VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN DŨNG CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, năm 2018 https://thuviendethi.com/
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN DŨNG CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành : Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số : 83.801.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. PHÙNG THẾ VẮC HÀ NỘI, năm 2018 https://thuviendethi.com/
https://thuviendethi.com/
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh” là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Phùng Thế Vắc. Các nội dung, thông tin được trình bày trong luận văn là trung thực. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên của mình. Hà Nội, ngày 31 tháng 7 năm 2018 Tác giả luận văn Nguyễn Văn Dũng
MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm của chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy................................................................................................................................7 1.1.1. Khái niệm về chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy 7 1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy............................................................................................................................. 10 1.2. Quy định về đối tượng và giới hạn chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy................................................................................................................12 1.2.1. Đối tượng chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy .............. 12 1.2.2. Giới hạn chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy................. 22 1.3. Các hoạt động chứng minh cụ thể trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy.24 1.3.1. Thu thập chứng cứ 25 1.3.2. Kiểm tra và đánh giá chứng cứ ...................................................................... 30 1.4. Ý nghĩa của việc chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy....... 33 Chương 2: THỰC TRẠNG CHỨNG MINH TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TẠI QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ NĂM 2013 ĐẾN NĂM 2017............................................... 38 2.1. Những kết quả đạt được 38 2.2. Hạn chế về chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy của cơ quan tiến hành tố tụng........................................................................................................43 2.3. Nguyên nhân của hạn chế 49 2.3.1. Nguyên nhân từ những quy định của pháp luật ............................................. 49 2.3.2. Nguyên nhân từ phía chủ thể có trách nhiệm chứng minh 52 2.3.3. Nguyên nhân khác.......................................................................................... 54 https://thuviendethi.com/
Chương 3: MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TẠI QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH............58 3.1. Dự báo 58 3.2. Một số phương hướng và giải pháp cơ bản góp phần nâng cao chất lượng chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy tại Quận 1....................................58 KẾT LUẬN 69 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO https://thuviendethi.com/
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT Cơ quan điều tra CQTHTT Cơ quan tiến hành tố tụng MBTPCMT Mua bán trái phép chất ma túy TA Tòa án TAND Tòa án nhân dân THTT Tiến hành tố tụng TTHS Tố tụng hình sự VAHS Vụ án hình sự VKS Viện kiểm sát VKS Viện kiểm sát nhân dân https://thuviendethi.com/
DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU Bảng 2.1. Số vụ án mua bán trái phép chất ma túy và bị can bị khởi tố số liệu từ năm 2013 đến năm 2017........................................................................... Bảng2.2.Số vụ án mua bán trái phép chất ma túy Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đưa ra xét xử từ năm 2013 đến năm 2017 Bảng 2.3. Số vụ án Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung từ năm 2013 đến năm 2017.............................................................. Bảng 2.4. Số vụ án TA trả hồ sơ điều tra bổ sung cho VKS từ năm 2013 đến năm 2017 https://thuviendethi.com/
1. Tính cấp thiết của đề tài Chứng minh trong vụ án hình sự (VAHS) đối với tội mua bán trái phép chất ma túy (MBTPCMT) là một vấn đề phức tạp, vừa mang tính lý luận, tính thực tiễn đồng thời có tính quyết định trong việc giải quyết vụ án hình sự đối với tội MBTPCMT. Việc hiểu rõ và nhận thức đúng về quá trình chứng minh trong vụ án MBTPCMT sẽ đảm bảo cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) được khách quan, chính xác, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô Quátội.trình chứng minh trong VAHS gồm nhiều bước như thu thập, và đánh giá, sử dụng chứng cứ. Thu thập chứng cứ làm cơ sở cho việc chứng minh các đối tượng cần chứng minh trong vụ án hình sự, nhằm làm sáng tỏ bản chất của vụ án thuộc về trách nhiệm của các CQTHTT. Quan hệ pháp luật hình sự có nội dung là mối quan hệ giữa một bên là Nhà nước một bên là người phạm tội, Nhà nước với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự có quyền quyết định hành vi nào là phạm tội đồng thời buộc người thực hiện hành vi phạm tội phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi bằng bản án của TA (TA) hoặc các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Để kết án một người là có tội và phải chịu chế tài hình sự tương ứng với hành vi gây ra thì phải chứng minh hành vi của họ là phạm tội, theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) Việt Nam thì “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các CQTHTT”. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về CQTHTT là một phần của nguyên tắc “Xác định sự thật của vụ án” trong pháp luật TTHS Việt Nam. Trên thực tiễn, việc thực thi nguyên tắc trên của các chủ thể có trách nhiệm chứng minh tội phạm trong VAHS còn nhiều vấn đề tồn tại, trong thời gian vừa qua trách nhiệm của CQTHTT thực hiện chưa tốt, còn nhiều vụ án oan sai dẫn đến mất lòng tin của nhân dân vào pháp chế Nhà nước. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách hệ thống về mặt lý luận, thực tiễn về trách nhiệm chứng minh tội phạm của từng CQTHTT, trên cơ sở đó giải quyết những vướng mắc mà thực tiễn đặt ra, đề xuất những phương hướng nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của các CQTHTT trong
https://thuviendethi.com/
1 MỞ ĐẦU
2 quá trình chứng minh tội phạm, bảo đảm xác định sự thật khách quan của vụ án là vấn đề mang tính cấp bách, có ý nghĩa quan trọng trong việc thực thi pháp luật để bảo đảm quyền con người và tính nghiêm minh của hệ thống pháp luật trong giai đoạn hiện nay. Mặc dù vậy, việc nghiên cứu để áp dụng quy định của pháp luật vào quá trình thực hiện chứng minh trong vụ ánMBTPCMT của các CQTHTT ít được quan tâm nghiên cứu. Bên cạnh đó, thời gian qua Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về vấn đề này ở chừng mực nào đó còn chưa cụ thể và chặt chẽ. Mặt khác, trong thực tiễn áp dụng pháp luậtcòn nhiều vấn đề chưa thống nhất về nhận thức, thậm chí có những quan điểm trái nhau. Trong thực tiễn hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy ở Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minhhiện nay vẫn còn phức tạp; trong thời gian qua các cơ quan tiến hành tố tụng ở Quận 1,Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện tốt việc chứng minh đối với tội này, xử lý kịp thời, nghiêm minh, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, góp phần giữ vững ổn định tình hình an ninh, kinh tế và trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vụ án mà các CQTHTT chưa chứng minh triệt để, còn nhiều sai sót, dẫn đến việc điều tra, truy tố, xét xử không đúng người, đúng tội và nhiều trường hợp để lọt tội phạm, bị TA trả điều tra bổ sung nhiều lần từ đó cho thấy việc nhận thức và áp dụng pháp luật về chứng minh trong VAHS đối với tội MBTPCMT còn nhiều bất cập. Từ đó cho thấy, việc nhận thức và áp dụng pháp luật về quá trình chứng minh trong vụ án MBTPCMT của một số chủ thể tố tụng hình sự chưa được triệt để, trong khi đó việc nghiên cứu quá trình chứng minh trong vụ án MBTPCMT ở nước ta là một nội dung quan trọng có ý nghĩa lớn về mặt khoa học và thực tiễn, làm cho hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm MBTPCMT đạt hiệu quả cao, giúp cho các CQTHTT trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh làm rõ sự thật khách quan của vụ án một cách nhanh chóng, chính xác, đáp ứng được yêu cầu của chính quyền địa phương. Chính vì những lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn thạc sĩ luật học.
https://thuviendethi.com/
https://thuviendethi.com/
3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài Chứng minh trong vụ ánMBTPCMT đã được khá nhiều công trình nghiên cứu trước đây đề cập, đáng chú ý là các công trình sau đây: Nguyễn Văn Du (2006), Quá trình chứng minh trong vụ án hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội - Mạc Thị Duyên (2012), Hoạt động chứng minh trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội Nguyễn Văn Đương (2000), Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt trái phép chất ma túy ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội Vũ Ngọc Hà (2013), Chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội Nguyễn Minh Ngọc (2014), Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội Những tác giả kể trên chủ yếu tiếp cận nghiên cứu ở góc độ khái quát nhất hoặc dưới góc độ so sánh nó với các tội phạm khác trong chương các tội phạm về ma túy, chưa cập nhật những điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (gọi tắt là BLHS năm 2015) và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS năm 2015), bên cạnh đó chưa có một công trình nào đảm bảo được tính logic, hệ thống, sâu sắc, toàn diện về chứng minh trong vụ án MBTPCMT theo pháp luật TTHS Việt Nam. Từ thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án MBTPCMT trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí minh đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống vấn đề lý luận và thực tiễn của quá trình chứng minh trong VAHS đối với tội MBTPCMT cụ thể tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung. Đây là vấn đề hết sức cần thiết, nhằm không ngừng hoàn thiện Bộ luật hình sự (BLHS) vàBộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) Việt Nam, trên cở sở đó tạo nền tảng cho các CQTHTT khắc phục thiếu sót nhằm áp dụng pháp luật chính xác, xử lý công minh đảm bảo công bằng, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo Nghị quyết
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của chứng minh trong VAHS đối với tội MBTPCMT trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, luận văn nghiên cứu làm rõ một cách toàn diện và có hệ thống dưới góc độ lý luận và thực tiễn của chứng minh trong VAHS đối với tội MBTPCMT; làm sáng tỏ những vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận, hạn chế sai sót khi giải quyết các vụ án MBTPCMT; làm rõ cơ sở khoa học, căn cứ pháp lý của quá trình chứng minh trong vụ án MBTPCMTtheo tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh; chỉ ra những nguyên nhân thiếu sót đã mắc phải, từ đó đưa ra những giải pháp khả thi để hoàn thiện việc chứng minh trong vụ án MBTPCMT ở Quận 1 nói riêng, Thành phố Hồ Chí Minh nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, quá trình nghiên cứu luận văn giải quyết một số nhiệm vụ như: Thứ nhất, nghiên cứu lý luận về quá trình chứng minh trong VAHS đối với tội MBTPCMT ở Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Thứ hai,đánh giá thực trạng quá trình chứng minh trong VAHS đối với tội MBTPCMT của các CQTHTT của Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian vừa qua.Thứ ba, đề xuất một số giải pháp trong quá trình chứng minh trong VAHS đối với tội MBTPCMT, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các CQTHTT và những người tiến hành tố tụng trong chứng minh đối với tội MBTPCMT. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu lý luận cơ bản về chứng minh trong VAHS đối với tội MBTPCMT và thông qua một số vụ án tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minhđể làm sáng tỏ những ưu điểm cũng như vướng mắc trong quá trình giải quyết các vụ án liên quan đến tội phạm này.
https://thuviendethi.com/
4 49 của Bộ Chính trị, cũng như đáp ứng công tác phòng ngừa tội phạm.
https://thuviendethi.com/
6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn giúp làm rõ những vấn đề lý luận chung về chứng minh trong vụ án MBTPCMT như khái niệm, bản chất và đặc điểm pháp lý; các hoạt động chứng minh cụ thể trong giai đoạn truy tố trên cơ sở xem xét các quy định của pháp luật hình sự hiện hành, đồng thời đưa ra các kiến nghị hoàn thiện chế định này và việc áp dụng trong thực tiễn. Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần phát triển lý luận về chứng minh trong vụ án hình sự đối với tội MBTPCMT. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Bên cạnh việc hoàn thiện về mặt lý luận, với việc vận dụng và đưa vào phân
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và pháp luật. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra… để tổng hợp tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn này. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
5 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về lý luận và thực tiễn, hoạt động chứng minh trong vụ án MBTPCMT rất đa dạng và phong phú, gồm nhiều giai đoạn khác nhaunhư điều tra, truy tố, xét xử với sự tham gia của nhiều chủ thể chứng minh tương ứng với từng giai đoạn tố tụng như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử. Tuy nhiên trong phạm vi Luận văn này, tác giả chỉ nghiên cứu thực tiễn hoạt động chứng minh trong vụ án MBTPCMT ở giai đoạn truy tố với vai trò chính của VKS (VKS) theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 5 năm từ năm 2013 đến năm 2017.
6 tích các vụ án cụ thể, rút ra những vướng mắc thường gặp trong quá trình chứng minh trong VAHS đối với tội MBTPCMT, luận văn cũng có ý nghĩa như là một nguồn tài liệu tham khảo cho những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng nghiên cứu phục vụ cho thực tiễn áp dụng pháp luật, nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động trong hoạt động tố tụng hình sự. 7. Kết cấu của luận văn Chương 1: Môt số vấn đề lý luận chung về chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy Chương 2: Thực trạng chứng minh vụ án MBTPCMT trong giai đoạn truy tố tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2013 đến năm 2017 Chương 3: Một số phương hướng và giải pháp góp phần nâng cao chất lượng chứng minh trong vụ án MBTPCMT tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
https://thuviendethi.com/
Quá trình xác định sự thật là một quá trình vô cùng phức tạp, khi giữa các giai đoạn đều có sự liên quan mật thiết với nhau. Khi có đủ căn cứ khẳng định có dấu hiệu của tội phạm thì mới có thể khởi tố vụ án, và đó chính là căn cứ để tiến hành các hoạt động điều tra. Kết quả điều tra chính là cơ sở để VKS quyết định truy tố bị can hoặc đình chỉ vụ án, đồng thời nó cũng là cơ sở để TA xét xử đúng người
7 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY 1.1. Khái niệm, đặc điểm của chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy 1.1.1. Khái niệm về chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy Chứng minh là một hoạt động nhận thức chân lý của con người. Hoạt động chứng minh của con người được tiến hành trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, trong mỗi lĩnh vực khác nhau, thì hoạt động chứng minh có những nét khác nhau. Tuy nhiên, hoạt động chứng minh có đặc điểm chung là việc chủ thể sử dụng những phương tiện để làm sáng tỏ sự thật khách quan, khẳng định tính đúng đắn của một vấn đề nào đó để tìm ra chân lý. Hiểu theo nghĩa chung nhất “tội phạm về ma túy là những hành vi nguy hiểm cho xã hội liên quan đến ma túy được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý…”. Và pháp luật hình sự và khoa học pháp lý của nước ta đã cho rằng MBTPCMT thể hiện các hành vi cụ thể là: Bán trái phép chất ma túy cho người khác; mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác, vận chuyển chất ma túy để bán trái phép cho người khác; xin chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác; dùng chất ma túy để trao đổi, thanh toán,... trái phép; tàng trữ chất ma túy nhằm bán trái phép; dùng tài sản (không phải là tiền) đem trao đổi, thanh toán... lấy chất ma túy để bán lại trái phép cho người khác. Như vậy tất cả hành vi trên được xem là hành vi MBTPCMT, và người thực hiện hành vi trên được xem là phạm tội MBTPCMT [34, tr. 6].
https://thuviendethi.com/
8 đúng tội. Việc xác định sự thật vụ án còn phụ thuộc vào những tình tiết, chứng cứ của vụ án đòi hỏi CQTHTT phải làm sáng tỏ. Quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy rất quan trọng, luôn đòi hỏi phải đảm bảo nhiều yếu tố mang tính nguyên tắc: Phải đảm bảo ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội và tránh những hậu quả xảy ra cho cộng đồng; trừng trị đúng tội và đúng mức độ nguy hiểm của người phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội hoặc xâm phạm những lợi ích hợp pháp của công dân, cải tạo giáo dục người phạm tội thành người có ích cho xã hội. Vì vậy, BLHS xác định rõ những hành vi được xem là tội phạm MBTPCMT. Cùng với những quy định của BLHS, việc phát hiện xử lý các tội phạm còn phải được tiến hành theo những thủ tục và trình tự do BLTTHS quy định, trong đó các quy định liên quan đến quá trình chứng minh VAHS chiếm một vai trò quan trọng và quyết định đòi hỏi cần có sự tuân thủ nghiêm ngặt nhằm đạt được mục đích cuối cùng là giải quyết đúng đắn vụ án. Chứng minh trong vụ án MBTPCMT là hoạt động đặc thù đối với một loại tội phạm cụ thể, đồng thời là phạm trù bao hàm rất nhiều hoạt động có nội dung liên quan đến khoa học pháp lý tố tụng. Trong đó bao gồm việc sử dụng chứng cứ làm phương tiện của việc chứng minh nhằm xác định các tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án, bao gồm cả toàn bộ quá trình chứng minh (thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ), xác định đối tượng chứng minh, phạm vi chứng minh, giới hạn chứng minh và nghĩa vụ chứng minh đối với vụ án. Trong vụ án ma túy, chúng ta cần phải nhận thức đúng đắn về các vấn đề nêu trên, tránh nhầm lẫn giữa các phạm trù trong chứng minh và sử dụng chứng cứ làm phương tiện chứng minh một cách hiệu quả [34, tr. 8]. Quá trình chứng minh trong một vụ án bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của các CQTHTT khác nhau như: Hoạt động điều tra, hoạt động truy tố và hoạt động xét xử. Mỗi hoạt động đó đều hàm chứa các hành vi tố tụng khác nhau. Trong TTHS, chứng minh là quá trình khôi phục lại sự thật khách quan của vụ án, là quá trình nhận thức sự thật khách quan. Cơ sở lý luận nhận thức của hoạt động nhận thức này chính là lý luận nhận thức của
https://thuviendethi.com/
9 triết học Mác Lênin. Lý luận nhận thức Mác Lênin khẳng định rằng: Nhận thức là sự phản ánh biện chứng tích cực, sự phản ánh đó là một quá trình vận động và phát triển không ngừng tự không biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ hiện tượng đến bản chất, từ thấp đến cao, từ nông đến sâu để nắm được bản chất quy luật của sự vật và hiện tượng [36, tr. 12]. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 và các văn bản pháp luật liên quanchưa có định nghĩa cụ thể về chứng minh, cũng như quá trình chứng minh trong vụ án MBTPCMT. Khi giải quyết các vụ án MBTPCMT, người tiến hành tố tụng cần phải chứng minh những sự việc có liên quan đến hành vi phạm tội để khẳng định chính xác hành vi phạm tội, người phạm tội và mức độ phạm tội. Để đạt được mục tiêu này, các cơ quan điều tra về tội phạm ma túy phải dựa vào các chứng cứ để chứng minh rõ tội phạm đã xảy ra, xác định lỗi của bị can, bị cáo, tức là chứng minh người thực hiện hành vi phạm tội và họ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội đó. Trên cơ sở những quy định của pháp luật TTHS Việt Nam và các văn bản pháp luật khác và thực tiễn có thể hiểu: Chứng minh trong vụ án MBTPCMT là quá trình mà các CQTHTT, người tiến hành tố tụng thực hiện hoạt động nhận thức chân lý về vụ án MBTPCMT. Để đạt được điều này, CQTHTT phải thực hiện các biện pháp do pháp luật TTHS quy định, làm sáng tỏ tất cả mọi vấn đề có trong vụ án ma túy. Quá trình chứng minh vụ án MBTPCMT phải tuân theo những quy tắc logic nhất định như việc nhận thức mọi hiện tượng của hiện thực. Trước tiên cần phải thu thập tài liệu thực tế nhất định, tiếp đến tài liệu đó phải được phân tích, làm sáng tỏ từng chi tiết cụ thể, từng mặt của các sự kiện cần được nghiên cứu xem xét, sau đó đưa ra những kết luận khái quát về các sự kiện đã được nghiên cứu. Chính từ quá trình đó mà chất lượng, giá trị chứng minh của các thông tin được khẳng định và bức tranh về sự kiện phạm tội dần được tái hiện như nó vốn có, các cơ sở giải quyết vụ án được hình thành, củng cố. Tổng hợp các hành vi đó tạo thành nội dung của quá trình chứng minh trong vụ án MBTPCMT. Nhận thức về quá trình chứng minh trong vụ án MBTPCMT là công việc tư
https://thuviendethi.com/
https://thuviendethi.com/
10 duy của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm đối với tài liệu chứng cứ đã thu thập được, đồng thời chính là tổng thể các hoạt động được những người này tiến hành hướng tới việc thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ. Quá trình chứng minh vụ án MBTPCMT nói riêng và VAHS nói chung phải đảm bảo tính khoa học chặt chẽ của phương pháp phán đoán, suy luận được ứng dụng đặc biệt cần thiết và sâu sắc, đồng thời phải đảm bảo chặt chẽ hơn so với hoạt động nghiên cứu, tư duy, suy luận trong công tác nghiên cứu khoa học. Như vậy, chứng minh trong vụ án MBTPCMT nói riêng và chứng minh trong VAHS nói chung là tổng hợp các hành vi tố tụng hình sự do chủ thể là CQTHTT được Nhà nước trao quyền, cụ thể trong giai đoạn truy tố là VKS tiến hành theo trình tự được BLTTHS quy định để làm rõ đối tượng, phạm vi, giới hạn chứng minh bằng việc thu thập, kiểm tra, đánh giá, sử dụng chứng cứ nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án mua bán trái phép chất ma túy. 1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy Xuất phát từ nhiệm vụ các giai đoạn tố tụng cũng như địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể mà hoạt động chứng minh ở mỗi giai đoạn cũng có sự khác nhau, những đặc điểm riêng của mình. Với khái niệm về hoạt động chứng minh trong vụ án MBTPCMT, đặc biệt ở giai đoạn truy tố, chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy có những đặc điểm sau: Thứ nhất: Chủ thể của hoạt động chứng minh. Chủ thể tiến hành các hoạt động chứng minh trong tố tụng hình sự là các chủ thể có trách nhiệm chứng minh do pháp luật tố tụng hình sự quy định tùy từng quốc gia với mô hình tố tụng khác nhau. Các chủ thể chứng minh trong vụ án MBTPCMT là người nắm vững pháp luật, có kiến thức và nghiệp vụ chuyên sâu về công tác pháp luật, sử dụng các biện pháp cần thiết nhằm đánh giá một cách toàn diện, khách quan các tài liệu của vụ án MBTPCMTvà trong giai đoạn truy tố, sau khi nhận được toàn bộ hồ sơ do Cơ quan điều tra (CQĐT) chuyển sang, VKS ra một trong các loại quyết định: Truy tố bị can trước TA bằng bản cáo trạng; Trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc đình chỉ hay
11 tạm đình chỉ VAHS. Chủ thể chứng minh trong giai đoạn truy tố vụ án MBTPCMT là Kiểm sát viên, Kiểm tra viên thuộc VKS có thẩm quyền truy tố. Những người tham gia tố tụng cũng tham gia vào hoạt động chứng minh do các chủ thể tiến hành tố tụng yêu cầu nhưng họ không phải là chủ thể chứng minh. Thứ hai: Mục đích chứng minh. Quá trình chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túyđược các chủ thể tiến hành tố tụng thực hiện nhằm xác định chân lý khách quan của vụ án. Quá trình chứng minh thực chất là quá trình nhận thức vụ án hình sự của các chủ thể có trách nhiệm chứng minh. Do đó mục đích của hoạt động chứng minh trong vụ án MBTPCMT là xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ để giải quyết đúng đắn vụ án MBTPCMT, qua đó góp phần thực hiện nhiệm vụ của pháp luật TTHS là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích nhà nước, bảo vệ quyền là lợi ích cơ bản của công dân và tổ chức… Hoạt động chứng minh nhằm xác định có tội phạm và bị can người thực hiện hành vi phạm tội hay không để ban hành cáo trạng, quyết định truy tố hay đình chỉ vụ án. Thứ ba: Nội dung chứng minh. Hoạt động chứng minh trong vụ án MBTPCMT bao gồm các hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Để tái hiện lại sự kiện phạm tội đã xảy ra trước đây một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án thì Điều tra viên, Kiểm sát viên phải áp dụng những biện pháp khác nhau mà pháp luật cho phép nhằm thu thập, kiểm tra, đánh giá các thông tin mà sự kiện này để lại trong thế giới khách quan dưới hai hình thức phản ánh trong ý thức của con người và trong môi trường vật chất.
Trong quá trình chứng minh vụ án MBTPCMT, các chủ thể chứng minh cần xác định đối tượng chứng minh và xác định được giới hạn chứng minh. Chỉ có khi nào CQTHTT thu thập đầy đủ chứng cứ để có thể đưa ra kết luận về việc tồn tại hay không tồn tại của các yếu tố thuộc đối tượng chứng minh thì mới có thể nhận thức đầy đủ về sự thật khách quan của vụ án và trên cơ sở đó đưa ra các quyết định giải quyết đúng đắn vụ án. Vấn đề này ở từng giai đoạn cần được xem xét kĩ lưỡng. Bởi lẽ, từ đó mà CQTHTT tiến hành các hoạt động phù hợp đáp ứng yêu cầu của quá
https://thuviendethi.com/
Như vậy, đặc điểm dễ nhận thấy của hoạt động chứng minh trong vụ án MBTPCMT ở giai đoạn truy tố chủ yếu tập trung ở việc kiểm tra, đánh giá, sử dụng chứng nhằm đưa ra kết luận chính thức về vụ án MBTPCMT thông qua bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố.
12 trình giải quyết vụ án. Để giải quyết vấn đề này, trong từng vụ án cụ thể, Kiểm sát viên và các chủ thể chứng minh khác phải dựa vào các quy định của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, niềm tin nội tâm và ý thức pháp luật để quyết định cần thu thập, kiểm tra, đánh giá và nghiên cứu những chứng cứ để làm rõ từng tình tiết và toàn bộ các tình tiết thuộc đối tượng chứng minh của vụ án đó.
Trong khoa học luật hình sự, cấu thành tội phạm được coi là khái niệm pháp lý của một loại tội phạm, là tổng hợp những dấu hiệu đặc trưng cho một loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự. Những dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm là những dấu hiệu phản ánh nội dung bốn yếu tố của tội phạm, nhưng không phải tất cả những dấu hiệu đó đều được đưa vào cấu thành tội phạm. Có những dấu hiệu bắt buộc phải có trong tất cả các cấu thành tội phạm; có những dấu hiệu có trong cấu thành tội phạm của tội này, nhưng lại không có trong cấu thành tội phạm của tội khác.
Những dấu hiệu bắt buộc phải có trong tất cả các cấu thành tội phạm cũng là những vấn đề phải chứng minh trong bất kỳ vụ án hình sự:
1.2. Quy định về đối tượng và giới hạn chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy 1.2.1. Đối tượng chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy Đối tượng chứng minh trong VAHS nói chung và vụ án MBTPCMT nói riêng bao gồm những sự kiện và tình tiết khác nhau, mà mỗi sự kiện, tình tiết nói riêng và tổng thể của chúng nói chung, đều phải được nghiên cứu, làm sáng tỏ một cách khách quan, toàn diện và chính xác. Nội dung chủ yếu của đối tượng chứng minh trong VAHS trước hết là cấu thành tội phạm. Chính cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự xác định ranh giới những sự kiện, tình tiết chủ yếu phải chứng minh của vụ án hình sự.
https://thuviendethi.com/
Dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi thuộc yếu tố chủ thể của tội phạm [17, tr 23].
Ngoài những dấu hiệu bắt buộc phải có trong tất cả các cấu thành tội phạm nói trên, những dấu hiệu khác tuy không phải là dấu hiệu bắt buộc của tất cả các cấu thành tội phạm, nhưng có thể là những dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm cụ thể, vì vậy chúng có thể là những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự. Ngoài cấu thành tội phạm, trên cơ sở, căn cứ để quyết định hình phạt được quy định trong luật hình sự Việt Nam, những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự còn có: Những tình tiết về tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm; những tình tiết về nhân thân người phạm tội và những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Dấu hiệu lỗi thuộc yếu tố chủ quan của tội phạm.
Tính chất, mức độ hậu quả nguy hiểm cho xã hội do tội phạm gây ra?
Tội phạm được thực hiện dưới hình thức gì (một người, nhiều người thực hiện nhưng không có đồng phạm, đồng phạm hay phạm tội có tổ chức)? Hình thức lỗi, mức độ lỗi, mục đích, động cơ phạm tội…?
Khi xem xét nhân thân người phạm tội, CQĐT, VKS, TA phải chứng minh: Những đặc điểm nhân thân người phạm tội có ảnh hưởng trực tiếp đến tội phạm (những đặc điểm mang tính chất pháp lý) như phạm tội lần đầu hay đã có tiền án, tái phạm thường hay tái phạm nguy hiểm, có tính chất chuyên nghiệp hay
13
https://thuviendethi.com/
Giai đoạn thực hiện tội phạm: Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt hay tội phạm hoànThủthành?đoạn thực hiện tội phạm, hoàn cảnh, địa điểm, thời gian thực hiện tội phạm?
Dấu hiệu hành vi thuộc yếu tố khách quan của tội phạm.
Thực tiễn cho thấy, khi xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã được thực hiện, CQTHTT phải chứng minh: Có hành vi (hành động hay không hành động) nguy hiểm cho xã hội xảy ra hay không?
14 không; là người thành niên hay chưa thành niên; có thái độ tự thú hoặc hối cải, lập công chuộc tội hay là ngoan cố không chịu cải tạo…? Những đặc điểm nhân thân khác tuy không mang tính chất pháp lý, nhưng có ảnh hưởng nhất định đến hành vi phạm tội như thành phần, quá trình hoạt động chính trị xã hội, trình độ văn hóa, nghề nghiệp; người phạm tội thuộc dân tộc ít người, thuộc gia đình liệt sĩ; là nhân sĩ, trí thức có tên tuổi; là chức sắc tôn giáo…?
Điều 85 BLTTHS năm 2015 của nước ta đã xác định đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự nói chung: “Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh:
2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;
https://thuviendethi.com/
4. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;
1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội;
6. Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.”
Những đặc điểm phản ánh hoàn cảnh thực tế của người phạm tội như là người già yếu, bị bệnh hiểm nghèo; là phụ nữ có thai; có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn của bản thân hay của gia đình…? Ngoài hai nhóm các vấn đề phải chứng minh nói trên, CQTHTT phải cân nhắc đồng thời cả hai loại tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự [3, tr. 45].
3. Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;
So với Điều 63 của BLTTHS năm 2003, những vấn đề cần phải chứng minh trong điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự theo quy định củaĐiều 85 BLTTHS năm 2015 có quy định thêm khoản 5 và 6, tuy đây là vấn đề không mới so với BLTTHS năm 2003 nhưng nó đã được đưa vào ở một điều luật cụ thể và khoa học
5. Nguyên nhân và điều kiện phạm tội;
Trong VAHS, những vấn đề phải chứng minh có vị trí, vai trò khác nhau. Vì vậy, phân loại những vấn đề phải chứng minh thành các nhóm khác nhau theo một trật tự nhất định là để nghiên cứu chúng từ các góc độ khác nhau. Có thể hiểu phân loại những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự là việc chia các chứng cứ thành các nhóm khác nhau dựa trên cơ sở những căn cứ xác định, nhằm giải quyết những mục đích nhất định. Để đạt được mục đích chứng minh trong vụ án MBTPCMT đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xác định được những vấn đề phải chứng minh trong vụ án đã được quy định cụ thể tại Điều 85 BLTTHS năm 2015 và gắn với những quy định về tội phạm MBTPCMT được quy định tại Điều 251 BLHS năm 2015.Đểnghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án, chúng ta có thể chia những vấn đề cần phải chứng minh thành các nhóm và từ đó làm rõ, cụ thể như sau: * Nhóm một: Đối tượng chứng minh thuộc về bản chất của vụ án MBTPCMT bao gồm việc xác định có hay không có dấu hiệu phạm tội MBTPCMT và ai, những ai đã thực hiện hành vi phạm tội Trong quá trình chứng minh vụ án MBTPCMT, sau khi đã thu thập được đầy đủ chứng cứ xác định các tình tiết của vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng cần phải đánh giá và nhận định hành vi của người đó có đã được xem là tội phạm hay chưa, có dấu hiệu của tội mua bán ma túy hay chưa, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi đến đâu, người phạm tội đó có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự không. Việc thu thập chứng cứ để trả lời được các câu hỏi đó chính là cơ sở để giải quyết vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự và định tội danh của người đã có hành vi MBTPCMT gây nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm mua bán trái phép chất ma túy. Những vấn đề phải chứng minh nằm trong các yếu tố cấu thành tội phạm bao gồm: Khách thể của tội phạm trong vụ án MBTPCMT: “Khách thể của tội phạm
15 hơn.
https://thuviendethi.com/
16 là các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại”. Đối với tội MBTPCMT thì khách thể của tội phạm là hành vi xâm phạm chính sách quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, trực tiếp là hoạt động mua bán các chất ma túy. Ngoài ra, khách thể của tội phạm MBTPCMT còn là cơ sở để phân biệt với các loại tội phạm ma túy khác và tội phạm khác. Cơ quan tiến hành tố tụng muốn chứng minh là có hành vi tội phạm xảy ra hay không, thì một trong những vấn đề cần phải chứng minh và làm rõ là khách thể nào bị xâm phạm. Mặt khách quan của tội phạm trong vụ án MBTPCMT: Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm ra thế giới khách quan bao gồm: Hành vi nguy hiểm cho xã hội được thể hiện ở dạng hành động và không hành động, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi đó gây ra, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội, công cụ, thủ đoạn, phương tiện phạm tội. Biểu hiện của tội phạm MBTPCMT ra bên ngoài bao gồm: Hành vi MBTPCMT, hậu quả nguy hiểm của hành vi cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Khi có hoạt động MBTPCMT xảy ra, các cơ quan điều tra về tội phạm ma túy phải chứng minh các tình tiết thuộc về mặt khách quan của tội phạm như: Hành vi MBTPCMT, chủ thể của hành vi này có nhận thức được việc phạm tội không, hành vi đó gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình bảo vệ hay không, biểu hiện cụ thể của hành vi như thế nào. Ngoài các dấu hiệu cần phải chứng minh nêu trên, CQĐT, VKS, TA tùy từng giai đoạn tố tụng phải chứng minh các biểu hiện khác thuộc về mặt khách quan của tội phạm như: Thời gian, địa điểm, tính chất của vụ việc phạm tội; Động cơ, mục đích của người phạm tội; Lý lịch, tiểu sử, nhân thân của người phạm tội; Các chất ma tuý đối tượng sử dụng để phạm pháp; Phương tiện, công cụ đối tượng dùng để hoạt động; Thủ đoạn, quy luật hoạt động của tội phạm; Địa bàn hoạt động của tội phạm; Tài sản có được trong quá trình hoạt động phạm pháp của đối tượng. Tình tiết tăng năng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự… Trong vụ án nếu xác định có đồng phạm, người tiến hành tố tụng phải chứng minh được hành vi phạm tội của tất cả các đối tượng tham gia phạm tội
https://thuviendethi.com/
https://thuviendethi.com/
17 và vai trò của từng người trong vụ đồng phạm đó, tức là phải chứng minh vai trò cầm đầu, xúi giục, tổ chức, giúp sức và thực hiện. Những vấn đề phải chứng minh về chủ thể của tội phạm trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy Trong lý luận khoa học hình sự, chủ thể của tội phạm là con người cụ thể thực hiện hành vi phạm tội trong tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi do luật hình sự quy định. Quá trình chứng minh trong giai đoạn truy tố vụ án về tội phạm ma túy đòi hỏi khi tiến hành, cơ quan công tố phải chứng minh ai là người đã thực hiện tội phạm. Ngoài việc chứng minh ai là chủ thể của tội phạm, cần phải chứng minh được người thực hiện phạm tội MBTPCMT đó có tuổi chịu trách nhiệm hình sự hay chưa. Việc chứng minh người thực hiện hành vi nguy hiểm đạt độ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự là vấn đề quan trọng và không thể thiếu được trong quá trình chứng minh VAHS. Căn cứ vào độ tuổi của chủ thể thực hiện tội phạm, CQĐT, VKS sẽ xác định được họ có phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ đã thực hiện hay không. Để chứng minh thì cần phải dựa vào các tài liệu như: Giấy khai sinh, giấy chứng minh nhân dân... có ghi đầy đủ ngày, tháng, năm sinh hoặc sổ hộ khẩu của cơ quan có thẩm quyền [34, tr.31]. Bên cạnh việc chứng minh làm rõ nội dung vụ án về hành vi MBTPCMT, người tiến hành tố tụng cũng cần lưu ý đến tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 21 của BLHS năm 2015. Những vấn đề phải chứng minh thuộc về mặt chủ quan của tội phạm mua bán trái phép ma túy Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm, là trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi phạm tội và hậu quả phạm tội, bao gồm các dấu hiệu lỗi, động cơ phạm tội, mục đích phạm tội. Các dấu hiệu này có ý nghĩa và vị trí khác nhau trong các cấu thành tội phạm. Lỗi được biểu hiện dưới dạng lỗi cố ý và lỗi vô ý. Đây là dấu hiệu bắt buộc của bất kỳ cấu thành tội phạm nào. Động cơ phạm tội là nhân tố bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện tội phạm. Động cơ phạm tội chỉ có trong những trường hợp phạm tội cố ý. Mục đích phạm tội được
18 hình thành trong ý thức của người phạm tội và người phạm tội mong muốn đạt được điều đó trên thực tế bằng cách thực hiện tội phạm. Mục đích phạm tội chỉ có với những tội phạm được thực hiện do cố ý trực tiếp. Đối với tội phạm MBTPCMT, đây là tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, vì chủ quan hoặc do hám lợi đã dẫn đến vi phạm pháp luật. Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử vụ án, các CQĐT, VKS, TA phải chứng minh được những dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm để xác định: Khi gây án người đó có nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội hay không, khi hậu quả đã xảy ra có biện pháp ngăn chặn hậu quả không. Chính vì vậy việc chứng minh hình thức lỗi của người thực hiện tội phạm là căn cứ để đánh giá đúng tội danh của các bị can, bị Khoảncáo.1Điều
https://thuviendethi.com/
10 BLHS năm 2015 quy định về Cố ý phạm tội: “Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra”.Trong tộiphạm mua bán trái phép ma túy luôn là lỗi cố ý trực tiếp, CQTHTT dựa vào ý chí của người phạm tội xác định vấn đề này. Người phạm tội cố ý trực tiếp, nhận thức rõ hành vi và mong muốn hậu quả xảy ra, không có trường hợp cố ý gián tiếp đối với người phạm tội mua bán ma túy. Do đó, những chủ thể có trách nhiệm chứng minh cần phải chứng minh được mục đích phạm tội và động cơ phạm tội của người phạm tội đối với hành vi MBTPCMT với lỗi cố ý trực tiếp. * Nhóm hai: Những vấn đề phải chứng minh liên quan đến trách nhiệm hình sự và hìnhQuáphạttrình chứng minh trong vụ án MBTPCMT, ngoài việc chứng minh các yếu tố cấu thành tội phạm, CQTHTT cần phải chứng minh các tình tiết khác trong đó có những tình tiết dẫn đến miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị can, bị cáo theo quy định tại Điều 29, 59 BLHS năm 2015.
Trường hợp miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt không có nghĩa là xác định không có tội phạm xảy ra. Vì vậy, để chứng minh và áp dụng đúng những quy định trên chúng ta cần nghiên cứu những dấu hiệu cụ thể mà các CQTHTT cần áp
https://thuviendethi.com/
19 dụng để đưa ra những kết luận đảm bảo phù hợp với quy định của pháp luật. Trường hợp miễn trách nhiệm hình sự: “Miễn trách nhiệm hình sự là không buộc một người phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm mà người đó đã thực hiện” [9, tr.15]. Miễn trách nhiệm hình sự là miễn cho người phạm tội nghĩa vụ phải chịu những hậu quả pháp lý mà lẽ ra họ phải chịu về hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện. Người được miễn trách nhiệm hình sự là người đã thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật hình sự coi là tội phạm, nhưng không phải chịu hậu quả pháp lý do hành vi đó gây ra khi có đầy đủ các căn cứ và điều kiện cần thiết do pháp luật quy định.
Trường hợp miễn hình phạt: Miễn hình phạt là không buộc một người phải chịu hình phạt về tội mà người đó đã thực hiện. Theo luật TTHS Việt Nam thì chỉ có TA mới có quyền quyết định miễn hình phạt cho các bị cáo. Miễn hình phạt là trường hợp bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 51 BLHS năm 2015, đáng được khoan hồng nhưng chưa đến mức được miễn hoàn toàn trách nhiệm hình sự. Các trường hợp này thông thường là những trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, không có tình tiết tăng nặng đáng kể mà lại có nhiều tình tiết giảm nhẹ như: Phạm tội lần đầu; phạm tội vì bị người khác đe dọa, cưỡng bức; phạm tội do trình độ nhận thức kém… sau khi bị phát giác đã thành khẩn khai báo, tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc tự thú… nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự [23, tr. 8]. Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội Trong quá trình chứng minh làm rõ vụ án MBTPCMT, các CQTHTT cần phải lưu ý quy định tại Điều 51, 52 BLHS năm 2015, trong những tình tiết có ảnh hưởng đến tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mua bán ma túy, có tình tiết làm cho các hành vi phạm tội này trở nên ít nguy hiểm hơn hoặc trở nên nguy hiểm hơn so với các trường hợp không có các tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ. Vì vậy khi chứng minh vụ án, các CQTHTT cần phải thu thập chứng cứ căn cứ vào các quy định của Điều 51 và 52 BLHS để xem người có phạm tội có những tình tiết tăng
20 nặng hoặc giảm nhẹ nào, cần phải chứng minh làm rõ các tình tiết đó. Những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ có tác dụng cho phép xử nặng hay nhẹ trong một khung hình phạt nhất định, trong khung hình phạt với giới hạn thấp nhất và cao nhất mà điều luật đã quy định, tương ứng với một trường hợp cụ thể đã được xác định. Căn cứ vào những nội dung chứng minh này khi giải quyết vụ án đó TA quyết định hình phạt phù hợp với người phạm tội mua bán trái phép chất ma túy. Những đặc điểm về nhân thân của người phạm tội Nhân thân của người phạm tội trong BLHS Việt Nam được biểu hiện là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội, có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn trách nhiệm hình sự của họ, những đặc điểm đó có thể là: tuổi, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, tôn giáo, lối sống, hoàn cảnh gia đình và đời sống kinh tế, thái độ chính trị, ý thức pháp luật, tiền án, tiền sự… Nhân thân người phạm tội là những đặc điểm dấu hiệu đặc trưng nhất phản ánh bản chất của người phạm tội, những đặc điểm dấu hiệu này tác động với những tình huống và hoàn cảnh khách quan khác đã tạo ra xử sự phạm tội của người đó. Nhân thân của người phạm tội trong luật hình sự được hiểu là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của họ. Những đặc điểm đó có thể là tuổi, nghề nghiệp, thái độ làm việc, thái độ trong quan hệ với những người khác, trình độ văn hóa, lối sống, hoàn cảnh gia đình và đời sống kinh tế, thái độ chính trị, ý thức pháp luật, tôn giáo, tiền án, tiền sự… Nhân thân người phạm tội tuy không phải là yếu tố cấu thành tội phạm nhưng nó lại có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quyết định khung hình phạt, là một trong những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Các cơ quan điều tra, truy tố xét xử muốn tìm ra đúng người, xét xử đúng tội thì đòi hỏi phải nghiên cứu đầy đủ về nhân thân của người phạm tội. Trong điều tra, thu thập chứng cứ để chứng minh về nhân thân của người phạm tội MBTPCMT là một trong công việc hết sức quan trọng và không thể thiếu được trong quá trình chứng minh vụ án MBTPCMT. Nhân thân người phạm tội không có ý nghĩa trong việc định tội danh nhưng có ý nghĩa trong việc lượng hình.
https://thuviendethi.com/
21 Nhân thân người phạm tội cũng là một trong những căn cứ quan trọng để cá thể hóa hình phạt.Như vậy khi nghiên cứu về nhân thân người phạm tội, đặc biệt là nhân thân người phạm tội MBTPCMT cần phải nghiên cứu đến cơ chế hình thành hay nói cách khác là những ảnh hưởng khác nhau đối với việc hình thành nhân thân của người phạm tội. Xuất phát từ những nguyên nhân khác nhau có thể là môi trường sống, công việc, gia đình, xã hội, mối quan hệ cụ thể, tâm sinh lý sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến hành vi phạm tội của một chủ thể. Việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, có ý nghĩa quan trọng trong việc áp dụng hình phạt của từng trường hợp phạm tội. Nghiên cứu nhân thân người phạm tội chính là góp phần quan trọng trong việc giáo dục và cải tạo người phạm tội, việc phòng ngừa và dự báo tình hình tội phạm.
https://thuviendethi.com/
Nếu không đưa những tình tiết nêu trên vào những nội dung cần phải chứng minh trong vụ án thì có thể dẫn tới việc có thể bỏ sót, bỏ lọt những tình tiết quan trọng
* Nhóm ba: Những vấn đề có ý nghĩa làm sáng tỏ sự thật của vụ án MBTPCMT Những vấn đề có ý nghĩa làm sáng tỏ sự thật của vụ án MBTPCMT là những tình tiết không nằm trong các yếu tố cấu thành tội phạm, đồng thời cũng không ảnh hưởng đến trách nhiệm hình sự và hình phạt nói chung, nhưng lại có giá trị chứng minh nhất định đối với vụ án. Nếu chứng minh được các tình tiết đó sẽ giúp cho các CQTHTT giải quyết vụ án đảm bảo đúng đắn, chính xác, khách quan và toàn diện, chẳng hạn như: mối quan hệ giữa người tiến hành tố tụng với người bị buộc tội hoặc với người thân của người bị buộc tội; mối quan hệ giữa người làm chứng với bị can, bị cáo, với người liên quan, người làm chứng..., tài liệu, vũ khí, phương tiện ở hiện trường hoặc đang do người khác quản lý, nhằm đảm bảo tính khách quan, sự vô tư của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, tránh làm sai lệnh hồ sơ vụ án (do hành vi đưa nhận hối lộ, quan hệ tình cảm…), và để có cơ sở thay đổi Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán…(Điều 21 BLTTHS năm 2015).
https://thuviendethi.com/
22 làm sáng tỏ nội dung vụ án. Tóm lại, để chứng minh vụ án MBTPCMT được chính xác, khách quan, toàn diện, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải coi trọng đầy đủ cả ba nhóm đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự bao gồm: Nhóm đối tượng chứng minh thuộc bản chất của vụ án hình sự, nhóm những vấn đề chứng minh nằm liên quan đến trách nhiệm hình sự, hình phạt và nhóm những vấn đề có ý nghĩa làm sáng tỏ sự thật của vụ án mua bán trái phép chất maNhữngtúy. vấn đề phải chứng minh trong vụ án MBTPCMT là một hệ thống các tình tiết có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Quá trình chứng minh trong vụ án muốn đạt được chân lý khách quan đòi hỏi các CQTHTT phải nắm rõ những vấn đề cần phải chứng minh thuộc cả ba nhóm trên và phải vận dụng chúng vào việc chứng minh vụ án MBTPCMT, từng trường hợp cụ thể nhằm thu thập chứng cứ, đảm bảo quy định của pháp luật tố tụng, đảm bảo giới hạn của quá trình chứng minh trong VAHS. Vì vậy, cần phải nghiên cứu và làm rõ từng nhóm của đối tượng chứng minh đối với loại tội phạm này. 1.2.2. Giới hạn chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy Xác định sự thật của vụ án phải có điểm dừng. Đây chính là giới hạn của quá trình xác định sự thật của vụ án. Việc xác định giới hạn này luôn được đặt ra trong quá trình chứng minh nhằm xác định sự thật của vụ án và được cụ thể hoá trong Luật tố tụng hình sự bằng giới hạn chứng minh. Điều này xuất phát từ ý nghĩa của nó trong tố tụng hình sự: Một là, nếu xác định giới hạn chứng minh quá rộng thì hoặc là lãng phí thời gian và nguồn lực, không tập trung làm rõ được những vấn đề bản chất của vụ án hoặc rơi vào tình trạng “bất khả tri”, kết luận mơ hồ không biết thế nào là đủ làm cho quá trình giải quyết vụ án không có điểm kết thúc.
Hai là, nếu xác định giới hạn chứng minh quá hẹp thì dẫn đến bỏ sót các tình tiết có ý nghĩa pháp lý hình sự và tố tụng hình sự, thu thập không đầy đủ tài liệu
23 chứng cứ dẫn đến kết luận, bản án không đủ sức thuyết phục từ đó không những bỏ lọt tội phạm mà còn làm oan người vô tội. Thực tế đó đặt lại câu hỏi về thế nào là sự thật của vụ án và điểm dừng của con đường đi tìm sự thật khách quan ấy là ở đâu và khi nào? Tôn trọng sự thật khách quan, việc điều tra, xét xử phải đi đến sự thật khách quan là điều cần thiết, nhưng cái gì là sự thật lại là vấn đề rất phức tạp và còn nhiều tranh cãi trong tố tụng hình sự. Để giải quyết vấn đề này cần dựa trên nền tảng của lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng bởi quá trình xác định sự thật của vụ án là quá trình nhận thức để đạt được chân lý. Chân lý trong tố tụng hình sự là sự kiện vật chất của vụ án hình sự được phản ánh trong kết luận của cơ quan tiến hành tố tụng trên cơ sở xác định bằng các chứng cứ thông qua các biện pháp hợp pháp và đã đánh giá chúng dưới góc độ pháp lý hình sự. Như vậy, chân lý trong tố tụng hình sự có tính pháp lý. Vì nó được xác định bằng sự hỗ trợ của các biện pháp được chỉ ra trong luật tố tố tụng hình sự, trong trật tự pháp lý tố tụng nhất định và chặt chẽ. Điều đó cho thấy, chân lý được xác định trong vụ án là sự thể hiện ở sự phù hợp giữa các kết luận của cơ quan điều tra, VKS và TA với sự thật của vụ án diễn ra trong thế giới khách quan. Những kết luận đó chỉ được rút ra từ các thông tin đã được thu thập và nghiên cứu theo trật tự tố tụng được luật quy định. “Giới hạn chứng minh là tổng hợp những chứng cứ khác nhau, đủ và cần thiết cho việc giải quyết vụ án được đúng đắn”. Như vậy, đối tượng chứng minh và giới hạn chứng minh là hai vấn đề khác nhau. Chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng: Đối tượng chứng minh là các tình tiết do luật định nói lên mục đích mà hoạt động chứng minh cần đạt được. Còn giới hạn chứng minh nhằm chỉ rõ khối lượng chứng cứ cần và đủ để xác định một cách khách quan, toàn diện các tình tiết có ý nghĩa đối với việc làm sáng tỏ sự thật của vụ án. Giới hạn chứng minh là tổng hợp chứng cứ cần và đủ cho việc giải quyết đúng đắn vụ án. Nếu đối tượng chứng minh xác định được mục đích, yêu cầu của quá trình chứng minh, thì giới hạn chứng minh chỉ rõ phương tiện, ranh giới của hoạt động chứng minh. Xác định đúng đối tượng chứng minh sẽ bảo đảm tính toàn
https://thuviendethi.com/
https://thuviendethi.com/
24 diện cho hoạt động chứng minh của các chủ thể tiến hành tố tụng nhưng không thể nói đến tính đầy đủ của hoạt động đó nếu chúng ta không xác định được giới hạn chứng minh. Việc xác định giới hạn chứng minh chính là xác định ranh giới của việc thu thập và nghiên cứu các tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án ở mức độ cần và đủ để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án theo đúng yêu cầu của pháp luật. Những vấn đề cần phải chứng minh được ghi rõ tại Điều 85 BLTTHS năm 2015, còn giới hạn chứng minh không được luật xác định cụ thể. Luật chỉ quy định những vấn đề có tính nguyên tắc để điều chỉnh hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng theo đúng hướng. Tinh thần cơ bản của các nguyên tắc nói nên là phải thu thập đầy đủ chứng cứ, phải xem xét, đánh giá tất cả những chứng cứ thu được, để tạo cơ sở cho việc kết luận sự thật của toàn bộ vụ án, hay đối với từng vấn đề cụ thể trong từng vụ án, nhưng chỉ cần vừa đủ, tránh tràn lan hoặc thiếu chứng cứ. Việc xác định giới hạn chứng minh là một việc rất khó khăn nhưng trong lý luận về chứng cứ cũng ít được đề cập tới. Tuy vậy, việc xác định giới hạn trong quá trình chứng minh trong vụ án MBTPCMT có ý nghĩa rất quan trọng đối với các CQTHTT trong việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, nhằm giải quyết đúng đắn, khánh quan, toàn diện vụ án. Do vậy chỉ cần thu thập, kiểm tra, đánh giá các chứng cứ vừa đủ để mọi người đều tin rằng quyết định của bản án là chính xác. Vì vậy, khi một vấn đề đã được làm rõ, thì không cần có thêm chứng cứ khác. Giới hạn những vấn đề cần phải chứng minh cũng đồng thời được quy định tại Điều 85 BLTTHS năm 2015, theo đó bao gồm sáu nhóm nội dung những vấn đề cần chứng minh. 1.3. Các hoạt động chứng minh cụ thể trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy Quá trình chứng minh vụ án hình sự phải trải qua những giai đoạn khác nhau. Hiện có nhiều quan điểm khác nhau về các giai đoạn (các bước) của quá trình chứng minh, mỗi quan điểm đều dựa trên một cơ sở lý luận, cách thức phân chia cụ thể. Tuy nhiên, có thể khẳng định: quá trình chứng minh chỉ bao gồm các giai đoạn: thu thập chứng cứ, kiểm tra chứng cứ và đánh giá chứng cứ. Như vậy, thu thập
25 chứng cứ là giai đoạn đầu của quá trình chứng minh vụ án hình sự. Kết quả của hoạt động thu thập chứng cứ có ý nghĩa quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của công tác điều tra, truy tố, xét xử. Do vậy, hoạt động này cần phải được tiến hành một cách khách quan, thận trọng theo đúng quy định của BLTTHS và các văn bản pháp luật khác liên quan. 1.3.1. Thu thập chứng cứ Tội phạm xảy ra bao giờ cũng để lại các dấu vết trong thế giới khách quan dưới các hình thức vật chất hoặc phi vật chất. Để chứng minh tội phạm thì phải thu thập các dấu vết để lại. Thu thập chứng cứ chính là việc cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp và phương pháp theo quy định của pháp luật để phát hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo quản những tài liệu, đồ vật, thông tin,… liên quan để phục vụ cho việc giải quyết đúng đắn vụ án. Thu thập chứng cứ chính là tổng hợp các hành vi phát hiện, thu giữ, ghi nhận và bảo quản chứng cứ. Phát hiện chứng cứ là tìm ra những sự vật, hiện tượng, dấu vết, tài liệu… có liên quan đến vụ án. Thực tiễn cho thấy, mỗi vụ án đều có những biểu hiện khác nhau, các tình tiết khác nhau, do đó đòi hỏi các chủ thể có thẩm quyền cần phải sử dụng các phương pháp, biện pháp phù hợp với quy luật hình thành, vận động của từng loại chứng cứ. Thu giữ chứng cứ là hoạt động được tiến hành sau khi đã phát hiện được chứng cứ và là nguồn chứng cứ để phục vụ cho việc chứng minh tội phạm hay nói cách khác là thu và tập hợp các chứng cứ đã được phát hiện để chứng cứ có giá trị chứng minh. Yêu cầu đặt ra phải bảo đảm mang tính khoa học, vì chứng cứ có thể bị tiêu hủy và không còn giá trị chứng minh. Cùng với đó, việc thu giữ phải bảo đảm đúng theo thủ tục pháp luật quy định, vì nếu không sẽ không bảo đảm tính hợp pháp của chứng cứ. Ghi nhận chứng cứ là việc lập biên bản mô tả, ghi chép những thông tin, tài liệu, đồ vật... đã được phát hiện và thu giữ. Hình thức thể hiện của hoạt động này thường là biên bản tố tụng, như: biên bản hỏi cung bị can, biên bản lấy lời khai của người làm chứng, biên bản định giá tài sản... Ngoài ra, ghi nhận chứng cứ còn có
https://thuviendethi.com/
https://thuviendethi.com/
Giai đoạn xét xử, TA dựa vào các chứng cứ được thu thập ở giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố được kiểm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa để ra bản án, quyết định. Tuy nhiên, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, thẩm phán thấy cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa được thì thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung.
26 thể được thể hiện bằng hình thức khác như: bản ảnh, sơ đồ hiện trường, bản kết luận giám định... Bảo quản chứng cứ là hoạt động áp dụng các biện pháp phù hợp để bảo vệ, giữ gìn tính nguyên vẹn của chứng cứ, không để mất mát, hư hỏng hoặc làm thay đổi những thông tin có giá trị chứng minh. Chứng cứ ghi nhận trong các biên bản tố tụng được bảo quản lưu giữ trong hồ sơ vụ án. Đối với vật chứng phải được bảo quản ngay từ khi phát hiện, thu giữ theo quy định của BLTTHS cho đến khi có quyết định xử lý có hiệu lực pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong từng giai đoạn tố tụng, cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ khác nhau theo quy định của pháp luật. Căn cứ các quy định của BLTTHS có thể nhận thấy: Đối với giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền có thể yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp những tài liệu, đồ vật, trình bày những tình tiết có liên quan đến việc xác minh, làm rõ tin báo về tội phạm… Đối với giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Cơ quan điều tra thường áp dụng nhiều biện pháp thu thập chứng cứ được pháp luật tố tụng hình sự quy định để phục vụ cho việc giải quyết vụ án. Đây là giai đoạn có vai trò quan trọng trong việc thu thập chứng cứ. Trong giai đoạn này, những người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân cũng có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án. Giai đoạn truy tố, VKS tiến hành thu thập chứng cứ để làm sáng tỏ những vấn đề cần phải chứng minh mà cơ quan điều tra chưa làm rõ. Trong trường hợp cần thiết, VKS có quyền tiến hành một số hoạt động điều tra.
3. Những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án.
5. Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày lập biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến vụ án mà kiểm sát viên không trực tiếp kiểm sát theo quy định của Bộ luật này thì cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm chuyển biên bản, tài liệu này cho VKS để kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án. Trường hợp do trở ngại khách quan thì thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 15 ngày. Trong thời hạn 03 ngày, viện kiểm sát đóng dấu bút lục và sao lưu biên bản, tài liệu lưu hồ sơ kiểm sát và bàn giao nguyên trạng tài liệu, biên bản đó cho cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Việc giao, nhận tài liệu, biên bản được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này”. So với quy định tại Điều 65 BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung và hoàn thiện các quy định về thu thập chứng cứ. Căn cứ vào Điều 88
4. Khi tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến vụ án do những người quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này cung cấp, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản giao nhận và kiểm tra, đánh giá theo quy định của Bộ luật này.
https://thuviendethi.com/
27 Điều 88 BLTTHS năm 2015 quy định: “1. Để thu thập chứng cứ, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án. 2. Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa.
https://thuviendethi.com/
BLTTHS năm 2015, hoạt động thu thập chứng cứ được thể hiện bằng các hình thức sau: Hình thức chủ động: Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chủ động tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ là triệu tập người biết việc về vụ án để nghe họ trình bày, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm, yêu cầu cơ quan tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và các hoạt động điều tra khác. BLTTHS năm 2015 lần đầu tiên quy định người bào chữa cũng là chủ thể có thẩm quyền thu thập chứng cứ nhưng không bắt buộc phải có nghĩa vụ chứng minh. Người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa. Hình thức thụ động: Người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân tự mình đưa ra chứng cứ, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử và trình bày những vấn đề liên quan đến vụ án. Với hình thức này, lần đầu tiên BLTTHS năm 2015 đã quy định tại phiên tòa, bị cáo được quyền hỏi bị cáo khác, bị hại, người làm chứng và các đương sự về các vấn đề liên quan đến bị cáo. Dù theo hình thức nào thì các thông tin, tài liệu có liên quan đến vụ án cũng phải được thu giữ và đưa vào hồ sơ vụ án bằng hình thức tố tụng xác định. Thông thường, các hoạt động thu thập chứng cứ được ghi nhận bằng biên bản hoạt động tố tụng theo quy định của BLTTHS.
28
Thu thập chứng cứ là giai đoạn đầu tiên của quá trình chứng minh. Để bảo đảm cho chứng cứ thỏa mãn tính khách quan, liên quan và hợp pháp, việc thu thập chứng cứ phải được thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Chỉ được áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ chung được quy định tại Điều 88 BLTTHS năm 2015. Đồng thời, việc thu thập vật chứng phải tuân thủ Điều 105 BLTTHS năm 2015; thu thập phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử phải tuân thủ Điều 107 BLTTHS năm 2015. Khi thu thập chứng cứ cụ thể phải tuân thủ các trình tự, thủ tục quy định đối với các hoạt động tố tụng tương ứng. Để bảo đảm xây dựng
Bổ sung thủ tục tiếp nhận chứng cứ của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Theo đó, khi tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản, kiểm tra, đánh giá và đưa vào hồ sơ vụ án (khoản 4 Điều 88).
Bổ sung thủ tục đưa chứng cứ trong giai đoạn điều tra vào hồ sơ vụ án nhằm tăng cường vai trò kiểm sát của VKS trong hoạt động thu thập chứng cứ; tránh những trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tùy tiện, không đưa đầy đủ chứng cứ vào trong việc lập hồ sơ vụ án (khoản 5 Điều 88). Bổ sung quy định thu thập phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử (Điều 107 BLTTHS năm 2015). Việc quy định dữ liệu điện tử là một nguồn chứng cứ là điều cần thiết, tất yếu hiện nay, khi mà các đối tượng sử dụng công nghệ cao để phạm tội xảy ra ngày càng phổ biến. Để thu thập dữ liệu điện tử, đầu tiên cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thu giữ phương tiện điện tử lưu trữ các dữ liệu điện tử. Trường hợp không thể thu thập được phương tiện lưu trữ dữ liệu điện tử thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sao lưu dữ liệu điện tử đó vào phương tiện điện tử. Một hình thức thu thập chứng cứ là dữ liệu điện tử nữa là chặn thu các dữ liệu điện tử được truyền qua mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc đường truyền khác. Ngoài ra, CQTHTT có thể quyết định trưng cầu giám định nhằm phục hồi, tìm kiếm, giám định dữ liệu điện tử. Các hoạt động thu thập này được thực hiện trên bản sao và phải chuyển sang dạng có thể đọc, nghe, nhìn được.
29 một thủ tục tố tụng tư pháp minh bạch, dân chủ, tôn trọng và bảo vệ quyền con người và thực hiện các nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm, BLTTHS năm 2015 đã có những quy định mới về thu thập chứng cứ, cụ thể là: Chủ thể thu thập chứng cứ đã có điều chỉnh và mở rộng như đã phân tích nêu trên.
- Bổ sung quy định ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh khi hỏi cung bị can (khoản 6 Điều 183 BLTTHS năm 2015). Thực tiễn cho thấy mớm cung, bức cung, https://thuviendethi.com/
30 dùng nhục hình… là nguyên nhân của nhiều vụ án oan sai. Mặc dù tại phiên tòa nhiều bị cáo đã tố cáo, nhưng không có căn cứ để hội đồng xét xử xem xét. Do đó, đây là một quy định tiến bộ, nhằm giám sát quá trình hỏi cung bị can, chống dụ cung, mớm cung, bức cung, tra tấn, dùng nhục hình trong hỏi cung bị can; qua đó bảo đảm tính khách quan về lời khai của bị can trong quá trình thu thập chứng cứ. - Bổ sung riêng một chương về biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt (Điều 223 đến Điều 228 BLTTHS năm 2015). Theo đó, sau khi khởi tố vụ án về tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tội phạm về tham nhũng, tội khủng bố, tội rửa tiền hoặc tội phạm khác có tổ chức thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, trong quá trình điều tra, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt: ghi âm bí mật; nghe điện thoại bí mật; thu giữ bí mật dữ liệu điện tử.
Trên thế giới, rất nhiều quốc gia như Trung Quốc, Đức, Pháp, Hoa Kỳ, Nga… đều có quy định áp dụng các biện pháp điều tra đặc biệt nhằm đấu tranh có hiệu quả các tội phạm rất nguy hiểm. Tuy nhiên, đây là những biện pháp có nguy cơ xâm phạm đến quyền tự do, cuộc sống riêng tư của con người; mặt khác, chúng ta chưa có kinh nghiệm về việc áp dụng thực tiễn. Do đó, từ góc độ thu thập chứng cứ thì cần nghiên cứu và hoàn thiện để bảo đảm tính hợp pháp của chứng cứ khi áp dụng các biện pháp điều tra này trên thực tiễn. Như vậy, thu thập chứng cứ là giai đoạn đầu của quá trình chứng minh vụ án hình sự. Kết quả của hoạt động thu thập chứng cứ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của công tác điều tra, truy tố, xét xử. BLTTHS năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện các quy định về thu thập chứng cứ. Tuy nhiên, những điểm mới cần tiếp tục được nghiên cứu và hoàn thiện; nếu không những quy định này chỉ mang tính hình thức hoặc kết quả của hoạt động thu thập chứng cứ không bảo đảm tính hợp pháp của chứng cứ. 1.3.2. Kiểm tra và đánh giá chứng cứ Đánh giá chứng cứ là giai đoạn cuối cùng của quá trình chứng minh nhằm rút ra kết luận về vụ án trên cơ sở những thông tin, đồ vật, tài liệu thu thập được
https://thuviendethi.com/
Thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ là việc cần phải làm của các CQTHTT, là quá trình chứng minh những vấn đề cần phải chứng minh trong VAHS trên cở sở đó các chủ thể tố tụng mới đưa ra các quyết định tố tụng phù hợp với từng giai đoạn tố tụng khi thực hiện nhiệm vụ của mình. Đối với giai đoạn điều tra VAHS khi đã thu thập, kiểm tra, đánh giá đầy đủ các chứng cứ có liên quan đến
https://thuviendethi.com/
31 trong quá trình tố tụng, là hoạt động của chủ thể nhằm phân tích giá trị cứng minh làm rõ bản chất của chứng cứ, xem chứng cứ đó thuộc loại chứng cứ gì và có giá trị chứng minh những vấn đề nào trong vụ án. Đánh giá chứng cứ là quá trình xác định giá trị chứng minh của chứng cứ. Từ việc đánh giá chứng cứ mà cơ quan tiến hành tố tụng xác định được những đồ vật, tài liệu nào trong vụ án có giá trị chứng minh, những tài liệu nào không có giá trị chứng minh. Đây là hoạt động nhận thức của chủ thể đánh giá chứng cứ để tìm ra giá trị chứng minh của chứng cứ. Qua đó có thể hiểu khái niệm về đánh giá chứng cứ như sau:“Đánh giá chứng cứ là tổng hợp hoạt động tư duy của những người tiến hành tố tụng hình sự nhằm xác định giá trị chứng minh của các chứng cứ với nhau. Việc đánh giá chứng cứ phải được tiến hành trên cơ sở các quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, đồng thời phải dựa vào ý thức pháp luật và niềm tin nội tâm mới đảm bảo tính khách quan và chính xác”.
Điều 108 BLTTHS năm 2015 có quy định:
“1. Mỗi chứng cứ phải được kiểm tra, đánh giá để xác định tính hợp pháp, xác thực và liên quan đến vụ án. Việc xác định những chứng cứ thu thập được phải bảo đảm đủ để giải quyết vụ án hình sự.
2. Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải kiểm tra, đánh giá đầy đủ, khách quan, toàn diện mọi chứng cứ đã thu thập được về vụ án”. Đánh giá chứng cứ trong vụ án hình sự, là hoạt động tư duy của chủ thể tiến hành tố tụng theo quy định của BLTTHS và các chủ thể khác có liên quan tiến hành xem xét, kiểm tra các chứng cứ đã thu thập được; từ đó đưa ra kết luận về tính xác thực hoặc không xác thực của chứng cứ, tính hợp pháp hoặc không hợp pháp, tính liên quan hoặc không liên quan đến vụ án của chứng cứ.
32 VAHS, khi đó có đủ căn cứ để CQĐT, VKS ra một trong các quyết định tố tụng như tạm đình chỉ điều tra; Bản kết luận điều tra; Đề nghị truy tố; Đình chỉ điều tra. VKS sau khi nhận được bản kết luận điều tra cùng hồ sơ vụ ánmà CQĐTchuyển sang thì có trách nhiệm xem xét, nghiên cứu hồsơ. Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án mà có những vấn đề chưa rõ thì VKS yêu cầu CQĐT báo cáo thêm. VKS có trách nhiệm kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các hành vi tố tụng mà CQĐT có thẩm quyền đã áp dụng để bảo đảm cho các quyết định của VKS được chính xác và khách quan góp phần truy cứu trách nhiệm hình sự đúng tội, đúng người và đúng pháp luật. Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi VKS nhận được các tài liệu của VAHS (bao gồm cả kết luận điều tra và đề nghị truy tố) do CQĐT chuyển đến và kết thúc bằng việc VKS ra một trong ba loại quyết định sau: Truy tố bị can trước TA (Điều 243); Trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung (Điều 245); Đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án (Điều 247, 248). Trong giai đoạn này VKS có quyền chấp nhận hoặc bác bỏ các quyết định của CQĐT như trả hồ sơ điều tra bổ sung, đình chỉ vụ án…[7, tr.95] Như vậy, chứng minh trong giai đoạntruy tố, VKS có trách nhiệm kiểm sát hoạt động TTHS, căn cứ vào hồ sơ của CQĐT chuyển đến, VKS ra một trong các quyết định có khởi tố vụ án hay không khởi tố, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ, trả hồ sơ điều tra bổ sung…. Quyết định truy tố của VKS thông qua bản cáo trạng thể hiện hoạt động chứng minh trên cơ sở các tài liệu của hồ sơ của vụ án (nhất là kết luận điều tra) tính chất lỗi của hành vi phạm tội, lỗi của bị can, bị cáo trong việc thực hiện tội phạm để góp phần có hiệu quả trong việc chuẩn bị cho giai đoạn xét xử của TA, loại trừ những thiếu sót hoặc hậu quả tiêu cực tiếp theo có thể xảy ra do việc xét xử thiếu công minh, vô căn cứ và không đúng pháp luật, tránh bỏ lọt tội phạm và làm oan những người vô tội...Thực hành quyền công tố vừa là quyền vừa là trách nhiệm công tố của VKS trong TTHS là xác định đúng người phạm tội, đúng tội để có thể đưa vụ án ra trước tòa và tại đó bảo vệ quan điểm của mình trước TA. Đó chính là quyền nhưng cũng là nhiệm vụ mà VKS phải thực hiện và phải thực hiện theo quy định của phápluật.
https://thuviendethi.com/
Trong quá trình chứng minh, việc đánh giá chứng cứ trong các giai đoạn khởi tố, điều tra chỉ mang tính sơ bộ, còn đánh giá chứng cứ trong giai đoạn truy tố là một bước khẳng định để từ đó TA ra quyết định đánh giá chính thức. Bởi lẽ, ở giai đoạn điều tra mục đích đánh giá đó chưa có tính quyết định, chủ yếu hoạt động kiểm tra, đánh giá chứng cứ nhằm sử dụng làm căn cứ để ra bản kết luận điều tra đề nghị VKS truy tố, VKS cũng kiểm tra, đánh giá chứng cứ chủ yếu phục vụ cho việc quyết định truy tố bị can ra trước TA để xét xử và có thể bị thay đổi ở các giai đoạn tiếp theo. Dựa trên cơ sở các chứng cứ đã thu thập được, Hội đồng xét xử mới đánh giá tổng hợp để đưa ra kết luận về hành vi phạm tội của bị cáo. 1.4. Ý nghĩa của quá trình chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy Chứng minh trong vụ án MBTPCMT chiếm một vị trí rất quan trọng trong việc giải quyết vụ án. Đây là quá trình xây dựng hồ sơ vụ án, tái diễn lại hành vi của tội phạm đã được thực hiện trước đó, nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, để từ đó các CQTHTT có cái nhìn khách quan, toàn diện nhằm xử lý công minh, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, qua đó áp dụng hình phạt đối với người phạm tội đảm bảo tính cưỡng chế và tính giáo dục của nhà nước.
BLTTHS năm 2015 thì với mỗi chứng cứ phải tiến hành theo các bước, đánh giá từng chứng cứ và đánh giá tổng thể, toàn diện mọi chứng cứ trong mối quan hệ với nhau ở mỗi vụ án. Việc tiến hành đánh giá chứng cứ đảm bảo một cách tổng hợp, khách quan, toàn diện và đầy đủ. Đánh giá từng chứng cứ để có thể xác định tính hợp pháp, xác thực và liên quan của mỗi chứng cứ trong vụ án. Đánh giá tổng hợp chứng cứ sau khi đánh giá xong từng chứng cứ trong mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Việc đánh giá chứng cứ nhằm xác định đúng đắn giới hạn chứng minh và kết luận về những vấn đề của vụ án.
33 Các bước của hoạt động đánh giá chứng cứ: Theo quy định tại Điều 108
Những chủ thể có trách nhiệm chứng minh trong vụ án MBTPCMT phải áp dụng mọi biện pháp mà pháp luật đã quy định để làm sáng tỏ nội dung của vụ án một cách khách quan, toàn diện. Muốn thực hiện được điều đó thì trong từng giai
https://thuviendethi.com/
34 đoạn tố tụng, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán phải tiếp cận với hiện thực khách quan của vụ án, để làm sáng tỏ chân lý trong quá trình chứng minh vụ án MBTPCMT.
Với tính chất là một giai đoạn độc lập của hoạt động TTHS, trong giai đoạn truy tố, VKS thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể do luật định không chỉ là để kiểm tra lại kết quả của toàn bộ các quyết định tố tụng, hoạt động tố tụng mà CQĐT có thẩm quyền đã tiến hành, tính hợp pháp, tính xác thực, tính có căn cứ của các quyết định, hoạt động đó, mà còn bảo đảm cho quyết định của VKS được chính xác, khách quan, toàn diện; góp phần truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không làm oan người vô tội và bỏ lọt tội phạm; góp phần tăng cường bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích hợp pháp kể cả của bị can cũng như những người có liên quan trong vụ án.
https://thuviendethi.com/
Luật Tổ chức VKSND năm 2002 và BLTTHS năm 2003 không quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hành quyền công tố và kiểm sát trong giai đoạn truy tố, nên trong thực tế đã gặp phải những khó khăn, vướng mắc hoặc lúng túng khi VKS áp dụng các quy định pháp luật cụ thể làm căn cứ pháp lý để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo luật định. Khắc phục tình trạng này, Luật Tổ chức VKSND năm 2014 và BLTTHS năm 2015 đã có sự đổi mới rất lớn, quy định rõ hơn không chỉ về nhiệm vụ, quyền hạn trong từng lĩnh vực công tác của ngành Kiểm sát, mà còn cả trong từng giai đoạn TTHS, trong đó có nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn truy tố (Điều 16, Điều 17 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 và Điều 236, Điều 237 BLTTHS năm 2015). Những quy định này rất quan trọng và lần đầu tiên được quy định trong Luật Tổ chức VKSND và BLTTHS, tạo cơ sở pháp lý để VKS tăng cường vai trò, trách nhiệm, thực hiện hiệu qủa chức năng, nhiệm vụ trong TTTHS. Với các quy định mới này, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát trong giai đoạn truy tố được cụ thể hóa, quy định rõ ràng, minh bạch, bảo đảm VKS thực hiện chức năng, nhiệm vụ một cách chủ động, đúng pháp luật, hiệu quả. Kết quả của giai đoạn truy tố là việc VKS ban hành quyết định truy tố bị can
https://thuviendethi.com/
VKS có trách nhiệm kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các hành vi tố tụng mà CQĐT có thẩm quyền đã áp dụng để bảo đảm cho các quyết định của VKS được chính xác và khách quan góp phần truy cứu trách nhiệm hình sự đúng tội, đúng người và đúng pháp luật. Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi VKS nhận được các tài liệu của VAHS (bao gồm cả kết luận điều tra và đề nghị truy tố) do CQĐT chuyển đến và kết thúc bằng việc VKS ra một trong ba loại quyết định sau: Truy tố bị can trước TA bằng bản cáo trạng (kết luận về tội trạng) (Điều 166); Trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung (Điều 168); Đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án (Điều 169). Trong giai đoạn này VKS có quyền chấp nhận hoặc bác bỏ các quyết định của CQĐT như trả hồ sơ điều tra bổ sung, đình chỉ điều tra…. Tóm lại, trong giai đoạn truy tố VKS có trách nhiệm kiểm sát hoạt động TTHS, căn cứ vào hồ sơ của CQĐT chuyển lên VKS ra một trong các quyết định có khởi tố vụ án hay không khởi tố, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ, trả hồ sơ điều tra bổ sung…. Quyết định truy tố của VKS thông qua bản cáo trạng thể hiện hoạt động chứng minh trên cơ sở các tài liệu của hồ sơ của vụ án (nhất là kết luận điều tra) tính chất lỗi của hành vi phạm tội, lỗi của bị cáo trong việc thực hiện tội phạm để góp phần có hiệu quả trong việc chuẩn bị cho giai đoạn xét xử của TA, loại trừ những thiếu sót hoặc hậu quả tiêu cực tiếp theo có thể xảy ra do việc xét xử thiếu công minh, vô căn cứ và không đúng pháp luật, tránh bỏ lọt tội phạm và làm oan những người vô tội...Thực hành quyền công tố vừa là quyền vừa là trách nhiệm công tố của VKS trong TTHS là xác định đúng người phạm tội, đúng tội để có thể đưa vụ án ra trước tòa và tại đó bảo vệ quan điểm của mình trước TA. Đó chính là quyền nhưng cũng là nhiệm vụ mà VKS phải thực hiện và phải thực hiện theo quy định của phápluật.
35 trước TA bằng bản cáo trạng. Đó là một văn bản TTHS chỉ do VKS là cơ quan duy nhất được giao chức năng thực hành quyền công tố ban hành, có giá trị pháp lý và ý nghĩa cáo buộc bị can về những hành vi phạm tội cụ thể được quy định trong Điều 251 BLHS năm 2015. Bản cáo trạng là căn cứ đầu tiên để xác định phạm vi và cơ sở cho TA ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
36 Đồng thời VKS còn thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các giai đoạn tố tụng. Mục đích của hoạt động này là nhằm đảm bảo cho pháp luật được áp dụng thống nhất trong giải quyết các vụ án trên cơ sở tuân thủ nghiêm chỉnh thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định. Cụ thể của hoạt độngkiểm sát tuântheo pháp luật là quyết định xem có đầy đủ căn cứ để truy tố hay không? Vấn đề này cho chúng ta thấy mối quan hệ giữa nhiệm vụ kiểm sát và nhiệm vụ công tố. Đồng thời phát hiện những sai lầm trong hoạt động điều tra của CQĐT hoặc cơ quan khác có quyền tiến hành các hoạt động điều tra. Nếu có sai lầm thiếu sót thì tùy từng trường hợp mà có những biện pháp nhằm khắc phục sai lầm thiếu sót. Trong Bộ luật TTHS đã quy định cụ thể những cách thức khắc phục sai lầm đó: Như trả hồ sơ điều tra bổ sung; đình chỉ vụ án; hủy bỏ biện pháp ngăn chặn… Thẩm quyền của VKS trong giai đoạn này được biểu hiện rõ qua việc là VKS phải quyết định vấn đề quan trọng nhất là: Có truy tố bị can ra trước TA để xét xử hay không. Vấn đề đó chỉ được thực hiện trong giai đoạn truy tố trong đó VKS phải thực hiện song song hai nhiêmvụ: Một là, truy tố và đảm bảo việc truy tố của mình là đúng pháp luật, người bị truy tố là có tội và phải chịu hình phạt theo pháp luật hình sự; Hai là, kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với hoạt động của những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng trong quá trình truy tố và kiểm sát hoạt động điều tra qua nghiên cứu hồ sơ. Đây là giai đoạn mà quyền công tố của VKS thể hiện một cách rõ ràng nhất đó là VKS sẽ quyết định có đưa bị can ra xét xử trước TA hay không? Đây chính là trách nhiệm quan trọng của VKS [31, tr. 41]. Quá trình chứng minh mang một ý nghĩa hết sức to lớn trong quá trình giải quyết vụ án, góp phần vào việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, thực hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Và ý nghĩa của chứng minh trong vụ án MBTPCMT là để phát hiện tội phạm, người phạm tội nhằm cải tạo giáo dục người phạm tội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của các tổ chức và mọi công dân, đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người đúng tội, đúng pháp luật. Thực hiện được quy định đó cho phép CQĐT, VKS, TA giải quyết đúng
https://thuviendethi.com/
37 đắn vụ án, và sẽ tác động đến người phạm tội và những người khác về sự công minh của pháp luật. Tiểu kết chương 1 Trong quá trình giải quyết VAHS, cùng với việc áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ do pháp luật quy định của các chủ thể tiến hành tố tụng, những thông tin về vụ án ngày càng được tích lũy với số lượng nhiều hơn. Thông qua các hoat động kiểm tra, đánh giá chứng cứ của các chủ thể này mà chất lượng, giá trị chứng minh của các thông tin đó được khẳng định và bức tranh về sự kiện phạm tội dần được tái hiện như nó vốn có, có cơ sở cho việc giải quyết vụ án được hình thành và củng cố.Hoạt động chứng minh trong vụ án MBTPCMT đóng một vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, có vai trò quan trọng trong việc tìm ra sự thật của vụ án, đảm bảo truy tố đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội; điều đó không chỉ có ý nghĩa về mặt chính trị, pháp lý mà còn có ý nghĩa sâu sắc về mặt xã hội.
https://thuviendethi.com/
https://thuviendethi.com/
38 Chương HỒ CHÍ MINH TỪ NĂM 2013 ĐẾN NĂM 2017 2.1. Những kết quả đạt được Qua hơn 40 năm xây dựng và trưởng thành của VKSND Quận 1, cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh, đời sống của nhân dân cải thiện rõ rệt, tình hình an ninh chính trị, trật tự trị an tiếp tục ổn định và giữ vững. Do tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường nên các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật và tội phạm về ma túy diễn ra với tính chất ngày càng tinh vi, nguy hiểm và xảo quyệt... Song với nỗ lực phấn đấu của toàn ngành VKSND Thành phố nói chung và VKSND Quận 1 nói riêng nên đã hoàn thành nhiệm vụ được giao và đạt được hiệu quả nhất định trong công tác thực hành quyền công tố kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án mua bán trái phép chất ma túy. Đặc biệt kể từ khi có Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức VKSND năm 2014, Nghị quyết số 08 NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết 49 NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, VKSND Quận 1 đã quán triệt sâu sắc đến từng cán bộ, Kiểm sát viên để làm tốt chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án mua bán trái phép chất ma túy. Quá trình giải quyết đã truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, hạn chế bỏ lọt tội phạm [68].
VKSND Quận 1 đã đổi mới toàn diện về phương thức tổ chức và hoạt động nhằm bám sát đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và yêu cầu của ngành cấp trên để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đề ra. Đồng thời, VKSND Quận 1 còn chủ động phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành ở địa phương làm tốt công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, an toàn trật tự xã hội, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Hiện nay của VKSND Quận 1 có 29 cán bộ, Kiểm sát viên. Số cán bộ, Kiểm sát viên có trình độ đại học chiếm 100%, trong đó có 02 cán bộ đang học trình độ sau đại học.Về trình độ lý luận chính trị hầu hết
2 THỰC TRẠNG CHỨNG MINH TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TẠI QUẬN 1, THÀNH PHỐ
39 cán bộ, Kiểm sát viên đều qua các lớp lý luận chính trị từ sơ cấp đến cao cấp, cử nhân, nên có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, có ý thức đấu tranh bảo vệ pháp chế thống nhất, có tinh thần học tập giữ vững và phát huy đạo đức cách mạng, luôn làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cán bộ kiểm sát phải “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được các cấp đầu tư quan tâm, ngày càng chuẩn hóa trình độ chuyên môn. Tổ chức bộ máy của VKSND Quận 1 đã được sắp xếp, bố trí cán bộ, Kiểm sát viên cho phù hợp với năng lực và sở trường, từng bước đã hạn chế và ngăn ngừa những biểu hiện tiêu cực, đồng thời VKSND Quận 1 còn xử lý nghiêm những cán bộ, Kiểm sát viên có biểu hiện tiêu cực, vi phạm pháp luật và vi phạm quy định của Ngành. Tuy nhiên so với yêu cầu cải cách tư pháp, đặc biệt trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử hiện nay thì trình độ, năng lực và bản lĩnh chính trị của cán bộ, Kiểm sát viên đòi hỏi cần phải nâng cao hơn nữa.
https://thuviendethi.com/
Trong những năm qua, chất lượng hoạt động điều tra, truy tố của CQĐT, VKSND Quận 1 ngày càng được nâng lên. Ở giai đoạn điều tra, truy tố về cơ bản CQĐT, VKS đã được xác định đúng phạm vi, đối tượng chứng minh của các vụ án và tiến hành chứng minh đầy đủ những tình tiết của vụ án, cũng như những tình tiết
Những năm qua tình hình tội phạm diễn ra hết sức phức tạp, đặc biệt là tội phạm về ma túy nghiêm trọng về tính chất, mức độ, thủ đoạn và hậu quả làm ảnh hưởng đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ở địa phương. Song, VKSND Quận 1 đã chú trọng đến việc đảm bảo mục tiêu dân chủ, bình đẳng, tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, tranh thủ sự lãnh đạo và làm tốt vai trò tham mưu cho cấp ủy địa phương về công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy. Ngoài ra còn tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các cơ quan bảo vệ pháp luật và quần chúng nhân dân trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị; đảm bảo thực hiện tốt chức năng của VKS trong kiểm sát điều tra, thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ các vụ án mua bán trái phép chất ma túy.
Các kết quả đạt được cho thấy, hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra, truy tố vụ án đáng được ghi nhận. Để đạt được những thành quả trên, bên cạnh sự cố gắng, nỗ lực của CQĐT, VKS còn phải kể đến sự đóng góp đáng kể của BLTTHS năm 2003, BLHS năm 1999 và những văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành riêng về giải quyết án ma túy khi được áp dụng trong hoạt động thực tiễn đã mang lại hiệu quả và chất lượng cho hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra,
https://thuviendethi.com/
40 khác có liên quan đến vụ án. Qua đó, phục vụ cho việc giải quyết, xử lý các vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; hạn chế việc xử lý oan sai, bỏ lọt tội phạm; đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân. Quá trình kiểm sát điều tra và truy tố, Kiểm sát viên VKSND Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã chủ động phối hợp chặt chẽ với Điều tra viên để điều tra, làm rõ các tình tiết cần phải chứng minh của vụ án; đề ra yêu cầu điều tra và thường xuyên trao đổi với Điều tra viên, định hướng điều tra để đảm bảo việc giải quyết vụ án nhanh, kịp thời, đúng pháp luật. Thực hiện những quy định mới của BLTTHS năm 2015, các Kiểm sát viên đã chủ động đề ra chiến thuật hỏi cung, trực tiếp gặp gỡ, lấy lời khai bị can, bị cáo những người có liên quan để làm sáng tỏ nội dung vụ án, thay vì chỉ xem xét đánh giá chứng cứ dựa trên hồ sơ tài liệu của Cơ quan điều tra chuyển sang... Đề cao vai trò và tăng cường trách nhiệm của Kiểm sát viên gắn với trách nhiệm của Điều tra viên trong quá trình điều tra, giải quyết án. Đối với những vụ án khó khăn, phức tạp, Kiểm sát viên đã xây dụng kế hoạch kiểm sát điều tra trình Lãnh đạo phê duyệt. Tham mưu cho chính quyền và các cơ quan chức năng chủ động nắm chắc tình hình, xu hướng, diễn biến của các loại tội phạm ma túy. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy. Phối hợp với CQĐT thường xuyên tổ chức các đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm ma túy, tập trung triệt phá các đường dây mua bán ma túy, các điểm nóng về ma túy. Với sự nỗ lực không ngừng của tập thể lãnh đạo, cán bộ, Kiểm sát viên của VKSND Quận 1 trong những năm qua, công tác giải quyết án ma túy đã đạt đáng kể, góp phần không nhỏ vào việc phòng, chống tội phạm ma túy trên địa bàn Quận 1 [63].
41 truy tố vụ án MBTPCMT. Việc các cơ quan và người tiến hành tố tụng thực hiện chính xác, triệt để những quy định pháp luật chính là đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa được áp dụng. Với những quy định tiến bộ của BLTTHS hiện hành đã tác động mạnh mẽ đến việc nâng cao chất lượng điều tra, thu thập chứng cứ, giảm thiểu đáng kể các trường hợp sai sót, vi phạm. VKS chủ động, tăng cường kiểm sát việc thu thập tài liệu, chứng cứ và các hoạt động điều tra của CQĐT, bảo đảm 100% các vụ án đều được kiểm sát từ khi khởi tố và trong suốt quá trình điều tra; chủ động phối hợp với CQĐT đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng giải quyết án. Theo Báo cáo tổng kết công tác của VKSND Quận 1 từ năm 2013 đến năm 2017, các vụ phạm tội về ma túy còn diễn biến phức tạp. Nhìn chung, những năm vừa qua, số lượng các vụ phạm tội được phát hiện lớn, với tính chất cũng như mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cao. Kết quả này thu được là nhờ phần lớn sự tham gia, nỗ lực của các CQTHTT. Do biết phát huy những thuận lợi vốn có và khắc phục những khó khăn, trở ngại nên hoạt động chứng minh, chủ yếu của CQĐT, VKS đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, là tiền đề cho việc giải quyết chính xác vụ án. Kết quả đạt được của hoạt động chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy thể hiện qua đánh giá và xem xét việc giải quyết vụ án hình sự, cụ thể như sau: VKSND Quận 1 đã truy tố một số lượng rất lớn các vụ án mua bán trái phép chất ma túy đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Điều đó cho thấy, công tác giải quyết vụ án đã được quan tâm một cách đúng mực, được chỉ đạo thực hiện một cách khá nghiêm túc và triệt để, đáp ứng các yêu cầu đặt ra của công cuộc cải cách tư pháp. Hoạt động điều tra, truy tố được tiến hành nhanh chóng, chính xác, kịp thời tạo điều kiện thuận lợi cho ngành TA hoàn thành tốt những chỉ tiêu đặt ra; tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết, xét xử một lượng lớn các vụ án mua bán trái phép chất ma túy, đảm bảo chất lượng hồ sơ, chứng cứ, xét xử đúng thời hạn.
https://thuviendethi.com/
42 Bảng 2.1. Số vụ án mua bán trái phép chất ma túy và bị can bị khởi tố Tiêu chí 2013 2014 2015 2016 2017 Số vụ án MBTPCMT 49 69 75 51 35 Số bị can 60 98 87 53 39 Nguồn: Báo cáo tổng kết của VKSND Quận 1 từ 2013 2017 Theo bảng 2.1 tổng số số án và bị can bị khởi tố về tội MBTPCMT tăng giảm không ổn định, nhưng nhìn chung có khuynh hướng giảm dần về sau, lý do lực lượng Công an đã phấn đấu thực hiện các biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm, tích cực triệt phá các tụ điểm lớn về buôn bán ma túy, trả lại môi trường sống lành mạnh cho các khu dân cư trước đây được xem là điểm nóng ma túy của cả Thành phố; đồng thời việc lập hồ sơ áp dụng biện pháp đưa người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đã góp phần kéo giảm tình hình tội phạm ma túy trên địa bàn Quận 1. Bảng 2.2. Số vụ án mua bán trái phép chất ma túy VKS truy tố và TA đưa ra xét xử từ năm 2013 đến 2017 Tiêu chí 2013 2014 2015 2016 2017 Số vụ án TA thụ lý 40 62 69 57 31 Số vụ án TA xét xử 34 53 58 48 27 Tỉ lệ giải quyết 85% 85.5% 84 84.2% 87% Nguồn: Báo cáo tổng kết của VKSND Quận 1 từ 2013 2017 Theo bảng 2.2, có thể nhận thấy hoạt động giải quyết vụ án của CQTHTT đã có nhiều chuyển biến tích cực. Số vụ án được đề nghị truy tố đã tăng lên hàng năm, thể hiện trách nhiệm điều tra vụ án của CQĐT và VKS đã được nâng cao. Hoạt động chứng minh tội phạm của Hội đồng xét xử ngày càng có hiệu quả, tỉ lệ giải quyết án đạt ở mức cao (trên 80%); án tồn đọng chủ yếu là án mới thụ lý và đang được tiếp tục xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật. Từ năm 2013 đến năm 2017, không có án Tòa tuyên hủy án sơ thẩm để điều tra hoặc xét xử lại do có trách nhiệm của VKS, không có án TA xét xử tuyên bị cáo không phạm tội, chỉ riêng trong năm 2015 có 01 vụ án bị TAND Thành phố Hồ Chí Minh tuyên hủy án sơ
https://thuviendethi.com/
43 thẩm để điều tra xét xử lại do giám định hàm lượng chất ma túy. Qua đó thấy được, quá trình chứng minh ở giai đoạn truy tố ngày càng chính xác, khách quan. Chất lượng điều tra, nỗ lực của VKS trong giai đoạn truy tố có nhiều chuyển biến tích cực. Từ đó đảm bảo giảm tỉ lệ người vô tội bị kết án oan, bỏ lọt tội phạm trong xét xử. Đặc biệt, nhiều vụ án lớn, phức tạp, quá trình điều tra làm rõ gặp nhiều khó khăn từ nhiều phía đã được đưa ra xét xử một cách công khai, rõ ràng trước pháp luật. Trong những vụ án này, để thu thập chứng cứ về hành vi phạm tội của bị can, xác định các chứng cứ và giá trị chứng minh của chứng cứ, CQĐT phải tốn nhiều thời gian, công sức và hết sức nguy hiểm. 2.2. Hạn chế về chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy của cơ quan tiến hành tố tụng Bên cạnh những kết quả mà VKSND Quận 1 đạt được thì vẫn còn tồn tại những hạn chế. VKSND Quận 1 chưa thực thi hết trách nhiệm của mình trong quá trình làm sáng tỏ vụ án. Thực tiễn của hoạt động điều tra cũng cho thấy bộc lộ không ít sai sót cần được khắc phục kịp thời như thiếu trách nhiệm trong việc thu thập chứng cứ vụ án, xử lý vật chứng của vụ án không đúng quy định của pháp luật, không áp dụng những biện pháp cần thiết để kiểm tra cũng như đánh giá chứng cứ toàn diện. Các vụ án gặp khó khăn khi giải quyết gây ra hậu quả sai sót chủ yếu là do những khiếm khuyết nêu trên. Trong một số trường hợp, chất lượng hoạt động chứng minh trong vụ án MBTPCMT còn chưa cao, dẫn đến trả hồ sơ để điều tra bổ sung, không đúng pháp luật, dẫn đến bỏ lọt tội phạm hoặc truy tố không đúng tội danh. TAND Quận 1 và VKS cấp trên đã phát hiện và khắc phục những thiếu sót trong hoạt động chứng minh ở những giai đoạn trước đó, đặc biệt là giai đoạn điều tra vụ án. Bảng 2.3. Số vụ án VKSND Quận 1 trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung từ năm 2013 năm 2017 Tiêu chí 2013 2014 2015 2016 2017 VKS trả hồ sơ điều tra bổ sung 1 1 2 1 0
https://thuviendethi.com/
Tỉ lệ trả hồ sơ điều tra bổ sung 2% 1,4% 1,33% 2% 0 Nguồn: Báo cáo tổng kết của VKSND Quận 1 từ 2013 2017 Theo bảng số liệu 2.3, trong các năm từ 2013 đến năm 2017, VKS trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung chiếm tỉ lệ thấp, Cơ quan điều tra hầu như chấp nhận 100% điều tra bổ sung theo yêu cầu của VKS trong giai đoạn truy tố thể hiện mối quan hệ phối hợp tốt giữa Cơ quan điều tra và VKS trong việc giải quyết các vụ án ma túy xảy ra trên địa bàn Quận 1. Lý do VKS trả hồ sơ để điều tra bổ sung gồm: Do còn thiếu những chứng cứ quan trọng đói với vụ án, quy định tại khoản 1 Điều 168 BLTTHS năm 2003; Do có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người đồng phạm khác, quy định tại khoản 2 Điều 168 BLTTHS năm 2003; Do có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, quy định tại khoản 3 Điều 168 BLTTHS năm 2003 hoặc trả hồ sơ điều tra bổ sung vì những lý do khác…[62]Vídụ1: Vụ Nguyễn Hữu Hiền phạm tội mua bán trái phép chất ma túy bị lực lượng trinh sát Công an Quận 1 bắt quả tang. Công an Quận 1 thu giữ tang vật là 01 tép heroin và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus màu vàng là công cụ, phương tiện Hiền dùng để liên hệ mua ma túy. Chiếc điện thoại trên là tang vật của vụ án nhưng Điều tra viên đã đề xuất Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra trả lại cho chị Nguyễn Thanh Hương (bạn gái của Hiền) là không đúng quy định tại Điều 76 BLTTHS năm 2003. VKSND Quận 1 xác định có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nên ra quyết định trả hồ sơ cho CQĐT điều tra bổ sung để tiến hành thu hồi chiếc điện thoại trên. CQĐT đã chấp nhận thu hồi chiếc điện thoại trên và chuyển hồ sơ cho VKS đề nghị truy tố theo thẩm quyền. Ví dụ 2: Vụ án Phan Trường Bảo Phúc và Dương Viết Khoa bị CQĐT Công an Quận 1 khởi tố về tội MBTPCMT. Quá trình điều tra, Dương Viết Khoa bỏ trốn nên CQĐT ra quyết định truy nã, quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can và tách hồ sơ đối với Dương Viết Khoa để điều tra, xử lý sau. Ngày 24/5/2017, Dương Viết
0 0 1 0 0
44 CQĐT không chấp nhận
https://thuviendethi.com/
45 Khoa bị bắt truy nã nên CQĐT có công văn đề nghị nhập vụ án nên VKSND Quận 1 đã trả hồ sơ cho CQĐT để nhập vụ án theo quy định. Bảng 2.4. Số vụ án TA trả hồ sơ điều tra bổ sung từ năm 2013 năm 2017 Tiêu chí 2013 2014 2015 2016 2017 TA trả hồ sơ điều tra bổ sung 3 9 21 26 2 VKS không chấp nhận 2 5 13 11 1
Tỉ lệ trả hồ sơ điều tra bổ sung 2,5% 6,4% 11,6% 26% 3,2% Nguồn: Báo cáo tổng kết của VKSND Quận 1 từ 2013 2017 Theo bảng số liệu trên, thực trạng TA trả hồ sơ để điều tra bổ sung các vụ án MBTPCMT bao gồm cả lỗi chủ quan và khách quan, trong đó những vụ án phải trả hồ sơ điều tra bổ sung do lỗi chủ quan của Kiểm sát viên, trong khoảng từ 2% 5%, nằm trong chỉ tiêu cho phép của VKSND tối cao (6%), trong các năm không có vụ nào TA trả điều tra bổ sung về thủ tục tố tụng. Trong số những vụ án bị TA trả hồ sơ điều tra bổ sung có những vụ VKS không chấp nhận, vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và được TA chấp nhận đưa ra xét xử. Nguyên nhân của việc phải trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung là: Khi thiếu những chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 mà không thể bổ sung tại phiên tòa; Khi có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà VKS đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm; Có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm liên quan đến những vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Nhưng không có vụ nào TA trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong việc khởi tố, điều tra, truy tố theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 280 BLTTHS năm 2015.Như vậy, việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa TA và VKS chủ yếu là do thiếu các chứng cứ để chứng minh các tình tiết của vụ án, điều này nhìn nhận dưới phương diện liên quan đến đối tượng chứng minh có cơ sở khẳng định rằng: Trong những vụ án này, VKSND Quận 1 chưa xác định đúng phạm vi giới hạn của đối tượng chứng minh trong vụ án hoặc những tình tiết là đối tượng cần phải chứng minh trong vụ án chưa
https://thuviendethi.com/
Ví dụ 3: Khoảng 13 giờ 20 phút ngày 09/9/2017, Công an Quận 1 kiểm tra nhà số 186/2/15 Bùi Viện, phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1, bắt quả tang và thu giữ của Huỳnh Trương Khang 02 đoạn ống nhựa; 02 gói ny lon chứa chất bột màu trắng; 02 gói nylon chứa tinh thể màu trắng; 01 bình nhựa có gắn nỏ và ống hút; 01 bình gas mini; 01 quẹt gas; 100.000 đồng; 7 nỏ thủy tinh; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy hình rồng; 01 cân tiểu ly. Tại thời điểm kiểm tra, tại nơi ở của Khang còn có các người nghiện gồm: Lê Quốc Bảo, Nguyễn Thanh Phúc, Lương Đỗ Đông Dương. Quá trình điều tra đã xác định khoảng 12 giờ ngày 09/9/2017, Lê Quốc Bảo đến nhà số 186/2/15 Bùi Viện, phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1gặp Khang, Bảo đưa cho Khang 100.000 đồng để mua ma túy sử dụng. Khang lấy ma túy để Bảo sử dụng cùng với Khang và hai bạn nghiện của Khang là Nguyễn Thanh Phúc và Lương Đỗ Đông Dương, vừa sử dụng ma túy xong thì bị bắt. Ngoài ra, trước khi bị bắt, Lê Quốc Bảo đã đến nhà Khang mua ma túy và sử dụng tại đây cùng với Khang 2 lần,
https://thuviendethi.com/
46 được VKSND Quận 1 chứng minh đầy đủ. Các vụ án được trả điều tra bổ sung tăng cao trong các năm 2014 đến 2016 do phải thực hiện việc giám định hàm lượng của các chất ma túy trong các chất thu giữ nghi là chất ma túy theo Công văn số 234/TANDTC HS ngày 17/9/2014 của TAND tối cao. Đến năm 2017, do đã có sự thống nhất của CQTHTT cấp trung ương bằng việc ban hành Thông tư liên tịch số
08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 14 tháng 11 năm 2015 sửa đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT BCA
VKSNDTC TANDTC BTP ngày 24/12/2007 của Bộ công an, VKSND tối cao, TAND tối cao, Bộ tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “các tội phạm về ma túy” của bộ luật hình sự năm 1999, Công văn số 315/TANDTC CV ngày 11/12/2015 của TAND tối cao; Công văn số 35 CV/BCS ngày 01/3/2016 của Ban Cán sự đảng TAND tối cao, Công văn số 315/TANDTC PC ngày 11/12/2017, về việc “Thực hiện Thông tư liên tịch sửa đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư liên tịch số 17” đã tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong việc giám định khối lượng, hàm lượng chất ma túy, làm giảm tỉ lệ trả điều tra hồ sơ bổ sung giữa các CQTHTT do lỗi khách quan.
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 05/4/2018, Hội đồng xét xử tuyên hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho cấp sơ thẩm để điều tra, truy tố và xét xử lại do ngoài hành vi mua bán trái phép chất ma túy, bị cáo Khang còn cho người nghiện sử dụng trái phép chất ma túy tại nơi ở của mình, có dấu hiệu phạm thêm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo Điều 198 BLHS năm 1999. Trong vụ án này, VKSND Quận 1 có lỗi chủ quan khi không nghiên cứu Điều 3 Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 14/11/2015, có hiệu lực thi hành ngày 30/12/2015 để yêu cầu Cơ quan điều tra, xử lý hành vi chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Huỳnh Trương Khang, dẫn đến cấp phúc thẩm phải hủy án sơ thẩm để điều tra, truy tố, xét xử lại theo thủ tục chung. Trong quá trình giải quyết lại vụ án, cần tiếp tục điều tra làm rõ bị cáo Khang có hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo Điều 197 BLHS hay “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo Điều 198 BLHS. Ngoài ra, cần kết luận hành vi bị cáo tàng trữ nhiều nỏ thủy tinh có cấu thành tội “Tàng trữ dụng cụ sử dụng trái phép chất ma túy” theo Điều 196 BLHS hay không.
Ví dụ 4: Vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 30/6/2016 tại trước hẻm số 186 Bùi Viện, phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 1 bắt quả tang Nguyễn Thanh Nam đang bán trái phép chất ma
https://thuviendethi.com/
47 mỗi lần Bảo trả cho Khang 100.000 đồng. Kết quả giám định chất bột màu trắng trong 02 đoạn ống nhựa và 02 gói nylon thu giữ của Huỳnh Trương Khang là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 6,0756g, loại Heroine; 03 viên nén hình vuông màu xanh trong 01 gói nylon là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 0,8923g, loại Ketamine.
TAND Quận 1 đã áp dụng điểm b, h khoản 2, khoản 5 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999, xử phạt Huỳnh Trương Khang 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 21/02/2018, VKSND Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị bản án trên, đề nghị hủy bản án do có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm.
48 túy cho Trần Thành, thu giữ 01 gói nylon chưa ma túy tổng hợp, khối lượng 0,5931g, loại Methaphetamine (MA). Từ lời khai của Nam, Cơ quan điều tra Công an Quận 1 tiến hành khám xét nhà số 68/236A Trần Quang Khải, phường Tân Định, Quận 1 bắt quả tang Nguyễn Hoàng Kim Ngân đang bán ma túy cho Lý Cường. Khám xét tại lầu 1 bắt quả tang Trịnh Thu Đức đang tổ chức cho Hà Minh Thạnh, Nguyễn Tấn Sang, Nguyễn Thành Thông, Lâm Ngọc Thủy, Trần Thị Thu Sương, Bùi Thị Kim Sang và Trương Vĩ Hiếu sử dụng ma túy tổng hợp. Thu giữ của Thạnh 25,0751g MA; của Đức 6,9492g MA và lá cây khô là AMB FUBINACA (cần sa tổng hợp không nằm trong danh mục); của Trung và Ngân 0,6594g MA; ngoài ra còn thu giữ dụng cụ sử dụng ma túy và một số tài sản khác. Ngày 09/7/2016, Cơ quan điều tra Công an Quận 1 ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Trịnh Thu Đức về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy và Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, Trịnh Tấn Phước, Nguyễn Thanh Nam, Hà Thuận Trung, Hà Minh Thạnh, Nguyễn Hoàng Kim Ngân về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 23/01/2017, Cơ quan điều tra Công an Quận 1 có kết luận điều tra vụ án đề nghị truy tố đối với Trịnh Thu Đức về hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, Trịnh Tấn Phước, Nguyễn Thanh Nam, Hà Thuận Trung, Hà Minh Thạnh, Nguyễn Hoàng Kim Ngân về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”.
https://thuviendethi.com/
Ngày 10/3/2017, VKSND Quận 1 có cáo trạng truy tố Trinh Thu Đức về tội Mua bán trái phép chất ma túy và Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, Trịnh Tấn Phước, Nguyễn Thanh Nam, Hà Thuận Trung, Hà Minh Thạnh, Nguyễn Hoàng Kim Ngân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 09/6/2017, TAND Quận 1 có Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung làm rõ vai trò của Trịnh Thu Đức, về hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo hướng dẫn tại Mục 6 Thông tư liên tịch số 17 ngày 24/12/2007 của Bộ công an VKSND tối cao TAND tối cao Bộ tư pháp vì bản thân Trịnh Thu Đức cũng là người nghiện ma túy, Đức bán lại ma túy cho các đối tượng nghiện để cùng sử dụng tại nhà của mình do đó hành vi
49 của Đức bị thu hút trong tội Mua bán trái phép chất ma túy. Do đó, VKSND Quận 1 truy tố Trịnh Thu Đức về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là không đủ căn cứ. Ngoài ra, cơ quan tiến hành tố tụng ở Quận 1 trong quá trình chứng minh tội phạm không gắn liền đối tượng chứng minh với cấu thành tội phạm cụ thể nên đã sai lầm trong việc xác định tội phạm và người phạm tội; việc thu thập các phương tiện chứng minh là những chứng cứ trong vụ án không đầy đủ, đánh giá không khách quan dẫn đến định tội danh sai cho người bị nghi là thực hiện tội phạm; các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng khi đánh giá chứng cứ chỉ tập trung vào chứng cứ buộc tội, bỏ qua các chứng cứ gỡ tội cho người bị khởi tố, điều tra, xét xử. 2.3. Nguyên nhân của hạn chế 2.3.1. Nguyên nhân từ những quy định của pháp luật BLTTHS năm 2003 sau quá trình thi hành đã bộc lộ nhiều khuyết điểm cần phải sửa đổi bổ sung, cụ thể: Trong giai đoạn khởi tố, BLTTHS năm 2003 chỉ quy định trách nhiệm của CQĐT, VKS có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố mà không quy định trách nhiệm của các cơ quan tổ chức khác, đây là một trong những thiếu sót của BLTTHS năm 2003, dẫn đến chưa ràng buộc và phát huy đầy đủ trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong đấu tranh phòng và chống tội phạm, chỉ quy định trách nhiệm cho CQĐT, VKS sẽ dẫn đến bỏ lọt tội phạm, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm không được đảm bảo (Điều 103). BLTTHS năm 2015 đã khắc phục tình trạng trên, BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể trách nhiệm tiếp nhận và thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tại Điều 145 BLTTHS năm 2015. Mọi tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố phải được tiếp nhận đầy đủ, giải quyết kịp thời. Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận không được từ chối tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Cơ quan điều tra,
https://thuviendethi.com/
BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm quy định về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức khác mà BLTTHS năm 2003 không quy định. Với sự quy định đầy đủ như vậy đã phát huy đầy đủ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc đấu tranh, phòng chống tội phạm. BLTTHS năm 2015 cũng quy định trình tự, thủ tục tiếp nhận tin báo của các cơ quan có thẩm quyền THTT, nếu cơ quan, tổ chức, cá nhân trực tiếp tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì cơ quan có thẩm quyền THTT phải lập biên bản tiếp nhận và ghi vào sổ tiếp nhận. Nếu tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố gửi qua dịch vụ bưu chính, điện thoại hoặc qua phương tiện thông tin khác thì ghi vào sổ tiếp nhận. VKS có trách nhiệm chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố kèm theo tài liệu có liên quan đã tiếp nhận cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền; Bộ luật cũng quy định Các cơ quan, tổ chức khác sau khi nhận được tố giác, tin báo về tội phạm thì chuyển ngay cho CQĐT có thẩm quyền. Trường hợp khẩn cấp thì có thể báo tin trực tiếp qua điện thoại hoặc hình thức khác cho CQĐT nhưng sau đó phải thể hiện bằng văn bản. BLTTHS năm 2003 quy định thời điểm thực hiện chức năng quyền công tố của VKS là “từ khi khởi tố vụ án” như vậy, trong quá trình giải quyết tin báo, tin tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố trước khi khởi tố vụ án hình sự của CQĐT sẽ không được kiểm sát chặt chẽ, có thể dẫn đến lạm quyền. Để khắc phục hạn chế và nhằm tăng cường trách nhiệm cho VKS, BLTTHS năm 2015 đã quy định thời điểm thực hiện chức năng thực hành quyền công tố sớm hơn từ khi “giải quyết nguồn tin về tội phạm” (Điều 159). Bên cạnh đó Bộ luật cũng bổ sung thêm trách nhiệm giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố (Điều 150).
50 VKS tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Cơ quan, tổ chức khác tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm [22, tr. 65]
Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, liên quan đến vấn đề trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quy định Điều 168 Bộ luật TTHS năm 2003 trong thực tế gặp nhiều khó khăn, nhất là trường hợp VKS ra quyết định trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung khi thấy “còn thiếu những chứng cứ quan trọng trong vụ án mà VKS không
https://thuviendethi.com/
https://thuviendethi.com/
51 thể tự mình bổ sung được”, bởi nhận thức không thống nhất về “chứng cứ quan trọng”. Tình trạng này dẫn đến một số vụ án phải trả đi trả lại hồ sơ giữa CQĐT và VKS, dẫn đến kéo dài thời gian giải quyết vụ án. Thực hiện Nghị quyết 08 NQ/TW của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thì trách nhiệm của VKS được đề cao nhằm “tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, việc bắt, giam, giữ đảm bảo đúng pháp luật…VKS các cấp chịu trách nhiệm về những oan sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi quyền phê chuẩn của mình, tăng cường công tố hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”.Nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng, tăng cường hơn nữa trách nhiệm của VKS, BLTTHS năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng đối với trách nhiệm của VKS trong giai đoạn điều tra VAHS: Một là, quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra (Điều 165, Điều 166). Hai là, quy định thêm trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can, VKS phải phê chuẩn hoặc hủy bỏ; đồng thời bổ sung quy định trường hợp VKS yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu thì trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được chứng cứ, tài liệu bổ sung, VKS phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố bị can (Điều 179, Điều 180). Ba là, ngoài hai hoạt động tố tụng bắt buộc phải có sự tham gia của Kiểm sát viên là khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi thì Bộ luật bổ sung thêm 05 trường hợp bắt buộc phải có Kiểm sát viên tham gia gồm: Đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, khám xét, thực nghiệm điều tra (các Điều 189, 190, 191,193, 201, 202, 204). Năm là, nhằm bảo đảm cho Kiểm sát viên nắm chắc chứng cứ, tài liệu trong giai đoạn điều tra, Bộ luật quy định cụ thể những trường hợp VKS phải trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra: trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét phê chuẩn lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc trường hợp phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm pháp luật mà VKS đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục hoặc trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi quyết
https://thuviendethi.com/
52 định việc truy tố (Điều 165). Sáu là, Khi phát hiện việc điều tra không đầy đủ, vi phạm pháp luật thì VKS yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện các hoạt động: Tiến hành hoạt động điều tra đúng pháp luật; Kiểm tra việc điều tra và thông báo kết quả cho VKS; Cung cấp tài liệu liên quan đến hành vi, quyết định tố tụng có vi phạm pháp luật trong việc điều tra(Điều 166)....[5, tr 129-130].
BLTTHS năm 2003 không quy định cụ thể các nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hành quyền công tố và kiểm sát trong giai đoạn truy tố. Để phù hợp với quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2014, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung 02 điều (Điều 236 và Điều 237) nhằm quy định đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của VKS trong giai đoạn truy tố. Ngoài ra hệ thống văn bản pháp luật hướng dẫn liên quan đến việc giải quyết án ma túy thời gian qua còn nhiều chồng chéo, mâu thuẫn; trong giai đoạn chuyển tiếp giữa BLHS, BLTTHS cũ và Bộ luật hiện hành còn chưa có hướng dẫn rõ ràng về những quy định có lợi cho bị can, bị cáo dẫn đến việc áp dụng pháp luật chưa thống nhất, cách hiểu và vận dụng còn nhiều mâu thuẫn giữa các CQTHTT dẫn đến việc đánh giá chứng cứ, xác định tội danh và đường lối xử lý của các CQTHTT không thống nhất, nhất là đối với những vụ án nghiêm trọng và phức tạp. 2.3.2. Nguyên nhân từ phía chủ thể có trách nhiệm chứng minh Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của các CQTHTT chưa đáp ứng được quá trình phát hiện và điều tra tội phạm. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ thông tin những tội phạm công nghệ cao ngày càng phát triển mạnh trong khi trình độ của các cán bộ điều tra, Điều tra viên, Kiểm sát viên còn nhiều hạn chế. Vì vậy đặt ra một yêu cầu với hoạt động chứng minh tội phạm là phải có sự đầu tư kỹ lưỡng về mặt nhân lực cả số lượng và chất lượng. Tuy nhiên cũng có những trường hợp do nhận thức kém, biện pháp nghiệp vụ còn non kém hoặc tư duy theo ý muốn chủ quan của người tiến hành tố tụng dẫn tới nhưng sai lầm đáng tiếc xảy ra. Trong quá trình điều tra, một số Điều tra viên được phân công giải quyết vụ án chưa đánh giá hết mức độ phức tạp của vụ án, công tác điều tra, thu thập chứng
53 cứ chứng minh tội phạm còn phiến diện, không thu thập đầy đủ các chứng cứ buộc tội, gỡ tội cùng các tình tiết quan trọng khác của vụ án, không thực hiện triệt để yêu cầu điều tra của VKS. Khi kết thúc điều tra còn nhiều mâu thuẫn chưa được làm rõ, dẫn đến tình trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung, Ngoài ra, trong công tác điều tra, một số Điều tra viên chưa phối hợp chặt chẽ với Kiểm sát viên tìm ra những khó khăn, vướng mắc và kịp thời báo cáo lãnh đạo chỉ đạo giải quyết. Trong giai đoạn điều tra, lãnh đạo Cơ quan điều tra đôi lúc còn thiếu sâu sát trong công tác đôn đốc và yêu cầu Điều tra viên thu thập đầy đủ chứng cứ một cách toàn diện. Bên cạnh đó, nhiều Kiểm sát viên chưa thật sự phát huy vai trò, trách nhiệm trong công tác kiểm sát điều tra, từ đó chưa đưa ra các yêu cầu điều tra đầy đủ và nắm bắt tiến độ điều tra để phát hiện ra vướng mắc trong việc đánh giá chứng cứ, xác định tội danh, từ đó báo cáo lãnh đạo VKS chỉ đạo giải quyết. Trong giai đoạn truy tố, một số Kiểm sát viên chưa nghiên cứu thận trọng hồ sơ vụ án dẫn đến việc bỏ sót chứng cứ hoặc thiếu sót, vi phạm trong hồ sơ không được phát hiện và sửa chữa kịp thời. Ngoài ra, quan điểm nhận thức, đánh gía chứng cứ của một số Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán, giữa các CQTHTT còn chưa đồng nhất. Từ đó dẫn đến tình trạng xuất hiện tư tưởng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm giữa các CQTHTT và người tiến hành tố tụng bằng việc viện ra mọi lý do để tra hồ sơ điều tra bổ sung, mặc dù lý do không thực sự thuyết phục và thiếu căn cứ. Nghị quyết số 49 NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nhận định “đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí một số cán bộ còn sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp, vẫn còn tình trạng oan sai trong điều tra.” Hiện nay, đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, cán bộ, công chức làm trong ngành tư pháp tuy đã tăng cường đáng kể nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới, vẫn còn thiếu về số lượng. Cần nhanh chóng bổ sung đủ số lượng Điều tra viên, Kiểm sát viên đáp ứng đòi hỏi yêu cầu thực tế của công tác giải quyết các VAHS. Ở giai đoạn hiện nay, khi diễn biến của tình hình tội phạm ngày càng phức tạp một cách đáng lo ngại đòi hỏi đội
https://thuviendethi.com/
https://thuviendethi.com/
54 ngũ cán bộ chuyên trách của CQĐT, VKS phải đặc biệt chú trọng. 2.3.3. Nguyên nhân khác Vai trò của người bào chữa chưa được đề cao trong tố tụng Luật sư với vai trò là người bào chữa, đây không chỉ là quyền mà còn là trách nhiệm pháp lý, là nghĩa vụ nghề nghiệp của họ. Muốn thực hiện được quyền và nghĩa vụ này người bào chữa phải tiến hành thu thập chứng cứ để có đủ phương tiện chứng minh. Tuy nhiên, quyền thu thập chứng cứ, tài liệu có liên quan đến vụ án còn bị hạn chế. Khi thực hiện việc bào chữa họ chỉ dựa vào các chứng cứ do bên buộc tội cung cấp, điều này đã không tạo được sự bình đẳng giữa các bên trong tranh tụng; và còn nhiều bất hợp lý khác cần phải có sự nghiên cứu để sửa đổi bổ sung kịp thời [11]. Mặt khác, thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa cho luật sư bị gây khó dễ bởi chính CQTHTT khiến cho luật sư phải mất rất nhiều thời gian, nhiều khi không đảm bảo quyền lợi cho người bị buộc tội. Những người tham gia tố tụng khác Trình độ hiểu biết pháp luật nói chung, pháp luật hình sự và pháp luật TTHS nói riêng của người dân còn hạn chế. Điều này trực tiếp ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện quyền chứng minh của người dân khi họ tham gia tố tụng. Ngoài ra, chúng ta chưa có một cơ chế pháp lý hoàn chỉnh để bảo vệ người bị hại và người làm chứng khi họ tố giác hành vi phạm tội với các cơ quan chức năng, điều này cùng với sự kém hiểu biết của người dân, dẫn tới tình trạng khá phổ biến hiện nay là người dân sợ bị trả thù mà không dám tố giác tội phạm, gián tiếp bao che cho hành vi phạm tội, không hợp tác với các CQTHTT, gây khó khăn rất lớn cho hoạt động chứng minh tội phạm. Tình hình chấp hành pháp luật của cơ quan giám định, giám định viên: Việc giám định trong việc giải quyết các vụ án MBTPCMT là bắt buộc, kết luận giám định về ma túy là chứng cứ cực kỳ quan trọng, mang tính quyết định trong việc chứng minh tội phạm. Tuy nhiên trong thời gian qua, do sự mâu thuẫn trong hệ thống văn bản hướng dẫn giải quyết án ma túy nên công tác giám định vẫn còn những hạn chế, vi phạm (trong đó: vi phạm về thời hạn, vi phạm về hình thức, nội
Đời sống vật chất và tinh thần của Điều tra viên, Kiểm sát viên là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng và hiệu quả công việc mà họ đảm nhiệm. Tuy đã được cải tiến một bước nhưng chế độ tiền lương và phụ cấp nghề nghiệp đối với Điều tra viên, Kiểm sát viên địa phương (đặc biệt ở cấp huyện) ở nước ta vẫn còn thấp so với đặc thù nghề nghiệp. Chế độ tiền lương, chính sách đãi ngộ dành cho các cán bộ làm công tác tư pháp nói chung và chủ thể có trách nhiệm chứng minh nói riêng còn chưa thỏa đáng. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn tới những tồn tại, vướng mắc trên. Chính thực tế này dẫn tới sự thiếu hụt nguồn nhân sự trong ngành tư pháp, dễ phát sinh tiêu cực như tham nhũng, nhận hối lộ… Chế độ và chính sách đãi ngộ chưa thỏa đáng làm cho các cán bộ không yên tâm công tác, toàn tâm, toàn ý lo cho công việc, ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả của hoạt động chứng minh.
55 dung).
Nguyên nhân từ yếu tố cơ sở vật chất kỹ thuật Trong những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước quan tâm nên cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc của ngành điều tra, kiểm sát đã được tăng cường, nhưng so với yêu cầu của cải cách tư pháp thì vẫn chưa đáp ứng được. Cơ sở vật chất kỹ thuật và điều kiện làm việc của đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên chưa đáp ứng được yêu cầu công tác. Một số trụ sở còn rất chật hẹp, không đủ phòng làm việc, phòng nghiên cứu hồ sơ; phòng lấy hỏi cung bị can và lấy lời khai những người tham gia tố tụng có hạn, chưa đáp ứng đủ về số lượng và chất lượng; chưa có hệ thống âm thanh và các phương tiện ghi âm, ghi hình, máy chiếu có chất lượng tốt phục vụ công tác… Cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng còn chưa được quan tâm, đầu tư, xây dựng đúng mức gây ảnh hưởng không nhỏ tới công tác và làm việc của những người làm công tác tư pháp, ảnh hưởng tới hiệu quả của hoạt đọng chứng minh.
Nguyên nhân từ lề lối làm việc Còn một bộ phận cán bộ, Điều tra viên, Kiểm sát viên thiếu kinh nghiệm thực tiễn, còn lúng túng trong công tác, một số cán bộ thiếu trách nhiệm nghề
https://thuviendethi.com/
56 nghiệp, vi phạm quy chế làm việc, vi phạm quy định của Ngành... Thực trạng này cũng là một nhân tố dẫn tới thực trạng thiếu khách quan, công bằng, làm sai lệch sự thật khách quan của VAHS của các cán bộ tư pháp trong đó có các chủ thể có trách nhiệm chứng minh, ảnh hưởng tới việc giải quyết đúng đắn VAHS.
https://thuviendethi.com/
BLTTHS năm 2015 được thông qua đã khắc phục những hạn chế, bất cập của BLTTHS năm 2003 về trách nhiệm của CQTHTT trong quá trình chứng minh vụ án hình sự. BLTTHS năm 2015 đề cao trách nhiệm chứng minh vụ án hình sự của CQTHTT cụ thể tại Điều 15 nguyên tắc xác định sự thật của vụ án. Quy định rõ trách nhiệm của chủ thể THTT khi vi phạm pháp luật trong quá trình tố tụng tại Khoản 2 Điều 17 BLTTHS năm 2015. BLTTHS năm 2015 cũng đã bổ sung thêm các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành hoạt động điều tra và quy định cụ thể trách nhiệm của từng cơ quan, chức danh tại Điều 35, 36, 37. BLTTHS năm 2003 chỉ quy định cụm từ “nhiệm vụ, quyền hạn” thì nay BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thành “nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm” của các CQTHTT, người THTT, bên cạnh nhiệm vụ, quyền hạn thì các CQTHTT, người THTT còn phải thực thi trách nhiệm của mình theo luật định khi chứng minh tội phạm trong vụ án. BLTTHS năm 2015 đã đề cập đến việc TA xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ tại Điều 252 nâng cao trách nhiệm của TA trong quá trình làm sáng tỏ vụ án đánh giá một cách toàn diện quá trình điều tra vụ án của CQĐT và VKS, tránh làm oan người vô tội, xét xử đúng người đúng tội. Tuy BLTTHS năm 2015 mới được sửa đổi, bổ sung thêm những quy định mới nhằm hoàn thiện Bộ luật TTHS và đảm bảo hoạt động tố tụng đạt hiệu quả cao, thì chúng ta cần chờ khi Bộ luật này được thi hành trong thực tiễn và đánh giá khả năng hoàn thiện những bất cập của BLTTHS năm 2003 ra sao. Tiểu kết chương 2 Mặc dù những quy định về chứng cứ và hoạt động chứng minh đã được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự nhưng đối với mỗi vụ án khác nhau thì việc thu thập cũng như đánh giá, sử dụng chứng cứ trong thực tiễn tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua vẫn còn những thiếu sót, vi phạm. Cho nên, trong thực
57 tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy bên cạnh những vụ án MBTPCMT được giải quyết đúng căn cứ, đúng pháp luật, đúng người, đúng tội thì vẫn còn có một số trường hợp Điều tra viên, Kiểm sát viên chưa nhận thức đúng về chứng cứ và hoạt động chứng minh, chưa xác định được giới hạn chứng minh của vụ án dẫn đến vi phạm thủ tục tố tụng, bỏ lọt tội phạm hoặc xác định sai tội danh, qua đó gây ảnh hưởng lớn đến công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm. Hạn chế trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như yếu tố khách quan đến các yếu tố chủ quan của người tiến hành tố tụng, mối liên hệ, phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng…Để đáp ứng kịp thời yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ra đời cùng với hệ thống pháp luật tố tụng hình sự sự hiện hành đã tạo ra nhiều chuyển biến mạnh mẽ, tích cực trong ý thức cũng như trong thực tiễn về vai trò chứng minh vụ án MBTPCMT của cơ quan tiến hành tố tụng. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung kịp thời những khiếm khuyết của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 nhằm tăng cường hơn nữa trách nhiệm của các chủ thể tiến hành tố tụng.
https://thuviendethi.com/
https://thuviendethi.com/
3.2. Một số phương hướng và giải pháp cơ bản góp phần nâng cao chất
58 Chương 3 MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TẠI QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 3.1. Dự báo tình hình tội phạm mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm tới Với các quy định mới của pháp luật (Bộ luật hình sự năm 2015; Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Thông tư số 08/2015/TTLT BCA VKSNDTC TANDTC BTP ngày 14/11/2015 của Bộ Công an, VKSND tối cao, TAND tối cao và Bộ Tư pháp về sửa đổi bổ sung một số điểm của Thông tư liên tịch số 17/2007/ TTLT BCA VKSNDTC TANDTC BTP ngày 24/12/2017 của Bộ Công an, VKSND tối cao, TAND tối cao và Bộ Tư pháp) hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVII Các tội phạm về ma túy” của BLHS năm 1999; Công văn số 315/TANDTC CV ngày 11/12/2015 của TAND tối cao; Công văn số 35-CV/BCS ngày 01/3/2016 của Ban cán sự đảng TAND tối cao, Công văn số 315/TANDTC PC ngày 11/12/2017, về việc “Thực hiện Thông tư liên tịch sửa đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư liên tịch số 17”, Hướng dẫn số 02/HD-VKSTC ngày 04/01/2018 về công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử sơ thẩm án ma túy năm 2018…), các quy định, hướng dẫn thi hành của cơ quan Trung ương còn đang chồng chéo thì trong năm 2018, thậm chí kéo dài đến năm 2019 (nếu không có hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự 2015 đối với các tội phạm về ma túy tại chương XX) thì số vụ án và bị cáo phạm tội mua bán trái phép chất ma túy tạm thời chưa tăng và thậm chí có sự giảm đi đáng kể. Mặt khác những năm vừa qua, với sự quyết tâm và đồng lòng của người dân, các cơ quan chức năng của Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã mạnh tay triệt phá những điểm nóng về ma túy như khu Mã Lạng, bến Bạch Đằng, công viên 23 9… dẫn đến các vụ án mua bán trái phép chất ma túy có khuynh hướng giảm về số lượng tuy nhiên lại gia tăng về quy mô, hình thức hoạt động.
59 lượng chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh 3.2.1. Phương hướng Chất lượng và hiệu quả hoạt động chứng minh các vụ án MBTPCMT chịu sự chi phối và tác động ở những mức độ và phạm vi khác nhau của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động này, cần áp dụng đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau nhằm hạn chế, khắc phục những yếu tố tiêu cực là nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các chủ thể, đồng thời phát huy các yếu tố tích cực đối với hoạt động này. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động chứng minh các vụ án MBTPCMT ở Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay cần được tiến hành theo các hướng sau đây: Thứ nhất, tuân thủ quy định mới của BLTTHS năm 2015, nhằm áp dụng những tiến bộ trong tố tụng và khắc phục các hạn chế đối với BLTTHS 2003. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2015 chỉ mới có hiệu lực thi hành vào ngày 01/01/2018, cần phải chờ thực tiễn kiểm nghiệm, nên cũng khó tránh khỏi những bất cập. Vì vậy, song song với việc tiếp tục chấp hành nghiêm chỉnh các quy định BLTTHS năm 2015, thì cũng cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện những quy định còn chưa phù hợp của BLTTHS (liên quan đến hoạt động chứng minh) và các quy định của BLHS về tội phạm mua bán trái phép chất ma túy. Thứ hai, kiện toàn tổ chức, biên chế của các cơ quan tiến hành hoạt động điều tra thu thập chứng cứ như Cơ quan điều tra, VKS ở các cấp và xây dựng đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp giỏi: Đây là một định hướng quan trọng trong tình hình hiện nay khi cơ cấu tổ chức của các cơ quan này còn thiếu và yếu. Thực trạng đội ngũ cán bộ tiến hành hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ ở cấp quận huyện còn thiếu nhiều về số lượng, trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp không đồng đều và có nhiều hạn chế. Thứ ba, bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật cần thiết cho hoạt
https://thuviendethi.com/
60 động của cơ quan tiến hành hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ: Cơ sở vật chất kỹ thuật là yếu tố có vai trò quan trọng đối với hoạt động chứng minh tội phạm của các CQĐT, VKS đặc biệt là trong điều kiện của thời đại bùng nổ thông tin và sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật và công nghệ. Trong khi đó, tình hình cơ sở vật chất ở các CQĐT hiện nay vẫn còn thiếu các phương tiện và trang thiết bị kỹ thuật đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán trái phép chất ma túy. Thứ tư, cần quan tâm cải cách và đổi mới chế độ tiền lương cho hoạt động tư pháp, đấu tranh phòng và chống tội phạm. Chế độ tiền lương những năm qua chưa chưa đáp ứng yêu cầu của hoạt động điều tra, truy tố và yêu cầu công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, phòng, chống tham nhũng và cải cách tư pháp ở nước ta theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng và Nghị quyết số 49/NQ TW của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020. 3.2.2. Giải pháp 3.2.2.1. Không ngừng hoàn thiện pháp luật Bộ luật TTHS năm 2015 ra đời đã có những thay đổi nhằm tăng cường vị trí, chức năng và nâng cáo trách nhiệm chứng minh tội phạm của các CQTHTT. Vì là Bộ luật mới được điều chỉnh, bổ sung khá nhiều các điểm mới quy định về trình tự, thủ tục tố tụng nên để có thể áp dụng một cách có hiệu quả trong công tác điều tra và chứng minh tội phạm trong VAHS thì đòi hỏi phải có những hướng dẫn cụ thể hơn nữa để kịp thời làm sáng tỏ những tư tưởng, định hướng của Bộ luật TTHS mới. Kịp thời hướng dẫn các chủ thể có trách nhiệm khi tham gia vào quá trình tố tụng nhận thực được quyền và nghĩa vụ của mình, tránh áp dụng luật một cách tùy nghi dẫn đến những hậu quả làm ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của nhân dân.
Quá trình chứng minh trong vụ án MBTPCMT là một yếu tố giữ vai trò quyết định đối với toàn bộ quá trình tố tụng hình sự, là cơ sở để đảm bảo phát hiện nhanh chóng chính xác, xử lý kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, đảm bảo công bằng xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích
https://thuviendethi.com/
BLTTHS năm 2015 ra đời đã có những thay đổi nhằm tăng cường vị trí,
https://thuviendethi.com/
61 hợp pháp của công dân. Để khắc phục những bất cập, vướng mắc và tồn tại trong thực tiễn chứng minh tội phạm và nâng cao hiệu quả hoạt động chứng minh đối với tội phạm mua bán trái phép ma túy của các cơ quan tiến hành hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ ở Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, cần phải tuân thủ những quy định mới, những thay đổi về hoạt động tố tụng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động chứng minh vụ án trong BLTTHS năm 2015. Bởi vậy việc nghiên cứu áp dụng và hoàn thiện các quy định của BLTTHS năm 2015 liên quan đến hoạt động chứng minh trong vụ án MBTPCMT là một đòi hỏi cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Trong phạm vi của luận văn này, chúng tôi chỉ đề cập và đề xuất một số điểm chủ yếu về hoàn thiện các quy định của BLTTHS năm 2015 có liên quan trực tiếp đến hoạt động chứng minh vụ án MBTPCMT, cụ thể là: Các nguyên tắc mới trong BLTTHS năm 2015 ảnh hưởng đến hoạt động chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy. Đối với các quy định mới về chứng cứ: Theo quy định mới BLTTHS năm 2015 so với BLTTHS năm 2003 thì khái niệm chứng cứ đã được cụ thể hóa bằng điều cụ thể đó là: “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án” (Điều 86 BLTTHS năm 2015). Quy định mới liên quan đến các bước của hoạt động chứng minh (thu thập, kiểm tra đánh giá chứng cứ): BLTTHS năm 2015 đã có nhiều quy định mới nhằm quy định trình tự, thủ tục pháp lý liên quan đến các hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Về khái niệm các giai đoạn trên đều được định nghĩa tại các Điều 88, 90, 105 và 108 BLTTHS năm 2015 và tại Chương VI một số quy định mới cụ thể về các loại chứng cứ cũng được xây dựng và quy định cụ thể. Ngoài ra
BLTTHS năm 2015 còn quy định một số trình tự thủ tục thu thập thông tin từ lời khai bị can, bị cáo… trong hoạt động điều tra vụ án. Các vấn đề trên được quy định là để giúp cho CQTHTT thuận lợi trong quá trình thực hiện hoạt động chứng minh.
https://thuviendethi.com/
62 chức năng và nâng cao trách nhiệm chứng minh tội phạm của các CQTHTT. Vì là Bộ luật mới được điều chỉnh, bổ sung khá nhiều các điểm mới quy định về trình tự, thủ tục tố tụng nên để có thể áp dụng một cách có hiệu quả trong công tác điều tra và chứng minh tội phạm trong vụ án MBTPCMT thì đòi hỏi phải có những hướng dẫn cụ thể hơn nữa để kịp thời làm sáng tỏ những tư tưởng, định hướng của BLTTHS mới. Kịp thời hướng dẫn các chủ thể có trách nhiệm khi tham gia vào quá trình tố tụng nhận thực được quyền và nghĩa vụ của mình, tránh áp dụng luật một cách tùy nghi dẫn đến những hậu quả làm ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của nhân dân. Nhận thấy rằng, BLTTHS năm 2015 đã kịp thời sửa đổi những bất cập của BLTTHS năm 2003 về hoạt động chứng minh tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Các nhà làm luật cần dự liệu những bất cập có thể xảy ra trong quá trình áp dụng để kịp thời có phương hướng điều chỉnh cho phù hợp. Cải cách mạnh mẽ thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng công khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, đảm bảo sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp. Theo định hướng này, ngoài những nguyên tắc đã có về dân chủ, bình đẳng thì BLTTHS cần phải bổ sung nguyên tắc cơ bản: “Bảo đảm mọi hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án phải được công khai, minh bạch” với nội dung: 1) Mọi hoạt động TTHS từ khi áp dụng một số biện pháp ngăn chặn, biện pháp thu thập chứng cứ (trước khi có quyết định khởi tố của cơ quan có thẩm quyền); giai đoạn khởi tố; điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án đều phải được công khai. 2) Các hoạt động TTHS phải rõ ràng trên cơ sở quy định của pháp luật. 3) Chủ thể có nghĩa vụ công khai minh bạch trong hoạt động tố tụng hình sự là các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. 4) Đối tượng nhận được công khai từ các CQTHTT và người tiến hành tố tụng là những người tham gia tố tụng, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến vụ án. 5) Pháp luật quy định các hình thức công khai về hoạt động tố tụng hình sự. 6) Pháp luật quy định cơ chế tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp. Mặt khác, nội dung nguyên tắc này còn thể hiện định hướng tăng cường dân chủ
https://thuviendethi.com/
63 trong hoạt động tố tụng hình sự mà Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị đã chỉ ra [25].
Tổ chức và hoạt động của CQĐT được thể chế hóa trong pháp luật TTHS, cụ thể hơn là ở trong BLTTHS và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự hiện hành. Việc Quốc hội đưa vào Chương trình xây dựng luật và pháp lệnh nhiệm kỳ 13 Dự án Luật Tổ chức điều tra hình sự đồng thời với việc sửa đổi, bổ sung BLTTHS đang đặt ra vấn đề là nội dung nào về chế định điều tra thì đưa vào BLTTHS, còn nội dung nào thì đưa vào Luật Tổ chức điều tra hình sự. Theo tôi, một khi đã có đạo luật riêng về điều tra tội phạm thì phương án tối ưu là tập trung tất cả những quy định về điều tra tố tụng vào đó, theo đúng mô hình đạo luật về thi hành án hình sự. Trong trường hợp đó, BLTTHS chỉ tập trung điều chỉnh hoạt động xét xử. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp: Coi xét xử là khâu trung tâm của hoạt động tư pháp [30]. Tuy nhiên, không nên quy định trách nhiệm chứng minh vụ án hình sự đối với TA. TA cũng có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật nhưng thực hiện nhiệm vụ đó thông qua chức năng xét xử của mình, TA không phải là người truy tố bị cáo nên không có nghĩa vụ chứng minh tội phạm. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về CQTHTT thực hiện chức năng buộc tội (CQĐT, VKS), với tư cách là cơ quan ra phán quyết, TA không có nhiệm vụ chứng minh tội phạm cũng như chứng minh sự vô tội, không nên quy định TA phải trực tiếp xác định các tình tiết vụ án, trực tiếp hỏi người tham gia tố tụng để tránh hiểu nhầm là TA làm thay chức năng buộc tội, gỡ tội; trái với yếu tố tranh tụng. 3.2.2.2. Giải pháp đối với các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm chứng minh Các CQTHTT có vai trò quan trọng trong quá trình chứng minh VAHS, cho nên một VAHS có được tiến hành chứng minh đúng quy định của pháp luật hay không phụ thuộc phần lớn vào các chủ thể tiến hành tố tụng. Để nâng cao hiệu quả trách nhiệm chứng minh vụ án của CQTHTT thì cần có các giải pháp: Thứ nhất, Xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực, chuyên môn, nghiệp vụ Cần tiến hành các giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát
https://thuviendethi.com/
64 viên đủ về số lượng, giỏi về trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, có phẩm chất đạo đức tốt và tinh thần trách nhiệm cao để bổ sung nguồn lực cho CQĐT, giảm thiểu tình trạng án quá tải mà đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên không đủ hoặc yếu về chuyên môn nghiệp vụ khi điều tra án,không làm ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động chứng minh, nhất là các CQĐT cấp quận, huyện, miền núi, hải đảo xa xôi. Cần củng cố và hoàn thiện mối quan hệ của các CQĐT với các cơ quan khác hỗ trợ điều tra. Đảm bảo về mặt chất lượng đội ngũ cán bộ có trách nhiệm chứng minh trong các CQTHTT. Cần thực hiện đầy đủ theo quy định của pháp luật ngay từ khuân tuyển dụng, bổ nhiệm thật tột, đầy đủ, chính xác. Ngoài ra, cần phải có thêm yêu cầu về trình độ ngoại ngữ, tin học để có thể tiếp thu và ứng dụng các cơ sở vật chất, kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài về điều tra hình sự. Chế độ tuyển chọn phải công khai, công bằng, minh bạch… Xây dựng đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên của nước ta có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp giỏi là yêu cầu cấp thiết. Nâng cao trình độ pháp lý nghiệp vụ, ý thức trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của những người tiến hành tố tụng. Đảm bảo đủ về số lượng các chủ thể có trách nhiệm chứng minh, hạn chế tình trạng làm việc quá tải và làm tồn đọng án, chất lượng giải quyết vụ án được nâng cao. Vì vậy, cần tăng cường hơn nữa công tác tuyển dụng, bổ nhiệm các cán bộ, công chức và phân công công việc hợp lý. Bên cạnh việc tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ theo quy định chung trong giai đoạn hiện nay thì đòi hỏi thường xuyên bồi dưỡng kiến thức pháp lý và kinh nghiệm thực tiễn trong hoạt động chứng minh cho những người tiến hành tố tụng. Tăng cường công tác tổng kết, rút kinh nghiệm, phát hiện những tồn tại sai sót trong hoạt động TTHS liên quan đến đối tượng chứng minh để khắc phục, uốn nắn kịp thời. Làm rõ trách nhiệm đối với những người để xảy ra sai sót trên cơ sở đó xem xét xử lý tùy theo mức độ vi phạm. Đối với những người cố ý vi phạm thì cần nghiêm khắc xử lý để từ đó nâng cao hơn nữa ý thức trách nhiệm và phẩm chất đạo đức của đội ngũ những người tiến hành tố tụng.
65 Thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng theo chuyên đề về trình độ chuyên môn và kỹ thuật kỹ năng nghề nghiệp cho đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên để đáp ứng yêu cầu về chất lượng của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Việc đào tạo Điều tra viên, Kiểm sát viên tương lai ở các trường, Học viện của Bộ công an, VKSND tối cao cần có sự đổi mớ về nội dung chương trình theo hướng cơ bản, tòa diện, gắn với thực tiễn để khi ra trường các học viên có khả năng nhanh chóng tiếp cận thực tế, vận dụng thành thạo lý thuyết được trang bị vào công việc của mình. Thứ hai, Nâng cao nhận thức của người tiến hành tố tụng Nâng cao nhận thức cho các người tiến hành tố tụng để khắc phục tình trạng buộc tội một chiều trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Để tìm ra sự thật của vụ án thì Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán phải dựa trên tính khách quan của các tình tiết, tôn trọng sự thật khách quan tránh để cho tư duy nhìn nhận vụ án một chiều mà kết án. Khuynh hướng buộc tội một chiều còn liên quan chặt chẽ đến tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của CQTHTT, người tiến hành tố tụng. Nếu CQTHTT đã khởi tố bị can, bắt bị can để tạm giam, mà sau này phái đình điều tra, đình chỉ vụ án hoặc TA tuyên bị cáo không phạm tội, thường bị đánh giá rằng, CQTHTT, người tiến hành tố tụng có liên quan hoạt động kém hiệu quả. Cách nhìn nhận vấn đề như vậy dẫn đến việc người tiến hành tố tụng không có động lực để ra quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án do không có sự kiện phạm tội, do hành vi không cấu thành tội phạm, do hết thời hạn điều tra không chứng minh được bị can thực hiện hành vi phạm tội. Cần phải có cách nhìn ngược lại, nếu đã khởi tố, áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị can, mà sau đó CQTHTT xác định được bị can không phạm tội và ra quyết định đình chỉ điều tra, VKS ra quyết định đình chỉ vụ án hoặc TA tuyên bị cáo không phạm tội, thì đây phài được coi là sự chiến thắng của công lý, coi đó là sức mạnh, hiệu quả hoạt động của cơ quan tiến hành tố lụng và phải dược dư luận xã hội hoan nghênh. Những cán bộ có trách nhiệm của CQTHTT đã phát hiện ra những trường hợp oan, sai trong TTHS phải được khen thưởng xứng đáng, vì chính họ đã lấy lại niềm tin của những người bị oan, sai vào sự công minh
https://thuviendethi.com/
https://thuviendethi.com/
66 của pháp luật. Thứ ba, nắm vững quy định của pháp luật. Người tiến hành tố tụng phải nắm vững quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tư cách của từng người tham gia tố tụng để dễ dàng áp dụng. Từng CQTHTT cần phải quán triệt quy định về người tham gia tố tụng trong BLTTHS và văn bản hướng dẫn đến tất cả những người tiến hành tố tụng trong cơ quan để thống nhất áp dụng. Khi có sự hiểu khác nhau về tư cách người tham gia tố tụng, các CQTHTT cần phải thống nhất khi họp phối hợp ba ngành hàng tháng hoặc có thể họp bất thường để tránh việc phải trả hồ sơ điều tra bổ sung cũng như tránh bị sửa, hủy án sau khi xét xử [9]. 3.2.2.3. Các giải pháp khác Thứ nhất, cần tăng cường hơn nữa sự tham gia của người bào chữa và bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong quá trình tố tụng hình sự. Quyền bào chữa không chỉ cần thiết cho bị can, bị cáo mà còn cần thiết và có lợi cho chính các cơ quan tiến hành tố tụng, cho nhiệm vụ xác định sự thật khách quan của vụ án, xét xử đúng người đúng tội, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Thứ hai, Đầu tư phương tiện kỹ thuật hình sự phục vụ hoạt động điều tra và hoạt động giám định đáp ứng ngày càng tốt yêu cầu chứng minh tội phạm trong tình hình hiện nay. Thực tiễn cho thấy, trong tình hình tội phạm diễn biến phức tạp như hiện nay thì đòi hỏi quá trình điều tra, chứng minh, ĐTV, kỹ thuật viên, giám định viên phải áp dụng nhiều phương tiện kỹ thuật để phát hiện, ghi nhận, thu giữ và nghiên cứu những dấu vết, tài liệu, chứng cứ. Phạm vi những phương tiện kỹ thuật được áp dụng trong quá trình này càng mở rộng bao nhiêu thì khả năng thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ càng cao bấy nhiêu. Bởi vậy cần phải đổi mới công tác sắp xếp, bố trí hợp lý cán bộ điều tra nói chung và cán bộ kỹ thuật hình sự nói riêng và tăng cường đầu tư phương diện kỹ thuật hình sự. Thứ ba, cần điều chỉnh chế độ tiền lương và phụ cấp hợp lý hơn cho đội ngũ cán bộ, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm. Mặc dù, Nhà nước ta đã có những chính sách đãi ngộ cho những người tiến hành tố tụng những thực sự
https://thuviendethi.com/
67 chưa thỏa đáng so với tính chất và mức độ của công việc mà họ được giao. Đồng thời có chế độ khen thưởng kịp thời, động viên khích lệ với những cán bộ có tinh thần trách nhiệm cao và hoàn thành tốt nhiệm vụ… Cần phải có những biện pháp để đổi mới hoạt động của CQĐT, VKS cho hợp lý. Thực tế, tổ chức và hoạt động của những cơ quan THTT này còn nhiều điểm bất hợp lý như: Trong các CQĐT vẫn còn hiện tượng phân tán lực lượng, chưa đảm bảo tính chuyên sâu trong hoạt động điều tra các loại tội phạm, thiếu sự phối hợp đồng bộ để đạt hiệu quả cao trong hoạt động điều tra; Tình trạng chồng chéo, khó phân định rõ ràng được chức năng và nhiệm vụ của VKS với các CQĐT… Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, thiết kế hạ tầng phục vụ cho các cơ quan THTT. Trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện nay thì yếu tố này càng có ý nghĩa quan trọng. Vì vậy, để nâng cao hoạt động chứng minh thì cần phải có sự đầu tư cho cho các cơ quan THTT. Kịp thời trang bị cho các cơ quan này các phương tiện kỹ thuật hiện đại phục vụ công tác tiếp nhận, lưu trữ và xử lý thông tin về tội phạm… Thứ năm, thực hiện tốt việc tiếp nhận và xử lý tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Đảm bảo cho nhân dân tham gia vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm đồng thời đảm bảo an toàn cho những người làm chứng, người tố giác tội phạm. Tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm có tính chất quốc tế. Tiểu kết chương 3 Những quy định của BLTTHS năm 2003 về quá trình chứng minh trong thời gian qua vẫn còn chưa hớp lý, thiếu tính thống nhất, chưa hoàn thiện, gây ra nhiều cách hiểu khác nhau về cùng một vấn đề. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới những hạn chế, bất cập trong quá trình chứng minh, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giải quyết vụ án MBTPCMT ở Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Để đáp ứng kịp thời yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán trái phép chất ma túy, BLTTHS và BLHS năm 2015 ra đời cùng
https://thuviendethi.com/
68 với hệ thống văn bản hướng dẫn hiện hành đã tạo ra nhiều chuyển biến tích cực trong ý thức cũng như trong thực tiễn trong trách nhiệm của từng CQTHTT. BLTTHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung kịp thời những khiếm khuyết của BLTTHS năm 2003 về chứng cứ và chứng minh nhằm tăng cường hơn nữa trách nhiệm của các chủ thể tiến hành tố tụng. Tuy nhiên những quy định mới về hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ vẫn tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện trong thời gian tới.
https://thuviendethi.com/
Luận văn cũng đã chỉ ra một số nguyên nhân chủ quan và khách quan cơ bản của những thiếu sót, tồn tại trong thực tiễn chứng minh các vụ án MBTPCMT tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, đó là: pháp luật tố tụng hình sự còn chưa hoàn thiện; trình độ chuyên môn của Điều tra viên, Kiểm sát viên còn hạn chế; không nắm vững các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về chứng cứ và chứng minh, các quy định của BLHS ở phần chung và phần các tội phạm cụ thể; cập nhật thiếu các văn bản pháp luật; kỹ năng nghiệp vụ còn hạn chế; tinh thần trách nhiệm còn hạn chế… 3. Bằng việc phân tích cụ thể các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật TTHS hiện hành, Luận văn đã đưa ra dự báo tình hình tội phạm mua bán trái phép chất ma túy, các định hướng và một số giải pháp nhằmnâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động chứng minh trong vụ án MBTPCMT bao gồm: Các giải nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến hoạt động chứng minh; Các giải pháp về tổ chức nhằm kiện toàn tổ chức, biên chế của các cơ quan tiến hành hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ; Các giải pháp về nâng cao trình độ hoạt động chứng minh của những người tiến hành tố tụng; Các giải pháp về vật chất kỹ thuật nhằm bảo đảm cho các cơ quan này hoạt động có hiệu quả; Chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ tiến hành hoạt động điều tra phù hợp với
2. Luận văn đã khái quát được thực trạng hoạt động chứng minh của Cơ quan điều tra, VKS trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ ra những tồn tại, thiếu sót và vướng mắc phổ biến của quá trình chứng minh trong vụ án MBTPCMT.
69 KẾT LUẬN Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực tiễn hoạt động chứng minh trong vụ án MBTPCMT, chúng tôi đưa ra một số kết luận sau:
1. Luận văn đã nêu ra khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quá trình chứng minh trong vụ án MBTPCMT; đối tượng chứng minh trong vụ án, phương tiện chứng minh và nội hàm của quá trình chứng minh. Pháp luật TTHS đã quy định rõ và cụ thể trách nhiệm của từng CQTHTT, điển hình là Cơ quan điều tra, VKS, TA. Mỗi cơ quan tại mỗi giai đoạn TTHS có trách nhiệm riêng biệt nhưng lại có sự kiểm soát lẫn nhau trong hoạt động TTHS.
https://thuviendethi.com/
70 hoạt động nghề nghiệp đặc thù của họ; Như vậy, mục tiêu đặt ra trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn đã đạt được dưới góc độ khoa học về quá trình chứng minh trong vụ án MBTPCMT và khoa học luật tố tụng hình sự sẽ góp phần đáng kể vào việc nâng cao hiệu quả của quá trình chứng minh trong vụ án MBTPCMT ở Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh./.
5. Nguyễn Hòa Bình (2016) Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Thái Chí Bình (2011) “Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thuộc trường hợp xác định không đúng tư cách người tham gia tố tụng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 2, tr. 26 34.
6. Lê Cảm (2001) “Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố”, Chuyên đề khoa học: Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát trong tình hình mới, Hà Nội.
1. Phạm Tú Anh (2016) “Một số khó khăn, vướng mắc trong hoạt động phát hiện, điều tra tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy của Lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Thành phố Hồ Chí Minh và giải pháp nâng cao”, Tạp chí Khoa học Cảnh sát nhân dân, số 6, tr. 45. 2. Lang Văn Bảo (2003) Quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội. 3. Vương Văn Bép (2013) Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
7. Lê Cảm (2004) “Một số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn tố tụng”, Tạp chí Luật học, số 2, tr. 23. 8. Lê Tiến Châu (2003) “Một số vấn đề về tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 1, tr. 17. 9. Nguyễn Ngọc Chí (2003) Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội. 10. Nguyễn Ngọc Chí (2008) “Đảm bảo sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người phiên dịch, người giám định”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8, tr. 53 57.
https://thuviendethi.com/
13. Bùi Kiên Diện (1997) “Về trách nhiệm chứng minh tội phạm”, Tạp chí Luật học, số 1, tr. 34 35. 14. Nguyễn Văn Du (2006) Quá trình chứng minh trong vụ án hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội.
11. Nguyễn Ngọc Chí (2008) “Các nguyên tắc cơ bản trong luật tố tụng hình sự những đề xuất sửa đổi, bổ sung”, Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội, số 24, tr. 239 253. 12. Nguyễn Văn Cừ (2005) Chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
15. Mạc Thị Duyên (2012) Hoạt động chứng minh trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội. 16. Đảng cộng sản Việt Nam (2002) Nghị quyết số 08 NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, ban hành ngày 02/01/2002, Hà Nội.
17. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48 NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, ban hành ngày 24/5/2005, Hà Nội.
18. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49 NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, ban hành ngày 02/6/2006, Hà Nội. 19. Đỗ Văn Đương (2000) Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội. 20. Đỗ Văn Đương (2006) Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 21. Nguyễn Văn Đương (2000) Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt trái phép chất ma túy ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội.
https://thuviendethi.com/
25. Trần Thu Hạnh (2013) “Cơ chế đảm bảo sự vô tư của những người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng trong luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành”, Tạp chí Luật học, số 4, tr. 114. 26. Nguyễn Viết Hoạt (2007) “Bản chất của hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 3, tr. 23-26. 27. Nguyễn Cảnh Hợp (2012) “Các nguyên tắc của tố tụng hình sự trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 1, tr. 11-15. 28. PGS.TS. Nguyễn Văn Huyên (2011) Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 29. PGS.TS. Nguyễn Văn Huyên TS. Lê Lan Chi (2016) Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nxb Lao động, Hà Nội. 30. Nguyễn Chí Khuê (2015) Đối tượng chứng minh trong các vụ án xâm phạm tính mạng, sức khỏe theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
23. Vũ Ngọc Hà (2013) Chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội. 24. Phạm Hồng Hải (1999) Đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
31. Nguyễn Thành Long (2010) Nguyên tắc suy đoán vô tội trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội. 32. TS. Vũ Gia Lâm (2014) “Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Luật học, số 7, tr. 97. 33. Phạm Lê Liên (2013) Từ điển tiếng việt thông dụng, Nxb Giáo dục, Hà Nội. https://thuviendethi.com/
22. Nguyễn Xuân Hà Phạm Hoàng Diệu Linh (2009) Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 để bảo đảm phù hợp với việc tổ chức hệ thống các cơ quan tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 49 NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Đề tài khoa học cấp bộ Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
47. Quốc hội (2015) Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015, ban hành ngày 27/11/2015, Hà Nội.
34. Tô Lâm Hữu Nam (2016) Chứng minh trong điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội. 35. PGS.TS. Trần Đình Nhã (2012) “Về chế định điều tra tội phạm trong Bộ luật tố tụng hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 21, tr. 26 28. 36. Vũ Đức Ninh (2013) Thẩm quyền của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội. 37. Nguyễn Minh Ngọc (2014), Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội. 38. Hoàng Thị Thoa (2014) Vai trò của Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp quận, huyện trong xét xử các vụ án hình sự, Luận văn thạc sĩ, Đại học Hà Nội. 39. Nguyễn Duy Thuân (2000) Chứng minh trong tố tụng hình sự Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 40. Đặng Quang Phương (2014) Chứng cứ những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 41. Quốc hội (1999) Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, ban hành ngày 21/12/1999, Hà Nội 42. Quốc hội (2009) Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, ban hành ngày 19/6/2009, Hà Nội. 43. Quốc hội (1988) Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988, ban hành ngày 28/6/1988, Hà Nội. 44. Quốc hội (2003) Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003, ban hành ngày 26/11/2003, Hà Nội. 45. Quốc hội (2013) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, ban hành ngày 28/11/2003, Hà Nội. 46. Quốc hội (2015) Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015, ban hành ngày 27/11/2015, Hà Nội.
https://thuviendethi.com/
48. Quốc hội (2017) Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015, ban hành ngày 20/6/2017, Hà Nội.
49. Quốc hội (2017) Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13, ban hành ngày 20/6/2017, Hà Nội.
50. Hoàng Thị Minh Sơn (2008) Giáo trình luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nvb Công an nhân dân, Hà Nội. 51. Hoàng Thị Minh Sơn (2008) “Hoàn thiện các quy định về thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Luật học, số 7, tr. 26. 52. GS.TS. Đỗ Ngọc Quang (2012) “Hoàn thiện thủ tục khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong tố tụng hình sự theo yêu cầu của cải cách tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát, số 8, tr. 68. 53. Lê Hữu Thể (2008) Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 54. Lê Hữu Thể (2003) Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Đề tài khoa học cấp bộ, Phần tổng thuật, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội. 55. TS. Nguyễn Văn Tuân (2015) Một số vấn đề về luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 56. Trần Quang Tiệp (2007) “Đối tượng chứng minh và nghĩa vụ chứng minh trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003”, Tạp chí Kiểm sát, số 2, tr. 22 26. 57. Tòa án nhân dân Quận 1 (2013) Báo cáo tổng kết công tác xét xử năm 2013, Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh. 58. Tòa án nhân dân Quận 1 (2014) Báo cáo tổng kết công tác xét xử năm 2014, Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh. https://thuviendethi.com/
67. Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 (2014) Báo cáo tổng kết công tác năm 2014, Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh. 68. Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 (2015) Báo cáo tổng kết công tác năm 2015, Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh. 69. Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 (2016) Báo cáo tổng kết công tác năm 2016, Quận 1,Thành phố Hồ Chí Minh. 70. Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 (2017) Báo cáo tổng kết công tác năm 2017, Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh.
61. Tòa án nhân dân Quận 1 (2017) Báo cáo tổng kết công tác xét xử năm 2017, Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh.
62. Võ Khánh Vinh (2002) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
63. Viện kiểm sát nhân dân Tối cao (2017) Báo cáo trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng năm 2017, Hà Nội. 64. Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2017) Thông báo rút kinh nghiệm số 183/TB VKS, ban hành ngày 14/6/2017, Thành phố Hồ Chí Minh. 65. Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2017) Thông báo rút kinh nghiệm số 497/TB VKS, ban hành ngày 27/10/2017, Thành phố Hồ Chí Minh. 66. Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 (2013) Báo cáo tổng kết công tác năm 2013, Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh.
https://thuviendethi.com/
59. Tòa án nhân dân Quận 1 (2015) Báo cáo tổng kết công tác xét xử năm 2015, Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh. 60. Tòa án nhân dân Quận 1 (2016) Báo cáo tổng kết công tác xét xử năm 2016, Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh.