Jane eyre phần ii

Page 1

rằng lối sống của thằng John và nguy cơ khuynh gia bại sản của gia đình chính là cội nguồn của nỗi ưu phiền trong lòng cô ta, nhưng bây giờ cô ta đã lấy lại tinh thần và có quyết định cả rồi. Cô ta đã giấu được một số vốn riêng và khi nào bà mẹ chết, – cô ta thản nhiên bảo rằng bà mẹ không thể qua khỏi hoặc sống lâu được nữa – cô ta sẽ thực hiện một dự định hằng ấp ủ bấy lâu, ấy là tìm đến một nơi ở ẩn để có thể đảm bảo cho những thói quen của mình không bị phá quấy và cách ly với lối sống phù phiếm của người đời. Tôi hỏi Georgiana có theo cô ta không. “Dĩ nhiên là không. Georgiana và cô ta đâu có điểm gì chung và chưa bao giờ được như vậy. Cô ta không thể mang theo mình gánh nặng ấy vì bất cứ một cân nhắc nào. Georgiana sẽ sống theo cách của Georgiana, và cô chị Eliza cũng sẽ có con đường của riêng mình.” Những lúc không dốc bầu tâm sự với tôi, Georgiana thường nằm ườn trên tràng kỷ ca cẩm về cảnh nhà buồn tẻ và lúc nào cũng chỉ mong ngóng một điều là được bà dì Gipson mời lên thị trấn chơi. “Sẽ tốt hơn nhiều nếu mình được chuồn khỏi đây một vài tháng, – cô ta nói bâng quơ – cho đến khi xong hết mọi chuyện thì thôi.” Tôi không hỏi cô ta nói “xong hết mọi chuyện” là thế nào, nhưng tôi cho là cô ta định nói đến cái chết của bà mẹ và lễ an táng bị thương của bà. Nói chung, Eliza thường chẳng buồn để ý đến cái thói lười biếng và hay than vãn của cái kẻ rầu rĩ đang nằm ườn trước mắt cô. Vậy mà một hôm, khi vừa bỏ cuốn sổ kết toán xuống và lấy đồ ra thêu, bỗng dưng cô ta bảo cô em: - Georgiana này, một con vật vô tích sự và lố bịch hơn cô chắc hẳn sẽ chẳng bao giờ được phép sống trên trái đất này làm gì cho thêm chật chội. Cô không có quyền được sinh ra đời, vì cô đâu có sử dụng cuộc đời vào việc gì. Đáng lẽ phải sống cho mình, bằng chính bàn tay của mình và với chính mình như bao kẻ biết nghĩ khác, thì cô lại chỉ tìm cách bó buộc sự yếu hèn của cô vào sức mạnh của người khác. Nếu không thể tìm được một người muốn gánh lấy cái thây bị thịt, yếu đuối, vô tích sự của cô thì cô lại gào ầm lên rằng cô bị đối xử bạc bẽo, bị bỏ rơi và khổ sở. Đối với cô, cuộc sống phải là một cảnh luôn thay đổi và kích động cơ, nếu không thì đời chỉ là một nơi ngục tối! Cô phải được ngưỡng mộ, được tán tỉnh và nịnh hót, cô phải có nhạc, có khiêu vũ và giao du đàn đúm cơ, nếu không thì cô lại chết! Chẳng lẽ cô không còn cách nào để dứt khỏi những lệ thuộc vào cố gắng và ý nguyện của người khác sao? Cô hãy lấy một ngày rồi đem chia thời gian cho từng công việc cụ thể mà làm, đừng để một khắc nào ăn không ngồi rồi, mười phút hay năm


phút cũng phải tận dụng. Việc nào cũng phải làm một cách đều đặn, nghiêm túc và có phương pháp. Một ngày luôn trôi qua rất nhanh trước khi cô nhận thấy sự bắt đầu của nó. Cô sẽ chẳng phải mang nợ hoặc cần đến sự giúp đỡ của ai để trốn tránh những lúc trống vắng, chẳng phải tìm ai để bầu bạn, trò chuyện, thông cảm hoặc chịu đựng. Tóm lại, cô sẽ sống như một người độc lập phải sống. Hãy cố mà nhớ lấy lời khuyên ấy, lời khuyên mà lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng tôi cho cô, rồi cô sẽ không cần đến tôi cũng như bất cứ một người nào khác cho dù có xảy ra chuyện gì đi nữa. Nếu cô phớt lờ lời khuyên đó và cứ tiếp tục sống như bây giờ, cầu xin, rên rỉ, lười chảy thây thì hãy cố mà gánh chịu hậu quả của sự ngu xuẩn đó, cho dù nó tồi tệ và khó chịu đựng đến thế nào chăng nữa. Tôi nói để cô biết và chịu khó vểnh tai lên mà nghe những điều tôi sắp nói đây, vì dù không nhắc lại thêm một lần nào nữa, tôi cũng sẽ nhất quyết hành động đúng như đã nói. Sau khi mẹ mất, tôi sẽ phủi tay với cô đấy. Sau khi đưa mẹ vào nhà thờ Gateshead, tôi và cô sẽ chia tay nhau như chưa hề bao giờ biết nhau. Cô đừng nghĩ rằng vì ngẫu nhiên chúng ta cùng được cha mẹ sinh ra mà tôi suốt đời phải chịu ràng buộc với cô, cho dù là sự ràng buộc nhỏ nhất. Tôi cũng có thể nói thẳng với cô thế này: nếu chẳng may cả loài người bị quét khỏi trái đất, chỉ còn trơ lại hai chúng ta, thì tôi cũng sẽ bỏ cô ở lại thế giới cũ mà đi sang thế giới mới. Eliza mím chặt môi lại. - Chị chẳng phải phiền lòng thuyết giảng như vậy mà làm gì. – Georgiana đáp lại. – Có ai không biết chị là kẻ ích kỷ và nhẫn tâm nhất trên đời này chứ. Tôi còn lạ gì sự hằn học của chị đối với tôi. Tôi đã có bằng chứng về cái tính xấu xa đó của chị khi chị giở thủ đoạn chơi tôi với nam tước Edwin Vere. Chị không thể chịu nổi cái cảnh tôi vượt lên hơn chị, có danh tước, được đón chào trong những nhóm người cao quý mà chị chẳng bao giờ dám vác mặt tới, vì thế mà chị giở cái trò mật thám, chỉ điểm ra phá hoại vĩnh viễn mọi viễn cảnh tương lại tốt đẹp của tôi. – Georgiana nói và rút khăn ra xỉ mũi đến cả tiếng đồng hồ. Eliza vẫn chăm chú ngồi khâu, vẻ lạnh lùng vô cảm. Chiều hôm ấy, trời trở gió và ẩm ướt lắm. Georgiana đọc tiểu thuyết rồi lăn ra ngủ trên ghế. Eliza đi dự lễ ở nhà thờ mới xây. Cô ta là một tín đồ rất nghiêm túc của tín ngưỡng tôn giáo, bất kể thời tiết như thế nào cô ta cũng đi dự lễ rất đúng giờ và cô coi đó là một bổn phận của những kẻ sùng đạo. Chủ nhật nào cũng vậy, dù xấu hay đẹp trời, cô ta cũng đến nhà thờ ba lần và thường thường, ngày nào có cầu kinh là cô ta có mặt.


Tôi chợt nghĩ phải lên gác thăm người phụ nữ khốn nạn xem tình tình ra sao, vì bà vẫn nằm bẹp gí một chỗ mà hầu như chẳng có ai thèm đoái hoài. Họa hoằn lắm mới thấy mấy gia nhân ló mặt vào, còn người nhũ mẫu được thuê để trông nom bà chủ thì xểnh một cái là lượn đi bất cứ chỗ nào mà có thể vì không bị ai quản lý. Chỉ có Bessie là người trung thành, nhưng chị lại hay bận việc riêng của gia đình nên cũng không thường xuyên đến với bà chủ được. Đúng như đã dự đoán, khi lên thăm bà, tôi không thấy bóng dáng bà nhũ mẫu đâu cả, bệnh nhân vẫn nằm im như kẻ chết rồi, vẻ mê mệt, bộ mặt xám ngoét lún tụt cả xuống gối. Lửa lò sưởi tối om, vẻ sắp lụi. Tôi tiếp thêm lửa, sửa lại khăn trải giường, nhìn bà một lúc rồi bỏ ra cửa sổ. Bà vẫn không hề hay biết gì. Những hạt mưa bắt đầu dập lộp bộp vào cửa kính, gió thổi cuồng loạn. “Vậy là người đàn bà đang nằm kia sắp sửa thoát khỏi cuộc giành giật của bao điều trên đời này. – Tôi trầm ngâm nghĩ ngợi. – Không hiểu sau khi được giải phóng, cái linh hồn đang vật lộn để thoát khỏi cái thể xác kia sẽ đến một phương trời nào? Đang suy tưởng về cái huyền bí lớn lao ấy, tôi chợt nhớ đến Helen Burns và những lời trăng trối, đức tin, luận thuyết của cô về sự bình đẳng giữa những linh hồn đã siêu thoát khỏi thể xác. Trong đầu tôi dường như vẫn đang văng vẳng vọng về cái giọng nói mà tôi còn nhớ rất rõ của Helen. Thế rồi tôi lại hình dung ra cái vẻ xanh xao, bộ mặt mòn mỏi nhưng có thần và cái nhìn như siêu thoát của cô lúc cô nằm trên giường bệnh và thì thầm ý nguyện được trở về với Chúa. Vừa lúc đó, một giọng nói thì thào bất chợt vang lên yếu ớt từ cái giường sau lưng tôi: “Ai đấy?” Tôi biết đã mấy ngày nay bà Reed không nói được, chẳng lẽ bà đã vượt qua cơn nguy kịch? - Là cháu đây, thưa mợ Reed. - Ai, cháu nào? Cô là ai? – Bà hỏi và nhìn tôi, vẻ ngạc nhiên và hơi hốt hoảng nhưng không còn dại dại nữa. – Tôi thấy cô lạ lắm… Bessie đâu rồi? - Chị ấy đang ở ngoài cổng, thưa mợ. - Mợ à! – Bà nhắc lại. Ai lại gọi tôi là mợ thế nhỉ? Cô không phải là người họ Gipson, nhưng hình như tôi cũng có biết cô. Tôi trông cái mặt, đôi mắt và


vầng trán kia quen lắm. Trông cô giống…sao thế nhỉ? Tôi trông cô giống Jane Eyre lắm! Tôi không dám nói thân phận của mình vì sợ bệnh nhân bị sốc. - Nhưng tôi sợ mình lầm. – bà nói tiếp – ý nghĩ của tôi đã đánh lừa tôi. Tôi muốn gặp Jane Eyre nên cứ tưởng tượng ra là giống đấy thôi chứ làm gì có. Mà cũng tám năm rồi còn gì, hẳn nó phải thay đổi nhiều chứ. Chỉ đến lúc ấy tôi mới dám nhẹ nhàng đảm bảo với bà rằng tôi chính là người mà bà đã đoán và muốn gặp. Thấy bà tỉnh táo hẳn và hiểu lời tôi nói, tôi bắt đầu kể lại chuyện chị Bessie đã bảo chồng đến Thornfield tìm tôi ra sao. - Tôi biết tôi đang ốm rất nặng. – Bà nói ngay. – Cách đây vài phút thôi, tôi đã thử trở mình nhưng không thể làm được. Tôi rất muốn đầu óc mình được thanh thản một chút trước khi chết mà khó quá. Có những điều lúc khỏe mạnh chẳng mấy khi tôi nghĩ đến, vậy mà đúng vào cái giờ này, chẳng hiểu sao chúng lại khiến tôi trĩu nặng đến thế. Chị nhũ mẫu có đây không? Hay ngoài cô ra có còn ai ở trong này không? Tôi đảm bảo với bà rằng trong phòng chỉ có mình tôi và bà. - Phải rồi, trước đây tôi đã hai lần không phải với cô nên bây giờ tôi cảm thấy rất hối hận. Một là tôi đã thất hứa với cậu cô là sẽ nuôi dạy cô như con đẻ, hai là… Nói cho cùng thì điều này có lẽ cũng chẳng quan trọng lắm, – bà lẩm bẩm một mình – biết đâu mình lại khỏe lên thì sao? Nếu thế, tự nhiên hạ mình với nó thì đau lắm. - Thôi được, đằng nào cũng phải làm cho xong. Cõi vĩnh hằng đã bày ra trước mắt mình rồi, cứ nói cho nó biết thì hơn… Cô hãy lại mở ngăn kéo bàn trang điểm của tôi và lấy phong thư tôi cất trong đó ra đây. Tôi làm theo như lời bà. “Đọc thư đi.” – Bà bảo tôi. Bức thư chỉ có vài dòng: “Thưa bà, Xin bà làm ơn gửi cho tôi địa chỉ của cháu gái tôi là Jane Eyre và cho tôi biết tình hình của nó hiện giờ ra sao. Tôi định viết vài dòng nhắn nó đến


Madeira với tôi. Chúa đã phù hộ tôi trong công việc làm ăn của tôi, mà tôi lại chưa vợ con gì nên rất muốn đỡ đầu nó, để sau này, khi tôi chết còn có người thừa kế gia sản. Rất cám ơn bà. John Eyre, Madeira.” Thư gửi cách đây đã ba năm. - Sao cháu chưa bao giờ được biết về chuyện này? – Tôi hỏi. - Vì lúc nào tôi cũng quá ghét cô để có thể đưa tay ra nâng đỡ cô thành người giàu có. Cô Jane ạ, tôi không thể quên cách xử sự của cô đối với tôi, cơn tức giận mà một lần cô đã trút lên đầu tôi, cái giọng điên khùng khi cô hét lên rằng cô ghê tởm tôi nhất trần đời, rồi cái giọng nói và cái nhìn không hề giống một đứa trẻ con khi cô ngoạc mồm ra bảo rằng chỉ nghĩ đến tôi thôi cũng làm cô phát sốt… Tôi không thể quên được những cảm xúc trong lòng khi cô nhảy xổ tới phun ra những lời chửi rủa độc ác. Tôi cảm thấy sợ như phải đánh đuổi một con vật lúc nó giương đôi mắt người lên trừng trừng nhìn lại tôi và nguyền rủa tôi bằng giọng nói cũng của người thật… Rót cho tôi cốc nước! Ôi, mau mau lên! - Mợ Reed thân mến, – tôi vừa nói vừa đưa nước cho bà uống – mợ cứ nghĩ đến những chuyện ấy làm gì, hãy gạt chúng ra khỏi đầu cho nhẹ. Xin mợ hãy tha thứ cho cái cách ăn nói thiếu suy nghĩ ấy của cháu. Hồi ấy cháu chỉ là một đứa trẻ con, từ bấy đến giờ cũng đã tám chín năm rồi còn gì. Bà không để ý đến lời tôi nói, nhưng khi đã uống một ngụm nước và lấy hơi, bà lại tiếp tục: Tôi đã bảo là tôi không thể quên được chuyện ấy và đã trả thù cô rồi kìa mà, vì nếu cô được cái ông chú John Eyre ấy nuôi nấng trong cảnh ăn sung mặc sướng thì làm sao tôi chịu nổi. Tôi đã viết thư bảo ông ta rằng tôi rất tiếc vì đã làm ông ta thất vọng, nhưng con Jane Eyre đã chết vì sốt phát ban ở Lowood rồi. Bây giờ, cô cứ việc làm gì thì làm, viết thư bảo tôi nói láo hay dối trá gì cũng được, tùy cô. Tôi nghĩ cô sinh ra trên đời này chỉ là để giày vò hành hạ tôi, hành hạ cho đến tận giờ phút lâm chung này khi nhớ lại một việc mà nếu không có cô thì có lẽ tôi đã không phạm phải.


- Mợ ơi, giá mợ có thể quên được những chuyện đó và nhìn cháu bằng ánh mắt độ lượng và khoan dung thì… - Cô là người rất xấu tính, – bà nói tiếp – mà cho đến tận bây giờ tôi vẫn không thể hiểu nổi cô. Tại sao suốt chín năm trời, cô luôn tỏ ra nhẫn nại và thản nhiên trước mọi cách xử sự, thế mà đến năm thứ mười, đùng một cái cô bỗng đâm nổi loạn, đến tận bây giờ tôi vẫn không thể hiểu được. - Tính chau đâu đến nỗi tồi tệ như mợ vẫn nghĩ. Quả thực cháu có thiếu suy nghĩ, nhưng không có tính thù hằn đâu, mợ ạ. Khi còn là một đứa trẻ, cháu sẽ rất vui nếu được yêu quý mợ nếu được mợ cho phép. Và bây giờ, cháu cũng rất mong được làm lành với mợ. Mợ hãy hôn cháu đi. Tôi cúi xuống sát người bà, nhưng bà không hôn. Bà bảo tôi làm như vậy không khéo đè bẹp cả người bà, rồi bà lại đòi uống nước. Tôi phải nâng bà dậy, giữ bà trong tay tôi để bà dễ uống. Đặt bà xuống rồi, tôi lấy hai tay ấp ủ cho bàn tay giá lạnh dính nhơm nhớp của bà, nhưng bà đã rút những ngón tay yếu ớt lại, ánh mắt dại dại nhìn lảng đi chỗ khác. - Thôi mợ ạ, mợ có yêu cháu, hay ghét bỏ cháu thì tùy, – cuối cùng tôi nói với bà, – nhưng cháu vẫn bỏ qua mọi chuyện cũ. Bây giờ mợ hãy cầu Chúa cho lòng thanh thản đi. Tội nghiệp người đàn bà đau khổ! Giờ đã quá muộn để bà cố gắng thay đổi nếp suy nghĩ của mình. Bình sinh, bà đã thù hận tôi khôn nguôi, vậy thì lúc đang chết này chắc hẳn là bà vẫn còn thù ghét tôi. Đúng lúc ấy, bà nhũ mẫu bước vào, theo sau là chị Bessie. Tôi cố nán lại thêm nửa tiếng đồng hồ nữa, với hy vọng sẽ được thấy một dấu hiệu thân thiện nào đấy của bà, nhưng rốt cuộc vẫn không có gì thay đổi. Sau đó bà lại mê man và không thấy tỉnh lại nữa. Bà trút hơi thở cuối cùng vào đúng nửa đêm hôm ấy. Tôi không có mặt ở đấy để vuốt mắt cho bà, cả hai cô con gái bà cũng vậy. Sớm hôm sau, người ta cho chúng tôi biết mọi công việc đều đã xong. Khi người ta liệm cho bà, Eliza và tôi nhìn mặt bà một lần cuối, còn Georgiana thì khóc ầm lên và kêu sợ không dám vào. Cái thân hình của bà Sarah Reed một thời đẫy đà và linh hoạt là thế, nay nằm cứng đờ một chỗ. Đôi mặt ác nghiệt ngày nào nay đã khép lại dưới vành mi băng giá. Vầng trán và những đường nét mạnh mẽ trên gương mặt vẫn còn đọng lại một cái gì đó của một tâm hồn nghiệt ngã. Tôi thấy thi thể bà lúc này chẳng khác nào một vật thật lạ lùng và trang nghiêm. Tôi im lặng ngắm xác bà, quả thực nó chẳng


gợi trong tôi được cảm xúc gì là thương cảm, dịu dàng, ngọt ngào, hy vọng hay chịu đựng mà chỉ khiến tôi thấy buồn cho những đau khổ của bà, chứ không phải sự mất mát của tôi. Thú thực là tôi đang trải qua một nỗi sợ hãi âm u và không thể khóc được trước cái chết như vậy. Eliza bình tĩnh nhìn xác mẹ. Sau mấy phút yên lặng, cô ta nói: - Với một thể chất như thế, lẽ ra bà ấy còn có thể sống lâu hơn nữa. Đau khổ đã làm cho cuộc đời bà ngắn lại. Môi cô ta giật giật một lát, sau đó cô bước ra khỏi phòng, tôi bước theo sau. Chúng tôi không ai nhỏ lấy một giọt nước mắt.



Chương 22 Ông Rochester chỉ cho tôi vắng một tuần, vậy mà tôi đã nán lại Gateshead cả tháng trời. Tôi định rời khỏi đây ngay sau khi đám tang được tổ chức xong xuôi, nhưng Georgiana cứ nài tôi ở lại cho đến khi cô ta đi Luân Đôn. Cuối cùng thì cô ta cũng đã được ông cậu Gipson mời về nhà ông chơi khi ông về đây đưa đám bà chị và thu xếp việc gia đình. Georgiana nói cô ta sợ phải ở với Eliza một mình vì không thể tìm thấy một chút thông cảm nào của người chị trong lúc đau buồn này. Eliza không hề an ủi cô ta trong những lúc sợ hãi và cũng chẳng buồn giúp cô ta một tay trong việc chuẩn bị hành lý đi Luân Đôn. Dù rất chán, nhưng tôi vẫn gắng chịu đựng những lời than vãn ích kỷ, yếu đuối của cô ta và giúp cô ta khâu vá, gói ghém các thứ cần thiết cho cuộc hành trình. Chỉ có điều trong lúc tôi cắm cúi làm giúp thì cô lại ngồi chơi, khiến tôi nghĩ bụng: “Nếu tôi buộc phải sống với cô, cô em họ của tôi ạ, thì chúng ta sẽ phải giải quyết mọi vấn đề một cách khác hẳn. Đừng hòng bắt tôi gánh hộ cô phần khó nhọc, tôi sẽ bảo cô làm và bắt cô phải làm, làm bằng được. Nếu không tôi cung sẽ mặc xác cô, sẽ buộc cô phải ngậm miệng chứ không phải suốt ngày phun ra những lời than vãn ủ ê, giả dối của cô. Tôi có bằng lòng kiên nhẫn giúp cô như thế này chẳng qua cũng là vì mối quan hệ tạm thời giữa cô và tôi trong lúc tang gia mà thôi.” Cuối cùng thì Georgiana cũng rời đi Luân Đôn, nhưng tôi vẫn chưa thể đi được vì lại đến lượt Eliza nài nỉ tôi ở lại thêm tuần nữa. Cô ta bảo mọi kế hoạch đã định đòi hỏi cô ta phải rất thận trọng và mất tất cả thì giờ. Cô ta sẽ đến một nơi xa xôi không ai biết. Cô ta chẳng buồn tiếp ai, mà cứ cài chặt cửa và ở lỳ trong phòng suốt cả ngày để đóng hòm xiểng, dọn ngăn kéo và đốt giấy tờ. Cô ta muốn tôi trông nom nhà cửa, tiếp khách thăm viếng và trả lời thư chia buồn. Một buổi sáng, cô ta bảo tôi chẳng còn phải làm gì nữa. “Và tôi rất cám ơn – cô ta nói tiếp – sự giúp đỡ quý báu và cách cư xử thầm lặng của chị. Việc phải chung sống giữa một người như chị và một người như Georgiana quả thực cũng có ít nhiều khác biệt. Chị có thể tự đảm đương phần việc của mình trong cuộc sống và chẳng cần nhờ vả ai. Ngày mai, tôi sẽ lên đường sang lục địa và nương nhờ một nhà thờ ở gần Lisle, nơi người ta vẫn gọi là tu viện. Tôi sẽ sống một cuộc đời bình lặng, không lo bị quấy rầy. Tôi sẽ dành thời gian cho việc kiểm chứng các giáo lý của Thiên chúa giáo La Mã và nghiên cứu kỹ về hệ thống thực hành các giáo lý ấy. Nếu tôi thấy đó đúng là


hệ thống tốt nhất có thể đảm bảo sự thực hành của vạn vật một cách hợp lễ giáo, có trật tự như tôi vẫn bán tin bán nghi thì tôi sẽ thừa nhận các giáo điều của La Mã và có khi còn mặc áo tu hành nữa. Tôi không lấy làm ngạc nhiên về quyết định của cô ta và cũng chẳng buồn can ngăn cô ta làm gì. “Khuynh hướng ấy có vẻ hợp với cô lắm, – tôi nghĩ thầm – cầu mong cho cô được toại nguyện”. Khi chúng tôi chia tay, cô ta bảo: “Tạm biệt nhé, cô chị họ Jane Eyre của tôi, cầu mong cho chị mọi sự tốt lành, chị cũng là người có đôi chút lương tri đấy.” Tôi trả lời: “Eliza này, cô không phải là người không có lương tri, cô em họ của tôi ạ, nhưng tôi cho rằng chỉ trong một năm nữa, lương tri của cô sẽ bị nhốt kín trong cái tu viện Pháp ấy thôi. Dù sao thì đó cũng chẳng phải là việc của tôi, và nếu nó hợp với cô thì tôi cũng chẳng việc gì phải bận tâm cả.” - Chị nói đúng lắm! – Eliza đáp lại một câu. Thế rồi chúng tôi mỗi người mỗi ngả. Vì chẳng còn dịp nào nhắc đến Eliza và em gái cô ta nữa nên tôi có thể vắn tắt luôn với các bạn rằng Georgiana đã lấy được một tấm chồng giàu có và sống thời thượng lắm; còn Eliza thì đã khoác áo nhà tu và hiện đang là bề trên cai quản cái tu viện mà cô ta đã qua thời kỳ tu hành tập sự và cũng là nơi cô ta hiến tất cả tài sản của mình vào. Không hiểu người ta cảm thấy thế nào khi trở về nhà sau một chuyến đi xa, lâu hay chóng cũng vậy, chứ tôi thì tôi chưa hề có cảm xúc ấy. Thủa nhỏ, tôi cũng đã được biết cái cảm giác của một kẻ bỏ đi chơi xa Gateshead, để rồi khi trở về ló mặt vào nhà đã bị mắng té tát về cái tội lì lợm, không chịu báo cho ai biết. Sau này, tôi cũng từng trải qua cái cảm tưởng lóc cóc cuốc bộ từ nhà thờ trở về Lowood, vừa đi vừa mong được một bữa thật no bụng và ngồi yên bên lò sưởi ấm nồng, nhưng rồi cũng không được ăn mà cũng chẳng hề được sưởi. Những lần trở về ấy thật chẳng có gì vui và hoàn toàn không đáng mong đợi. Chẳng có hòn nam châm nào hút tôi về một nơi tôi phải về và khiến tôi càng về gần thì sức hút của nó càng mạnh. Nhưng dẫu sao thì tôi cũng thử quay về Thornfield xem sao. Cuộc hành trình của tôi thật buồn tẻ, đi năm mươi dặm một ngày, ngủ lại một đem ở quán trọ, rồi hôm sau lại đi tiếp năm mươi dặm nữa. Suốt mười hai giờ đầu tiên, tôi chỉ nghĩ đến lúc lâm chung của bà Reed. Tôi nhìn thấy mặt bà méo mó biến dạng và trắng bệch, nghe thấy giọng nói của bà cũng


thật kỳ lạ. Tôi nghĩ đến cảnh đưa ma, cỗ quan tài, chiếc xe tang, đám gia nhân mặc toàn đồ đen và có rất ít người họ hàng thân thích, ô cửa nhà mồ mở rộng ngoác, giáo đường lặng lẽ và lễ cầu hồn trang nghiêm. Rồi tôi lại nghĩ đến Eliza và Georgiana, hình dung ra một người là trung tâm điểm của những phòng khiêu vũ và một người chỉ biết đắm chìm trong tu viện. Và tôi suy ngẫm những sự khác biệt về con người và tính cách của họ. Buổi tối, về đến thành phố… mọi suy nghĩ của tôi bắt đầu bị phân tán và đến đêm thì đầu óc tôi đã chuyển theo một hướng khác. Ngả lưng trong quán trọ, tôi phải gạt đi mọi hồi ức để nghĩ đến chặng đường tiếp theo. Tôi đang trở về Thornfield, nhưng liệu tôi còn ở lại đấy bao lâu nữa? Tôi chắc là cũng chẳng còn bao lâu nữa. Trong thời gian tôi đi vắng, bà Fairfax có gửi thư cho tôi và bảo rằng khách khứa ở lâu đài đã tản mạn bỏ về hết. Ông Rochester cũng đi Luân Đôn từ ba tuần trước và khoảng hai tuần nữa mới về. Bà Fairfax bảo hình như ông đi chuẩn bị các thứ cần thiết cho lễ cưới, vì thấy ông nói sẽ mua một cỗ xe ngựa mới. Bà bảo cứ nghĩ đến chuyện ông định cưới cô Ingram là bà lại thấy lạ, nhưng theo những gì người ta bàn tán và những gì bà thấy tận mắt thì cũng chẳng có gì phải nghi ngờ nữa. “Nếu còn chưa tin ở điều đó thì bà quả là một người nhẹ dạ quá. – Tôi nghĩ bụng. – Tôi không nghi ngờ đâu.” Rồi tôi lại tự hỏi: “Mình biết về đâu nữa?” Suốt đêm hôm đó, tôi chỉ nằm mơ thấy cô Ingram. Gần sáng, tôi mê thấy mình bị cô ta đuổi thẳng cổ khỏi lâu đài Thornfield, trong khi ông Rochester đứng khoanh tay trước ngực và mỉm cười nhìn hai chúng tôi, vẻ rất chua chát. Tôi không báo cho bà Fairfax chính xác ngày về của mình, vì tôi không muốn ai đến Millcote đón mình. Tôi định đi bộ một mình nốt quãng đường còn lại và sau khi gửi lại hành lý cho chủ xe ngựa, tôi lặng lẽ rời quán George vào lúc sau giờ một buổi chiều tháng Sáu và theo lối cũ về Thornfield. Đoạn đường này chủ yếu đi qua những cánh đồng đang rất vắng người qua lại. Đó không phải là một chiều hè sáng láng và lộng lẫy, mặc dù tiết trời thật êm ả. Thỉnh thoảng tôi cũng gặp những người cắt cỏ đem phơi. Tôi cảm thấy trong lòng vui vui khi thấy con đường trước mắt cứ ngắn dần. Tôi vui đến nỗi một lần dừng lại, tôi phải tự hỏi niềm vui ấy có nghĩa gì và phải tự nhắc mình rằng nơi tôi đang về kia đâu phải là nhà tôi, đâu phải là nơi tôi có thể ở mãi và nơi những người bạn thân thiết của tôi mong đợi tôi đến. “Chắc là bà Fairfax sẽ mỉm cười đón chào mi, – tôi lẩm bẩm với chính


mình – và cô bé Adèle cũng sẽ vỗ tay nhảy cẫng lên khi trông thấy mi. Nhưng mi thừa biết rằng mi chỉ nghĩ đến một người khác, mà người đó thì đâu có nghĩ đến mi.” Nhưng còn ai ngang bướng hơn tuổi trẻ? Còn ai mù quáng hơn những kẻ thiếu từng trải? Nhưng kể cả như vậy, tôi vẫn cảm thấy “có đặc ân được gặp ông Rochester một lần nữa là đủ vui rồi, cho dù ông ấy có để mắt đến tôi hay không.” Chính điều đó đã thúc giục tôi: “Nhanh chân lên! Hãy rảo bước đến với ông ấy trong lúc còn có thể! Nếu không chỉ vài ngày hoặc vài tuần nữa thôi, mi sẽ phải xa ông ấy mãi mãi đấy.” Tôi cố gạt đi nỗi buồn vừa chớm trào lên trong lòng – một nỗi lòng vô lý mà tôi không có quyền ôm ấp. Tôi bắt đầu co cẳng chạy. Trên những cánh đồng Thornfield vẫn lác đác bóng người cắt cỏ, một số khác đã xong việc và vác bồ cào trở về nhà. Tôi sắp về đến cái nơi tôi phải về, chỉ còn một hai cánh đồng nữa, rồi đi ngang qua một con đường là đến cổng lâu đài. Các bờ giậu sao mà nhiều hoa hồng nở rộ đến thế! Nhưng tôi chẳng hái được bông nào vì muốn vào nhà ngay. Tôi đi qua một cây tầm xuân đầy hoa nở, có cành lá la đà che cả đường đi, rồi đến một lối nhỏ có những bậc đá. Tôi thấy… ông Rochester ngồi đó, tay cầm một quyển sách và cây bút chì. Ông đang hí hoáy ngồi viết gì đó trên bậc trèo. Ừ, ông đâu phải là một bóng ma, vậy mà không hiểu sao người tôi cứ rã rời tưởng chừng không còn đứng vững được nữa. Làm sao thế? Tôi không nghĩ mình lại có thể run lên – hoặc không thể cử động và nói nên lời – như vậy khi trông thấy ông. Chỉ đến khi định thần lại được, tôi mới chợt nhớ rằng mình vẫn có thể vào nhà bằng một lối khác. Nhưng than ôi! Dù tôi có biết đến cả chục lối vào thì cũng thế thôi, vì ông Rochester đã trông thấy tôi rồi. - Ơ kìa! – Ông reo lên và đặt sách, bút xuống. – Cô nàng về đây rồi, lại đây nào! Chẳng còn cách nào khác, tôi đành phải bước lại phía ông, dáng vẻ tôi lúc ấy ra sao tôi cũng không rõ nữa, chỉ biết rằng lúc đó tôi đã cố làm ra vẻ bình tĩnh và kìm nén những thớ thịt đang giật giật trên hai gò má như đang định chống lại tôi, muốn tôi bộc lộ những cảm xúc giấu kín trong lòng. Cũng may là tôi chưa kéo mạng che mặt lên… nhưng dù vậy, tôi vẫn cố giữ cho nét mặt bình thản. - Jane Eyre đấy phải à? Cô từ Millcote về phải không? Mà lại là đi bộ


nữa? Phải rồi, lại là một trò đùa của cô rồi! Cô không bảo cho xe đến đón và không muốn về đây với tiếng bánh xe lộc cộc trên đường như người khác, mà lại lẳng lặng về nhà cũng bóng hoàng hôn, như thể cô đang đi trong mơ hoặc cô là một cái bóng. Thế cô đã làm gì trong suốt một tháng vậy? - Thưa ông, tôi ở lại với mợ tôi, bà ấy chết rồi. - Đúng là chỉ có Jane mới trả lời như vậy! Cầu mong các thiên thần tốt bụng hãy che chở cho tôi! Cô ta vừa đến từ một thế giới khác – từ thế giới của những người đã chết – và cô ta đã bảo tôi như vậy khi thấy tôi ngồi một mình dưới ánh chiều tà nơi đây! Nếu dám, tôi sẽ thử sờ vào người cô xem cô là người thật hay chỉ là một cái bóng, nàng yêu tinh ạ! Nhưng thôi, có làm vậy hì tôi cũng chỉ túm được cái bóng ma trơi xanh lè trong đầm lầy thôi. Rõ khéo lẩn tránh! Rõ khéo lẩn tránh! – Ông ngừng một lát rồi nói tiếp: “Đi xa một tháng, chắc là cô quên hẳn tôi rồi!” Tôi biết tôi sẽ rất vui khi được gặp lại Rochester, mặc dù tự đáy lòng mình, tôi vẫn lo chẳng bao lâu nữa ông sẽ chẳng còn là ông chủ của tôi và rồi tôi sẽ chẳng còn là gì đối với ông. Nhưng đối với tôi (ít nhất là tôi nghĩ như vậy), ông Rochester sẽ mãi là một nguồn hạnh phúc dồi dào, và những cánh chim lạc loài xa lạ như tôi chỉ cần được nếm những mảnh vụn mà ông vung vãi cho cũng đã sung sướng lắm rồi. Những câu cuối cùng ông vừa nói với tôi chẳng khác nào một niềm an ủi, dường như chúng ám chỉ một câu hỏi thật quan trọng đối với ông rằng tôi có quên ông hay không. Và ông nói như thể Thornfield chính là nhà của tôi vậy. Giá như Thornfield cũng chính là nhà của tôi! Ông vẫn không rời khỏi bậc trèo, khiến tôi khó có thể đi qua được. Tôi hỏi ông đã đi Luân Đôn chưa. - Rồi, chắc là cô có khả năng tiên đoán nên mới biết được điều đó. - Bà Fairfax đã viết thư kể cho tôi mà. - Thế bà ấy có bảo cô là tôi đi làm gì không? - Ồ, có, thưa ông! Mọi người đều biết chuyến đi của ông. - Jane ạ, có khi cô phải đi xem cỗ xe ấy đi, rồi cho tôi biết nó có xứng với bà Rochester không, và khi bà Rochester dựa lưng vào cái đệm xe màu đỏ ấy


thì liệu có giống nữ hoàng Boadicea không. Tôi chỉ mong sao cái mã của tôi tương xứng với cô dâu một chút, Jane ạ. Cô là một nàng tiên, vậy cô thử nói xem liệu cô có thể ban cho tôi một câu thần chú, hay một cái gì đó đại loại như vậy để tôi có thể trở thành một người đẹp trai không? - Điều này vượt ra ngoài sức mạnh của ma thuật, thưa ông – Tôi nói và nghĩ thầm: “Một ánh mắt chan chứa tình là tất cả những gì cần cho sức quyến rũ, và như vậy thì ông đã đủ đẹp trai rồi. Nói đúng hơn, sự rắn rỏi của con người ông có một sức mạnh vượt xa cái đẹp.” Thỉnh thoảng ông Rochester cũng đọc được các ý nghĩ của tôi một cách rất nhạy cảm mà tôi không thể hiểu nổi. Ông không để ý đến câu trả lời cộc lốc vừa rồi của tôi, mà mỉm cười với tôi, một nụ cười chỉ riêng ông mới có nhưng hiếm khi thấy ông dùng đến. Hình như ông nghĩ nụ cười ấy quá cao đẹp đối với những dụng ý tầm thường. Nụ cười hiếm hoi ấy quả là mặt trời cảm xúc mà ông đang chiếu dọi vào tôi. - Thôi, vào đi, cô Jane ạ. – Ông nói và nhường chỗ cho tôi qua bậc trèo. – Lên lên nhà đi, hãy về cho đôi chân lang thang mệt mỏi của cô được nghỉ ngơi trên ngưỡng cửa của một người bạn. Tất cả những gì tôi phải làm bây giờ là lẳng lặng nghe theo lời ông và chẳng cần phải nói thêm lời nào nữa. Tôi bước qua bậc thềm và định điềm nhiên tạm biệt ông. Nhưng dường như có một sự thôi thúc nào đó đã giữ tôi ở lại. Tôi nói – hay một cái gì trong tôi nói ngoài ý muốn của tôi: - Cám ơn tấm lòng tử tế mà ông đã dành cho tôi, thưa ông Rochester. Tôi rất lấy làm vui khi được trở về với ông và cho dù ông ở bất cứ nơi đâu, tôi cũng sẽ coi đó là nhà mình, ngôi nhà duy nhất của mình. Rồi tôi bước thật nhanh, đến nỗi nếu ông có muốn giữ lại cũng không kịp. Cô bé Adèle đã nhảy cẫng lên như sắp phát điên khi vừa trông thấy tôi. Bà Fairfax cũng đón tôi bằng tình cảm chân tình như mọi khi. Còn Leah thì [63] mỉm cười, và Sophie thì nói “bonsoir” thật vui vẻ. Tôi cảm thấy chẳng còn gì vui hơn. Quả thực là chẳng còn gì hạnh phúc hơn khi được mọi người xung quanh yêu mến và khi cảm thấy sự có mặt của mình đã làm cho mọi người thêm vui. Chiều tối hôm ấy, tôi kiên quyết nhắm mắt không nhìn vào tương lai, bịt


chặt tai để khỏi phải nghe những lời báo trước cảnh chia tay và nổi đau sắp đến. Dùng trà xong, bà Fairfax mang đồ ra đan, tôi lấy ghế ngồi cạnh bà, còn Adèle thì quỳ xuống tấm thảm và nép vào người tôi. Dường như một cảm xúc trìu mến yêu thương lẫn nhau đang vây quanh chúng tôi trong vòng tay êm đềm vô giá. Tôi thầm cầu nguyện cho chúng tôi sớm muộn cũng không phải xa nhau. Ông Rochester bất chợt bước vào. Thấy chúng tôi ngồi quây quần như vậy, ông có vẻ rất hài lòng. Nghe ông nói ông cảm thấy bà Fairfax đang rất vui vì được gặp lại đứa con nuôi và Adèle cũng “sẵn sàng quấn quýt bên người mẹ Anh bé nhỏ”, tôi lại mạo muội hy vọng ông sẽ để cho ba chúng tôi tiếp tục được sống bên nhau ở một nơi nào đó dưới sự che chở của ông, ngay cả khi ông đã cưới vợ rồi. Kể từ khi tôi về đến nay đã được hai tuần rồi mà lâu đài Thornfield vẫn lặng lẽ đến đáng ngờ. Chẳng có dấu hiệu gì cho thấy sẽ có đám cưới của ông chủ cả, tôi không thấy có sự chuẩn bị nào cho sự kiện như vậy. Hầu như ngày nào tôi cũng hỏi bà Fairfax xem bà có nghe thấy quyết định gì không, và lần nào bà cũng trả lời không. Bà nói đã có lần bà hỏi thẳng ông Rochester xem bao giờ ông mới định đón dâu về nhà, nhưng ông chỉ đáp lại bằng một câu nói đùa và cái nhìn thật lạ lẫm, và rốt cuộc bà cũng không thể nói được ý định của ông ra sao. Có một điều khiến tôi đặc biệt ngạc nhiên là không hề có một cuộc đi lại nào, thậm chí cả chuyện đến thăm điền địa nhà Ingram cũng không. Đành rằng từ Thornfield đến đó cũng phải mất hai mươi dặm, nhưng quãng đường đó nào có thấm tháp gì đối với một người đang yêu? Một kỵ sĩ lão luyện và không biết mệt mỏi như ông Rochester thì có lẽ chỉ đi mất buổi sáng. Tôi bắt đầu ấp ủ những hy vọng mà tôi không có quyền tin rằng cuộc hôn nhân đã tan vỡ, rằng lời đồn đại kia chỉ là nhảm nhí và rằng một hoặc cả hai bên đã thay đổi ý kiến. Tôi thường quan sát xem vẻ mặt của ông chủ xem có biểu hiện buồn bực gì không, nhưng quả thực là tôi không hề thấy một nét sầu não nào cả. Ngay cả những lúc tôi và cô bé học trò Adèle được gần bên ông, nếu tôi có tỏ ra trầm ngâm hoặc chán chường thì ông vẫn tỏ vẻ vui lắm. Chưa bao giờ tôi thấy ông gọi tôi đến với ông thường xuyên đến thế, chưa bao giờ ông xử sự tử tế với tôi đến thế… và Chúa ơi, cũng chưa bao giờ tôi yêu ông đến thế.



Chương 23 Một buổi chiều giữa hè, sau nửa ngày lang thang đi hái những quả dâu dại trên con đường làng Hay, mệt rã cẳng, Adèle đã lăn ra ngủ cùng ông mặt trời. Nhìn nó ngủ ngon lành, tôi mới dám bước ra đường. Lúc tôi ra vườn cũng là lúc êm đềm nhất trong ngày, ánh lửa hồng của [64] ông mặt trời đã tàn” , sương lạnh chiều hôm buông xuống cánh đồng còn phả hơi nóng và đỉnh đồi sém nắng. Nơi ông mặt trời dung dị vừa lặn – không gợn một áng mây – tỏa ra một màu đỏ tím uy nghi, điểm sáng nhất là một màu hồng ngọc và màu lửa cháy rực trên đỉnh đồi và tỏa rộng ra, nhạt dần, nhạt dần đến nửa thiên đường. Khoảng trời đông cũng có cái duyên dáng riêng của nó, nền trời xanh thẳm lấp lánh một viên ngọc bình dị, một ngôi sao cô đơn mới mọc. Tôi đang lững thững dạo bộ trên lối đi rải sỏi thì chợt ngửi thấy mùi khói thoang thoảng nhẹ nhàng, quen thuộc. Tôi thấy cửa sổ phòng thư viện hé mở. Biết từ chỗ ấy, người ta có thể quan sát được tôi, nên tôi gắng rảo bước vào vườn cây. Quả thực không có chỗ nào trong vườn kín đáo và thượng uyển hơn chỗ này, cây cối um tùm, hoa nở sặc sỡ. Một bên có một bức tường cao ngăn cách khoảng vườn với sân, bên còn lại là một đường sồi che khuất bãi cỏ. Cuối vườn là một hàng rào đổ. Khoảng vườn nơi đó bị ngăn cách với các cánh đồng cô quạnh bằng một lối nhỏ ngoằn ngoèo, hai bên trồng toàn cây nguyệt quế, đầu đường có một cây hạt dẻ ngựa khổng lồ và một chiếc ghế dài đặt uốn quanh gốc. Chỗ này người ta dạo chơi mà không sợ bị ai nhìn thấy. Trong cảnh tĩnh mịch thanh bình, sương buông lạnh lẽo ấy, tôi có thể cảm thấy mình ở mãi chốn này được. Nhưng trong lúc tha thẩn vãn cảnh dưới sự quyến rũ của ánh trăng thanh mới mọc, tôi bỗng dừng bước, không vì phải vì nghe thấy hay trông thấy gì, mà chính vì có một mùi thơm lại thoảng đến. Hoa hồng, hoa hồng dại, hoa nhài, hoa cẩm chướng từ lâu không còn thoảng mùi hương linh thiêng của chúng. Mùi thơm kia, tôi biết, không phải mùi hoa cỏ, mà chính là mùi khói thuốc của ông Rochester. Tôi nhìn quanh và lắng nghe. Tôi trông thấy những ngọn cây nặng quả chin, nghe thấy tiếng chim họa mi líu lo đâu đó, nhưng cái mùi thơm kia cứ nức mãi lên khiến tôi phải bỏ đi chỗ khác. Tôi rẽ sang cửa ngách dẫn tới một vườn cây nhỏ thì chợt nhận thấy ông Rochester bước vào. Tôi bước nhanh sang một hốc tường phủ


kín cây trường xuân để tạm lánh. Chắc là ông ấy sẽ chẳng đứng mãi ở đấy, chắc là ông ấy sẽ sớm quay về cái chỗ mà từ đó ông đã đến đây và nếu tôi cứ chịu khó ngồi im, thì ông sẽ không thể nhìn thấy tôi được. Nhưng không, cảnh chiều hôm và khu vườn cố kính này đối với ông cũng thú vị quyến rũ chẳng kém gì đối với tôi. Ông lững thững tản bộ, lúc thì nâng cành ngắm quả, lúc thì ngắt một trái anh đào chín đỏ vắt bên tường, lúc lại cúi xuống mân mê một nhành hoa hoặc ngắm những hạt sương chiều long lanh bám trên những cánh hoa. Một con bướm đêm to vẫy cánh tung tăng bay sát gần tôi, rồi nhẹ nhàng lượn xuống đậu trên một ngọn cây ngay dưới chân ông Rochester. Nhìn thấy con bướm, ông liền cúi xuống ngắm nghía. “Nhân lúc ông đang quay lưng về phía mình và mải ngắm con bướm, – tôi nghĩ bụng – mình có thể lỉnh thật êm về nhà. Chắc là ông ấy sẽ chẳng để ý đâu.” Tôi đi trên vệ cỏ để khỏi gây tiếng động. Ông đứng cách chỗ tôi phải đi qua vài ba bước, có vẻ như đang bị cánh bướm hút hồn. Tôi thầm nghĩ: “Mình sẽ chuồn ngon ơ!” Khi tôi đi ngang qua cái bóng đổ dài xuống mặt đất của ông – vì ánh trăng còn chưa lên cao, ông chợt lên tiếng mà chẳng thèm ngoái đầu lại, vẻ tỉnh bơ. - Jane, lại đây mà xem con bướm này. Lạ thật, tôi đi êm như mèo, mà ông làm gì có mắt đằng sau, chẳng lẽ cái bóng của ông cũng có khả năng nhận biết ư? Tôi giật mình, đành phải bước lại gần ông. - Cô nhìn cánh nó này, – ông nói – nó làm tôi nhớ lại những côn trùng ở Tây Indies. Chẳng mấy khi thấy một con bướm đêm có đôi cánh to và sặc sỡ như thế này ở nước Anh. Ô kìa, nó bay mất rồi! Con bướm chập chờn bay mất. Tôi cũng định lặng lẽ rút lui, nhưng ông Rochester đã bước theo sau. Đi đến cửa vườn, ông bảo: - Quay lại đi, Jane ạ, ai lại ru rú trong nhà vào một buổi tối đáng yêu như tối hôm nay, ai lại chui vào trong chăn vào cái thời khắc mặt trăng thức giấc đúng lúc mặt trời đi ngủ như thế này.


Một trong những khuyết tật của tôi là thỉnh thoảng cái miệng lưỡi của tôi, khi chẳng cần lại đối đáp nhanh quá, nhưng có lúc cần lại cứng lại không biết nói thế nào, mà cái tật ấy thường xảy ra vào những lúc tôi chỉ cần nói một câu đơn giản hoặc một lý do hợp lý nào đó là có thể thoát khỏi lúng túng. Tôi không muốn đi dạo trong khu vườn tối tăm cùng ông Rochester vào cái giờ này, nhưng quả thật tôi không biết lấy cớ gì để rời ông. Tôi bất đắc dĩ bước theo ông, đầu óc vẫn nghĩ cách rút lui, còn ông thì vẫn rất điềm nhiên và nghiêm nghị, khiến tôi đâm xấu hổ vì cảm giác bối rối của mình. Điều tệ hại – nếu đúng là có điều gì tệ hại xảy ra ngay lúc bấy giờ hoặc về sau – dường như chỉ ám ảnh trong ý nghĩ của tôi, chứ ông đâu có nghĩ hoặc để ý tới. - Jane này, – ông lại bắt đầu nói khi chúng tôi cùng bước trên con đường nguyệt quế về phía hàng rào đổ và cây dẻ ngựa – cô có thấy vào hè, Thornfield quả là một nơi thú vị không? - Có, thưa ông. - Chắc hẳn là cô đã ít nhiều gắn bó với mái nhà này, vì cô là người có mắt biết thưởng thức và nhạy cảm với các vẻ đẹp của thiên nhiên, đúng không? - Vâng, quả thực tôi đã có chút gắn bó với Thornfield. - Và mặc dù chưa hiểu ra sao, nhưng tôi vẫn thấy có vẻ như cô rất yêu quý cái con bé Adèle ngớ ngẩn và cả cái bà Fairfax chất phác kia nữa thì phải? - Vâng, thưa ông, dù theo cách khác nhau, nhưng tôi vẫn thấy yêu quý cả hai người. - Và cô sẽ buồn khi phải xa họ chứ? - Vâng. - Tội nghiệp cô quá! – Ông nói và thở dài, lát sau mới thấy ông tiếp tục. Đời là vậy mà, chưa kịp ấm chỗ ở nơi mong ước thì đã lại có tiếng gọi ta phải đứng dậy đi chỗ khác, vì thời gian nghỉ đã hết rồi. Tôi hỏi


- Ý ông muốn nói là tôi phải ra đi chứ gì, thưa ông? –Tôi hỏi lại. – Có nghĩa tôi sẽ phải rời bỏ Thornfield này? - Tôi nghĩ là cô phải ra đi. Tôi rất lấy làm tiếc, Jane ạ, nhưng quả thật tôi vẫn nghĩ cô phải ra đi. Đây quả là một cú sốc đối với tôi, nhưng cú sốc ấy không làm tôi ngã quỵ. - Được thôi, thưa ông, tôi có thể ra đi bất cứ lúc nào ông ra lệnh. - Cũng nhanh thôi… Tôi sẽ ra lệnh cho cô ngay tối nay. - Tức là ông sắp sửa tổ chức đám cưới, thưa ông? - Đ…ú….ng th…ế! Cô đoán đúng lắm, người nhạy cảm có khác. - Sẽ sớm tổ chức chứ, thưa ông? - Rất sớm, Eyre… của tôi ạ. Rồi cô sẽ thấy đây là lần đầu tiên đích thân tôi – hoặc dư luận – cho cô biết là tôi có ý định đeo gông vào cái cổ chưa vợ của mình để sống cảnh vợ chồng thiêng liêng… Nói ngắn gọn là để ôm cô Ingram vào lòng (mà đã ôm cô ta thì cứ gọi là đẫy cả vòng tay, nhưng với một cô gái kiều diễm như cô Blance của tôi thì như thể cũng chẳng hề gì). Kìa, Jane, cô vẫn nghe tôi nói đấy chứ? Cô không quay mặt đi nhìn theo những cánh bướm khác đấy chứ? Tôi muốn nhắc cô nhớ rằng cô chính là người đầu tiên đã bảo tôi – với tinh thần trách nhiệm, biết nhìn xa, có cái kín đáo và thận trọng của một người có địa vị phụ thuộc – rằng trong trường hợp tôi cưới cô Ingram thì tốt hơn hết, cả cô và Adèle sẽ rời bỏ chốn này. Jane ạ, tôi sẽ lưu ý đến câu nói sáng suốt của đấy của cô. Adèle sẽ phải đến trường nội trú, còn cô, Eyre ạ, cô sẽ phải tìm cho mình một chỗ mới. - Vâng, thưa ông, tôi sẽ đăng báo tìm việc ngay lập tức và trong thời gian chờ đợi, tôi nghĩ… (tôi định nói: “Tôi nghĩ tôi vẫn có thể ở lại cho đến khi tìm được một nơi nương thân khác” nhưng lại thôi vì cảm thấy rằng mình chẳng cần mạo muội nói dài làm gì, vả lại giọng tôi lúc đó cũng không hoàn toàn bình tĩnh cho lắm). - Tôi hy vọng khoảng một tháng nữa tôi sẽ được làm chú rể, – ông Rochester nói tiếp – và trong quãng thời gian đó, tôi sẽ đích thân tìm việc làm và chỗ ở cho cô.


- Cảm ơn ông, tôi rất lấy làm tiếc vì… - Ồ, không cần phải nói thế đâu! Tôi thấy khi một người làm trong nhà đã làm tròn bổn phận như cô, thì cô ta cũng có quyền đòi hỏi người chủ bất cứ một sự giúp đỡ nhỏ nhoi nào trong khả năng của ông ta. Thực ra, nhờ bà mẹ vợ tương lai của tôi, tôi được biết có một chỗ làm mà tôi nghĩ là rất phù hợp với cô, đó là dạy học cho năm cô con gái bà Dionysius O’gall ở lâu đài Bi ernu , xứ Connaught, thuộc Ailen. Tôi nghĩ chắc cô cũng thích Ailen, vì nghe nói ở đó người ta sống nồng hậu lắm. - Thế thì xa quá, thưa ông. - Không hề gì, một cô gái vững vàng như cô thì dù có xa cũng chẳng có việc gì đáng lo ngại cả. - Tôi không ngại về chuyến đi, mà là ngại cái khoảng cách xa xôi, biển trời ngăn cách… - Ngăn cách với cái gì chứ, Jane? - Với nước Anh, với Thornfield, và… - Và cái gì? - Và ông, thưa ông. Tôi gần như buột miệng nói ra câu này, và tệ hơn nữa là tôi cũng không kìm nén được những giọt nước mắt bất chợt trào ra. Nhưng tôi không khóc, không nấc lên thành tiếng khiến người khác có thể nghe thấy. Cứ nghĩ đến bà O’gall và cái lâu đài Bi ernu nào đó là tim tôi như lạnh cứng cả lại. Lòng tôi càng trở nên băng giá hơn khi tôi nghĩ đến những con sóng vô hình như được sinh ra để xô vào giữa tôi và ông chủ, người hiện tôi đang sánh bước bên cạnh. Nhưng điều khiến long tôi tê tái nhất vẫn là một biển cả thật mênh mông, ấy là khoảng cách về tiền tài, đẳng cấp, tục lệ giữa tôi với người mà tôi tự nhiên đem long yêu mà không thể cưỡng lại được. - Quả là một quãng đường quá dài! – Tôi lại nói. - Đúng là xa thật! Và khi cô đến lâu đài Bi ernu rồi thì có thể tôi sẽ chẳng khoái đến cái xứ ấy lắm. Chúng ta đã là những người bạn tốt của


nhau, phải vậy không, Jane? - Vâng, thưa ông. - Vậy thì khi sắp phải giã biệt nhau, những người bạn ấy lại càng muốn dành khoảng thời gian ít ỏi còn lại cho nhau. Thôi, hãy lại gần đây, chúng ta sẽ cùng nhau nói về chuyến đi xa và giờ phút chia tay nhé, chỉ cần độ nửa giờ nữa thôi, khi những vì sao lấp lánh vẫn tiếp tục mọc lên trên nền trời kia. Kia là cây dẻ ngựa và chiếc ghế dài uốn dưới gốc cây già ấy. Ta lại đó đi, rồi cùng nhau ngồi trò chuyện dưới bầu trời thanh bình của đêm trăng, dù sau này mình sẽ chẳng bao giờ còn được ngồi đó cùng nhau nữa. – Ông nói và kéo tôi cùng ngồi xuống. - Jane ạ, từ đây đến Ailen quả là xa xôi thật, và tôi cảm thấy rất buồn khi phải gửi cô bạn bé bỏng của mình vào những cuộc hành trình gian nan như thế, nhưng nếu tôi không thể làm gì tốt hơn thì còn biết giúp đỡ cô bạn ấy bằng cách nào chứ? Jane này, em có nghĩ rằng ít nhiều em cũng có thân thiết với tôi không? Tôi không thể liều mạng đưa ra câu trả lời vào lúc này, vì trong lòng tôi đang tràn đầy những cảm xúc. - Bởi vì, – ông nói – thỉng thoảng tôi lại có một cảm giác rất kỳ lạ về em, đặc biệt là những lúc em ở bên tôi như bây giờ, cứ như thể trong lòng tôi có một sợi dây vô hình không thể gỡ được, nối với một sợi dây tương tự ở trái tim trong con người nhỏ bé của em. Và nếu eo biển dậy sóng kia, với gần hai trăm dặm trên đất liền nữa, ngăn cách chúng ta, thì tôi sợ sợi dây cảm thông ấy sẽ đứt, và tôi chỉ lo lúc đó mình sẽ bị chảy máu trong tim. Còn em… chắc em sẽ quên tôi - Có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ như vậy, thưa ông, vì ông biết… Tôi không thể nói tiếp được. - Jane này, em có nghe thấy tiếng hoạ mi hót trong những lùm cây không? Hãy lắng tai nghe đi! Tôi lắng nghe tiếng chim hót, rồi bật khóc nức nở vì không thể kìm nén những cảm xúc đang dồn nén trong lòng. Vậy là tôi đã đầu hàng trước nỗi đau khôn tả của chính mình, khiến toàn thân tôi run lên. Tôi có nói được nên


lời cũng chỉ để biểu lộ cái ước vọng mãnh liệt là giá như tôi đừng sinh ra trên đời hoặc đừng bao giờ đến Thornfield thì hơn. - Em buồn vì phải xa nơi đây? Tình yêu và nỗi đau lòng như bị khuấy đảo trong tôi thành một cảm xúc mãnh liệt muốn đòi quyền thống trị hoàn toàn đầu óc tôi, muốn khẳng định cái quyền giành ưu thế để vượt qua, để sống, vươn lên và cuối cùng, vâng, là để… lên tiếng. - Tôi buồn thì phải xa Thornfield, tôi yêu Thornfield. Tôi yêu nơi đây vì tôi đã có một cuộc sống đầy đủ và bình yên ở đây – ít nhất thì cũng có những lúc như vậy. Tôi đã không bị chà đạp, không lần nào bị đẩy vào cảnh đau đớn ê chề. Tôi đã không bị chon vùi cùng những thân phận tôi đòi, bị xua đuổi mọi sự cảm thông cùng những đức tính thuần phác và cao thượng. Tôi đã được nói chuyện trực diện với một người mà tôi tôn kính, một người luôn làm cho tôi cảm thấy vui vì chính tâm hồn có cá tính, mạnh mẽ và phóng khoáng của ông. Tôi đã được biết ông, ông Rochester ạ, và tôi thực sự lo sợ khi nghĩ mình phải chia tay ông mãi mãi. Tôi đã nhận thấy sự cần thiết phải ra đi, nó cũng giống như nhìn thấy chết mà không thể tránh được ấy. - Em thấy sự cần thiết đó ở đâu thế? – Ông chợt hỏi tôi. - Ở đâu ư? Chính ông đã đặt nó trước mặt tôi. - Dưới hình thức nào? - Dưới hình thức cô Ingram, một phụ nữ đẹp và quý phái, cô dâu của ông ấy. - Cô dâu của tôi! Cô dâu nào! Tôi làm gì có cô dâu nào! - Nhưng rồi ông sẽ có. - Đúng, rồi tôi sẽ có! Tôi sẽ có! – Ông nghiến răng lại. - Vì thế tôi phải ra đi, chính ông đã chẳng bảo thế là gì. - Không, em phải ở lại! Tôi thề đấy, và tôi sẽ giữ lời thề. - Tôi xin thưa với ông rằng tôi phải ra đi! – Tôi tức giận đáp lại như đang


bị một cảm xúc mãnh liệt kích động. – Ông nghĩ là tôi có thể ở đây làm một kẻ vô nghĩa mãi với ông được hay sao? Ông nghĩ tôi là một con rối – một cái máy vô cảm, có thể cam chịu cảnh bị người ta giật mất miếng bánh ở trên miệng, giằng mất cốc nước đang uống của mình đi hay sao? Hay là ông nghĩ vì tôi nghèo khổ, tối tăm, xấu xí, nhỏ bé nên tôi không có tâm hồn và tấm lòng như ông? Ông lầm rồi chăng? Tôi cũng có một tâm hồn như ông, một tấm lòng như ông! Và nếu Chúa ban cho tôi có một chút nhan sắc, ít nhiều tiền của thì có lẽ tôi đã làm cho ông khó mà xa tôi được, cũng như bây giờ tôi thấy khó có thể xa được ông. Tôi đang nói chuyện với ông đây không phải nhờ tập tục, quy ước, cũng chẳng phải nhờ cái thân xác mà chính là linh hồn tôi nói chuyện với linh hồn ông, như thể cả hai chúng ta đều đã đi qua những nấm mồ và để rồi cùng được đứng ngang hàng với nhau dưới chân Chúa… đúng như hiện giờ thôi! - Đúng như hiện giờ! – Rochester nhắc lại. – Đúng thế đấy! – Ông nói thêm và vòng hai tay ôm ghì lấy tôi, hôn lên môi tôi. - Đúng thế đấy, Jane ạ! - Vâng, đúng thế, thưa ông. – Tôi nói tiếp. – Nhưng cũng không phải thế... vì ông là người đã có vợ – hoặc có những điều giống như một người đã có vợ, và vợ ông lại là một người thấp kém hơn ông, một người mà ông không có thiện cảm, một người mà tôi tin là ông không yêu thực sự, vì tôi đã từng được chứng kiến ông nhạo báng cô ta. Thú thực với ông là tôi coi khinh một cuộc hôn nhân như thế. Vì vậy, tôi là người tốt hơn ông… hãy để tôi được ra đi. - Đi đâu, Jane? Tới Ailen ư? - Vâng, tới Ailen. Tôi đã nói những gì tôi nghĩ trong đầu và bây giờ tôi có thể đi bất cứ nơi đâu. - Jane à, bình tĩnh lại đi, đừng vùng vẫy như một cánh chim hoang chỉ vì thất vọng mà bứt tung cả lông mình lên như vậy. - Tôi không phải là chim, và cũng chẳng có cạm bẫy nào níu được tôi cả. Tôi là một kẻ tự do, có ý chí không phụ thuộc vào ai cả, và chính cái ý chí ấy đã bảo tôi từ biệt ông. Tôi cố vùng ra khỏi vòng tay ông, và tôi đã thoát ra được để có thể đứng


thẳng trước mặt ông. - Và cái ý chí ấy sẽ quyết định số phận của em. – Ông nói. – Tôi xin được hiến dâng vòng tay, con tim và nửa phần gia sản của mình cho em. - Ông lại đóng kịch rồi, như thế khiến tôi thấy buồn cười lắm. - Tôi muốn em sống bên tôi trọn đời, làm cái nửa thứ hai của tôi và làm người bạn thân thiết nhất của tôi trên cuộc đời này. - Ông đã chọn một người như vậy cho mình rồi, và bây giờ hãy cố gắng chấp nhận đi. - Jane, hãy bình tĩnh lại đi, em bị kích động quá rồi. Tôi cũng sẽ cố bình tĩnh lại đây. Một cơn gió thoảng nhẹ trên con đường nguyệt quế, làm lay động những ngọn dẻ ngựa rồi cứ thế lang thang mãi... tới một nơi vô định... và tắt lịm, chỉ còn lại tiếng hót văng vẳng của một chú họa mi. Tôi vừa khóc vừa lắng nghe tiếng chim hót. Rochester im lặng nhìn tôi, nét mặt hiền dịu nhưng cũng không kém phần nghiêm nghị. Cuối cùng, ông nói: - Jane này, ngồi lại gần tôi đi, chúng ta sẽ cùng nhau tâm sự để có thể hiểu nhau hơn. - Tôi sẽ không bao giờ đến bên ông nữa, bây giờ tôi đã thoát ra được rồi, còn lâu tôi mới làm lại như thế. - Nhưng Jane, tôi mời em như mời một người vợ, em chính là người duy nhất tôi định cưới làm vợ. Tôi im lặng, vì nghĩ rằng ông đang giễu cợt tôi. - Lại đây, Jane… lại gần đây. - Giữa tôi và ông có một người làm cô dâu xen vào. Ông đứng dậy, bước một bước đến bên tôi. - Cô dâu của tôi là đây, – ông nói và lại kéo tôi vào long – người phù hợp với tôi là đây, niềm yêu thương của tôi ạ. Em sẽ cưới tôi chứ, Jane?


Tôi vẫn không trả lời và một lần nữa cố vùng vằng thoát khỏi vòng tay ông, vì thú thực là tôi vẫn không tin lời ông. - Em nghi ngờ tôi phải không, Jane? - Hoàn toàn nghi ngờ. - Chẳng lẽ em không có lòng tin đối với tôi? - Không một chút nào hết. - Vậy là trước mặt em, tôi chỉ là một kẻ dối trá? – Ông sửng sốt hỏi. – Cô bé đa nghi ạ, rồi em sẽ phải tin thôi. Tôi có tình yêu dành cho Ingram không? Không, điều đó em đã biết. Cô ta có tình yêu với tôi không? Không, tôi đã vất vả để chứng minh điều đó. Tôi tung tin đến tai cô ta rằng gia sản của tôi thật ra chẳng bằng một phần ba cái số mà người ta vẫn tưởng, và sau đó tôi đã đích thân đếm xem kết quả ra sao: y như rằng cả hai mẹ con cô ta đã tỏ ra lạnh nhạt hẳn với tôi. Tôi không... tôi không thể... cưới Ingram được. Còn em, em quả là một người rất kỳ lạ… gần như chẳng giống ai cả! Tôi yêu em như yêu máu thịt của chính mình. Em, một cô gái nghèo khổ và khó hiểu, bé nhỏ và dung dị như em... tôi mong mỏi được đón nhận em với tư cách là một người làm chồng. - Cái gì, tôi ư? – Tôi thốt lên trước vẻ nhiệt tình và đặc biệt là sự vô phép của ông, trong lòng bắt đầu tin là ông nói chân thành. – Tôi, kẻ chẳng còn một ai thân thiết trên đời, trừ ông – nếu ông là một người bạn của tôi – và trong túi không có đến một xu ngoài số tiền ông đã đưa ư? - Đúng, chính là em, Jane ạ. Tôi phải lấy bằng được em cho riêng tôi… hoàn toàn của riêng tôi. Em sẽ là của riêng tôi chứ? Hãy nói bằng lòng đi, nhanh lên. - Rochester, ông hãy quay về phía ánh trăng để tôi nhìn mặt ông đã. - Tại sao? - Vì tôi muốn đọc rõ nét mặt ông, quay lại đi! - Đây, em sẽ thấy là nó khó đọc không kém một tờ giấy bị vò nhàu nát cho mà xem. Đọc đi, nhưng nhanh nhanh lên đấy nhé, vì tôi thấy khổ lắm.


Mặt ông bỗng đỏ bừng lên và giật giật liên hồi vì xúc động, cả ánh mắt ông cũng lóe lên những tia sáng kỳ lạ. - Ồ, Jane, em tra tấn tôi rồi! – Ông kêu lên. – Em đang tra tấn tôi bằng chính cái ánh mắt soi mói nhưng chân thành và nhân từ của em đấy! - Làm sao có thể như thế được? Nếu ông là người chân thành, nếu lời thỉng cầu của ông là chân thành, thì những tình cảm duy nhất mà tôi dành cho ông phải là lòng biết ơn và sự tận tuỵ… Chúng không thể tra tấn ông được! - Thế thì cảm ơn! – Ông thốt lên: “Jane, hãy nhận lời tôi nhanh lên. Hãy nói gọi tôi bằng cái tên cúng cơm là Edward và bảo rằng: Edward, em sẽ cưới anh”. - Ông nói nghiêm túc đấy chứ? Ông yêu tôi chân thành đấy chứ? Có thật là ông muốn lấy tôi làm vợ không? - Tôi yêu em chân thành, và nếu phải thề cho em vừa lòng thì tôi xin thề. - Vậy thì, thưa ông, em sẽ làm vợ ông. - Hãy gọi là Edward, người vợ bé bỏng của tôi ạ! - Edward thân yêu! - Lại gần đây đi em, thật gần vào. – Ông kề má, ghé sát vào tai tôi mà nói, giọng sâu lắng. – Em hãy làm cho tôi hạnh phúc, và tôi cũng sẽ tìm hạnh phúc cho em. Ông im lặng một lát rồi nói tiếp: “Cầu Chúa tha tội cho con! Và mong rằng đừng ai can thiệp vào đây. Tôi đã có được nàng và sẽ giữ nàng bằng được.” Sẽ chẳng có ai nhúng tay vào đâu, thưa ông, em chẳng còn ai là họ hàng để mà xen vào cả. - Không có thì tốt nhất rồi còn gì. – Ông nói. Và nếu không yêu ông lắm thì có lẽ tôi đã nghĩ rằng trong giọng nói và ánh mắt hân hoan của ông có một cái gì đó thật man rợ, nhưng được ngồi bên ông sau khi thoát khỏi cơn ác mộng chia ly và được gọi lên thiên đường kết hôn, tôi chỉ nghĩ đến niềm


hạnh phúc ngất ngây bất ngờ của mình. Ông cứ hỏi đi hỏi lại: “Em có thấy hạnh phúc không, Jane?” Và tôi cũng đáp đi đáp lại: “Có”. Sau đó lại thấy ông lẩm bẩm: “Sẽ chuộc lỗi, sẽ chuộc lỗi. Sẽ chuộc tội trước toà án của Chúa. Mình biết đức Tạo hoá tán thành những việc mình đã làm. Còn sự phán quyết của trần thế… mình bất chấp. Đối với dư luận của người đời... mình dám thách đấy!” Nhưng đêm nay sao thế nhỉ? Trăng chưa lặn, và lúc này hai chúng tôi ngồi như hai cái bóng. Ngồi sát bên nhau mà tôi không còn nhìn rõ mặt ông chủ nữa. Cái gì đã làm thân cây dẻ ngựa đau đớn thế kia? Nó đang vật vã và rên rỉ trong khi những cơn gió bắt đầu gào rít dọc theo con đường có hàng nguyệt quế và ào đến chỗ hai chúng tôi. - Chúng ta phải vào nhà thôi, – ông Rochester nói – thời tiết thay đổi rồi. Lẽ ra tôi có thể ngồi bên em đến tận sáng, Jane ạ. “Em cũng vậy, – tôi nghĩ thầm – em có thể ngồi bên ông đến sáng.” Có lẽ tôi sẽ nói như vậy nếu không có một tia chớp thình lình lóe sáng xé rách đám mây tôi đang nhìn, và tiếp theo một tiếng sét nổ vang lừng là những tiếng sấm gầm thét ngay trên đầu chúng tôi. Tôi chỉ còn kịp nghĩ giấu cặp mắt bị chói lòa vào vai ông Rochester. Thế rồi mưa đổ xuống như trút. Ông vội kéo tôi chạy theo lối nhỏ qua vườn vào nhà, nhưng đến ngưỡng cửa thì chúng tôi đã ướt sũng như chuột lột. Vào đến đại sảnh, ông cởi khăn choàng cho tôi, và khi ông đang lau khô mái tóc rối bời cho tôi thì bà Fairfax từ trong phòng bà bước ra. Mới đầu tôi không trông thấy bà, cả ông Rochester cũng vậy. Đèn vẫn còn thắp sáng trưng. Chuông đồng hồ ngân nga điểm mười hai tiếng. - Mau mau vào thay đồ đi em! – Ông âu yếm bảo tôi và hôn tôi liền mấy cái. – Trước khi em về phòng, chúc em ngủ ngon. Ngủ ngon nhé, người yêu dấu của tôi! Chỉ đến khi rời khỏi vòng tay ông, tôi mới nhận ra bà quả phụ đang đứng im một chỗ, nét mặt bà tái dại, nghiêm nghị và không kém phần sửng sốt. Tôi chỉ mỉm cười với bà và chạy luôn lên gác, bụng bảo dạ: “Thôi, để lúc khác giải thích cho bà ấy nghe vậy.” Tuy nhiên, khi về đến phòng, tôi bỗng lại thấy áy náy khi nghĩ đến chuyện bà có thể nhất thời hiểu sai về cảnh tượng mà bà vừa được tận mắt chứng kiến. Nhưng rồi niềm hạnh phúc mênh mang đã xóa nhòa đi mọi cảm xúc khác trong tôi. Ngoài kia, mặc cho gió rít ù ù, sấm rung chớp giật liên hồi và mưa tuôn xối xả suốt hai tiếng đồng hồ, tôi


vẫn không hề cảm thấy sợ chút nào. Trong khoảng thời gian ấy, ông Rochester đã ba lần đến cửa phòng tôi để hỏi han xem tôi có được bình yên không. Sự chăm sóc ân cần của ông chính là niềm an ủi và là nguồn sức mạnh giúp tôi vượt qua tất cả. Sáng hôm sau, trước khi tôi rời khỏi giường ngủ, cô bé Adèle đã láu táu chạy vào mách tôi rằng đêm qua, cây dẻ ngựa lớn ở cuối vườn đã bị tầm sét đánh toác làm đôi.



Chương 24 Lúc ngủ dậy mặc áo, tôi lại nghĩ đến những gì xảy ra đêm hôm qua và tự hỏi phải chăng đó là một giấc mơ. Phải đến khi gặp lại ông Rochester và nghe ông nhắc lại những lời yêu thương và hứa hẹn, tôi mới tin đó là chuyện thật. Trong lúc chải đầu, tôi ngắm mặt mình trong gương và cảm thấy mình không còn thô thiển như trước nữa. Trên nét mặt tôi đã ánh lên niềm hy vọng và cái hồng hào của sức sống, trong mắt tôi dường như cũng có một dòng suối reo vui ánh lên một dòng chảy rạng rỡ long lanh. Bình thường, chẳng mấy khi tôi dám nhìn mặt ông chủ vì ngại ông không thích cái nhìn của tôi, nhưng bây giờ thì tôi tin rằng mình đã có thể ngước mắt nhìn ông mà không sợ gương mặt mình làm nguội lạnh cảm xúc của ông. Tôi mở tủ lấy một chiếc áo hè sáng màu, giản dị nhưng sạch sẽ và mặc vào. Dường như tôi chưa bao giờ mặc một cái áo nào dễ chịu đến thế, vì đã bao giờ tôi được mặc một chiếc áo nào mà trong lòng cảm thấy tràn trề hạnh phúc như vậy đâu. Chạy xuống đại sảnh, tôi không thấy ngạc nhiên tí nào khi thấy sau trận bão đêm qua là một buổi sáng tháng Sáu rạng rỡ. Tôi khoan khoái cảm nhận những làn gió thơm mát nhè nhẹ thổi qua các khung cửa kính rộng mở. Hẳn là cảnh vật cũng thật tươi vui khi trong lòng tôi đang tràn ngập hạnh phúc. Có một người đàn bà ăn mày dắt theo thằng con nhỏ, cả hai cùng rách rưới xanh xao, đang thất thểu tiến đến trên lối đi. Tôi chạy vội xuống cho họ hết số tiền tôi có trong túi – khoảng ba hay bốn silinh gì đó, dù tốt hay xấu thì họ cũng phải chia xẻ niềm vui với tôi. Bầy quạ cất tiếng kêu quang quác, lũ chim trong vườn cũng hớn hở cất tiếng hót líu lo chào một buổi sáng thanh khiết, nhưng chẳng có gì vui bằng niềm hạnh phúc lâng lâng trong lòng tôi. Tôi ngạc nhiên thấy bà Fairfax bất chợt ngó qua cửa sổ với vẻ mặt buồn buồn. Bà nghiêm mặt bảo tôi: “Cô Eyre, cô sẽ dùng bữa sáng chứ?” Suốt bữa điểm tâm, bà chỉ im lặng và lạnh như tiền, nhưng tôi không thể làm cho bà hết hiểu lầm ngay được. Có lẽ sẽ tốt hơn nếu tôi để ông Rochester giải thích cho bà, và hẳn bà cũng nghĩ như vậy. Tôi cố ăn thật nhiều và rồi lại vội vàng leo lên gác. Đến trước cửa phòng học, tôi bắt gặp Adèle ở trong đi ra. - Em định đi đâu? Đến giờ học rồi đấy. - Ông Rochester bảo em đi xuống nhà trẻ.


- Ông ấy đâu rồi? - Trong kia. – Nó vừa nói vừa chỉ vào phòng học. Tôi nhẹ nhàng bước vào và thấy ông đứng ở đấy. - Lại đây chào tôi đi. – Ông nói. Tôi vui vẻ bước tới. Bây giờ không còn là lúc tôi phải đón nhận một lời chào lạnh lùng hay cái bắt tay hời hợt của ông nữa, mà là vòng tay rộng mở ôm chầm lấy tôi cùng với một nụ hôn. Dường như sự vuốt ve trìu mến như một cử chỉ tự nhiên ấy của ông cũng đủ đưa tôi vào một thế giới bồng bềnh và đê mê của niềm hạnh phúc. - Jane à, em xinh tươi như một đóa hoa. Ông nói. – Sáng nay trông em thật đẹp. Có phải đây là nàng tiên bé nhỏ xanh xao của tôi không? Có phải là [65] hạt cải vàng của tôi không? Đây có phải là cô gái bé nhỏ có khuôn mặt rạng rỡ như ánh mặt trời, có cái má lúm đồng tiền và đôi môi đỏ thắm, có mái tóc màu hạt dẻ óng mượt như lụa và đôi mắt nâu sáng như kim cương của tôi không? (Thưa bạn đọc, thực ra mắt tôi là mắt xanh, nhưng bạn hãy nên thứ lỗi cho sự nhầm lẫn đó của ông. Tôi nghĩ chỉ riêng đối với ông, tôi mới có một màu mắt như vậy). - Thưa ông, em chính là Jane Eyre đây mà. - Chỉ trong bốn tuần nữa thôi, em sẽ trở thành Jane Rochester. Ông nói thêm. – Jane ạ, không quá một ngày nào đâu. Em có nghe tôi nói không? Tôi nghe rõ từng lời ông nói, nhưng không hoàn toàn cảm nhận được điều đó, nó làm tôi choáng váng. Cảm xúc mà lời tuyên bố của ông mang đến cho tôi còn mạnh hơn cả niềm vui, nó là một cảm xúc khó tả khiến tôi như bị bất ngờ và bàng hoàng. Tôi có cảm giác nó gần như một sự sợ hãi. - Mặt em vừa đỏ ửng, sao bây giờ lại trắng bệch lên như thế, Jane? - Bởi vì ông vừa cho em một cái tên mới... Jane Rochester. Em thấy nó cứ lạ lạ thế nào ấy. - Ừ, bà Rochester! – Ông nói. – Bà Rochester trẻ tuổi, cô dâu của Fairfax Rochester. - Không thể như thế được, thưa ông, nghe có vẻ chẳng giống tí nào cả. Con người chẳng bao giờ được hưởng hạnh phúc vẹn toàn trên đời này. Em


sinh ra đâu phải để nhận một số phận khác với những kẻ cùng hạng người như mình. Thật chẳng khác nào một câu chuyện cổ tích... một giấc mộng giữa ban ngày nếu cứ tưởng mình nghiễm nhiên được hưởng niềm hạnh phúc ấy. - Đấy là điều tôi có thể và chắc chắn sẽ thực hiện được. Tôi sẽ bắt đầu ngay từ hôm nay. Sáng nay, tôi đã viết thư đề nghị ông chủ nhà băng ở Luân Đôn gửi cho tôi vài thứ đồ nữ trang gia truyền của các phu nhân ở Thornfield mà tôi đã nhờ ông ta giữ. Hy vọng là chỉ một hai hôm nữa, tôi sẽ được đặt chúng vào lòng em, vì mọi sự ưu ái và sự chăm sóc ân cần khi đó đều được dành cho em. Đó là điều hoàn toàn phù hợp với con trai một vị công hầu nếu như anh ta định cưới em làm vợ. - Ồ, thưa ông!... Xin ông đừng bao giờ bận tâm đến chuyện nữ trang làm gì! Em không thích nghe nói đến những thứ đó. Jane Eyre mà chụp đồ nữ trang lên người thì quả thật là không tự nhiên và vừa mắt tí nào. Thà không có còn dễ chịu hơn. - Tôi muốn tự tay mình đeo chuỗi hạt kim cương vào cổ em, đặt vòng miện lên vầng trán em. Em hoàn toàn cao quý và xứng đáng để mang trên mình những vật bé nhỏ ấy. Rồi tôi sẽ đeo những chiếc vòng cườm vào đôi cổ tay tròn trịa và xỏ những chiếc nhẫn vào những ngón tay thần tiên của em. - Không, không, thưa ông! Xin ông hãy nghĩ và nói với em bằng những lời lẽ khác về những chuyện khác đi. Đừng nói chuyện với em như thể em là một người đẹp như thế. Em chỉ là một gia sư tầm thường được ông thuê về dạy trẻ thôi mà. - Trong mắt tôi, em là một người đẹp, đẹp như người mà bấy lâu tôi vẫn thầm mong đợi,... mảnh mai thanh thoát như khí trời vậy. - Ông muốn nói là gầy khô và vô hồn chứ gì? Vậy thì ông lại đang nằm mơ rồi, thưa ông, nếu không thì là ông đang giễu cợt em. Lạy Chúa, ông đừng mỉa mai em nữa nhé! - Tôi còn muốn làm cho cả thế giới này phải thừa nhận em là người đẹp nữa kia. – Ông vẫn say sưa nói, trong khi tôi bắt đầu cảm thấy thực sự khó chịu vì những lời lẽ của ông. Có vẻ như ông đang tự lừa dối mình, hoặc đang cố lừa dối tôi. Tôi sẽ làm cho Jane của tôi trở nên hấp dẫn trong bộ áo váy sa tanh và đăng ten. Tôi sẽ cài lên tóc em những bông hồng xinh xắn, sẽ đặt lên


gương mặt mà tôi yêu thương một tấm mạng vô giá. - Và rồi ông chẳng còn nhận ra em nữa, em cũng sẽ không còn là Jane Eyre của ông, mà là một con khỉ không đuôi mặc quần áo lòe loẹt của một thằng hề, một con quạ mượn lông công, phải không? Ông Rochester ạ, kể cả khi ông khoác lên người bộ đồ của một kịch sĩ, cũng như em diện theo lối của một bà hoàng đi nữa thì em cũng không thể bảo ông là người đẹp trai được, mặc dù em rất mực yêu ông. Chính vì yêu ông nên em không thể nịnh ông được. Vậy ông cũng sẽ không quá lời về em nữa chứ? Tuy nhiên, ông vẫn cứ say sưa trò chuyện bằng những lời yêu đương của mình mà chẳng cần để ý đến lời yêu cầu của tôi. “Ngay hôm nay, tôi sẽ lấy xe ngựa đưa em đi Millcote, và em sẽ phải chọn mua mấy bộ áo váy mới. Tôi đã bảo em rằng mình cưới nhau sau bốn tuần nữa. Đám cưới sẽ được tổ chức lặng lẽ ở nhà thờ dưới kia trước khi tôi đưa em lên thành phố. Rồi sau đó, nhanh thôi, tôi sẽ mang báu vật của tôi đến những miền gần ánh nắng mặt trời hơn, những vườn nho trên đất Pháp và miền đồng bằng của nước Ý. Nàng sẽ tới thăm tất cả những gì nổi tiếng nhất của những câu chuyện cổ tích và của thời nay. Nàng sẽ thưởng thức hương vị cuộc sống của các đô thành lớn để có dịp tự đánh giá được chính mình. - Em sẽ đi du lịch ư? Và đi cùng với ông? - Em sẽ sống ở Paris, Roma, Napoli, rồi đến Florence, Venice và cả thành Viên nữa. Em sẽ tới những nơi mà tôi từng để lại dấu chân trong một quãng đời lang bạt ngày xưa. Những nơi tôi đã từng dừng vó ngựa sẽ là những nơi in gót chân hồng của nữ thần gió. Đã mười năm rồi, tôi lang bạt kỳ hồ hầu khắp châu Âu, lấy sự ghê tởm, thù hận và cuồng dại làm bạn đồng hành. Bây giờ tôi sẽ trở lại thăm lục địa già, với một tâm hồn thanh thản, đã được hàn gắn và một nàng tiên làm nguồn an ủi. Tôi bật cười nhìn ông: “Em không phải là một nàng tiên và mãi mãi chẳng thể trở thành một nàng tiên của ông được, dù thế nào thì em cũng chỉ là em thôi. Ông Rochester ạ, đừng trông chờ và cũng đừng nên đòi hỏi ở em một điều gì không thể có, vì ông sẽ chẳng bao giờ thấy được điều đó ở em, cũng như em chẳng thể thấy điều đó ở ông. Mình nên sống với thực tại thì hơn”. - Vậy thì em thấy gì ở tôi?


- Có lẽ ông chỉ cảm thấy như vậy trong lúc này thôi, biết đâu ông lại chẳng nhanh chóng trở thành một con người lạnh lùng, rồi sớm nắng chiều mưa, khó tính quàu quạu, để rồi em lại phải ra sức làm vừa lòng ông cho mà xem. Em cho rằng tình yêu của ông sẽ chỉ nồng thắm được sáu tháng là cùng. Đọc các cuốn sách viết về đấng mày râu, em thấy đó là khoảng thời gian tối đa cho tình ân ái mặn nồng của một người chồng. Nhưng nói cho cùng, với tư cách một người bạn và một người bạn đường, em cầu mong mình sẽ không bao giờ trở thành một kẻ hoàn toàn đáng ghét đối với ông chủ thân yêu của em. - Đáng ghét à! Tôi nghĩ chắc chắn tôi sẽ thích em mãi mãi, mãi mãi. Và tôi sẽ làm cho em hạnh phúc mà thừa nhận rằng tôi không chỉ thích em không thôi, mà tôi còn rất yêu em nữa, yêu bằng tấm lòng chân thành, đắm say, chung thủy. - Nhưng ông chẳng phải là người có tính thất thường đó là gì? - Đối với những phụ nữ làm vừa lòng tôi chỉ nhờ bộ mặt không thôi thì một khi tôi nhận ra họ không phải là người có tâm hồn và trái tim, mà chỉ kẻ tầm thường xu nịnh, ngu xuẩn, thô lỗ và xấu xa, tôi sẽ trở thành một kẻ độc ác ngay lập tức. Nhưng đối với một đôi mắt trong sáng, một lời nói nhỏ nhẹ, một tâm hồn nồng cháy, một tính cách khiêm tốn thì bao giờ tôi cũng là người dịu dàng và chân thành. - Ông đã bao giờ gặp một tính cách như thế chưa, thưa ông? Ông đã bao giờ yêu một người như thế chưa? - Tôi hiện đang yêu một người như vậy. - Nhưng là trước em kia, nếu như xét về mặt nào đó, em xứng đáng đáp ứng được các tiêu chuẩn ngặt nghèo của ông? - Tôi chưa bao giờ được gặp người nào như vậy, Jane ạ. Em chính là người đã làm tôi thấy hài lòng và đã làm chủ được tôi. Em là người có vẻ dễ bảo và quả thực tôi rất thích cách sống biết điều của em. Khi quấn sợi tơ mềm quanh ngón tay, tôi bỗng cảm thấy sợi tơ ấy đã gửi một rung động qua cánh tay vào đến con tim tôi. Tôi đã bị ảnh hưởng, bị chinh phục. Và cái ảnh hưởng ấy còn ngọt ngào hơn cả những gì tôi có thể diễn tả bằng lời, sự chinh phục ấy dường như cũng mang một ma lực khiến tôi say sưa hơn bất cứ chiến thắng nào mà t ôi có thể giành được. Sao em lại cười, Jane? Điều gì


khiến em có bộ dạng ngạc nhiên và khó hiểu thế kia? - Em đang mải nghĩ, thưa ông (chắc là ông sẽ không chấp em làm gì, vì tự nhiên em nghĩ đến thôi). Em đang nghĩ đến Hercules và Samson cũng như những người đã quyến rũ họ. - Em đúng là một nàng tiên bé nhỏ... - Thôi mà! Lúc này ông không thông thái lắm đâu, sẽ chẳng hơn được hai nhân vật em vừa nhắc. Tuy nhiên, nếu họ cưới vợ thì chắc chắn cái tính nghiêm nghị của họ với tư cách người làm chồng sẽ thay thế cho tính dịu dàng trước đó, khi mà họ còn là những kẻ đang cầu hôn. Em sợ rồi cũng sẽ có ngày ông trở thành người như vậy. Không hiểu độ một năm nữa, nếu chẳng may em cầu xin một ân huệ gì mà ông không vừa lòng thì ông sẽ trả lời em ra sao. - Thế thì ngay bây giờ, em hãy yêu cầu tôi một điều gì đi, Jane, một điều nhỏ nhất cũng được. Tôi muốn được em đề nghị. - Được thôi, thưa ông, em sẽ làm như vậy vì em đã có ý sẵn rồi. - Em nói đi! Nhưng nếu em cứ ngước mắt nhìn tôi với nụ cười như thế này, thì tôi xin thề là chưa cần biết em yêu cầu điều gì tôi cũng đã nhận lời rồi, kể cả khi điều đó biến tôi thành một kẻ ngốc nghếch. - Làm gì đến mức tệ như vậy, thưa ông. Em chỉ cầu xin ông đúng một điều, ấy là đừng viết thư đòi đồ nữ trang và cũng đừng cài lên tóc em những đóa hoa hồng làm gì, vì như thế chẳng khác gì việc ông phải gán kim tuyến diềm quanh một chiếc khăn tay tầm thường cả. - Chẳng khác gì việc “mạ thêm vàng lên vàng mười” thì có. Tôi hiểu, vậy thì lời thỉnh cầu của em sẽ được chấp nhận... ít nhất là lần này. Tôi sẽ huỷ lệnh đã gửi cho nhà băng. Nhưng em vẫn chưa yêu cầu gì cả, em mới chỉ xin từ chối một món quà tặng. Hãy thử yêu cầu lại đi. - Vậy thì, thưa ông, xin ông hãy vui lòng cho em được thỏa trí tò mò một chút, về một điểm thôi. Trông ông bỗng có vẻ bối rối lắm. “Cái gì? Cái gì?” – Ông vội hỏi lại. – Tò mò là một tính nguy hiểm đấy. Cũng may là tôi chưa hứa thỏa mãn mọi đòi hỏi của em.


- Nhưng thỏa mãn điều này lại không có gì nguy hiểm cả, thưa ông. - Vậy thì nói đi, Jane. Nhưng tôi mong rằng thay vì một đòi hỏi nhằm vào một điều bí mật, em sẽ nói ra cái mong ước được hưởng một nửa gia tài của tôi. [66] - Ôi, nhà vua Ahasuerus ơi! Em lấy một nửa gia sản của ông để làm gì chứ? Ông nghĩ em là một người Do Thái cho vay nặng lãi muốn tìm kiếm miếng ăn bằng điền địa ư? Thiết tưởng nếu con tim ông đã chấp nhận em thì ông cũng nên tin ở em chứ? - Lúc nào em cũng hoàn toàn xứng đáng với niềm tin của tôi, Jane ạ. Nhưng, lạy Chúa, em cũng đừng mong mang một gánh nặng vô ích làm gì. Đừng mong mỏi thuốc độc, đừng trở thành nàng Eva đích thực trong vòng tay của tôi. - Tại sao không, thưa ông? Ông vừa bảo em là ông thích bị chinh phục và ông rất sung sướng khi chịu ảnh hưởng của người khác kia mà. Ông không cho rằng tốt hơn hết là em nên tận dụng lời thú nhận đó, rồi bắt đầu nịnh nọt, van xin... thậm chí là khóc lóc và hờn dỗi nữa nếu cần, để thử xem cái sức mạnh của em ra sao ư? - Tôi thách em thử làm như vậy đấy. Em cứ thử đi, có lẽ tôi sẽ chịu thua ngay. - Thật thế à? Ông đầu hàng sớm quá. Trông ông có vẻ nghiêm túc thật đấy! Hàng lông mày của ông sao mà rậm như ngón tay của em vậy, còn vầng trán thì cứ như trong một bài thơ kỳ dị mà em đã đọc. Có khi đến lúc tổ chức đám cưới, ông vẫn cứ giữ cái bộ dạng ấy mất? - Không đến nỗi thế đâu! Nhưng em muốn yêu cầu gì nào, Jane? Nói đi em! - Đấy, ông có vẻ bớt kiểu cách đi một chút rồi đấy, mà em thì lại thích sự mộc mạc thẳng thắn hơn là những lời có cánh rất nhiều. Em muốn được gọi là một cô gái hơn là một thiên thần. Điều mà em muốn hỏi ông là tại sao ông cứ phải mất công làm cho em tin rằng ông muốn lấy cô Ingram làm vợ? - Tất cả chỉ có thế thôi à? Ơn Chúa, điều em hỏi không có gì là tệ hại cả!


– Ông cười và đáp lại, tay vuốt tóc tôi, hàng lông mày giãn hẳn ra như đang vui vì thấy thoát được một cơn nguy. – Tôi nghĩ tôi có thể thú thực với em, cho dù có thể làm em bực tức đôi chút, Jane ạ. Nhưng tôi cũng muốn được thấy mỗi khi phẫn nộ, em sẽ xử sự như thế nào. Đêm hôm qua, Jane ạ, dưới ánh trăng lạnh, khi vùng vẫy chống lại số phận và đòi hỏi sự bình đẳng đối với tôi, em đã giận ngùn ngút. Mà này, chính em đã tỏ tình trước với tôi đấy nhé. - Đúng là em đã ngỏ lời trước. Nhưng nếu không thấy phiền thì xin ông hãy trở về với câu chuyện cô Ingram đi. - Ừ, tôi chỉ vờ tán tỉnh cô Ingram, vì tôi muốn làm cho em yêu tôi đến điên cuồng như tôi hằng yêu em. Và tôi biết ghen tuông luôn là đồng minh tốt nhất mà tôi có thể trông cậy để nhanh đạt tới mục đích ấy. - Hay đấy! Bây giờ thì ông nhỏ thật, có khi còn chẳng bằng đầu ngón tay út của em. Làm như ông thì thật là mất thể diện và đáng hổ thẹn. Thế ông không nghĩ gì đến tình cảm của cô Ingram? - Tình cảm của cô ta chỉ tập trung ở một điểm là... kênh kiệu và cái thói ấy có bị phỉ nhổ cũng chẳng oan. Khi ấy, em có thấy ghen không, Jane? - Đừng bao giờ bận tâm đến chuyện ấy làm gì, Rochester ạ, vì có biết thì cũng có lợi lộc gì đâu. Bây giờ ông hãy thành thực trả lời em một lần nữa nhé. Ông có nghĩ cô Ingram sẽ không đau khổ vì những lời tán tỉnh giả dối của ông không? Cô ấy sẽ không cảm thấy mình bị bỏ rơi không? - Không thể có chuyện ấy! Trái lại thì có, cô ta đã bỏ rơi tôi thì có. Cái gia tài không nhiều như người đời vẫn nghĩ của tôi đã làm nguội lạnh, hay nói đúng hơn, đã làm tắt ngấm ngọn lửa tình của cô ta đối với tôi. - Rochester ạ, ông quả là người kỳ lạ và lắm mưu. Em sợ rằng các nguyên tắc của ông có một số điểm hơi bị lệch lạc đấy. - Chẳng bao giờ có ai bảo tôi phải đặt ra những nguyên tắc thế này thế nọ, Jane ạ. Có thể chúng ít nhiều bị thiên lệch vì thiếu sự quan tâm. - Em hỏi thật ông một lần nữa nhé. Liệu em có thể tận hưởng cái lòng tốt lớn lao của ông dành cho em mà không sợ có một ai khác phải hứng chịu sự đau đớn buồn tủi như em đã từng phải chịu đựng trước đây không?


- Em có thể được như vậy, cô bé tốt bụng của tôi ạ. Trên đời này chẳng ai có một tình yêu trong sáng dành cho tôi như em. Jane ạ, tin ở tình cảm trìu mến của em luôn là một niềm an ủi cho tâm hồn tôi. Tôi áp môi hôn lên bàn tay mà ông đang đặt lên vai tôi. Tôi yêu ông nhiều lắm, yêu hơn cả những gì mà tôi tin mình có thể nói lên được, hơn cả những gì mà ngôn từ có thể diễn tả. - Em hãy đề nghị thêm một điều gì nữa đi, – ông nói – tôi rất vui khi được em đòi hỏi và được chiều ý em. Trong đầu tôi dã định sẵn một thỉnh cầu. “Ông hãy thông báo cho bà Fairfax biết rõ các ý định của ông đi, thưa ông. Tối hôm qua, khi trông thấy ông và em ở đại sảnh, bà ấy rất ngạc nhiên. Ông phải giải thích cho bà ấy rõ trước khi em gặp lại bà ấy. Em sẽ rất buồn nếu bị một phụ nữ tốt bụng như bà ấy hiểu lầm”. - Em về phòng và đội mũ vào. – Ông trả lời. – Tôi muốn em cùng tôi đi Millcote ngay sáng nay. Trong lúc em chuẩn bị, tôi sẽ tìm bà ấy để nói chuyện. Không hiểu bà ấy có nghĩ rằng em đã dành cả thế giới của mình cho tình yêu mà không hề phải cân nhắc điều gì không, Jane nhỉ? - Em cho rằng thể nào bà ấy cũng nghĩ em đã quên mất địa vị của mình rồi, và cả ông cũng vậy. - Địa vị! Địa vị! Địa vị của em bây giờ và mãi sau này là ở trong trái tim tôi và ở trên đầu trên cổ những kẻ nào dám lăng mạ em... Thôi về phòng đi. Tôi mặc quần áo rất nhanh và ngồi đợi. Nghe tiếng chân ông Rochester rời khỏi phòng bà Fairfax, tôi vội đi xuống nhà. Bà đang đọc đoạn kinh cuối buổi sáng, bài học hàng ngày của bà. Tập kinh thánh mở rộng trước mặt bà, trên đặt đôi mục kỉnh. Hình như câu chuyện của ông Rochester đã khiến bà quên mất cả chuyện đọc kinh. Bà đang đăm đăm nhìn vào mảng tường trắng đối diện, lộ rõ vẻ ngạc nhiên của một tâm hồn bình dị bị khuấy động bởi những tin kỳ lạ. Trông thấy tôi, bà liền đứng dậy cười gượng và nói vài lời chúc mừng, nhưng nụ cười trên môi bà đã nhanh chóng tắt ngấm và cả lời chúc mừng cũng bị ngắt ở giữa chừng. Bà đeo kính lên, gập quyển kinh Thánh lại và đẩy lùi chiếc ghế đang ngồi ra xa bàn. - Quả thực là tôi rất ngạc nhiên, – bà bắt đầu nói – đến nỗi chẳng còn


biết nói gì với cô bây giờ, cô Eyre ạ. Chắc là tôi không nằm mơ, phải không ạ? Thỉnh thoảng ngồi một mình, tôi cứ mơ mơ màng màng rồi tưởng tượng ra đủ thứ chưa từng xảy ra bao giờ. Hình như đã hơn một lần rồi, trong cái lúc mơ màng ấy, tôi đã thấy chồng tôi, người mất cách đây mười lăm năm, bước vào và ngồi xuống bên tôi. Tôi còn nghe thấy ông gọi đúng tên cúng cơm của tôi là Alice nữa cơ, giống như ông vẫn thường gọi tôi ngày xưa ấy. Nào, bây giờ cô có thể cho tôi biết có đúng là ông Rochester đã hỏi cưới cô không? Nói cô đừng cười, vì cách đây mới năm phút thôi, đúng là ông ấy đã vào đây và bảo rằng trong vòng một tháng nữa, cô sẽ là vợ ông ấy. - Ông cũng bảo với tỏi như vậy mà. – Tôi đáp lại. - Ông ấy bảo!... Cô có tin ông ấy không? Cô đã nhận lời ông ấy rồi chứ? - Rồi. Bà sững sờ nhìn tôi. - Chẳng bao giờ tôi có thể nghĩ ra như vậy. Ông ấy là một người ngạo mạn, tất cả những người thuộc dòng họ Rochester đều ngạo mạn. Và ít nhất thì cha ông ấy cũng là người rất thích tiền. Chính ông Rochester cũng vậy, lúc nào ông ấy cũng được coi là người thận trọng lắm kia mà. Ông ấy nói định lấy cô thật à? - Ông ấy bảo tôi thế. Thế rồi bà ngắm tôi từ đầu đến chân. Nhìn ánh mắt bà, tôi hiểu rằng bà không tìm được trên người tôi một nét quyến rũ nào đủ để giải được bài toán đố kia. - Tôi không hiểu nổi! – Bà nói tiếp. – Nhưng cô đã nói thì chẳng còn phải nghi ngờ gì nữa. Tôi không thể nói được rồi câu chuyện sẽ ra sao, vì quả thực là tôi không biết. Trong những trường hợp như thế này, nên có sự bình đẳng về địa vị và tiền tài thì hơn. Mà hai người lại chênh nhau đến hai chục tuổi nữa cơ chứ. Ông ấy gần như đáng tuổi cha cô còn gì. - Quả thực là không phải, bà Fairfax ạ! – Tôi đáp lại, vẻ hơi khó chịu. – Làm sao mà ông ấy đáng tuổi cha tôi được! Chẳng ai nhìn thấy chúng tôi đi với nhau mà lại có thể nghĩ như vậy được. Trông ông Rochester còn trẻ lắm, trẻ như người mới hăm nhăm tuổi ấy.


- Có thật ông ấy lấy cô vì tình yêu không? – Bà hỏi tôi. Tôi cảm thấy bị tổn thương đến trào nước mắt khi nghe câu hỏi lạnh tanh và đầy vẻ hoài nghi của bà. - Xin lỗi vì đã làm cô buồn, – bà quả phụ nói tiếp – nhưng cô vừa trẻ lại vừa ít va chạm với cánh đàn ông, nên tôi muốn nhắc cô phải thận trọng. Tục ngữ có câu: “không phải cứ cái gì lấp lánh đều là vàng”. Trong trường hợp này, tôi sợ có điều gì đấy rất khác với những gì mà cả cô và tôi mong đợi. - Sao? Chẳng lẽ tôi là một con quỷ ư? – Tôi nói. – Chẳng lẽ ông Rochester lại không thể có một tình yêu chân thật đối với tôi? - Không, cô xinh lắm, nhất là thời gian gần đây. Tôi cũng dám nói rằng ông Rochester có thể có tình cảm với cô. Lúc nào tôi cũng để ý thấy điều đó. Vì tôi quý cô nên có không ít lần tôi cảm thấy lo ngại khi nhận ra cái tình cảm đặc biệt mà ông ấy dành cho cô và tôi chỉ muốn nhắc cô hãy cẩn thận, nhưng tôi không muốn nêu ra một viễn cảnh không hay xảy ra với cô. Tôi biết làm như vậy có thể khiến cô không vui và có khi còn xúc phạm đến cô nữa, mà cô thì lúc nào cũng là một cô gái kín đáo, khiêm tốn và nhạy cảm. Vì vậy tôi chỉ còn biết thầm mong cô có thể tự lo cho mình. Tối hôm qua, tôi đã đi khắp nhà mà vẫn không tìm thấy cô, cũng chẳng thấy ông chủ đâu, biết nói thế nào để cô hiểu nỗi lòng của tôi lúc đó nhỉ, vì đến nửa đêm tôi bỗng thấy cả cô và ông ấy cùng bước vào nhà. - Thôi, xin bà hãy đừng bao giờ bận tâm đến chuyện ấy nữa. – Tôi sốt ruột ngắt lời bà. – Bà chỉ cần biết mọi chuyện đều diễn ra tốt đẹp, thế là đủ. - Tôi cũng mong mọi sự tốt đẹp cho đến lúc chót, – bà đáp lại – nhưng cô cũng nên tin lời tôi, cô có thận trọng đến mấy cũng chẳng thừa. Cố gắng giữ khoảng cách với ông ấy và cảnh giác với chính bản thân mình cũng như với ông ấy. Những người thuộc tầng lớp như ông ấy chẳng mấy khi cưới gia sư trong nhà đâu. Tôi bắt đầu cảm thấy thật sự bực mình, may mà Adèle chạy vào. - Cho em đi... cho em đi Millcote với! – Nó kêu ầm lên. – Cái xe mới còn rộng lắm mà ông Rochester vẫn không muốn cho em đi. Cô xin hộ em đi, cô Jane!


- Được rồi, cứ yên tâm đi, Adèle. – Tôi nói và chạy ra ngoài cùng Adèle, trong lòng cảm thấy dễ chịu hẳn vì đã thoát được cái bà quản gia ngớ ngẩn của tôi. Cỗ xe ngựa mới đã được đánh ra đằng trước nhà từ lúc nào, còn ông chủ của tôi thì đang đi đi lại trên hè, con Pilot chạy lăng xăng đằng sau. - Thưa ông, Adèle có thể đi cùng chúng ta được không? - Tôi đã bảo nó là không rồi. Tôi không thích có trẻ con! Chỉ cần em là đủ. - Nếu không phiền thì cứ cho nó đi, ông Rochester ạ, như vậy sẽ tốt hơn. Rochester có vẻ rất dứt khoát trong ánh mắt và lời nói. Những lời cảnh báo khó chịu và những nghi ngờ chán ngán của bà Fairfax vẫn còn vương vấn trong đầu tôi. Có một cái gì đó mơ hồ và không chắc chắn đang đè lên những hy vọng của tôi. Tôi chợt thấy mất hẳn một nửa cảm giác sức mạnh của mình đối với Rochester. Tôi đang định tuân lời ông như cái máy và không phản đối gì nữa, thì bỗng nhiên ông nhìn vào mắt tôi khi đỡ tôi lên xe. - Có vấn đề gì thế? – Ông hỏi. – Sao mặt lại ỉu xìu như thế kia? Em thực sự muốn con bé đi cùng phải không? Em không thích để nó ở nhà à? - Em rất muốn nó cùng đi, thưa ông. - Vậy thì chạy về lấy mũ rồi quay lại đây, nhanh chân lên. – Ông bảo Adèle. Chỉ đợi có vậy, con bé chạy tót về nhà ngay. - Thôi được, nói cho cùng thì cũng chỉ mất một buổi sáng, – ông nói – trong khi tôi cần em tâm sự, trò chuyện và làm bạn suốt đời kia mà. Vừa được nhấc lên xe, Adèle đã nhào tới hôn liên tiếp vào má tôi để cảm ơn sự can thiệp của tôi, nhưng rồi nó bị gí ngay vào một góc xe. Nó liếc mắt nhìn tôi, vẻ cụt hứng khi phải ngồi cùng một bên với ông láng giềng khó tính. Nhìn vẻ mặt quàu quạu của ông chủ, nó không dám hé răng nói nửa lời. - Cho nó sang đây với em, – tôi đề nghị – có lẽ để nó ngồi đấy sẽ làm phiền ông, bên này còn rộng lắm. Ông nhấc bổng con bé sang bên tôi như nhấc một con chó cún vậy:


“Sớm muộn gì thì tôi cũng sẽ gửi nó vào trường thôi.” – Ông nói và mỉm cười, vẻ vui hơn một chút. Nghe vậy, con bé láu táu hỏi lại rằng có phải nó bị vào trường mà không [67] có “mademoiselle” không? - Vâng, – ông trả lời, vẻ giễu cợt – chắc chắn là không có “mademoiselle” rồi, vì tôi còn phải đem “mademoiselle” của cô lên mặt trăng và tìm một cái hang ở một thung lũng trắng giữa các đỉnh núi lửa, để “mademoiselle” của cô được sống với một mình tôi thôi. - Thế thì cô ấy chẳng có gì mà ăn cả, ông sẽ làm cho cô ấy chết đói mất. – Adèle cãi lại. - Sớm tối tôi sẽ đi kiếm bánh thánh cho “mademoiselle” của cô, trên mặt trăng thì thiếu gì, có mà đầy đồng, Adèle ạ. - Cô ấy còn phải sưởi ấm nữa chứ, thế ở mặt trăng thì cô ấy lấy lửa ở đâu nào? - Các ngọn núi trên mặt trăng sẽ phát ra lửa. Khi nào “mademoiselle” lạnh, tôi sẽ bế cô ấy lên đỉnh núi và đặt cô nằm trên miệng núi lửa. - Eo ơi, thế thì làm sao cô ấy chịu được! Lại còn quần áo nữa cơ mà, nó phải rách chứ. Cô ấy lấy đâu ra áo mới nào. Ông Rochester làm ra vẻ lúng túng. “Hừm, thế cô sẽ làm thế nào, Adèle? Dù thế nào thì cũng phải móc bằng được một cái gì chứ. Cô nghĩ thế nào nếu tôi lấy một đám mây trắng hay mây hồng làm áo? Người ta còn có thể cắt một mảnh cầu vồng làm đủ một chiếc khăn quàng xinh xắn nữa kia.” - Thế thì cứ ở thế này còn hay hơn. – Adèle phán sau một lúc nghĩ ngợi. – Cô ấy mà ở với một mình ông thôi thì chán chết đi được. Nếu cháu là cô thì cháu sẽ chẳng bao giờ thích đi với ông. - Thế mà “mademoiselle” của cô đã bằng lòng rồi đấy. Cô ấy đã hứa với tôi rồi! - Nhưng ông đem cô ấy lên thế nào được, làm gì có đường lên mặt trăng, chỉ có không khí thôi. Ông và cô ấy có biết bay không nào?


- Adèle, nhìn cánh đồng kìa. Chúng tôi đã ra khỏi cổng lâu dài Thornfield, chiếc xe nhẹ nhàng lăn bánh trên đường đi Millcote. Bầu trời không còn vẩn một chút bụi mờ sau cơn bão đêm qua. Dọc hai bên đường đi, từng cành cây ngọn cỏ đều trở nên xanh rì sau một đêm thấm đẫm những hạt mưa. - Trên cánh đồng này, – Rochester nói, giọng chùng hẳn xuống – Adèle ạ, vào một buổi chiều cách đây khoảng hai tuần, cái buổi chiều mà cháu đã giúp bác vun đống cỏ khô trong vườn ấy, bác đã lững thững dạo bộ một mình. Cảm thấy mệt vì cái công việc ấy, bác đã ngồi nghỉ trên một cái bậc, rồi lôi quyển sổ nhỏ và một cây bút chì ra ghi lại một câu chuyện không may xảy ra lâu lắm rồi, và cứ thế mong ước những ngày vui sẽ đến. Bác đang cắm cúi ngồi viết, viết rất nhanh vì ánh sáng đã nhạt dần trên trang giấy, thì bỗng có một cái bóng lặng lẽ đi tới và dừng lại cách chỗ bác chừng hai thước. Bác ngẩng lên nhìn. Thì ra là một người bé nhỏ, đầu đội một chiếc khăn mỏng tang. Bác vẫy tay ra hiệu cho nàng lại gần, và nàng đã lập tức đến đứng ngay bên gối bác. Bác không nói gì với nàng, mà nàng cũng chẳng nói gì với bác. Nhưng bác vẫn đọc được ánh mắt của nàng, và nàng cũng đọc được mọi điều trong mắt bác. Hai bên đều hiểu người kia đang nghĩ gì, và câu chuyện không lời giữa hai người đại khái như sau: “Nàng bảo nàng là một nàng tiên từ thiên cung xuống để mang lại hạnh phúc đến cho bác. Bác phải theo nàng tiên ấy rời khỏi trần gian nhốn nháo tới một xứ sở heo hút – như mặt trăng chẳng hạn – và nàng chỉ về phía mảnh trăng lưỡi liềm đang nhô lên trên mỏm đồi Hay. Nàng kể cho bác nghe về cái động tuyết hoa và thung lũng bạc, nơi bác và nàng tiên ấy sẽ tới sống cùng nhau. Bác rất muốn đi, nhưng cũng nhắc nàng rằng bác không có cánh để bay như cháu vừa bảo bác.” “Ồ, – nàng tiên quay lại bảo bác – chuyện đó chẳng có nghĩa lý gì! Đây là một lá bùa phép có thể vượt qua mọi trở ngại”. Rồi nàng chìa ra một chiếc nhẫn vàng. “Chàng hãy cầm lấy – nàng bảo bác – và xỏ nó vào ngón tay thứ tư của bàn tay trái em, như vậy em sẽ thuộc về ông và ông sẽ là của em. Sau đó chúng ta sẽ rời khỏi mặt đất và dựng lên một thiên đường của riêng mình.” Nàng lại chỉ về phía mặt trăng. Adèle ạ, cái nhẫn vẫn đang nằm trong túi quần bác với hình dáng một đồng tiền vàng. Nhưng không sao, bác lại sắp


biến nó thành một chiếc nhẫn cưới rồi. - Nhưng chuyện ấy thì có liên quan gì đến cô giáo chứ? Cháu không thèm nàng tiên ấy. Ông vừa bảo ông người được ông đưa lên cung trăng là cô giáo cơ mà? - “Mademoiselle” của cháu chính là nàng tiên. – Ông thì thầm, vẻ bí mật lắm. Nghe đến đây, tôi bảo Adèle đừng để ý đến câu chuyện đùa của ông làm gì. Nhưng chẳng cần đời tôi phải dạy, con bé cũng đã tỏ vẻ hoài nghi như một người Pháp chính cống. Nó bảo ông Rochester “đúng là một kẻ bốc phét” và khăng khăng với ông rằng nó chẳng tin ở câu chuyện thần thoại của ông một tí nào. Nó còn bảo trên đời này làm gì có tiên, mà nếu có thì cũng chang bao giờ có chuyện nàng tiên ấy hiện ra cho ông thấy, cũng chẳng bao giờ đem tặng nhẫn cho ông hoặc đòi sống với ông trên cung trăng. Thời gian ở Millcote khiến tôi cảm thấy đến khổ. Ông Rochester bắt tôi phải đến một cửa hàng tơ lụa để chọn mua đến một nửa tá quần áo. Thú thực là tôi rất ghét phải làm cái việc đó, nếu mua thì thư thả cũng được, cần gì phải vác cả đống đồ về ngay bây giờ. Tôi kì kèo, thì thầm to nhỏ mãi ông mới đồng ý giảm từ nửa tá xuống còn hai chiếc, nhưng với điều kiện ông phải là người chọn cho tôi. Quả thực là nhìn ông lướt qua những bộ đồ sáng màu, tôi không thể không cảm thấy lo. Ông dán mắt nhìn một chiếc váy áo lụa bóng nhất màu tím thạch anh, và một chiếc satanh màu hồng sặc sỡ. Tôi lại phải thì thầm bảo ông rằng thà ông cứ mua cho tôi một chiếc áo kim tuyến và một cái mũ ánh bạc còn hơn, vì chẳng bao giờ tôi dám mặc liều những bộ đồ ông đã chọn. Phải rất khó khăn (vì ông cứ đứng trơ như tượng) tôi mới thuyết phục được ông đổi lấy một chiếc áo satanh màu đen trang nhã hơn và một chiếc áo lụa màu ghi ngọc trai. Ông bảo bây giờ hãy cứ thế đã, còn như ông muốn thì tôi phải lộng lẫy hơn, phải như một vườn hoa ấy. Tôi thấy vui khi lôi được ông ra khỏi hàng tơ lụa, và tiếp đó là hiệu kim hoàn, vì ông càng mua sắm cho tôi bao nhiêu thì tôi ông cảm thấy bực bội và xấu hổ bấy nhiêu. Lên xe, tôi liền ngồi phịch xuống, người mệt như phát sốt, nhưng đó cũng là lúc tôi chợt nhận ra rằng những chuyện buồn, chuyện vui dồn dập đã làm tôi quên hẳn bức thư mà cậu John Eyre của tôi gửi cho bà Reed, với ý định đỡ đầu tôi và muốn tôi là người thừa kế gia sản. “Mình sẽ khuây khỏa ít nhiều – tôi thầm nghĩ – nếu được sống độc lập một chút, quả


thực là mình chẳng hề muốn mình giống một con búp bê để rồi phải nhận những thứ đồ ông Rochester mua sắm. Về nhà, mình sẽ gửi ngay một lá thứ đến Madeira báo cho cậu John biết mình sắp lấy chồng và chồng mình là ai. Nếu biết sẽ có ngày mình đủ khả năng để đóng góp thêm vào gia sản của ông Rochester thì bây giờ mình có thể dễ chấp nhận sự quan tâm của ông ấy hơn mà chẳng việc gì phải áy náy cả.” Phần nào vững tâm vì ý nghĩ ấy, tôi đánh bạo nhìn thẳng vào mắt ông chủ và cũng là người yêu của tôi: đôi mắt ấy lúc nào cũng ngoan cố tìm đôi mắt tôi, mặc cho tôi lảng tránh nhìn đi chỗ khác. Ông mỉm cười đáp lại ánh mắt tôi. Nụ cười của ông khiến tôi liên tưởng đến nụ cười của một quốc vương Hồi giáo khi ông ta ban cho tên nô lệ vàng bạc châu báu trong một lúc ngất ngây hạnh phúc yêu đương. Ông đưa tay quờ tìm và xiết chặt bàn tay tôi, khiến nó đỏ nhừ lại. Tôi đẩy tay ông ra và bảo: - Ông đừng nhìn em như vậy, nếu không em sẽ mặc mãi chiếc áo cũ của em ở Lowood cho mà xem. Và đến hôm cưới em cũng vẫn cứ mặc cái áo kẻ vuông màu đỏ tía này cho ông biết, rồi ông cứ việc đem lụa trân châu ra mà may áo ngủ, còn chỗ satanh đen thì ông có thể lấy mà may cả đống áo chẽn. Ông xoa tay và cười khì khì: “Ôi, thật là tuyệt khi được nhìn và nghe nàng nói! – Ông nói như reo. – Chẳng phải nàng là người có cá tính ư? Tôi sẽ chẳng chịu đổi cô gái Anh bé nhỏ này lấy một nữ hoàng Thổ Nhĩ kỳ, cho dù đó là một nữ hoàng có đôi mát linh dương và hình hài tiên nữ đi nữa cũng mặc! Lời nói ví kiểu phương Đông ấy một lần nữa làm tôi phật ý. “Em sẽ nhất định không chịu thế chỗ một nữ hoàng cho ông đâu, – tôi nói – vì thế ông đừng nên coi em là một người ngang hàng với một nữ hoàng. Nếu ông có mộng tưởng về một điều gì theo kiểu ấy, thì ông cứ việc đi đi, hãy đến ngay Stamboul mà mua cả tá nô lệ về bằng số tiền mà hình như ở đây, ông chẳng biết tiêu gì cho thỏa.” - Thế em sẽ làm gì khi tôi mua về hàng tấn thịt tươi và một lô những đôi mắt đen ấy? - Nếu vậy, em sẽ chuẩn bị làm một nhà truyền giáo đi truyền giảng tự do cho những kẻ nô lệ, kể cả những nô lệ trong hoàng cung của ông. Em sẽ vào đó và kích động họ làm loạn! Còn ông, cho dù ông có là ông vua Thổ tối cao đi nữa thì ông cũng sẽ bị chúng gô cổ trong nháy mắt. Sẽ chẳng có ai, kể cả em cũng vậy, bằng lòng cởi trói cho ông chừng nào ông chưa chịu ký một


đạo luật đặc xá tự do nhất mà chưa có một bạo chúa nào chịu chấp thuận. - Tôi sẽ phục tùng em, Jane ạ. - Em sẽ không khoan nhượng đâu, ông Rochester ạ, nếu ông cứ năn nỉ bằng ánh mắt kia. Nếu ông cứ nhìn như vậy, em không thể không tin rằng cho dù ông có buộc phải ký đạo luật đặc xá nào đi nữa, thì một khi được tha, thế nào hành động đầu tiên của ông vẫn sẽ là vi phạm chính những điều khoản mà ông đã ký. - Sao thế, Jane, em có chuyện gì muốn nói phải không? Tôi sợ em sẽ lại buộc tôi tổ chức một lễ cưới riêng, ngoài hôn lễ trước bàn thờ Chúa thôi. Tôi thấy có vẻ như em lại định đưa ra những yêu cầu đặc biệt đây, em nói đi, những yêu cầu gì vậy? - Thưa ông, em chỉ muốn dược thanh thản, không phải nặng đầu vì hàng mớ những điều ràng buộc. Ông còn nhớ những điều ông nói về người phụ nữ Anh Celine Varens của ông không? Rồi những viên kim cương, những món đồ len Kashmir mà ông đã tặng cô ta nữa? Em sẽ không làm Celine Varens của ông đâu. Em chỉ muốn tiếp tục làm cô giáo dạy học của Adèle, như vậy em vẫn có thể kiếm được ba mươi bảng mỗi năm và có nơi ăn chốn ở yên ổn. Em sẽ dùng số tiền ấy để tự may mặc cho mình, và ông sẽ chẳng cần phải cho em cả tại cả, ngoài... - Ngoài cái gì nào? - Tấm lòng của ông. Và nếu phải đền đáp lại em cũng sẽ tôn trọng ông, như vậy sẽ không ai phải nợ ai. - Được đây, quả là cái tính khôn ngoan và kiêu ngạo bẩm sinh của em thì chẳng ai bằng. – Ông nói. Xe chúng tỏi đã gần về đến Thornfield. “Tối nay, – ông chợt hỏi tôi lúc xe vào cổng lâu đài – em sẽ vui lòng dùng bữa với tôi chứ?” - Không, cám ơn ông. - Tại sao vậy? - Thưa ông, vì em chưa bao giờ dùng bữa với ông, và bây giờ em cũng chẳng thấy có lý do gì để làm như vậy, cho đến khi...


- Ðến khi nào? Em chỉ toàn ăn nói nửa chừng thôi - Cho đến khi em không thể không làm như vậy. - Chắc em nghĩ khi ngồi ăn, điệu bộ của tôi trông giống một con yêu tinh hay một con ma cà rồng chứ gì? - Em hoàn toàn không có cái ý nghĩ ấy, thưa ông! Nhưng em muốn mọi việc vẫn cứ diễn ra như hình thường trong một tháng nữa... - Em có thể thôi ngay cái công việc khổ cực của một cô giáo dạy trẻ. - Không được! Xin ông tha lỗi cho, em sẽ không làm như vậy đâu. Em vẫn muốn được sống như thường lệ. Em sẽ tránh không gặp ông suốt ngày, như mọi khi em vẫn làm. Ông có thể cho gọi em vào chiều tối nếu ông muốn, và em sẽ đến liền, nhưng tất nhiên là không phải bất cứ lúc nào cũng có thể được. - Em lại buộc tôi phải châm thuốc hút để lấy lại bình tĩnh rồi! Mà chán thật đấy, mình lại để quên mất hộp xì gà, cả bao thuốc cũng không có nữa. Nhưng em hãy nghe này (thì thầm), bây giờ là thời của em, cô bạo chúa bé bỏng ạ, nhưng rồi sẽ đến thời của tôi thôi. Và một khi đã tóm được em trong vòng tay rồi thì có lẽ tôi cũng đến phải trói em lại, như bằng cái dây xích này chẳng hạn (ông sờ vào sợi dây đeo đồng hồ), để giữ em cho thật chặt mới được. Đúng thế, nàng tiên nhỏ xíu của tôi ạ, tôi sẽ luôn mang em bên mình và sẽ chẳng bao giờ để mất em như mất một viên ngọc quý. Ông vừa nói vừa đỡ tôi xuống xe, và trong lúc ông bế Adèle ra khỏi xe, tôi bước vào nhà và đi ngay lên gác. Buổi chiều, ông lại cho gọi tôi đến gặp. Tôi đã nghĩ sẵn một việc để ông phải bận tâm, vì tôi quyết định sẽ không ngồi trò chuyện tay đôi với ông hết cả buổi tối. Tôi biết ông có giọng hát rất hay và cũng rất thích hát – những người hát hay thường là rất thích hát. Tôi thì tôi không biết hát, và theo cách phán khó tính của ông thì tôi cũng chẳng có khiếu về âm nhạc, nhưng không vì thế mà tôi không thích nghe hát, nhất là những bài có giai điệu hay. Ngoài khung cửa sổ, cảnh chiều hôm đang buông một tấm màn xanh thẫm lấp lánh những vì sao sớm, khiến tôi có cảm giác mình đang được sống trong một thiên đường thật lãng mạn. Tôi đứng dậy mở nắp dương cầm và đề nghị ông hãy vì tình yêu bầu trời thơ mộng kia mà hát tặng tôi một bài. Ông bảo tôi là


một mụ phù thủy sống tùy hứng và bảo không muốn hát vào lúc này, nhưng tôi cứ khăng khăng bảo chẳng còn lúc nào đẹp hơn lúc này. - Em có thích nghe giọng tôi hát không? – Ông hỏi. - Rất thích. – Thực ra, tôi không muốn cưng nựng cái tính tự đại lúc nào cũng có thể bộc lộ của ông, nhưng lần này, vì muốn tránh phiền phức nên tôi buộc phải tìm cách kích động cái tính đó của ông. - Vậy thì em phải đệm dương cầm cho tôi, Jane ạ. - Được rồi, thưa ông, em sẽ cố gắng. Tôi thử nhấn vài phím nhưng liền bị gạt ngay ra khỏi chiếc đàn và bị gọi là “cô bé vụng về”, nhưng quả thực tôi cũng chỉ đợi ông làm như vậy. Ông ngồi vào chỗ của tôi và bắt đầu tự đệm đàn lấy, vì ông chơi đàn cũng hay không kém gì hát. Tôi nép mình vào bên cửa sổ, mắt nhìn ra bên ngoài ngắm cảnh trời đất im lìm. Ông bắt đầu cất giọng hát theo một giai điệu ngọt ngào, êm đềm và thật du dương. Khúc hát tình yêu và giọng ca mượt mà của ông khiến tôi như chìm vào một thế giới huyền ảo và quên hẳn chính mình trong chốc lát. Rồi ông đứng dậy bước lại bên tôi, mặt đỏ bừng, mắt sáng long lanh biểu lộ một tình yêu dịu dàng và đắm đuối. Tự nhiên tôi thấy sợ, nhưng rồi cũng trấn tĩnh lại được. Tôi không thấy cái cảnh yêu đương êm ái và lối bày tỏ tình cảm táo bạo chút nào, vậy mà tôi lại đang bị cả hai thứ ấy đe dọa. Phải tìm cách mà ngăn chặn... bằng chính miệng lưỡi của mình thôi! Lúc ông lại gần, tôi bất ngờ hỏi một câu là bây giờ ông định cưới ai. - Jane thân yêu của tôi mà lại đi hỏi tôi một câu như vậy thì lạ thật. - Em thấy đó là một câu hỏi rất tự nhiên và cũng rất cần thiết. Ông nói rằng người vợ tương lai của ông sẽ cùng chết với ông. Không hiểu ông nói ra cái ý nghĩ ngoại giáo ấy là có ý gì? Em thì em không hề có ý định chết cùng ông, và ông có thể yên tâm là như vậy. - Ôi, tất cả những gì tôi mong ước và cầu nguyện là được sống bên em trọn đời? Cái chết đâu phải là dành cho một người như em. - Rồi cũng đến lúc như vậy, rồi cũng đến lúc em có quyền được chết như ông, nhưng em sẽ thanh thản chờ đợi, chứ chẳng dại gì phải vội vàng ra đi


cùng với chồng. - Em có sẵn lòng tha thứ cho tôi ý nghĩ ích kỷ ấy và chứng tỏ sự tha thứ của của em bằng một nụ hôn không? - Không, em xin ông tha lỗi cho! Ông bảo tôi là “cô bé sắt đá”. Tôi không phủ nhận điều đó với ông và bảo ông sẽ còn thấy tôi như vậy. Hơn nữa tôi đã quyết định sẽ bộc lộ cho ông thấy nhiều điểm khác trong tâm tính của tôi trước khi bốn tuần lễ tới trôi qua, bởi ông nên biết ông phải lấy một người như thế nào trong khi vẫn còn đủ thời gian để hủy bỏ quyết định hôn nhân của mình. - Em có muốn tĩnh tâm một chút để nói chuyện cho tỉnh táo không? - Em sẽ tĩnh tâm nếu ông muốn, còn nói chuyện tỉnh táo ư? Thiết tưởng hiện giờ em vẫn đang ăn nói tỉnh táo đấy chứ? Ông cau mày, nhăn mặt, vẻ đã bắt đầu bực bội. “Hay lắm, – tôi nghĩ bụng – ông cứ việc bực mình hay khó chịu, nhưng em tin đó là cách xử sự tốt nhất đối với ông lúc này. Em yêu ông hơn tất cả những gì em có thể nói thành lời, nhưng không vì thế mà em tự cho phép mình chìm đắm vào tình cảm thái quá. Những lời nói có vẻ khó lọt tai ấy chính là cách để em giữ ông lại với thực tại. Đó cũng là cách giữ chúng ta ở một khoảng cách có lợi sau này.” Vẫn theo cái cách ấy, tôi đã làm cho ông càng lúc càng bực tức. Sau khi ông nhăn mặt lui về gần một bức tường, tôi mới đứng dậy nói: “Chúc ông ngủ ngon” bằng thái độ kính trọng như thường ngày. Sau đó, tôi nhẹ nhàng bước theo lối cửa bên đi ra ngoài. Tôi cứ làm như vậy suốt một thời gian dài để thử thách ông và đã đạt được kết quả rất tốt. Tất nhiên là ông sẽ bực bội và giận tôi, nhưng tôi nghĩ như vậy sẽ tốt hơn cho cả tôi và ông. Giả sử tôi luôn tỏ thái độ phục tùng ông như một chú cừu non hoặc tỏ ra mềm yếu được ông như một chú bồ câu thì cũng chỉ tổ càng nuôi thêm cái tính độc đoán của ông mà thôi, và cứ như vậy thì ông sẽ chẳng còn biết đâu là lương tri nữa. Tất nhiên là khi có mặt người khác, tôi vẫn luôn tỏ ra kính trọng và trầm lặng như thường lệ. Bất cứ cách xử sự nào khác cũng đều không thích hợp,


chỉ những lúc trò chuyện buổi tối tôi mới dám chọc giận ông như vậy thôi. Ông thường cho gọi tôi đúng vào lúc đồng hồ điểm bảy tiếng, nhưng bây giờ ông không còn nói với tôi những lời ngọt ngào như “tình yêu” và “người tình của tôi” nữa, mà thay vào đó là những lời như “con búp bê hay châm chọc”, “nàng tiên ranh ma”... Thay vì những cử chỉ vuốt ve, bây giờ tôi chỉ còn nhận được những cái nhăn mặt, véo tay, beo má... Chẳng sao cả, thậm chí tôi còn thấy thích những cử chỉ giận hờn ấy hơn là cử chỉ âu yếm dịu dàng khác. Tôi thấy bà Fairfax có vẻ không còn lo ngại cho tôi nữa, vì thế tôi nghĩ cách xử sự của tôi là đúng. Trong khi đó, ông Rochester luôn trách móc là tôi đã làm cho ông đứng ngồi không yên và còn dọa tôi rằng thế nào cũng có lúc ông trả thù tàn khốc cái kiểu cư xử quá đáng của tôi. Nghe ông dọa, tôi chỉ cười thầm. “Bây giờ em đã kiểm soát được ông trong vòng lý trí rồi đó, – tôi nghĩ thầm – và tôi tin chắc sau này cũng vậy. Nếu cách này không còn tác dụng gì nữa thì sẽ tìm cách khác để trị ông”. Nhưng nói cho cùng, việc tôi làm cũng không phải là dễ dàng gì, vì nhiều khi tôi muốn làm ông vui lòng hơn là chọc giận ông. Người chồng tương lai ấy sẽ là thế giới của tôi và còn hơn cả cái thế giới ấy, vì ông gần như là niềm hy vọng thiên đường của tôi. Ông đứng giữa tôi và mọi đức tin, giống như nhật thực xen vào giữa con người và mặt trời. Ngày ấy, tôi không thể thấy Thượng đế chỉ vì một tạo hóa của người, và tôi đã coi người ấy là thần tượng của mình.



Chương 25 Thời gian tìm hiểu sắp đến màn chót, những giờ cuối cùng của nó có thể đếm được. Không có chuyện hoãn cái ngày cưới đã định, mọi công việc chuẩn bị đều đã được hoàn tất, ít nhất tôi cũng chẳng còn việc gì để làm nữa, rương hòm đã được đóng, khóa, chằng cẩn thận và được xếp thành hàng dọc theo bức tường trong phòng tôi. Ngày mai, cũng vào giờ này, chắc là chúng đã đi được một đoạn khá xa trên đường tới Luân Đôn, và cả tôi nữa (nếu như không có gì thay đổi),… hoặc nói đúng hơn, không phải tôi, mà là một bà Jane Rochester, một người mà tôi vẫn chưa dám chắc. Chỉ còn việc dán những tấm danh thiếp lên mặt hòm nữa thôi: bốn mảnh giấy còn nằm trơ trong ngăn kéo. Ông Rochester đã tự tay viết mấy chữ “Bà Rochester, khách sạn..., Luân Đôn” lên từng mảnh. Tôi không quyết được việc mình tự dán hay để người khác dán những danh thiếp ấy. Bà Rochester ư? Vẫn chưa có ai được gọi như vậy. Chỉ sau tám giờ sáng mai mới có một bà Rochester xuất hiện, và tôi sẽ chờ đợi để đảm bảo rằng bà ấy đã đến với thế giới này trước khi trao cho bà toàn bộ số tài sản này. Trong cái tủ đối diện với bàn trang điểm của tôi ở đằng kia, những bộ đồ được coi là của bà ấy đã được lấy thay cho bộ áo vải đen mặc ở Lowood và chiếc mũ rơm của tôi. Tôi đóng tủ che đi bộ áo dài màu trân châu xa lạ đang hắt ra một thứ ánh sáng lờ mờ kỳ quái giống như một bóng ma trong căn phòng tôi (lúc ấy khoảng chín giờ tối). “Ta sẽ để mặc mi ở đấy một mình, giấc mộng trắng ạ. – Tôi lẩm bẩm – Ta đang phát sốt lên đây. Hình như có tiếng gió thổi, ta ra ngoài hóng gió đây”. Không phải tôi mệt vì công việc chuẩn bị gấp gáp, cũng chẳng phải vì mong ngóng một thay đổi lớn lao đang đến gần – một cuộc đời mới sẽ bắt đầu từ ngày mai, đành rằng cả hai tình huống đố ít nhiều đều làm tôi xúc động và đầy tâm trạng, khiến tôi phải vội ra ngoài giữa lúc trời tối như thế này, nhưng vẫn còn một nguyên nhân thứ ba và là nguyên nhân chính ảnh hưởng đến tâm trí tôi. Thú thực là trong lòng tôi đang rối bời bởi những ý nghĩ lo âu kỳ lạ. Có một việc gì đó đã xảy ra mà tôi không thể hiểu được, ngoài tôi ra không ai được biết hoặc chứng kiến sự việc xảy ra vào đêm hôm trước. Đêm ấy, ông Rochester vắng nhà và bây giờ vẫn chưa thấy về, đích thân ông phải đến một nơi có hai ba trang trại nằm cách Thornifield chừng ba mươi dặm để giải quyết công việc trước khi rời nước Anh như đã dự tính. Tôi sốt ruột chờ ông về để có thể trút bỏ mọi nỗi lo âu mơ hồ và nhờ ông tìm hộ lời giải của cái sự


việc bí ẩn khiến tôi không khỏi bối rối ấy. Thưa bạn đọc, xin các bạn hãy gắng chờ đến khi ông về và đợi tôi tiết lộ bí mật của mình cho ông biết, rồi chúng ta sẽ cùng chia sẻ cái bí mật ấy. Tôi ra vườn quả và tìm một chỗ khuất gió. Suốt từ sáng đến giờ, những trận gió mạnh vẫn không ngừng ào ạt thổi tới từ phương Nam mà không có một giọt mưa nào. Tối đến, thay vì phải ngớt đi, những trận gió ấy dường như lại càng gầm rít dữ dội hơn. Cây cối không quay cuồng đảo điên mà cứ bị thổi dạt về phía bắc hàng giờ liền trước khi có thể đứng thẳng dậy trong chốc lát. Những đám mây khổng lồ đang ùn ùn nối tiếp nhau bay nhanh qua bầu trời, không còn một mảnh trời quang đãng nào trên bầu trời tháng Bảy. Cảm giác thích thú man dại bất chợt trào lên trong lòng khiến tôi chạy bừa ra trước gió, trút bỏ nỗi lo âu vào những đợt cuồng phong đang gào thét trên không. Hết con đường nguyệt quế, tôi đến trước cây dẻ ngựa bị sét đánh hôm nào. Nó vẫn đứng đó đen xì, xơ xác, thân cây bị chẻ tận lõi, há ngoác ra một cách gớm ghiếc. Hai nửa thân cây vẫn chưa rời hẳn nhau nhờ cái gốc vững chắc và những đoạn rễ cực khỏe đã giữ cho thân cây còn nguyên vẹn ở phần dưới. Vậy là nguồn sống cho thân cây dẻ ngựa đã bị hủy diệt, những dòng nhựa không còn chảy được nữa, những tán lá xum xuê đề đã úa héo, và những trận bão mùa đông rồi sẽ giật lia một hoặc cả hai nửa kia xuống đất. Song hiện giờ, vẫn có thể nói rằng hai nửa đó vẫn hợp thành một thân cây… một thân cây đổ nát, nhưng là đổ nát vẹn toàn. Tôi tha thẩn khắp vườn, nhặt những quả táo rụng trên thảm cỏ quanh gốc cây và chọn những quả chín mang vào nhà, cất trong nhà kho. Sau đó tôi về thư phòng xem lò sưởi đã được nhóm chưa, vì tôi biết dù bây giờ đang mùa hè, nhưng vào những buổi chiều tối u ám như thế này, ông Rochester vẫn thích được nhìn thầy một ánh lửa hồng trong phòng. Bếp lửa đã được nhóm từ lúc nào và đang cháy sáng rực. Tôi đặt cái ghế bành của ông bên góc lò sưởi, kéo cái bàn lại gần, buông rèm xuống và để sẵn mấy cây nến vào trong phòng. Sắp đặt mọi thứ đâu vào đấy rồi, tôi lại cảm thấy bồn chồn hơn lúc nào hết. Chiếc đồng hồ nhỏ đặt ở trong phòng và chiếc đồng hồ cổ treo ngoài phòng lớn cùng ngân lên đúng mười tiếng. Cảm giác đứng ngồi không yên buộc tôi lại phải bỏ ra ngoài. “Muộn quá rồi! – Tôi lẩm bẩm. – Có lẽ mình sẽ chạy ra cổng, bây giờ thỉnh thoảng cũng có ánh trăng nên cũng có thể nhìn rõ ngoài đường. Biết đâu ông chủ lại về vào lúc này, nếu mình ra đón sẽ bớt được mấy phút chờ


đợi.” Gió vẫn rít ù ù trên những ngọn cây lớn bao quanh cổng lâu đài. Khi phóng mắt nhìn ra xa, cả bên phải lẫn bên trái, tôi chỉ thấy một con đường dài vắng lặng, mờ nhạt và không có một chấm nhỏ nào chuyển động, trừ những bóng mây thỉnh thoảng vội vàng trôi qua mặt trăng. Một giọt lệ chợt lăn dài xuống gò má tôi làm nhòa đi con đường – một giọt nước mắt của thất vọng và bồn chồn. Tôi vội lau khô giọt nước mắt vì tự cảm thấy xấu hổ. Tôi còn nấn ná một lúc trên con đường, mảnh trăng đã thu mình vào trong chốn the phòng và buông những tấm rèm mây dày đặc xuống. Trời đất bỗng trở nên mờ mịt. Mưa ập đến mỗi lúc một to. “Mong sao ông về! Mong sao ông về!” – Tôi thốt lên, trong lòng tràn ngập một cảm giác buồn bã và thất vọng. Tôi chờ ông về từ trước giờ dùng trà, vậy mà giờ đã khuya rồi. Không hiểu điều gì đã giữ chân ông? Hay là lại xảy ra tai nạn rồi? Sự việc đêm qua bỗng lại hiện về ám ảnh đầu óc tôi, khiến tôi phải nghĩ đó là lời cảnh báo một tai họa. Tôi sợ những hy vọng của mình quá sáng lạn để có thể trở thành hiện thực, và việc được hưởng quá nhiều hạnh phúc thời gian gần đây đã khiến tôi tưởng tượng vận may của tôi đã đi qua đỉnh điểm để bây giờ tất cả phải suy tàn. “Không, mình không thể quay vào nhà được, – tôi nghĩ thầm – mình không thể ngồi bên lò sưởi trong khi ông vẫn dầm mình ngoài mưa gió thế này, thà chịu mỏi chân còn hơn để cho lòng se thắt. Mình phải chạy đến đón ông ấy mới được”. Và tôi cắm đầu chạy trên đường, nhưng chạy chưa được một phần tư dặm, tôi bỗng nghe thấy tiếng vó ngựa và bóng một người cưỡi ngựa phi nước đại tiến lại, bên cạnh là một con chó chạy theo. Vậy là những linh cảm quái gở đã lập tức tiêu tan! Đúng là ông ấy rồi, đúng là ông đang cưỡi con ngựa Mesrour, theo ông là con Pilot. Ông đã nhận ra tôi, vì lúc đó ánh trăng lại vén rèm ló xuống, mở ra một khoảng xanh trên nền trời. Ông giơ mũ và quay tít trên đầu vẫy gọi tôi. Tôi chạy lại đón ông. - Lại đây! – Ông kêu lên và cúi xuống giơ cánh tay ra. – Em thấy rõ rồi nhé, em sẽ chẳng thể làm gì nếu không có tôi. Em hãy đặt chân lên mũi giày tôi đi, rồi đưa cả hai tay đây, nhảy lên đi nào!” Tôi ngoan ngoãn vâng lời, quả thực là niềm vui đã làm cho tôi nhanh


nhẹn hẳn lên, tôi lên ngồi đằng trước ông. Ông đón tôi bằng một nụ hôn nồng nàn lẫn một chút kiêu hãnh đắc thắng. Tôi đê mê tận hưởng cảm giác ngọt ngào. Ông kiềm nén niềm vui trong lòng và hỏi tôi: “Nhưng kìa, Jane, có chuyện gì mà em phải ra đón tôi vào giờ này vậy? Có chuyện gì không ổn sao?” - Không, nhưng em cứ nghĩ ông sẽ chẳng bao giờ về nữa. Em thật không chịu nổi nếu cứ ngồi trong nhà chờ đợi, nhất là khi trời lại mưa gió thế này. - Ừ, quả thật là cũng có mưa gió! Người em ướt như một nàng tiên cá ấy, kéo vạt áo choàng của tôi mà quấn vào người đi. Mà tôi thấy hình như em đang sốt thì phải, Jane ạ! Cả hai má và tay em đều nóng như lửa ấy. Tôi hỏi lại em, ở nhà có chuyện gì vậy? - Bây giờ thì chẳng có chuyện gì, em không sợ cũng chẳng buồn nữa. - Tức là lúc trước em đã lo sợ và buồn chứ gì? - Đúng thế, em sẽ kể cho ông nghe mọi chuyện sau. Nhưng em nghĩ thế nào ông cũng cười em vì những cái ý nghĩ vớ vẩn ấy cho mà xem. - Tôi chỉ dám cười em thoải mái khi đã hết ngày mai, còn từ bây giờ đến lúc ấy thì không, vì phần thưởng của tôi hiện giờ vẫn chưa chắc nắm được. Có phải em đây không? Có phải đây chính là cô gái vẫn lẩn tránh tôi như trạch và nhiều gai như một bông hồng cả tháng vừa qua đây không? Tôi không thể động ngón tay vào đâu mà không bị gai đâm, vậy mà bây giờ tôi bỗng thấy mình như vừa ôm được một chú cừu non lạc đàn vào trong tay rồi. Em đã bỏ chuồng đi lang thang để tìm chàng chăn cừu phải không, Jane? - Em cần có ông, nhưng ông cũng đừng nói khoác. Ta đã về tới Thornfield rồi, bây giờ hãy cho em xuống đi. Ông bế tôi xuống đất. Để mặc người gác cổng dắt ngựa, ông theo tôi vào đại sảnh, bảo tôi mau đi thay quần áo khô rồi trở lại gặp ông ở thư phòng. Khi tôi sắp bước lên cầu thang, ông đã giữ tôi lại và bắt tôi hứa không được chậm trễ. Nhưng không cần ông phải nhắc, tôi đã trở lại với ông sau năm phút, khi ông đang ngồi ăn tối. - Ngồi vào ghế và cùng ăn với tôi đi, Jane. Ơn Chúa, sau bữa này, em sẽ chỉ còn một bữa nữa ở đây trước khi rời Thornfield một thời gian dài.


Tôi ngồi xuống bên ông, nhưng bảo ông rằng tôi không thể ăn được. - Có phải là vì viễn cảnh sắp đi xa đang bày ra trước mắt em không, Jane? Ý nghĩ tới Luân Đôn đã làm em không còn thiết gì chuyện ăn uống nữa phải không? - Tối nay, em không thể hình dung cho rõ cái viễn cảnh của mình , thưa ông, và em cũng khó biết em đang nghĩ những gì trong đầu. Em thấy dường như mọi thứ trong cuộc sống đều là không có thực thì phải. - Trừ tôi ra! Tôi thấy mình cũng đủ hiện thực đấy, em cứ thử sờ vào người tôi mà xem. - Ông mới chính là người giống một bóng ma nhất. Ông chỉ là một giấc mơ thôi. Ông chìa bàn tay ra, cười: “Đây có phải là giấc mơ không nào?” – Ông nói và huơ huơ bàn tay ngay trước mặt tôi, một bàn tay thô, gân guốc, rắn chắc và một cánh tay dài và khỏe. - Phải, nhưng dù có động vào nó, em vẫn thấy chỉ là một giấc mơ. – Tôi vừa nói vừa ấn tay ông xuống. – Ông đã dùng xong bữa chưa? - Xong rồi, Jane ạ! Tôi rung chuông gọi người dọn bàn ăn. Khi chỉ còn lại hai người, tôi cời lại lò sưởi rồi ngồi xuống một cái ghế thấp bên chân ông. - Đã gần nửa đêm rồi. – Tôi nói. - Ừ, Jane ạ, nhưng em hãy nhớ là em đã từng hứa sẽ thức thâu đêm với tôi trước cái ngày tôi cưới vợ đấy nhé. - Đúng là em đã hứa như vậy và em sẽ giữ lời hứa, ít nhất là trong một hai tiếng. Quả thực là em chẳng muốn đi ngủ chút nào. - Em đã sắp xếp xong xuôi mọi thứ rồi chứ? - Xong cả rồi, thưa ông. - Tôi cũng vậy. – Ông đáp lại. – Tôi đã thu xếp ổn thỏa mọi chuyện. Ngày mai, trong vòng nửa giờ sau khi từ nhà thờ về, chúng ta sẽ rời khỏi


Thornfield. - Vâng, thưa ông. - Em nói cái “vâng” ấy với một nụ cười kỳ lạ làm sao, Jane ạ! Cả hai má em cũng ửng đỏ cả lên kia kìa, còn đôi mắt long lanh cũng khác lạ lắm! Em vẫn khỏe đấy chứ? - Em tin là mình vẫn khỏe. - Em tin! Có chuyện gì vậy? Em cảm thấy trong người thế nào, nói cho tôi biết đi! - Thưa ông, em không thể nói những gì em đang cảm thấy. Em chỉ mong giờ phút này chẳng bao giờ trôi qua. Ai mà biết được giờ phút tới số mệnh sẽ dành cho ta những gì? - Kìa Jane, em lại mắc bệnh tưởng rồi. Có vẻ như em lại đang bị xúc động hoặc mệt mỏi quá đấy. - Thưa ông, ông có cảm thấy an lòng và hạnh phúc không? - An lòng ư? Không! Nhưng còn hạnh phúc thì… tràn trề trong lòng. Tôi ngước nhìn ông để đọc những dấu hiệu của hạnh phúc in trên nét mặt: quả thực là nét mặt ông đang lộ rõ vẻ nhiệt thành và đầy cảm xúc. - Hãy tâm sự cùng tôi đi, Jane, – ông bảo – hãy cùng tôi trút bỏ mọi những ưu tư đang đè nặng tâm hồn em. Em sợ gì chứ? Lo tôi không thể là người chồng tốt chăng? - Đó là điều quá xa lạ với những ý nghĩ của em. - Hay là em cảm thấy lo ngại cho cái thế giới mới mà em sắp sửa bước vào? Lo ngại một cuộc đời mới mà em sắp sửa trải qua? - Không! - Em bắt đầu làm tôi bối rối rồi đấy, Jane ạ! Giọng nói và ánh mắt buồn rầu của em đang khiến tôi bối rối không yên. Tôi muốn ở em một câu giải thích.


- Vậy thì thưa ông…, xin ông hãy nghe nhé. Tối hôm qua, ông đã vắng nhà? - Đúng thế, tôi biết mà. Chắc là em đang định nói tới một việc đã xảy ra trong lúc tôi vắng nhà, có thể không có gì hệ trọng, nhưng vẫn làm em phải bận lòng. Hãy cứ kể tôi nghe đi. Bà Fairfax đã nói gì chăng? Hay là em đã nghe thấy bọn đầy tớ xì xào điều gì khiến lòng tự trọng nhạy cảm của em bị tổn thương? - Không phải vậy, thưa ông. Chuông đồng hồ điểm mười hai tiếng. Đợi đến lúc cả hai đồng hồ lớn nhỏ cùng dứt tiếng ngân, tôi mới nói tiếp. - Cả ngày hôm qua, em đã rất bận và cũng rất vui với những công việc bề bộn không dứt, vì em không hề bị quấy rầy hoặc ám ảnh bởi nỗi lo nào về cái thế giới mới và những chuyện vân vân khác… như ông vừa nghĩ. Em nghĩ có được niềm hy vọng sống bên ông là một điều hạnh phúc lắm, vì em yêu ông. Đừng, ông, đừng vuốt ve em lúc này… Hãy cứ để em nói cho tự nhiên. Hôm qua, em hoàn toàn tin ở Thượng đế, tin ở những sự việc cùng diễn ra êm đẹp cho hạnh phúc của ông và em. Nếu ông vẫn nhớ thì hôm qua quả là một ngày đẹp, trời quang mây tạnh, hoàn toàn thích hợp cho một chuyến đi yên bình và thuận lợi của ông. Dùng trà xong, em lững thững xuống sân dạo bộ và nghĩ về ông. Trong tâm tưởng của mình, em thấy ông như đang ở rất gần, đến nỗi lúc đó em không cảm thấy vắng ông. Em nghĩ đến cuộc đời đang trải ra trước mặt… cuộc đời của ông… một sự hiện hữu phong lưu và ồn ào hơn cuộc đời em, giống như biển cả là nơi các dòng sông chảy vào so với những eo biển bình lặng chật hẹp. Em không hiểu tại sao các nhà đạo đức học lại gọi thế giới này là một nơi hoang dã tối tăm, còn đối với em thì lúc nào nó cũng rạng ngời như một đóa hoa hồng. Đúng vào lúc hoàng hôn, trời bỗng trở lạnh và bầu trời thì đen kịt lại vì những đám mây. Em bèn vào nhà. Sophie gọi em lên gác xem bộ áo cưới họ vừa mang đến. Em thấy ở đáy hộp, ngay dưới bộ áo cưới là quà tặng của ông, một cái khăn choàng mà nhờ cái tính hoang phí như một ông hoàng, ông đã gửi mua ở Luân Đôn. Em cho rằng chắc là vì em không chịu đeo đồ nữ trang nên ông đã định lừa em phải nhận một món quà cũng đắt tiền như vậy. Em vừa cười vừa trải khăn ra, và nghĩ cách làm thế nào để châm chọc những sở thích kiểu quyền quý của ông, và việc ông ra sức cải trang cho cô dâu bình dân của ông bằng những món đồ trang sức của một nữ quý tộc. Em nghĩ làm thế nào để mang đến cho ông


chiếc khăn lụa không diêm dúa mà em đã tự tay khâu lấy để trùm lên đầu em, một kẻ thuộc tầng lớp dưới, và hỏi rằng liệu nó có xứng với một phụ nữ không hề mang đến cho chồng được một chút của cải, nhan sắc và mối giao thiệp nào hay không. Em đã hình dung rất rõ diện mạo chân thành của ông và cũng được nghe những câu trả lời sôi nổi của ông. Ông đã ngạo nghễ tuyên bố rằng ông chẳng cần tăng thêm tiền tài, địa vị bằng cách cưới một túi tiền hay một cái mũ miện. - Em đã thấu hiểu lòng tôi rồi, cô phù thủy ạ! – Ông Rochester ngắt lời tôi. – Nhưng em đã thấy gì ở cái khăn ấy ngoài những đường thêu nào? Em có thấy thuốc độc hay dao găm gì không mà bây giờ cứ u sầu thế kia? - Không, không, thưa ông, ngoài cái mềm mại và đắt giá của món quà ấy, em chẳng thấy gì khác sự kiêu ngạo của ông Fairfax Rochester, nhưng điều đó cũng chẳng làm em sợ hãi, vì em đã quen với con quỷ ấy rồi. Nhưng thưa ông, vào lúc trời đổ bong tối thì gió cũng bắt đầu nổi lên, dù không điên cuồng như bây giờ, nhưng nghe lại thấy “thê lương và rầu rĩ” ma quái hơn nhiều. Em chỉ mong có ông ở nhà. Em bước chân vào căn phòng này, nhìn chiếc ghế bành trống không và cái lò sưởi nguội lạnh mà thấy lòng băng giá. Lát sau em đi nằm, nhưng không sao chợp mắt được vì một cảm giác lo lắng đè nặng trong người. Những cơn gió vẫn tiếp tục gào rít, khiến em tưởng mình nghe thấy trong mơ hồ một tiếng rền rĩ thảm thiết nào đó mà lúc đầu em không thể phân biệt được là nó vẳng lên từ trong nhà hay ở ngoài kia. Nhưng mỗi khi lặng gió, nó lại văng vẳng mơ hồ và ai oán. Cuối cùng, em đoán đó hẳn phải là một con chó đang gầm gừ sủa ở đâu đó khá xa. Em chỉ thấy dễ chịu khi không còn nghe thấy cái âm thanh quái gở ấy nữa. Trong giấc ngủ, em lại mơ thấy một bầu trời tối mịt mùng, gió rít cuồng loạn. Em cũng tiếp tục cái mong ước được sống bên ông, nhưng lẫn vào cái mong ước ấy lại là một cảm giác kỳ lạ, nuối tiếc từ một trở ngại chia rẽ chúng ta gây ra. Trong giấc ngủ đầu tiên, em thấy mình lang thang trên những rìa đường khuất nẻo, xa lạ, dưới bóng tối mịt mù bao phủ, mặc cho gió táp mưa sa. Trên tay em là một đứa trẻ, một tạo hóa quá nhỏ dại và yếu ớt để có thể tự mình bước đi, nó run rẩy trong vòng tay lạnh ngắt của em và rên rỉ như xoáy vào tai em. Em có cảm giác ông đã đi trước em một quãng rất xa trên cùng nẻo đường ấy và cứ ra sức đuổi theo ông, gọi tên ông, van xin ông dừng lại. Nhưng tất cả chỉ là sự bất lực, người em không thể cử động được, giọng em cứ ú ớ rồi tắt lịm đi, trong khi ông thì mỗi lúc một xa hơn, xa mãi. - Và những cơn mê ấy giờ vẫn còn đè nặng trong tâm trí em, kể cả khi


em đang ngồi bên tôi, đúng không Jane? Đúng là cô bé nhát gan! Hãy quên những nỗi buồn tưởng tượng ấy đi và chỉ nên nghĩ đến hạnh phúc có thực thôi! Jane, em nói em yêu tôi, ừ – tôi sẽ không quên và em cũng chẳng thể phủ nhận được điều đó. Những lời nói đó đã không tắt lịm trên môi em. Tôi nghe rõ lắm, êm dịu lắm! Một ý nghĩ nghe thì có vẻ hơi quá trịnh trọng, nhưng lại dịu êm như một giai điệu ngọt ngào… “Em nghĩ quả là vinh hạnh khi có hy vọng được sống bên ông, Edward ơi, vì em yêu ông.” Em có yêu tôi không, Jane? Hãy nhắc lại đi. - Em yêu, thưa ông, em yêu ông bằng cả trái tim mình. - Được rồi, – ông nói sau vài phút yên lặng – nhưng lạ thật, câu nói của em đang thấm vào lòng tôi một cách đau đớn quá. Sao thế nhỉ? Tôi nghĩ có thể là vì em đã nói bằng một sự nhiệt tình của niềm tin tôn giáo, và vì cái ngước mắt nhìn tôi của em lúc này chính là sự biểu tỏ tận cùng của niềm tin, sự chân thành và tấm lòng tận tụy. Như vậy là quá nhiều, như thể đang có một thần linh nào đang ở bên tôi vậy. Jane, em hãy nhìn lại bằng ánh mắt ghê gớm như em vẫn thường nhìn tôi đi, hãy cười lại nụ cười hoang dã đầy vẻ khiêu khích của em đi, hãy bảo là em ghét tôi đi, hãy châm chọc và làm cho tôi tức giận đi, em có thể làm bất cứ điều gì miễn là đừng làm tôi xúc động. Thà tôi bực dọc còn hơn phải buồn phiền như thế này. - Em sẽ lại trêu chọc và làm cho ông tức giận khi em đã kể hết chuyện. Bây giờ ông phải nghe em kể hết đã. - Jane ạ, tôi cứ nghĩ là em kể hết rồi. Tôi cứ tưởng cội nguồn gây nên nỗi buồn của em chính là giấc mơ cơ đấy. Tôi lắc đầu. - Cái gì? Vẫn còn cơ à? Nhưng tôi không tin là có chuyện gì hệ trọng đâu nhé. Tôi báo trước là tôi không tin đâu. Em kể thì kể tiếp đi. Vẻ mặt lo ngại và cử chỉ có phần sốt ruột của ông đã làm tôi ngạc nhiên, nhưng tôi vẫn tiếp tục. - Em còn một giấc mơ khác nữa, thưa ông. Em mơ thấy lâu đài Thornfield chỉ còn một đống đổ nát điêu tàn, làm nơi trú ẩn của lũ dơi và đàn quạ. Mặt trước lâu đài uy nghi là thế mà chỉ còn lại một bức tường chơ vơ, cao ngất ngưởng, trong mong manh lắm. Một đêm trăng, em tha thẩn giữa


đám cỏ mọc cao lút trong lâu đài, để rồi thỉnh thoảng lại vấp phải một cái lò sưởi bằng đá hoặc một đoạn cột trụ đổ. Em choàng một tấm khăn, tay vẫn bế đứa trẻ xa lạ, và dù rất mỏi em vẫn không thể đặt nó xuống chỗ nào được. Thế rồi em chợt nghe thấy tiếng vó ngựa vang tới từ phía xa xa trên con đường. Em biết chắc đó là ông. Ông đã bỏ đi từ bao năm để đến một xứ sở xa xôi. Em vội vàng, liều mạng trèo lên bức tường mỏng manh ấy những mong từ trên đó có thể được nhìn thấy bóng ông. Những hòn đá cứ lở ra dưới chân em, những cành trường xuân cũng đứt lìa khi bị tay em bấu víu vào. Đứa trẻ khiếp sợ ôm ghì lấy cổ em, khiến em muốn chết nghẹn. Cuối cùng thì em cũng trèo được lên đỉnh tường, nhưng khi đó em chỉ còn thấy bóng ông là một cái chấm trên nẻo đường nhạt nhòa xa lắc. Bóng ông mỗi lúc một nhỏ dần. Gió thổi mạnh làm em liêu xiêu không vững, buộc em phải ngồi xuống bờ tường nhỏ hẹp và dỗ dành đứa trẻ đang khiếp sợ nằm yên trong lòng. Ông rẽ sau một khúc quanh. Em cúi xuống nhìn ông một lần cuối. Và rồi bức tường ấy bị vỡ tả tơi, khiến em nghiêng ngả. Đứa bé lăn ra khỏi vòng tay em… Em loạng choạng ngã xuống và bừng tỉnh dậy. - Đó là tất cả những gì em đã kể, đúng không Jane? - Thưa ông, đó là tất cả của đoạn mở đầu, bây giờ mới là cốt chuyện. Lúc tỉnh dậy, em đã bị lóa mắt vì một thứ ánh sáng. Em nghĩ thì ra là trời đã sáng! Nhưng em đã nhầm, đó chỉ là ánh sáng của một ngọn nến! Em cho là Sophie đã vào phòng. Cây nến được đặt trên bàn trang điểm, cánh cửa phòng cất quần áo thì mở toang! Em nhớ là trước khi đi ngủ, em đã treo bộ áo cưới và tấm mạng che mặt vào đó. Thấy có tiếng sột soạt ở phía đó, em lên tiếng: “Sophie, chị làm cái gì thế?”. Không có tiếng trả lời, nhưng vẫn có một bóng người lù lù xuất hiện trước cửa phòng nhỏ, tay cầm lấy ngọn nến giơ cao để soi các bộ áo treo trên mắc. “Sophie! Sophie!” Em lại kêu lên, nhưng tất cả vẫn chỉ là im lặng. Em ngồi nhổm dậy, nhoài người ra nhìn. Lúc đầu, em còn thấy ngạc nhiên, nhưng sau em bắt đầu cảm thấy hoang mang, các mạch máu trong người như đông cứng cả lại. Ông Rochester ạ, đó không phải Sophie, không phải chị Leah, cũng chẳng phải bà Fairfax, mà cũng không thể là – em tin chắc là như vậy, đến bây giờ em vẫn có thể khẳng định là như vậy – người đàn bà quái đản Grace Poole… - Chắc chắn phải là một người trong bọn họ chứ. – Ông chủ tôi ngắt lời. - Không phải, thưa ông, em khẳng định với ông một điều ngược lại. Từ trước đến giờ, chưa bao giờ em nhìn thấy cái hình thù ấy trong cái lâu đài


Thornfield này. Chiều cao và bóng hình nó hoàn toàn mới đối với em. - Em thử tả lại xem, Jane. - Thưa ông, hình như đó là một người đàn bà cao to, có mái tóc dày buông ngang lưng. Em không biết bà ta mặc gì, chỉ biết là màu trắng và thẳng tuột, nhưng em vẫn không thể nói chắc đó là áo choàng, khăn trải giường hay vải liệm nữa. - Em có trông thấy mặt người đó không? - Lúc đầu thì không. Phải đến lúc bà ta cầm cái khăn choàng treo trên mắc của em rồi giơ lên trước mặt, ngắm nghía một lúc rồi quấn vào lên đầu và quay ra soi gương, em mới nhìn thấy khá rõ khuôn mặt bà ta phản chiếu trong chiếc gương bầu dục. - Mặt bà ta thế nào? - Em thấy thật khủng khiếp và ma quái. Chao ôi! Thưa ông, quả thực là chưa bao giờ em được thấy một bộ mặt nào như thế! Nó trắng bệch… và man rợ lắm. Em chỉ mong làm sao quên được đôi mắt đỏ ngầy và những đường nét đen kịt phù nề trên bộ mặt ấy. - Ma quỷ thường có bộ mặt xanh tái, Jane ạ. - Nhưng thưa ông, đằng này bộ mặt ấy lại tím đen lại, đôi môi thâm xịt và sưng cả lên, trán thì nhăn nhúm, lông mày thì rậm và nhướn lên trên đôi mắt đỏ ngầu. Bộ mặt ấy đã gợi em nhớ đến cái gì, ông có biết không? - Em cứ nói đi. - Em liên tưởng đến bóng ma cà rồng trong truyền thuyết của người Đức. - Thế đấy! Sau đó, cái bóng ma ấy làm gì? - Nó giật cái khăn choàng trên đầu xuống, xé toạc làm hai mảnh, ném xuống sàn và giày xéo lên. - Rồi sao nữa? - Nó vén rèm cửa sổ nhìn ra ngoài. Hình như trời sắp sáng thì phải, vì


em thấy nó cầm nến đi ra ngoài. Đi qua chỗ giường em, cái bóng ấy dừng lại giương đôi mắt rực lửa nhìn em trừng trừng. Nó giơ cây nến sát vào mặt em và thổi tắt phụt ngay trước mắt em. Cảm giác cái bộ mặt thê thảm ấy cúi xuống mặt mình đã khiến em khiếp sợ và ngất lịm đi. Đây là lần thứ hai trong đời – mới chỉ là lần thứ hai thôi – em ngất đi vì sợ. - Ai đã ở bên em khi em tỉnh lại? - Thưa ông, chẳng có ai, nhưng trời cũng đã sáng. Em vùng dậy vục cả đầu và nước và uống liền một hơi. Em cảm thấy trong người rất bải hoải khó chịu dù chưa đến nỗi bị ốm và em đã quyết định ngoài ông ra, em sẽ không nói chuyện này với ai cả. Bây giờ, thưa ông, ông sẽ cho em biết người đàn bà ấy là ai và là thế nào được chứ? - Hẳn là tạo vật của một bộ óc bị kích động quá mạnh rồi. Tôi phải chăm sóc em thật cẩn thận mới được, kho báu của tôi ạ. Những người yếu bóng vía như em không nên bị xúc động mạnh. - Thưa ông, em đảm bảo với ông rằng thần kinh em không có khiếm khuyết gì hết. Chuyện em kể là có thật, hoàn toàn xảy ra trên thực tế. - Thế những giấc mơ trước đó của em chẳng lẽ cũng là có thật ư? Lâu đài Thornfield có phải là một đống đổ nát không? Có phải tôi bị chia cắt với em bởi những trở ngại không thể vượt qua không! Và có đúng là tôi đã bỏ em mà đi, mắt ráo hoảnh, không một nụ hôn và một lời từ biệt không? - Chưa phải như thế. - Em nói thế nghĩa là sẽ như thế hay sao? Thôi nào, cái ngày ràng buộc vĩnh cửu chúng ta với nhau đã bắt đầu rồi đấy, và một khi chúng ta kết duyên với nhau rồi thì cái cảnh tinh thần hoảng loạn của em sẽ không còn tái diễn nữa, tôi đảm bảo với em là như vậy. - Tinh thần hoảng loạn! Em cũng mong là chỉ có vậy và mong điều đó hơn bao giờ hết, vì ngay cả ông cũng không giải thích được cho em cái điều bí ẩn đấy cơ mà. - Chính vì tôi không giải thích được, nên đó hẳn là chuyện không có thật, Jane ạ. - Nhưng thưa ông, sáng nay khi thức dậy và tự ru lòng mình như vậy, và


khi nhìn khắp phòng tìm lại những hình ảnh thân quen của từng đồ vật dưới ánh mặt trời để lấy lại can đảm và niềm an ủi thì hỡi ôi, cái vật ấy quả thực vẫn đang còn lù lù trên mặt thảm. Chiếc khăn choàng bị xé làm hai mảnh! Em hiểu rằng đó chính là bằng chứng phủ nhận hoàn toàn những giả định không có thực của mình. Tôi cảm thấy ông Rochester giật mình, người run run. Ông vội ôm chầm lấy tôi: “Ơn Chúa! – Ông reo lên. – Nếu quả đêm qua có chuyện chẳng lành xảy ra với em thì cũng may là chỉ có chiếc khăn bị hại. Ôi chao, cứ ngỡ là đã xảy ra những chuyện tệ hại!” Ông thở gấp ghì chặt lấy tôi, khiến tôi nghẹt thở. Sau vài phút yên lặng, ông lại nói tiếp, giọng vui vẻ: - Jane bé nhỏ của tôi ạ, bây giờ tôi sẽ giải thích cho em hiểu tất cả! Một câu chuyện vừa nửa hư nửa thực. Tôi không nghi ngờ là có một người đàn bà đã vào phòng em, và người đàn bà đó là… chắc chắn là… Grace Poole. Em rất có lý khi gọi bà ta là một người đàn bà quái đản nếu căn cứ vào những điều em biết về bà ta. Bà ta đã làm gì tôi? Đã làm gì Mason? Trong tình trạng nửa ngủ nửa thức, em đã thấy bà ta mò vào phòng và những hành động của bà ta. Nhưng lúc ấy, có lẽ vì sức khỏe không được bình thường, nên em đã thấy bà ta trong một dáng dấp ma quái khác thường. Mớ tóc rối bù, bộ mặt xám ngoét, dáng người cao lớn hơn thực tại, tất cả chỉ là những điều tưởng tượng, là kết quả của một cơn ác mộng. Nhưng chuyện cái khăn bị xé thảm hại kia lại là có thực, phản ánh đúng tính cách của bà ta. Tôi thấy em sắp hỏi tôi tại sao lại giữ một người đàn bà như vậy trong nhà. Đúng một năm và một ngày sau ngày chúng ta làm lễ cưới, tôi sẽ nói để em rõ, bây giờ thì chưa vội. Em đã vừa lòng chưa, Jane? Em có chấp nhận lời giải thích của tôi về cái điều bí ẩn ấy không? Tôi suy ngẫm và thấy đó có vẻ là cách giải thích duy nhất có thể chấp nhận được. Mặc dù chưa thỏa mãn, nhưng vì muốn làm vừa lòng ông, tôi cũng cố làm ra vẻ chấp nhận. Tôi có thể nói chắc được một điều, ấy là tôi đã trút được gánh lo trong lòng, vì vậy tôi đã trả lời ông bằng một nụ cười. Đã quá một giờ đêm, tôi chuẩn bị tạm biệt ông. - Sophie không ngủ với Adèle trong nhà trẻ à? – Ông hỏi khi tôi đang thắp nến. - Có, thưa ông.


- Đêm nay, em chịu khó ngủ chung với Adèle nhé, giường nó tuy nhỏ nhưng cũng đủ chỗ cho em nằm, Jane ạ. Chẳng có gì lạ nếu chuyện em vừa kể rất có thể sẽ lại làm em căng thẳng thần kinh, vì thế mà tôi không muốn em ngủ một mình. Em hãy hứa với tôi là sẽ ngủ trong nhà trẻ đi! - Em sẽ rất vui khi làm như vậy, thưa ông. - Và nhớ cài then trong cho cẩn thận đấy. Khi nào lên gác, em hãy đánh thức Sophie và dặn chị ta ngày mai gọi em dậy sớm, vì em cần trang điểm và ăn điểm tâm xong trước tám giờ. Còn bây giờ thì đừng nên nghĩ vớ vẩn nữa, hãy xua đuổi ưu phiền đi, Jane ạ. Em có nghe thấy tiếng thì thầm êm dịu của những làn gió đã lặng không? Không còn những giọt mưa đập vào cửa sổ nữa, em nhìn này (ông kéo mành cửa sổ lên), đêm nay thật đáng yêu! Đêm nay quả là đẹp. Nửa bầu trời trong suốt, không gợn áng mây. Những đám mây trước đó bị gió thổi về phía tây nay lại theo nhau kéo về phía đông thành từng cột dài lấp lánh ánh bạc. Không gian bình yên dưới ánh trăng thanh. - Thế nào, – Rochester nhìn thẳng vào mắt tôi và hỏi – bây giờ cô Jane bé nhỏ của tôi thấy trong người thế nào rồi? - Đêm tĩnh mịch quá, thưa ông, và em cũng thấy trong lòng thật thanh thản. - Và đêm nay, em sẽ không còn nằm mơ thấy cảnh chia ly và u sầu nữa, mà thay vào đó là một giấc mơ thật đẹp về hạnh phúc, tình yêu và cảnh sum họp vui vầy. Chỉ có một nửa ước đoán của ông trở thành hiện thực. Quả là đêm đó tôi không còn rơi vào một cơn mơ ảo não, nhưng tôi cũng chẳng mơ thấy hạnh phúc, vì đơn giản là tôi chẳng ngủ tí nào. Tôi ôm Adèle trong vòng tay, nằm im ngắm nó ngủ – giấc mơ trẻ thơ sao mà ngon lành, vô tư lự và bình yên đến thế – và chờ đợi một ngày mới. Cả cuộc đời tôi đang thức và xáo động trong tâm tưởng của tôi, và tôi đã dậy ngay khi ông mặt trời vừa ló rạng. Tôi còn nhớ Adèle đã ôm chặt lấy tôi khi tôi nhỏm dậy. Tôi cúi xuống hôn lên trán nó và khẽ gỡ tay nó ra khỏi cổ tôi. Một cảm xúc kỳ lạ khiến tôi nấc lên. Tôi phải vội quay đi vì sợ tiếng nấc sẽ phá tan giấc ngủ êm đềm của nó. Bất giác, tôi cảm thấy con bé giống như một hiện thân cho mảnh đời đã


qua của tôi, còn ông – người mà tôi chuẩn bị trang điểm để gặp mặt, một gã đáng sợ nhưng cũng đáng tôn sùng – sẽ là một hiện thân cho tương lai vô định của tôi.



Chương 26 Sophie đến trang điểm cho tôi vào lúc bảy giờ sáng. Có lẽ chị làm chậm quá, khiến ông Rochester sốt ruột nên đã cho người lên hỏi tại sao tôi còn chưa xuống. Chị lấy trâm cài cho tôi mảnh khăn (rốt cuộc vẫn là vuông khăn trơn) lên mái tóc tôi, tôi lập tức gỡ mình ra khỏi tay chị. - Cứ từ từ đã nào! – chị bảo tôi bằng tiếng Pháp. – Chị cứ soi gương đàng hoàng đi đã, chẳng lẽ chị cũng không buồn liếc mắt vào gương sao. Vì thế nên khi đã đi ra đến cửa, tôi phải ngoái cổ nhìn vào mảnh gương. Tôi thấy một bóng người lạ hoắc mặc áo dài, mặt che mạng, chẳng giống tôi ngày thường một chút nào. “Jane!” – Tôi nghe tiếng gọi và vội vàng đi xuống. Ông Rochester đứng đón tôi ở chân cầu thang. - Em lề mề quá đấy, – ông nói – khiến tôi sốt ruột như có lửa trong người ấy. Em làm gì ở trên ấy mà lâu thê! Ông đưa tôi vào phòng ăn và ngắm tôi từ đầu đến chân. Ông bảo tôi “đẹp như một bông hoa lan, không chỉ là niềm kiêu hãnh của đời ông mà còn là niềm khát khao của con mắt ông nữa”. Ông bảo tôi chỉ được phép điểm tâm trong vòng mười phút, rồi rung chuông gọi một người đày tớ mới thuê. - John đã chuẩn bị xe xong chưa? - Thưa ông, xong rồi ạ! - Hành lý mang xuống rồi chứ? - Thưa ông, họ đang mang xuống. - Anh hãy chạy ra nhà thờ xem ông Wood (một giáo sĩ) và người thư ký có đấy không, rồi về đây bảo tôi. Như các bạn đã rõ, nhà thờ ở ngay gần cổng lớn, nên nhoáng một cái đã thấy anh ta quay về. - Thưa ông, ông Wood đã ở trong phòng giữ quần áo để thay áo thụng rồi ạ.


- Thế còn xe? - Người ta đang đóng yên ngựa. - Chúng tôi đi bộ tới nhà thờ cũng được, nhưng khi chúng tôi trở về thì xe cộ, hòm xiểng và hành lý phải được chuẩn bị xong xuôi rồi đấy nhé. Anh xà ích cũng phải ngồi sẵn sàng trên xe, rõ chưa? - Thưa ông, vâng ạ. - Jane à! Xong chưa em? Tôi đúng dậy. Đám cưới không có phù dâu, phù rể hay họ hàng tiễn đưa hoặc đón đợi, mà chỉ có tôi và ông Rochester. Bà Fairfax đứng ở đại sảnh nhìn chúng tôi đi qua. Tôi định nói với bà vài lời nhưng liền bị bàn tay cứng như thép của ông kéo đi. Tôi tất tưởi bước theo ông mà cũng khó kịp. Nhìn vẻ mặt ông, tôi có cảm giác ông không muốn chậm trễ một giây vì bất cứ lý do gì. Tôi tự hỏi không hiểu những chú rể khác trông có như thế không. Tôi không biết hôm ấy có phải là một ngày đẹp trời hay không, vì khi bước xuống đường, tôi chẳng còn đầu óc đâu để mà nhìn trời đất. Lòng tôi và mắt tôi chỉ biết hướng về ông Rochester thôi. Tôi muốn nhìn cho ra cái thứ vô hình mà dường như ánh mắt ông đang dán vào trên suốt đoạn đường đi. Tôi muốn nhận diện những ý nghĩ mà sức mạnh của chúng dường như đang buộc ông phải vật lộn và kháng cự lại. Đến trước khung cửa nhỏ nhà thờ, ông dừng lại. Chỉ đến lúc này ông mới nhận thấy tôi mệt đứt hơi. “Trong tình yêu, tôi cũng thô bạo lắm phải không? – Ông nói. – Hay là ta nghỉ một chút vậy. Jane à, em đứng tựa vào tôi đi.” Và đến tận bây giờ tôi vẫn còn nhớ hình ảnh của giáo đường bình lặng xám xịt cũ kỹ trước mặt mình, rồi một bóng quạ lượn quanh tháp chuông và khoảng trời đỏ rực của một buổi sớm mai. Tôi còn nhớ láng máng hình ảnh những nấm mồ xanh rì, và cũng chẳng thể quên bóng dáng hai người khách lạ đi lững thững giữa những gò đất thấp, thỉnh thoảng lại cúi xuống đọc những dòng chữ khắc trên bia đá rêu phong. Tôi để ý đến họ, vì khi trông thấy chúng tôi, họ đã vòng ngay ra phía sau nhà thờ. Tôi không hề nghi ngờ việc họ sẽ vào bằng lối cửa bên để chứng kiến lễ cưới của chúng tôi. Rochester không để ý thấy họ, ông chăm chú nhìn khuôn mặt lúc này đang


tái nhợt của tôi. Tôi cảm thấy trán toát mồ hôi, hai má và môi lạnh ngắt. Một lát sau, khi tôi đã hoàn hồn trở lại, ông mới cùng tôi chậm rãi bước trên lối nhỏ vào cổng nhà thờ. Chúng tôi bước vào giáo đường lặng lẽ và khiêm tốn. Vị giáo sĩ mặc áo thụng trắng đứng đợi cạnh ban thờ thấp tè, bên cạnh ông ta là người phụ lễ. Tất cả đều tĩnh lặng, chỉ có hai bóng người chuyển bước ở một góc xa. Phỏng đoán của tôi thật chính xác, hai người xa lạ kia đã lẩn vào nhà thờ trước chúng tôi. Họ đứng gần phần mộ họ Rochester, lưng quay về phía chúng tôi và nhìn qua lớp hàng rào ngôi mộ bằng cẩm thạch đã xỉn màu vì thời gian. Trên ngôi mộ là tượng một thiên thần quỳ gối canh giữ hồn mà của Damer de Rochester, người bị sát hại ở Marston Moor trong thời kỳ nội chiến, và của bà vợ Elizabeth. Chúng tôi đứng trước bàn ban Thánh thể. Nghe có tiếng bước chân rón rén đằng sau, tôi liếc mắt nhìn lại và thấy một trong hai người – có dáng một người quý phái – đang tiến đến thánh đường. Buổi làm lễ bắt đầu. Trước tiên là bài thuyết giảng về ý nghĩa của hôn nhân, sau đó vị giáo sĩ tiến lên một bước, hơi nghiêng xuống ông Rochester, nói tiếp: - Ta đề nghị và ra lệnh cho cả hai người (các người có thể sẽ phải trả lời trong ngày phán quyết đáng sợ, nếu bí mật trong lòng hai người bị phát giác) rằng nếu ai trong các người biết bất cứ một trở ngại nào khiến các người không thể kết hôn hợp pháp được với nhau, thì bây giờ hãy nên tự thú. Các người nên biết rằng những ai lấy nhau mà không có sự cho phép của Chúa, và đương nhiên cuộc hôn nhân của họ sẽ bị coi là bất hợp pháp. Nói đến đây, ông ta dừng lại theo nghi lễ. Đã bao giờ có câu trả lời nào phá vỡ sự ngưng nghỉ sau câu nói ấy chưa? Có lẽ cả trăm năm cũng chẳng có một lần. Sau giây lát im lặng, mắt không rời quyển sách, vị tu sĩ lại tiếp tục buổi lễ. Ông ta đưa tay về phía ông Rochester, và vừa dứt lời hỏi “người có chấp thuận lấy người phụ nữ này làm vợ không” thì bỗng có một tiếng nói rành rọt vang lên ngay bên cạnh: - Hôn lễ không thể tiếp tục được. Tôi tuyên bố có một trở ngại. Vị giáo sĩ im lặng ngẩng mặt lên nhìn người vừa nói. Người phụ lễ cũng ngây người đứng nhìn. Ông Rochester hơi loạng choạng như thể mặt đất dưới chân ông đang bị rung chuyển. Nhưng rồi ông cũng nhanh chóng trấn tĩnh và không hề quay đầu hay đưa mắt nhìn lại, ông nói: “Xin cứ tiếp tục!”


Sau câu nói trầm nhưng dứt khoát của ông là một sự im lặng sâu thẳm. Phải một lát sau, giáo sĩ Wood mới nói: - Tôi không thể tiếp tục nếu chưa làm sáng tỏ điều vừa được tuyên bố để có thể đưa ra một kết luận. - Hôn lễ phải được hủy bỏ hoàn toàn, – giọng nói phía sau chúng tôi lại vang lên – tôi sẵn sàng chứng minh tuyên bố của mình. Có một trở ngại không thể vượt qua khiến cho cuộc hôn nhân này không thể diễn ra. Ông Rochester đứng nghe nhưng không tỏ ra quan tâm. Ông đứng im, tay nắm chặt tay tôi, vẻ ngang tàng và bất chấp. Bàn tay ông mới nóng và cứng rắn làm sao! Cả vầng trán ông lúc này cũng xanh xám, đanh lại như được tạc bằng cẩm thạch! Còn đôi mắt thì long lanh, bình lặng những cũng hoang dại biết chừng nào! Giáo sĩ Wood có vẻ bối rối. “Trở ngại là trở ngại thế nào? – Ông ta hỏi lại. – Liệu có thể vượt qua sau khi có lời giải thích không?” - Khó đấy, – vẫn giọng ấy đáp lại. – Tôi đã bảo là không thể vượt qua và tất nhiên, tôi nói trên cơ sở có cân nhắc hẳn hoi. Người vừa nói tiến lên phái trước và đứng tựa vào một thanh ngang. Ông ta tiếp tục bằng một giọng rành mạch, chậm rãi, rắn rỏi, nhưng không nói to: - Đơn giản là trước đây, ông ta đã có một cuộc hôn nhân. Ông Rochester có một người vợ hiện vẫn còn sống. Mấy lời nhỏ ấy khiến tôi bàng hoàng. Quả thực là trong đời, chưa bao giờ tôi choáng váng vì lời nào giống như một tiếng sét như vậy. Nhưng tôi vẫn tỏ ra bình tĩnh và không sợ đến phát ngất. Tôi nhìn ông Rochester khiến ông không thể không nhìn tôi. Cả khuôn mặt ông là một khối đá không màu sắc, còn ánh mắt thì sáng quắc và lạnh lùng như băng. Ông không chối cãi mà có vẻ như đang sẵn sàng đương đầu với mọi chuyện. Chẳng nói, chẳng cười và dường như cũng chẳng còn nhận ra tôi là một con người nữa, ông chỉ quàng tay ôm ngang lưng tôi và ghì chặt lấy tôi. - Ông là ai? – Ông hỏi kẻ xâm nhập nhà thờ.


- Tên tôi là Briggs… một luật sư ở phố… Luân Đôn. - Ông định mò vào đây để gán cho tôi một người vợ? - Tôi chỉ muốn nhắc ông nhớ lại sự tồn tại của quý bà nhà ông, thưa ông. Pháp luật đã công nhận bà ấy, cho dù ông không công nhận. - Vậy thì làm ơn cho tôi biết rõ danh tính, dòng họ và chỗ ở hiện tại của bà ta đi. - Đương nhiên rồi! – Ông Briggs bình thản rút trong túi ra một tờ giấy và đọc bằng một giọng mũi, vẻ trịnh trọng: - Tôi khẳng định và có thể chứng minh rằng ngày 20 Tháng 10 năm… (mười lăm năm trở về trước), ông Edward Fairfax Rochester, ở lâu đài Thornfield, thuộc quận… Anh quốc, đã làm lễ thành hôn tại nhà thờ… thị trấn Tây Ban Nha, Jamaica, cùng em gái tôi là Bertha Antoine a Mason, con gái ông Jonas Mason, thương nhân, và vợ ông là bà Antoine a. Bản gốc giấy chứng nhận giá thú được lưu trong sổ sách của nhà thờ nói trên…, hiện tôi đang giữ một bản sao. Ký tên: Richard Mason. - Giấy tờ đó – nếu đúng là một tài liệu xác thực – chỉ có thể chứng minh tôi đã có vợ, nhưng không đủ để chứng minh rằng vợ tôi vẫn còn sống. - Bà ta còn sống cách đây ba tháng. – Tay luật sư đáp lại. - Làm sao ông biết? - Tôi có một nhân chứng về sự thực đó, mà lời khai của người này thì đến chính ông cũng khó có thể phủ nhận được, thưa ông. - Hãy đưa người ấy ra đây… bằng không thì chui xuống địa ngục đi. - Tôi sẽ đưa ông ta ra đây ngay thôi, vì ông ta cũng có mặt tại đây mà. Ông Mason, xin ông vui lòng bước lên cho. Ông Rochester bỗng nghiến răng ken két khi nghe nhắc đến cái tên ấy. Ông đang trải qua một cảm xúc ghê gớm. Đứng bên ông, tôi cảm thấy toàn thân ông run lên bần bật vì một cảm xúc tức giận hoặc tuyệt vọng. Người khách lạ thứ hai, từ nãy vẫn lặng lẽ đứng ở phía sau, bây giờ mới bước tới. Một bộ mặt tái xanh nhìn qua vai ông luật sư. Đúng rồi, đúng là ông Mason


rồi. Ông Rochester quay phắt lại trừng mắt nhìn ông ta. Đôi mắt vốn đen láy của ông, như tôi vẫn thường nói, giờ bỗng lóe lên một tia sáng hung hung, nói đúng hơn là màu máu. Mặt ông đỏ bừng bừng, hai gò má và vầng trán nhợt nhạt như có ánh lửa bốc lên và lan tỏa từ trái tim. Ông nắm chặt nắm đấm và giơ lên, tưởng như sắp đánh Mason, quật ông ta xuống sàn nhà thờ… và đập cho ông ta chết mất ngáp. Nhưng Mason đã lùi lại và kêu lên yếu ớt: “Chúa ơi!”. Sự khinh bỉ đã làm Rochester nguôi đi cơn điên phừng phừng và cơn giận trong ông cũng tan đi nhanh chóng như có phép lạ. Ông chỉ hỏi: “Anh muốn nói gì?” Một câu trả lời không ra hơi phát ra từ đôi môi nhợt nhạt của Mason. - Nếu anh không nói cho rõ thì quỷ tha ma bắt anh đi. – Rochester gằn giọng hỏi lại. – Tôi hỏi anh một lần nữa, anh muốn nói gì? - Thưa ngài, thưa ngài, vị giáo sĩ ngắt lời – xin ngài đừng quên là ngài đang đứng ở nơi linh thiêng – Rồi ông ta quay sang khẽ hỏi Mason: “Thưa ông, ông có biết vợ quý ông đây còn sống hay không?” - Can đảm lên, cứ nói thẳng ra. – Ông luật sư thúc giục. - Vợ ông ấy vẫn còn sống ở lâu đài Thornfield. – Mason nói rõ hơn. – Tháng Tư vừa rồi, tôi vẫn gặp cô ấy ở đó. Tôi chính là anh cô ấy. - Ở lâu đài Thornfield? – Vị giáo sĩ thốt lên. – Không thể như thế được! Thưa ông, tôi là người sống ở vùng phụ cận này đã lâu mà có bao giờ nghe nói đến bà Rochester sống ở lâu đài Thornfield đâu. Tôi thấy ông Rochester nhếch mép cười khẩy và lẩm bẩm: - Không, ơn Chúa! Tôi đã giữ không để một ai có thể nghe nói đến cô ta... hay nghe nói đến cô ta với cái tên ấy. – Rồi ông im lặng, ra chiều nghĩ ngợi và nhẩm suy tính khoảng mươi phút trước khi quyết định: - Đủ rồi, cứ để cho chuyện vỡ tung như một quả tạc đạn thoát khỏi nòng đi. Ông Wood, ông có thể gấp quyển sách ấy lại và cởi áo lễ ra được rồi đấy. John Green (người phụ lễ), anh cũng có thể rời khỏi nhà thờ. Hôm nay không có chuyện cưới xin gì nữa. Người phụ lễ vâng lời.


Ông Rochester nói tiếp vẫn bằng cái giọng bất cần: “Đa thê là chuyện chẳng ra gì! Vậy mà tôi lại định làm một kẻ đa thê, nhưng số mệnh đã làm hỏng dự định ấy của tôi. Hoặc Chúa đã ngăn trở tôi, có lẽ nói như vậy mới đúng. Bây giờ tôi chẳng kém một con quỷ là mấy. Và đúng như vị mục sư của tôi đã nói, tôi xứng đáng phải hứng chịu những phán xử nghiêm khắc nhất của Chúa, thậm chí còn đáng bị vứt vào giàn thiêu hoặc bị đọa đầy vĩnh viễn. Thưa các vị, kế hoạch của tôi thế là phá sản hoàn toàn! Những gì ngài luật sư và thân chủ của ông ta vừa nói đều đúng, tôi đã có vợ và người vợ mà tôi đã cưới hiện nay vẫn còn sống! Ông Wood ạ, ông bảo chưa bao giờ nghe nói tới một bà Rochester nào sống ở trên tòa nhà kia, nhưng tôi dám chắc là ông đã nhiều lần để lọt tai những lời xì xào về một người đàn bà mất trí bí ẩn bị giam cầm ở trong đó. Người thì to nhỏ với ông đó là một người chị em khác mẹ của tôi, người lại nói đó chính là tình nhân bị tôi ruồng bỏ. Bây giờ, tôi xin được nói toạc cho ông biết cô ta chính là một người vợ mà tôi đã cưới cách đây mười lăm năm. Cô ta tên là Bertha Mason, em gái người đàn ông cương quyết mà chân tay đang run lên như cầy sấy, còn đôi má thì trắng nhợt cả ra kia – người đang muốn chứng tỏ cho ông thấy một người trái tim quả cảm có thể chịu đựng như thế nào. Vui lên đi chứ, Dick!... Đừng bao giờ phải sợ tôi nữa!... Bertha Mason là một kẻ mất trí, được sinh ra trong một gia đình toàn điên là điên, mà còn điên cả ba đời nữa. Mẹ cô ta, một người đàn bà [68] Créon , là kẻ vừa điên vừa nghiện rượu! Tôi chỉ phát hiện ra cái điều tệ hại ấy sau khi đã cưới con gái bà ta, vì trước đó họ luôn giữ kín mọi điều bí mật của gia đình. Giống như một đứa con ngoan. Bertha đã nghe theo bà mẹ làm cả hai điều tồi tệ ấy. Vậy mà tôi cứ tưởng mình đã có được một người bạn đời duyên dáng, trong trắng, khôn ngoan và khiêm tốn nữa! Các vị có thể tưởng tượng tôi là con người hạnh phúc như thế nào. Tôi đã trải qua những cảnh đời thật muôn vẻ! Vậy đấy! Nhưng tôi không có nghĩa vụ phải giải thích kỹ hơn cho các vị. Briggs, Wood, Mason, bây giờ tôi xin được mời các vị cùng lên trên nhà thăm bệnh nhân của cô Poole và cũng là vợ tôi! Các vị sẽ thấy tôi đã bị lừa khi cưới vợ như thế nào, rồi sau đó sẽ phán xét xem tôi có quyền hủy bỏ cái hợp đồng ấy để tìm sự cảm thông ở một người có nhân tính tối thiểu hay không. Wood ạ, cô gái này – ông nói và nhìn vào tôi – chẳng biết nhiều hơn ông về cái bí ẩn ghê tởm ấy đâu. Cô ấy nghĩ mọi sự đều tốt đẹp và hợp pháp, chẳng bao giờ mơ là mình sắp bị sa vào một cuộc hôn nhân với một kẻ giả dối từng có một người vợ xấu xa và điên dại. Nào, mời tất cả các vị đi theo tôi!” Tay vẫn nắm chặt tay tôi và kéo tôi rời khỏi nhà thờ, ba người đàn ông


bước theo sau. Chúng tôi thấy chiếc xe ngựa đỗ trước cửa phòng lớn. - Đánh xe vào nhà đi, John, – ông Rochester lạnh lùng nói – hôm nay không cần dùng đến nó nữa. Vừa bước vào nhà, chúng tôi liền đưuọc bà Fairfax, Adèle, Sophie và Leah ra chúc mừng. - Tất cả đứng sang một bên đi! – Ông chủ tôi gắt. – Vứt hết những lời chúc của các người đi! Ai cần những lời chúc ấy?... Tôi không cần! Lời chúc ấy đã muộn mất mười lăm năm rồi! Ông lừ lừ bước lên cầu thang, tay vẫn nắm tay tôi và gật đầu ra hiệu cho ba vị khách đi theo. Chúng tôi lên cầu thang thứ nhất, đi dọc hành lang rồi leo tiếp lên tầng ba. Ông Rochester lấy chìa khóa mở một cánh cửa đen, thấp và dẫn chúng tôi vào một căn phòng trải thảm có đặt một cái giường lớn và một cái tủ nhiều ngăn. - Mason, anh đã biết chỗ này rồi. – Người dẫn đường bảo. – Cô ta đã cắn anh và chém anh ở đây. Ông vén những bức rèm treo tường và mở nốt cánh cửa thứ hai vừa lộ ra. Căn buồng nhỏ bên trong không có cửa sổ, mà chỉ được soi sáng nhờ ánh lửa từ một lò sưởi được bao quanh bởi một tấm lưới sắt chắc chắn và một ngọn đèn treo dây xích mắc trên trần nhà. Grace Poole đang lúi húi bên bếp lửa, hình như chị ta đang nấu nướng thì phải. Trong khoảng tối, nơi cuối buồng, có một cái bóng đang chạy đi chạy lại. Thoạt nhìn, người ta không thể nói đó là người hay vật. Hình như nó đang lổm ngổm bằng bốn chân, cào xuống nền nhà và gầm gừ như một con quái vật hoang dại. Nhưng điều rất lạ là nó lại mặc quần áo, có một mớ tóc dày, màu sẫm và bờm xờm như bờm ngựa, che kín cả đầu và mặt. - Chào Grace Poole! – Ông Rochester nói. – Tình hình thế nào rồi? - Chúng tôi cũng dễ chịu thôi, thưa ông, cám ơn. – Grace Poole trả lời và cẩn thận nhấc cái món đặc sệt đang sôi đặt ở ngăn bên lò sưởi: “chỉ hơi cáu chứ không bị lên cơn điên”. Bất chợt có một tiếng kêu dữ tợn cất lên như định phủ nhận câu trả lời có thiện ý của chị ta. Con linh cẩu mặc quần áo ấy đứng bật dậy và đứng


thẳng bằng hai cái chân sau. - Ấy chết, thưa ông, bà ta lại nhìn thấy ông rồi! – Grace kêu lên. – Tốt hơn hết là ông không nên ở lại đây nữa. - Chỉ một lúc thôi, Grace ạ, cứ để tôi đứng đây một chốc. - Vật thì ông phải cẩn thận cho, thưa ông! Lạy Chúa... xin ông hãy cẩn thận! Người điên bắt đầu rống lên, vén mớ tóc lòa xòa trước trán lên và nhìn chằm chằm những vị khách bằng ánh mắt hận thù hung dữ. Tôi đã nhận ra cái bộ mặt đỏ tía phù nề ấy. Chị Poole tiến đến. - Tránh ra nào, – ông Rochester nói và gạt chị ta sang một bên – tôi nghĩ bây giờ nó không có dao, đúng không? Mà cũng chẳng sao, tôi đã đề phòng rồi. - Thưa ông, chẳng bao giờ biết được trong tay bà ấy có gì. Bà ấy nhiều trò lắm, không thể lường trước bà ấy sẽ làm những gì đâu. - Ta nên tránh nó đi thì hơn. – Ông Mason nói nhỏ. - Quỷ tha ma bắt anh đi! – Em rể ông ta đáp lại như vậy. - Mọi người hãy coi chừng. – Grace kêu lên. Cả ba người đàn ông cùng lùi lại phía sau. Ông Rochester đẩy tôi ra sau lưng. Người đàn bà điên nhảy xổ đến vồ lấy cổ ông và định cắn vào má ông. Thế là hai người đánh vật với nhau. Mụ là một người đàn bà to lớn, vóc dáng chẳng kém người chồng là mấy nên trong cuộc vật lộn, mụ tỏ ra không chịu lép vế, đã hơn một lần mụ chơi cho ông Rochester liêu xiêu. Thực ra ông cũng có thể đấm cho mụ một phát, nhưng ông không muốn làm như vậy mà chỉ định nắm giữ mụ ta thôi. Mãi về sau ông mới tóm chặt được tay mụ. Ông cầm sợi dây thừng Grace vừa đưa rồi trói quặt tay mụ ta ra sau lưng, và sẵn sợi dây, ông buộc chặt mụ vào một cái ghế bành. Bị trói chặt, mụ bắt đầu gào thét, vùng vẫy giãy giụa như lên cơn. Ông Rochester quay lại phía những người đứng xem, nở một nụ cười chua chát và chán chường. - Đấy, vợ tôi đấy. Đó là cách ôm ấp duy nhất mà tôi được hưởng trong suốt những ngày qua, là cách vuốt ve duy nhất để an ủi tôi trong những giờ nhàn rỗi! Và đây chính là người tôi mong muốn (ông đặt tay lên vai tôi).


Vâng, chính là cô gái đang câm lặng điềm tĩnh đứng nhìn con quỷ quay cuồng lồng lộn trước cửa địa ngục đây. Tôi cần đến nàng như cần một sự thay đổi sau khi nếm phải cái vị cay đắng kia. Wood và Briggs ạ, các vị hãy nhìn vào sự khác biệt đi! Hãy so sánh đôi mắt trong sáng này với hai hòn lửa kia, khuôn mặt này với chiếc mặt nạ kia, dáng dấp này với khối thịt kia rồi hãy phán xử tôi, hỡi vị giáo sĩ của Chúa và con người của pháp luật! Và hãy nhớ rằng các vị phán xử tôi như thế nào thì rồi các vị sẽ lại được phán xử đúng như thế! Còn bây giờ thì hãy lui cả đi. Tôi cần đóng cửa kho báu của tôi lại đã. Chúng tôi cùng lui ra ngoài. Ông Rochester ở lại sau chúng tôi một lúc để căn dặn thêm chị Grace Poole. Lúc chúng tôi đi xuống cầu thang, ông luật sư bảo tôi: - Thưa bà, trong chuyện này không ai có thể trách được bà cả. Ông chú bà sẽ rất vui khi được nghe điều đó – nếu quả thực là ông ấy vẫn còn sống... khi ông Mason trở về từ Madeira. - Ông chú tôi! Sao? Ông cũng quen ông ấy à? - Người quen biết ông ấy là ông Mason. Trước đây, ông chú Eyre của cô từng là đại diện giao dịch tại Funsal cho nhà Mason trong mấy năm. Nhận được thư báo tin cô kết hôn với ông Rochester, ông chú cô đã đem chuyện nói với ông Mason – người đang trên đường trở về từ Jamaica sau thời gian dưỡng sức ở Madeira – vì biết thân chủ Mason của tôi có quen một người tên là Rochester. Ông Mason đã nói toạc sự thật với chú cô sau một cảm xúc sửng sốt và bối rối như cô biết đấy. Tôi rất tiếc khi phải nói rằng chú cô hiện đang đổ bệnh, và cứ nhìn bệnh tình hiện nay thì xem chừng ông ấy sẽ chẳng bao giờ có thể gượng dậy được nữa. Ông ấy không thể đích thân sang Anh quốc để cứu cô khỏi cái cạm bẫy mà cô đã rơi vào, vì thế ông đã nhờ ông Mason tìm cách ngăn chặn cái đám cưới giả dối này càng sớm càng tốt. Ông ấy còn giới thiệu tôi giúp đỡ ông Mason. Tôi đã cố gắng hết sức và cũng may là tôi không đến quá chậm. Không biết chú cô có thể gắng gượng thở cho đến khi cô đến Madeira được không, nếu biết thì tôi sẽ khuyên cô cùng đến đó với ông Mason. Nhưng tình hình đã đến mức như vậy nên tôi nghĩ tốt hơn là cô cứ ở lại nước Anh, đợi cho đến khi biết thêm tin tức về ông Eyre rồi hãy tính. Chúng ta còn có chuyện gì phải nán lại đây nữa không nhỉ? – Ông ta quay sang hỏi ông Mason.


- Không, không, chúng ta đi thôi. – Mason trả lời bằng một giọng lo âu. Rồi không cần đợi chào ông Rochester, họ bước thẳng ra cổng. Vị giáo sĩ còn nán lại nói thêm vài câu – không hiểu là khuyên răn hay trách cứ – với tín đồ ngạo mạn của mình rồi cũng ra về nốt. Tôi trở về phòng mình, cánh cửa hé mở giúp tôi nghe rõ tiếng bước chân ông. Tòa lâu đài trở về với im lặng. Tôi ở lì trong phòng và cài chặt cửa không cho ai vào. Tôi làm vậy không phải để ngồi khóc than một mình – vì tôi vẫn rất bình tĩnh – mà là để thay bộ áo váy cưới bằng chiếc áo dài mộc mạc mặc từ hôm qua, chiếc áo mà tôi nghĩ mình mặc lần cuối cùng. Rồi tôi ngồi phịch xuống, khoanh tay và gục đầu xuống mặt bàn, trong người cảm thấy yếu ớt và mỏi mệt. Bây giờ mới là lúc để tôi suy nghĩ. Lúc nãy, tôi mới chỉ được nghe, nhìn, đi lại – bị kéo đi kéo lại – chứng kiến các sự việc và tròn mắt hiểu ra hết bí ẩn này đến bí ẩn khác. Nhưng bây giờ mới là lúc để tôi suy nghĩ thực sự. Trừ cái cảnh người điên lên cơn, sáng nay quả là một buổi sáng yên tĩnh, bởi chuyện xảy ra ở nhà thờ không có gì ầm ĩ, không ai nổi trận lôi đình, tranh cãi, thách thức... cũng chẳng có ai khóc lóc. Tất cả chỉ có vài lời được nói ra, vài câu bình tĩnh phản đối lễ cưới, vài câu hỏi ngắn hơi gay gắt của ông Rochester... Rồi sự thừa nhận của ông. Sau khi đã được tận mắt chứng kiến cái bằng chứng sống ấy, mấy vị khách liền bỏ về, và rồi mọi sự cũng trôi qua. Tôi lại ở lì trong phòng như thường lệ – cuối cùng, tôi vẫn chỉ là tôi, chẳng có gì thay đổi rõ rệt nào: tôi chẳng bị ai đánh đập, chẳng bị ai đâm chém. Nhưng Jane Eyre của ngày hôm qua đầu rồi? Cuộc đời cô ta đang trôi về đâu? Tương lai của cô ta rồi sẽ hướng về đâu? Jane Eyre, kẻ mới rồi còn là một cô gái khấp khởi chờ đợi – sắp được làm cô dâu – nay lại trở về làm một đứa lạnh lẽo, cô đơn! Đời cô ta sao mà mờ mịt, tương lai của cô ta sao mà đen tối thế! Giữa mùa hạ sao bỗng giá lạnh như tiết Giáng sinh, trời tháng Sáu sao bão tuyết lại thổi ngày cuối đông? Băng giá làm đông cứng những trái chín trong vườn. Tuyết rơi vùi dập những bông hồng chúm chím nở, phủ kín những thảm cỏ và cánh đồng ngũ cốc như một dải khăn liệm. Những lối nhỏ đêm qua còn đầy hoa nở, nay bỗng bị vùi dưới tầng tuyết trắng xóa không một dấu chân người. Những cánh rừng, cách đây mười hai giờ đồng hồ còn nhấp nhô như những ngọn sóng xanh, tỏa hương như những cánh rừng nhiệt đới, nay bỗng trở nên mênh mông, hiu quạnh và tang tóc như những cánh rừng thông Nauy giá rét. Mọi hy


vọng của tôi đều đã chết vì số phận đen bạc chỉ trong có một đêm. Tôi ngẫm lại những mong ước nhỏ nhoi, mới hôm qua còn sáng láng và tươi đẹp là thế, nay đã chết lụi như những thây ma lạnh toát chẳng bao giờ có thể hồi sinh được. Tôi nhìn lại tình yêu của tôi, một tình cảm do chính tôi tạo ra, nay đang run rẩy trong trái tim tôi như một đứa trẻ co ro trong chiếc nôi lạnh lẽo, bệnh tật và nỗi phiền muộn đã ám lấy nó – nó không thể tìm được vòng tay ông Rochester hơi ấm trong lòng ông. Chao ôi! Sẽ chẳng bao giờ nó được quay lại với ông, vì đức tin đã bị tổn thương, lòng tin đã bị hủy diệt! Với tôi, Rochester bây giờ không còn là chính ông nữa, vì ông không còn là một người như tôi vẫn nghĩ. Tôi sẽ không gán cho ông một hình ảnh xấu, cũng không nói ông là một kẻ phản bội, nhưng bây giờ tôi không còn nghĩ tâm hồn ông hoàn toàn không vẩn đục nữa, và dù thế nào thì tôi cũng phải ra đi. Đó là điều tôi đã hoàn toàn cảm nhận được. Nhưng đi đâu, bao giờ và như thế nào... thì tôi vẫn chưa thể hình dung được, nhưng tôi tin chắc rằng chính ông cũng muốn tôi nhanh chóng rời khỏi Thornfield. Có vẻ như ông không thể có tình cảm thực sự đối với tôi, có chăng chỉ là một ham muốn theo từng lúc để rồi đến khi gặp trở ngại, ông chẳng còn cần đến tôi nữa. Thậm chí tôi còn càm thấy rằng nếu bây giờ phải đi qua trước mặt ông, hẳn là tôi sẽ rất ngại và cả đôi mắt tôi hẳn cũng rất căm thù ông. Ôi, sao mà tôi mù quáng đến thế! Cách xử sự của tôi sao mà bạc nhược đến thế! Mắt tôi bỗng nhòa đi và tối sầm lại, dường như tôi đang bị một cơn lốc xoáy tối tăm cuốn quanh người, và dòng suy tưởng cũng bất thần ập đến như một dòng chảy đen đặc và hỗn loạn trong đầu tôi. Buông xuôi, ủ rũ và kiệt sức, tôi cảm giác mình đang lả xuống một con sông cạn vĩ đại. Tôi nghe thấy một dòng thác ầm ầm đổ xuống từ những ngọn núi xa xôi và cảm thấy dòng nước đang cuồn cuộn chảy đến, nhưng tôi không đủ ý chí để vùng dậy, không còn sức bình sinh để chạy trốn. Tôi nằm im bất lực, phó mặc đời cho thần chết. Trong lòng tôi chỉ còn một ý nghĩ yếu ớt, ấy là nhớ đến Chúa như một lời cầu nguyện âm thầm. Lời cầu nguyện ấy cứ chập chờn trong tâm tưởng u hoài của tôi, khiến tôi cố gắng thì thào cũng không được, vì tôi đâu còn hơi sức để nói thành tiếng: “Xin đừng xa con, vì đau khổ đang đến gần con, chẳng có gì cứu giúp con.” Nó đang đến rất gần! Và khi tôi không còn cầu Chúa làm nó đổi ngược dòng, khi tôi không còn chắp tay, quỳ gối, mấp máy đôi môi thì nó đã ập đến: một dòng thác vĩ đại, nặng ngàn cân đổ ập lên người tôi, ý thức toàn vẹn về cuộc đời vô vọng, tình yêu đã mất, hy vọng lụi tàn, niềm tin tiêu tan đã đè lên người tôi như một khối u hoài thê thảm. Tôi không đủ lời để mô tả cái giờ


phút cay đắng ấy, vì “dòng nước đã thắm vào tâm hồn tôi, và tôi đã chìm sâu dưới bùn, tôi ngập sâu dưới lòng nước. Cả biển nước chảy tràn qua người tôi.”



Chương 27 Vào một lúc buổi chiều, tôi ngẩng đầu dậy đưa mắt nhìn quanh, thấy mặt trời sắp lặn, ánh nắng tàn hắt hiu trên mặt tường. Tôi tự hỏi: “Mình phải làm gì đây?” Nhưng câu trả lời: “Phải nhanh chóng rời khỏi Thornfield” vụt hiện lên trong đầu tôi nhanh quá, đáng sợ quá, khiến tôi phải bịt chặt tai lại. Lúc này tôi không thể chịu đựng nổi câu nói ấy. Tôi lẩm bẩm: “Mình không phải là vợ ông Rochester, nhưng điều đó chỉ là một phần trong nỗi niềm đau khổ của mình. Mình đã bừng tỉnh từ những giấc mơ huy hoàng nhất để bây giờ thấy chúng chỉ là một sự hư ảo và hão huyền. Nói cho cùng, mình có thể chế ngự và vượt qua sự khủng khiếp ấy, nhưng nếu phải dứt khoát rời bỏ ông ấy, rời bỏ hoàn toàn và ngay lập tức thì quả thực mình không chịu được. Mình không thể làm được như vậy.” Nhưng trong đầu tôi bỗng vẳng lên một tiếng nói bảo tôi có thể làm được như vậy và nên làm như vậy. Tôi giằng co với quyết định của chính mình. Tôi muốn tôi trở thành kẻ yếu đuối để tránh dấn thân vào con đường ghê sợ khiến tôi tiếp tục phải chịu đựng đau khổ đang bày ra trước mặt. Nhưng ý thức trở thành một kẻ bạo ngược đã túm gáy dục vọng và khinh bỉ bảo rằng nó chỉ mới nhúng bàn chân nhỏ vào vũng bùn thôi, và thề sẽ dùng cánh tay sắt này mà quẳng nó xuống vực sâu thăm thẳm của thống khổ. - Vậy thì để tôi rời khỏi chốn này đi! –Tôi kêu lên. – Hãy để người khác giúp tôi đi! - Không! Ngươi hãy tự mình ra khỏi đây, sẽ không có ai giúp ngươi đâu. Ngươi sẽ tự móc con mắt phải của mình, tự cắt tay phải của mình, trái tim của ngươi sẽ trở thành nạn nhân và ngươi sẽ là thầy tu đâm xuyên qua nó. Tôi bỗng bật dây, một cảm giác sợ hãi dâng trào từ đầu đến chân, giữa cảnh cô đơn câm lặng, chỉ có giọng phán quyết khủng khiếp của một vị quan tòa vô hình phán quyết. Đầu óc tôi quay cuồng điên đảo, đứng cũng không vững. Chỉ đến lúc này tôi mới nhận thấy mình đang phát ốm vì cảm giác bị kích động và đói khát. Cả ngày hôm nay, tôi chưa được ăn uống gì, vì buổi sang tôi cũng không ăn điểm tâm. Bây giờ tôi mới thấy tôi giam mình trong buồng đã lâu mà chẳng có ai đoái hoài hoặc mời xuống nhà, thậm chí cả cô học trò nhỏ Adèle cũng không buồn tới gõ cửa, bà Fairfax nữa cũng chẳng


thèm đến tìm tôi. “Đúng là có qua cơn hoạn nạn mới biết bạn bè” – tôi lẩm bẩm và mở cửa ra ngoài. Tôi vấp phải một vật gì đó nhưng không định thần ngay được vì vẫn còn chóng mặt, hoa mắt và run chân run tay. Tôi loạng choạng ngã, nhưng không phải xuống sàn nhà, vì có một cánh tay vội dang ra đỡ. Ngẩng nhìn lên, tôi nhận ra người đã đỡ tôi là Rochester: ông đang ngồi trên một chiếc ghế bắc ngang ngưỡng cửa phòng tôi. “Cuối cùng thì em cũng chịu ra khỏi phòng. – Ông nói. – Tôi chờ em ở đây đã lâu, vậy mà chẳng nghe thấy một tiếng động hay một lời nức nở nào. Nếu trong ấy cứ im lặng như nghĩa địa thêm năm phút nữa, thì có lẽ tôi đến phải phá cửa mà vào như một tên trộm mất thôi. Vậy là em định xa lánh tôi ư? Em tự giam mình trong phòng để đau khổ một mình! Thà rằng em cứ đến chửi mắng tôi thậm tệ còn hơn. Tôi chờ đợi một cảnh tượng như vậy, vì em vốn là người mạnh mẽ thế kia mà. Tôi cũng chờ đợi một trận mưa nước mắt nóng hổi, tôi muốn nó nhỏ ướt đẫm ngực tôi, vậy mà bây giờ chỉ có cái sàn nhà vô tri vô giác hoặc cái khăn tay của em là được đón nhận nó. Nhưng rốt cuộc thì tôi cũng đã nhầm, vì em đâu có khóc. Tôi thấy hai gò má em nhợt nhạt thật đấy, đôi mắt em buồn bã thật đấy, nhưng đâu có dấu vết gì của những giọt nước mắt. Hay chỉ có trái tim em khóc ra máu chăng? “Được đấy, Jane ạ, chẳng lẽ em không có một lời trách móc nào ư? Chẳng lẽ không có một lời cay đắng ư? Cả một lời đoạn tuyệt, hoặc căm phẫn cũng không ư? Em vẫn chỉ ngồi câm lặng mãi ở cái chỗ tôi đặt em vào và nhìn tôi bằng ánh mắt mệt mỏi, thụ động. “Jane à, quả thực là tôi không hề có ý định làm em nên nông nỗi này. Nếu một gã đàn ông nuôi một con cừu non và coi nó thân thiết như đứa con gái của gã, cho nó ăn miếng bánh bẻ đôi và cho nó uống bằng chiếc cốc của gã, cho nó nằm vào lòng gã để rồi vì một sai lầm nào đó, lại đập chết nó trong cảnh hỗn loạn, thì gã cũng chẳng thể hối tiếc cho cái sai lầm vấy máu của gã như thôi được. Em có bao giờ tha thứ cho tôi không?” Bạn đọc thân mến! Tôi đã tha thứ cho ông ngay lập tức. Quả thực là tôi đã nhận ra cái gì đó như một sự hối hận trong đôi mắt, một sự tội nghiệp thực sự trong giọng nói và một nghị lực mạnh mẽ trong cánh cư xử của ông. Tôi cũng nhận ra trong ánh mắt và dáng điệu của ông một tình yêu không đổi… và tôi đã tha thứ cho ông tất cả, dù không nói thành lời và không tỏ ra bên ngoài, mà chỉ nghĩ thầm kín trong lòng.


- Em đã biết tôi là kẻ vô lại, phải không Jane? – Ông hỏi sau một lúc im lặng, vẻ bối rối vì tôi vẫn ngồi im, mãi không nói một câu. Tôi nghĩ có lẽ sự mệt mỏi đã khiến tôi có bộ dạng như vậy chứ không phải do tôi cố tình tạo ra. - Thưa ông, vâng! - Vậy thì cứ nguyền rủa thẳng vào mặt tôi đi,việc gì cứ phải tỏ vẻ nín nhịn trước tôi như thế. - Em không thể, vì em đang mệt mỏi và ốm yếu lắm. Em chỉ muốn được uống một ngụm nước thôi. Ông buông tiếng thở dài, rồi bế tôi xuống dưới nhà. Lúc đầu, tôi không hiểu ông định đưa tôi vào phòng nào, vì mọi vật đều nhạt nhòa trước con mắt thẫn thờ của tôi. Nhưng rồi tôi thấy có hơi ấm của ngọn lửa, vì dù đang là mùa hè, song tôi vẫn cảm thấy mình lạnh run từ lúc còn ngồi trong phòng mình. Tôi nhấp một ngụm rượu vang, rồi ăn một miếng gì đó mà ông đưa cho. Hớp rượu và miếng thức ăn đã giúp tôi tỉnh hẳn lại. Tôi đang ngồi trên ghế của ông trong thư phòng, còn ông thì đứng bên cạnh tôi. “Nếu bây giờ mình có thể giã biệt cuộc đời mà không quá đau đớn, dằn vặt thì hay biết mấy. – Tôi thầm nghĩ. – Như vậy mình sẽ chẳng cần phải cố gắng dứt bỏ những sợi dây ràng buộc trái tim mình với trái tim ông. Có vẻ như mình sẽ phải rời xa ông. Nhưng mình không muốn… mình không thể rời xa ông được.” - Bây giờ em thấy trong người thế nào rồi, Jane? - Thưa ông, đã khá hơn nhiều, chắc là em sớm khỏe ngay thôi. - Làm một ngụm rượu vang nữa đi, Jane. Tôi uống thêm một ngụm. Ông đặt chiếc cốc xuống mặt bàn, rồi đứng ra trước mặt và chăm chú nhìn tôi. Bất chợt ông quay đi, miệng thốt lên một tiếng đầy cảm xúc nhưng không rõ. Ông bước nhanh qua thư phòng rồi quay lại, cúi xuống như để hôn tôi, nhưng tôi thấy bây giờ không còn là lúc dành cho những cử chỉ vuốt ve âu yếm đó nữa. Tôi ngoảnh mặt đi và đẩy ông ra. - Sao!... Sao thế, Jane? Ừ, tôi hiểu rồi, em không muốn hôn người chồng của Bertha Mason, đúng không? Em muốn nói vòng tay tôi phải ôm một


người khác, đôi môi tôi phải hôn một người khác mới là thích hợp, đúng không? - Thưa ông, dù sao thì em cũng không còn được làm như thế. - Tại sao chứ, Jane? Tôi muốn chia sẻ với em cái khó của cái việc nói nhiều, tôi sẽ trả lời cho em, bởi vì tôi đã có vợ, em sẽ đáp lại tôi như thế có phải không? Tôi đoán có đúng không? - Đúng thế, thưa ông. - Nếu đúng vậy thì chắc hẳn là em đang nghĩ về tôi rất lạ lùng, chắc hẳn em đang cho tôi là một kẻ phóng đãng xảo trá, một thằng đểu giả làm ra vẻ có tình yêu chân thành để chủ tâm lừa em vào một cạm bẫy, để sỉ nhục danh dự vào lòng tự trọng của em. Em nói thế nào về điều ấy? Tôi thấy em không thể nói gì được, vì trước hết trông em vẫn còn yếu lắm, có lẽ chỉ lo ngồi thở thôi cũng đủ mệt; tiếp đến, em vẫn chưa quen buộc tội và nguyền rủa tôi. Mà nếu có nói nhiều thì em lại khóc như mưa tuôn thôi. Em không muốn phản đối, quở mắng và làm ầm lên, mà em chỉ đang nghĩ nên hành động như thế nào. Còn cái việc nói đối với em chỉ là điều vô ích. Tôi rất hiểu em, và tôi đang chờ đợi đây. - Thưa ông, em không muốn làm gì để chống lại ông. – Tôi nói, giọng thiếu bình tĩnh, khiến tôi không dám nói tiếp. - Em đang nghĩ cách hủy hoại tôi, không phải theo cách nghĩ của em về cái chữ ấy mà là theo cách nghĩ của tôi. Em muốn tôi hiểu rằng tôi là một người đã có vợ, mà đã là người có vợ rồi thì em phải xa lánh tôi, vì vừa mới rồi em đã từ chối nụ hôn của tôi đấy thôi. Em định biến mình thành một kẻ hoàn toàn xa lạ đối với tôi, và em chỉ sống dưới mái nhà này như một gia sư của Adèle mà thôi. Nếu chẳng may có lúc tôi nói với em một lời thân mật, nếu chẳng may có một cảm xúc thân thiết khiến em lại ngả về phía tôi thì em sẽ nói: “Người đàn ông này suýt nữa đã biến mình thành tình nhân của gã, vì vậy mình phải tỏ ra lạnh lùng và cứng rắn đối với gã.” Và thế là em trở thành băng giá, thành tảng đá trước mặt tôi. Tôi cố lấy giọng trả lời cho rõ ràng hơn: “Thưa ông, tất cả xung quanh em đều đã thay đổi, vì thế em cũng phải thay đổi, đó là điều không cần phải nghi ngờ gì nữa. Và để tránh những cảm xúc bất chợt dội về, tránh những cuộc vật lộn không ngừng với kỉ niệm xưa cũ, thì chỉ có một cách mà thôi, ấy


là ông phải thay một bảo mẫu mới cho Adèle. “Không, Adèle sẽ đến trường, tôi đã thu xếp việc ấy rồi. Tôi cũng không muốn giày vò em với những kỉ niệm xấu xa về lâu đài Thornfield. Em sẽ không còn phải ở lại cái nơi đáng nguyền rủa này, cái nấm mồ đen tối phơi bày bộ mặt quái đản của một thây ma sống dưới ánh mặt trời này, cái địa ngục nhỏ bằng đá chứa chấp một con quỷ thực sự còn tồi tệ hơn cả một bầy quỷ mà người ta có thể tưởng tượng ra nữa. Cả tôi cũng vậy. Tôi đã sai lầm khi biết lâu đài Thornfield bị ma ám mà vẫn níu em ở lại đây. Ngay trước khi gặp em, tôi đã bảo mọi người phải giấu biệt cái tai ương của nhà này đi, đơn giản vì tôi sợ Adèle sẽ không thể có gia sự dạy dỗ nếu người đó biết mình phải chung sống với một kẻ quái gở thế nào. Nhưng tôi cũng không thể tìm cách đưa con quỷ ấy đi nới khác, cho dù tôi còn điền trang Ferndean, một ngôi nhà cũ ở một nơi kín đáo và hẻo lánh hơn chỗ này. Tôi có thể yên tâm giữ nó ở đấy, nếu không phải đắn đo suy tính về hiện trạng của ngôi nhà đó, vì nó nằm ngay giữa rừng thiêng nước độc. Có thể những bức tường ẩm ướt đó sẽ sớm giúp tôi trút nhẹ cánh gánh nặng của mình, nhưng mỗi kẻ ác đều có hành vi đồi bại của riêng mình, và sự suy đồi về đạo đức của tôi không phải là khuynh hướng giết người gián tiếp, kể cả đối với kẻ mà tôi căm ghét nhất. “Giấu em một người đàn bà điên thật chẳng khác nào việc phủ tấm áo [69] choàng lên một đứa trẻ rồi đặt nó dưới gốc cây sui , bầu không khí xung quanh gốc cây này lúc nào cũng bị nhiễm độc. Tôi sẽ đóng cửa lâu đài Thornfield, đóng nẹp đinh vào cửa ra vào, niêm phong các ô cửa sổ. Tôi sẽ cho Poole hai trăm bảng mỗi năm để chị ta sống ở đây với vợ tôi, nếu em muốn gọi mụ điên đáng sợ ấy là như vây. Grace có thể làm đủ mọi việc vì tiền, chị ta sẽ gọi người con trai – một anh chàng gác cổng Trại Grimsby đến ở chung và giúp chị ta trong những lúc nước sôi lửa bỏng, khi vợ tôi bất chợt lên cơn điên rồi giở cái thói hỏa thiêu người tại giường ngủ của người ta, đâm chém, cào cấu da thịt người ta, và rất nhiều chuyện khác nữa.” - Thưa ông, – tôi ngắt lời – có vẻ như ông đã quá cố chấp đối với người đàn bà bất hạnh ấy. Chỉ thấy ông nói về bà ta bằng cái giọng căm thù và ác cảm. Như thế thì tàn nhẫn quá. Bà ấy có muốn điên dại thế đâu. - Jane, cô người tình bé nhỏ của tôi ạ (tôi gọi em như thế bởi vì em đang là như thế), em không hiểu em đang nói gì đâu. Em lại đánh giá nhầm con người tôi rồi! Đâu phải vì cô ta điên mà tôi ghét cô ta. Giả thử em điên, em có


nghĩ rằng tôi sẽ ghét em không nào? - Em nghĩ vậy, thưa ông. - Thế thì em nghĩ nhầm, và em chẳng hiểu gì về tôi, về cái tình yêu mà tôi có thể có. Máu thịt em đối với tôi cũng quý như là của tôi vậy, kể cả trong lúc ốm đau bệnh tật cũng vậy. Tâm hồn em là kho báu của tôi và nếu nó bị tan vỡ thì nó vẫn cứ là một kho báu. Nếu em u mê, em sẽ bị giam trong vòng tay tôi, chứ không phải trong cái áo trói của người điên. Ngay trong lúc điên khùng, em vẫn là người quyến rũ tôi. Nếu em điên dại lao vào tôi như người đàn bà sáng nay, tôi vẫn sẽ đón nhận em trong vòng tay để ít nhất có thể giữ được em. Tôi sẽ không lảng tránh em với một sự ghê tởm như sáng nay tôi đã lảng tránh cô ta. Những lúc em dịu đi, sẽ chẳng có ai trông nom và chăm sóc em ngoài tôi cả. Tôi sẽ quanh quẩn bên em không mệt cho dù em không có một nụ cười đáp lại, sẽ ngắm nhìn mắt em không biết chán cho dù đôi mắt ấy không còn nhận ra tôi nữa. Nhưng sao tôi lại cứ theo đuổi mãi dòng suy nghĩ ấy nhỉ! Tôi đang nói chuyện đưa em rời khỏi lâu đài Thornfield. Em biết đấy, tất cả đều đã được chuẩn bị cho chuyến đi ngày mai của em, Jane ạ, tôi chỉ dám đề nghị em nán lại mái nhà này một đêm nữa thôi, sau đó em có thể vĩnh biệt những nỗi buồn tủi và bao sự khủng khiếp để ra đi! Tôi đã có một chỗ ở ẩn, đó sẽ là một chốn bình yên giúp tôi lánh xa những hồi ức đáng ghét, xa lánh sự can dự không mong đợi, thói đời dối trá và cả những kẻ vu oan giá họa nữa. - Và hãy để Adèle được đi cùng ông, thưa ông. – Tôi ngắt lời. – Nó sẽ là một người để ông có bầu bạn. - Em muốn nói gì thế, Jane? Chẳng phải là tôi vừa bảo sẽ gửi Adèle vào trường là gì? Tôi đâu cần phải làm bạn với một đứa trẻ? Mà nó đâu phải là con đẻ của tôi chứ, nó chỉ là đứa con hoang của một vũ nữ người Pháp mà thôi. Sao em cứ muốn làm phiền tôi vì nó thế chứ? Tôi hỏi, tại sao em lại chỉ định Adèle cùng đi với tôi để làm bạn? - Thưa ông, ông vừa nói đến lui về ở ẩn, mà ở ẩn và cô đơn thì buồn, quá buồn cho ông. - Cô đơn! Cô đơn! – Ông giận dữ nhắc lại. – Tôi thấy cần phải nói cho rõ mới được. Không hiểu tại sao em lại cứ quàu quạu như con nhân sư ấy. Em phải chia sẻ cùng tôi cái cô đơn. Em hiểu rồi chứ?


Tôi lắc đầu đáp lại. Phải can đảm lắm tôi mới dám lặng lẽ chối từ trong lúc ông bị bực tức như vậy. Ông sốt ruột đi đi lại lại trong phòng một lúc, rồi đột nhiên dừng lại như bị cắm rễ xuống đất, mắt chằm chằm nhìn tôi một hồi. Tôi quay đi, chăm chú nhìn ngọn lửa, cố làm ra vẻ thản nhiên. - Vậy đấy, bây giờ tính cách của Jane mới bộc lộ điều phức tạp. – Cuối cùng ông lên tiếng, vẻ điềm tĩnh hơn những gì tôi vẫn chờ đợi ở nét mặt ông. – Thì ra cái mấu, chỗ rối của những sợi tơ nuột nà tôi rút bấy lâu là ở chỗ này. Bây giờ mới là lúc bộc lộ những phiền phức, bực bội và rắc rối không cùng. Chúa ơi! Sao tôi thèm một chút sức mạnh của Samson để gỡ tung chỗ rối này đến thế! Ông lại bước qua bước lại, nhưng chỉ vài vòng thì dừng lại và lần này đứng ngay trước mặt tôi. “Jane! Em sẽ nghe lý lẽ chứ? (Ông cúi xuống ghé sát vào tai tôi mà nói). Vì nếu em không chịu, tôi sẽ phải thử dùng sức mạnh mới được.” Giọng ông khàn khàn, cái nhìn của ông đúng là cái nhìn của một người đàn ông đang định giật tung sợi dây trói bức bối và lao đầu vào làm bừa. Tôi nhận thấy nếu tình trạng này cứ kéo dài thêm thì tôi sẽ chẳng thề làm gì để kiềm chế được ông. Ngay bây giờ, tôi chỉ còn một khoảng thời gian thoáng qua này để kiềm chế, điều khiển ông. Nhưng tôi không hề sợ hãi. Tôi cảm thấy có một sức mạnh từ bên trong, một sự ý thức về ảnh hưởng của mình đối với ông và điều đó nâng đỡ tinh thần tôi. Cơn khủng hoảng thật nguy hiểm, nhưng không phải là không có cái hay, giống như cái thú của người da đỏ chèo thuyền lao trên thác nước. Tôi nắm chặt tay ông, khẽ gỡ những ngón tay đang nắm chặt và nhẹ nhàng nói: - Ông ngồi xuống đi. Em sẽ nói chuyện với ông lâu bao nhiêu là tùy ông, và sẽ nghe tất cả những gì ông muốn nói, dù đó là những điều hợp lý hay vô lý cũng chẳng sao. Ông ngồi xuống nhưng chẳng nói thêm điều gì. Từ nãy đến giờ, thỉnh thoảng tôi phải đấu tranh với những giọt nước mắt. Phải khó khăn lắm tôi mới kìm nén được, vì tôi biết ông không thích thấy tôi khóc. Nhưng bây giờ, tôi nghĩ đã đến lúc để nước mắt tự do tuôn trào tùy thích. Nếu ông cảm thấy phiền lòng thì càng tốt. Vì vậy tôi đã khóc nấc lên. Chẳng phải đợi lâu đã thấy ông khẩn khoản bảo tôi hãy bình tĩnh lại. Tôi nói chưa thể bình tâm lại chừng nào ông còn khùng khùng như vậy.


- Nhưng tôi đâu có tức giận, Jane. Chỉ tại tôi yêu em quá thôi, mà em thì cứ tỏ ra lạnh lùng, cứng rắn với tôi, khiến toi không chịu được. Thôi, nín đi nào, lau nước mắt đi. Giọng nói dịu dàng của ông chứng tỏ ông đã chịu khuất phục, vì vậy tôi cũng bình tĩnh hơn. Ông định ngả đầu lên bờ vai tôi, nhưng tôi không cho phép. Ông định kéo sát tôi vào người ông nhưng tôi cũng không nghe. - Jane! Jane! – Ông nói giọng buồn bã khiến tôi không khỏi chạnh lòng. – Chẳng lẽ em không yêu tôi sao? Chẳng lẽ chỉ vì cái địa vị của tôi mà em đã từng muốn làm vợ tôi? Và bây giờ thấy tôi không còn phẩm giá để làm một người chồng nên em muốn lẩn tránh tôi, không muốn động vào người tôi như thể tôi là một con cóc hay một con khỉ không đuôi. Những lời nói đó như cắt vào lòng tôi, nhưng tôi có thể làm gì hoặc nói gì cơ chứ? Có lẽ tôi chẳng nên làm gì hoặc nói gì thì hay hơn, nhưng tôi đã bị dằn vặt bởi sự hối hận đã làm tổn thương đến tình cảm của ông. Tôi không thể ngăn cản được mong muốn làm dịu đi vết thương lòng mà tôi đã gây nên trong ông. - Em yêu ông hơn bao giờ hết, – tôi nói – nhưng em không được quyền bộc lộ hay chuồi theo dòng cảm xúc ấy, và đây là lần cuối cùng em phải bày tỏ điều đó. - Lần cuối cùng! Cái gì? Chẳng lẽ em lại nghĩ rằng nếu vẫn còn yêu tôi, em có thể sống bên tôi, thấy tôi hàng ngày mà lúc nào cũng có thể tỏ ra lạnh lùng, xa lánh được ư, Jane? - Không phải vậy, thưa ông, đó là điều em tin chắc là mình không thể làm được. Và chính vì vậy mà em thấy chỉ có một con đường, nhưng chỉ sợ em nói ra rồi, ông sẽ lại nổi giận. - Ồ, em cứ nói đi! Nếu tôi nổi nóng, em vẫn có nghệ thuật khóc kia mà. - Ông Rochester ạ, em phải xa ông thôi. - Trong bao lâu, Jane? Trong vài phút để em chải lại mái tóc rối, và để em rửa khuôn mặt trông như đang sốt kia chứ? - Em phải chia tay Adèle và lâu đài Thornfield. Em phải xa ông suốt đời


và bắt đầu một cuộc sống mới, giữa những khuôn mặt và cảnh đời xa lạ. - Đương nhiên rồi, tôi cũng vừa bảo em như thế mà. Cái ý định rời bỏ tôi của em đúng là điên rồ, nhưng tôi chẳng muốn chấp. Còn mong muốn có một cuộc sống mới thì hoàn toàn đúng đắn. Em sẽ là vợ tôi, vì hiện giờ tôi vẫn chưa có vợ. Em sẽ là bà Rochester cả về danh nghĩa lẫn thực tế. Tôi sẽ sống bên em đến đầu bạc răng long. Em sẽ đến sống dưới một mái nhà của tôi ở miền Nam nước Pháp, một biệt thự trắng bên bờ Địa Trung Hải. Ở đó, em sẽ sống một cuộc sống hạnh phúc, được che chở và vô tư nhất. Đừng bao giờ sợ tôi lừa dối, biến em thành một người tình. Mà tại sao em lại lắc đầu như thế? Jane, em phải có lý trí chứ, nếu không tôi lại nổi khùng lên mất thôi. Cả giọng nói và hai tay ông đều run, hai bên mũi phập phồng, đôi mắt sáng như có ánh lửa. Mặc dù vậy, tôi vẫn mạnh bạo nói: - Thưa ông, vợ ông hãy còn sống, đó là sự thực mà chính ông đã thừa nhận sáng nay. Nếu em chung sống với ống như ông muốn, thì đương nhiên em phải là tình nhân của ông rồi, nói khác là ông đã tự đưa mình vào chỗ phức tạp… dối trá. - Kìa, Jane, hình như em đã quên rằng tôi không phải là người mềm tính rồi. Tôi không thể kiên nhẫn chịu đựng, dịu hiền và điềm tĩnh được đâu. Vì tôi và cả em nữa, em hãy thử nắn mạch tay tôi xem nó đập như thế nào, và… hãy cẩn thận đấy! Dứt lời, ông kéo tay áo và chìa cổ tay cho tôi xem. Khuôn mặt ông trông tái hẳn đi, cảm giác như không còn một hột máu. Nhìn ông, tôi bỗng thấy bối rối. Kích động ông bằng sự chống đối – điều mà ông rất căm ghét – quả là điều hơi ác, nhưng tôi không thể nhượng bộ ông thêm được nữa. Tôi đã làm cái điều mà người ta phải làm theo bản năng khi bị dồn đến bước đường cùng; ấy là tìm sự giúp đỡ của một đấng siêu phàm… Tôi buột miệng thốt lên: “Chúa ơi, hãy cứu giúp con!” - Mình đúng là một thằng ngu! – Ông Rochester cũng đột nhiên thốt lên – Mình không bảo cho cô ấy biết mình đã có vợ và không hề giải thích tại sao. Mình quên rằng cô ấy không hề biết gì về tính tình của người đàn bà ấy, hoặc hoàn cảnh dẫn đến cuộc hôn nhân khủng khiếp với mụ. Ừ, mình tin thế nào Jane cũng sẽ đồng ý với mình khi cô ấy được biết tất cả những gì mình biết! Jane bé nhỏ ơi, hãy cho tôi được nắm tay em đi, để tôi có bằng chứng khẳng định cho cảm nhận tai mắt của mình rằng em vẫn đang ở bên tôi, sau đó tôi


sẽ kể cho em nghe vài lời hoàn cảnh thực tế của tôi. Em óc thể nghe tôi nói được chứ? - Vâng, thưa ông, em có thể nghe hàng tiếng đồng hồ nếu ông muốn. - Tôi chỉ cần vài phút thôi. Jane à, có bao giờ em nghe, hoặc biết rằng tôi không phải là con trưởng trong gia đình, mà thực ra tôi còn một người anh nữa không? - Em nhớ có lần bà Fairfax bảo như vậy. - Thế có bao giờ em nghe nói cha tôi là một người hám lợi và tham lam không? - Em cũng có nghe đôi chút. - Vậy thì được rồi, Jane ạ. Cha tôi đã quyết giữ nguyên tài sản của mình. Ông ấy không thể chịu được cái ý nghĩ phải phân chia tài sản và rồi phải cho tôi một phần. Ông ấy nhất định dành tất cả cho anh tôi là Rowland. Mặc dù vậy, ông cũng không muốn một người con trai của mình phải chịu cảnh nghèo túng, và lấy được một người vợ giàu là cách tốt nhất để tôi thoát khỏi cái cảnh ấy. Ông Manson, một điền chủ và thương nhân rất giàu có ở West Indies, là chỗ quen biết cũ của cha tôi. Cha tôi được biết Manson có một người con trai và một người con gái, người con gái nếu lấy chồng sẽ được ông bố cho ba mươi ngàn bảng làm của hồi môn. Như thế thì tốt quá còn gì! Khi rời trường học, tôi được đưa tới Jamaica để lấy một cô vợ mà người ta đã hỏi sẵn cho tôi. Cha tôi không nói gì đến chuyện của hồi môn của cô ta, mà chỉ bảo tôi rằng vì sắc đẹp nên cô Manson được coi là một niềm hãnh diện của cả vùng. Điều đó quả không sai. Tôi thấy cô là một người xinh đẹp, người cao lớn, có mái tóc sẫm màu và trông đường bệ lắm, giống như kiểu cách của cô Ingram ấy. Gia đình cô ta muốn có tôi, vì tôi là thằng danh gia vọng tộc, và cô ta cũng muốn vậy. Họ trưng diện cô ta trước mắt tôi trong những buổi tiệc tùng, nhưng chẳng mấy khi tôi được gặp riêng cô ta, và những lúc tôi được trò chuyện riêng với cô ta thì càng ít. Những lúc gặp nhau, cô ta thường tán tỉnh tôi và tìm mọi cách làm duyên để làm tôi hài lòng. Đám đàn ông vây quanh cô ta đều tỏ vẻ ngưỡng mộ cô ta và ghen ghét với tôi. Về phần mình, quả là tôi cũng thấy bị choáng ngợp, và vì những cảm xúc rạo rực, vì sự ngu ngốc, non nớt, thiếu kinh nghiệm, nên tôi cứ tưởng mình đã yêu cô ta. Ham muốn nhục dục, tính nông nổi, sự mù quáng của tuổi trẻ, và sự ganh đua rồ dại trong cuộc đời luôn đẩy người ta vào chỗ u mê, mụ mẫm. Họ hàng cô ta


khích lệ tôi, những kẻ tình địch khích bác tôi, cô ta cám dỗ tôi, thế là một đám cưới lập tức được tổ chức trước khi tôi biết mình đang lơ lửng ở đâu. Chúa ơi! Cứ mỗi lần nghĩ đến hành động ấy là tôi lại thấy day dứt và khinh bỉ chính mình. Thực ra tôi chưa bao giờ yêu cô ta, chưa bao giờ quý trọng cô ta và thậm chí còn chẳng biết rõ con người cô ta nữa. Tôi không chắc có tồn tại một đức tính nào trong bản chất của cô ta. Tôi chẳng thấy cái gì là khiêm nhường, nhân hậu, ngay thẳng, thanh lịch trong tâm hồn hay cử chỉ của cô ta. Vậy mà tôi lại cưới cô ta! Tôi đúng là một thằng ngu đần, mù quáng, u mê! Giá như đừng sai lầm nhiều như thế, chắc hẳn tôi đã… Nhưng hãy để tôi nhớ xem mình đang nói chuyện với ai đã. “Tôi chưa một lần được gặp mặt mẹ vợ, và cứ tưởng là bà ta đã chết. Sau tuần trăng mật, tôi mới biết mình đã lầm. Bà ta chỉ bị điên và bị giữ trong một nhà thương. Ngoài ra, vợ tôi còn có một người em trai vừa câm lại vừa mất trí. Còn người anh trai mà cô đã có lần nhìn thấy, rồi cũng có ngày rơi vào tình trạng thê thảm ấy thôi (và thực tình mà nói, tôi chẳng thể oán ghét được anh ta, cho dù tôi ghê tởm cả họ hàng nhà anh ta, vì trong tâm hồn yếu đuối của anh ta vẫn còn có một chút tình cảm được chứng tỏ ở sự quan tâm thường xuyên đến đứa em gái bất hạnh của anh ta. Hơn nữa, cũng đã có một thời anh ta đã trung thành với tôi như một con chó vậy). Cha tôi và ông anh Rowland của tôi đều biết hết chuyện, nhưng chỉ nghĩ đến ba mươi ngàn bảng nên đã hùa vào với bọn người đó để chống lại tôi.” “Đó là những khám phá thật ghê tởm, nhưng không phải vì những hành động dối trá ấy mà tôi trách cứ vợ tôi, thậm chí khi phát hiện thấy ở cô ta một bản chất hoàn toàn xa lại, những thị hiếu đáng ghét, cái tâm hồn thấp kém và hẹp hòi, không thể nâng lên một điều gì cao cả hơn hoặc mở ra một điều gì rộng lớn hơn, tôi cũng đâu có oán trách điều gì. Ngay cả khi nhận thấy rằng mình không thể sống nổi một buổi tối, hay chỉ một giờ thôi với cô ta cho thật dễ chịu, rằng chúng thôi không thể trò chuyện tử tế với nhau được, vì tất cả các vấn đề được tôi đề cập đến đều bị cô ta biến ngay thành những chuyện tầm thường, thô tục và ngu xuẩn. Ngay cả khi cảm thấy mình sẽ chẳng bao giờ có được một mái nhà êm ấm vì không có một người đầy tớ nào chịu đựng được sự rồ dại do cái tính khí thô bạo và vô lý ấy gây nên, cũng như sự khó chịu từ những mệnh lệnh quái gở, trái ngược nhau và khắt khe của cô ta… tôi vẫn phải tự kiềm chế, không cho phép mình mắng mỏ, lăng mạ điều gì. Tôi cố gắng âm thầm chịu đựng, gặm nhấm nỗi phiền muộn trong lòng và kiềm nén những ác cảm sâu xa.


“Jane ạ, tôi sẽ không phiền em với những chi tiết kinh tởm đó. Vài lời lẽ mạnh mẽ cũng đủ để nói rõ những gì tôi muốn nói. Tôi đã sống với người đàn bà ấy bốn năm, và quả thực đó là khoảng thời gian thử thách tôi ghê gớm nhất. Tính cách quái gở của cô ta ngày càng bộc lộ và phát triển với một tốc độ đáng sợ, những thói hư tật xấu của cô ta nhanh chóng bật dậy như một chiếc lò xo, chúng cuồng bạo đến nỗi chỉ có bạo lực mới có thể kiểm soát nổi, nhưng tôi không muốn dùng đến bạo lực. Cô ta có một trí tuệ bé tí nhưng lại có những thiên hướng hành động khổng lồ. Những thiên hướng ấy quả là đáng sợ đối với tôi! Bertha Manson, một cô con gái thực thụ của một bà mẹ đáng hổ thẹn, đã bắt tôi phải trải qua mọi sự khổ sở gớm ghiếc, ô nhục mà một người đàn ông trót lấy phải một người vợ điên rồ và tăm tối tất yếu phải gánh chịu. “Anh tôi đã chết trong thời gian đó, và cha tôi cũng mất trong quãng bốn năm đó. Và thế là tôi trở thành một người đủ giàu có nhờ tài sản thừa kế, những cũng vẫn là một kẻ sống nghèo nàn ghê gớm, đơn giản là bởi vì một người đàn bà thô bỉ nhất, dơ dáy nhất, suy đồi nhất chưa từng thấy vẫn đang chung sống với tôi, được xã hội và luật pháp gọi là một phần của bản thân tôi. Tôi không thể dứt bỏ được cô ta bằng bất cứ điều khoản pháp luật nào, mặc dù lúc bấy giờ, các bác sĩ đã phát hiện ra rằng vợ tôi bị loạn trí, mọi sự thái quá đã sớm phát triển thành những mầm mống của căn bệnh điên trong người cô ta. Kìa Jane, hình như em không thích nghe tôi kể thì phải? Trông em cứ như đang bị ốm, hay là tôi sẽ kể tiếp vào một ngày khác?” - Không, thưa ông, ông cứ việc kể nốt đi. Em thương ông, rất thương là đằng khác. - Jane ạ, lòng thương ở một số người chỉ là một thứ tôn trọng khó chịu và lăng nhục, đáng được ném trả vào mặt những kẻ đã nói ra. Đó là lòng thương bắt nguồn từ những trái tim vô tình, ích kỷ, là một nỗi đau lai tạp, ích kỷ khi phải nghe những thống khổ của kẻ khác lẫn với sự khinh miệt ngu ngốc đối với những kẻ phải chịu đựng. Song tình thương của em không phải như vậy, Jane ạ. Đấy không phải là cảm xúc đang bộc lộ trên gương mặt em, tràn ngập trong đôi mắt em, khiến cho trái tim em đập mạnh và bàn tay em run rẩy trong tay tôi lúc này. Tình thương của em, người yêu dấu ạ, là người mẹ đau khổ của tình yêu, và nỗi ưu phiền của tình thương ấy chính là sự đau khổ sinh ra tình cảm nồng nhiệt thiêng liêng. Tôi đón nhận tấm lòng của em, Jane ạ. Hãy cứ để đứa con của nó được tự do phát triển, tôi xin mở rộng vòng tay chờ đón.


- Bây giờ thì ông cứ kể tiếp đi, thưa ông. Khi đã biết cô ấy bị điên thì ông làm gì? “Jane ạ, tôi đã tiến gần đến bờ vực của sự tuyệt vọng. Tất cả những gì ngăn cách tôi với cái vực thẳm đó là một chút còn lại của lòng tự trọng. Trước mắt người đời, rõ ràng tôi là kẻ không còn chút thể diện. Nhưng đối với bản thân, tôi vẫn quyết giữ sự trọng sạch, cố gắng không bao giờ để mình bị lây nhiễm những tội lỗi của cô ta, tự tách mình khỏi sự liên hệ với những thói suy đồi về đạo đức của cô ta. Song người đời vẫn gắn danh tính và con người tôi với cô ta. Ngày nào tôi cũng phải trông thấy mặt và nghe thấy tiếng cô ta, rồi chịu đựng hơi thở của cô ta lẫn vào bầu không khí. Và hơn nữa, tôi vẫn nhớ mình đã một thời là chồng cô ta. Đó là chuyện mà mỗi khi nhớ lại – cả hồi ấy cũng như bây giờ – tôi lại thấy rùng mình ghê tởm. Tôi cũng hiểu rằng chừng nào cô ta còn sống, chừng đó tôi sẽ không thể cưới một người phụ nữ nào khác tốt đẹp hơn. Và dù hơn tôi năm tuổi thật (ngay cả về tuổi tác, gia đình cô ta và cha tôi cũng lừa dối tôi), nhưng xem ra cô ta cũng sẽ thọ chẳng kém gì tôi, vì trong khi trí tuệ bệnh hoạn bao nhiêu thì sức vóc cô ta lại tăng lên bấy nhiêu. Vì vậy, mới có hai mươi sáu tuổi đầu mà tôi đã rơi vào vô vọng. “Thế rồi một đêm, tôi đã giật mình tỉnh giấc khi nghe thấy những tiếng la hét của cô ta (từ khi các bác sĩ thông báo cô ta bị điên, đương nhiên cô ta phải bị nhốt lại). Đó là một đêm nóng bức ở West Indies báo trước một trận bão nhiệt đới sắp sửa xảy ra. Không thể tiếp tục ngủ được nữa, tôi bực mình vùng dậy mở cửa sổ. Bầu không khí như bốc hơi lưu huỳnh và không thể tìm đâu ra một chút mát mẻ. Đàn muỗi lập tức bay vào và chẳng mấy chốc căn phòng đã tràn ngập những tiếng kêu vo ve khó chịu. Từ phòng mình, tôi có thể nghe rõ tiếng biển ì ầm gầm thét chấn động như một cơn động đất, mây đen ùn ùn kéo đến đầy trời, mặt trăng – trông đỏ lừ như một quả đạn đại bác vừa lao khỏi nòng – nhấp nhô trên những ngọn sóng, giương con mắt đỏ ngầu nhìn cái thế giới đang run rẩy chờ đợi cơn bão một lần cuối cùng. Bầu không khí và khung cảnh hung bạo ấy dường như đang định đổ ấp cả vào cái thân tôi. Tai tôi bị rót đầy tiếng la hét của người đàn bà điên. Trong cái chuỗi âm thanh man rợ ấy, thỉnh thoảng tôi lại nghe thấy có tên mình được nhắc đến bằng một giọng căm thù ma quỷ, bằng thứ ngôn ngữ thô tục mà ngay cả vốn từ vựng của một con điếm chuyên nghiệp cũng không thể có! Ở cách nhau hai phòng mà tôi vẫn nghe rõ từng từ một. Những bức vách mỏng của ngôi nhà West Indies đã không ngăn được những tiếng gào rú như chó sói


của cô ta. “Cuộc đời này chẳng khác nào địa ngục! – Cuối cùng, tôi tự nói với chính mình. – Bầu không khí và những âm thanh kia cũng chẳng khác những âm thanh vọng tới từ một cái vực thăm thẳm không đáy! Nếu có thể, mình sẽ tự giải thoát khỏi cái vực ấy. Những nỗi chịu đựng cơ cực vì cái trạng thái tinh thần cùng với cái xác thịt nặng nề kia sẽ không còn ám ảnh tinh thần mình nữa. Mình đâu có sợ cái cõi vĩnh hằng dầu sôi lửa bỏng của một kẻ cuồng tín, sẽ chẳng có một trạng thái tương lai nào tồi tệ hơn hiện trạng này. Chúa ơi, hãy cho con được tự giải thoát và trở về với Người!” “Tôi đã lẩm bẩm và quỳ xuống mở hòm lấy hai khẩu súng đã được nạp đạn sẵn. Tôi muốn tự kết liễu cuộc đời mình. Nhưng cũng may ý nghĩ ấy chỉ thoáng hiện lên trong đầu tôi. Tôi đâu phải là thằng mất trí, nên cơn khủng hoảng của nỗi tuyệt vọng kích động ý muốn và kế hoạch tự hủy diệt mình cũng mau chóng trôi qua. “Một luồng gió mát lạnh bất thần từ lục địa già thổi tràn qua mặt biển ùa vào khung cửa sổ mở rộng. Vậy là bão tố đã nổi lên, mưa đổ xuống, sấm chớp ầm ầm, và không khí bắt đầu trở nên trong lành. Thế rồi tôi chợt phác thảo và đi đến một giải pháp cho cuộc đời mình. Trong lúc đi lẩn thẩn dưới những tán lá cam đang nhỏ từng giọt nước mưa trong khu vườn ẩm ướt, giữa những cây lựu và bụi dứa còn ướt đẫm nước, và trước cảnh bình minh của miền nhiệt đới đang bừng sáng một góc trời, tôi đã nhờ đến lý trí của mình để tìm ra một lối thoát. Jane ạ, lúc ấy dường như có một vị thần thông thái đích thực đã hiện lên an ủi tôi và chỉ cho tôi một con đường quang mà tôi cần phải theo. “Cơn gió mát dịu từ phía Châu Âu tràn qua đại dương dường như vẫn đang lao xao giữa những tán lá xanh tươi, và Đại Tây Dương đang cuồn cuộn những con sóng tự do sáng láng. Trái tim tôi từ lâu héo hon khô cằn, nay bỗng căng phồng và tràn đầy một bầu nhiệt huyết. Con người tôi khao khát một nguồn sống mới, tâm hồn tôi muốn được thỏa thuê một nước sống thuần khiết. Tôi thấy thần Hy vọng sống lại và cảm thấy mình có thể làm lại cuộc đời. Đứng dưới vòm hoa cuối vườn, tôi ngắm nhìn biển cả, mặt nước ấy còn xanh hơn cả bầu trời. Lục địa già nằm ở bờ bên kia, những viễn cảnh tươi sáng đã rộng mở: “Hãy trở lại châu Âu mà sống! – Thần Hy vọng bảo tôi. – Nơi đó, người


ta vẫn chưa biết ngươi đã chịu ô danh như thế nào, đã bị ràng buộc vào một gánh nặng nhơ bẩn như thế nào. Ngươi có thể đem theo cả người đàn bà điên ấy về nước Anh giữ ả cẩn thận ở Thornfield và thuê người về mà trông nom. Sau đó, ngươi có thể du ngoạn ở bất cứ nơi nào, tìm bất cứ mối quan hệ mới nào mà ngươi thích. Người đàn bà ấy – kẻ bấy lâu đã hành hạ ngươi như thế, làm ô danh ngươi như thế, làm mất phẩm giá ngươi như thế, hủy hoại tuổi trẻ của ngươi như thế – đâu phải là vợ ngươi, và ngươi cũng đâu phải là chồng của ả. Chỉ cần thấy ả được trông coi phù hợp với các nhu cầu và hiện trạng của ả là biết ngươi đã làm tròn tất cả những gì Chúa và con người đòi hỏi ở ngươi rồi. Hãy để tên tuổi và mối liên hệ của ả được chôn vùi trong quên lãng, chẳng cần bận tâm thổ lộ những điều tai ương ấy với bất cứ ai hết. Hãy cho ả được sống an toàn và tiện nghi, giấu kín sự suy đồi của ả trong bí mật rồi cứ việc rời bỏ ả mà đi. “Tôi đã hành động đúng như cái gợi ý ấy. Hồi tôi cưới, cha và anh tôi đã không hề báo cho người thân biết, vì ngay trong lá thư đầu tiên gửi cha và anh tôi, tôi đã đề nghị họ giữ kín chuyện cưới xin của tôi. Thú thực là ngay từ lúc ấy, tôi đã bắt đầu ý thức được những hậu quả cực kỳ ghê tởm của cuộc hôn nhân, sự quái gở trong tính cách của cái gia đình nhà vợ và đã nhìn thấy một tương lại gớm ghiếc mở ra trước mắt. Càng ngày tôi càng phải ra sức giữ kín mọi chuyện. Chẳng bao lâu, hành vi quái đản của người vợ mà cha tôi đã chọn cho tôi đã khiến chính ông không chịu đựng nổi và phải lấy làm xấu hổ khi để cô ta làm con dâu. Ông ấy không những không muốn báo tin cho người thân biết về cuộc hôn nhân của tôi, mà còn tỏ ra lo lắng và giấu kín chuyện ý như tôi. “Thế rồi tôi đem cô ta về nước Anh. Tôi đã trải qua một cuộc hành trình với con quỷ ấy trên tàu. Chỉ tới khi mang được cô ta về Thornfield và thấy cô ta có chỗ ở yên ổn trên tầng ba rồi, tôi mới có được cảm giác vui vui. Và suốt mười năm nay, cô ta đã biến cái buồng nhỏ bí mật ấy thành cái hang của một con thú hoang dại, cái sào huyệt của một con quỷ. Tôi không dễ tìm được một người hoàn toàn đáng tin cậy để trông nom cô ta, vì chuyện cô ta có thể làm lộ bí mật của tôi trong những lúc lên cơn điên là hoàn toàn có thể xảy ra, đó còn chưa kể những trận chửi rủa tôi không ngớt vào những ngày, hoặc những tuần cô ta tỉnh táo. Cuối cùng thì tôi cũng thuê được Grace Poole từ nhà thương Grimsby. Chị ta và bác sĩ phẫu thuật Carter (chính là người đã băng bó vết thương cho Mason trong cái đêm anh ta bị cắn xé đầy mình ấy) là hai người duy nhất biết chuyện của tôi. Bà Fairfax có thể cũng nghi ngờ đôi chút nhưng không thể biết chính xác sự thể thế nào. Nói chung, chị Grace là


một người làm tốt công việc trông nom ả, mặc dù đã hơn một lần tính cảnh giác của chị ta bị ru ngủ và bị đánh lừa, một phần là do căn bệnh nghề nghiệp cực nhọc của chị ta. Người đàn bà điên kia vừa tinh ranh lại vừa quái ác, chẳng bao giờ thấy ả thất bại trong việc vượt mặt Grace khi chị ta tạm thời sơ suất. Đã một lần ả lấy trộm được con dao để đâm người anh ruột và hai lần ả đánh cắp được chìa khóa phòng để lẻn ra ngoài ban đêm. Lần thứ nhất ả định thiêu sống tôi ngay trên giường, lần thứ hai ả lẻn vào phòng em như một bóng ma. Tôi cảm ơn Chúa vì Người đã che chở cho em, chỉ để ả giận dữ xé tan mảnh khăn ra thôi. Hình như mảnh khăn ấy đã tình cờ gợi nhắc ả lờ mờ nhớ lại ngày làm đám cưới giữa ả và tôi. Cứ nghĩ lại cảnh bị con quái vật ấy nhảy xổ tới túm vào cổ tôi sáng nay, rồi thò cái mặt đen ngòm và tím bầm của nó xuống tổ chim câu của tôi là máu tôi lại đông cứng lại…” - Nhưng, thưa ông, – tôi hỏi khi ông ngừng kể – ông đã làm gì sau khi dọn cho bà ấy một chỗ ở đây? Ông đi những đâu? - Tôi làm gì ư, Jane? Tôi biến thành kẻ lang bạt kỳ hồ. Tôi đi đâu ư? Tôi lang thang hoang dại như một bóng ma. Tôi sang lục địa và đi mò mẫm trên khắp mọi nẻo đường của nó. Mong ước không đổi của tôi là tìm được một người đàn bà thông minh và tốt nết mà tôi có thể yêu, trái ngược với mụ đàn bà điên dại mà tôi bỏ lại ở Thornfield. - Nhưng ông không thể lấy vợ được nữa? - Tôi đã quyết và tin chắc rằng tôi có thể và tôi phải lấy vợ. Nói tự đáy lòng, tôi không có ý định lừa dối ai, như tôi đã lừa dối em. Tôi định sẽ kể hết mọi chuyện của mình, bày tỏ thẳng thắn ý nghĩ mình, và tôi thấy dường như sua khi làm như vậy rồi tôi sẽ có quyền yêu và được yêu. Đó là điều hoàn toàn hợp lý. Chưa bao giờ tôi nghi ngờ chuyện mình có thể tìm được một người đàn bà nào đó có thể hiểu hoàn cảnh của tôi và chấp nhận tôi, bất chấp việc tôi vẫn phải mang cái gánh nặng kia. - Thế nào, thưa ông? - Jane ạ, cứ nghe em tò mò hỏi là tôi lại thấy buồn cười. Em mở to mắt như một con chim non, thỉnh thoảng lại có một cử chỉ bồn chồn không yên, cứ như câu trả lời được đưa ra không đủ nhanh đối với em và em chỉ muốn đọc ngay mọi điều ở trái tim người ta vậy. Nhưng trước khi tôi kể tiếp, em hãy cho tôi biết em nói “Thế nào, thưa ông?” là có ý gì. Em rất hay có những câu nói cộc kiểu như vậy. Chính lối nói ấy đã bao lần kéo tôi vào những cuộc


nói chuyện không dứt. Tôi không hiểu tại sao. - Em định nói… chuyện về sau thế nào? Ông làm những việc gì nữa? Và kết quả ra sao? - Được rồi, thế bây giờ em muốn biết điều gì nào? - Ông có tìm được người nào ông thích không? Ông có hỏi người ấy làm vợ không? Và người ấy đã trả lời ra sao? - Tôi có thể cho em biết chuyện tôi có tìm được người tôi muốn và có hỏi người ấy làm vợ hay không, nhưng những gì cô ta đã nói thì lại được ghi trong cuốn sổ của thần Số mệnh. Trong suốt mười năm trời, tôi lang thang nay đây mai đó, hết sống ở đô thành này lại đến thành phố khác, thỉnh thoảng ở St.Petersburg, thường xuyên hơn ở Paris, tiện thì tới Roma, Napoli và Florence. Tiền túi rủng rỉnh, lại thêm giấy thông hành mang một tên họ cũ, tôi có thể lựa chọn nhóm người giao thiệp cho riêng mình. Không nơi nào đóng cửa đối với tôi. Tôi đi tìm người đàn bà lý tưởng trong số những người đàn bà thượng lưu ở Anh, Pháp, Ý và Đức, nhưng rốt cuộc tôi vẫn chẳng tìm được ai. Thỉnh thoảng, nhưng chỉ thoáng qua thôi, tôi cứ tưởng mình bắt gặp một ánh mắt, nụ cười, giọng nói, hay một dáng hình giống người trong mơ, nhưng rồi lại thất vọng ngay. Em đừng nghĩ tôi muốn tìm một người phụ nữ hoàn hảo về tâm hồn cũng như thể xác. Tôi chỉ muốn một người phù hợp với tôi và trái ngược với người đàn bà điên kia thôi, nhưng tôi đã mong mỏi vô ích. Đã trải nghiệm qua sự nguy hịa, khó chịu và ghê tởm của cảnh vợ chồng không xứng hợp, tôi đã không tìm được người nào có thể hỏi làm vợ trong số những kẻ tôi đã gặp, cho dù tôi được tự do hoàn toàn cũng thế thôi. Sự thất vọng khiến tôi lao vào một cuộc sống buông thả. Nhưng tôi chỉ tìm cách tiêu khiển, chứ không bao giờ lao vào các cuộc chơi bời trác táng, điều từ trước tới [70] nay tôi vẫn ghét cay ghét đắng. Đó là một thuộc tính của nàng Messalina West Indies của tôi, sự ghê tởm thâm căn cố đế của tôi đối với sự trác táng và cô ta đã kiềm chế tôi, ngay cả những lúc vui cũng vậy. Bất cứ cuộc vui ngấp nghé mức thác loạn nào dường như cũng đều muốn dồn tôi đến gần những tật xấu của cô ta, và vì vậy tôi phải xa lánh ngay. “Nhưng tôi không thể sống cô đơn được, nên tôi phải tìm một người tình để chung sống. Người đầu tiên tôi chọn là Céline Varens. Vậy là lại thêm một bước khiến một gã đàn ông như tôi tự khinh mình mỗi khi nhớ lại các sai lầm trong cuộc đời. Em đã biết Céline là người thế nào, quan hệ giữa tôi và ả


đã kết thúc ra sao. Tiếp đó là hai người đàn bà khác, một người Ý tên là Giacinta và một người Đức tên là Clara. Cả hai đều được coi là hồng nhan. Nhưng điều gì đã khiến sắc đẹp của họ trở nên vô nghĩa với tôi chỉ sau có vài tuần? Giacinta là kẻ sống nguyên tắc và thô bạo, khiến tôi không thể tiếp nhận cô ta chỉ sau ba tháng thôi. Còn Clara thì quả là có chân thành và trầm lặng hơn, nhưng rốt cuộc vẫn chỉ là kẻ cục mịch, đần độn và chẳng có ấn tượng gì, tóm lại là cũng không phù hợp với ý tôi chút nào. Thú thật là tôi rất thoải mái vì đã nhẹ nhàng cắt đứt được quan hệ với cô ta sau khi cho cô một khoản tiền để làm ăn. Nhưng kìa, Jane, nhìn vẻ mặt em, tôi thấy hình như em không tán thành tôi lắm thì phải. Em không nghĩ tôi là một kẻ sống vô tình và mất hết nguyên tắc kỷ luật đấy chứ?” - Thưa ông, quả thực là thỉnh thoảng cũng có những lúc em thấy hơi khó chịu đối với ông. Chẳng lẽ ông không thấy sống kiểu nay với cô này, mai với cô khác cũng là không đúng sao? Ông nói cứ như là chuyện đương nhiên ấy. - Tôi thấy có vẻ như thế thật, cho dù tôi không thích. Đó là một lối sống tự hạ thấp mình, và chắc là tôi sẽ chẳng bao giờ muốn trở lại lối sống ấy nữa. Dùng tiền để có một người tình cũng là việc làm khốn nạn như mua một kẻ nô lệ, vì xét về bản chất và địa vị thì cả hai loại người này đều thấp kém hơn mình, mà chung sống gia đình với họ thì rõ là một sự suy đồi rồi còn gì. Giờ cứ nghĩ lại cái thời sống cùng với Céline, Giacinta và Clara là tôi lại thấy ghét. Tôi cảm thấy sự chân thực trong những lời ông nói. Tôi rút ra một điều chắc chắn là nếu có bao giờ tôi quên mình và quên tất cả những bài học được lĩnh hội từ nhỏ để nối gót những người con gái khốn khổ kia vì bất cứ lý do gì, thì rồi cũng sẽ có ngày ông coi tôi như họ, rồi cũng sẽ có ngày ông nhìn tôi bằng cùng một cảm giác hiện đang tồn lại trong hồi ức của ông về những kẻ mạt hạng ấy. Tôi không muốn nói những lời buộc tội ấy với ông làm gì, chỉ cần cảm thấy thế thôi là đủ rồi. Cần phải ghi sâu điều này trong lòng và giữ nó ở đó để có thể nhờ cậy trong cuộc thử thách của cuộc đời. - Jane này, sao không thấy em bảo tôi nói tiếp đi nhỉ? Tôi vẫn chưa nói hết chuyện kia mà. Trông em có vẻ nghiêm trọng quá. Tôi biết, em vẫn không tán thành tôi. Nhưng hãy để cho tôi kể nốt. Tháng Giêng vừa rồi, sau khi giã từ hết các cô tình nhân, do sự cần kíp trong công việc làm ăn, tôi đã trở về Anh quốc trong một tâm trạng trống trải và cay đắng. Đó là kết quả của một cuộc sống vô tích sự, lang thang và cô đơn, trong lòng bị gặm nhấm bởi sự


thất vọng và chán ghét tất cả mọi người, đặc biệt là đàn bà (vì tôi bắt đầu xem khái niệm một người đàn bà có trí tuệ, trung thực, có tình yêu chỉ là một ảo tưởng). Vào một buổi chiều đông mù sương, tôi phóng ngựa về lâu đài Thornfield. Đúng là một nơi đáng ghét! Tôi chẳng chờ đợi sự bình yên và tươi vui ở đấy. Trên một bậc trèo bên lề đường làng Hay, tôi chợt nhận ra một bóng người nhỏ bé ngồi lặng lẽ một mình. Tôi hững hờ đi qua như đi qua cây liễu cụt đứng đối diện với người ấy, trong lòng chẳng linh cảm thấy người ấy rồi có nghĩa lý gì với tôi hay không. Chẳng có gì báo trước rằng con người phân xử cuộc đời tôi – vị thần xét xử cái tốt và cái xấu xa của tôi – đang ngồi chờ tôi dưới cái hình thức bình thường ấy. Ngay cả khi người ấy chạy lại ân cần giúp tôi lúc con ngựa Mesrour gặp nạn, tôi cũng vẫn chưa biết. Một cô gái mảnh mai có khuôn mặt trẻ thơ! Trông cô ta chẳng khác nào một chú chim sẻ nhỏ đến nhảy nhót bên chân tôi và ngỏ ý muốn được mang tôi trên đôi cánh mỏng manh của nó. Tôi nổi cáu nhưng nó vẫn không chịu đi, mà cứ đứng cạnh tôi với dáng vẻ gan lỳ lạ lùng. Vậy là tôi đành chịu để bàn tay ấy giúp đỡ, và tôi đã được giúp đỡ. “Đặt bàn tay lên đôi vai mảnh dẻ ấy, tôi chợt cảm thấy một cái gì mới lạ – một thứ nhựa sống và cảm giác tươi mát – lặng lẽ thấm vào cơ thể tôi. Tôi thấy vui khi được biết chắc rằng nàng tiên này sẽ còn gặp tôi, vì cô ta đang ở nhà tôi. Nếu phải thấy cô ta biến mất sau lớp bờ rào tối hôm ấy, thì chắc là tôi phải nuối tiếc lắm. Jane ạ, tôi đã nghe thấy em trở về nhà đêm hôm ấy, cho dù em không biết rằng tôi vẫn nghĩ đến em và trông ngóng em. Đến hôm sau, tôi lại lén ngắm nhìn em cả nửa tiếng đồng hồ, khi em đang chơi với Adèle ngoài hành lang. Tôi còn nhớ đó là một ngày tuyết rơi, em không ra khỏi cửa được. Tôi ngồi trong phòng, cửa khép hờ, nên tôi có thể vừa nghe vừa nhìn được. Em nói chuyện và chơi đùa với con bé một hồi lâu nhưng tôi cứ có cảm giác em đang nghĩ tận đẩu tận đâu. Cuối cùng, khi con bé đi rồi, hình như em lại chìm vào một giấc mộng. Em thẫn thờ đi dọc hành lang, thỉnh thoảng lại đăm đăm nhìn cảnh tuyết rơi lả tả ngoài cửa sổ, thẫn thờ nghe tiếng gió thổn thức, rồi lại lặng lẽ bước đi và trong mơ mộng. Tôi nghĩ những giấc mơ ban ngày ấy của em chẳng có gì u tối, vì chốc chốc trong mắt em lại ánh lên một điều gì như niềm vui, trên khuôn mặt em lại thoáng hiện một nét gì như sự phấn khích. Điều đó cho thấy trong dòng suy tưởng của em không có những điều chua chát, đắng cay và hoang tưởng. Đôi mắt em cho thấy những mơ ước êm đềm của tuổi xuân. Hy vọng về cõi thiên đường. Giọng bà Fairfax nói với một người đầy tớ trong đại sảnh đã làm em bừng


tỉnh và mỉm cười với chính mình, trông ngộ lắm, Jane ạ! Nụ cười ấy quả hàm chứa rất nhiều cảm xúc vẻ như muốn giễu cợt sự lơ đãng của chính em. Hình như nó muốn nói: “Những ảo ảnh êm dịu của mình đều rất đẹp, nhưng đừng vì thế mà quên chúng chỉ là những điều không có thực. Mình có cả một hừng trời hồng rực rỡ và một vườn địa đàng xanh tươi đầy hoa nở trong tâm tưởng, nhưng mình vẫn hoàn toàn ý thức được rằng mình đang dấn bước trên một con đường gập ghềnh của cuộc đời thực và sẽ còn phải đương đầu với vô vàn bão tô đang rình rập xung quanh”. Em chạy xuống nhà bảo bà Fairfax làm một việc gì đó. Thế là tôi đâm phật lòng với em vì em đã thoát ra ngoài tầm mắt tôi. Vậy là tôi lại phải ngóng chờ buổi chiều tối, lúc tôi có thể cho gọi em đến. Tôi ngờ em là một người có tính cách khác thường và hoàn toàn mới lạ đối với tôi, nên rất muốn tìm hiểu kỹ hơn về em. Em bước vào phòng với một dáng vẻ rụt rè e lệ và cách ăn mặc trông hay lắm – y như bây giờ vậy. Tôi đã gợi chuyện để em nói, và chẳng cần mất nhiều thời gian để tôi nhận ra những mâu thuẫn kỳ lạ trong con người em. Cách ăn mặc và cử chỉ của em chịu sự gò bó của khuôn phép, nên rất ngượng nghịu trong lúc xã giao, khiến em không khỏi lo mình phạm phải những sai sót và nhầm lẫn. Nhưng khi nghe tôi hỏi, em đã mạnh dạn ngước đôi mắt táo bạo và sáng ngời nhìn tôi. Mỗi cái nhìn của em đều hàm chứa một sức mạnh và sự minh anh. Dù bị tôi hỏi dồn, em vẫn sẵn sàng đưa ra những câu trả lời trọn vẹn. Hình như chẳng mất nhiều thời gian để em trở thành người quen của tôi. Jane ạ, tôi tin rằng em cũng cảm thấy có tồn tại một sự thông cảm nào đó giữa em và ông chủ khó tính của em, vì ngay sau đó em đã có những cử chỉ rất tự nhiên khiến tôi không khỏi ngạc nhiên. Tôi là người rất khó tính,vậy mà em vẫn không hề tỏ ra ngạc nhiên, sợ sệt, bực mình hay phật lòng đối với cái bộ dạng quàu quạu của tôi chút nào. Em vẫn bình thản nhìn tôi và thỉnh thoảng lại mỉm cười với tôi, vẻ giản dị nhưng cũng thật đằm thắm mà tôi không thể tả được. Tôi lập tức bị lôi cuốn vì cái hình ảnh đó của em. Tôi thích những gì mình được nhìn thấy và muốn được ngắm nhìn nhiều hơn nữa. Vậy mà suột một thời gian dài, tôi vẫn đối xử xa cách với em và ít khi tìm gặp em. Tôi là người theo chủ nghĩa hưởng thụ về tinh thần, và muốn kéo dài cái thời gian làm quen lãng mạn đó. Với lại thực lòng mà nói, Thornfield tôi có lúc bị ám ảnh bởi một nỗi lo rằng nếu đụng đến bông hoa quá nhiều thì thế nào nó cũng sẽ chóng tàn phai và rồi cái duyên dáng dịu dàng của nó sẽ sớm bay biến mất. Khi đó tôi còn chưa biết rằng đó không phải là một bông hoa kim cương rực rỡ không gì có thể hủy hoại được. Vả lại, tôi cũng muốn thử xem em có ý tìm tôi khi tôi


lánh mặt em không. Và em đã không làm như vậy mà vẫn ngồi im trong phòng học, giống y như cái bàn của em vậy. Nếu tôi có tình cờ gặp em thì em cũng nhanh chóng lảng đi, sau khi đáp lời tôi như một cử chỉ tôn trọng xã giao. Khi ấy, Jane ạ, ánh mắt em bao giờ cũng lộ vẻ trầm tư, nhưng tôi biết đó không phải là sự thất vọng vì em có gặp chuyện gì đâu. Tôi tự hỏi không hiểu em nghĩ gì về tôi – hoặc có khi nào em nghĩ đến tôi không? Để tìm câu trả lời, tôi lại bắt đầu chú ý đến em. Có cái gì đó như niềm vui trong ánh mắt em, như sự ân cần trong cử chỉ của em trong những lúc em trò chuyện với tôi. Tôi thấy em là người có một trái tim cởi mở. Chính cái phòng học câm lặng, chính cuộc đời tẻ nhạt của em đã biến em thành người ủ rũ. Tôi tự cho mình cái thú cư xử tử tế đối với em, và sự tử tế ấy đã nhanh chóng làm em cảm động khiến gương mặt em trở nên hòa nhã hơn, giọng nói em cũng dịu dàng. Tôi thích được nghe em nhắc đến tên tôi bằng một giọng vui vẻ và tri ân. Hồi ấy, tôi thường rất vui khi được gặp em bất chợt, bởi những khi ấy em luôn ngập ngừng e lệ, trông hay lắm, rồi em lén nhìn tôi bằng ánh mắt hơi bối rối. Tôi hiểu em đang nghĩ không hiểu tính khí thất thường của tôi sẽ đi đến đâu, liệu tôi sẽ đóng vai một ông chủ để rồi tỏ ra nghiêm khắc, hay vai một người bạn để cư xử ôn hòa đây. Thú thực là khi ấy, tôi đã quá yêu em để có thể cứ đóng vai một ông chủ cứng nhắc. Và khi tôi ân cần chìa tay ra thì gương mặt trẻ trung và khao khát cuộc sống của em bỗng rạng ngời niềm vui khiến không ít lần tôi phải ra sức kìm nén để không ôm ghì em vào lòng. - Hãy đừng nhắc lại những ngày ấy làm gì nữa, thưa ông. – Tôi ngắt lời ông và lén lau đi những giọt nước mắt vừa trào ra. Lời ông nói đang giày vò lòng tôi, vì tôi biết mình phải làm gì và phải làm ngay. Tất cả những hồi ức và những lời tâm sự nỗi lòng của ông chỉ làm cho quyết định của tôi thêm khó khăn mà thôi. - Không, Jane ạ, – ông đáp lại – đâu cần phải ôm mãi cái quá khứ chứ, khi mà hiện tại chắc chắn hơn nhiều… và tương lai lại càng xán lạn hơn. Tôi chợt rùng mình khi nghe lời khẳng định có vẻ rất vững tin của ông. - Bây giờ em đã hiểu con người tôi rồi chứ? – Ông nói tiếp. – Sau một thời trai trẻ và trưởng thành, một nửa trôi qua trong cảnh khốn khổ khôn tả và một nửa trong cảnh cô đơn buồn tẻ, lần đầu tiên tôi tìm được người mà tôi có thể thực sự đem lòng yêu mến. Tôi đã tìm thấy em. Tôi tin em là người tốt, có tài và chân tình. Trái tim tôi ấp ủ một cảm xúc nồng nhiệt và trân trọng. Nó hướng về em, lôi kéo em tới trung tâm cuộc sống của tôi, đem cuộc đời tôi


bao quanh em và nhóm lên một ngọn lửa nồng ấm thuần khiết, hòa trộn hai chúng ta làm một. “Vì cảm nhận và hiểu rõ điều đó nên tôi đã quyết định lấy em. Có bảo tôi là người đã có vợ cũng chẳng nghĩa lý gì, vì bây giờ em đã biết tôi chỉ có một con quỷ ghê tởm. Tôi đã sai lầm khi lừa dối em, nhưng chẳng qua cũng là vì tôi sợ cái tính bướng bỉnh của em, sợ em sớm có những thành kiến hằn sâu vào trong tâm khảm của em, vì vậy tôi muốn chắc chắn có em rồi mới dám nói rõ mọi uẩn khúc. Tôi là thằng hèn, bởi lẽ ra tôi phải kêu gọi lòng bao dung, vị tha của em ngay từ đầu mới phải. Cũng như bây giờ vậy, tôi phải giãi bày để em thông cảm với những ưu phiền của tôi, để em thấy sự khao khát một cuộc sống cao quý và đáng giá hơn của tôi, để em hiểu đó không phải sự quyết tâm (vì từ này chưa đủ mạnh để diễn tả nỗi lòng tôi) mà là khuynh hướng bất khả kháng của tôi về một tình yêu chân thành và nồng nhiệt, trong đó tôi cũng là người được yêu một cách chân thành và nồng nhiệt. Và chỉ đến lúc ấy, tôi mới dám đề nghị em đón nhận tình cảm chân thành của tôi và trao cho tôi tình cảm chân thành của em. Jane ạ, bây giờ em hãy trao cho tôi đi.” Rồi ông im lặng chờ đợi. - Jane, sao em không nói gì thế? Tôi đang trải qua một thử thách gian nan. Một bàn tay sắt đang xiết chặt lấy những suy nghĩ sống còn của tôi. Quả là một thời khắc đáng sợ, giằng xé, đen tối và cháy bỏng! Trên đời chắc chẳng có ai mong được yêu hơn tôi đã được yêu, và cũng chẳng có ai tôn thờ tuyệt đối người yêu mình như tôi. Vậy mà tôi phải từ bỏ tình yêu đối với thần tượng của mình. Bổn phận khó khăn của tôi chỉ nằm trong duy nhất một từ buồn thê thảm: “Ra đi!” - Jane, em hiểu những gì tôi cần ở em chứ? Em chỉ cần hứa: “Rochester, em sẽ thuộc về ông.” - Em sẽ không thuộc về ông, Rochester ạ. Lại một hồi lâu im lặng. - Jane! – Ông lại bắt đầu bằng một giọng thật dịu khiến tôi đau đớn tan nát cả cõi lòng, người lạnh như đá trong một tâm trạng lo sợ. Tôi có cảm giác cái giọng điềm tĩnh ấy là tiếng thở hổn hển của một con sư tử đang vươn


mình đứng dậy. – Kìa Jane, vậy là em định đi một mình trên cuộc đời này và để mặc tôi trên một con đường khác ư? - Em sẽ làm như thế. - Jane, (ông cúi xuống ôm lấy tôi) bây giờ em còn định như thế nữa không? - Em vẫn định như thế. - Và bây giờ? – Ông hôn nhẹ lên trán và má tôi. - Vẫn thế… – Tôi vội gỡ mình ra khỏi vòng tay ông. - Ồ Jane, thế thì cay đắng quá! Đó mới chính là một việc không nên, còn yêu tôi thì đâu phải là xấu. - Vâng, sẽ là xấu nếu nghe theo lời ông. Ông bỗng sầm mặt đứng dậy, vẻ dữ tợn lộ rõ trên nét mặt nhăn nhúm và hàng lông mày nhướn cao, nhưng ông vẫn tự kiềm chế được. Tôi đặt tay lên lưng một chiếc ghế làm chỗ tựa, người run rẩy vì sợ, nhưng tôi đã quyết định rồi. - Khoan đã, Jane. Khi nào em bỏ đi, em hãy làm ơn ngoái lại nhìn cuộc đời khủng khiếp của tôi đã. Tất cả niềm vui và hạnh phúc của tôi sẽ bị cuốn đi cùng em. Tôi sẽ còn lại gì đây? Không phải một người vợ mà chỉ là một con quỷ ám tôi ở trên gác. Em bỏ đi có khác gì để lại cho tôi một cái thây mà ngoài nghĩa địa chứ. Rồi tôi sẽ làm gì đây, Jane? Tôi biết đi đâu để tìm một người bạn đời và một niềm hy vọng? - Ông chỉ cần làm như em, tin ở Thượng đế và ở chính mình. Hãy biết tin ở thiên đường. Hãy hy vọng lại được gặp nhau ở nơi ấy. - Nghĩa là em nhất định không chịu nhượng bộ? - Không. - Vậy là em buộc tôi phải sống dằn vặt để rồi phải chết thảm ư? – Giọng ông to hơn. - Em khuyên ông sống trong sạch và mong ông được chết thanh thản.


- Thế là em cướp mất của tôi tình yêu và sự trong sạch? Em lại đẩy tôi về với kiếp sống lấy nhục dục làm thú say mê, lấy sự đồi bại làm lẽ sống? - Rochester, em không còn gán cho ông cái số phận ấy nữa và chính em cũng đã quên điều đó rồi. Chúng ta sinh ra là để nỗ lực và chịu đựng, cả ông và em cũng nên làm như vậy. Ông sẽ quên em trước khi em quên được ông. - Em nói vậy khác gì bảo tôi là một kẻ lừa dối, em bôi nhọ danh dự tôi. Tôi đã nói là tôi không thể thay đổi, em nói thế thì khác gì bảo vào mặt tôi rằng tôi cũng sẽ sớm thay đổi thôi. Phán xét của em thật là méo mó, còn suy nghĩ thì thật ngoan cố! Em đã xử sự thế đấy! Chẳng lẽ đẩy một đồng loại vào tuyệt vọng lại tốt hơn vi phạm một pháp luật nào đó ư? Em làm gì có họ hàng thân thích mà sợ bị họ phản đối sống với tôi? Kể ra cũng đúng như vậy. Trong khi ông nói, chính lương tâm và lý trí của tôi đã biến thành những kẻ phản lại tôi, buộc tôi vào cái tội chống lại ông. Chúng đồng thanh hét lên một cách điên dại chẳng kém gì cảm xúc của tôi: “Nào, hãy nhượng bộ đi, hãy nghĩ đến nỗi khổ tâm và sự nguy hiểm của ông ấy. Hãy nhìn vào tình cảnh của ông ấy khi bị bỏ lại một mình, hãy nhớ lại bản tính nông nổi và cân nhắc sự liều lĩnh của ông ấy sau những lần tuyệt vọng mà an ủi, cứu vớt và yêu ông ấy. Hãy nói rằng ngươi yêu và sẽ thuộc về ông ấy. Ai là người quan tâm đến ngươi trên cuộc đời này nào? Và ai sẽ là người bị tổn thương vì những gì ngươi làm nào?” Nhưng rồi vẫn là câu trả lời bất khuất: “Tôi lo cho bản thân tôi. Tôi càng đơn độc, không bạn bè, không nơi nương tựa thì tôi càng tự trọng. Tôi vẫn tuân theo luật mà Chúa đã ban và được loài người công nhận. Tôi sẽ giữ vững các nguyên tắc mà mình đã lĩnh hội từ khi còn minh mẫn, chứ không phải lúc mất trí như bây giờ. Luật pháp và những nguyên tắc đạo đức không dành cho những lúc cám dỗ lôi kéo, mà là cho những lúc như thế này, khi tâm hồn và thể xác vùng lên chống lại sự khắt khe của chúng, vì luật pháp và nguyên tắc bao giờ cũng khắt khe. Nếu chỉ vì cái lợi cho riêng cá nhân mình mà tôi phá bỏ chúng thì hóa ra chúng chẳng có giá trị gì ư? Tôi luôn tin là chúng có giá trị. Và nếu bây giờ tôi không tin thì chẳng qua là vì tôi bị mất trí, hoàn toàn mất trí. Những quan niệm và quyết định sẵn được lĩnh hội trước đây là tất cả những gì tôi phải giữ, phải buộc chân tôi vào đó. Tôi đã làm. Nhìn nét mặt của tôi, ông Rochester cũng biết là tôi đã làm thế. Cơn giận dữ của ông lên đến cực điểm. Hẳn là chốc nữa thôi, ông sẽ


không thể kiềm chế nổi, mặc cho kết quả ra sao thì ra. Ông bước đến nắm lấy cánh tay tôi rồi ôm ghì tôi vào người ông. Dường như ông muốn nuốt chửng lấy tôi vào ánh mắt tóe lửa của ông. Có thể lúc đó, tôi thấy mình bất lực về mặt thể xác, giống như một cọng rơm bị ném vào một lò lửa trước gió, nhưng về mặt tinh thần, tôi vẫn tự chủ được và tin chắc rằng cuối cùng thì mình cũng sẽ bình an. May mắn thay, tinh thần lại có một người thông dịch – thường là vô thức, nhưng là một thông dịch đích thực – ấy là con mắt. Tôi ngước mắt nhìn ông, và trong khi nhìn khuôn mặt dữ tợn của ông, tôi đã buông một tiếng thở dài ngoài mong muốn. Cái xiết chặt của ông khiến tôi đau tái mặt, và sức tôi cũng gần như cạn kiệt do sự chịu đựng quá tải. - Chưa bao giờ, – ông nói, hai hàm răng nghiến sít lại – chưa bao giờ có ai mảnh dẻ mà lại ngang bướng như thế này. Cánh tay cô ta chỉ là một cây sậy trong tay tôi (ông nói và lắc tay tôi lia lịa). Tôi chỉ cần nhón hai ngón tay cũng đủ bẻ quẹo được cô ta, nhưng có bẻ quẹo đi thì cũng để làm gì chứ? Hãy nhìn vào ánh mắt cô ta kìa, hãy nhìn cái vẻ kiên quyết, hoang dại, tự do toát ra từ ánh mắt ấy kìa. Nó đang thách thức tôi đấy, không chỉ gan lỳ, mà còn là sự đắc thắng nữa chứ. Bất cứ điều gì tôi làm với cái cũi của cô ta thì ta cũng chẳng thể có được cô ta, hỡi tạo hóa xinh đẹp và hoang dã kia! Nếu có phá, có đập vỡ toang cái nhà tù ọp ẹp đi thì cơn thịnh nộ của tôi cũng sẽ chỉ làm cho tù nhân sổng mất mà thôi. Tôi có chiếm được ngôi nhà, nhưng người bạn tù sẽ trốn lên thiên đường trước khi ta có thể coi cái chỗ ở bằng đất sét là thuộc quyền sở hữu của ta. Và ngươi, linh hồn kia ạ, người và ý chí, nghị lực, đức hạnh và sự trong trắng của ngươi chính là tất cả những gì ta muốn có, chứ không chỉ là cái hình hài mảnh mai của ngươi. Bản thân ngươi có thể tự mình nhẹ cánh bay tới đậu trên ngực ta nếu ngươi muốn nhưng tóm lấy ngươi mà bất chấp ý nguyện của ngươi thì ngươi sẽ bay mất như hơi sương trước khi ta cảm nhận được hương thơm của ngươi. Ôi, hãy ở lại đây, Jane, ở lại đây đi em! Ông vừa nói, vừa buông tôi khỏi vòng tay, và chỉ còn biết đứng nhìn tôi! Cái nhìn của ông còn khó chịu hơn cái ôm ghì cuồng loạn hồi nãy, nhưng chỉ có ngu ngốc mới chịu quy phục lúc này. Tôi dám vượt qua cơn giận dữ của ông thì bây giờ tôi phải vượt qua nỗi đau của ông. Tôi lui ra cửa. - Em định đi đấy à? - Vâng, em đi đây, thưa ông.


- Em định bỏ tôi sao? - Vâng. - Em sẽ không ở lại ư? Em không muốn là người an ủi tôi, cứu vớt tôi ư? Tình yêu sâu nặng của tôi, nỗi đau điên dại của tôi, lời cầu nguyện cuồng loạn của tôi, tất cả chẳng lẽ đều vô nghĩa đối với em sao? Giọng ông sao mà thống thiết khó tả đến thế! Khó nhọc lắm tôi mới cương quyết nhắc lại được câu: “Em đi đây.” - Jane! - Ông Rochester! - Được rồi, em cứ việc đi, tôi đành lòng vậy, nhưng em hãy nhớ rằng em đã bỏ tôi ở lại với bao thống khổ. Bây giờ em hãy về phòng riêng và nghĩ lại những điều tôi đã nói. Jane ạ, hãy nhìn tới những đau khổ của tôi, hãy nghĩ đến tôi một chút. Đoạn ông quay đi, gieo mình úp sấp mặt xuống ghế sopha. “Trời ơi! Jane, hy vọng của tôi, tình yêu của tôi, cuộc đời của tôi!” – Những tiếng kêu vô cùng đau đớn bật khỏi môi ông cùng những tiếng nấc nghẹn ngào và sâu thẳm. Thưa bạn đọc, tôi đã ra đến cửa nhưng lại đành lòng quay lại – quả quyết như lúc tôi cáo lui. Tôi quỳ xuống cạnh ghế xoay mặt ông về phía mình, rồi hôn lên má ông, nhẹ vuốt tóc ông. - Chúa sẽ phù hộ cho ông, ông chủ thân yêu của tôi! – Tôi nói. – Chúa sẽ giữ cho ông tránh mọi xấu xa tội lỗi, sẽ an ủi ông, ban phước lành cho ông vì những gì tốt đẹp ông đã dành cho em. - Phước lành tốt đẹp nhất đối với tôi lúc này chỉ có thể là tình yêu của Jane. – Ông đáp lại. Không có tình yêu ấy, trái tim tôi sẽ tan nát mất. Nhưng rồi thế nào thì Jane cũng sẽ trao cho tôi tình yêu của cô ấy, ừ, cô ấy vốn rộng lượng vị tha lắm mà. Khuôn mặt đỏ phừng phừng, cả ánh mắt cũng như có lửa, ông vùng dậy dang rộng hai cánh tay nhìn tôi, nhưng tôi đã từ chối vòng tay ấy và lập tức rời khỏi phòng.


“Chào tạm biệt!” là tiếng kêu của trái tim tôi lúc tôi rời ông. Sự tuyệt vọng nói thêm: “Vĩnh viễn biệt ly!” Đêm ấy tôi không nghĩ đến ngủ, nhưng vừa đặt lưng xuống giường tôi đã ngủ thiếp đi. Tôi bị đưa vào giấc mơ những ngày còn nhỏ. Tôi mơ thấy mình nằm trong phòng đỏ ở Gateshead, đêm đen như mực và đầu óc tôi bị ám ảnh bởi những nỗi sợ hãi kỳ lạ. Cái vệt sáng chập chờn ngày xưa từng có lần làm tôi sợ muốn ngất, giờ bỗng lại xuất hiện trong ảo ảnh, chờn vờn trên mặt tường và run rẩy đậu giữa trần nhà u tối. Tôi ngẩng mặt nhìn, mái nhà biến thành những đám mây mờ mịt cao ngất, luồng ánh sáng trông giống như ánh trăng chiếu qua một lớp mây mù sắp tan. Tôi chờ đợi mặt trăng thế nào cũng có ghi những lời phán quyết của số mệnh. Và rồi vầng trăng cũng hiện ra khỏi đám mây theo một cách chưa bao giờ có. Thoạt đầu, một bàn tay vục vào đám mây mờ và gạt sang một bên, rồi không phải là mặt trăng, mà là một hình người trắng toát hiện ra chói lọi trên nền trời xanh, nghiêng vầng trăng rạng ngời hướng xuống mặt đất. Bóng người ấy nhìn tôi chằm chằm, rồi nói với linh hồn tôi, giọng vừa xa xôi mơ hồ, lại vừa gần gũi như thể đang thì thầm ngay trong tim tôi vậy. - Con gái của ta ơi, hãy tránh xa sự cám dỗ! - Mẹ ơi, con sẽ làm theo lời mẹ. Tôi đã trả lời như vậy sau lúc bừng tỉnh giấc mộng miên man ấy. Trời vẫn còn tối, nhưng đêm tháng Bảy ngắn lắm, chỉ quá nửa đêm một lúc đã thấy bình minh rồi. “Bây giờ có bắt đầu công việc mình phải làm thì cũng chẳng phải là quá sớm.” Tôi nghĩ và vùng dậy, người vẫn mặc sẵn quần áo vì lúc nãy tôi chỉ mới cởi giày thôi. Trong ngăn kéo của tôi còn vài bộ quần áo, một sợi dây chuyền và một chiếc nhẫn. Trong lúc lục tìm các thứ, tôi thấy lại chuỗi hạt trai mà mấy hôm trước, ông Rochester đã bắt tôi nhận. Tôi phải để lại, vì nó đâu phải là của tôi, mà là của một cô dâu ảo tưởng giờ đã biến mất trong không khí. Tôi gói các đồ vật của mình vào một gói, rồi nhét hầu bao – đựng vỏn vẹn hai mươi đồng silinh (là tất cả số tiền tôi có) – vào túi. Sau khi buộc lại cái mũ rơm, buộc khăn choàng cẩn thận, cầm lấy gói đồ và đôi dép chưa muốn xỏ, tôi lẻn ra khỏi phòng. “Vĩnh biệt bà Fairfax tốt bụng!” – Tôi thì thầm lúc rón rén bước qua cửa phòng bà. “Vĩnh biệt. Adèle thân yêu của tôi!” – Tôi liếc nhìn về phía phòng trẻ. Tôi nghĩ mình không thể vào trong đó để ôm hôn nó. Tôi biết nó là đứa


thính tai, biết đâu nó lại chẳng đang dỏng tai lên nghe ngóng. Lẽ ra tôi đã định đi qua phòng ông Rochester mà không dừng lại một chút nào, nhưng tới ngưỡng cửa buồng ấy, tim tôi bỗng như ngừng đập chốc lát, khiến đôi bàn chân tôi cũng buộc phải dừng lại. Ông ấy đâu có ngủ, mà đang bước đi bước lại từ đầu phòng đến cuối phòng, thỉnh thoảng tôi lại nghe vẳng ra một tiếng thở dài. Nếu tôi lựa chọn ở lại thì hẳn là sẽ có một thiên đường, một thiên đường tạm thời chờ đợi tôi trong căn phòng ấy. Tôi chỉ cần bước vào và nói: “Ông Rochester, em sẽ yêu ông và sống với ông đến trọn đời”, và thế là một mùa xuân êm dịu sẽ lan tỏa vào môi tôi. Tôi đã nghĩ đến điều đó. Người chủ tử tế ấy không ngủ được và đang nóng lòng chờ một ngày mới. Buổi sáng, ông sẽ cho người gọi tôi, nhưng khi ấy tôi đã đi rồi. Ông sẽ cho người tìm tôi, nhưng vô ích thôi. Ông sẽ cảm thấy mình bị bỏ rơi, tình yêu của ông bị khước từ, và ông sẽ đau khổ, có lẽ cả nỗi tuyệt vọng ngày càng lớn nữa. Tôi cũng đã nghĩ đến điều đó. Tôi định đưa tay vào tay nắm cửa, nhưng rồi lại rụt lại ngay và rón rén bước đi tiếp. Tôi đã buồn bã lần theo nếp cầu thang đi xuống dưới nhà. Tôi biết mình phải làm gì và đã làm một cách thật máy móc. Tôi tìm chiếc chìa khóa cửa ngách cất trong bếp, một lọ dầu và một chiếc lông chim, rồi phết dầu vào chìa và ổ khóa. Tôi uống một ngụm nước và lấy một ít bánh, vì có thể tôi sẽ phải cuốc bộ xa và không được phép ngã quỵ cho dù sức tôi đã suy sụp nhiều sau những sự việc xảy ra. Tôi nhẹ nhàng mở cửa bước ra ngoài, rồi lại nhẹ nhàng đóng lại. Bình minh le lói ngoài sân. Các cổng lớn đều đóng và khép chặt nhưng có một cánh cửa nhỏ chỉ cài then. Tôi rút then mở cửa bước qua, rồi khẽ đóng lại. Tôi đã ra khỏi lâu đài Thornfield. Cách đấy một dặm, bên kia cánh đồng, có một con đường ngược chiều với đường về Millcote. Đó là con đường tôi chưa hề đặt chân, nhưng cũng hay để ý đến và thắc mắc hoài không hiểu nó dẫn về đâu. Tôi sải bước theo lối ấy, nhưng không dám suy nghĩ và cũng chẳng dám ngoái nhìn lại hay ngẩng cao đầu nhìn về phía trước. Tôi không được phép có một ý nghĩ nào về quá khứ cũng như tương lai. Quá khứ là một trang sách dịu êm, nhưng cũng thật buồn thê thảm, đến nỗi chỉ một dòng thôi cũng đủ làm tôi tiêu tan mọi can đảm và nghị lực. Còn tương lai là một khoảng trống kinh khủng, giống như thế giới sau cơn đại hồng thủy.


Tôi đi men theo những cánh đồng, bờ rào và những lối nhỏ cho tới lúc mặt trời mọc. Đôi giày tôi xỏ từ lúc rời khỏi nhà chẳng mấy chốc đã ướt đẫm sương đêm. Hôm đó có lẽ là một buổi sáng mùa hè đáng yêu, nhưng tôi không nhìn ông mặt trời đang mọc, bầu trời tươi sáng hay cảnh vật thiên nhiên đang thức tỉnh. Kẻ bị đưa ra đoạn đầu đài, dẫu có đi qua một khung cảnh tuyệt diệu thì cũng chẳng còn bụng dạ nào để nghĩ tới những nhành hoa e ấp tươi cười bên đường, mà chỉ nghĩ đến cảnh đao búa kề cổ, cảnh đầu rơi máu chảy và một nấm mồ đang há miệng đón chờ y. Và tôi thì có khác gì, chỉ biết nghĩ đến cảnh bỏ trốn buồn tủi để rồi bơ vơ trên những nẻo đường xa lạ, đến những gì mình bỏ lại với bao đắng cay! Tôi không thể làm gì hơn. Giờ tôi lại nghĩ đến ông – lúc này vẫn đang ở trong phòng ngóng chờ mặt trời mọc, hy vọng tôi sẽ đến để nói rằng tôi sẽ bằng lòng ở lại với ông và sẽ thuộc về ông. Tôi mong ước mình thuộc về ông, mong ước được quay trở lại, tất cả đâu đã đến nỗi quá muộn. Tôi vẫn còn có thể chia sẻ với ông nỗi lòng cay đắng. Tôi tin chắc là cuộc bỏ trốn của mình vẫn chưa bị ai phát hiện. Tôi có thể trở lại làm người an ủi ông, làm niềm kiêu hãnh của ông, người cứu thoát cảnh khốn khổ và có thể là sự suy sụp nữa. Than ôi, nỗi lo sợ ông tự bỏ rơi mình còn kinh khủng hơn cảnh tôi bỏ đi nhiều, khiến cõi lòng tôi tan nát tơi bời! Nó là mũi tên có ngạnh cắm vào ngực tôi, xé rách da thịt tôi khi tôi cố dứt nó ra. Nó tra tấn tôi khi hồi ức cố cắm nó sâu hơn vào tôi. Lũ chim bắt đầu cất tiếng hót lảnh lót trong những lùm cây đọc hơi sương. Lũ chim còn biết sống chân thành với bạn và được coi là biểu tượng của tình yêu. Còn tôi là cái gì chứ? Tự nhiên tôi lại thấy căm ghét chính mình. Tôi không có sự đồng tình của chính mình, thậm chí không có cả lòng tự trọng nữa để khuây khỏa, nguôi ngoai nỗi lòng. Tôi đã làm tổn thương, đã bỏ rơi ông chủ của mình. Tôi tự thấy mình đáng ghét trong con mắt của chính mình. Nhưng dẫu vậy, tôi cũng không thể trở lại, không thể quay lại dù chỉ là một bước. Hẳn là Chúa đã dẫn đường tôi. Nỗi đau lòng điên dại đang vò xé, giẫm đạp lên ý chí và lương tâm tôi. Tôi khóc nấc trên con đường vắng vẻ, chân vẫn bước nhanh như một kẻ u mê. Cảm giác kiệt quệ bắt đầu chế ngự tôi, lan tỏa dần ra khắp người rồi xuống đến chân tôi, khiến tôi lả đi và tôi ngã quỵ xuống. Tôi nằm sấp trên mặt đất vài phút, mặt úp vào lớp cỏ ướt nhèm. Tôi sợ mơ hồ – hay cũng có thể là hy vọng – rằng mình sẽ chết ở đây, nhưng chỉ được một lát tôi lại lồm cồm bò dậy. Tôi bò về phía trước, rồi tay chống gối đứng dậy, lòng quyết đi bằng được đến con đường cái. Lê tới nơi, tôi buộc phải ngồi nghỉ dưới chân một hàng rào. Ngồi được một lúc thì nghe có tiếng bánh xe lạo xạo, rồi một cỗ xe tiến lại gần. Tôi đứng


dậy vẫy tay cho xe dừng lại, rồi hỏi xe đi về đâu. Tay xà ích nói đến một cái tên xa lạ mà tôi chắc là ông Rochester sẽ không quen ai ở đó. Tôi hỏi ông chủ chiếc xe ngựa lấy tôi bao nhiêu tiền từ đây về đến đó, ông ta đòi ba mươi silinh. Tôi nói mình chỉ có hai mươi silinh, vậy mà ông ta cũng đồng ý và bảo tôi lên xe ngay. Trong xe không có vị khách nào. Tôi chui vào và cửa đóng lại. Chiếc xe lại chuyển bánh. Bạn đọc thân mến, cầu mong bạn đừng bao giờ phải trải qua những cảm xúc như tôi lúc ấy! Cầu mong đôi mắt bạn đừng bao giờ phải nhỏ những giọt lệ nóng hổi, cay đắng như tôi. Cầu mong bạn đừng bao giờ phải cầu xin Chúa một cách vô vọng và đau khổ như tôi trong giờ phút ấy và đừng bao giờ phải lo sợ mình sẽ trở thành một công cụ của tội lỗi đối với người mà mình yêu bằng cả trái tim như tôi.



Chương 28 Hai ngày trôi qua. Một buổi chiều hè, tay xà ích thả tôi xuống một nơi có tên là Whitcross. Ông ta không thể chở tôi đi xa hơn vì số tiền tôi trả chỉ đủ để đi một quãng đường như thế, mà tôi thì làm gì còn một đồng silinh nào khác. Chiếc xe đã đi được một dặm, để mặc tôi lại một mình giữa đường, và chỉ đến lúc ấy tôi mới nhận ra mình đã để quên gói đồ cất trong hòm xe. Gói đồ hẳn vẫn còn nguyên trong đó, còn tôi thì sạch nhẵn túi. Whitcross không phải một thị trấn, cũng chẳng phải là một ngôi làng, mà chỉ là một cột đá sơn trắng dựng lên ở ngã tư. Tôi đoán đó là một cột chỉ dẫn để người đi đường có thể phân biệt được từ xa lúc trời tối. Trên đỉnh cột được gắn bốn tấm biển mà theo đó, thị trấn nằm gần nhất là mười dặm, còn thị trấn xa nhất là hơn hai mươi dặm. Tất cả đều là những thành phố có tiếng nên tôi dễ dàng nhận ra mình hiện đang ở một vùng nào đó ở miền trung bắc vốn lúc nào cũng âm u bởi những trảng cây thạch thảo và nhiều ngọn núi. Phía sau tôi và hai bên đường là những cánh đồng hoang rộng lớn, bên kia một thung lũng sâu thẳm dưới chân tôi là những ngọn núi trập trùng. Đây hẳn phải là một nơi có rất ít người sinh sống và tôi cũng chẳng thấy ai qua lại trên các ngả đường. Trước mắt tôi là những con đường rộng thênh, trắng hếu và hiu quạnh cắt ngang qua cánh đống hoang và các bụi cây dại mọc búi xùi đến tận ven đường. Tôi chỉ mong đừng có ai trông thấy tôi lúc này, vì nếu chẳng may có người đi qua, họ sẽ không khỏi kinh ngạc vì không hiểu tôi định lẩn thẩn bên cái cột đá này để làm gì. Nhỡ người ta hỏi thì tôi biết trả lời thế nào, vì có nói gì thì cũng rất khó tin, mà không chừng còn gây thêm hoài nghĩ nữa ấy chứ. Không có sợi dây nào ràng buộc tôi với xã hội loài người lúc ấy – không có sự hấp dẫn hoặc niềm hy vọng nào gọi tôi về với cuộc sống của đồng loại. Sẽ chẳng có ai trông thấy tôi mà có được một ý nghĩ đẹp đẽ hoặc một mong muốn tốt lành cho tôi. Tôi chẳng có một người họ hàng thân thích nào ngoài người mẹ vũ trụ Thiên nhiên. Tôi chỉ tìm đến vòng tay người mà đòi được nghỉ ngơi. Tôi đi thẳng vào bãi đất hoang và nhằm vào một cái khe ăn sâu vào bờ trảng màu nâu mà tiến. Chân ngập vào đám cỏ cây um tùm mọc cao đến đầu gối, tôi lượn vòng thèo những đoạn đường quanh co, tìm đến một hốc đá phủ rêu đen nằm trong một góc kín đáo và ngồi tụt xuống dưới. Những bờ đất cao bao quanh tôi, hốc đá che chở đầu tôi, còn phía trên là cả bầu trời.


Phải mất một lúc lâu sau tôi mới thấy yên tâm, vì tôi mơ hồ sợ rằng biết đâu lại chẳng có một con thú hoang đang lảng vảng gần đây, hoặc một người đi săn nào phát hiện ra mình thì chết. Hễ có một cơn gió thổi tràn qua cánh đồng hoang là tôi lại lấm lét ngước nhìn lên, những tưởng mình sắp bị một con bò tót nào đó húc thủng bụng đến nơi, và mỗi khi chợt nghe thấy tiếng chim cuốc kêu thảng thốt là tôi lại tưởng có người xuất hiện. Chỉ đến khi nhận ra sự lo sợ của mình thật vô lý và khi đã trấn tĩnh nhờ sự im lặng sâu lắng ngự trị xung quanh lúc hoàng hôn xuống thì tôi mới bắt đầu cảm thấy yên tâm. Trước lúc ấy, tôi vẫn chưa hề nghĩ ngợi gì cả, chỉ biết nghe ngóng, quan sát và lo sợ. Bây giờ năng lực suy nghĩ mới được hồi phục. Tôi phải làm gì bây giờ? Biết đi về đâu? Than ôi, toàn là những câu hỏi không dễ chịu chút nào, khi mà tôi không thể làm gì và cũng chẳng biết đi đâu được! Tôi biết phải làm gì khi đã chồn chân, mỏi gối lại còn phải lê lết một đoạn đường dài để tới được chỗ có người, khi phải tìm đâu ra một chút lòng từ thiện lạnh lùng của người đời trước khi tìm được một chỗ tá túc, trước khi người đời miễn cưỡng thông cảm và chịu lắng nghe cảnh ngộ hoặc một lời cầu khẩn nào đấy của tôi nếu như không bị xua đuổi. Tôi sờ vào bờ đất khô và còn ấm vì hơi nóng của ngày hè, rồi ngước nhìn bầu trời trong suốt đang lấp lánh một vì sao ngay đầu bờ dốc. Sương sa lặng lẽ trong đêm, không gian không một ngọn gió thì thào. Thiên nhiên dường như rất hiền hòa và tử tế với tôi, khiến tôi nghĩ Người thương yêu tôi dù tôi đang bị ruồng rẫy. Và tôi, kẻ chỉ có thể chờ đợi sự hoài nghi, xua đuổi và lăng mạ của đồng loại, sẽ ôm chặt lấy Người với lòng biết ơn của đạo làm con. Đêm nay, ít nhất tôi sẽ là khách của Người, như tôi đã là con của Người. Mẹ tôi sẽ cho tôi nương thân mà chẳng bận gì đến chuyện tiền nong và giá cả. Tôi vẫn còn một mẩu bánh ăn dở: đó là những gì còn lại của một chiếc bánh mà trưa nay, khi xe ngựa đi qua một thị trấn nhỏ, tôi đã mua bằng đồng xu cuối cùng tình cờ sót lại của mình. Tôi trông thấy những quả việt quất chín đen như những viên ngọc nằm lác đác trên các bụi cây. Tôi hái một nắm để ăn cùng với mẩu bánh. Cơn đói cồn cào lúc trước giờ đã dịu đi ít nhiều nhờ bữa ăn nghèo nàn như bữa ăn của một nhà tu hành khổ hạnh ấy. Ăn xong, tôi đọc kinh tối và chọn một chỗ nằm nghỉ. Bên cạnh hốc đá, các đám cây thạch thảo mọc rất dày; khi tôi ngả lưng, hai chân tôi bị vùi hẳn xuống lá cây, hai bên mình tôi bụi rậm mọc cao chỉ chừa một khoảng nhỏ cho không khí lưu thông. Tôi gấp đôi chiếc khăn quàng đắp lên người làm chăn, còn đầu thì gối lên một mô đất nhỏ phủ rêu.


Tôi nằm như vậy nhưng không thấy lạnh, ít nhất là tới khi đêm chưa khuya. Nếu không buồn thì chắc là tôi chắc là tôi cũng đã ngủ được một giấc đủ ngon lành. Trái tim tôi như đang rên rỉ vì những vết thương đau đớn và rỉ máu. Nó run rẩy vì ông Rochester và số phận của ông, khóc than ông với một niềm thương cảm xót xa, khắc khoải cầu mong được gần ông, và dù bất lực như một con chim gãy cánh, nó vẫn vật vã gắng sức hoài công tìm về ông. Cảm giác mệt mỏi vì bị giày vò trong tâm tưởng đã khiến tôi nhỏm dậy, quỳ trên gối xuống đất. Màn đêm buông xuống, các vì sao bắt đầu xuất hiện. Cảnh đêm tĩnh mịch và yên ả quá, đến nỗi tôi chẳng thấy sợ hãi gì cả. Vẫn biết rằng Thượng đế ở nơi nơi, nhưng có lẽ ta dễ cảm thấy sự hiện diện của Người nhất khi các tạo hóa của Người được dàn trải mênh mang hùng vĩ trước mắt ta. Chính trên bầu trời thanh vắng không gợn một bóng mây kia, nơi các thế giới của Người đang luân hồi theo một cuộc hành trình lặng lẽ, mà ta đọc được rõ nhất sự vô biên, vạn năng và hiện diện khắp nơi nơi của Người. Tôi quỳ gối cầu nguyện cho ông Rochester. Ngước đôi mắt ướt lệ sầu nhìn lên, tôi nhận ra dải Ngân Hà hùng vĩ. Nhớ đến sự bao la với hằng hà sa số những hệ thiên thể của nó trong không gian, tôi cảm nhận thấy tất cả uy lực của Thượng đế. Với niềm tin vững chắc ở quyền năng cứu rỗi của người đối với những gì Người đã tạo ra, tôi hiểu rằng thế giới này cũng như các linh hồn là báu vật của nó sẽ không thể bị tiêu diệt. Tôi tạ ơn Chúa sau những lời cầu nguyện Người, đấng Sáng tạo cuộc sống cũng là đấng cứu rỗi linh hồn. Ông Rochester sẽ được bình yên, vì ông thuộc về Chúa và sẽ được Chúa che chở. Tôi lại nép mình xuống lưng đồi và chẳng mấy chốc tôi đã chìm sâu vào giấc ngủ, chẳng còn nhớ gì đến nỗi ưu phiền. Nhưng hôm sau, “nàng Túng quẫn” lại đến với tôi trong bộ dạng xám ngoét và trần trụi. Một lúc lâu sau khi những chú chim nỏ rời tổ đi tìm mồi, những con ong chăm chỉ tìm mật thạch thảo trước khi sương sớm kịp tan, những bóng cây vươn dài của buổi sớm mai chỉ còn ngắn một mẩu và ánh nắng chan hòa tràn ngập nơi nơi, tôi mới đứng dậy nhìn quanh. Quả là một ngày yên ả, ấm áp và tuyệt đẹp! Cánh đồng hoang rộng mênh mông trông như một bãi sa mạc vàng! Chỗ nào cũng rực rỡ ánh nắng mặt trời. Ước gì tôi có thể sống được trong ánh nắng và nhờ ánh nắng. Nhìn thấy một con thằn lằn trườn qua hốc đá, một con ong đang bận rộn với những quả việt quất chín ngọt, tôi lại muốn biến thành con ong hay con thằn lằn để tìm được thức ăn và có một nơi cư ngụ dễ dàng. Rốt cuộc tôi vẫn chỉ là


một con người với bao nhu cầu rất con người, tôi không thể nán lại mãi ở một nơi chẳng có gì để đáp ứng các nhu cầu đó. Tôi đứng dậy nhìn lại cái tổ mà tôi phải rời bỏ. Vô vọng về tương lai, tôi chỉ ước một điều rằng đêm qua, giá như đấng Tạo hóa sinh ra tôi rủ lòng thương, đem linh hồn tôi đi trong lúc tôi đang ngủ thì hay biết bao. Và nếu như vậy thì cái thể xác bạc nhược này – nhờ cái chết mà được giải phóng khỏi cuộc vật lộn với số mệnh – bây giờ chỉ việc lặng lẽ mục rữa và thầm lặng hòa trộn vào lòng đất hoang vu này. Nhưng cuộc đời vẫn còn đang nằm trong tay tôi với tất cả những đòi hỏi, đau khổ và tránh nhiệm của nó. Tôi còn phải mang gánh nặng, đáp ứng nhu cầu, chịu đựng sự đau khổ và làm tròn trách nhiệm với cuộc đời. Tôi bước ra khỏi nơi ở ẩn ấy. Tôi trở lại cột đá Whitcross và đi theo một con đường vắng vẻ, lưng quay về phía mặt trời lúc này đã lên cao. Tôi lựa chọn hướng đi ấy chẳng vì một cái gì cả, chỉ biết lầm lũi mà đi. Đi được một lúc lâu và cảm thấy như thế là quá đủ, cần phải nghỉ một chút sau một nỗ lực quá sức, tôi bèn ngồi xuống một hòn đá gần đó, mặc cho trái tim và đôi chân chịu khuất phục hoàn toàn trước sự mỏi mệt. Thế rồi tôi chợt nghe thấy một hồi chuông ngân – tiếng chuông của nhà thờ. Quay về phía tiếng chuông, nơi có cảnh vật thật lãng mạn nằm giữa những ngọn đồi hoang mà một tiếng trước đó tôi chẳng buồn để ý, tôi nhận ra một ngôi làng nhỏ và một tháp chuông. Cả một thung lũng bên phải tôi là đồng cỏ, ruộng ngũ cốc và rừng cây. Một dòng suối lấp lánh uốn lượn quanh co qua những mảng màu xanh đa sắc, màu xanh dịu của ruộng ngũ cốc, màu xanh thẫm của rừng cây trải rộng dưới màu vàng rực rỡ của những tia nắng mặt trời. Tiếng bánh xe bon lạo xạo trên con đường trước mặt khiến tôi sực tỉnh. Một chiếc xe chở hàng đang ì ạch leo lên đồi. Cách đó không xa lắm là hai con bò đang mải mê gặm cỏ bên một người nông dân. Cuộc sống và cảnh làm việc của con người đang ở gần tôi. Tôi phải vật lộn với cuộc sống, phải cố gắng mà sống và sẽ chịu khó lao động như những người khác. Tôi vào ngôi làng lúc khoảng hai giờ chiều. Cuối con đường làng có một cửa hiệu nhỏ bày bán vài cái bánh mì bên cửa sổ. Ước gì tôi được gặm một miếng! Chỉ cần một chút thôi có lẽ cũng đủ để tôi lấy lại phần nào sức lực, nếu không thì khó lòng mà đi tiếp được. Tôi lại ước ao mình nhanh chóng phục hồi sức lực và ý chí, dù chỉ một phần nào thôi, để được sống giữa đồng loại. Nếu ngã gục xuống đường trong một ngôi làng chỉ vì đói thì quả là quá tủi nhục. Chẳng lẽ tôi không còn gì để đổi lấy một lát bánh ư? Tôi nghĩ xem


mình còn cái gì. Một chiếc khăn lụa nhỏ đang quấn trên cổ và một đôi tất tay! Tôi không hiểu người đời, khi bị rơi vào cảnh cùng quẫn, thì họ xử trí như thế nào. Tôi cũng chẳng biết những đồ vật rẻ mạt của tôi liệu có được người ta chấp nhận đổi lấy một miếng bánh hay không. Có lẽ là không được, nhưng dù thế nào thì tôi cũng phải thử xem đã. Tôi bước vào hiệu bánh và thấy một phụ nữ đang ngồi bên trong. Trông thấy tôi, bà ta đon đả ra tiếp, có vẻ như cách ăn mặc đứng đắn của tôi đã khiến bà tưởng tôi là một người quý phái. Bà ta hỏi tôi muốn dùng gì? Tôi ngượng chín mặt, lưỡi cứng lại không nói ra được những lời mà tôi định nói. Tôi không dám mở mồm đề nghị đổi cái khăn nhàu nát hay đôi găng tay cũ, vì thấy thế thế thật lố bịch. Cuối cùng tôi chỉ dám xin được ngồi nghỉ nhờ một lúc vì mệt. Thất vọng vì tôi không phải là khách hàng, bà ta hờ hững đồng ý với lời thỉnh cầu của tôi, chỉ cho tôi một chiếc ghế. Tôi liền ngồi phịch xuống. Tôi cảm thấy mình sắp khóc, nhưng đã cố nén lại vì biết làm thế thì thật là vô duyên. Ngồi được một lát, tôi hỏi bà ta “trong làng có ai may quần áo hay khâu vá gì không?” - Có, hai ba người gì đấy, đại khái là vừa đủ với việc làm. Tôi lại ngồi im với dòng suy nghĩ mông lung. Tôi đã lâm vào cảnh cùng quẫn, một tình thế hết nguồn sống, không bạn bè, không một đồng xu dính túi, lại phải đương đầu với những nhu cầu cấp bách. Không thể không làm một cái gì đó. Nhưng tôi biết làm gì chứ? Có lẽ phải lê đến một chỗ nào đó mà hỏi thôi. Nhưng biết đến nơi nào bây giờ? - Bà có biết nơi nào quanh đây cần mướn người ở không? - Không. – Bà chủ hiệu trả lời. - Thế nguồn sinh nhai chính ở đây là gì? Đa số dân làng làm gì? - Một số người làm nông nghiệp, một số đông làm cho xưởng sản xuất kim khâu của ông Oliver và số khác làm ở xưởng đúc. - Ông Oliver có thuê phụ nữ không? - Không, đó không phải là công việc của đàn bà con gái. - Thế phụ nữ họ làm những gì?


- Tôi không biết. Người thì việc này, người thì việc khác. Đã nghèo thì ai cũng phải đâm đầu vào mà làm bất cứ việc gì có thể làm được. Có vẻ như bà ta đã phát chán vì những câu hỏi của tôi, mà thực ra thì tôi có quyền gì để lải nhải hỏi bà ta mãi chứ? Có một hai người hàng xóm bước vào, rõ ràng là tôi phải trả lại ngay cái chỗ đang ngồi. Và tôi buộc phải rời khỏi cửa hiệu. Tôi đi ngược con đường làng, vừa đi vừa nhìn vào tất cả những ngôi nhà năm hai bên, nhưng chẳng tìm được lý do gì để vào một ngôi nhà nào. Suốt một tiếng đồng hồ hoặc hơn nữa, tôi lê bước quanh làng, thỉnh thoảng lại quay lại chẳng để làm gì cả. Kiệt sức và bị cơn đói hành hạ ghê gớm, tôi bèn rẽ vào một lối nhỏ và ngồi xuống chân một bờ rào. Được ít phút, tôi lại đứng dậy quanh quẩn đi tìm – tìm một nguồn sống, hoặc ít nhất là một người mách việc. Đến đầu lối đi, tôi gặp một ngôi nhà nhỏ xinh xắn có một mảnh vườn đầy hoa nở và được tỉa cắt rất gọn gàng. Tôi dừng lại gần đó. Nhưng tôi có việc gì để đến gần cái cổng trắng hay chạm tay vào cái búa gõ buông sáng loáng ấy đâu? Những người ở trong mái nhà ấy liệu có quan tâm gì đến tôi không? Dẫu sao thì tôi cũng cứ lại gần và gõ cửa tìm cơ may. Một phụ nữ trẻ tuổi, dịu dàng và sạch sẽ ra mở cửa. Bằng một giọng nói hẳn được thoát ra từ một cõi lòng tuyệt vọng và một thân xác ốm yếu, một giọng nói thều thào và run run đến thảm hại, tôi hỏi xem ở đây có cần người làm tôi tớ không? - Không, chúng tôi không cần người làm đâu. – Người phụ nữ trả lời. - Vậy bà có thể mách tôi tìm bất cứ một việc làm nào không? – Tôi nói tiếp. – Tôi là người ở xa đến, không quen biết ai ở đây. Tôi cần một việc làm, không quan trọng là việc gì. Nhưng chẳng việc gì mà bà ta phải nghĩ hay tìm việc cho tôi. Hơn nữa, trong con mắt bà, hẳn là bộ dạng của tôi phải đáng ngờ lắm. Bà lắc đầu nói “rất tiếc là không mách được gì” cho tôi, và ngay sau đó, cánh cửa trắng đã được đóng lại một cách nhẹ nhàng và lịch sự, song dẫu vậy cũng đủ để đuổi tôi đi. Nếu bà chủ nhà để cửa mở lâu hơn một chút thì có lẽ tôi đã hỏi xin một mẩu bánh, vì bây giờ sĩ diện của tôi đã xuống thấp lắm rồi. Tôi không thể chịu đựng được cái ý nghĩ phải quay lại ngôi làng nhẫn tâm ấy, vì có quay lại cũng chẳng còn hy vọng được giúp đỡ. Thà cứ lết sang cánh rừng trước mắt kia còn hơn, nơi ấy những bóng cây rậm rạp dường như đang mời chào tôi đến nghỉ ngơi. Nhưng tôi ốm yếu, kiệt quê, lại bị cái đói


cồn cào hành hạ, nên bản năng cứ giữ tôi luẩn quẩn bên những mái nhà xa lạ để may ra còn tìm được một miếng ăn bố thí. Cô quạnh sẽ chẳng còn là cô quạnh, nghỉ ngơi cũng sẽ chẳng còn là nghỉ ngơi chừng nào con kền kền – con quỷ đói khát – háu đói còn cắm mỏ, quặp móng vuốt vào người tôi. Tội lại đến gần mấy ngôi nhà, bỏ đi, quay lại, rồi tiếp tục lang thang tìm đến chỗ khác, vì nghĩ rằng mình chẳng có quyền gì mà đòi hỏi hay chờ đợi người ta bận tâm đến cái phận hẩm hiu của mình. Trong khi đó, trời chiều đã gần, mà tôi thì cứ quanh quẩn mãi như một con chó đói lạc đường. Lúc đi ngang qua một cánh đồng, tôi trông thấy một cái tháp chuông nhà thờ trước mặt. Tôi cô gắng bước tới. Gần nghĩa địa nhà thờ, nằm giữa một khu vườn là một ngôi nhà nhỏ xinh xinh mà tôi đoán là nhà của một vị cha xứ. Tôi nhớ rằng những người xa lạ đến một nơi không bạn bè thân thích và cần việc làm thường tìm đến các tu sĩ để tìm sự giúp đỡ. Bổn phận của các tu sĩ cũng là giúp đỡ – ít nhất là bằng những lời khuyên bảo – những người muốn tự cứu lấy mình. Tôi thấy dường như mình cũng có một cái gì đó như là quyền yêu cầu sự chỉ bảo ở đây. Lấy lại can đảm và sức bình sinh còn sót lại, tôi mạnh dạn bước tới. Tôi đến gần ngôi nhà và gọi cửa nhà bếp. Một bà già ra mở cửa, tôi hỏi đây có phải nhà cha xứ không? - Đúng rồi. - Cha xứ có nhà không ạ? - Không. - Chắc ông ấy cũng sắp về? - Không, ông ấy bận việc. - Có xa không ạ? - Cũng không xa lắm, chỉ khoảng ba dặm thôi. Ông ấy được gọi về gấp vì cha ông ấy vừa đột ngột qua đời. Bây giờ ông ấy đang ở Marsh End, và có lẽ sẽ ở lại đó khoảng hai tuần nữa. - Thế có quý bà nào ở trong nhà không? Bà già nói chẳng có ai cả, chỉ có mỗi bà ấy là người trông nom nhà cửa thôi. Và thưa bạn đọc, tôi lại không dám mở miệng xin bà một miếng lót dạ cho qua cơn đói, vì tôi vẫn chưa thể ăn xin được. Một lần nữa tôi lại phải


quay gót bỏ đi. Một lần nữa tôi bỏ chiếc khăn tay ra nhìn, và cũng một lần nữa tôi nghĩ đến những chiếc bánh trong cái cửa hàng nhỏ kia. Ôi, giá như tôi có được một mẩu bánh, chỉ một mẩu rúm ró thôi cũng được, để đánh lừa cái đói đang hành hạ mình! Theo bản năng, tôi lại quay về phía ngôi làng. Gặp lại hiệu bánh, tôi liền bước vào. Mặc dù còn có nhiều người khác ngoài bà chủ, tôi vẫn liều mạng hỏi bà ta có thể đổi cho tôi một chiếc bánh lấy cái khăn lụa không. Bà ta giương đôi mắt nhìn tôi, vẻ nghi ngờ ra mặt: bà ta chưa bán bánh theo kiểu ấy bao giờ. Gần như tuyệt vọng, tôi đành xin đổi lấy một nửa cái bánh, bà ta vẫn từ chối và bảo: “Nào tôi có biết cô lấy cái khăn ấy ở đâu ra.” - Thế bà có lấy đôi găng này không? - Không, để làm gì chứ? Thưa bạn đọc, có lải nhải mãi những chi tiết này thì cũng chẳng vui vẻ gì. Có người bảo nhìn lại quá khứ đau đớn là một điều cũng thật vui, nhưng với tôi, việc phải nhắc lại cảnh ngộ mà tôi phải trải qua ở trên thì thật là khó chịu vô cùng, vì nó chính là một sự suy sụp về tinh thần hòa lẫn nỗi đau đớn về thể xác, làm nên một hồi ức thật cay đắng và buồn tủi cần phải quên đi. Thực tình tôi cũng chẳng oán trách gì những người đã xua đuổi mình. Tôi nghĩ đó âu cũng là điều bình thường và không thể tránh được trong cuộc đời, vì thông thường một kẻ ăn mày đã luôn bị nghi ngờ, chứ chưa nói đến một kẻ ăn xin khoác trên mình một bộ đồ tươm tất như tôi. Đành rằng tôi chỉ xin việc làm, nhưng có ai rỗi hơi để tìm việc cho tôi? Đó là điều mà chắc chắn những người mới gặp tôi lần đầu tiên, chẳng biết gì về thân phận của tôi không làm. Cả cái bà không muốn đổi bánh lấy khăn của tôi cũng có lý của mình khi bà ta nhận thấy lời đề nghị của tôi có điều gì đó khuất tất, hoặc thấy chuyện đổi chác chẳng mang lại lợi lộc gì. Hãy cho phép tôi vắn tắt lại diễn biến xảy ra tiếp theo đối với tôi, vì tôi cũng muốn phát ốm vì chuyện ấy rồi. Một lát trước khi trời sẩm tối, tôi đi qua một ngôi nhà nằm trong một trang viên. Ngôi nhà để ngỏ cửa cho thấy người chủ trang trại đang ngồi ăn chiều với bánh mì và pho mát. Tôi dừng lại, hỏi:


- Ông có thể làm ơn cho tôi một miếng bánh được không? Tôi đói quá. Người đàn ông ngạc nhiên nhìn tôi, rồi chẳng nói nửa lời, ông cắt một lát bánh to đưa cho tôi. Tôi tưởng tượng ông ta không nghĩ tôi là một kẻ ăn mày, mà chỉ là một quý bà lập dị nào đó muốn thử một miếng bánh mì đen của ông ta xem nó thế nào. Vừa đi khuất ngôi nhà, tôi liền ngồi xuống nhai ngấu nghiến. Không còn hy vọng tìm được chỗ tá túc qua đêm, tôi đành phải tìm một nơi ngả lưng trong cánh rừng mà tôi vừa kể trên. Nhưng nào tôi có được toại nguyện. Mặt đất ẩm ướt, tiết trời lạnh lẽo, đã thế thỉnh thoảng lại có người đi qua gần chỗ tôi, nên tôi cứ phải đổi chỗ luôn, khiến tôi không lúc nào có được cái cảm giác yên ổn và an tâm để mà nghỉ. Gần sáng, trời lại mưa khiến cho cảnh vật lúc nào cũng ẩm ướt trong suốt cả ngày hôm sau. Thưa bạn đọc, xin bạn đọc đừng hỏi tôi cặn kẽ về chuyện xảy ra ngày hôm ấy. Cũng như hôm trước, bụng tôi vẫn lép kẹp và tôi cũng lại bị xua đuổi, chỉ có một lần tôi được một chút cái gọi là thức ăn vào bụng. Đến trước cửa một nếp nhà tranh, tình cờ tôi thấy một cô bé sắp đổ món súp hổ lốn nguội tanh vào cái máng lợn. “Cháu có thể cho cô thứ đó được không?” – Tôi hỏi. Cô bé trố mắt nhìn tôi và kêu ầm lên: “Mẹ ơi! Có một cô đòi con cho chỗ súp này!” - Thôi, con gái ạ, – tiếng ai trong nhà trả lời – nếu cô ta là ăn mày thì cứ cho cô ta. Lợn nó cũng chẳng ăn đâu mà. Cô bé bèn dốc cái món sền sệt ấy vào tay tôi. Tôi húp một hơi hết sạch. Khi bóng hoàng hôn ẩm ướt buông xuống, tôi dừng lại trên một lối mòn hiu quạnh mà tôi đã lê lết theo từ hơn một tiếng đồng hồ. “Mình kiệt sức lắm rồi, – Tôi lẩm bẩm một mình. – Mình cảm thấy không thể đi tiếp được nữa. Chẳng lẽ đêm nay mình lại bơ vơ nữa sao? Khi mưa trút xuống, chẳng lẽ mình phải gối đầu trên mặt đất ướt lạnh ư? Mình sợ không thể làm khác được, vì ai là người chịu đón nhận mình chứ? Cảm giác đói rét, mệt lả, cô đơn, vô vọng quả thật là đáng sợ. Nhưng biết đâu mình lại chẳng chết trước sáng mai, vậy thì tại sao không tự dung hòa cảm xúc của mình để mà đón nhận viễn cảnh của cái chết ấy? Tại sao mình lại cứ phải vật lộn để níu kéo một cuộc sống vô nghĩa nhỉ? Có lẽ là bởi vì mình biết, hoặc mình tin ông Rochester còn sống, với lại chết vì đói rét là một số phận mà xét về bản


chất con người không thể cam chịu một cách thụ động được. Ôi! Thượng đế, hãy nâng đỡ con thêm chút nữa! Hãy cứu giúp con, đưa đường chỉ lối cho con!” Tôi đưa mắt đờ đẫn nhìn phong cảnh trong màn sương mờ mịt, âm u. Ngôi làng ấy đã xa rồi, đã khuất khỏi tầm mắt tôi cùng với những cánh đồng xung quanh. Tiếp tục lần theo những đường ngang ngõ tắt, tôi lại đến gần cánh đồng hoang. Giữa tôi và ngọn đồi tối mờ bây giờ chỉ còn vài thửa ruộng bị bỏ hoang. “Được rồi, thà chết ở chỗ kia còn hơn là chết trên một con đường làng, hay một con đường có người vãng lai nào đó. – Tôi nghĩ bụng. – Chẳng thà cứ để lũ quạ hay diều hâu đến lột da tróc thịt bị thối rữa dưới lòng huyệt như một kẻ bần cùng khốn nạn.” Vậy là tôi quay về ngọn đồi. Tới nơi, tôi chỉ còn việc tìm một hang hốc nào đó có thể nằm được, và nếu không phải là một chỗ an toàn thì ít nhất cũng phải kín đáo. Nhưng chỗ nào trên mặt đồi cũng trơ trụi, có chăng chỉ là những mảng màu sắc của lau sậy, rêu phong và thạch thảo. Mặc dù đã nhá nhem tối, song tôi vẫn còn phân biệt được các mảng màu xanh đen đậm nhạt khác nhau, vì màu sắc của cảnh vật nơi đây đã biến đổi theo ánh sáng của một ngày tàn. Đưa mắt thẫn thờ nhìn cảnh vật mịt mờ hoang vu và ảm đạm ấy, tôi chợt nhận ra một đốm sáng lập lờ ở một nơi tối mờ xa xa, giữa những gò đất và đồng lầy. “Đấy là bóng lân tinh”. Lúc đầu tôi nghĩ như vậy và đoán nó sẽ biến ngay. Nhưng đốm sáng ấy vẫn cứ lập lòe mãi một chỗ, không tiến và cũng chẳng lùi. “Hay đó là một ngọn lửa vừa được nhóm lên?” Tôi tự hỏi và tiếp tục để ý xem nó có lan rộng ra không. Không, đốm sáng ấy chẳng nhỏ lại và cũng chẳng thấy to ra. “Vậy thì có thể đó là một ngọn nến trong một ngôi nhà nào đấy, – tôi đoán – nhưng nếu đúng thế thật thì mình cũng chẳng bao giờ đến được đấy. Đường tới đó xa quá, mà kể cả khi nơi đó cách đây một mét thôi thì cũng đâu ích gì đối với mình? Mình có gõ cửa thì rồi người ta cũng sẽ lại đóng sập vào ngay trước mặt cho mà xem.” Và tôi đã gục xuống ngay chỗ tôi đang đứng, mặt úp xuống đất. Tôi cứ nằm im tại chỗ một lúc, mặc cho những cơn gió đêm thổi tràn qua ngọn đồi và người tôi, mặc cho những giọt mưa rơi mau mau làm ướt sũng cả da thịt tôi. Giá như người tôi bị cứng đờ – một hình ảnh quen thuộc của cái chết –


thì những hạt mưa kia có rơi mãi cũng đâu có hề gì. Nhưng thân xác tôi vẫn còn cảm giác, khiến người tôi cứ run lên bần bật vì nước mưa lạnh buốt. Tôi lại lóp ngóp đứng dậy. Đốm sáng vẫn nằm nguyên một chỗ, sáng lờ mờ nhưng không hề lay chuyển sau bức màn u tối của nước mưa. Tôi khó nhọc lê đôi chân rã rời về nơi có ánh sáng. Nó dẫn tôi bò chéo qua sườn đồi và một bãi lầy mà chắc chắn về mùa đông không thể lội qua được, vì ngay giữa mùa hè như thế mà nó cũng đầy bùn. Tôi đã hai lần vấp ngã liêu xiêu và lần nào cũng phải lấy hết sức bình sinh để gượng đứng dậy. Nguồn sáng kia là hy vọng mong manh của tôi, dù thế nào tôi cũng phải tìm đến bằng được. Đi hết đồng lầy, tôi nhận ra một vệt trắng lờ mờ chạy ngang qua một cánh đồng hoang. Lại gần cái vệt ấy tôi mới biết đó là một lối nhỏ dẫn thẳng đến chỗ có ánh sáng – được chiếu ra từ một gò đất nằm giữa các bụi cây mà tôi đoán được là cây thông nếu căn cứ vào hình dáng và kiểu cành lá tôi phân biệt được trong bóng tối. Tôi đi gần tới nơi thì ngôi sao của tôi bỗng biến đi đằng nào mất vì có một vật nào đó chắn giữa nó và tôi. Tôi giơ tay ra sờ soạng cái vật chướng ngại đen ngòm trước mặt và nhận ra đó là những hòn đá thô ráp của một bức tường thấp lè tè, phía trên tường hình như còn có một lớp hàng rào, và phía trong tường là một bờ giậu cao có gai. Tôi tiếp tục dò dẫm bước tới. Trước mặt tôi lại là một vật trắng nhờ nhờ. Đó là một cái cổng, cụ thể hơn là một cánh cửa nhỏ, vì khi chạm tay vào tôi thấy nó chuyển động theo tấm bản lề. Mỗi bên cổng có một bụi cây đen đen như cây nhựa ruồi hay cây thủy tùng gì đó. Bước vào cổng và đi qua những bụi cây, tôi thấy bóng một ngôi nhà hiện lên trong tầm mắt, trông đen ngòm, thấp tè và khá dài, nhưng ánh đèn dẫn đường lúc này thì không thấy đâu nữa. Tất cả đều chìm trong bóng tối. Chẳng lẽ người trong nhà đã đi nghỉ hết rồi. Tôi e là như thế. Tôi lượn ra một góc nhà để tìm cửa vào là lại chợt thấy ánh đèn quen thuộc yếu ớt hắt qua một ô cửa kính rất nhỏ hình ô mắt cáo có chấn song hoa, cách mặt đất chừng một bộ. Ô cửa sổ càng có vẻ nhỏ hơn khi bị che kín một phần bởi những ngọn trường xuân hay một loại cây leo nào đó bám kín một góc tường nhà. Vốn đã hẹp và lại bị lá cây che khuất nên ô cửa sổ không cần treo rèm hay mành mành. Và khi cúi xuống gạt đám lá lòa xòa ngoài ô cửa sổ, tôi có thể nhìn được mọi thứ ở trong nhà. Tôi có thể bao quát rõ ràng một căn phòng có sàn nhà nhẵn bóng được lau chùi sạch sẽ, một chiếc tủ gỗ hồ đào xếp mấy hàng đĩa hợp kim, đang lấp lánh phản chiếu ánh lửa. Ngoài ra còn


có một chiếc đồng hồ, một cái bàn gỗ trắng và mấy chiếc ghế. Ngọn nến mà lúc nãy tôi lấy làm ánh sáng dẫn đường được đặt ở trên bàn. Trong ánh sáng lung linh của ngọn nến, một người phụ nữ có tuổi đang ngồi đan một chiếc bít tất, trông bà ta hơi thô, nhưng được cái sạch sẽ y như các đồ vật xung quanh. Tôi nhìn chỉ là để nhìn, bởi những thứ trong phòng chẳng có gì đặc biệt. Điều thu hút sự chú ý của tôi là mấy người ngồi lặng im bên lò sưởi, giữa không khí ấm nồng và ánh lửa hồng lung linh. Đó là hai cô gái yêu kiều, một người ngồi trên ghế bành và người còn lại ngồi trên một chiếc ghế đẩu thấp hơn. Cả hai đều mặc đồ tang vải chéo go. Màu áo sẫm càng làm cho cổ và khuôn mặt của họ trắng ngần hơn. Một con chó săn già nằm gác cái đầu to tướng lên đầu gối một cô, và một con mèo đen nằm cuộn tròn trong lòng cô gái còn lại. Trông họ như thế mà lại ngồi trong cái bếp hạng xoàng này thì thật là lạ! Không hiểu họ là ai? Họ không thể là con gái bà già đang ngồi bên chiếc bàn kia, vì trông bà ta quê mùa quá, mà họ thì lại có vẻ đoan trang và có học. Tôi chưa từng gặp những khuôn mặt như họ ở đâu, song khi nhìn kỹ hơn, tôi cũng thấy nét mặt của họ có một cái gì đó quen thuộc. Tôi không thể nói họ đẹp, vì họ xanh và nghiêm trang quá. Trông họ cúi xuống đọc sách, tôi lại càng thấy họ có vẻ trầm tư và nghiêm nghị hơn. Đặt giữa họ còn có một ngọn nến nữa và hai quyển sách lớn mà cả hai người luôn cắm cúi nhìn vào, hình như để đối chiếu với quyển sách nhỏ hơn họ đang cầm trên tay, giống như cảnh người ta tra tự điển để dịch bài. Cảnh tượng lặng lẽ quá, đến nỗi trông họ chẳng khác nào những cái bóng, còn căn buồng sáng ánh lửa chỉ là một bức tranh. Căn phòng lặng như tờ, đến nỗi tôi còn nghe được cả tiếng những mẩu than cháy dở rơi thoảng xuống gầm lò sưởi và tiếng kêu tích tắc của chiếc đồng hồ ở góc nhà, thậm chí tôi còn tưởng mình phân biệt được cả tiếng kim đan lách cách của bà già. Bởi vậy, cuối cùng, khi có một câu hỏi phá tan bầu không khí tĩnh mịch đến kỳ lạ ấy thì tôi nghe được rất rõ. - Nghe này, chị Diana – Một trong hai nữ sinh chăm chỉ lên tiếng. – Franz và ông Daniel cùng ngồi với nhau vào buổi tối, và Franz đang kể lại một cơn mê khiến anh ta hoảng hốt tỉnh dậy… Chị nghe tiếp nhé! Cô gái hạ giọng đọc một thứ tiếng gì đó mà tôi chẳng hiểu được một chữ nào, vì đó là tiếng nước ngoài và không phải tiếng Pháp hay Latinh. Tôi không biết có phải là tiếng Hy Lạp hay Đức không.


- Gớm thật, – cô gái nói sau khi đọc xong – em thấy thích mê đi được. Cô kia ngẩng đầu lên nghe chị, rồi lẩm bẩm nhắc lại đoạn văn đã đọc, mắt đăm đăm nhìn ngọn lửa. Về sau tôi mới biết tiếng và tên quyển sách, vì vậy tôi cũng có thể trích dẫn lại ở đây một vài câu mà lúc đó tôi chẳng hiểu gì cả. - “Da trat hervor Einer, Anzusehen wie die Sterner Nacht” Hay thật! Hay thật! – Cô chị thốt lên, đôi mắt đen sâu thẳm như sáng lên. – Em sẽ thấy ở đây một vị tổng lãnh thiên thần hiện ra trước mắt mờ mờ ảo ảo và thật vĩ đại! Câu này hẳn phải giá trị bằng cả trăm trang khoa trương sáo rỗng. “Ich Wage die Gedanken in der Schale meines Zornes und die Werke mit dem Gewichte meines Grimms.” Chị thấy thích lắm! Đoạn cả hai lại yên lặng. - Lại có nước nào người ta nói như vậy ấy nhỉ? – Đang mải ngồi đan, bà già bỗng ngẩng đầu lên hỏi. - Đúng thế, bà Hannah ạ, một nước lớn hơn nước Anh nhiều, ở đấy người ta nói như vậy mà. - Tôi vẫn chưa hình dung ra họ làm thế nào để hiểu được nhau trong nhiều tình huống, nhưng nếu có ai đến đây, tôi cũng có thể đoán được họ muốn nói gì. - Có lẽ chúng tôi chỉ hiểu được một phần nào những gì họ nói thôi, chứ làm sao mà hiểu tất cả được, vì chúng tôi đâu có thông minh như bà vẫn tưởng, bà Hannah ạ. Chúng tôi không nói tiếng Đức, và chúng tôi cũng không thể hiểu được cái thứ tiếng ấy nếu không có từ điển. - Các cô học thế thì có gì hay chứ? - Chúng tôi định tới một lúc nào đấy sẽ đi dạy tiếng Đức, ít nhất là ở trình độ sơ đẳng như người ta vẫn gọi, như vậy sẽ kiếm thêm được chút đỉnh so với bây giờ. - Nghe cũng có lý đấy, nhưng bây giờ các cô cũng nên nghỉ đi, tối nay học thế là đủ rồi.


- Tôi nghĩ phải đấy, ít ra thì tôi cũng thấy mệt rồi. Chị thấy thế nào rồi, Mary? - Mệt chết đi được, học ngoại ngữ không thầy và chỉ bằng một cuốn từ điển, nói cho cùng quả là một công việc cực nhọc. - Hừ, nhất là với một thứ tiếng vừa khó lại hào nhoáng như tiếng Đức. Mà chẳng biết đến bao giờ St. John mới về nhỉ? - Chắc cũng chẳng lâu nữa đâu, bây giờ là đúng mười giờ rồi (cô ta nhìn vào chiếc đồng hồ nhỏ bằng vàng rút ở thắt lưng ra). Trời mưa mau đấy. Hannah này, bà vui lòng ngó qua hộ tôi cái lò sưởi ở phòng khách có được không? Bà già đứng dậy mở một cánh cửa, qua đấy tôi trông thấy lờ mờ một dãy hành lang. Sau đó tôi nghe thấy tiếng bà cời lửa ở phòng trong, rồi trở lại ngay. - Chán thật, con gái ạ! – Bà ta nói. – Cứ bước chân vào cái phòng ấy là tôi lại có cảm giác nao nao. Nó vắng lặng quá, nhìn đi nhìn lại cũng chỉ có mỗi cái ghế bành đặt trơ trọi ở một góc nhà! Đoạn bà lấy vạt tạp dề chùi mắt. Hai cô gái, lúc nãy vẻ mặt nghiêm trang là thế, giờ bỗng thấy đượm buồn. - Nhưng bây giờ ông ấy đang ở một nơi tốt đẹp hơn. – Bà Hannah nói tiếp. – Ta đừng nên cầu mong ông trở lại đây làm gì, mà có ai được chết nhẹ nhàng như ông ấy đâu. - Bà nói là chẳng bao giờ thấy ông nhắc đến chúng tôi à? – Một trong hai cô gái hỏi. - Ông không kịp nhắc, cô ạ, ông ra đi chỉ trong vòng có một phút. Ông ấy chỉ hơi mệt một chút, giống như hôm trước, nhưng cũng không có gì đáng chú ý. Thấy vậy, cậu St. John hỏi ông có muốn cho gọi các cô về không thì ông chỉ cười. Hôm sau, lại thấy ông kêu nặng đầu – việc xảy ra cách đây nửa tháng – và rồi ông đi ngủ, nhưng không bao giờ dậy nữa. Khi anh cô vào thì đã thấy người ông cứng quèo ra rồi. Con gái ạ, ông cụ nhà ta là người cuối cùng trong gia hệ, vì các cô và cậu St. John đều không giống họ, mà giống về đằng mẹ nhiều hơn và cũng có vẻ chịu học hơn. Cô Mary giống bà như tạc,


còn Diana thì giống cha hơn. Tôi nghĩ họ giống nhau đến nỗi không thể nói bà đầy tớ già (tôi đoán vậy qua cách ăn nói của bà ta) thấy họ khác nhau ở điểm nào. Cả hai chị em đều có nước da mịn màng, dáng người mảnh mai, gương mặt thanh tú và thông minh. Chỉ có một điều chắc chắn là một cô có mái tóc sẫm màu hơn, và cách chải đầu của họ cũng có khác nhau. Mary có mái tóc màu nâu nhạt chải mượt sang hai bên, còn những lọn tóc màu sẫm của Diana thì để lòa xòa xuống tận gáy. Chuông đồng hồ ngân mười tiếng. - Tôi nghĩ chắc cô đang muốn một chút lót dạ. – Bà Hannah nói. – Và cả cậu St. John khi về chắc cũng thế thôi. Bà ta đi chuẩn bị bữa đêm. Hai cô gái đứng dậy như sắp lui vào phòng khách thì phải. Tôi mải để ý đến diện mạo và cuộc nói chuyện của họ đến nỗi quên khuấy cả hoàn cảnh khốn khổ của mình. Khi sực nhớ lại, và do sự tương phản về hoàn cảnh, tôi càng thấy tuyệt vọng hơn bao giờ hết. Làm sao những người trong ngôi nhà này có thể bận tâm tới cảnh ngộ của tôi, tin tình cảnh cùng quẫn của tôi là có thật, để rồi ban cho tôi một chỗ nghỉ sau những nẻo đường lang thang! Tôi mò lại gần cánh cửa và rụt rè gõ, trong lòng có cảm giác ý nghĩ sau cùng của mình hẳn sẽ chỉ là ngông cuồng. Bà Hannah ra mở cửa. - Cô muốn hỏi gì? – Bà già hỏi và ngắm nhìn tôi trong ánh đèn cầy cầm trên tay, giọng có vẻ rất ngạc nhiên. - Tôi có thể nói chuyện với các cô chủ của bà được không ạ? – Tôi hỏi. - Tốt hơn hết là cô cứ nói trực tiếp với tôi tất cả những gì cô định nói với họ. Mà cô ở đâu đến nhỉ? - Từ xa đến. - Muộn thế này rồi cô còn đến đây làm gì? - Tôi muốn xin ngủ nhờ qua đêm, ở nhà kho hay ở đâu cũng được, và muốn xin một mẩu bánh để ăn cho qua cơn đói. Nét mặt bà Hannah lộ rõ một vẻ hoài nghi, và đó chính là vẻ mặt tôi sợ nhất lúc này. “Tôi sẽ cho cô một miếng bánh, – bà ta đáp lời sau một lúc im lặng – nhưng chúng tôi không thể để một người lang thang vào ngủ nhờ


được. Như thế sẽ không tiện.” - Hãy cho tôi được nói chuyện với các cô chủ của bà. - Không, tôi không gọi đâu. Họ có thể giúp gì cho cô chứ? Cô không nên lang thang vào cái giờ này mới phải, vì như thế thì không có gì là hay cả. - Nhưng tôi còn biết đi đâu nếu bà cứ nhất nhất xua đuổi tôi? Tôi biết làm gì bây giờ? - Ơ kìa, tôi đảm bảo là cô thừa biết mình phải đi đâu và làm gì mà. Chỉ nên nhớ đừng có làm gì sai trái, thế thôi! Tôi cho cô một xu vậy… Bây giờ thì đi được rồi đấy. - Một xu thì tôi ăn gì được, mà tôi cũng chẳng còn sức để đi đâu nữa. Xin bà đừng đóng cửa! Lạy Chúa! Đừng đóng! - Tôi phải đóng cửa, không thì mưa hắt đầy nhà… - Hãy nói với các cô chủ hộ tôi… Hãy cho tôi được gặp các cô ấy… - Tôi sẽ không nói đâu. Cô không phải là người mà lẽ ra cô nên phải làm, nếu không thì cô đã chẳng làm ầm lên như vậy. Thôi, đi đi. - Nhưng tôi sẽ chết nếu phải rời khỏi đây. - Không chết được đâu. Tôi sợ là cô đang định giở trò gì xấu xa nên mới lảng vảng đến nhà người vào lúc đêm hôm như thế này. Nếu cô có đồng bọn – quân trộm cắp hay hạng người đại loại như vậy – thì hãy bảo cho chúng biết rằng trong cái nhà này không phải chỉ có mình chúng tôi đâu, mà còn có đàn ông, chó dữ và cả súng ống nữa đấy. Nói đến đây người đầy tớ thật thà nhưng cương quyết đóng sập cánh cửa lại và cài chặt then bên trong. Thế là hết. Một nỗi tuyệt vọng thực sự bắt đầu ập xuống đè nặng lên trái tim tôi. Tôi gục xuống thềm cửa ướt mèm, rên rỉ, khóc nấc lên đau đớn! Trời ơi, thần chết vẫn ám ảnh tôi! Giờ khắc cuối cùng đang tới một cách khủng khiếp làm sao! Than ôi, tại sao ai cũng chối bỏ tôi, để tôi cô đơn thế này! Không chỉ là một chút hi vọng, mà ngay cả sức chịu đựng của tôi cũng không còn, ít nhất là trong lúc này. Nhưng cuối cùng thì tôi cũng cố lấy lại bình


tĩnh. “Mình chỉ còn biết chết và tin ở Chúa thôi. Thôi thì hãy cứ nằm im mà chờ ý của Người.” Đó là những lời không chỉ nằm trong ý nghĩ của tôi, mà còn được tôi thốt ra thành lời. Để lắng đọng mọi nỗi khổ đau nơi đáy lòng, tôi gắng buộc chúng phải nằm yên một chỗ. - Chết thì ai chẳng phải chết, – có tiếng nói gần ngay bên tôi – nhưng không phải ai cũng buộc phải chết thảm như cô, nếu cô chết ở đây vì cùng quẫn. - Ai hay cái gì nói thế nhỉ? – Tôi hỏi và cảm thấy khiếp sợ trước câu nói bất ngờ ấy, vì bây giờ tôi không thể trông mong vào một sự cứu giúp nào nữa. Một hình bóng xuất hiện rất gần, nhưng tôi không thể phân biệt đó là hình gì vì đêm tối và mắt mờ. Hình hài mới đến đập cửa một lúc để gọi mở. - Có phải cậu đấy không, St. John? – Bà Hannah hỏi tướng lên. - Vâng, vâng, mở cửa nhanh lên. - Tôi mở ngay đây. Chắc cậu bị lạnh và ướt hết người rồi, vì mưa gió thế kia mà! Cậu vào đi… các em cậu đang lo cho cậu đấy, mà tôi cũng lo quanh đây hiện đang có kẻ xấu đấy. Vừa có một đứa ăn mày… mà sao nó vẫn chưa chịu đi, lại còn nằm ườn ra thế kia. Đứng dậy đi, đồ chết giẫm! Cút ngay, tôi đã bảo cơ mà! - Im nào, bà Hannah! Tôi đang định hỏi chuyện người phụ nữ này đây. Bà đã làm xong nhiệm vụ của bà là đuổi cô ta đi, còn bây giờ hãy để tôi được làm nhiệm vụ của mình là cho cô ta vào nhà. Tôi đứng gần đây nên đã nghe rõ hai người nói chuyện. Tôi nghĩ cô ta đang lâm vào một hoàn cảnh đặc biệt, ít nhất thì tôi cũng phải xem thực hư thế nào đã. Cô gái này, đứng dậy đi vào nhà trước tôi đi. Tôi khó nhọc làm theo lời người đàn ông. Một lát sau, tôi đứng giữa căn bếp sạch sẽ, ngay gần lò sưởi. Mặc dù run rẩy, u mê và kiệt sức, tôi vẫn ý thức được mình đang rơi vào điểm gút của sự cùng cực, thân tàn ma dại, bị mưa gió hành hạ. Hai cô gái, người anh của họ là St. John và người đầy tớ già đều đứng nhìn tôi chằm chặp.


- Ai thế, anh St. John? – Tôi nghe tiếng một người hỏi. - Không biết, anh về đến đây thì đã thấy cô ấy nằm ngoài cửa. - Người cô ta trắng bệch ra kìa! – Bà Hannah nói. - Trông cô ấy như cục đất sét hay người chết trôi ấy. – Vẫn giọng cô gái vừa nãy nói. – Cô ấy sắp ngã đấy, đỡ cô ấy ngồi xuống đi. Quả thực đầu óc tôi bắt đầu quay cuồng, điên đảo. Tôi khuỵu chân xuống, nhưng có một chiếc ghế đã kịp đỡ lấy tôi. Tôi vẫn còn ý thức được, chỉ có điều không thể nói được. - Có lẽ cho cô ấy uống một ngụm nước đi, như vậy sẽ tỉnh ngay thôi. Bà Hannah, lấy cho tôi cốc nước. Trông cô ta yếu quá, cứ như người mất máu ấy. - Nhìn có khác gì một bóng ma! - Cô ta ốm, hay chỉ bị đói thôi? - Anh nghĩ chắc bị đói. Bà Hannah, kia có phải là sữa không nhỉ? Đưa đây cho tôi, và thêm cả mẩu bánh mì nữa. Diana (tôi biết cô qua mái tóc sẫm rủ xuống giữa tôi và ngọn lửa khi cô cúi xuống tôi) bẻ một miếng bánh, nhúng vào sữa và đưa lên miệng tôi. Mặt cô ghé sát vào mặt tôi, vẻ thương hại. Tôi cảm nhận được sự thông cảm qua hơi thở gấp gáp của cô. “Chị cố mà ăn lấy một chút.” – Câu nói chân tình ấy của cô chủ nhà cũng hàm chứa một cảm xúc như một sự an ủi. - Phải đấy, cố lên! – Mary dịu dàng nhắc lại và cởi hộ tôi chiếc mũ ướt sũng ra, rồi khẽ đỡ lấy đầu tôi. Tôi trệu trạo nuốt những gì họ đưa cho, lúc đầu yếu ớt, nhưng sau đó ngấu nghiến hơn. - Lúc đầu không nên cho ăn nhiều, – người anh nói – hãm cô ấy lại đã. Cô ấy ăn thế là đủ rồi. Đoạn ông nhấc ly sữa và đĩa bánh đặt ra xa. - Thêm một chút nữa đi, St. John ạ, trông mắt cô ấy có vẻ vẫn thèm lắm. - Bây giờ đừng cho thêm gì nữa, em ạ. Thử xem cô ta đã nói được chưa,


hỏi tên cô ta là gì xem nào. Tôi cảm thấy mình đã có thể nói được, nên trả lời: “Tôi là Jane Ellio .” Để đề phòng bị phát hiện thân phận nên tôi đã định ra cái tên giả này từ trước. - Thế cô sống ở đâu? Bạn bè thân thích của cô ở đâu? Tôi yên lặng. - Chúng tôi có thể nhắn tin cho bất cứ người nào cô biết không? Tôi lắc đầu. - Cô có thể cho biết về cô được không? Không hiểu sao từ khi bước chân qua ngưỡng cửa ngôi nhà này và đối diện với các chủ nhân của nó, tôi bỗng không còn cái cảm giác mình là kẻ ăn mày lang thang, bị cả cái thế gian rộng lớn xua đuổi nữa. Tôi đã dám trút bỏ cái phận ăn mày lấy lại chính con người tự nhiên của mình. Tôi lại bắt đầu nhận ra chính mình, và khi ông St. John hỏi chuyện, thì tôi chỉ nói sau một lát im lặng, vì tôi còn quá yếu để có thể kể ra nông nỗi của mình: - Thưa ông, tối nay tôi chưa thể nói chuyện kỹ với ông được. - Nhưng cuối cùng thì cô chờ đợi chúng tôi giúp cô điều gì chứ? - Tôi chẳng cần gì cả. – Tôi trả lời. Sức tôi chỉ còn đủ để nói có bấy nhiêu. - Chị định nói chỉ cần chúng tôi giúp cô có thế này thôi phải không? Diana lên tiếng. – Rồi sau đó chúng tôi cứ việc đuổi chị đi ra ngoài đồng hoang trong lúc đêm hôm mưa gió chứ gì? Tôi ngây người nhìn cô gái. Phải nói cô có một khuôn mặt rất đáng chú ý, vừa có nét cương nghị lại vừa nhân hậu. Tôi bỗng cảm thấy mình can đảm hẳn lên. Đáp lại ánh mắt hàm chứa đầy lòng chắc ẩn của cô, tôi mỉm cười nói: “Tôi sẽ tin ở các cô. Nếu tôi có là một con chó lang thang vô chủ thì tôi biết, các cô cũng sẽ chẳng nỡ đuổi tôi ra khỏi cái lò sưởi đêm nay. Vì vậy tôi thực sự không còn sợ hãi điều gì nữa. Mọi người cứ việc đối xử với tôi thế nào tùy ý, nhưng bây giờ hãy cho phép tôi đỡ chuyện đi một chút. Quả thực là tôi cũng chẳng còn mấy hơi, khi cất lên lời, tôi thấy đau thắt hết cả người.”


Cả ba đứng nhìn tôi, không ai nói gì thêm. - Bà Hannah này, – cuối cùng St. John lên tiếng – bây giờ hãy cứ để cô ấy ngồi đây và đừng có hỏi han gì cả. Khoảng mười phút nữa, bà chịu khó cho cô ấy ăn nốt chỗ sữa còn lại nhé. Diana, và cả Mary nữa, ta sang phòng khách nói chuyện đi. Họ lui cả ra ngoài. Nhưng một lát sau đã thấy một cô gái quay trở lại, tôi không nhìn rõ là cô nào. Bếp lửa hồng cho tôi một cảm giác lâng lâng dễ chịu. Cô gái thì thầm chỉ bảo bà Hannah mấy câu. Sau đó người đầy tớ già dìu tôi lên cầu thang. Bộ đồ ẩm ướt bẩn thỉu trên người tôi được thay ra, và tôi được đặt vào một cái giường khô ráo, ấm áp. Tôi cảm tạ Chúa và nhanh chóng thiếp đi trong tình trạng còn rất mệt.



Chương 29 Hồi ức về ba ngày đêm tiếp theo đó giờ chỉ còn hiện lên rất lờ mờ trong tâm trí tôi. Tôi có thể hồi tưởng một vài cảm xúc trong quãng thời gian ấy, nhưng cũng chỉ mang máng được một vài ý nghĩ và chẳng nhớ rõ mình đã làm gì. Tôi biết mình nằm trên một cái giường hẹp, trong một căn phòng nhỏ. Cái giường có vẻ đã trở thành một chỗ dựa cho tôi lúc ấy. Tôi nằm vô cảm như một tảng đá, và nếu lôi tôi ra khỏi giường thì cũng gần như là giết chết tôi. Tôi chẳng cần biết gì đến thời gian, đến sự thay đổi từ sáng đến trưa, từ trưa đến tối. Khi có người vào hoặc ra khỏi căn phòng, tôi cứ nằm im mà nhìn. Tôi vẫn có thể nhận ra từng người, vẫn hiểu được lời họ nói nếu họ đến hỏi han, chỉ có điều tôi không thể cất tiếng trả lời hay cử động chân tay được. Bà Hannah là người vào thăm tôi nhiều nhất, nhưng cũng lại làm tôi cảm thấy phiền nhất. Tôi có cảm giác bà không hiểu tôi hoặc hoàn cảnh của tôi, có thành kiến đổi với tôi và chỉ muốn tôi rời khỏi nhà. Ngày nào Diana và Mary cũng vào phòng tôi một hai lần. Đứng bên giường tôi, họ khẽ thì thầm với nhau những câu đại loại như thế này: - Thật may mắn khi chũng ta cho cô ấy vào nhà. - Ừ, nếu cứ bị bỏ mặc ở ngoài cửa suốt đêm thì chắc là sáng ra, cô ấy đã chết cứng rồi. Không hiểu làm sao cô ấy lại đến nông nỗi này. - Chị nghĩ chắc cô ấy gặp chuyện gì khốn khổ lắm. Thật tội nghiệp cho một cô gái lang thang, ốm yếu, gầy mòn! - Em nghĩ qua cách ăn nói thì cô ấy không phải là người không có giáo dục, giọng cô ta trong sáng lắm. Nhìn cách ăn mặc của cô ấy cũng vậy, dù quần áo ướt át và lấm bùn đất nhưng vẫn thấy còn khá mới và đẹp nữa. - Cô ấy có khuôn mặt đặc biệt thật, trông phờ phạc và ủ dột, nhưng chị vẫn thấy thích. Khi nào cô ta khỏe mạnh tỉnh táo trở lại, hẳn khuôn mặt ấy trong phải dễ chịu lắm. Trong cuộc nói chuyện của hai chị em họ, tôi chưa một lần nghe thấy họ thốt ra một lời nào tỏ ý hối tiếc về việc cho tôi vào nhà, hoặc nghi ngờ, hoặc có ác cảm với tôi. Như vậy tôi cũng cảm thấy được an ủi phần nào. Ông St. John chỉ vào phòng tôi có một lần. Ông nhìn tôi và bảo tình


trạng hôn mê của tôi là kết quả phản ứng của tinh thần mệt mỏi và kiệt sức liên miên và thái quá, vì vậy không cần phải mời thầy thuốc, cứ để tôi nghỉ là tự khắc sẽ bình phục. Ông nói các dây thần kinh của tôi đã bị quá căng thẳng, và toàn bộ hệ thần kinh cần phải được nghỉ ngơi một thời gian, chứ tôi chẳng có bệnh tật gì cả, khi nào bắt đầu bình phục thì tôi sẽ lại sức rất nhanh. Ông chỉ nêu ý kiến của mình bằng vài lời nhỏ nhẹ, điềm tĩnh. Sau một lát im lặng, ông nói tiếp bằng giọng của một người không nhiều lời rằng vẻ mặt tôi “hơi đặc biệt có nét cho thấy chắc chắn không phải là người hèn mọn hay không có đạo đức”. - Có vẻ như thế lắm! – Diana đáp lại. – Thật lòng mà nói thì, anh St. John ạ, em rất thông cảm với cô gái khốn khổ này. Em chỉ mong sao chúng ta giúp đỡ được cô ấy dài dài. - Cũng khó đấy! – Ông St. John trả lời. – Rồi em sẽ thấy cô ấy là một cô gái có chuyện hiểu lầm với người thân, rồi giận dỗi bỏ đi. Có lẽ chúng ta sẽ khuyên được cô ấy trở lại với họ nếu cô ấy không phải là người quá ngang bướng. Quả thực là khi nhìn nét mặt cương nghị của cô ấy, anh không khỏi nghi ngờ về khả năng nghe lời của cô ấy. – Ông đứng nhìn tôi vài phút rồi nói thêm “Trông cô ấy quả là người nhạy cảm, nhưng không đẹp chút nào.” - Kìa St. John, trông cô ấy ốm thế kia mà. - Ốm hay khỏe thì cũng thế thôi. Khuôn mặt của cô ấy thiếu cái hài hòa của sắc đẹp. Sang ngày thứ ba, tôi cảm thấy mình đã khá hơn. Đến ngày thứ tư, tôi đã có thể nói, cử động, ngồi dậy và ngó nghiêng được. Vào giờ ăn mà tôi đoán là bữa chiều, bà Hannah mang đến cho tôi bánh mì nướng và cháo yến mạch. Tôi ăn ngon lành, không còn cảm thấy cái vị đắng do cơn sốt gây ra như mấy hôm trước. Khi người đầy tớ già lui ra, tôi cảm thấy mình tương đối khỏe khoắn và tỉnh táo lại. Tôi bắt đầu cảm thấy ngứa ngáy, muốn động chân động tay và chán phải nằm ì mãi một chỗ. Tôi muốn đứng dậy, nhưng không biết phải ăn mặc thế nào. Tôi chỉ còn mỗi bộ áo váy, nhưng lại vừa ướt vừa bẩn thỉu vì những lần lăn lê trên mặt đất và đồng lầy. Nếu khoác lên mình bộ đồ đó để ra mắt các ân nhân của mình thì thật là ngượng. Nhưng rồi tôi cũng không đến nỗi mất thể diện. Tất cả bộ đồ của tôi đều đã được giặt sạch, phơi khô và được đặt ngay trên mặt ghế cạnh giường tôi từ lúc nào. Chiếc áo lụa đen của tôi cũng được


treo trên tường, dấu vết của những lần lăn lộn, bùn đất, ẩm ướt không còn nữa. Cả đôi giày cũng được lau chùi và bít tất cũng được giặt sạch sẽ. Tất cả trông cũng không đến nỗi nào. Trong phòng tôi lại có đủ những đồ dùng vệ sinh cá nhân, một chiếc lược và một chiếc bàn chải để chải đầu. Phải mất một lúc lâu, và cứ năm phút lại phải nghỉ một chút, tôi mới mặc xong quần áo. Tôi gầy rộc đi nên áo mặc vào rộng thùng thình, khiến tôi phải quấn cả chiếc khăn choàng vào người để trông cho dễ chấp nhận. Và khi cảm thấy người đã sạch sẽ và khả kính – không còn dấu vết bùn đất và thói luộm thuộm mà tôi vốn rất ghét, vì thấy nó có vẻ luôn làm giảm giá trị của tôi – tôi mới bám tay vịn cầu thang, bước xuống một hành lang thấp và hẹp, tìm đường vào bếp. Mùi bánh mới trong bếp tỏa ra cùng hơi lửa ấm nồng. Bà Hannah đang nướng bánh. Rõ ràng là tiệt trừ những thành kiến thâm căn cố đế ăn sâu vào đầu óc những người không được học hành, giáo dục là một điều vô cùng khó khăn, bởi những thành kiến ấy có khác nào những đám cỏ dại mọc sâu vào giữa đống đất đá. Quả thực lúc đầu, bà Hannah luôn có vẻ lạnh lùng và cứng nhắc đối với tôi, chỉ sau đó ít lâu bà mới dễ tính hơn một chút, nhất là khi trong thấy tôi ăn mặc sạch sẽ như bây giờ, thậm chí bà còn mỉm cười với tôi nữa. - Chà chà, cô đã dậy được rồi cơ đấy! – Bà nói – Trông cô cũng có vẻ khá hơn thật! Nếu muốn thì cô có thể ngồi vào cái ghế của tôi cạnh lò sưởi kia kìa. Bà chỉ cho tôi chiếc ghế xích đu rồi lại tiếp tục loay hoay với công việc của mình, thỉnh thoảng lại liếc mắt nhìn tôi. Tôi nhẹ nhàng ngồi vào chiếc ghế. Trong lúc lấy mấy cái bánh ở lò ra, bà quay lại hỏi tôi, giọng rất thật thà: - Trước khi đến đây, cô đã đi ăn mày bao giờ chưa? Tôi bực mình mất một lúc, nhưng khi nhớ ra rằng tức giận là điều không nên – mà cũng đúng là lúc mới gặp bà, bộ dạng tôi có khác gì một kẻ ăn mày – tôi bèn bình tĩnh trả lời, nhưng không phải là không tỏ ra cứng rắn: - Nếu nghĩ tôi là kẻ ăn mày thì bà đã nhầm đấy! Tôi không phải là ăn mày, tôi cũng đâu có khác gì bà và các cô chủ của bà. Sau một lát im lặng, bà nói tiếp: “Tôi thật chưa hiểu gì về cô. Tôi đoán cô không có nhà, cũng không có tiền, đúng không?”


- Không có nhà, không có tiền thì cũng chẳng đến nỗi phải đi ăn mày như bà nghĩ. Thế cô có biết chữ không? – Bà hỏi luôn - Có chứ, nhiều nữa là đằng khác. - Nhưng cô có đến trường bao giờ đâu nhỉ! - Có, tôi đã ở trường tám năm. Bà già tròn mắt ngạc nhiên. “Thế thì làm sao cô lại không tự nuôi thân được?” - Thì tôi vẫn tự nuôi thân đấy chứ! Và tôi tin là mình vẫn có thể tự nuôi thân. Mà bà lấy những quả lý gai kia để làm gì đấy? – Tôi lái câu chuyện sang một hướng khác khi thấy bà đem ra một rổ quả. - Để làm nhân bánh nướng thôi. - Vậy thì để tôi nhặt cho. - Không, bây giờ tôi không muốn cô làm việc gì cả. - Nhưng tôi phải làm một cái gì chứ! Bà cứ để tôi làm. Bà bằng lòng, và thậm chí còn đưa cho tôi một chiếc khăn sạch để choàng ngoài áo. Bà bảo làm thế “cho khỏi bẩn áo”. - Nhìn bàn tay cô, tôi thấy cô có vẻ không quen làm rồi. – Bà nhận xét. – Hay là cô làm nghề khâu vá? - Không, bà lại nhầm rồi! Thôi, bây giờ bà cũng đừng nên bận tâm về việc trước đây tôi đã làm gì, đừng nặng đầu về chuyện của tôi nữa, mà hãy cho tôi biết tên nhà này là gì đi. - Người thì gọi là Marsh-End, người thì gọi là Moor House. - Và người chủ sống ở đây tên là St. John? - Không, ông ấy không ở đây, mà chỉ lưu lại dăm bữa rồi lại về nhà riêng ở xứ đạo của ông ở Morton.


- Ngôi làng nằm cách đây vài dặm chứ gì? - Phải rồi! - Thế ông ấy làm gì? - Ông ấy là cha xứ. Tôi nhớ lại câu trả lời của bà quản gia già ở xứ đạo ấy, khi tôi gõ cửa xin được gặp vị cha xứ. “Vậy đây là nhà cha ông ấy ứ?” – Tôi hỏi. - Phải rồi, ông già Rivers từng sống ở đây, và cả các tiền nhân của ông cũng vậy. - Vậy cha xứ tên là St. John Rivers? - Phải rồi, St. John là tên thánh lễ của ông ấy. - Còn các em ông ấy tên là Diana và Mary Rivers phải không? - Đúng thế! - Cha họ đã mất rồi à? - Mới mất được ba tuần thôi, vì tai biến mạch máu não. - Thế họ cũng không còn mẹ ư? - Bà mẹ đã chết lâu rồi. - Bà sống với gia đình này cũng lâu rồi chứ? - Được ba mươi năm rồi. Tôi là người đã nuôi anh em nhà ông St. John từ khi họ còn bé. - Điều đó chứng tỏ bà là người đầy tớ thật thà và trung thành. Tôi khâm phục bà, cho dù bà đã thiếu lịch sự khi gọi tôi là ăn mày. Bà lại tròn mắt nhìn tôi vẻ ngạc nhiên: “Tôi tin là mình đã hoàn toàn sai khi nghĩ về cô như vậy. Nhưng hiện ở đây có nhiều trộm cắp quá! Mong cô đừng chấp.”


- Và cho dù bà đã định đuổi tôi khỏi cửa, – tôi tiếp tục, vẻ mặt hơi nghiêm lại – vào một đêm mà ngay cả đối với một con chó người ta cũng không nỡ làm thế. - Vâng, như thế thì tệ thật, nhưng biết làm sao được? Tôi nghĩ đến bọn trẻ là chính, chứ đâu nghĩ cho riêng mình. Không phải tôi thì còn ai quan tâm chăm lo cho họ nữa. Nếu tôi có khó tính thì chắc cũng đúng thôi. Tôi không nói gì, mặt vẫn làm vẻ nghiêm nghị thêm vài phút nữa. - Cô đừng nên nghĩ quá về tôi như vậy nữa. – Người đầy tớ già nói tiếp. - Tôi có giận bà cũng chẳng có gì lạ. – Tôi đáp lại – Để tôi nói cho bà hiểu tại sao. Tôi giận bà một phần vì bà đã từ chối không cho tôi tá túc qua đêm hoặc coi tôi là kẻ mạo danh, một phần là vì vừa rồi bà đã coi khinh tôi là kẻ vô gia cư và không có “đồng” nữa. Thiếu gì người tốt cũng sống khổ sở như tôi chứ! Nếu là một con chiên của Thiên Chúa thì bà hãy đừng nên coi nghèo khổ là một tội lỗi. - Tôi sẽ không nghĩ như vậy nữa. Ông St. John cũng bảo tôi như vậy mà. Tôi biết là mình sai, và bây giờ thì tôi đã nghĩ về cô khác trước rồi. Trông cô đúng là người tử tế thật! - Thôi được rồi, bây giờ tôi sẽ bỏ qua cho bà, ta bắt tay nhau nhé! Bà đặt bàn tay xù xì, dính đầy bột vào tay tôi, khuôn mặt thô kệch rạng một nụ cười thật thà. Chúng tôi bắt đầu thân thiện với nhau kể từ đó. Rõ ràng Hannah là người rất hay chuyện. Trong khi tôi nhặt rổ quả thì bà nhào bột làm bánh nướng. Vừa làm, bà vừa kể tỉ mỉ cho tôi nghe chuyện về ông bà chủ đã mất và về “bọn trẻ” – tức là về ông St. John và hai cô gái theo cách gọi của bà. Theo lời bà kể thì ông cụ Rivers là người giản dị, nhưng vẫn mang phong cách thượng lưu, thuộc một danh gia vọng tộc lâu đời. Từ khi được dựng lên đến nay, Marsh-End vẫn thuộc về gia đình Rivers, và theo bà khẳng định thì ngôi nhà “đã có trên hai trăm tuổi rồi, mặc dù trông nó nhỏ bé, đơn giản, không sánh được với lâu đài của ông Oliver ở dưới thung lũng Morton”. Nhưng bà còn nhớ cha ông Bill Oliver là một thợ làm kim khâu, còn dòng dõi Rivers thì được tôn vinh từ thời vua Henry, nếu ai muốn biết thì cứ việc vào


nhà thờ Morton mở các cuốn phả hệ ra mà xem. Tuy vậy, bà vẫn thừa nhận ông chủ cũng “bình dị như mọi người, thích đi săn, làm nông trang và những việc đại loại như thế.” Còn bà chủ thì lại khác. Bà ham đọc sách, thích nghiên cứu. “Lũ trẻ” cũng giống bà. Từ trước tới giờ, ở cái xứ đạo này chẳng có ai được như họ. Cả ba anh em đều ham học gần như ngay từ khi mới bi bô tập nói. Và họ luôn chứng tỏ được dòng dõi của mình. Lớn lên, ông St. John muốn học trở thành cha xứ, còn các cô con gái thì cũng đã kiếm chỗ làm gia sư ngay sau khi rời khỏi nhà trường. Các cô bảo bà rằng mấy năm trước, cha các cô đã mất một khoản tiền lớn vì cả tin ở một kẻ vỡ nợ, và sau đó ông không đủ giàu để chia của cho các con. Chính vì vậy mà các cô phải tự liệu đường sống cho mình. Chẳng mấy khi thấy các cô ở nhà lâu, và hiện giờ các cô chỉ ở lại vài ba tuần để lo việc hậu sự cho cha. Nhưng dù thế nào thì họ cũng rất yêu Marsh-End và Morton, và tất cả những ngọn đồi, đồng lầy quanh vùng. Dù đã từng sống ở Luân Đôn và nhiều thành phố khác, nhưng họ vẫn luôn nói rằng chẳng ở đâu bằng nhà mình. Mấy anh em họ thương yêu nhau lắm, chẳng bao giờ thấy họ xích mích cãi cọ nhau. Bà chưa thấy có nhà nào hòa thuận như vậy. Nhặt xong mớ quả lý gai, tôi hỏi bà hai cô con gái và ông anh của họ hiện đang đi đâu. - Đi bộ tới Morton chơi, nhưng nửa tiếng nữa thế nào họ cũng về uống trà. Họ đã về đúng như lời bà Hannah. Họ vào nhà theo lối cửa bếp. Trông thấy tôi, St. John chỉ khẽ chào, rồi lại đi thẳng. Nhưng hai cô em gái thì dừng lại. Mary nói với tôi vài lời ân cần, tử tế, tỏ ý vui mừng vì thấy tôi đã khỏe và xuống dưới nhà được. Còn Diana thì nắm láy tay tôi và lắc đầu nhìn tôi. - Lẽ ra chị nên đợi tôi cho phép rồi mới được xuống. – Cô gái nói. – Trông chị vẫn xanh lét và gầy tong teo kia kìa! Khổ quá đi mất. Giọng Diana nghe như tiếng chim bồ câu. Cô có đôi mắt mà tôi rất thích nhìn, có khuôn mặt mà tôi thấy dường như lúc nào cũng toát lên một vẻ rất duyên. Mary cũng là người có gương mặt thông minh và đẹp chẳng kém gì cô chị, nhưng ít bộc lộ cảm xúc hơn, và ngay cả cử chỉ của cô – dù vẫn nhã nhặn – nhưng luôn có vẻ có một khoảng cách. Giọng nói và ánh mắt của Diana luôn tỏ ra có một uy lực nhất định nào đó, nó cho thấy cô là một người sống nhiều bằng lý trí.


- Mà chị xuống đây có việc gì nhỉ? – Diana nói tiếp. – Đây không phải là chỗ của chị. Thỉnh thoảng tôi và Mary cũng vào bếp ngồi, vì ở nhà chúng tôi vẫn thích được thoải mái, tự do. Nhưng chị là khách nên phải vào phòng khách chứ. - Tôi cảm thấy dễ chịu khi vào đây. - Không có đâu... Bà Hannah thì tối mặt vì công việc, và chưa biết chừng còn làm người chị dính đầy bột ấy chứ. - Vả lại, ở đây còn quá nóng đối với chị nữa chứ. - Đúng là như vậy. Ra khỏi đây thôi, chị nên nghe chúng tôi. – Cô chị tiếp lời và nắm tay kéo tôi đứng dậy, dắt vào phòng trong. “Chị hãy ngồi xuống đây! – Cô nói và đặt tôi ngồi vào ghế xô pha – đợi chúng tôi thay đồ và pha trà. Trong cái nhà giữa chốn đồng hoang này, chúng tôi còn có một thú vui là tự chuẩn bị lấy bữa ăn nếu cảm thấy thích, hoặc nếu bà Hannah bận làm bánh, giặt giũ hay là quần áo. Đoạn cô đóng cửa, để tôi ngồi lại một mình với ông St. John – người đang ngồi trước mặt tôi, tay cầm một quyển sách hay một tờ báo. Tôi quan sát căn phòng rồi nhìn ông. Phòng khách là một phòng khá hẹp, chẳng có mấy đồ đạc, nhưng trông cũng dễ chịu vì sạch sẽ và ngăn nắp. Bộ bàn ghế cổ được đánh sạch bóng, mặt bàn gỗ hồ đào sáng như gương. Trên bức tường sơn được trang trí bằng vài tấm chân dung cổ lạ lẫm của những người đàn ông, đàn bà thời nào đó. Một chiếc tủ gỗ cửa kính đặt một vài cuốn sách và một bộ đồ sứ cổ. Căn phòng không bày thừa một đồ vật nào, cũng không có đồ đạc nào mang phong cách hiện đại, trừ hai hộp đồ khâu và một chiếc bàn nhỏ gỗ hồng dùng cho phụ nữ. Mọi thứ – kể cả thảm và rèm cửa – đều toát lên một vẻ cổ kính, được giữ gìn cẩn thận. Tôi có thể dễ dàng quan sát ông St. John, vì ông ngồi im lặng như một bức tranh đã xỉn màu treo trên tường, mắt chăm chú nhìn vào trang sách mà ông đang nghiền ngẫm, cặp môi mím chặt. Nếu ông là một pho tượng thay vì một con người thì việc quan sát ông cũng chẳng thể dễ hơn như vậy. Ông còn trẻ, có lẽ chỉ tầm hăm tám ba mươi, người cao, mảnh khảnh. Ông có khuôn mặt thu hút sự chú ý của bất cứ ai, mang nét điển hình của một người Hy Lạp, nét đường viện rất thuần khiết, mũi thẳng theo kiểu cổ điển, miệng


và cằm y như của người dân thành Athen. Quả thực là rất ít khi gặp một người Anh nào lại có nét gần gũi với những mẫu người cổ xưa như ông. Ông chê khuôn mặt tôi thiếu cân xứng cũng phải thôi, bởi khuôn mặt ông cân đối hài hòa thế kia mà! Mắt ông to và xanh, lông mi màu hạt dẻ, vầng trán cao trắng như ngà bị che lấp đôi chút bởi những sợi tóc mềm lòa xòa rủ xuống. Quả là một người thuộc dòng dõi trâm anh thế phiệt, phải không bạn đọc? Tuy nhiên, một người đàn ông như thế chưa chắc đã gây cho ta ấn tượng về một tính cách dịu dàng, mềm mỏng và mẫn cảm. Mặc dù ông ngồi im, nhưng khuôn mặt, khóe mắt, cái mũi và vầng trán ông vẫn có một cái gì chứng tỏ một bản tính năng động, hoặc cứng rắn, hoặc nhiệt thành trong con người ông. Ông không hề nói với tôi một câu, cũng chẳng nhìn về phía tôi một lần nào cho đến khi hai cô em gái ông xuất hiện trở lại. Trong lúc bận chuẩn bị trà, Diana đã mang cho tôi một chiếc bánh nhỏ lấy từ trên mặt lò. - Ăn đi, – Cô nói – Chắc chị đói lắm nhỉ. Bà Hannah bảo từ lúc điểm tâm đến giờ chị mới ăn có ít cháo yến mạch thôi. Tôi không từ chối, vì quả thực là tôi rất đói. Chỉ đến lúc ấy ông Rivers mới gấp sách lại, bức đến bên cạnh bàn, ngồi xuống ghế và chăm chăm nhìn tôi bằng cặp mắt xanh lơ, đẹp như tranh vẽ. Cái nhìn của ông có vẻ thẳng thắn, không có gì là kiểu cách, săm soi, cương nghị, chứng tỏ việc ông không ngó ngàng gì đến một kẻ xa lạ như tôi từ nãy đến giờ là có chủ định, chứ không phải vì ngượng nghịu gì. - Cô đang rất đói. – Ông nói. - Vâng, thưa ông. – Tôi đáp lại đúng như thói quen có từ bé của mình: chỉ trả lời vắn tắt những câu hỏi vắn tắt, trả lời thẳng thắn những câu hỏi thẳng thắn. - Cô buộc phải ăn uống vừa phải vì cơn sốt nhẹ trong suốt ba hôm vừa rồi, như thế mới tốt. Sẽ thật nguy hiểm nếu cô muốn thỏa mãn cái đói ngay từ đầu. Bây giờ cô có thể ăn bù được rồi, nhưng cũng nên có chừng mực thôi. - Tôi tin là mình sẽ không phải ăn nhờ ông mãi, thưa ông. – Tôi trả lời vụng về và khiếm nhã. - Không! – Ông nói, giọng lạnh tanh. – Khi nào cô cho chúng tôi biết địa chỉ của người thân, chúng tôi có thể viết thư báo cho họ, và cô sẽ được trở về


nhà. - Thưa ông, tôi rất buồn khi phải nói với ông rằng điều đó không nằm trong khả năng của tôi, vì đơn giản là tôi hoàn toàn không có nhà cửa và người thân. Cả ba người đều nhìn tôi, nhưng không có vẻ gì là hoài nghi cả. Tôi cảm thấy trong cái nhìn của họ không có sự nghi ngờ, có chăng chỉ là sự tò mò mà thôi, nhất là các cô gái. Đôi mắt của St. John quả thực là trong sáng theo nghĩa đen, nhưng lại rất khó hiểu theo nghĩa bóng. Có vẻ như ông quen dùng con mắt làm công cụ dò tìm ý nghĩ của người khác hơn là một đại diện bộc lộ suy nghĩ của mình. Sự nhạy bén và kín đáo trong cái nhìn của ông dễ làm người khác bối rối hơn là được khích lệ. - Cô muốn nói rằng cô hoàn toàn bị cô lập với tất cả các mối quan hệ họ hàng thân thích? - Vâng, tôi không có quan hệ họ hàng thân thích với bất cứ một người đang sống nào, và cũng chẳng có quyền đòi hỏi được thừa nhận dưới một mái nhà nào ở nước Anh cả. - Quả là trường hợp hiếm có ở cái tuổi như cô! Tôi thấy ông đưa mắt nhìn hai bàn tay tôi, khi tôi đang chắp tay đặt trên bàn trước mặt. Tôi tự hỏi không hiểu ông đang có ý gì, nhưng câu nói của ông đã giải thích ngay cho cái ánh mắt ấy. - Cô chưa bao giờ lập gia đình chứ? Hiện cô vẫn sống độc thân? Diana bật cười, “Sao cơ, anh St. John, chị ấy chỉ độ mười bảy, mười tám tuổi là cùng.” - Tôi gần mười chín rồi, nhưng vẫn chưa lấy chồng. Tôi cảm thấy mặt mình nóng bừng lên, vì câu hỏi của ông đã vô tình làm thức dậy hồi ức cay đắng trong tôi. Cả ba anh em đều nhìn thấy tôi xúc động, bối rối. Để tôi bình tâm lại, Diana và Mary quay đi, tránh nhìn vào bộ mặt đỏ bừng của tôi, nhưng người anh trai lạnh lùng và nghiêm trang của họ thì vẫn cứ nhìn tôi chằm chằm, cho đến khi sự bối rối mà ông gây cho tôi khiến tôi phát khóc.


- Trước khi đến đây thì cô ở đâu? – Ông hỏi. - Kìa, anh St. John, anh cứ vặn vẹo chị ấy làm gì? – Mary khẽ nói, nhưng St. John vẫn nhoài người lên mặt bàn đợi câu trả lời của tôi bằng ánh mắt cương quyết. - Sống ở đâu và sống với ai là chuyện riêng mà tôi không muốn nói. – Tôi trả lời ngắn gọn. - Theo tôi nghĩ thì nếu muốn, chị có quyền giữ kín, không phải nói cho anh St. John hay bất cứ ai biết hết. – Diana lưu ý tôi. - Nhưng nếu tôi không biết gì về cô hoặc về cảnh ngộ của cô, – St. John nói. – thì tôi làm sao mà giúp đỡ cô được. Mà cô thì lại đang cần được giúp đỡ, đúng không? - Vâng, tôi đang cần sự giúp đỡ và sẽ đi tìm người giúp đỡ mình, thưa ông, cho tới khi nào có người thật giàu lòng nhân ái kiếm cho một công việc mà tôi có thể làm được. Số tiền lương từ công việc ấy sẽ nuôi sống tôi, ít nhất là thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu của tôi. - Không biết tôi có phải là người thực sự giàu lòng nhân ái không, nhưng để thực hiện một mục đích nhân đạo như vậy, tôi sẽ vui lòng đem hết khả năng giúp đỡ cô. Trước hết, cô hãy cho tôi biết cô quen làm gì, và có thể làm được việc gì. Dùng trà xong, tôi cảm thấy mình khỏe hẳn lên giống như một người khổng lồ sau buổi tiệc rượu. Cốc trà đã giúp các dây thần kinh ẽo uột của tôi như lại được căng lên, mang đến cho tôi sự điềm tĩnh để đối đáp với vị quan tòa trẻ tuổi ghê gớm kia. - Thưa ông Rivers, – quay lại phía ôn g, và cũng như ông, mắt nhìn thẳng không ngại ngùng, tôi nói – ông và các cô em ông đã giúp tôi một việc cao cả, cao cả nhất mà con người có thể làm được cho đồng loại, ấy là cứu tôi thoát chết bằng chính tấm lòng nhân ái của mình. Vì ân huệ ấy mà ông và hai cô có quyền đòi hỏi sự biết ơn vô hạn của tôi, và buộc tôi phải bày tỏ tâm sự của mình ở một mức độ nhất định. Tôi sẽ nói để ông và hai cô rõ về cảnh ngộ của một kẻ lang thang đã được ông và hai cô cứu mạng. Tôi sẽ kể ở một mức độ không làm ảnh hưởng đến sự thanh thản của đầu óc tôi, sự an toàn về tinh thần cũng như về thể xác của tôi cũng như của người khác. Tôi là đứa


mồ côi, và là con gái một vị mục sư. Cha mẹ tôi chết từ khi tôi còn chưa đủ ý thức nhận biết họ. Tôi lớn lên như một kẻ sống nhờ, rồi được ăn học ở một trường từ thiện. Đó là Viện mồ côi Lowood, do ông Robert Brocklehurst làm quản lý, chắc ông cũng đã được nghe nhắc đến? Tôi đã từng sống ở đó suốt tám năm trời, sáu năm là học sinh và hai năm là cô giáo. - Tôi có nghe nói về ông Brocklehurst và cũng đã có lần đến thăm cái trường ấy. - Tôi rời Lowood để làm nghề gia sư đã được gần một năm. Đó là một nơi làm tốt, tạo cho tôi một cuộc sống vui vẻ. Tôi buộc phải rời bỏ nơi ấy bốn ngày trước khi đến đây. Tôi không muốn và cũng không nên nói ra lý do khiến tôi phải ra đi, vì có nói cũng chẳng giải quyết vấn đề gì... có khi còn gây nguy hiểm cho tôi và thậm chí còn có vẻ khó tin nữa. Nhưng tôi chẳng làm nên điều gì đáng trách, tôi trong sạch như bất cứ người nào trong số ông và hai cô đây. Tôi đã lâm vào cảnh khốn khổ và chắc là sẽ còn khốn khổ một thời gian nữa, vì cái tai họa khiến tôi phải rời khỏi cái nơi mà tôi thấy như một thiên đường ấy quả thực là rất kỳ lạ và kinh khủng. Khi bỏ đi, tôi chỉ nghĩ đến hai điều, ấy là làm sao đi cho thật nhanh, thật kín đáo. Để làm được như vậy, tôi đã phải bỏ lại tất cả những gì tôi có và mang theo một gói nhỏ mà sau đó, trong lúc vội vã và bối rối, tôi đã bỏ quên trên chiếc xe ngựa chở tôi đến Whitcross, để rồi khi đến vùng này, tôi đã chẳng còn một thứ gì trong người. Tôi đã phải sống cảnh màn trời chiếu đất hai đêm, và lang thang hai ngày mà không hề được bước qua ngưỡng cửa bất cứ một ngôi nhà nào. Trong quãng thời gian ấy, tôi chỉ được ăn có hai lần. Và chính vào lúc tôi đói khát, thân tàn ma dại và tuyệt vọng nhất, gần như chỉ còn thở thoi thóp, thì ông, ông Rivers ạ, ông đã cứu tôi ngay trước cửa nhà ông và cho tôi được nương nhờ dưới mái nhà ông. Tôi cũng biết rất rõ những việc các em ông đã làm cho tôi kể từ lúc ấy, mặc dù có những lúc tôi có vẻ bất tỉnh nhân sự, mê mệt và chẳng còn cảm giác gì. Tôi thật biết ơn tấm lòng từ bi, độ lượng và sự thương cảm của ông và các em ông. - Đừng bắt chị ấy phải nói nữa, anh St. John. – Diana nói khi tôi vừa ngớt lời. – Rõ ràng là cô ấy chưa khỏe, không nên để cô ấy bị xúc động mạnh. Elliott này, chị ra ghế xô pha mà ngồi đi. Tôi hơi giật mình khi nghe cô gọi mình bằng cái tên giả, thú thực là tôi đã quên khuấy mất cái tên mới của mình. Hình như không có cái gì thoát khỏi mắt ông Rivers thì phải, bởi tôi thấy ông lại chất vấn:


- Cô bảo tên cô là Jane Elliott? - Đúng là tôi đã nói vậy. Thực tình mà nói thì đó chỉ là cái tên tôi mới nghĩ ra để gọi cho tiện vì không phải là tên thật của mình nên tôi cứ thấy là lạ khi nghe nhắc đến. - Có nghĩa là cô không muốn nói tên thực của mình? - Vâng, tôi sợ cái tên thật sẽ khiến tôi dễ bị lộ thân phận nhất. Chính vì vậy, tôi không muốn có bất cứ một tiết lộ nào có thể dẫn đến điều đó. - Tôi tin là chị hoàn toàn có lý. – Diana nói. – Thôi, đừng hỏi nữa anh, để cho chị ấy nghỉ một lát. Nhưng sau một lúc suy tưởng, St. John lại bắt đầu lên tiếng bằng cái vẻ thản nhiên và nhạy cảm như thường. - Cô không thích phụ thuộc mãi vào lòng hiếu khách của chúng tôi, tôi biết, cô cũng muốn không phải phụ thuộc vào sự thương cảm của các em và đặc biệt là lòng từ bi của tôi càng sớm càng tốt (tôi hoàn toàn hiểu được cách nói của cô, điều đó cũng đúng thôi, và tôi sẽ không lấy làm khó chịu). Vậy có muốn độc lập với chúng tôi? - Vâng, tôi cũng đã nói rồi. Chỉ mong ông hãy bảo tôi cách đi làm hoặc tìm giúp tôi một công việc gì đấy, đó là tất cả những gì tôi mong muốn. Sau đó xin phép cho tôi đi, cho dù tôi phải sống trong một túp lều tồi tàn nhất cũng được, nhưng từ nay đến lúc đó, hãy cho phép tôi được nán lại đây. Thú thực lài tôi vẫn rất sợ phải đương đầu với những thử thách khủng khiếp của cái cảnh lang thang không nhà không cửa. - Tất nhiên là chị sẽ tiếp tục ở lại đây. – Diana nói và đặt bàn tay trắng muốt lên đầu tôi. “Chị sẽ ở lại” – Mary nhắc lại bằng một giọng chân thực tiềm ẩn vốn có vẻ rất hợp với bản tính của cô. - Cô thấy đấy, các em tôi rất thích giữ cô ở lại, – St. John nói – như muốn giữ và nâng niu một cánh chim gần chết cóng vì những ngọn gió đông tràn về đánh bạt nó vào bên ô cửa sổ. Nhưng tôi lại cảm thấy mình thiên về ý muốn tìm cho cô một con đường tự lập hơn, và tôi sẽ cố gắng làm điều đó. Nhưng cô xem, khả năng của tôi hạn hẹp lắm. Tôi chỉ là một cha xứ cai quản một xứ đạo nghèo nàn, sự giúp đỡ của tôi hẳn sẽ rất khiêm tốn. Nếu cảm


thấy không thích những việc nhỏ mọn thì cô có thể đi tìm những điều to tát hơn những gì tôi có thể giúp cô. - Chị ấy đã chẳng bảo sẵn sàng làm bất cứ việc gì lương thiện có thể làm được là gì. – Diana trả lời hộ tôi. – Mà anh cũng biết đấy, St. John ạ, chị ấy làm gì có sự lựa chọn người giúp đỡ kia chứ. Chị ấy buộc phải trông cậy vào một người cộc cằn như anh. - Tôi sẽ làm người may vá, làm thuê, làm đầy tớ hay vú em nếu không kiếm được việc gì tốt hơn. – Tôi trả lời. - Được rồi! – Ông St. John nói, vẫn bằng cái giọng lạnh tanh. – Nếu thế thì tôi hứa sẽ giúp cô theo cách và thời gian sắp xếp của tôi. Dứt lời, ông lại vớ cuốn sách vừa xem trước lúc uống trà. Tôi cũng sớm rút lui vì sức khỏe của tôi chỉ cho phép tôi nói và ngồi được đến thế.



Chương 30 Càng hiểu những người ở Moor-House bao nhiêu, tôi càng cảm thấy thích họ bấy nhiêu. Sức tôi đã bình phục trông thấy chỉ sau có vài hôm. Tôi đã có thể thỉnh thoảng ra ngoài chơi. Tôi có thể cùng làm các công việc với Diana và Mary, trò chuyện với họ tùy thích và giúp đỡ họ bất cứ việc gì khi họ cho phép. Tôi cảm thấy niềm vui lại sống lại trong tôi nhờ mối giao thiệp đó và nhờ những điểm tương hợp về sở thích, xúc cảm và các nguyên tắc đạo đức. Tôi thích đọc những cuốn sách mà họ thích đọc, những điều làm họ vui thì cũng làm tôi thấy thú vị, điều gì họ tán thành thì tôi cũng hài lòng. Họ yêu ngôi nhà cô tịch của họ, tôi cũng cảm thấy mến ngôi nhà nhỏ màu xám và cổ kính có mái thấp lè tè, những ô cửa chấn song hoa, những bức tường tróc lở, với một lối nhỏ trồng hàng cây linh sam cổ thụ nghiêng nghiêng theo gió núi, với mảnh vườn chỉ có những loài hoa cứng cỏi nhất có thể nở, lúc nào cũng âm u bóng cây nhựa ruồi và cây thủy tùng ấy. Họ gắn bó với những cánh đồng hoang đỏ sẫm bao quanh tổ ấm của mình, với cái thung lũng lòng chảo – nơi nối liền một lối dành cho ngựa đi gập ghềnh đất đá, uốn lượn ngoằn ngoèo giữa những lùm cây dương xỉ, rồi chạy ngang qua những đồng cỏ dại làm bãi chăn thả cừu viền quanh một thảm thạch thảo. Họ gắn bó nhiệt thành với cảnh vật nơi đây. Tôi hiểu tình cảm của họ và muốn chia sẻ cái sức mạnh và sự chân thành của tình cảm ấy. Tôi cảm nhận được sự quyến rũ của cả một vùng trời đất và cái linh thiêng của sự vắng vẻ đìu hiu nơi đây. Tôi thích được ngắm nhìn những đường viền nhấp nhô, những màu sắc hoang dại của rêu phong, thạch thảo, hoa bươm bướm, dương xỉ và hốc đá hoa cương êm dịu bao phủ giữa những ngọn đồi. Các chi tiết ấy gợi cho họ một cảm xúc như thế nào thì cũng gợi cho tôi một tình cảm y như thế. Nó là cội nguồn thuần khiết và dịu êm của bao nhiềm vui. Dù giông tố hay chỉ là làn gió nhẹ, ngày nắng hay mưa, ban mai hay hoàng hôn, đêm trăng thanh hay mây mờ... tất cả cảnh vật nơi đây đều bao trùm lên tôi một sức lôi cuốn lạ thường y như đối với họ, quyến rũ những rung cảm của tôi như quyến rũ họ. Dưới mái nhà, chúng tôi cũng rất đồng điệu với nhau. Cả hai chị em họ đều giỏi và đọc nhiều hơn tôi, nhưng tôi hăng hái bước theo con đường kiến thức mà họ là những người đi trước. Tôi đọc nghiến ngấu những cuốn sách mà họ cho mượn, để rồi tối tối lại hồ hởi thảo luận với họ những điều đã nghiền ngẫm trong ngày. Suy ngẫm gặp suy ngẫm, ý tưởng gặp ý tưởng, tóm


lại là chúng tôi hoàn toàn hợp nhau. Nếu trong bộ ba chúng tôi, có một người trên tài làm lãnh đạo, thì người đó chính là Diana. Về thể chất, cô trội hơn tôi nhiều, vừa đẹp lại vừa mạnh mẽ. Trong tinh thần năng động của cô có một sức sống dồi dào, một dòng chảy nào đó kích thích sự hiếu kỳ của tôi, vượt ra ngoài sự hiểu biết của tôi. Tôi có thể góp chuyện một lúc vào mỗi buổi tối, nhưng khi cái nhanh nhảu và sự trôi chảy cạn dần đi, tôi chỉ còn biết ngồi im trên chiếc ghế đẩu đặt dưới chân Diana, đầu ngả vào lòng cô để nghe cô và Mary bàn về những vấn đề mà tôi chưa thể đủ tầm với tới. Diana ngỏ ý dạy tôi tiếng Đức. Tôi thích được học hỏi cô. Tôi thấy cô rất vui và có vẻ cũng rất hợp với vai trò làm cô giáo. Cái phận làm trò cũng làm tôi vui và hợp với tôi không kém. Bản tính chúng tôi đặc biệt tương đồng với nhau, kết quả là chúng tôi rất quý mến nhau. Họ phát hiện ra tôi biết vẽ, thế là họ cho tôi mượn ngay bút vẽ và các hộp màu của họ. Xem ra tôi chỉ hơn họ ở mỗi kỹ năng này, nhưng như vậy cũng đủ để họ ngạc nhiên và thích thú. Mary thường ngồi xem tôi vẽ hàng giờ rồi cũng ngỏ ý muốn học vẽ, và cô đã trở thành một học sinh dễ bảo, thông minh, chăm chỉ của tôi. Những buổi bận rộn, vui vầy bên nhau khiến chúng tôi cảm thấy một tuần chỉ ngắn như một ngày, một ngày ngắn như một giờ. Nhưng đối với ông St. John thì sự thân thiện nảy sinh một cách tự nhiên và nhanh chóng giữa tôi và các cô em ông lại không lan được đến ông. Lý do khiến giữa chúng tôi vẫn còn khoảng cách là sự vắng mặt thường xuyên của ông. Hình như phần lớn thời gian của ông đều được dùng vào việc chăm lo cho những người nghèo khổ, đau ốm trong số cư dân sống rải rác trong xứ đạo. Bất kể thời tiết như thế nào, dù nắng hay mưa cũng không ngăn cản được ông đi thăm viếng các con chiên. Hễ cứ xong giờ nghiên cứu buổi sáng là ông lại đội mũ ra khỏi nhà cùng Carlo, con chó săn già mà cha ông để lại. Thực tình tôi cũng chưa hiểu ông đi như vậy là vì tình thương hay vì bổn phận. Thỉnh thoảng vào những hôm trời xấu, khi bị các em gái can ngăn, ông đáp lại bằng một nụ cười rất kỳ, vẻ trang trọng hơn là vui: - Nếu anh bỏ bê các công việc dễ dàng đó chỉ vì một cơn gió hay một hạt mưa thì không hiểu sự chuẩn bị cho cái tương lai mà anh đã dự tính cho mình rồi sẽ như thế nào?


Câu trả lời của Diana và Mary thường là một tiếng thở dài, và vài phút đăm chiêu ủ dột ra mặt. Nhưng ngoài cái việc hiếm khi ông có mặt ở nhà, vẫn còn một rào cản khác ngăn trở tôi thân thiện với ông, ấy là cái vẻ kín đáo, hững hờ và tính trầm ngâm của ông. Dù rất nhiệt tình với công việc của một cha xứ và tỏ ra đúng mực trong cuộc sống cũng như trong các thói quen, nhưng hình như ông vẫn chưa có được cái vẻ tĩnh tại trong tâm hồn, điều được coi là phần thưởng cho mọi tín đồ Cơ Đốc giáo trung thực và chuyên cần. Có những buổi tối, khi ngồi trước bàn làm việc đặt bên ô cửa sổ, với một đống giấy trước mặt, thương không thấy ông đọc hay viết gì cả, mà chỉ thấy ông chống cằm, thả hồn theo dòng suy tưởng nào đó mà tôi không biết, nhưng cứ nhìn đôi mắt lúc mở to, lúc lim dim và ánh mắt luôn thay đổi của ông thì có thể đoán dòng suy tưởng ấy phải rối bời và bồi hồi lắm. Cái tính ít cởi mở của ông khiến tôi phải mất một thời gian mới có dịp để ước định con người ông. Lần đầu tiên tôi có ý niệm về con người ông là khi được nghe ông giảng đạo tại nhà thờ ở Morton. Tôi rất mong mình có thể diễn tả được buổi thuyết giáo ấy, nhưng điều đó vượt quá khả năng của tôi. Thậm chí tôi còn không thể diễn tả một cách chân thực sự tác động của nó đối với tôi như thế nào. Buổi thuyết giáo được bắt đầu một cách bình lặng – và thực ra lời nói cũng như giọng nói của người thuyết giáo từ đầu đến cuối lúc nào cũng bình lặng. Nhưng cũng phải thừa nhận rằng lối nói bình lặng ấy đã sớm bộc lộ một lòng nhiệt tình bị kìm nén ngặt nghèo, được thể hiện trong cách phát âm rành mạch và mạnh mẽ. Lối nói ấy dần dần trở thành một sức mạnh dồn ép, cô đọng và có kiểm soát. Người thuyết giáo cũng có một sức thuyết phục đi vào lòng người, khiến trái tim rung động và lý trí phải ngạc nhiên. Nhưng chỉ có điều là cả hai đểu không cảm nhận được một sự thanh tịnh nào. Từ đầu đến cuối, bài thuyết giáo đã để lộ ra một cảm xúc chua xót lạ kỳ, thiếu hẳn tính an ủi dịu êm, hàm chứa những giáo lý Canvin như thuyết tiền định, ý niệm suy đồi... và mỗi một tham chiếu liên quan đến các giáo lý đó đều nghe như một sự phán quyết về số phận. Lẽ ra khi nghe ông thuyết giáo xong, tôi phải có một cảm giác thanh thản bình lặng và giác ngộ hơn thì tôi chỉ cảm thấy một nỗi buồn khôn tả trào dâng trong lòng. Dường như đối với tôi – không hiểu người khác có thấy thế không – những lời lẽ hùng hồn tôi được nghe đã trào ra từ một nơi sâu thẳm là nơi lắng đọng những vẩn đục của sự thất vọng, và cũng là nơi xáo động của những khát khao khôn cùng và sự


bồn chồn không yên. Tôi tin chắc rằng St. John – một người sống trong sạch, nhiệt thành và có ý thức – vẫn chưa tìm được sự tĩnh tại của Chúa. Tôi nghĩ ông chẳng còn tìm được sự tĩnh tại đó, cũng như tôi vậy. Trong lòng tôi cũng luôn bị xáo động với những nuối tiếc âm thầm và bị dằn vặt bởi thần tượng của tôi đã sụp đổ, và thiên đường của tôi đã tiêu tan mất, những nuối tiếc mà gần đây tôi tránh không nhắc tới, nhưng lúc nào nó cũng ám ảnh và hành hạ tôi thậm tệ. Bẵng đi đã được một tháng, sắp đến ngày Diana và Mary rời khỏi MoorHouse để trở lại một cuộc sống khác xa đang chờ họ, ấy là làm cô giáo dạy trẻ tại một thành phố lớn, thời thượng ở miền Nam nước Anh, nơi mỗi người có một chỗ làm trong các gia đình mà những chủ nhân giàu có và kiêu căng chỉ coi họ là kẻ làm thuê hèn mọn, chẳng cần biết hay nhìn nhận đến những năng lực thiên bẩm của họ, và chỉ đánh giá thành quả của họ ngang bằng kỹ năng của một người làm bếp hoặc kinh nghiệm của một người hầu phòng. Mãi vẫn chưa thấy ông St. John đả động gì đến chuyện tìm việc cho tôi như ông đã hứa, mà thời gian đã gấp lắm rồi, tôi cần phải có ngay một công việc gì đó. Một buổi sáng, nhân lúc ngồi một mình với ông ít phút trong phòng khách, tôi đã đánh bạo lại gần chỗ hốc tường bên cửa sổ – nơi có đặt bàn ghế giống như một phòng làm việc nhỏ – để hỏi ông về chuyện này. Nhưng tôi đang định mở miệng nói – mặc dù chưa biết mình nên phải bắt đầu như thế nào, vì bao giờ cũng vậy, rất khó phá vỡ được lớp băng kín đáo bao phủ lên những tính cách như ông – thì ông đã lên tiếng trước, giúp tôi thoát khỏi cảnh lúng túng. Thấy tôi đến gần, ông hỏi: “Hình như cô định hỏi tôi điều gì, phải không? - Vâng, tôi đang định hỏi ông đã tìm được cho tôi một công việc nào mà tôi có thể đảm đương nổi chưa ạ? - Có, tôi đã tìm được một việc, hay nói đúng hơn là đã nghĩ ra một việc cho cô từ ba tuần nay, nhưng khi thấy cô có vẻ vui và hữu ích ở đây – vì rõ ràng là các em tôi đều đã trở nên gắn bó với cô, và sự quây quần với cô đã làm cho chúng vui vẻ khác thường – nên tôi thấy phá vỡ nguồn vui của các cô là điều không nên, cần phải đợi cho đến khi các em tôi chuẩn bị rời MarshEnd mới đúng. - Ba ngày nữa các cô ấy đi, phải không ạ? – Tôi hỏi.


- Đúng thế! Và khi chúng đi rồi thì tôi cũng sẽ trở về xứ đạo Morton luôn cùng với bà Hannah. Ngôi nhà cổ kính này rồi sẽ phải khóa lại. Tôi đợi một lúc, hy vọng ông trở lại chủ đề ban đầu, nhưng có vẻ như ông lại chìm vào một dòng suy tưởng khác. Trong cái nhìn của ông rõ ràng là không có tôi và cả công việc của tôi. Tôi buộc phải kéo ông trở lại với cái chủ đề cần thiết nằm trong sự quan tâm của tôi. - Ông đã để mắt đến việc gì giúp tôi vậy, ông Rivers? Hy vọng sự trì hoãn của ông sẽ không làm tôi mất cơ hội được làm cái việc ấy. - Ồ, không, vì đó chỉ là một công việc hoàn toàn phụ thuộc ở tôi – người tạo ra việc, còn làm hay không thì tùy thuộc ở cô. Lại thấy ông im lặng, hình như ông miễn cưỡng khi phải tiếp tục câu chuyện. Càng lúc tôi càng cảm thấy sốt ruột, và đã một, hai lần có những cử chỉ đứng ngồi không yên. Tôi nhìn thẳng vào mặt ông như muốn thúc giục. Có vẻ như ông đã hiểu ý tôi qua ánh mắt ấy. - Cô chẳng vội biết làm gì. – Ông nói. – Cho phép tôi xin được nói thẳng với cô, tôi chẳng có việc gì cao sang và lắm tiền để giới thiệu cho cô. Trước khi trình bày, xin cô hãy nhớ lại rằng tôi từng lưu ý rõ với cô là nếu tôi có giúp được cô thì cũng chỉ như một thằng mù giúp một thằng què mà thôi. Tôi nghèo, vì tôi hiểu rằng sau khi trả hết các món nợ cho cha tôi, tất cả gia tài còn lại của tôi chỉ là một trang viên tồi tàn, một hàng linh sam xơ xác sau nhà, và một mảnh đất hoang tàn cùng vài cây thủy tùng và cây nhựa ruồi trơ trọi đằng trước. Tôi là kẻ chẳng có tiếng tăm gì. Rivers là một dòng họ lâu đời, nhưng trong số ba hậu duệ duy nhất còn sống của dòng họ ấy thì đã có người phải đi kiếm ăn như phận tôi đòi, còn người thứ ba thì lại tự coi mình là kẻ xa lạ với chính quê hương bản quán của mình – không chỉ xa lạ khi còn sống, mà cả sau khi đã chết nữa. Vâng, kẻ đó vẫn coi và buộc phải tự coi đó là vinh dự cho mình. Kẻ đó vẫn luôn khao khát chờ đợi cái ngày được đoạn tuyệt với các mối quan hệ thể xác để được mang cây thánh giá trên vai, cái ngày mà vị Chưởng giáo của hội chiến binh – mà kẻ ấy là một trong những môn đồ thấp hèn nhất – ra lệnh: “Đứng dậy và đi theo ta!” Giọng ông điềm tĩnh, trầm ngâm, nhưng ánh mắt vẫn sáng ngời hệt như lúc ông thuyết giảng trong giáo đường. Ông nói tiếp: - Và vì nghèo, lại tầm thường, nên tôi chỉ có thể giúp cô một công việc


cũng nghèo và tầm thường mà thôi. Thậm chí có khi cô còn cho cái công việc ấy là hèn kém nữa – vì bây giờ tôi đã nhận ra rằng cô có những thói quen mà người đời vẫn gọi là phong nhã. Cô có những sở thích thiên về lý tưởng, và cô muốn giao hòa ít nhất là với những người có học thức. Nhưng tôi nghĩ chẳng có việc gì là thấp hèn nếu nó có thể mang lại những điều tốt lành hơn cho giống nòi của chúng ta. Lúc nào tôi nghĩ mảnh đất dành cho tín đồ cơ đốc giáo cày bừa và trồng trọt càng khô cằn bao nhiêu, thì vinh dự của họ lại càng cao cả bấy nhiêu. Trong hoàn cảnh như vậy, số phận của người ấy chính là số phận của người đi tiên phong, và những người tiên phong đầu tiên trong sách phúc âm lại là các tông đồ mà vị chỉ huy chính là đấng cứu thế Jesus. - Rồi thì sao ạ? – Tôi thúc giục khi thấy ông lại ngừng lại. – Ông cứ nói tiếp đi. Trước khi tiếp tục dòng suy nghĩ của mình, ông nhìn thẳng vào mắt tôi. Hình như ông lại định đọc những ý nghĩ trên nét mặt tôi như thể đang đọc một trang sách vậy. Và ông đã giãi bày một phần những kết luận sau khi quan sát người đối thoại của mình. - Tôi tin là cô sẽ chấp nhận công việc mà tôi mang lại cho cô, và sẽ đảm đương công việc đó trong một thời gian, dẫu không phải là làm mãi, cũng như tôi không thể cả đời nắm giữ cái chức cha xứ nhỏ nhoi, thầm lặng ở cái xứ đạo nghèo miền quê nước Anh này. - Ông có thể giải thích rõ hơn không? – Tôi giục ông một lần nữa. - Tôi sẽ nói rõ hơn, và cô sẽ thấy cái công việc mà tôi tìm cho cô nghèo và tầm thường như thế nào. Tôi sẽ không ở Morton lâu, vì cha tôi đã chết rồi, và bây giờ tôi là ông chủ của chính mình. Có lẽ tôi sẽ từ giã nơi này trong khoảng mười hai tháng nữa, nhưng tôi nguyện còn ở lại ngày nào thì tôi sẽ còn gắng sức mở mang nơi này ngày ấy. Hai năm trước đây, khi tôi mới đến, Morton chưa có một trường học nào, con nhà nghèo chẳng bao giờ dám hy vọng đến sự tiến bộ. Tôi đã lập một trường học cho các em trai, bây giờ tôi lại định mở thêm một ngôi trường nữa cho các em gái. Tôi đã thuê được một tòa nhà cho mục đích ấy và một căn nhà nhỏ hai phòng ngay gần đó làm chỗ ở cho cô giáo. Lương của cô giáo sẽ là ba mươi bảng một năm. Mọi đồ đạc dành cho ngôi nhà ấy – mặc dù rất giản dị, nhưng cũng đủ dùng – đã được một quý cô tốt bụng tên là Oliver mua sắm rồi. Cô ấy là con gái duy nhất của


ông Oliver, ông chủ xưởng sản xuất kim khâu và đúc gang thép dưới thung lũng và là người giàu duy nhất trong xứ đạo của tôi. Cô Oliver cũng chính là người sẽ trả tiền ăn học và may mặc cho một em mồ côi trong trường, với điều kiện cô bé này phải giúp cô giáo những công việc ở nhà riêng và ở trường, những việc mà cô giáo không có thời gian làm vì bận dạy học. Cô sẽ đồng ý làm cô giáo đó chứ? Ông hỏi hơi vội vã, nửa như ngại tôi tức giận, nửa như sợ tôi chê bai từ chối lời đề nghị của ông. Vì không hiểu hết các suy nghĩ và tình cảm của tôi, cho dù có đoán ra vài điều, nên ông không thể hiểu thái độ của tôi đối với công việc ấy. Thực ra mà nói thì đó cũng chỉ là một công việc bình thường, nhưng dẫu sao nó cũng mang lại cho tôi một chỗ ở, mà tôi lại đang cần đến một chỗ ở an toàn. Tuy có vất vả thật, nhưng nếu so với một gia sư làm cho một nhà giàu, thì nó sẽ giúp tôi có một cuộc sống độc lập, vì tôi sợ phải làm nô lệ cho những người xa lạ. Có thể nó không danh giá, nhưng suy cho cùng không phải là không phù hợp với tôi và cũng chẳng có gì hèn kém về tinh thần. Vậy là tôi quyết định nhận lời. - Thưa ông Rivers, Tôi xin cảm ơn ông về lời đề nghị đó, và tôi xin nhận công việc ấy bằng tất cả tấm lòng của mình. - Nhưng cô có hiểu hết điều tôi nói không nhỉ? Đó là một trường làng, học trò của cô chỉ là những đứa bé nghèo khổ, con nông dân, hay cùng lắm là con chủ điền trang thôi. Tất cả những gì cô phải dạy chúng là đan lát, khâu vá, đọc, viết, toán học. Cô sẽ sử dụng các năng lực khác của mình vào việc gì kia chứ? Và phần lớn nhất trong trí tuệ của cô, cả những tình cảm và sở thích nữa? - Cứ để chúng ngủ yên cho đến khi nào cần đến. Chúng sẽ vẫn được giữ nguyên vẹn. - Vậy là cô đã hiểu việc mình làm rồi? - Vâng, tôi hiểu. Chỉ đến lúc này tôi mới thấy ông mỉm cười, và đó không phải là một nụ cười chua chát hay buồn bã, mà là nụ cười vui vẻ và biết ơn sâu sắc. - Thế cô định bao giờ mới bắt tay vào việc?


- Ngày mai tôi sẽ đến nhận nhà, và tuần tới ta có thể khai trường nếu ông muốn. - Rất tốt, hãy cứ thế đã nhé! Ông đứng dậy, định ra khỏi phòng, nhưng được vài bước lại thấy ông dừng lại nhìn tôi. Không hiểu sao ông lại lắc đầu. - Ông vẫn chưa hài lòng về điều gì, phải không ông Rivers? – Tôi hỏi. - Cô sẽ không ở Morton lâu! - Tại sao? Vì lý do gì mà ô ng nói thế? - Tôi đọc được điều đó trong mắt cô. Đôi mắt cô muốn nói rằng cô muốn có một sự thăng hoa trong cuộc đời. - Tôi nào có tham vọng gì đâu. Ông chợt giật mình khi nghe thấy tôi nhắc đến từ “tham vọng”. Ông hỏi lại: “Không. Sao cô lại nghĩ đến tham vọng? Ai là kẻ có tham vọng? Tôi biết mình là kẻ như vậy, nhưng làm sao cô biết được chứ?” - Tôi nói về tôi đấy chứ! - Thế à, nếu không có tham vọng, thì cô... – Ông bỏ lửng câu nói. - Thì sao ạ? - Tôi định nói là người có nhiệt tình hăng say, nhưng có lẽ cô hiểu lầm chữ ấy nên phật ý chăng, ý tôi muốn nói là những tình cảm yêu mến và thiện cảm nhân bản đã chi phối cô ở một mức độ mạnh nhất. Tôi tin chắc rằng cô không thể mãi bằng lòng để cho thời gian rảnh rỗi trôi qua trong sự cô đơn và cống hiến những giờ lao động của cô cho một công việc đơn điệu, cũng như tôi không thể cam chịu sống mãi ở đây để chôn vùi cuộc đời mình trên những bãi lầy và tự giam hãm mình giữa những ngọn núi. Cái bản tính mà Chúa ban cho tôi đã không cho tôi làm điều đó, bởi nếu không, mọi khả năng thiên bẩm của tôi sẽ bị tê liệt và trở thành vô dụng. Bây giờ chắc cô đã thấy tôi mâu thuẫn với chính mình như thế nào rồi. Tôi – sứ giả của Chúa và là kẻ đã luôn mở miệng thuyết giảng rằng phải biết chấp nhận cái số phận tầm thường của mình và ca ngợi thiên chức của những người thợ xẻ, người gánh


nước, để phụng sự Chúa – lúc nào cũng như một kẻ lú lẫn trong tâm trạng bồn chồn không yên. Nhưng thôi, rồi thế nào các thiên hướng và nguyên tắc cũng phải hòa hợp với nhau theo một cách nào đó. Đoạn ông bước ra khỏi phòng. Chỉ trong một giờ ngắn ngủi ấy, tôi đã hiểu về ông hơn cả một tháng trước, cho dù ông vẫn còn nhiều điều làm tôi khó giải đáp. Càng gần đến ngày phải xa nhà và xa người anh, Diana và Mary càng có vẻ buồn và trầm lặng hơn. Dù cố làm ra vẻ bình thường, nhưng cả hai đều không che giấu hoặc kìm nén được nỗi sầu muộn trong lòng. Diana bảo rằng cuộc chia tay lần này của họ sẽ khác hẳn những lần trước. Có thể đây sẽ là một cuộc chia tay sau nhiều năm mới có ngày gặp lại St. John, mà có khi là cả đời nếu theo lời ông nói. - Anh ấy sẽ hiến trọn tình thương – cô nói – và tình cảm khác cho những dự định đã ấp ủ từ lâu. Chị Jane ạ, trông bề ngoài thì St. John lúc nào cũng có vẻ bình thản, nhưng thực ra anh ấy đã che giấu trong mình một nhiệt huyết nóng bỏng. Có thể chị đang nghĩ anh ấy là người hòa nhã, nhưng ở một khía cạnh nào đó thì anh ấy lại cứng nhắc đến chết được. Khổ một nỗi là lương tâm tôi lại không dễ dàng cho phép tôi thuyết phục anh ấy từ bỏ quyết định hệ trọng của mình. Chắc chắn là tôi không thể trách cứ được anh một chút nào vì điều đó. Đó là một quyết định đúng đắn, cao đẹp và rất Cơ Đốc giáo, nhưng không vì thế mà tôi không thấy buồn tê tái. – Cô nói mà nước mắt cứ chảy dài trên gò má. Trong khi đó, Mary vẫn cắm cúi với công việc khâu vá. - Bây giờ chúng tôi sống không còn cha. – Cô em thì thầm. – Chẳng mấy chốc chúng tôi sẽ lâm vào cảnh không nhà cửa, không anh em. Đúng lúc ấy, một sự việc nhỏ đã xảy ra, hình như do số mệnh khéo bày ra để chứng minh cho sự đúng đắn của câu ngạn ngữ: “Họa vô đơn chí”, và càng làm cho ba anh em St. John đau lòng hơn. St. John vừa đi ngang qua cửa sổ vừa đọc một bức thư. Sau đó thấy ông bước vào. - Cậu John của chúng ta đã chết rồi. – Ông nói. Cả hai cô em đều có vẻ sửng sốt, nhưng không bị sốc hay hoảng hốt. Có vẻ như cái tin ấy đối với họ quan trọng hơn là đau đớn. - Chết rồi à? – Diana hỏi lại.


- Đúng thế! Cô nhìn chằm chằm vào mặt người anh bằng ánh mắt dò hỏi. “Thế sau đó thì sao?” Cô hạ thấp giọng, hỏi. - Thì thế nào à, Diana? – Người anh trả lời, vẫn giữ vẻ mặt lạnh lùng như đá cẩm thạch. – Thì thế nào à? Chẳng thế nào cả. Cứ đọc đi thì biết. Đoạn ông ném bức thư cho cô em gái. Cô liếc qua rồi đưa ngay cho Mary. Mary im lặng đọc kỹ lá thư rồi trả lại cho người anh. Cả ba người cùng nhìn nhau, rồi cả ba cùng mỉm cười, một nụ cười chua chát và nặng nỗi ưu tư. - Amen! Chúng ta vẫn cứ sống được thôi! – Cuối cùng, Diana nói. - Dù sao thì cũng chẳng phải vì thế mà chúng ta khổ hơn trước. – Mary buông một câu. - Chỉ có lá thư mới buộc chúng ta phải nghĩ đến cái cảnh lẽ ra đã phải xảy ra, – ông Rivers nói. – nó trái ngược một cách quá rõ ràng với sự việc đang xảy ra. Ông gấp lá thư bỏ vào ngăn kéo rồi khóa lại, trước khi bỏ ra ngoài. Căn phòng im lặng trong vài phút. Cuối cùng, Diana quay lại nói với tôi: - Jane ạ, chắc là chị đang rất ngạc nhiên về chúng tôi và những uẩn khúc của chúng tôi, và sẽ cho chúng tôi là những kẻ nhẫn tâm khi nghe tin một người thân như ông cậu mình chết mà không hề động lòng. Nhưng nào chúng tôi có bao giờ gặp hoặc biết mặt ông ấy đâu. Ông ấy là em mẹ tôi. Trước đây khá lâu, ông ấy và cha tôi đã có chuyện mâu thuẫn với nhau. Hồi đó, theo lời khuyên của ông ấy, cha tôi đã mạo hiểm đem phần lớn gia tài vào một việc làm ăn và kết quả là bị phá sản. Hai người đã to tiếng với nhau, rồi tức giận từ nhau và không bao giờ hòa giải trở lại. Sau đó, ông cậu tôi vẫn tiếp tục theo đuổi nhiều vụ làm ăn khác phát đạt hơn. Hình như ông có gây dựng được một sản nghiệp khoảng hai mươi ngàn bảng. Ông không lấy vợ và chỉ có ba anh em chúng tôi là họ gần, và một người khác nữa nhưng cũng chẳng gần hơn chúng tôi. Lúc nào cha tôi cũng nghĩ cậu tôi sẽ chuộc lại lỗi lầm bằng cách để lại gia sản cho chúng tôi. Nhưng rốt cuộc, lá thư này lại báo cho chúng tôi biết rằng ông đã để lại toàn bộ gia sản cho người bà con


kia, trừ ba mươi ghi-nê chia đều cho St. John, Diana và Mary Rivers để mua ba cái nhẫn tang. Tất nhiên là ông có quyền làm theo ý mình, nhưng khi nhận được tin ấy, ít nhiều chúng tôi cũng thấy thoáng buồn. Giá như tôi và Mary, mỗi đứa được một ngàn bảng thì cũng tự thấy mình giàu rồi, và đối với anh St. John thì một số tiền như vậy sẽ rất đáng quý, vì nó sẽ giúp anh thực hiện được nhiều việc thiện hơn. Câu chuyện chỉ được giải thích đến vậy, rồi ông Rivers cũng như các em ông chẳng ai nhắc đến nữa. Ngày hôm sau, tôi rời Marsh-End đến Morton. Hôm sau nữa, Diana và Mary cũng chia tay tôi và người anh trai để đến một nơi xa xôi ở miền Nam nước Anh. Sau đó một tuần, ông River và người đầy tớ già Hannah cùng trở về xứ đạo. Vậy là ngôi nhà cổ kính ấy bị bỏ không.



Chương 31 Cuối cùng thì tôi cũng tìm được một ngôi nhà. Đó là một nếp nhà nhỏ, đơn sơ, tường vôi trắng, nền lát gạch. Tầng dưới bày một cái bàn, bốn chiếc ghế sơn, một tủ bày một vài ba cái đĩa và một bộ đồ trà bằng sành, một cái đồng hồ. Tầng trên có một phòng rộng chừng bằng nhà bếp, có kê một cái giường bằng gỗ thông, một tủ quần áo nhỏ nhưng cũng quá rộng so với số quần áo ít ỏi của tôi, cho dù hai cô bạn hào hiệp có tặng tôi một vài vật thiết dụng nữa. Trời về chiều. Tôi cho cô bé mồ côi giúp việc vặt của mình về nhà sau khi đã thưởng cho nó 1 quả cam. Trường làng khai giảng vào sáng nay. Tôi có hai mươi học trò. Chỉ có 3 đứa trong số đó biết đọc, không đứa nào biết viết hoặc làm tính. Một vài đứa biết đan, một vài đứa biết may vá chút đỉnh. Chúng nói giọng địa phương, nên khó khăn lắm tôi và chúng mới hiểu được nhau. Có đứa sống chẳng theo khuôn phép, thô lỗ, ương ngạnh và dốt nát nhưng những đứa khác đều dễ bảo, dễ bảo và xem chừng có thiên hướng làm tôi vui lòng. Tôi không được phép quên rằng những đứa bé quê mùa, ăn mặc lôi thôi ấy, cũng là những con người bằng xương bằng thịt như những đứa trẻ con nhà quyền quý nhất, và trong tâm hồn chúng cũng có mầm mống của sự hoàn thiện bẩm sinh, lịch lãm, thông minh và tình cảm tốt đẹp như những đứa con nhà giàu. Bổn phận của tôi là phát triển mầm mống ấy, và chắc chắn là tôi sẽ tìm được niềm vui với công việc, cho dù tôi cũng chờ đợi gì nhiều ở những niềm vui trong cuộc sống đang mở ra trước mắt. Nhưng nếu biết kiểm soát được tâm trí, biết sử dụng khả năng của mình thì tôi cũng có thể sống thanh thản qua ngày. Tôi có vui vẻ, yên tâm, hài lòng trong những giờ trôi qua vào buổi sáng và buổi chiều hôm nay, trong cái lớp học trống rỗng và tầm thường này không? Tôi không tự lừa dối mình mà trả lời rằng: “Không”, ở một mức độ nào đó, tôi cảm thấy buồn. Tôi đúng là một đứa ngu ngốc! Một đứa xuống cấp! Tôi ngờ rằng mình đã đi xuống một bước thay vì phải đi lên trên một bước trên nấc thang xã hội. Tôi thấy sợ trước sự bần hàn, thô lỗ, dốt nát của tất cả những gì tôi đã mắt thấy tai nghe ở quanh mình. Nhưng tôi không nên căm thù, khinh bỉ chính mình quá nhiều vì những cảm xúc ấy. Tôi biết như thế là sai lầm – và nhận thức đó chính là một bước tiến lớn của tôi. Rồi tôi sẽ cố gắng vượt qua chúng. Ngày mai, tôi tin rằng ít nhiều gì mình sẽ chế ngự được chúng và trong vài tuần nữa, chúng sẽ hoàn toàn bị khuất phục. Có thể


là trong vài tháng nữa, các học trò của tôi sẽ tiến bộ, sẽ có sự thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp hơn, và như thế cảm giác sợ hãi trong tôi sẽ được thay thế bằng một niềm vui. Trong thời gian chờ đợi, hãy để tôi tự đặt cho mình một câu hỏi: Điều gì sẽ tốt hơn? Đầu hàng trước thời vận, lắng nghe tiếng gọi của đam mê, không cố gắng cật lực, không đấu tranh mà rúc đầu vào tấm lưới lụa, ngủ vùi trên những đóa hoa, rồi thức dậy trong một nơi nào đó trong sự xa hoa của một dinh thự ở miền Nam, hay tới sống ở Pháp, làm nhân tình của ông Rochester, say sưa tối ngày với tình yêu của ông – vì nhất định ông vẫn còn yêu tôi một ít thời gian? Ông đã yêu tôi, và chắc là sẽ chẳng bao giờ còn ai yêu tôi đến thế nữa. Tôi sẽ chẳng còn bao giờ biết đến sự tôn sùng ngọt ngào với sắc đẹp, tuổi trẻ và sự yêu kiều nữa, vì tôi sẽ không còn những ưu điểm ấy trong con mắt của bất cứ người đàn ông nào khác. Ông yêu tôi và hãnh diện vì tôi, đó là điều mà chẳng người đàn ông nào đi bên tôi cảm thấy thế nữa. Nhưng tôi đang nghĩ đi đâu thế này? Tôi đang mê muội, và trên hết, tôi đang lạc vào một cảm xúc gì thế này? Tôi đang tự hỏi, làm một kẻ nô lệ tại cái thiên đường của một kẻ điên dại ở Mac-xây, để ngất ngây với lạc thú hão huyền trong một giờ, để rồi sau đó lại nghẹn ngào với những giọt lệ đắng cay và hổ thẹn, hay làm một cô giáo trường làng tự do và lương thiện, ở một vùng núi hẻo lánh lộng gió giữa lòng nước Anh tốt hơn? Vâng, tôi đã thấy mình hành động đúng khi thừa nhận nguyên tắc và luật pháp, khinh bỉ và đè bẹp những lời mời gọi điên rồ trong một chốc mất lý trí. Chúa đã dẫn dắt tôi đến một lựa chọn đúng đắn! Bần thần nghĩ đến đây, tôi đứng dậy ra ngoài cửa nhìn bóng hoàng hôn của một ngày mùa, nhìn những cánh đồng thanh bình trước ngôi nhà nhỏ của mình. Chỗ tôi ở và ngôi trường làng nằm cách xa làng nửa dặm. Đàn chim đang thánh thót hót vang những giai điệu cuối cùng trong ngày của chúng. Tôi ngạc nhiên ngắm cảnh và tự cho mình là đang hạnh phúc. Tôi ngạc nhiên khi thấy mình khóc. Vì số mệnh đã chia loan rẽ thúy giữa tôi và ông chủ tôi, vì tôi không còn được gặp ông nữa, vì có lẽ ông đang đau đớn tuyệt vọng và căm hận việc tôi bỏ đi để đến bây giờ, ông có thể đã đi chệch quá con đường ngay thẳng và khó lòng hy vọng trở lại nữa. Nỗi buồn bất chợt khiến tôi ngoảnh mặt đi, không còn thiết gì đến chuyện ngắm cảnh trời chiều êm đềm và cái thung lũng lòng chảo không có một mái nhà trong tầm mắt, trừ


bóng nhà thờ xứ và ngôi nhà của vị mục sư, và bóng lâu đài Vale của phú ông Oliver thấp thoáng sau những lùm cây cuối thung lũng. Tôi nhắm mắt lại, tựa đầu vào khung cửa bằng đá để nhâm nhi với nỗi buồn trong lòng. Nhưng vừa lúc đó, một tiếng động nhẹ ngoài cánh cổng nhỏ ngăn mảnh vườn của tôi với mảnh vườn bên ngoài, khiến tôi ngẩng mặt lên nhìn. Một con chó săn, tôi nhận ra ngay là con chó già Carlor của ông Rivers – đang thúc mõm đẩy cánh cửa, còn ông St. John thì đang khoanh tay tì lên cửa, nhíu mày chăm chú nhìn tôi, trông nghiêm nghị đến khó chịu. Tôi mời ông vào. - Không, tôi không nán lại được đâu. Tôi chỉ mang đến cho cô một gói nhỏ của các em gái tôi để lại cho cô. Tôi nghĩ có lẽ đây là hộp đựng màu vẽ, bút chì và giấy. Tôi bước ra nhận món quà. Quả là một tặng phẩm rất hợp với mong muốn của tôi. Lúc tôi đến gần, ông lại nhìn tôi với ánh mắt dò xét và khổ hạnh như mọi khi. Chắc chắn là khi đó, trên má tôi vẫn còn đọng lại dấu vết của những giọt nước mắt. - Cô có thấy là ngày đầu tiên – ông hỏi – công việc có vẻ nặng nhọc hơn là cô tưởng không? - Ồ không! Trái lại, tôi còn thấy rồi sẽ có lúc tôi sẽ rất hợp với các em học trò của mình. - Nhưng hình như, nếp nhà và các đồ đạc ở đây… chưa làm cô hài lòng phải không? Quả thực là chúng cũng chưa đám ứng đủ nhu cầu của cô, nhưng... Tôi ngắt lời ông. - Nhưng sạch sẽ và đủ che mưa che nắng, đầy đủ đồ đạc và tiện dụng. Tôi rất biết ơn ông về tất cả những thứ tôi trông thấy, chứ tuyệt nhiên không buồn. Tôi hoàn toàn không ngu dại hay tham lam đến mức lấy làm tiếc khi không có một tấm thảm, một cái ghế xô pha hay một chiếc khay bạc. Với lại năm tuần trước, tôi còn lang thang, vất vưởng, ăn xin chứ đâu có gì mà đòi hỏi. Bây giờ có nhà cửa, có công ăn việc làm, có người chia sẻ, thế là tốt lắm rồi. Tôi thấy ngạc nhiên trước lòng bao dung của Chúa, trước sự hào hiệp của bạn bè, trước số phận may mắn của mình. Tôi không có gì để mà không bằng lòng cả.


- Nhưng cô có thấy sức ép của cô đơn không? Ngôi nhà nhỏ đằng sau cô trống rỗng và tối tăm thế kia mà. - Tôi chưa có lúc nào rảnh để vui vãn cảnh êm đềm nơi đây, và càng chưa có thời giờ để sốt ruột cảnh đời đơn chiếc. - Rất tốt, hy vọng cô sẽ hài lòng như những gì cô vừa bày tỏ, dù thế nào thì tâm trạng bình ổn của cô cũng sẽ mách bảo cô rằng vẫn còn quá sớm để [71] mà chùn bước trước nỗi sợ nghiêng ngả về người vợ của Lot . Tất nhiên là tôi không biết những gì cô đã bỏ lại đằng sau trước khi gặp tôi, nhưng tôi khuyên cô nên kiên quyết chống lại mọi cám dỗ khiến cô nhìn lại đằng sau. Hãy vững tâm theo đuổi nghề nghiệp hiện nay của mình, ít nhất là trong vài tháng. - Đó cũng là những gì tôi định nói với ông. Tôi trả lời. St. John nói tiếp: - Thật là khó kiểm soát được những công việc theo thiên hướng cũng như làm đổi hướng bản tính của mình, nhưng theo kinh nghiệm, tôi biết vẫn có thể làm được như vậy. Trong một chừng mực nào đó, Chúa đã ban cho ta cái khả năng tự tạo lấy số mệnh của mình, và dường như khi nghị lực của chúng ta cần tìm một chất bổ dưỡng mà không thể tìm được, khi lý trí của chúng ta mong muốn một con đường mà chúng ta không thể theo được, thì chúng ta đâu cần phải chịu đói khát hoặc tuyệt vọng. Chúng ta chỉ cần tìm cho tinh thần loại bổ dưỡng khác cũng giàu dinh dưỡng – có khi lại trong sạch hơn – món ăn đã bị cấm, và khai phá lấy một con đường cho bước chân mạo hiểm, cũng thẳng và rộng rãi – có khi còn đỡ gập ghềnh hơn – con đường mà số mệnh đã ngăn cản chúng ta. “Một năm trước, chính tôi cũng vô cùng khổ sở, vì tôi nghĩ tôi đã phạm phải một sai lầm khi bước vào tu hành. Những bổn phận giống nhau làm tôi chán muốn chết đi được. Tôi khao khát cháy bỏng một cuộc sống năng động hơn trong cuộc đời này, tôi muốn công việc sáng tạo của nhà văn, muốn cuộc sống của một nghệ sĩ, một tác giả, một nhà hung biện, hoặc bất cứ nghề gì khác một tu sĩ. Vâng, bên trong tà áo thụng của kẻ tu hành khoác lên người tôi là trái tim của một chính khách, một quân nhân, một kẻ thích vinh quang, nổi tiếng, một kẻ khao khát quyền lực. Tôi nghĩ cuộc đời mình sao mà hèn


thế, và nếu không thay đổi được thì tôi sẽ chết mất. Sau một thời gian tăm tối, đánh vật với chính mình, một ánh sáng bỗng bừng lên mang lại cho tôi niềm tin. Cái sự tồn tại gò bó khiên cưỡng của tôi đột nhiên dàn trải đến vô hạn. Mọi năng lực của tôi đã nghe theo tiếng gọi từ trên thiên đường mà vùng dậy, dồn hết sức mạnh để mở rộng đôi cánh bay lên. Chúa đã giao cho tôi một sứ mệnh. Và để hoàn thành tốt sứ mệnh ấy trên mọi nẻo đường, cần phải có sức mạnh và tài năng, lòng dũng cảm và tài hùng biện, tóm lại là tất cả những bản chất tốt đẹp nhất của một quân nhân, một chính khách, một diễn giả. Đó là tất cả những gì cần thiết cho một sứ mệnh truyền giáo hiệu quả. “Và tôi đã quyết định trở thành một nhà truyền giáo. Kể từ đó, tâm trạng tôi đã thay đổi, mọi xiềng xích đều đứt tung, không để lại một dấu vết nào của sự trói buộc, ngoài vết thương lòng mà chỉ có thời gian mới hàn gắn được. Thực ra cha tôi đã nhất quyết phản đối quyết định ấy của tôi, nhưng sau khi ông chết, tôi chẳng còn phải đương đầu với một trở ngại chính thức nào. Sau này, khi đã giải quyết xong một số công việc, tìm được người thay tôi ở Morton, tháo gỡ xong các vướng mắt về chuyện tình cảm – một xung đột cuối cùng với sự yếu đuối nhân bản mà tôi biết là mình sẽ thắng – tôi sẽ rời châu Âu sang phương Đông”. Ông nói giọng nhỏ nhẹ nhưng cũng rất rõ rang. Nói xong, ông không nhìn tôi, mà nhìn ông mặt trời đang lặn. Tôi cũng nhìn về một hướng. Cả ông và tôi đều đứng quay lưng lại phía con đường từ cánh đồng đi tới cổng vào. Chúng tôi không để ý thấy tiếng bước chân đi trên lối đi đầy cỏ dại ấy. Cảnh vật lúc này yên tĩnh đến nỗi nghe rõ cả tiếng suối chảy róc rách dưới thung lũng. Chúng tôi giật mình khi nghe một giọng nói vui vẻ, êm dịu như tiếng chuông bạc vang lên: - Chào ông Rivers! Chào cả ông già Carlo! Con chó của ông lại sớm nhận ra bạn hơn ông đấy. Nó đã dỏng tai tíu tít khi tôi còn đang ở tận cuối cánh đồng kia, vậy mà bây giờ ông vẫn còn quay lưng lại phía tôi Quả là như vậy. Mặc dù có hơi giật mình khi thoạt nghe thấy giọng nói êm như một khúc nhạc ấy, nhưng khi nghe người kia nói hết câu, ông vẫn đứng im, tay tì lên cánh cửa, mặt quay về phía tây y như lúc mới giật mình. Cuối cùng thì ông cũng quay lại, vẻ chậm rãi suy tính. Tôi thấy dường như bên ông vừa xuất hiện một ảo mộng. Đứng cách ông khoảng ba bước là một người mặc bộ đồ trắng tinh, một bóng người trẻ trung, mỹ miều, đầy đặn và


thanh tú. Sau khi cuối xuống vuốt ve con Carlo, bóng áo trắng ấy ngẩng mặt lên và hất tấm mạng che mặt ra sau, để lột ra khuôn mặt tuyệt mỹ. Mô tả vẻ tuyệt mỹ như vậy kể cũng hơi quá, nhưng tôi sẽ không rút lại hoặc giới hạn lời ở một mức độ thấp hơn, vì trước mắt tôi là một cô gái có những đường nét hấp dẫn mà tưởng như chưa bao giờ cái khí hậu ôn hòa ở vùng Albion này khuôn đúc nên được, rồi đến nước da hồng hào, mịn màng tươi sáng mà những đợt gió ẩm ướt và bầu trời mờ hơi sương nơi đây tạo nên và nuôi dưỡng. Cô gái trẻ trung ấy có những đường nét đều đặn và thanh tú, không một nét duyên nào cần phải hoàn chỉnh thêm, không một khuyết điểm cần phải bù đắp. Cô có đôi mắt đẹp như tranh vẽ, to tròn và sâu thẳm, với hàng mi dài cong vút, đôi lông mày nét như tô chì và mềm mại lôi cuốn, vầng trán mịn màng và trắng ngần tạo nên quảng nghỉ cho những đường nét khác trên khuôn mặt, đôi má tròn trịa và tươi mát, hai hàm răng trắng đều và sáng bóng, cằm có một dúm nhỏ, mái tóc dày và mượt mà... Tóm lại cô có những ưu điểm kết hợp hài hòa với nhau để tạo nên một sự lý tưởng cho sắc đẹp. Tôi ngắm nhìn con người đẹp hoàn hảo ấy, trong lòng không khỏi ngạc nhiên và ngưỡng mộ cô bằng tất cả tâm hồn. Chắc chắn là tạo hóa đã khuôn đúc lên nàng trong một lúc đầy tâm trạng, nên đã quên mất tính bủn xỉn thường lệ của một mụ dì ghẻ, mà ban cho nàng món quà quý giá bằng sự hào phóng của một bậc đại phu nhân. Không hiểu St. John Rivers nghĩ gì về nàng tiên giáng trần kia. Tự nhiên tôi đặt câu hỏi khi thấy ông quay lại nhìn cô, và cũng tự nhiên tôi tìm ra câu [72] trả lời trên gương mặt ông. Ông đã rời mắt khỏi nàng Peri để ngắm nhìn một khóm cúc tầm thường mọc bên bờ rào. - Một buổi chiều đẹp trời, nhưng có lẽ bây giờ cũng đã muộn để cô đi chơi một mình tới đây. Ông vừa nói, vừa lấy chân nghiền nát những đóa hoa trắng như tuyết mọc dưới chân. [73] - Ồ, tôi vừa từ S. về xong (cô nói tên một thành phố lớn cách xa chừng hai mươi dặm). Nghe cha tôi bảo ông đã mở trường học, và cô giáo mới cũng đã đến, thế là uống trà xong, tôi liền đội mũ chạy ngược lên thung lũng để gặp cô ấy. Cô ấy đây phải không? – Cô hỏi và chỉ vào tôi. - Đúng thế. – St. John nói. - Cô có nghĩ là cô sẽ thích Morton này không? – Cô hỏi thẳng tôi, cả cử


chỉ và giọng nói đều ngây thơ và giản dị như trẻ con. - Hy vọng là tôi sẽ được như vậy. Tôi có nhiều điều xui khiến để mà thích Morton. - Cô có thấy học trò của cô chăm chú như cô mong muốn không? - Chúng chăm chú lắm. - Cô có thích ngôi nhà này không? - Rất thích. - Cô thấy đồ đạc tôi bày có phù hợp không? - Vâng, quả thật rất phù hợp. - Và tôi chọn Alice Wood giúp việc cho cô cũng tốt đấy chứ. - Quả là như vậy. Cô bé dễ dạy bảo và khéo tay. (Bây giờ tôi mới biết đó là cô Oliver, người thừa kế gia sản, được tạo hóa ưu đãi cả về tiền tài lẫn sắc đẹp! Không hiểu lúc sinh ra, cô được sao nào chiếu mệnh mà sung sướng thế!) - Thỉnh thoảng, tôi sẽ lên đây dạy giúp cô – cô gái nói thêm – đôi khi cũng phải lên thăm cô để thay đổi không khí một chút chứ, tôi thích như vậy mà. Ông Rivers ạ, trong thời gian ở S., tôi cảm thấy rất vui. Đêm hôm qua, nói đúng hơn là sáng nay, tôi đã khiêu vũ đến tận hai giờ. Trung đoàn số... đã [74] đến đóng ở đây, từ khi xảy ra các vụ bạo loạn , các viên sĩ quan tỏ ra là những kẻ rất dễ chịu. Bọn trẻ buôn bán dao kéo của chúng ta, hẳn sẽ tỏ ra xấu hổ lắm khi trông thấy họ. Tôi thấy hình như ông St. John hơi bĩu môi lại. Ông mím chặt môi khi nghe cô gái tươi cười khoe cái tin ấy, khiến cho khuôn mặt ông càng vuông chằn chặn và có vẻ khó tính hơn bình thường. Ông rời mắt khỏi đám cúc trắng và quay sang nhìn cô gái, một cái nhìn không vui, xoi mói và đầy ý nghĩa. Cô gái đáp lại bằng một chuỗi tiếng cười khác rất phù hợp với tuổi trẻ, đôi má hồng có hai lúm đồng tiền, và đôi mắt sáng của cô. Thấy ông vẫn đứng lặng im, nghiêm trang, cô lại cuối xuống vuốt ve con Carlo. “Tôi thấy yêu con Carlo tội nghiệp này thế không biết – Cô gái nói – Nó


không quàu quạu và xa cách với bạn bè của nó, và nếu biết nói thì chắc hẳn nó đã chẳng im lặng như thế. Trong lúc cô gái cuối xuống vuốt ve con chó trước mặt người chủ trẻ tuổi và nghiêm nghị của nó, tôi thấy mặt ông chủ chợt đỏ bừng lên, đôi mắt ông chợt lóe lên một ánh lửa cho thấy một cảm xúc không cưỡng lại được. Trong cái bộ dạng có vẻ bị kích động ấy, trông ông có vẻ đẹp trai hơn hẳn, đẹp theo cách của đàn ông, cũng như cô gái đẹp theo cách của người phụ nữ. Ngực ông nở phập phồng, như thể trái tim to lớn – mệt mỏi vì sự đè nén độc tài – của ông, đang muốn nở phình ra rồi bật dậy vươn tới tự do, bất chấp sự điều khiển của lý trí. Nhưng tôi nghĩ ông đang lấy hết sức bình sinh kiềm nén nó lại, như một kị mã đang kiên quyết ghìm con chiến mã đang cất vó lồng lên. Ông không nói, cũng như không có một cử chỉ nào đáp lại lời bóng gió nhẹ nhàng của cô gái. - Cha tôi nói, dạo này chẳng thấy ông lại chơi với chúng tôi gì cả. – Cô Oliver ngẩng mặt lên nói tiếp. – Ông cứ làm như một người xa lạ hoàn toàn với Vale Hall ấy. Chiều tối nay, cha tôi ở nhà một mình và không được khỏe lắm, ông sẽ cùng đi với tôi lại thăm cha tôi chứ? - Giờ này mà đến quấy ông Oliver thì quả là không tiện. St. John trả lời. - Chẳng có gì nào là không tiện cả! Tôi thấy thế đấy! Giờ này mới chính là lúc cha tôi cần có người để nói chuyện nhất, vì việc trong ngày kết thúc, cha tôi chẳng có việc gì để bận tâm nữa. Thôi, ông Rivers, ta đi đi. Mà sao ông cứ phải e dè và u sầu như thế nhỉ? Rồi cô gái cũng phải tự trả lời để phá tan bầu không khí yên lặng, vì mãi cũng chẳng thấy St. John nói gì cả. - Suýt nữa thì tôi quên mất! – Cô kêu lên, vẻ như bực mình với chính mình. – Đúng là lơ đãng và vô tâm quá đi! Xin lỗi nhé, tôi quên khuấy là ông có nhiều lý do để không huyên thuyên với tôi. Diana và Mary đi rồi, MoorHouse lại đóng cửa, và ông thì đang cô đơn. Tôi thấy tội cho ông quá. Đến chơi với cha tôi đi. - Nhưng tối nay thì không được, cô Rosamond ạ, không thể là tối nay. – St. John nói như một cái máy. Chỉ có ông mới hiểu mình đã cố gắng thế nào mới đưa ra lời từ chối như vậy.


- Thôi được, nếu ông cứ ngoan cố như vậy thì tôi đành về vậy, vì tôi không dám ở lại lâu hơn, sương bắt đầu xuống rồi. Xin chào ông! Cô chìa tay ra, St. John chỉ khẽ chạm tay khẽ đáp lễ. “Chào cô!” – Ông nói, giọng thấp và trống rỗng như một tiếng vang. Cô gái quay đi, nhưng rồi ngoảnh lại. - Ông vẫn khỏe đấy chứ? – Cô hỏi. Câu hỏi có vẻ đặt ra rất đúng lúc, vì khuôn mặt St. John lúc này bỗng trắng bệch như màu áo của cô. - Tôi vẫn hoàn toàn khỏe mạnh! – Ông hơi cuối đầu đáp lại, rồi rời khỏi cổng. Cô gái đi một đằng, ông đi một nẻo. Xuống tới cánh đồng, cô hai lần ngoảnh lại, nhìn theo bóng ông. Còn St. John thì thẳng bước tiến, không hề ngoái lại. Cảnh chịu đựng và hy sinh của ông, khiến tôi không thể chỉ nghĩ đến phận mình nữa. Diana Rivers từng nói anh cô “cứng nhắc đến chết được”. Quả thực là cô đã không phóng đại.



Chương 32 Tôi tiếp tục công việc ở trường làng một cách hăng hái và chân thật nhất trong khả năng có thể của mình. Quả thật là lúc đầu công việc cũng rất khó nhọc, tôi đã cố gắng hết sức nhưng cũng phải mất một thời gian mới có thể hiểu được các học trò và bản tính của chúng. Chúng chưa từng được học hành bao giờ, mọi khả năng đều trì trệ, khiến tôi có cảm giác chúng khó có thể tiến bộ được. Lúc đầu, tôi thấy tất cả các học trò của mình đều có vẻ trì độn như nhau, nhưng tôi cũng sớm nhận ra mình đã đã nhầm. Giữa bọn chúng cũng có một sự khác biệt giống như những đứa trẻ được học hành. Và khi tôi bắt đầu hiểu chúng, và chúng bắt đầu hiểu tôi rồi, thì sự khác biệt ấy ngày càng bộc lộ rõ hơn. Khi sự bỡ ngỡ của chúng về con người tôi, về giọng nói, các nguyên tắc và phương pháp giảng dạy của tôi giảm dần xuống cũng là khi tôi nhận thấy một số trong những đứa trẻ có vẻ ù lì, thô kệch và quê mùa ấy quả thực cũng khá thông minh. Nhiều cô bé còn tỏ ra nhiệt tình và đáng yêu nữa. Tôi nhận thấy trong số chúng, có không ít đứa có thể lấy làm gương về sự lễ độ tự nhiên, lòng tự trọng bẩm sinh, cũng như những khả năng nổi trội, và đó chính là điều làm tôi khâm phục và có thiện chí với chúng. Những cô bé này đã nhanh chóng tìm thấy niềm vui trong công việc học hành chăm chỉ, ăn ở gọn gàng, và cung cách xử sự lễ phép. Thậm chí còn có một vài trường hợp tiến bộ nhanh đến đáng ngạc nhiên, khiến tôi không thể không cảm thấy hãnh diện và sung sướng. Tôi bắt đầu cảm thấy quý mến một vài cô bé tiến bộ nhất, và tất nhiên là chúng cũng cảm thấy quý mến tôi. Trong đám học trò ấy, có một vài đứa con nhà chủ điền trang, gần như đã đến tuổi dậy thì cả. Chúng đã biết đọc, biết viết và khâu và được rồi, tôi có dạy cho chúng ít nhiều kiến thức cơ bản về văn phạm, địa lý, lịch sử và một vài mẫu thêu tinh xảo hơn. Tôi đã nhận ra ở bọn chúng những tính cách đáng quý – ấy là sự ham học hỏi và cầu tiến – và không ít buổi tối, tôi đã vui lòng đến nhà chúng chơi. Cha mẹ các em (đều là nông dân) đã đón tiếp tôi rất ân cần. Tôi thấy vui khi đón nhận tấm lòng thật thà chất phác của họ, và tôi đã đáp lại bằng sự tôn trọng những tình cảm của họ. Có lẽ từ trước đến nay chưa quen được đối xử như vậy, nên họ tỏ ra rất hài lòng và cảm thấy rất có lợi cho họ, bởi vì cách xử sự ấy vừa nâng cao giá trị của họ lên trong mắt con họ. Tôi cảm thấy mình bắt đầu trở thành người được dân chúng trong vùng chấp nhận. Bất cứ khi nào đi ra ngoài, tôi cũng được mọi người chào hỏi thân mật và vui vẻ. Sống giữa tình cảm chân thật của mọi người – dù đó chỉ là tình


cảm của những kẻ cần lao – cũng giống như được “ngồi dưới ánh mặt trời thanh bình và dịu êm”, những cảm xúc yên bình tha hồ đâm chồi và nở hoa trong tâm hồn. Trong quãng đời này, lòng tôi thường xuyên cảm thấy dào dạt niềm vui hơn là chìm đắm trong dòng suy tưởng tuyệt vọng. Nhưng thưa bạn đọc, nếu phải nói hết nỗi lòng với tất cả các bạn, thì tôi cũng xin thú thực rằng trong cái sự yên bình và hữu ích ấy của mình – sau mỗi ngày say sưa làm việc cùng đám học trò, sau mỗi buổi tối hài lòng ngồi vẽ hay đọc sách một mình – tôi lại thường chìm vào những giấc mơ kì lạ mỗi khi say giấc nồng. Đó là những giấc mơ nhiều màu sắc, xáo động và hỗn độn. Những giấc mơ với nhiều cảnh không bình thường, đầy phiêu lưu, mạo hiểm nhưng cũng ngẫu nhiên lãng mạn. Giấc mơ nào tôi cũng gặp ông Rochester và thường gặp vào những lúc kịch tính nhất, và sau đó là cảnh được nằm trong vòng tay ông, nghe giọng nói ông, gặp đôi mắt ông, sờ thấy tay và má ông, yêu ông và được ông đáp lại. Cuối cùng, niềm hy vọng được sống bên ông suốt đời lại trỗi dậy bằng tất cả sức mạnh và lửa nhiệt tình của buổi ban đầu. Rồi tôi tỉnh giấc và nhớ lại mình đang ở đâu, trong một hoàn cảnh nào. Tôi bần thần ngồi dậy trên cái giường không buông màn, rùng mình và run rẩy. Và rồi bóng đêm thăm thẳm và tĩnh mịch lại được chứng kiến cơn vật vã của tuyệt vọng, được nghe tiếng sự bộc phát của dục vọng. Chín giờ sáng hôm sau, tôi lại đến trường rất đúng giờ, nguôi ngoai, điềm tĩnh, sẵn sàng cho các công việc trong ngày. Rosamond Oliver giữ lời hứa đến thăm tôi. Cô thường hay đến trường vào buổi cưỡi ngựa đi dạo chơi sáng. Cô dừng ngựa ngay trước cửa, theo sau là một anh đầy tớ. Thật khó tưởng tượng có gì tuyệt diệu hơn hình ảnh cô trong bộ đồ đỏ thắm, với chiếc mũ nhung đen kiều diễm kiểm Amazon đặt trên những lọn tóc dài uốn lượn vuốt ve đôi má và bồng bềnh rủ xuống bờ vai. Cứ như vậy cô bước vào ngôi nhà đơn sơ, trước ánh mắt ngưỡng mộ của các cô học trò nhỏ. Cô hay đến vào giờ ông Rivers đang thuyết giảng giáo lý. Tôi nghĩ ánh mắt của cô thế nào cũng đâm xuyên vào trái tim của vị mục sư trẻ tuổi. Hình như là có một bản năng nào đó đã báo cho ông biết là cô đến thăm, ngay cả khi ông không nhìn thấy cô hoặc không hề nhìn về phía cửa. Nếu cô xuất hiện ngoài cửa, thế nào má ông cũng đỏ bừng lên, và nét mặt như cẩm thạch của ông, dù cố tỏ ra vô cảm, vẫn cứ thay đổi một cách bất ngờ đến khó tả. Rõ ràng là trong cái vẻ bình thản ấy vẫn bộc lộ một tình cảm nhiệt thành bị kiềm nén, mạnh mẽ hơn ánh mắt hay những thớ thịt rung chuyển trên khuôn mặt. Đương nhiên là cô gái rất hiểu sức mạnh của mình. Thực ra St. John đã


không giấu cảm xúc của mình, vì ông không thể giấu được cô. Bất chấp tính khắc kỷ Cơ Đốc giáo của ông, khi cô gái bước tới nói chuyện, tươi cười với ông như một sự khích lệ và âu yếm, bàn tay ông vẫn cứ run run, ánh mắt ông vẫn cứ sáng long lanh. Có vẻ như bằng chính cái ánh mắt buồn buồn của mình, ông muốn nói ra cái điều ông không thể thốt thành lời: “Tôi yêu cô và tôi biết cô cũng thích tôi. Không phải vì sự vô vọng của thành công mà tôi phải nín lặng. Nếu tôi dâng tặng cô trái tim tôi, tôi tin thế nào cô cũng phải nhận. Nhưng trái tim ấy đã được dâng lên bàn thờ thiêng liêng rồi, ngọn lửa thiêng cũng đã được nhen nhóm xung quanh con tim ấy. Chẳng bao lâu nữa nó sẽ chỉ còn là một lễ vật hiến sinh thôi”. Và rồi cô gái sẽ bĩu môi như một đứa trẻ bị làm phật ý. Một bóng mây ưu tư làm nhòa bớt vẻ xinh tươi rực rỡ của cô. Cô sẽ vội rút tay ra khỏi tay ông trong cơn hờn giận thoáng qua, cô sẽ ngoảnh mặt đi, không thèm nhìn vẻ mặt vừa anh hùng vừa khổ sở của ông. Và khi cô bỏ đi như vậy, chắc hẳn St. John sẽ từ bỏ hết mọi thứ trên đời để chạy theo, mời gọi và giữ người thiếu nữ ấy lại, nhưng rốt cuộc ông vẫn không chịu từ bỏ thiên đường vĩnh hằng để đổi lấy thiên đường tình yêu của cô. Hơn nữa, ông cũng không thể trói buộc những gì đã ngấm sâu vào bản tính của ông – là kẻ thích phiêu bạt, nhiều khát vọng, dòng máu nghệ sĩ và giáo sĩ – trong các giới hạn của một dục vọng duy nhất. Ông không thể, và sẽ không thể từ bỏ chiến địa truyền giáo gian nan của mình để đánh đổi những phòng khách và sự yên bình của Vale Hall. Tôi đã hiểu về ông khá nhiều sau một lần “đột kích” vào tâm sự của ông, mặc dù ông vẫn luôn tỏ ra kín đáo. Tôi có vinh dự là thường xuyên được cô Oliver đến thăm tại căn nhà bé nhỏ của tôi. Tôi bắt đầu hiểu rõ tính cách của cô, một tính cách bộc trực và không che dấu điều gì. Cô hay làm dáng nhưng không vô tâm, hay đòi hỏi nhưng không ích kỉ, được nuông chiều từ nhỏ nhưng không hư hỏng, nhanh nhảu nhưng cũng hài hước, tự cao tự đại (cô không thể làm khác được khi lần nào nhìn vào gương cũng thấy mình đáng yêu) nhưng không giả tạo và phóng đãng, không có thói khoe của, hào phóng, thông minh, hoạt bát và vô tư. Tóm lại, cô là một cô gái đầy sức quyến rũ, ngay cả đối với một người có con mắt lạnh lùng và cùng giới tính như tôi. Nhưng cũng phải nói rằng cô không phải là người gây chú ý sâu sắc hoặc gây chú ý mạnh mẽ. Có một sự khác biệt rõ ràng về tâm hồn của cô và các em gái của St. John chẳng hạn. Nhưng dù vậy, tôi vẫn rất quý mến cô bằng một tình cảm tôi đã dành cho cô bé Adèle, khác chăng là sự trìu mến mà tôi dành cho một đứa trẻ do chính mình dạy bảo vẫn sâu sắc hơn một cô gái lớn đầy sức quyến rũ mà tôi mới


quen. Cô cũng có thái độ rất tử tế đối với tôi, bảo tôi giống ông St. Rivers (mặc dù cô nhận xét, “chắc chắn về cái mã bề ngoài, tôi chỉ bằng một phần mười ông, tôi chỉ là một cô gái nhỏ nhắn có hồn, còn ông là một thiên thần”). Tuy nhiên, tôi là người tốt bụng, sáng tạo, thông minh và cương quyết giống ông. Cô còn khẳng định, nếu nói về các cô gái ở thôn quê, tôi đúng là một lusus [75] natuate và dám chắc rằng tiểu sử của tôi, nếu được tiết lộ thì có thể viết thành một cuốn tiểu thuyết rất hay. Một buổi tối, trong lúc nghịch ngợm, tò mò lục lọi tủ và ngăn bàn của tôi như một đứa trẻ con, cô đã phát hiện ra hai quyển sách tiếng Pháp, một tuyển tập của Schiller, một cuốn từ điển và văn phạm tiếng Đức, rồi đến các dụng cụ hội họa và vài bức phác họa của tôi, trong đó có bức chân dung của một cô bé học trò xinh xắn vẽ bằng chì và mấy bức tranh phong cảnh Morton với những cánh đồng hoang. Lúc đầu cô ngạc nhiên lắm, rồi cứ thế thích thú nhảy cẫng lên. - Có phải cô là tác giả của những bức tranh này không? – Cô hỏi tôi. – Cô còn biết cả tiếng Pháp và tiếng Đức cơ à? Cô quả là người tuyệt vời... và đáng yêu đấy! Cô vẽ còn tuyệt vời hơn ông thầy lớp nhất của tôi ở S… Cô có thể vẽ tặng tôi một bức chân dung để tôi mang về cho cha tôi xem không? - Rất vui lòng! – Tôi trả lời. Trong lòng cảm thấy lâng lâng niềm vui của một họa sĩ đích thực vừa tìm được cô người mẫu hoàn hảo và rực rỡ như thế. Cô gái đang mang trên mình một chiếc áo váy lụa màu xanh thẫm, cổ và tay để trần. Đồ trang sức duy nhất của cô lúc này là những lọn tóc quăn tự nhiên màu hạt dẻ buông ngang vai, trông duyên dáng theo kiểu hoang dã. Tôi lấy một tờ bìa mịn và cẩn thận phác thảo những đường viền cơ bản nhất. Tôi hứa sẽ phết màu sau và bảo cô phải đến làm mẫu một bữa nữa, vì lúc ấy cũng đã muộn rồi. Cô đã kể lại toàn bộ câu chuyện về tôi với ông bố, khiến ông phải đích thân cùng với con gái đến nhà tôi vào ngay chiều tối hôm sau. Ông Oliver là một người trung niên, cao lớn, có khuôn mặt nặng nề, tóc muối tiêu. Đứng cạnh ông, cô con gái xinh đẹp trông chẳng khác nào mộ bông hoa xinh nở bên cạnh một chòi tháp cũ kĩ. Ông có vẻ ít nói và hơi kiêu ngạo, nhưng đối với tôi ông lại rất niềm nở. Bức phác họa chân dung Rosamond khiến ông rất hài lòng. Ông bảo tôi phải nhanh chóng vẽ nốt bức chân dung thành một tác


phẩm hoàn thiện và mời tôi chiều hôm sau sang Vale Hall chơi. Tôi đã đến nhà chơi theo lời mời của ông. Đó là một dinh thự to đẹp, cho thấy chủ nhân là một người giàu có. Rosamond tỏ ra rất vui trong suốt khoảng thời gian tôi có mặt ở nhà cô. Cha cô cũng tỏ ra là người ân cần. Sau bữa trà, khi bắt đầu cuộc trò chuyện với tôi, ông đã đánh giá rất cao những việc tôi làm ở trường Morton. Và qua những gì mắt thấy tai nghe, ông bảo ông chỉ sợ chỗ này không xứng với tôi, và sớm muộn thì tôi cũng sẽ bỏ đi tìm một nơi khác thích hợp hơn. - Đúng vậy! – Rosamond kêu lên. – Cha à, con thấy cô ấy có đủ thông minh và khéo léo để trở thành gia sư cho một gia đình quyền quý. Tôi nghĩ mình sẽ thích ở đây hơn nơi bất cứ một gia đình quyền quý nào. Ông Oliver nói về ông Rivers – về dòng họ Rivers – bằng một thái độ rất kính trọng. Ông bảo đó là một dòng họ rất có tiếng tăm trong cả một vùng, tổ tiên họ từ xưa đã rất giàu có, từng có cả thời cả vùng Morton này thuộc về họ và ngay bây giờ, ông cho rằng con cháu của dòng họ ấy vẫn có quyền kết hôn với một người thuộc tầng lớp quyền quý nhất nếu họ muốn. Ông nói rằng, thật đáng tiếc cho ông Rivers, trẻ tuổi và tài năng như vậy mà lại định tha hương làm nhà truyền giáo, thật là hoài phí khi quẳng đi cả một cuộc đời quý báu. Có vẻ như ông Oliver sẽ không cản trở một cuộc hôn nhân giữa St. John và Rosamond. Rõ ràng, ông đã nhìn nhận dòng dõi cao quý, tên tuổi và nghề nghiệp của vị mục sư trẻ có thể bù đắp cho cái gia sản nghèo nàn của chàng. Đó là ngày mùng năm tháng Mười một, và là một ngày nghỉ. Sau khi giúp tôi quét dọn nhà cửa, cô bé giúp việc ra về, vẻ rất mãn nguyện vì được tôi thưởng cho một đồng penny. Tất cả xung quanh tôi đều sáng bóng và không có một vết bẩn, sàn được cọ sạch, vỉ lò sưởi được đánh sáng, bàn ghế cũng được lau chùi rất kĩ. Tôi cũng tắm rửa và có cả một buổi chiều muốn làm gì tùy thích. Sau khi dành một tiếng đồng hồ để dịch vài trang sách tiếng Đức, tôi lấy bảng pha màu, bút chì ra, và hí hoáy hoàn thành bức chân dung cô Rosamond. Khuôn mặt đã được vẽ xong, chỉ còn việc tô môi, nhấn mạnh đôi hàng mi, sửa thêm vài lọn tóc cho mềm mại hơn và làm màu nền, vẽ trang phục nữa là xong. Tôi đang miệt mài hoàn thành những chi tiết tinh xảo ấy thì cánh cửa chợt bật mở, sau một tiếng gõ nhẹ và nhanh. St. John bước vào. - Tôi đến xem cô dùng ngày nghỉ vào việc gì. – Ông nói. – Tôi hy vọng cô


sẽ không nghĩ ngợi lung tung? Không, cô làm như vậy là đúng, vẽ sẽ làm cho cô cảm thấy không bị cô đơn. Cô thấy đấy, tôi vẫn còn hoài nghi cô, dù cô đã hết lòng vì công việc. Tôi mang cho cô một quyển sách để buổi tối đọc cho đỡ buồn. – Và ông đặt lên bàn một cuốn sách mới ấn hành, một tập thơ, một trong những sáng tác đích thực mà công chúng may mắn được thưởng thức trong thời đại hoàng kim của nền văn học hiện đại. Trong khi tôi say sưa liếc qua những trang thơ bừng sáng của Marmion (vì chính đó là tác phẩm Marmion), ông St. John đã cuối xuống ngắm nghía bức họa của tôi. Ông chợt giật mình đứng thẳng lên, nhưng ông không nói gì cả. Ông đã lảng tránh ánh mắt tôi, khi tôi ngẩng lên nhìn. Tôi rất hiểu ông đang nghĩ gì và có thể đọc được cảm xúc trong trái tim ông. Lúc đó, tôi cảm thấy bình tĩnh và tỉnh táo hơn ông nhiều. Tạm thời có lợi thế hơn ông, tôi nảy ra ý định giúp ông một việc tốt nào đó nếu có thể. “Với tất cả sự cương quyết và tự chủ của mình” – tôi nghĩ – ông đã tự ép buộc mình quá nhiều, đã khóa chặt mọi đau khổ và cảm xúc trong lòng, không bộc lộ hay thú nhận bất cứ một điều gì. Mình tin là sẽ có lợi cho ông khi nói về cô Rosamond đáng yêu, người mà ông nghĩ ông sẽ không được phép lấy làm vợ. Mình sẽ bắt ông phải nói ra”. Đầu tiên tôi nói: “Mời ông ngồi, ông Rivers”. Nhưng như thường lệ, ông trả lời là ông phải đi ngay. “Được thôi, – tôi nhủ thầm – nếu thích thì ông cứ việc đứng đấy, nhưng tôi cũng dám quả quyết rằng ông cũng chẳng đi được ngay đâu. Cũng như tôi, sự cô đơn sẽ chẳng mang lại điều gì tốt lành cho ông cả. Tôi sẽ thử xem liệu tôi có thể khám phá được điều gì trong tâm sự thầm kín của ông không, liệu tôi có tìm thấy kẽ hở nào trong trái tim cẩm thạch kia để nhỏ vào đó một giọt linh dược của sự cảm thông không”. - Ông thấy bức chân dung này có giống không? – Tôi hỏi đột ngột. - Giống. Mà giống ai chứ? Tôi chưa xem kĩ. - Ông xem kĩ rồi, ông Rivers ạ. Ông ngạc nhiên nhìn tôi, vẻ hơi giật mình vì câu hỏi đường đột và lạ lùng của tôi. “Hay nhỉ!” –Tôi nghĩ thầm. – Nào đã có gì đâu. Tôi sẽ không chịu thua cái vẻ thờ ơ cứng nhắc của ông đâu. Tôi còn chuẩn bị đi xa hơn nữa kia”. Và tôi tiếp tục.


- Ông đã xem rất kĩ rồi, nhưng nếu ông muốn xem lại thì tôi cũng không phản đối đâu. Và tôi đứng dậy đặt bức họa vào tay ông. - Bức họa rất đẹp đấy. – Ông nói. – Màu sắc rất dịu dàng và sáng sủa. Quả là một bức họa rất có duyên và chính xác nữa. - Vâng, vâng! Và tôi cũng biết điều đó. Nhưng vấn đề là trông nó có giống không? Mà giống ai mới được chứ? Ông trả lời sau một thoáng do dự. - Tôi đoán là cô Oliver. - Tất nhiên, và thưa ông, để thưởng cho phán đoán đúng của ông tôi hứa sẽ vẽ thật cẩn thận một bức chân dung khác có thể chấp nhận được giống hệt bức này đề tặng ông. Tôi không muốn lãng phí công sức vào một tặng phẩm mà ông cho là vô giá trị. Ông vẫn tiếp tục ngắm nghía bức họa. Càng nhìn, ông càng giữ chặt lấy nó, vẻ như càng thèm muốn có nó. “Sao mà giống thế không biết. – Ông lẩm bẩm. – Đôi mắt vẽ mới khéo chứ. Cả màu sắc, ánh sáng, cách biểu cảm, tất cả đều hoàn hảo. Quả là một bức chân dung tươi sáng!” - Nếu có một bức họa giống như vậy, thì ông sẽ cảm thấy được an ủi hay bị tổn thương? Ông nói đi. Khi nào đến Madagasca, Ấn Độ hay mũi Cap, liệu ông có cảm thấy nó là một niềm an ủi nếu có nó không? Hay nhìn vào nó, ông lại thấy những kỉ niệm mệt mỏi, chán chường? Ông lén nhìn tôi, vẻ bối rối, rồi lại ngắm bức họa. - Chắc là tôi cũng muốn có một bức. Còn như vậy có sáng suốt hay khôn ngoan hay không lại là một chuyện khác. Kể từ khi biết chắc là Rosamond yêu ông, và cha cô, xem chừng cũng không phản đối cuộc hôn nhân ấy, tự đáy lòng mình, tôi – người không có những quan điểm cao xa như St. John – rất muốn tác thành cho hai người. Tôi nghĩ nếu có được thừa hưởng cái gia tài kếch xù của nhà Oliver thì ông St. John cũng có những điều kiện thuận lợi để làm những điều thiện, đâu cần phải lặn lội đến những vùng nắng mưa nhiệt đới để cho người mòn mỏi dần.


Tin là như vậy, tôi trả lời: - Cứ như tôi thấy, nếu như lấy cả “bản gốc” luôn thể thì mới là sáng suốt và khôn ngoan hơn. Lúc ấy, ông đã ngồi xuống, đặt bức họa lên bàn trước mặt, hai tay ôm trán, mắt vẫn âu yếm nhìn người trong tranh. Tôi nhận thấy ông không còn tức giận hay bị sốc trước sự táo tợn của tôi nữa. Thậm chí tôi nhận thấy ông đang bắt đầu lâng lâng một niềm vui mới khi được nghe tôi thẳng thắn đề cập tới một vấn đề mà ông vẫn cho là thầm kín. Thực ra, những người kín đáo cần bàn luận về tình cảm và những nỗi đau lòng của họ hơn là những người sống cởi mở. Dù thế nào, kẻ khắc kỉ có bề ngoài nghiêm nghị nhất cũng là một con người, và nếu có “khuấy động” – bằng thiện chí và sự can đảm – cái “biển lặng” của tâm hồn họ thì nhiều khi cũng là giúp họ cái việc đầu tiên trong những việc buộc phải làm với họ. - Tôi tin chắc là cô ấy thích ông, – tôi nói và đứng ngay sau lưng ghế ông, và cha cô ấy cũng kính trọng ông. Hơn nữa, dù chưa chín chắn thì cô ấy cũng là người có duyên, và trí tuệ của ông thì cũng đủ cho hai người. Ông phải lấy cô ấy mới được. - Cô ấy có thích tôi không? – Ông hỏi. - Chắc chắn là có, thích ông hơn bất cứ một ai khác. Cô ấy nhắc đến ông luôn, chẳng có chuyện gì khiến cô ấy vui và hay nói tới bằng chuyện ấy. - Nghe nói thế thì cũng hay đấy nhỉ. Cô cứ nói thêm độ mười lăm phút nữa đi. – Ông nói và rút ngay chiếc đồng hồ ra đặt lên bàn để tính giờ. - Nhưng để làm gì khi mà ông đang chuẩn bị một bài phản đối cứng nhắc, hoặc lại đưa ra một thứ xiềng xích để trói buộc trái tim ông chứ? - Đừng hình dung ra những điều khó nhọc như thế. Hãy cứ tưởng tượng là tôi đang nhượng bộ hoặc động lòng, và tình yêu con người đang trào dâng trong lòng tôi như một dòng chảy mới khơi, làm tràn ngập dần toàn bộ cánh đồng mà tôi đã dày công vun xới… từ hạt giống của những ý định tốt đẹp và những kế hoạch quên mình. Và bây giờ cánh đồng ấy đang ngập chìm trong dòng nước lũ ngọt ngào, khiến những chồi non cũng bị chìm theo để rồi bị hủy hoại bởi một thứ thuốc độc thơm thảo. Giờ tôi đang thấy mình đang nằm dài trên ghế trong phòng khách ở lâu đài Vale Hall, dưới chân cô vợ


Rosamond Oliver của tôi. Nàng đang nói với tôi bằng giọng nói ngọt ngào, đang nhìn xuống tôi bằng ánh mắt y hệt đôi mắt mà bàn tay tài hoa của cô đã vẽ này, đang cười với tôi bằng đôi môi màu san hô này. Nàng là của tôi và tôi là của nàng. Cuộc sống hiện đại và cái thế giới thoảng qua này như vậy cũng là đủ cho tôi. Suỵt! Đừng nói gì nghe… Tim tôi đang tràn đầy niềm vui ngây ngất… mọi giác quan của tôi đang đê mê sung sướng… Hãy cứ để quãng thời gian tôi vừa ấn định được trôi qua êm đềm. Tôi chiều theo ý ông. Chiếc đồng hồ vẫn cần mẫn kêu những tiếng tích tắc đều đều. Ông thở khẽ và dồn dập. Tôi đứng yên. Mười lăm phút trôi đi trong sự im lặng ấy. Rồi ông bỏ đồng hồ vào túi, đặt bức họa xuống, đứng dậy và đến bên lò sưởi. - Đó là khoảng thời gian ngắn ngủi – ông nói – tôi dành cho cảm xúc đê mê tột cùng và ảo tưởng hão huyền. Tôi đã ngả mái đầu lên ngực sự cám dỗ và tự nguyện để nói tròng vào tôi cái ách bằng hoa của nó. Tôi đã nếm ly rượu nồng của nó. Tôi cảm thấy cái gối ấy nóng như lửa đốt, trong tràng hoa ấy có một con rắn mào, trong ly rượu ấy có vị đắng cay, những lời hứa của nó đều là rỗng tuếch, những lời thỉnh cầu của nó đều là giả dối. Tôi đã nhận biết được tất cả. Tôi kinh ngạc nhìn ông. - Lạ một điều là trong khi yêu Rosamond một cách điên dại – ông tiếp tục – bằng tất cả sự say mê của mối tình đầu dành cho một cô gái quả thực rất xinh đẹp, duyên dáng và quyến rũ, thì đồng thời tôi cũng trải qua một cảm giác bình lặng và hoàn toàn ý thức được rằng cô ấy không phải là người vợ tốt và người bạn đời phù hợp của tôi. Cùng lắm là một năm sau ngày cưới, tôi sẽ khám phá ra điều đó và kết quả là sau mười hai tháng hạnh phúc của tôi sẽ là cảnh suốt đời nuối tiếc. Tôi hiểu điều đó. - Thế thì lạ thật! – Tôi buộc miệng thốt ra. - Trong khi trong con người tôi – ông vẫn tiếp tục giãi bày – có một cái gì đó rung động mãnh liệt trước vẻ quyến rũ, thì cũng có những cảm xúc khác ý thức được sâu sắc những nhược điểm của cô ấy. Đó chính là những nhược điểm khiến cô ấy không thể đồng cảm được với những gì tôi đang khao khát, không thể cộng tác với những gì tôi đang thực hiện. Rosamond là một người cần mẫn, biết chịu đựng, và có thể trở thành một nữ tông đồ ư? Rosamond mà là vợ của một nhà truyền giáo ư? Không có đâu!


- Nhưng việc gì mà ông cứ phải là nhà truyền giáo. Ông vẫn có thể từ bỏ dự tính đó được kia mà. - Từ bỏ! Nhưng thiên chức của tôi là gì chứ? Sự nghiệp lớn lao của tôi sẽ đi về đâu? Và cả nền móng tôi đặt trên nền đất này để xây dựng một tòa lâu đài trên thiên đường nữa? Hy vọng của tôi là được lưu danh trong số những người biết hài hòa mọi tham vọng thành một niềm vinh quanh là phục vụ đồng loại, là mang kiến thức đến cho những miền ngu dốt, thay chiến tranh bằng hòa bình, thay kiếp nô lệ bằng tự do, thay mê tín dị đoan bằng tôn giáo, thay nỗi lo sợ phải xuống địa ngục thành niềm hy vọng lên thiên đường, chẳng lẽ cũng đành từ bỏ cả sao? Tôi xin được nói thật, tôi coi dự định ấy còn quý hơn cả dòng máu chảy trong người mình. Đó chính là điều tôi hướng tới và lấy làm lẽ sống cho bản thân mình. Sau một lúc lâu im lặng, tôi hỏi ông: - Thế còn cô Oliver? Chẳng lẽ sự thất vọng và nỗi đau lòng của cô ấy không khiến ông bận tâm hay sao? - Lúc nào cô Oliver chẳng có những kẻ ngưỡng mộ và tán tỉnh vây quanh? Rồi cô xem, rồi chẳng đến một tháng, hình ảnh của tôi sẽ phai mờ trong trái tim của cô ấy. Cô ấy sẽ quên tôi và lấy một người nào đó sẽ mang lại hạnh phúc cho cô hơn tôi nhiều. - Ông nói cũng lạnh lùng đấy, nhưng rốt cuộc, người phải chịu đựng trong cuộc đấu tranh này vẫn lại là ông. Người đang héo mòn đi đấy. - Không. Nếu tôi có gầy mòn đi một chút, thì chẳng qua cũng là tôi thấy lo cho các viễn cảnh chưa được thực hiện của mình mà thôi, vì ngày lên đường của tôi cứ bị trì hoãn mãi. Chỉ mới sáng nay thôi, tôi lại nhận được tin rằng vị mục sư mà bấy lâu nay tôi nóng lòng ngóng đợi vẫn chưa thể đến thay tôi trong vòng ba tháng tới, và có lẽ ba tháng ấy sẽ kéo dài thành sáu tháng cũng nên. - Mỗi khi cô Oliver bước vào lớp học, tôi vẫn thấy ông run run và đỏ mặt lên đấy thôi. Một lần nữa, gương mặt ông lại thoáng lộ vẻ ngạc nhiên. Ông không tưởng tượng được lại có một người phụ nữ dám nói như vậy với một người


đàn ông. Về phần mình, tôi cảm thấy nói như vậy là điều bình thường. Tôi sẽ chẳng bao giờ nói chuyện được lâu với những người – dù là đàn ông hay phụ nữ – có tâm hồn mạnh mẽ, kín đáo và tinh tế cho đến khi vượt ra được viền ngoài sự e dè của hủ tục, bước được vào ngưỡng cửa của đức tin và chiếm được một chỗ trong trái tim họ. - Cô quả là người khác lạ và chẳng hề nhút nhát. – Ông nói. – Tính cô thật táo bạo, cũng như ánh mắt của cô có một cái gì đó thật sáng suốt. Nhưng tôi cũng xin được khẳng định với cô rằng, cô đã phần nào hiểu sai cảm xúc của tôi. Cô đã nghĩ về chúng sâu sắc và mãnh liệt hơn so với thực tế vốn có của chúng. Cô đã thông cảm quá nhiều so với mức tôi cần được thông cảm. Khi đỏ mặt và mất bình tĩnh trước mặt cô Oliver, tôi đã không hề thương hại mình. Tôi coi khinh sự yếu đuối. Tôi biết yếu đuối là một sự hổ thẹn, là một cơn sốt của xác thịt chứ không phải là sự rung động của tâm hồn. Tâm hồn ấy nằm vững chắc như một hòn đá tảng bắt sâu vào đáy một biển cả dậy sóng. Hãy nên hiểu tôi là một người như thế nào – một người đàn ông lạnh lùng và cứng rắn. Tôi mỉm cười hoài nghi. - Cô đã đột kích vào niềm tâm sự của tôi, – ông nói tiếp – và bây giờ, tôi thấy nói thế cũng đã là nhiều. Nếu lột bỏ tấm áo hồng mà Cơ Đốc giáo che phủ lên cái bộ dạng méo mó của loài người, thì tôi cũng chỉ là một gã đàn ông lạnh lùng, cứng nhắc và đầy tham vọng như nguyên bản của mình. Trong mọi tình cảm, chỉ có tình cảm thương yêu tự nhiên là thường xuyên ảnh hưởng đến tôi. Kẻ hướng đạo của tôi là Lý trí, chứ không phải là Cảm xúc. Tham vọng của tôi là không có giới hạn. Mong ước của tôi là vươn cao hơn người khác, làm nhiều hơn người khác và không bao giờ thỏa mãn với chính mình. Tôi tôn trọng sự chịu đựng, tính kiên trì, cần cù và tài năng, bởi đó chính là phương tiện giúp con người đạt được những mục tiêu vĩ đại và vươn lên những đỉnh cao. Tôi quan tâm theo dõi công việc cô làm, vì tôi coi cô là một mẫu phụ nữ siêng năng, ngăn nắp có nghị lực, chứ không phải vì tôi cảm thông sâu sắc với những gì cô đã trải qua, hoặc những gì hiện cô vẫn phải tiếp tục chịu đựng. - Ông nói về mình cứ như một nhà triết học tự nhiên chủ nghĩa không bằng. – Tôi nói. - Không, giữa tôi và các nhà triết học tự nhiên vẫn có sự khác biệt, ấy là


đức tin. Tôi tin ở sách Phúc âm. Cô đã dùng một lời mô tả không đúng. Tôi không phải là một nhà triết học ngoại giáo, mà là một triết gia Cơ Đốc giáo, một môn đồ của giáo phái Thiên Chúa. Là một môn đồ của Jesus, tôi thừa nhận các thuyết thuần túy từ bi, không hận thù của Người. Tôi ủng hộ và thề sẽ truyền giảng những học thuyết ấy. Chinh phục tôi ngay từ hồi tôi còn trẻ, tôn giáo đã vun xới những đức tính bẩm sinh của tôi như thế này: từ cái mầm mống nhỏ bé, tình yêu đã phát triển thành một cây cao bóng cả của lòng nhân ái. Từ cái rễ hoang dại, xác xơ, lòng trung thực của con người đã được vun xới thành ý thức đúng đắn về Công lý thiêng liêng. Thiên Chúa giáo đã biến khát vọng về quyền thế và danh vọng cho cái tôi bản ngã khốn nạn của tôi thành khát vọng mở rộng vương quốc cho Thượng đế và mang lại chiến thắng cho chuẩn mực của cây Thánh giá. Tôn giáo đã mang lại cho tôi nhiều điều, đã biến những nguyên vật liệu thô thiển thành những điều cao cả nhất, đã cắt tỉa và rèn luyện nên bản chất con người. Nhưng tôn giáo không thể tiệt trừ bản chất và cũng sẽ không bao giờ làm được điều ấy cho đến khi “cái thể xác này được khoác bộ áo bất tử”. Nói đến đây, ông cầm lấy chiếc mũ đặt trên mặt bàn, cạnh bảng pha màu của tôi, rồi ngắm nhìn bức chân dung một lần nữa. - Trông cô ấy thật đáng yêu. – Ông lẩm bẩm. – Cô ấy quả xứng với cái [76] tên Bông hồng của trần gian! - Thế tôi có thể vẽ cho ông một bức khác được không? [77] - Cui bono? Không. Ông che bức chân dung bằng một tờ giấy mỏng mà tôi thường hay dùng để lót tay vẽ cho khỏi nhòe mặt tranh. Không hiểu ông bất chợt nhìn thấy gì trên trang giấy trắng đó, nhưng rõ ràng có cái gì đó đã đập vào mắt ông, vì tôi thấy ông giật vội lại tờ giấy, nhìn vào bên lề, rồi liếc nhìn tôi bằng ánh mắt lạ lùng khó hiểu. Cái nhìn của ông có vẻ như muốn ghi lại mọi chi tiết về thân hình, gương mặt và quần áo của tôi, vì tôi thấy ông nhìn lướt khắp người tôi, nhanh và sắc như một tia chớp. Ông mấp máy môi như định nói điều gì, nhưng rồi lại thôi. - Có chuyện gì thế? – Tôi hỏi. - Chẳng có gì cả. – Ông trả lời và đặt lại tờ giấy vào chỗ cũ. Tôi thấy ông


đã khéo léo xé một mẫu bên lề tờ giấy và cất vào bao tay, rồi vội vã gật đầu chào tôi trước khi ra về - Lạ thật đấy! – Tôi thốt lên. – Thật chẳng hiểu ra làm sao nữa. Tôi chăm chú nhìn lại tờ giấy, nhưng chẳng thấy gì ngoài mấy vết bút thử màu mà tôi đã phết lên đó. Tôi mất mấy phút ngẩn người suy nghĩ về sự khó hiểu của ông, nhưng rốt cuộc vẫn không thể lý giải được. Chắc chắn chẳng có điều gì quan trọng, tôi đã bỏ qua và quên ngay lập tức.



Chương 33 Ông St. John vừa đi khỏi thì tuyết cũng bắt đầu rơi, gió bão quay cuồng suốt đêm. Ngày hôm sau, gió lạnh tiếp tục mang đến những bông tuyết nhạt nhòa. Đến chiều tối, tuyết đã rơi đầy thung lũng khiến cho các nẻo đường đều khó có thể vượt qua. Tôi phải hạ cửa chớp và chặn thêm một miếng thảm vào khe cửa để tuyết khỏi tràn vào nhà, rồi nhóm lửa lên, ngồi bên lò sưởi nghe tiếng gió bão gầm thét suốt gần một tiếng đồng hồ. Sau đó, tôi thắp một ngọn nến, lấy cuốn Marmion xuống đọc. Bóng chiều buông xuống đỉnh Norham, Xuống dòng Tweed mênh mang sâu thẳm, Và xuống rặng Cheviot hiu quạnh. Những ngọn tháp nhấp nhô, vọng lầu canh giữ, Những bức tường thành bao quanh uốn mình, Dưới ánh vàng lộng lẫy… Những vần thơ đã nhanh chóng khiến tôi quên đi tiếng gào thét của bão tố. Chợt có một tiếng động khiến tôi tưởng là tiếng gió lay cánh cửa. Nhưng không, đó chính là St. John từ ngoài gió rít và đêm tối, nhấc then cửa bước vào. Ông đước ngay trước mặt tôi, tấm áo choàng trên thân hình dỏng cao của ông trắng toát như một tảng băng. Tôi sững sờ kinh ngạc, chẳng hề ngờ lại có một vị khách từ dưới thung lũng ngập tuyết trắng đến thăm mình trong một đêm tối như vậy. - Có điều gì không ổn chăng? – Tôi hỏi. – Có chuyện gì xảy ra vậy? “Không. Mà sao cô dễ hoảng hốt thế không biết!” – Ông trả lời và cởi tấm áo choàng treo lên cửa, bình thản chỉnh lại tấm thảm chèn vào khe cửa mà lúc bước vào ông đã làm xô lệch đi, rồi giậm chân để giũ tuyết bám vào giày. - Không khéo tôi lại làm bẩn cái sàn nhà của cô mất, nhưng cô cũng nên


tha lỗi cho tôi một lần. – Ông nói và bước lại gần bếp lửa để hơ tay cho ấm. – Vất vả lắm tôi mới đến được đây. Tuyết rơi dày đến nỗi có chỗ tôi bị thụt xuống tận thắt lưng. Cũng may là tuyết vẫn còn mềm. - Nhưng ông đến làm gì chứ? – Tôi buột miệng hỏi. - Cô hỏi một người đến chơi như vậy thì còn gọi gì là mến khách nữa. Nhưng thôi, nếu cô đã hỏi thì tôi cũng xin thưa rằng tôi đến đơn giản chỉ là để nói chuyện với cô một lúc. Thứ thực là tôi bỗng thấy phát chán những quyển sách câm lặng và mấy căn phòng trống rỗng của mình. Hơn nữa, từ hôm qua đến giờ, tự nhiên tôi lại cảm thấy cái hưng phấn của một người mới được nghe dở chừng một câu chuyện, đang sốt ruột muốn được nghe nốt. Ông ngồi xuống. Tôi chợt nhớ lại cử chỉ kỳ cục của ông hôm qua, và bắt đầu cảm thấy thực sự lo ngại cho sự bất bình thường trong đầu óc ông. Tuy nhiên, nếu có vấn đề thật thì có lẽ ông sẽ chỉ là một người mất trí lạnh lùng và còn biết tự chủ mà thôi. Chưa bao giờ tôi thấy khuôn mặt ưa nhìn của ông lại giống cẩm thạch như bây giờ – khi ông gạt mớ tóc lấm tuyết sang một bên, để lộ ra vầng trán và đôi gò má xanh xao trong ánh lửa bập bùng, khiến tôi không khỏi chạnh lòng khi nhận thấy dấu vết của nỗi ưu phiền hằn sâu trên đó. Tôi cứ tưởng ông sẽ nói một điều gì đó mà ít nhất tôi có thể hiểu được, nhưng không, chỉ thấy ông chống tay vào cằm, mấy ngón tay đặt lên môi. Ông đang chìm trong dòng suy tưởng. Tôi bị bất ngờ khi nhận thấy bàn tay ông cũng gầy guộc như khuôn mặt ông. Một tình cảm thương hại xót xa bất chợt trào dâng trong lòng tôi. Tôi buộc phải lên tiếng trước: - Tôi chỉ mong Diana và Mary về sống với ông. Nếu ông cứ sống trơ trọi một mình như thế này mãi thì chẳng hay ho chút nào, mà ông thì chẳng quan tâm đến sức khỏe gì cả. - Hoàn toàn không phải như vậy đâu. – Ông nói. – Tôi vẫn tự lo cho mình mỗi khi cần đấy chứ. Bây giờ tôi vẫn cảm thấy bình thường. Cô thấy tôi có điều gì sai sót nào? Giọng ông hững hờ, lơ đãng như muốn bảo rằng sự quan tâm ân cần của tôi là không cần thiết, ít nhất là theo ý ông. Tôi lặng im. Ông vẫn chậm rãi xoa ngón tay lên vành môi, ánh mắt mơ màng vẫn không rời đáy lò sưởi đang rực cháy. Thấy cần phải nói ngay một chuyện gì đấy cho khỏi vô duyên, tôi bèn hỏi ông có bị lạnh vì gió từ phía cửa sau ông


thổi vào không. - Không, không. – Ông trả lời cộc lốc và có vẻ hơi khó chịu. “Được thôi, nếu không muốn nói thì ông cứ việc ngồi đấy. – Tôi nghĩ bụng. – ‘Tôi sẽ để mặc ông một mình để quay lại với quyển sách của tôi”. Và rồi tôi lại gạt bấc đèn để tiếp tục nhâm nhi tập Marmion. Nhưng St. John cũng chẳng ngồi như tượng được lâu. Tôi lập tức để mắt theo dõi các cử chỉ của ông. Ông chỉ móc túi lấy một cái ví gấp da dê, rút ra một lá thư nhẩm đọc, rồi gấp lại và nhét trả vào ví trước khi tiếp tục trầm mặc suy tưởng như ngồi thiền. Quả là chẳng còn gì thú vị khi đọc sách trước một người cứ ngồi lì lì như vậy. Mà tôi cũng không thể kiên nhẫn chịu câm mãi thế này được, dù ông có khó chịu thì tôi cũng phải nói. - Gần đây ông có được tin gì về Diana và Mary không? - Chẳng có gì kể từ khi nhận được lá thư mà tôi đã đưa cô xem tuần trước. - Các dự định của ông vẫn không có gì thay đổi chứ? Ông sẽ không rời nước Anh sớm hơn dự định chứ? - Tôi e rằng không. Nếu được như vậy thì may cho tôi quá. Thấy chẳng đi đến đâu, tôi bèn xoay câu chuyện sang nhà trường và các học trò của mình. - Mẹ cô bé Mary Garre đã khá hơn rồi. Sáng nay đã thấy Mary trở lại lớp học, và tuần tới tôi lại có thêm bốn cô học trò mới từ xưởng đúc đến. Lẽ ra hôm nay chúng đã đến nhập lớp nếu không có bão tuyết. - Thật thế à? - Ông Oliver trả tiền học cho hai đứa. - Ông ấy làm thế thật à? - Ông ấy định đến lễ Giáng sinh này sẽ chiêu đãi cả trường một bữa. - Tôi biết rồi.


- Đó có phải là gợi ý của ông không? - Không. - Thế ai vậy? - Tôi nghĩ chắc là con gái ông ấy. - Quả cũng đúng với con người cô ấy, một cô gái có bản chất rất tốt. - Vâng. Tiếp theo lại là một khoảng im lặng vô tận. Chuông đồng hồ ngân nga tám tiếng. Ông bỗng như bừng tỉnh, duỗi chân và ngồi thẳng dậy, quay mặt lại phía tôi. - Cô hãy buông quyển sách xuống và lại gần ngọn lửa này một chút đi. – Ông bảo tôi. Vừa ngạc nhiên vừa không hiểu ông có ý gì, tôi đành làm theo lời ông. - Trước đấy nửa giờ, – ông bắt đầu – tôi có nói tôi đang sốt ruột muốn nghe nốt một câu chuyện. Bây giờ tôi thấy vấn đề sẽ được giải quyết tốt hơn nếu tôi đóng vai người kể chuyện, còn cô sẽ là người nghe. Trước khi bắt đầu, thiết tưởng cũng nên báo cho cô biết trước rằng câu chuyện có thể sẽ khiến cô thấy nhàm tay, nhưng những chi tiết cũ rích nhiều khi lại trở nên mới mẻ ở một chừng mực mới nếu được một người mới nhắc lại. Mà nói gì thì nói, dù làm nhàm tai hay mới mẻ, thì điều tôi nói ra cũng ngắn thôi. Hai mươi năm về trước, có một vị mục sư nghèo – xin đừng quan tâm đến tên ông ta vội – đem lòng yêu một cô gái con nhà giàu, và cô gái cũng yêu và đã lấy ông ta bất chấp sự phản đối của gia đình. Do vậy, ngay sau lễ cưới, gia đình cô gái nhất quyết từ bỏ cô. Lấy nhau chưa được hai năm thì cả đôi vợ chồng nông nổi ấy cùng chết, và họ đã được yêu nghỉ bên nhau dưới một tấm bia đá. (Tôi đã có lần tới thăm mộ họ tại một nghĩa địa rộng bao quanh tòa nhà thờ cũ kỹ, xám đen như mồ hóng, ở một thành phố công nghiệp chế tạo phát triển). Họ để lại một đứa con gái, mà ngay từ khi mới chào đời đã được Lòng nhân đức đón nhận một cách lạnh lùng, y như đống tuyết tôi bị sa vào lúc nãy. Lòng nhân đức đã mang cô bé vô thừa nhận đó tới nhà một người rất giàu thuộc họ về đằng mẹ nó. Cô bé được một bà mợ có tên (bây giờ tôi mới nói đến tên) là Reed ở Gateshead nuôi nấng. – Mà sao cô


lại giật mình thế? Có tiếng động gì phải không? Chắc lại một con chuột nào chạy trên kèo nhà lớp học bên kia thôi. Trước khi tôi cho sửa chữa lại thì đây chỉ là một cái kho cỏ khô, mà đã gọi là kho thì lúc nào chẳng có chuột. – Ta tiếp tục câu chuyện nhé. Bà Reed nuôi đứa trẻ mồ côi được mười năm. Nó có được sung sướng khi sống với bà tay hay không thì tôi không được rõ, chỉ biết rằng vào quãng cuối thời gian ấy, nó được đưa tới một nơi mà chắc là cô cũng biết – vì đó không phải là một nơi nào khác ngoài cái Trường Lowood, nơi chính cô cũng đã từng sống một thời gian dài. Hình như quãng thời gian ở đó rất đáng để cô bế lấy làm vinh dự, vì từ một học sinh, cô đã trở thành một cô giáo giống như cô vậy – thú thực là tôi đã giật mình khi thấy trong chuyện của cô ấy có nhiều điểm giống cô. Sau đó, cô ấy đi làm gia sư, và về điểm này thì số phận của các cô lại giống nhau như hệt. Cô ấy nhận dạy dỗ cho đứa con nuôi của một ông Rochester nào đó. - Ông Rivers! – Tôi ngắt lời. - Tôi có thể đoán được cô đang nghĩ gì, – ông tiếp tục – nhưng cô cứ cố gắng kiềm chế thêm một lát nữa nhé. Tôi sắp kể xong rồi, chịu khó một chút đi nào. Về tính cách ông Rochester thì tôi chẳng biết gì ngoài cái thực tế ông ta muốn lấy cô gái trẻ ấy. Nhưng đúng lúc ra trước bàn thờ làm phép cưới, cô gái bất ngờ được biết rằng ông ta đã có vợ, và hiện người vợ vẫn còn sống cho dù đang bị điên. Chuyện xảy ra sau đó với ông ta như thế nào thì tôi chịu, có biết cũng chỉ là ước đoán mà thôi. Chỉ biết rằng khi xảy ra một việc cần phải tìm gặp cô gia sư ấy thì người ta mới phát hiện ra rằng cô ấy đã bỏ đi rồi – chẳng ai biết cô ấy đi đâu và bằng cách nào. Cô ấy bỏ lâu đài Thornfield khi trời con chưa kịp sáng. Mọi sự tìm kiếm đều không mang lại kết quả. Mọi xó xỉnh trong vùng đều đã được sục sạo mà vẫn không hề thấy dấu vết gì của cô ấy. Nhưng việc tìm bằng được cô ấy là một vấn đề rất cấp thiết, nên người ta đã đăng tin tìm người trên khắp các tờ báo. Chính tôi cũng có nhận được một lá thư của ông Briggs, một vị luật sư, kể về những chi tiết mà tôi vừa nhắc đến xong. Quả là một câu chuyện lạ lùng đấy chứ? - Ông hãy cho tôi biết đi, – tôi nói – bây giờ ông Rochester thế nào rồi? Vì ông biết nhiều thế kia mà. Chắc chắn là ông có thể nói cho tôi điều đó. Ông ấy đang ở đâu? Làm gì? Có được khỏe không? - Tôi hoàn toàn không biết gì về ông Rochester, vì lá thư không nhắc đến ông ta mà chỉ kể lại một âm mưu lừa gạt và bất hợp pháp như tôi đã nói. Có lẽ cô nên hỏi tên cô gia sư và bản chất sự việc đã khiến cô ấy phải có mặt thì


hơn. - Thế không ai đến lâu đài Thornfield à? Chẳng lẽ không ai gặp ông Rochester sao? - Tôi cho là không. - Nhưng họ phải viết thư cho ông ấy chứ? - Tất nhiên. - Thế ông ấy viết gì? Ai là người đã nhận được thư của ông ấy? - Ông Briggs cho biết thư trả lời không phải của ông Rochester, mà của một bà ký tên là “Alice Fairfax”. Tôi cảm thấy bàng hoàng và lạnh toát cả người. Những lo sợ tồi tệ nhất của toi có lẽ đã trở thành sự thực. Chắc chắn là ông đã rời khỏi nước Anh, và có thể trong cơn tuyệt vọng, ông lại đâm đầu vào những chốn ăn chơi ngày trước. Ông sẽ tìm đến một thứ ma túy nào để lấp đầy nỗi đau lòng và cảm xúc mạnh mẽ của mình ở những chốn sa đọa ấy? Tôi không dám trả lời. Ôi, tội nghiệp ông chủ của tôi, người đã một lần suýt trở thành chồng tôi, người tôi vẫn thường gọi là “Edward thân yêu của em!” - Ông ta hẳn phải là một người xấu. – ông Rivers phán một câu. - Ông không biết ông ấy, nên đừng vội nhận xét về ông ấy. – Tôi nhắc. - Thôi được, – ông điềm tĩnh trả lời – thực ra đầu óc tôi còn bận nghĩ đến việc khác chứ không phải ông ta. Tôi còn có câu chuyện cần phải kể hết. Nếu cô không hỏi tên cô gia sư kia thì tôi đành tự nói ra vậy. Từ từ nhé… đây rồi… Nhìn những điều quan trọng viết trên giấy trắng mực đen bao giờ cũng tốt hơn. Ông lại mở ví móc ra một mẩu giấy xé vội. Nhìn loại giấy và các vệt màu xanh dương, đỏ tía và màu son, tôi nhận ra ngay mảnh giấy bị xé ở lề tờ giấy mà tôi dùng để che lên bức chân dung. Ông đứng dậy chìa mẩu giấy ra ngay trước mắt tôi. Tôi dễ dàng nhận ra hai chữ “Jane Eyre” do chính tay tôi viết bằng một loại mực của Ấn Độ trong một phút lơ đãng nào đó. - Briggs viết cho tôi về một cô Jane Eyre. – Ông nói tiếp. – Những lời


đăng tin trên các tờ báo cũng nói đến một cô Jane Eyre. Mà tôi lại được biết một cô Jane Ellio ! Thú thực là mới nghe tôi đã ngờ ngợ rồi, nhưng phải đến chiều hôm qua mọi chuyện mới chắc chắn. Cô sẽ thú nhận tên mình và bỏ biệt danh đi chứ? - Vâng, vâng… nhưng ông Briggs hiện đang ở đâu? Có lẽ ông ấy biết nhiều về ông Rochester hơn ông. - Briggs đang ở Luân Đôn. Tôi không tin ông ta biết được điều gì về ông Rochester, vì ông Rochester không phải người ông ta quan tâm. Mà sao cô cứ quên những chi tiết quan trọng để đau đầu về những chuyện vớ vẩn như thế nhỉ? Sao cô không hỏi ông Briggs tìm cô để làm gì nhỉ? - Vâng, thế ông ta muốn gì? - Chỉ muốn bảo để cô biết rằng ông chứ Eyre ở Madeira của cô đã mất, rằng ông ấy đã để lại toàn bộ gia tài cho cô để bây giờ cô trở thành người giàu có. Chỉ có thế thôi, không có gì hơn nữa. - Tôi ư? Tôi giàu rồi ư? - Vâng, cô giàu rồi… cô, người được thừa kế. Tiếp theo là một bầu không khí yên lặng. - Tất nhiên cô phải chứng minh căn cước của mình. – St. John nói tiếp luôn. – Việc ấy chẳng có gì khó khăn, rồi cô sẽ được bàn giao cái tài sản ấy ngay thôi. Tài sản của cô hiện đang được gửi tại ngân hàng nước Anh, ông Briggs là người giữ di chúc và các giấy tờ cần thiết khác. Quả là một chuyện tôi có nằm mơ cũng chẳng bao giờ thấy! Từ nghèo khổ trở thành giàu có trong phút chốc! Kể cũng thú vị đấy chứ, phải không bạn đọc? Nhưng nói cho cùng, đó không phải là một chuyện mà người ta có thể hiểu và lấy làm vui ngay được. Với lại, người ta không thể nhảy cẫng lên mà gào ầm ĩ: “Hoan hô!” khi nghe thấy mình được hưởng một gia tài, mà còn phải bắt đầu suy nghĩ đến trách nhiệm và toan tính rất nhiều việc. Tôi bắt đầu thấy lo lo bên cạnh cái cảm giác vui mừng thỏa mãn. Tôi không thể không suy nghĩ về sự may mắn rất bất ngờ của mình. Hơn nữa, những chứ “Chúc thư” và “Thừa kế” lại luôn đi liền với những chữ “Chết” và “Đám tang”. Ông chú – người bà con duy nhất của tôi – mà


tôi được nghe nói đã chết rồi. Từ khi biết mình có một ông chú, tôi vẫn hằng ấp ủ hy vọng sẽ có một ngày được gặp ông, nhưng giờ đây, tôi sẽ chẳng bao giờ còn có cơ hội được làm cái điều ấy nữa. Và số tài sản đó sẽ chỉ dành cho tôi, nó không đến với tôi cùng với một gia đình đầm ấm, mà đến với bản thân cô đơn của tôi. Dẫu sao thì đây cũng là một gia đình đầm ấm, mà đến với bản thân cô đơn của tôi. Dẫu sao thì đây cũng là một điều thú vị mang lại cho tôi một cuộc sống độc lập… Vâng, tôi đã cảm thấy như vậy… ý nghĩ ấy thực sự khiến tôi thỏa lòng. - Cuối cùng thì trán cô cũng đã đỡ nhăn đi được một chút. – Ông Rivers nói. – Vậy mà tôi cứ tưởng cô bị quỷ Medusa nhìn khiến cô biến thành đá rồi cơ đấy. Chắc là bây giờ cô sẽ hỏi cái gia tài mà cô được hưởng đó giá trị là bao nhiêu? - Chà, cũng ít ỏi thôi! Tất nhiên là chẳng có gì đáng nói… Tôi thấy họ bảo hai mươi ngàn bảng thì phải… Nhưng sao thế? - Hai mươi ngàn bảng? Lại một tiếng sét nữa. Vậy mà tôi chỉ dám nghĩ đến khoảng bốn, năm ngàn bảng là cùng. Cái tin ấy làm tôi suýt nghẹn thở. St. John – người tôi chưa từng thấy cười lớn bao giờ – bỗng cười phá lên. - Thế đấy! – Ông nói. – Nếu cô phạm tội giết người, và được tôi báo cho biết rằng tội của cô đã bị tố giác, thì chắc là cô cũng chẳng đến nỗi kinh hãi hơn bây giờ được. - Đó là một số tiền lớn. Liệu ông có nhầm không đấy? - Không hề nhầm. - Có lẽ ông đã đọc nhầm con số, có thể là 2000 chăng? - Số tiền được viết bằng chữ, không phải bằng số. Hai mươi ngàn. Tôi lại có cảm giác mình chẳng khác nào một thực khách bình thường được ngồi một mình vào một bàn tiệc thừa mứa đồ ăn thức uống đủ cho cả một trăm thực khách. Lúc ấy, ông Rivers đứng dậy mặc áo choàng. - Nếu đêm nay không quá xấu trời thì có lẽ tôi đã bảo bà Hannah đến ngủ với cô cho có bầu có bạn. – Ông nói. – Trông cô khốn khổ quá đi mất,


nếu ở nhà một mình thì không hay lắm. Nhưng bà già Hannah tội nghiệp lại không thể lội tuyết như tôi, vì chân bà làm sao dài bằng chân tôi được. Thôi, có lẽ tôi đành phải để cô ở đây một mình với những ưu phiền của cô vậy. Chúc cô ngủ ngon. Ông đang nhấc then cửa thì tôi chợt nảy ra một ý nghĩ. - Khoan đã, xin ông nán lại thêm một phút! – Tôi kêu lên. - Sao đấy? - Tôi không hiểu tại sao ông Briggs lại viết thư cho ông về tôi, hoặc làm thế nào mà ông ta lại biết ông, và biết một người ở một nơi hẻo lánh như ông có thể giúp ông ta tìm kiếm tôi. - Ồ! Tôi là giáo sĩ, mà đã là giáo sĩ thì rất hay được gọi nhờ giải quyết các vấn đề không bình thường. – Ông nói và lại mó tay vào then cửa. - Không, tôi vẫn chưa thấy thỏa mãn! – Tôi đáp lại. Thực tình mà nói thì câu trả lời vội vàng và không rõ của St. John có một cái gì đó thay vì khiến tôi nguôi lòng, lại càng chọc vào trí tò mò của tôi hơn bao giờ hết. - Thật là chuyện khó hiểu. – Tôi nói thêm. – Tôi phải được biết rõ hơn về chuyện ấy. - Để lần khác đi. - Không, phải ngay tối nay! Ngay tối nay! – Và khi thấy St. John định quay ra cửa, tôi đã chạy ra đứng chắn ngang lối. Trông ông có vẻ hơi lúng túng. - Chắc chắn ông sẽ không thể rời khỏi đây nếu chưa nói rõ ngọn ngành câu chuyện cho tôi biết. - Tôi sẽ nói, nhưng không phải bây giờ. - Ông sẽ phải nói! Phải nói! - Tôi muốn để Diana hay Mary nói cho cô biết. Tất nhiên những lời từ chối ấy càng khiến tôi sốt ruột đến cực độ. Dù thế nào tôi cũng phải được biết ngay, không thể chậm trễ được, và tôi đã nói


với ông như thế. - Nhưng tôi đã cho cô biết rằng tôi là một người đàn ông cứng đầu, – ông trả lời – khó có thể bị thuyết phục. - Và tôi cũng là người phụ nữ ngoan cố, không thể thoái thác tôi được. - Vậy thì tôi là người có cái đầu lạnh, chẳng có sự nhiệt thành dai dẳng nào khiến tôi động lòng. - Còn tôi thì như lửa cháy, làm tan băng tuyết. Mà lửa lò sưởi đã làm tan hết cả tuyết trên áo ông rồi kia kìa, khiến sàn nhà tôi ướt lênh láng như ngoài đường lầy vậy. Ông Rivers ạ, nếu ông hy vọng được tha cái trọng tội làm bẩn sàn nhà bếp của tôi thì ông phải cho tôi rõ những điều tôi muốn biết. - Thôi đành vậy, tôi chịu thua cô, nếu không phải vì cái nhiệt tình thì cũng là vì dai dẳng như kiểu nước chảy đá mòn của cô. Với lại đằng nào thì cũng sẽ phải biết, trước sau cũng thế thôi. Cô tên là Jane Eyre chứ gì? - Tất nhiên, điều đó thì rõ rồi. - Có lẽ cô chưa biết rằng tôi trùng tên với cô? Và tên thánh của tôi là St. Jane Eyre Rivers? - Không, quả thực là tôi chưa được biết! Bây giờ tôi mới nhớ mình đã nhìn thấy chữ E trong những mẫu tự đầu của tên ông được viết ở những cuốn sách mà ông cho tôi mượn, nhưng tôi chưa bao giờ thắc mắc nó đứng cho cái tên gì. Nhưng vậy thì sao chứ? Chắc là… Tôi ngừng lời. Tôi không đủ tự tin để thừa nhận – lại càng không đủ tự tin để nói ra miệng – một ý nghĩ vụt lóe lên trong đầu, rồi phút chốc định hình và nổi bật lên như muốn khẳng định tính chắc chắn của câu chuyện. Các sự việc tự ghép lại và ăn khớp với nhau theo một trình tự chặt chẽ nào đó. Bản năng đã mách bảo tôi đầu đuôi câu chuyện trước khi St. John thêm lời, nhưng tôi không thể đợi bạn đọc cũng có cái giác quan kiểu linh tính như vậy, vì thế tôi phải nhắc lại lời giải thích của ông. - Mẹ tôi là Eyre. Bà có hai người em trai: một người làm giáo sĩ, lấy cô Jane Reed ở Gateshead; một người là John Eyre, làm nghề buôn bán, trước ở Funchal, Madeira. Hồi tháng Tám vừa rồi, ông Briggs, luật sư của ông Eyre, có viết thư báo cho chúng tôi biết tin cậu chúng tôi đã mất. Lá thư còn nói


rằng ông Eyre chỉ để lại gia tài cho cô con gái mồ côi của người anh làm giáo sĩ chứ không để lại gì cho chúng tôi, vì ông không bao giờ quên được cuộc cãi vã ngày nào giữa ông và cha chúng tôi. Vài tuần sau, ông Briggs lại viết thư báo tin cô gái được thừa kế gia sản bị mất tích, và hỏi xem chúng tôi có biết tin gì về cô ta không. Tôi đã tình cờ phát hiện ra cô ta nhờ một cái tên viết bên lề một tờ giấy. Phần còn lại thì cô cũng đã biết rồi. Dứt lời, ông lại định mở cửa ra về, nhưng tôi đã tựa lưng vào cánh cửa. - Để tôi nói, nhưng hãy để cho tôi một lúc để thở và suy nghĩ đã. – Tôi nói. Ông vẫn đứng trước mặt tôi, tay cầm mũ, vẻ mặt điềm tĩnh. - Mẹ ông là chị cha tôi. – Tôi bắt đầu chất vấn. - Vâng. - Nếu thế thì là cô tôi? Ông gật đầu. - Chú John tôi cũng là cậu John của ông? Ông, Diana và Mary là con của bà chị ông ta, và tôi là con của ông anh ông ta? - Không thể phủ nhận được. - Vậy là cả ba anh em ông đều có họ với tôi. Nửa phần máu mỗi chúng ta đều có chung nguồn cội? - Đúng thế, chúng ta là anh em họ. Tôi nhìn St. John. Hình như tôi đã tìm thấy một người anh – một người mà tôi có thể tự hào, có thể yêu mến; và hai người chị có phẩm cách mà ngay từ khi biết họ như những người xa lạ, tôi đã cảm thấy trân trọng và ngưỡng mộ. Hai cô gái mà cách đây chưa lâu, khi quỳ gối trên nền đất ẩm, ngó qua khung cửa sổ thấp có chấn song hoa của căn bếp ở Moor-House, tôi đã chiêm ngưỡng bằng một cảm xúc cay đắng lẫn tuyệt vọng, lại là những người có họ gần với tôi, và người thanh niên khổ hạnh thấy tôi gần chết ngay trước ngưỡng cửa lại là một người có quan hệ máu mủ với tôi. Thật là một khám phá tuyệt diệu đối với một kẻ cô độc khốn khổ! Thực ra, đó cũng là của cải – một thứ của cải dành cho trái tim tôi! Đó là một hạnh phúc an lành và tươi sáng, không như món quà tặng nặng nề bằng vàng, vì cho dù cũng đáng giá


và đáng hoan nghênh theo cách của nó, song nó chỉ giúp tôi bớt đi nỗi lo về phận nghèo của mình. Tôi vỗ tay trong niềm vui bất ngờ của mình. - Ôi, tôi cảm thấy vui quá! Vui quá đi thôi! St. John mỉm cười. - Chẳng phải tôi đã nói cô chỉ để ý đến những chuyện lặt vặt mà quên mất những điểm quan trọng đó là gì? – Ông nói. – Khi tôi bảo cô được hưởng cả một gia tài thì mặt cô đanh lại, thế mà bây giờ, vì một việc chẳng đâu vào đâu, cô lại rối cả lên. - Ông có thể nói được như vậy sao? Có thể đối với ông thì đó chỉ là chuyện vặt, vì anh đã có các em gái và chẳng cần quan tâm đến người em họ. Còn tôi thì còn ai chứ? Vậy mà bây giờ lại có đến ba người bà con – hoặc là hai thôi cũng được, nếu ông không muốn tính cả mình vào đó – bước vào đời tôi. Tôi nhắc lại, tôi thấy vui quá đi thôi! Tôi rối rít bước qua bước lại trong phòng, rồi lại dừng lại trong cảm giác gần như nghẹn thở về những ý nghĩ vụt đến nhanh hơn cả khả năng tư duy và giải quyết vấn đề của tôi. Tôi không thể ngay lập tức hình dung ra những điều tôi có thể làm, sẽ làm và nên làm trong thời gian trước mắt. Tôi nhìn vào bức tường trống rỗng và cảm tưởng nó giống như một bầu trời đầy những vì sao lấp lánh, và mỗi vì sao tượng trưng cho một dự kiến hoặc một niềm vui của tôi. Bây giờ thì tôi có thể giúp được những người đã cứu sống đời tôi, những người mà cho đến giờ này tôi vẫn chỉ yêu thương họ bằng một tình cảm thuần túy. Họ đang chịu một cái ách, tôi có thể giải phóng cho họ. Họ đang sống trong cảnh chia lìa, tôi có thể đoàn tụ họ lại. Cuộc sống độc lập và sang giàu của tôi cũng phải là của họ. Chúng tôi chẳng phải là bốn người ư? Nếu hai mươi ngàn bảng được chia đều làm bốn phần, thì mỗi người sẽ được năm ngàn, như vậy mới ổn, mọi người ai cũng được đảm bảo hạnh phúc. Bây giờ sự giàu có không còn đè nặng lên tôi nữa, và nó không chỉ là một di sản bình thường bằng tiền nong, mà còn phải là một di sản của cuộc đời, hy vọng và niềm hạnh phúc. Không hiểu mặt mũi tôi đã méo mó như thế nào khi tôi quay cuồng với các ý nghĩ ấy, chỉ biết rằng lúc ấy Rivers đã kéo một chiếc ghế đặt ngay sau lưng tôi và khẽ bảo tôi ngồi xuống. Ông cũng khuyên tôi nên bình tĩnh lại. Chẳng thèm để ý đến những lời ám chỉ tôi rối loạn tâm trí, tôi gạt tay anh ra và lại bắt đầu đi đi lại lại trong phòng.


- Ngày mai, ông hãy viết thư cho Diana và Mary, – tôi nói – bảo họ về nhà đi. Diana từng có lần nói rằng chỉ cần hai chị em, mỗi người chỉ cần có một ngàn bảng thôi thì cũng có thể tự coi mình là giàu rồi. Vậy với năm ngàn bảng, chắc chắn họ sẽ làm được rất nhiều thứ. - Cô để nước ở đâu để tôi lấy cho cô một cốc. – St. John nói. – Quả thực là cô cần trấn tĩnh lại đi. - Vớ vẩn! Còn ông, không hiểu ông sẽ như thế nào khi có một phần di sản ấy nhỉ? Liệu nó có giữ được anh ở lại nước Anh, khiến anh lấy cô Oliver, rồi an cư lạc nghiệp như một người bình thường không? - Cô lại nói lung tung rồi, đầu óc cô bắt đầu rối loạn rồi. Tôi báo tin cho cô đột ngột quá thì phải, nếu không thì cô đã không rối cả lên như thế. - Ông Rivers! Ông lại làm tôi bực mình rồi đấy. Tôi vẫn hoàn toàn tỉnh táo. Ông mới là người chẳng hiểu gì thì có. - Có lẽ tôi sẽ hiểu rõ hơn nếu được nghe cô giải thích đầy đủ hơn một chút. - Giải thích! Có gì mà phải giải thích chứ? Chẳng lẽ ông lại không hiểu rằng số tiền hai mươi ngàn bảng ấy nếu đem chia đều cho một người cháu trai và ba cô cháu gái của ông chú chúng ta, thì mỗi người sẽ được năm ngàn bảng hay sao? Điều tôi muốn là ông hãy viết thư cho các em gái của ông và bảo cho họ biết phần di sản đang chờ đợi họ. - Cô định nói là đang chờ đợi cô. - Tôi đã nói rõ ý định của mình về vấn đề này, tôi không thể làm khác được. Tôi không phải là kẻ ích kỷ nhẫn tâm, bất công mù quáng, hay vô ơn đến độc ác. Hơn nữa, lúc nào tôi cũng khát khao có một gia đình và những người thân thích. Tôi thích Moor-House, và tôi sẽ sống ở Moor-House, và tôi sẽ gắn bó suốt đời với Diana và Mary. Tôi chỉ cảm thấy thực sự thoải mái khi cầm năm ngàn bảng, còn nếu phải giữ hai mươi ngàn bảng, chắc chắn tôi sẽ bị day dứt và cảm thấy một sức ép quá lớn. Với lại, nếu xét theo lẽ công bằng thì số tiền đó không thể là của riêng một mình tôi, cho dù trước pháp luật thì đúng là như vậy. Tôi sẽ chia sẻ với ba người một số tiền mà tôi thấy đối với mình hoàn toàn là thừa. Hãy đừng phản đối và bàn luận về chuyện này nữa.


Chúng ta nên thống nhất với nhau đi, cứ quyết định như thế nhé. - Cô làm như vậy là theo cảm hứng bốc đồng ban đầu. Cô nên để vài ngày cân nhắc thì hơn, như thế quyết định của cô mới gọi là chín chắn được. - Ô! Nếu tất cả những nghi ngờ của ông chỉ dừng lại ở sự thành thực của tôi thôi thì cũng đơn giản thôi, ông có thấy cách giải quyết như vậy là công bằng không? - Quả cũng có một sự công bằng nào đó, nhưng nó lại trái ngược với thường lệ. Với lại toàn bộ số tài sản là thuộc quyền của cô. Cậu tôi đã kiếm được nó bằng chính công sức của ông, nên ông có quyền quyết định dành nó cho người nào ông thích, và trong trường hợp này, ông đã để lại cho cô. Nói gì thì nói, pháp luật cho phép cô được giữ số tài sản đó. Cô có thể coi nó hoàn toàn thuộc sở hữu của mình mà chẳng cần bận tâm đến điều gì hết. - Với tôi, đó hoàn toàn là chuyện tình cảm cũng như chuyện lương tâm. Tôi phải chiều theo tình cảm của mình, điều hiếm khi tôi có dịp làm. Cho dù ông có lý luận, phản đối và làm tôi tức giận trong suốt cả một năm đi nữa, thì tôi cũng không chịu từ bỏ cái niềm vui diệu kỳ mà tôi chỉ vừa mới nhen lên trong lòng tôi thôi, ấy là niềm vui được đáp lại phần nào cái ơn lớn lao mình đã chịu, và giành cho mình những người bạn chung thủy. - Bây giờ cô nghĩ vậy – St. John đáp lại – vì cô chưa hiểu thế nào là có của, và thế nào là tận hưởng sự giàu có. Cô chưa thể có khái niệm về tầm quan trọng mà số tiền hai vạn bảng sẽ mang lại cho cô, rồi cái địa vị mà nó sẽ dành cho cô trong xã hội này, và cả những chân trời mở ra phía trước cô. Cô chưa thể... - Còn ông, – tôi ngắt lời – ông cũng chưa thể tưởng tượng được niềm khao khát tình anh chị em và sự thương yêu đùm bọc lẫn nhau của tôi như thế nào. Tôi chưa từng có một mái ấm, cũng chưa bao giờ có anh chị em. Bây giờ tôi muốn phải có và tôi sẽ có. Ông không cảm thấy miễn cưỡng khi nhận tôi và có tôi như một người em chứ? - Jane ạ, tôi sẽ là anh cô, và các em tôi sẽ là chị cô, mà không cần phải bắt cô hy sinh những quyền lợi chính đáng của cô. - Là anh ư? Vâng, anh gì mà lại muốn bỏ đi xa cả ngàn dặm như vậy chứ! Là chị ư? Vâng, chị gì mà lại bị để đi hầu hạ cho những người xa lạ như


vậy chứ! Quả thực là tôi đã giàu rồi, giàu nhờ đống vàng chẳng phải do mình kiếm được và cũng chẳng xứng đáng được hưởng! Còn các anh chị lại không có một đồng xu! Thế thì bình đẳng đùm bọc nhau quá, xum vầy quá, gắn bó thân mật với nhau quá còn gì! - Nhưng Jane ạ, những khát khao về quan hệ gia đình và hạnh phúc dưới mái ấm vẫn có thể giải quyết bằng cách khác, cô có thể lấy chồng mà. - Lại là những lời hồ đồ! Lấy chồng ư? Tôi không muốn lấy chồng và sẽ chẳng bao giờ làm như vậy. - Cô nói quá lời rồi. Những lời khẳng định liều như thế càng cho thấy cô đang bị kích động mạnh. - Chẳng có gì là quá lời cả, tôi hiểu cảm xúc của tôi và cũng biết mình không thích cái ý nghĩ lấy chồng như thế nào. Sẽ chẳng có ai lấy tôi vì tình yêu đâu, mà tôi thì không thích mình bị xem là cái túi tiền. Và tôi cũng chẳng cần một người xa lạ, không có sự đồng cảm và khác biệt tôi. Tôi cần họ hàng thân thích, cần những người có quan hệ tình cảm gia đình. Hãy nhắc lại rằng anh sẽ là anh tôi đi, vì khi ông nói câu ấy, tôi cảm thấy mình thực sự mãn nguyện, hạnh phúc. Nếu ông có thể nói ra bằng một tình cảm chân thật thì ông hãy nhắc lại đi. - Tôi nghĩ là tôi có thể. Tôi biết bao giờ tôi cũng vẫn yêu thương các em tôi và hiểu tình cảm ấy dựa trên cơ sở tôn trọng giá trị, cảm phục tài năng của chúng. Cô cũng là người có nguyên tắc và tâm hồn, các sở thích và thói quen của cô cũng giống như của Diana và Mary. Sự có mặt của cô luôn làm tôi dễ chịu. Trong những lúc trò chuyện với cô, thỉnh thoảng tôi cũng thấy mình tìm được cảm giác khuây khỏa trong lòng. Tôi cảm thấy có thể dễ dàng và tự nhiên dành một chỗ trong trái tim tôi cho cô, như một người em gái thứ ba, người em út của tôi. - Cảm ơn anh, vậy là tối nay tôi đã được mãn nguyện rồi. Thôi, bây giờ anh nên về đi thì hơn, và nếu cứ ở lại đây, có lẽ anh sẽ lại làm em bực mình vì một mớ lý luận đáng ngờ nào đó. - Thế còn trường học, cô Eyre? Có lẽ bây giờ phải đóng cửa thôi nhỉ? - Không. Em vẫn tiếp tục làm cô giáo cho đến khi anh tìm được người thay thế.


Anh mỉm cười tán thành. Chúng tôi bắt tay nhau trước khi anh ra về. Tôi không cần phải thuật lại chi tiết cuộc đấu tranh tiếp theo và những lý lẽ tôi đã dùng để giải quyết vấn đề thừa kế tài sản theo ý nguyện của tôi. Công việc rất khó khăn, nhưng cuối cùng, khi thấy tôi đã nhất quyết như vậy và khi nhận tấm lòng thực sự của tôi – hơn nữa, nếu ở vào địa vị của tôi, chắc họ cũng phải hành động như tôi – anh chị họ tôi đã chịu nhượng bộ và bằng lòng đem việc này ra nhờ trọng tài giải quyết. Người chúng tôi chọn là ông Oliver và một luật sư có năng lực. Cả hai người đều có chung ý kiến với tôi. Những giấy tờ chuyển nhượng nhanh chóng được soạn thảo đầy đủ. St. John, Diana, Mary và tôi, mỗi người đều hưởng một phần tài sản thừa kế.



Chương 34 Khi mọi việc được giải quyết xong thì cũng gần tới lễ Giáng sinh, mùa nghỉ đã tới. Tôi đóng cửa trường Morton, nhưng trong đầu vẫn nghĩ làm sao để kỳ nghỉ của mình không bị rơi vào cảnh nhàm chán. Số phận an lành đã mở rộng vòng tay và trái tim đón nhận tôi như một phép nhiệm màu. Và việc cho đi một chút khi ta nhận được khá nhiều, xét cho cùng chỉ là tạo một lối thoát cho những cảm xúc lạ đang trào dâng trong lòng. Tôi bắt đầu cảm thấy vui khi biết có nhiều cô bé học trò quê mùa yêu mến mình, điều này đã được chứng minh trong buổi chia tay trước kỳ nghỉ, khi các hoc trò tỏ ra rất quyến luyến với tôi bằng cái tình cảm mộc mạc và nhiệt thành của người nông thôn. Tôi thực sự cảm động khi nhận thấy mình đã giành được một chỗ trong trái tim hồn nhiên của chúng, và tôi đã hứa với chúng mỗi tuần sẽ đến thăm chúng một lần và giảng bài cho chúng một giờ tại trường. Rivers đến đúng và lúc các lớp học – bây giờ có đến sáu mươi em – xếp hàng đi qua trước mặt tôi, khi tôi vừa khóa cửa xong, tay cầm chìa khóa, nói chuyện vài câu với dăm bảy em học sinh xuất sắc của mình. Chúng là những cô bé đoan trang, lễ phép, khiêm tốn và thuộc loại có hiểu biết trong tầng lớp nông thôn nươc Anh. Đây là một thực tế nổi bật, vì nói gì thì nói, nông dân Anh cũng là những người có học, có văn hóa và có lòng tự trọng nhất so với nông dân châu Âu. - Cô có thấy mình đã nhận được phần thưởng xứng đáng sau một mùa giảng dạy không? – Rivers hỏi tôi khi các học trò đã về hết – Chẳng phải khi nhận thức được việc làm có ích cho đời và cho thế hệ mình cũng là một hạnh phúc sao? - Tất nhiên rồi. - Nhưng cô mới chỉ vất vả được có vài tháng thôi! Nếu phải hy sinh cả đời cho nhiệm vụ tái tạo giống nòi thì cô có nghĩ là xứng đáng không? - Có chứ – tôi nói – nhưng em không thể cứ làm mãi như thế này được. Em muốn sử dụng đầy đủ năng lực của chính em cũng như vun trồng tài năng cho người khác. Bây giờ em muốn được hưởng thụ, đừng gợi nhắc gì đến trường lớp vào lúc này. Em đã đóng cửa trường và đang định nghỉ cho ra nghỉ đây.


Trông gương mặt anh có vẻ rất nghiêm trọng: “Cái gì? Sao bỗng dưng cô lại hăm hở thế nhỉ? Cô định sẽ làm gì nào?” - Tích cực làm việc khác, càng nhiều càng tốt. Trước hết, em phải đòi anh để cho bà Hannah được rảnh rỗi và tìm người khác hầu anh. - Cô cần bà ấy à? - Vâng, để cùng tôi về Moor-House. Chỉ một tuần nữa là Diane và Mary về nhà, và em muốn thứ phải được sắp xếp gọn gàng ngăn nắp trước khi họ về. - Tôi hiểu rồi. Vậy mà tôi cứ tưởng cô định bay đi tận đẩu tận đâu cơ đấy. Như vậy cũng tốt thôi, bà Hannah sẽ về với cô. - Vậy anh bảo bà ấy ngày mai phải sẵn sàng đấy nhé. Chìa khóa trường học đây, sáng mai em sẽ đưa anh chìa khóa nhà em. St.John cầm chiếc chìa khóa tôi đưa cho - Trả lại nó mà trông mặt cô cứ hơn hớn lên – Ông nói – Tôi hoàn toàn không hiểu được tại sao cô lại vui như thế, vì tôi không biết cô định làm những gì thay cho cái công việc cô rời bỏ này. Thế cô có đang định làm gì và có khát vọng gì cho cuộc sống đấy? - Mục tiêu đầu tiên của em là làm sạch (anh có hiểu hết ý nghĩ của chữ ấy không?) – làm sạch Moor-House từ phòng ở đến hầm chứa. Tiếp theo là đánh xi lau dầu bằng các loại giẻ để ngôi nhà được sạch bóng. Thứ ba là kê lại bàn, ghế, giường, tủ và trải lại thảm nền cho ngăn nắp, chính xác như toán học. Thứ tư là đến phá anh về tiến than củi để nhóm lửa trong các phòng. Cuối cùng, hai ngày trước khi các cô em anh về theo dự định, em và bà Hannah sẽ bận bịu vào công việc đập trứng, nhặt nho khô, nghiền gia vị, làm bánh Giáng sinh, và các công việc nội trợ long trọng khác mà nếu có nói ra thì cũng chẳng có tác dụng gì đối với người lù đù như anh. Tóm lại, mục đích của em chuẩn bị chu đáo mọi thứ trước ngày thứ năm sắp tới để đón Diana và Mary về, và khát vọng của em là dành cho họ một sự đón tiếp lý tưởng khi họ trở về. St.John hơi mỉm cười, vẻ vẫn chưa hài lòng. - Bây giờ như thế là tốt lắm rồi, – anh nói – nhưng nghiêm túc mà nói, tôi


tin rằng khi cái hăng hái bồng bột ban đầu qua đi, tầm nhìn của cô sẽ vượt qua một chút cái niềm vui của các công việc nội trợ ấy. - Nội trợ và các công việc gia đình là những điều tốt nhất mà cuộc đời này có đấy! – Tôi ngắt lời anh. - Không, Jane ạ, thế giới này không phải là nơi của thành quả, đừng có biến nó thành như vậy. Nó cũng không phải là nơi để nghỉ ngơi, đừng nên biến mình thành kẻ lười biếng. - Trái lại, em nghĩ là mình đang định làm rất nhiều việc. - Jane ạ, tạm thời bây giờ tôi không chấp cô, tôi sẽ dành cho cô hai tháng để tận hưởng cái địa vị mới, và vui vầy với những người bà con mãi mới tìm được. Nhưng sau đo, hy vọng cô sẽ bắt đầu nhìn vượt ra ngoài Morton và Moor-House, cảnh chị em sum họp, sự bình yên ích kỷ và cái tiện nghi thể chất do sự giàu có văn minh hóa mang lại. Hy vọng mọi nghị lực của cô sẽ một lần nữa thúc giục cô bằng tất cả sức mạnh của chúng. Tôi ngạc nhiên nhìn anh: - St.John, em nghĩ anh nói thế thì hơi ác đấy. Em cứ tưởng mình sắp được sống mãn nguyện như một bà hoàng, vậy mà anh lại cố tình khuấy lên cho em toàn những điều chẳng bình yên chút nào. Anh nói vậy là để làm gì chứ? - Để làm sao cho những tài năng mà Chúa đã trao cho cô giữ được sử dụng một cách có lợi nhất, và chắc chắn sẽ có ngày Chúa đòi biết kết quả ra sao. Jane ạ, tôi sẽ để mắt chặt chẽ và lo lắng đến cô, tôi báo trước để cô biết. Cô hãy gắng kiềm chế đừng để mình bị chìm đắm trong những vui thú gia đình tầm thường. Đừng nên ôm chặt lấy những ràng buộc về thể xác như vậy, hãy để dành lòng kiên định và sự nhiệt tình cho một sự nghiệp tương xứng, chứ đừng phung phí chúng vào những mục đích ngắn ngủi tầm thường. Cô nghe rõ rồi chứ, Jane? - Vâng, rõ như anh nói tiếng Hy Lạp vậy. Em cảm thấy mình có một sự nghiệp xứng đáng để mà hạnh phúc, và em sẽ hạnh phúc. Chào anh! Quả thực là tôi cảm thấy rất vui khi được ở Moor-House, và tôi đã làm việc cật lực. Cả bà Hannah cũng vậy, bà rất hài lòng khi thấy tôi vui vẻ như


thế nào giữa đám đồ đạc lỏng chỏng đang được xếp gọn lại trong nhà, thấy tôi hăng hái cọ rửa, lau chùi, nấu nướng… Sau một hai ngày, chúng tôi đã biến được cái đống hỗn độn thành trật tự ngăn nắp. Trước đó, tôi đã bỏ ra một khoản tiền nhỏ và lọ mọ tới tận S. để mua một vài đồ đạc mới, vì các cô chị họ tôi đã cho tôi được tùy ý lựa chọn sắp đặt mọi thứ. Nói vậy thôi, chứ tôi vẫn để nguyên mọi thứ trong phòng khách và phòng ngủ như thường ngày, vì tôi biết Diana và Mary vẫn muốn gặp lại những chiếc bàn, ghế, giường tủ cũ trong phòng hơn là thấy những đồ đạc mới, kể cả là sang trọng nhất. Song tôi cũng muốn vào ngày về, họ sẽ có một cảm giác thật ấn tượng với những gì mình bày trí. Những tấm thảm, rèm cửa sẫm màu, đẹp và mới tinh, vài thứ đồ cổ bằng đồng và sứ chọn lựa cẩn thận; gương lược, dụng cụ trang điểm đặt trên bạn trang điểm – trông rất mới nhưng không hào nhoáng – đều được mua sắm để đáp ứng mục đích ấy. Tôi bố trí lại hoàn toàn một phòng khách và phòng ngủ bằng những đồ đạc bằng gỗ gụ cũ và vải bọc màu đỏ sẫm, rồi căng vải ngoài hành lang và trải thảm ở cầu thang. Mọi việc xong xuôi, tôi nghĩ Moor-House đúng là một mẫu mực của sự ấm cúng giản dị về nội thất cũng như một kiểu mẫu của sự tiêu điều cô quạnh ở bên ngoài vào mùa này. Cuối cùng thì cái ngày thứ năm mang tính bản lề ấy cũng đã tới. Chúng tôi đợi họ từ lúc chiều tà. Và trước trời tối, tất cả các phòng trên gác lẫn dưới nhà đều được thắp đèn sáng trưng. Cả nhà bếp cũng được trang hoàng đâu ra đấy. Tôi và bà Hannah đều ăn mặc gọn gàng chờ đợi. Tất cả đã sẵn sàng. St.John về đầu tiên. Trước đó, tôi đã khẩn khoản đề nghị anh không về nhà trước khi mọi việc được sắp đặt xong xuôi, nói thì cứ nói thế thôi, chứ thực ra chỉ cần nghĩ đến cảnh nhà cửa bề bộn cũng đủ khiến anh ngại mà tránh xa rồi. Thấy tôi ở trong bếp, anh bước vào hỏi tôi “cuối cùng đã hài lòng với các công việc nội gia chưa?” Thay vì câu trả lời, tôi mời anh đi tổng kiểm tra kết quả các công việc mình. Phải ít nhiều khó khăn, tôi mới kéo được anh đi quanh nhà một vòng. Anh chỉ đứng ở cửa ngáo qua những phòng tôi mở. Anh bảo hẳn là tôi phải khó nhọc mới tạo ra được những thay đổi trong một thời gian ngắn như vậy. Nhưng tuyệt nhiên không thấy anh thốt ra một lời nào tỏ ý vui thích khi thấy ngôi nhà có một bộ mặt mới. Sự im lặng của anh khiến tôi thấy cụt hết cả hứng. Tôi nghĩ có lẽ những thay đổi ấy đã làm đảo lộn một vài ý tưởng xưa cũ mà anh vẫn thích. Tôi hỏi có phải như thế không. Và tất nhiên là anh đã trả lời bằng một giọng ỉu xìu xìu:


- Hoàn toàn không phải như vậy, trái lại tôi nhận thấy cô vẫn rất tôn trọng trật tự cũ. Nhưng tôi sợ cô đã dành nhiều công sức cho một việc hơn mức cần thiết. Ví dụ, cô đã dành bao nhiêu phút cho việc nghiên cứu cách bài trí cái phòng này?... Mà tiện thể cô có thể cho tôi biết quyển sách ấy để ở đâu không? Tôi chỉ cho anh thấy quyển sách đặt trên giá. Anh lấy xuống, rồi lui về ngồi đọc ở chỗ mọi khi anh vẫn ngồi ở góc cửa sổ. Thưa bạn đọc, thú thực là lúc ấy tôi không thích anh làm như vậy một chút nào. Đã đành St.John là người tôt, nhưng tôi bắt đầu cảm thấy những lời anh về bản thân mình – rằng anh là người lạnh lùng nhất và khó tính – là đúng. Những bản tính con người và tiện nghi của cuộc sống đều không cám dỗ được anh. Tất nhiên, anh sống chỉ để khát vọng những gì là tốt đẹp và lớn lao, nhưng chẳng bao giờ thấy anh nghỉ ngơi hay tán thành việc nghỉ ngơi của những người xung quanh mình. Nhìn vầng trán cao ngạo, bất động, xanh như một phiến đá, rồi những nét thanh tú trên khuôn mặt im phăng phắc lúc anh ngồi đọc sách, tôi chợt hiểu rằng anh khó mà trở thành một người chồng tốt, và rằng sẽ là một thử thách thực sự nếu phải làm vợ anh. Và tôi cũng chợt hiểu ra bản chất mối tình của anh đối với Oliver và đồng ý với anh rằng đó chỉ là thứ tình cảm thể xác. Tôi hiểu anh đã phải kìm hãm mình như thế nào trước ảnh hưởng hướng vào anh của cái tình cảm ấy, phải ép buộc mình như thế nào để hủy diệt nó. Tôi thấy anh là một thứ chất liệu mà từ đó, tạo hóa đã nhào nặn nên những vị anh hùng (cả Cơ Đốc giáo và ngoại giáo), nhà lập pháp, chính trị gia hay chiến binh thập tự chinh… Họ là một bức tường thành vững chắc bảo vệ những quyền lợi lớn lao, nhưng nếu đem đặt bên lò sưởi dưới một mái nhà thì cũng thường chỉ là một cái cột cồng kềnh, đen đúa và lạc lõng. “Phòng khách này đâu phải là địa hạt của anh – Tôi thầm nghĩ – Dãy Himalaya, miền đất hoang vu Caffre, thậm chí ngay cả bờ biển xứ Guinea lúc nào cũng tiềm ẩn mầm bệnh tật còn thích hợp với anh hơn. Nếu anh có xa lánh cái êm ả của cuộc sống gia đình cũng chẳng có gì là lạ, nó hoàn toàn không thích hợp với anh, vì ở đây, mọi tài năng của anh bị trì trệ, không thể phát triển hoặc đem sử dụng cho có lợi được. Chỉ trong những cảnh nước sôi lửa bỏng – khi cần chứng minh lòng can đảm, nghị lực, sự kiện trung – anh mới lên tiếng và hành động với tư cách người lãnh tụ và bậc bề trên. Nếu cứ ở bên lò sưởi này thì một thằng con nít cũng có lợi thế hơn anh. Anh đã đúng


khi quyết định dấn thân vào cái nghiệp truyền giáo. Giờ thì tôi đã hiểu.” - Họ về rồi! Họ về kia rồi! – Bà Hannah vừa reo to vừa cuống quýt mở cửa phòng khách. Cùng lúc ấy, con chó già Carlo mừng rỡ sủa ầm lên. Tôi chạy ngay ra cửa. Trời đã tối hẳn, nhưng tiếng bánh xe lăn lộc cộc vẫn vang lên rất rõ. Bà Hanah đi thắp đèn lồng. Chiếc xe dừng lại ngay cổng, bác xà ích mở cửa xe. Đầu tiên, một bóng dáng quen thuộc, rồi một bóng người nữa bước ra. Tôi chạy ào tới ôm chầm lấy Mary và Diana. Họ cười, ôm hôn tôi và bà Hannah, vuốt ve Carlo đang mừng quýnh dưới chân, rồi hỏi hanh tình hình ở nhà. Khi biết mọi việc đều tốt đẹp, họ mới vội bước vào nhà. Hai người bị lạnh cóng sau một quãng đường dài từ Whitcros và cái không khí lạnh lẽo của tiết trời đêm, nhưng ánh lửa hồng đã làm họ tươi tỉnh lại. Trong khi tay xà ích và bà Hannah mang hòm xiểng vào, hai chị em họ hỏi St.John đâu. Tới lúc ấy mới thấy anh từ phòng khách bước ra. Cả hai lập tức ôm chầm lấy cổ anh. St.John điềm nhiên hôn từng người, ôn tồn hỏi thăm họ vài câu, đứng yên nghe họ nói chuyện một lúc, rồi bảo rằng chắc là tí nữa thế nào họ cũng gặp lại anh ở phòng khách nên lại lui về đấy như về một nơi ẩn dật. Một buổi tối êm ấm. Hai cô chị họ của tôi rối rít kể chuyện và bạn luận luôn miệng, làm lu mờ cả sự hiện diện lặng lẽ của anh St.John. Anh có vẻ thực sự vui khi được gặp lại các em gái, nhưng vẫn không thể thông cảm với niềm vui sôi nổi của chúng. Sự việc trong ngày – tức là sự trở về của Diana và Mary – khiến anh thỏa lòng, nhưng những gì đi theo sự kiện ấy lại khiến anh khó chịu. Có vẻ như anh đang mong một ngày mới yên tĩnh hơn. Khoảng một giờ sau bữa dùng trà, khi mọi người đang rất vui, bỗng có tiếng gọi cửa. Bà Hanah bước vào bảo “giữa cái lúc bất tiện như thế này lại có một đứa bé đến mời ông Rivers tới nhà thăm bệnh cho mẹ nó, vì mẹ nó đang sắp chết đến nơi”. - Bà ấy ở đâu, bà Hanah? - Mãi trên dốc Whitcross, cách đây gần bốn dặm, mà đường thì toàn đồng lầy và bụi rậm thôi. - Bà bảo nó là tôi sẽ đi ngay đây. - Thưa ông, tôi nghĩ tốt hơn là ông đừng nên đi. Trời tối như thế này khó đi lắm, không có lối đi qua đồng lầy đâu. Mà lại rét buốt nữa chứ. Tốt hơn


hết là cứ bảo họ sáng mai sẽ đến. Nhưng anh đã ra đến hành lang, khoác áo choàng, và không hề lẩm bẩm phàn nàn một lời. Anh đã hoàn thành một việc thuộc về bổn phận, đã cố gắng và cảm thấy mình đủ sức để làm việc và chịu khổ hạnh, và anh có thể hài lòng với chính mình. Tôi sợ rằng cả một tuần sau đó anh đã phải rất kiên nhẫn mới chịu đựng nổi. Đó là tuần lễ Giáng sinh, chúng tôi chẳng bận việc gì, chỉ quanh quẩn vui trong nhà. Không khí trong lành của chốn đồng hoang, sự rảnh rỗi dưới mái ấm gia đình, buổi bình minh của viễn cảnh phong lưu, tất cả đã tác động đến tâm hồn Diana và Mary như một thứ linh đơn. Họ vui chuyện từ sáng đến trưa, từ trưa đến tối. Những câu nói dí dỏm, xúc tích và chẳng giống ai của họ đã thực sự lôi cuốn tôi, đến nỗi tôi còn cảm thấy thích nghe họ nói chuyện hoặc chia sẻ nỗi niềm với họ hơn là làm bất cứ việc gì. Mặc dù không phàn nàn gì về chúng tôi, nhưng St.John vẫn tìm cách tránh xa những cuộc hàn huyên vui vẻ đó. Hiếm khi thấy anh ở nhà. Giáo phận của anh rộng, dân lại sống rải rác, mà anh thì ngày nào cũng phải tới thăm những người ốm đâu và nghèo khổ ở các xóm khác nhau. Một buổi sáng, trong bữa điểm tâm, sau một chốc có vẻ trầm tư, Diana bỗng hỏi anh: “Các kế hoạch của anh có gì thay đổi không?” - Không thay đổi và không thể thay đổi được – Anh trả lời, rồi báo luôn cho chúng tôi biết ngày rời nước Anh đi viễn xứ của anh đã được cố định vào năm tới. - Thế còn Rosamond Oliver? – Mary gợi nhắc. Hình như cô đã buột miệng nói ra, vì ngay sau đó, cô đã vội cử chỉ như để rút lại lời nói. Đang cầm quyển sách trên tay – vừa ăn vừa đọc vốn là một thói quen không hay của anh – St.John bèn gấp sách lại và ngẩng mặt lên. - Cô Rosamond – ông nói – sắp làm lễ cưới với ông Granby, một trong những người có nhiều giao thiệp nhất và được đánh giá cao nhất ở S. và là cháu thừa kế của ngài Frederic Granby. Tôi được cha cô ấy cho biết tin từ hôm qua. Hai cô em nhìn nhau, rồi nhìn tôi. Cả ba chúng tôi sững sờ nhìn anh, nhưng anh vẫn thản nhiên như không.


- Cuộc hôn nhân ấy có vẻ hơi vội – Diana nói – vì họ chưa thể biết nhau lâu được. - Chỉ mới hai tháng thôi, họ quen nhau trong một cuộc dạ hội ở S. hồi tháng Mười. Nhưng không vì thế mà cuộc hôn nhân gặp phải trở ngại. Trong trường hợp môn đăng hộ đối như thế, đương nhiên chẳng cần gì phải chờ đợi lâu. Chỉ cần cái dinh thự mà Ngài Frederic cho họ được sửa sang xong là họ sẽ tổ chức đám cưới. Lúc gặp St.John ngồi một mình, tôi đã hỏi xem cái tin đó có làm anh buồn không, nhưng có vẻ như anh chẳng cần sự thông cảm của ai. Thái độ của anh khiến tôi chưng hửng và thậm chí còn cảm thấy ngượng vì câu hỏi của mình. Hơn nữa, tôi đã mất thói quen trò chuyện với anh. Sự kín đáo và lạnh lùng hơn bao giờ hết của anh khiến tính thẳng thắn cởi mở của tôi bị đông cứng lại. Anh không giữ lời hứa đối xử với tôi như các em gái anh, và luôn tạo ra khoảng cách phân biệt giữa anh và tôi – điều hoàn toàn không có lợi cho sự phát triển tình cảm thân thiết của tôi và anh. Nói tóm lại, dù đã được nhận là một người em họ và đã được sống với anh dưới một mái nhà, nhưng tôi lại cảm thấy khoảng cách giữa chúng tôi còn lớn hơn so với những ngày anh biết tôi chỉ là một cô giáo trường làng. Nhớ lại mình đã có lần được anh thổ lộ tâm tình, tôi bỗng thấy rất khó hiểu cái bộ dạng lãnh đạm của anh bây giờ. Trong trường hợp ấy, tôi không thể không ngạc nhiên khi thấy anh đang ngồi dán mắt vào quyển sách trước mặt bàn, bỗng dưng ngẩng lên nói với tôi: - Jane ạ, cô thấy rồi đấy, cuộc đấu tranh đã kết thúc và đã đạt được thắng lợi. Giật mình vì bị hỏi như vậy, tôi không thể trả lời ngay. Sau một lúc do dự, tôi mới dám nói: - Nhưng anh có chắc mình không rơi vào địa vị của những kẻ đi chinh phục giành được chiến thắng bằng một giá quá đắt không? Liệu anh có thân tàn ma dại khi dành thêm được một chiến thắng như vậy không? - Tôi nghĩ là không, mà kể cả là như vậy thì điều ấy cũng chẳng có nghĩa gì nhiều. Tôi sẽ chẳng bao giờ được kêu gọi để giành một thắng lợi khác nữa. Cuộc đấu tranh đã được quyết định, con đường tôi theo giờ đã rõ ràng. Tôi ơn Chúa về điều ấy!


Dứt lời, anh lại quay về với những trang sách và sự lặng lẽ của mình. Sự vui vầy bên nhau của chúng tôi (nghĩa là của Diana, Mary và tôi) rồi cũng lắng dần xuống, ai nấy lại trở về với những thói quen và công việc học tập hàng ngày. Và St.John cũng có mặt ở nhà nhiều hơn. Anh ngồi cùng phòng với chúng tôi, có khi là hàng giờ. Trong lúc Mary vẽ, Diana giở cuốn bách khoa toàn thư ra đọc (khiến tôi không khỏi ngạc nhiên và khâm phục), và tôi đánh vật với tiếng Đức, thì anh lại nghiên cứu một cẩm nang huyền bí, một ngôn ngữ phương Đông nào đó mà anh thấy là cần thiết cho các kế hoạch của mình. Ngồi ở một góc riêng, anh có vẻ rất bình thản và chăm chú, nhưng cặp mắt xanh lơ của anh lại thường hay rời quyển sách văn phạm xa lạ, lơ đãng nhìn đi chỗ này chỗ khác, và thỉnh thoảng còn nhìn chúng tôi chằm chằm bằng ánh mắt dò xét quan sát. Nếu chẳng may bị bắt gặp, anh lập tức nhìn đi chỗ khác, nhưng chỉ được một lúc lại thấy anh đưa mắt về phía chúng tôi. Tôi không hiểu anh có ý gì, củng không biết tại sao anh thường hay tỏ ý hài lòng về một việc mà tôi thấy là chuyện nhỏ, ấy là việc tôi đến thăm trường Morton hàng tuần. Và tôi còn thấy lạ hơn nữa là mỗi khi gặp ngày thời tiết không thuận lợi, như tuyết rơi, mưa to, gió lớn, đến nỗi các em gái anh khuyên tôi nên ở nhà, thì anh lại luôn phớt lờ đi và trái lại còn khuyến khích tôi đi làm nhiệm vụ. - Jane không phải là người yếu đuối như các cô vẫn tưởng – ông thường nói – Cô ấy có thể chịu đựng được gió núi, mưa rào hoặc vài bông tuyết rơi như bất cứ ai trong chúng ta vậy. Cô ấy đủ khỏe mạnh và dẻo dai để đương đầu chịu đựng những thay đổi của thời tiết, sức cô ấy có khi còn hơn nhiều kẻ lực điền ấy chứ. Thỉnh thoảng tử trường trở về nhà, cũng có lần tôi cảm thấy thực sự thấm mệt vì mưa gió, nhưng chẳng bao giờ dám than vãn, vì tôi biết nếu làm vậy thế nào cũng khiến anh phật ý. Trong mọi trường hợp, nếu tôi cứ tỏ ra chịu đựng bền bỉ thì anh sẽ hài lòng, còn nếu làm ngược lại thì chỉ khiến anh khó chịu. Tuy nhiên, cũng có một buổi chiều tôi buộc phải ở nhà vì bị cảm lạnh thực sự. Các em gái anh phải đi thay tôi tới trường Morton. Tôi ngồi đọc cuốn Schiller, còn anh thì tiếp tục mầy mò với cái tiếng phương Đông huyền bí nào đó. Lúc thôi học dịch để chuyển sang làm bài tập, tôi đã bất giác nhìn


về phía anh và bắt gặp cặp mắt xanh lơ của anh đang chăm chú nhìn tôi. Không hiểu anh quan sát tôi từ lúc nào, ánh mắt anh dữ dội và lạnh lùng quá, khiến tôi bỗng cảm thấy mình bị mê hoặc như đang ngồi trong phòng cùng với một cái gì đó thật kỳ dị. - Jane này, cô đang làm gì thế? - Đang học tiếng Đức. - Tôi muốn cô bỏ tiếng Đức và chuyển sang học tiếng Hinđi. - Anh không nói đùa chứ? - Không nói đùa, vì tôi rất cần cô làm như thế. Tôi sẽ nói để cô hiểu tại sao. Rồi anh bắt đầu giải thích rằng Hinđi là thứ ngôn ngữ mà chính anh đang học, nhưng khổ một nỗi cứ học trước lại quên sau, nên bây giờ nếu có một học trò cùng ngồi học thì sẽ thuận lợi hơn anh nhiều, anh sẽ có dịp thường xuyên xem lại những kiến thức cơ bản nhất để ghi nhớ trong đầu. Anh đã cân nhắc mãi để lựa chọn giữa tôi và hai cô em gái, nhưng cuối cùng đã quyết định chọn tôi vì thấy tôi có thể ngồi học lì nhất trong ba người. Tôi có thể chiếu cố nhận lời anh không? Có lẽ tôi cũng chẳng phải hy sinh dài dài, vì chỉ còn ba tháng nữa là anh ấy đi rồi. St.John không phải là một người mà bạn dễ từ chối, vì khi tiếp xúc với anh, bạn sẽ cảm thấy rằng mỗi ấn tượng gây cho anh, dù thú vị hay khó chịu, đều khắc sâu mãi vào tâm trí anh. Tôi đã nhận lời đề nghị của anh. Lúc từ Morton trở về và thấy cô học trò của mình đã thay đổi rồi, Diana đã cười rất to. Cả cô và Mary đều cho rằng St.John sẽ không bao giờ thuyết phục được họ làm như thế. Anh điềm nhiên trả lời: - Tôi biết mà. Tôi thấy anh quả là một ông thầy rất kiên nhẫn, biết kiềm chế và ưa sự chính xác. Anh kỳ vọng tôi làm việc nhiều. Những lần tôi làm đúng theo mong đợi của anh, anh đều tỏ vè tán thưởng theo cách riêng của mình. Dần dần anh đã gây được một ảnh hưởng nhất định đối với tôi, khiến tôi mất cả tự do suy nghĩ. Những lời khen và sự lưu ý của anh còn có sức chế ngự tôi hơn cả thái độ lãnh đạm của anh. Mỗi khi có mặt anh là tôi lại cảm thấy mình


không còn cười nói tự nhiên được nữa. Lúc nào tôi cũng ý thức rằng anh chỉ chấp nhận thái độ nghiêm túc và sự bận bịu trong công việc, mọi cố gắng giả tạo trước mặt anh đều vô ích. Tôi như bị mê hoặc đến tê liệt. Khi anh ấy bảo “đi” thì tôi đi, bảo “đến” thì tôi đến, bảo “làm thế này” thì tôi như thế. Nhưng tôi không thích sự phục tùng. Đã không ít lần tôi thầm mong anh cứ tiếp tục phớt lờ tôi như trước. Một buổi tối, vào giờ đi ngủ, các em gái anh và tôi cùng đứng quanh anh để chúc anh ngủ ngon. Anh hôn họ như thường lệ, và chìa tay bắt tay tôi cũng như thương lệ. Diana vẻ như muốn đùa (cô không hề e ngại cái uy của St.John, vì tính cô tuy không giống anh nhưng cũng rất mạnh mẽ) đã nói khích: - St.John! Anh vẫn thường bảo Jane là em thứ ba của anh cơ mà, tại sao anh không đối xử với Jane như thế. Anh cũng phải hôn Jane chứ. Cô đẩy tôi về phía anh. Tôi nghĩ Diana đang rất phấn khích, hành động của cô đã khiến tôi cảm thấy bối rối. Trong lúc tôi đang lúng túng nghĩ ngợi thì St.John cúi đầu xuống, khuôn mặt Hy Lạp điển hình của anh thấp ngang mặt tôi, ánh mắt anh nhìn sát vào mặt tôi như muốn dò hỏi – và anh đã hôn tôi. Nếu có những nụ hôn của đá hay của băng giá thì thế nào tôi sẽ liệt nụ hôn của ông anh họ giáo sĩ thuộc loại ấy. Nhưng cũng có thể có những nụ hôn thử nghiệm, và nụ hôn của anh chính là nụ hôn thử nghiệm. Sau khi tặng tôi một nụ hôn, anh đã nhìn tôi xem kết quả ra sao. Tôi tin chắc mình không bị đỏ mặt, có khi mặt tôi còn hơi tái đi nữa ấy chứ, vì tôi cảm thấy nụ hôn ấy chẳng khác nào một con dấu đóng lên những cái gông trói buộc mình. Sau lần đó, không thấy anh quên cái nghi thức này lần nào nữa, và thái độ nghiêm trang và điềm tĩnh của tôi mỗi khi đón nhận nụ hôn của anh hình như càng làm cho anh cảm thấy hài lòng hơn. Về phần mình, ngày nào tôi cũng muốn là anh vừa lòng hơn. Nhưng khổ một nỗi để làm như vậy, càng ngày tôi càng cảm thấy tôi phải mất đi nửa phần cốt cách, phải bóp nghẹt nửa phần năng lực, đánh vật với những sở thích nguyên bản, rồi phải tự ép buộc mình chấp nhận những mục đích không phù hợp với thiên hướng bẩm sinh của chính mình. Anh chỉ muốn rèn tôi đạt tới một trình độ mà chẳng bao giờ tôi đạt được, khiến tôi cảm thấy rất khổ sở. Điều này là bất khả thi, nó chẳng khác nào việc uốn những đường nét không đều trên mặt tôi theo khuôn mặt mẫu mực và cổ điển của anh, hoặc đổi cái màu xanh lục thất thường của đôi mắt tôi thành màu xanh dương uy


nghi của anh vậy. Tuy nhiên, tôi thấy mình không chỉ là nô lệ của riêng cái uy lực của anh. Quãng thời gian này, chẳng khó gì để nhận ra những nét buồn trên gương mặt tôi. Một nỗi đau ghê gớm đang giày vò trái tim tôi, bòn rút hạnh phúc của tôi ngay từ cội nguồn của nó. Đó là nỗi đau chờ đợi khắc khoải. Thưa bạn đọc, có thể bạn đang nghĩ sống giữa những đổi thay của địa vị và của cải như vậy, tôi đã quên ông Rochester rồi. Tôi không có lúc nào quên được ông, ý nghĩ về ông lúc nào cũng ám ảnh tôi, vì nó chẳng phải là một màn hơi sương mà ánh mặt trời có thể xua tan, cũng chẳng phải là một nét vạch trên cát mà bão tố có thể xóa nhòa, mà là một cái tên được khắc lên một tấm biển đá và sẽ trường tồn như chính tấm đá đó. Lúc nào tôi cũng bị ám ảnh bởi ước muốn cháy bỏng là được biết tình hình ông ấy hiện giờ ra sao. Chiều nào từ Morton trở về ngôi nhà nhỏ tôi cũng đều nghĩ đến ông, và bây giờ ở Moor-House cũng vậy, hễ cứ đi ngủ là hình bóng ông lại hiện lên trong tôi. Trong thư traop đổi với ông Briggs về vấn đề thừa kế, tôi đã hỏi ông có biết gì về chỗ ở hiện tại và tình hình sức khỏe của Rochester không, nhưng đúng như St.John đã đoán, ông chẳng biết gì hết. Bí quá, tôi phải viết thư cho bà Fairfax xem có tin tức thế nào. Tôi cứ tưởng mình sẽ sớm nhận được thư trả lời, nhưng tôi đã rất ngạc nhiên khi không hiểu tại sao nửa tháng trời trôi qua mà vẫn không có tin tức gì. Cứ thế, thêm hai tháng trôi qua, người đưa thư vẫn tới ngày ngày, nhưng chẳng mang gì cho tôi hết. Tôi bắt đầu cảm thấy bồn chồn lo lắng thực sự. Tôi lại viết tiếp một lá nữa, vì biết đâu lá thư trước của tôi bị thất lạc thì sao? Nỗ lực mới kéo theo niềm hy vọng mới, nhưng cũng chỉ kéo dài vài tuần rồi lại leo lắt và tắt lịm như lần trước. Tôi không hề nhận được một dòng, một chữ nào hết. Sau nửa năm chờ đợi vô vọng, niềm hy vọng trong tôi đã chết hẳn khiến tôi thấy cuộc đời tối sầm lại. Một mùa xuân tươi đẹp bừng sáng xung quanh tôi mà tôi không thể vui tận hưởng. Mùa hè lại tới gần. Diana cố gắng làm tôi vui. Cô nói trông tôi có vẻ như người ốm và muốn kéo tôi đi biển chơi. St.John đã phản đối và bảo rằng tôi không cần nghỉ ngơi, mà cần làm việc, rằng cuộc sống hiện tại của tôi chẳng có hoài bão gì cả, tôi cần phải đề ra mục tiêu cho mình. Và tôi, như một kẻ mất trí, chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện cưỡng lại anh, mà có muốn


cưỡng lại cũng không được. Một buổi sáng, khi tôi đã ngồi vào bàn học với một tinh thần rệu rã và bải hoải hơn bình thường vì thất vọng xót xa, bà Hanah đã chạy vào bảo rằng tôi có thư. Tôi hồi hộp xuống lấy, những tưởng là thư mình nóng lòng chờ đợi bấy lâu cuối cùng cũng đã tới, nào ngờ đó chỉ là một mẩu giấy chẳng có gì quan trọng của ông Briggs bàn chuyện công việc. Cảm giác hẫng hụt chua chát đã làm tôi phát khóc, và đến tận lúc ngồi đánh vật với những dòng chữ Hinđi rối rắm khó hiểu, nước mắt tôi vẫn tiếp tục trào ra. St.John gọi tôi đến bên ông tập đọc, nhưng dù đã rất cố gắng, giọng tôi vẫn cứ lạc hẳn đi, câu chữ mất hút cả vào những tiếng nức nở. Trong phòng chỉ có tôi và anh. Diana đang tập nhạc trong một phòng khác, còn Mary thì lúi húi ngoài vườn. Một ngày tháng Năm tuyệt đẹp, trời quang mây tạnh, nắng chiếu chan hòa, gió thổi nhè nhẹ. Bạn học của tôi không hề tỏ vẻ ngạc nhiên trước sự xúc động của tôi, cũng chẳng buồn hỏi nguyên do tại sao. Anh chỉ bảo: - Jane ạ, chún ta tạm nghỉ vài phút cũng được, đến khi nào cô bình tâm hơn lại học tiếp. Trong lúc tôi cố trấn tĩnh lại, anh vẫn bình thản và kiên nhẫn ngồi tựa vào bàn, trông như một ông thầy thuốc theo dõi – bằng con mắt khoa học – cơn kịch phát của một bệnh nhân mà ông đã biết trước và giải thích được diễn biến. Sau khi lau nước mắt, cố nén những tiếng nấc và khẽ nói sáng nay mình không được khỏe, tôi lại bắt đầu tập đọc, và cuối cùng thì cũng đọc được xong. St.John xếp sách của tôi và của anh lại, khóa ngăn kéo bàn học và bảo: - Jane này, bây giờ cô hãy đi dạo với tôi một lúc đi. - Em sẽ gọi Diana và Mary cùng đi. - Không, sáng nay tôi chỉ muốn có một người bạn thôi, và người đó phải là cô. Lên thay đồ đi, rồi ra cửa bếp mà đi theo con đường dẫn tới đầu thung Marsh-Glen. Một lát nữa tôi sẽ đến. Tính tôi không quen có cái kiểu trung dung. Từ bé đến giờ, giữa sự phục tùng tuyệt đối và chống đối cương quyết, chưa bao giờ tôi tỏ ra trung dung khi giải quyết công chuyện với những người có tính nết cứng nhắc, đối


nghịch với tôi. Tôi vẫn thường chịu khuất phục cho đến khi đột ngột nổi đóa, đôi khi điên khùng như một ngọn núi lửa. Nhưng tình cảnh và tâm trạng tôi lúc này không thể làm cho tôi nổi loạn được, cho nên tôi cẩn thận theo lời dặn của St.John. Mười phút sau tôi đã đi bên anh trên lối nhỏ hoang dại dẫn xuống một thung lũng hẹp. Gió tây thổi nhẹ qua những sườn đồi phảng phất mùi lau sậy, bầu trời xanh thẳm không gợn một bóng mây, dòng suối trong vắt tràn trề nước mưa xuân chảy róc rách dưới khe, lấp lánh ánh nắng vàng. Rời khỏi lối nhỏ, chúng tôi đi trên một thảm cỏ mềm mại, xanh mướt như nhung, lại điểm lác đác vài đóa hoa đồng nội vàng lung linh như những vì sao. - Chúng ta ngồi đây thôi – St.John nói, khi chúng tôi tới những khối đá đầu tiên đứng lổng chổng, ngổn ngang như muốn canh giữ một lối đi nhỏ. Phía bên kia là một dòng nước đổ xuống thành thác, và xa hơn chút nữa là cảnh núi đã giũ sạch cỏ hoa, chỉ còn thạch thảo trải làm áo, và các mống đá làm đồ trang sức. Cảnh vật nơi đó thật hoang dã, vẻ tươi mát đã biến thành một bộ mặt nhăn nhó kỳ dị. Đó là bến đậu hy vọng cuối cùng của sự cô đơn, và là chốn ẩn náu cuối cùng của sự câm lặng. Tôi ngồi xuống một phiến đã, St.John đứng bên cạnh. Anh ngước nhìn lối nhỏ rồi lại ngó xuống lòng thung lũng, đưa mắt hững hờ nhìn theo dòng suối rồi lại ngẩng mặt lên bầu trời không gợn mây. Anh bỏ mũ, mặc cholàn gió lùa vào mái tóc và lướt nhẹ trên vầng trán như một nụ hôn. Dường như anh đang nói chuyện bằng giao cảm với vị thần thổ địa nơi đây, và ánh mắt anh đang nói lời vĩnh biệt với một cái gì đó. - Rồi tôi sẽ được gặp lại cảnh này trong những giấc mơ – anh nói to – khi tôi nằm ngủ bên sông Hằng, và sẽ gặp lại một lần khác nữa ở một thời khắc xa xôi hơn, khi một giấc ngủ khác đẩy tôi dụi vào bờ một dòng chảy tăm tối hơn. Đúng là những lời lạ lùng của một tình yêu lạ lùng! Một thứ tình cảm cuồng nhiệt đối với đất tổ của một người yêu nước khổ hạnh! Anh ngồi xuống. Suốt nửa tiếng đồng hồ, cả tôi và anh không ai nói nửa lời. Sau đó, anh mới lại bắt đầu: - Jane ạ, sáu tuần nữa là tôi đi rồi. Tôi đã đặt một chỗ trên tàu Đông Indiaman được nhổ neo vào ngày hai mươi, tháng Sáu.


- Chúa sẽ che chở cho anh, vì anh thực hiện sự nghiệp của Người – Tôi đáp lại. - Vâng, đó là vinh quang và niềm vui của tôi. Tôi là bề tôi của một đấng bề trên minh anh. Tôi không ra đi theo sự hướng đạo của con người, không bị lệ thuộc vào những luật pháp khiếm khuyết và sự kiểm soát dễ nhầm lẫn của những người đồng loại bạc nhược của mình. Nhà vua, người ban hành pháp luật và vị chỉ huy của tôi là đấng Toàn năng. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy mọi người xung quanh mình không nhiệt tình gia nhập dưới một khẩu hiệu để chung sức chung lòng vì một sự nghiệp. - Không phải ai cũng có sức mạnh như anh. Sẽ thật đien rồ nếu những kẻ yếu hèn cứ muốn sánh ngang với kẻ mạnh. - Tôi không nói chuyện với những người yếu hèn yếu, cũng không nghĩ đến họ. Tôi chỉ quan tâm đến những người có ích và có đủ khả năng hoàn thành sự nghiệp đó. - Trên đời chẳng có nhiều những người như vậy, mà cũng khó có thể phát hiện ra họ. - Cô nói đúng đấy, nhưng một khi đã phát hiện ra rồi thì phải khích lệ, hối thúc và cổ vũ để họ cố gắng. Phải chỉ cho họ thấy năng lực thiên bẩm của họ là gì, tại sao họ được ban tặng năng lực ấy. Phải nói vào tai họ thông điệp của Thiên đường, thay mặt Chúa tiếp nhận họ vào hàng ngũ những người Chúa đã chọn. Như vậy mới phải đạo. Nếu quả thực họ có đủ phẩm chất làm nhiệm vụ đó thì tại sao chính trái tim họ lại không mách bảo cho họ biết điều đó trước tiên? Tôi cảm thấy như có một sự mê hoặc ghê gớm đang thành hình và tụ tập quanh tôi. Tôi run run lắng nghe một tiếng nói định mệnh nào đó vang lên, đồng thời sẽ tuyên bố trói buộc tôi vào sự mê hoặc ấy. - Thế trái tim cô có nói gì không? – St.John hỏi. - Trái tim em vẫn câm lặng…, câm lặng. – Tôi rùng mình trả lời. - Thế thì tôi phải nói hộ nó. – Cái giọng không ngơi ngớt và trầm trầm ấy vẫn tiếp tục. – Jane ạ, hãy cùng tôi sang Ấn Độ đi. Hãy làm người bạn đời và bạn đồng cam cộng khổ của tôi đi.


Cả thung lũng và bầu trời bỗng như quay cuồng, điên đảo trước mặt tôi! Tôi như vừa nghe thấy một lời kêu gọi từ trên Thiên đường vọng xuống. Dường như có một vị thiên sứ hư ảo nào đó vừa cất tiếng gọi: “Hãy đến giúp chúng ta!” vậy. Nhưng tôi nào phải là một tông đồ, tôi không thể nhìn thấy sứ giả của Thiên đường, vì vậy tôi không thể nhận lời kêu gọi của người được. - Kìa, St.John!- Tôi kêu lên. – Xin anh hãy mở rộng tấm lòng một chút! Tôi đang cầu khẩn một người muốn thực hiện một điều mà anh ta cho là bổn phận nhưng lại không hề biết đến lòng khoan dung hay sự hối hận. - Chúa và Tạo hóa có ý định đưa cô trở thành vợ một nhà truyền giáo. – Anh tiếp tục. – Các đấng tối cao đã ban cho cô những khả năng thiên bẩm không phải về hình thể, mà là về tinh thần. Cô được sinh ra là để làm việc, chứ không phải để yêu đương. Cô phải là vợ của nhà truyền giáo và chắc chắn sẽ phải như vậy. Cô sẽ thuộc về tôi. Tôi đòi hỏi cô không phải vì ý nguyện của bản thân tôi, mà vì bổn phận phụng sự Thượng đế tối cao. - Em không xứng đáng làm việc ấy và cũng không có thiên hướng ấy. Hẳn là anh đã lường trước được những lời phản đối đầu tiên này, nên đã không hề tức giận. Nhìn anh đứng khoanh tay trước ngực, lưng tựa vào tảng đá, mặt không biến sắc, tôi nhận thấy rằng quả thực anh đã chuẩn bị đối phó với sự phản kháng gay gắt của tôi, và cũng sẵn sàng kiên nhẫn chịu đựng đến cùng. Có vẻ như anh đang đón chờ một kết cục thắng lợi cho mình. - Jane ạ, khiêm nhường lúc nào cũng là nền tảng của đạo đức Cơ đốc giáo, nên chẳng có gì sai khi cô nói cô không xứng đáng với công việc ấy. Ai là người xứng đáng với công việc ấy? Nói cách khác ai là người tự cho mình xứng đáng với phán gọi ấy? Như tôi đây chẳng hạn, xét cho cùng chẳng qua cũng chỉ là cát bụi. Cùng với thánh Paul, tôi tự biết mình là người nhiều tội lỗi nhất, nhưng tôi không chịu để cho nhận thức này ám ảnh khiến chính tôi phải sợ hãi. Tôi hiểu đấng Hướng đạo của mình, biết Người là công bằng và vĩ đại. Và khi đã chọn một công cụ yếu ớt để thực hiện một nhiệm vụ lớn lao, thì Người sẽ dùng cái kho tàng Thiên đường vô biên của mình để bổ sung cho những phương tiện khiếm khuyết trong sự nghiệp cao cả của mình. Hãy nghĩ như tôi đi, Jane ạ, và cũng nên có đức tin như tôi. Tôi muốn cô nương [78] tựa vào Hòn đá tảng Vĩnh hằng , và đừng nên hoài nghi rằng nó sẽ không


thể làm điểm tựa vững chắc cho những nhược điểm phàm tục của cô. - Em không hiểu gì về cuộc sống của nhà truyền giáo, vì em chưa bao giờ nghiên cứu về sứ mệnh đó. - Không hề gì, vì tôi có thể giúp đỡ cô được, cho dù tôi chỉ là một kẻ tầm thường. Tôi sẽ luôn ở bên cô, không ngừng giúp đỡ cô và có thể chỉ bảo cô hoàn thành nhiệm vụ từng giờ. Lúc đầu tôi sẽ làm như vậy,và rồi chẳng mấy chốc cô sẽ đủ năng lực (tôi biết rõ năng lực của cô) để tự hoàn thành công việc, chẳng cần phải có tôi giúp đỡ nữa. - Nhưng em đâu có năng lực để làm tròn bổn phận ấy? Em cảm thấy là mình không có năng lực làm như vậy. Anh nói mà chẳng có gì lên tiếng hay khuấy động trong con người em cả. Em không cảm thấy có một ngọn lửa nào nhóm lên, một sức sống nào hối thúc, một tiếng nói nào mách bảo hay cổ vũ mình. Ôi, em chỉ muốn làm sao để anh thấu hiểu lúc này tâm hồn em giống một nhà ngục tối tăm như thế nào với nỗi lo sợ bị anh thuyết phục làm cái công việc mà em không tài nào làm được! - Tôi trả lời hộ cô vậy, cô nghe nhé. Tôi đã quan sát cô ngay từ buổi đầu gặp cô và đã coi cô là đối tượng nghiên cứu từ mười tháng nay. Trong quãng thời gian đó, tôi đã làm sáng tỏ con người cô làm rất tốt, đều đặn và nghiêm túc những công việc ở trường làng vốn không thích hợp với thói quen và thiên hướng của cô. Cô đã hoàn thành bằng năng lực và sự khôn khéo của mình, nói khác đi là cô đã hoàn thành công khi làm chủ được chính mình. [79] Tôi hiểu tâm hồn cô không bị nhiễm cái tính xấu của Demas , tiền bạc chẳng có nghĩa lý gì với cô, vì khi biết mình bỗng dưng trở nên giàu có, cô vẫn điềm tĩnh như không. Việc cô nhất quyết chia số tài sản mà cô được thừa kế làm bốn và chỉ giữ lại một phần cho mình, còn ba phần đem nhường lại vì lẽ công bằng trừu tượng, đã giúp tôi nhận ra một tâm hồn biết lấy sự hy sinh làm niềm vui. Tôi đã thấy ở cô phần bổ sung cho những phẩm chất mà tôi đang tìm kiếm khi biết rằng cô đã dễ dàng chấp nhận bỏ một môn học mà mình yêu thích, thể theo ý tôi, để chấp nhận một môn học khác chỉ vì tôi thích, rồi bất chấp mọi khó khăn, không quản mệt mỏi để miệt mài với môn học ấy bằng nghị lực và quyết tâm của mình. Jane ạ, cô là người dễ bảo, siêng năng, không vụ lợi, trung thực, kiên định, can đảm, rất hòa nhã và cũng rất anh hùng. Hãy đừng hoài nghi chính mình nữa. Tôi hoàn toàn tin tưởng ở cô. Với tư cách người lãnh đạo các trường học ở Ấn Độ và người giúp đỡ phụ nữ ở đó, sự hỗ trợ của cô dành cho tôi sẽ là vô giá.


Tấm vải liệm bằng sắt cứ siết chặt lại quanh tôi, sự thuyết phục cứ từng bước vươn tới, chậm rãi và chắc chắn. Tôi nhắm mắt lại, nhưng vẫn nhìn ra con đường trước kia tưởng chừng đã bế tắc nhờ những lời nói sau cùng của anh. Công việc của tôi, trước đây mơ hồ, tản mạn vô vọng là thế, nay bỗng dần dần ngưng tụ lại theo lời nói của anh, định hình rõ nét dưới bàn tay sáng tạo của anh. Anh chờ tôi trả lời. Tôi đề nghị anh để tôi cân nhắc trong mười lăm phút. - Rất vui lòng! – Anh nói và đứng dậy, đi ra xa một quãng, rồi ngả mình xuống bãi đất hoang và nằm im ở đó, “Mình có thể làm được những việc anh muốn, đó là điều mình phải thừa nhận – Tôi ngẫm nghĩ – Nhưng mình có cảm giác mình khó có thể chịu đựng được mãi cái nắng của Ấn Độ. Vậy rồi sẽ ra sao? St.John rồi sẽ chẳng quan tâm đến điều đó. Nếu mình có sắp chết thì chắc là anh cũng chỉ biết chấp nhận và thành kính trả mình về với Chúa. Viễn cảnh thật quá rõ ràng. Rời khỏi nước Anh tức là rời khỏ một mảnh đất yêu dấu nhưng cũng thật trống rỗng, vì ông Rochester không còn ở đây, mà dẫu ông còn ở đây thì cũng đâu còn ý nghĩa với mình? Điều mình phải làm bây giờ là phải sống mà không có ông. Chẳng còn gì vô nghĩa và yếu đuối hơn là cứ kéo dài ngày này sang ngày khác cái hoàn cảnh mà dường như mình còn chờ đợi một sự thay đổi nào đó không thể xảy ra, ấy là việc ông và mình lại được xum họp cùng nhau. Tất nhiên (như St.John đã có lần nói) mình phải tìm cho cuộc sống một ý nghĩa khác thay thế cho điều đã mất: vậy thì việc anh trao cho mình chẳng phải là điều thực sự vinh quang nhất mà con người có thể đón nhận hoặc được Chúa giao phó đó sao? Lấp đầy khoảng trống của những tình cảm bị đổ vỡ và những hy vọng đã tiêu tan, bằng những công việc cao quý và bằng kết quả ưu việt của chúng chẳng phải là điều đáng làm nhất hay sao? Mình nghĩ mình phải nói có, vậy mà mình vẫn thấy run. Chao ôi! Nếu đi cùng St.John, mình sẽ phải từ bỏ một nửa của mình. Nếu Ấn Độ, không khéo mình sẽ chết non mất thôi. Và mình sẽ phải làm gì để lấp đầy khoảng thời gian từ lúc rời nước Anh đến Ấn Độ, đến lúc Ấn Độ về nấm mồ đây? Ôi, mình biết lắm chứ! Tất cả đều rõ ràng trước mắt mình. Bằng cách làm thỏa mãn sở nguyện của St.John cho đến khi tất cả các gân cốt trong người rã rời, mình sẽ làm anh hài lòng nhất. Nếu mình đi cùng anh, nếu mình thực sự hy sinh như anh hối thúc, thì mình sẽ cống hiến tới mức tối đa, sẽ dâng lên bàn thờ Chúa tất cả, trái tim, sức bình sinh của mình. Anh sẽ chẳng bao giờ yêu mình, nhưng sẽ tán thành mình. Mình sẽ cho anh ấy thấy những nghị lực mà anh chưa từng


thấy, những nguồn lực mà anh chưa đến. Ừ, mình có thể gian lao như anh gian lao, và cũng như anh, mình nhất định sẽ không hé răng kêu than nửa lời. “Vậy thì mình có thể chấp nhận lời đề nghị của anh, trừ một điều đáng sợ, ấy là làm vợ anh. Anh hỏi mình làm vợ, nhưng mình thấy anh chẳng có trái tim của một người làm chồng. Anh đánh giá mình như một người lính đánh giá một thứ vũ khí tốt, và tất cả chỉ có thế. Đành rằng mình sẽ chẳng bao giờ thấy phiền lòng vì chuyện không lấy anh, nhưng mình có thể để anh hoàn thành những phép tính lạnh lùng cho các kế hoạch của anh cùng với lễ cưới được không? Liệu mình có thể nhận chiếc nhẫn cưới của anh, chấp nhận mọi hình thức của tình yêu (điều này ta biết chắc anh sẽ rất tôn trọng) trong khi vẫn biết rằng tâm hồn anh chẳng hề để vào đấy không? Mình có thể chịu đựng ý nghĩ rằng cử chỉ âu yếm nào của anh cũng chỉ là một sự hy sinh được biểu tỏ theo nguyên tắc thuần túy không? Không, đó chỉ là một sự hy sinh quái gở vì đạo. Mình không thể chịu đựng được điều đó. Mình chỉ có thể theo anh như một người em gái, chứ không thể như một người vợ. Mình sẽ bảo anh như vậy.” Tôi nhìn về phía gò đất, nơi anh đang nằm im như một cây cột đổ, mặt quay lại phía tôi, ánh mắt vẫn dò xét như thường lệ. Anh vùng dậy và bước lại phía tôi. - Em sẵn sàng tới Ấn Độ nếu có thể đi một cách tự do. - Có lẽ cô nên giải thích thêm một chút đi, – anh nói – tôi vẫn chưa hiểu rõ ý cô. - Cho đến nay anh vẫn là anh đỡ đầu của em, và em là em nuôi của anh. Chúng ta nên tiếp tục coi nhau như vậy. Em thấy mình không lấy nhau thì hơn. Anh lắc đầu lý giải: - Trong trường hợp này thì đừng nghĩ đến tình anh em kết nghĩa. Nếu cô thực sự là em gái tôi thì lại đi một nhẽ, tôi sẽ đem cô đi và chẳng cần tìm vợ nữa. Nhưng với thực tế của chúng ta, sự đồng hành của chúng ta hoặc phải được sự hy sinh và chứng thực bởi hôn nhân, hoặc là không thể tồn tại. Nếu không các trở ngại thực tế sẽ cản trở bất cứ một kế hoạch nào. Jane, cô không thấy thế sao? Hãy cân nhắc kỹ đi, lý trí mạnh mẽ của cô sẽ dẫn đường cho cô.


Tôi đã cân nhắc, và lý trí chỉ dẫn tôi về vời thực tế là chúng tôi không thể yêu nhau như một người chồng và một người vợ. Bởi vậy, chúng tôi không thể lấy nhau được. Tôi đã nói như vậy. - St.John ạ, em đã xem anh như một người anh, và anh đã coi em như một người em gái, vậy chúng ta vẫn cứ nên tiếp tục như thế đi. - Không thể được, chúng ta không thể làm như thế được. – Anh quả quyết trả lời, ngắn gọn, dứt khoát. Cô đã nói cô sẽ đi Ấn Độ với tôi, nhớ lại đi, cô đã nói vậy mà. - Nhưng là có điều kiện. - Được, được. Xét về vấn đề cốt lõi, tức là cùng tôi rời nước Anh, cộng tác với tôi trong những công việc tương lai của tôi, cô đã không phản đối. Cô gần như đã nắm tay vào cái cày rồi. Cô là người quá kiên định để có thể rút tay về. Cô chỉ còn một điều cần cân nhắc, ấy là làm thế nào để hoàn thành tốt nhất công việc mình đã bắt đầu. Hãy đơn giản hóa những mối quan tâm, cảm xúc, tâm tư, khát vọng và mục tiêu phức tạp của mình đi, và hãy hướng mọi cân nhắc vào mục tiêu là làm sao hoàn thành một cách hiệu quả nhiệm vụ mà đấng tối cao đã giao phó. Để làm được như vậy, cô cần một người cùng gánh vác, không phải một người anh vì đó chỉ là một quan hệ ràng buộc lỏng lẻo, mà phải là một người chồng. Tôi cũng vậy, tôi không cần một người em gái để rồi có ngày bị người ta lấy mất. Tôi muốn một người vợ, người cộng sự duy nhất mà tôi có thể gây ảnh hưởng một cách hiêu quả trong cuộc đời và có thể giữ được một cách chắc chắn cho đến lúc chết. Tôi rùng mình nghe anh nói và cảm thấy ảnh hưởng của anh đang thấu đến tận xương tủy, uy lực của anh ràng trói lấy tứ chi mình. - Hãy tìm một người nào khác không phải là em, anh St.John ạ, hãy tìm một người thích hợp với anh đi. - Cô muốn nói một người thích hợp với mục tiêu và thiên hướng của tôi chứ gì? Xin nhắc lại với cô rằng tôi không tìm một cá nhân vô nghĩa, tầm thường và ích kỷ làm người bạn đời. Tôi tìm một nhà truyền giáo. - Em đã dâng nhà truyền giáo mọi nghị lực của mình, tức là tất cả những gì người ấy cần, chứ không phải con người em. Vì việc em dâng hiến con


người em sẽ chẳng khác nào việc thêm hạt, thêm vỏ vào một trái cây. Vì chúng chẳng có tác dụng gì nên em xin được giữ lại. - Cô không thể, và không được làm như vậy. Cô nghĩ rằng Chúa có thể hài lòng với một nửa lễ vật ư? Liệu người có chấp nhận một sự hy sinh bị chia năm xẻ bảy không? Tôi biện hộ vì mục đích của Chúa, tôi chọn cô là để đứng dưới lá cờ của Người. Tôi không thể nhân danh Người để đón nhận một sự trung thành bị chia sẻ, nó cần phải trọn vẹn. - Vâng, em sẽ dâng trọn trái tim cho Chúa. – Tôi nói. – còn anh thì cần gì đến nó chứ! Thưa bạn đọc, tôi sẽ không dám quả quyết rằng không có một chút gì mỉa mai trong giọng nói của tôi khi thốt ra câu ấy, cũng như trong cảm nghĩ tiếp theo đó, cho dù tôi cố kìm giữ lại. Cho đến lúc bấy giơ, tôi vẫn thầm e ngại St.John, vì tôi đã không hiểu được anh. Anh đã làm tôi kinh hãi vì anh vẫn hoài nghi tôi. Tôi không thể nói được trong con người anh có bao nhiêu siêu phàm, bao nhiêu trần tục. Nhưng tôi cũng đã hiểu ra được đôi điều nhờ cuộc nói chuyện này, việc xét đoán đã cái bản chất đã làm con người anh dần dần hiện lên trước mắt tôi. Tôi đã nhận ra và đã hiểu những điểm yếu của anh. Tôi hiểu rằng mình đang ngồi đây, trên một gò đất hoang, với một người đàn ông, dù điển trai, nhưng vẫn có thể lầm lạc như tôi. Tấm mạng che đậy sự nghiêm khắc và độc đoán của anh đã rơi xuống. Cảm giác anh có những đức tính kia cũng là cảm giác anh không phải là một người hoàn hảo, điều đó giúp tôi can đảm hơn. Tôi đang ngồi với người đồng hạng với mình, một người tôi có thể đưa ra các lập luận của mình và có thể kháng cự lại nếu tôi thấy điều đó có lợi. Anh im lặng sau khi tôi thốt ra câu nói vừa rồi. Tôi mạnh bạo ngước nhìn khuôn mặt anh. Anh cúi xuống nhìn tôi, ánh mắt vừa kinh ngạc, vừa như muốn dò xét: “Cô ta định mỉa mai, mà mỉa mai cả mình chăng? Như thế là thế nào?” - Chúng ta đừng nên quên rằng đây là một vấn đề hệ trọng, – anh nói sau một lúc im lặng – một vấn đề mà chúng ta không thể suy nghĩ hoặc nói năng một cách bừa bãi được. Jane! Tôi tin rằng cô đã tỏ ra thật nhiệt thành khi nói sẽ dâng trọn trái tim cho Chúa, đó cũng chính là tất cả những gì tôi muốn ở cô. Một khi cô đã rứt trái tim khỏi con người mình để đem dâng đấng Tạo hóa, thì cô sẽ tìm thấy niềm vui khi thấy cõi tinh thần của đấng Tạo hóa


được mở rộng mãi trên trái đất này. Điều đó cũng có phần nỗ lực của chính cô, và cô sẽ sẵn sàng làm mọi điều vì mục đích ấy. Rồi cô sẽ thấy các nỗ lực của cô và của tôi thăng hoa mạnh mẽ như thế nào, nếu như chúng ta kết hợp với nhau cả về mặt tinh thần lẫn thể xác. Đó là sự kết hợp duy nhất có thể mang lại sự vững bền cho các số phận và dự kiến của con người. Nếu vượt qua cái tính thất thường trẻ con, những khó khăn tầm thường, yếu đuối của tình cảm và mọi cân nhắc về thiên hướng cá nhân, hẳn là cô sẽ nhanh chóng chấp nhận sự kết hợp ấy ngay. - Thế ư? – Tôi đáp lại cộc lốc và ngắm nhìn lại gương mặt anh – những đường nét hài hòa nhưng trang nghiêm đến kỳ lạ, vầng trán uy nghi nhưng chẳng hể cởi mở, đôi mắt sáng lúc nào cũng như dò xét nhưng không êm dịu, thân hình cao lớn và oai nghiêm. Tôi tưởng tượng mình là vợ anh. Than ôi, không bao giờ như thế được! Làm phó của anh, bạn đồng hành của anh thì được. Tôi sẽ cùng anh vượt trùng dương với vai trò ấy. Tôi sẽ lao tâm khổ tứ dưới cái nắng mặt trời phương Đông, trên những vùng sa mạc Á châu với tư cách ấy. Chắc chắn là tôi sẽ thường xuyên phải chịu đựng khổ sở cho dù chỉ gắn bó với anh bằng danh nghĩa đó. Thể xác tôi sẽ phải chịu một cái ách tai ương, nhưng tâm hồn và đầu óc tôi sẽ được thanh thản. Tôi sẽ vẫn còn cái tôi không bị trói buộc để mà quay về, cái tình cảm tự nhiên, không bị nô lệ hóa, để cảm thông trong những lúc cô đơn. Trong tâm hồn tôi sẽ vẫn còn chỗ ẩn náu của riêng tôi, anh ấy không bao giờ bước tới được. Đó sẽ là nơi bình yên để tình nảy nở tốt tươi, không bị cái tính hà khắc của anh làm khô héo, cũng không bị những bước chân trường chinh của người lính ấy chà đạp lên. Còn nếu là vợ anh, lúc nào cũng phải ở bên anh, phải chịu gò bó và kìm hãm, phải giữ ngọn lửa cốt cách leo lét cháy âm ỉ mãi ở bên trong và không bao giờ được thốt lên một tiếng, bất chấp ngọn lửa bị cầm tù ấy thiêu trụi dần sức sống – thì tôi sẽ không thể chịu đựng được. - Anh St.John! – Tôi thốt lên sau khi đã cân nhắc rất kỹ. - Sao cơ? – Anh trả lời lạnh tanh. - Em nhắc lại là em bằng lòng đi với anh với tư cách là người bạn truyền giáo, chứ không phải là vợ anh. Em không thể lấy anh và trở thành một phần của anh. - Cô phải trở thành một phần của tôi, – anh đáp lại, vẻ kiên quyết – nếu không cuộc thỏa thuận giữa chúng ta sẽ chẳng có nghĩa lý gì hết. Làm sao mà


tôi, một người đàn ông chưa đến ba mươi, lại có thể mang một cô gái mới mười chín sang Ấn Độ được, nếu cô ấy không phải là vợ tôi? Làm sao chúng ta có thể sống mãi với nhau – khi thì ở những nơi hẻo lánh, khi thì giữa những bộ lạc man rợ – mà không lấy nhau được? - Được lắm chứ, anh cứ coi em như một người em gái thực sự, hay một người đàn ông, một tu sĩ như anh thì có sao nào. - Rõ ràng cô không phải là em gái tôi. Tôi không thể giới thiệu cô như vậy, vì làm thế chỉ tổ càng làm tăng thêm những sự nghi ngờ không chính đáng cho cả hai chúng ta. Vả lại, nếu cô có lý trí mạnh mẽ như một người đàn ông đi chăng nữa thì cô vẫn có trái tim của một phụ nữ, mà như thế thì không thể được. - Được chứ, – tôi quả quyết, giọng ít nhiều khinh khỉnh – quá được nữa là đằng khác. Em có trái tim của một phụ nữ, nhưng điều đó đâu có liên quan gì đến anh. Vì đối với anh, em chỉ có cái cứng nhắc của một người bạn, hoặc sự thẳng thắn, trung thành và tình thân ái của người bạn đồng ngũ nếu anh muốn nói thế, hoặc sự tôn trọng và phục tùng của một tín đồ mới nhập đạo đối với vị thầy tu. Tất cả chỉ có thế… Anh đừng sợ điều đó. - Đó là điều tôi muốn, – anh nói như nói với chính mình – đó chính là điều tôi muốn. Nhưng còn có những chướng ngại trên đường đi cần phải vượt qua. Jane ạ, hãy cứ tin rằng rồi cô sẽ không phải hối tiếc về việc lấy tôi đâu. Chúng ta phải lấy nhau. Tôi xin nhắc lại như vậy, chẳng còn con đường nào khác. Và chắc chắn là sau khi lấy nhau, thế nào tình yêu giữa chúng ta sẽ chẳng nảy nở đủ để ngay cả cô cũng phải thừa nhận rằng sự kết duyên giữa hai chúng ta là đúng. - Tôi khinh bỉ cái ý niệm về tình yêu của anh. – Không còn kiềm chế được nữa, tôi đứng bật dậy trước mặt anh, tựa lưng vào tảng đá và nói đại. – Tôi khinh bỉ thứ tình cảm giả dối mà anh đưa ra. Đúng thế, St.John ạ, tôi còn khinh bỉ chính con người anh khi anh đưa ra cái ý niệm đó. Anh nhìn tôi chằm chằm, cặp môi đẹp như vẽ mím chặt lại. Thật khó mà biết anh đang tức giận hay ngạc nhiên, hay là thế nào nữa, vì anh là nguời có thể kìm nén, không bộc lộ cảm xúc của mình trên nét mặt. - Tôi thật không ngờ cô lại tỏ vẻ như vậy. – Anh nói – Tôi nghĩ mình đã chẳng làm gì và thốt ra một điều gì đáng bị khinh bỉ.


Tôi thực sự cảm động trước giọng nó dịu dàng nhưng lại thấy sợ trước vẻ mặt cao ngạo và thản nhiên của anh. - St.John ạ, mong anh đừng cố chấp cái câu nó ấy của em. Nhưng cũng tại anh nên em mới bực mình và ăn nói bừa bãi như vậy. Anh đã đề cập đến một chủ đề mà bản chất của chúng ta chẳng có gì giống nhau, một chủ đề mà chúng ta đừng bao giờ nên tranh luận. Ngay bản thân cái danh nghĩa tình yêu cũng đã gây bất đồng giữa chúng ta rồi. Chúng ta sẽ ra sao trên thực tế cuộc sống? Ông anh họ thân mến của em ạ, hãy từ bỏ ý định lấy nhau đi. Quên nó đi. - Không, – anh trả lời dứt khoát – đó là một kế hoạch đã được nung nấu từ lâu, và cũng là điều duy nhất có thể đảm bảo cho mục đích lớn lao của tôi. Nhưng bây giờ tôi sẽ không hối thúc cô nữa. Ngày mai tôi sẽ đi Cambridge, nơi tôi có những người bạn cần phải đến chào tạm biệt họ. Tôi sẽ vắng nhà trong khoảng hai tuần, cô nên tranh thủ quãng thời gian đó để mà cân nhắc lại đề nghị của tôi. Đừng quên rằng nếu cứ khăng khăng từ chối đề nghị ấy thì không phải là cô đã từ chối tôi, mà là từ chối Chúa. Thông qua các công cụ của tôi, Người đã mở cho cô một sự nghiệp cao cả, chỉ khi làm vợ tôi cô mới có thể bước chân vào sự nghiệp đó. Từ chối làm vợ tôi tức là cô vĩnh viễn tự gò bó mình trong con đường ích kỷ và tăm tối. Cô phải biết sợ mình sẽ bị liệt vào hạng những người đã chối bỏ đức tin, một hành động còn tệ hơn cả những kẻ vô đạo. Anh chỉ lý luận đến đó, rồi quay mặt đi và một lần nữa anh lại… “Nhìn xuống dòng sông, nhìn lên ngọn đồi.” Nhưng lần này, các cảm xúc của anh đều đuợc giữ kín trong lòng, tôi không xứng đáng được nghe anh nói lên nữa. Trên đường về nhà, tôi đã đọc được trong cái yên lặng sắt đá của anh tất cả những gì anh cảm nghĩ về tôi, ấy là sự thất vọng của một cốt cách khổ hạnh và độc đoán trước sự chống đối ở một người tưởng chừng như chỉ có sự khuất phục. Nói tóm lại, là người đàn ông, St.John mong muốn buộc tôi phải vâng lời. Chỉ có là một tín đồ Cơ đốc giáo trung thực thì anh mới kiên nhẫn chịu đựng được sự ngoan cố của tôi, rồi bằng lòng cho tôi suy nghĩ và hối hận trong một khoảng thời gian dài như thế. Tối hôm đó, sau khi hôn hai cô em gái, anh nghĩ là chẳng cần phải bắt


tay tôi và cứ thế mà lặng lẽ rời khỏi phòng. Tôi – dù không yêu, nhưng rất quý mến anh – cảm thấy bị tổn thương vì thái độ cố tình quên lãng đó của anh, đến nỗi nước mắt tôi cứ trào ra. - Jane này, tôi đã thấy cô và St.John cãi vã nhau – Diana nói – lúc hai người đi dạo ngoài cánh đồng. Nhưng bây giờ hãy chạy theo anh ấy đi. Anh ấy còn nấn ná ở hành lang chờ cô đấy. Chắc là anh ấy sẽ làm lành lại thôi. Trong những trường hợp như vậy, tôi cũng chẳng cần gì phải kiêu hãnh nữa, lúc nào tôi cũng muốn thà cho đầu óc được thanh thản còn hơn là sĩ diện hão. Và tôi đã làm theo lời Diana. St.John vẫn đang đứng ở chân cầu thang. - St.John, chúc anh ngủ ngon. – Tôi nói. - Chúc Jane ngủ ngon. – Anh bình thản đáp lại. - Vậy thì ta bắt tay nhau nhé. – Tôi nói thêm. Cái bắt tay mới hời hợt và lạnh lùng làm sao! Hẳn là anh đã rất không hài lòng vì chuyện xảy ra hôm ấy, nên cử chỉ thân thiện vừa rồi chưa đủ khiến anh vui lên một chút, và những giọt nước mắt lăn dài trên gò má tôi cũng chẳng khiến anh động lòng. Với anh thì không có sự hòa giải nào vui vẻ nào cả, cũng chẳng có nụ cười hân hoan hay một lời khoan dung nào. Nhưng con người Cơ Đốc giáo trong anh vẫn kiên nhẫn và trầm lặng như lệ thường. Khi được hỏi anh có tha lỗi cho tôi không, anh đã trả lời rằng anh không có thói để bụng những chuyện vớ vẩn, và anh đã không bị ai xúc phạm thì đâu cần phải tha lỗi. Anh nói thế rồi bỏ đi. Tôi muốn thà anh cứ đánh ngay tôi ngã xuống còn hơn.



Chương 35 Ngày hôm sau, anh không đi Cambridge như đã nói, mà hoãn lại một tuần. Và trong thời gian đó, anh đã làm tôi phải thấm thía thế nào là hình phạt ác nghiệt mà một người tốt nhưng nghiêm khắc, có lương tri nhưng không khoan nhượng, có thể dùng để trừng trị kẻ đã xúc phạm mình. Không cần để lộ một biểu hiện thù địch, cũng chẳng cần trách móc nửa lời, anh đã buộc tội tôi có lúc phải tin rằng mình đã bị đẩy ta ngoài sự ưu ái của anh. Anh không lảng tránh nói chuyện với tôi, và thậm chí sáng nào cũng vẫn gọi tôi đến cùng ngồi học như thường lệ. Tôi sợ rằng con người vô luân trong anh đã cảm thấy một vui thú trái ngược với con người Cơ đốc giáo trong sáng. Và mặc dù bề ngoài anh vẫn hành động và nói năng đúng như mọi ngày, nhưng thực ra anh đã rút mất cái tinh thần quan tâm và đồng thuận trong mỗi việc làm, lời nói vốn từng làm ngôn ngữ và cử chỉ trước đây của anh luôn có sự hấp dẫn khổ hạnh nhất định. Đối với tôi, trên thực tế anh không còn là một người bằng xương bằng thịt nữa, mà bằng đá. Mắt anh chỉ còn là viên ngọc xanh lạnh lẽo, miệng lưỡi anh chỉ là một công cụ để nói – chứ không hơn. Tất cả những điều đó đã hành hạ, tra tấn tôi một cách dai dẳng và tàn nhẫn. Tôi cảm nhận rất rõ – nếu tôi là vợ anh – người đàn ông tốt bụng có tâm hồn trong vắt như một dòng suối sâu không ánh nắng ấy, có thể sớm giết tôi như thế nào: giết mà chẳng cần phải lấy từ huyết quản tôi một giọt máu, cũng không làm cho lương tâm trong suôt như pha lê của anh phải mang một thoáng tì vết của tội lỗi. Tôi đặc biệt cảm thấy như vậy mỗi khi cố gắng làm cho anh nguôi lòng. Không một chút động lòng đáp lại sự day dứt. Anh không hề tỏ ra đau khổ vì sự xa cách, cũng chẳng mong muốn hòa giải. Và dù đã hơn một lần những giọt nước mắt tôi rơi ướt cả trang sách mà hai người đang cùng đọc, song chúng cũng chẳng có tác dụng gì đối với anh, cứ như thể trái tim anh bằng sắt, bằng đá thật. Trong khi ấy, đối với hai cô em gái, anh lại tỏ ra dịu dàng hơn thường ngày, cứ như sợ rằng sự lạnh lùng chưa đủ để khiến tôi cảm thấy mình bị ruồng rẫy, nên anh phải thêm vào đó sự tương phản trong cách đối xử. Và tôi tin rằng anh làm thế không phải vì tâm địa độc ác, mà là vì theo nguyên tắc. Buổi tối trước hôm anh ra đi, tình cờ thấy anh đi dạo ngoài vường và chợt nhớ ra rằng đó là người – dù bây giờ xa lạ với tôi thật – đã một lần cứu


sống tôi, và sau đó chúng tôi đã có quan hệ mật thiết với nhau, tôi lại thấy mình cần phải cố gắng một lần cuối cùng giành lại tình thân ái của anh. Tôi bước ra và tiến lại phía anh, khi anh đang đứng tựa vào cổng rào. Tôi vào chuyện ngay: - St. John này, em cảm thấy buồn vì anh vẫn còn giận em. Chúng ta hãy tỏ ra thân ái với nhau có được không? - Tôi tưởng chúng ta vẫn đang thân ái với nhau đấy chứ. Anh hờ hững đáp lại, mắt vẫn ngắm nhìn vầng trăng đang lên như lúc tôi chưa đến gần anh. - Không, St. John ạ, chúng ta đâu còn thân ái với nhau như trước chứ, anh cũng biết mà. - Thật thế ư? Thế thì nhầm rồi. Về phần mình, tôi chẳng mong điều gì xấu xảy ra với cô, mà tất cả chỉ toàn là điều tốt lành thôi. - Em tin anh, St. John ạ, vì em biết chắc anh không thể cầu mong điều gì xấu cho ai. Nhưng vì là chỗ thân thích của anh, nên em mong được anh tỏ lòng quý mến hơn một chút so với thứ tình cảm nhân ái chung chung đối với những người xa lạ. - Tất nhiên rồi! Mong muốn của cô có lý đấy, nhưng nào tôi có tỏ ra xa cách với cô như một kẻ xa lạ đâu. Giọng lạnh lùng và thản nhiên của anh lại khiến tôi bực mình và cảm thấy nỗ lực của mình có vẻ đã thất bại. Nếu nghe theo sự xúi giục của lòng kiêu hãnh và giận dữ, thì tôi đã bỏ đi ngay lập tức, nhưng trong tôi còn có một cái gì còn mạnh hơn những tình cảm đó. Tôi sùng bái sâu sắc tài năng và nguyên tắc đạo đức của người anh họ. Tình bạn của anh dành cho tôi rất đáng được trân trọng, để mất nó sẽ là một cực hình mà tôi phải chịu đựng. Tôi sẽ không vội từ bỏ nỗ lực giành lại tình cảm ấy. - Chẳng lẽ chúng ta phải chia tay như thế này sao, St. John? Và khi sắp sang Ấn Độ rồi, chẳng lẽ anh vẫn không thể nói được lời nào tử tế hơn những lời vừa rồi sao? Đôi mắt anh rời khỏi bầng trăng và quay lại, nhìn thẳng vào mặt tôi. - Khi sang Ấn Độ, tôi sẽ bỏ cô lại ư, Jane? Cái gì! Cô sẽ không sang Ấn


Độ sao? - Anh đã nói em không thể đi, nếu không lấy anh mà. - Thế cô sẽ không lấy tôi thật à? Tại sao cô cứ khăng khăng như vậy chứ? Thưa bạn đọc, nếu đặt mình vào địa vị của tôi thì bạn đọc có biết sẽ đáng sợ như thế nào khi những con người băng giá như vậy nhồi băng giá vào những câu hỏi của họ không? Có bao nhiêu tuyết sẽ sụt lở trong cơn giận của họ? Và những tảng băng trên biển sẽ tan vỡ như thế nào trong sự không vừa lòng của họ? - Không, St. John ạ, em sẽ không lấy anh. Nhất định là như thế. Núi tuyết đã bắt đầu rung chuyển và hơi trào ra một chút, nhưng chưa đổ sập xuống. - Tôi hỏi một lần nữa, tại sao cô lại từ chối? – Anh hỏi. - Trước đây em trả lời là anh không hề yêu em, còn bây giờ em xin trả lời là anh hầu như ghét bỏ en. Nếu em lấy anh, anh sẽ giết em mất. Mà bây giờ anh cũng đang giết em rồi đấy. Mặt anh bắt đầu biến sắc, trông trắng bệch ra. - Tôi sẽ giết cô?... Tôi đang giết cô? Cô dùng lời thật không nên, nghe nó thô bạo, thiếu nữ tính và không chính xác chút nào. Nó cho thấy một tâm trạng bối rối, đáng bị chê trách nghiêm khắc và dường như không thể tha thức được. Nhưng bổn phận của con người là phải tha thứ cho đồng loại, cho dù đến bảy mươi lần đi chăng nữa thì cũng vẫn phải tha thứ. Thế là hết! Trong khi hăm hở muốn xóa bỏ trong tâm trí anh dấu vết những lời tôi xúc phạm anh bữa trước, tôi đã khắc thêm lên cái bề mặt chai lì ấy một ấn tượng khác sâu sắc hơn nhiều. - Bây giờ thì anh sẽ ghét em thực sự. – Tôi nói. – Cố gắng làm lành với anh cũng vô ích. Em thấy đã làm cho anh trở thành kẻ thù vĩnh cửu của mình rồi. Nhưng lời tôi vừa nói lại gây ra một bất đồng mới, một bất đồng tệ hại, vì nó động chạm tới sự thật. Cặp môi nhợt nhạt thoáng rung lên bần bật. Tôi


biết mình đã thổi bùng lên cơn giận ghê gớm. Lòng tôi quặn lại. - Anh đã hoàn toàn hiểu sai câu nói của em – tôi nói và vội nắm tay anh, – quả thực là em không có ý làm anh đay khổ hay buồn phiền, em không có ý như vậy. Anh mỉm cười chua chát bao nhiêu, thì cũng giật bàn tay khỏi tay tôi dứt khoát bấy nhiêu. - Bây giờ cô đã nuốt lời hứa, và tôi đoán cô cũng sẽ nhất đinhk không sang Ấn Độ nữa, đúng không? – Anh hỏi sau một hồi im lặng khá lâu. - Không, em vẫn sẽ đi, với tư cách một phụ tá của anh. Lại một hồi im lặng rất lâu. Tôi không biết bản tính và lòng khoan dung trong anh đã đấu tranh với nhau như thê nào trong khoảng thời gian ấy, chỉ biết trong mắt anh có những tia sáng khôn tả và trên khuôn mặt anh có những nét tối sầm lạ lùng thoáng hiện lên. Cuối cùng thì cũng thấy anh nói tiếp - Lần trước, tôi đã cho cô thấy sự lố bịch của việc một cô gái chưa chồng tuổi cô đi ra nước ngoài với một người đàn ông chưa vợ ở tuổi tôi. Thiết tưởng tôi đã chứng minh bằng những lời lẽ đủ để khiến cô không bao giờ còn nhắc lại chuyện ấy nữa. Thế mà rồi cô vẫn cứ nhắc lại, tôi thật lấy làm tiếc vì cô. Tôi ngắt lời anh. Bất cứ một lời khiển trách nào kiểu như vậy cũng lập tức làm tôi thấy can đảm: “Hãy cứ giữ lấy cái xét đoán thông thường của anh, St. John ạ. Có vẻ như anh đang nói toàn những lời vô nghĩa thì phải. Anh làm ra vẻ bị sốc bởi những gì tôi nói, nhưng thực ra anh chẳng choáng váng chút nào, vì với đầu óc hơn người, chẳng thể nào có chuyện anh ngu ngơ đến nỗi hiểu sai ý tôi nói. Tôi xin được nhắc lại nhé, tôi sẽ làm phó của anh nếu anh muốn, nhưng sẽ không bao giờ có chuyện làm vợ anh. Khuôn mặt anh lại biến sắc một lần nữa, nhưng cũng như lần trước, anh vẫn hoàn toàn kiểm soát được cảm xúc của mình. Anh nhấn giọng trả lời, nhưng vẫn bình tĩnh: - Một nữ phó mục sư mà không phải là vợ tôi thì không bao giờ thích hợp với tôi cả. Vậy xem ra cô không thể đi cùng tôi được. Nhưng nếu cô là


người trung thực với đề nghị của mình, thì trong thời gian ở lại thành phố, tôi sẽ nói với một nhà truyền giáo mà bà vợ ông đang cần một người phụ việc. Tài sản riêng sẽ giúp cô không cần nhờ đến sự trợ giúp của Giáo hội, như vậy cô có thể không bị mất danh dự vì đã nuốt lời hứa và chối bỏ hàng ngũ mà cô đã cam kết gia nhập. Như bạn đọc đã biết, đã có lúc nào tôi đưa ra một lời hứa hay một giao ước chính thức nào chưa? Lời nói vừa rồi của anh nghe mà ác nghiệt và cay độc quá! Tôi đáp lại: - Không thể có chuyện mất danh dự, nuốt lời hay đào ngũ ở đây. Em không hề chịu một sức ép nào để phải Ấn Độ, nhất là với những người xa lạ. Với anh, em có đi cũng là vì liều lĩnh mà thôi, bởi em ngưỡng mộ anh, tin tưởng anh và yêu mến anh bằng tình cảm của một người em gái. Dẫu vậy, em vẫn tin rằng dù có đi với ai và đi vào lúc nào thì em cũng chẳng sống lâu được trong cái khí hậu ấy. - À, thì ra là cô lo cho bản thân mình. – Anh bĩu môi nói. - Tôi là người thế đấy. – Tôi tức mình nói. – Chúa ban cho tôi cuộc sống không phải là để vứt đi. Tôi đã bắt đầu nghĩ làm theo ý muốn của anh chẳng khác nào tự sát. Hơn nữa, trước khi quyết định rời khỏi nước Anh, tôi biết chắc chắn đi hay ở sẽ có ích hơn. - Cô định nói gì? - Có cố giải thích cho anh cũng chẳng có kết quả gì, nhưng có một điều mà bấy lâu nay tôi vẫn đau đáu hoài nghi trong lòng, và tôi không thể đi đâu được chừng nào chưa biết rõ nỗi hoài nghi đó. - Tôi biết trái tim cô đang hướng về đâu và đang quyến luyến một điều gì. Song cái điều mà cô đang quan tâm lại trái với pháp luật và đạo lý. Lẽ ra cô đã phải bóp chết nó từ lâu rồi, bây giờ cô nên lấy làm hổ thẹn khi nhắc lại điều đó mới phải. Cô lại nghĩ đến ông Rochester chứ gì? Đúng thế. Tôi thú nhận bằng sự yên lặng. - Cô định đi tìm ông Rochester? - Tôi phải biết hiện ông ấy ra sao.


- Bây giờ tôi chỉ còn biết nhớ đến cô trong những buổi cầu nguyện và hết sức thành tâm cầu Chúa để cô không phải trở thành một kẻ sống sót. Vậy mà tôi cứ tưởng mình đã nhận được ở cô một con người được Chúa lựa chọn. Nhưng Chúa không thấy giống như con người thấy. Anh mở cổng bước ra, và đi về phía dưới thung lũng. Một lát sau đã không thấy bóng anh đâu nữa. Trở lại phòng khác, tôi thấy Diana đang đứng bên cửa sổ, vẻ rất trầm ngâm. Diana cao lớn hơn tôi nhiều, cô đặt tay lên vai tôi và cúi xuống nhìn vào mặt tôi: - Jane này, – cô nói – dạo này trông cô lúc nào cũng có vẻ lo lắng và xanh xao quá. Tôi nghĩ chắc là đang có chuyện gì đây. Hãy cho tôi biết St. John và cô đang bàn chuyện gì đi. Tôi vừa đứng bên cửa sổ nhìn cả hai người suốt nửa tiếng đồng hồ. Xin cô bỏ quá cho cái thói xấu ấy, nhưng từ lâu tôi cứ đoán già, đoán non mà vẫn chẳng hiểu được điều gì. St. John quả là một người kỳ lạ. Cô ngừng lại. Thấy tôi không nói gì, cô lại tiếp: - Tôi nghĩ chắc anh tôi đang ủ ấp một dự định đặc biệt nào đó về cô. Từ trước đến nay, chưa thấy anh ấy quan tâm, chú ý đến ai thế bao giờ. Để làm gì chứ? Hy vọng là anh ấy đã yêu cô, phải không, Jane? Tôi đặt bàn tay mát lạnh của cô lên vầng trán nóng bỏng của mình: “Không, Diana ạ, không phải vậy đâu.” - Thế tại sao anh ấy cứ nhìn cô chăm chú thế, và lúc nào cũng muốn cô ngồi với mình anh ấy, rồi liên tục giữ cô bên cạnh thế nào? Cả tôi và Mary đều bảo anh ấy muốn cô lấy anh ấy. - Đúng thế, anh ấy có hỏi tôi làm vợ. - Thật đúng với suy nghĩ và hy vọng của chúng tôi! – Diana vỗ tay và reo lên. – Thế cô có nhận lời không, Jane? Và thế là anh ấy sẽ ở lại nước Anh. -Còn lâu mới được như vậy, Diana ạ. Anh ấy muốn lấy tôi chẳng qua là để có một người bạn cần lao có lợi cho công việc của anh ấy ở Ấn Độ mà thôi.


- Cái gì? Anh ấy muốn cô đi Ấn Độ à? - Vâng. - Thật điên rồ! – Cô kêu lên. – Tôi cam đoan là cô sẽ không sống nổi ba tháng ở cái xứ ấy đâu. Đừng bao giờ nên đi! Mà cô vẫn chưa đồng ý đấy chứ, Jane? - Tôi đã từ chối lấy anh ấy. - Và kết quả là anh ấy đã tức giận phải không? - Rất tức giận. Tôi chỉ sợ anh ấy sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho tôi. Nhưng tôi vẫn ngỏ ý muốn đi cùng anh ấy như một người em gái. - Làm thế cũng thật là điên rồ, Jane ạ. Hãy nghĩ đến cái việc mà cô định đảm nhận đi, đó là một việc lúc nào cũng mệt mỏi, có thể đánh gục bất cứ một người khỏe mạnh nào chứ nói gì đến một người yểu điệu như cô. Cô biết đấy, thế nào St. John cũng sẽ hối thúc cô những việc không thể làm nổi. Với anh ấy thì đừng hòng được phép nghỉ ngơi những khi trời nóng nực. Khổ một nỗi, như tôi đã để ý, là anh ấy bảo gì cô cũng cứ làm cho bằng được cơ. Thú thực là tôi cũng thấy ngạc nhiên khi cô có can đảm từ chối làm vợ anh ấy đấy. Thế là cô không yêu anh ấy à, Jane? - Không yêu như một người chồng. - Nhưng anh ấy đẹp trai đấy chứ? - Còn tôi thì xấu xí như chị thấy đấy, Diana ạ. Chúng tôi chẳng bao giờ hợp nhau đâu. - Xấu xí! Cô mà xấu xí ư? Hoàn toàn không phải vậy đâu. Cô quá xinh xắn và tốt bụng để có thể bị đưa sang nướng sống ở Calcuta! – Diana nói và lại tích cực khuyên tôi từ bỏ ý định đi cùng anh cô. - Quả thực là tôi phải làm như vậy, – tôi nói – vì vừa mới rồi, khi tôi nhắc lại đề nghị đi theo anh làm người giúp việc, anh ấy đã bị sốc vì sự dứt khoát của tôi. Hình như anh ấy nghĩ rằng tôi đã phạm sai lầm khi đề nghị cùng đi mà lại không lấy anh ấy, cứ như thể tôi không muốn coi anh như một người anh ngay từ đầu và lúc nào cũng coi anh như thế không bằng!


- Nhưng cô căn cứ vào đâu mà bảo anh ấy không yêu cô, Jane? - Chị nên nghe chính anh ấy nói thì tốt hơn! Lúc nào anh cũng giải thích rằng anh tìm một người bạn đời không phải cho bản thân, mà cho công việc. Anh bảo tôi ra đời là để lao động chứ không phải để yêu. Điều đó thì đúng rồi. Nhưng theo ý tôi, nếu được sinh ra không phải để yêu, thì vì vậy cũng chẳng phải để lấy chồng. Chẳng lẽ lại không có gì nực cười khi suốt đời trói buộc mình với một người đàn ông chỉ coi mình như một công cụ hữu ích ư, Diana? - Đúng là không thể chịu được… phi tự nhiên… và chẳng còn gì để nói nữa! - Và rồi, mặc dù bây giờ tôi chỉ có tình cảm của một người em gái đối với anh ấy, nhưng nếu buộc phải lấy anh ấy, tôi có thể hình dung ra một thứ tình yêu không tránh khỏi, một thứ tình yêu kỳ cục và giày vò cõi lòng mà tôi sẽ có với anh ấy, vì phải công nhận anh ấy là người có tài, và tôi luôn cảm nhận thấy một cái gì đó thật vĩ đại của một người anh hùng trong ánh mắt, cử chỉ và lời nói của anh. Mà nếu vậy thì phận tôi sẽ đau khổ không thể nói được. Anh ấy không cần tình yêu của tôi, và nếu tôi có bày tỏ tình cảm của mình thì anh ấy sẽ làm cho tôi cảm thấy điều đó là thừa, không cần thiết và cũng chẳng thích hợp với tôi. Tôi biết anh ấy sẽ làm như thế. - Nhưng St. John là một người tốt. – Diana nói. - Anh ấy là một người tốt và vĩ đại, nhưng trong khi anh theo đuổi những mục tiêu lớn lao, anh ấy đã nhẫn tâm bỏ qua những tình cảm và nhu cầu của một con người bình thường bé nhỏ. Vì vậy, con người tầm thường vô nghĩa đừng nên cùng đi trên con đường của anh, nếu không sẽ có lần bị anh ấy giẫm chết bẹp. Mà anh ấy đang đến kìa! Diana, tôi về phòng đây. Nhìn thấy anh ra ngoài vường, tôi vội vã bước lên cầu thang. Nhưng tôi vẫn buộc hải gặp lại anh trong bữa tối. Anh vẫn ngồi ăn bình thản như mọi khi. Tôi cứ tưởng anh sẽ khó nói chuyện với toi và đã từ bỏ ý định lấy tôi, nhưng sự việc sau đó chứng tỏ rằng tôi lầm cả về hai điểm. Anh vẫn trò chuyện với tôi đúng với cung cách thường lệ, hay đúng hơn là cung cách thời gian gần đây, nghĩa là cực kỳ lịch thiệp. Hẳng anh đã cầu xin Chúa Thánh thần kìm chế hộ cơn giận dữ mà tôi đã kích động trong anh, và bây giờ anh tin rằng anh đã tha thứ cho tôi một lần nữa.


Lúc đọc kinh cầu nguyện buổi tối, anh đã chọn đọc chương hai mươi mốt trong sách Khải huyền. Bao giờ tôi cũng cảm thấy thú vị khi được nghe những lời trong Kinh thánh phát ra từ chính miệng anh. Chưa bao giờ giọng anh lại ngọt ngào và âm vang như lúc anh truyền bảo những lời phán dạy của Chúa, và trong cốt cách giản dị cao quý, chưa bao giờ cử chỉ của anh lại mang đến một ấn tượng mạnh như lúc ấy. Và tối nay, giọng nói ấy còn tỏ ra trang trọng hơn, cử chỉ ấy còn ấn tượng hơn nhiều. Anh ngồi ở giữa, chúng tôi ngồi xung quanh (ánh trăng tháng Năm chiếu qua ô cửa sổ không buông rèm gần như lấn át cả ánh đèn cậy đặt trên bàn). Anh cúi đầu xuống cuốn Kinh thánh cũ, mô tả lại theo từng trang sách cái ảo ảnh về thiên đường mới và thế giới mới – nói Chúa sẽ xuống sống chung với con người như thế nào, lau khô những giọt lệ trên mắt họ ra sao, và hứa sẽ không để xảy ra chết chóc, đau khổ, khóc than, hay bất cứ một nỗi cơ cực nào nữa, vì tất cả đều đã qua rồi. Những câu anh đọc sau đây đã làm tôi xúc động một cách kỳ lạ, đặc biết là khi giọng anh có một cái gì đó như hối thúc, đầy sức truyền cảm, khiến tôi cảm thấy ánh mắt anh như đang nhìn vào tôi. “Ai vượt qua sẽ được thừa hưởng tất cả, và ta sẽ là Chúa của nó, còn nó sẽ là con ta. Nhưng (giọng đọc bắt đầu chậm rãi, rành mạch) kẻ hèn nhát, thiếu đức tin, v.v… sẽ bị đầy ải xuống hỏa ngục lưu huỳnh, đó sẽ là cái chết lần thứ hai”. Tôi chợt hiểu St. John đang lo sợ tôi phải hứng chịu một kết cục như thế nào. Sau buổi đọc kinh, chúng tôi tạm biệt anh. Anh phải đi vào sáng sớm mai. Diana và Mary hôn anh, rồi tời khỏi phòng. Tôi giơ tay bắt tay anh, và chúc anh có một chuyến đi vui vẻ. - Cảm ơn, Jane. Như tôi đã nói, tôi sẽ đi Cambridge hai tuần, vậy trong khoản thời gian đó, cô có thể tha hồ cân nhắc. Nếu chỉ nghe theo tính kiêu ngạo của con người thì chắc là tôi sẽ chẳng phải nhắc lại chuyện hôn nhân với cô làm gì nữa, nhưng tôi nghe theo bổn phận và vẫn giữ vững ý định ban đầu, ấy là làm mọi việc vì vinh quang của Chúa. Chúa tôi đã từng chịu nhiều đau khổ nên tôi cũng sẽ như vậy. Tôi không thể để mặc cô rơi vào kiếp khổ ải trầm luân như một con tàu đắm. Hãy biết ăn năn và quyết định dứt khoát trong khi còn chưa muộn. Nên nhớ chúng ta phải làm việc chừng nào ngày


còn dáng và nên ý thức là khi “đêm đến, sẽ chẳng có ai làm được việc gì nữa”. Chúa sẽ ban cho cô sức mạnh để lựa chọn cái phần tốt đẹp nhất mà cô sẽ không bị mất! Anh đặt tay lên đầu tôi khi nói ra những lời cuối cùng. Giọng anh thiết tha và hòa nhã. Nhưng ánh mắt anh quả thực không phải ánh mắt của một người đối với người yêu, mà là của một mục sư kêu gọi con chiên lầm đường trở lại, hay nói đúng hơn là của một vị thần hộ mệnh đang nhìn vào linh hồn được che chở. Tất cả những người có tài năng – dù có tình cảm, cuồng tín, nhiều khát vọng và độc đoán hay không cũng không quan trọng, miễn là họ trung thực – đều có những phút cao thượng như vậy khi họ muốn chinh phục và phán bảo người khác. Tôi cảm thấy tôn kính St. John, một sự tôn kính sâu sắc đến nỗi lực đẩy của nó đã đưa tôi về ngay cái điểm mà tôi tránh được từ lâu. Tôi bị lôi cuốn đến mức muốn từ bỏ ý định đấu tranh với anh và lao vào dòng thác ý chí dẫn đến vực thẳm cuộc sống của anh, mặc cho đời mình chìm nghỉm ở đấy. Tôi lại cảm thấy gần như đang bị anh bao vây chặt như đã từng bị một lần, có điều lần này tôi bị vây theo một cách khác. Tôi là kẻ ngu xuẩn trong cả hai lần. Nếu nhượng bộ thì lần trước tôi đã sai lầm về nguyên tắc, còn lần này thì sai lầm về mặt xét đoán. Tôi đã nghĩ như vậy khi nhìn lại cái thời khắc khốn khó ấy nhờ vai trò trung gian lặng lẽ của thời gian. Khi đó tôi không ý thức được sự điên dại của mình. Tôi đứng yên dưới bàn tay vị giáo chủ của mình. Tôi đã quên những lời cự tuyệt, vượt qua những lo âu. Khả năng đấu tranh của tôi bị tê liệt. Cái Không thể – tức là cuộc hôn nhân của tôi với St. John – đã nhanh chóng biến thành cái Có thể. Mọi sự thay đổi thật chóng vánh. Tôn giáo đã kêu gọi… các Thiên thần đã vẫy tay… Chúa sai khiến… Cuộc sống cuốn lại như một cuộn giấy, các cánh cửa của cõi chết rộng mở cho thấy cõi vĩnh hằng ở xa xa. Dường như để đổi lấy sự bình yên và hoan lạc ở đó, có thể hy sinh tất cả mọi thứ ở đây trong tích tắc. Căn buồng mờ tối tràn ngập những ảo ảnh. - Cô có thể quyết định ngay bây giờ không? – Nhà truyền giáo hỏi tôi. Giọng dịu dàng, anh khẽ kéo tôi đến bên anh. Ôi! Cử chỉ dịu dàng ấy còn công hiệu hơn cả sức manh bao nhiêu! Tôi có thể chống lại sự tức giận của St. John, vậy mà trước cử chỉ dịu dàng của anh, người tôi cứ mềm như một nhánh sậy. Tuy vậy, lúc nào tôi cũng vẫn ý thức được rằng nếu bây giờ nhượng bộ thì chắc chắn se có ngày tôi phải lấy làm tiếc vì đã không giữ được tính kiên định của mình. Bản chất anh không thể thay đổi chỉ vì một giờ đọc kinh trang trọng, mà nó chỉ được nâng cao lên thôi.


- Em chỉ có thể quyết định một khi đã cân nhắc kỹ lưỡng, – tôi trả lời – và một khi tin chắc rằng Chúa muốn em phải lấy anh. Chỉ có như vậy em mới có thể nguyện lấy anh vào lúc này, ngay tại đây, bất chấp tương lai ra sao. - Nhưng lời cầu nguyện của tôi đã được lắng nghe! – St. John thốt lên Anh khẽ ấn bàn tay xuống đầu tôi, như muốn khẳng định tôi đã thuộc về anh. Rồi anh vòng cánh tay ôm lấy tôi, gần như là yêu tôi vậy (tôi nói gần như – tôi biết có sự khác biết – vì tôi đã từng có sự cảm nhận về một tình yêu đích thực; nhưng cũng như anh ấy, giờ tôi tạm gạt chuyện tình cảm sang một bên và chỉ nghĩ đến bổn phận). Tôi phải đấu tranh với những đám mây cuồn cuộn mù mờ của nội tâm. Tôi thành thực, tha thiết và nhiệt tình được làm những gì là lẽ phải, và chỉ có thế thôi. “Xin hãy soi đường cho con!” – Tôi khẩng cầu Thượng đế. Chưa bao giờ tôi cảm thấy mình bị kích động đến như vậy. Và việc xảy ra sau đó có phải là do tác động của sự kích động ấy không, bạn đọc hãy xét đoán hộ tôi. Cả ngôi nhà chìm trong im lặng, vì tôi tin rằng ngoài tôi và St. John, tất cả mọi người đều đã đi ngủ cả. Ngọn nến duy nhất đã tắt ngấm từ lúc nào, căn phòng tràn ngập ánh trăng. Tim tôi đập liên hồi, tôi nghe rõ từng nhịp đập của nó. Nhưng nó bỗng đột ngột dừng lại, do một cảm cúc khó tả trào dâng trong lòng tôi, rồi lan truyền lên đầu và khắp người tôi. Cảm giác ấy không giống một cú điện giật, nhưng cũng mạnh, kỳ lạ, khiến tôi giật mình. Nó tác động lên mọi giác quan của tôi, như thể từ trước đến nay các giác quan của tôi chỉ nằm ì trong một trạng thái trì trệ, bây giờ bỗng bất ngờ được đánh thức dậy. Chúng vùng lên chờ đợi, tai và mắt ngòn trông, trong khi các thớ thịt rung chuyển trên từng đoạn xương cốt. - Cô đã nghe và trông thấy gì vậy? – St. John hỏi. Tôi chẳng trông thấy gì cả, mà chỉ nghe thấy ở một nơi nào đó có tiếng kêu: “Jane, Jane, Jane!” Tất cả chỉ có vậy. “Ôi, lạy Chúa tôi! Có chuyện gì thế này?” – Tôi lẩm bẩm trong hơi thở hổn hển. Lẽ ra tôi phải nói “Ở đâu vậy?”, vì tiếng kêu ấy hình như không phải ở trong phòng, không phải ở trong nhà hay trong vườn mà cũng chẳng phải từ không trung, dưới đất hay từ trên đầu tới. Chỉ biết tôi đã nghe thấy nó – còn ở đâu, hay từ đâu thì tôi không thể xác định được. Và đó là giọng nói của


một con người, một giọng nói quen thuộc, thân thương mà tôi còn nhớ rất rõ: giọng nói của Edward Fairfax Rochester. Giọng nói ấy được thốt ra một cách hoang dại, huyền bí và gấp gáp từ trong đau khổ. - Em đến đây! Chờ em với! Vâng, em sẽ đến ngay! – Tôi kêu lên và đi như bay ra cửa, nhìn vào hành lang: chẳng có gì ngoài bóng tối. Tôi chạy ra vườn, nhưng nơi đó cũng hoàn toàn vắng vẻ. - Ông ở đâu? – Tôi kêu lên. Những ngọn đồi bên kia thung lũng Marsh-Glen yếu ớt vọng đáp lại lời tôi. “Ông ở đâu?”. Tôi lắng nghe. Gió khẽ buông một tiếng thở dài giữa những hàng cây linh sam. Tất tất cả chỉ là sự hiu quạnh của chốn đồng hoang và sự tĩnh mịch của đêm tối. - Hãy cút đi, đồ dị đoan! – Tôi ra lệnh khi thấy một cái bóng đèn dì hiện lên bên hàng cây thủy tùng đen ngòm ở cổng ra vào. “Đó không phải là trò lừa gạt hay ma thuật của mày, mà chỉ là một cái bóng của tự nhiên.” Tôi tạm biệt St. John, mặc cho anh bám theo giữ tôi lại. Bây giờ đến lượt tôi làm cao. Các quyền lực của tôi đang trỗi dậy tỏ rõ cái sức mạnh của chúng. Tôi bảo anh đừng hỏi gì cả và tỏ ý muốn anh hãy lui đi, tôi phải ở một mình và sẽ làm như vậy. Anh tuân lời ngay. Tôi về phòng khóa của lại, quỳ xuống cầu nguyện theo cách của mình – dù chẳng giống với cái cách của St. John nhưng nó vẫn có hiệu quả của nó. Dường như tôi đang đến rất gần một Thánh thần vĩ đại, và linh hồn tôi bay lên phủ phục dưới chân Người. Rồi với một tình cảm biết ơn sâu sắc, tôi đứng dậy – quyết định một việc – và ngả mình nằm xuống thanh thản mong ngóng một ngày mới.



Chương 36 Một ngày mới lại bắt đầu. Tôi dậy khi bình minh vừa ló rạng và dành cả tiếng đồng hồ cho việc sắp xếp lại mọi thứ trong phòng, trong ngăn kéo và tủ áo theo trật tự mong muốn. Trong lúc ấy, tôi nghe tiếng St. John rời khỏi phòng anh. Anh dừng lại trước phòng tôi. Tôi chỉ sợ anh gõ cửa, nhưng không, anh chỉ luồn mảnh giấy qua khe cửa. Tôi nhặt lên xem. Mảnh giấy viết vài dòng: “Tối hôm qua, cô bỏ tôi đi đột ngột quá. Nếu ở lại thêm một chút nữa thì có lẽ cô đã đặt bàn tay lên cây thánh giá Cơ Đốc giáo và vương miện của thiên thần rồi. Tôi vẫn chờ cô quyết định rõ ràng khi tôi trở về trong hai tuần nữa. Trong thời gian ấy, cô hãy chịu khó cầu nguyện, đừng sa vào con đường cám dỗ. Tôi tin rằng tinh thần cô đã có khát vọng, nhưng thể xác thì vẫn còn yếu đuối. Tôi sẽ không ngừng cầu nguyện cho cô. St. John.” “Tinh thần tôi chỉ khát khao làm điều hay lẽ phải, – tôi thầm trả lời – còn về thể xác, tôi mong mình cũng đủ sức mạnh để hoàn thành ý muốn của Chúa, một khi tôi được biết rõ ràng ý muốn đó. Nói gì thì nói, nó cũng sẽ đủ sức để tìm tòi, thăm hỏi và mò mẫm tìm ra con đường thoát khỏi đám mây mù hoài nghi này và đến với nguồn sáng của sự vững tâm”. Ngày mùng một tháng Sáu. Buổi sáng, trời u ám và hơi lạnh, những giọt nước mưa thi nhau đập rào rào vào cửa kính phòng tôi. Tôi nghe thấy tiếng cổng trước mở và tiếng St. John đi ra. Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy anh bước qua vườn và đi vào con đường dẫn qua cánh đồng hoang mờ sương về hướng Whitcross. Tới đó, anh sẽ đi xe ngựa. “Chỉ ít giờ nữa thôi, tôi cũng sẽ nối gót anh trên con đường ấy, ông anh họ của tôi ạ. – Tôi nghĩ thầm. – Tôi cũng muốn đáp một chuyến xe ở Whitcross. Tôi cũng có người cần hỏi thăm ở nước Anh trước khi đi xa mãi mãi. Còn hai tiếng đồng hồ nữa mới đến giờ điểm tâm. Trong khoảng thời gian đó, tôi tha thẩn đi lại trong phòng, suy nghĩ về cái cảm giác nội tâm mình vừa trải qua, và nhớ lại tiếng gọi tôi đã nghe thấy. Tôi lại tự hỏi nó từ đâu đến, nhưng rốt cuộc vẫn không trả lời được. Hình như đó là tiếng gọi phát ra từ ngay trong tôi, chứ không phải từ thế giới bên ngoài. Phải chăng đó là một sự kích động sâu sắc của thần kinh, một ảo giác? Tôi không thể quan


niệm hoặc tin như vậy được, vì có lẽ nó giống một linh cảm hơn. Sự chấn động kỳ diệu của tình cảm xảy ra như vụ động đất làm rung chuyển tận nền [80] móng của nhà tù giam Paul và Silas . Nó đã mở tung cửa ngục giam giữ linh hồn, đập tan xiềng xích, đánh thức linh hồn khỏi giấc ngủ vùi, khiến linh hồn bừng tỉnh, run rẩy, nghe ngóng và sững sờ. Tiếng gọi kia ba lần vang lên bên tai, dội vào trái tim và tràn qua tinh thần tôi, nhưng không làm cho tinh thần tôi run sợ mà ngược lại, còn làm cho nó có được niềm vui, có được cảm giác độc lập với cái thể xác nặng nề vướng víu. “Chỉ vài ngày nữa thôi, – tôi thì thầm – mình sẽ biết tin về người mà dường như đêm qua đã cất tiếng gọi mình. Nếu mấy lá thư không đem lại kết quả thì tự mình phải đi để hỏi thay chúng”. Trong bữa điểm tâm, tôi báo cho Diana và Mary biết tôi sẽ có việc phải vắng nhà ít nhất trong bốn ngày. - Đi một mình à, Jane? – Họ hỏi. - Vâng, tôi định tới thăm, hay hỏi xem tin tức về một người bạn mà ít lâu nay vẫn làm tôi thấy bồn chồn. Hẳn họ đang rất muốn nói rằng tôi làm gì có bạn bè ngoài họ ra, vì quả thực tôi vẫn thường nói như vậy, nhưng vì tế nhị nên chẳng ai nói gì thêm, trừ Diana hỏi tôi có đủ sức đi xa không. Cô lưu ý rằng trông tôi xanh lắm. Tôi trả lời rằng tôi chẳng có vấn đề gì ngoài nỗi lo âu mà tôi hy vọng sẽ sớm trút bỏ được thôi. Tôi dễ dàng thu xếp mọi công việc tiếp theo vì không phải đối đáp với bất cứ một câu chất vấn nào. Sau một lần nghe tôi giải thích rằng hiện giờ tôi chưa thể nói rõ dự kiến của tôi, họ đã tỏ ra nhã nhặn biết điều và tán thành sự kín đáo của tôi. Họ để tôi được tự do hành động – điều mà trong những hoàn cảnh tương tự, tôi cũng sẽ đồng ý với họ như vậy. Tôi rời Moor-House vào lúc ba giờ chiều, và sau bốn giờ chiều đã đứng bên cột chỉ đường Whitcross để chờ xe đến Thornfield xa xôi. Giữa cái không khí tĩnh lặng bao trùm lên những con đường quạnh hiu và những ngọn đồi hoang vắng, tôi nghe thấy tiếng một cỗ xe ngựa đang tiến lại từ rất xa. Lại chính là chiếc xe một năm trước đây đã thả tôi xuống đúng chỗ này vào một buổi chiều mùa hè, mặc cho tôi hoang mang lo sợ trong cảnh thân cô thế cô!


Tôi ra hiệu cho chiếc xe dừng lại. Lần này thì tôi không hoàn cảnh đến nỗi phải dốc cả tài sản ra để trả tiền xe. Một lần nữa được đi trên con đường dẫn tới Thornfield, tôi bỗng cảm thấy mình giống như một con chim bồ câu đưa thư bay về nhà. Cuộc hành trình dài ba mươi sáu tiếng đồng hồ. Tôi rời Whiscross vào chiều thứ ba, và đến sớm thứ năm thì xe dừng lại cho ngựa uống nước ở một cái quán trọ bên đường, giữa một nơi có những bờ giậu xanh mơn mởn, những cánh đồng rộng thênh thang và những đồi cỏ thoai thoải, khiến tôi có cảm giác như được gặp lại một khuôn mặt có những đường nét thân quen. Vâng, tôi đã nhận ra cảnh vật của miền đất này. Tôi tin là mình đang sắp đến đích. - Từ đây đến Thornfield còn bao xa nữa nhỉ? – Tôi hỏi người coi ngựa. - Chỉ còn hai dặm, nếu đi tắt qua cánh đồng, thưa bà. “Cuộc hành trình của mình đến đây là xong”. – Tôi thầm nghĩ và đòi xuống xe. Sau khi gửi người coi chuồng ngựa cái hòm cho đến khi tôi trở lại lấy, trả tiền xe, biếu tay xà ích thêm ít tiền uống nước, tôi quyết định đi bộ nốt quãng đường còn lại. Những tia nắng mặt trời chiếu sáng tấm biển có hàng chữ mạ vàng “Rochester Arms” treo ngoài quán. Tôi giật thót người: thì ra tôi đã ở trong lãnh địa của ông chủ rồi. Tim tôi bỗng thót lại vì một ý nghĩ bất chợt: “Biết đâu ông ấy lại chẳng vượt eo biển ra khỏi nước Anh rồi, mà nếu ông ấy có ở lại Thornfield thì bên cạnh ông còn có ai nữa mà mi vội đến như vậy? Còn người vợ điên của ông! Như vậy thì mi còn làm gì được, mi sẽ chẳng dám hỏi chuyện hoặc tìm gặp ông. Có đến cũng mất công thôi, đừng đến nữa thì hơn. Hãy quay lại mà hỏi thăm người trong quán trọ trước đi, họ có thể nói cho mi biết đôi điều mà mi muốn biết, họ có thể giải đáp những nghi ngờ của mi ngay. Thử ra hỏi ông kia xem ông Rochester có nhà không? Gợi ý ấy quả là rất nên làm, ấy vậy mà tôi vẫn không thể tự thúc ép mình làm được. Tự nhiên tôi lại sợ câu trả lời sẽ làm tôi tan vỡ hết hy vọng. Kéo dài sự hoài nghi là kéo dài hy vọng. Mà tôi cũng đang rất muốn nhìn lại tòa lâu đài với vẻ đẹp của nó lần nữa kia mà. Tôi nhận ra hàng rào trước mặt, rồi những cánh đồng mà tôi đã vội vã đi qua như một kẻ câm điếc và mù lòa, đầu mê muội vì một nỗi căm hờn trong lòng vào cái buổi sáng từ bỏ Thornfield ấy. Chưa kịp nghĩ ra mình phải làm gì thì tôi đã thấy mình ở ngay


giữa những cánh đồng rồi. Không hiểu sao thỉnh thoảng tôi lại đi nhanh đến vậy! Sao tôi cứ ngong ngóng sớm được gặp lại những cánh rừng thân quen đến vậy chứ! Lòng tôi cứ xốn xang cảm xúc khi được gặp lại những thân cây đơn côi thân thiết, và ngọn đồi trơ trọi nằm giữa những thảm cỏ thấp thoáng còn in đậm trong trí nhớ của tôi. Cuối cùng thì những mảnh rừng um tùm cây cối cũng đã hiện ra ngay trước mắt tôi. Đó chính là nơi trú ẩn của bầy quạ với những tiếng kêu huyên náo phá tan bầu không khí tĩnh lặng của buổi sáng. Trong tôi trào dâng một cảm giác vui sướng đền kỳ lạ. Tôi dấn bước băng qua một cánh đồng nữa, đi hết một lối nhỏ và bắt đầu nhận ra những bức tường bao quanh sân, rồi đến những căn nhà phía sau lâu đài. Tòa nhà vẫn bị cây cối che lấp. “Mình phải nhìn thấy mặt tiền lâu đài cái đã, – tôi thầm quả quyết – đó là nơi mình sẽ được gặp lại những lỗ châu mai, và có thể nhìn thấy ô cửa sổ phòng ông chủ mình. Biết đâu ông lại chẳng đang đứng ở đó, vì ông vẫn thường hay dậy sớm mà. Cũng có thể bây giờ ông đang đi dạo trong vườn hay trên sân trước. Ước gì mình nhìn thấy ông, dù chỉ một lát thôi cũng được! Nhưng nếu có nhìn thấy ông, liệu mình có mừng đến nỗi chạy nhào đến với ông không? Mình không thể nói trước được. Nếu mình làm như vậy thì… sẽ thế nào nhỉ? Chúa sẽ phù hộ ông! Có ai bị tổn thương nếu một lần nữa mình được tận hưởng cuộc sống nhờ cái nhìn của ông mang lại không? Mình mê muội mất rồi. Có lẽ lúc này ông đang say sưa ngắm mặt trời mọc trên rặng Pyrenees, hoặc trên mặt biển êm đềm ở miền Nam cũng nên.” Tôi đi dọc theo dãy tường thấp bao quanh vườn cây ăn quả, rồi vòng qua một góc, nơi có một cánh cổng lớn mở ra đồng cỏ, hai bên là hai cột đá có gắn hai quả cầu đá bên trên. Nấp sau một cái cột, tôi có thể tha hồ quan sát toàn bộ mặt tiền lâu đài, các ô cửa sổ, lỗ châu mai. Tôi thận trọng ló đầu ra nhìn xem các phòng ngủ đã vén hết rèm cửa sổ lên chưa. Bầy quạ nháo nhác bay lượn bên trên như đang theo dõi tôi. Không hiểu chúng đang nghĩ gì nhỉ? Chắc là chúng đang không hiểu tại sao tôi lại lén lút như vậy. Sau một lúc lâu thò đầu quan sát, tôi rời khỏi chỗ ẩn nấp, mạnh dạn bước vào bãi cỏ, và đột nhiên dừng ngay lại trước mặt tòa lâu đài đồ sộ ấy. Hẳn là bầy quạ kia sẽ đặt câu hỏi: “Tại sao lúc đầu ả nhút nhát, sau đó lại có vẻ bất chấp đến ngu ngốc thế kia?” Với một cảm giác vui sướng rụt rè, tôi tưởng mình sẽ được ngắm lại tòa


nhà uy nghi đồ sộ. Nhưng kìa, trước mặt chỉ là một cảnh đổ nát đen thui!? Quả thực là chẳng cần phải ẩn nấp mà làm gì! Cũng đâu cần phải sợ đằng sau các ô cửa sổ có bóng người xuất hiện, phải nghe ngóng tiếng cửa mở, phải tưởng tượng tiếng chân bước trên nền nhà hay trên lối đi rải sỏi! Các thảm cỏ, vườn tược đều bị giẫm đạp tan hoang. Mặt trước tòa nhà, như có lần tôi nhìn thấy trong một cơn ác mộng, chỉ còn là một bức tường trơ trụi, cao ngất và mong manh, các khung cửa sổ đều bị bung mất kính, mái nhà chẳng còn lỗ châu mai và ống khói lò sưởi. Thực sự là một đống đổ nát!!! Bao trùm lên tất cả là một sự câm lặng chết chóc, sự cô quạnh của chốn hẻo lánh. Bây giờ thì tôi đã hiểu tại sao mấy lá thư của tôi đều không có hồi âm. Những hòn đá đen đúa ù lì đã nói rõ tại sao tòa lâu đài này đổ nát. Hỏa hoạn! Nhưng hỏa hoạn như thế nào? Có chuyện gì liên quan đến thảm họa này không? Ngoài đống vôi vữa, gỗ đá, còn mất mát gì thêm nữa không? Còn tính mạng, cũng như tài sản nữa, có bị thiệt hại không? Nếu có thì là ai? Một câu hỏi thật đáng sợ, không ai ở đây để trả lời, cũng chẳng có lấy một dấu hiệu im lặng hay một ký hiệu câm nào. Đi lang thang quanh những bức tường đổ, nhìn cảnh hoang tàn bên trong, tôi thấy rõ tai họa không phải là mới xảy ra, vì giữa đống gạch đá và vì kèo gãy nát là những bụi cỏ dại mọc xanh rì. Lạy Chúa! Còn ông chủ bất hạnh của ngôi nhà hiện đang ở nơi đâu? Có được ai chăm sóc không? Tôi thẫn thờ đưa mắt nhìn ngọn tháp trên nhà thờ xám xịt gần cổng và tự hỏi: “Hay là ông đã về với các tiền nhân của dòng họ Roschester trong ngôi nhà cẩm thạch chật hẹp kia rồi?” Tôi cần phải tìm lời giải cho những câu hỏi này. Và như vậy thì chỉ có cách ra ngoài quán trọ mà hỏi thôi. Tôi lập tức quay trở lại quán trọ. Ông chủ quán đích thân mang món điểm tâm đến cho tôi ở phòng khách. Tôi đề nghị ông đóng cửa lại và ngồi xuống cho tôi hỏi vài câu. Nhưng sau đó, tôi lại không biết bắt đầu như thế nào, vì biết đâu ông chẳng cho tôi những câu trả lời thật khủng khiếp. Ông chủ quán là một người đáng kính, tuổi trung niên. - Chắc ông cũng biết lâu đài Thornfield? – Cuối cùng thì tôi cũng phải lên tiếng. - Vâng, thưa bà, trước đây tôi đã từng sống ở đó. - Thế à? – Tôi hỏi lại và nghĩ chắc ông ta không ở đấy vào cái thời có tôi,


nên tôi không biết ông. - Tôi từng là quản gia của ông Rochester quá cố. Quá cố! Tôi nghe như một tiếng sét đánh ngang tai, một đòn đánh mà tôi đã cố lẩn tránh. - Quá cố! – Tôi hổn hển nói. – Ông ấy chết rồi à? - Tôi muốn nói đến người thân sinh của ông Edward. – Ông ta giải thích. Chỉ đến lúc này tôi mới lại thở được. Lời ông chủ quán trọ làm tôi hiểu rằng chắc chắn ông Edward – ông Rochester của tôi (Chúa sẽ che chở cho ông, cho dù ông đang ở đâu!) ít ra cũng vẫn còn sống. Như vậy là tôi có thể vui được rồi! Phần còn lại của câu chuyện có ra sao thì tôi vẫn có thể yên tâm mà lắng nghe. Tôi nghĩ dù biết tin ông đang sống ở đâu đi chăng nữa thì tôi cũng có thể chịu đựng được, miễn là ông không nằm dưới mộ. - Thế hiện ông Rochester còn sống ở Thornfield không? – Tôi hỏi. Mặc dù có thể đoán trước được câu trả lời, nhưng tôi vẫn chưa muốn hỏi thẳng hiện ông đang ở đâu. - Không, thưa bà, bây giờ thì chẳng còn ai ở đấy hết. Hình như bà mới đến vùng này thì phải, nếu không bà đã biết chuyện xảy ra hồi mùa thu năm ngoái. Lâu đài Thornfield đã bị sụp đổ rồi, nó bị thiêu rụi đúng vào mùa gặt. Thật là một tai họa khủng khiếp! Bao nhiêu tài sản có giá trị thế là đi đời nhà ma, chỉ cứu được một ít đồ đạc thôi. Hỏa hoạn bắt đầu xảy ra lúc gần sáng, đến lúc có người, xe từ Millcote đến cứu thì cả tòa nhà đã biến thành một ngọn lửa khổng lồ rồi. Thật là một cảnh tượng hãi hùng, chính mắt tôi đã được tận mắt chứng kiến mà. “Lúc gần sáng à!” – Tôi lẩm bẩm. Đúng rồi, đó luôn là cái giờ bất hạnh của lâu đài Thornfield. - Thế ông có biết nguyên do tại sao không? - Thưa bà, đấy là họ đoán thế thôi. Nhưng tôi thì tôi cho là đúng, chẳng có gì mà phải nghi ngờ cả. Có lẽ bà không biết – ông ta kéo cái ghế lại gần bàn, hạ thấp giọng xuống nói tiếp – rằng có một người đàn bà, một… một… mụ điên bị nhốt trong ngôi nhà ấy? - Tôi cũng có nghe nói về chuyện ấy.


- Thưa bà, mụ ta bị nhốt kín lắm, đến nỗi suốt mấy năm qua, dân tình ở đây vẫn chẳng hay biết gì về mụ. Có ai trông thấy mụ bao giờ chứ! Chỉ biết nghe đồn loáng thoáng rằng ở trong lâu đài có một mụ đàn bà như thế, còn mụ là ai và là người thế nào thì tôi chịu. Họ bảo ông Edward mang mụ từ nước ngoài về, có người còn nói trước kia mụ là người tình của ông ấy. Nhưng cách đây một năm, đã xảy ra một chuyện kỳ quặc, vâng, rất kỳ quặc! Tôi sợ phải nghe chuyện của chính mình, nên cố nhắc ông ta nói đến câu chuyện chính. - Thế còn người đàn bà kia? - Thưa bà, thì ra mụ chính là vợ ông Roschester! Câu chuyện bị phát giác đến buồn cười. Có một cô gái còn rất trẻ, một gia sư ở lâu đài, mà ông Rochester phải… - Nhưng còn chuyện hỏa hoạn. – Tôi gặng hỏi. - Vâng, thưa bà, thì tôi cũng sắp kể đây… mà ông Rochester phải lòng. Đám đầy tớ thường bảo với nhau rằng chúng chưa bao giờ thấy ai phải lòng cô ta như ông ấy, lúc nào cũng thấy ông đi theo cô ta. Ông ấy yêu cô ta hơn mọi thứ, và ngoài ông ra, chẳng ai cho cô ta là đẹp cả. Họ bảo cô ta là người bé nhỏ, trông như trẻ con ấy. Tôi thì tôi chưa được trông thấy cô ta lần nào, nhưng đã được một người hầu phòng trong lâu đài có tên là Leah kể cho nghe. Chị Leah cũng quý mến cô ta lắm. Ông Rochester đang ở vào khoảng bốn mươi, còn cô gia sư kia thì chưa đến hai mươi tuổi. Bà thấy đấy, người ở độ tuổi ông ấy mà phải lòng con gái thì đúng là bị yểm bùa mê rồi còn gì. Vậy mà ông ấy còn định cưới cô ta làm vợ nữa đấy. - Chuyện ấy có khi để khi khác đi, còn bây giờ thì vì một lý do riêng, tôi muốn được nghe thuật lại toàn bộ chuyện cháy nhà. Có ai nghi người đàn bà điên, tức là bà Rochester ấy, đã nhúng tay vào chuyện ấy không? - Bà đoán trúng phóc rồi. Chắc chắn là mụ chứ còn ai vào đây nữa. Có một chị trông nom mụ tên là Poole, là người được việc và cũng đáng tin cậy, mỗi tội là – cái tội mà đa số vú nuôi và hộ lý đều mắc phải – chị ta thường giấu rượu gin để uống, có khi còn uống quá đà nữa. Đã đành là cũng chẳng nên trách cứ chị ta, vì công việc của chị ta quả thật rất khó nhọc. Nhưng nếu cứ thế thì nguy hiểm lắm, vì cứ mỗi lần chị ta tu rượu và nước vào là lại thấy


ngủ bí tỉ ngay lập tức. Và y như rằng những lúc đó, con mụ điên ma mãnh như một mụ phù thủy kia lại lén lút móc trộm chìa khóa trong túi chị ta, mở cửa phòng trốn ra ngoài, rồi mò mẫm đi khắp nhà và sẵn sàng làm đủ chuyện tai quái. Nghe nói đã có lần mụ suýt thiêu sống chồng mình trên giường ngủ, nhưng tôi không biết chuyện này. Thế rồi vào cái đêm định mệnh ấy, mụ lại lẻn được ra ngoài. Đầu tiên mụ châm lửa đốt béng mấy tấm rèm trong một căn phòng nằm kề phòng mụ, sau đó mụ mò xuống căn phòng mà cô gia sư ngày trước từng ở (cứ như thể mụ cũng loáng thoáng biết chuyện tình cảm giữa cô và chồng mình, nên rất căm hận cô ta) rồi châm lửa đốt luôn cái giường nằm, may mà không có ai ngủ ở đấy. Cô nàng gia sư kia đã bỏ đi hai tháng trước rồi, khiến ông Rochester phải ra sức tìm kiếm như thể cô ta là vật báu nhất trên đời không bằng. Nhưng rốt cuộc, chẳng ai thấy tăm hơi cô ta đâu cả. Ông ấy thất vọng đến hóa dại. Mặc dù chưa bao giờ là người tàn ác, nhưng tính khí của ông ấy bỗng trở nên rất nguy hiểm kể từ khi mất cô ta. Và thế là ông nhất quyết sống một mình, kể cả bà quản gia Fairfax cũng bị ông đem gửi ở nhà bạn bè nơi xa. Nhưng dù sao thì ông cũng là người ăn ở phải đạo, vì ông vẫn nhận trợ cấp suốt đời cho bà ta. Như vậy là xứng đáng, vì bà ta là người rất tốt. Ông cắt đứt mọi mối quan hệ xã giao với giới quý tộc trong vùng, đóng cửa ở trong lâu đài và sống như một ẩn sĩ. - Cái gì? Thế ông ấy vẫn không rời nước Anh à? - Rời nước Anh ư? Cầu Chúa ban phước cho bà, không! Đến bước chân ra khỏi cửa ông ấy cũng không cần, trừ những lúc buổi tối ông đi thẫn thờ từ sân ra vườn như một bóng ma, hoặc như một kẻ mất trí ấy. Tôi biết ông Rochester từ thủa ông còn là một cậu bé kia. Ông ấy vốn là người can đảm, có ý chí lắm, chứ chưa bao giờ như thế đâu. Chỉ vì cái cô Jane Eyre oái oăm kia mà đến nông nỗi như vậy. Tôi thì tôi chỉ muốn cô ta chết trôi, chết nổi ở đâu đó ngay từ khi chưa kịp đến Lâu đài kia. - Vậy là ông Rochester vẫn ở nhà khi xảy ra hỏa hoạn? - Vâng, quả thật là như vậy. Trong khi tầng trên, tầng dưới đang bốc cháy phừng phừng thì ông lại đi leo lên tận gác lửng để gọi và giúp đám gia nhân chạy xuống, rồi ông còn lộn lại để cứu người vợ điên ra khỏi phòng mụ. Nghe người ta kêu gào, ông mới biết mụ đang đứng ở trên nóc nhà, tay chân múa may quay cuồng bên lỗ châu mai, miệng hò hét đến cách xa một dặm cũng nghe thấy. Tôi đã tận mắt trông thấy mụ và nghe thấy tiếng mụ gào thét. Mụ quả là người to lớn, tóc dài và đen, chúng tôi đều trông thấy tóc mụ


bay phất phơ trong ánh lửa. Tôi và vài người khác đã được chứng kiến cảnh ông Rochester leo qua cửa tò vò để trèo lên mái nhà. Chúng tôi nghe tiếng ông gọi “Bertha!”, rồi ông tiến lại gần mụ. Nhưng Chúa ơi! Mụ lại gào rú lên, rồi bất thình lình nhảy dựng lên khỏi mái nhà, ngã xuống thềm sân và chết ngay lập tức. - Chết à? - Lại còn không chết ư? Cứ gọi là máu me be bét, đầu óc bắn tung tóe trên mặt đá. - Lạy Chúa tôi! - Thế đấy, thưa bà, thật là kinh khủng! Ông ta nhún vai. - Sau đó ra sao? – Tôi giục. - Sau đó cả tòa nhà bị thiêu trụi, chỉ còn lại vài mảnh tường hiện vẫn còn trơ ra đó chứ còn sao nữa. - Còn ai mất mạng nữa không? - Không, nhưng nếu thêm người mất mạng có khi lại còn hay hơn… - Ông nói thế là thế nào? - Tội nghiệp Edward! – Ông ta thở dài. – Tôi chẳng bao giờ ngờ lại ra nông nỗi ấy. Có người bảo đó đúng là một phán quyết dành cho ông ấy vì tội đã giấu kín người vợ điên dại, đã thế lại còn định lấy thêm vợ nữa trong khi người kia vẫn còn sống. Nhưng tôi thì tôi rất thương ông ấy. - Ông bảo ông ấy còn sống? – Tôi sốt ruột thốt lên. - Vâng, thì đúng là ông ấy vẫn còn sống, nhưng nhiều người nghĩ thà ông ấy cứ chết quách đi còn hơn. - Sao? Ông bảo sao? – Máu trong người tôi như đóng băng lại. Ông ấy đang ở đâu? Vẫn ở nước Anh chứ? - Ờ… ờ… thì vẫn đang ở nước Anh. Làm sao mà ra nước ngoài được


nữa, tôi nghĩ là chắc phải nằm bẹp mãi một chỗ thôi. Thế có khốn khổ cho tôi không? Dường như người đàn ông này đang định kéo dài nỗi đau của tôi thì phải. - Ông ấy mù rồi. – Cuối cùng thì ông ta cũng nói ra. – Vâng, ông ấy mù rồi… ông Edward ấy. Thú thực là tôi chỉ sợ một điều tồi tệ hơn. Tôi sợ ông bị điên. Tôi lấy hết sức bình sinh hỏi nguyên do của tai họa ấy. - Tất cả là tại chính lòng can đảm của ông ấy, hoặc nói cách khác là lòng tốt đã mang tai họa đến cho ông. Lúc cháy nhà ngùn ngụt, ông nhất định không muốn thoát thân chừng nào mọi người còn chưa ra hết. Cuối cùng, lúc ông bước xuống cầu thang – đã xảy ra một chấn động dữ dội, và thế là tất cả sụp đổ. Ông được lôi ra khỏi đống đổ nát, vẫn còn sống, nhưng bị thương rất nặng. May cho ông là có một chiếc xà ngang rơi xuống che đỡ cho ông một phần, nhưng một con mắt ông bị đâm lòi hẳn ra, một cánh tay thì giập đến nỗi bác sĩ phẫu thuật Carter buộc phải cắt bỏ ngay. Con mắt còn lại của ông sưng vù lên, và cuối cùng cũng chẳng nhìn thấy gì nốt. Bây giờ thì chịu rồi, ông đã trở thành một kẻ vừa mù lòa, lại vừa quê cục nữa. - Ông ấy đang ở đâu? Hiện ông ấy đang sống ở đâu? - Ở Ferndean, một điền trang của ông, cách đây ba mươi dặm, một nơi hoàn toàn hẻo lánh. - Ông ấy ở đấy với ai? - Với vợ chồng lão John, ngoài ra không còn ai khác. Nghe nói ông ấy chán đời lắm. - Ông có phương tiện gì đi được không? - Thưa bà, chúng tôi có một chiếc xe ngựa đẹp lắm. - Ông cho chuẩn bị xe ngay nhé. Nếu anh xà ích của ông chở tôi đến Ferndean trước tối nay, thì tôi sẽ trả cho cả ông và anh ta số tiền gấp đôi bình thường.



Chương 37 Ferndean là một tòa nhà rất cổ, tầm cỡ vừa phải, kiến trúc bình thường, nằm lọt thỏm trong một cánh rừng mà tôi đã có lần nghe nói đến. Ông Rochester thường kể cho tôi nghe và thỉnh thoảng ông cũng đến đấy. Cha ông đã mua điền trang này vì thích những khu đất có thể đi săn ở xung quanh. Cha ông cũng định cho thuê, nhưng vì vị trí hẻo lánh và khí hậu không tốt nên chẳng có ai buồn thuê. Chính vì vậy mà Ferndean không có ai ở và cũng chẳng có nhiều đồ đạc, trừ vài ba phòng được dùng làm chỗ nghỉ vào mùa săn bắn. Tôi đến điền trang đó đúng vào lúc trời sắp chạng vạng tối, trời gió lạnh và mưa rơi lất phất, cảnh buồn thê thảm. Dặm đường cuối cùng tôi đi bộ, sau khi đã trả tay xà ích gấp đôi số tiền như đã hứa. Đến rất gần điền trang mà tôi vẫn không thể nhìn thấy gì, vì rừng cây bao quanh đổ bóng tối om. Những cánh cổng sắt giữa hai cột đá hoa cương cho tôi biết đó là lối vào. Bước qua cổng, tôi lọt ngay vào một vùng ánh sáng âm u vì các hàng cây mọc san sát nhau. Một lối nhỏ mọc đầy cỏ dại nằm giữa những thân cây sần sùi, cành lá um tùm. Theo lối nhỏ ấy, tôi tưởng sẽ sớm đến ngôi nhà, nào ngờ nó cứ uốn lượn vòng vo mãi mà vẫn không thấy dấu hiệu của nhà cửa hay vườn tược gì hết. Tôi nghĩ mình đi sai đường nên bị lạc. Bóng cây đổ xuống như muốn nuốt chửng lấy tôi. Tôi nhìn quanh, tìm một con đường khác, nhưng vô ích, tất cả chỉ là những cành cây đan nhau chằng chịt, những thân cây to như cái cột nhà, những tán lá sum suê… Không có một lối mở nào. Tôi vẫn cắm cúi đi tiếp, và cuối cùng con đường cũng mở ra với những thân cây thưa đi ít nhiều. Tôi đã trông thấy một hàng rào sắt, rồi một ngôi nhà nhạt nhòa giữa các bóng cây đen sẫm. Đi qua một cánh cổng cài sơ sài bằng một then ngang, tôi bước vào một khoảnh đất có bờ giậu bao quanh, cây cối được chặt bớt theo hình bán nguyệt. Không có hoa, cũng chẳng có bồn cảnh, chỉ có một lối dạo bộ rải sỏi vòng quanh một sân cỏ. Mặt trước ngôi nhà có hai hồi nhọn, cửa sổ hẹp đóng kiểu ô mắt cáo. Cửa chính cũng hẹp, có một bậc thềm đi lên. Ngôi nhà quả cũng xứng danh heo hút và tiêu điều. Nó lặng lẽ như một nhà thờ ngày thường, trừ tiếng mưa rơi đều đều đập vào lá rừng.


- Lại có người sống được ở đây sao? – Tôi thầm hỏi. Vâng, hình như có thì phải, vì tôi nghe thấy có tiếng động. Cánh cửa hẹp mặt tiền hé mở, và một bóng người chuẩn bị bước ra. Cánh cửa vẫn mở từ từ, bóng người bước ra đứng trên bậc thềm, dưới bóng tối nhá nhem. Đó là một người đàn ông không đội mũ, đang giơ tay ra như muốn xem trời mưa gió thế nào. Dù rất tối, nhưng tôi vẫn nhận ra bóng người ấy, đó chính là ông chủ của tôi. Edward Fairfax Rochester, không phải ai khác. Tôi dừng bước, ngây người nhìn ông. Dù không bị nhìn thấy, nhưng tôi vẫn nín lặng hồi hộp quan sát ông. Chúa ơi, làm sao ông còn nhìn thấy tôi nữa! Tôi không gặp khó khăn gì để giữ mình khỏi thốt lên một tiếng lòng. Trông dáng ông vẫn khỏe mạnh như trước, không có vẻ gì suy sụp về thể xác. Vậy là một năm trời với bao nhiêu nỗi đau vẫn không tàn phá được sức lực hay vẻ mạnh mẽ của ông. Nhưng dù vậy, tôi vẫn nhận ra một sự thay đổi trên nét mặt ông, ấy là vẻ tuyệt vọng và u hoài. Thưa bạn đọc, bạn có nghĩ tôi sợ ông vì cái vẻ mù lòa dữ tợn của ông không? Nếu nghĩ vậy thì bạn hiểu về tôi ít quá rồi. Một cảm giác hy vọng êm dịu lẫn nỗi ưu phiền khiến tôi chỉ mong sớm được đặt một nụ hôn lên vầng trán chai sạn như một phiến đá và cặp môi nghiêm nghị kia. Nhưng chưa, tôi chưa muốn đến bên ông vội. Ông bước xuống bậc thềm và chậm chạp dò dẫm đi về phía sân cỏ. Đâu rồi cái dáng đi hiên ngang một thuở? Rồi ông dừng lại như không biết nên đi về hướng nào. Ông ngẩng mặt, cố giương to mắt nhìn vô vọng lên bầu trời và những tán lá tối đen xung quanh. Rõ ràng tất cả đối với ông chỉ là bóng tối trống rỗng. Ông dang cánh tay phải ra (còn cánh tay trái bị cụt, ông giấu trong lớp áo trước ngực) như muốn sờ soạng để định hình những vật quanh. Vẫn chỉ là một sự trống rỗng, vì thân cây gần nhất cũng đứng cách chỗ ông đứng vài thước. Ông bất lực khoanh tay lại và cứ đứng lặng lẽ như vậy, mặc cho những giọt mưa mỗi lúc một nặng rơi xuống mái tóc để trần. Lúc đó, bác John chợt từ đâu chạy đến bên ông. - Thưa ông, ông vịn vào tay tôi rồi vào nhà nhé? – John nói. – Trời sắp mưa to rồi.


- Cứ để mặc tôi một mình. – Ông trả lời. Người đầy tớ già lui vào và vẫn không nhìn thấy tôi. Rochester vẫn cố gắng bước loanh quanh, nhưng vô ích, tất cả đều mơ hồ đối với ông. Cuối cùng, ông đành dò dẫm quay vào nhà và đóng cửa lại. Chỉ đến lúc ấy tôi mới lại gần gõ cửa. Ra mở cửa cho tôi là vợ bác John. “Kìa Mary, bà vẫn khỏe đấy chứ?” – Tôi hỏi. Bà giật mình nhìn tôi như nhìn một bóng ma. Tôi phải làm cho bà trấn tĩnh lại. Bà thảng thốt hỏi tôi: “Có đúng là cô không? Tối thế này mà cô vẫn mò được đến tận cái xó này ư?” Tôi nắm tay bà thay vì câu trả lời và theo bà vào trong bếp. Ông John đang ngồi bên bếp lửa. Tôi vắn tắt với họ rằng tôi đã biết hết mọi chuyện xảy ra từ ngày tôi rời bỏ Thornfield, và bây giờ tôi đến thăm ông Rochester, rồi nhờ ông John đi lấy hộ cái hòm tôi để ở chỗ xuống xe. Trong lúc cởi bỏ mũ mão, tôi hỏi Mary xem tôi có thể nghỉ qua đêm trong trang viên không, và khi thấy có thể ở lại được mặc dù việc thu xếp có hơi khó khăn, tôi bảo với bà rằng tôi sẽ ở lại. Vừa lúc ấy có tiếng chuông gọi trong phòng khách. - Khi vào, – tôi dặn – bà nhớ bảo ông chủ hộ là có người muốn nói chuyện với ông, nhưng đừng nói tên tôi nhé. -Tôi nghĩ ông ấy sẽ chẳng chịu gặp cô đâu, vì lâu lắm rồi ông không muốn tiếp ai cả. Lúc bà quay trở ra, tôi hỏi ông nói thế nào. - Cô phải nói rõ tên tuổi và lý do đến gặp ông ấy, – bà trả lời, rồi đi rót một cốc nước đặt lên một chiếc khay cùng với mấy cây nến. - Ông ấy bảo bà lấy những thứ này à? – Tôi hỏi. - Vâng, dù đã bị mù lòa, nhưng cứ tối đến là ông ấy lại bảo tôi mang cho mấy ngọn nến. - Vậy thì bà cứ đưa cho tôi cái khay, tôi sẽ mang vào. Tôi đỡ chiếc khay, rồi đi vào phòng khách theo sự chỉ đường của bà. Cái khay cứ run run trong tay tôi, khiến nước trào cả ra miệng cốc. Trống ngực tôi đập thình thịch vì hồi hộp, xao xuyến. Mary mở cửa cho tôi rồi lại khép


lại. Phòng khách trông thật tối tăm và buồn thảm. Nguồn sáng lúc này chỉ là ánh lửa nhợt nhạt hắt lên từ đáy lò sưởi. Người chủ mù lòa đang cúi đầu, ngồi dựa vào một bên lò sưởi. Con chó già Pilot của ông nằm co rúm một bên xa hẳn lối đi, như thể sợ bị người vô ý dẫm phải. Lúc tôi bước vào, nó dựng ngược tai lên nghe ngóng, rồi ngóc đầu dậy rít lên một tiếng ư ử, và cứ thế rên rỉ, cuống quít chạy đến với tôi, khiến tôi suýt làm rơi cả cái khay. Tôi đặt khay lên bàn, rồi vỗ về nó và khẽ bảo: “Nằm xuống đi nào!”. Ông Rochester quay lại như một cái máy để nhìn xem có chuyện gì, nhưng vì không trông thấy, nên ông lại quay đi và buông một tiếng thở dài. - Đưa nước cho tôi nào, Mary. – Ông nói. Tôi đến bên ông với cốc nước chỉ còn một nửa. Pilot chạy theo tôi, nó vẫn chưa hết mừng rỡ. - Có chuyện gì thế? – Ông hỏi. - Nằm xuống đi, Pilot! – Tôi lại nói. Đang đưa cốc nước lên môi, ông chợt dừng lại như để nghe ngóng. Ông uống, rồi đặt cốc xuống, hỏi: “Có phải bà Mary đấy không?” - Bà Mary đang ở trong bếp. – Tôi trả lời. Ông vội vàng giơ tay ra, nhưng vì không nhìn thấy tôi đang đứng ở chỗ nào nên không chạm được vào người tôi. “Ai đấy? Ai đấy?” Ông hỏi và cố mở to đôi mắt mù lòa ra nhìn. Quả là một cố gắng vô ích và đớn đau! “Trả lời tôi đi, nói nữa đi!” – Ông nói như ra lệnh, giọng dằn xuống. - Ông có muốn uống thêm ít nước nữa không, thưa ông? Em làm đổ mất nửa cốc của ông rồi. – Tôi nói. - Ai đấy? Cái gì đấy? Ai đang nói đấy? - Con Pilot đã nhận ra em, cả ông bà John cũng biết em ở đây. Em chỉ vừa đến vào lúc chiều tối. – Tôi trả lời. - Lạy Chúa vĩ đại! Lại có ảo giác nào đến với tôi thế này? Cơn điên ngọt ngào nào lại xâm chiếm lòng tôi thế này?


- Không phải ảo giác, cũng chẳng phải cơn điên nào hết, thưa ông. Ông đang quá tỉnh táo để có thể bị ảo giác chi phối, và cũng còn quá khỏe mạnh nên chẳng thể mơ hồ được. - Vậy người đang nói đứng ở chỗ nào? Phải chăng đó chỉ là một tiếng nói! Ôi, tôi không thể nhìn thì cũng phải cảm thấy chứ, nếu không trái tim ta sẽ chết tắc và đầu óc ta sẽ nổ tung ra mất. Dẫu ngươi là ai hay là cái gì… thì cũng làm ơn cho tôi sờ một chút, nếu không tôi sẽ không thể sống nổi đâu! Ông nói và đưa tay quờ quạng. Tôi đưa cả hai tay ra nắm lấy bàn tay ông. - Đúng là những ngón tay của nàng rồi! – Ông thốt lên. – Những ngón tay nhỏ nhắn, mảnh mai! Nếu vậy thì chắc chắn phải có nhiều hơn thế. Ông giằng bàn tay gân guốc về và dờ dẫm nắm lấy cánh tay, vai, cổ và người tôi. Rồi ông kéo tôi, ghì chặt tôi vào bên mình. - Có phải Jane đây không? Cái gì đây nhỉ? Đúng là hình bóng nàng… vóc người nàng rồi… - Và đây là giọng nói của cô ấy. – Tôi thêm vào. – Cô ấy đang ở đây, trái tim cô ấy cũng đang ở đây. Cầu Chúa phù hộ cho ông! Em rất sung sướng khi lại được gần ông như thế này. - Jane Eyre!... Jane Eyre! – Đó là tất cả những gì ông thốt nên lời. - Ông chủ yêu dấu, em là Jane Eyre đây. Em đã tìm thấy ông, đã trở lại với ông đây. - Có đúng đây là sự thực không?… có đúng bằng xương bằng thịt đây không? Em Jane còn sống của tôi? - Thưa ông, ông đã sờ vào người em, đã ôm em rất chặt. Người em không lạnh toát như một thây ma, cũng không trống rỗng như không khí, có đúng vậy không nào? - Người tình của tôi vẫn còn sống! Đúng là chân tay và những đường nét của em đây rồi. Nhưng làm sao tôi được hưởng diễm phúc này sau bao đau khổ chứ. Đây là một giấc mơ, cũng như bao lần tôi mơ được hôn em, được


ôm em vào lòng như tôi đang làm đây, và cảm thấy em cũng yêu tôi, và tin rằng em sẽ không rời bỏ tôi. - Kể từ hôm nay, em sẽ không bao giờ rời bỏ ông nữa. - Có đúng là ảo ảnh vừa nói với tôi là “không bao giờ nữa” không? Nhưng lúc nào bừng tỉnh tôi cũng thấy rằng đó chỉ là một sự mỉa mai trống rỗng, rồi tôi lại thấy mình bị bỏ rơi, bị cô đơn; cuộc đời tôi lại chìm vào tăm tối, đơn độc và vô vọng; tâm hồn tôi khát hạnh phúc mà không được uống; trái tim ta đói khổ cùng cực mà không bao giờ được thỏa mãn. Giấc mơ êm đềm đang náu trong vòng tay ta ơi, rồi ngươi sẽ lại bay đi như những giấc mơ trước thôi, nhưng làm ơn hãy hôn tôi một lần trước khi bỏ đi nhé… ôm tôi đi, Jane. - Đây, thưa ông… và đây nữa! Tôi đặt làn môi lên đôi mắt đã một thời sáng như sao của ông, rồi gạt mớ tóc phủ trên trán ông và đặt tiếp lên đó một nụ hôn nữa. Ông chợt như bừng tỉnh và tin chắc rằng tất cả đều là sự thật. - Đúng là em, phải không Jane? Vậy là em trở về với tôi? - Vâng, em đã trở về. - Thế ra em không chết dưới một con kênh, hay một dòng suối nào ư? Em không bị ruồng rẫy, héo hon giữa những kẻ xa lạ ư? - Không, thưa ông, giờ em đã là một phụ nữ độc lập. - Độc lập! Em định nói gì vậy, Jane? - Ông chú ở Madeira của em đã chết, và ông ấy có để lại cho em năm ngàn đồng bảng. - À, vậy thì đúng là thực tế rồi!... Đúng là chuyện có thật rồi!... Tôi sẽ chẳng bao giờ có được giấc mơ như vậy. Mà đây đúng là giọng nói chỉ riêng em mới có, một giọng nói tràn đầy sinh khí, mượt mà, thổi sức sống vào con tim héo hắt của tôi, khiến nó vui lên. Thật vậy ư, Jane? Em đã trở thành một phụ nữ độc lập rồi ư? Em đã giàu có rồi ư? - Thật giàu, thưa ông. Nếu ông không đồng ý cho em được sống với ông,


thì em có thể xây riêng một ngôi nhà sát ngay cửa nhà ông, và tối tối, ông có thể sang ngồi chơi ở phòng khách của em những khi ông cần người hầu chuyện. - Nhưng Jane ạ, khi đã giàu rồi thì chắc chắn em sẽ chẳng thiếu gì bạn bè ngưỡng mộ, và chắc gì họ chịu để em hy sinh vì một kẻ mù lòa, què quặt như tôi, đúng không? - Thưa ông, em đã nói với ông rằng em là một người phụ nữ độc lập và giàu có, nên em có thể làm chủ bản thân mình. - Và em sẽ ở lại với tôi? - Tất nhiên rồi, trừ phi ông không đồng ý. Em sẽ là người hàng xóm, người giúp việc và quản gia của ông. Em thấy ông sống cô đơn nên sẽ làm bạn tâm tình của ông, để đọc sách cho ông nghe, đi dạo cùng ông, ngồi với ông, trông nom ông và làm tay mắt cho ông. Đừng buồn như thế nữa, ông chủ thân yêu của em. Còn sống ngày nào, em còn không để ông đơn độc ngày đó. Ông không trả lời. Hình như ông đang mải theo đuổi một suy nghĩ nào đó, mặt bỗng nghiêm lại, một chốc lại thấy ông thở dài. Ông hé môi như định nói điều gì, nhưng không hiểu sao lại mím chặt lại ngay, khiến tôi không khỏi bối rối. Hay tại tôi ăn nói thiếu suy nghĩ, khiến ông – cũng như ông anh họ St. John của tôi – thấy không vui chăng? Thực ra, khi nêu ra đề nghị của mình, tôi đã nghĩ rằng ông vẫn mong có tôi làm vợ, và tôi cứ đinh ninh ông sẽ ngỏ lời ngay. Thấy ông không nhắc tới chuyện đó, và nhìn vẻ mặt càng lúc càng sầu thảm của ông, tôi chợt nghĩ có lẽ mình đã lầm hoàn toàn, vì vậy nên đã ăn nói lung tung. Nghĩ vậy, tôi khẽ rút tay ra khỏi tay ông, nhưng ông lại càng nắm chặt hơn. - Không, không, Jane ạ. Em không được đi. Không, tôi đã được sờ vào người em, được nghe em nói, cảm thấy nguôi ngoai rất nhiều vì sự trở lại của em, bây giờ tôi không thể từ bỏ những niềm vui ấy. Tôi cần có em, tâm hồn tôi cần có em, mặc cho ai nói gì thì nói. Nó phải được thỏa mãn, nếu không nó sẽ phá tung cái thân xác này ra mà trả thù mất. - Vâng, thưa ông, em sẽ ở lại với ông, em đã nói vậy rồi mà. - Đúng, nhưng em hiểu ở lại với tôi theo một đằng, còn tôi lại hiểu theo


một nẻo. Hình như em đang nghĩ sẽ luôn ở bên tôi, là người giúp việc bé nhỏ tốt bụng chăm sóc tôi (vì em vốn là người có trái tim nhân ái và tinh thần hào hiệp, khiến em sẵn sàng hy sinh vì những người em thương hại). Chắc chắn như thế là quá đủ đối với tôi. Nhưng tôi lại nghĩ có lẽ bây giờ đối với em, tôi chỉ nên giữ một tình cảm như tình cảm của một người cha mà thôi, em có nghĩ như thế không? Nào, em nói đi. - Em sẽ nghĩ như ông mong muốn, thưa ông. Em sẵn sàng chỉ làm người giúp việc của ông nếu ông nghĩ như vậy là hơn. - Nhưng em không thể làm người hầu của tôi mãi được, Jane ạ. Em còn trẻ, sẽ có một ngày em phải lấy chồng chứ. - Em không quan tâm đến chuyện lấy chồng. - Em nên nghĩ đến chuyện đó, Jane ạ. Nếu còn được như ngày trước thì tôi sẽ cố làm cho em phải nghĩ đến một người chồng, đáng tiếc bây giờ tôi chỉ là… một kẻ mù lòa! Nói xong, ông lại chìm đắm vào một nỗi u hoài. Trái lại, tôi lại cảm thấy vui hơn và can đảm hơn. Mấy lời sau cùng của ông đã giúp tôi thấy rõ sự khó khăn ở chỗ nào, và vì thực ra, đối với tôi thì đó chẳng phải là chuyện khó khăn, nên tôi cảm thấy sự bối rối của mình đã được trút bỏ. Tôi tiếp tục câu chuyện một cách sôi nổi hơn. - Đã đến lúc phải có người giúp ông trở lại làm người mới được, – tôi vừa nói vừa vuốt mái tóc dài bờm xờm lâu không cắt của ông – vì bây giờ em thấy ông đã biến thành một con sư tử rồi. Trông ông “có vẻ” giống [81] Nebuchadnezzar lắm. Mái tóc ông làm em nhớ đến lông chim đại bàng, còn móng tay ông có dài như móng vuốt chim hay không thì em vẫn chưa để ý. - Bên này, tôi không còn bàn tay nên cũng chẳng có móng, – ông nói và rút cánh tay cụt giấu trong lớp áo trước ngực ra cho tôi xem – nó chỉ còn là một mẩu thôi… trông có khiếp không! Em có nghĩ thế không, Jane? - Nhìn nó thật đáng thương, nhìn đôi mắt ông… và cả vết sẹo trên trán ông nữa cũng vậy. Và hiện đang có người bị nguy to đấy, vì chính tất cả những điều đó đã làm cho cô ta thấy càng thương yêu và quan tâm đến ông hơn.


- Thế mà tôi cứ tưởng em sẽ phát khiếp khi nhìn thấy cánh tay cụt và bộ mặt sẹo của tôi cơ đấy, Jane ạ. - Ông nghĩ thế thật à? Vậy thì đừng nói thế nữa nhé, nếu không em sẽ phải phê phán sự đánh giá của ông đấy. Nào, bây giờ ông hãy buông em ra một lát đi, để em đi dọn lại cái lò sưởi và khêu ngọn lửa lên cái đã. Ông có thể nói khi nào ngọn lửa cháy đượm không? - Được, khi mắt phải tôi thấy một quầng sáng – một ánh màu hồng. - Thế ông có nhìn thấy những ngọn nến không? - Rất mù mờ, mỗi ngọn nến chỉ là một đốm sáng nhờ nhờ. - Còn em? - Không, nàng tiên của tôi ạ. Nhưng chỉ cần nghe giọng em nói và được sờ vào người em là tôi cũng mãn nguyện lắm rồi. - Bao giờ thì ông ăn tối? - Tôi không bao giờ ăn tối. - Nhưng tối nay thì ông phải ăn một chút. Em đang rất đói, mà em tin rằng ông cũng thế, có điều ông quên đấy thôi. Tôi gọi Mary tới cùng dọn dẹp lại căn phòng một chốc cho gọn mắt hơn, rồi đi chuẩn bị cho ông một bữa theo đúng khẩu vị của ông. Sự bận bịu của tôi đã làm ông vui lên trông thấy. Dù mù lòa, nhưng trên môi ông đã bắt đầu ánh lên những nụ cười, những nếp nhăn trên vầng trán ông cũng như giãn hẳn ra, vẻ mặt ông đã rạng rỡ và dịu dàng hơn. Sau bữa tối, ông bắt đầu hỏi tôi rất nhiều, nào là tôi đang ở đâu, làm gì, làm thế nào mà tìm ra được ông. Nhưng tôi chỉ trả lời chiếu lệ, vì có kể hết mọi chuyện ngay đêm nay thì sẽ khuya quá mất. Với lại tôi cũng không muốn làm ông xúc động thêm. Lúc này tôi chỉ muốn làm sao để ông vui lên. Quả thật là ông cũng có vui, nhưng chỉ được chốc lát mà thôi, rồi đâu lại vào đấy. Hễ tôi cứ ngừng chuyện một lát là ông lại lo lắng, sờ vào người tôi và gọi thảng thốt: “Jane!”


- Em hoàn toàn là một con người có thật đấy chứ, Jane? Em có tin chắc là như vậy không? - Kìa Rochester, em tin chắc là như vậy mà. - Nhưng làm sao em có thể xuất hiện trong căn phòng hiu quạnh của tôi vào cái buổi tối âm thầm buồn bã như thế này chứ? Tôi cứ tưởng cốc nước tôi uống là của vợ ông John đưa, thì không ngờ lại do chính tay em đưa. Tôi cứ tưởng người trả lời câu hỏi của tôi là bà ấy, thì ngờ đâu lại được nghe giọng nói của em. - Bởi vì em là người mang cái khay vào đây thay cho Mary. - Và như vậy mới có cái giờ phút sung sướng mà cả tôi và em cùng đang chia sẻ đây. Ai có thể thấu hiểu tôi đã phải kéo lê cái đoạn đời tối tăm, sầu thảm và vô vọng khôn cùng như thế nào trong suốt những tháng ngày qua? Không làm gì, không đợi chờ gì, ngày đêm lẫn lộn, chỉ cảm thấy lạnh khi bếp không đỏ lửa, chỉ biết đói khi quên ăn, rồi nỗi buồn nối tiếp nỗi buồn, và đôi khi lại chỉ muốn phát điên với nỗi khát khao cháy bỏng được nhìn lại Jane của mình. Vâng, tôi mong tìm lại được em hơn là mong tìm lại nguồn ánh sáng cho đôi mắt mù lòa. Làm thế nào mà Jane lại đến được đây để nói lời yêu tôi? Rồi em sẽ không đột ngột bỏ đi như đã đột ngột xuất hiện chứ? Chỉ sợ rằng ngày mai tôi sẽ lại không còn được thấy em đâu nữa. Nỗi lòng lo lắng, rối bời của ông đã khiến tôi nghĩ rằng tốt nhất là cứ trả lời bằng một câu thật chung chung và thực tế thì mới giúp ông yên tâm được. Tôi xoa ngón tay lên hàng lông mày ông và nhận thấy nó đã bị cháy trụi. Có lẽ tôi phải tìm thuốc bôi vào đó cho nó mọc lại đen và rậm như trước mới được. - Sẽ chẳng mang lại điều gì tốt đẹp cho tôi đâu, nếu đến một lúc nhẫn tâm nào đó, em sẽ lại bỏ tôi mà đi như một cái bóng, rồi bỏ mặc tôi vùng vẫy điên cuồng trong nỗi tủi hờn và đau khổ của mình mà không sao hiểu được tại sao. - Ông có cái lược bỏ túi đấy không? - Để làm gì, Jane? - Để chải lại cái mớ tóc bù xù này. Nhìn gần em mới thấy ông đáng báo


động đấy. Ông cứ bảo em là một nàng tiên, nhưng em tin chắc là ông giống một con ma thiện hơn. - Trông tôi gớm ghiếc lắm phải không, Jane? - Gớm lắm, nhưng ông biết mà, lúc nào mà ông chẳng như vậy. - Hừm! Dù ở đâu em cũng vẫn không chừa được cái kiểu ác khẩu ấy. - Nhưng em lại được sống với những người tử tế lắm. Họ còn tốt hơn ông nhiều, tốt gấp cả trăm lần. Người ta có tư tưởng và quan điểm mà ông chưa bao giờ có. - Thế em đã sống với những ai? - Nếu ông cứ ngọ nguậy như thế thì em sẽ làm đứt hết cả tóc của ông mất, nhưng có khi như thế ông lại cảm thấy em là có thật hơn ấy chứ. - Em đã ở với những ai, Jane? - Đêm nay thì em chưa thể nói cho ông được, có lẽ để đến sáng mai đi. Cứ để câu chuyện dở dang thì ông mới đảm bảo được rằng em còn phải kể tiếp trong bữa điểm tâm với ông chứ. - Em quái lắm! Cứ như sinh ra là thiên thần mà lớn lên như người ấy! Em cho tôi một cảm xúc mà suốt một năm qua tôi không hề có. Nếu Saul mà có được em thay vì David, thì chẳng phải cần đến cây thụ cầm mới đuổi được [82] hồn ma . - Vậy là ông đã vui lên một chút rồi đấy. Bây giờ em phải rời ông đây. Suốt ba ngày trời ngồi liền tù tì trên xe làm em mệt muốn chết đi được. Chúc ông ngủ ngon! - Chỉ một câu nữa thôi, Jane: nơi em sống chỉ có toàn đàn bà, con gái thôi chứ? Tôi cười và bước ra, đi lên cầu thang vẫn còn cười. Tôi thầm nghĩ: “Quả là một ý kiến hay đấy chứ! Mình thấy đã có cách trêu cho ông đỡ buồn rồi”. Sáng sớm hôm sau đã thấy ông Rochester trở dậy và mò mẫm đi hết phòng này đến phòng khác rồi. Ngay lúc Mary vừa xuống, tôi đã nghe ông


hỏi: “Cô Jane vẫn ở đây chứ?” Rồi: “Bà để cô ấy ngủ ở phòng nào? Có khô ráo không? Cô ấy dậy chưa? Lên hỏi xem cô ấy có cần gì không, và lúc nào cô ấy xuống”. Tôi xuống khi sắp đến giờ điểm tâm. Ông đang ngồi trên ghế, lặng lẽ nhưng có vẻ hơi sốt ruột, rõ ràng là ông đang chờ đợi. Nỗi đau khổ và sự buồn phiền không nguôi đã để lại những nếp nhăn hằn sâu trên khuôn mặt rắn rỏi của ông. Gương mặt ông làm tôi nghĩ đến một ngọn đèn đã tắt, đang chờ được thắp lại. Nhưng Lạy Chúa! bản thân ông lại không thể khiến mình rạng rỡ trở lại, mà phải là một người khác giúp đỡ. - Thưa ông, sáng nay trời quang, nắng đẹp lắm. – Tôi nói. – Mưa đã tạnh lâu rồi, bây giờ mình sẽ đi chơi quanh quẩn đây nhé. Nghe thấy giọng tôi, nét mặt ông tươi hẳn lên. - Ôi, đúng là em ở đây rồi, con chim sơn ca của tôi! Lại đây với tôi đi. Vậy là em đã không bỏ đi, không biến mất? Chỉ lúc có em tôi mới cảm thấy ánh sáng mặt trời. Mắt tôi bỗng nhòa lệ khi nghe ông thú nhận sự lệ thuộc vào tôi đó, cảnh ngộ ông giờ đây chẳng khác nào cảnh ngộ của một con đại bàng chúa bị xích vào một chỗ, đành phải van vỉ sống nhờ một con chim sẻ. Nhưng tôi không thể khóc. Tôi lau vội những giọt nước mắt và bắt tay vào chuẩn bị bữa điểm tâm. Gần như cả buổi sáng hôm ấy, chúng tôi đi dạo ngoài trời. Tôi dắt ông ra khỏi cảnh rừng ẩm ướt hoang dã đến nơi có những cánh đồng thoáng đãng, rồi tả cho ông nghe những cảnh vật xán lạn dưới bầu trời trong xanh. Tôi tìm cho ông một chỗ ngồi kín đáo, một gốc cây khô. Tôi đã không từ chối để ông bế thốc tôi ngồi vào lòng ông. Tại sao tôi phải từ chối khi mà được gần nhau, chúng tôi cảm thấy hạnh phúc hơn là phải xa nhau? Con Pilot cũng mò đến nằm bên chúng tôi. Cảnh vật tĩnh lặng như tờ. Đột nhiên ông ôm ghì lấy tôi và nói: - Em đã bỏ tôi mà đi, em ác lắm! Jane ạ, em có biết tôi cảm thấy thế nào khi biết em đã lặng lẽ bỏ Thornfield mà đi, khi không sao tìm ra được em nữa, và khi biết chắc là em đã không mang tiền nong hay bất cứ một thứ gì khác thay tiền không? Chuỗi hạt tôi tặng em vẫn nằm nguyên trong chiếc hộp nhỏ, rương hòm của em vẫn khóa và chằng dây y như lúc chuẩn bị cho tuần trăng


mật. Tôi thật sự lo lắng vì không biết em sẽ xoay sở thế nào khi không có một đồng xu dính túi? Vậy em đã làm những gì nào? Kể cho tôi nghe đi. Bị thúc giục, tôi bắt đầu kể lại những gì mình đã trải qua trong suốt một năm trời, nhưng tôi đã phải giảm bớt những chi tiết trong ba ngày lang thang đói khổ, vì nếu kể hết sẽ chỉ thêm gây cho ông nỗi đau đớn không cần thiết. Tôi mới kể qua như vậy mà ông đã khổ sở hơn tôi nghĩ nhiều. Ông nói lẽ ra tôi không nên bỏ ông mà không đem theo gì như vậy, lẽ ra tôi nên cho ông biết ý định của tôi, nên tâm sự hết với ông, và không đời nào ông ép tôi làm tình nhân của ông cả, bởi ông luôn dành cho tôi một tình yêu quá mãnh liệt để có thể trở thành một bạo chúa đối với tôi. Ông nói sẵn sàng tặng tôi một nửa tài sản mả không cần đổi lại một cái gì, cho dù chỉ là một nụ hôn, còn hơn là để tôi lao mình vào thế gian mênh mông không bạn bè thân thích này. Ông tin chắc là tôi đã phải chịu nhiều cơ cực hơn những gì tôi kể lại với ông. - Vâng, nhưng dù em có phải chịu đựng như thế nào đi nữa thì tất cả cũng đã nhanh chóng trôi qua rồi. – Tôi trả lời, và tiếp tục kể cho ông nghe chuyện mình đã được cư xử ở Moor-House như thế nào, tìm được chân dạy học ra sao v.v... Tiếp đó là chuyện tôi bỗng dưng trở nên giàu có, rồi chuyện tìm ra những người họ hàng. Tất nhiên là cái tên St. John luôn được nhắc đến trong diễn biến các câu chuyện. Tôi vừa dứt lời thì ông nhắc lại ngay cái tên ấy. - Thằng cha St. John đó là anh họ em à? - Vâng. - Em nhắc đến anh ta luôn, vậy em có thích hắn không? - Thưa ông, anh ấy là người rất tốt, em không thể không thích anh ấy được. - Một người rất tốt ư? Nghĩa là một người đáng tôn trọng, có đạo đức tốt, tuổi năm mươi? Hay là thế nào? - St. John mới có hai mươi chín tuổi, thưa ông. - Nói như người Pháp là “Jeune encore”

[83]

. Hắn là một người lùn tịt,


lạnh lùng, và không kiểu cách? Một người mà tốt có nghĩa là không có những tật xấu, chứ không phải là có những điểm nổi bật về đức hạnh, đúng không? - Anh ấy là một người hoạt động không biết mệt. Anh ấy sống là để thực hiện những việc vĩ đại cao quý. - Nhưng đầu óc hắn thì thế nào? Chắc cũng chỉ là dạng còi thôi phỏng? Hắn nói hay, nhưng cũng chỉ làm em nhún vai khi nghe hắn nói chứ gì? - Anh ấy là người kiệm lời, nhưng những gì anh ấy đã nói đều là không sai. Đầu óc anh ấy thì vào bậc nhất, em nghĩ không có ấn tượng mấy, nhưng lại có sức mạnh. - Vậy là một người có năng lực ư? - Thật sự có năng lực. - Một người được giáo dục toàn diện? - St. John hoàn toàn là một học giả toàn diện và sâu sắc. - Còn cách xử sự, tôi nghĩ là em đã nói không hợp với sở thích của em? Tự phụ và có vẻ nhà tu lắm? - Em đã bao giờ nói gì về cách xử sự của anh ấy đâu, nhưng trừ phi em là kẻ có những sở thích thấp hèn thì không nói làm gì, vì anh ấy là người lịch thiệp, điềm đạm và rất nhẹ nhàng. - Bộ dạng của hắn thì… tôi không nhớ em đã mô tả như thế nào… Chắc cũng cùng một giuộc với đám mục sư mới tập sự, thô thiển trong cái cổ áo trắng tinh, ngất ngưởng trên đôi giày cao đế chứ gì? - St. John luôn là người biết ăn mặc. Anh ấy là một người đẹp trai, cao to, mắt xanh, có khuôn mặt của người Hy Lạp. - (Lẩm bẩm) Đồ chết tiệt!... (Nói với tôi) Thế em có thích hắn không, Jane? - Có chứ, ông Rochester, em rất thích anh ấy, nhưng sao ông cứ hỏi em mãi như vậy? Tất nhiên là tôi dễ dàng nhận thấy người đối thoại với mình đang bị cuốn phăng về đâu. Ông đang lên cơn ghen, đang bị cơn ghen giày vò.


Nhưng nếu vậy thì càng tốt, vì nó sẽ làm cho ông đỡ vật vã vì những nỗi ưu phiền đã tràn ngập trong lòng ông bấy lâu. Vì vậy tôi không muốn thỏa mãn ngay đòi hỏi của con rắn ấy. - Có lẽ cô cũng chẳng cần ngồi vào lòng tôi lâu hơn nữa, cô Jane nhỉ? – Ông mỉa mai, có phần hơi bất ngờ. - Sao lại không, thưa ông? - Bức chân dung mà cô vừa phác ra đó cho thấy một sự tương phản quá [84] còn gì. Những lời của cô đã vẽ nên chính vị thần Apollo tuyệt đẹp, và nó vẫn đang nằm trong trí tưởng tượng của cô đấy thôi – là “cao to, mắt xanh, có khuôn mặt của người Hy Lạp” đấy. Vậy mà đôi mắt cô lại đang phải nhìn một Vulcan… một thằng thợ rèn thật sự, người đen thui, vai u thịt bắp, đã thế lại còn đui mù và què cụt nữa chứ. - Quả thực là trước đây, chưa bao giờ em nghĩ như vậy, nhưng bây giờ chính ông đang khẳng định mình giống anh chàng Vulcan đấy nhé. - Thế thì được rồi, cô có thể bỏ tôi mà đi được rồi đấy, thưa cô. Nhưng trước khi bỏ đi (nhưng ông lại càng ghì chặt tôi hơn bao giờ hết!), cô làm ơn trả lời tôi một hai câu đã. Ông ngừng lại. - Hỏi gì cơ, thưa ông Rochester? Thế rồi cuộc đối chất diễn ra như thế này: - St. John đưa cô làm cô giáo ở Morton trước khi biết cô là em họ phải không? - Đúng thế. - Cô thường xuyên gặp hắn? Thỉnh thoảng hắn lại đến thăm trường? - Ngày nào cũng đến. - Hắn thường tán thành các kế hoạch của cô, đúng không, Jane? Tôi biết các kế hoạch của cô lúc nào cũng khôn khéo lắm mà, vì cô là người có tài năng.


- Đúng, anh ấy luôn tán thành. - Chắc là hắn đã khám phá ra ở cô nhiều điều mà hắn không ngờ tới? Vì cô có một số khả năng không phải tầm thường mà. - Điều đó thì em chịu. - Cô nói cô sống ở một ngôi nhà nhỏ cạnh trường, thế hắn có bao giờ đến đó thăm cô không? - Thỉnh thoảng. - Vào buổi tối? - Có một hai lần gì đó. Ngừng một lát. - Cô còn ở với hắn và các em hắn bao lâu sau khi phát hiện có họ với nhau? - Năm tháng. - Rivers có để nhiều thì giờ sống với các cô ở nhà không? - Có, phòng khách sau là phòng nghiên cứu của cả anh ấy và chúng em. Anh ấy ngồi bên cửa sổ, còn chúng em ngồi ở bàn. - Hắn có nghiên cứu nhiều không? - Nhiều! - Nghiên cứu cái gì? - Tiếng Hinđi. - Thế cô làm gì trong thời gian ấy? - Lúc đầu, em học tiếng Đức. - Hắn dạy cô à?


- Anh ấy không biết tiếng Đức. - Hắn không dạy cô cái gì à? - Một ít tiếng Hinđi. - Rivers đã dạy cô học tiếng Hinđi? - Thưa ông, vâng. - Cả các cô em cũng học? - Không. - Chỉ mình cô thôi? - Chỉ mình em thôi. - Cô đã đòi học à? - Không. - Hắn muốn dạy cô à? - Đúng thế. Lại ngừng một lát. - Tại sao hắn lại muốn thế? Cô dùng tiếng Hinđi làm gì? - Anh ấy định cùng em sang Ấn Độ. - À! Thì ra gốc rễ của vấn đề là đây. Hắn có muốn lấy cô không? - Anh ấy có hỏi em làm vợ. - Lại là một chuyện viễn tưởng, cô định bịa chuyện để chọc tức tôi chứ gì? - Xin lỗi ông, đó hoàn toàn là sự thực. Anh ấy đã hơn một lần hỏi lấy em, và còn nhất quyết giữ vững ý định của mình hơn ông nữa kia. - Cô Eyre, tôi nhắc lại là cô có thể bỏ tôi mà đi được rồi đấy. Sao cô cứ


bắt tôi phải nhắc mãi một điều thế nhỉ? Tại sao tôi đã giục cô đi mà cô cứ ngồi ì mãi vào lòng tôi như thế? - Vì em thấy ngồi đây dễ chịu. - Không, Jane ạ, chẳng dễ chịu đâu, vì trái tim cô đâu còn ở bên tôi, mà ở bên người anh họ cô, cái anh chàng St. John kia. Ôi, thế mà cho đến tận bây giờ tôi vẫn cứ tưởng Eyre bé nhỏ là hoàn toàn của mình cơ đấy! Nhưng thôi, có buồn cũng chẳng ích lợi gì. Cô Jane này, cứ bỏ tôi đi, cứ về mà lấy Rivers đi. - Vậy thì cứ xua đuổi em đi, ông ạ, vì sẽ chẳng bao giờ em lại tự ý rời bỏ ông cả. - Jane, bao giờ tôi cũng thích nghe giọng nói của cô, nó làm sống dậy nguồn hy vọng trong tôi, vì nghe nó thật chân thành. Khi nghe giọng cô nói, tôi bỗng ngỡ mình được quay lại một năm trước. Tôi quên mất là cô đã có một quan hệ mới. Nhưng tôi không phải là một thằng ngu. Thôi nào, hãy đi đi! - Em phải đi đâu, thưa ông? - Theo con đường của cô… với người chồng mà cô đã chọn. - Là ai vậy? - Cô biết rồi, là St. John Rivers. - Anh ấy không phải là chồng em, và cũng không bao giờ là như vậy được. Anh ấy không yêu em. Em không yêu anh ấy. Anh ấy yêu (nếu có thể gọi là yêu, nhưng không giống ông) một cô gái rất đẹp tên là Rosamond. Anh ấy muốn lấy em chỉ vì nghĩ em rất hợp với vai trò làm vợ một nhà truyền giáo, còn cô gái kia thì không thể làm được. Anh ấy tốt và giỏi giang, nhưng nghiêm khắc, và đối với em thì lạnh như một tảng băng vậy. Anh ấy chẳng giống ông tí nào. Em không cảm thấy hạnh phúc khi ở bên anh ấy, gần anh ấy, sống với anh ấy. Anh ấy không nuông chiều em, không âu yếm em được. Anh ấy chẳng thấy gì là hấp dẫn ở con người em, kể cả tuổi trẻ, mà chỉ thấy có một vài điểm hữu ích về tinh thần thôi. Vậy mà em lại phải bỏ ông, để đi với anh ấy sao? Tôi chợt rùng mình và bất chợt ôm chặt lấy ông chủ mù lòa thân yêu của


mình. Ông mỉm cười. - Có đúng vậy không, Jane? Hiện trạng quan hệ giữa cô và St. John có đúng như vậy không? - Hoàn toàn đúng như thế! Ông không cần phải ghen làm gì! Em muốn trêu chọc ông một chút để ông quên đi nỗi buồn thôi, vì em nghĩ thà tức giận còn hơn là buồn phiền trong lòng. Giá như có thể thấy được tấm lòng và tình yêu của em đối với ông như thế nào thì chắc hẳn ông sẽ cảm thấy hãnh diện và hài lòng lắm. Thưa ông, trái tim em hoàn toàn thuộc về ông, nó là của ông và sẽ còn là của ông, cho dù số phận có đầy đọa em phải xa ông mãi mãi. Một lần nữa, khi ông hôn tôi, những ý nghĩ đau đớn lại khiến gương mặt ông tối lại. - Tôi mù lòa, thân tàn ma dại rồi! – Ông lẩm bẩm, vẻ đầy nuối tiếc. Tôi vuốt ve để ông nguôi lòng. Tôi biết ông đang nghĩ gì và muốn nói ra hộ ông, nhưng lại không dám. Lúc ông quay mặt đi trong một phút, tôi chợt thấy một giọt lệ trào ra từ con mắt tật nguyền và lăn dài trên gò má rắn rỏi của ông. Tim tôi như thắt lại. - Tôi giờ chẳng khác gì cây dẻ già nua bị sét đánh hôm nào trong vườn Thornfield. – Ông nói sau một lát im lặng, giọng trầm hẳn xuống. – Gốc cây đổ ấy có quyền gì mà đòi một cây kim ngân hoa đang đâm chồi nảy lộc lấy tán lá tốt tươi che chở cho cái thân tàn của nó chứ? - Thưa ông, ông không phải là một gốc cây bị sét đánh tàn tạ, ông vẫn xanh tươi và đầy nhựa sống. Dù ông muốn hay không, thì rồi cũng có ngày những cây con sẽ mọc lên quanh cội rễ của ông, vì chúng vui thích được náu dưới cái bóng hào phóng của ông. Và khi đã mọc lên rồi, chúng sẽ nương tựa vào ông, quấn quanh lấy ông, vì sức mạnh của ông đã tạo cho chúng một chỗ dựa quá vững chắc. Ông lại mỉm cười. Tôi đã làm ông nguôi ngoai rất nhiều. - Em nói đến tình bạn ư, Jane? – Ông hỏi. - Vâng, tình bạn. – Tôi hơi ngập ngừng trả lời, vì tôi biết tôi muốn nói đến một cái gì đó còn hơn cả tình bạn, nhưng chưa biết diễn đạt thế nào cho đúng. Ông đã giúp tôi.


- Kìa, Jane! Tôi lại cần có một người vợ kia. - Có đúng thế không, thưa ông? - Đúng, nhưng em thấy mới mẻ lắm sao? - Tất nhiên rồi, vì trước có thấy ông nhắc gì đến chuyện ấy đâu. - Em không đón nhận tin đó ư? - Điều đó còn tùy vào hoàn cảnh, thưa ông… tùy vào sự lựa chọn của ông. - Em sẽ chọn hộ tôi, Jane ạ. Tôi sẽ nghe theo quyết định của em. - Vậy thì, thưa ông, ông hãy chọn… người nào yêu ông nhất. - Ít nhất thì tôi cũng sẽ chọn… người nào yêu tôi nhất. Jane, em sẽ lấy tôi chứ? - Vâng, thưa ông. - Một kẻ mù lòa khốn khổ, kẻ mà đi đâu em cũng sẽ phải cầm tay đưa đi. - Vâng, thưa ông. - Có thật thế không, Jane? - Hoàn toàn đúng như thế, thưa ông. - Ôi, em yêu dấu của tôi! Cầu Chúa phù hộ và ban phúc lành cho em! - Ông Rochester, nếu khi nào trong đời em đã làm được một việc gì tốt, có một ý nghĩ tốt, đã cầu nguyện một cách chân thành, đã biết ước mong những điều tốt đẹp mà không có gì đáng chê trách, thì có lẽ bây giờ chính là lúc em được thưởng công đấy. Được làm vợ ông, đối với em, là hạnh phúc duy nhất của em trong cuộc đời này. - Vì em tìm được niềm vui trong sự hy sinh. - Hy sinh! Em làm gì mà gọi là hy sinh chứ? Chẳng lẽ có được đặc quyền vòng cánh tay ôm lấy người mà em vẫn quý trọng… được đặt môi hôn người


mà em yêu… được nương tựa vào người mà em tin tưởng cũng gọi là hy sinh ư? Nếu vậy thì quả thực em đã tìm được niềm vui trong sự hy sinh. - Và phải còn gánh chịu cái tật nguyền của tôi, phải nhắm mắt bỏ qua cho những khiếm khuyết của tôi nữa chứ. - Đó là những điều không tồn tại đối với em, thưa ông. Bây giờ em lại yêu ông hơn, bởi vì em thực sự cảm thấy mình có ích cho ông hơn là khi ông còn là một người độc lập kiêu căng và ông coi rẻ hết thảy mọi vai trò, trừ vai trò là người ban ơn và che chở cho người khác. - Từ trước đến nay tôi vẫn ghét để cho người khác giúp đỡ, dẫn dắt. Nhưng từ giờ trở đi, tôi cảm thấy có lẽ mình sẽ không ghét như thế nữa. Tôi vốn không thích bày đặt mình trong tay một người làm thuê, nhưng tôi lại rất vui khi cảm thấy nó được ấp ủ trong những ngón tay bé nhỏ của Jane. Tôi thích được sống cô độc hơn là được bọn đầy tớ thường xuyên chăm sóc, nhưng sự quan tâm của Jane sẽ đem lại niềm vui vĩnh hằng cho tôi. Jane phù hợp với tôi, nhưng không biết tôi có hợp với Jane không? - Hợp đến cả từng đường gân thớ thịt nhỏ nhất của em, thưa ông. - Nếu vậy thì chẳng có lý do gì trên đời khiến chúng ta phải chần chừ nữa. Chúng ta phải kết hôn ngay. Ông nhìn và nói với tôi bằng một vẻ thực sự háo hức. Và cái tính bồng bột ngày nào của ông lại trỗi dậy. - Chúng ta phải thuộc về nhau ngay lập tức, không việc gì phải trì hoãn nữa, Jane ạ. Bây giờ chỉ cần có giấy đăng ký là có thể kết hôn được rồi. - Ông Rochester, em vừa chợt nhận ra rằng trời đã quá trưa lâu rồi, con Pilot hiện cũng đã mò về tìm bữa. Ông đưa đồng hồ em xem nào. - Jane, em hãy cài luôn vào dây lưng đi, và từ nay em cứ giữ lấy nó. Tôi có cầm cũng chẳng để làm gì. - Đã gần bốn giờ chiều rồi, thưa ông. Ông có thấy đói không? - Ngày thứ ba kể từ ngày hôm nay, chúng ta sẽ làm lễ cưới, Jane ạ. Giờ thì chẳng cần phải bận tâm đến khăn áo hay đồ trang sức, vì tất cả chẳng còn nghĩa lý gì nữa.


- Ánh nắng mặt trời đã lau khô những giọt nước mưa, thưa ông. Và những làn gió cũng đã lặng mất rồi, em bắt đầu cảm thấy nóng quá đi. - Jane này, em có biết hiện tôi vẫn còn đeo chuỗi hạt của em quanh cái cổ đồng hun của tôi, sau chiếc cà vạt này không? Từ ngày tôi mất cái kho báu duy nhất của mình, tôi đã mang nó như mang một kỷ vật về em đấy. - Chúng ta sẽ đi qua rừng để về nhà đi, đường ấy có nhiều bóng râm. Ông vẫn mải theo đuổi dòng suy nghĩ của riêng mình và chẳng hề để ý đến lời tôi nói. - Jane! Tôi dám chắc là em vẫn nghĩ tôi là một con chó vô đạo, nhưng đúng vào lúc này đây, lòng tôi đang tràn ngập một sự biết ơn đối với Chúa nhân từ đã dựng nên trái đất này. Người đã thấy những điều mà con người không thể thấy, mà tất cả đều công minh hơn nhiều. Người đã phán xét không như con người phán xét, mà tất cả đều thông thái hơn nhiều. Tôi đã có những hành động sai lầm, đã làm ô uế bông hoa trong trắng của tôi và định hà hơi tội lỗi vào sự thuần khiết của nó. Đấng vạn năng đã tước bỏ nó đi. Còn tôi, trong cơn nổi loạn ngoan cố, gần như đã nguyền rủa sự ban phát của Người. Thay vì phải tuân theo phán quyết của Người, tôi lại đi thách thức lại. Công lý thần thánh cứ tiếp tục hành trình của nó, và tai họa đã đổ sập lên đầu tôi. Tôi buộc phải đi qua thung lũng bóng tối của thần chết. Những sự trừng phạt của Người quả là khắc nghiệt, và một lệnh trừng phạt đã giáng xuống đầu tôi, khiến tôi phải phục tùng mãi mãi. Em biết tôi rất kiêu hãnh về sức mạnh của mình, nhưng bây giờ điều đó còn có nghĩa gì khi mà tôi phải chịu sự dẫn dắt của người khác, như thế thì chẳng khác nào một đứa trẻ yếu đuối cả. Mới đây, Jane ạ, chỉ mới đây thôi, tôi mới bắt đầu nhìn thấy và biết rằng Chúa đã đặt bàn tay của Người vào định mệnh của tôi. Và tôi bắt đầu cầu kinh, những đoạn kinh dù rất ngắn, nhưng phải nói là rất thành kính. “Trước đây mấy hôm, tôi có thể nói rõ là bốn hôm, tức là tối thứ hai vừa rồi, tôi bỗng thấy trong người day dứt khác thường. Một nỗi buồn khôn tả trào dâng trong lòng thay cho cơn giận dữ, một nỗi đau giày vò thay cho cơn bực bội. Kể từ khi không tìm được em ở nơi đâu cả, lúc nào tôi cũng có cảm giác là em đã chết. Đêm hôm đó, trời cũng khuya rồi, khoảng giữa mười một và mười hai giờ gì đó, trước khi quay về với giấc ngủ tối tăm, tôi đã cầu xin Chúa sớm cho tôi được từ bỏ thế giới này để sang thế giới bên kia, nơi tôi còn


có hy vọng được gặp Jane, nếu Người cho thế là tốt hơn. Tôi đang ngồi bên cửa sổ mở rộng trong phòng mình. Dưới hương đêm thơm ngát, dù không thể nhìn thấy một vì sao nào, nhưng tôi vẫn biết là có trăng lên nhờ một quầng sáng nhạt nhòa trước mặt. Và tôi lại khao khát có em, Jane ạ! Cả tâm hồn và thể xác tôi đều muốn có em! Trong một tâm trạng lo âu và cung kính, tôi hỏi Chúa xem mình bị cô đơn, đau khổ, giày vò lâu như vậy đã đủ chưa, và liệu tôi có sớm được hưởng hạnh phúc và sự thanh thản một lần nữa không? Đành rằng tôi xứng đáng phải hứng chịu đựng tất cả, tôi thừa nhận điều đó, nhưng tôi vẫn biện hộ rằng tôi khó có thề chịu đựng hơn được nữa, và toàn bộ mong ước trong tim tôi vô tình buột khỏi miệng thành tiếng ‘Jane! Jane! Jane!’” - Ông đã nói thành tiếng thật à? - Đúng thế, Jane ạ. Nếu lúc ấy nghe thấy tôi nói, thế nào người ta cũng bảo là tôi điên cho mà xem. Tôi thốt nên lời bằng một nghị lực cuồng loạn. - Vào đêm thứ hai vừa rồi, lúc gần nửa đêm phải không? - Đúng, nhưng thời gian thì chẳng có gì đáng nói, mà sự việc xảy ra tiếp theo mới là chuyện lạ. Em sẽ nghĩ là tôi mê tín – vì trong dòng máu tôi ít nhiều cũng có mê tín – nhưng đó là sự thật, ít nhất thì cũng thật như những gì tôi đã thấy để bây giờ kể lại cho em nghe đây. “Tôi vừa thốt ra mấy tiếng ‘Jane! Jane! Jane!’ thì không hiểu từ đâu bỗng có tiếng trả lời: ‘Em đến đây! Chờ em với!’, nhưng tôi không biết đó là tiếng ai. Và một lát sau lại có tiếng thì thầm trong gió: ‘Ông đang ở đâu?’ Nếu có thể, thì tôi sẽ kể cho em nghe ý nghĩ, cảnh tượng mà những lời nói đó đã gợi lên trong tâm trí tôi, nhưng có điều là rất khó tả lại những gì tôi muốn diễn tả. Như em thấy đấy, Ferndean nằm sâu tít trong một khu rừng rậm, nên mọi tiếng động đều bị chặn lại và tắt dần mà không hề có một tiếng vang nào hết. Câu nói ‘Ông đang ở đâu?’ hình như được phát ra từ giữa những ngọn núi, vì tôi nghe thấy có tiếng đồi núi vọng lại. Lúc ấy, tôi cảm thấy làn gió thoảng qua trên trán mình có vẻ mát lạnh hơn. Tôi có cảm tưởng tôi và Jane đang gặp nhau trong một khung cảnh hoang vu, hiu quạnh nào đó. Về mặt tinh thần, tôi tin chắc rằng nhất định chúng ta đã có sự thần giao cách cảm với nhau. Chắc là vào giờ đó, em đang ngủ không biết gì, Jane ạ, và có lẽ linh hồn em đã thoát khỏi thể xác giam giữ nó để tới an ủi tôi, vì lúc đó


tôi nghe đúng là giọng nói của em. Điều đó cũng chắc chắn như thể hiện tôi vẫn còn đang sống vậy!” Thưa bạn đọc, cũng đúng vào đêm thứ hai, khoảng gần nửa đêm, chính tôi cũng đã nghe thấy tiếng gọi huyền bí kia để rồi đáp lại bằng chính những lời mà ông đã nghe thấy. Tôi lắng nghe ông Rochester thuật lại câu chuyện, nhưng không tiết lộ gì về điều đó. Sự trùng hợp này khiến tôi quá mơ hồ và lo sợ để có thể nói hay bàn luận với ông. Tôi quyết định cứ giữ kín trong lòng để suy ngẫm một mình. - Bây giờ thì em không còn phải ngạc nhiên tại sao tối qua, – ông chủ tôi tiếp tục – khi em đột nhiên xuất hiện trước mặt tôi, tôi lại có vẻ rất khó tin em không phải chỉ là một giọng nói và một ảo ảnh, nghĩa là một cái gì sẽ lặng lẽ tan biến trong hư không như tiếng thì thầm và tiếng vọng của núi đồi đã tan biến đi đêm trước rồi nhé. Bây giờ, tôi sẽ cảm tạ Chúa! Tôi biết mọi việc bây giờ đã khác rồi. Ông bế tôi xuống rồi đứng dậy, kính cẩn bỏ mũ, cúi đầu, đứng lặng yên, đôi mắt không còn ánh sáng hướng xuống đất. Tôi chỉ nghe rõ mấy câu cuối ông nói: - Tôi cảm tạ đấng Sáng tạo ra tôi, vì trong lúc phán xử, Người vẫn tỏ lòng khoan dung với tôi. Tôi cúi xin đấng Cứu thế ban cho tôi sức mạnh để từ nay về sau, tôi được sống một cuộc sống trong sạch hơn quãng đời mà tôi đã để mất! Rồi ông chìa tay cho tôi dắt về nhà. Tôi nắm lấy bàn tay thân yêu ấy áp lên môi một lúc, rồi quàng qua vai tôi. Tôi thấp hơn ông nhiều, nên nguyện là người nâng đỡ và dẫn đường cho ông. Chúng tôi đi vào rừng và trở về nhà.



Chương 38 Thưa bạn đọc, vậy là tôi đã lấy ông Rochester. Lễ cưới của chúng tôi diễn ra thật giản dị, chỉ có ông, tôi, vị mục sư và người phụ lễ. Từ nhà thờ về, tôi chui ngay vào nhà bếp của điền trang – khi bà Mary đang bận nấu nướng, còn ông John thì mải lau chùi đồ ăn – tôi thông báo luôn: - Bà Mary à, tôi và ông Rochester vừa làm lễ cưới sáng nay xong. Cả hai vợ chồng người quản gia thuộc loại người kín đáo và thờ ơ lãnh đạm. Người ta có thể báo một tin quan trọng cho họ bất cứ lúc nào mà không phải lo chói tai, nhức óc và sốt ruột vì những lời bình phẩm và hỏi han ồn ào của họ. Nghe thông báo, Mary trố mắt ngẩng mặt nhìn tôi, tay cầm thìa của bà bỗng đờ ra, cả ông John cũng dừng tay. Nhưng rồi Mary cũng trở lại với con gà đang quay dở và chỉ nói: - Thế hả cô? Chắc là được đấy! Một lát sau mới thấy bà nói tiếp: “Tôi cũng có trông thấy cô đi ra cùng ông chủ, nhưng không biết là hai người đến nhà thờ làm lễ cưới” và rồi lại tiếp tục quay nốt con gà. Tôi quay lại nhìn thì thấy ông John đang cười ngoác miệng đến tận mang tai. - Tôi đã bảo Mary rồi mà. – Ông nói. – Tôi biết ông Edward sẽ làm vậy (John là một người đầy tớ già, biết ông Rochester từ khi ông còn ở địa vị con thứ trong gia đình, cho nên vẫn gọi ông bằng tên thánh). Tôi biết thế nào ông chủ cũng không thể chịu lâu được, nhưng ông ấy làm như vậy cũng phải. Cầu mong cô được hưởng trọn niềm vui, thưa cô. - Cảm ơn ông, Rochester bảo tôi biếu ông và bà Mary cái này. – Tôi nói và đặt vào tay ông tờ giấy năm bảng, rồi không đợi họ cảm ơn, tôi rời khỏi bếp. Một lát sau, khi có việc phải đi qua cửa bếp, tôi nghe thấy họ nói với nhau: “Cô ấy có khi còn tốt cho ông ấy hơn tất cả các bà lớn khác ấy chứ”, rồi: “Cô ấy không đẹp thì cũng tốt tính, và chỉ cần đẹp với ông ấy là đủ rồi”. Sau lễ cưới, tôi gửi thư ngay đến Moor-House và Cambridge để báo tin. Diana và Mary rất tán thành việc tôi làm. Diana nói cô chỉ chờ chúng tôi hưởng xong tuần trăng mật là đến thăm tôi ngay.


- Cô ấy đừng nên chờ đến lúc ấy thì hơn, Jane ạ, – Rochester bảo khi nghe tôi đọc thư – như thế thì chậm quá, vì trăng mật sẽ sáng mãi đến cuối đời chúng ta kia mà, ánh sáng của nó chỉ nhạt nhòa trên nấm mồ của em hay của tôi thôi. St. John đón nhận tin ấy ra sao, tôi không được biết vì không thấy anh viết thư trả lời. Phải sáu tháng sau tôi mới nhận được thư anh, nhưng trong thư không nhắc gì đến tên Rochester cũng như cuộc hôn nhân của tôi. Thư anh viết vẫn tử tế, bình thản, tuy có hơi nghiêm trang. Sau đó, anh vẫn thư đều đặn (nhưng thưa thớt) cho tôi. Anh hy vọng tôi được hạnh phúc và tin rằng tôi không thuộc hạng người sống thiếu đức tin ở Chúa, chỉ biết nặng đầu vì những điều trần tục. Thưa bạn đọc, chắc bạn cũng chưa hoàn toàn quên cô bé Adèle? Tôi cũng vậy, tôi đã hỏi và được Rochester đồng ý cho sớm đến trường thăm nó. Khỏi phải nói cô bé đã mừng rỡ như thế nào khi gặp lại tôi, khiến tôi cũng không khỏi xúc động. Nhìn nó gầy và xanh quá! Nó bảo nó thấy buồn khi ở trường. Tôi thấy các quy định của nhà trường quá hà khắc, chương trình học cũng quá nặng đối với một đứa trẻ ở tuổi nó. Vì vậy tôi phải đem nó về nhà, những mong sẽ lại làm bảo mẫu cho nó một lần nữa. Nhưng tôi đã sớm nhận thấy là không thể được, vì bây giờ thời gian và sự chăm sóc của tôi đều phải ưu tiên dành cho một người khác, ấy là chồng tôi. Vậy là tôi lại đành phải tìm một trường khác có hệ thống giáo dục thoáng hơn và ở gần nhà hơn, cho phép tôi có thể đến thăm nom nó và thỉnh thoảng đón nó về nhà chơi. Và tôi cũng cố gắng không để nó thiếu thốn một thứ gì có thể làm cho nó được thoải mái. Adèle đã sớm thích nghi với mái trường mới, nên nó rất vui và đạt nhiều tiến bộ trong việc học hành. Nó lớn dần lên, và có vẻ như nền giáo dục lành mạnh của người Anh đã uốn nắn cho nó nhiều khuyết tật của người Pháp. Khi nó rời khỏi nhà trường, tôi thấy nó thực sự trở thành một người bạn biết sống và dễ bảo, tốt tính và lễ phép của tôi. Bằng sự quan tâm chân thành đối với tôi và người thân của tôi, nó đã đền đáp lại chút lòng tử tế mà bấy lâu nay tôi vẫn dành cho nó trong phạm vi khả năng của mình. Câu chuyện tôi kể cũng đã đến đoạn kết, chỉ xin nói đôi lời về cuộc đời làm vợ của tôi và vắn tắt lại số phận của những người mà tên tuổi thường được nhắc đến trong câu chuyện này, sau đó tôi xin dừng bút. Vậy là tôi đã lấy chồng được mười năm. Tôi hiểu thế nào là sống trọn cho tình yêu và sống với người mình yêu nhất trên đời. Tôi tự cho mình đã


được sống cực kỳ hạnh phúc, hạnh phúc vượt ra ngoài khả năng diễn tả của ngôn ngữ, bởi tôi là cuộc đời của chồng tôi, hoàn toàn như ông là cuộc đời của tôi. Tôi chưa bao giờ cảm thấy mệt mỏi khi sống với Edward, và ông cũng cảm thấy như vậy, do đó lúc nào chúng tôi cũng ở bên nhau. Đối với chúng tôi, sống bên nhau vừa có nghĩa là tự do như khi sống một mình, lại vừa có nghĩa là vui vẻ như khi sống cùng bạn bè. Tôi nghĩ chúng tôi có thể nói chuyện với nhau suốt ngày được. Trò chuyện đối với mỗi chúng tôi chỉ là một cách suy nghĩ sinh động hơn và được thể hiện thành lời mà thôi. Tôi gửi gắm trọn vẹn niềm tin của mình nơi ông, và ông cũng hoàn toàn đặt niềm tin ở tôi. Chúng tôi sống rất hợp nhau về tính cách, và kết quả là chúng tôi có một cuộc sống thực sự hòa thuận. Rochester vẫn tiếp tục bị mù sau hai năm đầu chung sống với tôi. Có lẽ chính vì hoàn cảnh ấy mà chúng tôi gần gũi nhau hơn, vì khi đó tôi là mắt, cũng như giờ đây vẫn còn là cánh tay phải của nhà tôi. Nói một cách văn vẻ thì khi ấy tôi còn là con ngươi của mắt ông (như ông thường bảo). Dù ngắm cảnh hay đọc sách, ông đều thông qua tôi. Chẳng bao giờ tôi cảm thấy chán vì phải thay ông nhìn ngắm phong cảnh thiên nhiên và thời tiết, rồi tả lại bằng lời nói cảnh ruộng vườn, cây cối, thành thị, sông hồ, mây bay, nắng chiếu v.v... Cũng chẳng bao giờ tôi thấy chán vì phải đọc sách cho ông nghe, hoặc dắt ông đi những chỗ ông thích đi, làm những việc ông muốn làm. Ngược lại, mỗi khi giúp ông, tôi lại cảm thấy mình đang được hưởng một niềm vui trọn vẹn nhất, tuyệt vời nhất. Ông yêu tôi bằng một tình cảm rất chân thành, chẳng bao giờ ông tỏ ra ngại ngùng khi bảo tôi giúp đỡ. Ông cảm thấy tôi cũng yêu ông rất nhiệt thành, nên có tận tụy giúp đỡ ông cũng là niềm mong mỏi của tôi. Thế rồi vào một buổi sáng cuối hai năm ấy, khi đang đọc cho tôi viết hộ một lá thư, ông chợt bước lại gần bên tôi và cúi xuống, nói: - Jane, em đang đeo một vật trang sức óng ánh quanh cổ, đúng không? - Vâng. – Tôi trả lời, vì quả thực là tôi có đeo một sợi dây chuyền vàng. - Em mặc chiếc áo váy màu xanh nhạt, đúng không? Đúng là tôi đang mặc chiếc váy đầm như thế. Lúc đó ông mới cho tôi biết là ít lâu nay, ông có cảm giác cái đám mây đen che một bên mắt ông đã bớt dày đặc đi, và bây giờ thì ông tin chắc là như thế.


Ngay sau đó, tôi và ông đã cùng lên Luân Đôn, đến nhà một bác sĩ nhãn khoa nổi tiếng để chẩn đoán bệnh, và dần dần một bên mắt ông đã được trả lại nguồn ánh sáng. Mặc dù bây giờ vẫn chưa nhìn được rõ lắm, cũng không thể viết hay đọc được nhiều, nhưng ông đã có thể đi lại một mình mà không cần ai dẫn dắt, và bầu trời cũng như mặt đất đối với ông không còn là một khoảng trống rỗng nữa. Khi ẵm đứa con đầu lòng trong tay, ông đã có thể nhìn thấy đứa bé được thừa hưởng chính đôi mắt của ông khi xưa: chúng to, sáng và đen láy. Tôi và Edward đều cảm thấy rất hạnh phúc, và điều đó càng được nhân lên gấp bội khi những người chúng tôi yêu quý nhất cũng đều được yên ấm. Diana và Mary Rivers đã lấy chồng. Mỗi năm một lần, họ lại đến thăm chúng tôi, và chúng tôi cũng đến thăm họ. Chồng Diana là một thuyền trưởng hải quân, một sĩ quan hào hiệp và là một người rất tốt. Chồng Mary là một tu sĩ, bạn đồng môn của anh trai cô. Cuộc hôn nhân của Mary kể cũng xứng đáng, vì chồng cô là người thành công trong sự nghiệp và sống có đạo. Cả thuyền trưởng Fitzjames và mục sư Wharton đều rất yêu vợ và cũng rất được vợ yêu. Còn về St. John Rivers, anh đã rời nước Anh để đến với Ấn Độ. Anh đã dấn thân theo con đường anh đã tự vạch ra cho mình, và bây giờ vẫn tiếp tục theo đuổi con đường ấy. Anh không lấy vợ, và sẽ chẳng bao giờ lấy vợ được nữa. Từ trước đến nay, anh đã một mình làm tròn bổn phận cơ cực của mình, và bổn phận ấy đã gần đến ngày chấm dứt. Vầng ánh dương vinh quang của anh đã thấm thoắt ngả về chiều tàn. Bức thư cuối cùng anh gửi đã khiến tôi không kìm được những giọt nước mắt rất nhân bản, và lấp đầy trái tim tôi bằng một niềm vui thần thánh. Anh đang chờ đợi cái phần thưởng bất diệt và vòng hoa vĩnh hằng. Tôi biết rằng sẽ có bàn tay của một người xa lạ nào đó viết gửi tôi một lá thư, báo cho tôi biết bề tôi tốt bụng và trung thành ấy cuối cùng đã được vời đến chia sẻ niềm vui của Chúa. Thế thì tại sao lại phải khóc vì điều đó chứ? Giờ phút cuối cùng của St. John hẳn sẽ không bị u tối bởi nỗi sợ thần chết, tâm hồn anh sẽ không bị vẩn đục, trái tim anh sẽ vẫn là một trái tim can trường, hy vọng của anh chắc chắn sẽ trở thành hiện thực, đức tin của anh sẽ được giữ vững. Lời nói của chính anh là sự đảm bảo cho những điều đó: - Chúa tôi đã báo trước cho tôi. Mỗi ngày trôi qua, Người lại nhắc lại rõ ràng hơn: “Chắc chắn là ta sẽ đến ngay!”, và hàng giờ tôi lại đáp lại tha thiết hơn: “Amen, vâng, Chúa Jesus, vậy thì xin Người hãy tới!”.


[1] [2] [3] [4]

Pamela, của nhà văn Samuel Richarsơn Henry, bá tước xứ Moreland của John Wesley Có thể Charlotte Bronte ám chỉ thành phố Leeds

đứa con gái: tính cách của nhân vật Helen Burn được dựa theo tính cách người em gái của Charlotte Bronte, Maria, người đã chết vì bệnh lao khi mới lên bảy tuổi. Charlotte thường nhấn mạnh rằng bà không hề phóng đại tính cách của nhân vật Helen. [5] “Rasselas”: tên một tác phẩm của nhà văn Anh Samuel Johnson (1759). Các nhân vật của Johnson thường là hiện thân cho nhiều vấn đề, rất gần với các cuộc nói chuyện giữa Helen và Jane về hạnh phúc và “cuộc sống tốt đẹp”. Cũng như Helen, công chúa Nekayah của Johnson từng nói: “Đối với tôi… lựa chọn cuộc sống là một điều ít quan trọng; hy vọng rằng kiếp sau tôi chỉ phải nghĩ đến một lựa chọn vĩnh hằng mà thôi.” [6] vải mỏng [7] 1 thước (Anh) = 0,9144 m [8] Felix, hồi 24, Kinh thánh: một quan tòa thường hoãn các quyết định lại, “chờ đến mùa thuận lợi hơn”. [9] (Ngày thứ Bảy theo Do Thái giáo, Chúa nhật theo Công giáo) [10] Ba bộ = 0,9144 mét. [11] Theo Kinh thánh, ở Jerusalem có một vùng hồ tên là Bethesda mà nước của nó có thể chữa lành mọi bệnh tật. [12] Etre: thì, là... [13] Barmecide supper: bữa tối tưởng tượng trong tâm trí. [14] Albert Cuyp (1620 – 1691) là một họa sĩ Hà Lan chuyên vẽ phong cảnh. [15] Một loại hoa màu trắng (họ thủy tiên) nở vào mùa xuân ở Châu Âu [16] Hồi sinh. [17] Điệu Van-xơ. [18] Một loại xe ngựa thô sơ, có hai bánh. [19] Thornfield: nghĩa là “cánh đồng cây gai”. [20] Cô giáo của tôi đấy à? [21] Vâng, đúng rồi! [22] Đồng minh chuột, ngụ ngôn của La Fontaine. [23] Tạm dịch: “Vậy chúng bay có gì? – Một con trong bọn chuột ấy hỏi – Trả lời đi!” [24] Thưa các bà, bữa đã dọn sẵn chờ các bà! Tôi thấy đói lắm rồi! [25] “Sớm về nhé, người bạn tốt bụng, cô Jane bé nhỏ của em.” [26] Gytrash: một nhân vật hoang đường trong chuyện dân gian của miền Bắc nước Anh. Branwell Brontee (Anh) viết rằng Gytrash thường đội lốt một con vật, ví dụ một “con bò hung ác” hoặc một “con chó đen to lừng lững”. Xem Winifred Gerin, Branwell Brotee (1961), Tr.136. [27] Dị thường: ý trong chuyện là một sự thông minh hơn hẳn những gì người ta có thể mong đợi ở một con chó. [28] Như thế có nghĩa là trong đó sẽ có một gói quà dành cho em và có thể cho cả cô nữa, thưa cô. Ông ấy đã gợi chuyện về cô, đã hỏi em cô tên gì và cô có phải là một người nhỏ nhắn, hơi mảnh mai và có nước da tai tái không. Em


trả lời là phải: bởi cô là như thế, đúng không ạ? [29] Trong hòm của ông có một gói quà cho cô Eyre, đúng không ạ? [30] Hòm nhỏ [31] Cái hộp của tôi! Cái hộp của tôi! [32] Ôi, trời ơi! Đẹp thế chứ! [33] Nguyên văn: “máu đặc hơn nước lã”. [34] Mình phải thử ngay mới được! [35] Áo em mặc có vừa không?... Cả giày và bít tất nữa? Nào, em thử múa xem nhé! [36] Thưa ông, cháu xin ngàn lần cảm ơn tấm lòng của ông... Cũng giống như mẹ cháu vẫn làm, đúng không ông? [37] Đúng thế. [38] Đam mê cuồng nhiệt. [39] Thân hình lực sĩ. [40] Người tình cũ [41] Vẻ đẹp đàn ông [42] Miền giáp giới thiên đường [43] – Cô bị làm sao thế, thưa cô? Tay cô run run cứ như tàu lá ấy, cả hai má cũng đỏ nhừ ra kia kìa: đỏ như quả anh đào ấy! [44] “Họ đang thay đồ đấy, ở nhà mẹ em, khi nào có khách, em đều theo họ đi khắp nơi, đến phòng khách và vào cả phòng họ. Em thường xem các cô hầu phòng chải tóc và mặc áo cho quý bà, thích lắm nhé! Như thế mới học được chứ.” [45] Có chứ, thưa cô. Chúng ta chưa được ăn gì suốt năm, sáu tiếng rồi còn gì. [46] Như thế thì tiếc lắm! [47] Cô à, em có thể lấy một bông hoa xinh xắn kia được không? Em chỉ muốn cài lên áo thôi mà. [48] Vẻ mặt xinh xắn trẻ thơ, nhưng lại có nét mặt mỏi. [49] Xin kính chào các quý bà! [50] Mặc kệ! [51] David Rizzio, ca sĩ người Ý, là cận sự và cũng là người tình của Mary, hoàng hậu Xcốt-len; đã bị người chồng thứ hai của hoàng hậu Mary là Darnley chủ mưu sát hại [52] Bá tước Bothwell, tức James Hepburn, chồng của hoàng hậu Mary [53] Cướp biển: tên một tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Anh Byron (1814) [54] Bridewell: tên một nhà tù nổi tiếng thế kỷ 19 ở Luân Đôn. Cảnh cưới trong màn kịch đầu tiên ám chỉ “cô dâu” (bride); cảnh xiềng xích ám chỉ nhà tù Bridewell. [55] Kẻ cướp Levantine: một tên cướp biển trong thơ Byron. Anh hùng hảo hán (Anh, Ý) cũng là chủ đề quen thuộc trong các tác phẩm văn học giả tưởng lãng mạn thế kỷ 18 và 19. [56] Gipxy: những kẻ lang thang. [57] Nhìn kìa, ông Rochester về kìa! [58] Một miền đất ở ven biển Caribê


[59] [60] [61] [62]

Nhắc lại câu kết trong Hội chợ phù hoa (Vanity Fair) của Thackeray. ý nói lâu đài Thornfield Nghìn lẻ một đêm. Phần hướng dẫn phải làm một điều gì đó như thế nào.

[63]

Chào buổi tối tốt lành [64] Một câu trong tiểu thuyết Người đàn bà Thổ Nhĩ Kỳ của Thomas Compbell, tả cảnh mặt trời vừa lặn nhường chỗ cho ánh trăng sắp lên. [65]

Hạt cải vàng: tên một câu chuyện trong truyện cổ tích “Một giấc mộng đêm hè” của Anh.

[66]

Tên một ông vua giàu có trong Kinh thánh, sống ở thế kỷ thứ 6 Tr. C.N, đã lập J. Esther làm nữ hoàng và hứa sẽ thực hiện ý nguyện trao cho bà một nửa vương quốc của mình. [67] Nghĩa trong bài là cô Jane Eyre [68] [69]

Một tộc người ở West Indies

Một loài cây có nhựa rất độc ở đảo Java. Người dân địa phương thường lấy nhựa cây sui tẩm vào mũi tên để sử dụng trong các cuộc hỗn chiến [70] Một nữ hoàng La Mã nổi tiếng dâm đãng [71] Một điển tích trong Kinh thánh: người vợ Lot đã hóa đá vì ngoái nhìn lại sau khi bỏ trốn khỏi kinh thành [72] Một thiên thần xinh đẹp và tốt bụng trong truyền thuyết Ba Tư [73] Shielffield [74] có lẽ Charlotte Bronte định nói đến vụ nổi dậy của Luddite năm 1812 ở miền Bắc nước Anh [75] tiếng Latinh: người có tính cách khác thường [76] Nghĩa đen của chữ Rosamond [77] Thế thì có gì hay chứ? [78] Chỉ đức tin Cơ đốc giáo [79] Một nhân vật vụ lợi trong Kinh Thánh [80] Hai nhà truyền giáo thoát khỏi cảnh tù đày nhờ trận động đất (Kinh thánh). [81] Một ông vua ở Babylon từng bảy năm sống trong rừng cùng với thú vật. [82] Theo Kinh thánh, vua Saul bị ma ám, phải nhờ một chàng chăn cừu tên là David dùng thụ cầm giải cho. [83] Vẫn còn trẻ [84] Trong thần thoại Hy Lạp, Apollo là thần thi ca và nghệ thuật, có thân hình đẹp lý tưởng; còn Vulcan là thần thợ rèn, thọt chân, đã xấu xí lại hay ghen.


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.