Tưởng nhớ các Anh hùng Liệt sĩ
1
Đời Đời Nhớ Ơn
AH LS Nguyễn Văn Trỗi 1. LS Nguyễn Đăng Đạo
16. AH LS Huỳnh Kim Trung
2. LS Nguyễn Văn Phố
17. LS Đặng Bá Linh
3. LS Bùi Hữu Thích
18. LS Nguyễn Mạnh Minh
4. LS Cao Quốc Bảo
19. LS Chu Tấn Quang
5. LS Ngô Ngời
20. LS Nguyễn Tiến Quân
6. LS Lê Minh Tân
21. LS Đỗ Kh c Tiến
7. LS Vũ Chí Dũng
22. LS Võ Nguyên Trọng
8. LS Nguyễn Lâm Duy
23. LS Nguyễn Kh c Bình
9. LS Nguyễn Văn Ngọc
24. LS Trần Hữu Dân
10. LS Nguyễn Văn Ơn
25. LS Y Hòa Mlo Dzuon Dzu
11. LS Vũ Kiên Cường
26. LS Đặng Đình Kỳ
12. LS Trịnh Thúc Doanh
27. LS Lại Xuân Lợi
13. LS Võ Dũng
28. LS Ngô Tất Th ng
14. LS Phạm Văn Hạo
29. LS Nguyễn Đức Thảo
15. LS Nguyễn Lâm
30. LS Bùi Thọ Tuyến 2
LS Nguyễn Tiến Quân K6 16/2/1979 Lạng Sơn (Đồng Đăng)
LS Nguyễn Lâm Duy K4 30/8/1966 An Mỹ, Đại Từ, Bắc Thái
LS Nguyễn Văn Ngọc K4 10/10/1968 xã Hƣng Dũng, TP. Vinh
LS Lại Xuân Lợi K7 2/5/1972 Kỳ Anh (Hà Tĩnh)
LS Nguyễn Mạnh Minh K6 25/3/1972 Bệnh viện tiền phƣơng Quân khu 4 (Quảng Bình)
AHLS Huỳnh Kim Trung K5 20/10/1972 phà sông Gianh, Quảng Bình
LS Bùi Hữu Thích K1 22/8/1972 làng Nghĩa Hy, Đông Hà
LS Y Hòa K7 15-16/10/1972 Hải Lệ, Quảng Trị
LS Trần Hữu Dân K7 28/8/1972 Hải Lăng, Quảng Trị
LS Vũ Kiên Cƣờng K5 18/7/1972 Thành cổ Quảng Trị
LS Đặng Bá Linh K6 26/8/1972 Hải Lăng, Quảng Trị
LS Nguyễn Lâm K5 5/9/1972 Thành cổ Quảng Trị
LS Cao Quốc Bảo K3 5/7/1975 Sân bay Phú Bài, Huế
LS Trịnh Thúc Doanh K5 16/9/1972 Thành cổ Quảng Trị
LS Đặng Đình Kỳ K7 14/9/1974 Phú Lộc, Thừa Thiên
LS Lê Minh Tân K3 1/4/1973 Khâm Đức, Quảng Nam
LS Vũ Chí Dũng K4 6/12/1971 Tây Nguyên (Plây Cần)
LS Đ Khắc Tiến K6 2/6/1972 Sa Thầy - tỉnh Kon Tum
LS Chu Tấn Quang K6 29/12/1973 Bù Bông, Quảng Đức (nay là huyện Tuy Đức, Đắk Nông)
LS Ngô Tất Thắng K7 1/1/1979 Chúp, Kongpong Cham
LS Phạm Văn Hạo K5 28/6/1971 Campuchia (sát đƣờng biên)
LS Nguyễn Đức Thảo K7 28/4/1978 Tây Ninh
LS Nguyễn Văn Ơn K4 28/6/1975 Lái Thiêu, Bình Dƣơng
LS Ngô Ngời K3 1/7/1979 biên giới Tây Nam
LS Bùi Thọ Tuyến K8 23/3/1974 Sân bay Biên Hòa, Đồng Nai
LS Nguyễn Đăng Đạo Thầy giáo LS Nguyễn Văn Phố Thầy giáo
LS Võ Nguyên Trọng K6 26/3/1972 Kiên Lƣơng - Kiên Giang
LS Nguyễn Khắc Bình K7
LS Võ Dũng K5 21/4/1972 Hồng Dân,Rạch Giá - nay Bạc Liêu
3
Anh hùng Liệt sĩ Nguyễn Văn Tr i
4
" … người anh cả của trường "
Sinh: 1/2/1940 tại làng Thanh Quít, Điện Bàn, Quảng Nam. Chiến sĩ biệt động nội thành (thuộc đại đội Quyết tử). Hy sinh lúc 9 giờ 45 phút ngày 15/10/1964 (10/9? Giáp Thìn – Giỗ 9/9) tại nhà lao Chí Hòa, hưởng dương 24 tuổi. Huân chương Thành đồng hạng nhất, Anh hùng lực lượng vũ trang. Mộ anh Trỗi được đặt tại Nghĩa trang Văn Giáp ở Giồng Ông Tố (phường Bình Trưng Đông, Q2, TP. HCM). Liên hệ gia đình: Chị Phan Thị Quyên, 2 Ngọc Điện, Q2, TP. HCM. (0908519667).
5
Anh Tr i đã từng hy sinh ở Lệ Thủy, Quảng Bình? (Bài viết nhân kỷ niệm 45 năm ngày Anh Trỗi hy sinh)
Nguyễn Tấn Định K9
T
ôi có rất nhiều bạn là cựu học sinh Trƣờng Trỗi, các anh chị tôi cũng đã qua Trƣờng Trỗi,
thậm chí tôi có ông anh rể cũng là dân Trỗi nốt, đó là Hữu Thành. Thế thì còn chần chừ gì nữa mà không tự nhận mình là dân Trỗi! Và không biết từ khi nào, tôi cứ nghĩ mình là dân Trỗi thật. Và cũng thật may mắn là mấy thằng bạn thân chẳng đứa nào phản đối cả. Hôm rồi Chu Kỳ Minh còn hùng hồn tuyên bố với nhóm bạn "Thằng này là Trỗi khóa Chín!". Ừ, Trỗi Khóa Chín, Trỗi Khóa Chín, sao lâu nay mình không nhớ ra nhỉ! Đó là niềm tự hào đáng yêu và niềm vinh dự lớn lao của tôi! Vậy mà, tôi hỏi nhiều bạn Trỗi về cái chết của Anh, nhiều đứa cũng tơ lơ mơ lắm, chẳng nhớ gì nhiều. Đặc biệt khi tôi hỏi "Mày có biết Anh Trỗi đã từng bị xử b n ở Quảng Bình quê tao không?" thì nhiều đứa ngẩn tò te, có đứa nhìn tôi chằm chằm rồi bảo "Điên! Đi chỗ khác chơi, mày!". Thật tệ! Vậy mà chuyện lại 6
có thật đấy. Chẳng những thế, nếu tôi còn để lộ thông tin là Anh Trôi vẫn còn, đang sinh sống ở Thành phố HCM, thỉnh thoảng đi công tác tôi vẫn ghé thăm, thì bọn bạn chắc chắn cho tôi là điên thật, rồi "cƣỡng chế" đi Trâu Quỳ cũng chƣa biết chừng! Biết vậy nhƣng tôi vẫn kể. Tôi kể chuyện này, tuy gọi là chuyện trẻ con, nhƣng để chúng ta nhớ lại một thời, cái chết của Anh đã tác động đến lớp trẻ, đặc biệt là học sinh sinh viên miền Bắc, sâu sắc đến nhƣ thế nào. Tấm gƣơng hy sinh đẫm chất anh hùng ca của Anh đã để lại ấn tƣợng không bao giờ quên cho mọi lứa tuổi học sinh chúng tôi, đã trở thành hành trang theo chúng tôi vào đời và ra trận, nhƣ thế nào. Đầu đuôi là nhƣ thế này. Tôi nhớ hồi đó tôi học cấp ba, ở trọ luôn nơi trƣờng sơ tán. Một hôm, mấy đứa con trai lớp tôi bày ra làm báo tƣờng, tên báo là SỐNG NHƢ ANH, tôi đƣợc phân công vẽ chân dung Anh Trỗi. Tôi có cái vinh dự đó không phải vì tôi giỏi vẽ chân dung, mà là vì tôi có những năm cái hoa tay, nhiều hơn thằng nhiều hoa tay nhất trong lớp đúng một cái. Thực ra lúc đó tên của Anh là Nguyễn Văn Trôi chứ không phải là Nguyễn Văn Trỗi nhƣ sau này chúng ta vẫn thƣờng gọi. Chính xác nguyên nhân do đâu tôi không đƣợc rõ, nhƣng nghe đâu tại lỗi kỹ thuật khi truyền điện tín, không biết có đúng thế không. Tôi nhớ là đang vẽ Anh Trôi thì nghe tiếng bọn trẻ con cãi nhau phía sau lƣng. Tôi ngoảnh lại nhìn thì, chèng đéc ơi, trẻ con đâu mà lắm thế này, lại còn cãi nhau loạn xì ngầu. Thằng nhỏ con 7
bà chủ nhà nói "Không giống Anh Trôi". Tôi thấy nóng mặt, đúng là oắt con, thằng này dám làm mất uy tín họa sĩ! Tôi hỏi nó "Sao biết không giống? Mày gặp anh Trôi lúc nào mà biết không giống?". Nó bảo "Em gặp rồi, không giống!". Thế mới điên! Không ngờ thằng ở trần con nhà bà hàng xóm lại còn cố cãi giúp "Không giống. Tóc anh ấy ng n và tai thì nhỏ hơn. Anh 8
ấy bị b n ba phát mới chết, mà không thấy có máu chảy ra chi hết". Tôi giật cả mình, hỏi lại "B n ở đâu?". Nó bảo b n ở sân vận động, cạnh trường cấp một. Tôi hỏi dồn "Ai b n?", nó tái mặt tƣởng tôi trấn áp nó, miệng lúng búng "Mỹ Diệm, Mỹ Diệm b n mà". Tôi láng máng hiểu đƣợc chuyện gì đã xảy ra, nhƣng không thể cƣời đƣợc, bởi chúng nó nói với giọng rất nghiêm túc. Tôi bèn hỏi tiếp "Thế quân ta đâu cả?". Thằng con bà chủ nhà nhanh nhảu "Quân ta hô đả đảo Mỹ Diệm, đả đảo Mỹ Diệm". Thằng nhỏ hàng xóm cãi "Không phải Mỹ Diệm mà là đả đảo đế quốc Mỹ". Con bé ngồi xổm bên cạnh thêm "Cả tay sai nữa, bè lũ tay sai"! Một nhóc mặc may-ô quần đùi nãy giờ đứng im nay cũng chêm vào "Anh Trôi hô Hồ Chí Minh muôn năm đến hai lần". Thằng nhỏ hàng xóm cãi "Ba lần!". Thằng nhóc may-ô cãi lại "Hô hai lần thì anh ngoẻo cổ xuống luôn". Một con bé khác đứng đằng sau kể "Lúc đó chị Hương tau khóc ngất". Thằng nhỏ con bà chủ nhà tiếp lời "Mạ tau cũng khóc, nói Mỹ Diệm ác thiệt!". Một thằng nhỏ đầu trọc lóc mặc quần thủng đít khẳng định "Anh Trôi chưa chết mô, mấy ngày sau tau còn thấy anh ấy đi t m sông với mấy người nữa, ở bến sông cạnh nhà tau, t m với một thằng Mỹ Diệm"... Nhƣ vậy câu chuyện qua lời kể của bọn nhỏ là có thật. Bây giờ chỉ còn phải tìm hiểu xác minh xem nó đã xảy ra lúc nào và xảy ra nhƣ thế nào nữa thôi. Là trong một vở của đoàn kịch nói hay trong biểu diễn văn nghệ của địa phƣơng? Tôi liền tìm gặp chị Quyên. Chị Quyên này không phải chị Quyên vợ anh Trôi, dĩ nhiên là thế rồi. Chị Quyên này là chị họ của tôi, hơn tôi hai tuổi nhƣng học cùng lớp. Nghe tôi hỏi, chị cƣời ngặt nghẽo rồi kể lại 9
cho tôi đầu đuôi câu chuyện. Đó là vào cuối năm học trƣớc, trong hội diễn văn nghệ của toàn trƣờng, có vở tiểu phẩm "Hãy nhớ lấy lời tôi!" rất hay của lớp 8A, rất xúc động. Tôi hỏi chị ai đóng vai anh Trôi, chị bảo thầy Xuyên chơ ai, thầy nói giọng Nam Bộ nên rất giống anh Trôi. Tôi hỏi thế mặt có giống không, chị bảo không giống, anh Trôi đẹp trai hơn, với lại mái tóc anh Trôi cũng đẹp hơn. Tôi bảo, thế nên chị Quyên mới yêu và lấy anh Trôi chớ! Chị quay mặt cƣời ngƣợng nghịu, nhƣng mắt thì rƣng rƣng. Tôi đoán, chắc chị nghĩ và thƣơng chị Quyên của anh Trôi nhiều lắm! Chị còn kể thêm, trong vở diễn còn có vai nữ ký giả Sài Gòn do Lâm Thị Mỹ Dạ đóng, rất điệu đàng và duyên dáng, một tay cầm cuốn sổ một tay cầm míc-cờ-rô, cổ đeo toòng teng đến hai máy ảnh, thỉnh thoảng lại đƣa lên chụp chụp, rất điệu nghệ. Tôi nghe kể cứ tức anh ách. Ký giả Sài Gòn tay sai thì không thể xinh nhƣ Lâm Thị Mỹ Dạ đƣợc, thật đóng phí cả đi! Chị Quyên quay sang tôi, hỏi "Sao kịch hay thế mà em không coi là răng?". Tôi nói với chị, lúc đó tôi còn học ở trƣờng Lê Ngọc Hân Hà Nội, nên không xem đƣợc kịch cũng phải. Thật tiếc! Bây giờ thì chuyện anh Trôi bị xử bắn ở sân vận động thuộc một làng của quê tôi là có thật rồi nhé, ít nhất là qua lời kể hồn nhiên và đầy cảm xúc của mấy đứa trẻ quê tôi! Những nhân chứng là ngƣời lớn đến nay vẫn còn sống cả, có ngƣời lại còn là nhân vật trong cuộc nữa chứ. Này nhé, chị Quyên, chị họ của tôi công tác ở Đại học An ninh nay đã nghỉ hƣu ở quận Thanh Xuân Hà nội. Nữ ký giả Sài Gòn Lâm Thị Mỹ Dạ là nhà thơ nữ nổi tiếng đang sống và làm việc ở Huế. Còn ngƣời đóng Anh Trôi, ngƣời 10
anh hùng của chúng ta, là thầy Nguyễn Vĩnh Xuyên, thầy dạy Địa lý của trƣờng. Sau bảy lăm thầy trở về Sài Gòn tiếp tục dạy học. Vợ thầy không phải tên Quyên mà là tên là Mƣợt, "Mượt của ta!" - nhƣ thầy vẫn thƣờng tự hào khoe với mọi ngƣời! Mỗi lần có dịp đi công tác vào Thành phố HCM là tôi đều ghé thăm thầy. Lần nào Thầy cũng mừng nhƣ ngƣời thân lâu ngày gặp lại. Chị Mƣợt vợ thầy, vẫn đảm đang và chu đáo với em út nhƣ xƣa nay vẫn thế. Ngắm Chị từ đằng xa, trông dáng Chị vẫn gọn gàng thon thả, toát lên vẻ uy phong của một nữ xã đội trƣởng lẫy lừng một thời của một vùng quê thuộc Thanh Trì ngoại thành Hà Nội! Chuyện có thật mà, tin thì tin không tin thì thôi! Hà Nội, Đêm 11/10/2009
Ban Liên lạc phía Nam cùng thầy, cô giáo và chị Phan Thị Quyên viếng mộ anh Trỗi, ngày 15/10/2004 11
Ngôi sao vàng ở nghĩa trang Văn Giáp Tôn Gia Quý K4
H
ồi đầu năm nay, đƣợc về phép VN. Thời gian cũng chẳng nhiều nhặn gì. Tôi cố gắng dành ra 5 ngày vào TP Hồ Chí Minh và từ đây tôi sẽ bay đi luôn. Từ HN tôi
đã báo cho K.Quốc, D.Minh và P.Nam kế hoạch nhƣ vậy.
Hai ngày sau khi đến SG, D.Minh, K.Quốc đến đón tôi đi thăm mộ anh Trỗi. Có con trai của D.Minh đang du học ở Singapor về nghỉ hè cũng đi cùng. Sau giải phóng, tôi có 3 năm công tác tại 12
sân bay TSN. Lúc đó tôi có một chiêc xe Suduki. Chiếc xe này có lợi thế là chạy đƣợc xăng máy bay P40. Một thanh niên chƣa vợ lại chạy xe không mất tiền xăng thì thử hỏi còn ngóc ngách nào ở thành phố này mà tôi không biết? Thế nhƣng một phần vì thời gian đã quá lâu nhƣng chủ yếu là do thành phố đã thay đổi quá nhiều, nên ngồi trên xe tôi không thể phân biệt đƣợc phƣơng hƣớng. Chỉ biết để vào đƣợc nghĩa trang Văn Giáp phải rẽ vào một con đƣờng rất nhỏ. Vào đến nghĩa trang, xuống xe đi vài bƣớc KQ và DM đã chỉ cho tôi ngôi sao vàng trên mộ anh. Nhìn thấy ngôi sao thì ta có thể dễ dàng tìm thấy mộ anh. Mộ anh vô cùng bình dị, lẫn vào với những ngôi mộ xung quanh. Nó giản dị đến nao lòng. Ngôi sao vàng làm bằng xi măng trông cũng rất mộc mạc, nhƣng đặc biệt trông màu vàng của nó rất rực rỡ dƣới nắng chiều. Tôi đứng yên lặng nhìn mãi vào ngôi sao trên mộ anh. Ƣớc gì đƣợc nhìn thấy anh! Ƣớc gì đƣợc nói chuyện với anh! Anh đã cho hết và bây giờ anh nằm đây yên lặng. Thắp hƣơng cho anh xong, chúng tôi sang thắp hƣơng cho song thân chị Quyên. Trên đƣờng về chúng tôi ghé vào nhà anh Dũng, chị Quyên. Ngôi nhà của anh chị rất đẹp và sạch sẽ gọn gàng. Chị Quyên, anh Dũng đều không có nhà nhƣng rất may chị giúp việc nhận ra ngƣời nhà nên mở cửa cho chúng tôi vào. Tất cả chúng tôi lên bàn thờ thắp hƣơng cho anh. Trong gian thờ đập vào mắt tôi là một bức chân dung của anh. K.Quốc bảo đây là do một họa sỹ Cu Ba vẽ. Ngƣời họa sỹ này 13
chắc khi vẽ nhƣ luôn hình dung anh đang đứng trƣớc mặt nên trông bức tranh sinh động lạ thƣờng.
Không đợi đƣợc chị Quyên, chúng tôi đành phải ra về. Vào đến thành phố lại tắc đƣờng. Tôi chào các bạn và xuống xe, nhảy xe ôm về nhà. Bệnh viện, trƣờng học, sàn giao dịch chứng khoán, đƣờng xá… chỗ nào cũng thấy quá tải. Thành phố nhƣ một chàng trai đang lớn lên từng ngày, tất cả các áo đều quá chật. Tôi chƣa từng biết đến thành phố nào lại nhiều sức sống nhƣ thành phố này. Mặc dù vẫn thuộc vào các nƣớc nghèo nhƣng ngƣời dân VN luôn trong TOP những cƣ dân cảm thấy hạnh phúc nhất. Có lẽ dân nƣớc ta là ngƣời cảm nhận đƣợc sâu sắc nhất niềm vui sƣớng đƣợc tự mình giải quyết các vấn đề của chính 14
mình. Tối hôm ấy ngồi cùng Toàn Thắng ở một quán nhà Rƣờng ven sông, ngắm sông Sài Gòn trong bóng đêm, tôi thầm cảm ơn tất cả các bạn đã cho tôi những giây phút thoát khỏi đời thƣờng để nghĩ về những điều cao thƣợng. Giỗ anh năm nay, tôi đã nhìn lên trời để hy vọng đƣợc nhìn thấy anh. Trong tâm tƣởng của tôi, hình ảnh Anh luôn rực rỡ dƣới ánh sao vàng. Leipzig, 17/10/2007 N.TV
Chị em họ Mã (Quế Lâm) đến viếng anh Trỗi tại nghĩa trang Văn Giáp, TP. Hồ Chí Minh 15
Viếng ANH Đức Dũng K5
Tôi ở rất xa, tận xứ ngƣời Không về đƣợc cùng anh em bè bạn Viếng thăm ANH trong nổi tiếc thƣơng Viếng thăm ANH ngƣời anh cả của trƣờng. Cho tôi xin làm một nén hƣơng Trầm tỏa khói ngát hƣơng bên phần mộ Lời thơ tôi nhƣ nhành hoa nho nhỏ Dịu dàng tỏa hƣơng trên mảnh đất anh nằm. Nhƣ cỏ cây xanh mát mãi quanh năm Nhƣ tên ANH đã trở thành bất tử Và chúng ta "Sinh ra trong khói lửa" Mãi mãi tự hào vì trong đó có tên ANH
Biết tin ngày mai các anh đi viếng ANH TRỖI. Cho tôi gửi bài thơ nhƣ một nén hƣơng Kính viếng hƣơng hồn ANH!
Berlin, 26/7/2008 16
15/10/2008, Đoàn Bạn Trỗi miền Trung đại diện ACE Trường cùng chị Quyên dâng hương hoa tại bàn thờ Anh tại Thanh Quýt
Vào dịp ACE K4 hội ngộ ở Đà Nẵng, sáng 28/6/2009, đoàn đã về Điện Ngọc, quê Anh thăm và thắp hương tại nhà thờ tổ và bàn thờ của Anh
26/7/2009 … còn có những người bạn TQ và mẹ con Hòa K8 từ Đức về 17
Xem bài viết: 1. Nhớ mãi một bài thơ – Trần Phong K5, 23 /03/2011, Blog Tran Phong. 2. Chuyện về anh Trỗi, giờ mới biết – TranKienQuoc, 20/11/2010, Blog bantroi5. 3. Ngày giỗ anh Trỗi ở Sài Gòn – ĐN, 16/10/2010, Blog K6. 4. Tết thăm nhà Tƣởng niệm Anh – 19/02/2010, Blog K5. 5. Anh Trỗi đã từng hy sinh ở Lệ Thủy Quảng Bình? – Nguyễn Tấn Định (nhân kỷ niệm 45 năm ngày Anh Trỗi hy sinh), 13/10/2009, Blog K4. 6. Cuộc viếng thăm hiếm c - 15/7/2009, Blog K5. 7. Viếng mộ Anh Trỗi nhân dịp 27/7 - Bài tổng hợp tại Blog K6, 27/7/2008. 8. Giỗ anh Trỗi - 9/9 âm lịch (19/10/2007) - Bài tổng hợp tại Blog K6, 23/6/2008. 9. Lời tâm nguyện của chúng tôi - Nguyễn Chi Phan - Thầy giáo, SRTKL 2, Tr.: 83-85. 10. Viếng mộ anh Trỗi - Ban Liên Lạc, SRTKL 2, Tr.: 86-88. 11. Cuộc đời tôi với các em học sinh trƣờng Trỗi - Phan Thị Quyên, SRTKL2: 758-763 12. Bức thƣ viết bằng máu – Một tƣ liệu sau 35 năm về Anh hùng Liệt sỹ Nguyễn Văn Trỗi đƣợc công bố - Trần Kiến Quốc, 18/7/2007 tại Blog K4. 13. Nguyễn Văn Trỗi: Chuyện bây giờ mới kể - Thanh Phúc - Lê Thọ Bình, 15/10/2008, VTC News HaMeoK6 sưu tầm và giới thiệu tại Blog K4. 18
Sƣu tầm trên mạng: 1. Cuộc “đổi mạng” bên kia Tây bán cầu - Nguyễn Như Phong, 18/10/2009, Báo Công An Nhân Dân. 2. Tƣợng đài Nguyễn Văn Trỗi trong lòng đồng đội - Thanh Phúc - Lê Thọ Bình, 17/10/2008, VTC News. 3. Những kỷ vật của chị Quyên, anh Trỗi - Ngọc Cúc - Báo Người Lao Động Điện tử, 15/10/2006. 4. "SỐNG NHƢ ANH" - sống mãi một tình yêu: Hoàng Nguyên Vũ - Báo Công An Nhân Dân, Chuyên đề An Ninh Thế giới và Văn nghệ Công An. (1) 19 ngày hạnh phúc và 43 năm thương nhớ - 16/02/2008. (2) Mối tình đẹp tiếp nối quá khứ - 26/02/2008. 5. Đoạn phim tƣ liệu quý về giây phút cuối cùng của Anh hùng Nguyễn Văn Trỗi. - YouTube 6. Ai đã chết để em đƣợc sống nhƣ thế? - Thành Bôn, TuanVietNam.Net, 15/10/2007. 7. Hãy nhớ lấy lời tôi - thơ Tố Hữu, 23/10/1964. Trang Thông tin điện tử tỉnh Bình Thuận. 8. Nguyễn Văn Trỗi (trƣờng ca, 1968) - Lê Anh Xuân - http://www.thica.net/ 9. Lời Anh Vọng Mãi Ngàn Năm - Nhạc sĩ: Vũ Thanh, Thể hiện: Anh Đào, YouTube 10. (Trích) Sống nhƣ anh - Trần Đình Vân - http://www.thuvien-ebook.com
19
Liệt sĩ Nguyễn Đăng Đạo
Chƣa c
ảnh
20
Thầy giáo, Cán bộ quản lí
Chưa có thông tin liệt sĩ và gia đình
21
Liệt sĩ Nguyễn Văn Phố
22
Thầy giáo, Cán bộ quản lí
Chưa có thông tin liệt sĩ và gia đình
Xem bài viết: 1. "Biết thằng nào, tao cho một cái đá giầy... " - HữuThành.Nguyễn, 19/11/2009, Blog K4.
23
Liệt sĩ Bùi Hữu Thích
24
Học sinh khóa 1
Sinh: 1947, quê ở Hải Lăng, Quảng Trị. Giáo viên Khoa Vũ khí Trường Sĩ quan Thiết giáp Chức vụ: trợ lý quân khí của Lữ 203 Đơn vị: Lữ tăng thiết giáp 203 Hy sinh: 22/8/1972 (14/7 Nhâm Tý), tại Mặt trận Quảng Trị (vùng núi nằm giữa làng Nghĩa Hy, Đông Hà và đường 9). Mộ tại Nghĩa trang Liệt sĩ xã Triệu Ái, Triệu Phong, Quảng Trị: Khu D2, lô 4, hàng 4, số 165 (thôn Câu Nhi, xã Hoài Tân, huyện Hải Lăng?). Liên hệ gia đình: Chị gái Bùi Hà Liên, 158/7/35 Hoàng Hoa Thám, P12, Tân Bình, TP. HCM. (08-38119073).
25
Nhớ về Liệt sĩ Bùi Hữu Thích Nguyễn Thanh Tường K1
S
au khi tốt nghiệp Đại học Kỹ thật Quân sự năm 1971, tôi đƣợc Cục Cán bộ điều động về Bộ tƣ lệnh Tăng Thiết giáp. Tại đây, tôi gặp lại Bùi Hữu Thích và đây là
lần thứ tƣ, hai đứa tôi cùng sống chung một môi trƣờng. Nhớ lại, lần thứ nhất, chúng tôi cùng sống với nhau gần chục năm tại các trƣờng học sinh miền Nam; lần thứ hai là khi chúng tôi cùng nhau học tập năm lớp 10 tại Trƣờng Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi (Đại Từ, Thái Nguyên). Lần thứ ba, chúng tôi lại cùng sống và học tập 5 năm tại Đại học Kỹ thuật Quân sự (19661971) ở Vĩnh Phú, tôi học khoa Vô tuyến điện tử – C313, còn Thích học khoa Cơ khí – C213. Sau một tuần có mặt tại Bộ tƣ lệnh, tôi và Thích đƣợc phân công về công tác tại trƣờng Sĩ quan Thiết giáp, ngay chân núi Tam Đảo (Vĩnh Yên). Tại đây, tôi đƣợc phân công giảng dạy tại Khoa Thông tin, còn Thích – Khoa Vũ khí. Anh em ta thƣờng hát bài “Năm anh em trên một chiếc xe tăng”, nhƣng đó chỉ là biên chế trên xe tăng đời cũ T34 của Trung Quốc. Trên xe có trƣởng xe, pháo thủ số 1, số 2, lái chính và lái phụ. Còn từ năm 1971-1972, Quân đội ta đƣợc trang bị T54 hiện đại hơn, do Liên Xô chế tạo và chỉ biên chế có “4 anh 26
em”, không còn lái phụ. Xe tăng là một đơn vị hợp thành bởi nhiều ngành kỹ thuật, mà mọi thành viên trên xe đều phải thao tác thành thạo. Về hỏa lực thì có đủ loại: trƣởng xe có súng ngắn, 3 khẩu AK cho 3 chiến sĩ, trên cần lái có trung liên cho lái xe, pháo thủ số 1 và 2 có trung liên và pháo 100 mm, trƣởng xe và pháo thủ số 1 có đại liên 12,7 mm để bắn máy bay. Ngoài ra còn có 2 thùng khói mù để nghi trang khi cần thiết. Lúc xe cơ động, mọi liên lạc trong xe đều thông qua hệ thống đàm thoại nội bộ gắn trên mũ bảo hiểm, còn liên lạc ra ngoài thì bằng máy thu phát vô tuyến gắn trên xe. Tóm lại trên xe tăng có 3 phần kỹ thuật chính là: kỹ thuật súng pháo, kỹ thuật xe máy và kỹ thuật thông tin liên lạc. Chúng tôi về trƣờng đúng vào mùa đông. Vùng Tam Đảo ngày ngắn, đêm dài; mới 5 giờ chiều đã tắt nắng, tận 6 giờ sáng hôm sau mới có ánh bình minh. Chiều chiều, tôi và Thích hay lòng vòng quanh trƣờng hoặc tìm chỗ vắng để tán gẫu. Thích quê ở Hải Lăng, Quảng Trị, sinh năm 1947; do sống nhiều năm trong các trƣờng học sinh miền Nam nên giọng nói đặc sệt giọng miền Nam Trung bộ. Thích ngƣời cao, khung xƣơng lớn, dáng lúc nào cũng hơi vội vàng, tóc rối cộng thêm gò má cao, xƣơng xƣơng, khi nói chuyện đôi mắt nheo nheo trông rất hài. Vì đều là con em miền Nam tập kết, nên cả hai đều có nguyện vọng về Nam chiến đấu, tuy biết rằng đi chiến đấu sẽ vô cùng khó khăn gian khổ. Một hôm Thích thông báo, ông già có quen Tƣ lệnh TăngThiết giáp. Hôm rồi, Thích gặp Tƣ lệnh nêu nguyện vọng, ông 27
cƣời và bảo: “Cứ dạy cho tốt đã, rồi trên sẽ cho đi, chưa muộn đâu”. Chỉ nói miệng thôi sẽ không ăn thua, hai đứa cùng làm đơn xin đi chiến trƣờng. Đúng 2 tháng sau, tháng 5 năm 1972, chúng tôi nhận đƣợc quyết định đi “B” và chỉ đƣợc phép chuẩn bị trong 3 ngày. Còn hơn 30 đồng lƣơng tháng 5, tôi gửi đồng chí Phó khoa chuyển về cho má ở Hà Nội. Còn Thích khi đó đã có một chiếc xe đạp Phƣợng hoàng, anh đạp ra Vĩnh Yên gửi nhờ ngƣời bạn mang về cho ba. Tạm biệt đồng nghiệp và những trang giáo án, chúng tôi đến ngay đơn vị mới. Đơn vị mới của chúng tôi nằm ngay sát trƣờng Tăng, hơn 50 chiếc tăng T54 mới cứng với đầy đủ nhiên liệu đã đƣợc bí mật chuyển về rừng bạch đàn lúc nào không hay. Mỗi xe đƣợc biên chế 3 chiến sĩ chờ sẵn chúng tôi – những sĩ quan chỉ huy đến sau cùng nhận xe, nhận ngƣời. Đơn vị chúng tôi đƣợc gọi là Đoàn, mỗi sĩ quan chỉ huy một trung đội gồm 3 xe. Lệnh hành quân thật ngắn gọn: đội hình hàng dọc, đêm đi ngày nghỉ, sau mỗi đêm hành quân, mỗi “B” tự lo việc ăn nghỉ. Chặng đầu hành quân thật sƣớng, tăng đƣợc đƣa lên xe vận tải đặc chủng chở thẳng từ Vĩnh Yên lên vùng núi Hòa Bình theo đƣờng quốc lộ. Từ Hòa Bình trở vào, máy bay Mỹ thƣờng xuyên đánh phá, nên xe tăng chuyển sang chế độ “tự hành”. Từ nay, lái xe và chỉ huy hàng đêm phải căng mắt dẫn chú voi của mình vật lộn trên các nẻo đƣờng vùng núi. Trung đội tôi đi sát trung đội Thích, cứ chiều chiều, sau khi đã 28
làm xong công tác kiểm tra kỹ thuật xe, chúng tôi lại bên nhau phì phèo thuốc lá, nhâm nhi chút cà phê và tán dóc chờ phút giây lên đƣờng. Chặng nào phải dừng chân giữa rừng thì sử dụng lƣơng khô với rau rừng, chặng nào nghỉ gần khu dân cƣ thì hai đứa lại xách giỏ đi chợ kiếm thực phẩm cho những ngày sau. Thích hát không hay nhƣng lại hay hát, thỉnh thoảng anh hát khe khẽ cho tôi nghe những bài tình ca. Thích không điển trai nhƣng lại có nhiều bạn gái, có lẽ vì tính tình hiền lành và dí dỏm. Rồi anh lại kể cho tôi nghe về những cô bạn của mình… Trong đó có cô bạn ở số nhà 29 phố Lò Đúc, lúc đó đang là thanh niên xung phong san lấp hố bom, làm đƣờng ở Trƣờng Sơn. Anh mơ màng: “… Mỗi đứa mỗi phương, nhưng nếu Đoàn mình hành quân nhanh thì may ra gặp nhau trên Trường Sơn…”. Lần khác, anh lại kể về cô bạn hiền lành có mái tóc dài quê Vĩnh Yên… Càng về gần vĩ tuyến 17 thì chiến sự càng ác liệt, giặc Mỹ điên cuồng mang các loại máy bay ra oanh tạc, kể cả B52 rải thảm, hòng ngăn chặn sự chi viện của chúng ta cho chiến trƣờng. phà Xuân Sơn ở Nghệ An là một trong những trọng điểm ác liệt ấy. Đoàn phải trú quân hai ngày trong núi cách phà 15km để công binh chuẩn bị phà lớn cho tăng vƣợt sông. Đƣợc lệnh vƣợt sông, chúng tôi chia tay nhau. 12 giờ đêm, xe Thích lên phà trƣớc, 15 phút sau xe tôi lên chuyến kế tiếp. Khi phà tôi ra tới giữa sông thì bỗng nhiên pháo sáng bừng trời, tiếp theo là bom nổ chớp lòa suốt từ bờ Bắc sang bờ Nam. Trong ánh chớp, tôi kịp nhìn 29
thấy xe Thích vọt lên bờ, chiếc phà tung lên rồi tan ra từng mảnh, xe anh vù ga bƣơn thẳng lên dốc tránh hai xe tải đang bốc cháy nằm ngáng lối đi. Trong tiếng gầm rú của bom đạn, tôi lệnh cho lái xe nổ máy, cài số khi có lệnh là tăng ga vọt thẳng vào bờ. Xe tôi lên bờ an toàn, vội nối liên lạc với Thích để hỗ trợ thì đƣợc biết: anh vừa dừng xe để đƣa một xe hàng ra khỏi khu vực cháy nổ, nay đã xong. Lên bờ mới biết, tại bờ Nam có hai dãy xe, một dãy đang chờ qua phà, dãy còn lại mới từ dƣới phà lên, nhiều xe đang ngùn ngụt cháy. Thích cho xe dừng bên một xe tải chở đạn pháo, chiến sĩ lái xe trúng đạn đã hy sinh. Không lo tới tính mạng mình, anh đã nhảy vào buồng lái điều khiển cho xe tránh xa khu vực nguy hiểm. Theo cánh lái xe trong tuyến lửa, phà Long Đại còn ác liệt hơn nhiều; anh em đã gọi đây là “phà Long đầu” (!). Đƣờng dài, gian khổ ác liệt làm anh em lính trẻ chóng xuống sức, tôi và Thích thƣờng phải cầm vô-lăng thay anh em nghỉ dƣỡng sức. Đoàn chúng tôi vƣợt Long Đại vào một đêm trăng rằm. Có lẽ địch phán đoán ta không dám vƣợt sông trong đêm trăng vì dƣới trăng có khác gì ban ngày. Đúng vậy, trong ba đêm vƣợt sông không hề có một tiếng bom. Nhƣng trong những ngày chờ lệnh đi tiếp, tôi đƣợc tin xe Thích bị chìm xuống sông, may mà không tổn thất về ngƣời. Sau đó xe Thích đƣợc trục vớt lên an toàn. Kết thúc cuộc hành quân đƣờng dài 2 tháng, chúng tôi tập kết tại Lệ Ninh (Vĩnh Linh). Đoàn chúng tôi vào để bổ sung lực lƣợng thiếu hụt cho Quân khu 5. Tại đây đã có cán bộ chờ sẵn 30
để nhận xe và ngƣời. Chia tay với chiến sĩ và xe của mình, chúng tôi về Lữ tăng thiết giáp 203. Sau khi chia tay, chúng tôi đã lội rừng từ Vĩnh Linh đến bộ chỉ huy Lữ 203 ở vùng núi Cam Lộ (Quảng Trị) cùng một tiểu đội trinh sát dẫn đƣờng. Hành quân bộ, súng bên hông, ba-lô trên vai, trời mƣa đƣờng trơn, muỗi vắt đeo bám… nhƣng thật vui, thật háo hức khi đƣợc ra mặt trận. Vui nhất là khi vƣợt sông Bến Hải bằng cách bám vào sợi dây rừng do công binh giăng sẵn trong khi nƣớc chảy siết tới ngang lƣng và khi vƣợt suối La La ở Nam Bến Hải mà nƣớc chỉ tới đầu gối. Bốn ngày trèo đèo, lội suối, vƣợt rừng từng chặng, chúng tôi đều gặp những thanh niên xung phong đang làm nhiệm vụ. Ở đâu chúng tôi cũng đƣợc chào đón, ở đâu chúng tôi cũng hỏi thăm tin tức cô bạn của Thích. Nhƣng đất nƣớc thì bao la rộng lớn, rừng núi thì bạt ngàn… đúng là “tìm ngƣời nhƣ thể tìm chim”! Sở chỉ huy Lữ 203 nằm ngay trong lòng chảo giống nhƣ miệng núi lửa có đƣờng kính tới 500 m. Dƣới tán cây rậm rạp là các hầm chỉ huy và hầm cá nhân của sĩ quan các cấp. Thích đƣợc phân làm trợ lý quân khí của Lữ, còn tôi – trợ lý thông tin tiểu đoàn tăng D512. Chia tay nhau, tôi theo liên lạc về tiểu đoàn nhận nhiệm vụ, hai đứa hẹn gặp nhau sau chiến dịch. Về đến D512 thì đƣợc lệnh xuất kích, tôi dẫn “B” thông tin vƣợt sông Ái Tử cùng chính trị viên tiểu đoàn lập Sở chỉ huy tiền phƣơng và bƣớc vào cuộc chiến đấu mới…
31
Sáng 23 tháng 8 năm 1972, chính trị viên tiểu đoàn lặng lẽ đƣa tôi bức điện mật mã vừa đƣợc dịch: “Bùi Hữu Thích đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ tối 22 tháng 8, an táng tại đây. Nguyễn Thanh Tường về gấp nhận nhiệm vụ mới – Ký tên BT”. Cầm bức điện, tay tôi run lên, mắt nhìn vào giấy mà không đọc đƣợc gì. Tôi vội giở bản đồ ra đánh dấu vị trí sở chỉ huy Lữ đoàn và vị trí tôi đang chốt giữ. Là ngƣời trong cuộc, tôi rất rõ vế sau của bức điện. “Về” có nghĩa đi thẳng về hậu cứ ở Vĩnh Linh, Lữ đoàn không muốn mất mát thêm vì lúc đó cả đơn vị chỉ có 4 kỹ sƣ thuộc các ngành khác nhau. Sở chỉ huy D512 lúc đó chỉ có 2 sĩ quan – chính trị viên và tôi. Đã tốn nhiều công sức để đạt đƣợc nguyện vọng “ra chiến trƣờng”, tôi không thể quay lại, hơn nữa cộng thêm nỗi đau mất bạn, tôi càng quyết tâm đi nốt chặng đƣờng còn lại mà Thích còn bỏ dở. Tháng 8 đã là mùa mƣa, lệnh trên không thể cãi, tiểu đoàn lại đang cần cán bộ, tôi bàn với chính trị viên và điện về xin ý kiến: “Gửi BT: Mưa lớn, nước lũ không thể bơi vượt sông, xin được ở lại một thời gian”. Nƣớc sông thì còn lâu mới rút, chiến trận nối tiếp chiến trận, tôi theo tiểu đoàn chiến đấu cho tới tận ngày Hiệp định Pa-ri đƣợc ký kết thì đƣợc lệnh về sở chỉ huy Lữ đoàn. Cho đến lúc đó tôi mới biết đƣợc tƣờng tận trƣờng hợp hy sinh của Bùi Hữu Thích. … Tối 22 tháng 8 năm 1972, Thích đƣợc lệnh ra Đƣờng 9 Nam Lào nhận đạn pháo xe tăng từ hậu cần chiến dịch và đƣa xuống 32
cấp cho các tiểu đoàn vừa mới qua chiến đấu. Lúc đó khoảng 18 giờ 30 phút, Thích vừa rời hầm chỉ huy của Lữ thì một loạt bom từ 3 chiếc máy bay phản lực dội xuống theo phƣơng thức tọa độ trúng lòng chảo. Thích hy sinh tại chỗ, nhiều cán bộ chiến sĩ cũng hy sinh hoặc bị thƣơng. Đại tá chính ủy cũng bị chấn thƣơng vì sức ép và hầm sập. Ngay đêm đó, đồng đội đã chôn cất Thích cùng các chiến sĩ khác. Một loạt đạn bắn lên trời để vĩnh biệt những liệt sĩ đã hy sinh quên mình vì Tổ quốc, mãi mãi nằm trên đất Quảng Trị này. Tấm bản đồ mà tôi đánh dấu vị trí Thích yên nghỉ tại vùng núi nằm giữa làng Nghĩa Hy và đƣờng 9 không còn nữa. Nó bị mất trong trận B52 rải thảm vào khu vực đóng quân của đơn vị vào những ngày trƣớc khi Hiệp định Pa-ri đƣợc ký kết. Tháng 7 năm 1973, tôi đƣợc cử ra Bộ tƣ lệnh Thiết giáp tập huấn 1 tháng về chiến thuật hợp đồng binh chủng do chuyên gia Liên Xô giảng dạy. Do biết đƣợc Bộ tƣ lệnh chƣa báo tử nên tôi không dám đến thăm gia đình Thích. Sau này chị Bùi Hà Liên (chị ruột Thích) kể lại: Mấy lần chị đã đến khu Tƣơng Mai (Hà Nội) tìm gặp ba tôi để hỏi tình hình, ba tôi đã giấu không nói. Nhƣng cuối cùng, ông cũng phải kể lại sự thật qua thông báo của tôi. Ngày lập bàn thờ và tổ chức lễ truy điệu cho Thích, có hai cô gái xinh đẹp (một tóc ngắn, một tóc dài) đã đến thắp nhang và khấn vái cho anh. Họ cầm nén nhang, cúi đầu và nói những gì không ai biết, nhƣng chắc chắn họ cầu chúc cho anh luôn đƣợc yên nghỉ bình an nơi vĩnh hằng. Cô gái tóc dài quê 33
Vĩnh Yên với khuôn mặt hiền lành tên là Thanh Xuân. Còn cô gái tóc ngắn - ngƣời Hà Nội với khuôn mặt cƣơng nghị, ngƣời mà dọc đƣờng hành quân vào Nam chúng tôi đã bỏ công tìm kiếm – có tên là Phạm Liên Dung. Phạm Liên Dung là một ngƣời bạn tiêu biểu cho đức chung tình với bạn. Sau này, khi má Thích mất, cô đã đến tự tay tắm rửa, khâm liệm cho bà. Thích là con trai một, khi anh mất đi làm ông già suy sụp hoàn toàn cả về thể chất lẫn tinh thần. Liên Dung thƣờng đến thăm nom chăm sóc ba của Thích, khi ông ốm đau, cô tìm mua loại thuốc tốt nhất cho ông. Đã 28 năm trôi qua, cô gái chung tình ấy luôn để một khoảng trong sáng ở trái tim mình dành riêng cho tình bạn của Thích và mọi ngƣời trong gia đình anh. Tối ngày 2 tháng 12 năm 2000, tôi cùng Trần Kiến Quốc – đại diện cho Ban Liên lạc trƣờng, đến thăm chị Bùi Hà Liên (hiện là Phó giám đốc Công ty Texgamex). Trƣớc bàn thờ, nhìn ngắm khuôn mặt thân quen của Anh, chúng tôi thắp nén nhang cầu chúc cho Anh yên nghỉ trong tình yêu bao la của gia đình và thầy trò Trƣờng Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi.
Những ngày s p sang Thiên niên kỷ mới.
34
Xem bài viết: 1. Nhớ về Liệt sĩ Bùi Hữu Thích - Nguyễn Thanh Tường K1, SRTKL 1, Tr.: 2. Quảng Trị và những đồng đội còn nằm lại - Lê Chí Hòa K5, SRTKL 2, Tr.: 204-208.
Sƣu tầm trên mạng: 1. Danh sách mộ Liệt sĩ tại Nghĩa trang Liệt sĩ xã Triệu Ái huyện Triệu Phong tỉnh Quảng Trị (PDF) - Xem dòng 221, Blog Nguyễn Sỹ Hồ. 2. Danh sách 283 liệt sĩ tại NTLS Triệu Ái (Triệu Phong, Quảng Trị) - Xem dòng 111. 3. Quảng Trị - Mảnh đất bi hùng - Video Clip.
35
Liệt sĩ Cao Quốc Bảo
36
Học sinh khóa 3
Sinh: 1950 Học viên Đại học Kỹ thuật quân sự Hy sinh: 5/7/1975 (26/5 Ất Mão), tại sân bay Phú Bài, Huế. Gia đình chuyển hài cốt về quê hương ở TP. Quảng Ngãi. Liên hệ gia đình: Cao Quốc Độ, em trai. Địa chỉ: 915/5A Trần Hưng Đạo, P1, Q5, TP HCM. Điện thoại: 38366742. Cao Minh Hải, em gái, 120/181 Phạm Văn Bạch, P15, Tân Bình, TP HCM. Điện thoại: 38152655. Cao Minh Trúc, em gái hiện ở HN, số ĐT 0912183435.
37
Tấm ảnh để lại của anh Trần Xuân Lăng Kiến Quốc K5
S
au khi xuất bản Tập 2 SRTKL, từ Vũng Tàu anh Lăng gửi qua 1 ngƣời bạn tới địa chỉ 187N Nguyễn Oanh (Xí nghiệp Cơ khí Phan Nam). Phan Nam đã chuyển cho
tôi. Vì phải thay đổi chỗ ở mấy năm qua mà bì thƣ này cất trong kho nhà cũ. Đợt vừa rồi trở lại sống ở nhà cũ, lục lại kho, thấy bì thƣ đó. Trong đó có 2 thông tin quan trọng:
38
- Địa chỉ Cao Quý Độ, em trai LS Cao Quốc Bảo. Nhờ nó mà chúng ta đã mời đuợc gia đình tới dự ngày Hội truờng tại TPHCM 3/1//2010. Cũng nhờ đó mà ta có liên lạc với gia đình LS. - Bức ảnh quý giá chụp năm 1972, có Cao Quốc Bảo, Trần Xuân Lăng và 1 bạn học sinh miền Nam. Ảnh chụp, có lẽ, ở công viên Thống Nhất, vào dịp anh em học viên Đại học Kỹ thuật quân sự đuợc về nghỉ phép nên mới có cuộc "dạo mát hồ Bảy Mẫu". Xin post bức ảnh này nhƣ 1 lời xin lỗi muộn màng truớc vong linh anh Lăng.
Trích các thƣ trả lời của Cao Minh Hải, em gái LS Bảo
Các anh thân mến! Em rất cám ơn các anh đã gửi ảnh anh Bảo em. Ảnh đ chụp khi nào, anh c biết không? Em không biết mặt anh Xuân Lăng. Cách đây mấy năm em c nghe chị gái em n i c bạn anh Bảo em đến tìm, sau em không nghe chị em n i gì nữa. … Từ hè năm 1965 đến hè 1968 chúng em chỉ đƣợc gặp anh Bảo 1 lần vào Tết 1966. Vì chúng em đi sơ tán nơi khác … hè năm 1972 em đi du học (Hungary). Năm 1978 em về mới biết tin anh Bảo em đã hy sinh. Ba em giấu và n i rằng "anh em đi công tác đặc biệt", em cũng tin vậy. Năm 1978 gia đình em mới nhận đƣợc giấy báo tử. 39
… Anh trai tôi cùng phấn khởi khi đƣợc vào chiến trƣờng. Sau khi anh đi gia đình không nhận đƣợc tin tức gì. Ba tôi là Cao Thanh Trà nguyên là đại tá, lúc bấy giờ công tác tại QK3, đã hỏi bên PKKQ đƣợc biết nơi đ ng quân của đơn vị anh tôi. Tháng 9 năm 1975, ba tôi vào nam, ghé Huế để thăm anh Bảo. Lúc đ ông mới hay tin anh Bảo đã mất ngày 5 tháng 7 năm 1975, chôn tại nghĩa trang LS Huế. Vài năm sau, ba tôi đƣa hài cốt anh về quê ở thị xã Quảng Ngãi. Năm 1978, đại diện BQP tới nhà trao bằng "Tổ quốc ghi công" cho gia đình và giải quyết tốt các chính sách gia đình LS. … Anh Hoàng Sơn (ngƣời cùng anh Kiến Quốc tiếp quản ở Đà Nẵng năm 1975) c n i rằng "tháng 4/1975 anh Sơn có đến Huế thăm anh Bảo. Sau đó 1 tuần nghe tin anh Bảo mất". Và một số anh ở PKKQ lúc bấy giờ cũng n i là anh Bảo mất trƣớc 30/4. Nhƣng trong giấy báo tử ghi ngày 5/7/1975, mất tại BV quân khu Trị Thiên. BV này năm 1975 nằm trong Thành nội Huế... Em đã gọi cho anh Phan Nam và đƣợc biết BV đ đã dời về Tp Vinh. ... Nhờ c cuốn "Sinh ra trong kh i lửa" mà em biết đƣợc nhiều hơn về trƣờng Trỗi, qua đ thấy đƣợc cuộc sống của anh mình… Gia đình em rất cảm động khi các anh đã không quên anh Bảo… … Em vẫn thƣờng xuyên đọc các blog bantroi của các kh a. Rất cám ơn các anh. Chào thân ái. Cao Minh Hải 40
K3 và K4 ở ĐHKTQS, Cao Quốc Bảo K3: hàng đứng, thứ 3 phải sang
Xem bài viết: 1. Tấm ảnh để lại của anh Trần Xuân Lăng - TranKienQuoc, 30/11/2010 tại Blog K5. 2. Gia đình tôi đ n nhận SRTKL tập 3 - Cao Thị Minh Hải em gái của LS Cao Quốc Bảo, 08/10/2010 tại Blog K5. 3. Lá thƣ của Cao Minh Hải (em gái LS Cao Quốc Bảo K3) - 11/10/2010 tại Blog K5. 4. Đã tìm đƣợc gia đình LS Cao Quốc Bảo K3 - Kiến Quốc, 02/10/2010 tại Blog K5. 5. Liệt sĩ - bạn của chúng ta - giờ này anh ở đâu? - Kiến Quốc, 22/5/2007 tại Blog K4.
41
Liệt sĩ Ngô Ngời
42
Học sinh khóa 3
Sinh: 1947 Địa chỉ: Xã Hoàng Diệu, Tam Kỳ, Quảng Nam, Đà Nẵng. Sinh viên năm thứ 2 Đại học Bách khoa HN. Cấp bực: Thiếu úy Chức vụ: Chính trị viên phó. Đơn vị: tăng thiết giáp, Hy sinh: 1/7/1979 (8/6 Kỷ Mùi), tại Mặt trận Biên giới Tây Nam. Mộ tại Nghĩa trang Liệt sĩ xã nhà: Bình Đông, Bình Sơn, Quảng Ngãi. Liên hệ gia đình: Bố liệt sĩ Ngô Ngời - Ngô Câu. Thôn Tân Hy, xã Bình Đông, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Điện thoại: 055-3610015.
43
Đi tìm bạn Ngô Ngời Anh Thy ghi theo lời kể của Võ Quốc Tấn K3
N
gô Ngời học chung với Minh Tiến (tự Tiến “nhái”), Việt Cƣờng (Cƣờng “vui”), Công Dũng (Dũng “vịt bầu”) và tôi từ hồi còn ở Trƣờng Học sinh miền Nam
số 19-21 Hải Phòng. Năm 1965, mấy đứa đều đƣợc gọi vào Trƣờng Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi (khi đó đóng ở Thái Nguyên). Sau khi ra trƣờng, 4 đứa tôi vào Đại học Kỹ thuật Quân sự, riêng Ngời vào học Đại học Bách khoa Hà Nội và đến hết năm thứ 2 thì xung phong nhập ngũ. Cuối 1970, Ngời đƣợc phân công về đơn vị tăng thiết giáp và bổ sung cho chiến trƣờng. Năm 1973, sau khi tốt nghiệp Đại học Kỹ thuật Quân sự, tôi đƣợc phân công ngay về Quân khu 5 công tác. Đầu năm 1976, tôi và Ngời đã gặp nhau ở Đà Nẵng. Xa nhau đã 6 năm, rồi những năm tháng chiến tranh ác liệt, cho tới ngày thống nhất đất nƣớc, Ngô Ngời không hề dính đạn kẻ thù và đang là cán bộ đại đội. Hai đứa mừng tủi ôm nhau nhắc lại những kỷ niệm ngày cùng đi học. Ngời khoe với tôi: “Tao lại vừa nhận được giấy gọi tập trung đi học, song vì đang bận tổng kết chiến dịch và còn bọn Fulro trên cao nguyên nữa... Thôi, cố đánh thêm vài trận 44
nữa rồi về đi học cũng không muộn”. Thế rồi bọn tôi, mỗi đứa mỗi việc, lại tạm xa nhau. Nhƣng có ai ngờ…cái nguyện vọng dản dị ấy của Ngời mãi không bao giờ thực hiện đƣợc. Năm 1979 xảy ra chiến tranh quy mô lớn ở biên giới phía Tây Nam, chúng tôi đƣợc tin Ngô Ngời đã anh dũng hy sinh! Thông tin cũng chỉ vài dòng nhƣ vậy, không ai biết Ngời giờ đang nằm ở đâu. Cả chục năm sau, bọn tôi đƣợc biết: có một bạn chiến đấu của Ngời báo cho gia đình - tất cả các liệt sĩ của đơn vị hy sinh tại Cămpuchia đều đã đƣợc quy tập về nghĩa trang liệt sĩ huyện Tân Biên (Tây Ninh). Năm đó, ba má Ngời đã già yếu; đặc biệt, do coi chúng tôi nhƣ con cái trong nhà, nên các cụ đã giao nhiệm vụ: phải tìm bằng đƣợc mộ Ngời và đƣa hài cốt về quê hƣơng. Thế là 4 đứa bàn nhau cùng đi tìm hài cốt bạn mình. Thời gian đó quãng tháng 6, tháng 7 năm 1990, tôi và Minh Tiến vẫn trong quân ngũ, đang ở Hà Nội; Việt Cƣờng ở Đà Nẵng, còn Công Dũng ở Sài Gòn. Bốn đứa đã hẹn nhau tập trung về Sài Gòn. Do có quan hệ thân thiết với anh Sáu Lân (Đại tá, Sƣ trƣởng Sƣ đoàn phòng không 367 – đơn vị có nhiều anh em Trỗi là sĩ quan dƣới quyền); hơn nữa, anh Sáu cũng là cựu học sinh miền Nam nên rất ủng hộ. Khi biết mấy đứa định đi tìm hài cốt Ngô Ngời, Sƣ đoàn đã cho mƣợn một xe Jeep cùng tài xế. Sáng 12 tháng 11 năm 1990, anh em tôi rong ruổi lên đƣờng nhằm hƣớng thị xã Tây Ninh. Công Dũng ngày đó đang công tác tại Tổng công ty Generalimex, vì tình xƣa nghĩa cũ, đã nói dối cơ quan là ốm bệnh, xin nghỉ vài hôm “ở nhà điều trị” (!). Khi lên 45
đến Tỉnh đội Tây Ninh, chúng tôi đƣợc giới thiệu sang Sở Thƣơng binh – Xã hội. Tại đây, đƣợc giới thiệu về Phòng Thƣơng binh – Xã hội huyện Tân Biên. Tại Phòng, bốn đứa tụi tôi cùng cán bộ chính sách lục đống hồ sơ cả buổi chiều mà không có kết quả. Đêm đó, chúng tôi trở về thị xã nghỉ. Hôm sau, cả bọn lại phóng từ sớm xuống huyện Tân Biên. Gần hết sáng mới tìm thấy tên liệt sĩ Ngô Ngời và nghĩa trang bạn yên nghỉ. (Không hiểu giờ đây, các phòng Thƣơng binh – Xã hội cơ sở có đƣợc trang bị các thiết bị tin học để quản lý hồ sơ cho liệt sĩ hay không. Nếu có sẽ đỡ vất vả nhiều cho gia đình và thân nhân khi tìm kiếm ngƣời nhà của mình!). Phòng giới thiệu chúng tôi về Ban quản lý nghĩa trang liệt sĩ Tân Biên làm thủ tục bốc hài cốt Ngô Ngời. Nghĩa trang liệt sĩ Tân Biên - nằm tại xã Thạnh Tây - ngày đó chỉ có duy nhất một bác quản trang, nhƣng ông không nắm đƣợc liệt sĩ Ngô Ngời nằm đâu. Các phần mộ dƣờng nhƣ bị che lấp bởi một rừng lau sậy ngút đầu ngƣời, (còn ngƣời quản trang già làm sao có thể chống chọi đƣợc với sự phát triển vô tổ chức của cây hoang dại?). Chúng tôi phân công nhau “càn” theo từng hàng, từng lối (cũng rất may là các phần mộ đƣợc sắp xếp rất trật tự, thẳng hàng thẳng lối). Tới mộ phần nào cũng phải vạch cỏ lau lên xem tên liệt sĩ. Cả trƣa vất vả tìm kiếm, đến 2 - 3 giờ chiều, một đứa hô to: “Nó đây rồi!”. Thế là tụi tôi đạp lên lau sậy ào tới. Tấm bia ghi rõ: “Liệt sĩ Ngô Ngời - Sinh: 1947 – Địa chỉ: Xã Hoàng Diệu, Tam Kỳ, Quảng Nam – Đà Nẵng – Cấp bực: Thiếu úy, Chính trị viên phó – Đơn vị: … - Hy sinh ngày: 11-71979”. Bốn đứa mừng vui khôn tả, ôm lấy nhau, rƣng rƣng nƣớc 46
mắt trƣớc mộ Ngời: “Thế là chúng tao đã tìm được mày!”. Qua những phút giây xúc động ban đầu, anh em xúm lại dọn quang hết lau sậy mọc trên mộ, sau đó thắp hƣơng lên mộ Ngời và mộ các chiến sĩ xung quanh báo tin: chúng tôi đã gặp nhau. Cả bốn đứa đứng thành hàng ngang trƣớc mộ Ngời mặc niệm và theo thông lệ chiến trƣờng, Minh Tiến rút khẩu K54 mang theo ra bắn một phát lên trời. Sau khi làm các thủ tục bốc hài cốt xong, anh em bắt tay vào đào bới phần đất trên mộ, qua gần một mét đất thì gặp ngay bọc hài cốt Ngô Ngời. Toàn bộ hài cốt đƣợc bọc trong “tăng” của lính trận. Chúng tôi rất xúc động bốc từng mẩu xƣơng trên thân thể bạn mình cho vào ngâm rửa trong rƣợu cồn. Hài cốt của Ngời sau hơn 10 năm đã ngả sang mầu nâu. Chung với hài cốt, đồng đội của Ngời không quên bỏ vào cả bộ tổ hợp tai nghe của ngƣời lính xe tăng. (Bạn phải hiểu rằng, khác với lính ở các binh chủng, ngƣời lính tăng chỉ có thể nhận mệnh lệnh và báo cáo với chỉ huy, hay phối hợp tác chiến với đồng đội trên xe khi tăng đang chạy, máy đang gầm rú, thông qua bộ tổ hợp tai nghe gắn trên đầu, micrô áp sát vào cổ và tai nghe chụp vào đôi tai). Mãi chiều tối hôm đó, công việc mới kết thúc. Bác quản trang giúp chúng tôi làm các thủ tục cúng cho hƣơng hồn của liệt sĩ, sau đó bọc hài cốt của Ngời đƣợc đƣa vào chiếc va-ly sắt đã chuẩn bị sẵn và đƣa ra xe. Chúng tôi thắp hƣơng chia tay đồng đội còn nghỉ lại, rồi vội vã lên đƣờng. Trƣớc khi rời nghĩa trang, Minh Tiến không quên bắn thêm phát súng từ biệt. (Nghe đâu, sau này các liệt sĩ đã đƣợc 47
chuyển sang một nghĩa trang mới đàng hoàng hơn. Nhƣ vậy cũng đỡ tội cho các liệt sĩ của chúng ta!). Chiều biên giới Tây Nam, tháng 11, nắng đang dần tắt, trời se lạnh, chiếc xe Jeep gài số thấp đi chữ chi lƣợn tránh ổ gà trên con đƣờng lầy lội, đất bùn đỏ quạch bám đầy xe. Trên xe, 5 anh em (kể cả Ngời) nhƣ đang “trên một chiếc xe tăng”, mặt mũi lấm lem, đứa nào cũng đăm chiêu tƣ lự. Tôi rít một hơi thuốc thật dài, tâm trạng chúng tôi lúc này buồn vui lẫn lộn; vui vì đã tìm đƣợc bạn, buồn vì nó vẫn cứ mãi xa. Đêm ấy, cả bọn nghỉ lại thị xã Tây Ninh, sớm sau mới về thành phố. Về tới thành phố, chúng tôi đƣa hài cốt Ngời về Cƣ xá Bắc Hải và báo ngay cho anh em bạn bè lại với Ngời. Các bạn Mai Tự, Giáp Hùng, Chí Nhân, hội Sƣ đoàn 367… và anh em khóa 3 nghe tin đều có mặt đầy đủ. Chúng tôi làm bữa cơm đón Ngời về với gia đình và bạn bè. Đứa nào đến tay cũng run run thắp hƣơng trƣớc bàn thờ dã chiến có di ảnh của Ngời và không thể nghĩ rằng, sẽ có cuộc hội ngộ nhƣ ngày hôm nay. (Lại chuyện của “Vịt bầu”, sau khi cơ quan nghe tin hắn bị ốm, công đoàn đã cử ngƣời mang quà lại thăm, nhƣng… ông “bệnh nhân” lại vắng nhà (!)… Sau này, biết là Dũng nghỉ việc để đi tìm hài cốt của bạn, chắc chẳng ai còn rầy la?). Hôm sau, Cƣờng và tôi ngƣợc tầu liên vận ra Bắc cùng với hài cốt Ngô Ngời. Cƣờng xuống ga Đà Nẵng, còn tôi thì đi tiếp. Khi tầu vừa đến, anh Ngô Sáng đã ra sân ga đón Cƣờng. Hai anh em thuê ngay một chiếc mô-tô Min-xcơ “zin ba cầu” cùng hài 48
cốt của Ngời về Dung Quất, Quảng Ngãi – nơi ba má Ngời đang sống. Đến nơi đã 9 giờ tối, để vào đƣợc nhà ba má Ngời, phải đi thuyền qua vịnh Dung Quất; anh Sáng phải mang xe đi gửi một nhà quen. Một mình Cƣờng cùng với chiếc va-ly sắt đứng đợi anh ở bãi biển. Tối đó, một tốp dân quân đi tuần qua thấy một ngƣời lạ đầu đội mũ phớt, quần áo nhom nhem, tay xách va-ly. Họ sinh nghi, cho đây có thể là đối tƣợng định vƣợt biên: “Ông từ đâu đến? Ông đứng chờ ai? Trong va-ly đựng những gì?”. Cƣờng không thể nói bên trong va-ly có những gì. Cuối cùng, anh em dân quân đƣa Cƣờng về trạm dân phòng gần đó. Dùng dằng một lúc, Cƣờng cƣơng quyết không cho mở va-ly. Cũng may anh Sáng đã quay lại. Hóa ra toàn ngƣời quen. Anh Sáng thuê hai chiếc thuyền mủng – loại thuyền đôi, hình tròn hay dùng ở miền Trung – vƣợt vịnh về nhà ba má. Gặp đƣợc con, khỏi nói các bạn cũng biết ba má Ngời xúc động và thƣơng cảm đến mức nào. Ngày hôm sau, gia đình cùng UBND xã, Phòng Thƣơng binh – Xã hội huyện, Hội Cựu chiến binh và các cơ quan, đoàn thể đã tổ chức lễ đón nhận và truy điệu liệt sĩ Ngô Ngời về yên nghỉ tại quê hƣơng một cách long trọng. Sau hơn 10 năm trời xa cách, nay Ngời đã đƣợc về an nghỉ tại nghĩa trang liệt sĩ xã nhà, gần má gần ba. Gia đình Ngô Ngời và địa phƣơng hết sức cảm động trƣớc việc làm đầy tình nghia và luôn miệng cám ơn anh em tôi. Song chúng tôi nghĩ, chuyện chả có gì, chẳng qua vì: chúng tôi là con 49
em Cách mạng, chúng tôi là những học sinh Trƣờng Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi, chúng tôi là những ngƣời lính Cụ Hồ, và Ngô Ngời với chúng tôi còn “thân thiết hơn cả anh em ruột”, nên chúng tôi đã hành động nhƣ thế!
Tháng 3 năm 2001
Bạn bè khóa 3 của liệt sĩ Ngô Ngời tại Quế Lâm, đầu năm 1968 50
Xem bài viết: 1. Đi tìm bạn Ngô Ngời - Anh Thy ghi theo lời kể của Võ Quốc Tấn K3, SRTKL 1, 2. Thƣ cảm ơn của gia đình liệt sĩ Ngô Ngời - Ngô Câu, SRTKL 2, Tr.: 28-30. 3. Vì chúng tôi là lính Trỗi! - Phạm Việt Cường K3, SRTKL 2, Tr.: 107-109.
51
Liệt sĩ Lê Minh Tân
52
Học sinh khóa 3
Sinh: 17/8/1950 Sinh viên (Tốt nghiệp) Đại học Bách khoa Đơn vị: C23, Đoàn A16, Bộ đội Tăng - Thiết giáp Tây Nguyên. Hy sinh: 1/4/1974 (9/3 Giáp Dần), tại Mặt trận Khâm Đức, Quảng Nam. Mộ: tại Nghĩa trang Liệt sĩ TP HCM, Khu Bình Thạnh - Khu M19, hàng 74 mộ 3. (Tìm được mộ tháng 5/2007). Liên hệ gia đình: Ba Lê Bưởi, 69/24 Nơ Trang Long, Bình Thạnh, TP. HCM. Em Linh (0903.824001)
53
Chuyện đi tìm mộ LS Lê Minh Tân Mộ liệt sĩ Lê Minh Tân tìm đƣợc nhờ nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng và đồng đội Võ Quốc Tấn K3
L
ê Minh Tân quê ở xã Điện Hồng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, là học sinh Khóa 3 Trƣờng Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi và là kỹ thuật viên Lữ đoàn xe
tăng 273. Anh hy sinh ngày 1/4/1974 tại chiến trƣờng Khu 5 trong Chiến dịch xuân hè 1974. Việc đi tìm mộ LS Lê Minh Tân, gia đình và đồng đội đã thực hiện từ nhiều năm nhƣng không có kết quả, kể cả việc nhờ một số NNC. Trung tƣớng Đoàn Sinh Hƣởng Tƣ lệnh Quân khu 4 (nguyên Tƣ lệnh Binh chủng Tăng - Thiết giáp, C trƣởng C23 của Tân) và là ngƣời trực tiêp chốn cất Tân năm 1974 đã cùng đồng đội trở về chiến trƣờng xƣa nhƣng địa hình, địa vật đổi thay nên không tìm đƣợc. Gần đây, đồng đội Tăng - Thiết giáp của Tân đã tìm gặp NNC Phan Thị Bích Hằng và đƣợc NNC nhận lời giúp đỡ. Chỉ với một tấm ảnh, NNC đã ”nói chuyện” đƣơc với LS. Lê Kinh Thông - lính cùng đơn vị, ngƣời trực tiếp liên hệ với NNC Bích Hằng đã ghi lại toàn bộ “cuộc nói chuyện”. Tôi không nhớ đƣợc hết nhƣng nội dung chính là: Tân nói anh hiện đang ở NTLS huyện Phƣớc Sơn, 54
tỉnh Quảng Nam. Tân chỉ đƣờng đến đó rất cụ thể (có sơ đồ chỉ dẫn). Khi vào đến nghĩa trang đi về phía bên trái qua Đài liệt sĩ đến cuối nghĩa trang thì quay mặt ra phía cổng. Mộ anh là mộ thứ 13, nằm ở hàng thứ 2 từ phải sang. Cô Hằng hỏi làm thế nào nhận biết đƣợc anh thì Tân “nói”: “Cứ nhìn hàm răng thì biết, răng anh còn nguyên, đẹp”. Cô Hằng lại hỏi anh có muốn đƣợc đồng đội đƣa về, thì Tân nói “Anh em cứ lên tới nơi rồi tính”. Sau khi có đƣợc thông tin từ NNC, đồng đội hẹn nhau đi tìm mộ Tân và điện báo cho tôi. Sáng ngày 12/05/2007, tất cả tập trung và xuất phát từ Đà Nẵng. Riêng tôi đang ở Tam Kỳ nên lên thẳng NTLS. Đồng đội của Tân gồm các anh Đoàn Sinh Hƣởng, Lê Kinh Thông, Trƣơng Công Đạo, Đỗ Đình Thành, Hoàng Đức Gián, Trƣơng Lập Thành, anh Thái, anh Hổ (Trƣởng phòng Quân báo Quân khu 5)… Một số từ Hà Nội, Vinh, Quảng Trị vào, số đang sống ở Đà Nẵng. Lê Gia Linh, em ruột Tân, từ TP Hồ Chí Minh bay ra. 9 giờ 30, chúng tôi hội quân tại NTLS. Tất cả cùng tìm đến ngôi mộ thứ 13, hàng thứ 2, nhƣ trong sơ đồ chỉ dẫn. Mọi ngƣời đứng quanh mộ, không ai nói câu nào. Rồi anh Thông gọi điện cho cô Hằng thông báo mọi ngƣời đã đến đúng tọa độ chỉ dẫn, Hằng trả lời: “Các anh chờ em 10 phút!”. Lát sau 55
Hằng gọi lại nói “đã gặp được anh Tân”, anh Tân “nói” rất mừng vì các anh đã đến. Anh Thông hỏi: “Tân có muốn được đưa về không?”, Hằng nói: anh Tân muốn bạn bè đưa về gần ba má. Lúc này, tất cả đều tin đây là mộ Lê Minh Tân, ngƣời bạn thân thiết, ngƣời đồng đội cùng đơn vị. Mọi ngƣời thắp hƣơng cho Tân và các LS trong nghĩa trang rồi bàn việc đƣa Tân về. Anh Thông liên lạc lại với NNC. Khi Bích Hằng nói gì, anh đều nhắc to cho anh em cùng nghe: “Anh Tân nói nhờ thủ trưởng Hưởng đốt cho 28 nén hương và 28 điếu thuốc vì hôm nay Tân mời các bạn về để chia tay, nhưng có một người bạn thân nhất là Ngô Ngời không về được”. Nghe đến cái tên “Ngô Ngời” tự nhiên tôi rùng mình, nƣớc mắt ứa ra vì nhớ ngay tới ngƣời bạn Trỗi rất thân hy sinh ở mặt trận Tây Nam mà chính mình tham gia đƣa bạn về quê.
Tôi và anh Hƣởng cùng thắp hƣơng và đốt thuốc cho Tân và anh em. Khi mọi ngƣời đứng vòng quanh mộ, anh Hƣởng bắt nhịp cho anh em cùng hát “Năm anh em trên một chiếc xe tăng như năm bông hoa nở cùng một cội, như năm ngón tay trên một bàn tay...”. Ai nấy nƣớc mắt giàn giụa nhƣng cố gắng hát tròn vành 56
rõ chữ cho Tân nghe. Lúc sau, Linh mới cho chúng tôi xem mảnh giấy viết tay ghi lại lời của NNC Năm Chiến chỉ dẫn cách tìm mộ Tân. Năm 1994, chú Lê Bƣởi, ba Tân, đã tìm gặp ông ở Thăng Bình, Quảng Nam. Ông hƣớng dẫn khi vào NTLS Quế Sơn thì rẽ trái đến hàng cuối cùng rồì tìm ngôi mộ thứ 6 thuộc hàng thứ 2, từ trái qua. (Lần đó ba Tân không tiếp tục đi tìm vì nghĩ không lẽ Tân hy sinh ở gần sân bay Khâm Đức ngay Phƣớc Sơn mà lại đƣợc quy tập về NTLS Quế Sơn, cách xa những 70km?! Có thể đây là một nhầm lẫn?). Khi đến mộ, Linh không nói với ai điều này mà thử tự xác định và thấy có hoàn toàn trùng khớp giữa ngôi mộ này với ngôi mộ thứ 13 từ phải qua theo chỉ dẫn của NNC Bích Hằng. Đúng là một sự trùng hợp kì diệu từ sự xác định của 2 NNC, ở 2 nơi và vào các thời điểm khác nhau! Lúc này mọi ngƣời đều tin chắc đây là mộ Lê Minh Tân. (Chuyện con muồm muỗm cứ quấn quýt quanh mộ Tân làm anh em chúng tôi cảm thấy rất lạ xin đƣợc kể sau). Chúng tôi cùng vào làm việc với Huyện đội Phƣớc Sơn. Sau khi nghe trình bày quá trình tìm mộ cùng một số thông tin của NNC Bích Hằng và NNC Năm Chiến, các đồng chí ở Huyện đội rất cảm thông với cuộc tìm kiếm đầy tình nghĩa này; nhƣng vì chƣa có chính sách cho phép di dời mộ ở các NTLS về nên các anh đề nghị Trung tƣớng Đoàn Sinh Hƣởng viết giấy bảo lãnh. Anh Hƣởng viết ngay. Sau đó, chúng tôi bắt tay vào làm công tác chuẩn bị. 14 giờ, trở lại nghĩa trang. Đèn hƣơng, hoa quả, tiền vàng đƣợc sắp lên bàn thờ Nhà tƣởng niệm và ngay trên mộ Tân. Linh sắm 57
cho anh nhiều thứ. Anh em chia nhau đi thắp hƣơng cho tất cả các LS. Khắp nghĩa trang hƣơng khói nghi ngút. 15 giờ, bắt đầu mở mộ. Chỉ đào một lớp đất thì tới bọc ni lông đựng hài cốt. Chúng tôi nhẹ nhàng đƣa bọc ni lông lên cho vào áo quan bằng gỗ rồi hồi hộp mở từng lớp. Hài cốt Tân hiện ra với hàm răng còn nguyên vẹn, đều đặn. Sau đó hài cốt đƣợc xếp lại theo thứ tự. Aó quan đƣợc đóng lại, phủ quốc kỳ rồi đƣa ra xe. Vì tôi đang công tác ở Tam Kỳ nên không cùng anh em đƣa Tân về nhà đƣợc. Tôi nói với Tân vài lời rồi chia tay đồng đội của anh.
Mặt trời dần lặn sau dãy Trƣờng Sơn. Xe phóng trên đƣờng lắc lƣ. Trong lòng tôi trỗi dậy bao cảm xúc, nhớ thƣơng Tân và những ngƣời bạn đã hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Buồn đấy nhƣng xen lẫn những niềm vui. Vui vì một ngƣời bạn thất lạc lâu ngày đã trở về. Nhƣ vậy LS Lê Minh Tân sau 33 năm nằm ở chiến trƣờng, đƣợc nhân dân các dân tộc huyện Phƣớc Sơn chăm sóc, hôm nay đã trở về với gia đình, bạn bè và đồng đội.
58
Việc tìm đƣợc mộ LS qua các NNC có những điều kỳ diệu khó lý giải, nhƣng nhờ đó mà hàng ngàn LS đã trở về với quê hƣơng. Xin cảm ơn các NNC và đồng đội của anh!
Tam Kỳ, 14/05/2007
Thẻ Đoàn viên của liệt sĩ Lê Minh Tân 59
Kiến Quốc K5 … Nhớ đến anh, bạn bè tại Trƣờng Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi đã biên tập cuốn “Sinh ra trong khói lửa” Tập 2, trong đó có đăng lá thƣ từ chiến trƣờng của anh. Hình ảnh Lê Minh Tân trong bộ quân phục thời đánh Mỹ, giơ tay chào rất chuẩn theo điều lệnh của QĐNDVN, đƣợc in trên trang bìa cuốn sách. Khi đến thăm và tặng cuốn sách này cho Đại tƣớng Võ Nguyên Giáp nhân kỷ niệm 40 năm thành lập Trƣờng, bác xúc động lặng đi khi nghe chúng tôi kể về anh với lời thề nghĩa khí. Bác cũng biết đƣợc rằng anh là con trai của Đại tá Lê Bƣởi, một sĩ quan cao cấp dƣới quyền thuộc Bộ Tổng Tham mƣu. Chúng tôi luôn tự hào về anh…
Trích „Tổ chức truy điệu”
60
Lê Gia Linh K9, em trai LS Lê Minh Tân Em là em trai út của anh Tân. Ngày anh Tân đi bộ đội em mới 10 tuổi. Nghe má kể lại: Hôm sắp lên đƣờng nhập ngũ, bác Hiệu trƣởng Đại học Bách khoa có đến gặp ba em, nói: “Theo tiêu chuẩn thì Tân không phải đi đợt này vì anh đang tại ngũ. Nhƣng đây là đơn tình nguyện nhập ngũ của cháu. Anh cho biết ý kiến vì tôi có thể dừng trƣờng hợp này?”. Và ba em đã trả lời: “Đất nƣớc có chiến tranh thì trai tráng phải lên đƣờng cứu nƣớc. Anh cứ để cháu thực hiện nghĩa vụ của mình”…
Trích „Kỷ niệm cuối cùng với anh Tân” BS Hoc K7 … Chuyện Phan Thị Bích Hằng gặp đƣợc Lê Minh Tân cũng là những điều kì diệu. Nhân 30/4 năm nay, Hằng làm giỗ cho vong linh các LS. Trên ban thờ đặt 2 cuốn sách “Huyền thọai Trƣờng Sơn” và “Sinh ra trong khói lửa”. Nghe kể lại, khi thắp hƣơng xong tự nhiên cô thoang thoáng “gặp” một gƣơng mặt quen quen. Lục trong trí nhớ một hồi cô nhớ ra đó là hình ảnh anh Lê Minh Tân, đồng đội của anh Lê Kinh Thông ở Ban Liên lạc Cựu Sinh viên, Chiến sĩ Tăng - Thiết giáp, in trên bìa cuốn sách đặt trên ban thờ. Rồi… cứ thế, cứ thế, Hằng đã “nói chuyện” đƣợc với anh Tân. Vậy không chỉ dừng ở việc lƣu lại kỷ niệm của một thời mà cuốn sách đã có tác dụng hơn thế!
Trích „Có một cuốn sách như thế!” Ngô Phúc Chiến (tức Ngô Văn Long) K5 "Lê Minh Tân và mình học với nhau từ lớp 3 ở Trường Học sinh miền Nam số 21, Hải Phòng. Nó là con chú Bưởi, cô Lục mà cô chính là giáo viên chủ nhiệm lớp. Lên lớp 5, Tân học với Võ Quốc Tấn, Ngô Ngời... Nghe tin Tân đã về với gia đình, anh em Trỗi ở Vũng Tàu mừng lắm. Nhờ các bạn chuyển lời chúc mừng đến gia đình!". 61
22/7/2007, Kiến Quốc, AE Trỗi và gia đình viếng thăm
22/11/2007, cùng đồng đội và gia đình LS Lê Minh Tân
13/4/2008, ngày giỗ và kỷ niệm 1 năm đón LS Lê Minh Tân về TPHCM 62
26/7/2009, K. Tường và AMK3 (Trần Anh Minh K3) Mong cho bạn luôn yên bình
2/7/2008, các bạn K8 TPHCM viếng thăm 63
Xem bài viết: 1. "Giỗ đầu" LS Lê Minh Tân k3 - Bài tổng hợp tại Blog K6, 9/4/2008. GioLMT - Album của AMk3 tại Phòng trưng bày Công Cộng của AMk3 - 12 tháng tư 2008, Anbom Web Picasa AMk3. Đám giỗ anh Lê Minh Tân - hameok6, 13/04/2008, tại Blog K4. Ghi chép - "Giỗ đầu" anh Tân - Dương Minh K4, 14/4/2008 tại Blog K8. Tin nhanh! Tin mới!
- Kiến Quốc.
Thông báo
- Kiến Quốc.
Kế họach tuần
- Kiến Quốc.
Xem các bài viết về việc tìm mộ: 1. Tổ chức truy điệu - Điếu văn - Kiến Quốc, 13/5/2007. 2. Tìm mộ Liệt sĩ Lê Minh Tân K3 - Kiến Quốc, 12/5/2007. 3. Chuyện đi tìm mộ LS Lê Minh Tân - Võ Quốc Tấn K3, 14/5/2007. 4. Lễ đ n Lê Minh Tân trở về - Kiến Quốc, 14/5/2007. 5. Thƣ từ cựu SV-CS Tăng-Thiết giáp - Lê Kinh Thông - CCB Hội Cựu sinh viên, chiến sĩ Tăng – Thiết giáp, 15/5/2007. 64
6. Tin về LS Lê Minh Tân - Báo Nhân dân, 18/5/2007. 7. Lính Trỗi và đồng đội - Nhờ Liệt sĩ Lê Minh Tân mà chúng tôi trở nên thân thiết với anh em Trỗi - Lê Kinh Thông, 18/5/2007. 8. Về LS Lê Minh Tân - Những con số 13 - 6 - 28 - 5 - Kiến Quốc, 22/5/2007. 9. Nhân ngày 27 tháng 7 - Lên thăm LS Lê Minh Tân - Kiến Quốc, 22/7/2007. 10. Lời hứa từ 30 năm trƣớc - Phan Thanh Hải, Trần Hoài, Báo QĐND, 27/12/2007. 11. C một cuốn sách nhƣ thế! - BS Hoc, 11/06/2007, Blog "BANGOC199".
Xem các bài viết cũ về LS L MINH T N: 1. Kỷ niệm cuối cùng với anh Tân - Lê Gia Linh, em trai LS Lê Minh Tân, 13/5/2007. 2. Nhớ Lê Minh Tân xin nhắc lại chuyện cũ… - Ngô Long - Phúc Chiến K5, 21/5/2007. 3. Đƣợc kết nạp Đảng mới viết thƣ về nhà - Tạ Việt Chiến K3, SRTKL 2, Tr.: 110-117.
❧ ❀ ❧ 65
Liệt sĩ Vũ Chí Dũng
66
Học sinh khóa 4
Sinh: 1952 Sinh viên năm thứ 1 Đại học Kỹ thuật quân sự. Cấp bậc: trung sĩ - Chức vụ: tiểu đội phó Đơn vị: C11, D9, E66 (trung đoàn Hai Râu, Plây Me), F10 Quân đoàn 3. Hy sinh: 6/12/1971 (19/10 Tân Hợi) tại Mặt trận Tây Nguyên. Gia đình chuyển hài cốt về HN - Đài hoá thân hoàn vũ Văn Điển, HN. Liên hệ gia đình: Chị Vũ Thanh Hương, E6 tổ 57 khu giãn dân Học viện Quốc phòng Yên Hoà. (04-37845227).
67
Lòng mẹ Hữu Thành K4
N
hân ngày Thƣơng binh - Liệt sĩ, 27 tháng 7 năm 1993, anh em Trỗi đã đến thăm gia đình liệt sĩ Vũ Chí Dũng - học sinh khoá 4 và là con trai bác Vũ Công
Thuyết, nguyên thứ trƣởng Bộ Y tế. Năm học cuối ở trƣờng, anh thƣờng tâm sự với bạn bè về nguyện vọng đƣợc đi chiến đấu. Sau Tết, có đợt khám tuyển đi Liên Xô học lái máy bay chiến đấu Mig-21, anh đã tham gia. Hè năm 1969, sau khi thi tốt nghiệp, Vũ Chí Dũng cùng 40 anh em đƣợc Cục Cán bộ tuyển lên Đại học Kỹ thuật quân sự trên Thậm Thình (Vĩnh Phú). Vừa chân ƣớt chân ráo nhập học, anh nhận đƣợc giấy báo trúng tuyển phi công. Thời gian đó, chiến trƣờng miền Nam đã trở nên ác liệt, không thể yên tâm học tập, Dũng từ chối cả việc đào tạo phi công lẫn học đại học. Anh viết đơn xin đi chiến đấu. Thấy con trai rất quyết tâm, không thể chối từ nguyện vọng của tuổi trẻ, bác Thuyết đƣa anh lên gặp các chú ở Cục Cán bộ. Thấy Dũng nằng nặc đòi đi chiến trƣờng, các chú đã phải chấp nhận. Và anh đã trở thành một chiến sĩ giải phóng của Sƣ đoàn 10, hoạt động ở địa bàn Tây Nguyên. Ngày ấy, cứ mƣời thanh niên miền Bắc vào chiến trƣờng, thì có đến chín ngƣời hy sinh vì chƣa đủ kinh nghiệm chiến đấu và vì sự ác liệt của chiến tranh. Sau này, một bác sĩ chiến trƣờng - bạn của bác 68
Thuyết, đã kể lại: anh bị thương và chính tay ông đã phẫu thuật cho anh. Nhưng vết thương quá nặng, không qua khỏi. Ngày 6 tháng 12 năm 1971, Dũng hy sinh khi vừa tròn 20 tuổi.
Các bạn bên hài cốt liệt sĩ Vũ Chí Dũng Ngày đến thăm gia đình ở 22 Phan Huy Chú, chỉ có bác gái ở nhà. Anh em tràn cả vào phòng khách, cái phòng vốn rất rộng nhƣng hôm nay nhƣ hẹp lại. Khoác vội chiếc áo hoa nâu giản dị, bác run tay pha trà vào ấm và rót nƣớc cho từng đứa. Bác xúc động nói: “Nghe tin các cháu lại chơi mà bác cứ ra ra vào vào suốt từ sáng tới giờ, làm gì cũng cứ lóng nga lóng ngóng. Cứ như là thằng Dũng nhà bác s p về... Thế là nó đã đi xa hơn 20 69
năm rồi. Nhưng không bao giờ bác nghĩ nó đã hy sinh, nó cứ như đang đi công tác xa. Nếu về đến nhà, nhất định nó sẽ sà vào lòng bác làm nũng...”. Nghe đến đây chúng tôi rƣng rƣng nƣớc mắt và hình dung ra ngày hy sinh bạn mình còn trẻ quá, còn ngƣời mẹ nào cũng luôn nghĩ con mình bé bỏng. Bác tâm sự: “Hôm nó nhập ngũ, bác không khóc như mấy bà bạn cũng có con đi cùng đợt. Bác nghĩ nó đi rồi nó lại về. Ngày nào bác cũng chỉ quanh quẩn ở nhà, không dám đi xa, mà nếu có phải đi xa thì cũng vội mà về. Chỉ sợ nó về lại không gặp mẹ.” Chúng tôi lặng lẽ thắp hƣơng lên bàn thờ có di ảnh của Vũ Chí Dũng. Trong khung ảnh của bạn có gắn tấm huân chƣơng Giải phóng với phần cuống nửa xanh nửa đỏ. Xin cám ơn bạn và cám ơn cả mẹ! Mẹ của chúng con dám trao cho Tổ quốc những giọt máu quý nhất của đời mình mà không một so đo, toan tính. Cho đến khi những giọt máu thƣơng yêu nhất ấy mất đi thì lại gồng mình lên gắng chịu! Mẹ thật vĩ đại! Chắp hai tay trƣớc di ảnh bạn, chúng tôi thầm khấn: Dũng ơi, bạn sẽ sống mãi trong chúng tôi và trong lòng mẹ!1 *** Tháng 8 năm 1995, Tuổi trẻ Sƣ đoàn 10, Quân đoàn 3 đã có thƣ báo tin cho gia đình. Và những ngày đầu hè năm 2003 khi tìm đƣợc gia đình Dũng, chị Thanh Hƣơng đã chuyển cho tôi lá thƣ đó:
70
Kính gửi: Đảng uỷ và UBND phố Phan Huy Chú, Hà Nội Chúng tôi tỏ lòng tôn kính đối với thế hệ cha anh đã hy sinh xương máu của mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Nhân đợt hoạt động kỷ niệm 50 năm, ngày Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2 tháng 9, thể theo nguyện vọng của Tuổi trẻ Sư đoàn 10, chúng tôi đã quyết định sử dụng “Quỹ tình đồng đội” trong tháng 8 năm 1995 để ghi thư thăm hỏi và thông tin cho các địa phương cùng thân nhân các liệt sĩ đã chiến đấu, hy sinh, xây đ p nên truyền thống anh hùng của Sư đoàn; biết được địa chỉ nơi an nghỉ của người thân để khi có điều kiện thuận tiện cho việc thăm viếng. Xin kính nhờ Đảng uỷ, Chính quyền địa phương và nhân dân phường chuyển đến: Ông bà Vũ Công Thuyết Địa chỉ: 22 Phan Huy Chú, Hà Nội Có con tên là: Vũ Chí Dũng, sinh... Nhập ngũ:... Đơn vị: C11, D9, E66, F10 Đã chiến đấu và anh dũng hy sinh ngày 6 tháng 12 năm 1971. Thi hài được quy tụ ở nghĩa trang Plây Cần, Số ô: 01 – Số hàng: 15 – Số mộ: 288. Kính chúc quý địa phương và gia đình An khang, hạnh phúc. Địa chỉ liên lạc: Phòng Chính trị, Sư đoàn 10, Quân đoàn 3 HT: 4AH.4002 – Thị xã Kon Tum. TM. Tuổi trẻ Sư đoàn 10 – Thiếu tá Lê Minh Nghĩa.
71
Sau đó, ngày 11 tháng 3 năm 1998, trên báo Phụ nữ Thủ đô có tên Vũ Chí Dũng trong danh sách liệt sĩ Hà Nội, an táng tại Nghĩa trang liệt sĩ Sa Thầy. Thấy có sự thay đổi, chúng tôi đã gửi thƣ cho đơn vị. Ngày 2 tháng 6 năm 2003, Phòng Chính trị Sƣ đoàn 10, đã có thƣ trả lời và thông báo: Do có sự di chuyển theo quy hoạch chung, nay số mộ của liệt sĩ Vũ Chí Dũng là 848, thuộc hàng số 1, tại Nghĩa trang liệt sĩ huyện Sa Thầy (Kon Tum).
Lễ truy điệu liệt sĩ Vũ Chí Dũng tại đài hóa thân Hoàn Vũ, Văn Điển, Hà Nội ngày 27-7-2003 72
Trong lá thƣ này chúng ta còn đƣợc biết sau 2 năm rèn luyện trong quân ngũ và chiến trƣờng, Dũng đã trở thành một trung sĩ với chức vụ tiểu đội phó. Thầm nghĩ, tiến bộ nhƣ thế phải kể đến cả những năm tháng là học sinh Thiếu sinh quân. Giá nhƣ Dũng vƣợt qua đƣợc sự tàn khốc của chiến tranh, chắc chắn sẽ còn trƣởng thành. Và nhân ngày Thƣơng binh – Liệt sĩ năm 2003, chị gái Vũ Chí Dũng đã lên Kon Tum chuyển hài cốt của em về Hà Nội. Sáng ngày 27 tháng 7, Ban Liên lạc trƣờng cùng thầy Bân và các bạn khóa 4 đã có mặt ở Đài hoá thân Hoàn Vũ Văn Điển làm lễ truy điệu đón Dũng về quê hƣơng. Dũng ơi, chúng tôi rất tự hào vì bạn!
1. Mấy tháng sau ngày chúng ta đến thăm, bác trai rồi bác gái qua đời. Vậy là Dũng đã gặp bố mẹ! HQK (Hồ Quý Kỳ K4) Nhận được mail của Hữu Thành làm tôi xúc động quá! Cám ơn sự chu đáo của bạn. Tôi với Vũ Chí Dũng học với nhau từ hồi lớp 3 ở trường Thanh Quan, sau đó cùng anh em đi từ lớp 6 ở trường Trỗi đến khi tốt nghiệp phổ thông. Đọc đến đoạn Chí Dũng về SG cùng Lê Minh Tân mà mình không cầm được nước mắt. Không bao giờ tôi quên được người bạn đức độ và xuầt sắc về mọi mặt ấy.
73
Phạm Hồng Thao K4 … Có lẽ bạn Chí Dũng là ngƣời đầu tiên đi B năm 1971 và sau hơn 30 năm bạn mới trở về Hà Nội. Tôi nhớ lại ngày đầu nó ra đi cũng gặp không ít khó khăn, không ai đồng ý cho nó đi lúc đó cả. Khoẻ mạnh, đẹp trai học giỏi, chơi đàn ghi-ta và sáng tác một bài hát "Đoàn Kết". Tôi với nó nhiều lần tâm sự về cuộc sống, về hoài bão và ƣớc mơ kiểu trẻ con. Tôi bảo nó sau này mày sẽ trở thành bác sỹ, nó bảo tại sao và cƣời nói tao rất yêu chúng mày. Một hôm chúng tôi đi tàu hoả từ Hà Nội lên Thậm Thình, tàu chạy ban đêm, hai thằng ngồi bệt dƣới sàn tàu. Hôm đó bạn bảo bạn đang xin đi B chiến đấu, bạn khuyên tôi ở lại học sau này có ích cho đất nƣớc. Tôi hỏi tại sao? Bạn nói rằng bạn cần phải tôi luyện trong chiến đấu ở chiến trƣờng, phải vào Nam chiến đấu. Bạn nói rằng cấp trên gợi ý cho bạn đi học lái máy bay chiến đấu ở Liên Xô, nhƣng thời gian dài quá, học xong thì chiến tranh đã kết thúc rồi, không còn cơ hội. Bạn cũng than phiền có một số bạn chƣa hiểu bạn. Việc này Minh đã biết chƣa? Sau khi đƣợc sự đồng ý của gia đình và cấp trên bạn rời trƣờng KTQS về đơn vị chiến đấu để luyện tập chuẩn bị đi B. Trƣớc khi hành quân vào Nam chiến đấu bạn về trƣờng gặp gỡ, chia tay với chúng tôi. Hành trang mang theo là bầu nhiệt huyết, ý chí đƣợc tôi luyện trong khói lửa chiến tranh, bạn khoe đã là Hạ sỹ và là Phó bí thƣ chi đoàn. Chúng tôi không có liên lạc đƣợc với nhau và hơn 30 năm sau bạn về với gia đình và bạn bè trong một chiều gió mƣa mịt mù tại Đài Hoá thân Hoàn Vũ Hà Nội.
(Trích „Thư riêng, chuyện cũ, xem chung”)
Xem bài viết: 1. Thƣ riêng, chuyện cũ, xem chung - Phạm Hồng Thao, 15/4/2007, Blog K4. 2. Lòng mẹ - Hữu Thành K4, SRTKL 2, Tr.: 118-122 74
Các nhóm đạt danh hiệu Quyết thắng C8 (K4), 1966, An Mỹ, Đại Từ Vũ Chí Dũng - Hàng ngồi, thứ 2 từ phải sang.
B4 (lớp giỏi) C9 ở trường mới, Vũ Chí Dũng - Hàng sau, thứ 3 từ trái sang. 75
Liệt sĩ Nguyễn Lâm Duy
76
Học sinh khóa 4
Sinh: 12/1949 Liệt sĩ Thiếu sinh quân. Hy sinh: 30/08/1966 (15/7 Bính Ngọ - Vu Lan Rằm tháng 7), tại An Mỹ, Đại Từ, B c Thái. Mộ chuyển từ Văn Điển lên Nghĩa trang Yên Kỳ (Bất Bạt), Hà Nội. (Hiện nay thất lạc). Liên hệ gia đình: Em Lâm Dũng, số 8, ngách 1/1, Vạn Phúc, Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội. (04-37622476)
77
Những mất mát lớn trong tổ ấm nhỏ 1 Thiếu tướng NGUYỄN THẾ LÂM
Đ
*
ời tôi - đời anh “Bộ đội Cụ Hồ” - liên tục chiến binh trong suốt ba chục năm chiến tranh (1945-1975). Kết thúc đời sinh viên, tôi đi hoạt động cách mạng và tự
nguyện làm anh chiến sĩ Giải phóng quân. Từ ngày 23 tháng 10 năm 1945 cho đến ngày trở thành cựu chiến binh, tôi liên tục thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ của ngƣời đảng viên. Chính trong quá trình ba chục năm chiến đấu trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nƣớc, tôi đã đƣợc Đảng và nhân dân giúp đỡ để xây dựng một gia đình hạnh phúc.
Ngƣời bạn đời - Thể Dƣ - đến với tôi tại Bồng Sơn (Bình Định). Hai cháu lần lƣợt ra đời trong chiến tranh chống Pháp là Lâm Duy và Dƣ Lan. Vì nhiệm vụ quân sự Đảng giao, tôi rời Liên khu V (miền Nam Trung bộ) ra Bắc. Đảng cũng tạo điều kiện để vợ con tôi đƣợc ra công tác, học tập ở miền Bắc. Nhƣng hoàn cảnh chiến tranh đã tác động đến đời tƣ của gia đình tôi nhƣ mọi gia đình khác. Trên đƣờng ra Bắc, cháu gái Dƣ Lan bị sốt rét ác tính đã qua đời. Còn cháu trai Lâm Duy phải gửi tạm vào Huế cho bà ngoại chăm sóc.
78
Sau ngày tập kết ra Bắc, năm 1965, Lâm Duy đƣợc đi học tại trƣờng Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi của Tổng cục Chính trị. Cháu hăng hái học tập, rèn luyện và lao động ngày trƣờng Nguyễn Văn Trỗi đóng ở Đại Từ, Thái Nguyên (Việt Bắc).
Lần đó, tổ lao động của Lâm Duy đƣợc giao nhiệm vụ vào rừng sâu lấy gỗ về làm doanh trại. Phải đốn gỗ già theo đúng kích thƣớc để làm khung sƣờn cho nhà ăn của trại. Ba cậu thiếu niên hăng hái nhiệt tình lao động nhƣng chƣa có kinh nghiệm đốn gỗ trong rừng già. Khi chặt cây gỗ sắp đổ đã không biết chạy tránh hƣớng nào để đảm bảo an toàn, Lâm Duy chạy đúng vào hƣớng cây đổ, bị thúc vào đầu, tử thƣơng ngay.
Đƣa cháu về Viện quân y 108, Tổng cục Chính trị nhận khuyết điểm trong việc quản lí học sinh và báo tin cho gia đình. Nhƣng các anh cũng khéo báo từng bƣớc để khỏi gây đột ngột cho mẹ cháu và bà ngoại. Khi vợ chồng tôi vào đến Viện thì đã xong mọi thủ tục. Cơ quan Tổng cục tổ chức tang lễ, đƣa cháu về khu vực quân đội ở Nghĩa trang Văn Điển. Đồng chí phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị chính thức thông báo cho gia đình: Cháu Lâm Duy được đề nghị công nhận là liệt sĩ Thiếu sinh quân.
1. Trích hồi kí “Ngƣợc Bắc, Xuôi Nam” Phụ huynh liệt sĩ Nguyễn Lâm Duy (kh a 4) 79
Chuyện về Lâm Duy cứu ngƣời Hà Chí Quang K4
Ở
Đại Từ, có hồi chúng tôi đƣợc lệnh đốn cây dựng lán trại. Cứ thằng nhỏ con kiếm cây nhỏ, thằng to con kiếm cây lớn. Hôm đó, chúng tôi men núi một đỗi thì
gặp thằng Lâm Duy đang chặt một cây cao vút (theo con mắt hồi đó). Chúng tôi bàn, cây của y đổ ắt phạt một mớ cây xanh, chắc lựa đƣợc vài món, đỡ phải chặt, bèn ngƣợc lên một khúc chờ thời. “Chú ý, cây đổ”, tiếng Lâm Duy hét, tiếng cây gẫy hỗn loạn. Rầm, và im lặng. Tôi lao tới, Lâm Duy nằm đó, bất động, một cành cây xéo qua ngƣời. Đẩy cành cây ra mới thấy vết nứt sau đỉnh đầu. Tiểu não rồi! Mƣa, tôi loay hoay che cho nó, còn lại đi tìm thầy, hú gọi vang rừng. Thầy tới, làm hô hấp nhân tạo. Lâu lắm. Rồi thảng thốt đứng dậy, thầy không nghe thấy gì. Vẫn mƣa. Thầy cõng Lâm Duy xuống núi, đám học trò lẽo đẽo theo sau, càng lúc càng đông. Cả đại đội lặng ngắt mấy ngày. Sau mới hay, hóa ra cánh tiều phu không ƣa hạ những cây có dây rừng chằng chịt qua cây cành bên cạnh, mà kị nhất ở hƣớng “mở lƣng"(1), còn muốn hạ thì phải leo lên chém hết mớ dây rừng. Lâm Duy bị nạn là do dây rừng ở phía “mở lƣng”. Năm 1981, trong đợt công tác Sơn La, tôi vô tình đụng tốp binh nhì đang tíu tít hạ một cây khá cao. Hàng chục vết chém đan lƣới quanh gốc, đến tối cũng chƣa đổ, rõ là lính cậu miền xuôi. 80
Trên cao, dây rừng lực lƣỡng đan qua đám cây cành bên cạnh. “Dừng ngay!” - Tôi ra “lệnh”. Sau một hồi nghe “giảng”, một cậu dáng “bụi đời” miễn cƣỡng leo lên ngọn chém đám dây rừng. Lại xem tôi thị phạm cách “mở lƣng”, “mở bụng"(1). Cây đổ đẹp. Có mấy bố bản đi ngang, gục gặc: “Chúng mày may đấy, hôm nay không có bộ đội này (trỏ vào tôi) thì có thằng bị cây đè chết”. Bên Tàu hồi xƣa, di chúc cụ Khổng Minh - sau bảy đời - đã đốc viên quan huyện kịp thời rời khỏi ghế ngồi ngay trƣớc lúc cái xà gồ rớt xuống. Còn Lâm Duy sau mƣời lăm năm đã cứu ngƣời nhƣ thế đó!
------------------------------
Ghi chú: (1) Là kỹ thuật chặt cây, phía mở bụng là phía cây sẽ đổ, phía mở lƣng là phía ngƣợc với phía mở bụng. Nếu mở đúng thì cây sẽ đổ theo tính toán của ngƣời chặt.
Trích "NHỮNG BÀI HỌC ĐẦU TIÊN", SRTKL 1.
Xem bài viết: 1. Chuyện về Lâm Duy cứu ngƣời - Hà Chí Quang K4, trong bài: "NHỮNG BÀI HỌC ĐẦU TIÊN", SRTKL 1. 2. Những mất mát lớn trong tổ ấm nhỏ - Nguyễn Thế Lâm, SRTKL 2, Tr.: 89-90. 81
Liệt sĩ Nguyễn Văn Ngọc
82
Học sinh khóa 4
Sinh: 5/1950 Quê: Đức Yên, Đức Thọ, Hà Tĩnh. Chức vụ: pháo thủ số 2 Đơn vị: C6 Tiểu đoàn cao xạ 57 ly, E233 F361 -> F367, HT 36266-OK Hy sinh: 10/10/1968 (19/8 Mậu Thân) tại xã Hưng Dũng, TP. Vinh, Nghệ An. Mộ tại Nghĩa trang Liệt sĩ huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh. Liên hệ gia đình: Mẹ Nguyễn Thị Ngọ, Phòng 12, Nhà A5, Khu Nam Đồng. (04-38573854).
83
NGUYỄN VĂN NGỌC Ngƣời liệt sĩ đầu tiên Ghi theo lời kể của thiếu tá Đỗ Tấn Mỹ (khóa 5) ANH THY thực hiện
S
au 35 năm gặp lại, anh say sƣa kể về những ngày sống và chiến đấu thời đánh Mỹ. Hết chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, rồi mặt trận C, B2… Nơi đâu cũng gắn
với những kỷ niệm về đồng chí, đồng đội. Chiến tranh là một đề tài khó quên! … Cha mẹ chúng tôi là lớp cán bộ thế hệ thứ nhất và thứ hai của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Để chuẩn bị cho lớp ngƣời kế cận, hè 1965, chúng tôi đƣợc tuyển chọn vào trƣờng Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi. Do chiến tranh ngày càng ác liệt, đầu năm 1967, nhà trƣờng đƣợc lệnh rời Đại Từ (Thái Nguyên), sơ tán sang thành phố Quế Lâm (Trung Quốc). Vốn là học sinh miền Nam, khi về trƣờng đã lớn tuổi, Tấn Mỹ thƣờng đứng ra bảo vệ bọn nhóc chúng tôi mỗi khi nghịch ngợm đánh nhau. Còn Văn Ngọc “đúp” từ lớp trên xuống học với khóa 5. Mỹ và Ngọc ở cùng một trung đội thuộc đại đội 71, do hạ sĩ Thụy phụ trách. Tuy điều kiện sống và học tập rất tốt, nhƣng cánh lớn tuổi cứ nằng nặc xin về nƣớc tham gia chiến đấu với suy nghĩ: “Học chƣa giỏi ở nhà trƣờng nhƣng sẽ chiến đấu giỏi nơi chiến trƣờng”. Hè 1967, Mỹ, Ngọc, Võ Dũng, Tô Văn Hoành và một số bạn lên tầu về nƣớc, cùng chuyến với khóa 2 vừa tốt nghiệp. Về đến Hà Nội, các bạn lại đặt vấn đề với các chú ở Tổng cục Chính trị. Sau khi cân nhắc, Võ Dũng đƣợc xếp về trƣờng 84
Quân chính quân khu Tả Ngạn, còn Mỹ, Ngọc cùng Hoành về đại đội 6, tiểu đoàn pháo cao xạ 57mm thuộc trung đoàn 233, sƣ đoàn phòng không 361 bảo vệ Hà Nội. Từ ngày đó, ba anh em “Lƣu-Quan-Trƣơng” thề “sống chết có nhau”! Khi thì đơn vị đóng ở bãi Phúc Tân bảo vệ cầu Long Biên, lúc lại về trận địa bên hồ Văn Chƣơng, sau ga Hàng Cỏ; có lúc trận địa chuyển sang Gia Lâm, bảo vệ kho xăng Đức Giang. Những ngày không trực chiến, ba đứa hay mò về Ba Đình “đánh moóc-xơ” báo anh Trình (con trai bác Văn Tiến Dũng), đang trực phòng không trên nóc Nhà Quốc hội xuống chơi. Ba đứa đã chứng kiến những ngày gian khổ nhất của trận địa phòng không Hà Nội và không thể quên hình ảnh cầu Long Biên bị trúng bom, gẫy nhịp hay kho xăng Đức Giang ngùn ngụt cháy. Họ đã cùng Hà Nội chiến đấu đánh trả những đợt đánh phá của giặc Mỹ. Ngày 31 tháng 3 năm 1968, sau Mậu Thân và những thắng lợi ở cả hai miền, giặc Mỹ buộc phải tuyên bố ném bom hạn chế từ Vĩ tuyến 20 trở vào. Vùng đất này hẹp và kéo dài nên có tên là vùng “cán xoong”. Mỗi khi Mỹ buộc phải ngừng ném bom khu vực từ Thanh Hoá đổ ra là chúng lại tập trung bom đạn đánh vào cùng cán xoong Nghệ An- Hà Tĩnh-Quảng Bình-Vĩnh Linh rất ác liệt. Một số đại đội của sƣ đoàn 361 đƣợc lệnh bổ sung cho sƣ đoàn 367 bảo vệ miền Trung. Lẽ thƣờng tình, các chú sẵn sàng cho ba đứa ở lại Hà Nội, thậm chí còn cho đi học; nhƣng nhƣ vậy sẽ không còn cơ hội đánh giặc. Ba anh em lại đề nghị Tổng cục cho đi đợt này. Từ cầu Bùng (giáp ranh giữa Nghệ An và Thanh Hóa) đổ vào, chiến tranh vẫn còn. Đơn vị nhận nhiệm vụ bảo vệ thành phố Vinh. Khi thì trận địa pháo bố trí ở xã Hƣng 85
Dũng bảo vệ Nhà máy nƣớc, lúc lại về Hƣng Thuỷ bảo vệ Nhà máy điện và phà Bến Thủy… Trong khẩu đội, Mỹ là pháo thủ số 1, phụ trách “hƣớng” và ấn cò; Ngọc là pháo thủ “tầm” số 2 cùng các pháo thủ “cự ly”, “mục tiêu”, tiếp đạn và khẩu đội trƣởng. Pháo 57mm mỗi gắp đạn có đến 4 viên nhƣng có thể bắn liên tục và hạ mục tiêu ở độ cao
đến
6000m.
Tuy
mỗi
ngƣời một nhiệm vụ nhƣng với khẩu hiệu “Rèn luyện để trở thành pháo thủ toàn năng”, mọi chiến sĩ trong khẩu đội đều có thể thay thế vị trí đồng đội mình. Giữa thời tiết khắc nghiệt của đất xứ Nghệ, nắng rát đến cháy da và gió Lào thì khô không khốc, cứ chiều chiều, anh em lại thay nhau chạy ào sang nhà dân, gần trận địa tắm nhờ. Một lần, nghe kẻng báo động, máy bay Mỹ ập đến, anh em từ nhà dân vội chạy về. Vì đã nhảy vào vị trí của pháo thủ số 2 nên một đồng đội khác thế vào ghế của Mỹ. Ác nghiệt thay, phát đạn 23 ly từ trên máy bay đã bắn xuyên thủng ghế sắt, xuyên tiếp qua lƣng ngƣời bạn đang ngồi vị trí số 1. Anh bạn đã hy sinh. Ở chiến trƣờng, giữa cái sống và cái chết gần nhau trong gang tấc! Ngƣời này hy sinh lại có đồng đội khác về bổ sung. 86
Ở miền Trung, có một thông lệ, nếu bị máy bay tấn công thì chỉ đƣợc phép đánh trả từ sau 4 giờ chiều để tránh lộ mục tiêu (vì giặc Mỹ có thể kiểm soát cả từ trên không và từ ngoài khơi xa). Nhƣng sáng 10 tháng 10 năm 1968, từ 8 giờ, hàng đàn máy bay đã tấn công vào phà Bến Thuỷ, hòng cắt đứt đƣờng tiếp vận của ta vào Nam. Nhiều tốp F4H lần lƣợt lao xuống cắt bom vào trận địa. Bom đạn nổ rầm trời, tai điếc đặc, khói lửa mù mịt, trận địa khét lẹt mùi thuốc súng… Dân xã Hƣng Thuỷ nhìn máy bay bổ nhào xuống trận địa đã khóc thƣơng: ác liệt thế này chắc các chú bộ đội chết hết! Đại đội thƣơng vong nhiều nhƣng vẫn kiên quyết đánh trả. Không một ai rời bỏ vị trí, các ụ pháo vẫn xoay nòng hƣớng trực diện vào mục tiêu. Khẩu đội trƣởng phất cờ, hô to: “Còn sống còn dựng màn đạn. B n!”. Cả đại đội dựng lƣới lửa, hai chiếc máy bay vừa bổ nhào đã trúng đạn, bốc cháy, lao ra biển. Những chiếc còn lại điên cuồng vòng lại. Lần này, chúng cắt bom chụp xuống trận địa. Đó là loại bom phát quang, chỉ nổ khi cách mặt đất 4-5m; cây cối trúng mảnh bom đổ rạp nhƣ ngả rạ. Bỗng chớp lòe! Ầm! Một quả bom nổ ngay sát khẩu đội. Mảnh bom phạt ngang thân Ngọc chỉ để lại nửa thân dƣới, ruột gan lòng thòng, máu me bê bết… Tấn Mỹ lao sang ôm lấy xác bạn, gào lên: - Ngọc, mày chết thật rồi sao? Thế là cái thằng Ngọc, học cùng trƣờng khi ở rừng Đại Từ, bị ngã nƣớc, đƣợc bạn bè gán thêm cái biệt danh “ghẻ”; cái thằng Ngọc “tốt”, trắng trẻo đẹp trai, ăn nói dẻo mồm làm xiêu lòng bao cô gái dọc đƣờng hành quân; cái thằng bạn không ỷ 87
mình là “con ông cháu cha”, vẫn nằng nặc xin đi chiến đấu ngày nào, đã mãi đi xa! Ba anh em đã mất một, biết nói sao đây với ba mẹ Ngọc!? Vừa khóc vừa ôm xác bạn ra hố bom cũ còn đọng nƣớc mƣa tạt lên rửa sạch vết máu dính đất cát, Mỹ run lên: “Tao sẽ trả thù cho mày, Ngọc ơi!”. Ngay chiều hôm ấy, đơn vị tổ chức chôn cất các liệt sĩ tại nghĩa trang xã Hƣng Dũng. Hận thù trào dâng! Ngày sau, đơn vị tiếp tục hành quân vào Hà Tĩnh và đóng quân tại quê hƣơng cụ Nguyễn Du. Ba tuần sau, đúng ngày 1 tháng 11 năm 1968, chính phủ Mỹ buộc phải tuyên bố chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại ra miền Bắc. Ai cũng tiếc thƣơng cho Ngọc. Số phận nó khổ quá! Giá mà chờ thêm ít ngày nữa… Nhƣng ai mà nói trƣớc đƣợc điều gì, vì đó là chiến tranh! Sau ngày ngừng bắn, hai đứa qua nghĩa trang, gói một nắm đất lấy từ mộ Ngọc cho vào ba-lô lên tầu ra Bắc và tìm đến gia đình Ngọc ở khu tập thể Nam Đồng. Cô Trần Thị Ngọ, mẹ Ngọc, đã ngất đi khi nhận đƣợc nắm đất. Chú Nguyễn Chí Điềm, một ngƣời lính vào sinh ra tử, nguyên Tƣ lệnh Bộ đội Đặc công ôm lấy Hoành và Mỹ, nói trong nƣớc mắt: “Ráng chiến đấu trả thù cho Ngọc, các con ạ!” Cuối 1968, với những gì đã hứa với Ngọc, Mỹ và Hoành lại lên đƣờng vào chiến trƣờng đánh giặc cho đến ngày toàn thắng. Tấn Mỹ vinh dự trở thành lính của chú Điềm - trinh sát đặc công Z27, sƣ đoàn 5 và hai lần đƣợc tặng danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ”… Nhớ về bạn mình, anh 88
lẩm bẩm: “Quên làm sao được cái ngày nó hy sinh; đó chính là Ngày giải phóng Thủ đô”. Còn chúng tôi, tuy đã bƣớc qua cái tuổi ngũ tuần nhƣng không thể nào quên đƣợc những đứa bạn thuở thiếu thời. Chúng tôi luôn tự hào về thầy, cô và mái trƣờng thân yêu, nơi đã đào tạo nên những học sinh nhƣ Nguyễn Văn Ngọc - dám hy sinh tuổi xuân của mình vì Độc lập, Tự do của Tổ quốc! Ngày tìm thấy bạn, 2-9-2002. A.T
4/11/2010, Hữu Thành K4, Khắc Việt K7, Hợp K9, V. Tuấn K4 thắp "hương" cho hai cha con liệt sĩ Nguyễn Chí Điềm, Nguyễn Văn Ngọc 89
Trần Phong – K5 Tôi nhớ đến thằng bạn Ngọc “ghẻ“ đã ra đi mãi mãi. Ngọc quý tôi, tôi cũng quý Ngọc vì vẻ ngoài đẹp trai và tài ăn nói lịch lãm của hắn. Nhớ mãi khi hắn hát cho tôi nghe bài “Xa khơi“ của nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ, một bài hát mà cả thế hệ chúng tôi đều ƣa thích. Ôi! Từng ca từ, giai điệu bài hát làm tôi “chết mê chết mệt”. Tôi mê bài hát và mê hắn luôn! Ƣớc gì giờ đây còn đƣợc nghe Ngọc hát bài hát này. Rồi một bài hát nữa Ngọc nói rằng là của ngoại quốc và hát cho tôi nghe. Tôi chỉ còn nhớ lõm bỏm mấy câu: ”ôi thôi ôi, gãy tay rồi ngƣời ơi, lấy đâu tay lành để vuốt tóc dài… ”. Ngọc ơi! Mày ra đi khi còn trẻ quá! Mày không đƣợc hƣởng cái hạnh phúc “vuốt mái tóc dài” của ngƣời mình yêu dấu.
Trích "Một đời nhớ nhau"
Lảnh nhớ lại: Lên Trại Cau (An Mỹ) năm học 1965-66, tôi gặp Ngọc. Cái thằng cao ráo, có nƣớc da trắng hồng. Ông già là liệt sĩ chống Pháp, sau bà già lấy chú Điềm Đặc công cũng góa vợ. Nó có tên Ngọc "tốt" vì ở Trại Cau có nhà ông cắt tóc, bố mày viết 2 chữ Nho không treo trƣớc mà lại treo sau nhà. Các thầy đọc và bảo là 2 chữ "Thái lai", ý: đời ông ta khổ nhƣng về sau thì sẽ bớt khổ, rạng rỡ. Ông Thái Lai lại nuôi con chó và gọi là Ngọc "tốt". Vô tình trùng lặp mà Ngọc có tên này. Sau khi đúp xuống khóa 5, hắn bị ghẻ đầy 2 bàn tay nên có tên mới là Ngọc "ghẻ".
Trích "Chuyện kể trưa nay"
90
Kha Tư Xô góp chuyện: "Năm học 1966-67 tao mới lên trƣờng. Đại đội ta ở Suối Chì. Trƣa đó xuống bếp ăn cơm. Bếp của C7 ở chân đồi, phải men theo con dốc qua rừng vầu mới tới bếp. Chẳng hiểu có phải nghe tao nói "giọng miền đù" hay thấy tao cũng to con nhƣ nó mà có ý định đánh phủ đầu (để phân ngôi thứ?), Ngọc vƣợt lên, túm ngực áo tao, định đánh. Tao thản nhiên: "Sắp ăn cơm rồi, đánh đấm làm gì mày? Trời đánh còn tránh miếng ăn". Nghe vậy cậu không sừng sộ nữa mà bỏ đi. Cũng chả hiểu sao hay vì ân hận mà hôm sau nó vào làng mua nồi sắn, luộc chín rồi kêu tao ăn. Hôm sau nữa, mua đƣợc túi gắm cũng mời tao. Từ sau quan hệ giữa tao và nó tốt hẳn. Mẹ, đúng là tính cách Trỗi!".
Trích "Chuyện kể trưa nay"
Xem bài viết: 1. Chuyện kể trƣa nay - Kiến Quốc, 05/05/2011, Blog K5. 2. Thăm mộ LS Nguyễn Văn Ngọc (tốt) nhân cứu trợ miền Trung - HữuThành.Nguyễn, 05/11/2010, Blog K4. 3. 8g30' sáng 10/10/1968 - Kiến Quốc K5, 10/10/2009, Blog K5. 4. Chuyện của trắc thủ 12ly7 ở trận địa hồ Văn Chƣơng, sau ga Hàng Cỏ - Đỗ Tấn Mỹ K5, 30/12/2007, Blog K4. 5. Nguyễn Văn Ngọc, ngƣời liệt sĩ đầu tiên - Đỗ Tấn Mỹ, Anh Thy K5, SRTKL2, Tr.: 91-95. 6. Những bức thƣ cuối cùng của liệt sĩ Nguyễn Văn Ngọc - Tô Văn Hoành K5, SRTKL 2, Tr.: 96-101. 7. Với một gia đình liệt sĩ - Vân Anh, SRTKL 2, Tr.: 209-211. 8. Thƣ gửi từ Leipzig - SRTKL 2, Tr.: 212-213. 91
Liệt sĩ Nguyễn Văn Ơn
92
Học sinh khóa 4
Sinh: 1951 Quê: xã Mỹ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Cấp bậc: hạ sĩ - Chức vụ: y tá trung đoàn Đơn vị: C4-D1 - E117A, F2, QK7. (Đặc công Hải quân). Hy sinh: 28/6/1975 (19/5 Năm Ất Mão) tại mặt trận Sài Gòn - Lái Thiêu, Bình Dương. Mộ: tại Nghĩa trang Liệt sĩ Tp.HCM. Vị trí: Khu M20 (giành cho các LS quê ở vùng từ Quảng Trị đến Nghệ An). Bông số 1. Mộ số 1. Liên hệ gia đình: Thân phụ - Ông Nguyễn Thái Sơn, thôn 3, xã Mỹ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Nhà cách đường 1 chỉ có 3km đầu cầu phía Nam sông Gianh. Điện thoại: Hỏi K4.
93
Tìm gặp bạn Tổng hợp Khi có cái TÌNH và cái TÂM (TM K4)
T
hực ra Ban Liên lạc rất đau đáu với việc chƣa tìm ra mộ phần của 12 LS Trỗi… Gửi thƣ của anh Vinh đi cả 3 nơi và phải chờ trả lời (Xem SRTKL3, bài viết: "Tìm đƣợc liệt sĩ Nguyễn Văn Ơn", BBT, trang 260-264). Không ngờ nơi sát nhất lại là Sở Lao Thƣơng Quảng Bình.
LS Nguyễn Văn Ơn. Sinh 1951. Cấp bậc: hạ sĩ, y tá, E118, F2, QK7. Hy sinh: 28/6/1975 tại Lái Thiêu, Bình Dương. Hiện yên nghỉ tại NTLS TPHCM. Quê quán: xã Mộ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Thứ bảy, 14 /8/ 2010, 08:57 vitính
Tôi đưa tin KQ nói về LS Nguyễn Văn Ơn sang mạng Quân sử VN, … đƣợc một bạn nhiệt tình giúp đỡ, sáng nay ghé NTLS Tp.HCM kiểm tra sổ bộ, xác nhận C . Thứ hai, 16/8/2010 13:24 yenthanh
Có tin vui cho các đàn anh Trỗi nói chung và K4 nói riêng đây. Hiện NTLS TP HCM có tên Liệt sỹ Nguyễn Văn Ơn. TT như sau: - LS Nguyễn Văn Ơn Sanh: 1951 QQ: Quảng Bình Ngày HS: 20/6/1975 Đơn vị: C4 - D1 - 117A Các đàn anh kiểm tra lại kỹ nhé, kẻo mừng hụt. 94
Thứ hai, 16/8/2010 13:35 vitính
… Chúng tôi cũng đang tìm thêm thông tin gia đình LS Ơn. Theo thông tin chúng tôi có thì bố LS Ơn là quân y quân khu 4, tên Nguyễn Thái Sơn, đã nghỉ hưu khoảng 20 năm trước, không biết có về quê không. Nếu các bác nào có thông tin tương đối trùng hợp, xin cho biết. …Vì ghi thông tin là Mộ (vì hay nghe Mộ Trạch)… Khổ cái! Huyện Bố Trạch lại không có xã Mộ Trạch Quang Trung
… gọi 1080 hỏi số của xã Mộ trạch nó bắt đợi nửa tiếng rồi bảo chú ơi máy cháu shut down rồi, hỏi sao sắt đao nó bảo cháy máy vì tìm Mộ trạch cho chú mà không có… Thứ ba, 17/8/2010 13:24 TranKienQuoc
SỬA 1 CHÚT: SÁNG NAY GỌI CHO ANH HẠNH Ở SỞ LĐ-TBXH QUẢNG BÌNH THI CÓ ĐIỀU CHỈNH: QQ NGUYỄN VĂN ƠN Ở XÃ MỸ TRẠCH (KHÔNG PHẢI MỘ TRẠCH), H. BỐ TRẠCH, QUẢNG BÌNH… Thứ ba, 17/8/2010 14:30 Quang Trung
Số điện thoại ubnd xã Mỹ Trạch: 052 3866 401 Ai nhiệt tình gọi về hỏi tý. Thứ ba, 17/8/ 2010 15:03 HữuThành.Nguyễn
Gọi rồi. Hỏi ông cán bộ Xã: "làm sao tìm thân nhân LS, ông bố tên Nguyễn Thái Sơn". Câu trả lời làm tôi sửng sốt: - Hôm nay bác ấy lên đây có việc, anh nói chuyện luôn này. Hỏi ra thì đúng là bố của Ơn, chính ủy một ĐV thuộc BTL Trường Sơn, nghỉ hưu đã lâu. 95
Hôm nay ông cụ không mang theo điện thoại nên tôi chỉ cho số của tôi để về nhà nhắn lại số. Rồi tôi sẽ báo để anh em thăm hỏi. Địa chỉ: ông Nguyễn Thái Sơn, thôn 3, xã Mỹ Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Qua sông Gianh hỏi đường về Xã (lối đi Ba Trại). Cách đường 1 3km. Quang Trung K4
… chắc là hương hồn cu Ơn đã phù hộ cho việc tìm kiếm của chúng ta có kết quả. Thứ tư, 18/8/2010 11:16 DS, JM K4
Vừa đi thăm mộ Ơn về. Đúng như chỉ dẫn. Năm anh em trên một chiếc xe: Dương Minh, Trung Liêm, Dũng Sô, Hà mèo và lái xe. Anh em thắp hương, "ăn" thuốc và uống rượu với Ơn. … Khi "cắn thuốc" cùng nhau DS nói "Ở đây không có thuốc rê, mày cắn tạm Con Mèo nhé!". Khi "nhậu" DS nói "Để nó uống trước 3 ly đi".
96
LS Nguyễn Văn Ơn đúng là bạn Trỗi K4
Chiều nay (19/08/2010) trời mƣa. Tôi và Sô vẫn hẹn nhau đến nhà TM vì nhà chị của Ơn gần đó. 3 ngƣời xuất phát đi, trời bỗng tạnh mƣa và sáng sủa trở lại. Theo địa chỉ thì tìm thấy ngay nhà thuốc Minh Thành. Vào hỏi chủ nhà, chúng tôi tự xƣng là bạn của Ơn từ hồi học phổ thông. Chị hỏi: "Có phải ở bên Trung Quốc không?". "Vâng!" chúng tôi trả lời. Thế là chắc chắn: đúng là Ơn của chúng mình rồi. Bởi vì lâu nay thông tin về Ơn có nhiều điểm không thống nhất mà mọi ngƣời biết về Ơn. Ngay cả hôm qua khi ra mộ có đủ tên, năm sinh, quê quán mà HM còn nghĩ là không phải.
Chị kể rằng từ khi rời trƣờng NVT, Ơn về quê tiếp tục học hết phổ thông. Trong thời gian ở quê, Ơn rất chăm chỉ và thạo việc (trƣờng mình tôi luyện có khác...), mọi ngƣời ở địa phƣơng rất quý. Sau khi thi tốt nghiệp lớp 10, không chờ kết quả Ơn đã xung phong đi bộ đội và đƣợc điều động về đặc công nƣớc HQ, tập luyện ở HP. Sau đó Ơn vào Nam chiến đấu. Trên đƣờng 97
hành quân, Ơn đi bộ về thăm nhà phải bơi qua ba con sông. Tháng 4 năm 1975, đơn vị của Ơn đánh vào kho xăng nhà bè và bị hy sinh gần hết. Ơn bị thƣơng sọ não, đƣợc đƣa về bệnh viện Cộng hòa và sau đó tử vong. Trên đƣờng vào giải phóng Sài Gòn, bố Ơn và Ơn đã từng gặp nhau. Sau giải phóng bố Ơn tìm kiếm đơn vị của Ơn nhƣng mọi ngƣời không nắm rõ. Sau đó vào lục hồ sơ các bệnh viện thì tìm thấy hồ sơ bệnh án nhập viện của Ơn, nhƣng không biết sau đó ra sao. Tìm tiếp ở các nghĩa trang thì thấy chôn cất ở nghĩa trang thành phố hiện nay (không biết thời VNCH tên là gì). Sau đó, đƣợc chuyển về nghĩa trang LS thành phố. Buổi tối, tôi gọi điện về cho bố của Ơn. Chú là Nguyễn Thái Sơn - chính ủy trung đoàn 596 bộ tƣ lệnh Trƣờng Sơn. Chú về hƣu năm 1978, cấp bậc trung tá. Hiện nay chú 84 tuổi, vừa mổ tim năm nay sức khỏe yếu, trí nhớ giảm sút. Những điều hỏi về Ơn, nhiều chỗ chú nhớ không chính xác. Gia đình của Ơn, có 5 anh chị em, ba trai, hai gái. Ơn là con trai thứ hai. Anh và chị của Ơn xúc động khi thấy bạn bè của em trai mình tìm đến. Chúng tôi đã thay mặt trƣờng và khóa mời anh, chị đến họp mặt khi có dịp. Anh và chị vui vẻ nhận lời.
Trung Liêm K4 98
Thứ năm, 26/8/ 2010
Hành trình về quê bạn (Trích) Đường về quê bạn vời vợi xa Nước non ngàn dặm - N ng xế tà Bóng mây qua núi, đường quê v ng Tiếng nhạn kêu chiều, sương tr ng sa
Đường vào xóm nhà Ơn mầu vàng
Một chuyến đi nặng đầy tình nghĩa, tôi cho là nhƣ vậy, và chắc các bạn cũng nhƣ tôi, tất cả đều có một tấm lòng vì tình nghĩa bạn bè. Chúng ta, những ngƣời còn sống không có lúc nào nguôi nỗi niềm thƣơng nhớ đến những ngƣời đã khuất. Sau rất nhiều năm kiếm tìm không ngơi nghỉ, cuối cùng công sức chung của mọi ngƣời đã đƣợc đền đáp, chúng ta đã tìm ra Nguyễn văn Ơn và gia đình bạn. Niềm vui chung này thật là to lớn, khó có thể nói đƣợc bằng lời. Ban liên lạc mới của khoá bốn miền Bắc tuy mới đƣợc anh em tín nhiệm bầu lên nhƣng đã có một nghĩa cử đẹp, đó là nhất trí tổ chức một chuyến hành hƣơng về thăm gia đình Ơn, thăm hỏi 99
sức khoẻ cô chú thân sinh ra bạn và nhân thể tìm kiếm thông tin thêm về ngƣời chiến sỹ đã quên mình hy sinh vì đất nƣớc ấy. Hôm qua, thay mặt các bạn chúng tôi đã thực hiện chuyến đi về miền Trung chỉ với một thông tin duy nhất về địa chỉ nơi cô chú sinh sống, dĩ nhiên là trong thời đại thông tin bùng nổ nhƣ hiện nay thì việc tìm kiếm cũng đỡ vất vả hơn nhiều nhƣng cũng có đôi lúc bị lạc, tuy nhiên là đã khắc phục đƣợc ngay. Chiều tối chúng tôi mới đến nơi, miền quê bờ Nam sông Gianh, mảnh đất đã một thời máu xƣơng chồng chất trong cuộc chiến Trịnh Nguyễn phân tranh nay đã ngập tràn màu xanh cây lá, mấy chục năm hoà bình đã mang lại sức sống mới cho mảnh đất này, tuy vậy, quê bạn vẫn đón chúng tôi trong mùi thơm rơm mới quen thuộc, làng xóm yên bình trong ánh sáng đèn pha ôtô đang chập chờn chiếu dọi, cũng đủ để chúng tôi nhận ra một bóng hình bé nhỏ già nua đang kiên nhẫn đứng chờ mấy thằng con từ Hà nội vào thăm. Bóng hình ngƣời cha già sao trông qua thân thƣơng và quen thuộc, vâng đúng vậy, từng nét trên khuôn mặt tuổi tác đều gợi lại dáng hình thằng bạn đã mất, ông đã đi bộ vài cây số ra tận
100
đầu đƣờng để chờ chúng tôi, ôi ngƣời cha già! thật là cảm động khi ông nói rằng nhìn chúng tôi ông tƣởng nhƣ đƣợc gặp lại con trai của mình vậy. Các bạn cứ yên tâm vì sau khi chào hỏi thì điều chúng tôi làm trƣớc tiên là bày hƣơng hoa lên bàn thờ thắp hƣơng cho Ơn. Thay mặt anh em chúng tôi đã trao cho cô chú món quà nhỏ của khoá gửi tặng…
TQtrung
Bên lề chuyến về Quảng Bình (Trích) …
Chú Thái Sơn đã ra đầu xóm đón chúng tôi rồi cùng lên xe
về nhà, thoạt nhìn là đã nhận ra ngay vì ông với Ơn khá giống nhau, bố con mà, đó là điều đƣơng nhiên, nhà cô chú nhƣ các bạn đã thấy trong ảnh khá khang trang với hai ngôi nhà khá đẹp, hai bên là vƣờn trồng tiêu. Đƣờng đi đổ bê tông sạch đẹp, có điện và nƣớc máy, tv tủ lạnh, nhà cửa rộng rãi thoải mái, chú có lƣơng hƣu nên cuộc sống khá thoải mái. Việc đầu tiên là chúng tôi xin phép bày biện lễ để thắp hƣơng cho linh hồn bạn đƣợc vui vẻ và cầu mong cho nó chóng siêu thoát, khôn thiêng ra thì có lẽ nó đã đầu thai kiếp khác rồi. "Hành trình về phƣơng Đông" nói vậy mà. 101
Buổi toạ đàm diễn ra ấm cúng, chúng ta coi bố mẹ bạn cũng nhƣ bố mẹ mình nên nói chuyện thật tự nhiên, sau khi hỏi thăm tình hình cụôc sống thì cũng yên tâm vì dù tuổi cao sức yếu, có bà con xóm giềng và các cháu hai bên nội ngoại chăm sóc thƣờng xuyên nên cũng tạm ổn, chú Sơn vừa qua đợt mổ tim, nay cũng đã hồi phục khá, trông hai ông bà rất hạnh phúc, tôi ca ngợi tài ba trong lĩnh vực tình trƣờng của chú Sơn, chắc giỏi lắm mới cƣới đƣợc cô mà hồi trẻ chắc cũng là hoa khôi của một vùng, hai ông bà cƣời vui nhƣ Tết.
Duy có điều do tuổi tác đã cao, trí nhớ giảm sút nên không còn nhớ đƣợc bao nhiêu, đƣợc biết là Ơn sau khi về quê đã biết tu tỉnh, giúp đỡ gia đình, có lẽ đã quay trở lại học từ lớp tám, năm bảy hai mới tốt nghiệp lớp mƣời, nhân có kỳ tuyển quân, lại đƣợc chính quyền địa phƣơng ƣu ái cho nhập ngũ thay cho ông 102
con cán bộ xã chạy vào công an nên bây giờ vẫn sống nhăn!!! Ơn nhập ngũ đƣợc phân về đặc công của tỉnh nhƣng đƣợc cử ra Hải phòng "tu nghiệp" đặc công nƣớc do là dân sông nƣớc, bơi lội tài giỏi, sau đó bổ sung vào chiến trƣờng, tham gia đánh nhiều trận lớn, sau một lần bị thƣơng nặng thì đƣợc cho đi tập huấn làm y tá của trung đoàn nhƣ ta đã thấy trên bằng Tổ quốc ghi công, có một điều rút ra là trƣờng hợp hy sinh của Ơn trên đƣờng tiến vào Sài gòn nhƣ thế nào vẫn còn là một điều bí ẩn, chỉ biết rằng dạo hành quân trên Trƣờng sơn, hai bố con đã gặp nhau, chú Sơn biết về đơn vị này nên sau giải phóng đã tìm đến hỏi và đã đi tìm mộ Ơn trên rất nhiều nghĩa trang, cuối cùng đã tìm đƣợc nhƣ ta đã biết. Điều chắc chắn chúng ta có thể biết đƣợc là bạn đã là một chiến sỹ đích thực, theo nhƣ đơn vị nói là luôn luôn muốn xung phong ra trận, nhiều lúc bị giữ lại đã hùng hục xin đi cho bằng đƣợc, ta gọi đó là lòng dũng cảm, phải không ạ! Trong nhà cô chú không treo gì nhiều ngoài một cái lịch có hình bác Văn to tƣớng, bằng sáu mƣơi năm tuổi Đảng, vài chục loại huân huy chƣơng cất kỹ trên nóc tủ, nếu không gạn hỏi và đƣợc
103
sự giúp sức của anh cháu bên ngoại thì chẳng làm đƣợc gì, may mắn chúng tôi cứ lôi bừa xuống và lục tìm mới ra đƣợc cái bằng TQGC và Huân chƣơng của Ơn, thật tiếc vì không có cái ảnh nào, cô bảo cháy nhà gần chục lần, có còn giữ đƣợc đâu. Anh cháu thì nói rằng cứ hỏi cô em tên Hà, chắc thế nào cũng còn giữ đƣợc cái ảnh chụp chung có Ơn trong đó, lấy ảnh đó đi chụp lại hoặc quét độ phân giải cao đƣa ra cho tôi xử lý Photoshop là mỹ mãn, có ảnh cao nhân đƣa vào thành tích của trƣờng "Thiếu sinh quân", hè hè, quá đẹp!!! Đêm đã khuy nên chúng tôi xin phép từ giã cô chú, cuộc chia tay thật cảm động, chúng tôi ôm lấy bà mẹ già mà nƣớc mắt không thể cầm lại đƣợc, thƣơng quá những bà mẹ, sự chịu đựng hy sinh mất mát của họ thật vô hạn. Ra về trong đêm tối mịt mùng, ánh đèn pha chiếu dọi vào những ngôi nhà thanh bình, sự yên vui của họ có đƣợc do sự hy sinh của những ngƣời lính nhƣ bạn, chúc hƣơng hồn mày thanh thản ở chốn vĩnh hằng. Hãy siêu thoát và mau chóng trở lại kiếp ngƣời phù du, nếu nhƣ mày thực sự muốn nhƣ vậy…
TQtrung Bùi Yến Trình K4 … tôi không thế quên được cái dáng người mảnh khảnh nhưng rắn rỏi của Ơn với khuôn mặt có cặp mắt một mí. Vẫn với cái giọng Quảng Bình đặc sệt như ngày ở trường, hắn khoe là lính đặc công nước đang tăng cường cho mặt trận. Ở mặt trận chẳng có nhiều thời gian tâm sự, 2 đứa chỉ biết chúc nhau may mắn không dính hòn tên mũi đạn rồi xa nhau… 104
tongiaquy (Tôn Gia Quý K4) Hồi trước còn nhỏ tuy học cùng với bạn nhưng ít để ý đến nhau. Nay về già thì thấy bạn Trần Văn Ơn thuộc về những người mà mình vô cùng yêu mến và kính trọng. Qx. (Hoàng Quang K4) HMK6 cứ hình dung ra một Văn Ơn thế này: Người dong dỏng cao (1m68), hơi lòng khòng, chân đi chữ bát. Mặt "hơi" vuông hình chữ nhật (cằm nhọn), răng mầu thuốc lào và đặc biệt là có cặp mắt híp. Giọng nói vẫn đặc sệt chất "bọ". Hồi ở Trỗi, Qx và Ơn cũng chơi thân với nhau. Mỗi kì nghỉ tết hay hè, do không có ai đón nên Ơn vẫn thường về nhà Qx nghỉ một vài ngày trước khi lên tầu về quê. Không ngờ hôm nay gặp lại thằng bạn trong cảng ngộ này. Nhớ mày lắm Ơn ạ. Qx.
105
Xem bài viết: 1. Ghé thăm chị Tào
- buidungso, 4/11/2010, Blog K4.
2. Về ảnh của Nguyễn văn Ơn - Quang Trung, 15/11/2010, Blog K4. 3. Thăm bố mẹ bạn Nguyễn văn Ơn - Quang Trung, 1/11/2010, Blog K4. 4. Di ảnh liệt sỹ Nguyễn văn Ơn - Quang Trung, 30/10/2010, Blog K4. 5. Thăm hỏi bọ mạ bạn LS Nguyễn Văn Ơn - HữuThành.Nguyễn, 12/10/2010, Blog K4. 6. Lụt ở quê L/s Ơn
- QuangTrung, 10/10/2010, Blog K4.
7. Đồng đội
- Thanh Minh, 28/08/2010, Blog K4.
8. Bên lề chuyến về Quảng Bình - Quang Trung, 28/08/2010, Blog K4. 9. Hành trình về quê bạn - Quang Trung, 27/08/2010, Blog K4. 10. Bạn Ơn, chỉ tìm ra khuôn:-) - HữuThành.Nguyễn, 26/08/2010, Blog K4. 11. LS Nguyễn Văn Ơn đúng là bạn Trỗi k4 - Trung Liêm, 20/08/2010, Blog K4. 12. Tin thêm về Nguyễn văn Ơn - Quang Trung, 19/08/2010, Blog K4. 13. Bạn ngã xuống trƣớc của ngõ Sài gòn - thơ Quang Trung, 19/08/2010, Blog K4. 14. Viếng mộ LS Nguyễn Văn Ơn K4 - hameok6, 18/08/2010, Blog K6. 106
15. Kính chuyển k4 Tp HCM - HữuThành.Nguyễn, 16/08/2010, Blog K4. 16. Tin mới về LS Nguyễn Văn Ơn - TranKienQuoc, 14/08/2010, Blog K4. 17. Nhắc lại cái "tin le l i" của Dũng Sô! - TranKienQuoc, 20/05/2010, Blog K4. 18. Tin le l i
- buidungso, 03/07/2009, Blog K4.
19. Le l i thông tin về LS Nguyễn Văn Ơn - TranKienQuoc, 03/07/2009, Blog K4. 20. Lời g p 5. tại “Liệt sĩ - bạn của chúng ta - giờ này anh ở đâu?” - Kiến Quốc, 22/5/2007, Blog K4. 21. Tin mới về Trần Văn Ơn - Hữu Thành, 20/11/2006, Blog K4. 22. Nhớ bạn Nguyễn Văn Ơn - Trương Đông Nhân K5, SRTKL 2, Tr.: 123-125.
107
Liệt sĩ Vũ Kiên Cƣờng
108
Học sinh khóa 5
Sinh: 1953 NR: Ngọc Hà, Ba Đình, Hà Nội. Sinh viên năm thứ 2 Đại học Thủy lợi. Nhập ngũ: 6/9/1971 Đơn vị: C15 E95 F325B. Hòm thư 702185 JA 01. Hy sinh: 28/7/1972 (18/6 Nhâm Tý) tại Thành cổ Quảng Trị. Mộ ở Nghĩa trang Liệt sĩ Ái Tử, huyện Triệu Phong, Quảng Trị. (Nhờ nhà ngoại cảm). Liên hệ gia đình: Mẹ Lê Thị Kim Liên, 48 ngõ 62 Ngọc Hà, Ba Đình, Hà Nội. (04.38435355).
109
Lá thƣ cuối cùng của bạn BBT SRTKL tập III
M
ẹ Lê Thị Kim Liên, mẹ liệt sĩ Vũ Kiên Cƣờng (kh a 5), trong một lần lục lại đống giấy tờ cũ đã tìm
thấy lá thƣ cuối cùng của Cƣờng viết về từ mặt trận Quảng Bình. Chỉ hơn một tháng sau, bạn hy sinh... Biết tin chúng ta đang biên tập sách Tập III, mẹ đồng ý tặng lại kỉ vật yêu dấu này. Xin đƣợc trân trọng giới thiệu!
Ngày 23 tháng 6 năm 1972
- Đông Quảng Bình
Bà, mẹ kính yêu và các em thương nhớ! Hôm nay là ngày nghỉ; (gọi là ngày nghỉ cũng không thật đúng bởi vì vẫn phải đi học chính trị) nhưng như vậy đối với bọn con là nhàn nhất đấy, mẹ ạ! Còn những ngày khác thì phải phơi ra giữa n ng, ba lô nặng trĩu, pháo đè rát vai, băng đèo lội suối... Nhân tiện ngày nghỉ, con viết thư gửi về cho mẹ, để thăm hỏi tình hình gia đình. Đây là lá thư thứ 2 con viết về cho mẹ từ miền đất Quảng Bình n ng cháy và căng thẳng. Con trong này rất khỏe, vui và vẫn tỉnh táo sẵn sàng chờ lệnh lên đường, mẹ ạ! Tuy có gầy đi, đen hơn nhưng cứng r n và dạn dày hơn nhiều. Bọn con trong này nghe tin giặc Mỹ b n phá Hà Nội rất sốt ruột. Không hiểu tình hình ra sao cả vì báo chí thì 110
không có, còn đài thì chỉ được nghe loáng thoáng. Các bạn con có thư và trong thư có nói, máy bay Mỹ b n rốc-két xuống quán bia đầu chợ Ngọc Hà. Con lo l m, không biết tin gia đình mình ra sao. Nhận được thư này mẹ viết ngay thư trả lời con nhé! Ch c bây giờ Hà Nội đang trong những ngày nóng nhất; người Hà Nội đang sẵn sàng đánh trả mọi âm mưu đen tối nhất, láo xược nhất của giặc Mỹ. Bọn con trong này lo cho Hà Nội l m. Không hiểu người Hà Nội hào hoa có chịu đựng nổi sự căng thẳng như bây giờ không? Nhà ta có đi sơ tán không mẹ và đi thì ở đâu? Con thương bà và các em quá. Lại một lần nữa chịu cực khổ, chịu cảnh phân li. Mẹ ạ, có những gian khổ người ta có thể chịu đựng được, có những thiếu thốn người ta có thể kh c phục được nhưng không gian khổ nào bằng những người từ chỗ sung sướng, đầy đủ, tiện nghi lại phải sống thiếu thốn, vất vả. Và không có gì đáng buồn bằng thiếu thốn tình cảm, mẹ nhỉ! Lại một lần nữa mẹ phải xa những đứa con yêu dấu của mình những đứa con mà mẹ đã hy sinh mọi cái để dạy dỗ, nuôi nấng. Chúng con biết mẹ sẽ lo l ng suy nghĩ nhiều. Con cũng vậy, nhiều khi vất vả và gian khổ quá, con cũng suy nghĩ, suy nghĩ về mọi cái. Những lúc nan giải quá, con thường hát một bài hát tự biên tự diễn mà có lẽ con nhớ, nhớ nó suốt đời, mẹ ạ! Không một bản xô-nát nào, không một nhạc phẩm nào để lại trong con nhiều âm thanh và cảm xúc b ng bài hát ấy. Có một đoạn trong bài hát ấy thế này, mẹ ạ: "Người lính đêm nay dạt đến chốn nao? Ôi đất trời bao la, chưa biết đâu là nhà, chưa biết đâu là bờ... chỉ thấy một màu xanh. Cho dẫu thời gian trôi, cho những đêm mờ sương, người đi mọi chiến trường. Gian khổ rồi sẽ qua, hạnh phúc xây nên 111
bởi đời... Hỡi chàng lính chiến kia ơi! ...". Đại khái là như vậy. Cứ mỗi khi mệt nhọc, vất vả quá, chúng con thường hát lên bài ca ấy là lại thấy nhẹ nhõm, thoải mái vô cùng. Thế đấy, sức mạnh của tinh thần vô biên nó giúp con vượt qua tất cả. Vượt qua những khó khăn về vật chất, vượt qua những thiếu thốn về tinh thần, để đi lên. Mẹ kính yêu, bọn con trong này lại phải chờ đợi, chưa được nhận lệnh lên đường. măc dù quân trang quân dụng đã phát đầy đủ. Không những thế, quần áo mặc đã bạc màu rồi mà chưa có động tĩnh gì. Bọn con sốt ruột l m. Các đơn vị bạn con đã lên đường, có đơn vị đã có mặt trong đó rồi và có đơn vị đã lập công. Điều đó khiến cho chúng con ngứa ngáy và mong chờ đến lựot mình ra đi. Bây giờ tinh thần mọi người rất phấn khởi và vui tươi. Mẹ kính yêu, nếu như đất nước thanh bình, những ngày này, con và chị Lan, các em sẽ tụ tập về quây quần bên mẹ. Nhưng nước nhà còn chiến tranh, con phải ra đi làm nhiệm vụ tất yếu của thế hệ trẻ, chị con cũng không về được, các em con phải sơ tán xa gia đình. Mỗi người một ngả, điều này làm bà và mẹ phải lo l ng, suy ngĩ. Nhưng mẹ ạ, chả có điều gì đáng buồn cả, con nhớ ba đã nói: "Tất cả mọi hạnh phúc đều phải trải qua chiến đấu và hy sinh mà hạnh phúc hơn cả là được chiến đấu và hy sinh cho cách mạng". Rồi sau đây, đất nước được thanh bình, gia đình ta lại đoàn tụ, lúc ấy mới sung sướng; bởi vì mỗi người trong gia đình đều được trải qua thử thách và đều tỏ ra cứng r n. Nhưng nếu lúc đó có thiếu đi mình con thì ba mẹ cũng đừng buồn, mẹ nhé! Cứ coi như con v ng nhà vậy và sự hy sinh của con, của... (mất)... cũng chỉ là nhỏ mọn so với 112
sự hy sinh của cả dân tộc. Con như ba mẹ đã cống hiến cho cách mạng, cho Tổ quốc giọt máu thân yêu của mình. Thôi, con tạm dừng bút ở đây. Chúc mẹ khỏe, công tác tốt, các em ngoan, bà vui! Mẹ nói với bà là càng xa bà, con lại càng thấy đời con đã g n chặt với người bà nội hiền hậu và chăm chút cho cháu từng li từng tí. Và mẹ nói với bà rằng, cháu nội của bà sẽ vượt qua mọi gian khỏ, mọi khó khăn và mọi cái chết để sau này được trở về bên bà nôi yêu thương của mình. Chúc bà sống lâu! TB: Địa chỉ của con đã đổi để sẵn sàng lên đường... Hòm thư con bây giờ là 702185 JA 01. Cháu của bà, con của mẹ, anh của các em - Cường "Chiều hè giữa rừng”
113
Những bạn khóa 5 hy sinh tại Quảng Trị 1972 Lê Hòa Bình K5
S
au khi khóa 5 thi tốt nghiệp, tháng 6 năm 1970, Vũ Kiên Cƣờng (Cƣờng “mèo”), Nguyễn Lâm (Lâm “tắc ly”) và tôi thi vào Đại học Thủy lợi. Tháng 10 năm đó,
chúng tôi đƣợc gọi vào trƣờng. Trƣờng chúng tôi ngay gần gò Đống Đa và lăng Hoàng Cao Khải. Không nhƣ đa số các bạn trong lớp đƣợc nhập ngũ, họ đƣợc tiếp tục sống gần nhau 5 - 6 năm nữa, còn nhóm chúng tôi thì “ăn cơm nhà, vác tù và… thủy lợi” (!). Những hôm không có tiết học là ba đứa lại rủ nhau ra quán ở trƣớc lăng ngồi “bệt” uống nƣớc chè chén, “bập” chung điếu thuốc và nhớ tới những thằng bạn cùng khóa đang học ở Đại học Kỹ thuật Quân sự trên Vĩnh Yên và Đại học Quân y trong Hà Đông. Cứ nhƣ thế, chúng tôi đã học xong năm thứ nhất. Sang năm 1971, chiến trƣờng miền Nam ngày càng ác liệt. Hƣởng ứng lệnh Tổng động viên, ba đứa chúng tôi cũng “xếp bút nghiên” lên đƣờng tòng quân. Ngày 6 tháng 9 năm 1971, Cƣờng và tôi nhập ngũ vào trung đoàn 95, sƣ đoàn 325 do chú Lê Kích làm Sƣ đoàn trƣởng và chú Nguyễn Công Trang làm Chính ủy. Chúng tôi đƣợc đƣa lên huấn luyện ở Việt Yên, Hà Bắc. Vì đã đƣợc huấn luyện từ khi còn học ở Trƣờng Trỗi, nên chúng tôi nhanh chóng làm quen với cuộc sống đơn vị. Sau 8 tháng huấn luyện, tháng 3 năm 1972, đại đội C15, trung đoàn 95, sƣ 325 của chúng tôi lên đƣờng hành quân vào Nam. 114
Sƣ đoàn 325 của chúng tôi đa số là học sinh, sinh viên, nên sƣ đoàn rất trẻ, khỏe và vô tƣ. Tháng 6 năm 1972, sƣ 325 vào đến Quảng Trị và bắt đầu chiến đấu. Anh em trong sinh hoạt rất vui nhộn, nhƣng trong chiến đấu rất gan dạ, hăng hái và thông minh. Đến ngày 1 tháng 7 năm 1972, đơn vị chúng tôi vƣợt qua sông Thạch Hãn vào đƣợc Thành cổ. Đúng là chiến tranh thì ác liệt thật, nhƣng cứ chiều ngớt tiếng súng là tôi và Cƣờng lại gặp nhau, rít chung điếu thuốc rê và “bốc phét”. Chúng tôi hay kể cho nhau nghe về cha mẹ, gia đình, về Hà Nội, về những kỷ niệm với các bạn cùng lứa hồi ở Đại Từ, Quế Lâm, Hƣng Hóa và về cả bọn con gái Thủ đô. Cƣờng “mèo” kém tôi một tuổi, nhƣng trông rất trẻ, mặt “măng tơ”, tính tình hiền lành nhƣng pha chút nghịch ngợm. Cƣờng gọi tôi là “anh Bình” và tôi cứ đùa: “Hết giặc rồi, tao sẽ gả em gái cho mày”. Còn hai bạn Trịnh Thúc Doanh (Doanh “mán”) và Nguyễn Lâm do không cùng trung đoàn nên ít gặp nhau. Hồi tháng 6 năm 1972, tôi có gặp Doanh một lần ở Cam Lộ (Doanh ở đơn vị vệ binh bảo vệ sƣ bộ sƣ đoàn 325). Riêng với Nguyễn Lâm tôi còn gặp đƣợc hai lần khi đi lấy gạo ở Ái Tử. Lần gặp nào cũng chỉ vội vàng hỏi thăm nhau dăm ba câu rồi chia tay. Thời gian ở chiến trƣờng mới hiếm làm sao! “Mùa hè đỏ lửa 1972”, các đơn vị chủ lực của ta kiên quyết chiến đấu giữ bằng đƣợc Thành cổ, còn địch thì không tiếc bom đạn và sức lính, tìm mọi cách giành lại thị xã đã mất. Từng tấc đất bị giành giật và đổi bằng máu. Và bọn giặc cứ nghe đến tên sƣ đoàn sinh viên 325 hay sƣ Lê Kích là khiếp sợ! 115
Chiều 27 tháng 7, tại chốt cửa Tây - Nam của Thành cổ, Cƣờng và đồng đội đã anh dũng chiến đấu, chặn đứng nhiều đợt tấn công của quân địch định vƣợt cổng vào thành. Không may, Cƣờng đã bị thƣơng vào đầu và bụng. Anh em cõng Cƣờng vào trạm quân y tiền phƣơng cấp cứu, trạm đặt ngay trong Dinh tỉnh trƣởng. Do mất nhiều máu và vết thƣơng quá nặng, Vũ Kiên Cƣờng của chúng ta đã mất vào rạng sáng 28 tháng 7 năm 1972, khi vừa tròn 19 tuổi. Xác Cƣờng đƣợc liệm bằng tăng bạt và đƣa tạm vào hầm chứa xác tử sĩ trong Dinh. Rạng sáng hôm đó, đơn vị đƣợc lệnh bí mật rút quân. Vì phải đi quá gấp để bảo toàn binh lực, đơn vị đành phải để lại các tử sĩ và thƣơng binh nặng. Ở chiến trƣờng thì lấy đâu ra hƣơng nhang để thắp cho đồng đội, tôi chỉ kịp chạy vội ra cửa hầm tử sĩ và thầm khấn: “Mày tạm ở lại trong này, tụi tao còn quay lại. Tụi tao sẽ trả thù cho mày, Cường ạ!” Và đơn vị đã vƣợt sông Thạch Hãn sang Nhan Biều. Sáng đó, địch vào đƣợc thành, nghe nói chúng đã hèn hạ thu gom xác tử sĩ và thƣơng binh nặng của ta đem đi đốt để tẩy độc, sau đó bỏ xuống sông Thạch Hãn. Ngày ấy lại đang là mùa nƣớc… Ít lâu sau, tôi nghe tin Nguyễn Lâm hy sinh ngày 5 tháng 9 và Trịnh Thúc Doanh hy sinh ngày 16 tháng 9 năm 1972 cũng tại mặt trận Quảng Trị. … Hè 1972 đúng là “mùa hè đỏ lửa” và những sinh viên Hà Nội, những học sinh Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi đã hy sinh anh dũng cho Tổ quốc nhƣ thế đó!
116
Vũ Kiên Nghị K9 … Các anh ạ, anh Cƣờng nhà em đã mất nhƣng những kỉ niệm của anh thì sống mãi trong các anh lính Trỗi. Chúng em có trách nhiệm duy trì sự liên lạc này.
Trích „Thông tin mới nhất về mộ phần LS Vũ Kiên Cường” Hoàng Chương K5 Nếu thật sự tìm được mộ của Cường thì quá tốt, nhưng trong thâm tâm tôi không tin các nhà ngoại cảm cho lắm. Dù sao cũng mừng cho gia đình Cường và cho cả K5 ta nữa. Thế là chúng ta lại có thêm mộ phần của các bạn đã hy sinh. Tôi đã từng được ăn một bữa cơm ở nhà Cường ở phố Đội Cấn. Bữa cơm đạm bạc thời chiến tranh nhưng mẹ Cường nấu rât ngon. 40 năm qua rồi nhưng tôi vẫn còn nhớ bữa cơm ấy. Nguyễn Quang Vinh K5 Đề nghị Quốc thông báo xớm thời gian và địa điểm gặp mặt Minh rất muốn dự và muốn biết chính xác địa chỉ mộ của Cường. Mình mới chỉ một lần tới nhà Cường thắp hương nhân ngày 27/7, lúc nào nghĩ đến bạn Cường mèo mình vẫn thấy thương bạn vì chưa tìm thấy mộ…
Xem bài viết: 1. Tin thêm về LS Vũ Kiên Cƣờng - KienQuoc, 18/04/2011, Blog K5. 2. Lá thƣ cuối cùng của bạn - bantroik5sg, 4/8/2010, Blog K5. 3. Thông tin mới nhất về mộ phần LS Vũ Kiên Cƣờng - Vũ Kiên Nghị K9, 4/8/2010, Blog K5. 4. LS Vũ Kiên Cƣờng an táng ở NTLS huyện Triệu Phong, Quảng Trị - TKQ, 31/7/2010, Blog K5. 5. Thông tin mới về LS Vũ Kiên Cƣờng - bantroik5sg, 30/7/2010, Blog K5. 6. Những bạn kh a 5 hy sinh tại Quảng Trị 1972 - Lê Hòa Bình K5, SRTKL 1. 7. Quảng Trị và những đồng đội còn nằm lại - Lê Chí Hòa K5, SRTKL2, 204-208. 117
Liệt sĩ Trịnh Thúc Doanh
118
Học sinh khóa 5
Sinh: 30/1/1953 Sinh viên năm thứ 2 (khóa 15) Cơ khí Bách khoa. Nhập ngũ 1971 Đơn vị: E101 F325B (vệ binh bảo vệ sư bộ sư đoàn 325). Hy sinh: 16/9/1972 (9/8 Nhâm Tý) tại Thành cổ Quảng Trị. Mộ tại Nghĩa trang Liệt sĩ Đình Công, Thanh Trì, Hà Nội (lấy n m đất từ bờ sông Thạch Hãn). Liên hệ gia đình: Mẹ Lê Mai, Khu tập thể Viện 108, 1 Trần Thánh Tông, Hà Nội.
119
Trịnh Thúc Doanh bạn tôi TichTuongNhuLe K5
H
ôm nay 16/9/2010. Ngày này cách nay 38 năm, sau 81 ngày đêm kiên cƣờng chốt giữ thị xã Quảng Trị, chính thức thì ngƣời lính cuối cùng cũng đã vƣợt sông Thạch
Hãn rút qua bờ bắc (đúng ra là bờ tây) trong ngày này. Chắc hẳn còn không ít anh em, hoặc ở chốt độc lập không biết lệnh rút, hoặc lạc đồng đội, hoặc bị thƣơng không thể vƣợt sông đã ở lại bờ nam sau ngày 16/9/1972. Những anh em đó, cho đến bây giờ, vẫn không ai biết gì về họ... Trịnh Thúc Doanh học cùng tôi suốt 4 năm kể từ lớp bảy cho đến hết lớp 10. Hết lớp 10, Doanh thi vào Đại Học Bách Khoa còn tôi thì vào Đại Học Tổng Hợp. Chúng tôi thân nhau từ năm học lớp 9, sơ tán ở Hƣng Hóa, Tam Nông, Phú Thọ. Những buổi chiều hay ngày Chủ Nhật hai đứa thƣờng dạo chơi ở thị trấn Hƣng Hóa, một phố huyện miền trung du đất đỏ với con đƣờng rải đá khấp khểnh. Thể nào cũng rẽ qua cửa hàng hợp tác xã mua bán, nhìn ngó một tí thôi chứ có gì mà mua. Cái mà chúng tôi cần thì từ cái khăn mùi xoa cũng chẳng có. Đi lòng vòng một hồi chán rồi có khi rẽ qua đƣờng đi Thanh Sơn, một con đƣờng đất đỏ ngoằn nghoèo, chạy ven một cái đầm toàn những cỏ lác rồi chạy về phía núi. Cũng có khi chúng tôi đi về phía Trung Hà, qua đầm Dị Nậu, thôn Dị Nậu, mỏi chân thì quay về bờ sông. 120
Đoạn sông này cũng là một phần của sông Hồng, chƣa gặp ngã ba với sông Đà. Cuối cùng thì xà vào một cái quán nƣớc ven sông. Đây là một bến thuyền nhỏ, thỉnh thoảng có thuyền chở than đến, rồi thuyền chở chuối, mít từ đây về xuôi. Hai thằng gọi 2 bát nƣớc chè xanh, rồi trứng vịt luộc và chuối. Sao mà ăn khỏe thế. Chục trứng luộc chấm muối ớt chỉ một loáng là đánh bay, lại đánh tiếp chuối, chuối tiêu, chuối tây, chuối hột hay chuối lá. Tối chúng tôi thƣờng ra sân bóng, nằm trên cỏ ngắm trăng sao và nói chuyện linh tinh, đủ các thứ chuyện chỉ trừ chuyện gái. Không phải kiêng đâu mà vì không biết gì. Hết lớp 10 chúng tôi vẫn chƣa lớn mà. Năm 1970, Doanh vào Bách Khoa còn tôi vào Tổng Hợp. Tôi hay đến nhà Doanh. Nhà nó ở khu tập thể bệnh viện 108 quân đội. Bố Doanh là bác sỹ. Ông là bác sỹ đầu tiên đƣợc đào tạo dƣới chính thể của Cụ Hồ. Mẹ Doanh cũng đang tại ngũ. Nhà tập thể cấp bốn chỉ có một phòng. Đàng sau nhà là khu bếp tập thể, mỗi nhà một ô. Muốn xuống bếp thì phải trèo qua cửa sổ... Không ngờ rằng hai thằng tôi cùng nhập ngũ một ngày, 6/9/1971. Thế là từ đó bặt tin nhau. Về sau này khi ra quân rồi tôi mới biết Doanh và tôi cũng ở cùng sƣ đoàn 325. Doanh ở trung đoàn 95 và lĩnh đủ 81 ngày đêm ở thị xã Quảng Trị. 121
Đúng ngày 16/9/72, đƣợc lệnh rút qua sông. Doanh hy sinh vì bị pháo lúc vƣợt qua sông... Doanh nhập ngũ 6/9/71 vào trung đoàn 95. Sau 3 tháng huấn luyện ở Việt Yên, Hà Bắc. Cuối tháng 12 năm đó, toàn sƣ đoàn vào trấn giữ đèo Ngang đề phòng địch đổ bộ vào khu vực này khi 308 và 304 đánh Quảng Trị. Tháng 6/72, sƣ 325 bắt đầu vào Quảng Trị. Đây cũng là lúc địch phản kích để tái chiếm Quảng Trị. Trung đoàn 95 lúc đó ở Cam Lộ, đóng quân tại dãy Nghĩa Hy. Vị trí này rất thuận tiện đƣờng đi lối lại. Nếu tiến lên thì có thể xuống Đông Hà rồi đi về Cửa Việt. Có thể tiến về phía nam thì đi qua gần căn cứ Phƣợng Hoàng đỏ ối rồi vào Ái Tử, Nhan Biều và vƣợt sông sang thành. Chếch xuống phía tây thi vào động Ông Do, Đá Đứng, Nhƣ Lệ Tích Tƣờng. Đƣờng rút cũng rất thuận lợi. Có thể rút thẳng qua Cam Lộ, Bãi Hà và cũng có thể rút qua Đầu Mầu, Tân Lâm để đi Tà Cơn, Khe Sanh. Ngày 1/7/72, hai tiểu đoàn của 95 vƣợt sông Thạch Hãn. D5 chốt giữ bìa đông nam của thành cổ, Ty Cảnh Sát, khu Đông Mỹ, chùa Bà Năm, kho rốc két. D4 chốt giữ bìa tây nam thành cổ và khu vực Dinh Tỉnh Trƣởng cho đến khu Mỹ Tây. Trong thành là D3 của tỉnh đội Quảng Trị (gọi là quân của tỉnh Quảng Trị nhƣng toàn lính bắc), sau đó thì D1 của trung đoàn 48 cũng rút về thành. D7/E18/F325 thì chốt giữ khu vực nhà Tin Lành,
122
Đệ Ngũ. Trung đoàn 101 chốt giữ phía bắc sông Vĩnh Định kể từ Chợ Sãi. Thực ra thì mức độ ác liệt ở mọi nơi của thị xã cũng tƣơng đối nhƣ nhau. Nhƣng khi nói đến Quảng Trị 72 thì nhiều ngƣời nghĩ chỉ có Thành Cổ. Có một đia danh khác là Cổ Thành. Đây là một làng nằm phía bắc Thành Cổ. Theo tôi, chữ Thành Cổ bây giờ có nghĩa tƣợng trƣng cho cả khu vực thị xã Quảng Trị trong mùa hè đỏ lửa 1972. Có thể rằng một vài điểm khác còn nóng hơn trong khu vực Thành cổ. Chẳng hạn nhƣ bến vƣợt ở Dinh Tỉnh Trƣởng hay bến vƣợt ở Trƣờng Phƣớc, rồi Tri Bƣu, khu Mỹ Đông, ty Cảnh Sát, Khu Mỹ Tây, Dinh Tỉnh Trƣởng, Chợ Sãi, An Mô... Nhà Doanh có 5 anh em. Lúc đó bố, mẹ Doanh và 2 anh trai của Doanh cũng đang tại ngũ. Do đó trƣớc khi “đi bê”, Doanh đƣợc cho về thăm gia đình. Khi vào đến Quảng Trị thì Doanh vào sau mọi ngƣời. Lúc đầu về đến trung đoàn thì trung đoàn 95 đã ở phía nam Thạch Hãn. Doanh đƣợc đƣa về C23, vệ binh trung đoàn. Sau đó, Doanh xuống đơn vị chiến đấu từ lúc nào thì các bạn tôi đều không nhớ. Chỉ nhớ là Doanh vào sau khoảng một tháng. Tính từ 1/7/72 đến 16/9/72 là thời gian trung đoàn 95 tham gia chốt giữ thị Xã Quảng Trị - 78 ngày. Nếu Doanh vào sau một tháng thì thời gian ở đây là 48 ngày. Nhƣng số ngày nào có nghĩa gì. Lúc vƣợt sông sang thành, rất nhiều anh em đã hy 123
sinh. Chỉ là “không” ngày. Vậy thì 0 ngày hay 81 ngày có gì là quan trọng đâu! Quan trọng là, từng giờ, từng phút, từng giây biết bao AE đã đổ máu xƣơng trên cái mảnh đất “Thị Xã Quảng Trị”, một vết thƣơng không bao giờ có thể lành đƣợc... Dƣới đây là sơ đồ tác chiến các ngày 7, 8, 9 tháng 9/1972, theo tài liệu của "Ban Liên Lạc Truyền Thống - Ban Chiến Đấu Bảo Vệ Thành Cổ Quảng Trị" - 12/2004.
Diễn biến chiến đấu ở thị xã Quảng Trị ngày 7, 8, 9/9/1972.
124
Chuyện kể lại của Toàn, đồng đội Doanh - Thằng Doanh vào sau trong đợt đổi quân và đƣợc phân về cùng hầm với tôi và thằng Phú. Doanh hiền lành, trẻ măng. Tôi còn nhớ, mặt nó nhiều trứng cá. Nó bảo bố nó làm ở bệnh viện 108... có quen trung đoàn trƣởng Lý Long Quân nên xin phép cho nó về nhà trƣớc khi đi chiến trƣờng. Thằng này nó hiền lắm. Bọn mày biết đấy. Lúc đó bọn tao suốt ngày ngồi trong hầm, không thể ló mặt lên đƣợc. Hết B52 rồi lại đến máy bay ném bom. Lại còn máy bay gì hình nhƣ là L19, tao cũng chả biết, luôn tục xăm soi bắn đại liên suốt ngày. - Chắc nó bắn 20 ly đấy.
Chuyện kể lại của Toàn, đồng đội Doanh - Bọn mày biết không? Bọn tao mót đái thì cứ bụm tay mà đái vào rồi hất ra ngoài. Trời thì cứ mƣa suốt. Hầm thì nƣớc vào, dƣới chân bùn nhão nhoét trộn với máu. Tao nghĩ chẳng khác gì bọn Pháp ở Điện Biên hay bọn Mỹ ở Khe Sanh. Kinh thật! bây giờ nghĩ vẫn kinh. - Quá kinh! Mà sống đƣợc là không sao hết. - Lúc bọn tao ở sát thành, thằng Doanh mới vào. Nó còn hộp sữa đặc mẹ nó nhét vào ba lô trƣớc khi đi. Đói quá, bọn tao lấy thông nòng xọc hai cái lỗ, thế là thay nhau tu. Rồi khát nƣớc. Mày biết không? Tu hết hai bi đông nƣớc, toàn nƣớc sông, sát trùng sát chiếc gì cũng chẳng có. Cả ba thằng bị tháo tỏng. Thằng Phú bĩnh cả ra quần thành ra trong hầm vừa khai vừa thối, ẩm thấp tanh tƣởi. Nghĩ lại, ghê quá! 125
- Thế lúc rút qua sông nhƣ thế nào? - Cứ từ từ… cho khoai nó nhừ! Đến chiều 15 bọn nó đã bao vây ba mặt. Bọn tao chỉ còn mấy cái hầm. Ban ngày không thể liên lạc đƣợc với nhau. Cứ hầm nào có địch thì hầm đó chống trả, thỉnh thoảng mới hỗ trợ đƣợc cho nhau. Mãi tối khuya mới có thằng truyền đạt chạy đến bảo rút qua sông. - May mà ra lệnh rút nếu không bây giờ bọn tao đâu nhìn thấy mày. Chuyện kể lại của Huy, đồng đội Doanh - Đêm 15/9 chúng tao đƣợc lệnh rút. Tao chỉ cầm theo khẩu súng thôi. Mà thằng nào cũng thế. Lúc đó ba bề bốn bên đều là địch rồi, chỉ còn mỗi lối xuống sông thôi. Nếu không cho rút thì chết hết cả… Toán nào toán nấy, nháo nhào bổ xuống sông. Tao nhanh chân chạy đầu tiên, lao ngay xuống nƣớc, mấy thằng nhóm tao cũng bơi bám theo. Súng tao khoác vào vai, thế là tao bơi rất nhanh. Bọn thằng Doanh và mấy thằng nữa cùng chốt của nó chạy sau tao cũng lao xuống nƣớc. Một quả pháo nổ sáng lòe ngay phía sau tao. Tao thấy hơi tức ngực nhƣng có vẻ nhƣ không bị thƣơng. Nhóm thằng Doanh, thằng Toàn, thằng Phú chạy sau tao không biết có việc gì không? Bọn tao sang đến bờ mới ngồi thở, sờ khắp ngƣời thấy không bị thƣơng ở đâu. Chờ chúng nó một lúc thì chỉ thấy thằng Toàn mới thằng Phú bơi sang. Chúng nó bảo thấy quả pháo trúng chỗ thằng Doanh. - Thế ông có biết chỗ vƣợt sông là chỗ nào không? - Chỉ biết bên này là Nhan Biều thôi. 126
- Thế phía trên hay phía dƣới cầu Quảng Trị? - Phía dƣới chứ! - Thế có gần cầu không? - Chắc là gần. - Đƣợc rồi. - Ừ! Lúc đó làng mạc, phố phƣờng, chỗ nào chẳng nhƣ chỗ nào tơi tả hết biết đâu là Nhan biều hay hay Nhan biếc gì, là khi bọn tao chốt thì thấy bảo bên kia là Nhan Biều. Thế thôi! Chuyện kể tiếp của Toàn, đồng đội Doanh - Thằng Doanh chạy trƣớc, rồi đến tao, thằng Phú chạy sau cùng. Lúc tao đến sát bờ sông thì đã thấy thằng Doanh nhảy xuống rồi. Nó đang bơi thì lòe một cái tối tăm mặt mũi. Quả pháo trúng ngay chỗ thằng Doanh. Bọn tao thì lăn ngay xuống, đ… biết là hố hay rãnh hay gì nữa. Lúc ngớt pháo tao vẫn còn lóa, phải một lúc mới nhìn đƣợc. Hai thằng tao mới gọi thằng Doanh, mà cũng chỉ dám gọi khẽ. Bọn nó ở ngay xung quanh mà. Bọn tao lội xuống rồi bơi, quờ quạng khắp mà không thấy. - Ừ! Thôi, mày đừng có day dứt mãi thế! Trong cảnh ấy thì làm sao mà tìm đƣợc. Chắc nó trúng đạn, lại mang súng thì chìm xuống rồi. - Mãi rồi bọn tao đành bơi qua sông. Thật may khi qua sông không bị quả đạn pháo nào. Sang đến nơi mới thấy pháo sáng bọn nó bắn ăn mừng, rực trời. Cả ngày hôm sau tôi nằm trong hầm ngập nƣớc ở Nhan Biều ngủ li bì. Có lẽ Doanh trúng đạn rồi bị cuốn trôi theo dòng. Khi ấy đang là mùa nƣớc. 127
-… - Mày biết không? Tao vẫn bị ám ảnh cảnh thằng Doanh bị trúng pháo. Tiếng chúng tao gọi nó rất nhỏ thôi mà sao lúc nào cũng văng vẳng bên tai tao: “Doanh ơi...! Doanh ơi...!” Chuyện Thúc Doanh - bạn tôi, chẳng bao giờ hết, một vết thương đau không bao giờ thôi nhức nhối.
Vị trí vượt sông Thạch Hãn của Thúc Doanh và đồng đội sau khi điều chỉnh theo góp ý của TraLienTay
Tích Tường Như Lệ là Lê Minh K5, bạn hiện là Giảng viên Đại học GTVT 128
Xem bài viết: 1. LS trƣờng Trỗi ở QUẢNG TRỊ 1972 - video của hameok6, 24/06/2011, Blog K6. 2. Trịnh Thúc Doanh bạn tôi - TichTuongNhuLe, 16/09/2010, Trang Dựng nước - Giữ nước > Máu và Hoa > Một thời máu và hoa > Những chuyện không thể quên - Cười ra nước mắt (Phần 2) 3. Viếng thăm bạn Trịnh Thúc Doanh - thơ của Hoàng Văn Chương K5, 4/7/2010, Blog K5. 4. Giỗ bạn Trịnh Thúc Doanh - Kiến Quốc, 27/9/2009, Blog K5. 5. Những điều lạ kì hôm nay mới biết - Kiến Quốc, 15/9/2009, Blog K5. 6. Kỷ vật của bạn - Kiến Quốc, 16/9/2009, Blog K5. 7. Chàng trai Hà Nội nằm lại Thành cổ vào ngày cuối... - Kiến Quốc, 14/9/2009, Báo Khoa học Đời Sống Online Bee.Net.Vn. 8. Chuyện bất ngờ thú vị - dachoak7, 19/8/2009, Blog K8 9. Chuỵên của những ngƣời lính Thành cổ - Kiến Quốc, 12/9/2008, Blog "Trang văn nghệ trường VHQĐ Nguyễn Văn Trỗi". 10.Lần đầu dự đám giỗ LS Trịnh Thúc Doanh - Kiến Quốc, 7/9/2008, Blog K4. 11. Những bạn kh a 5 hy sinh tại Quảng Trị 1972 - Lê Hòa Bình k5, SRTKL 1, Tr.: 12. Quảng Trị và những đồng đội còn nằm lại - Lê Chí Hòa K5, SRTKL 2, Tr.: 204-208.
129
Viếng thăm bạn Trịnh Thúc Doanh Kính viếng hương hồn Trịnh Thúc Doanh, bạn cùng tiểu đội với tôi suốt 4 năm trường Trỗi! Hoàng Văn Chương K5
Tôi đến thăm bạn ở Định Công Nghĩa trang nho nhỏ giữa phố đông Ve kêu ra rả trƣa mùa hạ Mùa thi sắp đến, bạn nhớ không? Xa nhau vậy đã bốn chục năm Vẫn nhớ những ngày đắp chăn chung Hơi ấm trao nhau đêm đông lạnh Khi tuyết đầy trời đất Quế Lâm Thúc Doanh ngƣời bạn bao mến thân Vui vẻ, hiền lành lại rất chăm Cùng nhau chia sẻ bao công việc Bạn cùng tiều đội bấy nhiêu năm[1] Hƣng Hóa chia tay, hẹn gặp lại Thế mà vĩnh viễn phải xa nhau Xin thắp nén nhang tìm gặp bạn Bày tỏ tình thƣơng nhớ bấy lâu!
Hà Nội, ngày 1/7/2010
[1] Cùng tiểu đội còn có Văn Tiến Huấn, Nguyễn Tuấn Kiệt, Nguyễn Khánh Hòa, Hồ Sơn Hải, Hoàng Minh Sơn, Trần Phong... 130
7/9/2008, anh em K5 ở HN dự đám giỗ LS Doanh tại nhà riêng ở khu tập thể Viện 108. 131
Cuốn sổ bài hát của LS Trịnh Thúc Doanh 132
NT Quynhon (Nhất Trung K5) Tư liệu rất quý, đọc xong càng nhớ thằng bạn Doanh "mán". Hồi học Trỗi Doanh hiền lành ai cũng bắt nạt được. KQ cho gửi lời chúc sức khỏe đến gđ TTD, có dịp ra HN sẽ đến thắp hương cho bạn.
Trần Kiến Quốc K5 … mẹ Mai lấy về bọc đất đúng ở bờ nam sông Thạch Hãn nơi con hy sinh, coi đó là hài cốt rồi làm thủ tục đƣa vào nghĩa trang liệt sĩ phƣờng Đình Công, Thanh Trì, Hà Nội. Hôm đón Doanh về, mẹ lấy cái áo bông Doanh mặc hồi thiếu sinh quân hoá cho bạn. Tuấn Kiệt rân rấn nƣớc mắt vừa đốt vừa kể: “Thời ở trƣờng, hai thằng đã mặc chung cái áo này…”.
Trích „Chàng trai Hà Nội nằm lại Thành cổ vào ngày cuối...”
133
Liệt sĩ Võ Dũng
134
Học sinh khóa 5
Sinh: 1951 tại Rạch Giá, Khu 9. Đơn vị: trung đội 2 trinh sát (thuộc tiểu đoàn 3) Mặt trận T3 thuộc Khu 9. Hy sinh: 21/4/1972 (8/3 Nhâm Tý) tại Mặt trận Rạch Giá, Khu 9 (kênh Tây Ký, xã Vĩnh Lộc, huyện Hồng Dân, tỉnh Rạch Giá - nay Bạc Liêu). Mộ tại Nghĩa trang gia đình - Vị Thanh, Vĩnh Long, ngã 5 Sóc Trăng (?). Liên hệ gia đình: Em gái Võ Hiếu Dân (0903.919206).
135
Bạn tôi, liệt sĩ Võ Dũng Trần Kiến Quốc K5
T
rong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc và bảo vệ Tổ quốc, Trƣờng Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi (thuộc Tổng cục Chính trị, QĐNDVN) có 2 thầy giáo và
29 học sinh đã anh dũng hy sinh. Khi sƣu tầm tƣ liệu về nhà trƣờng, tôi gặp đƣợc Võ Hiếu Dân (em gái liệt sỹ, con cố Thủ tƣớng Võ Văn Kiệt) và ghi đƣợc nhiều điều về bạn mà khi cùng học chƣa biết. Võ Dũng tên thật là Phan Chí Dũng, sinh 1951 tại Rạch Giá. Cuối những năm 50 thế kỷ trƣớc, vì chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp dã man, cơ quan Trung ƣơng cục phải tạm lánh sang Phnômpênh. Bác Sáu Dân đƣa Dũng và Dân theo cùng. Năm 1960, khi vừa 9 tuổi, từ Cămpuchia, Dũng đƣợc tổ chức đƣa ra Bắc. Ba, má và hai em vẫn ở lại trong Nam (So với chúng bạn thì đây cũng là một thiệt thòi). Ra Bắc, Dũng đƣợc gửi vào học tại các trƣờng Học sinh miền Nam số 19, 21 ở Cầu Rào (Hải Phòng). Đến năm 1963, Bộ Giáo dục có chủ trƣơng cho những học sinh miền Nam có ba mẹ hoặc ngƣời thân ở miền Bắc về sống với gia đình, tạo điều kiện cho học sinh đƣợc chăm sóc. Dũng đƣợc cô Bảy Huệ (vợ bác Nguyễn Văn Linh) nhận về nuôi. Hiếu Dân nhớ lại: “Trong gia đình, anh Dũng luôn là người anh hết mực thương yêu và nhường nhịn các em. Em cùng Hòa, Bình con cô 136
thường được nghe anh Dũng kể những chuyện trinh thám đầy bí hiểm và hấp dẫn. Anh vừa kể, vừa hóa thân thành các hiệp sĩ oai hùng, luôn đấu tranh bảo vệ chính nghĩa. Đến năm lớp 4, anh vào học ở trường Nguyễn Trãi, Hà Nội”. Tháng 5 năm 1965, Dũng nhập trƣờng Thiếu sinh quân tại Hiệp Hòa, Hà Bắc. Những năm tháng ở trƣờng, Dũng tỏ ra rất hiếu động và nghịch ngợm, hay cầm đầu các cuộc vui chơi pha chút mạo hiểm. Cuối năm 1966, Trung ƣơng cục cử dì Tƣ – liên lạc viên – về Sài Gòn đón má và hai em lên chiến khu thăm bác Sáu. Để đảm bảo bí mật, dì Tƣ chọn đi chuyến tầu Thuận Phong dành chở vợ con sĩ quan, binh lính ngụy lên thăm chồng ở đồn Dầu Tiếng. Thời gian này đang diễn ra trận càn lớn. Đúng ngày 17 tháng 12, địch có lệnh thiết quân luật, cấm mọi tàu bè chạy trên tuyến đƣờng sông này.
Má Kim Anh
Thật không may, ông chủ tàu Thuận Phong đêm ấy say rƣợu, không hay biết tin. Sáng sau vẫn cho tàu chạy. Rời Sài Gòn đƣợc hơn tiếng đồng hồ thì bị đoàn trực thăng yểm trợ bắn xối xả. Trúng đạn, tàu chìm dần. Toàn bộ hành khách trên tàu 137
không còn ai sống sót. Ba và các chú đã giấu không cho Dũng và em Dân biết tin này. Đầu năm 1967, do giặc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc nên nhà trƣờng đƣợc sơ tán sang Quế Lâm, Trung Quốc. Lúc bấy giờ Dũng mới láng máng hay tin. Không còn an tâm học hành, Dũng nằng nặc xin nhà trƣờng cho về nƣớc. Tháng 3 năm 1968, lên tầu liên vận rời Quế Lâm về nƣớc, Dũng đƣợc vào rèn luyện tại Trƣờng Quân chính Quân khu Tả ngạn ở Hải Dƣơng. Cuối năm 1968, Bác Hồ cho đón các cháu học sinh đạt danh hiệu “Cháu ngoan Bác Hồ: Hà Nội - Huế - Sài Gòn” về Dinh Chủ tịch chơi. Là con em miền Nam, hai anh em Dũng cũng vinh dự đƣợc gặp Bác. Các bạn thiếu nhi phấn khởi quây quần bên Bác. Bác lần lƣợt chia kẹo cho từng cháu và ân cần hỏi thăm xem học tập ra sao, có ngoan ngoãn nghe lời cha mẹ, thầy cô. Đến lƣợt Võ Dũng, Bác hỏi: "Cháu có ngoan không?" Dũng khoanh tay lễ phép: “Dạ, cháu còn nghịch, chưa ngoan ạ!”. Bác xoa đầu Dũng: “Giỏi, cháu thật thà như vậy là tốt, nhưng phải cố g ng lên để bằng các bạn nhé!”. Nói rồi, Bác chia phần kẹo cho Dũng. Tháng 8 năm 1969, Dũng tập trung ở Hoà Bình chuẩn bị đi “B”. Cô Bảy Huệ, cô Tƣ Duy Liên và em Hiếu Dân lên thăm. Ai cũng lo không hiểu Dũng sẽ ra sao khi vào Nam, vì hồi đi học Dũng nghịch ngợm quá. Võ Dũng cƣời và đã hứa với: “Các cô yên tâm
138
đi, con quyết sẽ trả thù cho má và hai em. Các cô sẽ thấy lần này con đi “một - xanh cỏ, hai - đỏ ngực”!”. Dũng hồ hởi nhập đoàn quân “xẻ dọc Trƣờng Sơn” về Nam chiến đấu. Trong đoàn còn có vợ chồng anh Long, chị Phƣơng. Sau này, nghe anh Long kể lại, dọc đƣờng hành quân, tuy rất vất vả, nhƣng Dũng rất vui vẻ và luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi ngƣời. Khi thì đeo hộ ba lô, lúc lại đeo thêm khẩu súng, tới đâu cũng kể chuyện vui để quên đi vất vả. Tới Đặc khu Sài Gòn – Gia Định, Dũng đƣợc biên chế vào đơn vị bộ đội thông tin. Do căm thù giặc cộng thêm bản tính hiếu động, không muốn ngồi một chỗ, Dũng một mực xin về đơn vị chiến đấu. Đến tháng 6 năm 1971, Dũng đƣợc điều về Mặt trận T3 thuộc Khu 9. Tháng 10 năm đó, Dũng giấu ba và xin bằng đƣợc về Võ Dũng là một thanh niên ngang bƣớng, làm lính cơ quan “Khu Bộ” thì rất “ngứa ngáy chân tay”. Dũng nói: “Con đâu phải vào đây để đào hầm cho ba”. Bác sỹ Nam tâm tình: “Dũng, em về đây làm gì?” Dũng trả lời: “Chiến đấu”. “ Em không thấy bọn anh cũng đang chiến đấu sao?” “Có, nhưng cứ toàn chiến đấu trong xó không à”. Bác sỹ Nam đành phải nói lại với ông Kiệt. Ông đồng ý. Về đơn vị chiến đấu, Võ Dũng nhất quyết đòi phải đƣợc bổ vào bộ phận trinh sát. Sáu tháng sau, trong một lần trinh sát một đồn địch nằm trong vùng quê mẹ, Rạch Giá, Võ Dũng hy sinh. Năm ấy, anh chỉ mới vừa tròn 20 tuổi.
(Huy Đức, Báo điện tử Sài Gòn tiếp thị media, ngày 16/6/2008) 139
trung đội 2 trinh sát (thuộc tiểu đoàn 3). Thấy con trai thủ trƣởng quyết tâm quá, các chú đành chấp nhận. Ngày 21 tháng 4 năm 1972, trong một chuyến trinh sát cùng hai đồng đội, không may cả nhóm rơi vào ổ phục kích. Địch bất ngờ xả súng. Không kịp phản ứng, ba anh em hy sinh trên kênh Tây Ký, xã Vĩnh Lộc, huyện Hồng Vân, tỉnh Rạch Giá. Võ Dũng đƣợc chôn cất đúng nơi quê mẹ. Sau ngày giải phóng, tháng 11 năm 1975, Dũng đƣợc gia đình và đơn vị cải táng, đƣa về nghĩa trang An Nhơn Tây, huyện Củ Chi. Thật cảm động, khi lấy thi hài Dũng lên, trong túi quần vẫn còn bịch ni-lông đựng thuốc rê. Nghe Hiếu Dân kể đến đây, nhớ lại những ngày học ở trƣờng, Dũng là một trong những số ít “tay nghiện” thuốc lá của lớp. Sau này Dũng đã đƣợc đƣa về Nghĩa trang Liệt sĩ thành phố Hồ Chí Minh. Tại một điểm không xa cánh trái bức phù điêu lớn ở trung tâm là nơi yên nghỉ của Dũng cùng bia mộ tƣợng trƣng của má Trần Kim Anh và hai em nhỏ. Nấm mộ các liệt sĩ đƣợc bố trí chụm lại nhƣ những cánh của một bông hoa, và mỗi bông hoa là đội hình chiến đấu của một tiểu đội. Những lần lên thăm, chúng tôi luôn đến thắp hƣơng cho Võ Dũng. Năm ngoái bác Sáu Dân cũng đã quy tiên. Vậy là Võ Dũng cùng ba, má và hai em đã mãi mãi yên nghỉ nơi vĩnh hằng.
140
Trần Phong K5 … Hè năm 1963, Võ Dũng sang nhà tôi chơi. Anh em mến nhau, Võ Dũng xin phép cha tôi đƣợc ở cùng anh em chúng tôi. Võ Dũng gọi cha tôi bằng Ba. Hết mùa hè, chúng tôi vào học lớp 4 trƣờng Phổ thông Nguyễn Trãi ở đầu phố Cửa Bắc. Tại đây, chúng tôi đã gặp các bạn: Phan Đức Dũng, Nguyễn Đôn Hoà, Huỳnh Kim Trung (anh hùng liệt sĩ). Tôi còn nhớ trƣờng Nguyễn Trãi khá đẹp, kiến trúc kiểu thực dân Pháp. Tôi và Võ Dũng học chung một lớp. Cô giáo CN lớp chúng tôi có tên là Liên Hƣơng. Cô trẻ và xinh nhất trƣờng. Có lần, chúng tôi đang làm bài tập trong lớp, cả lớp im phăng phắc. Trần Lãnh thò đầu nhìn vào lớp học và bảo: "Cô giáo ngủ gật rồi!". Cô giáo đứng phắt dậy, Trần Lãnh bỏ chạy mất. ("Hay thật! Cái tay TP này chuyện gì cũng nhớ, nhất là những chuyện không đứng đắn lắm" - Trần Lãnh n i). Hồi ấy, Võ Dũng có nhiều bạn bè. Nhóm của Võ Dũng làm cho cô giáo CN lo ngại. Cô sợ kết quả học tập của Võ Dũng không đạt. Cô giáo đã đến gặp cha tôi và bàn bạc một hồi. Vài ngày sau, có một bạn gái, học lớp khác, thật dễ thƣơng đến gặp cha tôi và bảo đến kèm Võ Dũng học tập theo yêu cầu của cô giáo CN. Họ nhanh chóng trở thành đôi bạn học tập. Từ đó Võ Dũng học khá hẳn lên. Bọn con trai chúng tôi chọc ghẹo cô gái là nàng Châu Long vâng lệnh chồng là Dƣơng Lễ đến nuôi chàng hàn sĩ Lƣu Bình. Cô gái ngƣợng ngùng, một thời gian sau không đến nữa. Nhƣng kể từ đó, sức học của Võ Dũng khá hơn nhiều. Chúng tôi cùng tốt 141
nghiệp tiểu học. Sau đó, tôi theo gia đình đi sơ tán, còn bạn Võ Dũng về nhà cô Bảy Huệ (phu nhân cố Tổng bí thƣ Nguyễn Văn Linh). Sau này, anh em tôi gặp nhau tại trƣờng Thiếu sinh quân ở Việt Bắc.
(Trích „Tản mạn chuyện cũ”)
Đức Dũng K5 Mấy hôm nay tôi hay vào các báo để đọc các tin về bác Võ Văn Kiệt. Đọc tin và ảnh đám ma bạn Trực "Dĩn". Mò vào trang Út Trỗi đọc đƣợc bài của Kiến Quốc viết về Võ Dũng. Đúng nhƣ KQ viết, Dũng hồi đó đẹp trai lắm, nghịch ngợm và hay bắt nạt các bạn cùng lớp. Nhƣng KQ viết về ngày lên trƣờng của Dũng chƣa chính xác. Dũng lên trƣờng từ khi ở Trại Hòe, Hà Bắc chứ không phải sau này ở Đại Từ, Bắc Thái. Khi đó KQ là lớp trƣởng và thầy Trực phụ trách đại đội mình rồi. Tôi nhớ vào một buổi chiều, tôi và Văn Huấn đang bắt chuồn chuồn kim, loại chuồn chuồn nhỏ hay đậu trên ngọn hoa cỏ may hay cây xấu hổ thì thấy một chiếc xe con, rồi bƣớc ra là một phụ nữ cao và gầy cùng cô con gái nhỏ cũng gầy giống mẹ và đi sau là một bạn xách lê chiếc ba lô. Văn Huấn bảo "Lính mới", rồi thầy Trực đón cả ba ngƣời vào, sau đó thầy giới thiệu Võ Dũng, bạn là ngƣời miền Nam. Sau này mới biết ngƣời phụ 142
nữ cao gầy đó chính là dì Bẩy Huệ vợ của bác Nguyễn Văn Linh. Tôi có nhiều kỷ niệm với Võ Dũng lắm. Nhất là những lần nhà trƣờng cho học sinh về nghỉ, tôi thƣờng lang thang với Dũng vì lúc đó bố tôi đi chiến trƣờng, mẹ thì ở quê thành thử tôi chỉ có một mình. Dũng bảo với tôi "Tao cũng không gia đình như mày vì má và hai em tao hy sinh mà mọi người dấu tao". Dũng ơi cũng đừng giận các cô các bác vì nhƣ tôi cũng vậy khi bố tôi hy sinh mọi ngƣời cũng dấu vì sợ chúng mình buồn ảnh hƣởng đến hoc tập. Rồi tối tối hai thằng lại về nhà 16b Nguyễn Biểu ngủ, căn nhà mà Dũng nói dì Bẩy Huệ dành cho Dũng. Đến bây giờ tôi vẫn nhớ nhƣ in căn phòng đó, sàn lát gỗ lim nằm mát lạnh và chiếc quạt tai voi của Liên Xô cũ…
(Trích „Lời ru trẻ mãi, còn ta thì già”)
Hồ Xuân Nam K3 … Tôi còn nhớ, bác Sáu Dân (Võ Văn Kiệt) vì hoạt động bí mật trong Nam Bộ, không có điều kiện chăm sóc nên đã gửi hai anh em Võ Dũng và Võ Hiếu Dân ra Bắc nhờ bạn bè, đồng chí nuôi hộ. (Thế mới thấy bậc cha mẹ chúng ta sẵn sàng hy sinh tình cảm gia đình, gửi con em vƣợt hàng ngàn cây số ra cho bạn bè đồng chí nuôi dƣỡng, để lao vào cuộc 143
đấu tranh cách mạng). Cô Bảy Huệ đón hai anh em về nhà nuôi và coi Dũng, Dân nhƣ con đẻ của mình. Cô lo lắng từ miếng cơm, manh áo cho đến việc học hành. Cô nhƣ ngƣời mẹ hiền chăm sóc hai anh em những lúc ốm đau, xa cha mẹ. Con cô - các em Hòa, Bình và Linh - yêu quý anh Dũng và Hiếu Dân nhƣ anh em ruột thịt. Còn Dũng và Dân gọi cô với hai từ thân thƣơng “dì Bảy”. Không chỉ hai anh em Dũng, Dân mà nhiều học sinh miền Nam cũng đƣợc cô dành cho tình cảm và sự quan tâm nhƣ thế. Cánh “con em chính sách” ở trƣờng Trỗi có Phan Tiến, Phạm Thái Bình (Bình “tây”), tôi cùng nhiều bạn nhƣ Công Dũng, Đồng Hiền… cứ mỗi lần đƣợc về Hà Nội lại đạp xe đến thăm cô, ăn bữa cơm với gia đình. Xa cha mẹ, gặp cô, đƣợc thăm hỏi chăm sóc, chúng tôi nhƣ đƣợc gặp chính mẹ đẻ của mình. Những thiếu thốn tình thƣơng đƣợc cô bù đắp phần nào. Chúng tôi lớn lên và trƣởng thành cũng nhờ tình cảm ấy. Bọn học sinh miền Nam chúng tôi gọi cô là “má”. Cảm động nhất là đầu năm 2002, ngày trƣờng ta tặng cô cuốn “Sinh ra trong khói lửa”, cô đọc say sƣa và khen có nhiều bài viết cùng tƣ liệu rất hay. Cô nói với riêng tôi: “Cái ảnh thằng Dũng các con tìm được đưa vào sách đẹp quá, giống nó quá. Cô hình dung ngay ra cái thằng hồi bé nghịch quá trời, vậy mà khi trưởng thành đã xung phong đi “B”. Về tới Sài Gòn rồi không chịu làm lính thông tin lại xin các chú cho về Khu 9 làm lính trinh sát. Nó đã dũng cảm xông ra 144
trận tuyến chiến đấu trả thù cho má, cho hai em và cho đồng bào miền Nam. Lính Trỗi các con đã góp phần làm vẻ vang cho dân tộc…”
(Trích „Chúng tôi có một người mẹ như thế!”)
Xem bài viết: 1. Tản mạn chuyện cũ - Trần Phong, 03/06/2011, Blog Tran Phong. 2. Bạn tôi, liệt sĩ Võ Dũng - Trần Kiến Quốc, 24/7/2009 - Báo Khoa học Đời Sống Online (bee.net.vn). 3. C 1 bài viết về gia đình chú Sáu Dân sau ngày chú mất - bantroik5sg, 29/5/2009, Blog K5. 4. Lời ru trẻ mãi, còn ta thì già - Đức Dũng, 19/6/2008, Blog K4. 5. Bạn Võ Dũng của kh a 5 chúng tôi - Anh Thy ghi theo lời kể của Võ Hiếu Dân - em gái liệt sĩ Võ Dũng, SRTKL 1, Tr.: 6. Chúng tôi c một ngƣời mẹ nhƣ thế! - Hồ Xuân Nam K3, SRTKL 2, Tr.: 217-219.
145
Liệt sĩ Phạm Văn Hạo
146
Học sinh khóa 5
Sinh: 5/1953 Quê xã Toàn Th ng, huyện Gia Lộc, Hải Dương. Cấp bậc: - Chức vụ: chiến sĩ Đơn vị: C7 E3 Đoàn 2296 (Đoàn Hoa Lư). Hy sinh: 28/6/1971 (6/5 Tân Hợi) tại Mặt trận Campuchia (ngay sát đường biên). Mộ tại Nghĩa trang Liệt sĩ xã Toàn Th ng, huyện Gia Lộc, Hải Dương. Bia mộ vẫn kh c tên Phạm Vũ Nhân. Liên hệ gia đình: anh Phạm Văn Hiển K2, Khu Giảng Võ, Ba Đình, Hà Nội. (01695232043).
147
Đi tìm mộ Liệt sĩ Phạm Văn Hạo Phạm Văn Hiển K2
Q
uê hƣơng tôi ở xã Toàn Thắng, huyện Gia Lộc, Hải Dƣơng. Phạm Văn Hạo – em tôi – sinh năm 1953 và năm 1967 nhập Trƣờng Thiếu sinh quân Nguyễn Văn
Trỗi. Năm 1970, sau khi tốt nghiệp, thay vì vào học Trƣờng Sĩ quan Pháo binh, Hạo lại trốn gia đình lên đƣờng nhập ngũ. Trong đơn nhập ngũ, Hạo đã đổi tên thành Phạm Vũ Nhân. Ngày 28 tháng 6 năm 1971, Phạm Văn Hạo đã hy sinh ở mặt trận phía Nam, khi vừa tròn 18 tuổi. Sau giải phóng, trong nhiều năm, theo nhiều hƣớng khác nhau, gia đình đã đi tìm mộ phần của Hạo, nhƣng đều không có kết quả. Mãi sau này, qua đồng đội của Hạo, gia đình mới biết: Hạo hy sinh trên đất bạn Cămpuchia, ngay sát đƣờng biên và việc tìm phần mộ của Hạo gần nhƣ vô vọng. Đợt tìm kiếm thứ hai xảy ra thật bất ngờ… có lẽ, xin bắt đầu từ câu chuyện sau đây: Tôi có quen thân một gia đình ở phố Hà Trung – Hà Nội, mà bác gái là một tín đồ theo đạo Phật. Những lần tôi tới thăm, bác đều bảo tôi nên đi cầu siêu tìm em Hạo. Chỉ vâng dạ cho qua, vì từ bé đến giờ tôi không hề có chút hiểu biết về lĩnh vực tâm linh, mà đã không tin thì việc cầu siêu trở thành miễn cƣỡng. Đầu năm 1997, bác lại bảo tôi (chắc là lần thứ 5 hay 6 gì đó) cầu siêu cho Hạo. Vợ tôi cho rằng việc cầu siêu không phải là mê tín, mộng mị gì, 148
đó cũng là lúc thƣơng nhớ đến ngƣời thân đã khuất. Vì vậy, vợ tôi đã đi cầu siêu cho em ở chùa Vĩnh Phúc trên đƣờng Hoàng Hoa Thám. Sau 5 giờ làm các lễ, sƣ bà trụ trì có dặn phải thắp hƣơng cho Hạo đủ 49 ngày. Không hiểu do tâm linh thần bí hay trùng hợp ngẫu nhiên, mà đến ngày thứ 27 gia đình đã nhận đƣợc tin: trong danh sách liệt sĩ của Quân khu 7 quản lý có tên em tôi. Gia đình đã đến Phòng Chính sách Quân khu 7, nhƣng bị chƣng hửng: Trong hồ sơ của Hạo, mục chúng tôi cần biết là mộ phần ở đâu thì không có ghi chú. Bên lề chỉ có một chữ cái “R” duy nhất viết bằng bút chì. Trong lúc đang suy luận về chữ “R”, thì chúng tôi biết thêm một thông tin mới, đó là vào khoảng 1986-1987, chúng ta có quy tập đƣợc một lƣợng lớn hài cốt liệt sĩ từ đất bạn Cămpuchia. Vậy chữ “R” rất có thể là “đã quy tập”, nhƣng mộ phần ở đâu thì không ai rõ. Lần tìm tới các đồng chí trong các đội quy tập, nhƣng cũng không tìm ra manh mối, chỉ còn cách tìm ở các nghĩa trang liệt sĩ. Việc tìm Hạo ở các nghĩa trang đƣợc giao cho Hiệp, em trai út của tôi, đang công tác ở Vũng Tàu. Hàng tháng trời, cả gia đình ở ngoài Bắc thì chờ đợi, còn Hiệp thì xách xe máy rong ruổi từng nghĩa trang. Không biết cả tỉnh Tây Ninh có bao nhiêu nghĩa trang và dọc ngang tỉnh có bao nhiêu đƣờng đất; ngày lại ngày, Hiệp vẫn cần mẫn đi tìm anh. Tây Ninh đi hết thì về Sông Bé, Sông Bé hết thì lại sang Long An… Và quả là trời đã không phụ lòng ngƣời, Hiệp đã tìm thấy phần mộ của anh tại nghĩa trang liệt sĩ Long An.
149
Trên phần mộ có gắn tấm bia ghi: “Phạm Vũ Nhân – Gia Lộc, Hải Hƣng – Đơn vị: 2296 – Cấp bậc: chiến sĩ - Hy sinh: 28-6-1971”. Hạo mất tại Cămpuchia, theo lẽ thông thƣờng thì hài cốt sẽ đƣợc quy tập về Tây Ninh, hoặc Sông Bé. Còn Long An thí ít ai ngờ! Sau này tìm hiểu, chúng tôi mới biết đƣợc căn nguyên của vấn đề: năm 1986-1987, ta quy tập về thành phố Hồ Chí Minh một lƣợng lớn hài cốt các liệt sĩ. Số lƣợng lớn đến mức nếu đƣa về toàn bộ số hài cốt này thì Nghĩa trang liệt sĩ thành phố Hồ Chí Minh không còn đủ chỗ và kinh phí cho quy tập thật khổng lồ. Và Thủ tƣớng phải can thiệp bằng cách: các tỉnh phía Nam nhận hài cốt liệt sĩ của các tỉnh kết nghĩa ở phía Bắc về quy tập tại nghĩa trang liệt sĩ của tỉnh mình. Do Hải Dƣơng kết nghĩa với Long An, nên Phạm Văn Hạo đƣợc đƣa về Long An từ ngày đó. Niềm vui của gia đình tìm thấy Hạo lan đi nhanh chóng khắp nơi, từ Nam ra Bắc, từ làng nọ sang làng kia. Nhà tôi lúc nào cũng nhộn nhịp ngƣời tới hỏi thăm, chia sẻ. Niềm vui của gia đình còn đƣợc nhân thêm, vì cùng nghĩa trang với Hạo còn nhiều phần mộ của các liệt sĩ cùng quê. Em Hiệp đã chụp ảnh từng mộ phần gửi ra cho chúng tôi. Sau đó, chúng tôi đã chuyển chúng về từng gia đình. Ngƣời thân của các liệt sĩ vô cùng xúc động, không kìm đƣợc nƣớc mắt. Chiến tranh đi qua đã hơn 20 năm, nay họ mới biết đƣợc mộ phần của con em mình. Cũng vào thời gian này, mẹ tôi đã đổ bệnh. Cơ thể vốn đã yếu, nay lòng nhớ thƣơng con lại thêm da diết. Mặc dù đƣợc giải thích: Hạo đƣợc an nghỉ trong nghĩa trang liệt sĩ tỉnh Long An – một nghĩa trang rất đẹp ngay bên quốc lộ 1A, nhƣng mẹ tôi chỉ lắc đầu: “Hãy đưa Hạo về quê để mẹ con được gần nhau!”. 150
Thế là, việc đƣa hài cốt của Hạo ra Bắc đƣợc giao cho tôi. Tháng 5 năm 1997, sau mấy ngày chuẩn bị, đƣợc sự giúp đỡ của anh em cùng bạn bè khóa 5 của Hạo tại Trƣờng Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi (Tuấn Kiệt, Quốc Việt, Ngọc Sơn), tất cả các giấy tờ pháp lý cho đến những kinh nghiệm xử lý các tình huống có thể xảy ra trong chuyến đi đã đầy đủ. Đến Sài Gòn, tôi liên hệ ngay đƣợc với anh Đoàn Mạnh Hƣng – phụ trách cơ quan thƣờng trực Học viện Kỹ thuật Quân sự tại phía Nam, với các bạn Phùng Duy Hƣng, Phan Nam, Kiến Quốc, Kỳ Bắc… trong Ban Liên lạc khóa 5, với các đồng chí trong Phòng Chính sách Quân khu 7. Không để lãng phí thời gian, ngày 12 tháng 5 năm 1997, Học viện đã cho tôi mƣợn xe đi ngay Long An để làm việc. Tại Long An, với sự giúp đỡ nhiệt tình của Tỉnh đội, của Ban quản lý nghĩa trang, nên chƣa đầy 12 tiếng, vào lúc 7 giờ tối, chúng tôi đã hoàn tất việc đƣa hài cốt của Hạo rời Long An về thành phố Hồ Chí Minh. Hôm sau, tại nhà khách của Học viện, trƣớc bàn thờ dựng dã chiến với di ảnh của Hạo, các bạn khóa 5, mỗi ngƣời một nén hƣơng tƣởng nhớ tới ngƣời bạn cùng khóa đã anh dũng hy sinh. Chúng tôi đã dành nhiều thời gian cùng nhau ôn lại chuyện xƣa… Chúng tôi nhớ Phạm Văn Hạo, một chàng trai trắng trẻo trong bộ quần áo gụ, ngƣợng nghịu nhập trƣờng ngày nào, ở Thái Nguyên, giữa các chàng trai Hà Nội lém lỉnh… (ngay từ ngày đầu, anh chàng đã đƣợc anh em đặt cho cái tên là Hạo “cồ”!)… đến những ngày “sơ tán” bên Quế Lâm (Trung Quốc) xa xôi, hay những ngày về sống bên bờ sông Thao, Vĩnh Phú… Thế mới thấy anh chàng Hạo tuy “cồ”, nhƣng lại rất “gan”, dám thay họ đổi tên, giấu cả gia đình trốn đi bộ đội. Có đƣợc bản lĩnh nhƣ vậy cũng là nhờ 151
công ơn các thầy cô Trƣờng Trỗi giáo dục, dạy dỗ mà nên!… Nhiều lúc chuyện cũ vui nhƣ pháo tết, nhƣng có lúc chùng lại buồn thiu. Tất cả những kỷ niệm của thời Thiếu sinh quân cách đây trên 30 năm không phai nhạt trong ký ức chúng tôi. Sau hai ngày lƣu lại thành phố Hồ Chí Minh, Kiến Quốc, Phan Nam thay mặt anh em tiễn đƣa tôi và Hạo lên tầu ra Bắc. Tại ga Hàng Cỏ, gia đình, họ hàng và các bạn Sơn, Kiệt, Việt đã đón và đƣa Hạo về quê. Ở quê nhà, bà con đã chờ từ sớm để đƣợc dự lễ truy điệu liệt sĩ Phạm Văn Hạo tại hội trƣờng Ủy ban nhân dân xã. Trong hội trƣờng, bên cạnh Quốc kỳ và Đảng kỳ là bàn thờ Tổ quốc có lƣ hƣơng tỏa khói nghi ngút. Bốn sĩ quan cựu chiến binh mặc quân phục đứng túc trực bên hài cốt liệt sĩ. Các đoàn đại diện cho các ban ngành, cơ quan Dân – Chính – Đảng, đại diện cho hai bên nội ngoại cùng bà con xóm giềng lần lƣợt vào viếng liệt sĩ Phạm Văn Hạo – ngƣời con của quê hƣơng đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp chống Mỹ cứu nƣớc, sau gần 30 năm, nay mới trở về yên nghỉ tại quê hƣơng. Trong hội trƣờng chật ních, bà con phải đứng tràn cả ra ngoài sân. Lễ truy điệu đƣợc tổ chức trọng thể, trang nghiêm. Và dòng ngƣời đã đƣa Hạo về nơi an nghỉ cuối cùng. Trong tôi chợt trào lên một cảm xúc khó tả, một lòng biết ơn vô hạn đến tất cả mọi ngƣời. Tôi thầm gọi: “Em sống mãi với gia đình, họ hàng và bạn bè như thế đó, Hạo ơi!”.
152
Trần Minh Sơn K5 … Ngày ở trƣờng, hắn mộc mạc lắm; buổi sinh hoạt văn nghệ nào cũng có tiết mục sáo trúc của Hạo “cồ”. Hạo của chúng ta đã cả gan thay cả tên, đổi cả họ, dấu cả bố mẹ để đƣợc đi bộ đội (vì bố đang là sĩ quan, nếu cứ đăng ký tòng quân bằng tên thật thì bị truy ra ngay). Sự liều lĩnh có suy nghĩ này có lẽ chỉ có ở “lính Trỗi”?!…
Trích „Đáp số của bài toán”
27/7/2008 – Anh chị em K5 về Gia Lộc, Hải Dương viếng bạn
Xem bài viết: 1. Khoá 5 và ngày 27/7 năm nay - Kiến Quốc, 27/7/2008, Blog K4. 2. Đi tìm mộ Liệt sĩ Phạm Văn Hạo - Phạm Văn Hiển K2, SRTKL1. 3. Đáp số của bài toán - Trần Minh Sơn K5, Hoàng Long, SRTKL2, 132-134. 153
Liệt sĩ Nguyễn Lâm
154
Học sinh khóa 5
Sinh: 1953 NR: Phan Đình Phùng, Ba Đình, HN. Sinh viên năm thứ 2 Đại học Thủy lợi. Nhập ngũ: 1971 Đơn vị: E101 F325B. Hy sinh: 5/9/1972 (28/7 Nhâm Tý) tại Thành cổ Quảng Trị. (C1, D4, E95, F325). Chưa xác định được mộ phần Liên hệ gia đình: anh Nguyễn Lương Sơn K2 Phòng 111, D8, KTT Trung Tự, Đống Đa, HN. (0948398454).
155
Nguyễn Lâm đƣợc chụp ảnh với Bác Hồ Kiến Quốc K5
hớ
N
hớ lại năm 2005, hôm Dƣơng Minh đƣa chị em họ Mã lại thăm nhà anh Lƣơng Sơn K2 (anh LS Nguyễn Lâm K5) về có kể: "Giữa nhà treo bức ảnh phóng to,
Nguyễn Lâm ngồi cạnh Bác năm 1965. Không ngờ thằng bạn mình được vinh dự chụp ảnh với Bác!". Thông tin chỉ có vậy. Vừa rồi cùng đi Thái Nguyên, anh Lƣơng Sơn đã kể lại câu chuyện ấy. ... Học kì 2 năm học 1964-65, do chiến tranh phá hoại mà Lâm cùng 2 em theo trại nội trú của Bộ Công an sơ tán về Thuận 156
Thành, Hà Bắc. (Bố Kháng là Cục trƣởng Cục Cảnh vệ nên con em đƣợc theo trại của Bộ). Vùng quê nghèo bên ven bờ sông Đuống năm học này ríu rít tiếng học trò từ Hà Nội về. Chiều ấy, Lâm theo chúng bạn ra sông tắm. Vừa tới bờ sông thì thấy một bạn gái đang chới với dƣới nƣớc. Cô giáo từ trên bờ vội nhảy xuống cứu. Nhƣng cả 2 cô, trò dƣờng nhƣ không biết bơi. Cố vùng vẫy rồi chìm dần, chìm dần. Theo phản xạ, Lâm lao ngay xuống dòng. Nhớ anh Sơn dặn khi cứu ngƣời chết đuối phải vòng ra phía sau lƣng, túm lấy tóc hoặc ôm lấy cổ rồi bơi ngửa, dìu họ vào bờ. (Ngƣời bị nạn cuống quýt mà ôm chặt lấy mình thì chết cả lũ). Nhƣ con rái cá, Sơn lặn sâu rồi quàng tay vào cổ bạn, dìu vào bờ. Sau đó quay ra đón cô. Chuyện chỉ đơn giản có vậy. Biết tin có cháu nhỏ dũng cảm cứu bạn, Bác Hồ gửi huy hiệu tặng, biểu dƣơng "ngƣời tốt, việc tốt". Tháng 8/1965, tổ chức Đoàn các cơ quan Trung ƣơng tổ chức "Đại hội "Thanh niên 3 sẵn sàng" chống Mỹ cứu nƣớc". Các tấm gƣơng lao động, chiến đấu điển hình đƣợc mời về dự. Trong đại hội, hầu hết tấm gƣơng điển hình là thanh niên thì lại có 2 bạn thiếu niên - Nguyễn Lâm cùng Lƣu Kim Oanh - diễn viên nhí của Đoàn Xiếc Trung ƣơng. Bác Hồ đã đến dự. Từ trên chủ tịch đoàn thấy có cháu bé ngồi hàng ghế đại biểu, Bác hỏi: "Cháu bé có thành tích gì mà được mời dự?". "Dạ, đó là cháu Nguyễn Lâm có thành tích dũng cảm cứu bạn đấy ạ!", chú thƣ kí trả lời. "Mời cháu lên đây!". 157
Nguyễn Lâm đƣợc các chú gọi lên, đứng trƣớc mặt Bác. Xoa đầu Lâm, Bác âu yếm hỏi: Cháu tên là gì? Dạ, Nguyễn Lâm ạ! Thế cháu bao nhiêu tuổi rồi? Dạ, 12 ạ! Cháu con ai? Dạ, con bố Hoàng Hữu Kháng ạ! Thế ra cháu là con bố Kháng trong tổ bảo vệ cho Bác thời kì kháng chiến chống Pháp[1]? Nghe các chú báo cáo, cháu dũng cảm, lao xuống sông cứu bạn. Thế cháu học bơi ở đâu? Dạ, khi chƣa đi sơ tán, cháu hay đƣợc theo bố vào CLB Ba Đình. Tại đây có bể bơi nên bố cháu và anh Sơn dạy cho biết bơi. Cháu biết bơi gì? Cả bơi ếch, bơi sải ạ. Các cô các chú có thấy không, - Bác quay sang bên - cháu Lâm trẻ tuổi mà đã có hành động dũng cảm. Qua đây chúng ta rút ra bài học không chỉ dạy cho các cháu học văn hóa giỏi mà còn phải dạy cả thể thao, bơi lội, phải xây dựng cho các cháu tình yêu thƣơng con ngƣời và lòng dũng cảm, dám hy sinh bản thân cứu ngƣời. Cháu Lâm là tấm gƣơng sáng cho thanh, thiếu niên ta học tập... Quay sang Lâm, Bác nói: "Vì hành động dũng cảm của cháu, Bác đã tặng cháu huy hiệu. Nay chúc cháu luôn học giỏi, tiến bộ 158
và bơi giỏi hơn nữa! Bây giờ Bác thưởng cho cháu được ngồi với Bác trên hàng ghế Chủ tịch đoàn". Tháng 10 năm ấy Lâm lên trƣờng. Và... hình nhƣ, Lâm chƣa kể chuyện này với ai. Số lính Trỗi đƣợc chụp ảnh với Bác không phải là nhiều. LS Nguyễn Lâm, bạn của chúng ta, lại là ngƣời có vinh dự ấy. Xin ghi lại câu chuyện nhƣ 1 nén tâm nhang tƣởng nhớ đến bạn mình!
[1] Tổ bảo vệ gồm 8 đ/c đƣợc Bác đặt tên là "Trƣờng - Kỳ - Kháng - Chiến - Nhất - Định - Thắng - Lợi".
K5 chụp ở Suối Chì, có lẽ, hè 1966 trước khi đi Trung Quốc 159
Nguyễn Lâm, Quang Linh và Kiến Quốc đang trang trí báo tường đại đội cùng thầy Cao Cự An (năm học 1965-66, Suối Chì - Đại Từ).
Nguyễn Lâm (thứ 2 từ bên phải) cùng các bạn ở Phong Khẩu, đầu năm 1968. 160
Người đứng bìa trái đầu đội mũ bông là Thành "sứt". Cạnh đó là Nguyên "đù" đội mũ cối trắng. Cạnh Nguyên là Trần Hiền, Minh "cận", đứng sát thầy là Nguyễn Lâm. Huy Đăng, đứng sau Nguyễn Lâm và Thành Đức. Cuối cùng là Đức Dũng.
Xem bài viết: 1. Nguyễn Lâm đƣợc chụp ảnh với Bác Hồ - Kiến Quốc, 10/10/2009, Blog K5, (đã đăng tại: Bee.Net.vn). 2. Kỉ niệm với bạn Nguyễn Lâm - Kiến Quốc k5, 29/9/2009, Blog K5. 3. Tấm ảnh tƣ liệu vô cùng quý giá- Kiến Quốc, 28/5/2009, Blog K5. 4. Những bạn kh a 5 hy sinh tại Quảng Trị 1972 - Lê Hòa Bình K5, SRTKL1 5. Những lá thƣ dọc đƣờng hành quân - Lê Hòa Bình K5, SRTKL2 126-131. 6. Lần cuối gặp nhau - Nguyễn Trí Dũng K3, SRTKL 2, Tr.: 201-203. 7. Quảng Trị và những đồng đội còn nằm lại - Lê Chí Hòa K5, SRTKL2 204-208. 161
Anh hùng Liệt sĩ Huỳnh Kim Trung
162
Học sinh khóa 5 Sinh: 16/3/1952 tại Thủ Dầu Một, Nam Bộ. Quê: Kim Sơn, Châu Thành, Tiền Giang. Trú quán: 1A Hoàng Văn Thụ, Ba Đình, HN. Học viên năm thứ 2 Đại học Cảnh sát, Bộ Công an. Trung sĩ Cảnh sát Giao thông phà sông Gianh, Quảng Bình. Hy sinh: 20/8/1972 (12/7 Nhâm Tý) tại Bến phà sông Gianh, Quảng Bình. Được tuyên dương Anh hùng Lực lượng Vũ trang theo lệnh số 110 LCT ngày 31/12/1973 do Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Tôn Đức Th ng ký. Mộ tại NTLS tỉnh Tiền Giang (TP Mỹ Tho). Liên hệ gia đình: Ba Huỳnh Kim Trương, 280/9 CMT8, P10, Q3, TP. HCM. (0903768890).
163
HỒ SƠ NGƢỜI ANH HÙNG Anh hùng Liệt sĩ Huỳnh Kim Trung Sinh ngày:
16-3-1952
tại Chiến khu Dƣơng Minh Châu, Thủ Dầu Một, Nam Bộ. Trú quán:
1A Hoàng Văn Thụ, Ba Đình, Hà Nội.
Hy sinh:
20-8-1972 tại phà sông Gianh.
Đƣợc tuyên dƣơng Anh hùng Lực lƣợng Vũ trang theo lệnh số 110 LCT ngày 31-12-1973 do Chủ tịch nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Tôn Đức Thắng, ký.
Quá trình công tác: Tốt nghiệp lớp 10 tại Trƣờng Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi (Tổng cục Chính trị, QĐNDVN). 18-5-1970: Vào Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam. 12-1970: Học viên Đại học Cảnh sát, Bộ Công an. 4-1972: Tình nguyện vào chi viện cho Quảng Bình, làm công an tập sự Cảnh sát Giao thông phà sông Gianh.
164
Thành tích chiến đấu: 16-4-1972: Giải phóng đoàn xe từ phía nam ra bị tắc trong khi bị máy bay Mỹ đánh phá. 29-4-1972: Dập tắt lửa trên xe chở đạn bị máy bay địch bắn cháy, đƣa lái xe bị thƣơng đi cấp cứu. Cõng một công nhân bến phà đi cấp cứu trong khi máy bay Mỹ bắn phá. 12-6-1972: Vận động và cùng bà con cứu xe hàng của Đoàn 559 đang đi trên phà bị máy bay Mỹ bắn chìm. Ngay chiều đó, cùng đồng đội vớt và cứu một số đồng chí bộ đội đi dò thủy lôi bị nổ (1 đồng chí đƣợc cứu sống, số còn lại hy sinh). 20-8-1972: Trong khi máy bay Mỹ đánh phá, cùng dân cứu kho đạn 37mm và 85mm. Đồng chí Trung vác đến hòm thứ 50 thì đạn nổ và bị thƣơng nặng. Khi đƣợc cấp cứu, biết không sống đƣợc đã yêu cầu cứu chữa ngƣời khác nhẹ hơn.
Trạm Công an Giao thông phà sông Gianh, Uỷ ban Hành chính, Xã đội xã Quảng Thuận (Quảng Bình) và Bộ Công an đề nghị tuyên dƣơng Anh hùng Lực lƣợng Vũ trang và truy tặng Huân chƣơng Chiến công hạng Nhất.
(Sao lại Hồ sơ Anh hùng Lực lượng Công an nhân dân 72-76 tại X15 (Phòng thi đua) Bộ Nội vụ ngày 17-6-1992). 165
Đọc nhật kí chiến trƣờng của Anh hùng Liệt sĩ Huỳnh Kim Trung Minh Đức thực hiện
Đ
úng 29 năm, sau ngày hy sinh của Huỳnh Kim Trung, chúng tôi - những bạn học
cách đây 36 năm, tại trƣờng Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi - đã đến thăm gia đình và thắp hƣơng cho bạn. Nhƣ những đứa con đi xa nay mới trở về, chúng tôi ùa vào phòng khách. Trân trọng giữa phòng là bàn thờ của gia đình, có góc dành riêng cho Trung, trên đó có Bảng vàng danh dự và quyết định số 110/LCT, ký ngày 31 tháng 12 năm 1973 của Chủ tịch Tôn Đức Thắng, truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lƣợng vũ trang cho liệt sĩ Huỳnh Kim Trung. Chúng tôi xếp hàng ngang trƣớc bàn thờ có di ảnh của Trung và cúi đầu mặc niệm... Kiến trúc sƣ Huỳnh Kim Trƣơng - ba của Trung, nguyên là Tham mƣu trƣởng Quân khu 7 hồi kháng chiến 9 năm, nay đã ngoài 80 nhƣng có trí nhớ tuyệt vời. Những kỷ niệm về hai cuộc 166
kháng chiến, về những năm tháng cùng công tác với cha mẹ chúng tôi và về Huỳnh Kim Trung vẫn nhƣ in trong tâm trí bác. Bác hỏi thăm công việc từng đứa. Riêng với bạn Nguyễn Thiện Nhân, bác ân cần dặn: “Cháu đảm nhận trọng trách với thành phố này. Ráng phải làm thật tốt để khỏi phụ lòng những người đã hy sinh”. Chúng tôi nhƣ bầy con quây quần bên ba mẹ, ôn lại những kỷ niệm về Trung. Đã gần 30 năm, Trung xa chúng tôi. Thời gian trôi qua nhanh quá, vạn vật có nhiều thay đổi nhƣng tình cảm của lũ bạn học ngày nào vẫn thế; Trung nhƣ vẫn sống trong chúng tôi. Khi còn ở trƣờng, chúng tôi có một thói quen ghi nhật ký. Vì vậy, khi ra mặt trận, Trung vẫn duy trì thói quen đó và bạn đã để lại cho gia đình và bạn bè những kỷ niệm vô giá. Chúng tôi cùng nhau giở lại những trang nhật ký chiến trƣờng của Trung. Cuốn nhật ký đã nhầu nát vì thời gian và vì những ngày cùng Trung ở tuyến lửa ác liệt Quảng Bình. Khi còn ở trƣờng, Trung có chân trong Ban biên tập báo tƣờng đại đội; cậu có năng khiếu vẽ, nên tờ bìa của cuốn nhật ký đƣợc trang trí rất điệu nghệ: một cành thông non mọc ngay sƣờn núi sát biển, đang phải chống chọi với phong ba 167
bão táp; xa xa, một tƣơng lai huy hoàng đang đến, cặp hải âu tung cánh trong bình minh đang lên. Nhƣ một truyền thống của thế hệ chúng tôi, Trung không quên viết kèm theo hai bài thơ trên trang bìa nhƣ một lẽ sống: Ơi tuổi trẻ say sưa lý tưởng Dấn thân vào đường tranh đấu tiền phong Lấy khổ ải làm một nguồn sung sướng Vấp ngã – sợ gì, rèn luyện t thành công! Chưa thất bại chưa phải người từng trải Chưa đau thương chưa phải bước vào đời Nếu lòng ta cứ sợ mưa sa Thì n ng đẹp mùa xuân đâu sẽ thấy Đầu 1972, cuộc kháng chiến chống Mỹ ở cả hai miền đã vào giai đoạn ác liệt nhất. Đang học năm thứ 2 Đại học Cảnh sát, do yêu cầu của chiến trƣờng, để đảm bảo giao thông thông suốt cho con đƣờng huyết mạch chi viện cho tiền tuyến, Trung đã xung phong vào thực tập cảnh sát giao thông tại một trọng điểm: Bến phà sông Gianh! Trung đã ghi lại trong nhật ký cuộc sống gian nan vất vả, suốt ngày đêm chịu đựng những trận bom rải thảm của máy bay B52, nhƣng cuộc sống của quân dân Quảng Bình vẫn đầy lạc quan. Thế mới biết, cuộc chiến nào cũng ác liệt và trong chiến tranh, con ngƣời yêu cuộc sống biết nhƣờng nào! Ngoài những 168
giờ phút căng thẳng đƣơng đầu với bom đạn, đứng điều độ các chuyến xe lên xuống phà, ra Bắc vào Nam; Trung rất nhớ nhà, nhớ ba mẹ, nhớ phố phƣờng Hà Nội, nhớ mái trƣờng thân yêu, nhớ cả những buổi trốn học vào rạp xem phim. Trung thèm có một chiếc radio để nghe ca nhạc và tin tức hay một chiếc ghi-ta để cùng cất “tiếng hát át tiếng bom”. Trung ghi lại cảm xúc cả những khi nhận đƣợc thƣ của gia đình và bạn bè, trong đó có nhắc đến bạn Mạnh Chiến, bạn Trƣờng… (Khi đọc đến đây, chúng tôi nhìn nhau: “Khóa ta có hai Trường. Trung nh c đến Kháng hay Công?”, thì ông bạn Nguyễn Công Trƣờng giơ tay xin nhận đó chính là mình!).
Bạn bè khóa 5 quây quần bên ba má liệt sĩ Huỳnh Kim Trung, 19-08-2001 Trong nhật ký, Trung nhắc cả đến một cô bạn gái tên H. (Vậy là Hà, Hoa hay Hạnh?… mà có phải là Hạnh em gái của C. 169
hay không? Hồi đó, hai anh em quý nhau lắm, hay trò chuyện tâm sự với nhau, hình nhƣ còn viết cả thƣ cho nhau!). Giá nhƣ Trung của chúng ta vƣợt qua đƣợc những năm tháng ác liệt của chiến tranh, ngày trở về, biết đâu Trung sẽ xây dựng với cô bạn H… Rồi 30 năm sau, hai bạn cũng có con trai, con gái lớn nhƣ con của chúng tôi bây giờ… *** Thành tích chiến đấu của Trung được ghi trong hồ sơ lưu tại Phòng thi đua X15 (Bộ Công an): 16-4-1972: Giải phóng đoàn xe từ phiá Nam ra bị tắc trong khi máy bay Mỹ đang đánh phá. 29-4-1972: Dập tắt lửa trên xe chở đạn bị máy bay địch bắn phá, đƣa lái xe bị thƣơng và cõng 1 công nhân bến phà đi cấp cứu. 12-6-1972: Vận động bà con cứu xe hàng của Đoàn 559 đang trên phà bị máy bay Mỹ bắn chìm... Những trang nhật ký của bạn tôi dừng ở ngày 6 tháng 8 năm 1972. Những dòng cuối cùng được viết thật cảm động: Để bảo vệ cuộc sống hoà bình, hạnh phúc cho mọi người lương thiện, nếu phải ngã xuống thì cũng không có điều gì phải ân hận. Tổ quốc sẽ mãi ghi công, dân tộc sẽ đời đời ghi nhớ!... Má ơi, con thương má quá! Đáng ra tuổi già như má là tuổi an nhàn, nghỉ ngơi và có những đứa con lớn phụng sự. Thế 170
nhưng vì Tổ quốc kêu gọi, nước còn thì nhà còn, nước mất thì nhà tan, vì vậy chúng con phải tạm thời xa ba má, anh chị và bà con, xa những mái nhà thân yêu từ thuở bé được sinh ra và lớn lên, để khoác súng lên đường đi kh p mọi miền đất nước... Chúng con sẽ thực hiện lời Bác đã dặn: ”Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi!”. Quét sạch rồi, con sẽ về phụng sự má, như trăm ngàn đứa con hiếu thảo khác. *** Hai tuần sau, đúng vào ngày 20 tháng 8 năm 1972, trong khi máy bay Mỹ đang đánh phá, Trung đã cùng dân quân lao vào cứu kho đạn pháo 37 và 85 ly. Vác đến hòm đạn thứ 50 thì đạn nổ, Trung bị thƣơng rất nặng. Đƣợc đồng đội cấp cứu. Biết không thể sống đƣợc, Trung đã yêu cầu cứu ngƣời khác nhẹ hơn. Và Huỳnh Kim Trung đã anh dũng hy sinh khi vừa tròn 20 tuổi. Chỉ có thế hệ trẻ Việt Nam chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc mới “coi cái chết nhẹ nhƣ lông hồng”, mới có những hành động phi thƣờng đến nhƣ thế! Huỳnh Kim Trung của chúng tôi đã góp phần tô đẹp thêm truyền thống của trƣờng Thiếu sinh quân, mang tên Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi!
Tháng 10-2001 M.Đ 171
172
Quyết định truy tặng Anh hùng LLVTND cho liệt sĩ Huỳnh Kim Trung 173
Năm nào chúng tôi cũng đến đám giỗ LS Huỳnh Kim Trung
23/8/2009, Út Quế viếng anh tại Nghĩa trang Liệt sỹ tỉnh Tiền Giang 174
Các thầy cô, chị Quyên và ba mẹ liệt sĩ Huỳnh Kim Trung luôn có mặt sinh hoạt truyền thống cùng khóa 5 tại Tp.HCM.
Xem bài viết: 1. Những dòng nhật ký để lại của ngƣời anh hùng liệt sĩ - Trần Kiến Quốc, 27/07/2010 tại "Bee.Net.Vn". 2. Ngƣời anh hùng sống mãi Huỳnh Kim Trung - Nhạc và lời: Hồng Tuyến, 14/03/2010 tại "Trang văn nghệ trường VHQĐ Nguyễn Văn Trỗi". 3. Viếng nghĩa trang Liệt sỹ - N.H.QUE, 23/8/2009, Blog K8. 4. Hồ sơ ngƣời Anh hùng - Anh hùng Liệt sĩ Huỳnh Kim Trung - Kiến Quốc, SRTKL 1, Tr.: 5. Nhật ký để lại của AHLS Huỳnh Kim Trung - KQ, SRTKL 1 6. Kỷ niệm về Anh hùng Liệt sĩ Huỳnh Kim Trung - Ngô Hồng Chiêu, Cán bộ quản lý K5,K8, SRTKL1. 7. Đọc nhật kí chiến trƣờng của anh hùng liệt sĩ Huỳnh Kim Trung - Minh Đức, SRTKL 2, Tr.: 102-106. 175
Liệt sĩ Đặng Bá Linh
176
Học sinh khóa 6
Sinh: 9/3/1953. Trú quán: 75 Trần Quốc Toản, HK, HN. Nhập ngũ: 1/1972 Đơn vị: C611, F330-338 -> C2, F304. Hy sinh: 26/8/1972 (18/7 Nhâm Tý) tại Cao điểm 105 B c (dưới chân điểm cao 367), thuộc dãy Trường Phước, Quảng Trị. (Đã quy tập lần 1 về NTLS xã Hải Lệ, Hải Lăng nhưng lọ penecicline đựng thông tin về LS bị thất lạc nên mộ anh trở thành vô danh. Sau đó LS được quy tập lần 2 về NTLS huyện Hải Lăng, Quảng Trị - Ga Diên Sanh, quá vài trăm mét – Gia đình lấy n m đất từ cao điểm 105 B c về thờ). Liên hệ gia đình: Mẹ Đặng Thu Hồng, 88 Lê Thị Hồng Gấm, Q1, TP. HCM.
177
Chuyện về một liệt sĩ, bạn tôi 1 Trần Kiến Quốc K5 *
T
háng giêng 1972, vào giai đoạn ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, hàng nghìn học sinh, sinh viên Hà Nội mà tuổi đời mới mƣời tám, đôi mƣơi,
nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc đã lên đƣờng nhập ngũ. Họ đƣợc các sƣ đoàn chủ lực huấn luyện để trở thành những ngƣời lính trƣớc khi ra mặt trận. Từ Hà Nội, lính mới lên xe hành quân vào Nga Sơn, Thanh Hóa. Ngày đi học, họ chỉ biết Nga Sơn qua mấy câu thơ lục bát, nay lại đƣợc sống đúng vùng đất làm chiếu cói nổi tiếng. Tiểu đoàn 611, sƣ 338 tiếp nhận số tân binh này và tổ chức luyện quân trong 6 tháng. Mấy anh em học sinh trƣờng Nguyễn Văn Trỗi (Tăng Tiến, Bá Linh, Chấn Biên, Hữu Dân, Lam Sơn…) vẫn giữ liên lạc với nhau. Riêng Tiến và Linh đƣợc phân về cùng một tiểu đội với Bạch Quốc Bình (một chàng trai Hà Nội). Cho dù giặc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, nhƣng cánh lính trẻ vẫn không cảm thấy gian khổ; cứ sau giờ huấn luyện là vui đùa, nghịch ngợm. Có lần thèm thịt chó, cả tiểu đội đã kéo nhau đi “ăn chịu” ở phố Nga Sơn, không có tiền anh em đã định đặt mũ cối gán nợ (!). Cuối tháng 6, Quốc Bình, Bá Linh và Hữu Dân đƣợc phân về sƣ đoàn 304. Riêng sƣ đoàn 338 vƣợt Trƣờng Sơn sang Hạ Lào 178
giúp bạn giải phóng Saravan và Atôpơ. Sau Tết 1973, kết thúc chiến dịch, sƣ đoàn 338 rút quân ra Bắc. Qua bạn bè ở sƣ đoàn 304, anh em biết tin Linh đã hy sinh. Về đến Hà Nội, đƣợc nghỉ phép, tháng 8 năm ấy, Tiến và Lam Sơn rủ nhau đến thăm gia đình bạn ở đƣờng Trần Quốc Toản nhƣng cả hai đã giấu cô Hồng tin buồn này… *** Bạch Quốc Bình, ngƣời đồng đội bên Linh đến giây phút cuối cùng, từ Hà Nội đã gửi cho tôi lá thƣ với nhiều tâm sự: “Xin kể cho anh kỷ niệm về trận đánh đầu tiên nhưng cũng là trận cuối cùng của Linh. Đúng hôm đó, Linh hy sinh. Nghĩ về đồng đội, nhất là những người đã mất, thì chẳng bao giờ quên được…” Huấn luyện xong, Bình và Linh về cùng một tiểu đội. Hết đợt nghỉ phép 10 ngày, sáng 18 tháng 6 năm 1972, đơn vị lên đƣờng hành quân vào Nam. Sau một tháng trời hành quân, đơn vị tập kết về một cánh rừng thuộc huyện Hƣớng Hóa (Quảng Trị) và đƣợc nghỉ một tuần chờ giao quân. C2 đƣợc bổ sung thêm 25 chiến sĩ mới, trong đó có Bình và Linh. Qua Ánh, liên lạc đại đội, anh em biết đƣợc quân số C2 hiện còn có 45 ngƣời. Tuần đầu chỉ đi vác gạo, vác đạn và sửa sang công sự. Hai đứa đƣợc phân nằm cùng hầm. Thời gian này, cánh lính mới tập nghe tiếng réo của pháo kích, thử đoán điểm nổ, tập chạy bom B52... Chiều 26 tháng 8 năm 1972, nhà bếp cho “ăn tƣơi” với thịt lợn hộp, ca-la-thầu khô của Trung Quốc, canh nấu với rau tầu 179
bay kèm thêm ba gói bột giảm khát. Trƣớc bữa ăn, có thông báo: đêm nay, đơn vị sẽ tập kích cứ điểm 105 Bắc, thuộc dãy Trƣờng Phƣớc. Cơm nƣớc xong, hai đứa về hầm tranh thủ nhắm mắt. 11 giờ đêm, lệnh tập trung. Linh và Bình xách AK và 300 viên đạn. Mỗi ngƣời còn mang theo bi-đông nƣớc, lƣơng khô, cơm nắm, xẻng dã chiến, tăng, võng cùng mặt nạ phòng độc, bông băng; ngoài ra còn mang giúp đồng đội hai quả đạn B40.
Thầy, trò trường Trỗi trong ngày trao kỷ niệm chương cho gia đình liệt sĩ Đặng Bá Linh Tiểu đoàn cử trinh sát xuống dẫn đƣờng. Gọi là đại đội nhƣng chỉ có 18 ngƣời tham trận đêm ấy. Ngoài C trƣởng và ba lính cũ đƣợc cử làm B trƣởng, còn lại là lính mới. Số ở lại hậu cứ làm nhiệm vụ tiếp ứng. Theo chân trinh sát, anh em men đồi và 180
lội suối gần bốn tiếng đồng hồ mới đến chân cao điểm. Tại vị trí tập kết, C trƣởng hạ lệnh: “Cao điểm này do một tiểu đoàn ngụy chốt giữ. Đại đội được giao nhiệm vụ luồn sâu, lót sẵn, đợi hỏa lực của trung đoàn b n chế áp, các mũi sẽ tấn công. Ba mũi bố trí cách nhau 100m. Khi có lệnh, chỉ huy các mũi sẽ dùng đạn vạch đường phát hỏa, sau đó, các chiến sĩ mới được nổ súng”. Nhận lệnh xong, cánh lính trẻ ngồi bệt luôn xuống lòng suối cạn, ngủ gà ngủ gật. Khi đƣợc đánh thức, mũi do B trƣởng Long phụ trách gồm năm chiến sĩ đƣợc trang bị B40 và phóng lựu M79 lên đƣờng. Anh em đi khom theo hàng một ngƣợc lên đồi. Sau 30 phút thì đƣợc lệnh tản ra, chọn nơi ẩn nấp. Nửa đêm về sáng, trời tối om không một ánh trăng. Những ngọn cỏ tranh sắc nhọn đâm tua tủa trên mặt đất đầy đá sỏi. Cả không gian yên ắng, khét lẹt mùi thuốc súng… Đến giờ G, một ánh chớp lòe sáng! Sau đó, đạn cối, 12 ly 7, rồi hàng tràng đại liên bắn lên đỉnh đồi, tiếng AK điểm xạ… Cánh lính mới ù hết cả tai, hoa cả mắt mà chƣa đƣợc nổ súng. Dƣới ánh chớp chỉ cách chỗ hai đứa nằm quãng 300m, Bình nghe thấy cả tiếng lính ngụy la hét và nom rõ bóng chúng nháo nhào tìm nơi ẩn nấp. Ngớt tiếng pháo và cối, chỉ còn tiếng súng bộ binh, anh em bí mật tiếp cận trận địa địch. Bò hơn 100m, bỗng có một quả mìn chiếu sáng kích nổ. Theo quán tính, Bình lăn ngay sang trái, trúng một hố đạn pháo. Lập tức các cỡ đạn trên cao điểm bắn tới xối xả. Chọn ánh lửa đầu nòng ở hƣớng gần nhất, Bình đi hai điểm xạ, rồi lăn khỏi chỗ nấp. Anh vẫn nghe thấy tiếng súng của Linh điểm xạ hai, ba viên một. Thấy Linh bò 181
nhanh về phía trƣớc, Bình đã cố bò lên và thét to: “B n xong phải lăn đi ngay kẻo dính đạn”. Tiếng súng vẫn nổ rát… Trời bắt đầu hửng sáng… Có tiếng phụt và chạm nổ của đạn B40… Bắn xong, vừa lăn đi mấy vòng thì tay Bình chạm vào một ngƣời… lay chân thấy không nhúc nhích... lật mũ ra thì nhận ra Long. Anh đã bị mất nửa mặt, chắc do trúng đạn cối cá nhân. Tiếp tục bò lên, vừa mới nghe tiếng điểm xạ của AK thật gần thì lại nghe tiếng rên khe khẽ. Bình gọi Linh mà không thấy đáp lại. Khi bò ngang qua mới thấy Linh đang nằm sấp, tay để ngay dƣới bụng. Lật ngƣời anh lên mà không thấy chân quay theo, vội cởi quần dài của Linh kéo xuống thì thấy có hai vết thƣơng - một vết làm gẫy đùi phải, một vết ở bụng dƣới. Máu ra nhiều. Mắt Linh không nhắm đƣợc, môi mấp máy. Anh lục túi áo lấy một miếng sâm nhỏ cho vào miệng Linh. Đúng lúc ấy, Ánh bò tới: “Lệnh rút lâu rồi mà chúng mày không nghe à?”. Nói rồi Ánh lấy tay sờ khắp ngƣời Linh: “Hình như Linh chết rồi, người lạnh l m”. Không tin vào mắt mình, Bình cởi áo sờ khắp nơi rồi ghé tai vào ngực Linh mà có cảm giác tim vẫn còn đập. Một nỗi đau trào lên trong anh, chẳng lẽ mất một thằng bạn thân nhanh đến thế? Mới chiều qua, hai đứa còn ôm nhau ngủ trong hầm… Phải một lúc mới tĩnh tâm, Bình từ từ đƣa tay lên vuốt mắt Linh, cặp mắt Linh khẽ nhắm lại. Không còn thời gian, Ánh tháo võng đeo sau lƣng trải xuống đất rồi 2 đứa đặt Linh nằm vào bên trong. Đây đó đạn vẫn nổ. Ánh và Bình vừa bò vừa kéo Linh xuống chân đồi. Đặt tạm Linh ở bờ suối cạn, Bình và Ánh còn phải lên đồi mấy lần nữa để đƣa thi hài anh Long, dìu Quang bị 182
gẫy chân, đƣa Ngọc xuống. Dƣới chân cao điểm, lực lƣợng chi viện của đại đội đã tới cáng thƣơng binh, tử sĩ về hậu cứ. Trên đƣờng về, đơn vị còn bị địch pháo kích và trực thăng của chúng đuổi rát rạt. May mà không bị thƣơng vong, tổn thất thêm… Về đến hậu cứ, việc đầu tiên là cấp cứu thƣơng binh và làm các thủ tục chính sách cho liệt sĩ. Linh đƣợc đặt ngay ngắn trong một tấm tăng. Một anh bạn nhét mảnh giấy có ghi tên tuổi và đơn vị vào chiếc lọ penecicline, đậy nút lại và nhét vào túi áo Linh. Các liệt sĩ đƣợc chôn ngay tại hậu cứ và vị trí các nấm mộ đƣợc đánh dấu cẩn thận trên bản đồ tác chiến. Xong xuôi, anh em vội vàng lấp đất. Một loạt đạn bắn lên trời vĩnh biệt! … Rồi chiến tranh qua đi, Bình tìm về thăm gia đình… Cuối thƣ anh viết: “… Ch c rằng tôi đã không quá cường điệu, nhưng thực tế còn ác liệt hơn nhiều. Cho đến giờ kể lại chuyện này, tôi vẫn thấy gai hết cả người… Trong trận mạc, bạn bè đã nhường hết may m n cho mình. Được trở về sau chiến tranh là một hạnh phúc lớn!” *** Thời gian trôi qua, liên lạc bị gián đoạn. Phải cho đến khi Đặng Quý Lai (anh ruột Linh) dọn dẹp nhà mới tìm lại đƣợc mẩu giấy ghi địa chỉ của Bình. Điện thoại ra Hà Nội thì Bình đã chuyển nhà. Kiên trì tìm kiếm, anh đã nối lại liên lạc với Bình. Bình gửi vào cả sơ đồ cao điểm 105 Bắc cùng hậu cứ, nơi chôn cất Linh và đồng đội. Từ 1976 đến 1983, một số lƣợng lớn hài cốt các liệt sĩ ở Quảng Trị đƣợc quy tập. Do trong túi áo Linh vẫn còn lọ penecicline nên bộ phận quy tập xác nhận hài cốt Linh đã 183
đƣợc cải táng. Linh và đồng đội đƣợc chuyển về nghĩa trang liệt sĩ xã Hải Lệ (Hải Lăng). Nhƣng không hiểu vì lý do gì mà những thông tin quý báu đó bị thất lạc, mộ của Linh cùng nhiều liệt sĩ khác đã trở thành vô danh. Đến năm 1993, tỉnh cho xây dựng nghĩa trang liệt sĩ huyện Hải Lăng và mộ các liệt sĩ ở Hải Lệ lại đƣợc quy tập về đây. Cho dù đã đƣợc về một nghĩa trang lớn và đẹp, nhƣng thật đau lòng vì không biết vị trí mộ liệt sĩ Đặng Bá Linh và bao đồng đội hiện nằm ở đâu! Từ năm 1998, gia đình Linh, mà trực tiếp là vợ chồng anh Lai, đã nhiều lần từ thành phố Hồ Chí Minh ra Quảng Trị nhờ sự giúp đỡ của các nhà ngoại cảm để tìm em. Theo chỉ dẫn của Bình, anh đã tìm về cao điểm 105 Bắc và đã đào lấy một hộp đất mang về thành phố. Mộ tuy chƣa tìm đƣợc nhƣng đất tại nơi Linh nằm xuống đƣợc gia đình coi là một phần máu xƣơng của anh! Rồi lần thứ hai, lần ba… Một sớm đầu hè, chúng tôi đến thăm gia đình. Ba mẹ Linh mời chúng tôi lên thắp nhang cho anh. Thế là Linh hy sinh đã tròn 30 năm. Di ảnh bạn đặt bên cạnh bằng Tổ quốc ghi công. Trông Linh thật trẻ và đẹp trai; bạn khoác ngoài chiếc vỏ áo bông Trỗi để ló ra cổ áo quân phục xuân hè. Ngày còn ở nhà, Linh thích nghe ca nhạc bằng chiếc radiocassette Aiwa. Nay má Linh đặt nó ngay trên bàn thờ. Cạnh đó là hộp sơn mài có dán tờ giấy ghi mấy dòng chữ vi tính: “Đất lấy tại cao điểm 105 B c, tỉnh Quảng Trị, nơi Đặng Bá Linh và hàng ngàn đồng đội đã chiến đấu và hy sinh”. 184
Tăng Tiến có mặt đã tâm sự: “Sau ngày thống nhất, tướng Tô Ký - nguyên Trưởng ban Ban Liên lạc truyền thống sư đoàn 330-338 - đã chọn tên “Thành đồng Tổ quốc” cho tấm kỷ niệm chương tặng cho những cựu chiến binh các thế hệ. Tết Nhâm Ngọ, đồng đội cũ đã làm các thủ tục để Linh được truy tặng. Cháu đã xin phép Bạch Quốc Bình để được mang nó vào cho gia đình… ” Anh nhắc đi nhắc lại câu nói ngày đó của tƣớng Mai Hiền - nguyên sƣ trƣởng sƣ đoàn 338: “Tôi thực sự yêu quý và kính trọng cánh lính trẻ nhập ngũ năm 1972 về tiểu đoàn 611. Vì Tổ quốc, họ đã dám nhận lấy cái chết cho chính mình”. Má Linh nghẹn ngào: “Biết thầy giáo và bạn học cũ lại thăm, ở dưới đó Linh vui l m”. Bà khẽ lau nƣớc mắt và đặt tấm kỷ niệm chƣơng ngay ngắn bên di ảnh… Xin thay mặt những ngƣời còn sống chắp nối cuộc đời của liệt sĩ Đặng Bá Linh qua kỷ niệm của những ngƣời thân và đồng đội. Xin coi đây nhƣ một nén hƣơng thành kính tƣởng niệm nhân ngày Thƣơng binh - Liệt sĩ! Sài Gòn, tháng 7 – 2002 T.K.Q
1. Bài đăng trên báo QĐND cuối tuần ra ngày 28-7-2002.
Ph 185
giám đốc Cty Việt Vƣơng, Thành phố Hồ Chí Minh.
Kỉ vật của bạn Nhân ngày 27/7 Tô Thắng K6
M
ột bữa, hồi còn ở trƣờng Y Trung, tranh thủ có nắng, tôi đem chiếc quần duy nhất còn lại ra gột giặt để kịp chiều còn sinh hoạt lớp. Cẩn thận, tôi đã chọn chỗ
phơi ngoài sân sao cho có thể quan sát đƣợc từ giƣờng của mình. Yên chí lớn, tôi... nằm, vừa trông quần, vừa đọc sách. Thế rồi gió mát hiu hiu... đến khi giật mình tỉnh nhìn ra thì đã không thấy bóng quần đâu nữa. Lật đật chạy ra sân phơi, dòm trƣớc ngó sau thấy trên dây phơi bên cạnh có một cái quần y nhƣ của tôi, phải cái hơi cũ hơn tí. Tôi tự nhủ một cách "ngây thơ" rằng "ch c thằng này lại rút nhầm quần mình vào rồi, cứ mang vào đã, sau sẽ đổi". Dật vội khỏi dây phơi, tôi cầm quần biến vào trong nhà. Đến khi ngồi trên giƣờng giở ra nhìn kĩ, tôi mới thấy chữ "Bá Kim" thêu chỉ mầu nhảy múa trên cạp. Nhìn sang bên, tôi thấy Kim vẫn còn đang ngon giấc. Thế này thì không có cái sự nhầm rồi. Hết giờ ngủ trƣa, tôi trả Kim cái quần và kể chuyện “rút hộ”. Dù còn ngái ngủ, tôi vẫn đọc đƣợc trong ánh mắt bạn cái cƣời tinh quái: "Chà chà, thằng này thế mà cũng ...”. Mọi ngƣời trong phòng biết chuyện xúm lại tán, ầm nhƣ chợ vỡ. Tôi còn đang chƣa biết nghĩ sao thì nghe một giọng dứt khoát nói nhƣ ra lệnh: "Thôi thằng Th ng bận cái này vào lên 186
lớp, hạ hồi phân giải sau". Linh cố, hồi đó là tiểu đội trƣởng* tiểu đội tôi, chẳng biết đứng sau lƣng tôi từ bao giờ, vừa nói vừa dúi vào tay tôi chiếc quần của mình. Quần Linh đƣa vải mềm, sợi bông bông, nhạt màu xanh sắc tím chứ không nhƣ cái cũ của tôi, vải cứng mặt trơn, xanh màu lá cây. Hồi đó Linh vào loại cao, ít ra cũng hơn tôi một đầu nên phải nói là tôi bơi trong cái quần của bạn. Linh giúp tôi kéo thắt lƣng, xắn gấu quần, rồi lùi lại vài bƣớc ngắm nhìn, ôm miệng cƣời: "Không sao! Trông kẻng ra phết". Và từ đó tôi diện cái quần của bạn. Vải mềm nên gấu quần hay tụt xuống, mà chẳng hiểu sao ống bên phải bao giờ cũng thấp hơn bên trái. Sau ngày trƣờng giải tán, bọn tôi lại trở thành hàng xóm của nhau. Một hôm dọn đồ tôi lại thấy cái quần của Linh vẫn còn nằm trong ba-lô. Mang sang nhà, tôi đùa trả lại bạn để làm kỉ niệm trƣờng Trỗi. Linh cƣời hiền: "Thôi đi cha nội, cho vào bảo tàng được rồi!" Vâng, giờ thì cái quần ấy của Linh cố đã mãi mãi nằm trong cái bảo tàng riêng bé nhỏ của tôi. Cứ mỗi lần nghĩ đến “cái thằng tôi” hồi đó, trƣớc mắt tôi lại hiện lên hình ảnh một chú nhóc ống thấp ống cao trong cái quần vải mềm, sợi bông bông với màu xanh tim tím.
Budapest, tháng 7/2009 * Nhớ nhầm. Đúng ra là Trung đội phó (theo Danh sách C61 năm 1965 do Thày Trường cung cấp - LMC) 187
Nắm đất lấy từ Quảng Trị và chiếc radio Đặng Bá Linh nghe ca nhạc ngày còn sống
Giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ Đặng Bá Linh 188
Kỷ niệm chương Sư đoàn 330-338 cho cựu chiến binh Đặng Bá Linh
“Kỷ niệm chương” cho LS Đặng Bá Linh 189
26/12/2005, anh em K6 TPHCM thăm gia đình
9/4/2009 – K7,8,9 thăm Nghĩa trang Liệt sĩ huyện Hải lăng nơi có Đặng Bá Linh K6 và Trần Hữu Dân K7 190
27/7/2009, ACE K6 đã đến thăm cô Hồng, má Đặng Bá Linh. Cô rất mong các anh em bạn của Linh thường xuyên đến với cô.
Xem bài viết: 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 191
“Kỷ niệm chƣơng” cho LS Đặng Bá Linh - hameok6, 06/01/2011, Blog K6. Chuyện thật, khó tin... - Nguyễn Tăng Tiến K8 (SRTKL3, 269-272), Blog K6. Thăm mẹ bạn Linh cố (năm 2003) - 31/12/2009, Blog K6. Kỉ vật của bạn - Tô Thắng, 12/7/2009, Blog K6. Bạn Trỗi viếng thăm Liệt sĩ - 26/6/2009, Blog K6. Tƣởng nhớ Liệt sĩ Đặng Bá Linh - 26/12/2005, Blog K6. Chuyện về một liệt sĩ, bạn tôi - Kiến Quốc, SRTKL2, 135-141. Quảng Trị và những đồng đội còn nằm lại - Lê Chí Hòa K5, SRTKL2, 204-208.
Liệt sĩ Nguyễn Mạnh Minh
192
Học sinh khóa 6
Sinh: 20/8/1953 D2 Khu tập thể Nam Đồng, Hà Nội. Nhập ngũ: 9/1971 Cấp bậc: Binh nhất Đơn vị: Đoàn 559, sư 471, Đoàn vận tải Quang Trung - Binh trạm 46, tỉnh Saravan. Hy sinh: 25/3/1972 (11/2 Nhâm Tý) tại Quân y viện 4 mặt trận Quảng Trị. Mộ tại Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn (đoạn A Lưới đến Đồng Hới Đường HCM), khu dành cho những Liệt sĩ thuộc Quận Đống Đa, Hà Nội. Vị trí mộ: I,K,6. Liên hệ gia đình: Anh Nguyễn Mạnh Quang K4, 250/20/17 Khương Trung, Đống Đa, Hà Nội. (04-35653745).
193
Nhớ Mạnh Minh Nguyễn Hoàng Anh K6
T
ôi và Mạnh Minh cùng học lớp 4A, trƣờng Bế Văn Đàn (Đống Đa, Hà Nội). Gia đình hai đứa lại ở cùng Nhà 2, khu tập thể quân đội Nam Đồng. Mạnh Minh có anh
trai là Mạnh Quang học trên hai lớp. Mỗi sáng nghe tiếng huýt sáo, vừa thò mặt ra là thấy ngay cái miệng cậu ta đang toe toét cƣời dƣới chân cầu thang. Hai đứa vừa đi vừa véo từng mẩu bánh mì bỏ vào miệng và nhẩn nha truy bài cho tới tận cổng trƣờng. Trong những ngày giặc Mỹ đánh phá điên cuồng ra miền Bắc, tôi và Mạnh Minh cùng đƣợc gọi lên trƣờng Văn hóa quân đội mà sau này là trƣờng Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi, tuy không còn học chung một lớp. Một buổi tối mùa đông năm 1966, có chiếu phim ở Gốc đa Hiệu bộ. Hôm đó chiếu bộ phim lịch sử Trung Quốc có nhân vật Mạnh Tử 1. Chẳng hiểu Mạnh Tử có gì giống Mạnh Minh hay không mà sau khi xem về, cả lớp nhất loạt gọi bạn là Mạnh Tử (!). Năm 1970, khi trƣờng kết thúc nhiệm vụ đào tạo thì khóa 6 chúng tôi vừa học xong chƣơng trình lớp 9 phổ thông. Cả bọn trở về gia đình. Cánh khóa 6 ở “quân khu” Nam Đồng còn có Nguyễn Quang Dũng và Phạm Quang Vinh (dân Nhà 8) cùng về học tại trƣờng phổ thông cấp III Đống Đa. Sau này Dũng kể lại, 194
Mạnh Minh còn là học sinh giỏi của khối lớp 10. Năm học 19701971 bạn đƣợc nhà trƣờng chọn đi thi học sinh giỏi Toán cấp thành phố. Nhƣng chả hiểu sao, hay vì quý bạn hơn chuyện thi cử; sáng hôm đó, Minh đã không dự thi mà bỏ đi chơi cùng Dũng. Nghĩ lại, có lẽ đây là một đặc điểm “hơi bị dở” của “lính Trỗi” nhƣng có nét đáng nể kiểu “Lƣơng Sơn Bạc”. Rất ngang tàng và chí khí. Thật đau lòng, một tai nạn giao thông khủng khiếp đã cƣớp đi cuộc sống của mẹ Mạnh Minh vào đầu năm 1971. Chín tháng sau ngày mẹ mất cũng là lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ vào giai đoạn ác liệt. Nhƣ bao thanh niên cùng lứa, Mạnh Minh xung phong lên đƣờng nhập ngũ. Trƣớc ngày nhập ngũ một tuần, anh nhận đƣợc giấy báo trúng tuyển đề ngày 15 tháng 9 năm 1971 vào trƣờng Đại học Cơ điện Bắc Thái. Mất mẹ chỉ còn lại bố, anh dồn hết tình cảm cho ông. Bố anh, một ngƣời lính từng tham gia hai cuộc kháng chiến, đã tâm sự: Là thanh niên khi đất nƣớc có ngoại xâm thì phải đánh giặc, đánh giặc xong về học cũng chƣa muộn. Nghe lời bố, anh đã mang cả tuổi xuân ra trận. Mạnh Minh cùng đồng đội đƣợc sƣ đoàn 311 (Quân khu Thủ đô) huấn luyện tân binh tại vùng đồi núi Tân Lạc (Hòa Bình). Sau huấn luyện, các anh lên đƣờng bổ sung cho Đoàn vận tải 559. Đơn vị đóng ở phía tây Trƣờng Sơn (Nam Lào) để chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lƣợc đầu năm 1972, nhằm tạo ra bƣớc chuyển căn bản, làm thay đổi cục diện chiến tranh. 195
… Cho đến một ngày giữa tháng 5 năm 2003, tôi đƣợc anh Mạnh Quang chuyển cho những lá thƣ của Mạnh Minh viết gửi bố dọc đƣờng hành quân 2. Ngày 27 tháng 2 năm 1972 Bố kính mến, Như vậy là con đã đến đây được hai ngày. Hiện con ở Nam Hà, huyện Kim Bảng, xã Đại Cương, cách ga Đồng Văn khoảng 3km. Tối mồng 8, thằng Vinh đèo con đến Đại Mỗ. Con ngủ đêm ở đó. Sáng hôm sau lại được gọi đi tiền trạm, tìm chỗ đóng quân cho đơn vị. Thế là con không còn dịp để về nhà thăm bố. Ngày mai, chúng con được đổi quân trang, nhận các trang bị đi “B”. Sáng nay, bác Trần Duy Hưng 3 và một số cán bộ ở Bộ tư lệnh Thủ đô đến đơn vị con động viên và trao nhiệm vụ. Chỉ vài ngày nữa thôi là chúng con lên tầu đi chiến đấu, phải xa Hà Nội, xa miền B c, xa các em cùng tất cả bà con cô bác trong gia đình và hàng xóm. Từ giờ trở đi, con không còn thời gian để về thăm các em nữa đâu, bố ạ! Trước khi đi xa, con cũng chẳng còn vướng m c gì cả, rất an tâm và sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu mà Tổ quốc và nhân dân cần đến. Con sẽ hoàn thành nhanh chóng và tốt đẹp mọi nhiệm vụ được giao, không làm điều gì ảnh hưởng đến truyền thống của gia đình ta. Chúc bố và cả gia đình mạnh khỏe. Bố cho con gửi lời hỏi thăm sức khỏe của tất cả bà con hàng xóm và các em. 196
Con của gia đình. Mạnh Minh. TB: Tiếc quá bố ạ, chúng con không có hòm thư vì ở đây rất ít ngày. *** Khăm Muộn – Chủ nhật, ngày 5 tháng 3 năm 1972. Bố kính mến! Chúng con vừa qua một đêm hành quân vất vả bằng ôtô từ Bố Trạch (Quảng Bình) đến Khăm Muộn (Nam Lào). Ngày kia sẽ có một đơn vị đến đây nhận quân. Các đồng chí đại đội trưởng và chính trị viên làm nhiệm vụ huấn luyện, sau khi giao quân xong sẽ tiếp tục quay ra B c làm nhiệm vụ huấn luyện quân mới. Con tranh thủ viết thư gửi về ngay cho gia đình. Bây giờ chúng con ăn ngủ đều ở rừng, mà rừng ở đây cây rất to và cao, cành lá um tùm. Ở dưới đất thì ngược lại, rất ít cây, chỉ có cây con chứ không có cây rậm rạp. Để ở rất tốt nhưng rất nhiều muỗi, mới có 4 giờ chiều mà muỗi đã bay ra đầy. Chỉ còn một ngày nữa thôi, chúng con tiếp tục hành quân, nhưng chưa biết đi đâu. Ch c là lại vào sâu vùng Đường 9 – Nam Lào. Từ nay trở đi, việc gửi thư của con cũng khó khăn hơn, bố ạ. Nhưng nếu có điều kiện là con sẽ viết thư về báo tin cho bố, bố cứ yên tâm. Con rất khỏe và sẽ viết thư cho bố. Mong bố và các em khỏe. Đứa con đi xa của gia đình. Mạnh Minh. (Con phải gửi ảnh về cho bố vì ở đây chúng con không được phép mang theo ảnh). 197
*** Ngày 8 tháng 3 năm 1972. (Lá thư thứ hai kể từ khi sang đất Lào). Bố kính mến! Sau hai ngày không viết thư về cho gia đình, con thấy nhớ quá bố ạ. Con tin ch c lá thư thứ nhất thể nào bố cũng nhận được vì nó gửi qua mấy cán bộ đại đội được ra B c. Bố ạ! Lẽ ra đại đội con sẽ cùng tiểu đoàn hành quân bộ vào “B”, sẽ vào tận Tây Ninh, nhưng cấp trên lại rút một đại đội ra để đi làm một nhiệm vụ khác. Không biết là nhiệm vụ gì (thư sau con sẽ nói rõ), chỉ biết chúng con hành quân toàn bằng ôtô. Chỉ ba ngày nữa là chúng con đến vị trí tập kết. Dọc đường hành quân thật là nguy hiểm. Có chỗ xe chúng con phải vượt qua những vùng đất trống, nơi đó máy bay B52 đã quần nát, cây cối trơ trụi. Trong khi máy bay trinh sát OV-10 và máy bay phản lực quần đảo thì xe chúng con vẫn cứ đi. (Con cũng chả hiểu vì sao mà nó không b n?!). Hành quân bằng xe như vậy cũng chẳng sướng gì, bố ạ. Hôm đầu phải đi bộ 2 tiếng đồng hồ mới tới nơi đỗ xe, phải chờ đến 9 giờ đêm, xe mới b t đầu chạy và đến 10 giờ sáng hôm sau xe mới tới vị trí nghỉ chân. Sau đó, bọn con nghỉ đến 4 giờ sáng mới lên xe đi tiếp và 10 giờ sáng nay thì đến đây, chờ sáng sớm mai lại lên đường... Ăn uống ở đây cũng rất khổ, chỗ lấy nước cách chỗ ở hơn 1km, cơm ăn từ hôm sang Lào đến nay không có lấy một ngọn 198
rau. Thèm rau vô kể... Đời bộ đội khổ thì rất khổ, nhưng vẫn lạc quan và yêu đời... Con vẫn khỏe nhưng gầy đi nhiều, đen hơn và nhớ bạn bè, nhớ gia đình, nhớ bà con hàng xóm l m l m! Con giờ chỉ có thời gian để viết thư cho bố thôi, nếu rỗi, con sẽ viết thư cho anh Quang. Con đang thiếu ngủ và rất cần ngủ, bố ạ. Con đã quầng thâm cả hai m t rồi. Bố cho con gửi lời hỏi thăm sức khỏe của anh Quang và hai em cùng bà con cô bác trong gia đình và hàng xóm. Đứa con đi xa của gia đình. Mạnh Minh. *** Ngày 21 tháng 3 năm 1972. Bố kính mến! Bức thư này là bức thư thứ tư kể từ khi con sang đất Lào. Trong suốt quãng đường hành quân bằng ôtô rất vất vả, rất bẩn nhưng rất an toàn. Đoạn nguy hiểm nhất là đoạn vượt qua Đường 9, vì đó là một bãi trống, cây rất thấp mà bụi nhiều, hôm đó OV-10 bay liên tục không nghỉ. Vào khỏang 9 giờ sáng, đoàn xe của chúng con có trên 10 chiếc chở cả gạo lẫn người đi qua Đường 9. Xe của con là chiếc thứ hai, vượt qua Đường 9. Sau 15 phút, máy bay trinh sát phát hiện đã gọi phản lực đến ném bom. Lúc con đang nhẩy xuống xe để tránh thì một quả bom nổ cách con 500m, làm cháy một chiếc xe của đoàn bạn đang trên 199
đường. Máy bay phản lực quần đảo đến 30 phút nữa nhưng không làm cháy thêm chiếc nào và không ai bị thương, mặc dù chúng thả rất nhiều bom. Ngày hôm đó, chúng con phải đợi đến 5 giờ chiều mới đi được. Bố ạ! Hiện nay con đang ở Đoàn 559, sư 471, Đoàn vận tải Quang Trung và ở trong Binh trạm 46, thuộc tỉnh Saravan. Nhiệm vụ của chúng con chưa rõ l m, nghe đâu tạm thời đứng gác máy bay ban ngày để báo cho các đoàn xe vận tải biết mà tránh. Ở đây, đa số máy bay trinh sát hoạt động ban đêm, còn ban ngày thỉnh thoảng có L-19 và OV-10. Nói chung, ở vị trí này mùa khô rất an toàn mặc dù đây là vùng được giải phóng mới hơn một tháng. Thị trấn Saravan cách chỗ con đóng quân hơn 4 tiếng đi bộ và xung quanh đều có dân Lào sinh sống. Nghe nói bọn phỉ ở Lào hoạt động mạnh vào mùa mưa, nên vào mùa mưa chúng con phải cẩn thận hơn. Ở đây ăn uống, sinh hoạt đều khó khăn: không có rau xanh và thịt tươi; chỗ t m và chỗ ăn là hai vũng nước đọng của con suối cạn, rất nhiều nòng nọc và rác bẩn. Được cái, gạo và củi ở đây rất dồi dào,ăn no nhưng phải đề phòng lửa và khói. Chúc bố và các em mạnh khỏe, công tác tốt. Đứa con đi xa của gia đình. Con Mạnh Minh. TB: Con vẫn khỏe và an tâm công tác. Bố cứ yên tâm. (Bức thư này có lẽ về nhà trước bức thư thứ ba vì con gửi qua người về Hà Nội). *** 200
Chỉ vài ngày sau, trong trận chiến đấu ác liệt, đảm bảo cho mặt trận, anh bị trúng đạn, đƣợc đồng đội sơ cứu. Điều kiện chiến trƣờng ác liệt và thiếu thốn, không cứu đƣợc đôi chân; tại trạm quân y tiền phƣơng, các bác sĩ buộc phải ra quyết định cắt bỏ và chuyển anh về tuyến sau. Gọi là “tuyến sau” nhƣng Quân y viện 4 nằm không xa mặt trận, thƣơng binh phải nằm hầm và hàng ngày phải hứng chịu những trận mƣa bom ác liệt. Vào ngày 25 tháng 3, báo động B52! Quân y viện chỉ toàn y, bác sĩ với những thƣơng binh nặng thì làm sao có thể cơ động đội hình tránh rải thảm. Bất lực! Cả viện nằm gọn trong vệt bom. Khói lửa mù mịt, hàng trăm quả bom nổ trúng đội hình. Mạnh Minh cùng hầu hết các thƣơng, bệnh binh và y, bác sĩ đã hy sinh anh dũng. Ít lâu sau nghe tin đau thƣơng này, tôi không còn tin ở chính tai mình. Chả lẽ đó lại là sự thật? Tôi không làm sao quên đƣợc thằng bạn đẹp trai, hiền lành và rất vui tính. Ngƣời nhƣ Mạnh Minh sao mà chết đƣợc!? Tôi ngẩn ngơ mấy tháng trời thƣơng nhớ bạn. Minh hy sinh khi còn quá trẻ, chƣa tròn tuổi 19! Trong số năm lá thƣ đã gửi về, gia đình không nhận đƣợc lá thƣ thứ ba (có thể ngƣời mang thƣ đã hy sinh dọc đƣờng ra Bắc). Còn lá thƣ đề ngày 21 tháng 3 năm 1972, chính là lá thƣ cuối cùng của anh. Tôi đã khóc khi cầm trên tay chiếc phong bì thƣ Mạnh Minh gửi về từ mặt trận. Ở mặt trƣớc có dán con tem bƣu chính Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một góc phong bì đã xé nhƣng chữ còn đọc đƣợc: 201
“… i xa Kính gửi: Bố Nhà 2, buồng 49 Khu tập thể Nam Đồng – Hà Nội” Mặt sau bì thư thấy in dấu bưu chính nhưng không rõ ngày và còn lưu lại nét chữ của Mạnh Minh: “Tôi! Đứa con đi xa của gia đình. *
* *
Cảm ơn tất cả cô bác và các đồng chí nào đã mang lá thư này của tôi ra miền B c xã hội chủ nghĩa thân yêu của tôi và đến tay gia đình tôi. CÁM ƠN & RẤT CÁM ƠN! Người đi xa. Mạnh Minh”. Xin nghìn lần cảm ơn bạn đã chiến đấu và hy sinh để chúng tôi đƣợc sống đến ngày hôm nay! Mạnh Minh thân yêu, bạn sẽ sống mãi trong lòng chúng tôi! Nhắn với anh em trƣờng Trỗi: ai có dịp qua Nghĩa trang liệt sĩ Trƣờng Sơn, xin nhớ ghé thăm Mạnh Minh. Tại khu dành cho những liệt sĩ thuộc quận Đống Đa (Hà Nội) có một nấm mộ với tấm bia ghi rõ: “Liệt sĩ Nguyễn Mạnh Minh – Sinh ngày 20 tháng 8 năm 1953. Quê quán: Đống Đa, Hà Nội - Hy sinh ngày 25 tháng 3 năm 1972, tại mặt trận phía Nam”. N.H.A
Bác sĩ chuyên khoa 2 Phẫu thuật thần kinh Viện 115, thành phố Hồ Chí Minh. 202
1. Khổng Tử sống thời Xuân Thu - Chiến Quốc (Trung Quốc), c tới 3000 học trò. Mạnh Tử là học trò xuất sắc của Tử Tƣ – một môn đồ của Khổng Tử. Mạnh Tử c công nâng cao và phát triển lí luận của Khổng Tử nên Đạo Nho sau này c tên là “Học thuyết Khổng-Mạnh”. 2. Đã trích đăng trong “Tuổi trẻ Chủ nhật”, ngày 25-5-2003. Bác sĩ Trần Duy Hƣng, cố Chủ tịch Uỷ ban Hành chính thành phố Hà Nội cùng cán bộ đến động viên các đơn vị, c chiến sĩ là con em Thủ đô.
Mạnh Minh vẫn sống trong tình anh em...
Tháng 6/2003, Cô giáo Nguyễn Thị Bích Liên K9 (em Cảnh K6,Can K7) Cuối năm 2003, Trần Chí Thọ K3 trong chuyến đi dọc Trƣờng Sơn đã tạt qua đây. 19/7/2004, Hữu Thành K4 đi thăm đƣờng Hồ Chí Minh, có ghé qua NTLS Trƣờng Sơn viếng các liệt sĩ và thắp hƣơng cho Nguyễn Mạnh Minh… rồi em Khƣơng Tú Anh ở TCKT… 203
29/6/2008 - Khắc Việt K7, Đoàn đi xuyên Việt Phú Hòa K4 Cám ơn K.V. Mình biết Mạnh Minh từ hồi nó còn nhỏ vì nhiều lý do. Mạnh Quang (anh trai của Mạnh Minh) là bạn học cùng lớp ở trường Trung Liệt và sau đó cùng K4 trường Trỗi. Hai gia đình đều là dân của "Quân khu Nam Đồng". Ông già bọn mình cùng làm việc ở một cơ quan. Nhìn vào bia đá trên mộ Mạnh Minh thì mình muốn cải chính một điều là Mạnh Minh ở nhà A2 chứ không phải là D2. HMK6 (Hà Chí Thành) Mạnh Minh và tôi đã từng chơi với nhau rất thân, cùng ở chung B3 hồi lớp 5, rồi từ lớp 6 cùng sang B2. Hồi đó tụi tôi gọi là Minh "đần" không phải là đần mà vì có lần điểm danh trung đội, khi kêu đến tên, mặt nó đần ra mấy phút mới hô "có". Sau nó mới khai vì lúc đó đang mắc ị quá nên "phân tâm" chẳng nghe thấy gì! Bởi vậy mới có câu: "Đần đần mắc ỉa đẹp thủ đô" là nói về nó. Chắc các bạn K6 đều còn nhớ. Vậy mà bây giờ nhìn mộ của Minh... tôi không biết nói thế nào. 19 tuổi. Chỉ bằng tuổi bọn con chúng mình bây giờ. Nấm mộ đó có thể đã là của tôi hay của bất cứ ai trong AE mình nếu như không phải là của Minh. Cám ơn Khắc Việt. 204
5/2/2009 - Bà xã Khắc Việt K7 cùng người quản trang
26/6/2009 - Hà Chí Thành K6 205
Tháng 9/2008 - Vũ Văn Việt và Lê Minh Chính K6
Tháng 12/2008, Hiền Vương -con gái Đức Dũng K5và mẹ từ CHLB Đức về 206
Nguyễn Mạnh Quang K4 Chào cháu Hiền Vương! Bác là Nguyễn Mạnh Quang, là anh trai ruột của chú Nguyễn Mạnh Minh mà cháu đã thắp hương trên mộ của chú, tại nghĩa trang Trường Sơn. Bác vô cùng cảm động. Chú Mạnh Minh hy sinh khi 18 tuổi tại mặt trận Nam Lào. Chú nhập ngũ 6 ngày sau thì có giấy gọi học Đại học cơ điện bách khoa... Khi sống, Chú là người sống tốt với bạn bè, được bạn bè tin yêu vậy nên ở Trường Sơn, mọi bạn bè có dịp ghé qua đều đến thăm Chú, đốt nén nhang gọi Chú, tâm sự cùng Chú. Bạn của Bác cũng thăm Em Minh và đều có tin cho Bác... CHÚ MẠNH MINH "SỐNG KHÔN, CHẾT THIÊNG" sẽ luôn "PHÙ HỘ" cho mọi người bạn của Chú. Bác tin rằng, Em Minh của Bác sẽ không bao giờ phụ công chi ân của mọi người. Bác vô cùng cảm ơn Bố Dũng - Mẹ cháu và cháu đã có hành động cao đẹp với các Liệt Sĩ Trường Sơn và riêng với Liệt Sĩ Nguyễn Mạnh Minh. Nơi chín suối, chắc Em Bác mát lòng và phù hộ cho Bố Mẹ cháu và Cháu đấy Cháu Hiền Vương ạ! Rất quí cháu và xin cảm ơn Bố Mẹ cháu và cháu một lần nữa. XIN CẢM ƠN! Bác Nguyễn Mạnh Quang
207
26/6/2009 – K3, K4, K5, K7 viếng thăm
26/6/2009 – K4, K8, K9 viếng thăm 208
31/7/2010, đoàn các gia đình của Cục TCĐT tổ chức thăm NTLS Trường Sơn và viếng mộ bạn Mạnh Minh. Có anh Hoàng Việt Thắng K4, gia đình Vũ Văn Việt và Lê Minh Chính K6.
Xem bài viết: 1. Thăm bạn Mạnh Minh ở nghĩa trang Trƣờng Sơn - bantroik6, 10/8/2010, Blog K6. 2. Bạn Trỗi viếng thăm Liệt sĩ - 26/6/2009, Blog K6. 3. Du xuân ghé thăm Mạnh Minh - Phóng sự ảnh của Khắc Việt, 5/2/2009, Blog K8. 4. Cháu đến nghĩa trang Trƣờng Sơn - Hiền Vương, 15/12/2008, Blog K4. 5. Thăm bạn Mạnh Minh 9/2008 - Blog K6. 6. Đồng đội ơi! - Kiến Quốc, 16/7/2008, Blog K4. 7. Đòan "Xiên Vịt"- Tin mới nhất!!! - Kiến Quốc,29/6/2008, BlogK4. 8. Quảng Trị - Khắc Việt, 29/6/2008, Blog K8. 9. Nhớ Mạnh Minh - Nguyễn Hoàng Anh K6, SRTKL 2, Tr.: 155-162. 10. Tâm linh - Lan Phương, SRTKL 2, Tr.: 163-164. 11. Sẻ chia - Phạm Nhất Trung K5, SRTKL 2, Tr.: 165-169. 209
Liệt sĩ Chu Tấn Quang
210
Học sinh khóa 6
Sinh: 20/2/1952 Quê (ngoại): Cần Thơ. Sinh viên Đại học Sư phạm 2 Hà Nội. Nhập ngũ: 1972 Lính bộ binh mặt trận Tây Nguyên 1971-1972. Đơn vị: C2 D4 E2 F5. Hy sinh: 29/12/1973 (6/Tháng Chạp, Quý Sửu) tại Mặt trận Bù Bông, Quảng Đức (nay là huyện Tuy Đức, Đ k Nông). Đã tìm được mộ năm 1975, sau thất lạc. Liên hệ gia đình: Em trai Chu Tấn Quốc. (0908102035)
211
CHU TẤN QUANG Rực sáng tên anh! Ghi chép theo lời kể của đồng đội và mẹ liệt sĩ Chu Tấn Quang KIẾN QUỐC
Q
uang sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng. Ba là ông Chu Tấn Đạt, ngƣời đã góp công xây dựng nên ngành quân giới Nam Bộ hồi
kháng chiến 9 năm; mẹ là bà Trần Thị Ngọc Lƣu – một cán bộ miền Nam tập kết. Đến tháng 10 năm 1965, khi chiến tranh chống Mỹ vào giai đoạn ác liệt trên phạm vi cả nƣớc, Quang đƣợc tuyển chọn vào trƣờng Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi. Những năm tháng học tập, rèn luyện trong môi trƣờng quân đội đã tạo dựng trong anh bản lĩnh của ngƣời chiến sĩ cách mạng. Cuối năm 1971, khi đang là sinh viên Đại học Sƣ phạm 2 Hà Nội, Quang xung phong tòng quân chống Mỹ. Vì ba anh đang tại ngũ nên Quang chƣa phải đi đợt này, nhƣng anh đã nằn nì với mẹ: Chờ học xong sợ sẽ hết giặc! Ngày 22 tháng 12 năm ấy, Quang đạp xe chở mẹ xuống tận Cầu Giấy, vào trƣờng gặp thầy Thanh (Chủ nhiệm khoa Công nghiệp) để ký vào đơn, đồng ý cho con nhập ngũ. Ít ngày sau, Quang về khoe: “Hôm nay, con cùng anh em đã chích máu ký vào lá cờ truyền thống của Đoàn trƣờng. Đợt này, 300 sinh viên các trƣờng Sƣ phạm cùng 30 thầy giáo đƣợc biên chế về cùng một tiểu đoàn huấn luyện. Vui 212
lắm! Anh trai của Hiền, bạn gái con ở phố Nhà Thờ, cũng đi đợt này. Mai tập trung…” Sáng mùng 3 tháng giêng năm 1972, các “tân binh Sƣ phạm” đƣợc thầy cô giáo, bạn bè và gia đình lƣu luyến tiễn lên đƣờng, hẹn ngày chiến thắng trở về. Trong số ngƣời đi tiễn, Quang thấy bóng Hiền đứng vẫy mãi. Ngày 17 tháng giêng năm 1973, đơn vị lên đƣờng vào Nam. Tết năm ấy, anh viết thƣ về báo tin đơn vị đang hành quân dọc Trƣờng Sơn. Vƣợt qua gian khó, tiểu đoàn sinh viên đã vào tới Nam bộ, bổ sung cho sƣ đoàn 5. Tại đây, anh đƣợc biên chế vào đại đội 2, tiểu đoàn 4, trung đoàn 2. Tuy thất bại nặng nề ở khắp chiến trƣờng, giặc Mỹ buộc phải ký Hiệp định Pa-ri về Việt Nam và rút quân về nƣớc, nhƣng chúng vẫn dùng ngụy quyền tiếp tục chiến tranh bằng kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ”, lấn chiếm vùng giải phóng. Càng gần thắng lợi, càng nhiều gian nan, nhất là khi phải đối mặt trực tiếp với lính ngụy. Vì thành tích chiến đấu, Quang đƣợc đề bạt trung đội phó. Cuối năm 1973, tại Bù Bông (thuộc tỉnh Quảng Đức cũ), trung đội anh đƣợc giao chốt giữ trên một quả đồi. Anh em trong đơn vị luân phiên trực chiến, đánh trận trƣớc, nghỉ trận sau. Đêm hôm trƣớc vừa dẫn anh em đi dẹp mũi đánh nống ra của địch, lẽ ra hôm nay đƣợc nghỉ nhƣng có đồng đội bị thƣơng, anh xung phong trực thay. Có báo động, ba tiểu đoàn ngụy đang dàn quân lấn chiếm. Quang chỉ huy trung đội dàn 213
trận và chặn đứng mũi tiến công chính diện của địch. Thừa thắng xốc tới, Quang xách AK xông vào đội hình giặc. Đồng đội thƣơng vong gần hết, tƣơng quan lực lƣợng chênh lệch. Không may, anh đã lọt vào vòng vây. Điểm xạ ba phát một, Quang nã gần hết ba băng mà địch vẫn đông nhƣ kiến. Vòng vây xiết chặt. Khẽ bóp cò, nghe tiếng “cạch” khô khốc. Hết đạn! Lạnh lùng bật chốt dƣơng lê, anh sẵn sàng đánh giáp lá cà. Không quên “thất tuyệt kỹ” trong bài “đâm lê quyết thắng”, đƣợc thầy Trần Sinh dạy ngày còn ở trƣờng Thiếu sinh quân cùng những bản lĩnh tôi luyện trong chiến tranh, mắt hằn lên những tia máu, Quang đã dùng lƣỡi lê và báng súng hạ thủ ba tên địch. Vừa nhứ mũi lê sang bên trái thằng thứ tƣ thì nó nhanh tay đánh mũi súng gạt chéo xuống. Nhanh nhƣ chớp lật báng súng, anh chọc ngƣợc mũi lê trúng tim. Máu ộc ra xối xả, hắn đổ vật xuống đất làm lƣỡi lê gẫy đôi. Khi tên thứ năm xô từ sau tới, anh chỉ kịp ngồi thụp xuống. Thân nó nhào qua đầu. Và cuộc vật lộn bắt đầu… Đã mất quá nhiều sức trong trận giáp chiến. Mặc! Dùng hết sức quật ngã và đè lên ngƣời tên địch, thừa cơ anh cắn đứt cổ hắn. Tên địch cong ngƣời lên thở hắt. Hành động dũng cảm của chiến binh Việt cộng khiến những tên còn lại khiếp vía tháo chạy. Xa xa, tiếng súng AK của quân ta đang đến chi viện… Cũng đúng thời khắc ấy, một tên địch nấp sau bụi cây nhắm Quang siết cò. Tay phải Quang chỉ kịp đƣa lên nơi trái tim, rồi tắt thở. Trời chạng vạng, lúc đó quãng 6-7 giờ tối ngày 29 tháng 12 năm 1973. *** 214
… Sau ngày toàn thắng, trung tá Chu Tấn Đạt đƣợc giao nhiệm vụ tiếp quản trƣờng Quân cụ Gò Vấp (thuộc Tổng cục kỹ thuật tiền phƣơng ngụy). Tháng 8 năm 1975, ngày trung đoàn 2, sƣ 5 tổ chức tổng kết chiến dịch, ông đã đƣợc mời dự cùng với Chính uỷ Trần Đăng Thạch. Trƣớc lễ mừng công, đơn vị cử hai cán bộ mang theo sơ đồ mộ chí, đƣa ông đi tìm mộ Chu Tấn Quang. Mới có hai năm mà trên mộ đã đùn lên một tổ mối lớn. Khi đào lên, thấy thi thể Quang còn nguyên vẹn, bàn tay phải vẫn đặt nơi trái tim, đồng đội và ông đã thắp hƣơng chôn Quang lại vị trí cũ. Khi chia tay, đơn vị hẹn ngày bốc mộ tập thể sẽ báo cho gia đình. Rồi chiến tranh biên giới, sƣ 5 lại lên đƣờng… Cho đến giờ, 27 năm đã trôi qua vẫn không hề có một thông tin gì về Quang. Sau ngày ông Đạt mất, gia đình cùng đồng đội nhiều lần cất công lên Bù Bông tìm mộ phần của anh. Nhƣng thời gian trôi qua, cảnh xƣa đổi thay cộng với sự tàn phá của con ngƣời, việc tìm kiếm trở nên vô cùng khó khăn. Nhân 27 tháng 7 năm nay, mấy đứa bạn thuở Thiếu sinh quân rủ nhau đến thăm gia đình. Mẹ Lƣu đƣa chúng tôi lên thắp nhang cho Quang. Di ảnh bạn đặt bên cạnh bảng vàng “Tổ quốc ghi công” cùng huân chƣơng Kháng chiến chống Mỹ hạng Ba. Mẹ tâm sự: “Sau ngày hy sinh, với hành động anh hùng của Quang, đơn vị có ý định lập hồ sơ đề nghị truy tặng danh hiệu Anh
215
hùng. Song nghe nói chƣa đủ tiêu chuẩn vì khoác áo lính mới có 2 năm…” - Thế còn 5 năm Thiếu sinh quân? – Ai đó thắc mắc. - Mà thôi các con ạ, cái quý nhất là bạn bè, đồng đội và cánh lính sinh viên không quên Quang. Cảm phục trƣớc hành động anh hùng của Quang, Phạm Ƣơng - một lính sinh viên - đã sáng tác bài hát “Nhớ thƣơng Chu Tấn Quang”. Ngày ông Đạt lên thăm đơn vị, trong đêm văn nghệ, hai anh Đức Cƣờng và Hoàng Hải vừa khóc vừa đệm đàn cho Quốc Tuấn hát bài đó. Ba nó đã ghi băng cassette và gửi ngay ra Hà Nội cho gia đình, khi đó, cô và các em đang sống ở khu tập thể Cao-Xà-Lá…
Các bạn khóa 6 đến thăm gia đình liệt sĩ Chu Tấn Quang 216
Mẹ Lƣu rƣng rƣng nƣớc mắt bật máy cassette cho chúng tôi nghe lại bài ca. Đã 27 năm trôi qua, chất lƣợng băng từ đã giảm, nhiễu tạp nhiều nhƣng vẫn nghe rõ lời ca:
Miền Nam quê hương anh, lửa đấu tranh đêm ngày rực cháy Cần Thơ quê hương anh, lửa hờn căm trút lên nòng súng Đạn pháo quân xâm lăng tàn phá quê hương anh Hờn căm đang chất lòng giục giã anh lên đường Chu Tấn Quang ơi! Lưỡi lê anh chói ngời, rực sáng tim muôn người cùng xông lên giết thù Trận địa khắp nơi nơi dào dạt nhớ thương anh – người chiến sĩ trung kiên bất khuất Lưỡi lê căm hờn tỏa lên ánh thép, bè lũ tay sai khiếp vía kinh hồn Vì miền Nam yêu thưong, vì miền Nam quê hương, trên tuyến đầu anh đứng hiên ngang Từng phút giây hướng về Thủ đô thân yêu, Bước trên đường quê hương chiến thắng còn in dấu chân anh. Chu Tấn Quang ơi, Chu Tấn Quang ơi! Sài Gòn, đầu Thu 2002 K.Q
217
Chuyện tìm mộ Quang
D
ƣơng Thái Biên K6 có thân quen nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng. Tháng 12 năm 2002, bạn đã liên lạc và gửi ảnh Quang ra Hà Nội cho cô Hằng. Trong thƣ trả
lời, cô Hằng đã ghi lại những gì Quang đã tâm sự, kèm theo sơ đồ nơi chôn cất Quang ở Bù Bông: „Anh Quang vẫn nằm ở Bù Bông và rất mong gia đình, đồng đội lên thăm, bốc mộ anh đưa về Sài Gòn. Anh rất buồn vì suốt từ năm 1975 đến giờ, gia đình và đơn vị không quay trở lại. Mộ anh vẫn còn đó. Khi chôn lại vẫn có bia và đánh dấu bằng một hòn đá. Sau nhiều năm, khu vực này đã thay đổi, nhưng trên mộ anh có một bụi hoa rừng rất đẹp. Tiểu đoàn 4 đã có lần quy tập mộ liệt sĩ ở khu vực này. Nói với đồng đội của anh hãy liên hệ với tiểu đoàn 4, trung đoàn 2 để lấy sơ đồ mộ chí của anh.” Tháng 6 năm 2009 (20-22), gia đình Quang đi Tuy Đức, tỉnh Đắc Nông sang Campuchia tìm mộ bạn. Trƣớc mắt nếu tìm đƣợc sẽ đƣa Quang về NTLS huyện Tuy Đức, sau đó mới làm thủ tục đón về NTLS TPHCM. Đoàn gồm: em trai Chu Tấn Quốc - trƣờng 218
Nguyễn Văn Bé lớp 7 khóa 72/73, ông anh họ, và 1 anh ở Gò Vấp từng cùng ông Chu Tấn Đạt (ba Quang) bốc hài cốt của Quang lên năm 1975 nhƣng vì thân thể còn nguyên nên đã lấp lại). UBND huyện Tuy Đức cử đ/c Chánh văn phòng đi cùng. Mộ phần của Quang nằm bên lãnh thổ Campuchia, cách biên giới 2km. (Thực ra trong chiến tranh chống Mỹ thì đây là vùng tranh chấp. Đơn vị Quang phải giữ đất, chống bọn ngụy lấn chiếm). Theo Quốc: so với sơ đồ mà nhà ngọai cảm Phan Thị Bích Hằng cung cấp thì khá chính xác. Phía lãnh thổ VN gần khu vực chôn cất Quang là đồn biên phòng 767 (xã Đăk Búk So). Ban chỉ huy đồn đã liên hệ với bạn để đoàn sang. Đ/c ở VP UBND huyện từng đón 8 bộ hài cốt bộ đội VN về nhƣng cũng đã hơn 10 năm truớc, nay trở lại cảnh quan thay đổi quá nhiều, tìm mãi chƣa ra điểm chôn cất. Mùa này là mùa mưa, đi kiếm vất vả, cam go l m, bánh xe cứ xoay tít, ba-ti-nê, không đi được. Buổi tối, đoàn đã về ở nhà bí thƣ chi bộ thôn gần đƣờng biên, hôm sau tìm tiếp quanh vùng nhƣng cũng chƣa có kết quả. Hẹn mùa khô tới.
Trích „Về 2 LS k6: Chu Tấn Quang và Võ Nguyên Trọng”
K6 LS (Nguyễn Chí Kiên) Tôi với Quang "bò" có nhiều kỷ niệm quậy lắm. Gọi là Quang "bò" không phải đầu bò đầu biếu gì đâu mà mái tóc phía trước của Quang bị hất lên như bò liếm. Bạn mình hy sinh anh dũng, mình thấy thực sự xúc động khi biết được câu chuyện này. Khâm phục, khâm phục! 219
Nhớ Chu Quang Duy Đảo K6
H
ƣng Hóa - Phú Thọ đầu mùa hè 1970, chúng tôi chuẩn bị ôn thi hết lớp chín.
Một buổi trƣa chẳng hiểu sao không ngủ đƣợc, nằm bên cạnh tôi thằng bạn thân – Tiến Dũng, hắn cũng trằn trọc lăn qua lăn lại mắt thao láo nhìn qua cửa sổ giống tôi. Cành phƣợng vĩ với những chùm hoa nhƣ lửa đong đƣa theo gió trƣớc ô cửa sổ, ngoài trời nắng hoe hoe vàng và ngập tràn trong không gian là âm thanh của tiếng ve đầu hè nhƣ mời gọi thúc dục … Tôi huých đầu gối vào cái mông to sụ của Dũng: Không ngủ à? Hắn giật thót mình quay lại - Ừ! Chẳng hiểu sao mình không thấy buồn ngủ - Bọn mình đi lang thang đi - Tôi khơi mào. Chỉ đợi có thế vì nhìn mắt hắn là tôi biết, mơ màng lắm. Hắn đồng ý ngay, đƣa ngón tay lên miệng: Xuỵt! Khẽ thôi không thầy Chương biết thì chết. Chúng tôi chuồn theo bức tƣờng phía cổng phụ. Tƣờng không cao lắm tôi thao tác ngon ơ, loáng cái tôi đã ở phía ngoài. Uỵch! tôi nghe nhƣ tiếng bao gì đó rất nặng rơi, nhìn lại phía sau thấy 220
thằng bạn lồm cồm bò dƣới đất. “Chỉ tại cái mông chết tiệt người qua hết rồi vướng mỗi cái mông đâm ra tao mới ngã”. Quả thật thằng bạn tôi “mẫu mã” cũng khá chỉ duy nhất có cặp mông hơi bị xệ nên tôi hay gọi hắn là Dũng “mộng năng”. Chúng tôi đi qua tiệm sửa xe Quý Long giữa phố vẫn thấy tay chủ quán cặm cụi tận thu, rồi ngƣợc lên phía trên thị trấn đối diện với bách hóa tổng hợp phía bên kia đƣờng tôi thấy sau tủ kính một thân hình béo phị trần trùng trục đang cúi đầu với cái kính lúp đeo bên mắt, chắc lại một pan khó đây! chiếc đồng hồ “Nikle vừa nghe vừa lắc” cũ rích từ thời thuộc pháp của tay khách nào chơi xỏ hay tiếc “đồ cổ” đem sửa đi để làm kỷ niệm chăng tôi nghĩ thế và tủm tỉm cƣời khi nhìn lên tấm biển quảng cáo với cái tên đầy ấn tƣợng “Tiệm chữa đồng hồ vĩ đại”. Thị trấn vắng hoe, chúng tôi vòng trở lại, hai bên phố hình nhƣ mọi ngƣời cũng chìm trong giấc ngủ trƣa, ngay cả hàng bàng và phƣợng vỹ bên đƣờng cũng xõa lá xuống nhƣ mơ màng. Nhƣng bỗng đâu một buổi trƣa hè êm ả, thơ mộng bị phá hỏng bởi âm thanh lạc lõng của tiếng gõ chát chát, cạch cạch… của tay thợ gò cuối phố. Lạ thật chỉ có ba vị đại diện cho “giai cấp” công nhân của cái thị trấn này là còn hăm hở làm việc giữa một trƣa hè lãng mạn thế này còn tuyệt nhiên mọi sinh vật đều lặng im, mơ màng thƣởng thức khoảnh khắc giao mùa tuyệt vời chả trách ông Mác ông ấy khẳng định chỉ có giai cấp công nhân mới lãnh đạo cách mạng đƣợc cũng phải. 221
Vòng theo lối cổng chính phía nhà thờ đổ có cái cửa hiệu may của tay bảo hoàng trọc đầu ngày xƣa theo tây đánh ta tôi gợi ý: Mình lướt qua tiệm lão trọc thợ may ng m con gái lão ta một tí cho thư thái rồi về học cho nó vào. - Sao ý mày giống tao thế, thằng bạn tôi hƣởng ứng nhiệt liêt. Đi qua đi lại đến hai vòng mà không thấy con gái của lão thợ may đâu chỉ thấy thấp thoáng sau chiếc bàn may là cái đầu trọc chết tiệt nhấp nha, nhấp nhổm đang đo đo, vẽ vẽ, thế là hỏng toi mất một trƣa hè tuyệt đẹp, không lẽ vòng lại đến ba lần, máu sỹ nổi lên cóc thèm nữa và theo cổng chính chúng tôi trở về lớp. Sau này mới biết chả riêng gì chúng tôi mấy bác khóa trên cũng “quần nát” cổng nhà lão trọc nghe nói có bác còn rủ rê đƣợc con gái lão ta đi chơi tối nhƣng rồi sau này do ngại lý lịch nên ngãng ra, lập trƣờng giai cấp ra “phết”, nhƣng riêng tôi, tôi lại thấy bác nào đó xử sự nhƣ thế nó có vẻ cực đoan thế nào ấy. Giá là tôi mà có đƣợc cơ hội nhƣ thế thì tôi sẽ khác, tôi phải “đấu tranh” giai cấp đến cùng phải “triệt để” cách mạng. Dũng lên phòng ngủ tiếp còn tôi lén ra sau nhà giải quyết nỗi buồn. Đang nép ngƣời vào bức tƣờng dƣới tầng trệt, phía trong là lớp học “xả hơi” tôi bỗng nghe thấy tiếng lạch cạch và tiếng xoẹt xoẹt nhƣ tiếng giũa sắt, nhìn vào trong tôi thấy Chu Quang đang ngồi chăm chú khi lại gần tôi mới biết thì ra ông bạn đang làm lƣỡi câu cá. Quang học lớp khác, chúng tôi không chơi thân với nhau, Quang học khá, ít tham gia các nhóm nghịch ngợm nhƣ tụi chúng tôi, ngay cả thể thao thể dục bạn cũng chẳng đoái 222
hoài, nhƣng đặc biệt bạn rất khéo tay. Quang không thật nổi trội trong khóa nhƣng bạn là một học sinh khá và là một trò ngoan. Tôi từ từ tiến lại phía sau Quang tay đập mạnh vào vai rồi quát: “Trưa không ngủ xuống đây làm gì”, tôi giả giọng thày Ninh. Quang giật thót ngƣời quay lại định thần một lúc mặt Quang đỏ lên rồi nói nhƣ chửi: - Tao làm gì việc đ… gì đến mày, tôi hơi ngỡ ngàng trƣớc phản ứng của Quang, và rồi hai đứa cãi nhau, sợ làm um lên không có lợi, hai thằng tôi nhƣ hai hiệp sỹ thách đấu hẹn tối nay gặp nhau ở chuồng bò phía cổng trƣờng để giải quyết chuyện “xúc phạm” danh dự của nhau, rồi hai đứa chúng tôi giải tán về lớp của mình, vừa lúc kèn báo thức chiều vang lên. Đúng hẹn, tôi rủ thêm Tô Tâm, tôi rất quý Tâm vì Tâm hiền lành, xuề xòa nhiều khi đến luộm thuộm. Tâm thông minh, lƣời học nhƣng học vẫn rất khá. Tâm chơi nhiều môn thể thao, đặc biệt là bóng bàn và bóng đá rất hay, nghe nói Tâm học ở trƣờng học sinh miền nam từ nhỏ nên tôi nghĩ chắc võ nghệ cũng khá nên tôi rủ Tâm đi theo để hỗ trợ nếu có gì bất trắc xảy ra. Khi nghe tôi đặt vấn đề Tâm nhiệt tình nhận lời. Trời tối thui, mùi phân và nƣớc đái bò thoang thoảng, hai thằng tới “đấu trƣờng” chờ một lúc mà không thấy đối phƣơng đến. Hay Quang thay đổi ý định, chuồn rồi? thật may cho mình, tôi nghĩ bụng. Vừa vặn đúng lúc đó thì Quang tới, cùng đi với một 223
ông bạn nữa tôi không nhớ là ai, sau nghe Tâm nói lại là Hồng lồi, một hảo hán của khóa tôi, tôi bắt đầu chột dạ, hắn giao du với Hồng lồi thì cái khoản “kia” của hắn phải khá lắm, kiểu này chắc tôi bị nốc ao quá, tôi bắt đầu mất hết tự tin và giao động. Sau khi giao hẹn phƣơng thức thi đấu chúng tôi nhập cuộc ngay. Tôi thấy Quang lƣng cúi xuống hình thƣớc thợ, đầu gối hơi thấp, một tay vắt chéo đặt trên lƣng còn một tay đƣa ra phía trƣớc, bàn tay chụm lại hƣớng về phía tôi, nhìn từ xa các bạn sẽ thấy nó giống nhƣ con cò đang vƣơn cổ đứng “ị”. Rõ ràng đây là một kiểu đứng “thế” của bậc cao nghề. Kệ đối phƣơng, tôi cũng hạ thấp ngƣời, chân đảo chữ chi nhƣ Ronando làm động tác giả khi lừa bóng, còn tay thì quay nhƣ “chong chóng”, múa may một hồi chả thấy đối phƣơng lao vào chỉ thấy Quang di chuyển cái “cổ con cò” hƣớng theo sự dịch chuyển của tôi. Đƣợc một lúc mệt quá, một phần cũng chóng mặt do tự mình nhìn hai tay múa trƣớc mặt, tôi ngã vật ra, tuy nhiên tôi vẫn cẩn thận la to “giải lao”. Tâm lao vào tôi, tay cầm tàu lá chuối vừa quạt cho tôi vừa nói: Ông phí sức quá, đối phương nó chả mất đi đâu tí sức nào trong khi ông múa quá nhiều, mồm thì thở hồng hộc như bò đẻ thế kia thì đánh đấm cái gì. Sau khi giải lao chúng tôi vào hiệp hai vẫn với chiến thuật cũ, bị thúc bởi hai võ sƣ đứng ngoài “vào đi, vào đi… ” Thế là tôi nóng máu lao vào đối phƣơng, đầu tiên tôi còn mở mắt nhƣng thấy trời tối cũng chẳng nhìn rõ nên tôi nhắm tịt mắt lại vì mở cũng chả có tác dụng gì, có khi đối phƣơng nó lụi cho một quả vào 224
mắt thì cứ gọi là toi. Cứ thế tôi lao vào loạn xạ, tay văng tứ tung trúng đâu thì trúng không cần biết. Tự nhiên tôi thấy tiếng ai chẳng biết có phải của Tâm không: đá đi! đá nữa chứ! sao không dùng chân à. Thế là tôi giật mình và vội vàng không dùng tay nữa, tôi chuyển sang dùng chân đá, cứ thế tôi đá, đá lung tung, bỗng tôi thấy bẹt một cái ngƣời bỗng nhẹ bẫng đi và mùi cứt bò xộc lên, kệ tôi cứ đá. Bỗng tôi lại nghe thấy tiếng: Sao lại chỉ có đá, không đấm à. Mẹ nó chứ cái anh võ nghệ này phức tạp thật, mải chân thì quên bố nó tay, đến khi nhớ tới tay thì lại quên phắt mất chân. Đƣợc khoảng ba bốn phút gì đó hai thằng tôi ngã vật ra, tiếng Hồng lồi la lớn: xong! Hai thắng tôi nằm lăn dƣới đất thở hồng hộc mất một lúc, ngồi dậy bắt tay nhau rất quân tử rồi theo hai hƣớng chúng tôi chuồn về doanh trại trên ngƣời bê bết cứt bò. Tôi lao ra giếng tắm và trở lên phòng nhƣ hề không có việc gì xảy ra. Đêm nằm tự dƣng tôi thấy đau ê ẩm ở mu bàn tay phải. Sáng hôm sau tập trung lên lớp tôi len lén nhìn sang lớp của Quang, tôi thấy một mắt của Quang sƣng to và đỏ, trong lòng tôi trào nên niềm thƣơng bạn cộng với lỗi lo “Không biết Quang có sao không?” Mấy ngày sau mắt bạn trở lại bình thƣờng tôi mới yên tâm. Rồi mọi việc cho qua, chúng tôi cũng chả giận gì nhau, tuổi thơ dễ quên những chuyện vặt vãnh, rồi năm học cuối cùng ở trƣờng Trỗi của chúng tôi kết thúc. 225
Trƣờng giải tán, mỗi đứa mỗi phƣơng sống chết trong chiến tranh, mải miết mƣu sinh trong thời bình, chẳng còn đâu thời gian để dò hỏi tin nhau. Cho mãi tới khi cầm trên tay cuốn “Sinh ra trong khói lửa” – tập hai. Khi lần giở tới trang 142 bài “Chu Tấn Quang Rực sáng tên anh!” của tác giả Trần Kiến Quốc và bài “Lá thư trước giờ ra trận” của ban biên tập. Đọc đi đọc lại, ngắm nhìn mãi tấm hình bạn mà tôi không sao cầm nổi nƣớc mắt. Quang đứng đó, khuôn mặt măng tơ bình thản, bộ quân phục màu ôliu chững chạc, khẩu AK đeo bên vai, bàn tay nắm chặt thân súng. Quang gác bút nghiên vào chiến trƣờng thì cũng vào thời điểm ấy chúng tôi lại ngƣợc trở ra quay lại trƣờng học tiếp, hai chúng tôi đi ngƣợc chiều nhau, nhƣng chỉ có điều Quang đi, đi mãi. Quang trở thành ngƣời anh hùng trong chúng tôi, Anh ngã xuống cho chúng tôi hôm nay, cho con cháu chúng tôi ngày mai… viết lại một kỷ niệm về Chu Quang, thắp nén nhang tạ ơn anh và các đồng đội trong cái nhớ cồn cào mùa hè cuối cùng ở trƣờng Trỗi - Hƣng Hóa năm 1970. Quang trẻ mãi trong tôi nhƣ tấm hình của anh ôm súng đứng kia, một ngƣời lính.
TP. HCM, tháng 4/2008 226
27/7/2009, đoàn đại diện K6 với má Chu Tấn Quang
Xem bài viết: 1. Sai khác trên báo chí về LS Chu Tấn Quang k6 do bạn đọc thế hệ trẻ phát hiện - Kiến Quốc, 2/5/2010, Blog K6. 2. Về 2 LS k6: Chu Tấn Quang và Võ Nguyên Trọng - Kiến Quốc, 18/7/2009, Blog K6. 3. Hy vọng tìm thấy mộ LS Chu Tấn Quang! - Kiến Quốc, 20/6/2009, Blog K5. 4. Nhớ Chu Quang - Duy Đảo, 21/4/2008, Blog "Trang văn nghệ trường VHQĐ Nguyễn Văn Trỗi". 5. Chu Tấn Quang - Rực sáng tên anh! - Kiến Quốc K5, SRTKL 2, Tr.: 142-146. 6. Lá thƣ trƣớc giờ ra trận - Ban biên tập, SRTKL 2, Tr.: 147-148. 227
Liệt sĩ Nguyễn Tiến Quân
7. Từ một bức thƣ ngỏ - Ban biên tập, SRTKL 2, Tr.: 149-150.
228
Học sinh khóa 6
Sinh: 1953 Sĩ quan trinh sát pháo binh thuộc Quân khu 1. Tham gia chiến tranh biên giới. Hy sinh: 16/2/1979 (20/Tháng Giêng, Kỷ Mùi), tại Mặt trận Lạng Sơn (Đồng Đăng). Mộ tại Nghĩa trang Liệt sĩ huyện Từ Liêm, Hà Nội. Liên hệ gia đình: Bố Đồng Sĩ Nguyên, 54 Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hai Bà, Hà Nội.
229
Liệt sĩ Nguyễn Tiến Quân Hà Trọng Tuyên K1
T
hăm viếng gia đình các Anh hùng liệt sĩ là một truyền thống tốt đẹp của trƣờng ta. Năm 1998, nhân dịp ngày Thƣơng binh liệt sĩ 27 tháng 7, Ban Liên lạc nhà trƣờng
do Thiếu tƣớng Nguyễn Chiến (học sinh khoá 1) dẫn đầu cùng thầy Phong và thầy Thăng đến thăm gia đình liệt sĩ Nguyễn Tiến Quân – học sinh khóa 6 của trƣờng. Gia đình, nhất là bác Đồng Sĩ Nguyên – một ngƣời lính già gắn cả cuộc đời với chiến trƣờng, rất cảm động khi đoàn đến thăm. Thầy trò đã thắp những nén nhang trên bàn thờ trƣớc di ảnh Nguyễn Tiến Quân để tƣởng nhớ tới ngƣời học sinh, ngƣời bạn đã anh dũng hy sinh ngày 19 tháng 2 năm 1979 trong cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc. Qua gia đình, chúng tôi đã thu lƣợm đƣợc một số thông tin về Quân, hy vọng đây sẽ là một đóng góp quý báu cho tập san của nhà trƣờng. … Sau khi tốt nghiệp phổ thông, tuy trong gia đình đã có 3 anh đang trong quân ngũ, nhƣng Quân vẫn tình nguyện vào phục vụ quân đội. Sau đó, Quân đƣợc cử đi học Trƣờng Sĩ quan Pháo binh. Tốt nghiệp, Quân trở thành sĩ quan trinh sát pháo binh và xung phong về đơn vị chiến đấu thuộc Quân khu 1. 230
Đầu năm 1979 chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra. Cùng với quân dân Lạng Sơn, Nguyễn Tiến Quân đã anh dũng chiến đấu bảo vệ từng tấc đất biên cƣơng của Tổ quốc. Sau lần đi trinh sát từ Đồng Đăng trở về, thấy địch đƣa nhiều xe tăng xâm phạm lãnh thổ và nằm dọc quốc lộ 1A, Quân càng quyết tâm lập tọa độ chính xác, chỉnh làn để pháo binh ta bắn trúng đích, tiêu diệt hết những chiếc tăng này. Để có tọa độ chính xác, các sĩ quan trinh sát pháo binh phải dùng đến bản đồ tác nghiệp pháo binh cùng các vật chuẩn trên thực địa. Đêm đó, Quân cắt rừng tìm đƣờng trở về Ban Tham mƣu để nhận bản đồ và phƣơng án tác chiến. Nhận bản đồ cùng nhiệm vụ xong, Quân xin phép đi ngay để kịp ra vị trí trinh sát tiền tiêu. Tiểu đoàn trƣởng – một đồng chí có nhiều kinh nghiệm trong chiến đấu – đã đắn đo, sợ rằng đi ngay trong đêm sẽ không an toàn, vì hiện nay địch đang phục kích khắp nơi, mà ở mặt trận thì giữa cái sống và cái chết gần nhau chỉ trong gang tấc; hơn nữa, Quân lại là con trai của một đồng chí cán bộ có nhiều cống hiến cho cách mạng. Nhƣng Quân đã trả lời: “Thủ trưởng yên tâm, em đã tìm đường về được với tiểu đoàn thì em cũng sẽ đi được. Cần phải tranh thủ đi ngay trong đêm nay để sớm đến được vị trí trinh sát, sáng mai khi địch chưa kịp trở tay thì pháo binh ta đã b n tọa độ tiêu diệt chúng”. Do quyết tâm của ngƣời sĩ quan trinh sát dƣới quyền và vì thắng lợi của ngày mai, tiểu đoàn trƣởng đã đồng ý cho Quân đi ngay 231
trong đêm ra mặt trận. Trƣớc khi đi, Quân rút phần thuốc lá của mình ra chia cho mọi ngƣời cùng hút. Đêm tháng 2, trời tối đen nhƣ mực, sƣơng đêm biên giới lạnh cắt da lùa vào tận chiến hào… Bắt chặt tay mọi ngƣời, Quân cùng một chiến sĩ trinh sát lặng lẽ lên đƣờng. Vừa xuống đến chân đồi, các anh đã lọt vào ổ phục kích của giặc. Chúng xả trung liên vào hai ngƣời. Chiến sĩ trinh sát ngƣời Hải Phòng bị trúng đạn và hy sinh ngay tại chỗ. Còn Quân cũng đã bị thƣơng nặng… , khi đó khoảng 2-3 giờ sáng. Ở mặt trận thì những tiếng súng nổ trong đêm là bình thƣờng, và chính trong sự bình thƣờng đó, trung úy Nguyễn Tiến Quân của chúng ta đã ra đi khi vừa tròn 26 tuổi.
HMK6 Trong số những người bạn cùng học ở Đức với tôi có 1 bạn nữ cũng đã lớn tuổi (hơn 50) mà vẫn chưa lập gia đình, tụi tôi vẫn có ý thầm chê "khả năng yếu kém". Nhưng có 1 lần (khoảng năm 2000 - 2001) bạn tiết lộ trước kia có quen (theo tôi hiểu thì cao hơn mức quen) 1 lính Trỗi mà nhất định tôi biết (?). Sau 1 hồi quanh co, bạn đưa tôi xem tấm hình "người ấy". Thật bất ngờ, đó là LS Tiến Quân K6. Không biết có phải vì vậy mà bạn rất hay "khai thác" tôi các chuyện trường Trỗi và tới nay vẫn chưa lập gia đình. Tôi có nói chuyện này với Quang Việt và Việt nói hồi đó có nghe nói. 232
Xem bài viết:
1. Liệt sĩ Nguyễn Tiến Quân - Hà Trọng Tuyên K1, SRTKL 1, Tr.: 2. Tƣởng nhớ bạn Liệt sĩ Nguyễn Tiến Quân - 16/2/2009, Blog K6. 3. Hành khúc ngày bình yên. - Nhạc và lời: Trần Bắc Hải K5, 16/2/2009, Blog K5.
233
Liệt sĩ Đ Khắc Tiến
234
Học sinh khóa 6
Sinh: 1952 Quê: Mỹ Yên, Đại Từ, Thái Nguyên. Cấp bậc: hạ sỹ - Chức vụ: Đơn vị: C3 D4 KT E245, Hy sinh: 02/06/1972 (21/4 Nhâm Tý), tại Mặt trận Tây Nguyên. Mộ tại Nghĩa trang Liệt sĩ Sa Thầy – tỉnh Kon Tum. Sau đã chuyển (?): khu C, lô 16, mộ 09, Nghĩa trang Liệt sỹ Hoà An, xã Bế Triều, huyện Hoà An, Cao Bằng. Liên hệ gia đình: Bố Hoàng Văn Xích, Cù Vân, Mỹ Yên, Đại Từ, Thái Nguyên.
235
Thăm gia đình LS Đ Khắc Tiến K6
T
rong dịp về thăm lại Mỹ Yên, Đại Từ hôm 19/10/2008, các anh K4 đã đến thăm gia đình Tiến Bồ.
"... Theo lời dặn của Huỳnh Hồng K6, chúng tôi hỏi thăm về LS Đỗ Kh c Tiến K6. Các anh ở Xã biết ngay. Nhà Tiến ở khá xa, gần chân núi ngoài cái ngầm "d t tay". Anh Quang Bí thư và một cậu thanh niên có bố trước kia ở Lữ 144 đã từng gác nhà các tướng lĩnh chở xe máy chúng tôi đến 236
Nhà Tiến đang sửa lại trần nên cả hai đều trong tình trạng ngổn ngang. Cậu em tên Hoàn sinh 1962, trung tá CS điều tra huyện (đã từng ở CS bảo vệ tại HN) tiếp chúng tôi.
Bà mẹ Tiến trông không được mạnh, lại ngãng tai. Chúng tôi chào bà ra về. Anh Quang chở tôi chạy theo đoàn ra Bombom. ... (HữuThành)" 237
Cũng nhờ thông tin của Huỳnh Hồng (Đỗ Kh c Tiến), tra Google thì tại trang WEB “Nh n tìm đồng đội“ thấy có tên Đỗ Kh c Tiến (1952-1972 - Mỹ Yên - Đại Từ - Sa Thầy) trong DS "Các liệt sĩ nguyên quán Thái Nguyên đã đƣợc quy tập tại nghĩa trang tỉnh Kon Tum".
16/6/2007, K6 thăm nhà Tiến Bồ, thắp hương tưởng nhớ bạn
238
Xem bài viết: 1. Đỗ Tiến - Liệt sĩ thứ 30 của Trƣờng Trỗi - Kiến Quốc, 13/8/2008 tại Blog K4. 2. Lời g p 36-40 - trong Mời họp k4 - HữuThành, 15/10/2008 tại Blog K4. 3. Tin về LS Đỗ Khắc Tiến k6 trích từ Gặp mặt k4 2008 - HữuThành, 19/10/2008 tại Blog K4. 4. Tin về LS Đỗ Khắc Tiến k6 - HữuThành, 20/10/2008 tại Blog K6. 5. Thông tin về Liệt sĩ Đỗ Khắc Tiến - TVK6, 24/2/2009 tại Blog K6. 6. Tin về mộ phần LS Đỗ Khắc Tiến k6 - Kiến Quốc, 26/2/2009 tại Blog K4.
Sƣu tầm trên mạng: 1. Phần mộ Liệt sĩ Đỗ Khắc Tiến tại trang WEB "Vì Đồng Đội": http://timmolietsi.com.vn 2. Các liệt sĩ nguyên quán Thái Nguyên đã đƣợc quy tập tại nghĩa trang tỉnh Kon Tum tại trang WEB "Nhắn Tìm Đồng Đội": http://www.nhantimdongdoi.org
239
Liệt sĩ Võ Nguyên Trọng
240
Học sinh khóa 6
Sinh: 18/09/1952, Quê quán: Đức Nhuận, Mộ Đức, Quảng Ngãi. Đơn vị: E52, F320 -->E46 F1, Khu 9. Hy sinh: 26/3/1972 (12/2 năm Nhâm Tý) (chứ không phải 5/6 - 24/4 Nhâm Tý), tại Dương Hòa, Mặt trận Kiên Lương, Kiên Giang, Khu 9. Chưa xác định được mộ phần. Liên hệ gia đình: Võ Hồng Vân, chị của Trọng, (0913210248). Em Võ Nguyên Tuệ (0903205947) P 1501 - 17T4, Khu Trung Hòa Nhân Chính, HN. Điện thoại: 04-2513251, Email: ek@hn.vnn.vn
241
Thông tin về liệt sĩ Võ Nguyên Trọng Huỳnh Hồng K6
Đ
ã nhiều lần, Ban Liên lạc phía Nam gửi tin nhắn tìm đồng đội trên Báo Quân đội Nhân dân, trên tạp chí “Sự kiện và Nhân chứng”, đã viết thƣ cho Phòng Chính sách
quân khu 9 và Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Thanh Hóa nhƣng không thấy hồi âm. Còn sƣ đoàn 1 (đơn vị của Trọng) thì đã giải thể. Vậy biết tìm đâu mộ bạn mình, trong khi gia đình Trọng thì hoàn toàn vô vọng và chỉ trông chờ vào chúng ta… ? Một chiều hè năm nay, chúng tôi nhận đƣợc lá thƣ từ một đồng đội của Trọng. Đó là cựu chiến binh Phạm Quang Thƣ 1, thƣợng tá, nguyên trƣởng ban Chính sách Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Thanh Hóa. Chúng tôi đã liên lạc với nhau. Qua những thông tin có đƣợc, xin ghi lại những gì về liệt sĩ Võ Nguyên Trọng. … Sau khi rời trƣờng Trỗi, Trọng về sống với gia đình ở thị xã Thanh Hóa. Ngày ấy ba Trọng, bác Võ Nguyên Lƣợng, đang là bí thƣ Tỉnh ủy. Vào đầu năm học 1970-1971, đất nƣớc phải huy động thêm lực lƣợng chi viện cho chiến trƣờng và Trọng cũng là một trong những thanh niên xung phong nhập ngũ. Bác Lƣợng rất ủng hộ, mặc dù có đủ lí do để Trọng đƣợc ở lại miền Bắc, tiếp tục học tập. Bác đã hành động đúng với lƣơng tâm và trách nhiệm của ngƣời đứng đầu về Đảng ở tỉnh. Hành động ấy 242
đã động viên các gia đình và thôi thúc hàng ngàn thanh niên, học sinh Thanh Hóa lên đƣờng nhập ngũ. Trong những ngày luyện quân, bác đã đến thăm và động viên các chiến sĩ trẻ của tỉnh nhà. Sau thời gian huấn luyện, Trọng đƣợc bổ sung vào trung đoàn 52 thuộc sƣ đoàn 320 (E52, F320). Khi đơn vị hành quân vào miền Tây Nam bộ, E52 đƣợc đổi sang phiên hiệu E46 (do đồng chí Bính là E trƣởng, đồng chí Vỵ là E phó, đồng chí Minh là chủ nhiệm Chính trị) thuộc sƣ đoàn 1 (đồng chí Thƣơng là chính ủy và đồng chí Tạ Lệnh là phó chính ủy). Đồng đội cũ cùng trung đoàn ở Thanh Hóa vẫn nhớ nhƣ in hình ảnh Trọng ngày đó rất thƣ sinh, đẹp trai, sống hồn nhiên, vô tƣ. Suốt thời gian cùng sống và chiến đấu, Trọng luôn đƣợc anh em trong cơ quan Tham mƣu quý mến. Trọng cùng đơn vị lăn lộn trên đất An Giang, Kiên Giang, rồi rong ruổi khắp mặt trận Campuchia: Công-pông Chơ-năng, Công-pông Sƣ-pƣ, Cô Công... vào mùa khô năm 1971. Mỗi khi có dịp gặp nhau, anh em Thanh Hóa thƣờng động viên nhau tiếp tục phát huy truyền thống quê hƣơng, truyền thống gia đình. Trọng còn kể nhiều về mái trƣờng Thiếu sinh quân thân yêu. 243
Bao phen lênh đênh trong rừng tràm mùa nƣớc nổi. Lúc bấy giờ tiểu đoàn 6 thuộc E46 có tình hình phức tạp. Hiếu - tiểu đoàn trƣởng - vì không chịu đƣợc gian khổ đã chiêu hồi. Vì vậy ngày 5 tháng 6 năm 1972, Trọng đƣợc theo tháp tùng đồng chí Vỵ, E phó, xuống làm việc với Ban chỉ huy tiểu đoàn, đóng quân ở xã Dƣơng Hòa, huyện Kiên Lƣơng. Chiều hôm đó, sau khi trở về Sở chỉ huy trung đoàn, Trọng tranh thủ xuống bếp lấy cơm cho cơ quan. Trên đƣờng về thì bất ngờ bị pháo kích, Trọng không may dính mảnh đạn. Bị thƣơng rất nặng nhƣng Trọng không mất ngay mà còn đƣợc các bác sĩ trung đoàn cấp cứu. Bác sĩ Khiêm, ngƣời Hà Nội, đã dùng sơranh rút cả máu trên cánh tay mình để cứu Trọng nhƣng… bất lực. Đêm hôm đó, Trọng mất và hôm sau đƣợc đơn vị mai táng tại nghĩa trang xã Dƣơng Hòa, huyện Kiên Lƣơng, gần Ngã ba Hòn Chông. Sau đó chỉ ít ngày, trong trận chiến đấu bảo vệ thƣơng binh khi địch càn vào bệnh xá, bác sĩ Khiêm cũng anh dũng hy sinh... Anh Thƣ còn cho biết đại tá Trƣơng Ngọc Thống, nay là phó chủ tịch Hội Cựu chiến binh tỉnh Thanh Hóa và thiếu tá Nguyễn Viết Hoa, hiện nghỉ hƣu ở xã Ngƣ Lộc, Hậu Lộc, Thanh Hóa cùng nhiều cán bộ, chiến sĩ E46 đang sinh sống ở Thanh Hóa biết rất rõ về Trọng. Trong lá thƣ gửi về ngày 19 tháng 8 năm 2004, anh Phạm Quang Thƣ có viết: Tôi thực sự xúc động khi nhận được lá thư tâm huyết của Ban Liên lạc trường Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi. Chưa gặp các anh nhưng tôi cảm thấy ấm lòng vì đã cung cấp cho các anh những thông tin rất đầy đủ về Trọng, bạn tôi. 244
Là con trai duy nhất trong gia đình, tôi vào chiến trường từ năm 1967 và đã bị thương tới ba, bốn lần. Cuối năm 1972 tại An Hưng tôi bị thương nặng, mãi sau ngày giải phóng mới ra Viện 108 mổ lại vết thương nhưng vẫn còn một đầu đạn AR-15 trong đùi. Dù sao thì mình vẫn còn sống, còn được về đoàn tụ với gia đình. Ấy là hạnh phúc hơn đồng đội đã ngã xuống rất nhiều! Qua thư các anh, tôi cũng rất trân trọng và biết ơn trường Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi đã cống hiến cho Tổ quốc hai thầy giáo và 26 học sinh, trong đó có Võ Nguyên Trọng, người bạn, người em, người đồng chí thân thiết của tôi! H.H
Cuối tháng 8-2004, Võ Hồng Vân, chị gái của Trọng, theo hƣớng dẫn của đồng đội, đã về chiến trƣờng xƣa tìm mộ phần của em. Lý Tấn Huệ (khóa 7) - giám đốc nhà máy xi măng Hà Tiên 2 - đã chu đáo sắp xếp chỗ nghỉ cho chị và tạo điều kiện đi lại. Vậy mà chƣa thấy. Chúng tôi và gia đình cùng xác định: việc tìm kiếm còn rất nhiều khó khăn vì chiến tranh đã qua đi mấy chục năm…
1. Nay anh nghỉ hƣu tại 581 phố Cữa Hữu, phƣờng Tân Sơn, thành phố Thanh H a (điện thoại: 037-757022).
245
Chuyện tìm mộ Trọng Kiến Quốc
V
õ Nguyên Tuệ, em trai LS Võ Nguyên Trọng, và Lê Việt Tấn đã lần về Kiên Giang nơi đóng quân của trung đoàn Võ Nguyên Trọng (thuộc sƣ 1). Tìm đƣợc cả khu đất đã chôn cất anh trai.
Chuyện thế này... Còn 1 đồng đội của Trọng sống sót và ở lại đất Kiên Giang sinh sống. Anh tên là Cƣ, sinh năm 1946, y tá trung đoàn bộ. Anh kể lại: Theo kế hoạch, thời gian đó đơn vị đang chuẩn bị tấn công nhà máy Xi măng Hà Tiên. Đã bao vây hết rồi. Nhƣng vì gian khổ mà 1 tay tiểu đoàn trƣởng chiêu hồi. Hắn khai hết cho địch. Trƣớc đó mấy hôm, địch pháo kích vào nơi đóng quân của trung đoàn bộ. Chẳng may Trọng trúng đạn và đƣợc đƣa về trạm xá trung đoàn. Tại đây đƣợc cấp cứu. Có 1 bác sĩ ngƣời HN đã tiếp máu cho anh. Vậy mà không qua khỏi. "Trọng mất ngày 26/3/1972 (chứ không phải 5/6) vì ngày đó là ngày thành lập Đoàn. Tôi nhớ chính xác mà!" - anh Cƣ khẳng định. Anh em chôn cất Trọng gần đấy. Sau đó 3 hôm thì địch tập kích. Cả bệnh xá không kịp di dời. Bộ đội hy sinh nhiều. Anh bác sĩ ngƣời HN cũng hy sinh. Nơi đóng quân gần nhƣ bị san bình địa. Anh Cƣ sống sót, từng nằm 2 tháng liền cạnh mộ Trọng. Là vùng tranh chấp ác liệt, nên không có dân sinh sống. Vì vậy dân cũng không biết có các LS đƣợc chôn cất ở đây... Anh Cƣ đã dẫn Tuệ tới nơi chôn cất Trọng, nay là 1 bãi đất bằng. Mộ nằm chính xác ở đâu thật khó xác định. Anh Cƣ nhiệt tình nhƣ vậy mà chỉ sau ít bữa cùng Tuệ đi tìm mộ về liền bị xuất huyết não. May mà nhẹ. Tuệ gọi điện vào vẫn nói chuyện đƣợc với anh. Nay gia đình trông mong vào việc nhờ các nhà ngoại cảm gọi vong của LS…
Trích „Về 2 LS k6: Chu Tấn Quang và Võ Nguyên Trọng” 246
Minh Châu … Ông Võ Nguyên Lƣợng có ngƣời con trai tên là Võ Nguyên Trọng. Anh Trọng học rất giỏi nên có giấy gọi đi học ở Liên Xô. Đúng lúc đó, anh cũng có giấy mời đi khám tuyển nghĩa vụ quân sự. Ông Võ Nguyên Lƣợng đã gặp hội đồng tuyển quân và nói: “Con tôi cũng nhƣ con ngƣời khác, các đồng chí cứ để cho cháu lên đƣờng nhập ngũ, đừng do dự”. Rồi ông động viên anh Trọng đi làm tròn nghĩa vụ thiêng liêng của ngƣời thanh niên với Tổ quốc. Thế rồi, ngƣời con trai của ông đã hy sinh anh dũng ở chiến trƣờng Quảng Trị năm 1972. Ngƣời dân Thanh Hóa vừa thƣơng, vừa cảm phục ông vì với vị trí của ông thời đó việc cho con đi học ở Liên Xô rất đúng “tiêu chuẩn”. Nhƣng ông và anh Trọng đã nêu gƣơng sáng về tinh thần sẵn sàng nhận khó khăn, gian khổ về mình…
Trích "Trách nhiệm trọn đời"
Xem bài viết: 1. Trách nhiệm trọn đời - Minh Châu (Báo điện tử QĐND),25/11/2010, 2. Về 2 LS k6: Chu Tấn Quang và Võ Nguyên Trọng - Kiến Quốc, 18/7/2009, 3. Nhắn tìm phần mộ LS Võ Nguyên Trọng - Võ Nguyên Tuệ,21/3/2006 4. Cung cấp thông tin về LS Võ Nguyên Trọng - Kiến Quốc,19/01/2006 5. Nhắn tìm phần mộ LS Võ Nguyên Trọng - Nam Điện, 23/7/2005 6. Liệt sĩ Võ Nguyên Trọng - Kiến Quốc, 9/9/2005, nhantimdongdoi.org. 7. Thông tin về liệt sĩ Võ Nguyên Trọng - Huỳnh Hồng K6, SRTKL 2, 151-154. 247
Liệt sĩ Nguyễn Khắc Bình
248
Học sinh khóa 7
Sinh: 1954 Quê quán: Quảng Bình.
Chưa xác định được mộ phần. Chưa có thông tin liệt sĩ và gia đình.
Xem bài viết: 1. Về thông tin Liệt sĩ của trƣờng - hameok6, 21/7/2010, Blog K6.
249
Liệt sĩ Trần Hữu Dân
250
Học sinh khóa 7
Sinh: 1955 Đơn vị: Sư 304 Hy sinh 28/8/1972 (20/7 Nhâm Tý) tại Hải Lăng, Quảng Trị (Trên ngọn đồi 01 gần Động Ông Đô). Chưa xác định được mộ phần: khi ở NTLS cấp xã thì có danh, sau khi qui tập về cấp Huyện thì trở thành Vô Danh. (Nghĩa trang Liệt sĩ Hải Lăng, Quảng Trị Ga Diên Sanh, quá vài trăm mét). Liên hệ gia đình: Chị Trần Thị Đạt, 45 Quang Trung, Hoàn Kiếm, Hà Nội. (0912908331).
251
Đã liên lạc đƣợc với gia đình LS Trần Hữu Dân K7 Kiến Quốc K5
Đ
i xa về, mở mail thì nhận đƣợc thƣ chị Trần Thị Đạt, chị gái LS Trần Hữu Dân K7. Chiều nay, theo số máy viết trong mail, gọi thì gặp ngay. Vậy là Dân ở cùng số nhà
45 Quang Trung với Huỳnh Hồng, Huỳnh Cúc. Gặp chị Đạt mới hay: Trần Hữu Dân thuộc F304, hy sinh ngày 28/8/1972 gần Động Ông Gio. (Vậy là Dân cùng đơn vị với Đặng Bá Linh K6 và cả 2 bạn hy sinh gần nhau?). Đã nhiều lần gia đình cùng đồng đội vào Quảng Trị tìm mộ Dân mà không thấy. (Tới NTLS huyện Hải Lăng không có mộ, đã tìm về Quân đoàn 2 chỉ biết thông tin: mộ phần do đơn vị bạn quy tập). Chuyện liên lạc đựơc với Trừơng Trỗi cũng là tình cờ vì thầy Trần Quý Đạm (ĐT: 04-7531334) sinh hoạt cùng chi bộ với chị Đạt ở Xuân La, q. Tây Hồ. Biết chị Đạt là chị gái LS Trần Hữu Dân, thầy cho chị mƣợn cuốn SRTKL tập 2, rồi vô tình lên Google chị tìm ra blog của K7 và tìm ra email của tôi. Vậy là đã tìm đƣợc 1 trong 12 gia đình của 12 LS chúng ta còn mất tích. Các bạn K7 liên lạc với chị Đạt (0913225924) nhé! Thực ra Ban Liên lạc rất đau đáu với việc chƣa tìm ra mộ phần của 12 LS Trỗi. Năm rồi nhờ nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng cùng đồng đội Tăng-Thiết giáp và Võ Quốc Tấn k3 mà chúng ta đã đƣa đựoc LS Lê Minh Tân về với gia đình. 252
Vậy 12 LS còn lại thì sao? Chúng ta sẽ cố gắng làm cho gia đình của 12 bạn chúng ta dịu bớt đi nỗi đau đã kéo dài hơn 30 năm qua. Để làm đƣợc việc lớn nhƣ thế, hãy bắt đầu từ những việc nhỏ! Chắc chắn anh em sẽ ủng hộ? … 17g cùng ngày nhận đƣợc email của chị Đạt, xin trích đăng: Chào Kiến Quốc Tôi là Trần Thị Đạt, chị ruột Liệt sĩ Trần Hữu Dân, học Trường Trỗi khóa 7. Sinh năm 1955, hy sinh tại Hải lăng Quảng Trị ngày 28/8/1972 (Sư 304).
Vào blog "Bantroikhoa7" thấy ảnh em Dân, tôi mừng quá! (Dân đang cầm cờ đứng hàng thứ 2, vị trí thứ 5 từ trái qua). 253
Thầy Trần Quí Đạm sinh hoạt cùng chi bộ với tôi (Tel 04.7531334) có cho xem 2 cuốn sách "Sinh ra trong khói lửa" nhưng rất tiếc mục Liệt sĩ Trần Hữu Dân không có ảnh. Tôi không biết cách nào liên lạc với các bạn. Tôi nhiều lần vào Quảng trị tìm kiếm. Em tôi hy sinh tại vùng thượng nguyên và hiện được qui tập về NTLS Hải lăng (theo ngoại cảm) nhưng không tìm thấy mộ phần mà chỉ cóp nhặt được vài thông tin rất ít ỏi.
BrodaRu Xin lỗi bác vì trả lời chậm do ông già tôi bị ốm do các vết thương hành, trí nhớ không ổn định. Về chú Trần Hữu Dân, ông già tôi rất quý, nhưng không phải bạn thân vì chú ấy lứa dưới. Khi ông già tôi nhập ngũ, chú ấy còn bé, nhưng trắng trẻo, hiền lành, dễ thương. Vì ở khác đơn vị nên ông già tôi chỉ gặp chú ấy một lần tình cờ ở Quảng Trị. Sau đó, ông già bị thương do pháo hạm Mỹ khi đang bơi vượt sông Thạch Hãn vào tiếp viện cho anh em trong Thành Cổ. Và cũng nghe nói chú ấy hy sinh chứ không tận mắt chứng kiến. Sở dĩ tại sao ông già nhắc đến chú ấy, vì con người này gặp một lần thôi cũng để lại cho người khác ấn tượng đặc biệt. Dạo đó bộ đội mình bị thương vong rất nặng nề ở Thành Cổ. Có thể nói, trong lịch sử các đại đơn vị chưa bao giờ phơi lưng ra cho phi pháo như vậy. B-52 và pháo bầy 203 mm đánh liên miên. So với Điện biên phủ thì mức độ ác liệt hơn rất nhiều và hậu cần bị cắt đứt, không có núi rừng che phủ. Thậm chí xe tank ta bị bom, hoả tiễn từ máy bay bắn cháy nhiều. Trông rất đau lòng. Đúng là vào nơi mà sức 254
mạnh Mỹ phô trương hiệu quả ở đồng bằng. Bị thiệt hại rất nặng. Đào hầm hào không ăn thua với bom toạ độ thả vào một nơi rất hẹp. Cả một số thủ trưởng cũng mất tinh thần vì nhiều người cho rằng, nếu dồn đống vào giữ một cái thành bé tý, dứt khoát dần dà bị tiêu diệt hết. Hơn nữa, tư tưởng không thông vì cho rằng hy sinh quá nhiều mà vào bẫy thì không giữ nổi. Lính thì khỏi nói. Nhiều người đã trốn ra. Thế mà chú Dân lại xung phong vào trong đó. Chú là con cán bộ cao cấp. Là con "ông cốp" mà xung phong xuống đơn vị chiến đấu. Khi nhiều người mất tinh thần từ quan đến lính thì chú Dân lại không như những lính mới nhát sợ, mà rất hăng hái. Cái tinh thần cao cả đó làm mọi người rất trọng. Được biết tin qua website của các bác nói chưa tìm được mộ của chú Dân, ông già đã tôi khóc. Tin mà ông già tôi nghe được là qua người quen kể sơ qua. Như vậy, rất tiếc là cụ không biết thêm thông tin gì nữa về chú Dân. Cụ cầu mong tìm được mộ chú ấy. Còn nếu không, gia đình chú Dân cũng đừng quá buồn về chuyện này. Vì thi thể chú Dân mãi mãi nằm trong sự tôn kính của bao người Việt Nam có lòng biết ơn Ngày Hôm Qua.
Thanh K7 Dân là con bác Trần Hữu Duyệt, cố chủ tịch mặt trận Tổ quốc VN... Trước 1976 nhà ở 46 Tràng Thi nên Dân học ở phổ thông Lý Thường Kiệt. 17 tuổi nhập ngũ, sau 3 tháng thì hy sinh. Dân không có hình chụp riêng trước ngày nhập ngũ. May sao trong ngày nhập ngũ có chụp chung với 1 người bạn, không Trỗi. Gia đình mới nhận được hình từ năm ngoái do các bạn tặng và tách ra làm hình thờ. Dân là con trai duy nhất trong nhà nên khi mất bà mẹ là bà cụ Đông khóc ngất - gần hóa điên.
255
Khắc Việt K7 … trong trận đánh cuối cùng của mình ở Hải Lăng năm 1972. Dân hy sinh cùng ba đồng đội khác nữa trong trận đánh không cân sức với địch. Năm 1973, khi đang còn chiến tranh, Ba của Dân (bác Trần Hữu Duyệt) đã vào Quảng Trị để tìm Dân, ông đã gặp nhiều ngƣời kể cả Sƣ Trƣởng Hoàng Đan, mà chƣa thấy. Ba Dân mất, các anh chị Dân lại tiếp tục tìm kiếm, đã đến tận ngọn đồi nơi diễn ra trận đánh để tìm hiểu thêm về Dân. Theo thông báo của F304, phần mộ của Dân đã đƣợc qui tập về nghĩa trang Hải Lăng nhƣng cũng nhƣ Đặng Bá Linh, Đặng Đình Kỳ v.v. họ đều là những liệt sĩ vô danh.
Trích „Hoạt động K7 nhân ngày 27/7”
17/1/2008 – ACE K7 Đến thăm gia đình liệt sĩ Trần Hữu Dân 256
23/7/2008, BLL K7 HN (M. Thắng, Q. Thắng, V. Triều, T. Tráng) cùng K. Việt, T. Quốc và Minh “V” đã viếng thăm
Xem bài viết: 1. Thăm nhà bạn Liệt sĩ. - Khắc Việt, 27/2/2010, Blog K8. 2. Hoạt động K7 nhân ngày 27/7 - Khắc Việt, 26/7/2008, Blog K8. 3. Thông tin quanh LS Trần Hữu Dân k7 - Kiến Quốc, 28/5/2008, Blog K8. 4. Đến thăm gia đình liệt sĩ Trần Hữu Dân k7 - Kiến Quốc, 17/1/2008, Blog K8. 5. Đã liên lạc đƣợc với gia đình LS Trần Hữu Dân k7 - Kiến Quốc, 25/12/2007, Blog K8. 257
Liệt sĩ Y Hòa Mlo Dzuon Dzu
258
Học sinh khóa 7 Sinh: 1954 tại Buôn Mê Thuột, Đ k L k. NR: Khu TT Ban Dân tộc Trung ương, 5B Hoàng Hoa Thám, Ba Đình, Hà Nội. Nhập ngũ: 06/01/1972 (HT: 651091 IA01) Chức vụ: Trung đội trưởng trung đội hỏa lực 12 ly 7 Đơn vị: C16, D8, E209, F312. Hòm thư: 651091 JA01. Hy sinh: 15-16/10/1972 (9-10/9 Nhâm Tý) tại Mặt trận Quảng Trị - đồi Cháy (đồi Chè), thôn Như Lệ, xã Hải Lệ, thị xã Quảng Trị. Mộ tại: Nghĩa trang Liệt sĩ TP Pleiku Buôn Mê Thuột (đưa n m đất đồi Cháy về) – Chưa xác định được mộ phần. Liên hệ gia đình: Anh Y Nguyên (Võ Động Sơn) K5, Plei-ku, Buôn Mê Thuột. (0912609599)
259
Đồi Cháy, một lần đến với các anh Nguyễn Thị Thái K8
K
hi chúng tôi khởi hành chuyến đi bốn ngày về phƣơng nam, trời còn mờ tối. Ra đến đƣờng cao tốc Pháp Vân gặp ngay cơn mƣa trút nƣớc đang hối hả chạy về
phƣơng Nam. Chúng tôi vƣợt lên để lại phía sau quãng trời mƣa lúc nhặt lúc mau. Rồi mƣa nhẹ dần chỉ đủ để cái gạt nƣớc gạt đi chỗ đất bùn liên tục văng lên kính. Cuối cùng, mƣa cũng hết nhƣng vẫn còn lại một trời mây âm u. Tới đèo Ngang trời đã hƣng hửng. Khắp triền núi những làn hơi nƣớc trắng lốp nhƣ khói lò vôi đang bốc lên ngùn ngụt. Lên đến đỉnh đèo, thật diệu kỳ, một vùng trời bừng sáng hiện ra. Trƣớc mặt và sau lƣng là hai mảng khác biệt, hệt nhƣ Trƣờng Sơn Đông và Trƣờng Sơn Tây trong khúc hát năm nào. Ra đi trong trời mƣa, lòng chúng tôi nặng trĩu một nỗi niềm đau đáu hƣớng về đồi Cháy, Quảng Trị, nơi anh Y Hoà (khoá 7 trƣờng Nguyễn Văn Trỗi) và các đồng đội là Hƣng, Thành, Nho và chín anh khác chƣa rõ họ tên đã hy sinh năm 1972. Sau chiến tranh, cha mẹ Y Hoà đã héo mòn trong cuộc kiếm tìm khúc ruột của mình mà đành phải bó tay trƣớc thời gian và lần lƣợt ra đi. Nay những đồng đội của anh, Trung, Sơn và Đức đã tiếp tục công việc của hai bác. Các anh đi tìm một phần cuộc đời của mình. Vũ Trung (khoá 8, Nguyễn Văn Trỗi) và Sơn đã sáu bảy lần lặn lội vào đất Quảng Trị, Đức cũng hai lần mò mẫm nơi 260
này để tìm lại đƣợc đồi Cháy, nơi chính tay anh đã khâm liệm Y Hoà. Cuộc kiếm tìm đầy khó khăn bởi cái tên đồi Cháy là do các anh tự đặt vì khi đó nó bị cháy trụi dƣới mƣa bom bão đạn quân thù, trong khi dân địa phƣơng gọi đồi là Con Kiêu. Chúng tôi thật may mắn đƣợc tham gia đợt kiếm tìm này với bao hy vọng sẽ đón đƣợc các anh về. Trời sập tối rất lâu chúng tôi mới vào đến nơi sau khi bƣớc thấp bƣớc cao dò dẫm trong ánh đèn điện thoại di động của Vũ Trung trên sƣờn đồi lầy bùn với những bãi “mìn” trâu bò cài lại. Thắp tạm những nén nhang khấn các anh trong ngôi miếu nhỏ trên sƣờn đồi, chúng tôi lặng đi trong bóng đêm nghiêm trang và cảm thấy các anh đang ở rất gần quanh mình. Ngày tiếp theo, Vũ Trung và Sơn đƣa chị gái Y Hoà và em trai Hƣng đến làm thủ tục ở Huyện đội Hải Lăng và buổi chiều ở Xã đội Hải Lệ. Bá Đạt và chúng tôi ở nhà biếu quà cho dân trong thôn, làm việc với chị chủ nhà, ngƣời trông coi ngôi miếu thờ các anh về việc đền bù hoa lợi khi khai quật, hỏi bà con thông tin về quả đồi nhƣ hố bom ở đâu, khi khai hoang bà con có gặp hài cốt không, bà con chôn hài cốt chỗ nào vv… Buổi trƣa chúng tôi làm cơm cúng các anh. Đêm hôm đó thật là dài còn giấc ngủ của chúng tôi thì thật ngắn. Chúng tôi chờ mong gặp các anh trong cuộc đào thăm dò ngày hôm sau. Đất đồi Cháy quẹo chặt lại thành những hòn sỏi nhỏ nhƣ đầu ngón tay, phải dùng cuốc chim mới cuốc nổi. Vậy mà khi xƣa các anh chỉ có xẻng công binh trong tay. Đức kể, mỗi khi đào xong 261
một cái huyệt để chôn đồng đội là tay lại phồng rộp lên. Mà cũng chỉ đào đƣợc 30 phân, đủ để đặt đồng đội trong lớp đất âm, phủ thêm lớp đất dƣơng lên ngƣời để thành ngôi mộ nho nhỏ. Ngày thứ ba, mƣời hai thanh niên trong thôn lần lƣợt thay nhau cuốc rồi xúc mà cũng chỉ đào đƣợc rất ít vì khi khai hoang, bà con đã san đồi, đổ đất (lên nơi khai quật) cao gần hai mét. Thế là đất dƣơng thì nhiều mà đất âm thì ít. Mỗi khi tay cuốc chim thấy chối tức là đã đến phần đất âm, ai nấy đều nín thở cầu mong. Nhƣng trái với kỳ vọng của chúng tôi và của cả hai đầu Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, cuộc đào thăm dò chỉ đem lại một phần quản bút máy kim tinh và một mảnh xƣơng nhỏ. Chiều xuống, chúng tôi đành chôn các di vật lại dƣới chân miếu thờ các anh.
262
Khi xƣa Đức đã đếm bƣớc chân và dựa vào một số dấu mốc để mong ngày quay lại đón các anh về. Đồi Cháy nay cây đã phủ xanh. Gốc mít cụt ngang sƣờn đồi giờ chẳng còn. Những hố bom năm xƣa cũng mất dấu. Ơi các anh, Y Hoà, Hƣng, Thành, Nho và chín ngƣời đồng đội. Các anh nằm nơi đâu? Xin hãy hoá thành những cánh bƣớm dập giờn, thành ánh đèn đom đóm dẫu lập loè, dẫn đƣờng cho chúng tôi. Các anh nằm nơi đâu? Anh Y Hoà hy sinh khi đang đƣợc xây dựng điển hình để phong anh hùng. Anh thật xứng đáng là anh hùng kể từ ngày anh xung phong nhập ngũ khi mới mƣời sáu tuổi nhƣng lại mang trong mình ý chí ngoan cƣờng mà chúng ta đƣợc đọc qua những dòng thƣ anh để lại và qua những chiến công trong rèn luyện, chiến đấu mà tổ quốc đã ghi công. Đức nghẹn ngào kể lại: mảnh pháo găm vào mặt Y Hoà làm máu anh tuôn trào xối xả. Anh chỉ kịp nói “Có lẽ tao chết mất” và ra đi. Kỷ vật Đức mang về trao lại cho gia đình Y Hoà chỉ có tấm hình một ngƣời con gái đã bị máu làm mờ hết và một chứng minh nhân dân của anh. Anh còn quá trẻ. Còn anh Thành, đại đội phó, hy sinh kề bên Đức trong hầm trực chiến mà Đức đành để cấp chỉ huy chết trong tƣ thế ngồi bó gối trong hầm, cạnh mình cả nửa ngày mới đƣa lên đi chôn đƣợc. Mỗi một đợt dập pháo nhƣ thế, quân địch liên tục trút hàng giờ xuống ba quả đồi nho nhỏ này bốn năm trăm quả. Pháo nổ điếc tai luôn. Tim thì bị ép đến tƣởng ngừng đập. Ngày nào cũng có chiến sỹ hy sinh, ngày nào cũng có tiếp viện nhƣng không xuể với bom đạn nên có những điều thật hy hữu: đại đội phó không 263
thể là binh nhất, nhƣng liên tục trong một tháng có bốn chỉ huy hy sinh, thế là binh nhất Đức đƣợc giao trọng trách quyền đại đội phó. Khẩu đội pháo mƣời hai ly bảy của anh Hƣng thƣờng có năm sáu ngƣời mà hy sinh hết chỉ còn mình anh. Khi anh Hƣng đang loay hoay tháo lắp vì nòng pháo bị kẹt đạn thì bọn địch thừa cơ xông lên dùng M79 bắn thẳng vào mặt anh. Đức xót xa khi khâm liệm ngƣời đồng đội mà khuôn mặt rất đẹp trai không còn nhận ra đƣợc nữa. Kẻ thù thật độc ác. Chúng làm đau đớn thân xác các anh, không những thế chúng còn làm đau đớn đồng đội các anh bằng nhiều đòn. Anh Nho bị chết cháy trong hầm chỉ huy không phải vì đạn pháo quân thù mà do lựu đạn của thằng lính chiêu hồi trực chiến cùng anh ném lại để tâng công. Chúng ta đời đời nguyền rủa những kẻ nhƣ thằng khốn tên Huỳnh đó. Nó không còn một chút lƣơng tâm khi giết hại một ngƣời lính thông tin mặt bấm ra sữa, nổi tiếng là nhút nhát đến nỗi không giám trực một mình phải rủ nó ngủ cùng trong hầm chỉ huy, giết ngƣời đã từng coi nó là đồng đội. Chiến tranh thật tàn khốc. Ba mƣơi sáu năm mà dƣ âm vẫn còn đó, bên những chiến công hào hùng của các anh là biết bao mất mát đau thƣơng. Có phải chăng do con số mƣời ba xui xẻo, hay do mƣời ba linh hồn các anh đã quyện vào nhau không muốn rời hay do nƣớc mắt còn quá ít: những giọt nƣớc mắt rỏ nhƣ những giọt máu từ con tim của đồng đội cùng chiến hào với các anh thì quá ít vì có 264
mấy ngƣời sống sót trở về, những ngƣời đang đƣợc sống làm ngƣời dân Việt nam độc lập, tự do thì nhiều ngƣời nào biết xót xa. Bởi vậy chƣa đủ những giọt nƣớc mắt chân tình để thành biển lệ nhƣ tên gọi nơi đây Hải Lệ, một biển lệ mới đủ để xoa dịu vết thƣơng của các anh và của muôn vàn đồng đội các anh đã nằm lại đất Quảng trị máu lửa này. Có phải vậy chăng nên các anh chƣa muốn trở về? Ngày 29-3-2008 chúng tôi chia tay nhau, đoàn vô Nam, đoàn ra Bắc trong lòng vẫn trĩu nặng nhƣ ngày đầu lên đƣờng. Có đôi điều an ủi chúng tôi. Từ nay, tất cả bà con trong thôn đã biết rằng có ảnh ba anh lính trẻ trong ngôi miếu nhỏ lƣng đồi con Kiêu thôn Nhƣ Lệ, Hải Lệ, Hải Lăng và sẽ thƣờng xuyên tới thắp hƣơng cho các anh. Tháng tƣ này ban chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Trị và Ban chỉ huy quân sự huyện Hải Lăng sẽ chính thức tổ chức kiếm tìm hài cốt các anh. Xin hãy ghi tên các anh và tên ngọn đồi Cháy trong lòng để nhắc nhở mình đừng sống phụ phần máu xƣơng mà các anh đã hy sinh. Quãng đƣờng chúng tôi qua, đâu đâu cây cũng đâm chồi nảy lộc đẹp đến mê hồn. Màu lá tƣơi non dẫu trắng, xanh, hồng, tía đều tràn đầy sức sống. Trên đƣờng đến nghĩa trang Trƣờng Sơn, bạt ngàn rừng cao su đang thay lá. Một ngày mai, cả rừng là xanh lại trỗi dậy rì rào ru các liệt sỹ nơi đây cũng nhƣ màu xanh của đồi Cháy đang che chở cho Y Hoà và các đồng đội của anh.
Hà Nội 4-2008 265
Vết xăm - kỷ niệm của Y Hòa Văn Hùng K7
Y
Hòa xa chúng ta đã 36 năm. Đợt vừa rồi các bạn Đạt “bột”, Vũ Anh, Thái,
Vũ Trung và đồng đội F312 của Y Hòa đã tới đồi Cháy, Quảng Trị tìm bạn. Nhƣng công việc mới chỉ là bắt đầu… Riêng tôi suốt bốn chục năm qua vẫn mang trên ngƣời một kỷ niệm của Y Hòa. Đó là vết xăm do chính tay Y Hòa thực hiện. … Hơn bốn chục năm trƣớc, chúng ta mới chỉ là những chú nhóc 12-13 tuổi, từ gia đình về sống dƣới mái trƣờng quân đội. Ngày đó chiến tranh, phải sống xa Hà Nội đến gần trăm cây số, núi rừng chỉ cách lớp học có “mấy lần quăng dao”. Ngày lên lớp nhƣng đêm đến là nhớ mẹ, lắm đứa không kìm đƣợc đã trùm chăn khóc rƣng rức, chỉ mong chủ nhật mẹ lên thăm. Trên lớp chúng ta có những đàn anh lớn, nhất là cánh từ các trƣờng học sinh Miền Nam về, họ là những “ngƣời dẫn lối”. Các anh Mai Sinh, Mai Tự, anh Quyết Thắng, Ngô Ngời… dạy cho các 266
trò nghịch ngợm của cánh học sinh miền Nam. Bọn trẻ chúng ta từ Hà Nội lên thực sự lớ ngớ nhƣng khi gặp những trò “hay nhƣ thế” thì lao vào học nhƣ những con thiêu thân. Học thày không tày học bạn! Chỉ sợ thày biết(!) nhƣng anh em vẫn kéo nhau ra sau nhà, hay vào rừng thì thụp thụ giáo. Nào là trò “muỗi Sài Gòn”: Con muỗi đƣợc “chế” bằng que diêm Cầu Đuống (ra Cung tiêu ở Gốc đa mua) đã cháy thành than, một đầu dính bằng kem đánh răng (thậm chí bằng “bựa” răng!) vào bất cứ chỗ nào trên thân thể nạn nhân (đau nhất là vùng da non trên đùi) rồi khẽ chấm mồi lửa vào đầu còn lại. Veo một cái, mồi lửa theo thân diêm nghiến vào da thịt. Kẻ chịu nạn chỉ kịp xoa tay vào “vết đốt”. Tức đến trào nƣớc mắt. (Chuyện này các bạn gái không hề biết. Nay biết thì cũng đừng cƣời bọn con trai chúng tớ!). Trò cao cấp hơn là xăm lên mình các hình mỏ neo, hình ngôi sao, đầu con hổ hay mũi tên xuyên qua trái tim(!), v.v… Thú xăm lên ngực, lên cánh tay chỉ dành cho những ai không sợ đau. (Chính xác hơn là không biết đau là gì!). Thật khó tƣởng tƣợng điều này lại xảy ra với những lũ trẻ ranh ở lứa tuổi chúng ta. Một cái kim khâu làm bút xăm cùng mực tàu đƣợc mài sẵn cất lọ. Ông họa sĩ “bất đắc dĩ” dùng bút vẽ phác lên hình đã chọn, tại vị trí đã thỏa thuận. Rồi từng mũi kim tẩm mực tàu, đâm ngập từng mũi vào da thịt, theo hình đã phác. Anh em dạy nhau: Các mũi xăm càng mau thì sau này hình càng đẹp. Và “tác phẩm” dần hình thành dƣới đôi tay “họa sĩ”. Còn “kẻ chịu 267
nạn” thì hai bàn tay nắm chặt, cắn răng chịu đựng, nƣớc mắt chảy ròng ròng nhƣng miệng không bật ra tiếng. Chỉ thỉnh thỏang hỏi bạn: “Sao lâu thế? S p xong chưa?”. Hàng tiếng đồng hồ trôi qua… Gần nhƣ đứa nào đã “chịu” thì theo đến cùng. Xong xuôi phải khóac ngay áo che khu vực đã xăm. Chỉ cần một lần thày giáo biết đƣợc là… kỷ luật! Đêm đầu tiên mới kinh khủng làm sao! Các vết xăm bị nhiễm trùng, gây nhức nhối. Trằn trọc không ngủ đƣợc. Có đứa bị sốt cao, phản ứng, phải đi bệnh xá. (Vì thế mà trò này bị lộ). Còn kẻ qua đƣợc thì sớm hôm sau phờ phạc nhƣng vẫn phải cố “ra vẻ ta đây”(!). Cứ nhƣ vậy, vết thƣơng lành dần và trên ngực, trên tay có những hình xăm tuyệt đẹp. Rồi thằng này khoe thằng kia. Rồi… rồi… không ít thằng trong chúng ta đã đƣợc xăm. Tôi và Y Hòa thân nhau, cùng trong nhóm nghịch của lớp. Một lần hắn rủ rê: "Mày thích xăm không?". "Xăm gì?". "Hình mỏ neo". "Đau l m?". "Không sao!". "Ai xăm?". "Tao". "Mày?". "Yên tâm đi! Anh Y Nguyên của tao học được trò này của các anh ở Trường Dân tộc. Tao từng xem ông anh xăm cho bạn rồi bày cho tao cẩn thận". Rồi chẳng hiểu ma đƣa lối, quỷ dẫn đƣờng thế nào mà tôi “hiến thân” cho nó. Mùa đông đầu tiên khi vừa sang Quế Lâm thật 268
lạnh giá. Nƣớc đóng băng. Đứa nào cũng áo bông dày cộp che kín ngƣời. Chủ nhật nghỉ học, hắn rủ tôi lên lớp ngồi xăm. (Để thầy không biết). Y Hòa đã chọn vai phải và xăm lên hình cái mỏ neo. Cố chịu lạnh để trần nửa ngƣời, lộ ra phần vai cho nó xăm. Mất cả buổi sáng… Và sự việc đã xảy ra nhƣ với các bạn từng “chịu nạn”. Bốn chục năm trôi qua, cái hình mỏ neo không bị mờ đi. Năm 1972, Y Hòa hy sinh, nhƣng vết xăm ấy vẫn sống trên thân thể tôi nhƣ một phần máu thịt của Y Hòa còn tồn tại trên đời!
Những ngày tháng 3/2008, anh em đi tìm bạn… Hồi ức của Văn Hùng K7
Hùng cafe PHỐ (Văn Hùng K7) Y'Hòa có quá nhiều kỷ niệm với tôi. Tham gia vụ bắn ảnh ông M cùng bị đi tù. Y.Hòa là người đã săm 1 cái mỏ neo bên vai phải cho tôi. Sau đấy săm lần thứ 2 thì đau quá tôi không chịu nổi nên chỉ có đầu mỏ neo là săm lần 2. Khi bị đuổi từ TRỖI về, mẹ tôi tắm cho tôi thấy vết săm kỳ mãi không thấy hết nên hỏi: con săm đấy à? Tôi chối, bảo vẽ mực tàu nên khó xóa. Bây giờ đi tìm bạn xin cho CFPHO đóng góp. AK7 (Vũ Anh K7) … Còn vết xăm của Y Hòa (thanh đao) thì chính tay tao xăm cho nó. 269
Ngô Thái Hòa K6+K7 … Hồi đó Y Hòa đã có người thương là Hoàng Dung, cô bạn cùng lớp 10G trường PTTH Nguyễn Trãi, Ba Đình, Hà Nội, nhưng Y Hòa rất kiên định và không bao giờ tỏ ra yếu đuối và biểu lộ sự nhớ nhung thái quá ra ngoài. … Bạn gái của Liệt sỹ Y Hòa là Đoàn Dung trước đây ở phố Nguyễn Trường Tộ, Ba Đình, Hà Nội. Sau này trong Lễ Truy điệu Y Hòa và Chấn Hưng ở 80 Phan Đình Phùng, Hà Nội, Đoàn Dung đến dự và làm mọi thủ tục như một người vợ chưa cưới của Y Hòa. Đức … Chỗ này là cái hầm tăng xê, nơi tôi ngồi ôm nó mấy tiếng trƣớc khi nó ra đi. Trƣớc lúc mất, nó đƣa tôi nhờ đƣa về cho gia đình một CMQN và một tấm hình một ngƣời con gái, tóc tết đuôi sam. Tất cả đều nhoè máu. Khi ra Bắc, đã tìm đến tận nhà đƣa tận tay anh Y’Nguyên 2 di vật đó…
Trích „Hành trình tìm bạn (Tiếp)”
Bia tưởng niệm các liệt sỹ Đồi Cháy
Từ trái qua, các liệt sĩ: Ngọ, Y'Hòa, Chấn Hưng (cùng khu TT với bạn) 270
Chị H’Thanh: "Hôm qua thằng Y'Hòa nó về. Nó nói với chị: "Sao thằng Đạt lại c t trọc đầu đi thế? Chuyến tới em cấp cho chị tiền để chị và chúng nó đi tìm em khỏi tốn kém. Em phải đi đây, đưa mấy thằng đi chơi". Chƣa kịp hỏi: "bây giờ em ở đâu?" thì chị giật mình tỉnh dậy, lúc đó là 2h00 sáng. Chà! Thằng này vẫn ham chơi nhƣ ngày nào? Bữa trƣớc đi tìm mộ về nó báo mộng cho chị là sẽ cho chị tiền, không nói là bao nhiêu? Nhƣng nói là 49 tiền? Nhƣng chị phải cho thằng Thời 500, vì con gái nó mới sanh". Sáng ra chị thấy một con bƣớm vàng bay trƣớc mặt, rồi đậu ngay vào số 49 biển kiểm soát của một chiếc xe đang đậu trƣớc khu nhà chị. Chị liền mua số 49, chiều về trúng ngay 7 triệu. Chị gởi ngay cho Thời 500k. Thời không nhận vì nghĩ chị trả công cho Thời chuyến đi vừa qua, giải thích mãi Thời mới nhận. Sau chuyến đi vừa rồi phải nói chị rất hên, trả nợ hết tiền, làm đâu trúng đó, có phải Y'Hòa nó phù hộ cho chị hay không?”
Trích „Chuyện của chị H’Thanh: Tin hay không tùy bạn!”
271
Thơ của ngƣời lính Di cảo còn lại của bạn. Bài thơ không c tựa đề và c thể đang ở dạng nháp.
Đêm hôm nay mưa lại rơi tầm tã
Rét run người như nửa thềm n ng hạ Mưa t m ướt con đường nhựa khô chảy Và lòng ta khi ấy cũng như mưa Ta lại đi giữa mùa hè oi ả Khi n ng cháy đôi vai nặng chĩu Khi n ng đốt lưng ta cứng cỏi Khi máu hận bốc lên đầu con tim Ta yêu sao - những cái gì bé nhỏ Mà xưa kia ta chẳng hề nghĩ tới Chính cái đó lại kh c đậm con tim Như những trái núi lửa sôi sục bao thế kỷ Trường Sơn kia rồi có gì là xa lạ Chờ đó em ạ - ngày thử lửa Leo lên nhé dốc "bóp" có thấm đâu Hay chỉ bằng của Trường Sơn một nửa Ta lại đi cùng khẩu AK nóng bỏng Bởi sưởi n ng (cả) của bao ngày đi xa Và nó t m bao mồ hôi rồi đấy Nó nặng thân (thêm?) như cái bông lau (bóng bay) Nó cũng khổ chứ có phải đâu? Bởi vì nóng (n ng) bởi vì mưa vì nước m t Bởi vì nơi xa đang giục giã lên đường Nhưng đau khổ vẫn là không giờ mất Mà mãi mãi sôi sục trong ta. Ta đi nhé đơn giản như khi "tút" (*) Ta đi đây vui vẻ và khoẻ thêm người Bạn từ nay là lửa máu bên mình Bạn từ đây là cuộc sống đấu tranh Giữa một bên là chết và chiến th ng 1-7-1972 (*) Tút: "Ta đi theo lối nhỏ là lối an toàn"
272
Lá thư cuối của liệt sĩ Y Hòa gởi về gia đình 273
4/2009, Nam K9, Đạt K8, Khánh K7 cùng má và anh Y'Nguyên K5
Chị H'Thanh - chị của LS Y Hòa K7 trong buổi Hội Trường 45 năm tại TP HCM 3/10/2010
28/6/2011 Thăm gia đình Y Hòa. HT, KV, Mẹ và con trai Y Nguyên - Risa "Sư tử tâm" 274
Xem bài viết: 1. Lễ khánh thành Bia tƣởng niệm các liệt sỹ Đồi Cháy - Nguyễn Thị Thái, 22/10/2010, Blog K8. 2. Lá thƣ cuối của liệt sĩ YHòa gởi về gia đình. - dathb136, 30/7/2010, Blog K8. 3. Kỷ niệm không thể nào quên với những lính Trỗi anh hùng - Hồi ký Lê Việt Anh (bút danh của Ngô Thái Hòa Berlin, Đức), 27/7/2010, Trang WEB NguoiViet.de. 4. Bài báo viết về bạn của chúng ta. - 26/7/2010, Blog K8, dathb136 giới thiệu bài: Gác bút nghiên lên đƣờng chiến đấu của Phan Đức Tuấn, 25/07/2010 tại Báo điện tử Quân đội nhân dân. 5. Gác bút nghiên lên đƣờng chiến đấu - 26/7/2010, Blog K4 - HữuThành.Nguyễn giới thiệu bài: Gác bút nghiên lên đƣờng chiến đấu của Phan Đức Tuấn, 25/07/2010 tại Báo điện tử Quân đội nhân dân. 6. Tuy Quân sử nhƣng mà Trỗi - HữuThành.Nguyễn, 10/7/2010, Blog K4. 7. Kỷ niệm về 2 Liệt sỹ Y Hòa K7 (Mlo dzuon dzu) và Ngô Tất Thắng K7 - Ngô Thái Hòa, 29/3/2010, Blog K8. 8. Biển Hồ (Gia Lai) - Buôn Mê Thuột (Đắc Lắc) (Tiếp theo) - dathb136, 17/04/2009 - Blog K8. 9. Quảng Trị và m n cháo cá (Tiếp theo) - dathb136, 09/04/2009, Blog K8. 10. Những lá thƣ của liệt sĩ Y Hòa - Minh Phượng, SRTKL 2, Tr.: 170-179. 11. Lần cuối gặp nhau - Nguyễn Trí Dũng K3, SRTKL 2, Tr.: 201-203. 275
12. Cuộc hành quân đi tìm bạn xƣa - liệt sĩ Y Hòa K7 - Bài tổng hợp tại Blog K6, 28/3/2008.
Xem bài viết cũ: 1. Liệt sĩ - Bạn của chúng ta - Giờ này anh ở đâu? - Kiến Quốc, 22/5/2007, Blog K4. 2. Nhân ngày 27 tháng - Tin mới nhất về LS Y Hòa - Kiến Quốc, 26/7/2007, Blog "Trường VHQĐ NVT". 3. Bản đồ chiến trƣờng của anh Tăng Thanh Bình - Hữu Thành, 27/7/2007, Blog "Trường VHQĐ NVT". 4. Tìm mộ LS, bạn mình - Thông tin mới hơn về LS Y Hòa - Kiến Quốc, 30/7/2007, Blog "Trường VHQĐ NVT". 5. Nhắn tìm đồng đội - Kiến Quốc, 17/8/2007, Blog "Trường VHQĐ NVT". Xem bài viết mới: 1. Câu chuyện thứ nhất - Chuyện về Y Hòa. - Hồ Bá Đạt, 29/2/2008, Blog K8. 2. C một lá thƣ nhƣ thế! - Hồ Bá Đạt, 6/3/2008, Blog K8. 3. Cảm ơn blog của anh em Trỗi - Trần Kiến Quốc, 10/3/2008, Blog K8. 4. Câu chuyện thứ 2: Trƣớc chuyến đi - Hồ Bá Đạt, 21/3/2008, Blog K8. 5. Câu chuyện thứ 3 về Y Hòa. Chuyện chƣa kết thúc - Hồ Bá Đạt, 1/4/2008, Blog K8. 6. Hành trình tìm bạn - AK7, 2/4/2008, Blog K8. 7. Câu chuyện thứ 3 về Y Hòa. Chuyện chƣa kết thúc. (Tiếp theo) - Hồ Bá Đạt, 3/4/2008, Blog K8. 8. Hành trình tìm bạn (Tiếp) - AK7, 3/4/2008, Blog K8. 276
9. Xem hoặc Lấy về: "Hành trình tìm bạn" dƣới dạng nhƣ văn bản DOC - AK7 10. Chị H'THanh c nhận xét gì? - Hồ Bá Đạt, 4/4/2008, Blog K8. 11. Thơ của ngƣời lính - AK7, 4/4/2008, Blog K8. 12. Công khai tài chính - AK7, 4/4/2008, Blog K8. 13. Đồi Cháy, một lần đến với các anh - Nguyễn Thị Thái, 5/4/2008, Blog K8. 14. "Lắm điều" - Đắc Hoà, 6/4/2008, Blog K8. 15. Ý kiến bạn đọc - Khắc Việt, 6/4/2008, Blog K8. 16. Đàn sếu - ...Nhân chuyến đi “Tìm Y Hoà và các bạn”, tôi lại liên tưởng đến bài hát Đàn sếu. Các bạn đã hy sinh, nhưng các bạn đã trở thành bất tử, giống như lời bài hát này. Mời các bạn nghe lại bài hát... - GM, 7/4/2008, Blog K4. 17. Để mồ anh hoa nở - Thơ của Nguyễn Thị Thái, 9/4/2008, Blog K8. 18. "Nhiều chuyện" - Đắc Hoà, 12/4/2008, Blog K8. 19. Vết xăm - kỷ niệm của Y Hoà - Hồi ức của Văn Hùng K7. Những ngày tháng 3/2008, anh em đi tìm bạn… , 14/4/2008, Blog "Trang văn nghệ trường VHQĐ Nguyễn Văn Trỗi". 20. Chút chuyện của ngƣời "nhiều chuyện" - Dương Minh, 16/4/2008, Blog K4. 21. Nhớ bạn - Ak7, 23/4/2008, Blog K8. 22. Chuyện của chị H’Thanh: Tin hay không tùy bạn! - Hồ Bá Đạt, 14/5/2008, Blog K8.
Xem ảnh: 1. Những hình ảnh đi tìm Y Hòa - 5/4/2008, Album "Út Trỗi", Picasa Web Albums 277
Liệt sĩ Đặng Đình Kỳ
278
Học sinh khóa 7
Sinh: 1954. Đơn vị: C9, D6, E2, F324. Hy sinh: 14/09/1974 (28/7 Giáp Dần) trong trận đánh Chùa Mụ Tham, Phú Lộc, Thừa Thiên. Mộ tại Nghĩa trang Liệt sĩ Phú Bài, huyện Hương Thủy, Tp. Huế (Thừa Thiên-Huế) (cây bằng lăng trái). Liên hệ gia đình: Mẹ Loan, 130 Vương Thừa Vũ, Đống Đa, Hà Nội.
279
Hoạt động K7 nhân ngày 27/7 (Trích) Khắc Việt K7 ...
N
gày 23/7/2008 BLL K7 Hà Nội (M.Thắng, Q.Thắng, V.Triều, T.Tráng) cùng ba trợ lý K.Việt, T.Quốc và Minh “V” đã viếng thăm nhà hai bạn liệt sĩ Đặng Đình
Kỳ và Trần Hữu Dân.
Ở nhà Đặng Đình Kỳ, bên mẹ già 81 tuổi của bạn, anh em dâu rể đều đã có mặt. Trên bàn thờ là di ảnh của hai ngƣời lính, một già, một trẻ. Sau khi thắp hƣơng cho bạn và cha bạn, chúng tôi ngồi cùng gia đình nhắc lại những kỷ niệm cũ về Kỳ thời trƣờng Trỗi và nghe gia đình kể về Kỳ. Đơn vị của Kỳ là C9, D6, E2, F324, Kỳ hy sinh trong trận đánh Chùa Mụ Tham, Phú Lộc, Thừa Thiên ngày 14/09/1974. Gia đình cũng đã nhiều lần tìm kiếm phần mộ của bạn, trong đó 280
có nhờ nhà ngoại cảm Bích Hằng giúp đỡ. Theo chị Hằng nói: "Mộ của bạn đã được qui tập về nghĩa trang liệt sĩ Phú Bài, huyện Hương Thủy, TP.Huế. Mộ tại vị trí sau đài tưởng niệm 80m, cạnh cây hoa Ban đỏ.” Ai đó trong chúng ta đến Huế nhớ ghé thăm bạn mình nhé.
Riêng tôi với F324 cũng có nhiều kỷ niệm, E2, F324 của Kỳ cùng cánh Bắc Huế với trung đoàn tôi ở Hòa Mỹ năm 1973. Tôi nhớ chính xác là D6 của Kỳ đóng gần chúng tôi lắm, lính Hà Nội vẫn thƣờng sang thăm nhau. Nếu ai xem bài “những hình ảnh về Phong Điền” trong uttroi sẽ thấy một cái đập nƣớc rất đẹp xung quanh là núi non xanh mƣớt. Trƣớc kia là dòng suối Cát, 281
chính là nơi D6 của Kỳ đã từng ở và luyện tập để đánh những trận đánh lớn, còn đơn vị tôi thì căng ra giữ tuyến giáp gianh, vậy mà chúng tôi chẳng biết để mà gặp nhau. Đầu năm 74, E2 của Kỳ chuyển xuống Nam Huế và Kỳ đã hy sinh tại đó. Sau khi hy sinh đơn vị có chuyển về một số di vật của Kỳ cho gia đình, trong đó có một cuốn nhật ký. Hy vọng chúng ta sẽ còn đƣợc biết thêm về ngƣời lính này.
HN, 23/7/2008
6/2/2010, anh em K7 lại rủ nhau đến thăm… 282
Lục "mần" B2 (Lục Sỹ Thanh K7) Cám ơn T.Quốc và các bạn trong BLL K7HN đã đến thăm các LS K7, nhất là ĐĐ.Kỳ "lợn". Nhớ hồi 1971 K và Q. còn đến nhà tôi để trêu cô gái Hà Nội B, cùng lớp, con ông bác sỹ nhà bên. Thế mà 37 năm rồi mới nghe tin về các bạn. Hồi 1984 tôi có ghé Mai Hắc Đế ngồi gần nhà Kỳ nghe hàng xóm kể về gia đình Kỳ. Ông già lấy tên con và nhớ nhung đứa con trai duy nhất đã ra đi. Chuyện rất thảm. Tôi không đủ can đảm dám vào an ủi gia đình; mà bây giờ các bạn đã làm dùm. Xin 1 lần nữa cám ơn! Xin thắp dùm 1 nén nhang cho tất cả các liệt sỹ.
18/8/2008, Hòa Bình, Khắc Việt K7, EGK9 viếng thăm NTLS Hương Thủy
Xem bài viết: 1. Con mẹ vẫn chƣa về - Khắc Việt, 25/7/2010, Blog K8. 2. Thăm nhà bạn Liệt sĩ - Khắc Việt, 27/2/2010, Blog K8. 3. Nhật ký Huế - Quảng Trị - Hòa Bình, 24/8/2008, Blog K8. 4. Hoạt động K7 nhân ngày 27/7 - Khắc Việt, 26/7/2008, Blog K8. 283
Liệt sĩ Lại Xuân Lợi
284
Học sinh khóa 7
Sinh: 1956. Nhập ngũ: 12/1971 Chức vụ: pháo thủ số 4 pháo cao xạ 37mm Đơn vị: sư đoàn phòng không 367. HT 680455 JA01 Hy sinh: 2/5/1972 (19/3 Nhâm Tý), tại Mặt trận Kỳ Anh (Hà Tĩnh), Quảng Bình. Mộ Lợi đã chuyển về NTLS xã Nam Vân, huyện Nam Trực, TP. Nam Định (bìa trái, hàng thứ 3). Liên hệ gia đình: Em gái Lại Thị Thanh Hồng, ở 152 Hàn Thuyên, Nam Định. Điện thoại: 0350.644440. DĐ: 0913344390.
285
Đã biết tin về liệt sĩ Lại Xuân Lợi Kiến Quốc K5
B
ạn Nguyễn Quốc Khánh (khoá 7) báo cho Ban biên tập: tên liệt sĩ Lại Xuân Lợi còn thiếu! Ngay hôm sau, ngày 19 tháng 3, tôi viết thƣ cho gia đình. Chiều 23
tháng 4, nhận đƣợc điện thoại từ Nam Định, ngƣời gọi là Thanh Hồng, em gái liệt sĩ. Mừng quá! Hai anh em tâm sự… … Chú Lại Xuân Thát, bố Lợi, từng công tác ở Cục Bảo vệ và là thƣ kí của Cục trƣởng Kinh Chi. Năm 1971, ông chuyển ngành ra Công an về công tác ở Nam Định. Cuối năm 1971, đang là học sinh lớp 10 trƣờng chuyên Lê Hồng Phong, nghe lệnh Tổng động viên, Lại Xuân Lợi đã nhiều lần viết đơn xin nhập ngũ nhƣng đều bị bác với lí do: mới 16, chƣa đủ tuổi nhập ngũ (Lợi sinh ngày 10 tháng Giêng năm 1955); hơn nữa bố và anh đang công tác trong lực lƣợng vũ trang. Không nản, Lợi viết tiếp đơn bằng máu. Lần này, Thành đội Nam Định phải chấp nhận. Ngày 31 tháng 12 năm 1971, Lợi nhập ngũ, huấn luyện bộ binh ở Thanh Hoá; sau đó theo đơn vị hành quân ngƣợc trở ra Đông Anh huấn luyện cao xạ. Ngày 29 tháng 4 năm 1972, sƣ đoàn phòng không 367 của Lợi bổ sung cho chiến trƣờng. Trên đƣờng hành quân vào Nam, ngày 2 tháng 5 năm 1972, cả đội hình bị máy bay Mỹ ném bom, khi qua địa hạt Kỳ Anh (Hà Tĩnh). Nhiều cán bộ, chiến sĩ hy sinh, trong đó có Lại Xuân Lợi. 286
Cũng từ sau khi nhận lá thƣ cuối cùng, đề ngày 29 tháng 4, viết từ Đông Anh, gia đình mất liên lạc. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, không thấy Lợi về, bố mẹ lo lắng. Đến năm 1977, mới nhận đƣợc giấy báo tử nhƣng không biết Lợi đƣợc chôn cất ở đâu. Đã từng là lính, quen biết nhiều, ông Thát thăm hỏi nhiều nơi, gặp cả đồng đội cũ là ông Phục (Cục trƣởng Cục Chính sách) nhờ vả. Nhƣng vô vọng… Mãi tới năm 1990, một đồng đội cũ đến thăm, kể lại: “Cháu bị thương trong trận bom ngày ấy. Sau đó, những người còn sống tiếp tục hành quân vào Nam. Đơn vị hy sinh nhiều… Cháu nhớ Lợi được an táng tại nghĩa trang liệt sĩ Kì Anh”. Ngay sau đó, gia đình tổ chức chuyến đi tìm Lợi. Đƣợc sự giúp đỡ của Phòng Chính sách Quân khu Bốn, gia đình tìm thấy mộ phần của Lợi. Đến ngày 25 tháng 7 năm 1996, theo nguyện vọng gia đình, hài cốt Lợi đƣợc chuyển về quê. Quân khu Bốn, Thành phố Nam Định và gia đình đã tổ chức trọng thể lễ đón nhận hài cốt. Hiện Lợi an nghỉ tại nghĩa trang liệt sĩ xã Nam Vân, thành phố Nam Định. Ông Thát mất năm 2003. Năm sau, mẹ Lợi cũng ra đi. Nếu ai có dịp về Nam Định, nhớ tạt qua thăm Lại Xuân Lợi, bạn của chúng ta 1. Cận ngày chiến th ng 30-4-2005 K.Q
1. Liên lạc với em gái: Lại Thị Thanh Hồng, 152 Hàn Thuyên, Nam Định. Điện thoại: 0350.644440. 287
Kho hiểu biết về nông thôn Miền Bắc 1966 4SG - 4saigon K7
T
ất nhiên trƣờng Trổi có tiếp nhận một số ít AE xuất thân từ nông thôn vào trƣờng. Tôi nhớ một anh K6, hình nhƣ có tên Tiến bồ, con chủ tịch huyện Đại Từ
năm đó, em vợ trung đội trƣởng Nghinh (B3 K7). Các pác K6 có thể chỉnh sửa cho chính xác. Tuy nhiên đối với tôi, Lại Xuân Lợi (liệt sĩ) mới đúng là cậu nông tồ, đi thẳng từ ruộng đồng Nam Hà vào trƣờng Trỗi. Nó với tôi là hai thái cực trong cái lò bát quái là trƣờng Trổi, hiểu theo cái nghĩa là lò luyện nhào nặn mọi phần tử rời rạc để hình thành nên một đội ngủ mới, mang tính cách mới... Tôi, dân Sài Gòn chánh gốc, vừa mới từ cái thế giới "phồn hoa giả tạo" tới. Còn nó là đứa con đẻ thuần dòng của đất nƣớc mặn đồng chua. Những gì tôi mang từ cái TP Bác Hồ nói với nó đều là viển vông. Còn những kiến thức thiên nhiên về nông thôn Bắc Bộ mà nó chỉ cho tôi đều là những gì quá đổi cần thiết cho cuộc sống khó khăn, gian khổ trong chiến tranh. Tôi lại đƣợc ông bạn đồng môn khai tâm cho về thiên nhiên, cây cỏ, động vật của châu thổ Sông Hồng nói riêng, nông thôn Miền Bắc nói chung. Tất nhiên, tôi còn đƣợc nhiều bạn khác chỉ bảo cho thêm trong những ngày đầu trên Trại Cau, Trại Bƣởi. Nhƣng Lại Xuân Lợi vẫn là số một dách lẩu, vì không ai lớn lên ờ nhà quê nhƣ Lợi hết. 288
Tôi xin thắp một nén nhang cho ngƣời khai tâm cho tôi về nông thôn châu thổ sông Hồng. Mỗi ngƣời đã trãi qua 4-5 năm học tại Trƣờng NVT ít nhiều cũng có vài ngƣời bạn, dù rất thân hoặc chí ít cũng thân. Mà mỗi ngƣời nhƣ vậy, ta đều có nhiều kỹ niệm, đến nổi dùng bao nhiêu trang giấy (bây giờ là page) cũng không thể kể hết. Thành thử tôi chỉ có thể trãi lòng trong giây lát với một vài ngƣời có kỹ niệm sâu nặng.
Nguyễn Hòa Bình K7 Trích „Tập viết cho đở quên chử nghĩa” – Blog K8, 28/05/2008
Bằng Tổ quốc ghi công Liệt sĩ Lại Xuân Lợi. 41 - SRTKL2: 184-185 289
NTLS xã Nam Vân, huyện Nam Trực, TP. Nam Định (bìa trái, hàng 3)
31/07/2008, BLL Trường và anh chị em K7 viếng thăm 290
6/2/2010, Hồng (CSCA) em gái liệt sĩ Lại Xuân Lợi thay mặt gia đình tiếp Thắng đại diện BLL
Đỗ Nghĩa Tôi rất nhớ Lại Xuân Lợi với hàm răng 9-6-3-0. Một anh chàng nhà quê nghịch ngợm và vui tính. Đ/nghị Q.Thắng, K.V có hình ảnh về chuyến đi N.Định cho ae coi với. Đám S.G rất nhiều b3 cùng với Lợi.
Xem bài viết: 1. Thăm nhà bạn Liệt sĩ. - Khắc Việt, 27/2/2010, Blog K8. 2. Về thăm LS Lại Xuân Lợi - Kiến Quốc, 1/8/2008, Blog K8. 3. Đã biết tin về liệt sĩ Lại Xuân Lợi - Kiến Quốc, SRTKL 2, 184-185. 4. Những lá thƣ của liệt sĩ Lại Xuân Lợi - Ng. Quốc Khánh K7, SRTKL2, 186-190. 291
Liệt sĩ Nhà báo Ngô Tất Thắng
292
Học sinh khóa 7
Sinh: 1956 Phóng viên Báo Quân đội Nhân dân. Hy sinh: 1/1/1979 (3/Tháng Chạp Mậu Ngọ) tại Mặt trận đồn điền cao su Chúp, Kongpong Cham, Campuchia. Mộ tại: Nghĩa trang Từ Sơn, B c Ninh (quê cụ Ngô Từ Vân). Liên hệ gia đình: Mẹ Toàn, số 14, Khu tập thể Cty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm, Mỹ Đình, HN. (04-38374384).
293
Nhớ về một ngƣời bạn Hồ Bá Đạt K8
"Khi nghĩ về một đời người, tôi thường nhớ về rừng cây. Khi nghĩ về một rừng cây,tôi thường nhớ về nhiều người. Trẻ trung như cụm hoa hồng, hồn nhiên như là ánh lửa... ".
N
ghe bài hát "Một đời người, một rừng cây"của Trần Long Ẩn, tôi lại nghĩ về bạn. Một ngƣời bạn đối với tôi tuy không thân lắm nhƣng cũng chơi chung đã từng
gắn bó với nhau một thời tuổi trẻ. Cậu cƣ ngụ cùng một khu TT 16A Lý nam Đế, Hà nội với tôi. Từ nhỏ cậu đã có dáng vẻ của ngƣời lớn, đi đứng chững chạc nhƣ một "ông cụ non". Cho nên các trò chơi của bọn trẻ con trong khu thƣờng không có cậu, nói cách khác là cậu không thèm chơi? Cho đó là trò trẻ con, mặc dù cậu còn kém tôi 1 tuổi nhƣng trông già dặn hơn nhiều. Cậu chũi mũi vào học, đọc sách và kéo đàn violon. Dƣới ngọn roi của bố hàng đêm bắt cậu kéo đàn sau giờ ôn bài. Có lẽ ông hằng mong muốn con mình sẽ trở thành thần đồng âm nhạc? Hàng xóm khổ sở vì tối khuya vẫn phải nghe tiếng violon rít lên không cho ai ngủ sau một ngày làm việc. Bố cậu nổi tiếng là dữ đòn trong khu. Thế nhƣng cách dạy con của ông không đạt hiệu quả mong muốn. Cậu chỉ kéo 294
đàn trong các buổi biểu diễn văn nghệ của trƣờng do thời ấy rất hiếm học sinh biết chơi đàn, lại là đàn violon, loại đàn đƣợc mệnh danh là nữ hoàng của các loại đàn dây. Chỉ dừng lại ở trình độ "ọ ọ, ẹ ẹ", càng về sau cậu càng ít chơi đàn, sau này bỏ hẳn không thấy chơi nữa? Bọn con gái trong khu ít ai để mắt tới cậu vì cho rằng cậu hay "tỏ vẻ ta đây, ra vẻ ra ve". Riêng tôi, tôi biết cậu cũng để ý vài cô qua những lần nói chuyện với cậu. Cuối năm 1971, sau trận Khe sanh, đƣờng 9 nam Lào, khí thế ra trận của thanh niên, học sinh Hà nội lúc bấy giờ rất sôi nổi. Nhất là câu nói của anh hùng Lê Mã Lƣơng "Cuộc đời đẹp nhất là ở trận tuyến chống quân thù" càng làm cho không khí ra trận tƣng bừng, sôi động hơn! Một buổi chiều, tôi đang lúi húi múc nƣớc trong bể nƣớc công cộng của khu TT. Cậu và Hùng Thắng đi tới gần tôi nói: "Kỳ này bọn tao đi bộ đội, mày có đi không? Thằng Vỹ "gỗ" cũng đi nữa". Không suy nghĩ tôi gật đầu liền. Đang chán không muốn học, vì gặp phải cô giáo dạy Hóa (hình nhƣ ghét tôi?), hay "đì" tôi lên trả bài. Sau này tôi mới biết cô ghét tôi thật bởi vì tôi dám phản ứng lại thầy giáo dạy thể dục khi bắt các học sinh phải bỏ áo trong quần khi có tiết của thầy, mà thầy lại là ngƣời yêu của cô ấy. Tôi và cậu không đủ tuổi nên phải viết đơn tình nguyện, cái khó là phải có chữ kí của phụ huynh đồng ý cho đi. Cậu thì thể hiện quyết tâm bằng cắn ngón tay viết đơn bằng máu. Tôi giả chữ kí của ba tôi rồi cả hai mang lên khu đội Hoàn kiếm nộp. Sau hai vòng khám tuyển chúng tôi
295
cũng đạt tiêu chuẩn đi bộ đội mặc dù khám lần 2, sau hơn 1 tháng tôi từ 41 kg chỉ còn có 39 kg. Ngày 22/12 năm ấy học sinh, sinh viên các trƣờng ở HN tập trung về vƣờn Bách thảo, dƣới chân núi Nùng mít tinh chào mừng chiến thắng Đƣờng 9 Nam Lào, tiễn thanh niên lên đƣờng nhập ngũ, có đại tƣớng Võ Nguyên Giáp tham dự. Chúng tôi là lính tình nguyện đi đợt này nên đƣợc mời lên lễ đài, cậu vinh dự đại diện cho thanh niên HN đọc quyết tâm thƣ. Tháng 1/1972 chúng tôi gồm cả Lê Trƣờng Vỹ, Hà Hùng Thắng, Hồ Phƣơng Bình chính thức là ngƣời lính, huấn luyện trên Bãi Nai - Hòa Bình. Lên đó chúng tôi cùng chung đại đội với nhiều lính Trỗi nhƣ Y Hòa, Vũ Trung, Nguyễn Lâm, Bạch Quốc Đoàn, Kim Cƣờng... nên rất vui. Thế nhƣng gần Tết bỗng dƣng đại đội gọi chúng tôi lên, gồm 5 ngƣời, tôi, cậu và 3 ngƣời nữa là: Thịnh nhà ở Thụy Khuê học trƣờng Nguyễn Trãi cùng lớp với vợ anh Đồng Hiền khóa 3, Cù Thắng nhà ở Phó đức Chính gần nhà Việt Hằng và Lộc nhà ở Đội Cấn. Nói lên tiểu đoàn có việc cần. Lúc đó chúng tôi mới biết bị trả về địa phƣơng, lí do của 3 ngƣời kia là con một, tôi và cậu chƣa đủ tuổi. Sau một hồi xin xỏ, năn nỉ không đƣợc vì đây là chính sách, chúng tôi đành trả lại quân trang, về đơn vị chia tay mọi ngƣời rồi kéo nhau ra đƣờng 6 đón xe về HN. May chặn đƣợc một xe quân đội chở gạo cho đi nhờ về đến Xuân Mai, đi bộ một đoạn đến Hà Đông, đi tiếp xe điện về HN. Nói là "chặn" vì các xe đi qua chỗ huấn luyện chiến sĩ 296
mới đều sợ không dám dừng lại, chúng tôi phải cử một ngƣời đứng ra giữa đƣờng chặn xe lại cho mọi ngƣời lên xe hết rồi mới lên. Nhất là gần Tết, lính tự "cho phép" về nhà rất nhiều. Không chịu từ bỏ quyết tâm đi lính, sau Tết tôi xin ba tôi nhập ngũ vào quân chủng Hải quân cùng Khánh "chuột", Nam "béo". Cậu sau này không biết làm thế nào cũng xin trở lại đƣợc đơn vị cũ? Tháng 5/72 cậu và đồng đội tham gia chiến dịnh "mùa hè đỏ lửa" ở Quảng trị, nghe nói bị hy sinh rất nhiều, nhất là lính HN, do chƣa có kinh nghiệm chiến đấu, phải vào trận ngay. Đến nỗi bọn thủy quân lục chiến ngụy còn hô hào: "b t sống thiếu niên HN" vì đa phần mới bƣớc qua tuổi 18, họ còn trẻ quá! Khoảng giữa năm 1973 tôi lại gặp cậu, Vỹ "gỗ" và Hùng Thắng đƣợc cử đi học sỹ quan công binh. Trông cậu và Hùng Thắng mặc đồ học viên sỹ quan, dây lƣng bắt chéo, quân hàm trên vai nhƣ đi duyệt binh thật oách và đúng với bản chất của cậu, ƣa khác ngƣời. Bẵng đi một thời gian, tôi nghe nói cậu học tổng hợp văn. Thời gian này, đất nƣớc đã thống nhất. Rồi tôi nghe nói cậu bỏ trƣờng đƣa ngƣời yêu vào tận Vũng tàu một thời gian, bị nhà trƣờng kỉ luật nhƣng vẫn tiếp tục học. Sau đó tôi có đọc một
297
cuốn tiểu thuyết tình báo: "Sau cành Vi-ô-lét" tác giả là tên cậu, có lẽ cậu viết trong thời gian bỏ học này? Rồi
lại
nghe
nói
cậu
tốt
nghiệp về làm phóng viên báo "Quân đội nhân dân". Chiến
tranh
biên
giới
Tây
Nam nổ ra một thời gian, một hôm
ba
Campuchia
tôi
từ
mặt
trận
về nói: "Thằng
Th ng con bác Từ Vân, cô Toàn, cùng nhập ngũ với con hy sinh rồi". Thắng, vâng Ngô Tất Thắng học sinh trƣờng Trỗi khóa 7. Tôi lặng ngƣời, lại một ngƣời bạn đã ra đi. Hỏi ba: "Th ng hy sinh trong trường hợp nào?" Ba tôi chỉ nói Thắng hy sinh vì một viên đạn của Khơme đỏ khi đang ngồi trên xe tăng trên đƣờng tiến vào giải phóng Pnompenh. Sau này đọc bài viết về bạn trong: "Sinh ra trong khói lửa" tập 1 tôi mới đƣợc biết kỹ hơn về trƣờng hợp bạn xung phong ra mặt trận làm phóng viên chiến trƣờng, rồi hy sinh. Cuốn tiểu thuyết bạn viết đầu tay cũng là tác phẩm cuối cùng của bạn. Nhƣng vẫn còn có nhiều ngƣời nhớ tới bạn. Cô Trâm giáo viên dạy văn trƣờng Chu văn An vợ nhà văn Phùng Quán có bài viết trên báo "Văn nghệ" nói về bạn và cuốn tiểu thuyết của bạn. Chúng tôi mãi nhớ về bạn! 298
Thắng ơi! Cậu lúc nào cũng tỏ vẻ ta đây "ngƣời lớn" nhƣng cậu "lớn" thật! Cậu toàn chọn chỗ dễ chết để "xông" vào. Văng vẳng bên tai: " ...Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ biết dành phần ai... ". Bạn trẻ mãi tuổi 25...
Trái qua: Ngô Tất Thắng, Khánh "chuột" và tác giả bài viết (ảnh chụp trước khi đi bộ đội) TPHCM 14/10/2009 299
Bạn đã chiến đấu… Nguyễn Thắng
T
rung tuần tháng 12 năm 1978, bọn diệt chủng Pôn Pốt đã dàn 4 sƣ đoàn quân áp sát biên giới Tây Ninh. Thể theo nguyện vọng của nhân dân, Mặt trận dân tộc giải
phóng Cămpuchia đã đề nghị Chính phủ ta cho đội quân tình nguyện sang đất nƣớc Chùa Tháp tiêu diệt lũ Pôn Pốt, cứu nhân dân Cămpuchia khỏi họa diệt chủng. Tổ phóng viên chiến tranh báo QĐND chuyến đi ấy gồm có 4 ngƣời: Kim Đồng, Nguyễn Thắng, Bá Thƣớc và Ngô Tất Thắng. Chúng tôi đã đƣợc Bộ Tổng tham mƣu ƣu tiên dành cho một máy bay lên thẳng HU-1A (chiến lợi phẩm thu đƣợc của Mỹngụy Sài Gòn 1975) bay từ sân bay Tân Sơn Nhất, vƣợt qua đầu bọn Pôn Pốt và đổ bộ xuống cánh rừng Mi-mốt (Công-pôngchàm) cách biên giới khoảng 30km. Từ đó, chúng tôi mở bản đồ ra xem, cắt góc phƣơng vị tự tìm đƣờng về sở chỉ huy đơn vị Quân đội ta. Sau một tuần nghiên cứu hiệp đồng tác chiến giữa các quân chủng: hải - lục (gồm pháo binh, pháo cao xạ, tăng- thiết giáp và bộ binh cơ giới 100%) và không quân, đoàn phóng viên chúng tôi đƣợc chia làm 2 tổ. Một tổ gồm Kim Đồng và Bá Thƣớc đi theo cánh quân hƣớng Tây Bắc qua Công-pông-thom, Xiêm Riệp, Xi Xô Phôn… (Kim Đồng do bị ốm nên phải ở lại hậu cứ). 300
Một tổ gồm Nguyễn Thắng và Ngô Tất Thắng đi theo cánh quân hƣớng Đông qua thị xã Prây-veng và Công-pông-chàm để vào hội quân tại Phnôm-pênh. Bốn giờ sáng ngày 31 tháng 12 năm 1978, cuộc hành quân bắt đầu. Ngô Tất Thắng đi trên chiếc xe M113 cùng Tiểu đoàn trƣởng tiểu đoàn 2 và đội hình tiểu đoàn tiến công bọn địch ở đồn điền Chúp, làm nhiệm vụ chốt chặn chiến dịch, không cho chúng vƣợt sông Mê-công co cụm về Công-pông-chàm… Trong quá trình hành tiến, đội hình xe tăng và xe bọc thép đi trƣớc hạ nòng pháo bắn chế áp các mô đất, bụi cây nghi có địch phục kích. Toàn bộ lực lƣợng bộ binh đều ngồi trên xe vận tải trong tƣ thế sẵn sàng nổ súng. Mùa khô ở Cămpuchia đồng ruộng khô nẻ. Sau khi ra khỏi rừng, hàng ngàn xe các loại đều tràn xuống đồng, tăng tốc độ và tránh bom mìn địch cài trên mặt đƣờng. Khi hành quân qua các phum (nhƣ làng, bản, sóc, buôn ở Việt Nam), nhân dân Cămpuchia kéo ra rất đông, reo vui đón chào ngƣời bạn láng giềng đến cứu mình thoát khỏi nạn diệt chủng. Họ hô đến khản giọng: “Việt Nam – Campuchia Xa-ma-khi!” (Việt Nam – Cămpuchia đoàn kết!). Do bị tiến công bất ngờ với sức mạnh áp đảo, nên ngày đầu địch chống trả yếu ớt và sau đó nhanh chóng bị tiêu diệt. Đêm 31 tháng 12 năm 1978, rạng sáng ngày mùng 1 tháng 301
giêng năm 1979, địch tổ chức lại lực lƣợng và phản kích quyết liệt. Ở đồn điền cao su Chúp, địch dùng cả xe tăng tấn công và bắn pháo vào khu vực tạm trú quân của ta.
"... Nguyễn Bá Kiên, Phạm Hùng Chiến đƣa xe K63 bám sát lề đƣờng. Địch đã vào tầm súng. Bắn! Hai chiếc ôtô bốc cháy lập tức. Bị đánh phủ đầu, địch khựng lại. Cậy vỏ thép dày chiếc xe tăng T.58 lách sang, lồng lộn chống trả. Khẩu ĐKZ gắn trên xe chỉ huy bị hỏng. Xạ thủ B40 Luận Công Tiến trúng đạn hy sinh. Hƣớng xách súng của bạn bám theo vạt cỏ, bò lên, quả B40 nổ lóe trên tháp pháo. Chiếc T.58 lùi lại. Quả thứ hai, Hƣớng bắn cháy chiếc M.113. Bọn lính từ chiếc T.58 hoảng sợ lao ra, bị Ngô Tất Thắng(1) cản lại. Hƣớng nhảy lên chiếc xe tăng của địch. Quay nòng pháo, hối hả gọi: “Th ng ơi, tiếp đạn”. Địch vón lại. Chiếc xe số 206 của Phạm Hùng Chiến nhằm chiếc xe giải phóng mở hết tốc lực. Sau pha đụng đầu, chiếc ô tô bị hất xuống lòng mƣơng. Lựu đạn, B40 nổ chồng lên nhau. Đại đội 7 bật dậy, lia đạn tới tấp vào quân địch. Xác địch vắt lên thành xe, cắm xuống ruộng. Lửa sáng rực một vùng. Địch tan. Số sống sót tháo chạy về phía sau. Suốt đêm ngày 31 tháng 12 năm 1978, đại đội 7 liên tục chặn đánh hàng chục đợt phản kích của địch giữ vững trận địa, đƣờng số 7 đoạn từ Suông đến Chúp, trở thành đoạn đƣờng máu của quân khu 203....."
(Trích trong lịch sử sư đoàn đồng bằng (F320 quân đoàn 3) - Khắc Việt). 302
… một chiếc xe M113 đã bị địch bắn cháy, nhà báo Ngô Tất Thắng và một số anh em trên xe đã hy sinh… Trong danh sách những cán bộ, chiến sĩ chiến đấu dũng cảm, lập công xuất sắc trong trận đầu đƣợc đề nghị cấp trên tặng thƣởng huân chƣơng Chiến công có nhà báo – liệt sĩ Ngô Tất Thắng với ghi nhận: “Liệt sĩ Ngô Tất Thắng là một nhà báo dũng cảm. Vừa hành tiến, vừa tác chiến, bất chấp hỏa lực của địch, anh đã chụp đƣợc 2 cuốn phim ghi nhận hình ảnh chiến đấu mƣu trí dũng cảm của Quân đội ta. Trong trận tao ngộ chiến, giáp lá cà ở Chúp, anh đã dùng súng ngắn đem theo bắn kẻ thù, nhƣ một chiến sĩ từng trải trận mạc…”.
Trích ”Anh còn đó như một nhành Vi-ô-lét” Ngô Thái Hòa K6+K7 … Y Hòa và Ngô Tất Thắng luôn luôn là những chiến sỹ gƣơng mẫu trong rèn luyện, nắm vững kỹ chiến thuật, thƣơng yêu đùm bọc đồng đội, nhất là những đồng đội là bạn Trỗi thời thơ ấu. Trong đợt bắn đạn thật bia số 4 cự ly 100 mét và bia số 7 cự ly 200 mét (bắn đêm), Y Hòa và Ngô Tất Thắng đều đạt thành tích xuất sắc, đƣợc biểu dƣơng toàn tiểu đoàn … Ngô Tất Thắng thì sôi nổi và mơ mộng hơn, bận thì thôi, rảnh là Thắng viết nhật ký hay viết thƣ, hành quân mệt đến đâu, nhƣng hạ ba lô là thấy Thắng hý hoáy viết hay ghi chép rồi. Ngƣời nhận thƣ nhiều nhất đơn vị là Ngô Tất Thắng, vì ngày nào Thắng cũng viết thƣ và nhận thƣ của Tg BH K7, học sinh của trƣờng PTTH Chu Văn An, Ba Đình, Hà Nội và bạn bè gần xa.
Trích „Kỷ niệm về 2 Liệt sỹ Y Hòa K7 và Ngô Tất Thắng K7” 303
Đỗ Nghĩa K7
Chơi
với nhau từ lúc bé tí, kỷ niệm giữa hai đứa luôn là
những trò chuyện thủ thỉ, rồi tranh luận, lý sự từ lúc con trẻ cho tới lớn chứ không phải là những kỷ niệm phá đám, nghịch ngợm nhƣ những ngƣời bạn khác. Hồi nhỏ tên bạn là Hùng Thắng. Lúc mới đi học, cô giáo nói Tất Thắng nghe hay hơn, ý nghĩa hơn. Thế là bạn về nhà đòi bằng đƣợc mẹ đổi tên, nên mới là Ngô Tất Thắng… Lớn thêm một tý vào trƣờng Trỗi, không cùng trung đội nhƣng vẫn thân với nhau nhƣ thế, chia nhau quà bánh và tin nhà. Nhớ những lần hội diễn văn nghệ có Thắng với cây đàn Violon. Nhớ những ngày chủ nhật ở Trung Hà đứng trên lan can nhìn xuống sân bóng, cùng trông ngóng ngƣời nhà lên thăm. Hai đứa coi tay nhau, nghe ngƣời ta nói đứa nào có những vòng trắng trắng dƣới móng tay là hay nhận đƣợc bánh kẹo gia đình gởi, tụi mình đều có cả, ráng chờ, vậy mà cũng tin…
Trích „Nhớ bạn”
Trong bức ảnh anh ấy đứng bên phải, ảnh chụp trước ngày nhập ngũ năm 72, năm đó anh ấy 16 tuổi. 304
KV.K7 (Khắc Việt K7) … Thắng đã đi theo đơn vị xung kích luồn sâu (C7, D1, E48, F320) đánh vào sở chỉ huy QK 203 của địch. Cần tìm hiểu thêm có thể liên lạc với BBL CCB F320, tìm gặp những đồng đội có tên trong đó (nếu họ còn sống). Nhà báo như Thắng mà đi theo mũi thọc sâu này thất đáng khâm phục, ngay năm 1975 khi đánh SG tập kết đầy đủ các loại nhà báo nhưng không có ông nào dám đi với đội hình thọc sâu, nên vào dinh Độc Lập chỉ có ảnh của PV Tây, còn là phim ảnh của ta là đóng lại. K6LS (Nguyễn Chí Kiên K6) Đạt à. Tôi chính là kẻ vào khám mắt thay cho Thắng đấy. Hắn bị cận mà! Nếu tôi không đóng thế thì Thắng bị trượt tuyển quân . Khi nghe tin hắn hy sinh trong tôi rối bời (thương cảm , ân hận, tự hào ... ) @Bác HCQuang: Bởi vì cả bọn cứ thi hộ nhau hoài (đứa này bổ sung cho đứa kia ) nên khi gọi tới khám bị lộ hết. Em thì không bị sao nên họ không nhớ mặt, Thắng nó khẩn khoản nhờ em và em giúp nó vô tư vậy thôi . Ngày xưa đi bộ đội cứ nghĩ như đi chơi vậy đó, ai dè ... ) KV.K7 (Khắc Việt K7) Vẫn nhớ ngày trước Thắng rất hiền và ngoan vậy mà trong cậu ấy là một tính cách mạnh mẽ. Chuyện với người yêu, chuyện đi bộ đội cũng phải "chạy chọt nhờ vả". Là lính thì phải ra tuyến đầu nhưng phóng viên thì đâu cần phải vậy, ấy mà ngồi theo xe tăng vào trận không phải ai cũng dám. Cảm phục lắm. tk8 (Nguyễn Minh Tuấn K8) - Tất Thắng có 1 kỷ niệm không thể quên: chúng tôi chia 2 fe lên đồi Trung Hà đánh nhau, chẳng có thù oán gì, chỉ là "Gà mới lớn thích so cựa". Minh "đu" làm trọng tài, đấu thủ có Giang"còi", Bảo Sơn, Đoàn "điếu"... khoảng 20 người, tôi rút thăm trúng Tất Thắng. Ngay hiệp đầu Thắng bị trượt chân ngã, chống tay xuống đất - Stop trận đấu. Tay fải Thắng sưng fồng lên, tôi sợ quá. Nhưng Thắng về báo với thày: Tự trượt ngã ở giếng nước - đúng kiểu Trỗi. Thắng fải đeo băng tay choàng qua cổ khoảng 1 tháng: rạn xương!... vậy mà những người tham gia trận tỷ võ hôm đó vài bạn đã không còn nữa... 305
25/7/2010 BLL K7 Hà Nội thăm hỏi mẹ Toàn
17/10/2010, Thầy Trọng và ACE K7 thăm gia đình 306
Xem bài viết: 1. Bên lề lễ hội - Đến thăm gia đình Ngô Tất Thắng - Khắc Việt, 17/10/2010, Blog K8. 2. N i lại cho rõ - dathb136, 6/8/2010, Blog K8. 3. Hành trình đi tìm một địa chỉ. - dathb136, 26/7/2010, Blog K8. 4. Con mẹ vẫn chƣa về - Khắc Việt, 25/7/2010, Blog K8. 5. Nhớ bạn
- Đỗ Nghĩa, 21/7/2010, Blog K8.
6. Nhà báo Ngô Tất Thắng (K7) đã chiến đấu nhƣ thế. - Khắc Việt, 12/7/2010, Blog K8. 7. Kỷ niệm về 2 Liệt sỹ Y Hòa K7 (Mlo dzuon dzu) và Ngô Tất Thắng K7 - Ngô Thái Hòa, 29/3/2010, Blog K8. 8. Ngày 6 tháng 1 năm 1972 - vygo, 7/1/2010, Blog K8. 9. Nhớ về một ngƣời bạn - Hồ Bá Đạt, 14/10/2009, Blog K8. 10. Câu chuyện về liệt sĩ Ngô Tất Thắng - Việt Hằng, 26/7/2008, Blog K8. 11. Nhớ Tất Thắng - Việt Hằng, 5/3/2008, Blog K8. 12. Liệt sĩ - Nhà báo Ngô Tất Thắng (Kh a 7) - Anh còn đ nhƣ một nhành Vi-ô-lét - Nguyễn Thắng, Phóng viên Báo QĐND, đồng nghiệp của liệt sĩ Ngô Tất Thắng, SRTKL1. 13. Nhà báo, liệt sĩ Ngô Tất Thắng - Hồ Bá Đạt K8, SRTKL 2, Tr.: 180-183.
307
Liệt sĩ Nguyễn Đức Thảo
308
Học sinh khóa 7
Sinh: 1954 TT Viện 103, HN. Sĩ quan xe tăng, U1-CT. Đơn vị: C5, D3, Lữ đoàn 22 thiết giáp. Hy sinh: 28/4/1978 (22/3 Mậu Ngọ), Mặt trận Tây Ninh, Campuchia. Mộ tại Nghĩa trang Liệt sĩ Y Na, xã Tân Cương, Thái Nguyên. (Bên con đường đi quanh hồ Núi Cốc, nằm ngay hàng đầu tiên, gần đài tưởng niệm). Liên hệ gia đình: Mẹ Đỗ Thị Lan, Khu tập thể Viện 103, 26 đường Phùng Hưng, phường Phúc La, quận Hà Đông, HN.
309
K7 viếng mộ và thăm gia đình LS Nguyễn Đức Thảo Khắc Việt K7
C
hiều nay (22/07/2008) BLL K7 có hội ý chuẩn bị cho ngày 27/7 năm nay. Góp mặt cùng BLL có thêm Bình “mèo” đại diện C11, Gtl đại diện anh em SG, Ngọc Mai
đại diện K9. Mọi ngƣời đều đã gặp Hạnh (bạn H mà bangoc199 thông tin), bạn thân của LS Nguyễn Đức Thảo K7. H cho biết thêm thông tin về Thảo và gia đình Thảo. Ba mẹ Thảo trƣớc kia đều là bộ đội, công tác ở HV Quân y, em rể Thảo là Dũng trƣởng khoa gì đó (quên mất tên khoa gì rồi) cũng ở HV Quân y. Hiện mẹ Thảo vẫn còn. Hiện đang ở 26 đƣờng Phùng Hƣng, Phúc La, Hà Đông. Tôi có hỏi nhỏ: “Trước kia bạn với Thảo quan hệ ra sao? Khi Thảo đi bộ đội bạn có tặng bạn tôi hoa bưởi không?” Hạnh trả lời: ”Em với Thảo thân nhau từ bé, khi Thảo đi bộ đội em mới chỉ tặng hoa bòng. Hôm Thảo ra tàu cùng đoàn xe tăng, em có đạp xe đến ga tiễn” (Đi vào Nam thời kỳ chiến tranh tây nam). Nhƣ vậy H rất thân với Thảo, hy vọng cùng thời gian chúng ta biết thêm những thông tin về bạn… … 310
25/7 Mƣa từng cơn suốt buổi sáng, Tráng “mèo” đội mƣa chạy đến nhà tôi. Hai thằng tranh thủ gặm mấy miếng bánh mỳ trong lúc chờ xe. Về trƣa trời bớt mƣa, Dũng, Hạnh cũng vừa đến đón chúng tôi. Dũng em rể Thảo (Trƣởng khoa phẫu thuật bụng HVQY) và Hạnh, Cô bạn gái từ thủa cắp sách với Thảo và rất nhiều anh em Trỗi trong khu TT QY trong Hà Đông. Ban đầu thấy Dũng phóng nhanh, sử lý già tôi hơi lo nhƣng chỉ đến cầu Thăng Long thì tôi bắt đầu yên tâm. Qua Dũng, chúng tôi đƣợc biết về trƣờng hợp hy sinh của Thảo, về việc đƣa hài cốt Thảo về quê ra sao. Tôi nghĩ đó là những câu chuyện cảm động về tình ngƣời, tình đồng đội. Nhƣng bài viết này thật khó mà kể hết cho anh em đƣợc
*
.
Hạnh, chính là H trong bài viết trƣớc, hiện Hạnh đang công tác tại đoàn 871, ngày trƣớc cánh Trỗi ta không ít ông đã phải qua trung tâm này. Trên đƣờng Hạnh kể cho chúng tôi nhiều về Thảo. Từ thủa còn chơi “ô ăn quan”, rồi Thảo lên trƣờng Trỗi, rồi
311
khi ở Trỗi về lại cùng trong một lớp. Những chuyện Thảo chốn học đi chơi với bạn bè “bắt“ Hạnh chép bài hộ làm Hạnh ”ấm ức”. Vốn là cô giáo (ngoại ngữ), nên Hạnh ý tứ không thổ lộ nhiều. Tôi hiểu giữa họ đã là một tình bạn đẹp và sâu nặng. Giá nhƣ không có chiến tranh… Nghĩa trang Thảo nằm trong một khuôn viên đẹp của xã, bên con đƣờng đi quanh hồ Núi Cốc. Mộ Thảo nằm ngay hàng đầu tiên, gần đài tƣởng niệm. Khi chúng tôi đến thì địa phƣơng cũng đang tổ chức cho thanh niên, cựu chiến binh ra sửa sang lại nghĩa trang nhân ngày 27/7. Trên đƣờng về, Quyết Thắng từ Nam Định báo đang ở nghĩa trang thắp hƣơng cho Lợi. Về Hà Đông gặp mẹ Thảo, bà đã 87 tuổi nhƣng còn minh mẫn lắm, chẳng quên chuyện gì. Lƣng bà còng lại vì trông chờ Thảo đã ba mƣơi năm. Hôm nay chúng tôi đến dù có muộn,
Hạnh đang ngồi bên bà như muốn xoa dịu nỗi đau của Mẹ… Trên bàn thờ, vẫn lại di ảnh hai người lính, một già, một trẻ... 312
* Chuyện của Dũng, em rể Thảo: … Còn Dũng, đầu những năm 1980 sắp tốt nghiệp Đại học Quân y. Theo kế hoạch, phải vào thực tập tại Viện Quân y 115, TP Hồ Chí Minh. Trƣớc khi đi, Dũng hứa với ngƣời yêu và gia đình, sẽ tìm đến nơi anh Thảo yên nghỉ. Vào một ngày nghỉ, Dũng đi xe đò lên tận NTLS sát biên giới. Lần mò và tìm đƣợc mộ anh trai ngƣời yêu. Rồi Dũng quyết định đón anh về. Khi bốc hài cốt lên, thấy ngay trên ổ bụng còn viên đạn bắn thẳng chƣa nổ. Tạm cho anh nằm đấy, lại mò đi kiếm dây, nối vào, kéo viên đạn ra xa cho an toàn... Dũng đƣa ba lô đựng hài cốt anh về TP, về kí túc xá nơi mình nghỉ, “bí mật” giấu trong ngăn tủ đầu giƣờng. Chiều chiều lặng lẽ ra một góc, “vái vọng” anh (không ban thờ, không di ảnh, không cả hƣơng khói). Ngày trở ra, đi xe đò Nam – Bắc. Dọc đƣờng có nhiều trạm “kiểm tra liên ngành” xét ba lô, hành lí… chống buôn lậu từ Miên về. Anh bị gọi xuống trạm cùng chiếc ba lô đầy nghi vấn. Khi chỉ có những ngƣời lính với nhau, Dũng đã “huỵch toẹt” với viên sĩ quan chỉ huy: “Các ông ạ, chả phải hàng lậu gì đâu, ba lô này mang hài cốt của đồng đội về quê”. Anh ta hiểu, gật đầu: “Cầu mong anh và đồng đội về đến nơi an toàn!”. (Quả ấy tài xế mà biết thì nghỉ khỏe, lại xuống mà bắt xe khác. Họ kiêng kị lắm. Hơn nữa, việc di dời mộ liệt sĩ ra Bắc ngày ấy chƣa cho phép, “trên” muốn liệt sĩ hy sinh ở đâu hãy yên nghỉ ở đấy. Vì còn cả hàng vạn mộ, chứ ít đâu!). Chuyện đƣa hài cốt anh Thảo về Bắc thật li kì.
"Sinh ra trong khói lửa" tập III, trang 164-166 313
dachoak7 (Nguyễn Đắc Hòa K7) … Hôm qua tôi gọi cho Dân "phọt" (Hoàng hiếu Dân) xác nhận Thảo "bự" trước cũng ở B3K7. Hồi đó Thảo hay chơi với Dân và Bảo Sơn.
tk7 Sau khi Bangoc199 xác nhận Thảo "bự" từ cô bạn gái H thì trí nhớ tôi gần phục hồi lại. Đến giờ họ Nguyễn Đức vẫn không nhớ nhưng Thảo ở B6, sau chuyển thành B2 (do B2 cũ bị giải tán). Tức là Thảo qua TQ cùng với K8. Hắn nằm cạnh giường tôi trong dãy giường xếp liền cho cả 1 tiểu đội. Trong lớp có Nguyễn Mạnh Hà (Mạnh chửa) giờ ở viện sử học; có thể nhà sử học này còn nhớ vì cùng B2 ở Trung Hà. Thảo "bự" ít nói chuyện và tính rất cục. Người không cao to lắm (không bít cái gì bự) nhưng rất chắc và hơi đen như 1 nông dân mặc áo lính. Nhớ hắn nhất là hắn tâm sự nhà ở viện 103 cùng Nguyễn Quốc Thái "lẹo" từ B4 chuyển qua B3. Thái thì sau này về Hà Đông còn gặp, nhưng Thảo "bự" thì không thấy ai nhắc tới ... cho đến bây giờ.
dachoak7 (Nguyễn Đắc Hòa K7) Về trường ngoài, Thảo từ Hà đông cũng thường về HN chơi với tôi, Tuấn "khọm", Dân "phọt"... Lúc đã đi bộ đội, gặp nhau tôi còn "ghen tị" với nó vì nó được đi lính xe tăng, nghe oách quá. Thôi mày cứ ngủ ngon, chúng tao không bao giờ quên mày đâu! Hy vọng có ngày ra Bắc thắp hương cho mày. Các bạn K7 HN thật tuyệt vời, cám ơn các bạn.
314
Nhờ cuốn “Sinh ra trong khói lửa” mà… Nguyễn Thiện Nhân (khóa 5)
N
gày 27 tháng 7 năm nay, theo kế hoạch làm việc, tôi thay mặt Chính phủ đến thăm Học viện Quân y và Viện Quân y 103. Vì ba má tôi cũng là dân Quân y, rồi
bản thân cũng có một năm là học viên Học viện Quân y nên trong tôi có một tình cảm thân thiết với đơn vị. Sau khi làm việc với Ban giám đốc, nói chuyện với cán bộ, giáo viên rồi thăm và trao quà cho các
thƣơng, bệnh binh.
Trong chƣơng trình có đến thăm gia đình một liệt sĩ mà cha mẹ là cán bộ Viện 103 đã về hƣu. Khi đến cửa nhà, mọi ngƣời trong gia đình đã chờ đón. Tôi đƣợc giới thiệu, đây là gia đình liệt sĩ Nguyễn Đức Thảo, chiến sĩ xe tăng, hy sinh ở mặt trận Biên giới Tây Nam năm 1978. Cụ ông là Nguyễn Văn Oanh, một CCB trong ngành Quân y, đã mất năm 1984; cụ bà Đỗ Thị Lan - mẹ liệt sĩ - năm nay đã 96 nhƣng vẫn còn minh mẫn. Tôi xin phép đƣợc ra thắp hƣơng cho liệt sĩ. Khi đứng trƣớc ban thờ, tôi đã sững ngƣời. Trƣớc di ảnh liệt sĩ Nguyễn Đức Thảo là cuốn “Sinh ra trong khói lửa” tập II. Ngay trang bìa là hình ảnh anh Lê Minh Tân quân dung tƣơi tỉnh, giơ tay chào đúng điều lệnh. Vậy là mình đang đứng trƣớc ban thờ của một bạn học, một đồng đội cùng trƣờng TSQ Nguyễn Văn Trỗi. Tôi thực sự xúc động. Hai mắt cay sè... 315
27/7/2010, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân đến thăm và tặng quà mẹ Đỗ Thị Lan… Thành kính khấn cho hƣơng hồn liệt sĩ phù hộ cho gia đình, đồng đội; tôi ra trò chuyện với cụ bà. Gia đình có con rể cũng là cán bộ của Học viện Quân y. Biết tôi là học sinh trƣờng Nguyễn Văn Trỗi, cụ bà rất phấn khởi. Cụ kể lại, sáng hôm qua có hai bạn trƣờng Trỗi là Quyết Thắng và Thanh thay mặt lớp đến thắp hƣơng cho Thảo. Vậy Thảo là học sinh khóa 7 của trƣờng, nay hài cốt bạn đƣợc quy tập về NTLS huyện Đồng Hỷ, Thái Nguyên. Cụ bà còn cảm ơn sự quan tâm của Đảng, Nhà nƣớc đối với gia đình. Lúc đó, tôi chỉ dám nói “Đó là trách nhiệm của những ngƣời còn sống, trách nhiệm của chúng cháu với những ngƣời 316
đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Hơn nữa, cháu lại là một học sinh trƣờng Nguyễn Văn Trỗi, đúng ngày hôm nay lại có vinh dự đến thăm một gia đình là đồng nghiệp của ba má, rồi lại đƣợc thắp hƣơng cho liệt sĩ của trƣờng mình thì đây là một vinh dự lớn…”. Thầm nghĩ, những việc làm của chúng ta chỉ bù đắp đƣợc phần nào những mất mát quá lớn của gia đình. Vì còn phải đi thăm nhiều nơi nên tôi xin phép ra về. Với tôi ngày hôm nay thực sự ý nghĩa! Hơn thế nữa, nhờ có cuốn sách của trƣờng mà tôi nhận ngay ra bạn cùng trƣờng. Xin cảm ơn thầy cô giáo và các bạn trƣờng Nguyễn Văn Trỗi đã góp công sức xuất bản những tập “Sinh ra trong khói lửa”! N.T.N
SRTKL3: 33-35
Xem bài viết: 1. Ph Thủ tƣớng Nguyễn Thiện Nhân thăm Bệnh viện Quân y 103 - 27/7/2010, Trang WEB Bộ Lao động - TB và Xã hội. 2. Anh Nhân k5 thăm gia đình LS Thảo k7 - TranKienQuoc, 28/7/2010, Blog K8, K5. 3. Thăm nhà bạn Liệt sĩ. - Khắc Việt, 27/2/2010, Blog K8. 4. Đồng đội ơi!
- Kiến Quốc, 16/7/2008, Blog K4.
5. LS thứ 27!?
- Bs HOC, 18/7/2008, Blog K8.
6. Tin n ng
- K.Viet, 22/7/2008, Blog K8.
7. Hoạt động K7 nhân ngày 27/7 - Khắc Việt, 26/7/2008, Blog K8. 317
Liệt sĩ Bùi Thọ Tuyến
318
Học sinh khóa 8 Sinh: 1955 Đông Sơn, Đông Hưng, Thái Bình Nhà TT 4 tầng, Khu Lê Lợi, TX Thái Bình. Nhập ngũ tháng 5/1971 tại xã Hoàng Diệu, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Đơn vị: F305 Đặc công. Hy sinh: 23/3/1974 (30/2 Giáp Dần) tại Sân bay Biên Hòa, Đồng Nai. Thượng sỹ - Tiểu đội trưởng. Chưa xác định được mộ phần. Liên hệ gia đình: Em gái Bùi Thị Cầm, nhà 15, ngõ 132 phố Mai dịch, quận Cầu Giấy, HN. Điện thoại: 04-37640064. Công ty Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí, 154 Nguyễn Thái Học, HN. Điện thoại: 9162955. Các cháu: Hùng 0902198880, Quang 0982031102.
319
Ngƣời viết đơn bằng máu xin đi bộ đội Lê Trí Dũng K8
N
hững năm 60, hai gia đình của tôi và Bùi Thọ Tuyến cùng sống ở Khu tập thể quân đội số 1A Hoàng Văn Thụ, không xa Quảng trƣờng Ba Đình. Ngay từ khi
mới 6-7 tuổi, chúng tôi đã kết thân với nhau. Ở khu tập thể có anh Tuấn Sơn lớn hơn 4-5 tuổi nhƣng hay giao du với bọn trẻ con chúng tôi. Anh là đầu trò bày ra những trò chơi trốn tìm, “sô-vê”, trèo me trèo sấu hay đánh trận giả mỗi đêm. Hè đến, anh rủ rê cả bọn xách đèn pin đi lần từng gốc cây xà cừ dọc đƣờng Hoàng Diệu để bắt ve, sát bờ tƣờng Thành cổ. Đứa nào cũng có một bộ sƣu tầm về các loài ve, nào là cồ cộ, ve kim, ve sầu… Vì bố mẹ bận đi làm, không có ai trông nên bị nhốt suốt ngày trong nhà, tôi chỉ có thể thò mặt ra cửa sổ trò chuyện với lũ bạn. Vì vậy mà anh Sơn đã đặt cho cái tên “Trí dốt”. Còn Tuyến vì da trắng nhƣ bột nên bị gán cho cái tên “hếu”! Cánh nhóc con ở Khu 1A “xƣng hùng, xƣng bá” khắp một vùng quanh bể bơi Ba Đình, khu nhà Quốc hội và dọc theo đƣờng đôi Hoàng Diệu rợp mát với những gốc xà cừ cổ thụ. Tuổi thơ của chúng tôi đẹp nhƣ thế đấy! Thật thú vị! Hè năm 1965, mấy anh lớn tuổi đƣợc gọi lên trƣờng Văn hóa quân đội. Hôm các anh tập trung ở Trạm 66 để ra xe lên Trại Hòe (Hà Bắc), bọn trẻ chúng tôi đi tiễn. Xe chạy rồi mà vẫn cứ nhìn theo, ánh mắt đầy kính phục. Đứa nào cũng mơ ƣớc sẽ có lúc đƣợc nhƣ vậy. Mỗi kì các anh về nghỉ phép là mỗi lần bọn 320
tôi nghe đƣợc nhiều điều mới lạ. Anh Sơn trong bộ quân phục áo blu-dông bay, quần xanh không quân, gƣơng mặt nghiêm nghị kể lại những câu chuyện của cánh thiếu sinh quân học tập, rèn luyện nhƣ một ngƣời lính thực sự làm đứa nào cũng nuốt nƣớc bọt ừng ực. Chúng tôi bảo nhau: “Cố phải học cho hết cấp I để xin bố mẹ cho lên trường theo các anh”. Hè năm 1967, hết lớp 4, Tuyến, tôi và các bạn cùng lứa trong khu đƣợc các chú báo nộp hồ sơ làm thủ tục nhập trƣờng. Trƣờng ngày đó đóng tận thành phố Quế Lâm (Trung Quốc), biết là phải xa cha mẹ nhƣng đứa nào cũng vui nhƣ hội vì sắp đƣợc trở thành “bộ đội con”. (Nói vậy để ai không phải là con nhà lính cũng thông cảm!). Một chiều tháng 8, sau một trận ném bom của máy bay Mỹ vào Hà Nội, bố mẹ đèo xe đạp chở chúng tôi mang theo đồ đoàn về tập trung ở Khu tập thể Nam Đồng. Tối đó, cả bọn lên xe về Hà Tây. Từ đây, hôm sau đi bằng xe lội nƣớc vƣợt sông Hồng lên Bắc Kạn, theo đƣờng 1B. Từ Bắc Kạn, chúng tôi lên Lạng Sơn, qua Hữu Nghị Quan sang Bằng Tƣờng, Trung Quốc. Sau một đêm ngồi tầu liên vận quốc tế, sớm hôm sau, chúng tôi có mặt ở Quế Lâm. Đã thân nhau từ ngày ở cùng khu tập thể, sang đây tôi và Tuyến “hếu” càng thân nhau hơn. Tháng 8 năm 1968, cả trƣờng về Việt Nam. Hội cấp II đóng quân ở Trung Hà, ngay cạnh bến phà sông Đà sang huyện Tam Nông, Phú Thọ. Mỗi đêm, khi đã lên giƣờng trùm chăn ngang cổ, tai vẫn ngỏng lên nghe chƣơng trình “Đọc truyện đêm khuya” của Đài Tiếng nói Việt Nam. Tuyến rất mê những chuyện về bộ đội đặc công. Tuyến bảo tôi, không hiểu sao mỗi cánh chỉ biên 321
chế vài ba chiến sĩ, mà bộ đội đặc công đánh hiệu quả nhƣ vậy, làm lính Mỹ thất kinh?! Hàng ngày, Tuyến rất chịu khó tập thể dục và luyện thêm mấy bài võ tay không do thầy Trần Sinh dạy. Mà buồn cƣời lắm, đến năm 1970, bọn lớp tôi đã ở tuổi “dậy thì” nhƣng không hiểu sao bắp tay, bắp chân vẫn cứ bé cỏn con! Trông đứa nào đứa nấy khẳng khiu. Hè năm ấy, nhà trƣờng kết thúc đào tạo và trả học sinh về với gia đình. Bố Tuyến là bác Bùi Thọ Tƣ, cuối những năm 60 nhận nhiệm vụ Chỉ huy trƣởng Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Bình. Cả gia đình theo bố về thị xã sống ở trong Khu tập thể bốn tầng Lê Lợi. Tuyến về thị xã tiếp tục học chƣơng trình cấp III phổ thông. Tháng 5 năm 1971, học xong lớp 8 (hệ 10 năm) cũng là lúc tình hình chiến sự trên chiến trƣờng đã vào giai đoạn ác liệt. Cả nƣớc sùng sục trong khí thế của Lệnh tổng động viên. Tuyến nì nèo mẹ: Mẹ cho con đi bộ đội đợt này. Con còn bé quá, mới 16, ai ngƣời ta nhận? Đƣợc mẹ ơi, miễn là bố mẹ đồng ý. Bạn con ở Hà Nội đi hết cả đợt này. Là ngƣời bố ngƣời mẹ, ai chẳng thƣơng con, nhƣng khi đất nƣớc lâm nguy, sao mà giữ con đƣợc. Mẹ Liên đã rớm nƣớc mắt khi nghe Tuyến nài nỉ. Tuyến cắn răng dùng dao lam rạch ngón tay của mình lấy máu viết lá đơn xin nhập ngũ và hy vọng, nhận đƣợc đơn này chắc các chú sẽ cảm thông và đồng ý. Khi lá đơn gửi tới Ban chỉ huy quân sự thị xã, các chú đã lắc đầu: “Cháu còn bé quá, chưa đủ tiêu chuẩn”. Cầm lá đơn bằng máu trở về, hai mắt đỏ hoe, Tuyến giục mẹ: “Bố thì đang bận huy động 322
thanh niên cả tỉnh cho đợt tòng quân này, có lẽ nào con lại không hưởng ứng? Mẹ phải giúp con! Không đi đợt này thì còn có cơ hội nào nữa mẹ?”. Suy nghĩ lúc lâu rồi mẹ Liên gạt nƣớc mắt, đạp xe, mang hồ sơ của Tuyến xuống xã Hoàng Diệu (huyện Đông Hƣng), giao cho các chú: “Các chú ạ, cũng là chỗ quen biết, cháu nó quyết tâm đi đợt này nên tôi phải nhờ đến các chú. Nguyện vọng của cháu cũng là ý nguyện của hai chúng tôi”. Sau khi bàn bạc, xã chấp nhận và đợt ấy, Tuyến đi theo đội hình của huyện Đông Hƣng. Lẽ ra tân binh đợt này đƣợc huyện giao quân huấn luyện ở một đơn vị pháo binh, nhƣng vì muốn trực tiếp đƣợc đối mặt với kẻ thù và trong lòng sẵn có tình yêu với binh chủng Đặc công mà Tuyến đã nhờ bố tác động để đƣợc chuyển về đơn vị huấn luyện đặc công. Tuyến chăm chỉ luyện tập từ những bài võ thuật đến những chiến thuật tiềm nhập, đánh khí tài, ngụy trang… Kết thúc huấn luyện, vì thành tích học tập mà đơn vị muốn giữ Tuyến làm trợ giáo. Biết ý định cấp trên, Tuyến dứt khoát từ chối ở lại, quyết tâm: “Ra đi đợt này, một - xanh cỏ, hai - đỏ ngực!”. Với ý chí nhƣ vậy của một chiến sĩ thì không một thủ trƣởng nào có thể từ chối. Tuyến cùng đơn vị lên đƣờng. Vì nguyên tắc bí mật mà gia đình không hề biết Tuyến thuộc đơn vị nào, ngày nào rời miền Bắc đi “B” và đóng quân ở đâu... *** Sau ngày toàn thắng, chờ mãi không thấy Tuyến trở về. Thƣ từ cũng chẳng hề có. Với linh cảm của một ngƣời mẹ, bà Liên lo lắng: “Bố mới mất được hơn một năm, chả lẽ lần này đến 323
lượt nó?”. Bà chạy đi dò hỏi mọi nơi mà không có tin tức. Ai cũng lắc đầu. Rồi một hôm, một đồng đội mang quân phục còn khét mùi thuốc súng, tìm đến Khu tập thể bốn tầng. Anh hỏi thăm đến đúng gia đình Tuyến. Cầm chén nƣớc chè mãi trên tay mà không sao uống đƣợc, anh ấp úng: Cháu… con là bạn… cùng đơn vị, nhà ngay… Nam Định. Con mới ra… Tuyến thế nào con? Tuyến… Tuyến… đã hy sinh rồi, mẹ ơi. – Nói rồi anh lấy hai tay ôm mặt. Thật vậy hả con? – mẹ Liên òa lên, nức nở. Trong nƣớc mắt, anh đã kể lại toàn bộ câu chuyện Tuyến hy sinh. Trong một trận đánh ác liệt diễn ra ở Biên Hòa, ngay trong giây phút mở cửa đột phá, anh đã trúng đạn. Ngày Tuyến ra đi là ngày 23 tháng 3 năm 1974, chỉ còn hơn một năm nữa là cả nƣớc có hòa bình! Nƣớc mắt ƣớt đẫm hai gò má, bà lặng im gồng mình lên chịu đựng: Có mất mát thì con trai mình cũng chỉ là một trong hàng chục vạn đứa con của đất nước này! Quá đau buồn, bà đã lên báo với Bộ chỉ huy quân sự tỉnh. Ngay sau đó, các đồng chí đã cử cán bộ sang tìm gặp đồng đội của anh tại Nam Định. Mọi thông tin đƣợc xác nhận. Đến ngày 17 tháng 11 năm 1976, gia đình nhận đƣợc bằng Tổ quốc ghi công do Thủ tƣớng Phạm Văn Đồng ký. Nửa năm sau, ngày mùng 1 tháng 5 năm 1977, Bộ chỉ huy quân sự Thái Bình mới chính thức gửi giấy báo tử về cho gia đình(?). Và chục 324
năm sau, ngày 2 tháng 7 năm 1986, Chủ tịch Hội đồng Nhà nƣớc Trƣờng Chinh đã ký quyết định truy tặng liệt sĩ Bùi Thọ Tuyến Huân chƣơng Kháng chiến hạng Ba vì công lao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc. Ngày Thƣơng binh Liệt sĩ năm nay, các bạn khóa 8 đã tổ chức đến thăm mẹ Liên và gia đình. Mẹ sống với Bùi Thị Cầm, em gái Tuyến, gần làng SOS Cầu Giấy. Đã qua tuổi 81, cách đây mấy năm mẹ vừa trải qua một trận tai biến mạch máu não nên đi lại khó khăn. Mong ƣớc của mẹ là làm sao tìm đƣợc nơi Tuyến yên nghỉ, để một lần đến thăm. Niềm ao ƣớc tƣởng nhƣ đơn giản ấy, vậy mà gần 30 năm qua không thực hiện đƣợc! Mẹ thƣơng yêu, sau bao nhiêu năm lƣu lạc nay mới tìm đƣợc mẹ và chúng con sẽ là ngƣời cố gắng sớm tìm kiếm để Bùi Thọ Tuyến đƣợc về với mẹ! Tìm được mẹ Liên nhân 27-7-2003 Các bạn khóa 8 thân mến! Xin mời các bạn đến thăm mẹ liệt sĩ Bùi Thọ Tuyến. Hiện nay, mẹ Nguyễn Thị Hồng Liên sống không xa Làng SOS Cầu Giấy, điện thoại 04-7640064. (Mẹ NGUYỄN THỊ HỒNG LIÊN - mẹ liệt sĩ Bùi Thọ Tuyến K8 - ĐÃ TỪ TRẦN hồi 4g sáng thứ sáu 9/7/2010, thọ 89 tuổi).
* Đại tá, Cục Tác chiến điện tử, Bộ tổng Tham mƣu. 325
Kỷ niệm với Thọ Tuyến Phạm Võ Hùng K8 Tôi đã xúc động khi một người bạn xa Tổ quốc vẫn nhớ đến ngày 27/7, nhớ về một kỷ niệm nghịch ngợm, nhớ về một người bạn từ tuổi ấu thơ là một liệt sỹ của khóa 8, đó chính là Phạm Võ Hùng (B5-K8) từ nước Đức xa xôi đã gửi về blog ÚT TRỖI một kỷ niệm về người bạn Bùi Thọ Tuyến. Sau đây tôi đăng nguyên văn kỷ niệm của Phạm Võ Hùng về Bùi Thọ Tuyến. (VinhNgQ)
H
ôm qua là ngày 27-7, lên k8 chơi liền gặp Thọ Tuyến. Ảnh Bạn trang trọng đứng cùng các ANH HÙNG LIỆT SỸ khác làm tôi rất cảm động và nhớ tới Bạn rất nhiều.
Ảnh tuy mờ nhƣng vẫn rõ là thằng bạn năm xƣa. Ở B5 hồi đó, Tuyến "hếu" (có lẽ vì da nó trắng quá) là thằng bạn có sức khỏe, gan lỳ và cũng nghịch nghợm ra phết - chủ yếu nó là thằng bạn tốt. Với Tuyến tôi có một kỷ niệm không thể nào quên về chuyện nghịch nghợm thời thơ ấu. Hồi ở Trung Hà một hôm tôi và Tuyến ngồi chơi ở bờ ao sau bếp, ngắm đàn vịt lƣợn lờ nó chợt bảo: Tối nay mình kiếm ít trứng vịt đi? Tôi tán thành và chúng tôi cùng bàn tính. Khó nhất là làm sao dậy đƣợc nửa đêm vì thằng nào ngủ cũng say. Sau hồi suy nghĩ tôi bảo: để tao gọi. Tối đó trƣớc khi đi ngủ tôi làm một bụng nƣớc căng và y nhƣ đã dự kiến tôi dậy trƣớc và sang lay 326
cu cậu: đi thôi, nó dậy ngay và đã tỉnh nhƣ sáo. Hai thằng mang theo cái đèn pin bọc trong túi vải (chỉ cho ra tý ánh sáng) và cái mũ rách rồi lầm lũi xuyên qua sân bóng ra chuồng vịt cạnh bờ ao. Đến nơi, tôi ngồi ngoài "cảnh giới" (tôi chúa sợ bọn gà vịt), còn Tuyến cầm đèn và mũ chui vào chuồng vịt. Sau một hồi lọ mọ chợt có tiếng ngỗng kêu oang oác, liền thấy cu cậu chui ra tay ôm chiếc mũ đựng trứng: tiếc quá tao mới nhặt được có một ít, chỉ tại mấy con ngỗng chết tiệt. Chúng tôi giấu kỹ trứng vào bụi rậm, ra giếng rửa chân tay rồi về ngủ tiếp. Ngày hôm sau chúng tôi vẫn tỉnh bơ, đến chiều tối sau bữa cơm chúng tôi mới lấy trứng ra (hơn chục) cho vào cái chậu nhỏ cùng ít nƣớc rồi đẩy vào cái lò bánh mỳ tuy đã ủ than nhƣng vẫn còn nóng chán. Tuy có vài quả bị nổ nhƣng hôm đó chúng tôi đƣợc bữa no nê (không nhớ còn thêm thằng nào đƣợc tham dự bữa đó không ?) Mấy hôm sau ngồi ở bờ ao Tuyến còn bảo: sao tao ghét mấy thằng ngỗng thế! Cú "đánh lẻ" đó có lẽ đến giờ vẫn không ai biết. Chuyện chỉ có vậy, tuy chỉ là trò nghịch hồi xƣa nhƣng nó lại gắn với thằng bạn đã thay mặt anh em mình hy sinh anh dũng vì Tổ quốc. Tuyến ơi, tao là Võ "sái" đây, chúng tao vẫn nhớ mày lắm.
Leipzig, 28/7/2007 327
HCQuang K4 ..."Thời nay, người ta đi cửa sau để chạy trường, chạy điểm, chạy án, chạy ghế. Người ta không hề biết hoặc không thể nhớ lại rằng, hồi chiến tranh, đã có những người "đi cửa sau" (chỗ quen biết, các anh làm ơn giúp) để xin được ra chiến trường. Tuyến là một trong những trường hợp "đi cửa sau" như vậy. Cũng như Lý Tự Trọng và Võ Thị Sáu, Tuyến sống mãi với lứa tuổi lẽ ra là mới bắt đầu." ... VinhNQ … "mãi mãi tuổi 19"... Khắc Việt K7 Ngày ở TT Hoàng Văn Thụ lũ trẻ con ra đường đánh nhau thất thế lại chạy về gọi anh Tuyến, anh Việt. Trước nhà Tuyến có hai cây dừa cao lắm rất sai quả, đêm khuya chúng tôi lại cùng nhau "gặt hái" khao cả lũ bạn trong xóm. Trước lúc đi B Tuyến cũng ngồi với tôi cả buổi chuyện trò. Sau buổi đó, tôi càng quyết tâm hơn. Một Trỗi con K8 Một Ký ức về người bạn Liệt sỹ của chúng ta. Mình còn nhớ Thọ Tuyến thổi kèn Ắcmônika rất hay. Đã có hôm Tuyến còn thổi kèn cho ae hát Quốc ca trong lễ trào cờ đầu tuần của Khóa.
328
Bùi Thọ Tuyến - B Quyết thắng K8 ở trường mới bên Quế Lâm
Từ trái sang: Nguyễn Ngọc Đại & Liệt sĩ Bùi Thọ Tuyến K8 (chụp kỷ niệm trước khi Thọ Tuyến đi B tháng 12/1971) 329
Giấy báo tử của liệt sĩ Bùi Thọ Tuyến
330
331
26/07/2008, BLL K8 và Nguyễn Ngọc Đại B6 viếng thăm 332
Xem bài viết: 1. Giỗ 100 ngày mẹ liệt sỹ Bùi Thọ Tuyến - Nguyễn Thị Thái, 17/10/2010, Blog K8. 2. Nhờ "nhà đài" tìm bạn - Kiến Quốc, 14/7/2010, Blog K5. 3. Lƣu bút gửi mẹ Liên: Nỗi đau không của riêng ai - Kiến Quốc, 10/7/2010, Blog K5. 4. Viếng mẹ Liên - Kiến Quốc, 10/7/2010, Blog K8. 5. Viếng bạn - Liệt sỹ Bùi Thọ Tuyến và thăm Mẹ - Bùi Thắng, 26/7/2009, Blog K8. 6. Tin nhanh về 27/7 tại Hà Nội - Út Trỗi, 26/7/2008 - Blog K8. 7. Về LS Bùi Thọ Tuyến - Ngƣời viết đơn bằng máu xin đi bộ đội - Kiến Quốc, 9/8/2007, Blog K8. 8. Tấm ảnh kỷ niệm - Vinhnq, 29/7/2008, Blog K8. 9. Kỷ niệm với Thọ Tuyến - Phạm Võ Hùng, 30/7/2007, Blog K8. 10. Ngƣời viết đơn bằng máu xin đi bộ đội - Lê Trí Dũng K8, SRTKL 2, Tr.: 191-196. 11. Lời chào vĩnh biệt - BBT, SRTKL 2, Tr.: 197-200.
333
Nhớ bạn !
334
…
Hội trường: thầy khóc… bạn mừng Điểm danh lớp hô: Liệt sĩ! Vẫn như đứng trong đội ngũ Huých tay giục bạn thay lời Sống thủy chung, chết sáng ngời Máu xương hòa vào đất nước. Thấp thoáng đâu đây những kỳ họp lớp Mãi tuổi hai mươi giữa đám bạn già…
Nguyễn Khánh Hòa K5
335
Nhớ bạn ! Những hài cốt âm thầm trong lòng đất Nhắc những người đang sống phải thương nhau Nhắc những người còn sống...
Mãi theo cơm áo đời thường Giật mình, nhớ ngày giỗ bạn Bày hồng đỏ cùng huệ trắng Rưng rưng thương bạn chín chiều. Tổ quốc những năm sáu mươi Cha, anh tiếp nhau ra trận Chúng mình chưa cầm được súng Hậu phương gắng học làm người Xa nhà sống với bạn, thầy Mấy buổi đã là đồng đội Sẻ chia buồn vui sớm tối Thành gia đình tự lúc nào Nhớ sao thằng bạn hay cười Nghịch ngầm, giả vờ con gái Cuối tuần giành phần giặt áo Thầy la thường nhận lỗi giùm Thấm thoắt mình đã lớn khôn Chia tay mùa thi cuối cấp Cùng ước hẹn ngày thống nhất Gặp nhau tìm lại bạn, thầy Chiến tranh muôn nẻo chia phôi Bạn vào phía Nam lửa đạn Một ngày nắng vương khói súng Bạn hy sinh giữa chiến trường.
336
Nguyễn Khánh Hòa K5 *
Chớm đông phố vắng lãng đãng sương Ai qua ngõ cuốn theo hương thu cũ Mẹ thở dài bần thần ngóng cửa, Phải chi: Nó đã có người… Về thăm các cụ một chiều Lính già cầm tay lắc mãi Gặp con bố như được thấy Con mình giờ đã trưởng thành Hội trường: thầy khóc… bạn mừng Điểm danh lớp hô: Liệt sĩ! Vẫn như đứng trong đội ngũ Huých tay giục bạn thay lời Sống thủy chung, chết sáng ngời Máu xương hòa vào đất nước. Thấp thoáng đâu đây những kỳ họp lớp Mãi tuổi hai mươi giữa đám bạn già. Khói hương dâng bạn chiều mưa Rượu trải đẫm nền đất lạnh Biết âm dương quan san cách trở Vẫn mong cố nhân chân cứng đá mềm. Chiều Sài Gòn mưa lặng nắng lên Người chen người nối nhau về tổ Chợt giữa đời rộn tiếng cười quá trẻ Bày mâm lên đi, Bạn đến rồi…
Đêm giỗ bạn về. Sài Gòn, 8-2003. 337
* - Chuyên viên kỹ thuật an toàn, Bộ Lao động.
Phù sa mặn Xin thắp nén nhang tƣởng nhớ các anh hùng, liệt sĩ trƣờng Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi đã hy sinh nơi cuối nguồn của những dòng sông
Kể đi sông ơi!
1
Tôi muốn nghe tất cả Hỡi con sông chở nặng phù sa, Xứ Quảng Trị - dẫu quen mà rất lạ Bao lớp người qua, bao lớp đất bồi. Tôi đến bên sông với tâm trạng bồi hồi - Đâu rồi nhỉ? Đâu rồi lịch sử? Sông vẫn chảy mặc nhiên dáng trầm ngâm tư lự! Hãy kể tôi nghe… dù chỉ đôi lời…! Tôi vẫn biết: Trong suốt cuộc đời Sông cũng như người: Buồn vui đủ cả. Có khác chăng: - Sông đục phù sa mùa hạ. - Sông trong xanh nổi đá mùa đông. Nhưng sông ơi! Sông có còn nhớ không? Những đồng đội tôi đến bên sông ngày ấy Những con người đầu trần, lưng cháy Những “thiên thần” đi xuyên bóng đêm! Có phải vô tình? Hay lâu quá sông quên? Như con nước vẫn đổ xuôi về biển… May có lớp phù sa - phù sa còn lưu luyến Giữ lại trong mình bao kỉ niệm xa xăm! Thời gian trôi qua khỏa lấp tháng năm Nhưng phù sa đến hôm nay còn mặn Mang trên mình vết thương chưa lành hẳn Lẫn xương, máu bao người nên phù sa có vị mặn… Sông ơi!
338
Trần Xuân Lăng K3 *
Đồng đội tôi bao người đi xa rồi Nhưng sông không bồi - mà sông chỉ lở Những con người trẻ trung từng làm nên bão tố! Họ ở đâu bây giờ? chỉ có phù sa mới nói hộ sông thôi. Tôi muốn xới lên bao lớp đất bồi Để tìm dấu chân những đồng đội cũ Tìm những hương hồn bao năm yên ngủ Họ vẫn chưa về sau cuộc chiến tranh? Tôi đang đi trong vô tận mầu xanh Nghe phù sa vẫn thì thầm kể mãi: - Đây nơi quân vào, đây nơi vượt bãi… Tôi như trôi trong huyền thoại… chơi vơi! Sông vẫn vô tình đổ nước về khơi Đâu có biết tôi đang đi ngược dòng chảy. Bởi có phù sa! lớp phù sa rực một màu đỏ ấy! Vẫn mặn mà với bao chuyện đã qua. Ai đó trên sông đang cất tiếng ca Hát về chiến công của một thời xa ấy. Câu hát tỏa lan - xôn xao - sóng dậy. Như lớp phù sa – chập chờn mãi …trong tôi!
Quảng Trị, 8-2002 * Giám đốc Công ty Phát triển kinh tế Vũng Tàu. Đã mất 17/5/2008. 1 Bên bờ sông Gianh (Quảng Bình), liệt sĩ Huỳnh Kim Trung đã hy sinh năm 1972. Bên bờ sông Thạch Hãn, chảy qua Thành cổ Quảng Trị, là nơi yên nghỉ của các liệt sĩ: Bùi Hữu Thích, Nguyễn Lâm, Vũ Kiên Cƣờng, Trịnh Thúc Doanh, Đặng Bá Linh, Y Hòa, Trần 339 Hữu Dân. SRTKL2: 222-224
Khúc tƣởng niệm
Nghe: "Đò lên Thạch Hãn.mp3" tại divShare:
340
Trích đoạn từ bài “Ký ức màu hoa đỏ...” của tác giả Hà Đình Nguyên (Thanh Niên Online, 26/07/2007):
“…Xin đƣợc nêu thêm một ca khúc tuy chƣa phổ biến nhƣng có hoàn cảnh ra đời khá ly kỳ và cảm động. Số là anh Trần Bắc Hải - hiện sống và làm việc tại London (Anh), trong một ngày đầu tháng 5.2007 khi vào mạng internet đã tình cờ đọc đƣợc 4 câu thơ của một cựu chiến binh QĐND VN: Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm Có tuổi hai mươi thành sóng nước Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm ("Lời gọi bên sông” - Lê Bá Dƣơng). 4 câu thơ đã làm Trần Bắc Hải "sởn gai ốc" (nguyên văn của anh trên mạng). Anh nhờ các sinh viên Việt Nam đang du học tại Anh tìm đƣợc địa chỉ của tác giả bài thơ “Lời gọi bên sông”. Hai ngƣời: một ở Việt Nam, một ở Anh nhƣng rất gần gũi qua sự đồng cảm và Trần Bắc Hải đã phổ nhạc bài thơ. Do bài thơ chỉ có 4 câu nên khi phổ nhạc đƣợc lặp lại hai lần. Đoạn A là solo, đoạn B hát 3 bè. Chƣa biết hay hay dở nhƣng chắc chắn không chỉ hai đồng tác giả này mới đồng cảm, mà còn có cả bạn và tôi! Hà Đình Nguyên”
341
Bạn ngã xuống trƣớc cửa ngõ Sài Gòn
Bạn tôi hy sinh trước cửa ngõ Sài Gòn. Chỉ cách hoà bình vài bước chân chạy vội! *** Nó nằm đó - trong ngôi mộ nhỏ nhoi. Để lại phía sau - tuổi xuân đầy sóng gió, và một tình yêu, ngập ngừng chưa dám tỏ. Có thanh thản không? Hỡi bạn của tôi! *** Những ngày trên giường bệnh chắc nó cũng biết rồi. Ngày thống nhất - Nước non vui mở hội Đêm hoa đăng, bao niềm vui tiếp nối Dù đau đớn vết thương nó cũng sẽ mỉm cười thôi!
342
Trần Quang Trung K4 *** Có đắn đo gì không? thằng bạn của tôi! Sáu năm tuổi quân, mày vẫn là hạ sỹ Từng ấy năm trời mày là thằng chiến sỹ Mấy ngàn ngày, dằng dặc bước hành quân! Vẫn ở tuyến đầu. Hăng quá Ơn ơi! *** Chúng tao đang đứng quanh mày đấy! nước mắt rơi! Không ai quên mày đâu, hỡi thằng bạn nhỏ Đêm thành phố, đèn vẫn xanh vẫn đỏ Tình bạn chân thành vẫn nguyên đó, mày biết không!
Hà Nội, 19/8/2010, Blog K4
Tượng đài chiến sĩ đặc công nước 343 Ảnh Thanh Minh K4
Nhớ đồng đội – bạn đời! Lê Cảnh Nghĩa (khóa 3)
Năm 2010, trƣờng TSQ Nguyễn Văn Trỗi tròn 45 tuổi. Những đứa trẻ ngày xƣa là học trò, nay đã lên ông lên bà. Biết bao vui, buồn với những tháng năm nghiệt ngã mà hào hùng, gian khổ mà tự hào… N in đậm trong kí ức mỗi ngƣời từng “sinh ra trong kh i lửa”. Cánh kh a 3 chúng tôi tuổi đã tròm trèm lục tuần, cùng nhau nhớ lại chặng đƣờng qua… Từ ngày đi học ở trƣờng Cấp II Kim Liên, Hà Nội, đến thời gian đi sơ tán lên Tân Yên, Hà Bắc… tôi luôn mang nặng lòng biết ơn những ngƣời đã cƣu mang mình. Đến khi lên trƣờng Trỗi, quên sao đƣợc thầy Nguyễn Phú, thầy Bính – ngƣời chính trị viên, đại đội trƣởng hết lòng vì học sinh. Thầy nhƣ ngƣời cha đã dạy dỗ lính Trỗi kh a 3 trƣởng thành nhƣ ngày hôm nay. Đời cho tôi mãi là em, là bạn, là anh của các thế hệ học sinh trƣờng Nguyễn Văn Trỗi; nào Phan Thế Châu, Phạm Phi Hùng, Bùi Quang Vinh, Kim Thành, Thanh Hà, Mai Tự, Quốc Tấn, Hồ Phƣớc Khải, Chí Dũng, Chí Nhân, Ngô Phúc Chiến, Tiến “nhái”… Rồi cả những ngƣời lính từng xông pha trận mạc cùng tôi. Tôi mãi không quên! Đồng đội ơi, bạn đời yêu dấu ơi! Ai biết bom rơi không chớp trắng đúng chỗ mình? Bao lần rồi ta đã gọi ngút hơi tìm một dáng hình đồng đội Tóc cháy khét, da sạm đen, lửa táp, bom chà đôi bàn tay trần nhòe nhoẹt máu bới hầm tìm nhau, tìm đồng đội thân yêu Tim ngừng đập rồi, vuốt mắt đồng đội ngủ ngon. Đồng đội ơi! Cả gia tài trong ba lô con cóc Nhà trƣờng túi ngực, bệnh viện bên hông Kho lƣơng thực trong chiếc túi con Cả tƣơng lai ngỡ trời xanh trong đáy mắt. Bộ áo quần sắc xanh của lính Ngày ra đi mỗi mảnh đặc máu, quện đất hồng Có những bạn còn không đầy mũ thịt… Những đặc trƣng chiến tranh theo các bạn ra đi. Bạn đời ơi! Sao đi xa bình dị vậy? Cuộc đời chúng tôi rƣờm vặt biết bao nhiêu! Mỗi bạn có gia đình và có những cô gái rất yêu các bạn Thƣ tới bạn hôm nay chúng mình đọc hộ ngỡ mình đƣợc họ yêu thƣơng.
344
Lính chiến chúng mình gia tài không, tài lẻ không cuộc đời cũng có thể không còn đƣợc nữa Tình yêu chúng mình lắng trầm màu áo lính dẫu thẳm sâu dào dạt biển với thuyền. Họ yêu chăng áo ngắn vạt bèo nhặt từng con cua nhỏ Yêu lƣng chén cơm cháy chan nƣớc muối ngày nào Yêu trang vở thiếu chia nhau Yêu manh áo lo bạn mình ƣớt lạnh… Bạn đời ơi, họ đâu yêu riêng mỗi đứa mình Họ cùng chúng ta yêu phần cao qúy nhất Độc lập – Tự do – Dân tộc trƣờng tồn Cho mỗi chúng mình, cho cả cháu con. Cha mẹ bạn đời – Cha mẹ chúng ta Anh em đồng đội – anh em chúng mình giữa muôn vạn cuộc đời ta sống với nhau đến hôm nay rồi Hời hợt, buông trôi, đời còn gì ý nghĩa? Biết những hạt giống hồng trong nƣớc sôi lửa bỏng đau chung nỗi đau của cha ông. Còn tới mai sau Những ngƣời bạn đã giành phần hy sinh đi trƣớc để lại một phần xƣơng thịt trên đƣờng đi Màu đỏ của đất hôm nay Mỗi hòn sỏi trắng công viên hôm nay thấy đỏ máu thịt bạn đời để lại thấy trắng vụn xƣơng đồng đội còn đến nay, Di tật chiến tranh, day dứt nỗi đau. Trong thử thách lớn lao, tâm hồn lớn vƣơn cao. Mầm sống bật dậy từ trái tim những ngƣời dám hy sinh cuộc sống. Nhân phẩm con ngƣời đổi bằng xƣơng, bằng máu Nâng hồn thiêng dân tộc lên đài cao. Thiêng liêng thay tình bạn đời – đồng đội Mỗi dáng đứng thân yêu cũng dáng đứng chính mình, Biết yêu đời nên biết hy sinh. Nhớ “Trọn đời ta hiến dâng cho Tổ quốc”! Trọn đời Trỗi mình cứ mãi mãi yêu nhau!
Huế - tháng 11/2009, SRTKL3 345
Kinh Đồng đội (Để tưởng nhớ những liệt sỹ đã quên mình hy sinh vì Tổ quốc) Trần Quang Trung K4
Lòng dạt dào niềm nhớ thƣơng trào dâng, Tôi bâng khuâng đi giữa đất trời quê mẹ, Ơi phố nhỏ, ngõ nhỏ của tôi ơi! Có nhớ ngày ra đi, trống dong cờ mở. Hậu phƣơng tiễn đƣa những đoàn quân Hăm hở vƣợt Trƣờng sơn! Đồng đội ơi! Anh em của tôi ơi! Những chàng trai tƣơi mát của Việt nam đầu đội mũ tai bèo thắt lƣng đỏ, ba lô cóc, Chân dép râu A ka trên vai, quân phục màu xanh Tô châu Còn mới toanh chƣa kịp phai màu! Các anh nằm đâu? Xƣơng thịt có còn đâu Linh hồn đã phiêu diêu? Hay còn vấn vƣơng đâu đây giữa âm u rừng thắm mây chiều. Quay về đi! Hãy trở lại đi! Vẫn nhƣ xƣa đó từng làng quê ngõ phố
Đón các anh Trên những ban thờ nhỏ, Chỉ có vài nén hƣơng Và những làn khói vƣơng Nhƣng Lòng nhớ thƣơng Chƣa phai nhạt bao giờ! *** Lời nguyện cầu hôm nay Xin hát cho bạn bè tôi! Và hát cho đồng đội tôi! Tôi hát lên cho những linh hồn đồng đội Đã ra đi Chƣa một lần trở lại. Tôi cũng hát Cho những chiến binh ngày nào đã trở về, Đang nhọc nhằn bƣơn chải mọi miền quê! Cầu mong cho bình an Cầu mong cho thời gian trôi qua mau nỗi đau lòng cha ta. Huyết lệ thôi rơi trong tim đau bao bà mẹ già ta. Cầu mong cho đau thƣơng lùi xa Cầu mong cho ấm êm mọi nhà. Cầu mong cho nƣớc non mình Đẹp mãi muôn ngàn hoa.
346
Hà Nội, 5/2/2010, Blog K4
347
Để mồ anh hoa nở
Em lang thang khắp đồi Hái nụ hoa hé nở Màu hồng và màu đỏ Hoa trắng với hoa vàng Cùng màu tím thuỷ chung Thắp nhang anh, hoa dại. Em thay ngƣời con gái Trong bức hình anh mang. Khắp đồi hoa ngập tràn, Cuối xuân rồi anh ạ. Quê hƣơng mình đẹp quá, Bát ngát một màu xanh. Nhƣ tuổi xuân của anh, Khi ra đi mãi mãi. Năm xƣa đây đồi Cháy, Đâu hoa trái cho anh. Chỉ khốc liệt chiến tranh Với đạn, bom, kh i súng. Không một ngụm nƣớc uống Chẳng một ngọn rau ăn. Chỉ mì chính làm canh Cùng với bát cơm sấy. Bao thịt rơi máu chảy, Bao đồng đội hy sinh, Bao tấm gƣơng quên mình, Để quê hƣơng thống nhất. Ôi nỗi đau chia cắt, Xƣa xé bờ Bắc Nam.
Hôm nay bên sông Hàn, Xé lòng em, tâm sự: Bao ngƣời đi tìm mộ. Bao ngƣời về tay không. Kia kìa dƣới lòng sông, Muôn anh hùng nằm đ . Dòng sông xƣa nhuộm đỏ Máu các anh kia mà. Sao muôn đoàn đi qua, Mà không dừng chân lại. Sao ai cũng mê mải, Tìm ngƣời thân riêng mình. Bao liệt sỹ vô danh, Dƣới lòng sông Thạch Hãn. Cũng là bè, là bạn, Cũng là cháu, là con. Bao hài cốt tủi hờn, Dƣới đáy sông câm lặng Ba sáu mùa mƣa nắng, Bao cha mẹ qua đời. Đừng để thời gian trôi, Xƣơng tàn thêm mục rữa! Còn chần chừ chi nữa? Hãy đ n các anh về. Dù gian kh bộn bề, Dù nƣớc còn nghèo đ i, Xin ai ơi đừng vội Gạt chuyện này sang bên 348
Viếng anh Y Hoà và tất cả các ANH đã hy sinh ở Quảng Trị 1972 Nguyễn Thị Thái K8-C11 Vì lí do thiếu tiền. Tiền trong tình ta đ . Chỉ cần nấm mồ nhỏ Để các anh quây quần Trong nghĩa nƣớc tình dân Bên dòng sông Thạch Hãn. Để gia đình, bè bạn Ai chƣa thấy ngƣời thân Đƣợc nguôi ngoai đôi phần: C lẽ ANH nằm đ Ai ơi dầu gian kh , Phải mò mẫm đáy sông, Phải g p nhặt từng đồng Từ ngƣời thân, bè bạn Thì ai ơi đừng nản Hãy vào cuộc kiếm tìm. Để dòng sông lặng im Lại một lần cuộn s ng, Nhƣ 72 n ng bỏng Trả ANH về nhân gian. Chỉ một nắm xƣơng tàn, Những gì ANH còn lại. Để những ngƣời con gái C nơi tặng hoa ANH. Mãi mãi nhƣ tuổi xanh Trên mộ ANH hoa nở
349
Tháng 4/2008, Blog K8
Nghĩa tình đồng đội Trần Quang Trung K4 Bài thơ này tôi viết để dành tặng cho tất cả chúng ta, và đặc biệt tặng cho những bạn, dù chỉ là trong ý nghĩ hay đã lên đƣờng đi tìm lại những Võ Dũng, Nguyễn Văn Ơn, hay chú em Y Hòa của tôi và cả những liệt sỹ khác nữa, đã xung trận từ mái trƣờng TSQ Nguyễn Văn Trỗi.
350
Có một người lính già.
trở về từ những chiến trường xa. Khi đất nước bình yên những vết thương chiến tranh trên mình đất Mẹ đã dần dần se thịt liền da. Nhưng từ sâu thẳm trái tim người lính già vẫn nặng lòng khi nghĩ về những người đồng đội thân yêu, đang còn nằm lại giữa những miền đất vời vợi xa! Có bao bà mẹ già, bao gia đình, biết tin con mình hi sinh. Vẫn ước mong có ngày đưa được hài cốt người thân Quay trở về quê hương! Rồi một sớm mai kia người lính lên đường, Quay trở lại chiến trường, Với những ngày gối đất nằm sương. Góp sức mình tìm lại, những nấm mồ đồng đội thân thương. Đưa các anh trở về giữa lòng đất Mẹ quê hương Bước chân anh qua từng nghĩa trang. Lòng đớn đau xót thương vô vàn Khi đứng giữa những hàng bia mộ không tên. Này là nén tâm nhang xin được thắp lên. Đồng đội mến thương ơi, xin các anh an lòng Đất nước mình ngàn đời còn ghi công! Có những người lính già, vẫn từng ngày nhớ về những người đồng đội Đã khuất xa! Hà Nội, 8/11/2009, Blog K8
351
Tráng ca cho ngày bình yên
Ngày bình yên ngồi bên nhau Bạn đời ơi hát một câu quân hành Đường làng tôi xanh lũy tre Tre xanh đã bao đời Xanh như mái tóc người ngày ra đi (Điệp khúc) Đầu xanh xanh mãi không bạc Hình anh non nước ghi tạc Thành câu tráng ca cho ngày bình yên Đầu xanh xanh mãi không bạc Người đi còn khúc quân hành Để tôi hát tiếp khúc ca của anh Đầu xanh xanh mãi không bạc Người theo Ông Gióng lên trời Còn ai Vọng Phu chờ mãi trong đời
Adelaide, 1/2/2009 352
Nhạc và lời: Trần Bắc Hải K5
Nghe: "Hành khúc ngày bình yên.mp3" tại divShare: 353
Lời hứa dang dở Kính tặng các bà mẹ liệt sĩ !
Mẹ ơi, con sẽ… Thuở nhỏ chăn trâu, thả diều Gió thổi phiêu diêu, ngủ quên trên gốc rạ. Sấm vọng ì ùng Vùng dậy Chạy tìm trâu vội vã Mưa rơi Trâu đã về chuồng Thật lạ? Mẹ choàng áo tơi đi đón con Mà vẫn ướt đầm Môi mẹ run run (Mẹ nén cơn giận) Bởi mẹ thương con Mẹ ơi con sẽ Ngày mai ngoan hơn. Mẹ ơi, con sẽ… Qua tuổi mộng mơ Những khát khao trào dâng tâm hồn trẻ Những bước chân thế hệ Muốn át đi tiếng súng, tiếng bom. Mẹ nắm tay con Cố dấu đôi dòng nước mắt Môi mẹ run run (Mẹ không khóc) Mẹ gượng cười cho vui lòng con. Mẹ ơi con sẽ Bằng anh bằng em. 354
Ngô Văn Cửu Học sinh khóa 5
Mẹ ơi, con sẽ… Chái tranh bên hồi đã dột Khi rảnh rồi con về dọi lại là xong. Cái giếng nhà ta nước trong Khi về con sửa lại cái gầu cho dễ múc Cái cầu ao lâu ngày đã mục Con về sửa lại cho chắc hơn Mấy khúc củi to Mẹ thiếu cái đun Xong việc con sẽ về chẻ Trong nhà chưa có tiếng trẻ Mẹ đừng buồn Con sẽ đem về cho mẹ nàng dâu. Năm tháng trôi qua Bên ngọn đèn dầu Mẹ thức thâu đêm Mẹ mong, mẹ nhớ Con chỉ về trong hơi thở Tiếng gà tỉnh giấc gáy xóm xa Mẹ ơi con sẽ… Mắt mẹ nhạt nhòa.
Hà Nội, ngày 21-7-2003 N.V.C 355
SRTKL2: 230-231
Gửi con trai năm 20 tuổi EGK9 Năm nay con trai tôi 20 tuổi và cháu lớn lên học tập chủ yếu ở nƣớc ngoài. Tháng bảy năm nay cháu đủ lớn để về nƣớc một mình và gia đình tôi đã tổ chức một chuyến đi thăm những địa danh lịch sử nhƣ Thành cổ, địa đạo Vịnh Mốc, nghĩa trang Trƣờng Sơn cho cháu và mấy anh chị em họ cùng tuổi. Bài thơ này tôi viết cho tôi và mong muốn chia xẻ với các bạn c cùng tâm niệm.
356
Khi chưa tròn 20 tuổi Các bạn của mẹ đi vào chiến trường Các bạn mẹ còn trẻ hơn con Khi đổ máu cho Tổ quốc Mẹ của các bạn mẹ Có lẽ cũng trẻ hơn mẹ bây giờ Âm thầm lau nước mắt Đợi chờ mỏi mòn mái đầu tóc bạc Rồi mang nỗi đau đi suốt cuộc đời Năm nay con 20 rồi, Con về đứng bên Thành cổ Tháng bảy, Quảng trị trời đổ lửa Thiêu đốt từng vạt cỏ non Nhưng ngày xưa còn thêm lửa đạn, lửa bom Và bạn bè mẹ ở đó Hãy cẩn thận nghe con Đừng vô tình dẫm bừa lên cỏ Ở nơi này không hàng hàng bia mộ Nhưng lặng chìm dưới cỏ Là bao nhiêu bạn bè của mẹ Ngã xuống Trẻ như con bây giờ Con lớn lên bình yên Và say mê đi tìm những chân trời mới Trời trên đầu con luôn xanh Và cỏ dưới chân mát rượi Nhưng đừng quên nghe con Tổ quốc là thế đấy Màu xanh của trời Màu xanh của cỏ Chính là máu của bao người đã đổ «Bao người» ấy không phải là Ai đó Mà là người thân của chính chúng ta Đừng quên nghe con Mang theo màu cỏ xanh Thành cổ Mỗi lần đi xa…
Bruxelles, 27/7/2010, Blog K8 357
Cháu đến Nghĩa trang Trƣờng Sơn
Kính thưa các bác, các cô chú cháu là Hiền Vương con gái bố Đức Dũng k5. Bố bảo còn mẹ và cháu là k9 mà "k"nào cũng quan trọng lắm. Không tin thì cứ hỏi bác "Tổng quản" Hữu Thành, cháu chẳng biết "Tổng quản" là gì? Bố bảo là Kapitän. Thưa các bác, các cô chú dù là K nào thì cháu cũng rất tự hào những gì mà bố đã kể về các Thầy cô, về những bạn bè và ngôi trường Nguyễn văn Trỗi mà bố đã học. Bố vẫn bảo cuộc đời con người ta ai cũng có nhiều kỷ niệm. Có những kỷ niệm mãi mãi không bao giờ quên được, và với bố cháu thì những ký ước tuổi thơ nhửng kỷ niệm về một thời sống và học tập ở trường Trỗi, đó là một phần cuộc đời mà bố sẽ mang theo đến tận cùng. Cháu theo bố mẹ sang nước Đức từ khi cháu còn nhỏ quá, sang đây cháu mới đi học Kindergarten nghĩa là lớp "mẫu giáo" và bây giờ cháu đã học xong Đại học rồi. Cháu thiệt thòi hơn các bạn ở Việt nam vì chưa một lần được nghe các thầy cô giảng về lịch sử hay tình yêu quê hương đất nước. Nhưng tình yêu quê hương cứ đến với cháu qua những câu chuyện của mẹ, qua những ký ước tuổi thơ của bố và nhất là những lần về quê thăm bà. Và bây giờ thì cháu biết được một điều vô cùng quan trọng. Để đất nước ta có được như ngày hôm nay biết bao nhiêu thế hệ ông cha đã anh dũng hy sinh vì dân tộc Việt Nam. Cháu bây giờ tuy không còn mang quốc tịch Việt Nam. Nhưng cháu vẫn tự hào và luôn coi mình là người Việt Nam, bởi trong cháu vẫn mang trong mình dòng máu của người Việt Nam.
358
Chính vì vậy đợt này cháu xin về thực tập ở Việt Nam để được gần hơn với quê cha đất tổ. Và để được tận mắt thấy những Hy sinh mất mát của dân tộc cháu đã xin phép bố đi thăm Nghĩa trang Trường Sơn, Thành cổ Quảng Trị, dòng sông Thạch Hãn và Ngã ba Đồng Lộc. Điều may mắn là cháu đã được bác Tuấn anh của mẹ một người lính đã từng tham gia các trận đánh giải phóng Miền Nam đưa đi. Bác cũng muốn thăm lại những vùng đất và thắp hương cho các đồng đội của bác. Nhưng điều quan trọng nhất bố dặn: Đến Nghĩa trang Trường Sơn Phải tìm bằng được mộ chú Nguyễn mạnh Minh ở khu Hà Nội để Thắp hương cho chú Minh và cháu và mẹ đã làm được điều bố dặn và hai mẹ con và bác đã thắp hết cho các bác các chú ở khu Hà Nội. Kính thưa các bác, các cô chú cháu cũng đã đến Thành cổ Quảng Trị và bố dặn ở đấy có rất nhiều các bạn Trường Trỗi của bố đã Hy Sinh, mà đến bây giờ vẫn chưa tìm thấy phần mộ. Cháu cũng đã thắp hương và càu nguyện cho tất cả các chú Lâm ly, Chú Cường mèo Chú Doanh mán K5 và cả chú Y hòa nữa. Lần sau cháu sẽ viết tiếp chuyến đi đầy ý nghĩa này của cháu. Bây giờ cho cháu chúc sức khỏe đến các Thầy cô đã từng dậy dỗ bố cháu và các bác các chú, chúc các bác các cô chú khỏe và hạnh phúc. Cháu Hiền Vương Berlin, 15/12/2008, Blog K4
359
Ảnh nền: Cháu chào tạm biệt chú Minh
Cháu và mẹ trước cổng Nghĩa trang Trường Sơn
Cháu và mẹ thắp hương cho chú Mạnh Minh.
Cháu và mẹ hóa vàng và đồ đạc cho chú Minh.
Cháu đến thăm và thắp hương cho chú Minh. Cháu muốn gửi cho gia đình chú Minh vài ảnh cháu chụp bên mộ chú. Các bác các chú nếu biết Email của nhà chú Minh gửi cho cháu nhé.
360
Cháu thắp hương cho các Liệt Sỹ
Cháu viết lời từ biệt đến những người ANH HÙNG. Những người lính đã ngã xuống vì hạnh phúc của dân tộc VIỆT NAM vì tương lai của thế hệ cháu. 361
Bạn Tr i viếng thăm Liệt sĩ …
tv (Tạ Vinh K3) Hồi cuối năm đi cùng vợ và bè bạn của vợ đi Huế. Viếng NTLS Trường Sơn vào lúc 20 giờ, NT lúc này vắng lặng chỉ có mấy cụm đèn ở khu trung tâm mờ mờ, cánh đàn ông trong lớp - khấn to tên các bạn đã hy sinh, hương khói nghi ngút, rời khỏi NT xe chạy bon bon như có người nâng về Đông Hà. Sáng sớm hôm sau đến viếng Thành Cổ, nắng đẹp, gió mát. Tôi chợt thốt lên: Sao cây cỏ ở đây xanh quá? Lại khấn lại vái nhưng thấy ai cũng nước mắt rưng rưng. Con trai lớp vợ tôi - là các SV xuất sắc ở các trường ĐH thời đó - quá 2/3 đã nằm lại ở đây! Họ nói có tháp chuông mới dựng ở nơi vượt sông nhưng chỉ nhìn từ xa. Năm trước mới viếng được nơi yên nghỉ của trung đội Mai Quốc Ca.
Tháng 6/2009 trên đường hội ngộ Đà Nẵng:
Ngã ba Đồng Lộc, nơi 10 cô gái TNXP hy sinh ngày 24/7/1968. 362
Thắp hương tại hang Tám Cô đường 20, ở km 16+500
NTLS Đường 9
Bên một giếng thông hơi kiêm vận tải của địa đạo Vịnh Mốc.
NTLS Trường Sơn
Bên đài kỷ niệm, cũng là nấm mộ chung cho các LS đã hòa xương máu vào đất Thành Cổ Quảng Trị 363
Hội Trường 40 năm, TPHCM 2005
Mẹ Mai, mẹ Liên - mẹ 2 LS Thúc Doanh, Kiên Cường trong ngày hội trường 2005 364
Mẹ của liệt sĩ Thảo K7 đến dự Hội Trường 45 năm, cụ tuổi đã 94
Hội Trường 45 năm tại TPHCM 3/10/2010 Các bậc Phụ huynh, gia đình Liệt sĩ 365
27/7/2009, Nghĩa trang Mai Dịch 366
Hội Trường 45 năm tại HN, 1 phút mặc niệm
Xem bài viết: 1. Thƣ chúc Tết của Trung tâm MARIN gửi tới các gia đình liệt sĩ - Ngô Thị Thúy Hằng, 29/12/2010, Blog K6. 2. Đƣa ảnh lên vũ trụ - TuaLinh, 2/8/2010, Blog K3. 3. Gửi con trai năm 20 tuổi - EGK9, 31/7/2010, Blog K8. 4. Mộ gi , mộ liệt sĩ vô danh và những nỗi đau - 27/7/2010, Blog K5 - bantroik5sg giới thiệu bài: Mộ gi của CCB Trần Kiến Quốc, 26/07/2010 tại Bee.Net.VN. 5. Ngƣời anh hùng sống mãi HUỲNH KIM TRUNG - Hồng Tuyến, 14/03/2010 tại "Trang văn nghệ trường VHQĐ NVT 6. Thăm nhà bạn Liệt sĩ. - Khắc Việt, 06/02/2010, Blog K8. 7. Kinh Đồng đội (Để tƣởng nhớ những liệt sỹ đã quên mình hy sinh vì Tổ quốc) - thơ của Quang Trung, 5/2/2010, Blog K4. 8. Nghĩa tình đồng đội - thơ của Quang Trung, 8/11/2009, Blog K8. 9. Bạn Trỗi viếng thăm Liệt sĩ - tháng 6/2009, Bài tổng hợp tại Blog K6. 10. Khúc tƣởng niệm - tháng 7/2008, Blog K6. Nhạc nền: http://nvtk6.multiply.com/journal/item/360#NHACNEN Anh nền: http://nvtk6.multiply.com/journal/item/360#ANHNEN 367
2011
368