Thời Niên Thiếu Không Thể Quay Lại Ấy Đồng Hoa Chia sẻ ebook: https://downloadsach.com Follow us on Facebook: https://facebook/caphebuoitoi
Bao nhiêu năm qua, tôi chỉ luôn tâm niệm một điều, đó là không bao giờ ngoảnh đầu lại. Chỉ hối hận vì những gì chưa làm được, không bao giờ hối hận vì những gì mình đã làm. Mỗi bước đi trong cuộc đời, đều phải trả giá, tôi đã có được một số thứ mà mình cần, và cũng mất đi một vài thứ mà mình không muốn mất. Nhưng tất cả chúng sinh trên thế giới này, có ai là không sống như thế chứ?
Lời nói đầu Toàn thân mưa gió em từ biển đi lên(1). Ngày 12 tháng 5 năm 2008, Vấn Xuyên đã xảy ra một trận động đất mạnh 8.0 độ richter, Thiểm Tây, Cam Túc xảy ra dư chấn mạnh từ 6.5 đến 7.0 độ richter. Ngày hôm đó, La Kỳ Kỳ đang ở San Francisco, vẫn lái xe đi làm như bình thường, còn đến văn phòng sớm ba mươi phút, vừa uống sữa vừa vào mạng gửi email. Đột nhiên, cô nhìn thấy tin tức về trận động đất ở Vấn Xuyên, kinh hãi click chuột vào để đọc, nhằm xác nhận tính chính xác của thông tin đó. Sau vài phút đầu óc gần như tê liệt, cô bỗng nhớ ra Tứ Xuyên tiếp giáp Thiểm Tây; Thiểm Tây xảy ra động đất mạnh như thế, Tứ Xuyên chắc chắn cũng sẽ bị ảnh hưởng. Dù lúc này ở Trung Quốc đang là rạng sáng, cô vẫn vội vàng gọi điện thoại về nhà, không có ai nhấc máy; gọi vào di động của bố, không ai trả lời; gọi vào di động của mẹ, không ai nghe; gọi vào di động của em gái, vẫn không có ai nghe. Kỳ Kỳ gọi đi gọi lại vào di động của bố mẹ. Trong tiếng chuông réo liên hồi, bàn tay cầm điện thoại của cô đã bắt đầu run rẩy. Bố mẹ Tiểu Linh, cô bạn đồng nghiệp người Trung Quốc, đang ở Thành Đô. Khi liên tục gọi điện về nhà mà không được, cô ấy đã nằm bò ra bàn, khóc nấc lên đau khổ. Suốt buổi sáng, Kỳ Kỳ không làm bất cứ việc gì, chỉ gọi điện thoại và liên tục cập nhật tin tức. Nhưng trận động đất vừa xảy ra; mức độ nặng nhẹ thế nào, dư chấn bao nhiêu độ richter, báo chí còn chưa dám khẳng định, tin tức đăng tải trên mạng ít ỏi tới mức đáng thương. Vì muốn tìm hiểu mức độ thiệt hại mà tỉnh Thiểm Tây phải chịu trong trận động đất này, cô đã tìm bản đồ Trung Quốc, dùng thước ước lượng khoảng cách giữa Vấn Xuyên và Tây An, căn cứ vào tỷ lệ trên thước để tính toán khoảng cách thực tế, rồi gọi điện thoại cho một người bạn thời đại học đang nghiên cứu về sự vận động của vỏ Trái Đất ở viện nghiên cứu MIT(2), hỏi cậu ta về quy luật giảm dần của sự lan truyền địa chấn. Cho đến khi hết giờ làm, cô đã trở thành chuyên gia không tồi trong lĩnh vực địa chấn. Buổi tối, cuối cùng điện thoại cũng thông. Bố nói: “Người không sao. Nhà cũng không sao, chỉ có trần nhà bị rơi mấy tảng, ti vi bị móp méo tới không nhận ra hình dạng gì nữa, con không phải lo, Viện Viện luôn ở bên bố mẹ.” Kỳ Kỳ hỏi thăm tất cả họ hàng, người thân trong gia đình. Sau khi biết mọi người đã an toàn, cô mới quay sang dặn dò em gái.
Khi định cúp máy, cô em gái nói: “Chị, mười phút nữa chị gọi vào di động cho em, em có chuyện muốn nói với chị.” Mười phút sau, La Kỳ Kỳ gọi vào di động của em gái: “Có chuyện gì thế?” “Chị, chị có tính được đã bao nhiêu năm rồi chị chưa về nước không? Chị đi Mỹ chứ có phải lên Mặt Trăng đâu! Ngày hôm qua, sau trận động đất, mọi người không dám ngủ trong nhà, nằm co ro cả đêm ở đầu phố, bố mẹ cứ nhắc đến chị suốt. Có là tổng thống Mỹ thì cũng phải về thăm bố mẹ chứ? Chị ngày nào cũng bận rộn trăm công ngàn việc, đến thời gian về thăm bố mẹ cũng không có sao? Em biết, chị gửi về nhà không ít tiền, nhà bố mẹ đang ở, xe em đang đi, đều là tiền của chị, nếu không có chị, bố mẹ và em giờ chắc đang sống chen chúc trong căn hộ tập thể chật hẹp xây từ thập niên bảy mươi rồi, nhưng chị có biết bố bị xơ gan không? Chị đã bao giờ đưa mẹ đến bệnh viện khám chưa? Nếu bố mẹ và em bị vùi trong đống đổ nát ở đây, chị có nghĩ đến việc mình sẽ không còn được gặp lại mọi người trong gia đình nữa…” La Viện Viện bật khóc, một phần vì hoảng sợ khi phải trải qua khoảnh khắc chấp chới giữa sự sống và cái chết, một phần vì xúc động trước cảnh tượng quá tàn khốc sau động đất. La Kỳ Kỳ im lặng. Rất lâu sau đó, cô nói: “Chị sẽ nhanh chóng bố trí thời gian, về thăm nhà một chuyến.” La Viện Viện vừa khóc, vừa cười: “Thế còn tạm được, nhất định bố mẹ sẽ rất vui.” Mặc dù nói là sẽ nghỉ phép, nhưng công việc, không phải nói đi là có thể đi ngay, cho đến khi La Kỳ Kỳ sắp xếp ổn thỏa thì đã sang tháng Chín. Những người Hoa kiều về nước đứng xung quanh cô đều tay xách nách mang, túi to túi nhỏ, chỉ có mình cô là mang theo một chiếc vali kéo cỡ trung bình. Máy bay cất cánh từ San Francisco, hơn mười tiếng sau hạ cánh xuống Bắc Kinh. La Kỳ Kỳ chợt nghĩ, hơn mười tiếng đồng hồ, chỉ bằng một phần tư thời gian năm xưa cô ngồi tàu đến Bắc Kinh, thì ra khoảng cách trên Thái Bình Dương không đến nỗi xa như thế. Đến sân bay Tây An, cô nhận hành lý, vừa ra tới cửa thì nghe thấy ai gọi lớn: “Chị, chị!” Một cô gái trang điểm xinh đẹp, ăn mặc thời trang đang nhìn cô, vẫy vẫy tay. Bốn năm không gặp, dường như có chút lạ lẫm, nhưng khi em gái chạy tới ôm chầm lấy cô, khoảnh khắc đó, cảm giác thân thuộc lại ùa về. Viện Viện vẫn thế, rất thích nói chuyện. Cô vừa lái xe vừa liến thoắng, hết hỏi thăm chuyện ở nước Mỹ, lại thao thao bất tuyệt về cuộc sống trong nước, rồi hào hứng kể: “Ồ đúng rồi, có hôm em và đồng nghiệp lên Cục Thuế làm việc, đám nhân viên ở đấy tuy không được xinh đẹp như đào như lý(3) nhưng mặt lại lạnh hơn băng. Rồi đột nhiên xuất hiện một người, em không biết anh ta nhưng anh ta biết em, còn hỏi ”Chị em có phải là La Kỳ Kỳ không?”, em nói ”Đúng ạ”, thế là anh ta nói nhỏ với đồng nghiệp nhanh chóng giải quyết công việc cho bọn em, em muốn cảm ơn, nhưng anh ta thoái thác ”chuyện cỏn con đó có đáng gì, anh với chị em là bạn học cũ”. Trước kia em hay kể với đồng nghiệp
rằng chị từ nhỏ đã giỏi giang hơn người, bọn họ không chịu tin, bảo em nói khoác, sau lần đó thì không muốn tin cũng khó.” La Kỳ Kỳ tỏ vẻ mệt mỏi, nhắm mắt vờ ngủ. Từ nhỏ cô đã giỏi giang hơn người? Rút cục thì trí nhớ của cô quá tốt, hay do người khác quên quá nhanh? Xe dừng lại dưới lầu, Kỳ Kỳ không có cảm giác thân thuộc như được trở về nhà, thậm chí còn gần như không biết nhà mình ở tầng bao nhiêu, giống như một vị khách, đi theo sự chỉ dẫn của Viện Viện. Bữa cơm mẹ chuẩn bị rất thịnh soạn, dường như muốn bù đắp tất cả những gì mà bốn năm nay cô chưa được ăn. La Kỳ Kỳ chỉ chịu trách nhiệm ăn, không chịu trách nhiệm nói, nhưng bữa ăn nào có mặt La Viện Viện, thì đó chắc chắn không thể là một bữa ăn tẻ nhạt. Em cô vừa nói vừa cười, vừa khua chân vừa múa tay, lúc thì kể về diện mạo rất Tây của sếp mình, lúc lại tán chuyện về đồng nghiệp, khiến mọi người đều bật cười vui vẻ. Mẹ vừa ăn cơm, vừa hỏi dò: “Kỳ Kỳ, nếu gặp được người thích hợp, con cũng nên để tâm một chút, con gái dù sự nghiệp có thành công đến đâu, cũng phải lấy chồng. Con phải làm gương cho em gái, nếu không lúc nào nó cũng ngang nhiên cãi chị con chẳng phải chưa có bạn trai đấy thôi.” Viện Viện nhìn Kỳ Kỳ cau mày, nói rất nhỏ nhưng đủ để mọi người cùng nghe thấy: “Vẫn là chị thông minh, ở nước ngoài, không phải nghe những lời cằn nhằn của mẹ, sau này mẹ mà nói nhiều quá em sẽ sang đấy với chị.” Cả bố và mẹ đều cười: “Với khả năng của con, học đại học mà thi tiếng Anh cấp bốn tới ba lần mới vớt vát qua, mà cũng đòi ra nước ngoài nữa ư?” “Rõ ràng là người Trung Quốc, sao lại phải thi tiếng Anh chứ? Thi trượt còn không cho tốt nghiệp, đúng là thần kinh! Sao không thấy sinh viên Anh thi tiếng Hoa bao giờ?” “Vậy không nói về tiếng Anh nữa, điểm tốt nghiệp chuyên ngành của con…” “Bố mẹ còn nói nữa là con không ăn cơm nữa đâu!” Viện Viện ngang bướng trừng mắt một cái, bố mẹ lập tức buông vũ khí đầu hàng như mọi lần: “Thực ra đúng là không cần thiết phải thi tiếng Anh, bình thường cũng ít khi dùng đến, người nào cần dùng thì thi là được rồi.” La Kỳ Kỳ mỉm cười lắng nghe, tận hưởng cảm giác hạnh phúc đến từ những điều bình dị đó. Ăn cơm xong, Viện Viện đưa Kỳ Kỳ đi tham quan phòng ngủ. Căn hộ này được mua sau khi La Kỳ Kỳ ra nước ngoài, cô bỏ ra bốn mươi lăm vạn tệ, bố mẹ lo tiền trang trí, mua sắm vật dụng. Căn phòng này dành riêng cho Kỳ Kỳ, từ trước đến nay vẫn không có người ở, bàn, giường, tủ sách đều còn mới, không có bất kỳ dấu vết nào của thời gian, chỉ những cuốn sách trên giá là còn có cảm giác thân quen.
Kỳ Kỳ cầm cuốn Hồng lâu mộng, ngồi xuống mép giường, tiện tay giở ra xem. Bản in năm 1979, giấy đã ngả vàng, thật khó tin, cuốn sách này đã sắp tròn ba mươi tuổi. Viện Viện nói như muốn kể công: “Thế nào? Bảo bối của chị em đều lưu giữ rất tốt phải không?” Cô kéo ngăn tủ phía dưới tủ sách ra nói: “Chiếc hộp được niêm phong do đích thân chị ký vẫn ở đây, em chưa bao giờ mở ra xem cả.” Kỳ Kỳ nhìn chăm chăm vào chiếc hộp, Viện Viện cười nói: “Chị cứ nghỉ ngơi đi, lúc nào thấy thoải mái em sẽ đưa chị đi ăn khắp đường to ngõ nhỏ.” Kỳ Kỳ lấy chiếc hộp ra, nhưng không mở, chỉ dùng ngón tay xoa xoa lên chữ ký của mình trên đó. Cô đã ký những chữ này vào năm tốt nghiệp cấp ba, khi ấy cô mới mười bảy tuổi. Nhiều năm đã trôi qua, thật ra, chính cô cũng không nhớ rõ những thứ để ở trong. Lặng ngồi một lúc rồi cô nhét chiếc hộp vào lại tủ sách bên cạnh giường. Tắm rửa xong, La Kỳ Kỳ gửi email cho Thẩm Viễn Triết, Dương Quân và Lâm Y Nhiên. Họ là những người bạn duy nhất của cô từ thời trung học, sau khi ra nước ngoài, mất liên lạc với họ, cô cũng không chắc chắn những địa chỉ email này còn dùng được không. Cô rất mệt, nhưng có thể do chênh lệch về múi giờ, hoặc do bên cạnh gối là chiếc hòm chứa đựng quá khứ, cô trằn trọc. Sáng sớm hôm sau, La Kỳ Kỳ đang đánh răng thì chuông điện thoại reo. “Kỳ Kỳ, điện thoại của con.” Cô vội vàng súc miệng, rồi chạy vào, cầm điện thoại lên: “A lô?” “La Kỳ Kỳ, giọng cậu giờ nghe chững chạc quá.” Cách nói chuyện này, không thể là của người cẩn trọng như Thẩm Viễn Triết: “Dương Quân, cậu đang ở…”, cô cúi nhìn số máy hiển thị, “Cậu đang làm việc ở Bắc Kinh à?” “Đúng thế. Còn cậu? Lần này cậu về chơi hay là về hẳn?” “Về chơi, nhưng thời gian khá dài, một tháng.” “Bao giờ quay lại bên ấy, có transit ở Bắc Kinh không? Mỗi khi mình và Lâm Y Nhiên gặp nhau, đều nhắc đến kẻ bạc tình bạc nghĩa như cậu, nhớ lại quan hệ thế kiềng ba chân năm đó của bọn mình khiến bao người phải ngưỡng mộ!” “Tốt rồi, khi nào đi mình đến Bắc Kinh, cậu mời bọn mình ăn cơm chứ?” “Được, chỉ cần cậu đến, cậu thích ăn gì mình cũng mời.” “Xem ra giờ cậu đã là người có tiền rồi nhỉ?” “Chết đi, có tiền đến mấy cũng làm sao dám bì với kẻ tiêu đô Mỹ như cậu.”
“Vớ vẩn, đô Mỹ giờ đang mất giá, cậu không biết à? Cậu có bạn gái chưa? Lằng nhằng mãi với Đồng Vân Châu có kết quả gì không?” Dương Quân chỉ cười không đáp, một lúc sau mới nói: “Hiện tại thì vẫn chưa có bạn gái.” “Cậu ạ, mình chỉ muốn khuyên cậu một câu thôi, đừng có chỉ chăm chăm nhắm vào một thân cây mà treo cổ như thế, thật phí cho cái công học IT của cậu, không biết tài liệu luôn cần phải có bản lưu dự phòng sao?” Dương Quân trong lúc bị bắt bí vẫn ung dung hỏi: “Thế còn cậu? Có bạn trai chưa?” La Kỳ Kỳ giận dỗi đáp: “Hiện tại vẫn chưa có.” Dương Quân cười phá lên: “Lâm Y Nhiên đã kết hôn rồi, con cậu ấy cũng sắp được một tuổi, là một bé gái, rất giống Y Nhiên, hoàn toàn có thể gọi là một tiểu Y Nhiên.” “Tốt quá rồi còn gì, mình phê chuẩn cho cậu ấy được mang theo gia quyến tham dự vào bữa tiệc thế kiềng ba chân của chúng ta.” “Được đấy! Dù sao cũng đâu phải cậu trả tiền. Đúng rồi, lần này cậu về nước làm gì thế? Có định quay về cố hương không?” “Chủ yếu là ở nhà với bố mẹ, những việc khác mình chưa nghĩ tới.” “Haizz! Cậu vừa về, trong lòng còn đang tràn ngập tình cảm chủ nghĩa cách mạng, đợi đến khi ở cùng với bố mẹ dưới một mái nhà khoảng hai tuần, cậu sẽ biết thế nào là mùi của giai cấp thù địch, mình đã từng rất muốn tạo dựng mối quan hệ tốt đẹp với bố mẹ, kết luận là: Xa thơm gần thối.” La Kỳ Kỳ chỉ cười, không nói. Dương Quân nói tiếp: “Mình cúp máy trước đây, tất cả mọi phương thức liên lạc của mình đều đã gửi vào email cho cậu rồi đấy. Có việc gì, cứ tìm mình. Bọn mình đã lớn lên cùng nhau, nếu cậu khách sáo với mình, mình sẽ giận đấy.” “Mình hiểu.” “Đưa điện thoại cho mẹ cậu, mình muốn chào cô một tiếng.” La Kỳ Kỳ liền đưa điện thoại cho mẹ, nghe thấy tiếng cười vui vẻ của mẹ, rồi bà liên tiếp hỏi: “Ồ, vẫn chưa có bạn gái à?” La Kỳ Kỳ lắc đầu cười, tiếp tục đi đánh răng rửa mặt. Sau khi ở nhà hai tuần liền, La Kỳ Kỳ bắt đầu hiểu mớ lý luận phức tạp mà Dương Quân nói. Cô và bố mẹ tuy chưa đến mức “thù địch”, nhưng rõ ràng là cô không còn được coi trọng như lúc mới về nữa.
Mẹ lại bắt đầu ra công viên khiêu vũ, bố thường xuyên ra ngoài tìm bạn đánh cờ. Mọi người không còn ở nhà túm lấy cô để hỏi đông hỏi tây nữa. La Viện Viện còn chút trượng nghĩa, luôn cố gắng dành thời gian để ở bên cô, nhưng xem ra sự nhẫn nại đó cũng đã đi đến giới hạn cuối cùng: “Chị, bao giờ chị quay về Mỹ?” La Kỳ Kỳ cười: “Tuần sau chị sẽ rời Tây An.” “Đến Bắc Kinh?” “Không, chị về thăm nơi mà chúng ta đã sống hồi nhỏ, rồi lên Bắc Kinh gặp bạn học cũ, sau đó quay lại San Francisco.” Một tuần sau, La Kỳ Kỳ đã hoàn thành nhiệm vụ về thăm nhà, bố mẹ và cô em gái vui vẻ tiễn cô rời Tây An. Sau hai tiếng ngồi trên máy bay, La Kỳ Kỳ đã đến được nơi cần đến. Vừa ra khỏi sân bay, hơi nóng lập tức phả vào mặt, nhiệt độ ở đây cao hơn Tây An ít nhất là 20C. Gió rất lớn, tóc bị thổi bay rối tung, La Kỳ Kỳ vừa đi vừa không ngừng nhìn trái nhìn phải, giống hệt những du khách khác. Trông cô không giống người đã từng sống ở thành phố này mười năm. Ngồi trên taxi, La Kỳ Kỳ nhìn ra ngoài cửa sổ, vẻ ngỡ ngàng. Quang cảnh hai bên đường đã thay đổi quá nhiều. Cô không còn tìm thấy cảm giác thân thiết vốn có nữa. Tài xế hỏi cô: “Cô đi du lịch phải không? Muốn đến những danh lam thắng cảnh nào?” “Không phải.” Ngập ngừng một lát, cô nói tiếp: “Ngày nhỏ tôi từng sống ở đây.” Tài xế vốn định giới thiệu dịch vụ thuê xe du lịch trọn gói, không ngờ nhìn lầm người, gặp đúng người bản địa, liền cười nói: “Nhìn cô giống như đã rất lâu rồi không quay về đây nhỉ?” “Mười năm rồi.” “Úi chà! Đúng là lâu thật.” “Vâng!” Đúng là rất lâu rồi. Đến khách sạn, trời đã tối. La Kỳ Kỳ tắm xong, trằn trọc mãi, không sao ngủ được. Quay trở lại thành phố này, suốt đường đi, cô vừa thấy hơi hoang mang, lại vừa phấn khởi. Nếu đã không ngủ được thì dậy luôn vậy. Cô bước ra ngoài ban công, ngắm nhìn khối ánh sáng mờ ảo của thành phố, nhưng không thể xác định được đâu là ánh đèn phát ra từ căn nhà xưa của cô.
Đã nhiều năm trôi qua, vậy mà nơi này vẫn làm trái tim cô xao động đến thế. Nhà tâm lý học Freud cho rằng: Hành vi của mỗi người đều chịu ảnh hưởng từ những gì đã trải qua trong thời thơ ấu, vì vậy, tất cả mọi nhân quả, đều nên truy ngược lại nơi mình đã được sinh ra…
Chương 1 Ánh mắt của mỗi người thiếu niên, đen trắng rõ ràng, giống như một bức màn. Dũng cảm, xúc động, yếu đuối, tò mò, khát vọng, lúng túng, thương tâm, thất vọng, suy nghĩ, tìm tòi… Tất cả những màu sắc rực rỡ nhất của tuổi thanh xuân đều được biểu diễn trên bức màn trắng đen rất rõ ràng đó. Khi nó trải rộng mọi màu sắc, thì chúng ta ngờ nghệch không biết, cho dù nó ở ngay trước mắt ta. Chính bởi vì nó quá gần, gần ngay trước mắt chúng ta, thế nên, chúng ta không thể nhìn thấy được. Chỉ cho đến khi nó đã dần dần rời bỏ chúng ta, chúng ta mới có thể từ từ nhìn rõ. Nhìn rõ nhân quả được mất đằng sau mỗi câu chuyện có thể là rực rỡ sắc màu, cũng có thể không rực rỡ sắc màu, nhưng tất cả đã là một bộ phim nhựa bị kẹt hình, cho dù chúng ta mỉm cười, hay rơi nước mắt, đều chỉ có thể mãi mãi đứng lại ở đầu bên này của thời gian, lặng lẽ quan sát sự tan và hợp, được và mất trên màn hình ở đầu thời gian bên kia. Đấy chính là tuổi thanh xuân, chỉ đến khi nó đã rời bỏ ta, ta mới có thể nhìn thấy rõ nó.
1. Bắt đầu nhớ lại Tôi sinh ra trong một gia đình rất bình thường, không giàu cũng không nghèo, trình độ văn hóa của bố mẹ không cao cũng không thấp. Trong ký ức trước lúc năm tuổi của tôi, những hình ảnh về họ rất ít, bởi vì sau khi cô em gái nhỏ hơn tôi một tuổi năm tháng chào đời, bố mẹ đã gửi tôi về sống với ông ngoại. Ở bên ông ngoại, tôi rất hạnh phúc, vui vẻ. Tất cả tình yêu thương ông đều dành cho tôi. Tôi đúng là một đứa trẻ được sống trong “hũ mật ong” điển hình. Ông ngoại là kỹ sư xây dựng giỏi nhất ở địa phương, vẽ hình tròn không cần dùng compa. Ông viết chữ thể khải kiểu bé rất đẹp. Về già, ông thường thích đọc tiểu thuyết của Kim Dung, tới nay trong nhà vẫn còn bộ Ỷ Thiên Đồ Long ký do ông chép tay lưu lại, đóng thành sách, như những quyển sách cổ đẹp và tinh tế. Ông ngoại xuất thân giàu có, gia đình sở hữu một vựa cam lớn. Vì xuất thân đó của ông, ở thời đại ấy, ông đã phải trải qua không ít những thăng trầm, nhưng dù đau khổ, khó khăn thế nào, ông cũng bình thản đối mặt, chỉ duy nhất một việc khiến ông không thể bình thản đối mặt, chính là cuộc ly hôn của bà ngoại và ông. Sau khi ly hôn, bà ngoại đưa mẹ tôi rời xa quê nhà, lấy một người khác, người đàn ông đó đối xử rất cay nghiệt với mẹ tôi. Thời thơ ấu và niên thiếu của mẹ có thể coi là rất bất hạnh. Khi mẹ gặp lại ông ngoại, đã là câu chuyện của hai mươi năm sau. Lúc mới gặp, mẹ không sao thốt lên tiếng “bố”. Ông ngoại từ lâu đã không còn sân si với đời, trước cảnh tượng ấy cũng không cầm nổi nước mắt.
Người đề nghị ly hôn là bà ngoại, ông ngoại không có lỗi gì, nhưng ông vẫn luôn cảm thấy có tội với mẹ tôi, hơn nữa tôi lại là đứa cháu duy nhất ở bên ông, sự yêu chiều của ông dành cho tôi nhiều đến mức khiến người và thần đều phải phẫn nộ. Theo những gì mà dì hai của tôi nhớ thì hồi nhỏ, tôi là một đứa vừa tự phụ, huênh hoang lại vừa ích kỷ. Có lần, dì mua cho tôi một đôi giày da nhỏ. Buổi sáng, dì đi giày cho tôi, tôi không chịu đi, chê giày không bóng, dù dì khuyên giải thế nào cũng không được. Dì đành bỏ cả bữa sáng để đánh giày cho tôi. Dì cằn nhằn mấy câu, tôi liền đi tìm ông ngoại mách tội, kiên quyết đòi ông phải đánh dì, ông ngoại cũng đã cuộn tròn tờ báo lại phết vào mông dì hai cái. Còn nữa, bất kỳ người nào trong nhà chụp ảnh, cũng không được bỏ sót tôi, nếu không có mặt tôi trong ảnh, thì người ấy đừng hòng được chụp, đến đồng nghiệp của dì hai chụp ảnh tập thể, tôi cũng phải góp một chân. Vì vậy, mặc dù thời đó chụp ảnh là một việc vô cùng nghiêm túc và hiếm hoi, nhưng ảnh của tôi trước năm năm tuổi vẫn nhiều tới mức xem không hết. Bức ảnh nào cũng thấy một đứa bé loắt choắt chen trong hàng, mọi người khóc dở mếu dở, còn tôi thì dương dương tự đắc. Những câu chuyện khiến người và thần đều bất bình đó đều do dì hai kể lại, tôi không nhớ chút gì. Trong ký ức, tôi chỉ nhớ ông ngoại từng đưa tôi đi câu cá, tôi không thích ông bế, muốn tự đi, ông liền đi bên cạnh, lúc thì tôi hái hoa, lúc thì lại bắt châu chấu, đi một, hai tiếng mới tới nơi là chuyện bình thường, ông ngoại vẫn luôn theo sát tôi. Ông ngoại mua kẹo sô cô la rượu cho tôi, chỉ bởi vì tôi thích ăn, ông không quan tâm việc mọi người nói trẻ con không nên ăn nhiều, dễ say. Tôi làm dây mực Tàu vào cuốn sách cổ mà ông sưu tập, dì hai nhìn thấy mà buồn rầu, ông chỉ cười ha ha. Sáng sớm, ông dạy tôi đọc thuộc lòng: “Xuân miên bất giác hiểu”(1); buổi chiều, ông ôm tôi ngồi trên xích đu, đưa qua đưa lại trong ánh hoàng hôn. Trong sự nuông chiều của ông ngoại, tôi sống vui vẻ và kiêu ngạo. Năm năm tuổi, vì phải đi học tiểu học, bố mẹ đón tôi về sống với họ. Còn nhớ khi mẹ xuất hiện trước mặt tôi, tôi không chịu gọi bà là “mẹ”, tôi vừa mút kẹo vừa hoài nghi quan sát người phụ nữ buồn rầu từ xa tới. Trong tiếng gào khóc và những cú đấm đá túi bụi của tôi, mẹ đã ép được tôi lên tàu. Từ đó, hạnh phúc của tôi kết thúc, khổ nạn bắt đầu. Ở bên ông ngoại, tôi là nàng công chúa nhỏ, tôi có những món đồ tốt nhất, có trọn vẹn tình yêu của mọi người, cả thế giới này đều quay xung quanh tôi. Nhưng ở bên bố mẹ, thì một cô bé khác, em gái của tôi mới là công chúa. Bình thường, bố mẹ tôi bận rộn đi làm, toàn bộ thời gian rảnh rỗi của họ đều dành cho em gái tôi. Từ nhỏ, em gái được sống bên cạnh bố mẹ, nhanh mồm nhanh miệng, biết làm bố mẹ vui, biết làm nũng, còn tôi lại là đứa con bướng bỉnh, suốt một thời gian dài không chịu gọi “bố”, gọi “mẹ”. Hai đứa trẻ tuổi không hơn kém nhau là mấy, nhưng đều được cưng chiều tới mức thành người ích kỷ, khi chơi cùng nhau không tránh khỏi việc tranh giành đồ chơi, giành quà vặt. Tôi lúc nào cũng bị bố mẹ dặn dò và cảnh cáo: “Con là chị, phải nhường em!” Dưới sự giáo dục “chị em hòa thuận, chị phải nhường em” của bố mẹ, tôi bắt đầu ngoan dần, thường tránh ra một chỗ chơi một mình, bất cứ thứ gì cũng tự giác đợi em gái chọn,
cái nào nó không cần thì là của tôi, thậm chí dù đã là của tôi rồi, chỉ cần nó thích, tôi cũng phải trả lại cho nó bất cứ lúc nào. Lúc ăn cơm, tôi vào bàn ăn, không nói câu nào, nhanh chóng ăn cho xong rồi đi ra, những câu chuyện vui vẻ và tiếng cười đùa của họ dường như không liên quan gì đến tôi. Tôi từ một đứa trẻ nhí nhảnh, dần trở nên kiệm lời. Tôi thường nhớ ông ngoại. Khi đó, mỗi lần đau khổ, cô đơn, tôi đều nghĩ sau này lớn lên, khi tôi có thể tự đi tàu hỏa một mình, tôi sẽ về với ông, chỉ có như thế, tôi mới cảm thấy cuộc sống của mình còn có chút hy vọng. Hình ảnh sâu đậm nhất trong ký ức của tôi chính là mỗi khi hoàng hôn buông xuống, mẹ bận rộn trong bếp, tôi trốn trong góc tủ sách lật xem Họa báo nhi đồng. Bố đi làm về, vừa mở cửa, câu đầu tiên là gọi “Viện Viện”, em gái sẽ reo lên “bố”, sau đó lao đến ôm chầm lấy ông. Bố sẽ bế em và tung lên cao, rồi lại đỡ lấy. Hai người cười đùa vui vẻ, rộn rã cả phòng khách. Tôi thì trốn trong bóng tối, lặng lẽ nhìn trộm cảnh tượng ấy. Họ chơi trò chơi, họ kể chuyện, họ cười, rồi lại cười, một tiếng đồng hồ, không ai hỏi tôi đang ở đâu. Cảm giác đó giống như tôi đang ngồi ở điểm tận cùng của vũ trụ hồng hoang, xung quanh tối đen như mực, lạnh lẽo vô cùng, cảm giác cô đơn và hoang mang bao trùm khắp thân thể. Khi ấy, có thể tôi vẫn chưa hiểu thế nào là vũ trụ hồng hoang, cũng không hiểu tâm trạng khiến tôi khao khát phải nhìn ra ngoài nhưng lại bi thương tới mức không cho phép mình đi ra đó là gì. Nhưng hình ảnh đứa trẻ ngồi thu lu trong bóng tối, hai tay ôm chặt lấy mình, nhìn ra ngoài không chớp mắt, khao khát được nghe tiếng bố gọi tên mình đó, mãi mãi khắc sâu trong trái tim tôi. Cho tới khi cơm tối đã nấu xong, thức ăn đã bày đầy lên bàn, mẹ mới sực nhớ phải gọi tôi ra ăn cơm, tôi vẫn trốn trong góc khuất giữa tủ sách, ghế sofa và tường không chịu ra. Tôi vừa tủi thân, vừa tự ái, trong đầu quanh đi quẩn lại một suy nghĩ kỳ lạ: Tại sao bây giờ mới nhớ đến tôi? Muộn rồi, đã muộn rồi! Nếu sớm hơn một chút, tôi sẽ vì tiếng gọi đó mà vui mừng, hạnh phúc lao ra, nhưng bây giờ, tôi không muốn thưa nữa! Tôi không muốn thưa nữa! Tôi không thèm! Không thèm các người! Mẹ mở tung tất cả các phòng ra tìm tôi, nhưng đều không thấy. Họ quay sang hỏi em gái xem tôi đi đâu, đứa bé ngốc nghếch ấy chỉ biết lắc đầu, nũng nịu nói: “Con đang chơi xếp hình, không biết chị đi đâu.” Bởi vì người tôi nhỏ, thu mình lại trong góc, trở thành điểm mù của mắt. Tại sao họ lại không nghĩ ra, tôi đang ở trong phòng khách, ngay dưới tầm mắt họ, đó chính là một điểm mù trong tim. Vì vậy, bố mẹ vẫn không tìm thấy tôi. Trong lúc hoảng hốt, họ không còn nghĩ đến việc ăn cơm, vội vàng nhờ hàng xóm sang trông em gái. Hai người mặc áo khoác, lao ra ngoài trời đêm gió lạnh, bắt đầu túa đi khắp nơi tìm tôi, còn tôi lại chỉ ngồi trong góc phòng khách, lặng lẽ nhìn mọi việc diễn ra. Tôi không cố ý gây ra sự hỗn loạn này, chỉ là do lúc ấy tôi thật sự không muốn đáp lại tiếng gọi của họ. Sau đó, khi mọi việc đi quá xa, tôi bắt đầu hoảng sợ, không biết nên làm thế nào, càng thu mình vào sâu hơn.
Màn kịch náo loạn này tới tận nửa đêm mới kết thúc. Đó là do em gái tôi chạy đi nhặt một khối gỗ xếp hình bị lăn mới phát hiện ra tôi. Mặt nó hớn hở như “ta đã bắt được đặc vụ của Quốc dân Đảng”, chạy đi cấp báo tâng công. Bố túm lấy tôi định đánh. Mẹ vội ngăn lại, hỏi tôi nguyên nhân, tôi nhìn bàn tay to lớn của bố, rồi xoa xoa mông mình, không kịp nghĩ ngợi gì nhiều liền buột miệng: “Con không nghe thấy bố mẹ gọi, con xem họa báo xong ngủ quên mất.” Lời nói dối đầu tiên trong đời tôi giúp tôi tránh được một trận đòn nhừ tử. Kém một tháng nữa là tròn sáu tuổi, tôi vào tiểu học. Hồi ấy, độ tuổi đi học được quản rất nghiêm ngặt, chưa đủ bảy tuổi tuyệt đối không cho nhập học, đừng nói là thiếu hơn một năm, thiếu một tháng cũng không được. Bố muốn tôi đi học, vắt óc nghĩ cách, nhờ các mối quan hệ mà xin cho tôi vào trường tiểu học dành cho con em bộ đội ở địa phương, trường đó là do bộ đội tự mở, nên tiêu chuẩn cũng thoáng hơn. Nhưng, tôi bị bệnh lao, chưa kịp học hết bảng phiên âm đã lại phải nghỉ học. Sau một năm ở nhà dưỡng bệnh, bố mẹ hỏi tôi muốn học lại lớp 1 hay là muốn lên thẳng lớp 2. Thời ấy, trong trường lưu truyền một bài đồng dao: “Học sinh lưu ban đi rang lạc, rang lạc cho bác sĩ ăn, bác sĩ bảo lạc ngon quá, hóa ra là em lưu ban.” Tôi từng tận mắt chứng kiến một đám trẻ con tụ tập bên đường cao giọng hát đi hát lại bài đồng dao này để chế nhạo một đứa trẻ khác. Nghĩ đến đấy, tôi rùng mình, nói ngay với bố mẹ, tôi muốn học tiếp lên lớp 2 với các bạn. Thế là bố mẹ cho tôi đi học lớp 2. Tuổi của tôi ít hơn các bạn, suy nghĩ còn non nớt, lại chưa học lớp 1, đương nhiên là: thành tích học tập của tôi rất kém. Do tính cách của tôi cô độc quái gở, luôn trầm tư kiệm lời, cộng thêm thành tích học tập yếu kém, từ đầu chí cuối, tôi không phải là mẫu học sinh được các thầy cô giáo yêu quý. Vì vậy, tôi lại càng thêm cô độc, kỳ quái, trầm tư kiệm lời, và thành tích học tập của tôi lại càng yếu kém. Vấn đề là, có như thế cũng chẳng sao, bởi vì bố mẹ không bao giờ quan tâm đến thành tích của tôi. Họ không bao giờ mắng tôi vì chuyện kết quả thi đứng thứ nhất hay thứ hai lớp từ dưới lên, họ nói chỉ cần tôi cố gắng hết sức là được, vì vậy tôi không bị áp lực trong việc học. Ngoài đứa em gái khiến tôi ngưỡng mộ, ghen tị, chán ghét và một gia đình khiến tôi có cảm giác bị đàn áp và cô độc ra, cuộc sống của tôi cũng vẫn gọi là tạm ổn, thậm chí tôi còn có một người bạn rất tốt là Cát Hiểu Phi. Cô ấy học giỏi nhất lớp, là con một, và vô cùng ngưỡng mộ vì tôi có em gái để chơi cùng, còn tôi lại ngưỡng mộ tất cả những ai là con một. Lên cấp hai, khi học môn chính trị, được biết kế hoạch hóa gia đình là quốc sách cơ bản của đất nước, tôi còn oán trách quốc sách cơ bản của đất nước mà lại không được thực thi đến nơi đến chốn gì cả. Cát Hiểu Phi rất thích nói chuyện, còn tôi lại không thích nói chuyện. Ở bên cạnh tôi, cô ấy không cần lo lắng sẽ có người cướp lời. Ngoài điểm khác nhau có thể bổ trợ cho nhau
đó ra, tôi và Cát Hiểu Phi còn có một điểm chung nữa, chúng tôi đều không thích về nhà. Thường thì sau khi tan học, lúc các bạn đã về nhà từ lâu, chúng tôi vẫn lang thang khắp nơi trong trường. Lang thang nhiều, suốt ngày chạm mặt nhau, đi lại một vài lần, thế là chúng tôi thành bạn thân. Khi ở bên cạnh cô ấy, thỉnh thoảng tôi cũng trở lại là một đứa trẻ hoạt bát, lanh lợi như khi còn ở bên ông ngoại. Hai chúng tôi cùng đi học, cùng về, những lúc ở cạnh nhau, thường tay nắm chặt tay, tôi có cảm giác cô ấy mới là chị em của mình. Thậm chí có một cái kẹo, tôi cũng để dành cho Hiểu Phi một nửa. Cô ấy đối với tôi cũng rất tốt, chỉ cần tôi cần, Hiểu Phi sẵn sàng nhường lại cho tôi, kể cả là cô ấy không có nữa. Khi tôi không vui, cô ấy thường tìm mọi cách để chọc cho tôi cười. Tay tôi vụng về, mỗi lần học thủ công đều làm chậm hơn các bạn khác, Hiểu Phi thường làm giúp tôi trước, sau khi hoàn thành phần của tôi xong, mới vội vội vàng vàng làm bài của mình. Hai chúng tôi giống như một cặp song sinh, chỉ ước lúc nào cũng được ở bên nhau. Một hôm sau khi tan học, chúng tôi tay trong tay chơi rất lâu, nhưng vẫn không muốn buông tay, mà trời thì đã tối lắm rồi. Hiểu Phi nói cô ấy không muốn về nhà, hỏi tôi có ở lại với cô ấy được không, tôi liền mời cô ấy về nhà mình. Bố mẹ thấy tôi đưa bạn về chơi, tiếp đãi rất nhiệt tình. Buổi tối, chúng tôi ngủ chung một giường, đầu kề đầu, đấy là lần đầu tiên tôi không có cảm giác cô độc khi ở nhà mình, tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy, nhìn vẻ mặt lo lắng của bố mẹ, mới biết chuyện Hiểu Phi cả đêm không về nhà đã gây nên một chuyện kinh hoàng. Thời ấy chưa có điện thoại, bố mẹ cô ấy đành phải đi từng nhà từng nhà để tìm, hai ba giờ sáng mới tìm đến nhà tôi. Bố tỏ ra không vui vì việc Hiểu Phi đã nói dối là mẹ cô ấy biết chuyện cô ấy ở lại nhà tôi. Mẹ tôi không nói nhiều, vẫn chuẩn bị một bữa sáng thịnh soạn để chúng tôi ăn xong còn đi học. Cát Hiểu Phi sau một ngày buồn bã, lại vui như thường. Nhờ có Hiểu Phi, cuộc sống của tôi dù vẫn u ám, song cũng được coi là vui vẻ. Nhưng, có lẽ, cuộc đời thấy sức nặng đè trên lưng con lạc đà nhỏ bé như tôi đây còn chưa đủ, nên nó đã chất lên lưng tôi thêm một bó củi nặng. Năm lớp 3, do bố bị điều động công tác, tôi phải rời khỏi nơi này, chuyển đến một thành phố mới. Tôi và Hiểu Phi gạt nước mắt từ biệt nhau. Cô ấy ôm lấy tôi khóc nức nở. Khi đó, mặc dù tôi không khóc nhưng vừa lên tàu, nước mắt đã giàn giụa, tôi lại không muốn bố mẹ biết nên phải nín thở để không bật khóc thành tiếng. Tuổi còn nhỏ, chưa thật sự hiểu thế là biệt ly, nhưng tôi cũng đã vì biệt ly mà rơi lệ. Vào trường mới, tôi gặp một cô giáo dạy toán mới – cô Triệu. Từ đó, nỗi khổ cực mới của tôi bắt đầu. Mụ phù thủy ác độc đó đến nay vẫn để lại ác cảm trong tôi về thầy cô giáo. Mỗi lần tôi đọc cái gì mà “thầy cô giáo như ngọn nến, tự đốt cháy mình soi đường cho học sinh”, thật muốn cười gằn. Kinh nghiệm thực tế trong cuộc đời tôi lại hoàn toàn trái ngược với điều đó. Đúng là có thầy cô giáo tốt, nhưng lại có rất nhiều giáo viên coi trọng thế lực. Nếu bố mẹ của học sinh nào làm quan to, cô ta sẽ tỏ ra thân thiết với học sinh đó. Nếu bố mẹ bạn
làm trong ngành giáo dục, cô ta sẽ đối xử với bạn hết sức dịu dàng, nhân từ, vô tư cống hiến, có thể còn lung linh hơn cả hình ảnh ngọn nến. Nhưng, nếu bố mẹ bạn không làm quan, lại chẳng có tiền, bản thân bạn cũng không giỏi giang gì, thành tích học tập không tốt, thì cô giáo sẽ coi bạn là mục tiêu, khi thì ném phấn trúng đầu bạn, khi lại trừng mắt nhìn bạn, nói với bạn bằng một giọng rất bình thản nhưng hàm ý khinh khi để chế giễu sự ngượng ngùng của bạn lúc trả lời sai câu hỏi. Người lớn cứ nghĩ rằng có rất nhiều chuyện trẻ con không hiểu, thực tế thì trái tim của chúng tôi rất mẫn cảm. Chúng tôi cũng có “lòng sĩ diện”, và chúng tôi rất ghét bị cười nhạo trước mặt người khác. Sau vô số lần mặt đỏ tía tai vì xấu hổ, tôi ngày càng sợ cô giáo này, còn cô ta cũng càng ngày càng coi thường tôi, giờ học nào cũng thích gọi tôi lên để hỏi, để châm biếm vài câu. Sự vụng về của tôi, thành tích học tập yếu kém của tôi, khả năng ăn nói kém của tôi, thậm chí cả tính cách cô độc kỳ quái của tôi, đều khiến cô ta không hài lòng. Đến giờ tôi vẫn nhớ cách cô ta bĩu môi, liếc xéo tôi, dùng giọng điệu hận rèn sắt không thành thép nói với tôi: “Sao em chẳng ra dáng một đứa trẻ gì cả? Vừa đần vừa ngốc, không biết ăn cơm rồi tiêu hóa đi đâu hết nữa?” Đứa trẻ nào cũng có một trái tim mẫn cảm bất thường, cũng thích được cô giáo cưng chiều, thích làm cán bộ lớp, thích trên cánh tay được đeo băng đô hai vạch đỏ hoặc ba vạch đỏ, tỏ vẻ nghiêm nghị đứng ở cổng trường kiểm tra xem học sinh có đeo khăn quàng đỏ hay không, nữ sinh có sơn móng tay không, nam sinh có cắt tóc cao trên tai hay không. Trẻ con nhiều khi còn coi trọng thể diện hơn cả người lớn, bởi vì thế giới của chúng nhỏ, và thế nên, tất cả những việc nhỏ đều không nhỏ. Giáo viên tiểu học, đối với xã hội mà nói, chỉ là một người hết sức bình thường, nhưng trong mắt những học sinh mà họ dạy, lại là Thượng Đế, sự phê bình và khen ngợi của thầy cô, sự yêu và ghét của thầy cô sẽ tạo ra những chuỗi phản ứng khó có thể tưởng tượng hết được. Thái độ coi thường tôi ra mặt của cô giáo Triệu cũng làm ảnh hưởng đến các bạn trong lớp. Họ bắt đầu không thích chơi với tôi, nhảy dây, đấm bao cát, đá cầu, không ai muốn ở cùng phe với tôi. Sau vài lần rơi vào tình huống ngại ngùng như thế, tôi bắt đầu tự giác tránh xa các bạn, trong khi các bạn tụ tập vui chơi cùng nhau thì tôi ngồi thơ thẩn một mình ở vườn hoa. Ở nhà, tôi cô độc, cái gì cũng phải nhường cho em; ở trường, tôi cô độc, cô giáo và bạn bè đều không thích tôi. Ở nhà, tôi thường ngồi một góc, lặng lẽ nhìn em gái vừa ôm vừa làm nũng bố; ở trường, tôi thường đứng từ rất xa, lặng lẽ nhìn các bạn chơi nhảy dây, đấm bao cát. Trên thế giới này, có rất nhiều cảm giác tồi tệ, nhưng cô đơn là cảm giác khủng khiếp nhất. Sau này, một lần tôi vô tình đọc được một cuốn tiểu thuyết võ hiệp của Cổ Long trên giá sách của bố. Cảm giác cô đơn, lạc lõng, bị người đời lãng quên của người anh hùng trong truyện giống như một luồng điện mạnh chạy thẳng vào tim tôi, tôi đã tìm thấy bảo bối trên giá sách. Từ đó, tôi càng lặng lẽ hơn, càng cô độc, kỳ quái trốn vào thế giới tưởng tượng của riêng mình.
2. Gặp cậu ấy Có lẽ do ý thức được tầm quan trọng của người thầy trong cuộc đời của mỗi đứa trẻ, nên văn hóa Trung Quốc truyền thống luôn nhấn mạnh đạo lý tôn sư trọng đạo. Việc tôn trọng thầy cô giáo đã sớm phát triển thành một tiêu chuẩn đạo đức ở Trung Quốc, nhưng lại quên mất rằng, vì thầy cô giáo có tầm quan trọng lớn lao trong cuộc đời của con trẻ, nên thực ra thầy cô giáo cũng cần phải tôn trọng học sinh của mình. Có sự tôn trọng đối với sinh mệnh của mỗi cá thể, mới có thể có được sự chỉ dẫn chính xác cho cuộc sống của cá thể ấy. Khi năm học lớp 3 sắp kết thúc, vì số học sinh trong trường tăng cao nên có tin là phải chia lại lớp, tôi thầm cầu nguyện, mong sao cô giáo Triệu bị chuyển đi. Hằng tuần, trường tôi đều tổ chức chào cờ. Sau nghi thức chào cờ, thầy hiệu trưởng sẽ lên biểu dương những học sinh tiên tiến, phê bình những học sinh yếu kém, rồi tặng lá cờ đỏ lưu động cho lớp có biểu hiện tốt nhất trong tuần vừa qua. Tuần này cũng thế. Thường thì mọi lần chỉ làm cho có lệ, tôi vẫn cúi đầu không buồn để ý. Dù lá cờ đỏ đó được phát cho lớp nào cũng chẳng liên quan gì tới tôi. Sau khi phát xong lá cờ đỏ lưu động, thầy hiệu trưởng nghiêm túc nhắc nhở về hành vi trộm cắp vặt trong trường, cái gì mà vi phạm pháp luật, phải vào tù, v.v… nếu đúng vào dịp truy quét cuối năm thì còn có thể bị tử hình. Một học sinh nam bị thầy hiệu trưởng gọi lên bục. Thầy bắt đầu tuyên bố tội danh của cậu ta: lấy trộm xe đạp, lấy trộm ví của giáo viên, câu kết với học sinh lớp lớn bắt nạt các em học sinh lớp bé, đe dọa, ép buộc các em học sinh lớp bé về nhà lấy trộm tiền của bố mẹ, đánh nhau, dùng khóa xe đạp đánh bị thương một học sinh nam lớp 1 của trường tiểu học số Một, viết thư tình cho các chị học khóa trên… Một đứa trẻ mới chỉ mười một, mười hai tuổi đầu mà đã mắc những tội danh không thể khoan hồng, có thể tống thẳng vào trại giam, tiến hành cải tạo lao động vậy, học sinh toàn trường nghe xong mà mắt tròn mắt dẹt nhìn. Nhưng điều khiến tôi chăm chú theo dõi không phải là danh sách tội lỗi dài dằng dặc ấy mà là tinh thần của cậu ta. Vóc dáng cậu ta cao hơn các bạn cùng tuổi, vì cao nên trông lại gầy, bộ đồng phục màu xanh lam khoác trên người cậu ta như treo lửng lơ trên móc áo, đầu cắt cua, vì tóc quá cứng nên dựng đứng hết lên, thoáng nhìn trông như một con nhím. Cậu ta đứng đó với điệu bộ uể oải, cúi đầu như biết lỗi, nhưng thỉnh thoảng ngẩng đầu lên, tôi thấy nụ cười trên môi cậu ta. Lẽ nào cậu ta không nhìn thấy ánh mắt của mọi người đang đổ dồn về phía mình? Lẽ nào cậu ta không cảm thấy xấu hổ sao? Dù gì cũng là đứng trước học sinh toàn trường, tôi không thể nào lý giải nổi. Hết giờ chào cờ, các bạn nữ xung quanh túm tụm lại bàn tán, tôi đi theo sau họ, nghe hiểu được phần nào lai lịch của cậu học sinh này. Cậu ta học cùng khối với chúng tôi, nhưng vì đúp năm lớp 2, nên nhiều tuổi hơn. Nghe nói cậu ta là con út, hơn bốn mươi tuổi mẹ cậu ta mới mang thai cậu, trên cậu ta là bốn chị gái hơn khá nhiều tuổi, thấy bảo
cũng là gia đình giàu có. Giày thể thao hiệu Nike, đồng hồ đeo tay hiệu Swach, đều là những thứ mà anh rể cậu ta mang về từ nước ngoài. Cuối những năm tám mươi, đầu những năm chín mươi, nước ngoài vẫn còn là một danh từ nghe hết sức xa xôi, đồ gì của hãng nào, ý nghĩa của thương hiệu là gì tôi đều không hiểu. Tôi chỉ nghi hoặc nghĩ rằng, nếu đã nhiều tiền như thế sao phải đi trộm đồ, ăn chặn tiền của người khác? Hành vi, vẻ mặt của cậu ta, đối với tôi mà nói đều là một câu đố. Trong nỗi băn khoăn khó hiểu đó, tôi đã ghi nhớ tên của cậu học sinh cá biệt này - Trương Tuấn, có điều, tôi tin, ngày hôm đó không chỉ mình tôi nhớ tên cậu ta. Năm lớp 4, chia lại lớp thật, và cũng đã xảy ra hai chuyện bất hạnh. Chuyện thứ nhất, giáo viên dạy toán lớp tôi vẫn là cô Triệu; chuyện thứ hai, cô ta không chỉ là giáo viên dạy toán mà còn kiêm luôn giáo viên chủ nhiệm. Trương Tuấn và tôi được phân vào cùng một lớp, nhưng hai chúng tôi gần như chừa từng nói chuyện với nhau, mặc dù chúng tôi có rất nhiều điểm chung. Ví dụ: chúng tôi lần lượt thay nhau đứng thứ nhất trong lớp đếm ngược từ dưới lên; trong giờ học, chúng tôi đều không nghe giảng, cậu ta luôn ngủ gật, còn tôi thì ngồi thẫn thờ, vì vậy chúng tôi thường xuyên bị cô giáo Triệu ném phấn vào đầu. Nhưng, có nhiều điểm cậu ta khác với tôi. Mặc dù thành tích học tập của cậu ta kém, nhưng các bạn nam trong lớp đều chơi với cậu ta, thậm chí toàn bộ những học sinh yếu kém trong lớp đều rất nghe lời cậu ta, còn các bạn nữ thì không ghét cậu ta, bởi vì cậu ta thường mời họ ăn kem, uống nước ngọt, những câu chuyện cười cậu ta kể có thể khiến họ cười nghiêng cười ngả. Trong giờ học, cậu ta luôn ngủ gật, nhưng chỉ cần tiếng chuông hết giờ vừa vang lên, cậu ta lại tràn đầy sinh lực, cùng các bạn lao ra sân vận động, đá bóng, chơi bóng rổ, còn tôi luôn tự mình đi tìm một chỗ rồi trốn vào đấy đọc sách, thỉnh thoảng ngẩng đầu lên nhìn đám bạn gái chơi nhảy dây, còn đám bạn trai thì đá bóng. Sự cô độc trong gia đình, tôi đã quen rồi, dù sao tôi cũng có thể đọc sách, trong sách có rất nhiều điều thú vị. Em gái đành hanh, thích mách lẻo, tôi có thể tránh nó, chuyện gì cũng đều “chị nhường em”. Sự bất mãn của cô giáo Triệu đối với tôi, dù sao cũng chỉ là hai, ba phút giày vò trong giờ toán, tôi đã có thể lạnh lùng chịu đựng. Nếu những ngày như vậy mãi tiếp diễn, cũng có thể được coi là bình yên. Nhưng, cuộc sống luôn thích đùa cợt với chúng ta. Trong lúc bạn tuyệt vọng, bạn sẽ nhìn thấy một đốm lửa lóe sáng khiến bạn không gục ngã; khi bạn bình tĩnh, thì nó lại lạnh lùng dội cho bạn một gáo nước lạnh khiến mọi việc của bạn không được vừa ý. Vào một buổi chiều mùa hè, trong một tiếng đồng hồ hoạt động tự do giữa giờ học, những bạn không phải trực nhật đều chạy ra sân vận động chơi. Tôi vì thích khoảng nắng bên ngoài cửa sổ nên ngồi thu lu trên bục cửa sổ đọc sách và nhìn xa xăm. Thời gian hoạt động tự do kết thúc, học sinh quay lại lớp để bắt đầu giờ tự học. Chu Vân thưa với cô giáo Triệu là mình bị mất bút máy. Cô bạn ấy còn nói với giọng đầy ấm ức rằng, chiếc bút là quà tặng của bố, tiết học trước bạn vẫn còn dùng, giờ đã không thấy
nữa. Cô giáo Triệu cho rằng sự việc rất nghiêm trọng, cần phải xử lý nghiêm túc. Cô bắt đầu tra hỏi từng học sinh trong lớp, giờ ra chơi, có những ai ở lại lớp. Trương Tuấn là người đáng nghi ngờ nhất thì đã cùng một đám con trai chạy ra khỏi lớp ngay khi tiếng chuông hết giờ vừa reo, suốt thời gian ấy vẫn đá bóng trong sân vận động, rất nhiều người có thể làm chứng. Cậu ta hùng hùng hổ hổ lấy cặp sách ra khỏi ngăn và đặt lên bàn, nói với cô giáo Triệu: “Cô có thể kiểm tra!” Trước sự bình tĩnh, tự tin của cậu ta, cô giáo Triệu liền gạt cậu ta ra khỏi diện nghi vấn. Cuối cùng, chỉ còn lại ba kẻ đáng bị tình nghi khi ở lại lớp học vào giờ ra chơi. Cô giáo Triệu đã chỉ thẳng vào tôi, yêu cầu tôi trả bút cho bạn, chỉ cần tôi trả, lần này cô có thể tha cho tôi, không truy cứu! Tôi không dám tin vào tai mình nữa. Khi đó, tôi đang đứng gần cửa sổ, ánh mặt trời rực rỡ chiếu lên người tôi, nhưng toàn thân tôi lại lạnh buốt. Cô Triệu đứng trên bục giảng dùng những lời hết sức nghiêm khắc phê bình tôi. Hơn ba mươi cặp mắt của các bạn cùng lớp nhìn tôi chăm chăm không chớp, mỗi một đôi mắt đều như một lưỡi kiếm đâm vào người tôi, nhức nhối! Tôi cố gắng kìm nước mắt nói: “Cô Triệu, em không… em không cầm bút của bạn ấy.” Nhưng cô Triệu không tin. Trong mắt cô, mấy bạn học sinh ở lại lớp đó, chỉ mình tôi là học sinh hư, cũng chỉ tôi mới có thể làm những việc xấu xa như thế. Tôi là đứa học sinh xấu xa, giờ nghỉ giải lao không ra ngoài vận động, lại trốn trong lớp, nói là đọc sách, chuyện đấy thật khó tin, không hợp tình hợp lý. Sau khi khiển trách tôi, cô ra lệnh cho tôi phải giao trả vật đã lấy cắp, còn tôi thì không ngớt phân bua rằng mình không lấy. Vị kỹ sư của linh hồn nhân loại này thẹn quá hóa giận, lệnh cho tôi đứng lên bục giảng. Sau đó, trước mặt toàn bộ học sinh trong lớp, bắt đầu khám xét tôi từ đầu đến chân. Tôi cảm thấy nhục nhã ê chề, đứng khóc, mặc cho cô ta muốn làm gì thì làm. Tất cả các bạn trong lớp đều im lặng nhìn tôi đứng trên bục giảng, ánh mắt tàn nhẫn như đang xem một vở kịch hay, bọn họ đều chờ đợi giây phút vật mất cắp kia được tìm thấy trên người tôi. Cô Triệu đẩy tôi qua kéo tôi lại. Trong làn nước mắt nhạt nhòa, tôi nhìn thấy một ánh mắt trầm mặc khác thường nơi cuối lớp, không chất chứa sự háo hức như những người khác, ánh mắt lạnh lùng đó còn như có cả sự thông cảm, trong sự khinh miệt dường như vẫn lộ vẻ xót thương. Cô Triệu khám khắp người tôi, rồi lục tìm trong ngăn bàn và cặp sách của tôi, vẫn không thấy chiếc bút. Ngượng ngùng, cô chửi mắng tôi càng lúc càng to. Không tìm thấy vật bị mất, cô không thể đưa ra hình phạt cho tôi, nhưng vẫn ném về phía tôi những lời cảnh cáo đầy căm hận: “Đừng nghĩ rằng lần này tôi không bắt được quả tang thì em có thể thở phào nhẹ nhõm, em chính là đứa ăn cắp! Là đồ ba ngón!”
Lúc đó tôi chỉ cảm thấy toàn thân lúc nóng lúc lạnh, cứ như hai chữ “ăn cắp” bị người ta dùng miếng sắt nung đỏ ấn vào trán tôi. Sự thực cũng chứng minh, trong một thời gian dài, hai chữ này đã được khắc trên trán tôi. Cô Triệu còn thêm mắm thêm muối vào câu chuyện tôi ăn cắp đồ nhưng giảo hoạt, không chịu thừa nhận rồi kể với các thầy cô khác trong trường. Các bạn cũng cho rằng tôi ăn cắp đồ. Khi họ chỉ chỉ trỏ trỏ sau lưng tôi, không gọi tên tôi, mà gọi là “ba ngón”, có bạn nữ còn cố ý nói hai từ đó bằng một giọng không cao cũng không thấp, tôi chỉ còn cách cúi gằm mặt, lặng lẽ đi nhanh khỏi đó, còn bọn họ thì phá lên cười sau lưng tôi. Đám con trai không ác khẩu như con gái. Họ không gọi tôi là “ba ngón”, nhưng khi nghe có người gọi tôi là “ba ngón”, ánh mắt họ cũng đồng loạt hướng về phía tôi không khác gì một thanh kiếm sắc. Trong một thời gian rất dài, chỉ cần nghe thấy từ đó là tôi ước mình có thể chết ngay, lập tức biến mất khỏi thế giới này. Sáng sáng, mỗi khi tỉnh dậy, tôi đều bị hoảng loạn, tôi sợ cô giáo, tôi sợ bạn học. Đi học, đối với tôi, trở thành cực hình tồi tệ nhất. Ai đó từng nói “Nhân chi sơ, tính bản thiện”? Bạn đã bao giờ nhìn thấy đứa trẻ tàn nhẫn giết hại con vật nhỏ chưa? Chúng có thể vần một con chim khỏe mạnh đến chết. Trong bản tính của con người có ẩn chứa thú tính, thế giới của trẻ con đầy rẫy những điều tàn nhẫn. Một tháng sau sự kiện ăn cắp bút, cô Triệu lại một lần nữa sỉ nhục và chà đạp lên trái tim và cơ thể tôi. Đó là trong một giờ tự học buổi chiều, tất cả học sinh đang chăm chú làm bài tập, cô Triệu ngồi trên bục giảng chữa bài tập của ngày hôm qua, chữa mãi chữa mãi, đột nhiên cô gọi tên tôi: “La Kỳ Kỳ!” Tôi đứng dậy, tim đập thình thịch, thầm nghĩ không biết có phải mình đã làm sai hết rồi không, nhưng không ngờ cô cười nhạt nói: “Mặt trời mọc đằng tây rồi, không ngờ bài tập của em không sai một câu nào!” Thành tích học tập của tôi không tốt, nhưng ngày hôm ấy, không biết tại sao tôi lại làm đúng tất cả bài tập toán. Trong suy nghĩ của tôi, làm đúng bài tập là một việc tốt, nếu cô Triệu không biểu dương tôi, thì ít nhất cũng sẽ không mắng tôi nữa, tôi bình tĩnh hơn, cúi đầu đứng im. Cô hỏi: “Em chép bài của ai?” Tôi kinh ngạc ngẩng đầu lên, sững người một lúc mới trả lời: “Em không chép bài của ai cả.” Cô Triệu lại hỏi thêm hai, ba lần nữa, tôi đều nói “không chép”, cô bắt đầu mất kiên nhẫn, gọi tôi lên bảng.
Tôi lại gần. Còn cách cô khoảng một mét, tôi sợ hãi dừng bước, chân không thể nhúc nhích thêm được nữa. Cô túm chặt lấy tôi, kéo tôi đến trước mặt cô, ngón tay chỉ vào vở bài tập của tôi, nghiêm giọng hỏi: “Bài này em cũng có thể làm được? Bài này em cũng có thể làm được? Nếu em có thể làm được những bài này, thì lợn nái cũng có thể trèo cây rồi.” Có tiếng cười khúc khích của đám con trai, mặt tôi nóng bừng, xen lẫn cả sự phẫn nộ, lần đầu tiên tôi lớn tiếng khẳng định: “Những bài đó đều là do em làm!” Trong suy nghĩ của cô Triệu, tôi luôn là một đứa cô độc kỳ dị, nhẫn nại chịu đựng, thế nên cô sững sờ khi nghe tiếng hét của tôi. Tôi cũng giật mình bởi chính tiếng hét ấy. Ngay một giây sau, cô lấy lại bình tĩnh, cơn giận càng bùng phát dữ dội hơn. Tay cô nắm chặt lại, đẩy tới đẩy lui: “Cô nhắc lại một lần nữa! Là cô tự làm? Học kém cũng không sao, đấy chẳng qua là IQ có vấn đề, nhưng đến nhân phẩm của cô cũng không có, vừa ăn cắp, vừa nói dối, bụng toàn nước đái.” Sau mỗi cú đẩy của cô, người tôi lại lảo đảo lùi về phía sau, đến khi khoảng cách sắp vượt quá độ dài của cánh tay cô, cô lại kéo tôi vào, tiếp tục một quy trình đưa đẩy mới: “Cô nói lại một lần nữa! Cô có giỏi thì nhắc lại một lần nữa? Cô không chép bài của người khác…” Tôi im lặng chịu đựng, để mặc cho cô chửi mắng. Tôi giống như con chim non nằm trong tay bọn trẻ, hoàn toàn không có sức để phản kháng lại số mệnh và sự giày vò trên cơ thể, cứ để mặc cho cô đẩy, dáng người nhỏ bé xiêu xiêu vẹo vẹo. Dưới kia, rất nhiều cái đầu đang ngẩng lên nhìn. Bao nhiêu ánh mắt đổ dồn vào tôi, sợ hãi có, khinh miệt có, lạnh lùng có, thông cảm có… Đột nhiên, không biết tại sao, tôi cảm thấy chịu đựng thế là đủ rồi, thực sự là quá đủ rồi! Tôi ngẩng lên, nhìn thẳng vào mắt cô Triệu, dõng dạc nói: “Em không chép bài của bạn! Không chép bài của bạn!” Cô Triệu sững lại. Tôi lại dám khiêu chiến với quyền uy của cô trước mặt toàn bộ học sinh trong lớp. Vốn là một người phụ nữ hung hăng, cô lồng lộn lên, một tay cầm quyển vở bài tập quạt vào mặt tôi, tay kia vẫn đẩy tôi: “Tôi đã từng dạy bao nhiêu học sinh, nhưng chưa từng gặp học sinh nào xấu xa như cô! Nếu như những bài tập này cô không chép của người khác, thì chữ “Triệu”(2) trong tên tôi cho phép cô được viết ngược…” Tôi bị cô ép lùi từng bước, từng bước một, cho tới khi lưng áp sát vào bảng, còn cô ta cứ thế lao theo đánh tôi. Cả thế giới như rung chuyển. Tôi chỉ thấy quyển vở bài tập khua qua khua lại trước mắt. Lưng tôi áp chặt vào bảng không có đường thoát, nhưng tôi vẫn gào lên: “Em không chép bài! Không chép bài! Không chép…!” Giọng tôi càng lúc càng lớn, đã biến thành những tiếng hét thất thanh. Cuối cùng, quyển vở bài tập của tôi cũng bị đập nát, từng trang giấy rơi lả tả, bay khắp nơi trên bục giảng. Cô Triệu không còn dụng cụ để hành hung, không thể không dừng lại.
Tôi vẫn trừng trừng nhìn cô Triệu, căm hận gào lên: “Em không chép bài! Không chép bài, không chép bài!” Khi ấy, tôi chỉ có một suy nghĩ điên cuồng. Cô đánh đi! Ngoài việc tự xưng mình là cô giáo để có thể đánh tôi, cô còn làm được gì nữa? Nếu cô có gan, tốt nhất hôm nay hãy đánh chết tôi tại đây đi! Không biết cô Triệu có nhìn thấy sự ngông cuồng trong ánh mắt tôi không, dù sao cô ta cũng đã dừng tay, không hành hung tôi nữa. Sau khi đứng ngẩn người trên bục giảng một lúc, cô Triệu căm giận nói: “Một đứa trẻ như cô, tôi hết cách để dạy rồi! Tôi sẽ gọi điện thoại cho bố mẹ cô!” Thật kỳ lạ! Mặc dù cô ta vẫn tỏ ra nghiêm khắc như trước đây, nhưng tôi có thể cảm nhận được sự sợ hãi ẩn dưới vỏ bọc hung hăng kia. Giây phút đó, sự khiếp sợ của tôi đối với cô ta từ trước tới nay hoàn toàn biến mất, nếu có chỉ là sự khinh bỉ. Tôi vuốt lại tóc, hừ một tiếng: “Mời tự nhiên! Cô có biết số điện thoại của bố em không? Không biết có thể hỏi em!” Nói xong, không đợi cô ta lên tiếng, tôi đi xuống lớp, quay về chỗ ngồi của mình, bắt đầu thu dọn sách vở, xong xuôi, tôi khoác cặp lên vai, nghênh ngang ra khỏi lớp. Tất cả học sinh trong lớp ngây người nhìn tôi. Lần đầu tiên, tôi không cúi đầu lẩn tránh ánh mắt của họ như trước kia, mà vừa đi, vừa nhìn khắp lượt bằng một ánh mắt lạnh lùng. Nhìn đi? Chẳng phải các cậu đều rất thích nhìn hay sao? Vậy thì tôi để các cậu được nhìn cho rõ, nhìn cho thỏa! Khi đám bạn cùng lớp bắt gặp ánh mắt của tôi quét qua họ, lần lượt lảng đi. Trương Tuấn không lẩn tránh ánh mắt của tôi. Cậu ta ngồi dựa người vào ghế, ung dung quay quay chiếc bút trong tay, điềm tĩnh nhìn tôi, khóe miệng nhếch lên như cười. Khi đi ra khỏi lớp, tôi vẫn không chút sợ hãi. Nhưng khi bước ra khỏi cánh cổng trường đã mang lại cho tôi bao nhiêu tủi hổ này, tôi lại chán nản. Người lớn đi làm, trẻ con đi học, đường phố rất vắng và yên tĩnh, tôi có thể đi đâu đây? Lưng đeo cặp sách, tôi buồn bã, chán nản bước đi, qua mấy cửa hàng game. Tôi biết, đấy là nơi mà thầy cô giáo và bố mẹ nghiêm cấm không được bước chân vào. Đám người tụ tập trong đó là “những kẻ lông bông” trong mắt phụ huynh, những tay “côn đồ” theo cách nói của giáo viên, và dân “xã hội đen” trong miệng các bạn học sinh. Trước đây, mỗi lần đi ngang qua đó, tôi đều đi nhanh hơn, nhưng hôm nay, dường như tôi to gan hơn, tôi muốn được thử một lần xem sao. Tôi chọn một cửa hàng lớn nhất để vào. Trong phòng toàn mùi khói thuốc. Rất nhiều học sinh nam nhoài người trước máy điện tử, chơi say sưa quên trời quên đất, phần lớn là học sinh cấp hai, cấp ba, cá biệt còn có một vài học sinh tiểu học. Bọn họ đều rất tập trung, mặc dù rất ngạc nhiên khi thấy một đứa con gái vào quán game, nhưng họ cũng chỉ ngước mắt liếc một cái, rồi lại chuyên tâm vào trò game của mình. Trong nháy mắt, tôi đã thích ngay cái nơi mịt mùng, tăm tối này, bởi vì ở đây, không ai có thể dùng các kiểu ánh mắt để nhìn tôi.
Trò game của mười năm về trước còn tương đối đơn giản, không có gì khác ngoài bắn máy bay, thoát khỏi mê cung, giết quái vật… và mấy trò chơi người máy khác. Tôi đứng bên cạnh nhìn rất lâu, không hiểu tại sao bọn con trai lại chỉ thích mấy trò cầm súng quay lên quay xuống giết người như thế, thật vô vị. Vừa lúc đó, tôi nghe có tiếng hoan hô cổ vũ phát ra từ trong sân, tôi liền men theo cửa ngách lần đến đó. Trong khoảng sân rộng thênh thang, có hai bàn bida. Một bàn có rất nhiều người đứng xung quanh. Bọn họ đều chăm chú xem, vẻ căng thẳng, kích động, sau đó tôi mới biết là họ đang cá độ. Còn bàn bên kia chỉ có hai người đang chơi và một người đứng xem. Để thu hút khách, những nhà khác đều đặt bàn ngoài cửa, còn bàn bida của nhà này lại giấu vào tận trong sân sau, khi đó tôi không nghĩ gì nhiều, chỉ đứng bên cạnh bàn bida ít người kia và xem. Một trong hai người chơi cúi sát người xuống, khi lau gậy ngắm mục tiêu, cười với người đang đứng xem bên cạnh, nói: “Làm ăn tốt quá nhỉ, đến học sinh tiểu học cũng đeo cặp sách vào chơi này.” Người chơi còn lại vừa đánh xong một gậy, lúc này mới để ý bên cạnh có thêm một người nữa, liền nhìn tôi từ đầu đến chân, nói: “Em gái, đến giờ tan học rồi, về nhà đi. Nếu không bố mẹ sẽ biết là em trốn học đấy.” Anh ta rất cao, không đoán được tuổi, tuy rằng mồm mép lém lỉnh nhưng vẻ mặt lại nghiêm nghị. Hôm đó đúng là tôi đã ăn phải thuốc nổ, không cần biết người ta có ý tốt hay xấu, tôi bật lại ngay: “Ai là em của anh? Nếu mắt anh bị cận thị, thì mau đi đo kính đi.”. Cả ba người đều quay đầu lại nhìn tôi. Người chơi bóng còn lại đang định nói gì đó, anh ta liền nhún nhún vai, quay sang nói với bạn: “Đừng làm bạn nhỏ sợ!” rồi cúi người tiếp tục so gậy, nhanh nhẹn chống tay, thử gậy, ngắm chuẩn, chọc, một đường bóng đẹp. Anh ta đứng thẳng người, vác gậy chọc bóng lên vai, vừa tìm điểm đặt gậy tiếp theo vừa cười liếc nhìn tôi, như muốn hỏi: “Người cận thị có thể làm được thế không?” Người thanh niên đứng xem bên cạnh bàn bida khoảng hơn hai mươi tuổi. Anh ta cúi người xuống cầm chai bia dưới đất lên. Nhìn thấy hình xăm trên người anh ta, tôi bỗng cảm thấy bất an. Không nói không rằng, tôi vội vã quay người, đi ra ngoài. Lúc đầu tôi nghĩ, cô Triệu sẽ tức tối gọi cho bố mẹ mách tội tôi. Chắc chắn, bố mẹ sẽ mắng tôi một trận. Nhưng khi về nhà, bố chỉ đưa cho tôi những bài tập ngày hôm ấy, yêu cầu tôi làm lại một lần nữa. Nhìn tôi làm xong, bố không nói gì, bảo tôi đi ăn cơm. Ăn cơm xong, bố mẹ ngồi trong phòng thì thầm với nhau rất lâu, chắc chắn đang bàn cách để “xử lý” tôi. Trước giờ ngủ, mẹ dịu dàng nói: “Cho dù nguyên nhân xuất phát từ đâu, con ngang nhiên cãi lại cô giáo như thế cũng là không đúng, ngày mai đến lớp, con hãy tới gặp cô Triệu và xin lỗi cô. Còn nữa, chiếc bút này là bố con mua khi đi công tác ở Bắc Kinh, bây giờ tặng lại cho con, sau này con cần thứ gì thì cứ nói với bố mẹ.” Tôi biết, cô Triệu đã nói với bố mẹ tôi chuyện ăn cắp bút lần trước, nhưng có lẽ mẹ sợ chạm tới lòng tự trọng của tôi nên không hỏi câu nào, tôi cũng không nói, kéo chăn nằm
xuống. Mẹ còn định nói thêm gì nữa, nhưng em gái đã gọi toáng lên trong nhà vệ sinh, mẹ đứng ngay dậy, đặt chiếc bút lên bàn, rồi vội vội vàng vàng đi ra. Tôi nghe thấy tiếng cười vọng ra từ nhà vệ sinh, kéo chăn trùm kín đầu. Ban ngày, khi bị cô Triệu chửi mắng, đánh đập, tôi không khóc, nhưng lúc này, không biết tại sao, nước mắt lại lã chã rơi. Nếu có ông ngoại ở đây, liệu ông có thương tôi không, liệu ông có nói với cô Triệu bằng một giọng chắc nịch rằng: “Kỳ Kỳ không bao giờ ăn cắp đồ của người khác.” Liệu tôi có thể lao vào lòng ông để khóc không?
3. Tôi trở thành con gấu trúc bốn mắt Ghét cô giáo, nên không học giờ của cô, thành tích học tập kém, cuối cùng ai sẽ là người lĩnh hậu quả đây? Trong mắt người lớn, sự phản kháng của trẻ con có thể vừa buồn cười lại vừa ấu trĩ, nhưng đấy là cách duy nhất mà chúng ta biết, bi tráng tới mức chỉ có thể tiến về phía trước mà không được quay đầu lại. Mặc dù mẹ dặn là phải đến xin lỗi cô Triệu, nhưng tôi không làm thế, tôi không cảm thấy có lỗi với mụ phù thủy độc ác ấy. Sau lần công khai phản kháng lại tội danh chép bài tập, sự sợ hãi cực độ của tôi đối với cô ta chuyển thành sự chán ghét cực độ. Mỗi lần đến tiết học toán, tôi ngang nhiên nằm bò ra bàn ngủ, hoặc đọc tiểu thuyết. Nếu cô ta ném phấn vào đầu tôi, tôi sẽ ngẩng đầu lên, trừng mắt nhìn cô ta, chẳng phải cô muốn tôi nghe giảng sao? Vậy thì bây giờ tôi sẽ “tập trung tinh thần” để nghe. Bài tập tôi cũng không tự làm nữa, nếu cô ta đã cho rằng tôi chép bài, vậy thì tôi cũng không nên phụ cái hư danh đó. Tôi không thèm làm bài tập toán. Tất cả bài tập toán, tôi đều chép của bạn khác. Cũng có thể mọi việc trên thế giới này đều như thế, mềm sợ cứng, cứng sợ ngang, ngang sợ bất cần đời. Khi ấy, mặc dù còn nhỏ tuổi, nhưng nỗi căm hận của tôi dành cho cô Triệu không nhỏ, bộ dạng lúc nào cũng như muốn quyết sống mái một phen, dần dần cô ta cũng không buồn để ý tới tôi nữa. Nói ra thì cũng buồn cười mà cũng đáng thương, lần đầu tiên khi tôi muốn chép bài, tôi lại không mượn được vở để chép. Trong lớp học này, tôi chẳng có người bạn nào, những người mà tôi có thể mượn vở là những người ngồi đằng trước, phía sau, bên trái, bên phải tôi, nhưng bọn họ đều không chịu cho tôi mượn. Khi tôi đang thầm cười mỉa rằng cô Triệu đã đánh giá mình quá cao thì Trương Tuấn khệnh khạng đi đến, không nói không rằng, ném vở bài tập của cậu ta lên bàn tôi. Nhất thời tôi không phản ứng kịp, cứ ngẩn người ngồi nhìn quyển vở của cậu ta. Cậu ta thấy tôi ngồi im, nghĩ rằng tôi không muốn chép bài của mình, không khách khí gì nói luôn: “Tớ chép bài của Trần Kình.” Trần Kình là thiên tài của lớp tôi, điểm toán bao giờ cũng đạt điểm tối đa, nhắm mắt làm bài thi mà vẫn bỏ xa người đứng vị trí thứ hai. Tôi liền mở vở ra và chép, không biết tại sao, trong lòng tôi rất cảm kích, nhưng không thể thốt ra được câu “cảm ơn”, chỉ cắm cúi chép, khẽ nói: “Bài cậu làm, tôi cũng chép.” Cậu ta cười nhạt một tiếng, cũng không biết rút cục là cười cái gì.
Tôi cứ nghĩ cậu ta đã đi rồi, nhưng một lúc lâu sau, giọng cậu ta lại bất thần vang lên trên đầu tôi: “Có ai chép bài mà như cậu không? Xin cậu đấy! Ít ra cũng phải thay đổi, chế biến khác đi một chút chứ?” Tôi luống cuống tẩy tẩy xóa xóa, lúc xong, ngẩng đầu định hỏi cậu ta xem thế này được chưa thì đã không thấy cậu ta đứng bên cạnh nữa. Cùng với chính sách cải cách kinh tế thị trường của Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc mở rộng cửa thị trường phía Nam. Đất nước Trung Hoa bắt đầu trải qua một quá trình thay đổi trước nay chưa từng thấy. Văn hóa Hồng Kông và Đài Loan đã ảnh hưởng đến Trung Quốc đại lục đầu tiên, trước cả kỹ thuật và kinh tế. Thời ấy, ai ai cũng say mê Sở Lưu Hương. Vai Sở Hương do Trịnh Thiếu Thu đóng đẹp trai tới mức đã trở thành cụm từ thay thế cụm từ “lịch lãm, phóng khoáng”. Nhà nhà đều xem Anh hùng xạ điêu. Ông Mỹ Linh gần như đã trở thành Dung Nhi trong lòng tất cả những người sống ở thập niên tám mươi thời ấy. Nhờ Bến Thượng Hải, khái niệm xã hội đen trong mắt các cô gái đều biến thành Châu Nhuận Phát. Chúng tôi đều đã từng vì muốn được xem những bộ phim ấy mà cò kè, mặc cả với bố mẹ, đấu trí đấu dũng. Tôi vì muốn xem Anh hùng xạ điêu mà vờ ngủ trước, đợi bố mẹ ngủ rồi, lén lút ngồi dậy, lẻn ra phòng khách xem ti vi, tiếng vặn rất nhỏ, tai phải áp sát vào ti vi để nghe. Thời ấy, xem ti vi không phải là chuyện cá nhân, mà là hành vi tập thể. Tối tối xem phim, ngày hôm sau tập trung bàn tán với các bạn. Tất cả những bài hát chủ đề trong phim, chỉ nghe là có thể chép lại toàn bộ lời, sau đó truyền tay nhau hát. Ai là người đầu tiên trong lớp có được lời bài hát của bộ phim mà ti vi vừa phát, thì đấy quả là một việc đáng kiêu ngạo, tất cả mọi người sẽ vây quanh bạn để xin lời bài hát đó. Hầu như nữ sinh nào cũng có sổ chép bài hát. Mọi người dùng bút máy nắn nót chép từng câu từng chữ, bên cạnh dán ảnh minh tinh Hồng Kông, Đài Loan, trang trí cho nó trở nên vô cùng đẹp đẽ. Trong các ca sĩ, nhóm nhạc của Hồng Kông và Đài Loan, Tiểu Hổ(3) là nhóm nhạc được yêu thích nhất. Poster và ảnh của họ được lưu truyền rộng rãi trong lớp, nữ sinh nào cũng bàn luận về Tiểu Hổ. Ba thành viên trong nhóm, mỗi người đều có một lượng fan riêng. Thành viên nào đẹp trai nhất vẫn là đề tài được các nữ sinh tranh luận liên miên không dứt. Những cuốn băng của nhóm Tiểu Hổ được truyền tay nhau, cả nam sinh và nữ sinh đều thích ngân nga bài Vườn táo xanh hạnh phúc, Cuộc hẹn của các vì sao, Tình yêu. Tôi không có bạn, vì vậy tất cả những niềm vui nho nhỏ ấy, tôi chỉ có thể đứng ngoài thưởng thức. Người bạn duy nhất của tôi là sách. Các loại sách. Chỉ cần trong tay có một cuốn sách, dù hiểu hay không, tôi đều đọc từ đầu đến cuối. Những khi thời tiết ấm áp, tôi có thể ngồi ở bất cứ đâu trong trường để đọc sách, nhưng khi thời tiết lạnh giá, tôi chẳng có nơi nào để đi. Tôi có một sở thích rất kỳ quái: thường xuyên đến cửa hàng game đó để đọc sách. Bỏ ra hai xu mua một cốc nước cam vắt, thu người ngồi trong một góc nào đó đọc sách, thỉnh thoảng lại nhấp ngụm nước, đảm bảo trước khi đứng dậy ra về là uống đến ngụm cuối cùng. Thực ra, tôi chẳng thích thứ nước cam vắt đó chút nào, nhưng trong trái tim nhỏ
bé của tôi, có một tiêu chuẩn trao đổi kỳ quái. Tôi mua một ly nước trái cây thì sẽ không cảm thấy là mình chiếm chỗ của người ta, tôi bỏ tiền ra, vì thế tôi có quyền đàng hoàng ngồi đó. Một thời gian dài, dần dần tôi cũng quen cả ba người ở bàn bida lần trước. Người đứng xem là ông chủ của cửa hàng này, họ Lý, mọi người đều gọi là anh Lý. Người gọi tôi là em gái tên Hứa Tiểu Ba, đang học cấp hai ở một trường điểm của thành phố, mọi người gọi là Tiểu Ba. Người còn lại lớn tuổi hơn anh ta, họ Địch, mọi người đều gọi là Ô Tặc, đang học ở một trường kỹ thuật. Trường kỹ thuật ở Trung Quốc, nhìn từ một góc độ khác có thể coi là “Trại tập trung học sinh yếu kém”, là cứ điểm của những học sinh thi trượt cấp hai hoặc học dốt. Thời gian đầu, khi tôi vào cửa hàng game ngồi đọc sách, Tiểu Ba cười xém bể bụng, Ô Tặc nhìn tôi bằng vẻ mặt khó tin và như muốn nói “đầu óc cô nhóc này có vấn đề rồi”, ra sức đả kích, cười nhạo tôi. Dù bọn họ có nói gì, tôi cũng làm như không nghe thấy. Đối với một đứa trẻ vừa không muốn về nhà vừa không muốn ở trường như tôi, căn phòng ấm áp này là một nơi không thể tốt hơn, mặc dù ở đây có rất nhiều người, nhưng họ không nhìn tôi như nhìn một học sinh yếu kém, cá biệt, tất cả đều khiến tôi thấy yên tâm. Anh Lý là người có vẻ hiểu sự đời nhất, không màng chuyện tôi dùng ké máy điều hòa và ánh sáng của mình, chỉ mỉm cười nói với Tiểu Ba: “Cô em gái của cậu rất thú vị.” Được ông chủ cửa hàng bật đèn xanh, tôi lại càng yên tâm hơn mỗi khi đến đó. Trong cửa hàng game, tôi dường như đã đọc hết tất cả những loại sách có trong nhà: Kim cổ truyền kỳ, Hồng lâu mộng, Thư kiếm ân thù lục, Bát tiên quá hải, Tiết Nhân Quý chinh đông, Tiết Đinh Sơn chinh tây, Tiết Cương phản Đường, Dương gia tướng… Trong số đó, tôi thích nhất một cuốn tiểu thuyết của Cổ Long bị thiếu, vì vậy, nhớ rất rõ tên tác giả này. Mỗi khi đọc sách, tôi thường quên ăn quên ngủ, có những cuốn sách không thể đành lòng đặt xuống, tôi thường cầm đèn pin rồi chui vào trong chăn đọc thâu đêm. Số sách tôi đọc càng ngày càng nhiều, những dòng chữ, con số trên bảng càng ngày càng mờ. Cho đến một hôm, bố thấy tôi xem ti vi mà phải cầm một chiếc ghế con gồi sát sàn sạt, gần như áp mặt vào ti vi, mới phát hiện ra tôi bị cận thị, bố đưa tôi đến bệnh viện để đo kính cận. Khi tôi đeo kính bước vào cửa hàng game, Tiểu Ba lúc ấy đang bận rộn trông coi cửa hàng gần như sững lại mấy giây, rồi tiếp tục làm việc của mình như không có chuyện gì. Làm mãi, làm mãi, đến khi không thể nhịn được nữa, bò lên mặt quầy mà cười, sau khi cười xong, lại ngồi thẳng người dậy, tiếp tục bận rộn. Khi Ô Tặc nhìn thấy tôi, chẳng buồn khách sáo, phá lên cười ngay, rồi nói với Tiểu Ba: “Em gái bốn mắt giờ không thể chê cậu cận thị được nữa nhé.” Không ai trong số họ bị cận thị, tôi là động vật quý hiếm, nói như lời Ô Tặc khi cười nhạo tôi là: “Trí thức! Quốc bảo! Quốc bảo!” rồi từ Quốc bảo trở thành gấu trúc, sau đó Ô Tặc gọi tôi là “Gấu Trúc Bốn Mắt”, cho tới tận khi tôi trở thành một thiếu nữ hai mươi tám tuổi, anh ấy vẫn gọi tôi là “Gấu Trúc Bốn Mắt” trước mặt tất cả mọi người.
Trong trường tiểu học, mặc nhiên, những học sinh đeo kính đều được nghĩ là do học hành chăm chỉ. Nực cười thay, tôi là đứa luôn đứng thứ nhất từ dưới lên, nhưng lại là một trong những học sinh đeo kính sớm nhất lớp. Sau một lần đổi chỗ ngồi, tôi và thần đồng Trần Kình được chuyển sang cùng một bàn, khi đó cậu ta vừa mới đeo kính, không kìm được tò mò hỏi tôi: “Sao cậu lại phải đeo kính?” Tôi cười ha ha trả lời: “Mình xem ti vi.” Do mỗi lần cầm sách lên, tôi quên hết những gì đang xảy ra trong thế giới bên ngoài trang sách, nên trong mắt của Tiểu Ba và Ô Tặc, tôi là một con mọt sách ngốc nghếch. Cửa hàng game thường mở những bản nhạc đang hot. Có một lần, ở đấy mở bài Vườn táo xanh hạnh phúc của nhóm Tiểu Hổ. Tôi chợt rời mắt khỏi trang sách, nghiêng đầu lắng nghe, Tiểu Ba liền hỏi: “Em thích nhóm Tiểu Hổ à?” Tôi lắc lắc đầu, lại gật gật đầu, rồi lại lắc lắc đầu, đến album nhạc của họ tôi cũng chưa từng nghe một lần nghiêm túc, làm sao biết được mình có thích họ hay không? Ô Tặc cười: “Gấu Trúc Bốn Mắt đọc sách nhiều thành ngớ ngẩn rồi, đến thích hay không thích mà cũng không biết.” Tôi trừng mắt nhìn anh ta, không đáp. Khi tôi chuẩn bị về, Tiểu Ba liền nhét vào tay tôi một cuộn băng nhìn có vẻ sờn cũ: “Tặng em!” Ngoài vỏ cuộn băng là ảnh nhóm Tiểu Hổ, tôi cầm ngay lấy, vui mừng nhìn ngắm một hồi, rồi lại đặt xuống, lặng lẽ nhìn Tiểu Ba. Anh ta cười: “Cái này dành cho học sinh tiểu học nghe, bọn anh không mấy khi nghe. Nếu em không lấy, thì không biết chừng vài ngày nữa, bọn anh sẽ vứt vào xó nào đó.” Tôi cầm lại cuộn băng, cũng không nói một tiếng “cảm ơn”, mà chạy ngay ra khỏi cửa hàng game. Tối hôm đó, tôi ôm chặt chiếc đài nhỏ trong nhà để nghe nhóm Tiểu Hổ hát, nghe đi nghe lại những bài hát mà mọi học sinh đều hát theo, nghe thật kỹ những ca từ mà từ trước tới nay tôi không có cơ hội được nghe một lần cho rõ. Trong tiếng hát của nhóm Tiểu Hổ, tôi có cảm giác hốt hoảng, như mình không phải là đứa học sinh hư bị các bạn bài xích, hít le. Cô em gái nghe thấy giọng của nhóm Tiểu Hổ, lần đầu tiên chủ động sán lại gần, hỏi tôi ở đâu mà có với giọng đầy ngưỡng mộ. Tôi mỉm cười, kiêu ngạo nói với nó rằng, bạn tôi tặng. Khi nói ra từ “bạn”, trong tim tôi trào dâng một cảm giác ấm áp lạ kỳ. Khi ấy, tôi không hiểu đó là cảm giác gì, trong tiềm thức của tôi, tôi chỉ biết rằng, đó là một thứ quý giá, vô cùng quý giá. Một buổi chiều, tôi đang thu mình trong góc quán game đọc sách, xung quanh chỉ có tiếng máy game đang vận hành, và thỉnh thoảng là những tiếng chửi thề của những người chơi game thua cuộc.
Tôi vui vẻ cầm cốc nước quả lên định uống, đột nhiên nghe thấy có tiếng khóc từ bên ngoài vọng vào. Tiếng gào như rung động cả trời đất, kinh động cả quỷ thần kia rất quen thuộc, mỗi lần vang lên là khiến bố mẹ tôi mặt mày biến sắc, một tiếng là mềm lòng, hai tiếng là đầu hàng, đến tiếng thứ ba thì không gì không đáp ứng. Không phải là tiếng khóc của đứa em gái õng ẹo của tôi, thì là ai? Tôi bình tĩnh đặt cốc xuống, làm như không nghe thấy, cúi đầu, tiếp tục đọc sách. Nhưng đây là thế giới bên ngoài, tiếng la khóc của cô em gái không thể gọi bố mẹ tôi đến, không có ai cưng chiều thỏa mãn mọi đòi hỏi của nó. Vì vậy, nó vẫn khóc, thậm chí nức nở, không thành tiếng, nghe như có thể ngất xỉu bất cứ lúc nào. Ô Tặc không thể chịu nổi âm thanh nhức nhối, não nề đó nữa, vén rèm cửa, nhìn ra ngoài. Đầu tôi vẫn cúi gằm xuống trang sách, nhưng ánh mắt không kìm được bèn liếc theo. Hai đứa con gái mặc đồng phục cấp hai, một đứa để mái xéo chặn em tôi lại bên đường. Có thể là chặn đường để cướp tiền tiêu vặt, cũng có thể là do em gái tôi đã đắc tội với đứa nào đó, nên nó đã gọi “đại tỉ tỉ” của nó đến để dạy cho em tôi một bài học. Bạn của em gái tôi co ro, cúm rúm đứng bên cạnh, không dám ho he gì. Hai đứa con gái đó đang hung tợn nói gì đó với em gái tôi, nhưng cô em gái bé nhỏ của tôi dường như chẳng để ý, cứ ngửa cổ lên trời, ngoạc mồm ra gào khóc, cảnh tượng nực cười vô cùng. Với tính cách của em tôi, có lẽ hai đứa kia còn chưa kịp nói hết câu, mới tỏ thái độ hung hăng là nó đã bắt đầu ngửa cổ lên trời gào khóc rồi. Hai bậc đàn chị chưa kịp lấy lại công bằng cho ai đó thì đã thu hút một đám khán giả hiếu kỳ vây quanh. Bọn họ liên tục ra lệnh, yêu cầu em gái tôi nín, nhưng họ không hiểu em gái tôi rồi, nó không những không nín mà ngược lại còn khóc to hơn. Trong đó có một đứa con gái hơi béo, chắc cảm thấy đến một đứa trẻ đít còn xanh mà cũng không xử lý được, nên lòng tự trọng bị đả thương nghiêm trọng, bực quá liền giơ tay cho em gái tôi một cái bạt tai. Tôi luôn tự nhủ, “không liên quan gì tới mình”, nhưng khi nhìn thấy cái bạt tai đó, chưa kịp suy nghĩ, tôi đã nổi điên lên mà lao ra ngoài như một con bò đực. Theo lời kể của Ô Tặc sau đấy, thì anh ta chỉ cảm thấy có một luồng sát khí xẹt qua người mình, đến khi anh ta định thần lại, tôi đã đánh ngã một đứa. Tôi cúi xuống, nhằm thẳng vào đứa con gái béo kia, đâm đầu vào ngực nó. Con gái ở tuổi ấy, đang trong giai đoạn dậy thì nên ngực cũng mới nhú, cú đâm hung hăng ấy khiến nó đau tới mức phải ngồi xổm xuống đất. Đứa con gái còn lại sững người một lúc mới hiểu ra vấn đề. Thấy tôi thấp bé hơn, nó kiêu căng ngẩng cao đầu, xông đến định tát tôi, tôi nhanh nhẹn né sang một bên, chồm lên, vừa húc đầu vào nó, vừa lên gối. Nó cao hơn tôi, nên túm chặt lấy tóc tôi, ra sức giật lên, lần đầu tiên đánh nhau nên tôi cũng phải học từ thực tế, tôi túm lấy tóc nó mà giật xuống. Khi đó, toàn thân đau nhức, nhưng tôi vẫn lao lên như muốn thí mạng, bằng mọi cách phải đánh được nó. Nó kéo tóc tôi, thì tôi cũng ra sức kéo tóc nó. Nó cấu tôi, tôi càng cố cấu nó mạnh hơn. Khi cả hai chúng tôi đều ngã lăn ra đất, nó còn định dùng móng tay
cào vào mặt tôi. Không chịu thua, tôi cào nó, thậm chí còn dùng đến cả miệng, ngoạm một miếng, mặc cho nó đánh, nó vùng vẫy thế nào tôi cũng không nhả ra, mùi máu càng lúc càng nồng nặc, tôi vẫn không chịu nhả, chỉ gắng sức ngoạm chặt hơn. Đột nhiên, nó bắt đầu gào khóc, khóc còn to hơn cả em gái tôi. Ô Tặc và Tiểu Ba mỗi người túm một đứa, tách chúng tôi ra. Khi tôi bị Tiểu Ba kéo ra, vẫn không ngừng đạp chân loạn xạ để đá vào đứa con gái bị tôi đánh tới khóc ngất kia. Ô Tặc và Tiểu Ba lặng lẽ nhìn tôi, như nhìn một tiểu quái vật. Trên mặt, trên cổ tôi đều có máu, mắt kính đã bị đập vỡ, một mảng tóc gần tai bị giật đứt, còn đứa con gái kia thì suýt bị tôi cắn đứt một miếng thịt trên cổ tay, máu chảy ròng ròng không cầm được. Bạn nó sợ tới mức mặt mày trắng bệch, cũng bắt đầu khóc. Tôi đưa tay lên miệng quệt máu, nhìn chúng cười gằn. Em gái tôi lúc này không khóc nữa, ngây ngô đứng sang một bên. Tiểu Ba kéo tôi vào trong cửa hàng, vừa dùng cồn rửa vết thương cho tôi, vừa nhìn đứa em gái đi theo tôi, hỏi: “Nó là gì của em?” Tôi như bị trúng gió, miễn cưỡng nói: “Nó là em gái em.” “Em có em gái?!” “Cậu có chị gái?!” Cả Tiểu Ba và bạn em tôi cùng thốt lên kinh ngạc. Tôi quay đầu đi, em gái tôi cúi gằm đầu xuống. Do tôi học dốt, lại có biệt danh là “ba ngón”, nên đứa em gái kiêu căng và ưa thể diện của tôi chưa bao giờ nói với các bạn là nó có chị, dù chúng tôi học cùng trường. Thỉnh thoảng gặp tôi ở sân trường, nó vội vàng quay đầu nhìn đi chỗ khác, vờ như không thấy tôi. Tôi cũng vui vì khỏi phải tỏ ra quen biết một đứa em gái như thế. Dù sao tôi cũng chẳng yêu quý gì nó. Tôi đuổi em gái về trước, một mình ngồi ngẩn ra trong cửa hàng game. Tai họa tôi vừa gây ra không nhỏ. Tôi còn chưa biết phải đối mặt với bố mẹ thế nào. Ô Tặc đột nhiên cầm một con dao gấp ra, khẽ lắc một cái, lưỡi dao đã bật ra: “Cách đánh nhau của em chưa được.” Anh ta múa múa con dao về phía tôi, tỉ mỉ giảng giải. Tiểu Ba lẳng lặng túm chặt lấy cổ tay Ô Tặc, quay nhẹ một cái, rồi đoạt lấy con dao. Ngón tay gẩy khẽ, lưỡi dao đã khép lại. Rõ ràng, nếu là đang đánh nhau, cho dù Ô Tặc có dùng dao, chưa chắc đã thắng được Tiểu Ba. Tiểu Ba ném trả con dao cho Ô Tặc, không khách khí hỏi: “Anh bị thần kinh à?” Ô Tặc cười hề hề: “Còn hơn là dùng miệng”, rồi nửa đùa nửa thật nói với tôi: “Em nhận Tiểu Ba là anh trai, rồi bảo cậu ta dạy cho cách đánh nhau, đảm bảo sau này không ai dám động tới em.”
Tôi lườm một cái, rồi mặc kệ anh ta. Giờ điều tôi đang lo lắng là phải đối mặt với bố mẹ thế nào chứ không phải là đánh như thế nào. Chần chừ cho tới lúc không thể chần chừ hơn nữa, tôi mới về nhà. Trong nhà đèn điện sáng choang. Bố mẹ của đứa con gái kia đang ở trong phòng khách, mặt đằng đằng sát khí. Mẹ nó giống như ếch gặp nước nóng, vừa nhảy lên chồm chồm, vừa mồm năm miệng mười chửi mắng bố mẹ tôi. Bố mẹ tôi không ngớt lời xin lỗi họ. Thấy tôi đi vào, tiếng mắng chửi của mẹ đứa con gái ấy càng lanh lảnh hơn, cứ như nếu bố mẹ tôi không đem tôi ra chém đầu chấp pháp ngay thì không thể khiến lòng dân hả giận vậy. Tôi không thèm để ý tới bà ta, quay sang kể lại với bố toàn bộ câu chuyện. Tôi sử dụng chính sách đầu hổ đuôi rắn, bỏ qua những tình tiết nặng, chỉ kể những tiểu tiết, trọng điểm nhấn mạnh vào chỗ đồng bọn của con gái bà ta đã bắt nạt em tôi như thế nào, tát em gái tôi ra sao. Em gái tôi đứng một bên, nước mắt ngắn nước mắt dài gật đầu tới tấp, trên má vẫn còn hằn năm vết ngón tay, chứng cứ hết sức rõ ràng. Tiếng gầm rú nhỏ dần, bà ta gân cổ lên cãi: “Con gái tôi không bao giờ làm những việc như thế.” Tôi không phản bác lại quan điểm của bà ta mà tiếp tục kể, vốn con gái bà ta từ đầu tới cuối chỉ đứng một bên, nhưng do đồng bọn xúi giục, cuối cùng cũng đánh tôi một cái. Còn tôi đánh con gái bà ta, hoàn toàn là do tự vệ. Dù sao tôi cũng không sai. Con bà ta cũng chẳng sai gì nhiều, đáng ghét nhất vẫn là đứa đồng bọn của con gái bà ta. Bà ta cũng dần nguôi giận, ngồi xuống ghế sofa, vừa lau nước mắt vừa nói con gái bà ta bị đứt mạch máu ở cổ tay, mất rất nhiều máu, bác sĩ nói nếu đưa đến bệnh viện muộn chút nữa là sẽ nguy hiểm tới tính mạng. Bố mẹ tôi lại tiếp tục xin lỗi. Bố nói tất cả mọi chi phí ngoài bảo hiểm đều do gia đình tôi chi trả, mẹ thì lôi ra rất nhiều đồ bổ dưỡng tặng cho họ, nói là để con gái họ bồi dưỡng. Không khí dần dịu lại, cuối cùng là tiễn họ về. Chuyện xảy ra lần này suýt thì nguy hiểm tới tính mạng, bố mẹ tôi đều sợ hãi tột độ. Họ nhất trí cho rằng, mặc dù tôi làm thế là để bảo vệ em gái, nhưng đánh nhau vẫn sai, vì vậy vẫn phạt tôi quỳ nửa buổi tối trên bàn xát quần áo. Vấn đề giữa người lớn đã được giải quyết ổn thỏa với thái độ thỏa hiệp của bố mẹ tôi, nhưng vấn đề giữa những đứa trẻ thì vẫn chưa được giải quyết. Đứa con gái béo kia vừa muốn báo thù cho bạn, vừa muốn lấy lại thể diện, thế là đi tìm hai tay đàn chị thật sự, muốn dạy cho tôi một bài học. Hôm đó, tôi vừa tan học, phát hiện thấy có hai đứa con gái khá xinh đẹp đi theo sau mình. Chưa từng ăn thịt lợn thì cũng phải từng nghe tiếng lợn kêu, tôi hiểu ngay đây là những người được “mời” đến để đánh tôi. Tôi co giò lên chạy, không dám về nhà, mà chạy về phía cửa hàng game. Suy nghĩ của tôi khi ấy rất đơn giản. Đường về nhà vắng vẻ ít người, còn ở phòng game lại rất đông người, dù bọn họ có đánh tôi, cũng không dám nặng tay. Tôi thở hồng hộc chạy vào cửa hàng game, Tiểu Ba và Ô Tặc ngạc nhiên nhìn tôi. Họ còn chưa kịp hỏi tôi thì hai tay đàn chị kia đã lao vào theo, một đứa chắn trước mặt tôi, một
đứa chặn đằng sau, rõ ràng, lần này quyết không cho tôi thoát thân. Tôi như con sói nhỏ bị đàn chó săn bao vây, mặc dù sợ nhưng không chịu tỏ ra yếu thế, tay nắm chặt thành nắm đấm, mắt nhìn chúng trừng trừng. Bọn chúng đang định dạy cho tôi bài học đầu tiên về ân oán giang hồ thì Ô Tặc gõ gõ lên mặt quầy, nhìn một trong hai đứa con gái, cười vừa gian tà vừa đê tiện: “Sư tỉ, nể tình học cùng trường, thằng em nhắc nhở chị một câu, muốn gây sự thì phải nhìn lại xem đây là quán của ai đã chứ?” Một trong hai đứa con gái nhìn khá xinh xắn liền liếc mắt nhìn Ô Tặc một cái, có chút hoang mang, rõ ràng là không quen Ô Tặc. Ô Tặc liền lớn tiếng báo tên và chuyên ngành mà mình đang theo học ở trường kỹ thuật. Tay đàn chị đứng chặn phía sau tôi nói: “Đúng là sư đệ của cậu đấy!” Cô nàng xinh đẹp kia cười, hỏi: “Vậy đây là cửa hàng của ai?” Ô Tặc nói ra đại danh của anh Lý. Cô nàng xinh đẹp tỏ vẻ thất kinh, phải mất một lúc sau mới lấy lại được bình tĩnh, chỉ chỉ vào tôi, cười nói: “Vậy chắc cậu không có quan hệ gì với con nhóc này chứ?” Giọng của cô ta nghe rất điệu, từ “chứ” sau cùng nghe rất tình tứ. Ô Tặc suýt chút nữa thì mềm nhũn sau quầy thu ngân nhưng lại lập tức nghiêm giọng vạch rõ ranh giới. “Con Gấu Trúc Bốn Mắt này không có quan hệ gì với thằng em”, cô nàng xinh đẹp liền mỉm cười quay sang nhìn tôi, Ô Tặc bồi thêm một câu: “Nhưng lại có quan hệ với cậu ta.” Ánh mắt cô ả nhìn theo ngón tay Ô Tặc hướng về phía chính diện của quầy thu ngân. Một cậu học sinh đang đổi mười tệ lấy xu. Tiểu Ba chăm chú cúi đầu đếm xu cho cậu ta. Cô ả nhìn một lúc, rồi quay sang tôi cười với vẻ biết lỗi, “Em gái, thật ngại quá, bọn chị nhận nhầm người”, nói xong kéo đồng bọn đi mất. Ô Tặc hét với theo: “Người đẹp, lần sau cùng đi ăn nhé, địa điểm tùy em chọn.” Cô ả quay đầu lại, liếc nhìn anh ta rất tình tứ, rồi cười đi tiếp. Ô Tặc liền cười phá lên, cả ngày tinh thần cứ như trên mây. Tôi biết họ đã thay tôi hóa giải kiếp nạn này, dù vậy, tôi vẫn không thể thốt lên lời “cảm ơn”, chỉ có thể dùng một cách trả ơn khác. Chiều hôm đó, tôi nén lòng mua liền một lúc năm ly nước cam ép, và đi vệ sinh vô số lần. Ô Tặc hỏi tôi với vẻ khó hiểu: “Em ăn thức ăn mặn quá hay sao? Uống nhiều nước thế?” Tôi trợn mắt với anh ta: “Liên quan gì đến anh?” Tiểu Ba chỉ mỉm cười nhìn tôi. Tôi biết anh ta đã nhìn thấu tâm can tôi nên ngượng ngùng, thoáng đỏ mặt, vờ như không có chuyện gì, tiếp tục đọc sách. Sau lần trải qua “chiến dịch” một mình đánh lại hai nữ sinh cấp hai này, thậm chí một trong hai người còn bị tôi đánh trọng thương phải vào bệnh viện, tên tuổi của tôi nổi như cồn khắp trường.
Mọi chuyện trên thế giới này thật cổ quái, Ví dụ như, bạn nợ người khác năm nghìn tệ thì bạn không khác gì con cháu, phải cầu cạnh người ta, nhưng nếu bạn nợ người khác năm trăm nghìn tệ, thì người ta mới là con cháu của bạn, phải cầu cạnh bạn. Làm học sinh cá biệt hình như cũng như thế. Nếu bạn là một học sinh kém bình thường, bạn bè đều coi thường bạn, lúc nào cũng có thể tỏ ra cao ngạo với bạn. Nhưng nếu bạn là học sinh kém cá biệt thì mọi chuyện lại chuyển biến theo chiều hướng khác. Tôi giờ đang ở trong tình trạng ấy. Trước kia, có bạn nữ đã dám đứng trước mặt gọi tôi là “ba ngón” với âm lượng đủ cho tôi nghe được. Bây giờ, cho dù có bàn tán về tôi sau lưng thì họ cũng phải hạ giọng tới mức thấp nhất có thể. Trong lòng họ vẫn coi thường tôi như thế, nhưng không dám thể hiện ra mặt nữa, mà ngược lại, rất lễ phép, khách sáo với tôi. Một vài bạn nữ cũng học kém như tôi thậm chí còn có ý định tiếp cận tôi, dường như muốn nhận tôi làm chị cả, tôi cảm thấy rất nực cười. Và tôi cũng đã hiểu tại sao Trương Tuấn lại không thiếu đồng bọn. Cậu ta từ lâu đã trở thành một học sinh cá biệt tới mức không thể cá biệt hơn nữa.
5. Tình đầu chớm nở Tình đầu, đúng là đóa hoa có tên gọi tình đầu đó, giây phút mà nó hé nở, không sớm một bước, cũng chẳng muộn một bước, giống như đúng lúc anh ấy ở đó. Tình cảm đầu đời, đúng vậy, đóa hoa tinh khiết trong trắng nhất trong nhân gian, cả đời cả kiếp này chỉ nở một lần, khi nở thì thơm ngát, khi tàn thì cay đắng, không bao giờ kết trái. Năm học mới bắt đầu, chúng tôi lên lớp 5, trong lớp lại thay đổi chỗ ngồi. Tôi và thần đồng Trần Kình ngồi cùng bàn. Cùng với sự dậy thì của cơ thể, cảm giác của tôi dành cho những người bạn khác phái cũng dần dần thay đổi. Giữa học sinh nam và học sinh nữ trong lớp bao trùm một không khí thần bí. Sau khi vào đại học, trao đổi với các bạn cùng phòng mới biết, mặc dù chúng tôi, người ở miền Nam, kẻ ở miền Bắc của tổ quốc, nhưng những mối tình đầu chớm nở ở cấp tiểu học của chúng tôi đều khiến người ta kinh ngạc như nhau. Đấy là, về cơ bản, chủ nhân của những mối tình đầu đó đều học cùng một lớp. Các học sinh nam trong lớp sẽ thích hai hoặc ba bạn nữ xinh xắn, hát hay múa đẹp, được thầy cô giáo quý mến, còn toàn bộ học sinh nữ trong lớp, không có gì ngạc nhiên khi cùng thích hai hoặc ba học sinh nam có thành tích học tập ưu tú, được thầy cô giáo nâng như nâng trứng. Thời tiểu học, thích và mến thầm có tính nhất quán đến tuyệt vời. Trong lớp chúng tôi, đối tượng có thể chọn để thích, để yêu thầm của bọn con trai còn có hai, ba người, chứ các bạn nữ trong lớp thì hầu như ai cũng thích Trần Kình. Cũng chẳng có cách nào khác, anh bạn này quá nổi trội lại tài giỏi. Gia thế tốt, bố làm quan to ở Sở Giáo dục, mẹ là phó giám đốc đài truyền hình của thành phố. Bản thân cậu ta thông minh, thầy cô giáo giảng câu trước trên bục giảng thì ở dưới cậu ta giảng câu tiếp theo; đa tài, biết chơi violon, hằng năm khi đến hội diễn văn nghệ của trường, “tay nghề” violon của cậu ta nhất định sẽ mang về cho lớp chiếc cúp vàng danh giá; nhưng tính cách cũng rất vênh váo. Cô giáo Triệu chỉ còn thiếu nước chiều cậu ta như chiều con mình,
trong khi cậu ta lại rất lãnh đạm với cô. Học sinh tiểu học thường sùng bái thầy cô giáo của mình, hiện tượng này thật hiếm gặp. Khi ấy, mặc dù tôi đã xem một đống tạp chí, thậm chí đến Hồng lâu mộng cũng đã đọc hết, nhưng thật đáng ngạc nhiên, tôi vẫn chưa biết thế nào là rung cảm đầu đời. Mỗi lần thấy có bạn nữ nào trong lớp lấy cớ đến hỏi bài, chiếm chỗ ngồi của tôi không chịu rời đi, tôi không cảm thấy lạ một chút nào cả, chỉ cho rằng các bạn nữ trong lớp thật chăm chỉ, có chí tiến thủ. Trần Kình rất thông minh, cũng sớm trưởng thành, cậu ta biết rất rõ tâm tư và tiểu xảo của những bạn nữ đó. Cậu ta tận hưởng sự ngưỡng mộ của tất cả các bạn nữ trong lớp, nhưng trong lòng lại thấy rất bực mình. Có một lần, cậu ta bị một bạn gái bám riết nửa ngày. Cậu ta vẫn giữ vững phong độ bình thản ngồi giải đáp tất cả những câu hỏi mà cô bạn kia đưa ra, cho đến tận khi chuông vào lớp reo, cô bạn đó buộc phải trở về bàn của mình. Khi tôi trở về chỗ ngồi, cậu ta tức giận nói: “Chỗ của cậu, cậu đừng để người khác tùy tiện ngồi, nếu không bao nhiêu công sức mình bỏ ra để sắp xếp cho cậu ngồi cùng bàn với mình đều lãng phí cả hay sao. Cậu hãy nể mặt mình vì ngày ngày đều được chép bài của mình, lần sau giúp mình ngăn cản mấy cô bạn đó.” Tôi bỏ gần một nửa tiết học để suy nghĩ về câu nói ấy, cuối cùng cũng hốt hoảng ngộ ra. Tôi đã nói rồi mà! Khi ấy tôi đã cảm thấy rất kỳ lạ, làm sao mảnh đất màu mỡ đó lại được tôi chiếm nhỉ? Thì ra là như thế! Cậu ta học giỏi nhất lớp, lại là lớp trưởng, luôn là học sinh ba giỏi, cán bộ lớp ưu tú, nếu không giúp các bạn giải đáp các thắc mắc, thì thật không phù hợp với hình tượng sáng chói của cậu ta. Nhưng nếu giúp mọi người rồi, thì lại không phù hợp với tính ích kỷ của cậu ta. Truyền thống ở trường của chúng tôi là nam nữ ngồi cùng bàn. Tôi là nữ, đủ điều kiện để ngồi cùng bàn với cậu ta. Thành tích học tập của tôi kém, lại là người thà không học chứ quyết không bao giờ hỏi cậu ta. Một người vừa không làm phiền cậu ta, vừa không gây tổn hại đến hình ảnh mà cậu ta xây dựng, còn ai ngồi cùng bàn lý tưởng hơn tôi chứ. Khi nhận ra bộ mặt thật của người bạn khác giới ưu tú trong mắt giáo viên, phụ huynh và những học sinh khác trong lớp này, tôi không cảm thấy cậu ta đáng ghét hơn trước, nhưng cũng không thấy cậu ta tốt hơn trước. Cậu ta là người mang tên Trần Kình, một thần đồng có thành tích học tập xuất sắc, một người ở ngoài thế giới của tôi. Khi ấy, có nằm mơ tôi cũng không nghĩ rằng, cậu ta không chỉ là bạn học tiểu học, mà sẽ còn trở thành vị sư huynh khóa trên của tôi trong trường Thanh Hoa(4). Ngày hôm đó, cũng giống như bao nhiêu ngày bình thường khác, tất cả đều vận hành theo lịch trình đã lên sẵn. Khác là ở chỗ, tôi đã dậy muộn, lại còn đến ngày kinh nguyệt. Tôi vẫn chưa cảm thấy quen với “bà cô già” mỗi tháng lại đến thăm mình một lần này, sau khi vụng về, lóng ngóng xử lý xong, chuẩn bị đi học, thì đã muộn giờ. Ra khỏi cửa, bầu trời vẫn luôn âm u càng trở nên âm u hơn. Trên trời, những đám mây đen dày đặc chồng chéo xếp lên nhau như sắp đổ ập xuống đất đến nơi. Không thấy bóng dáng mặt trời, mặc dù là ban ngày, cảm giác như đang chiều tối vậy.
Tâm trạng của tôi vốn cũng không tốt lắm, nhìn sắc trời thế này, nghĩ đến việc mình đi muộn sẽ khiến lớp bị trừ điểm chuyên cần, ảnh hưởng tới việc nhận cờ đỏ vào tuần sau, chắc chắn cô giáo Triệu sẽ không để yên, tâm trạng tôi lại càng ủ dột hơn. Vì không phải giờ đi làm, đi học, con đường tôi đi lại không phải là đường chính, nên xung quanh không một bóng người, chỉ có những rặng liễu đang vui đùa nhảy nhót theo từng cơn gió. Lưng đeo cặp sách, tôi khó nhọc bước đi trong ngược gió. Đang nặng nề cất bước, không hề có một tia chớp hay tiếng sấm nổ báo trước, cơn mưa đá bất thình lình ập tới, rơi lộp độp vào người. Nhưng đã muộn rồi, tôi không dám dừng lại trú mưa mà vẫn tiến về phía trước, mặc cơn mưa đá đang xối xả trút xuống người, đau đớn! Cùng với cơn mưa đá, gió càng lúc càng mạnh. Tôi người nhỏ sức yếu, cảm giác cứ bước được một bước thì bị gió đẩy lùi lại quá nửa bước. Đi mãi, gần như vẫn giậm chân tại chỗ. Đang lo lắng, đột nhiên, có ai đó đuổi kịp tôi từ phía sau, túm lấy tay tôi, kéo tôi chạy về phía trước. Thoáng kinh ngạc. Khi nhìn rõ là Trương Tuấn, tôi muốn nói. Vừa mở miệng, gió đã cuốn theo cả những viên đá nhỏ chui vào trong, lời còn chưa kịp thốt ra, nhưng đá thì đã được ăn. Cậu ta vừa chạy vừa mím chặt môi, hình như đây chính là nguyên nhân khiến cậu ta không nói câu nào. Cậu ta cao hơn tôi cả một cái đầu, cũng khỏe hơn tôi rất nhiều, tôi chỉ cảm thấy áp lực trên người nhẹ hơn, lực cản của gió dường như cũng giảm. Cậu ta kéo tôi lao đi, đối mặt với cuồng phong, chạy trong cơn mưa đá. Không biết tại sao, tôi bỗng thấy trong lòng tươi sáng hơn, cảm giác mỗi bước chân đều tràn đầy năng lượng, mưa đá quất vào mặt cũng không đau. Khi đến cổng trường, cậu ta thản nhiên buông tay tôi ra, cười rồi chỉ chỉ vào khu lớp học, ý bảo tôi vào lớp trước. Căn cứ vào quy luật trừng phạt, toàn bộ sự chú ý của giáo viên sẽ tập trung vào người nào đi muộn nhất. Cậu ta bảo tôi đi trước, cũng có nghĩa sẽ khoác toàn bộ tội danh đi muộn lên người mình. Đột nhiên khi ấy, không vì bất cứ nguyên nhân nào, tim tôi đập thình thịch, mặt đỏ bừng lên, vội vàng cúi đầu, chạy thục mạng vào lớp. Rất may, do có mưa đá, nên đội cờ đỏ đã trở về lớp, việc chúng tôi đi muộn không bị nhà trường bắt gặp, trừ điểm của lớp, mà chỉ bị giáo viên giờ tự học sáng hôm ấy kiểm soát thôi. Cô giáo ngữ văn đang phê bình tôi, Trương Tuấn lại uể oải xuất hiện ở cửa lớp học hô “báo cáo”. Quả nhiên, cô giáo ngữ văn vội vàng nói với tôi thêm hai câu nữa, rồi cho tôi ngồi xuống, đi về phía cửa lớp để răn đe người có hành vi tệ hại hơn là Trương Tuấn. Tôi vội vàng mở sách ra, cúi đầu làm như chuyên tâm đọc. Nghe cậu ta giải thích nguyên nhân đến muộn với cô giáo, đầu tôi càng cúi thấp hơn, chóp mũi gần như chạm cả vào sách, tim đập hoảng loạn tới mức muốn nhảy khỏi lồng ngực, nhưng lại ngọt ngào như muốn ghìm chặt nó xuống, giống hồi còn nhỏ, ăn kẹo sô cô la nhân rượu bị say, lúc thì vui sướng như muốn bay lên, lúc lại cảm thấy buồn chán muốn chết ngay lập tức. Trần Kình hỏi: “Cậu sao thế?”
Tôi lặng lẽ lắc đầu. Cậu ta khinh khỉnh hừ một tiếng: “Cầm ngược sách rồi.” Tôi bối rối, vội vàng đảo lại quyển sách, vừa đảo xong, nghe tiếng cười như đang cố nén lại của người ngồi bên cạnh, tôi định thần nhìn lại, phát hiện lần này mới là ngược, lại vội vàng quay đầu sách. Trần Kình ngồi bên cười trêu: “Người như cậu mà cũng nói dối à, có điều ngay câu đầu tiên đã lộ chân tướng rồi.” Tôi cúi đầu, không đáp. Mưa đá tạnh đột ngột, cũng không có dấu hiệu báo trước giống như khi nó đến, dường như, chỉ là muốn tạo cơ hội cho chúng tôi được nắm tay nhau đi dưới mưa vậy. Trời vẫn âm u như thế, gió bắt đầu thổi nhẹ dần, lộp bộp có tiếng mưa rơi. Buổi chiều, khi sắp hết giờ học, tôi cảm thấy có gì đó không ổn, thò ngón tay xuống dưới mông sờ thử, có một vệt máu nhạt. Tôi lo lắng, không biết nên làm thế nào. Hiện tượng dậy thì sớm ở các bạn nữ trong lớp đã có từ một năm trước. Những bạn dậy thì muộn còn không biết đến tháng sẽ có kinh nguyệt, chuyện này trong đám con gái có tính bảo mật rất cao. Giờ nghĩ lại, sự trưởng thành của thế hệ chúng tôi khi ấy, bao giờ cũng đồng hành với sự bối rối. Thiếu thốn thông tin, các kênh để tìm hiểu có hạn, bố mẹ thường tỏ ra ngại ngần khi trao đổi với con cái về vấn đề giáo dục giới tính, giáo viên thì lại càng tệ hơn, hễ nói chuyện giới tính là mặt biến sắc, đa phần kinh nghiệm của các cô gái trong kỳ kinh nguyệt đầu tiên đều không vui vẻ gì. Kinh hoàng, xấu hổ, bối rối, sợ hãi, thậm chí có người còn tưởng mình mắc bệnh nặng, sắp chết. Một người bạn kể với tôi rằng, lần đầu tiên nhìn thấy mình bị ra máu, cô ấy tưởng mắc bệnh hiểm nghèo, âm thầm đau khổ cắn chặt chăn mà khóc, bề ngoài thì tỏ ra dũng cảm, giống hệt nhân vật nữ chính trong phim truyền hình, giấu “bệnh tình” của mình với người thân, không nói gì với bố mẹ, chỉ lặng lẽ chuẩn bị “hậu sự” cho mình, không dám ăn, không dám tiêu, bao nhiêu tranh ảnh thần tượng và băng đĩa vất vả sưu tập được, đều tặng lại cho em họ, dặn dò cô bé sau này phải chăm qua lại thăm nom bố mẹ mình. Sau khi sự việc bại lộ, cô em họ không chịu trả lại số tranh ảnh và băng đĩa, cô ấy đã dùng vũ lực để giành lại. Rút cục, cô em họ bị cô ấy đánh khóc, còn cô ấy thì bị mẹ đánh khóc. Khi trưởng thành, ngồi kể lại với nhau những chuyện như thế này, cười đến đau cả bụng. Sự hoang mang và cay đắng thời ấy thật là nặng nề biết bao! “Bà cô già” của tôi cũng đã đến thăm một lần, nhưng tôi vẫn chưa hiểu đó là cái gì. Chỉ căn cứ vào giọng nói cố nén nhỏ hết sức và thái độ của mẹ khi kéo tay tôi vào nhà vệ sinh, tôi cảm thấy cái này không phải là thứ tốt đẹp gì, nhất định phải âm thầm xử lý. Giờ cái thứ không tốt đẹp kia đang loang đỏ cả quần tôi, tôi thật sự không biết phải làm thế nào. Nếu như tôi có một người bạn thân, cũng có thể tôi sẽ nói thầm với cô ấy, nhưng tôi không có, vì vậy tôi chỉ còn cách ngồi im trên ghế, không dám cử động. Dần dần, học sinh trong lớp đều về cả, chỉ còn Trương Tuấn và hai, ba bạn nam khác đang ngồi cuối lớp trêu đùa nhau, cũng không biết là họ đang nói chuyện gì.
Cuối cùng, bọn họ cũng cầm cặp sách lên định về. Trương Tuấn đi đến cạnh bàn của tôi hỏi: “Cậu không về nhà à?” “Tý nữa mới về.” Tôi căng thẳng nhìn Trương Tuấn, chỉ sợ cậu ấy phát hiện ra bí mật dưới ghế của tôi. Nếu trước ngày hôm nay, Trương Tuấn chỉ giống như bao người bạn khác thì từ ngày hôm nay trở đi, tôi rất sợ để xảy ra chuyện gì đó đáng xấu hổ trước mặt cậu ấy. Trương Tuấn nhìn trời mưa ngoài cửa sổ nói: “Mình đợi cậu cùng về, buổi chiều mình vừa ra cửa hàng tạp hóa của trường mua một chiếc ô.” Tôi lo tới mức phát khóc: “Không cần đâu, cậu về trước đi.” “Không sao. Dù gì mình cũng rảnh.” Cậu ấy nói xong, liền ngồi ngay xuống. Tôi nhìn Trương Tuấn, cậu ấy nhìn tôi. Tôi thật sự không nghĩ ra có thể làm gì lúc này, mang vở ra làm bài tập? Đừng nói là Trương Tuấn không tin, đến bản thân tôi cũng không tin. Hai người mắt to nhìn mắt nhỏ, tôi liên tục đưa tay kéo áo, hận không thể kéo trùm lên cả cái ghế. Rất lâu sau đó, cậu ấy nói với giọng chắc như đinh đóng cột: “Cậu không có việc gì phải làm ở đây, vậy thì về thôi!” Cậu ấy vừa nói vừa kéo cánh tay tôi, trong lúc hoảng hốt, tôi gắng hết sức hất tay cậu ấy ra, hét lạc cả giọng: “Tôi không muốn đi cùng cậu.” Cậu ấy lập tức cảm thấy bị tổn thương, cầm phắt cặp lên đi ra khỏi lớp. Tôi nhìn theo bóng cậu ấy khuất dần trên hành lang, nghĩ đến việc sau này chắc chắn cậu ấy sẽ không thèm nói chuyện với mình nữa, rồi lại nghĩ đến “bà cô già” đáng ghét kia, đột nhiên cảm thấy tủi thân vô cùng, nước mắt cứ thế chảy xuống. Đang khóc tu tu, một bóng người xuất hiện trước mặt tôi. Tôi ngẩng đầu, là Trương Tuấn. Cậu ấy vò vò đầu, giọng dịu dàng, rụt rè: “Có phải có chuyện gì không, cậu không muốn về nhà à?” Tôi ra sức lắc đầu, chưa bao giờ tôi lại ước mình được ở nhà như lúc này. “Kẻ nào đe dọa cậu phải không, đang đợi cậu ở cổng trường hả?” Đúng là vấn đề rất Trương Tuấn! Tôi ngẩn người ra, rồi lại tiếp tục lắc đầu. “Cậu đừng sợ, nếu đúng là có người đe dọa cậu, mình sẽ bảo vệ cậu, mình đánh nhau rất giỏi.” Cậu ấy nói xong, mở cặp ra, cho tôi xem sợi xích bằng sắt giấu trong đó. Tôi đang rất buồn, nhưng cũng phải bật cười, cậu ấy đi đâu cũng mang theo vũ khí. Thấy tôi cười, Trương Tuấn cũng cười, cầm cặp sách giúp tôi: “Vậy chúng ta về thôi, dù là ai muốn đánh cậu, mình hứa cậu sẽ luôn được an toàn.”
Tôi lại ra sức lắc đầu. Cậu ấy chau mày nhìn tôi chăm chăm, không hiểu rút cục thì tôi bị làm sao. Tôi nghĩ một lúc rồi nói: “Mình sợ lạnh, cậu có thể cho mình mượn áo khoác của cậu không?” “Haizz, sao cậu không nói sớm!” Cậu ấy lập tức cởi áo khoác đưa cho tôi. Tôi mặc vào, từ từ đứng lên, tay lén kéo kéo, chiếc áo vừa vặn che qua mông. Trương Tuấn im lặng đi bên cạnh tôi, tay cầm chiếc ô lớn màu đen, che mưa cho tôi. Hai người cùng đi chung một ô, khoảng cách ở giữa ít nhất cũng là hai, ba nắm tay, vì không muốn tôi bị dính nước mưa, cậu ấy đã cố gắng nghiêng chiếc ô về phía tôi hết mức có thể. Đến dưới tầng nhà tôi, tôi đứng quay lưng vào tường, cởi áo đưa cho cậu ấy, lí nha lí nhí nói như tiếng muỗi kêu: “Cảm ơn!” Tóc cậu ấy có vẻ đã dài, lại bị ướt nước mưa nên rủ xuống trước trán. Những giọt nước mưa còn đọng lại trên tóc sáng long lanh như những hạt thủy tinh. Cậu ấy đón lấy chiếc áo, khẽ nói: “Không có gì”, cứ như ngại ngùng khi nhận lời “cảm ơn” của tôi vậy. Rồi cậu ấy quay người, không thèm mở ô, cứ thế chạy vào làn mưa. Cho tới khi không nhìn thấy bóng của cậu ấy nữa, tôi mới vội vã lao lên nhà. Buổi tối, hơi đau bụng, mẹ nấu nước đường với gừng cho tôi, uống xong, nằm trên giường, ngơ ngẩn, trước mắt chỉ toàn hình ảnh của Trương Tuấn. Nhớ lại bộ dạng ngốc nghếch của cậu ấy khi nói “mình sẽ bảo vệ cậu”, tôi đột nhiên không nhịn được cười, cảm giác ngọt ngào xuyên thấu tận trong tim, ngọt hơn bất cứ loại kẹo nào mà tôi đã từng ăn. Sáng hôm sau khi đi học, tôi gặp Trương Tuấn ở cổng trường, cậu ấy lớn tiếng chào tôi. Tim tôi lại đập loạn xạ, vội cúi gằm đầu xuống, chỉ sợ hơi ngẩng cao một chút, người ta sẽ phát hiện ra bí mật nhỏ của mình. Những bạn gái khác khi thích một bạn nam, sẽ nghĩ cách để tiếp cận bạn nam ấy, thu hút sự chú ý của người đó, thích ở bên người đó nhiều hơn, tôi thì hoàn toàn ngược lại. Vì tôi thích Trương Tuấn, nên cứ nhìn thấy cậu ấy là tôi căng thẳng, không dám nói gì nhiều, chỉ lặng lẽ, quan sát và để ý nhất cử nhất động của cậu ấy. Tôi thường xuyên phóng tầm mắt nhìn theo bóng Trương Tuấn chạy qua chạy lại khi đá bóng trên sân vận động, nhìn trộm khi cậu ấy vui đùa với các bạn. Tôi vừa mong cậu ấy sẽ chú ý đến mình, nhưng cũng vừa sợ cậu ấy chú ý đến mình, khi cậu ấy không nhìn tôi, ánh mắt tôi lập tức bám sát theo cậu ấy, hy vọng cậu ấy nhìn tôi dù chỉ một cái, nhưng nếu như cậu ấy nhìn tôi, tôi lại vội vội vàng vàng lẩn tránh ánh mắt đó trước khi cậu ấy phát hiện ra. Tình cảm của tôi thời ấy vẫn rất đơn thuần, không đòi hỏi bất cứ sự hồi đáp nào, chỉ cần nhìn thấy cậu ấy là vui. Thỉnh thoảng nếu cậu ấy nói với tôi vài câu, thì tôi sẽ cười thầm suốt cả ngày.
Chương 2 1. Số phận xoay chuyển Trong thời gian, bạn, tôi cũng có thể sớm tàn tạ dung nhan, người nơi chân trời, kẻ nơi góc bể. Ngoài thời gian, bạn, tôi vẫn đôi mắt tinh anh, sánh vai ngồi bên nhau trên bậc thềm vương đầy cánh hoa đào trước cửa lớp học. Tôi và Trần Kình vốn là hai đường thẳng song song, nhưng vì cậu ta chọn tôi là bạn cùng bàn, nên vận mệnh của chúng tôi lại có điểm giao nhau. Mặc dù không cùng lý do, nhưng cả tôi và Trần Kinh khi lên lớp đều không nghe giảng. Có điều cậu ta là học sinh ngoan, chỉ có thể ngẩn người ra ngồi đấy mà sắc mặt không được biến đổi, còn đứa học sinh hư như tôi lại được tự do lựa chọn: mơ mộng, ngủ gật, hoặc đọc truyện. Khi đó, tôi chìm đắm trong thế giới của sách, không cách nào tự giải cứu, vì vậy phần lớn thời gian tôi đều đọc sách. Ngoài những lúc ngồi đực mặt ra, thỉnh thoảng Trần Kình cũng liếc xéo nhìn về phía tôi, dường như cảm thấy hoang mang trước sự cố gắng không biết mệt mỏi của tôi. Sau này, khi chúng tôi thân thiết hơn, cậu ta hỏi tôi rút cục là đang đọc sách gì. Khi nghe đến những tên sách như Tiết Đinh Sơn chinh tây, Tiết Nhân Quý chinh đông, Tiết Cương phản Đường, Văn học dân gian… trông cậu ta có vẻ suy sụp, bởi vì cậu ta chưa bao giờ nghe đến, thật sự hổ thẹn với danh “thần đồng”. Khi nghe đến Hồng lâu mộng, vẻ mặt cậu ta mới trở lại bình thường hơn một chút, nhưng ngay lập tức lại hỏi với giọng nghi ngờ: “Trẻ không đọc Hồng lâu, già không đọc Tam quốc, bố cậu cho phép cậu đọc Hồng lâu mộng à?” Đây là lần đầu tiên tôi nghe thấy cách nói ấy, nên ngẩn người ra đáp: “Mình không biết, bố mình không can thiệp vào chuyện này, ở giá sách có sách gì, mình đều đọc hết.” Cậu ta nghĩ một lúc, rồi thương lượng với tôi: “Cho mình mượn quyển Hồng lâu mộng của nhà cậu nhé, mình cũng sẽ cho cậu mượn một cuốn sách khác.” Tôi mang Hồng lâu mộng cho cậu ta, do nhà xuất bản Văn học Nhân dân xuất bản năm 1979, một bộ bốn quyển, cậu ta mang Thi kinh do nhà xuất bản Thượng Hải Cổ tịch xuất bản cho tôi mượn. Cậu ta nhanh chóng đọc xong Hồng lâu mộng, bĩu môi trả sách lại cho tôi, vẻ mặt như muốn nói thì ra chỉ có thế. Cậu ta lại giở xem Tiết Nhân Quý chinh đông, chưa đọc hết đã ném trả lại cho tôi. Từ đó, toàn tôi mượn sách của cậu ta để đọc, còn cậu ta không có hứng thú với sách của tôi. Cậu ta đã vô tình dẫn dắt tôi đi qua dòng văn học bình dân đến thẳng với dòng văn học uyên bác. Quyển Thi kinh mà cậu ta cho tôi mượn không có chú thích bằng tiếng bạch thoại, tôi đọc rất vất vả, rất nhiều chỗ không hiểu, nhưng cậu ta không chịu giải thích, chỉ nói với tôi rằng, thi từ không cần phải từ nào cũng hiểu, chỉ cần học thuộc, đến một ngày nào đó, một giờ nào đó, ở vào một hoàn cảnh nào đó, tự khắc sẽ lĩnh ngộ. Tôi không biết những lời đó là của bố cậu ta nói với cậu ta, hay là do cậu ta lười giải thích nên viện cớ. Vì đọc vừa vất vả lại vừa vô vị, nên tôi không muốn đọc nữa, nhưng trong lúc cậu bạn Trần Kình này bắt đầu nhàm chán với cuộc sống của một thần đồng, cậu ta bắt đầu tìm
thú tiêu khiển mới, đấy chính là kiểm tra tôi. Cậu ta thường xuyên tùy tiện đọc một câu, yêu cầu tôi phải đọc câu tiếp theo; hoặc cậu ta đọc một nửa, tôi đọc nửa còn lại. Nếu tôi không đọc được, vẻ mặt cậu ta như muốn nói “không sao, vốn đã là như vậy mà”. Trẻ con đứa nào cũng có tính hiếu thắng, huống hồ là được chiến thắng một thần đồng, vì vậy, nhờ có sự kích thích trong trò chơi của cậu ta, dần dần tôi cũng học thuộc cả quyển Thi kinh. Khi mới bắt đầu, tôi chỉ là một trò tiêu khiển trong lúc Trần Kình buồn chán, nhưng sự ngang ngạnh của tôi khiến cậu ta dần dần nhận ra rằng, tôi hoàn toàn không giống những học sinh hay giáo viên khác, tỏ ra yêu quý và sùng bái thần đồng. Thế là, hai chúng tôi bắt đầu cuộc so tài một cách vô tình nhưng hữu ý. Giờ học buổi sáng nào cũng diễn ra như nhau, tất cả đọc một lượt một bài văn, giáo viên sẽ dành ra từ hai mươi đến ba mươi phút cho học sinh học thuộc, đến cuối giờ kiểm tra. Trong thời gian quy định, ai học thuộc trước, có thể giơ tay, đọc cho cả lớp nghe. Thời gian đọc càng ngắn, độ chính xác càng cao, lại càng vinh dự hơn. Trần Kình trước tới nay đều khinh khỉnh không tham gia vào những cuộc so tài như thế, bởi vì trí nhớ của cậu ta đúng là phải khiến người khác kinh ngạc. Toàn bộ bài trong sách ngữ văn, cậu ta đều có thể đọc thuộc lòng. Cậu ta đã từng nửa đùa, nửa tỏ vẻ nói với tôi: “Mang sách lớp 1 lại đây, mình sẽ đọc thuộc cho cậu nghe.” Vì vậy, khi giáo viên dành thời gian để chúng tôi học thuộc bài, cậu ta không có việc gì làm, rất buồn chán, các bạn đều lẩm nhẩm học bài, còn cậu ta thì cầm quyển sách ngồi ngẩn ngơ. Nhưng, có được người bạn cùng bàn không thích nghe lời cô giáo như tôi, cậu ta nhanh chóng thoát khỏi cảnh buồn chán đó. Cậu ta đưa cho tôi một bài văn không biết được photo từ quyển sách nào ra, yêu cầu thi với tôi, thi xem ai có thể đọc thuộc lòng bài văn ấy trong thời gian ngắn nhất. Bài văn mà cậu ta mang đến thú vị hơn bài trong sách nhiều, tôi vừa muốn được đọc bài văn đó, lại vừa hiếu thắng, liền đồng ý. Từ đó, giờ học buổi sáng, hai chúng tôi bận rộn thi tài. Kết quả cuộc thi tài đó rõ ràng tới mức không cần phải hỏi, thường là tôi mới lẩm nhẩm đọc được vài đoạn, cậu ta đã nói với tôi là, có thể đọc thuộc lòng cho tôi nghe. Tôi nghĩ thế nào cũng không ra, sao cậu ta có thể đọc hết cả bài văn dài nhanh như thế. Nghĩ không ra, nhưng cũng không dám hỏi. Trần Kình không trực tiếp trả lời thắc mắc của tôi, mà dùng cách nói đầy miệt thị của mình giải thích một thành ngữ: “Một liếc mười hàng”. Trong lời giảng của cô giáo, thành ngữ “Một liếc mười hàng” này là từ có nghĩa xấu, dùng để mắng những học sinh hư đọc sách qua loa chiếu lệ, nhưng Trần Kình nói thành ngữ “một liếc mười hàng” được rút ra từ trong Bắc Tề thư - Hà Nam Khang Thư Vương Hiếu Du, nguyên văn là: “những người yêu thích văn chương, tốc độ đọc nhanh như gió, một liếc mười hàng là xong”, không hề có nghĩa xấu, là một từ có ý hết sức tốt đẹp, ý nghĩa mà từ này muốn truyền tải là một cách đọc sách với tốc độ nhanh. Vẻ mặt tôi hoang mang, không biết là cậu ta đang nói về cái gì. Cậu ta khinh khỉnh nhìn tôi vài lần, tỏ vẻ coi thường sự ngu dốt khó đả thông của tôi. Lúc ấy đang là thời gian
nghỉ giải lao mười phút giữa tiết, cậu ta liền lấy ví dụ cho tôi xem: “Lúc này cậu không chỉ nghe thấy tiếng mình nói, đồng thời còn có thể nghe thấy tiếng Chu Tiểu Văn ngồi bàn trên cùng đang bàn luận về váy vóc, nghe thấy tiếng cười của Trương Tuấn ở cuối lớp, tiếng đám con trai hét gọi nhau ở ngoài lớp học?” Tôi ngây ngô gật gật đầu, chỉ cần chú ý nghe, thì không chỉ có những âm thanh ấy. Cậu ta nói tiếp: “Cũng giống như tai con người cùng lúc có thể nghe thấy bốn, năm người nói chuyện, thậm chí có thể nghe thấy rất rõ những gì mà họ đang nói, mắt cũng thế, mắt của chúng ta cùng lúc có thể nhìn mấy hàng chữ một, đồng thời ghi nhớ nội dung của những hàng chữ ấy. Thực ra dung lượng của não người rất lớn, não một người có thể so sánh với cả một vũ trụ. Có nhiều người nói cùng lúc, ý thức của con người cho rằng những tiếng nói ấy cùng lúc cất lên, thực ra với đại não, nó sẽ tự động phân trước phân sau, tiến hành nắm bắt và xử lý. Một liếc, là mang hàm ý tốc độ nhanh, thời gian nhanh tới mức có thể bỏ qua không tính. Đại não kinh qua quá trình rèn luyện có ý thức, tốc độ xử lý của nó vượt xa khỏi khả năng tượng tưởng của con người, vì vậy, một liếc mười hàng, đối với đại não mà nói vẫn có trước có sau, chỉ có điều ý thức của con người không nắm bắt được mà thôi”. Cậu ta giơ tay búng tách một cái trước mặt tôi, rồi nói tiếp: “Chỉ một cái búng tay, trong kinh Phật đã là sáu mươi khoảnh khắc, nhưng đối với đại não mà nói, không chừng nó đã bị phân chia ra thành hàng nghìn, hàng vạn đoạn thời gian. Bố mình nói, trên thế giới này chỉ có hai thực thể là tồn tại vĩnh hằng, thứ nhất là đại não, thứ hai mới là vũ trụ. Chỉ cần cậu tin nó…” Cậu ta chỉ vào đầu tôi, “Chăm chú rèn luyện, có thể làm được”. Tôi rất sốc, có điều, không phải vì những gì Trần Kình vừa giảng, mà là vì cậu ta đã phá vỡ tính thần thánh trong lời nói của cô giáo, dám phản biện lại định nghĩa một liếc mười hàng của cô. Cơn chấn động qua đi, tôi âm thầm ghi nhớ tất cả những gì mà Trần Kình đã nói. Khi tôi đọc tiểu thuyết, bắt đầu ép mắt mình liếc một lúc hai hàng, rồi từ hai hàng đến ba hàng, từ ba hàng lên bốn hàng… Quá trình này rất gian nan, nhưng trước sự cổ vũ của tính hiếu thắng, cho dù có vất vả tới đâu, tôi vẫn kiên quyết ép đại não phải hoạt động tới giới hạn cuối cùng. Chẳng mấy chốc, khả năng đọc và ghi nhớ của tôi tăng lên nhanh chóng. Cuộc tỉ thí giữa tôi và Trần Kình, từ việc chỉ nghiêng về một bên, giờ đây, thỉnh thoảng cũng đã có lần tôi thắng. Mỗi lần bị tôi làm khó, biểu hiện của cậu ta rất đa dạng, cố tỏ vẻ điềm tĩnh như không thèm quan tâm, cho rằng tôi gặp may, rồi lại chau mày suy nghĩ, liếc trộm tôi… dù sao, cũng thú vị hơn vẻ mặt luôn tỏ ra nghiêm túc của cậu ta lúc bình thường. Học kỳ một của năm lớp 5, tôi được sống trong vui vẻ. Một là, cô Triệu đã không buồn quan tâm tới tôi nữa. Hai là, lần đầu tiên tôi được biết thế nào là rung động đầu đời. Ba là, Trần Kình đúng là một cậu bạn cùng bàn hết sức thú vị. Vì tất cả những điều này, tôi thậm chí còn bắt đầu cảm thấy trường học không đáng ghét như tôi vẫn nghĩ. Khi học kỳ một của năm lớp 5 sắp kết thúc, trong một buổi tự học, Trần Kình đột nhiên nói với tôi: “Ngày mai mình không đi học nữa.”
Tôi nghĩ có lẽ cậu ta ốm, hoặc có việc gì đó, cô Triệu lại đang ngồi trên bục giảng chữa bài tập, vì vậy tôi chỉ ậm ừ đáp một tiếng. Cậu ta kéo vở bài tập của tôi về phía mình, ra hiệu cho tôi ghé đầu sát vào. Tay cậu ta cầm bút, viết lằng nhằng lên tờ giấy nháp, làm như đang giảng bài cho tôi, nói: “Từ lâu mẹ mình đã muốn mình nhảy lớp, nhưng bố mình không đồng ý. Mấy hôm trước cuối cùng mẹ cũng đã thuyết phục được bố. Tuần trước mình đã đến trường Nhất Trung làm bài thi lên cấp hai. Môn toán lớp 8 mình được điểm tối đa, có điều điểm tiếng Anh không đạt, được hơn tám mươi điểm thôi, sau khi bố và hiệu trưởng nói chuyện, quyết định học kỳ sau mình sẽ bắt đầu học lớp 7, mẹ mình muốn mình thôi học, dùng thời gian này để xem qua trước bài vở của lớp 7.” “Ý cậu là cậu sẽ không đi học nữa?” “Đúng thế, mình muốn chào cậu, cô Triệu vẫn chưa biết, sáng mai mẹ mình sẽ đến trường gặp trực tiếp hiệu trưởng để nói chuyện.” Việc nhảy lớp, người người đều ngưỡng mộ, nhưng trong giọng nói của Trần Kình lại có vẻ không vui. Dù sao cậu ta cũng đi học sớm hơn tuổi, giờ lại một lúc nhảy liền hai lớp, nhỏ hơn các bạn đi học đúng tuổi đến bốn tuổi. Bốn năm của trẻ con, sự khác biệt trong tâm lý là rất lớn. Một người ba mươi tư tuổi có thể cảm thấy người ba mươi tuổi không khác gì mình, nhưng một học sinh lớp 7 mười bốn tuổi chắc chắn sẽ cảm thấy một đứa mới mười tuổi không ở cùng thế giới với mình. “Thần đồng”, xét ở một khía cạnh nào đó, còn có nghĩa là “khác loài”, cũng có nghĩa là người bị bài xích ra khỏi cộng đồng. Khi lớn lên rồi, thỉnh thoảng tôi cũng có suy nghĩ, sự ngạo mạn của Trần Kình khi ấy phải chăng cũng giống như vẻ lạnh lùng của tôi, đều là chiếc mặt nạ để tự bảo vệ mình? Đối với việc ra đi của cậu ta, tôi cũng hơi lưu luyến, nhưng không đến mức quá mãnh liệt. Dù sao Trần Kình và tôi cũng không phải người của cùng một thế giới. Hết giờ, lưng đeo cặp sách, cậu ta đứng trên bục giảng một lúc, lặng lẽ nhìn các bạn đang cười đùa, trêu chọc nhau. Vẻ mặt cậu ta không còn kiêu ngạo nữa, chỉ có sự thâm trầm trước tuổi. Lúc đi, cậu ta nói với tôi “tạm biệt”. Tôi thờ ơ đưa tay lên vẫy vẫy. Nằm bò lên bậc cửa sổ, nhìn cậu ta lưng đeo cặp sách, một mình chậm rãi đi về phía cổng trường, vừa đi vừa nhìn ngắm xung quanh, có vẻ như còn lưu luyến. Đám con trai xung quanh đều đang túm năm tụm ba, khoác vai bá cổ đi với nhau, ai cũng cao hơn cậu ta, khiến cậu ta trông càng nhỏ bé. Tôi cầm cặp lên, chạy như bay xuống tầng dưới, đuổi theo đến chỗ cậu ta: “Mình… mình cũng về nhà, cùng đi!” Ánh mắt cậu ta lóe lên, nhưng sắc mặt vẫn kiêu ngạo như chẳng quan tâm gì đến sự đời ấy.
Tôi cùng cậu ta từ từ ra khỏi cổng trường. Đi đến một ngã rẽ, không thể không chia tay, cậu ta vẫy tay chào tôi: “Tạm biệt nhé”, nói xong liền đi nhanh như chạy. Tôi vẫy tay chào cậu ta từ phía sau, sau đó lắc lư đi tiếp. Mỗi người chúng ta đều như một hành tinh, điểm đầu là được sinh ra, điểm cuối là cái chết, đấy là quy luật mà ông trời đã sắp xếp sẵn cho chúng ta, tuy nhiên quỹ đạo vận hành giữa sự sống và cái chết ấy lại được quyết định bởi rất nhiều nhân tố. Chúng ta vận hành trong vũ trụ rộng lớn, hai hành tinh mà chúng ta đụng phải sớm nhất là bố và mẹ, tiếp theo là thầy cô giáo, bạn bè, người yêu, cấp trên… Chúng ta và những hành tinh khác gặp nhau, đâm vào nhau, sự va chạm này chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới quỹ đạo chuyển động của chúng ta, có ảnh hưởng tích cực, nhưng cũng có những ảnh hưởng tiêu cực. Ví dụ, yêu phải một người không đáng yêu, gặp một giáo viên tồi, có một vị cấp trên hà khắc, là những ảnh hưởng có tính tiêu cực điển hình. Còn gặp một giáo viên giỏi, được đầu quân cho một vị sếp biết trọng dụng tài năng của mình, có người bạn chịu nắm lấy tay mình trong khó khăn, trong phong thủy học gọi họ là quý nhân; thực ra, quý nhân, chính là những cuộc gặp gỡ mang tính tích cực. Trần Kình là người đầu tiên mà tôi gặp trên con đường đời tôi đang đi, có ảnh hưởng vô cùng tích cực đối với tôi. Thời gian ngồi cùng nhau ấy, cậu ta đã đưa tôi vào một thế giới mà tôi chưa từng được biết đến, mặc dù mới chỉ là đứng ở ngoài cửa, nhưng nhờ sự chỉ dẫn của cậu ta, tôi đã vô tình bước chân lên một con đường mới. Nhưng khi ấy, tôi hoàn toàn không hiểu điều đó. Cậu ta dạy tôi cách học. Những câu chuyện mà cậu ta kể cho tôi nghe trong giờ nghỉ giải lao, những bài thơ mà cậu ta dùng để kiểm tra tôi, những bài hát mà cậu ta gợi ý tôi nên nghe, những nhân vật kiệt xuất mà cậu ta ngưỡng mộ, tất cả, trong mắt một đứa trẻ như tôi, chỉ là trò chơi của hai đứa trẻ con, không thú vị hơn việc nhảy dây, đấm bao cát là mấy, nhưng trên thực tế, những thứ mà cậu ta cho tôi, đã dần dần thay đổi quỹ đạo của cuộc đời tôi. Việc Trần Kình đột ngột nghỉ học tạo ra hiệu ứng vô cùng lớn trong lớp. Thời gian ấy, rất nhiều nữ sinh nằm bò trên bàn mà khóc lóc. Thật đúng là một cuộc thất tình tập thể. Sau đó, không biết cô bạn nào đã hỏi được địa chỉ nhà Trần Kình. Nữ sinh trong lớp đều phấn khởi, bắt đầu góp tiền, theo kế hoạch là mỗi người nộp năm tệ, cùng nhau mua một món quà lưu niệm để tặng Trần Kình. Tôi không tham gia. Gia đình tôi không giàu có gì, tiền tiêu vặt của tôi cũng có hạn, mà chúng đã có việc quan trọng hơn để làm, ví dụ như mua nước cam ép. Vấn đề là, mặc dù tôi không giàu có, nhưng tôi cũng không nghèo, rất nhiều nữ sinh có gia cảnh khó khăn cũng đều cố gắng hết khả năng, dốc hầu bao ra quyên góp. Trong mắt đám nữ sinh đó, hành vi của tôi là không thể tha thứ. Vì chuyện này, một lần nữa tôi lại trở thành “trường hợp cá biệt” trong lớp, tất cả các bạn đều biết tôi không thích Trần Kình. Trong lòng của đám con gái lớp tôi, thì đây là câu có thể biểu đạt ngữ khí chuẩn xác nhất: Mày, lại dám không thích Trần Kình?! Vì Trần Kình mà lần đầu tiên tôi bị cô lập, toàn bộ nữ sinh trong lớp đã coi tôi như kẻ thù.
Khi đó, tôi cảm thấy bọn họ thật đáng ghét. Giờ nghĩ lại, cảm thấy tình cảm đó thật thuần khiết, mộc mạc biết bao, yêu không ham muốn, không chiếm dụng, thậm chí vì cùng yêu chung một người mà càng trở nên thân thiết hơn. Thứ tình yêu ấy, chỉ có ở thời học tiểu học mà thôi. Sau khi Trần Kình đi không lâu, học kỳ một lớp 5 kết thúc, rút cục bọn con gái trong lớp đã mua quà gì cho Trần Kình, tôi cũng không rõ, bởi vì trong mắt họ, tôi không có đủ tư cách để cùng với họ thích Trần Kình, chỉ biết đúng là cả đám có mang quà đến nhà Trần Kình trong kỳ nghỉ đông. Suốt một thời gian dài của học kỳ hai, đề tài bàn tán chủ yếu vẫn xoay quanh Trần Kình, mẹ Trần Kình thật xinh đẹp, bố Trần Kình thật uyên bác, gia đình Trần Kình cao quý biết bao, Trần Kình thật là ưu tú. Học kỳ hai bắt đầu, hành tinh nhỏ bé là tôi đây đã va chạm với một hành tinh khổng lồ có ảnh hưởng vô cùng lớn với tôi. Vì lý do sức khỏe nên học kỳ này, cô giáo Triệu không thể đi dạy, thay vào đó là cô Cao, một giáo viên vừa tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm. Cũng có thể là vì vừa tốt nghiệp, nên cô vô cùng sáng tạo và nhiệt tình trong công việc. Vào giờ học, cô thường kể chuyện cười và hát cho chúng tôi nghe. Nếu có ai đó lơ đãng, cô còn tỏ vẻ thông cảm và nói với chúng tôi: “Cô biết môn toán rất khô khan, lại không thi vị, nhưng cô đang cố gắng để bài giảng thú vị hết mức có thể, các em có thể nói ra ý kiến của mình, nhưng không được phép không nghe giảng.” Cô Cao rất thích cười, cô chưa bao giờ trách mắng bất kỳ ai, cũng chưa bao giờ phân biệt học sinh giỏi, học sinh kém, thậm chí, cô còn tỏ ra thiên vị hơn đối với những học sinh yếu kém. Mỗi lần nói chuyện với chúng tôi, giọng cô rất dịu dàng, nhẫn nại, cứ như sợ làm tổn thương chúng tôi vậy. Vì cô Cao, tôi không còn chép bài tập của người khác nữa, nhưng vì mất căn bản, nên cho dù có tự mình làm, kết quả cũng thảm hại. Nhưng, tôi phát hiện ra rằng, lần nào cô cũng chữa từng bài của tôi hết sức cẩn thận và kỹ lưỡng, bên cạnh mỗi bài còn viết những lời đánh giá của cô về cách giải của tôi. Có rất nhiều bài tôi làm sai, cô vẫn viết những lời tán dương, khen ngợi tôi có tư duy logic độc đáo. Lần đầu tiên gặp trường hợp làm bài sai mà vẫn được khen, tôi rất kinh ngạc, bất giác có những suy nghĩ lạ lẫm về cô giáo Cao. Tiết học nào cô cũng gọi tôi lên trả lời, nếu tôi trả lời được, cô sẽ biểu dương rất nhiệt tình, nếu tôi không trả lời được, cô thường mỉm cười nói: “Em hãy suy nghĩ thêm nhé, với khả năng của em, cô tin bài này em có thể làm được”, sau đó cho tôi ngồi xuống. Trong mắt người lớn, trẻ con luôn luôn ngây ngô, nhưng trái tim chúng tôi lại hết sức mẫn cảm. Ý tốt đó của cô Cao, tôi đã cảm nhận được. Tôi như một bông hoa hướng dương lâu ngày sống trong bóng tối, đã thèm khát ánh nắng mặt trời quá lâu, đúng vào thời điểm tôi bắt đầu nghĩ thế giới này là một màu đen tối, trong mắt người lớn, tôi là đứa trẻ không làm gì đúng bao giờ, không có bất kỳ người lớn nào chịu dành cho tôi một chút quan tâm dịu dàng, thì cô Cao đã xuất hiện. Cô nhìn tôi với ánh mắt tin tưởng kỳ vọng, còn tôi lại đang do dự, do dự liệu có nên tin tưởng vào
sự thân thiện của cô hay không. Trong khi còn đang băn khoăn, tôi đã không cố gắng nghĩ về hướng tích cực hơn, mà thậm chí còn trở nên xấu xa hơn. Mỗi khi đến giờ của cô, tôi đều cố ý đọc tiểu thuyết, cố ý không nghe giảng, cố ý viết lung tung khi làm bài tập. Cô nói đông, tôi lại viết tây, cô nói tây, tôi viết đông, tôi muốn dùng những cái gai nhọn trên người mình để ép cô phải lộ “bộ mặt thật”. Tới tận bây giờ tôi vẫn không hiểu tôi của ngày ấy đã nghĩ gì, chỉ lờ mờ đoán ra rằng tôi muốn chứng minh thế giới của tôi không có mặt trời, khiến tôi phải từ bỏ, không có hy vọng thì không phải thất vọng, có lẽ tôi chỉ đang dùng một cách khác để bảo vệ mình. Nhưng cô Cao vẫn không bị tôi ép cho phải lộ ra “bộ mặt thật”. Cô dùng trái tim bao dung của bậc làm cha làm mẹ để dung thứ cho tất cả những hành động làm tổn thương người khác và tổn thương chính mình của tôi. Và trong thời gian đó đã xảy ra một chuyện, đánh tan tất cả sự hoài nghi của tôi dành cho cô. Vì muốn giúp cô Cao nắm bắt tình hình lớp tôi cách nhanh nhất, trong thời gian cô Triệu nghỉ ngơi sau ca phẫu thuật, nhà trường đã sắp xếp cho hai người gặp nhau, để cô có thể tìm hiểu cặn kẽ tình hình của từng học sinh trong lớp. Khi tôi biết tin này thì cô Triệu đã ngồi trong văn phòng của cô Cao. Cảm giác khi ấy là toàn thân như bị dội một thùng nước lạnh, đốm lửa nhỏ vừa nhen nhóm cháy trong tim đã tắt ngấm. Văn phòng của cô Cao ở tầng một, ma xui quỷ khiến thế nào mà tôi lại lén lút đi đến đứng dưới văn phòng đó, ngồi xổm dưới cửa sổ nghe trộm. Lúc tôi đến đã muộn, nên không nghe được những gì cô Triệu nói, chỉ nghe tiếng cô Cao đang khách sáo nói với cô Triệu: “… Ai cũng có lúc phạm sai lầm. Sai lầm không phải là chuyện không thể tha thứ được, La Kỳ Kỳ và Trương Tuấn đều là những học sinh rất thông minh…” Sau đó, tôi không còn nghe thấy gì nữa. Trời đất như xoay chuyển. Đầu óc tôi ong ong. Từ ngày tôi bắt đầu đi học đến giờ, chưa có ai khen tôi thông minh, ai cũng nói tôi cứng đầu, ngu ngốc. Tôi khẳng định là mình nghe nhầm rồi, khẳng định! Khi đã tỉnh táo hơn, tôi chỉ muốn nghe lại một lần nữa, thì đã thấy tiếng cô Cao tiễn cô Triệu ra cửa. Thế là, tôi tự lẩm nhẩm “Mình nghe lầm rồi”, và đi về lớp như một người say. Lý trí của tôi vụng trộm nói với tôi rằng, tôi không nghe nhầm, là thật, tôi không phải là một đứa trẻ ngu ngốc. Nhưng trái tim đã tự ti quá lâu nên giờ từ chối chấp nhận điều đó, vẫn nói với mình hết lần này tới lần khác, nghe nhầm rồi, nghe nhầm rồi, nhất định là nghe nhầm rồi. Có điều, cho dù nghe nhầm hay không nghe nhầm, tôi cũng phải giữ lại ánh mặt trời trong mắt của cô Cao. Tôi rất sợ khiến cô thất vọng, sợ cô thất vọng rồi sẽ chuyển hướng nhìn. Vì vậy, tôi không còn đọc tiểu thuyết trong giờ học nữa. Tôi bắt đầu chăm chỉ nghe giảng. Hết giờ, mỗi bài tập tôi đều suy nghĩ nghiêm túc và kỹ càng để hoàn thành. Có những bài không biết làm, tôi vẫn ghi chú ở bên cạnh hướng suy nghĩ của tôi. Và tôi đã nghĩ những gì, tôi muốn cô cảm nhận được rằng tôi đang cố gắng, để cô cho tôi thêm chút thời gian. Thành tích trong môn toán của tôi tăng lên nhanh chóng, kết thúc lớp 5, điểm toán từ mức thường xuyên không đạt giờ đã được tám mươi, chín mươi điểm. Tình hình của
Trương Tuấn cũng giống tôi, nhưng điểm ngữ văn của cả hai đều kém, khiến điểm tổng kết bị kéo xuống, vì vậy xếp số thứ tự vẫn không có gì thay đổi. Dù sao thành tích này cũng khiến bố mẹ tôi vui sướng vô cùng. Sau buổi họp phụ huynh, bố hào hứng nói với tôi: “Sau buổi họp phụ huynh, cô Cao còn giữ bố lại, nói với bố rằng ‘con gái anh rất thông minh’, đúng rồi, cô Cao còn muốn chọn con vào đội tuyển tham gia Olympic toán cấp tiểu học của thành phố, nên mùa hè này con cũng phải đến trường để học.” Giây phút ấy, tôi mới khẳng định tôi đã không nghe nhầm. Cùng trong đội tuyển toán do cô Cao đích thân bồi dưỡng còn có Trương Tuấn. Kỳ nghỉ hè năm ấy là những ngày tháng vui vẻ, rực rỡ nhất trong thời niên thiếu của tôi. Mỗi buổi sáng khi vừa mở mắt, là cảm nhận được ánh mắt trời tràn ngập trong tim. Mỗi buỗi sáng tôi đều đến trường, cùng Trương Tuấn nghe cô giáo giảng bài, mặc dù không nói chuyện với nhau, nhưng ngồi rất gần nhau, chỉ một cái liếc mắt là có thể nhìn thấy nụ cười của cậu ấy. Cô Cao cũng không đứng trên bục giảng. Cô thường ngồi trước mặt chúng tôi, vừa viết ra nháp vừa giảng bài. Những lúc mệt, ba cô trò lại ngồi nói chuyện. Cô thường kể những câu chuyện khi cô còn học ở Bắc Kinh, tôi và Trương Tuấn lặng im lắng nghe. Cũng có lúc, Trương Tuấn kể về những điều cậu ấy được nghe, được thấy qua những chuyến du lịch trên khắp mọi miền đất nước. Cậu ấy rất biết ăn nói. Những chuyện cậu ấy kể thật sinh động và hấp dẫn. Cậu ấy kể mình được ăn một bàn tiệc chỉ có cá, khiến tôi và cô Cao đều nuốt nước miếng, kể chuyện ăn hải sản ở Yên Đài, tôm tươi chỉ tẩm qua rượu, khi cho vào miệng, con tôm vẫn còn giãy giụa, mùi vị rất tuyệt, tôi và cô Cao nghe mà lè lưỡi lắc đầu. Trước mặt cô giáo, Trương Tuấn chưa bao giờ có ý thức mình là học trò. Những lúc cao hứng, cậu ta còn nhảy lên mặt bàn ngồi, vừa nói vừa khoa chân múa tay, nét mặt hào hứng, còn tôi và cô Cao ngồi trên ghế, phải ngửa cổ lên, nghe cậu ấy nói. Ánh mặt trời mùa hè rực rỡ xuyên qua khung cửa sổ rồi chiếu lên người cậu ấy khiến toàn thân cậu ấy rực sáng, trái tim tôi cũng sáng lấp lánh. Lần đầu tiên tôi biết hạnh phúc và niềm vui thực ra vô cùng đơn giản, chỉ cần ngồi ở đó, yên lặng ngắm nhìn cậu ấy. Ngoài trả lời câu hỏi, đa phần thời gian tôi im lặng, nhưng trong sự im lặng của tôi lại âm ỉ niềm vui, nghe họ nói chuyện. Học xong, tôi và Trương Tuấn sánh đôi về nhà. Hai nhà chúng tôi ở hai bên bờ sông, nói là sông, nhưng thực ra cũng không hẳn là sông, mà nghe nói là một con mương do dân đào từ thời Thanh, nhưng chúng tôi đều quen gọi là sông. Vì muốn được đi cùng với cậu ấy một đoạn, tôi liền nói mình thích ngắm sông. Hai đứa đi dọc bờ sông, đến một cây cầu thì chia tay.
Tôi vất vả tìm các cơ hội để được ở bên cậu ấy, nhưng khi ở bên nhau, tôi lại không biết nói gì, chỉ im lặng, thường thì là một mình Trương Tuấn nói, tôi chăm chú lắng nghe. Cậu ấy có rất nhiều câu chuyện thú vị để chọc cho tôi cười. Có lúc, cậu ấy cũng không nói gì, chúng tôi cùng im lặng. Tôi rất sợ cậu ấy chê tôi nhạt nhẽo, sợ sau này tan học không muốn đi về cùng tôi nữa, vì vậy khi cậu ấy im lặng, tôi liền tìm mọi cách để nghĩ ra một đề tài nào đó, nhưng sao vẫn không biết nên nói gì, chỉ có thể hỏi: “Cậu thấy bài tập sáng nay liệu có cách giải nào hay hơn nữa không?” hoặc “Mình mới tìm ra một cách giải mới cho bài tập ngày hôm qua”. Thế là, hai đứa vốn học kém có tiếng ở trường như chúng tôi, lại say sưa thảo luận về toán học như những học sinh hiếu học nhất. Và tôi, nhiều năm sau, mới nghĩ ra để hỏi mình rằng, rút cục, im lặng vô vị hơn, hay là thảo luận một bài toán khô khan có thể có bao nhiêu cách giải thì vô vị hơn? Tuy nhiên, thỉnh thoảng cũng có ngoại lệ. Những lúc nước sông rút, chúng tôi liền xuống dưới chơi, cùng cúi đầu sục sạo để tìm những viên đá đẹp. Khi mệt, hai đứa vai kề vai ngồi trên một hòn đá lớn, chân thả dưới nước, vừa đá nước nghịch, vừa nghỉ ngơi. Nước sông khiến người cảm thấy nhẹ nhõm. Cho dù cả hai đều im lặng, tôi cũng không cố ý tìm chuyện để nói. Chúng tôi thường không ai nói gì, phơi nắng, tận hưởng sự mát mẻ do những cơn gió nhẹ đưa tới. Thời gian ở bên nhau bao giờ cũng qua rất nhanh. Tôi thường thình lình túm lấy cổ tay cậu ấy để xem đồng hồ. Khi thấy đã đến giờ ăn trưa, tôi vội vội vàng vàng đứng dậy đi giày: “Mình phải về nhà rồi, tạm biệt!” Cậu ấy lười nhác đứng dậy, vừa đi giày vừa nói: “Tạm biệt!” Nghĩ đến ngày mai vẫn còn được gặp nhau, vẫn còn có thể cùng đi về, cùng nghịch nước, tôi lại cảm thấy vô cùng hạnh phúc, đi đường mà như đang bay. Mỗi buổi sáng sớm, tôi gần như không thể chờ đợi được, muốn chạy thật nhanh đến trường, muốn được nhìn thấy cậu ấy, muốn cùng học, cùng chơi với cậu ấy. Có một lần, Trương Tuấn nằm trên phiến đá ngủ, tôi ngồi bên cạnh đá nước, len lén nhìn đồng hồ, thấy đã quá giờ cơm trưa, nhưng cậu ấy vẫn chưa dậy. Tôi do dự, rồi cũng không gọi, thậm chí còn lấy mũ che nắng của mình che cho cậu ấy ngủ. Tôi cầm mũ, ngồi bên cạnh cậu ấy, chăm chú nhìn nét mặt của cậu ấy khi ngủ, tay này cầm mỏi rồi thì đổi sang tay kia. Tôi thấy trái tim tôi cũng sáng rực như ánh mặt trời mùa hạ, dịu dàng như dòng nước lững lờ trôi trước mặt, chỉ cần Trương Tuấn ở đây, tôi nguyện sẽ luôn ở bên cạnh để bảo vệ cậu ấy. Sau giấc ngủ dài, Trương Tuấn tỉnh dậy, chống hai tay trên phiến đá, nửa nằm nửa ngồi, tôi liền thu lại chiếc mũ đội lên đầu mình, mắt nhìn xa xăm. Cậu ấy nhìn tôi, mỉm cười nói: “Cậu lỡ giờ cơm trưa rồi.” Tôi cúi đầu, vừa đi giày vừa đáp: “Không sao!” như rất vội phải về nhà. Thực ra, tôi không dám nhìn cậu ấy.
Tôi vội vàng định đi, cậu ấy liền hỏi: “Cậu về muộn, bố mẹ có mắng cậu không?” Tôi thành thật trả lời: “Có lẽ sẽ nói vài câu, có điều mình cũng chẳng để ý, thỉnh thoảng họ cũng có vẻ sợ mình, không dám nói nặng lời.” Lời tôi nói, người thường nghe không thể hiểu được, nhưng dường như Trương Tuấn hiểu, vẻ mặt không tỏ ra ngạc nhiên, chỉ cười cười. Tôi đã đi rồi, đột nhiên nghĩ ra, cậu ấy chưa bao giờ phải vội vàng về nhà. Quay đầu lại, thấy cậu ấy vẫn ngồi trên phiến đá, không kìm được, tôi liền chạy lại, đứng trên cầu hỏi: “Cậu không về nhà à?” Cậu ấy ngẩng đầu lên: “Nhà mình không có ai, mình về hay không cũng có khác gì đâu.” Tôi giật mình, chẳng phải trên cậu ấy còn có bốn chị gái, cậu ấy là đứa con khó khăn lắm bố mẹ mới có được, chẳng phải là bảo bối được cả nhà cưng chiều sao? “Chẳng phải cậu có bốn chị gái à? Bố mẹ cậu đâu?” Trương Tuấn cười giải thích: “Bố mình là kỹ sư công trình, công trình ở đâu thì người ở đấy; mẹ mình gần như ở lại hẳn Thành Đô, trông con giúp chị cả; chị hai làm việc ở Thâm Quyến; chị ba ở trong ký túc của đài truyền hình, còn bận chuyện yêu đương; chị tư thì vừa thi đỗ đại học, lên Thượng Hải học rồi, giờ ở nhà chỉ còn mình.” “Vậy ai nấu cơm cho cậu ăn?” “Có một cô ở quê đến chăm sóc mình, có điều cô ấy chẳng quan tâm tới việc mình làm gì.” Tôi đứng ở đầu cầu, im lặng. Cậu ấy ngửa cổ nhìn tôi một lúc, dịu dàng nói: “Về nhà đi, bố mẹ cậu sẽ lo đấy.” Nói xong, cậu ấy đứng dậy, định đi thì tôi lại hỏi: “Cậu đi đâu?” Trương Tuấn bám vào thành cầu bật người trèo lên: “Đi tìm bạn chơi.” Tôi không muốn để cậu ấy đi, tôi rất muốn nói, chúng ta cùng chơi, nhưng không sao mở miệng ra được, đành lê bước về nhà. Nghỉ hè, những hôm không phải đi học bồi dưỡng, tôi thường đến quán game của anh Lý để đọc tiểu thuyết. Một người bạn chạy xe đã mang cho anh Lý một dây nho từ Tân Cương về, Tiểu Ba đem trồng ở góc tường, còn dùng dây thép và thanh trúc buộc thành giàn cho nó leo, giờ giàn nho đã xanh mướt một màu, tôi thích ngồi đọc sách ở đó. Anh Lý đang bận với công việc làm ăn mới nên giao toàn bộ việc quản lý cửa hàng cho Tiểu Ba và Ô Tặc. Khi có người đến mua đồ, Tiểu Ba sẽ ra ngó một lát, nếu không có ai, Tiểu Ba ở trong sân chơi bida, thỉnh thoảng lại nói vu vơ một, hai câu với tôi trong lúc tôi ngồi đọc sách dưới giàn nho.
Cách dăm ba ngày lại có người đến đặt cược, có lúc cược nhỏ, lúc cược lớn, khi có trận cược lớn, anh Lý sẽ dọn dẹp sân vườn, đóng cửa, sai người đứng ở ngoài canh chừng, không cho người lạ vào. Có một lần họ đánh cược, tôi đang ngồi đọc sách ở đó, Tiểu Ba không đuổi tôi ra, anh Lý và Ô Tặc cũng không để ý gì đến tôi, mặc tôi ra vào tự do. Tôi đứng một bên nhìn, dần dần cũng hiểu được một vài chuyện, người đến đặt cược lắm kẻ trên người có đầy hình xăm, ăn nói thô tục, nhưng cũng có người ăn mặc tươm tất, nói chuyện nho nhã, khách sáo, câu nói “tam giáo cửu lưu”(1) dùng ở đây thì thật quá hợp tình hợp cảnh. Những lúc cược nhỏ, thỉnh thoảng tôi cũng đặt, anh bạn Tiểu Ba chơi rất khá, chưa bao giờ thua nên tôi không bị thua tiền. Nhờ Tiểu Ba, sau khi trả tiền nước cam, tôi còn có thể mua một vài quyển sách mà tôi thích và dư tiền thuê truyện ở quầy thuê truyện bên cạnh. Có quầy truyện này, tôi bắt đầu được đọc đầy đủ những bộ tiểu thuyết của Cổ Long, bộ Hoan lạc anh hùng là tôi thích nhất, tôi đọc đi đọc lại, chỉ bởi vì trong đó không có sự cô độc. Đọc sách mệt, nếu ở đó không có người, Tiểu Ba sẽ dạy tôi chọc bida, dạy từng thế, từng thế một. Tiểu não của tôi không phát triển, nên môn thể dục chưa bao giờ được điểm cao, nhưng đối với môn thể thao trí tuệ nửa động nửa tĩnh này lại có chút tài năng, học khá nhanh. Thỉnh thoảng, anh Lý và Ô Tặc ở đó, bốn chúng tôi ngồi dưới giàn nho chơi bài chéo cánh. Lúc mới chơi, Ô Tặc và anh Lý đều chê tôi trẻ con, không biết gì, không chịu bắt cánh với tôi, chỉ có Tiểu Ba là tốt bụng, chẳng màng chuyện thắng thua, nên nhận tôi vào và hướng dẫn tôi chơi. Ai thua, sẽ bị dán một miếng giấy màu trắng lên mặt, chúng tôi thường xuyên thua, mặt ai cũng dính đầy giấy. Sau khi đã nắm vững luật chơi và đường đi nước bước, trình độ chơi bài của tôi đã có những tiến bộ vượt bậc, theo cách nói của anh Lý thì là, lì lì xì ra khói. Còn như lời của Ô Tặc là: xảo quyệt. Tiểu Ba đánh bài tính toán rất giỏi, lại có tôi phối hợp, chúng tôi kẻ tung người hứng, đánh cho anh Lý và Ô Tặc phải nghiến răng trèo trẹo. Họ muốn tách tôi và Tiểu Ba ra, tôi không chịu, trước đó còn coi thường tôi, giờ tôi mới không thèm ở cùng cánh với hai người! Anh Lý và Ô Tặc trêu tôi thù dai, tôi nghiến răng nghiến lợi nói: “Người không ghi nhớ thù hận thì cũng không biết ghi nhớ ân nghĩa.” Mặc kệ hai người bọn họ chê cười thế nào, tôi cũng chỉ ở cùng phe với Tiểu Ba. Thỉnh thoảng, bốn người chúng tôi còn chơi trò quan binh bắt trộm, tôi thích nhất là làm tên lâu la, cầm cái thước sắt thích đánh ai thì đánh. Ô Tặc luôn chơi xấu. Tôi liền đuổi theo anh ta để đánh. Dưới giàn nho, bốn chúng tôi quây quần vui đùa. Tôi không còn ngoan ngoãn, trầm lặng như trước nữa mà bắt đầu thích cười thích đùa, giương nanh múa vuốt. Ô Tặc thường cằn nhằn Tiểu Ba, nói tưởng nhận nuôi một con mèo, không ngờ lại là một con báo nhỏ. Tiểu Ba cười trêu: “Ai bảo anh thích chọc cô nhóc?”
Khi chơi bài, anh Lý và mọi người uống bia, còn tôi uống Kiệt Lực Bảo, thời ấy Coca Cola, Pepsi, Fanta, Wahaha đều chưa xuất hiện, loại đồ uống có ga vị cam đó là thứ cao cấp nhất trong lòng tôi. Sau này, mỗi lần nhớ lại kỳ nghỉ hè ấy, tôi đều liên tưởng tới bốn chữ Du Trường Giả Kỳ. Tôi biết, kỳ nghỉ hè của mình không liên quan chút nào tới nội dung của bộ phim Nhật Du trường giả kỳ(2), nhưng năm tháng qua đi, mỗi khi tôi nhớ lại kỳ nghỉ hè ấy, trước mắt tôi lại tràn ngập ánh mặt trời rực rỡ, dòng sông với những con sóng lăn tăn đuổi nhau, những chiếc lá nho xanh biếc, những tiếng cười vui vẻ, vị ngọt ngào thanh mát của cam trong miệng, mấy người bạn tốt, còn cả cậu bạn mà tôi thích.
2. Ông ngoại qua đời Thời gian là khoảnh khắc, rất ngắn ngủi, vì vậy, tình yêu và sự ấm áp luôn vội vàng trôi qua rất nhanh, còn chưa kịp trân trọng, chớp mắt đã xa. Thời gian cũng là vĩnh hằng, mãi mãi, vì vậy, tình yêu và sự ấm áp, luôn được ghi khắc trong tim, suốt đời, không thể nào quên. Không biết trào lưu này bắt đầu từ đâu, nhưng khi tôi biết đến thì tất cả các bạn nam và nữ trong lớp đều đang chơi trượt patin. Cứ đến giờ ra chơi, các bạn liền ùa ra khoảng sân bê tông trước lớp để trượt. Giày trượt patin thời đó rất đơn giản, chỉ có vài miếng sắt ghép trên bốn bánh xe, thêm miếng da mềm và dây đai. Miếng sắt có thể kéo ra kéo vào để điều chỉnh độ lớn nhỏ, không cần phải cởi giày, buộc thẳng giày trượt bên ngoài giày của mình là được. Số người có giày trượt trong lớp không nhiều, vì vậy mọi người đều vây quanh mấy bạn đó, xếp hàng chờ tới lượt mình mượn chơi. Những trò chơi thời thượng kiểu này, Trương Tuấn không bao giờ chịu là người tụt hậu, trong khi những bạn nam khác còn đang đi giày trượt, run run rẩy rẩy lần mò từng bước, thì cậu ấy đã trượt rất thuần thục rồi. Ngay lập tức, cậu ấy trở thành người được các bạn nữ trong lớp chào đón nhất, vì họ vừa phải mượn giày vừa phải nhờ cậu ấy dạy trượt. Tôi đứng từ xa nhìn các bạn bay lượn hết sức tự nhiên trên nền xi măng, trong lòng dấy lên cảm giác thèm muốn, nhưng bề ngoài lại tỏ vẻ thờ ơ. Tôi không muốn vì một đôi giày trượt patin mà phải nịnh bợ người khác, cho dù người ấy có là Trương Tuấn, mà đặc biệt, người ấy lại là Trương Tuấn. Sau khi nhận được một bức điện báo, mẹ nói phải về quê gấp, dặn tôi và em gái phải nghe lời bố. Tôi hỏi mẹ liệu có thể cho tôi về cùng không, nhưng mẹ nói tôi còn phải đi học, không thể bỏ học được. Tôi thức cả đêm để viết một lá thư dài, kể với ông ngoại rằng mọi chuyện của tôi ở đây đều rất ổn, có một cô giáo họ Cao đối xử với tôi rất tốt, khen tôi thông minh, bạn bè đều rất quý tôi, tôi có rất nhiều bạn, tôi cũng đã đọc rất nhiều sách, tôi sắp lớn rồi, đợi khi tôi lớn, tôi sẽ về thăm ông, cùng ông đi câu cá… Sáng sớm hôm sau, mẹ đi vội vội vàng vàng. Tôi mong ngóng ngày mẹ quay về, tưởng tượng xem ông ngoại sẽ gửi cho tôi những gì, có thể là một đôi giày trượt patin, tôi sẽ trượt rất giỏi, khiến Trương Tuấn phải kinh ngạc.
Hơn một tuần sau, mẹ quay trở về với bộ dạng tiều tụy, người gầy đi rất nhiều, tôi quấn lấy mẹ mà hỏi: “Ông ngoại có đọc được thư của con không? Ông có gửi quà cho con không? Ông nói gì…” Bố kéo tôi sang một bên rồi nói: “Ông ngoại con bị ung thư thực quản, đã qua đời rồi, mẹ con đang rất buồn, đừng quấn lấy mẹ nhắc tới ông nữa.” Tôi đứng ngây người nhìn bố, bố cho tôi năm tệ, nói: “Con đi chơi đi, đói bụng thì mua thứ gì đó để ăn.” Tôi cầm tiền đi ra cửa, giữa trời đất bao la này, tôi không biết có thể đi đâu. Ông ngoại qua đời rồi sao? Qua đời rồi nghĩa là người đó sẽ hoàn toàn biến mất khỏi thế giới này sao? Sau này tôi không bao giờ còn được gặp lại ông nữa. Tôi khao khát chờ đợi mình lớn lên, bởi vì sau khi lớn rồi, tôi có thể quay về bên ông, giờ tôi biết phải làm thế nào? Sau khi lớn rồi tôi biết làm gì đây? Tôi biết đi đâu đây? Tiểu Ba đang quét rác trước cửa hàng game, nhìn thấy tôi, cười hỏi: “Em sao thế? Sao mắt cứ nhìn chằm chằm về phía trước thế?” Tôi nói: “Em mời anh đi ăn thịt dê nướng.” Anh hơi khựng người lại nhìn tôi, tôi và anh đều là những kẻ hà tiện, ít khi vung tay tiêu tiền linh tinh, gần như không bao giờ ăn quà vặt. Tôi thì tiết kiệm tiền vì muốn đọc sách, còn anh tiết kiệm tiền theo thói quen. Hôm nay đột nhiên tôi lại thay đổi tính nết, trở nên hào phóng bất thường. Anh dựng chổi vào góc tường, reo lên: “Được thôi!” Chúng tôi đi đến trước quầy hàng bán thịt dê nướng ở góc phố, tôi đưa năm tệ cho người bán hàng, nói: “Hai mươi xiên thịt dê nướng, mười xiên ít ớt, mười xiên cho thật nhiều ớt.” “Thêm ít ớt nữa, thêm ít ớt nữa đi…” Tôi cứ liên tục đòi thêm ớt, vì vậy mà xiên thịt dê nướng của tôi gần như trở thành xiên ớt nướng. Chúng tôi cầm những xiên thịt vừa đi vừa ăn, mỗi lần đưa vào miệng, cảm giác cay tới mức khoang miệng muốn phồng rộp, nhưng tôi vẫn ăn hết từng miếng, từng miếng một. Tiểu Ba cầm mấy xiên thịt dê của mình, im lặng nhìn tôi. Ăn hết thịt dê xiên, tôi vừa lau nước mắt vừa nói: “Cay thật đấy!” Nước mắt dù lau thế nào cũng không thể lau hết, giống như con sông bị vỡ đê, ào ạt tràn ra, thậm chí càng lúc càng nhiều. Tôi cảm thấy rất ngại, co chân lên định bỏ chạy, Tiểu Ba liền nắm lấy cánh tay tôi, đưa tôi vào sân từ cửa sau. Tôi đứng dưới giàn nho, mặt quay vào tường, nước mắt lã chã rơi. Anh ấy ngồi trên bàn bida, lặng thinh. Tôi không biết mình đã khóc bao lâu, có lẽ là rất lâu, bởi vì trong lúc tôi khóc, Ô Tặc có vào một lần, nhưng bị Tiểu Ba đuổi ra, còn có vài người đến đặt cược, cũng bị Tiểu Ba từ chối. Đợi khi khóc xong, tôi dùng tay áo lau mặt, quay người lại, Tiểu Ba hỏi: “Đói bụng rồi phải không? Anh mời em đi ăn mì bò.”
Tôi gật gật đầu, hai chúng tôi cùng đi ăn mì bò. Trong quán mì, tôi cúi gằm mặt nói với anh: “Ông ngoại em mất rồi.” Anh im lặng, tôi nói tiếp: “Bố mẹ nghĩ em còn nhỏ, không nhớ gì, thực ra, em nhớ hết, tất cả những chuyện liên quan đến ông ngoại, em đều nhớ, bởi vì ngày nào em cũng nghĩ đến ông.” Nước mắt tôi lại bắt đầu trào ra nơi khóe mắt, tôi không dám nói nữa, xì xụp ăn mì. Ăn mì xong, Tiểu Ba đưa tôi đến một quầy tạp hóa, nói: “Anh muốn mua ít đồ ăn vặt, em thấy ăn cái gì thì ngon?” Tôi chỉ ngay vào hộp sô cô la không chút do dự, đáp: “Loại nhân rượu ngon nhất.” “Có sô cô la nhân rượu sao? Cho nửa cân.” Tiểu Ba mua nửa cân sô cô la nhân rượu, ăn một viên, mời tôi ăn cùng. Tôi cũng nhón lấy một viên bóc vỏ, bỏ vào miệng, vẫn là vị đắng đó, nhưng sao tôi lại cảm thấy ngon ngọt lạ thường. Buổi tối sau khi về nhà, mẹ đưa cho tôi bản Ỷ Thiên Đồ Long ký chép tay của ông. “Đây là cuốn sách mà ông ngoại con chép tay, ngoài ra ông còn để lại cho con mấy vạn tệ nữa…”, mẹ khẽ thở dài, “mẹ chỉ có thể mang cái này về cho con, con hãy giữ gìn cẩn thận”. Sự mệt mỏi và tiều tụy khiến mẹ trông gầy và đen đi rất nhiều, mẹ không biết đến sự đau buồn của tôi, nhưng tôi lại có thể hiểu được nỗi đau buồn của bà, tôi khẽ nói: “Mẹ ngủ sớm đi!” Mẹ xoa xoa đầu tôi, rồi đi ra. Tôi lật giở Ỷ Thiên Đồ Long ký bắt đầu đọc, mặc dù đã từng xem phim Thư kiếm ân thù lục, Anh hùng xạ điêu, nhưng đối với tôi, cái tên Kim Dung vẫn còn rất xa lạ, Thần điêu đại hiệp tôi cũng chưa từng đọc, vì vậy khi đọc đến đoạn Quách Tương cưỡi lừa lưu lạc giang hồ, mặc dù trong lòng có hơi buồn bã, nhưng lại mơ mơ hồ hồ. Khi đọc đến chương ba, ngay câu đầu tiên: “Hoa nở hoa tàn. Hoa tàn hoa nở. Người thiếu niên giang hồ năm nào nay cũng đã già, thiếu nữ hồng nhan tóc mai đã điểm bạc…” tôi bỗng cảm thấy vô cùng đau đớn. Nét chữ còn đây, người đã không còn nữa! Chưa bao giờ tôi cảm nhận được sự tàn khốc vô tình của thời gian một cách rõ ràng như lúc này. Tôi lập tức gấp sách lại, không đọc tiếp nữa. Sau khi vào đại học, mới dám tiếp tục đọc Ỷ Thiên Đồ Long ký, lúc đấy tôi cũng mới thật sự biết, người con gái tôi yêu quý bao nhiêu năm qua - Quách Tương, trong truyện này, thậm chí còn không được coi là một nhân vật phụ. Tôi vẫn đi học như bình thường, nhưng thế giới trong mắt tôi đã không còn giống như trước kia nữa. Nửa đêm tôi thường giật mình tỉnh giấc, vùi mình vào chăn mà khóc. Tôi nhớ ông ngoại da diết, nhớ món sô cô la nhân rượu mà ông thường mua cho tôi, nhớ mùi mực Tàu thoang thoảng trên người ông, cả ánh mắt yêu chiều dịu dàng của ông. Tôi biết rất rõ rằng, trên thế gian này, sẽ không có ai yêu thương tôi vô điều kiện như ông nữa.
Bạn bè tôi vẫn còn vô lo vô nghĩ, nhưng tôi đã hiểu được thế nào là mất mát. Trên thế giới này, thì ra càng có nhiều bao nhiêu thì khi mất đi càng đau khổ bấy nhiêu. Ông trời cho từng nào, sẽ lấy đi của bạn từng đấy. Cuối tuần, tôi cầm cuốn Cánh nhạn cô đơn của Quỳnh Dao đến quán game để đọc, Tiểu Ba, Ô Tặc và mấy người anh em nữa đang đổ xi măng trước quán. Tôi hỏi họ đang làm gì, Ô Tặc bảo đây là ý của Tiểu Ba, lát xi măng trước cửa, sẽ dễ quét dọn, lại sạch sẽ, đến mùa hè, chỉ cần làm thêm mái che là có thể thành chỗ bán đồ giải khát luôn. Tôi đứng bên cạnh xem một lúc, sau đó chạy vào trong sân ngồi đọc sách. Sau khi đọc xong cuốn Cánh nhạn cô đơn, tôi cứ thể ngẩn ngơ ngửa mặt lên nhìn giàn nho. Nhân vật nam trong tiểu thuyết có thật không? Sẽ có một người yêu tôi như thế thật không? Nghĩ đến Trương Tuấn, cảm giác của tôi, vui mừng có, buồn bã có, còn có cả sự ảo tưởng và kỳ vọng âm thầm. Cũng có thể một ngày nào đó trong tương lai, cậu ấy sẽ yêu tôi, giống như nhân vật nam chính yêu người nữ chính trong tiểu thuyết vậy. Hôm sau, tôi đến cửa hàng game, nền xi măng trước cửa quán đã khô. Ô Tặc và Tiểu Ba đang trượt patin, hai người bọn họ trượt rất giỏi, tôi nhìn họ với ánh mắt kinh ngạc. Có người đến mua xu, Ô Tặc cởi giày trượt ra, gọi tôi: “Gấu Trúc Bốn Mắt, anh phải vào trông cửa hàng, cho em chơi đấy.” Tôi nhìn đôi giày trượt hơi cũ trước mắt, trong niềm vui mừng vô hạn là nỗi thấp thỏm phập phồng. Tiểu Ba ngồi xuống cạnh tôi, giúp tôi điều chỉnh độ rộng của giày, nói: “Thử đi xem!” Tôi đi đôi giày trượt patin, cẩn thận dè dặt như đi vào đôi giày thủy tinh, cảm giác bốn bánh xe dưới chân như muốn trượt đi, không dám đứng dậy. Tiểu Ba đưa tay ra, tôi vịnh vào tay anh ấy, run rẩy đứng lên, anh ấy bắt đầu truyền kinh nghiệm của mình cho tôi: “Đầu tiên hai chân đứng hình chữ V, một chân đẩy một chân mượn lực của chân vừa đẩy để trượt, ban đầu sẽ khó giữ thăng bằng, hai chân phải hơi cong, cố gắng hạ trọng tâm xuống mức thấp nhất, nhớ là phải khom người về phía trước, như thế cho dù bị ngã cũng có thể chống tay, tránh bị thương ở đầu…” Dưới sự dìu dắt của anh ấy, tôi bắt đầu trượt patin, khổ một nỗi, đầu óc tôi đúng là đần độn, không thể nắm được kỹ thuật cơ bản, chân thường đứng không vững. Có lúc, Tiểu Ba đỡ được tôi, có lúc, anh ấy không những không đỡ được tôi, mà còn bị tôi kéo ngã theo. Ô Tặc ngồi ở cửa cười lớn: “Gấu Trúc Bốn Mắt sao vụng về thế nhỉ? Anh đến lần thứ ba là biết trượt rồi, nhìn bộ dạng của nhóc thế này định học đến bao giờ?” Tôi lườm Ô Tặc, anh ta vẫn cười. Tiểu Ba an ủi tôi: “Cứ từ từ!” Trong tiếng cười chế nhạo của Ô Tặc, chúng tôi ngã hết lần này tới lần khác, tôi ngã đến tím cả cánh tay, Tiểu Ba bị tôi làm liên lụy nên cũng bị thương theo. Ô Tặc lắc đầu cười: “Sợ quá! Khi Tiểu Ba tự học, chưa ngã đến lần thứ hai đã biết trượt, giờ dạy cô ngốc như nhóc còn ngã nhiều hơn cả khi tự học, có đánh chết anh, anh cũng không bao giờ dạy con gái học trượt patin.”
Tập hơn một tiếng đồng hồ, ngay cả tự đứng tôi cũng còn thấy run. Ô Tặc nhe răng, không ngừng công kích tôi: “Quá ngốc, anh Lý còn khen nhóc thông minh, thông minh cái rắm ấy.” Tôi không cãi, cởi giày trượt patin ra, lặng lẽ ngồi trong sân đọc sách, mắt nhìn sách nhưng trong đầu lại lởn vởn cảnh tượng Trương Tuấn cầm tay một bạn nữ lả lướt trượt patin. Tiểu Ba vào xem tôi thế nào, hỏi: “Giận Ô Tặc à?” Ô Tặc đứng ở cửa, nhìn tôi. Tôi xí một tiếng, khinh khỉnh bĩu bĩu môi: “Em có thể đọc thuộc lòng cả bài Xuân giang hoa nguyệt dạ(3), anh ấy có đọc được không?” Ô Tặc buột miệng: “Mẹ kiếp”, rồi dứ dứ nắm đấm về phía tôi, quay người đi vào nhà. Tiểu Ba cười, hỏi: “Em còn đủ can đảm tập tiếp không?” Tôi cũng cười: “Tại sao lại không? Einstein làm đến cái ghế thứ ba mới có thể coi là tạm được, người khác học đến lần thứ ba biết trượt, cùng lắm thì em học mười lần, một trăm lần thôi mà!” “Tốt, vậy ngày mai anh tiếp tục dạy em.” “Không cần anh dạy.” Tiểu Ba nhìn tôi bằng ánh mắt thắc mắc, tôi nói: “Những gì cần nói anh đã nói với em cả rồi, phần còn lại do khả năng luyện tập của em thôi.” Tiểu Ba im lặng nhìn tôi một lúc, rồi cười nói: “Vậy cũng được, giày trượt anh để trong sân, khi nào em muốn trượt, cứ lấy mà dùng.” Từ sau lần đó, trước cửa hàng game có thêm một cảnh tượng mới. Mỗi buổi trưa, sau khi ăn cơm xong, tôi liền chạy tới đó để tập, buổi tối cũng tập, cuối tuần cũng tập. Tôi luôn ghi nhớ những gì Tiểu Ba nói, có thể ngã, nhưng không được để đầu bị thương. Mỗi lần ngã, đều nhớ phải dùng tay để bảo vệ mình, do thường xuyên dùng tay chống đất, tôi có cảm giác cánh tay mình cũng bị mòn ngắn đi. Tôi không còn nhớ rút cục mình đã ngã bao nhiêu lần, chỉ nhớ thời gian đó, khi đi đường, chân tôi run lẩy bẩy, tay sứt sẹo khắp nơi, có một lần khi ngã, ngón tay cái quặp xuống, một thời gian dài, không thể duỗi thẳng ra, nhưng tôi vẫn kiên trì tập luyện. Sự kiên trì và cố chấp của tôi khiến Ô Tặc phải kinh ngạc. Thấy tôi ngã nhiều thảm quá, anh ta còn nói riêng với Tiểu Ba, bảo Tiểu Ba khuyên tôi. Thực ra, không phải vì tôi thích trượt patin tới mức ấy, mà là vì trong đầu tôi luôn có một cảnh, cảnh Trương Tuấn cầm tay tôi nhẹ nhàng lướt đi. Trong khi tôi khổ sở vật lộn với đôi giày trượt patin thì nỗi đau khổ về việc ông ngoại qua đời cũng dần dần lắng xuống. Sự mệt mỏi về thể xác khiến tôi cứ lên giường là ngủ như chết, không còn cảnh nửa đêm tỉnh giấc khóc thầm nữa.
Sau vài tháng luyện tập, vì không có năng khiếu nên tôi trượt vẫn không được đẹp mắt lắm, có điều trông cũng ra dáng. Đúng lúc tôi quyết định bắt đầu học đi lùi, và chọn một thời cơ thích hợp để thể hiện bản thân ở trường, thì tôi phát hiện ra rằng, bạn bè tôi đã không còn trượt patin nữa. Nó giống như một cơn gió, đến đột ngột và đi cũng đột ngột, phản ứng của tôi luôn chậm hơn người khác rất nhiều, khi mọi người chơi hăng hái rầm rộ, thì tôi mới phát hiện ra, và khi tôi đã học được cách trượt, thì đã không còn ai hứng thú với phong trào này nữa. Tôi vốn đang hừng hực một bầu nhiệt huyết, nhưng lại không có nơi nào để trút, ngẩn ngơ từ bỏ đôi giày trượt, cũng từ bỏ luôn việc nhờ Tiểu Ba dạy đi lùi.
3. Chưa yêu, đã thất tình Tôi có thể khóa chặt sổ nhật ký lại, nhưng không thể khóa trái tim mình. Tôi có thể khóa trái tim mình, nhưng không thể khóa lại tình yêu và nỗi buồn. Tôi có thể khóa tình yêu và nỗi buồn, nhưng không thể khóa được ánh mắt mình luôn dõi theo người ấy. Nhiều năm sau, tôi có thể, thanh thản như mây gió, mỉm cười nắm tay người ấy, rồi khẽ nói lời từ biệt. Còn từ đó, từ mà tôi chưa kịp nói ra, người ấy sẽ không bao giờ biết, nó đã bị khóa chặt dưới đáy dòng sông thời gian cuồn cuộn chảy kia. Được chủ quán cho thuê truyện giới thiệu, tôi bước chân vào thế giới tiểu thuyết tình cảm, bắt đầu từ Quỳnh Dao. Tiểu thuyết tình cảm Đài Loan thời ấy, khi miêu tả nhân vật nữ chính, không tập trung miêu tả diện mạo xinh đẹp mà thường miêu tả khí chất xem nhân vật ấy khác người thế nào. Tôi biết, vẻ bề ngoài của mình không xuất chúng, vì vậy tôi thường xuyên suy nghĩ xem khí chất là gì, trong lòng thầm ao ước mình có khí chất, giống như những nữ nhân vật chính trong tiểu thuyết, dung nhan bình thường, gia thế bình thường, nhưng lại khiến nhân vật nam chính phải để ý lưu tâm bởi một khí chất khó có thể diễn tả bằng lời. Nhưng hai từ “khí chất” đó quá trừu tượng. Quan sát những bạn gái được đám con trai để ý quanh mình, tôi thấy tuy rằng diện mạo của họ không giống nhau, mỗi người mỗi vẻ, nhưng có một điểm tương đồng, đấy chính là họ đều rất xinh đẹp. Chưa thấy người nào diện mạo bình thường, chỉ dựa vào nụ cười như thiếu nữ trong truyện tranh mà khiến đám con trai phải điêu đứng cả. Khi tôi còn đang băn khoăn về hai từ “khí chất”, thì ông trời đã đưa cả đáp án và sự đả kích đến trước mặt tôi. Tôi nghĩ tôi luôn là một con bé tự ti, nhưng sự xuất hiện của cô Cao khiến cả thế giới của tôi được tắm mình trong ánh nắng mặt trời. Sự thân thiện của Trương Tuấn khiến tôi không ngừng khao khát có được nhiều hơn, thậm chí còn tự ảo tưởng về sự an bài của số phận. Tại sao chỉ có tôi và cậu ấy là được cô giáo Cao để ý? Tại sao lại chỉ có tôi và cậu ấy cùng học lớp bồi dưỡng? Tại sao cậu ấy lại nhặt đá cho tôi? Tại sao hôm nay cậu ấy nói chuyện với tôi? Tại sao cậu ấy không hỏi mượn tẩy của người bạn cùng bàn, mà lại mượn tôi? Tại sao hôm nay khi đi ngang qua bàn tôi, cậu ấy lại quay lại nhìn tôi? Tại sao…?
Vô số câu hỏi tại sao, những chuyện lặt vặt, nhỏ nhặt đó hằng ngày đều bị tôi đem ra phân tích trái, phân tích phải, những chuyện chẳng có ý nghĩa gì cũng bị tôi phân tích cho ra ý nghĩa. Tôi luôn cảm thấy những chuyện ấy là một hiện tượng, đang ám chỉ điều gì đó về tương lai, như số phận đang muốn mách bảo tôi điều gì đó. Tôi âm thầm khao khát mong chờ những ảo tưởng trong lòng mình trở thành hiện thực. Tôi thích bói bài, hết lần này tới lần khác bói về vận mệnh của tôi và Trương Tuấn; nếu như tốt, tôi sẽ rất vui; nếu không tốt, tôi sẽ tráo bài bói lại, một mực cho rằng vừa rồi chưa tráo kỹ, nên kết quả mới không chính xác. Cũng có thể đáp án cho vô số những câu hỏi tại sao của tôi rất đơn giản. Cậu ấy quay lại nhìn tôi lúc đi ngang qua bàn là bởi vì trên mặt tôi có dính mực. Cậu ấy hỏi mượn tẩy của tôi là bởi vì người bạn ngồi cùng bàn không tìm thấy tẩy của mình… Nhưng ngày đó tôi không nghĩ như thế. Vì vậy, tất cả mọi thứ đều diễn ra trong sự ảo tưởng tự nguyện của tôi, bị tôi phủ lên một giấc mơ đầy màu sắc và mang kỳ vọng của chính mình. Trong lúc tôi đang ôm ấp một trái tim thấp thỏm, bất an, thận trọng quan sát, thận trọng trông ngóng, thận trọng tiếp cận Trương Tuấn, thì một bạn nữ chuyển trường vào lớp tôi đã làm mọi thứ thay đổi. Khi bạn nữ ấy đi theo cô giáo ngữ văn vào lớp, đứng trên bục giảng và mỉm cười duyên dáng với mọi người, thì cuối cùng tôi cũng đã hiểu được ý nghĩa của hai từ “khí chất” trong các cuốn tiểu thuyết tình cảm. Cô giáo giới thiệu bạn ấy tên là Quan Hà(4), thật đúng là người giống như tên, một đóa sen đẹp. Sau này, khi tôi đã đi qua rất nhiều thành phố, rất nhiều quốc gia, gặp rất nhiều người đẹp, nhưng mỗi lần nghĩ đến hai từ người đẹp, thì Quan Hà là người đầu tiên xuất hiện trong tâm trí tôi. Quan Hà mặc một chiếc áo khoác màu tím, cài một chiếc cặp nhựa hình con bướm màu tím trên đầu, mái tóc đen dài, thẳng tắp thả qua vai. Khuôn mặt của bạn ấy không đẹp hơn những cô bạn xinh đẹp khác trong lớp, nhưng con người bạn ấy toát ra một thứ gì đó mà tôi chưa từng gặp bao giờ, khiến tôi phải chú ý. Đứng trước một lớp học xa lạ, bạn ấy không ngượng ngùng lẩn trốn, cũng không vội vàng hòa nhập để lấy lòng, mà duyên dáng, mềm mại như đóa sen dưới hồ. Trong những ngày sau đó, Quan Hà đã thể hiện ma lực khó có thể dùng lời để diễn tả của mình. Thành tích học tập xuất sắc, ngay kỳ thi đầu tiên đã chiếm vị trí thứ nhất trong lớp. Bạn ấy đa tài đa nghệ, vào buổi liên hoan năm mới của lớp đã tự kéo đàn nhị và hát bài Đêm thảo nguyên, khiến thầy cô giáo và các bạn hết sức ngạc nhiên. Tờ báo tường do bạn ấy làm đã thay đổi kết cục thảm hại năm nào cũng thua của lớp tôi. Nhưng bạn ấy không hề tỏ ra kiêu ngạo như những bạn gái khác mà luôn mỉm cười thân thiện, ăn nói nhỏ nhẹ, dịu dàng, không tự ti, không chống đối thầy cô giáo, khiêm tốn, hòa nhã với tất cả mọi người. Bất kể bạn nam hay bạn nữ, học sinh ngoan hay học sinh hư đều khuất phục trước tác phong của bạn ấy. Ai cũng bảo giữa con gái với nhau không có tình bạn thật sự, các bạn nữ của lớp tôi cũng đã không ít lần chứng minh cho câu nói này, khi thì thân thiết như hình với bóng không rời nhau nửa bước, khi lại nói xấu đối phương sau lưng. Nhưng Quan Hà là một ngoại lệ, không những được các bạn nam trong lớp yêu quý mà tất cả các bạn nữ trong lớp cũng
yêu quý bạn ấy, thậm chí nếu có bạn gái nào đó nói xấu Quan Hà, lập tức, những bạn gái còn lại trong lớp sẽ tuyệt giao với cô bạn kia. Dần dần, cho dù là người trước kia có kiêu ngạo đến đâu, hay ghen ghét đố kỵ đến mấy cũng bắt đầu lấy lòng Quan Hà, còn Quan Hà đối xử với tất cả mọi người đều bình đẳng như nhau. Bạn ấy tốt với tất cả mọi người. Nếu cần đến sự giúp đỡ của bạn ấy, nhất định bạn ấy sẽ giúp. Nhưng Quan Hà lại không chơi thân với ai, không có một người “bạn thân” đúng nghĩa. Song, chính thái độ vừa thân thiết vừa xa cách đó của Quan Hà đã khiến các bạn nữ trong lớp phát cuồng. Ai cũng muốn đối xử với Quan Hà thật tốt, muốn trở thành bạn thân của bạn ấy, thậm chí còn đi khoác lác, khoe khoang với người khác rằng Quan Hà thân thiết với mình hơn. Dường như người nào được Quan Hà ưu ái để mắt tới sẽ cao sang hơn người khác vậy. Tôi chỉ biết tròn mắt nhìn Quan Hà tốc chiến tốc thắng, chinh phục trái tim của tất cả các bạn nam, bạn nữ trong lớp. Thẳng thắn mà nói, tôi cũng quý bạn ấy, bởi vì tôi tin với những cái miệng ưa tám chuyện của đám con gái trong lớp, thì những chuyện xấu xa của tôi chắc chắn đã lọt vào tai Quan Hà, nhưng thái độ của bạn ấy đối với tôi vẫn ôn hòa như những người khác, không thân thiết cũng chẳng bài xích. Có lần tôi làm rớt mực lên áo khoác ngoài, bạn ấy còn chủ động chỉ cho tôi cách lấy cơm miết lên vết mực rồi vò, như thế sẽ dễ dàng tẩy sạch vết mực đó. Quan Hà đúng là một bạn gái khiến người ta cảm thấy rất dễ chịu. Bạn ấy có ánh hào quang rực rỡ, nhưng ánh hào quang ấy thật ôn hòa, không đả thương người khác như thần đồng, hơn nữa bạn ấy còn khiến người khác cảm nhận được sự chân thành và khoan dung, khiến mọi người yêu quý và luôn muốn tiếp cận bạn ấy một cách vô thức. Những lúc không có việc gì làm, tôi thường nghĩ, nếu Trần Kình không nhảy lớp, không biết trong cuộc đối đầu giữa ”vua” với “vua”, ai sẽ thắng, hay khi cả hai va chạm sẽ tóe lửa? Trong khi cơn lốc “phong trào yêu Hà” ấy cuốn phăng cả lớp, Trương Tuấn cũng không ngoại lệ. Tôi thường thấy cậu ấy và mấy cậu bạn khác cùng nhau đi tìm Quan Hà, thường xuyên thấy cậu ấy làm trực nhật giúp Quan Hà, và thường xuyên bắt gặp cậu ấy cùng Quan Hà nói nói cười cười với nhau. Sau khi quan sát Quan Hà thật kỹ, nhìn lại bản thân, tôi lặng lẽ thu mình vào lại vỏ bọc. Có một lần, sau khi chúng tôi học xong buổi bồi dưỡng cho kỳ thi Olympic toán sắp tới, Trương Tuấn hỏi tôi: “Nếu con trai theo đuổi con gái thì nên tặng gì? Con gái các cậu thường thích cái gì?” Tôi ngơ ngác nhìn cậu ấy. Khi đó, trái tim tôi đau đớn như muốn đông cứng lại, nhưng vẫn cố gắng thoi thóp đập, thình thịch, thình thịch… Tiếng đập càng lúc càng lớn, ngực tôi như muốn nổ tung, nhưng cậu ấy không nghe thấy gì, vẫn khổ sở vò đầu bứt tai, hỏi: “Các diễn viên nữ trong phim đều thích hoa, cậu thấy tặng hoa thì thế nào?” Tôi cúi đầu, tay ôm sách, bỏ lại một câu “mình không biết” rồi nhanh chóng rời khỏi lớp học.
Không lâu sau, tôi nghe nói Trương Tuấn đã tỏ tình với Quan Hà, nhưng Quan Hà đã lịch lãm từ chối. Đám con gái trong lớp miêu tả vô cùng sinh động, cứ như khi ấy bọn họ đã có mặt ở đó, tận mắt chứng kiến. Quan Hà được miêu tả là duyên dáng, cao quý như thiên nga, còn Trương Tuấn lại bị nói là không biết tự lượng sức mình, mặc dù không đến nỗi xấu xí như cóc ghẻ, nhưng qua miệng đám con gái trong lớp, thì việc Trương Tuấn bị từ chối là hết sức đương nhiên. Tôi chẳng thấy vui, ngược lại còn rất buồn, thương hại cậu ấy và thương hại chính mình. Thời gian đó, tôi thường xuyên trốn trong một góc của cửa hàng game, ngồi thần người, nhớ đến phong thái và sự tài hoa của Quan Hà, bất giác sống mũi cay cay. Nếu bạn ấy là bông sen đẹp nhất trong đầm sen, thì tôi chính là ngọn cỏ nhỏ bé mọc trên bãi bùn cạnh đầm, bất luận so sánh thế nào, tôi cũng không bao giờ bằng được bạn ấy. Bọn Ô Tặc đã quen với cảnh tay không rời sách của tôi, hôm nay lại thấy tôi không đọc sách, Ô Tặc tỏ ra lạ lẫm, năm lần bảy lượt hỏi tôi: “Gấu Trúc Bốn Mắt, em sao thế? Có phải em hết tiền rồi không? Có cần anh chi viện không?” Tôi không thèm để ý tới Ô Tặc, anh ta vẫn vô tư đùa cợt như trước kia, nhưng lần này lại giống như mèo mù vớ được con chuột chết, nói trúng nỗi đau trong lòng tôi: “Gấu Trúc Bốn Mắt đang tương tư à? Gấu Trúc Bốn Mắt thất tình rồi phải không?” Tôi cầm cặp, chạy khỏi quán game, cũng mới chỉ nửa năm thôi, ánh mặt trời vẫn rực rỡ, nhưng kỳ nghỉ dài vui vẻ mà tôi nghĩ chỉ vừa mới bắt đầu kia đã kết thúc rồi. Đêm nay, mưa phùn lất phất bay ngoài cửa sổ. Dưới ánh đèn, khẽ lật giở cuốn sổ lưu bút, khuôn mặt mà tôi vốn nghĩ rằng sẽ không bao giờ quên, đã mờ đi rồi. Tờ giấy mà tôi nghĩ đã làm rơi mất từ lâu, lại vẫn thấy kẹp giữa những trang sách. Đêm nay, mưa phùn lất phất bay ngoài cửa sổ. Giống hệt như cảnh tượng năm xưa chúng tôi vẫy tay từ biệt nhau. Mưa bụi đầy trời, cùng nhau hát một bài, năm ấy chúng tôi nghe chưa hiểu, vội vàng, quá vội vàng. Toàn thành phố có rất nhiều trường tiểu học, trường chúng tôi chỉ có năm chỉ tiêu cho kỳ Olympic toán năm nay, tôi và Trương Tuấn đã chiếm hai suất, không ít giáo viên đã có ý kiến về việc này. Cô Cao vì muốn tôi và Trương Tuấn tham gia thi Olympic, đã phải chịu một sức ép rất lớn, gần như đánh cược cả tiền đồ sự nghiệp của mình, nhưng cô luôn nói với chúng tôi rằng, chỉ cần cố gắng hết sức là được, thi thố cũng chỉ là một phần trong quá trình học tập, chỉ cần cảm thấy bản thân mình đã thu về được điều gì đó thì đoạt giải hay không không quan trọng. Kẻ sĩ có thể chết vì người tri kỷ! Tôi không ngại là học sinh dốt, cũng chẳng quan tâm đến cuộc thi Olympic toán học gì gì đó, nhưng tôi lại vô cùng, vô cùng sợ mình sẽ khiến cô Cao thất vọng, càng sợ hơn cả là sự bất tài của mình sẽ là cái cớ để người khác làm tổn thương cô Cao. Do đó tôi đã đinh ninh một điều, chỉ có đoạt giải mới có thể báo đáp được công ơn dạy dỗ của cô. Một tháng trước khi diễn ra kỳ thi Olympic, hằng ngày, tôi đều phải học cùng với cậu bạn trai tôi thích nhưng lại không thích tôi. Cô Cao còn yêu cầu chúng tôi thảo luận với nhau, cố gắng phát huy tối đa tư duy của mình.
Trước đấy không lâu, đây vẫn là trải nghiệm ngọt ngào nhất trong lòng tôi, nhưng bây giờ, sự đau khổ vô vọng đang từng giờ từng phút gặm nhấm trái tim tôi. Còn tôi vẫn phải cắn chặt răng, lắng nghe từng lời cậu ấy nói, tự nhắc nhở bản thân rằng nhất định phải đoạt giải! Hằng ngày, tôi lao vào làm bài tập như điên, từ bỏ tất cả những việc khác trong cuộc sống. Mỗi buổi sang, khi vừa mở mắt ra, ý nghĩ đầu tiên là Olympic. Mỗi buổi tối khi nhắm mắt đi ngủ, vẫn là Olympic. Thời gian đó, dù có mơ ngủ cũng không yên ổn, trong giấc mơ, nếu không phải là rợp trời những đề toán thì lại là Trương Tuấn và Quan Hà cười cười nói nói với nhau, còn tôi như thân rơm cọng cỏ, không thấy bóng dáng đâu. Một mặt tôi dốc toàn tâm toàn sức; nhưng mặt khác, tôi lại không có chút niềm tin vào bản thân, hoàn toàn không biết liệu mình có thể đạt giải hay không. Trước kỳ thi ba ngày liên tiếp, tôi mơ thấy mình thi trượt, tất cả mọi người trên thế giới này đều cười nhạo cô Cao và tôi. Tôi thường xuyên giật mình tỉnh giấc, đối với tôi, kỳ Olympic này không chỉ là một cuộc thi. Nó chính là cơ hội để tôi thể hiện lòng biết ơn của mình, cũng là cơ hội để tôi chứng minh khả năng của mình. Nếu tôi không đạt giải thì đấy cũng chính là ngày tận thế. Áp lực của tôi lớn tới mức người ngoài không thể tưởng tượng được. Đến một ngày, tôi cảm thấy không thể trụ vững được nữa. Tôi chạy đến quán game. Ô Tặc đang trông quán. Tiểu Ba mặt mày trắng bợt đang chơi game, anh ấy đang chuẩn bị cho kỳ thi vào cấp ba, áp lực cũng không nhỏ. Ô Tặc cười ha hả: “Hai đứa đúng là anh em, nói không đến là cùng không đến, nói đến là cùng đến.” Tôi nói với Ô Tặc: “Bán cho em một chai bia, bây giờ em không có tiền, ghi nợ.” Ô Tặc hơi sững lại, không nói không rằng lấy một chai bia ra, mở nắp chai rồi đưa cho tôi, tôi đón lấy tu ừng ực, Tiểu Ba gọi tôi lại: “Chơi với anh một ván!” Tôi cầm chai bia, đi đến. Nói là chơi cùng, nhưng thực tế là anh ấy dạy tôi chơi. Bình thường tôi vẫn cho rằng mấy trò đó thật vô vị, nhưng bây giờ lại thấy hay hay. Tay ấn nút tấn công kịch liệt, mỗi lần giết được một con quái vật, nhìn dòng máu tươi bắn tung tóe trên màn hình, tâm trạng dường như cũng nhẹ đi rất nhiều. Chơi xong một ván game, sự căng thẳng như sắp vỡ vụn ra trong lòng dường như cũng được giải tỏa. Tiểu Ba cầm chai bia tôi đang uống dở, ngửa cổ dốc một hơi cả nửa chai rồi hỏi: “Em sao thế?” Tôi nhìn màn hình nhấp nháy liên tục của máy chơi game, nói ra nỗi lo sợ trong lòng: “Em liên tục gặp ác mộng, em mơ thấy mình thi trượt.” “Mơ bao giờ cũng ngược lại với hiện thực.” “Thật không?” “Lừa em làm gì? Mơ bao giờ cũng ngược lại, giấc mơ càng xấu thì hiện thực càng tốt.” Tôi bán tín bán nghi, nhưng trong phút chốc, lại tràn ngập ý chí chiến đấu, nắm chặt nắm tay, quay người chạy ra ngoài. Ô Tặc gọi với theo từ phía sau: “Sao vừa đến lại đi rồi? Không uống bia nữa à?”
“Không uống nữa. Em về làm toán.” “Đừng quên trả tiền đấy.” Thi xong, khi tôi và Trương Tuấn bước ra khỏi phòng thi, cô Cao không hỏi chúng tôi làm bài thế nào, chỉ nói mời hai chúng tôi đi ăn cơm. Tôi rất muốn từ chối, nhưng người mời là cô Cao, tôi không thể không đi. Lúc ăn cơm, nghĩ đến việc cuối cùng tôi cũng đã vượt qua được, hơi thở vẫn tắc nghẹn trong lồng ngực nhanh chóng được giải phóng, đầu nặng vô cùng, đột nhiên mũi tôi chảy máu cam. Trương Tuấn luống cuống dùng giấy ăn cuộn tròn lại đưa cho tôi, nhưng tôi đã không còn khống chế được bản thân mình nữa, dùng sức hất tay cậu ấy ra, động tác quả quyết, đừng nói là Trương Tuấn, đến cô Cao cũng sững người ngạc nhiên. Tôi hơi ngửa cổ ra như không có chuyện gì, tự mình cuộn một tờ giấy ăn nhét vào mũi. Sau khi kỳ thi Olympic kết thúc, tôi xa lánh Trương Tuấn, cố ý tránh mặt cậu ấy. Trương Tuấn cũng không phải tên ngốc, đương nhiên nhận ra việc tôi phớt lờ cậu ấy. Nhưng cậu ấy vẫn thường xuyên tới tìm tôi để nói chuyện, thỉnh thoảng còn đợi tôi khi tan học, muốn đi về cùng, nhưng tôi luôn từ chối. Tính cách của Trương Tuấn rất đàn ông, mỗi lần tôi phớt lờ cậu ấy, đừng nói là dỗ dành, đến nói thừa một câu cũng không. Lần nào cậu ta cũng ra vẻ tức giận đùng đùng, quay đầu bỏ đi, như kiểu “cậu không cần tôi thì tôi cũng chẳng cần cậu”. Nhưng chỉ hai ngày sau, cậu ấy lại xuất hiện trước mặt tôi, sau đó lại tức giận đùng đùng quay đầu bỏ đi. Cứ như thế suốt một thời gian, không biết từ bao giờ, Trương Tuấn cũng không còn quan tâm đến tôi nữa, đột nhiên biến mất khỏi cuộc sống của tôi. Hằng ngày, cậu ấy vẫn bước chân vào cửa lớp vừa kịp tiếng chuông reo, vừa hết giờ là vội vội vàng vàng đi về, rất ít khi ở lại. Có lúc, vô tình gặp cậu ấy trên đường. Cậu ấy thường đi cùng một đám học sinh trường kỹ thuật lớn hơn chúng tôi rất nhiều, chúng tôi mặc dù học cùng một lớp, mà như ở hai thế giới khác nhau. Sau này, tôi mới nghe nói, hồi Tết, Trương Tuấn cùng hai người bạn nữa đã cậy cửa đột nhập vào một cửa hàng thực phẩm, lấy trộm rất nhiều thuốc lá. Sau khi chuyện bại lộ, phụ huynh phải đền tiền cho cửa hàng thực phẩm đó, và cố gắng che giấu sự việc. Trương Tuấn vẫn một mình tự tung tự tác, nhưng hai cậu bạn kia bị bố mẹ nghiêm khắc cảnh cáo không cho phép qua lại với Trương Tuấn nữa. Họ cho rằng chính Trương Tuấn đã làm hư con họ. Chuyện được các phụ huynh kể cho nhau nghe, gần như bố mẹ của các bạn nam trong lớp đều cấm con mình chơi với Trương Tuấn. Thời gian đầu Trương Tuấn còn chưa biết, vẫn chạy đến nhà bạn chơi, nhưng lần nào bố mẹ bạn ra mở cửa cũng không cho cậu ấy vào. Sau này, cậu bạn thân Cao Phi mới nói cho cậu ấy biết. Biết chuyện, Trương Tuấn không chơi với các bạn trong lớp nữa, và chuyển sang chơi với những người bạn không ghét bỏ mình ngoài xã hội. Tôi đoán cậu ấy cho rằng tôi cũng vì nguyên nhân này mà xa lánh cậu ấy, nên không thấy cậu ấy đến tìm tôi nữa.
Nửa học kỳ hai của năm lớp 6, có kết quả kỳ thi Olympic toán. Với số điểm thấp hơn người đạt giải nhất hai điểm, tôi giành giải nhì, điểm của Trương Tuấn thấp hơn tôi, nhưng cũng vẫn là đồng giải nhì. Sau nghi thức chào cờ, thầy hiệu trưởng khen ngợi những học sinh có thành tích xuất sắc trong kỳ thi Olympic toán vừa qua, nhưng không hề nhắc đến tên Trương Tuấn, chỉ nhắc tên tôi. Trái tim chới với của tôi cuối cùng cũng có thể hạ về đúng vị trí, toàn thành phố chỉ có năm học sinh đạt giải, trường tôi chiếm hai. Cô giáo Cao vừa tham gia công tác đã mang lại vinh dự cho trường. Với một trường mà tất cả giáo viên chỉ thích nói chuyện thành tích thì thành tích này đủ khiến họ không có gì để bàn tán thêm nữa. Nhờ cuộc thi Olympic toán học mà tôi có được tờ giấy khen đầu tiên trong đời. Chỉ là một tờ giấy in màu mỏng manh, dùng bút viết La Kỳ Kỳ đạt giải nhì trong kỳ thi Olympic toán học, nhưng đối với tôi mà nói, tờ giấy khen này còn quý giá hơn cả vàng. Về đến nhà, tôi căng thẳng, ngượng ngùng đưa giấy khen cho bố mẹ xem. Bố dán tờ giấy khen của tôi lên tường, vừa dán vừa cổ vũ tôi tiếp tục cố gắng, chăm chỉ hơn nữa, em gái bĩu môi đứng xem bên cạnh. Trong lòng tôi xao xuyến, đầy hy vọng, tôi thích nhìn bố tôi lúc này, ánh mắt luôn nhìn thẳng vào tôi, nếu có thể, tôi rất mong ngày nào cũng có giấy khen để mang về nhà, cho bố dán. Buổi tối khi đi ngủ, tôi vừa nhìn tờ giấy khen trên tường, vừa sướng âm ỉ. Sáng sớm hôm sau khi tỉnh dậy, tôi phát hiện ra tờ giấy khen bị ai đó dùng bút sáp vẽ nhem nhuốc, tên tôi và chữ giải nhì bị phủ đặc không còn nhìn ra chữ gì. Tôi tức điên lên, không kịp mặc quần áo, lao sang phòng em gái. Chỉ vài bước đã nhảy lên giường, ngồi đè lên người nó mà đánh, nó bắt đầu gào khóc ầm ĩ. Bố mẹ vội vàng chạy vào, kéo tôi ra. Sau khi biết rõ chuyện, họ vừa buồn cười lại vừa tức giận. Em gái tôi ôm chặt lấy cổ mẹ khóc nấc không thành tiếng, bố mẹ không nỡ trách mắng nó thêm nữa, bố nói: “Kỳ Kỳ, cũng chỉ là một tờ giấy khen thôi mà! Cho dù em con sai, con cũng nên từ tốn giải thích cho em hiểu, sao lại động tay động chân với em thế? Mau mặc quần áo vào rồi chuẩn bị đi học đi…” Tôi nhìn họ chăm chăm. Đó không chỉ là một tờ giấy! Không chỉ là một tờ giấy! Nhưng bố đã vội vàng đi làm bữa sáng, mẹ quay sang an ủi em gái tôi, dỗ dành nó mặc quần áo. Tôi chậm rãi quay lại phòng, giật tờ giấy khen đang dán trên tường xuống, xé vụn, ném vào thùng rác. Dù sao cũng chẳng ai quan tâm, sao tôi lại phải quan tâm? Tôi không quan tâm, không quan tâm chút nào cả! Tôi vẫn luôn mơ hồ trước định nghĩa về thời thơ ấu, rút cục thì bao nhiêu tuổi được coi là trẻ con? Sau này tôi quyết định sẽ căn cứ vào việc có tham gia ngày tết Thiếu nhi mùng 1 tháng 6 hay không để vạch rõ ranh giới. Ở thành phố chúng tôi, ngày Quốc tế Thiếu nhi có hội diễn văn nghệ, cho đến tận năm lớp 6, chúng tôi vẫn được nghỉ vào ngày này, những bạn giỏi múa hát thì tham gia hội diễn văn nghệ, lên biểu diễn để giành giải, mang
vinh quang về cho lớp mình, những người còn lại có trách nhiệm ngồi ở dưới vỗ tay cổ vũ. Hằng năm cứ đến ngày mùng 1 tháng 6, cô giáo lại phát cho mỗi người một chiếc hộp văn phòng phẩm, trong đó có những viên kẹo hoa quả cứng khiến mỗi lần nhớ đến ngày tết mùng 1 tháng 6 là tôi lại nhớ ngay đến hương vị của những viên kẹo trái cây rẻ tiền. Đây là ngày tết Thiếu nhi cuối cùng của chúng tôi. Kỳ thi lên cấp hai đang đến gần. Thi xong, bạn nào học giỏi sẽ được vào trường điểm, học kém sẽ phải vào những trường cấp hai bình thường hơn. Ngày chia ly ở ngay trước mắt, không khí bi thương, lưu luyến, hốt hoảng bắt đầu lan tỏa khắp lớp học, nhưng tôi chẳng có bất kỳ cảm giác gì, ngược lại, ngày nào cũng xem lịch, xem còn mấy ngày nữa thì đến ngày tốt nghiệp. Tôi là một đứa trẻ không có một chút dũng khí nào. Đối mặt với sự tự ti và nỗi đau khổ của mình, tôi chọn cách bỏ chạy và lẩn trốn. Tôi coi trường cấp hai như một thế giới mới để mình bắt đầu lại từ đầu. Các bạn viết lưu bút cho nhau, trong sổ lưu bút sẽ ghi lại những ước mơ về tương lai, những việc mà mình muốn làm, những nơi mà mình muốn đi, còn tôi chỉ ghi một chữ “Vô”(5). Tôi mua một cuốn sổ rất đẹp, nhưng chần chừ mãi mà chưa đưa cho các bạn viết. Tới tận ngày cuối cùng, tôi cũng không biết trong tiềm thức mình nghĩ gì, mà rút cục lại đưa quyển lưu bút nhờ Quan Hà viết. Quan Hà mở quyển sổ lưu bút của tôi ra, ngạc nhiên, cười, nói: “Mình là người đầu tiên à!” Tôi mỉm cười không nói, bạn ấy không biết rằng bạn ấy cũng là người cuối cùng. Cuối cùng, cũng đến ngày lễ tốt nghiệp! Rất nhiều bạn tham gia biểu diễn các tiết mục, hát có, múa có. Vì sắp tốt nghiệp nên các tiết mục biểu diễn được đầu tư công phu và có phần phô trương. Mấy bạn nam mặc quần loe bó màu đen, đeo găng tay màu đen nhảy điệu rock & roll. Ba người bạn chơi thân với Trương Tuấn không biết mượn được ở đâu những bộ đồng phục màu trắng, cùng nhau hát một bài của nhóm Tiểu Hổ. Xâu trái tim của bạn và của tôi thành một chuỗi(6) Xâu một chuỗi cỏ ba lá Xâu một vòng tròn đồng tâm Để mọi kỳ vọng về tương lai đồng hành với tuổi thanh xuân Đừng để những người trẻ tuổi càng trưởng thành càng cô đơn Hãy trồng những nhánh cỏ ba lá may mắn của tôi vào khu vườn của trái tim bạn Để trái đất mãi quay quanh vòng tròn đồng tâm của chúng ta không bao giờ dừng lại. …
Suốt buổi diễn văn nghệ, tôi ngẩn ngẩn ngơ ngơ như người mất hồn. Các bạn nữ trong lớp ôm nhau khóc. Cá biệt còn có một vài bạn nam cầm khăn quàng lau nước mắt. Trong lòng tôi rất buồn, nhưng không thể khóc được, sự đau buồn của tôi khắc sâu trong trái tim, nơi nước mắt không thể trào ra. Hiệu trưởng, giáo viên phát biểu, chụp ảnh xong, các bạn bắt đầu tản mát hết, tôi vẫn ngồi ở vị trí gần cửa sổ, ngơ ngẩn nhìn ra bên ngoài. Tôi vẫn luôn nghĩ rằng mình ghét ngôi trường này, chỉ ao ước được thoát khỏi nó nhưng đến giây phút cuối cùng lại lưu luyến không nỡ rời xa. “La Kỳ Kỳ!” Là giọng của Trương Tuấn, tôi phải lấy hết dũng khí mới dám quay đầu lại: “Có chuyện gì vậy?” Trương Tuấn đứng trước mặt tôi không nói gì, tấm rèm cửa sổ màu xanh da trời bay phất phơ sau lưng cậu ấy, giống màu xanh của những con sóng biển. Ánh mắt trời chiếu xuyên qua khung cửa kính, rọi thẳng lên chiếc sơ mi màu trắng cậu ấy mặc khiến nó càng trắng tới chói mắt, gần như đang phát quang. Trên bục giảng có mấy người bạn vẫn đang nói chuyện, bên ngoài hành lang vọng vào tiếng cười đùa, nhưng tất cả những âm thanh đó đều bị cơn gió ấm áp của mùa hè thổi bay. Tôi và cậu ấy gần như đang đứng ở một nơi khác. Sự tĩnh lặng khiến người ta sợ hãi và có cảm giác bất an. Mũi tôi bất giác cay cay, lại hỏi một lần nữa: “Có chuyện gì thế?” Cậu ấy nhìn tôi chằm chằm, nói: “Có chuyện này, muốn nói với cậu.” Trước ánh mắt chăm chú của cậu ấy, trái tim tôi đập mỗi lúc một nhanh hơn. “Trương Tuấn!” Quan Hà và một bạn gái lớp khác đang đứng ngoài cửa gọi. Trương Tuấn nhìn thấy họ, nét mặt chợt lúng túng, bất an, lùi về phía sau một bước. Tôi nhìn dáng vẻ của cậu ấy, rồi lại nhìn khuôn mặt xinh tươi như đóa phù dung của Quan Hà, đột nhiên không muốn nghe bất kỳ điều gì nữa, hoảng sợ đứng dậy, cúi gằm mặt đi ra khỏi lớp. Lúc đi qua người Quan Hà, bạn ấy còn lịch sự chúc tôi: “Chúc cậu thi đỗ vào trường điểm cấp hai thuận lợi nhé!” Còn tôi thì bất lịch sự, không đáp lại tiếng nào đã vội vã bỏ đi, có thi đỗ được vào trường điểm cấp hai hay không là do tự bản thân phải cố gắng, chứ không thể dựa và lời chúc của người khác mà được. Vừa ra khỏi lớp học, tôi liền bỏ chạy, muốn nhanh chóng bỏ lại tất cả những chuyện không vui của thời niên thiếu ở thật xa phía sau. Cơn gió mang hơi nóng của mùa hè lướt qua mặt, có thể nó sẽ thổi tất cả những chuyện không vui ấy về phía sau tôi, nhưng hình ảnh cậu bạn thời niên thiếu cầm tay tôi kéo về phía trước trong gió lạnh kia vẫn mãi mãi khắc sâu trong trái tim. Tôi muốn lẩn trốn quá khứ, khao khát chạy về phía trước. Tôi đã tiễn biệt những năm tháng ấu thơ của mình vội vôi vàng vàng như thế, thậm chí còn không kịp giơ tay vẫy chào.
Chương 3 1. Những chuyện năm ấy ngỡ là bình thường lại không hề bình thường Ngày còn nhỏ biết rất nhiều ngạn ngữ, đến khi lớn lên rồi, mới hiểu đấy chỉ là những lời nói dối mĩ miều mà thôi, ví dụ như câu “Có cày cấy mới có thu hoạch”(1). Câu ngạn ngữ này chỉ bàn tới khía cạnh đại lượng biến đổi mà người nông dân phải lao động vất vả mới thu về được, nhưng lại quên không nghĩ đến các yếu tố như thời tiết tốt xấu, giá cả leo thang… Trên thực tế, thu hoạch là một hàm số đa biến, chứ không đơn giản chỉ là một hàm số đơn biến. Tôi thích dùng sự chặt chẽ của toán học để định nghĩa: cày cấy là điều kiện cần của thu hoạch, chứ không phải điều kiện đủ, tức là nếu muốn có thu hoạch thì phải cày cấy, nhưng cày cấy chưa chắc đã có thu hoạch. Trong hơn ba mươi học sinh lớp 6 của trường tiểu học Số 4 thì một nửa chia nhau vào các trường điểm cấp hai, nửa còn lại vào các trường cấp hai bình thường khác. Với kết quả học tập của mình, tôi được tuyển thẳng vào trường điểm, hệ trung học cơ sở của trường trung học Nhất Trung; Trương Tuấn, Quan Hà cũng được Nhất Trung chọn tuyển. Chuyện đó không khiến tôi ngạc nhiên. Điều đáng kinh ngạc là, Tiểu Ba lại thi đỗ vào hệ trung học phổ thông của trường Nhất Trung với số điểm cao hơn điểm chuẩn rất nhiều. Đề thi vào hệ trung học cơ sở của trường Nhất Trung rất sơ sài, không khó hơn những trường điểm khác, chất lượng dạy cũng chẳng khá hơn là mấy, thậm chí còn kém hơn một chút. Nhưng hệ trung học phổ thông thì hoàn toàn khác, tỉ lệ học sinh vào đại học hằng năm của trường bao giờ cũng đứng thứ ba thành phố, trong mắt rất nhiều phụ huynh, có thể thi đỗ vào cấp ba Nhất Trung là coi như đã bước một chân vào cổng trường đại học, coi như thành công bước đầu. Vì vậy, hầu như ai cũng muốn cố gắng nhét bằng được con mình vào Nhất Trung, do đó tỉ lệ chọi khi thi vào hệ trung học phổ thông của trường bao giờ cũng rất cao. Học sinh ở những trường điểm cấp hai, lại thêm cả những học sinh giỏi ở trường cấp hai bình thường khác, đều phải trải qua một cuộc chọn lọc tự nhiên, đấu đá lẫn nhau để tranh giành sự sinh tồn. Để chúc mừng Tiểu Ba, anh Lý đã mời mọi người đến liên hoan một bữa tại quán karaoke mới mở của mình, dành ra hai phòng riêng, rượu, nước ngọt, đồ ăn gọi tùy thích, miễn phí toàn bộ. Thời ấy, trào lưu karaoke từ Nhật vừa thâm nhập vào thị trường Trung Quốc và bắt đầu phổ cập trong thành phố của tôi, thế hệ bố mẹ chúng tôi những năm ấy còn chưa hiểu thế nào là karaoke, đám thanh niên đã coi nó như một thú tiêu khiển rất thời thượng, rất có máu mặt. Quán karaoke của anh Lý không phải là quán đầu tiên được mở trong thành phố, nhưng lại là quán được trang trí đẹp nhất. Ngày hôm ấy, đủ mọi loại người tụ tập. Ô Tặc mời một đám anh chị đến, cảm thấy nở mày nở mặt. Lại thêm cô gái kiều diễm mà anh ta đang điên cuồng theo đuổi cũng tới,
khiến anh ta không còn phân biệt được trời Nam đất Bắc gì nữa, giữ chặt chiếc micro gào đến muốn vỡ cả giọng cũng không chịu buông, quên mất ai mới là chủ nhân thật sự của bữa tiệc. Không gian trong phòng nhỏ, người lại đông, hơi rượu, hơi thuốc quện lẫn với nhau, ngồi lâu sẽ cảm thấy không thể thở được. Tôi len lén bỏ ra ngoài, chạy ra ban công hít khí trời. Tiểu Ba tay cầm ly rượu, tay kẹp điếu thuốc cũng liêu xiêu từ một phòng khác đi ra. Tối nay anh ấy bị ép uống không ít, mặc dù đã vào nhà vệ sinh tự móc họng hai lần, nhưng bước chân vẫn loạng choạng không vững. Tôi cười gọi anh ấy là “con vịt” (Năm đó, từ con vịt vẫn chưa có ý gì khác). Tôi nhoài người chống tay lên lan can hít thở. Anh ấy đứng lại, toàn thân mềm oặt, trượt theo thành lan can ngồi bệt xuống đất, vừa hút thuốc vừa nói chuyện với tôi. Chúng tôi nói câu được câu chăng. Tôi hỏi anh ấy làm thế nào mà thi được vào trường Nhất Trung, anh ấy miệng ngậm thuốc cười: “Em thi thế nào thì anh thi thế ấy”. Tôi nhớ đến thời gian khổ sở, vất vả ngày đêm đó của mình, buồn bã thở dài: “Trên đời này không có con đường tắt nào sao? Tại sao lại cứ phải có cày cấy mới có thu hoạch chứ?” Tiểu Ba đang uống rượu, nghe tôi nói thì phì cả rượu ra ngoài, vừa ho vừa nói: “Mọi chuyện trên thế giới này, nếu cứ cày cấy mà có thu hoạch đã là rất may mắn rồi.” Hai chúng tôi cùng im lặng, mỗi người theo đuổi tâm tư riêng. Anh Lý đưa mấy người nữa từ tầng dưới lên, đang định vào phòng. Một trong số những người ấy nhìn thấy tôi, quay sang nói gì đó với người bên cạnh, rồi vội vàng đi tới, kéo cửa kính ra bước về phía tôi. Vì không nhìn thấy Tiểu Ba đang ngồi dưới đất, mà bước chân của cậu ta lại gấp gáp, nên đã bị vấp vào chân Tiểu Ba mà ngã. Tiểu Ba đã ngà ngà say, không xin lỗi, ngược lại còn phá lên cười. Tôi không nhịn được cũng bật cười, vừa cười, vừa cúi xuống định đỡ đối phương dậy. Hôm ấy vì muốn đẹp nên tôi không đeo kính, ánh sáng lại mờ mờ tỏ tỏ, cho tới tận khi cúi người xuống để đỡ đối phương, tôi mới nhìn rõ Trương Tuấn. Nụ cười lập tức đông cứng lại nơi khóe môi, chỉ có cánh tay là chìa ra chới với giữa không trung. Cậu ấy không vịn tay tôi mà tự chống đất đứng lên, không nói không rằng quay người bỏ đi. Tiểu Ba càng thấy thú vị: “Kỳ Kỳ, cậu ta là ai?” Đầu óc tôi vẫn đang mù mịt, một lúc lâu cũng không trả lời, Tiểu Ba kéo tay tôi: “Cậu ta là ai?” “Bạn học của em.” Tiểu Ba loạng choạng đứng dậy, nói với giọng say lướt khướt: “Đừng qua lại với cậu ta, không phải thứ tốt đẹp gì đâu.” Tôi cười, nỗi u sầu khó nói chất chứa trong tim bỗng chốc như vơi đi một nửa. Con người đúng là mắt để trên đầu, chỉ thấy người khác xấu hơn mình. Tôi không khách khí đáp lại: “Anh không phải người tốt, em cũng không phải người tốt, người tốt lúc này là phải ở nhà, chứ không phải ngồi đây hút thuốc, uống rượu.”
Tiểu Ba đang định đáp, thì thấy một người lao vút ra khỏi phòng hát, giống như bị mắc bệnh động kinh, cởi trần trùng trục vừa chạy dọc hành lang vừa gọi lớn: “Tiểu Ba”. Thấy Tiểu Ba đang ngồi ở đây, lập tức lao đến, Tiểu Ba lẩm bẩm chửi gì đó, rồi cũng đi về phía anh ta. Tôi một mình ra khỏi quán karaoke, khi ngang qua cửa hàng cho thuê sách, đã rẽ vào thuê hai cuốn của Quỳnh Dao, định thức đêm đọc. Ra khỏi cửa hàng sách, tôi nhìn thấy Trương Tuấn đang đứng ở bên đường. Tôi phớt lờ cậu ta, cứ thế đi thẳng. Cậu ta đứng chắn trước mặt tôi: “Cậu đừng chơi với bọn Ô Tặc và Hứa Tiểu Ba, bọn họ không phải là người tốt đâu.” Tối nay làm sao vậy? Tại sao tất cả mọi người đều biến thành xấu xa thế này? Tôi hất cằm lên: “Liên quan gì đến cậu! Tôi thích chơi với ai thì chơi.” Quả nhiên Trương Tuấn đã bắt đầu học được cách khống chế cảm xúc, không còn quay đầu bỏ đi như trước nữa, ngược lại còn rất kiên nhẫn khuyên nhủ tôi: “Tớ chỉ muốn tốt cho cậu, cậu là con gái, tốt nhất đừng ra ngoài chơi bời linh tinh, nếu không có ai để chơi, cậu có thể đi tìm Quan Hà, con người bạn ấy rất tốt.” Tôi vừa buồn vừa giận, trừng mắt nhìn cậu ta: “Cậu là gì của tôi? Tôi có cần cậu nghĩ tốt cho tôi không? Cậu như thế mà còn đòi giáo huấn tôi à?” Những lời cay nghiệt đó của tôi đã khiến Trương Tuấn quay đầu bỏ đi. Tôi cũng sải bước đi, nhưng càng đi càng bực, tức giận ném quyển sách trên tay xuống đất, còn lấy chân đá thêm một cái nữa. Tiểu thuyết của Quỳnh Dao không giúp tâm trạng tôi khá hơn, ngược lại còn suy sụp thêm. Ngày hôm sau, tôi đọc sách không vào nữa, lại chẳng có bạn bè, đành đi tìm Tiểu Ba. Biết được địa chỉ nhà Tiểu Ba từ Ô Tặc, tôi tìm thẳng đến nhà anh ấy. Khi Tiểu Ba ra mở cửa, anh ấy đang cởi trần, người đầm đìa mồ hôi. Nhìn thấy tôi, anh ấy hơi sững lại. Thấy anh ấy không mặc áo, tôi cũng rất xấu hổ, đứng chôn chân ở cửa không biết nói gì. Anh ấy lập tức quay người đi vào nhà, khoác thêm áo, rồi lại đi ra. Khi anh ấy quay người đi, tôi thấy trên người anh ấy không có hình xăm như anh Lý hay Ô Tặc, trong lòng thấy an tâm hơn, cảm giác giống như khi chơi bài, biết mình ở cùng phe với anh ấy. Hai chúng tôi đứng ngoài cửa nói chuyện, tôi hỏi Tiểu Ba có thể đi dạo với tôi một lúc không, anh ấy nói mình còn phải làm việc, tôi cứ nghĩ là việc nhà nên nói mình sẽ đợi, anh ấy mở cửa, bảo tôi vào trong. Cảnh tượng tôi nhìn thấy lúc đó, đến nay vẫn còn hiển hiện sống động trước mặt tôi.
Phòng khách trống rỗng, có thể nói là nhà chỉ có bốn bức vách, khiến gian phòng lại càng trống trải hơn, giữa gian phòng có hai đống găng tay màu xanh lam. Giữa hai đống găng tay, có đặt một chiếc ghế băng, rõ ràng, Tiểu Ba vừa ngồi ở đây. Những người sống ở thập niên tám mươi có lẽ đều biết loại găng tay nhung màu xanh đó, loại chuyên dùng để làm những công việc thô sơ nặng nhọc, trong nhà tôi có rất nhiều, là loại bảo hộ lao động do cơ quan của bố phát. Những năm ấy, gần như cơ quan nào cũng phát loại găng tay bảo hộ lao động này, bố tôi thường dùng khi thay bình ga hay phải làm gì đó nặng. Theo lời Tiểu Ba giới thiệu, làm loại găng tay này chia ra hai quá trình chính, đầu tiên sẽ dùng máy để cắt cả mảnh vải nhung thành từng phần của găng tay, sau đó dùng máy may để giáp chúng lại với nhau thành một chiếc găng tay hoàn chỉnh. Mẹ Tiểu Ba lúc này đang ngồi ở ban công, đeo khẩu trang, vùi đầu vào giáp găng tay. Những chiếc găng tay được giáp lại đều đang ở mặt trái, công việc của Tiểu Ba là lộn phải tất cả những chiếc găng tay đó, tìm đúng đôi, rồi xếp chồng lên nhau. Vì vải nhung có rất nhiều lông tơ, chỉ cần có gió là sẽ bay tứ tán khắp nơi, nên dù trời nóng đến đâu cũng không được mở quạt, khiến căn phòng nóng nực vô cùng. Sự kinh ngạc có lẽ đã hiện hết trong mắt tôi. Nhưng Tiểu Ba rất thản nhiên, không hề tỏ ra luống cuống, bất an hay ngượng ngùng, muốn che giấu, tiện tay với một chiếc ghế con đưa cho tôi, còn mình lại ngồi vào chiếc ghế băng giữa hai núi găng tay tiếp tục lột. Tôi kéo chiếc ghế ngồi đối diện và học theo cách của anh ấy, rồi cùng lộn phải găng tay. Hai chúng tôi vừa ngồi lộn găng tay vừa nói chuyện. Tôi hỏi anh ấy, làm những chiếc găng tay này kiếm được bao nhiêu tiền, Tiểu Ba nói với tôi rằng, giáp một đôi găng tay, mẹ anh ấy có thể kiếm được một hào tám, còn mấy năm trước, một đôi găng tay chỉ được trả có một, hào hai. Những thắc mắc liên quan đến găng tay tôi đều đã hỏi hết. Không biết nên nói gì nữa, tôi im lặng, anh ấy cũng im lặng, hai chúng tôi cùng lặng lẽ lộn găng tay, cho đến khi lộn xong cả đống găng tay chất cao như núi kia. Người tôi ướt đầm mồ hôi, chiếc váy liền thân dính sát vào lưng, Tiểu Ba cũng mồ hôi đầm đìa. Tôi nhìn núi găng tay xếp gọn gàng giữa phòng khách, cảm thấy rất hãnh diện về thành tích của mình, nhìn anh ấy cười. Tiểu Ba cũng cười với tôi, nói: “Anh mời em ăn kem nhé!” Tôi gật đầu. Ra khỏi cửa, gió lùa vào toàn thân, cảm giác vô cùng dễ chịu, lần đầu tiên tôi thấy gió cũng thật đáng yêu. Chúng tôi mỗi người cầm một que kem loại rẻ tiền nhất, ngồi bên bờ hồ, vừa ăn kem vừa tận hưởng cơn gió mát của buổi hoàng hôn. Lao động cả nửa ngày, người ướt đẫm mồ hôi, tâm trạng của tôi đột nhiên vui vẻ. Cho dù Tiểu Ba nói gì, tôi cũng không nhịn được cười, nhìn tôi cười, anh ấy cũng cười theo. Hai chúng tôi dùng chân đá nước, xem nước của ai bắn lên nhiều hơn. Ai cũng cố gắng làm đối phương bị ướt. Chơi đùa một lúc mệt nhoài, cả hai lại cùng cười nằm trên tảng đá, ngửa mặt ngắm nhìn trời mây.
Tảng đá phơi mình dưới nắng cả ngày, vẫn còn hơi nóng, áo chúng tôi lại ướt, khoảnh khắc thoắt nóng thoắt lạnh đó thấy vô cùng thoải mái. Tiểu Ba đan hai tay vào nhau, đặt dưới gáy, miệng huýt sáo, thổi sai nhịp tới mức tôi lắng nghe mãi mới nghe ra hình như anh ấy đang thổi bài Khang Định tình ca(2), nhưng trong tiếng nước chảy ào ào, tiếng gió vi vu, tất cả đều rất hòa hợp, đến tôi cũng không kìm được phải mỉm cười. Tiểu Ba cũng cười, vừa huýt sáo vừa cười. Phụ họa tiếng huýt sáo của anh ấy, tôi cất tiếng hát: “Tiếng vó ngựa chạy trên núi, đám mây bay lững lờ trên trời, in bóng trên thành Khang Định thẳng tắp a, mảnh trăng lưỡi liềm, thành Trương Định thẳng tắp a…” Sau này, Ô Tặc kể với tôi rằng, bố của Tiểu Ba là thợ điện, năm Tiểu Ba học lớp 3, trong một lần đi sửa điện, đã bị điện cao áp giật chết. Mẹ của Tiểu Ba là người phụ nữ chỉ biết ở nhà làm nội trợ, không có việc làm, từ đó đành phải nhận việc lặt vặt về làm nuôi Tiểu Ba, đã từng bán kem, bán bánh, ra vác đá gánh đất ngoài công trường, giáp găng tay là công việc mà mẹ anh ấy làm lâu nhất. Ô Tặc còn nói, thần kinh của mẹ Tiểu Ba không bình thường, hoặc là cả mấy ngày liền không nói gì, không nói với con dù chỉ một câu, hoặc là đã nói thì không dừng lại được, gặp người lạ cũng kéo lại vừa khóc vừa kể lể chuyện của bố Tiểu Ba. Trong lúc kể, Ô Tặc vẫn rùng mình sợ hãi, chắc chắn anh ta đã từng bị mẹ Tiểu Ba kéo lại để nghe kể lể rồi. Nhớ lại cảnh tượng ngày hôm ấy, đúng như những gì Ô Tặc nói, mẹ Tiểu Ba không nói một câu nào. Trước khi ra ngoài, anh ấy có chào mẹ, nhưng bà thậm chí còn không ngẩng đầu lên. Sau hôm ngồi lộn găng tay, trong một thời gian dài, khi mua bất cứ thứ gì, tôi cũng vô thức quy đổi giá trị của nó ra găng tay, ví dụ, một bát mì lạnh năm hào, tôi liền nghĩ phải giáp ba đôi găng tay mới có được số tiền đó; một bát mì thịt bò hai tệ thì phải giáp mười một đôi găng tay, mà mỗi khi quy đổi xong, tôi lại hết sức dè dặt trong việc tiêu tiền. Tôi càng ngày càng tằn tiện. Tôi bắt đầu hiểu phần nào việc Tiểu Ba rất coi trọng đồng tiền. Những ngày hè của tôi vô cùng nhàn nhã, những ngày hè của Tiểu Ba lại vô cùng bận rộn, anh ấy đi theo anh Lý học cách quản lý quán karaoke. Người bên cạnh anh Lý rất nhiều, xét về tuổi tác, trình độ, thậm chí thời gian, họ đều thích hợp hơn Tiểu Ba rất nhiều. Hơn nữa Tiểu Ba lại đang đi học. Nhưng không biết tại sao anh Lý đối xử với Tiểu Ba rất đặc biệt. Khi nói với người khác, anh ta rất ít khi kiên nhẫn, có lúc còn lớn tiếng chửi mắng đối phương là đồ óc lợn, nhưng lại rất nhẫn nại trả lời tất cả mọi thắc mắc của Tiểu Ba. Có điều Tiểu Ba cũng rất thông minh, những gì anh Lý nói, dù nói trong trường hợp nào, Tiểu Ba đều luôn ghi nhớ. Ô Tặc đã tốt nghiệp trường trung học kỹ thuật, không vào làm cho doanh nghiệp quốc doanh mà bắt đầu chính thức theo anh Lý làm ăn. Anh Lý để Tiểu Ba và Ô Tặc trông coi quán karaoke. Ô Tặc mặc dù nhiều tuổi hơn Tiểu Ba, bình thường cũng hay tỏ vẻ đàn anh, nhưng nếu thật sự có chuyện gì đó xảy ra, thì Tiểu Ba vẫn là người đưa ra ý kiến quyết định. Cùng với họ, địa bàn hoạt động của tôi, vô thức cũng di chuyển đến quán karaoke. Điều kiện tốt hơn rất nhiều, ít nhất thì trong khi còn rất nhiều người chưa biết Từ Khắc(3) là ai, tôi đã xem rất nhiều phim do ông ấy đạo diễn, và rất nhiều những bộ phim găng tơ của Đài Loan. Phong thái của Tiểu Mã Ca(4) do Châu Nhuận Phát đóng đã ảnh hưởng rất nhiều đến bọn Ô Tặc. Bọn họ thường mặc cả cây đen, đeo kính đen, miệng ngậm tăm, làm mặt lạnh lung, thâm trầm, e rằng nếu cứ thế đi ra đường, mọi người lại nghĩ thần kinh của bọn họ có vấn đề.
Bản thân anh Lý lại ăn mặc bình thường tới mức không thể bình thường hơn. Chắc sợ người ta nghĩ anh ta là đầu sỏ của một lũ thần kinh. Anh Lý thường nhìn đám thuộc hạ của mình, cười bất lực, câu cửa miệng là: “Đừng tưởng mới chỉ xem một, hai bộ phim xã hội đen Hồng Kông là nghĩ mình đã có thể bước chân vào giang hồ.” Cô nàng xinh đẹp chính thức trở thành bạn gái của Ô Tặc. Chị ta hơn Ô Tặc ba tuổi, Ô Tặc tỏ ra rất đắc ý. Dường như ở thời đó, anh chàng nào có bạn gái lớn tuổi hơn mình cũng huênh hoang trước mặt mọi người. Ngày ấy tôi không hiểu tại sao, giờ thì cũng lờ mờ hiểu ra, có lẽ những chàng trai trẻ ở độ tuổi mới lớn muốn nhanh chóng chứng minh cho mọi người thấy rằng mình đã là một người đàn ông trưởng thành, có một cô bạn gái lớn tuổi hơn mình khiến họ cảm thấy già dặn hơn các bạn đồng lứa khác. Có lần, tôi và Tiểu Ba bình phẩm về cô nàng xinh đẹp sau lưng Ô Tặc. Ô Tặc nghe thấy, không những không giận mà còn tỏ ra thích thú, thấy bạn gái của mình quả thật rất xinh đẹp, nên bỏ luôn tên thật của người ta, gọi là “Xinh Đẹp”. Tôi và cô nàng Xinh Đẹp kia ra đụng vào chạm, thỉnh thoảng cũng đưa đẩy với nhau vài câu. Qua lời chị ta kể, tôi mới biết anh Lý từng ngồi tù, nghe nói năm đó cũng có tiếng trong giới xã hội đen. Giới anh chị cho rằng sau khi ra tù, anh Lý sẽ tìm cách lấy lại địa bàn đã mất của mình, nhưng không ai ngờ rằng mấy năm nay, anh ta lại làm ăn rất nghiêm túc, mà còn rất phát đạt. Tôi rất tò mò muốn biết tại sao Tiểu Ba lại chơi với họ, trong suy nghĩ của tôi, một người có thể thi đỗ vào hệ phổ thông trung học của trường Nhất Trung thì chắc chắn không thể là người cùng đường với Ô Tặc, anh Lý. Xinh Đẹp cũng không biết, chỉ nói Tiểu Ba đánh nhau rất lợi hại, ra tay cực mạnh, những kẻ bôn ba giang hồ năm đó đều biết tiếng của Tiểu Ba. Bây giờ nhìn Tiểu Ba thật hiền lành. Tôi ngẩn người ra nghe, Xinh Đẹp cười nói với tôi: “Chị nghe Ô Tặc nói, nhóc đánh đấm cũng rất khá, lần trước nếu không có họ thì nhóc đã lấy đi một mạng người rồi.” Thật ra không phải là tàn độc, mà là vì đạo nghĩa không chùn bước, không có đường lui, một phần là do tình thế bắt buộc, một phần là do tính cách, chỉ có điều qua con mắt của người ngoài, mọi thứ sẽ dần dần bị bóp méo. Trong ký ức của rất nhiều người, kỳ nghỉ hè năm lớp 6 rất tươi sáng, bởi vì đấy là quãng thời gian kết thúc cuộc sống cũ và bắt đầu một cuộc sống mới, giữa sự giao thoa ấy, không có áp lực của việc học, không có bài tập hè, nếu có thì chỉ là những khao khát về một tương lai tốt đẹp hơn, cùng với chơi, chơi và chơi! Nhưng kỳ nghỉ hè năm lớp 6 trong ký ức của tôi rất đỗi bình thường. Tôi chỉ nhớ tới lần gặp mặt duy nhất giữa tôi và Trương Tuấn, nhớ núi găng tay màu xanh lam ở nhà Tiểu Ba, và bài huýt sáo lạc điệu của anh ấy. Rất nhiều năm sau, tôi đi hát karaoke với một nhóm bạn ở Party world, được bạn bè chọn cho bài Khang Định tình ca, tôi cười ha ha và cất tiếng hát, trước mắt chập chờn hình ảnh hai núi găng tay màu xanh lam và bài huýt sáo lạc điệu, giọng ca đột nhiên như nghẹn lại. Lúc ấy, tôi mới hiểu những chuyện năm đó nghĩ là bình thường, lại không hề bình thường.
2. Tình bạn của tôi Tình bạn của con gái, ngay từ khi họ còn là những đứa trẻ cũng đã rất phức tạp rồi. Tình bạn của con trai thì giống như trò đá bóng, có ranh giới và luật chơi, trong lòng họ đều hiểu rất rõ, phân biệt rõ ràng giữa cạnh tranh và hợp tác, trong lúc giao chiến hò hét, mồ hôi hòa quyện vào nhau. Tình bạn của con gái lại giống như nấu ăn,không có công thức, cũng không có quy tắc, chua cay mặn ngọt,đều có thể cho vào thức ăn, mùi vị phức tạp đến mức ngoài người nấu ra, không ai biết rút cục có những gia vị gì trong đó. Tôi, Quan Hà, Trương Tuấn được phân vào các lớp khác nhau, tôi học lớp 7 (1), không cùng lớp với bất kỳ bạn tiểu học nào. Cảm giác đầu tiên của tôi lúc ấy là phải tạ ơn Trời Phật. Tòa nhà lớp học của trường cấp hai có tất cả ba tầng, tầng một là dành cho khối bảy, tầng hai khối tám, tầng ba khối chín. Tòa nhà lớn đó được xây theo hình chữ Z, có điều nét sổ dọc trong chữ Z này được xây vuông góc. Từ lớp 7 (1) đến lớp 7 (3) được bố trí trên cùng một hành lang, có nghĩa là cùng nằm trên nét sổ ngang phía dưới của chữ Z, sau đó đi đến chỗ rẽ chính là văn phòng giáo viên, chỗ rẽ tiếp theo là năm phòng học liền nhau, đánh theo số thứ tự từ lớp 7 (4) đến lớp 7 (8). Mỗi chỗ rẽ trên một tầng đều có cửa ra riêng, Quan Hà học lớp 7 (5), Trương Tuấn học lớp 7 (8), hai lớp đó nằm trên cùng một hành lang, còn tôi lại ở một hành lang khác, cơ hội giáp mặt của chúng tôi rất hiếm. Lớp 7 (1) của tôi gần với cửa ra của hành lang thứ nhất, cửa ra lại thông với một khu vườn nhỏ được thiết kế theo kiểu giả cổ điển, có đình nghỉ chân và một cái hồ nhỏ. Hành lang bên lớp Trương Tuấn và Quan Hà có hai cửa ra, cửa ra phía trước cũng thông với khu vườn nhỏ giả cổ đó, cửa ra phía sau lại thông với một sân vận động nhỏ, trên sân vận động có tám bàn bóng bàn được xây bằng xi măng, bên ngoài là rừng cây bạch dương, đi qua rừng bạch dương là sân bóng chuyền, tòa nhà khoa học kỹ thuật, tòa nhà thực nghiệm, ký túc xá, nhà ăn… Tôi cảm thấy vô cùng hào hứng, mơ tưởng về sự khởi đầu của một cuộc sống mới, hy vọng sự khởi đầu mới này sẽ mang lại cho tôi một cuộc sống hoàn toàn khác với cuộc sống hồi tiểu học. Giáo viên chủ nhiệm lớp tôi dạy tiếng Anh. Thầy có đôi mắt nhỏ ti hí, họ Thôi. Thầy Thôi vừa tốt nghiệp đại học, được phân về trường tôi giảng dạy. Ban giám hiệu tin tưởng để thầy làm chủ nhiệm lớp, vì vậy thầy rất nghiêm túc, bất kỳ cử động nào của chúng tôi cũng không thoát khỏi ánh mắt thầy. Giờ ngữ âm còn chưa kết thúc, đám bạn trong lớp đã đặt biệt danh cho thầy, nói thầy có đôi mắt nhỏ tụ quang, nên mỹ danh của thầy sẽ là “Chậu Của Cải”. Ông thầy với biệt danh “Chậu Của Cải” này có ảnh hưởng rất lớn tới cuộc đời tôi, có đóng góp không nhỏ trong việc tạo dựng tính cách nhanh nhẹn của tôi, có điều câu chuyện về thầy tôi sẽ kể sau. Giáo viên đầu tiên xảy ra va chạm với tôi là cô giáo ngữ văn, cô Tằng Hồng. Nhìn cô rất giống con trai, tóc ngắn, thích hút thuốc, cũng là cô giáo duy nhất biết hút thuốc mà tôi biết.
Tháng Chín hằng năm, học sinh nhập trường, đều có lễ khai giảng, trình tự sẽ là: Hiệu trưởng lên phát biểu, tuyên bố năm học mới bắt đầu, sau đó khối chín sẽ cử đại diện lên phát biểu, đại diện cho học sinh toàn khối thể hiện quyết tâm, cố gắng vượt qua kỳ thi lên cấp ba thuận lợi. Khối bảy cũng sẽ có đại diện thay mặt toàn bộ học sinh mới lên phát biểu. Cuối cùng là lễ trao thưởng cho những học sinh ba tốt(5) và các cán bộ lớp xuất sắc của học kỳ trước. Trong lễ khai giảng, dù là học sinh nào, chỉ cần được lên bục cũng đã đại diện cho học sinh ngoan, vô cùng vinh dự. Những người không có thành tích học tập xuất sắc thì không bao giờ được nằm trong số đó. Năm ấy, thầy hiệu trưởng giao cho cô giáo Tằng nhiệm vụ chọn ra một học sinh đại diện cho đám học sinh mới lên bục phát biểu. Cô Tằng lại không coi trọng chuyện đó. Ngay trong giờ ngữ văn tự học buổi sáng, cô gọi vài bạn gái cô thấy ưng mắt lên bục giảng đọc bài, sau đó không buồn ngẩng đầu lên mà chỉ thẳng vào tôi. Khi ấy, tôi ngờ rằng có lẽ cô đã bị va đầu vào cửa. Hết giờ, tôi đi tìm cô, cô đang bắc chân chữ ngũ ngồi hút thuốc. Tôi nói: “Thưa cô, em không thể đại diện cho học sinh mới lên phát biểu được đâu ạ.” Cô liền hỏi tôi: “Tại sao em lại không thể?” Tôi trả lời: “Vì em học không giỏi.” Cô nhả khói, hỏi thầy giáo cũng đang ngồi hút thuốc đối diện với mình: “Trường có quy định phải là học sinh đứng nhất lớp mới được lên phát biểu không?” Thầy giáo kia cười trả lời: “Không.” Cô Tằng nhún nhún vai, nói với tôi: “Nghe thấy chưa? Không có quy định ấy.” Suýt nữa thì tôi trừng mắt lườm cô, nhưng vẫn nhẫn nại nói: “Em chưa từng phát biểu trước đám đông bao giờ.” Cô đáp: “Ai cũng có lần đầu tiên, thế chẳng phải tốt hay sao, cô sẽ giúp em bắt đầu lần đầu tiên của mình.” Nói xong, cô tỏ vẻ thiếu kiên nhẫn, đuổi tôi đi: “Em sẽ lên phát biểu! Có thời gian ở đây mà dài dòng thì mau về viết nháp trước đi, đừng làm phiền chúng tôi soạn bài nữa.” Lần này thì tôi lườm thật, soạn bài? Hút thuốc thì có! Gặp phải cô giáo đầu bị va vào cửa thế này, cũng chẳng còn cách nào, tôi đành về viết nháp bài phát biểu. Viết nháp xong, cô Tằng đọc một lượt, tùy tiện sửa vài lỗi chính tả rồi nói là được rồi. Nhìn bộ mặt đau khổ nhăn nhó của tôi, cuối cùng cô cũng chịu mở miệng thốt ra mấy lời vàng ngọc: “Đừng căng thẳng, chẳng có gì là ghê gớm cả, em cứ đứng trên bục nhìn đám bạn phía dưới cười là được, cười mệt rồi thì cũng phát biểu xong.” Khóe miệng tôi giật giật, cười, tôi cười!
Khi đó, trường cấp hai của chúng tôi, từ khối bảy đến khối chín, mỗi khối có tám lớp, mỗi lớp hơn bốn mươi người. Trong hội trường rộng lớn, đối mặt với hàng nghìn cái đầu đen sì lố nhố phía dưới, lại thêm ánh đèn chiếu thẳng vào đỉnh đầu, chân tôi run lẩy bẩy. Lúc mới bắt đầu, tôi nhớ lời cô Tằng đã nói, nhìn họ và cười là được, nhưng càng về sau, đầu tôi càng cúi thấp, thấp đến mức cằm chạm cả vào áo, đầu óc hoảng loạn, không còn biết mình đang nói gì nữa. Lần phát biểu đó, tôi vô cùng mất mặt, bởi vì nghe nói, tất cả mọi người đều nghe thấy tiếng tôi run rẩy, mỗi lần run rẩy, lại bỏ vài từ, vừa lên cao giọng, lại vội vàng hạ thấp, cuối cùng chỉ còn nhìn thấy môi tôi mấp máy, không nghe thấy tôi nói gì. Có điều, những chuyện này, rất lâu sau đó tôi mới biết, khi ấy tôi hoàn toàn không biết gì, mặc dù đứng trên bục, chân tôi líu ríu, run rẩy, nhưng vừa xuống khỏi bục, tôi lại cảm thấy vô cùng đắc ý, dù sao đây cũng là lần đầu tiên tôi đứng phát biểu trước nhiều người như thế, cảm giác mình rất giống nhân vật tầm cỡ nào đó. Cô Tằng cười híp mí khen tôi nói hay, có được sự khẳng định của cô, tôi càng tự tin gấp bội, khi ấy tôi còn băn khoăn không biết Trương Tuấn và Quan Hà ngồi dưới kia nhìn thấy tôi phát biểu, tâm trạng họ thế nào, từ trước tới nay đều là tôi nhìn họ, hôm nay cũng đã đến lượt họ phải nhìn tôi. Tôi càng băn khoăn suy nghĩ thì thói hư vinh lại càng bạo phát cao ngùn ngụt. Nếu như tôi biết khi ấy mình đã có những biểu hiện mất mặt đến như thế nào, chắc chắn tôi sẽ lao về phía cô Tằng Hồng, cả hai cùng chết vẫn còn tốt hơn là sống như thế này. Sau lần đại diện cho học sinh mới lên phát biểu đó, các bạn đều cho rằng cô Tằng thích tôi. Mà vị thế của cô Tằng trong khối lại rất đặc biệt, bởi tính cách cô nhanh nhẹn, lại dũng cảm, còn là họ hàng thân thích của vị lãnh đạo nào đó, đến tổ trưởng bộ môn còn phải nhịn cô vài phần, nên có được sự coi trọng của cô, tôi coi như cũng trở thành nhân vật tầm cỡ trong lớp. Tôi quen ba người bạn gái, người thứ nhất là Lý Tân - cô bạn gái xinh đẹp, học giỏi trong top đầu của lớp; người thứ hai, không những xinh đẹp, học giỏi, mà còn hát hay múa giỏi, bạn ấy tên là Lâm Lam; người còn lại học thì không giỏi, nhưng gia đình lại rất có tiền, tên Nghê Khanh. Chỉ thoáng nhìn qua nhóm chúng tôi, cũng có thể đoán biết được ngay, chúng tôi chính là những cô gái nổi bật nhất trong lớp. Ngày ấy, trải qua thời tiểu học bị cô lập, nên tôi khao khát có bạn có bè. Thực ra tính cách của tôi không hợp với ba cô bạn đó lắm, nhưng tôi giấu đi suy nghĩ thật của mình, để được trở thành một thành viên trong nhóm. Tôi cùng họ bình luận về những bạn nữ khác, tranh luận xem bạn nam nào lạnh lùng nhất, chi phối mọi dư luận trong lớp. Có thể nói thế này, các bạn nam trong lớp đều đứng về phía chúng tôi, còn các bạn nữ thì không dám đắc tội với chúng tôi. Trên kênh truyền hình dành riêng cho thiếu niên của Mỹ đang thịnh hành một seri phim về học đường, đó là những câu chuyện xoay quanh các nữ sinh mang phong cách Popular girl. Tôi thường ngồi xem rất thích thú, bạn bè thường cười nhạo sao tôi có thể xem những phim nhạt nhẽo như thế. Họ không biết rằng qua hình ảnh xinh đẹp, kiêu ngạo, lắm chiêu lắm trò, ganh đua nhau từ cách trang điểm cho đến các kiểu quần áo, so sánh xem ai có nhiều người theo đuổi hơn của những nữ sinh ấy, tôi được gặp lại tuổi thanh xuân nông cạn, hợm hĩnh của mình.
Thầy Chậu Của Cải chọn một bạn gái khá béo làm lớp trưởng. Cô bạn ấy học không giỏi bằng Lâm Lam, nhưng tương đối điềm tĩnh và có tinh thần trách nhiệm, từng làm lớp trưởng hồi tiểu học. Nhưng Lâm Lam tỏ vẻ không phục, vì vậy luôn tìm mọi cơ hội để chèn ép cô bạn ấy. Ví dụ, nếu lớp trưởng mặc một chiếc quần màu tím, chiếc áo màu hồng, Lâm Lam sẽ cười, và nói với chúng tôi: “Hồng đi với tím ngang với màu cứt chó”. Ví dụ, nếu lớp trưởng mặc một bộ quần áo sọc ngang, Lâm Lam sẽ cười nhạt và nói với giọng chế giễu: “Ngựa vằn có thể mặc đồ sọc ngang, bởi vì người ta gầy, từ bao giờ mà voi lại dám mặc đồ sọc ngang thế? Còn sợ mình chưa đủ to, không đập được vào mắt người khác sao?” Ăn mặc, trang điểm, về mặt này, cả ba người bọn họ đều là chuyên gia, còn tôi chẳng hiểu gì cả, nhưng tôi vẫn cười cùng họ. Ban đầu, lớp trưởng còn nhẫn nhịn, nhưng sau đó bị Lâm Lam kích nổ, định lợi dụng quyền uy của chức lớp trưởng để phản kích, nhưng bạn ấy chỉ có một, còn chúng tôi có bốn, cộng thêm những nam sinh thích Lâm Lam và Lý Tân trong lớp nữa, sự phản kích của lớp trưởng thất bại thảm hại. Tất cả các bạn nữ trong lớp đều cô lập bạn ấy, cho rằng bạn ấy vừa béo vừa đần vừa xấu, phải chơi cùng một người như thế thật đáng xấu hổ. Dần dần lớp trưởng trở nên trầm lặng, không thèm để ý tới bốn chúng tôi nữa, dù chúng tôi nói chuyện trong giờ tự học, hay truyền giấy để nói chuyện với nhau trong giờ học, bạn ấy đều coi như không nhìn thấy. Lý Tân và Nghê Khanh càng kiêu căng hơn, còn tôi, qua ánh mắt buồn bã, trầm lặng của bạn ấy, như nhìn thấy thứ gì đó từng rất thân quen. Không biết tại sao, khắp thành phố từ bé gái sáu tuổi cho tới bà lão sáu mươi tuổi đều mặc quần legging. Nữ sinh trong trường cũng không ngoại lệ. Người người mặc legging. Mẹ của bạn lớp trưởng cũng mua một chiếc quần legging cho con gái. Ai cũng mặc thì không sao, nhưng Lý Tân lại chế nhạo lớp trưởng: “Chân to như chân voi mà cũng học đòi người ta mặc legging, không biết soi gương hay sao”. Trong tiếng cười phá lên của bạn bè, dường như tôi nhìn thấy có cái gì đó ngân ngấn trong mắt lớp trưởng trước khi bạn ấy vội vàng cụp mí mắt xuống. Trong khoảnh khắc đó, tôi đột nhiên cảm thấy người xấu xí không phải là bạn lớp trưởng. Lý Tân còn định châm chọc nữa, tôi liền nói: “Bạn ấy đã nhượng bộ rồi, đừng săn đuổi đến cùng như thế, để cho người ta ba phần đường sống, cũng là giữ lại cho mình một phần đường lui.” Lý Tân tỏ ra bực bội trước câu nói của tôi, Lâm Lam nhìn xoáy tôi một cái, rồi nói với Lý Tân: “Sau này nếu nó không trêu chọc gì bọn mình thì bọn mình cũng không cần phải chỉnh nó nữa”. Cuộc tranh đấu với bạn gái lớp trưởng kết thúc bằng thắng lợi vang dội thuộc về phía chúng tôi. Đám con gái trong lớp càng nể sợ và muốn lấy lòng chúng tôi hơn.
Chúng tôi mặc dù còn là trẻ con, tâm địa và phương thức đấu đá có thể không tàn khốc như trong thế giới của người lớn, nhưng kết quả thì tàn khốc không kém. Tôi tin bạn lớp trưởng ấy vốn là một cô bạn tự tin, vui vẻ, cũng có thể khi còn nhỏ, bố mẹ và thầy cô giáo đều khen bạn ấy là người làm việc nghiêm túc, cẩn thận, nhưng chính vì những lời cười nhạo, chế giễu vô tình của bốn đứa chúng tôi, cùng với sự a dua của bạn bè trong lớp, khiến bạn ấy dần dần trở nên tự ti. Có thể hằng ngày, mỗi khi mặc đồng phục đứng trước gương, bạn ấy đều có cảm giác lo sợ, không biết hôm nay bạn bè sẽ chê cười mình điều gì, bạn ấy sẽ tự ti và xấu hổ về cơ thể của mình. Vì tự ti, nên bạn ấy bắt đầu không tin vào bất kỳ việc gì mình làm, bắt đầu sợ này sợ kia. Kiểu tổn thương về mặt tâm hồn này, tàn nhẫn tới mức có thể làm thay đổi quỹ đạo cuộc đời của một con người, thậm chí còn hủy diệt luôn người ấy, nhẹ thì cũng để lại trong lòng người ấy một ký ức niên thiếu không bao giờ dám nhìn lại. Khi tôi hiểu và biết hổ thẹn về những việc mình làm, thì cô bạn lớp trưởng đó đã biến mất trong dòng sông thời gian, tôi không bao giờ có thể nói được hai từ xin lỗi với bạn ấy nữa. Đó là nỗi hổ thẹn vĩnh viễn không phai mờ trong ký ức của tôi. Dường như trong một nhóm con gái bao giờ cũng phải có nhân vật trung tâm. Trong nhóm của chúng tôi, mặc dù không nói thẳng ra, nhưng ai cũng tự hiểu, cô bạn Lâm Lam xinh đẹp, thông minh, thích nổi trội hơn người, học giỏi kia chính là nhân vật trung tâm. Lý Tân và Nghê Khanh đều rất nghe lời bạn ấy. Lý Tân còn phục tùng tới mức gần như cung cúc lấy lòng Lâm Lam, như sợ Lâm Lam sẽ không cho mình chơi cùng nữa. Tới tận bây giờ tôi vẫn chưa hiểu tại sao lại như thế, rõ ràng là một cá thể độc lập, lại không có quan hệ lợi ích cấp trên cấp dưới như trong xã hội của người lớn, giữa những đứa con gái mới hơn mười tuổi, tại sao lại có thứ quan hệ mạnh yếu rõ ràng đến thế? Nhưng mối quan hệ giữa con gái với nhau là như thế, mặc dù cách ăn mặc, trang điểm khác nhau, nhưng dù là ở Trung Quốc, hay nước ngoài, thì những chuyện như thế vẫn được lặp đi lặp lại, hết thế hệ này đến thế hệ khác. Nghê Khanh không xinh xắn, học cũng không giỏi, nhưng có tiền, thường xuyên mời chúng tôi đi ăn kem, uống nước… Có thể trong lòng Lý Tân nghĩ bạn ấy rất ngốc, nhưng bên ngoài lại đối xử với bạn ấy rất tốt. Cái mà tôi có thể cho Lý Tân rất ít, vì vậy tôi liền trở thành “quân xanh” trong mắt Lý Tân. Bạn ấy luôn tìm cách đẩy tôi ra khỏi nhóm, nhưng Lâm Lam lại rất tốt với tôi, vì vậy bạn ấy cũng không biết làm thế nào, chỉ còn cách đối với Lâm Lam tốt hơn nữa, với mong muốn Lâm Lam sẽ xa lánh tôi. Ban đầu có bạn lớp trưởng, nên tranh chấp nội bộ chỉ âm ỉ tồn tại, nên mọi người đều vờ như không có chuyện gì. Không có cuộc chiến đấu với “kẻ thù bên ngoài” là bạn lớp trưởng nữa, thì đấu đá nội bộ lại ngày càng thể hiện rõ. Lý Tân không biết đã liên kết với Nghê Khanh từ bao giờ, càng ngày càng tỏ rõ thái độ muốn hất bỏ tôi, nói bóng gió xa xôi. Tôi không phải là đứa nhanh mồm nhanh miệng nên đành vờ như không hiểu những lời châm chích của họ. Lâm Lam chuyện gì cũng biết, nhưng bạn ấy lại đứng từ trên cao nhìn xuống quan sát ba chúng tôi, làm như không phát hiện ra bất kỳ điều gì, chỉ khi nào Lý Tân và Nghê Khanh có hành động quá đáng, bạn ấy mới ra tay giúp tôi, để duy trì sự cân bằng.
Trong mắt người ngoài, bốn đứa chúng tôi là những người bạn tốt không thể tốt hơn. Trong giờ học thì viết giấy nói chuyện với nhau. Giờ ra chơi thì chơi cùng nhau. Đến đi vệ sinh cũng mình đợi cậu, cậu đợi mình, cùng nhau nghe những bài hát đang thịnh hành nhất, cùng nhau chơi đùa với những cậu bạn đẹp trai nhất lớp, một người bị bắt nạt, cả bốn người sẽ cùng phản kích. Không ít bạn nữ ngưỡng mộ bộ tứ chúng tôi, muốn được cùng chơi với chúng tôi. Nhưng chỉ có chúng tôi mới biết, trong mối quan hệ có vẻ đẹp đẽ đó đang ẩn giấu những gì. Tôi thận trọng và đau khổ duy trì “tình bạn” của mình. Chơi cùng với họ, tôi rất mệt mỏi, nhưng nếu không chơi với họ, tôi lại rất cô đơn. Tôi vẫn luôn hy vọng cuộc sống ở trường trung học cơ sở sẽ hoàn toàn khác với trường tiểu học, thì tôi đã làm được rồi. Bây giờ tôi có thể được coi là một trong những nữ sinh nổi bật nhất, có thế lực nhất của lớp. Cô giáo ngữ văn thích tôi, các bạn nữ tìm cách lấy lòng tôi, nhưng tôi lại chẳng cảm thấy vui vẻ gì. Người giữ vị trí thứ nhất trong lớp là một bạn nam, tên Trần Tùng Thanh, chỉ học cùng tôi hai năm, nhưng cho tới giờ tôi vẫn còn nhớ cậu ấy, bởi vì cậu ấy đã từng nói với tôi mấy câu. Một lần, một bạn nam trên mặt có vết bớt gửi thư tình cho Lý Tân, sau khi đọc và cười khúc khích, bạn ấy liền đưa lá thư đó cho Lâm Lam. Lâm Lam vừa liếc qua đã cao giọng đọc to cho cả lớp nghe. Mọi người cười nghiêng ngả, sắc mặt bạn nam kia hết từ đỏ chuyển sang trắng bệch rồi lại từ trắng bệch chuyển sang đỏ, đầu cúi gằm xuống sát mặt bàn. Nhìn bộ dạng của cậu ấy, bên ngoài tôi vẫn cười hùa cùng mọi người, nhưng trong lòng rất xót xa. Đây chính là kết quả của việc không biết tự lượng sức mình khi thích một người sao?! Trần Tùng Thanh đột nhiên hỏi tôi: “Cậu thấy chuyện này buồn cười lắm à?” Tôi sững lại, cậu ấy vẫn luôn ngồi sau tôi, nhưng chúng tôi gần như chưa bao giờ nói chuyện với nhau, tôi chỉ biết cậu ấy học rất giỏi. Cậu ấy lại hỏi tôi: “Cậu cho rằng cậu, Lâm Lam và Lý Tân chơi thân với nhau, suốt ngày tìm cách trêu chọc, chế nhạo người khác, ra điều ta đây giỏi giang là thú vị lắm à? Cái gọi là giỏi giang của một người được xây dựng bằng cách chà đạp lên lòng tự trọng của người khác, lẽ nào cậu không cảm thấy mình thật ấu trĩ, thật nông cạn sao?” Tôi chưa kịp trả lời, cậu ấy lại nói: “Hãy dùng sự thông minh và tinh hoa của cậu vào những việc khác có ý nghĩa hơn đi!” Nói xong, cậu ấy lại cúi đầu đọc sách, cứ như từ nãy đến giờ chưa hề nói gì vậy. Lâm Lam vẫn đang đọc to bức thư tình. Cả lớp vẫn đang cười nghiêng cười ngả. Nhưng cậu ấy chỉ chuyên tâm đọc sách, lặng lẽ học từ mới tiếng Anh. Mãi đến khi tiếng chuông vào lớp vang lên, những lời cậu ấy nói vẫn vang vang trong đầu tôi. Trong giờ tự học, tôi bất thần quay lại hỏi: “Thế nào là việc có ý nghĩa hơn?”
Cậu ấy nói: “Nếu cậu không biết đáp án, thì lên thư viện của trường mà tìm.” Trường chúng tôi có thư viện? Xem ra tôi đúng là hiểu biết nông cạn, tri thức nghèo nàn rồi. Trong giờ ra chơi ngày hôm sau, lần đầu tiên tôi không chơi cùng với nhóm Lâm Lam, tôi lên thư viện. Nghe nói, thư viện trường tôi là thư viện tốt nhất trong các trường trung học của cả tỉnh. Cơ sở hạ tầng hiện đại bậc nhất, rộng rãi, sáng sủa, chỗ ngồi thoải mái, nhưng lại chỉ có lác đác vài học sinh. Trần Tùng Thanh ngồi ở một góc trong phòng đọc sách. Tôi không đến làm phiền cậu ấy, một mình đi tham quan khắp thư viện, ngửa cổ nhìn lên những kệ sách cao ngất. Sách xếp dày đặc. Lần đầu tiên tôi được biết thế nào là biển sách. Nhưng tôi không đọc sách, cũng không mượn sách, chỉ đi một vòng quanh thư viện rồi lại đi ra. Cũng có thể do tôi đã quá mệt mỏi khi phải tìm cách đối phó với công cuộc hất mình ra khỏi nhóm của Lý Tân, hay có thể tôi tự hiểu ra rằng đây không phải là thứ mà tôi cần, hoặc có thể do những lời Trần Tùng Thanh nói, tôi bắt đầu xa lánh dần nhóm của Lâm Lam. Thời gian nghỉ giải lao giữa tiết, tôi thường một mình lên thư viện đọc sách, nhưng trong một thời gian ngắn, tôi vẫn không thể đoạn tuyệt hẳn với họ được. Tôi không đủ dũng cảm, không đủ mạnh mẽ để đối mặt với sự cô độc. Thói hư vinh khiến tôi lưu luyến những giây phút vui vẻ, náo nhiệt khi ở cạnh họ. Vì vậy, thỉnh thoảng trong giờ ra chơi, tôi vẫn ở lại lớp chơi với họ. Lý Tân rất thích kể cho chúng tôi nghe cậu bạn trai nào đang theo đuổi mình, và đem thư tình người ta viết cho bạn ấy cho chúng tôi đọc. Trong ánh mắt của Lâm Lam ẩn chứa một thái độ khinh miệt, nhưng lại tỏ ra hào hứng muốn nghe, cố ý hỏi han để Lý Tân nói về điều đó nhiều hơn. Tôi không biết tâm lý của các bạn nữ lúc học trung học cơ sở thuộc thể loại nào, có lẽ sự ngưỡng mộ đối với quyền uy và sức mạnh có từ trong thiên tính, nên họ không coi trọng các bạn nam bằng tuổi, thích những anh chàng học lớp trên hơn. Lý Tân mỗi khi nhắc đến những lá thư tình mà các bạn nam cùng khối gửi cho bạn ấy, thái độ đều rất coi thường. Lý Tân lại thích khoe khoang việc các anh lớp trên nhờ người chuyển lời muốn mời bạn ấy đi uống nước hoa quả đá bào và hẹn đi hát karaoke hơn. Hôm đó, khi chúng tôi đang ăn kem và bàn tán về đám con trai, thì có một anh chàng mặc áo trắng, quần trắng đạp xe từ ngoài cổng vòng vào. Lý Tân nhìn thấy, lập tức im lặng. Anh chàng đó dựng xe xong, vừa đi vừa cười, chào hỏi những người bạn gặp trên đường, rồi đi thẳng vào tòa nhà lớp học. Cậu bạn đó dáng người dong dỏng cao, mái tóc đen hơi xoăn, đôi mắt sâu, mũi thẳng, đeo kính gọng vàng, nụ cười rạng rỡ như ánh mặt trời. Nếu phải dùng một cụm từ để miêu tả, thì tôi sẽ nghĩ ngay đến từ “bạch mã hoàng tử” để hình dung về cậu ấy. Tôi biết là nghe rất buồn cười, nhưng đấy đúng là ấn tượng đầu tiên của tôi khi nhìn thấy cậu ấy. Trong khi cả ba người bọn họ đều chằm chằm nhìn theo bóng cậu ấy, thì tôi không kiềm chế được, buột miệng hỏi: “Ai vậy?”
Lý Tân khó chịu nhìn tôi, tỏ vẻ hơi bực tức vì tôi không biết cậu bạn kia là ai, nhưng sau đó liền đắc ý giải thích: “Thẩm Viễn Triết, bạn tiểu học của mình. Quan hệ của bọn mình rất tốt”. Lý Tân đã thay đổi hẳn thái độ coi thường mỗi khi nói đến đám con trai cùng khối, trong giọng nói của bạn ấy bây giờ còn có cả sự sùng bái. Nghê Khanh cười nói: “Giờ đang là lớp trưởng lớp 7 (6), nghe nói một nửa đám con gái trong lớp thích cậu ấy”. Lý Tân không tiếp lời, có vẻ không vui. Lâm Lam cũng cười, nháy mắt với tôi trêu Lý Tân: “Không phải cậu cũng thích người ta đấy chứ?” Lý Tân khó chịu đáp: “Còn lâu! Chỉ là mình khá thân với em gái cậu ấy.” Nghê Khanh lập tức tỏ ra quan tâm hỏi: “Nghe nói Thẩm Viễn Tư lớp 7 (2) là em gái cậu ấy, sao hai anh em lại học cùng khối nhỉ? Họ là anh em sinh đôi à?” Lý Tân lắc đầu: “Không phải, Viễn Triết lớn hơn Viễn Tư hai tuổi.” “Hả? Hai tuổi? Cậu ấy bị lưu ban?” Lý Tân như sợ người khác đánh giá thấp Thẩm Viễn Triết, vội vàng giải thích: “Không phải! Ngay từ năm lớp 1 hai anh em họ đã học cùng nhau, và đều học rất giỏi. Hình như hồi nhỏ cậu ấy bị bệnh, phải trải qua rất nhiều cuộc phẫu thuật, sau khi khỏi bệnh mới đi học, nên học muộn hơn chúng ta.” Chẳng trách trông cậu ta không giống với những nam sinh cùng khối khác, thì ra là lớn hơn chúng tôi hai tuổi. Sau đó bọn họ nói chuyện gì nữa, tôi đều không nghe, bởi vì tôi nhìn thấy Trương Tuấn. Trương Tuấn và một chị học lớp 9 đang vừa đi vừa nói chuyện. Họ đi đến cạnh hồ, chị ấy ngồi xuống, Trương Tuấn đứng đối diện với chị ấy. Hai người đều cười vui vẻ, Trương Tuấn lộ rõ vẻ già dặn trước tuổi, đứng cùng một chị lớp 9 mà không hề cảm thấy cậu ấy nhỏ tuổi hơn. Chị ấy thỉnh thoảng lại nửa cười nửa giận vờ đánh Trương Tuấn, hoặc huých cánh tay vào người cậu ấy. Trên môi Trương Tuấn luôn nở nụ cười. Qua cách họ đưa qua đẩy lại, cho thấy quan hệ này khá mờ ám. Nghê Khanh khẽ thốt lên: “Trương Tuấn”, rồi cả ba người bọn họ không nói chuyện nữa, cùng tôi dán mắt quan sát hai người kia. Lúc này tôi mới láng máng nhận ra rằng, Trương Tuấn đã là nhân vật khá nổi tiếng trong khối bảy của chúng tôi. Sự trưởng thành của con trai diễn ra thật nhanh chóng. Không lâu trước đó, cậu ấy vẫn để đầu đinh, vừa cao vừa gầy, tay dài chân to, nhìn vừa kỳ quái vừa buồn cười, thế mà chỉ chớp mắt, đã trở thành một chàng trai dáng người cao dong dỏng, khôi ngô tuấn tú. Trong mắt tôi, thật ra cậu ấy vẫn là cậu ấy, nhưng qua ánh mắt của ba người trong nhóm Lâm Lam, tôi hiểu Trương Tuấn bây giờ không còn là Trương Tuấn của hồi tiểu học nữa.
Nghê Khanh thở dài: “Đáng tiếc, nghe nói cậu ấy không thích con gái bằng hoặc kém tuổi, chỉ chơi với các cô gái ngoài trường thôi.” Lâm Lam hỏi: “La Kỳ Kỳ, cậu học trường tiểu học Số 4 phải không? Trương Tuấn chẳng phải cũng học trường ấy sao?” Tôi liền nói: “Bọn mình không quen nhau, chưa nói chuyện bao giờ.” Nghê Khanh và Lý Tân tỏ vẻ như chuyện đấy là hiển nhiên, chỉ thiếu điều chưa há mồm ra nói: “Dáng vẻ La Kỳ Kỳ thế này, sao xứng để nói chuyện với Trương Tuấn?” Nhìn vẻ mặt đó của họ, tôi cũng không rõ mình đang nghĩ gì mà lại nói: “Hồi học tiểu học, cậu ấy từng bị lưu ban, còn chơi bời ở bên ngoài nữa, thích hút thuốc, đánh nhau.” Vốn nghĩ rằng ánh mắt của bọn Lâm Lam sẽ lập tức thay đổi, không ngờ bọn họ càng nhiệt tình hơn: “Hả? Cậu còn biết những gì nữa? Cậu ấy thích kiểu con gái như thế nào?” Kết quả không mong muốn này làm cho tôi khiếp sợ, chỉ còn biết choáng váng nhìn họ. Học cấp hai và cấp một dường như là hai thời đại hoàn toàn khác nhau. Khi học tiểu học, mọi người đều thích những bạn nam học giỏi, được thầy cô giáo cưng chiều yêu quý, vì vậy hầu như toàn bộ các bạn nữ trong lớp đều thích Trần Kình. Nhưng lên cấp hai, mọi người lại có vẻ không quan tâm tới những bạn chỉ biết học như Trần Tùng Thanh, thậm chí còn gọi những người như thế là mọt sách. Họ bắt đầu theo đuổi kiểu mẫu “đàn ông không hư, đàn bà không yêu”, và rõ ràng là Trương Tuấn rất phù hợp với tiêu chuẩn đó. Trương Tuấn nhìn về phía chúng tôi. Chúng tôi căng thẳng tới mức im bặt. Ánh mắt cậu ấy dừng lại chỗ chúng tôi một lúc, cười rồi quay đầu đi. Nghê Khanh hào hứng nói: “Lý Tân, Lâm Lam, chắc chắn là cậu ấy nhìn hai cậu.” Lý Tân và Lâm Lam đưa mắt nhìn nhau, má ửng hồng, nhưng trong ánh mắt lại có ý khinh thường đối phương. Tôi chợt nhớ đến Quan Hà, nhớ đến sự xinh đẹp và rộng lượng của bạn ấy, rất chừng mực, đột nhiên cảm thấy mình thật xấu xa, chỉ muốn nhanh chóng rời khỏi nơi này ngay. Khi sắp đi đến gần cửa vào hành lang, vai tôi lướt qua một bạn nữ rất xinh đẹp. Tôi khẽ giật mình, nhưng lại không biết tại sao mình giật mình, nên đành tiếp tục đi, bước mãi bước mãi, cuối cùng không kiềm chế được đành dừng bước, quay đầu nhìn lại. Không ngờ bạn gái kia cũng ngập ngừng dừng chân, quay đầu nhìn tôi, bốn mắt nhìn nhau, bối rối! Đột nhiên, cô bạn ấy lớn tiếng gọi: “Kỳ Kỳ!” rồi lao về phía tôi. “Hiểu Phi!” Tôi cũng chạy về phía cô ấy. Sau đó, chúng tôi đứng dưới tòa nhà của trường cấp hai, trước rất nhiều ánh mắt, ôm chặt lấy nhau. Chúng tôi líu ríu gọi tên nhau như đang ở chỗ không người, rồi lại ôm lại kéo, cười cười nói nói, rồi lại ôm nhau khóc lóc, cứ như nước mắt biệt ly của nhiều năm trước vẫn chưa chảy hết.
Khi cả hai bình tĩnh lại, mới nhận ra rất nhiều người đang nhìn mình. Hiểu Phi quay sang tôi lè lè lưỡi. Tôi xấu hổ bối rối, nhưng vẫn không nhịn được, chỉ muốn cười. Hai đứa như có thần giao cách cảm, cầm lấy tay nhau, rồi cùng chạy ra ngoài, chạy một mạch, thoát khỏi ánh mắt soi mói của tất cả mọi người, chạy vào trong khu rừng cây nhỏ. Hiểu Phi hỏi tôi: “Cậu học lớp mấy?” “Lớp 7 (1), còn cậu?” Vẻ mặt cô ấy như không tin: “Lớp 7 (2), ngay bên cạnh lớp cậu”. Thật không thể tin được! Vào học đã mấy tháng rồi, hai lớp chỉ cách nhau một bức tường, tôi còn là đại diện cho học sinh mới lên phát biểu trước toàn trường, nhưng tới tận hôm nay chúng tôi mới phát hiện ra nhau. Hiểu Phi nói với tôi rằng, hôm khai giảng, cô ấy ngồi phía dưới, nghe tôi phát biểu, nhưng lại không chú ý nhìn xem tôi như thế nào, lại không tập trung, nên cũng không nghe được lúc tôi giới thiệu tên. Rất nhiều năm sau, đọc truyện tranh Rẽ trái, rẽ phải của Jimmy, nhiều người bạn của tôi cho rằng nó là sự lãng mạn không thực tế, nhưng tôi lại rất tin, bởi vì số mệnh quả thật rất thần kỳ, nếu nó đã không muốn cho bạn gặp lại ai đó, thì bạn và người ấy cho dù chỉ cách nhau một bức tường, hay bạn đứng ngay dưới ánh đèn sân khấu, đứng trước mặt người ấy, thậm chí, cho dù có ai đó hét to tên bạn vào tai người ấy, người ấy cũng vẫn không nhìn thấy bạn. Xa cách bốn năm, nhưng giữa tôi và Hiểu Phi không có bất kỳ khoảng cách nào. Chúng tôi vẫn thân thiết như vừa mới chia tay nhau ngày hôm qua. Cô ấy vẫn giống như hồi còn nhỏ, nói liến thoắng không ngừng, nôn nóng muốn kể cho tôi nghe về khoảng thời gian bốn năm không có tôi đó. Tôi cũng giống như hồi nhỏ, im lặng lắng nghe, chia sẻ những vui buồn, hờn giận với cô ấy. Chẳng mấy chốc, một tiếng đồng hồ hoạt động tự do giữa tiết đã kết thúc, tiếng chuông vào lớp vang lên, chúng tôi tay nắm tay chạy về lớp. Hiểu Phi dặn đi dặn lại, hết giờ học đợi mình, tôi gật đầu sung sướng. Quay về lớp, Lâm Lam hỏi tôi: “Quan hệ giữa cậu và Cát Hiểu Phi rất tốt phải không?” Tôi cười, giải thích: “Bạn ấy là bạn thân nhất của mình, cậu biết bạn ấy?” Lâm Lam cười cười: “Điểm vào cấp hai của cậu ấy đứng đầu lớp 7 (2), khi mới nhập học, cô chủ nhiệm lớp 7 (2) đã chọn cậu ấy làm lớp trưởng, nhưng cậu ấy lại từ chối, nói là mình đã làm lớp trưởng từ hồi lớp 1, làm suốt sáu năm, thật sự đã chán ngấy chức lớp trưởng rồi.” Tôi không nhịn được cười, đúng là tính cách của Hiểu Phi, không sai! Từ khi gặp lại Cát Hiểu Phi, tôi đã xa cách hẳn với nhóm của Lâm Lam.
Hằng ngày, sau khi tan học, tôi và Hiểu Phi đều về cùng nhau. Đến mười phút nghỉ giữa tiết chúng tôi cũng phải tìm nhau ngồi nói chuyện. Nếu lớp Hiểu Phi tan rồi mà lớp tôi chưa tan, cô ấy sẽ đứng ở cửa lớp, thò đầu vào nhìn, giáo viên nhìn cô ấy, cô ấy lại rụt đầu về, nhưng chỉ một lúc sau, cô ấy lại áp sát người trước cửa lớp, thò đầu vào nhìn tôi. Giáo viên lớp tôi và lớp 7 (2) giống nhau, đều biết cô ấy. Hiểu Phi xinh đẹp, học giỏi, tính tình lại hoạt bát, vui vẻ, giáo viên đứng lớp không những không giận mà còn bị bộ dạng thò ra thụt vào, ám muội của cô ấy chọc cười, vui vẻ khoát tay, cho chúng tôi về. Đến nỗi mà không lâu sau đó, không những toàn bộ học sinh lớp 7 (1) và lớp 7 (2), mà ngay cả các thầy cô giáo cũng biết, Cát Hiểu Phi có một cô bạn rất thân, tên là La Kỳ Kỳ. Tôi và Cát Hiểu Phi dính nhau như sam. Nói hết chuyện quá khứ, chúng tôi nói tới chuyện hiện tại, đang ở vào độ tuổi bắt đầu yêu, nên đề tài nào cũng xoay quanh bọn con trai. Hiểu Phi cho tôi đọc những lá thư tình mà cô ấy nhận được, thật vô cùng ngoạn mục! Tôi đọc, cô ấy nghe, có những đoạn quả thực phải nổi hết da gà, cô ấy làm bộ dạng nôn mửa. Có những câu rõ ràng là được chép lại ở đâu đó, cô ấy sẽ chế nhạo rất vô tình, nếu người khác mà làm vậy, tôi có lẽ có ý kiến, nhưng trong mắt tôi, dù cô ấy có làm gì đi nữa, cũng đều rất đáng yêu. Chúng tôi vừa đọc thư tình, vừa ngồi tụm lại với nhau cười nghiêng ngả trong vườn cây, Hiểu Phi hỏi tôi: “Có bạn trai nào thích cậu không?” Tôi lắc lắc đầu. Cô ấy lại hỏi: “Cậu có buồn không?” Tôi lắc đầu. Cô ấy hỏi: “Cậu có thích ai không?” Tôi nghĩ một lúc, rồi lắc đầu, từ lâu tôi đã quyết định không thích Trương Tuấn nữa. Nhìn vẻ mặt đó, tôi cũng đoán ra được tâm sự của cô ấy: “Cậu thích ai rồi phải không?” Cô ấy chỉ mỉm cười không nói. “Ai thế?” “Một anh học lớp 9. Trước kia là hàng xóm nhà mình, còn nhớ mấy hôm trước mình kể với cậu chuyện, hồi học tiểu học, mỗi khi tan trường đều ngồi nhờ xe của anh hàng xóm về không?” “Ừ, cậu đắc tội với một bạn nữ trong lớp, bạn ấy đã gọi anh trai tới đánh cậu, không ngờ lại bị anh hàng xóm của cậu dọa cho sợ chạy mất dép, anh hàng xóm là thần hộ vệ cho bạn Cát Hiểu Phi nhà ta mà!” Hiểu Phi phá lên cười: “Chính là anh ấy, tên Vương Chinh.”
Hiểu Phi mở to hai mắt, chờ tôi phản ứng, nhưng tôi lại chẳng có phản ứng gì, cô ấy nổi giận, cốc vào đầu tôi: “Sao cậu vẫn như thế, lúc nào cũng tỏ vẻ chẳng quan tâm tới điều gì, Vương Chinh ấy à! Là tay trống trong ban nhạc của trường mình đấy. Trời ạ, tất cả nữ sinh của trường cấp hai này đều biết đến anh ấy đó? Cậu biết không, lúc đánh trống, nhìn anh ấy rất cool! Cool toàn phần!” Năm đó, từ “cool” mới được lưu hành, khi chúng tôi nói “cool”, thường cảm thấy mình rất lạnh. “Bản thân anh ấy có cool không?” Hiểu Phi tỏ ra đau khổ gục lên người tôi: “Cool, rất cool! Từ năm lớp 4 mình đã bắt đầu yêu thầm anh ấy rồi, trong khi người ta lại chẳng thèm để ý đến mình, trước kia là hàng xóm, còn có cớ để gặp nhau, giờ đã chuyển đến thành phố này, không còn là hàng xóm nữa, đến cái cớ mình cũng chẳng còn.” Tôi không tin, nói: “Cậu xinh đẹp, đáng yêu thế này, anh ta nhất định sẽ thích cậu.” Trong lòng tôi, Hiểu Phi là người hoàn mỹ, tôi không nghĩ có người con trai nào lại nỡ lòng từ chối bạn mình. Hiểu Phi lập tức cười khúc khích nói: “Đúng thế, đúng thế, mình cũng nghĩ thế. Nói không chừng anh ấy đã sớm có tình cảm với mình từ lâu rồi, nhưng thấy mình vẫn còn là mầm non tương lai của đất nước, nên không nỡ hủy hoại, giờ mình đã lớn, anh ấy không cần phải khách khí nữa”. Hiểu Phi dang rộng hai tay, hét lớn vào không trung: “Hoan nghênh hủy hoại!” Tôi cười đến đau cả bụng, hai con mắt cô ấy đảo nhanh như chớp, tự nắm chặt lấy tay mình: “Không được, mình phải cố lên! Mình có quá nhiều đối thủ cạnh tranh, không khác gì giật miếng thịt trong miệng bầy lang sói.” Rồi cô ấy lại quay sang tôi nói một cách nghiêm túc: “Kỳ Kỳ à, đừng bao giờ thích những người con trai quá xuất chúng, bản thân mình phải đau khổ, mà anh ấy còn không trân trọng nỗi đau khổ của mình, càng không nên rung động trước, ai rung động trước người ấy sẽ thua.” Tôi cười lớn, bàn về các loại đạo lý cô ấy hiểu nhiều hơn bất cứ ai, kết quả hành động lại hoàn toàn đi ngược lại với những đạo lý ấy. Có kết quả thi giữa kỳ, cả lớp hơn bốn mươi người, tôi xếp thứ hai mươi mấy, bố mẹ tỏ ra rất hài lòng với kết quả này, bản thân tôi lại càng chẳng có điều gì phải bất mãn. Trần Tùng Thanh xếp thứ nhất, Lâm Lam thứ hai, Hiểu Phi đứng thứ nhất trong lớp cô ấy, tôi nghe ngóng, thăm dò về kết quả của Quan Hà, không ngoài dự đoán, đứng nhất lớp, rồi lại không kìm được đi nghe ngóng xem kết quả của Trương Tuấn thế nào, cũng xếp thứ hai mươi mấy trong lớp, gần giống tôi. Khối bảy không xếp thứ tự của toàn khối, nên ai thắng ai thua không ai biết. Do cả Hiểu Phi và Quan Hà đều có thành tích học tập xuất sắc, lại xinh đẹp, nổi trội, nên họ trở thành “Song Ba”(6) của chúng tôi, vốn từ này là do một cô giáo ngữ văn nói đùa, nhưng sau đó lại được tất cả mọi người công nhận. Giáo viên và bạn bè đều thích nhắc đến họ, mang họ ra so sánh, đọ cao thấp. Theo lẽ thường, hai con người tuổi đang còn trẻ mà bị đem ra so sánh như thế, khó tránh khỏi có hiềm khích, nhưng Quan Hà điềm đạm hòa nhã, cư xử chừng mực, chưa
bao giờ có điều tiếng gì; Hiểu Phi tính tình thoải mái, hi hi ha ha suốt ngày, ngoài việc học ra thì trong lòng cô ấy chỉ có Vương Chinh, ngày nào cũng lên tầng ba lén nhìn xem có bạn gái nào có ý đồ với Vương Chinh của cô ấy không. Vì vậy, hai người bọn họ mặc dù đều nổi bật, xuất sắc như nhau, nhưng giữa họ lại không hề có mâu thuẫn, và cũng chưa từng va chạm. Tôi và Hiểu Phi trải qua thời kỳ “nồng nhiệt” sau thời gian dài xa cách, dần dần cũng trở lại trạng thái bình thường, không còn đến mức chỉ ước ao được ở bên nhau một ngày hai tư giờ nữa. Cô ấy thích lân la làm quen với các anh chị khối chín, rồi nhân cơ hội hỏi thăm tin tức của Vương Chinh. Tôi thích lên thư viện, một tiếng hoạt động tự do giữa giờ, tôi thường ngồi ở thư viện đọc sách, thường gặp Trần Tùng Thanh. Cậu ấy và tôi, mỗi người độc chiếm một chiếc bàn lớn, sách của ai người ấy đọc, không bao giờ nói chuyện với nhau. Cuộc sống của tôi trở nên đơn giản và vui vẻ. Những lúc Hiểu Phi rảnh, tôi sẽ đi với cô ấy; những lúc Hiểu Phi bận, tôi lên thư viện. Nhờ sự hướng dẫn của Trần Kình, tôi đọc sách rất nhanh, cuốn Bá tước Monte Cristo dày như thế, chỉ vài tiếng tôi đã đọc xong, vì vậy nhu cầu về sách của tôi rất lớn, càng ngày càng đọc tạp nham, từ Plato(7) cho đến Tịch Mộ Dung, sách nào tôi cũng đọc, cho dù có hiểu hay không hiểu cũng vẫn đọc. Tôi vẫn không thích về nhà. Sau khi tan học, thà lang thang ở bên ngoài chứ nhất định không về nhà ngay. Bố mẹ thấy thành tích học tập của tôi cũng tạm được nên hoàn toàn yên tâm, áp dụng phương pháp chăn dê để quản giáo tôi. Hiểu Phi cũng vẫn giống như hồi bé, không thích về nhà, có điều, bây giờ cô ấy có rất nhiều bạn, vì vậy, không phải lúc nào cô ấy cũng đi với tôi. Ngoài giờ học, thời gian còn lại Tiểu Ba đều ở quán karaoke. Nếu không thích về nhà sớm thì theo lẽ tự nhiên, tôi cũng sẽ tìm đến quán karaoke. Qua tôi, Hiểu Phi quen Tiểu Ba và Ô Tặc. Tôi không hứng thú lắm với việc hát hò, nhưng Hiểu Phi lại rất thích. Ngày ấy, vào quán karaoke hát, đối với học sinh mà nói không phải số tiền nhỏ, còn tôi lại có thể đưa Hiểu Phi đi hát miễn phí. Mỗi lần Hiểu Phi đến, Tiểu Ba đều cung cấp đồ uống và đồ ăn vặt miễn phí. Hiểu Phi cười tít cả mắt, len lén nói thầm với tôi: “Hay là cậu làm bạn gái của anh Tiểu Ba đi, lúc ấy mình không cần vừa ăn vừa phải thấp thỏm nữa.” Tôi đuổi theo cô ấy để đánh: “Cậu vì vài miếng ô mai mà bán đứng mình, có người bạn như cậu, đúng là xui xẻo.” Hiểu Phi chạy quanh phòng tìm chỗ trốn, vẫn không quên vừa chạy vừa ăn nho khô. Tôi bắt được cô ấy, bắt đầu thượng cẳng tay hạ cẳng chân, đến lúc đau quá, cô ấy kêu loạn cả lên: “Vương Chinh, Vương Chinh, Vương Chinh…” Tôi giơ hai tay, làm bộ dạng như con gấu đen hung ác chuẩn bị vồ mồi, cười khúc khích nói: “Vương Chinh không có đây, mà cho dù có ở đây, anh ấy vẫn chưa phải là bạn trai cậu, sẽ không giúp gì được cho cậu đâu.”
Hiểu Phi cắn môi cười, tôi lao vào cấu, hai đứa quấn lấy nhau, cô ấy cười giải thích: “Mình gọi Vương Chinh không phải là muốn Vương Chinh đánh cậu, mà là vì mình rất đau, mỗi lần gọi tên Vương Chinh, trong lòng mình rất vui, sẽ không thấy đau nữa.” Tôi bán tín bán nghi hỏi: “Thật hay giả?” Cô ấy cười lao đến định cấu tôi một cái: “Không tin, cậu để mình véo cho một cái rồi gọi to một tiếng mà xem.” “Cậu nghĩ chị cậu ngốc chắc?” Tôi tóm lấy tay Hiểu Phi, ngăn không cho cô ấy cấu tôi, cả hai lăn tròn trên sofa, cười rũ rượi.
3. Ác mộng tái hiện Trái tim những người trẻ tuổi non nớt và yếu mềm. Vì vậy, sự tổn thương và ấm áp đều được khắc rất sâu trong đó. Cuối cùng, những thứ bị khắc ghi đó, cùng với thời gian, trở thành tính cách của chúng ta. Khi sắp đến kỳ thi cuối kỳ, đã xảy ra một chuyện. Một hôm trong giờ ra chơi, đến phiên tôi trực nhật. Sau khi quét lớp xong, tôi và mấy bạn nữa vừa xách nước ra lau sàn vừa nói chuyện. Chúng tôi ngang nhiên gọi các thầy cô giáo bằng biệt danh, bình luận từng động tác nhỏ của các thầy cô khi lên lớp. Tôi đang kéo dài giọng gọi biệt hiệu của thầy chủ nhiệm là “Chậu Của Cải, Mắt Nhỏ Tụ Quang”, thì thầy Chậu Của Cải đi vào. Thầy cũng không có phản ứng gì, kiểm tra khắp một lượt lớp học xem chúng tôi có quét dọn sạch sẽ không rồi lại đi ra. Mấy đứa chúng tôi đều sợ tới nghẹt thở, đợi thầy đi rồi, mới vỗ vỗ ngực nói: “May mà thầy không nghe thấy.” Đôi lúc, tôi lại rất mẫn cảm. Tôi đã cảm nhận được vẻ khó chịu của thầy Chậu Của Cải, chắc chắn thầy đã nghe thấy tôi gọi biệt hiệu của thầy, cười đùa cử chỉ lúc giảng bài của thầy. Nhưng tôi không thấy sợ. Suy nghĩ của tôi rất đơn giản, chẳng qua chỉ là một biệt hiệu thôi mà! Thầy lại là đàn ông, chắc không đến nỗi nhỏ mọn thế chứ. Ô Tặc ngày nào chẳng gọi tôi là “Gấu Trúc Bốn Mắt”, tôi có giận bao giờ đâu. Nhưng, tôi đã sai. Thầy Chậu Của Cải không những tức giận, mà còn rất để bụng, lúc ấy thầy muốn giữ gìn hình ảnh, nên đã không thể hiện ra ngoài. Nhưng ngay ngày hôm sau, thầy bắt được lỗi của tôi, và mắng tôi một trận té tát trước lớp, nhưng cả tôi và thầy đều biết rất rõ rằng, thầy mắng tôi không phải vì tôi không tập trung nghe giảng trong giờ học. Sự chế giễu của tôi hiện rõ trên nét mặt, khiến lửa giận của thầy càng bốc cao, lập tức ra lệnh cho tôi phải đổi chỗ ngồi, chỉ vào góc khuất nhất cuối lớp, nói với tôi: “Em chỉ thích hợp ngồi ở chỗ ấy thôi, chuyển bàn của em xuống đấy ngay, bao em giờ biết mình sai ở đâu, thì lúc ấy mới được trở về chỗ cũ”. Góc lớp đấy là nơi để chổi, cây lau nhà, thùng nước, bình xịt, và thùng rác. Rất nhiều bạn nam lười không chịu xuống tận nơi bỏ rác vào thùng, thường chơi trò ném bóng rổ, nhiều rác bẩn bị ném trượt ra ngoài thùng rác, nơi ấy có thể coi là bãi rác của lớp. Tôi không nói không rằng, chuyển bàn xuống “bãi rác”. Sau khi ngồi xuống, mới phát hiện ra khoảng cách từ đây đến dãy bàn cuối cùng khá xa.
Sắc mặt thầy Chậu Của Cải đanh lại. Các bạn trong lớp đều im thin thít, ánh mắt của những người trong nhóm Lý Tân sáng lên vui sướng trước cảnh người khác gặp nạn. Cảm giác hoang mang hồi tiểu học lại trỗi dậy, một lần nữa, tôi lại bị cả lớp bỏ rơi. Tôi lặng lẽ ngồi đó, sau khi hết giờ, thầy Chậu Của Cải tập trung mọi người lại để cùng đi chơi bóng chuyền, đồng thời cũng phân nhóm luôn, chỉ duy nhất tên tôi không có trong đó. Các bạn cười cười nói nói ra ngoài, trong lớp còn lại một mình tôi. Tôi nhìn căn phòng trống rỗng, đột nhiên, sự kiên cường giả tạo sụp đổ, nước mắt không chịu nghe lời cứ thế lăn dài xuống má. Tôi không biết tôi đang khóc vì cái gì, hối hận vì mình đã đắc tội với thầy chủ nhiệm, hay hoảng sợ trước cơn ác mộng sắp tới. Đã rất lâu rồi tôi không khóc, nhưng lần này, tôi nằm bò trên mặt bàn, càng khóc càng thương tâm, chỉ cảm thấy như mình lại một lần nữa bị đẩy vào cảnh cô lập không biên giới, dường như cơn ác mộng hồi tiểu học lại sắp tái hiện. Vô thức, tôi đã quên mất là phải kiềm chế tiếng khóc của mình, tôi nấc lên thành tiếng. Đột nhiên, một giọng nói rất dễ nghe cất lên hỏi tôi: “Cậu làm sao thế? Ai bắt nạt cậu à?” Tôi ngẩng đầu, một cậu bạn cao lớn đang đứng trước mặt tôi, nhìn tôi với vẻ quan tâm. Người đó lại chính là Thẩm Viễn Triết. Cậu ấy mặc một chiếc quần màu đen, chiếc áo len cao cổ màu trắng, mái tóc màu đen hơi quăn, đeo kính gọng vàng, ánh mắt dịu dàng và ấm áp. Toàn thân cậu ấy như được phủ một lớp ánh sáng màu bạc, giống hệt bạch mã hoàng tử vừa bước ra từ cuốn truyện tranh, nhưng tôi lại không phải là một nàng công chúa xinh đẹp. Tôi ngẩn người ra nhìn cậu ấy một lúc, rồi cúi đầu, tiếp tục khóc. Cậu ấy kéo một chiếc ghế lại, ngồi trước bàn tôi, ôn hòa và nhẫn nại nói: “Cho dù là có chuyện gì, cứ nói ra, biết đâu sẽ có cách giải quyết.” Tôi vẫn chỉ lau nước mắt khóc nức nở, cậu ấy không nói gì nữa, nhẫn nại ngồi đó, yên lặng bên tôi. Cuối cùng, có thể là do sự dịu dàng và nhẫn nại của cậu ấy khiến tôi cảm thấy chuyện gì cậu ấy cũng hiểu được, cũng có thể là do ánh mặt trời của buổi chiều ngày hôm đó chiếu lên người cậu ấy, khiến cậu ấy trông ấm áp vô cùng, mà thế giới của tôi lại đang thiếu sự ấm áp đó. Tôi bắt đầu vừa khóc vừa kể, mấy lần phải dừng lại vì đau lòng không nói tiếp được, sự kiên nhẫn của cậu ấy lại như vô hạn, chăm chú lắng nghe với vẻ mặt hết sức nghiêm túc. Kể xong, tôi thấy khá hơn rất nhiều, mặc dù vẫn thút tha thút thít, nhưng nỗi sợ hãi đã hoàn toàn tiêu tan. Thẫm Viễn Triết liên tục an ủi tôi, kiên nhẫn dỗ dành tôi, cho đến khi tôi không nín hẳn, cậu ấy mới đứng dậy, nói: “Sắp vào học rồi, mình đi đây. Đừng lo, vài ngày nữa thầy giáo nguôi giận, nhất định sẽ chuyển cậu về chỗ cũ.” Cậu ấy ra đến cửa, tôi mới nhớ ra là mình còn chưa cảm ơn, tôi gọi: “Này!” Cậu ấy dừng bước, quay đầu nhìn tôi, tôi nói: “Cảm ơn cậu!”
Cậu ấy dùng tay khẽ đẩy gọng kính lên, mỉm cười đáp: “Không cần phải khách sáo, mình có giúp được gì đâu.” Sau khi cậu ấy đi, các bạn trong lớp mới lục tục quay về, không khí ồn ào náo nhiệt, nhưng vì sợ thầy chủ nhiệm nổi giận, nên không ai dám hỏi han tôi, tôi lại chẳng màng tới việc đó, mà bắt đầu hoang mang, chuyện vừa xảy ra kia có phải là thật không? Chàng bạch mã hoàng tử Thẩm Viễn Triết trong mộng của các nữ sinh đã từng xuất hiện ở đây sao? Thật giống một giấc mơ, cứ như giấc mơ tôi tự tưởng tượng ra để an ủi mình vậy. Chính bởi vì có vẻ không thực, nên tôi không kể với Hiểu Phi, chỉ nói với cô ấy rằng, tôi bị thầy chủ nhiệm chuyển xuống ngồi cuối lớp. Khi nói điều này, tôi cười rất vui vẻ, Hiểu Phi từ nhỏ tới lớn thành tích luôn xuất sắc, chưa bao giờ bị thầy cô giáo trách phạt, do đó, thấy tôi nói vô tư như vậy, cô ấy cũng nghĩ là chẳng phải chuyện gì to tát, còn đùa với tôi, nói một mình ngồi cuối lớp thật tự do, muốn làm gì thì làm. Thầy Chậu Của Cải đuổi tôi xuống cuối lớp ngồi xong, còn thường xuyên điểm mặt gọi tên để phê bình tôi, dường như muốn dùng quyền uy của người thầy khiến tôi phải cúi đầu, nhưng tôi là người sống với tôn chỉ người kính ta một thước, ta trả người một trượng, quyết không vì bị đàn áp mà cúi đầu trước thầy, ngược lại còn ương ngạnh hơn, càng bị vùi dập càng dũng mãnh. Tôi không buồn để ý đến thầy, giờ tiếng Anh của thầy, tôi không nghe giảng, vừa đọc Quỳnh Dao vừa nhai kẹo cao su, thổi bong bóng. Còn thầy Chậu Của Cải, vừa tham gia công tác, lại được phân vào dạy ở một trường điểm của tỉnh, được ban giám hiệu tin tưởng giao cho trọng trách làm chủ nhiệm một lớp, chắc chắn trong lòng đang chất chứa tham vọng, muốn nhanh chóng thể hiện mình để báo đáp lại sự tin tưởng đó. Nếu như coi tất cả học sinh là đám ngựa non, thì thầy chính là người thuần hóa, còn tôi chính là con ngựa hoang đầu tiên trong sự nghiệp thuần hóa ngựa của thầy. Đối với thầy, việc tôi có thể bị thuần phục hay không, không chỉ đơn thuần là chuyện thầy sẽ giữ được sự uy nghiêm của mình trước toàn thể học sinh trong lớp nữa, mà còn liên quan đến tự trọng nghề nghiệp, vì vậy, cả hai chúng tôi đều ra sức đối kháng nhau. Ban đầu, phương pháp mà thầy áp dụng vẫn hết sức đơn giản, phổ biến, đó là khiển trách, phạt làm vệ sinh, phạt đứng, nhưng nhìn bộ dạng tôi đứng nơi cuối lớp, còn có vẻ như dễ chịu hơn cả khi ngồi, thầy bắt đầu hiểu những biện pháp dùng để đối phó với những nữ sinh thông thường không có tác dụng với tôi. Có một lần, vừa ăn cơm trưa xong là tôi chạy ngay đến trường chơi, bị thầy bắt gặp. Điều bất hạnh hơn nữa là, tôi bất cẩn làm vỡ kính cửa sổ trong lớp. Thầy nổi trận lôi đình, đòi gặp bố mẹ tôi. Tôi rất lo lắng, về nhà lí nhí nói với mẹ rằng, thầy chủ nhiệm muốn gặp mẹ. Mẹ đi gặp thầy Chậu Của Cải, thầy Chậu Của Cải kể hết tội lỗi của tôi với mẹ, hy vọng gia đình kết hợp với nhà trường để giáo dục tôi. Sau khi về nhà, mẹ kể lại mọi chuyện với bố. Có lẽ do hồi tiểu học tôi đã có những thành tích như đánh nhau, ăn trộm để so sánh, nên việc lên lớp không nghe giảng, phá hoại của công kia trở nên quá đỗi bình thường. Bố tôi chẳng để ý, không chừng trong lòng ông còn thầm nghĩ thầy Chậu Của Cải chuyện bé xé
ra to. Mẹ tôi mặc dù có chút buồn phiền, nhưng cũng bất lực, sự xa cách lạnh nhạt của tôi đối với họ, trong lòng bà biết rất rõ, nên bà không dám nặng lời, sợ ép tôi chuyển từ lạnh nhạt sang phản nghịch, chỉ tế nhị khuyên tôi nên kính trọng thầy cô giáo. Thầy Chậu Của Cải không biết tình hình cụ thể của gia đình tôi, thấy mẹ tôi là người hiểu biết, cứ nghĩ rằng cuối cùng cũng đã tìm ra cách trị tôi, không ngờ vui mừng chưa được mấy ngày, liền phát hiện tôi vẫn tự tung tự tác như thế, thậm chí còn ngày càng táo tợn hơn. Ngoài giờ ngữ văn của cô Tằng là tôi tương đối nghiêm túc ra, tất cả những giáo viên bộ môn còn lại đều phàn nàn tôi không chịu nghe giảng, nói rằng cho học sinh xuống ngồi cuối lớp không phải cách hay. Trước những ý kiến phản đối của giáo viên bộ môn, thầy Chậu Của Cải đành phải đổi chỗ cho tôi, từ chỗ cực đoan này đi đến chỗ cực đoan khác, lại chuyển tôi lên ngồi ở bàn đầu giữa lớp, bàn áp sát với bục giảng của giáo viên, ngay dưới tầm mắt của thầy. Thầy tỏ ra rất tự phụ, như muốn nói “xem cô còn có thể làm gì khi ngồi ngay dưới tầm mắt của tôi”. Kết quả chưa đến một tuần, các giáo viên lại đi tìm thầy Chậu Của Cải để phàn nàn về tình hình của tôi. Giáo viên dạy toán thì nói tôi làm bài tập lý trong giờ của thầy ấy. Giáo viên dạy lý thì tố tôi làm bài tập địa lý trong giờ của cô ấy. Giáo viên dạy địa lý thì bực bội nói tôi làm bài tập toán trong giờ của thầy ấy. Thầy Chậu Của Cải rất đau đầu, tìm tôi nói chuyện, hỏi tôi tại sao lại làm như thế, tôi thật thà trả lời: “Bởi vì hết giờ thì em muốn đi chơi, không có thời gian làm bài tập, nên em cần phải làm xong bài tập trước khi tan học”. Thầy Chậu Của Cải tức giận tới mức đôi mắt nhỏ của thầy muốn tóe lửa. Để tôi không thể làm bài tập trong giờ học nữa, thầy phạt tôi đứng ngoài hành lang. Phạt đứng trong lớp hay ngoài lớp, về cơ bản đều là phạt đứng, nhưng trên thực tế, ý nghĩa lại rất khác nhau. Trong lớp, thì như chuyện xảy ra trong nhà mình, bất luận tốt xấu thế nào đều xảy ra ở phía bên trong cánh cửa, nhưng bên ngoài lớp, thì không khác gì vạch áo cho người ta xem lưng. Mới đầu, đúng là tôi rất khó chịu, xấu hổ tới mức không dám ngẩng đầu lên. Mọi người đi qua đi lại chỗ tôi, đều quay sang nhìn tôi một cái, tôi chỉ ước tìm được lỗ nào mà chui ngay xuống, nhưng xấu hổ là chuyện của xấu hổ, muốn tôi khuất phục, còn lâu! Vì vậy, mỗi khi bị thầy Chậu Của Cải phạt đứng, tôi như quả cà tím phải sương muối, héo khô héo quắt, trên cổ như phải đeo thêm một cái biển nặng hàng nghìn cân, đầu cúi gằm thiếu nước chạm cả vào cổ áo. Nhưng khi thầy vừa tha cho tôi vào lớp, tôi sẽ lại làm bài tập lý trong giờ toán, làm bài tập địa trong giờ lý, làm bài tập toán trong giờ địa, giờ anh văn thì đọc tiểu thuyết, không hề thay đổi. Thầy giận tím mặt, đành phải tiếp tục đấu với tôi. Trong lúc tôi và thầy Chậu Của Cải nghĩ mưu tính kế để đấu với nhau, kỳ thi cuối kỳ đã đến, đấu thì đấu, nhưng không hề ảnh hưởng tới thành tích học tập, thậm chí còn tiến thêm vài bậc so với trước. Chút phiền muộn, lo lắng cuối cùng trong lòng bố mẹ cũng tan theo mây khói. Suy nghĩ của họ rất đơn giản, chỉ cần tôi không trốn học, làm bài tập đầy đủ, kết quả học tập không đến nỗi nào, cho thấy tôi vẫn quan tâm tới việc học, vậy thì tất
cả những chuyện khác, bất luận là làm vỡ cửa kính, hay nghịch ngợm trong giờ học, thậm chí tranh luận gay gắt với giáo viên, đều là bình thường. Đặc biệt, bố tôi còn cho rằng nghịch ngợm, hiếu động, gây họa gì gì đó mới giống trẻ con. Ông luôn lo lắng trước sự trầm lặng ít nói, u uất đáng sợ suốt thời tiểu học của tôi. Tất nhiên, bố mẹ không dám để thầy Chậu Của Cải biết là họ nghĩ như thế. Đối với việc tôi bị thầy phạt đứng ngoài hành lang, Hiểu Phi không những không cảm thấy mất mặt, ngược lại còn tỏ vẻ sùng bái tôi. Cô ấy cho rằng tôi rất lạnh lùng, dám đối đầu với thầy giáo, học sinh lớp 7 mặc dù không còn tôn sùng thầy cô giáo như hồi tiểu học nữa, nhưng có mấy ai dám đứng ra ngang nhiên chống đối lại họ, đặc biệt lại là con gái. Trước suy nghĩ của cô ấy, tôi chỉ còn biết cười khổ, tôi đâu có muốn tỏ vẻ cool, hot gì đâu? Tôi là bị ép! Nghỉ đông, cuộc sống của tôi tương đối thoải mái, không phải đi học, không phải làm bài tập, không cần phải đấu với thầy Chậu Của Cải, cả ngày có thể đọc những cuốn sách mà mình thích. Mùng ba Tết, tôi đến chúc Tết cô Cao, cô Cao hỏi về chuyện học hành của tôi. Tôi thật thà báo cáo lại tình hình, cô cười hỏi: “Rút cục là em đã cố gắng được mấy phần?” Sau khi suy nghĩ nghiêm túc, tôi nói với cô: “Cũng không nhiều ạ, thật ra học hành rất vô vị.”. Cô Cao cười ngất: “Em và Trương Tuấn sao vẫn còn trẻ con như thế? Cả ngày chỉ nghĩ đến chơi”. Tôi thản nhiên hỏi: “Trương Tuấn cũng đến ạ?” Cô Cao đáp: “Ừ, hôm qua có đến chúc Tết cô. Cô hỏi bạn ấy là đã chăm chỉ học hành chưa, bạn ấy chỉ cười không nói, có điều chơi thì cứ chơi, nhưng đừng để bị rớt lại xa quá là được, dù sao các em cũng vẫn còn nhỏ tuổi, nghĩ đến chuyện thi đại học bây giờ thì hơi sớm”. Cô Cao đúng là thật lòng quý tôi và Trương Tuấn, trong mắt những giáo viên khác chúng tôi ngang bướng bất kham, âm trầm quái dị, nhưng trong mắt cô chẳng qua cũng chỉ là những trò nghịch ngợm ngoan cố của những đứa trẻ chưa lớn. Thật ra cô không biết, tôi và Trương Tuấn phức tạp, trưởng thành sớm hơn những người bạn cùng tuổi rất nhiều. Cô Cao bóc cam, đặt vào tay tôi, cười nói: “Em và Trương Tuấn sau này có thể cùng nhau đến thăm cô, chúng ta lại cùng trò chuyện.” Tôi mỉm cười ngồi ăn cam, không nói gì. Sau khi rời nhà cô Cao, tôi vừa đi vừa hối hận, lẽ ra nên tới chúc Tết cô vào ngày hôm qua. Tâm trạng đang chới với, đột nhiên nghe thấy giọng ca của nhóm Tiểu Hổ vọng ra từ một cửa hàng băng đĩa.
“Xâu trái tim của bạn và của tôi thành một chuỗi. Xâu một chuỗi cỏ ba lá. Xâu một vòng tròn đồng tâm. Để tất cả những kỳ vọng về tương lai đồng hành với tuổi thanh xuân. Đừng để những người trẻ tuổi càng trưởng thành càng cô đơn.” Giờ đã là thời của Lâm Chí Dĩnh, trên hộp bút của các bạn nữ trong lớp đều có dán ảnh Lâm Chí Dĩnh, sao cửa hàng bán băng đĩa này vẫn còn mở bài của nhóm Tiểu Hổ? Tôi đứng bên ngoài ngẩn người ra nghe một lúc, rồi sải bước. Cuộc sống trong kỳ nghỉ đông rất bình yên, ngoài mấy ngày Tết phải đi chúc Tết với bố mẹ ra, gần như ngày nào tôi cũng đến quán karaoke của Tiểu Ba, cuộn người trên ghế sofa đọc tiểu thuyết mượn từ thư viện trường, hết quyển này tới quyển khác, Ô Tặc thường trêu tôi nói: “Còn chê mắt kính trên mũi chưa đủ dày phải không?” Tôi không thèm để ý tới anh ta. Giờ anh ta đang kiêu căng đắc ý, dù gì Tiểu Ba cũng còn nhỏ tuổi, rất nhiều trường hợp không tiện ra mặt, đành phải để Ô Tặc đứng ra xử lý, rất nhiều người không biết cho rằng, quán karaoke này là của Ô Tặc, đi đến đâu cũng có người châm thuốc dâng rượu, rất đàn anh, lại có cô bạn gái xinh đẹp làm bạn, xem ra tình trường thương trường đều thu hoạch lớn. Quán chủ yếu hoạt động vào buổi tối, Tiểu Ba là người cẩn thận, nên việc gì cũng tự mình làm lấy, thường xuyên bận rộn chạy qua chạy lại như con thoi, hai ba giờ sáng vẫn chưa được ngủ. Ban ngày, anh ấy thường nằm ngủ trên ghế sofa, tôi ngồi trên chiếc sofa khác đọc sách, thỉnh thoảng tỉnh dậy, anh ấy thường nhờ tôi rót cho cốc nước, uống vài hớp, rồi trở mình ngủ tiếp, tôi lại tiếp tục đọc sách. Những lúc không ngủ, anh ấy cũng đọc sách, có điều sách anh ấy đọc khác với loại tôi thường đọc, tôi thích đọc tiểu thuyết, còn anh ấy lại thích đọc những cuốn anh hùng trong chiến tranh, hay tiểu sử của những người thành công, hoặc đơn thuần chỉ là sách về quản lý doanh nghiệp, kinh tế thị trường, vừa đọc vừa ghi chép rất cẩn thận. Vì đang nghỉ đông, nên không tiện đến thư viện trường để mượn sách, anh ấy đưa tôi đến thư viện sách của thành phố, nhân viên thủ thư của thư viện nhìn thấy anh ấy, liền niềm nở chào hỏi: “Đến mượn sách phải không? Vài ngày trước thư viện mới nhập về một lô sách mới về mảng tiếp thị, marketting, mục lục sách ở đây này.” Lúc này tôi mới biết anh ấy là khách quen của thư viện. Tôi cũng làm một thẻ của thư viện thành phố, bắt đầu mượn sách ở đây để đọc. Chúng tôi thường xuyên ở bên nhau cả ngày, gần như chỗ nào có tôi là có anh ấy, chỗ nào có anh ấy là có tôi. Thực ra, mặc dù chúng tôi ở bên nhau, nhưng sách ai người nấy đọc, việc ai người nấy làm, không ảnh hưởng gì đến nhau cả. Bên ngoài bắt đầu có tin đồn tôi là bạn gái của Tiểu Ba, nếu người ta đến gặp chúng tôi và hỏi, đương nhiên chúng tôi sẽ phủ nhận, nhưng chúng tôi cũng không thể đi khắp nơi để túm hết người này tới người khác mà giải thích rằng chúng tôi không phải, hơn nữa tôi thấy Tiểu Ba tỏ ra rất vui trước việc tôi trở thành bia đỡ đạn cho anh ấy. Tiểu Ba có dáng vẻ nho nhã, anh tuấn, cư xử với con gái lịch sự, khách sáo, không bao giờ nói tục chửi bậy, không giống với những người trong giang hồ khác, vì thế rất nhiều con
gái thích anh ấy. Nhiều cô rất bạo dạn, nóng bỏng, theo đuổi người ta đến mức cách nào cũng dám dùng, từ việc tỏ tình trước mặt mọi người đến việc dọa cắt cổ tay tự tử, Tiểu Ba không tránh khỏi bực mình, giờ có tôi làm lá chắn, nên mới yên ổn được đôi chút. Trương Tuấn thường xuyên đến quán karaoke để hát, tôi dần dần cũng biết được biệt danh của người mà cậu ấy hay đi cùng là “Tiểu Lục”, mặc dù so về tuổi tác thì Tiểu Lục rõ ràng ít tuổi hơn anh Lý. Theo như lời Ô Tặc nói, Tiểu Lục là một kẻ rất tàn nhẫn, được coi là một trong những đại ca xã hội đen của thành phố này, bị bắt giam không biết bao nhiêu lần, nhưng đều rất may mắn, mỗi lần vào đồn công an xong đều bình an ra về. Tôi không hiểu nổi, sao Trương Tuấn lại có thể chơi cùng với loại người như Tiểu Lục, có điều, chắc cậu ấy cũng không thể hiểu được tại sao tôi lại chới với bọn Ô Tặc, Tiểu Ba. Tôi và cậu ấy cùng ra vào một quán karaoke, thỉnh thoảng cũng đụng mặt nhau, nhưng đều làm như không quen biết đối phương, cho dù là đi ngang qua nhau, cũng không chào hỏi, hoàn toàn không có người kia trong mắt. Nhưng tôi biết, thực ra, ánh mắt tôi không giờ nào phút nào không nhìn về phía cậu ấy.
Chương 4 1. Cực phẩm được luyện thành như thế nào? Chúng ta hất hàm, dùng ánh mắt khiêu khích để nhìn thế giới, trông thì có vẻ quật cường, mạnh mẽ đấy, nhưng trong lòng lại ẩn giấu sự hoảng hốt, hoang mang. Hỡi người lớn, chúng con có thể hiểu được rằng mọi người muốn nhào nặn chúng con thành những người xuất sắc, nhưng xin mọi người hãy hiểu: Không phải cứ dùng những lưỡi dao sắc lạnh là có thể đẽo gọt được những bức tượng đẹp, mà phải có một đôi mắt biết thưởng thức, một trái tim tràn đầy tình yêu thương, một đôi bàn tay ấm áp mới có thể nặn ra những bức tượng đẹp. Kỳ nghỉ đông trôi qua, một học kỳ mới bắt đầu, tôi thở dài, những ngày vui vẻ thoải mái đã kết thúc. Mâu thuẫn giữa tôi và thầy Chậu Của Cải cũng bắt đầu căng thẳng thêm trong năm mới này, việc phạt đứng ngoài hành lang đối với tôi mà nói giờ đã là chuyện nhỏ nhặt, hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến tâm trạng của tôi nữa, đứng ngoài nhiều khiến tôi còn quen mặt khá nhiều các bạn lớp 7 (2), 7 (3), giờ ra chơi chúng tôi thường nói chuyện rất vui vẻ sôi nổi. Những mối quan hệ của tôi được mở rộng sang một phạm vi mới, đương nhiên, độ dày của da mặt tôi cũng đạt một cấp độ mới. Tôi ngầm hiểu rằng, tôi càng sống vui vẻ, thoải mái, thì thầy Chậu Của Cải càng khó chịu, vì vậy, để chọc giận thầy, tôi thả lỏng tâm trạng, khiến cuộc sống hằng ngày diễn ra thoải mái hơn. Thưởng gió xuân, ngắm hoa rơi, nghịch nước bên hồ, ngắm chim sẻ… không gì vui vẻ bằng! Vừa hay đối diện với tòa nhà của trường cấp hai là một khu vườn giả kiến trúc cổ, đình đài lầu các ao hồ đủ cả. Có một lần, cô Tằng Hồng sau khi hết tiết dạy, ra ngoài hút thuốc, nói với tôi đang bị phạt đứng ngoài hành lang: “Em đứng chưa đủ mệt sao? Chỉ cần nhận lỗi cho xong là có thể được vào lớp ngồi, rút cục trong lòng em đang nghĩ gì, người khác lại không biết chắc?” Tôi rất kiêu ngạo mà trả lời cô rằng: “Đấu với trời, thú vị vô cùng. Đấu với đất, thú vị vô cùng. Đấu với người, thú vị vô cùng.” Chuông vào lớp vang lên, cô Tằng Hồng một tay búng điếu thuốc ra ngoài cửa sổ, một tay vỗ vỗ lên vai tôi, dường như muốn nhắc tôi phải tự bảo trọng, sau đó đi vào trong lớp. Thầy Chậu Của Cải thấy việc phạt đứng ngoài hành lang không làm khó được tôi, lại đòi gặp phụ huynh, chỉ trong vòng một tháng ngắn ngủi mà đòi gặp phụ huynh tới ba lần, nhưng rồi thầy phát hiện ra rằng việc này không mang lại hiệu quả, thầy bắt đầu hiểu, phối hợp với phụ huynh để giáo dục tôi cũng là một chiêu thất bại. Có điều, trong quá trình quan sát khi phạt tôi đứng ngoài hành lang, thầy nhận thấy tôi vẫn rất quan tâm tới việc người ta nhìn tôi như thế nào, thầy bắt đầu phạt tôi đứng trước cửa văn phòng của thầy, bởi vì nơi đó học sinh và giáo viên qua lại nhiều, không chỉ có học sinh của lớp 7 (1), 7 (2), 7 (3). Tôi vừa bắt đầu trơ mặt quen với việc phạt đứng ngoài hành lang, trước môi trường mới, rõ ràng không thích ứng lắm, lại một lần
nữa như bị tra tấn, đầu cúi gằm như phạm nhân bị đeo gông trên cổ, nhưng dần dần, cùng với số lần phạt đứng gia tăng, đầu tôi cũng từ từ ngẩng lên theo, tư thế càng lúc càng nhàn nhã, sắc mặt càng lúc càng tươi sáng, nụ cười càng ngày càng rạng rỡ hơn, thầy Chậu Của Cải nhận ra, tôi lại một lần nữa dùng sự quật cường của mình chấn áp được sự giày vò của thầy, lại một lần nữa dùng thói xấu thâm căn cố đế của loài sinh vật để thích ứng với sự cạnh tranh, đào thải của tự nhiên, thầy hận tôi tới mức muốn nghiến răng nghiến lợi, có điều nhất thời chưa nghĩ ra cách nào tốt hơn để trừng phạt tôi. Trước đó tôi đã từng nói tòa nhà trường cấp hai này có cấu tạo kiến trúc gần giống hình chữ “Z”, có điều vạch sổ ngang của chữ “Z” trong tòa nhà này là thẳng. Mặt trái của chữ “Z” là một khu vườn có kiến trúc giả cổ điển, mặt phải của chữ “Z” là sân vận động nhỏ có tám bàn bóng bàn bằng xi măng và một sân bóng rổ. Lớp 7 (1), 7 (2), 7(3) nằm trên một mặt phẳng, không nhìn thấy sân vận động. Còn văn phòng của giáo viên lại nằm ở giữa cái sổ dọc thẳng của chữ “Z” kia, hành lang bên ngoài phòng giáo viên đối diện với sân vận động, có thể nhìn thấy những bàn bóng bàn, khi không còn cảm thấy ngại ngùng xấu hổ nữa, tồi bắt đầu thưởng thức phong cảnh xung quanh. Tôi phát hiện ra bóng dáng một người từng rất quen thuộc với mình cạnh bàn bóng bàn gần nhất là thần đồng Trần Kình. Cậu ấy hình như rất thích chơi bóng bàn, cứ hết tiết là chạy đến đây để chơi, mà chơi rất hay, gần như không có đối thủ trong toàn khối, chỉ cần Trần Kình muốn, cậu ấy có thể thắng liên tục, còn đối thủ thì chạy qua chạy lại thay phiên cho nhau. Cho dù có chơi bóng bàn giỏi đến đâu, thì dáng người của Trần Kình cũng không khác gì so với hồi học tiểu học, tôi không thể hiểu, cậu bạn thần đồng từng tỏa sáng tới chói mắt, kiêu ngạo tự phụ kia đã đi đâu mất rồi? Nếu cậu ấy vẫn tiếng tăm lừng lẫy như hồi tiểu học, thì vừa vào trường lẽ ra tôi đã được nghe nhắc tới đại danh của cậu ấy rồi chứ, đâu phải đợi đến khi vô tình phát hiện ra cậu ấy ở một góc khuất như thế này, mới chợt nhớ ra từng có một người như thế. Tôi thừa nhận tôi là đứa vô vị, vì thế mới nhờ Hiểu Phi tìm hiểu tin tức về Trần Kình, sự thực đã chứng minh, cậu ấy thật sự đã rất bình thường rồi. Thành tích học tập đứng trong top 10 của lớp, đương nhiên thành tích ấy cũng vẫn đủ để gọi là tốt, nhưng không đủ để công nhận cậu ấy xuất sắc hơn người, vô cùng bình thường, tính cách cậu ấy lại càng bình thường, bạn bè khi nhắc đến Trần Kình, đều dùng một giọng thờ ơ giống nhau, cứ như trong lớp không có cậu ấy thì thiếu mà có cậu ấy thì thừa vậy. Hiểu Phi tỏ ra lo lắng trước việc tôi quan tâm đến Trần Kình, đặt việc thăm dò tin tức về Trần Kình lên hàng đầu, sau khi thăm dò xong, liên tục nói với tôi: “Mặc dù thích những cậu bạn xuất chúng quá thì cũng phiền phức đấy, nhưng cậu không nên hạ thấp tiêu chuẩn xuống mức ấy, hay là để mình giới thiệu cho cậu một người, mình quen rất nhiều nam sinh lớp 9.” Vì Trần Kình nhỏ hơn các bạn cùng lớp tới bốn tuổi, đầu óc phát triển sớm nhưng cơ thể thì chưa, đứng trong đám con trai lớp 9 cao lêu nghêu, cậu ấy giống một người lùn, những môn thể thao hot nhất trong trường như bóng chuyền, bóng đá, bóng rổ đều không có chân cho cậu ấy. Ở vào độ tuổi đó, bọn con trai thường thích tỏ ra khác người, thích tỏ ra lạnh lùng, thỉnh thoảng lại chửi thề vài câu, nhưng Trần Kình do được sự giáo dục quá tốt từ gia đình, ngày nào cũng ăn mặc chỉnh tề, mặt mũi tay chân lúc nào cũng sạch sẽ, ăn nói cũng chỉn chu, thậm chí cậu ấy còn dùng khăn tay.
Khi Hiểu Phi nói đến câu: “Trần Kình lại còn mang theo khăn tay bên người”, vẻ mặt cô ấy hết sức ngạc nhiên. Nhìn bộ dạng trầm ngâm của Hiểu Phi, tôi nghĩ nếu tôi nói với cô ấy rằng, năm đó gần như toàn bộ các bạn gái trong lớp tôi đều thích Trần Kình, liệu cô ấy có bất ngờ quá mà ngất đi không? Mỗi lần bị phạt đứng, tôi lại nhìn thấy Trần Kình. Mỗi khi đến giờ hoạt động tự do trong ngày, cậu ấy đều ra chơi bóng bàn, tôi nghĩ tôi có thể hiểu được vì sao cậu ấy chỉ chơi bóng bàn, nhưng tôi không hiểu, cái gì đã khiến vầng hào quang thần đồng biến mất? Điều gì đã khiến cậu ấy không còn nổi bật hơn người nữa? Lẽ nào lại có một Phương Trọng Vĩnh(1) nữa sao? Có điều, tò mò thì tò mò, mặc dù tôi buồn chán chẳng có việc gì làm, nhưng cũng không đến nỗi chạy tới trước mặt Trần Kình để hỏi nguyên nhân, huống hồ đã gần ba năm rồi, ai biết liệu cậu ấy có còn nhận ra tôi nữa hay không? Tôi coi việc bị phạt đứng là cơ hội để ngắm cảnh, điều này khiến thầy Chậu Của Cải phát khùng. Vào một ngày, khi bắt được một lỗi nhỏ của tôi, thầy đã tung ra chiêu thức bảo mật cuối cùng. Thầy yêu cầu tôi phải trèo lên, đứng giữa bàn bóng bàn ở ngay dưới tòa nhà trường cấp hai để suy nghĩ, bao giờ nghĩ thông rồi, đến gặp thầy nói lời xin lỗi, thì lúc ấy mới được quay về lớp. Lần này, coi như thầy đã đánh trúng điểm yếu của tôi, đứng trên bàn bóng bàn không đáng sợ, đáng sợ là sau khi tôi đứng trên đó, Trương Tuấn và Quan Hà đều nhìn thấy. Nhưng, ai bảo thầy Chậu Của Cải là thầy giáo, tôi là học sinh chứ? Còn tôi ngang bướng tới mức thà chết, chứ quyết không nhận sai. Vì vậy, tôi đành phải đứng lên bàn bóng bàn. Ngày đầu tiên, khi toàn bộ học sinh nhìn thấy một nữ sinh mặc áo khoác màu đỏ chạy thể dục buổi sáng xong, trèo lên bàn bóng bàn, đứng ra giữa bàn, họ đều hết sức sửng sốt, ban đầu còn nghĩ tôi đùa, mọi người chỉ cười cười đứng nhìn, sau đó thấy chuông reo vào lớp rồi mà tôi vẫn không nhúc nhích, thì tất cả bọn họ đều nghệt mặt ra. Ngày hôm đó, cả tòa nhà của trường cấp hai, từ cửa sổ tầng một cho đến tầng ba, lố nhố rất nhiều đầu người. Tôi biết, trong đám người đang nhìn tôi kia, nhất định là có Trương Tuấn và Quan Hà, vì vậy, mặc dù trong lòng xấu hổ, buồn bực muốn chết, nhưng bề ngoài vẫn tỏ ra như không có chuyện gì, ép mình phải cười. Tôi mỉm cười đứng trên bàn bóng bàn, mặc người ta nhìn ngó chỉ trỏ, chỉ thiếu điều nhỏ nhẹ nói: “Cảm ơn đã đến tham quan, hãy bảo vệ môi trường, xin đừng sờ vào hiện vật để chụp ảnh.” Nghe nói thầy cô giáo ở các phòng ban đều chấn động, ra xem rút cục là thần thánh phương nào mà có thể đứng lừng lững, kiêu ngạo như tượng Lưu Hồ Lan(2) trong trường thế. Ngày nào chạy thể dục buổi sáng xong, tôi cũng ra đấy đứng, đứng cho tới tận buổi chiều, khi tan học.
Ngày đầu tiên, tất cả mọi người đều dừng việc chơi bóng bàn lại khi đi ngang qua tôi, có người thì nhìn với ánh mắt hiếu kỳ, có người lại không dám nhìn kỹ vì ngại, tôi nổi bật trên bàn bóng bàn rộng thênh thang. Ngày thứ hai, Trần Kình tay cầm vợt bóng bàn xuất hiện, đứng ở bàn bóng bên cạnh nhìn tôi một lát, rồi bắt đầu luyện phát bóng, hoàn toàn coi tôi như cột xi măng. Cũng vì Trần Kình, dần dần bắt đầu có người lại chơi bóng bàn, sân vận động nhỏ cũng huyên náo trở lại như ngày thường, trừ bàn bóng bàn ở giữa nơi tôi đang đứng trên đó. Khi ấy tôi vừa hận tới mức ước gì giết được cậu ấy, lại vừa cảm kích muốn nói lời cảm ơn. Hận cậu ấy, là vì xung quanh mọi người đều tập trung chơi bóng bàn, chỉ có một mình tôi đứng cao chới với ở trên cùng, khiến tôi trông càng quái dị. Cảm kích là bởi vì sân vận động này trở lại hoạt động bình thường, mọi người bận chơi bóng, cho dù có nhìn tôi, thì cũng chỉ hờ hững lướt qua mà thôi. Ngày thứ ba, tin tức lan truyền đến trường cấp ba, Tiểu Ba nghe tin tới tìm tôi, đứng từ rất xa, nhìn tôi chăm chăm. Tôi vừa ngẩng đầu thì nhìn thấy Tiểu Ba, anh ấy lập tức quay người bỏ đi. Tôi thầm cảm kích trong lòng, bởi vì nụ cười của tôi chỉ có thể diễn cho người ngoài xem, trước mặt người quen, sự kiên cường giả tạo của tôi rất yếu đuối. Trong giờ nghỉ giải lao, Hiểu Phi mang cho tôi mười xiên thịt dê nướng nóng hổi, cười hi hi nói: “Này, thịt dê nướng cậu thích ăn nhất, anh Tiểu Ba mua cho cậu đấy.” Tôi không khách sáo, cầm lấy ăn. Khi ăn tới xiên thứ sáu, thầy Chậu Của Cải đứng trước cửa sổ lớp, tức giận gào lên: “La Kỳ Kỳ!” Tôi lập tức nhét mấy xiên thịt dê còn lại vào tay Hiểu Phi, quệt quệt miệng, nghiêm trang đứng thẳng. Tất cả mọi người ở sân vận động nhìn tôi, rồi lại quay sang nhìn thầy Chậu Của Cải, muốn cười mà không dám cười. Ngày thứ tư, tôi vô tình liếc thấy Quan Hà trong đám đông, tôi càng ra sức cười tươi hơn, chỉ sợ người ta cho rằng tôi không vui, thật chỉ thiếu nước giơ cao hai tay, trong tay cầm tấm biển: “Bị phạt đứng không mất mặt”, nhưng trong lòng tôi lúc ấy buồn tê tái, trống rỗng, ước gì mình bị nuốt chửng trong hố đen của vũ trụ. Cũng may, không nhìn thấy Trương Tuấn lần nào, nếu không tôi cũng không dám chắc liệu sự kiên cường giả tạo của mình có bị bóc mẽ trước cả sân vận động hay không nữa. Ngày thứ năm, tôi lại một lần nữa hoàn thành quá trình tiến hóa và thăng cấp của sinh vật, đứng trên bàn bóng bàn mà hết sức thư thái, nhẹ nhàng, vui vẻ. Giờ nghỉ giải lao, đám con trai lớp trên sẽ đến trêu đùa tôi, nói chuyện với tôi. Giờ sinh hoạt tự do, những người chơi bóng bàn ở bàn bên cạnh sẽ nhờ tôi tiện thể làm trọng tài giúp họ luôn, dù gì tôi cũng đứng cao như thế, đường bóng nào tôi chẳng nhìn rõ. Dù sao đứng thì cũng đứng rồi, tôi cũng phải trò chuyện, làm trọng tài, sống cho qua ngày chứ. Chuyện này, trở thành tin tức nóng hổi nhất ngày đó, từ trường cấp hai đến trường cấp ba, tất cả mọi người ai cũng biết một nữ sinh lớp 7 bị thầy chủ nhiệm phạt đứng trên bàn bóng bàn, và đã đứng liên tục suốt một tuần. Sau đó, đến ngay cả thầy hiệu trưởng chẳng
mấy khi quan tâm tới trường cấp hai cũng bị làm cho kinh động, cất công đến thăm tôi, khéo léo nói với thầy Chậu Của Cải, cảm hóa giáo dục là chính, rõ ràng ý của thầy là không tán thành cách giáo dục đày đọa về mặt thể xác trắng trợn như thế, mặc dù sự trừng phạt về mặt thể xác ở một mức độ thích hợp vẫn được giáo viên và phụ huynh cho phép. Thế là, vào ngày thứ bảy, tôi được thầy Chậu Của Cải tha bổng, cho phép quay về lớp học. Mặc dù thầy Chậu Của Cải nghiêm mặt răn đe tôi một bài trước lớp, nói là vì không muốn làm ảnh hưởng tới việc học của tôi nên mới cho tôi quay lại lớp nhưng cả tôi và thầy đều biết, từ đầu đến cuối tôi không hề nhận lỗi với thầy, cũng không thừa nhận mình sai, cuộc chiến giữa tôi và thầy, kết thúc với kết quả: Tôi thắng, thầy thua. Làm người huấn luyện ngựa, thầy rất thất bại, bởi vì thầy đã không thuần hóa được tính hoang dã của con ngựa là tôi đây, mà còn kích thích phát triển rất nhiều tiềm năng tiềm ẩn của tôi, thầy đã nếm mùi thất bại trong bài học giáo dục tôi. Nhưng đối với tôi mà nói, thầy đúng là một thầy giáo giỏi! Sự sỉ nhục của thầy đối với tôi bắt đầu từ việc bắt tôi ngồi giữa “bãi rác”, rồi từng bước từng bước phát triển, cho tới khi bắt tôi phải đứng trên bàn bóng bàn, trước con mắt của hàng nghìn người, mà trong hàng nghìn người ấy còn có hai người, một người là Trương Tuấn, một người là Quan Hà. Trải qua chuyện này rồi, tôi không nghĩ ra trên thế giới này còn có chuyện nào mất mặt hơn thế nữa không. Có không? Không có! Vì vậy, tính cách lanh lợi, dũng cảm, không biết sợ gì của tôi cuối cùng cũng đã gặt hái được nhiều thành công tốt đẹp! Ngày đó, có một câu mắng chửi phổ biến thế này: “Da mặt dày hơn cả chỗ uốn cong của tường thành”. Tôi cảm thấy câu này nếu dùng để nói về tôi thì không còn gì thích hợp hơn, tuyệt đối không phải là mắng tôi, da mặt tôi đúng là rất dày, nhưng không dày như chỗ uốn cong của tường thành bình thường, mà là như chỗ uốn cong của Trường Thành(3). Khi thầy Chậu Của Cải thả tôi về lớp, cũng có thể thầy đã cảm thấy lo lắng và bực tức, nhưng sau đó thầy nhận ra ngay, tôi giống như một con nhím, người khác không trêu chọc tôi thì tôi sẽ không xù đám lông nhọn lên, không những không xù lông, mà còn lặng lẽ, trầm mặc như không tồn tại. Chuyện giữa tôi và thầy Chậu Của Cải dần dần cũng yên ổn, thầy không để ý đến tôi nữa, coi như tôi không tồn tại, tôi cũng không gây phiền hà gì cho thầy, dù trong giờ có đọc tiểu thuyết thì cũng giấu truyện dưới gầm bàn, bên ngoài vẫn tỏ ra tôn trọng thầy. Có điều, sau trận chiến với thầy Chậu Của Cải, tôi rất ghét thầy. Hễ đến giờ tiếng Anh, vừa nhìn thấy mặt thầy là tôi không muốn nghe giảng nữa, bình thường tôi cũng không thích đọc sách tiếng Anh, do đó môn tiếng Anh của tôi không tránh khỏi bị ảnh hưởng, thành tích trượt dốc không phanh, nhưng vì ngoài tiếng Anh còn có rất nhiều môn học khác, nên điểm tổng kết cũng không đến nỗi quá tệ.
Hiểu Phi lại ngưỡng mộ tôi vô cùng, còn tôi thì nghi ngờ về cấu tạo bộ não của cô ấy, tôi không hiểu mình có gì đáng để cô ấy phải ngưỡng mộ? Hiểu Phi nói: “Vì trông cậu rất ngầu! Cậu mặc áo khoác màu đỏ, đội mũ màu trắng, miệng mỉm cười đứng trên bàn bóng bàn màu xám, vẻ mặt thản nhiên, rõ ràng là ngầu vô cùng! Cậu biết không, ngay cả Vương Chinh cũng chạy ra cửa sổ để nhìn cậu, mình còn hãnh diện đến mức nói cậu là bạn mình đấy.” Tôi chỉ còn biết cười bất lực, thực ra trong lòng tôi, người ngầu chính là cô ấy. Còn tôi chỉ là vờ ngầu thôi, cô ấy mới là ngầu thật. Tôi dùng nụ cười và vẻ mặt thản nhiên để che đậy sự yếu đuối của mình, tất cả những gì tôi thể hiện ra ngoài đều là giả tạo; còn cô ấy khi vui, thì sảng khoái cười lớn, khi buồn lại có thể bật khóc ngon lành, cô ấy dũng cảm dám sống thật với chính mình. Vào một buổi chiều, Hiểu Phi kể cho tôi nghe là Vương Chinh dạy cô ấy chơi trống, hào hứng tới mức, giữa hành lang, cô ấy ngồi xổm mô phỏng lại tư thế và động tác đánh trống cho tôi xem. Cô ấy nhắm hờ mắt, tay phải, tay trái vờ như cầm dùi trống, say sưa, tay trái gõ một cái, tay phải gõ một cái, cơ thể phối hợp nghiêng trước ngửa sau, tất cả những học sinh đi ngang qua đều nghệt mặt ra. Trong mắt họ, Cát Hiểu Phi có lẽ bị phát bệnh thần kinh, vừa gõ vừa đánh vào không khí. Nếu là tôi, chắc chắn tôi không dám để người khác thấy thần kinh mình có vấn đề vì một người con trai, nhưng Hiểu Phi chẳng để ý, bởi vì cô ấy thích, nên cô ấy làm, cô ấy hoàn toàn không biết trên đời này còn có một việc nữa phải làm là quan tâm xem người khác nghĩ gì, cô ấy nghe theo sự mách bảo của trái tim, nhiệt tình sống hết mình, như thế mới đúng là ngầu thật sự!
2. Hội diễn văn nghệ Trưởng thành, giống như tham gia một cuộc thi chạy. Nhìn người khác chạy nhanh hơn mình cũng chưa chắc đã cảm thấy sốt sắng, âu sầu, chỉ khi thấy người chạy trên cùng đường đua dần dần vượt mình, mới bắt đầu lo lắng, buồn bã. Có thể bạn không bao giờ nhớ đến những người bị rớt lại phía sau, nhưng bạn mãi mãi ghi nhớ hình ảnh người chạy ngay phía trước mình. Sự trưởng thành cuối cùng cũng được ngọn lửa thời gian tôi luyện, trở nên mạnh mẽ hơn. Đến ngã tư, có thể các bạn sẽ vẫy tay chào nhau, có thể đến cái vẫy tay tạm biệt cũng không có, mỗi người rẽ sang một con đường khác, bạn thở phào, cho rằng cuộc thi đã kết thúc, nhưng không biết rằng, bạn đã lại đứng trên một đường chạy khác, một cuộc thi mới đã bắt đầu. Bạn tự hỏi, sao mãi không kết thúc? Lúc nào mình mới có thể nghỉ ngơi? Không bao giờ! Bởi vì đấy chính là cuộc sống. Trên ti vi đang chiếu một bộ phim hot: Mùa hoa tuổi mười sáu. Trong phim đó có một cô gái rất xinh đẹp tên Trần Phi Nhi, mọi người đều nói Hiểu Phi giống hệt Phi Nhi, hơn nữa tên của cả hai đều có chữ “Phi”, vì vậy các bạn bắt đầu thân mật gọi Hiểu Phi là Phi Nhi.
Cùng với độ hot của Mùa hoa tuổi mười sáu, danh tiếng của Hiểu Phi cũng ngày một vang xa. Rất nhiều con trai lớp trên và con trai trường khác đến để nhìn Hiểu Phi, gửi giấy cho cô ấy, hẹn cô ấy đi chơi. Hiểu Phi trở thành người tình trong mộng của rất nhiều bạn nam. Nếu là người khác, chắc chắn sẽ cảm thấy vô cùng tự hào, nhưng Hiểu Phi lại tỏ ra không vui, lệnh cho tôi không được gọi cô ấy là Phi Nhi. Cô ấy chẳng buồn quan tâm xem những ai đang thích mình. Cô ấy chỉ quan tâm đến việc gần đây Vương Chinh làm những gì, có bạn nữ nào dám tiếp cận người của cô ấy hay không thôi. Thật ra, cho đến tận bây giờ, tôi cũng chưa từng một lần nhìn rõ mặt mũi Vương Chinh như thế nào, có điều hằng năm, mỗi khi học kỳ hai chuẩn bị kết thúc đều có hội diễn văn nghệ, chắc chắn sẽ nhìn thấy Vương Chinh. Dù sao cũng phải chiêm ngưỡng một chút tay trống đã chinh phục không biết bao nhiêu trái tim thiếu nữ này xem tướng mạo anh ta ra sao mới được. Hội diễn văn nghệ là sự kiện hết sức có ý nghĩa, hình dung một cách đơn giản thì đây chính là cơ hội để nam thanh nữ tú của các lớp, các khối đua tài khoe sắc. Tiết mục văn nghệ của lớp tôi do Lâm Lam phụ trách, tài năng của cô ấy khiến người ta không thể không ngưỡng mộ. Một mình cô ấy phụ trách từ khâu biên đạo đến thiết kế trang phục, thế mà cũng đạo diễn được hai bài vũ đạo. Chuyện buồn cười nhất là, bài vũ đạo đầu tiên cô ấy có thể mượn được trang phục có sẵn, nhưng điệu múa Thái(4) thứ hai lại không thể tìm ra trang phục có sẵn, nếu đặt làm, thì phải tốn một khoản tiền không nhỏ. Thầy Chậu Của Cải lo lắng tới phát sốt, nhưng không tìm ra cách nào, Lâm Lam sau cả một ngày quan sát lá cờ của trường, nhanh trí nghĩ ra một cách, liền nhờ thầy Chậu Của Cải mượn những lá cờ đầy màu sắc đó (Trong trường, mỗi khi có hoạt động gì, ngoài việc kéo cờ, còn cắm những lá cờ nhiều sắc màu dọc hai bên đường đi). Lâm Lam quấn lá cờ lên người từng thành viên trong đội múa, sau đó dùng kim chỉ cố định lại, phần trên mặc kèm với chiếc áo gi lê nhỏ cô ấy mượn được, tóc rẽ lệch sang một bên, cài thêm bông hoa đỏ. Dưới ánh đèn rực rỡ, đứng nhìn từ xa, giống hệt những thiếu nữ dân tộc Thái. Không hiểu Lâm Lam có ý gì, mặc dù biết tiểu não của tôi không phát triển vẫn mời tôi tham gia đội múa. Tôi khéo léo từ chối, nhưng tôi đồng ý làm trợ lý cho cô ấy. Tôi thích nhìn họ múa, một nhóm thiếu nữ cao ráo, xinh đẹp, thướt tha trong điệu múa, rất duyên dáng, đẹp tới rung động lòng người. Vừa hết giờ, tôi liền giúp Lâm Lam kéo hết bàn ghế sang hai bên, để tạo khoảng trống ở giữa cho các bạn tập múa. Trong lúc họ tập múa, tôi ngồi trên bục giảng, giúp họ để ý bên ngoài, đề phòng người của lớp khác đến ngó trộm. Trong tiết mục biểu diễn của lớp 7 (2), Hiểu Phi có tham gia, cụ thể là họ biểu diễn cái gì thì tôi không biết, đấy đều là điều bí mật của mỗi lớp, tôi không có ý định làm kẻ phản đồ và Hiểu Phi cũng không định làm kẻ phản đồ, vì vậy chúng tôi việc ai người ấy làm. Sau khi vất vả hơn nửa học kỳ, hội diễn văn nghệ đua tài khoe sắc mà những cô bạn xinh đẹp mong chờ cuối cùng cũng đến, hai tiết mục múa của lớp chúng tôi đều do một nhóm
thể hiện, nên khi hóa trang, thay quần áo đều rất gấp gáp. Do đó tôi giúp các bạn nữ xinh đẹp trong đội múa cầm áo khoác và hộp trang điểm, một vai a hoàn điển hình. Thứ tự biểu diễn được quyết định bởi kết quả rút thăm, tiết mục thứ nhất của chúng tôi biểu diễn khá sớm, số thứ tự của tiết mục thứ hai rất đẹp. Có điều tiết mục mà Hiểu Phi tham gia thì khá thảm, lại là tiết mục biểu diễn mở màn. Do tôi luôn phải đi theo đội múa và Lâm Lam, giúp cầm quần áo và đồ trang điểm nên không thể ngồi dưới hàng ghế khán giả chuyên tâm xem biểu diễn. Tiết mục của Hiểu Phi tôi chỉ xem được một nửa, các bạn ấy múa khá đẹp, nhưng trang phục không đặc sắc, dưới ánh đèn sân khấu, không tạo được sắc thái biểu cảm cho khán giả. Rất rõ ràng rằng, những bạn gái đang biểu diễn kia có năng khiếu, nhưng lại thiếu kinh nghiệm đứng trên sân khấu. Tiết mục múa đầu tiên của lớp tôi, Thiên nữ rắc hoa, biên đạo múa và trang phục rất phù hợp, nhưng trong khi múa có một bạn nữ làm rơi làn hoa, bị trừ kha khá điểm. Lâm Lam mặc dù trong lòng không vui, nhưng ngoài mặt không để lộ ra bất kỳ điều gì, ngược lại còn không ngớt an ủi bạn gái ấy: “Không sao đâu, mọi người không trách cậu, cậu đã cố gắng hết sức rồi.” Lý Tân sầm mặt, trừng mắt lườm bạn gái đó mấy lần. Tôi đứng xem bên cạnh, trong lòng cũng thấy khá phục Lâm Lam. Ở những lớp khác, đều do giáo viên chủ nhiệm đứng ra dàn dựng, thậm chí còn phải nhờ đến mối quan hệ cá nhân để mời dân múa chuyên nghiệp dàn dựng giúp các tiết mục, nhưng thầy Chậu Của Cải vừa tốt nghiệp đại học, mới được phân công về thành phố chúng tôi công tác, chẳng có mối quan hệ nào đáng kể, tất cả đều phải dựa vào Lâm Lam. Mấy cô bạn trong đội múa, từ những động tác nhỏ đến quần áo, đầu tóc chải thế nào cũng đều do Lâm Lam thiết kế, còn phải điều hòa mối quan hệ của cả đội, thật không đơn giản chút nào! Những lúc họ thay trang phục, tôi rất nhàn, cầm tờ giới thiệu chương trình lên xem, tiết mục của lớp 7 (5) khá đơn giản, một tiết mục hát tam ca, một tiết mục độc tấu. Tiết mục độc tấu sắp diễn. Thấy tiết mục độc tấu, tôi cảm thấy vô cùng hào hứng, không quan tâm đến việc phải chuẩn bị tiết mục tiếp theo cho lớp mình, nhờ Nghê Khanh và những bạn khác giúp, tôi chạy ra trước sân khấu để xem. Quả nhiên là Quan Hà. Cô ấy mặc một chiếc váy voan tím giản dị, lúc bước đi, tà váy khẽ lật bay, giống như gió thổi lá sen. Cô ấy cúi người chào khán giả, ngồi xuống ghế, trang điểm nhẹ nhàng, nhưng thanh thoát, cao sang như đóa hoa sen giữa đầm nước. Người dẫn chương trình nói: “Tiếp theo là tiết mục của lớp 7 (5), độc tấu đàn nhị bài Đua ngựa, người biểu diễn Quan Hà.” Khi ánh đèn sân khấu tối dần, ánh sáng chỉ tập trung vào một mình Quan Hà, cô ấy bắt đầu kéo đàn. Mở màn là tiết tấu nhanh của hàng vạn tiếng vó ngựa phi nước đại, cả hội trường như biến thành thảo nguyên bao la, ngựa mặc sức rong ruổi. Đến giữa tiết mục, cô ấy gảy đàn bằng ngón tay, mô phỏng tiếng vó ngựa, rõ ràng kỹ thuật đàn rất điêu luyện, khiến một nữ giám khảo đặc biệt thuộc đoàn văn nghệ thành phố được trường mời đến tỏ ra rất xúc động.
Khúc nhạc tấu xong, tiếng vỗ tay vang lên như sấm, đám nam sinh lớp 7 (5) hét lớn gọi tên cô ấy, Quan Hà điềm đạm mỉm cười, sau khi cúi người chào khán giả, lập tức đi vào trong cánh gà. Giáo viên âm nhạc của trường cấp hai và nữ nghệ sĩ giám khảo kia cho Quan Hà điểm gần tuyệt đối. Tôi nghe thấy tiếng huýt sáo bên cánh gà, rất ngạc nhiên, ban giám hiệu đều ngồi phía dưới, ai mà to gan đến vậy nhỉ? Vì tôi không ngồi ở dưới hàng ghế khán giả mà đứng ở bên cạnh sân khấu, nên nhìn rất rõ những gì diễn ra sau cánh gà. Một thiếu niên anh tuấn mặc chiếc áo dài Mông Cổ, đội mũ Mông Cổ, miệng tươi cười, ngón tay cái và ngón trỏ đặt trong miệng, huýt sáo chúc mừng Quan Hà. Chính là Trương Tuấn! Khi đi ngang qua cậu ấy, Quan Hà hơi cúi đầu xuống, tỏ ý cảm ơn. Tôi có cảm giác trái tim mình như bị vùi xuống hố băng trong những ngày đông giá lạnh nhất. Tôi và Trương Tuấn đã trở thành hai người xa lạ. Sau khi vào cấp hai, Trương Tuấn cũng rất ít chơi với các bạn nam cùng khối, chứ đừng nói gì đến các bạn nữ, nhưng cậu ấy rõ ràng vẫn cư xử rất đặc biệt với Quan Hà. Tiết mục biểu diễn của lớp 7 (8) là một điệu múa Mông Cổ, tôi không ngờ Trương Tuấn cũng tham gia, nhưng nghĩ lại, thì cũng có gì kỳ lạ lắm đâu nhỉ? Hội diễn văn nghệ vốn là trò chơi của đám nam thanh nữ tú, Trương Tuấn giờ được đám nữ sinh bình chọn là một trong những nam sinh đẹp trai nhất khối bảy, từ lâu đã không còn là cậu bạn đầu nhím xù năm xưa của tôi nữa, năng khiếu thể thao của cậu ấy vốn đã rất nổi trội. Muốn bỏ đi, nhưng lại muốn xem. Muốn xem, nhưng lại muốn bỏ đi. Trong lúc đang do dự, bốn nam thanh và bốn nữ tú của lớp 7 (8), đã vẫy tay chào khán giả đi lên sân khấu. Trong lời ca bằng tiếng Mông Cổ, họ vừa hát vừa múa. Con trai thì mạnh mẽ, con gái thì nồng nàn. Tôi chưa bao giờ nghĩ Trương Tuấn lại có năng khiếu văn nghệ, cậu ấy thậm chí còn là người múa dẫn cho đám con trai trong đội, nhảy đôi với một bạn nữ xinh đẹp trên tóc có những chuỗi ngọc trai nhỏ, lúc thì là tuấn mã phi nước đại trên thảo nguyên bao la, khi thì lại là chim đại bàng sải cánh trên bầu trời xanh rộng lớn. Trương Tuấn ngồi xổm xuống, cả người nghiêng về phía trước, hai chân liên tục đổi cho chau, mô phỏng tư thế ngựa phi nước đại, lao về phía trước. Tôi thấy cậu ấy sắp chạy tới gần chỗ tôi đứng, liền quay người bỏ đi, vội vàng nhảy lên góc sân khấu, vén rèm lên, đi ra phía sau cánh gà tìm nhóm Lâm Lam. Lâm Lam nhìn thấy tôi, lập tức hỏi: “Cậu có xem được tiết mục múa Mông Cổ của lớp 7 (8) không? Họ múa thế nào?” Tôi khẽ cười: “Cũng bình thường, tiết mục của bọn mình vẫn hay hơn, chưa nói đến chuyện có được giải thưởng hay không, xem trời nóng thế này mà mặc áo choàng thì khiếp thế nào rồi đấy.”
Lâm Lam cười: “Nghe nói người biên đạo múa của lớp 7 (8) Đồng Vân Châu, là người Mông Cổ, múa Mông Cổ rất đẹp, nếu như chưa đến lượt biểu diễn, mình rất muốn ra xem họ múa thế nào.” Nghê Khanh hấp ta hấp tấp chạy về, thở hổn hển nói: “Trời ơi, đẹp quá, Trương Tuấn đẹp trai chết đi được! Đồng Vân Châu quả không hổ là người Mông Cổ, múa còn đẹp hơn trên ti vi.” Lâm Lam liếc mắt nhìn Nghê Khanh một cái, vờ như không nghe thấy, giục mấy bạn nữ trong đội kiểm tra lại phục trang và diện mạo lần cuối. Nghê Khanh vẫn chưa hiểu ý, lại chạy theo về phía Lâm Lam, nhưng Lâm Lam không buồn quan tâm tới cậu ta. Khi tiết mục múa Thái của chúng tôi biểu diễn, tôi và Nghê Khanh ra đứng trước sân khấu để xem. Tiết mục của lớp 7 (5) và 7 (8) tương đối sôi nổi. Trước đó, hai lớp này nhảy hiện đại, khán giả cũng bị choáng ngợp theo, khiến tiết mục Bình minh đất Thái của lớp chúng tôi cũng chiếm được vài phần thiên thời địa lợi. Tiếng nhạc tươi trẻ nhẹ nhàng, những cô gái duyên dáng thướt tha, tiếng chim hót trong không gian rừng núi, tiếng nước suối chảy róc rách bên rừng trúc, khiến tâm trạng mọi người đều thay đổi. Dưới ánh đèn sân khấu, những chiếc váy màu sắc rực rỡ trên người những cô bạn gái xinh đẹp lớp tôi, nếu không nói ra, thì chắc chắn không ai nghĩ đó là những lá cờ. Khi họ sắp múa xong, tôi và Nghê Khanh quay lại cánh gà, cầm quần áo đợi họ đi vào. Lâm Lam không kịp thay quần áo, khoác tay tôi kéo ra đứng trước cánh gà, đợi nghe kết quả. Thầy hiệu trưởng và giáo viên âm nhạc của khoa đều cho điểm số rất cao, hai vị giám khảo còn lại cho điểm cũng không thấp, chỉ có nữ nghệ sĩ của đoàn văn nghệ thành phố là cho điểm thấp nhất. Lâm Lam giậm chân, kêu lên: “Mẹ mình cũng thật quá đáng!” Tôi kinh ngạc: “Là mẹ cậu à?” Chẳng trách Lâm Lam lại có năng khiếu như thế, thì ra là con nhà nòi. “Ừ!” Tôi an ủi cô ấy: “Không sao, những giám khảo khác đều cho điểm rất cao, chắc chắn đạt giải thôi. Mẹ cậu làm như vậy là muốn chứng minh, những gì cậu đạt được là dựa vào bản thân mình, không liên quan gì đến mẹ cả.” Lâm Lam cười, cuối cùng cũng vui vẻ. Sau đó biểu diễn những gì, tôi chẳng còn tâm trạng để xem nữa, đến khi nhớ ra Vương Chinh, vội chạy đi hỏi, kết quả người ta nói với tôi rằng năm nay Vương Chinh không thể đại diện cho lớp lên biểu diễn, bởi vì lúc tổng duyệt, thầy hiệu trưởng không thích tiết mục của cậu ấy, nói chủ đề không lành mạnh, nên bị loại. Kết quả cuộc thi được công bố, giải nhất của khối bảy thuộc về tiết mục độc tấu đàn nhị của Quan Hà, giải nhì thuộc về điệu múa Mông Cổ của lớp 7 (8) và múa Thái của lớp tôi, tiết mục lớp 7 (2) không được giải, Hiểu Phi hơi buồn, có điều còn tỏ ra bất bình thay Vương Chinh nhiều hơn, mắng thầy hiệu trưởng là không có con mắt tinh đời.
Tàn cuộc, đám bạn đi xung quanh vẫn còn bàn tán về hội diễn văn nghệ vừa kết thúc, đám con gái thì nói về Trương Tuấn, đám con trai thì nói về Quan Hà. Tôi chợt hoang mang, trước mắt hiện lên hình ảnh của Quan Hà và Trương Tuấn đan xen vào nhau, người con gái tao nhã duyên dáng, người con trai mạnh mẽ anh tuấn. Tôi bắt đầu cảm thấy khoảng cách giữa tôi và họ ngày một xa. Họ như ánh đèn càng cháy càng sáng, ánh hào quang càng lúc càng thu hút mọi người, còn tôi không những không có chút hào quang nào, ngược lại còn bướng bỉnh, bất kham, tiếng xấu đồn xa. Sau khi nhìn rõ khoảng cách giữa chúng tôi, tôi thấy hơi đau lòng, bất mãn với sự sắp đặt của số phận, và nhiều hơn cả là không thể nào chấp nhận được sự thật ấy. Có lẽ trong lòng sớm đã hiểu được bản thân mình vốn không có gì xuất sắc, là người chỉ nên đứng từ xa mà nhìn về phía ánh hào quang của người khác, dù có ngưỡng mộ đến đâu, tôi cũng không thể trở thành họ. Hội diễn văn nghệ kết thúc không lâu, danh sách nhân sự của Hội học sinh có thay đổi, Thẩm Viễn Triết trở thành Hội trưởng Hội học sinh trong nhiệm kỳ mới. Là lớp trưởng của lớp 7 (6), dưới sự dẫn dắt của cậu ấy, lớp 7 (6) trở thành lớp có phong trào tốt nhất trong năm, danh tiếng của cậu ấy sớm đã lan xa, ai ai cũng biết, cậu ấy nhận chức Hội trưởng Hội học sinh, coi như thỏa nguyện mong ước của tất mọi người. Thời gian trôi đi, đám học sinh mới chúng tôi từ chỗ chỉ biết ngưỡng vọng những lời đồn thổi về các anh chị khóa trên, không biết từ khi nào, chính mình đã trở thành nhân vật chính trong những lời đồn thổi ấy. Sau danh hiệu “Song Ba” của Hiểu Phi và Quan Hà, danh hiệu “Song Vương” cũng được đề cử. Bạch mã hoàng tử là Thẩm Viễn Triết, tướng mạo tao nhã, học giỏi, tốt bụng, lương thiện, nhiệt tình giúp đỡ người khác, quan hệ với bạn bè và thầy giáo rất tốt, lại có nụ cười ấm áp như ánh mặt trời, nữ sinh thích cậu ấy rất nhiều, nhưng cậu ấy không có tin đồn với bất kỳ ai, đối xử với tất cả các bạn nữ đều bình đẳng như nhau. Sự lương thiện và ôn hòa của cậu ấy khiến những nữ sinh bị từ chối khi tỏ tình cũng không có cảm giác tổn thương, ngược lại còn coi cậu ấy là bạn. Hắc mã hoàng tử là Trương Tuấn, tướng mạo anh tuấn, học hành bình thường, trầm lặng ít lời, không có tinh thần tập thể, cũng không đoàn kết gắn bó với bạn bè, chưa bao giờ giúp ai, nhưng cũng không bắt nạt ai. Nữ sinh thích cậu ấy nhiều và rất phức tạp, có cả các chị lớp trên, có cả nữ sinh ở trường kỹ thuật, rồi cả những cô bé ít tuổi hơn. Lời đồn đại về cậu ấy cũng không ít, nhưng do cậu ấy không chơi với nữ sinh cùng khối, nên không có lời đồn đại nào từ phía họ, cũng chưa từng nghe nói có bạn gái nào ở khối bảy tỏ tình với cậu ấy, ngược lại, chỉ nghe thấy các chị khối trên vì yêu cậu ấy mà sinh hận, tìm người đến đánh cậu ấy, còn rút cục là có đánh hay không thì không ai biết.
3. Học sinh lưu ban lớn tuổi Vết thương đau đớn nhất trên thế gian là vết thương không rỉ máu, không có thuốc hay, cũng không bao giờ chữa được, cho dù có bình phục cũng giống như bóng trăng trên mặt nước, nhìn thì tưởng yên bình, nhưng mỗi khi gió thổi qua, sẽ bị nhăn nheo cùng những vết nứt nhỏ, âm thầm đau đớn.
Thi cuối kỳ kết thúc, thành tích của mọi người không có nhiều biến động, Trần Tùng Thanh vẫn dẫn đầu lớp tôi, Lâm Lam đứng thứ hai; lớp 7 (2) Hiểu Phi đứng nhất lớp; lớp 7 (5) là Quan Hà. Tôi và Trương Tuấn vẫn loanh quanh ở vị trí hai mươi mấy trong lớp. Nghỉ hè, kỳ nghỉ yêu thích của tôi. Tôi thường trốn đến quán karaoke ngồi trên ghế sofa, vừa đọc sách vừa ăn vặt, nhàn nhã hơn thần tiên. Tiểu Ba giờ không còn như trước kia nữa, bao giờ chơi bida thắng mới mời tôi uống nước, giờ bất kể là lúc nào, trên bàn bên cạnh ghế sofa cũng bày đầy đồ uống và đồ ăn vặt, tôi muốn ăn bao nhiêu thì ăn. Tôi chưa bao giờ khách sáo với anh ấy, thỉnh thoảng nhớ đến vấn đề kinh tế, cũng tỏ ra lương tâm cắn rứt hỏi thăm một chút: “Hay là để em trả tiền? Mẹ em cũng cho kha khá tiền tiêu vặt.” Tiểu Ba cười: “Em ăn được bao nhiêu? Chút đồ vặt này anh vẫn mời em được.” Miệng ngậm kẹo, tôi vô tư hỏi: “Mẹ anh vẫn may găng tay à?” Anh ấy cũng trả lời rất thản nhiên: “Ừ, có việc để bận rộn, mẹ anh sẽ quên hết những chuyện không vui trước kia.” Ô Tặc nghe chúng tôi nói chuyện, không hiểu gì cả, bô lô ba la chen vào: “Nhưng giờ cậu đã có thể tự nuôi mình rồi, sao vẫn để mẹ cậu phải vất vả kiếm tiền như thế? Mẹ cậu may găng tay cả ngày cũng chẳng đủ hát karaoke một lần.” Tiểu Ba và tôi đều nhìn Ô Tặc cười, con người này sống thật đơn giản, hạnh phúc! Vào một buổi tối cuối tuần, tôi trốn trong phòng karaoke đọc sách tới mệt rã rời, định ra ngoài đi loanh quanh. Vừa bước ra, đã thấy ánh đèn mờ ảo, tiếng người ồn ào, khói thuốc nồng nặc, đến cầu thang cũng có người đứng, tôi thắc mắc, sao tối nay quán lại đông khác thường vậy nhỉ. Túm lấy tay một chị đang bê rượu, tôi hỏi: “Hôm nay quán có hoạt động gì hả chị?” Chị ta gật đầu: “Có người tổ chức sinh nhật.” Tôi len lỏi định đi lấy đồ uống, đột nhiên. Trong ánh đèn mờ mờ tỏ tỏ, tôi nhìn thấy một người con gái tóc dài đen mướt, mặc váy trắng tinh ngồi bên cạnh Trương Tuấn, cầm micro hát bài Như sương như mưa lại như gió. “Tình cảm của em dành cho anh anh mãi mãi không hiểu. Tình yêu của em dành cho anh, nhưng em luôn dằn vặt. Trong đêm tối cô đơn em bất lực kiếm tìm. Muốn tìm một chỗ dựa không bao giờ đổi thay. Hãy ôm em thật chặt một lần nữa. Để em cảm nhận được trái tim anh đang đập rộn ràng. Em không quan tâm anh có biết hay không. Trái tim yêu anh vĩnh viễn không bao giờ già. A… a… a… a… a… Với em, anh như sương như mưa lại như gió. Đến đến đi đi chỉ để lại sự trống rỗng. Với em, anh như sương như mưa lại như gió. Mặc trái tim em đau đớn khắc khoải vì anh. A… a… a… a… a…” Ngày ấy, bài hát này cùng người hát nó là ca sĩ Lương Nhạn Linh đang nổi như cồn khắp trời Nam đất Bắc, gần như là bài hát phổ biến nhất trong bất kỳ quán karaoke nào, tôi đã được nghe nhiều lần, nhưng lúc này, tại đây, tôi vẫn như bị sét đánh.
Người bên cạnh đẩy qua đẩy lại, lúc thì tôi bị đẩy về phía trước khi lại bị đẩy về phía sau, nhưng tôi không cảm thấy bất kỳ sự đau đớn nào cả. Linh hồn như bị rút ra khỏi cơ thể, đau đớn và tê dại đứng nhìn chính mình. Những người ngồi quanh Trương Tuấn vỗ tay ầm ầm, huýt sáo, cười và nói lớn: “Nghe thấy chưa hả? Cô ấy muốn cậu ôm một cái thật chặt đấy!” Trương Tuấn uống rượu và cười, không nhúc nhích. Đám anh em bằng hữu của Trương Tuấn la ó: “Trương Tuấn, cậu như thế thật chẳng ra sao, con gái nhà người ta đã chủ động đến thế rồi!” Không biết có phải em gái của cô gái kia khơi mào không, chỉ nghe tiếng hét lớn: “Trương Tuấn, hôn chị ấy đi!” Tất cả mọi người vừa nhịp nhàng vỗ tay, vừa hét theo: “Hôn đi, hôn đi, hôn đi…”. Tiếng hò hét càng lúc càng lớn, tiếng vỗ tay càng lúc càng vang, nhiệt độ trong phòng karaoke như đột ngột nóng lên, còn linh hồn của tôi thì nhìn thấy thể xác của mình đang chen chúc trong đám đông, sắc mặt trắng bệch, thẫn thờ nhìn Trương Tuấn, hai tay nắm chặt thành nắm đấm. Trương Tuấn không kìm được trước tiếng reo hò vang dội, cuối cùng cũng đặt ly rượu xuống, cầm tay cô gái đó lên, hôn một cái. Mọi người bất mãn “xùy” một tiếng, tiếng xùy càng lúc càng to, dường như muốn thổi bay cả trần nhà. Cô gái đó đột nhiên vịn cổ Trương Tuấn xuống, quay người sang bên, hôn một cái lên má cậu ấy, dường như muốn thị uy, có điều cũng coi như giúp Trương Tuấn giải vây. Mọi người lại huýt sáo, rồi lại phá lên cười, vừa cười vừa xô về phía trước, tôi không cao, bị người ta xô đẩy tới mức không làm chủ được mình nữa. Không biết do ai mà kính của tôi bị đẩy rơi xuống đất, tôi vội vàng ngồi thụp xuống tìm, miệng la lên: “Đừng giẫm vào kính của tôi”. Nhưng quả thật khi ấy quá đông đúc và ồn ào, mọi người lại đều bị xô về phía trước. Tôi không những không nhặt được kính, mà còn suýt bị người ta giẫm đạp, mắt kính bị đá đến chân một ai đó, tôi đang định chạy ra nhặt, thì một đôi giày cao gót đạp lên khiến nó vỡ vụn, chủ nhân của đôi giày cao gót kêu lên thất thanh: “Ai dô, cái gì vậy?”, mọi người nghe tiếng liền lần lượt cúi xuống nhìn, thấy tôi đang nhếch nhác bò dưới đất. Thì ra trong lúc đuổi theo cái kính, tôi vô thức bò đến bên cạnh ghế sofa nơi Trương Tuấn ngồi. Vừa rồi chỉ chăm chú nhìn Trương Tuấn mà không biết là Tiểu Ba cũng có mặt ở đó. Anh ấy kéo tôi đứng dậy, phải cố gắng nhịn lắm mới không quát tướng lên với tôi rằng: “Em không biết vừa rồi nguy hiểm thế nào à? Nhiều người như vậy, tiếng nhạc lại to, nếu em bị giẫm lên, thì cũng đâu ai biết.” Tôi ấm ức nói: “Em nhặt kính.” Bạn gái Trương Tuấn lên tiếng xin lỗi nói: “Thật ngại quá, em gái, chị không nhìn thấy, để rồi chị mua đền cho em một cái kính mới.”
Tiểu Lục gọi: “Tiểu Ba, cái bô của cậu đấy à?” Do ảnh hưởng bởi phim ảnh xã hội đen Hồng Kông, nên thường gọi bạn gái là cái bô, tôi thì lại rất ghét cách gọi này. Tiểu Ba vội nói: “Không phải, bạn bình thường thôi.” “Bảo cô bé lại đây, cùng uống với nhau vài chén, làm quen.” Tiểu Ba cười đáp: “Em ấy còn nhỏ, không biết uống rượu.” Tiểu Lục cười không nói, người bên cạnh anh ta lại bợ đỡ nói theo: “Tiểu Ba giờ là ông chủ rồi, tính khí có vẻ hống hách hơn trước nhỉ, anh Lục còn không mời được nữa.” Sợ Tiểu Ba khó xử, tôi giật giật tay áo anh, ý bảo anh là không sao đâu, rồi chủ động ngồi xuống cạnh Tiểu Ba. Tiểu Lục đưa cho tôi một ly rượu vang: “Em học trường nào?” “Nhất Trung.” “Trường tốt, cùng trường với em trai anh, đúng không? Trương Tuấn?” Trương Tuấn chỉ lạnh lùng gật gật đầu. Tôi đang định cạn trước để tỏ lòng thành kính, Tiểu Ba liền cầm lấy ly rượu trên tay tôi: “Anh Lục, cô ấy thật sự không biết uống rượu, lễ cô ấy nhận, còn rượu để em uống.” Tiểu Lục không cười nữa, nhìn Tiểu Ba chằm chằm, Tiểu Ba cũng không chịu thua, đón lấy ánh mắt của anh ta. Tất cả mọi người xung quanh đều cố gắng hạn chế cả việc hít thở, một lúc sau, anh Lục cười gật gật đầu: “Được! Nếu chú đã nói như thế, thì anh cũng không ép, chú muốn uống thay cứ uống.” Tiểu Ba uống cạn một hơi: “Cảm ơn anh Lục.” Tên con trai ngồi bên cạnh Tiểu Lục cầm chai rượu trắng chưa mở nắp đặt xuống trước mặt Tiểu Ba: “Không phải là ly ấy, là chai này.” Tôi giận tới mức toàn thân như run lên, nhưng tôi biết, đây chính là luật lệ của giang hồ, nếu bạn muốn gánh tội thay người khác thì phải chấp nhận quy tắc mà đối phương đưa ra, nếu không có bản lĩnh ấy, thì mau mau cúp đuôi mà làm người. Tiểu Ba cầm bình rượu lên, không cần dùng dụng cụ mở nắp, mà dùng răng cắn bật nắp chai, rồi đưa chai rượu vào miệng, ngửa cổ dốc. Trong tiếng “ực ực, ực ực”, cả một chai rượu trắng đầy đã bị uống hết, Tiểu Ba đặt chai rượu không lên bàn, cười nói: “Cảm ơn anh Lục.” Tiểu Lục không thèm nhìn Tiểu Ba, cười híp mắt hỏi người khác: “Hê, sao mọi người không hát nữa? Hát đi chứ!”
Người con gái ngồi cạnh Tiểu Lục vội vàng cầm danh sách bài hát lên, chọn bài, chọn một bài có tên là Bình tụ, anh Lục ôm cô ta cùng hát. Tiểu Ba quay sang chào Tiểu Lục, Tiểu Lục xua xua tay như xua nhặng, không cả buồn vẫy tay chào anh ấy. Tôi vội vàng cùng Tiểu Ba vào nhà vệ sinh, anh dùng tay móc cổ họng, ép mình phải nôn ra. Tôi vừa áy náy vừa cảm thấy tội lỗi, nhưng không biết lúc này mình có thể làm gì, đành đứng vỗ vỗ lưng cho anh. Anh nôn hết xong, súc miệng, lau mặt, cười rồi nói: “Không sao, anh đã từng uống nhiều hơn thế.” Tôi khẽ hỏi: “Sao anh lại ngăn không cho em uống? Chỉ là một ly rượu vang, uống cũng không sao mà, Tết năm nào bố mẹ cũng cho em uống một chút rượu vang.” Anh mỉm cười giải thích: “Trong giới giang hồ, đám đàn ông thanh niên muốn chuốc say đàn bà con gái cũng đều bắt đầu từ ly rượu không đáng kể gì đó, nếu đã có ly đầu tiên, thì không có cách nào để từ chối ly thứ hai, họ sẽ tìm mọi cách để ép em uống rượu. Nếu từ chối, thì phải bắt đầu ngay từ ly đầu tiên. Vừa rồi anh chỉ uống một chai, nhưng đã giúp em sau này không bao giờ phải uống rượu nữa, tất cả mọi người có mặt trong phòng ngày hôm nay sẽ tự hiểu, trong bất kỳ tình huống nào, em cũng sẽ không uống rượu, tuyệt đối sẽ không có ai ép em phải uống rượu nữa.” Giờ tôi mới hiểu được ác ý đó của Tiểu Lục. Giọng Tiểu Ba dần trở nên nghiêm túc: “Kỳ Kỳ, đối với con gái, thứ nhất là chất độc hại(5), cho dù người ta có nói hay thế nào, thực ra không có độc, không gây nghiện, cũng không được thử; thứ hai là rượu, một giọt cũng không được uống.” “Em biết rồi, có thể uống ở nhà với bố mẹ, nhưng không được uống với những người đó.” Tiểu Ba xoa xoa đầu tôi, giống như xoa đầu chó. Sau khi nôn xong, mặc dù trong người cảm thấy không dễ chịu, nhưng Tiểu Ba vẫn muốn tiếp tục công việc. Tôi đi tìm Ô Tặc, bảo anh ta tới trông nom, đôn đốc để Tiểu Ba đi ăn chút gì đó. Ô Tặc tỏ vẻ hờ hững, tôi nghĩ một lúc, đoán chắc anh ta không vui vì Tiểu Ba uống rượu thay tôi. Có điều, ai thèm để ý xem anh ta vui hay không chứ, tôi nói xong những điều cần nói, quay người bỏ đi. Tay cầm sách, len khỏi đám đông đi ra ngoài, không giống như lần trước, tất cả mọi người thấy tôi liền tự động nhường đường. Trong phòng lại vang lên tiếng hát Như sương như mưa lại như gió “A… a… a… a… a… Với em, anh như sương như mưa lại như gió. Đến đến đi đi chỉ để lại sự trống rỗng. Với em, anh như sương như mưa lại như gió. Mặc trái tim em đau đớn khắc khoải vì anh. A… a… a… a… a…” Tôi gần như lao ra khỏi quán karaoke, đứng ở đầu đường nơi người qua kẻ lại, cảm thấy buồn bã, hoang mang. Đột nhiên, tôi chạy, chạy dọc theo con đường đó, hơn hai mươi phút sau, tôi thở hổn hển đến bên bờ sông.
Tôi đứng bên bờ sông, nghe tiếng nước chảy, ánh trăng trải trên mặt nước nhấp nhô, những ánh bạc nhảy nhót. Tôi đứng đó rất lâu, trong đầu dường như suy nghĩ mông lung, lại dường như chẳng nghĩ gì cả. Cho tới tận khi có một người đi xe đạp từ đầu cầu bên kia sang, tôi mới giật mình bừng tỉnh, phải về nhà thôi, nếu không hai vị phụ huynh đang áp dụng cách giáo dục lỏng lẻo với tôi kia cũng phải nổi giận. Tôi chạy một mạch về nhà, về đến nơi đã mười một giờ đêm, sắc mặt của mẹ rất khó coi, tôi không đợi mẹ hỏi, chủ động lên tiếng xin lỗi: “Con và Hiểu Phi xem phim Doraemon ở nhà bạn tới muộn, không để ý thời gian.” Thật may vì ở thời đó, không mấy nhà có ti vi. Sắc mặt bố mẹ giãn ra: “Mau đi ngủ đi, lần sau phải chú ý đấy.” Tôi gật gật đầu, lập tức đi đánh răng rửa mặt. Sau này, tôi thường xuyên thấy Trương Tuấn và cô gái kia đi cùng nhau đến quán karaoke, ai cũng nói cô ấy là bạn gái của Trương Tuấn. Tôi loáng thoáng biết được rằng, cô ấy đã đi làm, hình như là giáo viên mầm non, nhưng nhiều hơn nữa thì, tôi hoàn toàn không muốn nghe, thậm chí là tên của cô ấy, tôi cũng không nghe, cho dù có nghe thấy, cũng không muốn ghi nhớ, cứ như, chỉ cần tôi không biết tên của cô ấy, thì có thể coi như cô ấy không tồn tại vậy. Mùa hè vốn vui vẻ như thần tiên của tôi đột nhiên xuất hiện một bóng đen, lần đầu tiên tôi biết, khi nhìn chằm chằm một ai đó, ngực sẽ nhói đau, khi nghe thấy một bài hát, sẽ muốn khóc. Thật ra, tôi chưa bao giờ đặt bất kỳ hy vọng nào vào Trương Tuấn, nhưng có thể tận sâu trong trái tim tôi đã tồn tại một ảo tưởng mà đến ngay cả tôi cũng không biết. Vì vậy, khi tận mắt chứng kiến, tôi đã cảm thấy vô cùng đau đớn. Thậm chí tôi còn rất độc ác nghĩ rằng, tại sao cô gái kia không giống như Quan Hà, coi thường Trương Tuấn chứ? Tốt nhất là cô ấy nên bỏ rơi luôn Trương Tuấn. Cô gái đó rất thích hát bài Như sương như mưa lại như gió, mỗi lần đến quán karaoke, đều hát bài ấy. Mỗi lần nghe thấy bài hát này, tôi chẳng còn tâm trạng để làm gì cả, Như sương như mưa lại như gió bị tôi liệt vào danh sách những bài hát đáng ghét nhất. Tôi cực đoan tới mức giấu hết những đĩa có bài hát ấy trong phòng karaoke đi, những khách khác không có đĩa để hát thì cũng thôi, nhưng cô ấy lại rất cố chấp, nhất định phải hát bằng được. Tiểu Ba vò đầu bứt tai đi tìm khắp nơi, còn liên tục nói lời “xin lỗi” với cô ấy, tôi không chịu được, đành lôi chiếc đĩa dưới ghế sofa lên, vờ như vừa tìm thấy, tỉnh bơ mang ra đưa cho họ. Cô ấy vui mừng đón lấy chiếc đĩa, luôn miệng nói “Cảm ơn”, thân thiện mời tôi cùng ra chơi với họ. Chẳng nể nang gì, tôi lạnh lùng đáp: “Em không thích hát.” Cô ấy ngượng ngùng cười: “Chị thấy em cả ngày ở quán karaoke, lại không thích hát sao?”
Tiểu Ba vội vàng đẩy tôi ra khỏi phòng trước khi miệng tôi kịp thốt ra những lời cay nghiệt. Trương Tuấn từ đầu tới cuối chỉ lạnh lùng ngồi trên ghế sofa, vẻ mặt hờ hững như đang xem chuyện vui của người khác. Cửa phòng đóng lại, tôi chua xót nghĩ, lẽ nào sau khi đóng cửa rồi, cậu vẫn giữ bộ mặt ấy? Cô nàng phục vụ mang đồ uống vào cho họ hỏi tôi và Tiểu Ba: “Trương Tuấn học cùng khóa với Kỳ Kỳ thật sao?” Tôi lờ đi, Tiểu Ba hòa nhã trả lời: “Cùng khóa”. Cô ta tỏ vẻ hết sức kinh ngạc nói: “Em thấy cậu ta chẳng giống trẻ con gì cả, người lớn hơn cả người lớn.” Tôi lập tức nói xen vào: “Cậu ta mặc dù học cùng khóa với em, nhưng từng lưu ban, lớn hơn em hai tuổi, là học sinh lưu ban lớn tuổi.” Có lẽ Tiểu Ba chưa bao giờ thấy tôi cay nghiệt như thế, liếc tôi một cái, mỉm cười nói với cô nàng kia: “Tuổi của con người ở trong tim, chứ không phải ở trên mặt. Năm nay em mười lăm tuổi, có rất nhiều bạn cùng tuổi với em mới học lớp 8, còn đang vui vẻ vô tư cười đùa trong lớp, nhưng em đã ra ngoài đi làm kiếm tiền rồi, không những có thể nuôi sống bản thân, mà còn gửi tiền về nhà cho anh trai đi học, nếu họ nhìn thấy em, chắc chắn cũng sẽ không tin là em bằng tuổi họ.” Trước khi cầm khay bỏ đi, cô nàng còn nói: “Mỗi người mỗi số phận, họ là con gái thành phố, em là con gái nhà quê, không bì được.” Kỳ nghỉ hè năm nào cũng có hai loại kết quả, khiến trái tim người ta phải rối bời, loại thứ nhất là kết quả thi vào cấp ba, loại thứ hai là kết quả vào đại học. Khi có kết quả thi vào cấp ba, trường Nhất Trung sẽ dán ở bảng thông tin ngoài cổng trường. Trường Nhất Trung cũng khá hài hước, bên phải dán điểm thi của học sinh trung học cơ sở của trường mình, bên trái là dán danh sách những học sinh trường khác được Nhất Trung nhận vào học, vì vậy bên ngoài cổng trường chen chúc rất nhiều phụ huynh và thí sinh với khuôn mặt lo lắng, phụ huynh và thí sinh của trường Nhất Trung cũng có, mà của trường ngoài cũng có. Bởi vì năm nay có Vương Chinh tham gia thi nên Hiểu Phi rất quan tâm, sáng sớm đã kéo tôi chạy đến cổng trường để xem kết quả. Mặc dù so với các bạn cùng tuổi, tôi và Hiểu Phi đều khá cao, nhưng khi đứng cùng người lớn, vẫn bị coi là thấp. Do đó mặc dù dậy rất sớm, nhưng vẫn đến muộn, đợi mọi người xem vãn rồi, chúng tôi mới chen lên, nhìn cho kỹ danh sách. Hiểu Phi dò từ trang đầu tiên. Tôi không nói gì, dò từ trang cuối cùng. Thành tích của Vương Chinh đã được đồn thổi từ lâu, bắt đầu tìm từ trang đầu tiên, chẳng phải lãng phí sức lực và tinh thần hay sao. Có điều, những lời đó không thể nói cho Hiểu Phi nghe. Rất nhanh, tôi đã tìm thấy tên của Vương Chinh, căn cứ vào số điểm viết ngay sau cái tên ấy, rõ ràng anh ta không những không có duyên với trường trung học phổ thông trọng
điểm này, mà với những trường bình thường khác cũng vô duyên nốt, có lẽ chỉ có thể đăng ký học ở trường kỹ thuật. Hiểu Phi vẫn chăm chú dò từng cái tên từ trên xuống, tôi đợi thì cũng đợi rồi, thế là đành cùng cô ấy dò từ trên xuống, sau khi lướt qua bốn mươi lăm cái tên, nhìn thấy một cái tên rất quen thuộc, Trần Kình. Tôi nhìn chằm chằm vào đấy, ngẩn ngơ mất mấy giây, sao cái tên này lại lặng lẽ nằm trong cả đống tên kia chứ. Thí sinh thi vào trường Nhất Trung tổng cộng gần bốn trăm người, dò từng cái tên một khiến mắt tôi như hoa hết cả lên, cuối cùng, Hiểu Phi đã tìm thấy tên của Vương Chinh. Cô ấy lặng lẽ đứng đó, nhìn hết lần này tới lần khác, dường như không tin vào những gì mình nhìn thấy. Từ trước tới nay, tôi cũng không giỏi trong việc an ủi người khác, đành đứng im theo. Đột nhiên, cô ấy bắt đầu khóc, khóc kinh thiên động địa, khóc tới khản cả giọng. Trời ơi! Người ta thi trượt còn không khóc, cô ấy lại khóc như là mình thi trượt vậy. Phụ huynh và thí sinh đứng ở ngoài cổng bắt đầu nhìn chúng tôi. Hiểu Phi khóc tới mức nước mắt rơi lã chã, không cần biết người khác nghĩ gì, tôi bề ngoài thì tỏ ra bình tĩnh, nhưng trong lòng lúc ấy chỉ ước được dùng áo che mặt lại. Có vị phụ huynh vốn đang buồn vì con mình không thi đỗ, thấy Hiểu Phi khóc đau lòng như vậy, liền chỉ con mà mắng: “Con xem con đấy, thi trượt mà cũng chẳng tỏ vẻ gì, người ta thi trượt ít nhất còn biết khóc, biết hối hận sao trước kia không chăm chỉ học hành.” Con của ông ấy âu sầu, tôi càng âu sầu hơn. Tôi không biết khuyên nhủ ai bao giờ, đành đứng im nhìn Hiểu Phi khóc. Hiểu Phi như người được làm bằng nước vậy, khóc một mạch nửa tiếng đồng hồ, thế mà vẫn không thấy bớt ít nước mắt nào. Tôi đứng nhìn mà xót xa, buồn buồn nói: “Đừng khóc nữa!” Hiểu Phi vừa khóc, vừa buồn bã hỏi: “Làm thế nào bây giờ? Anh ấy thi trượt cấp ba, mà sau này mình phải học đại học, thế chẳng phải bọn mình không thể ở bên nhau nữa ư?” “Cậu không chê anh ấy, thế là được rồi!” “Thế nếu anh ấy chê mình thì sao?” Tôi thật sự nghi ngờ cấu tạo não của Hiểu Phi khác với loài người, bất lực nói: “Sao anh ta có thể chê cậu? Sau này cậu là sinh viên cơ mà!” Hiểu Phi nửa tin nửa ngờ, dần dần nước mắt cũng không chảy nữa. Tôi vốn định rủ cô ấy đi ăn kem, đi ăn mì lạnh, giúp cô ấy bổ sung chút nguyên khí vừa mất, không ngờ cô bạn tôi lại vì tình quên bạn: “Kỳ Kỳ, mình không đi chơi với cậu được đâu, mình phải đi tìm Vương Chinh, giờ chắc chắn anh ấy sẽ rất buồn, mình muốn đi thăm anh ấy.”
Vương Chinh đâu phải vì xui xẻo mà trượt. Thành tích học tập của anh ta từ trước tới nay đều rất kém, có lẽ anh ta cũng đã sớm có dự liệu về kết quả thi của mình rồi, còn cần phải đợi tới tận hôm nay mới đau lòng? Có điều, với Hiểu Phi, tôi cũng chỉ có thể nói: “Được, vậy thì cậu đi tìm anh ta đi.” Hiểu Phi vội đạp xe đi, tôi chẳng biết làm gì, sang xem kết quả ở bảng bên trái, xem những ai thi đỗ vào hệ trung học phổ thông của trường Nhất Trung. Nhất Trung tổng cộng tuyển tất cả bốn trăm học sinh, tên của Trần Kình nằm ở giữa con số hai trăm và ba trăm, thật không dễ tìm. Bên cạnh cũng có hai nữ sinh đến xem kết quả giống tôi, khẽ tiếng thì thầm: “Trần Kình này có phải là con trai của phó giám đốc đài truyền hình chúng ta không?” “Đúng đấy.” “Chẳng phải con trai bà ấy rất thông minh sao?” “Trước kia hình như là thế, phó giám đốc đài còn liên hệ hợp tác với tỉnh, muốn cho con trai vào danh sách một trăm thiếu niên ưu tú của Trung Hoa mới gì gì đấy, sau đó con trai bà ấy không còn xuất sắc nữa, bà ấy dù có cao tay đến đâu cũng đành chịu thôi.” Tôi nhìn vào tên của Trần Kình, nghĩ đến Thương Trọng Vĩnh, không biết mẹ cậu ấy có hối hận vì đã ép cậu ấy nhảy lớp hay không, nhưng Trần Kình… nhớ đến bộ dạng của cậu ấy, lại cảm thấy cậu ấy không giống Trọng Vĩnh, Trọng Vĩnh chỉ là một con mọt sách, còn lâu mới giảo hoạt, gian trá được như Trần Kình.
4. Cuộc thi diễn thuyết Có người ngưỡng mộ vẻ đẹp của các vì sao, giơ tay ra hái, cố gắng rất nhiều, mà không hái được. Người ta cười chê: Không biết tự lượng sức mình Anh ta đáp: Giơ tay hái sao, mặc dù không hái được sao, nhưng trái tim tràn ngập cảnh đẹp, tay không nhuốm bẩn. Mùa hè lông bông, buồn bã, thê thê lương lương đã kết thúc, tôi bắt đầu một năm học mới, chuyển lên tầng hai, trở thành học sinh lớp 8. Vừa vào học, cô Tằng Hồng đã thông báo, kỳ này, tôi phải tham gia cuộc thi diễn thuyết dành cho học sinh cấp hai do thành phố tổ chức, bảo tôi chuẩn bị bài thuyết trình, đề tài không giới hạn, chỉ cần chủ đề tôi chọn lành mạnh, tích cực là được. Khi nói đến đề tài lành mạnh, tích cực, cô không nhịn được bật cười, tôi cũng cười. Rất kỳ lạ, từ sau cô giáo Triệu ở tiểu học, tôi luôn ác cảm với giáo viên, cố gắng lẩn tránh và sợ hãi vô cùng, nhưng lại rất hợp với cô Tằng Hồng. Tôi nói: “Sao lại là em? Không đạt giải thì làm thế nào?” Cô trả lời qua quýt: “Sao em hỏi mãi một câu như thế? Tôi bảo em làm thì em cứ làm.”
“Em nghĩ em không được đâu, lần trước lên trên bục phát biểu mà hai chân em run lên cầm cập, dù có muốn cười ngây ngô cũng không thể cười được.” Cô Tằng búng búng tàn thuốc, cười nói: “Đến bàn bóng bàn em cũng đứng rồi, tôi thấy em cười dễ thương, còn sợ phải lên bục thi diễn thuyết?” Tôi nghĩ thấy cũng đúng, giờ tôi đã mặt dày như chỗ gấp khúc của tường Trường Thành rồi, còn có gì đáng sợ nữa? Bản nháp viết xong, cô Tằng sửa rồi bảo tôi viết lại, tôi viết xong, cô lại sửa, hai cô trò dính lấy nhau, sau khi sửa đi sửa lại bản nháp tới năm lần, mới quyết định dùng bản thảo đó. Đồng thời, cô bắt đầu dạy tôi thuyết trình. Ban đầu, vào giờ khẩu ngữ buổi sáng, cô yêu cầu tôi đứng tại chỗ đọc to một bài văn, sau khi tôi quen rồi, cô lại yêu cầu tôi lên bục giảng đọc thuộc lòng một bài thơ, thơ gì cũng được, chỉ cần là thơ cổ. Việc này thật ra rất đơn giản. Nhờ sự giúp đỡ của thần đồng Trần Kình, từ Thi kinh cho đến Đường thi, Tống từ, Nguyên khúc(6), tôi đều đã nghiên cứu. Nhưng không ngờ, ngay ngày đầu tiên đã bị cô Tằng cảnh cáo: “Em có biết thơ của Trung Quốc được gọi là thơ ca không? Ngâm thơ như thế này, quả thật là xấu hổ thay cho hai từ thơ ca.” Tôi giận dỗi bỏ xuống lớp, trong đầu suy nghĩ về vấn đề tại sao thơ lại được gọi là thơ ca. Sau khi tan học, tôi mở đài, dò sóng của đài văn nghệ, tập trung nghe ngâm thơ. Từ ngâm thơ tới bình sách, nẩy từ, hay những bài ngâm tản văn đạt giải, thời gian nghỉ trưa hằng ngày tôi đều ngồi lì trước radio. Thời gian hoạt động tự do buổi chiều, tôi sẽ tìm một nơi nào đó thật yên tĩnh, một mình ngồi ngắm rừng cây hoặc ngắm mây trắng để luyện tập. Cô Tằng mặc kệ tôi muốn làm gì thì làm, hằng ngày vẫn theo lệ cũ gọi tôi lên ngâm thơ, có lúc thì mắng tôi vài câu, có lúc lại không nói gì, dù sao khi tôi đọc xong, cô vẫn cho tôi về chỗ. Dần dần, bất luận các bạn ngồi dưới lớp nhìn tôi thế nào, tôi cũng coi họ như vô hình. Vũ trường của anh Lý đã xong công tác chuẩn bị, sắp khai trương, nhưng vẫn chưa đặt được tên, cái gì mà “Vũ trường Lệ Lệ”, “Vũ trường Hoa Hồng Đêm”, “Vũ trường sông Ngân Hà”, anh Lý đều chê là quê mùa, thô tục, nói với Tiểu Ba: “Cậu giúp anh đặt tên.” Tiểu Ba cười đặt liền mấy cái, anh Lý còn chưa phát biểu ý kiến, tự Tiểu Ba đã phủ định, vo tròn tờ giấy trong tay, ném vào tôi lúc này đang nằm dài trên ghế sofa, nói: “Kỳ Kỳ, nghĩ giúp anh một cái tên.” Đầu tôi lúc này tràn ngập thơ từ, buột miệng nói: “Tại Thủy Nhất Phương”(7). Anh Lý không vui: “Sao lại phải Tại Thủy Nhất Phương? Anh còn đang muốn trải đường thẳng tới tận trước cửa nhà khách hàng, để ngày nào họ cũng đến đây ấy chứ.” Tiểu Ba cười nói: “Nơi mà ngày nào người ta cũng về là nhà, nhưng chính vì ngày nào cũng phải về nhà nên nếu có một thế giới khác sẽ vô cùng hấp dẫn họ. Tại Thủy Nhất Phương muốn nhìn cũng không thể nhìn rõ được, muốn chạm tới cũng không chạm tới được.”
Anh Lý cười mắng: “Được rồi, nghe mà ù hết cả tai, vừa hay thầy bói nói ngũ hành của anh thiếu nước, nước lại có thể sinh tài, coi như là điềm lành, dùng tên này đi.” Anh Lý nói xong chuyện chính, quay sang nhìn Tiểu Ba bảo: “Tiểu Lục có vẻ không hài lòng về cậu, cậu phải chú ý một chút.” Tiểu Ba đáp: “Em xin lỗi!” Tôi chăm chú nhìn và dỏng tai nghe, anh Lý thấy ánh mắt của tôi nhìn mình sắc lẹm, cười nói: “Em xem em kìa, còn sợ anh ăn thịt Tiểu Ba hay sao? Nhìn anh như ngắm bia để phi tên thế?” Tiểu Ba đứng chắn giữa tôi và anh Lý, xin lỗi: “Anh Lý…” Anh Lý khoát tay: “Tiểu Ba, cậu nghĩ nhiều quá rồi đấy, cũng có thể nói là anh chứng kiến quá trình trưởng thành của nó, anh còn so đo với nó sao? Hơn nữa anh còn cảm thấy vận mệnh của nha đầu này rất hợp với chúng ta, cậu không thấy là việc làm ăn của ta càng ngày càng thuận lợi à?” Tôi phì cười thành tiếng, Tiểu Ba cũng cười, anh Lý nói tiếp, giọng cũng như có ý cười: “Hai đứa đừng cười, có những việc không tin cũng không được.” Sau vài câu nói đùa, sự hiềm khích giữa ba người cũng tan biến. Tiểu Ba cười ngồi xuống ghế sofa. Anh Lý nhìn chúng tôi nói: “Không phải anh sợ Tiểu Lục, khi anh mày bước chân vào giang hồ, nó còn đang hỉ mũi ở nơi nào không biết, có điều, giờ chúng ta đang làm ăn kinh doanh, chứ không phải tham gia vào xã hội đen, không cùng đi trên một con đường với Tiểu Lục, bọn chúng thích tỏ rõ uy phong, còn chúng ta lại muốn hòa khí sinh tài.” Tiểu Ba lập tức nói: “Em hiểu rồi.” Anh Lý lại nói tiếp: “Tiểu Ba, khi chúng ta kết nghĩa, anh đã nói với cậu về suy nghĩ của anh rồi đấy. Thời trẻ, thằng nào chẳng có vài phần hung hăng? Mẹ nó chứ, ai chẳng muốn làm đại ca? Nhưng đại ca của anh giờ ở đâu? Những người anh em muốn làm đại ca ngày ấy giờ đâu cả rồi? Mẹ kiếp, chẳng phải đều tàn hết cả rồi sao, bị phế hết rồi, ngược lại, những kẻ chẳng dính dáng gì năm đó lại bình an lấy vợ sinh con. Như Chí Cương giờ đang đi theo anh đấy, ngày ấy cũng là một nhân vật tiếng tăm lẫy lừng, nhưng trước khi hắn đi theo anh, hai đứa có biết hắn làm gì không?” Tiểu Ba và tôi đều im lặng. Tiểu Ba thì biết, nhưng không muốn làm anh Lý mất hứng, tôi thì thật sự không biết, chỉ láng máng nhớ là có một người chân thọt luôn đi theo anh Lý tên Chí Cương. Anh Lý rít một hơi thuốc, nói: “Đạp xích lô! Giờ anh hà khắc với hai đứa, là vì muốn tốt cho chúng mày thôi! Làm dân đen chẳng có gì là không hay cả, chỉ cần kiếm được tiền, hơn nữa, anh cũng sẽ không để chúng mày làm dân đen cả đời đâu.” Tiểu Ba nói: “Sau này em sẽ không làm mất lòng Tiểu Lục nữa.”
Anh Lý gật đầu, hỏi: “Cậu thích tiếp tục ở lại quán karaoke hay muốn chuyển sang vũ trường?” Tiểu Ba đáp: “Karaoke.” Anh Lý cười nói: “Vậy cũng được, dù sao cũng lớp 11 rồi, cậu còn muốn học đại học, cố gắng đi, trở thành sinh viên xuất sắc nhất trong nhóm chúng ta, chỉ cần cậu đỗ, học phí anh sẽ lo.” Tiểu Ba khẽ nói: “Cảm ơn anh Lý.” Anh Lý đứng dậy ra ngoài, lúc đi ngang qua ghế sofa, đột nhiên vươn tay ra, giật phắt mắt kính của tôi, tôi thét lên một tiếng, bật dậy đuổi theo. Anh cầm mắt kính giơ lên cao trêu tôi: “Tính khí của nha đầu càng ngày càng chín chắn theo tuổi rồi đấy, mấy năm trước còn nhõng nhẽo gọi anh là “anh Lý”, nếu không có anh mày thì nha đầu đã gây án mạng rồi, giờ lại còn dám trừng mắt nhìn anh.” Tôi nhảy lên với theo, nhưng không sao với tới, anh Lý nói: “Gọi đại ca đi, anh sẽ tha cho.” Tất cả mọi người trong phòng đều nhìn chúng tôi cười, Ô Tặc cũng hùa theo hét tướng lên: “Gấu Trúc Bốn Mắt gọi đại ca đi.” Tiểu Ba khoanh tay trước ngực, dựa người vào cửa đứng cười. Tôi chạy quanh anh Lý từ trái sang phải, nhưng không có cách nào để với được cái kính của mình, mặc dù tôi vừa cười vừa nhảy lên như choi choi, nhưng không chịu gọi một tiếng đại ca, anh Lý cũng không chịu trả lại cho tôi. Tôi bắt đầu cuống, túm chặt vạt áo comple của anh, định giật lại kính. Ô Tặc la lớn: “Gấu Trúc Bốn Mắt lên cơn rồi đấy, anh Lý, anh chớ đề phòng mỗi tay của nó, miệng nó còn độc hơn tay.” Đánh người không đánh vào mặt, chửi người không để lại sẹo! Kiểu của Ô Tặc là người ta càng muốn tránh anh ta càng thích khơi lên! Tôi tức đến mức không còn để ý chuyện phải giật lại kính nữa, tiện tay vớ ngay khay đĩa táo nhựa trang trí trên hành lang, cầm từng quả ném thẳng vào người Ô Tặc. Tôi đứng trên cao ném xuống nên anh ta không kịp trở tay. Anh Lý và Tiểu Ba đều bò trên tay vịn cầu thang ngó xuống xem, vừa xem vừa kích tướng, Ô Tặc nổi điên buột miệng chửi, vừa chửi vừa nhảy lên tránh. Mấy người bọn tôi, trước kia vẫn hay trêu đùa nhau, vừa đánh bài vừa kể chuyện cười, nhưng cùng với việc làm ăn của anh Lý ngày một mở rộng, mọi người đều trở nên bận rộn, cho dù có gặp nhau, cũng đều nói chuyện công việc, rất lâu rồi không đùa vui như thế này. Vì vậy, chúng tôi vừa cười vừa la hét, nửa điên nửa khùng, vừa là vì vui vẻ, vừa như muốn tham lam lưu giữ thời khắc này. Ô Tặc ôm đầu nhảy trái nhảy phải để tránh, không ngờ đúng lúc có mấy người đi vào, đúng lúc những quả táo nhựa của tôi bay về phía họ. Thấy một quả sắp rơi vào đầu
người đi đầu tiên, một người trong nhóm liền tách khỏi hàng lao ra, nhảy lên, giơ tay bắt lấy quả táo. Mặc dù lờ mờ nhưng tôi cận không nặng lắm, bóng dáng người ấy lại rất quen thuộc, tôi nhận ngay ra là Trương Tuấn, cũng nghĩ ngay ra người mà tôi suýt ném trúng là ai, bất giác đứng nghệt tại chỗ. Anh Lý đập một cái vào lưng tôi, là dùng tay đập, năm ngón chụm lại, lòng bàn tay khum về phía sau, khi vỗ xuống, do kẽ hở giữa những ngón tay nên tạo thành tiếng đập lớn, thực ra không đau. “Gây họa rồi đấy? Còn không mau xin lỗi anh Lục đi, còn phải cảm ơn Tiểu Tuấn nữa.” Anh Lý miệng nói chân đã đi xuống cầu thang, nhiệt tình mời thuốc, kính rượu Tiểu Lục, kéo anh ta ngồi xuống. Tiểu Ba kéo tôi vào phòng, trả lại kính lên sống mũi tôi, dặn dò: “Ở trong này không được ra ngoài, nếu muốn về nhà mà họ chưa đi, thì trèo ban công xuống.” Anh định đi, tôi kéo cánh tay anh, nói: “Anh đừng đi, Tiểu Lục nhất định sẽ lại chuốc rượu anh.” Anh cười: “Không sao, tửu lượng của anh rất tốt.” Tôi đành phải buông anh ra, ngồi trong phòng một lúc, muốn đọc sách nhưng đọc không vào, quyết định ra ngoài, tôi trèo ban công xuống, tay bám vào lan can, thân lơ lửng trên không, lắc qua lắc lại, đang băn khoăn xem nên thả người nhảy thẳng xuống, hay men theo tường tới chỗ ống thoát nước tụt xuống. Dưới đường có người không ngừng nhấn chuông xe đạp. Tôi quay đầu nhìn, là thần đồng Trần Kình, cậu ta đang ngồi trên xe đạp, một chân chống dưới đất, mở to mắt nhìn tôi. Tôi thất thần, đột ngột tuột tay, ngã xuống dưới, mông vừa tiếp đất, thiếu nước vỡ ra làm tám, đau tới mức phải nghiến răng nghiến lợi, khó nhọc thở liên hồi. Trần Kình nhìn thấy cảnh ấy liền phá lên cười, suýt nữa thì đổ cả xe đạp. Tôi lạnh lùng liếc mắt nhìn cậu ta một cái, vờ như không quen biết, đứng dậy bỏ đi. Cậu ta dắt xe chạy đuổi theo tôi: “La Kỳ Kỳ, cậu còn nhớ mình không?” Tôi vờ không hiểu, nhìn đối phương với ánh mắt nghi ngờ, cậu ta tỏ vẻ chán nản: “Mình là Trần Kình, ngồi cùng bàn với cậu hồi tiểu học.” Tôi vẫn phớt lờ cậu ta, Trần Kình không cam tâm, vẻ mặt như không thể tin được là mình lại bị người ta quên lãng, muốn nhắc tôi, nhưng lại sợ vô tình trở thành kẻ tự thổi phồng bản thân, đấy là việc cậu ta vẫn luôn coi thường, vì vậy đành buồn buồn dắt xe đạp, không nói không rằng, nhưng cũng không bỏ đi. Đột nhiên tôi hỏi: “Tại sao?” Cậu ta hỏi lại: “Tại sao gì?”
“Tại sao cậu không phải là Trần Kình nữa?” Cậu ta như hiểu ra, khóe miệng nhếch lên mỉm cười: “Làm Trần Kình thật quá mệt mỏi, bố mình đồng ý để mình lười nhác mấy năm, nếu không, ai biết mẹ mình còn nghĩ ra những trò gì nữa? Không khéo lại ép mình trở thành sinh viên đại học nhỏ tuổi, tạo tin giật gân, mẹ mình vốn thích có tiếng tăm mà. Mình lại phải làm bạn học với đám bà cô ông chú ấy. Đừng nói đến bóng rổ, bóng đá, đến bạn chơi bóng bàn sợ là cũng không có ấy chứ.” Tôi hiểu ra: “Vậy cậu sẽ lại là Trần Kình nữa chứ?” Cậu ấy thở dài: “Ừ, vào cấp ba rồi, phải cố gắng để thi đại học, nếu không thể hiện tốt một chút, bố mình sẽ không vui.” Tôi mỉm cười: “Vậy chúc cậu ra quân thắng trận!” Cậu ấy cũng cười: “Cậu thì sao? Định bao giờ dốc toàn tâm toàn sức để vượt lên?” Tôi hỏi: “Cậu có ý gì?” Cậu ấy cười rồi nói: “Mình nghe nói cậu đã đạt giải Olympic toán hồi tiểu học, chắc các bạn trong lớp phải rất kinh ngạc nhỉ, nhưng mình lại không lạ, khi ngồi cùng bàn với cậu, mình đã nhận thấy thực ra cậu rất thông minh.” Tôi không tán đồng, nói: “Mình với cậu không cùng đi trên một con đường, tạm biệt! Thần đồng!” Nói xong, tôi liền chạy vụt đi. Có kết quả thi giữa kỳ, từ vị trí hơn hai trăm khi mới nhập trường, Trần Kình đã nhảy lên vị trí đầu khối, tạo ra kỳ tích nhảy vọt về mặt thành tích lớn nhất từ trước tới nay trong trường Nhất Trung. Tất cả giáo viên trong trường đều ngạc nhiên, giáo viên cấp ba vội vàng hỏi dò giáo viên cấp hai, có phải thành tích của cậu ta từ trước tới nay đều rất tốt, kết quả kỳ thi vào cấp ba vừa rồi chỉ là do không gặp may mắn, giáo viên cấp hai đương nhiên lắc đầu phủ nhận, thành tích của cậu ta đột nhiên tăng vọt tới mức khó tưởng tượng. Khối cấp hai và khối cấp ba vốn ít trao đổi thông tin, thế mà chúng tôi vẫn được nghe bàn tán về đại danh của cậu ta. Hơn nữa cậu ta còn nhỏ hơn các bạn cùng lớp tới bốn tuổi, trong nháy mắt, cái danh thần đồng đã lại được gắn lên người cậu ta, đến cả Lý Tân, Lâm Lam trong lớp tôi cũng nhắc đến thần nhân ở khối cấp ba đó. Hiểu Phi lại tỏ vẻ không tán thành, dường như sợ tôi bị tác động bởi cái danh thần đồng mà động lòng, liên tục buông lời cảnh cáo tôi không được thích Trần Kình. Câu cửa miệng của cô ấy mỗi khi lên lớp nói với tôi là: “Cậu tìm bạn trai chứ không phải tìm thư viện.” Tôi nghe xong mà phá lên cười ha hả, Hiểu Phi luôn có những suy nghĩ khác người. Có lẽ vì từ nhỏ tới lớn cô ấy đều xếp thứ nhất, nên coi điều đó là lẽ đương nhiên, không hề tỏ ra thán phục Trần Kình.
Sau kỳ thi giữa kỳ, dưới sự đôn đốc của cô Tằng Hồng, tôi tiếp tục chuẩn bị cho cuộc thi thuyết trình sắp tới. Sau khi nghiền ngẫm các bài diễn thuyết hết sức diễn cảm của vô số người nổi tiếng, tôi dần dần bắt đầu có những thu hoạch cho riêng mình. Một hôm, tôi chọn bài Đại bi bạc đầu ông(8) của Lưu Hy Di(9). Lạc Dương thành Đông đào lý bay Dập dìu qua lại, rụng nhà ai? Cô gái Lạc Dương xinh biết mấy Gặp những hoa rơi cứ tiếc hoài. Năm nay hoa rụng, dung nhan đổi Năm sau hoa nở còn ai đợi? Mấy độ nương dâu hóa biển xanh Bao lần tùng bách khô thành củi. Thành Đông người cũ vắng xa rồi Người nay trong gió ngắm hoa rơi Năm năm tháng tháng hoa còn đó Tháng tháng năm năm khách đổi dời. Nhắn kẻ trẻ trung tươi má thắm Thương lão già nua tóc bạc thôi. Ông lão thương thay tóc trắng ngần Vốn má đào xưa lúc tuổi xuân Cây thơm công tử vương tôn hội Hoa rơi múa hát đẹp quây quần. Ao đài gấm vóc dinh quang lộc Lầu gác thần tiên phủ tướng quân Ai biết bệnh nằm trong một sớm Còn đâu vui thú những ba xuân?
Mày ngài mềm mại dễ bao thời? Tóc rối như tơ một thoắt thôi Chốn xưa múa hát nay nhìn lại Chỉ còn chim liệng bóng chiều rơi. Mặc dù trước khi đứng lên đọc, tôi đã luyện tập và đọc thử nhiều lần, tôi cũng biết bài thơ này là một lời cảm thán về sự vô tình của thời gian, nhưng khi đứng lên đọc, không biết tại sao, đọc đến hai câu “Năm năm tháng tháng hoa còn đó, Tháng tháng năm năm khách đổi dời”, đột nhiên cảm thấy buồn vô hạn. Hôm nay, chúng tôi cùng nhau ngồi trong lớp học này, ngày mai, chúng tôi sẽ ở đâu? Tôi ở đâu? Hiểu Phi sẽ ở đâu? Trương Tuấn ở đâu? Tiểu Ba ở đâu? Cổ nhân cũng đưa ra câu hỏi cho ngày hôm nay của tôi, vì vậy khi tự chất vấn: “Mày ngài mềm mại dễ bao thời?”, câu trả lời là: “Nhắn kẻ trẻ trung tươi má thắm, Tóc rối như tơ một thoắt thôi”. Chúng ta muốn sớm thoát khỏi sự kìm kẹp của gia đình, thầy cô để trưởng thành như thế, nhưng sau khi trưởng thành rồi, có phải lúc ấy chúng ta mới hiểu quãng thời gian của ngày hôm nay thật đáng quý biết bao? Tôi đọc xong, cô Tằng ra sức vỗ tay, các bạn thì ngồi ngây ra nhìn thầy trò chúng tôi. Họ hoàn toàn không hiểu được những gì tôi vừa nghĩ trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy, nhưng có lẽ cô Tằng đã hiểu được. Cô Tằng bảo tôi về chỗ ngồi, nói với tôi rằng, tôi không phải đọc diễn cảm thơ cổ nữa, bắt đầu từ ngày mai, trong giờ ra chơi thì đến văn phòng của cô. Cô đưa tôi đến hội trường, bảo tôi đứng trên bục giảng, từ trên cao nhìn xuống những dãy ghế trống. “Bắt đầu từ hôm nay, chúng ta chính thức luyện tập diễn thuyết, diễn thuyết không giống như đọc diễn cảm thơ ca, mà còn phải dùng ngôn ngữ cơ thể để tác động đến cảm xúc của người nghe, chúng ta cần phải luyện cách sử dụng ánh mắt, nụ cười, động tác của tay để khơi dậy tình cảm của khán giả.” Dưới sự hướng dẫn của cô Tằng, tôi bắt đầu luyện tập bài thuyết trình hết lần này tới lần khác một cách buồn tẻ, cô chỉnh sửa từng động tác nhỏ của tôi, giúp tôi học được cách thể hiện mình một cách tự nhiên thoải mái, khảng khái, hiên ngang, thể hiện mình bi ai mà không buồn thương. Thậm chí, cô còn mời giáo viên đội múa của khối cấp ba hướng dẫn tôi cách đi từ dưới sân khấu đến trước micro như thế nào cho đẹp mắt, rồi sau khi trình bày xong, duyên dáng cúi người chào khán giả đi vào như thế nào. Tôi học những cử chỉ và cách đi lại duyên dáng từ cô giáo của đội múa, đi đi lại lại trên sân khấu, cô Tằng đứng dưới sân khấu hút thuốc, hai tay chống nạnh, hình ảnh hết sức thô tục.
Cô giáo dạy múa là bạn học cấp ba của cô Tằng, lại cùng tốt nghiệp đại học sư phạm, tình cảm sâu đậm, thường vừa dạy tôi vừa mắng cô Tằng: “Tằng Hồng, cậu còn như thế nữa, sẽ không lấy được chồng đâu.” Cô Tằng Hồng nhổ đầu thuốc ra, phớt lờ những lời cô giáo dạy múa vừa nói, sau đó chỉ vào tôi, lạnh lùng mắng: “La Kỳ Kỳ, sao em ngu ngốc như heo thế? Vừa dạy xong mà em đã quên ngay rồi! Cười! Cười lên! Dù trong lòng em có không vui thế nào, thì ngoài mặt vẫn phải cười lên cho tôi!” Nhờ sự ban tặng của thầy Chậu Của Cải, tôi cũng có chút tiếng tăm trong giới giáo viên, cô giáo dạy múa chú ý tới thần sắc của tôi, thấy tôi không hề biến sắc trước những lời mắng mỏ đó. Cô cảm thấy lạ, có vẻ tôi không giống với những lời đồn: một con ngựa bất kham, trong mắt không coi ai ra gì. Giờ nghỉ giải lao, cô nói với cô Tằng: “Cô bé này khá thú vị đấy, chẳng trách một kẻ lười biếng như cậu lại phải bỏ tâm sức nhiều đến thế.” Giờ tôi đã không còn là đứa trẻ lên ba nữa, sớm đã biết trong những lời mắng mỏ, trong những lời tốt đẹp đều có ẩn ý riêng, có người sẽ giấu sự ác ý trong những lời khen ngợi, cũng có những người lại chôn vùi sự khổ tâm trong những câu mắng mỏ. Những người đối xử tốt với bạn chưa hẳn là đã tốt, những người xấu với bạn chưa hẳn là đã xấu. Cả khối không phải chỉ một mình tôi tham gia cuộc thi diễn thuyết. Cô giáo dạy ngữ văn ở những lớp khác cũng chỉ chọn ra người giỏi nhất trong lớp, yêu cầu họ đọc qua vài lần, chỉnh sửa xong thì thôi, nhưng cô Tằng vớ phải một đứa kém cỏi như tôi, lại không ngại khó ngại khổ làm khó bản thân mình, phải làm phiền người khác tới dạy tôi, cho dù cô có mắng tôi cả trăm câu là đồ óc heo, tôi cũng vẫn nghe được. Năm trường trung học cơ sở trọng điểm của thành phố tập trung tại hội trường của trường Nhất Trung. Cuộc thi diễn thuyết được chia theo từng khối, bên đài truyền hình thành phố còn cho người tới quay. Cuộc thi sẽ được phát giới thiệu trong chương trình thời sự của đài. Tôi cũng coi như không phụ công rèn luyện của cô Tằng, đạt giải nhì trong cuộc thi. Cô giáo dạy múa tỏ vẻ tiếc nuối, nói người đạt giải nhất chỉ hơn tôi giọng nói ngọt ngào, hình tượng tươi sáng, trẻ trung, tràn đầy sinh lực, chứ thực ra phong thái khi hùng biện của tôi lão luyện hơn. Nhưng tôi và cô Tằng đều cảm thấy rất hài lòng về kết quả này, đối với tôi mà nói, đứng trên sân khấu mà sắc mặt thản nhiên như không, phát huy được hết những gì đã học, là thành công rồi. Còn cô Tăng Hồng đào tạo được một kẻ khi đứng trên bục phát biểu chân run lập cập, không cả dám ngước mắt lên nhìn mọi người ở phía dưới thành một học sinh có nụ cười tươi tắn, diễn đạt ý tứ đâu ra đấy, thì coi như cũng đã nhìn thấy sự thành công của mình rồi. Tôi phát hiện ra tôi và cô Tằng có điểm khá giống nhau, chúng tôi đều là những người sẽ cố gắng toàn tâm toàn sức trong quá trình rèn luyện, nhưng khi có kết quả, chỉ cần đạt yêu cầu tối thiểu nhất, sẽ thỏa mãn. Chúng tôi đều không phải những kẻ cố chấp, nhất định phải giành vị trí số một cho bằng được.
Khi lên bục nhận giải, tôi thoáng liếc mắt thấy một hình dáng quen thuộc, Trương Tuấn đang đi về phía cửa. Tôi đột nhiên thất thần. Hội trường có sức chứa khoảng hai nghìn người, nên nhà trường không yêu cầu tất cả các học sinh đều phải đến tham dự đầy đủ, đa phần những học sinh hôm nay đến đây đều là con ngoan trò giỏi trong mắt thầy cô giáo, những người thích tham gia những hoạt động tập thể, quan tâm tới danh dự của tập thể. Còn những học sinh kém nhân cơ hội không phải lên lớp này, coi như nhà trường cho nghỉ, đã chạy đi chơi từ lâu rồi. Mặc dù thành tích học tập của Trương Tuấn không phải kém, nhưng tôi không tin cậu ấy nghĩ cho bạn bè hay thầy cô giáo, mà đến để ngồi nghe cuộc thi diễn thuyết dài dằng dặc và nhàm chán này. Tại sao cậu ấy lại đến đây? Tư duy vừa mở ra, lại lập tức bị chính bản thân mình gào lên đòi khép lại, tại sao cậu ấy đến đây, thì có liên quan gì tới tôi? Sau khi đạt giải trong cuộc thi diễn thuyết, tất cả những cuộc thi lớn nhỏ sau này như thi ngâm thơ, thi diễn thuyết, các thầy cô giáo đều cử tôi đi. Tôi cũng chẳng từ chối bao giờ, từ cấp trường tới cấp thành phố, tất cả mọi hoạt động tôi đều tham gia. Một mặt là vì giải thưởng, mặt khác là muốn có cơ hội luyện tập nhiều hơn, nâng cao kỹ năng. Qua cuộc thi diễn thuyết, các thầy cô giáo đều cho rằng tôi nhanh mồm nhanh miệng, nên thi hùng biện cũng cử tôi tham gia. Thực ra, sau khi khắc phục được tính nhút nhát và hay căng thẳng, thi diễn thuyết không còn tính thử thách nữa, mà thi hùng biện thách thức hơn, có yêu cầu cao hơn về mặt kiến thức và tốc độ phản biện, rất hợp với ý tôi. Tôi thích tìm ra những lỗ hổng về logic trong ngôn ngữ của đối phương, hoặc dùng những từ ngữ đã được thiết kế sẵn dẫn dắt đối phương rơi vào bẫy của mình, phương thức đa dạng, biến hóa khôn lường, chỉ cần có thể khiến đối phương cứng họng là được. Tôi vô cùng thích thú với cái giây phút đối phương bị mình hỏi vặn lại ấy. Trong các cuộc thi hùng biện, tôi cũng dần dần đạt được rất nhiều giải thưởng, thậm chí còn ở cùng đội các sư huynh, sư tỉ của khối cấp ba trường Nhất Trung tham gia cuộc thi hùng biện toàn tỉnh. Cùng với những lần “xuất đầu lộ diện” của mình, dần dà tôi cũng có chút tiếng tăm đối với phụ huynh, giáo viên và các bạn, thậm chí ngay cả đồng nghiệp của bố tôi cũng nghe nói đến tài “ăn nói lưu loát” của tôi. Bề ngoài tôi tỏ ra thờ ơ, không quan tâm, nhưng trong lòng lại âm thầm đắc ý trước những “thành tựu” của mình. Mỗi lần lĩnh thưởng, chỉ cần nghĩ đến trong đám bạn học ngồi phía dưới có Quan Hà và Trương Tuấn đang nhìn tôi, tôi liền cảm thấy vô cùng hứng khởi, dường như người mà tôi đánh bại không phải là đối thủ, mà là Quan Hà; dường như thắng lợi của tôi không phải vì lớp vì trường, mà là vì Trương Tuấn. Tôi âm thầm đắc ý với sự tiến bộ của mình, nhưng tôi lại quên mất rằng, khi tôi đang tiến về phía trước thì Quan Hà cũng không chịu đứng im tại chỗ.
Một bài viết mà Quan Hà viết cho báo trường được cô giáo dạy ngữ văn lấy gửi cho tờ Văn nghệ thiếu niên. Tờ Văn nghệ thiếu niên không những cho đăng bài đó, mà thậm chí còn cho đăng ở vị trí nổi bật nhất, mấy giáo viên ngữ văn của khối cấp hai khi lên lớp đều nhắc đến bài văn này. Cô Tằng Hồng yêu cầu tôi đứng lên đọc to cho cả lớp cùng nghe, cùng nhau thưởng thức, phân tích lối hành văn xuất sắc của Quan Hà. Có thể bây giờ rất ít người còn đặt mua Văn nghệ thiếu niên nữa, nhưng ở thập niên chín mươi, hầu như phòng đọc của tất cả các trường đều đặt cuốn tạp chí này, trong tình hình báo chí khan hiếm như thời ấy, phạm vi phát hành rộng rãi của nó, sức ảnh hưởng to lớn của nó trong cả nước còn lớn hơn bất kỳ một loại tạp chí dành cho thanh thiếu niên nào thời nay. Nếu đem ra so sánh, thì giải nhì trong cuộc thi diễn thuyết của tôi, bản tin kéo dài ba giây trên đài truyền hình thành phố đó thực sự không đáng được nhắc đến. Nhìn nét chữ của Quan Hà biến thành những chữ chì và được in ấn trên trang giấy tinh xảo, đẹp đẽ, tôi cũng không rõ cảm giác của mình lúc ấy thế nào, dù sao ngoài ngọt, chua, đắng, cay đều có cả, còn vừa đọc vừa phải mỉm cười, thật đã không phụ công rèn luyện của thầy Chậu Của Cải và cô Tằng Hồng, một người là ác quỷ còn người kia là thiên thần. Nụ cười của tôi ngày hôm nay cũng đạt tới mức công phu xuất quỷ nhập thần, biến hóa khôn lường, ít ra đến ngay cả sư phụ tôi là cô Tằng Hồng còn không nhận ra nụ cười đó là giả tạo. Nghĩ đến cảnh giáo viên ngữ văn lớp 8 (8) chắc chắn cũng đang khen ngợi tài năng của Quan Hà trong tiết học của mình, không chừng cũng đang gọi một bạn trong lớp đứng lên đọc to bài văn đó để cả lớp được thưởng thức và cùng phân tích, tôi không kìm được khi nghĩ đến cảm giác của Trương Tuấn. Có lẽ tâm trạng của cậu ấy cũng rất phức tạp, nhưng chắc chắn sẽ không chất chứa sự ghen tức, đau khổ như tôi.
Chương 5 1. Người tình của Vương Chinh Trái tim của người con gái giống như một bông hoa, sẽ nở vì người mình yêu và cũng sẽ tàn lụi vì người mình yêu. Có người, nở rộ và tàn lụi như đóa hồng dưới ánh nắng mặt trời, cho dù nở hay tàn cũng đều lẫy lừng vang dội, trở thành huyền thoại trong ký ức của mọi người. Có người, nở rộ và tàn lụi như đóa bách hợp trắng trong khe núi, dù tàn hay nở đều không danh không tiếng, trở thành bí mật bị thời gian vùi lấp. Tôi quá để tâm đến những việc của mình, nên phải rất lâu sau khi cuộc thi diễn thuyết kết thúc, tôi mới biết Vương Chinh không vào trường kỹ thuật. Thời ấy, ở thành phố chúng tôi, cho dù thành tích học tập kém thế nào, thì vẫn được vào học ở trường kỹ thuật, bởi vì trường kỹ thuật hợp tác với mấy doanh nghiệp nhà nước lớn trong tỉnh (giờ được gọi là ngành công nghiệp độc quyền). Sau khi tốt nghiệp trường kỹ thuật, căn cứ vào chuyên ngành của từng người mà được nhận vào các doanh nghiệp khác nhau, chắc chắn là có một công việc ổn định, thu nhập khá và chế độ phúc lợi cũng tốt. Vì vậy, những bậc phụ huynh có yêu cầu không cao hoàn toàn không phải lo lắng việc con cái mình học hành yếu kém, dù học hành yếu kém đến đâu cũng vẫn có đầu ra. Nhưng Vương Chinh vô cùng cá tính, anh ta không màng tới sự khóc lóc, uy hiếp của bố mẹ, không vào trường kỹ thuật học, hành động đó của anh ta vào thời ấy không khác gì tự sát. Vương Chinh mang theo dàn trống của mình đến Tại Thủy Nhất Phương, tìm thêm vài người bạn có cùng chí hướng lập thành một ban nhạc, bắt đầu lên sân khấu biểu diễn. Khi đó, các vũ trường trong thành phố đa phần đều đệm nhạc bằng cách mở đĩa, không có vũ trường nào được như vũ trường của anh Lý, gần như không có ban nhạc sống. Hơn nữa, Vương Chinh thật sự rất đẹp trai, đèn vừa mở, tiếng trống vang lên, anh ta sẽ gõ như tuấn mã đứt cương, điên cuồng như đang ở chốn không người, đám con gái trong vũ trường đều muốn mụ mẫm cả đầu óc vì anh ta. Anh Lý tìm thêm vài thiếu nữ xinh đẹp, ăn mặc, trang điểm như những nữ nhân vật chính trong các bộ phim của Quỳnh Dao, đứng hát trên sân khấu. Chẳng mấy chốc, Tại Thủy Nhất Phương của chúng tôi tiếng tăm nổi như cồn khắp thành phố, bất kể là nam hay nữ đều ùn ùn kéo đến Tại Thủy Nhất Phương. Nghe nói đến những cửa hàng tạp hóa bên cạnh Tại Thủy Nhất Phương cũng làm ăn phát đạt theo, chỉ thế thôi cũng đủ biết Tại Thủy Nhất Phương hốt bạc nhiều thế nào. Có điều, cũng đừng nghĩ những người ra vào vũ trường là những thành phần phức tạp, trình độ văn minh xã hội thời ấy tốt hơn bây giờ nhiều, vũ trường chỉ đơn giản là nơi để nghe hát và khiêu vũ. Bố mẹ của một bạn lớp tôi cũng thường xuyên đến đây nhảy, cuối tuần còn đưa cả bạn ấy và chị gái cùng đến chơi, hai chị em bạn ấy đều học rất giỏi.
Nhưng, như thế không có nghĩa vũ trường là nơi vui chơi lành mạnh. Đối với đám thanh niên trai trẻ, thì sex, cờ bạc và thuốc phiện là có, nhưng chắc chắn bị giấu sâu dưới tận tầng hầm. Do Vương Chinh biểu diễn ở vũ trường nên Hiểu Phi cũng bắt đầu ra vào nơi đây. Đám con gái trong vũ trường chín người mười vẻ, cách ăn mặc, trang điểm, cử chỉ, tác phong của họ hoàn toàn khác với những nữ sinh trong trường học. Chỉ nói vài câu đơn giản với đám con trai thôi mà cũng đã õng ẹo cúi đầu xoay người với đủ mọi loại tư thế. Vương Chinh càng ngày càng lạnh nhạt với Hiểu Phi, thậm chí còn tỏ ra chán ghét khi cô ấy theo anh ta vào vũ trường. Hiểu Phi hoảng loạn. Sự tự tin dần dần sụp đổ. Cô ấy không còn từ chối khi người ta gọi mình là “Phi Nhi” nữa, đồng thời vô tình còn bắt chước dáng vẻ Trần Phi Nhi trong Mùa hoa tuổi mười sáu, dường như chỉ khi có dáng vẻ của một minh tinh, cô ấy mới có thể áp đảo được người khác. Mà những chuyện này, tôi hoàn toàn không biết, tôi còn bận rộn đi giành lấy sự thành công trong những cuộc thi hùng biện, bận rộn đuổi theo cái bóng trong trái tim mình. Cho tới khi Tiểu Ba nói với tôi: “Kỳ Kỳ, Cát Hiểu Phi tối qua uống say đánh nhau với người ta, anh Lý nể mặt em nên mới cho qua, nhưng em cũng nên khuyên nhủ cô ấy đi, bảo cô ấy đừng đến Tại Thủy Nhất Phương nữa. Cô ấy tuổi còn nhỏ, lại không có bố mẹ đi kèm, không thích hợp ra vào vũ trường đâu.” Tôi thảng thốt, một ngày trong núi, đã là ngàn năm trên thế gian rồi sao? Tối hôm đó, tôi cũng đến Tại Thủy Nhất Phương. Mặc dù nhà trường nghiêm cấm học sinh ra vào vũ trường, nhưng hiển nhiên là, số học sinh ra vào nơi đây không ít, chỉ riêng tôi quen cũng đã đến vài người, Lý Tân, hoa khôi lớp 8 (8) Đồng Vân Châu, đều là những cô gái xinh xắn. Những mỹ nữ nhỏ tuổi đều có rất nhiều cái đuôi si tình bám theo đằng sau. Không phải ai cũng thanh cao, thoát tục được như Quan Hà. Đại đa số các mỹ nữ nếu phải lựa chọn giữa những giờ học khô khan và đám con trai thú vị, đều chọn vế thứ hai. Trên sân khấu, một cô gái mặc chiếc váy trắng đang hát bài Ánh trăng nói hộ lòng tôi, từng đôi nam nữ dặt dìu khiêu vũ dưới sàn, ánh đèn mờ ảo thoắt xa thoắt gần, như ánh sáng của những vì sao chiếu lên từng bước nhảy của họ. Trên mỗi chiếc bàn nhỏ bên cạnh sàn nhảy đều được thắp một ngọn nến, thoáng nhìn, đúng là lung linh như bên hồ nước, lãng mạn như không giống nhân gian. Lần đầu tiên bước chân vào vũ trường, tay chân lóng ngóng không biết đặt vào đâu cho đúng, nhưng sắc mặt không hề lộ vẻ lúng túng, tôi bình tĩnh đi đến từng chiếc bàn một, nhìn thật kỹ để tìm Hiểu Phi. Khi đã nhìn rõ rồi, thì nơi đây thật không giống Tại Thủy Nhất Phương trong Thi kinh một chút nào, ánh nến lập lờ đó không hề lãng mạn, mà là ánh sáng của dục vọng. Tìm một vòng vẫn không thấy Hiểu Phi, khi đi ngang qua những phòng được bao riêng, qua khe cửa, tôi thoáng liếc thấy bóng dáng một người con gái tóc thắt bím. Người con trai ngồi bên cạnh đang rót rượu cho cô ấy, cô ấy cúi đầu, hai vai khẽ rung lên, hình như là đang khóc.
Tôi liền xông vào, bất chợt có một bàn tay giơ ra, thoắt cái, một tay đã nắm chặt được cổ tay tôi, tay còn lại đặt mạnh lên vai tôi, vừa ấn vừa đẩy tôi phải lùi lại phía sau. Trong lúc tôi đang lùi lại, cô gái ngồi trên ghế sofa ngẩng đầu lên, nhìn khoảng hai mươi tuổi, đang cười khúc khích, toàn thân từ trên xuống dưới đều rung theo tiếng cười của cô ấy, còn người con trai đang ngồi cùng với cô ta là Tiểu Lục. Suýt chút nữa thì tôi lại gây họa rồi. Người nắm chặt cổ tay tôi, kéo tôi ra khỏi phòng bao riêng là Trương Tuấn. Bên cạnh là cô bạn gái làm nghề nuôi dạy trẻ của cậu ấy. Cậu ấy đã cứu tôi lần này, thế mà tôi lại không biết điều, trừng mắt nhìn và hất tay cậu ấy ra. Trương Tuấn hỏi với giọng lạnh như băng: “Cậu định làm gì?” Tôi hỏi: “Cát Hiểu Phi đang ở đâu?” Trương Tuấn nói: “Không ở đây.” Bạn gái của Trương Tuấn liền nói xen vào: “Cát Hiểu Phi? Có phải cô gái tự nhận mình là Trần Phi Nhi không?” Tôi quay sang nhìn cô ta, cô ta cười chỉ sang một phòng bao khác: “Ở bên kia kìa.” Tôi lao về phía ấy, nhìn thấy Hiểu Phi và một đám thanh niên nam nữ đang chen chúc trong phòng. Nói “chen chúc” thật chẳng quá lời chút nào. Chiếc ghế sofa vốn chỉ ngồi được khoảng bảy, tám người, giờ có tới hơn mười người đang chen nhau ngồi trên đó, con trai, con gái ôm bám lẫn nhau. Người hút thuốc, kẻ uống rượu, dưới ánh đèn mờ ảo, đám con gái trang điểm nhìn giống hệt nhau. Tôi không dám tin vào những gì mà mắt mình đang nhìn thấy. Tim nhói đau, len vào giữa họ, kéo tay Hiểu Phi, không biết là Hiểu Phi do uống say hay đã ăn thứ gì đó không nên ăn mà cười ngờ nghệch. Tôi kéo cô ấy, cô ấy còn tức giận hất tay tôi ra. Những kẻ ngồi bên cạnh cô ấy phá lên cười, nhiều kẻ không kiên nhẫn được nữa quay sang chửi và đuổi tôi: “Cút ngay!” “Muốn ăn đòn à!” Tôi không nói gì, cố gắng kéo Hiểu Phi đứng dậy. Tên con trai ngồi cạnh Hiểu Phi tức giận, đứng dậy định đánh tôi. Trương Tuấn lúc ấy đang đứng đằng sau tôi nói: “Để cô ấy đi!” Tên kia lại ngồi xuống, tôi vừa ôm vừa kéo Hiểu Phi ra ngoài, cô ấy nằm trong vòng tay tôi nhưng không ngớt la hét ầm ĩ, làm kinh động tới mấy tay bảo vệ vũ trường. Cũng may, chị quản lý đã từng gặp tôi, nên đám bảo vệ đó mới không gây khó dễ gì nữa. Chị quản lý giúp tôi kéo Hiểu Phi sang một bên, Hiểu Phi nằm trên ghế sofa, cười một cách ngốc nghếch.
Tôi nhìn cô ấy, không biết nên làm thế nào bây giờ, sao cô ấy lại thành ra thế này chứ? Bím tóc đó, kiểu tóc đó, giống hệt như Trần Phi Nhi trong phim, nhưng cô ấy đâu có được sự trong sáng thuần khiết của Trần Phi Nhi, đâu có được tinh thần tích cực của Trần Phi Nhi khi gặp hoạn nạn, khó khăn? Tôi hỏi chị quản lý: “Cô ấy chỉ uống say thôi, hay là…” Chị quản lý cúi người xuống quan sát kỹ, rồi nói với tôi: “Say thôi, không uống thuốc linh tinh đâu.” Tôi cũng yên tâm phần nào, hỏi tiếp: “Vương Chinh đâu ạ?” Chị quản lý liếc mắt nhìn đồng hồ: “Chưa đến ca của cậu ấy, nhưng cũng sắp rồi.” “Vương Chinh có bạn gái chưa ạ?” “Tất cả những khách nữ đến vũ trường của chúng tôi đều thích Vương Chinh.” Câu trả lời của chị quản lý rất khéo léo, có điều, tôi không cho chị ta cơ hội giở trò ma mãnh đó, chỉ thẳng vào Hiểu Phi hỏi: “Anh ta đối với cô gái này thế nào? Có bắt nạt cô ấy không?” Chị ta do dự. Tôi nói: “Nếu Tiểu Ba đứng ở đây và hỏi chị, chị cũng sẽ ấp a ấp úng như thế à?” Chị ta lập tức nói: “Bình thường, thậm chí còn có vẻ khó chịu, chán ghét hơn đối với những người khác.” Tôi nghịch cây nến đang cháy trên bàn, những giọt sáp nến chảy xuống tay, tôi không những không lau đi mà còn khẽ nghiêng cây nến, chăm chú nhìn từng giọt sáp nhỏ vào lòng bàn tay mình. Chị quản lý ngồi xuống cạnh tôi, nở nụ cười thận trọng, nói: “Vương Chinh không phải là người xấu, con gái thích cậu ta rất nhiều, nhưng cậu ta chưa bao giờ lợi dụng tình cảm của những cô gái đó để trục lợi cá nhân. Tôi cảm thấy… tôi cảm thấy cậu ấy cư xử tồi tệ với cô gái này, là vì muốn tốt cho cô ấy thôi. Tôi nghe người trong ban nhạc thì thầm với nhau rằng, Vương Chinh đang tiết kiệm tiền, cậu ta muốn đến Quảng Châu, ở đó có rất nhiều người thích âm nhạc giống cậu ta, sẽ có công ty ra album nhạc cho họ.” Tôi sững lại, lặng thinh nhìn những giọt sáp nến rơi vào lòng bàn tay mình, chị quản lý nói khẽ: “Tôi phải đi làm việc thôi, mấy phút nữa sẽ đến ca của Vương Chinh, em muốn uống gì không?” “Không cần đâu ạ.” Một cô gái tết tóc hai bên đứng trên sân khấu hát bài Không nên hái hoa dại bên đường. Phong thái biểu diễn của cô ấy rất vui nhộn khiến đám khán giả ngồi dưới cũng phải ồ lên cười theo.
Khi cô ấy hát xong, không khí trong vũ trường trở nên tĩnh lặng lạ thường, những người lớn tuổi một chút bắt đầu lục tục bỏ về, càng lúc càng nhiều đôi nam nữ thanh niên ôm nhau đi ra giữa sàn nhảy. Tôi đang chăm chú theo dõi những cặp đôi nhảy trên sàn bỗng nghe thấy tiếng ghi ta điện tử vang lên, phá vỡ không gian tĩnh lặng. Trong tiếng trống đập bing bing bang bang, thứ âm thanh chát chúa của nhạc Rock hoàn toàn khác với những âm thanh dịu dàng, mềm mại vừa rồi. Cả vũ trường đang nguội lạnh, uể oải như ông già đột nhiên trở nên sôi nổi, mạnh mẽ như chàng thanh niên tràn đầy nhiệt huyết. “Trong biển người đông như nước triều dâng có em có tôi. Gặp gỡ nhau, quen biết nhau, giày vò nhau. Trong biển người đông như nước triều dâng là em là tôi. Vờ đứng đắn, vờ nghiêm túc, khuôn mặt luôn nở nụ cười thật tươi. Không cần phải giải thích nhiều, tự mình đã rõ. Em anh chúng ta đang nghĩ, đang muốn làm gì. Không cần phải để ý quá nhiều, không cần phải buồn phiền. Sẽ có ngày em hiểu anh. Trong biển người đông như nước triều dâng lại nhìn thấy em. Vẫn xinh đẹp, vẫn hấp dẫn như thế. Từ từ thả lỏng, từ từ vứt bỏ. Vẫn không hề bận tâm như thế. Không còn tin vào đạo lý, bất kỳ đạo lý nào nữa. Loài người đã lạnh lùng như thế. Không cần phải nhớ lại, nhớ lại điều gì trong quá khứ. Tôi bây giờ không còn là tôi của ngày xưa nữa. Người đã từng cảm thấy cô đơn, cảm thấy bị người khác vứt bỏ. Nhưng chưa bao giờ tôi thấy cô đơn không chốn dung thân”.(1) Đám thanh niên trên sàn nhảy đều rất kích động, vừa giơ tay lên đung đưa theo, vừa gào lên hát cùng với ban nhạc, dường như tất cả mọi sự đè nén đến bây giờ mới được giải tỏa. Tôi nhìn tay trống của ban nhạc, một thanh niên anh tuấn mặc quần da bó sát màu đen, áo sơ mi trắng đang tập trung tinh thần trước bộ gõ của mình. Ánh mắt nhìn xuống, vẻ mặt lạnh lùng, như không hề biết đến sự náo động bên dưới, chỉ chìm đắm trong thế giới riêng của mình, mái tóc dài cũng hất lên hất xuống theo từng động tác lắc lư mạnh mẽ của cơ thể, cộng thêm vẻ mặt điềm tĩnh, lạnh lùng của anh ta, tạo thành một ma lực vô cùng mới mẻ, cuốn hút. Vẻ ngang tàng, khác người, mãnh liệt, thiêu đốt, lại không màng gì đến thế giới xung quanh như thế, vẻ lạnh lùng tàn nhẫn đến mức gần như lãnh đạm đó, thật sự khiến người ta khó có thể rời mắt, chẳng trách những cô gái đến đây đều phát cuồng vì anh ta. Trong tiếng nhạc, thoáng chốc, tôi dường như đã nhìn thấu được con người của Vương Chinh, ngoài thứ bản thân quan tâm ra, đối với anh ta, tất cả những thứ khác đều không tồn tại. Chẳng trách Hiểu Phi thích anh ta, anh ta thật giống hệt như Hiểu Phi! Không quan tâm tới mọi người xung quanh, chỉ sống theo ý mình, nhưng người mà Hiểu Phi quan tâm là anh ta, còn anh ta lại chỉ quan tâm tới âm nhạc của mình. Tôi quay đầu lại, thấy Hiểu Phi đã không còn ngồi ở ghế sofa nữa, tôi vội vàng len vào giữa sàn để tìm cô ấy. Nhìn Vương Chinh trên sân khấu, lòng tôi thấp thỏm, bất an, rút cục thì Hiểu Phi thích anh ta nhiều đến mức nào? Sau ca khúc đó, ban nhạc chuyển sang chơi bài Tay trắng: “Tôi đã từng hỏi, bao giờ em sẽ đi cùng tôi, nhưng em luôn cười tôi tay trắng…”
Đám người trên sàn càng điên cuồng, nam nữ thanh niên gào thét tới lạc cả giọng, kẻ chưa bao giờ tiếp xúc với Rock như tôi lần đầu tiên biết thế nào là ma lực của nó. Khó khăn lắm tôi mới đi xuyên qua được đám người đang cuồng loạn ấy để tìm Hiểu Phi, cuối cùng tôi cũng đã nhìn thấy cô ấy. Cô ấy đang loạng choạng trèo lên sân khấu, dường như muốn giữ chặt lấy Vương Chinh. Gã con trai vừa rồi ôm cô ấy lại xuất hiện, đi lên ôm cô ấy lại. Hiểu Phi muốn đẩy hắn ta ra, đẩy mấy lần, cuối cùng cũng thành công, đang định đi lại bị hắn ta kéo ngã vào lòng. Hiểu Phi quay lại cho hắn ta một cái tát, hắn ta cũng không hề khách khí, dang tay tát trả. Trong tiếng nhạc chát chúa đinh tai nhức óc, mọi người vẫn đang điên cuồng, không ai để ý tới sự hỗn loạn ở một góc của sàn nhảy. Trên sân khấu, Vương Chinh ngồi sau dàn trống nhìn thấy tất cả những gì đang xảy ra bên dưới, nhưng không hề động lòng, chỉ lạnh lùng chơi trống. Cuối cùng tôi cũng len được lên trước sân khấu, tên con trai kia vẫn muốn ôm Hiểu Phi. Lần này, không đợi Hiểu Phi ra tay, tôi dang tay tát thẳng vào mặt hắn, hắn sững sờ, rồi bỗng nổi điên, định lao vào đánh tôi. Tôi tiện tay vớ lấy một cái đèn ống thép bên cạnh sân khấu, đang nghĩ xem có nên dùng nó vụt thẳng vào đầu hắn hay không, thì thấy hắn khựng lại, mấy tên đồng bọn của hắn vây quanh, nhìn tôi cười nham nhở. Bởi vì chỗ này là góc sân khấu, ngay cạnh đấy là những chiếc bàn, trên bàn vẫn còn rượu và đồ uống chưa uống hết của khách, trong tích tắc nhìn thấy những thứ ấy, trong đầu tôi lóe lên một suy nghĩ vô cùng độc ác. Nếu tôi đột ngột hắt rượu vào người chúng, rồi dứt đám dây điện trong chiếc đèn ống này ra ném lên người chúng, thì không biết chuyện gì sẽ xảy ra, trong sách nói chất lỏng chứa tạp chất có thể dẫn điện là đúng hay sai? Có điều Trương Tuấn và Tiểu Ba đã không để tôi có cơ hội thực hành thí nghiệm mới manh nha trong đầu đó. Hai người bọn họ, một người đứng chắn trước đám thanh niên kia, một người đứng chắn trước mặt tôi. Mặt Tiểu Ba đanh lại, giật phắt lấy chiếc đèn trong tay tôi, lôi tôi ra ngoài, người đi theo anh ấy áp giải Hiểu Phi. Anh Lý đang đợi chúng tôi trong văn phòng, nhìn thấy tôi, cười tít mắt hỏi: “Nữ thổ phỉ, em định một mình đối phó thế nào với mấy thằng đàn ông?” Tôi không nói gì. Anh trừng mắt với tôi, quay sang nhìn Hiểu Phi lúc này đã tỉnh táo lại phần nào, nói: “Lại vì Vương Chinh hả! Mẹ kiếp, thật phiền chết đi được! Gọi Vương Chinh vào đây ngay!” Khi Vương Chinh đi vào, nhìn thấy đám chúng tôi trong phòng, giống như bồi thẩm đoàn trong phiên tòa chuẩn bị được xét xử, nhưng sắc mặt anh ta không hề biến đổi, bình thản vô cùng. Anh Lý nói: “Cô bé này là bạn của em gái chúng tôi, hôm nay vì cậu mà đã gây gổ khiến em gái chúng tôi suýt nữa thì va chạm với người của Tiểu Lục, ngay bây giờ, tại đây, cậu hãy nói cho rõ ràng mọi chuyện đi, sau này tôi không muốn nhìn thấy cô bé trong vũ trường nữa.”
Tôi định ngăn lại, song chợt nghĩ, cách làm của anh Lý có vẻ tàn nhẫn nhưng lại là cách chấm dứt mọi rắc rối nhanh nhất. Hiểu Phi nhìn thấy Vương Chinh, vội chỉnh sửa lại đầu tóc, quệt nước mắt, vừa như chua xót bàng hoàng, lại vừa như vui mừng cuống quýt. Vương Chinh bước đến trước mặt Hiểu Phi, nhìn thẳng vào mắt cô ấy, nói rành rọt: “Anh biết là em thích anh, nhưng anh không thích em. Trước kia anh không nói ra, là vì nghĩ em vẫn còn nhỏ, nên coi em như em gái, hy vọng dần dần em sẽ hiểu, nhưng bây giờ em liên tục quấy rối khiến anh không thể yên tâm làm việc, khiến anh cảm thấy vô cùng chán ghét em, em có thể biến mất khỏi tầm mắt của anh để anh được chuyên tâm với công việc của mình không?” Nói xong, anh ta quay sang anh Lý: “Được chưa?” Anh Lý gật đầu, Vương Chinh quay người bỏ đi. Không dám tin vào những gì mình vừa nghe thấy, sắc mặt Hiểu Phi trắng bệch, vẫn nhìn chăm chăm theo bóng của Vương Chinh, gào lên: “Vương Chinh, anh Vương Chinh…” Vương Chinh vẫn phớt lờ cô ấy, nhanh chóng biến mất ngoài hành lang. Nếu như lúc ấy Hiểu Phi òa lên khóc thì tôi lại còn cảm thấy yên tâm đôi chút, nhưng cô ấy thẫn thờ nhìn ra bên ngoài, như người mất hồn. Tôi chưa bao giờ thấy Hiểu Phi như thế, lo lắng gọi: “Hiểu Phi!” Hiểu Phi đột nhiên gào lên: “Đều tại cậu, ai bảo cậu nhiều chuyện như vậy hả, ai bảo cậu đi lo việc của người khác chứ?” Cô ấy vừa hét vừa lao ra ngoài, tôi định đuổi theo thì Tiểu Ba giữ tôi lại, quay sang dặn dò một người đang đứng cạnh cửa, “Đi xem thế nào, đưa cô bé về nhà an toàn.” Từ nhỏ tới lớn, có lẽ Hiểu Phi chưa bao giờ gặp thất bại, hôm nay lại bị người con trai mà mình thích từ chối, nói những lời tàn nhẫn ngay trước mặt mọi người, tâm trạng lúc này của cô ấy, tôi hoàn toàn có thể hiểu được. Nghe thấy Tiểu Ba căn dặn đàn em đi theo cô ấy, tôi cũng quyết định không làm phiền cô ấy nữa, để cô ấy được yên tĩnh một mình. Anh Lý thấy trong phòng giờ chỉ còn lại ba người chúng tôi, đứng dậy đóng cửa, hỏi Tiểu Ba: “Cô bé này tính cách sao hung hăng thế? Năm đó nhìn thấy cậu đánh nhau, anh đã nghĩ cậu hung hăng nhất rồi, cô ấy còn hung hăng hơn cả cậu nữa!” Tiểu Ba nhìn tôi: “Vừa rồi em có chắc chắn là sẽ đánh lại được bọn chúng không?” “Không.” “Vậy mà anh thấy em chẳng sợ hãi chút nào thế, em cũng phải biết suy nghĩ chứ, em không cho rằng đám bảo vệ sẽ giúp em đánh lại khách hàng đấy chứ?” “Trong tay em có đèn, trên bàn bên cạnh có rượu.” Anh Lý nghe không hiểu tôi đang nói gì, nhưng Tiểu Ba thì hiểu ngay. Anh ấy đột ngột vung tay lên, định đánh tôi, nhưng khi bàn tay sắp tát vào mặt tôi, lại sượng sùng kìm xuống, định thu tay về, nhưng có lẽ đã hơi muộn, đúng lúc theo phản xạ, tôi xoay người
định tránh, anh ấy đã giáng cả bàn tay vào vai tôi. Cú đánh đó khiến tôi loạng choạng giật lùi về phía sau mấy bước, suýt chút nữa thì ngã nhào xuống đất. Anh Lý thất kinh, mặt thoáng biến sắc, vội vàng nói đỡ cho Tiểu Ba: “Kỳ Kỳ, mấy năm nay Tiểu Ba chưa tức giận như thế bao giờ, chỉ là xúc động nhất thời thôi, em đừng giận cậu ta…” Tiểu Ba mặt lạnh tanh nói: “Em không xúc động, đúng là em muốn đánh nó.” Thật kỳ lạ, Tiểu Ba muốn đánh tôi, trong lòng tôi vừa giận lại vừa thấy rất ấm áp. Tôi bắt đầu cho rằng cấu tạo bộ não của mình có lẽ không giống với người thường. Bên ngoài có người gõ cửa: “Anh Lý, có người hít trong vũ trường.” Sắc mặt anh Lý lập tức xanh lét, vội chạy ra ngoài, với lại dặn Tiểu Ba: “Nhóc con này giao cho cậu đấy.” Trong phòng chỉ còn lại tôi và Tiểu Ba, cả hai chúng tôi đều im lặng. Rất lâu sau đó, Tiểu Ba hỏi: “Kỳ Kỳ, em còn muốn nói chuyện với anh không?” Tôi cúi đầu không đáp. Đột nhiên trên nét mặt anh ấy lộ vẻ đau buồn, định nói gì đấy nhưng rồi lại thôi, tôi cắn cắn môi, nộp vũ khí đầu hàng: “Câu hỏi của anh đúng là quá ngốc. Nếu như em trả lời anh chẳng phải là đã nói chuyện với anh sao? Nhưng giờ em đang giận, anh phải dỗ dành em chứ. Tiểu Ba, anh ngốc như thế, sau này làm sao dỗ bạn gái đây?” “Em còn giận không?” Tôi trừng mắt nhìn anh: “Vớ vẩn! Anh thử để người khác đánh một lần xem, đương nhiên là em giận rồi! Có điều, nếu em có anh trai, anh trai đánh em, dù em có giận, cũng không thể giận cả đời, phải không?” Anh ấy cười, bóp vai tôi: “Có đau không?” “Có.” Tôi ngồi xuống chiếc ghế da của anh Lý, để Tiểu Ba bóp vai cho mình. Anh ấy vừa bóp vai cho tôi vừa nói: “Hồi anh còn nhỏ, tính khí rất giống em, khi đánh nhau với người ta, tức lên, ra tay không quan tâm tới mức độ nặng nhẹ, nhặt ngay hòn đá, ném thẳng vào đầu đối phương, suýt thì gây án mạng, cũng may gặp được anh Lý. Anh ấy phải bỏ ra rất nhiều tiền, mới giúp anh dẹp yên được vụ đó.” “Vì chuyện gì?” “Tuổi trẻ dễ kích động, vì một chuyện mà khi ấy anh cho là rất quan trọng, thực ra là chuyện chẳng đáng gì, em thử suy nghĩ xem, nếu ngày ấy anh gây ra án mạng thì sao?” “Thì em sẽ không quen được anh.”
Tiểu Ba phì cười, biết tôi né tránh trả lời câu hỏi, nhưng cũng không bóc mẽ tôi, chỉ nói: “Kỳ Kỳ, khi trẻ người ta có thể phạm rất nhiều sai lầm, và đều có cơ hội để sửa chữa, nhưng có những sai lầm không được mắc phải, nếu mắc rồi, sẽ không có đường quay lại đâu.” Tôi im lặng không đáp, Tiểu Ba ngồi lên bàn của anh Lý, hai tay chống lên tai ghế, nghiêng người về phía trước, nhìn thẳng vào tôi: “Từ nhỏ chúng ta đã không giống với những đứa trẻ khác, cuộc sống của những đứa trẻ đó có tiếng cười vui vẻ và tình yêu thương, nên chúng có những cảm xúc như sợ hãi, nhớ nhung, nhưng chúng ta thì không, với thế giới, với bản thân, chúng ta chỉ có sự bi quan, tuyệt vọng, trong tiềm thức của chúng ta cho rằng phải sống là một việc vô cùng khổ sổ, nhưng điều này không đúng, chính vì số mệnh cho chúng ta quá ít, nên chúng ta càng phải học cách yêu thương, trân trọng bản thân mình. Em nghĩ rằng anh tức giận vì em muốn giết chết ba tên đốn mạt kia sao? Nếu như không có pháp luật, em muốn giết chúng, anh sẽ tìm dao cho em.” “Vậy… vậy anh tức giận chuyện gì?” “Anh giận là vì, em định hủy hoại chính mình chỉ vì ba tên rác rưởi đó, lẽ nào em không coi trọng bản thân mình chút nào sao?” Nước mắt tôi ầng ậc nơi khóe mắt, nhưng lại không muốn anh ấy nhìn thấy. Tôi quay đầu đi, anh ấy hiểu ý đứng thẳng người dậy, nhìn ra chỗ khác: “Hồi nhỏ, chúng ta còn yếu đuối, vì muốn chống lại những sự ức hiếp đến từ thế giới bên ngoài mà phải liều mạng, bất chấp tất cả, nhưng giờ chúng ta đã lớn cả rồi, cần phải học dùng cách khác nhau để xử lý những mâu thuẫn trong cuộc sống.” Tôi len lén quệt nước mắt, cười nói: “Lần sau em sẽ học cách khống chế cảm xúc của mình.” Tiểu Ba mỉm cười nói: “Thế giới bên ngoài rất rộng lớn, cần phải bay ra đó để ngắm nhìn một lần mới không uổng phí vì đã sống, đừng để đôi cánh của mình bị thương quá sớm.” Tôi lơ mơ không hiểu, bay đi đâu? Phải nhìn cái gì? Tiểu Ba đột nhiên hỏi: “Kỳ Kỳ, sau này em muốn làm gì?” Ngoài bài tập trên lớp phải viết về “ước mơ của tôi”, chưa có ai hỏi tôi câu hỏi này bao giờ, tôi cau mày suy nghĩ một lúc, nói: “Em không biết nữa, hồi nhỏ em chỉ mong lớn lên rồi được về ở với ông ngoại, nhưng giờ ông ngoại đã mất rồi.” “Đại học thì sao?” “Vào được đại học hay không cũng chẳng phải vấn đề gì lớn lắm, em không đam mê đại học, vào trường kỹ thuật cũng tốt mà, bên cạnh nhà em có một chị làm ở nhà máy thủy điện, hằng ngày đến nhà máy chỉ nhìn máy móc thôi mà cũng kiếm được tiền, mười bảy tuổi đã có thể tự nuôi bản thân, nếu em được như chị ấy, thì tốt biết bao.” Tiểu Ba không ngờ tôi lại có ý tưởng vĩ đại sẽ đi làm công nhân trong nhà máy thủy điện vào năm mười bảy tuổi để kiếm tiền nuôi thân, anh cố nhịn cười, hỏi: “Ngày nào cũng
nhìn mấy loại đồng hồ đo đạc đó, em không sợ sẽ buồn chán sao? Có việc gì mà em thích làm không?” “Ờ… ờ… em thích đọc sách, có thể em sẽ mở một cửa hàng sách, vừa được đọc sách mỗi ngày lại vừa kiếm được tiền.” Tôi bắt đầu hào hứng, nói tiếp: “Anh kinh doanh, Hiểu Phi đi làm, chúng ta có thể gặp nhau vào cuối tuần, cùng chơi bài, ăn thịt dê xiên nướng, uống bia.” Tôi chỉ vào anh: “Anh Grandet(2) như thế, sau này nhất định là người giàu có, không được khinh hèn yêu sang đâu đấy.” Tiểu Ba phá lên cười: “Được, anh mời!” Tôi cũng cười theo anh, vừa có cảm giác vui vẻ lại vừa cảm thấy yên tâm. Tiểu Ba nhìn đồng hồ, nói: “Anh đưa em về!” Chúng tôi vai kề vai đi ra ngoài. Dù đã gần nửa đêm, nhưng trong vũ trường vẫn rất đông vui, náo nhiệt. Tôi hỏi: “Bố trí ở đây đều là ý của anh phải không?” “Ừ.” Trương Tuấn và bạn gái cậu ấy đang ngồi với nhau, nhưng nhìn Trương Tuấn như đang có tâm trạng gì đó, đối phương nói năm câu, cậu ấy mới trả lời một câu. Cô bạn gái vừa lắc lắc cánh tay cậu ấy vừa nói chuyện, mắt nhìn về phía sàn nhảy, như đang muốn nài nỉ cậu ấy mời mình ra nhảy. Sự chua xót trong trái tim tôi trào dâng hết đợt này đến đợt khác, nhưng lại không thể rời ánh mắt khỏi họ, thật đúng là tự làm khổ mình! Trương Tuấn chợt đứng bật dậy, trái tim tôi cũng nhảy thót một cái, rồi lập tức nhận ra là cậu ấy đang nhìn Tiểu Ba, Tiểu Ba cũng lên tiếng chào: “Vừa rồi thật cảm ơn cậu quá!” Cậu ấy khách sáo đáp lại: “Là lỗi của bọn em, gây sự ở ngay địa bàn của anh Lý và anh Tiểu Ba.” Tiểu Ba vẫy tay về phía chị quản lý, gọi chị ta tới, mỉm cười dặn dò: “Tiền rượu ở bàn này tính vào phần của tôi.” Trương Tuấn cũng không từ chối, chỉ nói: “Cảm ơn anh Tiểu Ba.” Bạn gái Trương Tuấn tiếp lời: “Anh Tiểu Ba có bận gì không? Mọi người cùng ngồi đây chơi luôn đi.” Tôi không kìm được sự khinh khi, lên tiếng chế giễu: “Tiểu Ba nhỏ tuổi hơn chị, anh ấy nên gọi chị là chị, sao chị lại gọi Tiểu Ba là anh được?” Khuôn mặt bạn gái Trương Tuấn đỏ bừng lên, chực khóc, xem ra cô ta vẫn trăn trở về việc mình hơn tuổi Trương Tuấn.
Tiểu Ba nhìn tôi một cái, định nói vài câu để xoa dịu bầu không khí. Trương Tuấn từ nãy đến giờ vẫn luôn tỏ ra bình thản, bất chợt cười nói: “Cô ấy là bạn gái của tôi, tôi lại gọi Tiểu Ba là anh, đương nhiên cô ấy phải gọi theo tôi rồi.” Cô gái đó liền tươi tỉnh trở lại, lần này tới lượt tôi nghẹt thở, có điều, tôi cũng không phụ công rèn luyện của thầy Chậu Của Cải và cô Tằng Hồng, cơn ghen trong lòng có khi sánh ngang bằng với mấy liễn dấm lâu năm của Sơn Đông rồi, thậm chí còn là loại dấm Sơn Đông lâu năm có thêm cả rễ cây hoàng liên, nhưng ngoài mặt lại cười tươi như gió xuân, thân mật khoác tay Tiểu Ba: “Chúng ta đi thôi!” Tiểu Ba quay sang chào Trương Tuấn: “Phiền hai người rồi, chúng tôi đi trước.” Ra khỏi vũ trường, tôi hỏi Tiểu Ba: “Anh thấy cô gái vừa rồi có xinh không?” Tiểu Ba hỏi lại: “Ai cơ? Trong vũ trường chỗ nào chẳng có con gái.” “Bạn gái của Trương Tuấn ấy.” “Anh cũng không để ý. Em ghét cô ta lắm à? Sao vừa rồi lại ăn nói cay nghiệt thế? Trương Tuấn mặc dù đi theo đám Tiểu Lục, nhưng tính khí cậu ta không giống bọn chúng, chuyện tối nay, em phải cảm ơn cậu ấy mới đúng.” Tôi tức tối, thôi đi! Hỏi xinh hay không xinh thì làm được gì, dù sao cũng xinh hơn tôi là được rồi, tôi nửa đùa nửa thật nói: “Là do ban đầu cô ta nói xấu Hiểu Phi, em thấy khó chịu, bản thân cô ta cũng phải loại đàng hoàng gì đâu, có tư cách gì mà đánh giá Hiểu Phi chứ?” Tiểu Ba thở dài, rồi cười. Gần đến khu nhà tôi, tôi vẫy tay chào anh: “Anh đừng tiễn nữa, dưới khu nhà em có mấy mụ đàn bà lắm điều lắm.” Anh dừng bước, tôi chạy về nhà. Buổi tối, nằm trên giường, nghĩ đến Hiểu Phi, lại nghĩ đến mình, số phận của chúng tôi khác nhau, nhưng lại như rất giống nhau, người mà chúng tôi yêu đều không yêu chúng tôi, người mà cô ấy yêu lại yêu sự cô đơn, lạnh lẽo của âm nhạc, người mà tôi yêu lại yêu sự nhộn nhịp đầy cám dỗ của cuộc đời, ai may mắn hơn ai đây?
2. Đau lòng cũng rất phức tạp Trong truyền thuyết, cá chép muốn vượt long môn, phải lột bỏ vẩy cá, chặt gãy vây cá, mới có thể hóa rồng. Trong truyền thuyết, con chim phải tự thiêu mình, chịu muôn vàn sự giày vò đau đớn của ngọn lửa, mới có thể hóa thành phượng hoàng. Lẽ nào tuổi thanh xuân cũng phải trải qua sự đau khổ ngu muội, mới có thể có được sự chín chắn hay sao? Sau khi Vương Chinh nói rõ rằng mình không thích Hiểu Phi, Hiểu Phi không còn đến vũ trường nữa.
Nhìn thì có vẻ như cô ấy vẫn giống với trước kia, vẫn cười nói vui vẻ, như không còn nhớ Vương Chinh là ai nữa, nhưng cô ấy đã không còn là cô ấy. Mỗi lần mặc quần áo, chải đầu xong đều hỏi tôi: “Đẹp không?” Hết lần này đến lần khác, cứ như việc cô ấy có đẹp hay không đẹp là do người khác quyết định vậy. Hiểu Phi cũng không còn từ chối những lời mời hẹn hò của đám con trai nữa. Cô ấy thích đi chơi với những cậu bạn tiếng tăm nhất nhì trong trường. Nhưng chỉ đi vài lần, cô ấy lại chán, lại phớt lờ đối phương, đổi sang người khác. Hiểu Phi trở thành cô gái thích chơi bời nhất trong khối chúng tôi. Trong mắt những bạn gái khác, cô ấy thay bạn trai còn nhanh hơn thay áo, nếu đổi là con trai, thì các bạn gái sẽ biện giải giúp họ rằng “đàn ông không hư, đàn bà không yêu”, nhưng đối với Hiểu Phi, bọn họ không tiếc những từ ngữ độc ác nhất để công kích sau lưng cô ấy. Đối với những người xinh đẹp hơn mình, đám con gái bao giờ cũng tỏ ra ghen tức, đối địch, chẳng có chuyện gì còn thỉnh thoảng bới ra để nói, huống hồ Hiểu Phi thực sự chơi quá ngông. Tôi chỉ còn biết đứng nhìn sự thay đổi của Hiểu Phi, mặc dù đau lòng, nhưng cũng chẳng có cách nào khác, bởi vì tôi biết mình không thể ngăn cản được cô ấy. Nếu tôi nói quá nhiều, lựa chọn của cô ấy không phải là nghe lời tôi, mà là xa lánh tôi. Tôi chỉ có thể đối xử với Hiểu Phi như với những đứa trẻ đang ở tuổi nổi loạn, kiên trì, lặng lẽ ở bên cô ấy, hy vọng những ngày tháng mê loạn ngông cuồng này sớm qua đi, đợi sau khi cô ấy bình tâm lại rồi, cô ấy sẽ hiểu ra rằng Vương Chinh từ chối cô ấy không có nghĩa là tất cả mọi người đều từ chối cô ấy, cô ấy có đẹp hay không thì phải xuất phát từ nội tâm của chính mình, chứ không phải là do người khác phán. Tôi dùng tình bạn của mình và Hiểu Phi để can thiệp vào những quyết định của cô ấy, nhưng tôi bài trừ tất cả những tên con trai học trường kỹ thuật và ăn chơi trác táng, cố gắng khoanh vùng những người mà cô ấy tiếp xúc trong trường trung học. Tôi nghĩ rằng, bọn họ dù sao cũng vẫn còn ngây thơ, thuần khiết, Hiểu Phi chơi với họ, tất nhiên sẽ có những trò chơi ám muội của đám con trai, con gái, nhưng sẽ không xảy ra chuyện gì quá lớn. Có điều, thật có lỗi với họ, vì tôi đã mang họ ra làm bia đỡ đạn cho Hiểu Phi. Thời gian ấy, tôi sống trong sự hỗn loạn, một mặt là thế giới tình yêu mơ mộng trong tiểu thuyết ngôn tình, một mặt là sự tàn nhẫn của hiện thực, tôi không có được tình yêu của hoàng tử mà mình ngưỡng mộ, thì còn có thể hiểu được, nhưng Hiểu Phi thì sao? Cô ấy xinh đẹp, thông minh, nhiệt tình, lương thiện, nhưng hoàng tử của cô ấy thậm chí còn không cả thèm nhìn cô ấy lấy một cái. Tôi bắt đầu hoang mang. Trên thế giới này có cái thứ gọi là tình yêu đó không? Con gái chúng tôi có thật là có thể hy vọng trên thế giới này sẽ có một người con trai toàn tâm toàn ý yêu mình, thương mình không? Hoang mang thì hoang mang, tôi vẫn thích đọc tiểu thuyết tình cảm, tiếp tục chăm chỉ đọc tiểu thuyết tình cảm hơn, đi ra từ giấc mơ này lại bước vào một giấc mơ khác. Cuộc sống hiện thực quá khô cằn, chỉ có những giấc mơ do những cuốn tiểu thuyết tình cảm dệt nên mới có thể thêm chút màu sắc cho cuộc sống khô cằn này. Giữa đau đớn và băn khoăn của quá trình trưởng thành, học kỳ một năm lớp 8 kết thúc. Kết quả thi cuối kỳ, những người khác đều không có thay đổi, riêng Hiểu Phi xếp thứ tư
trong lớp. Đối với người khác, đây vẫn là một thành tích khá tốt, nhưng với Hiểu Phi, đây là thành tích kém nhất trong lịch sử thành tích từ xưa tới nay của cô ấy. Hiểu Phi chẳng buồn bận tâm, không những không chỉnh đốn lại bản thân mà thậm chí vì được nghỉ đông nên càng chơi ngông cuồng hơn. Cô ấy có ý né tránh những nơi liên quan đến tôi, vừa là muốn tránh mặt Vương Chinh, vừa là muốn thoát khỏi sự kìm cặp của tôi, nhưng làm sao tôi có thể bỏ mặc cô ấy được? Một lần, khi Hiểu Phi uống say, đang ngất ngư trong quán karaoke của người khác, tôi đến đón cô ấy, cô ấy lao vào ôm lấy tôi mà khóc. Trái tim cô ấy đau đớn tới cùng cực, tôi chẳng biết phải làm gì, chỉ có thể vỗ vỗ lưng bạn, vừa nói: “Sẽ qua thôi, tất cả mọi nỗi đau đều không thể chọi với thời gian, rồi sẽ có ngày, cậu quên được anh ta”. Nhưng mặc dù miệng nói vậy, chính bản thân tôi cũng không thấy chắc chắn, thật thế ư? Chúng tôi thật sự sẽ có ngày quên được người mình đã từng yêu ư? Đang định dìu Hiểu Phi ra ngoài thì lại nghe thấy có tiếng ai đó khóc trong góc quán, giọng rất quen. Tôi quay đầu lại nhìn, thì ra là bạn gái của Trương Tuấn. Hiểu Phi vì Vương Chinh mà đau lòng, còn cô ta vì ai mà đau lòng tới mức này chứ? Tôi muốn đi, nhưng thấy cô ta thân gái một mình, lại đang say ngất ngư như thế, thấy không yên tâm, đành dìu cả cô ta và Hiểu Phi ra ngoài. Bộ dạng Hiểu Phi thế này, tôi không dám đưa thẳng cô ấy về nhà; bạn gái của Trương Tuấn, tôi không biết cô ta ở đâu, đành gọi một chiếc taxi, đến chỗ Tiểu Ba trước đã. Ô Tặc cho người đi tìm Trương Tuấn đến đón bạn gái, còn tôi rót trà đặc cho Hiểu Phi uống. Khi Trương Tuấn đến, bạn gái của cậu ấy đã say tới bất tỉnh nhân sự rồi. Ô Tặc lên tiếng chào cậu ấy, Trương Tuấn khách khí nói: “Thật phiền anh rồi”. Ô Tặc chỉ vào tôi: “Là Gấu Trúc Bốn Mắt tự nhiên nổi hứng mỗi ngày làm một việc thiện đấy chứ, không liên quan gì đến tôi.” Trương Tuấn quét mắt nhìn tôi, không nói gì, đỡ bạn gái dậy rồi đi ra ngoài. Tôi nhìn theo bóng cậu ấy, rất muốn cầm quả táo trong tay ném cho cậu ấy ngất xỉu. Ô Tặc rùng mình: “Gấu Trúc Bốn Mắt, nếu em đã ghét Trương Tuấn như thế, sao còn giúp bạn gái cậu ta?” Tôi cười ngọt ngào: “Ai nói em ghét cậu ta?” Rồi đứng dậy ra chỗ Hiểu Phi. Ô Tặc vẫn còn lải nhải phía sau: “Không ghét, không ghét sao em bóp quả táo tới mức này.” Sau khi Hiểu Phi tỉnh rượu, tôi đưa cô ấy về nhà, thấy cô ấy đi lên lầu rồi, tôi mới yên tâm ra về. Tôi biết, ngày mai Hiểu Phi vẫn sẽ cùng một cậu bạn trai nào đó đi chơi. Mà đám con trai ấy vẫn sẽ là những kẻ học không giỏi nhưng chơi rất giỏi, tinh thông toàn những trò như hút thuốc, uống rượu.
Thực ra, ở một góc độ nào đó, tôi cũng đang trong trạng thái thất tình, chỉ là vì tôi không có gan, chuyện gì cũng giấu sâu trong tim, đau lòng cũng không dám để lộ cho ai biết. Tôi đăng ký học một lớp vẽ vào kỳ nghỉ đông, bắt đầu chăm chỉ học vẽ. Tiểu Ba vì muốn lớp 12 được chuyển sang lớp chọn, nên bắt đầu cầm sách vở, vừa ôn tập vừa làm đề. Tiểu Ba thấy tôi hằng ngày đánh vật với đủ loại màu sắc, người lem nhem như con mèo hoa, bất giác tò mò hỏi: “Sao tự nhiên em lại có hứng học vẽ?” Tôi đột nhiên quyết định sẽ kể cho anh nghe về bí mật của mình: “Bởi vì em ghen tị với một bạn nữ, bạn ấy quá xuất sắc, thông minh, xinh đẹp, lại học giỏi, biết chơi đàn nhị, biết hát, biết viết thư pháp, còn viết văn rất giỏi nữa, rõ ràng là cái gì cũng biết.” Tiểu Ba nghe không hiểu: “Thế thì liên quan gì đến việc em học vẽ?” “Em đã thăm dò rất lâu rồi, nghe nói bạn ấy không biết vẽ, vì vậy em quyết định học vẽ.” Tiểu Ba nghe xong ngẩn người ra, sau đó là phá lên cười: “Em mà cũng biết đố kỵ với người khác sao? Cô ấy tên là gì? Anh muốn xem xem cô ấy có mấy cánh tay, mấy con mắt.” Tôi trừng mắt với anh: “Không được. Tất cả những người con trai gặp cô ấy đều thích cô ấy. Em không cho phép anh thích cô ấy, vì vậy anh không được gặp.” Tiểu Ba kinh ngạc nói: “Em thật sự ghen tị với cô ấy?” Tôi gật đầu, vô cùng buồn rầu đáp: “Trước kia em còn ước mình biến thành cô ấy cơ, em rất ghét bản thân mình, nhưng bây giờ, em hiểu rằng, cho dù em có thích em như thế này hay không, thì em cũng chỉ có thể là em, vì vậy em không ghét bản thân mình nữa, nhưng vẫn ngưỡng mộ và ghen tị với cô ấy, cô ấy là người hoàn mỹ nhất trong lòng em, bên ngoài em tỏ ra không quan tâm, bất cần, nhưng thực ra trong lòng vẫn luôn ngầm so sánh, vẫn luôn âm thầm cố gắng và chăm chỉ, nhưng mỗi lần khi em bắt đầu cảm thấy mình tốt hơn trước một chút, giỏi hơn trước một chút, thì vừa nhìn thấy cô ấy, lập tức phát hiện ra khoảng cách giữa bọn em vẫn rất xa. Em cảm thấy cả đời này, cho dù em có cố gắng đến đâu, cũng không thể đuổi kịp cô ấy, ngay cả việc đố kỵ với cô ấy cũng là một việc hết sức buồn cười, bởi vì sự đố kỵ chỉ thích hợp với những người có khoảng cách không quá cách biệt, ví dụ, Lý Tân có thể ghen tị vì Hiểu Phi xinh đẹp hơn mình, nhưng quyết không thể ghen tị vì Lâm Thanh Hà xinh hơn mình, vì vậy, anh có hiểu không? Thực ra, ngay cả việc ghen tị với cô ấy em cũng không có tư cách.” Tôi nặng nề thở dài: “Em chỉ có thể luyện một môn học mà người ta yếu, tăng thêm chút tự tin cho mình, còn hơn là không có gì.” Tiểu Ba dịu dàng nói: “Em là em, độc nhất vô nhị, không cần phải so sánh với người khác.” Tôi im lặng, cúi đầu pha màu. Anh ấy không hiểu, cảm giác ngưỡng mộ một người là như thế nào, tới mức khao khát có được tất cả những gì mà người ấy có.
Theo thông lệ, mùng ba Tết tôi tới thăm cô Cao, cô Cao cảm khái nói: “Năm ngoái vẫn còn rất nhiều học sinh đến chơi, năm nay đã bớt đi quá nửa, có lẽ sang năm chỉ còn em và Trương Tuấn thôi.” Cô hỏi tôi chuyện học tập, tôi cũng thật thà kể hết với cô, cô Cao cười thở dài, hỏi tôi: “Em định bao giờ thì học hành nghiêm túc hả?” Tôi thật thà nói: “Thật ra, em cũng rất hứng thú với các môn tự nhiên, cũng chăm chỉ đọc sách, chỉ có điều em không đủ chịu khó mà thôi, em cũng muốn chịu khó, nhưng một khi đã chơi, em lại không muốn học nữa, thật không hiểu được những bạn học giỏi kia đã chịu đựng thế nào?” Đang nói chuyện với cô Cao, thì Trương Tuấn đến chúc Tết. Cách tôi và cậu ấy đi chúc Tết cũng khác nhau. Tôi đến tay không, chỉ mang theo cái mồm, còn cậu ấy hai tay xách đầy quà, quả nhiên là người có tiền. Cô Cao thấy Trương Tuấn thì rất vui, vừa bảo cậu ấy vào vừa nói: “Đến thật đúng lúc, Kỳ Kỳ đang ở đây.” Tôi đứng dậy nói: “Cô Cao, em đã hẹn bạn đến nhà cô ấy chơi, vì vậy em phải đi rồi.” Cô Cao tỏ vẻ tiếc nuối hỏi: “Không thể ngồi thêm một lúc sao? Ba cô trò mình lâu lắm rồi không nói chuyện với nhau.” Tôi xin lỗi đáp: “Bọn em đã hẹn nhau từ trước rồi ạ.” Trương Tuấn đứng một bên, vẻ mặt lãnh đạm, không nói gì, tôi quay sang nói “Tạm biệt” với cô Cao, rồi rời khỏi nhà cô. Hai tay đút trong túi áo, tôi chậm rãi bước đi trong gió lạnh, tôi định thử phân tích thật kỹ trái tim mình. Khi không gặp Trương Tuấn, tôi rất nhớ cậu ấy, đoán xem cậu ấy đang làm gì, thậm chí còn mong có một cuộc gặp gỡ vô tình với cậu ấy; nhưng chỉ cần cậu ấy xuất hiện, tôi lại vội vội vàng vàng muốn lẩn tránh, rút cục là tôi muốn gặp hay không muốn gặp cậu ấy đây? Thật phức tạp, mâu thuẫn quá, không thể giải thích được! Không phân tích được rõ ràng, thì thôi không phân tích nữa, về nhà tập vẽ vậy. Trái tim con người thật quá phức tạp, không có con đường nào có thể đi đến trái tim, nhưng việc luyện vẽ thì có thể thành công bằng con đường chăm chỉ, cần cù. Qua Tết, túi ai cũng rủng rỉnh tiền, trời lại đang lạnh, mọi người đều thích những hoạt động trong nhà, vì vậy việc làm ăn ở quán karaoke rất bận rộn. Tiền mừng tuổi năm nay của tôi đều cống hiến cho sự nghiệp vẽ vời cả rồi, đau khổ nhưng cũng rất ngọt ngào. Đau khổ là vì trong túi không còn xu nào, bất luận nhìn cái gì
cũng chỉ có thể nhìn suông, ngọt ngào là vì cứ nhìn đống bút và giấy vẽ, lại có cảm giác thành công. Em gái tôi bắt đầu học đàn organ, thời đó các bậc phụ huynh đều muốn cho con mình học một môn nghệ thuật nào đấy, nhưng trừ những gia đình như gia đình Trần Kình, rất ít người có thể gánh được tiền học phí khi cho con học những môn như violin, piano, vì vậy tuyệt đại đa số đều lựa chọn đàn organ, dẫn đến việc trong đám con gái trong lớp, gần như không có người nào không học đàn organ, cô giáo âm nhạc dạy đàn organ ngoài giờ nhờ đó mà cũng kiếm được bộn tiền. Em gái tôi cả ngày chỉ ở nhà để tạo ra tiếng ồn, tôi liền chuyển tất cả những dụng cụ vẽ đến văn phòng của Tiểu Ba. Bố mẹ thấy tôi miệt mài tô tô quệt quệt hết tờ giấy này đến tờ giấy khác, cho rằng tôi vẫn đang chăm chỉ học hành, con đường thênh thang rộng mở trước mắt, nên rất yên tâm về tôi, tiếp tục áp dụng cách giáo dục không can thiệp của mình. Tôi rất mừng vì cơ chế giáo dục lỏng lẻo của họ đối với tôi, khiến tôi có thể lén lút qua lại với những thanh niên xấu như Ô Tặc, nhưng một lúc nào đấy, thấy em gái làm biếng không luyện đàn, bị bố trách phạt, thậm chí còn phạt nó buổi tối không được xem ti vi mà phải luyện đàn, tôi lại cảm thấy rất mâu thuẫn, như muốn bố mẹ mắng tôi, trừng phạt tôi vậy. Lòng người, thật phức tạp! Ngày mùng tám Tết, tôi mang theo giá vẽ, ra ngồi ngoài ban công quán karaoke, quan sát nhân tình thế thái, đang làm bộ làm tịch học người ta vẽ phác thảo thì thấy Trương Tuấn và bạn gái sánh vai đi vào. Một lúc sau, trong phòng lại vang lên bài Như sương như mưa lại như gió: “Với em, anh như sương như mưa lại như gió. Đến đến đi đi chỉ để lại sự trống rỗng. Với em, anh như sương như mưa lại như gió. Mặc trái tim em đau đớn, khắc khoải vì anh.” Tôi chán ghét cau mày, thu dọn giá vẽ định quay vào phòng. Đột nhiên nghe thấy tiếng hát như đang nghẹn ngào, bất giác dừng bước, thò đầu ra xem, tôi biết nhìn trộm là không nên, có điều tôi không thể kiềm chế được mình nữa. Cô gái đó vừa hát vừa khóc, Trương Tuấn mấy lần giật micro từ tay cô ấy, nhưng đều không thành công, ngược lại, càng khiến nước mắt cô ấy rơi nhiều hơn. Trương Tuấn từ bỏ ý định giật micro, mặt không chút biểu cảm, lặng lẽ ngồi im. Cuối cùng cô gái cũng hát hết bài, vừa khóc vừa nói với Trương Tuấn, Trương Tuấn không trả lời dù chỉ một câu, mà chỉ thỉnh thoảng gật đầu. Rất lâu sau đó, vẫn như thế. Tôi xem đã mệt rồi, lẽ nào họ chưa mệt ư? Cô gái lau nước mắt, miễn cưỡng nở một nụ cười với Trương Tuấn, rồi lao ra khỏi quán karaoke. Trương Tuấn vẫn ngồi nguyên tại chỗ, như đang đờ đẫn, mà cũng như đang suy nghĩ điều gì đó.
Cậu ấy không nhúc nhích, tôi cũng thu người vào góc phòng, nhìn bóng cậu ấy qua cửa kính của căn phòng. Ngày hôm sau, tin tức Trương Tuấn và bạn gái chia tay lan truyền rộng rãi. Mọi người đều tỏ ra thông cảm với Trương Tuấn, trong giới giang hồ, bị người yêu “đá” là một việc vô cùng mất mặt, tâm trạng của Trương Tuấn chắc chắn là rất tệ. Tôi thì chẳng quan tâm đến cậu ta vui hay buồn, lao vào văn phòng của Tiểu Ba, la lối: “Tiểu Ba, chúng ta đi hát đi, được không?” Tiểu Ba ngạc nhiên: “Chẳng phải em không thích hát sao?” “Đang Tết mà, chúng ta cũng nên chúc mừng chứ. Đừng đọc sách nữa, đi hát thôi.” Tôi kéo anh ấy ra ngoài, chọn một phòng không có người, cầm micro, nhìn màn hình hát điên cuồng. Ô Tặc và đám người trong quán cũng kéo tới, tôi vui sướng vô cùng, ôm khư khư micro hát hết bài này đến bài khác, vừa hát vừa múa, Ô Tặc cười hét: “Gấu Trúc Bốn Mắt điên rồi!” Tôi nói: “Em vui quá nên hóa điên rồi!” Đây rõ ràng là món quà năm mới tốt nhất của năm nay. Bên ngoài có người gõ cửa, Ô Tặc mở cửa nói chuyện với đối phương. Bài Tâm Vũ tôi chọn bắt đầu dạo nhạc, tôi lập tức nhét micro vào tay Tiểu Ba, hát song ca cùng anh. “Nỗi nhớ của em là tấm lưới không thể chạm tới. Nỗi nhớ của em không còn là bờ đê chắn biển. Tại sao trong những ngày mưa bụi đó. Lặng lẽ nhớ tới anh. Trái tim em như thời tiết tháng Sáu. Lất phất mưa phùn. Nhớ anh nhớ anh nhớ anh. Nhớ anh lần cuối cùng. Bởi vì ngày mai em là cô dâu của người khác. Hãy để em được nhớ tới anh lần cuối cùng.” Tôi nhìn màn hình vừa hát vừa cười, Tiểu Ba cũng vừa hát vừa cười, cả hai chúng tôi đều sến khiến người khác nổi hết da gà, nhưng mỗi người đều ra sức hát và theo đuổi suy nghĩ của riêng mình, để khiến những kẻ không biết coi trọng mình phải ghen tức mà chết. Khi hát đến câu “Nhớ em nhớ em nhớ em, nhớ tới em lần cuối cùng…” Tiểu Ba cố ý nhìn tôi sâu lắng, đắm đuối, bình thường anh ấy rất trầm tĩnh, già dặn, hiếm khi phiêu như thế này. Cô bạn gái Xinh Đẹp của Ô Tặc cười nghiêng ngả. “Hát hay lắm!” Ô Tặc vỗ tay, lớn tiếng khen hay, rồi lại trêu: “Ai dám cướp người của em? Để anh tìm thêm vài người đến biến đám cưới của nó thành đám tang luôn.” Tôi cười, cầm hoa quả trên bàn nhằm Ô Tặc mà ném, vừa nghiêng đầu, liền nhìn thấy có người đang đứng dựa vào tường gần cửa ra vào của căn phòng, lại là Trương Tuấn. Cậu ấy mặt mày vô hồn nhìn lên màn hình, Tiểu Ba cũng đã nhìn thấy, vội vàng đặt micro xuống, mời cậu ấy ngồi. Trương Tuấn cười nói: “Vốn định đến tìm anh uống vài chén, nhưng thấy bọn anh đang tụ tập, thôi em không làm phiền nữa.” Tiểu Ba khách sáo đáp: “Bọn tôi chỉ đùa chơi thôi, cậu muốn uống gì? Tôi bảo họ mang lên, chúng ta vừa uống vừa chơi.”
Trương Tuấn cười rồi kéo cửa: “Không cần đâu. Lần sau sẽ tìm anh để uống.” Nói xong đi ra ngoài. Tiểu Ba mặt đầy nghi hoặc, Ô Tặc khẽ nói: “Bị người ta đá rồi, nên thần kinh có chút không bình thường.” “Chuyện xảy ra khi nào?” “Chính là hôm qua.” Bài tiếp theo vẫn là bài hát đôi, tôi kéo bà chị Xinh Đẹp kia vào cùng hát: “Hiểu rõ trái tim của em, hy vọng một tấm chân tình…” “Bài của anh, bài của anh…” Ô Tặc cướp micro từ tay tôi, cùng bạn gái song ca, cả hai người bọn họ đều không hổ là lão làng trong quán karaoke, không cần nhìn màn hình mà quay sang nhìn nhau, tay nắm chặt tay, say đắm cùng hát. “Em có một đôi mắt dịu dàng. Em có trái tim thấu hiểu. Nếu em không ngại. Xin hãy cho anh được lại gần em. Anh nghĩ em hiểu được lòng anh.” Tôi nhăn nhó huých khuỷu tay vào Tiểu Ba, tỏ ý là nổi hết ra gà, Tiểu Ba lắc đầu cười. Trương Tuấn bị người ta đá, tôi rất vui, vô cùng vui! Thỉnh thoảng tôi cũng phải tự kiểm điểm lại mình, liệu có phải tâm lý của tôi quá bất thường, lại có thể vui mừng trên nỗi đau khổ của người khác, nhưng tôi còn chưa kịp chỉnh đốn bản thân, thì tôi đã nhận ra rằng việc tôi cắn rứt lương tâm là hoàn toàn thừa. Một hôm, khi tôi đi tìm Tiểu Ba, thấy anh ấy không có ở quán, Ô Tặc cũng không thấy đâu, túm một người để hỏi, mới biết hôm nay bọn họ đi cược bóng. Tôi thấy lo lắng, lâu rồi Tiểu Ba không cược với người ta, sao hôm nay đột nhiên lại có người tới tìm? Tình hình này, chắc là một trận cược lớn. Tôi vội vàng đi đến quán game, thấy lâu rồi mình không đến đây, thay đổi rất nhiều, anh Lý đã mua luôn cửa hàng bên cạnh, phá bỏ bức tường ngăn ở giữa, nên phòng game giờ rộng hơn xưa nhiều, máy chơi game xem ra cũng hiện đại hơn trước. Tôi không biết người trông quán mới, nhưng anh ta lại biết tôi, cười nói: “Tìm anh Tiểu Ba phải không? Anh ấy đang chơi bida ở sân sau.” “Cảm ơn anh.” Tôi đi thẳng vào sân sau. Quanh bàn bida, mọi người chia thành hai nhóm. Chưa thấy Tiểu Ba đâu tôi đã bắt gặp Trương Tuấn, bên cạnh cậu ấy là một cô gái xinh đẹp, mái tóc xoăn như sóng biển. Cô gái đó khoác tay Trương Tuấn xem người ta chơi bida, hình như xem không hiểu, hỏi nhỏ Trương Tuấn, Trương Tuấn thỉnh thoảng lại giải thích mấy câu.
Tôi đứng nhìn họ chăm chăm, quên mất việc mình đến đây làm gì, chỉ cảm thấy trong lồng ngực nhói đau. Trương Tuấn nghiêng đầu nhìn thấy tôi, nét mặt vô cảm, tôi nghệt mặt ra nhìn, không hiểu tại sao cậu ấy lại có thể như thế? Cô gái tò mò nhìn tôi, rồi lại kéo tay Trương Tuấn, cậu ta quay lại, mỉm cười hôn lên trán rồi vòng tay ôm eo cô ấy, sau đó chỉ vào bàn bida giải thích gì đấy. Nước mắt ngân ngấn, tôi muốn quay người bỏ chạy, nhưng lại tự hỏi tại sao mình phải trốn? Sao tôi phải để ý đến cậu ta? Tôi không thèm quan tâm nữa! Cậu ta có bạn gái hay không, có bao nhiêu bạn gái, thì liên quan gì đến tôi? Chẳng liên quan đến tôi một chút nào cả! Tôi mỉm cười nuốt nước mắt vào trong, vừa cười vừa đi đến bên anh Lý: “Anh Lý!” Anh Lý xoa xoa đầu tôi: “Lâu rồi không gặp, em lớn quá.” Tôi bĩu môi: “So với lần trước anh gặp em, chẳng cao thêm phân nào. Có bảng kiểm tra sức khỏe của trường làm chứng, vẫn một mét sáu mươi ba, sao Tiểu Ba đột nhiên lại cược với người ta thế ạ?” Anh Lý thản nhiên nói: “Không có gì, anh và bạn có chút việc cần phải giải quyết, bàn bạc mãi không nghĩ ra cách nào hay, quyết định cược bóng phân định thắng thua.” Tiểu Lục đứng bên cười lạnh lùng, sau khi Tiểu Ba đánh xong một quả, đứng thẳng người, nhìn tôi cười. Tôi không dám lên tiếng làm phiền, đứng bên anh Lý, lặng lẽ xem họ chơi. Nhìn cục diện trên bàn, Tiểu Ba đang chiếm ưu thế, nhưng số bóng còn lại nằm ở những vị trí không đẹp lắm, vị trí bóng của đối phương lại rất đẹp, dễ dàng đẩy vào lỗ hơn. Tôi từ từ lẻn đến bên cạnh Ô Tặc, hỏi nhỏ: “Cược gì thế?” Ô Tặc ghé sát tai tôi: “Tại Thủy Nhất Phương.” Tôi nghe không hiểu, nhìn anh ta nghi hoặc, anh ta giải thích, nói: “Người của họ “truy long” trong vũ trường, anh Lý và Tiểu Lục đàm phán mấy lần đều không thu được kết quả gì, vì vậy lấy Tại Thủy Nhât Phương ra để cược. Nếu chúng ta thắng, bọn họ không được chơi trò “truy long” trong vũ trường nữa, nếu chúng ta thua, anh Lý sẽ giao Tại Thủy Nhất Phương cho họ.” “Truy long” chính là hút heroin, thắng thua thế nào đã sớm nhìn ra rồi, nhưng Tiểu Ba nghĩa trọng tình thâm, anh ấy vì anh Lý, không thể không nhận lời đánh cược này, nhưng nếu thua, thì coi như một mình anh ấy gánh vác trách nhiệm. Lòng bàn tay tôi rịn mồ hôi, không dám nhìn bàn bóng, nhắm chặt mắt, thầm cầu nguyện: “Cầu xin các vị thần linh cho Tiểu Ba thắng, năm nay, năm sau con sẽ không cầu nguyện bất kỳ điều gì nữa, chỉ cần Tiểu Ba thắng.” Nhẩm đi nhẩm lại, Ô Tặc cũng rất căng thẳng, hơi thở mỗi lúc một nặng nề hơn.
Không biết bao lâu sau, nghe thấy tiếng mọi người vỗ tay, tôi mở bừng mắt, quay sang nhìn Ô Tặc đầu tiên, thấy anh ta đang hớn hở, tôi hiểu Tiểu Ba đã thắng rồi, lập tức lao tới, ôm chặt cánh tay của Tiểu Ba, vừa nhảy vừa hét: “Mời em ăn cơm, mời em ăn cơm, vừa rồi em còn cầu nguyện cho anh, bao nhiêu may mắn của em dồn hết cho anh.” Tiểu Ba cười đáp: “Được, xem có tổ yến không, có sẽ mời em ăn tổ yến.” Anh ấy vẫn cười như thường ngày, dịu dàng và bình thản, nhưng giữa những ngày đại hàn này, bàn tay nắm chặt tay tôi lại nóng hổi. Đứng bên cạnh anh ấy, tôi có thể nhìn thấy những giọt mồ hôi rịn sau gáy. Anh Lý vui mừng vô cùng, cười nói với Tiểu Lục: “Đã nhường rồi, nhường rồi! Buổi tối cùng ăn cơm, tôi mời!” Tiểu Lục mặt lạnh tanh, không thèm để ý đến anh Lý, đưa người của mình về thẳng. Tôi đứng cạnh Tiểu Ba, cười tươi như hoa, dương dương đắc ý nhìn theo Trương Tuấn, dường như muốn lấy lại phong độ mất mặt vừa rồi khi nhìn thấy cậu ấy có bạn gái, lại dường như đang cố gắng chứng minh với bản thân mình rằng, cậu ấy chẳng là gì, không thể ảnh hưởng tới tâm trạng của tôi. Trương Tuấn cầm tay bạn gái, khi đi ngang qua tôi, không thèm nhìn tôi lấy một cái. Cố gắng diễn kịch như thế, nhưng lại chẳng có ai xem, tôi như người lấy hết sức bình sinh để tung ra một chưởng, nhưng lại đấm vào không khí, chẳng khiến ai bị thương, ngược lại còn khiến hình ảnh của mình trông nhếch nhác thảm hại. Anh Lý vui mừng sốt sắng sắp đặt bữa cơm tối nay, hỏi Tiểu Ba muốn ăn gì, Tiểu Ba cúi đầu hỏi tôi muốn ăn gì, anh Lý cười nói: “Quên không hỏi phúc tướng La Kỳ Kỳ của chúng ta trước là muốn ăn gì, Kỳ Kỳ muốn ăn gì nào?” Tôi nhìn anh Lý nói: “Sao anh lại đồng ý một chuyện như thế? Anh biết Tiểu Ba…” Anh Lý có chút ngại ngùng, Tiểu Ba tóm chặt gáy tôi, ép tôi phải cúi người xuống, tôi xoay người lại đánh vào tay anh ấy. Tiểu Ba vừa bắt nạt tôi vừa cười nói với anh Lý: “Hỏi xem có tổ yến không ạ”. Anh Lý lập tức nói: “Được” rồi cho người đến nhà hàng dặn dò.
3. Tuổi thanh xuân hối hận Khi còn trẻ, vì chưa từng bị tổn thương, nên không biết sống nhân từ. Vì chưa bao giờ biết sợ hãi, nên không biết sống nhân nhượng. Chúng ta tùy tiện, bừa bãi, hoàn toàn không để ý đến việc làm tổn thương người khác. Cho đến một ngày, chúng ta trải qua cảm giác bị tổn thương, biết đau đớn và sợ hãi, mới hiểu được thế nào là nhân từ và nhượng bộ. Nhưng lúc này, sự sôi nổi và tùy tiện của tuổi thanh xuân cũng dần dần bỏ chúng ta mà đi.
Chúng ta trưởng thành, trong lồng ngực là một trái tim vằn vện, hằn lên những dấu vết của sự tổn thương. Bắt đầu học kỳ mới, Lý Tân và Nghê Khanh như hai hành tinh nhỏ vẫn chuyển động quanh Lâm Lam, vẫn thích bàn tán về những việc làm của nam thanh nữ tú các lớp. Trong khối chúng tôi, bạn gái bị đồn đại nhiều nhất là Hiểu Phi, bạn nam là Trương Tuấn. Giờ Lý Tân chơi với mấy anh chị cấp ba và bắt đầu chơi bời bên ngoài, không biết có phải vì nghe đồn về quan hệ của tôi với Tiểu Ba không mà cô ấy lại nịnh nọt tôi ra mặt, biết tôi và Hiểu Phi là bạn thân, nên không bao giờ bàn tán về Hiểu Phi. Bọn họ không nói về Hiểu Phi, thì đương nhiên chỉ có thể bàn tán về Trương Tuấn. Tính cách cô bạn gái mới của Trương Tuấn khác một trời một vực với người cũ. Nếu như người cũ mềm mỏng, lặng lẽ bao nhiêu thì người mới lại hung hăng, ghê gớm bấy nhiêu, cô ta chẳng buồn để ý tới việc mình lớn hơn Trương Tuấn vài tuổi, thỉnh thoảng, còn tìm đến tận trường đợi Trương Tuấn tan học. Cô ta ăn mặc rất thời thượng, tóc uốn xoăn, trang điểm đậm, đứng trong sân trường của khối cấp hai, nhìn như minh tinh màn bạc, hoàn toàn nổi bật so với đám nữ sinh chân chất, mộc mạc chúng tôi. Những lời đồn đại về Trương Tuấn đã trở thành đề tài được bàn tán sôi nổi trong đám nữ sinh, đến những nữ sinh hiền lành, nhỏ nhẹ nhất cũng phải áp mặt vào kính cửa sổ, tò mò nhìn lén bạn gái Trương Tuấn một cái. Lý Tân và Nghê Khanh rôm rả bàn tán, tôi muốn bỏ đi, nhưng lại vẫn muốn nghe. Lý Tân hỏi Lâm Lam: “Nghe nói chị ta làm cùng cơ quan với mẹ cậu!” “Ừ, là sinh viên trường nghệ thuật mới vào năm ngoái, múa hiện đại, rất đanh đá, ghê gớm.” Lâm Lam cười tinh quái: “E rằng lần này Trương Tuấn gặp phải khắc tinh rồi.” Nghê Khanh hỏi: “Chị ta không có ai yêu à?” “Làm gì có chuyện đó? Những người làm ở cơ quan của mẹ mình ai cũng là mỹ nữ, người nào cũng có cả một tá đuôi, chị ta lại rất nhanh nhẹn, sôi nổi, nên càng nhiều người thích.” Nghê Khanh tỏ vẻ thắc mắc: “Thế sao chị ta lại thích Trương Tuấn? Chị ta già như thế, tại sao lại yêu chàng trai nhỏ tuổi hơn mình?” Chỉ là một câu nói hết sức bình thường, nhưng Lâm Lam đột nhiên tỏ vẻ không vui, lạnh lùng đáp: “Người ta thích ai là quyền tự do của người ta, cậu có muốn thích, chưa chắc Trương Tuấn đã thèm để mắt đến cậu đâu!” Nghê Khanh ức muốn khóc, Lý Tân câng câng hớn hở trước cảnh người khác gặp nạn, Lâm Lam không thèm để ý tới bọn họ, quay người bỏ đi.
Một thời gian sau, từ những cái miệng ưa tám chuyện trong lớp truyền ra một thông tin, bố mẹ Lâm Lam đang làm thủ tục ly hôn. Thời đó, ly hôn là chuyện khá hiếm, nhưng càng hiếm hơn cả là, mẹ của Lâm Lam lại ly hôn vì một chàng trai vừa tốt nghiệp đại học mới được phân công công tác đến thành phố của chúng tôi, xem ra người con trai đó chỉ hơn chúng tôi khoảng mười tuổi. Khi ấy, chuyện này được bàn tán xôn xao, lúc nào cũng sôi sùng sục, hầu như ai cũng biết trong đoàn văn công thành phố có một người phụ nữ ngoại tình với một chàng trai kém mình tới bảy, tám tuổi, ngay cả bố mẹ tôi cũng nghe nói đến chuyện này. Trong bữa cơm, mẹ với bố bàn luận về chuyện này, cả hai hoàn toàn không thể lý giải, không hiểu người phụ nữ này làm sao nữa. Mẹ hỏi tôi trong lớp có bạn gái nào tên là Lâm Lam không, tôi khó chịu gật đầu, nghĩ chắc mẹ cũng giống như các cô trong khu phố, nghe nói tôi học cùng lớp với con gái của người phụ nữ phóng đãng, bỏ chồng kia, thì quan tâm hỏi thăm mọi chuyện liên quan đến Lâm Lam, cứ như Lâm Lam là đứa trẻ dị hình dị dạng vậy. Không ngờ mẹ lại dặn tôi rằng, không được nói năng lung tung, không được hỏi chuyện về bố mẹ của Lâm Lam, càng không nên tỏ ra xa lánh hay cố ý tiếp cận bạn ấy, trước kia cư xử thế nào thì bây giờ cứ cư xử như thế. Tôi rất bất ngờ, nhưng nghĩ đến việc ông bà ngoại mình cũng đã ly hôn, nên có lẽ mẹ hiểu được cảm giác của những người trong cuộc, vì thế mới có những suy nghĩ rất nhân hậu như vậy. Lâm Lam vẫn kiêu ngạo, vẫn xinh đẹp và vẫn cười nói với bọn Lý Tân, Nghê Khanh như trước, nhưng trong mắt cô ấy có sự lạnh lùng đề phòng không hợp với độ tuổi. Nếu để ý kỹ, mỗi khi ngồi một mình, cô ấy thường ngẩn ngẩn ngơ ngơ, nhưng chỉ cần có người nhìn, cô ấy lập tức dùng nụ cười làm vũ khí, giơ ra để tự bảo vệ mình. Quan hệ giữa tôi và Lâm Lam càng ngày càng “quân tử chi giao đạm nhược thủy”(3), bình thường chúng tôi chẳng mấy khi nhiệt tình, vồ vập gì nhau, nhưng tôi có cảm giác cô ấy rất tin tưởng tôi. Khi chúng tôi ở bên nhau, có thể không ai nói gì, không cười không đùa, chỉ lặng lẽ ngồi như vậy thôi. Cũng có thể vì cô ấy biết tôi không bao giờ tham gia vào những câu chuyện thị phi của người khác, cũng chưa bao giờ bàn tán chuyện gì về ai, vì vậy khi ở bên cạnh tôi, cô ấy cảm thấy yên tâm. Một buổi sớm, tôi vừa vào lớp, Lâm Lam đã hỏi tôi: “Có thể đi chơi với mình không?” Tôi nhìn thấy những tia máu hằn lên trong mắt cô ấy, lập tức gật đầu đồng ý. Hai chúng tôi không gặp cô giáo để xin nghỉ, cũng không nói với bạn nào trong lớp, mỗi đứa đạp một xe bắt đầu xuất phát, đạp lòng vòng cả một buổi sáng, đạp đến chỗ chụp ảnh ở thành cổ, cô ấy lấy ra rất nhiều tiền, tiêu từng nắm một. Chúng tôi thuê rất nhiều đạo cụ và trang phục cổ trang, chụp rất nhiều ảnh. Lâm Lam đặt cọc một món tiền lớn, thuê hai bộ trang phục của công chúa đời Đường, rồi với đôi tay khéo léo của mình, cô ấy đã tạo cho tôi và chính mình một kiểu tóc rất đẹp, chúng tôi mặc bộ cổ trang của công chúa đời Đường, đi dạo bên hồ trong thành cổ, đi mãi đi mãi, đột nhiên cô ấy nói: “Bố mẹ mình ly hôn rồi”.
Tôi không biết lúc ấy mình nên phản ứng thế nào, càng không biết nên an ủi cô ấy ra sao, đành im lặng. Cô ấy dường như lại rất cảm kích sự vì sự im lặng của tôi, nắm lấy tay tôi, vui vẻ tiếp tục làm công chúa, đi dạo trong thành cổ. Ngày hôm đó, chúng tôi ăn rất nhiều đồ ăn vặt, uống những thứ đắt tiền nhất, gặp bất cứ món đồ thú vị nào, dù là tôi hay cô ấy thích, Lâm Lam đều mua ngay. Từ nhỏ tới lớn, đấy là lần đầu tiên tôi tiêu tiền một cách vô tổ chức như thế, nhưng cũng chính vào ngày hôm ấy, tôi hiểu rằng trên thế giới này tiền không mua được niềm vui! Tôi và Lâm Lam trốn học cả ngày, thầy Chậu Của Cải lại không mắng mỏ gì chúng tôi cả, có lẽ thầy cũng nghe được tin bố mẹ Lâm Lam đã chính thức ly dị. Thầy tỏ ra thương xót cô học sinh thông minh, giỏi giang như Lâm Lam, sau này, thầy còn chọn Lâm Lam vào đội tuyển tiếng Anh, đối xử với Lâm Lam đặc biệt thiên vị. Thời đó, Lâm Chí Dĩnh đang nổi như cồn, ai cũng ngân nga hát bài Mùa mưa tuổi mười bảy. “Khi tôi còn là một đứa trẻ. Khóm hoa nhài trước cửa nhà. Hương thơm man mát lan tỏa trong không trung. Khi tôi dần dần lớn lên. Những đóa hoa nhài trước cửa nhà đó. Đã dần tàn lụi và không còn nảy mầm nữa. Mỗi độ tuổi mỗi tâm trạng. Niềm vui nào nước mắt ấy. Trong lớp, dường như trên hộp bút của bất kỳ nữ sinh nào cũng dán ảnh Lâm Chí Dĩnh, mọi người đều thích sưu tập băng và poster của Lâm Chí Dĩnh. Điều kiện gia đình Lâm Lam khá giả, nên cô ấy đã từng là tín đồ trung thành của nhiều trào lưu văn hóa, giờ lại tỏ ra rất thờ ơ, đem tặng hết poster mà mình có cho Lý Tân và Nghê Khanh. Tôi nghĩ có lẽ do sự biến động trong cuộc hôn nhân của bố mẹ, cùng với sự kỳ thị của người ngoài khiến Lâm Lam trưởng thành, già dặn hơn các bạn cùng tuổi. Nếu như người lớn sống tùy tiện, thoải mái như một đứa trẻ, không có trách nhiệm bảo vệ cho đứa trẻ, thì đứa trẻ đó chỉ còn cách nhanh chóng trưởng thành, giống như người lớn để tự bảo vệ mình. Bình thường thì, bố mẹ ly hôn ảnh hưởng tới tâm lý của con cái, huống hồ bố mẹ Lâm Lam lại ly hôn trong xôn xao dư luận như thế, nhưng thành tích học tập của Lâm Lam vẫn không suy giảm. Cô ấy vẫn giống trước kia, tổ chức cho lớp tham gia hội diễn văn nghệ. Cô ấy sống vui vẻ, sôi nổi, công khai thể hiện sự kiên cường của mình, không hề thay đổi bản thân để đập tan tất cả những ánh mắt soi mói, nhưng rõ ràng cô ấy không còn là Lâm Lam mà tôi gặp khi mới vào lớp 7 nữa. Có một lần, chúng tôi ngồi bên hồ nhân tạo trong vườn trường, cô ấy đột nhiên nói: “Còn nhớ bạn gái lớp trưởng phải nghỉ học và chuyển trường không?” “Nhớ.” Cô ấy cười cười: “Cả hai bọn mình đều không thể quên được bạn ấy, bọn mình nợ bạn ấy không chỉ là một lời xin lỗi.” Mọi người đều nói tuổi trẻ không biết hối hận, thực ra tuổi trẻ sao không thể hối hận chứ?
Trái tim của những người trẻ tuổi có sự dịu dàng và tàn khốc trần trụi, chúng ta dễ dàng bị người khác làm tổn thương, và cũng dễ dàng làm tổn thương người khác. Thời gian trôi đi, chúng ta sẽ lãng quên rất nhiều người, nhưng những người từng làm tổn thương chúng ta và những người từng bị chúng ta làm tổn thương đó, sẽ mãi mãi được khắc sâu, rõ nét trong tuổi thanh xuân có hối hận của chúng ta. Nếu bạn đang đọc tác phẩm này và bạn còn trẻ, xin hãy nhớ đối xử với những người bạn gặp thật dịu dàng, không phải vì sự cảm kích của anh/cô ấy đối với bạn, mà là để sau này, khi bất chợt nhìn lại, bạn sẽ thấy trong tuổi thanh xuân của mình có ít điều phải ân hận hơn. Nhờ quan hệ, anh Lý mua được hai chiếc xe jeep cũ do cơ quan công an thải ra, mặc dù có những chỗ cũ đến nỗi tróc hết cả sơn, nhưng vẫn trở thành một trong số ít những người có xe riêng ở thành phố này. Nghe nói anh Lý trở thành bạn của con trai Cục trưởng Cục Công an, cùng hợp tác làm ăn, đầu tư về nhà đất với một người có tiền, khá nổi trong thành phố vì có quan hệ với cả xã hội đen lẫn giới chính khách. Bạn bè của anh ấy ngày càng ít những huynh này đệ kia, và ngày càng nhiều những trưởng phòng, giám đốc, cục trưởng gì gì đó. Mọi người không còn gọi anh là anh Lý nữa, lịch lãm một chút thì gọi là Lý tiên sinh, còn quê mùa hơn thì gọi là ông chủ Lý. Trong khoảng thời gian từ thập niên tám mươi đến thập niên chín mươi, xã hội Trung Quốc có những thay đổi mạnh mẽ. Chỉ trong vòng mười năm ngắn ngủi, từ một đất nước nghèo đói, lạc hậu, Trung Quốc đã tạo ra những kỳ tích khiến cả thế giới phải ngưỡng mộ. Rất nhiều thứ mà đương nhiên phải có trong cuộc sống bây giờ, thì vào thời ấy đều là lần đầu tiên chúng tôi được biết đến, ví dụ như lần đầu tiên được tắm bình nóng lạnh, lần đầu tiên đi thang máy, lần đầu tiên uống Coca Cola, lần đầu tiên ăn mỳ ăn liền Master Kong(4), lần đầu tiên dùng dầu gội đầu Rejoice, Pantene, lần đầu tiên ăn KFC… Tốc độ thay đổi của thành phố chúng tôi ở cũng rất nhanh, để bắt kịp tốc độ phát triển của nó, con người cũng phải nhanh chóng thay đổi, hoặc bởi vì con người đang thay đổi quá nhanh, cho nên tốc độ phát triển của thành phố này mới nhanh như thế? Tôi không rõ nữa, tôi chỉ thấy thành phố này đang thay đổi mỗi ngày mỗi khác, cũng may, còn có thứ không thay đổi. Anh Lý mua xe cũ cho mình, nhưng lại mua một chiếc xe máy nhập khẩu nguyên chiếc từ cho Tiểu Ba, vào thời đó, đây trăm phầm trăm là một món đồ xa xỉ, nhưng Tiểu Ba rất ít dùng, vẫn đạp chiếc xe cũ kỹ đi khắp mọi đường to ngõ nhỏ trong thành phố. Tôi thường ngồi sau xe đạp của Tiểu Ba, cùng anh đi ăn những món ăn vặt trong các con ngõ nhỏ. Chúng tôi thường ngồi cạnh những cánh cửa gỗ màu đen nặng trịch, nhìn những ông lão đi khắp mọi ngóc ngách trong thành phố đổ tranh kẹo(5). Một chiếc đòn gánh, một đầu là bếp than và nồi nấu, đầu kia là dụng cụ và nguyên liệu. Đi đến những nơi có trẻ con tập trung, ông lão sẽ đặt quang gánh xuống, mở lò và nắp nồi ra, trong nồi là nước đường màu nâu vàng, chỉ bằng một chiếc thìa lớn, từ hình con
rồng ngao du bay lượn trên chín tầng mây đến những chú chuột nhắt mắt la mày lém, đều có thể đổ ra được. Một chiếc la bàn, xung quanh là đủ loại các con vật, năm hào một lần quay, quay trúng con nào, ông lão sẽ đổ cho bạn hình con vật ấy. Lần nào tôi cũng muốn mình quay được hình con phượng hoàng, nhưng lại không quay trúng, mà càng không trúng, lại càng muốn quay, Tiểu Ba thường đứng cạnh tôi lặng lẽ nhìn và cười. Thật ra cả tôi và Tiểu Ba đều biết cái la bàn này rất khác thường, muốn bóc mẽ thủ pháp gian lận của nó không khó, nhưng điều đó không quan trọng. Những tòa nhà cao tầng đột ngột mọc lên khắp thành phố đã khiến không gian sinh tồn của họ bị đẩy vào những góc khuất nhất. Có lẽ đọc quá nhiều sách do người lớn viết, dần dần tôi thấy mình trở thành một người lạc lõng với thời đại, tôi thích lưu luyến tất cả những thứ đang dần dần mất đi kia. Những bài hát của “Tứ đại thiên vương”(6), tôi cũng vẫn nghe, nhưng không thực sự thích. Đầu tiên tôi thích nghe Đặng Lệ Quân, từ Đặng Lệ Quân tôi biết Chu Tuyền, rồi từ Chu Tuyền lại biết Hàn Bảo Nghi, từ đó tôi đắm chìm vào những điệu nhạc phóng túng ấy. Cơ quan của bố thải ra một chiếc máy hát kiểu cũ và một đống đĩa hát kiểu cũ giống như những chiếc đĩa bay màu đen, trong đó có ca khúc của Đặng Lệ Quân, còn có rất nhiều ca khúc cách mạng. Ngày ấy, người người bận rộn với công cuộc “hiện đại hóa”, nên chẳng ai thích mấy thứ đồ quê mùa lạc hậu này, tôi liền nhặt về, để trong văn phòng của Tiểu Ba, vừa đọc tiểu thuyết vừa nghe nhạc, hoặc vừa làm bài tập vừa nghe nhạc. “Chân trời a góc bể, tìm kiếm a tìm kiếm người tri âm, em gái cất tiếng hát chàng trai đệm đàn, hỡi chàng trai a chúng ta cùng chung một trái tim…”(7). Hoặc: “Một tiễn (í a) xuống núi, mưa thu (í à) liên miên, (í a) gió thu lạnh, lá cây (í à) cây ngô đồng, lá rụng, u sầu (í a) ngàn vạn dặm, đè nặng trong tim…”(8). Có lần anh Lý đẩy cửa vào, nghe thấy lời bài hát ca ngợi hồng quân, lập tức đóng cửa lại, một lúc sau mở ra, thò đầu vào hỏi: “Anh không vào nhầm chỗ đấy chứ?” Ô Tặc và cô bạn gái Xinh Đẹp của mình ôm bụng phá lên cười như điên, Tiểu Ba và tôi cũng cười. Anh Lý đi vào, cầm quyển sách trước mặt Tiểu Ba lên, gập vào, cười rồi nói: “Đừng học nữa, tối nay cùng nhau ăn cơm”. Bà chị Xinh Đẹp cười đáp: “Việc làm ăn của anh Lý chắc chắn lại có tin tốt lành gì rồi.” Bọn họ đi trước, Tiểu Ba đưa tôi về nhà, tôi nói dối mẹ, rồi lại đi cùng Tiểu Ba. Năm người chúng tôi vừa ăn vừa nói chuyện, quả nhiên anh Lý lại muốn mở rộng công việc kinh doanh, mặc dù đang rất thành đạt, anh Lý vẫn không ngừng thở dài, cảm khái than rằng không có người nào giỏi giang để nhờ cậy, dựa dẫm, mọi người đều hiểu anh đang ám chỉ Tiểu Ba, nhưng Tiểu Ba lại muốn học đại học, chắc chắn không thể giúp anh được nữa. Có điều anh Lý cũng chỉ than thở thế thôi, chứ không có ý định bảo Tiểu Ba
thôi học để về giúp mình. Anh ấy yêu thương, bảo vệ Tiểu Ba và Ô Tặc như chính em trai mình, Tiểu Ba có thể vào đại học, anh ấy cũng rất vui. Anh Lý nói chuyện một hồi, đột nhiên hỏi Ô Tặc: “Cậu và Xinh Đẹp bao giờ thì tính đến chuyện tương lai?” Xinh Đẹp cúi đầu, nhưng thần sắc lại như chăm chú lắng nghe, chị ta hơn Ô Tặc ba tuổi, đương nhiên rất quan tâm, Ô Tặc lại cười đáp: “Chuyện của anh còn chưa quyết, em vội gì chứ? Em không muốn kết hôn, yêu đương thế này thú vị hơn, phải không, Xinh Đẹp?” Xinh Đẹp đành phải gật đầu, nụ cười trên môi có chút miễn cưỡng, nhưng tên ngốc Ô Tặc lại vô tâm không biết, mặt mày hớn hở như đã tìm được tiếng nói chung với Xinh Đẹp. Anh Lý cười, nhìn Xinh Đẹp nói: “Thế cũng được, đợi thêm hai năm nữa, khi công việc làm ăn của anh ổn định rồi, sẽ tổ chức một lễ cưới thật sang trọng cho hai đứa.” Tiểu Ba cũng cười nói: “Ngoài Xinh Đẹp ra em nhất định không gọi ai là “chị dâu” đâu đấy.” Tiểu Ba và anh Lý đều đã tỏ thái độ rồi, tôi cũng vội vàng lên tiếng: “Chị yên tâm, Ô Tặc ngốc lắm, chỉ có chị bỏ anh ta chứ còn lâu anh ta mới dám bỏ chị.” Anh Lý và Tiểu Ba cùng đưa tay vỗ vỗ lên vai tôi, tôi vội vàng sửa lại: “Ý em là, chị rất xinh đẹp, Ô Tặc đi đâu tìm được người xinh đẹp như thế chứ.” Xinh Đẹp cười, bố mẹ Ô Tặc không thích chị ta lắm, sự công nhận của anh Lý và Tiểu Ba đối với chị ta rất quan trọng, khiến chị ta yên tâm. Ô Tặc vẫn ngu ngu ngơ ngơ, vừa gắp thức ăn liên tiếp vừa nói: “Món này ngon, mọi người đừng chỉ biết nói chuyện thế, mau ăn đi!” Tôi nói nhỏ với Tiểu Ba: “Kẻ ngốc thì lại được hưởng phúc của kẻ ngốc, không hiểu chị Xinh Đẹp thấy anh ta có điểm gì tốt nữa.” Xinh Đẹp nghe thấy liền nhìn Ô Tặc cười, ánh mắt hết sức dịu dàng. Anh Lý châm một điếu thuốc, cười nhìn chúng tôi, trong mắt cũng có gì đó rất dịu dàng. Ăn cơm xong, anh Lý có việc phải đi trước, Xinh Đẹp muốn khiêu vũ, vì vậy bốn chúng tôi đến Tại Thủy Nhất Phương. Vừa vào trong vũ trường, cảm thấy có gì đó rất lạ, sàn nhảy bình thường vẫn đông nghịt người nay trống không, mọi người đều tập trung quanh sàn. Tiểu Ba và Ô Tặc tưởng đang xảy ra chuyện gì, vội vàng chen lên trên, đột nhiên nhạc dạo vang lên, là bài hát tiêu biểu Tình yêu cha cha cha của Trần Tiểu Vân, người đạt giải trong Golden Melody Awards Đài Loan, vì là tiếng Mân Nam(9), nên không phổ biến lắm trong giới học sinh, nhưng lại đúng là thứ âm thanh phóng túng mà tôi thích, cũng là ca khúc được các cao thủ trong vũ trường say đắm, dùng để nhảy cha cha cha quả là rất hợp. “Dưới ánh đèn đêm nơi đô thị phồn hoa. Những giai điệu quyến rũ lại vang lên khiến em nhớ đến anh. Điệu cha cha của tình yêu lại dập dìu. Tình yêu của em anh đang ở đâu?
Muốn được nhấm nháp anh, nhấm nháp anh. Đến đây cùng nhảy cha cha cha. Không biết anh, không biết anh. Đã đi đâu rồi đi đâu rồi?” Một cô gái có thân hình bốc lửa, mặc một chiếc váy đỏ, nhảy theo điệu nhạc, động tác của cô ta rất chuyên nghiệp, chính xác, chẳng trách mọi người đều dừng lại, nhìn cô ta nhảy. Ô Tặc cười nói: “Cái bô mới này của Trương Tuấn thú vị hơn cái cũ nhiều, xem ra tìm một cô gái học múa làm bạn gái rất hợp lý.” Xinh Đẹp nhéo cánh tay anh ta hỏi: “Anh có ý gì? Có cần em giới thiệu cho anh một đứa không?” Ô Tặc nhìn ngó xung quanh thấy không có huynh đệ nào để ý, không ảnh hưởng gì tới hình tượng của anh ta, lúc ấy mới hạ thấp giọng xin tha. Bạn gái của Trương Tuấn đang ở đây, còn Trương Tuấn đâu? Tôi đưa mắt tìm bóng cậu ta trong đám đông, thấy Trương Tuấn đang đứng trước đám người đó, cười nhìn bạn gái nhảy. Bạn gái cậu ta nhảy tới gần, đưa tay ra kéo cậu ta vào sàn, mọi người đều cười ồ lên, có người còn huýt sáo, Ô Tặc cũng huýt vang một tiếng lảnh lót, Xinh Đẹp tức giận nhéo cho anh ta một cái nữa. Cha cha là điệu nhảy Latin duy nhất do bên nữ đóng vai trò chủ đạo, yêu cầu rất cao đối với những người nhảy nữ, tất cả những bước nhảy trên sàn đều do nữ dẫn, nhưng dù sao đây cũng là điệu nhảy dành cho hai người, nếu người nam phối hợp không tốt, thì sẽ không đẹp mắt. Trương Tuấn đứng im một lúc, cười cười, rồi cũng bắt đầu nhảy, dưới ánh đèn mờ ảo say đắm, bọn họ quấn lấy nhau, khi tiến khi lùi, lúc gần lúc xa, con trai anh tuấn ngỗ ngược, con gái xinh đẹp quyến rũ, thật rung động lòng người. Ngực tôi nhói đau. Trong giây phút đó tôi hiểu ra rằng, nếu đây là một câu chuyện tình cảm, thì họ mới chính là nhân vật nam chính, nữ chính, ngay cả là nhân vật phụ tôi cũng không thể diễn được, chỉ là một người qua đường nào đó, nhưng lại luôn mong muốn cướp được vai diễn của nữ chính. Ô Tặc kéo Xinh Đẹp lên sàn nhảy, cả hai người đều là cao thủ ở chốn ăn chơi nhảy múa, thêm nữa, những lời vừa rồi của Ô Tặc làm Xinh Đẹp vẫn rất tức tối, vì vậy, từng bước nhảy, điệu lắc đều mê hoặc, vô cùng mê hoặc. Nhìn khả năng của họ, người khác càng không dám vào nhảy cùng. Sàn nhảy rộng lớn như thế, chỉ có hai đôi quay cuồng theo nhạc. Tiểu Ba biết tôi không biết nhảy, nên tìm một góc ngồi cùng tôi. Ánh mắt tôi âm thầm dõi theo bóng Trương Tuấn, hai mắt khô khốc, nhưng trong tim giông bão đang nổi lên. Tôi ước gì cậu ấy vẫn là cậu bạn để đầu nhím như hồi còn nhỏ, không có bạn gái nào để ý, cũng chẳng có cô nào thích, chỉ mình tôi biết những điều tốt đẹp của cậu ấy, mình tôi cảm nhận được sự dịu dàng của cậu ấy, nhưng cậu ấy giờ đã trở thành người như thế này, lấp lánh như một vì sao, càng ngày càng bay cao, ánh sáng
càng lúc càng rõ, nhưng cũng càng ngày càng rời xa tôi, xa tới nỗi tôi vươn tay ra nhưng không sao với tới.
4. Lần rung lắc đầu tiên trên bàn cờ Thời niên thiếu, chúng ta thích nói đến ước mơ, thích vạch ra những kế hoạch, cho rằng chỉ cần chúng ta đủ thông minh, cốgắng hơn nữa, thì có thể thực hiện được những ước mơ, kế hoạchđó, nhưng lại không biết rằng, chúng ta chỉ là một quân cờ nhỏ bé trên bàn cờ số mệnh mà không gian là kinh độ, thời gian là vĩ độ, chỉ cần một sự rung lắc nhẹ trên bàn cờ, chúng ta sẽ đi chệch khỏi quỹ đạo đã vạch ra. Thành tích học tập của Hiểu Phi tiếp tục trượt dốc, thi giữa kỳ, cô ấy đứng thứ mười mấy trong lớp, chỉ cần cô ấy “cố gắng” hơn chút nữa là có thể xếp ngang hàng với tôi rồi. Tôi đã nhắc nhở bóng gió vài lần, nhưng cô ấy nhất quyết không tiếp lời, im lặng phớt lờ tôi, dường như đến việc giả bộ sống vui vẻ cũng không muốn diễn nữa. Thái độ của cô ấy dành cho đám con trai càng ngày càng tồi tệ, có lúc, nhìn thấy cô ấy mắng họ mà tôi thật sự lo lắng bọn họ sẽ xấu hổ quá hóa giận, nhưng không, họ lưu luyến vẻ đẹp của cô ấy, cho dù hôm nay có bỏ đi, nhưng ngày mai lại vẫn đến. Tôi thắc mắc không sao giải thích được, tại sao tinh thần Hiểu Phi càng ngày càng sa sút như thế. Chị Xinh Đẹp nói với tôi, mấy tuần trước Vương Chinh đã mang theo bộ trống của mình rời thành phố, đi Quảng Châu rồi, thậm chí anh ta còn không buồn gặp Hiểu Phi để chào từ biệt, chỉ như thế, trong nháy mắt, hoàn toàn biến mất khỏi cuộc sống của Hiểu Phi. Tôi không biết nên vui hay nên buồn nữa, Vương Chinh bỏ đi không lời từ biệt, có lẽ lại một lần nữa khiến Hiểu Phi bị tổn thương, nhưng sau khi nỗi đau đớn lớn lao đó qua đi, có lẽ sẽ là quá trình để vết thương liền miệng. Tôi suy nghĩ rất lâu, quyết định phải nói chuyện nghiêm túc với Hiểu Phi một lần, tôi muốn nói với cô ấy rằng không chỉ một mình cô ấy thất tình, và chúng tôi không thể chỉ vì đối phương không yêu mình mà tự bỏ mặc chính bản thân mình. Đang định tìm cô ấy, thì cô ấy đột nhiên biến mất trong trường học, tôi hỏi lớp trưởng lớp Hiểu Phi thì được biết mẹ Hiểu Phi đã đến xin cho cô ấy nghỉ dưỡng bệnh một thời gian dài. Hiểu Phi ốm ư? Tôi tìm đến nhà thăm cô ấy, mẹ cô ấy đứng ở cửa, khách sáo nói: “Hiểu Phi đang dưỡng bệnh, không tiện gặp bạn bè.” Lòng tôi phiền muộn, không hiểu là mắc bệnh gì mà đến nỗi không thể gặp được bạn bè như thế, tôi lo lắng hỏi: “Cô ơi, bệnh tình của Hiểu Phi có nghiêm trọng không ạ?” Mẹ cô ấy rất gầy, cũng rất tiều tụy, nhưng giọng nói rất kiên định: “Không nghiêm trọng, một thời gian nữa là sẽ đi học lại thôi.”
Người ta không cho vào, tôi đành quay về. Nhưng tôi không cam tâm, vì thế quyết định áp dụng phương pháp đeo bám dai dẳng, cứ cách năm ba ngày tôi lại tìm đến nhà cô ấy. Thái độ của mẹ cô ấy thay đổi rất thú vị, ban đầu, vì tôi đến nhiều quá, mẹ Hiểu Phi tỏ ra thiếu kiên nhẫn, nói hai ba câu, rồi vội vàng đóng cửa, nhưng dần dần, lại trở nên ôn hòa, buồn phiền hỏi tôi: “Sắp thi cuối kỳ rồi phải không? Cháu không bận học sao?” Tôi ngoan ngoãn cười: “Bận thì bận, nhưng cũng vẫn phải dành thời gian để đến thăm Hiểu Phi ạ.” Mẹ cô ấy hỏi: “Cháu và Hiểu Phi rất thân nhau à?” Tôi bắt đầu khơi gợi tình cảm: “Cô, cô không nhớ sao? Khi còn nhỏ Hiểu Phi đã từng ngủ lại ở nhà cháu, lần đó, cô và chú nửa đêm tìm đến nhà cháu, đã gặp bố mẹ cháu.” “Hả? Chính là cháu à! Sau đó nhà cháu chuyển đi, Hiểu Phi đã khóc rất lâu, không ngờ giờ hai đứa lại học chung một trường rồi, Hiểu Phi không kể gì với cô cả.” Tôi im lặng không nói gì. Mẹ Hiểu Phi cũng im lặng, dường như đang suy nghĩ, rất lâu sau mới nói: “Bao giờ thi cuối kỳ xong cháu hãy đến thăm Hiểu Phi.” Tôi vội đáp: “Cháu cảm ơn cô”. Được hẹn ngày, tôi không đến quấy rầy mẹ cô ấy nữa. Quay về trường, tâm trạng vẫn hoang mang, chẳng mấy chốc, chúng tôi sắp lên lớp 9 rồi. Đừng tưởng thời gian hai năm chẳng là gì, học sinh cấp hai lại là độ tuổi dễ xảy ra chuyện nhất. Hồi tiểu học, chúng ta biết sợ thầy cô giáo và bố mẹ, nên khá nghe lời, nhưng lên cấp hai, đột nhiên chúng ta bắt đầu phớt lờ họ, nhưng chính mình lại không chắc chắn về mình, chúng ta hầu như không biết sợ, hăng hái nếm thử tất cả những điều mới mẻ trong cuộc sống, từ yêu đương, hút thuốc, uống rượu, đánh nhau, đến việc ra vào vũ trường, quán karaoke, chơi bời với đám bạn xấu, việc gì cũng dám làm. Đám người từng lưu lạc trên giang hồ đều biết rằng, khi đánh nhanh, kẻ ra tay tàn nhẫn nhất, thực ra không phải bọn lưu manh đã trưởng thành, mà chính là đám thiếu niên dại dột thiếu hiểu biết. Bởi vì bọn họ đã biết đến cảm giác sợ hãi, còn chúng ta thì chẳng biết gì, nên cũng chẳng sợ gì, thậm chí chỉ vì vài câu nói không thuận tai mà sẵn sàng cầm đá ném thẳng vào đầu đối phương. Những người may mắn, khoảng thời gian phản nghịch mù mờ này sẽ trở thành một ký ức thú vị và có phần cay đắng trên con đường trưởng thành, nhưng với những người không may, thì sẽ phải trả một cái giá vô cùng đắt mà ngay chính bản thân họ cũng không ngờ được. Qua hai năm học tập, có những người thành tích học tập khi mới vào học không được tốt lắm, giờ cũng đã tiến bộ, nhưng cũng có những người khi vào trường học rất giỏi, giờ đang trượt dốc không phanh. Mặc dù là trường điểm cấp hai, nhưng những học sinh kém do không để tâm học hành cũng chẳng khác gì những học sinh kém ở các trường cơ sở bình thường khác.
Để chuẩn bị cho kỳ thi vào cấp ba sang năm, nhà trường sẽ căn cứ vào thành tích thi cuối kỳ của năm lớp 8 để chia lại lớp, chia thành lớp chọn và lớp bình thường, nói cách khác là lớp trọng điểm và lớp phi trọng điểm. Bạn bè xung quanh tôi đều rất căng thẳng, người nào người nấy ra sức học hành, chỉ sợ không cẩn thận sẽ bị phân vào lớp bình thường. Những ngày tháng vô lo vô nghĩ của chúng tôi đã kết thúc, gánh nặng của việc học hành bắt đầu đè lên đôi vai của mỗi người. Đến bố mẹ tôi mỗi khi ngồi ăn cơm cũng gắp cho tôi rất nhiều thức ăn, nói nhiều ngụ ý, rằng: “Ăn nhiều một chút, học hành càng ngày càng vất vả”. Thành tích của tôi rất thú vị, vừa có thể sẽ được phân vào lớp chọn để làm một học sinh kém, mà cũng có thể bị phân vào lớp bình thường để làm một học sinh giỏi. Tâm lý con người thật kỳ quái, dù bị phân vào lớp chọn làm học sinh kém, cũng phải vào lớp chọn. Bố mẹ tôi đương nhiên cũng nghĩ như thế, cứ như chỉ cần tôi vào được lớp chọn thì tôi nhất định sẽ vào được trường điểm cấp ba vậy. Tôi thì lại ở trong trạng thái lơ mơ như không phải việc của mình, thời gian rảnh, trong khi các bạn lấy bài vở ra ôn tập, tôi đọc tiểu thuyết, tập vẽ. Tôi thích vẽ hoa sen, thời gian hoạt động tự do giữa giờ tôi thường ngồi bên hồ nhân tạo trong trường để ngắm hoa sen, vẽ hoa sen. Đối với tôi chúng là loài hoa đẹp nhất, có dành tất cả những lời khen ngợi hay nhất cho chúng cũng chưa chắc đã đủ. Một hôm, vừa hết tiết tiếng Anh, thầy Chậu Của Cải đi đến chỗ của Lâm Lam, vô cùng buồn bã nói với cô ấy, Trần Tùng Thanh không tham gia thi cuối kỳ, cậu ấy sắp chia tay lớp, thầy muốn Lâm Lam tổ chức một buổi liên hoan nhỏ để chia tay Trần Tùng Thanh. Tôi rất kinh ngạc, vểnh tai lên nghe lén, tôi nghe thấy Lâm Lam cũng kinh ngạc hỏi: “Tại sao ạ?” “Bạn ấy phải thi vào trường kỹ thuật.” “Tại sao cậu ấy không học cấp ba? Trường kỹ thuật chẳng phải học hết cấp hai mới được thi sao ạ?” Liên quan đến chuyện gia đình nhà người khác, thầy Chậu Của Cải không muốn giải thích nhiều, chỉ nói: “Hình như kinh tế gia đình cậu ấy gặp khó khăn, bố cậu ấy muốn cậu ấy đi làm sớm. Với khả năng của Trần Tùng Thanh, bây giờ thi, cậu ấy vẫn đỗ như thường.” Lâm Lam kinh ngạc mở to mắt, dường như lần đầu tiên cô ấy nhận ra rằng trên thế giới này lại có người không đủ điều kiện kinh tế để theo học hết cấp, mặc dù số tiền học phí đó cũng chỉ đủ để cô ấy mua hai cái váy. Tin tức Trần Tùng Thanh sắp chia tay lớp nhanh chóng lan truyền, ai ai cũng biết. Mặc dù cảm thấy bất ngờ, nhưng thật sự buồn thì chẳng có mấy người, dù sao vốn dĩ Trần Tùng Thanh cũng không hòa đồng với lớp, thường đi về một mình, những gì các bạn biết về cậu ta cũng chỉ dừng lại ở mức cậu ta là người học giỏi nhất lớp mà thôi. Lâm Lam lại rất để tâm, thật sự coi đây là một việc nghiêm túc, không tiếc thời gian và công sức tổ chức một buổi liên hoan để chia tay Trần Tùng Thanh. Thơ từ ca vũ đều có cả. Cô ấy còn dùng sức ảnh hưởng của mình, đề nghị tất cả các bạn trong lớp góp tiền
mua tặng Trần Tùng Thanh một chiếc bút máy đắt tiền, một quyển sổ nhật ký được thiết kế tinh xảo, làm quà chia tay. Năm xưa tôi từ chối góp tiền mua quà tặng Trần Kình, lần này, tôi lại góp tất cả số tiền tiêu vặt mà mình có trong tay. Ngoài mặt, Trần Tùng Thanh trầm mặc tới mức đờ ra như khúc gỗ, nhưng tôi nghĩ trong lòng cậu ấy rất cảm kích Lâm Lam. Thời niên thiếu của cậu ấy đã bị ép chín quá sớm, nhưng Lâm Lam đã cố gắng hết sức để đặt vẽ một dấu chấm câu mặc dù nhợt nhạt nhưng rất đẹp cho cậu ấy. Tôi tỏ ra hờ hững đứng từ xa quan sát tất cả những việc đang xảy ra, nhưng trong lòng tôi, từng con sóng lớn đang dâng trào, không hoàn toàn là vì Trần Tùng Thanh, cũng có thể chỉ là vì chính cuộc sống này, lại một lần nữa tôi cảm nhận được sự tàn khốc và bất lực của cuộc sống. Rất nhiều người không chịu học hành, hằng ngày chỉ thích hút thuốc, uống rượu, đánh nhau, lấy trộm tiền của bố mẹ đi chơi game, nhuộm tóc, coi những hành động ngỗ ngược, phản nghịch kia là điều tự hào, bố mẹ họ lại chỉ mong con mình học hành đến nơi đến chốn, còn Trần Tùng Thanh thật sự đam mê việc học, chăm chỉ, cần cù, lần nào cũng đứng nhất lớp, thì cuộc sống lại không cho cậu ấy được học tiếp. Đấy chính là cuộc sống, dường như luôn là bạn cần thứ gì, nó sẽ không cho bạn được toại nguyện. Ngày Trần Tùng Thanh rời khỏi trường, trời mưa nhỏ. Từ nhỏ tới lớn, tôi rất thích mưa, khi trời mưa, tôi cũng ít khi mở ô, tôi thích cảm giác hạt mưa rơi xuống mặt. Tôi ngồi trên ghế đá trong trường, nhìn làn mưa nhỏ như giăng tơ khắp trời mà ngẩn ngơ, không vui cũng chẳng buồn, tâm trạng của tôi thường xuyên ở trạng thái trống trải. Một người đi đến trước mặt tôi, đứng lại. Tôi nhìn lên, hóa ra là Trần Tùng Thanh. Cậu ấy đeo chiếc cặp xách bằng vải canvas màu xanh thẫm, tay cầm chiếc ô màu đen bạc thếch, im lặng đứng đó. Cả hai chúng tôi đều là những người ít nói, cùng im lặng hồi lâu, vẫn không ai chịu lên tiếng trước. Đột nhiên cậu ấy nói: “Ngày mai mình không đi học nữa.” “Mình biết.” Bên chân cậu ấy, có một hõm đất trũng, nước mưa tích lại thành một vũng nước nhỏ, cậu ấy dùng chân đá nước mưa. Cho tới tận bây giờ, tôi vẫn còn nhớ như in sự kiên cường giả tạo, thái độ thờ ơ không quan tâm tới bất kỳ điều gì đó của cậu ấy, từng mảng vết bẩn trên đôi giày cũ và dây giày như sắp tuột ra.
Cậu ấy hỏi: “Cậu ôn tập thế nào rồi?” “Chẳng thế nào cả.” Trần Tùng Thanh vẫn dùng chân đá nước mưa trong vũng nước trên mặt đất. Những giọt nước bắn lên thấm ống quần của cậu ấy, nhưng cậu ấy hoàn toàn không để ý. “Mình vốn định thi cuối kỳ xong mới đi, nhưng bố mình không đồng ý, bố nói thời gian ấy, dành để ôn tập chuẩn bị cho kỳ thi vào trường kỹ thuật còn hơn, cố gắng thi vào khoa tốt, sau này có thể vào làm ở một đơn vị mạnh, lương cũng cao hơn.” Tôi im lặng, không biết có thể nói gì, đột nhiên cậu ấy lại nói: “Mình có thể nhờ cậu một việc được không?” “Được.” Tôi đến hỏi cũng không buồn hỏi xem cậu ấy nhờ mình việc gì, lập tức đồng ý ngay. Cậu ấy cười cười nói: “Cậu có thể chăm chỉ ôn tập, dốc toàn lực để vượt lên trong kỳ thi cuối kỳ này không?” Tôi nhìn Trần Tùng Thanh với ánh mắt khó hiểu, không biết cậu ấy lấy đâu ra một yêu cầu kỳ lạ như thế, nhưng, tôi đã nhận lời với cậu ấy rồi, vì vậy tôi phải giữ lời hứa của mình. Thực ra, cho tới tận bây giờ, tôi vẫn không biết vì sao Trần Tùng Thanh lại đưa ra yêu cầu đó. “Được, mình sẽ chăm chỉ ôn tập, thi thố nghiêm túc.” Cậu ấy cười, vẫn đá qua đá lại nước mưa trong vũng. Tôi im lặng nhìn những giọt nước bị cậu ấy đá bắn lên. Giày của cậy ấy đã ướt hết, sau khi đứng cùng tôi rất lâu, liền nói: “Mình đi đây, tạm biệt!” Tôi vẫn ngồi trên ghế đá, không nhúc nhích: “Tạm biệt!” Cậu ấy xốc lại cặp sách, quay lưng bỏ đi, thân hình vừa cao vừa gầy dần dần mất hút trong làn mưa mù mịt. Tôi ngồi lại một mình rất lâu, ngồi lâu tới mức cả mông lạnh toát, chiếc bóng ướt đẫm, rồi cũng đeo cặp sách lên về nhà. Đấy là lần cuối cùng tôi gặp Trần Tùng Thanh trong cuộc đời mình, từ đó, tôi không còn gặp lại cậu ấy thêm lần nào nữa, thậm chí không cả nghe được bất kỳ tin tức nào về cậu ấy. Cậu ấy có thi đỗ vào trường kỹ thuật hay không, học chuyên ngành gì, tôi đều không biết. Có điều, tôi biết là cậu ấy sẽ biết điểm thi cuối kỳ của tôi, vì vậy tôi thực hiện lời hứa của mình, chăm chỉ trong ôn tập, nghiêm túc trong thi cử, suốt hơn hai tuần, tôi không làm gì
cả, chỉ đọc sách, đọc từ sáng sớm khi tỉnh dậy cho tới khi tối muộn, đến giờ phải đi ngủ. Cậu ấy nói muốn tôi dốc toàn sức vượt lên, thực ra tôi không rõ lắm thế nào là dốc toàn sức vượt lên, nhưng tôi đọc thuộc làu làu hết sách địa lý, lịch sử, chính trị, đến ngay cả môn Anh văn mà tôi ghét cay ghét đắng, tôi cũng ép mình phải ăn sống nuốt tươi, học thuộc lòng một mớ từ vựng và ngữ pháp. Kết quả thi cuối kỳ đã có, tôi là người có thành tích cao nhất lớp 8 (1). Ngoài điểm tiếng Anh không tốt lắm ra, đại số, vật lý, hình học gần như đều đạt điểm tối đa, những môn khác như môn địa lý hoàn toàn dựa vào khả năng ghi nhớ học thuộc lòng thì điểm số của tôi gần như cao nhất lớp, vì tôi có mấy môn đạt điểm cao nhất trong lớp, nên dù có người muốn nói tôi gian lận trong kỳ thi cũng khó. Các bạn trong lớp chỉ còn biết dùng ánh mắt kinh ngạc để đối diện với điều bất ngờ này. Bố mẹ tôi xúc động tới mức không biết phải làm thế nào, trong cuộc họp phụ huynh thiếu điều muốn dập đầu để tạ ơn thầy Chậu Của Cải. Thầy Chậu Của Cải lại rất thản nhiên, bình tĩnh nói: “Môn tôi dạy là tiếng Anh, thì điểm thi môn tiếng Anh của em ấy là kém nhất, sự tiến bộ của em ấy không liên quan gì đến tôi.” Sắp phải chia tay, nên tôi và thầy Chậu Của Cải chung sống khá hòa bình, mặc dù cuộc tranh đấu giữa tôi và thầy khiến chúng tôi khó có thể quan hệ tốt trở lại, mặc dù rõ ràng là thầy thiên vị học sinh giỏi và những người có tính cách hoạt bát, năng động, nhưng bình tâm lại mà suy xét, thầy và cô Triệu hoàn toàn không giống nhau. Thầy khéo léo quan tâm đến Lâm Lam, làm mọi cách để níu giữ Trần Tùng Thanh. Thầy toàn tâm toàn ý trong việc dạy học. Tất cả những gì mà mắt tôi nhìn thấy, đủ để tôi tha thứ cho sự đau khổ mà thầy gây ra cho tôi. Thực ra, thầy Chậu Của Cải là một sinh viên mới tốt nghiệp đại học, lớn hơn chúng tôi có chín tuổi, bản thân thầy cũng chưa phải là người đã hoàn toàn trưởng thành. Tôi tin, chúng tôi là lớp học sinh đầu tiên trong đời dạy học của thầy, chắc chắn không bao giờ thầy có thể quên được, cũng giống như tôi không bao giờ quên được rằng thầy là thầy giáo chủ nhiệm lớp. Bởi vì, thầy đã để lại dấu ấn trên con đường đang trưởng thành của chúng tôi. Chúng tôi cũng đã lưu lại dấu ấn trên con đường trưởng thành đang dần hoàn thiện của thầy. Sau khi kỳ thi cuối kỳ kết thúc, tôi đi thăm Hiểu Phi, mẹ cô ấy giữ lời hứa, cho tôi gặp cô ấy. Khi tôi gặp Hiểu Phi, cô ấy đang nằm trên giường đọc sách, mái tóc dài và đẹp của cô ấy đã bị cắt ngắn, giống hệt một thằng con trai. Thấy tôi, cô ấy buông sách và nhìn tôi cười. Cảm giác của tôi rất lạ, tôi không giải thích được, ở cô ấy có điểm gì khác lạ, nhưng đúng là cô ấy rất khác, đôi mắt cô ấy vẫn sáng như thế, nhưng sự nhiệt tình, bay bổng trong mắt không còn nữa, chỉ là một ánh mắt mờ nhạt, một nụ cười mờ nhạt, cuộc sống của cô ấy giống như… giống như… đang là mùa xuân tươi đẹp đột ngột chuyển sang mùa thu ảm đạm vậy.
Tôi thấy cô ấy đang đọc sách tiếng Anh nên cũng yên tâm hơn, ngồi xuống bên cạnh cô ấy rồi hỏi: “Bệnh của cậu khỏi chưa?” Cô ấy gật gật đầu: “Khỏi rồi, cậu thi thế nào?” “Đứng thứ nhất trong lớp, thứ tự trong khối thì chưa biết, chắc phải đến học kỳ sau khi phân lại lớp mới biết.” Hiểu Phi tỏ vẻ kinh ngạc, nhưng cũng rất vui mừng: “Mình phải cố gắng thôi, nếu không bị cậu bỏ lại đằng sau mất.” Tôi chưa bao giờ thấy vui mừng trước kết quả thi của mình, bởi vì trong lòng tôi luôn có cảm giác hoang mang, nhưng lúc này, ngay lập tức, tôi trở nên hào hứng, xúc động nói: “Được, chờ tới học kỳ sau, chúng ta cùng thi, xem ai giỏi hơn nhé.” Hiểu Phi cười: “Được!” Tôi giơ ngón tay ra muốn ngoắc tay với cô ấy: “Hứa nhé?” “Hứa!” Chúng tôi ngoắc tay, khẳng định lời hứa của mình. Mẹ cô ấy hình như vẫn đứng ngoài nghe lén, nghe thấy tôi nói điểm tôi cao nhất lớp, rồi lại thấy cả hai chúng tôi ngoắc tay nhau cùng thi đua học hành, chắc mới yên tâm, mang vào phòng cho chúng tôi một đĩa nho, đồng thời nói ý nói tứ với Hiểu Phi: “Sau này con nên chơi với những người bạn như La Kỳ Kỳ nhiều hơn.” Rồi quay sang nhìn tôi với ánh mắt thân thiện, nói tiếp: “Mong cháu sau này đến chơi với Hiểu Phi thường xuyên hơn nhé.” Tôi cố gắng nở một nụ cười ngoan hiền nhất, nếu mẹ cô ấy thật sự biết tôi là người thế nào, không biết liệu có nói với tôi những lời dịu dàng như thế không. Có điều, lần đầu tiên tôi ý thức được rằng, con ngoan trò giỏi, thì ra lại có nhiều lợi thế như vậy, trở thành người mà tất cả các bậc phụ huynh đều tin tưởng, yên tâm. Hiểu Phi im lặng cúi đầu. Mẹ cô hình như cảm thấy có gì đó bất an, vội vàng đi ra ngoài: “Hai đứa bàn việc học đi, cô ra ngoài đã.” Đợi mẹ đi rồi, Hiểu Phi nháy mắt với tôi, tôi chạy ra cửa phòng liếc mắt nhìn, rồi quay sang lắc đầu với cô ấy. Cô ấy ra hiệu cho tôi đến ngồi bên cạnh mình, im lặng một lúc mới nói: “Thực ra mình chẳng mắc bệnh gì cả, mà là có thai.” Khả năng thể hiện tâm trạng qua nét mặt của tôi vô cùng nghèo nàn, vì vậy lúc này tôi chỉ nghệt mặt ra mà nhìn cô ấy. Trong mắt người ngoài, có lẽ biểu hiện của tôi vô cùng bình tĩnh, nhưng trong lòng lại đang chấn động tới mức không biết phải phản ứng như thế nào. Hiểu Phi cười: “Kỳ Kỳ, chuyện gì mới có thể khiến cậu sợ hãi đây? Sao lúc nào cậu cũng tỏ ra bình tĩnh như thế?”
Tôi không biết phải giải thích thế nào, đành hỏi: “Cậu làm thế nào?” Cô ấy chầm chậm đáp: “Đã đến bệnh viện giải quyết rồi, đợi đến học kỳ tới, mình sẽ bắt đầu lại từ đầu như chưa từng có chuyện gì xảy ra.” Tôi lắp bắp hỏi: “Cậu… cậu… chuyện gì thế? Kẻ nào bắt nạt cậu?” Hiểu Phi rất bình thản nói: “Quá trình không quan trọng, quan trọng là chuyện đã xảy ra rồi, giờ ngồi lật tìm nguyên nhân, cũng chẳng để làm gì. Mấy ngày đầu khi mới biết chuyện, ngày nào mình cũng khóc, nguyền rủa sự ngu dại của bản thân, nhưng nước mắt đâu có thể kéo thời gian quay trở lại, cũng không thể gột sạch lỗi lầm mình phạm phải. Kỳ Kỳ, đây là lần đầu tiên mình kể với cậu chuyện này, cũng là lần cuối cùng, sau này, mình sẽ không bao giờ nhắc lại nữa, mình chỉ muốn quên hết đi, cậu giúp mình cùng quên đi nhé, được không?” Tôi gật đầu: “Được!” Chúng tôi không nhắc lại chuyện cô ấy có thai rồi phá thai nữa, tiếp tục thảo luận những thứ liên quan đến việc học. Tôi kể cho Hiểu Phi nghe những thay đổi ở trường trong thời gian cô ấy nghỉ, những tin tức ngồi lê đôi mách mà mình biết được. Học sinh cấp hai mang thai rồi phá thai chắc chắn là chuyện rất nghiêm trọng, nhưng cũng có thể do thái độ quá ư bình thản của Hiểu Phi, nên trong lòng tôi lại ngộ thêm được một điều rằng, đây có lẽ chẳng phải chuyện gì quá ghê gớm, đơn giản giống như một lần bị cảm nặng, chỉ cần qua khỏi rồi, tất cả sẽ lại như chưa từng xảy ra. Tôi và Hiểu Phi cùng lên kế hoạch cho những việc chúng tôi sẽ làm sau khi học kỳ mới bắt đầu, hy vọng chúng tôi sẽ được phân vào cùng một lớp, như thế chúng tôi có thể ngồi cùng bàn, cùng đi học, cùng làm bài tập, rồi về cùng nhau, thậm chí chúng tôi còn bàn với nhau về chuyện sau khi lên cấp ba, nên học lớp xã hội hay lớp tự nhiên, có cần cùng nhau học một trường đại học hay không. Cô ấy cười nói mình thích Bắc Kinh, nên muốn đến Bắc Kinh học đại học, không phải Bắc Đại, thì sẽ là Thanh Hoa. Cô ấy còn vỗ vỗ đầu tôi nói: “Nếu cậu muốn học cùng trường với mình thì phải chăm chỉ học hành đi, đừng suốt ngày ham chơi, ham đọc tiểu thuyết như thế nữa.” Thấy vẻ mặt tự ti của tôi, cô ấy vội vàng cười, an ủi nói: “Đừng sợ, mình sẽ đôn đốc cậu trong chuyện học hành.” Hiểu Phi vô cùng tin tưởng vào tương lai, tôi không hề nghi ngờ việc cô ấy sẽ thực hiện được giấc mơ của mình, bởi vì giai đoạn lo lắng, hoảng loạn của cô ấy đã qua. Hiểu Phi đã chuẩn bị sẵn sàng cho khởi đầu mới của mình, và lần này, cô ấy nhất định sẽ không mắc phải bất kỳ sai lầm ngu xuẩn nào nữa.
Chương 6 1. Điệu nhảy đầu tiên của tôi Thời cổ đại, khi thiếu nữ được mười bốn tuổi, người cha sẽ cử hành lễ kê(1) cho con gái, để thể hiện rằng con gái đã trưởngthành. Ở phương Tây, trong hôn lễ của con gái, người cha sẽ nắm tay con mình, đưa con đi nốt quãng đường cuối cùng của thời niên thiếu. Cha, là người đàn ông quan trọng đầu tiên trong cuộc đời của con gái. Chi bộ Đảng trong cơ quan của bố tổ chức cho các cán bộ tuổi trung niên học nhảy, chuẩn bị cho cuộc thi khiêu vũ với đơn vị khác diễn ra trước tết Nguyên đán. Bố tôi ban ngày luyện tập ở cơ quan, buổi tối kéo mẹ ra công viên để cùng nhảy. Nghỉ hè, tôi và em gái chẳng có việc gì làm, thỉnh thoảng cũng ra công viên để xem mọi người khiêu vũ ở sàn lộ thiên. Có một lần, bố chê mẹ ngốc, đã dạy mấy lần rồi mà vẫn không học được. Mẹ nổi giận, hất tay bố ra. Anh chê tôi ngốc, tôi chẳng thèm học nữa. Các ông già bà cả, cô dì chú bác đang nhảy quanh đấy đều ồ lên cười. Bố cũng cười khan vài tiếng, tự mình xuống nước, nói với em gái tôi: “Vợ không chịu học, thì bố dậy con gái vậy.” Em gái tôi vui vẻ cùng bố học khiêu vũ. Bố nắm tay em, vừa đưa chân nhảy theo tiếng nhạc, vừa cười ha ha, chiếc nơ con bướm xinh đẹp thắt ở eo em gái tôi cũng nhẹ nhàng bay theo điệu nhảy. Những ông già bà cả xung quanh đều rất hào hứng, liên tục khen em gái tôi nhảy đẹp, mẹ đứng bên cạnh nhìn mãi, nhìn mãi rồi cũng phải cười. Bố lại càng hãnh diện vì cô con gái xinh đẹp, giỏi giang của mình. Nhảy hết một điệu, bố và em gái quay lại để ngồi nghỉ, thấy tôi cứ nhìn họ nhảy mãi, tiện thể cười hỏi: “Kỳ Kỳ, chút nữa có muốn học nhảy với bố không?” Tôi cố gắng kìm chế sự xúc động trong lòng, cố gắng gật đầu với vẻ điềm tĩnh nhất. Chẳng bao lâu sau, tiếng nhạc lại nổi lên, tôi đang căng thẳng, bố vội vàng đặt cốc nước xuống, túm lấy tay em gái đang ngồi bên cạnh chạy ra nhảy. Tôi như một sợi dây chun đang căng hết cỡ, đang căng thẳng chuẩn bị toàn tâm toàn sức bắn ra, nhưng không bắn, mà chỉ từ từ, từ từ thả lỏng, chùng xuống không ai biết. Tôi cười xem một lúc nữa, rồi nói với mẹ: “Con đi chơi với bạn đây”, một mình rời công viên. Có người từng nói, con gái là người tình ở kiếp trước của bố, nhưng nếu bố có hai người con gái, thì liệu có phải một người trong đó sẽ không phải người tình kiếp trước? Con người có hai cánh tay, tại sao lại chỉ có một trái tim.
Tôi đi lang thang trên đường, vừa đi vừa nghĩ xem nên đến chơi với ai. Giờ mẹ Hiểu Phi không chịu cho cô ấy ra ngoài, mà ban ngày tôi vừa đến chơi với cô ấy rồi, lại đến nữa, có vẻ không hợp lý lắm. Nghĩ đến việc từ sau khi nghỉ hè chưa gặp Tiểu Ba lần nào, tôi liền lang thang đi tìm Tiểu Ba. Trong quán karaoke huyên náo, ồn ào, anh ấy lại đóng chặt cửa ngồi trong phòng, say sưa học dưới ánh đèn bàn. Giờ tôi mới nghĩ ra, anh ấy đã lên lớp 12 rồi, cửa ải cuối cùng trong truyền thuyết, cá chép vượt vũ môn, phải chịu sự đau đớn giày vò khi lột đi lớp vẩy của mình. Tôi hỏi anh ấy điểm thi cuối kỳ thế nào, Tiểu Ba cười nói xếp trong top 100 của khối, rồi lại tỏ ra rất tự tin nói với tôi rằng thành tích của anh ấy sẽ tiếp tục tiến bộ hơn nữa, mục tiêu là lọt vào top 50 của toàn khối. Căn cứ vào tình hình thi đại học những năm gần đây của trường Nhất Trung, nếu Tiểu Ba thực hiện được mục tiêu của mình, thì rất có khả năng sẽ thi đỗ vào một trường đại học danh tiếng. Anh ấy đột nhiên hỏi: “Học kỳ tới bọn em chia lại lớp rồi, điểm thi cuối kỳ của em lần này thế nào?” Tôi uể oải đáp: “Anh đoán thử xem!” Anh ấy cười nói: “Không tệ đâu nhỉ, chắc chắn được vào lớp chọn, muốn anh tặng quà gì để chúc mừng?” Tôi khinh khỉnh xí một tiếng đáp: “Được vào lớp chọn đã là gì? Em đứng đầu lớp.” Tiểu Ba nhìn tôi chăm chăm như không thể tin vào những gì tai mình vừa nghe thấy. Đột nhiên, anh ấy nhảy ra khỏi ghế, hai tay kẹp dưới nách tôi, nhấc bổng tôi lên, vừa cười lớn vừa quay tròn. Ngay lúc ấy, tất cả những nỗi buồn trong tôi đều tan như mây khói, tôi cũng phá lên cười với anh. Cuối cùng Tiểu Ba cũng đặt tôi xuống, kinh ngạc hỏi: “Sao em làm được?” Tôi chóng mặt hoa mắt, lớn tiếng nói: “Không phải là miếng bánh tự nhiên từ trên trời rơi xuống đâu, em đã rất chăm chỉ! Ngày nào em cũng học tới khuya, những nội dung chọn lọc được in bằng chữ nhỏ, in nghiêng trong sách lịch sử em cũng học thuộc lòng, bài tập đại số, bài tập hình học, vật lý, bài nào em cũng làm hai lần, tuyệt đối không có sai sót.” Tiểu Ba cười hỏi: “Em vất vả như thế, thích quà gì nào?” Tôi nghiêng đầu suy nghĩ, trong đầu lại hiện lên cảnh bố và em gái cầm tay nhau khiêu vũ vừa rồi. “Em muốn học khiêu vũ.”
Tiểu Ba lập tức đồng ý: “Được, anh dạy em.” Anh ấy nhìn tôi từ đầu xuống chân, “Phải đi mua cho em một chiếc váy trước đã.” Tôi lắc đầu quầy quậy: “Thế không được, nếu mẹ em nhìn thấy sẽ hỏi lấy ở đâu, em không thể giải thích được.” Lời vừa thốt ra khỏi miệng tôi đã thấy hối hận, tại sao tôi phải quan tâm đến viêc bố mẹ mình nghĩ gì? Tôi muốn được phóng túng một lần, thế là vội nói lại: “Vâng, em không mặc về nhà là được.” Tiểu Ba nhìn đồng hồ, cười nói: “Giờ đến trung tâm thương mại còn kịp đấy.” Tôi nhìn Tiểu Ba làm mặt xấu, chạy đến chỗ đặt máy điện thoại, gọi cho anh Lý, anh Lý rất ngạc nhiên: “Kỳ Kỳ, xảy ra chuyện gì à?” “Không có gì ạ, em chỉ muốn báo với anh một tiếng là điểm thi cuối kỳ của em cao nhất lớp thôi.” Anh Lý rất vui, cười nói: “Xem ra chúng ta không chỉ có một mình Tiểu Ba là sinh viên rồi, sau này ai còn dám mắng anh mày không có văn hóa, anh mày sẽ cho bọn chúng xem bằng cấp của em trai, em gái mình. Em muốn thưởng gì nào?” “Em và Tiểu Ba đến trung tâm thương mại.” Anh Lý rất thoải mái nói: “Anh sẽ trả tiền, em nhất định đừng có tiết kiệm cho anh Lý, đừng học Tiểu Ba. Tiểu Ba cái gì cũng tốt, chỉ là quá cứng nhắc thôi.” Tôi cười hi hi nói: “Em chỉ chọn đồ tốt, không chọn đồ đắt đâu.” Anh Lý vội nói: “Đúng, đúng, đúng!” Tôi đã đạt được mục đích của mình, vui vẻ đặt điện thoại xuống, Tiểu Ba lại không bằng lòng lắm, mặc dù vẫn mỉm cười, nhưng chúng tôi đã chơi với nhau năm năm rồi, không cần phải nhìn nét mặt mới có thể phán đoán được tâm trạng của đối phương nữa. Tôi đứng bên cạnh chiếc xe đạp cũ của anh ấy, khẽ nói: “Sau này anh tốt nghiệp đại học, lĩnh lương tháng đầu tiên thì mua quà cho em. Em muốn anh Lý tặng quà, không đơn thuần chỉ vì món quà đó. Em không muốn thể hiện mình quá cao sang trong sạch, không muốn anh Lý nghĩ chúng ta đang cố gắng vạch rõ ranh giới với anh ấy.” Tiểu Ba đã ngồi trên xe đạp, một chân chống đất, chỉ đợi tôi ngồi lên, nghe tôi nói vậy, anh ấy ngẩn ra một lúc, lập tức xuống xe, quay vào trong phòng lấy chìa khóa xe mô tô và mũ bảo hiểm. Đội mũ bảo hiểm cho tôi xong, anh ấy ngồi lên xe mô tô, tư thế nhìn rất ngầu, cười nói với tôi: “Lên xe!” Tôi lập tức ngồi lên xe, không yên tâm nói: “Đây là lần đầu tiên em ngồi xe mô tô, anh đi chậm thôi, đừng làm ngã em đấy.” Tiểu Ba dùng khuỷu tay huých tôi một cái, ý bảo tôi nói ít thôi, bắt đầu cho xe chạy ra đường.
Thời đó, có không ít thanh niên trong thành phố chúng tôi chơi xe mô tô, mặc quần áo da, đi giày da, đua xe, cá cược, gái gú, thỉnh thoảng nhìn cả đoàn xe mô tô rầm rầm lao như bay qua, thật khiến người ta hoa mắt. Xe mô tô của Tiểu Ba được nhập khẩu nguyên chiếc từ Nhật Bản. Anh Lý phải tốn rất nhiều công sức mới có được nó. Cả thành phố cũng chỉ có vài cái, chạy trên đường, rất phong cách. Nhưng số lần Tiểu Ba mang xe ra sử dụng rất ít, Ô Tặc mượn mang đi đua xe lấy tiền hai lần, sau khi bị Tiểu Ba nói cho một trận, anh ta mới không chơi trò mạo hiểm đó nữa. Lần đầu tiên ngồi xe mô tô, tôi nắm chặt hai bên yên xe, căng thẳng muốn chết, chỉ sợ mình bị hất rơi xuống đất. Không ngờ Tiểu Ba lái mô tô mà như xe đạp, rất lâu không thấy tăng tốc, tôi rầu rầu hỏi: “Anh có biết lái xe không đấy?” Giọng Tiểu Ba cũng buồn buồn phát ra từ trong mũ bảo hiểm: “Lần đầu tiên anh chở người khác, đột nhiên nghĩ ra, người ngồi sau không có nơi nào để bám, cần phải ôm eo người ngồi trước.” Tôi cười, chẳng trách trong ti vi đều thấy người ngồi sau ôm chặt người ngồi trước, khi xem tôi cứ nghĩ đạo diễn chỉ đạo như thế để thể hiện tình yêu của họ, thì ra ngồi xe mô tô phải ngồi như thế, thế là tôi thoải mái vòng tay ôm eo Tiểu Ba, tốc độ của xe lập tức tăng vọt lên. Cùng với tốc độ lao nhanh như xé gió của xe, cuối cùng tôi đã hiểu tại sao con trai lại thích xe mô tô, không chỉ là trông rất ngầu mà khi lái xe, thật sự có cảm giác như đang được bay lượn trong gió. Xe chạy quá nhanh, gió bắt đầu lướt như cắt lên da thịt chúng tôi, tôi mặc một bộ quần áo bình thường, mặc dù Tiểu Ba đã cản gió cho tôi rất nhiều, nhưng vẫn có cảm giác như bị dao cứa, dường như nếu không ôm chặt, tôi sẽ bị thổi bay về đằng sau. Tôi ôm chặt eo Tiểu Ba hơn, nhắm chặt hai mắt lại, cảm nhận gió lướt trên da thịt mình. Tôi nghĩ bản tính của tôi và Tiểu Ba đều có xu hướng thích mạo hiểm và thích truy tìm cảm giác được giải thoát. Khi vừa mới lên xe, tôi còn nhắc nhở Tiểu Ba không nên chạy quá nhanh, anh ấy dường như cũng định lái thận trọng, điềm đạm, nhưng khi chúng tôi cảm nhận được cảm giác thích thú của việc bay lượn này, lập tức vứt bỏ hết lý trí lại phía sau, chỉ muốn thỏa mãn bản năng, lao như bay để hưởng thụ sự thoải mái, nhẹ nhàng do cảm giác kích thích mang lại. Tiểu Ba vượt hết xe này đến xe khác, đa số các lái xe khi bị vượt đều chửi đổng vài tiếng hoặc bấm còi inh ỏi, nhưng khi anh ấy vượt qua một chiếc xe mô tô khác, chủ nhân của chiếc xe đó không biết là do bị chúng tôi chọc tức nên nổi giận hay do tính háo thắng của chính bản thân mình, lập tức nhấn ga đuổi theo. Tiểu Ba hét lớn gọi tên tôi: “Kỳ Kỳ…” Tốc độ quá nhanh, gió lại lớn, tôi hoàn toàn không nghe được những gì anh ấy nói, chỉ mơ hồ nghe thấy tên của mình, có điều, tôi đã hiểu ý anh ấy muốn nói.
Tôi nhìn sang chiếc xe đang chạy song song với xe mình, người lái mặc một chiếc áo da màu đen, cô gái ngồi phía sau anh ta có mái tóc dài và quăn tít như tảo biển, đến mũ bảo hiểm cũng không thể hãm lại được, tung bay trong gió, cùng với chiếc váy màu đỏ mà cô ta mặc, một hình ảnh hết sức đẹp mắt. Tôi thích ngắm vẻ đẹp tự do, phóng khoáng không bị kìm kẹp đó. Tay ôm chặt Tiểu Ba hơn một chút, Tiểu Ba hiểu ý tôi, biết là tôi đồng ý để anh ấy tham gia vào cuộc đua này. Anh bắt đầu tăng tốc, chuyên tâm thi đấu với đối phương. Đối phương quả nhiên là người thường xuyên tham gia các cuộc đua xe, nên biết rõ mọi con đường trong thành phố, có ý muốn dẫn Tiểu Ba đến một con đường vắng xe cộ hơn. Số xe lưu thông trên đường càng ít thì tốc độ của họ cũng càng tăng. Tôi cảm thấy tốc độ của chúng tôi lúc này đã vượt quá 140 km/h, thật sự khiến người ta có ảo giác như đang bay lượn trong gió. Trong tích tắc, tôi bỗng có ý nghĩ dại dột muốn buông Tiểu Ba ra, để cuộc đời vĩnh viễn dừng lại trong khoảnh khắc sảng khoái tuyệt vời tự do tự tại này. Tôi đột nhiên hoảng hốt nghĩ, liệu có phải những người chết vì tai nạn giao thông, đều là vì những ảo giác kiểu này hay không? Xe của Tiểu Ba tốt hơn xe đối phương, nhưng kỹ thuật điều khiển xe của đối phương lại tốt hơn anh ấy. Tính tàn độc vốn được cất giấu trong con người anh ấy từ bấy lâu nay bị ép bật ra, dần dần có cảm giác như anh đang đặt cược cả tính mạng của mình. Tốc độ vẫn không ngừng tăng lên, đối phương cũng chẳng hề run sợ, tăng tốc theo Tiểu Ba, thậm chí còn lợi dụng khúc cua, sử dụng kỹ thuật và sự khéo léo lại một lần nữa vượt qua Tiểu Ba. Kỹ thuật điều khiển xe của Tiểu Ba không tốt lắm, lại đi với tốc độ quá nhanh, nên có cảm giác xe hơi chao, chỉ cần sơ ý một chút là chúng tôi sẽ bỏ mạng nơi xa lộ, nhưng tôi không hề sợ, tôi còn bắt đầu lờ mờ hiểu được tính ngông cuồng trong máu của tôi và Tiểu Ba là bắt nguồn từ đâu, hoàn toàn không phải do hoàn cảnh bên ngoài ép buộc, mà đó là tính cách vốn có của chúng tôi. Hai chiếc xe mô tô một trước một sau, chạy đua được một lúc, thì đột nhiên từ xa vọng lại tiếng còi của cảnh sát giao thông. Xe phía trước đi chậm lại, Tiểu Ba cũng giảm tốc độ theo, khi đi ngang qua một cửa hàng sửa xe, đối phương liền rẽ vào, dừng xe lại, Tiểu Ba cũng dừng xe theo đối phương. Xem ra sau khi đua xe xong lại như cảm mến tài năng của nhau, nên muốn làm quen, kết bạn. Người kia và Tiểu Ba đều cởi bỏ mũ bảo hiểm, nhìn rõ đối phương, cả hai đều sững sờ vài giây, rồi cùng phá lên cười. Trương Tuấn cười nói: “Xe của anh Tiểu Ba tốt thật đấy.” Tiểu Ba cũng cười nói: “Xe tốt không bằng kỹ thuật tốt.” Sắc mặt bạn gái Trương Tuấn trắng bệch, nhưng tinh thần lại có vẻ kích động: “Đã quá!” Giơ tay ra bắt tay Tiểu Ba, vui mừng hồ hởi tự giới thiệu: “Em là bạn gái của Trương
Tuấn, lần trước nhìn anh chọc bida, cứ nghĩ anh là công tử bột, không ngờ lên xe cũng liều lĩnh như vậy.” Tiểu Ba cười bắt tay cô ta, rồi khiêm tốn đáp: “Không liều bằng Trương Tuấn.” Bạn gái của Trương Tuấn nháy mắt về phía tôi, hỏi: “Bạn gái anh Tiểu Ba tên gì thế?” Cô ta dường như rất muốn biết bạn gái của Tiểu Ba trông thế nào, tôi lại rất không muốn bỏ mũ bảo hiểm ra, nhưng cũng không muốn người ta nghĩ mình khác người, vì vậy, đành bỏ mũ ra, nhìn cô ta gật đầu cười cho có lệ. Cô ta không có ý che giấu sự thất vọng của mình, có lẽ không ngờ bạn gái Tiểu Ba lại là một cô nhóc bốn mắt, tóc buộc đuôi ngựa, diện mạo chẳng có gì nổi bật như thế. Tiểu Ba cười, nói: “Cô ấy là La Kỳ Kỳ, không phải bạn gái, là bạn thôi.” Vẻ mặt cô ta như đang muốn nói, cũng may là không phải! Cô ta nhiệt tình nói với Tiểu Ba: “Trong cơ quan em có rất nhiều mỹ nữ, để em giới thiệu cho anh Tiểu Ba một người, đảm bảo anh sẽ vừa ý. Anh Tiểu Ba thích người như thế nào?” Tiểu Ba thoáng khựng lại, có lẽ không ngờ bạn gái mới của Trương Tuấn lại có tính cách hoàn toàn khác biệt với người cũ như thế. Trương Tuấn ôm eo cô ta, kéo mạnh vào lòng mình, cười cười búng nhẹ mũi cô ta một cái: “Em đừng nhiều chuyện nữa, anh Tiểu Ba mà muốn thì không thiếu mỹ nữ đâu.” Tôi nhắm mắt ngủ, trong lòng nghĩ bao giờ các người họp xong thì gọi tôi. Tiểu Ba cáo từ: “Giờ bọn tôi có chút việc, gặp nhau sau nhé!” Tôi lập tức vui mừng mở bừng mắt ra, vẫn là anh Tiểu Ba hiểu ý tôi nhất. Anh đội lại mũ cho tôi, cẩn thận cài nút, khẽ hỏi tôi: “Có chặt không?” Tôi lắc lắc đầu, anh ấy cài xong mũ cho tôi, mới quay ra đội mũ của mình. Sau khi xe chạy, qua gương chiếu hậu, tôi vẫn có thể nhìn thấy chiếc váy đỏ xinh đẹp đó, hai tay cô ta ôm chặt cổ cậu ấy, người áp chặt vào người cậu ấy. Tôi khẽ ngả đầu vào lưng Tiểu Ba, Tiểu Ba muốn tăng tốc, nhưng tôi giật gấu áo, anh lại cho xe chạy chậm lại. Tôi sợ, khi cảm giác bay lượn đó lại một lần nữa mê hoặc của tôi, tôi thật sự sẽ buông tay ra để đi tìm kiếm sự tự do tự tại của mình. Còn nửa tiếng nữa là trung tâm thương mại đến giờ đóng cửa, Tiểu Ba lo không kịp, tôi nhanh chóng đưa ra quyết định, chọn một chiếc váy đỏ chấm bi màu trắng, phần eo thắt một chiếc nơ bướm lớn. Tôi không hề suy nghĩ về lựa chọn của mình, nhưng từ nơi sâu thẳm của trái tim, tôi hiểu vì sao mình lại lựa chọn như thế, có những việc, không cần đến một nhà phân tích tâm lý học như Freud(2) cũng có thể giải thích được. Màu đỏ, là vì bạn gái của Trương Tuấn, nơ bướm, là vì em gái tôi. Tôi quay một vòng trước mặt Tiểu Ba, đuôi váy bay xòe ra như hoa nở.
“Được không?” Tiểu Ba gật đầu tỏ ý kinh ngạc: “Kỳ Kỳ lớn thật rồi!” Tôi cãi: “Em chưa bao giờ thấy mình bé cả.” Anh ấy nhìn xuống chân tôi, rồi nói: “Phải mua một đôi giày nữa.” Tôi rất kích động: “Mua giày cao gót!” Anh ấy cười: “Trước giờ em đã đi giày cao gót bao giờ đâu? Có đi được không? Nếu ngã, anh không chịu trách nhiệm đâu đấy!” Tôi trừng mắt với anh, anh vẫn cười không quan tâm tới phản ứng của tôi. Tôi chọn một đôi xăng đan cao gót màu trắng, sau khi vụng về đi vào chân, trong tích tắc đứng dậy đó, tôi có cảm giác mình nữ tính hơn, dịu dàng hơn. Không biết có phải những cô bé khi trở thành thiếu nữ đều bắt đầu từ đôi giày cao gót hay không, bởi vì khi đi nó vào, chúng ta không thể đi lại ngông nghênh, cũng không thể vượt tường trèo cây, chúng ta phải bước đi từ tốn, và vô hình trung, chúng ta trở nên nữ tính hơn, dịu dàng hơn. Ngày hôm sau, tôi xin phép bố mẹ, nói tối nay có sinh nhật bạn, nên muốn đi chơi về muộn hơn một chút, bố mẹ tôi lập tức đồng ý. Tôi đứng đầu lớp trong kỳ thi cuối kỳ thì trong suy nghĩ của bố mẹ, một đứa con gái có thành tích cao thứ nhất lớp chắc chắn sẽ không làm bất cứ việc gì xấu. Bố còn đặc biệt nhấn mạnh: “Lúc nào nên chơi thì phải chơi, lúc nào cần học thì phải học. Nghỉ hè, con có thể chơi cho thoải mái. Sau khi vào học, lại chăm chỉ đón một năm học mới.” Tôi nhận được lời nhắn của Tiểu Ba, đến Tại Thủy Nhất Phương tìm anh ấy. Sau khi đến nơi, tôi mới biết vũ trường hôm nay không mở cửa, buồn rầu một lúc, mới chợt hiểu ra. Bởi vì ở vũ trường thường xuyên có phụ huynh và giáo viên qua lại, tôi sẽ sợ gặp người quen, chắc chắn không chịu học nhảy ở ngoài sàn lớn, mà sẽ tìm một góc nào đó vắng vẻ, yên tĩnh để học. Không ngờ anh Lý lại long trọng thế này, còn ngừng kinh doanh một tối để tiếp tôi. Cho đến khi nhìn thấy Tiểu Ba mặc một bộ âu phục đen, tôi mới biết không chỉ có một mình anh Lý long trọng. Tôi bỗng cảm thấy căng thẳng. Tiểu Ba cười nói: “Váy và giày của em đều để trong văn phòng của anh Lý, anh đợi em ngoài này.” Anh Lý cũng cười: “Kỳ Kỳ lớn thật rồi!” Ô Tặc mặc dù đang cố gắng kiềm chế cái mồm quạ của mình, nhưng không ngừng nháy mắt nhướn mày cười với tôi.
Bọn họ cười khiến tôi cảm thấy ngại ngùng, la lên: “Mọi người còn cười nữa, em không học đâu.” Anh Lý tay trái túm Tiểu Ba, tay phải túm Ô Tặc, kéo cả hai ra ngoài, vừa đi vừa nói: “Da mặt bắt đầu mỏng hơn rồi, có chút giống con gái đấy, cuối cùng cũng không đến nỗi vì chơi với bọn anh mà thành một thằng nhóc ngỗ nghịch.” Tôi hằm hằm chạy vào văn phòng của anh Lý, váy và giày đều được đặt trên ghế sofa. Tôi thay quần áo, đi giày vào, đứng trước gương quay đi quay lại tự ngắm mình, nhớ đến người con gái xinh đẹp rực rỡ bên cạnh Trương Tuấn, buồn bã thở dài, dù sao cũng là một con khỉ, có mặc hoàng bào cũng không thể biến thành thái tử. Đột nhiên có tiếng gõ cửa bên ngoài. “Ai?” “Ông chủ bảo chị vào làm tóc cho em.” Tôi mở cửa, cô gái đứng ngoài cửa tay cầm một chiếc hộp nhựa lớn. Tôi để chị ta vào, cô ta hỏi: “Em muốn để kiểu tóc nào?” “Không biết. Tùy chị.” Chị ta nhìn tôi một lúc, cười rồi bảo tôi ngồi xuống, bắt đầu chải đầu cho tôi, tôi bị chị ta giày vò nửa tiếng đồng hồ, khi sắp không thể kiên nhẫn thêm được nữa thì chị ta cười nói: “Xong rồi, em soi gương đi, nếu không vừa ý, chị đổi lại.” Tôi đi đến trước gương, đeo kính lên, cô gái trong gương, mái tóc đen được vấn thành một kiểu tóc gọn gàng, để lộ chiếc trán nhẵn bóng, cái cổ nhỏ dài, trong búi tóc đen nhánh được cài một bông hoa ngọc lan giả màu trắng, rất hợp với đôi xăng đan mà Tiểu Ba chọn cho tôi. Chị ta đứng đằng sau tôi cười, khẽ nói: “Ở đây chị còn có một bộ trang sức giả ngọc trai, nếu em không chê, đeo vào sẽ càng xinh hơn.” Tôi đã hoàn toàn bị chinh phục trước tay nghề khéo léo của chị ta, lập tức đồng ý: “Em không chê đâu.” Chị ta lấy ra một bộ vòng cổ hoa tai giả ngọc trai, giúp tôi đeo lên, sau khi ngắm nghía kỹ càng, lại tháo ra, nói: “Nhìn em rất tinh khôi, tinh khôi tới mức cho thêm bất kỳ loại trang sức nào cũng cảm thấy thừa, cứ thế này là được rồi.” Tôi cũng không hiểu từ tinh khôi mà chị ta dùng để khen mình là có ý gì, chỉ nói: “Vậy em không đeo nữa.” Chị ta bắt đầu thu dọn đồ đạc: “Vốn tưởng còn phải trang điểm nữa, nên mang theo một đống đồ, giờ mới biết là không cần dùng đến.” Tôi nói: “Cảm ơn chị!”
Chị ta cười đáp: “Không phải cảm ơn chị, hãy cảm ơn chính mình. Tuổi trẻ thật là tuyệt, đôi mắt sáng ngời, da mềm mịn láng mượt, chỉ cài một bông hoa là đủ, không cần phải thêm bất cứ một thứ trang sức nào.” Tôi đi ra ngoài, chị ta chạy đuổi theo tôi rồi hỏi: “Em cận có nặng không?” Tôi trả lời: “Ba độ.” “Bỏ kính ra có nhìn rõ không?” “Dạ, nhìn đường không có vấn đề gì, nhưng nhận người hơi khó.” Chị ta với tay nhấc chiếc kính khỏi mũi tôi: “Thế là đủ rồi”. Ánh đèn trong vũ trường vốn mờ mờ ảo ảo, tôi lại không có kính, thế giới trước mắt bỗng trở nên mơ hồ, tất cả đều như bị phủ một lớp sương mỏng. Đột nhiên tôi cảm thấy rất căng thẳng, nỗi sợ hãi theo bản năng của con người trước những thứ mờ ảo. Tôi đi trên đôi giày cao gót, dò lần từng bước một, dường như nhìn thấy có bóng người, nhưng không rõ ai với ai, đột nhiên, có một người đứng trước mặt tôi, nhưng anh ta lại không nói gì. Tôi vô cùng bất an, bất giác hối hận vì đã để chị gái kia lấy đi đôi kính của mình, bỗng tiếng cười của anh Lý vang lên: “Trời ơi! Tôi có nhìn nhầm người không thế này. Đây là Kỳ Kỳ sao? Thật đúng là người đẹp vì lụa mà.” Lúc này tôi mới dám chắc chắn người đứng trước mặt mình là Tiểu Ba. Tôi vội bước thêm vài bước, giơ tay về phía anh. Anh ấy nắm lấy tay tôi. Tôi thấy yên tâm hơn. Cho dù thế giới này có tối tăm tới đâu, chỉ cần anh ấy ở bên cạnh, anh ấy sẽ nhìn thay cả phần tôi. Tôi ngại ngùng nói: “Chị làm tóc đã bỏ kính của em ra, em nhìn không rõ lắm.” Anh ấy đáp: “Không sao. Anh sẽ dẫn em.” Anh ấy đưa tôi đi về phía sàn nhảy, tôi căng thẳng tới mức lòng bàn tay rịn mồ hôi, anh ấy nói: “Chúng ta nhảy bốn bước chậm đơn giản nhất trước đã.” “Có khó không? Anh cũng biết em ngốc lắm đấy!” “Chỉ cần em biết đi, là sẽ biết nhảy!” Âm nhạc nổi lên, là một bản nhạc Jazz. Anh ấy đỡ eo tôi, nhỏ nhẹ chỉ cho tôi cứ hai nhịp đi một bước, nam tiến chân trái, nữ lùi chân phải, nam tiến chân phải, nữ lùi chân trái, chân sau hơi xoay, nam trái, nữ phải bước sang ngang một bước, quay phải dừng chân, thu chân lại, tiếp tục nam lùi chân trái, nữ tiến chân phải, nam lùi chân phải, nữ tiến chân trái… Mặc dù hướng khác nhau, nhưng rõ ràng là một trò chơi lặp đi lặp lại việc tiến tiến lùi lùi, tôi cười nói: “Hình như không khó lắm!”
Tiểu Ba cũng cười: “Anh đã nói rồi mà, không khó.” Khi ấy tôi không biết, linh hồn của điệu nhảy Latin chính là người nam. Người nam dẫn chính, và họ chính là người quyết định tiết tấu cũng như bước nhảy. Nếu người nam là một vũ công giỏi, thì người nữ nhảy sẽ rất nhẹ nhàng. Tôi thật may mắn, điệu nhảy đầu tiên trong đời lại được nhảy với một bạn nhảy tuyệt vời thế này. Hết một bản nhạc, Tiểu Ba mỉm cười nói: “Phần sau mới được coi là chính thức.” Chị Xinh Đẹp mặc một chiếc xường xám màu hồng tươi, uốn a uốn éo đi lên sân khấu, chưa nói đã cười: “Sở thích của Kỳ Kỳ thật kỳ cục, cây nhà lá vườn, chị hát không hay, nhưng coi như đây là tâm ý của chúng tôi dành cho em.” Đây đúng là một niềm vui lớn, tôi có tình yêu sâu sắc với những thứ trôi bên ngoài dòng thời gian, trước kia khi cùng Tiểu Ba xem album của Chu Tuyền, Hồ Điệp, đã từng cảm thán mà thốt lên rằng: “Thế nào là cảnh xa xỉ phồn hoa mê hồn? Đây mới chính là xa xỉ phồn hoa mê hồn! Thế nào là phong lưu du dương trọn vẹn? Đây mới là du dương trọn vẹn!” Không ngờ Tiểu Ba lại nhớ, càng không ngờ một người chỉ thích những ca khúc thức thời như chị Xinh Đẹp lại vì tôi mà học. Những giai điệu của nhạc Blues vang lên, chị Xinh Đẹp khẽ lắc hông, uể oải yêu kiều cất tiếng hát: “Tường vi tường vi nở khắp nơi(3). Thanh xuân thanh xuân ở khắp nơi. Không ngăn được làn gió xuân ùa vào lòng. Tường vi tường vi nở khắp nơi. Ông trời muốn tường vi nở khắp nơi. Là muốn mọi người đều có được tình yêu. Gió xuân lướt qua tim chúng ta thấy đau. Tường vi tường vi nở khắp nơi. Mùa xuân là một cô dâu xinh đẹp. Cánh tường vi rơi đầy đất làm của hồi môn.” Giọng hát du dương và mượt mà, ánh đèn mờ ảo, dường như đưa chúng tôi trở về không gian của Thượng Hải ngày xưa. Tôi vừa cùng Tiểu Ba xoay vòng trên sàn nhảy, vừa khẽ cất tiếng hát theo nhạc: “Tường vi tường vi nở khắp nơi, thanh xuân thanh xuân ở khắp nơi, không ngăn được làn gió xuân ùa vào lòng…” Chị Xinh Đẹp hát xong, đi vào trong sàn nhảy, Ô Tặc cầm tay chị ấy cùng nhảy với chúng tôi. Những ca khúc như Tâm trạng khi yêu, Dạ hương… từng bài, từng bài đều được bật lên, tôi nhảy tới mức mồ hôi thấm ướt người. Chúng tôi dường như đã đi được vào đôi giày đỏ(4), có thể nhảy mãi không ngừng. Mặc dù trên thế giới này có rất nhiều chuyện không như ý, mặc dù bộ mặt của cuộc sống vốn có trăm ngàn vết rỗ, nhưng vẫn tràn ngập niềm vui và hy vọng. Hiểu Phi đã dần lấy lại được tinh thần. Tiểu Ba nhất định sẽ thi đỗ đại học. Sau này tôi có thể lựa chọn học cùng trường với Tiểu Ba, hoặc học cùng trường với Hiểu Phi, đợi sau khi học xong đại
học, đợi sau khi Ô Tặc và chị Xinh Đẹp kết hôn rồi, hằng ngày chúng tôi sẽ cùng nhau khiêu vũ như tối nay. Ô Tặc và Tiểu Ba ngầm trao đổi với nhau qua ánh mắt, anh ta dắt tay chị Xinh Đẹp rời khỏi sàn nhảy, chị Xinh Đẹp cười nói: “Hai người nhảy tiếp đi, bọn này nghỉ một lát.” Tôi hỏi: “Rút cục thì anh Lý đã chuẩn bị bao nhiêu bài hát xưa?” Tiểu Ba cười: “Chỉ cần em còn nhảy, thì nhạc còn bật.” “Nhảy hết bản nhạc này không nhảy nữa, em mệt rồi.” Khi Tiểu Ba dắt tay tôi ra khỏi sàn nhảy, miệng tôi vẫn lẩm nhẩm hát theo nhạc. Trên ghế sofa thấp thoáng có mấy bóng người, nhưng tôi nhìn không rõ ai với ai, chỉ nghe thấy có một giọng nói hỏi: “Kỳ Kỳ, vui không?” Là anh Lý, đầu tôi lắc qua lắc lại, trả lời bằng câu hát: “Tôi yêu màn đêm bao la, yêu tiếng hát của lòng anh, càng yêu hơn đóa hoa đẹp như trong giấc mộng, ôm vào lòng một đóa dạ hương.” Anh Lý phá lên cười lớn. Tiểu Ba kéo tôi ngồi xuống. Tôi dựa vào anh ấy, vẫn khe khẽ hát: “Dạ hương tôi hát vì em, dạ hương tôi nhớ nhung em, dạ hương, dạ hương…” Anh Lý nói với người ngồi bên cạnh mình: “Chúng tôi tổ chức chúc mừng em gái, khiến anh Lục chê cười rồi.” Tiếng hát của tôi lập tức ngưng bặt. Tiểu Ba rất mẫn cảm, nhận ra ngay, khẽ vỗ vỗ vào lưng tôi, ý bảo tôi là không có chuyện gì đâu. Anh Lục nói: “Chẳng trách hôm nay anh Lý không chịu cho huynh đệ của tôi vào chơi.” Khẩu khí của Tiểu Lục có gì đó rất khác với trước kia, hai từ “anh Lý” gọi nghe không được nhẹ nhàng lắm. Anh Lý cười: “Thật sự ngại quá, thế này đi, thời gian còn lại, tùy mọi người!” Người bên cạnh mang ra một chai rượu, anh Lý đưa cho Tiểu Lục, nói: “Chai rượu này là Vương Dũng mang từ châu Âu về, tôi giữ chưa dám uống, hôm nay lại là sinh nhật của anh Lục, mọi người đều vui, cùng uống đi. Hôm nay mọi người đều vui. Bọn anh vui, bọn tôi đây cũng vui, vậy thì cùng nhau vui nào.” Tiểu Lục lập lờ nói: “Anh Lý và công tử nhà Cục trưởng Vương có vẻ thân thiết quá nhỉ, coi như nhờ phúc của anh Lý đây, anh em chúng tôi hôm nay mới được uống một chén rượu của Vương công tử.” Anh Lý cũng cười theo, nói: “Đều là bạn bè cả, đều là bạn bè cả mà.” Anh khoát tay, cho người đi mở rượu: “Uống rượu hay khiêu vũ, tùy anh em.”
Những gì muốn nói anh Lý đã nói rất rõ ràng, nhưng Tiểu Lục có vẻ không chịu hiểu, đột nhiên chỉ vào tôi nói: “Tôi muốn mời em gái đây nhảy với tôi một bài.” Tiểu Ba vốn đang ngồi hơi khom người về phía trước, nghe thấy Tiểu Lục nói vậy, đột nhiên cười lớn, vừa cười vừa uể oải ngả lưng tựa vào ghế sofa, chậm rãi nói: “Cô ấy hôm nay là bạn nhảy của tôi, không thể nhảy với người khác.” Tiểu Lục cười hỏi anh Lý: “Những lời anh Lý vừa nói, cho qua sao?” Anh Lý xin lỗi đáp: “Anh Lục, thật xin lỗi, huynh đệ học hành không đến nơi đến chốn, ăn nói vô văn hóa, không có phép tắc gì cả, anh Lục đừng chấp!” Tiểu Lục phá lên cười ha hả: “Được lắm, anh Lý quả nhiên là miệng lưỡi của kẻ có tiền, gan cũng lớn, chúng ta cùng chờ xem!” Hắn ta đứng dậy định đi, người phục vụ đang bê khay, mang rượu vừa rót tới, hắn ta hất tay một cái, cả khay rượu đổ ụp, rượu đổ hết xuống đất. Trong tiếng vỡ loảng xoảng của ly thủy tinh, Tiểu Lục mang theo người của hắn hằm hằm rời khỏi vũ trường. Giờ tôi mới biết là Trương Tuấn cũng có mặt ở đây, vừa rồi cậu ấy không lên tiếng, nên tôi không biết là có cả cậu ấy. Có người chạy đến định quét dọn đống đổ vỡ, anh Lý khoát tay, ý bảo họ lát nữa quét dọn một thể. Tôi biết chuyện này không liên quan gì đến tôi, Tiểu Lục rắp tâm gây sự, anh Lý quyết định sẽ không nhường nữa, tôi chẳng qua là con tốt thí mạng, trở thành cái cớ của họ, có điều cũng vẫn phải nói gì đó: “Anh Lý, em xin lỗi”. Anh Lý không khách khí đáp lại: “Nếu mà em cảm thấy có lỗi, thì chữ “Lý” trong tên anh đã viết ngược từ lâu rồi. Vừa rồi em không nhảy lên, đập cả chai rượu vào đầu hắn, đã là nể, rất nể mặt anh.” Ô Tặc, Xinh Đẹp, Tiểu Ba đều cười tôi, anh Lý thở dài: “Tên Tiểu Lục này quá tham lam, sớm muộn gì cũng giở mặt, bây giờ mặc dù không sợ gì hắn, nhưng dù sao cũng phiền phức lắm.” Tiểu Ba mỉm cười nói: “Chính phủ cứ cách vài năm lại truy quét một lần, nếu tính số năm thì có lẽ cũng sắp rồi, lần trước ngồi uống rượu với Vương Dũng, chẳng phải cậu ta cũng nói công văn mật đã ra rồi sao?” Anh Lý cười sảng khoái: “Vậy thì anh cũng không cần phải lo lắng nữa.” Nói xong đứng lên, định đi. Ô Tặc vội nói: “Đại ca, anh nói cho hết đi, rút cục phải đối phó với Tiểu Lục thế nào?” “Anh còn phải đi gặp Vạn Kiệt, sau này giải thích cho cậu sau. Tối nay là của Kỳ Kỳ, đừng để Tiểu Lục làm cụt hứng, mọi người cứ chơi đã đi.” Ô Tặc và chị Xinh Đẹp lại ra nhảy, Tiểu Ba hỏi tôi: “Em còn muốn nhảy nữa không?”
Tôi hỏi lại anh: “Tối nay em có xinh không?” Tiểu Ba gật đầu:”Xinh!” Tôi ngập ngừng định hỏi: “Em và bạn gái Trương Tuấn ai xinh hơn?” Nhưng đáp án rõ ràng là không cần nghĩ cũng biết, Tiểu Ba chắc chắn sẽ nói là tôi, mà lời khẳng định của anh ấy, không thể lấy làm tiêu chuẩn để tham khảo. Tôi buồn buồn nói: “Em không muốn nhảy nữa.” Tiểu Ba hỏi: “Vậy đi thay quần áo nhé?” Tôi lưu luyến mân mê bộ váy đang mặc trên người: “Mặc thêm một lúc nữa rồi thay.” Tiểu Ba phá lên cười, tôi không khách khí giơ tay đấm anh ấy: “Có gì đáng cười? Lẽ nào em không thể tự phụ một chút sao?” “Đừng để áo gấm đi đêm, chúng ta ra ngoài đi dạo một lát đi.” Tiểu Ba kéo tay tôi đi ra khỏi vũ trường. Hai chúng tôi tản bộ trên đường. Tôi cảm thấy thế giới tối nay thật không giống với ngày thường, đi được vài bước, chợt nhận ra sự khác biệt đó, lo lắng nói: “Kính của em!” “Anh không bỏ rơi em đâu, tí nữa về rồi lấy.” Tôi đành đi theo Tiểu Ba, tiếp tục ngắm hoa trong màn sương. Chúng tôi vừa đi vừa nói chuyện, nếu như có ai nghe thấy cuộc trò chuyện của chúng tôi, chắc chắn sẽ ngất ra đất, vì anh ấy lại thỉnh giáo tôi cách học, còn tôi cũng dương dương tự đắc thao thao bất tuyệt. “Tiếng Anh của em không tốt lắm, năm đó đấu với thầy Chậu Của Cải ác liệt quá, không chịu nghe giảng trong giờ của thầy ấy, cũng không làm bài tập, giờ gần như mất gốc, mà Anh văn và ngữ văn lại là hai môn học không thể đầu cơ trục lợi, phải dựa vào sự chăm chỉ, thông minh hay không thông minh cũng thế, hiện nay em cũng chưa nghĩ ra cách học tiếng Anh, nên không nói được. Đại số, hình học, vật lý, những môn này thực ra là học một sẽ biết mười, tất cả những bài tập khó xét cho cùng đều nằm ở cách suy nghĩ. Em không hiểu tại sao thầy cô giáo lại thích cho nhiều bài tập về nhà đến thế, chiến thuật giải bài tập đó chẳng có ý nghĩa gì, đề bài nên chú ý chất lượng, không nên ham số lượng, làm nhiều, đầu óc sẽ bị loạn, chỉ chăm chăm chú ý đến những chi tiết vụn vặt. Anh biết không? Em chỉ cần bỏ ra nửa tiếng đồng hồ là có thể làm xong mười bài tập, nhưng lại bỏ ra hai tiếng đồng hồ để nghiên cứu một bài hình học, trong đầu em sẽ tự hỏi và suy nghĩ là tại sao phải làm như thế, mấu chốt không phải là ở cách giải, mà là vì sao lại giải như thế, thầy giáo dạy hình không thích em, bởi vì em thường nghệt mặt ra trong giờ của thầy, nhưng xin thề có trời chứng giám, giờ hình học là giờ em học nghiêm túc nhất, những lúc em nghệt ra như thế, là em đang suy đi nghĩ lại những ví dụ mà thầy giảng, bởi vì em phát hiện ra rằng, trong tất cả các môn học, thì môn hình với những bài tập chứng minh, suy luận là môn rèn luyện tư duy logic một cách chặt chẽ nhất, nếu như tư duy suy luận một cách logic rồi, thì về bản chất, môn vật lý và những môn học bắt buộc phải học thuộc lòng như địa lý, lịch sử cũng không khác nhau là mấy. Sự rườm rà, phức
tạp trong quá trình làm bài tập chứng minh là một quá trình ép người thông minh thành kẻ đần độn, nhưng anh nhất định phải kiên nhẫn, cho dù ngay lập tức có thể nhìn thấy kết quả, thì anh cũng phải suy nghĩ theo cách rườm rà nhất, thậm chí tự mình ép mình trở nên ngốc nghếch hơn, bởi vì quá trình thành kẻ ngốc này là để thông minh hơn, cho dù đề bài khó đến đâu, về bản chất thì quá trình tư duy của nó cũng giống như khi giải những bài tập dễ thôi…” Thực ra, ngay cả tôi cũng không biết mình đang nói gì, bởi vì chưa từng có người yêu cầu tôi đúc kết kinh nghiệm học hành, tôi chỉ nói ra những lý giải của tôi đối với bản chất của mỗi một môn học, không những rất khác với phương pháp học tập mà thầy cô giáo thường dạy, mà có những điều còn đi ngược lại với họ, nhưng Tiểu Ba lắng nghe rất chăm chú. Tôi lẩm bẩm nói một thôi một hồi, nhưng vẫn cảm thấy có rất nhiều thứ mà mình hiểu nhưng không sao nói ra được, vò đầu bứt tai: “Anh có nghe nói đến Trần Kình không?” “Thần đồng của khối cấp ba, đã đạt rất nhiều giải thưởng, đương nhiên là nghe rồi.” “Em và cậu ta trước kia học cùng lớp hồi tiểu học, nếu anh cần, để hôm nào đấy em nhờ cậu ta giảng cho anh nghe một vài phương pháp học tập tâm đắc. Cậu ta chắc chắn đã đọc hết sách lớp 12 rồi, có lẽ sẽ giúp được nhiều cho anh.” “Không cần đâu, anh cũng phần nào hiểu được ý em nói, việc này cũng giống như làm ăn kinh doanh, triết lý kinh doanh của người thành công cũng giống như ngọn đèn đường, còn cụ thể đi thế nào, thì vẫn phải dựa vào sự giác ngộ của bản thân, hơn nữa cũng không nhất thiết phải copy con đường mà người khác đã đi, điều quan trọng hơn cả là, làm thế nào khai phá ra một con đường phù hợp với mình để đi đến dưới ánh đèn.” Tôi nhiệt liệt tán thành: “Đúng là như thế. Trước kia em hoàn toàn không quan tâm gì đến việc học. Nhưng từ hồi học tiểu học, sau khi được giáo viên dạy toán rèn luyện cho một thời gian, không biết tại sao, trong các giờ của môn tự nhiên, như người trong tiểu thuyết võ hiệp vậy, được người ta đả thông kinh mạch, đột nhiên tỉnh ngộ, ngay từ ngày đầu tiên cầm được cuốn sách toán, em đã đọc như đọc tiểu thuyết, hứng thú từ đầu đến cuối, những con chữ và đề bài ví dụ trong đó không phải là đề bài, mà là cách để nói cho anh biết phương pháp tư duy”. Tiểu Ba mỉm cười nói: “Kỳ Kỳ, em làm anh quá đỗi kinh ngạc đấy, anh nghĩ em nên lấy Thanh Hoa, Bắc Đại làm mục tiêu cho mình.” Tôi chậm rãi đáp: “Em muốn hoặc là học cùng trường với anh, hoặc là học cùng Hiểu Phi, tốt nhất vẫn là ba chúng ta cùng học một trường, em rất sợ sự cô độc, em hy vọng tất cả nỗi cô đơn của em sẽ được dùng hết trong thời niên thiếu.” Lần đầu tiên Tiểu Ba hỏi: “Chẳng phải em còn một cô em gái hay sao? Em và em gái sao không gần gũi nhau? Sau khi bố anh mất, tinh thần của mẹ anh đôi lúc không được ổn định, thường vừa khóc vừa đập đồ đạc, lúc ấy anh liền chui xuống gầm giường, khi đó anh vẫn thầm nghĩ, giá mà anh có một người anh, chị hoặc em thì tốt biết bao, ít ra thì cũng có thể nương tựa lẫn nhau.”
Giọng của Tiểu Ba rất bình thản, nghe như có vẻ không hề để tâm, chỉ là một câu trần thuật bình thường. Tôi đứng lại, túm lấy cánh tay anh ấy, nghiêng đầu hỏi: “Tại sao anh lại thân thiết với em?” Tiểu Ba cười nhìn tôi, đưa tay lên chỉnh lại bông hoa đã bị xô lệch trên tóc của tôi, đang định nói thì có một âm thanh quen thuộc vang lên, từ bên đường đối diện vọng lại: “Anh Tiểu Ba!” Tôi chau mày, sao ở đâu cũng gặp chị ta thế? Đúng là âm hồn bất tán! Chị ta khoác tay Trương Tuấn, vui mừng, hớn hở băng qua đường, hỏi: “Hai người đang thì thầm chuyện gì thế?” Tiểu Ba mỉm cười nói: “Anh nhờ Kỳ Kỳ chỉ giáo cho phương pháp học.” Chị ta cười tươi như hoa, nghĩ là Tiểu Ba đang nói đùa với mình. “Bọn em định đi hát, đang nghĩ ít người không vui, bảo Trương Tuấn tìm thêm mấy người bạn, anh ấy không thích, sợ phiền phức, anh Tiểu Ba, đi cùng bọn em đi!” Chị ta quay sang nhìn tôi, kinh ngạc thốt lên: “La Kỳ Kỳ, tối nay em thật sự rất xinh, mua váy ở đâu thế?” Thói ưa hư vinh của tôi đã được thỏa mãn cao độ, rất muốn nhìn xem biểu hiện của Trương Tuấn thế nào, nhưng không nhìn rõ. Tiểu Ba khách khí nói: “Tối nay anh còn chút chuyện, để hôm khác mọi người cùng tụ tập nhé!” Trương Tuấn lập tức tiếp lời: “Vậy hẹn anh hôm khác gặp.” Cậu ấy kéo tay bạn gái đi, bạn gái cậu ta còn vừa đi vừa quay đầu lại nói: “Anh Tiểu Ba, lần sau tụ tập nhé, em có cô bạn muốn giới thiệu cho anh.” Khi chị ta đi rồi, tôi mới nhận ra, chị ta khen tôi chỗ nào nhỉ? Chị ta đang khen váy của tôi đấy chứ. Tiểu Ba nhìn đồng hồ rồi nói: “Sắp mười giờ rồi, chúng ta mau về thay quần áo, anh đưa em về nhà.” Tôi ngạc nhiên: “Buổi tối anh có việc thật sao?” Anh đáp: “Chúng ta chính thức gây sự với Tiểu Lục rồi, anh không yên tâm về quán karaoke, muốn đến đó xem sao, tiện thể dặn dò Ô Tặc, bảo anh ấy lưu tâm hơn.” Tôi lắc đầu nói: “Anh có biết vì sao Gia Cát Lượng chết không? Kiệt sức mà chết đấy! Chuyện gì có thể cho qua được thì cho qua, đến Gia Cát Lượng còn không thể chu toàn hết, huống gì hạng phàm phu tục tử như chúng ta?” Tiểu Ba cười đẩy tôi quay về. Sau khi thay quần áo xong, tôi nói với Tiểu Ba là tôi tự về được, không cần anh ấy đưa.
Thấy vẫn còn sớm, tôi đạp xe ra bờ sông, vứt xe trong bãi cỏ trên bờ, trèo xuống dưới gầm cầu, ngồi bên tảng đá lớn, nghe tiếng nước róc rách chảy. Trong bóng đêm, thỉnh thoảng mới thấy có vài người qua đường. Tôi lặng lẽ giấu mình trong bóng tối, cảm giác rất yên tâm. Tôi là một người rất dễ suy nghĩ lung tung, nhưng ngồi bên bờ sông, nghe tiếng nước chảy, lại có thể không nghĩ gì cả, hễ ngồi xuống là quên cả thời gian, khi giật mình bừng tỉnh, thì nửa ngày đã trôi qua. Trạng thái đó, tôi cảm thấy hơi giống với kiểu ngồi thiền của nhà Phật, có điều tôi chưa ngồi thiền bao giờ, nên cũng không biết là có đúng thế không. Tôi ngồi trong bóng tối rất lâu, đang định về nhà, đột nhiên nghe thấy tiếng bước chân vang lên trong cảnh đêm tĩnh mịch, càng lúc càng gần, cuối cùng dừng lại ở trên cầu. Một người đang nhoài người vịn vào thành cầu hút thuốc, lại chính là Trương Tuấn, tôi kinh ngạc tới mức không cả dám cử động. Bóng tôi và tảng đá trên bờ hòa vào làm một. Cậu ấy chỉ thất thần nhìn xuống sông, vì vậy có lẽ cũng không để ý thấy có người ngồi cạnh chân cầu. Cậu ấy hút hết một điếu thuốc, lại châm một điếu khác, vừa hút thuốc vừa ném sỏi xuống dưới cầu, mặc dù viên sỏi không lớn, nhưng tôi đang ngồi bên bờ sông, nên thỉnh thoảng cũng có viên ném gần tới chỗ tôi ngồi, những giọt nước bắn lên làm ướt người và mặt tôi. Trong lòng tôi băn khoăn, tại sao người này nửa đêm nửa hôm lại ra đây đứng ném sỏi? Cậu ta nhất quyết không chịu đi hát với bạn gái, hay là đã hát xong rồi? Không ai có thể cho tôi câu trả lời, từng viên sỏi vẫn được ném xuống, ném gần một tiếng đồng hồ mới dừng lại, cậu ấy cũng hút hết nửa bao thuốc. Trương Tuấn lại bò người lên thành cầu, tiếp tục hút thêm một lúc nữa, ném đầu thuốc xuống nước, rồi quay về. Tôi toàn thân ướt nhẹp trèo lên bờ, dắt xe đạp về nhà. Việc tôi về muộn, bố mẹ đương nhiên rất tức giận, nhưng từ sau khi tôi thi đứng thứ nhất trong lớp, dường như đã có được tấm lệnh bài miễn chết. Bố mẹ lần này lại không mắng gì tôi cả, chỉ nói, lần sau không được về muộn như thế nữa. Tôi vội vàng rửa mặt, thay quần áo, rồi lên giường đi ngủ. Trong giấc ngủ, tôi mơ thấy mình mặc váy, đi giày cao gót sánh vai bên Trương Tuấn, cậu ấy vẫn thế, chẳng thèm để ý tới tôi, chỉ mỉm cười nhìn những cô gái xinh đẹp đã trưởng thành khác. Bọn họ quấn lấy nhau khiêu vũ trên sàn, từng đôi từng đôi một, tôi đau đớn chạy về nhà, nhưng nhà không còn ai, bố mẹ đã mang theo em gái bỏ đi rồi, tôi bắt đầu òa lên khóc nức nở.
2. Kỳ nghỉ hè vui vẻ Hâm mộ là điều rất tuyệt vời, tiến lên phía trước một bước, thì có thể biến thành khâm phục, coi người đó như tấm gương sáng. Lùi lại phía sau một bước, sẽ thành căm ghét, đố kỵ, coi người đó như kẻ thù, nhưng không ai là thiên thần hoàn toàn, mà cũng không ai là
ác quỷ hoàn toàn, vì vậy, sự ngưỡng mộ biến thành ghen tỵ, biến thành ma quỷ, khiến con người ta giằng co ở giữa. Mặc dù có không ít chuyện buồn, nhưng kỳ nghỉ hè năm lớp 8, trong ký ức của tôi, vẫn là một kỳ nghỉ ấm áp và vui vẻ. Mẹ Hiểu Phi không cho cô ấy ra khỏi nhà, nhưng lại rất vui khi thấy tôi đến chơi, vì vậy chiều nào tôi cũng đến nhà cô ấy, hai đứa nằm bò trên ghế sofa xem ti vi, ăn vặt. Chúng tôi nói chuyện về tương lai, thảo luận xem sau này lớn lên sẽ làm gì, cô ấy cười về ý tưởng mở hiệu sách và cửa hàng bán thịt dê xiên nướng của tôi, nhưng lại rất nhẹ nhàng khi nói: “Không sao, mình sẽ lo việc kiếm tiền, đảm bảo sau này không để cậu bị chết đói đâu.” Hiểu Phi sơn móng chân cho tôi, tìm xem màu móng nào hợp nhất với màu đôi giày cao gót của tôi, nhưng mình thì lại không hề dùng. Cô ấy còn làm tóc cho tôi, nghiên cứu những cuốn tạp chí có trong nhà, xem các ngôi sao để kiểu tóc gì, trong điều kiện cho phép, cô ấy liền thực hành ngay trên đầu tôi. Thậm chí Hiểu Phi còn tặng lại cho tôi chiếc váy đẹp nhất của mình, cố gắng trang điểm cho tôi trở nên thật xinh đẹp. Cô ấy thì hầu như không dùng bất kỳ một thứ đồ trang điểm nào, giấu mình trong mái tóc ngắn như một cậu con trai kia. Buổi sáng, tôi thường dành thời gian học cùng Tiểu Ba, Tiểu Ba rất chăm chỉ, sáng nào cũng dậy đúng lúc sáu giờ để học tiếng Anh. Chúng tôi thường đến trường ngồi bên hồ nhân tạo, anh ấy ngồi nghỉ chân trong mái đình nhỏ học tiếng Anh, quay mặt ra hồ hứng gió mát, lưng đón ánh nắng ban mai, tôi ngồi trên phiến đá bên hồ, vừa thưởng lãm hoa sen vừa dùng bút vẽ lại dáng vẻ yêu kiều, mềm mại của chúng. Vẽ mệt rồi, tôi quay sang nhìn Tiểu Ba học bài, thỉnh thoảng không biết làm gì, tôi cũng sẽ quấy rầy anh ấy. Khả năng tập trung của Tiểu Ba rất cao, nếu anh ấy đã định hôm nay sẽ học thuộc bao nhiêu từ, thì nhất định là sẽ học hết, dù tôi có ngồi bên cạnh làm gì, cũng không thể làm phiền được anh ấy. Tôi không chịu, không tin anh ấy không phân tâm nên tôi tìm mọi cách bày trò để trêu chọc anh ấy. Cho dù tôi nói gì, Tiểu Ba cũng phớt lờ, thế là tôi bắt đầu hát thật to. Từ những bài của Đặng Lệ Quân, bắt chước dáng điệu của chị em trong quán karaoke, tôi lượn qua lượn lại trước mặt anh ấy, liếc mắt đưa tình, cất giọng uốn éo hát: “Tiễn anh ra ngoài thôn nhỏ, có câu này em muốn nói cùng anh, mặc dù giờ đang là mùa trăm hoa đua nở, nhưng anh không được hái bông hoa dại ven đường, hãy luôn nhớ tình em, luôn nhớ tình yêu của em…” Không phản ứng? Tôi nhảy lên trên lan can bằng gỗ trước mặt Tiểu Ba, làm như đang đứng trên sân khấu, cuốn một tờ tranh lại, giả làm micro, cắn đầu lưỡi để giọng mình khác đi, hát nhại theo tiếng Quảng Đông, lúc thì cúi đầu trầm tư, lúc lại dựa vào lan can nhìn xa xăm, làm ra vẻ vô cùng đau đớn, ai oán: “Chìm dần vào giấc ngủ say đêm dần khuya, thời khắc này chúng
ta gần gũi nhau biết bao, tâm tư em đang dao động, mâu thuẫn giày vò, trái tim đã từng tan vỡ một lần, hôm nay để anh khe khẽ chạm vào…”(5). Vẫn không có phản ứng gì? Tôi nhảy xuống lan can, đi vòng quanh Tiểu Ba, vừa đi vừa hùng dũng cất tiếng hát: “Đứng lên, hỡi những con người không cam chịu làm kiếp nô lệ! Hãy dùng máu thịt của chúng ta để xây lên Trường Thành mới…!”(6). Tiểu Ba tay cầm cuốn sách tiếng Anh, mắt nhìn vào khoảng hư vô nào đó, không hề phản ứng. Bên ngoài đình vang lên một tiếng rầm, một người trượt ngã phịch xuống dưới đất, ngay sau đó là một tràng cười lớn vọng tới. Trường đang nghỉ hè, hơn nữa mới bảy giờ sáng, tôi cứ nghĩ bên hồ chỉ có tôi và Tiểu Ba, vì vậy vô tư, thoải mái bộc lộ bản chất. Không ngờ Trần Kình đang ngồi gần lùm hoa bên cạnh đình nghỉ chân vẽ phác họa, có lẽ nhìn bộ dạng kỳ quặc muôn hình vạn trạng vừa rồi của tôi nên cậu ta bị sốc, đánh đổ cả giá vẽ, vì cứu giá vẽ, nên mới ngã xuống đất. Tôi xấu hổ tới mức chỉ muốn tìm một cái lỗ để chui xuống, có điều, tôi là ai chứ? Sớm đã được trải qua khóa huấn luyện của thầy Chậu Của Cải từ lâu, da mặt đã dày thêm vài tấc. Không tỏ vẻ gì xấu hổ, thậm chí tôi còn lên tiếng trước để lấn át, xông tới chỉ vào Trần Kình mắng: “Sao cậu lại dám trốn ở đây để nhìn trộm?” “Sáu giờ mình đã đến đây rồi, đến trước cả hai người cơ mà, cứ cho là nhìn trộm thì cũng là cậu muốn nhìn trộm mình đúng không?” Trần Kình đứng dậy trước, sau đó tay cầm giá vẽ, miệng vẫn cười, trên giá là một bức vẽ hoa sen đã bị lấm bẩn, đẹp và có thần hơn bức tranh bằng màu nước của tôi. Tôi nhìn chằm chằm bức tranh vài giây, không kìm được phải thầm than, thiên tài vẫn là thiên tài, đến vẽ vu vơ thôi mà cũng hơn hẳn người khác rồi. Khi Trần Kình cúi xuống nhặt bút vẽ, tôi mới để ý dưới chân cũng có một cái, đã bị giẫm gãy đôi. Cậu ấy cười nói: “Không sao, mình có rất nhiều bút.” Tôi lườm cậu ta một cái, rồi quay người bỏ đi. Đi tới gần đình, tôi mới phát hiện ông già Tiểu Ba vẫn đang lẩm nhẩm học tiếng Anh, ngay cả tư thế ngồi cũng chẳng thay đổi gì nhiều, sách đã được lật sang trang khác. Thật quá phục anh ấy, tôi chán nản quay lại ngồi trên phiến đá, cầm bút vẽ, ngẩn ngơ nhìn những đóa sen nở trên hồ. Cho tới khi hoàn thành xong nhiệm vụ học hành của ngày hôm nay, Tiểu Ba mới gọi tôi đứng dậy đi về. Sau này, chúng tôi thường xuyên gặp Trần Kình bên hồ nhân tạo, cậu ấy cũng đang học vẽ, có điều chỉ vẽ phác họa tranh tĩnh vật. Tôi không nói chuyện với cậu ta, mà cậu ta cũng phớt lờ hai chúng tôi, mỗi người một góc, ai làm việc của người nấy.
Một hôm, Trần Kình nhìn Tiểu Ba hồi lâu, rồi đột nhiên lại gần, nói với Tiểu Ba: “Học tiếng Anh không học như anh đâu, tiếng Anh là một ngôn ngữ, công dụng chính của nó là nói, cả ngày anh chỉ ngồi đọc thầm học thuộc thế này, không phải là cách hay, vừa tốn thời gian vừa không hiệu quả. Anh phải đọc to, không cần quá miễn cưỡng phải nhớ hết, nhưng nên đọc đi đọc lại nhiều lần, mục đích đọc to thành tiếng, lâu dần, tự nhiên sẽ tạo ra phản xạ về ngôn ngữ; và khi anh làm bài tập trắc nghiệm, đôi khi không biết ngữ pháp, nhưng chỉ cần đọc qua, phản xạ của anh sẽ mách bảo nên chọn câu nào.” Tiểu Ba vội vàng nói: “Cảm ơn cậu!” Trần Kình chậm rãi nói tiếp: “Không cần cảm ơn. Người Trung Quốc khi mới bắt đầu học nói tiếng Anh đều thấy hơi buồn cười, nhưng đừng ngại, cũng đừng quan tâm người khác nhìn mình thế nào, chỉ cần lớn tiếng đọc thật to lên là được.” Nói xong, cậu ta ôm giá vẽ rồi đi. Tiểu Ba lập tức thực hành, bắt đầu lớn tiếng đọc to, quả nhiên nghe rất buồn cười, tôi phá lên cười ha hả, khả năng phớt lờ người khác của Tiểu Ba cũng rất khá, anh ấy chỉ chăm chú đọc, không hề quan tâm tới người khác cười thế nào. Khi đọc mệt rồi, chúng tôi cùng nhau đi về, Tiểu Ba nói: “Không ngờ thần đồng lại có thú vui nhàn tản như vậy, hoàn toàn không giống cái máy học như những lời đồn đại.” Tôi nói: “Cậu ta học vẽ chắc chắn không phải do hứng thú nhất thời, hẳn là có dự định gì đó rất đặc biệt. Con người cậu ta khá ranh mãnh, anh đừng bị vẻ bề ngoài của cậu ta đánh lừa, hồi còn nhỏ khi ngồi cùng bàn với cậu ta, em bị cậu ta qua mặt không ít lần.” Tiểu Ba cười: “Một người rất thú vị!” Tôi cũng cười: “Là một người không cùng thế giới với chúng ta.” Mùa hè qua đi, một năm học mới lại bắt đầu. Do Hiểu Phi không tham gia thi cuối kỳ, nhà trường quyết định lấy điểm trung bình kết quả học trong hai năm vừa qua làm điểm chuẩn. Cô ấy được phân vào lớp 9 chọn (2), Trương Tuấn vào lớp 9 thường (7), tôi với số điểm thi cao nhất lớp được phân vào lớp 9 chọn (4), người có số điểm cao thứ hai trong lớp là Quan Hà. Khi tôi đến báo danh, nhìn số thứ tự trên bảng kết quả, cảm thấy không tin tưởng, tôi xếp trên Quan Hà sao? Nhà trường có nhầm lẫn không nhỉ, tôi mà lại đứng trên Quan Hà? Tôi đi vào lớp như người vẫn đang trong trạng thái mơ ngủ, rồi ngồi vào chiếc bàn cuối lớp. Khi Quan Hà bước vào, trong lớp đã có quá nửa số người ngồi, rất nhiều bạn chào hỏi cô ấy, gọi cô ấy qua ngồi cùng, rất nhiều bạn nam trong lớp đều nhìn cô ấy chăm chăm. Tôi lạnh nhạt nghĩ, cô ấy vẫn được chào đón như trước. Quan Hà đưa mắt đảo quanh lớp một vòng, mỉm cười từ chối lời mời của các bạn , đi thẳng đến bên cạnh tôi, hỏi: “Có ai ngồi đây chưa cậu?”
Tôi lắc lắc đầu, cô ấy ngồi xuống, quay sang chào tôi: “Hê, lâu rồi không gặp!” Tôi khẽ nhếch mép, coi như là cười: “Ừ”. Đối với cậu: Đúng là lâu rồi không gặp; đối với tôi: Tôi đã luôn theo sát cậu từ lâu. Không lâu sau, cô giáo chủ nhiệm vào lớp, đó là cô giáo dạy toán mới chuyển đến từ trường trung học cơ sở thực nghiệm, nghe nói rất có kinh nghiệm giảng dạy. Sau khi vào lớp, cô tự giới thiệu về mình: “Cô họ Ngô, năm học mới, chúng ta sẽ đồng hành cùng nhau, cô hy vọng với sự cố gắng của mình sẽ đưa được tất cả các em vào trường điểm cấp ba”. Ngay sau đó cô hỏi: “Ai là La Kỳ Kỳ?” Ánh mặt cô háo hức lục tìm ở mấy dãy bàn đầu, còn ánh mắt của các bạn trong lớp thì lại đồng loạt quay nhìn về phía sau. Phải một lúc sau, tôi mới từ từ giơ tay lên với vẻ khiên cưỡng, cô tỏ ra rất ngạc nhiên khi thấy tôi ngồi ở dãy bàn cuối góc trong cùng của lớp, nhưng vẫn nhìn tôi cười nồng nhiệt, lại hỏi: “Ai là Quan Hà?” “Em ạ.” Quan Hà mỉm cười đứng dậy. Cô Ngô càng kinh ngạc hơn, học sinh xếp thứ hai cũng trốn dưới dãy bàn cuối cùng? Mà lại còn ngồi cùng bàn với người số một? Thật không phù hợp với định nghĩa về những học sinh giỏi mà cô từng biết, cô cười, gật đầu nói: “Em ngồi xuống đi!” Quan Hà ngồi xuống, cô Ngô nhìn hai chúng tôi nói: “Năm sắp tới, cô sẽ cố gắng hết sức, cô cũng hy vọng hai em sẽ cùng cố gắng với cô, tạo ra một phương pháp học tập hiệu quả, giúp các bạn trong lớp cùng nhau tiến bộ.” Quan Hà mỉm cười gật đầu, còn tôi cúi đầu, đờ đẫn nhìn xuống mặt bàn, tôi đã quen với việc mình là học sinh kém, thật không sao thích ứng được với sự nhiệt tình và quan tâm của cô giáo mới. Cô Ngô nói tiếp: “Cô muốn làm quen với các em trước, sau đó chúng ta sẽ tổng vệ sinh, xếp lại chỗ ngồi, nếu ai có yêu cầu đặc biệt, cứ nói với cô. La Kỳ Kỳ, em phụ trách nhóm quét dọn, Quan Hà, em phụ trách nhóm lau rửa cửa kính.” Tôi chau mày, lẽ nào cô giáo này trước khi nhận lớp không tìm hiểu xem tôi là người thế nào ư? Lại chỉ chăm chăm dựa vào thành tích để phân công như thế. Cô cầm tờ danh sách lớp trong tay, theo số thứ tự điểm danh qua một lượt, coi như nhận biết học sinh, sau đó ra khỏi lớp, giao lớp học bụi bẩn không được vệ sinh suốt kỳ nghỉ hè lại cho chúng tôi. Tất cả các bạn trong lớp đều nhìn tôi và Quan Hà, tôi đứng dậy, mở cửa sau, mặt lạnh như băng bỏ ra ngoài, thích quét dọn thế nào thì quét dọn, không liên quan gì đến tôi. Tất cả khối chín đều ở tầng ba, lớp 9 (1), 9 (2), 9 (3) nằm trên một hành lang khác, nếu cứ đi thẳng hành lang trên tầng ba để xuống thì phải qua văn phòng giáo viên, vì không muốn giáp mặt cô Ngô lúc này, nên tôi tìm một cầu thang ở góc khác, rồi qua tầng hai để xuống.
Khi còn chưa đi đến lớp 9 (7), tôi đã nghe thấy giọng Trương Tuấn qua cửa sổ mở toang, tôi thấy cậu ấy đang đứng trên bục giảng, nét mặt lạnh lùng lộ vẻ bất lực. Biểu hiện của các bạn cùng lớp ngồi phía dưới hoàn toàn khác với các bạn học cùng lớp 9 (4) của tôi, sau khi được phân vào lớp thường, một nhóm học sinh khá ngồi túm lại một chỗ, tốp học sinh kém ở chỗ khác, tạo nên sự khác biệt rất lớn về thứ bậc! Mấy học sinh kém hung hăng nhất khối tôi đều được phân cả vào lớp 9 (7) này, có cảm giác lớp này như ổ thổ phỉ chiếm núi xưng vương. Tôi ngờ rằng nhà trường làm vậy là cố ý, giống như lớp 9 (6) là lớp giỏi nhất trong những lớp giỏi, còn lớp 9 (7) lại là lớp kém nhất trong những lớp kém, có lẽ thầy hiệu trưởng khối cấp hai định bỏ mặc lớp này, để một đám học sinh yếu kém tự kéo nhau đi xuống. Trương Tuấn ở lớp 9 (7), có thể được coi là học sinh giỏi trong lớp, nhìn kiểu này, có lẽ đang bị cô giáo chủ nhiệm bắt làm lớp trưởng, tôi không nhịn được cười, cô giáo này số cũng may thật, gặp đúng người rồi! Chọn một “học sinh ngoan” bình thường để quản lý một lớp toàn những học sinh hư, chỉ sợ quản lý đến lúc nào đó, học sinh ngoan cũng sẽ biến thành học sinh hư. Mặc dù ở trường Trương Tuấn nổi tiếng nhờ vẻ bề ngoài điển trai và những tin đồn chứ không phải nổi danh nhờ việc uống rượu, hút thuốc hay đánh nhau, nhưng nếu cậu ấy muốn thì việc quản lý mấy kẻ lì lợm trong lớp cũng không quá khó. Khi tôi nhìn thấy Trương Tuấn, dĩ nhiên là cậu ấy cũng nhìn thấy tôi, có lẽ khóe miệng hơi nhếch lên như đang cười của tôi khiến cậu ấy bất ngờ, đang nói bỗng dừng lại, hình như quên từ. Đám bạn ngồi phía dưới bắt đầu phá lên cười như vỡ chợ, vài người còn đập bàn đập ghế om sòm. Trương Tuấn mát tính, chỉ mỉm cười nhìn đám bạn, kiên nhẫn đợi họ đập bàn đập ghế xong mới nói tiếp, nhưng có lẽ cô giáo chủ nhiệm lớp không thể chịu hơn được nữa, liên tục hét lớn: “Trật tự! Trật tự!”. Tiếng “trật tự” của cô chìm nghỉm trong những tiếng cười chế nhạo. Tôi vừa cười vừa đi xuống tầng dưới, từ tầng hai đi vòng ra đầu hành lang rồi tiếp tục xuống phía dưới. Lớp 9 (1) đang họp lớp, thầy Chậu Của Cải nói gì đó, đám học sinh phía dưới đương nhiên không thể so sánh với học sinh ở những lớp giỏi khác, nhưng cũng tương đối ngoan ngoãn, xem ra nhà trường rất coi trọng thầy Chậu Của Cải, lần này để thầy làm chủ nhiệm một lớp sắp tốt nghiệp, có lẽ cũng là muốn cho thầy có cơ hội rèn luyện thêm. Lớp 9 (2) và 9 (3) đang làm vệ sinh, Lâm Lam và Hiểu Phi đang đứng trên ghế băng lau kính, tôi đi tới, đứng trước mặt họ, Hiểu Phi lập tức hỏi: “Sao cậu lại đến đây? Lớp cậu không phải quét dọn à?” Lâm Lam cười: “Chắc chắn cậu ấy lại trốn rồi, giờ cậu ấy càng ngày càng to gan lớn mật, chủ nhiệm lớp (4) nghĩ mình nhặt được viên ngọc, không ngờ lại là mầm họa.” Tôi hỏi: “Lớp trưởng lớp cậu là ai?” “Thẩm Viễn Tư.”
“Em gái của Thẩm Viễn Triết?” Tôi thấy đỡ lo lắng hơn, Thẩm Viễn Tư trước kia học cùng lớp 8 (2) với Hiểu Phi, quan hệ của hai người cũng rất tốt, những ngày tháng sau này của Hiểu Phi có lẽ sẽ không nhiều sóng gió nữa. Hiểu Phi nói: “Chính là bạn ấy. Cả hai anh em đều làm lớp trưởng, thú vị thật.” Lâm Lam tiếp lời: “Hai anh em nhà ấy học giỏi, tác phong mạnh mẽ, dứt khoát, lại rất ưa nhìn, sau này cho dù gặp chuyện gì, cũng có thể nương tựa, giúp đỡ lẫn nhau, nhìn họ, mình thấy những đứa con một như bọn mình thật đáng thương.”. Hiểu Phi gật đầu rất mạnh, tỏ vẻ đồng ý. Tôi không nói gì, tôi còn đang muốn mình được làm con một đây. Tôi đứng nói chuyện với Hiểu Phi và Lâm Lam, khi họ đã lau xong kính, tôi mới đi về lớp, lúc này phòng học đã khoác lên mình một chiếc áo hoàn toàn mới, ánh mắt các bạn trong lớp nhìn tôi rất đặc biệt, nhưng tôi chẳng buồn để ý, da mặt của tôi đã dày đến mức trình độ bọn họ còn lâu mới xuyên thủng được. Đang tìm chỗ ngồi thì Quan Hà gọi tôi, cô ấy đã giữ chỗ bên cạnh mình cho tôi, những chỗ khác trong lớp đã được ngồi kín, tôi đành lẳng lặng đến ngồi cạnh cô ấy. Cô Ngô bước vào, bắt đầu đọc danh sách ban cán bộ lớp, lớp trưởng là bạn nam vừa chuyển từ trường Tây An đến, tên là Lý Sam, cô Ngô giới thiệu, trước kia cậu ta đã từng làm lớp trưởng, nên có kinh nghiệm quản lý lớp; Quan Hà là lớp phó học tập, kiêm cán sự ngữ văn; tôi bị bầu làm cán sự toán, đừng nghĩ chỉ là cán sự của một môn học mà coi thường, cán sự môn học do giáo viên chủ nhiệm dạy có rất nhiều đặc quyền đấy. Đây là “chức vụ” đầu tiên trong cuộc đời của tôi. Hồi còn nhỏ, tôi đã từng khao khát nhưng bây giờ chỉ cảm thấy thật sự là bất đắc dĩ, tôi nghĩ giờ tôi đã có thể hiểu được tâm trạng của Trương Tuấn khi được bầu làm lớp trưởng rồi. Cô Ngô xếp lại chỗ ngồi, tôi và Quan Hà vẫn ngồi cùng bàn, nhưng ở vị trí giữa lớp, cô Ngô nói với nhiều ẩn ý: “Hy vọng hai em sẽ giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ, làm gương cho các bạn trong lớp noi theo, tạo được phong trào học tập tốt cho lớp ta.” Và như thế, bức màn cuộc sống năm cuối cấp của tôi đã được kéo ra. Ngồi bên cạnh tôi là người mà tôi ngưỡng mộ và đố kỵ, là người mà người tôi mến đã thích, là người mà từng giờ từng phút nhắc nhở tôi rằng tôi chẳng là gì cả. Vẫn như trước kia, phong độ và khí chất của Quan Hà nhanh chóng chinh phục được trái tim của tất cả các bạn trong lớp. Cậu lớp trưởng Lý Sam cũng đã không phụ công tin tưởng của cô Ngô. Cậu ta học giỏi, đối nhân xử thế cẩn trọng và phóng khoáng, nhanh chóng thiết lập được uy tín trong lòng các bạn. Cậu ta và Quan Hà một cương một nhu, quản lý điều hành lớp tôi đâu ra đấy. Mọi thứ trong lớp đều rất hài hòa, duy nhất chỉ có một âm thanh lạc điệu chính là tôi. Hai tuần sau nhà trường lại tổ chức “Thi viết báo tường”, lớp nào thắng được cộng thêm điểm, nghe nói hoạt động này sẽ ảnh hưởng đến việc bình chọn tập thể xuất sắc, cũng sẽ
ảnh hưởng đến việc khen thưởng của giáo viên chủ nhiệm, vì vậy các thầy cô chủ nhiệm và ban cán sự các lớp đều rất quan tâm tới cuộc thi này. Lý Sam nghe nói tôi biết vẽ nên nhờ tôi giúp lớp trong cuộc thi viết báo này. Tôi không hề nể mặt cậu ta mà từ chối luôn. Từ nhỏ tới lớn, thứ mà tôi luôn thiếu chính là tinh thần tập thể. Quan Hà lại một lần nữa đến tìm tôi để nhờ vả, tôi nói: “Mình mới học được hơn một năm, không dám vẽ cho người khác xem đâu.” Quan Hà mỉm cười nói: “Tống Thần phụ trách các bài viết, mình phụ trách việc viết chúng lên báo tường, hy vọng cậu giúp bọn mình vẽ minh họa, thực ra tìm người biết vẽ không khó, Lý Sam cũng biết vẽ, nhưng mình nghĩ cậu sẽ có những ý tưởng đặc biệt nổi bật, chúng ta cần phải có một thiết kế bắt mắt. Cậu thử trước đi, nếu thật sự không thích, thì rút lui cũng được.” Tôi than thầm trong lòng, cùng một câu chuyện nhưng khi được nói ra từ miệng cô ấy, lại có sức thuyết phục vô hạn. Trước những lý lẽ ấy, tôi không thể từ chối, đành nhận lời. Đã rất nhiều năm trôi qua rồi, phần lớn những chuyện diễn ra trong lúc làm báo tường tôi đều đã quên, tôi chỉ nhớ cả tôi và Quan Hà đều là người theo chủ nghĩa hoàn mỹ. Quan Hà có khi vì không hài lòng với sự khác biệt giữa màu xanh nước biển và màu xanh da trời mà sẵn sàng xóa đi cả một bảng đầy chữ đã viết bốn, năm tiếng đồng hồ mới xong, viết lại từ đầu. Còn tôi thì vì một bài viết, mà vẽ bốn, năm bức tranh minh họa, để mọi người cùng đưa ra ý kiến, sau đó chữa đi sửa lại cho đến khi mình hài lòng mới thôi. Nhờ sự hợp tác của hai con người có tính cách mạnh mẽ và cố chấp như thế, báo tường của lớp tôi chưa bao giờ đứng vị trí thứ hai, mà luôn luôn đứng đầu, Lý Sam gọi trêu tôi và Quan Hà là: “Song kiếm hợp bích, vô địch thiên hạ”. Thường thường khi các bạn trong lớp đã về hết, tôi, Quan Hà và Lý Sam vẫn ở lại lớp miệt mài làm việc. Khi tôi và Quan Hà tập trung cao độ, sẽ quên cả giờ ăn cơm, Lý Sam là người đi mua cơm hộp và nước uống cho hai chúng tôi. Khi cậu ta mua đồ ăn về rồi, sẽ gọi chúng tôi nghỉ tay ăn trước. Tôi và Quan Hà ngồi lên bàn, vừa ăn vừa thưởng thức thành quả lao động của mình, và lúc này đến lượt Lý Sam làm việc, cậu ta phụ trách việc hiệu đính và gọt giũa. Quan Hà hát rất hay, và cũng thích hát, cô ấy thường ngồi trên bàn, vừa đung đưa hai chân vừa hát, dường như bài nào đang thịnh hành cô ấy đều thuộc, Lý Sam chọn bài nào là cô ấy hát bài ấy. Còn tôi ngồi thưởng thức những âm thanh tuyệt vời đó, vừa uống nước vừa nhìn Lý Sam bận rộn. Thỉnh thoảng, tôi cũng sẽ gật gù đắc ý hát cùng Quan Hà, có điều chỉ là hát theo cô ấy, như hát đệm mà thôi. Có một lần tôi đang vui vẻ hát, vừa nghiêng đầu thì nhìn thấy Trương Tuấn đang đứng ngoài hành lang, nhìn chúng tôi qua ô cửa kính, ánh mắt chăm chú, cho dù tôi đã phát hiện ra cậu ấy, cậu ấy cũng không lảng đi chỗ khác. Giây phút ấy, tôi thấy hồi hộp, cảm thấy hình như người cậu ấy đang nhìn là tôi, nhưng ngay sau đó tôi biết mình đã sai, cậu ấy nhìn người ngồi bên cạnh tôi, Quan Hà.
Quan Hà cũng đã nhìn thấy Trương Tuấn, giơ tay vẫy vẫy để chào, Trương Tuấn liền đi vào lớp, dựa lưng vào tường, khoanh tay trước ngực ngắm tờ báo tường của chúng tôi. Quan Hà vẫn hát, tôi nhảy xuống, cùng Lý Sam vẽ nốt bức tranh minh họa cuối cùng, cố gắng phớt lờ sự tồn tại của Trương Tuấn. Không biết tại sao mà Trương Tuấn mãi không chịu đi, Quan Hà và Lý Sam không có ý kiến gì, nên tôi cũng không thể lên tiếng, cậu ấy lại chỉ nhìn lên bảng của lớp tôi. Cũng có thể là do tiếng hát vui vẻ của Quan Hà, cũng có thể là do ánh mắt của Trương Tuấn chỉ hướng lên bảng, tôi không cảm thấy có chút ghen ghét, đố kỵ nào, thậm chí tôi còn tận hưởng cảm giác hạnh phúc khi có cậu ấy đứng bên cạnh, cố gắng tập trung vẽ đẹp hơn. Thỉnh thoảng quay đầu lại, ánh mắt của tôi và Trương Tuấn chạm nhau, tôi vội vàng lẩn tránh, không còn nhìn cậu ấy với ánh mắt sắc lẹm như ngày xưa nữa. Chúng tôi không nói với nhau câu nào, nhưng ngày hôm ấy là lần tôi và Trương Tuấn ở bên cạnh nhau lâu nhất từ trước tới nay, cũng là cảnh tượng bình yên ấm áp nhất trong ký ức về thời trung học cơ sở của tôi. Đến nỗi mà nhiều năm về sau, tôi rất muốn phác họa lại cảnh tượng này của năm đó. Phòng học thênh thang trong buổi hoàng hôn, những tia nắng dịu dàng, ấm áp tràn vào lớp, một cô gái xinh đẹp ngồi trên bàn vui vẻ cất cao tiếng hát; một cô gái khác và cậu bạn trai cùng đứng trước tấm bảng đen, lúc đứng thẳng người lúc lại khom lưng, chăm chút cho từng nét vẽ; một cậu bạn đẹp trai đứng tựa lưng vào tường, hai tay khoanh trước ngực, chăm chú nhìn họ. Đáng tiếc, cho dù tôi có vẽ thế nào, cũng không thể vẽ lại được bức tranh đúng như trong hồi ức của mình. Cô giáo chủ nhiệm đối xử với tôi rất tốt, nhiệt tình, đây là lần đầu tiên trong cuộc đời tôi gặp được một cô giáo nhiệt tình với mình đến thế. Sau khi hết tiết dạy của mình, cô còn gọi riêng tôi đến văn phòng, đưa cho tôi rất nhiều sách tham khảo, dùng bút đánh dấu những ví dụ quan trọng. Mỗi lần dạy xong, cô lại đến đứng cạnh bàn tôi ngồi hỏi, tiết này cô giảng thế nào, thậm chí những khi trời mưa to gió lớn, cô còn đặc biệt nhắc nhở tôi phải mặc áo mưa. Nhưng có lẽ cô không biết tôi luôn tỏ ra e ngại với giáo viên, tôi đã quen giữ khoảng cách với tất cả thầy cô giáo, trên thế giới này, ngoài cô Cao ra, tôi không thể tiếp nhận sự gần gũi của bất kỳ thầy cô nào nữa. Nếu như cô giống cô Tằng Hồng thì ít ra tôi cũng có thể làm một học sinh bình thường, nhưng sự nhiệt tình của cô, sự thiên vị của cô khiến tôi sợ hãi, cô càng nhiệt tình tôi càng lạnh nhạt. Cô càng muốn tiếp cận tôi, tôi lại càng muốn xa lánh cô. Tôi có thể cảm nhận được sự tổn thương của cô, có lẽ trên cương vị một giáo viên, cô chưa bao giờ gặp một học sinh “không biết điều” như thế, cô càng muốn nâng tôi lên thật cao, tôi lại càng cố gắng ép mình hòa vào trong đám đông, chỉ ước cô đừng bao giờ quan tâm đến tôi nữa. Sự nhiệt tình của cô liên tục thất bại trước sự lạnh nhạt của tôi. Sách tham khảo cô đưa, tôi trả lại cô nguyên hình nguyên dạng không hề động đến. Mỗi lần cô nói chuyện với tôi, tôi đều kiệm lời như kiệm vàng, thậm chí khiến cô phải mất mặt trước cả lớp. Khi cô
thấy sắc mặt tôi không tốt, quan tâm hỏi xem có phải tôi bị ốm hay không, khi cô muốn sờ trán tôi, tôi liền nghiêng đầu né bàn tay cô, lạnh lùng đáp lại: “Em không phải trẻ con, em biết mình có ốm hay không.” Thậm chí, muốn cô ghét mình, tôi đã cố ý không nộp bài tập toán, cố ý ngủ gật trong giờ của cô. Cuối cùng, cô đã biết tôi là đá cuội, không phải ngọc sáng, cô bắt đầu từ bỏ tôi, tập trung sự nhiệt tình sang Quan Hà. Quan Hà đã không phụ công cô, mang trong lòng sự cảm kích và càng cố gắng trở thành học sinh ngoan giỏi hơn nữa để báo đáp tấm lòng của cô, còn cô Ngô thì vui mừng hưởng thụ thành quả do mình tạo nên. Tôi bắt đầu yên tâm, lặng lẽ làm việc của mình. Thẳng thắn mà nói, thì cô Ngô là một giáo viên chủ nhiệm rất có trách nhiệm, ngoài việc thể hiện rõ sự thiên vị của mình dành cho những học sinh ngoan và giỏi, thì cô rất chuyên tâm vào việc chăm chút cho lớp, thường xuyên đi sớm về muộn. Có điều, làm gì có giáo viên nào không thích học sinh ngoan, giỏi chứ? Mặc dù cô giảng toán rất nhiệt tình, nhưng lại thiếu logic. Vì vậy, sau vài lần chăm chú lắng nghe, tôi thấy thà mình dành thời gian đấy để đọc sách còn có ích hơn. Có điều, thứ tôi đọc không phải sách giáo khoa mà là truyện trinh thám, bắt đầu từ cuốn Sherlock Holmes mà Quan Hà cho tôi mượn, tôi rất thích thể loại tiểu thuyết đấu trí này, khi đã ham mê, tôi điên cuồng tìm đọc tất cả những truyện thuộc thể loại trinh thám, Quan Hà che giấu cho tôi, còn cô giáo thì vờ như không nhìn thấy. Và thế là dần dần, tôi bắt đầu nói chuyện với Quan Hà. Cô ấy cho tôi biết thể loại tiểu thuyết mà cô ấy thích đọc, và lý do thích nó. Tôi cũng kể cho cô ấy nghe loại tiểu thuyết mà tôi thích, và vì sao lại thích. Chúng tôi bắt đầu nói chuyện với nhau về cách nhìn nhận, lý giải đối với các nhân vật, nhận thức về thế giới, càng tiếp xúc nhiều với cô ấy, tôi lại càng thêm ngưỡng mộ. Trong đám bạn cùng tuổi, tôi chưa từng gặp người nào có suy nghĩ chín chắn, sâu sắc như cô ấy. Bề ngoài cô ấy giống tất cả những thiếu nữ mười sáu tuổi bình thường khác, nhưng suy nghĩ của cô ấy có lẽ vượt qua ngưỡng tuổi hai mươi sáu rồi. Tôi vẫn luôn nghĩ rằng tôi già trước tuổi, nhưng sự già dặn của tôi kèm theo sự quá khích, phản nghịch và ranh mãnh, còn sự chín chắn của cô ấy lại kèm theo sự nín nhịn, bao dung và trí tuệ. Quan Hà khiến tôi ngày càng bị mê hoặc, cùng với sự sùng bái dành cho cô ấy là sự đau khổ không sao kể xiết trong lòng tôi. Tôi cảm thấy cả đời này, cho dù tôi có cố gắng thế nào cũng không bao giờ vượt qua được cô ấy. Tôi gần như không có bất kỳ mục tiêu nào trong cuộc sống, mục tiêu duy nhất cất giấu tận nơi sâu thẳm của trái tim, lại khiến người ta tuyệt vọng như thế. Kết quả thi giữa kỳ, Quan Hà đứng thứ nhất trong lớp, còn tôi đứng thứ sáu, cô Ngô rất hài lòng, cô ấy cảm thấy kết quả như thế này mới bình thường. Nói thật lòng thì, tôi cũng cảm thấy như thế mới bình thường. Hiểu Phi lại một lần nữa đứng đầu lớp lớp 9 (2). Cô cười khúc khích bảo tôi ít đọc mấy thứ nhảm nhí đi, đừng để cô ấy thắng mà không thấy vinh dự.
Tôi không phản kháng, thật ra không phải tôi không chăm chỉ học hành, tôi cũng biết lúc nào nên học lúc nào nên chơi, thành tích này phản ánh đúng thực lực của tôi, thành tích đứng đầu lớp lần trước có lẽ còn do may mắn. Thành tích các môn tự nhiên của tôi xấp xỉ Quan Hà, nhưng điểm tiếng Anh của Quan Hà lại cao hơn tôi rất nhiều. Khi bắt đầu vào lớp 9, tất cả các môn học đều có điểm tổng kết, nội dung thi không chỉ trong phạm vi kiến thức của lớp 9 mà là tổng hợp toàn bộ kiến thức của những năm cấp hai. Do cuộc đối đầu với thầy Chậu Của Cải, kiến thức môn tiếng Anh lớp 7 và 8 của tôi hổng nặng, đến giờ mới bắt đầu phải nếm quả đắng. Do gần như bị mất gốc môn tiếng Anh, nên tôi nghe giảng không vào, mà nghe cũng không hiểu, thế là mất hứng học, khiến môn tiếng Anh càng tệ hơn. Điểm càng thấp, nghe giảng càng không hiểu, mà nghe không hiểu thì càng không có hứng học. Tôi bắt đầu bước vào một vòng luẩn quẩn. Tự tôi biết rất rõ, nhưng không biết phải chỉnh đốn mình như thế nào, tôi cũng muốn chăm chỉ nghe giảng để nâng cao điểm tiếng Anh, nhưng những từ tiếng Anh cô giáo nói tôi đều không biết, ngữ pháp càng lơ mơ hơn. Khi nghe không hiểu cô đang giảng cái gì, tôi bắt đầu mất tập trung, đến khi sực tỉnh, thì giờ tiếng Anh đã trôi qua, và thế là không làm được bài tập. Hằng ngày tôi đều hạ quyết tâm là phải chăm chỉ học tiếng Anh, nhưng ngày nào cũng không làm được mà chỉ lãng phí thời gian. Việc nâng cao điểm tiếng Anh của tôi trở thành một nhiệm vụ bất khả thi. Không có kiến thức gốc thì cũng giống như căn nhà không có móng, sẽ vĩnh viễn không thể xây lên cao được. Nhìn Quan Hà đạt hơn chín mươi điểm tiếng Anh nhẹ nhàng như không, tôi bắt đầu thấy hối hận vì hành động chống đối thầy Chậu Của Cải mà không chịu học tiếng Anh của mình. Tôi ghét thầy, không nghe giảng trong giờ thầy, khi đó làm thế tôi thấy rất hả giận, không ngờ lại là hại chính mình, chẳng ảnh hưởng gì đến thầy Chậu Của Cải, người ta vẫn tiếp tục làm giáo viên tiếng Anh. Do áp lực của việc thi vào cấp ba nên không khí trong toàn khối chín rất nặng nề. Tuy nhiên, lớp 9 (7) lại mang đến khá nhiều niềm vui giữa không khí nặng nề như đóng băng của toàn khối. Vừa vào học được một tuần, nội bộ lớp 9 (7) đã chia làm hai phe, đánh nhau một trận tơi bời, đập gãy hai chiếc bàn trong lớp, một học sinh bị đánh vỡ đầu, máu chảy ròng ròng, phải đưa vào viện cấp cứu. Thầy hiệu trưởng đích thân phê bình cả lớp ấy, đồng thời còn xử phạt cảnh cáo vài học sinh cá biệt. Có điều những bạn đó hình như không có ý định lên cấp ba, thế thì việc gì phải quan tâm đến lời cảnh cáo của thầy? Có lẽ lúc này nhà trường mới cảm thấy hối hận vì đã nhốt một đám ma vương đầu trâu mặt ngựa vào một chỗ. Trương Tuấn làm lớp trưởng một cách nhu nhược và vô dụng, nghe thấy xảy ra việc đánh nhau tập thể, cậu ta sợ hãi trốn ra sân vận động để chạy bộ, sau khi chạy xong mười vòng quay lại lớp, cũng vừa kịp lúc đưa người bị thương đến bệnh viện, tránh để
xảy ra án mạng, công tội ngang nhau, do đó nhà trường cũng không truy cứu nữa. Thật ra, dù nhà trường muốn truy cứu cũng không thể truy cứu được, phế Trương Tuấn rồi, không ai dám làm lớp trưởng của lớp này, chưa kịp hưởng thụ quyền uy của chức lớp trưởng thì đã phấp phỏng không yên, bất cẩn một cái là bị người ta đánh cho sứt đầu mẻ trán ngay. Lớp 9 (7) ngày nào cũng khói thuốc mù mịt, tuần nào cũng phải xảy ra chuyện gì đấy. Những nữ sinh ngoan ngoãn, hiền lành cố gắng không đi ngang qua cửa lớp 9 (7), bởi vì, đám con trai của lớp ấy dám ngang nhiên trêu nghẹo các bạn nữ ngay ngoài hành lang, đặc biệt là những bạn gái có thành tích học tập xuất sắc. Đã không ít người bị bọn họ trêu chọc tới mức khóc không thành tiếng, cũng không dám mách thầy cô giáo, nếu không sau này tan học, trên đường về nhà cũng không thể yên tâm mà đi. Mọi người đành cố gắng tránh, không động chạm tới bọn họ. Một hôm trong giờ ra chơi, Quan Hà đi nộp bài tập ngữ văn, lúc về, giúp cô giáo ngữ văn lớp 9 (8) đưa bài tập cho đại biểu ngữ văn của lớp ấy. Khi mang bài tập đến, không có chuyện gì xảy ra. Lúc quay về, trên hành lang có vài tên ma đầu lớp 9 (7) đứng đó bắt đầu nói nhăng nói quậy, Quan Hà cúi đầu, vờ như không nghe thấy, nhưng mấy tên đó lại đứng ra chặn đường cô ấy. Tôi đứng ở bên này hành lang, nhưng lại khoanh tay dựa người vào tường, im lặng đứng xem mọi việc xảy ra. Tôi rất tò mò, vẻ nhẹ nhàng của Quan Hà liệu có thể duy trì được trong tình huống này không? Quan Hà mấy lần định đi vòng qua họ, nhưng đám con trai đó không để cô ấy đi, ngược lại còn cợt nhả hỏi cô ấy mặc đồ lót màu gì. Quan Hà đỏ bừng mặt, sắp khóc đến nơi, nhưng vẫn kiên cường không chịu để nước mắt rơi xuống. Tôi vốn định chỉ đứng xem trò vui, thậm chí còn mong thấy Quan Hà gặp chuyện xui xẻo. Nhưng khi thấy bộ dạng cô ấy như thế, tôi lại không nhẫn tâm. Còn đang băn khoăn xem có nên xông tới, kéo Quan Hà ra khỏi đám người đó hay không thì mấy bạn trai lớp tôi, vốn từ lâu đã ái mộ và quý mến Quan Hà, thấy ngang tai trái mắt, bắt đầu đi về phía cô ấy, thậm chí mấy bạn nam lớp 9 (5), 9 (6) cũng tiến về phía Quan Hà. Tôi cười khổ lắc đầu, thì ra đây chính là kết quả, hình tượng của cô ấy không bao giờ bị phá hỏng. Đám con trai ma vương lớp 9 (7) chắc chắn chẳng ngại gì đám “mọt sách” này. Có lẽ hôm nay sẽ được xem một trận ẩu đả giữa học sinh ngoan và học sinh hư, đáng tiếc, không có hạt dưa để cắn. Thầy hiệu trưởng chắc chắn sẽ tức giận tới thổ huyết, khối chín những khóa trước đều rất thái bình, đến khóa của chúng tôi, thành tích học tập chưa thấy hơn được khóa trước bao nhiêu, chỉ thấy phiền hà hơn rất nhiều. Không ngờ, khi tôi đã chọn xong tư thế, định đứng xem trận ẩu đả sắp diễn ra thì Trương Tuấn đi từ cầu thang lên, nhìn mấy bạn nam lớp mình đang vây quanh Quan Hà, lập tức hiểu ngay mọi chuyện, cậu ta chỉ chạy vài bước là đến nơi, kéo Quan Hà ra khỏi vòng vây của mấy tên ma vương kia. Mấy tên đó có lẽ bình thường cũng đã rất ngứa mắt với
Trương Tuấn, lúc này Trương Tuấn lại xuất đầu lộ diện, bọn chúng có đầy đủ lý do để ra tay, lập tức dàn trận chuẩn bị lao vào đánh. Khi Trương Tuấn đang bảo vệ Quan Hà, thì lớp trưởng lớp 9 (6) là Thẩm Viễn Triết vội vàng lao từ trong lớp ra, đứng giữa đám con trai lớp (6) và lớp (7), chặn đám người hung hăng định xông lên kia lại, sau khi khuyên giải xong bên này, cậu ta lại đi đến đứng cạnh Trương Tuấn. Sức mạnh của chức Hội trưởng Hội học sinh quả không nhẹ, phía sau cậu ấy, rất nhiều bạn nam tự giác đứng phắt dậy, rõ ràng là muốn cảnh cáo đám người kia rằng, bọn họ sẽ nghe theo mọi mệnh lệnh của Thẩm Viễn Triết. Tôi lẳng lặng đi về phía trước vài bước, rồi lặng lẽ đứng vào một góc, không có ý định tham gia vào trận ẩu đả kia, nhưng nếu có người nào dám đánh Thẩm Viễn Triết, tôi sẽ ghi nhớ từng nốt ruồi trên khuôn mặt hắn ta, rồi nhờ đám tay chân của Ô Tặc đưa hắn vào bệnh viện nghỉ ngơi vài ngày. Về phần Trương Tuấn, không cần tôi phải lo lắng, ngay từ năm lớp 4 cậu ấy đã thường xuyên mang theo “hung khí” bên người rồi, học sinh lớp 6 gặp cậu ấy còn phải đi vòng để tránh đường, mấy năm gần đây cậu ấy lại đi theo đám Tiểu Lục, có lẽ ngay mấy tên côn đồ giấy này cũng đang thắc mắc cậu ta có chỗ nào đáng để được người trên giang hồ gọi là “anh Tiểu Tuấn”? Tình thế căng thẳng tới mức chỉ cần khẽ chạm vào sẽ bùng nổ ngay lập tức, bản thân Thẩm Viễn Triết dường như không nhận ra không khí khác thường đó, lại cười hi hi đi đến khoác vai mấy tên kia: “Mọi người đều học cùng một trường cả, lại là năm cuối rồi, hà tất phải gây chuyện mất vui thế này? Các cậu đều là dân giang hồ cả, sau này chắc chắn sẽ là những đại ca có máu mặt, nếu để người ta biết mấy cậu cùng ra tay bắt nạt một cô gái thì còn ra thể thống gì nữa.” Mấy tên đó không biết vì thấy chờn trước đám người càng lúc càng kéo đến đông sau lưng Thẩm Viễn Triết, hay bị lay động trước những lời khuyên nhủ của cậu ta mà khí thế giảm rõ rệt. Một trận ẩu đả sắp nổ ra, giờ biến thành nơi Thẩm Viễn Triết và mấy tên kia cười nói vui vẻ, kết bạn nhận bè. Tôi rất sốc, không chỉ vì Thẩm Viễn Triết quá may mắn, mà còn vì mấy câu nói vừa rồi của cậu ta. Trước đây, tôi luôn nghĩ, Thẩm Viễn Triết chỉ đơn thuần là một học sinh hiền lành, có năng lực, nhưng rõ ràng cậu ta không phải là học sinh ngoan hiền theo nghĩa truyền thống. Trương Tuấn hoàn toàn không để ý đến những gì đang diễn ra xung quanh, chỉ nhỏ nhẹ an ủi Quan Hà, Quan Hà là người có điềm tĩnh, tâm trạng đã sớm trở lại bình thường, ít nhất thì biểu hiện bề ngoài cũng là bình thường. Cô ấy nhìn Trương Tuấn mỉm cười, nói: “Cảm ơn!” Trương Tuấn cũng cười: “Bạn cũ mà, cậu không cần phải khách sáo thế chứ?” Tôi quay người bỏ đi, bắt đầu thấy ghét việc mình ở lớp 9 (4), tôi thà vào lớp 9 (1) và 9 (3), ít nhất thì cũng không ở cùng một hành lang với họ. Một lúc sau, Quan Hà cũng quay về lớp, mấy đứa con gái vây lấy cô ấy, bắt đầu lao nhao an ủi. Trong số đó có một đứa rất ưa buôn chuyện, nháy mắt ra hiệu với Quan Hà:
“Trương Tuấn từ trước tới nay không bao giờ tham gia vào mấy việc như thế, cậu ấy đối xử với cậu rất đặc biệt đấy!” Một đứa khác đang nằm bò trên bàn của tôi, cười nói: “Mình thấy Trương Tuấn có làm gì đâu, cậu ta có vẻ rất sợ đám người đó. Nghe nói vào giờ tự học, cậu ta yêu cầu cả lớp trật tự một chút, bọn chúng nhao nhao quay sang quát cậu ta “Việc đ. gì đến mày”, cậu ta chẳng dám ho he gì nữa, Thẩm Viễn Triết mới thật sự là người cứu Quan Hà.” Quan Hà chỉ cười, không nói gì. Cô ấy vẫn giữ nguyên tắc của mình, không bao giờ bàn tán về người khác, bao gồm cả bản thân. Thái độ đó của Quan Hà khiến tôi lại thấy bất bình thay cho Trương Tuấn. Tôi lôi sách trong cặp ra, nói với đám con gái ưa tám chuyện kia: “Mình phải đọc sách học bài, mọi người muốn nói chuyện thì tránh sang bên kia.” Đám con gái đó đang bàn tán rất hăng say, sau khi trừng mắt lườm tôi một cái, cũng ai về bàn người nấy. Quan Hà như trút được gánh nặng khẽ thở hắt ra, xem ra cô ấy đã phải nín nhịn rất lâu rồi. Suốt hai ngày liền, tôi không nói chuyện với Quan Hà, bởi vì tôi thấy cô ấy rất đáng ghét, hay tỏ vẻ khác người, rất giả tạo, giả vờ làm một tiểu thư yếu đuối, yểu điệu để tranh thủ sự thương hại và quý mến của đám con trai. Tôi ghét cô ấy!
Chương 7 1. Cánh tay bị thương Thời niên thiếu, chúng ta thiếu trân trọng thời gian và sinh mệnh của mình, làm việc thường tùy hứng, chẳng biết kiêng dè điều gì, không biết suy nghĩ đến hậu quả, và cũng không biết sợ hậu quả. Do đó, những sai lầm của thời niên thiếu là những sai lầm mà chỉ cần chúng ta lý trí hơn một chút, kiềm chế hơn một chút thì sẽ không bao giờ xảy ra. Nhưng, khi chúng ta hiểu ra điều này, thường những sai lầm cũng đã xảy ra. Và khi chúng ta còn chưa mắc sai lầm, dù ai khuyên ngăn tận tình thế nào, chúng ta cũng bỏ ngoài tai. Điểm thi giữa kỳ của Tiểu Ba rất khá, đã lọt vào tốp 80 người có số điểm cao nhất khối, nếu anh ấy có thể lọt vào tốp 50, thì theo như thành tích từ trước đến nay của trường Nhất Trung, nhất định anh ấy sẽ thi đỗ vào một trường đại học danh tiếng. Mặc dù càng tiến về phía trước, sự cạnh tranh càng khốc liệt hơn, mỗi bước đi cũng khó khăn hơn, nhưng Tiểu Ba vẫn tràn đầy niềm tin. Tôi và anh Lý đều rất vui, anh Lý còn dặn dò Ô Tặc và những nhân viên khác, có chuyện gì thì gặp trực tiếp anh ta, không được làm phiền Tiểu Ba, để Tiểu Ba chuẩn bị cho kỳ thi đại học sắp tới. Một tuần sau đợt thi giữa kỳ, anh Lý mời tôi, Tiểu Ba, Ô Tặc, chị Xinh Đẹp ăn cơm, nói là để chúc mừng Tiểu Ba, nhưng thực tế là muốn tìm cơ hội để anh em tụ tập, gặp gỡ nhau. Những ngày này tìm gặp Tiểu Ba không dễ, ngay cả tôi cũng phải chạy sang khối cấp ba mới gặp được anh ấy. Anh chàng này đúng là đang bán mạng thật rồi, không thi được vào trường đại học tốt nhất chắc không cam tâm. Mọi người vừa ăn vừa nói chuyện, giữa chừng, tôi đứng dậy đi vào nhà vệ sinh, lúc quay lại, đi ngang qua một phòng bao, loáng thoáng nghe thấy tên “Cát Hiểu Phi”, bất chợt tò mò nên dừng bước. Trong tiếng cười nói ầm ầm của đám con gái, những câu đối thoại lúc được lúc mất truyền ra ngoài. “Thật không? Mới mười lăm tuổi đã phá thai?” “Thật đấy! Cát Hiểu Phi, nghe nói học cũng giỏi, là học sinh trường Nhất Trung.” “Hả? Nhất Trung á? Đấy là trường điểm của tỉnh mà, cậu còn nghe được những gì nữa, mau mau kể hết ra đi, làm thế nào mà lại có thai?” “Làm thế nào lại có thai? Đương nhiên là ngủ với đàn ông thì có thai chứ sao!” Lại một trận cười nữa rộ lên. “Nghe nói cô ta ít tuổi thế nhưng đã thay không ít bạn trai đâu…”
Tay chân tôi lạnh ngắt, chẳng phải tất cả đã qua rồi sao? Tại sao lại thế này? Bên tai tôi vẫn vang lên những lời bàn tán sôi nổi không ngớt, đột nhiên tôi nổi điên, tại sao trên thế giới này lại có nhiều người thích tám chuyện về người khác như thế? Tại sao lại thích dùng vết thương của người khác để mua vui cho mình? Tại sao bọn họ không thể chỉ quan tâm đến việc của mình thôi? Tôi chẳng nghĩ ngợi gì nhiều liền xông ngay vào, vung tay tát thẳng vào mặt đứa con gái ngồi cạnh cửa đang phao tin đồn kia. Sau khi cho cô ta một cái tát xong, tôi mới nhận ra đấy là bạn gái của Trương Tuấn. Tất cả đám người có mặt trong phòng đó đều sững lại. Im lặng bao trùm khắp phòng trong vài giây. Cô ta nhảy chồm lên, lao vào đánh tôi như một con mèo hoang bị chọc tiết. Đám chị em của cô ta cũng bắt đầu bừng tỉnh, chửi bới ầm ĩ rồi lao vào tôi cấu xé. Tôi bị bọn chúng đánh ngã lăn ra đất, rơi cả mắt kính. Trước mắt mọi thứ trở nên mờ mờ ảo ảo, cảm giác tóc mình bị giật ngược đau đớn, có lẽ bị giật đứt vài cụm, chân cũng bị giẫm đạp, đau nhức nhối. Trong lúc chống chọi, tôi lần sờ thấy một vỏ chai rượu không đặt dưới đất. Lúc nguy cấp, theo bản năng, tôi cầm vỏ chai rượu đập mạnh vào kẻ đang đánh mình. Cộp cộp! Tay tôi dính cái gì vừa ướt vừa nóng, cơ thể đang bị đè nặng bởi trọng lượng của kẻ nào đó cũng đột nhiên nhẹ bẫng. Tôi cầm chặt nửa vỏ chai rượu còn lại trong tay, chỉ cần thấy có bóng đen nào đó tiến về phía tôi là tôi liên tục giơ tay bổ về phía trước. Bọn chúng bắt đầu kêu khóc ầm ĩ: “Giết người, có kẻ giết người…” Tay tôi bị ai đó tóm chặt. Tôi đang định lật tay để đâm phần thân còn lại của chai rượu vào hắn ta thì huyệt đạo nơi khuỷu tay bị bấm một cái. Chai rượu trên tay tôi đã bị tước mất. “Kỳ Kỳ!” Là tiếng Tiểu Ba, giọng anh ấy như đang run lên, dùng tay lau máu trên mặt tôi: “Em bị thương ở đâu?” “Em không biết.” Bên cạnh tôi, những tiếng khóc lóc, kêu gào rất hỗn loạn, đến khi tôi tỉnh táo trở lại, thì thấy mình đang ở trong bệnh viện. Nữ bác sĩ là bạn học cấp hai của anh Lý, nói với anh Lý bằng giọng châm chọc: “Sao lại có người bị thương rồi à? Mấy người năm ba hôm không đánh nhau một trận thì gân cốt thấy khó chịu sao? Nhưng đừng có mong tôi sẽ nhẹ nhàng, dịu dàng chữa trị cho mấy người, đối với những người làm mất trật tự xã hội không thể khách khí! Cậu nói đi, sao công an không bắt hết mấy người các cậu nhốt lại chứ?” Anh Lý cười khổ: “Hôm nay là em gái mình, cậu nhẹ tay chút!” Nữ bác sĩ nhìn tôi, la lên một tiếng: “La Kỳ Kỳ? Tôi đã xem em diễn thuyết trên ti vi, cứ nghĩ em là con ngoan trò giỏi, sao lại đánh nhau thế này?” Chị ta vừa nói vừa dùng vải xô
lau sạch vết máu trên người tôi, mặc dù vết máu bắn lên khắp người, nhưng vết thương thực tế thì lại ở trong lòng bàn tay, có lẽ số máu trên người tôi đa phần là của người khác. Bác sĩ vừa giúp tôi gắp mảnh thủy tinh trên người ra, vừa mắng anh Lý: “Nhìn thấy chưa? Mấy mảnh vỡ này mà đâm sâu hơn một chút, thì cánh tay này của cô bé chắc chắn tàn phế rồi, còn đòi làm anh nữa, bản thân mình chẳng học được điều gì tử tế, còn làm hư cả em gái.” Anh Lý đứng bên cạnh chỉ cười, sắc mặt Tiểu Ba lại rất khó coi. Bác sĩ nhặt hết mảnh thủy tinh ra, rồi khâu, cuối cùng, không còn mắng mỏ cằn nhằn chúng tôi nữa, dịu dàng hỏi: “Em không đau à? Sao không kêu la gì? Nếu đau thì cứ kêu lên.” Tôi cắn chặt răng không nói, anh Lý cười méo mó nói: “Nếu nó biết kêu đau, thì đã không đánh nhau với người ta đến nông nỗi này, bọn này có phải không có người đâu, nếu nó muốn chỉnh kẻ nào, thì cũng đâu cần nó phải đích thân ra tay?” Bác sĩ nổi cáu, tức giận trừng mắt lườm anh Lý một cái: “Chính những lời xấu xa, bẩn thỉu đó của cậu mới làm hư con người ta, nó chỉ là một đứa trẻ, dù xảy ra chuyện gì cũng còn có bố mẹ, thầy cô, cảnh sát, tại sao phải đánh nhau?” Anh Lý cười khan hai tiếng, không dám nói thêm gì nữa. Đợi sau khi xử lý xong vết thương, anh Lý và Tiểu Ba đưa tôi ra, Ô Tặc chạy đến nói: “Đối phương cũng không có gì nghiêm trọng, một đứa bị cào rách cả cánh tay, một đứa bị đánh thương vào đầu.” Ô Tặc cốc mạnh lên đầu tôi một cái: “Hôm nay em uống nhầm thuốc rồi hay sao? Tiểu Ba, cậu phải để mắt quản lý nó cho tốt, sao tính khí nó lại hung hăng thế chứ? Anh mày vừa hỏi rồi, người ta nói mấy chị em người ta đang ngồi ăn cơm nói chuyện vui vẻ, nó tự nhiên xông vào đánh người.” Anh Lý dặn: “Tiền thuốc tiền viện, chúng ta trả, cậu mau sai người đi mua thêm ít đồ bổ dưỡng, ăn nói cho dễ nghe vào…” Tôi lập tức lên tiếng: “Đừng! Đáng đời nó! Dựa vào cái gì mà còn phải trả tiền viện phí cho nó?” Anh Lý vội nói: “Được rồi, được rồi! Không trả, không trả nữa.” Nhưng lại len lén nháy mắt với Ô Tặc. Một tên đệ tử của anh Lý nói: “Người trên giang hồ coi trọng thể diện, Kỳ Kỳ đánh bạn gái Trương Tuấn, e rằng chuyện này không đơn giản.” Đang nói thì Trương Tuấn và mấy tên to cao lực lưỡng đi vào. Bạn gái của Trương Tuấn không biết chui từ góc nào ra, chạy đến bên cạnh cậu ta: “Trương Tuấn, cô ta vô duyên vô cớ đánh em, hai người bạn của em bị nó đánh trọng thương phải nhập viện, chuyện này không thể chỉ dừng lại ở đây.” Nói xong, căm hận nhìn về phía tôi.
Trương Tuấn thấy một cánh tay của tôi bị treo lên, thoáng sững lại, có lẽ đến bây giờ mới biết bạn gái mình vừa đánh nhau với tôi. Anh Lý hồ hởi bước tới. Một tay bắt tay Trương Tuấn, tay kia vòng ôm lấy eo cậu ta kéo ra một góc, nói điều gì đó. Bạn gái Trương Tuấn muốn đi đến, anh Lý ngẩng đầu, từ tốn buông một câu: “Đàn ông đang bàn việc, đàn bà phụ nữ can thiệp ít thôi.” Bạn gái của Trương Tuấn đỏ bừng mặt, nhưng cô ta biết đã tham gia vào giới này, thì luật là như thế. Không biết anh Lý đã nói những gì, chỉ thấy Trương Tuấn gật gật đầu. Anh Lý gọi Tiểu Ba đến, còn mình đứng sang một bên. Trương Tuấn móc tay đấm liên tiếp ba quả vào bụng Tiểu Ba. Tiểu Ba đau đớn cúi gập người. Không lâu sau, khi Tiểu Ba đã đứng thẳng lên rồi, Trương Tuấn lại móc liền ba quả rất mạnh nữa. Lần này Tiểu Ba không trụ được, ngã ngồi xuống đất. Dù là huynh đệ của anh Lý hay bạn của Trương Tuấn cũng chỉ khoanh tay đứng nhìn, bọn họ đều hành xử theo luật. Tôi muốn kêu lên nhưng không kêu nổi, nước mắt tràn ra. Anh Lý đi tới bắt tay cười với Trương Tuấn. Trương Tuấn cũng cười đỡ Tiểu Ba đứng dậy. Tiểu Ba cười. Hai bên cùng bắt tay nhau, cứ như những người ra tay vừa rồi không phải là họ vậy. Ba người nói ngắn gọn mấy câu. Trương Tuấn đưa người của cậu ta đi. Bạn gái Trương Tuấn nghệt mặt ra một lúc, rồi đuổi theo cậu ta: “Thế là xong rồi sao? Thế còn vết thương của bạn em? Anh bảo em phải ăn nói thế nào với bọn nó? Anh không thấy mất mặt, nhưng con mẹ nó chứ, em thấy rất mất mặt…” Cả năm người cùng ngồi lên chiếc xe cũ cái gì cũng kêu, chỉ trừ cái còi của anh Lý. Tôi, chị Xinh Đẹp, Ô Tặc ngồi phía sau, Tiểu Ba ngồi ghế trước. Tôi im lặng, Tiểu Ba im lặng, anh Lý cũng im lặng. Ô Tặc thấy buồn tẻ, hỏi Tiểu Ba: “Tên tiểu tử Trương Tuấn ra tay có mạnh không?” Chị Xinh Đẹp dùng cùi chỏ huých cho anh ta một cái, anh ta mới vội vàng im miệng. Tôi đột nhiên hỏi: “Ô Tặc, mấy đứa con gái hôm nay làm nghề gì?” Chị Xinh Đẹp nói: “Ngoài bạn gái Trương Tuấn ra, còn một đứa nữa cũng làm ở đoàn Văn công, một đứa ở viện Công nghệ, còn một đứa là giáo viên dạy nhạc tiểu học, à, cái đứa bị em đánh vỡ đầu ấy thì mở cửa hàng làm tóc.” Tôi ngẩn người ra ngồi im, toàn thân từ trên xuống dưới chỉ thấy rã rời. Có thể tôi sẽ có cách để bịt chặt miệng của năm đứa ấy, nhưng còn miệng của những người khác thì sao? Về đến nhà, bố mẹ nhìn thấy tay của tôi, đều hoảng hốt.
Tôi giờ nói dối không chớp mắt, kể với bố mẹ là khi tôi ngồi sau xe của Quan Hà, không cẩn thận bị ngã, chẳng may chống tay xuống đất, không ngờ trên đất lại có mảnh kính vỡ, thế là tay tôi bị thương, Quan Hà không kịp báo với bố mẹ, vội vàng đưa tôi vào viện trước. Quan Hà năm nào cũng là học sinh gương mẫu. Trong mắt các bậc phụ huynh và thầy cô giáo, có cô ấy làm chứng thì còn đáng tin cậy hơn cả độ thật của vàng. Bố mẹ sau khi kiểm tra cẩn thận vết thương trên tay tôi, thấy cũng không nặng lắm, lúc ấy mới yên tâm, dặn tôi sau này phải cẩn thận. Hôm sau tôi lên lớp với một cánh tay được băng bó trắng toát đeo lủng lẳng. Quan Hà nhìn thấy tôi, quan tâm hỏi: “Sao thế?” Tôi nói: “Mình nói với bố mẹ mình rằng, khi đi chơi cùng cậu, không cẩn thận nên ngã từ trên xe cậu xuống, thế là bị thương.” Quan Hà sững lại, rồi rất trượng nghĩa nói: “Được, mình biết rồi.” Tôi chẳng còn tâm trạng đâu mà nghe giảng, cũng không có tâm trạng đọc tiểu thuyết. Vừa hết giờ, tôi chạy đi tìm Hiểu Phi, cô ấy cười nghiêng ngả khi thấy bộ dạng ngốc nghếch của tôi, nhưng vẫn bóc hạt dẻ đút cho tôi ăn. Hiểu Phi cắt tóc ngắn, mặc một bộ đồ thể thao màu xanh trắng, đi giày trắng, trông giống hệt công tử bột. Tôi mỉm cười nói: “Hiểu Phi, cậu có thể hứa với mình một chuyện không?” “Chuyện gì?” “Cậu phải là một người mạnh mẽ!” Hiểu Phi nhìn tôi ngạc nhiên, một lúc sau, cô ấy cười, gật gật đầu: “Mình sẽ như thế!” “Cho dù xảy ra chuyện gì, cậu cũng phải mạnh mẽ!” “Được!” Tôi nói tiếp: “Cậu phải mãi mãi ghi nhớ những gì hôm nay cậu đã hứa với mình.” Hiểu Phi nhìn tôi, lo lắng hỏi: “Kỳ Kỳ, có phải cậu mắc bệnh nan y không?” Tôi dùng cánh tay còn lại với đánh cô ấy: “Cậu mới mắc bệnh nan y.” “Mình nghe cậu nói, thấy rất giống trong ti vi, những người mắc bệnh nan y hay nói lời trăng trối.” “Dù sao thì cậu phải nhớ là cậu đã hứa với mình, sẽ mạnh mẽ.”
“Tay cậu rút cục là bị làm sao? Có đúng là ngã từ trên xe đạp xuống rồi bị mảnh thủy tinh cứa thương không?” “Đúng là ngã từ trên xe đạp xuống mà bị thương.” Mấy hôm sau, tôi nhìn thấy bạn gái Trương Tuấn dưới khu nhà khối cấp hai. Có lẽ cô ta đang đợi Trương Tuấn, Trương Tuấn xuống gặp cô ta. Chẳng mấy chốc, hành lang đã đứng chật người. Tất cả đều dán mắt vào cửa kính nhìn xuống dưới xem trò vui. Hai người bọn họ nói chuyện rất lâu, phần lớn thời gian đều là cô ta nói, Trương Tuấn vẫn hai tay đút túi quần, cúi đầu nhìn xuống đất, rất phù hợp với bộ dạng ngờ nghệch của cậu ta ở trường. Khi mọi người bắt đầu thấy chán, đột nhiên, bạn gái cậu ta xông đến đánh cậu ta. Trương Tuấn né người tránh, cô ta càng điên cuồng, chân đá tay tát lao vào Trương Tuấn. Trương Tuấn chẳng buồn né nữa, đứng im mặc cô ta giày vò. Cô ta vừa khóc vừa đánh vừa chửi, chỉ nghe thấy mấy tiếng “khốn kiếp”, “đồ khốn nạn”, “bà đây có mắt như mù rồi”. Trương Tuấn vẫn cúi gằm đầu, đánh đấm mệt rồi, cô ta liền bỏ chạy như một cơn gió. Tất cả đám học sinh trợn mắt há miệng ra nhìn. Trương Tuấn lại thản nhiên như không, đứng cạnh vườn cây một lúc, rồi đi lên tầng. Những kẻ xem trò vui vội vàng tản hết. Tôi đứng bên cạnh cửa sổ, chẳng buồn nhúc nhích. Trương Tuấn liếc tôi một cái, cũng đứng lại bên cửa sổ, lặng lẽ nhìn ra bên ngoài. Trên mặt Trương Tuấn còn lưu lại vài vết cào. Cậu ta mang theo chúng ra ra, vào vào, phải hai tuần sau mới hoàn toàn mất hẳn. Cả khối cấp hai đều biết chuyện cậu ta bị bạn gái đánh cho một trận. Đến em gái tôi, khi về nhà cũng vung tay vung chân, kể và diễn lại cho bố mẹ xem cảnh cô bạn gái đó đánh Trương Tuấn. Bố mẹ tôi kinh ngạc trợn tròn mắt, có lẽ họ tưởng mình đã cho con gái vào trường sân khấu điện ảnh học chứ không phải trường văn hóa bình thường. Những lời đồn đại liên quan đến Hiểu Phi cuối cùng cũng lan truyền đến trường. Ban đầu là đám con gái lén la lén lút thì thầm bàn tán với nhau. Thầy cô giáo cũng bàn ra tán vào trong văn phòng của họ. Một đề tài nóng hổi thế cơ mà! Nữ sinh cấp hai có thai rồi phá thai, nếu chuyện xảy ra ở thời hiện tại có lẽ cũng vẫn được lên trang nhất các báo, huống hồ lại là chuyện của mười mấy năm về trước. Hiểu Phi chẳng hay biết gì, vẫn đi học đều đặn, dường như chủ nhân của những lời đồn đại bao giờ cũng là người biết chuyện sau cùng. Ngày nào cũng thế, vừa hết giờ học là tôi chạy đi tìm cô ấy, bá chiếm thời gian của cô ấy. Tôi chỉ có thể dùng chút sức lực ít ỏi của mình để cách ly cô ấy với những lời đồn đại kia.
Cuối cùng, bố mẹ tôi cũng nghe nói đến chuyện của Hiểu Phi. Mẹ lo lắng hỏi tôi: “Chẳng phải con bé hồi nhỏ đã từng ngủ lại nhà mình sao? Giờ có phải nó cũng là bạn thân của con không?” Tôi lạnh lùng trả lời: “Con không biết.” Những phiên bản về tin đồn Hiểu Phi có thai rồi phá thai càng lúc càng phát triển thái quá, nghe nói cô ấy ra ngoài chơi với bạn, bị bốn thằng con trai thay nhau hãm hiếp, bố của đứa trẻ là ai không ai biết. Hiểu Phi cuối cùng cũng nghe nói đến chuyện này. Ánh mắt thầy cô và bạn bè nhìn cô ấy rất quái dị. Đám con gái không nói chuyện với cô ấy. Đám con trai thì coi thường, khinh bỉ cô ấy. Cô ấy lặng lẽ lên lớp, lặng lẽ đi về, chỉ cần chuông báo giờ ra chơi là tôi chạy đi tìm cô ấy, học cùng cô ấy, ngồi cùng cô ấy. Một hôm, khi hai chúng tôi đang ngồi trên ghế đá, một đám nữ sinh ở khối cấp ba còn mò đến tận nơi để nhìn cô ấy. Mặc dù bọn họ vờ như tình cờ đi ngang qua, nhưng ánh mắt ấy, giống như ngọn lửa trên giàn hỏa thiêu, đủ để thiêu rụi người ta thành tro bụi. Hiểu Phi đột nhiên đứng dậy chạy ra khỏi cổng trường. Tôi chạy đuổi theo. Cô ấy quay lại, hét vào mặt tôi: “Cút đi!” Tôi lẳng lặng đứng lại, nhìn theo bóng cô ấy mất hút nơi cuối đường. Từ sau ngày hôm ấy, Hiểu Phi không đi học nữa. Tôi đến nhà cô ấy, lần đầu tiên, mẹ cô ấy mở cửa, nhưng không cho tôi vào, mẹ Hiểu Phi chỉ bảo tôi hãy về đi, đừng đến tìm Hiểu Phi nữa, sau này thì không bao giờ có ai ra mở cửa. Cùng với những lời đồn đại về việc hãm hiếp tập thể, công an đã vào cuộc, bắt đầu lập hồ sơ điều tra. Cùng với việc cơ quan công an lập hồ sơ điều tra, những lời đồn đại được lan truyền với tốc độ chóng mặt. Cả thành phố chúng tôi, từ ông già bà cả tám mươi tuổi đến đứa nít ranh lên tám, đều biết trường Nhất Trung có một nữ sinh không chịu học hành, chơi bời với đám con trai và bị bọn chúng làm nhục. Phía công an vào cuộc. Bốn tên khốn kia nhanh chóng bị đưa ra ánh sáng, trong số đó có hai tên lại là học sinh của một trường điểm khác, trường trung học thực nghiệm, một tên học lớp 9, một tên học lớp 10, hai tên còn lại cũng đang là học sinh. Những phiên bản của tin đồn càng ngày càng nhiều. Người thì nói, bốn tên khốn kia đã bàn bạc với nhau, chuốc cho Hiểu Phi say, sau đó thực hiện hành vi thú tính. Người thì nói chỉ là tình cờ, Hiểu Phi đang chán đời không tự chủ, uống say mèm, bốn tên khốn kia mới thừa nước đục thả câu. Người thì nói cả bốn tên đều có quan hệ với Hiểu Phi. Kẻ thì bảo chỉ có hai tên thôi, hai tên còn lại nhát chết, chỉ tham gia màn chuốc rượu. Trong một thời gian, dư luận xôn xao, tất cả các bậc phụ huynh đều bắt đầu cai quản con gái mình thật chặt, không cho phép ra ngoài với bạn là con trai. Tôi cũng bị bố mẹ quản chặt, bình thường không có chuyện gì không được ra khỏi cửa, ngày cuối tuần phải về nhà trước giờ ăn cơm tối.
Tôi là người gần gũi với Hiểu Phi nhất, nhưng tất cả những chuyện này, tôi cũng giống như mọi người, đều biết thông qua những lời đồn đại, bàn tán. Tôi nhẩm tính thời gian chuyện xảy ra, đúng khoảng thời gian mà Vương Chinh rời khỏi thành phố này. Vậy thì cho dù đúng là bốn tên khốn kia cố ý hay vô tình, nguyên nhân say rượu của Hiểu Phi, về bản chất là không liên quan gì đến chúng. Nhưng tôi tin, cho dù Hiểu Phi có uống say cũng không làm gì bậy bạ với bọn chúng. Có lẽ bọn chúng muốn báo thù nên mới liên kết với nhau, dạy cho Cát Hiểu Phi “kiêu ngạo vô lễ” một bài học. Do bố mẹ Hiểu Phi từ chối xuất hiện ở tòa án để buộc tội bốn tên kia, kiên quyết không thừa nhận có vụ án đó, gia đình của bốn tên khốn ấy cũng bỏ ra không ít tiền để mua quan hệ, cuối cùng, cả bốn tên khốn đều không phải chịu trách nhiệm hình sự. Nhưng về phía nhà trường, dưới sức ép của các bậc phụ huynh, vẫn phải đưa ra quyết định của mình. Trường trung học thực nghiệm đuổi học hai tên kia, hai tên còn lại là học sinh của trường trung học bình thường cũng bị nhà trường đuổi học. Không chỉ có thế, những trường trung học khác, thậm chí ngay cả các trường kỹ thuật cũng cam kết không bao giờ nhận bọn chúng. Cuộc đời của Hiểu Phi bị bọn chúng hủy hoại, cuộc đời bọn chúng cũng vì chuyện của Hiểu Phi mà tan nát. Bố mẹ Hiểu Phi bước chân ra đường, không dám ngẩng đầu lên, còn bố mẹ của bốn tên kia vì mang tiếng có thằng con trai phạm tội hiếp dâm, mà già đi trông thấy. Nghe nói, mẹ của một trong bốn tên đó còn bị nhồi máu cơ tim, suýt mất mạng. Có một thời gian tôi rất hận bọn chúng, nhưng ngay sau đó tôi nghe nói, một trong hai tên khốn học trường thực nghiệm bị bố mẹ dùng thắt lưng da đánh, đánh đứt ba chiếc thắt lưng da bò, phải đưa vào viện cấp cứu, vết thương còn chưa lành, hắn ta đã bỏ trốn khỏi thành phố, đến Tây Tạng đi lính. Không lâu sau, bố mẹ hắn ta cũng ly hôn. Tiểu Ba nói với tôi: “Bọn chúng cũng đã bồi thường cả cuộc đời mình cho lỗi lầm mà chúng mắc phải, thậm chí còn bồi thường cả cuộc đời của bố mẹ chúng nữa.” Tôi biết, những gì anh ấy nói đều là thật, nhưng tôi vẫn rất hận chúng. Tôi im lặng tới đáng sợ, cả ngày không mở miệng nói một câu. Cuối tuần nào tôi cũng đến nhà Hiểu Phi quanh quẩn ở đấy, không dám gõ cửa, chỉ mong cô ấy có thể nhìn thấy tôi, chịu ra gặp tôi, nhưng cô ấy không xuất hiện. Ngược lại, dần dần tôi còn nghe được một vài lời bàn tán khác từ hàng xóm nhà cô ấy. Nghe nói bố Hiểu Phi trước kia là quân nhân (đây cũng là nguyên nhân tôi quen Hiểu Phi trong trường tiểu học dành cho con em của bộ đội), có lẽ vì thời gian tại ngũ quá lâu nên tính khí có phần bạo ngược, sau khi giải ngũ về địa phương, buồn chán, thích uống rượu, mà hễ uống say là đánh mẹ Hiểu Phi. Người già than thở nói, Hiểu Phi là một đứa trẻ thông minh hiểu chuyện, nhưng thấy bố suốt ngày đánh mẹ nên cô ấy cũng không muốn ở nhà, thích lang thang chơi bời ở ngoài, con gái ở ngoài chơi nhiều, đương nhiên dễ xảy ra chuyện. Dần dần khi móc nối nguyên nhân và hậu quả lại với nhau, tôi bắt đầu hiểu, thì ra là như thế!
Bố Hiểu Phi có lẽ không phải chỉ mới bắt đầu đánh mẹ Hiểu Phi sau khi giải ngũ, có lẽ khi còn tại ngũ, cũng đánh vợ suốt, vì vậy, khi tôi học nhờ ở trường tiểu học dành cho con em quân nhân kia, Hiểu Phi mới không thích về nhà, thích đi lang thang ở ngoài, mới kết bạn với một đứa cũng không thích về nhà như tôi. Đây có lẽ cũng là nguyên nhân cô ấy muốn ngủ ở nhà tôi. Cô ấy nhất định là rất sợ hãi, muốn thoát khỏi cảnh nhìn bố đánh đập mẹ. Bề ngoài cô ấy hoàn toàn không giống tôi. Cô ấy rạng rỡ, vui vẻ, nhưng cũng phải kìm nén sự cô đơn như tôi, vì vậy chúng tôi mới gần gũi nhau đến thế. Vì muốn sưởi ấm cho tâm hồn của nhau! Đằng sau mỗi một hiện tượng bất thường trên thế giới này nhất định đều có nguyên nhân của nó, tại sao tôi lại không nghĩ đến điều này sớm hơn chứ? Hiểu Phi khiến bố cô ấy mất mặt như thế, liệu bây giờ ông ta có uống say rồi đánh đập cô ấy không? Tôi bắt đầu thấy sợ hãi, chạy đến gõ cửa nhà cô ấy, không ai trả lời, tôi gõ liên tục, cho đến khi nghe thấy tiếng mẹ cô ấy nói vọng ra từ phía trong: “Hiểu Phi đến nơi khác sống rồi, cháu đừng tìm nó nữa.” “Đến nơi khác là ở đâu ạ?” “Cô đưa nó đến nhà bà dì sống một thời gian.” Tôi bán tín bán nghi, nhưng tất cả những gì tôi có thể làm cũng chỉ được như vậy thôi, tôi cầu khẩn người đứng sau cánh cửa: “Cô ơi, cháu xin cô chú đừng đánh Hiểu Phi, bây giờ bạn ấy chỉ còn lại cô chú thôi.” Mẹ cô ấy bắt đầu khóc: “Cô biết rồi, cháu về đi!” Tôi lại nói: “Nhờ cô chuyển lời cho Hiểu Phi giúp cháu, đừng bao giờ quên chuyện mà bạn ấy đã hứa với cháu.” Sau cánh cửa không có tiếng trả lời, tôi đành lặng lẽ ra về. Trong lúc mọi việc đang rối tung thì kỳ thi cuối kỳ ập tới. Điểm thi của tôi thấp thê thảm, đứng thứ ba từ dưới lên. Cô Ngô tỏ vẻ thất vọng, không biết là vì thật sự lo lắng cho sự trượt dốc của một học sinh giỏi hay lo lắng cho tiền thưởng và tỷ lệ lên lớp 5 nay của cô ấy nữa. Mẹ gặp tôi nói chuyện, nghiêm khắc phê bình tôi, quyết định hạn chế thời gian ra ngoài chơi của tôi. Tôi đột nhiên thay đổi thái độ, không im lặng nữa mà hét lên với mẹ: “Khi con còn nhỏ, bố mẹ đã vứt con cho ông ngoại không quan tâm, thì bây giờ dù con trở thành người thế nào bố mẹ cũng không thể trách ai được. Chăm sóc con gái út, bảo bối của hai người cho tốt là được rồi, sự sống chết của con, con tự chịu trách nhiệm. Không cần bố mẹ phải lo!”
Mẹ giận đến nỗi tay run lên, nhưng bà không dám giơ tay đánh tôi, trong lòng bà hiểu rất rõ, chỉ cần bà động tay đánh tôi một cái, thì với tính cách ngang bướng của tôi, cộng thêm mâu thuẫn giữa tôi và bố mẹ, rất có khả năng sẽ đẩy tôi vào thế quay lưng chống đối lại họ. Học điều hay phải cần cả nghìn ngày nhưng học điều dở thì chỉ cần vài ngày mà thôi. Sau Tết một ngày, tôi đạp xe về nhà, chợt nhìn thấy Hiểu Phi ở đầu đường. Cô ấy mặc một chiếc áo khoác màu đen kiểu cũ, nhìn tôi cười. Tôi không dám tin vào những gì mắt mình vừa nhìn thấy, lao tới trước mặt cô ấy: “Hiểu Phi à?” Cô ấy cười: “Vẫn còn nhận ra mình cơ đấy!” Tôi cứng đờ người như một con rối không thốt lên lời, chỉ còn biết túm thật chặt tay cô ấy mà cười. Cô ấy nói: “Bọn mình tìm chỗ nào ngồi nói chuyện một lúc đi.” Tôi đồng ý, lập tức đạp xe đưa cô ấy ra bờ sông, vì trời lạnh, nên không tháo nước, cả lòng sông rộng lớn trần trụi lộ ra ngoài. Chúng tôi ngồi giữa lòng sông khô cạn đó nói chuyện. Cô ấy hỏi tôi: “Điểm thi cuối kỳ của cậu thế nào?” “Không tốt lắm.” Cô ấy thở dài: “Kỳ Kỳ, cậu phải chăm chỉ học hành, đừng lãng phí bộ não mà ông trời ban tặng cho cậu. Không phải ai cũng có cơ hội được học hành đến nơi đến chốn đâu.” Tôi im lặng. Cô ấy ngẩng đầu nhìn cây bạch dương đã rụng hết lá, vẻ mặt rất bi thương: “Thỉnh thoảng vào buổi tối, khi mình đột nhiên tỉnh dậy, mình lại khóc và ước gì tất cả mọi chuyện chưa xảy ra, đây hoàn toàn chỉ là một cơn ác mộng, chỉ cần khi tỉnh lại, mình vẫn có thể được ngồi trong lớp nghe thầy cô giáo giảng bài, giờ nhớ lại những bài tập và thầy cô mà mình từng ghét, đều cảm thấy rất trân trọng, nếu tiếp tục cho mình được làm bài tập, tiếp tục cho mình được nghe thầy cô giảng, mình nguyện đổi tất cả những gì mình có, nhưng, dù mình có hối hận bao nhiêu, biết sai bao nhiêu, vẫn không có ai cho mình một cơ hội, không ai chịu cho mình một cơ hội…” Nước mắt của Hiểu Phi lăn theo gò má lã chã rơi xuống. Mặt tôi cũng đầm đìa nước mắt, nhưng tôi không dám khóc thành tiếng, đành dùng tay áo quệt đi. Hiểu Phi ngồi lặng lẽ ngắm trời rất lâu, đột nhiên cô ấy cười nói: “Kỳ Kỳ, cậu phải tin mình, mình sẽ nhớ chuyện mà mình đã hứa với câu, làm một người mạnh mẽ.” Tôi gật gật đầu. Cô ấy hỏi: “Cậu có tiền không? Mình muốn vay cậu ít tiền.”
Tôi vội vàng lục túi, vừa Tết xong, nên có tiền mừng tuổi, tất cả là hơn hai trăm ba mươi tệ. Cô ấy nhận lấy, cẩn thận nhét vào túi áo, chúng tôi vai kề vai ngồi bên nhau rất lâu, cô ấy nói: “Lạnh quá, đi thôi!” Tôi dắt xe đạp đi, hỏi: “Có đủ tiền không?” Hiểu Phi cười: “Ai chê tiền nhiều bao giờ đâu?” Tôi vội nói: “Nếu cậu còn cần nữa, mình có thể giúp cậu thêm một ít.” “Cậu muốn hỏi vay bọn anh Lý chứ gì? Mình không cần tiền của họ, cho dù họ có giàu đến đâu, mạnh đến đâu, họ cũng không phải là người tốt, Kỳ Kỳ, cậu đi lại với họ ít thôi.” Nếu là người khác nói những lời này thì tôi đã liều mình với kẻ ấy rồi, nhưng đối với Hiểu Phi, tôi chỉ khe khẽ đáp: “Mình cũng chẳng phải là người tốt gì!” Khi đi ngang qua một cửa hàng tạp hóa, tôi như chợt nghĩ ra điều gì, nói với cô ấy: “Cậu đợi mình ở đây!” Tôi dắt xe đạp vào cửa hàng tạp hóa, nói với bà chủ cửa hàng: “Cháu muốn bán chiếc xe này, bác cho giá đi.” Tôi biết cửa hàng tạp hóa này nhận mua đồ ăn cắp, lớn thì là cái ti vi, nhỏ thì cây thuốc lá. Con trai một vị lãnh đạo trong cơ quan của bố tôi thường xuyên ăn trộm thuốc lá người ta mang biếu bố mình ra đây bán lấy tiền tiêu vặt. Bà chủ nhìn tôi một lúc, rồi nói: “Sáu mươi tệ.” “Một trăm, chiếc xe này gần như còn mới nguyên, hơn nữa lại không phải đồ ăn cắp, bác có thể cho con mình dùng thoải mái.” Bà chủ lại nhìn tôi một lúc nữa, dường như đang phán đoán xem những lời tôi nói là thật hay giả, cuối cùng, quyết định đồng ý mua với giá đó. Tôi cầm một trăm tệ, ra khỏi cửa hàng tạp hóa, đưa tiền cho Hiểu Phi, Hiểu Phi thấy tôi bỏ lại chiếc xe đạp trong đó, đã hiểu tiền của tôi từ đâu mà ra, cô ấy không từ chối, sau khi nhận lấy lại nhét vào túi, nói với tôi: “Mình đi đây!” “Bao giờ cậu lại đến tìm mình nữa?” Cô ấy mỉm cười: “Lần sau đến mình sẽ mời cậu ăn thịt dê xiên nướng.” Tôi gật đầu. Cô ấy đi được vài bước, quay người lại nhìn tôi, nói: “Kỳ Kỳ, mình sẽ ghi nhớ những gì mình đã hứa với cậu, cậu cũng phải tự chăm sóc bản thân đấy, hãy nhớ, phải cố gắng học nhé!” Nói xong, cô ấy bước những bước kiên định về phía trước.
Bóng dáng cô ấy càng lúc càng xa dần trong làn gió lạnh buốt, tôi nhìn chằm chằm theo bóng cô ấy, mặc dù tâm trạng rất nặng nề, nhưng cũng đã bắt đầu xuất hiện những tia hy vọng. Bởi vì, cô ấy đã cho tôi thấy rằng tất cả mây đen rồi cũng sẽ có ngày phải tan, chúng tôi vẫn sẽ cùng ngồi bên bếp lò, ăn thịt dê nướng, uống trà; chúng tôi vẫn sẽ cùng nhau nằm bò trên ghế sofa, nói chuyện, sơn móng tay, cùng thảo luận về những kiểu tóc trong tạp chí. Nhưng, tôi không ngờ rằng, đấy là lần cuối cùng tôi được gặp Hiểu Phi. Mấy ngày sau, tin tức Hiểu Phi bỏ nhà ra đi không để lại bất kỳ lời nhắn nào được truyền đến tai tôi. Bố mẹ cô ấy từng hận vì cô ấy làm họ mất mặt, cũng có thể đã ước gì mình chưa từng sinh ra cô ấy, nhưng khi Hiểu Phi biến mất đúng như ước nguyện của họ, họ lại như phát điên, lao đi tìm cô ấy khắp nơi, nhưng chẳng có bất kỳ tin tức nào của cô ấy cả, có người nói nhìn thấy cô ấy mua vé tàu đi Quảng Châu, có người lại nói nhìn thấy cô ấy mua vé tàu đi Bắc Kinh. Vì tôi bán xe đạp đi, nên khi bố mẹ hỏi, tôi đã quá mệt mỏi, chẳng còn hơi sức để bịa chuyện nói dối họ nữa, tôi đành nói với họ sự thật. Không ngờ họ không những không nổi giận, mà bố còn nhờ bạn học cũ hiện đang công tác trong ngành đường sắt để ý tìm giúp Hiểu Phi. Trong lòng tôi bắt đầu nhen nhóm cảm giác tội lỗi, bởi vì thời gian này tôi rất lạnh lùng, kiệm lời với bố mẹ, nên họ cũng tỏ ra thận trọng khi tiếp xúc với tôi. Bố mẹ Hiểu Phi đi Bắc Kinh, sau đó lại đi Quảng Châu, nhưng họ không còn tìm thấy cô ấy nữa. Tinh thần của mẹ Hiểu Phi xuống dốc nhanh chóng, gần như nửa điên nửa tỉnh. Bố Hiểu Phi trở thành ma men, chẳng còn sức lực mà đánh người nữa. Sau khi xác nhận việc Hiểu Phi bỏ đi, tôi không đêm nào ngủ được, lúc thì tôi thấy hối hận, không nên đưa tiền cho cô ấy; lúc thì tôi lại hối hận, tại sao không đưa cho cô ấy nhiều tiền hơn. Hễ nhắm mắt là tôi gặp ác mộng, mơ thấy Hiểu Phi gặp kẻ xấu, mơ thấy cô ấy không có gì để ăn, không có quần áo để mặc. Tôi không ăn được, không ngủ được, cơ thể và tinh thần của tôi đều rệu rã, suy sụp. Trước tình hình cơ thể tôi đang gầy rộc đi nhanh chóng, bố mẹ không nỡ đánh mắng, chỉ còn biết dặn dò em gái để ý tới tôi hơn, thúc giục tôi đến lớp học vẽ, hy vọng khi làm những việc khác sẽ giúp phân tán bớt sự tập trung của tôi dành cho Hiểu Phi. Những học sinh cấp ba vẫn phải đi học bình thường vào kỳ nghỉ đông. Tiểu Ba bỏ cả việc học ôn, dành toàn bộ thời gian để ở bên tôi, dùng đủ mọi lý lẽ để khuyên nhủ tôi. Anh ấy nói với tôi rằng, cho dù không có tôi, Hiểu Phi cũng sẽ vẫn đi, tôi không phải là người tạo điều kiện cho cô ấy bỏ nhà ra đi. Anh ấy phân tích cho tôi thấy rằng, Hiểu Phi bỏ đi chưa chắc đã là chuyện không tốt, cô ấy rời khỏi đây, đi đến một nơi không ai quen biết cô ấy, như thế cô ấy có thể làm lại từ đầu, như thế biết đâu cô ấy sẽ sống vui hơn. Anh ấy còn mang bộ phim Cô gái đến từ nơi khác(1) đã từng nổi đình nổi đám từ vài năm trước ra để
làm ví dụ. Hiểu Phi mặc dù chỉ có trình độ văn hóa cấp hai, nhưng cô ấy thông minh, nhất định sẽ không thua kém gì Trần Tiểu Nghệ trong Cô gái đến từ nơi khác, nếu Trần Tiểu Nghệ đã có thể đạt được những thành công nhờ lăn lộn trong trường đời, thì Hiểu Phi cũng có thể tìm cho mình một công việc phù hợp, tự mình chăm sóc bản thân. Một hôm, Tiểu Ba lại bỏ học chạy đến tìm tôi. Tôi ngồi trên ghế đá, nhìn Tiểu Ba đi xuyên qua ánh mặt trời lạnh buốt, xuyên qua những bóng cây đan xen vào nhau vằn vện, tôi chợt nhận ra anh ấy cũng rất gầy. Đột nhiên, nước mắt tôi cứ thế lăn dài trên má. Anh ấy không khuyên nhủ gì, mà chỉ lặng lẽ ngồi bên tôi. Tôi khóc một lúc rất lâu, sau đó nói với anh ấy: “Anh đừng bỏ học nữa, anh nhất định phải thi đỗ vào một trường đại học tốt, sau này em chỉ có thể học cùng trường với một mình anh thôi.” Anh ấy nói: “Được rồi!” Bề ngoài, tôi không nhắc đến Hiểu Phi nữa, nhưng trong lòng vẫn nhớ nhung, tại sao tất cả mọi chuyện lại đến nông nỗi này? Hè vừa rồi, chẳng phải chúng tôi đã ngoắc tay hứa với nhau rằng, nhất định phải học thật giỏi, tất cả chẳng phải đang rất tươi sáng hay sao? Việc Hiểu Phi mang thai rồi phá thai, chỉ có Hiểu Phi, bố mẹ cô ấy và tôi biết, vậy ai là người lan truyền tin này ra ngoài? Mấy tên khốn kiếp kia mặc dù đã làm nhục Hiểu Phi, nhưng bọn chúng không biết rằng Hiểu Phi có thai và sau đó đi phá thai, cho dù chúng có đốn mạt tới mức vì muốn phô trương thành tích của mình, không thể giữ bí mật mà đi khoe khoang với những kẻ khác, nhưng như thế, cùng lắm thì cũng chỉ xuất hiện những lời đồn thổi về việc cô ấy không còn trinh nữa thôi, mà những lời đồn đại kiểu như vậy, từng xuất hiện không ít trong trường, nhưng những cô gái “không còn trinh” ấy vẫn sống rất vui vẻ bình thường mà. Tôi có hỏi Tiểu Ba, anh ấy nói anh ấy không biết. Mấy năm sau, Trương Tuấn mới kể cho tôi nghe nguyên nhân, lời đồn thổi bắt đầu từ bệnh viện. Bác sĩ và y tá giúp Hiểu Phi bỏ thai đã không giữ y đức của họ. Họ coi chuyện phá thai cho một cô bé con như một tin tức thú vị lạ lẫm để đem ra bàn tán với họ hàng người thân, họ hàng người thân lại mang chuyện này đi kể lại với họ hàng người thân của mình, cuối cùng, một đồn mười, mười đồn trăm, chuyện này trở thành đề tài nóng sốt trên bàn mạt chược, những người biết chuyện càng ngày càng nhiều. Còn bốn tên khốn kia, sau khi quan hệ với Hiểu Phi xong, từng đem chuyện này ra khoe khoang với đám bạn, đám con trai truyền tai nhau, không ít người biết “Phi Nhi” của trường Nhất Trung không còn là trinh nữ nữa, ít ra thì cuối học kỳ hai năm lớp 8, Trương Tuấn cũng đã nghe nói đến chuyện “Phi Nhi” bị mất trinh rồi. Khi tin đồn Hiểu Phi mang thai, phá thai bị lan truyền, người từng được nghe cả hai tin đồn trên mang chúng ra đối chiếu với nhau, lắp ghép, nhào nặn ra tin đồn Hiểu Phi bị bốn tên con trai cưỡng hiếp, dẫn đến có thai và phải đi phá thai, là nguyên nhân trực tiếp khiến công an phải vào cuộc sau đó.
Trong chuyện này, cả Hiểu Phi và bốn tên khốn kia đúng là đã phạm một sai lầm lớn, nhưng sai lầm lớn nhất thuộc về đám bác sĩ, y tá vô lương tâm kia. Nếu không có bọn họ thì cho dù chuyện đó đúng là một sai lầm, nhưng là một sai lầm còn có thể sửa chữa được, đằng này, bọn họ đã không cho đám thiếu niên cơ hội được làm lại, từ đó dẫn đến bi kịch tan vỡ của mấy gia đình. Những năm ấy, luật pháp Trung Quốc chưa kiện toàn, nếu không với tội danh tiết lộ thông tin cá nhân của người bệnh, bọn họ chắc chắn sẽ phải chịu tội trước pháp luật. Tôi chỉ còn biết nguyền rủa cho lương tâm của bọn họ lên tiếng, khi bọn họ nghĩ đến bi kịch của năm gia đình, cuộc đời của năm thiếu niên bị hủy hoại, lương tâm của họ sẽ cắn rứt, đêm đêm gặp ác mộng!
2. Bí mật của Quan Hà Người con gái xinh đẹp khiến người ta yêu thích, người con gái mạnh mẽ khiến người ta kính trọng, còn khi một người con gái vừa xinh đẹp lại vừa mạnh mẽ, cô ấy sẽ bất khả chiến bại. Suốt cả kỳ nghỉ đông, cuộc sống của tôi hỗn loạn, rối bời, việc bình thường duy nhất mà tôi làm được là đến chúc Tết cô Cao. Cô Cao đã biết chuyện Trương Tuấn bị đưa vào lớp học sinh yếu kém, cũng biết điểm thi cuối kỳ vừa rồi của tôi tụt dốc không phanh, cô rất buồn. Cô nói với tôi rằng, mặc dù cô đã từng dạy rất nhiều học sinh, nhưng cô vẫn cho rằng tôi và Trương Tuấn là hai học sinh đặc biệt nhất trong những học sinh của cô, đứng trên cương vị một giáo viên, sợ nhất là phải chứng kiến cảnh những học sinh rõ ràng có tố chất thông minh trời ban, mà lại lãng phí tố chất đó. Việc Trương Tuấn bị phân vào lớp yếu kém, cô hoàn toàn không lo cho cậu ấy. Cô nói Trương Tuấn kiên định hơn những người khác rất nhiều. Bề ngoài thì luôn tỏ vẻ chẳng để tâm điều gì, rất dễ bị trôi theo dòng nước, nhưng trên thực tế, cậu ấy là người rất có chính kiến, không dễ bị ảnh hưởng, lung lay bởi người khác. Nhưng cô lại rất lo cho tôi. Bề ngoài tôi tỏ ra cứng rắn, lạnh lùng, dường như rất khó bị người khác lôi kéo, thực tế tôi là người rất mẫn cảm, rất dễ bị tác động bởi hoàn cảnh bên ngoài. Thành tích học tập của tôi lên lên xuống xuống, đủ để chứng minh cho nhận xét của cô. Cô nói không hy vọng tôi đạt thành tích xuất sắc trong kỳ thì vào cấp ba sắp tới, nhưng ít nhất thì cũng phải đảm bảo rằng mình có thể thi được vào một trường điểm. Khi từ nhà cô Cao đi ra, Trương Tuấn đang đỗ xe máy dưới tầng, cậu ấy khom lưng, cúi đầu, không nhìn thấy tôi, tôi bước nhanh hơn, muốn nhanh chóng đi ngang qua cậu ấy. “Hi!” Bước chân tôi thoáng ngập ngừng, do dự, không xác định được có phải cậu ấy gọi mình hay không. “Hi!”
Lại một tiếng nữa, tôi nghi ngờ quay đầu lại. “Cát Hiểu Phi rất lanh lợi, cũng rất mạnh mẽ, cô ấy sẽ vượt qua thôi.” Cậu ấy đứng bên cạnh xe mô tô, nhìn tôi. Lúc này tôi mới chắc chắn là cậu ấy đang nói với mình, đột nhiên cảm thấy toàn bộ những ấm ức buồn khổ trào cả lên mắt, nước mắt chảy vòng quanh. Cậu ấy hình như còn định nói thêm điều gì nữa, nhưng cuối cùng chỉ nói: “Cậu cũng đừng đau buồn quá.” Tôi chỉ sợ mình mở miệng ra đáp lại, nước mắt sẽ thi nhau tuôn rơi, đành gật gật đầu, quay người đi luôn. Cảm nhận được ánh mắt ấy vẫn đuổi theo phía sau, vì vậy tôi bước mỗi lúc một nhanh hơn, muốn lẩn trốn nhanh hơn. Học kỳ mới bắt đầu, đây là học kỳ cuối cùng trong những năm cấp hai của chúng tôi. Chuyện của Hiểu Phi mặc dù ồn ào suốt một thời gian dài, nhưng cùng với sự biến mất của cô ấy, tất cả cũng dần dần trở về trạng thái bình thường ban đầu. Đặc biệt là giữa những tiết học, khi những tia nắng mặt trời chiếu xuyên qua đám lá non xanh mơn mởn cắm thẳng xuống đất, đám con trai chạy đuổi nhau trên sân vận động má đỏ hồng hồng, sôi nổi náo nhiệt, đám con gái vừa ăn kem vừa cười rúc rích, thì thà thì thầm bán tán những chuyện mình vừa nghe được. Không cần nghe, tôi cũng biết họ đang nói về chuyện gì. Bởi vì, hai năm trước, tôi còn là một người trong số họ. Người thì khác, nhưng mãi vẫn là tuổi thanh xuân ấy, vẫn là những câu chuyện ấy. Đôi lúc, tôi thấy rất khó tin, một người cứ thế mà biến mất, nhưng thế giới này vẫn chuyển động tràn đầy sức sống, lẽ nào nó không cảm nhận được sự đau đớn, buồn bã của chúng ta sao? Trái đất sẽ không bao giờ vì bất kỳ ai mà ngừng quay, đây là chân lý nhưng cũng rất tàn nhẫn. Trương Tuấn lại có bạn gái mới, tên là Trần Diệc Nam, là tài nữ trong trường chúng tôi, từng là chủ nhiệm đài phát thanh của trường, phụ trách biên tập của tờ báo trường. Chúng tôi cũng có thể nói là từng quen biết nhau. Sau khi tôi tham gia mấy cuộc thi diễn thuyết, đạt được vài giải thưởng, cô ấy đã từng đến tìm tôi mời tôi tham gia đội ngũ biên tập và phát thanh viên cho đài phát thanh của trường, nhưng đã bị tôi khéo léo từ chối. Hiện giờ cô ấy đang là học sinh lớp 12 chuyên văn, khả năng viết văn vô cùng xuất sắc, nghe đồn là một cô gái khá giống với Lâm Đại Ngọc(2), tương đối tài hoa, nhưng cô độc, kiêu ngạo, không nhuốm bụi hồng trần. Trần Diệu Nam không có bất kỳ điểm chung nào với hai cô bạn gái cũ của Trương Tuấn, điểm chung duy nhất có lẽ chính là cô ấy cũng lớn tuổi hơn Trương Tuấn. Mọi người đều gần như ngã ngửa trước tin cô ấy và Trương Tuấn yêu nhau, không biết Trương Tuấn có điểm nào nổi bật để có thể lọt vào mắt xanh của tài nữ. Lẽ nào khi cô ấy và Trương Tuấn ở bên nhau lại cùng đàm đạo về Lý Bạch, Đỗ Phủ, Lý Thanh Chiếu, Chu Thục Chân?
Cũng có thể là vì Hiểu Phi, cũng có thể là vì đã tê liệt, tôi không còn cảm thấy đau đớn nữa, chỉ bình thản nghĩ, Trương Tuấn hình như không chịu được sự cô độc, bạn gái của cậu ta người này đi lại có người khác đến, không biết cô bạn này sẽ kiên trì được bao lâu đây? Tôi bắt đầu tìm đọc truyện trinh thám của nữ nhà văn Agatha Mary Clarissa(3), và cũng bắt đầu suy luận lần theo đầu mối, tìm bắt hung thủ trong những câu chuyện có tình tiết gay cấn, hấp dẫn của bà. Do Tiểu Ba bận ôn thi đại học, rất ít khi đến quán karaoke, nên tôi cũng chẳng có lý do gì để đến đấy, tan học, nếu không về nhà, tôi sẽ đến thư viện. Cuộc sống trôi qua rất bình yên, nhưng sự bình yên của tôi trong mắt Quan Hà là sự tự ruồng rẫy chính bản thân mình. Cô ấy nỗ lực tìm cách gần gũi tôi, nhưng tôi vì Hiểu Phi, đã khóa chặt cánh cửa vào căn phòng tình bạn trong trái tim mình, tôi từ chối đón nhận ý tốt của cô ấy. Nhưng không biết dây thần kinh nào của cô ấy có vấn đề mà vẫn tiếp tục tìm cách làm thân với tôi, cho dù tôi có lạnh nhạt đến đâu, cô ấy cũng không để ý. Cô ấy đôn đốc tôi làm bài tập, đôn đốc tôi nghe giảng, thúc giục tôi chăm chỉ học hành, chủ động rủ tôi đi chơi, bất kể một cuộc tụ tập hội họp nào, dù to dù nhỏ, chỉ cần cô ấy có tham gia, liền nhất định kéo tôi theo. Cô ấy khiến tôi nghĩ đến những tu nữ trong đạo Thiên Chúa, đang cố gắng cứu vớt một kẻ chuẩn bị nương nhờ ma quỷ là tôi. Tôi bất đắc dĩ bị Quan Hà lôi kéo vào chơi cùng với đám bạn của cô ấy, trong đám bạn này có lớp trưởng đại nhân Lý Sam, có nhà thơ Tống Thần, còn có cả Ngụy Vĩ, cậu bạn có sắc mặt trắng bệch, thân hình yếu ớt, vì đứng thứ ba nên chúng tôi gọi cậu ta là lão tam, còn cả Vương Hào đại biểu môn tiếng Anh đang ở nhờ nhà chị gái nữa. Quan Hà cố gắng để khiến cuộc sống của tôi trở nên phong phú, còn tôi lại cố gắng lạnh lùng, thờ ơ. Tống Thần đã tỏ ra khó chịu với tôi từ lâu, thấy tôi cả ngày không nói, không cười, cậu ta lại càng ngứa mắt, hỏi tôi: “Tại sao cậu không cười, nhìn cậu giống như những người phụ nữ trong xã hội cũ đau khổ và đầy thù hận ấy, không biết câu: Nở một nụ cười trẻ thêm mười tuổi à?” Tôi đáp trả: “Có biết vì sao nói “nở một nụ cười trẻ thêm mười tuổi” không? Bởi vì cười nhiều quá, rất dễ có nếp nhăn, dễ bị già sớm, khi người ta hỏi cậu năm nay bao nhiêu tuổi, sẽ kinh ngạc thốt lên, oa, thì ra cậu vẫn còn trẻ như thế ư?” Tống Thần không biết phải nói gì. Cậu ta mặc dù có tài, nhưng nếu so bì khả năng tư duy logic và độ giảo hoạt thì có ngồi xe tam mã cũng chưa chắc đã đuổi kịp tôi. Mặc dù không thích tôi, nhưng do Quan Hà che chở tôi nên Tống Thần cũng đành phải nhường tôi vài phần. Quan Hà không nhiệt tình quá đến mức khiến tôi phải trở mặt với cô ấy, nhưng cũng quyết không chịu bỏ mặc tôi, dù sao cô ấy cũng đang rất cố gắng, bỏ công bỏ sức. Tôi được bảo vệ bởi cánh cửa đá, ngàn năm cũng không có ý định mở ra, còn Quan Hà lại định làm những giọt nước, với mong muốn nước chảy đá mòn.
Một hôm, tôi cũng đã quên mất là nguyên nhân gì rồi, tóm lại là Quan Hà phải về nhà để lấy thứ gì đó, nhất định kéo tôi đi cùng. Sau khi đến nhà cô ấy, nhìn thấy cây đàn nhị, tôi đề nghị cô ấy chơi cho tôi nghe một bài, cô ấy liền chơi bài Đêm thảo nguyên. “Mình nhớ là hồi mới chuyển đến lớp bọn mình cậu cũng đã chơi bài này.” Cô ấy rất kinh ngạc: “Cậu vẫn nhớ à? Đây là bài mình thích nhất.” Tất cả những việc liên quan đến cô ấy tôi đều nhớ. Cổ Long đã từng nói gì nhỉ? Người hiểu bạn nhất không phải là bạn bè, mà là kẻ thù, thật đáng tiếc Quan Hà là học sinh ngoan, không đọc Cổ Long. Nếu không, cô ấy sẽ đề phòng tôi. Tôi hỏi: “Cậu học đàn nhị từ ai?” Giáo viên dạy đàn nhị rất hiếm, ít nhất thì tôi cũng chưa từng thấy có lớp đàn nhị nào. “Bố mình dạy, bố mình thích nhất bài này, và kéo rất hay.” “Ồ!” Tôi gật gật đầu, nhìn bức ảnh gia đình hạnh phúc treo trong phòng khách, bố cô ấy vừa già vừa béo, mặt chảy xệ, nhìn chẳng ra dáng tài tử chút nào. Cô ấy ngồi im một lúc, đột nhiên lấy ra một cuốn album nhét rất sâu trong ngăn kéo, mở ra đưa cho tôi xem: “Đây là ảnh của bố mình.” Tôi liếc mắt nhìn, thoáng sững người lại, nhìn thật kỹ. Người đàn ông trong bức ảnh mặt mũi thanh tú, nho nhã sang trọng, vì là ảnh đen trắng, nên càng làm nổi bật vẻ tri thức của người đó. Sao người này lại thay đổi nhiều thế nhỉ? Sao có thể từ hình dáng này mà biến thành người trong bức ảnh treo ngoài phòng khách? Tôi lật giở xem tiếp, trong album đều là những bức ảnh thời còn trẻ, đến một tấm ảnh thời trung niên cũng không có, mà trong bức ảnh gia đình chỉ có bố, mẹ và Quan Hà, không có anh trai, chị gái của cô ấy, tôi đang thầm thắc mắc, thì Quan Hà nói: “Bố bây giờ là bố dượng của mình.” “Bố cậu mắc bệnh rồi qua đời sao?” Quan Hà lắc lắc đầu, bình thản nói: “Năm đó bố mình đi công tác ngoại tỉnh, trên một con đường khá hẹp, hai chiếc xe ô tô đi ngược chiều nhau, xe đi rất sát, bố mình lại không cẩn thận thò đầu ra ngoài cửa, hai tài xế không để ý, thế là đầu bị kẹp nát.” Tôi sởn hết da gà, đây là cái chết kinh khủng nhất mà tôi từng được nghe. Nếu không phải là do chính tai mình nghe kể, thì tôi thật muốn bịa ra một cái chết phù hợp với quy luật thông thường hơn, ví dụ như ung thư gan hay ung thư phổi chẳng hạn. Tôi chỉ nghe kể một lần, mà rất nhiều năm sau đó không bao giờ dám thò đầu ra ngoài khi ngồi trên ô tô, thậm chí thò tay ra tôi cũng phải nhìn trước ngó sau, nỗi ám ảnh đó đối với Quan Hà lớn thế nào, có lẽ tôi không thể tưởng tượng nổi.
Hình như đã rất nhiều năm rồi, Quan Hà không thổ lộ tâm sự cùng ai, một khi đã nói, không thể dừng lại: “Bố mình họ Hạ, vì ông rất thích hoa sen, nên đặt tên mình là Hạ Hà, ông muốn con gái mình xinh đẹp, mạnh mẽ như đóa sen, phẩm hạnh cũng thanh cao như hoa sen. Sau khi bố mất, mẹ mình lại không có công ăn việc làm, để nuôi sống mình, cho mình được hưởng một môi trường giáo dục tốt nhất, nên đã tái giá, thế là mình bị đổi sang họ Quan.” “Bố dượng đối xử với cậu có tốt không?” Quan Hà chậm rãi đáp: “Không ngược đãi mình. Ông hơn mẹ mình khá nhiều tuổi, vợ cũ đã mất, có một con trai, hai con gái, chỉ cần mình nghe lời, chăm chỉ, nhanh nhẹn, thì ông cũng không đến nỗi khó khăn với mình, nhưng anh chị thì không dễ thế, có điều vài năm gần đây mình cũng quen rồi.” Giờ thì tôi đã hiểu sự chín chắn, trầm tĩnh của Quan Hà từ đâu mà ra, nhẫn nhịn hướng nội từ đâu mà có, cách đối nhân xử thế, phong độ hoàn mỹ từ đâu mà có, bởi vì cô ấy không có nhà, cô ấy đã luôn ăn nhờ ở đậu nhà người ta, mẹ cô ấy phải hầu hạ, chăm sóc cho cả gia đình người khác để có tiền chi trả sinh hoạt phí và học phí cho cô ấy. Vì vậy, khi những đứa trẻ khác còn đang ngây thơ, trong sáng níu tay bố nũng nịu, mè nheo, thì cô ấy đã rất giỏi trong việc lấy lòng bố dượng, anh trai và chị gái. Quan Hà mỉm cười: “Các bạn nhìn mình, đều cho rằng gia đình mình có điều kiện kinh tế khá giả, thực ra, họ không biết rằng, từ nhỏ mình đã biết làm khá nhiều việc, mình biết nặn sủi cảo, giặt quần áo, quét nhà, rất nhiều quần áo của mình đều là của các chị gái thải ra không dùng nữa, mẹ mình khéo tay, sửa lại một chút, là lại biến chúng trở nên đẹp đẽ, thực ra mình chỉ có vài bộ là được mua mới thôi.” Bởi vì mỉm cười, nên khóe môi Quan Hà hơi nhếch lên, tạo cho người ta cảm giác kiên cường lạ thường. Tôi nói: “Vì cậu xinh đẹp, lại có khí chất khác người, những bộ quần áo đẹp là nhờ cậu, vì thế mới được các bạn chú ý.” Quan Hà lại cười, không biết đó là giả tạo hay thật lòng. Cô ấy nhìn vào mắt tôi nói: “Bởi vì từ nhỏ mình đã phải nhìn sắc mặt người khác mà đoán ý, mình là một người rất mẫn cảm. Sau khi chúng ta ngồi cùng bàn, mình đột nhiên cảm thấy bọn mình hơi giống nhau, chỉ có điều mình còn phải chăm sóc mẹ, vì vậy, mình phải ngoan ngoãn lấy lòng tất cả mọi người, khiến mọi người đều thích, đều quý mình, còn cậu có thể ngang nhiên đối đầu, tùy tiện làm những gì mà cậu thích.” Tôi ngẩn người ra nhìn Quan Hà, cô ấy cười cười, nắm tay tôi, đi ra ngoài, nửa đùa nửa thật nói: “Đừng kể với ai nhé, đừng nói cho mọi người biết nhà mình ở đâu đấy, mình không muốn người ta biết mình là cô bé lọ lem, mình thích là tiểu công chúa.” Tôi gật gật đầu, trịnh trọng hứa: “Mình sẽ không kể với ai đâu”. Mặc dù ngoài mặt tôi tỏ ra rất bình thản, thậm chí còn không cả nói một câu an ủi Quan Hà, nhưng sự lạnh lùng của tôi đã vỡ vụn trước Quan Hà, ngay cả cô giáo Ngô cũng nhận ra, với cả lớp, người duy nhất tôi không thể nói từ “không” chính là Quan Hà. Nếu tôi là Tôn Ngộ Không, thì Quan Hà chính là vòng kim cô của tôi, cho dù tôi có ngỗ nghịch gây sự thế nào, cô ấy sẽ luôn có cách để khống chế tôi.
Tôi bắt đầu thật sự tham gia vào nhóm bạn của Quan Hà, chơi cờ vua với Lý Sam, chơi đố chữ đấu võ mồm với Tống Thần, chơi cờ tướng với Vương Hào, hoặc thỉnh thoảng cùng bạn gái của Ngụy lão tam ra tay bắt nạt lão tam, ép cậu ta ăn cà tím nướng cháy, cứ ăn một miếng, là phải nói một câu “ngon quá”. Chiều thứ Sáu sau khi họp lớp xong, cả nhóm lại đi hát karaoke… Dần dần, tôi không còn là người đứng ngoài hoạt động của lớp nữa, tôi đã thực sự trở thành một thành viên của lớp 9 (4), tôi cũng có một nhóm bạn để hằng ngày vui chơi, nghịch ngợm, trêu trọc lẫn nhau, mỗi ngày mỗi tuần đều có những hoạt động để làm, không có thời gian mà cô đơn. Học sinh dốt chắc chắn không thích đi học, học sinh giỏi có thể cũng thích đi học, nhưng cho dù là học sinh giỏi thích đi học, nhưng chỉ sợ không phải môn học nào cũng thích. Nhưng, có một môn học, dù học sinh giỏi, hay học sinh dốt, nam sinh hay nữ sinh, cũng đều đã chờ đợi từ rất lâu. Cho dù ngoài miệng tuyệt đối không bao giờ nhắc đến, nhưng trong lòng lại chờ đợi sự giảng giải của thầy cô giáo. Môn học mà vạn người mong ngóng đó, là môn giáo dục giới tính. Thời đó, thông tin nghèo nàn, không có nhiều sách vở, lại chưa có mạng internet, các bậc phụ huynh tuyệt đối không bao giờ mở miệng nhắc đến những khác biệt về giới tính giữa con trai và con gái, cứ như hễ nhắc đến là sẽ có chuyện gì đó không hay xảy ra vậy. Nhưng những hình ảnh thấp thoáng lấp ló trên màn hình ti vi, những lời nói úp úp mở mở cùng với sự thay đổi trên cơ thể của chúng tôi, khiến chúng tôi thấy rất tò mò và khó xử. Một mặt chúng tôi cũng chịu ảnh hưởng bởi thái độ của người lớn, nên cảm thấy bản thân mình quan tâm tới những vấn đề như thế này là không đạo đức, không lành mạnh, không tích cực, không có chí vươn lên. Nhưng mặt khác, chúng tôi lại khao khát được đứng vào hàng ngũ của những người trưởng thành, muốn tìm hiểu đề tài mà bố mẹ, thầy cô, thậm chí là cả xã hội né tránh không muốn nhắc đến này. Khi sách giáo khoa của môn giáo dục giới tính vừa được phát xuống, có lẽ bất kỳ học sinh nào cũng lẳng lặng lật tới phần cuối cùng, tìm đọc tất cả những vấn đề liên quan đến người nam và người nữ, nhưng những hình ảnh đen trắng được in không rõ nét ấy, cùng với những đoạn giải thích dùng toàn thuật ngữ khô khan kia không thể thỏa mãn được những thắc mắc của chúng tôi. Khó khăn lắm mới đợi được tiết học có nội dung quan trọng mà ai cũng quan tâm, chúng tôi cứ nghĩ rằng cô giáo dạy giáo dục giới tính sẽ giống như cô giáo dạy ngữ văn, giảng giải từng câu từng chữ, phân tích cho chúng tôi ý nghĩa của từng đoạn từng câu. Sẽ giống như giáo viên dạy hình học, chỉ còn thiếu mỗi cách là khắc hình vẽ vào trong đầu chúng tôi, giải thích rõ ràng đầu đuôi ngọn ngành của từng đường thẳng một. Nhưng cô giáo dạy môn giáo dục giới tính xinh đẹp, và biết ăn nói kia lại nói với chúng tôi rằng tiết này chúng tôi tự học. Chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau, bọn em đã tự học xong từ lâu rồi! Nhưng chính bởi vì tự học mà vẫn không hiểu mới chờ đợi sự giảng giải của cô! Cô giáo chẳng để ý nhiều đến thế, sau khi dặn dò lớp trưởng giữ trật tự lớp xong, liền quay trở về văn phòng giáo viên, ngay cả cơ hội được đặt câu hỏi sau khi tự học chúng tôi cũng không có.
Cả lớp, cậu nhìn mình, mình nhìn cậu, các bạn học sinh ngoan thì lập tức lấy sách toán, vật lý, tiếng Anh ra học, chuẩn bị cho kỳ thi vào cấp ba sắp tới. Mấy cậu con trai cười hì hì, ném quyển sách giáo dục giới tính vào trong thùng rác, môn này không phải môn thi tốt nghiệp, mà tiết này cô giáo cũng không dạy, thế thì còn giữ quyển sách này làm gì nữa. Tôi nhìn quyển sách giáo dục giới tính ngẩn ngơ mất một lúc, có lẽ những băn khoăn thắc mắc trong lòng tôi còn nhiều hơn bất kỳ ai, tôi rất muốn biết giữa nam và nữ rút cục là có thể xảy ra chuyện gì. Thật ra, cho đến tận khi ấy, tôi cũng chưa thật sự hiểu vì sao Hiểu Phi lại có thai? Tại sao mọi người đều nói vì ngủ mà có thai? Nếu nói là hoàn toàn không hiểu gì cả, thì cũng không đúng, bởi vì theo như bộ phim Hồng Kông mà tôi đã từng xem, qua những cảnh hôn hít, cởi quần cởi áo thân mật đó, thực ra tôi cũng mơ hồ cảm nhận được, nhưng trong phim chỉ chiếu cảnh hai diễn viên cởi quần áo, vuốt ve lẫn nhau, sau đó liền chuyển cảnh, vậy chuyện gì sẽ xảy ra sau khi bọn họ cởi quần áo? Trong sách có viết khi tinh trùng gặp trứng sẽ dẫn đến việc thụ thai, lẽ nào sau khi cởi hết quần áo xong hai người nằm ôm nhau ngủ, chỉ thế thôi là tinh trùng và trứng có thể gặp được nhau ư? Sẽ có thai ư? Tôi nghĩ tôi khao khát tìm hiểu về những chuyện này là vì hai nguyên nhân sau: Một là vì Hiểu Phi, cô ấy chưa bao giờ chịu kể cho tôi nghe đã có chuyện gì xảy ra, tôi cũng không dám hỏi, nhưng tôi muốn biết rút cục là đã xảy ra chuyện gì; nguyên nhân thứ hai là vì sợ hãi, tôi cảm thấy sợ trước tất cả những gì mà tôi không biết, sợ vì không biết phải làm thế nào mới có thể bảo vệ mình. Nhưng khi tôi đang mong ngóng chờ đợi, cho rằng cô giáo có thể giải đáp rõ ràng tất cả những thắc mắc trong lòng tôi, xoa dịu những lo lắng, bất an trong lòng tôi, thì cô lại ném cho chúng tôi một câu “tự học”. Sự kỳ vọng của tôi đối với người lớn lại một lần nữa rơi tõm vào hư không. Quan Hà lặng lẽ mang sách toán ra ôn luyện. Thấy tôi ngẩn người, nhìn chăm chăm vào cuốn sách giáo dục giới tính, cô ấy nghiêng đầu nhìn tôi mấy lần. “Cậu đang nghĩ gì thế? Nhìn có vẻ không được vui?” “Không có gì.” Tôi trầm ngâm, một lúc sau đột nhiên hỏi: “Cậu có biết mang thai là gì không? Con trai làm thế nào khiến con gái mang thai?” Quan Hà vốn là người thâm trầm, lúc này mặt đỏ lựng lên, ánh mắt cô ấy đảo quanh lớp một vòng, thấy không có ai để ý, mới hạ thấp giọng trả lời: “Không biết”. Tôi nghĩ cũng phải, tôi ít nhiều còn được xem mấy bộ phim của Hồng Kông kia, còn Quan Hà, chỉ sợ đến những kiểu phim ấy cũng chưa từng được xem, thì làm sao cô ấy biết được? Những tác phẩm nổi tiếng thế giới có lẽ không nói về vấn đề này. Đương nhiên, tôi cũng có thể đi hỏi chị Xinh Đẹp, nhưng việc ấy cũng đồng nghĩa với việc Ô Tặc sẽ biết tôi đang quan tâm đến những vấn đề này, sau đó Tiểu Ba cũng biết. Trời ơi! Thế thì thà chết đi còn hơn! Quan Hà dường như nhìn thấu tâm can tôi, trầm ngâm một lúc, rồi lại thẽ thọt nói: “Dù sao nếu chỉ là nắm tay, ôm, hôn thôi thì sẽ không có chuyện gì đâu. Đừng cởi quần áo là
được.” Nói xong cô ấy lập tức cúi đầu đọc sách, rõ ràng khi nói đến đề tài này, cô ấy cảm thấy rất bất an, cô ấy đã không còn muốn nói thêm gì nữa. Tôi đứng dậy, học tập mấy bạn nam sinh kia, cầm quyển sách giáo dục giới tính ném vào thùng rác.
3. Ước gì đây chỉ là một cơn ác mộng Người lớn dù có phạm phải sai lầm khủng khiếp như thế nào, thì đấy cũng là quả của cái cây do chính họ trồng. Nhưng ở thời niên thiếu, những sai lầm của họ, thường một nửa là thuộc về trách nhiệm của bố mẹ, một nửa là do sự thiếu hiểu biết về cuộc sống. Trong cuộc sống có rất nhiều ngã rẽ, chỉ cần một suy nghĩ sai lầm, có thể con đường bạn chọn sẽ là một ngã rẽ gập ghềnh, trắc trở. Đương nhiên, ngã rẽ cũng là đường, cũng có người từ ngã rẽ đó đi đến được nơi có bầu trời bao la rộng lớn, nhưng, nếu thời gian quay ngược trở lại, thì với dung nhan tàn tạ, nụ cười mệt mỏi kia, họ thà lựa chọn rằng mình đừng đi sai bước chân ấy. Trong một thời gian rất dài, tôi luôn nghi ngờ tính chân thực của sự việc này, nghi ngờ mình đã xem quá nhiều phim gangster nên mới nảy sinh ảo giác. Nhưng sau một loạt những việc xảy ra sau đó, tôi bắt đầu ý thức được rằng, công cuộc chỉnh đốn trật tự trị an xã hội, nghiêm khắc trừng trị những phần tử phạm tội, không còn là một tin tức nghe từ đài truyền hình trung ương nữa, trên thực tế, nó cách chúng tôi không xa. Căn nguyên của phong trào nghiêm trị cũng rất phức tạp. Những năm tám mươi, một lượng lớn thanh niên được phép trở về thành phố quê nhà sau cuộc cách mạng văn hóa kéo dài suốt mười năm, và trở thành những người thất nghiệp. Những năm chín mươi, thời kỳ đầu sau khi Trung Quốc thực hiện chính sách cải cách mở cửa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, một lượng lớn những người làm nghề tự do(4) xuất hiện. Sau khi mở cửa, các loại trào lưu tư tưởng nhanh chóng thâm nhập, những quan niệm, giá trị đạo đức vốn đã lung lay bởi “cải cách văn hóa” nay sụp đổ hẳn… Trước những nguyên nhân đó, thập niên chín mươi, từ vùng đất xa xôi cho đến miền duyên hải phồn hoa, nhiều loại tội phạm xuất hiện. Để đối phó, Nhà nước đã triển khai kế hoạch truy quét, chống lại các loại hình tội phạm này. Về hai đợt đàn áp rầm rộ và quyết liệt nhất trong thập niên chín mươi, những người sinh vào thập niên tám mươi hẳn vẫn còn có chút ấn tượng, bởi vì những năm ấy gần như nhà nào cũng sẽ xem chương trình thời sự vào giờ cơm tối, mà trong chương trình đó, ngày nào chả có những tin quan trọng liên quan đến chiến dịch truy quyét trên. Đài truyền hình thành phố muốn làm một chuyên đề về năm cuối cấp chuẩn bị tốt nghiệp, nhà trường chọn ra vài giáo viên và học sinh để trả lời phỏng vấn. Vì tôi thường xuyên tham gia các cuộc thi hùng biện nên bị thầy cô giáo liệt vào hàng những học sinh biết ăn nói, thế nên tôi cũng được chọn là đối tượng tham gia trả lời phỏng vấn. Câu hỏi được cho biết từ trước. Câu trả lời, những giáo viên ở tổ ngữ văn đã soạn sẵn, vì vậy, tất cả chỉ là màn trình diễn không hơn.
Đầu tiên, người của đài truyền hình quay cảnh ở gần khu chơi bóng bàn phía dưới giảng đường, đối tượng được phỏng vấn là Thẩm Viễn Triết, còn cảnh của tôi được bố trí quay trên hành lang tầng ba, vì vậy tôi đứng sẵn ở hành lang vừa đợi họ, vừa lẩm nhẩm đọc lại “lời thoại” mà giáo viên ngữ văn đã viết sẵn. Tôi thấy việc phỏng vấn Thẩm Viễn Triết sắp xong, nên muốn vào nhà vệ sinh, đề phòng lúc trả lời phỏng vấn căng thẳng quá, lại muốn đi vệ sinh. Nhà vệ sinh nằm ở cuối hành lang, ngay bên cạnh là cầu thang xuống tầng. Khi từ nhà vệ sinh đi ra, suýt nữa thì đâm sầm vào một người đang chạy vọt từ dưới cầu thang lên, tôi dừng phắt lại, đối phương thậm chí còn không thèm dừng lại mà cứ thế chạy vụt qua tôi. Nhưng cậu ta mới chạy được vài bước, đã quay lại, là Trương Tuấn. Cảm giác cậu ta chỉ nhảy một bước là đã đứng trước mặt tôi, nhét một vật gì đó đen sì vào tay tôi, rồi hạ thấp giọng nói: “Giấu đi giúp mình!” Một khẩu súng! Tôi sững người lại, phản ứng khi đó là lập tức quay người, đi vào nhà vệ sinh, nhưng khi vừa đi tới cửa nhà vệ sinh nữ, tôi liền nghĩ ra, không được! Đây không phải là nơi giấu đồ an toàn. Nghĩ thế nào, tôi vén áo len lên, nhét khẩu súng vào cạp quần, thắt lại thắt lưng cho chặt hơn, cố định nó ở đấy, sau đó, tôi chỉnh lại áo cho ngay ngắn, như vừa mới đi vệ sinh xong vậy. Tôi bước ra ngoài, đi thẳng đến địa điểm phỏng vấn. Trương Tuấn ngồi trong lớp, khi tôi đi ngang qua lớp cậu ta, ánh mắt chúng tôi lướt qua nhau, tựa như trao đổi rất nhiều điều, lại tựa như không thể hiện bất kỳ điều gì. Tôi vừa đứng lại ở góc hành lang giao giữa văn phòng giáo viên và lớp tôi thì phóng viên, quay phim, thầy giám thị và mấy giáo viên khác cũng đã có mặt. Phóng viên nhắc nhở tôi một vài việc cần phải chú ý rồi bắt đầu quay. “Em cảm thấy áp lực học tập có lớn không?” Tôi mỉm cười trả lời: “Cũng khá là áp lực.” “Áp lực đó đến từ bố mẹ hay từ thầy cô giáo?” “Em nghĩ mỗi bên đều có một chút, còn cả sự kỳ vọng của mình vào chính mình nữa…” Có mấy người mặc cảnh phục đi từ tầng dưới lên, nhìn thấy chúng tôi đang thực hiện phỏng vấn thì hơi khựng lại, dừng bước. Thầy giám thị lập tức tới gặp họ để nói chuyện, phóng viên và quay phim đều tò mò quay sang nhìn bọn họ. Không biết họ thì thầm với nhau điều gì, mặt thầy giám thị biến sắc, đi lại nói mấy câu với cô giáo tổ trưởng tổ ngữ văn, sau đó theo bên công an đi. Nhìn theo mấy đồng chí công an, thấy họ chia nhau ra đi vào từng lớp 1, tôi thầm hiểu tại sao họ lại đến đây. Cô giáo tổ trưởng tổ ngữ văn tươi cười mời phóng viên và quay phim xuống tầng dưới thực hiện nốt phần còn lại của buổi phỏng vấn. Giới phóng viên Trung Quốc của hơn
mười năm về trước tuyệt đối không theo đuổi việc săn tin và giật tít, nhiệm vụ trọng tâm của họ là hướng dẫn và tuyên truyền về một xã hội phát triển ổn định, lành mạnh, an toàn, do đó, mặc dù rất tò mò, nhưng họ vẫn đi theo cô tổ trưởng tổ ngữ văn xuống tầng dưới. Khi chúng tôi đi ra khỏi khối cấp hai thấy có cảnh sát đứng canh, sắc mặt rất nghiêm nghị, nhưng khi nhìn thấy phóng viên và quay phim, họ đều tỏ ra rất khách khí. Với lại, có lẽ đã được lãnh đạo nhà trường giải thích, nên họ chỉ hỏi vài câu đơn giản, sau khi biết rõ danh tính từng người, liền để chúng tôi đi ra ngoài. Ánh mắt của viên cảnh sát dừng lại trên người một đứa con gái mắt đeo kính gọng đen, tóc cột đuôi ngựa, ăn mặc giản dị, không màu mè như tôi cũng chưa đến một giây. Sau khi đi qua họ, chúng tôi đứng trên con đường chính dẫn vào trường, lại quay lại từ đầu. Lúc trả lời phỏng vấn, tôi thấy lành lạnh nơi sống lưng, nhưng trong lòng vì thế mà lại thấy yên tâm hơn. Tôi phối hợp với họ rất ăn ý, cố gắng diễn tốt vai một học sinh chuẩn bị tốt nghiệp giống như hình ảnh mà người lớn vẫn kỳ vọng, phóng viên và tổ trưởng tổ giáo viên rất hài lòng, người quay phim còn khen tôi. Cô tổ trưởng tổ ngữ văn đã tự hào giới thiệu về tôi như thế này: “Trường Nhất Trung rất chú trọng đến việc bồi dưỡng toàn diện về mọi mặt cho học sinh, hoàn toàn không chạy theo thành tích, nhà trường đã và đang cố gắng tạo điều kiện cho học sinh, để các em có thể phát triển được sở trường của mình, em La Kỳ Kỳ đây đã từng đại diện cho trường tham gia rất nhiều cuộc thi diễn thuyết, hùng biện, được rèn luyện rất tốt”. Vì lúc đó vẫn chưa đóng máy quay nên người quay phim quay và ghi âm luôn những lời mà cô tổ trưởng vừa nói. Phóng viên đứng bên cạnh giải thích: “Đoạn vừa rồi rất hay, về đài chúng tôi sẽ bàn bạc lại với lãnh đạo, thêm đoạn vừa rồi vào, sẽ thể hiện được một cách toàn diện cuộc sống học đường của những học sinh chuẩn bị tốt nghiệp.” Cô tổ trưởng không ngờ những lời nói vô tình ấy lại có hiệu quả như thế. Cô vui vẻ đi cùng với phóng viên và quay phim về phía khối cấp ba: “Mấy em tiếp theo là học sinh lớp 12.” Máy quay đã đóng, mọi người đều thoải mái, phóng viên nói bằng giọng rất kỳ vọng: “Nghe nói con trai phó giám đốc đài chúng tôi, em Trần Kình cũng học ở Nhất Trung”. Cô tổ trưởng vội cười đáp: “Đúng thế, em Trần Kình quả thật rất xuất sắc…” Rồi cô liến thoắng kể mọi thứ liên quan đến Trần Kình cho phóng viên và nhân viên quay phim nghe, phóng viên và nhân viên quay phim say sưa lắng nghe, rõ ràng hứng thú hơn việc phỏng vấn những học sinh cấp ba khác nhiều. Thấy bọn họ không để ý đến mình, tôi giả vờ hiếu kỳ, lặng lẽ đi theo họ. Có điều, các thầy cô giáo của tôi cũng khá tinh ý. Còn chưa đi đến khối cấp ba, họ đã phát hiện ra âm mưu của tôi, một thầy giáo nói: “La Kỳ Kỳ, em…” Không đợi thầy nói hết câu, tôi vội vã tiếp lời cô tổ trưởng tổ ngữ văn: “Em là bạn ngồi cùng bàn với Trần Kình hồi tiểu học.”
Trần Kình là một thiên tài tỏa sáng nhất từ khi trường Nhất Trung xây dựng cho tới nay, cộng với gia thế đặc biệt nên những câu chuyện về cậu ấy có sức hút cực mạnh. Hơn nữa, những người làm ở đài truyền hình lại rất muốn biết chuyện đời tư của cấp trên. Do đó, tất cả mọi người đều hào hứng quay sang tôi, không ai còn nhắc đến việc tôi phải quay về lớp học bài nữa. Tôi liền vừa đi vừa kể chuyện về Trần Kình, nào là cậu ta đi học không bao giờ nghe giảng, cậu ta thích giải đố, thật ra cậu ta có thể nhảy lớp từ rất sớm, thực ra cậu ta rất ghét giáo viên toán của lớp tôi, nào là mẹ Trần Kình muốn cậu ta nhảy lớp, nhưng bố Trần Kình lại không đồng ý, đương nhiên còn nửa giả nửa thật bịa ra những chuyện bí mật giữa hai chúng tôi trong thời gian ngồi cùng bàn. Những tin tức có một không hai đó của tôi, phóng viên và thầy cô giáo nghe rất say sưa, có lẽ sau khi quay về Đài, đám phóng viên này sẽ dương dương tự đắc buôn chuyện về công tử của phó giám đốc. Hăng say nói chuyện cho tới tận khi đi đến khối cấp ba, sắp xếp chuẩn bị phỏng vấn xong thì các thầy cô giáo cũng đã quên mất việc phải đuổi tôi quay về lớp chăm chỉ học bài, thế là tôi lặng lẽ đứng bên cạnh xem. Sinh viên thực tập phụ trách những việc lặt vặt cho đoàn hỏi tôi: “Em rất hứng thú với việc phỏng vấn phải không?” Tôi toét miệng nở một nụ cười vô cùng tươi sáng: “Những phóng viên được vinh dự gọi là “Vua không ngai”, em tôn thờ nữ phóng viên người Ý Oriana Fallaci, mong ước sau này của em là được trở thành một nữ phóng viên, tốt nhất là được làm phóng viên ngoài mặt trận.” Mấy thầy cô giáo đứng đấy đều cười, có lẽ họ nghĩ tôi quá ngây thơ, lãng mạn, họ không thể nhẫn tâm dập tắt ước mơ của tôi, do đó, chẳng ai thúc giục tôi trở về lớp cả. Anh sinh viên thực tập đứng bên cạnh tôi còn nhiệt tình giới thiệu về những việc cần chú ý trước mỗi buổi phỏng vấn. Bởi vì vừa rồi không quay được cảnh hành lang phòng học, nên bây giờ quay bù, bối cảnh sẽ là những học sinh đang vùi đầu học bài trong lớp, đại diện cho những học sinh chuẩn bị tốt nghiệp sẽ đứng trước ống kính phát biểu cảm nghĩ. Tiểu Ba đang ngồi trong lớp đọc sách, cũng chẳng buồn ngẩng đầu lên, không hề quan tâm đến những việc đang xảy ra ngoài hành lang. Đúng là ông già khốt ta mít! Cuối cùng, anh ấy cũng đã cảm thấy có điều gì đó khang khác, ngô nghê ngẩng đầu lên thì thấy tôi đứng đằng sau người quay phim, nhìn anh chăm chăm, làm mặt hề với anh. Ánh mắt anh thoáng hiện lên vẻ ngạc nhiên, cũng nhìn tôi mấy giây, mỉm cười, rồi lại cúi đầu, tiếp tục đọc sách. Tôi thấy tất cả mọi người đều đang nhìn vào máy quay, không ai để ý đến tôi, thế là tiếp tục quan sát Tiểu Ba. Có lẽ anh ấy biết tôi vẫn đang nhìn, nên thay đổi tư thế, tay chống trán, động tác đó như muốn nhắn nhủ tôi rằng nên bớt lộ liễu đi một chút. Tôi cười, quyết định không nhìn anh ấy nữa.
Dưới thắt lưng của tôi giấu một khẩu súng, nhưng tôi không căng thẳng. Ban đầu còn thấy hơi thiếu thoải mái do cảm giác lành lạnh từ khẩu súng chạm vào người, nhưng bây giờ, nhiệt độ ngoài vỏ súng cũng đã bằng với nhiệt độ cơ thể, cảm giác khó chịu đã hoàn toàn biến mất. Có lẽ, bẩm sinh, tôi có tố chất làm kẻ xấu. Lúc chuẩn bị đổi cảnh quay để phỏng vấn học sinh khác, sinh viên thực tập hỏi tôi có muốn cùng đi không, tôi lắc lắc đầu: “Hôm nay xem thế là đủ rồi, giờ em phải quay về lớp học.” Anh sinh viên thực tập đó rất tốt bụng, nhìn tôi cười: “Học cho tốt nhé, chúc em sớm trở thành một nữ phóng viên xuất sắc.” Tôi cười chào tạm biệt anh ta. Khi bọn họ đi xuống cầu thang, tôi liền nhảy với lên cửa sổ, nói nhỏ với Tiểu Ba: “Đưa chìa khóa xe đạp cho em.” Tiểu Ba không hỏi lý do, ném chìa khóa xe đạp cho tôi: “Dựng trước tòa nhà, gần vườn cây, không phải ở trong nhà xe.” “Khi nào về, nhớ sang thu dọn sách vở cho em.” Tôi lại làm một cái mặt hề với anh, sau đó chạy xuống dưới tầng qua một cầu thang khác. Đạp chiếc xe đạp cũ nát của Tiểu Ba, ra khỏi trường, tôi rút khẩu súng ra cho vào túi áo khoác. Tôi đạp xe như điên, đạp liền một hơi hơn tiếng đồng hồ, đến một khu đất hoang không bóng người. Trốn vào một góc khuất, tôi lôi khẩu súng ra ngắm nghía, nặng trình trịch, không thể là một món đồ chơi. Tôi nghịch ngợm một lúc, rồi lôi đôi găng tay len trong túi áo ra, lau kỹ dấu vân tay trên thân súng. Mặc dù không biết công nghệ phá án ở thành phố chúng tôi đã có loại máy móc nào để nhận biết dấu vân tay chưa, nhưng phim ảnh và tiểu thuyết trinh thám không phải chỉ để đọc chơi. Sau khi lau sạch, tôi đào một cái hố, chôn xuống đấy. Chôn xong, tôi ngụy trang cho nơi vừa bị đào không khác gì xung quanh, vừa dắt xe đạp ra khỏi đó vừa dùng găng tay lau sạch vết chân của mình, tôi còn đi đến một chỗ cách đó không xa, cố ý lưu lại dấu chân, cũng có thể làm vậy là thừa, nhưng cẩn thận vẫn hơn. Tôi lên xe đạp quay về. Trời đang nổi gió, khi gió thổi mạnh, bụi đất sẽ phủ lên, che hết những dấu vết còn sót lại trên mặt đất. Chưa về đến nhà, trời đã tối. Tôi đến trả Tiểu Ba xe đạp; cặp sách và xe của tôi đều ở chỗ anh ấy. Mặc dù tôi không đưa chìa khóa xe cho Tiểu Ba, nhưng mở khóa một chiếc xe đạp có lẽ cũng không phải việc quá khó đối với anh ấy. Tiểu Ba nhìn tôi nói: “Bên cảnh sát hôm nay gần như đã lục tung cả khối cấp hai lên, nghe nói đến nhà vệ sinh cũng không bỏ qua, Trương Tuấn, Hách Liêm bị dẫn đi rồi, thấy bảo phải cách ly để thẩm vấn.”
Tôi không nói gì, Tiểu Ba thấy tôi im lặng, biết là tôi sẽ không nói, anh ấy từ tốn nói tiếp: “Năm nay là năm ra quân rất lớn, dù thế nào, cũng phải suy nghĩ kỹ càng đến hậu quả nhé.” Anh ấy đưa cặp sách cho tôi: “Mau về nhà đi, mẹ em chắc đang lo lắm.” Tôi nhìn anh ấy cười như muốn xin lỗi, rồi lên xe, đạp như bay về nhà. Tôi không biết người khác khi làm việc xấu sẽ phản ứng thế nào, còn tôi chẳng cảm thấy có gì là không tốt cả, tôi vẫn ăn cơm bình thường, xem ti vi bình thường, thậm chí còn vẫn đọc tiểu thuyết của Agatha Christie một lúc rồi mới lên giường đi ngủ. Nằm trên giường, nghĩ đến Trương Tuấn một lúc, rồi từ từ chìm vào giấc ngủ. Nửa đêm, tôi đột nhiên tỉnh dậy, toàn thân ướt đẫm mồ hôi lạnh toát. Trong giấc mơ, tôi thấy Trương Tuấn bị giam trong nhà lao, vô số chấn song sắt phát ra thứ ánh sáng lạnh lẽo đáng sợ. Tôi túm chặt lấy chăn, mắt mở trừng trừng, không dám nhắm lại, bởi vì chỉ cần nhắm mắt là những hình ảnh trong giấc mơ đó lại hiện ra. Sáng sớm tỉnh dậy, tôi vẫn đi học như bình thường, vẻ mặt các bạn đều rất kỳ lạ, có lẽ chuyện xảy ra ngày hôm qua đã khiến họ rất sốc. Mặc dù vẫn xem cảnh cảnh sát thi hành công vụ trên ti vi, nhưng khi xảy ra ngoài đời và lại ngay bên cạnh mình như thế, mọi người có lẽ vẫn chưa quen được ngay. Quan Hà hỏi tôi: “Hôm qua cậu đã đi đâu?” “Bà cô già lại đến, bẩn hết cả quần, mình nghĩ dù sao cũng không có giờ học, nên về thẳng nhà luôn.” Quan Hà thông cảm nói: “Làm con gái thật phiền phức”. Tôi gật đầu. Quan Hà nói nhỏ: “Cậu nghe gì chưa? Trương Tuấn bị công an bắt rồi.” “Hả? Chẳng trách nhìn mọi người rất lạ, tại sao?” “Không biết. Thầy cô giáo kiểm tra hết cặp sách, ngăn bàn của bọn mình, còn gọi một loạt những người quen biết Trương Tuấn, Hách Liêm ra ngoài, nói chuyện riêng.” Quan Hà ngẩn ngơ, có vẻ thất thần, một lúc lâu sau, cô ấy mới khẽ tiếng nói tiếp: “Đồng Vân Châu ở ngay cạnh nhà mình, thỉnh thoảng bọn mình vẫn cùng nhau đi về. Hôm qua sau khi tan học, mình thấy Đồng Vân Châu khóc, trước kia mình có nghe nói…” Cô ấy định nói gì rồi lại thôi, tôi nhìn cô ấy, cuối cùng cô ấy vẫn quyết định tin tưởng tôi: “Mình nghe nói Hách Liêm hút thuốc phiện. Đồng Vân Châu đã hủy thuốc của cậu ta, cậu ta cũng hứa là sẽ cai, nhưng chỉ được một thời gian thì nghiện lại”. Đồng Vân Châu là một trong những mỹ nữ của khối chúng tôi, cô ấy còn là người Mông Cổ, hát hay múa giỏi, hội diễn văn nghệ hằng năm của khối đều do cô ấy phụ trách, vì vậy cô ấy rất nổi tiếng. Còn Hách Liêm, tôi chỉ nghe nói đó là bạn trai của Đồng Vân Châu, đã
từng lưu ban, nhưng con người cậu ta rất thật thà, chưa bao giờ gây rối trong trường, vì vậy, cậu ta trông thế nào, tôi cũng không biết. Có điều chuyện này thật đúng với một câu nói của người xưa: “Chó cắn người thì không sủa”, học sinh nam biết hút thuốc, đánh nhau, nổi tiếng nhất trường lại không phải là người xấu nhất. “Trương Tuấn và Hách Liêm có quen nhau không?” “Không quen. Quan hệ giữa Trương Tuấn và Đồng Vân Châu rất tốt, nhưng không chơi với Hách Liêm.” Tôi thở phào nhẹ nhõm, thế thì tốt. Sau đó, cô Ngô lại hỏi tôi vì sao hôm trước không quay lại lớp học sau khi trả lời phỏng vấn, tôi cũng nói lý do tương tự như nói với Quan Hà. Gặp tình huống đặc biệt như thế, cộng thêm thói vô tổ chức, vô kỷ luật từ trước đến nay của tôi, nên việc tôi không xin nghỉ mà biến mất, với cô Ngô lại cảm thấy đấy là chuyện rất bình thường. Tôi coi như không có chuyện gì, đi học, tan học như bình thường, để ý hơn đến những đề tài buôn chuyện của đám bạn, với hy vọng nghe ngóng được chút tin tức gì đó về Trương Tuấn, nhưng những tin tức của đám bạn càng ngày càng mơ hồ. Lúc thì nói cậu ta đang hút thuốc phiện, lúc thì lại nói cậu ta bán ma túy. Tôi không biết Trương Tuấn đi theo Tiểu Lục, rút cục đã làm những chuyện gì rồi, có điều, tôi tin vào sự phán đoán của tôi và cô Cao, cậu ấy hoàn toàn không phải là người dễ dàng bị lôi kéo, ma túy là gì, chắc chắn cậu ấy biết rất rõ, tôi tin cậu ấy sẽ không dính vào nó. Hết ngày này đến ngày khác qua đi, Trương Tuấn vẫn bị giam ở cơ quan công an, tôi bắt đầu lo lắng, nhưng lại không dám để lộ ra ngoài, bề ngoài tôi vẫn phải thể hiện như bình thường, lúc này, tôi mới biết, năm đó khi đứng bên bàn bóng bàn ép bản thân phải cười tỏ vẻ như không có chuyện gì xảy ra, chuyện đó thật sự chưa là gì. Chương trình thời sự mỗi tối đều có những tin về chiến dịch nghiêm trị này ở các địa phương trên cả nước, trước kia, khi xem những tin này, cảm thấy nó thật xa vời với cuộc sống của mình, còn bây giờ, cảm giác như mỗi lần xem tin lại là một lần bị mũi dao chọc vào tim, khiến trái tim đau nhói phải nhảy dựng lên. Hai tuần sau, chuẩn bị thi giữa kỳ, Trương Tuấn vẫn chưa được thả về. Thi giữa kỳ xong, lại phải đợi tới khi có kết quả, cậu ấy mới được về. Trên hành lang, vào giây phút nhìn thấy cậu ấy, tôi cảm thấy trái tim bị treo trên đầu dao cuối cùng cũng được trở về vị trí cũ. Trong lòng tôi vui mừng vì được gặp lại, gió nổi mây tan, nhưng nét mặt lại chẳng thể hiện ra điều gì, vẫn như mọi ngày, đi thẳng qua cậu ấy, bước vào trong lớp. Có lẽ ở đồn công an Trương Tuấn đã phải chịu rất nhiều hành động “giáo dục” nên vẻ mặt cậu ấy tiều tụy, râu mọc lởm chởm, có lẽ cậu ấy chẳng còn tâm trạng đâu mà để ý tới vẻ bề ngoài của mình. Mặc dù Trương Tuấn đã được thả về, nhưng cậu ấy chẳng thèm để ý tới tôi, tôi cũng phớt lờ cậu ấy.
Thành tích thi giữa kỳ của tôi xếp thứ hai mươi, nhảy lên đứng giữa lớp. Bố mẹ vẫn luôn đặt ra yêu cầu không quá cao đối với tôi, thấy tôi tiến bộ, nên rất vui. Cô Ngô thì vẫn buồn phiền như thế, đây là lớp đầu tiên cô làm chủ nhiệm ở trường Nhất Trung, khi cô nhận lớp này, tôi đã được coi là một học sinh có thể mang lại vinh quang cho cô, giúp cô có vị trí vững chắc trong trường, nhưng bây giờ, tôi khiến cô quá thất vọng. Thành tích thi giữa kỳ của Tiểu Ba, có thể gọi là thi thử, khá tốt, đứng thứ bốn mươi chín trong toàn khối. Lại một tuần nữa trôi qua, một hôm, tôi đang đạp xe về nhà thì một người đạp lên đi song song với tôi. Tôi liếc sang nhìn, là Trương Tuấn, liền lờ đi. Đến chỗ rẽ, cậu ta dùng xe ép tôi, không cho tôi rẽ, tôi đành phải tiếp tục đạp theo cậu ta. Cậu ta đưa tôi đến bờ sông, dừng xe lại, hỏi: “Đồ đâu?” “Vứt rồi.” Nói xong, tôi định đạp đi, cậu ta kéo tôi lại: “Tôi không đùa với cậu đâu, trả đồ lại cho tôi.” “Tôi nói tôi vứt rồi, cậu có bản lĩnh thì ra bãi rác mà tìm.” “Đồ đó đã có chủ, nếu không mang về, anh ta sẽ rất tức giận.” Tôi cười nhạt: “Tôi sợ thật đấy! Cậu đến bảo với anh ta tới gặp tôi!” Cậu ta nhìn tôi chằm chằm, tôi hất hàm, nhìn lại. Ai sợ ai! Cậu ta im lặng một lúc rồi nói: “Cậu muốn thế nào mới có thể nhớ ra đã giấu nó ở đâu?” Tôi vẫn nhìn cậu ta, không nói. Giọng của cậu ta mềm mỏng hơn: “Nếu không mang được đồ đó về, tôi sẽ gặp rắc rối.” Tôi lạnh lùng đáp: “Tôi thấy cậu mang nó về mới gặp rắc rối đấy, điều 125 trong Bộ luật hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định rất rõ ràng: Tàng trữ vũ khí, đạn dược, chất nổ phi pháp sẽ bị phạt tù từ ba đến mười năm, những trường hợp có tình tiết nghiêm trọng sẽ bị phạt tù trên mười năm, chung thân hoặc tử hình.” Cậu ta im lặng nhìn tôi một lúc, không nói gì, cuối cùng thì cười, từ khi xảy ra chuyện đó tới nay, đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy cậu ta cười. Tôi có cảm giác thất bại như mình vừa gảy đàn tai trâu, tức tối hất tay Trương Tuấn ra, đạp xe định đi, cậu ta vội vàng kéo yên xe đạp của tôi. Cậu ta nghĩ một lúc rồi nói: “Mình bị giam ở đồn công an hơn hai tuần, những gì nên nghĩ, không nên nghĩ, quá khứ, tương lai, mình đều nghĩ cả rồi, cảm giác ở trong đó chẳng dễ chịu chút nào, khi ấy quả thật mình rất sợ sẽ bị giam trong đó mãi mãi.” “Ý cậu là cậu hối hận vì những gì mình đã làm trước kia.” Trương Tuấn không trả lời. Tôi nhìn cậu ta, một lúc sau nói: “Lên xe!”
Cậu ta lập tức đi lấy xe, tôi đưa cậu ta đến nơi giấu khẩu súng, đào nó lên. Cậu ta định lấy, tôi rụt tay lại, cầm súng hỏi: “Trong này có đạn không?” Cậu ta gật đầu. “Cậu biết dùng không?” Cậu ta lại gật đầu. “Dùng thế nào? Trên ti vi thường nói có một chốt an toàn, chốt an toàn ở đâu?” Cậu ta mỉm cười nói: “Đây là súng tự động, chỉ cần bóp cò hai lần là nhả đạn, không có cái gọi là chốt an toàn như trên ti vi đâu. Nếu cậu dùng sức một chút, bóp cò hai phát, đạn sẽ ra.” Tôi học tư thế cầm súng như trên ti vi, hướng nòng súng về phía cậu ta, cậu ta cười nói: “Cái này không đùa được đâu.” Tôi hỏi: “Cậu thích ăn món gì nhất?” Cậu ta kinh ngạc nhìn tôi, ngón tay trỏ của tôi khẽ co lại trên cò súng, nghiêm nghị nói: “Trả lời đi!” “Cá kho.” “Có yêu bố mẹ không?” “Không.” “Thích anh rể nào nhất?” “Anh rể thứ hai.” Tốc độ hỏi của tôi càng lúc càng nhanh, cậu ta cũng bị dẫn nhanh theo. “Thích chị gái nào nhất?” “Chị tư.” “Người cậu cảm kích nhất là ai?” “Cô Cao.” “Người cậu hận nhất là ai?” “Bà.” “Thích bạn gái nào nhất?”
“Đều…”, ngập ngừng một lúc, “Bạn gái hiện tại”. Tôi vờ như không thèm để ý, tiếp tục hỏi: “Thích bạn học nào nhất?” “Đều như nhau.” “Người con gái mà cậu thích là ai?” Cậu ta cười, tôi tức giận khua khua khẩu súng: “Đừng cười! Không thấy tôi đang cầm súng à!” “Chẳng phải cậu vừa hỏi rồi sao? Bạn gái hiện tại.” Tôi lại tiếp tục hỏi thêm vài câu nữa, sau khi hỏi xong, trả lại súng cho cậu ta: “Lau hết dấu vân tay của tôi đi, nếu cậu phải vào tù, đừng có lôi tôi theo đấy, nếu không có làm ma tôi cũng sẽ tới tìm cậu để báo thù”. Nói rồi đứng dậy, quay người định đi, cậu ta gọi: “La Kỳ Kỳ!” Tôi quay đầu lại, cậu ta đi đến trước mặt tôi, tay chĩa súng, kéo nòng súng ra một chút, tôi nghe thấy một tiếng động nhỏ vang lên. Cậu ta kề miệng súng vào thái dương của tôi, nói: “Vừa rồi tôi quên không dạy cậu một động tác, giờ đạn đã được lên nòng rồi, chỉ cần bóp cò hai cái là bắn ra thôi.” Tôi khịt mũi một cái, khinh bỉ nói: “Cậu dám bắn thì trên đời này có ma.” Vừa nói xong, liền nghe cậu ta bóp cò cạch một lần, cơ thể tôi không chịu nghe theo sự điều khiển của trí não bất giác run lên, ánh mắt cậu ta rất lạnh, mà họng súng đang kề sát thái dương kia còn lạnh hơn, giờ thì tôi đã hiểu người ta gọi cậu ta là “Anh Tiểu Tuấn” cũng có lý do của nó. Đôi khi, một việc nào đó xảy ra quá nhanh, rất nhiều người sẽ có được sự dũng cảm nhất thời, nhưng cũng có lúc, khi một việc có thể từ từ suy nghĩ, cảm giác lại hoàn toàn khác, dũng khí không phải sẽ ngưng đọng lại cùng với thời gian mà là tan biến theo thời gian. Tôi bây giờ đang có cảm giác đó, sự lạnh lẽo của nòng súng từ huyệt thái dương bắt đầu ngấm ngược vào trong, từ cảm giác khịt mũi coi khinh ban đầu, tôi dần dần tin cậu ta có thể nổ súng thật, thậm chí trong đầu còn vội vàng phân tích như đang giải bài tập hình học, cho dù cậu ta có giết tôi cũng chẳng ai biết. Lý do thứ nhất là, chúng tôi chưa bao giờ giao tiếp với nhau, ba năm liền học cùng không nói với nhau câu nào; thứ hai là, không ai biết tôi giấu súng cho cậu ta, càng không ai biết tại sao tôi lại ra nơi bãi trống đất hoang này, cậu ta hoàn toàn không có động cơ giết tôi; thứ ba là, chỉ cần sau khi giết tôi rồi, xử lý thi thể tôi một chút, là sẽ dễ dàng dẫn dắt cảnh sát điều tra theo hướng khác, mà tôi thì tin rằng khả năng phá án của cảnh sát ở thành phố này chắc chắn không thể bằng với những thám tử dưới ngòi bút của Agatha Christie. “Giờ đến lượt tôi hỏi cậu, tôi hỏi câu nào, cậu phải trả lời ngay lập tức, không được suy nghĩ.” Tiếng cậu ta vang lên cắt đứt những phân tích trong đầu tôi, tôi đành chăm chú lắng nghe. “Cậu thích ăn gì nhất?”
“Thịt dê xiên nướng.” “Cậu có yêu bố mẹ không?” “Không.” “Có yêu em gái không?” “Không.” “Người thân mà cậu yêu quý nhất là ai?” “Ông ngoại.” “Ông đang ở đâu?” “Mất rồi.” “Người cậu cảm kích nhất là ai?” “Cô Cao.” “Người cậu hận nhất là ai?” “Cô Triệu.” “Hứa Tiểu Ba là bạn trai cậu phải không?” “Không.” “Cậu có yêu Hứa Tiểu Ba không?” “Không.” “Bạn thân nhất của cậu là ai?” “Hiểu Phi.” Cậu ta nhìn tôi, không hỏi tiếp nữa, giọng tôi khô khốc: “Cậu hỏi xong chưa?” Cậu ta thu súng về, tôi chạy như bay đến chỗ để xe đạp, lên xe, ra sức đạp, chỉ muốn thoát khỏi chỗ này càng nhanh càng tốt.
Chương 8 1. Tình sâu nghĩa nặng Cái giá phải trả cho những vất vả nhọc nhằn không là gì, sự chờ đợi mỏi mòn cũng không là gì. Chỉ cần vượt qua được nỗi sợ hãi, thì tất cả sẽ được như mong muốn. Nhưng cuộc sống vốn là một bi kịch, cái mà mình bỏ ra và những cái nhận lại hoàn toàn không tương xứng. Lại đến hội diễn văn nghệ hằng năm của trường, hai tiết mục của lớp chúng tôi thì một tiết mục là tiểu phẩm do đám Tống Thần diễn, một là tiết mục đàn nhị của Quan Hà. Quan Hà mời tôi biểu diễn cùng, tôi cười ngạc nhiên: “Không được. Mình không có năng khiếu văn nghệ.” Quan Hà cười nói: “Cậu chỉ cần hát theo nhạc là được, giống bình thường cậu hát karaoke ấy.” Tôi vẫn lắc đầu, cô ấy mổ xẻ, phân tích lý do khiến cô ấy muốn làm như thế: “Sắp thi cuối cấp rồi, thi xong, không biết chúng ta còn có thể được học cùng một trường không, khả năng học cùng một lớp lại càng khó. Rồi thời gian trôi đi, quan hệ giữa mình và cậu dần dần sẽ trở nên xa cách, mình chỉ muốn lưu lại một ký ức đẹp cho một năm ngồi cùng bàn của hai đứa mà thôi, cũng có thể một ngày nào đó khi cậu bắt gặp hình ảnh một người con gái biễu diễn trên sân khấu, sẽ gợi cho cậu nhớ tới mình, người bạn gái đã từng hát chung với cậu. Sau khi vào cấp ba, mình sẽ tập trung vào việc học, không tham gia biểu diễn văn nghệ nữa, đây có thể coi như là lần biểu diễn cuối cùng của mình trong đời học sinh, mình muốn nó đặc biệt một chút, đây là món quà tốt nghiệp mình tặng cho chính mình và cậu.” Những lời cô ấy nói sến hệt như trong tiểu thuyết của Quỳnh Dao, nhưng điều càng sến hơn nữa là nó lại khiến tôi xúc động, tôi nói: “Đến khi ấy bị mất mặt trước toàn trường, cậu đừng có trách mình đấy.” Quan Hà hiểu như thế nghĩa là tôi đã đồng ý, cười đáp: “Không sao. Mình không định tranh giải gì cả.” Trương Tuấn coi như đã được thả, nhưng thỉnh thoảng vẫn thấy vắng mặt. Các thầy cô giáo biết chắc chắn là cậu ta lại bị cảnh sát gọi tới thẩm vấn, vì vậy ngay cả giấy xin nghỉ cũng miễn cho cậu ta luôn. Những lúc có mặt ở trường, Trương Tuấn luôn mang vẻ mặt trầm tư, như đang suy nghĩ về những câu chất vấn vậy. Tôi ngờ rằng ngay cả khi không bị gọi đến đồn cảnh sát, cậu ta cũng suy nghĩ về việc phải trả lời chất vấn của cảnh sát như thế nào. Vấn đề mà cậu ta đang phải đối mặt lúc này không nhẹ nhàng hơn trước là bao, có thể những việc cậu ta trực tiếp tham gia không nhiều, nhưng những việc cậu ta biết thì không ít, tóm lại là có nên giữ nghĩa khí hay không, thật không dễ dàng lựa chọn. Trương Tuấn vẫn là Trương Tuấn trước đây, vẫn lơ đãng như thế, nhưng đám đầu trâu mặt ngựa trong lớp 9 (7) giờ đã nhìn cậu ta bằng ánh mắt khác hẳn. Giờ tự học rất yên
tĩnh. Bọn họ nghe giảng chăm chú, nghiêm túc, dù sao, Trương Tuấn cũng có sức uy hiếp lớn. Hách Liêm vẫn không đi học, ngay cả kẻ ưa buôn chuyện nhất cũng không biết tí tin tức nào về cậu ta. Mọi người đều đoán, tội của cậu ta nghiêm trọng hơn của Trương Tuấn nhiều. Đồng Vân Châu thường đến tìm Trương Tuấn. Những khi Trương Tuấn không trầm tư suy nghĩ để trả lời các câu hỏi thẩm vấn, thì nhất định sẽ ở bên cạnh cô bạn người dân tộc này. Mọi người thường nhìn thấy Trương Tuấn và Đồng Vân Châu ở bên nhau, nhưng lại không thấy Trương Tuấn và bạn gái Trần Diệc Nam đi với nhau bao giờ. Tôi linh cảm, Trương Tuấn lại bị đá rồi. Quả nhiên, không lâu sau, từ khối cấp ba truyền đến một tin là, Trương Tuấn và Trần Diệc Nam đã chia tay. Cách chia tay của Trần Diệc Nam so với với hai cô bạn gái trước, rất nghệ sĩ, cực kỳ phù hợp với sự mong chờ của đông đảo mọi người dành cho nữ nghệ sĩ trẻ. Hôm đó, bọn Tống Thần đang thảo luận về lời thoại, tôi và Quan Hà đang bàn xem nên hát chung bài nào, đột nhiên, những tiếng huyên náo ồn ào ngoài hành lang tắt ngấm. Mấy bạn gái chạy vào trong lớp ngại ngần hỏi: “Có thể nghe đài phát thanh của trường một lúc không?” Chúng tôi đều gật đầu với vẻ chán ngán, nghĩ chắc lại có chuyện gì đó xảy ra trong trường, nên lãnh đạo trường muốn phát biểu. Bọn họ mở loa, lập tức, giọng nói truyền cảm của người dẫn chương trình vang lên. “Sau đây là bài hát mà cựu chủ nhiệm đài phát thanh của trường ta dành tặng cho bạn thân của chị ấy, Trương Tuấn. Chị ấy muốn nói với người bạn này ba câu: Câu đầu tiên “cảm ơn anh”, câu thứ hai “tạm biệt”, câu thứ ba “xin lỗi”. Bây giờ mời các bạn thưởng thức bài hát Cuồn cuộn hồng trần do nữ ca sĩ Hồng Kông Trần Thục Hoa thể hiện.” “Anh vô tình, em không hiểu chuyện. Mối tình duyên trong hồng trần này, chỉ là sự gắn bó vội vã không lời giữa cuộc đời. Hay đó là sai lầm trong nhân thế, hoặc là nhân quả của kiếp trước để lại. Tất cả mọi thứ trong cuộc đời, cũng không tiếc mang ra đổi lấy phút giao hòa giữa âm và dương ấy. Đến thì dễ đi thì khó, nhiều thập kỷ trôi qua. Phân ly thì dễ tái hợp càng khó, nỗi buồn ngàn năm giữa yêu và hận. Trái tim vốn thuộc về anh, vẫn đang nằm sâu trong ngực em. Vì bàn tay thủ đoạn, sự trở mặt của nhân thế, đến thì dễ đi thì khó. Nhiều thập kỷ trôi qua, phân ly thì dễ tái hợp càng khó. Nỗi buồn ngàn năm giữa yêu và hận, người không muốn đi là anh, phải vẫy tay chào từ biệt người đã không còn gặp là em.” Tôi thường xuyên ra vào quán karaoke, nhưng đây là lần đầu tiên nghe thấy bài hát này. Lời rất hay, thống thiết, bi thương nhưng nghĩ đến “Trái tim vốn thuộc về anh, vẫn đang nằm sâu trong ngực em” là Trần Diệc Nam, “Người không muốn đi là anh, phải vẫy tay chào từ biệt người đã không còn gặp là em” là Trương Tuấn, qua tai tôi nó trở thành những lời hài hước. Tôi không nhịn được cười, Quan Hà cũng cắn chặt môi cười.
Có tiếng bạn nữ nào đó hét lên ở hành lang: “Trương Tuấn đang đứng dưới tầng, cậu ấy cũng nghe thấy đấy.” Tất cả đám bạn trong lớp đều ùa ra ngoài hành lang, áp người vào cửa sổ nhìn xuống, Quan Hà cũng kéo tôi chạy ra ngoài. Trên con đường lát xi măng giữa rừng cây bạch dương, Trương Tuấn và Đồng Vân Châu đi song song bên nhau. Chiếc loa to trong vườn trường đang mở hết cỡ, các loa nhỏ gắn ở từng lớp cũng đang vang lên bài hát này, tạo thành một dàn hợp ca. “… Đến nay thế gian vẫn lưu lại những truyền thuyết về đôi ta. Đến thì dễ đi thì khó, đến thì dễ đi thì khó, nhiều thập kỷ trôi qua, phân ly thì dễ tái hợp càng khó, nỗi buồn ngàn năm giữa yêu và hận.” Không nhìn rõ vẻ mặt của Trương Tuấn, chỉ thấy cậu ta và Đồng Vân Châu dừng lại trên đường một lúc, rồi chuyển hướng đi ra khỏi trường học, có lẽ cậu ta cũng đoán biết được lúc này trên hành lang của khối cấp hai, một đám đông đang đợi để được nhìn thấy cậu ta. Đám con gái nghe mà sụt sùi mủi lòng, trí tưởng tượng bắt đầu hoạt động, to nhỏ thì thầm với nhau, trong giây lát đã lan truyền ra tin tức về mối tình tay ba giữa Trương Tuấn, Đồng Vân Châu và Trần Diệc Nam, còn cả nhân vật ngoài biên chế Hách Liêm nữa, tình tay bốn. Quan Hà tì mặt lên vai tôi, cười đến mức mà người rung lên bần bật, tôi vốn cũng đang cười, nhưng cười mãi cười mãi, đột nhiên lại nghĩ ra, thật ra thì còn có một diễn viên chính ngoài biên chế là Quan Hà, một nhân vật giấu mặt là tôi, La Kỳ Kỳ. Miệng vẫn cười, nhưng trong lòng lại trào dâng nỗi xót xa. Những người con gái có thể trang nhã, lịch lãm vẫy tay nói lời tạm biệt với Trương Tuấn thật hạnh phúc biết bao, tại sao tôi không thể nói lời tạm biệt ấy chứ? Chuyện tình cảm ở vào độ tuổi ấy, vốn thay đổi thất thường, yêu, chỉ trong nháy mắt; mà không yêu nữa cũng chỉ trong nháy mắt. Có thể thích người ta vì hình bóng vô tình in lên kính cửa sổ, cũng có thể không thích nữa chỉ vì một câu nói trẻ con của người ấy; có thể thích vì một ánh mắt bất chợt của người ấy, mà cũng có thể vì một hành động nào đó của người ấy lại không thích nữa. Bạn bè xung quanh tôi đều đang sống như thế, học kỳ này thích anh A, học kỳ sau đã thích anh B rồi, thất tình rồi lại yêu, yêu rồi lại thất tình, nhưng sao tôi không như thế? Bao nhiêu năm đã trôi qua, một mặt tôi ra sức xa lánh Trương Tuấn, một mặt lại vẫn rất quan tâm theo dõi từng bước đi của cậu ấy, đau lòng vì cậu ấy, buồn bã vì cậu ấy. “Tiếp theo sẽ là phần ngâm thơ, hôm nay chúng tôi chọn một bài thơ…” Tôi vào lớp, kéo dây công tắc, tắt đài, nói với Quan Hà: “Hay là bọn mình hát bài này, xem ra giọng cũng không cao lắm”. “Đến khi cả hội trường cười phá lên, thì Trương Tuấn sẽ tìm bọn mình tính sổ.”
“Sợ gì? Lẽ nào cậu ta không phải nhân vật mua vui cho mọi người? Rõ ràng năm nay cậu ta còn “hót” hơn bất kỳ một ngôi sao nào, lúc thì đóng phim gangster, lúc thì đóng phim của Quỳnh Dao, mình nghĩ bọn mình nên trao giải thưởng Ngôi sao giải trí nổi tiếng nhất Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông.” Đám Tống Thần, Lý Sam đứng bên cạnh nghe thấy cuộc đối thoại của hai bọn tôi đều phá lên cười. Quan Hà cười nói: “Quả không hổ danh là cao thủ hùng biện! Cũng may cậu không hiếu thắng, nếu không ai mà cãi được với cậu chứ? Bị cậu nói cho tức phát điên, nhưng vẫn phải cười với cậu.” “Thế bọn mình hát bài này nhé? Dù không đoạt giải nhưng cũng mượn tiếng Trương Tuấn mà khiến hội trường nổ tung một lần.” Quan Hà cười tới mức không thể thở được: “Không được, chỉ cần qua cửa kiểm soát của giám thị là sẽ bị gạch ngay, giám thị của khoa chúng ta ghét nhất những học sinh học đòi theo trào lưu Hồng Kông, Đài Loan, cũng may hiệu trưởng của trường Nhất Trung không phải ông ấy, nếu không trường này đúng là biến thành trại tập trung rồi”. Tôi nghiêm giọng nói với Quan Hà: “Cậu đừng có chọn những ca khúc cách mạng, mình không hát được đâu. Cũng đừng chọn dân ca, mình càng hát không nổi.” Quan Hà buồn bã gật đầu. Tôi giở tiểu thuyết ra đọc, mặc kệ cô ấy nghĩ cách, tốt nhất là không tìm ra được cách gì, bỏ qua tôi luôn. Do Tiểu Ba đang bước vào giai đoạn nước rút trước kỳ thi đại học, tôi lại bận rộn cùng Quan Hà chuẩn bị cho hội diễn văn nghệ, nên trong một thời gian khá dài, tôi không gặp Tiểu Ba. Mỗi thứ Hai đầu tuần, nhà trường đều tổ chức lễ chào cờ rất trang trọng. Học sinh khối cấp ba đứng bên trái sân trường, học sinh khối cấp hai đứng bên phải sân trường, khi quốc kỳ được kéo lên, phải cùng đứng nghiêm và nhìn thẳng về hướng quốc kỳ, nhưng sau khi lễ kéo cờ kết thúc, khối nào tiến hành tổng kết tuần của khối ấy. Nhưng hôm nay, rất bất thường, nhà trường tập trung học sinh khối cấp hai và khối cấp ba lại một chỗ, rồi thầy hiệu trưởng lên phát biểu. “… Trong tương lai, nhà trường chắc chắn sẽ xây dựng một môi trường giáo dục nghiêm khắc hơn nữa. Gần đây, trong trường xảy ra một vài sự việc đặc biệt nghiêm trọng, gây ảnh hưởng sâu sắc tới danh tiếng của trường Nhất Trung, nhà trường quyết định xử phạt thật nghiêm khắc, do đó chính thức kỷ luật với những học sinh sau.” Hiệu phó quản lý về kỷ luật của trường cầm theo một bảng danh sách, đi lên bục và đọc: “Quyết định xử phạt Hách Liêm học sinh lớp 9 (3), đuổi học và xóa tư cách học sinh. Xử phạt Trương Tuấn học sinh lớp 9 (7), lưu lại trường theo dõi nửa năm; xử phạt học sinh xxx lớp 10, xử phạt học sinh xxx lớp 11…”
Tôi còn định không nghe nữa, đột nhiên nghe đến “Xử phạt học sinh Hứa Tiểu Ba, lớp 12 (6), đuổi học và xóa tư cách học sinh.” Tôi sững người, không sao tin được những gì tai mình vừa nghe thấy, chắc chắn tôi đã nghe nhầm! Chắc chắn tên của ai đó có cách phát âm gần giống với tên anh ấy. Hiệu trưởng lại bắt đầu lên nói những lời giáo huấn, còn tôi chỉ muốn chạy tới cướp lấy tờ danh sách trong tay họ để nhìn lại cho kỹ. Khó khăn lắm mới đợi được buổi chào cờ sáng vừa dài vừa nặng nề này qua đi, tôi lao ra chỗ bảng tin của trường, giấy trắng mực đen rành rành. Đúng là Hứa Tiểu Ba! Tôi chẳng còn thiết tha gì với việc lên lớp nữa, quay người định bỏ đi, Quan Hà phát hiện ngay ý đồ của tôi, lập tức nhắc nhở: “Hiệu trưởng đã nói, chủ nhiệm các lớp đều phải thắt chặt kỷ luật, cậu đừng tự đưa mình ra đứng trước họng súng.” Tôi bỏ ngoài tai những lời nhắc nhở của Quan Hà, đi qua cửa lách của trường ra ngoài, gọi một chiếc taxi, đến thẳng quán karaoke. Cửa quán đóng chặt. Đập cửa một lúc lâu mà không có ai ra mở, tôi đành đến Tại Thủy Nhất Phương, không ngờ Tại Thủy Nhất Phương cũng cửa đóng then cài. Tôi đứng bên ngoài điên cuồng đập cửa, cuối cùng, cửa sổ bên cạnh cũng mở ra, người bên trong nhìn thấy tôi, gọi: “La Kỳ Kỳ!” Tôi xông đến: “Anh Lý đâu? Tiểu Ba đâu?” Hắn ta kéo tay tôi, giúp tôi nhảy vào trong: “Đợi chút, để tôi gọi anh Lý, nói em ở đây.” Tôi không ngừng đi đi lại lại, hắn ta gọi xong điện thoại, quay vào nói: “Anh Lý nói sẽ đến ngay, bảo em cứ đợi ở đây.” “Rút cục là đã xảy ra chuyện gì rồi?” “Tôi chỉ là đàn em, không rõ tình hình cụ thể, chỉ nghe nói quán karaoke của anh Tiểu Ba bị người ta tố cáo tàng trữ ma túy. Anh Ô Tặc đã bị công an bắt. Anh Tiểu Ba hình như đánh người ta tới mức tàn phế, nên anh Lý tạm thời đóng cửa tất cả những cơ sở kinh doanh.” Tôi ngồi bất động trên ghế sofa. Còi xe ô tô vang lên bên ngoài, hắn ta vội vàng mở cửa để cho tôi ra, ra hiệu với tôi rằng: “Anh Lý đã đến”. Tôi vội chạy ra ngoài, ngồi ngay vào ghế bên cạnh anh Lý, sốt ruột hỏi: “Tiểu Ba đâu?” Ánh mắt anh Lý vằn lên những tia máu: “Anh đã sai người áp tải nó đến nơi khác rồi.” “Anh ấy sẽ bị kết án phải không?”
“Anh đang thương lượng với bên bị hại, hy vọng họ sẽ nói với cảnh sát rằng không nhìn rõ mặt kẻ đánh mình.” “Khả năng thành công có lớn không?” “Có cửa. Anh đã sai người đến vừa xoa vừa đấm, bố mẹ nó cũng có tuổi rồi, việc nó bị tàn phế là sự thật, cứ sống chết đòi tống giam Tiểu Ba vào ngục thì thà cầm một món tiền, để sống nốt quãng đời còn lại. Nếu hắn căng với bọn anh, thì bây giờ cũng không có cách nào xử lý hắn, nhưng trừ khi hắn cũng tống luôn được anh vào tù, nếu không, đợi năm xui xẻo này qua đi, cả nhà hắn tốt nhất nên chuẩn bị sẵn quan tài, lão đây bất chấp tất cả.” “Tại sao Tiểu Ba lại phải làm như thế? Trong quán có ma túy thật ạ?” “Em cũng biết nguyên tắc kinh doanh của anh rồi đấy, quyết không chứa ma túy, ma túy trong quán là do có kẻ khác hại. Đều tại anh cả, anh nghĩ những năm gần đây làm ăn rất nghiêm chỉnh, mặc kệ bọn họ nghiêm trị hay không nghiêm trị cũng chẳng liên quan gì đến anh, chỉ đứng nhìn đám Tiểu Lục bị sờ gáy, không ngờ bị người ta ám hại. Tiểu Ba không thể chối cãi, Ô Tặc vì muốn cứu Tiểu Ba và anh đã nhận hết tội về mình. Mấy ngày sau đó tâm trạng của anh không tốt, nói mấy câu không nên nói với Tiểu Ba, khiến Tiểu Ba bị ép vào đường cùng, lại thêm tin Ô Tặc chắc chắn phải ngồi tù, Tiểu Ba nhất thời kích động, nổi điên lên.” Tôi hoang mang nhìn về phía trước. Tiểu Ba chẳng phải là người biết kiềm chế cảm xúc nhất hay sao? Anh ấy chẳng phải đã nói với tôi rằng, thế giới bên ngoài rất rộng lớn, đừng để đôi cánh bị bẻ gãy quá sớm hay sao? Chẳng phải việc anh ấy muốn làm nhất là vào đại học hay sao? Tôi lí nhí nói: “Tiểu Ba bị đuổi học rồi.” Anh Lý ủ rũ, nhưng lại an ủi tôi: “Không sao đâu. Chỉ cần chuyện này được xử lý êm thấm, anh sẽ nghĩ cách để nó đi học cấp ba ở một nơi khác, sang năm thi lại cũng được, coi như đợi em một năm.” Tôi dựa đầu vào cửa kính xe, không nói. “Kỳ Kỳ, quay về lớp học đi.” Xe của anh Lý dừng tại cổng trường Nhất Trung. “Đôi khi nghĩa khí trên giang hồ chỉ là những câu nói cửa miệng, nhìn đám đàn em của Tiểu Lục, kẻ nào chạy được thì đã chạy, phản được thì cũng đã phản, đủ thấy con người ai cũng quý trọng tính mạng của mình hơn tất thảy, vào những thời khắc quan trọng, chẳng kẻ nào coi hắn là đại ca. Tiểu Ba và Ô Tặc đã dùng thân mình để chắn đạn cho anh, anh đối với chúng cũng vậy, em cứ yên tâm, anh nhất định không để chúng có chuyện đâu.” Tôi không trả lời, sẽ không có chuyện? Giờ một kẻ trong tù, một người phải bỏ đi tha phương, thế cũng được coi là không có chuyện? Anh Lý lại nói: “Anh biết trong lòng em khó chịu, thậm chí còn muốn đi chịu tội thay cho Tiểu Ba, nhưng em không thể làm gì được đâu, chỉ cần ở trường em chăm chỉ học tập, thế là cũng đã giúp bọn anh rất nhiều rồi.”
Khi anh Lý nói những lời này, những đường gân xanh trên tay đều căng hết lên. Tôi gật đầu, đẩy cửa xe bước xuống, rồi lại quay đầu dặn dò: “Có tin gì phải thông báo cho em biết, dù xấu hay tốt.” “Biết rồi!” Đến cửa lớp, tôi vốn nghĩ cô Ngô sẽ phạt tôi, không ngờ cô lại cho tôi vào lớp. Tôi cũng chẳng còn tâm trạng để suy nghĩ, lặng lẽ đi về chỗ ngồi. Quan Hà nói nhỏ: “Mình đã xin phép giúp cậu, nói bà cô già của cậu lại đến thăm, nhớ tí nữa cô hỏi thì phải phối hợp cho tốt đấy.” Tôi gật đầu, thực ra Quan Hà đã lo lắng hơi thừa, cô Ngô rất tín nhiệm Quan Hà, những lời Quan Hà nói, cô giáo sẽ tin tuyệt đối.
2. Hồi ức vĩnh viễn Có những quãng thời gian, khi đã qua đi rồi, mới nhận ra rằng nó mãi mãi khắc sâu trong hồi ức. Nhiều năm sau, trong buổi tối nào đó, dưới ánh đèn, đột nhiên nhớ lại, sẽ lặng lẽ mỉm cười. Những con người đó, đã lên con thuyền đi xa trên dòng sông thời gian, biến mất không để lại dấu tích. Trong lòng, sự ấm áp còn đọng lại trên dòng chảy của thời gian không bao giờ phai mờ. Tiểu Ba gặp nạn khiến tôi trầm lặng hơn hẳn. Sự ngỗ nghịch và nổi loạn trước kia đều biến mất. Tôi bỗng ngoan ngoãn một cách kỳ lạ, cuộc sống hằng ngày chỉ diễn ra trên một con đường: nhà và trường học. Tôi bắt đầu tập trung toàn bộ tâm trí vào việc học, bởi vì tôi biết đây là việc mà Tiểu Ba luôn muốn tôi làm nhất. Mỗi lần thấy thành tích học tập của tôi tiến bộ, anh ấy đều rất vui. Giờ đây tôi không thể giúp đỡ được gì cho anh ấy, đây là việc duy nhất mà tôi có thể làm cho anh ấy. Từ khi Hiểu Phi gặp chuyện rồi lại đến Trương Tuấn, tôi vẫn sống rất bản năng, đừng nói môn tiếng Anh mà tôi ghét, ngay cả những môn tự nhiên mà tôi thích tôi cũng bỏ không ít tiết. Tôi dành riêng ra vài ngày, đọc từ đầu đến cuối những cuốn sách giáo khoa toán, lý, hóa, rà soát lại tất cả kiến thức một lần, nghiên cứu thật kỹ những bài tập mẫu. Sau đó, tôi bắt đầu xem những cuốn sách tham khảo tâm đắc nhất của Quan Hà, chuyên tâm làm những bài tập khó mà cô ấy khoanh tròn bằng bút đỏ, càng hóc búa tôi lại càng thích, bởi khi tâm trí bị những bài tập hóc búa chi phối, sẽ toàn tâm toàn ý tập trung vào đó, suy nghĩ cách làm thế nào để giải được bài tập.
Quan Hà thản nhiên ngồi nhìn tôi giải hết những bài tập khó. Mỗi khi giải xong một bài, tôi lại vứt đi, không lưu lại phương pháp giải, Quan Hà nhặt nhạnh từng trang giấy nháp của tôi cất đi. Ngày nào tôi cũng rất chăm chỉ, không đọc tiểu thuyết, không nghĩ vu vơ, toàn tâm toàn ý làm bài tập. Quan Hà rất kinh ngạc, không biết tại sao tôi lại đổi tính đổi nết như thế. Thời gian trên lớp, tôi làm bài tập, thời gian ra chơi, tôi chuẩn bị cho tiết mục văn nghệ, làm khán giả cho tiểu phẩm của bọn Tống Thần, xem Tống Thần và Lý Sam diễn. Kịch bản tiểu phẩm do Tống Thần viết, nhưng còn lời thoại thì sau này lại là kết tinh trí tuệ của tất cả chúng tôi. Trong quá trình diễn tập, mọi người liên tục chỉnh sửa, phải tập đi tập lại, thỉnh thoảng còn quên cả lời thoại, nhân vật nói năng lung tung một hồi, không những không bị mắng mà còn tạo ra được hiệu quả khác thường, cả đám nhất trí hô lớn: “Ghi lại, ghi lại”. Tôi và Quan Hà sau khi chọn đi chọn lại, cuối cùng chọn bài Lại thấy khói bếp của Đặng Lệ Quân, vừa phù hợp với giọng hát không được ông trời ưu ái của tôi, vừa không có từ ngữ cụ thể nào nhắc đến hai chữ “tình ái”, vi phạm luật lệ hà khắc mà giám khảo đặt ra. Khi các bạn ngừng tập tiểu phẩm, ra ngồi nghỉ ngơi thì tôi và Quan Hà luyện hát. Tống Thần chẳng thèm tỏ ra khách khí với tôi. Mỗi khi tôi hát, cậu ta lại gào lên thảm thiết, thể hiện sự kinh hoàng tột độ của mình, hết lần này đến lần khác kiến nghị với Quan Hà: “Mình rất kích động, muốn nhốt cậu ta vào nhà vệ sinh, ai ủng hộ mình?” Quan Hà sẽ cười nói: “Mình lại ủng hộ nhốt cậu vào hơn.” Trong tiếng cười của các bạn, tôi có cảm giác rất hoang mang. Tôi gần như giống những bạn gái cùng độ tuổi. Đọc sách, học bài, sống hòa nhã với bạn bè, cười đùa vui vẻ. Nhưng sau khi tiếng cười qua đi, tôi biết tôi không giống họ, họ có thể vui vẻ cười đùa, đuổi đánh nhau không biết đến sầu não, còn tôi bần thần ngồi nhìn ra cửa sổ và nghĩ, Tiểu Ba giờ đang ở đâu? Khi nào anh ấy sẽ quay lại? Khi tôi thuộc lòng lời thoại trong tiểu phẩm của Tống Thần thì cũng tới hội diễn văn nghệ. Tất cả diễn ra giống hệt như những gì tôi đã từng trải qua hồi học tiểu học, nam thanh nữ tú các lớp, dùng lời ca tiếng hát để so tài cao thấp. Lâm Lam vẫn dùng hai điệu múa để tham gia hội diễn, gần như có thể chắc chắn lớp 9 (2) sẽ đoạt giải. Nhưng, tất cả lại dường như không giống với những gì đã diễn ra hồi tiểu học, bởi vì Đồng Vân Châu đã không tham gia, cũng chẳng thấy bóng dáng Hiểu Phi đâu, Trương Tuấn ngày ngày phải tìm cách đối phó với công an khiến tâm trí và sức lực cạn kiệt, càng không thể tham gia những trò chơi như thế này. Năm nào cũng thế, hội diễn văn nghệ nào cũng giống nhau; năm nào cũng thế, người tham gia đã không còn như trước nữa. Ngoài tiết mục của lớp 9 (2), thì tiết mục của lớp 9 (1) cũng rất xuất sắc, có điều không nhận được sự đồng tình của thầy giám khảo, bởi vì chủ đề không “lành mạnh tích cực vươn lên” cho lắm, còn tiết mục của chúng tôi lại khác biệt nhất.
Trước kia không phải chưa từng có lớp nào diễn tiểu phẩm, nhưng tiểu phẩm của lớp tôi, vì được xây dựng bởi nhà thơ Tống Thần, cộng với lời thoại được biên tập bởi khá nhiều người, do đó cũng dẫn đầu về độ lập dị. Tống Thần nhét tên của tất cả các bạn trong lớp vào làm lời thoại, xây dựng thành một câu chuyện và từ đó phát triển ra, đương nhiên, kịch bản quái gở đó cũng được chúng tôi đóng góp vào đấy không ít. Tống Thần theo phong cách kỳ lạ khác người(1)và chủ nghĩa giải cấu trúc(2) của trào lưu tư tưởng văn học hậu hiện đại (Thực ra khi ấy, chúng tôi chẳng biết thế nào là hậu hiện đại, thế nào là phong cách lập dị khác người, chủ nghĩa giải cấu trúc), hình tượng nhân vật trong vở kịch rất tầm thường, thậm chí không liên quan gì đến nhau, ví dụ như, Hồ Hán Tam đội mũ của Lôi Phong, Giang Thanh lại mặc áo bông màu đỏ, Lưu Đức Hoa đầu tóc bóng mượt tới mức ruồi đậu là trượt chân ngã chết, Quách Phú Thành mặc áo cánh dơi màu đỏ sẫm… Tối đêm hội diễn, tên Ngụy lão tam vô dụng đóng vai Hồ Hán Tam lại lăn ra ốm. Trong lúc bối rối, ánh mắt cả “đoàn kịch” nhìn chằm chằm vào tôi và Quan Hà, bởi vì ngày nào chúng tôi cũng làm khán giả xem họ diễn, không ít những lời thoại ”chế” là do chúng tôi cống hiến. Lúc này, còn tìm đâu ra diễn viên đóng thế thích hợp hơn nữa. Quan Hà thể hiện tinh thần “chết cũng không tham gia”, lập tức lên tiếng: “Mình không được, La Kỳ Kỳ không vấn đề gì”. Tôi bất lực phản đối. Tống Thần đội ngược lên đầu tôi một chiếc mũ bộ đội màu xanh của Lôi Phong, Lý Sam khoác lên người tôi một chiếc áo kiểu Trung Sơn đã bạc trắng, vò tới xơ xác, những người còn lại đè tôi ra thay quần, thay giày, vai diễn kinh tởm vốn là thiết kế cho tên Ngụy lão tam kia giờ hoàn toàn trút hết sang tôi, lão tam mặc dù gầy gò ốm yếu, nhưng dáng người cao lênh khênh, phải 1m8, tôi thì chỉ khoảng 1m63, tôi phải cuộn cạp quần lên hai vòng mới thấy gấu quần gọi là tạm chạm đất. Nhìn tôi hóa trang xong, cả nhóm cười lăn ra đất, Tống Thần đưa cho tôi cái gậy: “Được rồi, cứ thế mà lên sân khấu thôi”. Tôi nhìn Quan Hà bằng ánh mắt oán trách, Quan Hà lại nhìn tôi một lượt từ đầu xuống chân, cầm bút vẽ lông mày lên, gạch hai nét lên hai bên khóe miệng tôi, tạo thành bộ râu chữ bát. Cả nhóm lăn ra cười, vỗ tay ầm ĩ, vô cùng thỏa mãn trước màn múa bút của Quan Hà. Lý Sam cười nói: “Bộ dạng này, có đánh chết Quan Hà cũng không bao giờ diễn, La Kỳ Kỳ, cậu phục tùng đi thôi!” Tôi không phục thì còn có thể làm gì? Tôi bắt đầu học thuộc lời thoại trong đầu, vì tiểu phẩm này, mọi người đều bỏ ra nhiều tâm huyết, nếu đã nhận lời, chẳng lẽ vì tôi mà khiến tâm huyết của cả nhóm bị lãng phí hay sao? Thế chẳng phải tự tôi coi thường mình, tự tôi ghê tởm chính mình sao? Ngay từ hồi cấp một đã chẳng có hình tượng gì rồi, không vấn đề! Tiểu phẩm vừa diễn mở màn, cả hội trường đã cười nghiêng ngả, lớp trưởng lớp tôi, đại nhân Lý Sam, bình thường vốn là một bạn nam sáng láng, khỏe mạnh như thế, giờ lại
hóa thân thành một Giang Thanh ẻo lả ái nam ái nữ, mặc áo bông đỏ, vai gánh hai thùng nước đi ưỡn a ưỡn ẹo, hiệu ứng gây cười quả không hề nhỏ! Đến khi tôi khom lưng, chống gậy, đầu đội ngược chiếc mũ Lôi Phong, trên người mặc bộ đồ Tôn Trung Sơn bạc thếch xơ xác, run rẩy bước lên sân khấu, vung tay nói với khán giả rằng: “Chào bà con! Hồ Hán Tam tôi đã trở lại!” Khán giả phía dưới phá lên cười, toàn bộ giám khảo cũng cười nghiêng ngả. Sau khi tôi chọc cười mọi người xong, nhạc lại đổi, thành bài Yêu em không dứt của Quách Phú Thành, trong tiếng nhạc hết sức cảm động đó, Tống Thần với mái tóc kiểu Quách Phú Thành rẽ ngôi hai bên, bóng mượt, trơn láng, mặc áo cánh dơi, quần trắng, nhảy phắt một cái lên sân khấu, phía dưới khán giả đã có người cười ngã khỏi ghế. Sau đó cậu ta quay lưng về phía học sinh và thầy cô giáo, vừa lắc mông vừa hát: “Trong ngực giấu một ngọn lửa, những ngày thế này không dễ sống…”. Nhạc thì đúng là nhạc bài Yêu em không dứt của Quách Phú Thành, còn lời đã bị chúng tôi xuyên tạc thành nỗi chán ghét với một núi bài tập làm không hết. “Tứ đại thiên vương” đáng thương bị cậu ta làm cho mất hình tượng tới mức không thể xấu hơn, phía dưới khán giả vừa rùng mình vừa cười ngả nghiêng. Mấy đứa chúng tôi cũng không nhịn được, mím chặt môi mà cười. Đã xem không biết bao nhiêu lần, nhưng khi đó không có hiệu ứng của phục trang, ánh sáng, hơn nữa chúng tôi đều nhận thấy, đám Tống Thần đều là những kẻ có máu điên, lên sâu khấu biểu diễn hiệu quả còn đạt hơn khi diễn tập gấp nhiều lần. Từ những nhân vật cổ đại, đến các minh tinh hiện đại, một đám những nhân vật lộn xộn chẳng có mối liên quan gắn kết gì với nhau cùng xuất hiện trong một câu chuyện, Tống Thần đã phát huy phong cách kỳ lạ cổ quái tới cực điểm, hết cảnh gây cười này đến cảnh gây cười khác, những tiếng cười phía dưới vang lên không ngớt. Khi mọi người còn đang phá lên cười vui vẻ, thì một giọng nam sôi sục hào hùng vang lên khắp cả hội trường. “Bắt đầu bài tập thể dục buổi sáng bảy động tác theo đài phát thanh, giậm chân tại chỗ! Một hai ba bốn, năm sáu bảy tám, hai hai ba bốn, năm sáu bảy tám, dừng! Hai tay dang ngang, chuẩn bị! Một hai ba bốn, năm sáu bảy tám, hai hai ba bốn, năm sáu bảy tám…” Nhịp điệu hết sức quen thuộc, hằng ngày ai ai cũng phải làm, mọi người đều nghệt mặt ra, tưởng là bộ phận xử lý âm thanh của hội trường bấm nhầm, quấy rối buổi biểu diễn. Nhưng khi thấy chúng tôi vừa hoảng hốt chạy vừa hét lên ầm ầm: “Thầy giám thị đến rồi, thầy giám thị đến rồi, nhanh lên! Nhanh lên!” Chúng tôi bắt đầu cởi quần áo, ném mũ, đóng cảnh phản ứng của một đám học sinh đang nổi loạn, bị thầy giám thị bắt quả tang, sau khi chúng tôi xiêu vẹo xếp hàng xong, chuẩn bị tập thể dục theo nhịp điệu đài phát thanh, một người đeo kính gọng đen, đội mũ cát két màu xám, lưng hơi gù, nhưng lại thích khom lưng, chắp một tay sau lưng bước từng
bước lớn lên trên sân khấu. Chính là bộ dạng đặc thù mà cả khối cấp hai này không ai không quen, không ai không biết của thầy giám thị. Phía dưới khán giả lại bắt đầu phá lên cười, thầy giám thị ngồi ở bàn ban giám khảo, cũng vừa một tay đẩy kính vừa cười lớn. Khi tổng duyệt, để tiết kiệm thời gian, chỉ duyệt một phần ba tiết mục, cảnh gây cười cuối cùng này, thầy hoàn toàn không hay biết. Trong nhạc điệu đều đều của bài tập thể dục sáng trên đài phát thanh, chúng tôi vẫy tay chào tạm biệt khán giả, lần lượt xuống sâu khấu, “thầy giám thị” là người đi sau cùng, đi được vài bước lại nhảy lại lên sân khấu, buông lời giáo huấn với đám khán giả ngồi dưới: “Cười! Cười gì mà cười! Không được cười! Nghiêm, nghiêm!” Tiếng phổ thông được nói bằng giọng Tứ Xuyên, từ “nghiêm” được thốt ra từ miệng “thầy giám thị” nghe vô cùng giống, mọi người không nhịn được, cười như vỡ chợ, “thầy giám thị” vội vàng đuổi theo chúng tôi, đi vào sau cánh gà. Khán giả vẫn đang cười, chúng tôi cũng cười, cậu bạn Ngô Ninh người Tứ Xuyên đóng vai thầy giám thị cười ha hả nói: “Không biết thầy chủ nhiệm sẽ xử lý bọn mình thế nào nữa?” Tất cả chúng tôi đều cười, còn hơn một tháng nữa thôi là tốt nghiệp rồi, chúng tôi cũng không còn quan tâm nhiều đến các quy tắc nữa. Lý Sam nói với tôi và Quan Hà: “Chỉ còn ba tiết mục nữa là tới tiết mục của các cậu rồi, các cậu đi chuẩn bị đi, diễn cho tốt nhé.” Quan Hà và tôi lập tức đi thay quần áo. Quan Hà vừa thay quần áo vừa nói với tôi: “Đây là lần hội diễn văn nghệ thú vị nhất mà mình từng trải qua.” Tôi chỉ mỉm cười không đáp. Khi diễn tập, cảm thấy cũng bình thường, nhưng khi thực sự đứng trên sân khấu, cùng diễn với các bạn khiến khán giả lúc khóc lúc cười, cảm giác hoàn toàn khác. Lý Sam, Tống Thần, Ngụy lão tam, Vương Hào… bọn họ không còn là những cái tên xa lạ nữa. Tôi rất biết ơn Quan Hà vì đã kiên nhẫn đưa tôi tham gia vào nhóm của cô ấy, khiến tôi lần đầu tiên cảm nhận được cảm giác tự hào tập thể. Tôi và Quan Hà thay váy xong, nhân viên trang điểm do cô Ngô mời đến trang điểm nhẹ cho cả hai đứa, Quan Hà nhìn tôi, cười nói: “Rất xinh, các bạn chắc chắn là kinh ngạc lắm đây!” Tôi hoàn toàn không tin vào những lời tâng bốc của Quan Hà, cười cười đáp lễ, nhưng một người tinh tế như cô ấy hoàn toàn đoán ngay được suy nghĩ của tôi, chân thành nói: “Không phải mình nịnh đầm cậu, Kỳ Kỳ, khuôn mặt cậu không đặc biệt xinh đẹp xuất chúng, nhưng ít nhất cũng trên điểm trung bình, hơn nữa khí chất của cậu rất đặc biệt, thật sự là rất đặc biệt, cậu nên có niềm tin vào bản thân mình.” Tôi vẫn không tin, nhưng tôi cố gắng làm ra vẻ mình đang tin lời cô ấy một cách giống nhất có thể.
Chúng tôi tay nắm tay bước lên sân khấu, mỉm cười cúi đầu chào khán giả. Sau khi người dẫn chương trình giới thiệu tiết mục của chúng tôi xong, Quan Hà quay sang nhìn tôi cười, đón lấy micro nói với khán giả ngồi phía dưới: “Bắt đầu từ năm lớp 7 cho tới bây giờ, tôi không còn nhớ mình đã kéo đàn nhị ở hội trường này bao nhiêu lần rồi nữa, lần nào cũng rất đặc biệt, nhưng lần này chắc chắn là lần đặc biệt nhất, bởi vì tôi sắp tốt nghiệp, cũng bởi vì bên cạnh tôi là người bạn thân nhất La Kỳ Kỳ. Chúng tôi phải bỏ ra rất nhiều tâm sức mới chọn được bài Lại thấy khói bếp này, thầy giám thị suýt nữa không duyệt, tôi phải giải thích với thầy rất nhiều lần rằng “bạn” ở đây là nữ, chứ không phải là nam, thầy mới miễn cưỡng đồng ý”. Mọi người đều cười, Quan Hà cũng cười nói tiếp: “Vì vậy lát nữa, các bạn chỉ được vỗ lòng bàn tay, không được vỗ mu bàn tay, xin hãy giữ lại cho chúng tôi, cũng là giữ lại cho các bạn một đoạn hồi ức đẹp.” Các bạn đều rất nhiệt tình vỗ tay, coi như cũng rất nể mặt Quan Hà. Quan Hà trao lại micro cho tôi, ngồi xuống chiếc ghế đã được đặt sẵn dành cho mình, bắt đầu kéo đàn, Lý Sam đứng bên cạnh Quan Hà gõ miếng thép hình tam giác(3). Nhìn những mái đầu đen lố nhố ngồi kín hội trường bên dưới, không biết tại sao tôi lại nghĩ đến việc Trương Tuấn cũng ngồi trong số khán giả đó. Tự nhiên tôi lại cảm thấy căng thẳng, tôi cứ ngỡ một người thường xuyên tham gia các cuộc thi diễn thuyết, hùng biện như tôi có khả năng chế ngự cảm xúc từ lâu rồi. “Lại thấy khói bếp…”, giọng tôi bị vỡ, đúng là sợ cái gì thì gặp ngay cái ấy, tôi không kìm được, lè lưỡi cười đau khổ. Mỗi khi đến hội diễn văn nghệ, học sinh lớp 7, lớp 8 thường rất chăm chỉ và nghiêm túc, học sinh lớp 9 lại tự cho mình là đã lớn, lại sắp tốt nghiệp, nhà trường cũng chẳng quản được bao lâu nữa, nên khi trên sân khấu hễ có sự cố nào xảy ra, là bắt đầu huýt sáo, vỗ mu bàn tay. Lần này, do Quan Hà sớm lường trước được sự việc nên đã có lời mào đầu, đa phần mọi người đều rất nể mặt cô ấy, nhưng đám ma vương lớp 9 (7) bắt đầu phá lên cười. Nghĩ đến Trương Tuấn, trái tim vô dụng của tôi lại bắt đầu đập loạn cả lên, có phải cậu ấy cũng đang cười nhạo tôi không? Quan Hà lo lắng nhìn tôi, dùng ánh mắt ra hiệu cho tôi bao giờ chuẩn bị xong thì ra hiệu để cô ấy biết, cô bắt đầu kéo nhị lại từ đầu, nhưng tôi càng lúc càng căng thẳng, căng thẳng tới mức giống hệt như lần đầu tiên lên sân khấu thay mặt toàn bộ tân học sinh khối bảy phát biểu, âm thanh cứ mắc kẹt nơi cổ họng, không thể hát ra thành lời. Tiếng vỗ mu bàn tay, huýt sáo của đám nam sinh lớp 9 (7) càng ngày càng lớn, kích động không ít người cũng bắt đầu phá đám theo, trong lòng tôi mặc dù cảm thấy xấu hổ tới muốn chui xuống đất rồi nhưng da mặt lại rất dày, tỏ ra vô cùng bình tĩnh. Quan Hà lại chưa bao giờ phải trải qua một việc mất mặt như thế, cô ấy đỏ bừng mặt, xấu hổ tới mức như muốn vứt cả đàn nhị, nhảy xuống sân khấu. Đột nhiên, trong hàng ghế dành cho lớp 9 (7), Trương Tuấn đứng lên, lớn tiếng quát: “Ồn ào gì chứ? Không muốn nghe thì cút hết ra ngoài!”
Đám ma vương lớp 9 (7) lập tức dừng ngay những âm thanh gây rối, bọn chúng đến thầy giám thị cũng không sợ, nhưng lại sợ Trương Tuấn. Hội trường yên tĩnh trở lại, cảm giác trong lòng tôi rất phức tạp, vừa rồi còn vô cùng hoang mang vì sợ Trương Tuấn đang thấy mình mất mặt, bây giờ lại bối rối vì cậu ấy ra tay giúp mình. Tôi hít một hơi thật sâu, lấy lại bình tĩnh, quay sang nhìn Quan Hà gật đầu, ra hiệu cho cô ấy kéo đàn, ban đầu Quan Hà còn kéo sai vài nốt nhạc, dần dần cô ấy cũng đã lấy lại bình tĩnh, tôi cũng hát lại từ đầu, giọng không cao, nhưng nhả âm rất rõ. “Lại thấy khói bếp bay lên, bao trùm khắp mặt đất. Muốn hỏi từng làn từng làn khói bếp, bạn muốn đi đâu, đi đâu? Trời chiều có thơ tình, hoàng hôn có họa ý. Thơ tình họa ý dù đẹp đến mấy, trong lòng tôi chỉ có bạn…” “Bạn” trong lời bài hát này chỉ con gái sao? Thầy giám thị đâu phải chưa từng nghe Đặng Lệ Quân, chắc chắn là thầy không tin, nhưng trước bài hát kinh điển này, thầy cũng từng trải qua thời niên thiếu, vì vậy, coi như mắt nhắm mắt mở bỏ qua cho chúng tôi một lần. Hát xong, cả hội trường vỗ tay động viên, tôi và Quan Hà nhìn nhau cười, thua hay thắng chúng tôi chẳng màng, quan trọng là thời gian mà chúng tôi cùng nhau trải qua ngưng đọng ở phút giây này, ngưng đọng trong bài hát này, sau này, bất luận là khi nào, ở đâu, mỗi khi nghe bài hát đó, chúng tôi sẽ nhớ đến nhau, nhớ về những năm tháng niên thiếu đã qua của mình. Quan Hà đứng dậy, đi đến bên tôi. Chúng tôi tay nắm tay, cùng cúi chào khán giả, khi ngẩng đầu lên, ánh mắt của chúng tôi đều hướng về khu ghế dành cho lớp 9 (7). Sau này, cho dù là giờ khắc nào, chỉ cần chúng tôi nhớ đến đối phương, nhớ đến những năm tháng thanh xuân của mình, chúng tôi cũng sẽ nhớ đến cậu bạn đã nhảy ra, cứu chúng tôi. Khi công bố kết quả của hội diễn văn nghệ năm nay, tất cả mọi người đều cảm thấy rất ngạc nhiên, nhưng cũng thấy hợp lý. Bài hát của tôi và Quan Hà không đạt giải nào, đây có lẽ là lần biểu diễn đầu tiên mà Quan Hà phải về tay không. Tiểu phẩm lớp chúng tôi đạt giải nhì, Tống Thần đại diện cho cả nhóm lên lĩnh thưởng. Người khác khi nhận giải, đều cúi mình, chỉ có cậu ta là giật lấy micro của người dẫn chương trình, cười hi hi, ha ha nói với khán giả phía dưới: “Em muốn cảm ơn thầy giám thị nghiêm khắc, có trách nhiệm nhưng cũng đầy tình yêu thương đối với học sinh của chúng em, thầy giám thị, học sinh lớp 9 (4) chúng em yêu thầy!” Cả hội trường lại cười rũ rượi, cười chảy cả nước mắt, bởi vì thầy giám thị ghét nhất là những bài hát có cụm từ “em yêu anh” hay “anh yêu em”, rất ghét chúng tôi nói từ “yêu”, thường xuyên lên lớp chúng tôi rằng, thực ra chẳng hiểu cái gì, nhưng cứ mở miệng ra là nói “yêu” với “yêu”, Tống Thần lại dám chọc tức thầy, có lẽ thầy đang hối hận vì đã trao giải cho chúng tôi cũng nên. Tống Thần cũng sợ thầy hối hận, vừa nói xong, liền ôm chặt phần thưởng nhảy xuống khỏi sân khấu, khiến cả hội trường lại được trận cười no nê nữa.
Đấy là lần hội diễn văn nghệ tràn ngập tiếng cười nhất trong ký ức của tôi, bất kể là giáo viên, hay học sinh, thậm chí ngay cả thầy giám thị nghiêm khắc cũng đều cười. Mấy đứa chúng tôi cũng cười suốt, sau khi lễ trao giải kết thúc, đã hơn mười giờ tối, nhưng mọi người đều không muốn về nhà, la lối đòi Tống Thần mời ăn. Tống Thần là người có thu nhập từ “nghề viết lách”, trong đám chúng tôi, thế là giàu nhất rồi, nên cả nhóm thường bóc lột cậu ta. Tống Thần hào phóng khoát tay: “Không thành vấn đề, bọn mình đi ăn lẩu cay.” Các bạn đều reo hò ầm ĩ, cả đám quấn chặt lấy nhau, từ từ đi theo dòng người ra ngoài, vẫn không quên chơi xấu nhau nhằm hạ thấp đối phương, tâng bốc bản thân, mọi người cười đùa vui vẻ, mắng mỏ, chạy đuổi đánh nhau, tạo thành một đám hỗn loạn. Cả nhóm chúng tôi trở thành cảnh tượng bắt mắt nhất trong biển người đang ùa ra từ hội trường. Ra đến cổng trường, chuẩn bị rẽ trái, tôi đột nhiên liếc thấy, trên con đường đối diện, nơi ánh đèn bị che khuất có một dáng người quen thuộc đang đứng. Tôi liền hất tay Quan Hà ra, chạy sang bên kia đường. Tiểu Ba hai tay đút túi quần, mỉm cười nhìn tôi. Tôi không suy nghĩ nhiều, chỉ thấy xúc động, vừa chạy tới nơi đã nhảy bổ về phía Tiểu Ba, ôm chặt anh ấy hỏi: “Sao anh không gọi em?” Phía cổng trường vang lên tiếng huýt sáo, tôi nổi điên quay lại hét: “Huýt cái đầu mày ấy!” Rồi vội hỏi: “Anh về từ bao giờ? Chuyện đã thu xếp xong chưa?” Anh ấy mỉm cười nói: “Anh về hồi chiều.” Tôi vui quá, cứ líu lo: “Có phải vẫn kịp thi đại học không? Nhưng, đã bỏ lỡ rất nhiều thời gian, hay là đi ôn lại thêm một năm rồi thi vào trường tốt hơn.” Quan Hà, Tống Thần, Lý Sam… tất cả mọi người đều đi sang bên đường, đứng ở một chỗ khá xa, Tống Thần gọi: “La Kỳ Kỳ, cậu có đi ăn lẩu cay không?” Tiểu Ba nói: “Em mau đi chơi với các bạn đi, hôm khác anh đến tìm em.” Tôi do dự, không nói gì, Quan Hà gọi: “Kỳ Kỳ!”. Tiểu Ba đẩy tôi: “Mau đi đi, các bạn đang đợi em đấy.” Tôi đành chạy về phía Quan Hà, Tống Thần, cả nhóm lại cười nói vui vẻ đi về phía chợ đêm, bàn tán xem hàng lẩu cay nào ăn ngon. Tôi vừa đi vừa quay đầu nhìn lại, thấy Tiểu Ba quay người, hai tay đút túi quần, cúi đầu bước đi. Dưới ánh đèn đường, bóng anh ấy bị kéo ra rất dài.
Tôi đột nhiên đứng sững lại, nói với Quan Hà: “Thực sự xin lỗi, tối nay mình không thể đi ăn lẩu cay với mọi người được, mình có chút việc.” Bọn Tống Thần đều gào ầm lên: “Vớ vẩn quá, nói lời nuốt lời”. Lý Sam ôn tồn nói: “Mọi người cùng đi, lại thiếu một mình cậu, sắp thi tốt nghiệp rồi, cơ hội tụ tập cùng nhau không nhiều đâu.” Quan Hà cũng khuyên: “Kỳ Kỳ, tối nay cậu đã lập công lớn, bọn mình đi ăn mừng, sao thiếu cậu được?” Tôi chẳng quan tâm tới những người khác, chỉ nhìn Quan Hà cười với vẻ biết lỗi, rồi quay người chạy đuổi theo Tiểu Ba, đến khi đuổi kịp rồi, tôi liền nhảy phốc tới, luồn qua cánh tay đang đút túi quần của anh, thế là khoác được tay anh ấy, nói: “Mời em đi ăn thịt dê xiên nướng.” Tiểu Ba mỉm cười nhìn tôi: “Em không đi ăn lẩu cay à?” “Em thích thịt dê xiên nướng hơn.” Sau này, tôi luôn nghĩ, có thể vào tối hôm ấy, Tiểu Ba đã nhận ra, mặc dù tôi và anh quen thân với nhau đã sáu năm, chúng tôi cứ nghĩ chúng tôi là người một nhà, nhưng thực ra tôi và anh ấy không phải là người thuộc cùng một thế giới. Anh ấy nhìn thấy tôi đi với bạn bè, vui vẻ tranh luận, đấu khẩu với họ, tự hào, sung sướng trước chút thành công và tài năng nhỏ bé của mình, những gì mà chúng tôi đang thể hiện là sức trẻ và tuổi xuân của học sinh một cách bình dị nhất, vì vậy, rõ ràng là Tiểu Ba đến tìm, nhưng lại không gọi, để mặc tôi đi qua trước mặt anh ấy, đi về hướng của một thế giới hoàn toàn khác với thế giới của anh.
3. Đôi cánh bị bẻ gãy Albert Einstein nói rằng thành công là 1% tài năng cộng với 99% mồ hôi, tôi thì cho rằng thành công là 10% tài năng cộng 30 % may mắn cộng thêm 60% mồ hôi. Trên những con đường mà chúng ta đã đi qua, có không ít người vừa có tài năng lại vừa sẵn sàng hi sinh, nhưng số phận chẳng để ý tới họ, điều khiến người ta phải kính trọng là chính những người này chưa bao giờ kêu khổ, cũng chưa bao giờ oán trách số mệnh, họ lặng lẽ, nỗ lực, tiếp tục sống. Nhỏ thì là một cơ hội, lớn thì là sức khỏe, cho đến tính mạng, số mệnh vẫn thường vô tình cướp khỏi tay họ như thế. Chúng ta không có cách nào ngăn cản số mệnh cướp những thứ trong tay chúng ta, nhưng chúng ta có thể lựa chọn việc trân trọng những gì chúng ta đã có trong cuộc sống. Trong đợt càn quét lớn đó, Tiểu Lục vì bình thường làm việc thích khoa trương, đắc tội với quá nhiều người, cũng không biết là thật, hay do trúng kế của người khác, tóm lại tin tức mà tôi nghe được là, do ghen tuông, hắn đã hủy hoại dung nhan của một gã đàn ông khác, mà phương thức hắn ta sử dụng cũng rất đặc biệt, dùng lưỡi dao lam cứa nát mặt của đối phương. Vốn là chuyện cũ nợ xưa, lại bị người ta đi báo án, bên công an lập tức
cho bắt giam hắn ta, lập hồ sơ điều tra, tiếp theo phát hiện hắn ta hút và buôn bán ma túy, tàng trữ và cất giấu vũ khí trái phép, tội chồng lên tội, bị xử bắn, một viên đạn là kết thúc cuộc đời. Sau này tôi mới hiểu, thật ra chuyện của Tiểu Lục chẳng liên quan đến ai, bên công an sớm đã để mắt tới hắn từ lâu, trong đợt càn quét này mỗi đơn vị đều có những nhiệm vụ tiêu biểu, nên họ chắc chắn phải bắt bằng được Tiểu Lục, cái gọi là đi trình báo, chẳng qua là một phương pháp điều tra ngụy trang mà thôi. Tin tức Tiểu Lục bị tuyên án tử hình chỉ được thông báo ngắn gọn, sơ sài trong chương trình thời sự, thậm chí tôi còn không nghĩ đấy là Tiểu Lục (Tôi không hề biết tên thật của hắn ta, mà hắn ta thì lại bị cạo trọc đầu). Sau này nghe đám đàn em của anh Lý bàn tán, tôi mới biết đó là Tiểu Lục. Băng nhóm tội phạm do Tiểu Lục cầm đầu cũng bị tiêu diệt hết, nhưng Trương Tuấn vẫn đi học, không bị tống giam, bên công an cũng không tới tìm cậu ấy nữa, cho thấy cậu ấy đã bình yên qua được kiếp nạn này, nhưng trông Trương Tuấn không có vẻ nhẹ nhõm hơn chút nào. Thời gian đó, sắc mặt cậu ấy lúc nào cũng trắng bệch, đầu bù tóc rối, như vừa chui trong chăn ra vậy. Quần áo xộc xà xộc xệch. Ánh mắt nhiều khi nhìn mông lung. Từ trước tới nay, cậu ấy không bao giờ để lộ tình cảm trên nét mặt, dù xảy ra chuyện gì cũng tỏ vẻ bất cần. Lần đầu tiên thấy cậu ấy như thế. Xem ra, trong chuyện này, cậu ấy đã phải chịu một cú sốc không nhỏ. Có điều, trong đám học sinh không ai biết cậu ấy có quan hệ với đám Tiểu Lục, còn biệt hiệu mỹ miều “Thánh tình” là do mọi người đặt cho vì nghĩ cậu ấy đang thất tình. Những tin tức về Tiểu Lục, chẳng ai trong trường quan tâm, bởi vì nó thật xa lạ với thế giới của học sinh. Đám đầu gấu trong trường chỉ hay bàn tán về Hách Liêm, kẻ đã tham gia vào đường dây buôn bán ma túy để lấy tiền hút, bị tuyên án ba năm lao động cải tạo. Cũng may cậu ta chưa đủ mười sáu tuổi, hơn nữa khi bị bắt, lượng thuốc cậu ta giữ trong người rất ít, nếu không e rằng còn bị xử nặng hơn. Với hầu hết các bạn lớp tôi, đây là lần đầu tiên được nghe nhắc đến ma túy ở ngoài đời. Khi bọn họ thì thầm với nhau, sắc mặt lộ rõ vẻ ngạc nhiên, nghi hoặc. Ma túy! Thật là xa vời, xa tới nỗi dường như chỉ xuất hiện trong những bộ phim gangster và sách vở, thế mà có ngày lại xuất hiện ngay bên cạnh chúng tôi, gần chúng tôi như thế. Những thanh niên ở tuổi này, khi đối mặt với một chuyện như vậy, vừa có cảm giác sợ hãi, căm ghét, lại vừa tò mò, sùng bái Hách Liêm. Trong tượng tưởng của họ, Hách Liêm như sống ở một thế giới khác, mang trong mình bầu nhiệt huyết và sự kích động, sự buông thả và ngông cuồng mà họ không có được. Những câu chuyện về Hách Liêm được phủ một lớp huyền thoại. Còn Đồng Vân Châu, với tư cách là bạn gái Hách Liêm, cũng trở thành nữ sinh huyền thoại nhất trong khối cấp hai. Mỗi khi nghe thấy đám con trai, con gái xung quanh mình dùng những từ ngữ hết sức phức tạp bàn tán về Hách Liêm, tôi cũng có những cảm nhận rất phức tạp. Chuyện của Hách Liêm rút cục là thế nào, tôi không hề biết, tôi chỉ biết duy nhất một điều rằng, khi
cậu ta ra ngoài chơi bời, đã nghiện thuốc phiện, sau đó là buôn ma túy để lấy tiền hút, sau đó là từng bước, từng bước trở thành tội phạm thiếu niên bị giam giữ cải tạo lao động. Trương Tuấn đi theo Tiểu Lục, chắc chắn cũng đã tiếp xúc với ma túy và súng đạn, nhưng cậu ấy lại bình yên vô sự, đến tôi cũng muốn cảm thán về vận may và sự thông minh của cậu ấy. Chỉ có điều, nếu cậu ấy không thay đổi, thì có lẽ vận may sẽ không thể đồng hành cùng cậu ấy mãi. Đến lúc đó, chắc chắn không chỉ đơn giản là mức án phạt ba năm cải tạo lao động. Ô Tặc không được may mắn như Hách Liêm. Mặc dù lượng ma túy tìm thấy rất ít, anh cũng chưa từng mắc tội danh buôn bán ma túy, hay bất kỳ tội danh nào liên quan đến hút, tàng trữ ma túy, nhưng anh đã qua tuổi vị thành niên, lại đang trong đợt càn quét lớn, vị vậy bị xử khá nặng, mười năm tù giam. Khi bản án được tuyên, chị Xinh Đẹp lao vào đánh Tiểu Ba như một kẻ điên. Tiểu Ba thẫn thờ đứng đó, mặc cho chị ta đánh, người khác cũng không dám vào can. Tôi nhẫn nhịn hồi lâu, cuối cùng không thể nhịn được nữa, xông đến, đẩy chị Xinh Đẹp sang một bên, đứng chắn trước mặt Tiểu Ba. Chị Xinh Đẹp vẫn còn muốn đánh nữa, nhưng tôi đã chỉ thẳng vào mặt chị ta, lạnh như băng, nói: “Chị đánh một cái nữa xem, có phải là lỗi của một mình Tiểu Ba đâu, sao chị không đi mà đánh anh Lý ấy?” Tôi vừa nói xong, Tiểu Ba giơ tay đẩy tôi ra, đẩy mạnh tới mức tôi ngã sõng soài xuống đất. Anh ấy bước đến trước mặt chị Xinh Đẹp, như vẫn mong được chị ấy tiếp tục đánh, chị Xinh Đẹp lại không đánh nữa, người mềm nhũn khuỵu xuống đất, bắt đầu gào khóc, tôi ngồi dưới đất cũng muốn khóc. Tiểu Ba đau đớn nhìn chị Xinh Đẹp một lúc, rồi lê bước bỏ đi, tôi đành gác nỗi ấm ức lại, đứng bật dậy đuổi theo anh ấy. Những cơ sở kinh doanh của anh Lý lại mở cửa đón khách, dường như tất cả trở về với nhịp sống bình thường, nhưng một Tiểu Ba ôn hòa ngày nào đã hoàn toàn biến mất. Trước kia anh ấy hút thuốc, chỉ là để giao tế, nhưng bây giờ, anh ấy nghiện thuốc ngày một nặng hơn, thường xuyên thấy điếu thuốc kẹp trên tay. Trước kia ít nói, nhưng cũng được coi là một người vui vẻ, giờ thì trầm mặc tới mức đáng sợ. Anh Lý nói với tôi: “Tiểu Ba là người tinh tế, trọng tình cảm nhất trong đám bọn anh, khi cậu ta học lớp 5, lớp 6 Ô Tặc thường đưa cậu ta đi chơi, vì người ta mắng cậu ta không có bố mà đánh nhau với người khác. Về mặt lý trí cậu ta rõ hơn ai hết, một mình Ô Tặc vào đó còn hơn là cả ba anh em cùng phải vào, nhưng về mặt tình cảm, cậu ta không thể chấp nhận được, bản thân Ô Tặc còn rất tỉnh táo, an ủi Tiểu Ba, đợi chuyện này dần lắng xuống, cậu ta sẽ cố gắng cải tạo thật tốt, còn bọn anh ở bên ngoài cũng chạy chọt tìm cách móc nối quan hệ, nhất định sẽ được giảm án hay ân xá, nhưng Tiểu Ba không vượt qua được chính bản thân mình. Cậu ta luôn cho rằng nếu như lúc ấy cậu ta không quá tập trung vào việc học, để ý đến quán hơn, thì Ô Tặc đã không bị người ta hại.” Tôi và anh Lý đều bất lực, hết cách, đành phải đợi Tiểu Ba tự vượt qua trở ngại chính bản thân mình mà thôi.
Chỉ cần có thời gian, tôi sẽ bám chặt Tiểu Ba không rời, đòi anh ấy mời tôi đi ăn, đòi anh ấy chơi với tôi. Yêu cầu của Tiểu Ba đối với tôi rất đơn giản, dù tôi muốn chơi thế nào, nghịch ngợm thế nào, nhưng nhất định phải thi đỗ vào trường điểm cấp ba. Tôi đành lên tinh thần tập trung ôn tập, sau một thời gian điên cuồng học ngày học đêm, tôi bước vào kỳ thi cấp ba. Thi xong, trong lòng tôi chẳng mấy tự tin, cảm giác chắc chắn mình sẽ thi đỗ vào cấp ba, còn việc có vào được trường điểm hay không, lại phải trông chờ vào may mắn. Ba môn toán, lý, hóa khá tốt, nhưng môn tiếng Anh, liệu có qua hay không, đến tôi cũng thấy mơ hồ, tiếng Anh của tôi rất kém, lớp 7, lớp 8 vì còn bận quan tâm tới việc đối phó thầy Chậu Của Cải nên chẳng học hành gì, lên lớp 9 thì thôi, đành trượt dài vì mất gốc. Anh Lý nhờ người đi hỏi điểm cho tôi, trước khi công bố, bọn họ đã biết tôi trúng tuyển vào trường Nhất Trung rồi. Bố mẹ còn đang lo lắng thấp thỏm chờ đợi kết quả, tôi đã bắt đầu mở tiệc chúc mừng. Anh Lý tổ chức một bữa tiệc chúc mừng rất long trọng cho tôi, thực ra chúc mừng chỉ là thứ yếu, quan trọng hơn cả là muốn Tiểu Ba vui. Những người đến tham dự bữa tiệc, hầu như chẳng mấy người tôi quen, trong lòng tôi rất buồn, Ô Tặc và chị Xinh Đẹp là những người đáng lẽ phải có mặt thì lại không đến, những người không cần thì lại đến quá nhiều, tiếng cười có giòn đến đâu cũng không phủ kín được sự bi thương. Tiểu Ba hễ gặp ai cũng chúc rượu, vui như chính anh ấy thi đỗ đại học không bằng, buổi tối hôm đó rút cục đã uống bao nhiêu rượu, tôi chẳng nhớ, chỉ nhớ là tất cả mọi người đều say, anh Lý say rồi khóc, gào lên thảm thiết với Tiểu Ba rằng: “Anh có lỗi với cậu”. Tiểu Ba không khóc, nhưng nôn suốt, nôn xong lại uống. Tôi không uống giọt rượu nào, nhưng hình như cũng say, chỉ ra sức khóc, có điều không hiểu mình khóc vì cái gì. Ngày công bố kết quả, từ sáng sớm, mẹ đã kéo tôi đi xem điểm. Chúng tôi xem bảng điểm bên trái trước, xem tôi có trúng tuyển vào trường Nhất Trung không? Tôi và mẹ cùng xem, có điều mẹ tìm tên tôi, tôi lại tìm tên Trương Tuấn. Tôi nhìn thấy tên Quan Hà đầu tiên, cô ấy xếp thứ 15 trong bảng, tôi líu lưỡi, với thành tích của Quan Hà thế mà còn không được đứng trong top 10 của khối cấp ba tương lai. Tôi dò tiếp xuống phía dưới, cuối cùng lại tìm thấy tên Trương Tuấn ở số thứ tự hơn hai trăm, tôi kinh ngạc mở to mắt nhìn cái tên đó hồi lâu, xảy ra bao nhiêu chuyện như thế, tôi còn lo lắng không biết cậu ấy có thi được vào trường điểm hay không, kết quả người ta không những thi vào được, mà còn thi tốt hơn cả mình. Cuối cùng mẹ tôi cũng tìm thấy tên tôi, mừng rỡ chỉ chỉ vào tên tôi, gọi lớn: “Kỳ Kỳ! Con! Con ở đây, ở đây!” Những bậc phụ huynh xung quanh đều mừng thay cho mẹ tôi, liên tục nói: “Chúc mừng! Chúc mừng!”
Tôi nhìn chằm chằm vào tên mình, không muốn lên tiếng, từ trên xuống thì xếp thứ hơn ba trăm, từ dưới lên thì xếp trong top 50, chen chân vào trường trong tình huống nguy hiểm, có gì đáng để vui mừng đâu? Mẹ tôi chẳng màng việc tôi xếp thứ bao nhiêu, chỉ biết là tôi thi đỗ vào trường Nhất Trung, mẹ xúc động kéo tay tôi: “Đi, đi gọi điện cho bố con, tối nay nhà mình ra ngoài ăn tối.” Vì lớn lên bên cạnh bố dượng, nên từ nhỏ mẹ đã rất vất vả, kham khổ, hình thành thói quen sống rất tiết kiệm, gần như chưa bao giờ ra ngoài ăn tiệm. Thực ra là không muốn tiêu tiền, nhưng ngoài miệng thì lại nói “ăn ở ngoài không vệ sinh”, hôm nay xem ra mẹ rất vui, hoàn toàn không để ý gì tới việc ăn ở ngoài “không vệ sinh” nữa. Đột nhiên tôi nhớ ra bọn Lý Sam và Tống Thần, kéo mẹ sang bảng điểm dán bên phải, nói: “Con muốn xem kết quả của mấy người bạn.” Từ sau khi Tiểu Ba trở về thành phố, tôi liền xa cách với nhóm Quan Hà, Tống Thần, thậm chí ngay cả buổi liên hoan tốt nghiệp của lớp tôi cũng không tham gia. Trên bảng điểm tôi lần lượt tìm thấy tên bọn họ, cũng may, đều thi đỗ vào cấp ba cả. Mẹ tôi hỏi: “Tìm thấy tên bạn con chưa? Thế nào?” “Cũng không tồi. Hai người thi đỗ vào trường điểm, một người có lẽ vào trường thường thôi.” Mẹ tôi cười nói: “Vậy thì tốt, đi thôi, đi gọi điện cho bố.” “Con không muốn ra ngoài ăn, nếu bố mẹ vui, làm thêm vài món là được rồi, tí nữa con còn muốn đi gặp mấy người bạn.” Còn đang nói thì tôi nhìn thấy Quan Hà và mẹ cô ấy đang chen chúc trong đám đông, tôi gọi lớn: “Quan Hà, Quan Hà!” Quan Hà cầm tay mẹ định len sang chỗ tôi, nhưng quả thật đông người quá, tôi kéo tay mẹ đi đến, mẹ Quan Hà khá gầy, nhìn hơi già, nhưng khuôn mặt vẫn có thể thấy là hồi còn trẻ bà rất xinh đẹp. Bà đang trách Quan Hà: “Đã nói với con rồi, đến sớm một tí, thấy chưa, giờ muốn len lên cũng không được.” Tôi cười nói: “Thành tích của Quan Hà, cô còn phải lo sao ạ? Cháu vừa xem rồi, cô ấy đứng thứ mười lăm trong danh sách những người được nhận vào trường Nhất Trung.” Mẹ tôi vừa nghe thấy thế, ngưỡng mộ vô cùng, lập tức bắt chuyện với mẹ Quan Hà, mẹ Quan Hà lại có vẻ không hài lòng, liên tục nói rằng thành tích của Quan Hà như vậy chưa đủ tốt. Mẹ tôi lập tức kể lại cho mẹ Quan Hà nghe những lời bàn tán mà bà nghe được trong lúc chen lấn với đám đông: “Lần thi tốt nghiệp này, thành tích của trường Nhất Trung đều kém cả, nghe nói xếp thứ nhất đếm ngược từ dưới lên trong số những trường điểm, trong tốp 10 học sinh được khối cấp ba Nhất Trung tuyển chọn, lại chỉ có một học sinh
của khối cấp hai Nhất Trung. Vừa rồi các bậc phụ huynh ở đây đều phàn nàn, đây là kỳ thi tốt nghiệp có chất lượng học sinh kém nhất trong lịch sử của Nhất Trung, không hiểu mấy thầy cô ở đây dạy dỗ kiểu gì nữa.” Mẹ Quan Hà lập tức phụ họa theo: “Đúng thế, toàn những đứa trẻ ngoan mà cũng bị họ làm cho hư đi…” Quan Hà nhìn tôi lè lè lưỡi, cười hỏi: “Cậu thế nào?” “Miễn cưỡng lại một lần nữa chen chân được vào Nhất Trung.” Mẹ tôi và mẹ cô ấy nói chuyện hăng say, nhiệt tình, cứ như bạn cũ lâu ngày không gặp nhau. Đứng ở đây vừa nóng vừa chật, tôi và Quan Hà kéo nhau ra chỗ mát đứng nói chuyện, mặc cho hai bà mẹ tíu tít với nhau. Quan Hà đột nhiên hỏi: “Trương Tuấn trúng tuyển ở số thứ tự bao nhiêu?” Trái tim tôi như khựng lại một nhịp, nhưng sắc mặt vẫn thản nhiên không hề thay đổi: “Không để ý lắm, hình như hai hay ba trăm gì đấy, sao cậu biết chắc chắn cậu ta thi đỗ vào Nhất Trung?” “Thời gian sau này cậu không để ý tới việc trường việc lớp lắm, nên không biết, sau đó cậu ấy rất chăm chỉ! Giống như đột nhiên biến thành người khác vậy. Trong giờ tự học, một bạn trong lớp gây ồn khiến cậu ấy không học được, cậu ấy lôi bạn đó ra sau lớp đánh cho một trận, cả cái ghế bị cậu ấy đập gãy, đánh tới mức mà cả đám ma vương lớp 9 (7) phải sợ nem nép, những lớp kém khác càng đến gần ngày thi thì càng phân tâm, kỷ luật càng loạn, lớp cậu ấy càng đến gần kỳ thi kỷ luật càng cao, chỉ bởi vì Trương Tuấn chuyên tâm học tập.” Tôi bỗng trầm hẳn xuống, đột nhiên cảm thấy có chút hối hận vì nghe lời Tiểu Ba đăng ký vào Nhất Trung, tôi nên chọn một trường khác. Quan Hà hỏi: “Nghỉ hè cậu có dự định gì không? Có đi đâu chơi không? Lý Sam nói chỉ cần cậu ta thi đỗ vào Nhất Trung, bố cậu ta sẽ thưởng một chuyến du lịch Hàng Châu, bố mẹ Vương Hào thì đưa cậu ta về quê chơi, Trương Tuấn gia đình có tiền, vừa thi xong đã bay sang Thượng Hải ăn chơi, còn cậu? Bố mẹ cậu thưởng gì?” “Mình chẳng muốn đi đâu cả, cậu thì sao?” Quan Hà cười điềm đạm: “Mình muốn đi cũng không thể đi được, chỉ còn biết ngoan ngoãn ở nhà, giúp mẹ làm việc nhà thôi.” Tôi nói: “Bao giờ cậu tốt nghiệp đại học xong, tự mình kiếm được tiền rồi, muốn đi đâu chơi thì đi.” Quan Hà mỉm cười: “Vẫn còn bảy năm nữa cơ.”
Trong số chúng tôi, cô ấy có lẽ là người mong thời gian nhanh chóng trôi qua nhất, mong sớm được trở thành người lớn nhất, còn tôi có lẽ lại là người duy nhất không muốn tiến về phía trước, thậm chí còn muốn thời gian quay ngược trở lại. Nếu Hiểu Phi có thể quay về, nếu Ô Tặc không bị ngồi tù, nếu Tiểu Ba được tham gia thi đại học một cách thuận lợi… quá nhiều từ nếu, đáng tiếc thời gian như mũi tên được căng sẵn trên dây, một khi bắn đi, chỉ có thể lao về phía trước, không thể quay ngược lại phía sau. Chúng tôi nói chuyện rất lâu, cổng trường Nhất Trung vẫn đông chật người như thế, tôi tặc lưỡi cảm thán. Quan Hà cười nói: “Bắt đầu từ bây giờ, lúc nào cũng đông đúc huyên náo cho tới tận khi có kết quả thi đại học, sau khi có kết quả thi đại học lại là thông báo trúng tuyển của các trường đại học, đợi khi hòm hòm rồi, lại bắt đầu danh sách học sinh mới lớp 7, lớp 10, tóm lại suốt cả mùa hè, không lúc nào được yên tĩnh cả.” Lâm Lam len từ đám đông ra, nhìn thấy tôi, cười tít mắt vẫy vẫy tay, liếc thấy không có xe qua đường, vội vàng chạy lại: “La Kỳ Kỳ, nhìn thấy cậu thi đỗ vào Nhất Trung rồi, chúc mừng nhé!” Giờ tôi mới nhớ ra, hình như không thấy tên của cô ấy trong danh sách của các trường cấp ba liền hỏi: “Cậu không định học cấp ba à? Cậu vào trường nào?” Cô ấy cười nói: “Mình đăng ký vào trường trung học chuyên nghiệp, không định học cấp ba.” Tôi và Quan Hà đều sững lại, vài năm trước học sinh trường trung học chuyên nghiệp còn khá được hoan nghênh, nhưng gần đây trường trung học chuyên nghiệp không còn “hót” như thế nữa. Thành tích học tập phải cực kỳ tốt, thi còn khó hơn cả thi vào trường điểm cấp ba, nhưng sau khi ra trường lại không thể so sánh được với sinh viên, vì vậy, đa phần nếu hoàn cảnh gia đình không quá khó khăn thì đều sẽ không chọn thi vào trung học chuyên nghiệp. Tôi thật sự không kìm được, hỏi: “Với khả năng của cậu, nhất định sẽ thi được vào đại học, tại sao lại học trung học chuyên nghiệp?” Lâm Lam liếc mắt nhìn Quan Hà, cười nói: “Đâu phải một mình mình chọn trung học chuyên nghiệp đâu, em gái của Thẩm Viễn Triết, Thẫm Viễn Tư cũng đăng ký thi vào đấy.” Quan Hà hiểu ý, nói với tôi: “Mẹ đang đợi mình, mình về trước nhé.” Sau đó quay sang nói một câu “tạm biệt” khách sáo với Lâm Lam rồi rời đi. Lâm Lam thấy bóng cô ấy đã đi khá xa, nụ cười trên mặt cũng nhạt dần: “Thực sự mình chẳng còn tâm trạng để học nữa, mình mệt mỏi quá rồi. Không phải áp lực từ việc học, mà là áp lực từ mọi phía. Mình muốn sớm được chuyển ra ngoài sống, sớm rời khỏi nơi này, cũng có thể vài năm nữa qua đi, mọi chuyện sẽ bị lãng quên, mờ nhạt dần.” Lâm Lam là một cô gái kiêu ngạo, khi bước chân vào cấp hai, cô ấy nhất định đã mơ tưởng về hình ảnh một cô sinh viên xinh đẹp của một trường đại học lớn, được tự do bay
lượn ở bên ngoài thế giới, thế mà giờ đây khi còn chưa thật sự cất cánh bay lên, cô ấy đã thu đôi cánh của mình lại. Mẹ cô ấy không biết có hiểu rằng chính vì mình mà con gái đã phải thay đổi cả quỹ đạo cuộc sống hay không? Có lẽ bà ấy cũng hiểu, cũng như những gia đình xảy ra xung đột tới mức phải đưa nhau ra tòa đều hiểu rằng thành tích học tập ngày một trượt dốc của con mình là do họ, nhưng khi người lớn hành động tùy tiện, thiếu trách nhiệm, so với trẻ con chỉ có hơn chứ không có kém. Lâm Lam đã cố gắng hết sức. Lâm Lam trầm mặc nhìn trường Nhất Trung, có thể cô ấy đang cảm thán, mãi mãi cô ấy sẽ không bao giờ biết khối cấp ba danh nổi như cồn của trường Nhất Trung trông như thế nào. Tôi im lặng nhìn ra xa, trên bầu trời xanh có đàn bồ câu trắng đang bay, dưới ánh mặt trời, những đóa hoa đang đua nhau nở rộ với đủ loại sắc màu, sắc màu của mùa hè bao giờ cũng tươi sáng rạng rỡ, nhưng đây thật sự là một mùa hè bi thương. “Lâm Lam.” Bên kia đường có người đang gọi cô ấy, là mẹ của Lâm Lam, trang điểm, ăn mặc rất trẻ trung, sành điệu, nhìn không giống một bà mẹ có con gái lớn như Lâm Lam. Đứng cạnh mẹ Lâm Lam là một thanh niên trẻ tuổi, dáng người cao ráo, khí chất xuất chúng. Xung quanh luôn có những ánh mắt lén nhìn về phía họ, tôi cũng không kìm được, liếc nhìn họ mấy lần. Lâm Lam dường như rất mẫn cảm với những ánh mắt như thế, cô ấy lập tức nhận ra, tôi cũng vội vàng xin lỗi: “Xin lỗi cậu!” Cô ấy vừa quay sang ríu rít vẫy tay với mẹ, vừa cười nói: “Không có gì. Mình rất hận bà ấy. Nhưng bà ấy là mẹ mình, nếu ngay cả mình cũng không bảo vệ mẹ, thì trên thế giới này không có ai bảo vệ mẹ nữa.” Cô ấy chào từ biệt tôi: “Mình đi đây, tạm biệt!” Cô ấy chạy về phía mẹ mình, tôi buồn buồn thầm nghĩ: “Tạm biệt!” Nhìn theo bóng cô ấy chạy mỗi lúc một xa dần, tôi thật sự ý thức được rằng, quãng thời học sinh cấp hai của chúng tôi đã kết thúc. Năm đó khi tốt nghiệp cấp một, lòng đầy mong chờ bước chân vào ngôi trường cấp hai, luôn cảm thấy rằng ba năm thật dài đằng đẵng, không ngờ, chỉ là một cái chớp mắt, nhưng trong cái chớp ấy, rất nhiều chuyện đã xảy ra. Người bạn đầu tiên của tôi trong trường cấp hai là Lâm Lam, cô ấy lại thi trung học chuyên nghiệp. Người bạn thân nhất của tôi là Hiểu Phi, đã biến mất không để lại dấu vết. Hai học sinh giỏi nhất, nhì như họ đều không học cấp ba, ngược lại đám học sinh lười biếng, mải chơi như tôi và Trương Tuấn lại có thể bước chân vào Nhất Trung. Tôi chầm chậm bước, đi về phía quán karaoke. Tiểu Ba không ở trong quán mà ngồi dưới gốc cây liễu ngoài quán hút thuốc. Nhìn thấy tôi, anh ấy mỉm cười. Tôi ngồi xuống bên cạnh, dựa vào vai anh ấy, anh ấy hút thuốc hỏi: “Buồn lắm phải không?”
Tôi không trả lời. Anh ấy lại mỉm cười nói tiếp: “Hồi tốt nghiệp cấp hai, khi nhìn danh sách trúng tuyển, anh cũng cảm thấy lòng mình trống trải, những người bạn anh có quan hệ gần gũi, thân thiết với anh trong trường đều là học sinh yếu kém, chỉ có một mình anh vào được Nhất Trung.” “Đưa em đi hóng gió!” Tiểu Ba ném điếu thuốc, quay vào trong lấy chìa khóa xe và mũ bảo hiểm, tôi ôm eo anh ấy, đầu ngả vào lưng anh ấy, nghe tiếng xe máy rồ ga phóng lên đường. Anh phóng càng lúc càng nhanh, dường như còn có thể đi nhanh được mãi. Rất lâu sau, anh dừng xe lại, tôi mở bừng mắt, thấy mình đang đứng ở bờ sông, anh cởi mũ bảo hiểm ra nói, “Ngồi một lúc nhé!” Chúng tôi ngồi bên bờ sông, Tiểu Ba nhìn chăm chăm xuống dòng nước, như đang suy nghĩ điều gì, tôi nhặt một cành liễu khô, vừa đập xuống nước vừa cố gắng nói bằng giọng thoải mái nhất: “Anh định sang năm sẽ thi trường đại học nào?” Anh châm một điếu thuốc, chầm chậm hút một hơi: “Thi đại học vẫn luôn là giấc mơ của anh, hoặc nói cách khác, làm một trí thức, vượt lên hoàn cảnh xuất thân và trưởng thành là giấc mơ của anh, mặc dù anh cũng giống hệt như những tên lưu manh côn đồ khác, hút thuốc, uống rượu, đánh nhau, nhưng trong lòng anh luôn đinh ninh mình không giống họ, khi Ô Tặc và anh Lý kết nghĩa anh em, Ô Tặc học theo anh Lý xăm hình lên người, nhưng anh kiên quyết không xăm, bởi vì sau này anh còn muốn trở thành sinh viên, không nên có những dấu vết không sạch sẽ trên người.” “Anh chắc chắn có thể vào đại học.” “Bây giờ, anh thay đổi suy nghĩ rồi, không muốn học đại học nữa. Bố mẹ Ô Tặc là những người buôn bán nhỏ, không có thu nhập ổn định, em trai cậu ấy còn đang đi học, việc làm ăn kinh doanh của anh Lý cũng cần người trông nom. Trước đây khi mở một cửa hàng bán đồ tạp hóa nhỏ, ba anh em nói sẽ cùng nhau tung hoành thiên hạ, giờ chỉ còn lại hai người, thiên hạ này vẫn phải tung hoành tiếp thôi.” Nụ cười trên môi tươi tắn hơn, Tiểu Ba búng búng tàn thuốc nói: “Trước mắt còn rất nhiều việc phải làm, thực sự anh không có thời gian để đi học bốn năm đại học.” Tôi cố gắng tỏ ra bình tĩnh nói: “Không học nữa thì thôi, là sinh viên cũng có phải là cái gì ghê gớm lắm đâu.” Những lời này chỉ có trái tim biết là tôi đang nói dối, thập niên chín mươi, những trường đại học còn chưa tuyển sinh nhiều và đại trà, thi đại học quả thật vô cùng khó, nên sinh viên vẫn rất được xã hội coi trọng, được mọi người coi trọng, chứ không giống như bây giờ, sinh viên được bán bằng cân như bán rau ngoài chợ. “Em có biết tại sao con người thường rất khó vượt qua hoàn cảnh xuất thân của mình không? Không hẳn vì bản thân người đó không nỗ lực, nhưng con người ai cũng có thất tình lục dục(4), chắc chắn đều bị ảnh hưởng bởi môi trường và con người xung quanh, vì vậy người xưa có nói “Mạnh mẫu tam thiên”(5), người nay nói “gần mực thì đen gần đèn thì rạng” là như thế.” Tôi vội nói luôn: “Nếu không học đại học là người xấu, thì trên thế giới này người xấu quá nhiều.”
Tiểu Ba cười ném điếu thuốc đã hút hết xuống dưới dòng nước, kéo tôi đứng dậy, ngồi lên xe mô tô. Chạy một lúc, anh ấy dừng xe lại trước một cửa hàng bán đồ chơi nhỏ, kéo tay tôi đi vào trong, người bên trong cửa hàng nhìn thấy anh ấy lập tức nở nụ cười chào đón: “Anh Tiểu Ba sao hôm nay lại có thời gian để đến đây thế ạ?” Tiểu Ba cũng cười nói: “A Kiện, muốn nhờ cậu xăm cho anh một hình.” A Kiện cười nói: “Không vấn đề”, rồi quay người vào trong cầm một tập bản mẫu ra, đặt lên quầy, lật từng trang, từng trang cho Tiểu Ba xem, vừa lật vừa giới thiệu: “Anh Tiểu Ba muốn chọn hình nào, mãnh thú hay mãnh cầm?” Tiểu Ba lật lật vài trang, dường như cảm thấy không hài lòng lắm, quay sang nhìn tôi: “Kỳ Kỳ, vẽ giúp anh một hình nhé!” Lòng tôi đang buồn bực muốn chết, anh ấy lại dùng hành động này để vạch rõ ranh giới với quá khứ của chính mình, dùng bức hình xăm cả đời không thể xóa mờ để luôn nhắc nhở bản thân về thân phận của mình. “Tại sao nhất định phải xăm hình? Chẳng đẹp gì cả, em học vẽ cũng chỉ là cưỡi ngựa xem hoa, ngoài hoa sen vẽ còn tạm được ra, vẽ cái gì cũng xấu”. Tiểu Ba mỉm cười nói: “Anh nhất định phải xăm. Kỳ Kỳ, bất luận vẽ xấu hay đẹp, chỉ cần em vẽ cho anh một bức hình là được.” Cuối cùng, tôi cũng phải lặng lẽ gật đầu, anh ấy cười quay sang nói với A Kiện: “Đợi khi bọn anh vẽ xong hình rồi, sẽ tới tìm cậu, anh muốn được xăm trong quán của mình, cậu cứ chuẩn bị sẵn dụng cụ rồi qua đó nhé.” A Kiện hồ hởi nhận lời. Dưới sự thúc giục của Tiểu Ba, tôi đành miễn cưỡng đặt bút vẽ. Nghĩ đến việc Tiểu Ba sinh năm rồng, tôi bỏ ra ba ngày, kết hợp hình ảnh rồng truyền thống Trung Quốc và rồng lửa của phương Tây, vẽ ra một con rồng đang bay, đang cưỡi mây đạp gió trên bầu trời bao la, đôi cánh lại bị một thanh kiếm đâm xuyên qua, những đám mây cuồn cuộn xung quanh đều bị nhuốm đẫm màu đỏ của máu. Khi A Kiện nhìn thấy bức vẽ, thận trọng nói: “Hình này rất lớn, e là sẽ phải chia ra xăm thành nhiều lần, nếu không cơ thể sẽ không chịu nổi.” Tiểu Ba nằm sấp trên chiếc giường gấp, nói: “Không vội. Cậu cứ từ từ mà xăm.” Tôi ngồi trên chiếc ghế sofa bên cạnh, chăm chăm nhìn A Kiện chích mũi kim đầu tiên lên tấm lưng sạch sẽ. Tôi định đi, Tiểu Ba gọi giật lại: “Kỳ Kỳ, ở đây với anh!” Tôi lại quay vào, kéo một chiếc ghế con ra, ngồi xuống trước mặt anh ấy, hỏi: “Đau không?” “Một chút thôi.”
Tôi nắm chặt tay Tiểu Ba, anh ấy nhắm nghiền mắt. Tôi lặng lẽ nhìn bức tranh hiện ra dần trên tấm lưng trần. Khi tôi vẽ, Tiểu Ba sốt sắng giục tôi, cứ như chỉ mong hình xăm ngay lập tức xuất hiện trên lưng mình vậy. Nhưng đến khi tôi hoàn thành bức vẽ, anh ấy lại chẳng tỏ vẻ gì là sốt sắng cả, thậm chí, có lúc rõ ràng là có thể vẽ thêm một chút nữa, nhưng anh ấy lại bảo A Kiện dừng tay, ngày mai tiếp tục. Thù lao trả cho A Kiện không ít, trả theo ngày, vì vậy A Kiện dù phải xăm trong mấy ngày cũng vẫn rất vui vẻ, nhưng dù chậm đến đâu, thì một tháng sau, cuối cùng bức hình cũng được xăm xong. A Kiện nhìn bức hình rồng bay gãy cánh trên lưng Tiểu Ba, có vẻ tự hào trước thành quả của mình: “Từ năm mười sáu tuổi em đã xăm hình cho người ta, tới tận bây giờ, đây là hình xăm đẹp nhất mà em từng xăm.” Tiểu Ba hỏi tôi: “Kỳ Kỳ, em thấy thế nào?” “Rất đẹp!” Con trai dù sao cũng vẫn khác với con gái, có thể A Kiện chưa từng được học vẽ qua bất kỳ trường lớp nào, nhưng cậu ta đúng là có tài, con rồng qua bàn tay của cậu ta, còn thể hiện được thêm vài phần kiêu ngạo, oai hùng nữa, đôi cánh đang nhỏ máu thật sự được khắc họa rất sống động, dũng mãnh. A Kiện khấp khởi hỏi Tiểu Ba: “Có cần tìm một cái gương lớn cho anh xem qua không?” Tiểu Ba đứng dậy, vừa mặc áo, vừa nói: “Sau này tha hồ xem.” Anh ấy đưa tôi đi ăn thịt dê xiên nướng. Sau khi ăn xong, trời đã xế chiều, chúng tôi đi dạo trên con đường có bóng cây râm mát. Anh ấy đột nhiên nói: “Kỳ Kỳ, chúng ta tuyệt giao nhé!” Tôi ngờ là tai mình đã nghe nhầm, kinh ngạc quay sang nhìn anh ấy. Anh ấy mỉm cười nói: “Chúng ta tuyệt giao, sau này không còn là bạn nữa, không chơi với nhau nữa.” Ánh tà dương chiếu rọi khiến khung cảnh xung quanh nhuốm một màu đỏ rực. Trong không khí thoang thoảng mùi thơm ngọt ngào của hương hoa, nụ cười của anh lại rất dịu dàng và bình thản, tất cả mọi thứ đều giống như vô số những buổi chiều mùa hạ mà chúng tôi đã cùng nhau trải qua. Tôi cười, đánh anh ấy một cái: “Thần kinh!” Anh ấy cũng cười, dang hai tay ra: “Có muốn ôm một lần cuối không?” Tôi cười nói: “Thì ra là muốn lấy cớ, định lợi dụng em phải không? Còn lâu mới cho anh ôm.” Anh ấy không cho tôi từ chối, kéo tôi ngã vào lòng, ôm tôi thật chặt. Tôi cười và cũng ôm lại anh ấy. Lòng thầm nhủ: “Tất cả rồi sẽ tốt lên thôi. Tất cả rồi sẽ tốt lên thôi.” Rất lâu, rất lâu sau đó, Tiểu Ba buông tôi ra, cười tít mắt nói: “Đưa em về nhà nhé!”
Tôi cười, đánh anh ấy một cái: “Lần sau nếu đột nhiên bị lên cơn thần kinh thì cũng phải tìm một cái cớ dễ nghe chút nhé.” Hai chúng tôi hi hi ha ha cười bước đi, vẫn như bao lần trước đó, khi còn cách nhà tôi một quãng, Tiểu Ba liền đứng lại, tôi vẫy tay chào: “Ngày mai em sẽ đến tìm anh.” Anh ấy đứng trong ánh hoàng hôn, nhìn tôi chăm chăm, chỉ lẳng lặng cười. Tôi nhanh chóng chạy về phía trước, khi đến trước lối rẽ vào khu nhà mình, quay lại vẫy tay chào, không nhìn thấy nét mặt anh ấy, chỉ thấy dưới không gian bao la của ráng chiều đỏ rực, hình bóng cao gầy của anh ấy thấm đẫm một màu cam đỏ huyền ảo. Ngày hôm sau, tôi đến quán karaoke tìm Tiểu Ba, người trong quán nói với tôi: “Anh Tiểu Ba không quản lý quán này nữa, anh ấy sang lo công việc làm ăn khác rồi.” “Giờ anh ấy đang ở đâu?” “Không biết.” Tôi không tin, cứ nhìn anh ta chằm chằm, anh ta đành nói như xin lỗi: “Anh Tiểu Ba muốn bọn anh chuyển lời tới em rằng, anh ấy không muốn gặp lại em nữa, em cũng đừng đến nữa, sau này, tất cả những cơ sở kinh doanh do anh Tiểu Ba quản lý đều không cho phép em vào.” Tôi gào lên chất vấn: “Anh có nhầm không đấy? Tôi là La Kỳ Kỳ!” Anh ta chỉ nhìn tôi bằng ánh mắt thương hại, như nhìn vô số những cô gái bị bạn trai bỏ rơi, nhưng lại sống chết không chịu chấp nhận thực tế. Lòng tự trong của tôi bị tổn thương, tôi quay người bỏ đi. Đi mãi, đi mãi, cảnh tượng của buổi chiều ngày hôm đó lại hiện ra trước mắt tôi. Đột nhiên, cả người tôi run lên bần bật, tôi khuỵu xuống đất, Tiểu Ba không nói đùa! Anh ấy thật sự muốn tuyệt giao với tôi! Nhưng tại sao chứ? Tôi đã làm sai chuyện gì sao? Tôi lên xe đạp thẳng tới Tại Thủy Nhất Phương, người đứng canh cửa trông thấy tôi, dứt khoát đẩy tôi ra ngoài, tôi cố gắng xông vào, liền bị anh ta đẩy ngã ra đất, còn cảnh cáo nếu tôi định xông vào nữa, anh ta sẽ thông báo cho bố mẹ và nhà trường. Người ra người vào đều nhìn tôi, mắt tôi ngấn lệ, nhưng cố kìm lại, không để nó chảy xuống và đứng lên, trốn vào một chỗ, nhẫn nại chờ đợi. Khi trời sắp tối, tôi nhìn thấy một chiếc xe mô tô quen thuộc đang phóng vào. Tôi lập tức lao ra, có người đứng chắn trước mặt tôi. Tôi hét lớn: “Hứa Tiểu Ba, anh hãy nói cho rõ ràng, rút cục tôi đã đắc tội gì với anh?” Tiểu Ba chẳng buồn quay đầu lại, giao xe cho đàn em cất, còn mình vừa tháo mũ bảo hiểm vừa đi vào vũ trường.
Dưới ánh đèn nê ông nhấp nháy, nước mắt của tôi cuối cùng không thể nhẫn nhịn hơn được nữa, bắt đầu lã chã rơi. Xe của anh Lý dừng lại bên cạnh. Anh ta kéo cửa xe xuống, nói với người vẫn đang kéo tay lôi tôi ra ngoài: “Lui ra trước đi!” Tôi nhìn anh ta qua làn nước mắt mờ ảo, mông lung, anh ta nói: “Kỳ Kỳ, sau này đừng đến tìm bọn anh nữa, tính cách Tiểu Ba em cũng hiểu đấy, một khi cậu ta đã quyết định, thì có chín con bò cũng không kéo lại được đâu. Sau này, trong bất cứ cơ sở kinh doanh nào của bọn anh, đều không cho phép em vào, tất cả đám đàn em của anh đều phải nghiêm túc chấp hành mệnh lệnh này.” Anh Lý bắt đầu kéo cửa kính lên, hất tay ra hiệu cho lái xe, tôi vừa gào khóc vừa hỏi: “Tại sao?” “Kỳ Kỳ, em và bọn anh không đi trên cùng một con đường, em có con đường riêng của mình.” Cửa xe đóng lại, xe của anh Lý cũng rời đi. Tôi khóc thút thít không ngừng, tôi và các anh không đi trên cùng một con đường? Vậy tôi đi cùng đường với ai? Bảy tuổi tôi chuyển đến thành phố này, chín tuổi quen các anh, tới giờ đã sáu năm trôi qua, gần như tất cả mọi nơi trong thành phố này đều do Tiểu Ba đạp xe đưa tôi tới, gần như tất cả mọi ký ức của tôi ở thành phố này đều có liên quan tới các anh, giờ các anh lại nói với tôi rằng, tôi không phải là người đi trên cùng một con đường! Tôi không đi tìm gặp Tiểu Ba nữa, bởi vì tôi biết, anh ấy đã nói tuyệt giao là sẽ tuyệt giao, cho dù tôi có khóc lóc tới chết ngất trước mặt anh ấy thì anh ấy cũng sẽ không nhìn tôi dù chỉ một cái, giống như năm xưa khi ở bên hồ nước, khi anh ấy ngồi học tiếng Anh, dù tôi có giở đủ mọi trò trước mặt, anh ấy nói sẽ không để ý tới tôi, vậy là tuyệt đối không để ý tới tôi thật. Sau khi tuyệt giao với Tiểu Ba, tôi lại không có bạn bè, không có nơi nào để đi. Em gái tôi ngày nào cũng ngồi ở nhà luyện đàn, tôi mắng nó ồn, nó lại quát tôi cứ ngồi ở nhà cản trở nó, tôi bảo nó đóng cửa vào mà tập, nó gào lên rằng: “Trời mùa hè nóng thế này, đóng cửa chẳng phải sẽ bị nóng chết hay sao? Sao chị không ra ngoài chơi với bạn đi?” Thì ra, căn nhà này đã không quen với sự tồn tại của tôi nữa, nên tôi đành xỏ giày bỏ đi. Tôi dùng tiền tiêu vặt, mua một bao thuốc loại rẻ tiền, ngồi hút bên bờ sông. Dòng sông vẫn giống như trước đây, nhưng mọi thứ đều đã thay đổi. Ngày hè oi ả và cô đơn, tôi ngồi dưới ánh mặt trời, từ từ hút hết điều thuốc này tới điếu thuốc khác, nghĩ lại một năm trước đây, tôi còn cùng Hiểu Phi nằm cuộn tròn trên ghế sofa, léo nha léo nhéo nói chuyện tương lai, tranh luận xem trường Thanh Hoa tốt hay
Bắc Đại tốt. Mỗi buổi sáng sớm tôi còn cùng Tiểu Ba đi đến ngồi ở đình nghỉ chân bên hồ sen học tiếng Anh, cùng nhau ôn tập. Nghĩ lại, có cảm giác xa xôi không thực tế, nhưng chỉ là quãng thời gian một năm, tại sao chỉ trong vòng một năm ngắn ngủi, cả thế giới lại thay đổi như thế? Nghĩ đến ba năm cấp ba dài dằng dặc trước mắt, đột nhiên tôi cảm thấy mệt mỏi vô cùng, giờ thì tôi bắt đầu hiểu vì sao Lâm Lam lại quyết định thi trung học chuyên nghiệp, chỉ là vì mệt mỏi rồi, không còn sức để chống đỡ nữa, muốn mau mau kết thúc, để sớm nhận được kết quả cho mình. Tôi ngồi bên bờ sông hết ngày này sang ngày khác, hút hết bao thuốc này tới bao thuốc khác, rồi đưa ra quyết định. Buổi tối, ăn cơm xong, tôi nói với bố mẹ: “Bố mẹ đừng đi nhảy vội, đợi con rửa bát xong, con có chuyện muốn thưa.” Sự trịnh trọng của tôi khiến bố mẹ cũng thấy coi trọng hơn, họ ra sofa ngồi đợi, rồi lo lắng hỏi tôi: “Chuyện gì thế? Con nói trước đi đã, bát đũa để rửa sau.” Tôi nói: “Con không muốn học cấp ba.” Mặt bố lập tức biến sắc, mẹ túm chặt cánh tay của bố, ra hiệu để bố đừng nóng vội, nhìn tôi hỏi: “Tại sao?” “Chẳng tại sao cả, chỉ là con không muốn học cấp ba thôi, con muốn đi làm sớm một chút, con có thể thi đỗ vào trường kỹ thuật, con nhất định sẽ thi đỗ, học hai năm là có thể đi làm được rồi.” Mặt bố tôi đanh lại: “Nhà chúng ta mặc dù không giàu có, nhưng cũng chưa đến mức phải để con đi làm kiếm tiền về nuôi gia đình, dù con có muốn hay không cũng phải học cấp ba.” Tôi thản nhiên trả lời: “Bố mẹ ép con đi học, con cũng đành phải theo thôi, ai bảo hai người là bố mẹ, còn con là con gái, không thể không nghe lời hai người. Nhưng nếu bây giờ cho phép con thi vào trường kỹ thuật, con còn có thể thi được vào một chuyên ngành tốt, nếu bố mẹ không đồng ý, vài năm nữa, con không dám chắc có thể thi được vào trường kỹ thuật hay không?” Bố tôi đứng phắt dậy, định vung tay lên, mẹ tôi vội vàng ôm chặt lấy ông, vừa ôm vừa kéo ông ra ngoài: “Anh ra ngoài trước đi, để em và Kỳ Kỳ nói chuyện riêng một lát.” Mẹ ngồi đối diện với tôi, tôi im lặng nhìn mẹ, lạnh lùng nghĩ mẹ không thể dùng bất cứ cách nào để có thể khiến tôi thay đổi quyết định. Mẹ nghĩ rất lâu, rồi mới bắt đầu nói: “Mẹ biết trong lòng con vẫn luôn oán hận bố mẹ đã gửi con về cho ông ngoại nuôi, cũng luôn cho rằng bố mẹ thiên vị, đối xử với em gái tốt hơn, nhưng hai con đều do mẹ sinh ra, lòng bàn tay hay mu bàn tay thì cũng đều là thịt, bố mẹ yêu thương hai con như nhau, chỉ có điều em gái con lanh lợi, hoạt bát hơn, thích nói thích cười, do đó bố mẹ tự nhiên cũng hay nói chuyện với em hơn; con ít nói, không
thích kể chuyện, tâm sự với bố mẹ, vì vậy bố mẹ mới ít nói chuyện với con hơn; con cứ suy nghĩ đi, xem mẹ có nói sai gì không? Hằng ngày khi cùng ngồi ăn cơm, em gái con bao giờ cũng vui vẻ kể cho bố mẹ nghe những chuyện xảy ra ở trường, con thường không nói gì, bố mẹ hỏi con, muốn nói chuyện với con, con lại chỉ nói một câu “không có gì” để quấy quá cho qua.” Tôi im lặng, lẽ nào tôi sinh ra đã mang trong mình tính cách trầm mặc cổ quái hay sao? “Thực ra, bố mẹ lo lắng cho con chẳng kém gì em con đâu, mỗi khi em gái con làm sai việc gì, bố mẹ thẳng thắn mắng nó một trận, nó khóc lóc một hồi, nhưng ngày mai sẽ lại gọi bố ơi bố ời ngay, chưa bao giờ giữ khoảng cách với bố mẹ. Còn con thì sao? Tính cách con bướng bỉnh lại mạnh mẽ, nói nhiều sợ con nổi loạn, không nói thì không yên tâm.” Mẹ nói xong, hai mắt cũng đỏ hoe. Thực ra, đạo lý đó tôi hiểu, bố mẹ không phải không yêu tôi, nếu thật sự không yêu tôi, đã đồng ý cho tôi đi học trường kỹ thuật ngay rồi, vừa đỡ phải bận tâm vừa đỡ tốn tiền, hà tất phải tốn công tốn sức nghĩ cách ép tôi học cấp ba bằng được? Chỉ có điều khi gặp những chuyện nhỏ cụ thể, sẽ vô thức tỏ ra thiên vị, nhưng những bậc làm cha làm mẹ dưới bầu trời này, có ai chịu thừa nhận mình thiên vị bao giờ, họ đều cho rằng đấy là những chuyện nhỏ nhặt không quan trọng, nhưng lại hoàn toàn không biết rằng thế giới của con trẻ vốn được tạo thành từ vô số những điều vụn vặt ấy. “Ông bà ngoại của con đều xuất thân từ gia tộc lớn, bà ngoại từng học trường nước ngoài, biết tiếng Anh, ông ngoại là một kỹ sư rất nổi tiếng, nhưng hai cô con gái của họ, đều không được học cấp ba, mẹ thì là vì bố dượng không chịu chi trả tiền học phí, còn dì con thì vì không hợp với mẹ kế, nhân lúc ông ngoại đi giám sát công trình ở ngoại tỉnh, đã tự ý lấy trộm hộ khẩu mang ra ngoài xin làm công nhân, đây là nỗi đau cả đời của ông ngoại con, con cứ nghe tên mẹ và dì con mà xem, là biết ông ngoại đã đặt nhiều kỳ vọng vào hai cô con gái như thế nào, nhưng cả mẹ và dì đều khiến ông thất vọng. Nay ông lại muốn dồn hy vọng sang con, trước lúc lâm chung, ông để lại riêng cho con hơn hai vạn tệ, nói là để sau này con học đại học, dặn dò mẹ nhất định phải nuôi con học đại học, còn nói, nếu con vào được đại học rồi, nhất định phải về thăm mộ ông.” Đã rất nhiều năm rồi không ai nhắc đến ông ngoại với tôi, nước mắt tôi không kiềm chế được, cứ lã chã rơi xuống. “Hơn hai vạn tệ bây giờ cũng không phải là một số tiền nhỏ, huống hồ là vài năm trước? Bà hai nhân lúc ông ngoại con ốm nặng, đã lấy và mang giấu hết tiền bạc trong nhà. Cả đời ông con đã sống không thanh thản, nên mẹ và dì con không muốn tới lúc cuối đời, vào giây phút lâm chung ông lại phải chứng kiến cảnh người thân, con cháu tranh giành tài sản, vì vậy đều nói dối ông là đã cầm được tiền rồi. Sau khi ông ngoại con mất, dì con cũng đã tuyên bố từ bỏ quyền thừa kế đối với một nửa căn nhà, chỉ giữ lại sách vở và bản thảo của ông, còn mẹ lấy cuốn Ỷ Thiên ĐồLong ký do ông đích thân chép tay.” Mẹ nói đến đến chỗ thương tâm, cũng bắt đầu khóc: “Con cũng đừng oán hận bà hai của con, bà không có con cái, vì thế quản tiền rất chặt, mẹ và dì con đều không trách gì bà. Mặc dù bố mẹ chẳng có bao nhiêu tiền, nhưng chỉ cần con học được, thì bố mẹ dù có phải đập nồi bán sắt vụn cũng sẽ lo cho con học, con chỉ cần nhớ đến tấm lòng của ông ngoại dành cho con là được.”
Mẹ lau khô nước mắt, nói tiếp: “Mặc dù ông ngoại rất muốn con học đại học, nhưng mẹ không muốn ép con, năm nay con cũng không còn nhỏ nữa, đã là thiếu nữ mười lăm tuổi rồi, ở tuổi này, mẹ đã đi làm ăn lương một năm rồi đấy, còn bố con thì theo người ta đi bốc dỡ than ở ngoài ga tàu tự kiếm tiền trang trải học phí cho mình, mẹ tin con có thể tự suy nghĩ, rồi đưa ra quyết định. Nếu như con vẫn muốn thi vào trường kỹ thuật, mẹ sẽ thuyết phục bố con, đồng ý cho con học trường kỹ thuật, sau này khi đến dập đầu trước mộ của ông ngoại, mẹ sẽ giải thích rõ với ông, là mẹ đã vô dụng, là mẹ đã khiến ông phải thất vọng, không liên quan gì tới con.” Mẹ khóc không thành tiếng, tôi cũng khóc nấc lên nấc xuống. Sau khi đợi tâm trạng bình tĩnh hơn một chút, mẹ nói: “Mẹ cho con ba ngày để suy nghĩ, suy nghĩ xong thì trả lời bố mẹ.” Tôi về phòng của mình, ôm cuốn Ỷ Thiên Đồ Long ký nằm trên giường, nước mắt vẫn tuôn rơi. Nghĩ suốt cả buổi tối, trong đầu chỉ hiện lên khuôn mặt với nụ cười hiền hậu của ông ngoại. Thực ra, tôi rất hiểu mẹ đang dùng kế lùi một bước để tiến ba bước, mấy câu nói sau cùng của mẹ hoàn toàn mang ý kích động tôi, nhưng đó là nguyện vọng của ông ngoại, đấy cũng là cách duy nhất mà tôi có thể tận hiếu với ông. Sáng sớm hôm sau, tôi bước vào phòng ngủ của bố mẹ, nói với họ rằng: “Con quyết định sẽ học cấp ba.” Mẹ và bố thở phào nhẹ nhõm như vừa trút được gánh nặng nghìn cân trên vai, bố lập tức bước đến ngăn kéo bàn lấy ra một cây bút máy đưa cho tôi: “Cây bút này rất đắt tiền, bố cố ý dành lại cho con, bố và mẹ con đã bàn bạc rồi, dù con có học thành người thế nào, chỉ cần con tự tin về bản thân mình là được, bố mẹ không yêu cầu con nhất định phải vào được đại học.” Trên thân bút có hai dòng chữ nhỏ mạ vàng: “Học hải vô nhai, khổ tác châu; thư sơn hữu lộ, cần vi kính”(6). Tôi cầm chặt chiếc bút máy trong tay: “Nếu đã quyết định học cấp ba rồi, con nhất định sẽ thi đỗ đại học. Con muốn đưa ra một yêu cầu.” “Con nói đi!” “Con muốn học cấp ba theo cách của mình, con mong bố mẹ hãy tin con, để con được tự do.” Bố nhìn mẹ, mẹ nói: “Được. Bố mẹ vẫn luôn tin con. Hơn nữa, mẹ và bố cũng có gò ép con cái gì bao giờ đâu, con xem hàng xóm xung quanh, có nhà nào quản con gái như bố mẹ không? Ngay em gái con, bố mẹ cũng không đồng ý cho đi chơi về nhà sau mười giờ tối, nhưng con đi chơi mười một giờ mới về, bố mẹ nhiều lắm thì cũng chỉ cảnh cáo con vài câu, thực ra bố con vẫn luôn coi con như con trai, không miễn cưỡng ép buộc con vào khuôn phép nào cả.”
Bố tôi cũng nói: “Từ năm mười ba tuổi bố đã vừa học vừa làm, nhờ công việc dỡ than trên ga tàu mà tự nuôi mình học hết trung học, bố tin con gái mình có thể tự chịu trách nhiệm về bản thân.” Tôi gật gật đầu, quay người đi ra khỏi phòng ngủ của bố mẹ, khúc mắc trong lòng đã được tháo gỡ, nhưng bức tường xa cách vô hình đã được xây dựng nhiều năm không dễ gì biến mất, dù sao tôi mãi mãi không thể giống như em gái mình, ôm vai bá cổ bố, ngã vào lòng mẹ nũng nịu, nhõng nhẽo, nhưng… thế là đủ rồi! Những cây liễu, cây dương bên bờ sông xanh tốt um tùm, làn gió mát mẻ buổi sáng sớm mang theo không khí ẩm ướt và thứ hương thơm thanh khiết của cỏ cây. Tôi ngồi bên bờ sông, cởi giày, ngâm chân xuống nước. Nhắm mắt lại, tất cả mọi hồi ức dường như đều hiện ra trước mắt. Năm tuổi, tôi rời xa ông ngoại, quay về ở với bố mẹ. Sáu tuổi, đi học rồi lại nghỉ học. Bảy tuổi, học nhờ trong trường tiểu học của quân đội, tôi quen Hiểu Phi. Tám tuổi, chuyển nhà tới thành phố này, tôi gặp Trương Tuấn. Chín tuổi, chống đối cô giáo Triệu, trốn tiết chạy ra quán game, ở đây tôi gặp Tiểu Ba. Mười tuổi, ngồi cùng bàn với Trần Kình, và gặp cô giáo Cao. Mười một tuổi, Quan Hà chuyển đến lớp tôi học. Mười hai tuổi, tôi và Hiểu Phi trùng phùng, gặp được cô Tằng Hồng. … Tôi đã từng nghĩ rằng thế giới này cho tôi quá ít, nhưng khi bình tâm lại, những thứ tôi có đâu ít hơn ai? Bố của Hiểu Phi luôn đánh mắng mẹ cô ấy, cô ấy triền miên phải đối mặt với những cảnh bạo lực trong gia đình. Bố Quan Hà qua đời từ rất sớm, Quan Hà vì phải ăn nhờ ở đậu nhà người ta, thường xuyên phải trông mặt đoán lời để lấy lòng bố dượng, và anh trai, chị gái. Bố của Tiểu Ba mất sớm, mẹ lại tâm thần bất ổn, gia cảnh kinh tế khó khăn, bần hàn. Lâm Lam mặc dù còn cả bố cả mẹ, nhưng lại phải đối mặt với những chuyện xấu hổ do mẹ gây ra và cuộc hôn nhân tan vỡ của bố mẹ, thay mẹ nhận lấy những lời xì xào, đàm tiếu. Trần Tùng Thanh chăm chỉ học hành như thế, nhưng vì gia cảnh bần hàn, buộc phải mang gánh nặng của gia đình trên đôi vai nhỏ bé. Họ đều đang rất kiên cường, đều đang mỉm cười, còn tôi thì sao? Quan hệ của bố mẹ tôi hòa thuận, đối xử với tôi cũng rất bao dung, còn cả ông ngoại luôn thương yêu tôi nữa, mặc dù khi còn nhỏ tôi thiếu tình yêu thương từ bố mẹ, nhưng lại có
được những ký ức đáng trân trọng với ông ngoại, em gái tôi không bao giờ biết được rằng ông ngoại của chúng tôi là một ông lão dịu dàng, nho nhã như thế nào, nó có những thứ mà tôi không có, nhưng tôi cũng có những thứ mà nó không có. Hồi tiểu học, tôi không có bạn bè, bị cả lớp cô lập, nhưng cũng chính vì bị cô lập, nên tôi mới quen được Tiểu Ba và Ô Tặc. Những gì Tiểu Ba đã làm cho tôi, cho dù có một nghìn người bạn cộng lại cũng không thể bằng một phần vạn số đó. Mặc dù tôi gặp phải cô giáo Triệu đáng căm hận, nhưng cũng đã gặp được cô Cao quan tâm và yêu thương tôi. Mặc dù gặp phải thầy Chậu Của Cải nhỏ nhen, ích kỷ, nhưng cũng đã gặp được cô Tằng Hồng cá tính phóng khoáng. Tôi có lý do gì để căm ghét thế giới này? Càng không có lý do gì để tự ngược đãi mình cả, đúng không? Tôi cầm hết số thuốc lá còn lại và bật lửa ném xuống dòng sông, nhìn chúng bị dòng nước cuốn đi, tất cả những gì của ngày hôm qua kết thúc ở đây! Tôi đứng dậy, một khởi đầu hoàn toàn mới, không chỉ là vì bản thân mình, mà còn là vì ông ngoại, bố mẹ, Tiểu Ba, Hiểu Phi, cô Cao, cô Tằng Hồng… Con người ta không thể chỉ biết sống vì bản thân mình, mà còn sống vì cả những người yêu mình nữa. Quãng thời gian chưa đến hồi kết Tối hôm trước, La Kỳ Kỳ ngủ rất muộn, khi tỉnh lại đã là buổi trưa. Sau khi ăn xong bữa sáng kiêm luôn bữa trưa, La Kỳ Kỳ quyết định đến trường Nhất Trung xem tình hình. Gọi một chiếc taxi, hơn hai mươi phút sau đã đến trường Nhất Trung, ngôi trường mà cô từng học suốt sáu năm. Con đường đến trường có quá nhiều thay đổi, La Kỳ Kỳ dù rất cố gắng nhưng cũng không thể nhận ra được mình đang ở đâu. Nhưng khi taxi tiến gần tới trường, khuôn mặt cô bừng sáng và nở một nụ cười rạng rỡ. Ngôi trường này lại không thay đổi gì, vẫn là cánh cổng trường với những song sắt màu đen, tấm biển tên màu trắng, những chữ lớn màu đen mạ vàng được viết rất rõ ràng trên đó. Hai bên là bồn hoa, trồng loại hoa tường vi lâu năm, có thể nở hoa suốt từ mùa xuân cho tới tận mùa thu mới tàn. Thay đổi duy nhất có lẽ là cây cối hai bên đường trước cổng trường đã mọc cao hơn, to hơn, rợp bóng mát hơn, khiến người ta vừa bước xuống xe, là cảm nhận ngay được bóng râm mát mẻ của nó. Vẫn giống như khi còn học cấp ba, trong giờ học cổng trường không mở, chỉ mở một cửa nhỏ bên cạnh phòng bảo vệ, bên trong có nhân viên bảo vệ ngồi. Chỉ có điều trước kia là một bác bảo vệ già, bây giờ lại là một thanh niên khoảng hơn hai mươi tuổi. Trước cửa có để một tấm biển: Nghiêm cấm những người không có phận sự vào trường, nếu tìm người, phải đợi ở cửa.
La Kỳ Kỳ cười, thoải mái bước những bước lớn đến. Cậu bảo vệ đứng dậy, định hỏi cô là ai, có chuyện gì, La Kỳ Kỳ đã cười gật đầu với cậu ta, rồi lại nhiệt tình hỏi: “Hôm nay không đọc báo sao?” Cậu bảo vệ trả lời một cách vô thức: “Đã đọc hết rồi ạ”. Nói xong, thì La Kỳ Kỳ đã đi vào trong sân trường, tiến thẳng tới văn phòng giáo viên. Cậu bảo vệ nhìn theo bóng La Kỳ Kỳ, tập trung ghi nhớ diện mạo của cô, thầm nghĩ phải nhớ thật kỹ, cô giáo này quả là rất thân thiện, tránh lần sau tưởng người lạ lại chất vấn người ta, thời buổi này tìm việc đâu có dễ, không thể tùy tiện đắc tội với người khác được. La Kỳ Kỳ rẽ về hướng khu lớp học, đi quanh khu lớp học của khối cấp hai một vòng rồi cô ngồi nghỉ ở chiếc ghế đá dưới tán cây bạch dương, ngay bên kia con đường nhỏ, là sân vận động với rất nhiều bàn bóng bàn. Vừa đúng lúc hết tiết, đám học sinh ùa ra như thủy triều dâng từ phía cửa khu nhà, chỗ nào cũng chỉ thấy những âm thanh ầm ầm như ong vỡ tổ. Sân trường vốn đang yên ắng, trong chớp mắt như biến thành một thế giới khác. Trong vườn cây, có mấy học sinh nam đang lén lút hút thuốc. Ở một góc cua, một học sinh nam đang cầm tay một nữ sinh đứng nói chuyện. La Kỳ Kỳ mím môi mỉm cười, mười mấy năm trước, cô chính là một trong những đứa trẻ trong đám đó. Cười rồi, lại bất giác không kìm được tiếng thở dài, thời gian trôi qua nhanh quá! Mấy bạn nữ sinh tay cầm kem, vừa đi vừa tranh luận với nhau, cô bạn xinh đẹp nhất rõ ràng là có thế lực nhất, mấy bạn còn lại trong nhóm đều ra sức giúp đỡ cho bạn ấy. Khi đi ngang qua chỗ La Kỳ Kỳ ngồi, cả nhóm đều tò mò liếc mắt nhìn La Kỳ Kỳ mấy lần, đột nhiên La Kỳ Kỳ rất muốn nói với các em ấy rằng, đừng cãi nhau nữa, hãy đối xử với nhau thật tốt, thời gian mà các em có thực ra ngắn hơn rất nhiều so với các em nghĩ. Phải mười phút sau, tiếng chuông vào lớp vang lên, toàn bộ đám học sinh lại như nước lũ ào ào tràn vào lớp học, tất cả những âm thanh ồn ào, náo nhiệt hoàn toàn biến mất. Chỉ có tiếng gió thổi qua rừng cây bạch dương, tạo thành những âm thanh lao xao, xào xạc. Những chiếc bàn bóng bàn trước mặt trống trơn không một bóng người, nhưng cô dường như lại nhìn thấy một nữ sinh mặc áo khoác đỏ, đứng giữa bàn bóng, đầu đội chiếc mũ len trắng, mũi cũng đỏ ửng vì lạnh. Khi còn học ở ngôi trường này, sao cô chưa bao giờ nghĩ đến việc, mình sẽ nhìn ngôi trường bằng ánh mắt thân thương và trìu mến như thế… Hết tập 1