Chuyên san "Trại Hòe - Trại Cờ" _ Bản 3_Cập nhật 06/01/2012

Page 1

TRẠI HÒE TRẠI CỜ


Bạn Trỗi


Mục lục 1. Khởi đầu – Trích "Trường ca" – Đỗ Trung Việt K3 ....................................................... 4 2.

Những học viên đầu tiên ................................................................................................. 5

3.

Thời gian và kỷ niệm – Ban Biên soạn SRTKL1 (Trích) ............................................. 10

4.

Chuyện chưa ai biết – Hà Chí Thành K6 ..................................................................... 12

5.

Để có sự thành công trong việc mở Trường – Chính ủy Bùi Khắc Quỳnh (Trích).... 14

6.

Chuyện chưa biết – Hoàng Quốc Hùng K5 ................................................................. 17

7.

Về nơi khởi đầu – Lịch sử của một cái tên - Lê Chí Hòa K5 ..................................... 18

8.

Nhớ lại – Nguyễn Cương K3 .......................................................................................... 20

9.

Đại đội trưởng của tôi – Trích "Như những tấm gương" - Trần Hồ Bắc K3 .............. 25

10. Trại Hòe: trẩu và cánh cam – Lê Tự Thành K4 .......................................................... 28 11. Kỷ niệm Trại Hòe – Đoàn Phú Hòa K4 ...................................................................... 31 12. Những ngày đầu trở thành người lính – Phan Nam K5 ............................................ 35 13. Đại đội trưởng đầu tiên – Kiến Quốc K5 (Trích) ....................................................... 40 14. Lời ru trẻ mãi, còn ta thì già – Đức Dũng K5 ............................................................. 42 15. Trại Hòe và những kỷ niệm – Nguyễn Hoàng Anh K6 ............................................... 44 16. Nhớ về Khoá 6 của tôi – Nguyễn Hữu Nghị K6 (Trích)............................................... 46 17. Chuyện Trại Hòe – Kiến Quốc K5 .............................................................................. 49 18. Nhớ về Trại Hòe – Đức Dũng K5 ................................................................................. 50 a) Tắm mương ........................................................................................................... 51 b) Cảm giác đầu tiên.................................................................................................. 54 c) Nuôi chim ............................................................................................................... 56 d) Quậy ....................................................................................................................... 57 e) Tên chính thức....................................................................................................... 58 f) Nhớ… ..................................................................................................................... 60 19. Phố Thắng ngày ấy – Nguyễn Thanh Khiết ................................................................ 62 20. Hiệu may làng Trại Hòe – Bùi Thế Tâm...................................................................... 68 21. Một số hình ảnh ngày nay – Bùi Thế Tâm.................................................................... 70 22. Về lại Hiệp Hoà – Kiến Quốc K5................................................................................. 96 23. Trại Hoè - Trại Cờ hôm nay – Thắng K5 ................................................................... 99 24. Trại Cờ ký sự – Quang Việt K2................................................................................ 112


Khởi đầu Những năm 64, 65 không thể nào quên Khi những trái bom đầu tiên rơi trên miền Bắc Còn quá bé nhỏ để theo cha anh đi đánh giặc "Nguyễn Văn Trỗi, Thiếu sinh quân"...

Những từ ấy vang lên háo hức, tự hào Niềm tự hào trong những trái tim còn rất trẻ thơ. Bắt đầu từ Trại Hòe và, 108 cái tên trong các tốp đầu tiên Như gợi nhớ chuyện Lương Sơn anh hùng tụ nghĩa Ta bước vào cuộc sống xa nhà. Hồ hởi, vô tư như thế! Những chiếc chăn gấp vuông, những bước đi đều, những buổi đào công sự đầu tiên…

(Trích „Trường ca” - Đỗ Trung Việt K3, SRTKL2: 693-697)

 4


Những học viên đầu tiên Ngày 23-24/3/1965 những học viên đầu tiên thuộc K3, K4, K5 Trường thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi có mặt tại Trại Hòe Hiệp Hòa - Hà Bắc, bắt đầu trang sử của ngôi trường thân yêu và cũng là sự bắt đầu cho trang sử của mỗi cá nhân chúng ta…

(Trần Hà Đông K3) ... Có thể ví von lính "Trại Hòe" chúng mình như các chiến sĩ Tân Trào, là những người góp phần tạo nên ngày 15/10/1965.

(Đoàn Phú Hòa K4) Ngày đó, thầy Bùi Khắc Quỳnh là Chính uỷ, còn thầy Nguyễn Điền là Hiệu trưởng, thầy Dương Hưng Tuấn là Hiệu phó, (chủ nhiệm Chính trị Phan Hồng Khanh, chủ nhiệm Giáo dục Lê Ngọc Bình, chủ nhiệm Hậu cần Vũ Xuân Tiêu, trưởng ban Hành chính Đào Nam Linh). Thấy các thầy chỉ huy có nước da sạm nắng, bọn trẻ con đứa nào cũng sờ sợ…

(BBT SRTKL2) K1, 2: 4 Hoàng Quốc Lập

Chu Thành

Ng. Thanh Sơn

Ng. Thanh Tường

(Kiến Quốc K5) 5


K3: 49 K3 đang học lớp 7. Thầy Bạch Quốc Bính là đại đội trưởng. Lê Việt Bắc

Ng. Hữu Hoàng

Vũ Ngọc

Trần Hồ Bắc

Phạm Phi Hùng

Lữ Thái

Phan Hải Bằng

Ng. Quang Hưng

Ng. Trọng Ch. Thắng

Đoàn Đức Bình

Trần Hùng

(Nguyễn Thắng?)

Phan Thế Châu

Hồ Phước Khải

Dương Thanh

Hà Quang Chí

Lê Khắc Khảm

Phạm Sĩ Thành

Lê Viễn Chiến

(Ng. Bá Khôi?)

Ng. Doãn Thịnh

Hoàng Minh Chính

Võ Duy Kiên

Ng. Đồng Tiến

Lê Quốc Chính

Chu Văn Kim

Trần Tiến (sần)

Nguyễn Cương

Nguyễn Thanh Kỳ

Cao Long Tỉnh

(Hoàng Định)

Tống Thái Liên

Ng. Văn Toàn

Nguyễn Vũ Định

Hoàng Quang Linh

Ng. Văn Trung

Trần Hà Đông

Nguyễn Khắc Linh

Lê Trịnh Tường

(Ng. Tiến Dũng?)

Nguyễn Tuấn Linh

Đỗ Trung Việt

Ng. Thanh Hải

Lê Tường Long

Bùi Quang Vinh

Đồng Xuân Hiền

Trần Thắng Lợi

Nguyễn Hoàng

Lê Cảnh Nghĩa

(Trần Hà Đông K3)

6


K4: 53

Lê Quốc Anh

Ng. Trung Liêm

Lê Quang Thắng

Nguyễn Đình Bá

Đoàn Long

Lê?Trần? Tất Thắng

Phạm Đức Bằng

Đỗ Đình Luân

Ng. Phước Thắng

Lê Chi

Hồ Xuân Mai

Ng. Quang Thắng

Ng. Văn Chiến

Phạm Mạnh

Vũ Toàn Thắng

Phạm Minh Cường

Ng. Xuân Miên

Lê Tự Thành

Phùng Thế Đà

Hoàng Minh Nghĩa

Phạm Hồng Thao

Ng. Chấn Định

Lê Trung Nghĩa

Phạm Văn Thành

Dương Minh Đức

Trần Chí Nghĩa

Phan Hoài Thuận

Lâm Duy

Trần Chí Nhân

Huỳnh Xuân Thủy

Ng. Hồng Hải

Phạm Hùng Nguyên

Đặng Quốc Tiến

Đoàn Phú Hòa

Mai Phong

Nguyễn Văn Tín

Ng. Ngọc Hùng

Văn Công Phước

Nguyễn Văn Tuấn

Phạm Vân Hùng

Nguyễn Phục Quốc

Lê Ngọc Tuấn

Lê Trí Hưng

Mai Sinh

Ng. Sơn Tùng

Phạm Mạnh Kiên

Trần Tuấn Sơn

Hoàng Ngọc Việt.

Ngô Minh Kính

Hoàng Minh Thái

TrĐ

Hồ Quý Kỳ

Ng. Văn Thái

(Hồ Quý Kỳ K4) Quân chính trị lên từ tháng 3, quân hậu cần lên từ tháng 8

(MK) (Huỳnh uân Thủy) 7


K5: 22 K5 đang học lớp 5 do thầy Ninh Cử Trực (trung úy) làm đại đội trưởng. Ng. Quang Bắc

Lê Chí Hòa

Nguyễn Thiện Nhân

Ng. Hòa Bình

Văn Tiến Huấn

Đinh Khởi Nghĩa

Bùi Chương

Hoàng Quốc Hùng

Trần Kiến Quốc

Hà Văn Công

Trần Mạnh Lảnh

Trần Minh Sơn

Lê Kinh Doanh

Nguyễn Lâm

Thắng

Phan Đức Dũng

Trương Ngọc Liên

Hoàng Quốc Toàn

Võ Dũng

Huỳnh Tấn Lợi

Phạm Lê Trực

Trần Hiền

Phan Nam

(Kiến Quốc K5)

8


K6: 22 Cao Tuấn Anh

Vũ Biên Hòa

Trần Đăng Sơn

Ng. Hoàng Anh

Nguyễn Văn Hòa

Ng. Quốc Thắng

Vũ Điện Biên

Huỳnh Văn Hội

Ng. Trọng Thắng

Ng. Đức Cảnh

Ng. Chí Kiên

Võ Hồng Thế

Tạ Quang Chiến

Ng. Hữu Nghị

Trung còi

Đặng Quân Chính

Ng. Trọng Quang

Việt đỉa

Phạm Ngọc Chỉnh

Đinh Ngọc Quân

Đỗ Giới

Lê Tứ Quý

Ở Trại Hòe, Trại Cờ - Hà Bắc cũ, nhóm Khóa 6 chúng tôi nhập trại vào tháng 6/1965. Tôi không nhớ hết nhưng có rất nhiều bạn ở xung quanh thành cửa Bắc như: Thắng híp, Hòa tầu, Chỉnh, Nghị, Biên, Hòa còm, Đăng Sơn và các bạn khác Hội tè, Trọng Quang... Chúng tôi tập trung ở trạm 66 và lên đường. Ở đó chúng tôi ôn bài, chiều đá bóng, tối trốn tìm. Rồi có những buổi ra nông giang bơi... Khi có những chiếc máy bay Mỹ to như tấm phản bay qua, bay lại trên đầu thì cả bọn được tống lên xe phi lên Đại Từ…

(Nguyễn Hữu Nghị) Đại loại gần hết tụi B1 và B2 hồi lớp 5 đều lên từ Trại Hòe.

(HMK6)

 9


Thời gian và kỷ niệm Ban Biên soạn SRTKL1

T

ừ tháng 3 năm 1965, con em có cha mẹ công tác ở Tổng cục Chính trị, Hậu cần, Bộ Tổng Tham mưu, Văn phòng Bộ Quốc phòng "lục tục" tập trung lên Tiểu đoàn 126,

Trường Văn hóa Quân đội tại Hiệp Hòa (Hà Bắc). Khi đó các lớp 5, 6, 7 được sống trong doanh trại Trại Hòe, còn các anh lớp 9, 10 sống ở Trại Cờ (gần Phố Thắng - phố huyện của Hiệp Hòa). Chương trình chủ yếu thời kì đầu là ổn định tổ chức và ôn tập văn hóa. Ngoài ra, anh em được làm quen với việc đào hầm chữ A và giao thông hào phòng không, tập các phương án chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Máy bay Mỹ thường bay qua vùng trời nơi trường đóng quân để đánh phá Nhà máy Phân đạm Hà Bắc, sân bay Kép... Có thời gian các lớp phải sơ tán vào dân (sáng đi, chiều về) để tránh máy bay Mỹ, đây cũng là thời gian để làm quen với "công tác dân vận". Chiều về được đá bóng trên sân vận động của trường và bơi lội ở mương thủy lợi sau doanh trại. Đêm 15 tháng 7, toàn trường được lệnh hành quân chuyển địa điểm, các lớp khẩn trương thu dọn tư trang, sách vở… chuẩn bị lên đường. Một đoàn xe tải quân sự bịt bùng, quãng 8 giờ tối, có mặt trên sân vận động, các lớp lên xe theo chỉ huy của đại đội trưởng. Đây là đợt hành quân đầu tiên trong đời lính. Xe đi theo "đường chiến lược" từ Hiệp Hòa tắt qua Thái Nguyên. Đường xóc và tối như bưng. Riêng khi qua khu gang thép Thái Nguyên thì 10


thấy đèn sáng trưng, chả thấy không khí chiến tranh đâu cả. Quãng 1 - 2 giờ đêm thì đến cây đa cổ thụ xã An Mỹ (Đại Từ, Bắc Thái). Sau đó, đứa nào đứa nấy vừa ngủ gà ngủ gật vừa hành quân bộ tiếp tục vào các bản làng sát chân núi (dễ chừng tới 2 – 3 km). Từng tiểu đội được xé lẻ ra phân vào các hộ dân. Mệt đừ, sau khi được phân chỗ là lăn quay ra ngủ. Sáng hôm sau tỉnh dậy mới biết thế nào là Chiến khu Việt Bắc (?), cả lòng chảo An Mỹ chìm trong sương sớm, không gian lặng tanh, xa xa vẳng tiếng mõ trâu lốc cốc và tiếng suối róc rách. Ăn sáng xong là mò đi thăm rừng ngay. Lạ mà! …

(Trích "Thời gian và kỷ niệm" - Ban Biên soạn SRTKL1)

 11


Chuyện chưa ai biết Ghi theo lời kể của Hoàng Quốc Hùng K5

S

áng nay, Quốc Hùng truớc khi đi dự họp mặt K5 đã vào chào vợ cùng mẹ vợ (cô Hiền, TCCT, hay đưa đón lính Trỗi từ Đại Từ, Hưng Hoá và cả hồi Quế Lâm về HN). Bà

bảo: "Tập 3 của các con hay nhưng còn thiếu". "Thiếu gì mẹ?". "Ừ, để mẹ kể…". … Đầu năm 1965, có cuộc họp ở văn phòng TCCT. Có 4 "sếp": Chủ nhiệm Song Hào, Phó chủ nhiệm: Phạm Ngọc Mậu, Lê Hiến Mai và Lê Quang Đạo. Trung uý Hiền, ngày đó rất trẻ, xinh gái, cũng có mặt. Sự kiện Vịnh Bắc bộ đã xảy ra hồi 5/8/1964. Có mấy tháng mà chiến tranh phá hoại đã mở rộng ra toàn miền Bắc. Tuy vậy, mấy tuớng lĩnh vẫn đùa vui bằng chuyện tiếu lâm. Cụ Mậu đùa: -

Chị Hiền ơi, thấy chị xinh gái nên trong các cuộc họp tôi hay trêu. Nhưng không có ý gì đâu. Vui ấy mà.

-

Dạ, không có gì đâu. Trung uý Hiền cười.

Tiếp đó, thủ truởng Mậu nêu vấn đề: “Càng ngày, giặc Mỹ càng mở rộng chiến tranh, leo thang ra miền Bắc. Bom đạn càng ác liệt không kém gì ở miền Trung, miền Nam. Con cháu chúng ta phải sơ tán xa HN, HP. Tuy vậy, bố mẹ các cháu chiến đấu ngoài chiến trường sẽ không yên tâm khi con cháu mình học tập, sinh sống trong điều kiện không an toàn… ”. 12


Chuyện càng sôi nổi. Có cụ đưa ra ý kiến, nên chăng thành lập trường nội trú, sơ tán xa thành phố, về làng quê cho con cháu học tập. Cụ Lê Quang Đạo lúc đó đã nêu ý kiến: “Thời chống Pháp, chúng ta đã tập trung thiếu sinh quân ở các trung đoàn, sư đoàn về trường TSQVN, cho sang Trung Quốc học tập. Anh em ra trường và trở thành những cán bộ tốt. Tại sao, ngày nay ta không thành lập trường TSQ như thế? Nếu tổ chức tốt, sau này, các cháu sẽ là lực lượng kế cận, bổ sung cho chúng ta… ”. Chủ nhiệm Song Hào nêu vấn đề: “Hiện nay, TCCT có trường VHQĐ, sau khi từ Lạng Sơn về đã đóng quân ở Hiệp Hoà, Hà Bắc. Nay, trường chỉ bồi dưỡng học viên đi B. Bộ khung của trường có thể chuyển sang làm khung cho trường TSQ, đồng thời sử dụng số giáo viên đã có và bổ sung thêm. Chúng ta sẽ đào tạo các cháu con em TCCT, BTTM, TCHC là học sinh phổ thông từ lớp 5 đến lớp 10. Sau khi ra trường sẽ cho đi học tập, rèn luyện tiếp ở các trường sĩ quan, sau này sẽ là lực lượng kế cận”. Vậy là ý tuởng thành lập trường TSQ NVT đã nhen nhúm trong các tuớng lĩnh của TCCT. Và, chỉ ít ngày sau, ngay tháng 3/1965, số học sinh đợt đầu tiên đã tập trung lên doanh trại ở Trại Hòe, Hà Bắc. Đó là số lính đầu tiên của D126, trường VHQĐ… Chuyện này chỉ có 5 người có mặt hôm đó biết. Đã 45 năm trôi qua. Đến hôm nay còn mỗi cái cô trung uý trẻ, xinh đẹp ngày ấy. Xin cảm ơn bà và Quốc Hùng đã kể lại chuyện hay!

TranKienQuoc 13


Để có sự thành công trong việc mở Trường Hồi ức của nguyên Chính uỷ Bùi Khắc Quỳnh *

Sự giúp đỡ chí tình

M

ột

sáng

tháng

4

năm

1965, trung tướng Song Hào, Chủ nhiệm Tổng cục

Chính trị, đến thăm Trường Văn hoá Quân đội ở Trại Hòe, Hà Bắc. Sau khi thăm các lớp với gần một trăm học sinh, Chủ nhiệm làm việc với Ban giám hiệu. Trong lúc chờ đợi, tôi ngỏ ý: “Trường Văn hóa nay đã thu hẹp nhiệm vụ, đề nghị anh cho tôi được ra đơn vị chiến đấu”. Chủ nhiệm cười và nói: “Rất hoan nghênh nhưng anh phải ở lại. Tổng Quân uỷ đã có quyết định thành lập trường Thiếu sinh quân, dạy văn hoá cho con em cán bộ đang chiến đấu trên các chiến trường và các gia đình có công, theo chương trình phổ thông từ lớp 5 đến lớp 10, kết hợp rèn luyện thêm về quân sự để sau này đào tạo thành cán bộ kế cận lâu dài cho quân đội. Quan trọng nhất bây giờ là phải tìm được địa điểm mới, đảm bảo an toàn. Trường sở có thể làm bằng tranh, tre, nứa, lá, cố gắng sao cho kịp nhận học sinh và khai giảng năm học mới vào đầu tháng 10 năm nay”. 14


Ngay sau đó, chúng tôi họp Đảng uỷ xác định công việc và khẩn trương phân công thực hiện. Hiệu trưởng Nguyễn Điền cùng chủ nhiệm Chính trị Phan Hồng Khanh, chủ nhiệm Giáo dục Lê Ngọc Bình và chủ nhiệm Hậu cần Vũ Xuân Tiêu được cử về Hà Nội liên hệ với các cơ quan, nhờ giúp đỡ. Do đã có nghị quyết của Tổng Quân uỷ nên đi đến đâu, mọi việc đều được giải quyết hết sức nhanh chóng và thuận lợi. Các đồng chí cùng Cục Tuyên huấn sang làm việc với Bộ Giáo dục. Thứ trưởng Võ Thuần Nho nhận giúp đỡ về chương trình, cung cấp sách giáo khoa và giáo viên văn hóa. Thứ trưởng Bộ Văn hóa Lê Liêm giải quyết sách báo, nhạc cụ và giáo viên giảng dạy nhạc, họa. Cục Cán bộ nhận điều động các cán bộ và giáo viên giỏi về cho trường. Chủ nhiệm Tổng cục hậu cần Đinh Đức Thiện cho kinh phí xây dựng trường và chỉ thị cho các cơ quan nghiên cứu chế độ sinh hoạt, trang bị cho các cháu như cho những người lính. Cục Quân trang giao cho Xí nghiệp may 10 sản xuất hàng nghìn bộ đồng phục thiếu sinh quân các cỡ (áo blu-dông bay, quần xanh không quân). Mấy hôm sau, Tổng cục Chính trị cử phó Văn phòng Phạm Ngọc Điển xuống giúp nhà trường đi tìm địa điểm. Đồng chí Điển cùng hiệu phó Dương Hưng Tuấn và trưởng ban Hành chính Đào Nam Linh ra thị xã Bắc Giang gặp bí thư Tỉnh uỷ Lê Quang Tuấn. Các đồng chí đã dành nhiều thời gian đi khảo sát những địa điểm mà tỉnh giới thiệu, nhưng không tìm được nơi nào đạt yêu cầu, đặc biệt về an toàn. Khi lên Thái Nguyên, được Tỉnh uỷ giới thiệu về huyện Đại Từ gặp anh Khánh Vân, bí thư Huyện uỷ và anh Lý Thanh, chủ tịch Uỷ ban. Rất may, anh Lý Thanh lại là anh em kết nghĩa với anh

15


Song Hào. Các đồng chí rất nhiệt tình giới thiệu về xã An Mỹ. Đó là nơi có địa thế kín đáo, có rừng núi bao quanh, là vùng giải phóng trước cách mạng và là an toàn khu trong kháng chiến chống Pháp1. Đồng chí Thanh, đồng chí Tời phó chủ tịch huyện cùng về xã An Mỹ gặp đồng chí Lân (bí thư Đảng uỷ), đồng chí Đào Văn Dĩ (chủ tịch) và đồng chí Tâm (trưởng Công an xã). Chúng tôi cùng các anh xắn quần, chống gậy, lội suối vào từng bản làng để khảo sát và thống nhất kết luận: An Mỹ là đất lành! Sau khi báo cáo với Bộ Tổng Tham mưu, địa điểm đã được chấp thuận. Việc tổ chức di chuyển nhà trường do Bộ Tổng Tham mưu đảm nhận. Chỉ trong một đêm, trường đã dời từ Trại Hòe về An Mỹ, tuyệt đối an toàn. Ngay hôm sau, thầy trò cùng nhân dân An Mỹ và các xã lân cận vào rừng sâu chặt vầu, tre, lấy gỗ, lá về làm nhà ở và lớp học. Sau hơn một tháng lao động khẩn trương, nhà trường đã có được cơ sở cần thiết. Trước ngày khai giảng, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Phạm Ngọc Mậu, người được phân công trực tiếp chỉ đạo nhà trường, đã lên kiểm tra công tác phòng không, đảm bảo an toàn của nhà trường. Đồng chí còn giới thiệu nhà trường làm việc với tư lệnh Quân khu I, để đưa đơn vị công binh về đào hệ thống hầm, hào và ngụy trang thêm cho các lớp khối cấp II. Đúng là, không có quyết tâm ở trên, không có sự giúp đỡ nhiệt tình của các đơn vị quân đội, các cơ quan, bộ, ngành và chính quyền địa phương cộng với sự nỗ lực của thầy trò thì khó có thể khai giảng năm học đầu tiên của trường Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi đúng vào ngày 15 tháng 10 năm ấy.

(Trích „Để c sự thành công trong việc mở trường” - SRTKL2: 60-64) 16


Chuyện chưa biết Hà Chí Thành K6

C

ó thể chỉ là chưa biết với tôi. Lâu nay vẫn nghĩ thầy Tuấn là hiệu trưởng duy

nhất của trường mình. Mãi hôm rồi mới biết là không phải. Tuy ngày 15/10/1965 trường mình mới khai giảng năm học đầu tiên, nhưng chúng ta đều biết trường đã thành lập từ trước đó, từ Trại Hòe, Hà Bắc, từ tháng 12/1964 và khi đó thầy Nguyễn Hữu Điền là hiệu trưởng. Thầy Điền chính là hiệu trưởng đầu tiên của trường mình cho tới tháng 8/1965 thì thầy Tuấn mới thay thế. Thầy Điền cũng chính là phụ huynh của anh Nguyễn Thanh Kỳ K3 và Nguyễn Hoài Đức K6. Nếu tôi nhớ không lầm, theo những thông tin “vườn sắn” (chứ không phải “vỉa hè”) thì cho tới khi khai giảng năm học 65-66, trường mình chưa có tên chính thức. Lúc đầu còn mang con dấu “Tiểu đoàn 126”, sau đó hình như có ý định sẽ gọi là “Trường Thiếu sinh quân Trần Quốc Toản”, nhưng cuối cùng thì là “Trường Văn hóa Quân đội Nguyễn Văn Trỗi”.

 17


Về nơi khởi đầu – Lịch sử của một cái tên Lê Chí Hòa K5

Mùa thu này chúng tôi về Phố Thắng Thăm lại nơi đánh dấu tuổi thơ Trại Hòe, mương nước bây giờ Nhiều thay đổi quá, ngẩn ngơ đứng nhìn. Nhớ lại: Lớp Năm lúc đó nhỏ nhất trường Ba mươi đứa trẻ tính ương ương Sáng học, chiều ôn, tối sinh hoạt Đánh nhau, trốn học chuyện bình thường Thể thao, quân sự phải luyện rèn Đi đều, nội vụ phải thật chuyên Lao động, đào hào thật vất vả Nền nếp theo kẻng quả là phiền. Thời gian mấy tháng trôi qua mau Thày trò sinh hoạt càng thương nhau Các lớp trong trường cùng phấn đấu Học tập, rèn luyện phải dẫn đầu Thế nhưng: Trường đã có nhưng tên chưa có Hiệu trưởng mở Hội nghị Quân nhân Mỗi lớp ba người được triệu tập (*) Bàn đi, tập thể chọn tên trường 18


Lúc ban đầu số tên nêu cũng lắm Nào Kim Đồng, Lê Văn Tám… vân vân Hội nghị nguy cơ vào bế tắc Chọn tên nào cũng có ý phân vân. Bỗng một bạn giơ tay xin ý kiến: “Hãy mang tên một liệt sỹ Anh hùng Vừa hy sinh trên chiến trường chống Mỹ Đó chính là Nguyễn Văn Trỗi quang vinh” “Ồ hay quá, ý kiến thật sáng suốt Cái tên này vang vọng khắp năm châu” Mang tên anh quả là niềm vinh dự Thiếu sinh quân quyết vươn tới hàng đầu Và thế là kể từ ngày ấy Trường chúng ta mang tên Trỗi anh hùng Trường tồn tại chỉ năm năm ngắn ngủi Nhưng tên trường thì mãi mãi trong tim Bao thế hệ học sinh trường Trỗi Noi theo anh mà phấn đấu không ngừng Phát huy truyền thống cha ông Xây dựng Tổ quốc quyết không thẹn nào.

Cảm nhận sau chuyến về thăm phố Thắng, Trại Hòe, Trại Cờ và diễn thơ câu chuyện của bạn Võ Minh Đạo – thành viên Hội đồng Quân nhân được tham dự buổi họp chọn tên trường. Mùa thu 2011 (*) Thày phụ trách và hai cán bộ trung đội. 19


Nhớ lại Nguyễn Cương K3

B

ản thân mình là một thằng lười mà viết càng lười hơn. Nhưng nghĩ đến thời kỳ ở trường Trỗi rất nhiều kỷ niệm lại kéo về trong tâm tưởng, nhưng viết ra thì thật là khó

mình thuộc loại dốt văn mà. Nghĩ mãi mới ra một cách nhớ lại theo thời gian nhớ đến đâu viết đến đấy, để các bạn cùng hồi tưởng với mình. Vào trường Cương hồi cấp 2 là học sinh trường Nguyễn Trãi 2 (để phân biệt với NT3 lúc đó mới được thành lập ở đường Giang Văn Minh). 1965 đang học ở lớp 7D cùng lớp với Lê Việt Bắc. Một hôm giờ ra chơi Bắc khoe với mình: "Ngày mai tao đi học ở trường thiếu sinh quân đấy". Thế là trưa đi học về mình bắt mẹ vào hỏi các chú trong thành xin cho mình lên trường. Lúc đó khoảng tháng 2 tháng 3 năm 65, sau vụ vịnh Bắc Bộ năm 64 các gia đình ở Hà Nội đã đưa các con đi sơ tán rồi. Bà chị mình được giao nhiệm vụ đi quản lý hai em gái mình ở nơi sơ tán, ở nhờ nhà người bà con họ hàng ở Thường Tín, Hà Đông. Mình còn ở Hà Nội là có trách nhiệm chủ nhật đưa gạo và đồ tắc tế cho chị và hai đứa em ở nơi sơ tán. Khi đó ý bà mẹ mình cũng không muốn để mình đi, nhưng vì cứ đòi đi, lý do là ở nhà toàn con gái nên bà suy nghĩ cân nhắc rồi cũng vào trong thành bộ đội xin cho mình đi. Thế là mình đi khám sức khỏe, rồi làm hồ sơ, rồi lên trường. 20


Mình lên trường là không theo đợt tổ chức của bộ đội nên phải tự đi. Ông anh rể chồng bà chị cả mình đưa đi. Đi tàu hỏa từ HN lên ga Sen Hồ, rồi đi nhờ xe com-măng-ca của bộ đội đến phố Thắng, rồi vào Trại Hòe. Lúc đi trên tàu gặp bố con Khắc Khảm cũng vào trường nên bốn người cùng đi. Trường lúc bấy giờ là doanh trại của cán bộ chuẩn bị đi B nên cũng khá đơn sơ, toàn bộ là nhà tranh, tre, nứa, lá, tường trát rơm trộn đất sét, quét vôi. Cả doanh trại khoảng 3-4 ha nằm trên một quả đồi thấp, miền trung du thường thấy. Đằng sau bếp và nhà ăn có một dòng nông giang lòng 3-4m, nước khá trong, anh em chúng ta hay ra tắm, còn lại xung quanh doanh trại là các đồi trẩu. Theo trí nhớ của mình doanh trại hơi giống hình thước thợ. Nhà bếp và nhà ăn vuông góc với hai dãy nhà. K3 (thực ra lúc ở Trại Hòe mới có 3 lớp, lớp 7 K3, lớp 6 K4, lớp 5 K5) ở dãy phía đông, K5 ở dãy đối diện qua môt cái sân chiều rộng bằng đúng chiều dài của dãy nhà ăn, dãy nhà của mấy ông cán bộ đi B. Hết dãy nhà của K3 & K5 một cái sân bóng đá khá rộng, dãy nhà của K4 nằm ở hai đầu sân bóng - về điểm này Cương nhớ không rõ lắm nhưng chắc chắn là K4 nằm ở phía sân bóng. Thế là bắt đầu cuộc sống doanh trại, cuộc sống tập thể. Nhớ ngày đầu tiên vào trường, lúc đến doanh trại đã sang buổi chiều, nộp giấy tờ xong bậc phụ huynh ra về, Cương và Khảm chưa có bát nên phải ăn sau mới mượn được bát, Chiến Thắng bị mất bát cũng cùng ăn. Mình nhớ lúc đó hội Dương Thanh, Việt Bắc, Hữu Hoàng xúm vào chọc Chiến Thắng, bảo hai thằng mình phải ăn nhanh lên không Thắng ăn hết phần. Sau này mới biết Chiến Thắng ở nhà quen ăn ngon rồi nên vào mâm ăn hết 21


cái gì ngon là buông bát ra về. Nghe nói Bùi Vinh tức quá lấy bát của ChTh vứt đi. Kể lại cho vui các bạn đừng tự ái nhé. Hồi đó vì mới thành lập nên lên trường chủ yếu là các bạn gần thành Cửa Bắc; khu 25 Phan Đình Phùng, khu Lý Nam Đế, khu Trần Phú, Điện Biên Phủ, khu Nam Đồng. K3 chia thành 2 lớp, 1 lớp học Trung văn, 1 lớp học Nga văn tiếp tục theo chương trình của các trường ở Hà Nội. Nhưng lúc này cuộc sống sinh hoạt thì khác hẳn ở nhà, hoàn toàn giống như cuộc sống của một anh lính. 11 chế độ sinh hoạt trong ngày của bộ đội được thực hiện nghiêm chỉnh. Cũng sáng dậy gấp chăn màn, tập thể dục ăn sáng theo hiệu lệnh kẻng, cũng kiểm tra nội vụ theo điều lệnh quân đội, tập điều lệnh đội ngũ của quân đội, cũng báo động khẩn cấp tính thời gian như anh lính. Chỉ có vài điểm khác là: - Thứ nhất: Lúc đó anh em chúng ta mới có 13-14-15 tuổi. - Thứ hai: Các bậc Phụ huynh của chúng ta có lẽ sợ nhà nước còn nghèo nên xung phong đóng tiền nuôi dưỡng chúng ta. - Thứ ba: lúc đó vì tập trung vào chiến đấu nên trường VHQĐ tạm thời không chiêu sinh là bộ đội số lượng lớn nên các cô giáo thày giáo của trường VHQĐ chuyển sang dạy chúng ta, vì thế tên và con dấu của trường đều là trường VHQĐ, sau này lấy tên là trường Nguyễn Văn Trỗi nhưng tất cả giấy báo điểm gửi về nhà chúng ta đều đóng dấu trường VHQĐ. Về điểm này có rất nhiều bạn băn khoăn và hay tự đặt tên cho trường chúng ta là trường TSQ Nguyễn Văn Trỗi; Nhưng điều này là không chính xác, vì nếu tra văn bản giấy tờ thì không tìm đâu ra trường TSQ Nguyễn Văn Trỗi. Nhưng về thực chất lúc đó chúng ta là những

22


chú thiếu sinh quân không thể gọi khác đi được. Với cách đào tạo rèn luyện như vậy chỉ có các trường thiếu sinh quân mới có.

Bắt đầu cuộc sống của những chú lính nhỏ cũng khá hay, mình không biết có bạn nào nhớ nhà tối lên giường trùm chăn khóc lén không chứ mình thì không. Lên lớp học thì vẫn học chương trình phổ thông bình thường, ngoài giờ học trên lớp là sự xen kẽ giữa các buổi tự ôn và tập quân sự. Phải nói là lúc đó việc tập quân sự anh em chúng ta rất nghiêm chỉnh và rất chính qui, đồng thời các thầy cô duy trì việc học tâp, rèn luyện của chúng ta nghiêm khắc đúng như trong doanh trại quân đội (bởi vì các thầy cô đều là sĩ quan quân đội mà). Ngày thường có rất ít thời gian rỗi. Sáng dậy vệ sinh cá nhân tập thể dục, đi ăn sáng, kiểm tra nội vụ xong lên lớp học. Trưa về ăn trưa rồi ngủ trưa, chiều học ôn và tập quân sự. Tất nhiên học vẫn là chính nhưng mọi hoạt động đều phải đi theo đội ngũ như trong doanh trại quân đội. Có lẽ anh em chúng ta sống quá quen

23


với nếp sống đó rồi nên thấy rất bình thường, nhưng giờ nghĩ lại so sánh với các trường nội trú khác thì mới thấy cuộc sống sinh hoạt như thế là rất nghiêm ngặt. Một lẽ nữa là đại đa số chúng ta đều ở trong quân đội nên cách sinh hoạt như thế là tất nhiên. Thời gian đó có lẽ thoải mái nhất là chủ nhật. Được tự do đi chơi và nghỉ ngơi. Nhớ lại hồi ấy ra phố Thắng, sang nhất là ăn phở của HTX ăn uống ngoài phố Thắng, bây giờ cũng chẳng nhớ được mùi vị của nó nhưng nhớ là ăn ở đấy là ngon rồi. Một lần ra phố Thắng cùng Quốc Chính, Trung Việt và Hà Đông, đi qua Trại Cờ thấy một con chim (hình như là con cà cưỡng họ nhà sáo) bị mắc lưới tơ của một con nhện to, chân vằn đen vằn vàng ở trong bụi tre già (con nhện này quả là đặc biệt, nếu hồi ấy mà bắt cả con nhện thì bây giờ có một tiêu bản động vật quí hiếm rồi). Quốc Chính vào bắt đưa cho Trung Việt, về Trung Việt nuôi được một thời gian thả ra thì nó đi mất. Thời gian nghỉ không đi chơi thì ra nông giang tắm, nước trên miền trung du khá trong và mát, dòng nông giang không sâu chỉ độ ngang ngực nhưng thế là bơi được rồi. Nhưng dòng nông giang này có một đoạn ống ngầm để đóng hoặc mở nước cho dòng nông giang thấp hơn một chút, thế là có sáng kiến lặn qua ống ngầm sang bên kia. Theo trí nhớ của mình thì Phi Hùng là người đầu tiên lặn qua ống ngầm, sau đó anh em theo cũng lặn qua được. Học hết học kỳ 2 lớp 7 thì bọn mình chuyển sang Trại Cờ thi hết cấp 2. Lúc này nhà trường chuẩn bị chuyển lên Đại Từ, Thái Nguyên. Khóa 3 lên lớp 8, nhà trường bắt đầu tổ chức cấp 3 vì thế có khóa 1 (lớp 10) và khóa 2 (lớp 9). Và như thế là sang hồi 2 "Yên Mỹ - Đại Từ - Thái Nguyên". 24


Đại đội trưởng của tôi Trần Hồ Bắc K3

N

gày mới lên trường ở Trại Hòe, chúng tôi đang học lớp 7. Thầy Bạch Quốc Bính là đại đội trưởng. Thầy đã phải làm mọi việc để chúng tôi quen với tập thể và nếp sống

tập thể. Còn nhớ dạo ấy, ngày chủ nhật, học sinh thường được đón gia đình lên thăm. Có bố mẹ, có quà. Ngày chủ nhật vui lắm! Nhưng một lần, thầy Bính tuyên bố: tất cả quà của gia đình lên thăm, tập trung lên nhà đại đội. Chúng tôi thắc mắc: quà của gia đình là của riêng, sao lại phải thu, nộp? Tuy chấp hành mà nhiều người vùng vằng. Tối hôm ấy, vào sinh hoạt, thầy hỏi chung cả lớp: - Hôm nay, nhiều em có gia đình lên thăm, cũng có nhiều em không có ai lên thăm. Có phải các gia đình ấy không thương yêu con em mình? Chúng tôi nhìn nhau, chưa biết trả lời thế nào thì thầy nói tiếp: - Không phải như vậy, mà vì bố mẹ các em ấy đang công tác, nhiều người đang ở chiến trường xa, chịu nhiều gian khổ, trong đó có cả sự hi sinh, nên không có điều kiện chăm sóc, thăm nom con em mình. Thầy đề nghị, các em nên san sẻ tình cảm gia đình mình cho các bạn đang thiệt thòi, thiếu thốn! Tất cả chúng tôi chợt hiểu ra ý thầy, nhận ra sự vô tâm của mình. Nhanh chóng, số quà được chia đều, liên hoan chung trong đại đội. Thật bất ngờ và cảm động! Về sau, không cần thầy nhắc, 25


chúng tôi đều tự động san sẻ quà bánh, cả niềm vui, nỗi buồn cho bạn bè trong lớp. Cũng hồi ở Trại Hòe, nguồn nước ăn, tắm giặt đều là nước giếng. Không có máy bơm; để có nước dùng phải có gầu, có cần vọt. Bé bỏng như chúng tôi khi ấy, có được một gầu nước là "cả một vấn đề". Đã có lần, một bạn đang kéo nước, bị cần vọt kéo tuột xuống giếng, may mà có người đến cứu. Đối với số giếng ven đồi, nước mấp mé bờ, tình hình "có khả quan" hơn. Nhưng những lúc cao điểm, sau giờ thể thao, giờ lao động chiều… số người đông mà số gầu có hạn, vẫn xảy ra hiện tượng "kẹt". Thầy Bính đã ra tận nơi, xem xét rồi hướng dẫn chúng tôi: Buổi sáng, bớt một trực nhật, mang gầu ra giếng, múc sẵn đổ vào các chậu. Khi anh em tập thể dục xong, xuống đánh răng rửa mặt, cứ chậu trung đội nào thì trung đội đó dùng, đỡ phải chờ đợi. Biện pháp của thầy giải quyết ngay được tình trạng ùn tắc, không còn ai vì chậm mà lên lớp muộn. Không nói ra nhưng chúng tôi thấm thía bài học "mình vì mọi người". Đợt ấy, cả đại đội tiến hành tẩy giun. Theo chỉ định của quân y: Thuốc khá mạnh, có tác dụng ngay nhưng dễ làm người uống hoa mắt, chóng mặt. Đại đội cho uống vào buổi tối. Ai uống thuốc được "ưu tiên" nghỉ tập thể dục sáng, bớt lao động nặng. Khi trung đội tôi ngủ dậy, điều bất ngờ là thấy đã có sẵn nước rửa mặt được gánh về đầu hồi nhà; ngay cả phần cơm sáng cũng được anh em trung đội 2 ưu ái, mang về tận trại giúp. Thì ra, thầy Bính đã động viên trung đội bạn, giúp đỡ chúng tôi lúc đang "chân yếu, tay mềm". Được thầy và các bạn "nâng niu" như vậy, tuần sau, khi trung đội bạn vào điều trị, trung đội tôi nhanh nhẩu trực 26 nhật hộ. Rất vui vẻ, tự giác.


Có một kỉ niệm của riêng tôi với thầy Bính: Cuối năm lớp 7, tôi và sáu bạn thi hết cấp không đạt yêu cầu. Khi được thông báo kết quả, tôi bị hụt hẫng đến òa khóc. Chính lúc ấy, thầy đến với tôi. Không động viên, an ủi chung chung, mà thầy chỉ cho tôi nguyên nhân dẫn tới kết quả xấu: đó chính là tư tưởng dấu dốt, ngại hỏi; đó là việc học lệch, lơ là các môn tự nhiên; đó là sự thiếu quyết tâm phấn đấu… Được thầy chỉ bảo, vạch ra khuyết điểm, tôi đã quyết tâm và tự tin hơn, bước vào ôn tập và thi lại. Câu chuyện của thầy hôm đó trở thành động lực, giúp tôi suốt những năm học sau. Khi đã vượt qua kì thi lại, rồi kì thi tốt nghiệp phổ thông… thì tôi càng thêm biết ơn các thầy, cô, các bạn và biết ơn thầy Bính, đại đội trưởng của tôi!

(Trích "Như những tấm gương" - Trần Hồ Bắc K3, SRTKL2: 310-314)

Thày Bính, người dẫn dắt anh chị em kh a 3 từ những ngày đầu tiên cho tới khi ra trường… (Ảnh trong bài „40 Năm quân ngũ - K3 Hà Nội” – 3/8/2008, Blog K3)

27


Trại Hòe: trẩu và cánh cam Lê Tự Thành K4

K

hông may mắn lắm là "được" lên trại khá sớm, trước ngày khai trường nên rơi vào số ít ỏi đầu tiên của K4. Khi đó trường còn nhỏ, thiếu chỗ nằm nên mình phải

nằm chung với Quang Thắng. Rất may là thằng này ngoan, không hay... bắt nạt bạn mới. Còn mình thì không phải lần đầu xa nhà. Nhưng vẫn là lần đầu lớn mà xa nhà nên nhớ mẹ lắm. Đêm nằm cứ tranh thủ... khóc thầm. Nước mắt nước mũi chùi hết vào màn Quang Thắng. Không rõ nó không biết hay cố tình lờ đi mà sáng sáng gấp màn chẳng thấy nói gì. Nhưng có lẽ cả năm nó cũng chẳng giặt màn. Nói quá vậy thôi

chứ

hình

như

Quang

Thắng không ở lâu với bọn mình. Nó bị đau gì đó ở đầu nên sau này gia đình đưa về Hà Nội sớm thì phải. Có lẽ chỉ một học kỳ lớp 7. Mình nhớ Trại Hòe nhiều trẩu. Cuối thu có rất nhiều cánh cam trên những cây trẩu. Chúng bay vào nhà buổi tối. Có thằng bắt lấy. Mà thật ra thì dễ bắt lắm. Sau đó bẻ hai 28


chân (tụi trẻ vẫn rất tự nhiên tiêu diệt các loài nhỏ bé hơn như vậy). Lấy hai que tăm đút vào chỗ bẻ, cắm xuống miếng bẹ chuối thật chắc. Quay vòng tròn cái bẹ chuối cùng con cánh cam nó sẽ thừa cơ vỗ cánh rất mạnh. Chỉ cần thả xuống hồ nước ngoài cổng là có một chiếc thuyền máy chạy vút sang tận bờ bên kia. Mình chỉ hay đi theo xem. Bây giờ chẳng nhớ thằng nào hay chơi trò này nữa. Không hiểu bây giờ mà gặp thằng con bẩn thỉu, nghịch dại như mình ngày đó thì ta sẽ nghĩ sao nhỉ. Với tư cách "người lớn" mình lại thấy tụi trẻ con thật thiệt thòi khi được chúng ta quan tâm kỹ quá. Mỗi thời một khác, nhưng những gì của tuổi thơ thật đẹp và đẹp mãi.

Nguyễn Hồng Hải K4: Hồi đ ở trại Hòe gần như thằng nào cũng chơi trò "thuyền cánh cam", so với các "thú vui" khác như: muỗi SG, bão táp... thì không ăn thua gì cả. Đồng ý với các bạn, so với anh em ta thì đám con cháu ngày nay không nghịch bằng nhưng khi xưa chúng ta nghịch theo kiểu con nít, còn bi giờ nếu lũ trẻ mà nghịch, phụ huynh chỉ còn nước kh c. Đoàn Phú Hòa K4: Cám ơn Tử Thành viết về thời Trại Hòe, Trại Cau nhé. Mấy lần tôi c n i với Hữu Thành về vụ "các chiến sĩ tiên phong" cánh mình, nhưng n chỉ giương mục kỉnh lên hứ một tiếng là thôi. Quả tình mấy đứa thuộc loại "sinh sau, đẻ muộn" nên không biết là phải. 29


Tôi là một trong những thằng đặt chân lên đất Trại Hòe ngay ngày đầu tiên. Người thầy mà chúng tôi gặp đầu tiên khi vừa nhẩy ra khỏi ô tô là thầy Cầu. Hai dãy nhà của K4 nằm ngay bên tay trái sát cổng trường. K5 nằm bên tay phải và K3 lùi sau một tí, ngay sân b ng chuyền của đơn vị bộ đội đang tập đi B. Tôi biết gặt, đập lúa là cũng nhờ thời gian ở Trại Hòe, khi anh em mình ra giúp dân. Quang Thắng tuy ít n i nhưng hồi đ c một thời "nổi danh" mà nhiều người biết vì cái chuyện ăn kẹo lẻ trong chăn và chuyện thứ hai là chỉ với một bài toán nhỏ mà n hì hục tìm ra 54 cách giải. Đoàn Long thì dính vào vụ "đường Sông Lam của quê tao ngọt lắm" nên mỗi thằng được n r t thẳng một thìa vào miệng, đến khi phát hiện ra là anh em "nịnh đểu" để được tí của ngọt bồi dưỡng thì hộp đường của n chẳng còn dính lại hạt nào. Tôi biết được tiếng sáo của Ngọc Việt cũng vào thời đ .

30


Kỷ niệm Trại Hòe Đoàn Phú Hòa K4

Đ

úng là thời gian mà "nhóm tiên phong" của trường Trỗi ở Trại Hòe không nhiều, chỉ vỏn vẹn có vài tháng thôi kể cả 15 ngày hè được về với gia đình nhưng bản thân tôi vẫn

giữ được khá nhiều những kỷ niệm của thời gian đó.

D D D

Trại Hòe là nơi mà lần đầu tiên tôi sống xa gia đình, xa Hà Nội

trong thời gian dài và đó cũng là điểm mở đầu cho một cuộc sống mới cùng với những đứa bạn mới. Lúc đó chắc chắn không ai trong bọn tôi có thể nghĩ rằng quan hệ bạn bè của những đứa trẻ 12, 13, 14, 15 tuổi lại có thể gắn bó cho đến tận bây giờ. Trại Hòe ở trên một quả đồi nhỏ và như mọi người đã kể thì ở

đó, ngoài những ngôi nhà tranh, vách đất thì chỉ có các cây trẩu và sỏi, đá, nắng chiếu chang chang suốt ngày chứ không nhiều cây và nhiều bóng mát như Trại Cờ. Hồi chúng tôi đến Trại Hòe thì ngoài bọn nhóc như chúng tôi còn có một đơn vị bộ đội đang chuẩn bị đi B. Các "chú bộ đội" như chúng tôi gọi ngày ấy cứ sáng sớm tinh mơ là lại ba lô nặng trĩu trên vai tập hành quân đến tối mịt mới về. Thật ra thì có lẽ "các chú ấy" cũng chỉ hơn lũ trẻ chúng tôi dăm tuổi là cùng nhưng sao hồi đó chúng tôi thấy họ lớn thế và không ít đứa đã có mong ước được tập hành quân như vậy. Lên Trại Hòe tôi mới bắt đầu được rèn luyện gấp chăn màn vuông như "cục gạch" và có lẽ nhờ vậy nên đến giờ tôi vẫn có một tác phong gọn gàng, không quẳng đồ đạc bừa bãi mặc dù chẳng ai bắt tôi phải làm vậy. 31


Hồi ở Trại Hòe trường mình mới chỉ có 3 khóa là 3, 4 và 5. Mỗi khóa có 2 trung đội. Khóa 4 ở trong hai căn nhà dọc bên trái cổng vào, khóa 5 ở phía bên phải còn khóa 3 thì ở phía bên trong, qua sân bóng của trường. Nhà ăn ở phía cuối trường, sát với cổng hậu mà lính Trỗi mình hàng chiều vẫn ra mương tắm và cổng hậu đó cũng nối với con đường chạy qua Trại Cờ để đến Phố Thắng. Cạnh nhà ăn là cái giếng mà có lần Trung Việt K3 khi kéo gầu nước do không cẩn thận đã bị rớt xuống giếng nhưng được bạn bè kéo lên ngay, chỉ bị xây xướt một tẹo. Dù ở Trại Hòe có mấy tháng nhưng chúng tôi cũng được nhà trường tổ chức đi gặt lúa giúp hợp tác xã ở địa phương. Đó cũng là lần đầu tiên trong đời tôi được chỉ cách cầm liềm và cầm néo để đập lúa. Giờ nghĩ lại cảnh chí chóe lúc đầu khi không biết dùng néo để xoắn bó lúa cho đúng mà thấy vui vui. Cái mương sau trường là niềm vui của chúng tôi trong những buổi chiều sau giờ ôn tập ở nhà. Các khóa thay phiên nhau ngụp lặn ở cái mương đó. Tuy là nước mương nhưng sao hồi đó bọn tôi thấy nó sạch và mát thế. Đứng trên cửa cống nhẩy ùm xuống là một trong những trò nghịch của chúng tôi và cũng như Minh Kính (K4) kể thì cũng không ít đứa thử chui qua lỗ cống. Có một thời, không hiểu ai đồn là bọn phản động có thể rắc các mảnh thủy tinh xuống mương nên bao giờ các thấy phụ trách cũng xuống kiểm tra trước rồi bọn tôi mới được tắm. Sau đó một thời gian lại có tin đồn là ở trên đầu nguồn có trại hủi làm lính nhà ta sợ mất vài ngày không dám tắm nhưng rồi đâu lại vào đấy, bọn tôi lại ngụp lặn trong dòng nước mương đó.

32


Sáng chủ nhật nào chúng tôi cũng mong bố mẹ lên thăm. Đứa nào có gia đình đến thì vui, đứa nào không có thì mặt ỉu xìu vì lần nào ngoài tình cảm ra thì bố mẹ còn mang "đồ tiếp tế" đến nữa, phần lớn là bánh kẹo các loại. Để cho công bằng thì nhà trường đã đưa ra sáng kiến là ai nhận được quà của bố mẹ thì đóng góp vào công quĩ rồi tối chủ nhật hôm đó sẽ được chia đều ra cho mọi người (chủ chương này chỉ có ở thời kỳ Trại Hòe chứ sau này không bao giờ tái diễn nữa). Vì chuyện này mà có một số đứa đã bị tẩy chay ngầm vì dấu quà đi để ban đêm chùm chăn ăn một mình. Thỉnh thoảng vào ngày chủ nhật bọn tôi cũng mò ra Phố Thắng chơi. Đối với lũ trẻ 12, 13 tuổi thì chặng đường từ Trại Hòe ra đến Phố Thắng khá xa nhưng chẳng đứa nào thấy mỏi. Thật ra đi chơi Phố Thắng thì cũng chỉ vì tò mò chứ hồi ấy có đứa nào có tiền đâu, vài hào trong túi đã là oách lắm rồi. Bao giờ bọn tôi cũng đi qua Trại Cờ, nơi có một đơn vị bộ đội ở đấy, tôi không nhớ là lính không quân hay hải quân nữa. Trại Cờ nhiều cây chứ không trơ trọi như Trại Hòe và chủ yếu là mít. Có lần tôi cùng Chấn Định (K4), anh của Chấn Biên (K6) bẻ trộm một quả mít vàng ươm rồi cởi áo ra bọc lại để lệ kệ vác về nhà cho mọi người ăn. Hôm ấy bọn tôi được chén một bữa mít đến căng bụng nhưng cái giá phải trả cũng khá đắt vì cái áo đó dính đầy nhựa mít, phải quẳng đi. Ở Trại Hòe còn có thầy Mãn, giáo viên dạy toán của K5. Thầy trẻ lắm, người nhỏ, mắt hơi hiếng và giỏi đàn hát. Tôi quen thầy trước khi lên trường vì chị của thầy là hàng xóm với gia đình tôi ở Quân Khu Nam Đồng. Thầy Mãn chỉ là công nhân viên quốc phòng chứ không phải là sĩ quan và khi trường lên Đại Từ thì thầy không 33


được theo trường để dậy nữa. Sau này chị của thầy cho biết lý do là vì dính đến thành phần địa chủ nên không được tiếp tục dậy ở trường. Những lần gặp nhau ở Hà Nội thì thầy vẫn trò chuyện thân mật với tôi, hỏi tôi nhiều về hoạt động của trường nhưng với giọng buồn, không vui. Hồi ở Trại Hòe thỉnh thoảng vào buổi tối chúng tôi cũng nhận được lệnh gói hết đồ đạc tập hành quân nên đến một tối, khi chúng tôi nhận được lệnh gói hết đồ đạc, kể cả tư trang thì bọn tôi cũng vẫn chấp hành nghiêm chỉnh. Đến khi cả một đoàn xe vận tải kéo vào sân trường thì bọn tôi mới hiểu mập mờ là chuyến hành quân này sẽ quan trọng lắm chứ không chỉ "chơi chơi" như những lần trước đó. Tối hôm đó chúng tôi thực sự di chuyển để sáng hôm sau có mặt tại gốc đa rồi từng khóa theo sự hướng dẫn của các thầy đi về địa điểm mới của mình. Khóa 4 chúng tôi đi xa nhất, vào tận An Mỹ, sát chân núi Tam Đảo. Cuộc sống mới lại bắt đầu để bây giờ chúng tôi có được những kỷ niệm không thể quên về An Mỹ, về Trại Cau và về chỗ ở mới trong rừng, về thác Bom Bom, về những chuyến leo núi lấy củi, về những quả dọc ngọt, quả gắm, về những bữa bánh cuốn bằng bột sắn trong rừng, về trận lũ khủng khiếp và nhất là về những tình cảm bạn bè, tình cảm thầy trò trường Trỗi. Sau này, khi đã ra làm việc tôi cũng có vài lần đi qua Phố Thắng nhưng vì hoàn cảnh nên tôi vẫn chưa bao giờ có dịp trở lại thăm Trại Hòe, một quả đồi nhỏ nắng chiếu suốt ngày nhưng đã để lại trong tôi và nhiều lính Trỗi khác những kỷ niệm không bao giờ quên. 34


Những ngày đầu trở thành người lính Phan Nam K5

Q

uãng tháng 5 năm 1965, anh em tôi được gọi lên trường theo khối Tổng cục Chính trị. Vì cha tôi đi công tác xa, nên mẹ tôi chuẩn bị từ A đến Z cho tụi tôi. Anh

tôi khi đó mới 14, còn em tôi 11. Đây là lần đầu tiên xa nhà không có cha mẹ đi cùng, và đây cũng chính là bước ngoặt của cuộc đời. Xe Tổng cục đưa tụi tôi từ Cửa Đông lên Hiệp Hòa. Đây cũng là lần đầu tiên được đi trên quốc lộ 1 qua Gia Lâm, tới Bắc Ninh, rồi rẽ vào Hiệp Hòa – một huyện trung du của tỉnh Hà Bắc. Qua thị xã Bắc Ninh thấy hoa phượng vĩ nở khắp phố, hè đã về. Sau khi xe qua phố huyện Hiệp Hòa thì rẽ vào Trại Hòe – doanh trại của Tiểu đoàn 126, trường Văn hóa Quân đội. Vừa thấy xe chúng tôi lên, tụi con em các Tổng cục chạy ra hô vang: "Ê, lính mới, lính mới!". Sau này mới biết các cậu lên đây rải rác từ 15 tháng 3. Tôi được xếp về đại đội 5 do thầy Ninh Cử Trực (trung úy) làm đại đội trưởng. Các đại đội 4, 5, 6, 7 được bố trí xung quanh sườn đồi xen lẫn những rặng phi lao, ở giữa là hai sân vận động lớn. Những ngày đầu ổn định tổ chức, tụi tôi được ôn lại văn hóa. Điều ngỡ ngàng đầu tiên là chúng tôi được các "thầy giáo bộ đội" tổng hợp kiến thức một cách có hệ thống. Đồng thời với việc ôn văn hóa, chúng tôi được các thầy hướng dẫn cho cách đào giao thông hào và hầm trú ẩn, đề phòng máy bay Mỹ đánh phá. (Cách chúng tôi quãng 15-20 km là Nhà máy phân đạm Hà Bắc, Thuốc 35


lá Bắc Sơn, Sân bay Kép… những mục tiêu đánh phá của giặc Mỹ lúc bấy giờ). Đang sinh hoạt tự do với gia đình, lên trường chúng tôi phải sống theo điều lệnh, phải sinh hoạt "theo kẻng".  Sáng 5 giờ rưỡi – kẻng báo thức. Trời còn tối như bưng nhưng toàn trường đã dậy ra sân vận động chạy đều và hô vang "một, hai, ba, bốn", rồi tập thể dục. Sau đó về gấp chăn màn và vệ sinh cá nhân.  6 giờ 30 - kẻng ăn sáng.  7 giờ - kẻng vào học tập. Trước khi vào học tập có động tác kiểm tra trật tự, nội vụ. Mỗi người đứng tại đầu giường mình để cán bộ đi kiểm tra, chăn màn được gấp vuông vắn như quyển tự điển và phải xếp thẳng hàng từ giường này sang giường kia. Bát đũa, bàn chải đánh răng cũng phải xếp đúng chỗ, ngay ngắn. Kiểm tra xong, cả lớp vào học tập.  11 giờ 30 – kẻng nghỉ học, ăn trưa. Khi xuống nhà ăn phải xếp hàng theo trung đội và đi đều.  13 giờ 30 – kẻng báo thức, anh em đang nghỉ trưa vội bật dậy ra giếng rửa mặt, sau đó lên lớp "tự tu".  16 giờ 30 – kẻng nghỉ học, một số được phân công tăng gia, tưới rau; số còn lại được chơi thể thao. Anh em mang bóng ra đá ở sân vận động, sau đó ra con mương thủy lợi sau trường bơi lội thoải mái.  18 giờ – kẻng cơm chiều.

36


 19 giờ – kẻng sinh hoạt tối, các lớp tập trung đọc báo, sau đó vào tự học.  21 giờ – kẻng điểm danh. Cả đại đội tập trung ra sân kiểm tra quân số; khi đại đội trưởng đọc đến tên, ai cũng phải hô to: "Có!" để báo cáo sự hiện diện của mình trong đơn vị, sau đó cán bộ nhận xét tình hình hoạt động trong ngày và giao nhiệm vụ ngày tới. Điểm danh xong, anh em làm vệ sinh cá nhân.  21 giờ 30 – kẻng đi ngủ. Một ngày của chúng tôi như thế đó! Chủ nhật, chúng tôi được phép đi chơi theo từng tổ 3 người. Anh em tôi hay rủ nhau đi phố Thắng – thị trấn của Hiệp Hòa. Men theo đường làng, chúng tôi đi qua Trại Cờ tới phố Thắng. Phố Thắng ngày đó ngắn lắm, lèo tèo vài nóc nhà và cửa hàng hợp tác xã mua bán của huyện. Tại đây, chúng tôi hay "tự" bồi dưỡng "phở không người lái" – phở chỉ có nước xương, bánh phở, hành và… không có thịt, ngày đó như thế là sướng lắm rồi. Mít, chuối, ổi ở đây rất rẻ; tụi tôi cứ mua rồi cho vào mũ cối vừa đi vừa ăn, tới doanh trại thì "sạch sẽ". Ăn ở, vệ sinh đã như vậy, còn tóc tai thì sao? Chính các thầy của chúng tôi là những ông thợ cắt tóc lành nghề "xử lý" mái tóc của chúng tôi; thầy Trực là một trong những "ông thợ" đó. Thầy nhìn khuôn mặt mỗi đứa rồi định ra kiểu đầu phù hợp. Nhưng nói chung, cả bọn sướng nhất là cắt cua hay kiểu "I-a-cốp móng lừa". Thầy đã dạy tôi và một số bạn cách cầm tông-đơ, cách cầm kéo, cách cắt tóc ra sao, tỉa thế nào… Và rồi cũng có bạn hy sinh mái đầu cho tôi thử nghiệm, nếu có bị quá tay thì nhờ thầy sửa dùm. 37


Sau này, tôi đã trở thành một tay thợ cứng của lớp, được nhiều bạn mê tín, thậm chí chỉ với kéo và lược (không cần tông-đơ) tôi cũng làm gọn và đẹp một mái đầu. Thầy Trực không chỉ cắt tóc hay, mà thầy còn viết chữ, kẻ khẩu hiệu, làm báo tường rất "xuya". Thầy chỉ bảo chúng tôi cách lấy tỷ lệ để cắt vẽ, thầy hướng dẫn các kiểu chữ điển hình như Italic, chữ nét đều…, nhiều bạn được thầy dạy sau này đã thành những tay bút trang trí cho báo tường hay kẻ vẽ khẩu hiệu như Trần Hiền, Nguyễn Lâm, Lê Trực… Ngoài ra, thầy còn là chân sút không kém, thầy đã hướng dẫn chúng tôi các chiến thuật và tính đồng đội trong thi đấu. Phan Đức Dũng, Trần Lảnh, Quang Bắc, Hoàng Quốc Toàn, Phan Nam… nhờ thầy đào tạo mà đã trở thành những cầu thủ bóng đá của lớp, của trường sau này.

Thầy Trực 38

(Ảnh trong bài „Thăm thầy Ninh Cử Trực” – 26/11/2006, Blog K4)


Cũng từ những ngày đầu, chúng tôi được thầy Ngọc Quý dạy hát tập thể các bài hát truyền thống của Quân đội như "Vì nhân dân quên mình", "Tiến bước dưới quân kỳ", "Tiến về Hà Nội"… không những thế, chúng tôi còn làm quen với tác phong vừa đi đều vừa hát những bài hát truyền thống. Những bài hát truyền thống đó đã đi với chúng tôi suốt cả cuộc đời. Các thầy của chúng tôi không chỉ giỏi trong giảng dạy, mà còn là những tay văn nghệ cừ, mỗi thầy có thể chơi ít nhất một loại nhạc cụ: thầy Hoàng Văn chơi ghi-ta và thổi cla-ri-net, thầy Đinh Khắc Tư chơi măng-đô-lin, thầy Ngọc Quý chơi vi-ô-lông, rồi thầy Thưởng có thể dựng cả một dàn hợp xướng hát tổ khúc "Tiếng hát người chiến sỹ biên thùy"… Từ những cô cậu học sinh quen với cuộc sống gia đình, được chiều chuộng, nay lại phải sống theo kỷ luật nhà binh, phải "sinh hoạt theo kẻng", nếu không có những người thầy vừa giỏi văn hóa, vừa nhiều tài lẻ như vậy (mà ở đại đội nào cũng có những người thầy như thế) hướng dẫn chúng tôi hoạt động, thì chúng tôi sẽ "phát điên" lên mất, sẽ vi phạm kỷ luật, lại lêu lổng, rồi đánh nhau… và sẽ không trở thành những người lính Cụ Hồ như ngày hôm nay. Những ngày đầu vào lính của chúng tôi như thế đó. Còn một kỷ niệm về pháp lý, không hiểu anh em có nhớ: Con dấu của trường ta từ khi ở Hà Bắc và lên Bắc Thái là "BỘ TỔNG TƯ LỆNH – TRƯỜNG VĂN HÓA – TIỂU ĐOÀN 126"? Thời gian trôi qua, chúng tôi ngày một trưởng thành, những bản chất tốt đẹp của anh bộ đội Cụ Hồ thấm dần vào máu chúng tôi. Cho đến giờ, ở lứa tuổi 50, nhưng chúng tôi luôn tự hào về nhà trường và những người thầy thân yêu của mình! 39


Đại đội trưởng đầu tiên Kiến Quốc K5

N

ăm 1965. Một sáng tháng 5, anh em tôi cùng Huỳnh Tấn Lợi ra tập trung ở Cửa Đông, được xe Tổng cục Chính trị đưa lên trường. Theo quốc lộ 1A, chiếc xe ca

chạy qua thị trấn Gia Lâm, Đông Anh, Bắc Ninh rồi rẽ vào Hiệp Hòa (Hà Bắc). Doanh trại ở trên một quả đồi rộng, có những rặng phi lao cao vút trồng hai bên sân bóng. Trưa hè, nghe gió thổi vi vu như ở biển Sầm Sơn. Lán trại của từng đại đội mái lợp cọ, vách đất trát bùn nhào với rơm, nằm ở ven sườn đồi. Đối diện là những rừng trẩu trồng lấy tinh dầu. Dọc sân bóng còn những cầu treo mà mấy tháng trước được dùng cho các sĩ quan rèn luyện đi "B". Tới Trại Hòe, vừa khoác ba-lô xuống xe, chúng tôi được một trung uý ra đón. Đây đó nhìn thấy những cái đầu húi cua, những ánh mắt không quen và nghe giọng í ới: Lính mới, chúng mày ạ! Cũng may, mấy thằng bạn cũ cùng trường: Bắc "đen", Bùi Chương, Quốc Hùng đã chạy đến hỏi han và chỉ dẫn, khiến chúng tôi xóa đi những bỡ ngỡ ban đầu. Người ra đón chúng tôi là thầy Ninh Cử Trực, đại đội trưởng. Ngay buổi chiều, thầy đã hướng dẫn chúng tôi các quy định điều lệnh trong quân đội. Nói là con nhà binh nhưng thật ra đây là lần đầu được sống trong doanh trại. Nhìn tóc tai chúng tôi đã quá lứa và "không đúng điều lệnh", ngay chiều hôm đó, thầy gọi mấy đứa lính mới ra đầu nhà "gọt". Ngồi nghiêm, nghe tiếng kéo đánh lách tách và không bị tông-đơ giật đau, chỉ một loáng là có một cái đầu đúng kiểu. Sau này, nhiều đứa còn được thầy truyền nghề và đã góp phần làm đẹp cho đời. Được phổ biến, ngoài việc học điều lệnh, đào hầm hào đề phòng máy bay Mỹ thì chúng tôi còn phải 40


ôn văn hóa. Tưởng nghỉ hè tới nơi rồi lại phải học, thật là chán! Và giờ lên lớp đầu tiên không phải ai xa lạ mà chính thầy Trực cầm phấn bước lên bục giảng. Chữ thầy rất đẹp, thầy giảng rất dễ hiểu làm chúng tôi hệ thống được ngay chương trình đã học. Đứa nào cũng phục lăn; không ngờ trong quân đội cũng có những người giáo viên giỏi như ở trường Lý Thường Kiệt của chúng tôi. Chiều chiều đến giờ thể thao, thầy cũng đánh trần, chạy ra sân với tụi tôi. Nhìn hai vai thầy nổi u, nghe bọn lính cũ kháo nhau, có cơ thể như vậy vì thầy quá quen với công việc đồng áng. Thầy đá bóng rất khéo và còn bày cho chúng tôi lối đá tập thể. Đức Dũng vốn có năng khiếu bóng đá đã mê thầy từ đó và nhận thầy là "anh nuôi". Thầy sống không hề xa cách chúng tôi, thậm chí đá bóng xong, thầy cũng xách chậu và quần áo ra mương thuỷ lợi sau doanh trại bơi lội, đùa nghịch. Trên tường có treo những khẩu hiệu cắt chữ rất đẹp, hỏi ra mới biết là sản phẩm của thầy. Vốn mê vẽ và trang trí, tôi rủ cả Trực "dzĩn", Trần Hiền, Nguyễn Lâm cắp tráp theo học thầy để trang trí báo tường đại đội. Thầy có kiến thức khá rộng về hình họa và biết nhiều kiểu chữ trang trí từ italic, gôtic, courier đến korin… Thầy có thể viết vẽ bằng phấn mầu, bút sáp, mầu nước, thậm chí cả cách trang trí xé giấy. Một buổi tối sau giờ đọc báo, nghe tiếng đàn măng-đô-lin đang chơi bài "Làng tôi" của Văn Cao văng vẳng đâu đây. Theo tiếng đàn tôi mò ra góc sân bóng thì thấy cả bọn đang ngồi quanh nghe thầy chơi đàn. Lại một sự ngạc nhiên và khâm phục đến với tôi!

(Trích „Đại đội trưởng đầu tiên” - Kiến Quốc K5, SRTKL2: 239-242)

41


Lời ru trẻ mãi, còn ta thì già Đức Dũng K5

M

ấy hôm nay tôi hay vào các báo để đọc các tin về bác Võ Văn Kiệt. Đọc tin và ảnh đám ma bạn Trực "Dĩn". Mò vào trang Öt Trỗi đọc được bài của Kiến Quốc viết

về Võ Dũng. Đúng như KQ viết, Dũng hồi đó đẹp trai lắm, nghịch ngợm và hay bắt nạt các bạn cùng lớp. Nhưng KQ viết về ngày lên trường của Dũng chưa chính xác. Dũng lên trường từ khi ở Trại Hòe, Hà Bắc chứ không phải sau này ở Đại Từ, Bắc Thái. Khi đó KQ là lớp trưởng và thầy Trực phụ trách đại đội mình rồi. Tôi nhớ vào một buổi chiều, tôi và Văn Huấn đang bắt chuồn chuồn kim, loại chuồn chuồn nhỏ hay đậu trên ngọn hoa cỏ may hay cây xấu hổ thì thấy một chiếc xe con, rồi bước ra là một phụ nữ cao và gầy cùng cô con gái nhỏ cũng gầy giống mẹ và đi sau là một bạn xách lê chiếc ba lô. Văn Huấn bảo "Lính mới", rồi thầy Trực đón cả ba người vào, sau đó thầy giới thiệu Võ Dũng, bạn là người miền Nam. Sau này mới biết người phụ nữ cao gầy đó chính là dì Bẩy Huệ vợ của bác Nguyễn Văn Linh. Tôi có nhiều kỷ niệm với

Võ Dũng lắm. Nhất là những lần

nhà trường cho học sinh về nghỉ, tôi thường lang thang với Dũng vì lúc đó bố tôi đi chiến trường, mẹ thì ở quê, thành thử tôi chỉ có một mình. Dũng bảo với tôi "Tao cũng không gia đình như mày vì má và hai em tao hy sinh mà mọi người dấu tao". Dũng ơi cũng đừng giận các cô các bác vì như tôi cũng vậy, khi bố tôi hy sinh mọi người cũng dấu vì sợ chúng mình buồn, ảnh hưởng đến học tập. Rồi tối tối hai thằng lại về nhà 16b Nguyễn Biểu ngủ, căn nhà mà Dũng nói dì Bẩy Huệ dành cho Dũng. Đến bây giờ tôi vẫn nhớ 42


như in căn phòng đó, sàn lát gỗ lim nằm mát lạnh và chiếc quạt tai voi của Liên Xô cũ. K.Quốc ơi thế mà đã 43 năm rồi đấy. Không biết trong chúng ta lâu nay có ai quay lại thăm trường cũ ở "Trại Hòe" không? Có ai còn nhớ đêm điểm danh những ngày đầu cả lớp bật cười vì trong lớp có thằng tên là Kinh Doanh - Lê Kinh Doanh, rồi Trần Khởi Nghĩa. Chẳng biết chúng nó bây giờ ở đâu?? Tôi đã một lần đi qua Phố Thắng, bây giờ khác xưa nhiều lắm. Hỏi về Trại Hòe, Trại Cờ có người biết thì bảo chẳng còn như xưa đâu, chỉ rồi anh cũng không biết đường mà vào, tốt nhất là các bác cứ ngược kêng đào là đến. Nhưng tôi đi xe hơi nên đành quay về. Trên đường về mà cứ thấy vấn vương và nhớ mãi về một thời đã qua. Tôi đi tìm lại ngày xưa Gặp mùa Phượng đỏ giữa trưa nắng hè. Bâng khuâng nhớ thủa "Trại Hòe" Một thời sống giữa bạn bè thân yêu. Ngày xưa thương lắm những chiều Tiếng ve sầu níu cánh diều tuổi thơ, Tôi mang tận đến bây giờ Cánh cò trong tiếng "Ầu ơ" của bà. "Con cò bay lả bay la"... "Ầu ơi hoa cải hoa cà"... Lời ru trẻ mãi còn ta thì già. Chúc các anh em luôn mạnh khỏe. Tôi lại ra đường đây để ủng hộ và cổ vũ cho đội Đức của tôi.

Berlin 19/6/2008 43


Trại Hòe và những kỷ niệm Hoàng Anh

N

gày 6 tháng 6 năm 1965 ngày đầu tiên lên trường thiếu sinh quân, tôi còn nhớ sáng hôm ấy, trời nắng chang chang, không khí khá oi bức. Má đưa tôi lên tầu

đi Hà Bắc, từ ga đi bộ vào, vừa qua mấy vạt đồi gặp mấy đứa trạc tuổi tôi đi ngược ra, một thằng nom đen đen, thấp hơn tôi một chút, nhác thấy đã reo “A, lính mới chúng mày ơi” sau này tôi mới biết đó là bạn Cao Tuấn Anh. Nơi tập trung lũ trẻ đó là trại Hoè, một ngọn đồi đá ong, duy nhất trên đó chỉ có một thứ cây Trẩu mà mỗi chiều vệ sinh quét lá mỏi tay, bên cạnh đồi là một con mương lớn, nơi tắm giặt mỗi chiều của tụi trẻ chúng tôi cùng đàn trâu của dân quanh đấy. Có một lần, đang bơi tôi tóm phải ngay một con rắn vằn, nó đớp vào cổ tay tôi một cái có lẽ tuổi tôi thuộc mệnh rắn may mắn nên không bị sao, hôm đó tôi được đưa vào trạm xá của trường, bác y sỹ chích cho tôi một mũi rồi lấy con dao mổ nạo chỗ rắn cắn, tôi cũng sợ hết hồn, cắn chặt răng, lũ bạn bè tới giờ vẫn còn nhắc lại chuyện này, ai cũng kinh. Những ai đã từng ở trại Hòe hồi đó chắc không thể quên tiếng kèn báo hiệu “...ai cơm cà ai cơm cá ai có đói thì về mà ăn”… Mỗi tuần nếu được ra ngoài – phải có một tấm phiếu mới được ra - bọn tôi thường kéo nhau ra phố Thắng. Gọi là phố nhưng cũng chỉ lèo tèo mấy quán bán dăm đồ lặt vặt chuối bánh, vậy mà cũng vui lắm rồi cho lũ trẻ con xa nhà. 44


Thích nhất là lúc qua trại Mít bỏ hoang, đây là một đồi toàn trồng mít, nhiều trái mít chin nứt toác thơm phức phơi trên cây, nhựa múi chảy xuống đất, chả biết có phải chim đã moi, chuột có bới trước không nhưng mặc kệ cứ bốc đại ăn chán thì thôi. Có 2 chuyện nữa đáng nhớ hồi ấy là ngay khi vào học những buổi đầu tiên khóa chúng tôi đã được các thầy phụ trách chia thành 2 khối học Nga văn và khối học Trung văn, tôi vào lớp Trung văn, khác với lớp Nga bài hát đầu tiên là “jabo ta u nas prostaia…” ngay buổi đầu chúng tôi đã tập hát bài “Vượt núi Nhị lang Sơn” mà đến giờ tôi vẫn còn nhớ lõm bõm mấy câu “… ơ jao ma ơ lan xan, ja cao o ma cao oan tran khu xu no hoang xao pien xy i i truy xu man tran can … đây bao núi non hùng tráng, suối khe không vết người qua lại, đường lên Tây tạng...”

và chuyện

thứ 2 là chúng tôi được xem bộ phim đầu tiên ở trại Hòe là phim Trung quốc “Chú lính Trương ca” không có thuyết minh. Khi máy bay Mỹ bắt đầu lảng vảng, bọn trẻ chúng tôi phải tự đào công sự, tránh bom. Tay cầm xẻng, cầm xà beng xiên vào đất đá ong dội lại muốn rớm máu. Sau hơn một tuần đường hào khá hòm hòm đã quây kín quanh mỏm đồi đơn vị ở thì chúng tôi lại được lệnh sơ tán lên tới chỗ mới, xa Trại Hòe – nơi một thời đã ghi nhiều dấu ấn tuổi thơ của mỗi chúng tôi.

45


Nhớ về Khoá 6 của tôi Nguyễn Hữu Nghị K6 Các bạn có biết vì sao khóa chúng tôi được gọi là khóa 6? Vì theo thứ tự các khóa trường Trường Trỗi thì chúng tôi xếp thứ 6. Theo thông lệ mỗi năm, chúng tôi gặp mặt nhau hai lần: vào tháng 6 và tháng 12. Tháng 12 là “tháng của lính” vì có ngày 22 tháng 12. Còn tháng 6 có hai ngày quan trọng trong cuộc đời lính chúng tôi: Đó là ngày nhập ngũ 3 tháng 6 và ngày nhập trường Văn hoá quân đội 6 tháng 6!

Ngày nhập trường

N

hớ lại đầu năm 1965, tình hình chiến sự tăng dần theo thời gian làm việc của bố mẹ chúng tôi, vì họ đều là bộ đội. Bố mẹ đi làm sớm hơn, chiều về muộn hơn và anh

em tôi cũng ít được gặp bố mẹ hơn, phải làm việc nhà nhiều hơn. Sau Tết ta, tôi tạm xa Hà Nội cùng các bạn trong khu tập thể 25 Phan Đình Phùng, đi sơ tán về nông thôn để học tiếp phần còn lại của học kỳ 2. Kết thúc năm học, khóa chúng tôi được miễn kì thi tốt nghiệp cấp I, lên thẳng lớp 5. Về Hà Nội nghỉ hè, tôi vội đi tìm cánh bạn học cũ. Vừa ra đường, gặp ngay Thắng “híp”. Bạn vui vẻ thông báo: “Tao và một số đứa sắp được đi học trường Thiếu sinh quân. Trường hay lắm, sống như bộ đội... “. Tôi hỏi: - Làm sao mà mày vào được? - Bố tao xin cho. 46


Lúc đó, tôi không còn nghĩ điều gì khác nữa vì tôi cũng muốn được đi học trường Thiếu sinh quân như các bạn, muốn trở thành bộ đội như các bạn. Tối hôm đó chờ bố đi làm về, tôi nói ngay: “Bố ơi, xin cho con đi học trường Thiếu sinh quân! Các bạn của con được đi hết rồi. Như bạn Thắng con bác Nam, bạn Hoà con bác Đôn, bạn Biên con bác Cẩn…”. Tôi kể tên một loạt các bạn để thuyết phục bố. Ông cũng chưa biết có trường này và hứa sẽ hỏi Cục Cán bộ. Suốt tuần, ngày nào tôi cũng hỏi bố về chuyện này. Cuối cùng, bố cũng nói với tôi rằng đã xin cho tôi được đi học trường Thiếu sinh quân. Sướng quá, tôi chạy đi khoe ngay với các bạn. Tất cả chúng tôi cùng chờ ngày tập trung lên trường. Ngày 6 tháng 6 năm 1965, cùng nhiều bạn bè, chúng tôi lên xe, xa Hà nội. Tất cả chúng tôi vui đùa mà không cảm nhận được rằng kể từ hôm nay chúng tôi phải rời xa vòng tay chăm sóc, dạy dỗ của bố mẹ và gia đình, vào sống trong một mái trường quân đội. Đó là ngôi nhà thân yêu của chúng tôi trong những năm tháng chống chiến tranh phá hoại miền Bắc và giải phóng miền Nam. Trại Hoè, Phố Thắng, Hà Bắc. Ở đây có sân bóng rộng mênh mông. Không gian thoáng đãng. Ôi thích quá! Chúng tôi được chia thành tiểu đội và sống cùng trong một ngôi nhà lớn. Chúng tôi phải làm quen với thời gian biểu chặt chẽ. Sáng phải thức dậy sớm tập thể dục, rồi vệ sinh cá nhân, ăn sáng và học bài. Chiều tự học rồi chơi đá bóng, tắm giặt và ăn tối. Chúng tôi quen dần với các tiếng kèn báo hiệu. Khi có kèn “Cơm cơm cà, cơm cơm muối, ai có đói thì về mà ăn!” là chúng tôi phải xếp hàng ngay ngắn, đi xuống bếp. Khi có kèn ngủ là tất cả phải lên giường, tắt đèn dầu 47


đi ngủ. Thậm chí không được nói chuyện riêng. Chúng tôi quen dần với nếp sống mới. Nỗi nhớ gia đình cũng nguôi dần. Chúng tôi vui đùa, học tập cùng nhau. Vui nhất là những đêm sáng trăng, lũ chúng tôi cùng nhau chơi trò trốn tìm, trò bắn bùm và nhiều trò trẻ con khác. Chiều chiều lại ra kênh thuỷ nông ở gần trường tập bơi… Chính tại sân bóng, chúng tôi gặp lại nhiều người quen cũ (các bạn, các anh cùng sống quanh Thành Cửa Bắc), rồi dần dần làm quen với nhiều bạn bè, anh em ở các khu tập thể quân đội khác. Trước lạ, sau quen, tất cả hoà thành một khối thống nhất. Đúng là cả trường là anh em. Năm đó chúng tôi là lớp em út của cả trường, mới 11, 12 tuổi. Cuộc sống tập thể vui vẻ cũng không át được không khí chiến tranh. Vùng quê yên tĩnh cũng đã bị khấy động bởi máy bay Mỹ. Máy bay trinh sát cách mặt đất có lẽ chỉ vài trăm mét, trông to như tấm phản, xé trời bay qua, bay lại. Các vị “tham mưu con” đoán già đoán non: Mỹ sắp đánh trường ta… Một buổi chiều, chúng tôi được lệnh thu dọn đồ đạc, lập tức di chuyển. Các thày, cô chuẩn bị nước uống, cơm nắm cho chúng tôi. Chục chiếc xe tải quân sự, bịt bùng, xếp hàng dọc ở sân bóng. Chúng tôi trèo lên xe, bắt đầu một cuộc hành quân đêm. Đi nhưng không biết đích đến. Xe cứ chạy. Chúng tôi ngủ gà ngủ gật. Cho đến mờ sáng hôm sau thì dừng. Trời se lạnh. Nhìn phía trước là núi cao, sương mù phủ kín. Không xa bãi xe đậu là con suối lớn và gốc đa cổ thụ. Hỏi ra mới biết đây là vùng núi xã An Mỹ, huyện Đại từ, tỉnh Thái Nguyên. Một cuộc sống mới lại bắt đầu…

(Trích „Nhớ về Khoá 6 của tôi” - Nguyễn Hữu Nghị K6, Blog K6) 48


Chuyện Trại Hòe Kiến Quốc K5

H

ọc tới kì 2 năm học lớp 5 (tháng 5/1965) đuợc gọi lên D126, truờng VHQĐ ở Hà Bắc. Sướng! Ở nhà, bạn bè cũng phải đi sơ tán. Vì từng là lớp truởng,

đội trưởng lớp 5I của cô Nga mà tôi vẫn giữ liên lạc với Thái Dũng (bạn thân cùng lớp) và cả bọn con gái (cùng BCH đội). Lớp tôi có các bạn gái: Nở, Trung, Bình, Hiếu… ở quanh đường Trần Phú, Điện Biên. Chúng nó đều viết thư cho tôi. Khi máy bay Mỹ ngày nào cũng bay qua trên đầu và ném bom vào khu công nghiệp hóa chất Bắc Giang, nhà truờng bắt các lớp phải sơ tán xa doanh trại, vào mấy làng phía đông bắc của Trại Hòe (nay quên mất tên, trên bản đồ điện tử của anh Tâm gửi trên Chuyên san Trại Hòe, Trại Cờ là phía đông bắc), xa quãng 12 km. Sáng sáng các lớp đeo ba lô cùng nồi niêu, xoong chảo, gạo nước đi từ sớm. Cả ngày nghỉ trong nhà dân, mang bài vở ra ôn tập. Trưa, ra đình làng hay bụi tre ăn cơm tập thể; chiều 4g lại hành quân về doanh trại. Thế quái nào, khi sơ tán vào làng, bọn cùng lớp tự "cho quyền" mở ba-lô của mọi người để kiểm tra. Chúng phát hiện trong ba-lô tôi có thư của bọn con gái cùng lớp gửi lên. Vậy là có cớ bêu riếu. Mẹ, nó trêu tôi quyết liệt. Mình nhóc con chẳng biết thanh minh thanh nga thế nào. Đành kéo ra bụi tre khóc. Kỉ niệm đó cũng khó quên!

49


Nhớ về Trại Hòe Đức Dũng K5 Có dịp về phố Thắng

Có lẽ đây lần cuối

Hỏi thăm đến Trại Hòe

Tôi thăm lại Trại Hòe

Bâng khuâng buồn... Muốn khóc

Tiễn tôi chiều buổi ấy

Trường cũ giờ… Vắng hoe

Cả một trời... Tiếng ve.

Chỉ còn vài cây Trẩu

Tiếng ve kêu hàng Trẩu

Lơ thơ mấy bụi tre

Râm ran cả bụi tre

Một vài đôi sáo nhỏ

Tiếng ve gọi chiều hè

Ngơ ngác giữa nắng hè.

Nhắc bạn bè thủa ấy Đừng quên nhé... TRẠI HÕE.

Có lẽ đây lần cuối Về thăm lại Trại Hòe Thăm một thời xa cũ Trẻ thơ giữa bạn bè.



Berlin 30/4/2009 Đức Dũng



Nguyễn Hồng Hải K4: Bữa nay đọc bài thơ "Nhớ Trại Hòe" của mày, buồn quá. Chỉ c những thằng đã ở Trại Hòe mới đồng cảm được với tâm trạng của mày. Tao nhớ lúc đ chỉ c K3, K4 & K5, mỗi K loe hoe vài chục mạng nên gần như biết nhau hết. Tao còn nhớ như in ngày đầu tiên được nếm mùi ăn ở như người lính mà khi còn ở với gia đình mình không hình dung ra được. Tuy ở Trại Hòe một thời gian rất ngắn (c vài tháng) nhưng tao c nhiều kỷ niệm & n là cái mốc đánh dấu rất quan trọng trong cuộc đời của tao. 50


Tắm mương

Nằm ở dưới thấp cách xa doanh trại... Đằng sau bếp và nhà ăn có một dòng nông giang (con mương, kênh thủy nông) lòng 3-4 m, nước khá trong… Mấy cái lỗ cống to đùng và nước chảy rất mạnh là nơi chúng ta thường tắm vào sau giờ binh thao… (NgC, MK)

(Ảnh : Bùi Thế Tâm, chụp 8 giờ, ngày 6/12/2008)

Cảnh Cống Bốn Cửa... Đi thẳng theo đường đê là vào xóm Trại Mễ, qua cầu sang trái là vào khu trại mới của làng (Ngọc Tân trước kia là làng Trại Hòe, gồm ba xóm Ba Trại, Tân Chung, Trại Mễ). Con sông này dẫn nước từ sông Cầu trên Thái Nguyên về làng. Ngày xưa mỗi buổi trưa hè trẻ con trong làng thường ra sông tắm, nhưng ngày nay nước không còn sạch nữa, không còn ai tắm. Đây là nơi dân làng và bộ đội đóng ở Doanh trại bên cạnh thường xuyên tắm. Khi nước đầy ở gần miệng cống nước rất xoáy, tắm 51


khá nguy hiểm. Hay nhất là trò cùng nhau chui qua cống, đã từng có lần một anh bộ đội bị chết vì mắc ở giữa công khi chui. Bây giờ (2011) nước ô nhiễm không tắm được. (Bùi Thế Tâm) Minh Kính K4: Trại Hòe là một quả đồi thấp và rộng, không thấy trồng Hòe mà toàn là Trẩu và đất sỏi đá ong. Trại Hòe là doanh trại của Trường Văn h a Quân đội chuyển từ Kiến An lên. Con mương nằm ở dưới thấp cách xa doanh trại. Hình con mương trong ảnh thấy giống lắm nhưng quang cảnh xung quanh thì đã khác nên kh nhận. Mấy cái lỗ cống to đùng và nước chảy rất mạnh là nơi chúng ta thường tắm vào sau giờ binh thao. Nguyễn Cương K3: Thời gian nghỉ không đi chơi thì ra nông giang tắm, nước trên miền trung du khá trong và mát, dòng nông giang không sâu chỉ độ ngang ngực nhưng thế là bơi được rồi. Nhưng dòng nông giang này c một đoạn ống ngầm để đ ng hoặc mở nước cho dòng nông giang thấp hơn một chút, thế là c sáng kiến lặn qua ống ngầm sang bên kia. Theo trí nhớ của mình thì Phi Hùng là người đầu tiên lặn qua ống ngầm, sau đ anh em theo cũng lặn qua được. Trần Hà Đông K3: … Hồi ở Trại Hòe, con mương là nơi để lại nhiều kỉ niệm. Chiều chiều sau giờ học, bọn tôi thường ra mương tắm và đùa nghịch . Tôi thường thích thú ngắm nhìn bọn Phi Hùng, Châu "lé", Cảnh Nghĩa ... bơi lội rất giỏi. Thằng Đồng Hiền thấy tôi cứ loanh quanh trên bờ hỏi sao không xuống, tôi bảo không biết bơi, thế là n đẩy mạnh 1 cái, tôi mặc nguyên quần áo rớt xuống mương, uống mất mấy ngụm nước. Bọn thằng Phi xúm vào đẩy tôi lên bờ, ... thế rồi vài bữa sau tôi bơi được ... rồi cũng lặn hụp như "ai". Dạo đ đ i lắm, nhưng c 1 chiều, thằng nào cũng thấy "ghê ghê" không sao nuốt nổi lưng cơm. Số là ông bạn Kim n i 52


rằng nhìn thấy cái xác thằng "hủi" cụt hết ng n tay ng n chân trôi lững lờ trên dòng kênh, nơi chúng tôi vừa lặn ngụp hồi chiều... nghe rõ là kinh! Phải rất lâu sau, bằng biện pháp "nghiệp vụ", Thắng "mắt xanh" mới phát hiện ra là Chu Kim bốc phét, báo hại anh em... Nguyễn Văn Tuấn K4: Hồi mới lên Trại Hoè, đi theo mấy thằng ra con kênh dẫn nước tắm, không biết bơi nhưng thấy chúng n nhảy xuống nước mình cũng nhảy theo, không biết bơi bị n cuốn vào dòng xoáy (chỗ cửa cống) mấy vòng, uống bao nhiêu nước tưởng chết, may bám được vào chân một thằng đang bám ở bờ mương, nhất thiết không buông và leo được lên bờ ôm quần áo biến luôn và chừa hẳn con kênh từ đ . Cũng chẳng biết cứu tinh của mình lúc đ là thằng nào nữa, n tốt để cho mình bám vào chân n . Giá như biết được tên nào thì bây giờ cũng mang thủ lợn đến tạ ơn. Lê Tự Thành K4: Cái mương thì chắc thằng Thủy nhớ nhất. N c biệt danh "Thủy bều" là từ đ . Thấy n bị dìm mình cũng... bất bình nhưng hèn quá chẳng dám "xả thân". Minh Kính K4: Cái cống ở mương mà ta hay tắm ở Trại Hòe không nguy hiểm đến mức ghê gớm đâu, MK đã nhắm mắt nín thở và chui sang bên kia một lần rồi. (Phải là người chuột nhắt mới chui được. Những bạn to đùng c thể mắc kẹt). Phạm V H ng K8: Hồi đ , khi được lên thăm các anh, ấn tượng lớn nhất là dòng nông giang này, vừa sạch vừa mát lại không sâu, em cũng đã được tắm ở đ một lần, rất đã. Em Võ. 53


Cảm giác đầu tiên

Trần Hà Đông K3: Nhìn thấy Dương Thanh, tui lại nhớ 1 thủa Trại Hòe. Khoảng (23+24/3/1965), nh m đầu tiên của lớp ta lên trại. Lần đầu tiên sống xa gia đình, ăn ở tập thể thật là vui và biết bao kỉ niệm. Không hiểu sao, chắc là bắt đầu tuổi lớn, nên cảm giác đầu tiên còn đọng lại là... "đ i". Chúng tôi lùng sục tất cả những thứ c thể ăn được: dái mít, dứa dại... và chủ nhật tôi thường hay cùng Lữ Thái đi m t khoai lang - đi xa lắm, hì hụi suốt buổi cũng chỉ được vài vốc, những củ khoai bé tí chỉ bằng ng n tay -... , nhưng lúc đ , cũng thật giá trị và hấp dẫn. Ngày ấy cơm và thức ăn thật ít, tôi cùng TL, Kỳ "cỗ" ăn chung: đổ tất cả cơm và thức ăn vào 1 cái xoong, 3 đứa 3 cái thìa cùng xúc... Hồi ấy c lẽ "cánh" TCCT là nổi trội nhất. Bọn 16 Lí Nam Đế (DT, Bắc "c c", Chính "vện"...) trong chơi đùa thường lấn áp Thắng "mắt xanh"... (gần đây Thắng mới "nghĩa lộ" là hồi đ n trả thù bằng cách đái vào chăn màn của bọn này... ) Còn chuyện học cũng buồn cười. Phong trào thi đua giữa các tiểu đội ăn thua tới mức Linh "ếch" không được điểm giỏi kh c như mất cắp, không ai dỗ được. Chuyện còn nhiều mong anh em "bồi đắp". Nguyễn Tuấn Linh K3: Lên Trại Hòe, vừa xuống xe cảm giác đầu tiên thấy chung quanh 'trống trải'. Tiếp theo là 'đơn độc', chẳng thấy ai gần gũi cả, tất cả đều lạ hoắc, từ đây mọi việc đều phải 'tự mình', c gì kh không biết hỏi ai. Lần đầu tiên tự giặt lấy quần áo và phải kéo nước từ 54


giếng lên, được nửa gầu nước thì đỏ quạch vì đất sỏi thành giếng rơi vào... Lấy bát đũa đi ăn cơm phải nhận ra cái nào 'của mình', lấy khăn mặt đi tắm phải nhận ra cái 'của mình', lấy quần áo ngoài dây phơi cũng phải nhận ra cái 'của mình'… 'của mình' … 'của mình'… Ở nhà đâu c phải như vậy. Những ngày đầu tiên sống tập thể... chán lắm, chỉ muốn về nhà.

 55


Nuôi chim

Nguyễn Cương K3: … Một lần ra phố Thắng cùng Quốc Chính, Trung Việt và Hà Đông, đi qua Trại Cờ thấy một con chim (hình như là con cà cưỡng họ nhà sáo) bị mắc lưới tơ của một con nhện to chân vằn đen vằn vàng ở trong bụi tre già (con nhện này quả là đặc biệt nếu hồi ấy mà bắt cả con nhện thì bây giờ c một tiêu bản động vật quí hiếm rồi). Quốc Chính vào bắt đưa cho Trung Việt, về Trung Việt nuôi được một thời gian thả ra thì n đi mất… Đức Dũng K5: Tôi không nhớ lắm về tài đánh đàn của Chí Hòa. Nhưng tôi còn nhớ mãi Chí Hòa c tay nuôi chim và gà. Những ngày đầu ở Trại Hòe, Chí Hòa không hiểu bắt được ở đâu một con chim còn non lắm c lẽ chưa vỡ bọng đái. Chí Hòa đặt tên là con "Cà Cưỡng". Dưới sự chăm s c của Chí Hòa con chim lớn nhanh lắm, mà không hiểu CH cho chim ăn gì mà n chỉ loanh quanh mấy ngôi nhà của lớp. Thế rồi c một buổi trưa Minh Sơn "Sơn lợn" trốn ngủ trưa để đi lấy trộm mít đằng sau khu nhà của K4, mà sau dãy nhà K4 là mấy cái chuồng xí và ở đ Sơn bắt gặp con Cà Cưỡng đang ăn giòi của nhà xí. Thế là con Cà Cưỡng bị xua đuổi và rồi n cũng bay mất. Tôi không biết loại chim ấy tên gì nhưng cả lớp gọi là con Cà Cưỡng. Rồi ngày ở Hưng H a Chí Hòa lại nuôi một con gà đặt tên là Trụi vì n ít lông lắm và n cũng cứ bám chân Chí Hòa, đi đâu cũng theo. Mà c lúc CH còn cho n ăn thịt. Cái tài là Chí Hòa luôn làm cho con Cà Cưỡng và con Trụi luôn quí mến và đi theo. 56


Quậy



Hồ Quý Kỳ K4: Lính Trại Hòe n i chung là hiền. Suốt mấy tháng chỉ c trận thượng đài giữa Phước Thắng và Thuận khỉ, sau đ Mai Sinh nhảy vào can thiệp. Lên Trại Cau lũ ma mới Quyết Thắng, Đại Cương, Thanh rắn, Khanh xoăn quậy dữ.

một anh như mới

... /K4 : … Tôi lên trường từ 13/8/65 lúc đ không biết thầy HT, chỉ biết Chính uỷ Bùi Khắc Quỳnh thôi, tôi lên ngày đ thì đụng độ với Võ Dũng và anh em K5, ngày sau thì tối kéo xuống K5 theo bãi b ng, Mạnh mực bị ph ng 1 cây nứa trúng vô bờ trên mắt phải, chảy nhiều máu, phải lên bệnh xá trường băng cầm máu, sáng sau Chính uỷ BKQ trực tiếp hỏi ai chủ mưu nhưng chẳng ai biết cả, riêng Võ Dũng thì biết ai rồi... Huỳnh Xuân Thủy K4: TQ ơi, c phải Trương Liên K5 không? Cùng hội với Võ Dũng, Đức Dũng? Ông hỏi xem c đúng thế không vì hồi mới vô trường, tôi gặp mấy ông này đầu tiên nên không quên được, vì đ là lần đầu tiên ở TT c xảy ra va chạm, mà tối đ Mạnh Mực bị dính đòn tại Trại Hòe ngày 13/8/1965! Bây giờ già rồi nhắc để nhớ nhau thôi! Cho TB gửi lời thăm tất cả nhé!

57


Tên chính thức

Nguyễn Hữu Thành K4: Tôi không biết thầy Điền, vì nhập học vào tháng 9/65. N i về Trường, tôi cho rằng c lịch sử lâu dài trước 1965 và sau 1970, liên tục là Trường VHQĐ. Chỉ riêng thời gian 65-70 trường nhận học sinh là con em cán bộ vì: đ là thời gian tập trung sức cho chiến trường, không c chế độ đi học khi Mỹ đã trực tiếp tham chiến, giữ bộ khung Trường, bảo toàn thế hệ sau cho đấu tranh lâu dài. Trường mang tên Trường VHQĐ vì bản chất, mang thêm tên Nguyễn Văn Trỗi theo truyền thống ngành giáo dục. Sau giai đoạn 65-70 trường lại là VHQĐ. Tuy nhiên vì ngay trước đ Trường là "Nguyễn Văn Trỗi" nên c một số bộ đội đi học lại nhầm là mình học trường VHQĐ Ng.Văn Trỗi. Sau khi thầy DH.Tuấn về nước, Trường vẫn c thầy Hiệu trưởng chứ nhỉ? Hay là chỉ c 2 phân hiệu mà không c "hiệu"? Minh Kính K4: E126 là phiên hiệu của Trường văn h a quân đội c từ thời ở Kiến An. Nhà trường vẫn dùng dấu của E126 cho tới khi đã mang tên Nguyễn Văn Trỗi. Khi còn ở Trại Hòe, tháng 8 năm 1965 chưa c tên NVT, lời thề lúc đ mở đầu là: "Chúng tôi thiếu sinh quân Trần Quốc Toản, xin thề dưới lá cờ vinh quang của Tổ quốc... ". Do một lý do nào đó mà đổi thành NVT. Hồ Bá Đạt K8: Tiền thân của trường Trỗi là Trường Văn h a Bộ quốc phòng, trường ở thành Lạng Sơn. Bồi dưỡng văn h a & đào tạo nguồn cho quân đội. C một giai đoạn chuyển sang dạy các 58


con em bộ đội. Đ là giai đoạn trường mang tên anh Trỗi. Vào cuối của giai đoạn này, trường c bổ túc văn h a cho cán bộ, chiến sĩ lúc trường ở Trung Hà (Hà Tây). C thể mọi người nhận mình là học trường Trỗi ở đây, như thế cũng không sai! Sau này lại trở về với chức năng cũ là dạy văn h a, ngoại ngữ cho bộ đội. Nguyễn Hữu Thành K4: Lần đầu tiên tôi được biết tới hiệu trưởng DHT và chính ủy BKQ là một buổi tối ở Trại Cau, hình như đã khai giảng. Còn được phổ biến gọi theo "mật danh" là bác Hưng và bác Khắc. ... /K4 : HT n i không sai, tên hai Cụ gọi là Hưng và Khắc, khi ký Giấy khen hoặc Kỷ luật mới dùng tên chính, còn đúng là khi mới lên Đại Từ thì HT mới Thiếu tá thôi. Nhớ ngày mới lên trường ô. DMĐức chọc ong tôi bị đốt sưng cả mặt, ở Trại Hoè đến tối 30/8 thì 10 giờ đêm nghe báo động, xe ô tô ùn ùn chạy vào, nghe phổ biến sáng mai c thể địch oanh tạc thế là leo lên xe chạy cả đêm, qua phà Lục Ngạn còn phải tự kéo bằng dây song, vì không c Ca-nô. Xe chạy lạc lên Lạng Sơn nên khi lên đến Đại Từ đã sáng rồi! C lẽ không cuộc Hành quân nào vội vã đến thế, chỉ sau 10 phút là xuất phát, c đứa quên cả chiếu... ... /K4 : … Hồi đ ai biết quốc lộ nào, lên xe là chạy, khi đến phà dừng lại, cả đoàn xe dài cả trăm chiếc, qua phà lái xe chạy nhanh chứ sợ máy bay nên mới xảy ra cơ sự chớ! Xe chạy giữa rừng, toàn cây cổ thụ, mà lại đường đất nữa... lái xe ngờ ngợ đi lạc mới dừng lại hỏi 1 quán bên đường, té ra đi lên Lạng Sơn, mới quay đầu xe, chạy mãi sáng ra mới tới Đại Từ thì cả đoàn đã đến nơi đủ rồi... hồi đ đi thế là giỏi rồi, chứ lên đến Lạng Sơn mà mới quay lại chắc chú lái xe bị kiểm điểm mất! 59


Nhớ…

Trần Hà Đông K3: Những tháng năm xa xưa ấy, biết bao điều đáng kể. Ngày ấy, đ i, đ i & đ i. Một CN, c "hào" trong túi, Mắt xanh rủ Trung "lụt" ra phố Thắng ăn phở. 20 cây số vừa đi vừa về, lại chỉ c phở "ko người lái" thôi nhưng nghĩ tới no bụng là 2 thằng hăm hở quên hết mệt mỏi. Khi đi là vậy, nhưng lúc về, đường xa với cái nắng trung du n hành hạ, Trung "lụt" mặt mày méo xệch, ko khác gì 1 tên ăn mày 8 túi. Vậy mà trời cũng thương, 2 thằng vớ được xe ông Lê Quang Đạo lên thăm con cho đi nhờ. Vốn c quen biết, Mắt xanh chuyện trò thật ngoan ngoãn lễ phép (đúng bản chất thằng ném đá dấu tay). Còn Trung "lụt", bụng no, gi mát... tự nhiên nổi hứng, muốn "vuốt râu hùm" nên mặt tỉnh khô, lễ phép xin hỏi 1 câu, rằng: "Bác công tác ở TCCT thì chắc bác biết đ/c thiếu tướng Nguyễn Văn Trung chứ ?". Quá bất ngờ trước câu hỏi của ông bạn "mất dạy", lại sẵn bản tính "thiên nhiên", Mắt xanh cười như chưa bao giờ được cười, không sao hãm lại được. Mọi người chắc hình dung ra thằng Thắng vừa cười vừa lấm lét nhìn ông Đạo như thế nào rùi!... c khác gì đang b c "mẽ" thằng bạn đồng hành. Vốn là 1 chính ủy lão luyện, lại đông con trai nên ông LQD đi guốc trong bụng mấy thằng "lỏi". Hơn nữa, biết đâu ông lại thích thú với cái "chí trai" của chú nh c, nên vị tướng chỉ cười nhẹ mà rằng: c , bác c biết ông thiếu tướng NVT nọ. Bác biết từ khi n còn nhỏ, là lính của trung tá Bùi Khắc Quỳnh cơ!"... Thật là hú vía. Mấy chục năm sau, khi kể lại câu chuyện này, Mắt xanh bình 1 câu mà Trung "lụt" ngối đ cùng nghe, 60


không biết nên cười hay nên kh c: "tao chưa thấy câu hỏi nào vừa khờ khạo ngu ngốc lại vừa buồn cười như câu hỏi của thằng Trung... ". Vốn là thằng hay lo xa, Thắng mắt xanh sợ ngộ nhỡ ông LQD nối cáu lên, đuối 2 thằng xuống xe thì... khổ. Rất may điều đ đã không xảy ra. Nặc danh Trại Hoè hồi đ c một đơn vị bộ đội đang luyện tập chuẩn bị đi B nên được ăn tiêu chuẩn khá cao, nhiều đứa quen biết thế nào mà được các chú cho "đánh gỡ" về kể cho cả lũ nghe mà thèm. Thắng k5: Trại Hoè toàn cây Trẩu, một ít cây phi lao cao vút, chả c gì ăn được. Mỗi lần Thắng ra phố Thắng, phải đi qua trại Cờ mà thèm vì trong khuôn viên của trại c rất nhiều Mít và Dứa. Nguyễn Hồng Hải K4: Hồi đ nếu TCCC sáng suốt hơn thì nên cho tụi mình ở Trại Cờ. Trại Cờ nhiều cây rất mát, nhiều mít nhiều ổi, AE ta tha hồ chén, lại gần Phố Thắng ta c thể ra đ ăn quà lai rai dễ dàng.

 61


Phố Thắng ngày ấy Nguyễn Thanh Khiết

N

hà tôi cách Thắng 8 km, vậy mà mãi đến năm 1962 khi học lên cấp 3 tôi mới thật sự biết Phố Thắng. Nửa thế kỷ rồi mà ấn tượng về Phố Thắng ngày ấy vẫn như

còn nguyên vẹn trong tôi.

Ảnh Bùi Thế Tâm Ở những vùng quê thuần nông như Hiệp Hòa mình chỉ cần có dăm bẩy nhà ở ven đường mở cửa bán hàng thì đoạn đường đó đã có thể được gọi là Phố rồi. Hồi kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954) dân Nam phần (Bắc Ninh) chạy tản cư lên Hiệp Hòa rất đông, họ chẳng có ruộng nương vườn bãi nên hầu như tất cả đều 62


sống bằng chạy chợ. Ấy vậy là xuất hiện cả loạt phố như phố Bầu, phố Hoa, phố Lữ… Cái tên Phố Thắng có lẽ cũng xuất hiện vào giai đoạn này; trước đây người ta chỉ gọi Thắng là Huyện, vì Thắng là huyện lỵ có huyện đường. Tuy lớn hơn những “phố” lẻ nhưng phố Thắng thời tôi biết rất nhỏ bé. Nơi gọi là phố chỉ là đoạn đường từ bưu điện ngược lên đến hết chợ Thắng cũ. Chỗ đông vui hơn là đầu phố dưới, có ngã 5 (hồi đó chưa có ông tượng) và đầu phố trên có chợ và cửa hàng Bách hóa. Nghe nói trước đó phố Thắng đông đúc và sầm uất hơn, phố kéo lên tận Bãi Má rẽ sang Trại Cờ. Hòa bình lập lại dân tản cư hồi hương gần hết, lại có chính sách cải tạo tư thương, những người buôn bán phải vào hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã thủ công nên phố xá trở nên sơ xác, nửa như phố nửa như làng, ngày mùa người ta còn phơi cả rơm rạ ra đường nữa. Đáng kể ở đầu phố dưới là cửa hàng tổng hợp ăn uống, nơi bây giờ là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, dân ta gọi tắt là tổng hợp. Gọi thế cho có vẻ phong phú chứ ở đấy chỉ bán phở, bán chè, đôi khi có bán cả nước giải khát siro, mấy gian nhà cấp bốn khói than đen nhẻm khách ăn phải ngồi cả ra ngoài sân, nơi có hai cây phượng xum xuê. Khi đó chỉ có hai ba hào một bát phở mậu dịch nhưng có tiền ăn phở là sang rồi, chẳng thế có người làng tôi lần nào lên Thắng về cũng say sưa kể chuyện vào tổng hợp ăn phở, khối người nghi ngờ ngữ ấy nói phét. Loại học trò nghèo như bọn tôi mỗi lần đi qua “tổng hợp” có đưa mắt vào cũng chỉ là tò mò ngắm mấy cô nhân viên bán hàng mặc tạp dề trắng vênh vang đi lại; chẳng khác gì các bạn trẻ bây giờ say mê ngắm các „sao” trên sàn diễn. Có thể nói tất cả ngành dịch vụ ăn uống của huyện ta thời ấy chỉ có cửa hàng ăn uống này. Vì lương

63


thực, thực phẩm là thứ mà nhà nước quản lý chặt nên những hàng phở Chiếu, phở Cộng đồng ở đối diện “tổng hợp”, một thời nổi tiếng cả khu 3 cũng dẹp bỏ hết, hàng bún, hàng bánh làm từ gạo đều không còn được bán. Nhà bưu điện xưa vẫn ở vị trí bây giờ, nó chỉ là ba gian nhà ngói móc núp dưới tán lá cây gạo tây, xung quang có hàng rào nứa, đầu nhà nhô lên đôi cột điện bằng sắt cũ kỹ bám vào rất nhiều xà xứ, dây thép. Thi thoảng mới thấy bóng người vào thả lá thư, mua con tem hoặc đánh bức điện, phần lớn là bộ đội từ doanh trại xuống. Cửa hàng bách hóa ở đầu trên của phố Thắng là cửa hàng mậu dịch to nhất huyện, lúc nào cũng tấp nập người ra vào. Hình như người dân đã lên đến Thắng thì đều phải đảo qua của hàng bách hóa cũng giống như về đến Hà nội phải ghé Bách hóa tổng hợp vậy (nay là Tràng tiền Plaza). Có lẽ ngắm hàng hóa cũng là một thú vui (giống cái thú shoping bây giờ), chứ ngày ấy bách hóa toàn hàng mẫu có gì mua được đâu, hàng hóa thiết yếu đều đã phân phối về xã được bán theo sổ ở cửa hàng cung tiêu rồi. Lớp người ở tuổi chúng tôi rất quen với dòng chữ: “bán phân phối”; “bán tự do” được ghi trên những mảnh bìa đặt cạnh hàng hóa trong tủ hàng mẫu của mậu dịch. Bây giờ nghĩ lại những dòng chữ ấy mới chợt nhận ra rằng: Hóa ra có những câu chữ mang tính thời đại thật sự. Không có từ ngữ nào đắt giá hơn cặp từ ấy để ám chỉ cả một giai đoạn lịch sử chúng ta xây dựng nền kinh tế kế hoạch tập trung. Nếu từ điển lịch sử kinh tế không ghi lại và giải thích kỹ, tôi dám chắc người Việt ta các thế hệ sau chúng tôi sẽ không bao giờ hiểu được và dùng đến cặp từ tưởng như tối 64

nghĩa này.


Tôi trọ học ở Dinh Hương nhưng thỉnh thoảng mấy anh em cũng rủ nhau lên Bách hóa. Lần nào lên chúng tôi cũng ngắm nghía, bình phẩm cái xe đạp favorit của Tiệp màu đỏ được dựng trang trọng trong cái tủ kính bày cao ngang mặt người ngay cửa ra vào của cửa hàng. Nếu tôi không nhớ nhầm thì giá của nó hơn 500 đồng với điều kiện người mua phải có phiếu bán cho mậu dịch hai tạ lợn. Nếu tính cả giá chênh lệch bán lợn giá rẻ cho mậu dịch thì giá của cái xe đạp khoảng 800 đồng. Nhớ rằng lúc đó lương của một kỹ sư chỉ là 65 đồng mỗi tháng. Tôi muốn kể ra chi tiết này để các bạn trẻ có thể so sánh hình dung được đôi điều về đời sống kinh tế lúc bấy giờ. Dưới cửa hàng Bách hóa một đoạn là Hiệu sách nhân dân, sách chẳng có nhiều nhưng lúc nào cũng đông khách, toàn bộ đội và học sinh. Thời ấy chúng tôi thích đọc, phải chăng phương tiện giải trí quá nghèo nàn chỉ còn biết đọc sách, mà đã đọc rồi thì nghiện. Tôi trọ học ở nhà cậu nên ngoài việc góp gạo cho mợ, tôi không phải nộp tiền thức ăn, thỉnh thoảng mẹ tôi cho đồng bạc, tôi toàn dành dụm để mua sách. Tôi đã mua “Thép đã tôi thế đấy”, “Bài ca tuổi trẻ”, “Sóng gầm”, “Ba mươi năm đời ta có Đảng”… bằng những đồng tiền ít ỏi đó. Đọc xong trao đổi sách với bạn, thế là được đọc rất nhiều. Những người bạn sách của tôi hầu hết ở phố Thắng, họ có tiền, có thời gian và cũng nghiện sách. Chơi với các bạn ở phố, tôi còn được tiếp cận với radio, máy hát (máy quay đĩa cổ chạy bằng dây cót); với một trai làng như tôi những thứ đó thật xa lạ. Các bạn trẻ ngày nay hẳn không tin được, nhưng thời ấy nghe đài là một sự hưởng thụ sang trọng đấy, chẳng thế người ta đi ra đường cũng đeo theo cái đài, đi đến đâu cái đài nheo nhéo đến đó, người đeo đài đi xe đạp là người

65


khá giả rồi. Ông chủ hiệu may lớn nhất phố Thắng bấy giờ là bạn thân của cậu tôi, lần nào xuống Ba Mô chơi với cậu cũng đeo cái đài Philips to đùng, tự hào lắm, cái đài ấy tuy tốn pin (6 quả pin con thỏ - 9 von) nhưng được cái nói to. Ông ấy mà xuống vào buổi trưa có chương trình hát chèo thì cả xóm chạy sang nghe. Những năm đó có quan niệm rằng buôn bán chẳng giúp ích gì, không tạo ra sản phẩm cho xã hội, vì thế tư thương trở thành đối tượng cần được cải tạo, các cửa hàng buôn bán hàng hóa phải đóng cửa. Dọc theo phố Thắng chỉ còn các cửa hàng được coi là cơ sở sản xuất như: may vá, sửa xe đạp, cắt tóc, làm dép lốp, làm mũ, hàn thiếc, nhuộm quần áo… được mở cửa hành nghề; các cửa hàng buôn bán có lẽ chỉ còn hàng nước. Rồi những người sản xuất cũng vào các hợp tác và thế là phố Thắng xuất hiện hợp tác xã May mặc, hợp tác xã Nhuộm, hợp tác xã cắt tóc, hợp tác xã chụp ảnh… và thành công nhất là hợp tác xã xe bò Liên minh, có trụ sở ở gần ngã tư đường lên doanh trại. Cái xe bò thời đó có bánh gỗ to đùng, bít đai sắt, do hợp tác tự đóng lấy. Vừa qua đến nghỉ ở một resort tôi thấy họ để một cái xe bò bánh gỗ còn nguyên vẹn trên thảm cỏ nhung làm vật trang trí. Tôi tò mò đến tận nơi xem có đúng là hiện vật thật không, đứa cháu tôi đã học lớp 4 hỏi thản nhiên: “Ông ơi đây là cái gì?” Giải thích cho cháu xong tôi nói với bố nó: đã có lúc mười mấy cái xe bò như thế này là tất cả phương tiện vận tải kinh tế ở huyện Hiệp Hòa mình đấy con ạ! Công việc quanh năm của hợp tác xe bò là chở hàng mậu dịch từ Huyện về các xã: vải vóc, giấy vở, dầu muối, phân đạm, thuốc sâu... Tiền công chở theo giá quy định của Nhà nước chẳng đáng bao nhiêu, nhưng cái được là được quan hệ thân tình với các cửa 66

hàng, với mậu dịch viên. Mỗi chuyến đi xã, các bác tài xe bò lại


xin được mua thứ này thứ khác, hoặc “hàng vỡ hàng hỏng”, thời buổi gạo châu củi quế như thế mua được hàng phân phối là tươm rồi. Thế nên cái chân xã viên hợp tác xã xe bò hóa ra quý. Cậu tôi trước cải tạo tư thương có hai xe ngựa chở khách Thắng – Sen Hồ, lúc vận động vào hợp tác xe bò không thèm vào, sau cứ tiếc mãi. Đường phố Thắng khi ấy là đường đất có rải lớp sỏi mỏng, người ở quê quen gọi là “đường cấp phối”. Mỗi khi trời mưa nước đọng từng vũng, lại được bánh gỗ xe bò cày nát. Cũng may là thời đó hầu như chỉ có xe đạp, cả ngày mới có một vài chiếc ô tô quân sự đi qua nên đường phố rộng nhưng luôn hình thành lối mòn ngoằn ngoèo của vết xe đạp tránh các vũng nước giữa đường. Phố Thắng ở đỉnh đồi nên rãnh thoát nước ven đường thường bị nước mưa sỗi mòn sâu hoắm trơ ra lớp đất đỏ trai lỳ nhẵn thín. Dãy nhà mặt phố phần nhiều là nhà cấp 4 liền kề, mặt tiền rộng rãi, cửa nhà nào cũng có cây phượng hoặc cây gạo tây xanh ngắt. Tôi rất thích ngắm phố sau mưa rào, đường và cây cối được gột rửa sạch sẽ, cây như thấp xuống che phủ những mái ngói rêu mốc, yên ả và thanh bình đến nao lòng. Tôi rất hay liên tưởng phố Thắng với những khu phố kháng chiến được nhắc tới trong Ký sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng; mà còn lãng mạn hơn thế ở chỗ những người dân sinh sống nơi đây đa số là người Bắc Ninh, người dân của một vùng đất văn hóa đặc biệt, ai cũng sắc sảo giỏi giang, đẹp người, đẹp nết.

Nguồn: Blog Bùi Thế Tâm - Hiệp Hòa

67


Hiệu may làng Trại Hòe Bùi Thế Tâm

T

ừ năm 1990 trở về trước ở gần đình Trại Hòe có một hiệu may chuyên phục vụ chữa quần áo cho bộ đội: vá quần áo, bích kê đầu gối và khủy tay, bích kê cổ áo, bích kê

tất rách bộ đội toàn bộ phần bàn chân, từ quần áo bộ đội rộng sửa thành hẹp cho vừa người, sửa quần đùi bộ đội rộng thùng thình thành kiểu ống ngắn sát đùi, đổi ống quần từ đằng trước sang đằng sau khi bị rách đầu gối, từ quần đùi và áo may ô bộ đội mới lĩnh chuyển thành áo sơ mi bộ đội mới. Những kiểu sửa như vậy chỉ có ở thời kỳ vải phân phối và cuộc sống quá khó khăn, ngày nay không còn ai yêu cầu như vậy. Ở ngoài ngõ bên cạnh búi tre có tấm biển đề "Hiệu may vá quần áo". Khách hàng của hiệu may gồm bộ đội ở Doanh trại Trại Hòe (là gần

Đây là ảnh của ông chủ hiệu may mà mọi người thường gọi là ông Học May (ảnh này chụp năm 1969)

nhất chỉ có khoảng 500m), tuy nhiên các anh bộ đội ở Doanh trại Trại Cờ, Doanh trại pháo binh phía sau làng, Doanh trại ở Đức Nghiêm cũng vào may chữa. 68


Buổi trưa hàng ngày, nhất là vào chủ nhật thì hiệu may rất đông khách bộ đội. Mùa hè năm 1991 chủ hiệu may (sinh năm 1920) qua đời và không còn ai nối nghề nữa. Cả làng Trại Hòe trước kia có ba ông thợ may, ngày nay không còn ai làm nghề thợ may nữa. Người dân bây giờ mua quần áo may sẵn ở chợ hay cửa hàng, dùng hơi rách là vứt nên không cần tới thợ may nữa. Đây là vị trí hiệu may: http://wikimapia.org/#lat=21.3751958&lon=105.9855071&z=19 &l=38&m=b&v=

Nguồn: Blog Bùi Thế Tâm - Hiệp Hòa

Kiến Quốc K5: Năm 1965, khi truờng VHQĐ đ ng quân ở đây, chúng tôi hay mang "quần đùi bà bô" (ý: quần đùi bộ đội, to như cái quần của bà già, đối với bọn trẻ con 12-13 tuổi) ra hiệu may này sửa. Rồi lộn cổ áo sơ mi, vá đầu gối, lộn ống quần... Gọi là "cửa hiệu" nhưng thật ra ngay trong nhà ở, cửa sổ mở liếp, phía trong lạch xạch máy khâu, ngoài c biển "May, vá quần áo". Nghe n i là của ông cụ thân sinh ra anh Tâm. Kỷ niệm kh quên.

69


Một số hình ảnh ngày nay Làng Trại Hòe, nay là làng Ngọc Tân, gồm ba xóm Ba Trại, Tân Chung, Trại Mễ, là một làng rộng thuộc xã Ngọc Sơn, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Hà Bắc (nay là Bắc Giang), dân số có khoảng 4500 người. Làng có tên là Trại Hòe vì trước đây làng trồng rất nhiều hòe để uống và để bán. Bây giờ cây này gần như không còn nhà ai trồng nữa. Làng Trại Hòe được lập bởi vài gia đình tách ra từ làng Ngọc Thành vào thập kỷ 10 của thế kỷ 20, khoảng 100 năm về trước.

70


37

Cống 4 cửa

Doanh trại Trại Hòe xưa

Bãi mả Hóc Nhâm

Cầu xóm Tân Chung

Khu Đình làng Ngọc Tân làng Trại Hòe xưa

Ngã 3 Trại Tẽo (cửa phía Tây làng Ngọc Tân)

Cầu xóm Ba Trại

Nghĩa địa làng Ngọc Tân

Ngã 3 Trại Cờ

Trường Trung cấp Kỹ thuật Phòng không Không quân Doanh trại Trại Cờ xưa

Trường THCS Ngọc Sơn


Ngôi nhà ở giữa là Đình làng, bên trái là ch a, bên phải là hội trường của làng. Đầu những năm 50 đình và chùa của làng to và đẹp. Khu đất này hướng ra phía đông và nhìn ra cánh đồng, thế đất rất hợp với phong thủy, cách 300 mét trước cửa đình là Ao Xen, bên phải là Nội Đình Diên, bên trái là Núi Mỏm Đá ôm hai bên. Trong những năm hợp tác xã, đình và chùa bị hư hỏng hoàn toàn, chỉ còn lại phần hậu cung của đình. Đình và chùa như trong ảnh là được xây dựng lại từ năm 2000 trở lại đây. Sân đình của làng khá rộng gồm hai cấp độ cao, ô tô không được đi qua nửa trên, các trò chơi trong ngày hội làng diễn ra ở nửa dưới. Hội làng Ngọc Tân trước kia thường tổ chức vào ngày 10/1 âm lịch, khoảng mươi năm nay chuyển sang hai ngày 14 - 15/1 âm lịch. Trong ngày hội tổ chức lễ đình, lễ chùa, lễ miếu, các trò chơi 72


như bóng chuyền, cầu lông, kéo co, chọi gà, đánh cờ, hát quan họ, tối có biểu diễn văn nghệ. So với tất cả các hội làng trong vùng, điểm đặc biệt nhất của Hội làng Ngọc Tân là tất cả các khách đến dự hội đều được mời ăn cơm trưa với dân làng vào cả hai ngày hội, cơm rượu thịt khá ngon, người dân trong làng hiếu khách.

Trong ảnh là cảnh sân đình, nơi diễn ra các trò chơi trong ngày lễ hội. Phía bên trái sân đình là cây thị nổi tiếng của làng (giống như Ông Tượng ở huyện). Cây thị này mọc từ khoảng 1954, tán là tròn, bốn mùa xanh tốt, bây giờ là giữa mùa đông mà vẫn xanh tươi như vậy, cây thị này chưa bao giờ ra trái.

73


Ảnh trên là cảnh Cầu Tân Chung, dân xóm Tân Chung muốn ra đồng hàng ngày phải đi qua chiếc cầu này từ trái sang phải. Đi thẳng đê là tới xóm Trại Mễ, đi ngược lại là về xóm Ba Trại. Con sông này dẫn nước từ sông Cầu trên Thái Nguyên về làng. Ngày xưa mỗi buổi trưa hè trẻ con trong làng thường ra sông tắm, nhưng ngày nay nước không còn sạch nữa, không còn ai tắm. Toàn bộ dân trong làng sinh ra và lớn lên nhờ dòng sông này. Đây là hình ảnh những ngày cuối cùng của cây cầu. Sau tết 2009 một cây cầu mới to đẹp hơn thay thế cây cầu này.

74


Cảnh Cống Bốn Cửa. Khi bốn cửa cống đóng hay mở vừa phải, nước trên đập sẽ dâng cao lên và chảy vào nhánh sông con phía bên phải, sông con đem nước tưới cho cánh đồng làng Ngọc Thành, rồi Dĩnh và vào trong huyện Tân Yên. Đi thẳng theo đường đê là vào xóm Trại Mễ, qua cầu sang trái là vào khu trại mới của làng. ( ưa c Doanh trại Trại Hòe).

75


Cánh đồng làng Ngọc Tân trong vụ hoa màu cuối mùa đông. Trong vụ phụ này dân làng trồng ngô, lạc, khoai tây.

Bài viết: Bùi Thế Tâm, 30/12/2008 Ảnh : Bùi Thế Tâm, chụp 8 giờ, ngày 6/12/2008

76


Doanh trại Trại Hòe

Chúng ta thường nhắc tới nơi nhà trường từng đóng quân các thời kì: - An Mỹ (Đại Từ, Thái Nguyên) 9/1965-12/1966, - Quế Lâm (Quảng Tây, TQ) 1/1967-8/1968, - Hưng Hóa (Phú Thọ), Trung Hà, Thạch Thất (Sơn Tây) 9/1968-5/1970. - Nhưng ít nhắc tới Trại Hòe, Trại Cờ (Phố Thắng, Hiệp Hòa, Hà Bắc) từ 3/1965-8/1965; tuy rằng vẫn có những bài viết ghi lại kỉ niệm thuở ban đầu. Thật ra Trại Hòe, Trại Cờ mới là nơi đóng quân đầu tiên của những chú nhóc con nhà lính (chưa hề 1 ngày sống trong doanh trại nhà binh) bắt đầu "vào khuôn phép". Doanh trại giữa đồi nắng miền trung du, rì rào gió thổi qua rặng phi lao cao vút... Những buổi học bị ngắt quãng vì kẻng báo động có máy bay Mỹ và những F4-H, F105-D ào ào bay qua, bổ nhào ném bom khu công nghiệp hóa chất Bắc Giang hay Cầu Đuống... Thấy máy bay rơi, dám đứng giữa sân vỗ tay hoan hô... Rồi những sớm hành quân, sau lưng ba lô, túi sách, vai gánh nồi niêu xoong chảo sơ tán vào dân, chiều về lại bơi lội thỏa chí ở con mương thủy lợi sau trường... Rồi những chủ nhật lội bộ ra Phố Thắng ăn phở "không người lái" hay no căng 1 bụng mít... Đẹp thế, nhớ thế!

(Kiến Quốc K5)

77


Doanh trại được lập từ sau hòa bình 1954. Sau năm 1975 Doanh trại không còn nữa. Bếp lớn xưa ở góc đông bắc, có đuờng xuống mương thuỷ lợi và cửa 4 cống hay ra tắm mỗi chiều và bông-nhê ở đó, lặn chui qua cống. Đi từ doanh trại Trại Hòe xuống phía nam, qua hiệu may, ra đình, qua sân bóng Đức Nghiêm rồi ra Ngã Ba Trại Cờ, quãng 1,5 km.

78


Cống 4 cửa nơi xưa tắm mương

Doanh trại Trại Hòe xưa

Bãi mả Hóc Nhâm

Hiệu may (trước 1990)

Khu Đình làng Ngọc Tân làng Trại Hòe xưa Cầu xóm Tân Chung

Xem bản đồ doanh trại Trại Hòe tại Wikimapia 79


Doanh trại Trại Cờ

Cũng là đất làng Trại Hòe, xã Ngọc Sơn, gần phố Thắng (nay là thị trấn Thắng) - phố huyện của Hiệp Hòa. Doanh trại Trại Cờ xưa là doanh trại đơn vị Tên lửa, nay là Trường Trung cấp Kỹ thuật Phòng không - Không quân. … Từ Trại Hòe, men theo đường làng, đi qua Trại Cờ là tới phố Thắng. (Phan Nam)

Trường Trung cấp Kỹ thuật Phòng không - Không quân Doanh trại Trại Cờ xưa

Ngã 3 Trại Cờ

37

Ngã 6 Trung tâm Thị trấn Thắng

80

Ngã 4 Biển


Phố Thắng (nay là Thị trấn Thắng)

Từ Hà Nội theo quốc lộ 1A về hướng bắc 41 km tới ngã ba Đình Trám, rẽ trái theo quốc lộ 37 khoảng 17 km thì tới trung tâm thị trấn Thắng…

Xem bản đồ tại Wikimapia

81


Đi từ doanh trại Trại Hòe xuống phía nam, qua hiệu may, ra đình,

Ngân hàng nông nghiệp huyện Xưa là Cửa hàng tổng hợp ăn uống Hồ Thống Nhất

Ngã 6 Trung tâm Thị trấn Thắng

Công viên

Ngã 4 Biển 37

82

Ngã 3 Trại Cờ


qua sân bóng Đức Nghiêm rồi ra Ngã Ba Trại Cờ, quãng 1,5 km.

N

37

Trường Trung cấp Kỹ thuật Phòng không - Không quân Doanh trại Trại Cờ xưa

Khu Đình làng Ngọc Tân làng Trại Hòe xưa

Hiệu may (trước 1990)

Doanh trại Trại Hòe xưa

Bãi mả Hóc Nhâm

Cầu xóm Ba Trại

Cầu xóm Tân Chung

Cống 4 cửa nơi xưa tắm mương

83


Một số hình ảnh Thị trấn Thắng Trung tâm Thị trấn Thắng …

Công viên tại giữa Ngã Sáu, Thị trấn Thắng, Hiệp Hòa, Bắc Giang. Ngã Sáu có 6 đường đi: - đi Cầu Vát, - vào phố cũ rồi lên Quế Sơn, - sang hồ nước, - đi Ngã Tư Biển rồi lên Thái Nguyên, - đi Đình Trám, - về Đông Xuyên. Phía sau ảnh: cột viễn thông và hồ nước. Giữa công viên là Ông Tượng. 84


Ông Tượng tại trung tâm Thị trấn Thắng (Hiệp Hòa, Bắc Giang) vào sáng rằm Tháng 8 năm 2009. Ảnh chụp từ trên cao

85


Ngã Sáu - Trung tâm Thị trấn Thắng, Hiệp Hòa, Bắc Giang. Phía trước ảnh là Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn lớn nhất huyện, đường phía trái đi cầu Vát, đường phía phải vào phố Thắng cũ. Phía phải ngân hàng là cây đa huyện.

86


Hồ nước tại trung tâm Thị trấn Thắng, Hiệp Hòa, Bắc Giang. Đây là hồ nhân tạo được đào vào đầu những năm 70 của thế kỷ trước.

Ảnh: Bùi Thế Tâm chụp ngày 3/10/2009, đăng 9/10/2009.

87


Ảnh 1. Con cháu của những người dân Hiệp Hòa đang sinh sống xa quê hương thường hỏi cha mẹ hay ông bà rằng "Ông Tượng ở Hiệp Hòa không biết hình dáng ra sao và đặt ở chỗ nào mà ai ở Hiệp Hòa cũng nói tới ông Tượng". Nếu dân Hiệp hòa nói "Ra ông Tượng mua mấy cân cam" hay "Ra ông Tượng mua cân thịt", nghĩa là đi tới trung tâm của Phố Thắng. Ông Tượng của Hiệp Hòa (được làm bằng xi măng): chàng thanh niên mặc bộ quần áo ta, chân đi đất, thắt lưng da ngang lưng, bên sườn phải cài lựu đạn quả na, tay phải cầm mã tấu, tay trái cầm cờ cán tre theo Đảng đi cướp chính quyền huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang 1945. Ông Tượng đặt tại ngã sáu, chính giữa vườn hoa thị trấn Thắng, trước cửa Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, gần cây đa cổ thụ. Phía sau ông Tượng là hồ nước lớn nhân tạo rất lớn của huyện, bên cạnh hồ là Hiệu thuốc của huyện. 88


Ảnh 2. Trước ngày có Ông Tượng, cây đa cổ thụ trước cửa Ủy ban huyện là biểu tượng của Hiệp Hòa. Cây đã có hàng trăm năm, những người hiện nay 100 tuổi nói rằng khi bé họ đã thấy cây đa to như vậy. Nhánh chính của cây đa đã bị gãy, hai nhánh lớn xum xuê hướng về hướng nam và hướng bắc. Giữa cây rỗng có đặt một bàn thờ và bát hương. Từ Đình Trám về Hiệp Hòa cách xa cây đa 5-10 km đã nhìn thấy ngọn đa. Ngày 19/8/1945 đại diện nhân dân các xã của Hiệp Hòa tập trung tại huyện lỵ để dự mít tinh chứng kiến sự ra mắt của Ủy ban dân tộc giải phóng huyện. Một lá cờ đỏ sao vàng to lớn, rực rỡ, tươi rói phần phật tung bay trên đỉnh ngọn cây đa cổ thụ tại trung tâm huyện lỵ. 89


Ảnh 3. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đứng nơi đắc địa nhất tại trung tâm của huyện lỵ, cạnh ông Tượng. Đây là ngôi nhà lớn nhất, xây hiện đại nhất của huyện Hiệp hòa cho tới thời điểm hiện nay. Trong ảnh: rẽ trái là đi cầu Vát, rẽ phải là vào phố Thắng cũ. (Xưa là Cửa hàng tổng hợp ăn uống)

90


Ảnh 4. Toàn cảnh từ ông Tượng nhìn sang nhà Bưu điện của huyện (hướng đông). Bùng binh phía trước ông Tượng là nơi tấp nập nhất của huyện Hiệp hòa. Trong ảnh: rẽ phải là đi Đình Trám, rẽ trái là sang Ngã Tư Biển.

91


Ảnh 5. Ngã Tư Biển: nơi xuất phát của tất cả các ô tô đi mọi hướng từ Hiệp Hòa. Trong ảnh: rẽ phải là đi Đình Trám, rẽ trái là đi Thái Nguyên, đi thẳng là vào doanh trại bộ đội cũ.

92


Ảnh 6. Cây đa cổ thụ làng Dinh Hương. Làng Dinh Hương hình thành sau khi có Lăng Dinh Hương, cách đây gần 300 năm.

93


Ảnh 7. Ngã ba Trại Cờ: đi thẳng là Thái Nguyên, rẽ phải là vào Yên Thế, ngược lại là về Đình Trám, Việt Yên. Đây là một địa danh lịch sử, là điểm hạ trại dưỡng binh của nghĩa quân Yên Thế: trước khi xuất quân về căn cứ địa Phồn Xương, Yên Thế, cụ Đề Thám đã làm lễ tế cờ tại đây để khích lệ tướng sĩ. Từ đó vùng đất này có tên là Trại Cờ (nghĩa là Trại tế cờ).

94


Ảnh 8. Địa điểm này trước 1965 là Trường cấp 2-3 Hiệp Hòa. Trên nền đất của ngôi nhà này năm 1964 là lớp 9 nhà tre lợp mái lá cọ. Năm 1959 trẻ em xã Ngọc Sơn như tôi phải lên tận huyện mới có trường cấp 2 để học. Năm 1963 bắt đầu có cấp 3 ở Hiệp Hòa (lớp 8 của hệ 10 năm), trước đó muốn học cấp 3 phải lên học tận Bắc Giang. Khoảng năm 1920 để học cấp 1 trẻ em Hiệp Hòa đã phải lên tận Bắc Giang rồi, hàng tuần chiều thứ 7 đi xe tay (do người kéo) về nhà nghỉ ngày chủ nhật. Hiện nay đây là Trường phổ thông cơ sở xã Đức Thắng. Bài và ảnh: Bùi Thế Tâm, biên soạn lại ngày 14/8/2009 95


Về lại Hiệp Hoà Kiến Quốc K5

Đ

úng kế hoạch, 7g sáng nay (6/11/2011) anh em k5 từng sống "những ngày TSQ đầu tiên" ở Trại Hòe, Trại Cờ, Phố Thắng, Hiệp Hoà, Bắc Giang đã lên đường đi thăm "đất cũ

1 thời". Lính tráng xếp vừa kín 2 xe Fortuner (của Quang Bắc) và

D D D

Kia (Tấn Lợi). Khởi hành, loay hoay mãi mà xe Tấn Lợi không đề được. Hoá ra Nhất Trung lái xe Kia đến nhưng lại nhảy sang xe Bắc, còn khoá xe Kia vẫn để trong túi. (Ấy cái xe đời mới tự động hoàn toàn, dùng smart-key nó lằng nhằng dây điện thế đấy!). Theo đường 1A qua Bắc Ninh, tới Đình Trám thì rẽ đi Việt Yên, Hiệp Hoà. Đi quãng 18km, gần đến cổng Phân hiệu 2 trường Trung cấp kĩ thuật PKKQ thì thấy chiếc xe UAZ biển đỏ "QA" đón. Một sĩ quan chạy lại, đứng nghiêm chào và mời đoàn cùng đi. Vào tới cổng thấy chiến sĩ giơ tay lên mũ chào. Tại sân, cả ban chỉ huy đã chờ. Lính tráng, mộc mạc, gần gũi như biết nhau từ lâu. Quang Bắc giới thiệu các thành viên trong đoàn, sau đó trao tặng quà kỉ niệm ghi nhận học sinh k5 TSQ Nguyễn Văn Trỗi đã đến thăm. Đại tá chỉ huy trưởng Hạnh đã đón nhận quà và giới thiệu về nhà trường: "Năm nay, nhà trường kỉ niệm 52 năm thành lập. Ngoài việc đào tạo lái xe chuyên dụng cho quân chủng PKKQ, nhà trường còn đào tạo lái xe dân sự". Doanh trại này chính là nơi k1, 2 đóng quân (sau thêm k3) trước khi chuyển lên Đại Từ. Còn Trại Hoè (cách đó chừng 7-800m) là doanh trại của các lớp k3, 4, 5 (sau này là k6). Thủa ban đầu có chừng 150-200 lính. Anh em 96


tranh thủ lên xe đi thăm Trại Hòe. Xe vòng ra ngã 3 Trại Cờ rồi rẽ vào Trại Hoè. Tướng Bắc cùng tôi nhảy lên xe UAZ dẫn đường để tranh thủ "khai thác" thông tin từ đại tá Hạnh. (Cả ban chỉ huy: Hạnh, Phòng, Hưởng... tháp tùng đoàn). Anh Chuẩn (trưởng thôn) đã chờ sẵn ở phòng họp. Anh em tay bắt mặt mừng. Anh Chuẩn cùng lứa với k3, là con LS, nhưng xung phong đi bộ đội từ 1968, sau vào B2. Anh nhớ kĩ từng nơi ta đã đóng quân. Anh là họ hàng với anh Bùi Thế Tâm (Viện Toán, người thiết kế trang Web Hiephoa.net). Anh kể lại: Lần Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân xuống Hiệp Hoà tiếp xúc với cử tri; giờ giải lao, anh Chuẩn có đến nói chuyện với anh Nhân: - Tôi là dân Trại Hoè. Nghe nói, anh từng là TSQ học ở Trường VHQĐ và sống ở Trại Hoè? - Vâng, tôi từng ở Trại Hoè năm 1965 và hay qua Trại Cờ để ra phố Thắng chơi - Anh Nhân vui vẻ nói. (Còn lần rồi khi đến thăm, anh Nhân có kể, đã về lại Hiệp Hoà, tiếp xúc cử tri. Anh đùa: "Có lẽ vì đã từng sống ở Trại Hòe nên khi bầu thấy số phiếu tăng hẳn và trúng cử vào Quốc hội chăng?!!!"). Trưởng thôn và bí thư Hưng đưa chúng tôi đi thăm sân bóng (nay là nhà dân), đường vào trường rẽ từ đường 37, xuyên qua rừng trẩu cùng con sông cổ (vì thầy Hậu phát hiện có nhiều viên sỏi và dạy ta như thế). Con đuờng này vẫn dùng cho cánh xe xích của truờng lái ra bãi tập. Còn đây là khuôn viên có mấy trái nhà của k5 ở sườn đồi trông sang rừng trẩu.

97


Thú vị nhất là được ra thăm mương thuỷ lợi có 4 cửa cống, nơi anh em vẫn bơi lội vào buổi chiều sau khi đá bóng về. Giờ đang mùa cạn, rác rưởi nhiều. Bọn trẻ con ngày ấy còn dám lặn xuyên qua cống từ phần thuợng nguồn. Liều thật! (Xin thông báo chính thức: Phía thượng nguồn mương không có trại hủi. Vậy mà lần thấy cái thân cây chuối trôi trên mương, Nghiệp "Bân" đã hốt hoảng chạy về la làng: "Tao thấy cái chân hủi rụng" làm anh em bỏ tắm mấy buổi). Theo dọc mương đi lên lối dẫn tới bếp ăn tập thể có cái giếng lớn múc nước bằng cần vọt. (Còn giếng của các lớp ở chân đồi thì chỉ kéo gầu bằng tay). Sau đó đoàn ra thăm phố Thắng với nhóm tượng đài Chiến thắng Hiệp Hoà (tác giả: điêu khắc gia Trịnh Dân, anh cả của Trịnh Hồng Hà k7, Trịnh Hồng anh k8). Ngày xưa, anh em ta hay lội bộ từ Trại Hoè ra đây ăn phở "không người lái" và ôm những quả mít to tướng về trường. Buổi trưa nhà trường chiêu đãi. Toàn các món ăn quê, ngon miệng, có cả bánh giò (đặc sản Hiệp Hoà. Trò chuyện, nâng li chúc nhau thật vui vẻ. Cánh k5 có Quang Bắc (1997) và Đức Dũng (có bài thơ về Trại Hoè trong Tập 3 SRTKL) từng đi "tiểu ngạch" tìm về Trại Hoè. Bữa cơm quá vui. Dù có cả Hà (thân sinh ra 2 con Bắc), Bắc thật thà tâm sự: "Dừng xe ngoài đường 37, tôi hỏi cô chủ quán về đường đi Trại Hoè: "Cách đây hơn 30 năm, tôi đóng quân ở đây và từng yêu 1 cô gái. Nay về tìm cô và không biết có cháu nào rơi rụng". Cô ta ngạc nhiên: "Cái nhà anh này, trông trẻ thế mà...". 98

Lần này về đã là 46 năm anh em ta từng sống ở đây.


Biết tin anh em k5 đang về thăm Hiệp Hoà và ăn cơm với ban chỉ huy Phân hiệu 2 truờng Trung cấp PKKQ cùng bà con Trại Hòe, bạn Thiện Nhân đã nhắn tin: Lần tới đến Hiệp Hoà tiếp xúc cử tri sẽ thu xếp đến thăm trường. Báo tin này cho Hạnh và anh Chuẩn, mọi người mừng lắm. Vậy k5 là nhóm đầu tiên của trường Trỗi quay lại nơi đóng quân đầu tiên từ 21/3/1965 đến cuối tháng 8/1965. Chúng tôi đã được đón tiếp thịnh tình. Chắc chắn sẽ còn có nhiều lớp đến thăm đơn vị và địa phương.

Điện thoại liên hệ: - Đại tá Hạnh, chỉ huy truởng Phân hiệu 2: 0913257721. - Anh Chuẩn, truởng thôn Trại Hòe: 01216319408.



Trại Hoè - Trại Cờ hôm nay Thắng K5

H

ôm nay (6/11/2011), đúng hẹn, chúng tôi lại về thăm nơi đóng quân đầu tiên của lứa tuổi học trò, trại Hoè, xã Ngọc Sơn, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang.

Đang đi vào thị trấn Cờ, bị một xe biển đỏ chặn lại, ba sỹ quan ngó vào xe hỏi, hoá ra bị bắt cóc từ đây. Hai xe cứ thế bị dong vào Trại Cờ, nơi có lữ đoàn cơ giới thuộc QK 2 trấn giữ. Kể từ đây, mọi chuyện như cổ tích bắt đầu.

Ph ng sự ảnh của Kiến Quốc, Thắng K5: 99


Vào cổng truờng.

Đ n người thân trở về sau 46 năm xa. 100


Quang Bắc c đôi lời chào hỏi thủ trưởng đơn vị (trường trung cấp kỹ thuật PK - KQ)…

Trao ảnh kỷ niệm, ghi dấu ấn ngày về thăm chốn xưa. 101


Đại tá chỉ huy trưởng giới thiệu về nhà trường.

Chụp ảnh kỷ niệm gặp mặt 102


Vào thăm phòng họp thôn Trại Hòe. Anh Chuẩn c lời, bí thư Hưng tiếp nước.

Trước cửa đình làng. 103


Đường đi mịt mùng, phải nhờ quân tướng và chủ tịch xã dẫn đường.

Đứng trước sân b ng của k5 (phía gần Trại Cờ). 104


Lớp ta ở phía kia chứ?

Kia là đường dẫn vào trường. 105


Sau lưng là suờn đồi c mấy trái nhà của k5.

Con đường độc đạo dẫn vào Trại Hòe. 106


Cửa đập phía thượng nguồn.

Mương thuỷ lợi với cống 4 cửa và bọn trẻ con ngày xưa. 107


Đường từ nơi rửa bát ở mương đi lên bếp.

Bếp ăn và giếng ở đây. 108


Đường từ bếp lên doanh trại.

Tượng đài Chiến thắng ở Phố Thắng. Cửa hàng bán phở ở đâu? 109


Khu khí tài của nhà trường.

… cà phê vườn ... "Các bác Trỗi kể chuyện tiếu lâm hay thế!!!". 110


Lại lưu một cái ảnh trước khi chia tay - Hẹn ngày trở lại.

Các bác đi, nhớ quay về nhé! 111


Trại Cờ ký sự Quang Việt k2

T

heo đúng kế hoạch, 6h30 sáng 20/12, mấy anh em Trỗi tụ tập ở trước cửa nhà Bùi Vinh (Trưởng BLL) để lên Trại Cờ

dự lễ kỷ niệm 52 năm Trường Lái xe PK-KQ (nay là Phân hiệu 2 Trường Trung cấp KT PK-KQ) và đón nhận Huân chương BVTQ hạng Ba. K2 có Chu Kỳ Minh, Quang Việt, Trần Ngọc Giao. K4 có Trung Nghĩa, Bình cận. Chờ mấy phút thì thêm Thắng Híp K6 đến. Bùi Vinh ra và tất cả lên đường. Đi 2 xe: Quang Việt, Trần Ngọc Giao, Thắng Híp ngồi xe Bùi Vinh. Chu Kỳ Minh, Bình cận ngồi xe Trung Nghĩa. Xe Bùi Vinh khỏe, chạy nhanh, nên dọc đường cứ phải hạn chế tốc độ chờ xe Trung Nghĩa. Khoảng 8h30 lên đến dốc Trại Cờ. Cách “mục tiêu” độ trăm mét còn phải hỏi đường. Đến nơi, Đồng Tiến (K3-nguyên hiệu phó trường lái xe) đã ở đó. Anh được đơn vị đón lên từ hôm trước. Sau màn chào hỏi, Đồng Tiến dẫn mấy anh em đi thăm xung quanh. K2 ở Trại Cờ có ít ngày, vả lại đã gần 50 năm trôi qua, “vật đổi sao dời” nên chẳng còn nhận ra thứ gì quen thuộc. Đúng 9h, buổi lễ kỷ niệm bắt đầu. Mở đầu là chương trình văn nghệ “cây nhà lá vườn” (cũng có một vài “lá chợ”!). Ấn tượng nhất là màn múa hoa sen với đội hình 5 vũ nữ cực kỳ… dũng cảm. Phải nói là đại tá Hạnh (Chỉ huy trưởng) và đại tá Hưởng (Chính trị viên) rất có tài động viên nên đã huy động được 5 thiếu… phụ U50 cho màn múa ấn tượng này. Hết sức cảm phục các chị về tinh thần trách nhiệm và tình yêu nghệ thuật. 112


Thiếu tướng Bùi Vinh trao quà kỷ niệm của trường Trỗi.

Toàn cảnh hội truờng. 113


Tại đình của thôn Trại Hòe, đoàn vào chào các cụ - Thành hoàng làng.

Trao quà kỉ niệm - bức ảnh phút cuối cùng của Anh Trỗi ở pháp trường và lời dạy của Bác với thanh niên: phải noi gương Anh. 114


Buổi lễ sau đó diễn ra như bao buổi lễ kỷ niệm khác trên dải đất hình chữ S này (mà hình như ngày nào cũng có ở đâu đó). Bùi Vinh thay mặt anh em Trỗi – những người đã đóng quân ở mảnh đất này cách đây gần 50 năm, khi còn là những chiến sĩ nhí – tặng nhà trường bức ảnh Anh hùng liệt sỹ Nguyễn Văn Trỗi. Cùng với bức ảnh còn có 2 cuốn sách “Sinh ra trong khói lửa tập 3” mới phát hành. Sau lễ kỷ niệm là bữa cơm thân mật. Sau đó, hội Trỗi phát hiện ra đồng chí Chuẩn - Trưởng thôn Ngọc Tân - mảnh đất vẫn được gọi là Trại Hòe. Thế là bắt đầu cuộc hàn huyên dài dài. Anh Chuẩn tuổi Canh Dần 1950 - vốn là giáo viên dậy Văn-Sử nên nói chuyện hay, dí dỏm và đầy chất văn nghệ. Anh kể về đời sống của dân Trại Hòe hiện nay. Nói chung, về kinh tế đã được cải thiện nhiều, nhưng cũng còn nhiều khó khăn. Điều này chúng tôi được mục sở thị ngay sau đó khi anh đưa về thăm Trại Hòe. Tiếp chúng tôi tại nhà văn hóa thôn (gọi là “nhà văn hóa” cho oai chứ chỉ là mấy gian nhà cấp 4 tuềnh toàng, ngửa mặt nhìn thấy cả trời xanh), ngoài anh Chuẩn còn có đồng chí Nguyên - bí thư chi bộ thôn. Một lát sau có thêm anh Nguyễn Văn Bề - cựu bí thư cũng đến tiếp khách. Anh Bề là người làm cho cuộc gặp mặt giữa lính Trỗi với dân Trại Hòe trở nên sôi nổi, thắm thiết và đầy hiệu quả. Anh đã cung cấp thông tin bất ngờ: chính vợ anh – chị Ninh - từng là chị nuôi trong trường Trỗi, từ Trại Hòe rồi lên Đại Từ. Từ thông tin đó, “thổ dân” Trại Hòe lại cung cấp cả một danh sách đến 5-6 người: Hội, Hiếu, Khải, Quang… đều từng là công nhân viên QP ở trường ta. Những 115


trường hợp này, trước đây BLL chưa có thông tin. Anh Bùi Vinh cho thống kê và quyết định nhờ anh Bề làm đầu mối liên lạc để một ngày gần đây sẽ tổ chức các hoạt động giao lưu tình cảm giữa lính Trỗi với những người đã từng tham gia công tác bảo đảm cuộc sống và học tập của lính Trỗi mà bấy lâu nay mất liên lạc.

Ba chị trong ảnh (từ trái sang phải): Chị Hiếu (Trại Hòe - Đại Từ - Quế Lâm, người đã từng khêu "cái ghẻ" cho lính Trỗi) Chị Khải, chị Ninh (vợ anh Bề - cựu bí thư chi bộ thôn Ngọc Tân). Hai chị này không sang Trung Quốc, chỉ theo trường lên Đại Từ. Câu chuyện đang vui thì lại càng vui hơn khi chị Khải, chị Ninh, chị Hiếu lần lượt đến (3 người phụ nữ trong ảnh). Thời gian trôi qua, các chị không còn nhớ được nhiều nhưng cả 3 chị đều nhớ tên chính ủy Bùi Khắc Quỳnh, đồng chí Tiêu (Phòng Hậu cần). Trong 3 chị trên, có chị Hiếu đã làm chị nuôi từ Trại Hòe, lên Đại Từ rồi 116


cùng toàn trường sang Quế Lâm. Chị đã từng nuôi quân ở C6 (khóa Thắng Híp), sau đó chuyển sang C8 (khóa Bùi Vinh). Chị còn nhớ tên thày Bính, thày Ất và hai anh em sinh đôi Việt – Hà. Chị kể, kỷ niệm sâu sắc nhất là những buổi tắm điều trị bệnh ghẻ cho lũ học trò C6. Chị bảo, chúng cứ vô tư tồng ngồng để các chị nhể những con cái ghẻ bò lổm ngổm, rồi các chị đun nước lá cho chúng tắm. Thắng Híp thoáng đỏ mặt, có lẽ cũng từng là một trong số đó chăng? Anh Bùi Vinh hứa sẽ tổ chức cho các chị lên Đại Từ, nơi các chị đã cống hiến những năm tuổi trẻ cho sự nghiệp đào tạo lớp măng non cho cách mạng. Ai đó đề nghị thông báo xem lính Trỗi có cậu nào còn ghẻ thì hôm đó lại lên suối Trì để các chị tắm ghẻ cho. Câu chuyên cứ râm ran, sôi nổi. Các chị rất cảm động được gặp lại lính Trỗi. Trần Ngọc Giao thật tháo vát và chu đáo. Anh đã “vay” 3 cuốn lịch năm mới của TCty Thành An (Binh đoàn 11) trong số lịch mà anh Vinh đã tặng cho thôn Ngọc Tân, để tặng mỗi chị một cuốn. Các chị rất phấn khởi và xúc động. Rồi Bùi Vinh kể cho mọi người về mối liên hệ gắn bó của gia đình anh với mảnh đất Bắc Giang nói chung, Hiệp Hòa – Phố Thắng nói riêng. Và thêm một điều bất ngờ, thêm một sợi dây tình cảm giữa anh với thôn Ngọc Tân – Trại Hòe: khi biết Bùi Vinh là con trai thượng tướng Bùi Phùng, anh Chuẩn đã nhoài người qua bàn, bắt tay. Anh kể, năm 1972, anh đã được theo bác Bùi Phùng đi chiến dịch ở B2. 117


Cũng trong buổi gặp xúc động đó tôi mới được biết tại sao có tên “Trại Cờ”. Đó chính là nơi nghĩa quân Hoàng Hoa Thám thuở trước đã làm lễ tế cờ trước khi ra trận. Buổi hàn huyên cứ thế kéo dài, tưởng như không có hồi kết. Nhưng rồi cũng phải đến lúc chia tay. Từ Nhà văn hóa thôn, mọi người ra chỗ cống 4 cửa, một nơi rất đặc biệt đối với nhiều lính Trỗi. Ngày xưa nước trong xanh là thế. Chị Hiếu bảo, hồi đó toàn lấy nước sông máng về dùng. Nhiều lính Trỗi từng lặn ngụp ở đây. Bây giờ thì không thể, nước bẩn lắm.

Nhưng bù lại, ngay tại đó có một trang trại nuôi cá tương đối quy mô của một đôi vợ chồng trẻ (vợ sinh năm 1973, chồng sinh năm 1970). Trên bờ hồ cá là một dãy chuồng lợn khang trang. Trong 118


cái sân rộng có mấy chậu cây cảnh (bonsai) tương đối đẹp. Các anh lãnh đạo thôn cho hay, đây là doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc, hiệu quả, có nhiều đóng góp cho sự phát triển của thôn. Hệ thống đường bê tông trong thôn có sự đóng góp đáng kể của vợ chồng này. Bịn rịn chia tay, mấy anh chị em hẹn nhau ngày tái ngộ. Đại tá Hạnh chèo kéo bằng được anh em Trỗi quay trở lại đơn vị. Cũng không thể khác được vì phải đưa Trưởng thôn Chuẩn về đó lấy xe máy. Đến nơi, Hạnh lại cho bày cỗ. Phần cả nể, phần quí cái nhiệt tình của thằng em, Vinh và cả đoàn lại ngồi vào mâm, lại chén chú chén anh. Cuộc vui rồi cũng đến hồi kết. Khoảng gần 15h mới ra về được. Lên xe rồi, cũng phải đến 10 phút sau mới chuyển bánh được vì “thằng em đại tá” cứ lăn xả vào bắt tay và ôm hôn thắm thiết. Lính Trỗi là đoàn khách cuối cùng rút lui, và là đoàn khách duy nhất dùng đến hai “bữa cơm thân mật”, mà bữa sau “thân mật” hơn bữa trước. Có một chi tiết thế này: Anh Bùi Vinh đã mang theo một máy ảnh rất xịn. Đến nơi, khi định chụp mới phát hiện ra là chưa lắp pin (pin đặc chủng nên bótay.com luôn). Anh thanh minh: “Mình bảo vợ xạc pin hộ, tưởng bà ấy lắp vào chu đáo rồi, ai dè bà ấy quên”. Ai đó bình luận: “Chắc tại ông chưa nạp cho bà ấy chu đáo nên vậy thôi!!!”. Tất cả các bức ảnh có được đều do thợ ảnh cơ quan Chính trị đơn vị chụp và gửi cho Kiến Quốc. Các em thật nhiệt tình và chu đáo. 119


 2011


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.