Người Việt Tự Ngắm Mình - Nguyễn Hoàng Đức

Page 1

1

NGƯỜI VIỆT TỰ NGẮM MÌNH (Nguyễn Hoàng Đức)

Mục lục I. Lý do để cuốn sách này có mặt - Nhìn người mà ngẫm đến ta “Anh em khinh trước, làng nước khinh sau” Tự xét đoán để khỏi bị xét đoán Không có quan toà nào lớn hơn ta cả “Yên Quốc rồi mới yên gia” Làm việc thì dễ, làm người mới khó

II. Thước để ngắm mình Thành thật là nội dung thật của mọi hạnh phúc ở đời Phân biệt minh bạch trật tự, và phán xét là điều kiện tất yếu cho mỗi cá nhân và xã hội phát triển Sở trường là con đường phát huy cao nhất, là sở thích đạt tới hạnh phúc lớn nhất của cá nhân Ba phần của cơ thể đầu, tim, dạ dày tương ứng với ba cấp độ làm người Sức khoẻ, trí tuệ, điều độ, khoan dung, và công lý là bốn điều kiện sống tất yếu của mỗi cá nhân, cũng như xã hội

III. Đào luyện con người Đạo đức là thói quen về điều thiện Mặc cảm tự ti Phản tỉnh căn tính “nô bộc”


2

IV. Nhìn người mà ngẫm đến ta

V. Tự ngắm mình 1. Ngồi xổm 2. Đi đất 3. Mặc quần áo ngủ ra đường 4. Văn hay chữ tốt không bằng ngu dốt lắm tiền 5. Dở ông dở thằng, làm thầy không nổi làm tớ cũng chẳng xong 6. Ăn đói nằm co còn hơn ăn no vác nặng 7. Ăn nhanh, đi chậm, đái đường, hôn bụi dậm 8. Ăn xó mó niêu 9. Ăn vặt, khôn vặt, dâm vặt, gian vặt 10.Phép vua thua lệ làng 11.Người khôn ăn nói nửa chừng, làm cho kẻ dại nửa mừng nửa lo 12.Cả vú lấp miệng em - Còi to cho vượt 13.Ngậm miệng ăn tiền 14.Tâm khẩu bất đồng: Khiêm tốn vờ - kiêu hãnh lén - Khen vờ - chê giả 15.Được ăn, được nói, được gói mang về 16.Một trăm cái lý không bằng một tý cái tình 17.Gia trưởng độc đoán 18.Ích kỷ, đố kỵ. trâu buộc ghét trâu ăn 19.Nịnh trên, đạp dưới, đá ngang 20.Tính khí thất thường: mai nắng - trưa mưa - chiều nồm 21.Đầu voi đuôi chuột 22.Thể hiện nhiều, thực hiện kém

VI. Tổng quát


3

I. Lý do để cuốn sách này có mặt Nhìn người mà ngẫm đến ta Dân hai nhăm triệu ai người lớn Nước bốn ngàn năm vẫn trẻ con Tản Đà Đầu thế kỷ XX, thi sĩ Tản Đà là một cây bút thông kim bác cổ, thạo cả Đông học và Tây học, trong tham chiếu tầm vóc của nhân loại, đã đưa ra nhận xét thẳng thắn trên. Nghĩ cho sâu, thấy rằng, thi sĩ, học giả Tản Đà là một người rất yêu quê hương giống nòi. Ông là tác giả của bài thơ “Thề non nước”: Nước non nặng một lời thề Nước đi, đi mãi, không về cùng non ... Dù cho sông cạn đá mòn Còn non còn nước, hãy còn thề xưa. ... Nghìn năm giao ước kết đôi Non non nước nước không nguôi lời thề

Vậy mà ông phản tỉnh dân tộc một cách thẳng thắn như vậy, chúng ta không thể nào xem nhẹ. Tầm vóc trí tuệ một dân tộc đã phát triển chín chắn được đo bằng cái gì? Nhìn sang Ấn Độ thế kỷ XX, thánh Gandhi còn dậy dân ấn phải có phẩm chất độc lập để sống trong độc lập. Lãnh tụ Tôn Trung Sơn huấn luyện nhân dân bằng “Chủ Nghĩa Tam Dân” để mở màn bước vào thời đại mới, hay Dân tộc Nhật Bản còn đang lo củng cố phong trào “Minh trị Duy tân”... Tầm vóc trí tuệ cao nhất của một dân tộc được đo bằng khả năng luận lý của họ! Chính vì vậy mà qua nhiều đại hội quan trọng, qua nhiều phương tiện thông tin, chính phủ cùng các cơ quan hữu quan của ta đã cảnh báo: “công tác lý luận ở ta còn yếu kém”. Đã sang thiên niên kỷ thứ III, từ hạt nhân mà thi sĩ Tản Đà đã gieo hạt, có lẽ rất cần thiết để chúng ta nhìn nhận “cái hay - tật xấu” của người Việt bằng con mắt luận lý. Bởi nếu dân tộc, trước hết là đội ngũ trí thức không nhìn thấy thì dân gian sẽ nhìn thấy bằng cách ám thị và phiếm chỉ, rồi người bên ngoài cũng không thể đứng ngoài hoàn cảnh - đòi nhận xét chúng ta.


4

Mới đây có một câu chuyện tiếu lâm bàn về tầm vóc chưa thành quý ông của người Việt rằng. ở quán karaoke kia, có các em mắt xanh mỏ đỏ chuyên nghề “đưa người cửa trước, rước người cửa sau” tâm sự rằng: “Có nhiều người đến với chúng em, ô tô có, xe máy có, xích lô có, thương gia có, học giả có, quan chức có. Mới đầu, ngoài cửa chúng em gọi họ là “các ông”, “các chú”, “các bác”. Khi vào đến bên trong rồi thì chúng em gọi tất cả bọn họ là “anh”. Nhưng khi xong xuôi, tiễn họ về thì chúng em coi tất cả bọn họ chỉ là “thằng” Như vậy trong mắt các em, một bộ phận đàn ông, dù ông hay bác, dù học cao hay học thấp, dù giầu hay nghèo, dù chức to hay chức nhỏ, vẫn chưa thấy các “quý ông”, mà mới chỉ thấy các “quý thằng” đem ví ra đổi lấy thú vui da thịt. Để hiểu thêm điều này, một lần, có một nhạc sĩ sau khi đi thư giãn “giọng hát vàng” cùng “bàn tay vàng” trong một quán karaoke về tâm sự cùng tôi: Con người nếu không cẩn thận, thì càng già lại càng thụt lùi thành đứa trẻ con nhiều tuổi. Thử ngẫm mà xem lúc trẻ lao vào học hành, trong đầu ôm bao nhiêu hoài bão cùng lý tưởng. Về già, khi có cả tiền, cả danh, cả quyền lại chỉ lo du hí những trò chơi của một thân xác co rút lại, thì có nghèo nàn về tâm hồn không? Ăn nhiều, uống lắm, suốt ngày có phải chỉ lo thêm cho chiếc dạ dày? “Hát mỏi tay” trên làn da của các em, có phải cách chỉ bố xung cho thận? Còn lại đời sống của tâm hồn hay trí tuệ thì nằm ở góc nào? Nếu không có đời sống của tâm hồn, chỉ có đời sống cho bản năng, thì không chỉ 4.000 năm, mà có thể đến cả 4 triệu năm, chúng ta vẫn chưa thoát ra khỏi vòng thơ ấu Vì như các nhà triết học và sinh học đã chắc chắn thừa nhận: Bản năng không bao giờ thay đổi, chỉ có duy trì và bảo tồn. Duy nhất chỉ có lý trí mới phát triển và tiến bộ. Lý luận là chặng phát triển cao nhất của trí tuệ. Vậy mà nhìn vào đời sống tri thức cũng như văn hoá của chúng ta hiện nay, thấy đâu đâu cũng nhan nhản các hội thơ về hưu, hội thơ xã, hội thơ chị em, hội thơ thanh xuân... Ngay Tết Nguyên tiêu Quý Mùi vừa qua, tại Văn Miếu Hà Nội, đã diễn ra “Ngày thơ Việt Nam”, hay còn gọi là “lễ hội thơ”. Nhiều tờ báo đã đăng tải ngày lễ buồn đến vạ vật của thơ, không có khán giả, chỉ có vài nhà thơ không phân biệt cấp quốc gia hay làng xã, ra ra vào vào, đọc mấy vần thơ tẻ nhạt. Báo “An ninh Thế giới” ra ngày 20/2/2003, viết bài “Nàng Thơ cũng nhạt, phản ánh rõ ngày hội không đủ sinh khí thở hiu hiu của các nhà thơ xứ ta. Tại sao, “Kễ thờ” diễn ra ở một nơi trang nghiêm nhất, thậm chí được kéo cả cờ thơ, nghĩa là được Nhà nước và nhân dân ưu đãi mọi lẽ mọi đàng, mà lại chỉ có niềm vui rặt rẹo đến vậy? Câu trả lời là: - Thứ nhất: Lễ hội là sinh hoạt làng xã đến thế kỷ XXI sẽ không mấy thích hợp với các nhà thơ được mệnh danh là ngành chữ nghĩa. Chữ nghĩa thì phải đem giáo hoá, đem sống giữa cuộc đời bằng những “giáo luật” sáng tác từ não, từ tim một cách nghiêm cẩn. Đằng này, các nhà thơ không chịu khó leo lên tháp ngà đó (đa số rất thiếu chuẩn bị về học vấn và văn hoá), đành lui xuống “chơi thơ” theo lối lễ hội làng. Than ôi, lễ hội làng thật, còn diễn trò nọ trò kia cho người đến xem, như người đời bảo “có tích mới dịch lên trò”. Đằng này các nhà thơ chẳng có thứ “tích” nào ngoài vài câu văn vần mang nặng cảm tính hoa - lá - cỏ vụn vặt, thì hòng gì diễn lên trò. Lại chỉ có lối khoe khéo khoe khôn xếp vần vặt vãnh thì làm sao có người đến xem cho nổi?


5

- Thứ hai: Triết gia Hegel cho rằng: Một cuộc họp mặt muốn thành công chí ít phải có một diễn văn hay. Diễn văn - nghĩa là tính tư tưởng, hoặc tính “Đề tài” phải nổi lên mạnh mẽ và cuốn hút. Nhưng làm sao nổi? Vào lúc này, độc giả thừa biết, các nhà thơ lổn nhổn được cả nước, cả dân tộc cưng chiều từ trung ương đến làng xã, không có đủ trình độ đúc kết mấy vần thơ cảm xúc thành “đề tài”. Vì thế mà tại “lễ thơ”, khi dân tộc đã giành cho các nhà thơ mọi điều kiện ưu đãi nhất, họ cũng không thể “có bột mà gột lên hồ”. Nền văn hoá của một dân tộc nếu mới chỉ lấy nền thơ chung làm đỉnh điểm thì chưa thể có nhận thức trưởng thành. Không chỉ với thơ, nhìn qua kịch bản “Màn ảnh du lịch” ở xứ ta thì thường thấy. Mở màn ống kính quay núi non hùng vĩ, sông duyên dáng, thành phố cổ kính; rồi sau đó là các cô gái trẻ đi bộ hoặc thong dong đạp xe cả nhóm... Điều đó nói lên cái gì? Trong các chương trình giới thiệu của thế giới, mở màn người ta sẽ quay những quang cảnh thuộc “văn hoá vật thể” tức các công trình kiến trúc: quảng trường, nhà thờ, nhà hát... Sau đó sẽ quay về các văn hoá “phi vật thể” thuộc giá trị của lịch sử, tinh thần, hay danh nhân. Vậy mà nếu chúng ta không biết phô mình, thì thành phố dù cổ kính rêu phong đến đâu, rút cục chẳng có gì trưởng thành để khoe, ngoài vài cô gái chưa có gì nhiều hơn “vốn tự nhiên”. Khi thi sĩ Tản Đà nhìn ra: Dân hai nhăm triệu ai người lớn Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con thì có cay nghiệt, quá quắt không? Ngay Trung Quốc là một cường quốc về dân số và lịch sử, vậy mà trong cuốn “Chủ Nghĩa Tam Dân” của mình, lãnh tụ Tôn Trung Sơn cũng nói. ở Trung Quốc, mới chỉ có các cuộc chiến tranh liên miên giành đất, giành ngôi báu, và giành đàn bà, mà chưa có các cuộc chiến tranh giành tư tưởng và tôn giáo. Đất đai, ghế ngồi, đàn bà mới chỉ là những quyền lợi cho bản năng, chưa thể là những lý do chứng tỏ sự trưởng thành của những con người chín muồi về tư tưởng. Thiết nghĩ, cái nhìn của Tôn Trung Sơn rất gần gũi với dân tộc Việt Nam, và như vậy chúng ta không nên quá ngạc nhiên trước cái nhìn của thi sĩ Tản Đà. Và tôi viết cuốn sách này, mục đích của nó là mong ngụp lặn về chiều dọc - chiều sâu cỗi rễ của dân tộc, “gạn đục khơi trong” mong được cùng dân tộc có ngày gầy đây được khải hoàn ca trên quảng trường Tiến bộ - Lương tri Nhân bản, sánh vai cùng những bước chân hàng đầu của toàn nhân loại.


6

1 “Anh em khinh trước, làng nước khinh sau” Có một nhà tư tưởng nói: “Một dân tộc không biết xấu hổ về mình thì chẳng thể khiến mọi người tôn trọng”. Điều này thật không thể tranh cãi! Một dân tộc là tầm vóc bao trùm của một quốc gia, gồm nhiều tộc người, nhiều hạng người, nhiều cá nhân, vậy mà dân tộc đó còn không biết tự soi lấy mình, thấy cái dở để tránh, thấy cái hay để học, thì làm sao có thể là môi trường sống kiểu mẫu cho các công dân của nó? Từ lâu đời, theo gốc Hán tự, người Việt vẫn nói, loại người không biết xấu hổ, chỉ là hạng “Vô sỉ” - tức không biết sỉ nhục, thì chỉ là hạng “vô lại” - không thành người được, cũng không đáng kể gặp lại. Người Trung Hoa còn lý giải rằng: Tri tuệ bất nhục Tri sĩ bất đãi Nghĩa là: Nếu hiểu biết thì sẽ không bị nhục. Nếu biết cái xấu hổ sẽ không bị ngược đãi. Từ cổ chí kim, từ Đông chí Tây, từ Ai Cập vòng qua Hy Lạp, đến La Mã, đến vùng Lưỡng Hà, đến Trung Quốc, rồi vòng qua châu Mỹ của người da đỏ, các dân tộc đều hình thành một lẽ sống khởi đầu đạo đức rằng: biết thẹn là giường mối đầu tiên của đạo - hạnh. Đơn giản như một thiếu nữ, nếu không hề biết thẹn về sự hở hang cơ thể của mình, thì làm gì mong với được đến đức trinh tiết? Một người đàn ông không biết xấu hổ về sự nhút nhát của mình, làm sao có được lòng dũng cảm? Một người không biết xấu hổ về sự dốt nát của mình, chẳng muốn vươn lên, cố gắng học hỏi, sao có được ngày trở thành thông tuệ? Người Việt có câu “Anh em khinh trước làng nước khinh sau”. Điều đó diễn tả, nếu trong nhà, tức “đơn vị gia đình hạt nhân”, còn chưa xây dựng nổi trật tự sống, quy củ sống, cách ăn, nết ở gương mẫu, trong nhà còn ẩu đả hỗn loạn, không có chữ Nhân, chẳng có chữ Hiếu, cũng không với được chữ Đức, khinh nhau như mẻ, cha không từ, con không hiếu, chữ Hiếu không tòng (chữ Trung - tức những giá trị công lý của quốc gia và nhân loại bị xem thường, không tìm thấy nổi một kẽ hở để rót ánh sáng vào), gia đình ấy bịt bùng trong bóng tối “giá áo túi cơm” của chính mình, không hắt ra khỏi cửa bất kỳ tia sáng phẩm chất, danh dự, sự tốt lành, tri thức, vinh quang nào... làm sao có thể để mọi người tôn trọng được? * *

*

“Anh em khinh trước làng nước khinh sau” câu phương ngôn này của dân tộc ắt phải là một lẽ sống không thể nào chối cãi. Giờ đây, dân số nước ta đang tiến gần đến con số một trăm triệu (đứng hàng thứ 14 trên 192 nước thế giới), có thể coi như một cường quốc về dân số, nhưng thu


7

nhập bình quân đầu người, nền kinh tế quốc dân, cũng như trình độ văn minh nói chung còn đang ở tốp cuối. Vậy “đây là lúc, có lẽ chẳng sớm sủa gì, khi chúng ta nên cùng nhau nhìn lại những “cái sỉ” của dân tộc, gạt cái xấu, cái bẩn qua một bên, làm cơ thể tự nhiên sạch sẽ và tốt đẹp. Người Việt có một câu hát mà ai cũng thích, nếu không thích thì cũng không thể nào không chấp nhận, đó là: “Quê hương nếu ai không nhớ Sẽ không lớn nổi thành người”. Tại sao chương I của cuốn sách này lại có đề mục “Lý do để cuốn sách này có mặt”? Vì viết về quê hương là viết về cùng một lúc chiếc nôi lớn, nôi vừa, nôi bé... nôi nước, nôi thôn, nôi làng, nôi xóm, nôi lọt lòng từ giữa bầu thai của mẹ, đó là một chiếc nôi ken dầy đặc tầng tầng lớp lớp nơi chôn nhau cắt rốn của mỗi người, vì vậy dường như ai cũng ái ngại, thậm chí lảng tránh nói về nó. Giống như một đứa con đi xa về quê, chỉ giành cho chú - bác - cô - gì họ mạc những nụ cười thân mật, mà rất ngại nói thẳng sợ rằng “sự thật mất lòng”. Nhưng đó mới chỉ là tình cảm máu mủ ruột rà thông thường, chưa phải là tình cảm của lương tri, mong gia đình, họ mạc, xóm giềng, quê hương, tổ quốc “lau sạch những tì vết” dù cho phải “thuốc đắng dã tật”, để tác thành một tầm vóc lớn của tri thức, danh dự và sự hùng cường. Để làm người có liêm sỉ, chắc hẳn con đường tiên quyết không thể nào khác được, đó là phải biết tự xét mình. Từ thời cổ đại Hy Lạp trong đền thờ Delphes đã ghi câu phương ngôn “Hãy tự hiểu mình” (connais toi - toi même). Để dạy người ta hãy nhìn lại chính mình, để phản tỉnh, ngõ hầu thấy cái sai mà sửa. Tại ấn Độ, Đức Phật Thích Ca cũng đã phát ra phương ngôn “Hãy tự giác ngộ mình” rồi sau đó mới có thể giác ngộ người khác. Còn người Việt vẫn nói một câu cửa miệng: “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. Dăn dạy người ta, bất cứ việc gì, trước hết hãy tự xét mình - xem có đáng trách không, sau đó hãy xét đến người khác. Vì khi ta xét mình, mở đầu ta đã thiết lập cái “biết sỉ” về đạo đức của mình, đó cũng là Tự trọng, và là danh dự. Đó là cách tự làm hùng mạnh chính mình. Muốn người khác trọng ta, trước hết ta phải biết “tự khinh”, gột rửa mọi cái “đáng khinh” thành cái “đáng trọng”, thì hiển nhiên, người đời sẽ nhìn ta cách tôn trọng. Đó không phải là Tự ti, mà là Tự trọng. Trái lại, nếu ta tự vênh vênh vác vác nâng mình lên trong tư thế Tự tôn, không tự gạn lọc những cái thấp hèn của mình, để nó bày ra trước mắt thiên hạ, thì làm sao tránh nổi con mắt khinh thị của người đời. Kinh Thánh có câu rằng: “Kẻ nào nâng lên sẽ bị hạ xuống, kẻ nào hạ xuống sẽ được nâng lên”, đó là ý nghĩa của việc Tự hạ - Tự xét mình lại được nâng lên; trái lại muốn Tự tôn - lờ đi việc xét mình lại bị hạ xuống. Ngắm cái gương của thiên hạ, gần ta nhất, không đâu đông dân như Trung Quốc, cũng chẳng đâu tự tôn như Trung Quốc đã từng coi mình là thiên tử, trung tâm của thiên hạ, vậy mà họ cũng đã xét mình qua cuốn sách “Người Trung Quốc xấu xí”. Chẳng đâu giầu như Nhật Bản (thu nhập đứng thứ nhì thế giới) vậy mà họ cũng đã xét mình qua cuốn sách “Người Nhật xấu xí”. Bên kia Đại Tây Dương, một nước Mỹ, kinh tế hùng mạnh, khoa học tiên tiến hàng đầu, vậy mà họ cũng phải can đảm nhận ra nhiều cái xấu của mình trong cuốn “Người Mỹ xấu xí”. Ngay thủ đô Paris kia, được mệnh danh là thành phố đẹp nhất thế giới, vậy mà các văn hào của họ, đặc biệt là Victor Hugo đã đua nhau dè bỉu một “vũng bùn hoa lệ” bên dòng sông Seine ô uế, ẩn nấp đầy rẫy tội lỗi ghê tởm ở dưới cống ngầm. Tất cả các tác giả của các cuốn sách đó, không phải những nhà vệ sinh lẩm


8

cẩm, đòi “bới bèo ra bọ”, chê bai quê hương, mà.chính là, họ tìm cách lặn sâu vào cái đầm lầy “biết sỉ” của dân tộc, mong dân tộc trở nên trong lành hơn, mạnh mẽ hơn, và kiêu hãnh hơn. Tự sỉ là con đường không thoát khỏi để có được lòng Tự trọng. Bởi nếu chúng ta không tự nhìn thấy mình, thì thiên hạ sẽ “chỉ tận tay day tận trán” những cái xấu của ta. Chúng ta không nên lầm tưởng như một số cây bút luôn tự tôn phiến diện cho rằng: người phương Tây đang đổ về nghiên cứu tinh hoa của người phương Đông. Đã là khoa học, thì bất cứ cái gì cũng có thể trở thành đối tượng để nghiên cứu. Cho dù là phương Tây, phương Đông, một vạt rừng châu Phi, một sa mạc châu úc, hay một cánh đồng châu á, đến con muỗi, con ruồi, con vi khuẩn cũng đều trở thành đối tượng để nghiên cứu. Trên thực tế, mới ở thế kỷ XIX và XX thôi, người phương Tây coi các dân tộc châu á chỉ là thứ man di mọi rợ cần khai hoá. Họ coi thường nắm đấm và khí tiết của người Trung Hoa đến mức, chỉ có vài chục tay súng trường xông thẳng vào Thiên An Môn, hạ gục cung đình nhà Thanh, đang cầm quyền một dân tộc đông nhất thế giới, có số tuổi lão niên già đời hạng nhất lịch sử. Vào mỗi lần quốc khánh, các sử gia Trung Quốc lại ôn lại bài học cay đắng, hồi đó ngay vườn hoa Bắc Kinh, người phương Tây đặt các biểu ghi: “Cấm chó và người Trung Hoa”. Thật phỉ báng, họ coi người Trung Hoa chỉ bằng con chó (về việc này, chúng ta sẽ tham khảo lời của lãnh tụ Tôn Trung Sơn và các văn hào Trung Quốc bàn ở những trang sau).

2 Tự xét đoán để khỏi bị xét đoán Không thể nào khác được, như một câu trong Kinh Thánh: “Nếu chúng ta biết xét đoán mình thì khỏi bị xét đoán” (1). Chúng ta không xét đoán mình, đừng tưởng người khác cũng sẽ bỏ qua không xét đoán ta, trái lại họ càng xét đoán mạnh hơn bao giờ hết. Đây, chúng ta hãy nghe một chuyên gia triết học, bàn đến cái vị thế của người Phương Đông. Trong bài tiểu luận “Những kỹ năng của cơ thể” (Les techniques du corps) được in trong cuốn sách “Con người và thế giới”.(L‟Home et le Monde), tác giả Mauss viết như sau: “Bạn có thể phân biệt nhân loại ngồi xổm và nhân loại ngồi ghế. Và theo đó, phân biệt những người có ghế và những người không ghế và không bệ ngồi. Những người có vị trí và những người không vị trí. Những con người có bàn và những con người không có bàn” (Vous pouvez distinguer l‟humanité accroupie et l‟humanité assie. Et, dans celle - ci distinguer les gens à bancs; les gens à sièges et les gens sans sièges ... il a les gens qui ont des tables et les gens qui n‟en ont pas) (2). Theo cách nhìn mang tính khoa học rất vững này, tác giả không chỉ phân tích vào chủng tộc, xã hội, địa lý của người Châu Phi, châu á, mà còn xem xét chi ly đến từng “kỹ thuật” vận động của cơ thể. Ngồi xổm là cách ngồi của một con ếch, một con cóc, ở đó con người chưa xác định cái vị thế ít nhất của mình là một chỗ ngồi trên ghế. Người Việt vẫn quở những kẻ sống cùn, chầy bửa, bất cần rằng “Ngồi bệt rồi còn sợ gì ngã”. Ngồi bệt là ngồi thẳng xuống đất, ngồi lúc nào thì ngồi, bạ đâu ngồi đấy, muốn đi lúc nào thì phủi đít đứng lên đi, thật thoải mái, tuỳ tiện, và như vậy là một cơ thể sống bản năng, chưa xác định nổi cho mình một quyền sở hữu vị thế - là một chiếc ghế nào đó. Ngồi xổm còn tệ hơn, đó là cách nửa ngồi nửa đứng, đến cái mặt đất của chung cũng không dám tự tin đặt đít ngồi, nhấp nhổm, thấy bất lợi thì đứng phắt dậy, chuồn cho nhanh. Bởi thế tác giả Mauss còn suy diễn rằng: Ngồi xổm là chưa có chỗ ngồi! Chưa có ghế ngồi thì chưa phải là ông chủ! Đi xa hơn, không ngồi ghế thì cũng chẳng có bàn, không có bàn là không


9

thể viết chữ, đó chỉ là hạng người nô bộc, bạ đâu ngồi đấy, chưa có chữ viết, và chưa thể có trí tuệ, cũng như chưa thể có ý thức về danh dự. Về kỹ thuật con người này, người Việt cũng có một câu nói dân gian giành cho những gã “Chí phèo”, hãnh tiến mà ngu dốt rằng: “kẻ ngồi xổm trên dư luận”. Ngồi trên dư luận là kẻ bất cần đến chữ “sỉ”, mặc người nói ra nói vào thế nào thì nói, nói chan tương đổ mẻ vào danh dự của ta cũng mặc. Nhưng đáng thương thay kẻ đó không dám ngồi trên dư luận bằng ghế ngồi, mà ngồi xổm như một kẻ thiếu văn hoá và hèn nhát. Ngồi xổm để còn tiện nhổm đít lên mà chạy. 3 Không có quan toà nào lớn hơn ta cả Nếu ta mắc lỗi nhỏ, tự ta biết sửa lấy mình thì sẽ không chuốc lấy cái xấu hổ bị người khác vạch ra. Nếu ta không biết sửa mình từ lầm lỗi nhỏ, để mắc vào tội lỗi sẽ phải chuốc lấy sự phán xét của người khác. Lúc đó ta trở thành bị cáo, trước con mắt quan toà của người đời. Bởi thế thi hào Đức Sin-le (Schiller 1759 - 1805) mới khẳng nhận cách con người phải tự phán xét lấy mình để không bị rơi vào nỗi nhục phải làm bị cáo. Ông nói: “Không có quan toà nào lớn hơn ta cả” (3). Một cách thẳng thắn hơn, triết gia Nietzsche cho rằng, con người không biết tự nhìn nhận thanh tẩy làm mới chính mình, sẽ tự huỷ, tự hoại, giống như con rắn không tự lột da thì sẽ chết. Văn hào Nga Dostoievski thì diễn tả, trong tâm hồn mỗi con người, đều có một bãi chiến trường đấu tranh giằng co từng gang từng tấc một giữa quỷ và người và chỉ khi nào phần người trong tâm hồn thắng thì con người mới sống đạo hạnh, trái lại phần quỷ trong tâm hồn thắng thì con người sẽ nhảy vào vòng tội lỗi để thoả thê dục vọng của mình. Ông nói: “Nếu nhìn rõ tâm hồn của mọi người thì chẳng ai là người không mắc lỗi”. Bởi vì trong tâm hồn ai cũng như ai đều nảy sinh những dục vọng, thấy nhà cao thì muốn chiếm, thấy ghế cao thì muốn tranh, thấy tiền nhiều thì sinh lòng tham, thấy gái đẹp thì muốn tận hưởng từ ngoài vào trong... Những dục vọng cồn cào mạnh như quỷ dữ vừa thiêu đốt vừa lôi kéo con người; nhưng sở dĩ người đạo hạnh vẫn sống đạo hạnh, vì lẽ giữa bãi chiến trường của tâm hồn, phần người của anh ta luôn thắng phần quỷ dữ. Trái lại, những kẻ mắc lỗi là những kẻ đã để cho phần quỷ chiến thắng phần người. Bởi thế mà, từ cổ chí kim, người ta đều cho rằng, chiến thắng mình là chiến thắng đầu tiên nhất, quan trọng nhất, sau đó mới có thể nói đến việc chiến thắng cái khác. Như một nhà tư tưởng nói: “Chính mình chẳng kiềm chế nổi mình mà cứ muốn cài đạp người thì thật là ngu” (khuyết danh) Còn Chúa Jê-sus thì tuyên ngôn: “Chiến thắng vạn quân không bằng tự chiến thắng mình”. Tại sao phải chiến thắng mình? Các chuyên gia y tế tính rằng, dù hùm beo, hổ báo, rắn rết vừa mạnh mẽ, vừa chứa nọc độc đến vậy nhưng hàng năm trên thế giới, chỉ có khoảng trăm người chết vì chúng. Nhưng kinh khủng thay, mỗi năm có cả triệu triệu người chết vì những con vi trùng bé nhỏ. Tại sao vậy? Vì vi trùng có thể chui sâu vào tận lục phủ ngũ ngũ tạng của con người, phá huỷ từ trong phá huỷ ra thì cách gì để tránh? Vì thế con người không biết tự gột rửa mình từ trong tâm hồn cũng vậy, khi đó cả con người từ thể xác đến tâm hồn sẽ biến thành môi trường “khả nhiễm” để mọi thế lực từ ngọn gió bên ngoài đến vi khuẩn bên trong tấn công làm suy sụp, tiêu vong. Chúng ta thử hình dung, một con người mạnh khoẻ, nhảy ùm xuống đại dương tắm, cũng chẳng hề hấn gì; nhưng một người thể trạng yếu ớt chỉ cần mắc vài giọt nước


10

mưa, cũng hoá cảm, rồi lâm trọng bệnh. Nhiều người ra chiến trường, gặp tên bay đạn lạc, vẫn có thể được cứu chữa bằng cách gắp viên đạn ra, nhưng có thể không cách nào cứu vãn nếu chỉ bị một chiếc rằm đâm vào chỗ hiểm. Người Trung Hoa nhất khoát chỉ ra rằng: “Thiên tác nghiệt do khả vị, tự tác nghiệt bất khả hoạt”. Nghĩa là: Trời tác oai tác quái gieo tai ách cho con người từ lũ lụt đến động đất núi lửa, vẫn có thể tránh được; nhưng khi tự con người gieo những mầm hoạ cho chính mình sẽ phải trôi vào vực thẳm Nhân - Quả, hái phải những tai họa không thể nào tránh được. Trong các môn võ thuật thôi, để luyện tập sức địch muôn người, võ sĩ trước hết phải luyện tập và vượt qua sự chống đối của chính mình, cũng như sự trì trệ, ngáng trở, cản ngăn của chính trọng lực mình. Hãy hình dung, ta là kẻ thù sát cách nhất của ta, mà ta không chiến thắng nổi ta, thì hòng gì đòi chiến thắng người. Và cũng hãy hình dung, ta là kẻ thân thiết nhất với ta, mà ta không quyến rũ nổi ta tin tưởng rằng ta là người tự trọng, có danh dự cao, có đạo hạnh nhiều, có kiêu hãnh lắm, thì làm sao thuyết phục nổi người đời rằng: ta là người đáng trọng? Vì thế mà triết gia Descartes cho rằng: “Tự thắng mình còn hơn thắng vũ trụ”.

4 “Yên Quốc rồi mới yên gia” Người Pháp cho rằng: Người ta chỉ có thể tựa vào mình bằng cách tốt nhất là biết “chống” lại chính mình. Như khi chúng ta ngồi một chiếc ghế tựa chẳng hạn, lưng chúng ta không ngã ra sau, không bị mỏi, là tựa vào chính phần nâng cao của ghế vừa chống - vừa đỡ lấy lưng chúng ta. Khi muốn chống đỡ một ngôi nhà tranh cho khỏi đổ cũng vậy, người ta thường làm những cây tre chống vào dui-mè từ bốn phía, những cây chống, chính là những cây vừa đỡ - vừa cho tựa để chiếc nhà không đổ. Chỉ có điều ngôi nhà là vật vô tri, nó phải cần sự chống - đỡ từ bên ngoài nó. Còn con người là một thân chủ hữu tri, nó phải biết phòng vệ mình bằng chính sức tự chống đỡ của mình. Tự phân tỉnh mình là cách tất yếu xây lên chính con người mình đến vậy, nhưng nhân gian, đặc biệt trong hoàn cảnh nước ta, chưa thoát khỏi nền sản xuất tiểu nông lạc hậu bao lâu, nên còn thủ cực rất nhiều tư tưởng tự tôn - ích kỷ, chỉ biết vơ vào theo lối vinh thân - phì gia. Không ít trường hợp có những học giả cao học nói trên truyền hình rằng: “không thể tin vào một người nào đó không biết yêu gia đình mình, không biết vì vợ con mình, lại có thể yêu được quốc gia”. Đây là một câu nói ngô nghê, không hề chứa đựng bất cứ một hạt nhân chân lý nào. Anh ta nói vậy, sao không chịu nhớ, tổ tiên ta từ xa xưa đã dạy. Yên quốc rồi mới yên gia Yên cửa yên nhà rời mới yên thân. Xưa nay, từ các sắc tộc bán khai thài có “lệ làng”, các quốc gia văn minh thì có luật lệ, đều là những giá trị công truyền - công lý để dẫn dắt mọi công dân của nó, vì thế triết gia Aristote từ thời cổ đại đã nói: “Con người là động vật xã hội”, các nhà xã hội học đương thời từ Đông chí Tây thì coi “Gia đình chỉ là tế bào của xã hội”. Vì vậy, người ta phải quy chiếu ánh sáng từ xã hội rộng lớn về nhà, để tác thành những công dân ưu tú, sau đó mới là người con có hiếu, người chồng có nghĩa. Chữ Trung ở trên chữ Hiếu nghĩa là, cái công lý, cái mang tính nhân quần phải


11

lớn hơn các giá trị cá nhân rời rạc. Trái lại, không thể lấy hình ảnh vun vén trong gia đình ra, để quy chiếu cho tình yêu của quốc gia luôn đòi hỏi đức tận hiến đến vong thân. Để diễn tả chân lý này, Chúa Jê-sus đã từng dạy các môn đệ rằng: “Kẻ nào không biết từ bỏ thân quyến mình vác thập giá theo ta, thì chẳng xứng bước vào Nước Trời”. Với nhiều quốc gia thì điều này đã quá rõ ràng, ngay từ trước công nguyên, khi xây dựng thành phố, cái quan trọng hàng đầu của họ, là xây dựng quảng trường, để mọi người có thể đến trao đổi đàm đạo hay học biết những gì “Tiếng nói chung”- cũng là công lý dạy bảo; sau đó xây dựng đấu trường để các chàng trai luyện tập sức mạnh chiến đấu, đức can trường, lòng dũng cảm dám xả thân cho dân tộc - là đất sống của chung; sau nữa là kịch trường để mọi người đến rèn luyện tinh thần văn hoá nhân bản - biết sống sẻ chia, cao thượng với đồng loại. Vậy thì, một dân tộc nếu không học biết lương tri, chỉ nhờ cậy vào tình cảm ích kỷ nhặt nhạnh từ nhà ra xã hội sẽ chỉ chuốc lấy suy vong. Triết gia Hegel, người được coi là cha đẻ của môn lịch sử hiện đại đã quả quyết rằng: “Chẳng hạn người ta không thể nào giúp đỡ được gì với một dân tộc dân chủ bao gồm những người công dân ích kỷ hay đánh lộn, nhẹ dạ, kiêu căng, không có tin tưởng, cũng không có kiến thức, nói nhảm, khoe khoang. Một dân tộc như vậy thế nào cũng đi đến chỗ tan rã do chính sự ngu dốt của mình”(4). Về “lợi riêng - lẽ chung”, người Trung Quốc có một câu truyện trong “Cổ học tinh hoa”, xác định rõ ràng rằng. Ngày trước có một ông vua dẫn đoàn quân đông đảo sang xâm lược nước láng giềng. Đoàn quân kéo đến biên giới, trăm họ già, trẻ, gái, trai chạy tán loạn. Nhà vua nhìn thấy một thiếu phụ đang cuống quýt cùng ba đưa bé. Trước hết thiếu phụ bỏ đứa bé trên tay xuống cắp lấy hai đứa bé hai bên tay, rồi chạy. Chạy được một quãng, thiếu phụ đứng lại suy nghĩ, rồi bỏ một đứa bé bên tay xuống, chạy trở lại cắp đứa bé bị bỏ rơi lại đầu tiên, rồi chạy tiếp. Nhà vua cho bắt thiếu phụ, để hỏi ngọn ngành. - Tại sao, lúc đầu cô bỏ lại một đứa bé, chạy thục mạng; rồi sau đó bỏ một đứa bé đang bế trên tay xuống, quay lại đón đứa bé đã bị bỏ rơi? - Thiếu phụ trả lời: Ba đứa bé, hai đứa là con đẻ của tôi, còn đứa kia là cháu. Lúc đầu, do sợ hãi, và bản năng làm mẹ tôi, bỏ lại đứa cháu - con của anh tôi, bế lấy hai con mình. Nhưng chạy một đoạn tôi nghĩ lại, nếu mình cứu con mình chỉ là tình mẹ con trong gia đình. Nhưng nếu cứu cháu mình, thì sẽ là tình cảm thuộc về nghĩa lớn, thuộc dòng tộc, thuộc quốc gia. Và nếu con mình có chết, thì chỉ có mình đau khổ. Nếu cháu mình chết, họ hàng, xóm giềng sẽ coi mình là thứ vô tâm, ích kỷ, không tròn bổn phận với xã tắc. - Nghe vậy, nhà vua liền quay trở lại nói với những đạo quân. Một phụ nữ bình thường mà còn biết sống nghĩa lý như thế, thì xã tắc của họ làm sao có thể bị chinh phạt. Nói xong, nhà vua từ bỏ ý định xâm lược nước láng giềng, dẫn đoàn quân quay về. Một người phụ nữ của thời còn thắp đuốc, thắp mỡ ngày xưa, mà biết nhận ra lẽ sống “xả kỷ hiến tha” đến vậy, thử hỏi những con người, những cây bút, dù học cao mà còn quan niệm “vì cha mẹ, vợ con, gia đình trước, sau mới có thể vì thiên hạ”, thật hẹp hòi, lạc hậu làm sao.

5 Làm việc thì dễ, làm người mới khó


12

Sau sự lẫn lộn về tình cảm của “cá nhân - dân tộc” ấy, không ít người lầm lẫn về mặc cảm tự tôn dân tộc. Người ta cho rằng, người Việt rất thông minh, bằng cớ là con em của chúng ta đã đoạt giải cao, huy chương vàng, huy chương bạc trong các kỳ thi toán quốc tế. Đúng, hẳn đó là điều đáng tự hào. Nhưng như nhiều giáo sư cảnh tỉnh: Cho đến nay, chưa một người trong các thần đồng đoạt giải quốc tế, từ thầy đến trò, trở thành một nhà toán học lý thuyết. Các thí sinh của ta mới chỉ là những “con gà chọi” được đào tạo qua các trường chuyên lớp chọn, mang chuông đi gõ xứ người, khoe khéo khoe khôn, nhưng giải thưởng dường như là mục đích cuối cùng, chứ không phải là bước khởi đầu để cho thí sinh giật giải vàng bước vào con đường tiến bộ chông gai vạn dặm. Nhiều người nói, người Việt chúng ta luyện cho mình một đôi cánh vạm vỡ, như học gạo, nỗ lực, phấn đấu, nhưng đôi cánh đó không được dùng để bay đi, mà sau khi được cấp chứng chỉ hạng ưu nó chỉ tìm cho mình một chỗ đậu vừa vững - vừa ấm, sao cho chức cao, lộc hậu, ở nhà to. Điều đó không chỉ đúng với những thí sinh đi thi quốc tế, mà đúng với đa số các thí sinh dự các kỳ thi mong kiếm được mảnh bằng kiếm sống. Người Trung Hoa có câu: “Làm việc thì dễ, làm người mới khó”. Đi học trước hết là để nâng cao trí thức, văn hoá, phẩm giá làm người, chất lượng sống của tâm hồn; nhưng trong đầu chúng ta chủ yếu mới là cách nghĩ: đi học để làm quan. Đi học để chức cao lộc hậu hơn người. Một ngày tôi được xem chương trình phát trên VTV3, về cá nhân xuất sắc, có kể chuyện về một thiếu niên vừa đoạt huy chương vàng qua một kỳ thi toán quốc tế. Trước hết, câu chuyện rất cảm động, và rất đáng trọng. Nhà em nghèo, bố mẹ tần tảo, nhịn ăn, nhịn mặc, quần quật làm thêm, mong giành tất cả điều kiện cho em ăn học. Đến cái ngày em đi thi, rồi đăng quang giải vàng, em chạy ngay ra chợ, sắm cho bố một bộ com-lê, sắm cho mẹ một sợi dây chuyền. Và em đem về, rưng rưng tặng cha - tặng mẹ. Bố mẹ em rưng rưng đón nhận quà, và cả ba đều như đang dự hưởng niềm vui: từ nay nhà ta hết khổ, đã đổi đời rồi. Câu chuyện tất nhiên là rất cảm động, tất nhiên là một tấm gương kiểu mẫu cho muôn nhà noi theo. Nhưng đúng lúc đó trong đầu tôi bỗng dội lên một câu hỏi: Bố mẹ em đã hy sinh tất cả cho em đạt tới thành công trong kỳ thi quốc tế, nhưng liệu bố mẹ em có dám trường kỳ hy sinh tiếp tục để em vác huy chương vàng như hành trang đầu tiên dấn bước trong hành trình cuộc đời? Với gia đình thì chưa rõ. Nhưng với bao gia đình thì dường như không thể, tóm lại, tất cả mọi người đã “gục ngã” thư giãn, tận hưởng, “thôi đủ lắm rồi” ngay ngưỡng cửa của vinh quang. Điều đó lý giải tại sao, chúng ta đã có rất nhiều thí sinh thông thái ở đẳng cấp cao nhất thế giới, vậy mà không có nổi một nhà toán học lý thuyết. Tại sao? Câu trả lời thật là đơn giản: Chúng ta mới chỉ biết lọt qua cửa khẩu một cách xuất sắc, sau đó vào trong thành tìm một nơi nghỉ ngơi, chè chén say sưa, tận hưởng vị ngọt cuộc đời, một lần cho tất cả, mà không tiếp tục hành trình. Nghĩa là, chúng ta mới chỉ có những thí sinh xuất sắc, mà chưa có những kẻ “hành hương” xuất sắc! Nhiều người lý do lý chấu rằng, vì Việt Nam còn nghèo khổ nên chưa có đáp ứng đầy đủ những điều kiện đi xa. Nói vậy là không đúng, vì toán học là môn tư duy thuần khiết, chỉ cần một chiếc bút và những tờ giấy là đủ điều kiện cho việc nghiên cứu, tư duy, tìm tòi toán học. Nói rộng hơn, mở ra các môn cần phương tiện như âm nhạc chẳng hạn, có nhiều nhạc công của ta từng du học ở nước ngoài, trong tay đã có sẵn đàn, vậy mà nhiều người thành thật tâm sự: - Với tôi, âm nhạc giờ đây đơn giản chỉ là hãy đam mê “văn ôn võ luyện” mỗi ngày, để cho nghề tinh thông hơn; nhưng phải thừa nhận tôi còn quá mải lo chuyện kiếm ăn mỗi ngày, chuyện gìn giữ tình cảm vợ chồng, vì thế những say mê lý tưởng càng ngày càng khô cạn trong đầu. Con người, ai chẳng muốn trở thành phi thường, muốn vậy phải đi bằng cách phi thường, nhưng hầu hết chúng ta vẫn tìm những lối đi bình thường - luôn luôn mở đầu từ “giá áo túi cơm”, nhìn xa xa vẫn chỉ thấy túi cơm cùng giá áo, thì làm sao mong đợi có thể hái được những vì sao của khát vọng. Hãy xem, chẳng phải Anh - xtanh (Einstein) chỉ với cây bút chì mới vài tờ giấy đã phát minh ra “Lý thuyết tương đối” vĩ đại là gì?.


13

Thi hào Goethe có nói: “Một người mà lúc nào cũng chỉ nghĩ đến tiền thì không thể nào làm lý tưởng của minh đơm hoa kết trái”. Người Việt ta không chỉ lúc nghèo, lúc thiếu ăn mới kêu la về tiền, mà thậm chí lúc sung túc cũng kêu là về tiền, không biết cách dùng đồng tiền vào việc có ích hơn. Chẳng hạn có rất nhiều lần chính phủ rót những khoản tiền khá lớn cho các cuộc hội thảo, nhằm đầu tư cho một công trình nghiên cứu nào đó, nhưng việc đầu tiên người ta làm là chia số vốn đầu tư đó vào các phong bì rồi phát đều cho mỗi người, từ gần đến xa, từ vòng trong đến vòng ngoài của công trình. Lĩnh tiền xong ai cũng hỉ hả, và họ lại tiếp tục kêu ca về việc chưa có đầu tư để phục vụ công trình nghiên cứu. Giả dụ, chính phủ lại rót tiếp cho một khoản nữa, thì số tiền đó cũng chưa chạy ngay đến công trình, thêm một lần nữa nó lại bị xé lẻ, chạy tản mát ra các phong bì, chia đều cho các chuyên gia, nhà nghiên cứu, và cán bộ của mọi phòng ban. Và nếu có n lần rót, thì vẫn có n lần sự chi chác xảy ra. Đó đúng là cách tiểu nông, luôn có cái nhìn xé lẻ, vụn vặt, chia chác, vơ vào cho quyền lợi cá nhân vị kỷ; đối nghịch hẳn lại với tinh thần khoa học, cần những cái nhìn tập trung cao độ nhắm đến mục đích lý tưởng. Cái nhìn vụ lợi tức thì, vội đem hạt giống ra ăn, làm thui chột cả những vụ mùa lớn của tương lai, không chỉ xảy ra với các thiếu niên chưa kịp bước vào đời, mà đáng tiếc thay xảy ra với cả những lớp cao học, thạc sĩ nọ, tiến sĩ kia đã dày dạn cả kiến thức lẫn kinh nghiệm trường đời. Đã qua mấy trục năm, lớp tinh hoa của nước nhà đã đi du học những nước tiên tiến ở khắp địa cầu, thử hỏi trong cả vạn người đầy ắp kiến thức và sở trường chuyên môn, có mấy người làm công tác chuyên môn, hay hầu hết đều nhảy sang làm công tác quản lý, giữ ghế này ghế nọ? Nhà triết học cổ đại Socrate cho rằng: Hạnh phúc lớn nhất của một con người, cũng như tài năng lớn nhất của con người đó là được sống trong Sở trường để phát huy chính Sở trường đó của mình. Nói dễ hiểu, thí dụ như cầu thủ Carlos người Brazil đang đầu quân cho đội Réal Madrid kia. Anh ta thuận chân trái, và trở thành hậu vệ trái hay nhất thế giới. Do đó chân trái cũng đem lại vinh quang tột đỉnh cho anh, rồi lương được trả cao, rồi anh càng đá càng hăng. Vì đá bóng vừa là đam mê sở trường của anh, vừa là tất cả sự nghiệp, và là những lợi ích anh thu được cho cuộc đời mình, cũng như cho đội bóng Réal Madrid, cũng như cho đội tuyển bóng đá Brazil. Người Trung Hoa có câu: “Một chiếc móng ngựa hỏng có thể mất một viên tướng, mất một viên tướng có thể mất một trận đánh, mất một trận đánh có thể mất một quốc gia”. Lịch sử loài người đã từng chứng kiến, cuộc chiến tranh của quân Hy Lạp với thành Tơ-roa ròng rã chín năm trời, chẳng thu được kết quả gì, nhưng cuối cùng do mất cảnh giác quân Tơ-roa đã ăn phải bả con ngựa gỗ bỏ lại của quân Hy Lạp. Thế là bao quân hùng tướng mạnh chống cự bấy lâu bỗng chốc trở tay không kịp với mấy mống người từ bụng ngựa gỗ chui ra. Hay chuyện thiên tài quân sự Napoléon kia, thất bại trong trận Oa-téc-lô (Waterloo), theo văn hào Victor Hugo vào đúng lúc đối kỵ linh hùng mạnh nhất xuất hiện vào thời điểm then chốt nhất để quyết định thắng lợi, nhưng than ôi tất cả đã lao xuống và lấp đầy chiếc khe nằm khuất sau quả đồi. Trận chiến thất bại chỉ vì đội quân của Napoléon đã sơ xảy thiếu điều tra kỹ lưỡng địa hình. Người Việt nói “sai một ly đi một dặm”. Giờ đây, chúng ta thử đặt câu hỏi và trả lời chính câu hỏi rằng: Vậy hầu hết số người cao học - du học - chuyên gia - tiến sĩ của ta đều bỏ sở trường chuyên môn được đào tạo của mình lao sang săn lòng các ghế quản lý, thì dân tộc có phải chỉ được hưởng tài năng sở đoán của họ mà thôi? Thực ra, đây là cái dớp còn lại sau nghìn năm Bắc Thuộc, vẫn cái kiểu “Học nhi ưu tắc sĩ” (học giỏi làm quan) của lớp học trò lều chõng ngày xưa. Đến đây, có lẽ cũng nên nhắc lại câu nói của người Trung Hoa “Làm việc thì dễ, làm người mới khó”. Cách làm người của tầng lớp tri thức ở ta đạt đến cấp độ nào, khi mà mọi giá trị của họ không phải được xây trên sở trường - học hành


14

xôi kinh nấu sử bấy lâu, mà chỉ dựa trên vài miếng võ sở đoản, chen vai thích cánh, xô đẩy lẫn nhau, khôn vặt, bè phái để leo lên? và hầu hết những người ưu tú đó đá lạc đội hình, lại dùng chính tài năng lạc địa chỉ vào phục vụ quê hương, thử hỏi quê hơng con Lạc cháu Hồng sẽ được hưởng sự giàu mạnh, tiên tiến nào? Những câu hỏi này đặt ra có sớm sủa gì không? Và nó được nhói lên trong óc trong tim của bao nhiêu người? Phải thành thật thú nhận rằng quá nhiều người dửng dưng với những câu hỏi đại loại như vậy và một cách khá phổ quát, ý kiến của người này người kia nổi lên cho thấy, trình độ lương tri của giới học thức nước nhà vừa xuống cấp vừa quá thấp. So với trình độ lương tri ở đầu thế kỷ XX, khi nước nhà đứng trước vận hội độc lập, cách mạng, bình dân học vụ, tụt hậu hơn nhiều Có rất nhiều bằng chứng vẫn còn đang phơi sờ sờ trước mặt chúng ta. Giáo dục được xem như nền tảng cơ bản để đánh giá trình độ văn hoá và tri thức của một quốc gia. Vậy mà nền giáo dục của ta mới đây còn bầy ra những việc ngớ ngẩn tầy đình. Trước hết là việc cải cách chữ viết, cũng là cải cách lối viết theo mẫu tự La Tinh sau cả chục năm cải cách, bỗng nhiên các nhà giáo quay lại nói rằng: Lối viết trước kia chuẩn mực hơn, và tiện lợi hơn. Cả nền giáo dục từ trên xuống dưới trong nhiều năm đều áp dụng việc cải cách chữ viết cho lớp một, vậy mà đến lúc truy nguyên, người ta trả lời quấy quá: Không biết ai đã ra quyết định thực hiện việc này. Có đúng không? Napoléon có nói: “Quá khoan dung với tội lỗi là đồng tình với tội lỗi”. Chẳng qua người ta sợ đồng đổ cho cốt, cốt lại đổ cho đồng, lòng vả soi mình thấy giống lòng sung, và ngược lại, thế là thôi đành hoà làng, phanh phui ra làm gì “trạng chết chúa cũng thăng hà”, đành đánh bài lờ cho qua chuyện. Năm 2002 vừa qua, cả một nước còn ầm ĩ lên việc cải cách sách dạy lớp một và lớp sáu. Nước ta đâu có quá thiếu người trí thức, cùng những người được đào tạo chuyên môn, vậy mà ở thế kỷ XXI rồi, còn loay hoay soạn sách dạy lớp một không xong, thử hỏi bao giờ mới bắt đầu sánh bước cùng năm châu bốn biển? Tại sao vậy? Theo sự trả lời của giáo sư Hồ Ngọc Đại, đăng trên báo An Ninh thế giới số trong năm, thì người ta đâu chỉ lo soạn sách cho công việc dạy và học, mà người ta còn lo móc vào đó bao nhiêu “tầu há mồm” đòi làm kinh tế ngay cả trên những mầm non của tương lai. Đức Phật có dạy, cái đáng quý nhất của cuộc đời mỗi người là để lại “Pháp thân” của mình. Vậy thầy giáo là những người đang truyền lại “pháp thân”, những giá trị tinh thần cho hậu thế, thì phải xem rọng nhất phẩm chất tâm hồn cũng như việc truyền bá phẩm chất kiến thức cho học trò. Napoléon có nói rằng, mỗi con người chỉ là mỗi con số, chỉ có điều con số đó đứng ở vị trí nào. Cùng là con số 1, nhưng đứng ở hàng chục tự nhiên đã ở trên 9 người, nhưng đứng ở hàng nghìn tự nhiên trên 999 người. Napoléon cũng nói: tất cả lính tráng đều phải mơ có ngày làm tướng. Đó là nghệ thuật của sức mạnh cũng là nghệ thuật của công việc quản lý, giành cho các nhà chính trị. Nhưng các nhà giáo, các nhà khoa học, các nhà nghệ thuật thì không thể được mong, hôm nay ta đứng ở hàng đơn vị, ngày mai khi vừa ngủ dậy ta tự nhiên đứng vào hàng vạn. Đơn giản như một cầu thủ muốn tập tâng bóng trên đầu. Hôm nay anh tâng được 5 quả, không thể ngày mai có thể bỗng chốc may mắn tâng được 50 quả, mà số lần tăng sẽ tiến bộ dần sau mỗi lần tập của anh. Một nhạc công cũng vậy, không thể hôm nay còn tập dở một bản nhạc, ngày mai bỗng đánh một cách thuần thục; trái lại muốn đánh thạo một bản nhạc, người ta phải tập đến cả ngàn vạn lần. Một người trí thức thì càng phải nhận biết điều này. Qua bao năm học hành để cô đúc thành phẩm chất của mình, anh không thể có quyền được nghĩ, lúc nào đó mình may mắn sẽ chen ngang “mười năm phấn đấu không bằng cơ cấu một giờ”, phẩm chất mình tự nhiên tăng vọt từ hàng đơn vị đến hàng triệu. Bởi thế có rất nhiều trí giả, tác giả vì không theo đuổi “ pháp thân” bấy lâu của mình, dù đã học rất cao, nhưng vẫn đi giật lùi về toán học sơ cấp, cả đời lo


15

đếm số nguyên, xem ta đang được đứng vào dãy số nào. Vì phải phân thân, vừa theo đuổi pháp thân - vừa theo đuổi “dãy số nguyên”, nên phải nói thành thật, năng lực phát sinh ý tưởng của giới học thuật nước nhà còn rất kém cỏi. Không nói ở những hội nghị quốc tế, ngay với những vấn đề trong nước thôi, moi được một ý tưởng trong miệng các học giả của ta khó như moi được một viên ngọc quý của một con trai nằm tận đáy biển khơi. Hơn nữa, Học thì đúng ta không chịu thua người, nhưng Hành thì kém xa, thậm chí tê liệt. Các ngành khoa học của chúng ta thì chẳng nói làm gì vì hầu hết còn non trẻ, nhưng ngành nhân văn chẳng hạn, nước ta có một nền thơ vào loại cao tuổi trong các lão niên nhân loại, vậy mà các học giả ngành văn - thơ chỉ bị búng nhẹ một câu: “Các anh không làm nổi một bài thơ biết gì mà bình”, thế là họ nằm tê liệt bất động đến cả vài chục năm không dám ngóc đầu dậy. Tại sao người ta không biết người trồng ớt chưa chắc đã biết ăn ớt. ở các nước có công nghệ sản xuất rượu cao, đều có các chuyên gia nếm nho, chỉ nếm cho qua họ biết nho vùng nào, có pha không, và định giá trị sản phẩm cho mỗi vụ nho, cho dù được hái cùng trên một cánh đồng. Tại sao các học giả văn thơ không biết đáp lại “còn các anh bận làm thơ thì cứ làm đi, các anh chưa có lý trí khách quan để thẩm định thơ, sao cứ mở hết giải thưởng này đến giải thưởng kia, chấm người này nhất, người kia nhì?” Lời nói giản dị như vậy, trong ngần ấy năm liệt vị không ra khỏi miệng, vì hai lý do: - Thứ nhất: Người ta không dám tin vào kiến thức của mình. - Thứ hai: Người ta lại lo chen vai thích cánh “đếm số nguyên”, nên đành “há miệng mắc quai”. Văn học, là đại diện cho ngành sáng tạo dẫn lối nhân văn rất quan trọng của ngước nhà (vì khoa học nước ta còn rất non trẻ), vậy mà nó tập tềnh ấm ớ đến mức, nhà thơ không lo làm thơ để xây dựng “pháp thân” cứ lo kiếm ghế quản lý để mong “ăn trên ngồi chốc” các sáng tạo của người khác. Đã xảy ra rất nhiều kiểm mẫu, đại loại như, làm được một bài thơ, thế là mang danh nổi tiếng cả đời, được xếp chân quản lý, rồi lại được cử đi dạy các cây bút trẻ không chỉ làm thơ, mà còn viết văn, viết tiểu thuyết nữa. Sự thể còn tiến triển ngây ngô đến mức, có cả ban chấm giải cho các cuốn sách về dịch thuật, nhưng tất cả các thành viên trong ban, không ai biết ngoại ngữ cả. Đến khi bị mọi người vặn hỏi về cơ cấu thiếu chính đáng của chuyên môn (chỉ có cái gọi là chính đáng của những “số ghế”), người ta ung dung thản nhiên trả lời rằng: Chúng tôi không biết ngoại ngữ. Nhưng chúng tôi biết thưởng thức văn đã dịch ra. Nói thế có khác gì học trò chấm thầy giáo, bằng cách bảo rằng, em không biết kiến thức của thầy, nhưng nghe thầy giảng em thích. Người Trung Hoa có câu: “Triều đình mạc như tước, xã thôn mạc như xỉ”. Nghĩa là “Triều đình trọng chức tước, xã thôn trọng tuổi thọ”. Người Việt cũng nói “Làm nghề nào ăn nghề ấy” hay “thợ may ăn vải thợ vẽ ăn hồ”, hiểu theo nghĩa tích cực là ai cũng chỉ có thể làm việc theo chức năng và hưởng những đặc quyền theo chức năng thôi: nhà nông lấy thu hái sản vật làm trọng, chăn nuôi lấy gia cầm làm tài sản, đi buôn lấy lãi làm phương châm, theo đuổi sự nghiệp chính trị lấy sự nâng cấp là đường tiến thân. Nhưng học giả và những cây bút không thể tham nổi danh tức thời như con hát, cũng không thể tham “ở dưới một người ở trên muôn người như làm chính trị, mà chỉ có thể lấy tác phẩm, lấy học thuật của mình làm vốn quý. Như cầu thủ Carlos kia lấy chân trái làm tất cả chuyên môn, sở trường, danh dự, đời sống của mình. ấy vậy mà, các học giả, cây bút của chúng ta nhiều người lại mắc chứng muốn mang họ “thích” - “Thích đủ thứ”. Bởi vậy, học vấn láng cháng, chuyên môn làng nhàng, thiếu tự tin trong mọi việc làm. Các cụ nhà ta đã dạy “Sinh nghề tư nghiệp” Đằng này “Sinh nghề” lại chỉ muốn chơi nghề, đùa nghề, du hí với


16

nghề, nghệ không tinh thì làm sao vinh thân cho được. Bởi theo nghề mà chẳng đạt tới tầm cao vinh quang nào đáng kể, bởi thế nhiều cây bút đua nhau lao vào con đường quan trường. Xưa nay đường quan trường là đường hoạn lộ, nghĩa là phải lao tâm khổ tứ, hy sinh cả mạng sống mình, đằng này nhiều cây bút chỉ muốn leo lên ghế cao bằng những bước chân thung dung “thưởng hoa vọng nguyệt ” “uống rượu làm thơ”. Vì ghế quan trường thì ít trong khi các cây bút có mấy đồng thơ làm vốn lại quá nhiều, thế là sinh cảnh bè phái, cấu kết, cánh hẩu, đố kỵ, chen ngang. Việc hội nhà văn trong nhiều năm không có giải nhất là bằng chứng cao nhất, đầy đủ nhất cho lòng đố kỵ. Thí dụ, nếu người ta mở cuộc thi hoa hậu Hội Lim, thì dù ở đó không có những người đẹp xuất sắc, thì chí ít vẫn phải chọn được một cô “ít xấu nhất”để làm hoa hậu. Đằng này. Hội nhà văn mở cuộc thi, xong kết thúc bằng cách kết luận: Vì chưa có người đạt đến tầm nên chưa có giải nhất. Tầm nào đây? Tầm Nobel, hay tầm châu á. Nên nhớ đấy là cuộc thi văn học, của người Việt, ở tầm Việt Nam, do các thành viên giám khảo người Việt mở ra, thì không thể được phép nghĩ ra trong đầu bất cứ thứ tầm ảo tưởng, “tầm với” nào khác hiện thực của cuộc thi. Thực ra cách nói người khác chưa đủ tầm là để ám chỉ: mọi người không thể đạt đến giải nhất là thứ tầm “phi giải thưởng” của ban giám khảo... Về nghề nghiệp, triết gia Descarte cho rằng, một... cái kèo phải là kèo thì mới có thể lắp vào chiếc cột. Không ai có thể vừa là kèo dính sẵn vào cột, giả sử có dính sẵn như vậy thì cũng vô ích, vì không thể giúp cho công việc lắp ráp ngôi nhà. Không một ai có thể đa tài, người ta chỉ có thể có tài cao nhất bằng cách tận dụng chính sở trường của mình. ấy vậy mà nhiều học giả, nhiều chuyên gia, nhiều cây bút của chúng ta lại mang họ “thích đủ thứ ”, đem cái sở trường ra đổi lấy những khôn ngoan vặt vãnh, ứng biến che chắn ganh đua lẫn nhau. Lão Tử nói “Đại trí nhược ngu”, nghĩa là làm kẻ khôn lớn thì phải mắc những cái ngu nhỏ. Một con tầu lớn thì dứt khoát không thể xoay sở dễ dàng quay ngang quay dọc như những chiếc thuyền thúng. Chúng ta hãy tạm chia tay với giới học thuật và văn bút nước nhà, nói chung là những người “đa tài”, nhưng chưa có tài nào ở cỡ chuyên nghiệp cả (đây là một bằng chứng chắc hơn cả đinh đóng cột, rất nhiều ngành nghề ở ta không tìm thấy nổi vài mống chuyên nghiệp; đặc biệt giới văn bút thì chưa có nổi một vài khuôn mặt theo đuổi chuyên môn cách chuyên nghiệp). Giờ chúng ta hãy bước từ dưới lên cao, từ việc “giải trí”, thể thao của người Việt. Một lần, rảnh rỗi, tôi rẽ vào một sân tennis ở Hà Nội. Phía bên kia sân là hai chàng tay chơi chuyên nghiệp người Việt. Bên này là một cậu thiếu niên mới lớn người Đức rất hăm hở, sung mãn, và vô tư, đi kèm cậu ta là một người đàn ông phiên dịch đã khá cao tuổi, theo để giúp cậu giao tiếp. Đánh được vài quả, hai cầu thủ cùng bên sân, luôn miệng chê cậu thiếu niên là “tây ngố” “miệng còn hơi sữa”. Đánh thêm vài quả nữa, vì cậu thiếu niên chạy trên lưới, đánh những trái bóng rất mạnh mẽ. Vừa đỡ liểng xiểng với nhau một tẹo, hai cầu thủ người Việt đã quay sang lầm bầm chỉ trích rồi rủa xả lẫn nhau. Chưa được thêm vài trái, cuộc cãi cọ đã căng lên tột độ, và cuộc chơi phải dừng lại. Cậu thiếu niên Đức chưa kịp ra mồ hôi, cậu hỏi người phiên dịch: “tại sao đang chơi thì lại dừng lại”. Người phiên dịch chẳng biết trả lời ra sao, vì lý do quá ấm ớ, không đủ tác nhân để biến thành một lý do - cho dù nhỏ nhất. Cậu thiếu niên rất thất vọng, vì với cậu đơn giản ra sân để được chơi, nhưng mắc phải cách sống của những con người lạ lùng hiếu thắng đến mức, đến chơi cũng không xong. Tính hiếu thắng quá độ của người Việt biểu hiện cái gì vậy? Thực ra, nhìn kỹ đây là những mặc cảm tự ti, vì tự cho mình bị đặt vào nơi quá thấp, nên mang tâm khí yêng hùng vặt vãnh ra, muốn vênh vác với đời. Tôi xin kể một câu chuyện hai năm rõ mười, để minh chứng cho luận điểm trên. Hồi tôi làm thuê cho công ty giầu khí Shell đống ở 21 Phạm Ngọc Thạch, thành phố Hồ Chí Minh. Cách vài chủ


17

nhật, công ty lại bỏ một khoản tiền không nhỏ ra thuê hẳn sân vận động Thống Nhất cho mấy nhân viên cả Tây cả Ta, ra sân đấu cùng một đội bóng nhân viên của một công ty nào đó. Tại cuộc thi đấu “người nhà” ấy, ông giám đốc bao giờ cũng ra xem, còn ông phó giám đốc thì bắt buộc phải là người lo chu tất mọi việc từ thuê sân đến thi đấu, lẫn hậu cần . Trận đầu tiên khai mạc vào lúc giải lao giữa trận, ông phó giám đốc ra tận sân hỏi mọi người: “Sao tôi thấy quá ít những nhân viên Việt Nam làm việc cho công ty tham dự đội bóng? Các anh nên nhớ công ty bỏ một khoản tiền lớn để các anh vui chơi ngày chủ nhật, nên hãy để người trong công ty càng tham dự nhiều các tốt”. Sự thể thế này, vì mấy nhân viên phụ trách việc chăm lo giải trí là những tài xế lái xe cho công ty, trong công việc và trong sinh hoạt họ rất mặc cảm, cho là ta ít tài cán nhất, bởi thế họ nuôi ý chí kiêu hãnh “trả đũa, phục thù” trong thể thao. Thế là, họ đi mời thêm mấy người quen biết, hay họ hàng đến công ty, đá chí chết, mong thắng trận để nổi đình nổi đám. Than ôi! đội bóng gá vúi là nhân viên của công ty vui chơi ngày chủ nhật máu ăn thua thì đạt giải nước non gì? Và cho dù ông phó giám đốc đã nói thế, mỗi lần đá bóng, chứng nào tật ấy, họ vẫn mời người bên ngoài vào đã hộ công ty. Chỉ có điều, nhân viên Tây, thì họ không dám thay, còn nhân viên phía Việt Nam, cho anh nào vào sân thì được, để anh nào vào đội dự bị thì cứ cắn bồ hòn làm ngọt. Ông phó giám đốc nhắc vài lượt không được, ông đành chịu, tiền công ty do ông bỏ ra nhưng không được thấy người trong công ty chơi bóng. Nhưng ông tế nhị không dám can thiệp quá sâu vào việc giải trí của người Việt. Sợ đụng phải vấn đề quốc tịch. Vậy đấy, câu chuyện chứng tỏ, ngay cả khi được làm chủ một quỹ thời gian giải trí, nhưng do mắc mặc cảm hiếu thắng thấp kém, mà nhiều người đã đổi vị thế “ông chủ: vui vầy” lấy vai “đầy tớ hãnh diện hão”. Những câu chuyện trên không quá lạ lẫm xa xôi gì với cách sống của người Việt. Từ chuyện bé đến chuyện to, chẳng hạn mới đây khi mở màn giải bóng đã chuyên nghiệp 2003, đang trận đấu, trọng tài buộc phải rút hai thẻ đỏ, đuổi cùng lúc hai cầu thủ thuộc cùng một đội. Bởi lẽ, khi chơi bóng không ăn ý với nhau, hai cầu thủ này lầu bầu chửi nhau, rồi lao vào choảng nhau, khiến trọng tài đành phải tuớc quyền thi đấu cả hai. Thật là chuyện hi hữu trên đời. Trên thế giới, chỉ có hai thẻ đỏ giành cho hai đội giao đấu, chứ mấy khi lại có thẻ đỏ phạt hai người cùng đội “giao đấu” nhau? Chuyện hi hữu trong thể thao của chúng ta không phải là hiếm. Chẳng hạn có cả cảnh cầu thủ đuổi đánh trọng tài, rồi khán giả ngoài sân cũng lao vào săn đuổi trọng tài, đòi đánh đòi hỗ trợ... Thể thao mới chỉ là cơ chế hạ tầng của một nền văn hoá, vậy mà, nếu chúng ta không biết soi mình thì sẽ trở thành ngớ ngẩn bất ngờ. Hãy nghe, chính ông huấn luyện viên trưởng đội tuyển quốc gia là người nước ngoài, trong một buổi phỏng vấn trên truyền hình đã phát biểu một cách đầy tế nhị như sau: “trước hết, muốn trở thành những đội bóng hùng mạnh các cầu thủ Việt Nam, phải học biết tư duy chiến lược ” Tư duy chiến lược là gì? Theo ông huấn luyện viên, thì khi có bóng các cầu thủ Việt Nam cần phải biết đưa bóng về hướng nào? Thật là hóm hỉnh đến chết đứng mất thôi! Là cầu thủ bóng đá, ai chẳng biết khi có bóng thì phải tìm cách đưa bóng đến khung thành của đối phương. Chuyện hiển nhiên vậy với nhiều cầu thủ xứ ta cũng không hiển nhiên, bởi lẽ, họ còn phải đá ngang, đá tắt, đá vòng, đã vèo cho các vụ mua bán cá độ. Vì thế mà có nhiều đường bóng rất ấm ớ, nửa nạc nửa mỡ, không hiểu cầu thủ trên sân thuộc đội nào, đá bóng về phía khung thành bên này, hay về bên phía kia. Khi một trận đấu, tính mục đích của thể thao đã không còn, trở nên nhạt nhẽo vô vị, thì liệu đã đến lúc nghĩ rằng: Nếu không khéo ngay cả “trò chơi” ở cấp quốc gia, chúng ta cũng chơi không xong?


18

Chuyện ngược đời ở ta thì có rất nhiều. Theo điều tra của thành phố Hà Nội năm 2001 thì thấy: Bình quân cứ 8 người tốt nghiệp đại học, mới có hai người học nghề. Đây là tình trạng mà trong dân gian vẫn nói “thầy nhiều hơn thợ”, và ai cũng muốn làm thầy, chẳng ai muốn làm thợ. Tình trạng đó dẫn đến các kiểu sính chữ dởm, học dởm, đỗ đạt dởm. Và điều đó được bộc lộ tức thì qua “Cuộc thi tuyển chọn việc làm” ở hội chợ Giảng Võ năm 2002. Nhiều chuyên gia, khi tiếp xúc với nhiều sinh viên tốt nghiệp ra trường đã bảo rằng: các em thiếu tự tin đến mức, hầu như không có được chủ kiến trong bất cứ việc gì, và mọi việc từ nhỏ đến lớn cảm giác phải cầm tận tay các em dẫn vào công việc. Có quá nhiều sinh viên, sau khi tốt nghiệp xong, ao ước được làm công việc của công nhân cũng không xong. Chẳng hạn, tôi có bước vào một xưởng in nhỏ, người thợ chỉ làm công việc đứng máy in thôi, anh cho biết anh đã qua đào tạo công nhân kỹ thuật tại nước ngoài bốn năm. Như vậy chí ít anh phải thạo ngoại ngữ, và phải thông thuộc mình. Nghề của anh trông đơn giản vậy mà khó đến mức, anh học xong về nước tham gia sản xuất cả chục năm, mà tay nghề còn chưa vượt qua bậc bốn. Anh cho biết, trong xưởng ở tổ nào cũng có công nhân kỹ thuật đã qua đào tạo ở nước ngoài. Anh rút bao thuốc lá địa phương rẻ tiền mời tôi, với điệu bộ rất tự tin, theo kiểu “tôi là công nhân, thu nhập của tôi ở mức ấy thôi, và tôi mỗi anh thuốc tôi vẫn dùng”. Chỉ một điệu bộ nhỏ như vậy đã bắt tôi hiểu rằng khi người ta có công việc thật, làm thật, thì người ta sống lành mạnh, thành thật. Trái với anh công nhân kia, có rất nhiều sinh viên của tra ra trường không có công ăn việc làm, dần dần bị lối sống vờ vịt lôi kéo, xô đẩy, làm thoái hoá không dám sống thật với mình. Chào không ra chào, cám ơn không ra cám ơn, xin lỗi không ra xin lỗi, tuổi đã suýt xoát ba mươi, mà vẫn thường xuyên diễn tuồng “ngậm miệng ăn tiền”, hay “ấp úng như ngậm hột thị”. Đây, tôi không phải muốn dè bỉu các bạn trẻ, mà trong trào lưu chung của thế giới đang cảnh tỉnh về nạn “mù chữ mới” hay “vô văn hoá” mới, chúng ta cũng phải nên ngắm lại mình. Hiện nay, các SOS chính thức theo các cuộc điều tra xã hội, nước ta có hàng trăm trường đại học, nhưng chủ yếu “mới chỉ xoay quanh” môn ngoại ngữ và môn vi tính, mong xin một chân làm đánh máy văn phòng cho các công ty liên doanh. Như vậy thấy nổi cộm rõ một điều, cái sở học của chúng ta mới chỉ ở mức dồn sự chú mục vào chân làm “tớ” cho người. Trả lời trên truyền hình, một nữ chuyên gia nước ngoài (tôi không nhớ tên) nói thẳng rằng: Tôi thấy nước các bạn đang cần rất nhiều nghề, chẳng hạn có nhiều xe máy thì cần các thợ máy để sửa chữa, rồi thực phẩm đóng gói, rồi ngành dệt may, rồi cán bộ ngành luật... thế nhưng tôi chỉ thấy mọi người lao vào ngành vi tính và siêu vi tính, như thể đó là sự cần thiết duy nhất của cuộc sống. Người Việt không những còn lạc hậu, mà còn làm nhiều việc ngược đời đến mức lạc điệu. Chính người Việt đã tự trào cách dân gian rằng: “Ăn nhanh, đi chậm, đái đường, hôn bụi rậm”. Đái là cái xấu lại có thể đứng vô tư bên đường mà đái. Thậm chí còn có chuyện vui rằng, bà kia đang làm cái việc ấy, thấy xe buýt đi qua, sợ lỡ xe, nên vừa “tè” vừa vẫy xe dừng lại. Còn hôn là tình cảm cao quý người ta trao nhau, lại cứ phải kéo nhau vào chỗ kín, chỗ tối mới dám hôn. Những việc ngược đời đó mới chỉ là sinh hoạt của mỗi cá nhân, chưa ảnh hưởng gì lớn đến quyền lợi cộng đồng. Nhưng cái nết ngược đời đó thành cố tật lan ra xã hội thì thiệt hại không biết bao nhiêu mà kể. Chẳng hạn, ở rất nhiều nơi, nhiều lần, người ta cứ làm đường xong, lại đào đường đặt cống, rồi đào đường đặt ống nước, đặt dây điện, rồi dây điện thoại, mỗi lần đào là một lần làm lại đường. Khi được hỏi, một anh công nhân đào đường trả lời, chúng tôi phải bới việc ra mà đào, vì càng đào thì mới càng rút được tiền quỹ đầu tư, vả lại nếu không còn chỗ để đào thì chúng tôi phải bán xới lên rừng sao? Vì thế, muốn ở thành phố, muốn có việc làm, muốn được trả tiền, thì phải bới chỗ ra mà đào. Một anh cai đầu tư có lần còn tâm sự, giả dụ chiếc cột điện hỏng nằm kia, tôi sẽ tìm cách xin kinh phí để khênh nó qua chỗ khác, ít ngày sau tôi sẽ tìm cách


19

xin kinh phí để khênh nó về chỗ cũ. Đấy vẫn chỉ là cách nói biểu tượng nhẹ nhàng thôi, còn trên thực tế theo điều tra mới đây của nhà nước được phát trên truyền hình, năm 2002, thì nạn thất thoát đến 60% vốn đầu tư xảy ra với nhiều công trình từ xây dựng cơ bản đến sản xuất, kinh doanh kể từ Bắc chí Nam. Chẳng hạn như công trình cầu chui Văn Thánh ở thành phố Hồ Chí Minh, giá trị xây lắp được đầu tư là 3,5 tỷ đồng, nhưng nó đã vòng vèo chạy khỏi chiếc cầu thực 2 tỷ đồng, nên mới làm xong đã long lở gây tai họa cho nhân dân. Làm đường rồi lại đào đường. Việc như vậy có “dại” không? Dại à, mỗi lần làm lại đường là một lần xin được kinh phí mới, rồi khi đào lại xin thêm được khoản nữa, và không thể đào lên rồi lại không phải làm như trước. Với mấy kẻ hám lợi vặt thì đó là khôn. Nhưng với tài sản của dân tộc thì đó vừa là thiệt hại vừa là dại dột. Dại dột vẫn chưa đáng lo, cái lo ở đây là người ta biết dại mà vẫn làm, cố tình dại dột là một băng hoại ghê gớm về đạo đức. Đây cũng là cách “gà què ăn quẩn cối xay”, “Ăn xó mó niêu” của những anh hùng xó bếp. Việc này lây lan một cách tai hại từ tầm vi mô đến tầm vĩ mô. Theo thông báo chính thức, thì hiện nay ở nhiều tỉnh và thành phố, người ta xây dựng các khu sản xuất và dân cư theo kiểu, thượng tầng đã xây xong nhưng hạ tầng cơ bản như hệ thống điện, nước, cống ngầm, cả đường giao thông đi vào vẫn chưa có. Đó có phải là bằng cớ to đùng về quy trình ngược của phần lớn người Việt chúng ta. ở các nước, dù xây dựng bất cứ khu nào, người ta đều phải xây dựng đường xá trước, rồi đến các công trình đặt ngầm dưới đất, sau đó mới đến các công trình đặt nổi ở bên trên. Nhưng ở ta sao cứ làm ngược lại? Câu trả lời là chỉ vì vụ lợi. Tôi xin kể một câu chuyện thật đơn giản. Xóm tôi ở, đường thấp hơn sân - vườn của các nhà nên cứ mỗi khi mưa là lầy lội, nhão nhoét bùn đất rất lâu, kể cả khi trời đã tạnh, cả xóm bàn nhau sẽ đắp cao đường. Và một chủ nhật, già trẻ, trai gái “ra quân” kéo xe cải tiến chở đất đá về đắp đường. Và xe vừa vào đến đầu ngõ, thì các hộ ở đầu ngõ liền ra lệnh cho đổ đất đá xuống. Thế là tất cả ùn tắc, bùng nhùng ngay đầu lối xóm nhỏ bé. Nhiều người hỏi tại sao không đổ cuốn chiếu từ trong ra như vậy vừa không tắc, vừa nhanh, vừa tiện. Nhưng bà ở đầu ngõ trả lời rằng: đổ từ trong ra, nhỡ ra đến nhà tôi không còn đất đá thì ngõ nhà tôi bị thiệt à. Thế là ai cũng sợ thiệt, xe đi từ ngoài vào đến ngõ nhà nào thì nhà ấy lại hô hào đổ xuống. Rút cục các xe càng đi sâu vào trong càng phải leo lên tầng đất đá xe trước vừa đổ. Công việc tiến hành chẳng mấy chốc thì dã đám. Mọi người thất vọng không phải chỉ vì mệt mỏi vô lý, cứ phải khênh xe chèo qua đất đá và người, dồn tắc lại, mà cái chính là thất vọng về lòng ích kỷ, mới tối qua họp xóm thôi, mọi người vừa nhất trí đắp cao con đường của xóm, thì sáng nay ngay tức thì người ta đã đua nhau trình diễn lòng ích kỷ. Cả xóm đắp một con đường nhỏ, nếu đắp cuốn chiếu từ trong ra ngoài thì chỉ hơn một giờ là xong; đằng này người ta lại làm từ ngoài vào trong khiến cả buổi sáng phải vật vã trong lùng nhùng vô lý. Sự ích kỷ đó đã bịt mắt trí khôn dù bé nhất của con người, thấy cái đáng làm rất nhỏ mà không làm được. Và sự ích kỷ vô lý đến mức, chỉ một giờ sau người ta sẽ đắp đường qua ngõ nhà mình, nhưng cũng không thể nào chờ nổi. Trong rất nhiều công trình của chúng ta, sự ích kỷ, tính toán vụ lợi bộ phận và vụn vặt đã hoành hành gặm nhấm rất nhiều tài sản của chúng ta. Không phải chui vào túi nhau và ném ra ngoài bãi rác. Chẳng hạn, như nhiều người quen biết tôi, nhận căn hộ mới. Các căn hộ có rất nhiều cửa sổ và cửa ra vào đến mức vô lý, vì lẽ người thiết kế ra chúng muốn rút thêm tiền công thợ nề trát khung cửa, và thợ mộc đóng khung gỗ. Có rất nhiều công trình từ căn hộ đến những ngôi nhà lớn, khi nhận nhà chỉ là nhận một thứ “làm đại khái”, sau đó chủ nhân của nó lại phải phá đi làm lại nhiều bộ phận vừa vô lý vừa qua loa của ngôi nhà. Người Việt nói “Một lần chẳng tốn bốn lần


20

chẳng xong”. Thực ra một lần đã quá tốn cho những thứ vừa phi lý và đại khái, sau đó chúng ta phải tốn kém bốn lần để loại bỏ những thứ đó vào bãi rác, tiền đổ xuống sông, xuống biển. Đúng là “cái dại làm hại cái khôn”.

II. Thước để ngắm mình Người việt có câu “Muốn tròn thì phải có khuôn, muốn vuông thì phải có thước” Đề tài cuốn sách của tôi là “Người Việt tự ngắm mình”. Chúng ta ngắm mình không phải bằng cách chỉ ra hết tật xấu này đến tật xấu kia, những tật xấu mà trước hết có tôi, gia đình tôi, họ hàng tôi tham dự vào đó, mà chúng ta phải soi cái nét hay cùng tật xấu của mình qua một chiếc gương. Vậy thì, tiếp theo đây tôi xin trình bày chiếc gương có tính công truyền để đi tới công lý của mọi người. Bởi lẽ, nếu đòi lấy chiếc gương của mình soi cho người khác thì thật nực cười, cũng như các nhà mỹ học nói: “Mỗi người một sở thích”, người ta không thể lây sở thích của mình như thích uống chè chê sở thích của người uống cà phê là kém. Chiếc gương để chúng ta soi mình phải là chiếc gương của công lý. Muốn tiến đến Công lý thì trước hết phải đưa ra Công truyền bàn bạc. Vì vậy tự thân tôi mong muốn sẽ đưa ra những sở cứ xác đáng nhất, và sự xác đáng đó xin đưa ra vừa chia xẻ vừa tranh biện với mọi người, ngõ hầu chúng ta sẽ cùng tìm ra tiếng nói của công truyền. Xương sống của tấm gương tôi đưa ra sẽ dựa trên cuộc tiến bộ mà nhân loại theo đuổi hơn 2000 năm nay. Đó là cuộc tiến bộ về Cộng hoà. Cho đến nay, từ nước giầu đến nước nghèo, nước đã phát triển đến nước đang phát triển, từ cuộc giải phóng nô lệ, đến cuộc giải phóng thuộc địa, đến cuộc giải phóng phụ nữ, tất cả đều đã và đang đi theo mô hình Cộng hoà của triết gia Platon (Cộng hoà diễn nghĩa đen thuần tuý là Cộng tồn - Hoà đồng chung sống và lãnh đạo không phân biệt người mạnh người yếu, người giầu người nghèo, người sang người hèn, người chủ người tớ, người nam người nữ. Mô hình này được thể hiện qua cơ chế Nhà nước là Quốc hội - Dân chủ Nghị Viện ). Và mô hình Cộng hoà này được Platon viết kỹ trong cuốn “Cộng hoà” (La République) (5). Đây là một trong cuốn sách lớn nhất của Platon ghi lại các cuộc đối thoại của thầy mình là Socrate - được coi là người chính thức mở màn triết học cổ đại. Tầm vóc của cuốn sách lớn và ảnh hưởng đến hậu thế đến mức, triết gia lớn của thế kỷ XX Alfred North Whitehead (1861 1947) một lần đã nói: “Mọi người được sinh ra hoặc là môn đồ của Platon hoặc là môn đồ của Aristote” (6) (Aristote lại là học trò của Platon). 1 Thành thật là nội dung thật của mọi hạnh phúc ở đời Trong những điều dạy của Đức Phật có dạy một lời cốt tử rằng: “Sự ngu dốt lớn nhất của con người là dối trá ”. Liệu có ai trong chúng ta nghi ngờ điều hiển nhiên này? Không, vẫn còn quá


21

nhiều, vì nhiều kẻ vụ lợi thấy ăn gian nói dối nhiều khi kiếm được lợi hơn là sống ngay thẳng, nên điều hiển nhiên trên chưa chắc đã vào tai. Để khẳng định sự thật này, một nhà tư tưởng đã quả quyết: “Không thật thì chưa nói đến thành cái gì vĩ đại, mà từ cái nhỏ nhất cũng không thành được”. Chúng ta thử ngẫm coi, liệu một đầu bếp giỏi, có nấu nổi một món bít tết ngon mà không có thịt bò thật? Hay một bát canh cá ngon mà không có cá thật phải dùng cá rởm hay cá ôi? Ngay như một mớ rau héo liệu có thành món rau luộc ngon được không? Triết gia Socrate đặt nền móng hết sức căn bản mạch lạc cho sự thật. Ông nói: “Con người cần sự thật như là thân xác phải ăn các thức ăn thật; nếu không, ăn phải thức ăn rởm, thức ăn xấu sẽ bị tháo chảy, hay suy sụp cơ thể. Tinh thần cũng vậy, nếu nó ăn phải những lọc lừa dối trá gian manh, sẽ bị băng hoại suy đồi”. Thân xác phải ăn thức ăn thật nếu không sẽ gầy còm đau ốm, thì rõ rồi. Nhưng còn tinh thần, nhiều người cãi lại Socrate rằng: Họ thấy có rất nhiều kẻ xấu gian manh, lọc lừa, vậy mà chúng sống rất giàu có, sung túc, thậm chí còn giữ địa vị rất lớn nữa. Socrate bác lại với 3 lý do chính. - Thứ nhất: Đó không phải những kẻ hạnh phúc, vì họ đã co giảm ý nghĩa toàn bộ đời sống cả tinh thần lẫn vật chất của con người vào chỉ trong vật chất. Ăn ngon, mặc đẹp, ở nhà to đó chỉ là hạnh phúc nhỏ bé của một “giá áo túi cơm”. - Thứ hai: Tinh thần không tôn trọng sự thật sẽ không yên ổn, nó sẽ khắc khoải, dằn vặt, tự hành hạ. Một người có thể đổi sự tan rã của tinh thần lấy sự no đủ của thể xác, là cách dại dột chứ không phải hạnh phúc. - Thứ ba: Tinh thần ngay thật sẽ đồng bản tính với thánh thần. Vì thánh thần tài giỏi hơn con người cả muôn triệu lần, giầu hơn con người đến mức chẳng bao giờ phải ngó mắt nhìn dục vọng tài sản, nên không bao giờ cần nói dối, đánh lừa con người. Và người ngay thật sẽ được thánh thần nâng đỡ. Trong thần thoại Hy Lạp, có những thánh thần luôn trợ giúp những người ngay thẳng, và rượt đuổi những kẻ phạm tội, khiến cho chúng vật vã thất điên bát đảo, ăn không ngon ngủ không yên, rút cục phải tìm đến những “vòng móng ngựa”. Cùng một cách nghĩ như thế, người Việt nói “Có đức mặc sức mà ăn”. Socrate còn thiết lập, thành thật là đức chuyên môn căn bản của mỗi người. Chẳng hạn, như người chăn cừu kia, anh ta tử tế lương thiện, chăm chút cho những con cừu như những sinh linh nhỏ bé. Thế là đàn cừu của anh tăng trưởng mỗi ngày một nhiều. Đến lúc anh trở nên giầu có, không phải vì lúc nào cũng nghĩ đến cách giết thịt cừu bán lấy tiền, mà trước hết là do tay nghề chăn nuôi tận tình chu đáo của mình. Cũng vậy, nghề của ông bác sĩ là chữa trị cùng tử tế yêu thương. Do vậy mà bệnh nhân tìm đến ông mỗi ngày một nhiều. Ông trở nên giầu có, không phải bằng cách cứ nhìn thấy bệnh nhân là nghĩ ngay đến cách moi tiền, và nếu ông làm thế tay nghề của ông sẽ rất kém, không thể trở thành một bác sĩ vừa giỏi chuyên môn vừa giầu nhân ái; trái lại mở đầu ông luôn nhìn bệnh nhân bằng một đôi mắt thương xót, ái ngại, cần chữa trị. Chính vậy


22

mà nhiều người mới tìm đến với ông, người ta móc túi trả ông rất hậu để đền cho lòng nhân hậu cùng sự sốt sắng của ông. Một thuyền trưởng giỏi cũng vậy, anh ta danh giá, giàu có, vì mắt luôn theo dõi các con sóng của đại dương, thông thuộc địa hình và giờ thuỷ triều. Vì thế, chủ nhân những con tầu lớn tranh nhau mời anh làm thuyền trưởng. Anh mới trở nên giầu có. Chứ anh không thể giầu có bằng cách mới bước vào nghề, mắt không chịu dõi nhìn biển cả, mà chỉ đau đáu nhìn về phía két sắt của những nhà băng? Một chiến bình giỏi cũng vậy, nghề của anh là dũng cảm, vì chiến đấu dũng cảm có ngày anh được lên tướng. Chứ anh không lên tướng bằng cách: suốt ngày ngồi mơ mộng đến cương vị chỉ huy cả vạn người. Về sự chân thật là điều kiện tất yếu để có hạnh phúc, triết gia Hegel đã khẳng định thế này: Một cái cột dựng nghiêng nó sẽ đổ, vì vậy khi dựng cột những người thợ đều phải dựng cho đến khi nào chiếc cột đứng thẳng lên. Như vậy nếu coi hạnh phúc là toà lâu đài, thì lâu đài đó không thể đứng vững trên những chiếc cột được dựng nghiêng ngả. Không có sự ngay thẳng, tất cả sẽ sụp đổ. Vì thế triết gia Platon mới bảo: “Không có điều thiện tất cả điều khác là vô ích” (Sans la possession du biên, toute autre chose est inutile) (7). Chúng ta thử ngẫm xem, không có điều thiện tức là con người ăn ở với con người chẳng ra gì, cắn xé, giết chóc lẫn nhau, thân không còn thì nhà to cửa rộng, phẩm vật quý báu, tiện nghi tiện lợi, của cải sang trọng có để cho ai và để làm gì? Người đẹp, lạc thú, hạnh phúc ở đâu khi chiếc giường chỉ là nơi hành hạ, thậm chí hạ độc thủ lẫn nhau? Vì vậy, theo Rousseau, điều kiện đầu tiên để con người được hạnh phúc - là phải biết sống tốt cùng nhau. Bởi vì nếu không biết chung sống tốt lành với nhau, xã hội loài người chỉ còn là chiến địa cắn xé, tranh giành, thủ tiêu lẫn nhau. Ông nói: “Ôi! trước tiên chúng ta hãy tốt, rồi sau đó chúng ta sẽ hạnh phúc” (8). Từ xưa đến nay bằng kinh nghiệm sống của mình, người Việt cũng nhận thức, sự ngay thật là giường mối đầu tiên của mọi sự tốt lành. Người Việt nói: “Ăn ngay nói thật mọi tật đều lành”. Và dứt khoát xác định khôn ngoan mấy cũng không thể bằng thật thà: “Thật thà là cha quỉ quái”, hay “Khôn ngoan chẳng lọ thật thà”. Cách quan niệm của người Việt phần nào cũng giống cách nghĩ của Socrate, khi cho rằng: dối trá chỉ là hạng ma quỷ không thể nào sánh với sức mạnh của thần thánh “thật thà”. Còn cách sống bỏ qua, phẩm chất sự thật của tâm hồn, đổi lấy dầy áo, đầy cơm cho thân xác cũng là một ảo tưởng không thể. Xưa nay người Trung Hoa vẫn quan niệm, vật không thể tách rời tâm và ngược lại: “Vật nhờ tâm mà thông, tâm nhờ vật mà hiện”. Theo các nhà vật lý cơ học lượng tử hiện đại thì: ngay trong thế giới hoạt động của mỗi nguyên tử nhỏ bé bằng một phần tỉ đầu kim, thì chúng vận động, cấu kết tán rồi tụ như luôn có tinh thần tự thân dẫn dắt. Giản dị như người ta đun sôi một ấm nước thôi, các nguyên tử sẽ rời bỏ cấu trúc của thứ nước lạnh, đan kết thành những chùm cấu trúc mới (9). Thân xác luôn là trụ sở của tâm hồn, và tương tác trực tiếp qua lại với tâm hồn như hình với bóng. Như vậy, thật ảo tưởng khi nghĩ rằng, tâm hồn có thể bất cần đến “thức ăn sự thật” để thoả mãn trong một thân xác nuốt đầy phẩm vật, tiện nghi. Vì thế triết gia Aristote cho rằng: “Người hạnh phúc phải là một tinh thần thông thái sống trong một cơ thể lành mạnh”.


23

Không có sự thật thì không thành gì! Vì làm có nước giả, đất giả, thịt giả và rau giả? Còn tâm hồn khi không có sự thật sẽ thành cái gì, chúng ta hãy nghe Bêlinxki quả quyết: “Khi một người chỉ chuyên tâm dối trá thì nó mất hết trí thông minh và tài năng”. 2 Phân biệt minh bạch trật tự, và phán xét là điều kiện tất yếu cho mỗi cá nhân và xã hội phát triển Tất yếu một cá nhân không có hệ thần kinh “trật tự” sẽ là kẻ điên. Người việt diễn tả tình trạng đó qua từ “chập mạch”, giống một hệ thống dây điện chạy chằng chịt không theo hàng lối minh bạch nữa, chập vào nhau, gây nổ điện, phá huỷ, tê liệt hoàn toàn. Hoặc người Việt vẫn gọi đó là loại hâm hấp, không ra sôi, không ra lạnh. Đó là tình trạng không minh định của một tâm hồn. Một cá nhân không có ngăn nắp trật tự trong hệ thần kinh sẽ điên điên - khùng khùng, dở ông dở thằng. Xã hội cũng giống thế, để đánh giá trình độ văn minh của nó, người ta đều nhìn nhận đến trình độ trật tự của nó. Phân biệt, minh bạch, trật tự và phán xét là chuỗi rèn luyện tất yếu của tâm hồn, do triết gia Socrate và Platon vạch ra. Đó cũng là nguyên lý xuất hiện một cách tự nhiên. Chẳng hạn trong các nhà trẻ, người ta thường cho các bé chơi các khối hình vuông, tam giác, tròn. Khi chơi các bé sẽ phát hiện ra, cái vuông thì đứng, cái tam giác thì nghiêng, cái tròn thì lăn. Và xếp cái vuông lên cái vuông thì dễ, xếp cái tam giác lên tam giác thì khó, xếp cái tròn lên cái tròn thì không thể. Sau khi nhận biết hình thù và chức năng của các khối hình, các bé có thể phân biệt được chúng, sau đó xếp đặt theo trật tự. Và hiển nhiên sự phán xét sẽ đi kèm theo đó, nếu các bé thấy ai định xếp hình tròn lên một hình tròn. Như vậy, một quy trình “nhân quả” đã nảy sinh tất yếu trong đầu mọi người: Biết phân biệt, thì tự nhiên Sắp đặt, sắp đặt hiển nhiên là theo trật tự (không thế này thì thế khác), và khi đã có “hệ thống” của trật tự thì tự nhiên chính hệ thống đó sẽ loại bỏ ra những gì không ăn nhập vào nó đó là phán xét. Trái với quy trình trên có một sự thật, đối nghịch rằng: Không biết phán xét, thì cũng có nghĩa không có khả năng minh định, phân biệt sự vật. Đó là thứ ấm ớ, “ăn không nên đọ nói không lên lời”, nôm - na lẫn lộn thành ra mánh qué. Socrate cho rằng: Lý trí là đời sống tiến bộ tất yếu của con người, vì chỉ có động vật và trẻ con là hoạt động không có lý trí. Ông cũng cho rằng khả năng tất yếu của bộ não con người phải được thể hiện bằng cách biết đưa ra “ý tưởng”và nhận xét. Đặc biệt là với người có học, cho đến khi nào người đó chưa đưa ra ý tưởng của mình thì những kiến thức anh ta có được chỉ là thứ vật liệu xếp kho ngủ im lìm một cách vô ích. Người đó giống như một cái cây đã hút không khí, ánh nắng của trời, nước, chất mầu của đất, vậy mà chẳng hề đơm hoa kết trái nổi. Cho dù chỉ là một ý tưởng. Nói cách ngắn gọn: đó là những người mới Học mà chưa Hành. Hay theo cách nói của người Việt: Học đổ cơm xuống sông, xuống biển.


24

Tình trạng thui trái nhận thức, hay vô ích của những “ngăn kéo chữ” không chỉ xảy ra đại trà ở Việt Nam, mà ngay ở Trung Quốc một dân tộc lớn nhất thế giới, có nền văn hiến lâu đời, mà mới đây nhà văn hàng đầu của họ Vương Sóc cũng đã lột tả rằng: “Im lặng không những không phải đức tính tốt đẹp, trái lại là một thứ vô liêm sỉ khôn khéo, một sách lược sinh tồn. Mặc dù là nhà học vấn to đến mấy, một khi đã yêu quý bộ lông của mình, thì sẽ mất lương tri”. Ông còn chỉ ra rằng, Trung Quốc từ cổ chí kim thiếu lý luận không phải vì do thiếu trình độ, mà là do thiếu thành thật. Vì sách lược sinh tồn người ta ẩn nấp bằng cách “ngậm miệng ăn tiền”, nên không dám nêu ra chính kiến của mình. Bởi vậy mà nền lý luận không thể phát triển được (10). 3 Sở trường là con đường phát huy cao nhất, là sở thích đạt tới hạnh phúc lớn nhất của cá nhân. Mọi cá nhân với mọi sở trường được phát huy sẽ là con đường phát triển tốt nhất cho mọi dân tộc Sở trường nói một cách khoa học, là khả năng thiên bẩm mà trời phú cho mỗi người. Bởi thế khi người đó được làm việc bằng sở trường của mình, thì thành công sẽ đạt được mức cao nhất có thể, và người khác không có sở trường giống người đó sẽ không có khả năng cạnh tranh cùng anh ta, vì thế trong lĩnh vực của mình (phạm vi nhỏ và lớn), anh ta leo lên ngôi vị cao nhất, khi đó anh ta sẽ gặt hái phần thưởng lớn nhất cho cuộc sống của mình. Thêm nữa, khi anh ta dùng sở trường của mình vào các trò vui chơi giải trí, thì sở trường đó cũng giúp anh đạt được những trạng thái phấn khích cao nhất. Anh ta sẽ cảm thấy hạnh phúc nhất. Thí dụ, một người được thiên phú sở trường “đánh cờ”. Anh ngồi chơi, tập chơi cờ từ giờ này qua giờ kia không chán. Rồi đến ngày anh trở thành kiện tướng cờ, rồi nhà vô địch. Như vậy cùng lúc sở trường đã đem đến cho anh sở thích cao nhất, thành công cao nhất. Thí dụ khác, một người có hai bàn tay giỏi âm nhạc. Chơi đàn đã trở thành sở thích lớn nhất của anh, cũng như con đường say mê nhất để tiến đến tài năng. Rồi anh trở thành cây đàn cự phách nhất. Một thí dụ ngược chiều, một người chỉ thạo đôi chân, giỏi đá bóng, vậy mà bạn bè cứ bắt ép anh phải chơi bóng chuyền, anh khiên cưỡng chơi, vì vậy niềm vui của anh không thể nào hết cỡ, cũng không thể nào đạt tới vinh quang trong trò chơi, vì chơi trái sở trường làm sao mà giỏi. Và Socrate cho rằng, đã là sở trường, thì không ai cùng lúc có nhiều sở trường. Giống như tạo hoá cho con chó chiếc mũi thính, nhưng lại cho con cú đôi mắt tinh, và cho con dơi đôi tai tài tình. Con người cũng vậy, người có sở trường bóng đá, người có sở trường bóng bàn, người giỏi âm nhạc, người hay điêu khắc... Vì thế một xã hội chỉ phát triển hùng cường khi mọi cá nhân được phát huy hết cỡ sở trường của mình. Điều này vừa tạo ra sức phát triển của xã hội, vừa triệt tiêu những xung đột cạnh tranh sinh tồn, bởi lẽ, mỗi người đều phát huy sở trường riêng rẽ của mình, không ai có thể lấy sở trường về tay của mình ganh đua với sở trường của người khác về chân. Người thợ thủ công có đôi tay khéo chẳng có lý do gì cạnh tranh với người giỏi chơi cờ. Từ dây soi chiếu vào châu Á, thấy rằng sự cạnh tranh sinh tồn ở Trung Quốc, cũng như Việt Nam, trước đây là rất gay gắt. Vì các sở trường không được phát huy mà mọi sở trường đều biến


25

thành sở trường “đếm ghế” duy nhất của con đường quan lộ. Văn hào, nhà văn hóa lớn Trung Quốc. Lỗ Tấn cho rằng, sự cạnh tranh trên đường độc đạo “xếp ghế” duy nhất ấy không chỉ xảy ra trên hiện thực, mà còn cắm sâu vào tiềm thức của người Trung Quốc đến mức chỉ có làm quan mới là hạnh phúc. Lỗ Tấn miêu tả. Nền văn học Trung Quốc, muốn cho một người đàn ông lấy vợ, thì trước hết phải đẩy người đó lên kinh đô thi cử, đỗ trạng, rồi mới vinh quy cuới vợ. Một loạt các tập phim trong bộ phim “Bao Thanh Thiên”chiếu trên truyền hình, đều diễn tả kiểu mẫu mà Lỗ Tấn chỉ ra. Theo đó, trong thời gian quá lâu, cả nghìn, rồi hơn nghìn năm, trong tâm cảm của người Trung Quốc chỉ nổi lên một điều: Chỉ có làm quan mới là phẩm chất xứng đáng của hạnh phúc, mới có quyền sánh ngôi cùng người đẹp. Người Việt bị Trung Quốc đô hộ nghìn năm Bắc Thuộc, cũng đã nhiễm nặng căn tính này. Trong câu “mắt thợ võ quan” chẳng hạn, người ta quan niệm chỉ có quan mới có vợ đẹp. Tư duy này không chỉ có ông quan và vợ quan được hưởng, mà đã kéo theo một dãy một bè những thê thiếp, nàng hầy con sen, thằng ở, kẻ đánh thuê đòi chen chân vào cửa quan để đòi được sống dưới ô che: “Một người làm quan cả họ được nhờ”. Cuộc cạnh tranh gay gắt ở cửa làm quan làm thui chột các sở trường và tạo ra sức ép vô cùng quyết liệt, và căng thẳng giả tạo cho xã hội. Đó là một nguyên nhân lý giải tại sao, hiện giờ có 8 người theo đại học, mới có 2 người học nghề (trong khi đó tỷ lệ ở các nước tiên tiến là 1 người trình độ kỹ sư thì có 9 công nhân, tỷ lệ 10%) Vậy tỷ lệ ở ta đang là, muốn làm thầy 80%, làm thợ (tớ) chỉ có 20%. Thực trạng trên, điều ý nghĩa hơn không chỉ nằm ở sự chênh lệch vô lý của con số, mà là ở chỗ, chúng ta hãy nhắc lại câu nói của người Trung Quốc “Làm việc thì dễ làm người mới khó” cách sống phát huy sở trường của mọi người là tạo ra phẩm chất sống của mỗi cá nhân và dân tộc hùng mạnh về mọi phía, trái lại cách đua chen ở trên người do cậy vào sự sắp đặt xã hội, chỉ tạo ra một chuỗi số sơ cứng - chỉ có quyền hành sống mà không có tài năng sống 4 Ba phần của cơ thể đầu, tim, dạ dày tương ứng với ba cấp độ làm người Socrate và Platon cho rằng, con người gồm ba phần chính, ba phần ấy có liên quan trực tiếp khá khác biệt với chức năng của cơ thể. Một đầu: Sự thông thái, khát vọng, lý tưởng và tham vọng. Hai, Tim: Danh dự, ý chí, tình yêu. Ba, Dạ dày: Lợi ích, dục vọng, tiền tài, nhu cầu cần thiết. Tương ứng với ba phần của cơ thể, xã hội loài người cũng chia ra ba cấp làm người chính sau: Một: Những người hướng về lối sống của não bộ, lo toan đời sống kiến thức, khát vọng cái cao xa, và ham muốn những gì kỳ vĩ. Hai: Những người có con tim mạnh mẽ, thì ý chí cao, khát vọng danh dự, và mong có được tình yêu bằng cách hy sinh bản thân mình (tình yêu chỉ có được bằng con đường xả kỷ).


26

Ba: Người chỉ chăm lo dạ dày và thận, chỉ là túi cơm muốn ăn đầy, túi ngủ đêm đêm có đàn bà cưng ẵm (cung tần, kỹ nữ, nàng hầu, karaoke biến tướng). Cấp độ một sống bằng não bộ, là những người sản xuất ra ý tưởng cũng như “định lý” là bác học hay là hiền nhân ở đâu cũng hiếm. Và chỉ có được bằng cách nâng cao trình độ giáo dục, và trình độ lương tri của chữ nghĩa. Cấp độ hai sống bằng con tim, có sẵn không? Đó là những kiểu hiệp sĩ biết trọng danh dự, sẵn sàng rút kiếm ra, hay quyết đấu bằng bất cứ hình thức nào, với người khoẻ hơn mình cả chục lần, để bảo toàn danh dự. Vậy mà ở châu á, nhiều người vẫn còn khâm phục kiểu mẫn của đại tướng Hàn tín thủa hàn vi sẵn sáng luồn chôn thằng hàng thịt để bảo vệ lấy sinh mạng mình. Còn tình yêu, thì theo nhiều chuyên gia, nó chỉ chính thức bắt đầu với Rô-mê-ô và Ju-li-et, khi người ta biết dùng con tim trao cho nhau những tình cảm cao thượng đến vong thân. Văn hào Vương Sóc, cho rằng, người Trung Quốc mới chỉ ở trình độ tình dục - tức ở thận, thê thiếp từng bầy, thanh lâu nhan nhản mà chưa có tình yêu của con tim. Còn ở Việt Nam, tôi quan sát thì chủ yếu chúng ta vẫn dựng vợ gả chồng theo lối “ống ngắm” và “máy tính nhẩm” chứ rất ít đôi đạt đến trình độ “xả kỷ hiến tha”, hay danh dự lớn của tình yêu. Cả hai ta yêu nhau không phải nhìn ngắm nhau mà nhìn về con đường phía trước xa vời vợi, vắng bóng cả những tiện nghi và séc nhà băng. Nếu bạn không đồng ý xin hãy tự đánh giá lấy mình, và những người xung quanh. Cấp độ ba, là người cái gì cũng quy ra thóc, phải “ăn lấy đặc mặc lấy dầy”, chớ có “xểnh nhà” coi ra “thất nghiệp”, và thậm chí “khôn như tiên không tiền cũng dại, dại như chó có gạo là khôn”, hay còn đổi óc lấy dạ dầy “văn hay chữ tốt không bằng ngu dốt lắm tiền” ... muốn lắm tiền nhưng chưa ra khỏi nhà đã sợ “buôn tầu buôn bè không bằng ăn dè lỗ miệng”, không những ngại phiêu lưu mà còn ngại lao động “ăn đói nằm co còn hơn ăn no vác nặng”. Bạn tự đánh giá xem, dân tộc ta đã di chuyển bao nhiêu từ dạ dầy lên tim? Và nếu chúng ta không dám đánh giá thì có bao giờ dám cải thiện khoảng cách này không? 5 Sức khoẻ, trí tuệ, điều độ, khoan dung, và công lý là bốn điều kiện sống tất yếu của mỗi cá nhân, cũng như xã hội. Socrate và Platon chỉ ra 4 điều kiện không thể nào khác được cho cuộc sống của mọi cá nhân cũng như dân tộc. a. Sức khoẻ (la Virilité): Mọi cá nhân muốn sống tất yếu phải cần một sức khoẻ lành mạnh. Muốn vậy, cá nhân đó cần nuôi dưỡng và trau dồi cho mình một thân thể tráng kiện. Thân thể đó phải được chăm sóc tốt từ bé, thậm chí từ trong bào thai. Còn vóc thể của một quốc gia là gì? Tất yếu là tất cả những gì thuộc cơ chế hành chính, kiểu mẫu cán bộ. b. Trí tuệ (la Sagesse): Đây là điều kiện so với thân xác đã nhảy vọt lên một tầm quan trọng lớn. Bởi vì thân xác khoẻ mạnh mới là điều kiện của tự nhiên, con người khoẻ mạnh xét về “sức ngựa” vẫn chỉ là sức mạnh cơ bắp ở ngang tầm súc vật. Muốn có trí tuệ, con người phải trải qua giáo dục, nghĩa là giáo hoá các dục vọng bản năng của mình để bước từ “con vật” lên “con người”. Socrate đề cao trí tuệ là ánh sáng, giúp cho vạn vật chào đời và tăng trưởng. Ông nói:


27

“Mặt trời đem cho vạn vật sinh trưởng và tăng trưởng” (de Soleil done aussi au objets naissance et croissance) (11). Chẳng hạn, như một đứa trẻ chào đời, nó chui khỏi lòng mẹ để đón chào ánh sáng, một mầm cây chui khỏi lớp vỏ sần sùi cũng vậy, nó chui ra để tắm vào ánh sáng. Và ánh sáng là điều kiện sống của mọi cây cối. Nếu thiếu ánh sáng thì tưới bón thế nào cây cũng chết. Socrate cho rằng, trí tuệ là ánh sáng để dẫn dắt cơ thể. Nó là lý trí để kiểm soát mọi dục vọng bản năng. Con người nếu không tiến triển từ trí khôn đến lý trí, thì mãi mãi chỉ là động vật hay trẻ con. Ông đưa hình ảnh ẩn dụ về cái Hang. Theo ông mở màn, con người ấu trĩ như đi trong một chiếc hang tăm tối, sờ soạng đi chẳng biết chỗ nào có thể đi, chỗ nào phải tránh. Nhưng khi con người thắp đuốc lên, người ta đã lờ mờ phân biệt chỗ lồi, chỗ lõm, chỗ tin cậy chỗ không, nhưng trong ánh sáng của ngọn đuốc mọi vật vẫn còn lờ mờ đổ xuống những hình bóng ảo, làm cho sự phân biệt của con mắt vẫn chưa rõ ràng. Chỉ khi ra đến cửa hang, ánh mặt trời chói lọi chiếu vào, con người mới nhận ra rõ ràng, cái này cứng, cái kia mềm, chỗ lồi - chỗ lõm, chỗ bước chân chỗ tránh... theo ông sự phân biệt rõ ràng cũng là mở đầu đạo đức, bởi lẽ nó khởi đầu cho việc, chọn chỗ tốt để bước, chỗ xấu để tránh; cái đúng để làm, cái sai để bỏ. c. Điều độ và khoan dung (la Moderation et la Tempérance): Khi đã có một thể xác khoẻ mạnh, một trí tuệ thông sáng con người phải dùng trí tuệ đó để điều tiết mọi hoạt động cũng như dục vọng của mình. Nếu không một kẻ khoẻ mạnh chỉ là thứ vai u thịt bắp, khoẻ như con trâu, con sói mà thôi. Nhưng nhờ có trí tuệ, người ta sẽ điều tiết và cân bằng những nhu cầu của thân xác với những yêu cầu của đạo đức. Đạo đức xét cho đến cùng là cách mà người ta cùng chung sống với người khác (nếu thế giới chỉ có mình ta thì có lẽ ta cũng chẳng cần sống đạo đức - để người khác phán xét). Nếu ta muốn bán một món hàng chẳng hạn, ta phải nghĩ có bán quá đắt cho người không? Nếu ta muốn mua hàng ta lại phải nghĩ có mua rẻ của người? Nếu ta là ông chủ thuê nhân công ta phải nghĩ có trả tiền công giá rẻ mạt? Nếu ta làm công cho người thì phải nghĩ ta có làm quấy quá ăn bớt việc làm? Nếu ta muốn lạc thú với một cô gái nào đó, nghĩ mình có mua chuộc, có lừa, có ép, có dồn cô ta vào bước đường cùng, rồi sau đó liệu có lạm dụng bằng “giá rẻ” và phụ bạc, hắt hủi cô ta với chiếc thai ở trong bụng ? Còn cô gái kia liệu có muốn lấy chồng bằng cách đưa đàn ông “há miệng mắc lưỡi câu chùm” lưỡi câu ví, lưỡi câu nhà, lưỡi câu xe, lưỡi câu quyền cao chức trọng. Vì thế, con người ở phạm vi đạo hạnh bản thân là sự điều độ giữa trí tuệ và thân xác, nhưng ở phạm vi xã hội là sự điều hoà - bao dung với người khác. Không thể có thân xác to thì bắt nạt kẻ yếu, có tiền của nhiều thì ức hiếp kẻ nghèo, có trí tuệ cao thì lọc lừa trí trá kẻ dốt, cậy là ông chủ để bịt chẹt bà... ở quy mô toàn xã hội, lại càng cần phải thực hiện điều hoà, bao dung hơn bao giờ hết. d. Công lý (la Justice) Tất cả ba điều trên phải tiến đến công lý là đỉnh tháp cao nhất của loài người. Bởi thân xác mà không có trí tuệ chỉ là động vật. Thân xác có trí tuệ mà không có sự điều hoà giữa chúng để có một trật tự sống cao hơn vẫn chỉ là “động vật đi hai chân có trí khôn” mà thôi. Tất cả phải tiến đến công lý thì con người mới là con người của xã hội. Như Aristote nói: “Con người là động vật xã hội”.


28

Tại sao vậy? Nếu chỉ có trí khôn, rồi mạnh ai người nấy sống, như thế là ích kỷ - hại tha, chưa thể tiến đến tình yêu sức kết dính nhân ái cho toàn xã hội. Muốn xã hội có quy củ, trật tự, sống trong tình nhân ái, lương tri và tiến bộ, con người nhất khoát phải cần đến công lý. Không có công lý xã hội con người chỉ là một cánh rừng của muông thú, mạnh ai người ấy khoe sở trường, như người thì khoe “móng”, kẻ giơ “nanh”, người khác lại giấu “nọc”... đua nhau ăn hiếp xưng hùng xưng bá, tranh sống, tranh ăn, tranh lạc thú lẫn nhau. Công lý là gì? Dễ hiểu là cái lý của chung. Không thể sư nói sư phải, vãi nói vãi hay, mà cả sư ăn chay không cần thịt cũng phải thừa nhận thịt giầu dinh dưỡng hơn rau, vì thế nhà sư không ăn để giúp cho mình kiêng cữ; sãi cũng vậy, cũng như người bán rau, bán gạo, bán thịt, bán vàng khác có thể ăn thịt, có thể ăn chay, đều phải thừa nhận, thịt nhiều dinh dưỡng hơn rau. Như thế, người mạnh không thể “cường từ đoạt lý” ức hiếp, cướp lấy cái lý của người yếu, người lớn không thể cướp lý của trẻ con, người nam không thể cướp lý của người nữ, như người Việt nói, chớ có: Cha nói oan Quan nói hiếp Chồng có nghiệp nói thừa Đó là sức mạnh chữ không phải là công lý. Công lý là lẽ phải chung giành cho tất cả mọi người, và bắt mọi người không thể từ chối, cho dù là cha, là quan, là chồng, là thầy, là kẻ mua hay người bán, kẻ mạnh hay là người thấp cổ bé họng. Trong Kinh Thánh, Đức Chúa Trời báo với áp-ra-ham rằng: “Nếu tìm được trong Sô-đôm năm mươi người công bìnhnh, vì tình thương bấy nhiêu người đó ta sẽ tha hết cả thành” (Sáng thế ký 18-26). Theo đó thì từ xa xưa, theo kinh sách loài người cũng quan niệm rằng: nếu trong một thành bang, không có nổi một nhúm người công chính, thì ở đó con người chỉ chen chúc như một bầy ong hay bầy kiến, không có lý do để tồn tại ý nghĩa theo cách con người tự tạo ra pháp lý để con người sống.

III. Đào luyện con người 1 Đạo đức là thói quen về điều thiện Triết gia Nietzsche có nói: “Vẻ đẹp của một cá nhân hay một dân tộc phải vất vả lắm mới thủ đắc được”. Muốn có vẻ đẹp văn hoá - từ nét ăn, nét mặc, nét ở, nét chơi, nét chuyện trò, từ việc nhỏ như chiếc cúc đến việc lớn kinh bang tế thế tày đình, con người đều phải kỳ công giáo dục từ bé. Giáo dục nghĩa là phải giáo hoá các dục vọng của bản năng, làm sao cái cơ thể ăn, ngủ, tiêu hoá của tự nhiên phải được chuyển thành các tiêu chuẩn của con người. Nói giản dị như người đời bảo: Phải đi từ phần CON lên phần người. Muốn thế thì phải Tập thành. Có triết gia nói: “Đạo đức là thói quen về điều thiện”. Con người xã hội phải tập thành mọi sự tốt lành đến mức thành thói quen. Trái lại, ở một mình thì bê tha phóng túng, ở trước mặt người mới làm ra


29

vẻ có quy củ phép tắc, thì thể nào cũng “lòi đuôi”, vả lại những cử chỉ tốt lành không có thói quen chiều sâu vẫn bị ngượng ngịu và bập bõm. Muốn tập thành thói quen văn hoá và đạo đức; thì mở màn, ở tầm đã trưởng thành, chúng ta phải nhận biết và phản tỉnh mọi hành vi cũng như mọi giá trị về văn hoá và đạo đức. Sự thừa hưởng về văn hoá có nhiều điều tốt nhưng cũng có vô vàn điều xấu kèm theo. Thậm chí cái xấu nhiều khi còn lấn át cái tốt, giống như cỏ dại bạ đâu cũng mọc, mọc nhanh hơn rau, và cớm cả vườn cả đất. Chúng ta thử ngắm nhìn một vài đặc trưng của cái xấu. Trong nhiều phim lịch sử của Trung Quốc, chúng ta được xem nhiều cảnh vua chúa và quan lại chơi chọi dế mèn. Hai con dế mèn chỉ to bằng hai con tằm, lăn xả vào đánh nhau, vua quan xúm đầu vào nhau, cuồng khích ngắm nhìn, rồi reo hò, rồi cay cú ... Thế là đám đông cận thần cả trăm, cả nghìn cũng reo hò, cay cú theo, hò reo vang dội nội cung. Tất nhiên vua chúa Tầu đã thế, vua chúa ta cũng chỉ dưới mức đó trở xuống. Hình ảnh ấy nói lên điều gì? Trước hết: là vua chúa rồi mà còn chơi cái trò bé tí như trẻ con ấy. Sau nữa, hai con dế đấu nhau chỉ đủ chỗ cho vài người được quan sát vậy mà đám đông cận thần đứng từ xa cũng hò reo chí tử. Họ hò reo căn cứ vào cái gì? Tóm lại họ không xem dế, mà xem “Vua xem dế”. Họ thấy vua cười thì cũng cười, vua khóc thì cũng khóc, vua giật tóc dứt râu thì cũng giật tóc dứt râu. Điều đó cũng nói lên, cái tệ nịnh bợ thời xưa ở Trung Quốc cũng như ở ta là rất quá thể, nịnh bợ đến mức mất cả tư cách của mỗi người, cũng như nhân cách làm người. Hình ảnh đó còn nói lên, ở xứ nhiệt đới, vua chúa, rồi quan lại theo nhau, rồi thứ dân cũng học đòi, chỉ thích những trò chơi trong bóng mát. Trong nội cung xưa kia, người ta thường thấy cảnh vua chúa đã đi trong nhà, vậy mà đi đến đầu đều có lọng che thêm (cho râm). Từ đó, nảy sinh một kiểu mẫu hạnh phúc từ vua quan đến thứ dân là Mát và Nhàn. Người ta mặc quần áo lụng thụng vướng víu để chứng tỏ rằng ta nhàn, chẳng sẵn sàng làm gì cả. Rồi người ta để móng tay nuôi mười ổ vi trùng cũng chỉ để chứng tỏ: tôi nhàn đến mức, bàn tay chẳng phải làm gì, cho nên móng không bị gãy. Than ôi, liệu chúng ta có thể coi việc “cung đình chơi chọi dế”, thích đi trong bóng râm, ngồi xuống bất kỳ chỗ nào cũng có người nắn bóp vai và tay chân như bị ốm rồi nuôi móng tay dài là lành mạnh, hùng tráng, hào sảng được không? Chúng ta có thể phân tích kỹ các hình ảnh trên: - Chọi dế: tầm chơi bé, tầm nhìn ngắn. - Ngồi trong mái nhà: thích bóng râm, thích nhàn. - Để móng tay dài: thích nhàn, thích lười. Người Trung Hoa thích nhỏ - nhàn - lười đến mức, cả nước Trung Quốc là núi, vậy mà người ta thích chơi các hòn “giả sơn” chỉ vì muốn có những hòn núi nhỏ trong nhà không phải là đi ra


30

ngoài trời để ngắm, thói quen vậy còn lan sang nhiều nước châu á khác, như Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam ... Quy mô nhỏ trong lối sống và trò chơi cũng đã lây sang Việt Nam, thời Bắc Thuộc chỉ là “phên dậu”, một tệ nạn rất thâm căn cố đế. Vua chúa Việt Nam có thể nhỏ đến mức, cung điện cũng không xây quá nổi 2 tầng, vì thế bắt nhà của thứ dân không được làm cao quá hai tầng, còn bậc bước lên nhà: bẩy bậc, chín bậc chỉ giành cho các quan lại cao cấp ... Từ quy mô nhỏ, lôgic tất yếu dễ chuyển sang hèn. Trong cả ngàn năm, cả chế độ khoa cử phong kiến, cả lối sống của thứ dân, vẫn duy trì pháp chế: nói phạm huý tên của vua chúa thì mắc trọng tội “khi quân”, bị xử trảm. Hà khắc đến vậy, làm gì cận thần chẳng phải bắt chước vua chúa cả lúc cười lẫn lúc khóc Nhỏ bé manh mún không chỉ là căn bệnh tiểu nông mà song hành với nó còn là cố tật của một phương thức phong kiến kéo dài lâu, quá trì trệ. Hiện nay, tính nhỏ bé manh mún vẫn còn đang toả rễ tứ tung ở xã hội hiện đại của ta. Về mặt xây dựng cơ bản, hệ thống giao thông của ta còn chưa đáp ứng được nổi cho xe máy lưu thông, nạn ách tắc đã lên đến mức báo động, nói gì đến việc mỗi nhà có một ô tô, hoặc hai ba chiếc? Có nhiều gia đình đã có ô tô, nhưng tiếc thay đường bé ngõ hẹp, cả nhà huy động cả vợ đến con ra “si - nhan” cho chồng đánh xe ra, cả nửa giờ đồng hồ xe mới ra đến cửa, đi đâu vài chục phút, khi về, cả nhà l ại phải huy động già trẻ lớn bé ra để đánh xe vào. Nhiều người gọi tình trạng đó là “chơi cố”. Hàm ý rằng, ở ta vì mọi quy mô còn quá nhỏ bé, nên chơi gì cũng phải cố. Muốn dùng chiếc ô tô thôi, mà phải cố quá nhiều thứ, thành ra quá mệt mỏi. Cái gì đã cố thì chưa thể là “tập thành văn hoá”, vì thế dân ta nhiều người thừa nhận: Người Việt ta còn ở mức, “Nghèo thì hèn, mà phú thì trọc”. Tôi và vài người bạn đã từng đến thăm nhà một người được mệnh danh là giầu hạng nhất Việt Nam. Nhà anh ta có cả một công sở với cả chục chiếc xe hơi. Anh ta đưa chúng tôi về thăm một biệt thự nghỉ ngơi của anh nằm ở ngoại ô, có cả sân tennis ... Ngồi chơi được một lát, anh ta bảo: “Mời các anh lên thăm nhà”. Chúng tôi vừa bước đến cửa, anh ta liền nói: “Các bác bỏ giầu ra cho mát”, thế là nể chủ nhà, chúng tôi lục tục tháo giầy ra, đi từ tầng một, qua tầng hai rồi anh ta dẫn chúng tôi từ cửa sau ra xem vườn bách thú nhỏ của gia đình, thế là chúng tôi kéo nhau ra vườn, chân đi đất... Đấy, một người giầu đến vậy, trong nhà có cả chục người ở làm các việc tạp vụ, vậy mà anh ta vẫn tiếc cái nền nhà sẽ bẩn. Quả là “rất phú mà còn rất trọc”. Kỳ thực qua hiểu biết tìm hiểu của tôi, thông qua nhiều người như kiến trúc sư, đại lý bán xe hơi, đại lý bán nhạc cụ... Phải thừa nhận rằng: nước ta hầu như chưa có người giầu đặc biệt. Vì muốn giầu lớn phải có trí tuệ đặc biệt, nếu không phải có tích luỹ đặc biệt. - Trí tuệ đặc biệt thì phải phát minh, về điểm này nước ta hầu như chưa có, nếu có thì cũng chưa có cơ chế thoả đáng để dùng. - Lao động đặc biệt, thì phải giỏi tay nghề được truyền thụ từ đời này qua đời khác, hoặc có một thiên bẩm đặc biệt, nhưng chúng ta còn quá hiếm (nhớ lại, cách đây ít năm, ở Hà Nội, mới có “ông vua lốp” mới là nghề vá săm lốp, mà còn chầy trật để phát triển nghề ...). - Tích luỹ đặc biệt, thì phải tích luỹ nhiều đời. Đằng này ta mới có vài người giầu xổi nổi lên sao có thể giầu lớn được.


31

Để dễ hiểu, tôi xin lấy một thí dụ về cách làm giầu đặc biệ ở xứ người. ở Hàn Quốc, chẳng hạn, trước World Cúp 2002, báo chí đăng có một anh chàng nghĩ ra cách làm lạnh mỗi lon bia bằng một bình hơi gắn ngay cạnh đó. Phát minh này nếu được thực thi, nếu tiền cấp cho phát minh của anh là 1% trên mỗi lon, thì kể từ khi mỗi lon bia được bán ra, tiền cứ tự động chạy về túi của anh, nhiều khôn xiết kể, đấy vẫn là chuyện nhỏ. Còn chuyện lớn, các công ty có uy tín trên thế giới như Cô-ca Cô-la chẳng hạn có thể bán thương hiệu của mình cho nơi khác sản xuất tại chỗ mà cứ ung dung bỏ đến mấy chục phần trăm số lãi vào tài khoản. Nêu lên để thấy, chúng ta chưa có những người giầu thật sự. Cả cái giầu của ta vẫn còn là cái gì “phải cố”. Chưa giầu thật, thì chưa dám ăn chơi thật một cách hết tầm, vì thế cái đuôi “chọc phú” luôn cứ bị lòi ra. Thời buổi kinh tế thị trường mới mở cửa còn nhiều tiêu cực, nhiều người tài cán chẳng có bao nhiêu, ả kia giữ két, gã nọ làm kế toán ... chuột sa chĩnh gạo, thậm chí chuột sa “chĩnh sâm biệt dược”, đút túi cả tỷ đồng “tiền chùa” của dân của nước như trở bàn tay, thì làm sao bỗng chốc đồng tiền liền biến kẻ hôm qua còn nghèo hèn hôm nay làm thượng lưu quý phái cho được? Người Trung Hoa có câu đại ý: làm giầu chỉ là một đời, ăn chơi cần hai đời, muốn sang trọng phải trên ba đời. Tâm cảm nhỏ bé lâu ngày dẫn đến mặc cảm tự ti, rồi trở thành yêng hùng vặt. “Anh hùng xó bếp” là căn bệnh rất thịnh hành của xã hội ta ngày nay, chẳng hạn có vô số các vụ đua mô tô trái phép xảy ra trên đường phố, đặc biệt vào các ngày lễ lớn. Tranh tài, tranh sức là khát vọng chính đáng của loài người, cũng như có ý tưởng là quyền lợi chính đáng của mỗi bộ óc. Nhưng ở nhiều cuộc họp, khi mời góp ý, thì chẳng mấy ai chịu lên tiếng cho, nhưng vừa tan họp, tại hành lang hay nơi bàn trà dư tửu hậu lại ào ào nổi lên những lời châm trích, “đâm ba chày củ”, “xả van” cho đã... Trong các môn thi đấu cũng vậy, nếu người ta mở đấu trường ra, mời mọi người ghi danh thi đấu, hay thích đua tốc độ xe máy chẳng hạn, ở các nước rất nhiều người tham gia tập luyện những môn đua mạo hiểm để tranh tài, nhưng ở ta thì lại nổi lên tình trạng cho thi đấu chính thức thì chẳng dám ăn ai, nhưng lại ào ào, lạng, đua, đánh võng, “tay lái lụa” vào giữa dòng lưu thông bình thường gồm những người chân chất đang chỉ muốn đi đến nơi về đến chốn. Hơn thế, số đua xe trái phép còn tập trung đông người, nếu cần thì sẵn sàng lấy số đông hà hiếp người ngay. Các nhà xã hội học cho rằng, chỉ có những kẻ làm quấy, như toán cướp hay lũ trộm chẳng hạn, mới cần tập trung thành số đông để uy hiếp người ngay. Bởi vì bản thân chúng thiếu công lý nên mới lấy việc tụ ba thành băng nọ nhóm kia, để chiếm ưu thế với cuộc đời. Thêm nữa khi tìm cách tụ bạ nhau, tự thân chúng đã mang mặc cảm yếu đuối, sợ sệt, không dám băng qua sa mạc một mình, nên đành túm lại cùng nhau. Mặc cảm tự ti còn thể hiện qua và số người, có rất đông là sinh viên trẻ. Đang đi, họ đỗ xe ở giữa đường, chuyện trò, tán gẫu, hay giở xe ra chữa, bất cần biết đến kẻ qua người lại. Họ làm thế như thể “ta đứng giữa đường đấy ta sợ gì ai, thử xem có ai đụng đến ta”. Đây là lối yêng hùng do mặc cảm yếu đuối mà ra. Chúng ta vẫn biết những người tự tôn hùng mạnh không bao giờ sống bằng tâm cảm vụn vặt như vậy, vì họ đều hiểu, biết sống theo nguyên lý, theo công lý chung của mọi người mới là cách sống hùng mạnh nhất. Giống một nhà tư tưởng nói: “Muốn ra lệnh trước tiên người ta phải biết tuân lệnh; và muốn làm viên tướng giỏi trước tiên phải làm được người lính tốt”. Còn lại, kẻ ngang bướng “đâm ba chày củ”, tưởng là một người lính oai phong chẳng biết nghe ai, rồi sẽ trở thành hạng này hạng nọ. Nhưng hắn chẳng bao giờ thành cái gì ra hồn cả. 2 Mặc cảm tự ti


32

Mặc cảm tự ti còn thể hiện qua cách ứng xử của chúng ta trên đường. Khi đi chẳng mấy ai chịu nhường ai, ô tô thì ăn hiếp xe máy, xe máy thì ăn hiếp xe đạp, thanh niên thì ăn hiếp ông bà già, người lớn thì ăn hiếp trẻ con, đàn ông thì ăn hiếp đàn bà, đàn bà lại cậy mình phái yếu nhiều khi “được đằng chân lân đằng đầu”. Đặc biệt khi va đụng nhau, mở màn người ta quát tháo “đi thế à!” “mù à!” để thị uy dồi người khác vào sợ hãi. Nếu gặp người không phải tay vừa, sẽ bị ăn miếng trả miếng “câm cái mồm thối của mày lại, tông vào xe bố mày còn già mồm à!” Thế là cảnh đấu đá diễn ra, người đi đường ùa đến xem chật ních. Vì mặc cảm yêng hùng, tự ti, nên lòng tốt của con người bị xuống cấp một cách thảm hại, thay vì chửi nhau, tại sao người ta lại không nói nổi một lời “xin lỗi, chị có sao không?” đôi khi chỉ một lời như vậy có thể hoá giải cả một ngòi nổ ẩu đả đang đốt vào dây cháy chậm. Nhường nhịn, độ lượng, bao dung mới là khí độ của người lớn. Người Trung Hoa có câu “đoản hình tức tiếng”, tức những kẻ bé nhỏ thì lại hay loi choi phá ra tiếng lớn. Những hạng tiểu nhân, tiểu khí thì hay làm phách, ra oai, lớn tiếng doạ đời. Va chạm, cái lộn, đánh nhau dường như là phản xạ yêng hùng thường trực của người Việt, nhưng việc thưởng thức những vụ cãi lộn còn thường trực hơn, chỉ nhờ có bất kỳ việc gì thường trực hơn, chỉ chờ có bất kỳ việc gì bất thường xảy ra thôi, kẻ đi người lại, rồi từ phía chạy đến để “chiêm ngưỡng”. Điều đó cũng phản ánh sự “vô công rồi nghề” - hiếu sự của số đông người và cũng nói lên vì tâm hồn người ta quá trống rỗng, chẳng có gì làm “biến cố” trọng đại bên trong, đành được chẳng hay chớ vơ vét không bỏ qua bất cứ cơ hội nào dù nhỏ nhất, để ban thưởng cho mình. Nhiều người vẫn nói hài hước, người Việt ta thấy con chuột chết ném ra đường cũng bổ ra, xúm đông xúm đỏ lại xem. Phản tỉnh mặc cảm tự ti không chỉ với những quốc gia còn nhỏ, còn nghèo, còn lạc hậu, mà nó diễn ra với cả những dân tộc lớn, chẳng hạn như người Mỹ đã viết “Người Mỹ xấu xí”, hay người Nhật cũng viết “Người Nhật xấu xí”. Và đây, chúng ta hãy xem nhà văn Kenzaburo Oe đã giật giải Nobel, phản tỉnh nền văn hoá còn thấp kém của Nhật Bản trên tờ New Yorker 2/1995: “Ngay cả ngày nay, sau 125 năm công cuộc hiện đại hoá của chúng ta, thì trong con mắt của người châu Âu và châu Mỹ, giá trị của chúng ta vẫn bị thờ ơ. Những người nhận giải Nobel khác như Miloz, Walcott, Brosky được nhiều người biết đến; còn chúng ta những người phương Tây chẳng khao khát tìm đọc những con người sản xuất xe Hon-đa nhiều lắm. Tôi không hiểu tại sao. Có lẽ, chúng ta chỉ là người bắt chước họ, hoặc là với con mắt của người châu Âu thì chúng ta chỉ là Những người thủ vai im lặng. Tình trạng ở Nhật Bản khá là trầm trọng ở Mỹ chẳng hạn, tôi thấy nhiều bạn bè tôi lo ngại về đời sống trí tuệ của người dân Mỹ, mặc dù vậy, tôi vẫn thấy rất nhiều người thể hiện tính cách độc lập trong suy nghĩ của họ và cũng đầy vi tế trong cư sử cũng như tìm cách thể hiện ý tưởng của mình. ở Nhật thì đời sống văn hoá quá ư đơn giản, hầu như toàn bộ cách sống xã hội là xoay quanh phương tiện truyền thông, và chỉ có vậy. Và chúng ta rất hiếm khi được nghe thấy ý tưởng của một nhà tư tưởng hay học giả” ** *


33

Trái lại, tình trạng phản tỉnh ở ta còn rất yếu ớt. Nhiều người chữa mặc cảm tự ti bằng cách Tự tôn, tự cầm tóc mình nhấc lên, nhấc rễ cho cây cao tưởng sẽ là “Binh pháp” cải thiện vị trí của mình. Chẳng hạn, tôi đã gặp vài nữ nhà văn, có chị vừa đưa truyện ngắn của mình cho người khác đọc vừa bảo: “Anh đừng chê nhé. Nếu chê em không chịu được đâu!” Như vậy mở màn chị ta đã ngăn cản không muốn người khác nhận xét mình. Với nhiều nhà văn, nhà thơ thuộc cánh mày râu, tưởng sẽ có nhiều bản lĩnh tiếp cận thực tại hơn, nào ngờ đa số trong giới thủ sẵn hai “binh pháp” lâu dần lộ ra, khiến cho làng văn, làng báo đều biết cả. - Thứ nhất: Mở đầu anh ta tự nhận mình còn rất quê mùa. - Thứ hai: Tự sỉ mình còn chưa ra gì để tránh việc người khác sỉ mình. Nhiều cây bút viết kịch bản phim truyền hình và điện ảnh thấy nhiều người chê quá, nên chưa kịp để người khác mở miệng, họ đã bảo: “ối dào, phim làm để kiếm tiền ấy mà, nó dở đến mức chính mình cũng không dám xem lại cái của mình” (họ nói thế như thể hàm ý, đúng là những phim họ làm qua loa mà đã thế đấy, hãy chờ đến ngày họ làm phim hẳn hoi thì thật phi phàm, nhưng tiếc thay cái ngày đó đã bao giờ đến?). Sau khi đã “chấn trạch” hai lá bài trá hàng để mọi người không còn lý do công kích mình, thỉnh thoảng họ lại trình ra một bông hoa kiêu hãnh, và sau một cuộc nói chuyện có thể thấy, một cánh rừng hoa toả sắc cạnh con người họ. Giả sử, có ai đó muốn rọi một ngọn đèn sáng quắc vào vườn hoa của họ để thẩm định chúng đẹp thế nào, thì họ vội vàng xua tay, anh ơi, hoa chỉ ùa nhẹ nhàng, anh đừng soi đèn như vậy kẻo chết hoa đi, mà hãy ngắm, hãy thưởng thức, và tán thưởng vẻ đẹp của chúng. Kìa xem chúng mới tuyệt vời làm sao! Tóm lại mở đầu thì họ không muốn cho ai soi xét, nhưng cuối cùng lại nhẹ nhàng tuồn vào kết luận “sản phẩm của họ tuyệt vời làm sao!” Đây cũng là cách lý giải các giải thưởng văn chương và nghệ thuật của chúng ta. Mở cuộc thi, phát giải rồi, thì phải để cho khán giả bình xét khen chê, ngõ hầu các giải thưởng trở thành kim chỉ nam cho những người sáng tác, nhưng sau đó, ban giám khảo cũng không đưa ra lời nhận xét cụ thể, các tờ báo văn, báo nghệ thuật thuộc ban giám khảo thì vội vàng v khép lại mọi lời bàn cãi. Vì nhiều cây bút không thích nghe lời chê, mà chỉ muốn khen, nên đã xuất hiện nạn “khen vờ chê giả”, cùng cảnh với nhau thì khen nức nở, khen đi thì có khen lại quả. Khác cánh nhau, thì bảo tay ấy không biết làm thơ, không biết vẽ. Tình trạng thiếu thẩm định, khen chê đã dẫn đến xu hướng xuất ngoại và sính ngoại của các ngành nghệ thuật trong cả nước. Các nhà văn nhà thơ thì tìm cách xuất cảnh ra nước ngoài bằng “hộ chiếu hành chính của nhà nước, sau đó quay về theo kiểu đã có hào quang của hải ngoại, như vậy tất nhiên giá trị văn thơ phải oai rồi. Nhưng giá trị oai đó có xuất cảnh nhiều lần, như quả bóng bay cứ xẹp dần, vì tại quê hương của mình nó không có lấy một sở cứ thẩm định mỹ học để bấu víu vào. Còn xuất cảnh nhiều lần, thị thực du lịch đó đâu có dễ để bỗng chốc biến thành thị thực mỹ học. Đây là bằng chứng có sở cứ rất vững vàng. Giản dị như thị trường hội hoạ chẳng hạn vì thiếu khen chê thẩm định, mà nhiều hoạ sĩ chỉ đua nhau bày tranh bán cho Tây. Chơi kiểu tù mù ăn may, giá tranh cứ đề vống lên đến vài chục nghìn đô la, mong sao bán được vài cái (dù giá hạ mười lần) để quay lại nói với đồng nghiệp trong nước rằng: Tây đã mua tranh của tôi, thế có nghĩa là giá trị của tôi đã được tây hoá”. Về việc này có một chuyên gia Nhật Bản đã nói thẳng vào ảo tưởng tây hoá của chúng ta rằng: “Ngay tại quê hương, khi các bạn còn chưa dám thẩm định - khẳng định lẫn nhau, không dám phiêu lưu bỏ tiền nhiều ra mua tranh của nhau, thì làm sao có thể mong gặp một ông Tây ngố nào tiêu tiền như rác phiêu lưu mua một bức tranh


34

của bạn với giá cao” Người nước ngoài đến đây, họ thấy người Việt bỏ tiền nhiều mua lụa tơ tằm, thì họ cũng bỏ tiền để mua. Vì lụa tơ tằm khi đó chí ít đã có sự thẩm giá ở nơi sở tại. Hay đơn giản họ thấy người Việt quý con cá Ba - sa, thì ở Mỹ, ở châu Âu người ta cũng biết quý theo. Vậy mà tại đây, người Việt coi thơ rẻ như bèo, thì làm sao có thể nằm mơ ở phương trời nào đó có người cầm bèo tấm lên khen, đó là những hạt vàng lóng lánh. Phần trên, khi bàn về các “tấm gương”, chúng ta đã bàn, nhận thức tất yếu dẫn đến thẩm định phán xét. Ngay mùa xuân năm Quý Mùi này, tại thành phố Hồ Chí Minh, có diễn ra một họp mặt của Hội Nhà văn, có nêu lên một nhược điểm thiết thực rằng: Chất lượng lý luận phê bình ở các báo văn còn rất yếu. Ngay giờ đây, vẫn còn rất đông các “nhà chơi thơ” Việt Nam từ thành phố đến thôn quê, từ hội phụ lão đến ấu niên, từ cơ quan đến thôn ấp vẫn còn xúm xít hà hít quanh bốn câu thơ tứ tuyệt thời Đường. Có phải họ yêu thơ? Không! cái chính là họ thấy nó vừa nhỏ vừa bé, vừa dễ chơi, vừa dễ làm, khéo lo một chút có một chùm đăng báo, thế là thành nhà thơ. Họ tảng lờ, quên, không nhìn thấy một hiện thực sờ sờ, ngay tại Trung Quốc, quê hương của thơ Đường, nhà văn hoá Lương Khải Siêu đã từng quả quyết: “Trung Quốc muốn xây dựng một nền văn hoá mới thì trước tiên phải xây dựng một nền tiểu thuyết mới”. Theo ông, thì mấy câu thơ, chưa thể là trí tuệ, chưa thể là sự phản ánh có tính lôgic về thực tại cuộc đời, như vậy cũng chưa thể tạo ra chân móng hiện thực cho một nền văn hoá mới. Nhìn lại, vua chúa thời xưa ham chơi, ham nhàn, suốt ngày bí tỉ trong cung câm cùng cả ngàn cung tần mỹ nữ, vì vậy các ngài mới nghĩ ra cách chấm thi mấy câu thơ. Thôi, vừa mơ tưởng đến gót sen, vừa chấm nhoáng một cái cả chục người, cho nhanh, cho tiện. Tại sao, tôi đang chú trọng bàn về thơ đến vậy? Vì nó đang là nền văn hoá số đông án ngữ trong đời sống tinh thần của chúng ta, và nó cản bước sự phản tỉnh nhận thức bằng chính sự ấu thơ non nớt của nó. Các triết gia nói rằng: “Tiến bộ lớn nhất mà con người học được là luận lý xác thực” và “Cái thảm hoạ lớn nhất của con người là từ chối lý luận”. Vì từ chối lý luận là từ chối sự phát triển cao nhất của lý trí con người. Thơ chỉ là bài ca của cảm xúc, là đứa trẻ hồn nhiên vô tư đầu tiên của loài người. Thơ Việt thời 1932 - 1945 phát triển, vì lúc đó dân ta mới trải qua những lớn bình dân học vụ, xoá nạn mù chữ, nên mọi người từ ba gác, xích lô, đến hàng dong đua nhau mua báo, đọc thơ, để tập đọc chữ. Vì thơ thì in loáng thoáng, hay xuống dòng, lại có vần điệu giống với ca dao, nên dễ đọc, dễ nhớ, mà không bị mệt. Nhưng từ đó đến nay, trình độ dân trí của dân ta đã vượt qua “bình dân học vụ” nhiều lần, mà vẫn chỉ loay hoay tập tọng làm thơ, chơi thơ thì lạc hậu lắm. Tình trạng này không chỉ đóng khung trong thơ - văn, mà còn lan thành tệ nạn văn hoá xã hội rất nhức nhối. Gương minh hoạ thì rất nhiều, các nhà thơ vừa lừa đảo vừa làm thơ, mà lại dùng chính thơ làm phương tiện lừa đảo. Như cây bút Hùng Anh “thi sĩ đất Mũi” kia, dùng cả chức, cả tiền, cả phương tiện truyền thông của tỉnh để mua danh nhà thơ. Đến trường hợp của Nguyễn Thiện Luân nguyên thứ trưởng bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn liên đới với việc tham ô cả chục tỷ đồng, dùng chức quyền và tiền bạc tham ô để mua cái danh “nhà thơ Nguyên Linh” mới thật là việc tày đình (báo An Ninh thế giới số 17, 1 - 2003). Để điểm các trường hợp vô tài, vô sỉ của các cây bút thơ, thì có lẽ lấy đấu đong không hết. Tình trạng lạm phát tinh thần của thơ lên đến mức, có một vài nhà thơ cứ đặt đít xuống là đòi đọc thơ, liền bị người ta bảo: “Này có nhuận bút làm thơ, thì phải có nhuận bút nghe thơ. Anh đã trả tiền nhuận bút nghe cho chúng tôi chưa mà đòi đọc. Thôi hãy để cho không khí trong lành, đừng đọc vài ba câu thơ tỉ tê lẩm cẩm làm gì cho ô nhiễm”. Câu chuyện không hài ước một chút nào, mà nó chỉ đóng vai hạt giống cho một hiện trạng đang lây lan. Mới đây, có cả chục nhà thơ khá vai vế trong làng thơ, ngồi tụ họp liên hoan với nhau, trước khi ăn họ ra một quy chế: hôm nay không ai được


35

đọc thơ mình trừ chủ nhân của bữa tiệc. Còn lại, ai vi phạm cứ đem thơ mình ra đọc thì chịu phạt 50 nghìn đồng/một bài. Vậy mà cuối cùng, các nhà thơ cũng chẳng kìm được cơn khát tự khoe mình, họ đua nhau đứng lên đọc thơ, rút cục chủ nhân bữa tiệc có được tiền phạt lãi hơn tiền khao. Có một câu hỏi đặt ra là: Tại sao tham ô háo danh lại chỉ chọn thơ để mua danh? Câu hỏi này có thể được trả lời bằng một câu hỏi khác, tại sao vi trùng lại có thể tấn công và thắng những cơ thể yếu đuối và ô nhiễm? Một khi con người không nêu cao tinh hoa cao nhất của trí tuệ, thì hẳn nhiên sẽ bị sa lầy vào vũng bùn của nhân cách. Người đời nói: “Cái được mọi người đồng ý hơn cả là Lương Tri”. Lương tri làm sao có khi mà tri thức của con người còn quá yếu ớt, thậm chí bị tảng lờ, hay đòi xí xoá bằng mấy vần thơ? Phân tích tầm vóc của một dân tộc là rất cần thiết. Ngay nước ấn Độ có lịch sử lâu đời đến vậy, có hai bộ sử thi đồ sộ, và có nhiều tôn giáo lớn như Phật Giáo, ấn giáo, mà lãnh tụ tiền hiện đại của họ ngài Gandhi được phong là thánh, vì đã có công khai sáng ra phương pháp “Bất bạo động” (Non - Violence), đòi độc lập cho dân ấn, đã phản tỉnh nhân dân của ông rằng. Khi phong trào bất bạo động đang lan rộng, thì có một nhóm người đòi bạo động, vì nghĩ, vừa tiến hành bất bạo động, vừa tiến hành bạo động, công cuộc giải phóng dân tộc sẽ nhanh hơn. Nhưng thánh Gandhi bảo: Không thể vừa nôm vừa na lại đạt được mục đích nhanh hơn, mà “Phương tiện càng thuần khiết thì càng tiến nhanh đến mục đích”. Và ông nhấn mạnh một điều quan trọng nhất. Giành độc lập cho dân tộc ấn Độ thật nhanh cũng không phải là mục đích cao nhất, mà cái cao nhất là rèn luyện nhân dân để họ có đủ bản lĩnh sống trong nền độc lập. Như vậy theo thánh Gandhi, dân tộc ấn Độ dù giầu văn hoá, tôn giáo, giầu sử thi đến vậy, nhưng vẫn còn lạc hậu, và chưa trau dồi đủ tư cách là một ông chủ đĩnh đạc để sống trong nền độc lập. Nước nhà độc lập mới chỉ là địa lý, cái quan trọng hơn là phải tạo ra những chủ nhân có đủ phẩm chất độc lập để sống trên quê hương đã thuộc về mình. Mở rộng ra tầm thế giới, chúng ta thấy, thời giải phóng nô lệ, nhiều nô lệ đã ra khỏi nhà chủ, rồi lại quay về, xin tiếp tục làm công cho chủ, vì họ chưa dám tự tin và sức vóc của mình có thể sống tự lập. Và có những chuyên gia chính trị tư sản đã ngạo mạn đánh giá rằng: Dù có độc lập, quốc gia của những kẻ nô lệ, chỉ là quốc gia vô trật tự lộn xộn, bê tha, và đổ nát. Và một cái nhìn đắc thắng như vậy hướng về không ít các dân tộc ở châu Phi, châu Mỹ, và châu á. Họ nói, thấy chưa, mọi người hãy nhìn đi, chẳng phải ở các nước đã độc lập đó còn đầy rẫy lộn xộn và hỗn loạn, chậm tiến, lạc hậu. Chính hiểu được hiện thực đó, mà thánh Gandhi đã dạy bảo dân ấn Độ “phải có phẩm chất độc lập để sống trong nền độc lập”. Và sau đây, chúng ta sẽ được chứng kiến tỉ mỉ cách lãnh tụ Tôn Trung Sơn dạy người dân Trung Quốc từ cách ăn, cách nói, cách đứng, cách ngồi, cách làm việc để xứng đáng sống trong chính ngôi nhà của quốc gia mình. Phản tỉnh ta, trước khi bị trở thành đối tượng chê bai của người đời, chẳng phải việc làm khôn ngoan sao? Người phương Tây có câu “Sống trong nhà kính thì chẳng ai ném đá”. Nếu chúng ta dọn dẹp sạch sẽ nhà cửa, để ngôi nhà của quốc gia sạch đẹp lung linh, thì có kẻ nào dám mang danh vô văn hóa đang tay ném đá đây? Không phản tỉnh thì không phân biệt. Không phân biệt thì dẫn đến vô trật tự và hỗn độn. Điều này đang diễn ra rất tồi tệ trong nền văn hoá của ta. Mới đây, báo chí có đưa tin, vụ một cô giáo


36

đã là tiến sĩ, thuổng đề tài của học sinh mình làm đề tài báo cáo hàng năm, vừa tiện, vừa nhanh, vừa khỏi phải nghĩ. Vụ việc đổ bể, thật là “cây nào trái ấy”, học rởm, tiến sĩ rởm, đành thò ra nhân cách rởm. Nhưng điều đó vẫn chưa quan trọng, quan trọng hơn cả, là người ta chưa phân biệt nổi đề tài cho một tiến sĩ, và đề tài cho một học sinh. Sự thiếu phân biệt này quy mô trên cả của thầy lẫn của trò, mà cả của hội đồng khoa học cấp trên. Sự thiếu phân biệt này vẫn chưa có gì ghê gớm, cách đây vài năm, ở Hà Nội còn phát hiện ra một tổ hợp làm thuê các đề tài cao học và tiến sĩ. Một chàng sinh viên mới tốt nghiệp, làm “chủ thầu” các đề tài. Mỗi tháng chàng có thể làm cả trăm đề tài, điều đội quân sinh viên thiếu việc làm đi trích chép khắp nơi, và bỏ túi bao nhiêu tiền của những kẻ muốn mua văn bằng. Một sinh viên mới ra trường mở lò làm các đề tài tiến sĩ, dễ như thò tay vào túi, quả là trình độ cũng như văn bằng ở ta còn rất à uôm. Những trình độ khác nhau một trời một vực, hiện ra trên giấy trắng mực đen “bút sa gà chết” đến vậy, mà chúng ta còn chẳng phân biệt được, thì làm gì chẳng nảy sinh tình trạng thầy nhiều hơn thợ, người xuất chúng nhiều hơn người thường, chủ nhiền hơn tớ... 3 Phản tỉnh căn tính “nô bộc” Mục đích chính trong cuốn sách của tôi là, phản tỉnh căn tính “nô bộc” thâm căn cố đế trong nhiều người Việt chúng ta. Căn tính này bám rễ trong cả nghìn năm Bắc Thuộc, sau đó đằng đẵng cả nghìn năm sau dưới thời phong kiến, dân chúng chỉ là thứ dân nem nép nói một câu cũng sợ phạm huý, nói hai câu cũng sợ “chẳng phải đầu cũng phải tai”... và ngày nay còn rơi rớt lại rất nhiều. Trước đây, nhà tôi sống trong một khu tập thể, có một gia đình chồng làm bảo vệ, vợ làm tiếp phẩm cho cơ quan. Cả hai đều nghĩ nhà ta thấp bé nhất cơ quan. Mặc cảm tự ti của họ rất nặng, vui cũng vui vờ, buồn cũng buồn hờ. Đặc biệt, khi cả nhà đang ăn cơm, nếu chẳng may có khách bước vào thì, không vợ thì chồng, hay con sẽ vội vàng úp đĩa rau đè lên đĩa thịt, hay đĩa cá... tóm lại họ chỉ muốn trình bầy, nhà tôi nghèo lắm, chẳng có gì để ăn ngoài rau cả. Có miếng ăn ngon cũng phải che đậy, câu chuyện này có thể khiến nhiều người cho là lẩm cẩm quá, vậy mà nó lại là “nhân lỗii điển hình” cho một cách sống của nhiều người. Cách đây ít ngày, tôi nhìn thấy một người bạn từ xa, mặt mày rất hoan hỉ, tôi tiến lại chào thì mặt anh ta đanh lại để che dấu đi trạng thái phấn khích của mình. Tôi tự hỏi không hiểu tại sao anh ta lại có thái độ lạ lùng đến vậy, hay là ta có gì không phải với anh. Vài tháng sau, tôi mới vỡ lẽ, hôm đó là ngày anh ta lấy được hộ chiếu, và vé để sang mấy nước phương Tây. Đấy đi nước ngoài công tác hay học tập, đều là cách “đem chuông đi đấm xứ người” lẽ ra người ta phải vui, phải kiêu hãnh, thì đằng này lại cứ lén lút như “mèo giấu cứt”. Tại sao vậy? Vì sợ sệt người khác ghen ghét, đố kỵ, bài xích nói ra nói vào, thậm chí kiện cáo để mình không được đi. Tất nhiên về phía người đố kỵ ghen ghét, làm đơn từ khiếu nại đã xấu rồi. Nhưng về phía người không dám kiêu hãnh khi trở thành “sứ giả” của dân tộc thì cũng hèn! Cái hèn không chỉ dừng lại ở tại đó. Một cách chính thức, trên tất cả các bài báo được đăng tải trong nhiều năm qua, thì thấy các ông nhà thơ, nhà văn của mình sang Tây, sang Mỹ, chỉ lo làm cơm nắm muối vừng, cơm rang nhiều mầu, bún riêu, bún chả đãi khách. Trước khi đi nước ngoài chẳng lo chuẩn bị gì về đề tài văn hoá hay mỹ học chỉ lo đi chợ mua miến, bánh đa nem để sang


37

nước ngoài thi thố chân đầu bếp. Sang nước ngoài, cũng chẳng lo hội thoại, hay đối thoại về mỹ học, văn học, mà chỉ lo vung tay múa chân mời mọc ăn đồ quê hương (đây cũng là sự thật tất yếu, vì các nhà thơ, nhà văn của chúng ta trình độ ngoại ngữ rất kém, đếm đi đếm lại có vài người thạo ngoại ngữ). Người đời nói, đi xứ người thì phải đem về tinh hoa của xứ người để làm giầu cho xứ ta, như giáo sư tiến sĩ nông nghiệp Lương Định Của kia mang các hạt giống mới về cho quê hương, đằng này các nhà thơ, nhà văn của ta ra ngoài, chỉ tả nhớ mắm tôm, nhớ điếu cầy, và tìm bên kia không có hàng phở nào ra gì. Than ôi, sang Tây, sang Mỹ thì phải tìm Phomat, tìm sách vở, tìm những tinh hoa mà ta chưa có, lại cứ đi tìm “phở” thì ở nhà mà ăn, chứ đi Tây làm gì? Chưa hết, có nhà văn rất nổi tiếng ở ta, chẳng làm nổi sứ mệnh của sứ giả văn hoá nên đã nhận rằng: “tôi chỉ là con gà con chó của dân tộc”. Quả vậy, sứ giả văn hoá sang xứ người “lại trình diễn vở hài kịch “ Ăn xó mó niêu” thì mắc phải mặc cảm “hèn” cũng dễ hiểu. Chúng ta nên hiểu, dù nhà thơ, nhà văn của chúng ta nấu giỏi thế nào đi nữa, thì làm sao sánh được với những tiệm ăn Tầu, hay Việt nổi tiếng ở nước ngoài. Và có một nhận xét hiện thực nổi lên rằng: Các cây bút mang sang những “Dị vật” để trình diễn, chứ không phải các “Báu vật” của văn hoá, cũng như họ thao tác các món ăn địa phương dân dã chứ không phải các món quốc yến. Nấu ăn dù giỏi thế nào vẫn là đẳng cấp nô bộc. Vì thế, hầu hết ở các thành phố Âu - Mỹ đều có các phố ăn Hoa kiều (China town), rất sầm uất, rất ngon, rất đặc sản, dẫu vậy người Trung Hoa cũng chẳng dám tự hào, vì họ nghĩ, đó mới chỉ là công việc đầu bếp phục vụ người. Vậy mà khi Trung Quốc chỉ có vài cầu thủ sang đá ở nước ngoài, thì đi xem ở đâu, khán giả Trung Quốc đều trương quốc kỳ lên mong bày tỏ lòng kiêu hãnh. Người Nhật cũng vậy, khi bưng đồ ăn lên cho khách họ gập mình xuống chào, nhưng khi chỉ có một vài cầu thủ ra đá ở nước ngoài như Nakata, họ đã trương quốc kỳ lên khán đài để kiêu hãnh về quốc tịch. Bằng cớ như vậy để thấy, các nhà thơ, nhà văn của ta dù có nấu ăn giỏi hơn đầu bếp chính thức đi nữa, thì đã nhằm nhò gì trong đẳng cấp văn hoá cũng như nhân bản. Cái chính là làm sao anh phải thể hiện được niềm kiêu hãnh cao nhất của anh - cũng như của dân tộc qua ngòi bút, và qua ngôn ngữ “khôn ngoan đối đáp người ngoài”. Trong một tài liệu, người Mỹ có dạy con em của họ về phương pháp diễn thuyết rằng: “Dù bạn đi bất cứ đâu, bên bất kỳ bàn tiệc nào, có thể có nhiều người ở đó chưa từng biết nước Mỹ, nhưng họ biết trước mắt họ là những người Mỹ đang nói chuyện, và sau đó họ đánh giá nước Mỹ là những người như thế đó”. Nghĩa là bản đồ của nước Mỹ không chỉ giới hạn ở lãnh thổ đường biên, mà còn được chứng tỏ qua những công dân của họ. Vậy mà các văn nhân của chúng ta ra nước ngoài, lại mới chỉ giới chứng tỏ chân đầu bếp nghiệp dư, còn khi về nước lại ra vẻ nêu cao phẩm chất yêu quê hương qua việc nhớ mắm tôm, nhớ thuốc lào, nhớ phở. Sao họ không chứng tỏ tình yêu đó bằng những báu vật văn hoá mà họ đem đi “đấm” xứ người, và những báu vật mà họ lấy được của xứ người về làm giầu cho quê hương? Một lần, tôi đi trên tầu hoả, nhân đọc một bài báo về việc các cây bút của ta sang Mỹ kể chuyện không có hàng phở, những người cùng khoang nói rằng: những việc mà các nhà văn, nhà thơ viết trên báo về các món ăn như vậy, thì chẳng cần phải là các nhà văn, những người bình thường đều viết được cả. Tất cả những gì tôi vừa nêu đều căn cứ trên các bài báo đã được đăng tải công khai, nếu đọc giả cần tham chiến thì cứ tìm đọc báo An Ninh thế giới cuối ra vào năm 2002. Và những việc kém cỏi, yếu đuối, nhược thiểu về văn tài phải bù lấp bằng “đầu bếp tài” được đăng tải thì mới chỉ là “cái tốt đẹp phô ra” còn chao ôi “cái xấu xa đậy lại” thì còn vượt trên cả cái “đáng thất vọng”. Một lần tôi được chứng kiến một nhà thơ mới đi Mỹ về. Anh hoan hỉ kể chuyện đến thăm một nhà thơ Mỹ khác, từ Việt Nam, anh đã biết nhà thơ Mỹ có cụ thân sinh mới qua đời. Thế là anh cầm sẵn vài thẻ hương từ Việt Nam sang, đến trước ảnh cụ thân


38

sinh của nhà thơ Mỹ kia, thắp hương khấn vái. Rồi anh nói: “Trời ơi, vợ chồng nhà thơ Mỹ vừa cảm động lại vừa cảm phục”. Thế rồi những nhà thơ, nhà văn ngồi xung quanh đua nhau kể về cách mình biểu diễn những màn cảm động làm lay chuyển lòng người ở bên kia bán cầu. Than ôi, nhà thơ kia đâu có một lần tự hỏi, cái cử chỉ thắp hương ai cũng có thể làm được kia, so với các nghi thức tôn giáo có kinh sách kèm theo, thì độ phức tạp chưa đáng 1%. Vậy mà anh đã thấy người ta cảm phục, như thể, việc thắp hương đó là một nghi lễ đặc thù của quê hương không nơi nào có được, và anh đã đem đi để thi thố ở xứ người. Tại sao chúng ta lại dùng nhiều thời gian bàn về các nhà văn, nhà thơ đến vậy? Như trên tôi đã nói, vì nền khoa học ở nước ta còn non trẻ, vả lại văn bút là nghề đặc biệt, nghề nhân văn của quê hương cũng như xã hội, là bằng chứng ở mức cao nhất thuộc thượng tầng tri thức để chúng ta tham chứng vào đời sống tinh thần của dân tộc.

IV. Nhìn người mà ngẫm đến ta Phần lớn thứ hai của chương này là “Nhìn người mà ngẫm đến ta”, tôi sẽ dẫn ra ba tác giả quan trọng, cùng ba cuốn sách kèm theo của họ: 1. Lãnh tụ Tôn Trung Sơn với cuốn “Chủ nghĩa Tam dân”. 2. Nhà văn Vương Sóc, được dân Trung Quốc bình chọn là nhà văn giỏi nhất hiện nay, xét chung tất cả đứng thứ ba chỉ sau Kim Dung và Lỗ Tấn, với cuốn sách “Người đẹp tặng ta thuốc bùa mê”. 3. Nhà văn Bá Dương nổi tiếng với cuốn sách “Người Trung Quốc xấu xí” cũng rất nổi tiếng. Về chủng tộc, về văn hoá, và ngôn ngữ người Trung hoa có rất nhiều điểm tương đồng với ta, do địa lý núi liền núi - sông liền sông, do lịch sử - trải nghìn năm Bắc Thuộc người phương Bắc tràn xuống nước Việt ở phía Nam, do ngôn ngữ - theo các chuyên gia có đến hơn 70% ngôn ngữ của người Việt có nguồn gốc từ âm Hán tự, như Phong là gió, vân là mây, hỉ là vui, nộ là tức giận ... Vì thế tôi xin trích chép tương đối thoả đáng ba tác giả này, lý do: 1. Trung Quốc khá tương đồng với ta, bởi thế qua bài học của họ, ta dễ rút ra bài học của mình. 2. Các bài học của họ được những con người xuất chúng nhất của họ nêu ra, đặc biệt là lãnh tụ Tôn Trung Sơn, qua thời gian đã được người trung quốc thẩm định, phán xét, và chấp nhận. Do vậy, vì còn mới mẻ hơn trước các “bài học về phản tính”, người Việt dễ tiếp thu bài học của mình một cách nhanh hơn, đầy đủ hơn, và tự ti hơn, bởi lẽ, Trung Quốc là một quốc gia lớn nhất, lịch sử và văn hoá cũng thuộc loại lâu đời nhất mà còn phản tỉnh đến vậy, lẽ nào người Việt còn tìm thấy lý do “tự tôn” nào để đứng ra ngoài cuộc soi ngắm chính mình? 1


39

Lãnh tụ Tôn Trung Sơn bàn đến các thói hư tật xấu của người Trung Quốc, trong cuốn “Chủ nghĩa Tam dân” (Người dịch Nguyễn Như Diệm, Nguyễn Tu Tri) (12). Theo ý tôi về phương diện tề gia, người nước ngoài có thể không hiểu rõ gia đình Trung Quốc, nhưng về phương diện “tu thân”, họ có thể thấy rõ người Trung Quốc chúng ta còn rất thiếu cố gắng về mặt này. Nhất cử nhất động người Trung Quốc đều tỏ ra thiếu rèn luyện. Chỉ cần giao tiếp với người Trung Quốc một lần là thấy rất rõ điều này ... còn những người nước ngoài bình thường thì vẫn nói rằng Trung Quốc không có giáo hoá, Trung Quốc rất dã man. Tìm hiểu nguyên nhân thì thấy đó là do mọi người quá thiếu công phu tu dưỡng bản thân. Không nói việc lớn, ngay cả từng lời nói, từng cử chỉ, những công việc rèn luyện rất bình thường, người Trung Quốc đều không quan tâm. Thí dụ khi người Trung Quốc mới tới Mỹ, người Mỹ vốn đối xử bình đẳng, chẳng có gì phân biệt người Trung Quốc hay người Mỹ. Về sau các khách sạn lớn của Mỹ đều không cho người Trung Quốc ở, các tiệm ăn lớn cũng không cho người Trung Quốc tới ăn uống. Đó là do người Trung Quốc không có công phu tu dưỡng cá nhân. Tôi có lần nói chuyện với một chủ tầu người Mỹ. Ông ta nói. - Có một vị công xứ Trung Quốc lần trước cũng đi tầu này, trên tầu khạc nhổ, xì mũi khắp nơi, khạc nhổ cả trên tâm thảm sang trọng này. Thật là ngán. Tôi hỏi ông ta: - Lúc ấy ông có biện pháp gì không? Ông ta nói: - Tôi nghĩ chẳng có cách gì, đành dùng khăn mùi xoa của mình lau sạch đờm trên thảm trước mặt ông ta. Thế mà khi tôi lau đờm, ông ta vẫn chẳng tỏ vẻ gì. ... Chỉ một việc ấy, cũng thấy người Trung Quốc ứng xử thiếu công phu tự tu dưỡng. Trước đây Khổng Tử đã nói, chiếu trải không ngay ngắn không ngồi. Điều đó cho thấy trong tu dưỡng cá nhân thường ngày, ngay cả việc nhỏ như đứng ngồi ông ta cũng rất quan tâm... Có một lần tại một tiệm ăn, vào lúc đang diễn ra bữa tiệc, trai thanh ái lịch rất náo nhiệt, rất lịch sự, đông chật một phòng. Bỗng có một người Trung Quốc đánh rắm. Thế là những người nước ngoài trong phòng vội vã tản ra. Do vậy chủ tiệm liền đuổi người Trung Quốc đó ra khỏi tiệm, và từ đó trở đi, các tiệm lớn không cho người Trung Quốc tới ăn nữa. Lại có một lần một vị đại thương gia Thượng Hải mời người nước ngoài tới dự tiệc ông ta đột nhiên đánh rắm ngay tại bàn tiệc, làm cho người nước ngoài đỏ mặt. Ông ta những không xin lỗi, còn đứng dậy vỗ đùi nói với người nước ngoài “I ... ít” cử chỉ đó thật thô bỉ cùng cực. Các nhà văn học sĩ Trung Quốc cũng thường có hành vi thô lỗ như vậy. Thực là khó hiểu. Hay là họ cho rằng có hơi thì phải xả, xả thì phải thành tiếng, như vậy là vệ sinh, có ích. Đó cũng là sự sai lầm tệ hại, mong người trong nước hãy đề phòng, coi đó là bước đầu của việc tu thân.


40

Ngoài ra người Trung Quốc thường thích để móng tay dài, dài tới hơn một tấc vẫn không cắt, cho rằng như thế mới là tao nhã... Răng của người Trung Quốc thường rất vàng ám, không bao giờ đánh cho sạch. Đó cũng là một khuyết điểm lớn về mặt tu dưỡng. Những việc như khạc nhổ, đánh rắm để móng tay dài, không đánh răng... là những việc bình thường trong tu dưỡng cá nhân, thế mà người Trung Quốc không chú trọng. Do đó, tuy chúng ta có tri thức lớn là tu thân tề gia, trị quốc, bình thiên hạ mà hễ gặp chúng ta là người nước ngoài cho rằng chúng ta rất dã man, và không muốn khảo sát kỹ tri thức của chúng ta nữa. Ngày nay muốn tề gia, trị quốc và không bị nước ngoài áp bức về cơ bản chúng ta phải bắt đầu từ tu thân” (tr 151 - 155). Đó là về Tu thân, còn về tệ sùng bái gia tộc ích kỷ của người Trung Quốc, Tôn Trung Sơn phê phán: “Cái mà người Trung Quốc sùng bái nhất là chủ nghĩa gia tộc, và chủ nghĩa tông tộc, Trung Quốc chỉ có chủ nghĩa gia tộc và chủ nghĩa tông tộc, không có chủ nghĩa quốc tộc”. Các nhà quan sát nước ngoài nói, người Trung Quốc là một mảng cát rời rạc. Nguyên nhân của điều này là ở đâu? ... Đối với gia tộc và tông tộc người Trung Quốc có sức liên kết vô cùng mạnh. Để bảo vệ tông tộc, người Trung Quốc không tiếc hy sinh tính mệnh của mình. Chẳng hạn như hai họ ở Quảng Đông đánh nhau, người hai họ hy sinh không biết bao nhiêu sinh mệnh tài sản, vẫn không chịu thôi ... Còn đối với quốc gia, trước nay người ta chưa hề có một lần hy sinh với tinh thần cực lớn, do đó sức đoàn kết của người Trung Quốc chỉ có thể đạt đến tông tộc, chưa mở rộng tới quốc tộc” (tr 50 - 51) ... “Nhưng người Trung Quốc chỉ có các nhóm gia tộc và tông tộc, không có tinh thần dân tộc. Do đó tuy có một Trung Quốc 400 triệu người kết thành, trên thực tế chúng ta là một mảng cát rời rạc. Chúng ta là một nước nghèo nhất trên thế giới hiện nay. Có địa vị thấp nhất trên trường quốc tế” (tr 56). Tôn Trung Sơn chỉ ra trình độ còn ấu trĩ về dân trí cũng như Dân quyền của người Trung Quốc. “Từ dân quyền” thường được các học giả nước ngoài gọi chung với từ „tự do‟. Chính vì vậy trong nhiều sách báo và ngôn luận từ „dân quyền‟ và „tự do‟ được đặt bên nhau. Các nước Âu Mỹ hai ba trăm năm nay, nhân dân phấn đấu không ngoài mục đích giành tự do, dân quyền, nhờ đó mà Âu - Mỹ phát triển. Thời cách mạng Pháp, khẩu hiệu của cách mạng là Tự do - Bình đẳng - Bác ái giống như khẩu hiệu của cách mạng Trung Quốc ngày nay là Chủ nghĩa dân tộc - Chủ nghĩa dân quyền - Chủ nghĩa dân sinh. Có thể nói Tự do - Bình đẳng - Bác ái là căn cứ vào dân quyền. Dân quyền đã phát triển lên từ Tự do - Bình đẳng - Bác ái, vì vậy chúng ta giảng Dân quyền thì không thể không giảng trước nội dung Tự do - Bình đẳng - Bác ái. Gần đây sau khi phong trào cách mạng lan đến phương Đông thì từ ngữ Tự do cũng đã truyền đến đây ... hai ba trăm năm nay chiến tranh ở Âu - Mỹ hầu như đều là đấu tranh vì tự do, do đó học giả Âu - Mỹ xem tự do là vấn đề rất quan trọng, người thường cũng rất tâm đắc với ý nghĩa


41

của Tự do. Nhưng gần đây từ ngữ này truyền đến Trung Quốc thì chỉ có những học giả nào để thời gian nghiên cứu mới hiểu tự do là gì, còn đối với những người dân thường như người ở nông thôn hoặc đường phố, nếu chúng ta nói tự do đối với họ thì nhất định học không hiểu. Sở dĩ người Trung Quốc hoàn toàn không tâm đắc với tự do vì từ này truyền đến Trung Quốc chưa lâu. Hiện nay những người hiểu tự do, thường là những thanh niên mới và lưu học sinh, hoặc là những người rất quan tâm đến thời cuộc chính trị Âu - Mỹ, họ luôn luôn nghe thấy hoặc nhìn thấy những từ ngữ này trên sách báo, nhưng tự do là gì thì nói chung họ vẫn lạ lẫm. Do đó người nước ngoài phê bình người Trung Quốc thấp, tư duy ấu trĩ, ngay đến từ ngữ Tự do cũng không có” (tr 189 - 190). chừng nấy. Nếu không thế tại sao khi lỡ dịp xem một thảm cảnh đối với họ là mất đi một cơ hội lớn để hưởng thụ hạnh phúc của cuộc đời” (tr 138). ... “Người Trung Quốc đối với những đau khổ của kẻ khác thường có kiểu tò mò trắng trợn, thích thú mà có vẻ đồng tình, nhưng đối với thành tựu và hạnh phúc của kẻ khác thì giữ kín như bưng, cực kỳ bí ẩn, tâm địa đố kỵ cực kỳ ác độc. Người Trung Quốc dù khoan hồng đại lượng cũng tuyệt đối không thể chấp nhận chuyện người quen mình lại khá hơn mình, tuyệt nhiên không thể chịu đựng được bát cứ phần tử nào ở cùng trong cái biển khổ ấy lại thoát ly ra được. Đó là cái gọi là “không muốn thấy cháo của người nghèo đóng vàng” (Cùng phường ăn mày mắng nhau dầy chiếu) (tr 141). Trích vài lời nói đầu của ông Nguyễn Hồi Thủ - người dịch sách “Người Trung Quốc xấu xí” Thế mà suốt năm năm qua tôi đã ôm cái hy vọng quyển sách dịch sẽ ra đời ở Việt Nam... Bởi vì, quyển sách này tuy được viết và xuất bản ban đầu ở Đài Loan, tuy có một cái nhìn độc đáo về văn hoá và các chế độ chính trị Trung Quốc, đặc biệt chỉ trích các phong trào phản hữu, cách mạng văn hoá,v.v... nhưng sau đó nó lại được tái bản ở Trung Hoa lục địa (bản tôi là bản 1989 1990 do Nhà xuất bản Hoa Thành, thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông ấn hành). Không những đã có nhiều sách khác viết về nó, gần đây còn có nguyên cả một quyển sách phỏng vấn Bá Dương về quyển sách này của ông. Các tác phẩm khác của Bá Dương cũng đã lục tục được in ra, và cuối cùng là hai tuyển tập tạp văn lớn của ông được Nhà xuất bản Hữu Nghị tại Bắc Kinh phát hành. Ngoài ra ở Âu, Mỹ, Úc châu hiện nay, đối với những người sắp phải tiếp cận với Trung Quốc, cuốn sách của Bá Dương cũng được xếp vào trong danh sách những quyền cần đọc để có một cái nhìn tổng quát về văn hoá nước này. ... Thường trong lịch sử Việt Nam vốn đã rất ít người thật tình can đảm và trung thực để tìm hiểu, phê bình, những cái xấu, cái dở của dân tộc mình. Gần đây lại chỉ toàn thấy ca tụng đất nước rừng vàng biển bạc, con người cần cù, thông minh, cao cả, đẹp đẽ, kiên cường, anh hùng, trong sáng... Nếu so sánh với những nước giàu mạnh nhất trên thế giới hiện nay thì lại là cả một chuyện ngược đời.


42

Mà cái chuyện tìm những khuyết tật, những cái dở của dân tộc mình, thì không ai có thể trông chờ vào người nước ngoài được... Paris, Mùa đông 1997 Nguyễn Hồi Thủ * * * Quả vậy! Không ai hiểu ta bằng ta. Cũng chẳng ai biết được cái xấu của ta bằng chính ta, cũng không ai làm hộ ta! Vậy tôi xin được bàn trực tiếp vào cái xấu của ta.

V. Tự ngắm mình 1. Ngồi xổm Con người đẹp nhất là danh dự và kiêu hãnh, vì thế trái nghịch với nó là tính cách và các thói quen tự ti, nô bộc. Hiển nhiên, cái thói quen trông hèn yếu nhất của con người, như triết gia Mauss bàn về các “kỹ năng của cơ thể” mà chúng ta đã bàn ở phần một là “ngồi xổm”, tức không có ghế, cũng chẳng có bàn. Không có ghế là chưa xác định cho mình một chỗ ngồi. Không có bàn thì chưa có chỗ viết - cũng khó mà có trí tuệ. Về điểm này, người Anh gọi các ngài chủ tịch, người phụ trách diễn đàn, người ở ngôi cao là Chairman (che - men). Nó được ghép từ hai chữ “chair” - là ghế ngồi, và “man” là người. Người Việt theo lối Hán tự cũng gọi những người đó là “Chủ toạ”. Nghĩa “chủ” - là ngôi vị trên - làm chủ, “toạ” - là ngồi. Một cách rất căn bản, triết gia Hegel đã bàn, và gọi thẳng ra: cách ngồi không có ghế ngồi của bất kỳ ai - là của loại nô lệ. Ông phân tích: - Chỗ ngồi, như ghế lớn, ngai vàng là chỗ cho vua chúa, các ông chủ ngự trị. Người càng quyền cao chức trọng thì càng phải có chỗ ngồi đường bệ, đàng hoàng. Và người ngồi trong ghế nhà mình bao giờ cũng tự tin hơn ngồi ghế nhà người khác, vì lúc đó ta là chủ nhà ta. - Vậy thì, trái lại, hạng ngồi xổm, có thói quen ngồi xổm, nhấp nhổm nửa đứng nửa ngồi, là hạng nô lệ, tranh thủ bán ngồi - bán đứng, còn lo chân chạy cho chủ. Và vì mình chỉ là hạng tôi tớ làm công cho chủ nên không thể dám ngự trên ghế. Ngồi bệt, dù không có ghế, vẫn còn hơn ngồi xổm, vì người ta vẫn dám đặt đít tìm cho mình một chỗ ngồi trên mặt đất. Và khi ngồi bệt người ta nghỉ ngơi thực sự hơn, tự tin hơn. Người phương Tây, khi không có ghế, họ thường ngồi bệt, hay ngồi xổm chân cao - chân thấp, chứ không ngồi


43

đều kiểu “hai chân ếch”. Và khi nhìn thấy ai ngồi xổm, họ rất sợ. Việc này, thậm chí có nhiều đoàn của ta ra công tác làm việc ở nước ngoài, các vị đại sứ ở nước ngoài mở đầu còn phải dặn mọi người rằng, đi đâu, tối kỵ ngồi xổm trước mặt người nước ngoài. Đặc biệt là ở những nơi công cộng. Một lần tôi được chứng kiến, một anh bạn người Việt thấy một người phương Tây, liền ra góp chuyện cho vui. Trong khi mọi người đang ngồi trên những chiếc ghế nhựa ở ngoài sân, tiện thấy có một bờ gạch xây để đặt cây cảnh, anh ta trèo ngay lên ngồi xổm - dạng háng trước mặt mọi người. Người nước ngoài là một chuyên gia rất dễ tính, hay gần gũi với mọi người từ thủ trưởng cơ quan đến cô đầu bếp, vậy mà anh ta tỏ vẻ khó chịu ra mặt. Tại sao vậy? Có lẽ vì anh ta nghĩ, mình có thể hoà đồng với người da mầu, với cô đầu bếp, hoặc ai đi nữa, dù sao mọi người cũng là người. Còn một anh thanh niên ngồi dạng háng ngay trước mặt mọi người, cận cảnh kia, không ra hầu bàn, không ra người ở, chẳng rõ thuộc đẳng cấp nào? Chắc là thuộc đẳng cấp văn hoá thấp, nhưng nếu người ngồi xổm đó lại có bằng đại học rồi thì sao? Dù thế nào, cũng không thể cùng đẳng cấp đối thoại về văn hoá được. Thế là vị chuyên gia đành lấy cớ thoái lui. Dù rằng, nước nhà thuộc nền văn minh lúa nước, nhiều nơi sình lầy ẩm ướt, nên dễ sinh thói quen ngồi xổm, nhưng người Việt cũng rất lên án, chê bai kiểu ngồi này. ở một số vùng người ta gọi là kiểu “dạng tè he”, hay lịch sự hơn là ngồi “giãi thể”. Còn có hẳn một câu chuyện chê bai kiểu ngồi xổm đại loại rằng: Bà kia ngồi trên bậc thềm tam cấp, xổm, dạng tè he băm bèo thái rau gì đó. Chợt có một sư cụ đến chơi, bà vẫn cứ ngồi hồn nhiên như thể “trời sinh mông thì ngồi xổm”. Thế là một con vịt đi dưới sân thấy chướng quá bèn kêu “khẹp”, “khẹp”, “khẹp”... Ngồi vô ý, vô tứ, bản năng đến độ, gia cầm là những thứ sống nửa hoang dã bản năng - nửa được rèn theo điều kiện, thấy chướng quá đành khuyên “hãy ngồi khẹp chân vào”. Ngồi xổm thế còn chưa đủ. Ngay tại các thành phố lớn, trung tâm của kinh tế và văn hoá, có cả các quí bà còn ngồi xổm chỗm chệ trên mặt bàn để bán hàng. Eo ơi, còn chỗ nào để bình luận thêm. Còn chưa hết, ở một số vùng không chỉ quý bà đã già, mệt rồi không giữ lễ nghi gì nữa, mà các quý cô còn rất trẻ chèo thuyền bằng hai chân, dạng tè he hết cỡ, phía dưới lòng thuyền có rất nhiều quý khách là đàn ông. Còn quý cô vẫn thản nhiên cười nói, thưa hỏi, chuyện trò như không. 2. Đi đất Đi đất tất nhiên là bần cùng đến hết cỡ rồi, đã bần cùng mà còn bị đem ra rỉa rói thì quả thật là bạc tâm hết cỡ. Những năm nửa cuối thế kỷ XX, người nước ngoài sang ta, thấy ở nhiều vùng quê học sinh cấp ba còn đi đất đến trường, quả là ái ngại đến sởn da gà. Hồi đó, chàng trai nào vớ được một đôi dép đúc cao su của bộ đội, hay một đôi dép nhựa thì dã trưng diện lắm rồi! Đi đất do hoàn cảnh kinh tế đói nghèo thì chẳng có gì đáng trách, nếu có xót - chỉ là ái ngại. Ngay thời tiền hiện đại, đa số người Việt còn đi đất, hoặc sang lắm là có dép râu, chỉ có lý trưởng và tránh tổng mới có đôi guốc mộc. Hình ảnh các cụ lý cắp guốc vào nách cho đỡ mòn, đến gần chỗ quan viên, hay nơi hành sự mới bỏ guốc xuống đi, thì chẳng lạ lẫm gì trong con mắt dân gian của người Việt.


44

Nhưng ngày nay, hoàn cảnh kinh tế đã cải thiện nhiều, dép có khi còn thừa mà người ta càng đi đất, càng phát triển nạn đi đất, mới đáng bàn! Đó là nạn đi đất trong nhà. Đến cửa nhà ai, khách khứa đều phải tụt giầy dép ra, đi chân không lên sàn nhà. Mấy năm gần đây, thi thoảng có vài bài báo nhắc đến “thói quen mới có” kỳ lạ này. Đặc biệt vào dịp lễ tết, khách khứa kéo đến gia chủ, ở ngưỡng cửa, người này nối người kia chổng đít lên tụt giầy, tụt dép. Vào nhà chơi, được một chốc, lúc quay ra, chưa kịp bắt tay chào chủ nhà, thì tất cả lại lục tục cúi đầu chổn đít đi giầy, đi dép. Thật bất tiện và mất cả uy phong. Người đời vẫn bảo, người sang trọng phải có mũ cao, áo dài, đi giầy tía, đằng này đến nhà nhau chơi cứ phải chăm chắm nhìn xuống chân cởi giầy đi chân đất, đúng là phải xuống cấp từ quý ông xuống quý thằng. Có nhiều bạn nước ngoài, khi đến chơi nhà, nể tôi là gia chủ chịu cởi giầu theo kiểu, chúng tôi tôn trọng phong tục tập quán “đi chân đất” vào nhà ở nước các bạn. Tôi liền giải thích cho họ, đó không phải là phong tục, các bạn cứ tự nhiên đi giầy dép vào. Có nhiều đoàn làm việc cả Tây lẫn Ta, đi vào nhà ai đó. Người Tây tất nhiên là cứ đi giầy thẳng vào, người ta vì ngại chủ nhà liền cởi giầy đi chân đất. Thế là cùng một đoàn, cùng một việc, nhưng trong cùng một so sánh tự nhiên người Việt đã làm nhau phải hèn đi trước mắt người khác. Một đằng hùng dũng đi giầy vào nhà - hiển nhiên không thể là đầy tớ. Còn một đằng cóm róm chổng đít cởi giầy rón rén đi chân đất vào nhà - hiển nhiên không phải là ông chủ. Đi chân không vào nhà có phải phong tục của người Việt? Chắc chắn là không! Hầu như chỉ có người Mường, người Thái ở nhà sàn là đi chân không vào nhà. Nhưng xưa kia do nghèo kém, từ nhà ra rừng người Mường, người Thái cũng đi chân đất. Khi quay về nhà, trước khi lên cầu thang, họ thường đặt sẵn một “mó nước”, hay một chum nước để rửa chân trước khi lên sàn. ở nhà sàn, thì đi chân đất còn còn có lý, vì nhà sàn làm bằng tre, nứa hay ống bương đập dập, rùng rình bấy bớt nên đi chân không vào cảm thấy tiện hơn. Trái lại, người Việt thì trước kia ở nhà tranh vách đất, người Tày, người Nùng ở nhà trình tường đất, nền đất, nên mọi người thường đi chân đất từ nhà ra ngoài, từ ngoài vào nhà, không có phân biệt, đến tối lên giường liền hai xoa ba đập hai bàn chân vào nhau để co lên giường. Vậy thói đi chân trần vào nhà của người Việt có từ bao giờ? Trong thế kỷ XX, biểu tượng hạnh phúc của chúng ta là nhà “ngói đỏ” nghĩa là, đó là cuộc vượt mình quan trọng, từ nhà tranh vách đất tiến lên tường xây nhà ngói. ở thôn quê, nhiều nhà xây được nhà ngói, nhưng vẫn không thể lát nổi chiếc nền nhà bằng gạch lát hay gạch hoa. ở một số thành phố, chính quyền xây những khu nhà cấp bốn, đó là những khu nhà dài, tường con kiến bổ trụ (10cm), lợp ngói, và có lát gạch đỏ, hay hiếm hoi hơn thì có gạch hoa, diện tích mỗi căn hộ thường rộng khoảng 18m2. Vì từ nhà tranh vách đất, được phân căn hộ xây có nền gạch, nên mọi người quý báu “tổ xây” của mình lắm, “tổ xây” đó còn trở thành biểu tượng cho sự ước ao, đến nỗi đã đi vào trong nhiều tác phẩm văn học. Nhà thơ Xuân Diệu, người rất nổi tiếng, còn viết hẳn một tập thơ có tựa đề là “Ngói mới”. “Tổ xây” đã quý, và khá chật, nên càng quý hơn, và mọi người theo nhau, lau sạch nền nhà mình cư sử với nền nhà như một chiếc giường, người ta có thể ngồi bệt xuống ăn cơm, uống nước, tiếp khách, hoặc lăn ra ngủ. Mỗi lần tụt giầy dép ở cửa, cả chủ nhân lẫn khách đều có một ý niệm rằng, chúng ta đang bước vào trong một chiếc giường.


45

Ở phần trước tôi đã đề cập, nếu không biết phân biệt giữa mũ và đồ lót để ngồi, dễ dẫn đến việc không phân biệt giữa Đầu và Đít. Còn ở phần này, nếu chúng ta quá long trọng sàn nhà, sẽ dẫn đến không phân biệt giữa tầm cao của giường lẫn thân thể với tầm sát đất của bàn chân. Có thể, nhiều người sẽ bảo, chúng tôi đi chân đất trong nhà cho tiện, cho mát thì tốt chứ sao! Người Anh có một câu chuyện diễn ra giữa một ông thợ giày và một cô gái mua giầy rằng: - Tôi thích đôi giầy mốt mới, nhưng mấy đôi mốt mới này cao gót và bất tiện quá? - Thưa cố, ông thợ giầy nói, - thường những đôi giầy theo mốt thì phải bất tiện còn những đôi tiện lợi thì lại không mốt. Đó chưa phải là tất cả, nhà văn Rumany nổi tiếng C.Virgil Gheorghiu còn phát hiện một cách triết lý rằng: Thường những cái gì thừa thì mang chức năng đẹp. Chẳng hạn như chiếc chỏm mũ, chiếc cổ áo, hay dải đăng ten, chúng thừa ra để làm đẹp, hay như các phần trang trí nổi ra lõm vào trên một bức tường hay hàng cột, chúng không chịu lực cho toà nhà, mà thừa ra để làm đẹp. Vậy nên, vẻ đẹp, vẻ văn hoá của cuộc sống không phải lúc nào cũng tiện lợi và vừa khít, lúc đó như người Việt bảo “ăn lấy đặc mặc lấy dầy” hay “dùi đục chấm mắm cáy”. Cao hơn nữa, cái tiện lợi cho thể xác chỉ mang tính bản năng, chưa thể vươn lên để trở thành lẽ sống cao hơn. Thường những giá trị nhân văn ở đời phải vượt qua chặng tiện lợi của bản năng. Thực ra, về mặt y học, đi đất rất có hại, các y sĩ từ thời cổ đại đã cho rằng: Muốn bảo vệ sức khoẻ thì người ta phải giữ “ấm chân lạnh đầu”. Lạnh đầu để áp huyết máu không bị bế nơi chân tóc. ấm chân - tức là ấm thận, cái là nền tảng trong lục phủ ngũ tạng. ở nhà bố mẹ tôi chẳng hạn, vào mùa đông nền nhà rất lạnh, bố mẹ tôi đã già, môi tím ngắt vì đi đất, thế mà vẫn cứ theo “trào lưu” đi chân đất trên nền gạch. ở một số nhà giầu có hơn, để tránh lạnh, người ta bày dép ở khắp nơi, dép ở cửa, dép vào toa lét, rồi dép trên mái để bước ra sân thượng. Chao ơi con người cứ phải loay hoay nhìn xuống chân cởi dép và đi dép thì làm sao lớn được! Nạn đi chân đất không chỉ ở các gia đình mà còn lan rộng ra xã hội. ở một số hãng thời trang sang trọng, người ta bắt khách tụt giầy ngoài cửa, rồi phải thuê người trông nom đã thấy chuyển từ sang xuống hèn, ở nhiều bệnh viện, có một vài khoa có vẻ hiện đại một chút người ta bắt bệnh nhân và người nhà bệnh nhân để dép ngoài cửa, nhưng đời nào y bác sĩ chịu để dép bên ngoài, vì thế người ta thấy cách phân biệt đối xử rất vụn vặt của mấy người “da vàng mũi tẹt”. ở một số quán ăn, cũng bắt tụt dép ra ngồi chiếu, rồi đề hàng chữ “guốc dép tự quản”, thế là người vào ăn sợ mất dép, nháo nhác sách dép đặt vào chỗ an toàn, thật là hết lo cởi dép, lại sách dép, không hiểu hình ảnh của chúng ta ngang ở mức nào? ở phần trên, chúng ta đã từng tham khảo cách ngồi - vị thế ngồi quy chiến tầm vóc người ta là ông chủ hay đầy tớ. Khi chúng ta đi đất vào nhà, ngồi vòng tròn trong một chiếc chiếu, thì nên hiểu đó là sản phẩm của cuộc sống đói nghèo rớt lại. Bởi lẽ, ngồi bàn, ngồi ghế, đòi hỏi vật chất phải dồi dào hơn, không gian lớn hơn để kê bàn - kê ghế. Còn một chiếc chiếu trải ra, ít thì bốn người, đông thì dăm bảy người ngồi chẳng tốn bao nhiêu không gian cả. Đi đất, ngồi đất, ngồi xúm xít cũng là cách rúm rít của “con sen người ở”, trừ nhà không có điều kiện thì đành chịu... , nhà có điều kiện, thiết nghĩ chúng ta không dại gì không nâng cấp đời


46

mình. Đôi giầy ở dưới chân, cũng như quần áo mặc trên người, nếu đi đâu cũng phải tháo ra là chúng ta chưa dám tôn vinh bộ phận cơ thể của mình một cách cao quý nhất - như một ông chủ. Vả lại như một nhà thơ nước ngoài đã viết. Nếu anh chỉ biết nhìn xuống đất Thì không ngã Nhưng ..... bao giờ thấy được ánh sáng những vì sao. Tôi nghĩ, nếu chúng ta chấm dứt được việc loay hoay nhìn xuống đất, tháo dép ra, đi dép vào, thì tâm hồn của chúng ta sẽ nâng cấp đáng kể, thậm chí không ngờ. Người Việt đánh giá con người bằng cách “Nhìn từ đầu đến chân”, người phương Tây lại đánh giá con người theo cách “Nhìn từ chân lên đầu” - vì họ nghĩ cái chân là nền tảng mà đã được trân trọng, thì cái đầu là đỉnh tháp của thân thể hẳn phải là cao quý. Trái lại kẻ có đôi chân bị rẻ rúm đến mức lo đi đất để tiếc nền nhà, thì cái đầu sao mà cao quý nổi. Nên chăng, cách tốt nhất chúng ta hãy đi giầy dép để tôn trọng và bảo vệ thân thể cao quý của mình. Còn nền nhà, có đáng gì đâu mà phải tiếc? 3. Mặc quần áo ngủ ra đường Trong một bộ phim Việt Nam có cảnh thế này: cô vợ đang ngủ trên giường. Chợt có người bạn gái đến thất thanh báo “Chồng chị bị công an bắt giải về đồn”. Thế là cô vợ hốt hoảng chồm khỏi giường, chạy thẳng ra cửa, và chạy thẳng lên đồn. Tại đồn công an, với bộ quần áo ngủ của mình, cô xông xáo vào bày tỏ tình cảm với một nữ cảnh sát đang thừa hành công vụ. Nữ cảnh sát nói cho cô vợ kia biết những tình cảm cao thượng mà chị ta giành cho chồng sẽ được đền đáp xứng đáng, vì đó chỉ là màn kịch anh chồng giúp cơ quan công an bắt tội phạm. Than ôi! một bộ quần áo ngủ ở giữa cơ quan công quyền thì làm gì có thể bàn đến những gì cao thượng cho nổi. Và, với một con người choàng dậy từ trên giường, không phân biệt được từ nhà ra chốn công cộng phải khác nhau. Lẽ ra, dù trời có sập đi nữa, việc đầu tiên chị ta bước ra khỏi nhà phải là cách nghĩ rằng bộ quần áo trên người của mình có đủ tiêu chuẩn văn hoá để ra nơi công cộng không? Đặc biệt nơi đó là một trụ sở công quyền? Triết gia Aristote nói: “Con người là động vật xã hội ”. Vì thế khi bước ra xã hội, người ta không thể nào cứ để nguyên si quần áo ngủ trong nhà chạy ra nơi công cộng? Nhưng nỗi buồn nhất vẫn chưa nằm ở cô vợ - trình độ công nhân kia, mà ở nhà văn - tác giả kịch bản, cũng như đạo diễn điện ảnh, những người có trình độ văn hoá ở trên đại học. Người phương Tây có câu “quần áo làm ra con người”. Tất nhiên chúng ta nên hiểu theo nghĩa tích cực của từ này. Để dễ hiểu hơn, người đời còn có một quan niệm khác: “Quần áo không làm nên thầy tu, nhưng chẳng có thầy tu nào không cần áo lễ”. Thầy tu mà không mặc áo lễ, thì làm sao xác định được chức phận của mình.


47

Nhân gian cũng nói: “Ai không biết tự trọng mình thì chẳng thể nào biết tôn trọng người khác”. Một người mặc quần áo ngủ ra nơi công quyền, không những người đó chẳng biết tôn trọng mình, mà còn coi nơi công quyền chẳng ra gì. Điều đó cũng có nghĩa, con người đó chẳng có ý thức về mình, cũng chẳng hề có ý thức về công lý (nơi công quyền là trụ sở đại diện cho công lý). Người Việt, ở nhà thường mặc bộ đồ ngủ, thường gọi là “bộ đồ” vừa mỏng, vừa rộng, vừa mát, cho tiện lợi ở xứ nhiệt đới. Và nhiều người đông đảo hơn là chị em, cứ thế mặc đi chợ, đi chơi, cho mát, cho tiện, nhưng đặc biệt hơn người ta còn mặc những bộ đồ đó tới cả các cơ quan nước ngoài. Có không ít người đã bị mời về để thay quần áo, sau đó mới được người ta tiếp đón. Có một luật sư người Việt quốc tịch nước ngoài, một lần về Việt Nam có tâm sự. ở một vài cơ quan lãnh sự, thay vì phải xét duyệt đơn nhập khẩu quá nhiều các nhân viên bỏ qua việc xem xét hồ sơ, mà ra tận phòng khách gặp đương sự. Họ nhìn đương sự từ chân lên đầu, và thấy người nào ăn mặc lôi thôi luộm thuộm thì gạt phắt khỏi danh sách những người cần làm thủ tục. Có một chuyện chính thức hơn, sau khi miền Nam giải phóng, hồi đó Liên Xô (cũ) có nhận đào tạo nâng cao cho một số cán bộ Việt Nam. Vài cán bộ Việt Nam, mặc áo mút cổ lọ - loại áo bán ở các tỉnh phía nam - sau đó choàng chiếc Veston của bộ com-lê ra ngoài. Khi vào lớp, giảng viên người Nga liền yêu cầu, những người mặc như vậy phải về mặc chiếc áo sơ mi cổ bẻ bên trong chiếc áo khoác rồi mới cho vào lớp. Nhân đây cũng nói thêm về cách mặc com-lê. “Complet”, tiếng Tây là trọn bộ bao gồm: 1. Áo khoác Veston 2. Quần cùng mầu áo. Khi mặc trọn bộ cả quần lẫn áo, người ta gọi là Com-lê (không được gọi là áo com-lê, mà phải gọi là áo Vest), bên trong mặc áo sơ mi cổ cứng, đeo cà vạt. Cũng có thể mặc đờ-mi (demi), trên áo Veston, dưới quần mầu khác, nhưng đấy là lối mặc bán chính thức. Còn có thể bán chính thức hơn, áo veston mặc với áo cổ tròn, quần bò, giầy thể thao, nhưng đây là cách mặc theo kiểu sinh hoạt tự do - không chính thức. Còn mặc chính thức thì phải đồng bộ, đi giầy da, không được đi giầy thể thao. Sở dĩ, tôi muốn mở rộng ra bàn về ăn mặc đôi chút, vì có nhiều đoàn của ta ra nước ngoài, được phát com-lê, nhưng thôi thì, ăn mặc đủ kiểu, đủ loại, rất cọc cạch và nhấp nhổm. Người mặc đã vậy, người ở trên cũng không biết chỉ ra cho họ cách phải mặc thế nào cho đúng. Theo tôi, khi nói về chuyện này, cũng chẳng nên mắc chứng sĩ diện và tự ái làm gì. Có một anh bạn đã lớn tuổi nói với tôi, hồi anh ta mới sang Tây học, người quản lý các sinh viên còn chỉ bảo cho họ từng cách ăn mặc, cách đi vệ sinh. Còn ở ta, do chưa chú trọng việc này, nên có không ít đoàn các bác, các cụ, vào đến phủ chủ tịch rồi, còn rủ nhau ra sát hàng rào, dàn hàng ngang, ngồi thụp xuống, thực hiện việc tiểu tiện tự nhiên. Một lần, tôi gặp một cô phiên dịch, đang dẫn đoàn khách Tây, chối quá, vỗ tay la lên “tại sao các cụ lại làm thế?” thì nhận được ánh mắt ngạc nhiên hơn của các bà theo kiểu “tại sao cô lại hỏi thế? đi tiểu là việc tự nhiên nhất mà còn phải hỏi hay sao?” Đúng chỗ này cũng nên lưu ý, nhiều trí thức Việt Nam khi ngồi bên nhau đã thừa nhận: Chúng ta mới chỉ chú trọng đến văn hoá “đầu vào” như ăn, uống, như hút ... nhưng chưa chú


48

trọng đến văn hoá “đầu ra” như bạ đâu nhổ đấy, xì mũi đấy, tiểu tiện đấy, thậm chí cả đại tiện nữa. Quay lại chuyện mặc, việc không ý thức đến quần áo khi ra nơi công lý, không chỉ thể hiện văn hoá, mà còn thể hiện cả lòng ích kỷ. Bởi lẽ, cái cá nhân thường đối nghịch với cái công lý. Nhiều lần tôi lên tầu hoả, đều gặp cảnh thế này, nhiều cô sinh viên đại học hẳn hoi, mặc quần áo ngủ từ nhà ra ga và lên tầu. Chắc các cô nghĩ rằng, đi tầu đêm, lên tầu để ngủ nên chẳng cần mặc quần áo đẹp làm gì cho phí. Hẳn nhiên đây là cách nghĩ nghèo hèn “truyền kiếp”, và có tư thế của con ở, cho dù có học đến đại học. Về ăn mặc xứ ta nhiều người còn có thói quen thế này, càng thân nhau càng ăn mặc xuồng xã để tiếp đón khách. Trong khi đó, người phương Tây dạy rằng, với bạn càng thân, lại cần phải tôn trọng, cần phải giữ gìn, do đó ta càng nên ăn mặc trọng thị để tiếp đón. ở ta thì lại làm ngược lại, càng thân, thì người ta càng ăn mặc đồ ngủ, áo lót, quần cộc để tiếp khách. Đúng là một cung cách chưa phải của những ông chủ cao quý đón chào những người khách cũng là ông chủ. Mà chỉ là cách còn “ăn xó mó niêu” đối xử cùng nhau. Nhiều người Việt lý sự rằng, họ nhìn thấy Tây ba lô sang , mặc quần đùi, áo ba lỗ đi nghênh ngang hết chỗ này sang chỗ khác. Đây là một sự nhầm lẫn, vì Tây ba lô sang đây là Tây đi nghỉ mát, đi pic-nic, đi dã ngoại; còn trong thực tế họ là người tuân thủ nghiêm ngặt rất nhiều nguyên tắc trong cuộc sống. Về tính ích kỷ thể hiện qua ăn mặc, nhân đây cũng xin bàn đến nạn đeo khẩu trang, thắt khăn các kiểu đại trà của nhiều phụ nữ, kể cả đàn ông hiện nay. Tất nhiên về lý do vệ sinh, hay ô nhiễm môi trường, tôi không dám lạm bàn về những người thấy có nhu cầu chính đáng phải thắt khăn che miệng hay đeo khẩu trang. Chỉ xin bàn vào hai điểm có tính văn hoá toàn cầu sau đây: - Thứ nhất: Trong nhiều thập kỷ qua, đặc biệt từ cuối thế kỷ 20 sang đầu thế kỷ 21, thế giới xuất hiện ồ ạt phong trào đô thị hoá. Song song với nó, nông dân ở các vùng quê ồ ạt kéo tới thành phố để kiếm công ăn việc làm, nảy sinh tình trạng “nông thôn hoá thành thị”. ở quê, các chị em đi cấy, đi cầy, thường đội nón rộng vành, chít khăn chỉ để hở đôi mắt, quấn xà cạp, để tránh nắng, tránh cho làn da khỏi bị đen xạm. Và giờ đây, số chị em đó kéo lên thành thị, tưởng đó là sáng kiến bảo vệ sắc đẹp. Người ta nói: những người phụ nữ là những bông hoa để tô điểm cho thành phố. Vậy mà phố xá của chúng ta hiện nay, có quá nhiều bông hoa để bảo vệ sắc đẹp đã vấn các loại khăn, các hình thù, biến các đường phố không khác gì đường ruộng, và biến nhiều giai nhân thành “công nhân vệ sinh miễn cưỡng”. - Thứ hai: Cuộc cách mạng phụ nữ được bắt đầu chính thức vào thời điểm được tháo mạng che mặt, và được trang điểm môi son má phấn. Vậy mà giờ đây nhiều chị em lại quấn khăn che mặt, như thế liệu có phải cách trở về cái thời yếm thế của tôi đòi? Khi con người kiêu hãnh để lộ khuôn mặt của mình, thì người ta cũng phải chịu mang trách nhiệm về khuôn mặt đó: vinh danh, ô danh, hay ém nhẹm danh? Khi con người che đậy đậy khuôn mặt nửa kín nửa hở của mình, thì người ta cũng sẽ hành xử như những người không chịu


49

trách nhiệm hoàn toàn về khuôn mặt của mình. Tôi có một anh bạn, anh ta có người yêu học rất cao, từng bôn ba hải ngoại từ Đông sang Tây. Một hôm thấy cô chít khăn che mặt, anh ta ngạc nhiên lắm và trêu “trông em như công nhân vệ sinh vào ca” (cũng nói thêm để hiểu, chính anh chị em công nhân vệ sinh chỉ mong làm hết ca để tháo băng che miệng). Cô người yêu phớt lờ, vì trong tâm đã nhất quyết che mặt để giữ sắc đẹp, cô ta bảo: “Công nhân vệ sinh thì đã làm sao?” Lần khác, anh bạn trai lại bảo: “Hình như em mới đi cướp nhà băng về, che kín mặt thế kia, chắc là để người ta không thể nào nhận diện?” Cô nàng sững mình một chút rồi lại bảo: “cướp nhà băng thì đã sao?” Nhưng than ôi, một thời gian sau đó, cô ta không cướp nhà băng, mà “cướp” đứt trái tim của anh người yêu chuồn thục mạng, không để lại tí tăm hơi nào. Anh chàng đau đớn khẩn khoản điện cho cô ta: “Em ạ người đời nói, tình yêu vào bằng cửa sổ đi ra bằng cửa chính. Chúng ta đều là người có học, lại tự nguyện yêu nhau. Giờ dù em muốn cắt đứt sao không thể gặp nhau nói chuyện với anh một cách đàng hoàng”. Nhưng yêu cầu của anh chàng chẳng bao giờ được chấp nhận, bởi lẽ, cô nàng đã “Ba mươi sáu chước, tẩu nhi vi sách” (ba mươi sáu kế, kế chuồn là hơn), thì làm sao anh ta có thể yêu cầu sự đắc sách “ngậm miệng ăn tiền” của cô, quay lại trình thẻ “lậy ông tôi ở bụi chuồn”? Và anh ta than: Khi người ta có khuôn mặt che đậy, thì người ta cũng ứng xử một cách che đậy. Xin nhiều chị em chớ có tự ái về điều này, vì lịch sử nữ quyền được mở màn bằng cách chấm dứt mạng che đi khuôn mặt “không đáng khoe” của chị em, để hiện ra một khuôn mặt “đáng khoe đáng kiêu hãnh - đáng nhận trách nhiệm về mình như đàn ông”. Một lần tôi đi cùng một phụ nữ người ý, quê hương của Rô-mê-ô và Ju-li-ét, một con người rất chú trọng đến nữ quyền, khi nhìn thấy nhiều chị em xứ ta che mặt, chị ta rất ngạc nhiên, và cuối cùng thốt lên câu hỏi: “Đó có phải là những bà thuộc đẳng cấp quý tộc không?” Tôi đã trả lời bà ta: Không! Đó là cách đi ngược lại thời gian, đậy lại mạng che của những phụ nữ Hy Lạp thời cổ đại. Xưa kia, nhà thơ Tú Xương thấy cảnh: Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng đã thấy xấu hổ cho những mái đầu của đàn ông trước xương chậu của đàn bà. Vậy thì cái cảnh đàn ông dưới lòng thuyền phải ngước lên, thấp hơn “dạng tè he” của các quý cô, nói chuyện không biết có nên xấu hổ cho cả hai đằng theo cách người Việt nói: “Người dại để chôn, người khôn xấu hổ”? Hồi còn nhỏ lúc chiến tranh, đi sơ tán, thấy cảnh ấy, tôi chứng kiến một người đàn ông hỏi giọng nửa đùa nửa thật: “Cô ơi, chẳng lẽ chân duyên dáng hơn tay?” Thì bị quý cô nàng sồn sồn cho ngay một diễn văn “Anh người thành phố biết gì! Chèo thế này cho tiện, vừa được dựa lưng, vừa đỡ mỏi tay”. Trong phẩm chất văn hoá cũng như giáo dục, người Trung Quốc rất coi khinh những kẻ tiện gì làm nấy, họ gọi là “bọn tuỳ tiện”. Bởi lẽ, giáo dục là tạo ra những việc làm đẹp, những việc đó hầu hết trái với bản năng. Con người không thể bạ đói thì ăn, bạ khát thì uống, bạ mót thì tè chỗ nào cũng được. Và kiểu chèo thuyền, hay ngồi xổm cho tiện, cho đỡ mệt, dù ở trước mắt mọi người, là một kiểu tùy tiện. Chỉ để ý đến lợi ích bản năng, mà bỏ qua cái đẹp của giáo hoá thuộc


50

về xã hội. Nói vậy, ở xứ ta, cũng có nơi như vùng Nhật Lệ chẳng hạn, phụ nữ đứng chèo đò trông rất thanh thoát và trang nhã. Cái đẹp của cơ thể thì lộ ra, cái đẹp của văn hoá cũng được phơi bày. Đàn bà ngồi xổm “vịt” đã phải nhắc “khẹp - khẹp - khẹp”. Thì đã đành, vì phụ nữ được tạo hoá ban cho chiếc xương chậu lớn để sinh nở, nên họ dễ có kiểu ngồi xổm để luyện cơ hông. Đằng này đàn ông mà ngồi xổm thì ngán không thể nào tả được. Còn ngán hơn, nhiều anh thấy ngồi xổm, hai chân được bành ra, có vẻ oai hơn, nên anh ta thượng ngay lên ghế ngồi xổm, ăn nhậu, chuyện trò trước mắt mọi người, trong đó có không ít cả những cán bộ ngoại giao, và giới trí thức, và nhiều hơn cả là sinh viên đại học. Vì ngồi xổm là cách để luyện cơ mông, nên khi có quá nhiều đàn ông ngồi xổm, nạn “lại cái” phát triển rất mạnh trong xã hội. ở khá nhiều nơi người ta thấy có nhiều đàn ông chỉ còn thiếu chút nữa là vừa đi vừa múa, đặc biệt là giọng nói thỏ thẻ ái nam - ái nữ. Đặc biệt hơn cả là cách văng tục của họ. Theo các chuyên gia ngành y và xã hội học, thì đàn ông hay đàn bà ở khắp nơi trên thế giới đều có kiểu văng tục hãy vẽ tục cơ quan giới tính của mình để khoe giới tính ta là đàn ông hay là đàn bà. Nhưng khi nạn ngồi xổm ở đàn ông tràn lan, nạn “lại cái” phát triển, thì xã hội được chứng kiến rất nhiều đàn ông văn tục nhầm sang cơ quan giới tính của đàn bà. Không chỉ có những người ít học, ngay cả giới văn nghệ sĩ của ta, cũng có nhiều người thường xuyên lấy cơ quan các chị em văng tục như thể làm duyên. Một lần, có một người nước ngoài, học khá thạo về tiếng Việt, thấy mấy anh văng tục “mượn cơ quan” một cách say sưa liền hỏi người khác “họ nói gì vậy?” Người kia liền dịch cơ quan ấy ra nghĩa đen. Người nước ngoài liền bảo: “ở nước tôi chẳng mấy khi người lớn văng tục nhầm cơ quan giới như vậy. Chỉ có mấy đứa trẻ con lén lút văng tục vì để được tò mò trong ngôn ngữ”. Đấy, ngay đến kiểu văng tục, là ngôn ngữ sơ khai nhất của cuộc sống, nếu không chú ý, nhiều người trong chúng ta vẫn chưa vượt khỏi mức tò mò bản năng của con trẻ. Về mặt y học và nhân chủng, khoa tướng mạo của người Trung Hoa cho rằng: Loại người “Thân hàn cốt nhược” chỉ là loại hèn kém nô bộc. Thân hàn - nghĩa là thân lạnh. “Cốt nhược” là xương cốt suy yếu. Người việt có câu “Chó sủa ăn mày”. Chó là loại rất thính nhạy trước “cốt - vía” của người khác. Chó sủa vì hai lý do: 1. Ăn mày sẽ đến xin cơm của chó. 2. Vì ăn mày, khí cốt hèn hạ, yếu đuối, nên chó sủa để thị uy, doạ nạt. Khi thân thể lạnh thì người ta thường nằm co, ngồi co cho khỏi rét. Và cách ngồi xổm, chính là cách ngồi co lại để cho cơ thể ấm lên. Nếu, theo phân tích từ y học đến xã hội học, thì ngồi xổm là cách nô bộc từ trong ra ngoài. Ngoài ngồi xổm ra, nhiều người Việt còn có thói tụ bạ, ngồi chung một chiếc ghế băng kiểu những chiếc thìa úp lên nhau, cũng là một cách đàn đúm, rúm ró, trông rất hèn, cũng rất dễ “lại cái” vì kiểu ngồi chứa đựng ít nhiều sức hút “đồng tính luyến ái” đó. Cũng việc ngồi, nhiều người Việt đi đâu, thấy tiện, liền bỏ chiếc mũ cứng trên đầu.. (nhiều khi có cả quốc huy) xuống, ngồi lên như ngồi một chiếc ghế tròn, hay ngả mũ mềm... nón ra ngồi như miếng thảm. Cách ngồi này hèn kém và hạ mình ở chỗ không biết phân biệt khoảng cách giữa Đầu và Đít. Tự mình còn không tôn trọng nơi cao nhất của thể xác mình, đem đồng hoá giữa mũ và đệm ngồi, giữa đầu và đít, thì thử hỏi làm sao có thể để người khác tôn trọng?


51

Đấy là về “Văn hoá vật thể”, còn về “phi vật thể”, thì nạn coi thường đầu mình, không phân biệt giữa đầu và đít là một tệ nạn rất tai hại ở nhiều người. Có rất nhiều học giả, nhà văn, nhà thơ, nếu hỏi họ sáng tác bằng gì, thì sẽ biết được câu trả lời: họ sáng tác bằng đít chứ không phải bằng đầu. Bằng chứng là, họ lấy ghế ngồi được xếp chỗ trong các cơ quan hành chính thay thế chiếc đầu phát minh của họ. Giả dụ, có không ít người có cương vị đi dự hội nghị trong nước, ngoài nước, mà không phải là chuyên gia về đề tài. Họ bảo chuyên gia nghiên cứu đề tài lâu năm, đưa đề tài để họ đi dự hội thảo hộ, dù chẳng cần biết mô-tê-răng-rứa gì cả. Như vậy có phải “cái đít” (ghế ngồi) đã đi hội thảo hộ “cái đầu”? Còn khá nhiều các nhà văn, nhà thơ cũng vậy, làm bài thơ, được giải thưởng thơ, đem thơ đi đấm xứ người cũng “cậy ghế”, “ỷ dốc ghế” mà đi. Có rất nhiều cuộc thi, và giải thưởng được trao là tương quan của những chiếc đũng quần hơn là vương miện đội trên đầu của trí tuệ. Cũng cái tệ ngồi. Nhiều người biết kiểu ngồi xổm thì vừa hèn vừa mỏi, khi họ xí được chỗ ngồi tốt thì không muốn đứng lên. Giả dụ, mấy lần qua tôi đi xe khách ngoại tỉnh, nào nạn bến dù, bến cóc, tranh giành nơi đậu xe, tranh ghế ngồi - lần nào tôi cũng bị thưởng món đánh lộn. Người Việt nói: “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”. Cách ngồi - cách đi - các đứng thể hiện văn hoá của mỗi người, cũng thể hiện luôn đẳng cấp họ là ai, chủ nhân ông hay là nô bộc? Có mấy kiểu ngồi xổm như ếch, ngồi không phân biệt giữa đít và đầu, ngồi lỳ không chịu đứng lên “Quen mùi bén mùi ăn mãi”, đòi ăn trên ngồi chốc hơn người, đều là những kiểu ngồi xổm, giá mà chúng ta loại bỏ được nó thì tốt biết bao! Hay chí ít, nếu chúng ta không loại bỏ được hoàn toàn, thì cũng giành cho chúng những cái nhìn biết dè bỉu! 4. Văn hay chữ tốt không bằng ngu dốt lắm tiền Từ cổ chí kim loài người đều biết: “Người coi đồng tiền là mục đích chỉ là nô lệ cho đồng tiền, người coi đồng tiền là phương tiện mới là ông chủ của đồng tiền”. Vậy xem trình độ dùng tiền, người ta biết được đó là hạng làm ông chủ hay là nô bộc. Và khi đã không vượt được qua ngưỡng phải làm nô bộc cho đồng tiền thì có thể phải hoá kẻ nô bộc cho mọi thứ ở đời. Vậy chúng ta thử xem trình độ dùng tiền của số đông người việt ở mức nào. Ở đời, trong cuộc sống và tâm linh của người ta, không có chỗ nào được đặt cao hơn thần thánh. Vì thần thánh là khao khát siêu việt lý tưởng để linh hồn con người nhắm đến mong cứu chuộc một đời sống trần tục vẫn còn phải lụy đến muôn vàn vật chất, cạnh tranh giằng xé lẫn nhau. Nhưng với nhiều người Việt thần thánh cũng chỉ là nơi Cầu tài, Cầu lộc, Cầu thọ. Tóm lại ngay cả thần thánh cũng bị quy ra tiền. Người ta mua vàng mã, nào quần áo giấy, nhà giấy, xe giấy, tiền âm phủ, khấn khứa rồi đốt mong đổi lại những thứ đó từ âm phủ. Một số đền thờ, chùa chiền, như Bà Chúa Kho chẳng hạn, khách thập phương ùn ùn kéo đến để xin vay tiền. Mở màn, ở ngoài cổng đền, người ta mua xôi, bánh kẹo, thẻ hương, và kỳ lạ nhất là nhờ viết sớ bằng chữ nho, dù bản thân chẳng hiểu gì cả, nhưng lại đinh ninh rằng: chữ này kêu cầu với thần thánh thì nhanh tác dụng hơn. Sao người ta ngây thơ không chịu hiểu, thánh thần là bậc rất tài giỏi, chữ gì mà các Ngài chẳng đọc được, việc gì phải ghi thử chữ, mà chính người cầu xin không hiểu gì. Và khi người ta nhờ viết sớ, người ta liền ao ước là địa vị của người viết chữ, trong khi người khác bán cả xôi, cả chối, cả oản ... mới kiếm được vài đồng, thì người viết chữ Nho chỉ có cây bút trong tay phẩy vài nét uốn lượn đã ra tiền. Sau đó, người ta mang mâm vật phẩm đó vào thắp


52

hương rồi mua túi ni lông để đựng vài đồng tiền giấy tượng trưng - coi như Bà Chúa Kho đã cho vay tiền. Người Việt thường có cách nghĩ quy ra thóc - hoặc quy ra tiền. Dù là thần thánh cũng quy ra tiền. Chữ nghĩa như mấy ông đồ nho viết sớ kia cũng là hình ảnh ao ước “chữ đổi thành tiền”. Còn mấy anh bác sĩ cứu người, văn sĩ tả người, hay các nhà bác học chăng nữa phát minh cho người, đều bị quy ra là “bao nhiêu tiền”. Không chỉ câu ca dao “Văn hay chữ tốt không bằng ngu dốt lắm tiền” nói lên đầu óc bị khuất phục bởi đồng tiền, mà người Việt còn có câu: Nhất sĩ nhì nông Hết gạo chạy rông Nhất nông nhì sĩ Câu thơ muốn lột tả rằng, có chữ không quan trọng bằng có gạo, vì khi gặp cảnh đường cùng, chữ không nấu thành cơm để ăn được, nhưng gạo sẽ nấu được thành cơm để ăn chắc bụng. Vì thế, nhiều cái sở học của người Việt vẫn thường chỉ là tấm bằng cứu chữa. “giá áo túi cơm”, hay chỉ cốt “ăn lấy đặc mặc lấy dầy”. Câu ca dao trên cũng nói: rất ít người Việt Nam quan niệm, học để có trí thức - làm thức ăn cho tâm hồn, mà họ vẫn còn nghĩ, thức ăn gì cũng phải quy ra thức ăn cho chiếc dạ dày. Cái sở học đổi chữ lấy ăn, xưa kia đã được người Việt diễn tả qua các tích. - Học trò hỏi thầy đồ, chữ “nhất” là gì? - Thầy liền lấy đĩa mật của nhà học trò ra liếm một cái bảo là “chữ Nhất”. - Học trò lại hỏi: “Chữ nhị là gì?” - Thầy liếm thêm một cái nữa vào đĩa mật mà nói: “Đó là chữ nhị”. - Học trò hỏi “chữ Tam?” - Thầy liếm đĩa mật, cái thứ ba. Tình trạng đổi chữ lấy tiền, học để làm quan, học để có địa vị “ấm chỗ” trong xã hội, quan trọng hơn việc nâng cao phẩm chất làm người, là một căn bệnh thâm căn cố đế mọc rễ từ cả nghìn năm phong kiến. Tình trạng này ngày nay vẫn còn rất nặng. Nếu người ta giới thiệu tên tuổi một tiến sĩ nào đó, thì sẽ nhận được ngay câu hỏi” “Anh có kiếm được nhiều tiền không?” Nếu người ta giới thiệu một cá nhân hay một tập thể thực hiện một công trình nghiên cứu nào đó, thì cũng liền được hỏi: “Có thu được nhiều tiền không?” Nếu có một tác giả hay một tác phẩm xuất hiện, người ta sẽ chỉ trú trọng vào vấn đề đầu tiên là “bao nhiêu tiền?” Chính người Việt đã diễn tả cách nói hóm hỉnh về điều kiện tiên quyết cho mọi chuyện là: “Đầu tiên” nghĩa là “Tiền đâu”. Vì vậy, dù bằng tiến sĩ, dù công trrình nghiên cứu, hay nhà văn nổi tiếng, tất cả tài năng đều không quan trọng bằng “kiếm được bao nhiêu tiền!” Vì


53

thế, lý giải, tại sao trong hầu hết các hội nghị chuyên đề tư bé đến lớn, đề tài hay dự án khoa học, không quan trọng bằng được nhìn thấy phong bì mỏng hay dầy. Căn tính này không chỉ nổi lên như một hiện tượng, xuất hiện xu thời một cách tiêu cực, trái lại nó đi suốt dọc hành trình tri thức của nhiều người. Triết gia Nietzsche diễn tả rằng: khi con người ta vụ lợi, thì sẽ giống một kẻ bện dây thừng, sợi dây thừng càng dài ra thì người đó càng đi thụt lùi lại. Có rất nhiều con người, sôi kinh nấu sử ở xứ ta, tuổi trẻ lao vào học hành, rồi đi du học xứ Tây, xứ Tầu, cũng trở thành những con người sáng giá, nhưng học xong họ cứ đi giật lùi về vai nhà buôn. Học gì thì học, tiến sĩ ngành gì thì ngành, cuối cùng phải quy ra tiền, hay lao vào kiếm tiền, hay lấy buôn bán làm nghề chính để kiếm tiền. Vì thế phải nói (có lẽ chỉ còn vài mống đi tiếp) còn muôn ngành đều đổ dồn về ngành “con buôn”. Nhân đây cũng nói: chữ “Thương Mại” của người Tầu xưa kia nghĩa là “Thương Mạt”. Có nghĩa là, làm nghề buôn bán chỉ là mạt hạng. Trong các nghề ở xã hội, thì chỉ có ba nghề bị gọi là “con”. 1. Con đĩ: xấu xa đã hẳn 2. Con hát: xướng ca vô loài 3. Con buôn: Kiếm lời trung gian Xưa kia, văn nhân nào phải dính dáng đến hàng hoá, buôn bán, lấy làm nhục lắm. Nhưng thời thế đổi thay, quan niệm đã cải thiện nhiều, nhưng dù làm gì nếu vượt được lên tầm ông chủ của đồng tiền thì mới tốt, còn lại chỉ chăm chắm coi đồng tiền là mục đích thì vẫn chỉ là nô lệ cho tiền. Các nhà khoa học tính rằng, con người ta làm việc, nghỉ ngơi đều phải có nhịp sinh học. Và một tuần được nghỉ một ngày là tối cần thiết, vì thế, theo Tây lịch, trước đó theo các giáo lịch, một tuần người ta đều nghỉ một ngày chủ nhật hay ngày sa bát, cả chủ và tớ đều được nghỉ, để đi lễ, giành một ngày cho đời sống của tâm linh, cũng như cho gia đình hay sinh hoạt cộng đồng. Nhưng có nhiều người say sưa kiếm tiền đến mức quên cả các ngày nghỉ, cũng là quên cả việc chăm sóc gia đình - vợ - chồng - con. Chỉ coi trọng kiếm tiền, quên tất cả, coi thường tất cả, từ gia đình, đến sinh hoạt tâm hồn, đến đời sống của cộng đồng, chỉ coi trọng việc kiếm tiền. Về gia, lo không tiêu hết được tiền, thì đi chơi lấy được, hết đền nọ lại miếu kia. Đi để cầu phúc cầu thọ. Và con đường tâm linh của nhiều người lúc ấy chỉ là: lúc trẻ có sức khoẻ và dục vọng thì lao vào trục lợi - trục lạc như thiêu thân, và lúc già khi thân xác đã khô như xác ve, không trục lợi trục lạc được nữa, thì lao đến các đình chùa, đem thân xơ xác đổi lấy vé vào cõi niết bàn. Người Việt còn có câu: Khôn như tiên không tiền cũng dại Dại như chó có gạo là khôn


54

Đó là cái khôn của “tiểu nhân phòng bị gậy”, dù khôn đến đâu mặc lòng mà không có tiền, có gạo phòng thân, đều là dại dột cả. Thậm chí “khôn như tiên” còn chẳng lại với tiền. Người đời nói “Tham cả tiền lẫn tình”, lại cũng nói “Đồng tiền thì bạc”. Vì thế kẻ hám tiền một cách thái quá, thì tiên thì phật, thì thánh thần, hay lý tưởng sống họ đều có thể bất chấp hết để đổi lấy tiền, khi đó, gia đình, vợ - chồng, con cái có nghĩa gì đâu? Một lần có một đôi vợ chồng rất giầu tâm sự với vài ba người bạn rằng: “Vợ chồng tôi giầu lắm, bây giờ chẳng thiết gì, chỉ mong cho hai đứa con, một trai, một gái học hành để nên người. Chúng tôi mời gia sư dạy thêm cho các cháu nào ngoại ngữ, nào nhạc. Nhưng chẳng có gì có thể chui vào đầu các cháu. Nhìn mắt, cũng như thái độ sống của các cháu, vợ - chồng tôi thấy, chúng quá giống bố mẹ, chỉ giống một chiếc “nhiệt kế” đo tiền, và quy mọi cái thành tiền. Chúng tôi lo lắm”. Một người bạn liền nói: “Anh chị lo ngại cũng phải. Từ lúc nhỏ đến lúc lớn các cháu lúc nào cũng sống trong không khí say mê bàn tán thì thào về tiền, say mê đếm tiền của bố mẹ, thì hỏi làm sao không nhiễm? Các nhà thần học có nói một câu rất ý nghĩa: “Người ta không thể dạy cái mà mình không biết, cũng không thể khuyên cái người ta không sống”. Trong lúc anh chị dạy các cháu phải biết tôn trọng đạo lý, biết yêu những giá trị nhân văn của cuộc đời, thì cả đời anh chị lúc nào cũng chỉ sống và làm việc như thể chỉ có đồng tiền mới là hệ trọng. Vậy thì làm sao có thể bắt các cháu phải nghĩ khác đi?” Chị vợ nói: “Bây giờ tuy rất giầu, nhưng chúng tôi rất lo, vì các cháu nhìn bố mẹ như hai chiếc ví sẵn tiền mở ra cho các cháu, chứ không phải nhìn bố mẹ như những địa chỉ của yêu thương. Chỉ cần bố mẹ già cả, hay hết tiền, là các cháu có thể bất cần ngay”. Ở ngay Hà Nội, có vụ tự tử xảy ra rất đau lòng. Một em trai vị thành niên xin tiền bố mẹ để thoả mãn thú vui thể xác không được, liền lao qua cửa sổ trên gác để tự tử. Trước khi chết, em trai này còn căm thù bố mẹ đến mức ôm theo chiếc vô tuyến để nhảy qua cửa sổ, với ý định rằng: ta có chết cũng phải phá hoại thêm của bố mẹ cái gì. Thật là đau xót! Đau xót vì đứa con lại có thể có một “thông điệp ích kỷ” đến vậy!. Tham tiền - bạc tình ở trong nhà đã vậy, ở ngoài xã hội thì muôn hình vạn trạng những bi kịch đau lòng. ở trong nước tình nhân có khi chỉ là thứ xe ôm. ở ngoài nước có khi chỉ là thứ đóng thùng hàng. Vợ - chồng còn ăn nhờ ở đậu nhau chỉ vì vẫn còn có nhu cầu “nâng khăn - đỡ ví”. Nhưng cũng phải nhắc lại, cái giầu của đa số người Việt, mới là kiểu quên ăn quên ngủ, quên yêu, tích công làm lãi, mà chưa có mấy ai thực sự giầu phi thường bởi trí tuệ, lao động, và nhân cách phi thường. 5. Dở ông dở thằng, làm thầy không nổi làm tớ cũng chẳng xong Tất nhiên có một vấn đề lịch sử để lại, đặc biệt qua thời Bắc Thuộc, người Việt có học, cũng chỉ theo người Tầu, chăm chắm làm quan “Học như ưu tắc sĩ”. Vì học, mục đích chủ yếu là tìm một chỗ ăn trên ngồi chốc ở nơi công quyền, thay vì hoàn thiện nhân cách con người, lại chỉ lo “hoàn thiện ghế ngồi”, coi “quan phẩm” hơn là nhân phẩm, học không phải để giúp đời mà khoe mẽ hơn đời, vì thế cái học từ Trung Quốc sang Việt Nam có rất nhiều méo mó. Như văn hào Lỗ Tấn


55

nhận xét rằng: “Trung Quốc chỉ có kẻ đọc sách mà không có người trí thức”. ở Việt Nam tình hình có lẽ cũng rưa rứa. Vì kiểu học như vậy, ngày xưa người Trung Quốc đã gọi nhiều kẻ có học là “hủ nho”, thậm chí “khuyển nho”. “Khuyển nho” tức những kẻ có học, xúm xít tập trung đến nhà quan lại, xin ăn, xin mặc, xin nhậu, sau đó sẵn sàng làm khuyển mã để trả ơn cho chủ, mà không dùng tri thức của mình sống cho tiếng gọi của lương tri và đạo lý. Sự việc, người như thánh Khổng Tử, lăn bánh xe từ nước này sang nước kia, xin làm quan là một chỉ dẫn rõ ràng. Ở Việt Nam, thì nhân dân, gọi những kẻ có học, mà không dùng chữ nghĩa để giúp đời là “Nho nhe”. Nghĩa là tập toẹ, học được vài chữ, rồi cao giọng uống rượu làm thơ, hay múa mang vài “thủ pháp”, nhưng khi hỏi đến bất cứ việc gì, cần một sự chỉ dẫn hay tham mưu, của ý tưởng hay lập trường, thì đám này ấp úng ngậm miệng ăn tiền. Người Việt cũng gọi bọn này là “nôm na mánh qué”. Nghĩa là học chẳng đến đầu đến đũa, chữ Hán không thạo, chữ Nôm không dám cải tiến hết mình, chữ Việt thì mới có khẩu ngôn, chưa thành chữ, ấy vậy mà đám này cứ nhốn nháo pha trộn, Tầu không ra Tầu, Ta chưa ra Ta, vậy là thành một lũ mách qué. Và người Việt cũng gọi đám này là “dở ông dở thằng”. Tại sao lại có tình trạng Nôm-Na dở ông dở thằng, vì ở phần trước, chúng ta đã tìm hiểu, chưa học được nhiều, kẻ sĩ của ta cứ loay hoay tìm chỗ ấm, chỗ quan to lộc hậu, chỗ quy ra tiền, vì thế chẳng thể nào tiến xa trong con đường tri thức. Học được vài chữ, cho dù có thuộc làu làu Tứ thư, Ngũ kinh, rồi ba năm đóng cửa đọc sách thì đã nhằm nhò gì! Vì người tri thức đích thực phải là: đam mê đọc sách cả đời, rồi chiêm nghiệm những vấn đề của sách, rồi theo đuổi hoài bão của sách cả đời còn chưa đủ. Đấy mới là trí thức nhà nghề, trí thức chuyên nghiệp, chứ không phải thứ trí thức học để lo đổi vài chữ còn tươi lấy “quan phẩm”. Chưa học đã lo khệnh khạng làm mấy câu thơ tứ tuyệt, rồi bẻn mép đối đáp vài câu đấu khẩu, rút cục chỉ trở thành một thứ trang sức nhỏ bé, hay lọ mọ đi viết sớ dâng thần miếu, thần cây ở nơi cúng bái. Giới tri thức đã có nạn dở ông - dở thằng đến vậy, hỏi các giới khác thì thế nào? Ở xứ ta, có tình trạng phổ biến rằng, có rất nhiều nhà thuê người ở, vậy mà cũng không xong. Đa số các cô gái từ quê lên tỉnh, thời gian vài tuần đầu còn chịu khó làm lụng việc nhà, việc bếp cho chủ, được ít lâu, các cô ra ngoài chơi, gặp cô, gặp chị, gặp em, rồi được nghe những “huyền thoại” nào là chỗ này tuyển nhân viên nữ, chỗ kia tuyển dụng người xinh “như em”, lương bổng cao, chỗ làm sang trọng, có cả những kỳ nghỉ mát ... Thế là được vài tháng, hay vài năm, các cô bán xới tìm một việc tốt hơn. Nhưng than ôi, con người như thế, trình độ như thế, có phải bỗng chốc sau mấy buổi được các cô, các chị truyền bá “huyền thoại nước đường” mà lớn lên đâu. Thế là có rất nhiều vụ, chị em bị lừa đem bán qua biên giới, hay tiếp thi “toàn thân” ở các nhà hàng. Khi ấy, nhiều người cứ bảo số chị em này do dại dột bị dụ dỗ lôi kéo. Nói thế là không đúng, vì những người bị lôi kéo đa số đã đến tuổi trưởng thành, nhưng mắc chứng tham vô lý “một chốc đổi đời” nên đành chuốc phải hậu quả cay đắng. Nhìn sang các nước khác, đặc biệt ở châu Âu chẳng hạn, người ta có thể làm người ở suốt đời cho chủ, thậm chí từ đời ông, qua đời cha, đến đời con. Đó không phải là hèn, mà là trình độ của ta ở đâu thì làm việc ở đó. Mấy cô người ở, mới chỉ biết giặt rũ, rửa bát, quét nhà, chưa đầu tư cho học hành gì, sao bỗng chốc có thể mơ tưởng vì sao đổi ngôi rơi vào số phận của mình. Việc này đủ thấy, chưa nói đến bậc thầy của các ngành cao viễn, mà ngay đến làm người ở thuần tuý, xứ ta cũng ít người làm nổi. Có không ít cô, làm người ở được vài tuần, sốt ruột đòi thay thế bà chủ, bằng cách mồi chài thân xác ông chủ đòi


56

hạ ván bài “sự đã rồi”. Có cô bị bà chủ mắng, còn mắng toẹt vào mặt bà chủ: “Này nhé, chưa biết mèo nào cắn mỉu nào, và chưa biết ai phải hầu ai đâu nhé?” còn có vụ, người ở nạy két ông chủ để cuốn gói, nhưng sự việc không thành bèn về quê lu loa với họ hàng, ông chủ cưỡng hiếp, rồi đòi bán mình đi. Hồi tôi làm việc ở một công ty nước ngoài. Có những anh tài xế thường đến chỗ tôi khoe, tuy các anh thấp cổ bé họng nhất công ty, nhưng hương lại cao nhất so với các đồng nghiệp đồng lương cùng làm việc cho công ty, bởi vì các anh có số tiền làm việc ngoài giờ, chở Tây đi chỗ nọ chỗ kia, nhận tiền thù lao ngoài giờ cao gấp đôi làm việc trong giờ hành chính. Nhưng khuôn mặt của mấy anh này lúc nào cũng xì xì, đặc biệt khi phải dừng xe, đi bộ vòng sang bên kia, mở cửa cho Tây lên xuống xe. Đấy, là tài xế lái xe, nhận lương cao hơn người, nhưng không thoải mái trong công việc của mình, không xác định được trình độ nghề nghiệp, địa vị của mình. Còn có kiểu khác cũng rất phổ biến. Có một anh Việt Kiều từ nước ngoài về thuê taxi cả ngày đi chỗ này chỗ nọ. Xe vừa dừng để khách vào thăm họ hàng, thì tài xế liền bảo: “Anh đi nhanh lên nhé, đừng để tôi đợi lâu!” Anh Việt Kiều liền quay lại xe nói với anh tài xế: “Tôi thuê bao xe của công ty anh cả ngày sao đến chỗ nào dừng lại, anh cũng giục tôi phải nhanh lên. Nếu anh không chở được thì cứ về đi, để tôi thuê xe khác”. Đấy không biết ta có nên đặt câu hỏi: “có địch vụ chở khách đi cũng không xong?” Câu hỏi này còn liên quan đến cả ngành du lịch và các ngành dịch vụ của ta hiện nay, tôi không muốn đi sâu vào chi tiết, nhưng được biết: còn rất nhiều yếu kém. Vẫn chuyện không thể chú tâm cho nghề, trước đây, hồi tôi còn đang công tác trong công sở, có một lái xe muốn xin nghỉ hưu non. Vì một lẽ, anh ta có tướng mạo khá oai, hồi đó quản lý một chiếc xe ô tô đã là quản lý một tài sản lớn, một nghề khá oai, khá nhiều người ao ước, thậm chí dân gian còn có một chuyện tiếu lâm rằng, cô dâu kia trong đêm tân hôn la thất thanh: “Thì ra nó lừa tôi, nó bảo với tôi nó là lái xe để dụ tôi cưới nó. Hoá ra nó chỉ là thứ tiến sĩ bàn giấy”, nhưng anh ta không chịu nổi vì lái xe dù có lên chức từ nhân viên đến tổ trưởng thì vẫn phải lái xe. Và chỉ trong có chưa đầy hai mươi năm công tác, anh đã phải phục vụ đến mấy đời thủ trưởng. Có cả người mới về được vài năm, khi về còn “gọi anh”, “xưng em” với anh rất lễ độ, mà giờ đã là thủ trưởng khuôn mặt còn non tơ. Và cứ thế, lần này rồi lần sau, các chú em cứ lên thủ trưởng, khiến anh phải phục vụ đón rước đi chỗ này chỗ kia, lòng tự nhủ lòng là “mất thớ”, “mất sĩ diện” quá, nên anh đành xin nghỉ hưu non. Thật là một thứ sĩ diện hão, việc ai người nấy làm, việc mình là lái xe, có công ăn việc làm, để nuôi sống bản thân và gia đình, thế mà cứ tự chuốc lấy “mặc cảm tự tôn hão”, để xin được mất việc làm, thế có buồn cười không? Vì làm từ việc nhỏ đến việc to nhiều người Việt không chịu chủ tâm, chú mục làm, nên ngay từ việc dễ làm cũng không xong. Chẳng hạn, tôi thường đi ăn cơm bụi, nhiều lần tôi thấy các cháu bưng canh ra, ngâm hẳn đầu ngón tay vào canh, lần sau tôi liền bảo “cho bát canh vơi” để ngón tay các cháu không chấm vào. Nhưng vài lần, tôi thấy các cháu bưng bát nước chấm ra, có tí nước chấm ở đáy bát, các cháu vẫn cứ cẩu thả bưng ra, kèm theo ngón tay chấm vào, thế là tôi không bao giờ có ý định yêu cầu “múc canh vơi nữa”. Trong khi phục vụ thì nhiều dịch vụ viên chẳng hề để mắt đến công việc, lý do không phải lơ đãng, mà là vừa làm vừa ra vẻ muốn sổ tung công việc dịch vụ này không xứng đáng với ta. Cho nên từ lau bàn, đến bưng thức ăn, hay rửa bát, họ đều làm quấy quá cẩu thả, đổ vỡ cả lên người khách. Đấy một việc dù nhỏ như việc phục vụ bàn hàng cơm bụi thôi nếu không chú tâm, lại kèm theo mặc cảm tự tôn, muốn ra vẻ ta phải làm thứ này, thứ nọ, thì việc bé cũng không xong.


57

Trước đây, người Việt có câu: “Tư tưởng không thông đeo bi đông không nổi”. Đấy, nếu chúng ta không tự biết mình, biết chức năng và công việc của mình, vừa làm việc lại vừa nuôi mặc cảm “dở ông - dở thằng”, “nôm na mách qué” thì không thể làm tốt bất cứ việc gì. Nếu không vươn lên, thì mãi mãi nhiều người Việt chỉ là thứ trải chiếu rách, hái quả xanh, uống cùng rượu nhạt, rồi tấm tắc tự tôn trong mặc cảm tự vuốt ve rằng: “chẳng ai sướng bằng ta!” Việc “làm thầy không nổi, làm tớ cũng chẳng xong”, không chỉ là câu nói hóm hỉnh cho vui, mà theo các điều tra xã hội, hiện nay có 8 người theo học đại học, thì mới có 2 người học nghề. Đúng là số muốn làm thầy gấp 4 lần, tức 400% số muốn làm thợ. Và những người làm thầy thì thế nào? Tuần qua, vô tuyến truyền hình đưa tin một cuộc hội thảo cao cấp của Bộ Giáo dục và Đào tạo, các giáo sư đầu ngành đã lên tiếng cảnh báo về: Tình trạng xuống cấp cả dạy lẫn học hiện nay. Giáo viên giỏi ít đi, phương pháp dạy thì thầy đọc học trò chép, dạy chay không giáo trình, học trò thì mải chơi, quay cóp bài vở. Và có ý kiến chính thức đưa ra. Tình trạng dạy và học đại học của ta hiện đang ở mức “học sinh cấp bốn”, chứ không phải từ cấp ba lên Đại học. Than ôi, như vậy, sinh viên có khác gì trẻ con nhiều tuổi. Học bài thầy, nhưng không đủ chữ, và lương tri của cư sử như bậc thầy, rồi không biết có phải “hủ nho” hay “khuyển nho đời mới” ? Hay chỉ là thứ thầy chưa tới, thợ không xong; dở quý ông trí thức - dở quý thằng cọc cạch quê mùa “nôm na mách qué”? Qua các cuộc tuyển mộ việc làm mới đây diễn ra công khai đại trà, thì thấy trình độ của sinh viên nước nhà còn rất “nho - nhe”. Như có chuyên gia nhận xét: Hầu hết mới chỉ qua đào tạo “Đại cương”, mà lối đại cương này ở ta thành ra “Đại khái”. 6. Ăn đói nằm co còn hơn ăn no vác nặng Biểu tượng cao nhất của hạnh phúc con người được gọi là: “Bữa tiệc đời”. Người Việt còn ai ủi những nười nghèo khó rằng: Sợ rằng không sống thì thôi Thể nào có lúc no xôi chán chè Bữa tiệc, là đỉnh cao tụ tập về mọi thoả mãn của cuộc sống, như: thịt cá ê hề, rượu tràn trề, tài tử giai nhân quần tụ, đàn hay hát ngọt, nhảy múa thâu đêm, tâm hồn bốc cao vời vợi... Trong tiệc bao giờ cũng có chủ và khách, ở đó “oai như chủ” và “quý như khách”. Nhưng chữ “tiệc” rất lạ với người Việt, chúng ta có thể ăn nhiều - uống lắm, chỉ là cách ăn cỗ bàn chứ không phải tiệc. Một bữa ăn muốn thành tiệc, thì không phải chỉ lớn về phạm vi mâm bát mà còn phải dài. Giống như bài hát có hay đến mấy, có đông người hát đến mấy, chỉ là “đoản ca”, muốn thành hợp xướng thì bài ca phải dài, phải có “chương - hồi” lên bổng xuống trầm, hay nói một cách quả quyết, một khoảng cách vài bước chân không thể nào hy vọng sẽ có vẻ hùng dũng của con đường phiêu lưu vạn dặm. Một lần, tôi đi dự cỗ cưới gặp một anh bạn mới đi Tây về, sau “bữa cơm thân mật”, ra đến cửa anh nói: Cả một đám cưới to nhường ấy, nhà hàng sang nhường vậy, mà chúng ta vừa chào mừng, vừa ăn, chưa đầy một giờ. Tất cả ào ào xếp vào bàn, ào ào rót, ào ào uống, và ào ào đứng


58

dậy. Tất cả chỉ thấy sự có mặt của dạ dầy, còn chẳng thấy những dấu hiệu đòi khát vọng của tâm hồn. Trong khi đó, người châu Âu thậm chí chỉ cần một cây đàn vi - ô - lông, hay ắc - cóc - đi ông, họ nhảy thâu đêm suốt sáng, hay lạc hậu cả như người thổ dân châu Phi, châu Mỹ, chỉ cần vài cái trống, thân xác họ nhảy múa như muốn vụt bay cùng với tâm hồn. Câu chuyện mới đến đó thôi, thì vài người nghe thấy, người nói nọ, người nói kia, đều thừa nhận. Khi tâm hồn thoả khát thì mới có tiệc. Còn chúng ta mới đang chỉ dừng ở mức thoả mãn vật phẩm cho dạ dày. Nhưng sự thoả mãn đó đã lớn chưa? Lớn nhất là cỗ bàn hiếu - hỉ, hay “đói quanh năm no ba ngày tết”, thì dạ dầy chúng ta có bao ngày được mãn nguyện? Người ta không thể có nhà cao cửa rộng, bữa ăn linh đình, nếu chỉ trông vào cơ sự “ăn đói nằm co”. Đó là lý do chính khiến chúng ta còn sống nghèo hèn. Để dễ hiểu, chúng ta hãy hình dung một hình thức sắm sửa bữa tiệc. Người phương Tây thường tổ chức một cuộc đi săn cho bữa tiệc. Sáng ra, những chủ và khách, và người ở, ngựa và chó, tập trung, rồi lao vào cánh rừng vừa rậm - vừa xa. Đó là tốp đi săn. Còn lại, tốp ở nhà vẫn lo giết thịt, nấu ăn, qua buổi trưa, mọi người đi săn trở về, người ta giết thịt những con thú vừa săn được, bổ xung cho thực phẩm đã dọn ở nhà, và rượu vang được bưng lên. Bữa tiệc bắt đầu. Nó bắt đầu không phải chỉ từ lúc ăn, mà từ lúc sáng khi mọi người hăm hở lao vào rừng, rồi săn, rồi hoạt động, rồi mệt nhọc, nói chung là tất cả tâm thế chuẩn bị cho một bữa tiệc đã được sửa soạn và chờ đón suốt cả ngày. Rồi hoàng hôn đến, bữa tiệc bắt đầu, nến được thắp lên, rượu được rót ra, người ta ăn uống, chuyện trò reo hò, rồi đàn hát dài như sự mong chờ. Điều đó nói lên cái gì? Nghĩa là, muốn có tiệc lớn, người ta phải: Sửa soạn lớn! Chờ đợi lớn! Và giầu có tâm hồn lớn để ăn tiệc. Triết gia Hegel vĩ đại còn nói thế này: “Một bữa ăn dù lớn bao nhiêu mà không có một diễn văn hay thì không thể trở thành bữa tiệc”. Diễn văn hay nghĩa là, ở đó có một nội dung lớn - một đề tài lớn được khai triển, và cùng lúc với thức ăn dồi dào cho thân xác, tâm hồn cũng được dự cuộc bằng “thực phẩm thiêng liêng” của mình, như thế mới thành bữa tiệc. Ngược lại, nếu chỉ có “ăn xó mó niêu, hoặc thiếu tâm cảm lớn để làm đồ ăn lớn, sẽ không thể nào thành tiệc! Tại sao người Việt lại có câu “Ăn đói nằm co còn hơn ăn no vác nặng”, nó bắt nguồn từ đâu? Nhiều người thường bảo: Người việt chịu khó, hay lam hay làm. Có một số người khác, trong đó có tôi lại nghĩ: người Việt chỉ lam lũ thôi, còn nói chung thì “khá lười biếng”. Tôi xin đưa ra lý do: Người việt có tả những kẻ lười nhác đến mức: “ruồi đậu mép không thèm đuổi”. Câu nói đó có thể ít người đồng tình. Nhưng câu nói sau thì rất chắc chắn, đó là: “Ngồi mát ăn bát vàng !” Trong khẩu ngữ của người Việt, rất hay kèm theo chữ “mát”, nào là “ở cho mát”, “ngồi cho mát”, “ăn cho mát”, “uống cho mát”, “mặc cho mát”... Xứ ta là xứ nóng, nên người Việt cũng có tệ bắt chước người Trung Hoa, để móng tay dài, tìm chỗ mát tránh nóng.. Theo địa lý và nhân chủng thì, người xứ lạnh, để chống lạnh vóc dáng cao to, mũi vừa to vừa dài để làm không khí ấm lên trước khi đi vào phổi, vì vậy tim phế nở nang, thân đã to,... nội tạng càng thêm khoẻ. Trái lại, người xứ nóng, thân hình nhỏ bé ít mỡ để cho mát, lại thêm ngại ăn uống những thức ăn có dinh dưỡng cao sợ nâng thân nhiệt, mũi tẹt vì cơ thể ưa loại không khí vào đến buồng phổi vẫn còn mát vì thế nội tạng kém phát triển nở nang... nên dễ thành vai xuôi, ngực lép. Lại thêm, không khí nóng ẩm, dễ ra mồ hôi, nên thường rất ngại làm việc tay chân. Đây là một đặc điểm rất căn bản khiến người châu Phi và châu á thường mắc chứng lười nhác.


59

Trong một bộ phim tài liệu làm về du lịch của một nước châu Phi phát trên truyền hình, người châu Âu đã nói về dân bản xứ thế này: Đàn ông ở đấy chẳng làm gì khác hơn, là ngồi vật vờ nấp trong hiên nhà nhìn khách bộ hành qua lại. Nhưng họ đặc biệt nhanh nhẹn lạ thường khi thấy một khách du lịch đi qua, với họ thì khách du lịch không phải là người, mà là những chiếc ví biết đi, và họ lao ra để tìm cách săn những chiếc ví đó. Vì ngại ra mồ hôi, và thích tìm chỗ mát, nên phải nói, năng xuất lao động ở xứ ta khá thấp, đặc biệt có một tâm lý “lãn công” thâm căn cố đế ăn sâu từ trong lịch sử, những muốn tìm việc gì trong nhà, hoặc trốn trong nhà để tránh nắng, tránh mưa. Vì vậy, không ít người học xong trường này, trường nọ, nghe có vẻ quan trọng lắm, nhưng mục đích ra trường chỉ là kiếm một chỗ nào “ngồi cho mát” vào mùa hạ, và “ngồi cho ấm” vào mùa đông. Tay nghề, hoặc chuyên môn chẳng cần tiến triển, miễn sao có một chỗ “trú ẩn” và một khoản lương khi về hưu. Đây là một căn bệnh có tính chất truyền kiếp của lịch sử, chúng ta hãy nên đối mặt với nó, nào “học để làm quan”, nào “một người làm quan cả họ được nhờ”, nào “ngồi mát ăn bát vàng”, để: Mưa không đến mặt Nắng không đến đầu Một tâm cảm, và một lao động như vậy, làm sao có thể mong dự những bữa tiệc thịt đắp như núi, rượu chẩy như suối, và tâm hồn thoả sức đập cánh trong lời hay ý đẹp, đàn nhạc ca vang? Và tâm cảm đó còn dẫn đến tệ “ấm chỗ ngồi” thì “ngồi lỳ” chẳng muốn đứng lên. Sự ỉ lại vào văn phòng, và hành lang rợp bóng mát của nhà nước đã trở thành một căn bệnh thụ động trầm kha của nhiều công chức cạo bàn giấy, điều đó lý giải tại sao những cuộc cải cách biên chế lại khó thực hiện đến vậy! Làm sao để những con thỏ đế nhút nhát, yếu ớt, chưa hề biết tự tin cũng như đánh giá về bản thân mình, rời bỏ cái hang đầy ô che và bóng mát? 7. Ăn nhanh, đi chậm, đái đường, hôn bụi dậm Đây là câu ca dao hiện đại của người Việt, không chỉ nói đến hiện tượng xấu, mà còn lột tả tư duy, cách sống ngược đời của người Việt. 1. Ăn thì cần chậm! Vì “ăn chậm nhai kỹ, no lâu”, thì người Việt lại ăn nhanh. Bởi lẽ, mùa hè nóng nực, ăn mà còn toát cả mồ hôi, lại thêm cơm nóng canh nóng, nên ăn cũng ngại. Hơn nữa thức ăn nghèo nên ăn quấy quả cho xong bữa. Còn một lý do nữa khi đi làm chung với nhau, “lính tráng có xuất”, không ăn nhanh sợ mất phần. 2. Đi thì cần nhanh! Vì đi là biểu hiện của hoạt động và mục đích, cần tới chỗ này, cần đến chỗ kia. Nhưng như ở phần trên đã nói, tư chất “lãn công” làm lãi của người Việt rất phổ biến, vì thế muốn đi chậm dề để dưỡng sức. Thêm nữa người có tư duy thế nào bước đi thế ấy. Người nghĩ xa, nhìn xa, bước đi tự nhiên khoan thai, sải dài. Người nghĩ ngắn, nhìn gần, loay hoay tủn mủn, thì bước chân không thể nào quảng khoát được. Đi cũng là nhịp điệu thể hiện trình độ về tốc độ của một thời đại. Người có tư duy thuộc nền công nghiệp máy móc đi nhanh, hoạt động nhanh. Trái lại, xã hội ta mới đang ở mức xấp xỉ 80% là nông dân sống kiểu “nông nhàn”, vì vậy tốc độ đi còn rất chậm, tốc độ sống còn rất dề dà. Người Việt có một câu nói đùa bằng lòng với tốc độ sống của mình rằng: đi chậm cũng nhanh hơn xe bò, đi nhanh cũng chẳng thể kịp ô tô, vậy thì


60

đường ta, ta cứ yên chí mà đi. Nói đến tốc độ, chúng ta đừng nên hiểu lầm, một số kẻ phóng xe bạt mạng ngoài đường là đã vượt qua tốc độ của xã hội công nghiệp. Đó chỉ là những kẻ mắc mặc cảm tự ti, muốn ta đây, phóng xe để trộ người... Đa số họ, đi nhanh nhưng chẳng biết đi đâu, nên phóng bạt mạng đến nơi nào đó, nhìn ngó một tẹo, không biết làm gì lại phóng đi. Người Trung Hoa cho rằng: “Kẻ không ngồi ấm chỗ chỉ là hạng lăng xăng, thằng hầu, con ở”. Phần lớn số này, tài cán chẳng có gì nhiều hơn ngoài đi xe, nên cứ ra oai hết phóng đi rồi lại phóng về. 3. Đái đường, thì khỏi bàn nó xấu thế nào, đó là cách tuỳ tiện, thấy khát thì uống, thấy buồn thì tè chỗ nào cũng được. Cái cảnh người Việt đái đường thì thật hết chỗ tả. Có khi xe đổ ở ngã tư, đèn xanh, đèn đỏ, giữa ban ngày ban mặt, một anh dừng xe máy phía sau, chạy lên chiếc xe tải đổ phía trước, ưỡn người vào lốp xe, tè một bãi cứ như không. Anh ta làm việc đó hiển nhiên như thể là, đã có uống ở đầu vào thì phải có xả tất yếu ở đầu ra. Người làm việc ấy, do trình độ thấp đã đành, cách đây ít năm, tôi và mấy người học cùng trường đi dạo ra hồ Thuyền Quang, mấy chàng đã tốt nghiệp đại học hẳn hoi, cơ quan gần đó, nghĩa là không thể bí chỗ đi tiểu, vậy mà họ hồn nhiên đứng dàn hàng ngang tè ngay xuống hồ, vô tư như những chú bé con, còn chưa được mẹ dặn dò chỉ bảo. Đái bậy, thực ra là một vấn đề tồn đọng rất quan trọng của văn hoá, không những thế nó còn mang một tầm vóc lý thuyết rất lớn. Có nhiều lần, tôi gặp mặt cả những kiến trúc sư, các nhà xây dựng, và các nhà văn hoá, mọi người đều cho rằng: Lối sống của người Việt đã và còn đang mang nặng sự chú tâm cho Đầu vào, như ăn gì, uống gì, mà chưa chú tâm vào Đầu ra. ở nhiều nơi công cộng, chúng ta ghi “cấm phóng uế bừa bãi”, nhưng lại không có chỗ để người ta phóng uế. ở Tây chẳng hạn, người ta thường kiểm tra chế độ vệ sinh “đầu ra” của một nhà hàng, nếu chủ quán định mở bao nhiêu bàn ăn, thì nhà vệ sinh (toa - lét) phải đáp ứng ngang bằng. Đằng này, ở ta có khi các quán bia đông cả vài trăm người uống, vậy mà chỗ đi vệ sinh có khi chỉ giành riêng cho một vài người. Có nhiều quán bia, mời người ta ăn thùng uống vại, nhưng cái khoản đầu ra, thì mặc kệ, ông muốn giải quyết kiều nào cũng được. Tệ nạn này, thể hiện cả trình độ sống từ trong căn rễ của người Việt. Trước đây người Việt vẫn quan niệm “ăn hết nhiều, ở hết mấy”. Nghĩa là, người ta chỉ coi trọng ăn - uống, còn điều kiện ở thì chỉ lo chỗ nằm, chỗ ngồi, chỗ hóng mát, mà ít khi lo đến cái khoản đầu ra. ở các thành phố, thì ôi thôi, nhiều khu nhà cả chục hộ, cả dăm chục người chung nhau cái nhà vệ sinh tối tăm bẩn thỉu “có đường vào, mà đường ra thì quần áo sặc mùi hôi thối”. Còn ở các vùng quê, nhiều nơi vẫn còn “hát” bài “Nhất quận công, nhì ỉa đồng”. Có những làng mạc dọc theo bãi biển, có khi cả xóm, không nhà nào làm chỗ vệ sinh tất cả đều “tình tang” đi ra bãi biển biểu diễn màn “ngồi xổm, vừa thả bom, vừa ném tờ rơi, nước lên đến đâu, “nhảy” lên đến đấy. Hiện nay, tình hình và tâm lý cũng đã cải thiện nhiều. Rất nhiều người đã nghĩ, đầu ra có thể ít vật chất hơn đầu vào, nhưng lại nhiều “khả thi” văn hoá hơn. Người ta có thể ăn ở chỗ đông người, uống ở chỗ đông người, nhưng không thể bạ đâu tè đấy, hay phóng uế ở chỗ đông người. Vả lại, thành phố bây giờ đã phát triển nuốt mất nhiều cánh đồng của miền quê, không thể còn khư khư nghĩ cách “nhất quận công, nhì ỉa đồng” nữa.


61

Như vậy, “đái bậy” vừa là vấn đề văn hoá, vừa là tồn đọng văn hoá, cũng là trình độ “văn hoá đầu ra”. Xin tất cả chúng ta hãy lưu ý cho, từ người kiến thiết xây dựng thành phố, đến người xây chợ búa, cửa hàng, và cả những khu nhà ở. 4. Hôn bụi rậm. Nụ hôn thì ở đâu cũng đẹp, dù giữa ban ngày hay trong đêm tối. Nhưng điều quan trọng là ở chỗ nó phản ánh, cái xấu như “đái bậy”mà người Việt vẫn làm thản nhiên như không - sự thản nhiên đó cũng là tự nhiên - và cũng là bản năng. Người có giáo dục cũng như văn hoá là phải thoát xa bản năng, nhưng tâm lý của nhiều người Việt vẫn là “làm theo bản năng” thì thấy tự nhiên, tiện lợi. Chẳng cần đặt câu hỏi việc đó có hợp văn hoá không. Trái lại, hôn là biểu hiện tình cảm cao quý của con người, nghĩa là từ tự nhiên đã bước lên “nhân tạo”, thì người ta lại phải vừa gượng gạo, vừa kín đáo. Như vậy chúng ta chưa quen tạo ra những “văn hoá nhân tạo” - cũng là giá trị nhân văn, mà còn đang loay hoay sống rất gần với bản năng tự nhiên. 8. Ăn xó mó niêu Trong sự giáo dục và văn hoá của mọi con người và mọi dân tộc “cái ăn”, cũng như “cái tình” là quan trọng nhất, bởi lẽ cả hai cái đều thuộc dục vọng ở cơ quan nằm thấp nhất cơ thể. Ăn thuộc miệng. Miệng nằm thấp nhất trên khuôn mặt. Tình ái thuộc thận - bộ phận nội tạng nằm thấp nhất cơ thể. Tuy vậy, cái ăn thuộc đầu vào, lại ở trên đầu thuộc thượng tầng kiến trúc, nơi nhiều lúc quan trọng hơn hẳn “cái tình”. Bởi lẽ, cái ăn bày ra trước mắt mọi người, đòi hỏi văn hoá cộng đồng, trong khi đó “cái tình” như thế nào là chuyện kín ở trong màn the, thế này hay thế nọ, phụ thuộc vào đôi tình nhân, nhiều hơn là văn hoá cộng đồng. Nết ăn, cũng như mọi dục vọng thể hiện trên miệng là cách tố cáo một con người nhiều nhất, là “sang” hay “hèn”. Người Việt có câu: Miệng kẻ sang có gang có thép Đồ kẻ khó vừa nhọ vừa thâm Và người Việt cũng nói: “Một miếng giữa làng bằng một sàng só bếp”, nghĩa là ăn ở giữa làng, là người được mời ăn theo địa vị và lý do cách công khai. Ăn như vậy là ăn đàng hoàng, quang minh, chính đại, miếng ăn có cả ý nghĩa xã hội. Trái lại người Việt cũng chỉ ra cách “ăn xó mó niêu” là cách ăn của những con ở, hay kiểu “ăn từ trong bếp ăn ra” là kiểu ăn vụng của đầu bếp. Người phương Tây rất trú trọng đến việc giáo dục ăn uống. Như khi đến nhà ai, mình phải đến đúng giờ, chờ chủ nhà chỉ chỗ ngồi của mình, rồi cụng chén, thắt khăn ăn, tay phải cầm dao, tay trái cầm dĩa, ăn đến đâu cắt ra đến đấy, chứ không cắt liền một lúc cho tiện. Vậy mà người Việt thì sao, một cách chính thức, thì mạnh nhà nào, nhà ấy dạy theo cách cung cách riêng, không có một quy củ nào mang tính đại chúng cả. Kìa xem, nhiều cô cậu sinh viên hẳn hoi đứng ở cửa hàng cơm bụi, vừa gọi thức ăn vừa đưa tay nhón một miếng dưa hay một con cá nhỏ cho vào miệng. Thật chẳng có quy củ văn hoá gì cả. Người ta bảo: “ăn từ trong bếp ăn ra” đã xấu, đằng này giữa nơi phố đông, trước mắt mọi người, diễn ngay cảnh “ăn từ nhà ra phố” thì còn xuống cấp cỡ nào.


62

Rồi khi vào ăn, có nhiều chàng ngồi xổm cả lên ghế. Dân Việt là dân tộc ăn đũa, ai chẳng biết vậy, nhưng các chàng lại dùng thìa xúc cơm, dùng đũa gắp, như đang ăn một bát phở vậy. Nhiều người Việt khi ăn có những tật xấu sau: cầm đũa nói chuyện, múa cả đũa vào mặt người khác, vừa cầm đũa vừa cầm muôi cùng một tay - để múc canh thế là kềnh càng ra khắp cả mâm, khi ăn chấm nước mắm không hứng bát vãi lung tung, rồi có người sau khi chấm đồ vào nước mắm, sợ rỏ lung tung lại chấm ngược lại vào các thức ăn khác (việc này rất quan trọng, vì khi ăn, người Việt thường dùng chung các đĩa thức ăn, đồ chấm, không như người Tây, mỗi người ăn riêng một đĩa) khiến người ăn chung mâm thấy mất ngon. Có một lần tôi đi ăn ở một khách sạn sang trọng, có một vài người Việt, học vấn đã qua đại học hẳn hoi, cổ thắt cà vạt, vậy mà khi ăn, mấy anh này cứ ném xương xuống gầm bàn. Trong khi đó, ở khách san đã trải khăn bàn cho ta cứ việc bỏ các thứ lên bàn, khi dọn họ cuốn khăn đi là xong. Nhiều người Việt có tật, xấu hổ trước cả những gì mình nhè ra, họ vất xương xuống gầm bàn như thể họ chưa từng ăn, hoặc là để xương sang chỗ người khác với lý do “để một chỗ cho tiện, cho sạch”. Thật buồn cười, đến cái xương mình nhè ra cũng phải lấy cớ dồn sang người khác. Về việc này đã có một chuyện vui rằng: Khi đi ăn cỗ, một ông cứ để hết xương của mình sang trước mặt một người khác. Đến cuối bữa ăn ông ta còn bảo: - Bác ăn tham thật, cả một đống xương lù lù trước mặt! - Ông kia liền bảo: Tôi làm sao mà ăn tham bằng bác. Tôi ăn còn nhè xương, đằng này bác ăn nuốt chửng cả xương. - Ông kia liền há mồm xấu hổ, cả về sự tham ăm của mình. Hơn cả thế là một tâm lý hèn kém trong khi ăn. Ăn vứt xuống gầm bàn ở khắp nơi dường như là một đặc tính của người Việt. Không chỉ các quán ăn trong nước, theo nhiều bài báo được biết, để nhận ra các quán ăn của người Việt ở nước ngoài, rất dễ, vì người ta vứt giấy tóe tung trên sàn nhà. Thật là một nghịch lý, ở phần “đi đất” chúng ta đã bàn, người Việt tiếc nền nhà đến độ lau sạch như giường để bước chân trần vào, trong khi đó đến những nơi không phải nhà mình thì thoải mái xả rác xuống. Trái lại người phương Tây chẳng coi nền nhà là gì, vậy mà ở bất cứ đâu họ cũng chẳng đang tâm vứt rác xuống nền nhà. Trong một bộ phim của Trung Quốc có giáo dục về văn hoá ăn uống như sau. Cô gái Trung Quốc kia lấy chồng Tây, khi ăn cô cứ húp soàn soạt, chép miệng liên hồi, anh chồng Tây liền bảo: “Em ăn phải có giáo dục chứ, không được vừa ăn vừa múa đũa bát như thế, cũng không được húp soàn soạt như vậy”. Người Việt khi ăn các món canh, hay phở, có nhiều người cũng vô ý tứ húp soàn soạt làm mất ngon cả những người ở xung quanh, thậm chí khi uống nước còn chép miệng, suýt xoa ra vẻ ta đang uống ngon lắm. Một lần tôi gặp lại cô bạn cũ, rất thân, hồi nhỏ học dưới tôi một lớp. Lớn lên, cô đã đi học cả ở Đông Âu, lẫn ở Tây Âu, vậy mà tôi rất ngạc nhiên, khi vào tiệm ăn cô không biết cầm dao và dĩa, kỳ lạ hơn chưa phải vậy, mà là cách ăn của cô chẳng hơn những người ít học bao nhiêu. Vì là chỗ rất thân tình nên tôi hỏi cô: “Tại sao em lại ăn uống như vậy?”


63

Thì được cô ta dấm dứt, cắn cảu trả lời: “Ăn uống phải thoải mái mới sướng, việc gì anh cứ phải muốn ăn thế này, muốn ăn thế kia!” Thì ra vậy! ở trên chúng ta đã xem người Trung Quốc làm phim dạy dân tộc họ “Ăn phải có giáo dục!”. Giáo dục và văn hoá là những thói quen được tập thành, như triết gia Nietzsche đã nói: “Vẻ đẹp của một cá nhân cũng như một dân tộc phải vất vả lắm mới thu đắc được”. Vậy mà người có giáo dục lại bảo “ăn phải thoải mái mới thấy sướng‟, vậy có khác gì chưa được tập thành, chưa khép mình vào các chuẩn mực văn hoá, mới chỉ ở mức “ăn tự nhiên”. Thảo nào mà cô bạn tôi dù đã học nước ngoài nước trong đủ cả, vẫn ăn uống chẳng khác mấy thời trẻ con. Vì một lẽ, cô không định khép mình vào văn hoá, mà chủ định ăn thoải mái cho sướng. Ăn uống rất hệ trọng, người Việt bảo “Miếng ăn là miếng nhục”. Nhục khi ăn không chỉ là lý do ăn, mà nếu không biết ăn có văn hoá, miếng ăn cũng trở thành nặng nề ô trọc. Như trên, đã trình bày, việc ăn uống thể hiện dục vọng của người ta “sang trọng” hay “hèn kém”. Vậy để kết thúc phần này, tôi xin đưa ra vài điểm chính đã từng hấp thụ được: - Không húp soàn soạt thành tiếng khi ăn. - Không cần đũa ăn nói chuyện, múa trước mặt mọi người như đũa của nhạc trưởng. Mà hãy đặt đũa xuống để vung tay trình bày cho duyên dáng. - Không vừa cầm đũa vừa cầm muôi múc canh. Hãy đặt đũa xuống, cầm lấy muôi. - Khi chấm nước mắm, nhớ hứng bát ăn, chớ để rây rớt lung tung. Cũng không sau khi chấm, lại chấm ngược lại đĩa rau cho khỏi rớt. - Không vứt xương xuống gầm bàn. Hãy để nó lên trước mặt mình một cách đoàng hoàng. Mình còn xấu hổ trước cái mà mình nhè ra, thì việc lớn làm sao giữ cho khỏi mắc vào xấu hổ? - Người Pháp nói: “văn hoá là hãy học theo người khác”. Đi bất cứ đâu, người ta có thể ăn thìa dĩa, hay muôi, hay bốc tay... Dù thế nào, bạn chớ vội vàng, hãy từ từ nhìn theo cách làm của họ, sẽ không bị hớ. Và nên nhớ một điều: Bữa ăn là thân mật nhất! sung sướng nhất! Nhưng cũng cần phải cẩn trọng nhất vì đó là tấm gương trực tiếp phản ánh dục vọng của con người. Còn một điều nữa cần nói về bữa ăn. Một bữa ăn ngon, như thi sĩ Tản Đà nói cần ba điều: 1. Thức ăn ngon. 2. Chỗ ngồi ngon. 3. Người ăn cùng ngon. “Người ăn cùng ngon” để ta còn nói chuyện, chia sẻ tâm tình, lúc đó dạ dầy được ăn và tâm hồn cũng được ăn. Như triết gia Hegel nói: “Một bữa tiệc thực sự luôn phải có một diễn văn hay”. Khi ăn, mà nói chuyện, nghĩa là miếng ăn cho dạ dầy chưa phải là tất cả, mà ngoài ra, còn có thêm nội dung sinh hoạt của tâm hồn. Vì thế, khi ăn, có những người sợ đối thoại, trao đổi, hay


64

định “ngậm miệng ăn nhiều”, liền bảo “thôi im đi mà ăn, vừa nói vừa ăn mất vệ sinh”, là không chính đáng. Khi con người ăn cùng với con người, thì mục đích không phải là “vệ sinh”, cũng không phải nhét đầy dạ dầy, mà là cộng tồn nhân loại. 9. Ăn vặt, khôn vặt, dâm vặt, gian vặt Nặng nhất trong những thứ trên là “gian vặt”, thực ra tôi muốn chỉ thẳng ra là “ăn cắp vặt”. Điều này có dễ làm, chúng ta bị tổn thương không? Nếu chúng ta không nhìn thẳng vào căn bệnh này thì hậu quả sẽ rất trầm trọng. Thời gian gần đây vô tuyến truyền hình có phát đi những vụ việc thật đau lòng, mấy gia đình kia, đã từng bị đánh trộm cá dưới ao, mất vài cây mía trong vườn, liền chăng dây điện trần quanh ao và vườn. Kết cục đã giết chết mấy đứa trẻ con hàng xóm, sự việc xảy ra thật là thê thảm. Trước kia còn có cả vài vụ ngộ độc dưa lê, chỉ vì bà con trồng dưa bôi phân đạm lên vỏ dưa để đề phòng hái trộm, rồi họ lại hái dưa đem bán, gây ngộ độc cho nhiều người, nạn lấy của người nhiều nơi nhiều chỗ nở rộ đến mức trong dân gian còn có câu “tích cực cầm nhầm hạn chế bỏ quên”. Nhưng “ăn cắp vặt” là một việc thao tác cụ thể, còn “gian vặt” thì nhẹ hơn, nhưng cũng rộng hơn, và phổ biến hơn. Chúng ta hãy cùng nhìn nhận. 1. Ăn vặt: Vì cảnh đói ăn xảy ra thường xuyên, đặc biệt là vào những vụ giáp hạt tháng ba ngày tám, nên nhiều người Việt có thói quen trốn bữa, và ăn quà bù. Trước kia nhiều lần, tôi đi xe buýt đường trường, hay tầu hỏa, và cũng đã “ăn quà trừ bữa” nên hiểu rất rõ điều này. Khi đã nhịn ăn một bữa, hoặc là ăn chưa no bụng, thì người ta có ăn bao nhiêu bữa quà vặt cũng không xuể. Khi xe đỗ lại, chỗ thì người ta mang vài bắp ngô luộc, chỗ thì mua một chiếc bánh đa, chỗ lại mua chiếc bánh chưng nhỏ hay vài củ sắn, nhưng càng ăn quà càng thấy đói, càng đói lại càng phải ăn. Một lần tôi đi tầu hoả, qua khỏi vùng Thanh Hoá, thấy ai cũng bảo: “Ăn cùi dừa với bánh đa thì ngon lắm!” Thế là tôi cũng mua bánh đa với dừa, ăn giống nhiều người. Thấy cũng bình thường thôi, nhưng trước đó thấy mọi người xuýt xoa dữ lắm. Thực ra, ăn quà vặt chẳng có gì xấu. Nhưng nêu lên để thấy hệ quả tất yếu rằng, khi hay ăn vặt, nhưng vẫn chưa nạp đủ năng lượng, nên nhiều người Việt mắc phải những thói quen vặt vãnh khác như khôn vặt, dâm vặt, và gian vặt. Một lần, tôi có nói người Việt hay có thói quen ăn quà vặt, kể cả khi không thấy đói. Liền có vài anh cãi lại. Các anh này cho rằng, mẹ của mình, đêm đêm ra phố ăn quà, để cho vui, chứ không phải để cho no. Tôi liền bảo: “chính là các anh đang nói cùng ý kiến với tôi đấy thôi”. Họ liền ngớ người ra. 2. Dâm vặt: Đây là chuyện phòng the của mỗi người, tôi không muốn tọc mạch nhiều, nhưng cũng xin nêu rằng, khi đã ăn vặt thì sức lực cũng chỉ có cách vặt vãnh, nên nhiều người Việt cũng mắc thói dâm vặt. Điều này thể hiện rằng, việc ái tình là với bạn tình, ở trong màn the, nhưng nhiều người đi đâu, bạ lúc nào cũng nói về việc “háo sắc”. Như vậy, bắt tất cả mọi thứ quan tâm khác của con người như tri thức, công lý, sự nghiệp, giáo dục, văn chương, nghệ thuật, phải đóng thuế cho chủ đề háo sắc. Rõ ràng hơn, là ở nhiều nơi, nhan nhản trên đường, trên cột điện (trước kia có cả trên báo chí thời Nguỵ quyền), đăng quảng cáo về việc chữa “xuất tinh sớm” hay “kéo dài hoan lạc”. Việc “dâm vặt” của ta, không phải chỉ chúng ta biết với nhau, mà các chuyên gia nước ngoài nói về dân châu Phi và châu á thế này: Đó là những vùng người ta hay ngâm bộ phận sinh dục của các con vật vào trong rượu để uống. Và người ta đánh giá, đàn ông châu Phi, do sinh dục nhiều,


65

đẻ lắm, nên hầu như không biết đến tuổi trung niên, bởi lẽ ở tuổi này, đa số đã chào vĩnh biệt. Còn người Việt cũng tự biết. Đa thuỷ hại thân Đa dâm hại thận Người Việt cũng có rất nhiều món ăn như “ngẩu pín”, rượu cà dê, rượu tiết dê... cũng là một bằng cớ cho thấy chúng ta khá mặc cảm trong lĩnh vực “dâm vặt” của tình dục. Việc này, nêu lên không phải để chỉ trích, mà để chúng ta cùng ngẫm một cách hệ thống về cách sống của người Việt. 3. Khôn vặt: Điều này thì thể hiện muôn hình vạn trạng, trong từng cử chỉ, lời nói, việc làm, người Việt thường trực duy trì cách khôn vặt, chẳng hạn như “Ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau”, hay “nằm giữa không mất phần chăn”, hay “đục nước béo cò”, hoặc “nhờ gió bẻ măng”, và “giậu đổ bìm leo”. 4. Gian vặt: Tình trạng gian vặt khá đại trà, như ở trang trước đã trình bày, có khi gây lên những vụ án mạng rất thương tâm. Nhiều lần tôi đi đường gặp cảnh thế này, một cô gái nhà quê đèo mẹt cam đi bán, xe cô đổ, cam bắn toé tung xuống đường, vậy mà những người đi qua chẳng giúp còn vừa đi xe đạp vừa cúi xuống lượm mấy quả cam, rồi phóng mất. Đáng tiếc thay, làm việc đó có cả những quý ông trông rất bảnh bao. Không hiểu cô gái quê kia khi đó nghĩ gì về tình người, cũng như quê hương giống nòi? Hay nhiều lần khác, tôi thấy, người phóng xe máy phía trước chỉ cần bị bay mũ, người phóng xe máy phía sau đã thò chân kều cái mũ trên mặt đường và phóng đi như thể ta chỉ lượm một chiếc lá rơi. Một lần, tôi gặp một đôi trai thanh gái lịch mặc rất lịch thiệp, chàng phóng xe bừa bãi, ngoặc phải một người chạy cùng chiều. Chàng liền quay đầu xe lại, tôi nghĩ “anh chàng thật tử tế, chạm vào người ta còn biết quay lại xin lỗi”, nhưng hoá ra không phải, vì chiếc ba lô của cô bạn anh ta ngoắc phải ghi đông của chiếc xe kia, nên anh chàng đành quay xe lại. Đấy cũng là một cách gian, bởi vì người ta định đánh bài lờ trước một bổn phận của mình. Một lần khác, tôi thấy và rất ái ngại cho một anh chàng, ăn mặc com-lê, phóng xe đời mới trông rất chỉnh chu, và anh ta quệt phải một cô nhà quê đèo mẹt trứng tươi đem đi bán, than ôi, trứng đổ tung toé, còn anh chàng trông khá bảnh chọe kia phóng xe chạy thẳng. Thật là đáng thương! không phải cho cô gái quê. Mà cho kẻ trông rất giầu có kia đã nuốt mất của cô gái mấy chục nghìn tiền đền. Nạn gian vặt hoành hành đến nỗi, ở nhiều thành phố lớn giờ đây, người ta thường thấy cảnh những chú mèo bị buộc dây trói lên cổ, xích vào chân bàn, chân ghế, vì chỉ cần các chú bị xểnh ra một chốc thôi, sẽ bị câu ngay. Cả chó cũng vậy, chủ nhân phải xích các chú trong nhà, nếu để chúng ra ngoài sẽ bị câu làm món “cầy tơ bảy món” ngay. Nạn gian vặt còn phát triển ngay trong giới chữ nghĩa. Có nhiều người có học, nhà văn, nhà thơ hẳn hoi, mà họ ngang nhiên nói thế này: “Có cuốn sách quý mà cho mượn đã ngu, còn ngu hơn mượn được cuốn sách quý còn đem trả lại”. Thật là chẳng có chút cơ sở nào cho liêm sỉ. Cuốn sách dù quý đến bao nhiêu mặc lòng, làm sao quý bằng nhân cách của con người. Có mượn thì phải có trả. Tại sao lại đánh bài lờ, để huỷ hoại bổn phận của nhân cách? Tình trạng gian vặt còn lan tràn trong giới học thuật đến mức, các sinh viên thì đua nhau coi cóp bài thi, còn không ít


66

giáo viên lo đánh lộ đề thi để kiếm chác. Sự việc này rất nghiêm trọng, trong những năm qua, nhiều lần đề thi bị lộ. Thử hỏi ở đâu lộ ra? Nếu không phải từ tay chính các thầy, các cô? Có lần, vài nhà văn, mấy nhà thơ ngồi với nhau, một nhà văn kia liền khoe anh ta có rất nhiều bật lửa đẹp, vì đi đâu thấy bật lửa của người khác đẹp, anh liền bỏ túi... Thật là hết chỗ nói! Nạn đạo văn cũng lây lan mạnh, thôi thì đếm kỹ ra, các nhà văn nhà thơ xứ ta, nhiều người thuổng gần như y nguyên cả một truyện ngắn, một bài thơ của xứ người, cũng như thuổng lẫn của nhau. Có nhà phê bình kia, ra được cuốn sách, liền bị tố giác, anh ta thuổng y nguyên cả một chương nói về một nhà thơ thời “thơ mới” của một tác giả khác. Nhiều bài báo đã “chỉ tận tay day tận trán” anh ta thuổng ở chỗ nào. Vậy mà khi tái bản cuốn sách của mình đến lần hai, lần ba, anh ta vẫn cứ để nguyên chương đó theo kiểu “đã rồi” - lâu quá của người - sẽ hoá của ta. Tình trạng “gian có chủ đích” ở giới học thuật đã thế, còn trong dân gian thì khỏi phải bàn. Chúng ta đã từng nghe, có những vụ tháo cốp xe ngay trên đường phố, ngay cả khi chủ nhân của chiếc xe vẫn ngồi trên xe, chỉ mới hãm xe chạy chậm lại ở chỗ đông người. Cách đây vài ngày, khi dừng xe trước một ngã tư, tôi cùng nhiều người đều thấy, một thanh niên làm nghề thợ máy băng qua đường, và anh ta thản nhiên cúi xuống, tháo chiếc lắp xăng của một chiếc xe tải loại vừa. Thật là trơ tráo không chỉ ở hành động đó! Mà tôi cũng thấy mình trơ tráo cùng với mọi người xung quanh, chúng ta vừa nhát, vừa quen với hành động đó đến độ, giữa ban ngày ban mặt, người ta có thể lấy cắp trước mặt mọi người mà biết là mình sẽ chẳng việc gì! Đã “gian” thì chẳng ai thích, vì nó huỷ hoại sự trong lành của đời sống. Người Việt đã trào phúng cái gian khá tràn lan của mình bằng kiểu phân tích kýt tự: “dân gian” nghĩa là, đã là “dân” thì phải “gian”. Mong rằng đó chỉ là lối nói hóm hỉnh để phản tỉnh chúng ra, chứ không phải là cách nói biện hộ cho những người chủ ý ăn gian. 10. Phép vua thua lệ làng Chúng ta đã bàn về cái xấu của người Việt, qua ngồi xổm, đi đất, mặc quần áo ngủ ra đường, đó là những cái xấu về hiện tượng bên ngoài. Và cũng bàn sâu vào những thói xấu bên trong như: “văn hay chữ tốt không bằng ngu dốt lắm tiền”, hay “dở ông dở thằng”. Nhưng đến đây chúng ta đang bàn đến cái xấu cao hơn của nội dung tinh thần đó là tính công lý, tính cộng đồng. Người Việt nói: “Phép vua thua lệ làng”. “Phép vua” là biểu hiện cho tinh thần pháp luật của quốc gia, bao gồm các trạng nguyên - những người có học cao nhất, rồi các quan lại trong triều là những người được tuyển chọn từ các trạng nguyên, cùng vua lập ra, vậy mà thua cả “lệ làng” được chăng hay chớ, do con người cũng như điều kiện thổ nhưỡng và hoàn cảnh xã hội ở làng tạo nên. Vì thói “luật pháp làng” án ngữ bắt rễ thâm căn cố đế từ trong lịch sử, nên từ cổ chí kim, cho đến hiện đại nhãn tiền, các điều luật từ trung ương đến địa phương đều bị hóa giải ngay cổng tre của mỗi xóm làng. Làng chính là một giá trị độc tôn “cao nhất”, đã xé lẻ sức mạnh quốc gia của người Việt. Lâu nay người ta cứ cho rằng “ta về ta tắm ao ta/ dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”, hoặc là làm thân con gái chẳng ao ước lấy được đàn ông tài gỏi kinh bay tế thế nào hơn, lấy được chồng làng. Lấy chồng khó giữa làng Hơn lấy chồng sang thiên hạ


67

Phép nước là biểu hiện cho tinh thần công lý. Với kiểu đặt cả phép nước xuống dưới lệ làng, chứng tỏ trình độ sống của người Việt còn hết sức manh mún, nhỏ bé, chủ yếu còn loay hoay “vinh thân phì gia”, sau đó lan từ nhà ra ngõ, và đến hàng rào của làng thì “đào hào đắp lũng” cố thủ. Các chuyên gia chính trị xã hội phương Tây đưa ra quan điểm rằng: Các dân tộc châu Á, ngay cả Trung Quốc là nước đông dân nhất, là các quốc gia phân tán, co cụm, phòng vệ, và yếu ớt. Bằng chứng là tất cả các thành phố lớn, thủ đô của các nước này như Bắc Kinh, Niu Đê-li (New Deli), Hà Nội... đều nằm trong đất liền để lo phòng thủ. Trái lại, thủ đô, và các thành phố lớn ở phương Tây thường nằm sát bến cảng để lo thông thương, buôn bán, ngoại giao, và cả viễn chinh nữa. Chẳng hạn vào thế kỷ XVIII, nước Bồ Đào Nha nào có mấy mống người (có lẽ dưới một triệu), vậy mà họ cũng đua cùng Anh, Pháp, Tây Ban Nha đi tìm và xây dựng thuộc địa Braxin ở tận châu Mỹ xa xôi. Không đợi các chuyên gia phương Tây, ở chương I, chúng ta đã nghe, chính lãnh tụ Tôn Trung Sơn nói rằng: “Người Trung Quốc chỉ có gia tộc và tông tộc. Và yếu ớt như một bãi cát rời rạc”. Người Việt chúng ta thì cũng đã thú nhận sức mạnh của mình qua câu nói tận thâm sơn cùng cốc tâm hồn và truyền thống, cũng như phong tục: “Phép vua thua lệ làng”. Đơn vị làng cũng là đơn vị sống tình cảm, ở đó phản ánh trình độ sống còn thiếu lý trí của người Việt. Công - Lý, suy từ cổ chí kim thì là: - Lý: là lý trí - Công: là cộng đồng. Một cái làng không bao giờ có thể có một vóc dáng của một “quốc gia lập hiến”. Nhiều cái làng hợp lại, cũng không thành quốc gia lập hiến. Theo các triết gia thì: Lý trí của con người hiển nhiên đã mang tính công lý. Vì ở chợ, khi người khuân vác khiêng một cân thịt, một cân rau, một cân củi, thì anh ta đều tính tiền công trọng tải như nhau - đó là công lý. Hay người khách hỏi người bán nước là “nước sôi chưa” thì có nghĩa nước đã đun ở 100oC chưa, ai cũng hiểu vậy - và đó là công lý. Và cả kẻ bán lẫn người mua đều cũng phải tính 2 + 2 = 4, hay 3 lần 7 là 21 - cũng là công lý. Như vậy khi một cộng đồng có lý trí, thì hiển nhiên cộng đồng đó sẽ tiến đến công lý. Công lý sẽ làm mạnh cả hiến pháp và pháp luật, cũng như mọi quy tắc và lề luật ứng xử cộng đồng. Trái lại, khi một cộng đồng lý trí yếu, thì hiển nhiên sẽ lui về co cụm trong tình cảm, lấy việc thân với người này, sống chết với người kia, làm thành phe cánh, mong chống chọi hay lấn lướt với đời. Trong nhiều tác phẩm, dã sử, chính sử, đặc biệt qua hàng loạt phim lịch sử nhiều tập của Trung Quốc, đã cho chúng ta thấy: từ việc “kết nghĩa vườn đào” đến nhiều việc kết nghĩa anh em khác như trong “Thuỷ hử” để sống giữa một cuộc đời đầy gian manh bất trắc, xưng hùng xưng bá, giơ móng nhe nanh rình rập, người ta thường kết nghĩa lại với nhau để tạo ra uy lực cũng như lực lượng đảm bảo cho mình. Đặc biệt là cuộc kết nghĩa anh em của “Trình Giảo Kim”, chỉ là cách quần tụ lại, ỷ đông, ỷ mạnh, ức hiếp, cướp đoạt người đời. Nhưng dù những tên cướp có cấu kết cùng nhau thì sức mạnh của chúng cũng rất nhỏ, nay còn mai đã bị tiêu diệt, vì lẽ sức mạnh “ỷ đông” của chúng không có công Lý làm chỗ dựa. Tình cảm không có công lý đảm bảo, thì dù có


68

thề non hẹn biển, cắt máu ăn thề thế nào đi nữa cũng rất yếu đuối. Hãy xem như tướng Hoàng Trung, hay Khương Duy nổi tiếng nghĩa khí trong “Tam Quốc”, vậy mà chỉ một ngày được dụ hàng đã theo đối phương. Vì sao vậy? Vì họ không theo chủ này thì theo chủ khác. Chủ nào tốt thì họ có quyền theo. Nhưng đó mới là sự theo đuổi - phục vụ trong quan hệ chủ và tớ, chứ chưa phải là một tinh thần đòi phục vụ một lý tưởng. Khi tinh thần đòi phục vụ một lý tưởng nào đó, thì thật khó mà lung lạc chiêu hàng. Lý tưởng đó chỉ có thể thuộc về lẽ sống của Lý Trí. Giống vậy, cách “kết nghĩa” của người Việt từ bằng hữu, đến đồng nghiệp, đến xóm làng, nếu không vươn đến lý trí, sau đó đến công lý, thì cũng là những kết nối tình cảm yếu ớt, rệu rã, sẵn sàng đổ nát. Bởi lẽ, trong khi quần tụ trong tình cảm, người này lại muốn “ăn trên ngồi chốc” người kia, rồi đố kỵ, rồi ghen tị, rồi hãnh tiến đòi hơn... tất cả những thứ đó sẽ làm mục ruỗng sự cấu kết hờ của tình cảm. Người Trung Hoa có câu: “Cùng một nỗi lo người ta trở thành đồng minh của nhau, nhưng cùng một bổng lộc người ta sẽ trở thành kẻ thù cắn xé lẫn nhau”. Điều này nhân gian đã bày tỏ qua cụm từ “chó tranh xương”. Những con chó đang quần tụ đùa nghịch cùng nhau, vui vẻ lắm, nhưng nếu có một cục xương ném vào, chúng sẽ cắn xé lẫn nhau. Hình ảnh đó cũng có nghĩa rằng, nếu con người cấu kết nhau thành tình cảm để vụ lợi, thì chính sự vụ lợi đó có lúc cũng xé rách thứ tình cảm trong cuộc tranh giành - ganh tỵ - cấu xé lẫn nhau. Vậy đến đây, chúng ta sẽ bàn đến một nhược điểm trung tâm của người Việt: - Vì thiếu Lý trí, nên thiếu sự quy tụ đến đời sống công lý trong cộng đồng. Vì thế mới nảy sinh “phép vua thua lệ làng”. - Vì thiếu công lý làm sức mạnh lẽ phải trong quan hệ cộng đồng, nên người ta phải tìm cách cấu kết thành cánh hẩu, rồi các hội này, hội kia. Vậy chúng ta hãy bàn tiếp đến khúc quanh quan trọng này. 11. Người khôn ăn nói nửa chừng, làm cho kẻ dại nửa mừng nửa lo Ở phần 9, chúng ta có bàn về sự “khôn vặt” của người Việt, đến đây, thì thấy rõ ràng sự khôn ngoan đó nổi lên tất cả qua câu ca dao: Người khôn ăn nói nửa chừng Làm cho kẻ dại nửa mừng nửa lo. Người khôn theo nghĩa lớn là để giúp đời, theo nghĩa nhỏ thì chí ít phải có ý tưởng minh bạch về bất kể việc gì đó. Nhưng cách khôn của người Việt không vậy! Mục đích của cái khôn không phải thể trình ra quan niệm hay trí tuệ, mà là: để sống ưu thế hơn. Vì thế người ta còn nói “Khôn ăn người, dại người ăn”. Cái khôn kiểu đó không phải để tiến đến trí thức, cũng chẳng có phong độ của ông chủ, mà là cách làm nô bộc lươn lẹo sao cho vừa lòng chủ. Có rất nhiều người Việt tâm đắc với lối khôn lọc lõi của tể tướng lưng gù Trung Quốc rằng:


69

- Nói cùng không hay! - Im lặng cũng chẳng tốt! - Mà là làm sao nói ra những gì để chủ vui lòng. Rồi các kiểu luồn chôn để sống bằng mọi giá của Hàn Tín đã trở thành bản mẫu trong lẽ sống của nhiều người. Than ôi, làm người có mỗi cái danh dự để sống mà dám đổi nó lấy mọi sự sợ hãi - luồn cúi đến vong thân thì còn sống để làm gì. Sống vậy có khác gì động vật hai chân còn mỗi ngả tồn tại qua ăn và ngủ. Tại sao phải ăn nói nửa chừng? Vì trước hết, người Việt học hành theo lối “học gạo” kiếm chỗ ấm thân, nên cái học rất nửa vời, để vừa có mặt lại vừa không có mặt, khi cần xuất ăn giải thưởng thì “ta đăng ký”, khi cần “ba mươi sáu chước tẩu nhi vi sách” cũng tiện, vì ta nói, nhưng đã nói gì đâu ai mà bắt được lỗi. Ngôn ngữ là biểu hiện của trí tuệ. Theo các triết gia và chuyên gia ngôn ngữ, thì biểu hiện cao nhất của trí tuệ ra ngoài là ngôn ngữ, vì trí tuệ nằm sâu trong não, nó chỉ có sân khấu lớn nhất cao nhất - trực tiếp nhất - nhanh nhất là ngôn ngữ. Như vậy câu nói trên của người Việt, đủ thấy người Việt dùng ngôn ngữ để sống nhiều hơn là để tư duy. Cái học đằng đẵng trong lịch sử là muốn làm quan, muốn sống hơn người theo kiểu “Mồm miệng đỡ chân tay”, nhiều hơn là để giành cho con người phát triển tư tưởng. Trong lịch sử, ngay cả các luồng tư tưởng, các tôn giáo vào Việt Nam là để áp dụng sống nhiều hơn là để phục vụ nhu cầu phát triển phẩm chất sống của tâm hồn. Như việc áp dụng “Tam giáo đồng nguyên”. Tam giáo đồng nguyên bao gồm: 1. Nho giáo, cũng là khổng giáo, có thể coi Đức Khổng Tử là tôn chủ. Học thuyết của ngài lo giáo hoá xã hội theo nề nếp chính trị của quân vương. Bản thân ngài thì lo dong duổi xe từ nước này qua nước khác xin được làm quan lớn. 2. Đạo giáo, cũng gọi là Đạo Lão, do Lão Tử chủ trương, lấy “vô vi” làm lẽ sống. 3. Đạo Phật, từ ấn Độ nhập đến, do Đức Phật Thích Ca khởi xướng, có một nội dung là “sắc sắc không không”, tức mọi sự ở đời có khi chấp là có lại hoá ra không, có khi chấp là không lại hoá ra có. Theo nhiều ý kiến nghiên cứu về tôn giáo và xã hội, thì người Việt cùng lúc áp dụng cả ba thứ đạo. Nhưng trước hết, vì trình độ lý trí có hạn, nên người Việt đã nhầm cả ba lý thuyết trên vào Đạo. Thực ra, chỉ có Đạo Phật mới là Đạo, vì ở đó Đức Phật có ý đưa cuộc sống thoát trần hướng về cõi Niết Bàn. Còn Nho giáo với chủ trương “Hiếu, Đễ, Trung, Thứ, Tu, Tề, Trị, Bình” (Hiếu với mẹ cha, Đễ với huynh đệ, Trung với Vua, khoan Thứ với mọi người, Tu thân, Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ) là lý thuyết của đời sống trần tục không thể gọi là Đạo... Lão giáo của Lão Tử, với “Vô vi”, cũng chỉ là thái độ hành động ở đời, cũng không thể là Đạo. Nhưng sao người Việt cố tình nhầm cả Nho giáo, Lão giáo và o Đạo? Vì:


70

- Thứ nhất: Do hạn chế của tri thức. - Thứ hai: Cố tình nhầm lẫn để thủ lợi cho cuộc sống. Việc nhầm lẫn, xào sáo cả 3 lý thuyết trên bất kể đời hay đạo, để thu lợi cho cuộc sống là một xu hướng rất tràn lan trong tư duy thiếu minh định của người Việt. Mở màn, lúc trẻ, người ta ào ào cuốn theo Nho giáo, hăm hở theo những bánh xe lăn, tìm đến các cơ quan công quyền, phấn đấu leo lên các vị thế “trị đời - trên đời”. nhưng nếu không được, người ta liền lui về cố thủ trong thuyết “vô vi” của Lão Tử, cho rằng: “Trời không làm gì mà cái gì cũng làm”, vì vậy, ta không làm gì cũng là làm nhiều hơn tất cả (?). Về già khi thất cơ lỡ vận, thì lại hoà tan mình trong mặc cảm “sắc sắc không không”. Xứ ta có rất nhiều người luôn có câu nói trưng diện ở cửa miệng rằng: “Đời vô nghĩa cả thôi, chết là hết ấy mà”. Kỳ thực thì, số người này cái gì cũng muốn, đến nỗi người đời gọi họ là “Thích đủ thứ”. Họ tìm cách vơ vào tất cả mọi bổng lộc của cuộc sống nhưng lại nói ra vẻ “vô nghĩa cả thôi”. Và khi họ nói “chết là hết!” Không phải theo nghĩa than tiếc, mà là rất ích kỷ theo kiểu: mọi cái hãy giành cho tôi lúc sống, còn khi chết thì hết cũng được. Đây là mẫu người ích kỷ mà người phương Tây nói rằng: “Ta hãy sống đã. Còn sau khi ta chết là nạn hồng thuỷ cũng mặc”. Chắc chắn, như phần “tấm gương soi”, chúng ta đã bàn, trí óc phải minh định mạch lạc, sau đó phát sinh ý tưởng thì mới có thể tiến bước vào con đường trí tuệ. Nhưng trái lại người Việt không cần sống thứ trí tuệ đó, chỉ dùng trí tuệ vào lối sống tranh sáng - tranh tối, để cầu an hưởng lạc. Để dễ hiểu, chúng ta hãy nhìn những minh chứng. Trong rất nhiều phim Trung Quốc, chúng ta thấy, các cận thần phải dùng bao nhiêu trí tuệ vào việc đánh cờ với vua “làm sao để thua” một cách tự nhiên nhất. Nếu thắng thì chết đã hẳn. Nếu thua mà thua lộ liễu sẽ mắc tội khi quân khinh nhờn vua, cũng chết. Nên làm sao phải tìm cách thua kín đáo, thua như thật, đánh vã mồ hôi trán mà thần chẳng thể nào thắng nổi bệ hạ. Trong những lĩnh vực cần đến trí tuệ, thì người Việt thường bày tỏ cách “tháng ba cũng ừ, tháng tư cũng gật”. Không thế này, cũng chẳng thế kia. Trong âm có dương, trong dương có âm. Âm hết cũng chẳng tốt. Dương hết cũng không hay. Làm sao phải kết hợp toàn vẹn âm - dương. Sau khi đưa ra ý kiến nửa nạc - nửa mỡ, “nôm na mách qué”, người Việt thường rơi vào lối tranh cãi cù nhầy. Rồi còn nói “mọi so sánh chỉ là tương đối” như là sự xoá bỏ mọi ranh giới, mọi so sánh, và mọi cách quan niệm. Rút cục người ta thường cùng nhau quy về “tình cảm”. Thôi thì, sư cũng phải mà vãi cũng hay. Cuộc tranh luận kết thúc, người ta đã làm xong cái việc đem lấy “Tâm lý” đổi “Chân lý” Tại sao lúc nào người ta cũng muốn một khoa học, một nghệ thuật, hay một giải pháp toàn thể? Để mà không thể sai! Để luôn luôn mình có mặt ở đó mà chẳng phải phiêu lưu gì cả, nên không sợ “chẳng phải đầu cũng phải tai”. Vài lần khi nói chuyện với mấy người lúc nào cũng dùng dằng ở giữa bùng binh của các mối dây quan niệm nửa nạc - nửa mỡ, tôi nói: Dù chiếc máy bay có hiện đại thế nào cũng không thể cùng lúc bay cả lên phía Bắc, cả xuống phía Nam. Nhưng hoàn toàn nó có thể bay lần lượt từ Nam chí Bắc. Nước cũng vậy, khi đun sôi có thể pha trà, khi làm lạnh có thể thành đá. Nhưng không thể cùng một lúc nó vừa pha trà vừa thành đá. Nhưng hoàn toàn có thể đun nóng pha trà sau đó đặt vào tủ lạnh, ta sẽ có được nước trà lạnh.


71

Vì sự lùng nhùng của tư duy trong việc nhập nhằng tranh tối tranh sáng, nên phải nói trong nhiều thế kỷ, tư duy của người Việt rất chậm phát triển. Rất khó có thể giải quyết việc gì đến đầu đến đũa, một cách tiến bộ rõ ràng. Vì các triết gia đã phát hiện: Chỉ có lý trí mới tiến bộ. Còn tình cảm luôn chỉ là thứ quây cụm dìu nhau nổi lên, dìu nhau ngụp xuống. Người Việt nói: Ông cả ngồi trên sập vàng Cả ăn cả uống lại càng cả lo Thằng bếp ngồi trong xó tro ít ăn, ít mặc, ít lo, ít làm. Muốn sống địa vị của một ông chủ cuộc đời, thì chúng ta phải dùng trí óc để “cả lo” những vấn đề của cuộc sống, đằng này người Việt thường dùng trí óc để khôn vặt mong lảng tránh vấn đề của cuộc sống, thì làm sao có thể sống trong ngôi vị của một ông chủ? Vì ngôn ngữ ấm ớ, tất trí óc cũng ấm ớ, nên hành động cũng ấm ớ. Vì thế người ta chỉ còn cách bấu víu vào tình cảm. Nhưng tình cảm không có lý trí và công lý làm đảm bảo nên nó đã kéo lùi xã hội bởi hàng loạt các tật xấu “Theo đóm ăn tàn”, “Nhờ gió bẻ măng”, “Đục nước béo cò”, “Giậu đổ bìm leo”, “Đắm đò giật mẹt”, “Bới bèo ra bọ”, “Trâu buộc ghét trâu ăn”...

12. Cả vú lấp miệng em - Còi to cho vượt "Cả vú lấp miệng em” thì dễ hiểu rồi, nhưng người Việt hiện tại cũng rất hóm hỉnh khi tự trào phúng “còi to cho vượt”. Một chiếc xe muốn vượt lên, nó phải có tốc độ lớn hơn chiếc xe phía trước, vả lại, xe tải cồng kềnh, có còi rất to, nhưng tốc độ chậm làm sao mà vượt . Nhưng ứng dụng vào trong cuộc sống thì thấy ai mồm to, dù chẳng có lý lẽ thì được “vượt lên”. Vì thế nhiều người mới đua nhau luyện giọng “mồm miệng đỡ chân tay”. Về điểm này, có nhiều chuyện rất buồn cười, có không ít nhà thơ, nhà văn đi công tác về các tỉnh lẻ, về khoe rằng, ta đã trổ tài nói chuyện thời sự, khiến khán thính giả há mồm thán phục. Thật là buồn cười! Anh là nhà thơ, nhà văn, địa phương mời anh về nói chuyện như là tác giả nói về công việc của mình, sao anh không nói, lại nói chuyện thời sự châu Á, châu Âu? Kỳ thực, những anh nhà thơ, nhà văn này muốn dùng chiêu “cả vú lấp miệng em” và “còi to cho vượt”. Vì lẽ, họ biết rằng, nói chuyện về vài tập thơ mỏng, hay cuốn sách nặng cảm tính của mình thì chẳng có gì để nói - để nghe - và để biểu hiện. Và họ nói chuyện thời sự, để mượn uy ông tổng thống nước này, bà hoàng hậu nước kia... Khi về họ hỉ hả như người chiến thắng, than ôi cái chuyên môn của mình thì chẳng dám khoe trong khi cáo mượn oai hùm, thỏ đội lốt cáo lại ra vẻ tự đắc “ta thế này ta thế kia”. Ở phần trước đã nói, vì tìm cách ăn nói nửa chừng, tranh tối tranh sáng, nên nhiều cuộc tranh luận của người Việt đều dẫn đến cào bằng, hoà cả làng, ông giáo sư cũng chỉ ngang bằng anh nông dân. Vì thế nảy sinh một tệ nạn muốn chiến thắng người thì không cần lý lẽ, mà cần dùng “còi to cho vượt” để lấn át. Người Trung Hoa có câu “cường từ đoạt lý”. Nghĩa là người ta sẽ dùng cường độ dày, cao độ to để lấy lời nuốt lý. Người có lý thì không cần to tiếng, mà chỉ cần nhỏ nhẹ bình thản trình bày, thì lý vẫn cứ tồn tại. Đằng này biết là mình không có lý, nên người ta dùng ngôn ngữ to và mạnh và dầy, cướp lời để đoạt lý của người khác. Trong làng văn thơ đã có chuyện, ngay trong bữa tiệc, ông nhà thơ kia bí lên liền hất ngay cả chậu nước vào mặt người đối thoại với mình. Không hiểu người ta sẽ viết văn kiểu gì, khi văn hoá bé nhất còn chưa hiểu?


72

Cũng xuất hiện các kiểu “cái chầy”, “cái cối”, “cãi cùn” khác mong chẹn họng người đối thoại. Như có anh nhà thơ kia cứ đụng chạm đến việc tranh luận với người khác, thì ở trong quán ăn anh ta giả vờ nổi cáu lên, hất nước mắm đổ tung toé khiến cho mọi người phải sợ, mà im đi! Thậm chí có cả cách thế này, có anh nhà thơ kia, khi tranh luận mà có cả phụ nữ, anh ta liền văng của quý của mình một cách có chủ đích, để người ta ngượng không dám tranh luận nữa. Khi người ta chỉ tìm cách dùng lời cưỡng lý, thì chỉ có ẩu đả mà không có giao chiến về lý luận tức là tranh luận. ở đời nhiều thứ “Giao” rất hợp chức năng, rất tự nhiên và lành mạnh. Thí dụ như “giao thông”, là mọi người đều muốn di chuyển, đi lại, nhưng đến nơi ngã ba và ngã tư đụng đầu dễ gây ách tắc, thì người ta sẽ tìm cách nhường nhịn lối “đen xanh - đèn đỏ”, anh trước, tôi sau di chuyển; hay lối cầu vượt đường phía anh bắc qua đường phía tôi. Hay như trong chuyện ái tình âm - dương của nam - nữ, sẽ có giao để mà hợp. Trong những vấn đề của cuộc sống cũng vậy, nhiều khi những ý tưởng, những ngôn ngữ giao nhau lành mạnh trong tranh luận, để tìm cách vượt qua. Nhưng, như người ta thực hiện đi vào nút giao thông, rồi lại đi ra, mình được đi cũng không cản trở việc đi của người khác, đó là lành mạnh. Trái lại, nếu ta chỉ ẩu đả hỗn loạn, rồi dở võ “cả vú lấp miệng em”, cường lời cưỡng lý, thì không phải “giao chiến” về ngôn ngữ nữa, mà là ẩu đả và bệnh hoạn. Giống như trong ái tình, hai người cùng ưng hai người cùng được thì còn là “giao hợp”; nhưng chỉ có một kẻ muốn, bắt người kia phải theo thì là “cưỡng giao”, không thể nào hợp được. Thái độ tranh luận hay ngôn ngữ đặt con người vào trung tâm của đời sống trí tuệ cũng như văn hoá. Bởi lẽ: ngôn ngữ là trí tuệ. Trong đó ngôn ngữ đối thoại là hình thức cao nhất của ngôn ngữ Người Trung Quốc có câu rằng: “Quân tử hoà nhi bất đồng Tiểu nhân đồng nhi bất hoà”. Nghĩa là: Quân tử thì sống dung hoà với nhau, nhưng vì có trí tuệ nên nảy sinh những bất đồng về ý kiến. Dẫu vậy, vì văn hoá nhân ái họ vẫn giữ được hoà khí để sống dung hoà cùng nhau. Trái lại, tiểu nhân là những kẻ không có chính kiến để mà bất đồng, dẫu vậy lại luôn bất hoà cùng nhau như đố kỵ, ganh ghét, cạnh tranh hơn thua. Vì thế, khi chúng ta không xây dựng được văn hoá đối thoại, đặc biệt khi chúng ta là người có học, thì chúng ta vẫn sống theo cách của những “tiểu nhân” - đồng nhi bất hoà. Nhưng nói như vậy, vẫn oan cho các tiểu nhân, vì họ không có ý tưởng đành phải “đồng nhi”. Còn chúng ta nếu đã có học, có kiến thức, có ý tưởng mà ra vẻ không có để “đồng nhi” và cố tình bất hoà, thì còn suy đồi và bệnh hoạn hơn cả những tiểu nhân. 13. Ngậm miệng ăn tiền Trái với cảnh “cả vú lấp miệng em”, là cảnh “ngậm miệng ăn tiền”. Người Việt nói “tránh voi chẳng xấu mặt nào”, thôi thì những “quyền huynh thế phụ” đã ra oai, rồi thì lối phong kiến xưa kia còn đè nặng “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung, phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu”, nên người ta đành ngậm miệng. Ngậm miệng là một cách nhẫn nhục thì đã xong, vì biết nhẫn nhục là một đức tính quý báu ở đời. Nhưng đằng này, như người Việt chỉ ra lại “ngậm miệng ăn tiền”, nghĩa là ngậm miệng không


73

phải đức nhẫn nhục mà là tìm cách vô liêm sỉ khôn khéo để thủ lợi - vì thế mới “ăn tiền”. Chẳng hạn, như các phim lịch sử của Trung Quốc chỉ ra, khi vua họp các quần thần, có vấn hỏi các quan, quốc gia lâm hữu sự, xin ý kiến của các đại thần. Thì tất cả các quan đều im lặng. Nếu vua hỏi thẳng vào một vị quan nào đó, thì sẽ được nghe: “Bệ hạ sáng suốt, thần không dám! Không dám! Thần đầu óc tối tăm không biết nhận ra điều gì ngoài việc làm theo những gì bệ hạ chỉ dẫn”. Nghĩa là, bằng việc im lặng, người ta phủi tay tất cả, đổ lên đầu vua tất cả. Nói ra, nhỡ đâu “không phải đầu cũng phải tai”, thiệt thân, lại thiệt nhà. Không nói ra là tốt nhất, vì không ai bị khép vào tội im lặng bao giờ. Cuối cùng, nếu may mắn, có vị đại thần nào cho ý kiến, thì các quan lại xúm xít lại dè bỉu chê bai, cản phá ý kiến của người đó là xấu là dở. Có lần nhà vua phải nói: “Tại sao khi trẫm hỏi thì các vị không chịu trả lời, đến khi có một người trả lời thì xúm lại chê bai?” Vậy đấy, khi người ta im lặng để tồn tại khôn khéo thì cũng muốn mọi người đều im lặng giống mình, không ai được giở võ “chơi chòi” đòi vượt mọi người. Ngậm miệng nhiều rồi sinh dèm pha, nói xấu, chê bai, thậm chí “gắp lửa bỏ tay người” là một lô - gíc tất yếu. Trong cuộc sống, nhiều người Việt cũng vậy, khi được hỏi thì không nói, không nói được thì nuốt ấm ức, sau đó chọn lúc an toàn thuận lợi thì phun ra những lời cay độc để bôi nhọ người. Thậm chí người ta còn dùng chiêu khẩu thiệt vô bằng“ (nói thiệt cho người không cần bằng cớ) để bôi nhọ người khác. Chẳng hạn, họ có thể thoải mái nói, tôi nghe người ta bảo, “anh điêu lắm”, “cô gàn dở lắm!” “anh vừa hấp vừa tham!” “lão già ấy dê cụ lắm!” “Con mụ ấy kinh khủng lắm”... Đấy là những lời sơ sơ thôi, và khi nói xấu người khác chỉ cần ghép vào cụm từ vô nhân xưng “người ta” là xong. Trong các cuộc gặp mặt, người Việt hay có cảnh thế này, đang nói chuyện, người này hay người kia giả đò lơ đãng đưa mắt đi chỗ khác, hàm ý nói với người đang đối thoại rằng “này anh đừng tưởng anh nói có lý, nói hay, đâu nhé. Tôi chẳng thèm để tai nghe anh đến một từ. Sau sự im lặng đó, người ta sẽ tìm cách bày tỏ những phản ứng chống đối, như nói mỉa, nói lạc qua chủ đề khác, hay quay sang nghịch thứ nọ thứ kia... Trong cuộc đời, từ cổ chí kim, phải thừa nhận thế này, người ta sẽ chẳng làm nên được cái gì ra hồn hay vĩ đại nếu không biết chủ tâm, chú mục vào việc ta định làm. Trong đó, con người gặp con người, cũng như cách đối thoại giữa người với người luôn là một trung tâm đáng chú ý nhất của đời sống nhân văn, lại thường được người Việt ứng xử một cách trá hàng và thiếu trách nhiệm. Vì thế các giá trị nhân văn của xã hội rất khó có thể vận động khỏi một sân khấu còn loay hoay trang phục cho cá nhân để tiếp diễn tiến lên. Một nhà văn có nói “một xã hội không nói là một xã hội câm”, hay như nhà văn Trung Quốc Vương Sóc có viết: im lặng trong nhiều trường hợp chỉ là sự tồn tại khôn khéo một cách vô liêm sỉ, đòi giữ bộ lông quý của mình không dính bẩn. Trí tuệ là ngôn ngữ! Ngôn ngữ là trí tuệ! Chúng ta không thể nuốt chửng lời để theo đó nuốt chửng con đường biểu hiện của trí tuệ. Một lần tôi có nói chuyện này với một anh bạn, anh có nói rằng: “Người ta chỉ mất mấy năm học nói, nhưng phải mất cả đời để tập im lặng. Và im lặng là vàng!” Tôi có trả lời: Im lặng là thái độ sống, chứ không phải trí khôn. Nếu nó được tập cả đời thì là người ta tập đức nhẫn nhục, chứ không phải tập cho trí tuệ.


74

Người Việt nói: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”, nghĩa là người ta phải học để nói và hành sự ở đời. Và mọi môn học ở đời đều giúp người ta được nói, được viết, được biểu hiện! chứ không phải được im lặng. Người Việt khuyên cần phải “ăn nên đọi, nói lên lời” và “khôn ngoan đến cửa quan mới biết”, chứ không đồng tình cái kiểu: “ấp úng như ngậm hột thị”. “Ngậm hột thị” là cách tố giác thẳng thắn của người Việt. Có nghĩa là kẻ ăn vụng thị, thấy người đến, liền ấp úng vì chưa thể nuốt trôi, cũng như chưa thể nhả ra hột thị. Khi ăn những thứ khác, gặp người khác đến người ta không phải ấp úng, vì đó là lẽ ăn uống hiển nhiên. Nhưng riêng ăn quả thị thì ấp úng. Tại sao vậy? Vì đó là miếng ăn không chính đáng, quả thị xưa nay để ngửi chứ không để ăn: “Thị ơi thị rụng bị bà Bà để bà ngửi chứ bà không ăn” Vậy mà kẻ ăn vụng kia, chẳng những ăn vụng, mà ăn cả thứ chỉ được phép ngửi chứ không được ăn, làm gì thấy người đến chẳng ấp úng. Người Việt cũng vẫn nói theo cách của người Trung Hoa rằng “Danh chính ngôn thuận”. Khi tên tuổi chính danh, ý nghĩa chính đáng, thì ngôn ngữ của người ta cũng trôi chảy một cách chính đáng, thậm chí bay bổng rồng bay phượng múa. Nhưng khi người ta có tà ý, tà danh, tà lợi, thì ngôn ngữ tự nhiên tắc lại, không thể nào trôi chảy. Cách “im lặng là vàng” của người Việt cũng thường xảy ra khi người ta muốn lấy lòng cả đôi đằng, nói cho bên này thì lại sợ bên kia ghét mình, nói cho bên kia thì lại sợ bên này không yêu, nên đành ngậm miệng cho qua. Chữ “ngậm miệng ăn tiền” rất đúng và căn bệnh cũng lây lan rất nặng. Thậm chí có nhiều vụ án, chỉ vì sợ mất việc làm mà nhiều người, hay cả tập thể sẵn sàng im hơi lặng tiếng, hoặc làm chứng dối, mặc cái sai lộng hành, miễn là ta vẫn được đảm bảo công ăn việc làm là được. Đây là cách, cái lợi được đặt lên trên hết, đặt trên cả công lý. ở nhiều nước phương Tây, kẻ xấu thật khó mua chuộc hay doạ nạt cùng lúc cả ba nhân chứng, vì không người này thì người khác sẽ dằn vặt, trăn trở, tìm cách công bố sự thật. ở Việt Nam thì có khi có cả vài chục người, thậm chí còn hơn thế, đặt cái lợi của mình hay nhóm của mình lên trên, sẵn sàng “ngậm miệng”, mặc kệ sự thật hay công lý muốn ra sao thì ra! 14. Tâm khẩu bất đồng: Khiêm tốn vờ - kiêu hãnh lén - Khen vờ - chê giả Ở hai phần 12 và 13, chúng ta đã bàn đến nội dung “cả vú lấp miệng em”, và “ngậm miệng ăn tiền”. Cả hai thái cực đó lúc thì hủng hổ dùng ngôn ngữ đoạt cái lý của người khác hay là cái lý của chung, hoặc lúc thì im lặng tảng lờ như không biết - không cần tham dự, đều miệng nói - hay miệng ngậm, nhưng tâm không nghĩ vậy. Bởi lẽ, cả trong trường hợp “cường từ đoạt lý”, người nói cũng xác định trong tâm rằng, cái này mình đuối lý nên cần phải dùng lời để thị uy; cả trong trường hợp im lặng, thì tâm họ cũng biết, nói ra không có lợi, thà im đi còn hơn. “Tâm khẩu bất đồng” là một căn bệnh rất nặng, người Việt nhiễm của người Trung Quốc, đặc biệt trong cả nghìn năm Bắc Thuộc, và thời phong kiến. Người Trung Quốc thường dẫn câu mà dường như chỉ có một con người duy nhất xuất sắc trong lịch sử của họ làm được, là Bao Thanh Thiên, với cuộc hành trình thiên khó vạn nan: “Tâm phục - khẩu phục”. Thời phong kiến, vì sợ hãi vua quan


75

hay thế lực của nhà giầu, lúc nào người ta cũng rập đầu “thần không dám, thần không hiểu, thần có tội!” nhưng trong tâm thì lại bất phục và bất phục tùng. Vì thế, chỉ có quá ít người như Bao Thanh Thiên là thực hiện được công lý - chứng lý rõ ràng, bắt kẻ có tội, cũng như kẻ làm chứng gian phải khuất phục thừa nhận cả khẩu phục lẫn tâm phục. Nhưng từ Trung Quốc sang Việt Nam trường hợp của Bao Công quá ư hi hữu, còn lại nhiều người sống triền miên trong kiểu tâm khẩu bất đồng. Người ta chào cũng chào rơi, mời cũng mời rơi, xin lỗi cũng xin lỗi rơi, cám ơn cũng cám ơn rơi, rồi khiêm tốn cũng vờ, kiêu hãnh thì phải lén lút chọn chỗ nào an toàn mới dám khoe mình. Tại sao lại phải chào rơi? Thí dụ có ai chào mình, thì liền nói “không dám!” ra vẻ tôi hèn mọn lắm không đáng lời chào đó. Sau đó thì lại khinh khỉnh ra vẻ tự tôn - tự đại. Tất nhiên ngày nay kiểu nói “không dám” chỉ còn rơi rớt ở các vùng quê. Nhưng ta chớ nghĩ nó đã hết. Mà nó biến tướng một cách rất vơ vẩn. Giờ đây nhiều người Việt tính toán cả từng lời chào. Nhìn những cô gái hay chàng trai trẻ tuổi thì càng dễ nhận ra, đi đâu họ cũng gật gật, hay nghiễm nhiên chẳng cần gật, cũng chẳng cần chào. Than ôi, người Việt nói “Lời chào cao hơn mâm cỗ”, và cũng biết “Tiên học lễ, hậu học văn”, trong “lễ” cái chào nhau phải có đầu tiên, sao người ta lại tính toán đến như vậy. Nhưng ta cũng nên để ý, có người gặp ai cũng chỉ gật, đừng tưởng họ không quen chào thành tiếng, chỉ cần bắt nhìn họ gặp cấp trên, hay người cần nhờ vả mà xem, họ cất lời chào cao hơn cả giọng hát. Mời rơi, thì người Việt sử dụng khá đại trà. Trước mạt mọi người mời rất trưng diện “Anh phải đến ăn với tôi một bữa đấy nhé! Anh không đến là chẳng còn mặt mũi nào chơi với nhau đâu!” đại loại là rất tha thiết, rất nồng thắm, nhưng đó chỉ là những lời ném ra cho mọi người xem thấy, còn không cần thực hiện. Nếu người bạn tưởng là lời mời thật, đến chơi, thì người ta sẽ cười xòa, lấy lý do nọ, lý do kia. Nhưng bệnh hoạn nhất là “xin lỗi rơi!” Xin lỗi là cách người ta tự xét mình, và dằn vặt, áy náy thực sự để cất lời xin lỗi. Người được xin lỗi sung sướng vì câu nói thì ít, mà sung sướng rằng ta đã được một con người có liêm sỉ tiếp đãi. Nhưng nhiều người Việt xin lỗi mà chẳng cần dằn vặt gì cả. Gặp hữu sự, họ sẵn sàng xin lỗi, chớ tưởng là họ có một tâm hồn nhạy cảm, mà là họ cứ xin lỗi như một kiểu xin bỏ qua, xin cầu hoà, xin xí xoá. Nghĩa là trong lòng họ không thấy mình mắc nỗi (dù biết đó là lỗi), nhưng vẫn cứ xin lỗi, để người khác bỏ qua cho mình. Sau đó lần sau họ cứ mắc lỗi như thường. Vì mắc lỗi là cách vụ lợi cho mình, quên đi việc làm bổn phận với người khác, vì muốn vụ lợi cho người ta không muốn bỏ thói quen mắc lỗi, nhưng vì sợ người khác trả đũa mình, họ đành đóng vai trá hàng là “xin lỗi”. Việc cám ơn cũng giống vậy, nó như cách đặt một chiếc đó hờ vào tấm lòng quảng đại, vị tha của người khác, nhưng người nói không thực sự cảm ơn. Vì lời dùng để trục lợi trong cuộc sống nhiều hơn là để trình bày ý tưởng, nên nhiều người Việt, đặc biệt là giới văn nghệ sĩ, hay các trí giả thường áp dụng lối “khiêm tốn vờ, kiêu hãnh lén”. Mở màn, khi ngồi cùng nhau, để giữ cho mình một vị thế an toàn, người ta diễn các trò khiêm tốn “em mới làm thơ ấy mà”, hay “văn tôi chưa tới đâu cả, tôi sáng tác bằng kinh nghiệm bản thân ấy mà”... Sau màn trình diễn đó, dường như mọi người không thể bị sát hạch về tài văn thơ, nghĩa là tất cả chúng ta không phân biệt cao - thấp, vì có so tài đâu, có phán xét đâu, có bình giá đâu, mà có thấp, đã nhẹ nhàng ung dung rủ nhau cùng bước qua vòng “sơ loại”. Tất cả cùng vào,


76

không phân biệt gì thì tất cả bằng nhau? Không đúng, đó chỉ là lúc soát vé vào “rạp” văn thơ. Sau đó vào những lúc an toàn, nghĩa là thấy cách hẩu hay thấy bố mình, chú mình hay con cháu mình đứng bên cạnh, cảm thấy được an toàn người ta bèn lén lút rút ra một chiếc phướn kiêu hãnh. Nếu xung quanh có người reo lên, chiếc phướn đẹp quá nhỉ thì họ liền giấu đi tức thì “không, không, tôi làm gì chiếc có phướn như thế”. Nhưng vào một lúc khác, họ sẽ bảo, chiếc phướn của tôi rất đẹp, nhiều người muốn xem mà tôi chưa cho xem. Kể từ đó, họ cứ thập thụt lan truyền giá trị của mình như thể, nó ở trong vòng bí mật đã thế thì khi được xuất hiện công khai sẽ ghê lắm. Giá trị nghệ thuật là cuộc bày tỏ rất giản dị. Anh có vàng cứ trình ra đi. Người khác cũng đem vàng của mình ra so. Ai có vàng tuổi cao, ai có vàng tuổi thấp, ai vàng mười, ai vàng chín, biết ngay, có gì mà cứ phải thập thò? Nhưng nhiều người trong số này lại bảo, nghệ thuật, văn thơ là thứ khó mà định giá lắm đâu có đơn giản như vàng chỉ qua thử lửa là xong! Bản thân tôi cho rằng, từ nhỏ đến nay, tôi đọc sách, chưa có vấn đề khó đến mức nào mà nhân loại không dám đem ra bàn cãi. Chỉ có đem ra soi chiếu, bàn cãi, con người mới tìm ra được những giá trị chung thuộc về tiếng nói của công lý. Đằng này, không dám đem ra so sánh, trước khi so sánh lại bảo: “mọi sự so sánh là khập khiễng”; cũng không dám đem ra bàn, nói là “nghệ thuật mỗi người ngắm một cách không thể nào có tiếng nói chung”. ấy vậy mà người ta cứ muốn kiếm chác được một giải thưởng, để không qua bình xét mà vẫn hơn người. Sự việc rất trầm trọng, chưa nói đến việc phải bình xét để mọi người nhận ra giá trị của tác phẩm trước khi trao giải, mà ngay cả khi trao giải rồi, ban giám khảo các cuộc thi cũng luôn khép lại các cuộc bàn thảo, không muốn để cho mọi người thấy được cái hay để học. Tại sao vậy? Có phải vì đã “ngậm hột thị” nên đành ấp úng? Đức Khổng Tử có nói: “Biết thì bảo biết, không biết thì bảo không, đó là biết vậy”. Nghĩa là người ta vừa biết được tri thức của mình, lẫn giới hạn của nó để tìm cách nghe, cách học hỏi về cái gì mình thiếu, đó là biết. Như vậy, người làm nghệ thuật, cũng như khoa học sao không dám tỏ hiện mình, có đến đâu thì lộ đến đấy, có tài cao thì được biết tài cao, việc gì cứ phải khiêm tốn vờ, kiêu hãnh lén? Câu trả lời thật đơn giản, các chuyên gia thế giới cho rằng: “Khi người ta hiểu thì không sợ”. Như vị bác sĩ hiểu đặc tính của các vi trùng, sẽ chữa trị cho bệnh nhân mà không hề sợ hãi. Hay một kiến trúc sư biết rằng, dựng chiếc cột như thế sẽ không thể nào đổ được... đằng này nhiều nhà thơ, nhà văn, cũng như nhiều học giả học hành không đến đầu đến đũa, không hiểu biết, thiếu tự tin, hoá ra sợ hãi, nên không dám làm cả các việc rất hiển nhiên là hãy bày tỏ mình, hãy đặt “ngọc quý” của mình lên bàn, để mọi người bình giá. Người Việt nói: Trai khôn tìm vợ giữa chốn chợ đông Gái ngoan tìm chồng giữa chốn ba quân. Nghĩa là, anh tài, anh giỏi, anh khéo, anh khôn, nó phải là thứ tài - giỏi nổi bật lên giữa chốn đông người - cùng đang bày tỏ. Tiếp theo còn có nạn “khen vờ - chê giả”. Tại sao phải khen vờ? Vì anh cùng cạ với tôi, hay anh là thủ trưởng tôi, chê anh thì tôi cũng bị lộ ra chẳng có gì để khen, nên dù tôi có thấy tác phẩm của anh chẳng đáng gì, thì tôi vẫn trầm trồ khen để lấy lòng, nào là “tuyệt vời !”, rồi “trên cả tuyệt vời!”... Trái lại, gặp phải kẻ có tác phẩm hay thực sự, nhưng nó lại không cùng cạ với mình, thêm nữa khen nó giỏi thì mình sẽ bị nó trèo lên đầu lên cổ, vậy thì thà chê nó còn hơn. Thế là thấy người ta hay hẳn hoi, vẫn dè bỉu “thế đã ăn thua gì!” “nhằm nhò gì mà đáng để ý!”... Và đã xảy ra nhiều câu chuyện thế này, người ta gửi văn - thơ đến cho các ban biên tập, thấy một


77

“đầu mấu lạ” của người chưa biết luồn lách, biên tập viên liền bảo: “Văn gì viết mà có dị dạng thế này!” Nhưng cũng “đầu mấu” kiểu ấy ở người thân của mình, biên tập viên liền bảo, “hay thật, độc đáo thật!” Hay có những tác phẩm gửi đến bị chê ỏng chê eo, nhưng xếp vào chỗ quý, lâu lâu, thấy tác giả của nó đã nản vì nạn viết không lách được vào chỗ quen, biên tập viên bèn lôi ra xào xáo, chế biến tác phẩm của người, thành của mình. Người Việt có câu “Tâm xà khẩu phật” chỉ những hạng người, trong tâm thì xấu xa như rắn rết, nhưng tìm cách lươn lẹo trình bày ra những lời hay ý đẹp. Nhưng người Việt cũng nói: “Chí thành - công thánh”, nghĩa là: chỉ có chí thành thật thì công việc sẽ đạt đến kết quả ở mức thánh nhân. Như vậy cũng đã thấy “Thật thà là cha quỉ quái”. Mới võ vẽ học được mấy chữ, rồi võ vẽ mấy vần thơ, vài truyện ngắn, hay mấy công trình dởm thì làm bộ ấp úng nửa kín - nửa hở trình diễn làm gì. Tất cả những thứ đó sao có thể sánh với sự thật về mình! Mình cứ “chí thành” đi , tự nhiên có ngày “công thánh”!

15. Được ăn, được nói, được gói mang về Chúng ta, đã bàn khá dài về lời ăn tiếng nói của người Việt. Điều này rất hệ trọng, vì ngôn ngữ là biểu hiện của trí tuệ - cũng là lương tri, và là nhân cách của con người. Người Việt ví: Người thanh tiếng nói cũng thanh Chuông kêu sẽ đánh bên thành cũng kêu. Hay cũng còn nói: Chuông khánh còn chẳng ăn ai Nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bụi tre. Chuông kêu ngân nga, vì được làm từ phẩm chất bằng kim loại quý, như đồng, có thể pha thêm vàng hay bạc. Như vậy, tiếng chuông đã thể hiện từ trong ra ngoài, kim loại tốt thì tiếng cũng hay. Con người cũng vậy, một triết gia có nói, “Ngôn ngữ là thế giới của một con người, thế giới của anh ta thế nào thì ngôn ngữ thế ấy”. Một nhà khoa học chẳng hạn, ngôn ngữ nhất khoát phải có những từ thuộc khoa học chuyên ngành, một nhạc sĩ thì phải có lời đựng nhạc, một giáo sĩ phải có lời thuộc về tôn giáo, một con buôn thì phải sặc mùi tiền. Để đánh giá một con người, người Trung Quốc cũng coi âm thanh là quan trọng nhất qua câu: “Nhất thanh, Nhị sắc, Tam hình”. Tướng mạo con người chỉ là thứ yếu. Sắc diện như mầu da cũng là thứ yếu. Chỉ có âm thanh là cái biểu đạt từ trong ra ngoài sẽ là chính xác nhất. Người quảng đại không thể có ngôn ngữ cay độc, người nói láu táu không thể có tư duy sâu xa chững chạc.


78

Lời nói phản ánh nhân phẩm của con người, nên người đời mới khen ngợi những lời nói của người biết trọng nghĩa là “nói như dao chém đá”, “nói như đinh đóng cột”. Người Trung Hoa cũng cho rằng mỗi lời nói có nhân cách thì phải hệ trọng “một lời nói nặng tựa chín đỉnh”. Và lời nói không thể bừa bãi được nếu không sẽ chẳng có cách nào vớt lại danh dự của con người: “Nhất ngôn xuất ký, tứ mã truy nan” (Một lời nói ra, bốn ngựa khó đuổi). Cùng một cách nghĩ, lời nói là hệ trọng mà người Việt bảo: “Sẩy chân còn hơn sẩy miệng”. Và Trăm năm bia đã thì mòn Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ. Người phương Tây quan niệm về ngôn ngữ rất trực tiếp, cụ thể, và mạnh mẽ rằng: “Ngà voi không thể mọc từ miệng chó, lời khôn ngoan không xứng miệng kẻ hèn”. Như vậy, họ thẳng thắn chỉ ra, ngôn ngữ là chính con người. Ngôn ngữ cao trọng thì người cao trọng. Ngôn ngữ hèn hạ, ấp úng thì người cũng hèn hạ vớ vẩn. Trong những trang trước chúng ta đã bàn về nhược thiểu của lý trí, cũng như sự tính toán dùng lời để “mồm miệng đỡ chân tay” hơn là để tư duy, nên ngôn ngữ của nhiều người Việt rất kém (đặc biệt, chúng ta hãy quan sát phóng viên truyền hình lẫn những người được phỏng vấn, họ thường hay nói vấp và ấp úng). Giờ chúng ta hãy bàn trực tiếp đến cách người Việt dùng lời nói để vụ lợi “được ăn, dược nói, được gói mang về”. Ăn cũng cho miệng! Nói cũng cho miệng! và gói mang về cũng là để giành cho miệng! Có thể nói sinh hoạt cỗ bàn là sinh hoạt quan trọng nhất của người Việt. Dù rước thánh này, hay thánh khác, tiết mục tối hậu quan trọng nhất là hạ thủ lợn, hạ gà, hạ xôi oản xuống để chia ra các mâm. Lễ hội này quan trọng cả về thực phẩm lẫn tâm hồn. Nhưng như câu nói trên chỉ ra, tất cả sự thể hiện trọng đại của một bữa tiệc là qui về mồm. “Được ăn, được gói mang về” thì dễ hiểu rồi. Nhưng cái đáng bàn là được nói. Người Việt khi đến các nơi gặp gỡ, hội họp, thì muốn dùng ngôn ngữ khoe mình hơn là trình bày ý tưởng. Vả lại trong câu “được ăn, được nói, được gói mang về”, có nghĩa, ai cũng được phần ăn - không sợ mất, ai cũng được phần nói - không sợ thiệt, và ai cũng được gói đem về. Như vậy, ngay cả khi nói, người Việt cũng coi đó là một quyền lợi để chia chác. Có nhiều người đến bữa ăn, sợ mất phần nói, nên kể hết chuyện nhà, chuyện vợ, chuyện con. Họ có thể nói cả mấy giờ đồng hồ, về con họ thích kẹo gì, mặc mầu nào. Khoe khéo khoe khôn cho mình chưa hết, lại khoe khôn cho cả con mình còn chưa kịp lớn, thật hết cửa đề người khác nói. Bởi lẽ trẻ em dù có giỏi thế nào cũng chưa thể là người thành đạt, như người Việt bảo: Còn hàn vi biết ai hay dở Trải phong trần mới rõ khá hèn. Nên khi nghe người đàn ông kể về con mình, người khác cực chẳng đã phải nghe, chẳng lẽ chen nói vào lại mang tiếng đố kỵ với cả trẻ con. Kiểu nói không đối thoại, tràng giang đại hải một cách cố tình, là lối “cướp diễn đàn” của nhiều người. Thôi thì cứ nói chuyện tằm tăm bông bống gì cũng được, miễn là cứ nói tràn cung mây, không cho ai nói xen vào, kẻo họ lại khoe khéo khoe khôn hơn cả mình, hoặc lộ ra mình là người dốt.


79

Nói chuyện, lấy lời để lấp lời, lấy những thông tin vụn vặt để che phủ lên khát vọng của tri thức, thì làm sao mà trí tuệ lớn lên được. Cho dù con ta có giỏi, nhưng cháu vẫn còn bé, cháu làm sao có thể sống hộ ta những vấn đề đòi minh giải và hiểu biết. Chúng ta thử hình dung, một người học xong đại học, sau đó mấy chục năm, đi đâu anh ta cũng thao thao bất tuyệt về những lời vô thưởng vô phạt, thì trí tuệ có lớn lên không? Suy rộng ra, cái lối không dùng lời để tư duy, mà chỉ nói thao thao “cả vú lấp miệng em”, đã làm cho trí tuệ của dân tộc ta phát triển đến mức nào? Chúng ta hãy nhìn xem, có phải cả 1500 năm nay, từ khi trí giả Việt Nam nho nhe làm thơ Đường, cho đến nay chỉ có mỗi một tiểu thuyết lịch sử ra hồn là “Hoàng Lê Nhất Thống Chí” của Ngô Thì Chí, còn lại là toàn thơ là thơ. Mà hầu hết chỉ gồm những bài ngăn ngắn trong vòng một trang giấy bày tỏ những cảm xúc tủn mủn đời thường. Và trong đó chỉ có một nhà phê bình thơ - nghĩa là người phát triển tư duy luận lý trong thơ là Hoài Thanh xuất hiện. Than ôi, cả nghìn, cả vạn, thậm chí ngót triệu nhà thơ, mà chỉ thấy có một con người nhìn văn học bằng con mắt của tư duy. Điều đó có nói lên trình độ tiến bộ về nhận thức của chúng ta rất thấp, thậm chí dường như dậm chân tại chỗ! Tại sao có tình trạng đó? Ngôn ngữ là những hạt ngọc của tâm hồn, mà nó lại được dùng như một món trang sức ngụy tín, vô bổ, vô thưởng - vô phạt, vô vị, thì làm sao có thể giúp lý trí tiến bộ! Có một nhà tư tưởng nói: “Kẻ man trá về ngôn ngữ sẽ dẫn đến tàn tật về tri thức, méo mó về nhân cách”. Khi dùng lời chỉ để nói những câu chuyện sáo rỗng, thì một con người khó mà trưởng thành, anh ta sẽ mãi mãi chỉ là một đứa trẻ vừa bẻn mép vừa to xác. Và khi càng nói không có nội dung thì càng hoang mang. Càng hoang mang sợ một lời của người khác nặng tựa chính đỉnh sẽ nhấn chìm những lời bọt bèo của mình, thì lại càng nói, để khoả lấp tất cả quỹ thời gian. Đó cũng là một hình ảnh lớn của văn học Việt. Một ngành dù còn rất bấy - rất yếu nhưng cũng đang đóng vai trò rất lớn trong đời sống nhân văn của dân tộc. 16. Một trăm cái lý không bằng một tý cái tình Chúng ta đã bàn, lý trí và ngôn ngữ tương tác lẫn nhau. Ngôn ngữ phát triển, lý trí mới phát triển. Và ngược lại, lý trí phát triển, trí tuệ mới dùng lời để biểu đạt mọi chức năng của nó. Xưa nay, lời là kinh sách, là giáo luật, rồi là hiến pháp, pháp luật cũng như quy tắc ứng xử của mọi quốc gia và sắc tộc. Lời là Công lý Vì không dùng lời để tiến đến lý trí và công lý, nặng về cãi vã hoà cả làng, không minh định nổi chẳng ai đúng, cũng chẳng ai sai, không có công lý làm chỗ tựa vững mạnh cho mình, nên người Việt thiên về co cụm, bấu víu, và đan kết trong tình cảm. Mở màn người ta xác định vị trí bất khả xâm phạm của gia tộc như “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Rồi sau đến đơn vị quần tụ xóm làng “Bán anh em xa mua láng giềng gần”. Và sau đó đề cao cái làng của mình lên trên hết nào “Tình làng nghĩa xóm”, nào quanh quẩn gần nhà “xểnh nhà ra thất nghiệp”, rồi Ta về ta tắm ao ta Dù trong hay đục ao nhà vẫn hơn

Hay là:


80

Lấy chồng khó giữa làng Hơn lấy chồng sang thiên hạ Và rồi tuyên bố thẳng thừng, dù thế nào, làng ta phải là oai nhất về mọi lẽ: “phép vua thua lệ làng”. Như vậy, về mặt khoa học nhân chủng, cũng như nhân bản người Việt còn ở trình độ khá âu trĩ. Về mặt khoa học chúng ta biết, càng dựng vợ gả chồng trong những quan hệ gần gũi nhau như trong một làng, thì càng đẻ ra những đứa con còi cọc, ốm yếu, thiển năng. Thiết nghĩ đó cũng là một lý do khiến giống người Việt đã bé lại càng bé. Trái với cách sống ở Việt Nam, người ấn Độ chẳng hạn, trong nhiều làng, họ cấm trai trong làng được bén mảng đến gái cùng làng dù có yêu thầm nhớ trộm thế nào, trai gái cùng làng cũng không được lấy nhau. Mà gái làng ta giành cho trai làng khác. Và trai làng ta phải ra thiên hạ mà kiếm vợ. Như vậy, những đứa con được ra đời từ gien bố ở các xa gien mẹ, nên to lớn mạnh khoẻ. Tính co cụm, móc nối, cách hẩu là một căn bệnh rất nặng của người Việt, thể hiện ra ở địa phương nào cũng trầm trọng, nó vừa làm phân tán vừa làm suy yếu tính hiệp nhất của quốc gia. Ngay cả thánh thần cũng bị họ chia ra của làng này hay của làng kia, như: Chuông làng nào làng ấy đánh Thánh làng nào làng ấy thờ. Mới đây, còn xảy ra cả vụ tranh thờ các thánh để vụ lợi ngay ở địa bàn giáp ranh hai tỉnh Hà Tây và Hà Nam. ở bên Hà Tây có đền Đức Thánh cả. Bên Hà Nam, thấy bên đó có người đi lễ rầm rập, buôn vàng, bán mã, bán đồ cúng lễ rất phát đạt, liền rào dậu không cho khách thập phương đi qua địa phận làng mình. Sau đó nhái lại làm một đền Thánh cả giống bản nguyên như đúc để lôi kéo khách thập phương đến cúng lễ, mong kiếm lời (đây là tin được đưa trên truyền hình tháng 3/2003). Trong mọi việc vì không giải quyết theo lý mà chỉ lụy tình, người Việt thường có thói quen : người càng thân ta thì càng đúng hơn. Thậm chí có việc người nhà ta, người làng ta, người cơ quan ta sai lè lè, không còn cách nào khác, người đứng ra bênh vực bảo: “anh này cũng đúng, anh kia cũng chẳng sai”. Vì thế mọi người mới có kiểu xưng hùng xưng bá địa phương: “Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng”. ở phương Tây có một cầu thủ vấp phải một cầu thủ của đối phương. Trọng tài phạt thẻ đỏ cầu thủ của đối phương, và cho đội của anh này một quả phạt đền. Lẽ ra anh này phải rất mừng cho mình cũng như đội nhà, được ăn không quả phạt đền của đối phương, nhưng cầu thủ này lại ra sức nói hộ cho bên đối phương - là họ không phạm lỗi. Sau sự kiện này, báo chí đăng tin rầm rộ khen ngợi tấm lòng yêu lẽ phải - ngay thẳng của cầu thủ nọ. Một cầu thủ, trình độ văn hoá có hạn mà đã có cư xử cao cả đến vậy, là cách mà chúng ta nên suy nghĩ. Nhưng khi đã cậy gần nhà để có người bênh, thì những con người đó đi sang làng khác, địa phương khác lại mất thiêng, không có ai bảo vệ nữa, cho nên dù có đúng - có phải cũng trở thành yếu đuối. Đấy, cái kiểu “công lý người làng” hay “công lý tình cảm” yếu ớt đến vậy, ra khỏi làng, là bị phụ thuộc ngay “công lý của làng khác”.


81

Chưa hết, sự cấu kết tình cảm sẽ trở nên hết sức yếu đuối, khi người ta tập trung lại để ỷ thế chiếm ưu thế so với người khác, nhưng ngay trong nhóm sẽ xảy ra, ai cao nhất, ai thấp nhất, ai được làm ông chủ - ai phải hầu hạ, ai được lợi và ai bị thiệt? Người ta không minh định nổi vì không có công lý. Thế là người ta đành giở võ vị kỷ, ức hiếp, thủ thế lẫn nhau. Để phản ánh tình trạng này, người Việt có câu: “Chung nhau thì giầu, chia nhau thì khó”. Và chính lúc chia phần mới là cái lúc “cùng dục vọng thì tranh giành, cắn xé, lấn lướt nhau”. Nhìn vào đời sống, lúc nào cũng có thể thấy ngay tính dễ liên kết dễ xé lẻ của người Việt. Chúng ta vẫn gặp, nhiều người chỉ cần mua một chiếc kẹo, hay bơm một lốp xe, người ta đã xưng hô ngọt xớt “mẹ cho con cái kẹo” hay “bố xem cho con lốp xe”... Chưa quen mà người ta đã xưng hô quá thân mật để làm gì? Để mong người khác có thể lấy rẻ cho mình vài hào, vài giá. Gặp những cảnh đó, có ông già liền nói thẳng “tôi có đẻ ra anh đâu mà là bố anh?”... Ông già đấy cũng khôn, vì ông biết được cái thân tình dễ có thì cũng dễ bị hất bỏ. Có anh vừa câu trước còn gọi “bố già bán cho con cái này, cái kia”, được lúc sau đã chửi “đ. mẹ thằng già”. Con người có thân thì phải có sơ, có quen thì có lạ. Từ lạ đến quen phải có quá trình. Chưa quen mà hạ giọng thân tình như ruột thịt là cánh trục lợi. Chúng ta vẫn biết, như loài cầm thú thôi, con chó muốn trông nhà tốt, thì không phải bạ ai cũng làm quen. Vì kẻ trộm mới lần đầu muốn làm quen thì trước hết quẳng thức ăn cho chó (có khi đánh bả), sau đó nhổ nước miếng cho chó liếm coi như đưa ra “thông điệp mùi”, để tối tao có quay lại đào tường khoét ngạch ngươi đã quen hơi bén tiếng rồi thì đừng có sủa. Như vậy có lạ - có quen, trước lạ sau quen là một quy trình rất tự nhiên. Con người chớ nên muốn trục lợi mà đòi vượt tắt qua chặng này, mong lấy cái tình xoa đi cái lý. Cũng còn những kiểu xưng xưng mọc mọc khác chẳng hạn, đến nhờ hay mua của người ta cái gì liền dở ngay võ tình cảm đã rồi, như: “Cháu biết mà, bác nỡ gì cư xử xa cách với cháu, bác coi cháu như người nhà ấy mà, bác bán cho cháu cái xe này khác gì nhượng lại cho con, cho cháu...” Cứ thế màn diễn văn này cứ lặp đi lặp lại cho đến khi nào người bán phải bán rẻ mới thôi. 17. Gia trưởng độc đoán Người Việt nói: “Sợ người ở phải, hãi người cho ăn” Người ở phải là người sống đúng đắn, hiển nhiên đã có sức mạnh của sự thật và công lý. Người đó mạnh đến mức có thể làm kinh hãi cả đám gian thần và nịnh thần dù đông nhung nhúc. Chính vậy một triết gia đã nói: “Mình tôi với chân lý là đa số”. Điều đó có nghĩa là, bất cứ cá nhân nào sống theo lẽ phải và chân lý thì họ có sức mạnh còn lớn hơn cả số đông sai trái. Chính vì điều này mà Bao Thanh Thiên nổi tiếng thanh liêm - công chính, đã đúc kết nhiều vụ án của ông qua một câu nói: “Đạo người không bằng đạo trời”. Đạo trời, chính là công lý của vũ trụ kết hợp với nhân sinh trong các nguyên lý của sự thật. Trong khi đó, đạo người ỷ đông, ỷ mạnh, có nhằm nhò gì. Người Trung Quốc cũng chứng tỏ sức mạnh của công lý mạnh như lưới trời: “Thiên vòng khơi khơi sơ nhi bất lậu” (lưới trời lồng lộng, thưa mà không lọt). Vì sống thiếu chính đáng, lẽ phải, và công lý, con người thường phải tụ bạ bấu víu đan kết theo lối bè lũ vào nhau. Nhưng sự đan kết đó rất yếu, vì khởi sự người ta cần vụ lợi nên cấu kết với nhau, nên sau khi đã cấu kết người ta vẫn tiếp tục tính toán vụ lợi cho mình. Kết quả, sự móc nối vụ lợi lẫn nhau sẽ mục ruỗng và tan rã. Nếu còn chỉ là hình thức cấu kết hờ, cực chẳng đã. Chúng ta hãy bàn vào gia đình hạt nhân, cha mẹ, vợ chồng, con cái, tưởng là góc trú ẩn nhiều yêu


82

thương nhất, nhưng ở đó nó cũng khơi ra những tính toán ích kỷ đến cay nghiệt. Nơi đó còn thế, nữa là các kiểu cấu kết, tụ bạ hờ. Gần đây, xứ ta, nổi lên có nhiều vụ cha giết con, con giết cha rất đau lòng. Còn các vụ cha mẹ bán con gái lấy một chút tiền thì đếm khôn kể. Chẳng hạn, có hai chị em gái mới qua tuổi vị thành niên, bị mẹ bán sang Cam-pu-chia, mới được vài năm phải phục vụ thú vui thân xác cho đàn ông để kiếm sống, hai chị em đã thân tàn ma dại, bị công an bắt, rồi được thả về quê. Về đến quê nhà, cái mà hai chị em này sợ nhất là phải nhìn thấy mẹ mình, kẻ đã đẩy hai chị em vào con đường địa ngục. Đấy chỉ là sơ sơ nêu lên tính sự kiện. Nhưng cái ích kỷ của gia đình người Việt là một căn bệnh nhức nhối, bị di hậu trong cả ngàn năm, theo tinh thần xã hội và giáo dục, cũng như lề luật. Mở đầu, thời phong kiến đã bắt người ta phải nhất nhất tuân theo: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung, Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu”. Nghĩa là: Vua xử bề tôi phải chết, nếu không chết là bất trung. Cha xử con chết nếu không chết là bất hiếu. Thôi làm vua một nước xử thần chết là phải chết, ta chưa cần bàn. Đằng này trong gia đình, là cha thôi đã toàn quyền bắt con chết là phải chết. Chưa hết, tất cả quyền định đoạt sống chết đó được trao cho tất cả những ai sống ở trên, như cha, như anh. Sau cha là đến anh cũng oai không kém “Quyền huynh thế phụ”. Và làm em thì phải nhịn nhục “làm em ăn thèm vác nặng”. Làm thân con trai đã thế, làm thân con gái thì nhục trăm bề, phải theo Tam Tòng: “Tại gia tòng phu, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”, nghĩa là ở nhà theo cha, xuất giá theo chồng, chồng chết theo con. Vì quyền lực áp đặt từ trên xuống dưới, từ nam xuống nữ đến thế, nên mới nảy sinh tình trạng độc đoán, gia trưởng của người cha với con cái, và người mẹ đối với con gái con dâu. Nào là: Cha nói oan Quan nói hiếp Chồng có nghiệp nói thừa Hoặc là: Muốn nói ngoa làm cha mà nói Muốn nói không làm chồng mà nói. Còn phía phụ nữ thì: “Giặc bên ngô không bằng bà cô bên chồng”. Tình trạng độc đoán giá trưởng còn lộng hành cho đến ngày nay. Có rất nhiều đàn ông đã bỏ áo the khăn xếp, nhưng hoàn toàn nghĩ, sống, và hành xử như những thủ lĩnh phong kiến mặc đồ tây. Có không ít cha mẹ vẫn tìm cách “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”, áp đặt chuyện hôn nhân, làm xảy ra khá nhiều các vụ quyên sinh của đôi tình nhân “chúng ta không lấy được nhau thì thà chết còn hơn”. Mà lý do, để cha mẹ ép gả, nhiều khi chỉ là những tham lam, tính toán vị kỷ vơ vào cho mình hết sức vặt vãnh tầm thường, như xưa nay người việt vẫn chỉ rao:


83

Mẹ tôi tham thúng xôi rền Tham con lợn béo, tham tiền cảnh thưng Tôi đã bảo mẹ rằng đừng Mẹ hấm mẹ hứ mẹ bưng ngay vào. Bây giờ chồng thấp vợ cao Như đôi đưa lệch so sao cho bằng Hay là: Cha mẹ đòi ăn cá thu Gả con xuống biển mù mù tăm tăm Để tham một cuộc hôn nhân cho mình, chứ không phải cho con: Có con gái gả chồng gần Có bát canh cần nó cũng đem cho Hoài con mà gả chồng xa Một là mất giỗ, hai là mất con Xưa kia, người ta đẻ nhiều, thôi thì cứ gả con gái cho ai cũng được, miễn là nhà giầu để kiếm được tiền sính lễ nhiều. Giờ đây, mỗi gia đình chỉ được phép đẻ hai con, nên nhiều cha mẹ không chỉ tham giầu, mà còn tham con lấy chồng gần, để thỉnh thoảng chạy qua chạy lại làm “ô sin”(nhân vật làm người ở của phim Nhật) cho bố mẹ. Nhiều gia đình, con cái đã tốt nghiệp đại học, mà không để con có cả cơ hội cư xử như người có học. Cha cấm cửa con cái. Ra chào khách hộ con, khi tiễn cũng tiễn hộ con. Rồi bản thân vừa làm thuyết khách vừa làm kế “phản gián” cả hai chiều. Với chàng trai, nếu không ưng, ông ta nói: “con tôi nó chẳng ưng anh đâu!” Rồi với con gái ông bố bảo: “Anh ấy chẳng coi con ra gì đâu! Thiết gì mà nghĩ đến loại đàn ông đó”. Nếu sự thể đôi uyên ương càng xích lại gần nhau, thì cha mẹ lại càng thao diễn những trò gian dối, nói này, nói nọ, đâm ra chầy của để phá cho bằng được. Chỉ vì cha mẹ nói ngang Làm cho đũa ngọc mâm vàng xa nhau. Ngăn cấm con cái đã đành, nhiều khi lại đơm lời đặt tiếng cho con cái, khiến cho người ngoài đánh giá con mình không có cả lương tâm. Thật là quá ích kỷ. ích kỷ thứ nhất là không cho con cái được sống một cách đường hoàng ngay trong nhà mình, ra vào tiếp khách không được phép, khép nép như thứ con ở. ích kỷ thứ hai là sẵn sàng bôi nhọ tâm hồn con để làm lợi cho mình. Một lần, tôi đi qua một quán nước nằm đầu ngõ hẻm. Thấy hai cha con nhà kia chửi nhau: - Cha thì bê tha, rượu chè, vạ vật lè nhè chủi: “Tao đẻ mày ra, mày không được hỗn”. - Đứa con là thứ lang thang, vật vờ vì thiếu bàn tay quan tâm của cha mẹ, trả lời như đã suy nghĩ từ lâu: “Tôi cũng cóc cần là con ông. Ông xem, người khác có bố thì được trông cậy, được thơm lây, còn tôi, có bố là một nỗi nhục. Tôi đếch cần nỗi nhục ấy”.


84

Thế đấy, vậy mà, có nhiều cha mẹ khi không bắt ép dược con cái dựng vợ gả chồng theo ý mình thì liền bảo: “Tao từ mày, coi như tao chưa đẻ ra mày”. Thật là ấm ớ và vớ vẩn. Có một sự thật lớn nhất là cha mẹ đã lấy nhau. Mẹ đã mang thai con chín tháng mười ngày, đã đẻ con ra, sự thật đó được cả vũ trụ chứng nhận, vậy mà họ sẵn sàng từ chối sự thật đó, thử hỏi có gì liêm sỉ mà họ không dám làm? Cũng vớ vẩn không kém, nhiều bậc cha mẹ đụng một tí là đuổi con ra khỏi nhà. Theo pháp luật, thì nhà đó có cả phần của đứa con trong đó, tại sao mình lại có quyền đuổi nó. Đặc biệt với các gia đình được cấp nhà, cho đôi vợ chồng có giấy hôn thú, rồi cho con ngay từ lúc đẻ ra - làm giấy khai sinh, thì cha mẹ chúng làm gì có quyền đuổi con ra khỏi nhà, khi mà chính con họ cũng có quyền dự phần trong ngôi nhà đó. Khi cha mẹ ức hiếp quyền sống của con cái, thậm chí coi con cái như phương tiện sống cho mình, cũng là các triết gia, đặc biệt là triết gia Kant và Hegel, gọi đó là hình thức bị coi như nô lệ, thì những đứa con không dám phản đối lại, nhưng gây ra những chống đối ngầm, hay bí mật tích luỹ ích kỷ cho riêng mình. Lịch sử của Trung Quốc và Việt Nam, đầy rẫy các chuyện trong cung đình, anh em tróc nã, giết chóc, giành giật quyền hành lẫn nhau. Còn ở thứ dân thì các bi kịch xảy ra, tuy không khốc liệt bằng, nhưng cũng đầy những tai ương “nồi da xáo thịt”. Sự ích kỷ trong gia đình người Việt biểu lộ một cách rõ nhất, khó mà chối cãi qua cách sống: “Đời cua cua máy, đời cáy cáy đào”. Đó cũng là lối sống thích hợp và tương ứng với kiểu “Ăn xổi ở thì”, “Nước đến chân mới nhảy”, hay sống ngày nào qua ngày đó. ở phương Tây, người ta có nhiều chai rượu cất đến vài trăm năm, nho từ đời ông ủ đến đời chút - chít, mới đóng vào chai. Hay có những khúc gỗ làm đàn mua rất đắt tiền, lại ngâm nước qua mấy đời, từ ông, qua cha, đến cháu, rồi chít mới đem ra làm đàn. Hay trong rất nhiều ngành sản xuất khác, hoặc trong việc để lại tài sản cho con cái, người phương Tây thường có cách đầu tư lâu dài cho các thế hệ sau. Chẳng hạn, khách du lịch thăm Mát - xcơ - va, có những đường phố ở trung tâm, xưa kia chỉ làm cho xe ngựa đi, vào lúc mật độ dân số còn thưa thớt, vậy mà những lớp con cháu hiện đại của họ giờ đây vẫn thấy rất thênh thang. Đúng là đời ông, đời cha làm, cho con cháu không phải làm lại nữa. Trái lại đường xá, nhà cửa ở xứ ta mới làm vài năm đã phải cơi nới, đập đi xây lại để phù hợp với chức năng mới. Thật đúng là, không những lớp con cháu không được hưởng lộc của cha ông, mà còn “đời cha ăn ốc đời con đổ vỏ”. Cách sống ích kỷ của ông cha, mới kiếm được vài xu, đã tìm cách lấy vợ bé, mua rượu về chén chú chén anh, mặc kệ đời con “đời cua cua máy đời cáy cáy đào”, đã dẫn đến sự ích kỷ không kém tàn nhẫn của lớp con em. Thời hiện đại, không ít những người nghĩ rằng: “cha mẹ già chỉ là thứ phân bón cho đời con”. Nghĩ mà rùng mình!

18. Ích kỷ, đố kỵ. trâu buộc ghét trâu ăn Trong gia đình, vì người trên ích kỷ chỉ tính cái lợi cho mình, nên con cháu chẳng còn cách nào khác là đem cái tính toán vụ lợi cho mình thi thố ngoài thiên hạ. Xưa kia người Trung Quốc có câu: “Kẻ chỉ tính lợi cho mình sẽ hại đến gia đình, kẻ vụ lợi cho nhà mình sẽ hại cho xóm giềng, kẻ vụ lợi cho xóm giềng sẽ hại đến xã tắc, kẻ vụ lợi cho xã tắc sẽ hại đến thiên hạ”.


85

Chúng ta đã biết, kết quả vụ lợi cho cá nhân mình, cho nhà mình, và cho làng mình, mà dẫn đến: “Phép vua thua lệ làng”. Người Việt vẫn nói: “ích kỷ hại nhân”. Vì sự vụ lợi cho mình mà hại đến người khác. Có thể nói nhìn đâu cũng thấy sự ích kỷ manh mún của người Việt. Ngay ở trung tâm Hà Nội, tôi thường xuyên được chứng kiến cảnh thế này. Sau khi nghe xong buổi hoà nhạc cổ điển, những khán giả đổ ra bãi xe máy. Việc đầu tiên, hầu hết người nào người nấy khởi động nổ máy, rồi vội vàng lao ra cửa. Nhưng ai cũng làm vậy nên dồn tắc lại. Cả đám đông, nói chung thuộc giai tầng văn hoá cao nhất xã hội, những người đã yêu thích nhạc giao hưởng, thính phòng, vậy mà tất cả lại “tự giác” nổ máy, cam chịu ăn khói và nghe tiếng nổ giữa một bãi xe tắc nghẽn đông cứng lại. Có một điều đơn giản, thay vì nổ máy để người khác phải ăn khói và nghe tiếng nổ, tại sao chúng ta lại không chịu khó dắt xe qua cổng, để người khác không phải ăn khói của xe mình, cũng như mình không phải ăn khói của xe người khác? Câu trả lời có phải vì trình độ văn hoá của chúng ta còn khá thấp, và trình độ ích kỷ còn khá cao? Còn những việc khác, uống xong một lon bia, người ta quẳng nó ra giữa đường, như vậy rác của ta đã trở thành rác của xã hội. Hay quét nhà, vớ được con chuột chết, người ta cũng quẳng nó ra ngoài đường, ném ra đó để “cha chung không ai khóc”. Hiện nay, ở nhiều thành phố, đâu cũng thấy cảnh này, người ta xây nhà to, cao, nhưng chỉ trừ mặt tiền người ta làm rất đẹp, nhưng ba phía kia quét hắc ín để chống ẩm, và họ cứ bày cả ba mảng tường đen xì đó kệ cho hàng xóm và thiên hạ thưởng thức. Một hình ảnh vừa ích kỷ, vừa nghèo hèn, xây được cái nhà to đến vậy, mà còn nhất định chỉ quét sơn phía trước cho mình đi ra đi vào, mặc kệ phía còn lại. ích kỷ biểu hiện cao độ là “Sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi”, như nạn “đinh tặc” xảy ra mới đây chẳng hạn, có một số kẻ đã rải các loại đinh xuống đường, để phá lốp các xe máy đang chạy tốc độ cao, nhiều xe thủng lốp, mất tay lái gây tai nạn, mà mục đích kẻ rải đinh, chỉ định kiếm chút công ăn việc làm bằng công vá săm cắt cổ. Còn sự ích kỷ tắc trách lớn thì không thể lường hết hậu quả của nó. Như cầu chui Văn Thánh hai chẳng hạn, do bị ăn bớt vật liệu, công xây dựng, mà cầu mới xây xong đã rạn nứt xuống cấp, gây nguy hiểm cho khách qua lại cũng như cả một bộ phận lớn của dân cư xung quanh. Mới đây, còn có cả những chuyện, người ta bắc cả những cây cầu giá cả tỉ đồng qua những khúc sông không có đường đi, và chiếc cầu vừa to, vừa dài, vừa chắc đó, chẳng để làm gì ngoài việc nó lý giải cho một khoản tiền thụt két nào đó. Lợi cho mình - hại mặc người, là mục đích theo đuổi của rất nhiều người ích kỷ, như các hợp đồng mua máy bay cũ, hay thuốc tân dược hết hạn sử dụng, hoặc các hợp đồng lao động ép giá công rẻ mạt khác... Để kiếm tiền lời - chia đôi bỏ túi cả tỷ, còn mặc người đi máy bay mất an toàn, hay người uống thuốc dởm mắc tai nạn, cũng mặc kệ. Những việc trông thấy đã vậy, còn những việc khó trông thấy, còn xảy ra vô cùng khuất tất. Chẳng hạn một cỗ máy đắt tiền mua về đắp chiếu bỏ đấy, một hợp đồng nhiều tiền đã được thực thi, nhưng có một chi tiết máy, hay một chi tiết nào đó thuộc chức năng hoặc lý do không vận hành, thế là cả cỗ máy nằm mơ cũng không có ấy, trở thành một đống sắt nằm liệt vị. Còn một sự ích kỷ đại trà hiện nay là quan hệ yêu đương trai gái. Thôi thì cảnh bê tha, nguyền rủa nhau xảy ra ở khắp nơi. Vì nhiều trai thanh gái lịch, sinh ra trong các gia đình, bố mẹ tính toán ích kỷ chỉ nghĩ lợi cho mình, nên bước ra đời họ cũng chỉ lo tính toán cho mình. Đặc biệt trong thời buổi kinh tế thị trường ngày nay, tính thực dụng phi nhân của nhiều người càng phát triển. Nạn trục lợi, trục lạc trong quan hệ khác giới hoành hành một bộ phận rất lớn của xã hội. Khiến nhân cánh tha hoá đến mức báo động. Chàng kia trục lạc nàng sau đó bỏ rơi nàng trong nhà y tế - đang lo nạo thai, rồi sau đó bị nàng nguyền rủa không tiếc một lời nào. Hay nàng nọ đưa chàng hoặc vài chàng vào trong ống ngắm của một máy tính nhẩm, trục hết các lợi ích của


86

chàng, sau đó thải chàng vào trong sọt rác như chưa từng quen biết, khiến chàng phải rủa “đúng là đàn bà nan hoá”. Triết gia J.P Sartre có nói “Đam mê là trách nhiệm”. Vì đam mê giới tính giữa chàng với nàng là một mối liên kết con người sâu xa nhất, bởi thế nó cần phải được thực thi bằng một trách nhiệm nhân bản nặng nề và nặng tình nhất. Người Trung Quốc quan niệm: “Hạnh phúc” là muốn hưởng Phúc thì Phải tròn bổn phận. Như người Việt quan niệm: Có vất vả mới thanh nhàn Không dưng ai dễ cầm tàn che cho. Không trồng cây sao đòi hái quả. Trong quan hệ yêu đương, cả tiền yêu đương là khi lựa chọn có thể có - có thể không và hậu yêu đương là khi chia tay, con người muốn hưởng lạc thú tình yêu, thì cần phải biết thực thi những bổn phận của mình, chớ để phải trở thành nạn nhân bị nguyền rủa của con tim. Nạn đố kỵ ở ta, xảy ra vừa đại trà vừa mạnh mẽ, với nhiều hình thức. Có khi thấy con lợn hàng xóm lớn nhanh hơn lợn nhà mình cũng tức. Thấy hàng xóm xây nhà cũng tức. Hay thấy con cái người thành đạt cũng tức. Trước kia trong chiến tranh, ở địa phương nào cũng gặp cảnh, nhiều gia đình có giấy gọi đi học đại học, hoặc đi nước ngoài thì bị đường dây xã, thôn, xóm giữ lại; nhưng trái lại khi có giấy gọi nhập ngũ thì được đưa rất nhanh. Việc thẩm tra lý lịch cá nhân cũng vậy. Nếu điều tra để cháu đi bộ đội hay thanh niên xung phong thì nói chung “anh này tốt”, nhưng điều tra để đi học nước ngoài hay vào Đảng thì “anh này còn nhiều vấn đề lắm, hình như thế nọ, hình như thế kia”, người ta nói ra rất nhiều những thứ khẩu thiệt vô bằng. Tình trạng đố kỵ mạnh đến mức, ở nhiều miền quê, hay miền núi, chi bộ Đảng trong mấy chục năm không có nổi một Đảng viên mới nào, nếu có một vài Đảng viên trẻ tuổi thì số này đã thoát ly, đi bộ đội, hay công tác, vào Đảng ở đơn vị và cơ quan, chuyển sinh hoạt Đảng về quê. Tại sao có tình trạng đó? Vì mấy ông Đảng viên già không muốn chia quyền lợi lãnh đạo địa phương cùng những người trẻ tuổi xông xáo hơn, không muốn nhìn các Đảng viên trẻ ngồi cùng chiếu với mình, nên cùng tâm không phát triển Đảng vào giới trẻ. Tình trạng “trâu buộc ghét trâu ăn” diễn ra tràn lan khắp nơi, đó là thứ tâm lý tiểu nông cỏn con, manh mún gây cản trở rất nhiều cho sự phát triển của toàn xã hội. Tình trạng này càng trở nên gay gắt hơn, khi tính chuyên môn ở ta còn chưa được nâng cao, nền nông nghiệp chưa phân hoá thành các nghề đa dạng như thủ công nghiệp, hay công nghiệp hoá. ở đầu cuốn sách chúng ta đã bàn về tính “sở trường” và chuyên môn hoá. Một cô hàng thịt bán hàng cạnh một cô hàng rau, cạnh một cô hàng muối, cạnh một cô hàng xén, cạnh một cô bán hàng giải khát, thì sự cạnh tranh gần như không có. Vì lẽ người ta vừa muốn mua thịt, vừa muốn mua rau, mua muối, và uống nước. Nhưng nếu các cô không biết mở quán theo sở trường của mình, thấy hàng hoa có lãi chẳng hạn, liền đổ xô vào buôn bán hoa, sẽ dẫn đến cạnh tranh, đố kỵ khủng khiếp. Lâu nay, và bây giờ vẫn còn khá phổ biến công thức tiến thân của một con người là: học xong kiếm một việc làm trong hệ thống nhà nước, người lo trau dồi chuyên môn thì ít, người lo leo ghế thì nhiều, kết quả gây quá tải trong các cơ quan công quyền, làm cho sự cạnh tranh đố kỵ thiếu lành mạnh càng ngày trông giống con đường một mất - một còn, quá hẹp, chỉ lo tiến thân bằng sở đoản hơn là thực thi những chức năng có sở trường.


87

19. Nịnh trên, đạp dưới, đá ngang Người Việt có câu: Lười hay cười nụ Cả vú thích vuốt ve. Tại sao, lười hay cười nụ? Vì cười để mọi người xí xoá cho mình. Chính vì thế mà người Việt còn nói: “Cười cầu tài”. Tài thức là tiền. Cười kiểu đó là cười vụ lợi, làm dối, làm ẩu, làm quấy quá sau đó cứ diễn những nụ cười cầu tài. Người ta cười cầu tài nhiều đến mức, nhiều nhà dân gian hiện đại đã dùng cụm từ “nhe răng thường trực”. Nghĩa là có những người cười và cười, mọi nơi mọi lúc, mong người ta xí xoá cho mình hết cái này đến cái khác. Người Việt cười cầu tài nhiều đến mức, các nhà ca dao hiện đại đã đặt vè. Ăn nhanh, đi chậm, hay cười Hay mua đồ cũ là người nào đây? Cười cầu tài cũng là cười nịnh, ra vẻ ta thân tình lắm, ta cởi mở lắm với mọi người, và xin mọi người hãy nương tay hoặc ưu tiên cho công việc tồi hay sản phẩm xấu của ta. Nhưng ở đời, đã nịnh với trên thì lại ra vẻ hoạnh họe với kẻ dưới. Nịnh với người trên để vụ lợi. Nạt nộ kẻ dưới để ra oai. Các nhà xã hội học phát hiện rằng, những đứa trẻ con chơi trò dạy và học, thì rất nhanh rã đám, bởi vì đứa nào cũng muốn được làm thầy giáo, cô giáo, ra tay bắt học sinh phải trả lời thế này thế nọ, làm cho đứa làm học sinh phải bị vâng lời đâm ra chóng chán. Như vậy cái bản năng quyền lực của con người đã nảy sinh một cách rất tự nhiên từ thời thơ ấu. Triết gia Aristote nói rằng: “Con người là một động vật xã hội”, và cũng còn có câu “Con người là một động vật chính trị”. Điều đó cũng thật hiển nhiên và lô gíc, vì chính trị đóng vai trò trọng tâm nhất của hệ thống xã hội. Như vậy quyền lực trong ý nghĩa chính đáng là động năng vận động tốt lành của một xã hội. Khi đó người có chức quyền cao là người được chọn trong sứ mệnh cao hơn người, để thực thi chức năng giúp hệ thống công quyền hoạt động. Đó vừa là giá trị vừa là văn hoá của quyền lực. Đằng này, với không ít người, quyền lực chỉ đơn giản ăn trên ngồi chốc người khác, hưởng bổng lộc hơn, viết văn, làm thơ, vẽ, làm phim thì dễ được giải thưởng. Chúng ta hãy quay trở lại trò chơi “dạy và học” của trẻ con. Trò chơi rã đám, vì ở đó, một cách tự nhiên, những đứa trẻ đã thích ăn trên ngồi chốc các bạn, và cũng bởi đó ý nghĩa “vì người khác” bị hạ thấp. Một trò chơi để mọi người cùng vui, lại chỉ giành cho một vài đứa vui vì được ra lệnh, còn những đứa khác phải buồn khi thấy mình lủi thủi vâng lệnh bạn như con ở. (vì vậy trẻ con thường chuyển sang trò chơi bán hàng - mua hàng, cách đó bình đẳng hơn, vì thuận mua vừa bán). Vì nếu ai cũng muốn ăn trên ngồi chốc, thì sẽ sinh cảnh cạnh tranh. Người Việt có câu ca dao hiện đại: “Căng da lưng chùng da bụng”. Đó là những kẻ thấy người mạnh hơn mình thì gập mình xuống nịnh bợ để được nâng đỡ tiến thân, vì thế mà da lưng cứ căng lên, còn da bụng thì gấp lại. Chưa hết, nhìn thấy kẻ yếu hơn mình thì đạp lên đầu mà đi. Còn những kẻ ngang mình,


88

thì tìm cách phá ngang. Bởi thế mới có câu tục ngữ hiện đại chỉ lối cạnh tranh tiến thân là: “nịnh trên, đạp dưới, đá ngang”. Về việc ích kỷ, đố kỵ, chèn ép, kéo kẻ ở trên xuống, không muốn cho ai hơn mình, người Việt có một câu chuyện tiếu lâm hiện đại rằng: Tổ chức cảnh sát quốc tế xây dựng một trung tâm tạm giam quốc tế, để bắt giữ tội phạm của các nước. Ông giám đốc ra lệnh cho các nhân viên rằng: nhà giam của tội phạm các nước cần làm tường và mái chắc chắn. Vì nếu không làm vậy, chúng sẽ công kênh trèo lên vai nhau, chuồn ra ngoài. Nhưng nhà giam cho các phạm nhân người Việt thì không cần mái, vì có đứa nào sắp leo lên khỏi tường thì sẽ bị chính đồng bọn của mình lôi xuống. Vì chúng không muốn cho ai hơn mình, theo cách sống đã hằn sâu trong óc: “Chết một đống còn hơn sống một mống”. Câu chuyện của người Việt nghĩ ra tự giễu cợt chính thói ích kỷ của mình, rất đáng để chúng ta cùng nghĩ ngợi. 20. Tính khí thất thường: mai nắng - trưa mưa - chiều nồm Lý trí bao giờ cũng tiến đến nguyên lý hành động cốt yếu của mỗi người, cũng như xã hội. Khi lý trí yếu, lại chỉ sống nhờ vào những cảm xúc nông nổi, thì hiển nhiên con người sẽ sống theo những phản xạ “dễ làm khó bỏ”, chúng thay đổi, và bồng bột. Người Việt có hàng loạt các câu tục ngữ, ca dao để diễn tả lối sống “được chăng hay chớ” này. Chúng ta vẫn biết, đời sống lý trí rất quan trọng vì nó quy định: đó là đời sống của ông chủ. Còn đời sống của cảm xúc tuỳ tiện “được chăng hay chớ” chỉ quy định trình độ sống còn ở mức bản năng - con sen thằng ở. Người Việt nói: “Mai nắng, trưa mưa, chiều nồm”, là muốn nói khí hậu ở xứ ta phức tạp; sáng ra thì nắng, trưa thì mưa, chiều lại trở gió nồm, còn tối và đêm không biết gió gì. Nhưng câu nói trên cũng chỉ hạng người thay đổi như chong chóng, lúc thế này lúc thế khác. Lý trí không có mặt để ấn định cho mình một chủ kiến nhất định. Từ sự thay đổi “thời tiết‟ như vậy, người Việt cũng chỉ ra những lối sống nhỏ bé “Ăn xổi ở thì” như: - “Gió chiều nào che chiều nấy”. - “Nước đến chân mới nhảy”. - “Vui đâu chầu đấy”. - “Theo đóm ăn tàn”. - “Giậu đổ bìm leo”. - “Đắm đò giật mệt”. Về mặt sinh học, chúng ta đều biết, những loài sinh vật thấp kém thì nhiệt độ cơ thể thay đổi theo nhiệt độ môi trường. Nhưng tạo hoá tạo ra con người là một sinh vật cao cấp ưu đẳng khác hẳn


89

các sinh vật khác ở chỗ, nhiệt độ cơ thể của con người không thay đổi theo nhiệt độ của tự nhiên. Cũng vậy, con người biết sống có chính kiến, lập trường, và lựa chọn thì hơn hẳn con người sống vật vờ được chỗ nào hay chỗ nấy. Sống được chăng hay chớ là lối sống vất vưởng của kẻ hèn kém, tha phương cầu thực, miếng ăn của mình phụ thuộc vào việc người khác cho mình nhiều hay ít. Như người Việt cũng xác định, hạng người đó chỉ có thể “theo đóm ăn tàn”, “theo voi hít bã mía”. Trái lại người làm chủ thực sự phải là: có trồng cây có hái quả, “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”. Triết gia Hegel cho rằng, con người sống xứng đáng thực thụ, phải là người: Mình vẫn là mình trong hoàn cảnh chống lại mình và hoàn cảnh càng bất lợi với mình thì càng chứng tỏ ý chí làm người kiên định của mình. Người Việt chẳng nói đó thôi: Lửa thử vàng Gian nan thử sức. 21. Đầu voi đuôi chuột “Đầu voi đuôi chuột” là câu nói lột tả rất mạnh mẽ cung cách làm ăn của người Việt, nghĩa là mở màn thì khởi sự công việc to như đầu voi, sau đó làm việc cứ thắt dần - thắt dần, bé dần - bé dần, thành ra cuối cùng bé như đuôi chuột. Tại sao lại có hệ quả như vậy? Đây cũng là hệ quả tất yếu thôi, vì như chúng ta đã tìm hiểu người Việt sống rất yếu ớt trong việc suy lý và duy lý. Muốn làm bất cứ việc gì ở đời, thì bộ não phải sản sinh sự hướng đạo cho cơ thể, sau đó miệng phải ra mệnh lệnh, cuối cùng mới đến chân tay hành động. Như người Việt hiện đại có một câu tục ngữ: “Tư tưởng không thông vác bi đông không nổi”. Nhưng tư tưởng cũng như chính kiến của người Việt nói chung là chưa có thói quen được đào luyện trở thành vạm vỡ, ngôn ngữ thì ấp úng thiếu mạch lạc “tháng ba cũng ừ tháng tư cũng gật”, vì thế hành động không có lý trí để minh định và gìn giữ chủ kiến, nên thành ra cứ làm kiểu “đầu to đít bé”, thậm chí làm qua loa đại khái, tồi tệ hơn là làm kiểu “trăm voi không được bát nước sáo”. Về chuyện thiếu lý trí dẫn công việc từ to thành nhỏ, người Việt vẫn hay kể câu chuyện, đẽo cày giữa đường. Ông kia, mang khúc gỗ ra bên lề đường đẽo cày. Thế là người đi xuôi nhận xét một câu, vì không có chủ kiến ông liền đẽo theo cách họ bày; người đi ngược lại nói cách khác, vì không tự tin vào mình ông cũng liền đẽo theo ý họ. Rút cục ông cứ đẽo mãi, đẽo mãi, khúc gỗ nhỏ hơn cả một cái thìa. Thế là, ông đành đẽo nó thành một chiếc chìa vôi, chỉ to hơn chiếc tăm một tẹo, dùng cho các bà ngoáy vôi ăn trầu. Cũng chuyện tự tin vào lý trí của mình, người phương Tây có chuyện. Chàng hoạ sĩ kia vẽ một ông tướng, và đem bày bán ở giữa chợ. Liền có một người đi qua bảo, đôi giầy không giống lắm. Chàng hoạ sĩ hỏi ra, mới biết người nhận xét đó làm nghề đóng giầy. Chàng liền cám ơn ông thợ đóng giầy rất thành tâm, và sau đó lấy bút vẽ sửa lại đôi giầy. Khi chàng hoạ sĩ đã vẽ lại xong


90

đôi giầy, thì ông đóng giầy kia liền lên giọng nói, còn chỗ này chưa giống, chỗ kia vẫn sai. Chàng hoạ sĩ liền bảo với ông thợ giầy: “Thưa ông, ông đã đi quá xa đôi giầy của mình rồi đó”. Đấy, khi có lý trí và vững chuyên môn thì người ta biết nghe đến đâu và làm đến đâu. So sánh thì thấy, do thiếu yếu tố duy lý trong mọi lĩnh vực của đời sống, người Việt thường làm các việc từ “đầu voi” thành đuôi chuột. Khi nói người Việt còn yếu kém về lý trí, chúng ta chớ nên khoác lấy mặc cảm tự ái. Ngay nước Nhật rất giầu, rất tiên tiến về khoa học kia trước Đại chiến thế giới hai, vào thời “Minh Trị duy tân” (1852 - 1912), người Nhật cũng đã xác định, nước Nhật muốn phát triển hùng cường, thì điều quan trọng nhất phải phát triển sự duy lý và ý thức khoa học. Nghệ thuật bị đặt xuống hàng thứ yếu. 22. Thể hiện nhiều, thực hiện kém Trước năm 1975, khi đất nước chưa thống nhất, ở phía Nam có lời một bài hát như sau: “Bao nhiêu kiểu mới đưa sang Việt Nam mà bắt chước Còn hơn, hơn nước ngoài”. Tại sao chúng ta lại hay bắt chước? Câu trả lời vẫn là: Chúng ta thiếu khả năng phát minh của lý trí, nên đành phải dùng trực cảm để bắt chước. Vậy tại sao chúng ta thích thể hiện? Vì thể hiện là cách bày tỏ những thể thức bề ngoài, nó tương tự như cách nhìn người khác mà bắt chước nên chúng ta thường chuộng kiểu này. Đơn giản như các gánh hát hiện đại chẳng hạn, người phương Tây, làm gì đều có chức năng thực hiện từ trong xương tuỷ, họ la réo, hú, gầm khi hát để bộc lộ những cảm xúc của mình. Câu nào cần đau khổ thì ca sĩ phải cất cao giọng hát như muốn vỡ tim. Trái lại, người Việt thường quan niệm, ca nhạc là loại hình giải trí, nên chớ có hát mà đau đầu nên hát chùng thôi, thế là có biết bao gánh hát, tập hát những bài của Tây, nhưng lại hạ giọng chùng xuống. Than ôi, điệu bộ thì bắt chước người ta nhưng tâm hồn của người lên cao trào thì ta lại đòi thư giãn, thành ra nhảy múa thì loạn xạ vẻ hùng mạnh. Nhưng lời cất lên lại ẽo uột “nửa dơi nửa chuột”, nom đúng là cách “tâm hồn ăn cỗ trên chân tay”. Hay như nạn đua xe máy chẳng hạn, ở Tây có những đua trường để người ta có thể thoả mái xưng hùng - xưng bá - “xưng mạo hiểm”. Đằng này ở ta, nhiều thanh niên lại diễn trò thao diễn ngay trên đường phố, làm khổ nhiều người. Nhưng đề mục này đặc biệt có liên quan đến giới tri thức văn học nước nhà. Xứ ta thấy nghe nói làm thơ là “thiên sứ của lời”, thế là cũng đua nhau làm thơ. Nhưng than ôi kể từ thời Thơ Đường đến nay đã trên 1500 năm, người Trung Hoa cũng “bỏ xó” Thơ Đường lâu rồi, ở ta vẫn cứ hà hít là “hay lắm”. Nhưng họ đâu có quan niệm cái hay của nó nằm ở nghệ thuật, mà là ở chỗ nó chỉ có vài câu quá thích hợp với sự lười nhác bé bỏng của mình.


91

Đến khi, thế giới có chuyện ngắn mi-ni, thì cũng đua nhau viết, vì chuyện mi-ni rất hợp tạng với kẻ vừa yếu vừa lười. Đã thế còn đua nhau phát triển truyện ngắn không có cốt chuyện. Sao người ta không từng biết, triết gia Aristote, đã coi cốt chuyện (story) là yếu tố đầu tiên của văn chương, cũng như người Việt xưa nay đều quan niệm “có tích mới dịch nên trò”. Thực ra người ta thích truyện không cốt chuyện vì nó phù hợp với thể tạng tuỳ tiện, lười biếng của người ta. Rồi chưa viết nổi tiểu thuyết, thấy thế giới nói “tiểu thuyết đã chết”, thế là ào ào nói theo: Tiểu thuyết đã chết! Rồi thấy thế giới bảo: “phản lý trí”, thì cũng đua nhau nói phản lý trí. Than ôi, chúng ta đã từng có nhiều lý tri đâu mà đòi phản nó. Như các nhà mỹ học nói: “Chỉ khi nào ta dứt áo rời khỏi nhà thì mới có lúc tận hưởng giờ phút trở về”. Thiếu lý trí, chỉ sống duy cảm, vậy mà nghe người khác nói “phản lý trí” thì cũng ùa theo nói: Lý trí đã chết, và: Lý luận thì mầu xám Cây đời mãi mãi xanh tươi. Thực ra nhiều người nói thế, để khoả lấp, để xuê xoa, để nuốt chửng vấn đề người ta chưa từng sống lý trí. Triết gia Socrate cho rằng: “Không có một biến cố nào tai hại cho một con người cho bằng nó thù ghét lý luận”. Thù ghét lý luận là thù ghét cái cao nhất của nhận thức. Chính điều này cũng đã được thể hiện qua các sinh hoạt chính trị cao nhất của nước nhà rằng: Các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, và các cơ quan ngôn luận, cần phải nêu cao, tăng cường hơn về lý luận. Thấy người ta diễn kịch, mình cũng diễn kịch, thấy người ta đóng phim mình cũng đóng phim. Nhưng người ta đóng như thật, còn ta đóng phim sợ người xem khi xem không biết mình là diễn viêm, nên đóng phải “lộ đuôi” là đang diễn. Than ôi! Thấy người ta, viết thơ, viết truyện ngắn, viết tiểu thuyết thì cũng bắt chước, nhưng than ôi, người ta thể hiện những nội dung sống trong tác phẩm của mình, còn ta ngoáy, bới, ám thị hết trò nọ đến trò kia. Mong được nổi tiếng như “diễn viên” nhà thơ, nhà văn. Thấy người ta đỗ tiến sĩ ngành nọ ngành kia, ta cũng đua nhau làm bằng tiến sĩ. Làm tiến sĩ mà không viết nổi một tiểu luận về chuyên ngành mình nghiên cứu thì làm làm gì? Thấy người ta làm lý luận, thì ta không chịu làm, vì chỉ quen “dễ làm khó bỏ”. Thêm nữa làm lý luận phê bình thì chỉ khen người này chê người khác, khen hay chê cũng chỉ cho người, như vậy lòng ích kỷ của ta không được mân mê nắn bóp nên không làm. Nhưng không làm, thì không phải kẻ khác được làm, mà phải bị ra sức chê bai đố kỵ: sao chẳng có ai chịu làm lý luận phê bình? Không có nước làm sao có cá? Mỗi cá nhân còn không trau dồi trong đầu lý trí cho phê bình, thì làm sao có thể nói chẳng có con cá voi phê bình nào bơi cả? Phê bình là gì? Là phán xét, là phân đẳng cấp, kẻ cao - người thấp. Nhưng tự thân cảm thấy mình thấp bé, cũng tất nhiên thôi vì con người không trau dồi lý trí làm sao lớn được, nên loại bỏ lý luận phê bình ra khỏi đời sống văn nghệ, để ù xọe, ai cũng như ai, “xấu đều còn hơn tốt lỏi”, cho dễ chui lủi, và dễ sống. Ngay cả thất nghiệp cũng có nhiều trình độ thất nghiệp. Thất nghiệp ở những nước công nghệ cao, là những công nhân đã được đào tạo tay nghề, khi bị thất nghiệp có thể vẫn ngồi đợi ngoài dây chuyền sản xuất, thấy ai bị đau ốm thì có thể vào thay thế. Tóm lại, đó là những người có


92

“nghiệp” mà tạm thời “thất”. Nhưng thất nghiệp ở xứ ta, hầu hết là những người chưa qua đào tạo, chưa biết làm gì, nên chưa có cả “nghiệp” để mà “thất”. Đó là thất nghiệp bàn về nội dung cũng như hình thức, cũng là bàn cái thực hiện bên trong và cái thể hiện ra ngoài. Nhìn một người cầm cuốc trong lao động đơn giản ta khả dĩ thể hiện ngay giống như anh ta. Nhưng nhìn một người cầm vô lăng ô tô, thì sự thể hiện không hề đơn giản chút nào, không thể cứ cầm vô lăng xoay qua xoay lại, vớ vẩn chạm phải chìa khoá khởi động, xe lao đi, toi mạng như không. Cũng vậy nhìn người ta cầm bút, thể hiện cầm lấy ngay cũng dễ, nhưng để thực hiện viết văn, làm thơ, hay phát minh những công trình thì thiên khó vạn nan, người cầm bút phải chất chứa thiên kinh vạn quyển trong đầu. Thế vẫn chưa đủ, người Pháp nói: “Cái đầu biết hành động quý giá hơn cái đầu chỉ đầy ắp chữ” (Mieux vaut une tête bien faire qu‟une tête bien pleine). Sự thể hiện và thực hiện khác nhau như hoa nhựa và hoa thật. Hoa nhựa có mọi thứ như hoa thật có và giống hệt mẽ bề ngoài, chỉ tội không có sức sống ở bên trong và hoa thật có sức sống, có hạt mầm ở trong, nó có thể lên mầm một cây hoa mới lớn gấp tỷ lần, cây ấy lại tiếp tục ra hạt mãi mãi không ngừng. Vậy thì nhìn nhà văn, nhà thơ (Các nhà khoa học nữa), thì thấy dù nổi tiếng đến mấy cũng chỉ viết được vài chục truyện ngắn, mấy tập thơ mỏng đến mức con kiến nằm vắt ngang gáy bìa không đủ chỗ, hay viết được một cuốn tiểu thuyết “một lần vắt kiệt thành bã”, còn các cây bút trẻ thì hầu như không có ai có được bóng cây toả lan sau tuổi ba mươi, khiến mọi người phải nghĩ đây là những măng non chặt sớm đòi đóng nhãn xuất khẩu nên không lớn thành tre được, hay là hạt giống đem đồ thành xôi - làm oản để ăn ngay nên không thể gieo hạt, hoặc những bông hoa chưa kịp nở đã tàn... Như vậy đủ thấy các cây bút ở ta phần đông mới chỉ viết ở mức thể hiện, mà chưa đạt đến tầm “thực hiện”. Viết văn phải thực hiện những gì? Tri thức sống! Khát vọng sống! Thực tại sống! Lý tưởng sống! Nhân cách sống! Phẩm chất sống! Nhưng các nhà văn xứ ta hầu hết mới chỉ bày tỏ một ít hiện thực sống và ao ước sống. Ao ước chưa phải là khát vọng! Mà mới giống người thuyền chài lười biếng thả lưới lại nằm ao nước có con chim rụng cánh xuống thuyền mình, thế là chỉ cần nướng lên ăn. Có không ít nhà thơ, viết được vài bài thơ ngắn trong tầm trang giấy, mà đã ước ao biết đâu lúc nào trúng số độc đắc, giải Nobel sẽ rơi vào giữa những vần thơ tinh lọc của mình. Hay có nhà văn, viết được một cuốn sách, mà hàng năm đến kỳ xét giải Nobel lại cùng bầu bạn uống rượu chờ đợi biết đâu đó ban giám khảo đã bỏ phiếu cho ta. Thật là hy vọng hão huyền. Các giải thưởng lớn không bao giờ người ta chỉ bỏ phiếu cách cầu may, mà người ta phải xét duyệt quá trình lao động nghệ thuật của nhà văn đó. Nhưng mới chỉ có một cuốn sách làm sao thấy được quá trình? Nhiều cây bút “thấp bé nhẹ cân” sở trường chơi đồ hàng thường biện hộ: “Hay cốt gì dài”. Tại sao người ta không biết, không lớn sao thành đại dương. Người Việt vẫn nói “Vét nồi ba mươi cũng đầy niêu mốt” hay: Sống lâu mới biết đêm dài Ở lâu mới biết lòng người có nhân. Trong một khoảnh khắc, trong vài vần thơ để làm một cú thăng hoa dễ lắm, nhưng mọi sự đồ sộ, vĩ đại ở đời đều được hình thành nhờ cấu trúc. Một phân tử ADN của sự sống thôi đã là một cấu


93

trúc vô cùng phức tạp. Nhưng chớ có biện hộ, nhỏ như một phân tử còn sắp đặt kỳ diệu đó thôi, mà các phân tử ADN, sau khi đã tự sắp đặt mình, đã sắp đặt cả một vũ trụ sự sống bát ngát mênh mông. Những điều lý giải trên không thể nói chơi. Mà là, chưa nói đến chúng ta chưa có những cây bút vĩ đại, chỉ cần đòi hỏi chúng ta có những cây bút chuyên nghiệp, nhà nghiên cứu chuyên nghiệp thôi, đã vô cùng khó rồi. Thậm chí là một sự kiện hi hữu đến mức gần như bất khả. Người Việt nói: “Một nghề cho chín, hơn chín mười nghề”, hay “Sinh nghề tử nghiệp”, còn người Anh nói: “Đá lăn không lên rêu”. Sự nghiệp văn chương nghệ thuật hay khoa học là một sự nghiệp lớn giành cả đời hành hương chưa chắc đã đi trọn con đường của cá nhân vạch ra để tiệm cận cùng nhân loại, vậy mà lại không chuyên nghiệp, bạ chỗ nào tiện rẽ ngang chỗ đấy, vui đâu chầu đấy, thỉnh thoảng khi rỗi mới đi vào trục lộ của mình, thì sẽ thắng tiến được bao nhiều? Bởi chính thế mà chúng ta mới chỉ có những nhà văn nghiệp dư, nhà thơ nghiệp dư, nhà khoa học nghiệp dư... Tất cả mới ở mức lo thể hiện cho giống người, mà chưa biết thực hiện để vận động chức năng đích thực cho cuộc đời sống thật.

IV. Tổng quát - tự ngắm mình Chúng ta đã cùng tự soi mình qua cả trăm trang về những cái còn tồn đọng của người Việt. Những điều này không phải đến lượt tôi, hay một ai trong các bạn nghĩ được ra, mà đáng mừng thay, chính người Việt từ ngàn năm nay đã thấy được những thói hư tật xấu của mình qua các phương ngôn chỉ ra như: “Ăn xó mó niêu”, “Dở ông dở thằng”, “Nôm na mách qué”, “Đầu voi đuôi chuột”, “Cả vú lấp em”, “Ngậm miệng ăn tiền”, hay “Phép vua thua lệ làng”... Tôi chỉ làm thêm cách hệ thống hoá, bổ xung, và đào sâu chúng bằng cái nhìn hệ thống, theo cách thức nguyên lý, và học vấn. ít ra tôi đã cố làm cái việc, mà mọi dân tộc trên thế giới đều nghĩ: Đứa con có hiếu đích thực của dân tộc, thì phải biết làm giầu có thêm tài sản vốn có của dân tộc. Còn lại chỉ biết sài sẵn của dân tộc chỉ là loại vô tài, đức nhỏ. Giờ đây, để thâu lại cái nhìn tổng quát, tránh rơi vãi tản mạn, tôi xin được hệ thống hoá một cách nguyên lý vào vài điểm chính: 1. Về mặt con người: Người Việt có một vóc hình nhỏ bé, vóc của những người sống ở phương Nam ấm áp, sức vóc nhỏ, thì thể lực có hạn, lại thêm khí hậu nóng ẩm dễ mệt và dễ ngại, nên người Việt dễ rơi vào thói lười biếng lãn công, chốn việc, làm qua loa đại khái, khuất mắt trông coi, chốn công làm lãi. Vì vậy muốn làm được những việc lớn, người Việt hãy khắc phục khó khăn này. Ta nhỏ bé, ta chóng mệt, thì ta hay nghỉ rồi lại hay làm. Chớ trở thành lười nhác hẳn, “nghỉ một lần cho khoẻ”. Đặc biệt trong các công việc văn chương, nghệ thuật, hay khoa học...


94

Ta nên tích gió thành bão, tích tiểu thành đại. Chớ đã làm cái nhỏ, từng tí một, lại còn ngao du, chơi bời, du hí, thì cả đời có thể chẳng đi được một đoạn đường trường nào cả. 2. Về mặt nghề nghiệp: Muốn tinh thông và đạt đến đỉnh cao của mọi nghề thì chẳng còn cách nào khác là phải đi vào chuyên nghiệp. Khi sở trường được phát huy cao nhất, tay nghề cũng cao nhất, và lợi ích cũng thu về nhiều nhất. Chớ nên chưa tính thông bất cứ việc gì lại cứ phải quay lại ngắm “nỗi lo về tiền”, hay muốn đi hai chân một lúc cả lợi - cả danh, cả tiền - cả đức, thì sẽ chẳng thể đi xa. Chúng ta hãy nhớ đến hình ảnh một chiếc máy bay dù hiện đại đến đâu có thể cùng lúc bay về cả phía đông lẫn phía tây. Thánh Gandhi có nói: “Phương tiện càng thuần khiết thì mục đích càng sớm đặt được”. 3. Về địa lý: Về điểm mạnh rừng vàng biển bạc tôi không khai thác, mà xin lưu ý vào các điểm yếu. Người ta nói “Người là hoa của đất”. Người Việt người nhỏ bé như vậy là “hoa” chưa lớn, lại thêm cả ngàn năm mới chỉ biết làm mấy vần thơ vụn, nhận thức chưa phát triển nhiều, như vậy “hoa” đó cũng chưa đậu quả nhận thức, lại thêm bệnh viêm phổi cũng như tê thấp rất phát triển, có nơi chiếm đến 80% dân số, tuổi thọ ở ta cũng chưa cao - nghĩa là “hoa” cũng sớm tàn... Vậy chúng ta hãy thử xem thể chất địa lý của mình. Xương cốt của dải đất hình chữ S chúng ta là dải Trường Sơn, chạy từ dãy Hoàng Liên Sơn xuống, chủ yếu là đá vôi (Marble) chứ chưa phải đá granit, vì thế cũng có ảnh hưởng lớn đến “gân cốt” của giống nòi. Lại thêm, anh bạn tôi một nhà chế tạo nhạc cụ có nói, đi suốt từ Bắc chí Nam, dù chặt cây phơi gỗ hay đục đá để làm đàn, khi gõ vào nguyên liệu của xứ ta đều chỉ thấy vang lên 5 âm (ngũ cung): Cung, giốc, thuỷ, truỳ, vũ. (Gỗ ở các vùng khác trên thế giới vang lên 7 cung bậc). Để hiểu điều này, các bạn hãy ngắm những chiếc đàn đá của người Việt. Nêu lên điều này chỉ để tham khảo, bởi tôi không phải nhà khoa học về chuyên ngành này, nhưng sự kiện này nêu lên để tham chiến cái gọi là: điều kiện sống về mặt địa lý - có những điều rất hà khắc với người Việt. Từ thể trọng nhỏ, lại sống ở một vùng khí hậu, nóng ẩm dễ ra mồ hôi, cùng với các điều kiện bất lợi khác ẩn sâu từ trong lòng đất (chẳng hạn như núi đá vôi có thể gây chứng biếu cổ, chứng tê thấp), để chúng ta nhìn ra mà khắc phục cả tình trạng thể chất, cả hoàn cảnh sống của mình. 4. Con người văn hoá: Con người hiển nhiên phải có văn hoá. Nếu không có văn hoá thì con người chẳng khác gì con thú sống trong hang hốc nhà mình. Có nhiều định nghĩa về văn hoá nhưng có một định nghĩa sinh tử rằng: Văn hoá thiết yếu là ứng xử với người khác, cho người khác, và cùng người khác. Một người chỉ ru rú trong ổ kén của mình có thể mặc thế nào cũng được, ngồi thế nào cũng xong, nhưng khi ở trước mặt người khác, người đó phải thể hiện con người “văn hoá cách chung” của mình. Vì thế, “người khác” là điều kiện đầu tiên của văn hoá. Từ trong thần thoại Hy Lạp, người Hy Lạp cũng mở màn dạy dỗ “Hiếu khách” là đức đầu tiên quan trọng của mỗi người. Trong kinh Thánh, cũng có ghi lời của Đức Chúa trời rằng: Người ta phải biết yêu tha nhân như chính mình. Và phải biết mở cửa cho người khác: “Kẻ nào gõ cửa sẽ được mở”.


95

5. Con người công lý: Người khác là điều kiện đầu tiên của văn hoá, vì không có thứ văn hoá một mình trong xó tối. Người khác cũng là điều kiện đầu tiên của công lý, vì cũng chẳng có công lý cho một mình ai cả. Và công lý, là lẽ sống lý trí của con người gặp con người. Theo các triết gia thì lý trí hiển nhiên sẽ gặp công lý. Người bán rau, rồi người bán củi, rồi người bán thịt, kể cả người bán xăng, và tài xế lái xe. Khi gặp nhau ở chợ đều tự biết quy giá hàng của mình trong tham chiếu chung với giá hàng của người khác. Đó là công lý, đến một cách tự nhiên. Chẳng hạn, người trồng rau luôn hiểu, không thể một cân rau lang đổi lấy một cân thịt lợn, vì lẽ, con lợn phải ăn nhiều cân rau mới có thể sản sinh ra một cân thịt. Một xã hội không thể tồn tại nếu không có công lý. Công lý nói giản dị là cái lý của chung mọi người. Và một cá nhân không thể lành mạnh thực sự về tinh thần nếu không có lý trí. 6. Con người tình cảm: Tình cảm là mối dây kết buộc mọi người cũng như xã hội. Không có đời sống tình cảm không có gia đình, cũng chẳng có xã hội. Nhưng tình cảm không thể là chiếc chiếu hổ lốn đựng tất cả những gì dựa cậy, trục lợi lẫn nhau, mà trong tình cảm cũng phải có công lý (điều này hiện nay cũng rõ, cha mẹ, vợ - chồng, con cái đều phải có tư cách hợp pháp trong xã hội hợp hiến). Cha từ thì con mới hiếu. Chồng hiền thì vợ mới thảo. Thầy giỏi thì trò mới ngoan. 7. Con người của lương tri và tiến bộ: Khi con người biết sống vì người khác, tức là đã “xả kỷ hiến tha”, cũng là sống có văn hoá. Con người đó sống bằng tình cảm - nồng thắm trái tim nhưng vẫn sáng suốt lý trí, và lại biết sống chung với mọi người trong tinh thần công lý. Đó là con người đã thoát khỏi đời sống tồn tại bình thường vươn đến các giá trị của lương tri và tiến bộ. * ** Như vậy cuốn sách của tôi, dù viết khá nhiều điểm, nhưng có thể chỉ tụ về 7 điểm trên thôi. Đó là mỗi chúng ta hãy ý thức về: Con người lý thể của mình, sau đó là sở trường chuyên môn của mình, kết hợp với hoàn cảnh sống thuộc địa lý là đất đứng của mình, rồi tiến đến con người văn hoá, con người công lý, và con người tình cảm. Nhưng cả bảy điểm trên có thể quy gọn thành hai điểm chính thôi: hãy biết sống và yêu trong tinh thần công lý. Cũng có nghĩa phải biết nâng đời sống của chúng ta lên một tầm lý trí mới. Nếu lý trí của mỗi cá nhân đều cao chúng sẽ gặp nhau trên đỉnh tháp công lý cao cả của mọi người. * ** Để kết thúc cuốn sách, tôi xin nêu lại hai câu thơ mở đầu của Tản Đà:


96

Dân hai nhăm triệu ai người lớn Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con. Chúng ta có thể tranh cãi, có thể đồng ý hoặc không, nhưng tôi xin nêu mấy câu hỏi để chúng ta cùng suy ngẫm. 1. Có bao người trong chúng ta trở thành quý ông, học giỏi đã đành, nhưng sau đó dùng kiến thức làm hành trang dấn bước vào hành trình cuộc đời. 2. Có bao nhiêu người kiên định theo đuổi sở học, chuyên môn theo sở trường của mình trọn đời để có thể nối con đường thành công từ bệ phóng (lúc mở đầu) đến đỉnh cao của thành đạt và vinh quang? 3. Có bao nhiêu người theo đuổi phẩm chất chuyên môn hơn là phẩm chất quan trường? Và coi thành công ở chuyên môn mới là thành công cao nhất của sở trường; chứ không phải lấy phẩm chất “số ghế” quan trường để thay thế chuyên môn? 5. Có bao nhiêu người coi trọng danh dự, lương tri, công lý hơn là sự lo toan giá áo túi cơm của cá nhân hay gia đình. 6. Có bao nhiêu người làm việc như một sứ mệnh của cá nhân cần thiết cho mọi người hơn là khoe khéo khoe khôn để kiếm danh lợi cho mình? 7. Có bao nhiêu người coi sự cao quý của đời sống tâm hồn là hạnh phúc hơn sự dồi dào vật chất tiện nghi cho thân xác? * ** Hy vọng, những câu hỏi tôi nêu ra để chúng ta cùng đếm lại chính mình. Chúng ta cũng biết, kẻ “vô sỉ” là loại bất thành nhân. Người Nga nói: “Không sợ dốt chỉ sợ không muốn học” Sợ nhất là việc chúng ta không nhận ra những cái xấu của mình; còn sợ hơn, biết là xấu nhưng cố tình coi là nó không tồn tại. Tôi viết cuốn sách này, bằng cách mở màn ngắm cái xấu của tôi, và của gia đình tôi. Và cũng là những quá trình tự gạn lọc mình. Mong được chia xẻ với mọi người trong tinh thần “Trung ngôn nghịch nhĩ”, nhưng mà “Thuốc đắng dã tật”, để chúng ta cùng gạn đục khơi trong, trở nên những con người đã mới thì mới hơn, còn đang cũ thì sẽ mới. Khai bút: 19h 59’ , ngày 4/2/2003 (Mùng bốn Tết Quý Mùi) Hoàn thành: Ngày 26/3/2003


97

(24/2 Quý Mùi)

Chú thích 1

. Kinh Thánh

Sách Cô - rinh - tô 11 : 18 2.

L M. Mor faux

L’Homme et le Monde, Paris 1977, tr 188. 3.

Hegel

Mỹ học,Phan Ngọc dịch, Hà nội 1999, tr 329 4

. nt, tập II, tr 779

5.

Platon,La République,Gallimard 1993

6.

Galli M.Tresdey, Karsten J.Struhl, Richard E.Olsen

The Philosophical Quest,“Truy tầm triết học” Lưu Văn Hy, Nguyễn Minh Sơn biên dịch, NXB Văn hoá thông tin 2001, tr 346 7.

L.M. Morfaux

An thropologie - Méta physique - Philosophie,Paris: 1997, tr 106. 8.

Fransois Jullien

Fonder La Morale “Xác lập cơ sở cho đạo đức”,Hoàng Ngọc Hiến dịch, NXB Đà Nẵng 2000, tr 200 9.

Jean Guitton, Grichka Bogdanov, I gor Bogdanov

Dieu et la Science, Paris 1996 “Thượng Đế và khoa học”,Lê Dieu dịch, BXB Đà Nẵng 1996 10.

Vương Sóc

Người đẹp tặng ta thuốc bùa mê,Vũ Công Hoan dịch, NXB Văn hoá Dân tộc 2002, tr 161 11.

Như số 5, tr 33


98 12.

Tôn Trung Sơn

Chủ Nghĩa Tam Dân,Nguyễn Như Diệm, Nguyễn Tu Tri dịch, Viện Thông tin khoa học xã hội 1995 13.

14.

Như số 10.

Bá Dương Người Trung Quốc xấu xí, Nguyễn Hồi Thủ dịch - Paris 1997


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.