết được người làng Sêu có ông Mục Rịch bán thuốc ấy ở trong nhà, còn bà vợ thì bán ngoài chợ. Chúng tôi tìm đến hàng bà. Bà để thuốc trong một cái thúng như thúng thuốc lào. Bà chỉ bán có một thứ thuốc ấy mà người mua rất đông. Chúng tôi mua mấy chục viên đem về. Ôi! Trong viên đó lại là thuốc tán làm sao phân tách mà biết ngay được trong đó có những vị gì? (Tam thế y bất chi hoàn tán dược). Nào ngửi, nào nếm, nào ngâm rượu, nào ngâm nước, nào đốt cháy, cào bới đủ thứ 2-3 ngày, cả hai nhà đều quyết đoán chỉ có 2 vị Hương phụ và Nam mộc hương mà Hương phụ nhiều hơn Mộc hương.Cả hai nhà cùng chế hai vị ấy làm viên cúc áo bán ở hai chợ. Thời gian chừng 6 tháng tuy có bán nhưng vẫn không bán được nhiều như bà Mục Rịch mà lại còn có tiếng đồn thuốc của bà Mục Rịch hay hơn. Sau chúng tôi hỏi dò người quen thân của bà Mục Rịch, họ cho biết thuốc bà bởi còn có một vị Hoàng nàn nữa. Tôi còn nói chuyện với nhiều người thông hiểu y học ở quê nhà, ai cũng bảo thuốc sản hậu phần nhiều phải có Hoàng nàn.Tôi bàn với ông bà Hai My làm thêm Hoàng nàn. Ông bà không làm. Tôi mua Hoàng nàn về chế rất cẩn thận, xong hòa chung Hương phụ 4 phần thì Mộc hương 1/2, Hoàng nàn 1/4 cùng tán dây nhỏ. Chiều hôm đó, xúc một muỗng con thuốc, trộn với cơm, cho một con chó nhỏ ăn để thí nghiệm, con vật ấy ăn nhiều, rồi kiếm chỗ đi ngủ. Mấy giờ sau, con vật chẳng kêu dẫy gì hết mà nằm chết cứng.Tôi sợ đổ đi hết, tiếc công, tiếc thuốc, chắc chắn không phải chế dối, chỉ tại trong tễ đó dùng Hoàng nàn 1/4 là nhiều, hay cho con vật ăn nhiều quá chăng ? Dù sao tôi cũng không dám làm Hoàng nàn nữa. Nhưng tôi không chịu thất bại . Tôi nghĩ ra: Hương phụ đếnén hơi máu uất tích,

63


Mộc hương thông tán hàn tích. Nếu chỉ dùng hai vị ấy để đè nén và thông tán thì hơi máu uất và hàn tích bị đè nén và thông tán ấy nó biết đường nào mà ra, tất nhiên phải có vị gì đó đùn đấy ra cho mạnh mới mau khỏi chớ. Tôi nhớ mấy năm trước, cụ lang Thuần dạy tôi "giải biểu thì phải phát hãn, công lý thì phải lợi hạ, tức là đánh giặc thì phải mở cửa cho nó ra". Ý nghĩa thuốc sản hậu này cũng phải vậy. Tôi chế Ba đậu thay Hoàng nàn, Ba đậu tuy rất nóng và rất độc, nhưng đã cho sao cháy hết hơi dầu thì đã giảm sức nóng và chất độc. Ba đậu có sức khai thông úng trệ, phá tan tích kết, thông tiểu lợi đại, nó thông hành rất mau cho ấm bụng ấm người chứ không đứng lại. Vậy nó cũng "tính tẩu bất thủ" như Phụ tử. Khi đã uống Ba đậu muốn thông trường thì uống nhiều nước nóng, muốn chỉ tả thì uống vài miếng nước lạnh. Ba đậu đi chung với Hương phụ để thông trường chỉ tả thì rất hợp tình. Ba đậu lại đi chung với Hương phụ, Mộc hương là hai vị ôn dược thì cũng rất đồng tình. Nói cho đúng, Ba đậu tuy là vị thuốc có tính cướp phá rất mau, rất mạnh, nhưng đã sao cháy hết dầu mà dùng rất ít trong một tễ thuốc thì công hiệu rất mau, mà lại khoan hòa, không sợ độc hại đối với người có bệnh sản hậu. Bởi vậy, tôi chế bài thuốc sản hậu này xong, tôi bán được rất nhiều. Bài thuốc sản hậu của tôi, cũng hai vị và cân lượng như trên, thêm Ba đậu (bào chế như nói sau) 3 đồng cân. Cũng đổ chung tán nhỏ và bao giấy như cúc áo. (Thiết nghĩ trong một tễ thuốc tán, có hai vị nhiều tới 1 cân rưỡi tầu, mà có 3 đồng cân thuốc đã sao cháy trộn chung cùng tán nát, đố ai có thể tìm cách nào biết được vị thứ ba. Vậy thì thuốc của ông Mục Rịch mà ta không tìm ra được có lẽ cũng như trường họp này). Lại còn bài thuốc sản hậu của bà Chánh Chắt, người làng Kẻ Sài (Tuy Hiền). Thuốc của bà cũng chỉ có hai vị: Hương phụ, Nam mộc hương mà ngược lại Nam mộc hương lại nhiều hơn Hương phụ. Cũng tán nhỏ bao giấy viên như cúc áo. Ngày nào có phiên chợ Sải, liệu chừng chợ họp đã đông, bà bỏ thuốc trong cái túi con, đi quanh chợ một vòng bán hết. Khi trở về mua đủ các món ăn cho gia đình. Sau

64


bà già yếu, con dâu bà đi bán. Như vậy, bài thuốc sản hậu này ở vùng giáp rừng núi có 4 người bán: Ông Mục Rịch ở làng Sêu, ông Hai My ờ Đặng Giang, bà Chánh Chắt ở làng Sải, tôi ở làng Nông Khê. Vậy thì bài thuốc này rất hợp với những người có bệnh sản hậu ở vùng ấy. CÁCH CHẾ THUỐC: Hương phụ: (củ gấu, cỏ cú) cắt bỏ rễ, rửa sạch đất, phơi khô dòn, bỏ cối giã nhẹ tay cho trụi hết lông rễ lớn nhỏ, lại đem rửa cho thật sạch, phơi khô, giã nát. Số lượng dùng nhiều hay ít tùy ý, chia làm 4 phần bằng nhau, tứ chế: 1 phần tẩm rượu, 1 phần tẩm giấm, 1 phần tẩm nước gừng (đừng pha nước lã), 1 phần tầm nước tiểu tiện trẻ em khỏe mạnh (không tẩm muối). Phần nào cũng tẩm cho ướt đẫm, để một đêm cho thấm hết nước tẩm vào thuốc. Sáng hôm sau phơi khô, sao vàng thơm. Mỗi phần đều tẩm, phơi sao riêng, xong sẽ trộn chung mà dùng. Vị cay, mùi thơm hăng, tính ôn, chủ để thông khí, giáng khí, hành huyết, phá trệ. Nam mộc hương tức Thanh mộc hương: (vỏ rụt, vỏ cây bùi tía) cạo qua lớp vở sần sùi ở ngoài, rửa sạch nhựa nhớt ở trong, cắt nhỏ, phơi khô không sao. Vị hơi cay, chất rất đắng, khí ôn, công dụng tiêu hơi, phá trệ, thông khí, sát trùng. Không có độc nên uống nhiều chỉ hơi cồn cào ruột và say say chút thôi. Không có mùi thơm như Bắc mộc hương, nhưng có tính trầm giáng hơn Bắc mộc hương. Khi tán loại non mỏng vỏ dễ tán, loại già dày vỏ khó tán, nhưng dày hay hơn mỏng. Hoàng nàn: (vỏ doãn) ngâm nước gạo đặc một đêm, đổ ra rửa sạch, gọt hết lớp vỏ sần sùi ở ngoài, lại ngâm nước gạo một đêm nữa, đổ ra rửa sạch, gọt cho thật hết sạch lớp vỏ vàng ở sát thịt bên trong, chớ để sót lại một chút gân vàng, vết vàng nào dù nhỏ cũng gọt hết đi, cạo xong ngâm giấm vài giờ. Đổ ra rửa sạch nhớt trong lòng vỏ, cắt nhỏ, phơi khô sẽ dùng, chớ sao. Lại những miếng có mấu, có khoen đều gọt bỏ đi đừng tiếc, chỉ lấy những miếng vỏ bằng phẳng mà thôi. Vị đắng, tính ôn, chủ để thông khí, phá tích, sát trùng.

65


Hoàng nàn có tên là vỏ doãn rất độc, chế dối, không biết dùng sẽ chết người. Nên cẩn thận, nếu không quen chớ nên dùng. Người đời thường nói: "Nhân ngôn, vỏ doãn". Vậy thì Vỏ doãn cũng độc như Nhân ngôn. Ba đậu: (hay Bã đậu, quả Mần để, quả Mần tẻ) sản sinh ở xứ Ba Thục bên tầu gọi là Ba đậu. Nhưng nó là quả Mần tẻ ở xứ ta, nó độc lắm, người ta chỉ dùng nó làm thuốc đánh bả chuột. Vậy gọi nó là Bã đậu cũng phải. Quả nó như hình trái táo ta, mỗi quả có từ 3 đến 5 múi, vỏ quả cứng, vỏ múi cũng cứng. Bẻ ra từng múi, đập bỏ vỏ cứng, mỗi múi có một hạt như hạt Thầu dầu, vỏ hạt đen hoặc vàng, vỏ ấy cũng cứng như hạt Thầu dầu, đập bỏ vỏ cứng này bóc lấy một nhân. Mỗi nhân có một lớp màng mỏng ở ngoài, nhẹ tay bóc đi. Mỗi nhân bửa ra có hai mảnh, như hai mảnh đậu lạc (phộng). Nhưng giữa hai mảnh ấy ấp vào nhau có một miếng màng trắng mỏng mà nhỏ gọi là tim. Nhẹ tay lấy tim ấy bỏ đi, chỉ còn lại hai mảnh nhân (trắng hay ngà ngà trắng) nhẵn sạch. Nếu nhân thối, nhân đen bỏ đi. Đe nguyên hai mảnh nhân (không phải đập nát bỏ đầu đi), bỏ vào chảo, sao cháy đen, khi nào không còn thấy xì ra chút khói nào nữa mới được. Vị cay mà nóng hơn cả ớt, chủ để thông tiêu trong bụng, trong ruột rất mau. (Khi gọt bửa vị này, dầu nó dính hai bàn tay, nhất là đầu ngón tay, rửa xà bông thật kỹ cũng không hết nóng cay ngay. Nếu sơ ý dụi vào mắt, mũi, miệng gì đó cũng bị cay nóng lâu lắm, nhưng không sao, rồi nó sẽ hết).

66


17. TRẺ EM ỈA CHẢY PHÂN TRẮNG NHƯ NƯỚC VO GẠO (Tả bạch) NGƯỜI BỆNH: Khoảng năm 1934, một em bé trai, ngoài 2 tuổi, sắc mặt tươi, người bụ sữa, con ông Phiến, người làng Hưng Nông (Nông Hạ) Mỹ Đức, Hà Đông. CHỨNG BỆNH: Ỉa chảy, đái ít, khát nước, người nhà cho nước uống, em uống cuồn cuộn, hai tay choàng ra vơ cả bát chén vào miệng mà nhai, nhai không có nước, trồi người lên dẫy dụa quấy khóc, khó mà bồng bế được em khi khát ấy, cho uống rồi muốn ụa ra mà ụa không được (ụa khan). Lát lại ỉa chảy ra phân trắng như màu sữa, như màu nước vo gạo mà vọt cầu vồng chảy ra như giội, ỉa xong xỉu đi vài phút, lại trồi lên đòi nước, lại ỉa, luôn luôn như vậy. Bệnh đã hơn một ngày. BÀI THUỐC: Cấp tốc lấy ngay chén gạo tẻ bỏ vào nước, vo lấy chén nước đặc cho em uống vài miếng. Liền đó tôi mài Hoạt thạch, Cam thảo cho uống, đồng thời sai người đào rễ dâu (dâu tằm ăn) rửa sạch đất, cạo vỏ vàng ờ ngoài, bóc bỏ lõi, chỉ lấy vỏ rễ, cắt nát, độ một nắm tay nhỏ. Gạo tẻ một muỗng con và Cam thảo vài miếng (ở trong túi thuốc mài). Bỏ cả vào siêu, đổ vài chén nước, đun mau cho chín, rót ra đếnguội. Em đang khát đó cho em uống, cứ cho uống đến thích. Nếu hai tay nó cầm lấy chén thì khi nó bỏ chén ra sẽ thôi. Em uống xong chén nước ấy nằm ngả trong lòng mẹ rồi ngủ một giấc ngon, khi thức dậy hai mắt sáng tỉnh táo, nhưng coi vẻ mệt mà không đòi nước, không ỉa nữa lại đái nhiều. Tuy vậy vẫn rót thuốc ấy cho em uống thêm. Bệnh như bão táp, chỉ một thang thuốc ấy mà khỏi hoàn toàn. Thật như thuốc tiên. SỰ VIỆC Hôm ấy, khoảng gần nửa đêm, có hai người trai trẻ tay cầm bó đuốc cháy sáng đến gọi cửa nhà tôi, tôi nhìn qua khe bờ rào thấy hai người đã quen, tôi mở cửa, cả hai người bước vào nói: Thưa thầy, chúng tôi ở Nống Hạ, ông Phiến có em bé đau bụng ỉa chảy nguy lắm, ông sai chúng tôi lên mời thầy, xin thầy làm ơn cứu cho. Tôi nghĩ từ nhà mình (Nông Khê) đến nhà ông (Hưng Nông) đường xa hơn cây số, đi bộ theo bờ đê, đường trơn, cỏ rậm, bẩn thỉu, lại trời tối mưa phùn. Nhưng ông với mình là chỗ quen thân, lại cứu bệnh như cứu hỏa liền bảo: “Các anh đốt đuốc nữa lên, tôi vào lẩy cái áo tơi và túi thuốc mài đi ngay”.

67


Tới nơi sạch sẽ, khô ráo qua loa, bước vào nhà. Ông Phiến ra đón chào mời vào phòng trong. Tôi bước vào thấy phòng quây kín, lại đốt một lò sưởi lớn giữa phòng, khói mù nóng nực, một ngọn đèn dầu không đủ ánh sáng. Tôi nhìn kĩ mới thấy mấy bà đang quây quần xoa dầu chườm bụng cho em bé. Tôi cầm lấy đèn lại gần xem cho em bé, em đang ưỡn người há miệng đòi nước, tôi nhìn thấy lưỡi khô, môi đã có mầu héo đen, tiếng khóc đã khàn khàn,ấn tay vào bụng em không đầy không cứng, biết là không phải đau bụng, liền đó em ỉa vọt ra biết rõ phân trắng . Rờ vào mình em nóng hâm hẩm, tay chân cũng ấm, xem chỉ tay màu đỏ đi cong queo qua phong quan đã thò đầu lên khí quan. Xem xong, tôi quay ra nói với ông: “Bệnh của cháu nặng lắm, nếu chữa thuốc mà lầm lẫn một ly sẽ nguy. Ông bà có bằng lòng để...” chưa dứt câu, bà Phiến nói ngay: “Chúng tôi biết bệnh cháu nặng lắm, từ hôm qua tới nay, đã uống mấy thứ thuốc chẳng bớt chút nào, mà bệnh còn nặng hơn, giờ mong có thầy, xin thầy chữa cho cháu”. -

Nếu vậy, xin ông bà cho bỏ ngay bếp sưởi, mở cửa cho thoáng và bảo người vo ngay chén nước gạo tẻ đặc cho em uống mấy miếng. Tôi mài thuốc cho em uống và bảo người đi đào rễ dâu (đất tơ tằm, nhà ông có vườn dâu).

Trong lúc người nhà đi đào rễ dâu. Tôi cầm đèn lại bàn tìm nước mau mau để mài thuốc. Nước chưa thấy lại thấy ngay vài ba cái chén bát còn dính cặn thuốc rặt mùi Mộc hương và Gừng với mấy lọ dầu nóng. Tôi nói với ông: “Những loại thuốc này chữa bệnh đều là giết người” vừa nói vừa gạt hết xuống đất vỡ choang choảng mà ông và người nhà không có ý gì tỏ ra bất bình, lại còn cho quét dọn đi. Sau đó có nước, tôi mài thuốc cho cháu và rễ dâu đem vào, rửa, cắt và sắc cho cháu uống như đã nói ở trên. Ke từ lúc tôi tới nhà ông Phiến, xem bệnh và có thuốc cho em bé đó uống, rồi em uống được khỏi bệnh ngay. Thời gian ấy chỉ trong một giờ đã đem lại không khí vui mừng cho ông bà Phiến và cả gia đình ông được nhẹ thở khoan khoái thật là mau chóng. Bấy giờ ông mới mời tôi lên nhà uống nước và nằm nghỉ. Nhưng tôi riêng nghĩ về bệnh ấy cho uống thuốc ấy là đúng y lý, tôi sung sướng và mừng cho nghề của mình, đâu có biết gì đến mệt mà nghỉ. Lát sau, ông cho bày tiệc thịnh soạn, ông và tôi ăn uống chuyện trò vui vẻ. Trong lúc đó tôi xin lỗi ông về chuyện mấy cái chén. -

Thưa thầy, nếu không gặp thầy thì cháu nó chết, việc ấy mới là việc lớn, chúng tôi biết lấy gì cảm ơn thầy.

Tiệc xong, trời đã gần sáng rõ. Tôi cáo từ ra về, ông bà Phiến nói những lời cảm ơn chân thành và cả gia đình ra tận cửa ngoài tiễn chân. Sau đó em uống thêm Sâm Mạch 3 thang để lấy lại sức (Nhâm sâm, Mạch môn, Ngũ vị, Cam thảo).

68


SUY XÉT: về bệnh tả bạch (ỉa chảy, phân trắng) trắng là màu sắc kim khí, Phế thuộc kim, màu sắc của Phế là sắc trắng. Bệnh này gọi là “Tả bạch”, hay “Phế tả” cũng là một. -

Hỏi tại sao Phế tả cũng như hỏi tại sao Bạch tả?

-

Bởi để trẻ em hít thở phải khí nắng hay cho chơi ngoài trời nắng vào tắm nước mát, khí nóng chạy vào (cảm thử) cho ăn đồ nóng hay sữa mẹ nóng làm cho Phế nhiệt phát tả. Tại sao Phế nhiệt lại phát tả?

-

Bởi nóng của Phế chảy nhựa trắng của Phế ra, cũng như kim khí bỏ vào lò lửa, kim khí chảy ra. Tại sao Phế tả mà chảy ra nhiều vậy?

-

Bởi Phế với Đại trường là đồng khí (Phế thuộc kim, Đại trường cũng thuộc kim). Phế tả thì Đại trường cũng tả, hai tạng phủ hợp nhau thì tả ra nhiều. Tại sao phải khát?

-

Bởi khi ấy Tỳ thổ khô nóng, không đủ sức sinh kim để kim sinh thủy. Nay lại thủy tả ra nhiều thì Phế kim cũng khô cạn nên phải đòi nước. Nếu lúc ấy ta không nhận kỹ “cứ thấy ỉa chảy là bảo Tỳ tả” rồi cho uổng thuốc ôn Tỳ lợi thủy, tất nhiên Tỳ càng khô cạn, càng khát vơ cả chén bát mà nhai cũng chưa đủ. Bởi vậy, Tỳ đã khô cạn lại còn tống thuốc ôn Tỳ lợi thủy vào thì càng khô cạn hơn mà lưỡi khô, môi héo đen. Lại cũng bởi kim không sinh thủy thì thận hỏa ở dưới cũng xung lên đòi nước. Tại sao tiếng khóc khàn khàn?

-

Bởi Phế thuộc kim, kim chủ để phát thanh. Khi đã ỉa ra nhiểu thì thủy khô cạn, thủy khô cạn thì Phế hết dầu hẳn là tiếng khóc phải khàn khàn. Tại sao đái ít?

-

Bởi Phế kim đã tả ra nhiều thì Phế khí suy không lưu hành mạnh mẽ cho nên đái ít (chư bệnh tiêu thủy bất đa, đại do phế khí bất hành). Vả chăng đã tả ra nhiều thì còn nước đâu mà đái, điều đó rất dễ hiểu. Thuốc tả bạch tán:

1.Tang bạch bì: 3 đồng cân, vị ngọt, khí hàn, tính sáp. Vị thuốc vào Thủ thái âm Phế kinh, chủ để tả Phế khí nhiệt, khứ Phế tà, bổ Phế nguyên khí. 2. Địa cốt bì: 2 đồng cân, vị đắng, tính hàn, chủ trị nóng ngoài da, tả thận hỏa.

69


3. Cam thảo: 1 đồng cân, chủ để tả hỏa giải độc. 4. Ngạnh mễ: (gạo tẻ) một muỗng con, chủ để điều hòa Dương minh Vị kinh. Nguyên phương chỉ có 3 vị trên . Nhưng tôi theo bài Gia vị tả bạch thang tôi thêm vị thứ tư. (Nguyên Phương ở Y học nhập môn quyển 7, mục phương thơ, nguyên phương này giả thích ý nghĩa rõ ràng ở mục ngũ bổ, ngũ tả trong quyển Đông y số điển của Định Ninh). Bệnh tả bạch uống ngay Tả bạch tán này là đúng lý. Nhưng trong lúc đêm khuya không đủ thuốc mà lại cấp thời, tôi bắt bỏ lò sưởi, mở cửa phòng để khử uẩn nhiệt cho nhẹ thở, cho uống nước vo gạo để giải những chất ôn nhiệt đã uống trước. Tôi lại cho uống Hoạt thạch, Cam thảo lấy ý nghĩa “thiên nhất sinh thủy” để giải thử khí, để tả Phế nhiệt và sinh thủy cho Phế hết khát. Tiếp đó, cho uống Tang bạch bì, Ngạnh mễ, Cam thảo (thiếu Địa cốt bì) để tả Phế hỏa, bổ Phế khí là khỏi. Đã giải độc, đã sinh thủy, đã tả hỏa và đã bổ Phế khí thì Phế nhuận mát hết khát, Phế khí lưu hành điều hòa thì đái nhiều tất nhiên không ỉa chảy nữa. CHÚ Ý: Thuốc này chỉ trị bệnh tả bạch, ỉa chảy phân trắng cấp tính là rất hay. Còn ỉa trắng đặc hay hơi lỏng sống phân, ngày đi vài lần, không khát nước, bệnh đã kéo dài 5 7 ngày, là Tỳ Vị hư hàn,ăn uống không tiêu phải uống thuốc ôn nhiệt kiện tỳ chứ không uống thuốc này được. Lại nên chú ý cho thật rõ ràng: Bệnh tả hoàng, ỉa chảy phân vàng là Tỳ Vị hàn, nên uống thuốc ôn Vị hàn; Bệnh tả bạch, ỉa phân trắng là Phế nhiệt, nên uống thuốc Phế nhiệt. Nếu tả hoàng mà uống lầm thuốc tả Phế nhiệt (tức bài thuốc này) sẽ ỉa chảy thêm lên. Nếu tả bạch mà uống lầm thuốc ôn tiêu Tỳ Vị sẽ khát và ỉa chảy thêm có thể nguy. Vậy khi gặp bệnh trẻ em ỉa chảy phải nhận định phân “trắng hay đỏ” rõ ràng, chớ hấp tấp, chớ coi thường sẽ đưa bệnh nhân đến chỗ khó khăn. Ngoài việc suy xét về bệnh, về thuốc nói trên. Nói về việc trong khi tôi trị bệnh cho em bé con ông Phiến này. Tại sao tôi lại vô tình hay hữu ý đập vỡ mấy cái chén bát của nhà người ta? Thưa khi mà tay tôi gạt mấy cái chén bát xuống đất, nào tôi có biết gì! Đến khi nghe tiếng vỡ choang choảng tôi mới sực tỉnh. Đó là bởi tôi đã dùng những loại thuốc Mộc hương và Gừng ấy trị một bệnh tả bạch của trẻ em, con một nhà khác để rồi vài ngày sau đổi tay sang thầy khác, cũng chịu nhìn để đứa bé ấy chết. Ôi! Việc ấy còn ghi mãi trong tâm trí tôi, nên khi mà tôi ngửi thấy mùi thuốc thơm ấy tôi giận trách mình, tôi run sợ mà nảy sinh ra cử chỉ bất thường, nào tôi có biết gì!

70


Từ sau một việc lầm đó, tôi gặp bệnh tả bạch của trẻ em, tôi trị được rất nhiều. Nói cái bệnh con ông Phiến này, tôi cũng quyết đoán rằng nhất định em uống này là phải khỏi. Thật đúng như lời. Đó cũng là việc làm “đền tội” mà tôi lại hãnh diện tự hào nữa. NGƯỜI BỆNH: Khoảng năm 1961, em bé trai tên Lâm, ngoài 3 tuổi, con ông bà Nhung ở 137/55 khu chợ sở rác, đường Phát Diệm, Sài Gòn. CHỨNG BỆNH: Ỉa chảy phân trắng, vọt cầu vồng, khát nước chỉ tay vào chén, chứ không la khóc. Bệnh đã hơn một ngày. BÀI THUỐC: Trước cho uống nước vo gạo. Liền đó, cho uống nước suối Vĩnh Hảo, sau uống một thang Tả bạch tán như trên, em khỏi. SỰ VIỆC: Hôm đó khoảng 8h tối, bà Nhung ra nhà tôi (nhà bà tới nhà tôi khoảng 200m) nói: cháu Lâm nó ỉa chảy mà khát nước dữ lắm, mời thầy vào xem cho thuốc cháu uống. -

-

Tôi vào ngay, nhìn thấy cháu đang đòi nước. Tôi hỏi, từ qua tới nay, cháu khát, ông bà cho cháu uống nước gì? Nấu nước gạo rang , chế nước Gừng cho uống, cháu uống nhiều lắm rồi mà vẫn khát. Tôi nhìn cháu sắc mặt hơi mét, rờ vào người không nóng, tay chân bình thường và những nốt cạo gió đỏ tím đầy người. Tôi hỏi, cháu ỉa ra phân thể nào, có tanh không ? Cháu ỉa ra như rót, mà phân trắng như sữa, không tanh ỉa nhiều, lát lại ỉa. Cháu có đái nhiều không ? Cháu đái ít lắm mà nước đái nóng. Từ qua tới nay, ông bà cho cháu uống những thuốc gì ? Tôi mới ra chợ mua một gói thuốc “tả cấp cứu” cho uổng hết hai lần. Đây là cháu bị bệnh tả, bởi trong người cháu nóng quá, xin hãy lấy ngay một chén gạo tẻ vo lấy nước đặc cho cháu uống để giải chất thuốc nóng đã uống trước, chớ cho uống nước gạo rang nữa và cũng chớ cho uống những loại thuốc nóng như Tả cấp cứu hay Lục thần hoàn, lại cũng chớ xoa dầu, cạo gió nữa.

Người nhà đem nước vo gạo cho cháu uổng. Tôi còn ngồi lại xem cử chỉ của cháu, thấy tả một lần thật đúng phân trắng, tả xong còn đòi nước. Tôi thoáng nhìn

71


trong tủ của ông thấy chai nước suối, tôi xin rót ngay nước suối kia một chén cho cháu uống. Xong tôi ra về hốt thuốc. Hốt thang Tả bạch tán như trên. Lát sau, tôi đem thuốc vào. (Ông nói) Sau khi thầy ra về tôi cho cháu uống một ly nước suối nữa, giờ thấy cháu nằm yên. -

Dạ. Thế là đúng rồi, hễ có đòi nước nữa cứ rót nước suối cho uổng. Đồng thời xin ông bà cho sắc thang thuốc này cho cháu uống.Tôi ra về. Sáng hôm sau, tôi vào sớm thăm cháu.

(Ông) Tối hôm qua uổng nước suối, cháu không tiêu chảy nữa, nhưng vẫn còn đòi uống nước mà uống ít thôi, từ lúc khuya sắc thuốc cho cháu uống vài lần, cháu không khát nữa. Giờ thì ngủ ngon không lăn lộn. Tôi chắc cháu khỏi rồi, vì khi cháu ngủ, tôi thấy hơi thở đã nhịp nhàng như lúc khỏe. (Bà) Cảm ơn ông thầy, nếu không có ông thầy mà nhà cứ cho đẩy thuốc nóng vào thì cháu chết. Hú hồn! SUY XÉT: Những bệnh tả bạch, tôi đều cho uống nguyên phương Tả bạch tán. Tôi trị được rất nhiều, không thể nhớ hết mà kể ra nơi đây. Nên tôi chỉ nói hai bệnh này làm điển hình. Nói về bệnh thì em số 1 nặng hơn em số 2. Ta khỏi bàn tới. Nói về thuốc thì cũng có điều SUY XÉT: Tại sao em số 1 uống thuốc Lục nhất (Hoạt thạch, Cam thảo) khỏi khát mà em số 2 uống nước suối cũng khỏi khát. Vậy thì nước suối cũng có công dụng sinh thủy như Lục nhất sao? Hay chỉ là bệnh nhiệt khát cứ uống nước mát là khỏi, chả cần phải Lục nhất hay nước suối gì cả. Lục nhất hay nước suối cũng chỉ là nước mát. Tôi thiển nghĩ: Lục nhất sinh thủy, nước suối dưỡng âm, âm thủy thịnh thì dương hỏa giáng, chứ không thể nói ẩu mà bảo hai thứ ấy chỉ là nước mát. Còn bài Tả bạch tán em thứ 2 uống đủ vị thì không phải bàn. Em số 1 uống thiếu vị Địa cốt bì mà cũng khỏi. Vậy thì trong đơn thuốc ấy có thể bỏ vị Địa cốt bì được chăng? Tôi thiển nghĩ: Địa cốt bì không thể bỏ được. Vì có Địa cốt bì mới tả được tà hỏa ở thận nó xông lên, làm nóng lớp da thịt, nóng trong xương, khát nước. Địa cốt bì còn lương huyết, chỉ khát nữa. Em số 1 uống thuốc không có Địa cốt bì mà cũng khỏi là may mà em không có bệnh tà hỏa ở thận. Nếu em có tà hỏa ở thận, nó xung lên đòi nước mà không có Địa cốt bì thì hẳn là cũng chưa khỏi. Vậy Địa cốt bì không thẻ bỏ được, dù

72


có tà hỏa ở thận hay không. Nói chung, bệnh tả bạch dù có uống nước vo gạo, thuốc Lục nhất, nước suối cũng chỉ là hỗ trợ trong lúc cấp thời, chứ không thể bỏ nguyên phương Tả bạch tán mà bảo rằng khỏi được. Vì trong phương ấy có Tang bạch bì là chủ yếu trị Phế nhiệt tả bạch. Một lần nữa xin nói quyết rằng: Trị bệnh tả bạch, chính mắt người thầy thuốc phải nhìn thấy đứa trẻ ỉa vọt phân trắng, không có mùi tanh mà khát nước mới uống được Tả bạch tán. Đã nhìn đúng mà cho uống thì khỏi ngay. Nên biết thêm: Bệnh tả bạch bất luận loại nào mà trị đúng thuốc rất mau khỏi. Bệnh tả hàn bất luận loại nào dù trị đúng thuốc cũng chậm khỏi.

73


18. THƯƠNG HÀN MỚI PHÁT, CÓ THỂ NGANG TẮT MÀ CHẶN ĐỨNG ĐƯỜNG TRUYỀN KINH CỦA NÓ ĐƯỢC CHĂNG?

Trường hợp 1 - UỐNG PHỤ TỬ MỌC MỤN ĐÙI NGƯỜI BỆNH: Cụ Ca Cầm gần 60 tuổi, người làng Hòa Lạc, Mỹ Đức, Hà Đông. Cụ hiền lành khỏe mạnh, làm nghề nông, tuy già mà vẫn rắt trâu ra đồng cày bừa. CHỨNG BỆNH: Người hơi sợ lạnh, phát nóng, nhức đầu, đau mình, cứng xương sống và kêu nóng hai con mắt, khó thở. Bệnh mới 3 ngày. BÀI THUỐC: Uống Phụ tử với mấy vị gì nữa không biết. Hôm sau hết nóng, tỉnh dậy, chỉ còn mệt mà người thâm đen. CHUYỂN BỆNH: Sau đó 7 ngày mọc ung nhọt sưng đỏ ở đùi, phát nóng rất dữ. BÀI THUỐC: Phòng phong thông thánh tán 3 thang, hết nóng. Tiên phương hoạt mệnh ẩm 6 thang tán hết mụn. Thác lý tiêu độc 5 thang, khỏe. SỰ VIỆC: Cụ Ca Cầm (hai chữ “Ca cầm” ta cũng nên biết qua cho rộng). Theo tục lệ làng vùng ấy: Ví dụ: Người cha tên A, khi có đứa con đầu lòng đặt tên B thì bấy giờ người cha tên A đổi sang tên con là ông B (tên con). Khi anh B có con đầu lòng đặt tên c thì bấy giờ người ông tên B đổi sang gọi cụ c (tên cháu). Nghĩa là cha có con thì lấy tên con gọi cha, ông có cháu thì lấy tên cháu gọi ông. Đây trường hợp cụ Ca cầm, Ca là tên con, Cầm là tên cháu. Người ta gọi luôn cả hai tên “Ca cầm”. Chính tên cụ là gì ít người biết (khi đổi tên chỉ lấy tên đứa con đầu lòng, bất luận trai hay gái. Nghĩ cũng vui, trong nhà ông, cha, cháu 3 người cùng một tên. “Ông A, anh A, thằng A” những lúc tranh giành chửi lộn nghe càng vui tai). Cụ Ca Cầm với cụ Lý Bá Trác (cụ Nguyễn Văn Trác) làm lý trưởng được bá hộ, người cùng làng, cùng xóm, lại chỗ thông gia. Tôi đến vùng ấy làm thuốc. Trước chữa bệnh cho mấy người trong gia đình cụ Bá, dần dần lan đến nhà cụ Ca cầm. Sau tôi hầu như gia sư của hai nhà ấy, khoảng đã hơn một năm. Khi cụ Ca cầm bênh, cụ Trác sai người chèo thuyền đến (Nông Khê) nhà tôi

74


mời tôi lên chữa bênh. Lúc ấy khoảng 8h tối (từ Nông Khê đến Hòa Lạc theo đường sông cong queo khoảng chừng 2 cây số) tôi cùng với một tiểu đồng tên Sáng túi thuốc xuống thuyền, đến nơi khoảng 9 giờ 30. Tôi xem bệnh cụ Ca cầm đang lên cơn nóng rất dữ, nhức đầu, đau mình, cứng xương sống, da thịt khô, còn kêu nóng con mắt, khó thở, mạch phù khẩn lại hơi cấp sác. Xem xong, cụ Bá mời tôi về nhà cụ uống nước. -

Thưa cụ, bệnh cụ Ca cầm thương hàn mới 3 ngày, thanh nhiệt giải biểu ngay vài thang là khỏi.

Tôi đang mở túi thuốc, đột nhiên xuất hiện một ông vào nhà cụ Bá. Ông thấy tôi và cụ Bá chỉ gật đầu, chẳng chào hỏi nên lời, rồi ông nhìn vào tôi hỏi có Phụ tử không? (hỏi buông lỏng). -

-

Có Phụ tử đây, tôi vừa nói vừa đưa ra. Ông giựt phắt ngay gói Phụ tử nơi tay tôi ra cửa đi luôn chẳng nói câu nào. Thưa cụ (tôi), thế là thế nào? Ông nào đấy, cử chỉ lạ lùng vậy à? (tôi thoáng nhìn ông ta là người cao nhỏ, khoảng ngoài 40 tuổi, quần áo luộm thuộm màu cháo lòng, điệu bộ nhanh láu táu, hấp tấp). Thưa thầy, người đó là một ông lang. Trước kia chúng tôi đây chưa được biết thầy, gia đình chúng tôi vẫn uống thuốc ông, ông lang Bồng. Đã lâu lắm không thấy ông đến, nay ông lại đến, có lẽ cụ cầm bệnh nặng, các cháu bên nhà ấy nó mời ông về chăng ? Xin lỗi thầy để tôi sang hỏi.

Trong khi cụ Bá đi, thầy trò tôi dọn túi thuốc; tôi giận mình và xấu hổ với tiểu đồng. Ôi! Lang với lổ gì thế này, mà các con cụ cầm và cụ Bá chẳng nói với mình một tiếng. Cụ Bá về: Thưa thầy, trong khi tôi cho người đi mời thầy, các cháu bên đó nó không biết, nó lại đi mời ông này. Ông này là ông lang Phụ tử, nên ông giật lấy gói Phụ tử của thầy. -

-

À! Thưa cụ, tôi nghe vùng này có ông lang Phụ tử, vậy là ông này, nay tôi mới biết, nhưng cũng chưa nhìn rõ mặt. Thưa cụ Bá, như vậy là cụ Ca cầm bên ấy bây giờ uống thuốc ông lang Bồng, xin cụ lưu ý, bệnh ấy mà uống Phụ tử có thể nguy à. Sao ông lang Bồng lại tự cao quá vậy, gặp bệnh khó thì bàn nhau mà trị có sao? Chẳng có tư cách gì, giựt gói Phụ tử ở tay người ta rồi đi mất dạng. Nếu vậy, tôi xin phép cụ, tôi về. Thưa thầy, việc này lỡ rồi, lỗi tại tôi mà cũng khuya rồi, thuyền bè hơi khó, xin thầy nán lại vài giờ. (Suy nghĩ lâu lâu) Vâng! Thầy trò đành phải nằm lại. Tuy nhiên trong tâm muốn ở lại xem bệnh và thuốc ấy biến chuyển ra sao? Tôi thầm nghĩ chắc ông lang này

75


chẳng mạch lạc gì, cho uống Phụ tử ngay chứ chẳng chơi, mà Phụ tử đi với loại nào? Khí dược, huyết dược, phong dược? Vài giờ sau, nghe mấy người nhà nói với nhau: “Ông cầm bớt nóng rồi mà sắc mặt người thâm đen lại”. Nghe vậy, tôi thầm nghĩ: Thân nhiệt mạch hồng, thì phải thanh nhiệt phát hãn, đã không phát hãn lại cho uống Phụ tử. Phụ tử là loại tẩu tán kinh lạc sao lại đen người lại, chắc ông này cho uống Phụ tử trong thuốc “ tiệt ngược” . Tiệt ngược mà có Phụ tử thì chặn cơn nóng càng mau. Cơn nóng chặn lại thì tà nhiệt vào máu mà đen người lại. Nếu vậy mà bệnh khỏi thì Phụ tử tiệt ngược nó chặn đứng đường truyền kinh của thương hàn sơ chứng sao? Nhưng hỏi rằng tà nhiệt ấy nó đen người lại rồi nó đi đâu?”. Trời đã gần sáng rõ thầy trò xin phép cụ Bá ra về. Cụ còn giữ lại làm cơm. -

Cảm ơn cụ, xin cụ cho về. Hôm nay tôi còn có phiên chợ Sêu. Nghe vậy, cụ Bá thân ra tận bến đón thuyền cho về.

Ngồi thuyền tôi thầm nghĩ: Sao mình lại đưa gói Phụ tử cho người ta giật lấy, hầu như muốn làm nhục mình? Sao lúc ấy ngu quá vậy. Bao năm làm thầy thuốc, trường hợp này là một, từ đấy trở đi, mỗi khi nghĩ đến hãy còn căm giận. Đó cũng là một bài học. Tuần lễ sau, anh Ca con cụ Ca cầm lại xuống nhà tôi mời tôi lên xem bệnh cho cụ. -

Thôi cảm ơn anh, mời tôi làm gì? Tôi không đi đâu. Tôi đi để ông lang Bồng làm nhục, mời anh đi về mời ông lang Bồng (tôi chẳng hỏi cụ bệnh gì). Anh xin lỗi, van nài mời đi.

-

Nhất định không đi. Anh về, vài giờ sau, chính cụ bá Trác thân hành đến xin lỗi và mời đi. Tôi trọng cụ, ra đi với cụ.

Đến nơi cụ Ca cầm đang lên cơn nóng như trước và người nhà mở chăn chiếu vạch đùi bên phải của cụ để xem cái mụn đỏ sưng to bằng quả xoài lớn ở phía trong đùi gần háng, nhìn thấy mà sợ cho sự đau nhức. Nghĩ lại chuyện cũ, nhìn sắc người cụ không đen mấy nữa. -

Thưa cụ Bá, hôm trước tôi đã trình với cụ, bệnh cụ đây mà uống Phụ tử nên lưu ý. Bây giờ bệnh lại là do Phụ tử tác hại. Thưa thầy, tôi có nhớ lời thầy dặn cậu ấy.

76


-

Giờ ông lang Bồng có đây không các anh? Thưa không.

-

Chắc khi cụ nhà đau lại, các anh có đi mời, nhưng ông không đến phải không? Mấy anh đều im lặng.

-

-

-

Giờ các anh làm ơn cho tôi biết thật rõ ràng, sau khi cụ uống thang thuốc đầu tiên mà ông lang Bồng lấy gói Phụ tử của tôi về cắt thì bệnh cụ biến chuyển ra sao để tôi tính thuốc cắt cho cụ uống bây giờ. Thưa thầy, sau khi uống thang thuốc đầu tiên, cái nóng hạ xuống dần dần thì sắc người cũng thâm đen dần dần. Người tuy có tỉnh mà kêu cổ như nghẹn, muốn ọe mà ọe không ra và mệt phải lấy hơi mà thở, lại bảo trên đầu như say say chứ không nhức đầu. Được rồi, cám ơn anh. Thưa cụ bá và các anh, bệnh cụ bày giờ uống thuốc không mau khỏi được như trước vì ông già 60 tuổi, bệnh nặng nó vật cho hai làn thì sức phải yếu đi, chống lại được với bệnh có phần khó khăn. Thuốc chỉ có thể bớt dần dần. Ngoài ra cả nhà còn phải kiêng tránh không cho những người dơ dáy vào thăm, cái mụn nó thâm đen lại thì nguy. Bây giờ xin cụ cho người theo tôi lấy thuốc. Tôi về cắt Phòng phong thông thánh tản, 1 thang.

Sáng hôm sau, anh Ca xuống sớm nói cụ con uống thuốc vào đi cầu một lần được nhiều và dâm dấp mồ hôi, đã bớt nóng. Tôi cắt hai thang như thế nữa nhưng bỏ Đại hoàng, Phác tiêu. Hai hôm sau, anh Ca lại xuống sớm nói: Cụ con đã hết nóng và đã tỉnh táo, đã đòi ăn, chỉ còn cái mụn sưng đau. Tôi thấy cần phải lên xem cái mụn. Tới nơi, cụ đã ngồi dậy chào hỏi tử tế. Tôi xem cái mụn, tuy còn sưng nhưng không nóng mấy. Tôi về cắt Tiên phương hoạt mệnh ẩm, 3 thang luôn. Nhưng sắc bằng nước lã không sắc bằng rượu, chỉ mỗi khi uống chế vào chút rượu mà uống. Sau 3 ngày, anh Ca xuống nói: Cái mụn của cụ con nay chỉ to bằng quả trứng gà mà ngứa lắm. Tôi cắt luôn 3 thang như thế nữa. Mấy hôm sau tôi lên xem lại. Cụ đã đi lại, ra vào được mà cái mụn chỉ còn như cái hạch không đau nhức gì cả. Tôi về cắt mấy thang Thác lý tiêu độc. Cụ khỏi hoàn toàn. SUY XÉT: Nói về bệnh và thuốc khi mới phát. Nóng mình dữ dội, không phải nóng hâm hâm, nhức đầu, cứng xương sống, là bệnh thương hàn còn ở Thái Dương kinh, nóng hai con mắt, khó thở là bệnh đã chuyển

77


vào Dương Minh kinh, tức là hai kinh dương hợp bệnh, mạch phù khẩn hơi cấp sác, bệnh mới 3 ngày vẫn còn là biểu chứng. Bệnh như vậy chỉ Cửu vị khương hoạt thang hay Tứ vật hợp với Tiểu sài hồ, thêm Phòng phong, Khương hoạt vài thang để thanh nhiệt phát hãn là khỏi, có gì đâu mà rắc rối lôi thôi. Nhưng chắc ông lang Bồng không cho là thương hàn sơ chứng, ông bảo nóng lạnh ấy là thương hàn ôn ngược nên ông kiếm Phụ tử. Luận về chứng sau khi uống thuốc ấy như nghẹn ở cổ, muốn ọe ra mà không ọe được và trên đầu nó như say say, hẳn là ông dùng Thường sơn để tiệt ngược. Thường sơn mà dùng sống thì nó phát thổ và say say. Trong bài tiệt ngược thường có những vị: Thường sơn, Binh lang , Thảo quả, Thương truật, Hoàng cầm, Trần bì, Thanh bì, Mạch nha, Sơn tra, Bạch linh, Bán hạ, Mộc hương, Cam thảo v.v... Nếu ông dùng tiệt ngược thì thế nào cũng có Thường sơn và một vài vị gì trong đó rồi có thêm Phụ tử. Bệnh nóng thuộc thương hàn sơ chứng rõ ràng, vì từ trước vẫn khỏe mạnh, có cơn sốt rét nào đâu mà bảo là ôn ngược rồi cho thuốc tiệt ngược. Kể ra cũng đáng sợ. Nhưng tại sao nó lại rứt cơn nóng ngay? -

Bởi Thường sơn chặn lại. Tại sao chặn lại không phát hôn mê mà lại thêm đau người?

Bởi ngoại tà muốn chạy vào thì Thường sơn chặn lại. Ngoại tà bất xuất, bất nhập thì đứng lại ở cơ nhục mà thâm đen người. Nếu khi hàn tà ở cơ nhục mà thâm đen người ấy, ông cho tán hàn hành huyết có lẽ cũng khỏi. Nhưng cứ cho uống tiệt ngược thì hàn tà ấy biến thành nhiệt độc mà dồn lại phát ung ở đùi. -

Ôi! Ngoại tà thâm đen rồi dồn lại kết ung độc ở đùi là may mà sống. Nếu thâm đen ấy biến thành nhiệt huyết thì phải chết, mà chết thì bảo là bệnh nặng quá không cứu được, chứ ông lang nào nhận lỗi. Nói về bệnh và thuốc khi tái phát: Khi cụ Ca cầm tái phát bênh nóng nhức đầu, đau mình này là do độc kết làm mụn ở đùi tay lên, chứ đâu có còn là thương hàn thái dương sơ chứng nữa. Tuy nhiên, bệnh trước bị Thường sơn chặn lại, Phụ tử chấn động thì dù sao ngoại tà vẫn còn lảng vảng trong người chưa sơ tán hết mà nội nhiệt hãy còn chứa đựng rất nhiều chưa thông hoạt được thì khí huyết ngưng trệ, biểu lý đều thực, cho nên tôi cho uống Phòng phong thông thánh tán đại tễ một thang, để giải cả biểu và lý. Tiếp đó uống 2 thang nữa (mà

78


bỏ Đại hoàng, Phác tiêu) để còn phần ngoại tà nào thì giải tán cho hết mà thông hòa huyết mạch. Như thế, tuy chưa trị ung độc mà là đã trị. Sau khi con người đã giải biểu, đã hòa trung, bấy giờ mới đem Tiên phương hoạt mệnh ẩm 6 thang mà tán ứ tiêu thũng, sắc bằng nước lã, chế chút rượu vào uống, không sắc bằng rượu, sợ chất rượu có thể nội nhiệt chăng? uống như vậy là đúng lúc, là vừa với sức người, cho nên không làm nung mủ mà tan hết. Kế đó uống Thác lý tiêu độc tán 5 thang để bồi bổ khí huyết cho người già mà bênh nặng đã hai lần hầu lấy sức lại. Bệnh nặng lúc gần khỏe mà ngờ rằng còn dư độc chăng thì bồi bổ khí huyết nhiều mà tiêu độc ít để khí huyết thắng độc, làm sao không khỏi bệnh để được khỏe mạnh. Thưa, trị bệnh hàn nhiệt tái phát, kết độc làm ung của một ông già trước sơ tán, thông hoạt rồi tán ứ tiêu thũng, sau bồi bổ khí huyết mà tiêu dư độc. Như thế, trị pháp có được là tuần tự mà đúng cách chăng? Nói về ông lang Bồng và nhà bệnh: (Điều này chẳng cần nói ra đây cho nhàm tai, nhưng cũng nên lướt qua để biết cách đối xử khi gặp lúc y trị nào khác mà ứng biến cho tinh) Cụ Ca cầm đã mời tôi trước, không uống thuốc tôi, lại uống thuốc ông lang Bồng là người đến sau. Đó là ông lang Bồng đến đấy lấy thế làm quen thuộc đã lâu, hấp tấp vớ lấy mà chữa, chứ cũng chẳng phải nhà bệnh trọng thầy này chê thầy kia. Khi ông lang Bồng giựt gói Phụ tử đi mất dạng, chắc ông tin ràng bệnh này có Phụ tử thì phải khỏi. Tiếc rằng không được gặp ông để đối nhãn, đối nhĩ mà hỏi ông bệnh này tại sao ông cho uống Phụ tử? Có lẽ ông không trả lời chính xác được, hay ông có biện luận cách nào chăng nữa cũng không thể thuận lý mà lọt tai. Vậy thì ông chỉ là thầy có một môn trị “sốt rét rừng” thêm Phụ tử mà thôi, chứ có học hành gì! Thiết nghĩ, chẳng chỉ trường hợp này, còn nhiều trường hợp trái khuấy nữa, nhưng ông thầy không chịu học mỗi khi gặp bệnh khó không còn tài gì khác hơn là lấy Phụ tử làm cẩm nang để khoe hãy coi chừng! Ông lang Bồng làm như vậy tỏ ra ông rất lỗ mãng, thiểu lịch sự xã giao trong y giới mà làm cho tôi và cụ bá Trác với nhà bệnh lúc ấy có phần ngỡ ngàng khó xử vậy. Còn về nhà bệnh trong lúc đêm khuya sợ rằng bệnh nặng của người cha có khó khăn cách nào chăng, nên đã mời thầy nọ, mời thầy kia để sinh phiền hà. Thực ra chỉ lòng hiếu thảo mà thôi, không đáng trách. NHỮNG BÀI THUỐC:

79


Phòng phong thông thánh tán: Phòng phong

3 đồng cân

Cát cánh

2 đồng cân

Bạc hà

2 đồng cân

Bạch truật

3 đồng cân

Xuyên khung

2 đồng cân

Kinh giới

3 đồng cân

Xuyên quy

3 đồng cân

Hoạt thạch

5 đồng cân

Cam thảo

2 đồng cân

Thạch cao

3 đồng cân

Sơn chi

2 đồng cân

Đại hoàng

3 đồng cân

Liên kiều

2 đồng cân

Sinh khương

Hoàng cầm

3 đồng cân

Phác tiêu

3 phiến 3 đồng cân

Để Phác tiêu ở ngoài. Còn tất cả đổ vào siêu lớn. Sắc 3 lần. Lần thứ nhất đổ 5 chén nước, đun còn 1 chén đầy, bỏ Phác tiêu vào quấy tan mà uống 1 lần. Lần thứ hai, đổ vào 4 chén nước đun còn 8 phân uống. Lần thứ ba đổ vào 3 chén đun còn 6 phân, uống. Sau đó, 2 thang nữa, mỗi ngày một thang (bỏ Đại hoàng, Phác tiêu), sắc như thường mà uống. Người bệnh uống lúc nào cũng được, không cần no đói (bài thuốc này ở mục Thương hàn dụng dược trong Y học nhập môn quyển 3). Tiên phương hoạt mệnh ẩm: Xuyên sơn giáp 3 miếng lớn sao vàng. Tạo thích

2 đồng cân

Một dược

2 đồng cân

Quy vĩ

3 đồng cân

Thiên hoa phấn

2 đồng cân

Cam thảo

2 đồng cân

Phòng phong

2 đồng cân

Kim ngân hoa 3 đồng cân

Xuyên bổi mẫu

3 đồng cân

Xích thược

3 đồng cân

Bạch chỉ

2 đồng cân

Nhũ hương

2 đồng cân

Trần bì

2 đồng cân

Tất cả đổ chung, lấy nước sắc uống thang, mỗi lần uống chế vào chút rượu. Thác lý tiêu độc tán: Sa sâm Xuyên khung Bạch linh

3 đồng cân

Cam thảo

1 đồng cân

2 đồng cân

Hoàng kỳ

4 đồng cân

3 đồng cân

Tạo thích

2 đồng cân

80


Xuyên quy

3 đồng cân

Cát cánh

2 đồng cân

Bạch truật

3 đồng cân

Ngân hoa

2 đông cân

Bạch thược

3 đồng cân

Bạch chỉ

2 đồng cân

Tất cả đổ chung, sắc lấy nước uống. (Hai bài trên ở mục Thũng dương chủ trị phương trong Y tôn kim giám quyển 2).

Trường hợp 2: UỐNG BÌNH VỊ TÁN CẦM ỈA (chết) NGƯỜI BỆNH: Năm 1921, anh tôi Lê Xuân Quảng 24 tuổi, đỗ Tổng sư, dạy học ở kinh Lũng, Nam Trực, Nam Định. chứng.

CHỨNG BỆNH: BÀI THUỐC:

Huyết phủ trục ứ thang: Xuyên khung, Xuyên quy, Đào nhân, Đại hoàng, Xích thược, Cam thảo (bài thuốc này tôi không nhớ ở sách nào). Anh uống 2 thang không ỉa ra máu, chỉ ỉa lỏng, chờ vài ngày cầm hầu như tự lợi, cho uống Bình Vị tán (Thương truật, Hậu phác, Trần bì, Cam thảo), thêm Bạch linh để cầm ỉa. Không cầm được ỉa, sinh hôn mê (chết). SỰ VIỆC: Anh Lê Xuân Quảng, anh ruột thứ tư của tôi, người anh vừa tầm thước, trắng trẻo, đẹp trai, hào hoa phong nhã, lại có số đào hoa, tính tình linh hoạt, giao du nhiều bạn bè, nhiều người trên (đốc học, điển học). Khi anh dạy học ở kinh Lũng, trọ ở một nhà thầy lang. Thầy lang này là anh họ, mở hiệu thuốc gần bến đò kinh Lũng, đặt tên hiệu là Tụ Đức (có vẻ như tiếng Thụ Đức để lấy ảnh hưởng tiếng thầy thuốc hay của ông “ Sâm Hoài Linh Biển”)! Khi anh Xuân Quảng uống Huyết phủ trục ứ để hạ, lại uống Bình vị để cầm, không cầm mà phát hôn mê, thầy lang anh họ sợ cho người đến Lác Môn Trại (nơi thân phụ tôi trọ làm thuốc) nói với thân phụ tôi (từ kinh Lũng đến Lác Môn Trại đường bộ chừng 15 cây số, không có xe). Thân phụ tôi và tôi tức tốc đi ngay. Đen nơi, nhìn người hôn mê không biết gì luống những đau lòng. Thân phụ tôi hỏi:

81


Bệnh tình em lúc ban đầu thế nào? Anh cho uống thuốc gì mà hôn mê thế này? Thầy lang anh họ nói đầu đuôi: Trước em nó nóng lạnh nhức đầu, con cho uống Huyết phủ trục ứ. Em cứ đi ỉa vài lần hạ cơn nóng. Con đã mừng. Sau ỉa mãi không cầm, con cho uống Bình vị cũng không cầm, rồi đêm hôn mê, con sợ, cho mời ông. Thôi! Thương hàn sơ chứng, anh không phát hãn, chắc anh bảo “hàn năng khấp huyết” lạnh quá, máu nó đông lại phát nóng. Anh cho uống Huyết phủ trục ứ, đến khi thái dương chứng bị thuốc đẩy qua Dương minh vào luôn Thái âm mà tự lợi, anh cho uống Bình vị tán cầm lại, nhiệt tà ở lại phát hôn mê chứ gì? Ông anh lang họ im lặng. Ôi! Trục ứ đẩy ra, Bình vị giữ lại! Anh đã giết em rồi! (thân phụ tôi kêu to như vậy hai lần). Anh học chớp nhoáng, anh cẩu thả, anh mải chơi, anh còn hại người nữa (tôi viết đến đây ngấn lệ). Liền đó, thuê xe trở về (đường xa hơn 10 cây số) đến nhà thì chết.

Trường hợp 3: UỐNG THỪA KHÍ PHÁT NÓNG MÊ CUỒNG (chết) NGƯỜI BỆNH: Anh Nguyễn Văn Sơn, ngoài 40 tuổi, làm nghề nông, người làng Lác Môn Trại, Trực Ninh, Nam Định. CHỨNG BỆNH: Cảm sốt nóng lạnh, nhức đầu, đau mình, cứng xương sống thuộc thương hàn sơ chứng. BÀI THUỐC: Cửu vị khương hoạt thang: Xuyên khung, Hoàng cầm, Phòng phong, Bạch chỉ, Thương truật , Cam thảo, Khương hoạt, Sinh địa, Tế tân, Sinh khương, Đại táo , Thông bạch. Uống một thang chưa khỏi, anh uống Đại thừa khí thang (Đại hoàng,Chỉ thực, Hậu phác, Mang tiêu). Một thang hết nóng. Sau lại phát mê cuồng, chết. SỰ VIỆC: Anh Sơn cảm sốt, nóng lạnh, nhức đầu, đau mình, bứt rứt khó chịu mới hai ngày. Anh cho người lên mời cụ (thân phụ) tôi đến chẩn trị (cụ tôi trọ làm thuốc ở làng ấy). Cụ tôi đến xem, chứng bệnh như trên, cắt Cửu vị khương hoạt một thang. Sáng hôm sau cụ tôi xuống xem lại, anh chưa bớt, cắt cho anh một thang như trước nữa. Sáng hôm sau nữa, cụ tôi lại xem, thấy anh đã bớt nóng ra ngồi ở nhà ngoài. Anh nói: Hôm qua con uống một thang thuốc giải của ông lang khác, nay đã hết nóng, con dễ chịu. Thang thuốc thứ hai thầy cắt cho con, con còn để kia (câu đó ta nên

82


hiếu nhà bệnh không tin thầy thuốc trước nữa). Cụ tôi hỏi: Ai cắt thuốc giải (hạ) cho anh vậy? Bã thuốc có còn không, cho tôi xem. Thưa, còn kia. Cụ tôi xem rõ Đại hoàng, Hậu phác, Chỉ thực. Cụ tôi hỏi: Anh uống thuốc vào đi giải mấy lần? -

Con uống hai lần, đi giải hai lần, mỗi lần nhiều lắm, nhẹ bụng hết nóng, hết cả nhức đầu, mát mẻ dễ chịu. Anh à! Nếu ngày mai phát nóng dữ hơn trước, anh đừng mời tôi nhá. Cụ tôi về (tay cầm luôn thang thuốc cũ). Con thấy dễ chịu, không phát nóng nữa được.

Cụ tôi về đến nhà, vứt thang thuốc xuống bàn bảo: Thang thuốc hôm qua anh Sơn không uống, anh lại đi uống thuốc giải rồi. Đại thừa khí thang, chả biết ông lang nào cắt, hỏi anh không nói. Liền đó, cụ bảo tôi:Thương hàn sơ chứng thì phải phát hãn, không phát hãn lại hạ (Đại thừa khí thang là thuốc hạ) dẫn tà nhập lý, chỉ trong 1,2 ngày sau nó sẽ phát nóng lại rồi mê cuồng cho mà xem. Khi đã nóng lại mà mê cuồng thì thuốc tiên cũng không chữa được. Quả nhiên, hai hôm sau, anh Sơn phát nóng lại, anh cho người lên mời cụ tôi. Cụ tôi bảo: Tôi đã nói có phát nóng lại đừng mời tôi mà. Nay còn mời, tôi không chữa được đâu, về nói ở nhà mời ông khác. Sau đó mấy ngày nghe tin anh Sơn mất. (Trường hợp này, trong thời gian tôi làm thuốc sau này cũng có gặp một hai lần, nhưng họ chỉ vội vàng mua thuốc xổ uống mà họ cũng chết).

SUY XÉT CHUNG ĐỐI VỚI BỆNH THƯƠNG HÀN Biểu chứng: Còn ở 3 kinh dương thì nên phát hãn. Bán biểu, bán lý chứng: Ở kinh dương trước đã bước sang kinh âm nên hòa giải. Lý chứng: Đã vào 3 kinh âm thì nên cho hạ. Đó là phương pháp chủ yếu có tuần tự không thể ngang tắt mà trị được. Bệnh số 1: Thương hàn Thái dương biếu chứng nên cho hãn. Đã không cho hãn lại dùng thuốc “tiệt ngược” đứng lại. nó muốn ra, không cho nó ra, bắt nó đứng lại, nó phải đi vào, lại dùng Phụ tử đuổi ra. Nó ra không được, cũng không vào được, nó phải đứng sững ở phần giữa cơ nhục mà thâm đen người lại (màu đen là màu sắc hàn khí, hàn khí vào thì màu thâm

83


đen) rồi dẫn độc làm ung thì may mà sống. Đó là “thất hãn”, bỏ mất cơ hội không cho ra mồ hôi đúng lúc để tán tà. Mồ hôi không ra thì truyền đi kinh khác làm bệnh. Bệnh số 2: Đã biết bảo thương hàn là “hàn năng khấp huyết” tức là hàn khí nó làm hại máu, hao máu. Khi máu đã vì hàn mà hại, mà hao thì phải tán hàn mà cứu nguy cho máu (ấm huyết) mới phải. Nhưng đã không cứu nguy cho máu, lại còn đem “huyết phủ trục ứ” mà khu trục máu, cho hại thêm. Đó là cái lầm thứ nhất (nhất ngộ). Đến khi đã vì thuốc khu trục ấy mà hạ lợi quá nhiều thì âm đã kiệt, lại đem “vị kinh” mà thấm cho âm kiệt thêm. Đó là cái lầm thứ hai (tái ngộ) Sau lại bảo “trực trúng âm kinh” mà hạ lợi thì ôn tỳ để thắng tà. Nhưng đây đuổi tà từ dương kinh vào âm kinh mà nó hạ lợi đâu có phải là trực trúng. Khi tà đã đuổi vào âm kinh mà hạ lợi, lại đem “Bình vị” mà đóng cửa lại không cho nó ra, tất nhiên nó phải “thượng công lên tim’’’mà cuồng loạn. Đó là cái lầm thứ ba (tam ngộ). Một bệnh thương hàn sơ chứng mà dùng thuốc trải qua “nhất ngộ, tái ngộ, tam ngộ” vặt đi, vặt lại ba lần đều sai phạm quan trọng cả làm sao mà sống. Bệnh số 3: Thương hàn biểu chứng thì phải phát hãn. Tức là khi ngoại tà nó mới xâm nhập bì phu cơ nhục làm nóng lạnh thì phải dùng thuốc cho ra mồ hôi mà đuổi nó ra ngay là yên. Thế thôi. Nhưng không cho ra mồ hôi để đuổi ngoại tà mà lại cho uống Đại thừa khí, cho uống thuốc tẩy (sổ) để cơm nước ở tràng vị thoát ra hết. Ngoại tà nhân cơ hội-bụng không, ruột trống ấy tràn vào nội tạng. Khi ngoại tà mới tràn vào nội tạng thì da thịt ở ngoài mát mẻ. Kẻ bệnh và người nhà tưởng như đã hết nóng lạnh,đã khỏi bệnh. Nhưng không, nó đang lập đội ngũ phân công đem lửa hun đốt nung nấu tạng phủ ở trong cho chín. Khác nào như bọn giặc cướp đang hăm he đe dọa ở ngoài cửa thì chủ nhà và mọi người trong nhà phải cố thủ rồi tìm cách đánh đuổi nó ở bên ngoài, bắt nó phải đi ngay là êm, lại mở cửa sau cho nhà chủ và mọi người trốn đi đếnhà trống. Bọn cướp nhân cơ hội nhà trống tràn vào nhà. Khi giặc cướp mới tràn vào trong nhà thì cửa ngoài đóng kín bất động. Kẻ nhìn bề ngoài tưởng như không có chuyện gì xảy ra. Nhưng không, nó đang lục soát, quấy phá đồ đạc trong nhà cho tan. Đó là “ngộ hạ ” nhận lầm mà cho thuốc hạ, tức là “ bất khả hạ nhi hạ” không nên cho hạ mà cho hạ. Nghĩa là bệnh nên cho hãn mà cho hạ là lầm. Vì đã hạ rồi thì trong trống rỗng, ngoại tà nhân chỗ trống ấy mà ùa vào biển sinh những chứng nguy hiểm như tim buồn phiền, máu đông lại, khí không thông, tất cả kết chặt ở bụng. Thuốc

84


nào cũng khó mà trị được. Như vậy, trị bệnh thương hàn biểu chứng phải theo chứng, theo mạch, theo kinh đã truyền đến đâu mà hãn, mà hòa để tán tà, chứ không thể dùng đường lối ngang tắt nào có thể chặn đứng đường truyền kinh của nó được. Như 3 trường hợp trên, 3 thầy đã tiệt, đã trục, đã hạ là đã ngang tắt mà chặn đường của nó lại. Nhưng tiệt là “thất hãn” , trục là “ vong âm”, hạ là “ ngộ hạ” đã không chặn được lại đi đến hối hận. Thiết tưởng 3 thầy ấy đã lỗ mãng mà mang lấy 4 chữ “Y năng vô đề” vào nghề của mình.

85


19. SAY THUỐC PHIỆN SỐNG, UỐNG NHÂN TRUNG HOÀNG

Bệnh say thuốc phiện sống này không phải tôi dùng Nhân trung hoàng để trị, tôi chỉ thấy sự việc rõ ràng kể ra. Tuy là người mè he khó tính có thể bảo rằng "mất vệ sinh, phản khoa học và thiếu gì thuốc mà phải dùng đến loại dơ dày ghê tởm ấy, thật vô ý thức”. Nhưng thiết tưởng cổ nhân đã bảo "nó" cũng là một vị thuốc hữu dụng, nên viết ra đây hòng có ai đọc sẽ suy thêm về "bệnh ngộ độc và thuốc tổng uế!" đến đột xuất một cách bất ngờ này, kể ra cũng lạ tai, lạ mắt đáng để ý. Nếu ai chê trách xin bỏ qua. SỰ VIỆC: Ông và bà Hội Đản, người Hà Nam, ông và bà Tư Đỗ người Hà Nội, hai gia đình có tình anh em liên hệ với nhau. Sông Thanh Hà (Mỹ đức, Hà đông) là con sông nhỏ chảy suốt từ cửa sông Bến Đục (Đục khê) qua các làng hai bên bờ sông và qua bãi phố Đồi (Hòa Bình) rồi rẽ ngang ra hai ngả đều cụt như hình chữ đinh (T). Sông ấy dài chừng 20 cây số. Trên mặt sông dài rải rác từng nhóm nhà bè người làng Thanh Hà ở, làm nghề chài lưới. Trên bãi phố Đồi có dân làng người Mường đông đảo và có cái chợ (chợ Đồi). Những người làng hai bên bờ sông Thanh Hà mỗi phiên chợ Đồi thuyền bè các nơi vào mua bán với người Mường cũng đông. Hôm ấy, ngày phiên chợ Đồi, tôi theo thuyền làng xóm từ Nông Khê (nơi cư ngụ làm thuốc) vào chợ chữa bệnh cho một người Mường ở đấy cần mời, tôi gặp hai ông trên chợ, hai ông mời tôi về nhà chơi. Tới nơi tình cờ hai ông lại có một người nhà từ Hà Nam vào chơi. Hai ông giữ tôi ở lại sáng hôm sau sẽ về. (Lý do, hai ông quen biết tôi mà giữ lại chơi. Vì hai ông với tôi đồng lứa tuổi lại đều có vẻ thành thị dễ hào họp hơn những người rừng núi nơi đây và cả hai gia đình mỗi khi có bệnh gì phần nhiều đều nhờ cậy sự chẩn trị nơi tôi đã mấy năm). Chiều hôm ấy, ông bà Hội và ông bà Tư mời ông người nhà và tôi cùng dự tiệc. Tiệc rượu vùng quê, gà núi, măng rừng, cá sông, thịt chợ, lại thêm rượu lậu phố Đồi hạng ngon có tiếng. Ngồi trên nhà bè mặt nước, sông trong gió mát, không khí trong lành, phong cảnh tĩnh mịch. Nhìn mặt sông năm ba cái thúng bơi, mỗi người một thúng, hai tay bơi nhẹ nhàng gợn lên làn nước trong xanh. Trông ngọn đồi u cao phang lặng, mấy chú mục đồng đuối đàn bò nhẹ bước vào chuồng. Lại ngó lên làng Mường, những bụi cây âm u rậm rạp, chim hót líu lo hoà chung câu chuyện hàn huyên chủ khách gặp nhau bày tỏ những tình tứ từ lâu xa cách. Say sưa nghiêng ngả mặn nồng. Ông khách quê nhà có vẻ quá chén, xin phép đi nằm. Còn mấy người bên ngọn đèn dầu uống trà hút thuốc chuyện vãn khuya khuya mới đi nằm. Khuôn thước nhà bè, bốn góc mắc 4 mùng là chật khít không còn chỗ chen chân ra vào, dù có đếngọn đèn

86


dầu le lói, nhà vẫn tối om. Khoảng gần nửa đêm, ông khách quê nhà hai tay quờ quạng, ba lô, vơ cào, vơ cấu sang cả những mùng khác, cả nhà phải ngồi dậy vơ hết chăn mùng lại cho gọn. Mở đèn sáng lên, nhìn ông hai mắt mở to đỏ ngầu, da mặt thâm xì, miệng nói quàng xiên, tay vơ cào cấu, chân đạp lung tung, lăn lộn liên hồi. Cảnh tượng bệnh tình lúc ấy, hai ông chủ nhà là chủ chốt lo toan, nhưng về mặt tìm bệnh trị thì lại quay vào hỏi tôi. Tôi suy nghĩ chưa hiểu ra sao. Đột nhiên nghe tiếng nói: "Thôi chết rồi! Ông Đản ơi!" mấy người đều quay lại nhìn bà Đản chỉ tay vào mấy tô chén ở góc nhà bè bảo: Chắc ông này đêm khát nước mò uống hai tô nước này rồi, nên đâm bệnh thế chứ không sai. Xà! Biết bao nhiêu tiền. Ông Tư bấm tôi ra ngoài nói nhỏ: Đấy là hai tô "nhựa" mới pha chưa kịp nấu, nhà quên không cất. Đêm ông khách khát nước, uống mẹ nó đi rồi, bây giờ thế là ngộ độc, là say thuốc phiện sống, không giải độc ngay thì chết. Ông tiếp: Làm sao bây giờ ? Lên bờ thì sợ cọp, xuống sông không có thuyền đò, thuốc Nam, thuốc Bắc không có, nhà thương bệnh viện cũng không. Bác là thầy thuốc đứng đây cũng chịu nhìn. Đêm hôm thế này làm sao bây giờ. Nói chưa hết câu ông Đản lặng lẽ bước ra sau hè, lát sau trở vào, tay bưng một tô nước bảo ông Đỗ đỡ ông khách dậy cho ông khách uống. Ông khách đang mê sảng thấy nước mát (có lẽ thích lắm), quơ tay ra vơ vội lấy (tay ông Đản vẫn đỡ tô nước) làm một hơi hết tô nước (lúc ấy mấy người đều xúm vào xem ông uống nước). Ông Đản cầm lấy tô vừa quay ra, ông khách thổ vọt vòng cầu, chan hòa cả gian bè, sặc mùi thuốc nồng nặc (phải mở tấm ván sàn bè cho chảy xuống sông). Thổ xong, nằm vật ra thở hồng hộc, ngực bụng đẩy lên hừng hực, lại chồi lên thổ ra màu đen xì mà đằng đặc. Thấy vậy, ông Đản lại cầm tô ra lấy nước nữa đem vào. Lúc ấy đập vỗ vào người ông khách, ông đã ú ớ, đỡ ông dậy cho ông uống. Ông khách còn khát, lại làm một hơi nữa. Uống xong, lại thố vọt ra ngay cũng nhiều, cũng đen xì nồng nặc. Xong nằm vật ra lịm đi. Dọn dẹp xong, cả nhà ra ngoài để ông nằm lại. Tuy nhiên, vẫn ngó nghiêng ông liền liền (ý sợ sau trận thổ mệt, ông chết thì nguy). Khoảng chừng nửa giờ sau, vào xem tận nơi, thấy ông thở đều mà không vật vã. Chắc ông đã sống. Lát sau, hòa nước vo gạo đặc (cứ để ông nằm ngửa) lấy muỗng múc đổ cho ông, đổ đến đâu, ông nuốt ừng ực đến đây, đã hết chén nước, ông lại chồm lên thổ ra cả nước lẫn cơm thịt lúc chiều. Thổ xong, nghe mệt để ông nằm nghỉ, nhưng đã thấy ông tự kéo khăn lau miệng.

87


Trời tảng sáng, vào gọi hỏi ông, ông đã tỉnh tỉnh, lại đem nước vo gạo vào đỡ ông ngồi dậy uống, uống hết chén con, lần này không thổ nữa, để ông nằm nghỉ. Cả nhà đều đi ngả lưng một chút, khoảng 7 giờ sáng dậy đến hỏi ông, ông trả lời một đôi tiếng nghe rành rẽ. sao ?

Ông Đản nhìn mọi người: Hú hồn! Suýt chết! Ông mà chết thì tôi khai báo làm

Cả nhà vui mừng! (Tôi) Thưa ông bà Hội và ông bà Tư: Giờ đã quá 8 giờ, nhân có thuyền về, xin cho tôi cáo từ ra về. Nhưng xin ông Hội làm ơn cho biết, ông khách uống tô nước lúc đó rồi thổ ra ngay là nước gì? - Ồ! Còn cái nước ấy nữa. Nước ấy là loại nước sốt, không mất tiền mua, nhưng cũng phải gặp lúc "buồn, mót" mới có. - Nước sốt mà lại buồn mót mới có là thế nào ? - Đó là tôi văn nghệ cho nó thanh. Thôi, tôi nói trắng ra cho bác dễ hiểu, dù có tục cũng đừng chê nhá. Nó là nước cứt sốt, nhưng gặp lúc có ai buồn ỉa, mót ỉa thì mới có chứ. Thế là nước sốt không mất tiền mua. - Ồ! Thế là "nước cứt người giải độc thuốc phiện sống" , nhưng làm thế nào thành nước ? - Dễ ợt! Lấy một khúc dài độ ngón tay, bỏ vào chậu, đổ chút nước nghiền cho tan ra, lại đố thêm nước lại nghiền, sau đó vài bát lớn quấy cho tan đều ra, gạn lọc lấy chừng hai bát lớn (tô). Đem một bát vào cho uống. Thế thôi mà. - Nhưng phải cứt sốt, cứt khô không được sao ? - Nói thêm bác rõ: Việc này, tôi thấy ông Tư nhà tôi sợ cuống lên, tôi coi thường. Thú thật với bác, nhà nghề mà! Môn thuốc riêng bảo vệ nghề nghiệp của nhà nghề, đã dùng lần này là thứ 4 đều có hiệu nghiệm. Phải loại sốt dẻo chứ khô vô hiệu. - Cám ơn ông Hội rất nhiều, hôm nay tôi ở lại chơi với ông bà, may mắn cho tôi lại học được món thuốc có lẽ ngoài sách vở, hầu rộng thêm cho tôi về khía cạnh hóc hiểm trong y trị. Tiện đây, tôi xin gửi lời chào ông khách và mong ông mau lành mạnh. Phiên chợ tới, tôi có vào lại ghé chơi với các ông ạ . Thôi xin về, qua cơn kinh sợ lại được yên lành. Thật đáng vui mừng, kỷ niệm này làm cho chúng ta nhớ nhau mãi mãi. SUY XÉT: Ta xem ngay bản thảo: Phân (cứt) người tên chữ là Nhân trung hoàng, Nhân hoàng, Nhân thỉ. Dùng phân

88


người làm thuốc có hai loại: Phân khô và phân lỏng đều khí hàn, vị đắng, không độc, nhưng phân lỏng lạnh hơn phân khô. Công dụng cả hai loại đều giải bệnh ngộ các chất độc và trị bệnh người bị khí trời nóng làm phát phiền loạn, điên cuồng. Phép chế có hai cách: l.Lấy phân đã khô, vứt bỏ vào nồi sành nhỏ. Lấy vung đậy kín, xong đem bùn đất luyện dẻo gắn chặt miệng vung và đậy kín cả cái nồi (có ý khi đun nóng không xì hơi ra). Bắc lên bếp đun chừng 5-6 giờ, đem ra đếnguội, lấy phân nghiền nhỏ. Khi càn, uống mỗi lần 2 đồng cân, với nước sống hay nước chín đếnguội. Nếu bệnh chưa bớt, uổng thêm. 2. Về tháng chạp âm lịch, cắt ống trúc có hai đầu mấu, mẩu dưới đếnguyên, mấu trên chọc thủng vài lỗ nhỏ, nhét bột Cam thảo vào lỗ ấy xuống cho đầy ống. Lấy tre, lấy gỗ hay lấy keo gắn kín lỗ ấy lại, đừng đếnước phân thấm vào, cạo cho hết tinh xanh ờ ngoài ống trúc đi. Xong đem cắm ống trúc ấy vào trong chuồng phân, độ một tháng sau, tức sang ngày xuân lấy ống trúc lên rửa sạch bên ngoài, phơi khô. Khô vỏ rồi, chẻ ống trúc ra, lấy hết bột Cam thảo phơi khô, để dành, khi cần mỗi lần dùng 1 - 2 đồng cân. Như vậy, theo cách 1. dùng phân đã khô, tức lạt mùi hôi, lại đem bỏ vào nồi đốt thành than đã gần hết hẳn mùi hôi. Theo cách 2 dùng bột Cam thảo chỉ có hơi phân thêm vào, không dùng thẳng đến phân. Ta đọc hai cách trên thấy rõ: Chỉ dùng phân người đã lạt mùi hôi và thuốc có hơi phân thấm vào, chứ không dùng thẳng đến phân nguyên chất mà cũng có công hiệu giải nhiệt, giải độc. Nhưng không dạy giải nhiệt, giải độc là nó giải đi đâu ? Nó giải bằng cách nào ? Hãn hay thổ, hay hạ, hay lợi thủy không thấy nói. Ngoài ra, người ta còn dùng phân lợn sề (hoe lái) đốt thành than, đem hòa vào nước lã quấy đều, gạn lọc lấy nước trong cho uổng để trị bệnh "đậu lào" (đậu đêm) phát nóng, phát khát, nói mê. Bệnh nhân uống vào, vã mồ hôi ra được là bệnh khỏi dần dần. Người ta còn dùng phân chuột đực (sao gần cháy) sắc chung vơi lá hẹ cho uống để trị bệnh "âm lịch" ở nam giới, bệnh nhân uổng vào hễ ra được mồ hôi là khỏi. Như vậy, biết rằng phân người dù khô hay lỏng cũng phải chế biến rồi mới uống. Uống vào để giải độc chứ không nói uống vào sẽ " thổ, hạ hay hãn" mà giải độc. Còn phân heo, phân chuột uống vào đều phát hãn mới giải độc. Giờ đây, xét về "cứt sốt", xin lỗi: Cứt sốt phải là cứt người khỏe mạnh, cứt đã sốt hẳn là chưa có ruồi nhặng bu vào. Cứt đã sốt hẳn là mùi hôi thối rất là nồng nặc, quấy vào nước lã, gạn lọc lấy nước trong màu vàng cho uống, uống vào lại thổ mạnh (đại thổ) ra ngay. Đã thổ mạnh thì trong người thế nào cũng dâm dấp mồ hôi (vi hãn). Tất nhiên độc sẽ theo "thồ và hãn "

89


mà giải ra. Bệnh nhân uổng nước cứt sốt vào liền thổ ra ngay. Vậy cứt sốt là vị thuốc "thổ" sao ? Theo thiển ý, nó không phải là vị thuốc thổ. Lấy cái lý mà suy: "Hương phùng xú bất thụ, tắc nghịch" ( mùi thơm gặp mùi thối không chịu được thì đẩy ngược lên ). Con vị (dạ dày) đã là trưởng kho bảo quản cả một kho tàng chứa đựng cơm nước, cá thịt, rau quả, toàn các chất thơm ngon bổ béo, lại qua một bộ phận thâu nhận là miệng lưỡi, thực quản, hiệp với một bộ phận kiểm soát mũi, khí quản. Hễ thơm ngon, trong sạch mà ưa thích, thì dù bao nhiêu, nếu được các bộ phận trên đồng ý thì trưởng kho sẽ cho thâu nạp vào kho hết. Nhưng nếu hôi thối, tanh khét đưa vào mà bị chủ kho phản kháng thì phải đẩy ra hết. Vậy miệng mũi dạ dày là nới thơm tho tinh sạch, nếu gặp hôi thối thì nó ghét sợ mà đẩy cho ra bằng hết, chứ không phải cứt sốt là vị thuốc để thổ. Cũng như người lành tránh xa kẻ dữ, hay kẻ sạch sẽ ruồng rẫy người dơ dáy vậy. Đọc truyện trên, thấy rằng: Say thuốc phiện sống đã thổ ra được thì khỏi. Vậy sao không uống những loại Qua để , Lê lô... cho nó thanh sạch, nó cũng thổ ra mà phải dùng đến loại cực kỳ hôi thối, kinh tởm ấy ? Thưa: Nếu nói như thế thì chỉ là một y lý hiển nhiên, trong y giới ai mà không biết, đâu còn thành truyện mà viết lên đây. Thuốc phiện là loại đại nhiệt độc, lỡ uống phải mà không giải ngay, nó sẽ giết người như ăn cướp. Ông khách này uống một lúc hai tô đầy ngập cả dạ dày lại hiệp với men rượu vừa mới uống say, nó đang công phá rất mạnh. Nếu lúc đó uống những Qua để , Lê lô hay mùn thớt đi chăng nữa, nó cũng chần chờ chứ đâu có thể trong chốc lát mà thổ ra hết. Vả chăng, lúc đêm khuya, rừng rậm, không thày, không thuốc mà biết dùng loại "hủ hóa" ấy để giải tỏa ngay cho khỏi. Tất nhiên ông chủ nhà ấy đã có dùng quen và đã có hiệu nghiệm mau chóng, nên ông đã làm ngay cho uống chẳng bàn giải với ai. Tưởng đó cũng là bài thuốc cứu nguy cấp kỳ cho người ngộ độc lúc đêm khuya khi thiếu thuốc vậy. Bởi thế nên ông tự bảo rằng " món thuốc nhà nghề, đã dùng lần này là 4". Lại nói rằng: Sao ông khách ấy dám bưng tô nước ấy mà uống ? Điều đó rất dễ hiểu. Khi đã ngộ độc như điên cuồng thì vị giác, khứu giác đã mất cảm xúc còn biết gì là thơm, là thổi, là mặn nhạt đắng cay. Ôi! Lúc đó thấy nước là uống mạnh còn ghê sợ gì nữa. Trong bài này, đoạn trên tôi có nói "món thuốc ngoài sách vở", kể ra cũng có ngoài sách vở thật. - Bản thảo chỉ dạy dùng phân khô, phân nước, nhưng phải chế biến sẽ dùng. Đây người ta dùng ngay phân sốt chẳng chế biến gì. Đó là ngoài sách vở.

90


- Bản thảo chỉ dạy uống vào giải độc. Đây uống vào thổ ra tức khắc, bệnh khỏi ngay. Đó là ngoài sách vở. - Còn bản thảo bảo rằng vị này chỉ xem cho biết, chứ thiếu gì thuốc mà phải dùng đến để "nói ra không tiện". Đây người ta dám nói, dám dùng, đó là ngoài sách vở. Chứ thuốc Nhân trung phế thải này, dù bản thảo có dạy, dù đã có người dùng thấy hay, nhưng nếu có gặp bệnh ngộ độc mê sảng, hiểm nguy cấp kỳ mà xa thầy thiếu thuốc, họ cũng ngồi chờ, nếu không có mà phải chết thì họ cũng đành, chứ chẳng ai "dám nhúng tay vào pha thuốc kinh tởm ấy cho bệnh nhân uống". Đây người ta thật đã dám làm tự tiện pha cho uống, mà uống là khỏi bệnh ngay. Đó là ngoài sách vở. Tiện đây ta tìm hiểu về hai chữ "hương và xú" trong phạm vi dạ dày, tại sao hương xú gặp nhau lại thổ ngược ra ? - Hương là thơm, xú là thối. Vậy những gì là thơm là thối ra vào trong phạm vi dạ dày. Nhất định cơm thì thơm, cứt đái, máu tinh thì thối, thì tanh. Dạ dày, thực quản là nơi thâu nhận những mùi vị thơm tho tinh sạch (cơm), nếu gặp mùi thối thiu tanh nồng (cứt đái máu tinh) không chịu được thì đầy lên bắt thổ ra. Đó là "Hương phùng xú bất thụ, tắc nghịch " (trên đã nói). Dạ dày vẫn thơm, gặp thối, dạ dày không chịu được bắt thổ ngược ra. Như vậy đã là cái lý nhất định chưa? Hay còn có khi nào ngược lại, dạ dày thổi gặp thơm, dạ dày không chịu được cũng bắt thổ ngược ra không ? - Khi người đàn bà thai nghén. Tinh khí tử cung kết hợp với máu thành thai. Đường liên lạc của tử cung liên hệ với cuống dạ dày. Khi cái thai còn non, hơi tinh, hơi máu tanh nồng, chưa yên định hẳn ở tử cung, hay còn xông lên dạ dày. Khi đó dạ dày đang bị tanh nồng, nếu đem mùi thơm (cơm) vào dạ dày. Mùi thơm sẽ chấn động mùi tanh nồng (tinh khí) ở tử cung xông lên bắt thổ hết cơm ra mới nghe. Đó là "Xú phùng hương bất thụ, tắc nghịch Phải chăng ? Lại còn một nghĩa: "Hai vật là đồng khí, nhưng khi đã gặp một vật đã hóa chất rồi mà còn gặp nhau tất nhiên phản lại" (Nhị khỉ, nhất hóa tái phùng phản chi). Cơm ăn vào dạ dày, biến hóa rồi bài tiết thành phân, lại đem phân lên đưa vào dạ dày thì cơm sẽ phản lại mà đẩy phân ra (phân do mễ cốc thành). - Cơm ăn vào sinh tinh, tinh mới kết thành thai chưa yên định, lại đem cơm vào

91


chọc tức khuấy động tinh lên, sẽ xung nghịch lên đẩy cơm ra (tinh do thực khí thành). Ý nghĩa này có lẽ cũng lên suy xét. Một lần nữa xin lỗi ông bà anh chị nào đang đọc bài này, nội dung tuy có hơi dơ tai trái miệng, nhưng nếu ai chăm chú tìm hiểu y lý thì khi đọc xong cũng có thể vứt bài xuống bàn rồi ngẩng mặt lên bảo rằng " Cứt gì mà cứt".

92


20. TRẺ EM LỞ ĐẦU - NHỌT MỌC TRÊN ĐẦU TRẺ EM LỞ ĐẦU NGƯỜI BỆNH: Nhiều trẻ em lở đầu, tôi đã chữa khỏi, không thể nhớ hết để kể ra đây. CHỨNG BỆNH: Trẻ em từ sơ sinh đến 8,9,10 tuổi, bất luận tuổi nào cũng có thể lở đầu. Trước, trên đầu mồ hôi ra dâm dấp cả ngày lẫn đêm, ta để tay lên đầu đứa trẻ hơi nóng bốc lên ngùn ngụt rồi mọc mấy mụn nhỏ như có sảy, có rôm mà ngứa. Sảy rôm ấy thành từng mụn nhỏ, trước một vài mụn có nhớt, có mủ, sau nhiều mụn đều có nhớt, có mủ. Mụn nọ, mụn kia liên tiếp với nhau, có em một vài mảng, có em lan khắp cả đầu. Lúc ấy lên từng cơn ngứa, nó đưa tay lên đầu cào gãi, mủ máu đầy mấy ngón tay, trên đầu xông ra mùi tanh nồng khó chịu, bế ẵm, nằm ngồi rất khó, đứa bé lại thường đau nhức. Khi ấy rờ chung quanh cổ đứa bé có những cục hạnh như cục thịt vo tròn lân lẫn ở trong da (bệnh nhẹ thì ít, thì nhỏ ; bệnh nặng thì nhiều, to) màu da như da thường, nhìn không sưng, không đỏ, nắn không đau. Nếu bảo rằng “hễ đã có mụn thì nổi hạch” có lẽ không đúng. Khi bị lở đầu, trong người đứa bé thường nóng hâm hâm, không chịu ăn, ăn vào có khi ói ra, bụng to tích đầy giun, đầy đàm, phân khi đặc, khi lỏng thất thường mà mùi phân tanh, trong người bụng ỏng, đít teo xanh xao yếu đuối mà ngây dại. Lại có đứa trẻ kiêm cả thối tai, toét mắt, có đứa đỏ mũi, chảy nước mũi, đỏ môi, tưa lưỡi và ho đôi tiếng nữa. GỐC BỆNH: Nói bệnh lở đầu gốc bệnh bởi “chất độc từ trong thai” (thai độc) đứa trẻ đó tiên thiên đã có bệnh, đến khi ra đời gặp mưa nắng trái mùa hay ăn uống có độc, nó liên kết với nhau thành nhiều loại bệnh. Bệnh lở đầu thuộc loại ấy. Vậy nói rằng: “gốc bệnh lở đầu bởi chất độc từ trong thai" thì cũng có lý. Nhưng cũng còn có nhiều người cho là sâu xa khó hiểu. Mà nói rằng “ gốc bệnh lở đầu bởi sự nuôi con ngoài trời” thì thấy rõ rành rành ai cũng biết. Nuôi con, chăm no cho con “ăn bú , tắm rửa, áo khăn, may mặc và ngủ nghê nằm ngồi" tuy có mấy hạng, (giầu, đủ ăn, nghèo) khác nhau. Nhưng khi đứa trẻ có bệnh dù là bệnh lở đầu hay bệnh gì khác, phần nhiều cũng bởi sự nuôi con quá tham lam hay quá thiếu thốn làm độc sinh ra. ĂN BÚ: sữa mẹ, sữa bò, nước cháo, chén bột. SỮA MẸ: khi người mẹ biết giữ gìn mọi sự ăn uống và đi lại của mình vừa phải thì tốt sữa, con khỏe. Nhưng khi đi nắng về hai bầu sữa nóng, đi mưa về hai bầu sữa lạnh, thấy con khóc ấn vào cho bú làm độc, khi phòng dục sữa lại có chất tinh tanh hôi, cũng còn ấn vào cho con bú làm độc.

93


Sữa bò ngọt quá, đứa trẻ không ưa chất ngọt cũng cho là bổ cứ cho bú hay cho bú đặc quá, lâu tiêu làm độc. Nước cháo, chén bột, tham nấu đậu, nấu thịt pha vào béo bổ cho con, nhưng bụng lạnh không ưa, tiêu hóa không kịp, ứ lại làm độc, có khi cháo bột đã thiu nhớt lại tiếc rẻ cho ăn làm độc. Khi biết ăn, lại cá thịt quà bánh bừa bãi làm độc. Khi mải mê chợ phố ruộng đồng, công việc bề bộn, bỏ bê con cái, mặc cho anh tha chị kéo, ngô khoai bánh kẹo gặp gì ăn lấy ; nắng mưa đất cát bạ đâu ngồi đấy ; mồi nhặng kiến sâu bám vào đốt cắn, tất cả làm độc. ÁO KHĂN TẮM RỬA: Mùa lạnh cho mặc hở hang, khí lạnh thấm vào ; mùa nắng cho mặc đầy đụp, khí nóng uất, lên lạnh quá, nóng quá làm bệnh.Tắm khi nước nóng, khi nước lạnh, không lượng sức con nóng hay lạnh, khỏe hay yểu, cứ tính thời khóa biểu tắm cho đủ. Tắm song cho con đi chơi, chạy xe vù vù, gió lạnh thấm vào hay khi đi nắng về thấy con nóng, tắm ngay cho mát, khí nóng không ra đều làm bệnh. NGỦ: Bạ đâu cho ngủ đấy hay con ngủ để quạt cho mát, con ngủ dậy khó chịu. Tệ nhất là hai vợ chồng nằm hai bên, hơi rượu thịt xông lên, hơi máu hôi bốc ra, cho con nằm giữa hít không khí nồng nặc ấy làm sao không bệnh. Tất cả chẳng những phá lở đầu, còn sinh nhiều bệnh khác. Những bệnh ấy, y giới chúng ta gọi chung là bệnh “thấp nhiệt". Thấp nhiệt sinh nhiều bệnh, bệnh lở đầu cũng thuộc thấp nhiệt. Thấp là ẩm ướt như các loại nước, keo, nhựa... Nhiệt là nóng như các chất khô, ca, nóng... Các loại keo nhựa và các chất khô cay nóng, góp lại mà ăn uống hay tắm rửa vào trong người mà hạp, mà ưa, mà tiêu vận kịp thời bổ dưỡng thêm sức. Nhưng dùng quá mức mà sức người chịu không nổi thì lại làm bệnh, là bệnh “thấp nhiệt”. Tiện đây, tôi đem thiển ý nói nghĩa hai chữ “thấp nhiệt” bằng cách nói thí dụ để ai chưa hiểu đọc qua. Thí dụ: Một đống cấn ở giữa đường hay chỗ trống rộng nào đó. Đống cấn ấy đã được vun gọn vào với nhau trải qua nắng gió đã khô. Nay gặp một trận mưa lớn thấm ướt tràn trề tất cả (thấp). Lát sau, trời lại nắng lên gắt gao mấy tiếng đồng hồ làm đống cẩn ấy đã ướt ấy nóng bỏng cả trong ngoài (nhiệt) hấp hơi bốc lên nóng ngùn ngụt mà có mầu vàng vàng. Nếu lúc ấy ai đi qua bị hơi ấy tạt vào người sẽ ớn lạnh. Đó là thấp nhiệt ngoài trời. Con người cơm rau cá thịt mọi thứ ăn vào dạ dày còn chưa tiêu hóa kịp còn đọng, lại đem nước đá, nước lạnh, nước dừa, các chất mát tống vào làm cho cơm cá thịt mọi thứ ướt đẫm chướng lên (thấp). Lát sau, cơm thịt hành ớt, tiêu tỏi, mít dừa,cà phê, thuốc lá lại tống vào làm cho các chất ăn cũ bốc hơi nóng lên ợ ngược

94


choáng vắng (nhiệt). Đó là thấp nhiệt trong người. Xông pha mưa nắng gió sương, tham lam cơm thịt rượu chè cùng ướt, cùng nóng, cùng bốc hơi. Đó là thấp nhiệt ngoài trời trong người giao nhau. Hơi nóng ấy bốc lên đầu, lở đầu nhức đầu, vào mắt đau mắt, xuống chân nhức chân, đi đâu bệnh đấy... Ý nghĩa thấp nhiệt làm bệnh là như vậy. Phải chăng?. PHÁP TRỊ: THẤP: ướt thì phải thấm cho khô, đừng khô quá hóa táo. NHIỆT: nóng thì phải thanh cho mát, đừng mát quá hóa lạnh. Thấp nhiệt làm độc, độc thì phải giải tiêu, đừng tiêu giải quá mất sức. Nhưng tất cả phải lượng sức bệnh nhiều hay ít mà đánh nặng hay nhẹ mới là tài. Trị thấp nhiệt nghe nói như vậy tưởng là dễ, nhưng rất khó. Bởi đã nói thấp nhiệt vì mưa nắng, vì ăn uống sinh ra, mà thường ngày ta phải nắng mưa xông pha, ăn uống dưỡng nuôi đâu có thể ngừng. Như vậy, dù có trị được một, lại nắng mưa, lại ăn uống gấp hai thì đâu có dễ trị. Bởi vậy, khi dùng thuốc phải nắng mưa giữ gìn, phải ăn uống chừng mực mới mong mau khỏi. BÀI THUỐC: Trừ thấp thanh nhiệt thang: 1. Thương truật: 1,5 đồng cân sao vàng, thẩm thấp trong bụng, trừ thấp ngoài da. 2. Trần bì: 1 đồng cân, tiêu thực khí 3. Hậu phác: 1 đồng cân, tiêu thực, thông khí, để đẩy phân ra 4. Cam thảo: 5 phân, nướng chín, điều hòa các chất thuốc với tỳ vị 5. Mạch nha: 1 đồng cân, sao vàng sẫm, tiêu cơm, sữa bột, đưa xuống đại trường tống ra 6. Sơn tra: 1 đồng cân, sao gần cháy, tiêu các chất cá thịt, hạ sức nóng ở gan 7. Sử quân: 5 phân sao vàng, sát sạch màng, giết cam giun 8. Bỉnh lang: 1 đồng cân, thông khí, thoát khí, dễ bài tiết 9. Mộc hương: 5 phân, thông tiêu khí lạnh tích ở dạ dày và ruột 10. Bạch linh: 1 đồng cân, thẩm thấp ở dạ dày mang xuống bàng quang cho lợi tiểu và bổ tỳ 11. Sa nhân: 3 phân, bỏ vỏ, lấy nhân, giã nát, tiêu thực, thông khí, ôn trung

95


12. Hoàng cầm: 1 đồng cân, sao gần cháy, thanh nhiệt ở phế 13. Hoàng liên: 5 phân, tẩm nước gừng sao khô, sát trùng, thanh nhiệt ở tâm 14. Hoàng bá: 1 đồng cân, sao cháy, thanh nhiệt ở thận 15. Bạch thược: 1 đồng cân, sao cháy, thanh nhiệt ở can Tổng cộng 15 vị, số lượng này là số lượng một thang thuốc sắc uống cho một em bé vài ba tháng đến 2 tuổi, uống trong 1 ngày. Đổ 2 chén nước, sắc một lần, đun còn 6 phân, cho uống mỗi lần một vài muỗng con. Em lớn hơn thì tùy theo tuổi tăng số lượng cho vừa. Người lớn lở đầu cũng uống thuốc này mà số lượng tăng nhiều lên. Nếu không uống thuốc thang thì tán nhỏ mà uống, hay tán nhỏ luyện hồ làm viên cho uống. Trẻ em ngày uống 3 lần, tùy theo sức cho uống, uống với nước nóng. Cứ uống, nhất định phải khỏi lở đầu, tiêu hết mụn hạch mà khỏe mạnh. Thuốc này đã nhiều em uống mà được khỏi. Nhớ rằng: lở đầu khỏi rồi mà cục hạch ấy còn chưa tiêu hết thì phải uống cho tiêu hạch mới không tái phát. Ỷ NGHĨA Thương truật, Trần bì, Hậu phác, Cam thảo bài “bình vị” để điều hòa con vị, thẩm thấp, tiêu thực, tiêu đàm. Mạch nha, Sơn tra tiêu cơm tiêu thịt. Sử quân, Binh lang thông khí, sát cam trùng. Mộc hương, Sa nhân giáng khí, ôn trung. Bạch linh thẩm thấp, lợi niệu, bổ tỳ. Tất cả 11 vị thấm thấp cho vừa khô. Đó là trị thấp và là rút mủ máu đem xuống Bàng quang, Đại trường đem ra. Hoàng cầm, Hoàng bà, Hoàng liên, Bạch thược 4 vị này thanh nhiệt ở phế, thận, tâm và can, góp sức thanh nhiệt ấy lại thành ra có phần thanh tỳ, như vậy thanh cả ngũ tạng. Đó là trị nhiệt. Thuốc này thẩm thấp mà không tiêu khô, thanh nhiệt mà không mát lạnh, nó hòa hợp với nhau có ý trung hòa. Đó là thuốc trị thấp nhiệt phá lở đầu, nhưng toét mắt, thối tai, đỏ mũi và to bụng cũng uống được.

96


CHUYỆN LỞ ĐẦU Tôi kể câu chuyện lở đầu nơi đây để suy xét thêm cho rõ ràng thực trạng. Cụ Thụ Đức (anh ruột trưởng của tôi) mở nhà thuốc ở 207 phố Bông Lờ, Hà Nội. Đông khách và nổi tiếng. Cụ nuôi một ông cụ, (nhiều tuổi hơn) thường gọi cụ Giáo (không biết tên và quê quán) để làm cố vấn y phòng và thường ngày văn thơ sướng họa cho vui. Năm 1925, tôi ra nhà cụ định chơi mấy ngày, nhưng rồi thấy công việc thuốc bộn bề, tôi ở lại 3 - 4 tháng gần như người tập sự. Thời gian ấy, cháu Lê Thị Tường Lân (con gái đầu của cụ) mới mấy tuổi bị bệnh lở khắp cả đầu. Không thấy cụ bảo ai cắt thuốc cho cháu uống. Chỉ thấy cụ bà cách vài ngày sai nấu một nồi lớn nước Kim ngân hoa, Hoàng bá thật đặc để sẵn đấy rồi chờ nguội rửa đầu. Trước khi rủa, cụ lấy tro bếp, trộn nước ướt đẫm đắp trên đầu đếnửa giờ, nước tro thấm vào màng vẩy lở trên đầu cho bở, rồi mới rửa đỡ đau.Khi rửa, cụ bế cháu nằm ngửa, hạ thấp cái đầu xuống chậu nước Kim ngân với nước lên rửa đầu, tay xoa nhè nhẹ cho tro chút xuống sạch sẽ. Lại chậu nước khác rửa cho sạch bẩn. Lần rửa trước, nước tro pha lẫn máu mủ không kể. Lần rửa sau còn bọt, còn mủ máu trút ra, trông nhờn nhờn gớm sợ. Lúc đó, nhìn cái đầu đỏ hoẻn , nhiều lỗ nho nhỏ như tổ ông, hầu như trên đầu không còn cài tóc nào, trông càng gớm sợ. Xong, lấy khăn bông thấm nhẹ cho khô( lúc rửa và thấm la khóc liên hồi) đem bột Thanh đại rắc kín cả đầu, chờ một lát, Thanh đại thấm ướt đều, lại đem rắc Thanh đại lên lần nữa, thật kín, thật dầy. Lúc đó, cái đầu đỏ hoen hoẻn đổi thành mầu xanh lè, rồi bế đi ngủ. khi ngủ, rờ người nóng hâm hâm. Ta đã biết, Thanh đại bịt kín cái đầu, rồi hơi nóng trong đầu bốc lên khô cứng, mủ ra không được, mủ ruồng ở trong, (lúc ấy vỏ ngoài cứng mà bên trong đầy mủ, lấy ngón tay gõ vào kêu cồm cộp). Ngày mai mủ đầy Thanh đại nứt ra, trông như quả dưa bị vỡ nứt.Lấy Thanh đại rắc lên đầu là có ý cho mát đầu và sát trùng. Còn có người lấy hạt Thiên tiên tử đắp lên đầu là có ý hút mủ. Đắp thiên tiên tử lúc khô cũng nứt ra như rắc Thanh đại. Sau đó, cụ bà đưa một đơn thuốc bảo tôi cắt một thang cho cháu uống. Tôi đọc đơn thuốc, cụ bà bảo tôi “đọc khẽ chứ! anh bảo với chị đây là đơn thuốc lở đầu gia truyền hay lắm, cụ Giáo mới về nhà quê xin được đem lên hôm qua, chú cắt đừng cho ai biết”. Vâng! Em cắt, chị sai người sắc cho cháu uống. Uống liên 3 thang trong 3 ngày, bệnh lở đầu bớt hẳn đi.

97


Cả nhà vui mừng khen thuốc hay. Nhận thấy cụ ông vui mừng tấm tắc hơn. Đen ngày thứ 4 lở đầu bớt nhiều hơn nữa. Nhưng bắt đầu ỉa lỏng phân tanh ngày 4 - 5 lần mà đau bụng gào khóc không chịu ăn, trông người xanh mét. Cụ bảo tại thuốc mát quá chăng? Nay cho tạm nghỉ không cho uống thuốc xem sao? Mấy ngày sau không uống thuốc cầm ỉa mà cũng không ỉa lỏng nữa, cái đầu lại bùng lên dữ dội hơn trước. ĐƠN THUỐC (của cụ giáo) Hoàng cầm 2 đồng cân

Hoàng bá 2 đồng cân

Hoàng liên 1 đồng cân

Ngân hoa 2 đồng cân

Cam thảo 1 đồng cân Tất cả đổ chung sắc uống. Tôi thầm nghĩ (đâu đã dám bàn): Lở đầu bởi thấp và nhiệt, đơn thuốc này trị nhiệt và bài nùng, đâu có trị thấp. Một bởi nhiệt, một bởi thấp phải kiêm trị mới khỏi. Nếu trị nhiệt không trị thấp, trị thấp không trị nhiệt làm sao khỏi được? Nếu đơn thuốc anh mình bảo là “lở đầu gia truyền” của cụ Giáo thì có lẽ anh mình bận nhiều công việc thuốc thang khác mà không có thời gian nghiên cứu chăng? TRẺ EM NHỌT BỌC TRÊN ĐẦU NGƯỜI BỆNH: Nhọt bọc trên đầu, tôi đã trị khỏi cho mấy em, nhưng không nhớ kế tên ra đây. CHỨNG BỆNH: Trên đầu, chung quanh đầu, chán, má, cằm, trước mặt, sau tai, chung quanh cổ vai, cánh tay và trước ngực. Thượng tầng con người của em có thể mọc mụn, hoặc nhiều, hoặc ít, hoặc bất cứ chỗ nào. Mụn mọc, chung quanh bè bè ra, trên mặt mụn nổi u cao lên nhẵn thín mà mầu hơi đỏ hồng, hình như nửa quả cà chua chín úp xuống. Lấy tay nắn trên mặt mụn mềm mềm, lâu ngày mụn chín, nắn vào mềm hon. Mầu mụn đỏ hồng, khi chín đổi ra mầu trắng lợt, đó là mủ đầy ở trong. Khác nào như miếng da bọc lấy mủ máu ở trong đó nên gọi nhọt bọc. Mụn này để lâu thật chín cũng ít khi nó tự vỡ ra. Người ta thường lấy xà bông phết vào giữa một mảnh giấy rồi dúm ướt mảnh giấy dán lên chốc mụn, (khi dán miếng giấy ấy lên chốc mụn, nhớ để xà phòng vào chỗ nào theo ý muốn cho chỗ mụn vỡ ra).

98


Vài giờ sau, xà bông thấm vào, nó có thể bể vỡ ra. Khi vỡ chảy ra toàn mủ trắng như sữa, thừa cơ nặn cả mủ lẫn máu nùng nùng chảy ra cho hết. Sau khi nặn rồi, mụn xẹp xuống nhưng chưa phải là khỏi. Mấy hôm sau lại sưng lên làm mủ như cũ. Đặc biệt loại mụn này không có nhọn đầu, không có ngòi như các mụn ung nhọt khác. Nhọt bọc mọc cái to, cái nhỏ không đều, em nào nhiều độc thì nhiều mụn, ít độc thì ít mụn.Khi đã mọc mụn trong người đứa trẻ thường có các trạng thái ít ăn, không chịu chơi và nóng hâm hâm mà chung quanh cổ cũng có những cục hạch thịt (tất cả như đã nói ở bài trên). Bệnh này nếu theo sách nói là “vô cô cam” GỐC BỆNH: Phần nhiều gốc bởi “thai độc ở trong và nuôi dưỡng ở ngoài”. Nhưng riêng tôi lại nhận định thêm là bởi Tỳ. Tỳ tạng nhiều đàm nhớt, tích tụ sinh nhiệt, nhiệt khí bốc lên phát mụn, mà tôi cho uống bổ tỳ tiêu đàm mà trong cũng có ý nghĩa trị thấp nhiệt, chứ không cho uống bài thuốc trên chuyên trị thấp nhiệt tiêu cam. Bài thuốc: 1. Minh đắng sâm: 1.5 đồng cân, sao vàng không cần sâm tốt 2. Bạch truật: 1,5 đồng cân, sao vàng 3. Bạch linh: 1,5 đồng cân 4. Cam thảo: 5 phân 5. Trần bì: 5 phân 6. Bán hạ: 5 phân sao gần cháy 7. Tri mẫu: 1,5 đồng cân, bỏ hết lông vàng sẫm 8. Bổi mẫu: 1,5 đồng cân, không có Xuyên bổi mẫu thì Thổ bối mẫu cũng được. Tổng cộng 8 vị, thêm Sinh khương một lát mỏng, Đại táo một quả để chung sắc uống. Số lượng này là số lượng một thang thuốc sắc cho bé dưới một tuổi. Nếu em lớn hơn thì thêm số lượng gấp 2 hay 3 lần tùy tuổi. Mỗi ngày uống 1 thang (em nhỏ quá, 2 ngày uống 1 thang cũng được) uống liên tiếp mấy thang mụn xẹp dần xuống, uống nữa cho khỏi hẳn, uống nữa cho khỏe, chẳng có công phạt gì cả.Thuốc này chỉ sắc thuốc thang, không làm hoàn tán, bệnh uống thuốc thang mới mau khỏi. Ỷ NGHĨA BÀI THUỐC: Sâm, Truật, Linh, Thảo để bổ tỳ mà cũng để thẩm thấp.

99


Trần, Linh, Khương, Bán, Thảo để tiêu đàm trừ thấp. Tri mẫu để thanh nhiệt cho mát tâm, vị, phế và tiêu đàm, tiêu ung độc. Khương, Táo để dẫn chất Sâm, Linh, Truật, Thảo vào bổ tỳ. Bài thuốc này vừa bổ vừa tiêu rất đúng đắn. Chẳng cần dùng đến nhưng loại Ngân hoa, Bạch chỉ mà tiêu mủ hết sưng, nhiều em uống thấy rất nhẹ nhàng mà khỏe mạnh. (Bài thuốc trên trị lở đầu, bài thuốc này trị nhọt bọc khác nhau, không thể dùng thuốc nọ trị bệnh được) CHUYỆN NHỌT BỌC Năm 1927 (Đinh Mão), tôi sinh một bé gái. Thân phụ tôi, thấy người đứa cháu tuy nhỏ bé mà cứng cáp rắn rỏi, người đặt tên cháu là con Rỏi. Rỏi ra đời ở nhà với mẹ và ông bà. Tôi phải đi làm thuốc ở làng Lác Môn Trại. Rỏi được 6 tháng mọc nhọt bọc đầy đầu, vai cổ, sức người yếu lần lần đi. Mẹ Rỏi sợ cho người gọi tôi về. Ngay chiều hôm ấy, tôi ngồi bên con, thấy con đau nhức, để m ra hơn 40 mụn. Lòng thương con mà chưa nghĩ ra thuốc gì cho con uống. May thay được anh Ký Ân (anh ruột thứ hai của tôi, làm y tá ở Hải Phòng) về quê thăm hai cụ tôi. Anh hai thấy cháu vậy bảo phải chích, lấy hết mủ ra thì khỏi. Tôi nhớ trong Y tông kim giám cũng dạy: Loạt nhọt này phải chích lấy hết mủ ra. Tôi cũng bằng lòng để anh chích cho cháu. Sáng hôm sau, mát trời, bác đè ra chích (hình ảnh bác ngồi chích cho cháu còn ghi trong trí tôi). Mụn nào cũng mủ và máu xì ra, chích hết cả từng ấy mụn, nhỏ to đều chích liền tay một lúc. Xong, Rỏi đờ người ra, bế vội cho bú, chỉ ngậm vú không bú. Cả ngày hôm ấy Rỏi mệt không khóc tiếng nào, bú ít, thở kém, gần sáng Rỏi chết... Ôi! Sao lúc ấy tôi ngu dại! Để cho anh chích là phải, nhưng nếu mỗi ngày chích một hai mụn Rỏi đâu có chết. Bởi bé nhỏ, sức yếu mà một lúc chích hơn 40 mụn, chịu đựng sao nổi mà sống. Sau này, tôi tìm ra bệnh lý, đã lập ra phương này trị bệnh cho nhiều em khác nhọt bọc được khỏi. Mỗi khi trị bệnh cho em nào lại nghĩ đến Rỏi mà đau lòng. Sao không học trước mà trị bệnh cho con mình? Giờ viết đến đây càng ứa lệ thương cho đứa con rắn rỏi ấy, ý định không viết, nhưng bắt buộc phải mạnh dạn ghi bài thuốc nhọt bọc này lại nơi đây để dâng nạp cho đời, hòng có ai dùng đến mà được khỏi bệnh. Âu cũng là một việc đền tội.

100


21. NHỨC XƯƠNG SỐNG LẤY CHÀY NỆN

1.PHÁT BỐI UNG NGƯỜI BỆNH: Ông Nguyễn Văn Hiếu, có vợ 3 con, người làng Kẻ Sài (Tuy Hiền) Mỹ Đức, Hà Đông. Ông lùn, mập, da ngăm ngăm đen, gan lỳ, ít nói, hiền lành. Ông ra đồng cày ruộng, lên rừng đốn củi và chèo thuyền ngược xuôi rất khỏe. Ông làm lý trưởng, dân làng thường gọi ông là lý Hiếu, lỳ lỳ hay lý cục đất ông cũng chỉ cười. Tuy nhiên mỗi khi tiếp khách uống rượu, đánh bài lại tỏ ra rất lịch sự hào hoa. CHỨNG BỆNH: Hôm ấy, ông đi cày ruộng về, chiều lên cơn nóng lạnh dữ dội, nhức đầu, đau mình, đau xương sống, gần sáng hơi dịu. Mới uổng mấy viên thuốc gió sơ sài. Chiều hôm sau lại lên cơn nóng dữ hơn hôm trước mà nhức dọc sống lưng (suốt từ cổ xuống xương cụt) phải bảo hai ba người nắm tay đấm mạnh vào lưng mới chịu được, gần sáng cũng dịu cơn nóng nhưng vẫn phải đấm lưng. Đến chiều thứ ba lại lên cơn nóng dữ mà lưng nhức nhiều hơn phải lấy chầy nhỏ (chầy giã cua) mà dầm mới chịu. Thân mẫu ông (bà cụ Chánh Chải) sai người mời tôi. Tôi lên, thấy ông nằm sấp, kéo áo vạch trần lưng cho một trai trẻ ngồi hai chầy nện liên tiếp xuống dọc sống lưng. Tôi rờ mình ông thấy nóng thấu tay mà da khô không có mồ hôi. Tôi bảo người đấm lưng ngừng một chút để xem mạch. Ông rên hừ hừ. Ôi! Thầy cứ để cho cháu đấm, không ngưng được đâu. Thầy cứ xem mạch. Tôi xem qua cả hai tay đều phù sác. Tôi nói: “ông cảm nắng, cảm mưa nhiều quá. Tôi về cắt Cửu vị khương hoạt thang cho ông uống”. Sáng hôm sau, tôi lên sớm xem lại, thấy bệnh nóng của ông cũng chỉ dịu xuống như mức ba hôm trước mà vẫn có người ngồi nện chày xuống lưng. Tôi về cắt thuốc như cũ mà tăng liều lượng. Tôi bắt sắc ngay cho ông uống để giảm cơn nóng chiều nay. Đen tối, tôi lại lên xem vẫn nóng dữ, vẫn nện chày xuống lưng mà hơi khát nước, không sinh chứng gì khác. Tôi đã nghĩ muốn cho hạ mà không dám vì bệnh mới 4 ngày, người còn cơn nóng, lại chưa có mồ hôi, tôi đành cho ông uống thuốc cũ mà thêm Sài hồ, Sa sâm. Lẩm cẩm đến gàn sáng hôm sau, bệnh đã 7 ngày. Lưng ông về phía tay trái (chỗ trũng xuống từ cạnh bả vai giáp sống lưng) nổi đỏ lên một vết dài chừng 15 phân tây, u

101


lên cao độ vài phân, rộng độ 3 phân, giữa to hai đầu nhỏ mà đau nhức. Hôm sau bằng quả xoài nằm ở lưng. Lúc ấy, người vẫn nóng, lưng vẫn nhức, nhưng chỉ lấy tay đấm nhẹ nhẹ vào xương sống, chứ không dám đấm bàng chày sợ chạm vào chỗ sưng đau. Tôi gọi bệnh này là “Phát bối ung”, ung độc mọc mụn ở lưng, không phải loại thương hàn. Tôi cho uống Thần thụ vệ sinh 1 thang, quả nhiên đúng bệnh, đúng thuốc, hôm sau bớt nóng, hơi nhức, uống luôn hai thang nữa, hai ngày sau hết nóng mà mụn đã lợt, không đỏ, lại xẹp nhỏ đi. Mỗi khi uống thuốc, chế chút rượu vào thuốc rồi uống, không cần phải uống chút rượu trước hay sau khi uống thuốc. Tôi cho uống luôn 3 thang như trên nữa mà bỏ Đại hoàng và khi uống thuốc không cần phải chế thêm chút rượu nữa. uống hết thuốc, mụn gần tiêu hết, ông đã ngồi dậy đòi ăn. (Bài thuốc này ở mục Thũng dương trị loại trong Y tông kim giám ngoại khoa quyển 2, nhưng liều lượng tăng lên) Sau cho uống Thác lý tiêu độc tán 5-6 thang khỏi hẳn, mà khỏe. SUY XÉT: Bệnh nóng lạnh mạch phù sắc này, nếu là loại thương hàn khi cho uống Cửu vị khương hoạt thang phải khỏi ngay mới đúng. Thế mà liên tiếp mấy thang không khỏi lại sinh phát bối ung, thì ra nóng lạnh đó là nóng lạnh phát ung.Nếu phán xét tinh tường hơn mà biết ngay là nóng lạnh phát ung rồi cho uống loại giải độc, bại độc có lẽ bệnh cũng không kéo dài từng ấy ngày. Mặc dầu thấy rằng uống Cửu vị khương hoạt thang không khỏi ngay nhưng bệnh cũng có giảm đi phần nào nên mới không dẫn độc chạy vào mà sinh nội chứng thì cũng không đến nội bảo là sai lầm. NHỮNG BÀI THUỐC Cửu vị khương hoạt Xuyên khung 3 đồng cân

Bạch chỉ 2 đồng

Hoàng cầm 3 đồng

Thương truật 3 đồng

Phòng phong 3 đồng

Cam thảo 2 đồng

Khương hoạt 3 đồng

Sinh địa 3 đồng

Tế tân 5 phân Thêm Gừng sống 3 phiến, Đại táo 2 quả, Hành sống 2 củ, sau thêm Sài hồ 3 đồng cân, Sa sâm 5 đồng cân.

102


Thần thụ vê sinh thang: Tạo giác thích 3 đồng

Khương hoạt 3 đồng

Liên kiều 3 đồng

Nhũ hương 1,5 đồng

Kim ngân hoa 3 đồng

Phòng phong 3 đồng

Bạch chỉ 2 đồng

Quy vĩ 3 đồng

Trầm hương 1 đồng

Thiên hoa phấn 3 đồng

Hồng hoa 3 đồng

Xuyên sơn giáp 3 đồng, sao cho phồng lên,

Đại hoàng 3 đồng, tẩm rượu sao khô. Thạch quyết minh (Cửu khổng) 3 đồng, nướng chín giã nát. Tất cả 15 vị , đổ chung sắc uống. Uống liền 3 ngày 3 thang. Sau uống thêm 3 thang nữa, nhưng bỏ Đại hoàng mà số lượng mỗi vị bớt đi 1 đồng cân.

Thác lý tiêu độc tán (trong bài số 18) PHÁT LẠI PHONG NGƯỜI BỆNH: Ông Nghi, ngoài 40 tuổi, người hiền lành, không chơi bời rượu chè, có vợ 3 con , người làng Thanh Hà.ở nhà bè đậu bãi sông nơi của chùa làng Thượng tiết. Tuy sinh sống bằng nghề chài lưới, nhưng nhờ vào hai cô gái ( Sinh lớn và Sinh con) duyên dáng chèo đò ngược xuôi nhiều hơn. CHỨNG BỆNH: Trong mình mát mẻ, ăn ngủ vẫn như thường, không nóng lạnh nhức đầu. Trước chỉ mỏi lưng nhức xương dần dấn nhức lưng nhiều hơn. Sau mỗi ngày cứ vào lúc sẩm tối nhức lưng không thể nằm yên, phải nhờ người lấy chày con mà dần vào dọc sống lưng (từ cổ đến xương cụt) mới chịu được.Dần như vậy mãi quá nửa đêm mới dịu dịu, thôi không dần nữa. Tình trạng ấy đã kéo dài hơn 3 tháng không khỏi. Trong những ngày bị dần lưng ấy, cũng không có bệnh gì khác, chỉ bị đái ít, không thông, không đái được nhiều, nước đái trong không đỏ, khi đái cũng không buốt, thế thôi. TRỊ BỆNH:

103


Bệnh nhức sống lưng, tôi cắt mấy thang Bát vị, mấy thang Thập toàn, thêm mấy vị lợi tiểu cũng không thuyên giảm. Tôi trị bệnh đái ít, tôi cho đó là phế khí không thông hành, thì đái không thông, không nhiều (chư bệnh tiểu thủy bất đa, đại do phế khí bất hành). Tôi cắt nguyên phương Nhị trần thang đại tễ vài thang đái được nhiều, dễ chịu. Sau đó, bệnh nhức lưng các thầy khác cũng trị mãi cũng không khỏi. Vài tháng sau nữa, ông bị phát phong, một chân bên phải bị co lên mà thọt lại, 10 ngón tay co quắp vào , tay chân không có mụn gì, trên mặt lác đác mấy mụn nho nhỏ tròn tròn, có mủ có thực, khắp cả mặt trán và tai sần sùi cào gãi dộp lên nhiều phấn trắng, vẩy trắng bung ra. Bài thuốc Nhị trần thang: Trần bì 5 đồng cân Bạch linh 7 đồng Bán hạ 4 đồng, tẩm với nước gừng sao gần cháy Sinh khương 5 miếng mỏng Cam thảo 3 đồng Đổ chung sắc uống. SUY XÉT CHUNG: Về hai người bệnh nhức lưng phải lấy chầy mà nện mới chịu được, hai người ấy đều là nam giới. Thời gian phát bệnh: Khoáng tháng 8, tháng 9 âm lịch, thu sắp sang đông, mùa cạn ở vùng ấy đi lại đã dễ dàng. Tiếng đồn bệnh lạ: Hai người nhức lưng phải lấy chầy mà nện. một 5 - 1 0 ngày , một 5-7 tháng đã cùng thời gian, lại chỗ ở của hai người (từ cửa chùa Thượng Tiết đến giữa làng Kẻ Sài) đường liên hình thước thợ chưa tới một cây sổ, cho nên tiếng đồn thổi đi trong làng ngoài chợ rất mau, bàn tán rất nhiều. Vì họ cho là bệnh kỳ lạ, ít có nghe thấy. - Tuổi khi phát bệnh: Một ngoài 30, một ngoài 40, chênh lệch nhau chừng 10 tuổi.

muốn.

- Ẩm thực: Cả hai người đều trung bình, không phải là người quá lo say ham

- Cư xử: Một nhà ngói trên đất, một nhà bè dưới nước, tuy khác nhau nhưng thủy thổ một vùng. - Động tác: Một xông pha sương nắng, cày ruộng đốn củi cũng nhiều. Một tuy có đơm chài lưới nhưng tài tử, nhiều khi thanh thản ngồi chơi. - Hoàn cảnh: Cả hai có vợ có con, gia đình hòa thuận đủ ăn.

104


Nói chung cả hai mức sống đều giản dị bình thường như vậy. Nếu có cố ý mà bảo rằng bởi "ẩm thực thương tỳ, tư lự thương tăm, cần lao động tác thương thận” mà nhức lưng thì cũng chỉ phần nào mà thôi, chứ đâu đến nỗi lấy chầy mà nện. Hay nhằm hẳn vào cần lao động tác mà bảo rằng: Một vì xông pha mưa nắng, cày ruộng, đốn củi nhiều. Một vì mò mẫm chài lưới đêm hôm sương gió mà có nhức lưng hạng nặng đi chăng nữa thì cũng chỉ đến sụn lưng là cùng chứ đâu phải lấy chầy mà nện. Suy xét về gốc bệnh nhức lưng trong nhưng phương diện trên mà chưa tỏ chính xác, ta thử tìm hiểu về cái lưng. - Cái lưng sau con người đều thuộc dương. - Đường sống giữa lưng kể từ huyệt Trường cường lên đến Huyệt Phong phủ là 16 huyệt thuộc đường dương đạo của mạch Đốc, có huyệt nào bị tắc nghẽn chăng ? - Động mạch, tĩnh mạch, những huyệt Thiên trụ, Đại trữ, phong môn và 18 du huyệt thuộc kinh Túc thái dương bàng quang ở kế cận xương sống có huyệt nào bị ngưng đọng chăng ? - Những đốt sống lưng nối liền với xương sườn có đốt nào bị trục trặc chăng? - Đường tủy trong sống lưng (tích tủy) có bị hao thiếu chăng ? -Đường sống lưng phần nhiều thuộc thận, thận hỏa, thận thủy có bị nóng quá, bị lạnh quá chăng ? Suy xét tổng kết hai phương diện trên mà cũng chưa rõ hẳn nhức lưng bởi khía cạnh nào ? Ta tìm hiểu về “dương độc, âm độc và phong nhiệt, phong hàn”. Phát bối ung chắc bởi thân hình mập khỏe, sức nóng đã súc tính từ lâu nay nóng quá đã có triệu chứng phát bối ung (dương độc) là bệnh nhân coi thường cứ vác cầy đi cầy mộng, lại bị khí nắng ngoài trời (phong nhiệt) cảm nhiễm vào nữa, hai sức nóng hiệp nhau tấn công vào người, nó vào sống lưng trước (lưng thuộc dương), dương độc, phong nhiệt đồng khí tương cầu xúm nhau cắn rứt không chịu được phải lấy chầy nện. May mà nó lộ hình ung sớm, đếnhất thời giải biểu, giải lý mà khỏi. Ung là dương độc, tuy lúc mới phát như vũ, như bão, nhưng biết trị lại mau khỏi trong vòng 5 - 1 0 ngày. Vậy bệnh bối ung này là thực chứng thuộc nhiệt độc và phong nhiệt. Phát phong chắc bởi con người thanh thản ngồi chơi nhiều thì sức suy yếu, tạng khí trì trệ hư hàn (âm độc) lại đôi khi những lúc chiều hôm, mò mẫm chỗ bờ sông vũng nước, váng bọt ứ đọng nhiều bọ, những nơi bãi cỏ bờ lau có nước lượn chảy góc bờ lắm muỗi mà thả lờ, thả đó, rồi muỗi bọ bay lên táp vào người châm đốt. Bản tạng đã hư hàn lại mò mẫm đêm hôm sương gió là phong hàn, bị muỗi bọ đốt là trùng độc. Nội hàn, ngoại hàn và trùng độc hiệp nhau ăn sâu vào tích tủy cắn rứt đau nhức phải lấy chầy mà nện mới chịu được. Lâu ngày ăn ruỗng bên trong biểu hiện ra ngoài gân rút mặt mụn thành phong. Nội hàn thì trướng trệ mà ít đái, cho nên uống

105


Nhị trần thang để hành khí, thẩm thấp thì không đái. Âm bệnh phát bệnh trì trì hay phát về đêm mà kéo dài khó trị 5 - 7 tháng, hàng năm chưa khỏi. Vậy bệnh phong này là “hư chứng thuộc âm độc và phong hàn”. Suy xét hai căn bệnh này, ý kiến tôi kể trên hẳn còn chưa đủ. Còn minh triết nào hơn xin nhường độc giả.

106


22.

TRÚNG PHÒNG VÀ PHẠM PHÒNG BỆNH

DANH TRÚNG PHÒNG: TRÚNG: Đúng, nhằm đúng chỗ. Ví dụ: Chú ý nhằm bắn trúng mục tiêu là trúng. Muôn ngàn sự việc trên đời, hễ làm việc gì muốn được trúng thì phải lưu tâm chú ý vào đấy cho nó trúng như: trúng cử, trúng tuyển... Nhưng chữ “trúng” trong bệnh tật thì lại là vô tình mà trúng phải, không biết mà trúng phải. Nếu biết là bị trúng sẽ phát bệnh thì người ta đều tránh cả, còn ai bị trúng nữa. Vậy trúng ở ngoài là được trúng, trúng trong bệnh tật là bị trúng. Tỷ như đang ngồi chơi, thốt nhiên phát bệnh trúng phong, đó là bị luồng gió độc nó đi trúng vào đường kinh dương hay kinh âm là trúng. Hóng gió cho mát, tắm nước lạnh cho mát mà mắc bệnh trúng hàn, đó là một khí lạnh buốt nào đó từ bì phu đi đúng vào tạng phủ là trúng. Đi nắng một chút chắc chẳng sao mà mắc bệnh trúng thử (nắng), đó là khí nắng đi đúng vào tâm, tỳ kinh là trúng... PHÒNG: Là buồng kín, là phòng dục với nhau. TRÚNG PHÒNG: Nam nữ đều khỏe mạnh cả, đồng tâm, hợp ý âu yếm với nhau trong phòng thì chỉ là vui thú. Vậy mà đột nhiên nam hay nữ phát bệnh ngay trong lúc đó là có cái phong nó trúng vào trong khi thượng mã hay hạ mã. Đại thế vân vân như vậy đều là vô tình mà trúng, không ngờ là để trúng để rồi sinh bệnh. BỆNH DANH PHẠM PHÒNG: PHẠM là đụng chạm. Những việc đã cấm không được đụng chạm vào mà còn cố ý chạm vào là phạm. Tức đã biết là “không nên thế” mà còn ham, đã bảo là “chớ có vậy” mà còn làm là phạm. Tỷ như đã thấy đèn đỏ thì phải ngưng lại mà còn cứ đi, đó là phạm. Đã biết xì ke ma túy là có hại, là cấm mà còn cứ hút.. đó là phạm. PHẠM PHÒNG: Chuyện nam nữ thủ thỉ với nhau trong phòng kín, đã là một đôi chính đáng với nhau thì tự do, có gì mà bảo là phạm. Nhưng nếu vợ nọ chồng kia khác nhau mà cùng phòng là phạm pháp. Điều đó không nói ở đây. Đây nói trong lúc vợ hay chồng đã có bệnh mà còn giao hợp với nhau trong phòng để sinh bệnh. Đó là phạm vào đường tinh huyết ở trong phòng là phạm phòng. Phạm luật, phạm pháp là ở ngoài cấm mà phạm. Phạm phòng là vợ chồng không biết bảo nhau để tự cấm mà còn cố ý phạm. Ôi! dục vọng nối lên đòi hỏi, không còn giữ được lý trí, dù sao cũng mặc kệ, cứ thỏa mãn đã.

107


Xong rồi dần dần mắc bệnh, đó là phạm phòng. Đại thể vân vân như vậy đều là cố ý đụng chạm vào để rồi sinh bệnh là phạm. Ngoài ra có một đôi khi vô tình hú hí mà sinh bệnh cũng là phạm. SUY XÉT CHỮ TRÚNG ĐỨNG TRƯỚC CHỮ BỆNH: Suy xét thêm về dụng ý của cổ nhân xếp đặt chữ “trúng” đứng trước chữ “bệnh” đã thành bệnh danh như: trúng phong, trúng hàn, trúng thử... nghĩa là trúng phải gió, trúng phải lạnh, trúng phải nắng... thì ta biết thế nào là trúng phải ? Sao cổ nhân không nói chữ trúng sau chữ bệnh. Như phong trúng, hàn trúng, thử trúng, nghĩa là phong trúng vào, hàn trúng vào, thử trúng vào thì ta biết ngay là các khí ấy nó trúng vào làm bệnh ? Vậy thì chữ “trúng” đứng trước chữ “bệnh” là có ý gì ? Nguyên khí con người hoàn toàn khỏe mạnh dù có dấn thân vào phong, hàn, thử hàng ngày, hàng đêm cũng không bị trúng, bị cảm. Nhưng nếu trong người đã có phần không khỏe hay đã suy yếu thì chỉ một chút phong hàn thử lướt qua cũng bị trúng, bị cảm. Khác nào như tôn ngói lợp nhà chắc chắn kín đáo, thì dù mưa bão cũng không bị dột, nếu tôn ngói ấy đã có chỗ bị thủng thì mưa nhỏ mà trúng chỗ thủng ấy cũng bị dột, đó là trúng. Khác nào như bờ đê, bờ be đắp kín thì nước lũ có tràn lên cũng không chảy vào. Nếu bờ đê, bờ be ấy có chỗ nứt, chỗ vỡ thì nước lũ sẽ nhân chỗ nứt, chỗ vỡ ấy mà chảy vào, đó là trúng. Thí dụ hàng trăm người cùng ra nắng ra mưa đắp đê, đào kinh mà chỉ 1 - 2 người trong đó bị trúng gió, trúng nắng mà thôi, còn hàng bao nhiêu người chẳng sao cả. Vậy số ít người kia bị trúng đó là sức khỏe người ấy đã suy yếu trước nên mới bị trúng. Bởi vậy chữ trúng đứng trước chữ bệnh. Kinh sách đã dạy: “Tà chi sở tẩu, kỳ khí tất hư” nghĩa là ngoại tà đã xâm lấn vào người nào thì hẳn là chính khí người ấy đã suy hư từ trước. Thật không sai. Còn nói chữ trúng sau chữ bệnh là sau khi đã bị trúng rồi mới nói: Người ấy bị trúng phong là phong trúng vào kinh lạc, người kia bị trúng hàn là hàn trúng vào cốt tủy, người này bị trúng thử là thử trúng vào tâm kinh... Như vậy, nói trúng phong là có ý nói người ấy đã bị yếu từ trước rồi mới bị trúng, mà là nói bệnh danh tổng quát. Nói trúng phong là sau khi đã bị trúng rồi phải tìm hiếu, phân tích kỹ xem trúng phong vào kinh nào. Các bệnh khác nói trúng trước, trúng sau cũng vậy. Nói ngay chữ trúng phòng cũng có ý nghĩa ấy, phải chăng ? So sánh chữ trúng phòng và phạm phòng

108


Trúng phòng hết thảy bệnh thuộc cấp tính. Khi bị trúng thì phát bệnh như vũ như bão, không khéo trị thì chết ngay. Loại này chết nhiều sống ít... Phạm phòng hết thảy bệnh thuộc mạn tính. Khi đã phạm không phát bệnh ngay, dần dần chờ khi nào tạng phủ người ấy có trục trặc hay khi co tái phạm nó mới nhập chung mà phát bệnh. Bệnh đã phát kéo dài hàng tháng, hàng năm hay 5-7 năm, kiên trì điều trị mới khỏi. Loại này sống nhiều, chết ít. BỆNH CHỨNG TRÚNG PHÒNG: Âm dịch, dương dịch: Hai bệnh này đúng là bệnh trúng phòng. Thượng mã phong: trong khi nam nữ giao hợp với nhau trong phòng kín mà người nam phát bệnh ngay trên người nữ. Hạ mã phong hay Lạc mã phong: Sau khi nam nữ giao hợp xong mà nam hay nữ phát bệnh. Bệnh trạng này người lạnh, cấm khẩu, bất tỉnh nhân sự giống như trúng phong. (Những danh từ Thượng mã phong, Hạ mã phong hay Lạc mã phong, thực ra tôi chưa được đọc sách nào, chỉ nghe mà thuật lại) Xét ra chữ phong đây có nghĩa là trong khi thượng mã hay hạ mã vô ý đê phong trúng vào mà phát bệnh. Nhưng thực ra nam tinh nữ huyết bị hư thoát quá nhiều không còn sức để tự hộ vệ cho mình rồi sinh phong mà phát bệnh. Đó là nội phong chứ trong phòng kín làm gì mà có ngoại phong. Chứng trạng và bệnh danh này xin xem kỹ lại trong các sách “phòng trung”. Tôi chỉ biết sau đây đích thị là bệnh trúng phòng: BỆNH NHÂN: Anh Tuần Sơn (tên Sơn làm tuần đinh trong làng) khoảng 38 - 39 tuổi, có vợ 4 con, người làng Lác Môn Trại, Trực Ninh, Nam Định, làm nghề nông, làm thêm việc thả lờ, đớm đó bắt cá tôm. Công việc thường ngày của anh là lúc chập tối anh đi đặt lờ, đặt đó ở những nơi có nước chảy ngoài đồng ruộng rồi về. Khoảng 4 giờ sáng, anh đi thu lờ, đó bắt cá mang về. Ăn xong, sáng rõ anh đi cày hay bừa ngoài đồng. Hôm ấy, đêm đông giá rét, lúc gần 5 giờ sáng, chị Sơn cho người lên mời tôi đến xem mạch cho anh (tôi đang làm thuốc ở làng ấy). Tôi đến ngay, thấy chị và mấy người bà con đứng nhìn anh đã được nằm trên bộ ván kê sát đất ở giữa gian nhà. Tôi nhìn anh đã mặc áo dài đen, quần trắng (chắc chị Sơn sợ anh ấy chết đã nhờ bà con mặc quần áo và cho nằm ở đấy) , tay chân duỗi thẳng, mặt và tay chân để lộ ra đều thâm đen xì, mắt không chuyển động con ngươi, tưởng hình như người đã chết. Tôi để tay vào mạch đã hết chạy, chỉ chỗ tim lồng ngực vẫn còn đập nhè nhẹ, hơi thở còn thoi thóp. Theo luật đạo Thiên Chúa, người ta sợ anh Sơn chết không có phép đạo sẽ mất linh hồn nên mời vị linh mục ở xứ ấy đến làm phép đạo cho anh.

109


Vị linh mục ấy hỏi tôi: Ông xem có cứu được không ? Bệnh gì mà nặng thế ? Thưa, bệnh này đã nhìn rõ tình trạng chết, nhưng hỏi chị Sơn, chị có nói rõ đâu đuôi thế nào mà phát bệnh ngay thế này thì may ra có thể cứu. (Chị Sơn) Thưa, nhà con lúc 4 giờ sáng dậy đi lấy lờ đó về, rồi lạnh quá, vào phòng nằm với con cho ấm. Lát sau, anh ấy đòi hỏi nơi con. Đang trong lúc ấy con thấy anh lạch toát đi mà nín thở, hỏi anh không nói. Con sợ quá, đẩy vội anh xuống, rồi mời bà con anh em xúm vào thay quần áo cho anh , đặt anh ra đây. Bây giờ sự thể thế này. Hu! Hu! (Tôi) Thưa, như thế là bệnh trúng phòng, bây giờ đã lỡ đẩy anh ấy ra rồi mà là chậm quá rồi, nhưng cũng phải mau mau ấp ủ cho anh và đem vào phòng kín đốt lò sưởi lớn cho nóng cả trong phòng để sưởi ấm cho anh. Đồng thời nhờ mấy anh em đây thay phiên nhau hà hơi của mình vào miệng của ảnh. Đó là ta truyền sức sống sang cho người bị bệnh, và anh Hải (em anh Sơn) cầm hai tay anh Sơn giơ lên hạ xuống luôn luôn cho chuyển động khí huyết may ra thì sống: đồng thời cũng phải sắc thuốc mà đổ cho uống. Nếu hai hàm răng cắn chặt, phải cậy ra mà hà hơi đổ thuốc vào. Làm như vậy chỉ trong hai tiếng đồng hồ hễ tỉnh lại được thì sống, nếu không thì chịu. Vị linh mục nghe xong làm phép thiêng liêng cho anh rồi ra về. Khoảng 8 giờ rưỡi anh Sơn đã tỉnh lại, cho uống thêm một thang thuốc nữa. SUY XÉT: Đêm đông đã lạnh, gần sáng càng lạnh hơn, anh Sơn ra đồng xuống nước lấy đó bắt cá. Lúc ấy trong người lòng không bụng đói, khí lạnh dễ thấm vào. Thế là người anh lúc ấy trong lạnh, ngoài lạnh. Khi về tới nhà, vào phòng với vợ ấp ủ cho ấm, ở đời lúc ấy là lúc thần tiên (bất luận sang hèn giàu nghèo), nào sáng nay anh bị lạnh quá, nào vui mừng nay được nhiều cá to, đến người vợ cảm thông cho tình càng mặn nồng, càng xiết chặt nhau, càng ấm áp hơn. Lát sau, dương khí nhờ vậy mau hồi phục, nhưng hàn khí trong người hãy còn, anh lại đã hứng khởi tò te thì dương tinh thoát ra, hàn khí còn lại đó, nó thấy chỗ thoát ra trống trải nó tràn vào rồi phát bệnh. Thế là anh Sơn bị hàn khí nhập thận mà thâm đen người (hàn sắc đen). Tinh thoát, dương tuyệt may mà tim còn đập thì hỏa hãy còn ; lại được sưởi lửa, được Quế Phụ rót mạnh vào ngay, nên anh sống được. Bệnh đó, tôi gọi là trúng phòng, có lẽ cũng là Thượng mã phong. BÀI THUỐC: Đắng sâm

3 đồng cân

Phụ tử

Càn khương

3 đồng cân

Nhục quế

3 đông cân 3 đồng cân

110


Thuốc này tất cả 4 vị , chủ ý ôn hàn, hồi dương, sinh mạch. Nghĩa là bệnh hàn này phải cho ôn, không tán hàn được, dương này sắp thoát phải thu hồi mau. Hàn đã được ôn, dương đã hồi thì sinh mạch là sống, vả chăng uống thuốc lúc ấy là lúc nhập thận rất mau. BỆNH CHỨNG PHẠM PHÒNG Phòng kín là nơi một nam nữ yêu đương nhau. Nam nữ từ chỗ xa lạ đến gần gũi rồi yêu đương nhau, nó bắt nguồn từ hai chữ tình và dục nổi lên gợi cảm. Tình dục ấy là lạc thú, là nguồn sổng, là lẽ tự nhiên con người phải có. Con người có tình dục tinh thần mới sảng khoái, ý chí mới lanh lợi, hành động mới hăng say vui vẻ, công năng mới thành quả nhiều mà tốt và chắc. Nếu con người không có tình dục thì đùn đũn ngây dại hầu như vô dụng. Các nhà chân tu đem tình dục ấy vào việc mộ đạo cao quý riêng, không dám bàn tới. Nam nữ có cùng chung tình tứ mới đồng tâm dục động. Tình tứ và dục vọng ấy chủ yếu bởi lòng chung thủy, sức khỏe mạnh đi đôi với nhau mới đi đến yêu đương đầy đủ mà thích thú. Một đôi nam nữ đều lòng chung thủy, đều sức khỏe mạnh mà tình tứ, mà dục động với nhau trong phòng kín thì âu yếm yêu đương khoái lạc cả hai con người, còn bệnh gì mà bảo là phạm phòng. Đúng vậy, nhưng cái chữ tình chữ dục ấy đâu có một chiều như ta tưởng, nó còn phát sinh nảy nở ra muôn ngàn thứ, vì lo buồn mừng giận, vì gió mưa sương nắng, vì ăn uống, vì công việc khác nhau mà sinh ra bệnh. Nói chung, bệnh đó là bệnh phạm phòng. Phạm phòng chia làm hai loại: Phạm vào chữ tình và phạm vào chữ dục. 1. Phạm vào chữ tình là loại phạm phòng tưởng tượng vô hình. Nguyên nhân: Nam nữ khi mới yêu nhau tha thiết trên mức tình cảm, trong đó có một cái duyên kỳ lạ hấp dẫn mà rằng buộc nhau không thể đổi thay xa lìa. Nấu đổi thay xa lìa sẽ sinh bệnh. - Phạm phòng tương tư: yêu nhau thề non hẹn biển, mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng qua để đi đến định ngày cưới hỏi giao duyên mà vì cái gì đó cách trở đôi nơi chẳng lấy được nhau sinh ra nhớ nhung làm bệnh. - Phạm phòng tưởng tượng: Thấy người ta xe hoa đón rước, cưới hỏi rộn rang, có đôi bạn kè vai duyên dáng vui cười. Thấy người ta chồng chồng vợ vợ rắt tay nhau yêu chiều, này anh, này em chuyện trò ríu rít trên đường phố. Thấy người ta bồng bế con cái tỏ tình mẫu tử cha con vui thú một nhà. Nhìn những cảnh ấy ngẫm lại mình chiếc bóng lẻ loi, lòng những nhử lòng tủi phận hờn duyên sinh bệnh. Bệnh chứng: Bệnh phạm phòng tưởng tượng vô hình này con người không nóng, không lạnh, không nhức đầu đau bụng, không tỏ ra một bệnh gì, chỉ:

111


Khi nằm lìm lịm cả ngày đêm, không buồn dậy, kém ăn, ít ngủ thân hình vàng võ xơ xác. Khi thấy nghe không thật như thẫn thờ ngây dại. Khi đứng ngồi không yên như hoảng hốt kinh sợ. Khi ra vào ngẩn ngơ, nói cười ngây ngất những hứng thú tơ duyên quấn quýt. Khi chìm bổng du dương, ca hát nghêu ngao những vần thơ tình tứ nhớ nhung. Tất cả dở khôn dở dại như mất tinh thần không còn tự chủ. Bệnh này thật khó trị bằng thuốc men, phải tìm tình duyên xưa đã hứa hẹn mà kết hợp mới đem lại sáng suốt khôn ngoan như cũ. Thật vậy, ta đã thấy nhiều trường hợp nghe tiếng người yêu, người bệnh thất tình ấy vui cười tươi tỉnh không còn có bệnh gì. Nếu không tìm lại được người yêu cũ, bất đắc dĩ phải đem duyên mới se tơ thì cũng chỉ lấy lại được phần nào phấn khởi mà thôi. Thực ra gốc bệnh “phạm phòng tưởng tượng vô hình” nó vẫn còn vương vấn trong tâm thần mãi mãi đến già không nguôi. Hỡi ai, người có qua cầu Mới hay lỡ mối tình đầu thẩn thơ 2. Phạm vào chữ dục là loại phạm phòng thật sự hữu hình. Nguyên nhân: Nam nữ tinh huyết đầy đủ, sức khỏe cân bằng, khi đã cùng chung tình tứ đi đến dục động thực sự hữu tình, trong đó nó có cái hứng thú kỳ lạ làm cho say mê ham muốn. Nhưng ham mê hứng thú ấy ở mức trung bình thì mới vô bệnh. Nếu thái quá hay bất cập đều sinh bệnh. Lại kể cả trung bình, thái quá, bất cập mà sai trái nó còn kèm theo cả ngoại cảm , nội thương và ẩm thực động tác mà sinh bệnh nữa. Nam hay nữ, khi đã thấy rõ trong người có ngoại cảm, váng đầu sợ gió, nhưng cũng cứ ham mê dục động cho thoải mái rồi tinh huyết hao đi mà ngoại cảm thấm vào. Khi đã cảm thấy trong người có phần nội thương kém ăn, ít ngủ, nhưng cũng gắng gượng giao hợp cho vui thú để đã suy yếu càng suy yếu thêm. Khi lo buồn bực giận phải chiều lòng đôi chút cho khuây để tinh huyết suy kiệt mà uất hỏa đứng lại ở can tỳ . Khi vui mừng hỉ hả càng hứng chí vào ra không kể, để tinh huyết cạn mà hư hỏa xông lên đầu mặt. Khi kinh kỳ mới chớm hay khi chưa sạch cũng chặc lưỡi mặc lòng cho qua để tinh bắn vào, tinh huyết tự lại ở ngoài nung nấu thành nước rỉ ra làm bạch đái. Khi mới sanh, huyết hôi chưa sạch cũng mím môi giả bộ làm ngơ để tình bắn vào, huyết hôi tự lại làm vàng da yểu sức.

112


Khi mới đến chợ đã hết tiền cũng như khi đã vào chợ mà không có tiền, đó là tinh đã suy, khí đã kiệt mà còn ham mê làm cho người nữ không thỏa lòng ham muốn sinh ra bần thần tẻ lạnh, chán nản ủ ê mà người nam cũng mỏi lưng chùn gối, bải hoải tinh thần. Khi cơm no, rượu say, bĩnh bầu dãn rốn, tức tối không chịu được phải thổ ra cho nhẹ, rồi lại uống, lại ăn, đứng lên quờ quạng lảo đảo vào phòng ái ân với nhau cho thỏa lòng khoái chí, cho đỡ cơn say. Xong phơi bụng phình ra ngủ một giấc dài. Thức dậy thấy thượng thể đầu mặt nóng bừng, hạ thể tay chân rã rời, đại tiểu trì trệ, cơm thịt ở giữa bị trên dưới ngăn cách, không giao thông, không tiêu hóa, mà no đầy đình tích lại. Tất cả chỉ muốn cho tình tứ hả hê, cho dục động say mê thỏa thích mặc dù tinh đã suy, huyết đã hại cũng coi nhẹ, coi thường. Bởi vậy mắc bệnh phạm phòng. Bệnh chứng: a) Phạm phòng hơi: Phạm phòng hơi có hai loại: Hơi thở ở ngoài và hơi kết trong bụng. Đôi nam nữ mới cưới chừng hai tháng chẳng hạn, thì vợ hay chồng bị đau hay người vợ thai nghén, khi mới sanh gì đó. Các bậc cha mẹ thường cấm vợ chồng không được qua lại nằm ngồi gần nhau, không được đem cơm thuốc cho nhau, cả đến quần áo cũng không được để gần nhau. Lại khi người vợ bị đau, phần nhiều là thấy các cụ bên nhà gái thường xin với nhà trai cho còn mình về bên nhà chăm nom. Đó là các cụ sợ đôi vợ chồng ấy gần nhau nhiều trong lúc đau yếu sẽ bị phạm phòng hơi. Một luồng hơi hoặc nóng, hoặc lạnh kết lại trong dạ dày, nơi dưới tim, khi bốc lên đầu, u ám xây xẩm, khi bốc ra ngoài da làm toát mồ hôi, khi quặn đầy trong ruột, khi bí tích trong bụng, tức xuống bọng đái phải thông tiêu thế nào cho ợ ngược lên hay đi trung tiện mấy cái mới chịu được. Đó là phạm phòng hơi kết trong bụng (khí tích). b) Phạm phòng cách: Phạm phòng cách có hai loại: vợ chồng cách xa đôi nơi và hơi ngăn cách giữa bụng. Trường hợp vợ chồng cưới nhau chưa được bao ngày tháng rồi vì lẽ gì đó vợ hay chồng phải đi xa dù ít lâu sẽ về hay không hẹn ngày về. Vợ chồng đã yêu nhau mà phải xa cách đôi nơi. Thà rằng không biết cho xong. Biết bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu làm sao không bệnh. Đó là phạm phòng cách vì xa cách đôi nơi. Một luồng hơi vì nóng hay vì lạnh, nó nằm vắt ngang giữa bụng bên đây qua bên kia như một đường hơi hoặc bám sát làn da bụng phía trong hoặc nằm trong dạ dày, nó phân chia ngực trên, bụng dưới ngăn cách nhau không cho thanh khí (dương) ở dưới đi lên, không cho trọc khí (âm) ở trên đi xuống để giao với nhau, làm cho muốn ăn mà ăn vào phải thổ ra, muốn đái mà đái không thông, lúc nào nơi giữa bụng cũng ngang trương trướng như no đầy vậy, như buồn, như tức phải lấy tay xoa bụng cho hơi ợ ngược lên, có khi còn muốn

113


nằm ấn bụng xuống một vật gì cao cao để ép vào bụng cho xì hơi ngăn cách giữa bụng (cũng là khí tích). c) Phạm phòng sơ phát: Bệnh phạm phòng khi mới phát, mình nóng, sợ lạnh, váng đầu, không có mồ hôi chứng trạng giống như loại thương hàn, phải tìm thuốc uống cho ra ít mồ hôi và giải độc là khỏi (nhất là phải cấm phòng dục ít lâu mới khỏi hẳn). Nếu coi thường để lâu không trị sẽ thâm nhập làm bệnh nặng. d) Phạm phòng tích: Bệnh phạm phòng tích là loại bệnh nặng hơn các bệnh phạm phòng khác. Tích là tích trữ, tức chứa đựng chồng chất. Đã chứa đựng chồng chất thì nó kết tự thành tích kết. Đã tích kết thì khó mà gọt cho mòn, phá cho tan. Bởi vậy nói phạm phòng tích là loại bệnh nặng hơn. Bệnh phạm phòng tích gốc bệnh bởi phòng dục nhiều làm tinh huyết suy bại. Triệu chứng khi mới phát nói chung trong người bần thần khật khưỡng, ốm chẳng ra ốm, khỏe chang ra khỏe, ăn vào ợ ngược, ngủ hay mơ màng, trong bụng ấm ách, đại tiểu không thông, mồ hôi ra dâm dấp cả ngày, mà dính mà hôi, sợ nước, sợ gió, sợ lạnh, không dám ra ngoài, mà nằm gục xó tối. Trông người da xanh mét, mắt lờ đờ, hỏi không buồn nói, gọi không buồn thưa, tay chân không buồn cất nhắc, thậm chí con ruồi bu mép không thèm đuổi, lười biếng uể oải, ngáp ngán ngáp dài như người thiểu thuốc phiện, như người đang lên cơn rét rừng, để lâu không trị hết thành tích. Đã thành tích trong bụng thì bệnh khởi lên, khi khỏi khi không bất thường, mà đã khởi lên thì gốc từ “khí tích”. Khí tích ở bụng, khi khởi lên thì trong bụng ngang ngang, chướng chướng, khi đẩy lên nghẹn cả cổ, khạc không ra, nuốt không xuống, bắt ói, bắt ho, khí đấy ra phía sau mỏi vai, mỏi cổ, rút gò dọc sống lưng buôn buốt rồi nhấm nhói sang tim. Khi đi xuống đau nhức ngang eo lưng và mỏi gối mỏi chân. Khí ấy đi đến đâu thì đau đến đấy (đã nói ở trên). Bệnh phạm phòng tích mới phát là “khí tích”. Khí đã tích thì huyết không thông hành thành ra có cả “huyết tích”, khí huyết đã tích thì lưu hành không giao thông mà ăn uống đình trệ là “thực tích”. Ăn uống đình trệ không tiêu hóa thì sinh đàm là “đàm tích”. Như vậy, bệnh phòng tích kiêm cả khí tích, huyết tích, thực tích, đàm tích mà rồi ở trong đó phân chia ra có cả ngũ khí tích, cả ngũ tạng tích nữa. Điều trị rất khó. Trị tích phải gọt mài đùn đẩy chủ yếu là hành khí, muốn hành khí phải thông huyết, phá huyết. Vì huyết có thông phá thì khí mới lưu hành, mà khí có lưu hành thì huyết mới thông phá. Khí và huyết bao giờ cũng phải đi đôi với nhau mới có công dụng, khi khí huyết lưu hành thông phá lại còn phải tiêu thực, tiêu đàm, thanh nhiệt, ôn hàn, trừ thấp cho khéo nữa mới ổn. Nhưng không thể bảo rằng: Cứ thông tiêu công phá mãi mãi chưa chắc tích đã hết mà sức người lại suy yếu đi. Khi sức người đã suy yếu đi thì khó mà trị, vì không đủ sức chịu đựng nữa. Vậy phải vừa công vừa bổ.

114


Trong phép công bổ đó phải tùy sức mình, tùy sức bệnh mà công nhiều hơn hay bổ nhiều hơn mói đúng. Phạm phòng tích thật khó trị. Tình và dục người ta ai cũng có tư tưởng hành động ấy cho vui lẽ sống. Nhưng nếu quá ham mê say đắm dễ mắc bệnh phạm phòng, khi đã mang hai tiếng phạm phòng vào trong con người thì thân hình chịu bệnh tật, danh giá bị rẻ khinh, cuộc đời thật khó đem lại tốt đẹp như trước. Bởi vây, muốn nuôi dưỡng cho bản thân được khỏe mạnh lâu dài, muốn tô điếm cho tiếng tăm được rộng lơn, tốt hơn hết ta nên gìn giữ và giảm bớt đường tình dục. “Dưỡng sinh giả, mạc thiện hồ quả dục”.

115


23. CHÂN HÀN GIẢ NHIỆT NGƯỜI BỆNH: Một người đàn bà (không nhớ họ tên) ngoài 30 tuổi, ở phố Khâm Thiên, Hà Nội, có chồng hai con, làm nghề thợ may, người vừa tầm thước, không cao, không lùn, dáng người hơi gầy, khuôn mặt tròn xinh, nước da trắng bóc, nói năng duyên dáng dễ nghe. CHỨNG BỆNH: Giữa tháng 8 năm 1945, bà vẫn ăn ngủ, làm việc như thường. Hôm ấy bà kêu nóng nảy bứt rứt trong người khó chịu, đi tắm nước mát, mở quạt máy rồi đến tối thì êm, kể cũng là thường. Chiều hôm sau, lại nóng, lại tắm, lại mở quạt ngủ cả đêm. Tuy nóng nhưng vẫn ăn, vẫn làm, vì chỉ nóng không có lạnh, không đau đầu chóng mặt, không đau mình nhức xương, không vã mồ hôi, không khát nước, kể cả đại tiểu vẫn bình thường, cũng không phải bệnh về kinh kỳ hay thai sản. Đặc biệt là người ngoài sờ vào người bà không thấy nóng mà bà cứ kêu nóng cuống cuồng. Từ đấy nóng liên miên ngày đêm, không làm việc được phải mở quạt ngày đêm. Sau phải thêm một quạt bàn mở cùng chiều mới chịu được. Rồi cũng vẫn nóng (nóng không ngứa), nóng rẫy nẩy còn thiếu la hét lên. Khi ấy bà mặc áo ngắn mỏng, quần dài trải chiếu đất, phải mở hai quạt cùng chiều mới dễ chịu. Dần dần phải kiếm thêm hai quạt nữa cũng mở một chiều, quạt thẳng vào người bà mới nghe dễ chịu. Vậy mà vẫn chỉ một vài ngày lại vẫn kêu nóng. Sau phai lau sạch gạch nền nhà để bà nằm xuống nền gạch. Lúc này người bà đã mệt không buồn nói, bà chỉ lăn lộn dưới nền gạch, sau bà đi giội nước ướt cả người vào nằm xuống nền gạch, cũng êm êm được mấy giờ. Sau bà vẫn kêu la giãy nảy, bà cởi bỏ quần áo chỉ có cái khố chê thân, bà lại bắt rẩy nước ướt cả nền gạch cho bà nằm, mặc dù đã 4 - 5 cái quạt, bà vẫn chưa chịu. Sau cùng bà bắt ông chồng xây bờ be lối ra ngoài cửa phòng (căn phòng bà nhỏ xinh gọn) xách nước đố vào nền nhà, nước cao độ 10 phân tây, cho bà nằm xuống mà vẫn mở quạt, bà mới nghe dễ chịu. Bệnh đến lúc ấy đã không ăn, không ngủ, người mệt nhừ, chẳng thấy bà kêu nóng gì nữa mà cũng không sinh chứng gì khác, người nhà muốn xoay vần bà thế nào , bà cũng không kêu ca gì. Thấy vậy, vực bà lên giường mặc quần áo, tắt hết quạt, bà cũng không kêu. Người bà cứ thế, lịm dần đi rồi bà chết. Từ ngày bệnh đến ngày bà chết là gần hai tháng. SỰ VIỆC: Tôi có người bạn là ông Hoàng Mễ ở nhà kế bên nhà bà có bệnh trên (trong khi

116


bà này bị bệnh trước sau như thế nào, ông Hoàng Mễ đều biết). Một hôm tôi đến nhà ông Hoàng Me chơi, ông ta nói chuyện về bệnh của bà kế bên và ngỏ ý muốn tôi qua chơi cho biết bệnh lạ thôi, chớ nhà ông ta chỉ tin thuốc tây, không tin thuốc ta. Vâng! Ông với nhà bên ấy là tình bạn lại tình hàng xóm. Ông làm ơn cho tôi sang chơi để xem mạch, không uống thuốc thì thôi, có sao! Tôi và ông Hoàng Mễ vào nhà. Tôi thấy bà ấy đang ở trần nằm dưới nền gạch. Ông chủ nhà mời trà nước. Ông Hoàng Mễ giới thiệu: Đây là ông Định Ninh thầy thuốc đông y, cả nhà tôi ai có bệnh đều uống thuốc ông, nay ông lại chơi, ý tôi muốn mời ông qua chơi, xem mạch giùm cho bà, để biết bệnh là bệnh gì, chứ không mời ông qua trị bệnh, cắt thuốc cho bà, ông bà có bằng lòng thì để ông xem mạch. - Thế thì hay lắm (ông chủ nhà) để tôi vào cho bà ấy biết. Đoạn ông ta mời tôi vào xem mạch. - Tôi xem mạch cà hai tay và ba bộ đều phù đại, nó nổi đầy dưới ngón tay tôi, to rộng mà rắn chắc. Tôi đè ngón tay xuống thật mạnh thì rỗng tuếch không có đường mạch đi ở dưới, tức là “phù đại hữu lục mà trầm án vô căn”. Đồng thời tôi đè nhẹ tay vào da thịt bà thấy mát mà nắn vào da thịt thấy đẫy chắc, nhìn mắt bà vẫn sáng nhưng môi miệng thì lợt lạt. Đoạn tôi nói chuyện: Bệnh này là nội hàn mà ngoại nhiệt, trong mát lạnh mà nóng vượt ra ngoài, chứ thực chất không phải là bệnh nóng. Nếu ông cứ để cho giội mãi nước lạnh ở ngoài thì không tốt (tôi không nói mạch gì mà cũng không nói âm dương, vì người ta có biết đâu mà nói). Thưa ông! Tôi xem mạch rồi tôi nói sơ để ông biết thế nào thôi, ông có thể cho biết, hiện giờ bác sĩ đang chữa cho bà, bác sĩ nói gì? Và cho uống hay tiêm thuốc thế nào? Úi chao! Ngày nào cũng phải mời mới đến, mà khó mời lắm, đâu có dễ. Đến rồi bảo nóng quá và tiêm thuốc mát, thuốc bổ và cho mấy viên thuốc uống thôi. Tôi và ông Hoàng Mễ ra về. - Tôi nói vơi ông Hoàng Mễ: “Bệnh này chữa thể thì chết”. Vài tuần sau, tôi lại đến chơi nhà ông Hoàng Mễ, ông cho biết bà kế bên đã chết rồi. Sau khi ông xem mạch, ông về rồi, người ta be bờ ngoài cửa đổ nước trong nhà cho bà ấy nằm, được mấy hôm xỉu dần rồi bà ấy chết. SUY XÉT: Chứng bệnh: Bệnh nóng này nếu bảo là “nóng thường” thì cũng chỉ nóng thường

117


thật, dù nóng thương hàn hay nóng đơn nhiệt thì thấy cũng thường, có chi là lạ. Nhưng kể ra cũng lạ. Nói ngay những người cường tráng, thử hỏi có mấy ai cởi trần, tắm nước , lại mấy cái quạt thổi thẳng vào người mà chịu nổi trong một ngày ? Hay giỏi lắm cũng chỉ vài giờ rồi bỏ chạy, nếu bắt ngồi lại cũng chóng mặt quay cuồng hay cũng là một hình phạt. Đằng này suốt ngày đêm, trong hàng tháng cứ thế mà vẫn chịu được lại còn chê là chưa mát kể cũng lạ thật ? Y giới chúng ta trị bệnh cũng đã nhiều, nhưng chắc chưa có mấy ai thấy bệnh nhân nào chịu sự mát lạnh quá mức đến như vậy, thì cũng phải cho là lạ chứ sao không ?Nhưng nhận định chính xác mà nói rằng: Bệnh nóng đó là nóng thường cũng không lạ. Lạ đó là do tự mình vô ý chiều theo bệnh thành ra nuôi dưỡng bệnh để bệnh tạo ra lệ, không phải là tự bệnh làm nên lạ.Bởi bệnh nhân không biết mình, không biết bệnh của mình mà giữ gìn, lại cứ chiều theo sự đòi hỏi của xác thịt “muốn sao phải vậy” rồi bệnh vì thế lớn lên. Thêm vào đó, thấy thuốc thấy nóng cứ trị nóng, không biết bệnh đó là nóng thật hay nóng giả, không biết âm dương hàn nhiệt là gì mà bệnh nó bùng lâu rồi cho là lạ, thật ra chỉ là bệnh “nóng thường”. YLÝ: Mạch “Hữu đại hữu lực vô căn”. Phù đại hữu lực là bao nhiêu sức nóng (dương) của nội tạng đều phì việt ra ngoài mà bùng dấy lên (nhớ rằng: phù đại hữu lực vô căn là chân hàn không phải là phù đại này là bệnh thuộc phong). Vô căn là sức ấp ủ êm dịu của nội tạng không còn đủ mà liên hệ với sức nóng ở ngoài nữa, tức là hàn nhiệt gián cách, âm dương cũng gián cách mà làm nên bệnh. Vậy thì bệnh này nó đã ngấm ngầm từ lâu chứ không phải đến ngày ấy nó mời bộc phát. Nghĩa là tỳ vị hư hàn nhưng hư nhiệt ở tướng hỏa còn mạnh nó dấy lên lấn át cái chân hàn ở tỳ vị rồi làm bệnh mà không biết cái chân hàn ấy có hư nhiệt ở trong, cho nó là “thực nhiệt rồi cứ giải nhiệt”. Nhiệt đã hư rồi mà còn giải nhiệt, lại có cái chân hàn cô đơn lạnh lẽo làm sao mà sống, thế là hàn nhiệt gián cách, âm dương gián cách không tương tiếp. Hay bệnh nhân kêu nóng quá, cứ những chất hàn lương ăn uống vào để dễ chịu theo sở thích, thầy thuốc thấy bệnh nhân kêu nóng cũng cho là nóng (không biết định bệnh) lại đem thuốc mát giội vào, giội mãi cho mát. Ngờ đâu đến mát là chết. Ôi! Cách trị bệnh “thấy nóng trị nóng” tai hại này, thiết tưởng những thầy thuốc nào chưa biết có lẽ nên suy xét. Nếu muốn hỏi: Đã bảo bệnh ấy chỉ là hư nhiệt, tai sao ăn đồ mát, uống thuốc mát, nằm quạt mát mà nó không mát ngay lại kéo dài ngày rồi mới nguội ? - Điều rất dễ hiểu: Thí dụ: Một cục than đỏ trong bếp tro, ta giội nước vào, mặc dù cục than đã tắt, nhưng khí nóng của cục than còn xì ra ngoài tro vài giờ sau mới nguội. Lại muốn hỏi tại sao tỳ vị chân hàn mà ăn uống và thuốc mát như vậy không sinh

118


đầy bụng ỉa chảy ? -Như trên đã nói, tỳ vị chân hàn nhưng còn có nhiệt ở tướng hỏa đem lên điều lý, vả chăng khi bệnh ấy đã phát nặng về âm dương thì tỳ vị hầu như không làm việc tiêu hóa nữa. KẾT LUẬN: Bệnh này tướng hỏa mạnh tức thận thủy đã cạn. Tỳ vị hư hàn tức nội tạng hàn. Tạng đã hàn, thận đã suy chỉ còn có tướng hỏa là cái hỏa phụ thuộc, nó không nương tựa vào đâu thì nó phá rối. Tuy nhiên, cũng còn nhờ cái hỏa ấy để sổng. Nay triệt hết đi lẩy gì mà sống! Vậy phải ôn bổ tỳ vị để tỳ vị có sự ấm nóng, khi nhận thấy tỳ vị đã ấm nóng, người ta cảm thấy có phần bình hòa, liền đó ôn dưỡng thận thủy để thu tàng cái tướng hỏa lại. Tức là ôn bổ tỳ vị để sinh dương, đồng thời bổ thận âm để liễm dương. Như vậy làm gì có bệnh bốc nóng ra ngoài. Âm dương quân bình, hàn nhiệt điều độ, hẳn là khỏe mạnh. DƯỢC PHƯƠNG: Trước hãy cho uống: Sâm (tẩm chút gừng sao), Bạch truật, Bạch linh và Cam thảo (nướng than) là chất cam bình không cương táo mớm dữ cho tạng người vẫn thích uống của mát cho họ uống, nhưng trong đó chủ ý sinh khí cho tỳ phế và thấm thấp cho tỳ vị. Vài hôm sau thêm; Can khương một chút để lấy vị tân hợp với chất thuốc trên thành tân cam mà sinh dương cho tỳ vị. Khi họ đã chịu chất cam bình rồi, vài hôm sau nữa thêm: Bạch thược (sao, chút ít), Ngũ vị tử (chút ít) để khi dương đã sinh rồi, nó thâu dương, liễm lại không cho nó bốc ra... Nơi đây dùng Bạch thược, Ngũ vị đều có ý nghĩa toan thâu. Tuy Bạch thược nó có hơi hàn (hẳn là có người chê nó không đồng điệu) nhưng đã sao chín rồi, nếu nó có chút mát nào đi chăng nữa cũng là để giải cái dư nhiệt trong uất khí có còn chăng ? Và để hòa dược cho nó có âm dương. Như vậy, mới nói đến tỳ, chưa nói đến thận, cho nên vài hôm sau nữa thêm: Hắc khương (chút ít) - tùy tạng người có thể thêm Thục địa (tẩm nước gừng sao) để ôn thận và dẫn cái hỏa hay bốc ra cho nó về gốc. Lập phương như vậy là hợp lý làm sao không khỏi?

119


24. ÂM KIỆT BIẾN DƯƠNG

Chúng ta đọc sách thấy có những bệnh, uống thuốc xuống khỏi cổ, người bệnh chết ngay thì rất sợ hãi, nhưng chỉ biết vậy mà thôi. Thực ra trong đa số chúng ta chưa thấy thực trạng này. Nay tôi thấy rõ điển hình một bệnh sau đây viết ra để chúng ta cung suy xét thêm mà cảnh giác trong khi điều trị. NGƯỜI BỆNH: Một ông cụ già (không nhớ tên họ) khoảng 70 tuổi, ở ngõ nhà giáo, phố Nam Đồng, Hà Nội, có vợ, nhiều con cháu, người cụ tương đối đẫy đà cao lớn, nước da hồng, bắp thịt chắc, hiền lành, linh hoạt vui vẻ, nhìn cụ diện mục minh mẫn mà quắc thước khả kính. CHỨNG BỆNH: Cụ vẫn ăn uống điều hòa, đi lại lanh lẹ, khỏe mạnh bình thường, không có bệnh gì gọi là cố tật. Hôm ấy, cụ kêu nóng nảy trong người bứt rứt khó chịu rồi vài ngày sau nóng nảy bứt rứt hơn, nhưng sờ vào da thịt cụ không nóng, không ói mửa, không khát nước, không nóng lạnh từng cơn như ngoại cảm thương hàn, không nhức đầu đau mình, đại tiểu vẫn bình thường. Cụ chỉ kêu mệt, nằm dài lăn lộn từng cơn (khi cụ lăn lộn xoay trở thấy rõ cụ cao lớn). Cụ tự cầm quạt luôn tay phe phẩy, lại con cháu hai quạt ngồi hầu (khi ấy xóm này chưa có điện), cụ đã uống Dã sâm loại tốt, chưa uống thuốc gì! Bệnh đến ngày hôm ấy không tăng mà cũng không giảm, kéo dài đã 6 ngày. Cả nhà cụ nóng ruột, sắc thuốc để cụ uống. Cụ uống thuốc ấy một chén con, vừa nuốt xuống khỏi cổ, cụ chết ngay. SỰ VIỆC: Khi cụ đang nóng nảy mệt nhọc, người nhà cụ đến mời tôi. Tôi đến nơi, gặp một ông cụ già đang ngồi ở đấy. Người nhà cụ giới thiệu: Thưa thầy! Đây là cụ lang Sách có họ hàng thân thuộc với cụ con đây, cùng quê Thường tín, Hà Đông. Cụ là thầy thuốc danh tiếng vùng ấy. Cụ con đây sai con về mời cụ lang lên trị bệnh cho cụ con đã vài hôm nay. Nhưng cụ lang con cho là bệnh khó, chỉ mới cho uống Sâm đến nghe bệnh chứ chưa cho uống thuốc gì. Vâng! (cụ lang Sách) nay mời thầy đến để xem mạch cho ông cụ ở đây, đó là ý kiến của tôi. Cụ tiếp: Gặp bệnh lạ, bệnh khó, ta không tự quyết được, cần phải mời một vài

120


thầy có danh tiếng để góp ý. May thay anh ấy mời được thầy. Thưa thầy ở đâu ? - Dạ! Đây là (người đi mời tôi) thầy Định Ninh ở số 198 phố Khâm Thiên. Tôi đứng dậy kính chào cụ lang, nhìn cụ đạo mạo tuổi ngoài 70. Thưa cụ! Cụ dạy như thế là rất đúng y pháp. Nhưng cụ đã cho bệnh này là khó, hẳn là khó lắm. Thưa cụ, cụ già đây bệnh tình thế nào, và từ bao giờ ? Người nhà cụ đứng dậy kể trước sau như đã nêu trên. Thưa cụ, cụ xem mạch cụ già đây thế nào ? (Cụ lang Sách) Tôi cho uống Sâm mấy ngày nay mà mạch vẫn trầm vi tế tiểu. Xin mời thầy xem cho thế nào ? Tôi vào xem xong, thưa cụ: Mạch cụ già cả hai tay đều trầm vi tế tiểu và khứ thì nhanh mà lai thì chậm. Thưa cụ có phải thế chăng ? - Dạ! (cụ lang) thầy xem thế thì đúng quá rồi. Nhưng thầy đoán bệnh ra sao ? - Thưa cụ: Tôi đến đây chỉ là góp ý, là làm chứng và học hỏi thêm, sao bằng các vị lão y như cụ, và cụ lại là chủ động trị căn bệnh này. Vậy đoán bệnh và cắt thuốc xin ở nơi cụ. Thưa thầy, tôi đã suy xét mấy ngày nay rồi, giờ muốn biết ý thầy thế nào về bệnh này. - Thưa cụ, cứu bệnh như cứu hỏa, khiêm nhượng mãi mất thì giờ. Tôi xin nói ngay dù có thử tài cũng xin vâng. Bệnh nay “mạch bất hợp chứng” (mạch hàn mà bệnh nhiệt), “mạch bất hợp lực” (mạch yếu mà người mạnh), lại âm mạch mà dương bệnh rất nan trị có thể chết. Thưa cụ, phải vậy ? Cụ lang đứng dậy ôm lấy tôi mà nói rằng: Thật đúng ý tôi, tôi thán phục thầy. - Thưa cụ đâu dám, chúng tôi hậu học. - Thầy khiêm tốn quá. Hôm nay cho tôi được gặp thầy. Tôi rất thích thú. - Thưa cụ, thế là tôi đã góp ý, giờ tôi xin phép ra về. - Thưa thầy, xin thầy ngồi lại cho chút nữa. Còn một việc về thuốc rất quan trọng, xin thầy cho ý kiến. Cụ tiếp: Hôm qua nay ông cụ già đây chỉ uống Dã sơn sâm hạng tốt, bệnh nó cứ thế. Giờ đây ý kiến bà cụ già muốn để ông cụ được uống thuốc ta cho uống thuốc gì đây ? Tôi chưa kịp nói.

121


Bà già nói ngay: Thưa thầy và cụ lang, ý kiến tôi muốn thang thuốc do cụ lang cắt hôm qua và đã sắc rồi, trong đó có bao nhiêu Sâm cứ để cho cụ tôi uống xem sao ? Nghe qua, tôi thầm nghĩ: Bệnh mạch đã biết rồi, thuốc cắt đã sắc rồi, còn mời mình đến chỉ để làm chứng thật. Nếu ông cụ già này có chết thì thầy lang không có lỗi gì hết! Thì ra thầy lang già có khác, giữ tình, giữ lý đủ cả, ghê thật. Xét ra ông lang già này có ý tứ và tư cách khác hẳn ông lang già nhà ông Phán Dần mà mình đã gặp năm trước. Dạ! Việc đó quyền nơi cụ lang và bà cụ, nhưng xin cụ lang có thể cho biết thuốc hôm qua cụ đã cắt những gỉ ? - Tôi cắt Lý trung thang đấy thầy ạ . Sâm 5 đồng cân, Truật 3, Khương 1, Thảo 1 và Phụ tử 1 thêm Ngũ vị tử 5 phân. Sâm vị quân, còn mấy vị tá sứ kia, mỗi thứ một chút ít mà. Mạch nhỏ là nội hàn mà nóng ngoài là dương phù việt. Ta cho uống như thế là bổ dương để ôn hàn mà liễm dương lại, ý kiến thầy thế nào ? Vừa khi ấy, người nhà đã bưng chén thuốc lên. Ông cụ già ngồi dậy, ta phe phẩy quạt, thấy chén thuốc cụ vơ uống luôn, cụ vừa nuốt xuống khỏi cổ, ngấc ngấc vài tiếng. Người nhà vội đỡ cụ. Cụ chết ngay khi đang đỡ cụ. Thế là hai thầy lang hẫng nhìn nhau như muốn hỏi nhau mà chưa ai trả lời. Đó là tôi thấy rõ điển hình một người bệnh này, uống thuốc xuống khỏi cổ, chết ngay (hạ hầu tức tử). SUY XÉT: Bà cụ già: Khi hai thầy lang đang nghị luận, xem bệnh này nên uống thuốc gì mà bà cụ đã vội lên ngay “xin cho uống thuốc đã sắc hôm qua, trong đó có nhiều sâm”. Đó là bà cụ có ý không muốn đợi bàn luận, vì đã tin tưởng nơi tay nghề của cụ lang và muốn cho ông cụ có thuốc uống ngay không phải đợi chờ, lại cũng có ý tiếc, sâm đã mua mà sâm ý lại phải bỏ đi. Rồi bà cụ sai đem thuốc lên mà ông cụ uống rồi chết. Nếu như chưa đem thuốc lên ông cụ đâu đã chết. Cụ lang Sách: Mặc dù cụ đã cho mời thêm thầy lang đến xem bệnh để chửng kiến và giữ tình, giữ lý với nhà bệnh cho đủ, nhưng hẳn cụ cũng mang một thắc mắc lớn trong lương tâm nhà nghề khi ra về, vì thuốc mà ông cụ già uống vào chết ngay, đó chính là thuốc mà cụ đã cắt trước mà cụ đã cho sắc rồi. Biết rằng thuốc đã sắc ấy có đúng như đơn cụ đã nói trong khi ứng đối hay không hay là trong đó thuốc khác ? Nhưng xét ra đúng như đơn đã nói. Còn bảo rằng thuốc đã sắc từ hôm qua hay là vô ý để sâu bọ gì nó bò vào chăng ? Điều đó chắc là không. (Thời ấy, tây y trị bệnh, bệnh nhân có chết, chỉ rằng trụy tim mạch là toi. Đông y trị bệnh, bệnh nhân có chết, phải đem khám nghiệm mà lại tây y (không biết đông y)

122


khám nghiệm. Vì lẽ đó chẳng những cụ lang này mà nhiều cụ lang khác đều phải giữ lý cả. Việc ấy mong được đối xử công bằng ). Phần tôi: Tôi không chủ trị bệnh này, tuy tôi không vương vấn gì về cái thuốc và cái chết của ông cụ già này, nhưng với cảnh tôi thấy rõ ông cụ già vừa uống thuốc xuống khỏi cổ ngấc ngấc vài tiếng chết liền, ngoài lòng cảm xúc tức thời cũng làm tôi ngỡ ngàng mà suy nghĩ mãi sau này. Tôi cần tìm ra nguyên lý của căn bệnh. Tại sao bệnh ấy, uống thuốc ấy mà chết tức khắc như vậy ? Vì tôi đã xem mạch, đã biết bệnh rõ ràng.

NGUYÊN LÝ BỆNH CHỬNG: Bảo rằng: Thương hàn trực trúng âm kinh rồi truyền vào quyết âm hay tam dương, tam âm hợp với bệnh cũng không phải, vì khi sơ phát không có thái dương chứng. Bảo rằng: Đan nhiệt cũng không phải, vì đan nhiệt cũng có khi hơi mát mình mà cũng không bắt quạt như vậy . Bảo rằng: Phát phiền cũng không phải, vì những bệnh nặng khi gần chết, tâm nhiệt cực mới phát phiền, mà phát phiền thì tay chân vật vã, thân mình xoay trở luôn, tuy có bắt quạt, nhưng vã mồ hôi hột và phát thở . Vậy bệnh này thuộc “âm dương”. Mạch trầm vi tế tiểu là âm suy. Chứng âm nhiệt bắt quạt là dương thịnh. Dương thịnh phì việt ra ngoài. Âm suy tiềm ẩn ở trong. Trong ngoài cách tuyệt nhau tức âm dương cách tuyệt nhau. Cách tuyệt nghĩa là âm dương không liên tiếp nhau cho nên: Dương bệnh mà âm mạch tức là mạch và bệnh trái ngược không đi đôi với nhau. Sách dạy:

Dương bệnh mà âm mạch. Nhân cường mà mạch nhược Bệnh nhiệt mà mạch hàn.

Những mạch ấy đều là một hình án bất trị.

123


Vậy chứng bệnh ông già này phạm vào những mạch ấy làm sao sống. Lại nên suy xét: Tại sao bệnh ấy uống Lý trung thang vào khỏi cổ mà chết ngay. Vậy thì tại bệnh đến giờ chết hay tại thuốc ? Dám nói rằng: “tại thuốc” Bởi vì âm đến độ suy cực thì âm biết thành khô ráo. Khô ráo là dương. Dương ấy hợp với dương ngoài là dương cực thịnh cho nên phát nóng, phát phiền bắt quạt. Vậy bệnh này là “dương thịnh cực mà âm khô kiệt”. Biết rằng: Mạch là mạch chết, nhưng lẽ đâu ngồi nhìn chờ chết, phải cho uống thuốc, mà uống thuốc lý đương nhiên phải dưỡng âm thì may ra còn kéo dài ngày sống. Nếu nhầm tưởng mạch trầm vi tế tiểu này là dương suy rồi đem nhiệt dược để bổ dương thì nhiệt ngộ nhiệt, chết ngay. Đó là tại thuốc chết ngay. Nên biết rằng: Mạch trầm vi tế tiểu mà mình và tay chân mát thì mới uống Lý trung. Bệnh này mạch trầm vi tế tiểu mà mình nóng ấm bắt quạt lại cho uống Lý trung là nhiệt dược, tức nhiệt ngộ nhiệt phải chết ngay. Ôi! Những thầy thuốc mới vào nghề, đứng ngoài những loại bệnh này ngó qua, coi thường, bạo miệng, bạo tay cái gì cũng Can khương, Phụ tử nên coi chừng. Kẻ viết bài này đến đây vẫn có ý nghĩ gặp loại bệnh này nên dè dặt. Lại muốn hỏi: Nhiệt ngộ nhiệt phát cuồng. Đây nói nhiệt ngộ nhiệt phải chết nghĩa là sao ? - Nhiệt ngộ nhiệt tắc cuồng là những bệnh nhiệt bạo phát mà trong âm còn thịnh. Nghĩa là khi dương bùng lên phát nóng nhưng âm thủy ở trong còn nhiều thì nó có phần san bù mà giữ lại cho nên chỉ phát cuồng chứ không chết. Đây nói nhiệt ngộ nhiệt phải chết vì trong âm đã suy kiệt. Nghĩa là dương bùng lên trong không còn âm giữ lại, lại bị sức nóng của âm góp sức làm sao không chết ? Hỏi: Đành rằng, nhiệt ngộ nhiệt phải chết, nhưng tại sao bệnh này uống Lý trung thang không biết chứng từ từ rồi chết, mà lại chết ngay ? - Bởi dương ở ngoài đã nóng, âm ở trong khô cạn lại biết thành nóng. Hai cái nóng hợp nhau đang muốn bốc ra ngoài, khi ấy lại không còn chút êm dịu nào của âm giữ lại. Nay lại đem Lý trung là nhiệt dược rót vào tức là đã làm tăng nhiệt đếnó mau thoát ra, khác nào như một đám cháy mà rót dầu vào thì ngọn lửa phừng phực bốc lên. Hỏi rằng làm sao không chết ngay ? Hỏi: Nhiệt ngộ nhiệt phải chết ngay, tức dương bệnh ngộ dương dược phải chết. Tại sao, uống Dã sơn sâm là dương dược mà hai ba ngày không chết ? - Đấy là nói về dược, vậy ta cũng nên suy xét: Biết rằng: Sâm là thành phần dương dược bổ khí, lại tẩm gừng sao. Gừng cũng là

124


dương dược. Vậy mà uống dương dược này vào không chết. Bởi gừng tươi tuy có chất cay là dương dược, nhưng chút cay của gừng chỉ có chút tân tán không có tân nhiệt. Sâm tuy là dương dược, nhưng sâm cam, bình vị ôn chứ đâu có nhiệt. Mà nhận xét kỹ, Sâm là âm dược, và Sâm tối đa là cam, hàn cho nên mỗi khi dùng đều phải tẩm gừng sao. Vì thế uống sâm vào không chết ngay . Nói luôn về Lý trung: Lý trung này tuy trong đó có nhiều Sâm là chất cam hàn, nhưng chất cam hàn này của sâm đâu có lại được chất tân nhiệt của Gừng khô (Can khương). Đã như vậy lại có Phụ tử hợp với Can khương thì Phụ tử cũng tân nhiệt mà Phụ tử là anh có tài đi nhanh. Chất tân nhiệt rót vào ấy lại có Truật góp sức và thêm Ngũ vị thâu vào. Thuốc như vậy làm sao chất cay nóng không đi nhanh mà vào ngay trung châu. Thuốc cay nóng như vậy là “nhiệt ngộ nhiệt”. Bởi vậy, nói loại bệnh này phải “cứu âm” mà trong cứu âm lại phải có chút dương dược, điều hòa cho khéo cũng chỉ may lắm mới sống. Hỏi: Ông cụ già này vì sao phát bệnh “dương thịnh mà âm khô” nói trên ? Âm và dương trong con người lúc nào cũng phải quân bình mà nương tựa nhau thì con người mới khỏe mạnh. Nếu chênh lệch nhau là bệnh, mà cách tuyệt nhau là chết.Nói chung như loại bệnh ông cụ già này, vì sắc dục phóng túng quá, âm ở trong suy kiệt tức là tinh huyết ở trong suy kiệt. Khô kiệt thì âm ấy biến thành dương. Dương khí ở ngoài còn hăng, tuy đã biết là sức người âm thủy suy kém mà lòng ham muốn sống, muốn tẩm bổ. Tẩm bổ cho mau, lại mượn những chất kích thích (rượu, thuốc phiện, hải cẩu thận...) tẩm bổ. Chất kích thích dương vị vào thì dương càng hăng mà âm càng kiệt. Kết cục trong người chỉ có dương mà không có âm hỗ trợ thì dương bùng lên phát nóng mà chết. Bởi vậy, nói bệnh ông cụ già này là bênh thuộc “âm dương”. Âm dương này là âm dương thuần túy, âm dương căn bản bởi thủy hỏa. Bệnh ông cụ già này là bệnh đã suy kém dần dần từ lâu rồi. Khi nhân một động tác nào đó nó suy kiệt âm thủy nhiều mà dương bùng lên làm bệnh chứ không phải đến ngày ấy nó mới bộc phát vậy . Đọc đoạn văn này những ai không chấp nhận “lý âm dương” có còn nghi ngờ chăng ? SO SẢNH: Bệnh nóng trên (bài 23) là dương suy lại đem thuốc mát giội vào cho nguội đi mà chết. Bệnh nóng này (bài 24) là âm kiệt lại đem thuốc khô nóng vào mà đốt cho khô kiệt thêm mà chết. Như vậy, thấy rằng làm thầy thuốc mà trị được những bệnh âm dương nói trên mới là thầy hay, vì thông đạt cái lý âm dương cho đến thấu triệt cả đại thể và tiểu tiết, thật là khó . Cổ nhân dạy: “Phận sự lớn trong việc y trị của thầy thuốc là phải thông đạt cái lý âm dương” (Âm dương, hư thực, hàn nhiệt, y gia phận nội sự).

125


25. TRẺ EM HAI LÒNG BÀN TAY HAI LÒNG BÀN CHÂN NÓNG

NGƯỜI BỆNH Em Lê Trọng Vi (nam) 8 tháng, con của kẻ viết bài này, khi còn làm thuốc ở Thanh Hà, Hà Đông. CHỨNG BỆNH: Khi em được 8 tháng, người mập hơi bụ sữa, đã bò nhanh, phát nóng hai lòng bàn tay hai lòng bàn chân suốt ngày đêm, không nóng ngoài mu, mà da bàn tay, bàn chân vẫn trắng như thường không đỏ, không mồ hôi, đôi khi lúc có nóng mình vã mồ hôi âm ẩm một chút thế thôi, ròng rã 3 tháng. Ăn uống thường, đại tiểu đều, sức người không gầy đi, cũng không thấy lớn. SỰ VIỆC: Khi ấy tôi (kẻ viết bài này) đang ở Thanh Hà, mang danh thầy thuốc, nhưng bệnh này chưa biết trị sao! Mặc dù cũng cho uống mấy thứ thuốc tán thuốc viên qua loa. Sau vài tuần không thấy khỏi, tôi cũng thấy lo, thân hành về quê trình với ông nội cháu (cháu được ông nội yêu chiều). Ông bảo cắt Lục vị cho nó uống. Tôi cắt mấy thang cho uống không khỏi, chần chờ bệnh đã hơn một tháng. Tôi thân hành đi Hà Nội nói với anh cả (Thụ Đức). Anh cả bảo cho cháu uổng Dưỡng trung tiên. Vài hôm sau tôi ra về, anh sai người nhà cắt cho 10 thang. về tới Thanh Hà thấy con vẫn nóng tay chân như cũ mà người nó vẫn bình thường, tôi liền sắc thuốc ấy cho uống, lòng hí hửng con uống thuốc này sẽ khỏi, uống hết một thang chẳng thấy bớt chút nào, uống tiếp hai thang nữa lại thấy có phần nóng hơn. Tôi định không cho uống nữa, nhưng cũng cứ sắc một thang nữa cho uống, thế là bốn thang cũng thế thôi. Đến đây tính ra lằng nhằng thế là bệnh nó đã hơn hai tháng. Bấy giờ tôi mới nghĩ ra “tứ chi tâm với chính tâm là ngũ tâm, ngũ tâm mà phiền nhiệt thì nguy”. Tôi sợ mới đem sách ra đọc (đồng thời gửi thư về quê nói với ông nội và gửi thư đi Hà Nội nói với anh) tìm mục “thủ túc tăm nhiệt” không thấy. Sau đọc nội ngoại thương biện của ông Lý Đông Viên viết trong Y học nhập môn đến mục “thăng tán ” có bài Hỏa uất thang trị thủ túc tâm phát nhiệt. Tôi liền cắt ngay nguyên phương một thang cho uống, thấy bớt ngay rất nhiều mà thấy nó ngủ ngon hơn trước. Thì ra khi bị nóng nó ngủ ít mình cũng không để ý. Tôi cho uống một thang nữa, thế là có hai thang Hỏa uất thang cháu khỏi, không phải uống đến thang thứ ba. Vậy là thằng nhỏ bị nóng bàn tay, bàn chân ba tháng trời mới khỏi. SUY XÉT: về bệnh và thuốc.

126


Bệnh: Hai tay, hai chân là tứ chi, tứ chi là ngành ngọn của tỳ vị (tứ chi lãi tỳ vị chi mạt). Vậy tay chân thuộc về tỳ vị. Nay nóng trong lòng bàn tay, bàn chân là nóng trong cả tỳ và vị. Tại sao tỳ vị nóng? Tỳ vị này nóng có hai loại: Loại một thuộc loại ăn uống không chừng mực, loại hai thuộc loại huyết thiểu, huyết lạnh. Loại 1: Bởi tỳ vị phải nóng lạnh thăng giáng điều hòa thì tỳ vị mới yên. Nay tỳ vị đã hư hàn (yểu lạnh) lại còn yêu chiều cho ăn đồ mát, đồ ngọt nhiều, tắm nước lạnh, hóng gió mát và ngủ đếnhiều quạt. Đồ mát, đồ ngọt ở trên, khí mát ở ngoài, nó đè nén, nó bao phủ, ngăn giữ sức nóng (dương nhiệt) của tỳ vị lại, không cho nó vượt lên, không cho nó phát ra thì sức nóng ấy nó phải phát ra tay chân là ngành ngọn của nó, bởi vậy, nóng trong lòng bàn tay, bàn chân. Tỳ vị thuộc thổ, thổ có thông hòa thì thổ mới nhu nhuận. Nay thổ bị nước đè nén ở trên thì khí nóng của thổ ở dưới không bốc thẳng lên được phải phì ra chỗ khác. Vậy, tỳ vị loại 1 này, bản chất đã hư hàn lại bị chất hàn, khí hàn đè nén mà dương nhiệt ở trong không phát tiết ra được thành ra vị nhiệt mà nhiệt này là “giả nhiệt”. Loại 2: Bởi túc dương minh vị là kinh có nhiều khí, nhiều huyết, nay huyết thiếu lại bị lạnh thì vị kinh khô cạn, khô cạn thì nóng trong. Nóng trong thì máu huyết đỏ phát ra tay chân. Thổ phải ẩm ướt thì thổ mới nhu nhuận, nay thổ thiếu nước thì thổ khô cứng, khô cứng thì mặt đất xác chai. Vậy tỳ vị loại 2 này, bản chất đã nhiệt lại thiếu huyết thì khí nhiệt càng tăng thuộc loại “thực nhiệt”. - Thử đem bệnh này mà phân tách về nội thương hay ngoại cảm: Lòng bàn tay nóng mà lưng bàn tay không nóng là bệnh nội thương, ngược lại là ngoại cảm. - Hay đem bệnh này mà luận về thương hàn truyền kinh: Tứ chi trước nóng là bệnh thuộc tam dương, chuyển sang ôn ấm là bệnh thuộc thái âm: rồi chuyển sang lạnh là bệnh thuộc thiếu âm. - Hay lại bảo bệnh này thuộc ngũ tâm phiền nhiệt: Tâm hỏa bị nóng trong tỳ thổ mà sức nóng của hỏa dẫn ra tứ chi. Tất cả đều không phải. Vậy bệnh này là “vị khí giả nhiệt” dẫn ra phát nóng trong lòng bàn tay bàn chân.Đúng vậy, ta nên suy ngược lại cho rộng nghĩa dể hiểu: Vị khí chân hàn thì khí dẫn ra mát lạnh cả toàn thân và tay chân, vị khí chân nhiệt thì khí dẫn ra làm da khô thịt nóng và nóng cả toàn thân cùng tay chân. Việc trị bệnh nói chung, hễ xét đúng bệnh, dùng đúng thuốc thì bệnh sẽ mau khỏi. Cũng như muốn gọi người nào kêu đúng tên thì họ dạ ngay. Bệnh nóng hai lòng bàn tay chân là nhiệt ở vị kinh mà uống Lục vị là chất bổ thủy: uống Dưỡng trung là chất ôn tỳ hòa vị thì bệnh một nơi trị một nẻo làm sao khỏi được. Cho nên uống Hỏa uất thang hay Thăng ma cát căn thang là thuốc thang dương, thanh vị nhiệt đúng sự đòi hỏi của

127


nó, nên chỉ vài thang là khỏi. Xét ra, bài Dưỡng trung tiên ở Nhiệt trận trong Tân phương bát trận của Trương Cảnh Nhạc. Trong bài ấy có Sâm,Hoài sơn, Biển đậu, Cam thảo và Can khương. May mà thuốc thằng nhỏ này uống 4 thang không có Càn khương, nếu có Càn khương thì-nhiệt ngộ nhiệt bệnh nhẹ hóa nặng. Còn Bạch linh tuy chỉ để thẩm thấp, nhưng thấm nhiều, thấm mãi cũng dẫn nhiệt ăn sâu làm bệnh nặng. Còn uống Lục vị tuy không đúng bệnh, nhưng nó là chất bổ thủy thì cũng không hại gì. Bởi vậy sự trị bệnh cần phải xem mạch biết bệnh mà dùng thuốc mới đúng. Nếu chỉ nghe kể bệnh thì dù là thầy thuốc giỏi đa số là trị không đúng. Hỏa uất thang: Hỏa uất có nghĩa là cái hỏa ở trong nó hun nóng uất kết ở trong thì phải mở (phát) cho nó đi lên, đi ra (Hỏa uất tắc phát chì). Bởi vậy, bài thuốc này trong mục “thăng tán”. Thăng tán có nghĩa là thăng dương tán hỏa: Nâng dương khí đi lên để đánh tan cái hỏa ở dưới. 1 Thăng ma: 1 đồng cân 5 phân, để đem dương khí đi lên mà thanh vị nhiệt. Nên sao qua và chọn thứ Thăng ma xanh mới tốt, nếu thứ trắng uống không khỏi. 2 Cát căn: 1 đồng cân 5 phân, để mở thớ thịt cho mồ hôi dâm dấp ra (gọi là giải cơ) và thanh vị nhiệt. 3 Sài hồ: 1 đồng cân 5 phân, để ra chút mồ hôi và đi đôi với Thăng ma là thăng dương, đi đôi với Bạch thược là sơ can. 4 Bạch thược: 1 đồng cân 5 phân, sao vàng, dưỡng âm huyết cho can để bổ tỳ âm. 5 Phòng phong: 1 đồng cân, để phụ tá mà khu phong phát hãn và thăng dương ở tỳ vị kinh. 6 Cam thảo: 1 đồng cân, để hòa các chất thuốc với nhau và giảm chất thăng tán vào vị xuống mức trung bình. Thông bạch: thêm vài củ để thăng dương ở vị. Đổ nước sắc uống, số lượng thang thuốc này vừa thang thuốc của em 7 - 8 tháng. Nếu em nhỏ hơn thì rút bớt đi mà em lớn hơn thì tăng lên.Không cho ăn đồ cay nóng và chất chát. Bài Hỏa uất thăng do bài Thang ma cát căn thang ( Thăng ma, Cát căn, Bạch thược, Cam thảo ) để thanh nhiệt giải biểu, thêm, Sài hồ, Phòng phong, Thông bạch. Sau khi tôi đọc sách tìm ra hai bài thuốc trên trị khỏi được bệnh “thủ túc tăm phát nhiệt” cho con mình rồi, tuy sung sương phấn khởi về nghề nhưng tự trách mình khi ấy quá sơ sài và ngu dốt.

128


Hai bài thuốc này quả đã thành kinh nghiệm. Từ bấy đến nay, mấy chục năm trường, tôi cứ theo hai bài này mà tùy chứng gia vị. Tôi trị cho rất nhiều em khác được khỏi bệnh nhẹ nhàng mà giản dị. Khi trị bệnh, cần phải xem mạch. Ta để dọc một ngón tay vào bộ mạch tay mặt của đứa nhỏ hễ thấy mạch hồng thì bệnh gì thuộc loại nóng sốt cũng cho uống thuốc này được. Nếu thấy môi đỏ, lưỡi trắng lại càng đích xác hơn. Đại khái: Nóng mình quấy khóc, dâm dấp mồ hôi mà xét thấy đứa bé hơi lạnh thì uống Thăng ma cát căn thang, thêm mấy là Tía tô. Nóng mình không có mồ hôi uống Hỏa uất thang. Nóng mình, môi đỏ, khát nước ói mửa là vị nhiệt uống Thang ma cát căn thang, khỏi ngay. Chớ thấy ói mửa mà bảo vị hàn rồi cho uống loại Hoắc hương, Sinh khương để trị ói mửa, bệnh sẽ nặng thêm. Nên biết vị hàn mà ói mửa thì mình mát mà môi lợt. Ban sởi muốn mọc mà không mọc ra được uống Thăng ma cát căn thang. Nóng mình, đỏ môi, khát nước, mọc ban đỏ mà ỉa lỏng, cũng uống Thăng ma cát căn thang, chỉ thêm Bạch linh một hay hai đồng cân mà thôi, uống một thang hay hai thang khỏi ỉa lỏng rồi thì bỏ Bạch linh đi, uống như cũ. Nhớ rằng ban đỏ mà ỉa lỏng chỉ thêm Phục linh, chớ thêm vị thuốc nóng nào khác. Nói chung, nếu đầy bụng thêm Chỉ xác, Cát cánh. Ho thêm Hạnh nhân..v.v. suy rộng ra mà trị không thể nói hết nơi đây.

129


26. TRẺ EM HAI LÒNG BÀN TAY HAI LÒNG BÀN CHÂN ĐỎ HỒNG NGƯỜI BỆNH Em Đỗ Thị Khánh Phương 8 tháng, người em da săn săn bé nhỏ mà cứng rắn, con anh Đỗ Trọng Nhâm ở 64 bis cư xá Đô Thành, thành phố Hồ Chí Minh. CHỨNG BỆNH: Tháng 10 năm 1977, anh Nhâm bế em lên nói với tôi (anh kêu tôi là cụ ngoại) xin cụ trị cho cháu, cháu đã bị hơn tháng nay, uống loanh quanh mấy thứ thuốc không khỏi. Tôi xem em bị đỏ hết cả môi dưới mà giữa môi bều ra như có vẻ sưng lên, môi trên như thường, đỏ cả hai lòng bàn tay, hai lòng bàn chân, và cả các ngón chân mà đỏ tươi như son đậm màu. (Muốn xem lưỡi nhưng em la khóc gục đầu vào lòng mẹ không xem được). Ngoài ra em chỉ có đôi khi quấy khóc như hơi bứt rứt khó chịu và khó ngủ, còn ăn uống và đại tiểu bình thường. Tôi viết cho anh một toa thuốc bảo đi mua 3 thang về sắc, cho uống mỗi ngày một thang, hẹn 3 ngày sau thế nào lên nói lại: Thăng ma, Cát căn, Bạch thược, Cam thảo thêm Thạch cao. Sau đó, anh lên thưa: cháu uống hết một thang thấy bớt màu, cháu uống hết 3 thang nay đã khỏi hẳn. Anh mừng rỡ cảm ơn rồi ra về. Sau hai tháng, bệnh đỏ môi và đỏ hai lòng bàn tay, bàn chân lại tái phát, anh lại bế cháu lên để xin thuốc. Tôi xem lần này đỏ tím nặng hơn trước. Tôi lại biên đơn như cũ mà trọng lượng nhiều hơn. Anh cho uống hai thang lại khỏi. Vài tháng sau, anh lại bế cháu lên xin thuốc. Tôi xem lần thứ 3 này nặng hơn hai lần trước. Môi và hai lòng bàn tay chân đỏ tím mà da khô. Môi khô nứt nẻ như muốn tróc ra. Tay chân theo đường làn da trong lòng bàn tay giáp mu bàn tay xé rách, nứt cong có thể cầm miếng da ấy bóc lên mà không dám. Thật cũng ít thấy. Tôi lại biên đơn Hỏa uất thang thêm Hoàng cầm 1 đồng cân 5 phân, Sinh địa 2 đồng cân. Cho uống hai thang da dịu xuống hết đỏ. Từ đó đến nay không thấy phát lại. SUY XÉT: Bệnh này môi thuộc tỳ, tứ chi cũng thuộc tỳ vị mà là thiếu huyết, huyết nóng như đã nói trên. Nhưng nó bị tái đi tái lại 3 lần chắc bởi em là con đầu của vợ chồng anh, lại là cháu đầu của bà nội nên được chiều chuộng tẩm bổ, bằng cách cho ăn uổng nhiều của ngon chất nóng nhất là bởi chị cho uống sữa đặc quá (anh nói) mà bị tái phát như vậy, mặc dù tôi đã bảo phải kiêng cữ thức ăn cho cháu. KẾT LUẬN:

130


Bệnh nóng hai lòng bàn tay, bàn chân và đỏ môi, đỏ hai lòng bàn tay chân, tuy thấy rất ít và có thể coi thường nhưng nó thuộc tỳ vị nếu không trông nom điều trị cho mau khỏi đếnó thâm nhập, nó sẽ biển chứng. Khi đã biết chứng thì rất khó trị. Nóng và đỏ hai lòng bàn tay chân, uống Hỏa uất thang và Thăng ma cát căn thang mà khỏi thì ta có thể suy tìm trong cái lý này, hoặc phản lại mà trị bệnh ra mồ hôi tay chân cho người khác.

131


27. TỲ THẬN HÀN THẤP TÍCH TRỆ, BA ĐẬU THAY ĐƯỢC PHỤ TỬ NGƯỜI BỆNH

Ông Nguyễn Văn Đoàn, gần 50 tuổi, người làng Tuy Hiền (Kẻ Sài) Mỹ Đức, Hà Đông, có vợ 5 con, người lùn mầu da bánh mật, đẫy đà khỏe mạnh, làm nghề nông, kiêm vào rừng đốn củi, ở nhà gỗ lợp cỏ tranh bé nhỏ chật hẹp mà gọn gàng sạch sẽ, tính người lầm ngầm ít nói. CHỨNG BỆNH: Mùa đông năm ấy, ông bị bệnh lử khử, lứ khứ, thuốc thang quanh quẩn 3 tháng trời không khỏi, sau bệnh nặng hơn: Nằm bẹp cả ngày, người không phát nóng, không nhức đầu, chỉ khi đứng dậy, ngồi lên thì đầu mặt xây xẩm, ăn uống đầy ợ không tiêu, tiểu tiện thông và trong mà ít, đại tiện ướt mà bĩ không thông (bón), ngủ nhiều, tim đập nhẹ, bụng hơi nóng ấm, toàn thân mát lạnh mà chân tay mát lạnh hơn, mặc dầu trong phòng ông lúc nào cũng có đốt bếp và quây kín. CHẨN T R Ị : Ông cho mời tôi, tội xem mạch trầm khẩn, cương trực, trọng án vô lực. Tôi gọi bệnh này là tỳ thận hàn thấp. Chất lạnh ướt tích kết chặt ở tỳ rồi chuyền hơi sang thận. (Khi chẩn trị gặp bệnh nhân nào ngầm ngầm ít nói rất khó biết bệnh). PHƯƠNG THUỐC: Tôi cho uống Lý trung thang và thêm Phụ tử: - Minh đảng sâm: 3 đồng cân sao vàng, dùng sâm này ôn bình hơn loại sâm tốt mà bị của giả thì nó hàn lắm. - Bạch truật: 3 đồng cân sao vàng. - Can khương: 3 đồng cân. - Cam thảo: 2 đồng cân, nướng than vừa chín. - Phụ tử: 1 đồng cân. Ngoài ra còn thêm - Ba đậu: 4 mảnh chế kỹ Lấy nước sắc uống.Qua 3 thang thuốc thấy bớt chút. Ông xin đổi đi uống thuốc khác. SỰ VIỆC:

132


Đã bao năm trong làng ấy có 3 ông thầy thuốc (trong đó có tôi). Khi ấy trong làng ai có bệnh gi đều 3 ông thầy thuốc ấy thay nhau điều trị. Nhưng nói chung là làng ấy có tính theo nhau hay "ham chuộng lạ". Nay có một ông thầy thuốc từ xa đến, trong làng đồn nhau ông thầy thuốc ấy hay lắm, ông chữa bệnh toàn các quan trên cả. Bởi thế, ông này (Nguyễn Văn Đoàn) bỏ thuốc tôi, xin đi uống thầy thuốc mới. Dĩ nhiên, tôi phải bằng lòng, việc trị bệnh không cho phép cưỡng lại. Một tuần sau, ông Nguyễn Văn Điểm (anh ruột ông Đoàn) thân hành mời tôi đến chấn trị lại cho ông Đoàn (ông Điểm là người có chức vụ trong làng ấy). Tôi đến ngay, tôi xem mạch và bệnh thì hãy còn nguyên như cũ mà người có phần mệt hơn. - Thưa ông có thể cho tôi biết rõ từ hôm uống thuốc ông thầy mới đến nay là mấy thang, và những vị gì ông có biết không ? Nhất là sau khi uổng thuốc thấy trong người nó ra sao và hiện nay bệnh nó thế nào ? - Thưa thầy, từ hôm chú cháu uống thuốc ông thầy mời đến nay là 6 thang. Trong thang thuốc, tôi thấy có cả Can khương và Phụ tử nhiều đến cả vốc tay (ông Điểm là người có biết sơ sơ về thuốc), uống vào thì thấy ấm người dễ chịu nhưng cứ chiều chiều nó bốc lên mặt mà trong bụng nó ngang ngang chứ không thông tiêu như khi uống thuốc của thầy. Hiện giờ người vẫn chưa ăn được mà người vẫn mát lạnh và đại tiểu tiện vẫn sẻn vẫn ít, tối ngủ lại hay mơ màng, thấy rõ thuốc này không bằng thuốc của thầy lên mời thầy sang điều trị lại cho. Nhưng giờ chú cháu nghe nói thuốc có Phụ tử là sợ lắm. Thầy có thể bỏ nó được ? - Vâng! Tôi dùng vị khác thay Phụ tử chiều ý ông, nhưng lần này ông chịu khó uống liên tiếp cho 10 thang, chứ như lần trước ông mới uống có 3 thang đã thôi rồi tôi trị sao được. - Dạ! Tôi bắt chú cháu uống liên tiếp, nhờ thầy chuyên trị cho. Tôi cũng cắt đơn như cũ nhưng bỏ Phụ tử. Can khương 3 đồng cân nhưng chia làm hai. Một phần đếnguyên, một phần sao cháy làm Hắc khương để Can khương nhập tỳ, Hắc khương nhập thận. Ba đậu 4 mảnh thêm 2 mảnh có ý phá tích cũng là thay Phụ tử. Ông uống thang đầu, sáng hôm sau đại tiểu tiện thông hoạt, nhẹ bụng dễ chịu.uống thang thứ hai, đại tiểu tiện thông hoạt hơn, hết bí tích, hết bốc nóng lên mặt, hết mơ màng, uống mấy thang nữa (mỗi thang bớt đi 2 mảnh Ba đậu) người và tay chân ấm lại, ăn ngon, ngủ thành giấc, khỏe. Sau uống mấy thang nữa cho bổ sức: Sâm 5 đồng cân, Bạch truật 5 đồng cân, Can khương 1 đồng cân 5 phân, Hắc khương 1 đồng 5 phân, Cam thảo 1 đồng 5 phân, Ba đậu 2 mảnh. Tất cả cũng chế như trên và sắc nóng. Ông khỏe mạnh hoàn toàn.

133


SUY XÉT: Bệnh tỳ thận hàn thấp tích trệ. Mạch trầm khẩn vô lực, tức là bản tạng người ấy tỳ thận đã hư hàn, lại bởi ẩm thực hàn thấp động tác hàn thấp nó đóng vít ở tỳ thận nữa, tất nhiên nội ngoại đều hư hàn mà thấp tích lại. PHÉP T R Ị : Hàn thì phải ôn, hư thì phải bổ, thấp thì phải thấm mà tích trệ thì phải thông tiêu. Tỳ mà hàn thấp thì phải ôn hàn thẩm thấp cho tỳ. Thận hàn thấp cũng ôn thận thẩm thấp cho thận. Dùng Lý trung thang thêm Phụ tử, Khương để ôn hàn, Truật để thẩm thấp kiện tỳ, Sâm để bổ cho tỳ khí thì tỳ đã được ôn, Cam thảo để hòa đồng các chất thuốc và thêm phần bổ khí. Như vậy, Khương tuy là ôn tỳ mà là ôn thận. Sâm, Truật tuy là thẩm thấp kiện tỳ nhưng cũng có phần thấm thấp bổ thận. Vì tỳ thận tối đa liên hệ, bệnh này nên "tiên trị tỳ, hậu trị thận”. Kể ra lập phương như thế là đúng với chứng hàn thấp của người hư hàn mà mạch trầm khấn. Nhưng xét ra còn nặng về mặt tỳ mà nhẹ mặt thận và chưa có gì nói đến mạch vô lực. Nên thêm Phụ tử để Phụ tử nhập thận và tăng sức mạnh, sức đi nhanh, đi mau vào tỳ thận cho Sâm Truật thì mạch mới hữu lực (Biết rằng Phụ tử tính nó đi nhanh chứ không cố thủ). Nhưng cho uống Phụ tử lý trung là mới trị thận hàn thấp chứ chưa có gì nói đến tích trệ. Bởi vậy, ông thầy mới cho uống đến 6 thang không bớt chút nào. Vì ông dùng Sâm Truật rất nhiều nó càng đóng chặt tích trệ lại, ông dùng Phụ tử cũng rất nhiều tuy nó mau hồi dương nhưng tích trệ còn đó nó không cho Phụ tử đi xuống nên mới bốc nóng lên đầu và ngủ thấy mơ màng. Nói về tích trệ: tích là đình tích lại cho nhiều cho đặc. Trệ là sít lại, dính lại, khó chảy ra. Hàn ấy, thấp ấy nó đình tích lại ở tỳ, nó sít lại ở tràng vị. Hàn thấp tích trệ nó đóng chặt ở tỳ vị mà không cho thông tiêu đi thì mọi vật vận hóa đều bị bế tắc làm cho con người không mạnh khỏe. Khác nào như rác rưởi chướng ngại đầy đường mà không dọn dẹp đi thì mọi giao thông đều bị trắc trở làm cho thành phố kém sinh hoạt. Nhưng nếu ta chỉ ôn hàn thẩm thấp ở tỳ thận mà không thông tiêu cái tích trệ đi, dù uống đến bao nhiêu Sâm, Truật, Khương, Phụ chẳng những vô ích mà còn bệnh thêm. Ngược lại, nếu chỉ thông tiêu tích trệ mà không ôn thấm cho tỳ thận thì sau khi mới thông tiêu cũng thấy có phần dễ chịu, nhưng rồi cái hàn thấp còn lại ở tỳ thận nó lại dồn xuống tích trệ. Bởi vậy, khi trị hàn thấp tích trệ, phải ôn thấm hàn thấp cho tỳ thận

134


đồng thời thông tiêu tích trệ mới là đúng lý. Vì ôn thấm cho tỳ thận thì hàn thấp dồn cả xuống với tích trệ mà thông tiêu ra. Khi đã thông tiêu rồi thì bệnh hết, người khỏe. Nói về thuốc thông tiêu tích trệ: Đối với bệnh nhân lử khử lừ khừ đã 4 tháng là hư chứng rồi, Hư chứng thì phải bổ, nhưng bổ thì tích trệ càng tăng, nên phải thông tiêu.Muốn thông tiêu mà không hại đến sức khỏe thì phải vừa tiêu vừa bổ (tiêu bổ kiêm hành). Thông tiêu mà chất thuốc hợp với tạng phủ của người ấy thì chất thông tiêu cũng là chất bổ, vì thông tiêu rồi thì tràng vị bình hòa thì đòi ăn là bổ. Vậy muốn thông tiêu cho hợp với tạng hàn thấp mà lại mau chóng và nhẹ nhàng êm ả, không gì bằng Ba đậu, như đã dùng cho bệnh nhân này uống. Nếu ta dùng Đại hoàng, Phác tiêu là chất hàn lãnh để khai thông công phá cho mạnh thì người tạng hàn không sức chịu đựng. Vả chăng người hàn mà dùng dàn dược để hạ thì càng bí lại dễ gì đả thông. Hay là dùng loại Mộc hương, Binh lang, Mạch nha để thông tiêu thì cũng tạm được đi nhưng nó chậm mà lại còn sợ háo khí. Đối với người đau lâu, tiêu đã lâu mà lại háo khí dần dần không thể được. Ba đậu thông tiêu rất hợp với người tạng hàn mà hàn thấp tích trệ không có kiêm nhiệt. BA ĐẬU THAY ĐƯỢC PHỤ TỬ Nói rằng Ba đậu thay được Phụ tử thì không đúng, nhưng Ba đậu chắc chắn thay được Phụ tử trong những trường hợp bệnh sau: Tạng hàn mà có hàn thấp tích trệ Tạng hàn có hàn thấp mà không tích trệ Tạng hàn trệ mà không tích. Nhất định Ba đậu hay hơn Phụ tử. SO SÁNH BA ĐẬU VỚI PHỤ TỬ NÓI CHUNG: Ba đậu, Phụ tử đều là độc dược, đều phải chế kỹ mới dám dùng. Khi đã chế kỹ thì chất độc có còn lại chút ít cũng chẳng đáng sợ. Độc có còn lại thì cũng là dĩ độc trị độc và còn dùng chung với các vị thuốc khác nữa, nó sẽ biến chế và hòa đồng thì đâu có sợ độc. NÓI RIÊNG: Ba đậu vị cay, khí chất rất nóng (nóng rát, nóng lâu) nếu gặp chất cay nóng nào khác giúp sức thì càng nóng mạnh. Sách dạy rằng: "Ba đậu dùng sống thì ôn, dùng chín thì hàn" (sinh ôn thục hàn). Nhưng tôi đã dùng sống thì nhiệt mà chín cũng còn nhiệt nhưng nhiệt nhẹ chứ không hàn. Vậy Ba đậu sống hay chín đều nhiệt.

135


Phụ tử vị cay, chất hơi mằn mặn, khí nóng, nhưng có gặp Can khương thì chất nóng mới hữu lực (Phụ tử vô Can khương bất nhiệt). Ba đậu tính tẩu tán rất mau, rất mạnh, uống vào nó tẩu tán trong tràng vị mà chuyển bụng ruột thông tiêu ngay và còn tẩu tán ra ngoài mà thấy nóng ấm xương thịt lông da nữa. Vậy Ba đậu tẩu tán hàn chất tích trệ ở tràng vị mà còn có phần tấu tán hàn khí ở bì nhục cân cốt nhưng không tẩu tán được phong hàn ở kinh mạch. Phụ tử tính tấu tán nhưng êm ả, uống vào nó chuyển dẫn đi các kinh lạc, uống Phụ tử sống cùng với phong dược thì khu trừ phong hàn, thông hoạt kinh mạch, uống Phụ tử chế cùng với Khương, Quế thì bổ hỏa sinh dương. Vậy Phụ tử tấu tán phong hàn ở khí huyết kinh mạch chứ không tẩu tán hàn tích ở tràng vị. Ba đậu là vị thuốc đứng đầu việc khứ hàn, phá tích rất mau. Khi hàn đã khứ, tích đã phá tất nhiên cũng có bổ trung hồi dương. Phụ tử là vị thuốc đứng đầu việc bổ trung hồi dương nhưng rất chậm, bởi có cùng với Sâm Truật mới bổ trung, có cùng với Khương Quế mới hồi dương. Nhìn sự so sánh như trên thấy rằng bệnh hàn thấp tích trệ này dùng Ba đậu chủ để khứ hàn thấp, phá tích trệ nhưng: Ba đậu đi với Sâm Truật là mạnh phần bổ trung. Ba đậu đi với Can khương là giúp sức ôn tỳ. Ba đậu đi với Hắc khương là tăng phần ôn thận. Thuốc khứ hàn thấp phá tích trệ mà lại có công bổ trung hồi dương cho tỳ thận. Công hiệu như vậy là tôi chiều theo ý bệnh nhân bỏ Phụ tử, tôi dùng Ba đậu thay vào mà thành ra tình cờ tôi tìm ra Ba đậu thay Phụ tử. Thật vậy, người khéo dùng Ba đậu trong nhưng loại bênh " tỳ thận hàn thấp tích trệ" này không cần phải Phụ tử mà lại có công hiệu mau chóng và chắc chắn. Lại nên suy rộng Những người thận suy cần uống Thục địa để bổ thận, nhưng tỳ hàn không uống được Thục địa. Những người huyết nhiệt cần uống Sinh địa để mát huyết, nhưng tỳ hàn không uống được Sinh địa. Mặc dù Sinh địa, Thục địa ấy đã tẩm gừng sao khô như cháy và khi uống đã uống nóng, vậy mà uống vào vẫn bị đầy anh ách không dám uống nữa. Như vậy, nhưng thang thuốc có Sinh địa dù có sao khô, ta thử cho vào vài ba mảnh Ba đậu (đã chế kỹ) cho uống xem sao ? Nếu được Bát vị hoàn, Dưỡng vinh hoàn..v,v. nếu thêm Ba đậu cho người tỳ hàn, thận suy, huyết nhiệt uống. Xin độc giả suy xét.

136


28. NƯỚC MIẾNG CHẢY RA NHƯ BỌT XÀ PHÒNG NGƯỜI BỆNH: Bà Năm (không biết họ) ngoài 60 tuổi, thân hình hơi mập, mặt rỗ hoa, nước da sạm. Góa chồng từ năm 40 tuổi, không có con, người làng Nghi Tàm, gần đường Yên Phụ, Hà Nội. Bà ở căn nhà bé nhỏ chật hẹp nhưng xinh xắn sạch sẽ, chung quanh có vườn trồng cây cảnh. Bà làm nghề buôn bán, cảnh nhà tương đối khá giả. XEM QUÁ PHONG CẢNH LÀNG NGHI TÀM Nghi Tàm là một làng bé nhỏ ở phía đông hồ Tây. Hình thể làng lan rộng vòng ra mặt hồ hiện ra một hình bán nguyệt, đất thấp ngang mặt nước hồ, phía trước là hồ, phía sau là đê Yên Phụ, khắp làng chuyên trồng cây lấy bồng trái, uốn cây thành phượng, rồng để bán. Phong cảnh hưởng gió mát trăng thanh, nhìn mặt hồ lăn tăn gợn sóng nên thơ, vui thú với hoa thơm cỏ lạ, ngắm rừng cây cảnh thắm tươi khoe màu gợi cảm. Thật là thủ thủy nhất sắc, hồng tử giai xuân, khả ái. CHỨNG BỆNH: Bà ngồi hai tay ôm một chồng gối cao, đầu gục xuống, trên lưng trùm một tấm mền, trong miệng nước bọt cứ tự nhiên chảy ra, không phải khạc nhổ, mà cũng không có ho đàm, nước bọt chảy ra đã có cái bình phóng phía trong chồng gối cao hứng lấy, nước bọt chảy xuống bình phóng xủi bọt trắng như xà bông, chỉ chừng 5 phút đầy bình, lại thay bình khác (một em bé gái nhỏ ngồi cạnh bà chờ thay đổi) liên tiếp thay đổi đã hơn một tháng, chẳng cho nằm xuống chút nào, chỉ cứ ngồi gục như vậy cho nó chảy ra, trước ít sau nhiều, trước nhẹ sau nặng, ăn chỉ vài thìa cháo, thìa sữa, ngủ nhiều, vẫn ngồi gục mà ngủ, nước bọt vẫn chảy ra. Người mát, chân tay hơi lạnh, nước tiểu ít mà trong, đại tiện vài ba ngày một lần, phân nát. Hỏi bà trong người thể nào ? - Bà đếnhẹ tay vào ngực phều phào: mệt … lắm… - Bà có đau bụng không ạ ? - Bà cũng lắc đầu. - Bà có tức ngực không ạ ? - Bà cũng lắc đầu. Lại nhìn hai khóe mắt bà không co tia đỏ mà môi thì lợt lạt. Mạch trầm tế tiểu. DÙNG THUỐC: Trước cho uống 10 gói "Cam tích tán " hiệu Đại Quang có ý sát trùng. Sau uống An hồi lý trung thang: Minh đẳng sâm: 5 đồng cân sao vàng. Bạch truật: 5 đồng cân sao vàng.

Bạch linh: 5 đồng cân. Can khương: 3 đồng cân.

137


Ô mai:

3 trái.

Thuốc sắc hai lần mỗi lần đổ 2 chén rưỡi nước, đun còn 8 phân, uống mỗi lần 1 2 muỗng con, lát lát lại uống, không kể đói hay no, sáng hay tối. Sau nước bọt đã thôi chảy ra và đã cho nằm xuống thì một nước thuốc đã sắc được uống cả một lần. uống tiếp 10 thang thì khỏe, kiêng uống đường sữa, kiêng là kiêng các chất ngọt. Độc giả nào đọc đến đây thấy rằng, bệnh ấy, thuốc ấy, là đúng, phải khỏi, thì cho là dễ. Nhưng đọc tiếp phần sự việc sau đây mới thấy phần kinh sợ chứ không đơn giản, nhưng cũng vui cười. SỰ VIỆC Tháng 10 năm 1937 (Đinh Sửu) tôi từ làng Nông khê, Mỹ Đức, Hà Đông dọn ra thuê một tầng nhà dưới của cậu Nguyễn Văn Bình ở số 198 Khâm Thiên, Hà Nội mở nhà thuốc, tôi để bảng "Nhà thuốc Định Ninh". Thời bấy giờ đông y là nghề tự do, chỉ khai thuế môn bài là mở cửa. Tôi thuê căn nhà ấy trang bị thuốc men nhà cửa và vài quầy tủ, vài tuần vừa xong (trò nhà quê ra tỉnh, chưa quen ai cho lắm, lại xen vào giữa năm sáu nhà thuốc trong đường Khâm Thiên, nên chưa có ai hỏi đến). Chiều hôm ấy, chợt có một bà và một cậu trai tới nói: Nghe ông mới ra mở nhà thuốc ở đây, tôi đến mời ông lên trị bệnh cho bà chị tôi ở làng Nghi Tàm gần đê Yên Phụ. Nghe xong, tôi thầm nghĩ: Nghi Tàm, Yên Phụ ở đâu ? Xa hay gần ? Bệnh gì ? Có được không ? Ai giới thiệu đây ? Buổi đầu tay của nhà thuốc mới mở, theo thói dị đoan, nếu không trị khỏi, sợ dông (xui). Liền hỏi, thưa bà: Bà chị bệnh gì ? - Bà chị tôi có bệnh nhổ bọt cả ngày. - Đã bao lâu ạ ? - Đã hơn một tháng nay, thuốc tây, thuốc ta đã nhiều không khỏi, mời ông làm ơn lên xem trị giùm cho, có người quen mách tôi đến mời ông. Tôi thâm nghĩ "dông với chẳng dông cái gì" thấy bệnh cứ trị, tôi liền nhận lời ra đi. Tới nơi, vừa xuống xe bước vào cửa, cả một sự giật mình kinh sợ. Thấy ngay cỗ quan tài nằm lù lù giữa căn nhà chật hẹp, mấy người đang sơn phết, lại hai ba cái máy may đang may đồ tang phục, vải trắng xé toàng toạc đầy nhà. Tôi đứng sững người lại định quay về. Mấy người ta trịnh trọng "mời ông vào xem cho". Tôi nhìn vào xó tối, bà già ngồi gục đầu trên chồng gối cao. Tôi xem bệnh tình và mạch lạc như đã nói trên.

138


Lúc đó, tôi cảm tưởng: Ô! Chính nhà bệnh đã bày rõ lo sự chết cho bà, chắc bà già này chết, mình còn hy vọng gì mà chữa trị. Nhưng nghĩ lại, bệnh này nội ngoại một chiều đều thuộc hàn cả. Ta cho uống thuốc cay nóng (tân ôn) để hồi dương may được, nhưng bà này đã uống nhiều thuốc thang rồi, bây giờ lại cắt thuốc thang, lại phải đun nấu, lách cách lôi thôi, chắc gì họ đã tin mà chắc gì bà già đã sống được, thò tay vào cắt thuốc cũng mang tiếng bà ấy đã uống thuốc của mình. Chi bằng hãy cho uống gói thuốc tán sát trùng, nếu bà ấy đỡ được đến mai sẽ hay, nếu không khỏi thì cũng không sao. Tôi xem mạch xong, mấy người nhà túm vào hỏi: - Thưa ông, ông xem cho thế nào, có cứu được không ? - Thưa bệnh tình bà cụ đây, các ông các bà đã rỡ đồ tang chay ra thì các ông các bà đã quá rõ. Bây giờ chỉ có thế nói rằng: Còn nước còn tát mà thôi. Các ông bà có bằng lòng thì cho người theo tôi lấy gói thuốc tán về cho bà cụ uống. Nếu đêm nay uống hết gói thuốc tán mà đến gần sáng bà cụ nằm xuống được thì có thể bà cụ còn sống. Sáng mai các ông cho người mời tôi. Tôi sẽ cắt thuốc thang cho bà cụ. Tất cả đều bằng lòng. Tôi ra xe về và có người theo đi lấy thuốc tán. Tới nhà, tôi lấy 10 gói thuốc Cam tích tán hiệu Đại quang, bóc bỏ nhãn hiệu, trút chung cả vào một gói đưa cho người đi theo đem về. Tôi hẹn, gói thuốc này chia làm 6 lần, mỗi lần hòa một muỗng con nước sôi quấy tan ra đổ cho bà cụ uống, uống đến quá nửa đêm cho hết. Tới gần sáng hễ thấy bà cụ ngả lưng xuống được, thì cho người tới mời tôi ngay, tới thật sớm. Sau khi người ấy ra về, tôi suy nghĩ, kể ra bệnh này cũng dễ trị nhưng bà ấy tuổi già mà bệnh đã lâu ngày, lại uống nhiều thứ thuốc không khỏi cũng có thể chết lắm. Nếu bà ấy chết thì mình cũng sợ dông cho cửa hàng mời mở mà thấy thuốc ra tay đầu tiên ở thành phố. Suốt đêm hồi hộp không ngủ, chỉ mong chóng sáng, họ có xuống mời chăng ? Nếu không thấy xuống mời là thôi rồi đó, mà có xuống mời lại là hy vọng lớn lao, hồi hộp quá! Nhưng dù sao cũng hỏi cho biết là bà ấy đã uống những thuốc cụ lang nào mà lại không khỏi và người nào giới thiệu để họ đến mời mình. Gân 6 giờ sáng hôm sau, nhà chưa mở cửa, đã nghe tiếng gõ cửa. Vội vàng ra mở thì ra người Nghi Tàm đã xuống mời sớm, chẳng cần phải hỏi cũng biết là tin mừng, chắc hẳn là bà Năm đã nằm xuống nghỉ được đôi chút. Quả nhiên người ấy bước vào nói: Thưa thầy, đúng như lời thầy dạy, bà con gần sáng đã bớt chảy nước miếng mà nằm xuống được, xin mời thầy lên xem lại cho. Tôi cảm thấy sung sướng, sửa soạn đi ngay. Tới nơi, nhìn quang cảnh trong nhà thấy những đồ tang chế bày rở hôm qua đã dọn cả đi mà người nào người ấy đều có vẻ mặt vui vui. Tôi vào xem bà cụ, bà nằm nghỉ, thở đều, nước bọt vẫn chảy ra nhưng rất ít, chỉ lấy khăn lau đi mà thôi. Tôi xem mạch tuy vẫn còn như cũ, nhưng bà có phần tỉnh táo và

139


mở mắt nhìn rõ ràng. Tôi hỏi, đêm vừa rồi cụ có ăn được chút gì ? Thưa thầy, bà cháu có ăn vài thìa cháo với muối nhưng không nhiều. Chúng cháu nhận thấy từ ngày bà cháu bị bệnh đến nay không nằm xuống được chút nào, nay nằm xuống được thì dễ chịu thoải mái lắm. Thưa, như vậy là bệnh bà cụ có phần khỏi được. Hôm nay, tôi cắt thuốc thang cho cụ uống và thêm gói thuốc tán nhỏ nữa để uống chêm vào. - Vâng, mọi sự nhờ thầy. - Tôi xin về và các ông cho người theo lấy thuốc. Tôi về cắt An hồi lý trung thang. Bà cụ uống 10 thang hết bệnh, người khỏe mạnh hoàn toàn (như đã nói trên). Sau đó, vui vẻ nào bằng, sung sướng nào bằng, khi gặp bệnh khó mà thầy thuốc đã trị hết, thì thầy thuốc và nhà bệnh có cảm tình thân thiện tỏ lộ sự vui vẻ sung sướng biết bao. Nhân vậy, tôi dò hỏi: Bà Năm từ ngày bệnh đã uống những thuốc của cụ lang nào ? Xin các ông bà cho biết. Bà xuống mời tôi hôm đầu tiên nói: Bao nhiêu năm trước đây, bà chị tôi mỗi khi có bệnh đều uống thuốc cụ Thụ Đức ở 207 phố Bông Lờ đều được khỏi cả. Lần này, bà chị tôi bị bệnh cũng uống thuốc cụ nhưng đã mười ngày không khỏi. Bà chị tôi đi uống thuốc tây mấy hôm cũng không khỏi. Bà chị tôi lại trở về uống thuốc cụ Thụ Đức. Hôm rồi, tôi xuống lấy thuốc ở nhà cụ cho bà chị. Cậu làm việc ở đấy gọi là cậu Phảng thấy tôi lấy thuốc đã nhiều mà bênh bà chị tôi chưa khỏi. Khi tôi ra về, cậu ra cửa mách tôi xuống mời thầy và cậu cho địa chỉ. Cậu nói: "Thầy là em ruột cụ Thụ Đức". Lòng tôi tin tưởng xuống mời thầy ngay. - À! Ra thế. Thưa các ông bà, cậu ấy là Lê Trung Phảng, người nhỏ bé, linh hoạt, Cậu gọi cụ Thụ Đức và tôi đây là chú họ. - Vâng! Cậu ấy có ý mách bảo như thế là tốt lắm. Sau ngày tôi trị bệnh kỳ nan cho bà Năm được khỏi nhanh chóng như vậy, tôi được người làng Nghi Tàm lan ra phố Yên Phụ và khách hàng của bà Năm ở chợ Đồng Xuân đến uống thuốc tôi rất đông và những khách hàng ấy đồn nhau: "Thuốc ông Đinh Ninh hay". Tôi có tên Định Ninh từ năm ấy. Như vậy, nhà thuốc mới mở cửa mà được đông khách ngay, nhờ ơn người cháu Lê Trung Phảng. SUY XÉT: Bệnh nhân miệng tanh lạt, môi lợt, nhiều nước bọt trắng cả ngày, ngủ nhiều, ăn rất ít, tiểu nước trong, đại tiện phân nát, lười mệt không buồn nói, mạch trầm trì tiểu là "nội hàn". Người mát, sợ gió, sợ lạnh, trùm mền, tay chân hơi lạnh là "ngoại hàn" Lại xem khóe mắt không có tia đỏ là "nội ngoại đều hàn không có kiêm nhiệt".

140


Bệnh như vậy mà nhìn mắt có tia đỏ, con ngươi trong tròng đen cũng đỏ, môi đỏ, lưỡi đỏ, đầu lưỡi nhọn, miệng đắng, khát nước, thổ ra nhớt từng cơn, da thịt ấm, nằm yên một lát lại lăn lộn là kiêm có nhiệt. Hàn đây là “ Vệ hàn”. Sự sống của con người, vị khí co ấm nóng và tiêu hóa điều hòa mới khỏe. Vị khí đã hàn mà lại để lâu không ấp ủ cho nóng thì hàn ấy lan ra tỳ thận thành tạng hàn. Tạng đã hàn thì toàn thân con người hàn. Nước bọt trắng! Trắng là sắc hàn, nhểu ra nhiều, ra dài ngày không phải khạc nhổ mà xứ nhểu ra là "hàn cực". THUÔC: Bệnh vị hàn thổ mạt này dùng An hồi lý trung thang là rất đúng. Nhưng tại sao lại dùng Cam tích tán trước khi dùng An hồi lý trung thang ? Không nói ra những người tìm hiểu y lý có phần thắc mắc mà nói ra e có người cười. Cười ông thầy thuốc nhút nhát, kém tài không nắm vững phần y trị. Bởi lẽ bệnh già, bệnh đã lâu, mạch trầm tể cũng dễ chết lắm, đã chắc gì chữa khỏi. Lại nhìn cảnh tượng tang phục đã bày ra thì còn tâm hồn nào mà thò tay cắt thuốc, ngộ nhỡ ngày bà ấy chết thì mang tiếng nhà thuốc mới mở, mà lỡ họ buộc bởi uống thuốc của mình rồi đem giảo nghiệm thì sao ? Nhân tâm mới lạ, lại nhà quê mới ra tỉnh mà! Bởi vậy, hãy cho uống Cam tích tán, chang gì Cam tích tán chỉ là gói thuốc thông thường mà thôi. Nếu bà ấy có chết đêm ấy cũng chẳng can gì đến mình. Còn câu nói rằng: Bà cụ uống gói thuốc này, nếu đêm nay gần sáng bà nằm xuống ngả lưng được một chút thì bà ấy có thể sống. Đó là nói để gỡ danh dự để ra về, rồi may mà trúng và cũng là thời vận tốt đem đến cho mình mà quả nhiên lời thầy đã biết trước thì lại là thầy hay. Nói biết rằng thời vận tốt đem đến cho mình mà cũng là ngày hoàn sanh đem đến cho bà ấy. Ỷ NGHĨA BÀI THUÓC: An hồi lý trung thang: An hồi là dẹp yên trùng xuống không cho khởi lên. Lý trung là điều trị trung khí trong dạ dày. Sâm: để thâu giữ phế khí mà nuôi dưỡng cho đỡ mệt. Truật: để tăng sức mạnh cho tỳ vị và cũng thấm nước dư. Linh: để thấm khô nước bọt đưa xuống bàng quang đái ra và góp công với Sâm Truật để giúp sức cho tỳ và phế. Khương: có chất cay nóng để ôn ấm cho tỳ vị và giun thấy tỳ vị ôn ấm thì ở yên không ngoi lên. Ô mai: có chất chua để giun gặp chất chua thi cứng mõm mà sợ rồi đi xuống. Bài thuốc này tức là bài Lý trung thang bỏ Cam thảo mà thêm Bạch linh, Ô mai

141


(bỏ Cam thảo vì sợ ngọt). Bài thuốc này chủ ý ấm bụng và sát trùng cho những bệnh nội ngoại đều hàn. Sát trùng, trùng sẽ biến thành phân theo đại trường đi ra không phải dùng đến thuốc lợi hạ, vì đại tiện đã đi phân nát, và bệnh đã lâu, nguyên khí đã suy chỉ nên ôn bổ để thông tiêu không nên hạ lợi. KÉT LUẬN: Lại hỏi tại sao bệnh bà Năm như vậy, bà có tiền, chịu khó uống thuốc lại ở thành phố thiếu gì thầy, thiếu gì thuốc, mà lấy thuốc tây, thuốc ta chữa trị hàng tháng không khỏi. về thuốc tây chữa trị thế nào không được rõ. về thuốc ta chắc hẳn đa số các thầy ờ thành thị chỉ chăm lo điều trị các bệnh ở các nhà đại gia để lấy tiếng, "thầy hay chữa bệnh toàn các nhà quan" thực ra phần nhiều các bệnh nhà quan là bệnh không uống thuốc cũng khỏi. Còn các nhà dân gian, họ không muốn vào sợ thấp phẩm giá. Nếu có miễn cưỡng phải đến xem bệnh thì cũng qua loa chóp nhoáng ra về, chứ không lưu ý suy cùng nghĩ cạn vào bệnh lý, ý lý cho người ta, khỏi hay không khỏi cũng thôi, nếu có chết thì lại dồn nhau là đã uống thuốc ông này, ông nọ mà cũng không khỏi. Bởi vậy, bà Năm này mới bệnh lâu như vậy. Tôi thường nói: "Thầy thuốc đông y Việt Nam, những người có chân tài, có lương tâm phát xuất từ thôn dã nhiều hơn thành thị”.

142


29. TRẺ EM XANH GẦY KÉM ĂN NGƯỜI BỆNH: Em Tuấn (nam) 6 tuổi, tai mắt khôn sáng, mặt mũi xinh tươi, con ông Phán Dần ở ngõ trường Trịnh Kiểm, phố Khâm Thiên, Hà Nội. Ông bà Phán Dần đã gần 50, có một em Tuấn là trai độc nhất, em được nuông chiều yêu quý. CHỨNG BỆNH: Em chỉ có bệnh xanh gầy kém ăn, người không nóng sốt, bụng không cam tích, mũi răng không toét, không đau, đại tiểu bình thường. PHƯƠNG THUỐC Lục quân tử thang thêm Khương, Tảo: Minh đảng sâm: 3 đồng cân, sao vàng. Bạch truật: 3 đồng cân sao vàng. Bạch linh: 3 đồng cân, bỏ vỏ. Cam thảo: 1 đồng cân, nướng chín. Trần bì: 1 đồng cân 5 phân. Bán hạ: 5 phân Sinh khương: 2 phiến Đại táo: 1 quả Uống hết 3 thang vẫn giữ nguyên hình trạng ấy chưa thấy thèm ăn. SỰ VIỆC Sau khi em Tuấn uống hết 3 thang thuốc trên vài ba ngày, một buổi sáng, ông Phán Dần, em Tuấn đến nhà thuốc của tôi và có một ông cụ già chậm chạp đi theo. Ông Phán vào trước gặp tôi, ông giới thiệu: Tôi có ông chú, cụ lang già ngoài 80 tuổi ờ nhà quê lên chơi. Tôi thoáng nhìn cụ người nhỏ nhỏ cao cao, mắt sắc, dâu thưa ngắn, da trắng xám, đầu trần, tóc bạc, búi nhỏ, mặc áo dài the thâm cũ, quần màu trắng tro, chân đi đôi giày da hàm ếch. Cụ bước vài nhà.Tôi mời cụ ngồi và kính cẩn pha trà, trong lòng hy vọng được tiếp cụ lão y, ngoài việc nói chuyện về thuốc thang cho em Tuấn, còn được bàn luận về y lý. Ngờ đâu cụ đốp cho một câu mở đầu:

143


Thôi! Ngồi gì ? Tớ ở nhà quê mới lên xem bệnh cho cháu Tuấn rồi đến hỏi anh. Bệnh cháu thế này mà anh cắt Lục quân cho cháu uống là anh đã giết người. Tôi tái mặt không nói gì. Cụ tiếp: Anh xem đây, rồi cụ kéo em Tuấn lại gần cụ, một tay cụ để vào ngực em, một tay cụ ấn mạnh 4 ngón tay vào dọc xương sống em. Cụ day đi day lại suốt từ trên xuống dưới, lại day ngược lên. Trong khi cụ day, em Tuấn ưỡn người ra, hẳn là em đau và buồn buồn (nhột) sống lưng. Tôi chưa nói gì. Cụ lại tiếp: Bệnh này phải cắt Lục vị thang thêm Ban long giao cho nó uống mới được. Tớ đã cho nó uống hai ngày hai thang rồi. Xong cụ đứng lên, tay rắt em Tuấn và gật đầu ông Phán ra về và cụ còn tiếp, đến bảo cho biết thế thôi. SUY XÉT: Bệnh trẻ em chỉ có xanh gầy kém ăn, ngoài ra không có bệnh gì khác như đã nói trên mà cho uống Lục quân tử thang thêm Khương, Táo là lập phương đúng đắn mà dụng dược đúng lý lắm rồi vì Lục quân tử bồ tỳ tức là bổ thận. Thế mà lại bảo: Bệnh ấy bởi thận khô không phải tỳ suy, nếu uống Lục quân dần dần sẽ chết, vì thận sợ khô ráo (thận ố táo) mà lại ôn tỳ sẽ táo thận. Thận táo thì sinh lắm bệnh. Day vào sống lưng nếu thấy có đau có buồn là chứng nghiệm thận bị khô (thận thuộc thủy, thận thuộc sống lưng). Thận khô là thận thủy khô cạn thì tinh tủy ở sống lưng cũng bị khô nên day vào lưng biết buồn. Nếu đúng như vậy thì cho uống Lục vị thêm Ban long thì rất phải, rất hay. Nhưng thực tế có cho phép đa số các em nhỏ (và cả người lớn) có bệnh như vậy đều uống được Lục vị Ban long chăng ? Xét ra trong Lục vị có Thục, Thù và thêm Ban long là chất nhu nhuận để bổ thận, tưới nhuần cho thận để thận khỏi bị khô. Đúng! Nhưng Thục, Thù đã sao khô tẩm gừng, rượu đi chăng nữa, lại hợp với Ban long là chất lâu tiêu thì Linh, Hoài để bổ tỳ, Linh, Tả để thấm đi. Hỏi rằng sức bổ và sức thấm của Linh, Tả có chống chọi được với sức nhu trệ của Thục, Thù và Ban long chăng ? Hay lại bị đầy ứ ruột rồi không ăn (tệ hơn kém ăn) mà xanh gầy thêm. Và lập luận cho đúng mà nói rằng: Bệnh trẻ em xanh gầy kém ăn mà không có bệnh gì khác, xét thấy tạng nhiệt thì uống Lục vị Ban long nhưng phải làm thuốc hoàn cho uống. Tạng hàn thì phải uống Lục quân Khương Táo. Tạng nhiệt: Miệng môi răng khô, đại tiện táo. Tạng hàn: Miệng môi nhớt dãi, đại tiện nát, lỏng. Trẻ em trong 10 đứa, chỉ có một hay hai đứa tạng nhiệt mà thôi. Còn đa số là hàn, nên xét kỹ. Xét về ngôn ngữ, cử chỉ của cụ lang già:

144


Cụ đến nhà thuốc của mình mà cụ tớ tớ anh anh và vào không hỏi, ra không chào, Đó là cụ thấy mình còn nhỏ tuổi thì hẳn là chưa kinh trị mấy rồi có ý nghĩ khinh miệt đối phương để tự đề cao học lực của mình và ỷ mình lớn tuổi, lại còn khoe hay, khoe tài với ông Phán ấy nữa, nên mới thốt ra những lời quá lỗ mãng và khinh người như vậy. Tệ nhất là câu nói: "Anh cho uống Lục quân là anh giết người!". Thật là đã quá không suy nghĩ mà ôm đồm sơ xuất. Xét về tôi, tại sao bị nhục vô lý như vậy mà không phản ứng gì ? Bởi tôi nghe giới thiệu cụ lang già ngoài 80 tuổi mà tôi lúc ấy mới ngoài 30 thì tôi còn nhỏ quá, nên tôi kính già. Và xét ra một ông già đã quá lỗ mãng mà mình lại phản ứng bằng cách đối ngữ, tuy cũng có thể được, nhưng thử hỏi có ích gì ? Âu ta im lặng là vàng, im lặng đến nghe cụ trổ tài thổ lộ mà mình học hỏi thêm còn có lợi chăng ? Thiết tưởng khi ấy khiêm nhượng một chút, tuy có người nghe qua thì cho là hèn, nhưng người nghĩ kỹ có lẽ lại cho là có tư cách. Nói về tiếng tớ tớ anh anh của cụ: Thời bấy giờ ai đến nhà mà tớ với anh như vậy là xách mé, là tiếng nói khinh người thậm tệ. Nhưng xét ra, có lẽ cụ cậy mình lớn tuổi mà hống hách ở nhà quê đã quen, thực ra cụ đã quá kém về xã giao, nhưng tôi cũng bỏ qua luôn. Tuy nhiên, mỗi khi tôi nghĩ đến, tôi vẫn còn căm ông cụ già này. Xét về học hỏi: Tôi chỉ học được môn "day lưng để biết thận khô" mà thôi. Còn giọng lưỡi tự cao của cụ thì học làm chi. Bản tính tôi vẫn nhũn nhặn. Đen ngày nay tôi đã lớn tuổi gần bằng tuổi cụ lúc ấy, tôi đối xử trong y giới vẫn khiêm cũng tự khuyết. Còn nói rằng uống Lục quân sẽ giết người. Tôi chả thấy ai chết vì Lục quân cả. Lục quân là thuốc kiện tỳ, bổ tỳ (Nhân anh dĩ tỳ vị chi bản). Nói rằng: Lục vị Ban long đê tư thận thì tôi lại không biết sao ? Nói về em Tuấn, sau khi uống thuốc Lục vị Ban long một tuần tôi đến chơi thì tiếc rằng ông bà Phán đã dọn nhà đi nơi khác, không biết được kết quả. Lục vị thang (bài thuốc có 6 vị) có những tên gọi: Lục vị thang, Lục vị địa hoàng thang, Thận khí thang, Lục vị thận khỉ thang hay Thận khí địa hoàng thang đều là một. Lục vị là bài thuốc chủ để bổ thận thủy cho cân bằng với thận hỏa. lúc nào cũng phải cân bằng nhau mới khỏe mạnh.Thận thủy suy, tức là thận tinh, thận âm suy kém mà thận hỏa mạnh hơn thì thận hỏa hun đốt mạnh làm cho thận thủy khô cạn thêm. Nên uống Lục vị để bổ thận thủy cho cân bằng với thận hỏa.uống đến cân bằng thì thôi, không thể uống quá nhiều cho thận thủy bội hơn thận hỏa được. Nếu thận thủy bội hơn thận hỏa thì lại làm bệnh khác. Thận hỏa vượng hun đốt thận thủy thì chỉ uống Lục vị vừa tưới mát cho thận thủy, vừa rút hỏa xuống. Thận hỏa này nó vượng thì không thể dùng loại hàn dược nào mà giội nó được. Cho nên thận thủy suy thận hỏa vượng uống Lục vị rất hay.

145


Cổ nhân đặt ra bài Lục vị rất là tinh tường mà tế nhị, công hiệu rất cao sâu. Tuy nói rằng Lục vị bổ thận thủy mà trong đó bổ cả ngũ tạng. Nhưng tiếc rằng: Ngày nay đa số người trong nghề vì lòng tham đã giả trá và cấu thả làm cho dược vị cổ kim, bào chế kim cổ khác nhau làm giảm hiệu lực của Lục vị quá nhiều. Lục vị thang Thục địa

8 đồng cân, đúng số 1

Hoài sơn

6 đồng cân, đứng số 2

Bạch ỉ inh

6 đồng cân, đứng số 2

Mầu đơn bì

4 đồng cân, đứng số 3

Sơn thù

4 đồng cân, đứng số 3

Trạch tả

3 đồng cân, đứng số 4

Lấy nước sắc uống hay làm hoàn tùy tiện.

PHƯƠNG PHÁP BÀO CHẾ Dược vị và bào chế kim cổ khác nhau: 1.. Xưa Sinh địa để già mới đào lấy, chừng 4 củ (kg) rửa sạch đất phơi khô, khi nấu bóc vỏ, đêm nấu ngày phơi 9 lần (cửu chưng cửu sái) để lấy khí âm dương cho đều rồi phơi khô kỹ mới dùng. Nay Sinh địa còn non ba bốn mươi củ một kí-lô, khi nấu ít có rửa và bóc vỏ (để vậy cho nặng ký), nấu liền hai ba đêm hay có khi chỉ nấu một đêm, đem ra phơi qua rồi sấy khô cho khỏi mốc, chú ý để ướt cho nặng ký. Có người khi nấu còn cho mật vào bột trộn cho dẻo dính và nặng ký nữa. 2.. Xưa Hoài sơn để củ già chắc mới lấy. Khi dùng còn hấp trên mặt nồi cơm để lấy hơi cơm mà không mất tuyết của nó. Nay ngâm nhũn đã mất tuyết rồi cắt nhỏ phơi khô mới dùng và thậm chí còn lấy củ sắn gọt cắt làm Hoài sơn giả. 3.. Xưa Bạch linh dùng củ chắc chắn và cạo sạch vỏ. Nay dùng cả vỏ và còn pha bột cho dẻo. 4.. Xưa Sơn thù thịt dầy, khi dùng bỏ hột sao chín. Nay thịt mỏng, dùng cả hột, ít có sao. 5.. Xưa Mầu đơn bì thịt tia tía, thơm, khi dùng bỏ xương, sao chín. Nay thịt trắng bạch mà dùng cả xương. 6.. Xưa Trạch tả củ nhỏ, thơm, khi dùng còn tẩm muối sao. Nay củ xốp, kém

146


thơm, ít có tẩm sao. Khác nhau như vậy, sức thuốc và tính thuốc sai biệt quá nhiều làm sao có công hiệu. Lại xưa nhân loại ẩm thực cư xử thanh đạm lại có chừng mực. Nay no say ham muốn quá độ mà dược vị không đúng thì hẳn là Lục vị không có công hiệu mấy nữa. Vả chăng bài Lục vị tìm đúng thuốc, chế đúng phép, uổng rất hay, nhưng công hiệu của nó chậm, không phải là thứ thuốc dùng kiến hiệu ngay cho nên chỉ người nào biết dùng mà kiên trì thì mời thấy hay. Nếu với bệnh nhân nào mà muốn khỏi bệnh ngay thì coi như Lục vị là vô hiệu.Nói về bài Lục vị thêm Ban long giao, cân đủ bài Lục vị trên, trẻ em cân phân nửa. Đổ nước sắc, sắc xong nhân lúc nước thuốc còn nóng, bỏ Ban long vào chừng 5 đồng cân, quấy cho tan rồi uống ngay, đừng uống nguội. Do sợ Thục địa bị đầy mà đem Thục địa sao khô còn có thể được. Nhưng nếu Thục địa trong bài Lục vị mà tẩm rượu, tẩm gừng sao khô thì còn gì là tư thận. Nếu Thục địa dùng ít hơn 5 vị kia thì còn gì là chủ lực của Lục vị.Cao ban long khi uống vài ngày đầu, nó nhạy cảm bắt thèm ăn ngay. Nhưng mấy ngày sau thấy cơm chỉ nhìn mà thôi không ăn, VÌ nó là chất keo, nó láng dính hết các tế bào của dạ dày, còn sức nóng đâu mà đòi ăn. Bởi vậy, tôi nói trong số mười trẻ em chỉ một hay hai em uống được Lục vị Ban long mà thôi.

147


30. SẢN HẬU PHÙ THŨNG SẢN HẬU PHÙ: Như phù hơi (khí phù), "hơi" rẩy lên sưng cả người, lấy ngón tay ấn nặng vào chỗ sưng để lây một phút nó lủng xuống, khi nhấc ngón tay ra, chỗ lủng ấy nó bằng phang lại ngay. THŨNG: Thũng nước "thủy thũng", nước ray lên thũng cả người, lấy ngón tay ấn nặng vào chỗ thũng để lâu vài phút nó trũng sâu xuống, khi nhắc ngón tay ra chỗ trũng ấy từ từ mới bằng phang lại. Trị phù hơi phải cho thông hơi để hơi thoát ra. Trị thũng nước phải cho lợi tiểu để rút nước ra. Tuy nhiên, trong khi thông hơi và rút nước đều nên nuôi dưỡng sức khỏe cho khỏi mất sức thì bệnh khỏi rồi mới vững chắc. Nếu cứ thông hơi, cứ lợi tiểu mà không dưỡng sức thì bệnh khỏi rồi sẽ trở lại. Phù hơi thì nắn vào da thịt rắn chắc, da thịt hơi ấm vì khí thuộc hỏa, hỏa tính nhiệt. Phù nước thì nắn vào da thịt mềm nhũn như ủng thũng những nước ở trong mà sờ vào da thịt man mát, vì nước là thủy, thủy tính hàn. Còn những bệnh kiêm cả phù hơi và phù nước thì gọi chung là phù thũng. Đây là nói chung tình trạng bệnh phù thũng như vậy. nhưng những người phát bệnh phù thũng thì gốc bệnh khác nhau, như bệnh thũng sau khi đẻ mấy ngày, gốc bệnh bởi huyết ứ. CHỨNG BỆNH: Bà Đức Thành 38 tuổi ở hẻm 137 đường Phát Diệm, Sài Gòn. Ông bà mở tiệm giặt ủi ở đấy, tên hiệu Đức Thành (nên gọi là bà Đức Thành, không biết tên chính của bà), người bà bé nhỏ xương xương, tính tình mau lẹ vui vẻ. CHỦNG BỆNH VÀ SỰ VIỆC Chiều hôm ấy, bà Đức Thành đến nhà tôi (gần nhà tôi), bà vừa vào cửa, nhìn bà người to béo đẫy đà như người khỏe mạnh. Bà mau mắn chào hỏi, bà nói ngay: Thưa ông, tôi đến nhờ ông xem bệnh giùm tôi, tôi sinh lần này là lần thứ năm, lần nào tôi sinh rồi năm bảy ngày sau là cũng phát phù, mà bốn lần sanh trước phát phù, các thầy chỉ cắt cho vài ba thang là khỏi, sao lần này phát phù, tôi đã uống thuốc của hai thầy, mỗi thầy năm sáu thang không khỏi mà lại phù nặng hơn thế này. Bà vừa nói, vừa vạch bụng, véo da bụng dày, giơ chân to đẫy cho coi. Bà nói tiếp: sau khi ở nhà hộ sanh về năm ngày, vài ngày sau sạch sẽ máu, huyết hôi cũng không có nữa. Từ đấy nó sưng mặt mũi, tay chân, thân thể nặng nề khó chịu, trong bụng bĩ tích không tiêu, không đủ sữa cho con bú, tiểu ít, ngủ kém, trong người mệt mỏi không thèm cất nhắc. Xin thầy xem mạch, cho tôi vài thang thuốc uống. - Nhà ta mở tiệm giặt ủi, hẳn là bà mó nước sớm và làm nhiều, người mới sanh,

148


nước lạnh thấm vào phát phù chớ gì? - Dạ không, tôi vẫn kiêng giữ không phải làm việc nước lạnh ạ. Thưa ông, tôi ngần này tuổi, bé dại gì, sanh đã năm lần, ăn uống vẫn kiêng giữ cẩn thận, không dám xô bồ như nhiều người khác, vậy mà bệnh thế này. - Khi bà ở nhà hộ sanh, mỗi ngày có làm thuốc rửa cho sạch và chích thuốc cầm máu không? - Thưa có, mỗi ngày mỗi rửa và chích thuốc nhưng không biết thuốc gì? - Bà làm ơn cho tôi xem mạch. Xem mạch người bệnh phù rất khó vì cổ tay sưng, da dày, phải ấn ngón tay xuống thật mạnh mới thấy, mạch trầm vi mà trì. Tôi sờ vào da thịt tay chân man mát. Tôi ấn ngón tay vào chỗ sưng, mu bàn chân nó mềm mềm trũng xuống, đếngón tay lâu lâu một lát, khi nhắc ngón tay lên, chỗ ấn ấy nó trũng sâu xuống cũng lâu lâu nó mới trở lại bằng đầy như cũ. Tôi cho đó là bệnh thủy thũng, mà thủy thũng ở người mới sanh hẳn là bởi huyết ứ làm thũng. Tôi hốt hai thang có ý tiêu ứ tán thũng, bà uống thấy trong người dễ chịu mà thũng cũng bớt, bà uống sáu thang nữa, hết thũng, nhẹ nhõm khỏe mạnh lại đủ sữa cho con bú. Lẽ tự nhiên, bệnh đang nặng mà được khỏi bệnh, bà sung sướng, nhất là tính bà lại mau lẹ vui vẻ, bà khoe ầm lên: "biết thế đến đây uống trước, đỡ phải uống bao nhiêu là thuốc" . Từ bấy đến nay, ông bà Đức Thành nhận tôi làm gia sư. Gia đình ông bà hiện nay ở đường Bùi Viện. SUY XÉT: Danh dự nghề (vài câu phiếm). Làm thầy thuốc, thầy già, thầy trẻ, thầy nào cũng đường đường tự bảo mình là hay, là giỏi cả. Thật vậy, chả thầy nào bảo mình không hay cả. Nhưng những khi gặp trường hợp bệnh nhân đến xin trị bệnh - hẳn là bệnh khó bệnh nhân vừa vào cửa bô bô nói: Bệnh tôi thế này, thể nọ, tôi đã uổng thuốc thầy trước trị hay mau khỏi, nay đau lại, thầy trước đổi đi xa, hay thầy sau này trị không khỏi, giờ đến nhờ thầy đây - như lời bà Đức Thành nói trên. Xét ra lời nói trên chỉ là thẳng tuột tự nhiên, đã nghe tiếng thầy hay, đã tin tưởng nơi thầy, cốt ý đến thầy mong được mau khỏi chứ chẳng có ngụ ý gì thử thách. Nhưng khi thầy thuốc nghe lời nói ấy tuy cảm thấy có vẻ khinh nhờn và chọc giận, nhưng thực ra họ muốn mình trổ tài giúp mình mau khỏi. Vậy khi nghe, khi nhìn những bệnh của bệnh nhân mà bệnh nhân nói ra lúc đó, dù mình có là thần thánh đi chăng nữa cũng phải tự nghĩ đến năng lượng điều trị bệnh ấy của minh đến mức độ nào, được bao nhiêu kí-lô, bao nhiêu tạ mà lên dây cót trí óc, thêm dầu xăng cho tài nghệ, vặn hết tốc độ hòng trị bệnh cho người ta được khỏi nhanh như máy điện, hiệu năng hơn cả các thầy trước và sau đó để bảo toàn và nêu cao danh dự.

149


Ngược lại, thầy thấy bệnh nhân đến, thầy thấy bệnh nhân nói vậy thầy tưởng được vàng, thầy khoe tài trị bệnh của mình giỏi như phép lạ như tiên ông xuống núi, như kĩ thuật thầy ngoại nhập cảnh để đưa người bệnh lên máy bay vào cũng trăng hòng thu tiền vé cho cao "khỏi, không khỏi cũng mặc". Những thầy như vậy chắc hẳn phòng mạch của thầy năm này qua năm khác, hễ đã có khách toàn là khách mới lạ. Khách lạ ấy được nghe thầy đưa ra những lời trị liệu khoa học tân kì mà uống thuốc vào, nào phản lão hoàn đồng, nào trường sinh bất tử, khi ra về lòng đầy tin tưởng, nhưng rồi vài ngày sau, tiền mất tật mang. Hỏi rằng những khách ấy nghĩ gì về những thầy ấy. Thiết tưởng thầy thuốc như vậy chẳng những đã tự coi rẻ danh dự cá nhân mình mà còn làm thương tổn đến danh dự chung của cả một nền y dược! BỆNH: Bà Đức thành bé nhỏ gầy yếu, nước da trắng bạch, hẳn là bà tạng hàn. Tai sao biết tạng hàn? Nhìn bà người lử khử, lừ khừ, lưỡi lợt không gai đỏ, nước da lợt lạt, da thịt mát, da bụng dày, ăn không tiêu, đái không thông, mạch bé nhỏ là tạng hàn. Tại sao sanh rồi phát thũng? Bởi sanh rồi thì huyết cũ phải cho ra hết. Nhưng vì tạng hàn, huyết gặp lạnh không ra, thận không dẫn nước ra ngoài được, đái không thông, thân thể trướng thũng. Tại sao mỗi lần sanh mỗi lần phát thũng? Nói chung, tất cả mọi người đàn bà sau khi sanh khí huyết đã suy yếu đi, đều phải nhờ vào sự ăn uống có vận hóa mạnh mới lấy lại sức, mới sanh huyết mới mà trục huyết cũ ra. Người tạng hàn ăn uống ít lại vận hóa kém, lấy gì sanh huyết mới trong người để trục huyết cũ. Còn mỗi lần sanh mỗi phát thũng, bởi mỗi lần sanh sức người yếu hơn trước, mỗi tuổi mỗi khác, sức yếu dần đi mà bản tạng đã hàn làm sao không phát thũng. Vậy mỗi lần sanh mỗi phát thũng, chỉ bởi tạng hàn sức yếu không đủ sức thông tiêu mà huyết cũ ứ đọng lại phát thũng chứ chẳng phải bởi đường dây mạch nào của xung, của nhâm bị kẹt mà máu ứ lại. Bệnh thũng này hẳn là thủy thũng, nhưng vì do huyết ứ, nên cũng gọi là "huyết thũng". Những người phụ nữ đang hành kinh, nếu vì trúng nước, trúng lạnh mà kinh tắt hẳn không hành nữa cũng phát thũng thuộc loại này. Tại sao cũng một người ấy, một bệnh ấy, năm trước phát thầy trước trị khỏi, mấy năm sau tái phát, thầy sau trị không khỏi ? Đó chỉ bởi ý nghĩ "mỗi tuổi mỗi khác" như nói trên, tức là năm trước phát, sức người còn mạnh, nó đánh lấn bệnh đi mau khỏi. Mấy năm sau tái phát, sức người đã yếu đi, thuốc chưa đủ đánh bệnh đã đổi thầy nên không khỏi. Thế thôi! Chứ chẳng phải thầy trước hay hơn thầy sau. Tuy nhiên, đôi khi cũng có

150


trường hợp bởi thầy trước thấy bênh nghiên cứu kĩ càng, cho thuốc đúng mau khỏi bệnh. Thầy sau bơ bải tự kiêu, thấy bệnh là trị chẳng tìm hiểu nguyên do nên không khỏi (ngược lại cũng vậy). Ví dụ như bệnh thủy thũng này không tìm ra bởi huyết ứ mà trị, lại cứ thấy thũng mà bảo là nước mà cho lợi thủy, làm sao khỏi. PHÉP TRỊ: Bệnh thủy thũng phải cho lợi thủy (đái nhiều) là đúng lý. Nhưng thủy thũng này gốc bởi huyết ứ đọng sinh ra, gọi là huyết thũng thì phải tán ứ, hành huyết để tiêu thũng mới khỏi, chứ không thể lợi thủy được. Các sách cổ dạy "bệnh này cẩm lợi thủy " vì thủy ấy có chảy ra nhiều mà huyết ứ còn đó thì rồi huyết ấy lại sinh thủy, cho nên có lợi thủy cũng không khỏi. Mỗi lần bắt lợi thủy, thủy chưa chắc đã lợi vì huyết ứ không hành thì khí cũng trệ không hành mà thủy không lợi. Nếu thủy có lợi được ít nhiều thì cũng phải dùng thẩm lợi loại mạnh. Đã thấm lợi mạnh thì hại đến căn bản của khí huyết, làm cho sức người yếu thêm thì bệnh thũng càng tăng, cho nên cấm lợi thủy. Bởi thế, chỉ cần cho tán ứ hành huyết mới khỏi. Thật vậy, không sai. Nhưng xét ra trong thuốc tán ứ hành huyết cũng nên thêm vào đó chút thuốc lợi thủy để phụ lực điều khiển cho được thông hành mau chóng. Bệnh huyết thũng này gốc bởi tạng hàn. Tạng hàn nói chung cả ngũ tạng hàn, nhưng bệnh này chỉ thẳng vào tạng tỳ (tỳ là một trong ngũ tạng). Tỳ với vị là biểu lý anh em. Vậy tạng hàn nói ở đây là tỳ vị hàn. Tỳ vị là chủ lực sinh hoạt của con người. Tỳ vị đã hàn thì ăn uống ít, mà ăn uống vào chậm tiêu, lấy gì làm tinh hoa để dẫn đi nuôi dưỡng các cơ quan tạng phủ để sinh hoạt toàn thân.Bởi vậy, bệnh này phải đem chất "ôn mà bổ" vào tỳ vị trước. Tỳ vị đang bị hàn lãnh, lử khử, lừ khừ mà chất ôn ấm ấy lại là chất bổ tỳ thì tỳ vị phấn khởi năng lực đòi ăn. Ăn vào tiêu hóa mau lại ăn được nhiều ắt có tinh hoa dư dật để sinh khí cho tỳ và nuôi dưỡng toàn thân. Đồng thời đem thuốc có chất ôn và bổ vào thận đang bị huyết đọng thành ủng thũng nặng nề, chất ôn ấm ấy khua động nhẹ nhàng và nảy nở cho mạch máu, năng lực thận được phấn khởi, lưu thông, linh hoạt để tiêu tan huyết cũ, dồi dào huyết mới. Mặc dầu, tỳ đã được chất sinh khí, thận đã được chất sinh huyết, nhưng cũng phải thêm vào đó ít chút những chất đánh tan cáu gỉ, lau chùi bụi ghét và thông lợi, thấm nước để khu trục khai phá cho chất thuốc sinh khí huyết được dẫn vào dễ dàng mau chóng. Nếu chỉ lấy chất thuốc khí huyết làm chủ lực mà không thêm những chất khai thông phụ tá thì chất bổ khí huyết kia có đem vào cũng chỉ đứng nguyên một chỗ chẳng chấn động lay chuyển gì. Ngược lại, nếu chỉ khu trục khai phá mà không có chất bổ khí

151


huyết thì lại càng mất sức người thêm. Như vậy, tỳ vị hàn lãnh thì ôn bổ tỳ vị để tăng nhiệt độ và tăng cường năng lực sinh huyết. Bào thai, huyết hải tích kết ủng thũng thì rót máu nóng vào để khua động khai phá và thông tiêu, tức là đẩy huyết cũ ra, thay huyết mới vào ngay .Ngoài ra, hơi không thông thì thêm chất thông hơi, đái không lợi thì thêm chút phần thông lợi. Tóm lại, ôn bổ tỳ vị, thông hành rồi bổ huyết mạch và thông hơi, lợi đái làm sao không khỏi. Nên nhớ, bệnh này chớ dùng thuốc hàn và thuốc ngọt. Nói thêm những người mới sanh chừng một tháng trở nên mà phát phù thũng không thuộc loại huyết thũng này, đó cũng chỉ bởi tỳ vị hư hàn, nên uống Lục quân tử thang thêm Hậu phác, Tô diệp, Hương phụ mấy thang là khỏi, không uống bài thuốc huyết thũng này được mà cũng chớ uống thuốc lợi tiểu. PHƯƠNG THUỐC: Y học nhập môn dạy cho uống Tiêu điều kinh tán: Đương quy, Xích thược, Quế, Một dược, Ho phách, Cam thảo, Te tân, Xạ hương. Cộng 8 vị cùng tán nhỏ, mỗi lần uống 5 phân, uống với chút rượu có chế nước gừng (quyển 7, trang đầu, mục Phụ nhân dược phú). Phó Thanh Chủ dạy cho uống Điều kinh tán: Đương quy,Xích thược, Nhục quế, Một dược, Ho phách, cộng 5 vị cũng tán nhỏ, mỗi lần uống 5 phân với chút rượu chế gừng như trên (mục sản hậu, phần Phụ sinh hóa biên). Xét những vị thuốc trong hai bài này: bài trên nhiều hơn bài dưới 3 vị Cam thảo, Xạ hương, Tế tân. Công thức, cân lượng bài trên cũng nhiều hơn vị dưới trong 3 vị đầu. Còn ý nghĩa trị bệnh, rót nước máu vào mà kì cọ máu ứ đọng ra đều như nhau. Cả hai bài cùng cấm lợi thủy. Lí luận trị liệu, công năng của hai bài này đều có giá trị như nhau. Tuy nhiên cho uống mỗi lần 5 phân là quá ít đối với người thời nay, sao đủ sức trị bệnh. Nấu dùng mỗi lần 2 chỉ, mà trong ngày uống 3 lần mới đủ sức trị bệnh. Tôi học theo ý nghĩa hai bài thuốc trên, thêm bớt biến cải thành lập phương thanh cho uống: Xuyên khung 3 chỉ, để khua động mạch máu cho mạch máu nóng ấm. Đương quy 3 chỉ, để sanh ra máu, làm tươi nhuần cho những mạch máu bị khô. Đào nhân 1 chỉ rưỡi, sao khô, bỏ vỏ, để phá vỡ những máu đã kết thành cục, lại có dầu xoa cho trơn nhuần. Trần bì 3 chỉ, sao vàng, để tiêu nước thông hơi và giúp sức tiêu hóa.

152


Hắc hương 1 chỉ( Gừng khô tầm nước tiểu sao gần cháy đen), để dẫn chất Khung, Quy và sanh chất máu nóng cho bào thai. Một dược 1 chỉ, nướng qua cho thơm, để đánh tan những máu đã kết cục. Ngải diệp 1 chỉ,sao thơm,để thông hơi máu trong bào thai cho thông hoạt. Hương phụ 2 chỉ, sao vàng, để tiêu hơi máu và cũng làm nóng ấm bào thai, dạ dày. Bạch truật 3 chỉ, sao vàng, để tăng sức mạnh cho dạ dày. Bạch linh 2 chỉ, để thấm nước ra. Tất cả đổ chung sắc uống. Kỳ I: Bà uống 2 thang, bà nói nhẹ bụng dễ chịu, nhưng còn đái ít. Kỳ II: Bà uống 2 thang, mỗi thang thêm Bạch linh 2 chỉ (biết rằng cấm thấm lợi, nhưng xét ra cũng phải có chút ít), bà nói trong bụng nhẹ, tiêu hơi dễ chịu, thèm ăn và có rỉ ra chút huyết hôi, lại đái được nhiều, bớt phù, người nhẹ nhàng. Kỳ III: Bà uống 4 thang nữa. Bệnh khỏi hoàn toàn. Ỷ NGHĨA: Khung, Quy, Đào nhân, Khương, Trần bì, Cam thảo là bài Sinh hóa thang chủ để rót máu nóng vào thân cho sanh huyết mới, trục huyết cũ ra (bài này bỏ Cam thảo vì tất cả những bệnh phù thũng đều cấm dùng Cam thảo). Một dược hiệp với Đào nhân, để kỳ cọ huyết cũ ứ kết, khi đã rót máu nóng vào. Ngải diệp, Hương phụ để tán hàn, thông khí cho bộ máy sinh dục và cả bộ máy tiêu hóa hoạt động mạnh, lại cũng trục nhớt nhựa ra. Bạch truật hiệp với Ngải diệp, Hương phụ, Trần bì thành chất ôn bổ tỳ vị, cho tỳ vị tiêu hóa mạnh. Bạch linh để rút nước ra theo đường tiểu, khi đã sanh huyết, ấm tỳ và thông hơi. Xét ra bệnh thũng này cũng chẳng có gì là khó trị. Nhưng nó mập mờ khó phân biệt trong chỗ thũng ấy bởi thủy hay bởi huyết nên phải tìm hiểu kĩ thành ra khó. Khi đã phân biệt được rõ ràng rồi thì lại rất dễ.

153


31.

NƯỚC TRONG NGƯỜI ÚNG THŨNG SƯNG LÊN. (Thủy thũng)

NGƯỜI BỆNH: Cậu Nguyễn Văn Khuông 26 tuổi, con cụ Nguyễn Hữu Công ở số 173 đường Trương Minh Giảng, Sài Gòn. Cậu là một sinh viên, học hành giỏi, sức lực đẫy đà, chưa lập gia đình riêng, được phụ mẫu nuông chiều. CHỨNG BỆNH: Mặt mũi tay chân thân thể sưng đẫy cả lên, nhìn chỗ sưng làn da căng thẳng rõ từng lỗ chân lông, sờ vào da thịt mát, nắn vào da thịt rắn chắc, lấy ngón tay ấn vào chỗ sưng nó thũng xuống, khi nhắc ngón tay ra lâu lâu chỗ sưng mới bằng phẳng lại như cũ. Màu da trắng lợt như không có máu, da bụng dầy, có khi trong bụng đau nhâm nhẩm, đại tiện thông hoạt, tiểu ít, mạch trầm trì. Nên biết cậu tuy bệnh, vẫn giữ lệ đi làm ngày hai buổi. Làm việc nơi khô ráo không phải mó nước. Mỗi khi đi làm về thấy người hừng hực nóng, thường tắm nước lạnh. SỰ VIỆC: Hôm ấy cụ Nguyễn Hữu Công cho người mời tôi lên xem mạch cho cậu Khuông. Tôi xem mạch và bệnh cậu như nói trên, tôi gọi bệnh này là "hàn thấp thuần túy không có kiêm nhiệt" nghĩa là chỉ có lạnh mà ẩm ướt không có cái nóng giả tạo thêm vào. Nhưng hàn thấp đó là hàn thấp tại tỳ vị, nên cho uống Vị linh thang bỏ Cam thảo để ôn tỳ khứ thấp. Cụ Nguyễn Hữu Công gần 70 tuổi, cụ tuy không làm thuốc chuyên nghiệp, nhưng cụ thông nho, cụ thích đọc các loại sách thuốc cổ, cụ suy luận từng chữ rất kỹ nên y lý cụ rất rành. Cụ đồng ý bệnh thũng này thuộc hàn thấp mà uống Vị linh thang là rất đúng. Tôi hốt 3 thang cho cậu uống, mấy hôm sau tôi lên xem mạch lại. Bệnh cậu uống thuốc ấy tuy có bớt chút đỉnh nhưng chậm lắm. Thưa thầy (Cụ), làm sao khỏi ngay được. Bệnh này tuy bây giờ mới biểu lộ ra ngoài nhưng nó đã tiềm ẩn trong người từ mấy năm rồi mà không biết. Bây giờ uống thuốc chậm khỏi lại cũng vì bà lão nhà tôi, lòng thương con không hiểu bệnh tật là gì, cứ canh bún, cháo thịt, nước cam tươi, đường sữa tẩm bổ cho con, lại còn nó cứ tắm nước lạnh sùng sục làm sao khỏi được. Thầy cứ hốt 3 thang nữa như thế cho nó uống ạ. Thưa cụ, 3 thang sau này, tôi muốn thêm Mộc hương, Sa nhân để khu khiển cho nó mạnh. Cụ có đồng ý? Thưa thầy như vậy càng hay lắm.

154


Mấy hôm sau, cụ thân hành đến nhà tôi, tay cụ cầm quyển sách (chưa rõ sách gì). Tôi mời cụ ngồi, trà nước, bàn về bệnh thũng của con cụ thuộc hàn thấp. Cụ trịnh trọng mở quyển sách tay cầm đến. Quyển Y học nhập môn thứ 5 (thạch ấn) mục thủy thũng và cổ trướng. Cụ đọc nhiều ý nghĩa phân trị về dương thủy và âm thủy...Kết hậu cụ nhấn mạnh vào câu "trị thũng duy bồ trung hành thấp túc hỹ", trị bệnh thũng chỉ cho bổ trung và hành thấp là đủ. Cụ vừa nói, vừa lấy ngón tay trỏ thẳng vào chữ duy là chỉ, chữ túc là đủ. Cổ nhân dùng chữ rất gọn gàng mà quyết đoán. Ý nói bệnh của con cụ chỉ cứ cho uống bổ trung mà hành thấp, tức chỉ cho bổ tỳ khí mà thông hành thủy thấp là đủ khỏi, không phải cầu kì lôi thôi. - Vâng đúng, nhưng bổ tỳ khí và thông hành khí thấp trong đó cũng phải có hành khí mới hay. Khỉ bất hành, thủy bất lợi. Sau cụ và tôi đồng ý, tôi liền chế 3 bài thuốc tán nhỏ, luyện hồ làm hoàn. Mỗi tễ một cân tàu, trong đó Sâm phải dùng Sâm tốt để bổ khí cho mạnh. 1.

Bổ trung ích khỉ thang uống sáng.

2.

Hoắc hương chính khí tán uống trưa.

3.

Hương sa lục quân thang uống tối.

Tất cả đều bỏ Cam thảo. Cụ nói: Bệnh đã thâm căn, cứ uống từ từ nhất định khỏi. Bất quý tốc hiệu, không cần phải khỏi ngay. Vâng, dùng những loại thuốc khỏi ngay là bá đạo như Cam toại, Diêm tiêu, Đại hoàng, Ba đậu,...dù có khỏi ngay đấy mà rồi sẽ bệnh nặng. Khi bệnh lại thì nặng hơn trước, khó trị lắm. Cậu uống hết 3 tễ ấy khoảng 3 tháng khỏi bệnh hoàn toàn. Từ đó, cụ Nguyễn Hữu Công và tôi trở thành đôi bạn già thường gặp nhau đàm luận y học và cậu Nguyễn Văn Khuông hàng năm thường đến chúc tuổi tôi những ngày tết Nguyên đán để tỏ ý cám ơn. SUY XÉT: Thầy thuốc tùy trường hợp nên khiêm tốn. Thầy thuốc đối với người bệnh và nhà bệnh, bao giờ thầy thuốc cũng nắm quyền chủ động về việc trị bệnh, khi mà người bệnh và nhà bệnh cầu đến đến nhận lãnh trách nhiệm điều trị và để tỏ ra tài nghệ của mình có phẩm giá cao mới đúng. Ngược lại, nếu thầy thuốc bị động trong công việc và ý thức điều trị thì đâu có phải là thầy thuốc nữa mà có là thầy thuốc chăng thì cũng không còn phẩm giá.

155


Thật vậy như trường hợp tôi trị bệnh thủy thũng này: Thân phụ của bệnh nhân đem sách đến tận nhà chỉ rõ từng chữ, nói rõ từng nghĩa đến nhờ tôi trị bệnh cho con, hầu như có ý bảo tôi không đọc sách theo đây mà trị. Nếu độc giả nhận xét sơ sơ quả tôi là kẻ bị động. Nếu các vị y gia nóng tính gặp trường hợp ấy chắc là nhất định khước từ không trị nữa và có thể nặng lời kháng cự đối phương. Tôi cũng tự nhận thấy có thể là tôi bị động và tôi cũng nên khước từ sự điều trị ấy mới phải. Nếu tôi cứ im lặng để trị chắc nhà bệnh và những kẻ bàng quan đều thầm chê tôi là người vì tiểu lợi hay có thể bảo tôi là kẻ "cố đấm ăn xôi". Nhưng xét kỹ không nên vội lầm tưởng, vì trường hợp này, ông cụ đã biết tôi là người đọc sách nhiều và cũng đã tin tưởng sự điều trị nơi tôi từ mấy năm. Lại ông cụ chỉ vì yêu con, thương con mình muốn tìm y lý chính xác để điều trị cho mau khỏi mới đem sách ra đọc. Khi đọc đến câu sách đó (trị thủy thũng duy bổ trung hành thấp túc hĩ) thì suy xét kỹ lấy làm hứng thú, vui mừng tức tốc đem sách đến đọc cho tôi nghe đến nói lên sự "có đọc sách" của mình cho xác thật (cụ thường nói cụ có đọc sách thuốc). Vả chăng, cụ niên kỷ đã cao lại nho phong thanh nhã đâu phải là người có những cử chỉ lỗ mãng mà bảo rằng "đem sách đến chỉ dẫn cho thầy thuốc trị bệnh". Thực ra mọi sự điều trị bệnh này, cụ đặt chủ động nơi tôi, vì cụ tuy có đọc sách nhưng không kinh trị. Trường họp này, nếu cứ bảo rằng tôi bị động, tôi không chối cãi. Nhưng tôi khiêm tốn và nhẫn nại một chút cho có lợi. Nào sự, đọc sách Đông y của ông cụ phấn khởi hơn nữa khi ông cụ thấy con mình theo lý nghĩa ấy mà trị bệnh có kết quả rõ ràng, nào tôi cũng được học lại đến nhớ bệnh, từ đó tôi trị những bệnh thủy thũng khác càng tinh tường hơn. Cũng từ đó, tôi và cụ trở nên đôi bạn già thân thiện đàm luận về y dược học. Đó là đức tính riêng của mỗi thầy thuốc "dương trung hữu ăm". Xét về bệnh thủy thũng: Thủy là nước, thũng là sưng, là ủng thũng. Mặt mũi tay chân thân thể ủng thũng những nước sưng đẫy cả lên. úng thũng những nước tức không đủ máu nóng chống lại với nước lạnh ấy trong người. Nước lạnh úng thũng không tiêu hóa mạnh, không bài tiết ra thì úng thũng lại sưng lên. Biết rằng, thủy thũng khác với khí trướng. Thủy thũng là úng thũng những nước trong người, khí trướng là đầy trướng những hơi trong người. Hai bệnh ấy tuy khác nhau nhưng tối đa đều thuộc hàn thấp. Tuy nhiên cũng có những bệnh thuộc hàn thấp kiêm nhiệt. Nói ngay bệnh thủy thũng này là hàn thấp thuần nhất, hàn thấp một chiều không có kiêm nhiệt. Thế nào là hàn thấp thuần nhất? - Hàn là lạnh, thấp là ẩm ướt. Nghĩa là chỉ mát lạnh ẩm ướt không có thêm chút bệnh nóng nào trong đó, là hàn thấp thuần nhất. Thì đấy da thịt mát, màu da trắng bệch lợt lạt như không có máu, môi lưỡi cũng

156


lợt lạt, mạch trầm trì là hàn. Mặt mũi, tay chân thân thể sưng lên căng thẳng rõ từng lỗ chân lông, ấn vào chỗ sưng mềm nhũn mà trũng sâu xuống, bởi nước sưng lên là thấp. Thế là hàn thấp thuần nhất. Nhưng cậu này mỗi khi đi làm về nóng hừng hực, phải tắm là nhiệt, là có kiêm nhiệt. Sao lại bảo là hàn thấp thuần nhất? Nóng hừng hực ấy là chân nhiệt, tức dương hỏa tiềm tàng trong người. Con người nhờ có chân nhiệt ấy để sổng. Hàn thấp còn gây mầm chưa đủ sức lấn áp hết chân nhiệt mà bệnh kéo dài, nếu không trị gấp, hàn thấp ấy sẽ gia bội lấn áp hết chân nhiệt. Chân nhiệt ấy hết, chỉ còn lại hàn thấp sẽ nguội lạnh mà chết. Chân nhiệt ấy là dương hỏa, hỏa tính động, cử động nhiều thì nó bốc lên mà nóng hừng hực. Nên biết thêm, nếu trị bệnh hàn thấp thuần nhất mà xét thấy đã hết chân nhiệt thì rất khó trị. Vậy thế nào là hàn thấp có kiêm nhiệt? - Kiêm nhiệt này là bệnh nhiệt, không phải chân nhiệt. Da thịt mát, mạch trì là hàn, úng thũng là thấp, nhưng môi miệng lở loét đôi khi phát khát, đôi khi trong người nóng hâm hấp hay đại tiện táo, tiểu tiện đỏ là bệnh có kiêm nhiệt. Bệnh thủy thũng thuộc hàn thấp nếu có những chứng trạng ấy là hàn thấp kiêm nhiệt, nếu không có chứng trạng ấy là hàn thấp thuần nhất. Hàn thấp ấy ở tạng phủ nào trong người? Hàn thấp úng thũng ấy ở tỳ vị trước. Tỳ chủ vận hóa, vì tỳ vị yếu không vận hóa được nên gây úng thũng lại rồi sưng lên. Nếu không trị ngay cứ để kéo dài, tỳ vị suy yếu sẽ liên can đến thận và tạng phủ khác mà úng thũng tăng lên. Khi ấy khó trị. NGUYÊN DO: Bản chất con người tỳ vị yếu, tức tỳ vị đã hàn lãnh, lại ở vào những nơi thung lũng ẩm ướt mà sự ăn uống đi lại cũng không biết giữ gìn, như bệnh thủy thũng này, sức người yếu, màu da bạc nhược, lại được sự nuông chiều của gia đình, bún riêu, cháo thịt, cá tươi, chè đậu, nước dừa, đá lạnh... toàn những đồ mát lạnh tống vào, thêm vào đó tự mình nước lạnh tắm gội sùng sục. Như vậy hàn thấp trong mình, hàn thấp ngoài trời, trong ngoài hợp nhau mà trong người không đủ sức nóng ấm chông cự làm sao không bệnh. PHÉP TRỊ: Bệnh hàn thấp tại tỳ phát thũng. Hàn thì phải cho ôn ấm, thấp thì phải cho thấm khô. Những thuốc ôn ấm và thấm khô đều chỉ vào tỳ vị, vì bệnh tại tỳ vị trước. Trong thuốc ôn ấm, thấm khô phải thêm thuốc hành khí cho nó lợi thủy để mau khô, vì khí hành thì thủy lợi không cần phải thêm thuốc lợi thủy cho nhiều. Trong thuốc ôn ấm, thấm khô và hành khí đó phải đặt thuốc ôn bổ tỳ vị làm đầu. Đó là có ý ôn ấm, thấm khô và hành khí đến đâu, đồng thời sức mạnh của tỳ vị cũng gia tăng đến đấy.

157


Sức mạnh của tỳ vị đã gia tăng rồi lại cũng đã ôn ấm, thấm khô thì bệnh hết, ăn ngủ ngon, đại tiểu thông thường, người khỏe mạnh hoàn toàn. Trị bệnh như vậy là điều trị theo “vương đạo” tuy có chậm khỏi nhưng không tái phát, vị trị bệnh đến đâu giữ sức khỏe đến đấy. Còn trị theo “bá đạo” thì trị bệnh mau hết, nhưng rồi sẽ trở lại. Khi bệnh trở lại thì nặng hơn trước rất khó trị. Tại sao? Bởi theo bá đạo dùng những thuốc Đại hoàng, Hắc sửu, Ba đậu, Diêm tiêu...(như đã nói trên), đó chỉ là chủ ý lấy nước ra cho hết bằng cách cho đại tiểu nhiều cho xẹp xuống ; thấy xẹp xuống là cho nó khỏi rồi ; nhưng gốc bệnh trong người nó sinh ra nước chưa dẹp thì rồi nước ấy lại chảy ra da thịt sưng lên. Thế là khỏi rồi mà lại chưa khỏi. Nên biết mỗi lần lấy nước ra, mỗi lần sức người yếu đi. Khi tái phát, sức người đã quá yếu, không chịu nổi với sức bệnh gia tăng thật rất khó trị vì sức thuốc điều trị khi ấy dù có mạnh mấy cũng chẳng ăn nhằm gì. Nếu bấy giờ mới quay lại điều trị theo “vương đạo” thiết tưởng đã muộn, nên coi chừng. NHỮNG PHƯƠNG THUỐC: Vị linh thang: Tức bài Bình vị tán hợp với bài Nhị trần thang không phải bài Bình vị tán hợp với Ngũ linh thang . Bình vị tán: Thương truật: 5 chỉ , sao vàng Trần bì: 5 chỉ , sao vàng Hậu phác: 5 chỉ , tẩm nước gừng sao khô Cam thảo: bỏ Nhị trần thang: Trần bì Bạch linh: 5 chỉ , dùng cả vỏ Bán hạ: 3 chỉ, tầm gừng sao gần cháy Sinh khương: 5 phiến dầy Cam thảo: bỏ Cộng 9 vị nhưng hợp lại với nhau còn 7 vị, lại vì bệnh thũng bỏ Cam thảo, còn 6 vị. Mỗi vị tăng cân lạng cho đủ sức trị bệnh. Ý nghĩa bài Bình vị để hòa bình con vị cho tiêu

158


thực khứ thấp, Nhị trần để tiêu đàm khứ thấp. Sau lại thêm Mộc hương, Sa nhân hành khí cho mạnh. Như vậy rất hợp với bệnh thủy thũng thuộc hàn thấp. Bổ trung ích khí thang: Cao ly sâm: 1 lạng cắt nhỏ, tẩm nước gừng sấy khô, để bổ nguyên khí. Minh đảng sâm: 2 lạng cắt nhỏ, tẩm nước gừng sao, để bổ tỳ khí (Minh đảng sâm này phụ lực với Cao ly sâm là một vị). Hoàng kỳ:3 lạng, nướng than hồng cho nóng khô, cắt ngang rất mỏng mới tán được, để bổ khí. Xuyên quy: 2 lạng, cắt ngang, sao khô, để bổ huyết, hòa huyết. Bạch truật: 3 lạng, cắt nhỏ sao vàng, để bổ tỳ khí và trừ thấp khí. Thăng ma: 1 lạng, chọn thứ Thăng ma loại xanh thịt, nếu trắng thịt vô ích, cắt nhỏ, tẩm rượu sao khô, để dẫn khí ở dương minh từ phía hữu đi lên. Sài hồ: 1 lạng, cắt nhỏ, tẩm rượu sao vàng, để dẫn khí ở thiếu dương từ phía tả đi lên. Thăng ma và Sài hồ đều tẩm rượu sao là có ý dẫn Sâm, Kỳ đi lên cho vượng dương khí Trần bì: 3 lạng cắt nhỏ, sao vàng để tiêu thực giáng khí và ôn trung. Cam thảo: bỏ Số cân lượng tống cộng 16 lạng, tức một cân tầu. Tất cả đổ chung tán rây nhỏ, nấu hồ làm hoàn, mỗi hoàn bằng hạt đậu xanh sấy khô. Một lần uống 70 - 80 viên, uống với miếng nước nóng, uống vào mỗi buổi sáng lúc thanh tâm để bổ dưỡng khí sức. Hoắc hương chính khí tán. Lá Hoắc hương: 2 lạng, chọn thứ chính, sao qua cho sạch, cho thơm, để tiêu thực và chấn hưng vị khí. Lả Tía tô: 2 lạng, chọn thứ chính, lựa cho sạch, để tán hàn tà cho ấm da thịt. Bạch truật: 2 lạng, nhưng đổi dùng Thương truật, cắt nhỏ, sao vàng để khứ thấp ở vị cho mạnh. Trần bì: 2 lạng , cắt nhỏ, sao vàng để giáng khí tiêu thực. Hậu phác: 2 lạng cắt nhỏ, tẩm nước gừng sao khô, để tiêu thực thông khí và làm mạnh cho tế bào ruột. Đại phúc bì: 1 lạng, chọn miếng chắc, cắt bỏ cuống dưới và đầu mấu, cắt ngang thật nhỏ mới tán được, để thông hơi dạ dày và ruột mà dẫn xuống.

159


Cát cánh: 1 lạng cắt ngang, sấy khô, để thông đàm giải độc. Bạch chỉ: 1 lạng cắt nhỏ, phơi khô, để dẫn thuốc vào kinh lạc của đại trường. Bạch linh: 1 lạng 5 chỉ cắt nhỏ, để thấm nước dư ở dạ dày đem ra. Bán hạ: 1 lạng 5 chỉ đập nhỏ, tẩm nước gừng sao gần cháy, để quét đàm và thấm khô các chất nhớt ở phổi, dạ dày đem xuống. Sinh khương: dùng để tẩm sau Đại táo: bỏ Cam thảo: bỏ Số cân lượng tổng cộng 16 lạng, tức một cân tầu. Tất cả đổ chung tán, rây nhỏ, nấu hồ luyện làm hoàn, mỗi hoàn nhỏ bằng hạt đậu xanh, sấy khô, mỗi lần uống 60 - 70 viên, uống với miếng nước nóng, uống vào lúc bữa ăn trưa để thêm sức nóng cho dạ dày mà vận hóa mau. ( Trong bài này cũng có bài Bình vị và bài Nhị trần ). Ý NGHĨA CHUNG: Điều chỉnh vị khí, tiêu đàm, khứ thấp và khu trục hàn tà ở bì phu, thông khí ở đại trường. Nên nhớ, khi thuốc hoàn toàn sấy gần khô, giã gừng tươi lọc lấy một chén nước đặc (chén ăn cơm) phun hết vào số thuốc hoàn ấy, phun cho đều lại đem sấy thật khô, bỏ lọ đậy kín, dùng dần. Hương sa lục quân hoàn: Mộc hương: 1 lạng cắt nhỏ, phơi khô, không sao, để đánh tan những khí lạnh nó bám chặt ở dạ dày, ruột. Sa nhân: 1 lạng 5 chỉ, bỏ vỏ to ở ngoài, chỉ lấy nhân, giã dập ra, phơi khô, sao thơm, để ôn trung, tiêu thực và phá vỡ những khí lạnh tích kết ở tràng vị Cao ly sâm: 1 lạng chế như trên Minh đảng sâm: 3 lạng chế như trên Bạch truật: 3 lạng chế như trên Bạch linh: 3 lạng chế như trên Trần bì: 2 lạng chế như trên Cam thảo: bỏ Bán hạ: 1 lạng 5 chỉ chế như trên Số cân lượng tổng cộng 16 lạng, tức một cân tầu. Tất cả đổ chung, tán, rây nhỏ, nấu hồ luyện làm hoàn, mỗi hoàn cũng bằng hạt đậu xanh, sấy khô, mỗi lần uống 70-80 viên, uống với miếng nước nóng, uống vào lúc sắp đi ngủ để phấn khởi phần dương

160


trong âm và cũng để ôn trung tiêu thực giáng khí. Bệnh thủy thũng thuộc hàn thấp uống 4 thang thuốc trên đều thuộc loại tăng gia bổ dưỡng phần dương cho sức khỏe, trong đó ôn trung, tiêu thực, giáng khí, tiêu đàm, hành thấp làm sao không khỏi bệnh một cách vững chắc. Đã khỏi là khỏe.

161


32. LÝ ÂM TIỄN LÝ ÂM TIỄN: Lý là điều lý cũng như điều trị. Âm là âm huyết, huyết thuộc âm. Tiễn là nấu chín. Đổ nước vào thuốc nấu chín lên mà uống (tiễn, tiển đồng nghĩa với nấu chín, muốn nói âm nào cũng được. Tiễn cũng như thang, thang là đun nóng, vậy nói Lý âm tiễn cũng như Lý âm thang. Lý âm tiễn gốc ở Nhiệt trận trong Tân phong bát trận của Trương Cảnh Nhạc ). Lý âm tiễn uống để điều trị phần âm huyết bị hư hàn (yếu lạnh) được tiêu nhuần mà ôn ấm lại cho cân bằng với dương khí. Lý âm tiễn có 4 vị Quy, Thục, Khương, Thảo. Cứ thế mà uống, nhưng nếu gặp bệnh nặng hơn thêm một vị Phụ tử nữa là 5 vị, gọi là Phụ tử lý âm tiễn. 1. Xuyên quy: 3 chỉ (12 gam) dùng cả thân và vĩ, nhưng bệnh dong kinh chỉ dùng Quy thân. Nếu bệnh nhân đại tiện đi phân nát thì nên sao qua cho hết dầu. 2. Thục địa: 3 chỉ (12 gam) chọn thứ tốt, tẩm nước gừng nguyên chất sao cho thật khô kiệt. Nếu sao dối, người tỳ yếu uống vào nê tỳ. 3. Hắc khương: 2 chỉ (8 gam) gừng khô cắt nhỏ sao gần cháy đen ở ngoài mà trong ruột hãy còn sống, nếu sao cháy cả trong ngoài sẽ thành than cả, có còn tồn tính đâu mà uống. Sao rồi mà đem ra phun nước đồng tiện vào, uống mới hay. Nếu tẩm nước đồng tiện trước khi sao thì chất đồng tiện đã cháy hết rồi còn đâu. Hắc khương, Tiêu khương, Thán khương đều có nghĩa là gừng sao cháy, muốn nói từ nào cũng đồng nghĩa. 4. Cam thảo: 1 chỉ (4 gam), nướng than hồng cho chín sơ sơ vỏ ngoài để thành ôn dược. 5. Phụ tử: 2 chỉ (8 gam) chọn thứ Phụ tử loại đen hay Phụ tử sống mà tự chế lấy được càng tốt. Một thang thuốc có 5 vị cần phải chọn thuốc tốt và chế đúng phép mới có công hiệu. Nếu thuốc xấu lại chế dối thì còn nghĩa lý gì. Số cân lượng trên là mức tối thiểu trong một thang thuốc cho người già yếu và những bệnh còn nghi ngờ muốn cho dùng thử. Thực ra bệnh nặng: - Xuyên quy:

phải dùng 5 đến 6 chỉ (20 đến 24 gam).

- Thục địa:

từ 6 đến 10 chỉ

162


- Hắc khương:

từ 2 đến 4 chỉ

- Cam thảo:

từ 1 đến 2 chỉ

- Phụ tử:

từ 2 đến 5 chỉ.

Như vậy mới có dược lực mà trị đại bệnh được mau khỏi. Làm thuốc hoàn, cứ theo công thức tối thiểu nói trên mà nhân lên 5 thang hay 15, 20 thang, nhiều ít tùy ý, bào chế đúng phép, tán, rây nhỏ, nấu chín mật, luyện dẻo làm hoàn, mỗi hoàn 2 chỉ (8 gam) sấy khô, bỏ hộp đậy kín. Mỗi ngày uống 2 hay 3 lần, uống lúc đói. Mỗi lần 1 hay 2 hoàn, uống với nước nóng. Ỷ NGHĨA BÀI THUỐC: Xuyên quy: sinh huyết bổ huyết, vào kinh can. Thục địa: bổ thủy, sinh tinh vào kinh thận, đồng thời Thục địa sao cũng bổ tỳ âm để giúp phần tiêu hóa. Hắc khương: biến Quy, Thục thành chất tinh huyết nóng có năng lực dẫn vào can thận mà cố thủ. Cam thảo: nướng chín thành ôn dược để hòa các chất thuốc đồng tính với nhau cho êm dịu. Phụ tử: đi mau mở đường dẫn lối các đường kinh lạc cho các chất thuốc đi theo, đồng thời cùng với Hắc khương ôn ấm hạ bộ. Như vậy mỗi vị thuốc mỗi công việc mà cùng chung sức điều trị can thận và tỳ vị đã bị hư hàn mau được ôn ấm trở lại. BỆNH MẮT 1.. Cô Huỳnh Thị Hải gần 30 tuổi, ở Phú Nhuận, Gia Định, làm nghề thợ may, chưa lập gia đình, hai con mắt tròng trắng trắng tươi, tròng đen đen nhánh, riêng hai con ngươi tinh nhanh như thường mà mắt mở không đọc được sách báo. Bệnh đã 3 tuần, có đến nhờ tôi xem mạch. Tôi hốt nguyên phương Lý âm tiễn 2 thang, mắt gần được sáng như thường. Cô uống thêm 2 thang nữa mắt sáng hoàn toàn mà người khỏe ra. SỰ VIỆC: Khoảng tháng 2 năm 1968 vào khoảng 20 tháng giêng sau tết âm lịch, không rõ ai giới thiệu, một buổi sớm, cô từ Phú Nhuận đến phòng mạch tôi, xin xem mạch uống thuốc, tôi chưa xem mạch cô đã nói luôn về bệnh mắt của cô như trên: “Vì con làm thợ may, mấy ngày gần tết, con nhận nhiều đồ phải thức sáng đêm may gấp để trả đồ cho người ta. Sau đó, con mệt nhoài, mắt mờ không đọc được báo, đã uống ít thang ở gần

163


đấy mà mắt vẫn mờ”. Tôi xem mạch hai bộ xích trầm vi vô lực. Tôi cắt nguyên phương Lý âm tiễn 2 thang. Tôi nói: “Cô cầm về uống, tôi chắc chắn mau khỏi, nếu không cô lên tôi trả lại tiền”. Sau đó hai ngày, cô lên, vừa tới của, cô trông thấy tôi, cô nói to: “ Lạy bố ạ, mắt con hôm nay đã đọc được báo”. - Mời cô ngồi, tôi tưởng cô lên lấy tiền lại! - Dạ! Đâu dám, con lo tạ ơn thầy chưa đủ. Tôi xem mạch lại thì hai bộ xích đã hơi hữu lực. Tôi hốt cho cô hai thang như cũ. Trong khi chờ đợi, cô nói thêm: “ Hôm đầu con cầm thuốc về, mẹ con cũng biết vị thuốc, mẹ con mở thuốc xem. Mẹ con lựa những miếng thuốc đen đen bỏ ra, con đâu có biết gì. Mẹ con nói: Bệnh mắt mà ông ấy cho mầy uống thế này để mầy mau mù à, lựa hết ra..”. - Thầy đã cam đoan với con là thuốc này thể nào cũng khỏi rất mau. Xin cứ đế nguyên cả cho con uống. Thật ra con uống lần đầu con cũng ngờ ngợ, nhưng rồi không thấy sao, khi uống hết lại được sáng mắt, con mừng quýnh, con cứ đem báo ra đọc thử hoài hoài. Bấy giờ mẹ con cũng mừng. Mẹ con bảo: “ Lạ nhỉ! Bệnh mắt mà uống Can khương, Phụ tử khỏi. Nay tao mới thấy..”. 2.. Ông Vũ Bá Hậu ngoài 50 tuổi, ở Khánh Hội Sài Gòn, làm công chức, có vợ hai con. CHỨNG BỆNH: Hai lòng trắng trắng tinh, không đỏ, không sưng nhức gì cả, cứ chảy nước mắt sống ( mát không nóng ) ròng ròng cả ngày, mỗi ngày 5-7 khăn nhỏ, thấm ướt đẫm, còn chảy xuống giấy tờ trên bàn làm việc rất khó chịu và phiền phức. Bệnh đã 3 tháng. Tôi xem mạch lưỡng xích trầm vi vô lực mà tả quan trầm huyền và trì. Tôi hốt nguyên phương Lý âm tiễn thêm: Ngũ vị tử: 12 hạt (1 gam) để thâu liễm dương khí lại không cho bốc lên, vì dương khí bốc lên gặp lạnh gây chứng nước chảy ra. Ngưu tất: 1 chỉ (4 gam) để dẫn dương hạ hành. Xa tiền tử: 1 chỉ rưỡi (6 gam) để rút nước xuống đưa ra. Ông uống ba thang bớt 7/10. uống thêm 3 thang nữa khỏi hoàn toàn. SỰ VIỆC: Khoảng năm 1969 vào tháng 5, tháng 6, một hôm ông đến nhờ tôi xem mạch trị

164

-


bệnh nói trên. Ông nói thêm: “ Thú thật với bác, bệnh này tôi đã đi tây y. Ông tây y này bảo phải mổ mà mổ chưa chắc đã khỏi. Tôi sợ quá, nghĩ phải đi tìm thuốc đông y mà tôi lại vẫn không tin đông y, nhưng nghĩ đến có bác nên đến hỏi bác” (nguyên văn) - (Vì ông bạn học với tôi từ thuở nhỏ, nên ông gọi tôi bằng bác và đến hỏi bệnh ấy nơi tôi). Tôi xem mạch rồi hốt thuốc. Tôi nói: “ Tôi chắc ông uống thuốc này phải khỏi mau, không tin đông y thì từ nay sẽ tin và phải tin..”. Sau 3 ngày, ông đến nói: “ Hay quá bác à, bệnh đã hết 7/10. Tôi mừng quá, không phải đi mổ, thật là sung sướng. Bác làm ơn hốt cho tôi mấy thang nữa, tôi không ngờ đông y giỏi như vậy”. Tuần sau, ông mời tôi đến nhà dự bữa rượu với món thịt nai đồng quê để chung vui và cũng có ý cảm ơn. Nhưng tôi sợ món đó tôi cảm ơn và từ chối. SUY XÉT: Nói về bệnh mắt, khi mới nghe tiếng bệnh mắt, chắc cũng có mấy vị đông y nghĩ ngay đến huyết nhiệt, hỏa nhiệt và phong độc phải dùng Hoàng liên, Đại hoàng, Sinh địa, Phòng phong....để thanh nhiệt giải độc. Nhưng những bài thuốc mắt thuộc phong hỏa nhiệt thì mạch phải phù hồng hữu lực là dương mạch mới đúng. Còn hai bệnh mắt này, mắt không đau nhức chỉ kém sáng và chảy nước mắt sống mà mạch trầm vi vô lực là âm mạch tức can thận hư hàn phải đem loại thuốc tinh huyết có năng lực mà rót vào can thận mới mau khỏi. Nếu hai bệnh mắt loại này cứ bảo là phong hỏa nhiệt mà cho uống hàn lương để hạ hỏa thử hỏi hậu hoạn sẽ như thể nào ? Bởi rõ ràng hai bệnh này đã uổng Khương, Phụ đều khỏi. Lại nên biết: Bệnh mắt thuộc can thận chân hư hàn này rất ít. Như tôi đến nay mới gặp có hai bệnh này, tôi cho uống Khương, Phụ mà thôi. Nếu muốn hỏi: Tôi căn cứ vào đâu mà dám mạnh bạo cho hai bệnh mắt này uống Khương, phụ ? Tôi chỉ căn cứ vào mạch 2 bộ xích trầm vi vô lực mà quyết đoán là “can thận hư hàn và cho uống Khương, Phụ chứ chẳng nghi ngờ gì cả. Bởi vậy tôi nói: “ Làm thầy thuốc cần phải biết mạch lý để trị bệnh. Nếu không biết mạch lý dù có trị bệnh nào được khỏi đi chăng nữa cũng chỉ là chữa mò rồi may mà khỏi. Đã chữa mò rồi may mà khỏi thì làm gì có hướng đi, có đích để tới, làm gì có hứng thú trong tinh thần điều trị, làm gì có phát triển tài năng trong nghề nghiệp cho lớn mạnh. Thật vậy! BỆNH RONG KINH Rong kinh là những người phụ nữ trong tuổi (14 - 40) hành kinh, mỗi tháng đến ngày hành kinh thường thường 5-7 ngày thì dứt, nhưng không lại còn rỉ rả chảy ra kéo dài thêm 5-7 hay 10 ngày nữa, có người thấy kinh kéo dài gần tháng chỉ dứt vài ngày lại thấy kinh tháng khác gọi là rong kinh, thấy kinh dài ngày. Tên chữ là “âm lịch bất đoạn”

165


dầm dề không dứt. 1. Bà Thanh Hương ngoài 40 tuổi, mở tiệm may ở đường Nguyễn Cư Trinh Sài Gòn, tên tiệm Thanh Hương, nên gọi bà Thanh Hương. Năm 1970, bà mắc bệnh rong kinh, mỗi lần rong kinh, lưng đau như gãy, đi đứng khó khăn, kém ăn, ít ngủ. Bà đến nhờ tôi xem mạch. Tôi xem mạch lưỡng xích trầm vi vô lực. Tôi đưa bà 5 hoàn Phụ tử lý âm ( bà không chịu uống thuốc thang ), bà uống dứt kinh ngay và bớt cả đau lưng. Bà uống thêm 5 hoàn nữa, bà khỏe.Từ bấy đến nay mấy năm liền mỗi lần bà bị rong kinh độ vài ngày mà đau lưng, bà chỉ đến mua một hoàn Phụ tử lý âm của tôi về uống là khỏi. Như vậy thấy rằng: Bệnh rong kinh của bà Thanh Hương này đã uống Phụ tử lý âm tiễn tuy có khỏi nhưng không khỏi dứt. Đó là bởi dự dưỡng sinh thất thường và ăn uống quá ít, cho nên trở mình hay trở trời lại tái phát. Thực ra nếu chịu uống Phụ tử lý âm hoàn nhiều cho đến khi sức khỏe dồi dào hẳn là không tái phát. 2. Cô Từ Thị Phụng gần 30 tuổi, ở Quy Nhơn, mở cửa hàng bán lặt vặt, có chồng và đã sanh một gái. Chứng bệnh mỗi tháng rong kinh vài tuần, đau lưng như gãy, tuổi con gái mới sanh một lần mà đứng lên ngồi xuống khó khăn, đi vài chục bước phải ngồi xuống, gầy yếu xanh xao, tay chân lạnh, ăn ngủ kém, kéo dài 7 năm, không sanh đẻ. Đã uống nhiều loại thuốc không khỏi. Năm 1969, cô đến nhờ tôi xem mạch. Tôi xem lưỡng xích trầm vi vô lực (cô không chịu uống thuốc thang). Lần đầu, tôi đưa Lý trung hoàn đô 2 lạng, cô uống để ôn bổ tỳ trước. Cô nói: “Con thấy người hơi ấm”. Tiếp đó tôi đưa Phụ tử lý âm hoàn 6 lạng. Cô uống dễ chịu mà kinh đã ngừng. Cô uống thêm Phụ tử lý âm hoàn 3 lần nữa, mỗi lần 6 lạng. Sau đó cô khỏe mạnh sanh được một trai. Khi đứa nhỏ lững thững tập đi, vợ chồng cô vui mừng nhớ ơn, nhân về nhà anh chị ở Sài Gòn chơi, vợ chồng cô cho cả đứa nhỏ đến nhà tôi tặng quà tỏ ý cám ơn và nói: “ Chúng con có đứa bé này đây thật ơn thầy. Ôi! 7 năm trời đau yếu, bao nhiêu là thuốc không khỏi, lại chả sanh đẻ gì, chán quá, may được nhờ thuốc thầy sanh được cháu đây mà nay lại khỏe mạnh. Ôi chao! Mừng quá! ”. Tôi cũng lấy làm vui mừng, khi mình đã làm được một việc theo đúng y lý trị bệnh, dùng thuốc rất đúng với hiểu biết của mình. Thật cũng đáng mừng, chứ đâu có dễ gì!

166


Lý trung thang: Minh đảng sâm: 5 chỉ (20 gram) Can khương: 1 chỉ rưỡi Bạch truật: 4 chỉ Cam thảo: 1 chỉ Đó là cân lượng một thang thuốc, nếu làm hoàn thì cứ thế nhân lên 5 thang hay 10 thang nhiều ít tùy ý, tán rây nhỏ, nấu bột gạo luyện làm hoàn, gọi là Lý trung hoàn. Nếu thêm Phụ tử gọi là Phụ tử lý trung thang (cách chế, ý nghĩa nói rõ ở bài số 1). SUY XÉT: Bệnh rong kinh, đau lưng gầy yếu, mạch lưỡng xích trầm vi vô lực thuộc loại can thận hư hàn này đã uống Lý âm tiễn được khỏi. Ở đây tôi chỉ nói có hai người để dẫn chứng. Thực ra tôi dùng bài thuốc này đã trị khỏi được rất nhiều người không thể nhớ hết mà kể ra nơi đây. Bệnh rong kinh thuộc hư hàn thì tử cung hàn lãnh (tử cung vô hỏa) không có sức nóng giữ được huyết lại, huyết phải chảy ra. Phép trị phải cho tử cung ôn ấm tự nhiên huyết được giữ lại không cháy ra, không cần phải dùng đến những thuốc vít lại. Muốn cho tử cung ôn ấm lại không gì bằng Can khương sao gần cháy, đem ra tẩm nước đồng tiện gọi là Hắc khương. uống Hắc khương với huyết dược (Quy, Thục) huyết dược biến thành chất ôn ấm. Hắc khương dẫn huyết dược ôn ấm vào tử cung. Tử cung đang bị lạnh được chất ôn ấm đồng tính dẫn vào thì mừng như mưa được tạnh, lạnh được ấm làm sao mạch máu trong 0 máu không tốt tươi hồi phục, đánh tan khí lạnh cho lưng hết đau, cho máu không chảy ra. Loại huyết hàn rỉ rả chảy ra này, nếu không dùng thuốc ôn ấm cho giữ huyết lại, mà ta cứ dùng những loại thuốc vít lại như Bồ hoàng, Kinh giới, Lá trắc bá, Quán chúng ( đều sao cháy) hay Địa du sao vàng.. .thì nó cũng tạm ngưng, nhưng khi nó thấm hết chất vít thì nó lại rỉ ra. Trong mấy ngày nó vít lại thì cũng yên trí là huyết đã cầm, nhưng thật ra lưng vẫn đau mà trong người không khỏe. Trị bệnh như vậy không có thể được khỏi hoàn toàn. Một lần nữa nói rằng: Tử cũng hàn lãnh mà huyết rỉ ra không uống gì hay hơn uống Hắc khương với huyết dược tức Lý âm tiễn. Dùng Hắc khương với huyết dược hay khí dược trị bệnh kinh thủy hàn trệ lâm lịch, tôi đã có ý nghĩ từ khi còn chân trong chân ngoài ở ngưỡng cửa y nghiệp. Đó là năm 1925, tôi đến chơi nhà thuốc của anh cả tôi ở Hà Nội. Tôi gặp bệnh thấy kinh dài ngày của một bà mà anh tôi trị mãi không cầm, tôi nén bỏ Hắc khương vào

167


thang thuốc của bà ấy, bà ấy uống khỏi. Mấy năm sau, từ khi tôi thực sự bước chân vào ngành y dược cho đến nay, tôi chẩn trị nào trước miền rừng núi rồi đồng quê và sau ra tỉnh thành trải bao năm trường. Lại gần đây ngày 29-9-1977, tôi được ban giám đốc viện Y dược học dân tộc thành phố Hồ Chí Minh mời tôi vào chẩn trị đa khoa tại Cơ sở Thừa kế số 275 đường Nam kỳ Khỏi Nghĩa và ngày 14-7-1978, tôi lại được bác sĩ giám đốc bệnh viện YDDTTP, mời tôi vào chẩn trị phụ khoa và nhi khoa tại bệnh viện ấy ở số 179 đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa (hai nơi này hiện nay tôi đang phục vụ). Tất cả các nơi, mồi khi tôi gặp bệnh huyết hàn, thủy suy, mà lưỡng xích tế tiểu trầm vi, bất luận nam nữ, tôi đều dùng Hắc khương để dẫn huyết dược hay khí dược vào tinh cung hay huyết hải, hết thảy đều thấy kiến hiệu như ý định, hầu như gọi đúng tên người lạ mặt từ xa mà người ấy vui vẻ mừng lớn tiếng “Dạ”. Như vậy thấy rằng từ trước đến nay tôi trị bệnh huyết hàn thủy suy hữu hiệu, tôi đều lấy Hắc khương trong Lý âm tiễn làm cẩm nang và hẳn rằng từ nay và mãi mãi về sau tôi còn mở rộng cẩm nang này cho những căn bệnh ấy. Thật vây! Tôi rất vui mừng phấn khởi khi tôi đã tìm ra được nguyện lý trị bệnh này. Tôi dám nói chắc rằng: “Những người có loại bệnh ấy đến hỏi tôi hay tìm hiểu trong bài này mà tự trị, hẳn là bệnh mau hết, người mau khỏe” TÌM HIỂU BÀI LÝ ÂM TIỄN TRỊ 2 LOẠI BỆNH KHÁC NHAU ĐỀU KHỎI: Lý âm tiễn theo nguyên lý của Lý trung thang biến đổi thành phương. Những người tỳ hư hàn muốn được cương táo (cứng mạnh mà khô ráo) thì uống Lý trung. Những người thận hư hàn muốn được ôn nhuận (ôn ấm mà tươi nhuần) thì uống Lý âm. Những người cả tỳ thận đều hư hàn thì họp lại uống chung cả Lý trung và Lý âm. Như vậy Lý trung chủ trị một bệnh tỳ hư hàn. Lý âm chủ trị một bệnh thận hư hàn. Lý trung và Lý âm hợp lại chủ trị hai bệnh tỳ và thận hư hàn. Nói vê Lý âm tiên: Lý âm tiễn chủ trị “chân âm suy kém và phụ nữ kinh trì, huyết trệ” (nguyên văn) Chân âm suy kém: Con người chân âm, chân dương ở thận phải cân bằng nhau mới khỏe mạnh. Nay chân âm suy kém thì chân dương phải vượng hơn là ra những bệnh nóng đầu, ù tai, mờ mắt, khó ngủ và đau lưng mỏi gối, tức là âm tinh suy kém. Kinh trì, huyết trệ: Phụ nữ kinh điều, huyết hòa mới khỏe mạnh. Nay thấy kinh trồi sụt không đều lại rong kinh kéo dài làm ra những bệnh đau lưng, đau dây chằng, huyết trắng, sa dạ con tức là âm huyết hư hàn.

168


Vậy là nam tinh suy, nữ huyết thiếu, tóm lại đều thuộc thận, uống Lý âm tiễn rất là thần hiệu, thật ít có thuốc nào hay hơn. Nhưng như vậy rõ ràng Lý âm tiễn chủ trị có một bệnh thận hư. Lý âm tiễn chủ trị một bệnh thận hư mà lại tìm ra Lý âm tiễn chủ trị hai bệnh “can và thận” hư . Bởi lẽ: 1.. Suy luận chữ “chân âm suy kém” biết rằng chân âm đây là âm tinh ở thận, nhưng chân âm cũng có nghĩa là âm huyết ở can (can tàng huyết). 2.. Căn cứ vào mạch lưỡng xích trầm vi vô lực, nhất là tả xích. Tả xích đã trầm vi, hẳn là liên hệ để tả quan. Tả quan cũng trầm vi không nhiều thì ít.Tả quan trầm vi tức là can huyết thiếu. 3.. Tìm hiểu ý nghĩa dược vật trong bài Lý âm tiễn: Thục địa uống vào thủ, túc thiếu âm và quyết âm tức là vào tâm, thận và can. can.

Xuyên quy uống vào thủ thiếu âm, túc thái âm và quyết âm tức là vào tâm, tỳ, Vậy Thục, Quy là thận dược mà cũng là can dược. Quy Thục là chất bổ âm (Âm là âm tinh, âm huyết). Hắc khương dẫn Quy, Thục bổ âm vào khí phận để sanh huyết (huyết thuộc can). Vậy Quy Thục nhập can rồi mới nhập thận, tức là Lý âm tiến chủ để sanh huyết, ôn huyết cho can nhiều hơn sinh thủy, ôn tinh cho thận. Chứng minh cụ thể Can huyết hư hàn không khai khiếu ra mắt, mà mắt chảy nước, mắt kém sáng. Can huyết hư hàn thì huyết không ôn kinh, huyết không về với kinh mà kinh kỳ dài ngày (rong kinh). Can thận hư hàn thì tinh huyết không có năng lực làm đau lưng mà không sinh sản. Thật vậy, đấng tiền bối lập phương chỉ dạy Lý âm tiễn chủ trị thận hư không có ý dạy Lý âm tiễn là thuốc trị mắt và trị rong kinh tức trị can hư mà kẻ hậu học dụng phương lại tìm ra nguyên lý để trị mắt và rong kinh hai bệnh khác nhau đều khỏi. Tuy không dám tự nhận là “phát kỳ vị phát” nhưng cũng có một kiến thức vững chắc trong đề mục này nên mới dám đem Càn khương, Phụ tử cho hai người bệnh mắt, hai người bệnh rong kinh này uống, rõ ràng đã có linh nghiệm. MUỐN TÌM HIỂU BỆNH MẮT, BỆNH RONG KINH KHÁC NHAU CHĂNG? Nhìn vào vị trí: Mắt ở thượng tầng thuộc can, kinh ở hạ thể thuộc mạch xung, cách nhau rất xa, khác nhau rất nhiều, thật không liên hệ. Nhưng tìm vào huyết mạch: Mắt và kinh tuy vị trí trên dưới khác nhau mà thảy đều thuộc huyết. Huyết bởi can, can là bộ phận chứa đựng huyết. Cả hai đều thuộc huyết, hẳn là liên hệ với nhau về huyết. Mắt thuộc can, can huyết là chủ động của mắt. Can huyết tốt thì mắt sáng, can huyết nóng thì mắt đỏ sưng, can huyết thiếu, can huyết lạnh thì mắt kém sáng, mắt chảy nước.

169


Kinh thuộc mạch xung. (Mạch xung túc khí xung, khí xung là vị khí). Mạch xung phát nguyên từ vị khí. Vị khí vượng thì ăn uống được nhiều. Ăn uống nhiều thì sinh huyết, tốt huyết cho mạch xung, cho nên nói mạch xung là ổ máu (huyết hải ). Ổ máu thuộc can huyết. Can có khí và huyết, can khí bình hòa thì can huyết tốt mà kinh nguyệt đều, can khí bất hòa thì can huyết nóng khô mà kinh nguyệt bế tắc không thông, không đều, can huyết hư hàn thì rong kinh kéo dài, can khí can huyết đã suy kém thì còn làm ra những bệnh đau dây chằng, huyết trắng...v.v Như vậy, một lần nữa nói rằng: “Mắt và kinh có liên hệ với nhau về huyết” cho nên có những cô phụ nữ kinh nguyệt trồi sụt hay bế tắc hay rong dài hẳn là mắt cũng kém sáng. Ngược lại cũng vậy. NAM LÝ ÂM TIỄN Nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chúng ta. Ngành y tế cách mạng chủ trương y tế độc lập “Người Việt Nam uống thuốc Việt Nam”. Vậy những lương y chúng ta phải cùng nhau lỗ lực nghiên cứu từ cổ phương thang chuyển thành nam phương thang, làm sao cho đúng ý nghĩa mà điều trị. Bài Lý âm tiễn này tôi đã hoán chuyển: 1.. Đương quy khí vị cay ngọt mà ôn, dẻo có dầu, chủ để hành huyết, sinh huyết và bổ huyết. Đổi thành dùng Lộc giác giao khí vị ngọt mà ôn, dẻo có keo, chủ để sinh huyết bổ huyết, nhưng còn thiểu chất cay để hành huyết, ta thêm Trần bì có chất cay mà ôn để tán trệ và Tô mộc để dẫn đạo cho hành huyết. Tức là ba vị hợp lại ta có vị Đương quy (trong 10 phần, Lộc giác 6 phần, Trần bì 1,5 phần, Tô mộc 2,5 phần). Lộc giác giao và Tô mộc là huyết dược đồng tính, Lộc giác giao với Trần bì là tán trệ, dễ tiêu mà Lộc giác giao lại là vật hữu hình, nào có kém gì Đương quy, Lộc giác giao lại còn sinh tinh như Thục địa. (Nếu muốn có mùi thơm như Đương quy, ta thêm chút Xuyên khung cũng là đồng điệu. Khung ta đã trồng). 2.. Thục địa ngọt, ôn, nhu nhuận chủ để bổ thận thủy, sinh tinh, đổi dùng: Bá tử nhãn ( nhân trong trái Trắc bá) ngọt hơi cay, tức ngọt mà ôn nhuận, bỏ vỏ lấy nhân, sao khô, ép hết dầu (dầu nó nê tỳ) chủ để bổ thận thủy, hưng dương đạo (tuy ép hết dầu, nhưng nhựa nó còn lại cũng dính dính như Thục địa) thêm vào chút ít là Trắc bá sao vàng để phụ lực với Bá tử nhân cho mạnh. Cây Trắc bá là loại cây sống ngàn năm mà về mùa đông nó vẫn xanh tươi, vậy hạt nó là vật rất quý mà lá Trắc bá lại còn có chất nhuận như Sinh địa. Nếu bảo rằng Bá tử nhân có chất cay không giống như Thục địa, vậy khi dùng Thục địa phải tẩm gừng, tẩm rượu thì Thục địa còn thiếu chất cay. 3.. Cam thảo vị ngọt, hơi hàn, nướng chín thì ôn, chủ để hòa dược đổi dùng Cam giả (mía) vị ngọt, nướng chín cũng ôn, cũng hòa dược được (dùng mía hơn dùng Cam

170


thảo đất). Sau khi đã hoán cải Nam Lý âm tiễn gồm có: Lộc giác giao 8 g

Trần bì 1 g

Tô mộc

3g

Trắc bá diệp

4g

Bá tử nhân

8g

Hắc khương

8g

Cam giá

6g

Nếu như muốn thêm Phụ tử đổi dùng: Nhục quế nhưng phải tìm thứ quế dầy thịt. Quế tuy không có tính chạy nhanh như Phụ tử, nhưng Quế cũng tân tán mà dẫn đi. Nếu Quế dầy thịt không có thì Hắc khương dùng nhiều lên chút nữa. Thật rất giản dị, thời gian này, tôi đã dùng và đã có công hiệu cho nhiều người. Nói về sự tìm tòi vị thuốc Nam thay thể vị thuốc Bắc làm sao cho thật đúng cả khí vị, tính chất và công năng cho hoàn toàn, thật rất khó khăn và phức tạp. Nếu cứ bảo rằng phải tìm cho thật đúng tất cả thì có lẽ không thể thành công. Bởi vậy, việc tìm kiếm để thay thế, biết rằng khi đã tìm được hẳn là có vị nam hay hơn vị bắc, nhưng cũng có vị nam không bằng vị bắc. Vậy 1 vị đổi thành 1 vị hay 2 3 vị hợp lại đổi thành một vị mà trong đó đúng được 6-7 phần 10 hay 4-5 phần 10 mà trị được bệnh, tưởng những người đó cũng là đã có công tìm tòi nghiên cứu. “Bất trùng, bất viễn” tuy không đúng cả nhưng chẳng khác bao nhiêu là được.Lại cũng phải chú ý đến sự phân loại khí dược huyết dược, hàn dược nhiệt dược, âm dược dương dược.v..v..thay thế cho phù hợp mới là hoàn hảo. Đi sâu vào việc “ tìm thuốc thay thuốc” không thể bảo rằng: Đã quyết định dùng vị này thay vị này là đúng thì cứ quyết định như vậy mà lại cũng còn phải tùy thời thay đổi. Ví dụ đã quyết rằng: Hôm nay “cháo thay cơm” nhưng lúc đó cháo không còn thì sắn thì khoai; bữa nay “muối thay mắn” nhưng rồi khi ấy “ muối không có thì tương, thì chao”, âu cũng là lương thực, là mùi vị cho no bụng và mặn miệng trong lúc cấp thời thiết dụng. Về việc hoán cải thuốc trong Lý âm tiễn. Tôi đã quyết định dùng Lộc giác giao (cao Ban long ) thay thế Xuyên quy nhưng rồi Lộc giác giao cũng là vật hiếm, ít có ngay khi cần dùng. Tôi đem A giao (cao da trâu) thay vào, nhiều người uống rất hay, nhưng lại có người sợ chất tanh nhờn của A giao. Tôi lại đem Kê tử hoàng (lòng đỏ trứng gà ) thay thế cũng thấy hữu hiệu ngay tức thời. Vậy sự thay thế dù đã nghiên cứu quyết định nhưng cũng có khi phải tùy người, tùy bệnh, tùy lúc mà linh động đổi thay cho “đồng điệu” mới thành công.

171


Trong Lý âm tiễn: Hắc khương dẫn Xuyên quy vào tử cung để sinh huyết, bổ huyết và ôn huyết ( ý nghĩa này đã nói trên ). Nay không dùng Xuyên quy, lại dùng Lộc giác giao hay A giao hay Kê tử hoàng thì cũng lấy Hắc khương làm chỉ đạo để dẫn các chất thuốc vào tử cung vậy. CHỨNG MINH: Khi tôi chẩn trị tại Cơ sở Thừa kế, Viện y dược học dân tộc, có bà Trương Thị Huế 43 tuổi, ở 201 A cư xá Điện lực, Thủ Đức. Bệnh án số 1006 vào viện ngày 15-111977, xuất viện ngày 23-12-1977. BỆNH CHỬNG: Rối loạn đường kinh, có kinh ra nhiều, phải chích thuốc cầm, váng đầu chóng mặt, đau eo lưng, ăn ngủ ít, mạch Phế trầm, tỳ vị, mệnh môn vô lực; tâm, can, thận trầm tiểu. THUỐC Uống Sa nhân, Liên nhục để bổ tỳ, đồng thời chú trọng vào ăn trứng gà chấm bột Hắc khương để bổ thận.Mỗi ngày trứng gà 2 quả, Hắc khương 4 gram. Trứng gà lựa trứng tốt, luộc chín kỹ, bỏ lòng trắng, chỉ ăn lòng đỏ. Hắc khương (gừng khô sao đen ) chọn miếng cứng, tán nhỏ. Ăn lúc đói sáng 1 quả, chiều 1 quả, chia 4 gram bột gừng đen chấm ăn hết trong ngày. Bà uống liên tục đến ngày ra viện, nước da trắng hồng, người khỏe mạnh.Trứng gà chỉ ăn lòng đỏ chấm với bột gừng đen. Tôi đã dùng trị bệnh tử cung hư hàn cho nhiều người được khỏi và cả nam giới thận hư hàn đau eo lưng cũng khỏi. Lại những cô “đặt vòng hãm đẻ” bị ra máu hàng tháng đã dùng nhiều loại thuốc không cầm máu được, tôi cho uống A giao (sao chín) 16 gram, Hắc khương 12 gram. sắc lấy nước uống, chỉ vài thang như vậy là cầm mà khỏe. Tất cả Lộc giác giao, A giao và Kê tử hoàng đều là huyết dược nhờ có Hắc khương dẫn đạo vào tử cung để sanh huyết, ấm tử cung cho những người tả xích vô lực tức thận hư hàn đều khỏi mà những chất thuốc ấy lại còn có keo nhựa để hàn gắn vết thương nứt rạn trong bộ máy sinh dục nữa. Tôi dám nói chắc rằng: Những người tinh huyết hư hàn cứ dùng như vậy rất hay.

172


33. TỲ THẬN HƯ HÀN NGƯỜI BỆNH: Cụ Nguyễn Cộng tự Tam Lập ngoài 70 tuổi, ở số nhà 173 đường Trương Minh Giảng Sài Gòn, người tầm thước, hơi cao to, vóc dáng vừa phải, không mập không gầy, nước da trong trắng, thanh nhã đường hoàng, oai nghi chừng chặc, tâm chí an nhàn không vọng động, khởi cư tiết độ chẳng tham cầu, nho học kiêm tân học tham khảo đông y học lý luận, tuy không hành nghề nhưng nghĩa lý tường thông lại văn chương tinh thục, không khoe khoang ỷ thị tự cao, thật khả kính. Cụ là bạn thân trong văn lý y học với tôi rất tương đắc. CHỨNG BỆNH: Người không nóng lạnh, cũng không sợ gió, chỉ đau ngang lưng, lạnh hai bàn chân, ăn ngủ ít, không khát nước, đại tiểu thường nhưng đêm tiểu nhiều lần, mệt chỉ muốn nằm, không muốn ngồi dậy. Nói chuyện về bệnh mình rất rành rẽ nhưng tinh thần có phần uể oải. Mạch trầm trọng mà tả xích vô lực. SỰ VIỆC: Đầu năm 1973, cụ cho người đến mời tôi. Tôi lên xem mạch và bệnh như nói ở trên. Tôi gọi bệnh này "tỳ thận hư hàn” và bàn về thuốc, nên ôn bổ cả tỳ thận. Cụ cũng nhận là phải, nhưng tính cụ rất cẩn thận về thuốc. Cụ chỉ cho lấy từng thang một để mỗi ngày mời tôi lên xem mạch lại vào lúc 8 giờ sáng cho chắc chắn. Sáng hôm sau, tôi lên đúng hẹn. Tôi vừa vào cửa đã thấy cụ y phục tề chỉnh ngồi tựa ghế bành như người vô bệnh để chờ đón tôi. Thấy tôi, cụ từ từ đứng dậy ra gần sát cửa bắt tay và mời tôi ngồi, trà nước chuyện trò về bệnh. - Thưa thuốc ấy uống chịu, đêm nay tôi ngủ ngon, bớt đau lưng, xin cụ xem mạch lại, cho tôi thang nữa. - Tôi xem mạch cụ, tả xích đã hơi hữu lực. Tôi nói xin cắt nguyên phương. - Vâng, bây giờ tôi cho cháu theo cụ xin một thang, sáng mai mời cụ lên xem mạch lại cho. - Vâng. Sáng hôm sau tôi lại đúng giờ lên xem mạch. Tôi vào nhà cũng đã thấy cụ ngồi trịnh trọng chờ đón tôi. - Hôm nay tôi lại khá nhiều hơn mà thuốc ấy lại bớt cả bệnh tiểu đêm nhiều lần, thành ra lại ngủ được nhiều hơn, thấy khỏe. Xin cụ xem lại, cho tôi 3 thang luôn, không dám phiền cụ phải lên xem lại. Sau cụ uống tiếp 3 thang nữa, khỏi bệnh, người khỏe.

173


PHƯƠNG THUỐC: 1. Cao ly sâm: 2 chỉ, cắt nhỏ, tẩm chút nước gừng, sấy khô (không uống Nhị hồng sâm hay Bạch chỉ sâm mà lại uống Cao ỉy sâm, vì Cao ly sâm không có tính hàn, các loại thuốc kia đều có tính hàn) để bổ khí 2. Minh đẳng săm: 3 chỉ, dùng để phụ lực cho Cao ly sâm, thực ra Minh đảng sâm chỉ bổ tỳ chứ không bổ khí, Minh đảng sâm cũng lên tẩm nước gừng sao khô mới hay. 3. Bạch truật: 3 chỉ, cắt nhỏ sao vàng để bổ tỳ. 4. Xuyên quy: 3 chỉ, dùng cả thân và vĩ, để bổ huyết. 5. Thục địa: 3 chỉ, tẩm nước gừng sao khô, để bổ thận và cũng để bổ tỳ. Tẩm nước gừng sao để làm giảm tính hàn trệ của Thục. 6. Hắc khương: 2 chỉ, cắt nhỏ, sao gần cháy, đem ra tẩm nước tiểu để dẫn Quy, Thục vào thận và dẫn Sâm, Truật vào tỳ cho thận tỳ được ôn bổ. 7. Phụ tử (đen): 2 chỉ, để khua động các chất thuốc đi các kinh lạc mau chóng mà cũng ôn tỳ thận. Tất cả đổ chung sắc uống, sắc 2 lần (nếu còn chất có thể sắc lần thứ 3 mà uống). Lần thứ 1: Đổ 3 chén nước (chén ăn cơm) đun còn 8 phân, tức dưới miệng chén một chút. Lần thứ 2: Đổ 2 chén rưỡi, còn lại 7 phân. Bệnh gấp, sắc được nước nào uống nước ấy. Nếu thong thả đổ chung 2 lần thuốc đã sắc ấy, chia 2 lần uống, uống lúc đói. Bài thuốc trị bệnh trên do hai bài thuốc hợp lại: 1.. Lý trung thang: Sâm, Truật, Khương, Thảo thêm Phụ tử gọi là Phụ tử Lý trung thang. 2.. Lý âm tiễn: Quy, Thục, Khương, Táo thêm Phụ tử là Phụ tử Lý âm tiễn. Lý trung điều lý trung khí, tức ôn bổ tỳ khí, vì khí hàn nên dùng Can khương để Can khương dẫn Sâm, Truật nhập tỳ và phế. Lý âm điều lý âm huyết tức ôn bổ can huyết, vì huyết hàn cho nên dùng Hắc khương để Hắc khương dẫn Quy, Thục nhập can và thận. (Lý âm tiễn sau suy diễn Lý trung thang mà biến cải thành phương). Lý trung ôn bổ tỳ phế khí. Lý âm ôn bổ can thận huyết. Tỳ phế khí hư hàn thì uống Lý trung. Can thận huyết hư hàn thì uống Lý âm. Đó là riêng biệt.

174


Nay cả tỳ phế và can thận đều hư hàn, tức tỳ thận hư hàn thì ta hợp cả hai bài lại làm một mà uống. Nghĩa là ôn bổ tỳ phế khí, đồng thời ôn bổ cả can thận huyết rất hay. Khi hợp hai bài làm một, thì dùng Hắc khương không dùng đến Can khương. Bệnh khí huyết hư hàn, bất kể nam nữ lão ấu đều uống được chỉ trừ người có thai. Nhưng nếu nắm chắc cả về mạch lý và bệnh lý là cái thai ấy hàn thì uổng vài thang cũng được. SUY X ÉT: Tỳ thận hư hàn: Hư là suy yếu, hàn là nguội lạnh. Vì suy yếu mà nguội lạnh lại cũng vì nguội lạnh mà suy yếu, tức vì hư mà hàn cũng vì hàn mà hư, hai đằng thường đi đôi với nhau. Hư hàn phản nghĩa với thực nhiệt. Nguyên do: Cư xử ẩm thực không giữ gìn lại tuổi già sức yếu mà tỳ và thận hư hàn. Tỳ hư liên can đến thận, thận hư đầu mối bởi tỳ. Vì tỳ hư hàn không ăn uống được nhiều, không lấy gì tư dưỡng cho thận mà thận cũng hư hàn lây. Bởi vậy, người nào tỳ đã hư hàn thì tối đa thận cũng hư hàn. Nay nói ngay bệnh này, da thịt mát, ăn ít, không khát nước, nằm không muốn dậy, mạch trầm trọng là tỳ hư hàn. Đau lưng, lạnh chân, tiểu đêm nhiều, mạch tả xích vô lực là thận hư hàn. Phép trị: Suy yếu (hư) thì phải cho mạnh, nguội lạnh (hàn) thì phải cho ấm, có ấm mới mạnh, có mạnh mới ấm. Tỳ thận đã hư thì phải bổ, đã hàn thì phải ôn. Ôn bổ thì ấm nóng luôn luôn mạnh khỏe hoàn toàn. Khác nào như dùng máy điện, trong máy đã có bộ phận đã hư lại điện yếu phải tìm bộ phận hư mà sửa và phải tăng điện thì máy mới chạy. Bởi vậy, uống Lý trung để ôn bổ tỳ phế khí, uống Lý âm để ôn bổ can thận huyết - mà đã nói trên - thật đúng lý. Nhưng phải xét đúng là chân hàn tại nội tạng mà bệnh đã lâu mói uống như vậy được. Còn bị cảm hàn hay vì trúng hàn thực trong nhất thời không thể cẩu thả vội vàng mà uống thuốc này được. Cảm hàn chỉ nên dùng những loại Tô diệp, Tế tân ; trúng hàn thực chỉ nên dùng nhũng loại Sa nhân, Can khương... VÀI NĂM SAU, TỲ THẬN LẠI HƯ HÀN THÊM MÊ SẢNG, CO GIỰT CHỨNG BỆNH: Vài năm sau, tỳ thận lại hư hàn, lại phát những chứng bệnh như năm trước: Người da thịt mát, không nóng lạnh, không sợ gió, đau ngang lưng, lạnh hai chân và gối, ăn ngủ ít, không khát nước, đại tiểu thường nhưng tiểu đêm nhiều lần, tinh thần uể oải, mệt chỉ muốn nằm không muốn ngồi dậy. Tất cả những chứng trạng ấy đều đã nặng hơn trước rất nhiều lại thêm mê sảng, hễ nằm xuống lại rì rầm nói nhảm vài ba

175


tiếng một không đâu. Ngồi lên kể bệnh thì nói sai một vài tiếng - Tay hay chân, vai hay má, quai hàm đôi khi bị giựt vài cái khá mạnh. Nhất là mạch toàn bộ trầm vi vô lực, nhưng tâm mạch trầm đới sác thật khó xem để chẩn định bệnh. SỰ VIỆC: Cuối năm 1975, một hôm cụ cho mời tôi vào lúc 8 giờ sáng. Tôi tới nơi vừa vào cửa, người nhà mời tôi ngồi ở phòng khách, bưng trà nước. - Thôi mà, cụ đau sao đó, anh cho tôi vào thăm cụ. - Dạ, xin cụ nán lại một chút, cha con đang bận ở nhà sau. Tôi ngồi lại khoảng 5, 10 phút, thấy có vẻ hơi lâu. Tôi nóng lòng đứng dậy, ngó vào nhà trong, chợt gặp lúc cụ đang đi ra. Trông thấy người lợt lạt mà đi có vẻ hơi chuệnh choạng. Tôi chạy luôn vào đón chào cụ và đỡ cự ngồi giường dựa lưng vào tường. Khi ấy nhìn cụ tuy có vẻ mệt nhưng phong độ vẫn như lúc khỏe. Cụ bà mời tôi ngồi và nói bệnh cụ ông, nhưng cụ ông gạt đi để cụ tự trình bày: Vài tuần nay tôi thấy sức người hơi yếu, nhưng mấy hôm nay thấy yếu hơn và hơi mê sảng lại đôi khi nó giựt gân tay chân. Xin cụ xem mạch hốt thuốc cho tôi uống. Trong câu nói của cụ có câu sai, cụ bà sửa lại. Tôi xem mạch xong, biết tính cụ cẩn thận, thích nghe về bệnh lý, y lý và dược lý mặc dầu cụ đang bệnh. Tôi nói rõ từng nghĩa lý bệnh của cụ để cụ nghe. - Thưa cụ, mạch cụ năm nay nó cũng trầm trì vô lực là tỳ thận chân hư hàn như năm trước nhưng trầm trọng hơn mà tâm mạch lại còn đới sác vô lực. thế là tâm có nhiệt. Tâm nhiệt phát mê sảng mà khích động tới can hàn. Can chủ cân, can hàn gặp nhiệt dị tinh bất đồng sinh phong phát giựt. Phép trị phải thanh tâm nhiệt để trị mê sảng, phải trừ can phong để trừ gân giựt trước rồi mới đến tỳ thận hàn. Tức là phải uống Hoàng liên (Khương sao) Nhị trần thang thêm phong dược. Cụ có đồng ý tôi về hốt thuốc. - Vâng, xin cụ hốt cho một thang. Trên đường về, tôi ngồi lên xích lô đạp suy nghĩ: Bệnh chân hàn mà có một chút dư nhiệt ở tâm, nếu lại đem Hoàng liên - mặc dù đã tầm gừng sao - mà giội thẳng vào tâm cho nguội lạnh cả đi thì sẽ chết. Tôi liền nghĩ phản luận: Chân hư hàn thì cứ ôn bổ, tự nhiên chân nhiệt phải tòng bản quy nguyên. Tôi lại đem Lý trung hợp với Lý âm như năm trước nhưng bội Khương, phụ thêm Mạch môn,Ngưu tất, Ngũ vị, để ôn bổ. Tôi hốt một thang đại tễ cho người nhà mang về. Sáng hôm sau, tôi tự động lên sớm - vì cụ với tôi là bạn thân trong y học - Tôi vào xem mạch cụ vẫn thế mà mê sảng, co giựt vẫn còn nguyên, nghĩa là uống thang thuốc ấy bệnh không tăng mà cũng không giảm chút nào.

176


- Thưa cụ, thang thuốc mà tôi hốt mà cụ đã uống đó là thuốc ôn bổ tỳ thận như năm trước chứ không phải thuốc thanh nhiệt như đã bàn thảo hôm qua. Nay xin hốt một thang nữa nguyên phương. - Vâng, xin cụ cứ hốt cho một thang nữa. sáng mai thế nào, tôi cho người lên mời cụ. Sáng hôm sau, tôi vẫn nóng lòng muốn biết tin về bệnh này. Mãi tới gần 11 giờ, cụ mới cho cậu con trai lớn (Nguyễn Văn Khuyến) đến mời. - Đêm nay, bệnh cụ có đỡ chút nào không cậu ? - Dạ! Con không thấy cha con nói bớt hay không, chỉ bảo con đến mời cụ. Tôi tới nơi, xem mạch và bệnh cũng vẫn không bớt. Thưa cụ, thang thuốc hôm qua tôi mới uống có một lần còn bỏ đấy. Bệnh tuy chưa đỡ nhưng trong người thấy có phần dễ chịu. Ngặt vì có một ông bạn mời một Bác sĩ người tầu đến mà Bác sĩ lại là bạn với tôi từ lâu. Ông ở trong Chợ Lớn, có bệnh viện riêng, ông có sẵn nhiều thuốc. Ông xem, ông bảo bệnh gan, ông về lấy thuốc lại thân hành mang đến cho đấy ạ - vừa nói, vừa đưa ra mấy ống thuốc - ông cũng tốt lắm, từ ngày Sài Gòn được giải phóng, ông làm việc cho nhà nước mà cố bót thời giờ đến xem bệnh, lại không tính tiền. Thưa cụ, đó là đẩy tôi vào thế kẹt mà phải uống thuốc Tây, thật ra tôi không sai người đi mời Bác sĩ, vậy đã lỡ, cụ cho tôi uống thuốc Tây vài ngày xem sao. Tôi sẽ cho người đến thưa với cụ sau. Xin cụ đừng buồn. - Thưa cụ, trong lúc mình bệnh nặng không thể tự quyết, phải tùy nghi cho đẹp tất cả, kẻo lỡ bệnh nặng hơn lại bảo là mình không chịu nghe để thuốc này thuốc nọ sẽ xẩy ra phàn nàn hối tiếc. Tôi cũng nghĩ như vậy là phải, chứ có chi là buồn. Chúc cụ mau mạnh, xin cụ cho tôi về. - Thưa cụ, một lần nữa xin cụ đừng buồn, cụ biết cho lòng tôi. - Xin cụ cứ yên trí dùng thuốc, tôi không nghĩ gì đâu ạ. Xin về. Thầm nghĩ rất giận mà cũng rất mừng. Giận rằng, nghề mình bởi đâu chưa chiếm dụng được lòng tín dụng của đa số, nay chính mình phải nhượng bộ. Mừng rằng đã chút gánh nặng suy tư điều trị bệnh này. Tuy nhiên, vẫn tiếc là "không trị bệnh khó, bao giờ mới giỏi" nên vẫn canh cánh trong lòng để tìm bệnh căn, lại những định một ngày gần nào đó lên thăm ông cụ cho biết. Chợt 3 ngày sau, sáng hôm đó, cụ cho cậu con trai lớn lên mời thật sớm. - Cụ nhà hôm nay đã khỏe, chứ cậu ? - Dạ! Thưa cụ, bệnh tình của cha con đến nay cũng chưa ra sao cả, vẫn thế ạ, cha cho con đến mời cụ.

177


Trên đường đi, tôi suy nghĩ: Ông cụ cho mời, mình trọng ông cụ mà đến, chứ bệnh đến ngày nay mà chưa khỏi thì bệnh đã nặng lắm rồi. Ta nên từ chối không nên nhận trị là hơn. Nhưng khi tới nơi thấy những câu chuyện sau đây, cụ và gia đình, tình vui, ý đẹp, thực lòng cầu khẩn nên tôi không có lý do từ chối sự điều trị tái hồi. Cụ cho biết: Bác sĩ này lòng tốt với tôi, ông đến thăm tôi 3 lần, nào chích, nào uống. Nhưng đã 2 - 3 ngày nay không thấy ông đến, ông có để thuốc lại cho uống, nhưng tối hôm qua, lúc đó khoảng 20 giờ, tôi khó chịu lắm, tìm ông không biết đâu mà tìm. Những muốn cho cháu đến mời cụ nhưng sợ phiền cụ quá, không dám. Tôi bảo bà cháu: "Cái thang thuốc thứ hai của cụ lang hốt tôi mới uống có một lần rồi bỏ đó, thuốc ấy tôi uống thấy dễ chịu. Bây giờ làm thể nào lấy được một thang thuốc như thể cho tôi uống". - (Bà cụ) Cho người đi mời cụ, ông sợ khuya. Bệnh mà đến lấy thuốc không xem mạch, ai người ta hốt. - Vậy cái thang thuốc ấy đổ bã đi rồi sao ? - Còn bỏ xó bếp để lo hầu ông, chưa có đổ. - Bà bảo đứa nào đó đem tôi xem. - Mốc xanh, mốc đỏ lên thế này, còn làm gì được nữa, uổng vào mà chết à! - Gớm, thì bà cứ đổ nước sôi vào rửa nó đi rồi đổ nước khác vào sắc lấy nửa chén cho tôi uống, hay dở kệ tôi. Sáng mai hãy cho nó đến mời ông cụ. Thuốc mang lên tôi nhấp miếng đầu hãy còn thơm, tôi uổng hết cả, quá nửa đêm tôi thấy dễ chịu, xin cụ làm ơn xem lại, hốt thuốc cho tôi uổng. Tôi xem mạch xong, tôi về cũng hốt nguyên phương (thang thuốc này là thang thứ 3 mà cũng là thang thứ 1).Sáng hôm sau, tôi lên xem lại. - Thưa cụ, qua đen nay tôi uổng thuốc này thấy êm êm dễ chịu và hình như cũng có bớt giựt gân tay chân nữa, xin cụ hốt cho thang nữa. Tôi về cũng hốt nguyên phương (thang thứ 2). Sáng hôm sau tôi lại lên xem. - Đêm nay đã ngủ được nhiều mà ăn vào đã biết mùi vị mặn ngọt, mấy hôm rồi ăn thứ gì là nó như bỏ bã vào miệng, chán quá. - (Bà cụ) Ông cháu ngủ được thì bớt cả sảng và giựt đấy ạ! Tôi về lại hốt nguyên phương (thang thứ 3). Đen thang thứ 5, tôi xem mạch lại mới hơi hữu lực và các chứng đều đã bớt rất nhiều. Lần lần cụ uống hết 10 thang. Ăn uống được, đi lại ra vào lanh lẹ gân xương vững

178


mạnh, tinh thần sáng thông, bệnh khỏi hoàn toàn. Sau cứ nguyên phương làm thuốc tễ hoàn độ 1 kg. Cụ uống hết, khỏe mạnh đến ngày nay. PHƯƠNG THUỐC: Phụ tử lý trung thang và Phụ tử lý âm tiễn hợp lại như đã ghi ở đoạn trên, nay thêm trọng lượng và thêm Mạch môn, Ngưu tất và Ngũ vị. Bệnh kỳ trước suy hư sơ phát, dù có nặng cũng còn là nhẹ thì phụ cấp ít cũng đủ. Nay suy hư tái lại hẳn là lao tốn nhiều hơn phải bồi dưỡng gia tăng trọng lượng. 1. Cao ly sâm: 2 chỉ rưỡi, sâm này dễ mua nên uống thường xuyên trong mỗi thang thuốc. Nếu khó mua cũng cố kiếm mà uống trong mấy thang đầu. Sau dùng Minh đảng sâm nhiều lên để thay thế. Minh đảng sâm phải dùng đến 6 chỉ. 2. Minh đảng sâm: 4 chỉ, thứ cứng là Minh đảng sâm, thứ mềm là Phòng đảng sâm tính hàn không nên dùng cho bệnh này. 2.. Bạch truật:

4 chỉ

3.. Xuyên quy:

4 chỉ

4.. Thục địa:

5 chỉ

5.. Hắc khương:

3 chỉ

6.. Cam thảo:

1 chỉ 5 phân

7.. Phụ tử:

3 chỉ

Cách sắc, cách chế và ý nghĩa đã nói ở trên, thêm: 8.. Mạch môn: 2 chỉ, rút bỏ tim, sao vàng để thanh tâm nhiệt và ân tâm thần. 9.. Ngưu tất: 1 chỉ 5 phân, sao khô, để dẫn thuốc đi xuống. 10.. Ngũ vị: 5 phân, sao khô để điều bổ cả ngũ tạng và thâu liễm dương khí lại. Vị này chỉ nên dùng ít không nên dùng nhiều. Tất cả đổ chung sắc uống, uống lúc bụng đói. Tùy theo trọng lượng của thuốc mà đổ nước nhiều hay ít, cũng tùy theo chất thuốc đặc lỏng mà sắc mấy lần uống. Làm tễ: Tổng cộng thang thuốc này có 3 lạng 1 chỉ. Nên cân đủ 10 thang làm tễ được 31 lạng tức hơn 1 kilô. Vậy tùy ý làm ít hay nhiều hơn. Các vị thuốc đều cân đủ, sao chế riêng từng vị thật khô dòn, đổ chung tán, dây nhỏ. Nấu mật làm hoàn (khi luyện liệu chế mật vào thuốc cho vừa dẻo) mỗi hoàn chừng 2 chỉ. Sấy khô (đừng phơi để tránh ruồi bọ và cát bụi) bỏ lọ đậy kín. Mỗi ngày uống 2 lần (sáng tối), mỗi lần 3 hoàn uống với nước nóng. Cứ ăn đồ mát, đồ chua, và cứ tắm nước lạnh. SUY XÉT: Mê sảng bệnh bởi tâm nhiệt ; cơ giựt bệnh bởi can phong, ai cũng biết

179


thế. Khi điều trị tâm nhiệt uống Hoàng liên ; can phong uống phong dược thế là rất đúng. Tại sao lại "phản luận" ? Bởi lẽ căn cứ vào mạch và chứng mà định luận: Tâm nhiệt và mê sảng thì mạch tả thốn phải hồng, tròng trắng mắt phải có tia đỏ, môi lưỡi cũng đỏ, miệng khô, khát nước, nóng mình khó nằm yên. Can phong mà gân giựt thì mạch tả quan phải phù huyền, da thịt phải nóng, tính tình phải cấp táo. Cả hai đều thuộc cấp tính. Nhưng đây cả 6 bộ mạch đều trầm vi vô lực, da thịt mát, ăn ít, đau lưng, lạnh chân, tình tình không linh hoạt mà khoan hòa chẫm rãi như có vẻ lười biếng thì là cả tỳ và thận đều hư hàn.Thận hư hàn mà các đường gân của can bị lạnh phát giựt gần như "hàn quyết". Tỳ hư hàn thì không có chất nhiệt cung dưỡng đòi hỏi ở tâm. Tâm không đủ thì cuống cuồng phát mê sảng. Mê sảng ấy gốc ở tỳ hàn cho nên phải mê mạn tính không phải tâm nhiệt phát mê cấp tính. Vậy mê sảng và co giựt này cả hai đều thuộc loại mạn tính. Pháp trị: Bệnh cấp tính thì trị ngọn, bệnh mạn tính thì trị gốc. Bệnh này thuộc mạn tính, căn cứ vào mạch trầm vi vô lực, tỳ thận hư hàn là gốc mà trị. Bởi vậy đem Lý Trung mà trị tỳ hàn, Lý Ảm mà trị thận hàn, tức hư hàn ở bộ phận nào thì ôn bổ ngay ở đấy, vừa trị bệnh vừa bổ sức, đúng bệnh của nó khi bệnh đã khỏi thì người khỏe mạnh hoàn toàn. Phép trị như vậy cũng như bếp than đã nguội lạnh thì phải đem củi lửa nhóm vào cho cháy mạnh lên. Nếu nhận lầm mê sảng này là tâm nhiệt, co giựt này là can phong, lại đem Hoàng liên trị nhiệt cho hạ hỏa ; đem phong dược mà trị phong cho mất máu (uống phong dược nó ra mồ hôi thì mất nước của máu). Hỏa đã hư rồi lại còn hạ nữa, máu đã thiếu rồi còn bớt đi, ắt là phải chết. Khác nào như bếp lửa đã gần tàn mà còn đem nước lạnh giội vào cho tắt hẳn đi. Bởi lẽ đó, phản luận! Nói về sự tinh thông y học của cụ Nguyễn Hữu Cộng: Cụ tuy không chuyên nghiệp điều trị, nhưng suy xét y lý rất sâu kỹ. Khi cụ gần khỏi bệnh, người đã tỉnh táo, tôi đem ý nghĩa phản luận trên nói rõ cho cụ nghe. Cụ rất thích thú và rất vui mừng, là nhờ sự thông hiểu mau lẹ mà phản kiến cập thời ấy nay cụ được sống khỏe. Vậy khi tôi xem mạch cụ lần đầu, tôi nói là sẽ hốt "Hoàng liên, Nhị trần thang thêm phong dược" để cụ uống, cụ cũng đồng ý, hẳn là lúc đó cụ đang trong cơn bệnh mê và nếu tôi không phản luận, cứ thực hành phương thuốc "tả hỏa khứ phong” ấy cho

180


cụ uống thì chính tôi mới là kẻ "không bệnh mà mê". Ôi! Nếu cứ thanh nhiệt khứ phong cho ông cụ uống mà ông cụ chết thì khi tỉnh ngộ thử hỏi lương tâm làm nghề bị cắn rứt đến chừng nào ? Lấy lẽ đó suy ngược lại: Ôn bổ thủy cho ông cụ uống mà ông cụ sống khỏe thì lương tâm làm nghề lại sung sướng phấn khởi biết bao! Gốc bệnh của ông cụ là "Tỳ thận hư hàn”. Lần trước bệnh uống Lý trung thang hợp Lý âm tiễn có 8 thang khỏi được, từ 1973 đến 1975. Lần sau bệnh nặng hơn lại uống Lý trung hợp Lý âm 10 thang và cũng phương ấy làm tễ thuốc hoàn hơn một kilô, cụ uống khỏe được từ 1975 - 1978 mà bệnh tình sức khỏe của cụ còn bền vững lâu dài. Như vậy Lý trung ôn bổ tỳ, Lý âm ôn bổ thận với người tỳ thận hư hàn có công hiệu mau chóng mà lại được lâu dài. LÝ TRUNG HỢP LÝ ÂM HỢP THỜI HỮU HIỆU HƠN BÁT VỊ Bát vị thang: Thục, Thù bổ thận sinh tinh Hoài, Linh bổ tỳ vị Đơn bì tả tâm hỏa và bổ tâm thận, thanh can Trạch tả trục tả thủy ở thận, tam tiêu, bàng quang Quế, Phụ dẫn chất Thục, Thù vào thận sinh tinh và ôn ấm nguyên dương. Thật vậy, Bát vị chủ ôn thận mà là ôn bổ cả ngũ tạng rất hay không chối cãi và cũng không thể đổi thay. Nhưng nó chỉ thích hợp với người thời xưa, vì người thời xưa ăn uống thanh đạm, động tác bình thường, tấm trí an nhàn, phòng dục hữu hạn nên dùng bài Bát vị rất hay mà kiến hiệu cũng mau. Ngược lại người thế kỷ 20 này ẩm thực, động tác và dục hỏa đều quá mức, lại tối đa khi có bệnh lại muốn khỏi ngay không chịu kiên trì chờ đợi, nếu cứ theo nguyên tắc cho uống Bát vị, thật rất chậm khỏi và có thể bảo là không khỏi. Không khỏi thì bệnh nhân bỏ thầy chạy thuốc đã thấy ở nhiều phòng mạch. Tôi thấy rằng Lý trung để ôn tỳ, dương tâm phế, Lý âm bổ thận thủy lại ôn can sinh huyết. Hợp hai phương làm một ôn bổ cả ngũ tạng, âm dương quân bình, sinh lực rất mau thích hợp với người thời nay.Xét những người tỳ thận hư hàn uống Lý trung hợp Lý âm hợp thời hữu hiệu hơn Bát vị, nên tôi từ lâu đã rất ít dùng Bát vị. Chứng minh cụ thể, nếu bệnh ông cụ này nếu uống Bát vị 10 ngày đã khỏi chưa ? Bài thuốc đã bỏ mốc, còn sắc lại uổng: Việc này tuy nhỏ nhoi không đáng nói, tuy nhiên, đó cũng là điều lên tìm hiểu xem sao ? Xét ra thuốc mới sắc có một lần uống,

181


còn bã (xác) bỏ xó bếp đã 3 - 4 ngày đêm đã mốc xanh, mốc đỏ, thiu nhớt, mặc dù nó là loại thuốc tốt, đắt tiền cũng không ai quá vô ý thức còn hỏi đến nó mà sắc lại uổng. Thật vậy, thể mà ông cụ còn hỏi đến, bắt rửa đi, sắc lại uống. Vậy thì ông cụ tiếc của, tiếc tiền và cũng là liều mạng chăng ? - Không phải suy ra mới biết ông cụ là người thật lòng có sao nói vậy .Khi cụ ngưng thuốc Bắc để uống thuốc Tây, cụ nói với tôi: "Xin cụ đừng buồn, thang thuốc này tôi uống có một lần, cảm thấy có hơi êm êm dễ chịu, thế mà còn bỏ đẩy. Ngặt vì tôi bị đẩy vào thể kẹt phải uống thuốc Tây mấy bữa cho đẹp lòng người nhà, thực ra tôi không muốn". Sau khi uống thuốc Tây không thấy thuyên giảm mà bệnh còn tăng, sực nhớ lại chất thuốc Bắc đã uống cảm thấy có hạp với ý mình, nhưng đêm tối không có cách nào có được thuốc mới. Cực chẳng đã trải qua những lời nóng giận về thuốc mốc và cơn bệnh đòi hỏi cứ bắt đun lại nước thuốc cũ để uổng tạm cho qua. Kết quả không sao lại thấy dễ chịu. Suy xét kỹ: "chỉ bởi bệnh ấy đòi hỏi chất thuốc ấy" mà thôi .

182


34. PHẢN TẠNG PHẢN TẠNG Khí âm dương hàn nhiệt trong tạng phủ có người từ lâu vẫn hàn nay phản lại nhiệt, có người từ lâu vẫn nhiệt nay phản lại hàn, gọi là phản tạng “tạng hàn phản nhiệt, tạng nhiệt phản hàn TẠNG HÀN PHẢN NHIỆT: Một người từ nhỏ vẫn là “tạng hàn ” tất cả những chất ăn uống đều phải nóng ấm ; những khi đi lại đều phải chờ lúc nắng tạnh ; những nơi cư xử đều phải tìm phòng kín gió, nhất là mùa nắng cũng phải mặc áo hơi dày. Nghĩa là một chút đồ mát lạnh không dám động tới ; một luồng gió lạnh, một hạt sương sa không dám xông pha, bừa bãi. Tất cả đều phải giữ gìn cẩn thận cho trong người thường thường ôn ấm mới khỏe mạnh điều hòa. Nếu thèm muốn hay miễn cương hay vô ý hay có khi bắt buộc phải đánh liều ăn đồ mát, đương đầu với gió lạnh thì thế nào cũng sinh bệnh làm ớn lạnh hay đau bụng ỉa chảy... Vậy mà người ấy đến khoảng 40, 50 hay 60 tuổi gì đó, tự nhiên lại đổi thành “tạng nhiệt” sợ nóng ưa mát, những đồ mát lạnh tha hồ ăn uống, những gió mát mưa dầm tha hồ dầu dãi cũng chẳng bệnh tật gì . TẠNG NHIỆT PHẢN HÀN: Một người tử thủa nhỏ vẫn là “tạng nhiệt” tất cả những chất ăn uống đều thích dùng đồ mát lạnh ; những khi đi lại chẳng quản gió mưa ; những nơi cư xử đều phải tìm nhà thoáng mát ; nhất là mùa lạnh cũng trần mình trùng trục. Nghĩa là một chút đồ nóng khô cũng không dám rớ vào, một cơn gió nóng, một bếp than hồng không dám lại gần. Tất cả đều phải e dè tránh né cho người thường thường mát mẻ mời khỏe mạnh điều hòa. Nếu thèm muốn hay miễn cưỡng có khi sơ ý hay có khi bị ép buộc phải đánh liều ăn chút đồ nóng, đương đầu với nắng lửa thì thế nào cũng sinh bệnh làm nóng đầu, khô mình, khát nước, tức ngực, khó ngủ.v..v.. Vậy mà người ấy đến khoảng ngoài 40, 50 hay 60 tuổi gì đó tự nhiên đổi thành “tạng hàn ” sợ mát ưa nóng, những đồ cay nóng tha hồ ăn uống, những thứ nắng hạ than hồng tha hồ gần gũi cũng chẳng bệnh tật gì. Tôi đã thấy mấy người “phản tạng” đa sổ là nam giới. Khi tôi tiếp xúc có người nói: “Quái la! trước giờ bao nhiêu là đồ ngọt mát ăn uống chẳng sao cả mà bây giờ lỡ ăn một chút là đau bụng ỉa chảy, tắm gội gió mưa tha hồ dầm dãi mà chẳng sao cả thế mà bây giờ hễ ra mưa gió hay tắm nước lạnh sơ sơ một chút là cảm lạnh”. Lại cũng nghe có người nói ngược lại. Sau đó ít lâu nghe người nói trên đã qua đời. Xét ra, người nào lúc tuổi già, đột nhiên phản tạng rồi thuốc thang 5 - 1 0 thang lại khỏi, đó là âm dương hàn nhiệt nhất thời không điều hòa mà sinh bệnh - Vật bất binh tắc khuynh (sự vật không cân bằng thì nghiêng ngả) - khi đã kê lại cho bằng thì

183


thôi. Còn người nào phản tạng, thuốc thang kéo dài hàng năm không khỏi, những người đó hẳn không sống được bao năm nữa. Tại sao ? Bởi khí âm dương của con người phụ thuộc khí âm dương của trời đất. Nhưng khí âm dương của trời đất sinh sinh hóa hóa không bao giờ hết - sinh sinh bất dĩ, biến hóa vô cùng — cho nên hết ngày lại đêm, hết đêm lại ngày, hạ chí âm sinh, đông chí thì dương sinh, năm này qua năm khác, muôn ngàn năm mãi mãi không ngừng. Còn khí âm dương của con người chỉ “hữu hạn” mà thôi. Phản tạng đó cũng là nghĩa như “vật cực tắc phản”. Sự vật đến tận cùng thì nó phản lại. Âm khí (hàn) khi đã hết chỉ còn dương (nhiệt). Dương không sinh âm kế tiếp thì tạng hàn phản nhiệt. Dương khí (nhiệt) của con người khi đã hết chỉ còn âm (hàn). Âm không sinh dương kể tiếp thì tạng nhiệt phản hàn. Vậy phản tạng bởi khí âm hay khí dương của con người đến tuổi ấy đã hết. Dương không sinh âm, âm hết không sinh dương thì mãn phần. Tạng hàn đã phản nhiệt: Âm đã hết chỉ còn dương, dương không sinh âm tiếp nữa thì phải chết. Nhưng cũng có người tạng đã phản rồi thể mà vài ba năm sau tự nhiên dương lại sinh âm, người ấy lại được trỏ lại nguyên tạng, lại được sống thêm 5 -1 0 năm nữa. Tình trạng ấy tuy cũng có nhưng rất ít. Người tạng nhiệt phản hàn cũng vậy. Còn những người không phản tạng cư thuận một chiều cho đến khi già hết đời thì khỏi nói. Loại bệnh này sách nào có chép, tôi chưa được đọc, thuốc nào có trị tôi chưa được thấy, nên tôi suy xét tạm gọi loại bệnh này là “phản tạng. Mong các bậc minh triết lương y xét lại cho đúng, hòng gặp ngày y tế hội thảo có bàn tới thì đã có lý luận vững chắc góp lời và các tân y sanh cũng nên học cho rộng.

184


35. THUỐC NGỦ CHO NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY TÌM HIỂU: Muốn trị bệnh mất ngủ cho người nghiện thuốc phiện phải tìm hiểu vài nét về thuốc phiện và tình hình của người ấy trước. THUỐC PHIỆN: Nhựa ở trái con xanh của cây Anh túc kết đặc lại, độc. TÌNH HÌNH: Những người khi mới hút vào, cảm thấy say say bay bay, mê mẩn trong thân mình, lâng lâng như lên mây lướt gió lấy làm sung sướng. Vì lẽ đó, nên đã mắc nghiện, đến bữa chưa có thuốc hút thì con người như ngu như dại ; khi đã có thuốc rồi thì tinh thần phấn khởi nói thần nói thánh. Tóm lại, người nghiện tính tình nóng nảy, cấp táo mà tâm tư suy nghĩ những mui mô có lợi cho mình để có tiền mua thuốc hút. Hút lâu ngày, thiếu thuốc thì hao mòn khí lực, ít ăn, ít ngủ, chán nản cuộc đời. MẤT NGỦ: Tinh thần người nghiện bị ma túy kích thích làm cho mất ngủ, nhưng còn một điếm mà ít ai xét tới: đó là bởi tỳ khí suy hư. Tại sao ? - Bởi những người đó đến bữa ăn, chỉ nghĩ đi tìm rượu để uống cho say còn ăn thì gặp bánh, gặp cơm, ăn vài miếng cho qua là có, chứ không thích ngồi lại ăn no sợ mất men say của rượu lại mất nhiều thì giờ, cần ăn cho mau còn phải hút, bữa hút có ngà ngà say mới là thú thần tiên. Như vậy lâu ngày thiếu cốc khí dinh dưỡng. Tỳ khí suy hư làm người mệt mỏi, da thịt khô, mạch máu nóng, tức ngực, ho đàm, tâm thần bất định, đại tiểu thất thường, di tinh, bạch đái, mỏi gối đau xương. Đó cũng là lý đo mất ngủ của người nghiện ma túy. LÝ DO: Tìm hiếu chung về lý do mất ngủ của toàn thể mọi người đã điều trị bằng thuốc bắc để đổi sang thuốc nam. - Tâm khí bất túc, hoảng hốt hay quên, run sợ. - Tâm thần bất định, suy tư mui lự nhiều, lao tâm. - Đởm khí hư hàn, sợ sệt không tự chủ. - Đàm hỏa thịnh, xung tâm, táo phế. - Đàm nhập đởm kinh, tinh thần phảng phất du dương. - Tâm, đởm hư nhược, thần chí bất an.

185


- Tâm nhiệt, tỳ hàn đầy trướng không ăn. - Can hỏa vượng vì uất giận suy tư. - Tuổi già dương hỏa động, đầu mục bất thanh. - Tâm lạnh nhiều, thận hàn, dương suy.

Ăn cay, uống nóng nhiều, tràng vị nóng uất. - Tắm nắng nhiều, bì phu khô ráo, phế nhiệt. ĐIẾU TRỊ: - Tâm lao Dưỡng tâm thang - Tâm nhiệt Thanh tâm ẩm tử - Đởm hàn Ôn đởm thang - Tâm nhiệt, tỳ hàn Quy tỳ thang - Tỳ hư Tứ quân thang - Can uất Tiêu giao tán - Phế nhiệt Hoàng cầm thanh phế thang - Thận hỏa vượng Lục vị hoàn Thêm vào đó An thần định chí thang, Bổ huyết dưỡng khí thang, Phục thần trấn kinh thang.v.v... Nói về vị thuốc bắc tóm tắt không ngoài những: Viễn chỉ, Táo nhân, Phục thần, Trúc nhự, Thạch cao, Hoàng cầm, Hoàng liên, Mạch môn, và Quy, Thục, Sâm, Truật.v. V.... hiệu.

Suy luận như vậy để tìm ra những vị thuốc nam mà điều trị cho thích hợp hữu Sau khi đã tìm hiểu những điều nói trên tôi lập thành bài thuốc hoàn toàn nam dược 6 vị. Trong đó nói rõ cách bào chế, công thức, tính chất, công năng, cách uống, kiêng cử và tổng luận. BÀI THUỐC HOA ĐĂNG ĐẮC Ý HOÀN CÔNG THỬC

186


1. Mật mía: Nấu lại cho chín, cho vừa, đừng loãng quá, thuốc luyện sẽ nhão, đừng đặc quá, thuốc luyện sẽ cứng, khó luyện, khó ăn. 2. Ý dĩ nhăn: Bỏ vỏ cứng ở ngoài, giã sạch cám, luộc chín phơi khô (nhớ chọn ngày nắng mà luộc, luộc phải phơi cho kịp khô,nếu luộc vào ngày không có nắng mà phơi không kịp khô, sẽ làm cho thuốc bị chua, mất công hiệu), sao vàng đừng cháy quá. 3. Hắc đậu: Bỏ vào nồi, đổ đầy nước, luộc cho chín (nước luộc ấy để lại sau tẩm Đăng tâm) đổ ra, phơi khô, sao chín, xát sảy sạch sẽ, bỏ vỏ, chỉ lấy nhân. 4. Đăng tâm thảo: Lựa chọn dây cói và gốc bỏ đi, bứt nhỏ ra, tẩm nước luộc đậu đen, phơi cho khô dòn. 5. Biến đậu: Bỏ vào nồi, đổ nước luộc sôi gần chín, đổ ra, bóc sạch vỏ, lấy nhân phơi khô (cũng phải phơi khô trong một ngày, đừng để cách đêm sẽ bị thiu, mất công hiệu), sao chín, có mùi thơm là được, đừng sao cháy. 6. Binh lang: Chọn hạt cau già, cắt nhỏ, những hạt mọt bỏ đi, sảy sạch bụi cát. Tất cả 6 vị trên không kê mật còn 5 vị, đổ chung vào tán cho thật nhỏ, rây kỹ. Xong đổ mật vào luyện, mật đổ từ từ, khuấy cho thật đều, thật nhuyễn, thật dẻo (nếu thiếu mật phải thêm, dư mật bỏ lại). Luyện xong đem ra, nắm lại, cân 80 gram một nắm, mỗi nắm cắt làm 10 viên, mỗi viên 8 gram. sấy cho viên thuốc vừa nóng tay. Đừng phơi, ruồi bọ bụi cát bay vào. Lấy ra đế nguội, dọc giấy bóng kính bao lại từng viên, bỏ lọ, đậy kín, dùng dần. 1. Mật mía 2 kg 500 2. Ý dĩ nhân 640 gram 3. Biển đậu 640 gram 4. Hắc đậu 320 gram 5. Đăng tâm thảo 240 gram 6. Binh lang 100 gram

Nhìn lên thấy rõ mật mía đứng đầu, Ý dĩ, Biển đậu thứ hai, Hắc đậu Đăng tâm thứ ba, Binh lang sau chót. Công thức này nếu muốn nhiều hơn thì nhân lên, muốn ít hơn thì chia nhỏ ra bao nhiêu tùy ý. Nếu tính ra cân tầu 1 chỉ = 4 gram, 1 lạng = 40 gram, 1 cân = 640 gram.

187


TÍNH CHẤT: 1. Mật mía (Cam giá): Nước mía cô đặc lại thành mật, mùi vị thơm, ngon ngọt, không có độc, tính chất nhuận mát. 2. Hạt bo bo (Ỷ dĩ nhân): Mùi vị thơm ngon như gạo, tính chất bình hòa, không có độc. 3. Đậu ván trắng (Bạch biển đậu): Mùi vị ngọt bùi, khí nó hơi ôn, không có độc. 4. Đậu đen (Hắc đậu): Tính hơi mát, dùng chín thơm ngon, dùng sống hăng tanh, không có độc. 5. Cỏ bấc đèn (Đăng tâm thảo): Ngày xưa dùng tẩm dầu mỡ để đốt đèn cho nên gọi là cỏ bấc đèn. Vị nạt hơi ngòn ngọt mà man mát, khí chất khinh thanh, không có độc. 6. Hạt cau già (Binh lang): Mùi vị hơi chát lại hơi ngọt mà nhặng đắng, tính chất thông tiêu, không có độc. Trong số 6 vị này, nếu phân chia âm dược, dương dược thì âm dương quân bình, chỉ có đậu đen nặng về âm hơn một chút nhưng đã sao chín thì cũng huề. CÔNG NĂNG: Những vị thuốc này có ý nghĩa kinh mạch, biếu lý với nhau để dẫn hỏa hạ hành, tống độc ngoại xuất mà sinh khí huyết, ăn ngủ khỏe, chứ không phải chủ ý tìm những vị thuốc nam mà uống cho ngủ như lá vông, lá dâu, búp măng tre, củ ấu.... Những loại ấy tuy có ngủ được đôi chút nhưng lại có hại. Nếu cứ dùng những loại như thế mà ngủ được ngon lành thì dễ dàng quá, bệnh mất ngủ đâu có đặt thành vấn đề nan giải. Vả chăng cứ dùng những loại như vậy để trị cho ngủ được mà không hiểu ý nghĩa môn mạch thì còn gọi gì là danh vị thầy thuốc. 3. Mật mía: Nhuận phổi, tiêu đàm, hạ khí, hết khát, hết ho, bổ hóa tỳ vị, lợi đại tiểu trường, giải hòa nóng uất. Như vậy, khói thuốc hút thấm vào tế bào phổi hay làm tắc trệ hô hấp cũng được thanh giải thông hòa. Mật mía đứng đầu, vì thuốc hút vào thì phổi bị hấp thu trước, nên những phản ứng mắc bệnh, phổi chịu nhiều hơn. Vậy chủ trị phổi trước. 3. Hạt bo bo: Chủ trị thấp, vì thấp làm nhức xương, rút gân khó phần co duỗi. Lại trị ho,lành phổi, tiêu hết bệnh thủy thũng, thông lợi trường vị, hết ợ ngược, thấm hết nước dư xuống bàng quang đưa ra đường tiểu. Như vậy, khói thuốc hít vào bám dính trong phổi, trong trường vị sinh ra đau nhức xương, phát ho, phát thũng cũng thấm hết xuống đường tiểu mà ra hết. Nếu uống được nhiều sẽ bổ khí lực, không mệt mỏi mà còn làm cho tính tình hòa hoãn không cấp táo, không ghen tức. Bo bo hoãn tính phản lại cấp tính của thuốc phiện.

188


4. Đậu ván trắng: Bổ tỳ vị ngũ tạng, hòa trung, hạ khí, trị hoắc loạn thổ tả, giải khí nắng ; tán hành phong khí, giải tất cả các chất độc như rượu, trà, cây cỏ mà lỡ ăn phải, uống phải. Như vậy khói thuốc hút vào có độc sẽ giải trừ hết mà còn giúp cho ăn ngon, tỳ vị mạnh. Bo bo và đậu ván đứng thứ hai, vì nó bổ tỳ vị (nhãn sinh vị khí viẻ bản). Đã được bố thật sự mà lại còn nhờ chất bổ mà giải độc không phải dùng đến những vị thanh giải khác có tính chất tiêu giáng gây hại cho nguyên khí. 5. Đậu đen: Giải trừ nhiệt uất trong dạ dày, đánh tan tích kết trong ngũ tạng, thông tiêu khí nóng trong đại tiểu trường lại còn kiêm bổ thận âm nữa. 6. Cỏ bấc đèn: Thanh trừ những nóng uất buồn bực ở trong bụng làm cho khoan khoái nhẹ nhàng, thông lợi những bí kết ở tiểu trường, bàng quang cho thanh giải lưu loát và nhất là nó nhập tâm là cho yên định tâm thần không run sợ thảng thốt, điều hòa tâm huyết không bí đọng tuần hoàn. Tại sao trong mục tính chất nói: "Bấc đèn chỉ vào tiều trường không vào kinh khác" mà đây lại nói bấc đèn nhập tâm, yên định tâm thần, điều hòa tâm huyết ? - Bởi tâm và tiểu trường là biểu lý, Bấc đèn đã nhập tiểu trường hẳn là cũng nhập tâm, đã rứt cái chất độc ở tiểu trường ra đường tiểu tiện hẳn là cũng rút cả khí nóng khí độc ở tâm xuống tiểu trường mà thông lợi cả ra. Như vậy, chất độc ma túy còn kết ở tâm, ở tiểu trường làm ngăn trở tuần hoàn cũng thông tiêu hết cho mát lòng mát ruột làm sao không ngủ ngon, không thoải mái. Đậu đen, Bấc đèn thứ ba vì nhập tâm và tiểu trường để điều hòa bộ tuần hoàn và đánh tan cả độc khí ở ngũ tạng. 7.Hạt cau: Đánh tan khí trệ, thông khí ở đại trường, tả nghịch khí bốc lên làm cho tức ngực lại còn thông trường đẻ không bị táo, bón. Như vậy chất độc ma túy còn lại ở đại trường cũng thông tiêu hết. Bởi vậy, Hạt cau là vị sau chót trong phương thuốc. Nói chung, 6 vị thuốc này, khí vị thơm ngon, không cay, không đắng, tính chất hòa bình, không kích thích không úy kỵ nhau. Nay hợp lại với nhau có công trị liệu, làm cho ăn được ngủ được, mát mẻ khỏe mạnh. Đặc điểm của thuốc này là sau khi uống đã ăn ngủ được, đã khỏe mạnh rồi thì ăn ngủ khỏe mạnh điều hòa, "không quen thuốc, không bắt nghiện thuốc", tuy có thể nghỉ thuốc được không cần uống tiếp, nhưng nếu uống được nhiều sẽ được thân hình béo tốt, da dẻ hồng hào, yêu đời, vui vẻ tiến lên. Thuốc này, có chất tiêu mà không nóng ráo ; có chất bổ mà không làm cho no đầy trì trệ, có chất thanh mà không làm cho mát lạnh. Thật là một thứ thuốc dung hòa, không chỉ người nghiện mà người không nghiện mất ngủ cũng uống được, bất luận nam nữ lão ấu, hư thực hàn nhiệt đều uống được cả.

189


Thuốc ngủ này ngủ dậy khoan khoái không mệt mỏi, không phải là thuốc an thần mất ngủ. CÁCH UỐNG: Mỗi ngày 3 lần (sáng, trưa, tối vào lúc đói). Mất ngủ hạng nặng, mỗi lần 3 viên, trong hai ngày sẽ ngủ được, chậm lắm là 5 ngày. Mất ngủ dạng nhẹ là người già yếu mỗi lần 2 viên, uống với miếng nước nóng. Sau khi ngủ được nên uống tiếp mỗi lần 2 viên hay 1 viên (tùy ý cho khỏe thêm). Tại sao trong một ngày mà uống những 3 lần, mỗi lần 3 viên (mỗi viên 8 gram) tức 9 viên, thành 72 gram, uống như vậy có nhiều quá ? - Bởi những chất thuốc này là những chất khinh thanh, lại như chất cơm cả. Nếu uống ít thì bệnh nhiều thuốc ít, thuốc không đủ sức trị bệnh làm sao cho có công hiệu, bởi vậy phải uống 5 ngày liên tiếp mới nhận thấy có kết quả. Ngoài ra càng uống được nhiều ngày càng tốt, nhưng uống rút xuống mỗi lần 2 viên hay 1 viên cũng được KIÊNG CỮ: - Không uống rượu, sữa, nước trà, cà phê. - Không ăn hành tỏi tiêu ớt. - Không giãi nắng. - Không nóng giận. KẾT LUẬN: Những người nghiện hẳn là bị nhiễm độc làm ráo phổi, đốt cháy dạ dày, nóng gan, cạn máu trong tim rồi đến hại thận, liên quan đến đại tiểu trường, bàng quang cũng bị tiêu hao. Vậy dùng thuốc phải "thanh nhiệt giải độc" là chủ yếu không chối cãi. Nhưng những người đã nghiện ấy lại phần nhiều là tạng hàn không thể uống được thuốc thanh nhiệt giải độc bằng những vị hàn lương như Hoàng cầm, Hoàng bá, Hoàng liên, Sinh địa, Đại hoàng....mặc dù là họ có tiểu ra máu chăng nữa, họ cũng ưa dùng những chất nóng như Khương, Quế.y.y.dám nói hẳn là đa số không dùng hàn lương. Vậy chỉ dùng những "bình hòa mà ôn bổ” hay "giáng hỏa mà trợ tỳ" mới được, vì hàn lương thì đau bụng ỉa chảy mà tân nhiệt thì thêm nóng ráo mất ngủ. Bình hòa ôn bổ hay giáng hỏa trợ tỳ là những vị thuốc gì thích hợp với tạng phủ người nghiện mà lại toàn là thuốc nam thay thế thuốc bắc:

190


1. Mật mía: Nhuận phế, tươi can mà không hàn lãnh, thay thế Xuyên khung, Cát cánh, Bổi mẫu, Thiên môn. 2. Bo bo: Trừ thấp, lợi tiểu mà không bòn rút, thay thế Thương truật, Bạch linh. 3. Đậu ván: Trợ tỳ, giải độc mà không khô ráo, thay thế Bạch truật, Đảng sâm. 4. Đậu đen: Tán kết, trừ nhiệt mà không háo khí, hàn trung thay thế Đại hoàng, Tỳ giải. 5. Bấc đèn: An tâm, trừ phiền mà không dao động thay thế Phục thần, Viễn chí, Táo nhân. 6. Hạt cau: Giáng khí, khoan trung mà không tiêu háo thay thế Mộc hương. Mía và Hạt cau dẫn nhiệt độc ở phế và đại trường xuống giang môn mà đưa ra, Bấc đèn và Bo bo dẫn nhiệt độc ở tâm và tiểu trường xuống bàng quang mà tiểu ra, Lại được Bo bo, Đậu ván, Đậu đen bổ trợ tỳ vị làm cho ăn được để lấy cốc khí dưỡng phế, dương tâm và dưỡng thận để đền bù lại làm sao không ăn ngủ khỏe mạnh. Thật là tiêu không háo, tả không hàn mà bổ không trệ đúng với nghĩa "bình hòa ôn bổ mà giáng hỏa trợ tỳ" vậy . Nói về y lý, bài Hoa đăng đắc ý hoàn này ngẫu hợp với bài Quy tỳ thang. Trong bài Quy tỳ có 10 vị: Nhân sâm, Hoàng Kỳ, Đương quy, Bạch truật, Phục thần, Viên trí, Táo nhân, Long nhãn, Mộc hương và Cam thảo. Ý NGHĨA CHỦ TRỊ: Tâm hỏa vượng, tỳ thổ hàn làm xôn xao mất ngủ, nếu dùng hàn lương tả tâm hỏa thì tỳ bị hàn thêm, dùng ôn nhiệt bổ thổ thì tâm hỏa vượng thêm, nên chỉ dùng 10 vị nói trên để đem tâm hỏa về với tỳ thổ thì hỏa giáng mà thổ ôn sẽ làm cho ăn được ngủ được. Hoa đăng đắc ý hoàn này có 6 vị: Mật mía thay thế Nhân sâm, Hoàng kỳ, Đương quy, Cam thảo. Bo bo thay thế Phục thần. Đậu ván, đậu đen thay thế Bạch truật. Bấc đèn thay thế Táo nhân, Long nhãn, Viễn chí. Hạt cau thay thế Mộc hương. Như vậy, mà ăn được, ngủ được điều hòa thì bài thuốc này là bài Quy tỳ bằng thuốc nam.

191


Ý NGHĨA ĐẶT TÊN HOA ĐĂNG ĐẮC Ý HOÀN Hoa đăng là đèn hoa của người nghiện, ý nói những người nghiện sau khi cai rồi thì vui mừng đắc ý ăn ngủ ngon, khỏe mạnh xây dựng lại cuộc đời. Hoa đăng là vị Đăng tâm, Đắc ý là vị Ý dĩ nhân, lấy hai vị thuốc đặt tên bài thuốc cho dễ nhớ. SỰ VIỆC: Thành phố Hồ Chí Minh ngày 15 tháng 11 năm 1975. Tôi hân hạnh được bác sĩ Trương Thìn đại diện Sở Y tế thành phố thân hành đến nhà cho biết: - Hiện nay hàng trăm người nghiện ma túy được tập trung ở thí điểm Bình Triệu, để chúng tôi chữa cho cai. Sau khi đã dùng phép châm cứu đã cai được cả rồi không đòi hút thuốc nữa, nhưng còn mất ngủ, phần nhiều là mấy đêm liền không ngủ chút nào, uổng thuốc ngủ tuy có ngủ được, nhưng tối nào không uống lại không ngủ, thuốc đắt tiền, lấy thuốc đâu cho hàng trăm người uống thường xuyên. Vậy cụ có thể cho thuốc gì để cho họ ngủ được không ? Nhưng thuốc đó phải là thuốc nam, không dùng thuốc bắc, thuốc tây mới là mục đích chính. Sau khi nghe bác sĩ nói, tôi im lặng tự nghĩ: "Thuốc cho một người nghiện uống ngủ được đã khó, nay lại làm cho hàng trăm người uống thì thuốc ngủ nào có tính cách đại chúng như vậy được mà lại thuốc nam. Thật là một thử thách lớn lao!" - Kính thưa bác sĩ (tôi trả lời) đông y chúng tôi có những bài thuốc nam cho người ta uống đế ngủ được. Tôi sẽ làm thuốc viên để bác sĩ cho họ uống thử, nhưng xin hãy làm người uống, nếu công hiệu sẽ làm nhiều. Vậy đến ngày 19 này, xin bác sĩ cho người đến lấy thuốc. Đúng hẹn, chính bác sĩ thân hành đến lấy thuốc (số thuốc đó 450 viên, mỗi viên 8 gram, tinh sạch, dẻo mịn, thơm ngon, bao giấy bóng kính từng viên, đựng trong thùng nhỏ, đề nhãn hiệu, xinh đẹp, lịch sự. Sau đó, chiều 25 - 11- 1975 bác sĩ đến chơi và nói: Tôi xin báo tin mừng với cụ, thuốc ấy kết quả! - Thật là sung sướng, cảm ơn bác sĩ (tôi đáp). Bác sĩ lại cho biết thêm: Ngày mai 26 -11-1975 lúc 13 giờ mời cụ đi cùng với tôi và bác sĩ Thuận lên trạm cai ma túy Bình Triệu chơi xem cảnh và thực trạng các em nghiện ma túy sau khi cai hòng có gia giảm gì trong thuốc đó ? Khi tới nơi, tôi được bác sĩ giới thiệu với ông hiệu trưởng cũng mấy vĩ bác sĩ trung tâm tôi là tác giả thuốc Hoa đăng đắc ý hoàn. Sau đó tôi được bác sĩ Sơn hướng dấn đi thăm các buồng bệnh. Bác sĩ Sơn bảo các em: - Những hôm nay những em nào ở đây đã uống những viên thuốc đen đen cho biết, sau khi uống vào thấy trong người thế nào ? Các em đồng thanh nói lớn: (2 lần) "Thuốc ấy uống vào ăn được, ngủ được lắm xin cho thêm nữa đi". Tôi cảm thấy đúng như lập luận và ý nghĩ. Tôi thấy phấn khỏi, chuyện trò cùng các em, nói sơ về viên thuốc ấy và xem mạch cho mấy em ngõ hầu đả thông giữa bệnh

192


nhân với thầy thuốc và ghi nhận những bệnh trạng của các em trong trí nhớ. Tiếp đó, tôi lại được đi thăm các phòng khác, trò chuyện các em này cũng chung một sắc thái trên. Tôi nhẩm chung cả các phòng số người nghiện (nam có, nữ có) chứng 100 người, tuổi chừng 18 đến 40, xanh xao gầy yếu nhiều hơn khỏe mạnh. Trở về phòng khám bệnh, bác sĩ Trương Thìn cho tôi xem phép châm cứu. Lúc đó có một em mới vào, kêu nhức lưng mỏi cẳng, bác sĩ dùng phép "nhĩ châm'' trong mấy giây châm xong, em đó hết nhức lưng mỏi cẳng liền. Liền sau đó mấy hôm, nhân dịp đoàn nghiên cứu tình hình công tác đông y và kết hợp đông tây ở miền nam do bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng (nguyên Bộ trưởng bộ Y tế) làm trưởng đoàn đến thăm thí điểm cai ma túy bằng phép châm cứu ở Bình Triệu, do bác sĩ Trương Thìn hướng dẫn. Tôi được bác sĩ Trương Thìn mời lên thuyết trình ý nghĩa bài thuốc Hoa đăng đắc ý trước vị trưởng đoàn và mấy chục bác sĩ khác. Sau khi thuyết trình, tôi hân hạnh được vị trưởng đoàn khen thưởng đôi lời: " Giỏi về ý lý lại giỏi về nam dược. Sở Y tế thành phố thưởng công cho cụ. Nếu Sở không thưởng Bộ sẽ thưởng" (nguyên văn). Đồng thời, tôi cũng được các vị bác sĩ tới bắt tay chào hỏi vui mừng làm tôi phấn khởi. Sau đó mấy tháng, tôi được bác sĩ Trương Thìn đến nhà chơi và đưa cho một bản báo cáo tổng kết về công tác tình hình đông y và kết hợp đông tây y ở miền nam của đoàn nghiên cứu lên Bộ Y tế (từ 20 - 8 -1975 đến 31 - 01 - 1976). Bác sĩ nói: Trong bản báo cáo này có 3 đoạn văn ở 3 trang khác nhau nói đến công việc y dược của cụ mà nói rõ tên tuổi cụ Đinh Ninh Lê Đức Thiếp. Xin mời cụ xem. Đọc xong tôi cảm thấy công việc y dược và tên tuổi của tôi được đăng chung cùng nhiều vị lương y khác trong bản báo cáo tổng kết này đế ngành y tế cả nước biết đến. Thật là vinh dự lớn cho tôi mà cũng là phần thưởng công vậy.

193


TỔNG KẾT

Tập này viết đến đây tổng kết 35 đề mục. Mỗi căn bệnh đều nói rõ từng người, từng gốc bệnh, có lý luận điều trị, có ỷ nghĩa bài thuốc lại dẫn chứng sự việc tất cả rõ ràng xác thật Nhìn cả tập thể thấy rằng hãy còn nhỏ nhoi ít ỏi. Nhưng phân bịnh kỹ ra cũng đã có phần nào lao động trong trí óc, nên đến tạm kết thành tập sách này. Tuy nhiên, chưa phải đến đây là đã là rứt điểm. Hiện nay, kẻ này đang phục vụ chẩn trị bệnh tại viện Y Dược học dân tộc và bệnh viện Y học dân tộc thành phổ Hồ Chí Minh. Trong thời gian điều trị, kẻ này gặp người nào có bệnh gì thành tên rõ ràng (không kể bệnh thường) mà điều trị có phần khó khăn dù điều trị khỏi hay không điều trị khỏi đều viết rõ "bệnh lý, y lý và dược” về căn bệnh ấy vào bệnh án của họ, lưu trữ tại vào viện nghiên cứu. Thời gian qua, những bệnh án đã viết cũng đã khá nhiều và hiện nay còn đang phục vụ chẩn trị, còn gặp những bệnh cần phải viết còn viết dài dài, tuy già cũng vẫn hăng say không ngừng. Vì mỗi khi viết được lý luận trong một bệnh án cảm thấy khải phát tâm tư cho y nghiệp của mình một cách thích thủ. Vậy vị độc giả nào muốn theo dõi ỷ thức y trị của kẻ này để tìm hiểu suy xét, xin đọc tiếp trong các bệnh án ở hai nơi trên, hòng thâu thập một vài điểu nhỏ nào để đem ra cứu giúp người trong khi bệnh hoạn. Rồi đây những tâm đắc còn quên sót, những bệnh án mới phát hiện, kẻ này ôn lại và thâu gom được nhiều sẽ viết tập thứ hai cống hiến các độc giả nghiên cứu thêm. Khi các độc giả luận đàm nghiên cứu kẻ này rất mong các độc giả công bằng nhận định ban ra những lời phê phán xác thật nhiều hơn nhưng lời tưởng thưởng riêng tư. Đó là góp công xây dựng chung cho ngành y dược chúng ta vậy. Thật ra kẻ viết này, sau khi viết xong tập tiểu sử này cảm thấy vui lòng nhẹ thở riêng cho mình vậy.

194


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.