VIỆT SỬ TÂN KHẢ CHÚ GIẢI/KHẢO LUẬN Quyển 12-1

Page 1

VIỆT SỬ TÂN KHẢO CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN Quyển 12 Tập I (Từ trang 3698 – 4014)

VIỆT NAM 1954 – 1963 PHẦN I

HỘI NGHỊ & HIỆP ĐỊNH GENEVA 1954 PHẦN II

HAI NƯỚC VIỆT NAM


VSTK - 3698


PHẦN I HỘI NGHỊ GENEVA 1954 CHƯƠNG 1

ĐƯỜNG DẪN ĐẾN GENEVA I/ TÌNH HÌNH TỔNG QUÁT TRƯỚC KHI ĐIỆN BIÊN PHỦ BỊ THẤT THỦ 1

2

3

4

5

6

7

8

9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37

1- Nước Pháp bị co cụm vì vấn đề Đông Dương và Việt nam

Quyết định đơn phương của chính phủ Pháp triệu tập một hội nghị quốc tế giải quyết vấn đề Đông Dương vào ngày 18/02/1954 đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng ở Việt Nam. Tổng Cao Ủy Đông Dương DeJean và Tổng Tư Lệnh Quân đội viễn chinh Pháp H.Navarre ở Đông Dương đã không được tham khảo về việc chính phủ Pháp ở Paris triệu tập hội nghị nầy. Tướng Navarre viết: Vào giai đoạn cuộc chiến mùa xuân năm 1954 đang diễn biến theo chiều hướng ổn định, thậm chí tốt hơn, và “mặt trận chính” Điện Biên Phủ đang báo hiệu một trận đánh dữ dội nhưng có nhiều thuận lợi thì một sự kiện quyết định đã diễn ra, đã làm đảo lộn mọi vấn đề. Ngày 18 tháng 2, nước Pháp đã chấp thuận, nếu không muốn nói là đã gợi ý, một hội nghị sẽ được diễn ra tại Genève vào cuối tháng 4 để bàn về hoà bình tại Đông Dương. Cả ngài Tổng uỷ lẫn tôi đều không được thông báo trước về sự việc này. Chúng tôi đã không được tham khảo về thời cơ của hội nghị, quan trọng hơn là ý kiến của chúng tôi về thời điểm, thời gian và các thành phần tham dự hội nghị. Ngược lại, phía Việt Minh, Bộ Chỉ huy của họ được thông báo về những gì họ có thể chờ đợi ở hội nghị này. Họ quyết định lập tức kết nối các hoạt động quân sự với sự kiện này, mà theo họ là một sự kiện quyết định và có khả năng mang lại thắng lợi cuối cùng cho cuộc chiến tranh trong thời gian ngắn. Bằng cách điều chỉnh tất cả các kế hoạch của họ, Việt Minh cho tiến hành sớm hơn dự kiến (một hoặc hai năm) một cuộc tổng tiến công nhằm mục đích đạt chiến thắng quyết định. Do đó, hậu quả của một sáng kiến không đúng lúc của các nhà lãnh đạo chính trị phía ta làm cho tình hình quân sự bất ngờ chuyển biến một cách hết sức nghiêm trọng đối với chúng ta. Trong những ngày đầu tiên của tháng ba, từ nguồn tin chắc chắn ta biết được quyết định tổng tấn công của Việt Minh1. Quyết định tổng tiến công này lập tức được thể hiện qua nhiều dấu hiệu khác nhau. Ta đã phát hiện Việt Minh đưa vào sử dụng một cách gấp rút đủ các loại phương tiện phục vụ cho cuộc tiến công vào Điện VSTK - 3699


1 2 3 4 5 6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

Biên Phủ. Lực lượng vây hãm được các lực lượng chi viện rất lớn đang tăng cường. Chúng ta ghi nhận có một sự tuyên truyền rất mạnh nhắm vào dân chúng, nhất là vào quân đội Quốc Gia Việt Nam. Nó đã tạo ra một sự tan rã nhanh chóng trong hàng ngũ quân đội này: việc tuyển mộ quân bị ngưng hẳn, một làn sóng đào ngũ mạnh mẽ, việc từ chối ra mặt trận và nổi loạn ở một số đơn vị.1

Sau quyết định nầy của chính phủ Pháp ở Paris, tướng H.Navarre biết chắc rằng sẽ có một trận chiến bùng nỗ dữ dội ở Điện Biên Phủ và thân phận của nước Pháp ở Đông Dương sẽ tùy thuộc vào kết cục của trận đánh quyết định nầy. 2- Anh-Mỹ bất nhất về vấn đề Đông Dương và Việt Nam 2.1- Điện Biên Phủ bị bao vây: Chiến trận Điện Biên Phủ bột

phát dữ dội từ ngày 13/03/1954 với những đợt tiến công biển người của bộ đội CSVM kèm theo hỏa lực pháo binh khủng khiếp mà quân Pháp không thể nào lường trước được và đã làm hư hại, tê liệt các đường sân bay trong vòng không tới hai tuần lễ. Trong cơn nghèo ngặt của tập đoàn liên quân Pháp-Việt đang phải đối phó tại cứ điểm Điện Biên Phủ, Tổng Tham Mưu Trưởng Pháp tướng Paul Ély đã sang Hoa Thịnh Đốn vào ngày 20/03/1954 để cấp báo cho chính phủ Hoa Kỳ về tình hình nghiêm trọng đang xảy ra ở Đông Dương và yêu cầu Hoa kỳ cần phải can thiệp và hành động ngay để cứu vãng tình thế nguy khốn của liên quân Pháp-Việt ở Điện Biên Phủ. Yêu cầu khẩn yếu của tướng Ély là mưu tìm sự bảo đảm yểm trợ và can thiệp của không lực Hoa Kỳ nếu CSTQ xử dụng không quân của họ để tấn công các lực lượng quân đội Pháp ở Điện Biên Phủ. Tướng Ély cũng yêu cầu Hoa Kỳ tăng cường viện trợ thêm loại phóng pháo cơ B-26 và quân cụ. Ngoại trưởng Hoa Kỳ Dulles nói rằng không thể trả lời cho tướng Ély về việc Hoa Kỳ phản ứng thế nào trong trường hợp CSTQ xử dụng không quân trên chiến trường Điện Biên Phủ. Nhưng theo hồi ức của Tướng Ély thì Chủ Tịch Hội Đồng Tham Mưu Liên Quân Hoa Kỳ là Đô Đốc Radford có hứa rằng sẽ thúc hối ngay chính phủ Hoa Kỳ chấp thuận sự ngăn chận nếu có sử cố bất ngờ xảy ra.2 VSTK - 3700


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

2.2 – Chiến dịch Vulture giải vây Điện Biên Phủ:

Theo nhiều phúc trình từ phía người Pháp thì tướng Ély đã được yêu cầu ở lại Hoa Thịnh Đốn thêm 24 giờ để bàn định một kế hoạch không chính thức nhằm giải tỏa Điện Biên Phủ do đô đốc Radford đề xướng. Phía người Pháp nói rằng Đô Đốc Radford đã để xuất ra một cuộc oanh kích ban đêm của không lực Hoa Kỳ và các máy bay từ các Hàng Không Mẫu Hạm nhắm vào ngoại vi chung quanh cứ điểm Điện Biên Phủ. Kế hoạch không kích nầy gọi là chiến dịch Kên Kên (Vulture) gồ có 60 pháo đài bay B-29 xuất phát từ căn cứ không quân Clark ở Phi Luật Tân với 150 chiến đấu cơ hộ tống cất cánh từ Hạm Đội Hải Quân thứ 7 để oanh kích và vội bôm tiêu diệt bộ đội CSVM đang bao vây Điện Biên Phủ. Người Mỹ nói rằng theo những nguồn tài liệu của người Pháp thì chiến dịch không kích Kên Kên là một kế hoạch được nghĩ ra bởi ban hỗn hợp quân sự Pháp-Mỹ ở Sài Gòn và ban nầy xác nhận có một kế hoạch đã được đưa ra như thế một cách không chính thức nhưng chưa được Hoa Thịnh Đốn chấp nhận như là một chủ trương của Hoa Kỳ. Không có tài liệu văn thư lưu trữ nào trong các cơ quan chính quyền Hoa Kỳ đã ghi chép hay đăng ký về một chiến dịch Kên Kên như thế. Trong một cuộc phỏng vấn vào năm 1956, Đô đốc Radford xác định rằng không có một kế hoạch nào để áp dụng cho chiến dịch Kên Kên, bởi vì kế hoạch oanh kích bằng không lực để tiếp cứu Điện Biên Phủ đã chưa bao giờ được thực hiện vượt quá quan điểm về một giai đoạn. Tuy nhiên kế hoạch giải tỏa Điện Biên Phủ cũng đã là đề tài được thảo luận một cách không chính thức ở Sài Gòn và giữa Đề đốc Radford và tướng Cao Ủy Đông Dương Paul Ély.3 Trong sách Histoire de la Guerre d’ Indochine, tướng Yves Gras viết rằng trong suốt tháng 04/1954 người ta hy vọng một cuộc không kích bằng loại pháo đài bay của Hoa Kỳ để giải vây Điện Biên Phủ theo như sự khởi xướng của Đô đốc Radford tham mưu trưởng liên quân Hoa Kỳ trong cuộc hội đàm vào ngày 23/04 với tướng Cao Ủy Đông Dương Paul Ély ở Hoa Thịnh Đốn. Sau khi nhận được sự tham khảo ý kiến tán thành của tướng Navarre về đề xướng nầy của Đô đốc Radfod, ngày 04/04/1954 VSTK - 3701


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38

39

40

chính phủ Pháp từ Paris đã chính thức yêu cầu sự can thiệp của Hoa Thịnh Đốn. Có lẽ vì tính cách khẩn cấp của vấn đề cần phải được giải quyết nhanh chóng cho nên theo chỉ thị của Đô đốc Radford, ngũ Giác Đài dự thảo những kế hoạch cho một chiến dịch dội bom giải tỏa Điện Biên Phủ có tên là chiến dịch “Kên Kên”. Chiến dịch nầy do 98 pháo đài bay B-29 cất cánh từ các căn cứ không quân Hoa Kỳ ở Okinawa /Nhật Bản và Phi Luật Tân, để dội 1,400 tấn bom lên các vị trí tập trung bộ đội của CSVM chung quanh cứ điểm Điện Biên Phủ.4 Tuy nhiên, vấn đề Hoa Kỳ can dự trực tiếp bằng không lực để giải tỏa vòng vây bộ đội CSVM ở Điện Biên Phủ đã bị phủ lấp mất đi vì nội tình chính trị bất nhất và e dè của chính phủ Hoa Kỳ. Trước đó, vào ngày 10/03/1954, để trả lời câu phỏng vấn của một phóng viên báo New York News, Tổng Thống Eisenhower- Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Đội Hoa Kỳ- đã tỏ dấu hiệu cho thấy rằng Hoa Kỳ sẽ không can dự vào chiến tranh Đông Dương nếu không có sự biểu quyết đồng ý của Quốc Hội Hoa Kỳ: “Q. James J. Patterson, New York News: Mr. President, Senator Stennis said yesterday that we were in danger of becoming involved in World War III in Indochina because of the Air Force technicians there. What will we do if one of those men is captured or killed? THE PRESIDENT. I will say this: there is going to be no involvement of America in war unless it is a result of the constitutional process that is placed upon Congress to declare it. Now, let us have that clear; and that is the answer.”5 “ Câu hỏi của phóng viên James J. Patterson, Báo New Yok News: Thưa Tổng Thống, Nghị Sĩ Stennis hôm qua tuyên bố rằng chúng ta đang lâm nguy vì bị can dự vào cuộc chiến tranh thế giới thứ III ở Đông Dương bởi vì hiện có những chuyên viên kỹ thuật hàng không ở đó. Chúng ta sẽ làm gì nếu một trong những chuyên viên đó bị bắt hoặc bị giết hại? Tổng Thống trả lời: Bản chức sẽ nói điều nầy: Sẽ không có sự đang can dự của Hoa Kỳ vào cuộc chiến ngoại trừ sự can dự nầy là kết quả của phương cách hiến định trao cho Quốc Hội để tuyên bố sự can dự đó. Nay thì, chúng ta hãy hiểu rõ; và đấy là câu trả lời.”

Câu trả lời trên đây của Tổng Thống Mỹ có thể hiểu rằng chính phủ Hoa Kỳ đã được Quốc Hội cho phép gửi chuyên viên VSTK - 3702


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

kỹ thuật hàng không sang Đông Dương giúp cho người Pháp một sự chi viện kỹ thuật có tinh cách nhỏ giọt và chiếu lệ để khỏi mang tiếng là bỏ rơi Đồng Minh. Tuy nhiên nếu người Pháp muốn Mỹ can dự trực tiếp, quy mô và tích cực bằng quân sự để chống lại CS ở Đông Dương thì cần phải có sự chấp thuận của Quốc Hội Hoa Kỳ. 2.3 – Chính phủ Hoa Kỳ quyết định không can dự một mình vào cuộc chiến chống Cộng Sản ở Đông Dương6

Kể từ đầu tháng 04/1954 hiển nhiên là vấn đề can thiệp của Hoa Kỳ vào Đông Dương đã trở thành một đề mục cấp bách. Cuộc chiến ở Điện Biên Phủ đã phát triển tới mức nghiêm trọng khi mà trọng pháo do CSTQ chi viện cho bộ đội CSVN đã khóa cứng và làm cho quân Pháp phải co cụm không còn xoay trở vào đâu được nữa. Nếu không có được sự can thiệp sớm và nhanh chóng từ một lực lượng hay một nhóm lực lượng bên ngoài phòng tuyến thì cứ điểm Điện Biên Phủ sẽ bị tràn ngập và đè bẹp bởi làn sóng biển người của quân đội CSVM. Vì có thái độ e dè đối với sự yêu cầu cứu viện của Pháp, chính quyền của Tổng Thống Eisenhower quyết định là cần phải hội ý với các lãnh tụ dân biểu trong Quốc Hội Hoa Kỳ bởi vì Tổng Thống Hoa Kỳ cho rằng hậu thuẫn tối đa từ Quốc Hội là yếu tố tối cần cho bất cứ vai trò chủ động nào mà Hoa Kỳ có thể nấm giữ vào thời điểm hiện nay ở Đông Dương. Không có văn kiện hoặc tài liệu chính thức của chính phủ Hoa Kỳ nói rõ chi tiết về cuộc gặp gỡ giữa các nhân vật có thẫm quyền Hành Pháp và Lập Pháp hoặc giữa Tổng Thống Hoa Kỳ và các thuộc hạ cao cấp của Ông. Tuy nhiên theo nhiều nguồn tin đáng tin cậy đã được phổ biến thì: Vào ngày 03/04/1954, Ngoại trưởng Dulles và Đô đốc Radford đã hội kiến với 08 dân biểu Quốc Hội (03 thuộc đảng Cộng Hòa và 05 thuộc đảng Dân Chủ) tại bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Trong cuộc hội kiến nầy, Tham Mưu Trưởng Liên Quân Hoa Kỳ Đô đốc Radford đã tóm lược kế hoạch dự kiến xử dụng 200 phi cơ phát xuất từ 2 hàng không mẫu hạm (tàu sân bay) Essex và Boxer ngoài khơi biển Nam Hải để không kích và dội VSTK - 3703


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

bom quân đội nhân dân CSVM ở Điện Biên Phủ. Sẽ có thêm một cuộc không kích và dội bom lần thứ nhì nếu lần đầu không tạo ra được hiệu quả phá vỡ vòng vây của bộ đội CSVM. Không có dự trù một kế hoạch một cuộc đỗ quân Hoa Kỳ vào chiến trường Đông Dương vào thời điểm nóng bỏng nầy. Đã có sự xác nhận rằng các tàu sân bay Hoa Kỳ trong vùng biển Nam Hải có trang bị bom nguyên tử nhưng lúc đó không có tiết lộ nào cho thấy là có dự kiến quan trọng xử dụng vũ khí hạt nhân tại chiến trương Điện Biên Phủ hay bất cứ nơi nào ở Đông Dương. Tuy nhiên, rất có thể là Hoa Kỳ sẽ dùng bom hạt nhân chiến lược dội xuống những mục tiêu nằm trên đất Trung Quốc trong trường hợp quân CSTQ tràn ngập tham chiến chung với bộ đội CSVM. Có dư luận cho rằng vào ngày 08 /04/1954 khi Hoa Thịnh Đốn thông tri bác bỏ yêu cầu của chính phủ Pháp ở Paris yêu cầu Hoa Kỳ không kích và thả bom chung quanh Điện Biên Phủ theo kế hoạch Kên Kên/Vulture, Ngoại Trưởng Foster Dulles đã đề nghị với ngoại trưởng Pháp Georges Bidault rằng Hoa Kỳ trao cho Pháp 2 quả bom nguyên tử để Pháp tự cứu nguy Điện Biên Phủ nhưng chính phủ Pháp đã bác bỏ đề nghị nầy.6bis Trong sách Vicitory at Any Cost, tác giả Cecile B.Curry cũng viết rằng đô đốc Radford tuyên bố Hoa Kỳ sẽ phải nghĩ tới việc xử dụng vũ khí hạt nhân nếu chiến dịch Kên Kên/Vulture không đạt được kết quả mong muốn: “. . .If that did not work, Radford said, they should consider the use of atomic wapons.”6ter * Các dân biểu Quốc Hội đã cật vấn Đô đốc Radford về mức độ ủng hộ của các nước Đồng Minh của Hoa Kỳ như thế nào đối với dự án hành động như vừa kể trên và thái độ của các tướng lãnh đầu não khác trong Bộ Tham Mưu Liên Quân Hoa Kỳ ra sao khi dự án đề cặp đến vấn đề đưa quân đánh bộ vào chiến trường Đông Dương nếu cuộc oanh kích bộ đội CSVM quanh cứ điểm Điện Biên Phủ lần thứ nhì cũng thất bại? Các dân biểu cũng chất vấn về trường hợp CSTQ tràn ngập tham gia vào cuộc chiến ở Đông Dương thì liệu rằng sẽ có nguy cơ xảy ra một loại trận chiến Triều Tiên thứ hai ở Đông Dương hay không? Đô Đốc Radford phải thú nhận với các dân biểu rằng kế hoạch giải cứu Điện Biên Phủ là sản phẩm riêng của đương sự đề VSTK - 3704


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

xuất và ngoài ý muốn của những tướng lãnh khác trong bộ Tổng Tham Mưu Liên Quân Hoa Kỳ. Còn Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Dulles trong cuộc gặp mặt nầy cũng phải thú nhận với các dân biểu rằng các Đồng Minh của Hoa Kỳ chưa được tham khảo ý kiến về kế hoạch can thiệp trực tiếp của Hoa Kỳ vào chiến trường Đông Dương và vì thế Dulles nghĩ rằng cần phải có một nghị quyết chung giữa Hành Pháp và Quốc Hội cho phép không lực và hải quân Hoa kỳ thực hiện một kế hoạch can thiệp như thế. (Người ta suy định rằng Ngoại Trưởng Dulles đã có sẵn kế hoạch đó trong cặp da của Ông ta.) Rời khỏi cuộc hội kiến ở bộ Ngoại Giao, các dân biểu Quốc Hội Hoa Kỳ đã không để lại cho Ngoại Trưởng Dulles và Đô Đốc Radford một điều cam kết hay thỏa thuận quan trọng nào và nêu ra 3 điều kiện để hành Pháp có được hậu thuẫn của Quốc Hội Hoa Kỳ: (1) thiết lập một liên hiệp với các lực lượng của các quốc gia Đồng Minh với Hoa Kỳ mà quan trọng hơn hết trong số các quốc gia đồng minh chính là Anh Quốc; (2) Một sự tuyên bố của nước Pháp ghi rõ thiện ý thực hiện nhanh chóng tiến trình trả trao độc lập thực sự cho các Quốc Gia Đông Dương; (3) nước Pháp phải cam kết rằng đoàn quân viễn chinh của họ tiếp tục chiến đấu CS ở Đông Dương. Ngay sau ngày hội kiến với các dân biểu Quốc Hội, ngày 04/04/1954 Ngoại trưởng Dulles và Đô Đốc Radford họp bàn ngay với Tổng Thống Hoa Kỳ tại Nhà Trắng và Tổng Thống đã đưa ra quyết định là cần phải thỏa đáng 3 điều kiện cần yếu là: (1) phải có sự can dự liên đới với các quốc gia không Cộng Sản trong khối Thịnh Vượng Chung Anh Quốc ở vùng Đông Nam Á Châu kể cả Anh Quốc; (2) Phải hoàn toàn thông suốt về mặt chính trị với Pháp và các Quốc Gia khác; (3) Cần phải được Quốc Hội Hoa Kỳ quyết nghị và chuẩn phê. 2.4 – Anh Quốc bác bỏ đề nghị hành động chung chống CS ở Đông Dương do Hoa Kỳ xướng xuất

Ngày 11/04/1954, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ F.Dulles sang Luân Đôn và Paris để mưu tìm sự thỏa thuận và nhất trí đề nghị của Hoa Kỳ về một hành động chung chống CS ở Đông Dương. VSTK - 3705


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11 12 13 14

15 16 17 18 19 20 21 22 23

24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35

36 37 38 39 40 41 42 43 44

45 46 47

Anh từ chối, sự từ chồi chắc chắn sẽ phải xảy ra bởi ở đây là trường hợp của kẻ ngu ngơ muốn đỗ trút trách nhiệm cho người khác vì cứ tưởng người khác khờ dại hơn mình Rõ ràng là Hoa Kỳ muốn đành lá bài co cụm mà Anh Quốc cũng muốn chơi trò né tránh vì cả hai cường quốc Tư bản nầy đang e ngại hai khối CS Quốc Tế khổng lồ đứng sau lưng CSVM đang làm mưa làm gió ở Đông Dương và lan tràn ảnh hưởng CS cho nhiều nước khác ở Đông Nam Á Châu như Mã Lai, Thái Lan, Phi Luật Tân, Miến Điện. Tướng H. Navarre đã ghi nhận về việc “đánh bài né chạy” của Anh và Hoa Kỳ như sau:7 Chính vì vậy, một cuộc tấn công ồ ạt của không lực Hoa Kỳ đã có lúc được dự kiến một cách nghiêm túc. Báo chí ở Pháp cũng như ở Mỹ nhiều lần nói đến sự gợi ý này. Tôi xin kể lại sự việc đó đã diễn ra như thế nào theo sự hiểu biết của tôi. Đề nghị đó được xuất phát từ Washington vào ngày đầu tháng tư khi tướng Ély gửi khẩn cấp một sĩ quan trực tiếp đến gặp tôi với nhiệm vụ báo cho tôi biết ý kiến của Lầu Năm Góc. Theo đó thì Lầu Năm Góc cho rằng sự can thiệp trực tiếp của Trung Quốc có thể biện minh cho sự can thiệp của Mỹ. Là người ủng hộ cuộc can thiệp của Mỹ, Ngoại trưởng Mỹ, lúc đó là ông Foster Dulles, trong một phát biểu nảy lửa trước Ủy ban Ngoại giao Hạ Nghị Viện đã tố cáo tính chất can thiệp trực tiếp qua sự chi viện của Trung Quốc, nhất là qua sự hiện diện của binh lính Trung Quốc trong việc điều khiển hệ thống phòng không tại các trận địa chung quanh Điện Biên Phủ. (Những lý lẽ của ông Foster Dulles hoàn toàn đúng với thực tế, đã được thể hiện như sau: 1. Một tướng của Trung Quốc có mặt tại Tổng hành dinh Quân đội Việt Minh chung quanh Điện Biên Phủ. 2. Dưới quyền ông là khoảng 20 chuyên gia kỹ thuật Trung Quốc cũng có mặt tại Bộ Chỉ huy này. Những chuyên gia khác cũng có mặt ở cấp sư đoàn. 3. Các đường dây điện thoại đặc biệt được các chuyên gia Trung Quốc lắp đặt và bảo trì. Những người điều hành đều là người Trung Quốc. 4. Một số lượng rất lớn súng cao xạ 37 ly được bố trí quanh Điện Biên Phủ. Các xạ thủ đều là người Trung Quốc. 5. Để chi viện cho trận đánh, có đến khoảng 1000 xe tải tiếp tế mà một nửa đến đấy từ ngày 1 tháng 3. Toàn bộ do lái xe Trung Quốc điều khiển. 6. Tất cả những chi viện nói trên được cộng thêm vào lực lượng pháo binh, đạn dược và trang thiết bị do quân đội Trung Quốc cung cấp).

Do tướng Ély yêu cầu tôi trả lời khẩn cấp quan điểm của mình, tôi đã phát biểu là, một hành động quân sự ồ ạt của Không lực Hoa Kỳ, nếu được thực hiện một cách nhanh chóng thì có khả năng giải cứu được Điện Biên Phủ. Cả vị Tổng ủy Pháp, người được tôi thông báo về tin tức này và tôi đều không tin rằng cuộc can thiệp của Mỹ vào lãnh thổ Việt Nam sẽ có nguy cơ tạo ra một cuộc đối kháng toàn cầu. Cũng như ở Triều Tiên và Berlin vào thời kỳ xảy cuộc phong tỏa Berlin, Chủ nghĩa Cộng sản sẽ không thể nào vì một sự kiện như vậy mà phát động cuộc chiến tranh thế giới mà họ không hề muốn nổ ra vào giai đoạn đó. Chỉ riêng sự có mặt của các xạ thủ Trung Quốc sử dụng súng cao xạ là sự thể hiện một cuộc can thiệp trực tiếp của Trung Quốc. Ngoài ra, tất cả những gì họ làm đều tương tự như những gì chúng ta nhận được từ người Mỹ. Tuy VSTK - 3706


1 2

3 4 5

6 7 8 9 10

11 12 13 14 15

16

17 18 19

20 21 22

23 24 25 26 27 28 29 30 31 32

33 34 35 36 37 38 39 40 41 42

nhiên, chỉ riêng sự hiện diện rõ ràng này đủ để biện minh cho một cuộc can thiệp của Mỹ. Chính phủ Pháp cho tôi biết là họ chia sẻ quan điểm này và họ yêu cầu sự can thiệp của Mỹ. Nhưng hình như chính phủ Pháp chỉ nói để nói thôi, chứ không nhấn mạnh đến việc này. Một cuộc tấn công bằng không lực được nghiên cứu chi tiết ở Sài Gòn và cả ở Hà Nội với sự có mặt của các chỉ huy không lực Mỹ tại Thái Bình Dương. Trong thời gian chờ đợi họ được lệnh liên lạc với tôi. Họ dự kiến sử dụng 300 máy bay khu trục ném bom xuất phát từ tàu sân bay và 60 máy bay ném bom hạng nặng cất cánh từ Philippines. Do sự yếu kém của cơ sở hạ tầng về Ra-đa của ta, nên không thể có chuyện sử dụng hỏa lực của không quân Mỹ đánh vào các trận địa pháo mặt đất và phòng không đối phương nằm cạnh cứ điểm Điện Biên Phủ, nhưng theo quan điểm của các tướng Mỹ thì sử dựng không quân đánh vào các đường tiếp tế và nhất là căn cứ Tuần Giáo là một điều khả thi và có khả năng rất hiệu quả. Nhưng lệnh tấn công đã không bao giờ được ban ra. Như vẫn xảy ra ở phương Tây, việc bàn tính như vậy luôn bị rò rỉ tin tức. Các dân biểu ở cả Paris và Washington đều đã tỏ ra “xúc động” và có ý kiến can thiệp ngay với chính phủ. Và lẽ tất nhiên báo chí cũng đã tiết lộ việc này. Và sau nhiều sự do dự lâu dài - chỉ những do dự này cũng đủ làm cho cuộc hành quân mất đi tính hiệu quả của nó. Chính phủ Mỹ không dám đi theo con đường mà các cố vấn quân sự của họ đề xuất Vào lúc này, người Mỹ phải che đậy sự tháo lui của mình. Để làm việc này, người Mỹ tuyên bố họ chỉ can thiệp khi nào các nước khác chấp nhận một hành động chung với họ. Thật ra đây cũng chỉ là một cái cớ thoái thác dựa vào sự không can thiệp của nước Anh. Nếu không có sự có mặt của nước Anh, thì không thể có một mặt trận thống nhất ở châu Á. Với lý lẽ đó, Mỹ đã yêu cầu sự nhất trí của nước Anh, nếu không thì ít nhất cũng là sự tham gia một cách tượng trưng của nước này, và người ta đã lấy cớ nước Anh từ chối - sự từ chối chắc chắn đã được biết trước - để không can thiệp nữa. Việc “đánh bài chuồn” của Anh và Mỹ đã gây ra ở Đông Dương một sự kinh ngạc nặng nề về mặt tinh thần - đối với dân chúng và quân đội ở đấy. Đây là bằng chứng cho thấy chúng ta phải chiến đấu một mình. Mỹ chỉ muốn nhận sự rủi ro rất hạn chế, chỉ gánh vác về mặt tài chính thôi. Chính sách này đã được khẳng định bằng một phát biểu trơ trẽn đến ngây ngô của Phó Tổng thống Nixon trong một bài diễn văn ở Cincinnati ngày 20 tháng tư: “Mục tiêu mà chính phủ Mỹ đặt ra là thi hành một chính sách để không phải đưa binh sĩ Mỹ đến chiến đấu ở Đông Dương hay bất cứ một nơi nào khác”. Người ta không thể nói một cái gì hay hơn những lời nói trên để biện minh cho sự thoái thác này! Còn nước Anh thì không muốn nhận một sự rủi ro nào cả. Điều này có nghĩa là họ muốn chúng ta làm “công chùa” cho họ trong việc bảo vệ quyền lợi của họ ở vùng Đông Nam châu Á.

*

VSTK - 3707


II/ GIAI ĐOẠN CUỐI CÙNG NƠI MẶT TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ 1

2

3

4

5

6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47

Đây là giai đoạn bộ đội CSVM đồng loạt tấn công tất cả các phòng tuyến cứ điểm Điện Biên Phủ và là báo hiệu sự thất thủ của toàn thể tập đoàn quân binh chiến đấu của Pháp-Việt đồn trú tại nơi đây. Trong sách Đông Dương Hấp Hối, tướng Henri Navarre đã viết lại sự thất thủ nầy như sau:8 Các đường hào song song để làm bàn đạp xuất kích của đối phương áp sát phòng tuyến của ta. Các đơn vị của họ được bổ sung và viện trợ quan trọng để bù vào thiệt hại. Kho đạn dược của họ được tổ chức lại. Đối đầu với những đơn vị Việt Minh chỉ là những đơn vị bị suy yếu, hoàn toàn đuối sức về mặt thể chất. Pháo binh của ta một phần đã bị tiêu diệt và khả năng tiếp tế đạn rất hạn chế. Ngày 1 tháng 5, Bộ Chỉ huy Việt Minh tung ra một cuộc tổng tấn công. Sau những trận đánh kéo dài suốt ngày, tất cả vùng ngoại vi của cụm trung tâm bị tràn ngập. Các cuộc phản công chỉ có thể chiếm lại một số vị trí nhỏ. Bị đặt vào một tình thế phải lựa chọn, hoặc nhìn thấy trận đánh chấm dứt vì thiếu lương thực, hoặc kéo dài thêm vài ngày nhờ vào quân tiếp viện, theo yêu cầu của tướng Cogny tôi quyết định thả thêm từ ngày 2 tháng 5 một tiểu đoàn thứ năm (tiểu đoàn 1 BPC). Nhưng vì khó khăn càng lúc càng gia tăng - do sự thu hẹp các bãi đáp, chỉ phân nửa tiểu đoàn được thả xuống. Một sự yên tĩnh tương đối đã diễn ra từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 5 và trong đêm 6 rạng ngày 7 tháng 5, toàn bộ tập đoàn cứ điểm bị tấn công khốc liệt ở khắp vòng chu vi. Những quả đấm chính được dồn về mặt phía đông. Cùng lúc, pháo được bắn với cường độ khủng khiếp vào “Isabelle”, nơi pháo binh ta gần như đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Vào rạng sáng, tình hình trở nên tuyệt vọng, các cuộc tấn công không suy giảm chút nào. Chúng được nối tiếp nhau liên tục cho đến phút cuối cùng. Cụm trung tâm của Điện Biên Phủ thất thủ ngày 7 tháng 5 khoảng giữa 17 giờ và 19 giờ. Không có sự đầu hàng cùng một lúc, nhưng các trận đánh đã dừng lại dần dần theo sự thất thủ của từng điểm tựa. Lực lượng đồn trú tại “Isabelle” tìm cách mở đường máu khi màn đêm buông xuống nhưng thất bại. Việc liên lạc vô tuyến với lực lượng này chấm dứt vào lúc 2 giờ sáng ngày 8 tháng 5. *** Chúng ta bị thiệt hại khoảng 16.000 người, trong đó có 1500 người chết, 4.000 người bị thương. Đó là quân số của 16 tiểu đoàn (có 7 tiểu đoàn nhảy dù), hai đơn vị pháo 105 ly cộng với một khẩu đội 155 ly, một phân đội xe tăng và các phân đội thuộc các binh chủng và đơn vị phục vụ khác. Rất khó xác định chính xác sự thiệt hại của đối phương. Một cuộc nghiên cứu chi tiết cho thấy ít nhất 20.000 người đã bị loại ra khỏi vòng chiến, trong đó có khoảng từ 8.000 đến 10.000 người chết. Những tin tức sau này cho phép ước tính từ 10.000 đến 12.000 người chết. Đó là những con số gần đúng với thực tế hơn, có khả năng cao hơn. Về mặt số lượng, thiệt hại của Việt Minh cao hơn chúng ta rất nhiều. Về chất lượng quân lính thì thiệt hại của họ cũng không thua gì chúng ta.

48

VSTK - 3708


1 2 3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

Nếu ta mất những đơn vị thiện chiến (lính Lê dương, Bắc Phi và nhảy dù) thì họ cũng bị mất một phần lớn các sư đoàn tinh nhuệ nhất (308312) cùng những cán bộ tốt nhất.

Nếu điều tệ hại đã xảy ra, nếu các điều dự kiến bị đảo lộn ở Điện Biên Phủ thì chính là do chính phủ Pháp đã không thèm đếm xỉa gì tới ý kiến của các chức quyền quân sự ở Đông Dương mà đã co cụm, vội vã một mình đưa đầu vào cái thòng lọng của Hội Nghị Geneva khiến cho CSVM lên tinh thần và với sự thúc giục của các cố vấn quân sự kèm theo sự tăng viện ồ ạt của CSTQ từ phía bên kia biên giới Việt-Trung, CSVM đã tung ra hết nhân lực và bộ đội của họ để triệt hạ cứ điểm Điện Biên Phủ, tạo một chiến thắng vang dội với mục đích làm thành món quà cho phái đoàn CS tham dự Hội Nghị Geneva về Đông Dương. Khi Hội Nghị Geneva về Đông Dương đang trong tình trạng chuẩn bị thì thủ tướng CSTQ Chu Ấn Lai gửi công điện hỏi trưởng đoàn cố vấn quân sự CSTQ Vi Quốc Thanh như sau: “Để giành chủ động về ngoại giao, có thể tổ chức mấy trận tháng đẹp ở Việt Nam như trước khi đình chiến ở Triều Tiên không?” Ngày 03/03/1954, sau khi nhận được bức điện chỉ thị đó của Chu Ấn Lai do Bộ Tổng Tham Mưu CSTQ chuyển đến, Vi Quốc Thanh cho rằng, để phối hợp với đấu tranh đàm phán ở hội nghị Geneva, cần phải nỗ lực lớn nhất, tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ.9 Đêm 06/5/1954, Vi Quốc Thanh cho rằng, thời cơ tổng công kích Điện Biên Phủ đã chính muồi cho nên quyết định ra lệnh cho bộ đội CSVM toàn lực tiến công. Lúc nầy bộ đội đã ngày đêm cật lực đào xong đường hầm thông suốt tiến sát vào trung tâm tập đoàn chỉ huy của Pháp của cứ điểm Điện Biên Phủ và cuộc tổng công kích trên toàn tuyến bắt đầu. Tất cả hỏa pháo của CSVM kể cả hỏa tiễn 17 óng phóng của CSTQ trang bị vừa mới dược chở ra tiền tuyến cùng loạt nã vào trận địa quân Pháp. Sáng ngày 07/05/1954 toàn bộ quân Pháp ở cứ điểm Châu Ôn, Na Nông, Đồi 506 bị tiêu diệt toàn bộ, bộ đội CSVM tràn ngập sân bay Mừng Thanh. Chiều ngày 7/05/1954, tiếng súng kháng cự từ hầm chi huy của tướng De Castries ngừng nổ và tiếng súng kháng cự khác cũng tắt hẳn: Điện Biên hoàn toàn thất thủ, bộ đội CSVM phất cờ chiến thắng trên nóc hầm chỉ huy của VSTK - 3709


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45

tướng De Castries. Cùng ngày 07/04/1954, đại đoàn 304 bộ đội CSVM pháo kích và xung phong biển người vào cứ điểm Hồng Cúm (Isabelle), quân đồn trú mở đường máu, phá vòng vây để chạy thoát nhưng cũng bị tràn ngập và không còn kháng cự từ lúc 2 giờ sáng 08/05/1954.9bis Nếu không có hội nghị Geneva và viện trợ súng đạn ồ ạt của CSTQ thì Võ Nguyên Giáp không bao giờ nghĩ tới việc dùng chiến thuật biển người ở Điện Biên Phủ như trước đây trong các trận đánh cứ điểm Nà Sản hay ở Cánh Đồng Chum.10 Tuy nhiên khi viết lại chiến thắng Điện Biên Phủ, Đảng CSVN đã không đề cặp gì đế sự viện trợ vũ khí và sự hiện diện của các cố vấn quân sự của CSTQ trong các đơn vị bộ đội CSVM:11 Ngày 25/1/1954, các đơn vị bộ đội ta ở vị trí tập kết sẵn sàng nổ súng theo phương châm tác chiến “đánh nhanh, giải quyết nhanh”. Nhưng nhận thấy địch đã tăng cường lực lượng phòng ngự vững chắc, Bộ Chỉ huy và Đảng uỷ chiến dịch đã đưa ra quyết định mới: giữ vững quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, thay đổi phương châm tác chiến sang “đánh chắc, tiến chắc”. Thực hiện phương châm mới, trận quyết chiến Điện Biên Phủ đã diễn ra trong 3 đợt: Từ ngày 13 đến 17/3/1954, quân ta đã dũng cảm tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam và đồi Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ cửa ngõ phía bắc của tập đoàn cứ điểm, diệt và bắt sống trên 2000 tên địch, phá hủy 25 máy bay, xóa sổ 1 trung đoàn, uy hiếp sân bay Mường Thanh. Từ ngày 30/3 đến ngày 30/4/1954, quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm phía đông phân khu trung tâm, thắt chặt vòng vây, chia cắt và liên tục tiến công, kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế tiếp viện của địch cho tập đoàn cứ điểm. Đây là đợt tấn công dai dẳng, dài ngày nhất, quyết liệt nhất, gay go nhất, ta và địch giành giật nhau từng tấc đất, từng đoạn giao thông hào. Đặc biệt tại đồi C1 ta và địch giằng co nhau tới 20 ngày, đồi A1 giằng co tới 30 ngày. Sau đợt tấn công thứ 2 khu trung tâm Điện Biên Phủ đã nằm trong tầm bắn các loại pháo của ta, quân địch rơi vào tình trạng bị động, mất tinh thần cao độ. Từ ngày 1/5 đến ngày 7/5/1954, quân ta đánh chiếm các cứ điểm phía đông và mở đợt tổng công kích. Đêm ngày 6/5, tại đồi A1 trận chiến đấu giữa ta và địch diễn ra quyết liệt, quân ta xông lên tiêu diệt từng lô cốt, nổ phá từng hầm ngầm. Tên quan tư chỉ huy đồi A1 và khoảng 400 tên địch còn sống sót đã ra đầu hàng. 17 giờ 30 phút ngày 7/5, ta chiếm sở chỉ huy trung tâm, tướng Đờ Ca-xtơ-ri cùng toàn bộ Bộ Tham mưu và binh lính tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ kéo cờ trắng ra hàng. Lá cờ “quyết chiến, quyết thắng” của quân đội ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy của địch. Ngay trong đêm đó quân ta tiếp tục tiến công phân khu Nam, đánh địch tháo chạy về Thượng Lào, đến 24 giờ toàn bộ quân địch đã bị bắt làm tù binh. Sau 55 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ô tô và toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang, VSTK - 3710


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25

quân dụng của địch. Ngày 7/5/1954 trở thành ngày kỷ niệm kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, chiến thắng Điện Biên Phủ là một trong những đỉnh cao chói lọi, một kỳ tích vẻ vang. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là chiến thắng vĩ đại nhất, giáng đòn quyết định, tạo bước ngoặt làm thay đổi cục diện chiến tranh trực tiếp đưa đến việc ký kết Hiệp định Giơnevơ chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ; chấm dứt hoàn toàn ách xâm lược của thực dân Pháp trên bán đảo Đông Dương; bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng tháng Tám; giải phóng miền Bắc, tạo cơ sở vững chắc để tiến lên giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã củng cố niềm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân chiến đấu dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Chiến thắng Điện Biên Phủ mang tầm vóc thời đại, góp phần to lớn vào phong trào đấu tranh vì hoà bình, tiến bộ của nhân loại, đây là là chiến thắng chung của các nước trên bán đảo Đông Dương, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ xã hội trên toàn thế giới. Chứng minh một chân lý của thời đại: các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng đắn, sáng tạo, biết đoàn kết đấu tranh vì độc lập tự do thì dân tộc đó nhất định giành thắng lợi.

* 26 27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40 41 42 43

III/ TÌNH HÌNH QUÂN SỰ, CHÍNH TRỊ TRƯỚC VÀ SAU KHI ĐIỆN BIÊN PHỦ THẤT THỦ.

1- Tình hình quân sự

Kể từ lúc chiến sự Điện Biên Phủ gia tăng cường độ bởi sự tấn công ồ ạt của bộ đội CSVM, tướng Navarre với sự tán đồng của Tổng Cao ủy Dông Dương Dejean đã gửi một bức điện tín đề ngày 16/03/1954 cho chính phủ Pháp ở Paris về tình hình có thể xảy ra cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ kèm theo đề nghị những dự kiến mà chính phủ Pháp cần phải có để đối phó. Những dự kiến nầy cũng được cá nhân tướng Navarre viết thư riêng gửi đến Marc Jacket Tổng Trưởng đặc trách các Quốc Gia Liên Kết, Thống Chế Juin và tướng Ély, Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội Pháp. Quan điểm mà tướng Navarre luôn luôn nhấn mạnh có thể tóm tắt như sau:12 Nếu Điện Biên Phủ sụp đổ, chiến dịch 1953-1954 sẽ tự nó kết thúc từ một sự xáo trộn chiến thuật rất nghiêm trọng, nhưng nó cứu được nước Lào và giúp tránh được những sự xáo trộn quan trọng cho vùng châu thổ và vùng trung tâm Đông Dương. Ngoài ra, trên tất cả những chiến tuyến khác ngoài VSTK - 3711


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28

Điện Biên Phủ, quân Pháp đã đứng vững và không có một cứ điểm nào bị mất. Số binh đoàn tác chiến của Việt Minh bị thiệt hại đã vượt cao quá nhiều so với sự thiệt hại của số binh đoàn tác chiến Pháp. Vậy thì, về mặt chiến lược, quân Pháp sẽ không cần phải e ngại gì về sự thất bại không thể khắc phục được. Nhưng sự thất thủ của cứ điểm Điện Biên Phủ sẽ là một sự choáng váng xúc động về mặt tâm lý vừa khắc nghiệt lại vừa có tính cách ngoạn mục rất mạnh. Điều quan trọng là cần phải tránh được một một sự choáng váng xúc động về mặt tâm lý gây ra sự sụp đổ về mặt tinh thần của nước Pháp dẫn đến một sự thất bại về mặt quân sự, hoặc một sự chấp nhận bằng mọi giá một nền hòa bình mà trên thực tế tình hình không đến mức tồi tệ để hành động như thế. Do đó, việc chủ yếu là nước Pháp và các Quốc gia Liên kết phải xác định mạnh mẽ quyết tâm của mình theo đuổi cuộc chiến và thông cáo ngay lập tức dự định của mình về những biện pháp cần thiết. Về mặt chính trị, quyết tâm này phải được thể hiện bằng sự chuẩn bị về mặt tâm lý cho dư luận quần chúng.* Về mặt quân sự, quyết tâm này phải được thực hiện bằng sự giữ vững các vị trí của chúng ta trên toàn lãnh thổ Đông Dương; kế đến là sự chuẩn bị để gửi thêm chi viện - trong trường hợp hội nghị Genève diễn biến chậm. Tất cả những việc trên không ngăn cản việc tìm kiếm hòa bình thông qua thương thuyết, vì những cuộc thương thuyết đó đã bắt đầu, nhưng điều quan trọng là chúng không được tiến hành trong không khí bại trận. Cho dù chính phủ đã không làm gì để thực hiện những gợi ý nói trên và cho dù họ đã không trả lời một cách chính thức nhưng qua thái độ của họ, cũng như qua những bức thư có tính cách cá nhân được những nhân vật có trách nhiệm gửi đến cho tôi, tôi có thể cho rằng quan điểm đó đã được chấp thuận trên nguyên tắc. ------------* Trong một công văn đề ngày 21 tháng 4, báo cáo cho chính phủ, về tình hình ngay trước khi hội nghị Genève nhóm họp, Navarre viết: “Vì sự thiệt hại của đối phương quá lớn nên lúc này đã là quá trễ để các sư đoàn của Việt Minh sau khi dự xong chiến dịch Điện Biên Phủ có thể tiến đánh vùng Bắc Lào hoặc quay trở về vùng châu thổ với những khả năng tấn công nguy hiểm. Sự thất thủ Điện Biên Phủ có thể mang lại những hậu quả nghiêm trọng hơn vào thời điểm này chỉ khi nào nước Pháp và Việt Nam để bị buông trôi theo tinh thần mệt mỏi và ý muốn bỏ cuộc”.13

29

2- Tình hình chính trị

30

2.1- Liên Hiệp Pháp và Quốc Gia Việt Nam

31

32

33

34

35

36

37

38

39

Kể từ ngày 22/02/1954, Quốc Trưởng Bảo Đại (QTBĐ) chỉ định một phái đoàn thương thuyết với Pháp để thu hồi chủ quyền độc lập hoàn toàn cho Quốc Gia Việt Nam. Thủ tướng Bửu Lộc trưởng đoàn, Nguyễn Trung Vinh phó trưởng đoàn và nhiều ủy viên khác gồm có: Nguyễn Quốc Định, Phan Huy Quát, Nguyên Đắc Khê, Dương Tấn Tài. Trước đây, ngày 17/12/1953 QTBĐ yêu cầu cựu Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm từ chức và cử hoàng thân Bửu Lộc từ Paris về nước lập nội các mới kể từ ngày 12/01/1954. Nội các Bửu Lộc gồm có:14 VSTK - 3712


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

Bửu Lộc: Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Nội Vụ. Nguyễn Trung Vinh: Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Canh Nông và Cải Cách Điền Địa. Nguyễn Đệ: Quốc Vụ Khanh. Phan Huy Quát: Tổng Trưởng Quốc Phòng. Nguyễn Đắc Khê: Tổng Trưởng Đặc Trách Thực Hiện Dân Chủ. Nguyễn Quốc Định: Tổng Trưởng Ngoại Giao. Dương Tấn Tài: Tổng Trưởng Tài Chánh. Nguyễn Văn Tỵ: Tổng Trưởng Kinh Tế Quốc Gia. Nguyễn Văn Đạm: Tổng Trưởng Tư Pháp. Lê Thăng: Tổn Trưởng Thông Tin. Lê Quang Huy: Tổng Trưởng Giao Thông và Công Chính. Tấn Hàn Nghiệp: Tổng Trưởng Y Tế. Phạm Văn Huyền; Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Xã Hội. Đinh Xuân Quảng: Quốc Vụ Khanh Phụ Trách Nội Vụ. Vũ Quốc Thúc: Quốc Vụ Khanh Phụ Trách Quốc Gia Giáo Dục.

Các giáo phái từ chối không tham gia vào nội các mới của Bửu Hội mặc dù có sự tham gia của 2 thành viên của đảng Đại Việt. Cùng ngày 17/12/1953, ở Paris, quốc Hội Pháp sau hơn một tuần lễ cải vã kỳ kèo giữa những đại biểu của các đảng phái, vào ngày 23/12/1953 René Coty đã được Quốc Hội biểu quyết chọn làm

Tổng Thống nước Pháp Đệ Tứ Cộng Hòa thay thế nguyên Tổng Thống V.Auriol.15 Suốt trong tháng 02/1954, rất nhiều nhân vật quan trọng trong chính phủ Pháp liên tiếp đến gặp QT Bảo Đại (QTBĐ) ở Đà Lạt và ở Ban Mê Thuột; trong số đó có Bộ Trưởng Quốc Phòng Pháp Pleven. Ngay sau khi Pleven trở về Paris, vào ngày 05/03/1954 thủ tướng Pháp Laniel đã tuyên bố trước Quốc Hội Pháp một cách khẳng định rằng vấn đề xung đột ở Đông Dương phải được Pháp giải quyết bằng con đường điều đình. Lời tuyên bố nầy không những gây hoang mang lo nghĩ cho những người Việt Nam không Cộng Sản nhất là trong quân đội non trẻ của Quốc Gia Việt Nam đồng thời còn tạo thêm một hậu quả xấu khác là tình trạng lợi dụng thời cơ đón gió của những phần tử Quốc Gia Cực Đoan đòi hỏi quyền lực điều hành guồng máy chính quyền hoặc khăn khăn đòi dứt khoác ngay tức thì với người Pháp. Trong một bối cảnh bất lợi cho nền độc lập toàn vẹn lãnh thổ của người dân Việt Nam như thế, sau khi đã cử Thủ Tướng Bửu Hội cầm đầu một phái đoàn Việt Nam sang Paris để thương thuyết với chính phủ Pháp về việc Pháp trao trả độc lập hoàn toàn VSTK - 3713


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

cho Quốc Gia Việt Nam từ Nam chí Bắc, ngày 29/03/1954, QTBĐ đã lập thêm một cơ quan mới gọi là Bộ Chiến Tranh các do chính QTBĐ nấm giữ và bao gồm các nhân vật chủ yếu của bộ Quốc Phòng và Tham Mưu Trưởng Quân Đội Quốc Gia Việt Nam Nguyễn Văn Hinh và, để hỗ trợ cho phái đoàn thương thuyết của Thủ Tướng Bửu Lộc, QTBĐ quyết định sang Pháp. Ngày 11/04/1954 QTBĐ tới Cannes rồi tới Paris vào ngày 16/04/1954.16 Tại Paris, QTBĐ gặp Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Foster Dulles và được Dulles trấn an là Hoa Kỳ không có một sự nhân nhượng nào đối với CSTQ. Ngày 24/04, Ngoại Trưởng Pháp G. Bidault gửi văn thư đến Ngoại Trưởng Nguyễn Quốc Định trong phái đoàn thương thuyết Việt Nam ở Paris để chính thức thông tri những hoạch định của của chính phủ Pháp thực hiện trong tiến trình hòa đàm nơi Hội Nghị Geneva về vấn đề Đông Dương. Ngày 26/04/1954 Nội Các Chiến Tranh do QTBĐ thiết lập đưa ra một Thông Tư để xác định lập trường của chính phủ Quốc Gia Việt Nam về vấn đề hòa đàm tại Hội Nghị Geneva sắp khai mạc. Nội dung Thông Tư nầy xác quyết rằng Quốc Gia Việt Nam sẽ không chấp nhận bất cứ hình thức đàm phán nào do chính phủ Pháp đưa ra trái ngược với các nguyên tắc của cộng đồng Liên Hiệp Pháp để đàm phán với những tập đoàn quân phiến loạn phản bội đất nước Việt Nam hay phải chịu đàm phán với bất cứ những thế lực thù nghịch nào đối với đất nước nầy. Thông Tư tố cáo những mưu đồ chia cắt đất nước Việt Nam giống như đã xảy ra cho quốc gia Triều Tiên hoặc là những kế hoạch tập trung quân từng phần trên những vùng lãnh thổ khác nhau của Quốc Gia Việt. Thông Tư kết luận rằng Quốc Trưởng cũng như Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam không bị ràng buột bởi những quyết định không đáp ứng được nền độc lập đích thực và toàn vẹn đất nước.17 Những lời lẽ trong thông tư của QTBĐ chỉ là tiếng kêu gào nổi lên trên “vùng đất hoang địa Đông Dương”, là những giọt nước đỗ lên đầu vịt, là những tiếng đàn khảy tai trâu bởi vì mọi sự việc sắp xảy ra trên phần đất Đông Dương đều đã được các thế lực ngoại bang sừng sỏ kỳ kèo, trả giá và sắp xếp hết cả rồi trước VSTK - 3714


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

khi Hội Nghị Geneva về Đông Dương bắt đầu. Việt Nam, Cao Miên và Lào chỉ lả những vai phụ chầu rìa. Tổng Trưởng Quốc Phòng Pháp Marc Jacquet đã đánh tiếng cho QTBĐ biết rằng ngoại trưởng Pháp Bidault đã gặp ngoại trưởng CS Liên Sô Molotov và Molotov ra điều kiện là CSVM phải có mặt nơi bàn hội nghị Geneva. Hoa Kỳ và CS Liên Sô cũng đã có những thỏa thuận từ Hội Nghị Berlin trong khi họp bàn về vấn đề Triều Tiên: tất cả mọi việc đều đã được an bày. Marc Jacket còn lưu ý thêm rằng chính Hoa Kỳ sẽ áp đặt nhiều điều kiện bất lợi cho Quốc Gia Việt Nam. Đúng như lời báo động có tính cách hăm dọa của M.Jacket, Bộ Trưởng Ngoại Giao Pháp đã phái Đổng Lý Văn Phòng Pierre Falaise đến Cannes yêu cầu QTBĐ cắt cử một phái đoàn chính phủ Quốc Gia Việt Nam tham dự Hội Nghị Geneva đồng thời cũng phải cho Pháp biết QTBĐ đứng trên vị thế nào và với tư cách gì để phản đối sự hiện diện của phái đoàn CSVM tham dự Hội Nghị. Đại sứ Hoa Kỳ D.R.Healt cũng có những lời lẽ can thiệp hăm dọa tương tựa. QTBĐ phải chịu nhượng bộ cử nhiệm chính thức phái đoàn Quốc Gia Việt Nam do Ngoại Trưởng Quốc Định cầm đầu tham dự Hội Nghị Geneva nhưng không thể dị nghị gì thêm được nữa đối với sự hiện diện của phái đoàn CSVM mặc dù Trưởng Đoàn Quốc Gia Việt Nam Nguyễn Quốc Định có đặt vấn đề nầy với các trưởng đoàn Anh, Pháp, Hoa Kỳ vào ngày 03/05/1954.18 Hoa Kỳ bỏ rơi Pháp nơi trận địa Điện Biên Phủ và Anh cũng không cần biết là Điện Biên Phủ còn hay mất. Cả hai đại cường quốc tư bản nầy chỉ chú tâm vào việc chận đứng làn sóng đỏ CSTQ lan tràn xuống khắp Đông Nam Á, một vùng đất mà cả hai nước nầy đều có quyền lợi cần phải bảo vệ. Hoa Kỳ chỉ hăm he nhưng lại muốn trao tiếng ác cho Pháp bằng cách đánh tiếng cung cấp cho Pháp một loại “vũ khí mới” bằng máy bay Hoa Kỳ nhưng che giấu thân các máy bay bằng cách xoá bỏ phù hiệu không quân Hoa Kỳ để dội “vũ khí mới” nầy lên các đơn vị bộ đội CSVM đang bao vây cứ điểm Điện Biên Phủ. Dĩ nhiên là Pháp không chấp nhận một đề nghị vô lương như thế. Tại sao như thế? Hoa Kỳ sợ CSTQ? Hoa Kỳ không sợ CSTQ vì CSTQ chưa có vũ khí hạt nhân nhưng sau lưng CSTQ là CS Liên Sô đã có bôm hạt nhân từ 29/08/1949. Hơn nữa, Hoa Kỳ không muốn VSTK - 3715


1

2

3

4

5

6

7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

bị mang tiếng là chỉ dùng bôm nguyên tử để đè bẹp các dân tộc chậm tiến ở Á Châu mà thôi. Mỹ chỉ hăm he, đe dọa dùng loại “vũ khí mới” đối phó với CSTQ để khỏi mang tiếng là bỏ rơi Đồng Minh của mình ở Đông Nam Á Châu. Một cố vấn quân sự CSTQ là Trương Quảng Hoa trong bài viết Trần Canh Trong Viện Trợ Việt Nam Chống Pháp đã ghi lại trong hồi ký như sau: “Công sự của Việt Nam (tức CSVM) ngày càng áp sát địch, không ít trận địa địch bị quân đội Việt Nam đánh chiếm, liên hệ giữa phân khu Nam và phân khu trung tâm của địch bị cắt đứt, sân bay Mường Thanh bị khống chế, cuối cùng diện tích địch khống chế ở phân khu trung tâm Mường Thanh chỉ còn khoảng một cây số vuông. Vào giờ phút quan trọng nầy để cứu vãn quân Pháp ở Điện Biên Phủ, đế quốc Mỹ đưa hai tàu hàng không mẫu hạm vào vịnh Bắc Bộ để đe dọa, chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ đưa ra kế hoạch sử dụng máy bay ném bom chiến lược B-29 dội bom xuống quân đội Việt Nam ở Điện Biên Phủ và bắn tin sẽ sử dụng bom nguyên tử, nhưng do sợ nhân dân thế giới phản đối trên thực tế không dám manh động”.19

Riêng Anh Quốc thì còn dính líu nặng nề hơn với CSTQ vì những quyền lợi từ Hồng Kong, một vùng lãnh thổ của Trung Quốc đang bị đế quốc tư bản Anh khai thác dưới chiêu bài thuê mướn dài hạn. Anh Quốc không muốn cứu nguy Pháp mà cũng không theo lời đề nghị của Hoa Kỳ hành động chung ngay tức khắc chống CS lan tràn khắp Đông Dương và Đông Nam Châu Á. Thái độ của Anh Quốc là một thái độ ích kỹ, cháy nhà hàng xóm bình chân như vại bởi vì lửa CS chỉ mới đang cháy mạnh theo hướng gió thổi về hướng phần đất Đông Dương mà thôi chứ chưa lan tràn mạnh khắp vùng Đông Nam Châu Á trong đó có Thái Lan và Mã Lai là hai nơi mà Anh Quốc có quyền lợi. Thái độ lạnh lùng đó của chính quyền vương quốc Anh đối với số phận của Đông Dương có thể tìm thấy trong bản điều trần của ngoại trưởng Anh Antony Eden ngày 25/04/1954 và được Toàn thể Hội Đồng Chính Phủ và thủ tướng Anh W.Churchill tán thành và phê chuẩn. Toàn văn bản điều trần gồm có 8 điều với nội dung như sau: 20 1.

37 38 39

VSTK - 3716

Chính phủ Anh không coi Thông Cáo Chung Luân Đôn (giữa Hoa Kỳ và Anh ngày 14/04/1954) như là sự thỏa thuận của Chính Phủ Anh tham gia tiến trình bàn thảo về việc Đồng Minh có thể can dự vào chiến cuộc Đông Dương.


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

Hiện giờ Chính phủ Anh không sẵn sàng để tham gia bất cứ một trách vụ nào có liên hệ đến hoạt động quân sự của Vương Quốc Anh ở Đông Dương trước khi Hội Nghị Geneva khai mạc. 3. Tuy nhiên có thể chính phủ Anh sẽ ủng hộ tối đa phái đoàn Pháp về mặt ngoại giao tại Hội Nghị Geneva trong những cố gắng đạt tới một giải pháp danh dự. 4. Hiện giờ chính phủ Anh chỉ có thể xác quyết rằng, nếu đạt được một giải pháp tại hội nghị Geneva, chính phủ Anh sẽ cùng chung tham gia vào việc bảo đảm cho giải pháp đó và bằng cách thiết lập một sự phòng thủ chung ở Đông Nam Á như đã đề ra trong Thông Cáo Chung Luân Đôn trước đây, khiến cho sự cùng chung bảo đảm như thế được hữu hiệu. 5. Chinh phủ Anh hy vọng rằng bất cứ sự dàn xếp nào tại Hội Nghị Geneva thì ít ra nó sẻ có thể khiến cho sự bảo đảm chung được áp dụng trên một phần lớn lãnh thổ Đông Dương. 6. Nếu đạt được sự dàn xếp như thế chính phủ Anh sẽ sẵn sàng vào thời điểm đó để cứu xét với các Đồng Minh của Anh đề ra một hành động chung cần thiết trong hoàn cảnh đang xảy ra. 7. Tuy nhiên, hiện giờ chính phủ Anh không thể xác quyết về phần Vương Quốc Anh có thể sẻ có một hành động trong trường hợp sự thỏa thuận đình chiến ở Đông Dương bị thất bại . 8. Hiện giờ Chính phủ Anh có thể sẵn sàng cùng chung với Chính phủ Hoa Kỳ nghiên cứu các biện pháp để bảo đảm cho việc bảo vệ nước Xiêm (Thái Lan) và phần còn lại của vùng Đông Nam Á, bao gồm nước Mã Lai, trong trường hợp một phần hay toàn thể lãnh thổ Đông Dương bị mất. * 2.

Pháp thì cứ khư khư muốn bám giữ Đông Dương và chê trách, tố cáo Anh và Hoa Kỳ muốn ngồi nhà mát ăn bát vàng, mặc kệ để cho Pháp một mình chống Cộng Sản ở Đông Dương. Anh và Pháp ở Tây phương đã tự cách ly nhau, không thể nào tạo thành một mặt trận chung. Như vậy, nước Pháp phải đi đến tham dự Hội Nghị Geneva “trong vị thế của kẻ bại trận mà trong tay chỉ có hai lá chủ bài là 2 chuồn và 3 rô”. (Aussi Bidault allait négocier non seulement dans la défaite, mais avec“à peine une carte entre les mains, peut être tout au plus, disait-il, un deux de trèfle, et un trois de carreau”.)21

37

KHẢO LUẬN

ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ BOM NGUYÊN TỬ 38

39

40

41

Câu hỏi đặt ra: Có khi nào bom nguyên tử được Hoa Kỳ đề nghị hay dự định xử dụng trong chiến cuộc ĐBP hay không? Đây là một câu hỏi gây ra nhiều thắc mắc nghi ngờ cho những người viết sử chân chính kể từ năm 1945. Trong tập tài liệu “Commentaire”, De VSTK - 3717


1

2

3

4

5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18

19

20

21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46

47

48

Berne à Paris (1952/1963) tác giả Jean Chauvel, nguyên là trưởng phái đoàn Pháp ở Hội nghị Geneva/ 1954 đã kể lại vào ngày 24/04/1954 ngoại trưởng Hoa Kỳ F.Dulles đề nghị với ngoại trưởng Pháp G. Bidault rằng Hoa Kỳ chuyển giao cho Pháp “hai quả bom” nguyên tử”: “Cuộc thảo luận về vấn đề Điện Biên Phủ diễn tiến trong mờ mịt. Sự thất thủ của cứ điểm nầy có lẽ là không thể tránh khỏi. Có vẽ mọi người đang xúc động mạnh. Đến một lúc, 3 Ngoại Trưởng đang bàn luận trong phòng giải lao ( uống rượu bạc hà màu xanh lông két) quyết định cứ để cho các chuyên gia bàn cãi với nhau. Ba người đi vào một căn phòng tiếp khách nhỏ gần phòng ăn giành cho hàng Bộ Trưởng. Bản chức đi theo họ. Khi đang đi ngoài hành lang dẫn tới căn phòng đó, Ông Dulles nói nhỏ giọng với Ông Bidault: “Ngài có muốn 2 quả bom không?” Mãi tới lúc lúc sau nầy, bản chức mới biết được điều đó. Trước đó, bản chức chỉ biết được rằng các dụng cụ chiến tranh cần phải do hai phi công của Pháp thả xuống. Đối với một địa điểm bị bao vây quá gần sát thì một sức tàn phá gây hiệu quả rộng lớn rất khó ứng dụng. Lời đề nghị không được chấp nhận. Đó là lần duy nhất, với sự hiểu biết của bản chức, vấn đề bom nguyên tử được nêu ra. ”22

Chính ngay cả Ngoại trưởng Pháp G.Bidault cũng có kể lại đề nghị nầy của Ngoại trưởng Hoa Kỳ.23 Những bàn luận trao đổi giữa bản chức và Foster Dulles chưa có sự mâu thuẫn nào vào những lúc bản chức đang bị khủng hoảng cấp thiết. Bản chức lại nêu ra cho Ông ấy thấy được sức mạnh của hạm đội Hoa Kỳ ở vùng Thái Bình Dương nơi Vịnh Bắc Việt và bởi vì Ông đã nói với bản chức và mọi người một cách riêng tư hay công khai rằng Hoa Kỳ không thể tha thứ một sự lan tràn thêm nữa chủ thuyết Cộng Sản trên vùng đất Đông Nam Á Châu cho nên đã có một phương cách phù hợp cho việc thực hành lý luận đó: đó là giải tỏa Điện Biên Phủ đang bị bao vây bằng cách gia tăng cường độ những phi vụ dội bom để cùng một lúc cứu nguy cho quân đòn trú và nâng cao tinh thần cho các binh sĩ khác. Hiển nhiên , ý thức được những trở ngại khó khăn để có thể thuyết phục Tổng Thống và Quốc Hội Hoa Kỳ chấp nhận một sự đề xuất như thế cho nên Foster Dulles đã nhăn mặt cau có mà cũng không hứa sẽ gửi đề nghị của bản chức sang Hoa Thịnh Đốn. Bù lại, Ông kéo bản chức ra chỗ khác rồi nói: “ Nếu chúng tôi giao cho các ông hai quả bom nguyên tử thì thế nào?” Về sau, bản chức nghĩ rằng Ông đã có nói như thế với những người khác, ít nhiều về điều giã định nầy, bởi vì Ông hay có thói quen tìm những điều ngẫu hợp mà không cần nghĩ tới đó chỉ là lời nói dí dỏm hay là đúng đắn thực sự. Dù thế nào thì chính bản chức cũng đã trả lời và câu trả lời của bản chức không cần phải bận tâm suy nghĩ: “Nếu người ta dội những quả bom đó trong vùng Điện Biên Phủ thì những kẻ cố thủ cũng chịu chung sự đau khổ giống như những kẻ tấn công. Nhược bằng người ta tấn kích trên các tuyến đường giao thong phát xuất từ Trung Quốc thì lại có nguy cơ chiến tranh toàn diện. Cả hai trường hợp, cứ điểm điên Biên Phủ, nếu chưa được cứu viện., sẽ bị rơi vào cùng một hoàn cảnh nghiêm trọng.”

Đây có thể chỉ là sự trao đổi dí dỏm ngoài hành lang phòng hội nghị giữa Ngoại trưởng Hoa Kỳ và hai nhân vật cầm đầu phái đoàn Pháp ở Hội VSTK - 3718


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27 28 29 30

31 32 33 34 35 36

37 38 39 40 41 42

nghị Geneva. Trong nhiều Hội nghị Quốc tế, những sự xé rào “đi đêm” riêng rẻ hoặc những gợi ý trao đổi nữa đùa nữa thật như thế thường xảy ra và nhiều trường hợp lại trở thành một loại đàm phán hữu hiệu để giải quyết nhanh chống những vấn đề tắt nghẽn mà với những lời ăn tiếng nói đàm phán công khai giữa bàn Hội nghị đông người lại không thể giải quyết được. Trong hồi ký "Không có thêm những Việt Nam mới" (No more Vietnams), Tổng thống Nixon viết: "Đô đốc Radford, chủ tịch Hội đồng Tham mưu trương liên quân, đề nghị chúng ta dùng 60 máy bay ném bom B-29 ở Philippines mở các cuộc đột kích vào ban đêm để tiêu diệt các vị trí của Việt Minh. Và đặt ra kế hoạch mang tên "Cuộc hành binh Chim Kền kền" (Opération Vautour) nhằm đạt cùng mục tiêu với ba quả bom nguyên tử chiến thuật nhỏ".Một số tài liệu khác còn cho thấy kế hoạch Rát pho được Hội đồng An ninh quốc gia phê chuẩn, và "trong thực tế, Mỹ đã co quyết định tạm thời về việc tham chiến ở Đông Dương vào ngày 25 tháng 3 năm 1954"I, và l''trên văn bản của Hội đồng An ninh quốc gia có ba chữ D.D.C (Dwight D.Eisenhower) phế chuẩn". 24 Trong một giác thư đề ngày 07/04/1954 của tướng Cố Vấn Mac Arthur gửi cho Ngoại Trưởng Hoa Kỳ cho thấy rằng vào thời điểm nóng bổng ở Điện Biên Phủ thì tại Ngũ Giác Đài có một nhóm nghiên cứu đặc biệt Ủy Ban Hỗn Hợp Các Tham Mưu Trưởng được Tổng Tham Mưu Trương Liên Quân Hoa Kỳ Đô Đố Radford chỉ định để nghiên cứu và dự kiến về hiệu quả của các loại vũ khí hạt nhân sẽ được xử dụng để giải tỏa Điện Biên Phủ. Nhóm nghiên cứu nầy phúc trình kết luận rằng chỉ cần ba quả bom hạt nhân chiến lược là đủ nếu chúng được xử dụng đúng cách. Nội dung giác thư nầy được trích dẫn tóm lược như sau:25 Đại úy Georges Anderson (Phụ tá Đặc Biệt của Đô Đốc Radford) yêu cầu được gặp bản chức sáng nay về “một sự việc nhạy cảm”. Đương sự đã chuyển trao cho bản chức một tài liệu mật để nói rằng Đô Đốc Radford dự định đệ trình lên Ngoại Trưởng Dulles: Ủy Ban nghiên cứu cao cấp trong Ngũ Giác Đài (Liên Ủy Ban Nghiên Cứu Cao Cấp Lầu Năm Gốc tức Liên Ủy Ban các Tham Mưu Trưởng của quân đội Hoa Kỳ) đã dự toán xem có nên xử dụng vũ khí hạt nhân để quét sạch bộ đội CSVM trong vùng Điện Biên Phủ hay không. Ủy Ban Ngihên Cứu nầy đã đi đến một kết luận rằng ba quả bom hạt nhân nếu được xử dụng đúng cách cũng đủ đè bẹp sức chịu đựng của Việt Minh. Cuộc nghiên cứu nầy lại khơi động suy nghĩ của Radfod đặt ra câu hỏi trong trường hợp một liên minh hành động chung được thành hình ở Đông Nam Á Châu trong đó có Hoa kỳ tham dự và gửi các lực lượng quân đội của mình đến thì liệu rằng Hoa Kỳ có thể hay không xử dụng vũ khí hạt nhân để giáng trả Việt Minh khi thấy rằng các loại vũ khí đó là phương cách tốt nhất để đập tan bọn họ và quét sạch Đông Dương.

VSTK - 3719


Hoa Kỳ có cần phải hay không tham khảo sự chấp thuận của Pháp trước để xử dụng vũ khí hạt nhân ở Đông Dương trong trường hợp cần thiết khi liên minh cùng chung tham chiến ở các mặt trận . . . . . . . . .

1 2 3

Trong giác thư nầy tướng Cố Vấn Mc Arthur có những ý kiến như

4

5

6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20

sau: - Việc xử dụng vũ khí hạt nhân trên chiến trường Đông Dương sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho vị thế lãnh đạo thế giới của Hoa Kỳ. - Nước Pháp nhất định sẽ không đồng ý và không chấp nhận trách nhiệm việc xử dụng vũ khí hạt nhân. - Nếu Hoa Kỳ tham khảo ý kiến Pháp về kế hoạch xử dụng bom nguyên tử thì chuyện nầy có nguy cơ lọt ra ngoài công chúng. - Quốc hội của các nước không Cộng Sản sẽ lên tiếng phản đối, đặc biệt là một số Đồng Minh của Hoa Kỳ trong khối Minh Ước Bắc Đại Tây Dương/ NATO nhất là Anh Quốc. Quốc Hội của các nước nầy sẽ gây áp lực để buộc chính phủ của họ đòi hỏi Hoa Kỳ bảo đảm không được tự quyền xử dụng vũ khí hạt nhân mà không tham khảo ý kiến của các nước Đồng Minh NATO. - CS Liên Sô sẽ hô hào tuyên truyền tố cáo Hoa Kỳ xử dụng vũ khí hạt nhân có sức tàn phá khủng khiếp trên chiến trường Đông Dương để tiêu diệt người dân bản xứ và là sự chuẩn bị vô trách nhiệm để trút loại bom nầy lên đất nước CS Liên Sô bất cứ lúc nào mà Hoa Kỳ muốn.

25

Vấn đề xử dụng bom nguyên tử nơi chiến trường Đông Dương lại được Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ mang ra thảo luận trong một buổi họp ngày 29/04/1954 dưới quyền chủ tọa của Cồ Vấn An Ninh Quốc Gia (NSC/ HĐAQG) Robert Cutler. Bản thảo của buổi họp nầy đề ngày 30/04/1954 được trích dẫn tóm lược như sau:26

26

- Mặc dù Anh Quốc không chấp thuận hợp tác vào lúc nầy để cùng hành

21

22

23

24

27 28 29 30 31 32 33 34 35

36

37

38

39

40

41

42

43

44

động chung do Hoa Kỳ xướng xuất (tức là vào lúc tình hình Điện Biên Phủ bị CSVM bao vây), nhưng không cần phải chờ kết quả hay những diễn biến nơi bàn Hội Nghị Geneva, chính phủ Hoa Kỳ nên tiếp tục các nỗ lực thi hành bản kế hoạch Hành Động của HĐAQG số 1086b ngày 06/04/1954: bản kế hoạch viết: “HĐAQG đồng ý rằng Hoa Kỳ Trước khi có Hội Nghị Geneva, cần phải tiếp tục mọi nỗ lực hướng đến việc thành lập một nhóm tổ chức hành động chung trong vùng bắt đầu gồm có Hoa Kỳ, Anh, Pháp, ba quốc Gia Đông Dương, Úc, Tân Tây Lan, Thái Lan và Phi Luật Tân để phòng chống CS trong vùng Đông Nam Á Châu đang có ý đồ tìm mọi cách để kiểm soát các Quốc Gia trong vùng nầy.”

Tiếp theo là bản thảo Kế Hoạch của HĐAQG 29/04/ 1954 nêu lên nhiều vấn đề có liên hệ với kế hoạch Hoa Kỳ xử dụng vũ khí hạt nhân ở Đông Dương trong đó có những điểm đáng chú ý như sau: - Hoa Kỳ có cần phải ngay bây giờ quyết định xử dụng loại “vũ khí mới” để nhắm vào các mục tiêu quân sự vào lúc Hoa Kỳ có tham gia can thiệp vào chiến trường Việt Nam? - Dùng loại vũ khí mới nầy để dội lên những điểm tụ quân trù bị của bộ đội CSVM phía sau chiến tuyến Điện Biên Phủ thì có hiệu quả quyết định hay không và có tác dụng tâm lý nào gây ra cho bọn họ hay không? VSTK - 3720


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33

34

35

36

37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47

- Có thể nào Hoa Kỳ cho Pháp vay loại vũ khí mới đó và để cho Pháp tự xử dụng một mình nhằm giải vây bộ đội CSVM ở Điện Biên Phủ hay không? - Chính phủ nước Pháp có chịu nhận và dám làm như thế hay không? -Trong trường hợp Hoa Kỳ nhất quyết sẽ sử dụng vũ khí mới để can thiệp rồi mới báo cho Nhóm Đồng Minh hành động biết thì điều nầy có làm cho Nhóm Đồng Minh hoang mang bất an hay không? Nhất lá Anh và Pháp vì họ là thành viên trong khối NATO và hiện có các căn cứ Không Quân Hoa Kỳ trên đặt trên lãnh thổ của họ (sợ liên lụy với CS Liên Sô ở Âu Châu vì Liên Sô cũng đã có vũ khí hạt nhân từ năm 1949) khiến cho hai thành viên nầy sẽ đóng cửa các căn cứ không quân chiến lược của Hoa Kỳ ở hai nơi đó. Hoa kỳ có thể mất đi hai Đồng Minh quan trọng và hai căn cứ Không Quân quý báu ở hãi ngoại. - Bản Thảo Kế Hoạch kể trên của HĐANQG còn đưa thêm dự kiến rằng quyết định xử dụng vũ khí mới của Hoa Kỳ là để trả đũa, răn đe CSTQ. Tuy nhiên, nếu vũ khí mới của Hoa Kỳ không được xử dụng trên chiến trường Việt Nam thì càng khiến cho CSTQ hung hăng gây hấn nhiều hơn cho rằng Hoa Kỳ chỉ hăm he, đe dọa nhưng không dám làm vì sợ dư luận tiến bộ thế giới lên án. Dự kiến nầy là một điều thực tế vì đó là ý nghĩ được Mao Trạch Đông phát biểu để trả lời một trong những câu hỏi của nữ phóng viên báo chí Hoa Kỳ Anna Louise Strong vào tháng 08/1946 vào lúc chiến cuộc Triều Tiên vừa mới chấm dứt: 27 “Strong: . . . .Nhưng nếu Hoa Kỳ sử dụng bom nguyên tử thì sao ? . . . . . . . “Mao: Bom nguyên tử chỉ là thứ cọp bằng giấy mà bọn phản động Hoa Kỳ dùng để đe dọa người ta. Nhìn hình dạng con cọp giấy thì khủng khiếp nhưng sự thật thì nó không phải là như vậy. Hiển nhiên bom nguyên tử là một thứ vũ khí có sức tàn phá, sát hại tập thể nhân loại nhưng kết cục trận chiến ra thế nào thì chính là do nhân loại quyết định chứ không phải vì một hoặc hai loại vũ khí mới. “Tất cả bọn phản động đều là những con cọp giấy. Bộ dạng bề ngoài bọn họ thì hung tợn nhưng thực tế thì bọn họ không được hùng hổ như thế.

- Ngày 28/01/1955 trong buổi lễ tiếp nhận Ủy nhiệm thư của đại sứ nước Phần Lan Carl-Johan (Cay) Sundstrom, Mao Trạch Đông trong cuộc nói chuyện với viên đại sứ nầy đã tuyên bố rằng :28 “Ngày nay nguy cơ của một cuộc chiến tranh thế giới và những đe dọa cho Trung Quốc đều phát xuất từ những kẽ hiếu chiến ở Hoa Kỳ. Bọn họ đã chiếm đóng eo biển và đảo Đài Loan của Trung Quốc và đe một cuộc chiến nguyên tử. Chúng tôi có hai nguyên lý: #1- Không muốn có chiến tranh, #2- Kiên quyết gián trả bất cứ kẻ nào xâm lăng đất nước Trung Quốc. Đây là giáo điểu cho cán bộ Cộng Sản và cho cả nước. Nhân dân Trung Quốc không chịu hèn yếu vì sự hăm dọa đen tối với bom nguyên tử của Hoa Kỳ. Đất nước nầy có 600 triệu dân với một diện rộng 9,600,000 cây số vuông. Hoa kỳ không thể nào ngốn nghiến Trung Quốc bằng một nhúm bom nguyên tử của họ. Cho dù bom nguyên tử của Hoa Kỳ có mạnh đến mức nào thì khi nó dội lên lãnh thổ Trung Quốc nó chỉ tạo thành một cái hố trong lòng đất, và cho dù nó nổ vang rền thì cũng không khác gì bất cứ điều gì đại thể xảy ra VSTK - 3721


1 2 3 4 5 6 7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27 28 29 30 31

trong vũ trụ mênh mong, có thể xem như là một biến cố chính yếu trong quỹ đạo mặt trời. “Chúng tôi có câu thành ngữ với hạt kê thế gạ, mạnh bạo với súng trường . Còn Hoa Kỳ thì pháo đài lượng bay thêm oai nguyên tử. Tuy nhiên nếu Hoa Kỳ dùng mấy thứ đó để khiêu khích gây chiến với Trung Quốc thì Trung Quốc sẽ dùng gạo kê và súng trường để kháng chiến và nhất định sẽ chiến thắng Hoa Kỳ bởi vì chúng tôi có cả nhân dân khắp thế giới ủng hộ.

Năm 1946 trong lúc trả lời một câu phỏng vấn của nhà báo thân Cộng Sản Anna Louise Strong (tháng 08/1946) Mao Trạch Đông đã tuyên bố rằng bom nguyên tử của Hoa Kỳ chỉ là một con cọp giấy. Mười năm sau trong tập tài liệu thường được gọi là Tuyển Tập Mao Trạch Đông, quyển V, một bài viết của họ Mao đề ngày 14/07/1956 cũng mang tựa đề Đế Quốc Hoa Kỳ Là Một Con Cọp Giấy.29 Vào thời điểm nầy, CSLS và CSTQ đang có mối bất đồng về ý thức hệ đối với chủ nghĩa Công Sản Quốc Tế. Trùm CS Liên Sô Nikita Khrushchev đã gây ra cuộc khủng hoảng căng thẳng với Hoa Kỳ bằng cách chở nhiều tên lửa mang đầu đạn nguyên tử đặt trên lãnh thổ Cuba hướng về lãnh thổ Hoa Kỳ. Tuy nhiên, Nikita Khrushchev phải nhượng bộ rút hết các tên lửa về vì thái độ cứng rắn của Hoa Kỳ chuẩn bị một cuộc chiến tranh nguyên tử với CS Liên Sô. Mao tố cáo Liên Sô, là bọn xét lại hèn nhát, rung sợ vũ khí nguyên tử của đầu sỏ đế quốc Tư Bản Hoa Kỳ cho nên phải chịu thỏa hiệp nhục nhã. Trong bản điều trần trước Hội Đồng Sô Viết Tối Cao/USSR Supreme Soviet, khóa họp thứ II ngày 12/12/1962, chủ tịch đảng CSLS Nikita Khrushchev tuyên bố đối lại rằng: “Đế Quốc Hoa Kỳ Là Một Con Cọp Giấy nhưng nó có hàm răng nguyên tử.”:30 Chắc thật là đúng ,dựa trên sự thật bản chất của bọn đế quốc vẫn không thay đổi cho nên một vài kẻ nói rằng cần phải phanh phui nó ra, nghiền nát nó. Chế độ đế quốc dĩ nhiên là cần phải được vạch trần bời vì nó là loại ác quỷ đối với các dân tộc trên thế giới, tuy nhiên chỉ biết phỉ báng và dù có đúng thế mấy đi chăng nữa thì cũng sẽ không làm cho chế độ dế quốc bị suy yếu.

32 33 34 35 36 37 38 39 40

41

42

43

44

45

Thật sự không thể chối cãi là bản chất chế độ đế quốc từ trước đến nay không thay đổi, nhưng đế quốc ngày nay không giống như là đế quốc ngày xưa khi nó nấm giữ một sự thống trị thế giới mà không có đối thủ. Nếu ngày nay nó là một “con cọp giấy”, thì bất cứ kẻ nào bây giờ nói như thế thì kẻ đó phải biết rằng “con cọp giấy” nầy có hàm răng nguyên tử. Nó vẫn có khả năng dung hàm răng đó và chớ có khinh thường. Có thể thỏa thuận hổ tương với các đế quốc, nhưng đồng thời cũng cần phải có những phương cách để đánh bại nhưng kẻ hiếu chiến nếu chúng gây ra chiến tranh.

Pat Buchanan, từng là cố vấn cho 3 Tổng Thống Hoa Kỳ Nixon, Reagan và Bush, hai lần là ứng viên tranh cử Tổng Thống Hoa Kỳ và hiện nay là nhà bình luận chính trị của một Nghiệp Đoàn Cung Cấp tin tức, báo chí và truyền thông có tên là CREATORS. Trong một bài bình luận có tựa đề là The Most Dangerous Man in the World? Buchanan viết:

46 47 48

When Mao Zedong denounced Khrushchev's climb-down, calling America "a paper tiger," Khrushchev is said to have reminded Mao, "This paper tiger has VSTK - 3722


1 2 3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21 22 23 24 25 26 27

nuclear teeth." (Khi họ Mao tố cáo sự thối lui của Khrushchev, gọi Mỹ là “một con cọp giấy”, Khrushchev đã nhắc cho họ Mao nhớ rằng, “Con cọp giấy nầy có hàm răng nguyên tử.”)31

Theo như các tài liệu được truy cứu vừa kể trên thì kế hoạch Vulture của Hoa Kỳ dùng pháo đài bay B-29 dội bom nguyên tử lên chiến trường Điện Biên Phủ hoặc dọc theo các đường biên giới Việt-Trung là có thật nhưng chỉ là một bước dọ dẫm ngầm trong nội bộ tham mưu quốc phòng của Hoa Kỳ và cũng chỉ đánh tiếng riêng với Pháp về 2 quả bom nguyên tử giao cho Pháp hành động. Như vậy, bí mật của kế hạch “dùng vũ khí mới” để cứu nguy Điện Biên Phủ chỉ có Hoa Kỳ, Pháp và có thể là cả Anh Quốc biết được mà thôi. Không có tài liệu viết nào của khối CS quốc tế kể cả CSLS và CSTQ cho biết là kế hoạch nầy đã lọt đến tai của họ. Vậy thì căn cứ vào đâu để CSTQ mạnh miệng gọi Hoa Kỳ là Con Cọp giấy chỉ dùng để hăm dọa những quốc gia nhược tiểu và chậm tiến? Vương Nghiên Tuyền, một cán bộ CS cao cấp của CSTQ là một trong những cố vấn quân sự cho CSVM trong chiến dịch Tây Bắc/ Điện Biên Phủ 1953-1954 đã viết một tập hồi ký ngắn Vấn Đề Phương Hướng Chiến Lược và Chiến Dịch Điện Biên Phủ Trong Chiến Tranh Việt Nam Chống Pháp được xuất bản ở Bắc Kinh vào năm 2002 trong đó có đoạn viết như sau:32 Vào giờ phút quan trọng này để cứu vãn quân Pháp ở Điện Biên Phủ, đế quốc Mỹ đưa hai tàu hàng không mẫu hạm vào vịnh Bắc bộ để đe dọa, chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ đưa ra kế hoạch sử dụng máy bay ném bom chiến lược B-29 ném bom xuống quân đội Việt Nam ở Điện Biên Phủ và bắn tin sẽ sử dụng bom nguyên tử, nhưng do sợ nhân dân thế giới phản đối trên thực tế không dám manh động. “Siêu pháo đài” B29

28

29

30

31

32 33 34 35 36 37 38 39 40 41

42

43

Một cố vấn quân sự CSTQ khác là Trương Quảng Hoa trong bài viết Trần Canh Trong Viện Trợ Việt Nam Chống Pháp cũng đã ghi lại trong hồi ký của đương sự và cách viết cũng giống 100% với cách viết của Vương Nguyên Tuyền:33 “Công sự của Việt Nam (tức CSVM) ngày càng áp sát địch, không ít trận địa địch bị quân đội Việt Nam đánh chiếm, liên hệ giữa phân khu Nam và phân khu trung tâm của địch bị cắt đứt, sân bay Mường Thanh bị khống chế, cuối cùng diện tích địch khống chế ở phân khu trung tâm Mường Thanh chỉ còn khoảng một cây số vuông. Vào giờ phút quan trọng nầy để cứu vãn quân Pháp ở Điện Biên Phủ, đế quốc Mỹ đưa hai tàu hàng không mẫu hạm vào vịnh Bắc Bộ để đe dọa, chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ đưa ra kế hoạch sử dụng máy bay ném bom chiến lược B29 dội bom xuống quân đội Việt Nam ở Điện Biên Phủ và bắn tin sẽ sử dụng bom nguyên tử, nhưng do sợ nhân dân thế giới phản đối trên thực tế không dám manh động”.

Hoa Kỳ “bắn tin” bằng cách nào? Họp báo tuyên bố công khai? Qua trung gian một nước thứ ba? Qua tin tình báo gián điệp? Hay là vì Hoa Kỳ VSTK - 3723


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37

đã phái hai tàu sân bay có chở theo vũ khí hạt nhân đến Vịnh Bắc Việt? Hay là kế hoặc dội bom nguyên tử của Hoa Kỳ xuống Điện Biên Phủ đã bị tiết lộ ra ngoài công chúng? Như đã được trình bày trước đây, Tướng Cố Vấn Mc Arthur đã nêu lên ý kiến với Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ rằng: “Nếu Hoa Kỳ tham khảo ý kiến Pháp về kế hoạch xử dụng bom nguyên tử thì chuyện nầy có nguy cơ lọt ra ngoài công chúng.”. Năm 1973, Jean Chauvel trong tác phẩm Commentaire, De Berne À Paris (1952-1962) đã kể lại chính tai đương sự đã nghe vào ngày 24/04/1954 ngoại trưởng Hoa Kỳ F.Dulles đề nghị với ngoại trưởng Pháp G. Bidault rằng Hoa Kỳ chuyển giao cho Pháp “hai quả bom” nguyên tử”. Chính G. Bidault cũng đã xác nhận điều đó trong tác phẩm của mình D’Une Résistance À L’Autre xuất bản vào năm 1965. Stanley Karnow, tác giả sách VIETNAM, A History đã viết rằng chính Ngoại trưởng Pháp G. Bidault đã để lộ bí mật về đề nghị của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ J.Foster Dulles trao cho Pháp hai quả bom nguyên tử và khiến cho Dulles phải lên tiếng “chối tội” và chính quyền Pháp cũng phải lên tiếng xác nhận là Ngoải trưởng Hoa Kỳ không có đề nghị như thế. Nguyên văn đoạn viết nầy của S.Kanow như sau:34 Một nhóm nghiên cứu của tòa nhà Lầu Năm Gốc vào thời đó đã kết luận rằng chỉ cần 3 quả bom nguyên tử chiến lược được dung đúng cách cũng sẽ đủ nghiền nát các lực lượng Việt Minh ở Điện Biên Phủ. Ý nghĩ nầy cám giỗ Radford và đương sực tán thành việc thông tri đề xuất của nhóm nghiên cứu cho người Pháp. Tuy nhiên ý niệm nầy gây báo động cho các viên chức cao cấp bộ Ngoại Giao và một trong các viên chức nầy đã cảnh cáo rằng nếu người Pháp biết được chuyện nầy thì “câu chuyện nguyên tử nhất định sẽ bị tiết lộ” và làm nổ ra một phong trào “phản đối và la hét rộng khắp trong các quốc hội của thế giới tự do.” Vài tháng sau, Georges Bidault đã tiết lộ rằng đương sự đã bát bỏ một đề nghị của Dulles (vào ngày 24/04/1954 = ghi chú của soạn giả Nguyễn Công Tánh) trao tặng vũ khí nguyên tử trong những cuộc hội đàm vào tháng Tư trước đây. Dulles bát bỏ sự tiết lộ của Bidault và chính quyền Pháp đã xác nhận sự bát bỏ của Dulles, tuyên bố rằng lúc đó Bidault đang bị bối rối khích động, quá mệt mõi và đã hiểu lầm. Thuy nhiên, Bidault đã lập lại đề nghị đó của Dulles trong quyển hồi ký của đương sự Đô đốc Radford (http://en.wikipedia.org/wiki/Arthur_W._Radford)

38

39

40

41

42 43 44 45 46

Stanley Karnow không trích dẫn nguồn tư liệu nào để chứng minh là G.Bidault vài tháng sau (kể từ sau 24/04/1954) đã tiết lộ đề nghị của J.Foster Dulles. Võ Nguyên Giáp trong Hồi Ký Điện Biên Phủ, Điểm hẹn Lịch Sử cũng có đề cặp như sau: Trong hồi ký "Không có thêm những Việt Nam mới" (No more Vietnams), Tổng thống Nixon viết: "Đô đốc Rátpho, chủ tịch Hội đồng Tham mưu trương liên quân, đề nghị chúng ta dùng 60 máy bay ném bom B-29 ở Philippines mở các cuộc đột kích vào ban đêm để tiêu diệt các vị trí của Việt Minh. Và đặt ra kế VSTK - 3724


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37 38 39

40 41 42 43 44 45 46 47

48

hoạch mang tên "Cuộc hành binh Chim Kền kền" (Opération Vautour) nhằm đạt cùng mục tiêu với ba quả bom nguyên tử chiến thuật nhỏ". Một số tài liệu khác còn cho thấy kế hoạch Rát pho được Hội đồng An ninh quốc gia phê chuẩn, và "trong thực tế, Mỹ đã có quyết định tạm thời về việc tham chiến ở Đông Dương vào ngày 25 tháng 3 năm 1954", và ''trên văn bản của Hội đồng An ninh quốc gia có ba chữ D.D.C (Dwight D.Eisenhower) phế chuẩn". . . . . .. . . . . . . . . . . Trong cuốn "Những bí mật quốc gia''' (Secrets d'État), Raymông Tuốcnu (Raymond Tournoux) đưa ra một sự kiện theo tác giả đã được thu thập "từ những nguồn tin có thẩm quyền, và sau đó không ai cải chính" : Ngày 14 tháng 4 năm 1954, tại Pari, ngoại trưởng Mỹ Đalét đã nói bằng tiếng Pháp với Biđôn: - Nếu bây giờ chúng tôi cho ngài hai trái bom nguyên tử ? Biđôn đã khẳng định điều này trong cuốn "Từ cuộc kháng chiến này đến cuộc khác" (D'une résistance à l’autre), bằng cách dẫn lại câu trả lời của mình với đa lét: "Nếu ném bom [A] xuống vùng Điện Biên Phủ, người phòng ngự cũng như người tiến công đều hứng chịu hậu quả như nhau. Nếu đánh vào tuyến giao thông bắt nguồn từ Trung Hoa, sẽ có nguy cơ dẫn tới một cuộc chiến tranh toàn bộ. Trong cả hai trường hợp, quân đồn trú ở Điện Biên Phủ, còn xa mới được cứu nguy, mà sẽ lâm vào tình trạng nghiêm trọng hơn".

Võ Nguyên Giáp đã phải diện dẫn 3 nguồn tư liệu: l/ hồi ký của của cựu Tổng Thống Mỹ Richard Nixon, 2/ sách của Raymond Tounoux, 3/ Hồi ký của G.Bidault để viết lại kế hoạch của Hoa Kỳ dùng vũ khí nguyên tử giải tỏa chiến trường Điện Biên Phủ hay nói khác đi Võ Nguyên Giáp và CSVM vào thời điểm sôi động ở Điện Biên Phủ đã không hay biết gì về kế hoạch xử dụng bom nguyên tử của Hoa Kỳ dội lên các đơn vị bộ đội CSVM đang vây quanh cứ điểm Điện Biên Phủ. Cộng Sản Trung Quốc thì chỉ dựa vào sự kiện Hoa Kỳ hăm dọa xử dụng bom nguyên tử trong chiến tranh Tiều Tiên nhưng lại e ngại không dám thực hiện vì sợ phản ứng của CS Liên Sô lúc đó cũng đã có bom nguyên tử cho nên CSTQ mới mạnh miệng hô hào Hoa Kỳ là Con Cọp Giấy, chỉ biết nhe nanh múa vuốt chứ không làm được gì. Từ đó, người ta có thẻ suy định rằng, CSTQ cũng không biết gì nhiều về kế hoạch không kích Điện Biên Phủ theo kế hoạch Vulture với vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ Kỳ hăm dọa CSTQ có thể được tìm thấy trong một tài liệu đề ngày 18/12/1953 đã được giải mật của Lầu Năm Gốc như sau:35 DỰ ƯỚC ĐẶC BIỆT KHẢ NĂNG PHẢN ỨNG CỦA CỘNG SẢN TRONG MỘT SỐ HÀNH ĐỘNG CỦA HOA KỲ CÓ THỂ ÁP DỤNG Ở ĐÔNG DƯƠNG TRONG CẢ NĂM 1954 ............ ............ Để dự ước những phản ứng của CSTQ và CSLS về việc: a. Hoa kỳ can dự vào Đông Dương từ trước và cuối năm 1954 bằng các lực bộ binh, hải quân, không quân với một tầm mức đủ để đánh bại một cách dứt khoác lực lượng bộ đội của Việt Minh. b. Hoa kỳ can dự vào Đông Dương từ trước và cuối năm 1954 bằng các lực bộ binh, hải quân, không quân với một tầm mức đủ để giám sát cho đến thời điểm mà Hoa Kỳ phát triển lực lượng quân đội Quốc Gia Việt Nam đến mức có thể đánh bại một cách dứt khoác lực lượng bộ đội của Việt Minh. NHỮNG GIẢ ĐỊNH VSTK - 3725


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13

14 15 16 17

18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

41

42

Cả hai trường hợp a. và b kể trên theo những gỉã định như sau: 1. Không có lực lượng CSTQ đã can dự vào Đông Dương. 2. Sự can dự của các lực lượng Hoa Kỳ phải được chính phủ Pháp và chính phủ Quốc Gia Việt Nam yêu cầu một cách công khai. 3. Vào thời điểm Hoa Kỳ can dự thì các lực lượng của Liên Hiệp Pháp vẫn còn tiếp tục lưu giữ vị thế chủ yếu hiện nay nơi vùng đồng bằng Bắc Bộ. 4. CSTQ và CSLS cần phải được lưu ý trước về ý đồ của Hoa Kỳ đưa các lực lượng của Hoa Kỳ vào Đông Dương. 5. am à i có sự can dự của Hoa Kỳ, thì sẽ phải có một sự thực hiện từng giai đoạn rút lui các lực lượng của Pháp ra khỏi Đông Dương. 6. Hoa Kỳ sẽ cảnh cáo CSTQ rằng nếu họ can dự một cách công khai qua việc chiến đấu ở Đông Dương thì Hoa Kỳ sẽ không phải chỉ giới hạn các hành động quân sự của mình trên Đông Dương mà thôi. DỰ ƯỚC 1. . . . . . . 2. . . . . . . . . . . . . . . . . Hoa Kỳ cảnh cáo về sự can dự của CSTQ bằng binh lực có thể tạo ra một hiệu quả ngăn chận mạnh mẽ.3* ............ ___________ *(Ghi chú số 3 nơi trang 430 của tài liệu nầy ghi rõ: Những lời cảnh cáo nầy càng củng cố cho lời cảnh cáo của của Ngoại Trưởng Dulles trong bài diễn thuyết của Ông trước Công Đoàn Cựu Chiến Binh ở Saint Louis (Missouri) vào ngày 02/09/1953: “Cộng Sản Trung Quốc đã và đang huấn luyện, viện trợ và trang bị cho các lực lượng Cộng Sản ở Đông Dương. Giống như ở Triều Tiên, có nguy cơ rằng, Trung Quốc Đỏ rât có thể sẽ đưa quân CSTQ sang Đông Dương. Chế độ CSTQ cần nên nhận thức rõ rằng một sự gây hấn lần thứ nhì không thể nào có thể xảy ra mà không phải gánh chịu hậu quả nghiêm trọng không phải chỉ riêng ở trên lãnh thổ Đông Dương mà thôi. Bản chức nói như thế một cách hòa nhã vì danh nghĩa hòa bình với niềm hy vọng ngăn chận được một mưu toan gây hấn nhằm lẫn.”

Như vậy, trong cuộc chiến ở Điện Biên Phủ, CSTQ chỉ có thể biết được sự hăm dọa của Hoa Kỳ một các gián tiếp qua lời cảnh cáo công khai của ngoại trưởng Hoa Kỳ Dulles ngày 02/09/1953 ở Saint Louis như vừa kể trên và qua sự hiện diện của các tàu sân bay có trang bị vũ khí hạt nhân ngoài khơi vịnh Bắc Việt Để kết luận, hiển nhiên là Hoa Kỳ có kế hoạch xử dụng vũ khí hạt nhân trên chiến trường Đông Dương nhưng lại một lần nữa, sau chiến tranh Triều Tiên, hoa kỳ lại trở thành Con Cọp Giấy thực sự, với hàm răng nguyên tử của mình nhưng không dám vồ thêm được ai ngoại trừ hai con mồi khốn khổ đầu tiền là Hiroshima và Nagasaki bởi vì lúc đó chưa có con gấu nguyên Tử Liên Sô. Ngay cả Con Gấu nguyên Tử Liên Sô cũng trở thành Con Gấu Giấy với móng vuốt nguyên tử sau cuộc khủng hoảng giữa Hoa Kỳ và Liên Sô (tháng 10/1962) về sự việc tên lửa hạt nhân của Liên Sô đặt trên đảo Cuba.

*

VSTK - 3726


CHƯƠNG 2

HỘI NGHỊ GENEVA 1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

I - Các diễn tiến đưa đến Hội nghị Geneva Mặc dù đã có dư luận bàn tán thường xuyên về việc thương lượng ở Đông Dương sau cuộc ngưng bắn ở Triều Tiên vào tháng 07/1953, kể từ đầu tháng 11/1953 viễn ảnh hòa bình vẫn còn mờ mịt 1. Chủ trương không thương lượng của Hoa Kỳ Chính sách cứng rắn của Hoa Kỳ vào lúc nầy là phản đối mọi hình thức thương lượng về vấn đề Việt Nam nếu quân đội Pháp chưa gặt hái được một chiến thắng đáng kể đối với quân CSVM. Đã có một cuộc gặp gỡ song phương giữa ngoại trưởng Pháp Bidault với ngoại trưởng Hoa Kỳ Dulles vào tháng 07/1953 trong lúc Hội Nghị ở Bàn Môn Điếm ở Triều Tiên vẫn còn đang tiếp diễn. Trong cuộc nói chuyện, ngoại trưởng Pháp gợi ý rằng vấn đề Đông Dương cần được đưa ra để giải quyết cùng một lúc vào lúc nầy với vấn đề Triều Tiên bởi vì dân chúng Pháp có thể sẽ bị hoang mang đặt nghi vấn tại sao chỉ có một giải pháp danh dự để chấm dứt tiếng súng ở Triều Tiên còn ở Đông Dương thì không như thế. Một cuộc ngừng bắn ở Triều Tiên mà lại không có triển vọng cho một cuộc ngưng bắn như thế ở Đông Dương nhất định sẽ khiến cho chính phủ của đương sự không thể nào tồn tại. Ngoại Trưởng Dulles đáp lại rằng, ở bàn hội nghị về Triều Tiên Hoa Kỳ ở thế mạnh vì có phương tiện hăm dọa “Hoa Kỳ sẽ xử dụng những phương cách không đẹp” mà đối phương hiểu rõ đó là những phương cách gì. Hiện nay, Pháp chưa có được một thế đứng mạnh trên bình diện quân sự để làm hậu thuẫn cho một cuộc đàm phán giống như trường hợp của Hoa Kỳ ở Triều Tiên. Dulles thuyết phục rằng Pháp cần nên khai thác kế hoạch của tướng Navarre không những chỉ vì mục đích lợi ích quân sự mà còn có mục đích cãi thiện vị thế đàm phán của Pháp trong tương lai. Đương sự khẳng định dứt khoác là không có vấn đề Đông Dương trên bàn Hội Nghị ở Bàn Môn Điếm/ Triều Tiên. Hoa Kỳ VSTK - 3727


1

2

3

4

5

6

sẽ đóng cửa không cứ xét tới những đề nghị đàm phán về Đông Dương cho đến khi nào mà CSTQ loại bỏ hoặc cắt giảm viện trợ cho CSVM. Nói một cách tổng quát là Hoa Kỳ tìm cách thuyết phục Pháp rằng chỉ có một chiến thắng quân sự mới có thể bảo đảm cho Pháp thành công trong những cuộc đàm phán ngoại giao.36

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

- Ngày 4-8-1953 Liên Xô đề nghị 5 cường quốc Anh, Pháp,

Hoa Kỳ, Liên Xô và Cộng Sản Trung Hoa hội nghị vào tháng 09/1953 để tiếp tục giải quyết những tranh chấp ở Triều Tiên, đồng thời tại tìm giải pháp chấm dứt tranh chấp ở vùng Đông Nam Á Châu, nhất là vấn đề chiến tranh ở Đông Dương. Đề nghị nầy bị Hoa Kỳ bác bỏ ngày 020/09/1953. Trong cuộc họp tay ba Anh, Pháp và Hoa Kỳ trong ba ngày kể từ 16-10-1953, cả ba nước đưa ra tuyên bố không chấp nhận đề nghị của Liên Xô, chủ yếu vì các cường quốc Tây phương không muốn thừa nhận CHNDTQ là một cường quốc ngang hàng với họ. Lúc đó, CHNDTQ chưa được vào Liên Hiệp Quốc (LHQ). Chiếc ghế thường trực tại Hội đồng Bảo an LHQ do Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) nắm giữ. Lúng túng trong chiến tranh Việt Nam, ngày 27/10/1953, trong buổi điều trần trước Quốc Hội Pháp, thủ tướng Pháp là Joseph Laniel tuyên bố sẵn sàng tìm kiếm cơ hội tái lập hòa bình ở Đông Dương. Ông được quốc hội Pháp ủng hộ để thương thuyết và đi đến một giải pháp chính trị. Ra trước thượng viện Pháp ngày 12/11/1953, thủ tướng Laniel lập lại ý kiến trên thêm một lần nữa. Laniel hy vọng kế hoạch hành quân của đại tướng Henri Navarre tại Việt Nam sẽ có thể đem lại thành công trên chiến trường, để có thể thương thuyết trong thế mạnh. Đề nghị của Laniel được phía cộng sản đáp ứng ngay. Trong một cuộc phỏng vấn của phóng viên của báo Expressen /Thụy Điển vào cuối tháng 11/1953, Hồ Chí Minh cho biết rằng chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) do đảng Lao Động (LĐ) và mặt trận Việt Minh (VM) điều khiển, sẵn sàng tìm hiểu các đề nghị của Pháp và chỉ thương thuyết với Pháp.37 Về phía Liên Xô, vừa trả lời cho tam cường Tây phương, VSTK - 3728


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

vừa trả lời cho đề nghị của thủ tướng Pháp (Laniel), ngoại trưởng Mikhailovich Molotov tuyên bố ngày 26/11/1953 đồng ý tham dự hội nghị tứ cường Anh, Pháp, Hoa Kỳ, và Liên Xô, nhưng dành quyền sẽ triệu tập hội nghị ngũ cường sau đó. Mãi đến ngày 29/11/1953, bài phỏng vấn Hồ Chí Minh mới được báo Expressen công bố, và được Nhân Dân Nhật Báo ở Bắc Kinh đăng lại ngày 10/12/1953, kèm theo bài xã luận hoàn toàn ủng hộ lập trường của CSVM. Trong khi CSVM dồn bộ đội tấn công phía tây-bắc Bắc Việt và đưa bộ đội vào nước Lào thì quân Pháp cũng phản ứng lại bằng cách chiếm đóng Điện Biên Phủ vào ngày 20/11/1953 để tạo nơi đây thành một cứ điểm kiên cố chận đường quân CSVM xâm nhập quốc gia Lào. Tình hình chung thay đổi vào cuối tháng 11/1953 khi CSVM tỏ ý muốn thương lượng song phương với Pháp qua cuộc phỏng vấn Hồ Chí Minh bởi một phóng viên tờ báo Expressen của Thụy Điển. Sự kiện nầy bắt cầu cho bốn cường quốc Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Liên Sô đang bàn thảo ở Hội Nghị Berlin từ ngày 25/02/1954 đến 18/02/1954 đã đi đến thỏa thuận sẽ triệu tập một Hội Nghị ở Geneva vào cuối tháng 04/1954 để bàn thảo vấn đề ngưng chiến ở Triều Tiên và tìm một giải pháp cho cuộc chiến ở Đông Dương đã kéo dài từ tám năm qua: lý do là vì Chính phủ Laniel bị áp lực dư luận Pháp đòi kết thúc chiến tranh Đông Dương cho nên tại Berlin, đoàn đại biểu Pháp khẳng định, bất chấp sự phản đối của Mỹ, vấn đề Đông Dương phải được ghi vào chương trình nghị sự ở Geneva. Ngoại trưởng Bidault đã cảnh báo rằng nếu Hoa Kỳ không đồng ý ở điểm này thì Pháp sẽ rút khỏi Cộng Đồng Phòng Thủ Âu Châu (European Defense Community /EDC), một hình thức tổ chức phòng thủ cho Âu Châu sau thế chiến II ở Âu Châu mà Hoa Kỳ đang quan tâm một cách đặc biệt.38 Cũng trong phiên họp đầu tiên trong ngày 25/02/1954 hội nghị tứ cường ở Berlin/Đông Đức, ngoại trưởng CSLS Molotov đề xuất cho CSTQ là một trong thành viên 5 “cường quốc” phải được mời có mặt trong Hội Nghị Geneva sắp tới với mục đích làm giảm căng thẳng trên khắp thế giới. VSTK - 3729


1

2. Hoa Kỳ chủ trương “Hành động chung” như là một giải pháp

3

thay thế cho việc đàm phán hoặc cho việc Hoa Kỳ đơn phương can thiệp.

4

2.1-

2

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29 30 31 32 33 34 35 36 37

Sự hình thành Chính Sách của Hoa Kỳ đối với nguy cơ Cộng Sản lan tràn khắp Đông Nam Á Châu39

Cuối tháng ba, một cuộc tranh luận nội bộ trong chính quyền Eisenhower đã đưa đến một sự nhận định chung rằng: (a) sự can thiệp đơn phương của Hoa Kỳ trong chiến tranh Đông Dương sẽ không có hiệu quả nếu không có lực lượng bộ binh, (b) sự tham gia của lực lượng đường bộ của Hoa Kỳ về mặt tiếp vận và chính trị là không thích hợp, (c) tốt nhất là "thế giới tự do" can thiệp vào Đông Dương để bảo vệ khu vực nầy khỏi bị nhuộm đỏ vì chủ nghĩa cộng sản và đây chính là những đề xuất từ Hội Đồng An Ninh Quốc gia, từ phúc trình Ridgway, từ phúc trình Ủy Ban Đặc Biệt của phó ngoại trưởng Hoa Kỳ W.Bedell Smith và cũng là chiều hướng của Tổng Thống Eisenhower về chủ trương của Hoa kỳ đối với vấn đề Đông Dương. Từ chủ trương đó, Ngoại Trưởng Dulles trong cuộc thảo luận với tướng Ély đã đi ra ngoài vấn đề hỗ trợ ngay lập tức cho Pháp đồn trú tại Điện Biên Phủ lại còn đề cập tới việc có thể thành lập một tổ chức phòng thủ cho khu vực Đông Nam Á. Đề xuất này đã được đưa ra công khai trong bài diễn văn ngày 29/03 của Ngoại Trưởng Dulles tại Câu lạc bộ Báo chí nước ngoài. Dulles đã mô tả tầm quan trọng của việc chống lại sự xâm lược của cộng sản ở Đông Dương bằng những lời lẽ như sau: Nếu các thế lực Cộng sản giành được quyền kiểm soát không có kháng cự nào trên Đông Dương hoặc bất kỳ phần đáng kể nào ở nơi đó đó thì bọn họ nhất định sẽ tiếp tục dùng cùng một kiểu mẫu xâm lược đối với các dân tộc khác trong khu vực đó. Những luận điệu tuyên truyền của CSTQ và CSLS hoàn toàn cho thấy rõ mục đích của bọn họ là thống trị toàn vùng vực Đông Nam Á. Hiện nay vùng Đông Nam Á là một phần quan trọng của thế giới, được gọi là “kho lúa"… Đây là một khu vực phong phú có nhiều nguyên liệu thô phong phú. VSTK - 3730


1 2 3 4 5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28 29 30 31 32 33 34 35 36

37

38

Và ngoài những giá trị kinh tế to lớn, khu vực này có rất nhiều giá trị chiến lược… Cộng sản kiểm soát Đông Nam Á sẽ thực hiện một mối đe dọa nghiêm trọng cho Phi Luật Tân, Úc và Tân Tây Lan... Toàn bộ các khu vực phía tây Thái Bình Dương, bao gồm cả cái gọi là "chuỗi đảo ngoài khơi," về mặt chiến lược sẽ có thể bị đe dọa.

Trong phần tiếp theo của bài diễn văn, Dulles đã kêu gọi một "hành động chung". Những tuần lễ sau đó, mục tiêu ngoại giao của Hoa Kỳ, trước khi hội nghị Geneva bắt đầu vào tháng 04/1954, là phải tìm được một hậu thuẫn tập thể quân sự, qua việc thỏa thuận liên minh dưới hình thức một hiệp ước phòng thủ chung bao gồm mười quốc gia: Mỹ, Pháp, Anh, Úc, Tân Tây Lan, Phi Luật Tân, Thái Lan, và ba nước không CS Việt, Miên Lào của Liên hiệp Đông Dương. Ngoại trưởng Dulles trình bày riêng đề xuất “Hành động chung” của chính phủ Hoa Kỳ với Đại sứ Anh Sir Roger Makins và Đại sứ Pháp Henri Bonnet. Tổng thống Eisenhower gửi một tin nhắn riêng cho Thủ tướng Churchill giải thích về đề xuất một liên minh hành động chung. Tổng thống lưu ý rằng: chỉ có 2 phương cách để chấm dứt cuộc chiến ở Đông Dương: #1- Hoặc là đầu hàng mà không làm cho Pháp mất mặt; #2- Hoặc là Cộng Sản phải rút lui mà không bị mất mặt. Giải pháp #1 không thể chấp nhận được vì hậu quả nghiêm trọng trên bình diện chiến lược rộng lớn và vì vậy phải có một cách nào đó để lựa chọn giải pháp thứ #2. Ông nhắc lại trường hợp không thống nhất hành động chung và kịp thời của các nước đồng minh Âu Châu để ngăn chận trục phát xít quân phiệt Đức-Ý Nhật: Nếu tôi có thể tham khảo lại lịch sử, chúng ta đã thất bại trong việc ngăn chặn Hirohito, Mussolini và Hitler bằng cách không hoạt động thống nhất chung và kịp thời. Điều đó đã đánh dấu sự khởi đầu của nhiều năm thảm kịch khắc nghiệt và nguy hiểm tuyệt vọng. Quốc gia của chúng ta đã không học được một cái gì từ bài học đó sao? (If I may refer again to history; we failed to halt Hirohito, Mussolini and Hitler by not acting in unit and in time. That marked the beginning of many years of stark tragedy and desperate peril. May it not be that our nations have learned something from that lesson? . . .)40 2.2-

Đáp ứng đầu tiên của các nước Đồng Minh về đề xuất “Hành Động Chung” của Hoa Kỳ

VSTK - 3731


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

Thái Lan và Philippines đã đưa ra một đáp ứng thuận lợi về sự kêu gọi thống nhất hành động . Đáp ứng của Anh thận trọng và do dự. Churchill chấp nhận đề xuất của Eisenhower và rằng Ngoại trưởng Dulles cần sang Luân Đôn để bàn thảo thêm, tuy nhiên người Anh đã nhìn thấy mối nguy hiểm về sự hối thúc cho một liên minh phòng thủ trước khi hội nghị Giơ-ne-vơ. Ngoại trưởng Anh Eden xác định là không được "hối hả đi vào các quyết định quân sự thiếu cân nhắc" bởi vì theo Ông ta thì việc hình thành và công bố một liên minh phòng thủ trước khi Hoa Kỳ và Anh đến bàn hội nghị, sẽ không giúp ích gì về quân sự mà sẽ gây tổn hại cho về mặt chính trị, bởi vì điều đó gay giao động các đồng minh tương lai quan trọng.41 2.3- Đáp

ứng của Pháp về “Hành Động Chung”

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

Với tình trạng hấp hối tuyệt vọng của tập đoàn quân sự Pháp tại cứ điểm Điện Biên Phủ hiện giờ, Ngoại Trưởng Pháp tuyên bố với đại sứ Hoa Kỳ Douglas Dillon vào ngày 05/04/1954 rằng Hoa Kỳ cần phải hành động can thiệp vũ trang ngay bằng các phi vụ từ các tàu sân bay của Hạm đội thứ 7 ngoài khơi biển Đông gần vịnh Bắc Kỳ, bởi vì thời gian không còn kịp nữa để chờ đợi sự thành hình của một liên minh Hành Động Chung. “Số phận của khu vực Đông Nam Á hiện nay nằm ở Điện Biên Phủ, và rằng Geneva sẽ chiến thắng hoặc bị mất là tùy thuộc vào kết quả của trận chiến.”42 2.4- Các điều

kiện để Hành Pháp Hoa Kỳ có thể can thiệp vào Đông Dương

Như đã được trình bày trước đây (xin đọc lại từ trang 3702), các dân biểu đầu não trong Quốc Hội Hoa Kỳ đã đưa ra 3 điểu kiện cần yếu mà phía Hành Pháp Hoa Kỳ phải hội đủ để được Quốc Hội ủng hộ việc Hoa Kỳ can dự trực tiếp vào chiến trường Đông Dương: (a) thành lập được một lực lượng "đồng minh" loại liên kết; (b) Pháp phải tuyên bố rõ rệt ý định thúc đẩy độc lập cho ba nước Đông Dương; (c) Pháp phải thỏa thuận tiếp tục để đoàn quân viễn chinh của họ ở Đông Dương. Do đó, Hoa Kỳ không thể nghe theo lời của Pháp ngay cả trong trường hợp Điện Biên VSTK - 3732


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

Phủ sắp bị thất thủ. Nói khác đi, tổng thống Hoa Kỳ cần phải có sự chấp thuận của quốc Hội Hoa Kỳ mới có thể can dự trực tiếp vào chiến cuộc Đông Dương. 2.5- Anh

Quốc không theo hình thức Hành Động Chung

Từ ngày 11 đến ngày 14 tháng 4, Ngoại trưởng Dulles đã đi sang Luân Đôn và Paris để cố gắng tìm được sự cam kết của Anh và Pháp đồng ý đề xuất " hành động thống nhất." Theo nhận định riêng của Tổng thống Eisenhower thì Dulles nghĩ rằng sẽ được Quốc hội Hoa Kỳ bảo đảm và hậu thuẫn cho "hành động thống nhất" sau khi kế hoạch nầy cũng đã được các đồng minh của Hoa Kỳ mà quan trọng nhất là Anh Quốc phê duyệt. Tại Luân Đôn, Ngoại trưởng Hoa Kỳ đã diện dẫn nhiều lý do để thuyết phục người Anh bước lên con thuyền “hành động thống nhất” do Hoa Kỳ ra kiểu mẫu: (i) Pháp đã kiệt quệ trên mọi lãnh vực chính trị và quân sự cho nên không còn có thể tiếp tục cáng đáng một mình tình hình rắc rối nguy kịch ở Đông Dương hiện nay; (ii) Nếu Đông Dương bị sụp đỗ thì các vùng còn lại ở khu vực Đông Nam Á Châu sẽ gánh chịu những hậu quả trầm trọng; (iii) Không lực và hạm đội hải lực Hoa Kỳ đã sẵn sàng để can thiệp kèm theo nhiều tàu sân bay từ căn cứ quân sự Hoa Kỳ ở Phi Luật Tân đã được phái tới vùng biển Đông Dương Dulles nói rằng khi hồi tưởng lại của thì Ông đã nghĩ rằng Hoa Kỳ không nên hành động một mình về vấn đề nầy và một liên minh có thể được thành lập trước “ad hoc”để dùng vào mục đích đó rồi sau nầy sẽ phát triển thêm trở thành một tổ chức phòng thủ quân sự cho Đông Nam Á Châu. Làm như thế là để ngăn chận CSTQ can dự thêm hơn nữa ở Đông Dương đồng thời làm tăng thêm lợi thế của các thành viên Âu Châu nơi bàn Hội Nghị Geneva qua tinh thần đoàn kết của họ.43 Ngoại trưởng Anh Quốc Eden không bị thuyết phục với lối viện dẫn chào hàng của ngại trưởng Hoa Kỳ Dulles. Eden cho rằng không nên trộn lẫn 2 việc khác nhau vào một: (i) việc tổ chức phòng thủ chung dài hạn trong tương lai sau Hội Nghị Geneva khác với (ii) việc phải có một tổ chức Hành Động Chung để xử dụng ngay trên hiện trường Đông Dương như Hoa Kỳ VSTK - 3733


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

mong muốn và chủ trương trước khi Hội Nghị Geneva khai mạc. Eden còn cho rằng Tổ chức Hành Động Chung trước khi Hội Nghị sẽ không những phá hủy cơ hội cho một giải pháp hòa bình, mà còn làm trầm trọng hơn nguy cơ mở rộng chiến tranh trước mắt là với CSTQ. Eden hữu lý vì nguy cơ mở rộng chiến tranh nầy chính ngay cả tình báo trung ương Hoa Kỳ cũng đã dự ước như thế. Thái độ nghi ngờ của Anh Quốc còn đi xa hơn nữa đối với hậu ý của Hoa Kỳ và phản biện rằng thất thủ Điện Biên Phủ không nhất thiết là sẽ phải mất toàn vẹn Đông Dương xuyên qua Hội Nghị Geneva với lý do là không có Hàng Động Chung theo ý của Hoa Kỳ. Ngoài ra Eden còn cho rằng dù bị thất một trận lớn ở Điện Biên Phủ thì nước Pháp vẫn còn đủ sức để ngăn ngừa Cộng Sản xâm chiếm toàn thể Đông Dương. Anh Quốc cũng không chấp nhận lý thuyết “domino” của Hoa Kỳ – một con bài ngã thì liên lũy kéo theo các con bài khác ngã theo- mặc dù Anh Quốc thừa nhận rằng An ninh của vùng Đông Nam Châu Á là rất quan trọng thiết yếu cho thế giới tự do Tư Bản. Và theo nhận định của Hoa Kỳ thì đối với người Anh kết quả từ việc thương lượng để phân chia lãnh thổ là giải pháp mà người Anh xem là hợp lý và tốt nhất để thoát khỏi một tình hình chính trị quân sự nhiêu khê phức tạp ở Đông Dương.44 2.6- Pháp

không theo hình thức Hành Động Chung

Pháp không tán thành Hình thức Hành Động Chung bởi vì: (i) Người Pháp đang tìm kiếm một hành động nhanh chóng để thoát khỏi một thất bại quân sự không thể tránh khỏi ở Điện Biên Phủ; (ii) Pháp lo ngại rằng một thỏa thuận liên minh sẽ đưa tới tình trạng quốc tế hóa cuộc chiến khiến cho việc kiểm soát độc quyền của Pháp ở Đông Dương rời khỏi tầm tay của họ. Do đó, họ chỉ mong muốn hỗ trợ cục bộ tại Điện Biên Phủ theo đường hướng của chiến dịch Kên Kên /Vulture do đô dốc chủ tịch Hội Đông Tham Mưu Trương Liên Quân Hoa Kỳ lập đề án trước đây.45 Ngoại Trưởng Hoa Kỳ tự động tổ chức họp sơ bộ với các đại sứ Đồng Minh ở Hoa Thịnh Đốn vào ngày 20/04/1954 để lập dự thảo kế hoạch tổ chức trước/ad hoc Tổ chức Phòng Thủ Chung ở Đông Nam Á. 2.7-

VSTK - 3734


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

Theo ý của Dulles thì đây chỉ là một hình thức tham khảo và chuẩn bị trước cho sự hình thành tổ chức Hoạt Động Chung mà không cần phải tham khảo trước ý kiến bộ ngoại giao của các nước Anh, Pháp, 3 Quốc Gia Đông Dương, Úc, Tân Tây Lan, Phi Luật Tân và Thái Lan. Việc làm nầy của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ cũng bị Ngoại trưởng Anh Quốc không chấp thuận vào ngày 18/04/1954 trước khi phiên họp sơ bộ kể trên khai mạc ở Hoa Thịnh Đốn với lý do là không hay biết gì về việc quy tụ trước/ad hoc một nhóm dự thảo cho kế hoạch Hành Động Chung như thế và Anh Quốc cũng chưa có một thỏa thuận nào để làm một thành viên như thế. Do đó phiên họp sơ bộ kể trên do Hoa Kỳ tự ý quy tụ đã tự động hủy bỏ để trở thành một buổi họp hướng dẫn cho các thành viên sẽ tham dự Hội Nghị Geneva sắp tới.46 3. Vị thế cuối cùng của Hoa Kỳ, Anh Quốc, CS Liên Sô và CS Trung Quốc trước khi hội ngũ cường khai mạc ở Geneva - Cả ba Hoa Kỳ, CS Liên Sô và Anh Quốc đều là cường

quốc có vũ khí hạt nhân: Anh Quốc thử nghiệm quả bom nguyên tử đầu tiên với sức nổ plutonium mạnh 25 ngàn tấn vào ngày 03/10/1953 trên một hải đảo thuộc chủ quyền của nước Úc.47 Do đó có thể xem Anh Quốc như một lực lượng nguyên tử đối trọng giữa Hoa Kỳ và Liên Sô khiến cho Hoa Kỳ phải tìm đủ mọi cách để lôi kéo Anh Quốc theo hẳn về phía mình trong cuộc họp bàn ở Hội Nghị Geneva sắp tới. - Mặc dù tình trạng chiến sự ở Điện Biên Phủ trở thành khẩn cấp nhưng Hoa Kỳ vẫn nhất quyết không can thiệp một mình và ngay tức khắc vào Điện Biên Phủ mặc dù có sự yêu cầu cấp thiết của Pháp và lại còn thêm rằng Pháp nên thuyết phục cho Anh Quốc cũng hành động can thiệp như Pháp yêu Cầu với Hoa Kỳ.48 - Ngày 25/04/1954, Ngoại Trưởng Anh Eden tuyên bố với ngoại Trưởng Hoa Kỳ rằng Anh Quốc không muốn can dự vào chiến cuộc ở Đông Dương. Ngày 27/04/1954, Thủ Tướng Ang W.Churchill khi điều trân trước Nhị Viên Anh Quốc đã tuyên bố rằng chính phủ Anh chưa sẵn sàng để xử dụng lực lượng của Vương Quốc Anh vào chiến trường Đông Dương trước khi Hội Nghị Geneva nhóm họp mà cũng sẽ không tham dự vào bất cứ VSTK - 3735


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

tiến trình nào mới về mặt chính trị hay quân sự.49 Trước đó, để lôi kéo Anh Quốc, Hoa Kỳ cũng đã ngầm ý đe dọa rằng nếu Đông Dương mất vào tay Cộng Sản thì Mã Lai hiện đang dưới quyền giám hộ của Anh Quốc cũng bị vạ lây. Nhưng Anh Quốc đã thẳng thừng bồi đáp rằng Anh Quốc dư sức một mình “nắm chắc trong tay “well in hand” bảo đảm an ninh cho Mã Lai.50 Phải chăng Anh Quốc ngụ ý rằng Anh Quốc không cần sự che chở dưới cây dù nguyên tử của Hoa Kỳ bởi vì Anh Quốc cũng đã có sẵn và riêng của mình loại dù đó? - CS Liên Sô mặc dù đã có cây dù nguyên tử nhưng cũng không khiến cho CSTQ khiếp phục hoàn toàn để đi đúng theo chủ nghĩa Cộng Sản Quốc Tế do CS Liên Sô lãnh đạo nhất là sau biến cố tên lửa hạt nhân của Liên Sô phải chịu nhịn nhục Hoa Kỳ mà rút hết đi khỏi Cuba khiến cho CSTQ bêu rêu xa gần lên án CSLS là những kẻ theo chủ nghĩa xét lại vì sợ con cọp giấy nguyên tử Hoa Kỳ. Dù sao thì CSTQ cũng còn lệ thuộc nhiều vào viện trợ của CSLS bao gồm cả chương trình thiết lập lò phản ứng nguyên tử vì thế CSTQ tạm thời phải tiếp tục ép mình trong tình trạng cùng chung giường với CSLS nhưng không còn cùng chung một giấc mộng thế giới đại đồng như trước. Liên Sô muốn ép buộc CSVM phải ngồi vào bàn Hội nghị Geneva để chấp nhận việc chia 2 nước Việt Nam bằng áp lực của CSTQ và CSTQ đã phải làm theo sau khi đã được CSLS nâng lên hàng cường quốc và đưa vào cùng ngồi với Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Liên Sô nơi bàn Hội Nghị Geneva sắp tới. Một thâm ý khác của CSLS là làm giảm bớt việc đi đêm bành trướng thế lực của CSTQ ở vùng Á Châu và gây ảnh hưởng chủ nghĩa Mao đến các nước CS đàn em khác trên khắp thế giới. Việc CSLS sắp xếp đặt cho CSTQ được trở thành một trong 5 cường quốc tại bàn Hội Nghị Geneva và chuẩn bị cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được có mặt tại hội nghị nầy có thể tìm thấy (i) trong Lời Tuyên Bố của ngoại trưởng CSLS Molotov sau ngày Hội Nghị Berlin chấm dứt và (ii) trong một Công Điện của Thường Vụ Trung Ương Đảng CSLS gửi cho đảng Thường Vụ Trung Ương Đảng CSTQ như sau:

36

VSTK - 3736


1

2

3

4

5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26

27

28

29

30

31

32

33

34

35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

(i) Tuyên bố của V.M.Molotov sau Hội Nghị Berlin Bản Tuyên bố nầy được đang trên báo Investia ở Cộng Hòa Liên Bang Sô Viết (USSR) ngày 05/03/1954 trong đó có đoạn viết như sau:51 Chính phủ Sô Viết đề xuất một Hội Nghị các Ngoại Trưởng của 5 Cường Quốc Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Công Hòa Liên Sô và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc để họp bàn về những phương cách làm giản căn thẳng quốc tế, và một Hội Nghị các Ngoại Trưởng Tứ Cường để bàn thảo về vấn đề nước Đức . . . . . . . .Hoa Kỳ, Anh và Pháp đã cực lực phản đối một Hội Nghị 5 Cường Quốc mà trong đó có Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc được tham dự. ....... Cũng đã đạt tới thỏa thuận triệu tập một Hội Nghị ở Geneva từ ngày 26/04/1954. Đây sẽ là một Hội Nghị với những đại biểu của Cộng Hòa Liên Sô, Hoa Kỳ, Pháp, Anh và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc với sử tham dự của Cộng Hòa Triều Tiên, Dân Chủ Cộng Hòa Nhân Dân Triều Tiên và những nước khác có lực lực lượng quân sự tham đã có và những hoạt động thù địch ở Triều Tiên nhưng cũng mong muốn tham dự Hội Nghị nhằm đạt tới một sự giàn xếp một cách Hòa Bình vấn đề Triều Tiên, đồng thời còn có mục đích cùng với những quốc gia có liên quan với tiến trình tái lập hòa bình ở Đông Dương. Hội Nghị như vậy mà nơi đó các cường quốc tham dự sẽ gặp nhau vào ngày 26/04 để bàn thảo trên hai tranh cãi thúc bách nhất ở Á Châu: vấn đề Triều Tiên và tình hình ở Đông Dương. Và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc tại nơi Hội Nghị nầy sẽ chiếm giữ vị thế hợp pháp của mình bên cạnh các Cường Quốc khác.

(ii) Công điện của Thường Vụ Trung Ương Đảng CSLS gửi cho Thường Vụ Trung Ương Đảng CSTQ do tòa đại sứ Liên Sô ở Trung Quốc chuyển đạt đến CS Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa52 Công điện nầy đề ngày 26/02/ là một trong những tài liệu của văn khố Bộ Ngoại Giáo CSTQ (PRCFMA) vừa mới được giải mật gần dây và được tiến sỹ Chen Zhihong đại học Cornell Hoa Kỳ dịch ra tiếng Anh đăng trên tập san CWIHP Bulletin số 16 phát hành Thu 2007/ Đông 2008 nơi trang 12 như sau: Các Đồng Chí Thường Vụ Trung Ương Đảng CSTQ: Chúng tôi yêu các đồng chí chuyển đến [Dân Chủ Cộng Hòa Việt Nam (VNDCCH) đồng chí chủ tịch Hồ Chí Minh tiến trình đàm phán tại tại Hội Nghị Berlin của các ngoại trưởng về vấn đề đại biểu của Liên Sô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, Hoa Kỳ, Anh và Pháp và những quốc gia khác có liên hệ tham dự một Hội Nghị ở Geneva vào ngày 26/041/954 (hội nghị nầy, ngoài việc bàn thảo vấn đề Triểu Tiên, cũng sẽ bào thảo vấn đề tái lập hòa bình ở Đông Dương).Trước đây chúng tôi đã thông báo với các đồng chí rằng “những quốc gia liên hệ khác” ở Đông Dương, theo như sự hiểu biết của chúng tôi sẽ gồm có Dân Chủ Cộng VSTK - 3737


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

Hòa Việt Nam và 3 Quốc Gia con rối: Việt Nam của Bảo Đại, Lào và Cao Miên. Chúng tôi biết răng những đồng chí Việt Nam của chúng ta đã quan tâm lo ngại về việc hội họp ở Geneva, và không biết được liệu họ sẽ được đến dự Hội Nghị hay không. Chúng tôi tin rằng Trung Ương Đảng CSTQ sẽ cùng quan điểm với chúng tôi. Cho tới lúc nầy,vị thê của Pháp tại Hội Nghị Geneva cũng như điều mà Hoa Kỳ và Anh Quốc quan tâm, chúng tôi không có nhiều dữ liệu vào lúc nầy. Để chúng ta có thể tìm cách nào dùng Hội Nghị nầy để mang lợi ích cho nhân dân Việt Nam, chúng tôi rất mong muốn được tiếp nhận những kiến nghị của các đồng chí Việt Nam

4. Vị thế sau cùng của Pháp, của chính quyền Quốc Gia Việt Nam và của chính quyền CSVM Dân Chủ Cộng Hòa trước khi Hội Nghị Geneva khai mạc - Vào lúc nầy, nước Pháp đứng vào vị thế yếu nhất trong

“năm cường quốc”. CSTQ lệ thuộc Liên Sô nhưng còn khá hơn là sự lệ thuộc của Pháp vào Hoa Kỳ. Tuy nhiên Pháp luôn luôn nghi ngờ Hoa Kỳ muốn hất chân mình ra khỏi Đông Dương qua chiêu bài Hành Động Chung trước khi có Hội Nghị Geneva cho nên đã không chấp nhận chiêu bài nầy mà cũng không muốn Hoa Kỳ dùng chính sách đối ngoại hiện giờ của họ như là một phương tiện giải quyết chiến trận ở Điện Biên Phủ bằng một giải pháp chính trị thay vì giúp Pháp giải quyết chiến trường ngay bằng một hành động quân sự. Đối với Pháp, đi tìm một giải pháp chính trị chính trị vào giờ phút khẩn trương nấy có hai điều phiền phức chính yếu như là: (i) làm chậm trễ trầm trọng thời điểm đúng lúc đã có thể phát động can thiệp; (ii) sự biểu lộ quan điểm chính trị bằng một hình thức chống đối CSTQ trước khi Hội Nghị Geneva khai mạc bằng cách đưa ra một minh ước phòng thủ Đông Nam Á đe dọa nhằm đòi hỏi CSTQ phải chấm dứt mọi hình thức viện trợ cho CSVM tức là một hình thức làm mất thể diện của CSTQ trầm trọng hơn là áp dụng một hành động quân sự trực tiếp vào Điện Biên Phủ để bắt các lực lượng bộ đội CSVM phải gánh chịu một sự thảm bại chiến thuật. Chính ví những lẽ đó mà Pháp đã không đồng tình một giải pháp hành động chung “ngoạn mục” nhằm bảo vệ phần lãnh thổ nầy của thế giới trước khi kết thúc Hội Nghị Geneva. Thái độ hiện giờ của chính phủ Pháp là ước vọng tránh khỏi một tình trạng thất bại nghiêm trọng ở Điện Biên Phủ: “Dans toute hypothèse, c’est le désir d’éviter un grave échec à Dien Bien Phu qui commandait l’attitude du gouvernement frangcais:53 VSTK - 3738


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

- Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của CSVM chỉ là một quân tốt cảm tử trên bàn cờ quốc tế mà trong đó CS Liên Sô là tướng Tổng Tư Lệnh Thế giới CS và CSTQ là một tướng phụ tá được Liên Sô giao trách nhiệm kiềm hãm và sai phái CS Đông Dương đang núp dưới chiêu bài CSVM. Bộ Đội CSVM cần phải hy sinh bằng mọi giá để hạ cho bằng được cứ điểm Điện Biên Phủ trước khi phe phái Cộng Sản tới tham dự Hội Nghị Geneva và đó là ý muốn nếu không muốn nói là nghiêm lệnh của CSTQ truyền xuống cho CSVM qua trung gian các cố vấn quân sự CSTQ nơi chiến trường tây bắc Việt Nam và Điện Biên Phủ. CSVM phải có mặt nơi bàn Hội Nghị Geneva và đó là quyết định của CSLS. - Vị thế Quốc Gia Việt Nam cũng lâm vào tình trạng bị chèn ép nặng nề bởi Hoa Kỳ và Pháp không thua kém gì so với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa bị kiềm kẹp bởi CSLS và CSTQ. Trong Hồi Ký Le Dragon d’Annam,54 QT Bảo Đại cho biết rằng vào tháng 02/1954, sau khi sang Việt Nam hội kiến với QT Bảo Đại ở Cao nguyên Ban Mê Thuột, bộ trưởng Quốc Phòng Pháp Pleven trở về Paris điều trần trước quốc hội về vấn đề Đông Dương và Điện Biên Phủ đã đưa đến một quyết định của thủ tướng Pháp Laniel vào ngày 05/03/1954 là cần phải giải quyết sự tranh chấp ở Đông Dương bằng con đường thương lượng. Để đối phó với tình hình mới nầy và cũng lã để tỏ rõ cho dư luận thế giới thấy ý chí kiên quyết chống Cộng Sản cũng như chủ trương không tham dự thương lượng hòa bình dưới bất cứ hình thức nào không bảo đảm được độc lập đích thật và toàn vẹn lãnh thổ của Quốc Gia Việt Nam, ngày 29/03/1954 QT Bảo Đại lập ra một Hội đồng Quốc Phòng với các sở bộ cơ cấu của bộ Quốc Phòng cùng với tướng Nguyễn Văn Hinh và đích thân QT kiêm nhiệm Chủ tịch Hội Đồng nầy. Sau khi tới Pháp, ngày 21/04/1954, QT Bảo Đại gặp thủ tướng Laniel và ngoại trưởng Bidault để đặt điều kiện rằng: (i) Quốc Gia Việt Nam chi tham dự Hội Nghị thương lượng khi nào có lời mời chính thức và công khai của mỗi thành viên Quốc Gia tham dự Hội Nghị; (ii) không có sự tham dự của CSVM phiến loạn. VSTK - 3739


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40

Ngày 24/04/1954, ngoại trưởng Quốc Gia Việt Nam Nguyễn Quốc Định được ngoại trưởng Pháp thông báo cho biết chương trình nghị sự của Pháp trong Hội Nghị sắp khai mạc ở Geneva. Trong khi Hội Nghị Geneva đã bắt đầu được vài ngày với năm cường quốc, Marc Jacquet, quốc vụ khanh đặc trách các Quốc gia Liên Hiệp Đông Dương đến gặp QT Bảo Đại ở Cannes để cho biết rằng ngoại trưởng CS Liên Sô Molotov đã gặp và đòi hỏi với ngoại trưởng Pháp Bidault phải thỏa thuận để cho phái đoàn CSVM của Viện Nam Dân Chủ Cộng Hòa tham dự Hội Nghị Geneva bên cạnh các phái đoàn của 3 Quốc Gia Đông Dương. M.Jacquet cảnh báo rằng Hoa Kỳ và Liên Sô đã sắp xếp trước hết rồi từ Hội Nghị Berlin. Trưởng phái đoàn Hoa Kỳ Bedell Smith tại Hội Nghị Geneva cũng gây áp lực trong chiều hướng theo như lời của J.Jacquet cảnh báo ở Cannes: “Ce sonts les Américains qui vont vous imposer pas mal de choses. Vous allez voir l’ ambassadeur américain venir vous informer au fur et à mesure pour obtenir votre assentiment, mais tout est déjà réglé entre eux et les participants du clan communiste.”55 5. Tính cách chính danh của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa CSVM và của Quốc Gia Việt Nam để tham dự Hội Nghị Geneva.

Vấn đề nầy đã được 4 nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp Mỹ ấn định một cách chung chung, lơ lửng, mơ hồ ở Hội Nghị Berlin qua Tuyên bố chung đề ngày 18/02/1954 và được trích dẫn như sau:56 Berlin, ngày 18/02/1954 Cuộc họp giữa các Ngoại Trưởng Hoa Kỳ, Pháp, Vương Quốc Anh và Liên Sô, Ông John Foster Dulles, Ông Georges Bidault, Ông Anthony Eden và Ông M.Vyacheslav Molotov đã được thực hiện tại Berlin trong khoảng thời gian 25/01 và 18/02/1954. Các viên chức nầy đã đạt tới những thỏa thuận như sau: (a) ........ Xét rằng . . . . . Đề nghị rằng . . . . . Thỏa thuận rằng . . . . . . . . . . . .Vấn đề vãng hồi hòa bình ở Đông Dương cũng sẽ mang ra thảo luận tại bàn Hội Nghị với các phái đoàn đại diện của Hoa Kỳ, Pháp, Vương Quốc Anh, Cộng Hòa Xã Hội Liên Sô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc và các Quốc Gia khác có liên quan sẽ được mời. ........... ........... VSTK - 3740


KHẢO LUẬN 1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24 25 26 27 28 29 30

31 32 33 34 35 36

37 38

39 40

DẠO TẤU KHÚC “ĐÔNG DƯƠNG” CỦA BẦY CHỒN SÓI

Số phận đau buồn của nước Việt Nam và dân chúng Việt Nam đã đến lúc bị các thế lực chồn sói đầu xỏ Âu Á Mỹ xâu xé dưới chiều bài hấp dẫn: Tái lập Hỏa bình và ổn định tình hình an ninh thế giới. Ngày18/02/1954, một bản thông tư liên đới 4 nước đầu xỏ Hoa Kỳ, Anh, Liên Sô, Pháp từ Hội Nghị Berlin tuyên bố rằng một Hội Nghị sẽ được tổ chức vào cuối tháng 04/1954 ở thủ đô Geneva của Thụy Sĩ cùng với sự tham dự của những quốc gia nhược tiểu khác có liên hệ để tìm một giải pháp hòa bình cho cuộc chiến Đông Dương đã từng kéo dài từ tám năm qua tức là kể từ năm 1946 khi tướng tổng quản quân sự Võ Nguyên Giáp ra quân lệnh cho bộ đội CSVM rút ra hết ra khỏi thủ đô Hà Nội để khởi phát cuộc chiến tranh Đông Dương lần I. Cuộc rút lui của CSVM ra khỏi Hà Nội vào ngày ấy rất an toàn bởi vì có những cảm tử quân miệng còn hơi sửa – Những Chiến Sĩ Vệ Quốc Đoàn- bám trụ ở lại Hà Nội làm vật cản đường địch truy kích, hăng sai, mù quáng vì bị mờ mắt bởi lời kêu gọi bất hủ Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh trong một bức thư của Hồ Chí Minh gửi các thanh niên chưa tới tuổi cầm súng của CSVM ở Hà Nội những ngày đầu chiến của cuộc Đông Dương lần I . Câu nói nầy đã được nhắc đi nhắc lại như một biểu tượng cho sự hy sinh vì nền độc lập đất nước của chế độ Công Sản Việt Nam: “Các em ăn Tết thế nào? Vui vẻ lắm chứ? Tôi và nhân viên chính phủ vì nhớ đến các em nên cũng không ai nỡ ăn tết. Còn 90 phần trăm đồng bào ở hậu phương cũng giảm bớt 90 phần trăm mâm cỗ tiệc tùng, ai cũng dự bị cho công cuộc trường kỳ kháng chiến. (Ảnh bên đây được cơ quan truyền thông của CSVN ghi chú là Các chiến sĩ vệ quốc đoàn chiến đấu giành giật từng căn nhà, góc phố với địch trong những ngày đầu kháng chiến tại Thủ đô, năm 1946-1947.)

Các em là đội cảm tử. Các em cảm tử để cho Tổ quốc quyết sinh. Các em là đại biểu cái tinh thần tự tôn tự lập của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại, cái tinh thần quật cường đó đã kinh qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám truyền lại cho các em. Nay các em gan góc tiếp tục cái tinh thần bất diệt đó, để truyền lại cho giống nòi Việt Nam muôn đời về sau. Chí kiên quyết dũng cảm, các em đã sẵn có, đây tôi chỉ nhắc lại một vài điều mà các em phải nhớ luôn luôn: 1. Phải hết sức không khéo, nhanh chóng, bí mật, phải biết cách hóa chính vi linh (phân tán và sử dụng lực lượng một cách khôn khéo)

VSTK - 3741


1 2

2. Phải rút kinh nghiệm hàng ngày hàng giờ. Phải đề phòng Việt gian trinh thám.

3

3.

Phải hết sức cẩn thận. Phải luôn có sáng kiến để lợi dụng thời cơ.

4

4.

Tuyệt đối đoàn kết.

5 6

7 8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

41

42

Các em hăng hái tiến lên, lòng Già Hồ, lòng chính phủ và lòng toàn thể đồng bào luôn ở bên cạnh các em. Tôi thay mặt Chính phủ và đồng bào gửi cho các em lời chào thân ái và quyết thắng”.57

Trong khoảng thời gian từ tháng 02/1954 đến hạ tuần tháng 04/1954 các thế lực thực dân Âu Châu đồng minh của tư bản Hoa Kỳ trong thế chiến I, ngoại trừ Liên Sô, đã cùng nhau thực hiện những cuộc bàn luận kiểu ông nói gà bà nói vịt vì ít lợi vị kỹ riêng tư chung quanh đề nghị của thực dân Pháp yêu cầu Hoa Kỳ can thiệp trực tiếp vào chiến trường Đông Dương để giải cứu Điện Biên Phủ đang bị CSVM bao vây qua sự viện trợ đáng kể về vũ khí đạn dược cũng như cố vấn quân sự của CSTQ. Tổng thống Hoa Kỳ đã không thể thuyết phục được các dân biểu lãnh tụ đảng phái trong Quốc Hội Hoa Kỳ hậu thuẫn cho Hành Pháp Hoa Kỳ toàn quyền hành động can thiệp trực tiếp vào Đông Dương mà cũng không thể hành động một mình mà phải có sự tham dự của Anh Pháp trong một kế hoạch Hành Động Chung do Hoa kỳ đề xuất. Lý do tại sao chính quyền Hoa Kỳ đưa ra những điều kiện như thế? Vì các lý do: (i) Sau hai quả bom nguyên tử đổ xuống nhân dân vô tội ở thành phố Hiroshima và Nagasaki của Nhật, Hoa Kỳ sợ mang tiếng với dư luận của thế giới kết án Hoa Kỳ chỉ giỏi xử dụng vũ khí mới hạt nhân trên các nước ở vùng Á Châu chậm tiến và phải chịu mang tiếng là con cọp giấy; (ii) Hoa Kỳ muốn nhưng chưa dám xử dụng vũ khí hạt nhân đơn phương thêm một lần nữa ở Á Châu vì e dè CSLS cũng đã có vũ khí hạt nhân mặc dù CSLS có số lượng ít hơn và rồi sau nầy không lâu cũng bị xem như là một con gấu giấy sau vụ khủng hoảng tên lửa ở Cuba vào năm 1962; (iii) Muốn kéo lôi thêm Anh Quốc vào cùng thuyền với mình để làm nghiên lệch cán cân nguyên tử về phía Đồng Minh vì Anh Quốc cũng đã có vũ khí hạt nhân; (iv) Hoa Kỳ không muốn chống Cộng Sản ở Đông Nam Á Châu một mình vì Hoa Kỳ chưa có được một quyền lợi béo bở gì ở đó giống như Pháp có Đông Dương và Anh có Mã Lai và Thái Lan. Anh không dễ dàng để cho Hoa Kỳ lôi kéo vào đường hầm đen tối Điện Biên Phủ. Hoa Kỳ gặp khó khăn với Pháp kể từ giữa năm 1953 khi chính quyền của Tổng Thống Eisenhower đặt điều kiện để viện trợ cho Pháp thi hành kế hoạch của tướng NavarreTổng Tư Lệnh quân sự Pháp ở Đông Dương. Hoa Kỳ muốn rằng với việc viện trợ cho quân viễn chinh Pháp về súng óng đạn dược và phương tiện cũng như tiền bạc trong chương trình huấn luyện một quân đội riêng của Quốc Gia Việt Nam chiến đấu sẽ thu hút dân chúng Việt Nam đang sống dưới chế độ Quốc Gia tham gia nhiệt tình vào công cuộc VSTK - 3742


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26 27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

41

42

chống Cộng Sản Đông Dương đang ẩn mình dưới lớp da CSVM. Ước muốn nầy của Hoa Kỳ bị chính phủ Pháp của thủ tướng Laniel nghi ngờ, cho rằng Hoa Kỳ muốn chen chân vào để chia phần quyền sở hữu thực dân của Pháp trên 3 quốc gia Đông Dương. Người Pháp đang tìm kiếm một hành động nhanh chóng để thoát khỏi một thất bại quân sự không thể tránh khỏi ở Điện Biên Phủ; Pháp lo ngại rằng một thỏa thuận liên minh sẽ đưa tới tình trạng quốc tế hóa cuộc chiến khiến cho việc kiểm soát độc quyền của Pháp ở Đông Dương rời khỏi tầm tay của họ. Do đó, họ chỉ mong muốn Hoa Kỳ tiếp trợ ngay tức khắc và cục bộ tại Điện Biên Phủ đang hấp hối vì sự bao vây của bộ đội CSVM với vũ khí đạn dược và sự có mặt của đoàn cố vấn quân sự của CSTQ ngay trên chiến tuyến Điện Biên Phủ. Trong khi đó thì khối CSLS, CSTQ, hợp tác với nhau rất sát để có thể tiến bước một cách ăn khớp và nhiều ưu thế vào bàn Hội Nghị sắp tới ở Geneva. Điểm nổi bật hơn hết là CSTQ – con rồng đỏ- chỉ một sớm một chiều bỏng nhiên trở thành một trong 5 cường quốc sừng sỏ nhất thế giới mặc dù con rồng đỏ nầy chưa có khả năng phun ra lửa nguyên tử - nhờ công lao của CSLS qua một công hàm (Note) ngày 22/04/1954 đề bạt với Hoa Kỳ, Anh Pháp sau Hội Nghị nghị tứ cường Anh, Pháp, Hoa Kỳ và Liên Sô ở Berlin. Vị thế cường quốc thứ 5 của CSTQ trong Hội Nghị Geneva sắp tới đã bị Hoa Kỳ phản đối mạnh mẽ và sự phản đối nầy có thể tìm thấy qua một Công Điện đề ngày 26/03/1954 của bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ gửi cho tòa Đại sứ Hoa Kỳ ở Luân Đôn trong đó phần kết luận viết rằng “ Để kết luận, Hoa Kỳ sẽ phải bát bỏ bất cứ đề nghị nào, bất cứ thủ tục nào hay bất cứ điều gì tạo cho Cộng sản Trung Quốc một vị thế đặc biệt hoặc được mặc nhiên có được một quan niệm như là “một nhóm 5 cường quốc”(To sum up we would reject any proposal, procedural or otherwise, which would give Communist China a special place or imply a ‘Five Power’concept.)58

Mặc dù vậy, CSTQ đã không cần chờ đợi lâu hơn nữa để tự nâng cao vị thế của mình bằng cách lên tiếng với CSLS rằng chỉ mới có một việc Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc tham dự vào Hội Nghị Geneva sắp tới cũng đã là một bước tiến vĩ đại trên tiến trình giảm hạ tình trạng khủng hoảng căng thẳng quốc tế hiện giờ và nhờ vậy đã chiếm được lòng ủng hộ rộng khắp của tất cả nhân dân và quốc gia yêu chuộng hòa bình trên khắp mặt địa cầu. Riêng đối vấn đề tái lập Hòa Bình ở Đông Dương, CSTQ đã góp ý với CSLS rằng cả hai đảng CS phải cùng một lòng dùng mọi nỗ lực để gặt hái kết quả mong muốn; ngay cả việc sau khi hội nghị chấm dứt mà vẫn chưa đạt đến một thỏa thuận chung nào thì cả hai đang CS Trung Quốc và Liên Sô cũng không nản lòng bỏ rơi hoàn toàn vấn đề thương lượng để tái lập hòa bình ở Đông Dương nhưng cần phải tạo ra một hoàn cảnh “vừa đánh vừa đàm phán” nhằm gây thêm khó khăn trong nội tình quân sự và chính trị của Pháp đồng thời gây mâu thuẫn giữa Pháp và Hoa Kỳ và như VSTK - 3743


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

thế sẽ trợ giúp cho nhân dân Đông Dương tiếp tục thực hiện mục tiêu giải phóng đất nước của họ. Về các vấn đề riêng biệt liên quan đến tái lập hòa bình tại Đông Dương, ngừng bắn tại chỗ không tốt bằng phân chia một lằn ranh giữa nam và bắc, chẳng hạn như từ vĩ tuyến 16. 59 Vào lúc nầy, vị thế của CSVM tại Hội Nghị Geneva cũng còn rất mù mịt mà ngay cả ngoại trưởng Molotov của CSLS sau ngày Hội Nghị Berlin chấm dứt cũng chưa có được cơ sở vững chắc để xác quyết rằng một phái đoàn của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chắc chắn sẽ có mặt tại bàn Hội Nghị Geneva sắp tới. Tình trạng nầy kéo dài có thể nhận thấy được qua biên bản của một cuộc họp riêng Hoa Kỳ, Anh Pháp tại Paris, ngày 22/04/1954. Trong cuộc họp nầy lần lược các quan điểm và chủ trưởng của mỗi ngoại trưởng như sau:60

13 14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

41

42

- Ngoại trưởng Pháp Bidault cho rằng cần đánh tan các luận điểm sai lệch cố ý của CSLS khi diễn đạt về thành phần các bên tham dự Hội Nghị Geneva. Bidault nhấn mạnh rằng bất cứ ai ai cũng hiểu là trách nhiệm đặc biệt đã được ủy thác cho 4 cường quốc trong Hội Nghị Berlin và rằng đối với bất cứ sự việc nào thì tứ cường cũng sẽ không thể khai mạc Hội Nghị Geneva bằng cách vi phạm nền tảng của sự thông hiểu mà dựa vào đó Hội Nghị được xếp đặt. -Thủ tướng Anh A.Eden phát biểu rằng Hội Nghị Geneva phải được tổ chức trên căn bản đã chấp nhận nơi Hội Nghị Berlin - Ngoại trưởng Pháp chuyển qua đề mục những thành viên tham dự họp nghị đề Đông Dương và nói rằng Anh, Pháp, Hoa Kỳ xét định thành phần sau đây như là một mô thức gồm có 4 cường quốc của Hội Nghị Berlin và 3 Quốc Gia Liên Hiệp ở Đông Dương cùng với những quốc gia giáp giới như Cộng Sản Trung Quốc (đã được mời tham dự), Thái Lan và Miến Điện. Bidault cũng nói rằng có một vấn đề không liên hệ tới chính phủ Pháp nhưng lại có dính líu với chính quyền Quốc Gia Việt Nam: sự hiện diện của Việt Minh tạ bàn Hội Nghị. Hiển nhiên Việt Nam đã là một quốc gia độc lập trong Liên Hiệp Pháp và quốc gia đó không muốn có sự hiện diện của Hồ Chí Minh. Do đó, vì vị thế trong khối Liên Hiệp Pháp, Pháp sẻ phải chống đối sự hiện diện của Việt Minh và đề nghị mời 3 Quốc Gia của Liên Hiệp Pháp tham dự. Nếu Liên Sô chống đối việc tham dự của 3 quốc gia Đông Dương thì Pháp, sẽ tìm một phương thức nào đó để biểu hiện sự ngăn chận Việt Minh tham dự trong cùng một vị thế ngang hàng. Cũng Theo Bidault thì Pháp không đối xử Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của Việt Minh như là một quốc gia hợp pháp mặc dù đã được Liên Sô và Cộng Sản Trung Quốc thừa nhận. Pháp xem các chính phủ của 3 quốc gia Đông Dương trong khối Liên Hiệp Pháp với 33 phiếu của nhiều quốc gia thành viên trong tổ chức Liên Hiệp Quốc chấp nhận đơn xin gia nhập tổ chức nầy và được nước Pháp xem là 3 Chính phủ hợp pháp chính thức trên VSTK - 3744


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

41

42

bình diện ngoại giao trong vùng Đông Dương. Như vậy, theo nhận định của Pháp về thân trạng hợp pháp của một Quốc Gia thì chế độ của Ông Hồ sẽ bị loại trừ. Tuy nhiên, Pháp cũng sẻ chấp nhận sự hiện diện của Ông Hồ nếu sự chấp nhận nầy sẽ có thể trợ giúp cho việc chấm dứt chiến tranh Đông Dương một cách suông sẻ mặc dù trên thực tế de-facto đương nhân không thể được công nhận như là người đại diện của một Quốc Gia. Như vậy, qua cuộc họp Anh, Pháp, Hoa Kỳ ngày 22/04/1954 như vừa kể trên thì vị thế của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của CSVM sẽ gặp sự chống đối của 3 đế quốc tư bản nầy. Tuy nhiên, không hẳn là như vậy bởi vì vào ngày 31/04/1954 Ngoại Trưởng Anh Eden lại đơn phương gặp riêng CSLS và CSTQ ngay sau phiên họp đầu tiên ở Geneva bắt đầu từ 26 /04/1954. Cuộc xé lẽ tay ba nầy đã được ghi lại qua một bức Công Điện đề ngày 01/05/1954 của ngoại trưởng CS Trung Quốc Chu Ấn Lai từ Geneva gửi về cho Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Ban Chấp hành Trung Ương Đảng CSTQ.61 Công Điện vừa kể trên báo cáo về những đề mục mà 3 ngoại trưởng Anh Eden, Trung Quốc Chu Ấn Lai và Liên Sô Molotov thảo luận trong đó có đề mục bàn bạc về Đông Dương. Ngoại trưởng Eden nói rằng “đương sự không đề cập đến vấn đề thành phần các quốc gia được mời tham dự họp bàn về vấn đề Đông Dương nhưng chỉ muốn hỏi hai phía Liên Sô và Trung Quốc có thể nào thúc đẫy việc di tản tù binh Pháp bị thương nơi mặt trận Điện Biên Phủ hay không. Molotov trả lời rằng chuyện nầy Anh Quốc có thể bàn thảo với phái đoàn Việt Nam còn Chu Ấn Lai thì nói rằng đây là việc do hai bên chủ thể tham chiến ở đó thương lượng trực tiếp với nhau giống như trường hợp giải quyết vấn đề thương binh nơi chiến trường Triều Tiên trước đây.” Về thành phần tham dự Hội Nghị Geneva về Đông Dương thì Chu Ấn Lai cho rằng “đã có 5 nước được mời tham dự họp bàn về vấn đề Đông Dương. Vấn đề còn bỏ trống là sự quyết định mời thêm các quốc gia có liên hệ tham dự vẫn chưa dược thực hiện. Rõ rang là có kẻ nào đó ngăn cản không muốn hai phía có liên hệ tham dự vào tiến trình thương lượng.” Eden nói: “Bản chức không có làm chuyện đó.’ Như vậy, theo tài liệu kể trên thì rõ ràng là CSLS và CSTQ quyết tâm đề nghị cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của CSVM được tham dự ngang hàng với Pháp trong Hội Nghị Geneva và Anh Quốc xác định là không ngăn cản đề nghị nầy của hai nước lớn CS. Như vậy cán cân thỏa thuận cho CSVM tham dự vào Hội Nghị Geneva đã tỏ rõ với 3 phiếu thuận của ba “cường quốc” Liên Sô, Trung Quốc và Anh với 2 phiếu chống của của hai “cường quốc” Hoa Kỳ và Pháp nếu vấn đề nầy được đưa ra biểu quyết công khai tại một phiên họp nghị Geneva về Đông Dương. Ngoài ra, ngoại trưởng Anh cũng xác định rằng vị thế của CSTQ được đối xử hay không như là một trong 5 cường quốc vai chính trong bàn Hội Nhị Geneva cũng chẳng có được sự chú ý nào của Anh để ngăn cản hay chống đối. Sự xác VSTK - 3745


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

định nầy của Eden đã được Molotov khen ngợi: “Đây là một thái độ tốt .Nhưng có kẻ lại không muốn đề cặp đến trường hợp Năm Cường Quốc.” Theo tài liệu của Lầu Năm Gốc Hoa Kỳ đã được giải mật thì nếu theo đúng thông cáo chung cuối cùng tại Hội Nghị Berlin trước đây không lâu thì chỉ có 4 cường quốc Anh, Hoa Kỳ, Liên Sô và Pháp mới có quyền đề nghị và quyết định định việc mời những quốc gia khác có liên hệ trong vấn đề Đông Dương chứ không phải do Bắc Kinh đề nghị mặc dù CSTQ đã được 4 cường quốc kể trên đồng thuận cho tham dự Hội Nghị Geneva. Do đó, Hoa Kỳ đã cực lực phản đối việc Trung Quốc đề nghị cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tham dự Hội Nghị Geneva. Mặc dù vậy, vẫn chưa có một dự định chính thức nào để ngăn chận CSVM không được tham dự vào hội nghị Geneva.62 Tài liệu kể trên của Lầu Năm Gốc cũng cho biết thêm rằng, mặc dù có sự phản kháng mãnh liệt của chính phủ Quốc Gia Việt Nam cho rằng CSVM chỉ là một nhóm vũ trang phản loạn ngoài vòng pháp luật không thể ngồi chung trong bàn hội nghị để thương lượng, nhưng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trên bình diện tổng quát thường được xem như là một trong những chủ thể của cuộc chiến cũng đồng ý có một cuộc đình chiến vì thế cho nên sự tham dự của họ vào Hội Nghị được đánh giá như là rất hữu ích. Tài liệu cho biết thêm là CSLS đã cảnh báo với Pháp rằng các quốc gia Đông Dương trong khối Liên Hiệp Pháp cũng sẽ bị Liên Sô phản đối không dược tham dự vào Hội Nhị Geneva nếu không có sự tham dự của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Tình trạng lơ lững nầy kéo dài cho đến khi cứ điểm Điện Biên Phủ bị mất vào tay bộ đội CSVM khiến cho tất cả phe hai bên đều phải chấp nhận rằng sẽ có 9 phái đoàn (thay gì gọi là những Quốc Gia) bàn thảo về vấn đề Đông Dương; và khóa hợp đầu tiên về vấn đề Đông Dương khởi phát kể từ 08/05/1954.

*

VSTK - 3746


CHƯƠNG 2 (Tiếp theo)

HỘI NGHỊ GENEVA

II - Hội nghị Geneva về Đông Dương Đợt I Từ 08/05/1954 đến 04/06/1954 1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

A- Thành phần các phái đoàn ngoại giao tại Hội Nghị

Mặc dù Hội Nghị Geneva về Cao Ly đã bắt đầu từ ngày 26/04/1954 nhưng vì nhiều vấn đề có liên quan đến thủ tục đã làm chậm trễ việc khai mạc đàm phán về vấn đề Đông Dương Mãi cho đến một ngày sau khi cứ điểm Điện Biên Phủ bị thất thủ Hội Nghị Geneva về Đông Dương mới khởi sự và kéo dài hơn hai tháng kể từ ngày 08/05/1954. Trên thực tế, tiến trình đàm phán về Đông Dương đã được thực hiện gắp rút bởi vì hầu hết các cường quốc đóng vai đạo diễn hiện diện trong Hội Nghị nầy tin rằng việc thỏa hiệp nhất định phải đạt được. Trong giai đoạn nầy, người ta thấy có 2 sự kiện mới: (i) Hoa Kỳ tự ý rút lui khỏi vai trò lãnh đạo trong các cuộc thương thảo ở bàn Hội Nghị bằng cách hạ thứ bậc trưởng phái đoàn Hoa Kỳ và (ii) Một nội các chính phủ mới của Pháp được thành hình ở Paris mà trong đó tân thủ tướng Mendès France kiêm nhiệm luôn chức Bộ Ngoại Giao. Chính hai sự kiện nầy đã giúp cho tiến trình thỏa hiệp ở Hội Nghị Geneva kết thúc nhanh chóng. Trở ngại làm chậm trễ chính là cuộc tranh luận khởi đầu của các nước lớn trong hội nghị nầy chung quanh vấn đề “những ai là kẻ có liên hệ” sẽ được ngồi vào cùng chung một bàn Hội Nghị với họ. Kết quả là có 9 phái đoàn sẽ có mặt nơi bàn Hội Nghị Geneva. Hai nhóm CS Khmer Issarak ở Cao Miên và CS Pathet ở Lào do CSVN xướng xuất đề nghị không được chấp nhận là 2 phái đoàn riêng trong phe CS. Như vậy, các phái đoàn chính thức của Hội Nghị Geneva về Đông Dương là: - Vương Quốc Anh: Anthony. Eden - Hoa Kỳ: tướng Walter Bedell Smith, U.Alexis Johnson - Pháp: Georges Bidault,Jean Chauvel, Mandès France - Liên Sô: Vyacheslav Molotov - Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc: Chu Ấn Lai, Chang Wen-t’iên - Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa: Phạm Văn Đồng - Quốc Gia Việt Nam: Nguyễn Đắc Khê, Trần Văn Đỗ VSTK - 3747


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42

43

44

45

46

- Quốc Gia Cao Miên: Tep Phan, Sam Sary - Quốc Gia Lào: Phoui Sananikone

Cùng với một thỏa thuận chung là Liên Sô và Anh Quốc sẽ thay phiên nhau chủ trì các phiên họp toàn thể công khai. Điện Biên Phủ thất thủ vào ngày 07/05 như tiếng sét đánh vào tinh thần mà người Pháp không còn có thể gượng dậy nổi. Khi điều trần trước quốc hội Pháp trong ngày 07/05/1954 về thảm bại của quân Pháp ở Điện Biên Phủ, thủ tướng Laniel đã xác quyết rõ rệt là quân đội Pháp vẫn tiếp tục chiến đấu trong khi chính phủ mưu tìm một cuộc ngừng bắn tại Hội Nghị Geneva.63 “. . . . . . . . . . Trước sự thất thế nầy không thể đạt được chiến thắng chiến thắng bất tử của những chiến sĩ cố thủ của căn cứ Điện Biên Phủ, nước Pháp sẽ có sự phản ứng cứng cỏi của một đại cường quốc. Nước Pháp sẽ ưu tiên lư tâm tới tới các quân binh trong đoàn quân viễn chinh của mình ở Đông Dương. Những sự bố trí cần yếu đang đực xúc tiến để cho sức mạnh của đoàn quân viễn chinh nầy không bị sút giảm. Nước Pháp xác quyết với các thành viên phái đoàn Pháp dự Hội Nghị Geneva bằng những chỉ thị là không chấp nhận việc thất thủ Điện Biên Phù sẽ không có thể làm cho Pháp bị co cụm một chút nào trong con đường mà mình đã hoạch định để tiến bước. Mọi sự thanh thỏa sẽ phải bao gồm những điều kiện cần yếu để bảo vệ các đoàn quân binh của khối Liên Hiệp Pháp, bảo vệ tự do của nhân dân mà nước Pháp bảo vệ nền độc lập và quyền chọn lựa số phận của họ. Sau cùng, nước Pháp nhắc nhở với các nước Đồng Minh của Pháp rằng, trong 7 năm dài, quân đội Liên Hiệp Pháp đã không ngừng bảo vệ một trong những vùng rất căn thẳng thần kinh trên lục địa Á Châu và khi làm như vậy, nước Pháp đã đơn độc chống giữ một minh cho tất cả các nước Đồng Minh.” “Devant ce revers qui ne peut atteindre la gloire immortelle des défenseurs de Dien Bien Phu, la France aura la reactionvirile d'une grande nation.Elle pensera, d'abord, à ses soldats du corps expéditionnaire en Indochine. Les dispositions nécessaires sont déjà en cours pour que la force de celui-ci ne soit point amoindrie. Elle confirmera, à ses délégués à Genève ses instructions, sans admettre que la chute de Dien Bien Phu entraîne le moindre infléchissement de la ligne qu'elle se proposait de suivre. Tout règlement devra comprendre les conditions necessaries à la sauvegarde des troupes de l'Union française, à la liberté des peuples dont elle protège l'indépendance et à leur droit de choisir leur destin. Enfin, la France rappellera à ses alliés que, pendant sept ans, l'armée de l'Union française n'a cessé de protéger une des régions névralgiques du continent asiatique et que, ce faisant, elle a défendu seule les intérêts de tous.”

Tiếp theo phiên họp điều trần kể trên, một phiên họp khoáng đại của Quốc Hội Pháp đã được triệu tập vào ngày 13/05/1954 để chất vấn và biểu quyết tính nhiệm nội các hiện tại của thủ tướng Laniel sau khi Điện Biên Phủ thất thủ. Trong khi VSTK - 3748


1

2

3

4

5

6

7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

trả lời những cuộc chất vấn của các dân biểu, thủ tướng Laniel đã trình bày cho Quốc Hội thấy là chính phủ Pháp hiện tại đang nỗ lực thực hiện những kế hoạch quân sự và chính trị cần thiết để bảo tồn lực lượng chiến đấu và giữ vững tinh thần các chiến binh của Liên Hiệp Pháp với quết tâm nhằm ngăn chận không cho CSVM thừa thắng xốc tới:64 Công việc bận tâm thứ nhất của chính phủ phải là cung ứng cho cấp chỉ huy những phương tiện mà họ cần phải có để đối diện với tình thế quân sự hiện nay. Một ưu tiên khác nữa là giao quyền hạn tối đa cho các chức quyền của nước Pháp tại Hội Nghị Geneva để ăn nói, để tại nơi đó tìm những giải pháp chấm dứt 7 năm chiến tranh đồng thời đáp ứng được nguyện ước vọng của nước Pháp và của những cố gắng hy sinh của các quân binh ở đó. Về mặt quân sự, các đồng sự của bản chức sẽ hiểu rằng bản chức sẽ không thể đi vào chi tiết ngoại trừ việc xác nhận lời tuyên bố của của mình trong ngày thứ Sáu vừa qua, theo những lời lẽ mà bản chức đã báo trình đã có những biện pháp nào đang được xử dụng để đoàn quân lực của chúng ta không bị giảm sút. Ngày hôm nay bản chức có thể bổ túc thêm những chỉ điểm sau đây: chính phủ đã và đang gửi từ nhiều ngày qua nhiều tiểu đoàn quân nhảy dù, hàng trăm chuyên viên kỹ thuật cơ khí và đoàn viên phi hành để yểm trợ và trang bị cho 25 phóng pháo cơ cùng với phi đoàn phóng pháo cơ hạng nặng của binh chủng hải quân. Những lực lượng thủy quân cũng khởi phát lên đường. Trong một thời hạn rất ngắn nhiều tiểu đoàn mới và nhiều đơn vị pháo binh, thiết giáp xa và các loại súng tự động sẽ được gửi đến tăng cường Hai tuần dương hạm cũng sẽ có mặt tại vịnh Bắc Việt. Mặc khác, bản chức cũng sẽ triệu tập vào ngày mai một ủy ban quốc phòng để thi hành nhiệm vụ lựa chọn trong số hàng loạt quết định khác nhau có tầm hiệu quả lớn lao để dựa vào đó chính phủ có thể chủ yếu tham kiến của quý vị vào một ngày được lựa chọn.64.

Từ 08/05/1954 đến 21/07/1954 có tất cả 8 phiên họp toàn thể công khai và 21 phiên họ giới hạn. B - Những đề xuất, tranh luận và mặc cả tại Hội Nghị (Các phiên họp trong những ngày 08 và 10/05/1954) - Phái đoàn Pháp (08/05/1954)65

Ngày đầu tiên 08/05/1954, như đã được ước định, ngoại trưởng Bidault đọc diễn văn trình bày đề cương của chính phủ Pháp và đưa ra những đề nghị để bàn thảo như sau: (a) - Vấn đề Việt Nam 1. Tập trung những đơn vị quân chính quy tại những vùng do VSTK - 3749


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

hội nghị Geneva chỉ định qua những ý kiến và đề nghị của các chức quyền chỉ huy Tối Cao Quân Đội. 2. Giải giới những phần tử không thuộc quân đội hoặc cảnh sát. 3. Trả tự do ngay cho các tù binh chiến tranh và dân sự bị giam giữ. 4. Kiểm soát việc thi hành các điều khoản nầy bởi các ủy ban kiểm soát quốc tế. 5. Chấm dứt những hành động thù nghịch ngay sau khi thỏa ước được ký kết. Việc tập trung các lực lượng và giải giới như đề nghị kể trên sẽ được khởi sự ngay trong vòng không quá 10 ngày. (b) - Vấn đề Cao Miên và Lào 1. Rút hết các lực lượng bộ đội chủ lực và du kích của Việt Minh xâm nhập vào đất nước Cao Miên và Lào. 2. Giải giới những phần tử không thuộc quân đội hoặc cảnh sát. 3. Trả tự do ngay cho các tù binh chiến tranh và dân sự bị giam giữ. 4. Kiểm soát việc thi hành các điều khoản nầy bởi các ủy ban kiểm soát quốc tế.

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

5. Việc bảo đảm các thỏa ước phải được các quốc gia thành viên Hội Nghị Geneva cam kết. Bất cứ vi phạm nào xảy ra sẽ phải ngay tức khắc đưa ra hội ý giữa các Quốc Gia thành viên ký bảo đảm nầy để tìm phương cách thích hợp cho từng mỗi trường hợp cá thể hay tập thể. Trong bản đề nghị của Bidault không thấy đề cặp tới một giải pháp chính trị nào song song với giải pháp ngừng bắn. - Phái đoàn Liên Sô Và Hoa Kỳ (08/05/1954)

Trong phiên họp đầu tiên nầy, ngoại trưởng Liên Sô Molotov đã biện luận rằng tất cả các thành viên “có liên hệ” đều phải được mời tham dự tại bàn Hội Nghị Geneva về Đông Dương tức là bao gồm cả hai nhóm kháng chiến du kích CS Khmer Issarak Cao Miên và CS Pathet Issara Lào với lý do họ cũng là hai VSTK - 3750


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20 21 22 23 24 25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

chính quyền của 2 Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc của hai Quốc Gia nầy ở Đông Dương. Molotov cũng biện luận rằng hai chính quyền Quốc Gia Quân chủ Cao Miên và Lào đang cộng tác với Pháp đã được mời chính thức vào bàn Hội Nghị thì không có lý do nào Issarak và Issara lại bị bỏ rơi không được phép tham dự. Đề nghị kể trên của Molotov đã bị trưởng phái đoàn Hoa Kỳ Smith phản đối và yêu cầu hủy bỏ bởi vì Hoa Kỳ cho rằng 2 chính quyền Giải Phóng Dân Tộc tại hai vương quốc nầy không hiện hữu. Nếu có ý kiến chống đối yêu cầu nầy của Hoa Kỳ thì Hoa Kỳ đề nghị đình chỉ ngay kỳ họp khai mạc hôm nay cho đến khi nào vấn đề ai là kẻ được mời chính danh đẻ tham dự Hội Nghị được sáng tỏ. Vấn đề nầy vốn đã được giải quyết thỏa đáng bởi 4 cường quốc nơi Hội Nghị Berlin và Geneva trước đây không bao lâu.65bis - Phái đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (08/05/1954)

Trong bài diễn văn tiếp theo, trưởng phái đoàn Phạm Văn Đồng đã đề xuất mời 2 phái đoàn CS Khmer Cao Miên và Pathet Lào tham dự chính thức vào Hội Nghị Geneva. Phần cuối bài diễn văn viết: Theo tình hình hiện tại của các quốc gia Đông Dương và vì lợi ích thông suốt và cụ thể của việc cứu xét vấn đề chấm dứt những sụ thù nghịch và tái lập hòa bình ở Đông Dương, Hội Nghị nhận thức được sự cần thiết mời những đại diện của những chính phủ kháng chiến của Khmer Cao Miên và Pathet Lào để họ dự phần vào công việc của Hội Nghị trong vấn đề tái lập Hòa Bình ở Đông Dương.66

Tuy nhiên đề xuất nầy không được ai chú ý một cách nghiêm chỉnh - vì vị thế vệ tinh quỹ đạo yếu kém không chính danh của phái đoàn VNDCCH cho nên khối CS khổng lồ đàn anh Liên Sô thấy cần phải chính mình lên tiếng trong vấn đề đưa CS Khmer và Pathet gọi là cho lấy có tại bàn Hội Nghị Geneva. Nếu nhìn xa hơn một bước nữa thì rõ ràng là CSTQ và CSLS không muốn để CSVM qua mặt họ để tự động xác định mình là độc lập đồng thời cũng là lãnh tụ của 3 nhóm CS ở Đông Dương. Hai văn kiện của CSTQ ngày nay đã được giải mật cho biết như thế: - Văn kiện (1): Phái đoàn VNDCCH của CSVM là một nhóm nằm trong phái đoàn CSTQ. Văn kiện đã được nữ tiến sỹ Chen Zhihong VSTK - 3751


1

2

chuyển dịch sang Anh ngữ và điều rất đáng chú ý là đề mục của văn kiện nầy ghi như sau: Văn kiện Số 4

3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

Dự thảo Giác Thư ngày 04/04/1954, “Một Giải pháp thông suốt cho việc tái lập Hòa Bình ở Đông Dương,” do nhóm Việt Nam của phái đoàn Trung Quốc tham dự Hội Nghị Geneva soạn thảo. DOCUMENT No. 4 Draft Memorandum, “A Comprehensive Solution for Restoring Peace in Indochina,” Prepared by the Vietnam Group of the Chinese Delegation Attending the Geneva Conference, 4 April 1954 [Source: PRCFMA 206-00055-04; P1-4. Obtained by CWIHP and translated for CWIHP by Chen Zhihong.]

Trong toàn thể nội dung của giác thư nầy không có chỗ nào nói rằng CSVM có quyền đơn phương đề nghị lung tung tại bàn Hội Nghị Geneva mà chưa tham khảo ý kiến trước với CSTQ.67 - Văn kiện (2): Công Điện đề ngày 09/05/1954 của trưởng phái đoàn CSTQ Chu Ấn Lai báo cáo về tình hình buổi họp đầu tiên tại Hội Nghị Geneva về vấn đề Đông Dương vào ngày 08/05/1954 gửi về cho chủ tịch Mao Trạch Đông, phó chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ và Ban Chấp hành Trung Ương đảng CSTQ. Trong công điện nầy có đoạn báo cáo về việc Phạm Văn Đồng tự quyền đề nghị cho 2 nhóm CS Khmer Cao Miên và Pathet Lào như sau:68 Văn kiện Số 9 Công Điện ngày 09/05/1954, Chu Ấn Lai gửi Mao Trạch Đông và nhiều người khác Về Tình hình xảy ra trong phiên họp toàn thể lần thứ nhất. (Tối mật)

24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

45

46

(1) . . . . . . . (2) Sau bài diễn văn của Bidault, [Ngoại Trưởng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa] đồng chí Phạm Văn Đồng đã phát ngôn, nêu lên vấn đề mời đại diện hai chính phủ kháng chiến Lào và Cao Miên tham dự nơi bàn hội nghị. Ngay tức khắc đã xảy ra một cuộc tranh cãi tại buổi họp hội nghị. Chi tiết (xin đọc) bài tường thuật của Thông Tấn Xã Xihua (Tân Hoa Xã). Sau cùng, chủ tịch điều khiển buổi họp Eden đã phải tuyên bố rằng vấn đề đang gây tranh cãi cần nên thảo luận và tìm giải pháp ngoài lề bàn hội nghị. (3) Xét tình hình tranh cãi tại Hội Nghị ngày hôm nay, thấy rằng không đúng cách để tiếp tục nêu lên vấn đề để yêu cầu hội nghị đưa ra những quan điểm về việc mời đại biểu của hai chính phủ kháng chiến Lào và Cao Miên đến tham dự chính thức tại bàn hội nghị. Vì thế, bản chức dự định chuyển đề nghị [mời những đại biểu hai chính phủ kháng chiến tham dự hội nghị Geneva] bằng công văn để phía Liên Sô nêu lên vấn đề nầy trong những cuộc thảo luận ngoài lề bàn hội nghị.

Đúng như lời báo cáo kể trên của Chu Ấn Lai, ngay sau khi Phạm Văn Đồng phát biểu đề nghị, trưởng đoàn chính thức của VSTK - 3752


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

chính phủ Vương Quốc Cao Miên là Sam Sary đã phát biểu phản đối và gọi nhóm kháng chiến CS Khmer (thường gọi là Khmer Rouge: Khmer Đỏ hay Khmer Issarak) là tay say của một tập đoàn ngoại bang và tố cáo rằng bất cứ sự hợp tác nào với ngoại bang đều có hại cho đất nước của Cao Miên bởi vì theo quan điểm của đại biểu vương quốc Cao Miên thì những kẻ ngoại bang thì lúc nào cũng phải là tay sai của một tập đoàn ngoại bang. Cần lưu ý rằng, Sam Sary dùng từ tập đoàn ngoại bang (a foreign bloc) để ám chỉ CSVM và CSTQ chứ không nêu đích danh Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cùng với Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc. Kẻ cầm đầu Khmer đỏ Sơn Ngọc Minh và một nhân vật khác đối lập với quốc vương Cao Miên Sihanouk là Sơn Ngọc Thành đều là những kẻ ngoại bang vì họ là những người mang hai dòng máu Miên - Việt được sinh ra, sinh sống, ăn học và trưởng thành trên đất nước Việt Nam: “Finally, these Free Khmer are foreingners, who are being manipulated by a foreign bloc,a foreign bloc incidentally, which has always worked to the harm of our country. . . . .the delegation of Cambodia would appeal to the members of the Conference to reject the proposal made by the delegation of the Democratic Republic of Viet Nam.”69 Nếu suy diễn rộng ra thêm và theo dòng lịch sử ban

giao giữa hai nước Việt - Miên từ thời phong kiến lâu đời đến nay thì tập đoàn ngoại bang chính yếu là tất cả những người Việt Nam nói chung không cần phân biệt là Cộng Sản hay không Cộng Sản cùng với ngoại bang đế quốc thực dân Pháp xâm lược và một ngoại bang đế quốc bành trướng mới xuất hiện là CSTQ. Trường hợp của nhóm CS Pathet Lào của Hoàng thân Souphanugvong cũng bị trưởng phái đoàn chính thức của Quốc Gia Lào Phoui Sananikone phản kháng và tố cáo rằng Souphanugvong là một kẻ sống lưu vong, là tay sai hoàn toàn và tùy thuộc vào quyền lực của những phần tử ngoại bang nhất là vào lúc CSVM đưa bộ đội ồ ạt lấn chiếm lãnh thổ Lào từ tháng 04/1953. Sanikhone nhấn mạnh rằng nhóm Pathet Lào chẳng là cái gì cả và thực khôi hài nếu nhóm phản loạn ngoại lai nầy được thừa nhận.70 Có một sự trùng hợp lịch sử đáng chú ý là phái đoàn Việt Minh và phái đoàn Pháp ngồi cùng một bàn kể từ sau Hội Nghị Fontainebleau 1946 ở Pháp và vào mùa Hè lúc đó Bidault là chủ VSTK - 3753


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27 28 29 30 31

32 33 34 35 36 37 38 39 40

tịch tướng nội các lâm thời của Pháp còn Phạm Văn Đồng lại là trưởng đoàn thương thuyết của CSVM tại Hội Nghị Fontainebleau. Ngày nay, hai đối thủ Pháp-Việt nầy lại ngồi cùng bàn ở Hội Nghị Geneva còn Nguyễn Quốc Định trước đây là cố vấn pháp lý cho phái đoàn CSVM ở Hội Nghị Fontainebleau thì nay lại là ngoại trưởng của Quốc Gia Việt Nam tại Hội Nghị Geneva. Trong phiên họp toàn thể thứ #2 vào ngày 10/05/1954, Phạm Văn Đồng đưa ra đề nghị 8 điểm của. Nội dung và hình thức những đề nghị nầy không khác mấy với dự thảo 7 điểm của nhóm CSVM thuộc phái đoàn CSTQ phát thảo theo chỉ thị của CSLS và CSTQ từ trước khi Hội Nghị Geneva khai mạc. Trước đó, để thống nhất quan điểm tại bàn Hội Nghị Geneva sắp tới, một cuộc họp trù bị đã được tổ chức vào ngày 22/04/1954 ở Moscôva. Ngoại trưởng Chu Ân Lai, Phó ngoại trưởng Wang Jiaxiang thay mặt cho CSTQ, Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng thay mặt cho CSVM. Phía CSLS gồm có Chủ tịch Liên Sô Malenkov, Ngoại trưởng Molotov, Bí thư thứ nhất N. Khruschev, ủy viên trung ương đảng Suslov. Hồ Chí Minh cùng với Phạm Văn Đồng từ Việt Nam sang Bắc Kinh rồi từ đó đi Moscôva và có thể là họ đã mang theo bản dự thảo 7 điểm kể trên. Bản dự thảo nầy ngày nay đã được CSTQ giải mật (xem nội dung đã chuyển sang Anh ngữ nơi phần Chú Giải # 67). Một Công điện tối mật của Chu Ấn Lai nay đã được giải mật đề ngày 23/04/1954 từ Moscôva gửi về Bắc Kinh cho Mao Trạch Đông để báo cáo ngắn gọn về cuộc họp trù bị ở Moscôva:71 Công điện, ngày 23/04/1954 Chu Ấn Lai, gửi Chủ Tịch CHNDTQ Mao Trạch Đông, phó Chủ Tịch Lưu Thiếu Kỳ, Thường Vụ Trung Ương Đảng CSTQ Về cuộc hội kiến giữa Chủ tịch Sô Viết Georgy.M.Malenkov và ngoại trưởng Chu Ấn Lai về vấn đề Việt Nam

Tối Mật. Thưa Chủ Tịch Mao, Đồng chí Lưu Thiếu Kỳ và Ủy Ban Trung Ương Đảng: (1)Ngày hôm qua Malenkov, Molotov,đệ nhất bí thư Nikita S.Khrushev và Ủy viên Chính trị Trung Ương Đảng Mikhail Suslov đã thảo luận về vấn đề Việt Nam với Đồng chí Ding (bí danh của Hồ Chí Minh) cùng với tôi và phó ngoại trưởng Wang Jiaxang. (a) Họ biểu hiện sự đồng ý hoàn toàn đối với “những ý kiến về tình hình Đông Dương cũng như sách lược của chúng ta, ” và họ tin rằng những ý VSTK - 3754


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

11

12

13

14

15

16

17

18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47

kiến được trinh bày trong tài liệu nầy hoàn toàn đúng. Đồng chí Khuschev nhân mạnh rằng tài liệu cần phải được bảo mật và khi giải thích nó cho các cấp cán bộ thuộc quyền thì cần theo một phương hướng thật sát, không che dấu nhưng phải giải thích thật khéo. (b) Các yêu cầu của Đồng chí Ding có thể được thực hiện. (2)Họ đồng ý (phía Liên Sô) trong vòng 4 tháng sẽ thông báo cho chúng ta biết ý kiến của họ về bản Dự thảo Hiếp Pháp của Trung Quốc. (Đồng chí Ding sẽ trở về Bắc Kinh trong vòng 2 ngày sắp tới và hy vọng rằng đồng chí ấy sẽ quay về Việt Nam ngay tức khắc sau khi hội kiến với Chủ tịch và Đồng Chí Lưu Thiếu Kỳ.

Trong tập hồi ký Khrustchev Souvenirs, Tổng Bí thư đảng CSLS Nikita Khruschev, đã kể lại rằng sau một buổi họp tại Hội Nghị Sơ Bộ Moscôva kể trên, HCM đã yêu cầu CSTQ đưa quân sang Việt Nam để đánh quân Liên Hiệp Pháp giống như trước đây CSTQ đã đưa quân chí nguyện sang Cao Ly giúp CS Bắc Hàn đánh quân Liên Hiệp Quốc do tướng Mac Arthur của Hoa Kỳ làm Tổng Tư lệnh: 72 (...) Hồi đó chúng tôi (Liên Sô) còn có những mối giao hảo tốt đẹp với đảng cộng sản Trung quốc. Một cuộc họp sơ thảo trước ngày họp Hội nghị ở Genève đã được tổ chức ở Moscou. Chu ân Lai đại diện Trung quốc, Hồ chí Minh, Phạm văn Đồng đại diện Việt Nam. Chúng tôi xét duyệt tình hình Việt Nam để quyết định, tùy thế yếu mạnh của Việt nam, một thái độ chung ở Genève. Tình hình VN thật là trầm trọng. Phong trào kháng chiến Việt Nam lúc bấy giờ sắp bị sụp đổ. Những người kháng chiến hy vọng Hội nghị Genève mang lại một cuộc ngưng bắn để họ có thể giữ những phần đất đã chiếm được trong cuộc chiến đấu chống Pháp. Pháp chiếm đóng Hà nội. Trên bản đồ ghi những đề nghị để giải quyết chiến sự, chúng tôi thấy những phần đất Pháp chiếm đã ăn sâu vào lãnh thổ. Sau một buổi họp tại Moscou, trong phòng Catherine, điện Kremlin, Chu ân Lai kéo tôi (Khrouchtchev) bước ra xa để nói riêng với tôi rằng "Đồng chí Hồ chí Minh nói với tôi (Chu ân Lai) là tình hình ở Việt Nam đã thất vọng, nếu chúng ta không đòi được ngưng bắn thì Việt Nam không còn có thể kháng cự chống Pháp lâu dài được nữa. Vì vậy họ (Việt minh) định rút về phía biên giới Hoa Việt khi cần thiết và họ mong chúng tôi sẵn sàng mang quân sang Việt Nam như khi trước chúng tôi đã mang quân sang Bắc Cao Ly . Nói rõ là họ muốn chúng tôi giúp họ đánh đuổi Pháp. Nhưng chúng tôi không thể nào thoả mãn lời yêu cầu ấy của đồng chí Hồ chí Minh được. Chúng tôi đã phải trả giá rất đắt chiến tranh ở Cao Ly, chúng tôi đã thiệt hại nhiều sinh mạng ở đó.Trong tình trạng hiện nay, chúng tôi không thể nào bước chân vào một cuộc xung đột mới nào nữa." - Tôi (Khrouchtchev) cũng có một lời yêu cầu với đồng chí Chu ân Lai. Tôi nói : Cuộc chiến đấu hiện tại quan hệ bực nhất, người Việt nam đã chiến đấu giỏi, người Pháp đã thiệt hại nhiều. Đồng chí không có lý nào từ chối không giúp đỡ quân của đồng chí Hồ chí Minh nếu họ phải rút về phía biên giới Hoa Việt. Trái lại đồng chí hãy làm cho họ tin tưởng rằng đồng chí lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ khi nào họ cần tới, như thế sẽ làm cho họ tăng tinh thần trong cuộc chiến đấu chống Pháp. VSTK - 3755


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

41

Chu ân Lai đồng ý không nói cho đồng chí Hồ chí Minh biết là Trung quốc không muốn tham dự vào cuộc chiến chống Pháp trên lãnh thổ Việt nam. Rồi một phép lạ đã xảy ra. Trong khi đại biểu các nước tới Genève phó hội thì Việt minh thắng một trận lớn tại Điện biên Phủ. Ngay từ phiên họp đầu, thủ tướng chính phủ Pháp, Mendès France, đã đề nghị ngay rút quân xuống dưới vĩ tuyến 17. Thú thật rằng, khi hay tin đó chúng tôi đã vô cùng ngạc nhiên và sung sướng hết sức. Chúng tôi chẳng bao giờ hi vọng được đến như thế. Việc rút quân xuống dưới vĩ tuyến 17 là điều căn bản chúng tôi lợi dụng tối đa để đòi hỏi trong cuộc điều đình. Chúng tôi đã chỉ thị cho các nhà đại diện ngoại giao của chúng tôi phải cứng rắn nêu lên việc đó. Sau vài lần mặc cả, chúng tôi chấp thuận đề nghị của Mendès France, thế là Thỏa hiệp được ký kết. Chúng tôi đã củng cố được những thắng lợi của những người cộng sản Việt Nam.(...) *

Nội dung của bản đề nghị 8 điểm của Phạm Văn Đồng tại phiên họp toàn thể ngày 10/05/1954 gồm có phần dẫn nhập thật dài chỉ dùng để tuyên truyền về lịch sử thành hình Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, về chiến tranh Đông Dương và tố cáo Hoa kỳ tạo áp lực tiếp tục chiến tranh để lôi kéo các quốc gia khác tham gia vào cuộc chiến. Những đề nghị đòi hỏi cho một một cuộc ngưng bắn và một giải pháp chính trị ở Việt Nam do Phạm Văn Đồng đề xướng với các điểm chính như :73 (1) Thỏa Hiệp chung cuộc rút tất cả quân ngoại quốc ra khỏi các quốc gia Đông Dương trong một thời hạn ấn định qua việc thực hiện tập kết quân tại những khu vực tập trung. (2) Triệu tập một Hội Nghị tham vấn bao gồm những thành phần đại biểu các chính phủ hai phía của mỗi Quốc Gia Đông Dương nhằm mục đích tổ chức những cuộc tổng tuyển cử đưa đến việc thành lập các chính quyền thống nhất. (3) Kiểm soát các cuộc tuyển cử do các ủy ban địa phương đảm trách. (4) Trước khi có chính quyền thống nhất, các chức quyền quản trị hành chính địa phương của của hai phía tạm thời tiếp tục giữ nhiệm vụ quản trị hành chánh của mình. (5) Cuộc ngừng bắn trên toàn khắp Đông Dương được giám sát bởi các ủy ban hỗn hợp gồm có những thành viên của các quốc gia tham chiến. Cuộc ngừng bắn sẻ có hiệu lực khi tất cả các biện pháp khác đã được hoàn tất. Không có những lực lượng mới quân đội hay quân cụ được xâm nhập vào Đông Dương trong thời gian ngừng bắn. VSTK - 3756


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

Và để xoa dịu phía người Pháp, Phạm Văn Đồng đánh tiếng chính phủ VNDCCH sẵn sàng cứu xét vấn đề gia nhập vào khối Liên Hiệp Pháp.

Ý đồ VNDCH của CSVM được thể hiện qua bản đề nghị 8 điểm vừa kể trên của Phạm Văn Đồng: thực hiện một giải pháp chính trị trước khi đi đến một thỏa thuận ngừng bắn tức là đi ngược lại với chủ trương và đề nghị của Pháp nhưng thật mỉa mai là ý đồ nầy của CSVM lại đi đúng theo với chủ trương và chính sách của Hoa Kỳ vào lúc nầy. Tuy vậy, ý đồ của CSVM còn sâu xa hơn: chỉ chịu ngừng bắn khi nào Pháp phải chịu chấp nhận rút hết quân khỏi Việt Nam và CSVM đã có được những điều kiện chính trị thuận lợi do chính họ xếp đặt. Trước hết là loại trừ quân Pháp rồi thay thế tất cả những thành viên giám sát việc ngưng bắn, việc tập kết và tổng tuyển cử cộng thêm số cán bộ du kích bí mật nằm vùng còn để lại tại những nơi vị trí cũ chung lộn với thường dân, như thế là CSVM đã có thể cô lập, lấn áp đoàn quân đội non trẻ của Quốc Gia Việt Nam để đi đến việc giành lấy chính quyền một cách hợp pháp, dễ dàng, nhanh chóng. Bản đề nghị gồm có nhiều phần, dài hơn 13 trang giấy của Phạm Văn Đồng đã được báo News Times (Moscow) ở Liên Sô đăng tải bằng Anh ngữ vào ngày 15/05/1954. Phần đề nghị 8 điểm như sau:74

VSTK - 3757


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

Cũng trong bản đề nghị 8 điểm nầy, Phạm Văn Đồng còn đi xa hơn để cho mọi người thấy được vai trò lãnh đạo và phát ngôn nhân của CSVM đối với hai nhóm CS Khmer (Khmer Issarak) Cao Miên và CS Pathet (Issara) Lào. Cho đến đầu năm 1954, CSVM đã hợp tác một cách áp đặt với các nhóm kháng chiến CS Pathet và CS Khmer ít ra là đã được 3 năm rồi tức là kể từ khi bản tuyên cáo chính thức ngày 11/03/1951 của một tổ chức S Đông Dương mới gồm có CSVM, CS Khmer và CS Pathet được thành lập trá hình dưới chiêu bài “Mặt Trận Liên Minh Nhân Dân Việt - Miên - Lào, nhằm để “tăng cường khối đoàn kết ba nước đấu tranh chống Pháp và can thiệp Mỹ.” Khối liên minh CS Việt Nam - Lào – Cao Miên. Theo chỉ thị của Đảng Lao Động Việt Nam tức đảng CSVM, ngày 11-3-1951 “Hội nghị liên minh nhân dân ba nước Đông Dương” khai mạc tại xã Kim Bình, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang để định ra chương trình hành động chung, lập ra Uỷ ban liên minh nhân dân Việt - Lào Miên và bầu ra Ban chỉ đạo chung gồm có các cán bô cao cấp CS Phạm Văn Đồng, Hoàng Quốc Việt, Souphanouvong, Sơn Ngọc Minh, Tuxa Mut, vv . . .75 Bộ đội và cán bộ của CSVM đã tham gia chiến đấu tích cực ngay trong lòng lãnh thổ của hai vương quốc nầy.

Hơn nữa, Võ Nguyên Giáp đã ra lệnh cho bộ đội CSVM xâm lăng lãnh thổ Vương Quốc Lào vào tháng 04/1953 và tháng 12/1953 và xâm nhập lãnh thổ Vương Quốc Cao Miên vào tháng 04/1954 đến mức độ chính phủ Hoàng Gia Cao Miên phải phản kháng đến Hội Đồng Liên Hiệp Quốc vào ngày 23/04/1954. Trong hai tháng 05 và tháng 06/1954 bộ đội của CSVM vẫn còn tiếp tục hoạt động trên lãnh thổ của hai vương quốc nầy nhất là ở Lào. Như vậy, ngoài vai trò phát ngôn nhân cho hai nhóm du VSTK - 3758


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

kích kháng chiến CS Miên-Lào không được phép có mặt ở bàn Hội Nghị Geneva, Phạm Văn Đồng lại còn cho thấy là CSVM có những quyền lợi riêng trên 2 quốc gia đo cho nên CSVM đã nhất quyết biện luận rằng Khmer Issarak Cao Miên và Pathet Issara Lào không phải nhưng hai tổ chức quân sự của “ngoại bang” nhưng đây mới chính là hai chính quyền hợp pháp của 2 quốc Gia Miên-Lào, được đa số nhân dân yêu nước ủng hộ và đi theo tại các vùng lãnh thổ an toàn đã được giải phóng, giống như chính quyền VNDCH của CSVM. Vì thế Khmer Issarak và Pathet Issarat có quyền tham dự và phải được chính thức mời tham dự tại bàn Hội Nghị Geneva. Hậu quả đề xuất nầy của Phạm Văn Đồng khiến tiến trình hội Nghị Geneva bị giậm chân tại chỗ vì có quá nhiều tranh luận khiến cho CSLS và CSTQ phải ra tay can thiệp nhằm làm tan biến tham vọng “tiểu bá quyền làm vua một cõi” của CSVM.76 - Phản ứng của Hoa Kỳ tại phiên họp ngày 10/05/1954

Phái đoàn Hoa Kỳ ủng hộ đề nghị của phái đoàn Pháp trong phiên họp đầu tiên ngày 08/05/1954 và xem những đề nghị của Pháp như là nền tảng để cứu xét và thương lượng tại bàn Hội Nghị mặc dù không có một dấu hiệu tối thiểu nào cho thấy là Hoa Kỳ cam kết sẽ bảo đảm cho một sự hòa giải chung cuộc cho chiến tranh ở Việt Nam nói riêng và cho toàn Đông Dương nói chung. Hoa Kỳ hoan hô những đề nghị liên quan đến vấn đề di tản thương binh đang phải chịu đựng sự đau đớn thể xác quá lâu nơi chiến trường Điện Biên Phủ và thành thật mong rằng việc di tản nầy được thực hiện không chút chậm trễ. Nhưng khốn thay, trong hai tiếng đồng hồ tiếp theo của bài diễn văn của Phạm Văn Đồng, mọi người chỉ được nghe thấy một loạt bóp méo đáng kể về những biến cố đã xảy ra trong vòng 2 năm qua ở Đông Dương. Người phát ngôn của Việt Minh đã được nhồi sọ chu đáo kỹ thuật đổi trắng thay đen lịch sử theo giáo điều của chủ nghĩa Cộng Sản. Cả thế giới đã từng được nghe những luận điệu giả dối như thế. Tướng Smith trưởng đoàn Hoa Kỳ tố giác rằng những điều phát biểu của kẻ cầm đầu phái đoàn CSVM trong ngày khai mạc Hội Nghị Geneva về Đông Dương để buộc tội Hoa Kỳ giống như khuôn đúc với một đại biểu CS khác trong VSTK - 3759


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

ngày khai mạc Hội Nghị giải quyết vấn đề ngừng bắn ở Triều Tiên. Với đề xuất của phái đoàn CSVM như thế, Hoa Kỳ nhận định rằng rất khó có thể tin tưởng được thiện ý của đại biểu Việt Minh đến với Hội Nghị nầy là để thương thảo cho một cuộc Hòa Bình công chính và bền vững. Hoa Kỳ hoan hô và tin tưởng thiện chí của phái đoàn Pháp đã dẫn đầu trong việc đóng góp cho tiến trình tái lập hòa bình ở Đông Dương và do đó phái đoàn Hoa Kỳ đề nghị Hội Nghị thu nhận đề nghị của phái đoàn Pháp làm nền tảng thương lượng và hy vọng rằng tất cả thành viên nơi bàn Hội Nghị nầy sẽ tiến hành một cách xây dựng và nhanh chóng sự tái lập hòa bình ở Đông Dương. Phái đoàn Hoa Kỳ đã nghe một cách thiện cảm sự việc trình bày trung thực của các đại biểu chính thức của Cao Miên và Lào và Hoa Kỳ sẽ xem xét một cách nghiêm chỉnh những đề nghị của họ nhằm tái lập hòa bình ở Cao Miên và Lào.77 - Phái đoàn Quốc Gia Việt Nam (12/05/1954)

Trong phiên họp toàn thể ngày 12/05/1954, Trưởng phái đoàn Nguyễn Quốc Định trình bày những đề xuất của chính phủ Quốc Gia Việt Nam với các điểm chính yếu như sau: Hội Nghị Berlin đã đề nghị việc tái lập Hòa bình ở Đông Dương. Việc tái lập nầy bao gồm : - Một thỏa hiệp quân sự để chấm dứt các thù nghịch. - Một thỏa hiệp chính trị để tạo dựng hòa bình thực sự đặt trên những nền tảng vững bền.. a/. Thỏa hiệp quân sự:

- phải có tính cách nghiêm túc, cố gắng tích cực, để có thể đi đến một thỏa hiệp quân sự chân thật và thỏa đáng. - phải được bảo đảm đầy đủ để có được hòa bình thực sự lâu bền và ngăn ngừa hành vi khiêu khích mới có thể xảy ra. - thỏa hiệp không thể đưa tới việc chia cắt lãnh thổ quốc gia một cách trực tiếp hay gián tiếp, vĩnh viễn hay tạm thời, theo hiện trạng hay luật pháp VSTK - 3760


1

2

- phải có tổ chức kiểm soát quốc tế trong khi thi hành các điều khoản ấn định chấm dứt những sự thù nghịch.

3

b/. Thỏa Hiệp Chính Trị:

4

- Đối với những mối liên hệ giữa Quốc Gia Việt Nam và Pháp

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

Những mối liên hệ nầy sẽ được giải quyết trên căn bản của Bản Tuyên Ngôn Chung (Pháp-Việt) ký kết ngày 28/04/1954 dùng để thực hiện việc ký kết 2 thỏa hiệp nền tảng: thỏa Hiệp thứ nhứt công nhận nền độc lập và chủ quyền toàn vẹn của Quốc Gia Việt Nam; thỏa Hiệp thứ hai thiết lập một Hiệp Hội trong khối Liên Hiệp Pháp đặt trên nền tảng bình đẳng. Hai văn kiện nầy chỉ vừa mới được công khai hóa bởi Ngoại Trưởng Nguyễn Quốc Định trong khi đương sự trình bày những đề nghị của Quốc Gia Việt Nam trong buổi họp toàn thể Hội Nghị Geneva về Đông Dương ngày 12/05/1954. - Đối với những dàn xếp chính trị của Quốc Gia Việt Nam

1. Bởi vì Việt Nam là một Quốc Gia thống nhất về lãnh thổ chính trị cho nên, theo nguyên tắc luật pháp, chỉ có một Quốc Gia Việt Nam hiện nay do Hoàng Đế Bảo Đại làm Quốc Trưởng được công nhận mà thôi. Chỉ có Quốc Gia nầy mới được trao quyền lực về chủ quyền đối nội và đối ngoại của Việt Nam. 2. Công nhận nguyên tắc một quân đội duy nhất trên toàn cõi lãnh thổ. Quân Đội Quốc Gia Việt Nam nầy đặt dưới quyền kiểm soát và trách nhiệm bởi Quốc Gia Việt Nam. Quy chế sáp nhập bộ đội của Việt Minh vào quân đội hợp pháp của Quốc Gia Việt Nam phù hợp với nguyên tắc một quân đội duy nhất vừa kể trên và theo những phương cách sẽ được xác định. Phải có kiểm soát quốc tế về sự thực hiện kể trên. 3. Trong phạm vi cơ cấu và theo, những cuộc bầu cử càng sớm càng tốt trên toàn quốc theo pháp chế của Quốc Gia Việt Nam ngay sau khi Hội Đồng Liên Hiệp Quốc xác nhận quyền lực Quốc Gia đã được thể hiện trên toàn lãnh thổ và những điều kiện về tự do đã được thực thi đầy đủ. Để bảo đảm tính cách

34

VSTK - 3761


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

trung thật và lương thiện cho các cuộc bầu cử, sự giám sát quốc tế sẽ hoạt động dưới quyền tổ chức và điều động của Liên Hiệp Quốc. 4. Chính quyền đại diện được thành lập dưới quyền đức vua Bảo Đại, Quốc Trưởng Quốc Gia Việt Nam, sau những cuộc bầu cử và phù hợp với kết quả của những cuộc bầu cử đó. 5. Quốc Gia Việt Nam cam kết kiềm chế tất cả mọi sự ngược đãi hành hạ những cá nhân đã hợp tác với Việt Minh trong giai đoạn các hành động thù nghịch xảy ra. 6. Bảo đảm quốc tế về sự toàn vẹn Chính trị và Lãnh thổ của Quốc Gia Việt Nam. 7. Giúp đỡ của các quốc gia hữu nghị để mở mang thịnh vượng và nâng cao mức sống của đất nước.78 - Phái đoàn Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc (12/05/1954)

Ngoại trưởng CSTQ Chu Ấn Lai tố cáo rằng trưởng đoàn Pháp G. Bidault khi phát biểu và trình bày những đề nghị của Pháp trong ngày 08/05/1954 vẫn giữ thái độ của kẻ thực dân xâm lược, làm ngơ sự có mặt của VNDCCH vốn đã được chính phủ của nước Pháp thừa nhận và thực tế là chính phủ VNDCCH đang được đa số lòng dân Việt Nam ủng hộ. Chu Ấn Lai cũng tố giác thêm rằng G.Bidault không chịu chấp nhận sự tham dự vào cùng một bàn Hội Nghị Geneva của hai nhóm CS Cao Miên và Lào và rằng Bidault đã bỏ qua một bên những nền tảng cơ bản chính trị cho vấn đề tái lập hòa bình ở Đông Dương, tự ý xử sự như một kẻ chiến thắng, đơn phương áp đặt những điều kiện bắt nhân dân Đông Dương phải chấp nhận để những hành động thù nghịch được chấm dứt. Xu hướng xử sự như, thế là không thực tế, vô lý và bất ổn đối nghịch với những nguyên tắc thương thảo và quyền bình đẳng trong khi thương thảo. Chu Ấn Lai kết thúc bài diễn văn rằng phái đoàn CHNDTQ tuyên bố hoàn toàn ủng hộ những đề nghị của trưởng đoàn VNDCCH Phạm Văn Đồng và nhận định rằng những đề nghị nầy có thề dùng làm nền tảng cho Hội Nghị bàn thảo chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa bình ở Đông Dương.79 VSTK - 3762


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

Sau đó, trong một công điện tối mật đề ngày 12/05/1954 vào lúc 12 giờ trưa gửi về Bắc Kinh để báo cáo với Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Thường Vụ Trung Ương Đảng CS Trung Quốc về diễn tiến buổi họp toàn thể hội nghị lần thứ nhì (10/05/1954). Trong công điện nầy có đoạn báo cáo rằng trong bản đề nghị ngày 10/05/1954, chính Phạm Văn Đồng đã trước tiên nêu ra vấn đề trao trả các tù binh đau yếu và bị thương nơi chiến trường Điện Biên Phủ. Anh và Hoa Kỳ phát biểu ủng hộ các đề nghị của Pháp. Trưởng đoàn Nguyễn Quốc Định yêu cầu phải giải quyết luôn cùng một lúc vấn đề tù binh đau yếu và bị thương của quân đội Quốc Gia Việt Nam chứ không phải chỉ giới hạn riêng cho một mình tù binh Pháp. Phạm Văn Đồng giữ yên lặng không đáp ứng sự yêu cầu nầy. Tuy nhiên, sau khi buổi họp chấm dứt, phái đoàn VNDCCH đã ra tuyên bố rằng tù binh đau yếu và bị thương của Quốc Gia Việt Nam cũng sẽ được trao trả cùng một lúc với tù binh Pháp. 80 - Phái đoàn Cộng Hòa Liên Bang Sô Viết (14/05/1954)

Trường phái đoàn Molotov tố cáo nguy cơ quân sự của Hoa Kỳ can dự vào cuộc chiến ở Đông Dương và cảnh giác Hội Nghị rằng cần phải sớm chấm dứt xung đột ở Đông Dương qua một thỏa hiệp thỏa đáng với nguyện vọng của nhân dân Đông Dương. Molotov lại phê phán rằng đề nghị của Pháp đã không chú trọng đến sự giải quyết các vấn đề chính trị còn Hoa Kỳ thì lại đang tìm đủ mọi cách, mọi lý do để can thiệp quân sự vào Đông Dương. Điều đáng chú ý hơn nữa là Hoa Kỳ không cảm thấy bị cô lập hoàn toàn đối với những mưu đồ mới gây chiến ở vùng Á Châu vì thế cho nên Hoa Kỳ hô hào thành lập một tập đoàn lien minh quân sự nhằm đè bẹp các phong trào Quốc Gia Giải phóng của nhân dân Đông Dương và Đông Nam Á Châu. Rõ ràng là sự thành lập tập đoàn quân sự mới nầy là chỉ phục vụ cho mục tiêu chiến lược của Hoa Kỳ hay nói khác đi là để Hoa Kỳ có thể thiết đặt thêm nhiều căn cứ quân sự trong vùng nầy. Hoa Kỳ cho rằng tập đoàn quân sự mới nầy cùng với sự can dự của Hoa Kỳ là dùng để bảo vệ nhân dân vùng Đông Nam Á chống lại một nguy cơ từ bên ngoài. Tập đoàn nầy chỉ nhằm mục đích lôi kéo những quốc gia muốn duy trì chế độ thực dân thuộc VSTK - 3763


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

địa và vì thế tập đoàn nầy chuẩn bị để nới rộng chiến tranh ở Á Châu. Hoa Kỳ can dự vào Đông Dương hiện nay đã tăng gia một cách thường xuyên dưới hình thức cung cấp vũ khí đạn dược, quân cụ, cố vấn quân sự, huấn luyện viên, kỹ thuật viên . . . Hành động nầy của Hoa Kỳ là trở ngại chính cho việc tái lập hòa bình ở Đông Dương. Sau khi tiếp tục tố cáo tham vọng của Hoa Kỳ, Molotov tuyên bố rằng đề nghị của trưởng đoàn VNDCCH Phạm Văn Đồng chính là nền tảng giải quyết vấn đề Đông Dương và là một khả năng bảo đảm cho việc tái lập hòa bình ở Đông Dương. Đối với tình trạng của 2 nhóm CS Cao Miên và Lào, Molotov cho rằng giải quyết vấn đề Đông Dương không thể nào chỉ thu hẹp trong việc giải quyết các biến cố đang xảy ra ở Việt Nam. Đối với vấn đề bảo đảm thỏa hiệp sẽ ký kết ở Geneva, Molotov đề nghị rằng việc nầy nên giao cho các ủy ban kiểm soát gồm có các thành viên của những Quốc Gia Trung Lập.81 - Phản ứng của Pháp trong phiên họp ngày 14/05/1954

Phê phán nặng nề để phủ nhận các đề nghị của Phạm Văn Đồng đưa ra trong phiên họp toàn thể ngày 10/05/1954, ngoại trưởng Bidault trưởng phái đoàn Pháp tại Hội Nghi Geneva đã đòi hỏi rằng giải pháp chính trị chỉ có thể bàn tới khi nào đã thỏa thuận xong giải pháp ngưng bắn chứ không thể có giải pháp chính trị trước khi ngưng bắn. Bidault cũng ủng hộ lập trường của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam do ngoại trưởng Nguyễn Quốc Định trình bày và khẳng định rằng Quốc Gia Việt Nam chỉ có một chính quyền hợp pháp hiện tại do Hoàng đế Bảo Đại lãnh đạo, đã được 35 quốc gia khác trên thế giới thừa nhận và đang là thành viên chính thức của nhiều tổ chức quốc tế. Và phần sau cùng của bài phát biểu ngày hôm nay, Bidault đã trả lời 5 vấn đề do trưởng đoàn Anh Quốc A.Eden nêu lên như sau: -Vấn đề 1: Pháp cho rằng ở Việt Nam thì các đội binh của 2 phía phải được tập kết vào những vùng được chỉ định. -Vấn đề 2: Pháp đã từng đề nghị là vấn đề Cao Miên cần phải được giải quyết riêng rẽ và đề nghị rằng các lực lượng bộ đội Việt Minh phải rút hết ra khỏi các vùng lãnh thổ của 2 Quốc Gia nầy. VSTK - 3764


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18 19 20 21 22 23

24

25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

-Vấn đề 3: Đối với Việt Nam, Pháp chủ trương trao phó cho Hội Nghị hoạch định các vùng tập kết quân theo đề nghị của các Chỉ huy trưởng quân đội của hai phía. Các Chỉ huy trưởng có bổn phận cung cấp những chi tiết về việc tập kết. - Vấn đề 4: Pháp đã đề nghị giải giới tất các lực lượng không chính quy. Ở Việt Nam, thủ tục giải giới nầy sẽ phải được quyết định trong khuôn khổ của sự sắp xếp vấn đề tập kết các đội quân binh. - Vấn đề 5: Pháp đã đề nghị kiểm soát quốc tế và sẵn sàng cứu xét tất cả những đề nghị có liên quan đến thành phần của những Ủy ban và phương thức áp dụng để kiểm soát. Nếu nguyên tác kiểm soát quốc tế được chấp nhận thì lúc đó ở Việt Nam có thể có những bộ phận liên hợp được xử dụng với những điều kiện được quy định bởi những thỏa thuận hổ tương để làm việc dưới quyền của những Ủy Ban Kiểm Soát Quốc tế và phụ tá những Ủy Ban nầy thì hành nhiệm vụ của họ.82 C – Ngoại giao cửa sau giữa các “Cường Quốc” trong lúc Hội Nghị Geneva đang diễn tiến Sau buổi họp toàn thể ngày 14/05/1954, trưởng đoàn Anh Quốc A.Eden đã chỉ thị viên bí thư của mình đánh tiếng với phái đoàn Trung Quốc là đương sự muốn hội kiến riêng với Chu Ấn Lai vào sáng ngày hôm sau tại trụ sở của phái đoàn Trung Quốc và Chu Ấn Lai đã đồng ý.83 Đây là một Hội Nghị Geneva theo kiểu truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du “Đưa người cửa trước, rước người cửa sau” âm thầm chỉ có hai phái đoàn đầy đủ của Anh Quốc và Trung Quốc tại nơi trú ngụ của Chu Ấn Lai ở Thụy Sĩ. Diễn tiến cuộc “đi đêm” nầy như sau:84 - Eden: Cám ơn Ngài đã cho phép bản chức đến diện kiến. Từ trước tới nay bản chức chưa có được đàm thoại với Ngài. Hôm nay bản chức tới đây để gặp Ngài trước khi bản chức đến gặp Ngài V.M Molotov, trên cương vị là đồng chủ tịch, chính yếu là thảo luận phương cách nào để Hội Nghị tiếp tục tiến hành. Bản chức quan tâm nhiều hơn đối với vấn đề Đông Dương. Bản chức e ngại nguy hiểm cho tất cả mọi người nếu cứ đưa ra những giọng điệu tố cáo buộc tội lẫn nhau. Vì thế bản chức đề nghị chúng ta có những buổi họp giới hạn để giảm thiểu những cuộc thương thảo như hiện nay. Bản chức đã nêu lên 5 vấn đề. Nếu Ngài thấy các vấn đề được nêu ra nầy không hợp thức, Bản chức không biết rằng Ngài có những phương thức nào khác để điều hướng các mục đàm thoại giữa chúng ta hay không.. - Chu Ấn Lai: Vào buổi đầu khai mạc Hội Nghị, hai phía cần phải xác định vị thế của mình. Đối với vấn đề Triều Tiên, nếu tất cả các phe đều có cùng chung một ước vọng để thống nhất lãnh thổ Triều Tiên một cách hòa bình thì vấn đề Triều Tiên đã có thể giải quyết một cách êm thấm. Phái đoàn Trung Quốc ủng hộ đề nghị của Ngoại trưởng Nam II của Dân Chủ Nhân Dân Cộng Hòa Triều Tiên. Phái đoàn Trung Quốc đang xem xét 5 vấn đề của Ngài nêu ra ngày hôm qua. Vấn đề Triều Tiên, Trung Quốc chúng tôi đã có một lần thử nghiệm phiên họp giới hạn và chúng tôi có thể thử nghiệm thêm một vài lần nữa. VSTK - 3765


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51

- Eden: Bản chức quan tâm nhiều đối với vấn đề Đông Dương bởi vì ít ra là chúng ta không còn kéo dài đánh nhau ở Triều Tiên. Dù vậy, bản chức ghi nhận những phát biểu của Ngài về việc thử nghiệm thêm buổi họp giới hạn khác về vấn đề Triều Tiên. Lý do tại sao bản chức lưu tâm đến vấn đề Đông Dương không phải là vì những rắc rối địa phương - bản chức vốn không quan với các rắc rối kiểu đó - nhưng chính là vì bản chức e ngại rằng những cường lực chính yếu sẽ đòi hỏi những vị thế cho trên toàn cầu. - Chu Ấn Lai: Trung Quốc đã xác định quan điểm về vấn đề Đông Dương. Như Ngài đã biết, chúng tôi ủng hộ lập trường của VNDCCH do trưởng đoàn Phạm Văn Đồng đề xuất bởi vì chúng tôi tin tưởng rằng đó là đề xuất sáng ý. Đối với vấn đề Đông Dương, nhiều người mông muốn hòa bình, nhưng lại có những kẻ lại muốn tiếp tục chiến tranh. Điều đó đưa tới những nguy cơ. Về điểm nầy, thưa Ngài Eden, ngài biết rõ hơn là bản chức. - Eden: Cho đến nay, theo như bản chức biết thì mọi người đều mong muốn chiến tranh phải chấm dứt. - Chu Ấn Lai: Trong số 5 vấn đề Ngài nêu lên, chúng tôi không hiểu thực sự ra sao về một vấn đề và đó là vấn đề tập kết quân binh của hai bên tại những địa điểm được chỉ định trước. Bản chức yêu cầu Ngài giải thích điểm đó. - Eden: Bản chức sẵn sang thảo luận về điểm nầy. Ý nghĩ của chúng tôi là tập kết các đội quân binh của hai bên tại những vùng được chỉ định trước nhằm để tránh xung đột. Những vùng nầy sẽ được bàn thảo bởi các chỉ huy trưởng quân đội của 2 bên và được phê chuẩn bởi Hội Nghị của chúng ta. Mục đích là để ngăn ngừa những xung đột. - Chu Ấn Lai: Như bản chức đã nói trước đây rằng giải pháp cho vấn đề Đông Dương cần phải công bằng, hợp lý và danh dự cho cả hai bên. Chúng tôi tin tưởng rằng Vương Quốc Anh có thể làm thêm nhiều hơn nữa với vị thế hiện tại của mình để cho hai bên hiểu biết rằng những sự thương lượng cần phải định hướng trên nền tảng bình đẳng. Trong những tình huống hiện tại, phía bên kia không có sự suy xét như thế và muốn áp đặt nhiều điều cho phía bên nầy. - Eden: Ngài nhìn thấy chỗ nào gọi là không bình đẳng? - Chu Ấn Lai: Là phía Pháp đã không đề cặp gì đến giải pháp chính trị kèm theo việc ngừng bắn. - Eden: Ồ, hóa ra Ngài đang đề cặp về sự việc nầy. Việc nầy cả hai bên đều có những cáo giác qua lại. - Chu Ấn Lai: Không phải bản chức có ý đó. Bản chức muốn nói rằng Pháp không đáp ứng giải pháp chính trị do trưởng đoàn Phạm Văn Đồng đề xuất trong khi họ lại công nhận Bảo Đại là kẻ thay mặt cho toàn cõi nước Việt Nam thống nhất dưới sự lãnh đạo của Ông ấy. Đây là một ý tưởng hoàn toàn không phù hợp với lý trí. - Eden: Phía Pháp muốn để cho các Quốc Gia Liên Hiệp phát biểu trước. Theo hiểu biết của bản chức thì phía Pháp có thể sẽ phát biểu trước vào buổi chiều hôm nay. Trước hết chúng ta dự định giải quyết cho xong việc ngưng bắn quân sự rồi kế đến là bàn thảo về giải pháp chính trị. Có lẽ là việc ngừng bắn quân sự là vấn đề thực tế ưu tiên cần được bàn thảo trong những phiên họp giới hạn. Những phiên họp giới hạn có thể khởi sự vào tuần tới bởi vì cuộc tranh luận tổng quát sẽ còn kéo dài từ buổi chiều ngày hôm nay. - Chu Ấn Lai: Về việc các phiên họp giới hạn, bản chức sẽ phải hội ý với phái đoàn Liên Sô và Việt Nam. - Eden: Nhất định là phải như thế, nhất định là phải như thế. VSTK - 3766


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52

- Chu Ấn Lai:Bản chức muốn biết những dự án của Ngài tại các buổi họp giới hạn. - Eden: Theo thiển ý thì bên cạnh những trưởng đoàn thì chỉ cần thêm 2 hoặc 3 các cố vấn cho mỗi phái đoàn. Diễn tiến buổi họp sẽ không tuyên bố với báo chí. Chúng tôi đã áp dụng phương thức nầy nơi Hội Nghị Berlin và thật là hữu dụng. Thỏa ước tại hội nghị Geneva cần phải đạt tới theo phương thức hội họp giới hạn nầy. - Chu Ấn Lai: Bản chức muốn thêm một đôi điều. Trung Quốc muốn chung sống hòa bình với các lân bang ở Á Châu. Thỏa ước ký kết gần đây giữa Trung Hoa với Ân Độ để trao đổi Tây Tạng đủ để chứng tỏ điểm nầy. Trong phần mở đầu của thỏa ước nầy, Trung Quốc và Ấn Độ đã xác định sự tôn trọng hổ tương chủ quyền lãnh thổ, không gây hấn, không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi nước, tương giao trên căn bản bình đẳng và chung sống hòa bình. - Eden: Đúng vậy. - Chu Ấn Lai: Đối với vấn đề Triều Tiên, Trung Quốc chúng tôi cũng đã đề nghị rút hết các quân ngoại nhập kể cả chí nguyện quân Trung Quốc. Và có như vậy mới được hòa bình và an ninh được bảo đảm - Eden: Với cương vị là Ngoại trưởng Anh Quốc bản chức muốn nói một đôi điều. Chúng tôi rất hy vọng nhìn thấy 4 Cường Quốc, xin lỗi, tôi đã nói sai. Chúng tôi rất hy vọng nhìn thấy 5 Cường Quốc đó là Vương Quốc Anh, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Pháp Quốc và Liên Sô cùng chung làm việc với nhau để làm giảm bớt căn thẳng tình hình thế giới và cùng nhau thực hiện bình thường hóa những thỏa hiệp. Nhưng trước khi hy vọng đó có thể được thực hiện thì một quyết nghị giải quyết vấn đề Đông Dương phải cần phải đạt tới. Riêng trường hợp Đông Dương cũng là quan trọng, nhưng điều quan trọng hơn là vấn đề Đông Dương phải không gây ảnh hưởng tới những sự bang giao giữa 5 cường quốc. - Chu Ấn Lai: Bản chức nghĩ rằng kẻ đòi hỏi nhiều không phải là Hồ Chí Minh nhưng chính là Bảo Đại. Trong phần đề nghị của đoàn đại biểu Quốc Gia Việt Nam, trưởng đoàn của họ không phải chỉ đòi hỏi rằng Bảo Đại phải được công nhận là người lãnh đạo duy nhất của Việt Nam mà lại còn đòi hỏi thêm rằng Liên Hiệp Quốc phải bảo đảm địa vị của Ông ấy như là người lãnh đạo duy nhất sau các cuộc tuyển cử. Hồ Chí Minh không đặt ra những đòi hỏi giống như vậy. - Eden: từ trước tới bây giờ, điều mà bản chức đã suy nghĩ là lúc nầy không phải là nội dung của bài diễn văn nhưng chính là những hàm ý phía sau của bài diễn văn. - Chu Ấn Lai: Bản chức phân vân không biết Ngài Eden cho tới nay đã có cứu xét hay chưa đề nghị của Ông Phạm Văn Đồng. Ông ấy đã đề cặp trong đề nghị rằng trước thống nhất, mỗi bên tự quyền quản trị những vùng hiện đang kiểm soát của mình. Đề nghị nầy là công bình hợp lý. - Eden: Hy vọng của chúng tôi tập kết quân của hai bên vào những vùng được xác định cũng là một ý như thế. Có lẽ đề nghị của phái đoàn Pháp không loại bỏ điểm vừa kể, và như vậy chúng ta cũng có một số lập trường tương đồng về điểm nầy. - Chu Ấn Lai: Phía Pháp yêu cầu trưởng đoàn của Bảo Đại đáp ứng đề nghị của Phạm Văn Đồng về một giải pháp chính trị. Nhưng Trưởng phái đoàn của Bảo Đại đã đáp ứng một cách vô lý. Đáp ứng của đương sự rất quen thuộc đối với chúng tôi. Tưởng Giới Thạch cũng đã có lần đòi hỏi kiểu đó: một chính phủ, một nhà lãnh đạo, một quân đội còn tất cả những thứ khác đều bị hủy bỏ. Bản chức tin rằng các Ông Allen và Trevelyan nhất định đã quá quen thuộc VSTK - 3767


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26

với những chuyện đó. Tuy nhiên, chúng ta đều thấy Tưởng Giới Thạch đã bị thanh lý như thế nào rồi. - Eden: Theo ý của chúng tôi là phải đạt tới tới sự ngưng bắn trước rồi sau mới bàn thảo đến giải pháp chính trị. Vấn đề ngưng bắn có thể là mục tiêu khả thi thứ nhất để bàn thảo trong các phiên họp giới hạn. - Chu Ấn Lai: Vấn đề chính trị phải được giải quyết song đôi với vấn đề giải quyết ngưng bắn. - Eden: Bản chức lại cám ơn Ngài đã cho phép bản chức đến thăm. Nếu Ngài nghĩ ra được điều gì mà bản chức có thể thực hiện được cho thì Bản chức lại sẽ đế thăm Ngài nữa. - Chu Ấn Lai: Chúng tôi hân hoan đón tiếp Ngài. Nếu ngày hân hoan đón tiếp bản chức thì bản chức sẽ đến thăm Ngài. - Eden: Chúng tôi hân hoan đón tiếp. Bản chức cũng cám ơn Ngài đã cử nhiệm nhân sự dưới quyền của Ngài để nói chuyện với Ông Trevelyan. Họ bàn bạc với nhau rất tốt và cả hai bên đều thỏa mãn.. - Chu Ấn Lai: Ông Trevelyan có nêu ra một số vấn đề trong buổi nó chuyện với Ông Huân Xiang. Đa số các vấn đề đó sẽ được giải quyết. Trong vài ngày, Ông Huân Xiang lại phải nói chuyện thêm với Ông Trevelyan. - Eden: Thật là tuyệt hảo. - Chu Ấn Lai: Cả đôi bên chúng ta cần phải làm việc để cãi thiện những mối giao hảo Hoa-Anh. - Eden: Đồng ý, và từ đó cũng lôi kéo thêm các nước khác hưởng ứng. - Chu Ấn Lai: Không sai! (tay chỉ về hướng Eden). - Eden: Đúng vậy, đó mới chính là trách vụ của bản chức. Bây giờ bản chức sẽ đến thăm Ngài Molotov. Hy vọng rằng chúng tôi có thể đóng góp một vài ý kiến sau buổi nói chuyện giữa Ngài và Bản Chức.

*

KHẢO LUẬN 27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

Sau ba tuần lễ kể từ khi khai mạc vào ngày 26/04/1954 cho đến 15/04/1954, Hội Nghị Geneva vẫn chưa có một kết quả cụ thể nào về vấn đề Đông Dương. Tuần lễ đầu của Hội Nghị trôi nhanh với vấn đề Triều Tiên. Hai tuần lễ kế tiếp là thời gian các phái đoàn tham dự Hội Nghị về vấn đề Đông Dương tố cáo, phê phán và dọ dẫm lẫn nhau về những mưu đồ của họ được đưa ra tại bàn hội nghị dưới danh nghĩa là những lập trường, những đề nghị được coi là tốt nhất, là hợp với lý tri và lương tâm con người để giải quyết vấn đề tranh chấp tại bán đảo Đông Dương. Ai cũng muốn lấy về cho mình phần lợi tối đa và loại bỏ đối thủ của mình. Giống như một ván cờ quốc tế gồm có 2 phía: Một bên là Cộng Sản gồm có Trung Quốc, Liên Sô, VNDCCH cùng với Khmer CS Issarak, Pathet CS Issara và bên kia là Tư Bản. gồm có Pháp, Hoa Kỳ và Quốc Gia Việt Nam cùng với 2 vương Quốc Miên, Lào. Cầm cờ trọng tài cho ván cờ nầy là Vương Quốc Anh. Mới nhìn qua thi người ta tưởng rằng kẻ tám lạng, người nửa cân.

VSTK - 3768


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

41

42

Tuy nhiên nếu truy xét xa hơn thì thấy cán cân đã nghiên về phía Cộng Sản kể từ khởi đầu cuộc đánh cờ. Anh Quốc thì không nghe theo Hoa Kỳ vì còn dính líu quyền lợi trên mãnh đất Hồng Kong của Trung Quốc, không muốn va chạm với Trung Cộng mà cũng không muốn va chạm với cường quốc nguyên tử Liên Sô vì tầm đạn hỏa tiễn mang đầu đạn nguyên tử của họ quá sát kề với Anh quốc. Hoa Kỳ thì chỉ thể hăm dọa chứ không giám hành động một mình để chống “hiểm họa” Cộng Sản mộc cách đơn phương với lý do là Quốc Hội Hoa Kỳ không cho phép và các đồng minh trong thế chiến I nhất là Anh Quốc. Pháp cũng không muốn nghe theo Hoa Kỳ để “hành động chung” vì sợ Hoa Kỳ hất chân mình ra khỏi Đông Dương mà cũng không khờ dại gì mà chống Cộng Sản một mình ở Đông Dương để hai đồng minh Anh, Hoa Kỳ ngồi không hưởng những mối lợi mà họ đang có ở Phi Luật Tân, Mã Lai, Miến Điện và Thái Lan. Có thể nói rằng nhóm cường quốc tư bản Anh, Pháp, Hoa Kỳ luôn luôn vẫn là một nhóm đồng minh lỏng lẽo, thiếu kết hợp vì bản chất thực dân vị kỹ và tham lam của họ. Pháp bị thế giới kể cả Hoa Kỳ và nhất là khối Cộng Sản buộc tội là thực dân thuộc địa ở Đông Dương vậy mà Pháp vẫn còn cố tình bám víu ở lại dưới chiêu bài Liên Hiệp Pháp khiến bị rơi vào tình trạng há miệng mắc quay trên ván cờ Đông Dương. Thêm vào đó, nội bổ chính quyền Pháp đang bị phe đối lập và CS Pháp gây áp lực chống đối chính sách của nội các hiện tại của thủ tướng Laniel trong vấn đề giải quyết chiến tranh Đông Dương đặc biệt là cứ điểm Điện Biên Phủ đang trong tình trạng hấp hối gây xôn xao dư luận khắp nơi trong dư luận quần chúng ở Pháp. Pháp thua trận là thấy rõ, do đó Pháp muốn có một giải pháp danh dự với bất cứ giá nào ngoại trừ rút hết quân Pháp ra khỏi Đông Dương nhường chân cho Hoa Kỳ xử sự - để khỏi mất uy thế cường quốc và không mất mặt với thế giới vì bị đánh bại bởi CSVM. Chính phủ Pháp hiện tại phải miễn cưỡng ủng hộ Quốc Gia Việt Nam do hoàng đế Bảo Đại lãnh đạo bởi vì chỉ như thế Pháp mới có cớ để ở lại Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung. Thái độ nầy của Pháp đã bị ngoại trưởng CSTQ Chu Ấn Lai trong một công điện báo cáo từ Geneva gửi vê Bắc Kinh cho Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ đã lên án Pháp là vẫn còn hành động giống như là một kẻ thực dân thuộc địa qua việc trưởng đoàn Pháp Ngoại trưởng Bidaul không thừa nhận quyền lãnh đạo của HCM và tuyên bố chính quyền VNDCCH là không hợp pháp, không chính danh trên toàn cõi Việt Nam. Tuy nhiên Pháp lại tiếp tục thừa nhận và ủng hộ chế độ Quốc Gia Việt Nam Thống Nhất do Hoàng đế Bảo Đại lãnh đạo trong nhiệm vụ Quốc Trưởng cùng với 2 vương quốc Cao Miên và Lào.85 VNDCCH dù có biện bạch thế nào thì cũng không khỏi mang tiếng với công luận thế giới là một cơ cấu chính trị không chính danh, không hợp pháp bởi vì họ đã “nổi loạn” cướp chính quyền hợp pháp của một nước Việt Nam Độc Lập và Thống Nhất kể từ 12/03/1945 ngay sau khi quân phiệt Nhật làm chủ toàn vùng Đông Dương. Bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của VSTK - 3769


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

Việt Nam trong thế kỷ 20 được tuyên xưng vào ngày 27/03/1945 trong niên hiệu Bảo Đại thứ 20 của Hoàng đế Nguyễn Vĩnh Thụy, và mặc dù với những bước đi mò mẫm, khó khăn ban đầu, chính phủ của thủ tướng Trần Trọng Kim đã lần lược khôi phục chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ Nam, Trung, Bắc cho một nước Việt Nam thống nhất dưới quyền lãnh đạo của Hoàng đế Quốc trưởng Bảo Đại. Nhật đầu hàng, CSVM đã thừa cơ hội cướp chính quyền ở Hà Nội trong vòng hai ngày 18 và 19/08/45, lập ủy ban Cách Mạng Lâm Thời, cờ đỏ sao vàng đỏ rực khắp nơi. Trong Nam, tại Sài Gòn-Gia Định của CSVM do Trần Văn Giàu lãnh đạo cũng nổi dậy thành lập ủy ban kháng chiến lâm thời Nam Bộ. Ở miền Trung, cán bộ CSVM nằm vùng ra mặt đe dọa rồi đòi hỏi Hoàng Đế Quốc Trưởng Bảo Đại trao quyền cho những người Cách Mạng của CSVM. Ngày 25/08/1954, cán bộ CSVM Hà Huy Liệu và Cù Huy Cận của “Việt Nam Độc Lập Đồng Minh” thay mặt chủ tịch ủy ban kháng chiến Hồ Chí Minh đến Huế để thu nhận ấn tín của Hoàng Đế Bảo Đại. Tiến trình cướp chính quyền của CSVM đã hoàn tất một cách êm thấm trong khi quân đội viễn chinh thực dân Pháp ở Việt Nam - cũng thừa cơ hội Nhật thua trận đầu hàng và được quân đội giải giới Anh giúp đỡ - đã hồi sinh nhanh chóng để “thay thế” quân đội giải giới Anh ở Nam Việt và quân giải giới thổ phỉ Trung Hoa Quốc Dân Đảng ở Bắc Việt. Nước Việt Nam một lần nữa lại mất chủ quyền độc lập vào tay người Pháp, Bảo Đại phải lưu vong ra nước ngoài để cho CS và thực dân thuộc địa đối đầu dây dưa với với nhau ở Việt Nam. Sau cùng, thất bại nơi bàn Hội Nghị Fontainebleau với CSVM, Pháp đành phải ký kết trao trả quyền bính cai trị toàn thể nước Việt Nam cho cựu Hoàng Bảo Đại. Như vậy, chính cựu Hoàng Bảo Đại một lần nữa đã hồi phục độc lập và chủ quyền cho nước Việt Nam từ tay thực dân Pháp. Rõ ràng là vị thế hợp pháp và chính danh của chính quyền Quốc Gia Việt Nam đã liên tục hiện hữu kể từ sau thế chiến thứ I chấm dứt. Do đó đối với quốc tế, phái đoàn Quốc Gia Việt Nam được xem là đại biểu duy nhất và chính danh của nước Việt Nam tại bàn Hội Nghị Geneva và do đó phái đoàn nầy có thể mạnh dạng phản đối sự hiện diện VNDCCH của CSVM tại bàn Hội Nghị. Tuy nhiên, dưới áp lực của những con cá mập “5 cường quốc thế giới”, hai chính quyền Việt Nam thắp cổ bé họng đành phải chịu đứng chung trên một bàn cờ quốc tế Geneva để làm quân chốt cho bọn cá mập mặc tình đẩy tới đẩy lui rồi xuyên qua những cuộc đi đêm riêng rẽ, sắp xếp tùy tiện bất công, âm mưu chia chác quyền lợi riêng tư. Cuộc đi đêm giữa Eden và Chu Ấn Lai mở màng cho hàng loạt tiếp theo các trò đi đêm mờ ám để chia cắt nước Việt Nam. D – Những phiên họp giới hạn và những cuộc xé lẽ đi đêm tiếp theo tại Hội Nghị Geneva trong tháng 05 và 06/1954

VSTK - 3770


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

Vào giữa tháng 05/1954, tại bàn hội nghị Geneva, vấn đề quan yếu, gây tranh luận dây dưa hơn hết chính là giải pháp chính trị cho Việt Nam phải được thực hiện vào lúc nào. Trong bản đề nghị của trưởng đoàn VNDCCH Phạm Văn Đồng, vốn đã được soạn thảo theo chỉ thị và phê duyệt bởi 2 đảng CS TrungSô, lập trường về giải pháp chính trị được trình bày trong phần cuối của bản đề nghị và có đoạn viết như sau: “Cuộc ngừng bắn sẻ có hiệu lực sau khi tất cả các biện pháp khác đã được hoàn tất.” Trong số các biên pháp khác mà phía CS đã đề cặp có cả biện pháp giải quyết ưu tiên vấn đề chính trị hay nói khác đi phía CS chỉ chịu thảo luận về việc nhưng bắn sau khi đã có một giải pháp chính trị có lợi cho họ trên thực tế và tại bàn Hội Nghị tiếp theo sau đó. Ngược lại, lập trường của Pháp, Anh và kể cả Hoa Kỳ thì cần phải có ngay một cuộc ngừng bắn tại Đông Dương rồi sau đó mới tổ chức thực hiện một giải pháp chính trị cho mỗi Quốc Gia Đông Dương. Riêng đề nghị của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam thì thật là độc đáo và kiên định: “Một chính phủ, một nhà lãnh đạo, một quân đội còn tất cả những thứ khác đều bị hủy bỏ.” (Ghi chú: Đây là lời phát biểu của Chu Ấn Lai khi gặp riêng với Eden như đã trình bày trước đây). Nhà lãnh đạo đó phải hợp pháp, chính danh và

hiện tại chính là Quốc Trưởng đương nhiệm Bảo Đại của Quốc Gia Việt Nam. Với vị thế chính danh nầy, Quốc Trưởng sẽ lựa chọn nhân sự để thành lập nội các chính phủ. Một quân đội Quốc Gia tức là tất cả bộ đội của CSVM phải sáp nhập vào tổ chức của Quân Đội Quốc Gia. Lập trường nầy thể hiện uy thế chính trị độc lập của Quốc Gia Việt Nam trên chính trường quốc tế so với vị thế quỹ đạo lệ thuộc của VNDCCH. Trong giai đoạn nầy, chưa có một phe CS nào mạnh miệng tố cáo Chính quyền và Quân đội Quốc Gia Việt Nam dưới quyền lãnh đạo của Bảo Đại là Ngụy Quyền và Ngụy Quân. Pháp không dám phê phán, Anh và Hoa Kỳ không thể phê phán. CSTQ và CSLS khó chịu, bực tức nhưng không thể chối bỏ tư cách chính danh và hợp pháp của Quốc Gia Việt Nam tại bàn Hội Nghị Geneva và họ bắt buộc phải tố cáo là những lập trường của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam là vô lý, làm chậm trễ tiến trình VSTK - 3771


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

đàm phán của Hội Nghị Geneva. Sự tố cáo nầy của CS thể hiện qua cuộc hẹn hò đi đêm giữa 2 ngoại trưởng Anh và Trung Quốc vào giữa tháng 05/1954 như đã kể và trong dịp nầy Chu Ấn Lai đã yêu cầu Eden can thiệp để giải quyết tình trạng giậm chân tại chỗ nơi bàn Hội Nghị toàn thể. Do đó, Eden đã đề nghị cần có những phiên họp giới hạn ít người tham dự, không lập biên bản về các cuộc bàn luận, không họp báo tuyên bố đề mục và kết quả của các buổi họp giới hạn nầy. Kể từ đây những phiên họp toàn thể nếu có thì chỉ là hình thức. - Phiên họp giới hạn thứ #1 ngày 17/05/1954

Trong phiên họp nầy, để đáp ứng lời tuyên bố của ngoại trưởng Pháp Bidault cho rằng chính VNDCCH đã gây ra tình trạng ngưng trệ tại Hội Nghị với lập trường cố chấp đòi nối kết chung hai vấn đề quân sự và chính trị trong khi phía Pháp đề nghị cần nên khởi động việc bàn thảo vấn đề ngưng bắn trước khi bàn tới một giải pháp chính trị, trưởng đoàn Liên Sô Molotov luận điệu rằng mặc dù các vấn đề quân sự và chính trị hiển nhiên là có liên hệ với nhau chặt chẽ, Hội Nghị có thể tốt nhất là giải quyết vấn đề quân sự trước, bởi vì đây là một điểm mà phía Pháp và phía Việt Minh đã cùng nêu ra. Phạm Văn Đồng phản bác cho rằng hai vần đề quân sự và chính trị đan rối vào với nhau không thể tách rời ra được. Tuy nhiên đương sự phải miễn cưỡng đồng thuận rằng hai vấn đề vừa kể có thể giải quyết theo trình tự như trưởng đoàn Liên Sô Molotov đề xuất. Trở ngại chính khiến cho Hội Nghị không thể tiến triển đã được giải quyết, tất cả đều đi đến một sự đồng ý là vấn đề ngưng bắn cần phải được ưu tiên thảo luận trong tiến trình bàn thảo nhiều vấn đề trong Hội Nghị. Theo tài liệu mật của Ngũ Giác Đài thì ngày 20/05/1954 Chu Ấn Lai nói với Eden rằng vấn đề quân sự và chính trị nên giải quyết tách riêng ra để ưu tiên giải quyết vấn đề ngưng bắn. Tuy nhiên phía Cộng Sản cũng lưu ý ngay rằng việc cứu xét giải pháp trị không được bỏ qua và trong phiên họp giới hạn thứ 5, chính Molotov lại đề cặp đến vấn đề nầy trong khi phía Anh, Pháp đã không chần chừ để đặt hết nỗ lực giải quyết vấn đề ngưng bắn rồi mới quay trở lại bàn thảo về giải pháp chính trị. Với mục tiêu đề ra như thế, các vấn đề chủ yếu như tập kết và giải giới các lực VSTK - 3772


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

lượng vũ trang quân sự đã được đưa ra để bắt đầu bàn thảo một cách nghiêm chỉnh.86 - Phiên họp giới hạn thứ #2 ngày 18/05/195487

Trong phiên họp nầy chủ yếu được nêu ra là vấn đề của 2 vương quốc Miên-Lào có phải được giải quyết cùng một lúc với vấn đề Việt Nam hay phải giải quyết riêng rẻ. Anh, Pháp, Hoa Kỳ và 3 Quốc Gia Đông Dương Việt-Miên-Lào chủ trương phải giải quyết riêng biệt và tuyên bố rằng không có quân đội viễn chinh Pháp tại 2 vương quốc Miên-Lào và chỉ cần tất cả các bộ đội của CSVM rút hết ra khỏi 2 vương quốc nầy thì mọi vấn đề rắc rối ở 2 nơi đó sẽ được giải quyết. “Tất cả các bộ độ CSVM” cũng hàm chứa thêm ý nghĩa là bao gồm cả các bộ đội du kích kháng chiến CS Issarak Miên và – Issara Lào cũng là bộ đội của CSVM. Chu Ấn Lai, Molotov và Phạm Văn Đồng phản bác và biện luận rằng các phong trào vũ trang kháng chiến của nhân dân Miên Lào là để đánh đuổi quân Pháp xâm lược. Chính quyền kháng chiến ở hai nơi đó có quân đội riêng của họ, vì thế ngừng bắn cũng phải thực hiện cùng một lúc trên quê hương của họ giống như trường hợp của Việt Nam và có nghĩa là không có vấn đề các bộ đội của Việt Minh như các luận điệu xuyên tạc trong buổi họp giới hạn ngày hôm nay. Hòa bình phải được tái lập trên toàn cõi Đông Dương chứ không chỉ riêng ở Việt Nam. Các vấn đề của 3 quốc gia không thể được bàn thảo một cách tách riêng. Hai phía đã tranh luận với nhau trong 3 tiếng đồng hồ và phải tạm ngưng buổi họp mà không gặt hái được một kết quả nào. Phía CS tố cáo rằng phía đối phương lợi dụng đề tài nầy để thăm dò trắc nghiệm phản ứng của họ. Trước khi phiên họp bị đình hoãn, chủ tịch phiên họp Molotov đề nghị rằng phiên họp ngày 19/05 hôm sau sẽ giành cho việc bàn thảo về vấn đề Cao Ly. Tuy nhiên, Eden sợ rằng một cảm tưởng tiêu cực sẽ xuất hiện vì cho rằng vấn đề ngưng bắn đã bị bế tắt ngày từ lúc vừa mới khởi sự thảo luận., Vì thế Eden đề nghị phiên họp ngày hôm sau 19/05 phải tiếp tục thảo luận vấn đề ngưng bắn ở Đông Dương. Chu Ấn Lai đồng ý với đề nghị của Eden. VSTK - 3773


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

Tất cả diễn tiến vừa kể trên của phiên họp giới hạn ngày 18/05/1954 đã được Chu Ấn Lai báo cáo bằng Công Điện MẬT gửi về Bắc Kinh ngày 20/05/1954. Trong Công điện nầy, Chu Ấn Lai còn báo cáo thêm rằng trong những ngày qua phía đối phương đã dùng các đối tượng thương binh và đau yếu ở chiến trường Điện Biên Phủ để tạo áp lực chính trị và tuyên truyền xuyên tạc gây hoang mang dư luận quốc tế. Để đối phó lại chuyện nầy, đại sứ ở Trung Quốc Hoàng Văn Hoan hiện có mặt trong đoàn VNDCCH ở Thụy Sĩ đã triệu tập một cuộc họp báo để tố cáo âm mưu của Pháp. Phái đoàn Pháp ngay sau đó cũng mở một cuộc họp báo để làm sáng tỏ những điều do Hoàng Văn Hoan tố giác nhất là đối với việc phi cơ của Pháp vào ngày 18/05 lại oanh kích và thả bom các tuyến đường di chuyển của bộ đội CSVM kéo theo các tù binh Pháp bị bắt tại mặt trận Điện Biên Phủ khiến cho 15 tù binh Pháp bị tử nạn vì bom đạn của phi cơ oanh kích. Biến cố nầy đã gây một hậu quả phẫn kích dữ dội. Thông tấn xã CSLS Pravda đã viết bài bình luận phê phán nặng nề và Tân Hoa Xã CSTQ cũng khai thác triệt về vụ nầy để tuyên truyền hạ uy thế quốc tế của Pháp tại bàn Hội Nghị Geneva. Công điện báo cáo của Chu Ấn Lai còn cho biết rằng phái đoàn Pháp đã đơn phương cử người đại diện đi tiếp xúc với phái đoàn của VNDCCH.88 Người Pháp xé rào bắt đầu đi đêm với CSVM. Hành động đen tối nầy của Pháp không thể qua mặt được cơ quan tình báo của Hoa Kỳ: Một giác thư MẬT của cố vấn đặc biệt phái đoàn Donald R.Health ngày 21/05/1954 gửi cho phái đoàn Hoa Kỳ tại Hội Nghị Geneva đã cho thấy rằng Hoa Kỳ đã biết được việc phái đoàn Pháp xé rào đi đêm tiếp xúc với CSVM nhưng Quốc Vụ Khanh của chính phủ Pháp đặc trách liên lạc với 3 Quốc Gia Liên Kết Đông Dương Marc Jacquet vẫn cố tình lắp liếm vòng co, lên tiếng trước để đỗ tội cho phái đoàn Quốc Gia Việt Nam bằng cách nói rằng “có tin đồn là đã có sự tiếp xúc riêng rẽ giữa hai phái đoàn Việt Nam và điều nầy khiến cho phía Pháp phải báo động lo sợ.” Cuối giác thư, Heath viết lời phê luận một cách mỉa mai rằng: “Chẳng thà được nghe một cách thú vị Jacquet lo âu tả oán về những tiếp xúc riêng rẽ của hai phía Việt Nam.” Theo một giác thư của L.Chester Cooper – một nhân viên của Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ/ CIA và hiện giờ cũng VSTK - 3774


1

2

3

4

5

6

7 8 9 10 11 12 13 14

15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35

36

37

38

39

40

41

42

43

44

45

46

là một thành viên của Nhóm Hành Động trong phái đoàn của Hoa Kỳ tham dự Hội Nghị Geneva – thì Marc Jacquet đã qua mặt ngoại trưởng Pháp Bidault đã cử nhiệm 2 thuộc hạ dưới quyền của mình là Michel Audiat và Tezenas du Montcel đi tiếp xúc với Việt Minh ở Geneva. Bảo Đại e ngại trò dàn xếp theo kiểu nầy.” Nội dung bản giác thư nầy như sau: 396.1 GE/5-2154 Memorandum of (Conversation, by the Special Adviser to the United States Delegation (Heath) SECRET GENEVA, May 21, 1954. Participants: M. Marc Jacquet, French State Secretary for the Associated States. Donald R. Heath, Ambassador to Vietnam and Cambodia. During the conference intermission today I spoke with Jacquet. He said: 1. The political situation in Paris was very shaky. 2. Reports of political deterioration in Vietnam were very disquieting. 3. He was also disturbed by the friction between Generals Cogny and Navarre. The latter had lost much of his former moral authority over his command. 4. To my question whether he had heard rumors of the reconciliation between Bao Dai and Ngo Dinh Diem, he said that last December he would have favored Bao Dai's appointing Ngo Dinh Diem as Prime Minister, now he is not so sure it would be a good idea to change Buu Loc. 5. He had heard rumors of contacts between members of the Vietnamese and Vietminh Delegations which he found alarming. If there was a conciliation of the two factions it would be the Bao Dai crowd which would lose out. In that connection he recalled that Bao Dai, during a recent conversation had made a cryptic remark which had disturbed him. Bao Dai had said "we should approach this situation as we did in 1945". Bao Dai would not explain this statement and Jacquet recalled that in 1945 Bao Dai had abdicated and accepted a job as Political Counselor to Ho Chi Minh. Conmment: It was rather interesting to hear Jacquet worry about contacts between the Vietminh and Vietnam Delegations. According to a memorandum 1 from Chester L. Cooper, "M. Marc Jacquet, with out Bidault's knowledge, has designated staff members Michel Audiat and Tezenas du Montcel for secret contacts 89 with the Vietminh in Geneva. Bao Dai is aware of this arrangement".

- Phiên họp giới hạn thứ #3 ngày 19/05/1954

Theo một công điện mật của Chu Ấn Lai đề ngày 20/05/1954 thì trong phiên họp giới hạn nầy vấn đề Miên-Lào có phải được giải quyết cùng chung một lúc với vấn đề ở Việt Nam hay không lại tiếp tục bị đưa ra bàn cãi. Sau 3 giờ tranh luận không thu gặt một kết quả nào, trưởng đoàn Pháp Bidault đề nghị rằng vấn đề Miên-Lào sẽ được bàn thảo bởi một ủy ban do toàn thể Hội Nghị bầu ra nhưng cũng khuyến cáo thêm rằng việc giải quyết vấn đề Miên-Lào không thể được xem như là một điểu kiện tiên quyết để giải quyết vấn đề Việt Nam. Chu Ấn Lai nói rằng cuộc ngưng bắn phải được thực hiện trên toàn cõi Đông Dương và không VSTK - 3775


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

đồng ý đề nghị giải quyết riêng biệt vấn đề ngừng bắn cho MiênLào. Công điện mật của Chu Ấn Lai nầy còn báo cáo về Bắc Kinh rằng có tin đồn là 2 ngoại trưởng Anh-Pháp muốn rời Geneva trở về nước vào cuối tuần và đương sự dự định đến gặp riêng ngoại trưởng Anh Eden vào sáng ngày 20/05/1954.90 - Phiên họp giới hạn thứ #4 ngày 21/05/1954

Trong phiên họp nầy, phía CSTQ vẫn tiếp tục đòi hỏi vấn đề ngừng bắn ở Miên-Lào phải được giải quyết cùng một lúc với vấn đề ngừng bắn ở Việt Nam. Sau những lần bàn cãi, tất cả đều đồng ý trên 2 điểm: (a) Thảo luận quy tắc tổng quát vấn đề ngừng bắn cho cả 3 Quốc Gia Đông Dương rồi tiếp tục thảo luận để hoàn chĩnh những quy tắc nầy đề tìm thấy rõ những vấn đề nào của mỗi quốc gia cần phải được giải quyết. (b) Cuộc thảo luận sẽ khởi sự từ điều khoản #1 và #5 trong bản đề nghị của phái đoàn Pháp đồng thời cũng thảo luận điểm số 1 nơi điều khoản thứ #8 trong bản đề nghị của phái đoàn VNDCCH. Tuy nhiên những gợi ý khác cũng có thể được lưu tâm trong lúc thảo luận. Sau khi bàn cãi tới lui, với cương vị là chủ tịch buổi họp, trưởng phái đoàn Liên Sô Molotov đã đúc kết tất cả ý kiến và gom lại thành năm vấn đề như sau: (1) Vấn đề thực hiện ngưng bắn trên toàn khắp lãnh thổ của Đông Dương. (2) Vấn đề xác định thế nào gọi là những vùng tập kế quân. (3) Vấn đề có được phép hay không chuyển nhập bộ đội, vũ khí đạn dược từ bên ngoài vào vùng tập kết. (4) Vấn đề thiết lập một cơ quan quốc tế để giám sát thi hành những thỏa ước. (5) Vấn đề bảo đảm các thỏa ước. Molotov tuyên bố rằng ngoài 5 vấn đề kể trên thì có thể nêu lên những vấn đề khác để cùng chung thảo luận.

VSTK - 3776


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

Hai vương quốc Cao Miên và Lào vẫn giữ vững lập trường của họ trong khi Bidault đề nghị lập ngay một ủy ban soạn thảo một chương trình bàn luận nhưng Trung Quốc không đồng ý. Eden nêu lên vấn đề đại diện chỉ huy quân sự của 2 phía tại Hội Nghị Geneva . Phạm Văn Đồng đáp ứng rằng Hội Nghị nầy chỉ bàn định những mặt thuộc về nguyên tắc còn các chỉ huy quân sự hai phía sẽ bàn thảo cụ thể dựa trên thực tế nơi hiện trường, nhưng các cố vấn quân sự do mỗi nước cắt cử để phụ tá làm việc cho mình. Có một điểm đặc biệt là trong công điện mật đề ngày 22/05/1954 gửi về Bắc Kinh để báo cáo diễn tiến thảo luận trong ngày họp giới hạn vừa kể trên, Chu Ấn Lai đã cho biết có một buổi gặp mặt riêng và ăn tối giữa Eden và Molotov vào tối 20/05/1954 để thống nhất và kết hợp lập trường giữa Anh và Liên Sô.91 - Phiên họp giới hạn thứ #5 ngày 24/05/1954

Trong buổi họp giới hạn nầy, ngoài những vấn đề đã được Molotov đúc kết trong buổi họp trước đây, ngoại trưởng Pháp Bidaul đã đề nghị thêm là cần phải quy định trước để phân biệt rõ ràng giữa “các lực lượng chính quy” và “các lực lượng không chính quy”. Theo Bidault lực lượng chính quy bao gồm tất cả các lực lượng có tổ chức như trong trường hợp của CSVM có nghĩa là bao gồm luôn cả các đơn vị bộ đội hiện dịch và lực lượng trừ bị ở địa phương. Từ đó Bidault nêu ý kiến rằng tất cả các lực lượng bộ đội như thế đều phải được tập kết vào những vùng phi quân sự trong khi mà các lực lượng quân sự không có tổ chức phải được giải giới dưới sự giám sát bằng một hình thức nào đó. Phạm Văn Đồng trong khi đáp ứng đề nghị của Bidault đã chấp nhận việc ngưng bắn là điều khẩn thiết cần phải thực hiện; đương sự cũng chấp nhận việc giải giới các lực lượng trù bị nhưng ngược lại ý kiến của Bidault để nói chắc chắn rằng nếu mỗi bên phải chịu trách nhiệm đối với tất cả các lực lượng trong vùng lãnh thổ dưới quyền kiểm soát của mình sau khi ngưng bắn thì việc giải giới sẽ được tiến hành một cách đương nhiên tức là Phạm Văn Đồng muốn ngụ ý rằng không cần phải có một tổ VSTK - 3777


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

chức nào để giám sát việc giải giới. Như vậy Phạm Văn Đồng lại đặt vấn đề giải giáp sau khi đã có ngừng bắn. Hội nghi giới hạn lần nầy lại bế tắt vì vấn đề tập kết quân và giải giáp.92 - Phiên họp giới hạn thứ #6 ngày 25/05/1954

Trong phiên họp nầy Phạm Văn Đồng bất ngờ thay đổi lập trường về vấn đề tập kết để đề nghị một giải pháp chia cắt lãnh thổ Việt Nam nói riêng và Dông Dương nói chung trái ngược hẳn với những đề nghị của ngoại trưởng Quốc Gia Việt Nam Nguyễn Quốc Định trước đây không bao lâu nơi bàn Hội Nghị toàn thể Geneva. Đương sự đề nghị rằng trong khi tập kết thì những quyền hạn nhất định trong phạm vi lãnh thổ phải được thiết đặt bằng cách nào đó để cho mỗi phía sẽ có được quyền kiểm soát kinh tế và hành chánh không kém gì so với quyền hạn quân sự. Và để không bị lẫn lộn, đương sự thúc hối phải có một giới tuyến tạm thời được vẽ ra trên địa hình phù hợp cho vấn đề lưu thông và vận chuyển trong phạm vi của mỗi khu vực tập kết. Giải pháp thay đổi nầy của Phạm Văn Đồng bao gồm trong 6 điểm sau đây: a. Phải có sự công nhận những nguyên tắc điều chĩnh các lãnh giới dưới quyền kiểm soát của mỗi quốc gia. b. Việc điều chĩnh sẽ có nghĩa là khi trao đổi lãnh giới thì phải tôn trọng những vùng hiện đang được kiểm soát bao gồm dân cư và những tiện ích chiến lược. c. Mỗi phía sẽ phải được tiếp nhận một lãnh giới nguyên vẹn bao gồm có quyền kiểm soát kinh tế và hành chính. d. Đường ranh lãnh giới phải được vẽ ra theo đường vẽ trên bản đồ địa dư của lãnh giới để cho trong phạm vi của mỗi lãnh giới có thể thực hiện được sự giao thông và vận tãi của mình. e. Sau khi đường ranh lãnh giới đã được ấn định xong thì mỗi phía sẽ rút quân về vùng lãnh giới của mình kể cả không lực và hải lực, các căn cứ quân sự cùng với các lực lượng cảnh sát. f. Khu vực dưới quyển cai trị hành chánh của một phía nào thì sẽ được tiếp tục dưới quyền cai trị hành chánh của phía đó cho VSTK - 3778


1

2

3

4

5

6

7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

41

42

đến khi nào quân của mình đã được rút đi hết và liền ngay sau khi rút hết quân, quyền cai trị hành chánh nơi đó phải được chuyển giao cho phía bên kia. Ngoài ra Phạm Văn Đồng còn đòi hỏi thêm rằng mọi sắp xếp về vấn đề ngưng bắn phải bao gồm cả những sắp xếp cho hai nhóm CS Miên-Lào.93 “......... a. Must be recognition of the principles of readjusting areas under control each state. b. Readjustment would mean exchange of territory taking into account actual areas controlled including population and strategic interests. c. Each side would get territory in one piece to include complete control of the area both economic and administrative. d. Line of demarcation should be established following the topographical line of territory to make transportation and communications possible within each state. e. When the demarcation lines are determined each side would withdraw its troops into its own area including all air and sea forces, military facilities and police forces. f. Territory under administration of one side would continue under the control of that side until its troops were withdrawn, immediately after which administration would be transferred to control of the other side. In conclusion, stated that agreement must be worked out on a ceasefire and once principle is agreed to by Geneva Conference, the commanders of both sides should meet and make recommendations to the conferees on the terms of the armistice. Conferees could then agree on final terms of settlement. Pointed out that any arrangement for ceasefire must include arrangements for Khmer and Pathet Lao.”

Tướng Smith trưởng đoàn Hoa Kỳ đã bác bỏ ngay tức khắc lập luận và đề nghị mới nầy của Phạm Văn Đồng và yêu cầu tất cả các thành viên trong buổi họp quay trở lại thảo luận vấn đề ngưng bắn đã được đặt ra trước đây. -Phiên họp giới hạn thứ #7 ngày 27/05/1954

Vào buổi sáng của phiên họp, ngoại trưởng Pháp Bidault đã đưa ra một bản đề nghị về vấn đề tiếp xúc giữa các chỉ huy quân sự để quy định những vùng tập kết ở Việt Nam. Với một cách nhìn tổng quát thì rõ ràng là đề nghị của Bidault đã hướng theo lập trường của phái đoàn VNDCCH: trao đổi vùng lãnh giới kèm theo những nguyên tắc về chính trị, kinh tế và lãnh thổ. Phái đoàn Quốc Gia Việt Nam đã phản đối thái độ chấp nhận của Pháp sát cạnh với đề nghị của Phạm Văn Đồng bởi vì chia cắt lãnh giới dưới bất cứ hình thức nào cho CSVM thì chẳng VSTK - 3779


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

khác gì giúp CSVM lấy đà chiếm gọn hết cả nước Việt Nam một cách nhanh chóng. Ngoại trưởng Anh lặp lại đề nghị của phái đoàn Anh đã dưa ra trong phiên họp ngày 25/05/1954: “Đại diện chỉ huy quân sự của Pháp và Việt Minh gặp nhau ngay tại Geneva để bàn định các vùng tập kết quân ở Việt Nam rồi báo cáo và đưa ra những đề nghị cho Hội Nghị Geneva càng sớm càng tốt. Đồng thời Hội Nghị cần bàn thảo vấn để giám sát quốc tế đối với những thỏa thuận vừa mới đạt được.”

Pháp đồng ý với Anh và đề nghị 2 bên chỉ huy quân sự Việt Minh và Pháp sẽ gặp nhau vào ngày 01/06/1954 nhưng không đề cặp tới là sẽ gặp nơi mặt trận ở Việt Nam như Phạm Văn Đồng đòi hỏi. Phạm văn Đồng không đáp ứng ngay đề nghị của Bidault về ngày họp của các chỉ huy quân sự mà chỉ tuyên bố rằng sẽ có phúc đáp vào trước ngày 01/06/1954. Để đáp ứng đề nghị của Eden trong phiên họp nầy, Phạm Văn Đồng nói rằng: “. . . tiếp xúc trực tiếp là phương cách rất tốt. Tiến trình giải quyết tại chỗ vấn đề thương bệnh binh ở mặt trận Điện Biên Phủ là một thí dụ. Vì thế phía VNDCCH đồng ý những cuộc tiếp xúc trực tiếp giữa hai lực lượng quân đội của 2 bên tại hội nghị nầy và ở Đông Dương.”

Chu Ấn Lai cũng đưa ra một bản đề nghị 6 điểm: (1) Tất cả các lực lượng lần lược ngừng bắn hoàn toàn trên khắp lãnh thổ Đông Dương; (2) Hai phía bắt đầu thương thảo những điều chỉnh một cách thích hợp những lãnh vực trú đóng của mình, các tuyến giao thông dùng để di chuyển binh đội của mỗi bên trong khi thi hành việc điều chĩnh cùng với những vấn đề liên hệ khác có thể xảy ra; (3) Ngừng tất cả các sự chuyển nhập từ bên ngoài vào lãnh thổ Đông Dương các loại lực lượng quân binh chủng, nhân sự quân đội, tất các loại vũ khí đạn dược trong khi có sự ngừng bắn; (4) Ủy ban liên hợp gồm có những đại diện các chỉ huy quân sự của 2 phía được trao nhiệm vụ kiểm soát việc thi hành những điều khoản đã được thỏa hiệp để chấm dứt những hành động thù nghịch. -Ủy ban kiểm soát quốc tế do các quốc gia trung lập như đã được đề xuất trước dây cũng phải được tiến hành.-Thành phần ủy ban kiểm soát bởi các quốc gia trung lập phải được thảo luận riêng biệt.(5) Các quốc gia thành viên tham dự hội nghị Geneva bảo đảm việc thực thi hiệp ước. Vấn đề VSTK - 3780


1

2

3

4

5

6

7

8

9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19

nhiệm vụ bảo đảm của các quốc gia có liên hệ phải theo cách nào thì cần phải được cứu xét riêng rẽ.(6) Hai phía phải tha hết các tù binh chiến tranh và thường dân bị giam cầm.93bis Trưởng đoàn Liên Sô Molotov tán thành ý kiến của Phạm Văn Đồng nhưng lại thêm rằng vấn đề tập kết nên thảo luận riêng ở hai nơi cùng một lúc: ở hiện trường Việt Nam và ở bàn Hội Nghị Geneva. Vào cuối buổi họp, một thông cáo chung đã được ghi nhận như sau:93ter “Để tạo dễ dàng cho một cuộc chấm dứt nhanh chóng và cùng một lúc những thù nghịch, Hội nghị đề nghị rằng: a. Các Chỉ huy quân sự đại diện sẽ gặp nhau ngay tại Geneva và mọi sự tiếp xúc cũng phải được thực hiện ngay tại hiện trường. b. Họ sẽ phải nghiên cứu việc xếp đặt như thế nào cho các lực lượng vào lúc chấm dứt các sự thù nghịch, khởi đầu cho trường hợp các vùng tập kết quân ở Việt Nam. c. Họ phải báo cáo những gì họ tìm thấy và trình lên Hội nghị những đề xuất vào lúc sớm nhất thì càng tốt. Hội nghị đồng ý rằng lần họp đầu tiên của những Chỉ Huy Quân Sư đại diện ở Geneva phải được ấn định trước ngày 01/06/1954.”

*

VSTK - 3781


KHẢO LUẬN 1

ÂM MƯU CHIA CẮT NƯỚC VIỆT NAM

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

41

Như vậy là lá bài tẩy chia cắt đất nước Việt Nam của phía CSVM tại hội nghị Geneva đã được Phạm Văn Đồng lật ngữa ra một cách bất ngờ vào phiên họp giới hạn thứ #6 ngày 25/05/1954. Điều gì đã xảy ra khiến phía CSVM đã phải hối hả đòi hỏi như thế? Theo tài liệu của Ngũ Giác Đài Hoa Kỳ thì nhật báo Nhân Dân của hảng Thông Tấn Xả CSVM đã cho phát hành một bản tin bằng tiếng Anh phổ biến trong vùng Đông Nam Á vào ngày 07/06/1954 để biện minh rằng đề nghị của Phạm Văn Đồng kể trên chỉ là một đề nghị “điều chỉnh vùng” cần thiết cho việc ngưng bắn. Sự điều chỉnh chỉ là một giai đoạn trong khi chuẩn bị các cuộc tổng tuyển cử với một cái nhìn hướng về việc thực hiện thống nhất Quốc Gia. (Xem phần Chú Giải số #94). Phải chăng CSVM đã bị áp lực của CSSV và CSTQ bắt phải đưa ra một đề nghị phân vùng lãnh giới như thế? Cũng theo tài liệu của Ngũ Giác Đài, vấn đề chia cắt nước Việt Nam, đặc biệt là từ vĩ tuyến thứ 16, đã được một tùy viên đại sứ Liên Sô ở Luân Đôn vào đầu tháng 03/1954 gợi ý với các viên chức Hoa Kỳ mà không cần quan tâm đến những phản đối của Pháp và Hoa Kỳ về một giải pháp liên hiệp cho Việt Nam. Cũng ngay từ phiên hợp khai mạc Hội Nghị Geneva, các viên chức phái đoàn CSLS cũng đã đánh tiếng gợi ý như thế với những viên chức của phái đoàn Hoa Kỳ để khuyến cáo rằng việc lập một vùng lãnh thổ quốc gia trái độn an toàn ở phía Nam Trung Quốc cũng khiến cho CSTQ hài lòng và an tâm. Như thế, có thể nói rằng đề nghị chia cắt lãnh giới của Phạm Văn Đồng nếu không phải là sản phẩm của CSLS và CSTQ thì đề nghị nầy của CSVM, mặc dù là chỉ là chia cắt tạm thời, ít ra cũng làm cho 2 khối CS khổng lồ nầy cảm thấy vui lòng .94 Cho dù thế nào chăng nữa thì đề nghị chia lãnh giới của phái đoàn VNDCCH cũng là một sự thách đố đối với Pháp đối với những gì mà Pháp “đã gọi là long trọng cam kết” với Quốc Gia Việt Nam do Quốc Trưởng Bảo Đại lãnh đạo. Pháp đã hứa, đã cam kết rất nhiều để chiêu dụ Quốc Gia Việt Nam chấp nhận phái đoàn của “tổ chức phiến loạn CSVM” được ngồi cùng chung bàn tại Hội Nghị Geneva. Tuy nhiên Nhà lãnh đạo Quốc Gia Việt Nam đã luôn kiên định lập trường không để cho nước Việt Nam bị chia cắt như trường hợp của các quốc gia Triều Tiên và Đức. Và bởi vì không thể tin tưởng những trò chính trị lật lộng của “những con cá mập cường quốc thế giới” cho nên Quốc Trưởng Bảo Đại đã ra tuyên cáo ngay tại thủ đô nước Pháp để xác định rõ ràng vị thế hợp pháp, chính danh của chính quyền Quốc Gia Việt Nam trên chính trường thế giới và yêu cầu người Pháp phải bảo đảm bằng bút mực và chữ ký rằng chính phủ của họ sẽ không không bao giờ tìm cách hoặc chịu chấp nhận một giải pháp chia cắt đất VSTK - 3782


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

41

42

nước vì như thế là phản bội dân tộc nước Việt Nam đã tự mình xác quyết tình cảm mãnh liệt đối với nền độc lập và thống nhất đất nước của mình. Chính phủ Quốc Gia Việt Nam cũng chính tức cảnh cáo rằng chính quyền Quốc Gia Việt Nam sẽ tuyệt đối không thừa nhận bất cứ một loại thỏa thuận nào nhằm âm mưu chia cắt và làm tổn hại sự toàn vẹn thống nhất lãnh thổ của đất nước Việt Nam. “ Ngay cả vị Quốc Trưởng hay Nội các của chính quyền Quốc Gia Việt Nam cũng không có quyền tự mình chấp nhận những điều kiện đi ngược lại với quyền lợi, nền độc lập và sự thống nhất của Quốc Gia Việt Nam bởi vì như thế chính là một sự ban thưởng cho một sự gây hấn trái ngược với những nguyên tắc đã được đề ra trong bản Hiến Chương của tổ chức Liên Hiệp Quốc đề ra.”95 Để đáp ứng lập trường kiên định của Quốc Gia Việt Nam, ngày 03/05/1954, Cao Ủy Pháp ở Đông Dương Maurice Dejean đã tuyên bố ở Sài Gòn rằng : “Chính phủ của nước Pháp không có ý định mưu tìm một giải pháp cho vấn đề Đông Dương bằng cách dựa trên nền tảng một sự chia cắt lãnh thổ của nước Việt Nam.” Những lời bảo đảm chính thức về việc nầy trước đây đã được Ngoại trưởng Pháp phát biểu với ngoại trưởng Quốc Gia Việt Nam vào ngày 01/05/1954 để xác nhận chính thức lập trường của Pháp.96 Ngày 06/05/1954, ngoại trưởng Pháp Bidault lại gửi một tư văn cho QT Bảo Đại để xác định rằng nhiệm vụ của chính phủ Pháp là tạo dựng hòa bình ờ Đông Dương chứ không phải là dung hội nghị Geneva để mưu tìm một giải pháp chính trị vĩnh viễn. Do đó mục tiêu hướng đến là một cuộc ngưng bắn có được những thành viên của hội nghị bảo đảm cho 3 Quốc Gia liên hiệp, với hy vọng một cuộc tổng tuyển cử trong tương lai. Do đó, với vị thế hiện tại của mình, Ngoại trưởng Bidault xác định với “đức vua” rằng “sẽ không có điều gì vô lý hơn để chuẩn bị cho một sự thiết đặt 2 Quốc Gia được Quốc tế biết đến mà phải hy sinh nền thống nhất của nước Việt Nam. Bidault tiếp tục ủng hộ lập trường không chia cắt đất nước của chính quyền Quốc Gia Việt Nam khi gặp riêng với hai ngoại trưởng Anh và Hòa Kỳ trong Hội Nghị Geneva và lập trường nầy sẽ bị hủy bỏ khi một tân thủ tướng của nước Pháp gốc người Do Thái lên cầm quyền nội các chính phủ ở Paris vào giữa tháng 06/1954.” 97 Ý đồ chia cắt lãnh thổ của CSVM cũng dược tỏ hiện một cách tách bạch không e dè chút nào đến tình cảm dân tộc Việt Nam khi hai ủy viên quân sự Pháp - Việt Minh tại Hội Nghị Geneva gặp riêng nhau để thương lượng về vấn đề trao đổi tù binh bị đau ốm và bị thương nơi mặt trận Điện Biên Phủ. Trong khi họp bàn riêng ngày 10/06/1954 tại một ngôi biệt thự ở ngoại ô Geneva, thứ trưởng bộ quốc phòng CSVM, ủy viên quân sự của phái đoàn VNDCCH tại Hội Nghị Geneva Tạ Quang Bửu, đã lật ra một tấm bản đồ Đông Dương, đưa tay chỉ vào vùng lãnh thổ nước Việt Nam trên bản đồ cho đại tá de Brebisson, Michel, cố vấn của phái đoàn Pháp đặc trách các vấn VSTK - 3783


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

đề quân sự Đông Dương tại hội nghị Geneva, rồi nói: “Chúng tôi phải có riêng một lãnh thổ, một thủ đô và một hải cảng.” (Il nous faut un territoire, une capitale et un port.)98 Trước khi có hội nghị Geneva, chính quyền của nước Pháp chỉ có 2 giải pháp để chọn lựa để chấm dứt chiến tranh với CSVM vốn đang được CSTQ yễm trợ mạnh mẽ để tấn công quy mô quân đội viễn chinh Pháp ở Bắc Việt nhất là tại mặt trận Điện Biên Phủ. Giải pháp #1: cố giữ toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam với một chính phủ “Liên Hiệp Quốc Gia Việt Nam” với sự tham dự của CSVM; giải pháp #2: chia cắt Việt Nam giống như trường hợp của quốc gia Triều Tiên. Đối với giải pháp #1, nhất định là người Pháp đã trải qua nhiều kinh nghiệm với bao nhiêu lần Chính Phủ Liên Hiệp Quốc Gia theo kiểu mẫu của CSVM từ các thời Phan Bội Châu, Thanh Niên Cách Mạng Đồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Cách v.v… và kể cả ngay sau khi có cuộc cướp chính quyền ở miền Bắc Việt Nam vào mùa Thu năm 1945. Người Pháp thấy rõ giải pháp Liên Hiệp rất bắp bênh và nguy hiểm với tình trạng yếu kém “bẩm sinh” của chính quyền Quốc Gia hiện nay do quốc trưởng Bảo Đại lãnh đạo: CSVM sẽ nhận chìm và lấn áp chính quyền Liên Hiệp Quốc Gia với những kỹ xảo như họ từng ứng dụng nhiều lần trong quá khứ để cướp chính quyền rồi tiêu diệt tất cả các thành phần không Cộng sản đứng trung lập lưng chừng đón gió. Đối với giải pháp thứ #2 nếu được lựa chọn thì người Pháp được lợi hơn là vì họ có thể ở lại miền Nam Việt Nam mà trên lý thuyết thì đây là một nơi trú đóng an toàn không có ảnh hưởng của chủ nghĩa Cộng Sản và là nơi mà các căn cứ quân sự của phe Âu Châu, kể cả Hoa Kỳ sẽ được thiết đặt. Giải pháp thứ #2 nầy cũng được Hoa Kỳ đang hướng tới nhưng chưa có cơ hội thuận lợi để công khai hóa ý muốn của họ vì họ e dè sẽ đụng chạm đến đa số dư luận quần chúng Việt Nam vốn rất thiết tha với sự thống nhất lâu đời của đất nước mình và sẽ rất nhậy cảm nỗi giận nếu đất nước nầy bị chia cắt phân ly. Anh quốc cũng cùng tâm trạng như Hoa Kỳ cho nên họ giữ thái độ “chờ xem.”

* 32

VSTK - 3784


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

- Phiên họp giới hạn thứ #8 ngày 29/05/1954

Molotov chủ tọa phiên họp nầy. Eden nhắc lại thông cáo chung ba điểm trong buổi họp giới hạn thứ #7 ngày 27/05/1954 về vấn đề ấn định các vùng tập kết quân sự của hai phía và rằng nếu tất cả đồng ý thì cần phải ấn định ngày họp mặt của các đại biểu chi huy quân sự. Thông cáo chung nầy dựa trên bản đề nghị của Eden với bút tích sữa đổi của Molotov.99 Công điện của Chu Ấn Lai ngày 30/05/1954 gửi về Bắc Kinh báo cáo rằng trong buổi họp giới hạn 29/05/1954 phía đối phương vẫn tiếp tục ngoan cố giữ lập trường rằng họ có quyền giữ riêng lập trường của họ đối với trường hợp của quốc gia Miên và Lào và chủ trương rằng việc tập kết quân sự chính thức ở Việt Nam sẽ không được gây thiệt hại đến tình trạng nguyên vẹn chính trị, kinh tế của Việt Nam. Chu Ấn Lai báo cáo tiếp rằng tướng Smith đặc biệt nhấn mạnh Hội Nghị Geneva có toàn quyền quyết định đối những đề nghị của các đại biểu chỉ huy quân sự hai phía đối với quốc gia Việt Nam và Lào.100 Trong công điện báo cáo nầy Chu Ấn Lai cũng cho biết thêm rằng Molotov ủng hộ từng điểm một trong bản đề nghị 6 điểm của CSTQ đã được đưa ra trong phiên họp giới hạn thứ #7.100 Sau khi Molotov đúc kết tất cả các ý kiến và đề nghị đã nêu lên trong buổi họp và đọc lên một bản dự thảo nghị quyết chung, trưởng đoàn Hoa Kỳ tướng Smith công khai tỏ thái độ không hài lòng tuyên bố rằng chính phủ Hoa Kỳ có toàn quyền quyết định chấp thuận hay bác bỏ nghị quyết nầy kể cả những quy tắc đề nghị của trưởng đoàn Anh Quốc và trưởng đoàn Hoa Kỳ sẽ giành quyền tuyên bố với báo chí lập trường của Hoa Kỳ trong buổi hội trước đây.101 Cũng theo báo cáo của tướng Smith gửi về Hoa Thịnh Đốn thì trong buổi họp nầy,trưởng đoàn Quốc Gia Việt Nam Nguyễn Quốc Định đã khuyến cáo rằng chính phủ Quốc Gia Việt Nam sẽ nhất quyết không chấp nhận mọi dự mưu có hại đến tình trạng thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.102 - Phiên họp giới hạn thứ #9 ngày 30 và 31/05/1954

Sáng ngày 30/05/1954, Molotov trở về Moscova sau khi hội ý riêng với ngoại trưởng Anh Eden. Gromiko thay thế Molotov VSTK - 3785


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

trong buổi họp giới hạn sáng ngày hôm nay cho đến trưa cùng ngày thì Molotov quay trở lại bàn hội nghị Geneva.103 Phái đoàn Hoa Kỳ đồng ý có 2 điểm quan trọng nhất trong số 6 điểm trong bản đề nghị của CHNDTQ: đó là vấn đề kiểm soát và vấn đề bảo đảm. Các ủy ban kiểm soát cần phải được thực hiện ngay sau khi ngưng tiếng súng. Ủy ban nầy có thể là ủy ban kiểm soát lâm thời của địa phương nhưng việc điều hành phải kiểm soát phải giao lại cho ủy hội quốc tế kiểm soát đình chiến quốc tế càng sớm càng tốt. Tướng Smith nhắc lại kinh nghiệm không tốt đẹp về Ủy Ban Trung lập Giám sát (NNSC) đình chiến ở Cao Ly trong đó có 2 thành viên của 2 nước CS Ba Lan và Tiệp Khắc đã không thực sự trung lập để thi hành nhiệm vụ giám sát một cách vô tư không thiên vị. Tướng Smith cũng nói thêm rằng Ủy ban kiểm soát của tổ chức Liên Hiệp Quốc thi hành ngay thẳng nhiệm vụ của họ ở triều Tiên. Theo Smith thì (i) Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến phải gồm có những thành phần quốc gia trung lập thực sự; (ii) Việc thỏa thuận về tổ chức kiểm soát vấn đề tăng viện quân lực không thể chỉ đặt vào sự ngay thẳng của lực lượng đối nghịch; (iii) Thành viên Ủy Ban Kiểm Soát có quyền hoạt động không bị giới hạn trên bình diện địa dư lãnh thổ. Chu Ấn Lai ngược lại cho rằng chính lực lượng gìn giữ Hòa Bình của Liên Hiệp Quốc đã gây nhiều trở ngại và khó khăn cho Ủy Ban Kiểm Soát Đình Chiến ở Triều Tiên.104 Sau giờ nghĩ giải lao, Phạm Văn Đồng tuyên bố rằng phái đoàn VNDCCH đã chỉ định chỉ huy quân sự cao cấp Tạ Quang Bửu (thành viên trong phái đoàn tham dự Hội Nghị Geneva đồng thời cũng là thứ trưởng Quốc Phòng của VNDCCH) giữ nhiệm vụ ủy viên chính thức đại diện trong những cuộc họp nghị với các đại biểu chỉ huy quân sự cao cấp của 2 phía. Đại tá Hà Văn Lâu trong phái đoàn Việt Minh tại bàn hội nghị Geneva sẽ sẵn sàng gặp Brebission và những thành viên khác trong phái đoàn Pháp vào ngày 01/06/1954 để chuẩn bị sắp xếp kỹ thuật cho chỉ huy cao cấp của hai phía Pháp-Việt Minh gặp nhau. Bidault chấp nhận đề nghị nầy của Phạm Văn Đồng.105 Sau buổi họp nầy, ba phái đoàn của phía Cộng Sản đã gặp riêng nhau để thống nhất quan điểm trong việc lập một số dự VSTK - 3786


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

thảo quy tắc liên quan tới ủy ban liên hợp, ủy ban trung lập kiểm soát đình chiến NNSC và vấn đề bảo đảm quốc tế cho việc thi hành thỏ hiệp Geneva.106 Công điện “tối mật” ngày 01/06/1954 của Chu Ấn Lai gửi về Bắc Kinh cho biết rằng sau phiên họp giới hạn thứ #9, Ngoại trưởng Anh Eden đã mời Chu Ấn Lai dùng cơm vào buổi tối ngày 01/06/1954 và ngoại trưởng Pháp Bidault cũng đã yêu cầu họ Chu cho được gặp mặt riêng và bí mật, không để lộ cho báo chí và phái đoàn Hoa Kỳ hay biết. Chu Ấn Lai Đồng ý gặp Bidault vào lúc 10 giờ đêm 01/06/1954 sau buổi cơm tối với ngoại trưởng Anh Eden.107

12

E- Cuộc hẹn hò đi đêm Pháp-Hoa

13

a. Chuẩn bị cuộc hẹn:

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

Để sắp xếp cho ngoại trưởng Pháp G. Bidault và ngoại trưởng CHNDTQ Chu Ấn Lai gặp nhau một cách bí mật, vào lúc 5 giờ 30 chiều ngày 30/05/1954, một cuộc họp mặt riêng PhápHoa bên ngoài trụ sở hội Nghị Geneva được thực hiện bởi phó trưởng phái đoàn Pháp tại Hội Nghị Geneva Jean Chauvel cùng với Tổng bí thư Ngoại vụ Hoàng Bình Nam của phái đoàn CSTQ qua trung gian của Chủ tịch Hiệp Hội Nhân Quyền Thế Giới Joseph-Paul Boncourt. Phía Trung Quốc có thông dịch viên Dong Ning Chuan và phía Pháp có đại tá thông dịch Jacques Guillermaz. Để tránh tai mắt báo chí và dân chúng Thụy sĩ ở Geneva, cuộc gặp mặt của hai ngoại trưởng Pháp-Hoa và tùy tùng của mỗi người sẽ được tổ chức vào ban tối cho tới nửa đêm hoặc sáng hôm sau. Để giữ bí mật, Pháp đề nghị phía Trung Quốc nên có vệ sĩ riêng của mình đi theo trưởng đoàn Chu Ấn Lai vì không thể nhờ vào sự bảo vệ của Công An cảnh sát của Thụy Sĩ như thường lệ. Nơi họp mặt chính là ngôi nhà của bên vợ Paul Boncourts mà 2 bên dang gặp nhau ở đây. Ngày họp mặt bí mật có thể là ngày 01/06/1954 hoặc 02/06/1954. Trong dịp nầy, J.Chauvel và Hoàng Bình Nam đã trao đổi quan điểm với nhau về diễn tiến của buổi họp giới hạn thứ #8 vừa qua. Hoàng Bình Nam phát biểu rằng trong buổi họp vừa qua thái độ của phía Hoa kỳ là thiếu tinh thần trợ giúp mà cũng VSTK - 3787


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

không bác bỏ những đề nghị mà đa số thành viên trong buổi họp đã đồng ý để đi đến một nghị quyết chung. Paul Boncourt nhắc lại lời phát biểu của mình trong buổi họp #8 rằng nếu bị ép bức để nhận chịu những điều kiện thiệt thòi quá mức thì Pháp sẽ phải nhờ đến sự trợ giúp từ ở bên ngoài cuộc chiến.Sau khi Điện Biên Phủ thất thủ thì tình thế trở nên nghiêm trọng hơn và nếu Hà Nội cũng bị thất thủ như thế đến lúc đó thì người Pháp phải giao trận chiến cho những kẻ khác để bảo vệ và giải cứu sinh mạng kiều dân và binh sĩ của Pháp. Chauvel đã giải thích giao trận chiến cho những kẻ khác có thể lả có 2 cánh: cánh hữu hoặc cánh tả. Nếu Pháp giao trận chiến cho Hoa Kỳ thì phía cánh tả sẽ lo âu. Nếu Pháp giao cho phía cánh tả thì sẽ khiến cho Hoa Kỳ lo âu. Nếu Hoa Kỳ không tin tưởng những giải pháp do hội nghị đề ra thì Hoa Kỳ sẽ không chuẩn nhận việc thực thi những giải pháp đó và như vậy là rất nguy hiểm.108 Sáng kiến cho việc sắp xếp kể trên là công lao của J.Chauvel sau khi đương sự được Chu Ấn Lai chấp thuận cho gặp riêng nơi hành dinh cư trú của họ Chu ở Geneva.109 b. Cuộc hò hẹn xé rào Pháp - Hoa:

Thời gian: Buổi tối 01/06/1954, từ 10Giờ15 đến 11Giờ20 Địa điểm: Tư gia bên vợ của Paul Boncourt. Thành phần tham dự: -Trung Quốc: Chu Ấn Lai, Zhang Wentian và Thông dịch viên Dong Ninh Chuan. -Pháp: G.Bidault, J.Chauvel, J. Guillermaz, và một thông dịch viên. Biên bản “tối mật” của buổi họp xé rào nầy giữa Pháp và CS Trung Quốc đã được chuyển dịch từ Hoa ngữ sang Anh ngữ bởi giáo sư tiến sĩ Sử học Li Xiaobing đăng trên tập san CWIHP Bulletin, số 16/Thu-Đông 2007-2008. Biên bản nầy được tạm dịch và tóm tắt như sau: - Bidaul đề nghị: để tránh khỏi tình trạng chiến cuộc lan rộng xấu hơn, hai vấn đề cần phải giải quyết ngay: (i) Các cuộc họp bàn các đại diện chỉ huy quân sự cao cấp của hai bên để ấn định các vùng tập kết quân lực. (ii) VSTK - 3788


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

41

Các phiên họp giới hạn cần phải đạt tới một thỏa thuận cho vấn đề giám sát ngưng bắn. - Chu Ấn Lai đáp lại: phía Trung Quốc xem như hình thức tiếp xúc trực tiếp gần đây của các chỉ huy cao cấp quân đội giữa 2 bên Pháp -Việt Minh để bàn về vấn đề tập kết là chiều hướng tốt nhất. Theo quan điểm của Trung Quốc thì cần phải chấm dứt ngay cuộc chiến vì quyền lợi của nhân dân Đông Dương và vì những quyền lợi quốc gia của Pháp. Căn cứ theo những đòi hỏi không quá xa với thực tế (trên hiện trường) của Phạm Văn Đồng thì phía Trung Quốc thấy rằng lập trường Pháp -Việt Minh rất gần nhau. Nguy cơ mà Trung Quốc lo ngại chính là sự can dự của Hoa Kỳ. Nguy cơ nầy khiến cho nước Pháp, các nước ở Đông Dương và ở Đông Nam Châu Á bị tổn hại; và sẽ là mối đe dọa cho nền an ninh chung của Á Châu và của Trung Quốc. Nước Pháp muốn đạt được một nền hòa bình danh dự sáng lạng thì Trung Quốc đồng ý rằng điều nầy có thể thực hiện được . . . . . . . . . . . . . .Hai vấn đề ưu tiên của ngoại trưởng Bidault đề ra sẽ được giải quyết. - Bidault khẩn nài một lần nữa rằng những điểm sau đây cần được giải quyết nhanh chóng : (1) Ngay bây giờ cần phải đi tới một thỏa thuận chung có thể chấp nhận được; (2) Các Chỉ Huy cao cấp quân sự hai bên vẽ ra một bản đồ chỉ điểm những vùng tập kết quân binh.; (3) Giải quyết nhanh những vấn đề có liên hệ đến việc Giám sát. - Chu Ấn Lai nói rằng 3 điểm vừa nêu lên của Bidault là vì Hòa Bình cho nên Trung Hoa hoàn toàn ủng hộ bởi vì Hòa Bình là mục đích chung của Trung Quốc và Pháp cần đạt tới. Trung Quốc sẵn sàng giành nhiều nỗ lực hơn nữa để hợp tác với Pháp. Tuy nhiên vẫn còn có kẻ có ý định xử dụng những thủ đoạn hăm dọa và Chu Ấn Lai muốn rằng Bidault có thể can thiệp để ngăn chận những mưu toan phá hoại hòa bình, để hòa bình có thể được thực hiên nhanh hơn. -Bidault nói với họ Chu rằng lập trường Pháp-Hoa đã sát cận với nhau giống như giữa hai quốc gia thân hữu láng giềng.110

Trong một công điện tóm tắt gửi về Bắc Kinh, Chu Ấn Lai cho biết rằng các đại diện chỉ huy quân đội của hai bên đã bắt đầu tiếp xúc với nhau vào ngày 01/06/1954 và thỏa thuận sơ bộ về thời điểm gặp nhau và nhiều thủ tục khác đã đạt được giữa các chỉ huy quân sự cao cấp. Công điện cũng cho biết rằng trong buổi ăn riêng tối 01/06/1954, ngoại trưởng Anh Eden đã xa gần nói họ Chu rằng không muốn hai quốc gia Ba Lan và Tiệp Khắc hiện diện trong ủy ban các nước trung lập giám sát đình chiến nhưng tốt hơn phải để cho các quốc gia trong vùng Á Châu đảm trách vai trò giám sát đình chiến ở Đông Dương. Họ Chu đáp lại rằng tốt hơn hết là nên để Ủy ban giám sát lần nầy bao gồm các thành viên Âu-Á như phó trưởng đoàn Gromiko của Liên Sô tại VSTK - 3789


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

Hội nghị Geneva đã đề nghị. Eden nêu ý kiến rằng các chỉ huy quân sự cao cấp cần phải vẽ một bản đồ khoanh vùng tập kết và giải quyết sớm một số vấn đề đặc biệt. Ngoài ra Eden còn tỏ ý muốn rằng Hội Nghị Geneva sẽ phải đạt được thành quả trong vòng từ 10 đến 15 ngày sắp tới. Nhắc lại cuộc họp bí mật với Pháp trong đêm 01/06/1954, công điện của họ Chu viết rằng mặc dù Bidault có đề cặp tới một vài vấn đề nhưng lại không chịu bàn luận sâu hơn mà cũng không đưa ra được một vấn đề đặc biệt nào khác.111 - Phiên họp giới hạn thứ #10 ngày 02/06/1954

Trong phiên họp nầy những quan điểm bất đồng về thành phần các quốc gia trung lập trong ủy hội quốc tế kiểm soát đình chiến Đông Dương đã chiếm hết thời gian của phiên họp. Trưởng đoàn Hoa Kỳ Smith không bát bỏ hoàn toàn đề nghị về điểm nầy của Gromiko nhưng không chấp nhận 2 quốc gia CS Đông Âu là Tiệp Khắc và Ba Lan là thành viên “trung lập” trong Ủy Ban Quốc Tế Trung Lập Kiểm Soát Đình Chiến Đông Dương (Từ đây viết tắt là NNSC-ĐD) mặc dù Hoa Kỳ đồng ý về hai quốc gia Á Châu là Ấn Độ và Pakistan trong đề nghị của Gromiko vừa kể.112 Bidault thì không chấp nhận quan điểm của Gromiko cho rằng 2 quốc gia Cộng sản Đông Âu Ba Lan và Tiệp Khắc là trung lập.113 Molotov bênh vực đề nghị của Gromiko bằng cách biện luận rằng 4 quốc gia trung lập do phái đoàn Liên Sô đề nghị gồm có hai Á Châu và hai Âu Châu. Trong số 4 quốc gia nầy thì có 2 quốc gia có liên hệ ngoại giao với Pháp và 2 quốc gia kia có liên hệ ngoại giao với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nhờ vậy họ có thể phản ảnh những lập trường của mỗi bên. Ngoại Trưởng Anh Eden đề nghị thành viên của NNSC-ĐD phải là những quốc gia ở Á Châu và nhấn mạnh rằng Ủy Ban Liên Hợp Quân Sự của hai bên phải chịu dưới quyền của NNSC-ĐD.114 Theo tài liệu của Lầu Năm Gốc Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ thì đề nghị của ngoại trưởng Anh là những Quốc Gia Á Châu thành viên của Hiệp Hội Colombo gồm có Ấn Độ, Pakistan, Ceylon, Burma và Indonesia.115 VSTK - 3790


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

Cũng theo công điện phúc trình của Chu Ấn Lai gửi về Bắc Kinh, thì trong dư luận báo chí, phía Pháp vẫn chưa hoàn toàn đồng ý với lập trường đề nghị các quốc gia vùng Đông Nam Á vào làm thành viên của Ủy Hội Quốc Tế Trung Lập Kiểm Soát Đình Chiến ở Đông Dương.116. Bidault cũng không có một gợi ý nào về tính cách đích thật của từ Trung Lập theo như người Pháp mong muốn mà cũng chưa chịu đề nghị một quốc gia nào gọi là Trung Lập vào ủy Ban Quốc Tế Trung Lập Kiểm Soát Đình Chiến ở Đông Dương. Tình trạng lập trường lơ lững nầy của Pháp đã khiến cho ngoại trưởng Anh Eden phải nên ra ý kiến chọn 5 thành viên quốc gia trong tổ chức Colombo thay vì 4 để tránh tình trạng bế tắt khi các thành viên nầy bỏ phiếu quyết định 2 phiếu chống / 2 phiếu thuận và để tránh tình trạng thiên vị.117 - Phiên họp giới hạn thứ #11 ngày 03/06/1954

Trong phiên họp giới hạn nầy, Luật gia Ngoại Trưởng Trưởng đoàn Nguyễn Quốc Định đã nói lên một lập trường vững chắc và thuyết phục của Quốc Gia Việt Nam: Chỉ có tổ chức Liên Hiệp Quốc là có dủ khả năng, phương tiện và uy tín để đảm trách nhiệm vụ giám sát đình chiến ở Đông Dương và Ủy Ban NNSC-ĐD phải trực thuộc dưới quyền của Tổ chức Liên Hiệp Quốc. Lập trường nầy được Hoa Kỳ và Anh Quốc ủng hộ mạnh mẽ. Trưởng đoàn Quốc Gia Việt Nam bát bỏ đề nghị của Liên Sô về điểm Liên Sô bao gồm 2 quốc Gia CS Tiệp Khắc và Ba Lan vào Ủy Hội NNSC-ĐD. Chu Ấn Lai cho rằng hai quốc gia CS do Molotov đề nghị là chính đáng vì 2 quốc Gia đã thừa nhận chế độ VNDCCH để đối trọng với 2 quốc gia cùng một phe Tư Bản với Pháp. Để bát bỏ luận điệu thiếu nền tảng pháp lý nầy của họ Chu, Ngoại Trưởng Định đã đưa ra nền tảng pháp lý vững chắc và hợp pháp của Quốc Gia Việt Nam: Hiện tại cơ chế chính quyền Quốc Gia Việt Nam Thống Nhất đã được 35 quốc gia tự do trên thế giới thừa nhận, 80% quân đội Quốc Gia Việt Nam hiện đang chiến đấu trực diện với bộ đội CSVM ở Bắc Việt trong suốt 3 tuần lễ vừa qua. Sau đó Ngoại Trưởng Định xác định rõ rằng tổ chức vô tư Liên Hiệp Quốc phải được VSTK - 3791


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

trao phó nhiệm vụ vai chính trong việc giám sát đình chiên và thực thi các thuận ước tại Hội Nghị Geneva. Chu Ấn Lai không chấp nhận đề nghị của ngoại trưởng Định. Họ Lai cho rằng LHQ không có dính dáng gì tới Hội Nghị Geneva về Đông Dương và có nhiều kẻ muốn lôi kéo tổ chức LHQ dính líu vào để thực hiện mục tiêu mờ ám của họ và như thế chỉ gây khó khăn và trở ngại cho tiến trình đình chiến ở Đông Dương.118 Chủ tọa buổi họp giới hạn hôm nay là Ngoại Trưởng A.Eden đồng ý với đề nghị về vấn đề thành phần của Ủy Ban Giám Sát NNSC-ĐD cần được thảo luận một cách riêng tư.119 Nói tóm lại Hội Nghị Geneva về Đông Dương cho tới nay chưa có gì có thể gọi là tiến triển khả quan và chỉ quanh quẩn vòng co, cãi nhau qua lại về vấn đề Ủy Hội Kiểm Soát Đình Chiến Đông Dương NNSC-ĐD. Mặc dù thế, trong phiên họ giới hạn nầy người ta mới thấy rõ khả năng biện luận rất thuần lý và rất có kỹ thuật nhất là trên bình diện quốc tế công pháp của Luật gia Ngoại Trưởng Nguyễn Quốc Định cầm đầu phái đoàn Quốc Gia Việt Nam tại Hội Nghị Geneva trong giai đoạn dầu sôi lửa bổng nầy ở Việt Nam. Phạm văn Đồng nếu đem so với Nguyễn Quốc Định trên vị thế ngoại giao, về căn bản luật pháp, về bang giao quốc tế và kỹ thuật biện luận thì Phạm Văn Đồng không thể sánh ngang. - Phiên họp giới hạn thứ #12 ngày 04/06/1954

Trong phiên họp giới hạn nầy vấn đề lựa chọn thành viên Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến /NNSC-ĐD và thi hành các thỏa ước cho Đông Dương vẫn còn quanh quẩn dây dưa, các phái đoàn tố giác lẫn nhau về tính cách vô tư, quyền hạn lệ thuộc hay độc lập của các quốc gia gọi là Trung Lập đối với 09 Quốc Gia thành viên của Hội Nghị Geneva. Molotov lặp lại rằng Liên Hiệp Quốc không có dính líu gì tới Hội Nghị Geneva trong khi CHNDTQ, một quốc gia với 500 triệu dân và là một phái đoàn đông nhất trong Hội Nghị nầy nhưng lại không phải là thành viên chính thức của Liên Hiệp Quốc. Vì thế Liên Hiệp Quốc không thể nào giữ nhiệm vụ Kiểm soát đình chiến ở Đông Dương. Molotov cũng chủ trương rằng NNSC-ĐD phải áp dụng luôn cho cả 2 vương quốc Miên-Lào chứ không phải chỉ được áp dụng riêng cho quốc gia Việt Nam mà thôi120 với lý do là nếu không thực hiện cùng một lúc thì hai vương quốc nầy có thể bị lạm dụng để chuyển vận VSTK - 3792


1

2

3

4

thêm vũ khí đạn dược và tập trung thêm quân ngoại nhập tại nhiều căn cứ quân sự mới được thiết lập ở hai vương quốc nầy trong thời gian ngừng bắn ở Việt Nam, đe dọa thường xuyên tình hình ngưng bắn trên toàn Đông Dương. 121

*

VSTK - 3793


CHƯƠNG 2 (Tiếp theo)

HỘI NGHỊ GENEVA III - Hội nghị Geneva về Đông Dương Đợt II Từ 05/06/1954 đến 20/07/1954

1/- Hội Nghị Geneva về Đông Dương Đợt I bị bế tắt 1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

Kể từ đầu tháng 06/1954, tướng Paul Ély được chính phủ Pháp ở Paris cử nhiệm Tổng Cao Ủy kiêm nhiệm Tổng Tư Lệnh quân sự Pháp ở Đông Dương. Ngày 04/06/1954, cuộc thương lượng trao trả độc lập hoàn toàn cho Quốc Gia Việt kéo dài từ lâu giữa chính quyền Quốc Gia Việt Nam và chính quyền Pháp nay đã đạt tới 2 thỏa ước ở Paris: (1) Thỏa Ước thừa nhận nền Độc Lập thực sự và toàn vẹn cho Quốc Gia Việt Nam; (2) Thỏa Ước về Liên Hiệp giữa Pháp và Quốc Gia Việt Nam. Thủ tướng Bửu Lộc (mang kính đen)

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

Điều cần lưu ý là hai văn bản Thỏa Ước nầy chỉ mới có Thủ Tướng Pháp Joseph Laniel và thủ tướng Quốc Gia Việt Nam Bửu Lộc ký tên tắt ở cuối mỗi văn bản, mà cũng chưa bao giờ được chuẩn phê thực sự bởi chính phủ Pháp hay chính phủ Quốc Gia Việt Nam.122 Hậu quả là, Pháp còn được xem như vẫn còn có trách nhiệm trên mặt pháp lý về việc ký kết thi hành thỏa ước quốc tế mặc dù Quốc Gia Việt Nam được xem như là đã hoàn toàn độc lập. Quốc Trưởng Bảo Đại đã phải chua chát mà viết trong nhật ký của mình rằng đây lần thứ năm “nước Pháp công nhận Việt Nam là một Quốc Gia độc lập toàn vẹn” nhưng là lần đầu tiên “…và có chủ quyền tối thượng để hành xử những thẩm quyền được công pháp quốc tế thừa nhận” “Hai văn kiện nầy là một sự kiện lặp đi lặp lại thật lố bịch.” Bởi vì người Pháp vẫn cố tình trói buộc VSTK - 3794


1

2

3

4

5

Quốc Gia Việt Nam vào tổ chức Liên Hiệp Pháp của họ và phải để cho họ độc quyền nắm giữ về Quốc Phòng và Ngoại Giao.123 Sau buổi họp giới hạn #12, ngoại trưởng Anh quay về Luân Đôn và ngày 05/06/1954 trở đi là những phiên họp giới hạn bàn thảo về các vấn đề ngừng bắn ở Cao Ly (Korea/Triều Tiên). - Những cuộc trả giá tay đôi Pháp-Hoa

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

(a) Jean Chauvel-Wang Bingnan

Trong hai ngày 05/06 và 06/06/1954, trong lúc hội nghị Geneva về Cao Ly tiến hành thì cố vấn đặc biệt của phái đoàn Pháp tại Hội Nghị Geneva J.Chauvel và đại tá Jacques Guillermaz đã họp riêng với Tổng Bí Thư phái đoàn CHNDTQ Wang Bingnan lần lược tại tư gia của Paul Boncourt và tòa Tổng Lãnh Sự Pháp ở Geneva. Trong buổi gặp riêng ngày 05/06/1954, Pháp - Hoa cũng chỉ đưa ra hai vấn đề hiện nay đang bế tắt: (i) Vấn đề Tập kết và (ii) Vấn để kiểm soát ngưng bắn. Theo Chauvel, đối với vấn đề tập kết, thì mặc dù các đại diện chỉ huy quân đội hai bên đã gặp nhau ba, bốn kỳ họp riêng rồi nhưng phía Việt Minh chỉ nêu lên những nguyên tắc chứ không đi vào cụ thể cho một vấn đề đặc biệt nào. Về vấn đề tập kết thì phái đoàn Pháp đã đề xuất nhiều nguyên tắc nhưng cho đến nay vẫn chưa đạt được sự đồng thuận với nhau tại bàn Hội Nghị giới hạn. Lập trường của Pháp là quốc gia trung lập kiểm soát đình chiến phải vô tư không thiên vị nghiêng ngửa về một phía nào của hai bên. Pháp sẵn sàng chấp nhận các quốc gia thuộc vùng Á Châu và Phi Châu giữ vai trò kiểm soát quốc tế tại Đông Dương. Wang Bingnan (Hoàng Bình Nam) cho rằng trường họp bế tắt trên vấn đề vùng tập kết do các đại diện chỉ huy quân sự Pháp -Việt Minh bàn thảo là do lỗi của phía Pháp cố tình bắt buộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phải đầu hàng theo 5 đề nghị của thủ tướng Pháp Joseph Laniel đưa ra: a/ Rút hết bộ đội Việt Minh ra khỏi Lào và Cao Miên; b/ Lập một vùng phi quân sự chung quanh vùng đồng bằng sông Hồng; c/ Quy định những vùng tập kết nhất định cho bộ đội CSVM; d/ Rút hết bộ đội CSVM ra khỏi lãnh thổ VSTK - 3795


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

Nam Việt Nam; e/ Việt Minh phải cam kết không được nhập nội viện trợ quân sự từ nước ngoài vào Việt Nam. Mặc dù 5 đề nghị đã được Pháp rút lại nhưng cũng đã làm chậm trễ không ít cho tiến trình đàm phán giữa hai bên Việt Minh – Pháp. Còn đối với vấn ủy hội kiểm soát đình chiến thì lại có kẻ muốn gây thêm rắc rối cho nên đã đề xuất tổ chức Liên Hiệp Quốc và cho đây là một tổ chức trung lập vô tư. Nếu cho rằng các quốc gia CS là không trung lập thì các quốc gia Tư Bản cũng không khác gì. Hoa Kỳ hiện nay tự gán cho mình là vô tư Trung lập nhưng trong vấn đề nầy không thể đánh giá trên căn bản ý thức hệ của mỗi quốc gia. Theo Wang Bingnan thì tổ chức Kiểm soát cần có ba ủy ban : 1/ Ủy ban Liên hợp; 2/ Một Ủy ban Kiểm soát Trung lập; 3/ Một Ủy ban Bảo đảm Quốc tế. Có kẻ lại chủ trương rằng thỏa ước về kiểm soát không áp dụng cho 2 quốc gia Miên-Lào; nếu thế thì Hoa Kỳ có thể thiết đặt các căn cứ quân sự ở hai quốc gia đó và như vậy thì hoàn toàn không hợp lý. Ngoại Trưởng Bidault đã đưa ra những đề nghị về vấn đề kiểm soát và phái đoàn Trung Quốc sẽ đáp ứng sau khi đã được nghiên cứu. Chauvel lưu ý Wang Bingnan rằng Hoa Kỳ không tin tưởng Hội Nghị Geneva về Đông Dương nhưng Hoa Kỳ và 3 quốc Gia Đông Dương lại là những đồng minh của Pháp và phái đoàn Pháp chỉ có thể chấp nhận những giải pháp mà đồng minh của Pháp cũng chịu chấp nhận. Wang Bingnan đáp ứng rằng Pháp là một trong những vận động viên chủ chốt trong khi giải quyết vấn đề Đông Dương. Tái lập hòa bình có lợi cho Pháp nới rộng hay Quốc tế hóa chiến tranh bất lợi cho Pháp. Trung quốc không ích kỹ trong tiến trình xây dựng Hòa Bình ở Đông Dương, mong muốn chấm dứt đỗ máu, tạo dựng mối thân hữu và bình thường hóa giữa Việt-Pháp. Trung Hoa muốn làm tăng uy thế cho Pháp chứ không muốn Pháp bị giảm uy thế trên bình diện quốc tế. Chauvel cũng lưu ý họ Wang rằng đề nghị của ngoại trưởng Liên Sô Molotov chỉ làm cho Ủy Ban Kiểm soát đình chiến trở thành bất lực. Molotov và Bidault sẽ gặp nhau vào ngày mai để thảo luận về đề nghị nầy của Molotov. Ngoại Trưởng G. Bidault sẽ lại gặp riêng Ngoại Trưởng Chu Ấn Lai vào đêm 07/06/1954 VSTK - 3796


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

và Bidault có lẽ sẽ bàn luận bất cứ vấn đề nào mà họ Chu nêu lên.123bis (b) G.Bidault - Chu Ấn Lai đêm 07/06/1954

Trong buổi tối gặp nhau nầy, Bidault chú tâm đến vấn đề giám sát đình chiến và tỏ ý rằng mẫu mực kiểm soát đình chiến ở Cao Ly không thể áp dụng ở Đông Dương và hai quốc gia CS Ba Lan, Tiệp Khắc cũng không thể có mặt trong ủy hội kiểm soát đình chiến ở Đông Dương nhưng Bidault không đề cặp tới một quốc gia trung lập nào để phía Trung Quốc có thể nhận định và cứ xét. Bidault cũng tỏ ý yêu cầu Trung Quốc đừng thúc ép chiến cuộc thêm hơn trong khi đang tiến hành thương thảo tại Hội Nghị Geneva. Bidault cũng không đồng ý trộn lẫn hai vấn đề quân sự và chính trị để giải quyết cùng một lúc. Bidault tỏ ý muốn rằng sẽ trình bày trước quốc hội Pháp về cuộc gặp mặt riêng với Chu Ấn Lai nhưng lại e ngại như thế sẽ khiến cho Hoa Kỳ bất mãn.124 - Cuộc họp mật riêng của 3 phe CS Trung Quốc, Liên Sô và Việt Minh ngày 07/06/1954

Trong một công điện tối mật gửi về Bắc Kinh đề ngày 07/06/1954, Chu Ấn Lai báo cáo rằng ngày hôm qua 06/06/1954, trong một buổi họp giữa 3 phía Việt Minh, Trung Quốc và Liên Sô đã cùng nhau quyết nghị 12 điều khoản về vấn đề Ủy Ban Liên Hợp quân sự, Ủy Ban Giám Sát ngừng bắn, vấn đề Bảo Đảm quốc tế và dự định sẽ đề xuất những điều khoản nầy trong phiên họp toàn thể và công khai trong ngày 08/06/1954 sắp tới. Bản báo cáo cũng viết rằng trong phiên họp toàn thể nầy Trung Quốc sẽ nhắc lại 6 nguyên tắc nền tảng về vấn đề quân sự của họ Chu đã đề xuất trong phiên họp giới hạn thứ #7 ngày 27/05/1954 đã qua để vạch ra những điểm sai lầm của đối phương và phê phán Hoa Kỳ đã làm chậm trễ sự tiến triển của Hội Nghị Geneva. Phạm Văn Đông sẽ rao truyền lập trường và những kế hoạch của Trung Quốc về vấn đề chính trị.125 - Phiên họp toàn thể về Đông Dương ngày 08/06/1954 Phiên họp toàn thể bắt đầu kể từ 3 giờ 3 phút chiều ngày 08/06/1954 và và bắt đầu tố cáo nhau những điều không liên quan trực tiếp gì đến vấn đề kiểm soát ngừng bắn và bảo đảm VSTK - 3797


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

việc thi hành thỏa ước ngừng bắn. Đặc biệt trong phiên họp nầy, sau giờ tạm nghỉ, trưởng đoàn CS Liên Sô Molotov bổng nhiên đả kích dữ dội nhắm vào chính quyền Pháp, Hoa Kỳ và 3 Quốc Gia Đông Dương. Khởi đầu, Molotov phê phán rằng có một vài phía không ngay thẳng, chính trực bất cần trong việc tái lập hòa bình cho Đông Dương rồi nhắm thẳng kết tội phía Hoa Kỳ dự mưu cấu kết với nhiều thế lực thực dân thuộc địa để thiết đặt liên minh quân sự ở Đông Nam Á, họp bàn quân sự ở Hoa Thịnh Đốn, thúc hối Thái Lan kêu gọi Liên Hiệp Quốc can thiệp nhưng chính là để Hoa Kỳ can thiệp. Đối với Quốc Gia thì Molotov cho rằng CSVM đã chiếm được 3/4 lãnh thổ và chế nhạo rằng không có một quốc gia nào ở Đông Dương đã được độc lập, vì thế không được các thế lực khác ở Á Châu công nhận và chính quyền của Bảo Đại không được lòng dân chúng Việt Nam, các cơ quan công quyền của Quốc Gia Việt Nam ở nông thôn được tuyển cử không đúng cách thức. Trưởng đoàn Việt Minh Phạm Văn Đồng

cũng phụ họa phê phán lập trường của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam về điều kiện sáp nhập bộ đội CSVM vào quân đội Quốc Gia Việt Nam và Tổng Tuyển cử dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc để thành lập chính quyền thống nhất dưới sự lãnh đạo của Quốc Trưởng Bảo Đại. Phiên họp tạm ngưng vào lúc 7 giờ 50 chiều.126

- Phiên họp toàn thể về Đông Dương ngày 09/06/1954 Trưởng đoàn Quốc Gia Việt Nam Ngoại Trưởng Nguyễn Quốc Định khai mạc buổi họp bằng cách phê phán một cách chững chạc nhưng rất mỉa mai về những lời phát biểu có tính các vu khống của Molotov đối với chính quyền Quốc Gia Việt Nam do Quốc Trưởng Bảo Đạo lãnh đạo. Sau khi tuyên bố không cần phải đáp trả những luận điệu mạ lỵ của trưởng đoàn CSVM Phạm Văm Đồng, Ngoại Trưởng Nguyễn Quốc Định lễ độ cám ơn ngoại trưởng CS Liên Sô Molotov đã khổ công lưu tâm tới nền độc lập của quốc gia Việt Nam cũng như Liên Sô đã từng khổ tâm đến việc giải phóng các quốc gia nhược tiểu ở Đông Âu khỏi ách thống trị của chế độ Tư Bản kể từ sau Hội Nghị Yalta. Ngoại trưởng Định khuyến cáo Molotov không được hạ thấp giá trị quân đội Quốc Gia Việt Nam hiện đang chiến đấu cho quê VSTK - 3798


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

hương tổ quốc Việt Nam mặc dù họ chưa có đủ thời gian để trở thành một quân đội được tổ chức một cách đầy đủ và hoàn bị. Phái đoàn Quốc Gia Việt Nam cực lực bác bỏ đề nghị chia cắt lãnh thổ dưới nhiều hình thức ám muội do Việt Minh đề xuất. Phái đoàn Quốc Gia Việt Nam chấp nhận đề nghị trao cho tổ chức Liên Hiệp Quốc nhiệm vụ kiểm soát việc ngừng bắn, việc thì hành thỏa ước hòa bình và việc tổng tuyển cử ở Đông Dương. Ngoại Trưởng Định dứt khoác không chấp nhận đề xuất của phái đoàn CS Liên Sô chọn bốn quốc gia India, Pakistan, Czechoslovakia, Poland làm thành viên của Ủy Ban Kiểm Soát Đình Chiến ở Việt Nam với lý do là bốn Quốc Gia nầy chưa biết gì về nước Việt Nam. Ủy Ban Liên Hợp Quân Sự theo kiểu cách năm 1946 của Việt Minh cũng sẽ bị bế tắt như thế.127 Chu Ấn Lai trong phiên họp nầy cũng tố cáo Hoa Kỳ với những lời lẽ giống như Molotov và còn kết luận rằng những thỏa ước giữa 2 chính phủ Pháp-Quốc Gia Việt Nam vừa mới thực hiện chẳng những không đáp ứng được ý nguyện độc lập thực sự của nhân dân Việt Nam mà còn gây chậm trễ cho tiến trình tái lập hòa bình ở đó.128

- Phiên họp toàn thể về Đông Dương ngày 10/06/1954 Trong phiên họp nầy, Phạm Văn Đồng đã đọc lên một đợt dài công kích độc đoán, không ôn hòa, ngoài lề đối với 2 vương quốc Miên-Lào, với chính quyền của Bảo Đại, với “thực dân” Pháp và “đế quốc” theo cùng một giọng điệu của khối Cộng Sản luôn xử dụng rồi đi đến một tuyên bố kết luận ủng hộ đề nghị của Molotov trong phiên họp trước đây đã được Chu Ấn Lai tán thành: rằng Pháp và Việt Minh cần phải bắt đầu bàn luận riêng về các vấn đề chính trị cùng một lúc với với việc bàn thảo về quân sự vốn đang được tiến hành. Đến phiên Molotov phát biểu với giọng điệu có vẽ hòa nhả hơn để kết tội Pháp và Hoa Kỳ phải chịu trách nhiệm làm chậm trễ tiến trình tái lập hòa bình ở Đông Dương và nói rằng chỉ với chính quyền Việt Minh mới có được những cuộc tuyển cử tự do ở Việt Nam. Molotov cũng lập lại luận điệu cũ rằng 3 chính quyền Quốc Gia Đông Dương chưa có độc lập dựa trên chứng cứ chính quyền Hoa Kỳ luôn luôn thúc hối Pháp phải trao trả độc lập thực sự cho 3 quốc gia nầy. Ngoại trưởng Định đã bát bỏ lập luận của Molotov đã sai lầm cho rằng VSTK - 3799


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23 24 25 26 27 28 29 30 31 32

33

34

35

36

37

38

chỉ có dưới chế độ của chính quyền CSVM mới có được những cuộc bầu cử tự do mà không cần đến có sự giám sát của Liên Hiệp Quốc trái ngược hoàn toàn với đề nghị của phái đoàn Quốc Gia về vấn đề tuyển cử nầy và Quốc Gia Việt Nam Việt Nam do Quốc trưởng Bảo Đại lãnh đạo rất tự hào về tiến trình đã ký kết hiệp ước Pháp – Việt công nhận Chủ Quyền và Độc Lập của Quốc Gia Việt Nam.129 Cũng theo báo cáo của Chu Ấn Lai gửi về Bắc Kinh ngày 11/06/1954 về diễn tiến buổi họp toàn thể nầy thì trưởng đoàn Anh Eden đã lập lại đề nghị chọn 5 quốc Gia trong Tổ Chức Colombo làm Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế Đình Chiến Đông Dương. Eden cũng không chấp nhận đề nghị quyền phủ quyết/veto trong Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế. Eden cũng nhấn mạnh rằng cuộc xâm lăng của Việt Minh vào Miên-Lào giống như quân Đức Quốc Xã xâm lăng Tiệp Khắc trong thế chiến thứ II. Sau cùng, Eden cảnh cáo rằng nếu tất cả các phái đoàn không thể thống nhất quan điểm thì Hội Nghị Geneva về Đông Dương sẽ bị tan vỡ và phải bắt buộc tuyên bố trên toàn khắp thế giới biết sự thất bại là do trách nhiệm của tất các phái đoàn tham dự Hội Nghị Genneva.130 Nguyên văn lời cảnh cáo nầy của ngoại trưởng Anh Eden cũng được trưởng đoàn Hoa Kỳ tướng Smith báo cáo về Hoa Thịnh Đốn như sau: In respect, however, to the arrangements for supervision, and the future of Laos and Cambodia, the divergencies are at present wide and deep. Unless we can narrow them now without further delay, we shall have failed in our task. We have exhausted every expedient of procedure which we could devise to assist us in our work. We all know now what the differences are.We have no choice but to resolve them or to admit our failure. For our part, the United Kingdom delegation is still willing to attempt to resolve them, here or in restricted session, or by any other method which our colleagues may prefer. But if the positions remain as they are today, then it is our clear duty to say so [to] the world, and to admit that we have failed."131

Trong khi tại buổi họp toàn thể Geneva về Đông Dương ngày 10/06/1954 bị bế tắt thì trong ngày 10/06/1954 nầy chỉ huy quân sự Pháp - Việt Minh cũng gặp nhau một cách bí mật tại một biệt thự ngoại ô thành phố Geneva và đại tá CSVM Tạ Quang Bửu đã chỉ tay khoanh vùng Bắc Việt trên một bản đồ Đông Dương để nói rằng: “Chúng tôi phải có được một lãnh thổ, một thủ đô và VSTK - 3800


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

một hải cảng.” 132 Ý đồ chia đôi đất nước Việt Nam của CSVM đã được tỏ hiện. Sau buổi họp toàn thể về Đông Dương ngày 10/06/1954 tiếp tục bị bế tắt, các buổi họp tiếp theo tại Hội Nghị Geneva chỉ giành riêng cho việc giải quyết các vấn đề chính trị về Triều Tiên/Korea cho đến ngày buổi họp giới hạn thứ #15 ngày 17/06/1954 mà cũng chưa đạt được một thỏa thuận nào thích đáng cho nên cũng phải tạm ngưng. Hội Nghị Geneva về Đông Dương cũng như về Triều Tiên bị bế tắt có thể khiến cho các trưởng đoàn dự Hội Nghị sẽ rời Geneva trở về nước. 2/- Hội Nghị Geneva về Đông Dương Đợt II

12

2.1 Thay đổi chính phủ ở Pháp và Quốc Gia Việt Nam

13

- Cao Ủy Toàn Quyền Đông Dương Paul Ély

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

Ngoại trưởng Bidault đã trở qua Pháp để tham dự phiên họp Quốc Hội Pháp mở phiên họp khoáng đại ngày 09/06/1954 để bỏ phiếu thông qua chính sách của nội các chính phủ của thủ tướng Laniel. Mặc dù quốc Hội đã thông qua chính sách hiện tại của chính phủ với một tỷ số khít khao đối với các vấn đề Đông Dương nhưng rất nhiều dân biểu đã công kích bất lợi đối với khả năng tái lập hòa bình ở Đông Dương của nội các Laniel.133 Trở lại Geneva, Ngoại trưởng Bidault đã gửi một loạt 3 công điện quan trọng về Việt Nam cho tân Thống Đốc Cao Ủy kiêm Tổng Tư Lệnh Quân Đội Viễn Chinh Pháp ở Đông Dương Paul Ély đang đi kinh lý các chiến trường Bắc Việt trong 2 ngày 11 và 12/06/1954. Bidault yêu cầu Ély cho biết: (i) nhận định cá nhân về tình hình tổng quát ở Đông Dương vào thời điểm Ely nhậm chức Thống Đốc kiêm Tổng Tư Lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương và tình hình tập trung bộ đội CSVM chung quanh vùng đồng bằng Bắc Việt; (ii) Yêu cầu cho biết dự kiến về tiến trình gặp nhau của tướng Delteil và đại tá de Brebission với phái đoàn quân sự CSVM và lưu ý rằng cuộc gặp nầy không được để phía Việt Nam Việt Minh thỏa mãn đòi hỏi chia cắt lãnh thổ; (iii) Bidault cho biết là thái độ cứng rắn của phái đoàn CSVM tại bàn Hội Nghị Geneva gần đây khiến cho Pháp nghi ngại rằng CSVM đang chuẩn bị tiến công ở Bắc Việt. Bidault còn tỏ ý lo lắng đặc VSTK - 3801


1

2

3

4

5 6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

biệt về sự an nguy của đoàn quân viễn chinh Pháp và lưu ý Ély rằng điều nầy là chính yếu mà Ély cần phải luôn luôn quan tâm. Và Ély đã trả lời các công điện của Bidault bằng một phúc trình với phầm mở đầu một cách dứt khoác rằng “chia cắt lãnh thổ là giải pháp khôn ngoan nhất.” (Tout ce que j’entends, tout ce que je vois, tout ce que je percois, sur le plan politique comme sur le plan militaire, m’amène à la conclusion que la solution de la coupure serait la sagesse.)134

Tư tưởng tiêu cực nầy của tướng Thống Đốc Cao Ủy Đông Dương Paul Ély cũng là tư tưởng chủ bại của tướng vùng Bắc Việt Salan trái ngược với chủ trương và kế hoạch của tướng Navarre cựu Tổng Tư Lệnh Quân đội Viễn Chinh Pháp ở Đông Dương mà tướng Ély đã mang theo trở về Paris kể từ 25/05/1954 cho đến khi quay trở lại Sài Gòn vào ngày 03/06/1954 để chính thức nhậm chức Thống Đốc Cao Ủy kiêm Tổng Tư Lệnh Quân Đội Viễn Chinh Pháp ở Đông Dương. Frédéric Dupont, tân Quốc Vụ Khanh của chính phủ Pháp đặc trách giao tế với các quốc gia Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương - thay thế Marc Jacquet - đã viết trong sách Mission de La France en Asie về lập trường tiêu cực của tướng Cao Ủy Đông Dương và tư tưởng chủ bại của tướng Salan như sau: Từ lúc trở lại Đông Dương, tướng Ély đã tỏ ra có một thái độ tiêu cực về tình hình quân sự và cho thấy đương dự kiến bỏ rơi Hà Nội nhanh chóng, nghĩ rằng không còn có thể giữ được hơn nữa trong vòng hai hoặc ba tuần. Dupont lại viết thêm rằng tướng Salan vẽ ra cho đương sự thấy một khung cảnh còn đen tối hơn là sự suy định của tướng Ély; rõ ràng là Ély đã bị ảnh hưởng của Salan khi Ély gửi về cho chính phủ Pháp ở Paris để báo cáo tình hình nghiêm trọng một cách quá đáng so với thực tế.135

Trong quyển Hồi Ký L’Indochine Dans La Tourmente, tướng Ély viết rằng: “Trong các buổi hội họp, tướng Salan chưa bao giờ có những lời ăn tiếng nói khiếm nhã đối với tướng Navarre” vốn là người kế nhiệm của tướng Ély. Nhưng tướng Ély lại viết tiếp: “tướng Salan nhận định rằng tình hình nguy hiểm và khó khăn hơn, không giống như tướng Navarre đã đánh giá. Và ý kiến của tướng Salan càng được củng cố sau cuộc kinh lý của Ély và Salan ở Bắc Việt.”136 VSTK - 3802


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

Tân Thống Đốc Cao Uỷ Đông Dương sau ngày nhậm chức liền đi thăm viếng các nguyên thủ và lãnh đạo chính phủ ở hai quốc gia Miên-Lào trong 2 ngày 13 và 14/06/1954, khi trở về Sài Gòn thì được biết rằng trong nhiều ngày qua ở Paris đang có cuộc khủng hoảng nội các chính phủ Pháp rất sâu sắc và Mendès France đã được Tổng Pháp chỉ định lập tân nội các vào ngày 17/06/1954 và phải trình diện tân nội các chính phủ Pháp vào ngày 27/06 thay thế nội các của cựu thủ tướng Laniel đã bị Quốc Hội Pháp bỏ phiếu bất tín nhiệm vào ngày 12/06/1954 vì không đủ khả năng mang lại Hòa Bình ở Đông Dương. Điều nầy thúc dục tướng Ély cần phải gắp rút trở qua Paris để hội kiến và trình bày chủ trương và đường hướng của mình với thủ tướng mới của chính phủ Pháp giống như những điều mà Ély đã trình bày trong công điện ngày 11/06/1954 để đáp lại ba câu hỏi có liên hệ đến tình hình Đông Dương do ngoại trưởng Bidault Trưởng phái đoàn Pháp từ Geneva gửi sang Sài Gòn. Ngày 18/06/1954, Ély tới phi trường Orly. Ély viết: “Je rencontrai M. Mendès France et lui remis la copie du télégramme addressé à M. Bidault le 11, télégramme toujours valable et qui, pour moi, résumait la situation.” (Bản chức đã gặp Ông Mendès-France và trao cho Ông bản sao bức công điện gửi cho Ông Bidault vào ngày 11, công điện nầy luôn vẫn còn hiệu lực và đối với bản chức nó là một bản tóm lược tình hình (Đông Dương).” 137

Bản tóm lược kể trên của ÉLy có phần mở đầu một cách ngắn gọn, dứt khoác rằng: “Với những điều tai nghe, mắt thấy, với những nhận định của riêng bản chức trên bình diện chính tri và quân sự thì bản chức đi tới kết luận là chỉ có giải pháp chia cắt lãnh thổ là giải pháp khôn ngoan nhất.” (Tout ce que j’entends, tout ce que je vois, tout ce que je percois, sur le plan politique comme sur le plan militaire, m’amène à la conclusion que la solution de la coupure serait la sagesse.)138 KHẢO LUẬN

Có thể nói rằng chính là tướng Paul Ély, tân Cao ủy Thống Đốc kiêm Tổng Tư Lệnh quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương đã cấy trồng ý tưởng xé cắt nước Việt Nam vào đầu óc mù mờ, chân ướt chân ráo của Ông tân thủ tướng gốc người Do Thái của nước Pháp. Nước Việt Nam và nhân dân Việt Nam chịu hai lần đau khổ phũ phàng tột cùng - năm 1954 và năm 1973 - vì hai nhân vật chính trị sừng xỏ gốc VSTK - 3803


1

2

người Do Thái: Mendès-France và Henry Kissenger. Cả hai đều xé rào đi đêm với CSTQ để gây, chia cắt và ly hương cho dân tộc Việt Nam.

* 3

VSTK - 3804


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

- Tân Thủ Tướng Quốc Gia Việt Nam Ngô Đình Diệm Sau phiên họp giới hạn thứ #6 ngày 25/05/1954 như đã được truy cứu trước đây, thì ở Sài Gòn Ông Ngô Đình Nhu đã triệu tập Quốc Dân Đại Hội nhóm họp vào ngày 26/05/1954 để phản đối mọi dự tính chia cắt lãnh thổ Việt Nam tại bàn Hội Nhị Geneva và yêu cầu thay đổi nội các của thủ tướng Bửu Lộc139 Theo Hồi Ký Le Dragon d’Annam, tại Cannes, Q.T Bảo Đại đã triệu tập một số nhân vật Việt Nam có tiếng tâm trên trên bình diện chính trị và tôn giáo để trình bày về diễn biến và tình hình đang xảy ra ở Việt Nam cùng với những sự xếp đặt trước của người Pháp với phía CSVM nhằm chia cắt đất nước. Để Quốc Gia Việt Nam tỏ rõ có một lập trường Quốc Gia kiên định, Q.T Bảo Đại nêu ý kiến là cần thay thế thủ tướng Bửu Lộc, gợi ý mời Ông Ngô Đình Diệm thay thế thành lập nội các mới của Quốc Gia Việt Nam và được sự đồng ý của những người hiện diễn. Bửu Lộc cũng chấp nhận chủ trương nầy và đồng ý đệ đơn xin từ chức.140 Tuy nhiên theo tài liệu mật của bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thì Bửu Lộc đã tìm cách để làm thay đổi lệnh của Bảo Đại yêu cầu đương sự phải trở về Việt Nam ngay để đối phó tình hình chính trị bất ổn đang xảy ra ở Sài Gòn còn Bảo Đại thì phải ở lại Pháp để điều hành phái đoàn Quốc Gia Việt Nam tại Hội Nghị Geneva Geneva. Cũng theo tài liệu mật của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thì qua trung gian của Ông Ngô Đình Luyện, Ông Diệm hiện đang cư trú tại một dòng tu ở Bỉ được triệu mời vào ngày 14/05/1954 đến hội kiến với Q.T Bảo Đại ở Paris và Ông Diệm đả chấp nhận yêu cầu của Q.T. Bảo Đại trở về nước để ổn định tình thế với chức vụ thủ tướng chính phủ của Quốc Gia Việt Nam thay thế hoàng thân Bửu Lộc. Đồng thời Q.T. Bảo Đại cũng chỉ thị cho Đổng Lý Văn Phòng Nguyễn Đệ thông báo cho hoàng thân Bửu Lộc biết về việc cử nhiệm thủ tướng Ngô Đình Diệm.141 Trong Hồi ký Le Dragon d’Annam, thì cuộc gặp mặt Bảo Đại - Ngô Đình Diệm đã diễn ra tại Paris ngày 14/05/1954; Bảo Đại đã phải hết lời thuyết phục và sau khi được Ông Diệm nhận lời, VSTK - 3805


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

QT. Bảo Đại đã kéo tay Ông Diệm đến đứng trước một thập tự giá và nói: “Đây là Đức Chúa Trời của Ông. Ông hãy thề trước thập tự giá nầy rằng Ông sẽ gìn giữ đất nước mà Ông được giao phó. Ông sẽ bảo vệ tổ quốc nầy khỏi bị hiểm họa Cộng Sản và chống lại thực dân Pháp nếu thấy cần.” Ông Diệm ngẫm nghĩ một hồi, nhìn Q.T. Bảo Đại rồi quay mặt hướng về Thánh Giá tuyên xưng một cách thì thầm: “Tôi xin thề.”142 Ông Diệm đã được Q.T Bảo Đại giới thiệu để hội kiến với tướng Ély vừa tới Paris và gặp thủ tướng mới Mendès-France. Ông Diệm lên máy bay về Sài Gòn mang theo sắc luật số 38 của Q.T Bảo Đại bổ nhiệm Ông Diệm toàn quyền dân sự và quân sự. Ngày 26/06/1954 Thủ tướng Ngô Đình Diệm về tới phi trường Tân Sơn Nhất với một số đồng bào công giáo ra tận sân bay tiếp đón.143 - Cuộc họp riêng của 3 phe CS ngày 15/06/1954

Ngay sau khi có tin tức nội các của thủ tướng Pháp Laniel bị sụp đỗ và Mendès France thay thế thành lập nội các mới, Chu Ấn Lai đã nhanh chóng chụp lấy cơ hội để thúc đẩy tiến trình thương lượng nơi bàn Hội Nghị Geneva về Đông Dương mau đạt được kết quả. Trong buổi họp riêng ngày 15/06/1954 nầy, họ Chu ghi nhận rằng lý do khiến cho Hội Nghị bế tắt là do phái đoàn CSVM không chấp nhận có sự hiện diện của bộ đội CSVM ở Lào và Cao Miên rồi cảnh cáo rằng thái độn nầy của CSVM sẽ khiến cho Hội Nghị trở thành vô ích và cũng khiến cho CSVM mất đi dịp tốt để thực hiện một giải pháp Hòa Bình cho những vấn đề ở Việt Nam. Họ Chu đề nghị là phía CS nên chấp nhận lập trường của đối phương đề xuất rút hết quân ngoại nhập kể cả bộ đội du kích và chính quy của CSVM ra khỏi hai quốc Gia Lào và Cao Miên. Molotov tán thành đề nghị của họ Chu. Và dưới áp lực nặng nề của hai đàn anh CS Trung-Sô, Phạm Văn Đồng phải chịu tuân phục nghe theo. Sau đó, Họ Chu đã thông báo cho phía Pháp vá Anh về việc thay đổi lập trường của phe CS đối với vấn đề rút quân ngoại nhập bao gồm cả bộ đội CSVM trên hai quốc gia Miên-Lào.143bis VSTK - 3806


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

- Chu Ấn Lai và Bidault gặp riêng Vào trưa ngày 17/06/1954, chu Ấn Lai đến gặp riêng ngoại trưởng Pháp G.Bidault. Bidault cho biết rằng nói rằng sở dĩ Ông trở lại Geneva là vì muốn yêu cầu mọi người đừng chấm dứt các phiên họp Geneva về vấn đề Đông Dương một cách quá sớm. Chu Ấn lai cũng bày tỏ rằng phái đoàn Trung Hoa muốn Hội Nghị Geneva phải thu đạt được một vài thỏa thuận tối thiểu trước khi các Ngoại Trưởng rời Geneva trở về nước. Bidault cho biết trưởng đoàn Hoa Kỳ và trưởng đoàn Anh Quốc đã đồng ý ở lại Geneva cho đến tuần sau.144 Tuy nhiên, vào ngày 18/06/1954, Eden và Smith đã thông báo cho phó trưởng đoàn Pháp Chauvel rằng họ sẽ rời Geneva trở về nước vào sáng ngày 19/06/1954 nhưng theo lời yêu cầu của Chauvel họ sẽ đình hoãn chuyến đi trong vòng 24 giờ. Chauvel liền đi gặp riêng Chu Ấn Lai vào ngày 19/06/1954. Kết quả của cuộc gặp mặt nầy là Chauvel đã có được một bản văn dự thảo của Trung Hoa và Pháp mà đương sự nghĩ rằng sẽ được tất cả 9 phái đoàn tham dự Hội Nghị Geneva về Đông Dương chấp nhận và thông qua.145 Cũng vào buổi sáng 19/06, Ngoại Trưởng Eden đã đến gặp riêng Chu Ấn Lai để hội ý về vấn đề liên quan vớ hai quốc gia Miên-Lào đồng thời cũng cản báo rằng CSVM không được ồ ạt tấn công nghịch thù trong khi thương lượng đang được tiến hành . Một đại biểu khác trong phái đoàn của Anh là Harold A. Caccia cũng đi gặp riêng phó trưởng đoàn Liên Sô Gromiko. Kết quả những cuộc gặp gỡ và thảo luận riêng một cách khẩn trương nầy đã đưa tới một dự thảo thỏa thuận chung để đưa ra biểu quyết vào phiên họp giới hạn thứ #16 vào lúc 6 giờ 45 chiều cùng ngày 19/09/1954 do A. Eden chủ tọa và kéo dài cho đến 9 Giờ sáng ngày 20/06/1954.146 - Phiên họp giới hạn thứ # 16 ngày 19 /06/1954 Nghị quyết về bản văn dự thảo Pháp - Hoa do Chauvel đề xuất, sau khi mục b được sửa đổi theo đề nghị của trưởng đoàn Liên Sô Molotov, đã được phiên Họp Giới Hạn thứ #16 chấp thuận và thông qua. Sau đây là bản văn của Chauvel đề xuất VSTK - 3807


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

trong buổi họp và bản văn sau khi đã được sửa đổi theo đề nghị của Molotov để trở thành nghị quyết chung của cuộc họp giới hạn thứ #16: - Chauvel, mục b: “Họ phải cứu xét những vấn đề có liên hệ đến việc chấm dứt những hành động thù nghịch trên các lãnh thổ MiênLào, đầu tiên là với vấn đề rút lui tất cả các lực lượng vũ trang ngoại quốc . . . .” 147 - Molotov đề nghị mục b: Theo bản văn của phái đoàn Liên Sô đề xuất trước đây thì sau dòng chữ “rút lui tất cả các lực lượng vũ trang ngoại quốc” còn phải có thêm dòng chữ “và nhân sự của quân đội ngoại quốc.” 148

11

12

13

14

15

16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36

Sau đây là toàn văn nghị quyết trong buổi họp giới hạn thứ # 16 ngày 19 06/1954 theo báo cáo của tướng Smith, Trưởng phái đoàn Hoa Kỳ gửi về Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ở Hoa Thịnh Đốn:149 Chín đoàn đại biểu tiếp tục bàn xét trong phiên họp Giới Hạn về vấn đề tái lập hòa bình ở Đông Dương. Thỏa thuận đã đạt được trên văn bản như sau liên hệ đến vấn đề chấm dứt những hành động thù nghịch ở Cao Miên và Lào: Nhằm để tạo dễ dàng cho việc chấm dứt nhanh chóng ngay những hành động thù nghịch ở Đông Dương, bản văn đề nghị rằng: (a) Những đại diện tư lệnh hai phía sẽ gặp nhau ngay tại Geneva và tại hiện trường. (b) Họ sẽ cứu xét những vấn đề có liên quan việc chấm dứt thù nghịch, trên các lãnh thổ Cao Miên và Lào, khởi đầu là vấn đề có liên quan tới việc rút lui tất cả lực lượng quân sự ngoại nhập và nhân sự của quân đội ngoại nhập, cần phải chú tâm tới những sự lưu ý và những đề nghị do các đoàn dại biểu khác nhau đã được nêu ra tại Hội Nghị. (c) Họ phải phúc trình lên cho Hội Nghị càng sớm càng tốt về những kết luận và những thỏa thuận của họ. Cũng đã được thỏa thuận thêm rằng Hội Nghị sẽ tiếp tục họp phiên. Những đại diện tư lệnh ở Việt Nam, Lào và Cao Miên được yêu cầu lâm thời gửi phúc trình tổng kết của họ đến Hội Nghị trong vòng thời hạn 21 ngày. Kỳ hợp kế tiếp được ấn định là ngày 22/06.

*

VSTK - 3808


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31 32 33 34 35 36 37 38

Sau kỳ họp giới hạn Hội Nghị Geneva về Đông Dương thứ # 16 /ngày 19/06, nhiều ngoại trưởng Trưởng đoàn Hội Nghị Geneva lần lược quay trở về nước: Molotov rời Geneva trở lại Moscova ngay trong đêm 19, rồi đến Eden và Smith rời Geneva vào buổi sáng ngày 20/06 và Chu Ấn Lai sẽ trở về Bắc Kinh vào ngày 23/06. Trong khi các ngoại trưởng trưởng đoàn thuộc các cường quốc chính yếu rời Geneva thi trong vòng ba tuần sáp tới các kỳ họp giới hạn về Đông Dương vẫn sẽ được tiếp tục để thảo luận các vấn đề quân sự cho cả ba quốc gia Đông Dương. Để chuẩn bị cho việc chia cắt vùng tập kết quân quân sự, Ngoại trưởng CSTQ Chu Ấn Lai sau khi tham khảo và được sự đồng ý của Molotov và Phạm Văn Đồng thấy rằng phe CS cần có một kế hoạch cho việc chia cắt các vùng tập kết như vừa kể cho nên họ Chu đã đánh điện khẩn về Trung Ương Đảng CSTQ để yêu cầu triệu tập một buổi họp tại Nanning giữa CSTQ và Đảng Lao Động Việt Nam tức Đảng CSVM. Trong hội nghị nầy phía CSVM sẽ có mặt Chủ Tịch Hồ Chí Minh, Tổng Bí Thư Trường Chinh, Thống Lãnh Quân Đội CSVM Võ Nguyên Giáp. Phía CSTQ sẽ có mặt phó Trưởng đoàn cố vấn quân Sự cho CSVM Luo Gibo, Wei Guo Quing và Phụ Tá Ngoại Trưởng Zhang Hanfu cùng với Thủ Tướng kiêm Ngoại Trưởng CSTQ Chu Ấn Lai. Tất cả thành viên của buổi họp sẽ tới Nanning, Quangxi từ ngày 28/06 để chờ đón Thủ tướng kiêm Ngoại Trưởng Chu Ấn Lai.150 2.2 Tân thủ tướng Pháp Mendès-France - Đánh cuộc với Quốc Hội Pháp

Điều trần trước quốc hội Pháp, trong phiên họp khoán đại ngày 17/06/1954, Mendès-France tuyên bố sẽ giải quyết vấn đề Đông Dương trong vòng bốn tuần:151 Bản chức đã chú trọng cứu xét sự việc rất lâu. Bản chức đã tham khảo ý kiến với các chuyên gia quân sự và ngoại giao có khả năng nhất. Niềm tin của bản chức từ đó xác nhận rằng một sự giải quyết một cách hòa bình cho sự tranh chấp là có thể thực hiện được. Như vậy, sự ngừng bắn phải được thực hiện một cách nhanh chóng. Nội các do bản chức thành lập sẽ ấn định - cho mình và cho các đối phương của chúng ra – một thời hạn là bốn tuần lễ để đạt đến sự ngừng bắn đó. VSTK - 3809


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30

Chúng ta đang ở vào ngày 17 tháng 06. Bản chức sẽ trình diện trước quý vị vào ngày 20 tháng 07 và sẽ tường trình đến quý vị đã thu gặt được. Ví bằng không có được một giải pháp thỏa đáng vào ngày, quý vị sẽ được giải ước về những mối liên hệ của quý vị đối với bản chức và toàn thể nội các sẽ đệ đơn xin từ nhiệm lên Tổng Thống Cộng Hòa. ...... Thưa quý vị, bản chức xin tóm lược. Dự án thi hành của nội các chúng tôi gồm có ba giai đoạn: 1- Trước ngày 27/07 sẽ cố gắng đạt được một giải pháp cho vấn đề tranh chấp Của Đông Dương; 2- Vào ngay lúc đó hay sau đó nội các sẽ đệ trình một chương trình gắng bó chặt chẽ và chi tiết về việc phục hồi kinh tế và sẽ yêu cầu ban cho những quyền hạn cần thiết để thực hiện việc phục hồi nầy. 3- Sau hết, và luôn luôn phải là trước mùa họp nầy của Quốc Hội chấm dứt nội các sẽ đệ trình những đề nghị để được Quốc Hội phê chuẩn và thông qua, không kéo dài thêm thời hạn thêm, chính sách của nội các chính phủ đối với Âu Châu. Dĩ nhiên là – xin lập lại thêm một lần nữa – nếu trong tiến trình tới một giai đoạn nào mà nội các không đạt được mục tiêu nhất định thì nội các của bản chức sẽ đệ đơn từ nhiệm lên Tổng Thống Cộng Hòa. Như thế, ngày hôm nay bản chức yêu cầu có được sự tín nhiệm của Quốc Hội chấp nhận cho một thời hạn đầu tiên là bốn tuần lễ để bản chức tận lực thực hiện việc ngừng bắn ở Đông Dương. Bản chức yêu cầu quý vị có một sự đáp ứng rõ ràng. Nếu lời đáp ứng nầy là khẳng định thì nó ngụ ý rằng trong một thời gian ngắn, nhưng là thời gian rất nặn nhọc nhiều chuyện cho chủ tịch nội các, Quốc Hội sẽ không tìm cách gây thêm gánh nặng cho trách vụ của đương sự và rằng Quốc Hội sẽ không cố ý, trong một thời hán ngắn ngủi, làm xoay chuyển trọng tâm trách nhiệm của đương sự vào những cuộc thương lượng có tính cách quyết định.

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

41

42

43

44

45

- Gặp mặt riêng giữa Mendès- France và Chu Ấn Lai

(i) Chuẩn bị Trong thời gian các ngoại trưởng Anh, Hoa Kỳ, Liên Sô đã rời Geneva trở về nước thì ngày 20/06, Chu Ấn Lai tiếp xúc với Phó trưởng đoàn Pháp Jean Chauvel để yêu cầu chuyển lời rằng họ Chu muốn gặp riêng thủ tướng Pháp Mendès-France ở Geneva trong vòng 2 ngày sắp tới đồng thời họ Chu cũng dự định sẽ hối thúc Chauvel cần tiếp xúc thẳng với phái đoàn CSVM ở Geneva nếu Mendès-France không thể đến Geneva.152 Sáng ngày 22/06/1954 Jean Chauvel và Chu Ấn Lai nơi khách sạn cư trú của phái đoàn CSTQ ở Thụy Sĩ từ 11 Giờ 45 đế 12 Giờ 15. Cuộc sắp xếp gặp mặt nầy đã bị lộ ra ngoài dư luận bởi báo chí ở Pháp và nhiều nơi khác. Chauvel cho rằng đây là ngón đòn tuyên truyền xuyên tạc do Hoa Kỳ tạo ra. Do đó VSTK - 3810


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33 34 35

Chauvel đề nghị rằng cuộc gặp gỡ riêng giữa Trung Quốc và Pháp cần được công khai hóa một cách chính thức. Theo sự trình bày của Chauvel thì cuộc gặp mặt sắp tới giữa Mendès-France và Chu Ấn Lai đuợ sắp xếp như sau: - Buổi sáng 23/06/1954: Mendès-Franace tới Thụy Sĩ và thăm viếng chính phủ Thụy Sĩ vào lú 11 Giờ. - Dự tiệc tiếp tân vào lúc 12 Giờ 30. - Gặp Chu Ân Lai tại Tòa Đại Sứ Pháp ở Thụy Sĩ vào lúc 3 Giờ trưa. - Thủ tướng Mendès-France sẽ phúc trình về nội dung buổi gặp mặt với nội các chính phủ Pháp trong ngày hôm nay khi quay trở lại Paris. - Hai bên sẽ họp báo công bố cuộc gặp mặt nầy. - Chauvel cho rằng phải cố gắng không để cho dư luận khắp nơi nghĩ rằng Hội Nghị 9 Quốc Gia tại Geneva đã không còn nữa. - Chauvel còn phát biểu rằng hai phái đoàn Trung-Pháp cần tiếp tục hoạt động thật cẩn trọng và hợp tác trong thời gian 3 tuần lễ sắp tới. trong vòng bí mật; Chu Ấn Lai cho rằng điều nầy có lợi hơn cho Trung-Pháp.153 (ii) Cuộc gặp mặt Mendès France - Chu Ấn Lai Cuộc gặp mặt được tổ chức tại tòa Đại Sứ Pháp ở BerneThụy Sĩ. Trong số các tùy tùng của Chu Ấn Lai có mặt phụ tá Ngoại trưởng TQ Li Kenong, đại sứ TQ tại Thụy Sĩ Feng Xian…và thông dịch viên Dong Ningchuan. Phía Pháp có mặt đại sứ Pháp ở Thụy sĩ J.Chauvel, Luwin, đại tá Guillermaz và một thông dịch viên. Điểm đặc biệt quan trọng trong cuộc gặp mặt nầy là giải pháp chia cắt vùng tập kết quân sự ở Việt Nam. thành 2 vùng tức là cắt đôi nước Việt Nam và chính Chu Ấn Lai đề cặp tới như sau:154 - Chu Ấn Lai: Bản chức rất vui mừng khi nghe Ngài Mendès France sẽ gặp tướng Tổng Tư Lệnh các Lực Lượng Quân Đội Viễn Chinh Pháp ở Đông Dương ngay sau khi Ngài quay trở về Paris và tướng Ély VSTK - 3811


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34

sẽ mang đến những chỉ thị đặc biệt cho các đại diện quân sự Pháp tại Hội Nghị Geneva. Việc thỏa hiệp về những địa điểm tập kết quân của hai bên sẽ làm nền tảng cho những cuộc thương thảo về mặt chính trị. Bản chức đồng ý kiến với Ngài Thủ Tướng về điểm nầy. Đối với vấn đề những vùng chính yếu tập kết quân bản chức muốn Ngài Thủ Tướng cho biết xem có một cao kiến nào không. Nếu Ngài hiện giờ chưa có quyết định về vấn điểm nầy thì chúng ta không phải bàn luận ngay bây giờ. - Mendès France: . . . . . .Vấn đề xác định các vùng chính yếu tập kết quân có thể dùng làm nền tảng cho những việc thương lượng về chính trị. Về những vùng tập kết quân thì có lẽ là sắp được giải quyết. Về ý kiến đối với các vùng tập kết đặc biệt thì bản chức không thể nêu ra ngay bây giờ bởi vì bản chức chưa biết được tình hình thương thảo của các đại diện quân sự hiên nay ra sao. Hiện giờ họ đang vạch một đường ranh giới theo chiều ngang từ hướng Tây sang hướng Đông. Tuy nhiên phía Việt Nam (Việt Minh) lại muốn có một đường ranh như thế nhưng sâu xuống phía Nam hơn tình tạng thực tế. Phía đại diện chuyên gia quân của phía Pháp đã thu nhận tất cả những địa điểm đề nghị của phía Việt Nam vào ngày 25/05/1954. . . . . . . . . .. . . . . . . . - Chu Ấn Lai: Bản chức có một mong ước là trong vòng ba tuần sắp tới, Ngài Thủ Tướng có thể quay trở lại Geneva hoặc là Ngài sẽ có dịp tiếp xúc với Ông Phạm Văn Đồng Trưởng Đoàn VNDCCH. Chúng tôi nghĩ rằng việc tiếp xúc trực tiếp như thế sẽ có lợi. - Mendès-France: Đại sứ Pháp J,Chauvel đã gặp Ông Phạm Văn Đồng ngày hôm qua (22/06/1954) để cho biết rằng bản chức muốn gặp Ông ấy. Tuy nhiên địa điểm và thời gian cuộc gặp nầy chưa thể quyết định. Đó là vì còn tùy thuộc vào sự tiến triển của Hội Nghị Geneva. Bản chức đồng ý là hình thức gặp gỡ nầy rất là quan trọng. Mong rằng điều nầy có thể xảy. - Chu Ấn Lai: Bản chức sẽ hân hoan chuyển đạt việc ý kiến này của Ngài Thủ Tướng đến Ông Phạm Văn Đồng. Chúng tôi mong ước rằng VNDCCH và Pháp Quốc có thể tạo dựng được một tình hữu nghị dự trên nền tảng của Hòa Bình.

Pierre Mendès-France và Chu Ấn Lai tại Geneva Nguồn hình: Văn khố bộ Ngoại Giao CHNDTQ. CWIHP s.đ.d, số 16 (2007-2008), tài liệu số 44 , tr.54. 35

36

- Cộng Sản 3 phe họp riêng ở Geneva 26/06/1954

Theo một công điện tối mật của phó trưởng đoàn CSTQ tại VSTK - 3812


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

Theo một công điện tối mật của phó trưởng đoàn CSTQ tại Hội Nghị Geneva Li Kenong thì trong cuộc họp nầy không có sự hiện diện của Molotov và Chu Ấn Lai mà chỉ có những phụ tá của họ với Phạm Văn Đồng của CSVM. Buổi họp bắt đầu từ 5 Giờ 30 chiều ngày 26/06/1954. Mục tiêu của buổi họp là nghiên cứu dự án của CSVM đề nghị chia cắt và điều chỉnh lãnh thổ Việt Nam và Lào. Theo chủ trương của CSVM mà Phạm Văn Đồng trình bày trong buổi họp nầy thì: “quân địch” sẽ rút lui khỏi đồng bằng Bắc Việt, cảng Hải Phòng, “quân ta” từ Quảng Nam sẽ rút khỏi phía Nam và miền Nam và miền Trung. Mục tiêu tối đa mà phía “ta” đòi hỏi là đường ranh kéo dài từ Tuy Hòa-Pleiku, dọc theo quốc lộ (Đường Thuộc Địa) số 19 chạy đến biên giới Việt- Miên (tức làn ranh nằm giữa hai vĩ tuyến thứ 13 và 14). Mục tiêu đòi hỏi trung bình là đường ranh vĩ tuyến thứ 15 và tối thiểu là đường ranh vĩ tuyến thứ 16. Phạm Văn Đồng cũng tường trình rằng trong cuộc họp bàn của các đại diện quân sự của hai bên ngày hôm nay, phía Pháp đã đưa ra những nguyên tắc của chính phủ Pháp là họ tán thành việc phân chia đường ranh Việt Nam, nghĩa là họ hoàn toàn rút lui khỏi miền Bắc, đường ranh cắt Việt Nam dọc theo vĩ tuyền thứ 18 và hải cảng Hải Phòng họ chỉ được xử dụng để thực hiện chương trình rút lui khỏi miền Bắc. Đối với quốc Gia Lào, Phạm Văn Đồng biện luận rằng vấn đề cắt đất phân vùng tập kết quân phải được thực hiện liên lũy với vấn đề chính trị ở đó. Nếu chính quyền liên hiệp Lào được thành lập thì thì sẽ không điều chỉnh hay chia cắt vùng tập kết quân. Đại diện CSLS K.V Novikov phê luận rằng kế hoạch chia cắt của Phạm Văn Đồng trên vùng trên lãnh Lào chưa được chỉnh chắn và cũng không có những ý niệm rõ ràng trong kế hoạch chia cắt nầy. Novikov yêu cầu Phạm Văn Đồng nên nghiên cứu thêm và sẽ họp bàn trở lại trong một phiên họp sau vào ngày 29/06/1954. Trước khi các dại diện quân sự họp bàn về vấn đề chia cắt vùng tập kết quân ở Lào thì trước hết hai phía phải nghiên cứu và phát họa chính xác trên các bản đồ để hiểu rõ tình hình hiện tại và sau đó mới tiến tới gia đoạn bàn thảo về một giải VSTK - 3813


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

pháp. Theo đường hướng như thế phía “ta” sẽ có thể tiến hành sự hiệu chỉnh những kế hoạch đồng thời cũng có thêm thời gian chờ đợi những nghị quyết từ Hội Nghị ở Naning.155 - Hội nghị CS Trung - Việt ở Liễu Châu Hội nghị CS Trung-Việt nầy dự trù khai mạc ở Nanning vào ngày 28/06 /1954 nhưng vì Chu Ấn Lai theo lời mời khẩn thiết của thủ tướng Miến Điện cho nên phải kéo dài thêm một ngày thăm viếng tại quốc gia nầy và sẽ trở về tới Bắc Kinh vào ngày 30/06/1954 để từ đó lên đường sang Nanning.156 Tuy nhiên trong một công diện đặc biệt của Bộ Ngoại giao CSTQ từ Bắc Kinh cho biết thì Hội Nghị Nanning được di dời đến Liễu Châu và thủ tướng kiêm ngoại trưởng Chu Ấn Lai sẽ tới Liễu Châu vào lúc 12 Giờ trưa ngày 02/07/1954.157 Trong khi Hội Nghị CS Trung Việt diễn tiến từ 03/07/1954 đến 05/07/1954 tại Liễu Châu/ Quảng Tây, Chu Ấn Lai đã gửi 2 Công Điện về Bắc Kinh để báo cáo sơ lược về diễn tiến và chương trình nghị sự của Hội Nghị nầy. Hai báo cáo nầy không nói rõ chi tiết những nghị quyết đã được hai bên Trung-Việt thông qua.Tuy nhiên 2 báo cáo đó cho biết là phái đoàn CSVM từ Việt Nam sang Liễu Châu gồm có Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Luo Guibo/ Lưu Quý Ba, Xie Fang/Giả Phương và Wei Guoqing /Vi Quốc Thanh, (Cố vấn Quân sự và Đại sứ của CSTQ tại Bắc Việt) và đại sứ CSVM tại Bắc Kinh Hoàng Văn Hoan cũng có mặt tại Hội Nghị. Chu Ấn Lai trở về Bắc Kinh vào buổi trưa ngày 06/07/1954.157 bis Tại Hội Nghị Liễu Châu/Quảng Tây/Trung Quốc Chu Ấn Lai đặc biệt khuyến cáo CSVM về nguy cơ Hoa Kỳ rất có thể can dự trực tiếp và chiến trường Đông Dương và như thế sẽ tạo ra thêm rắc rối phức tạp nặng nề tình hình ở đó và làm tiêu hao những thành quả của CSVM đã đạt được. Do đó họ Chu khuyến dụ Hồ Chí Minh rằng CSVM cần phải đạt tới một thỏa hiệp với Pháp tại Hội Nghị Geneva. Hai phía đã nhất trí về những vấn đề có tính cách chiến lược cho giai đoạn họp bàn kế tiếp ở Geneva: đối với vấn đề Việt Nam, họ (phái đoàn CSVM tại Geneva) đã có khuynh hướng tạm thời chia cắt lãnh thổ dọc VSTK - 3814


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30 31 32 33 34 35 36 37 38

theo vĩ tuyến thứ 16. Tuy nhiên, vì đường Thuộc Địa số 19, một tuyến đường giao thông duy nhất nối liền lãnh thổ Lào ra biển Đông nhưng lại nằm về phía Bắc của vĩ tuyến thứ 16, cho nên họ sẽ phải sẵn sàng để chấp nhận một ít điều chỉnh cho trường hợp nầy. Đối với vấn đề Lào, họ sẽ cố gắng thiết đặt 2 tỉnh sát biên giới Trung Quốc là Sầm Nứa và Phong Sa Ly thành hai vùng tập kết cho các lực lượng bộ độ CS Pathet Lào. Ở Cao Miên, họ sẽ phải chấp nhận một giải pháp chính trị với một chính quyền không Cộng Sản ở đó.158 Sau khi tham dự Hội Nghị CS ở Liễu Châu trở về Việt Nam, vào trung tuần tháng 07/1954, Hồ Chí Minh đọc bản điều trần trước Đại Hội lần thứ 6 Chấp Hành Trung Ương Đảng Lao Động để tán thành sách lược mới trong việc giải quyết vấn đề Đông Dương với một cuộc ngừng bắn đặt trên cơ sở của một hình thức chia cắt tạm thời Việt Nam thành 2 miền để chờ ngày thống nhất đất nước qua một cuộc tổng tuyển cử sau khi các lực lượng quân đội viễn chinh Pháp rút hết ra khỏi Việt Nam. Có một điểm đặc biệt là Hồ Chí Minh đã phê phán “nhóm CSVM cánh trái/tả khuynh” chủ trương thừa thắng xóc tới, đánh đến cùng, đánh bừa mà không cần đếm xỉa gì tới nguy cơ can thiệp của của Hoa Kỳ “chỉ thấy cây rừng mà không thấy rừng, chỉ thấy Pháp rút lui mà không thấy âm mưu của chúng, chỉ thấy Pháp không thấy Mỹ; thiên về tác chiến, xem khinh ngoại giao.”159 Rõ rệt là Hồ Chí Minh đã chịu ảnh hưởng và áp lực của Chu Ấn Lai khi lập lại lời cảnh cáo của họ Chu tại Hội Nghị Liễu Châu với thái độ e sợ sự can dự của Hoa Kỳ vào chiến trường Đông Dương.160 Trong hồi ký Điện Biên Phủ - Điểm Hẹn Lịch Sử, Võ Nguyên Giáp viết về nội dung của Hội Nghị CS Trung-Việt như sau:161 Đồng chí Chu nói tình hình quốc tế hiện nay yêu cầu có hòa bình, việc phân chia ranh giới tạm thời nên châm chước một chừng nào để tranh thủ những cơ sở pháp lý cho một cuộc tổng tuyển cử hòa bình thống nhất hai miền Nam, Bắc Việt Nam trong vòng hai năm. Nếu ta có chính sách khôn khéo, tổng tuyển cử sẽ giành thắng lợi. Đồng chí Chu thấy có khả năng lập một mặt trận liên minh với Pháp để đẩy lùi sự can thiệp của Mỹ vào bán đảo Đông Dương. Cuối cùng, đồng chí nói trước đây Plêven khăng khăng đòi lấy vĩ tuyến 18 làm ranh giới tạm thời, nhưng trước sự đấu tranh kiên quyết của ta, Măngđét

39

VSTK - 3815


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

41

42

43

44

45

Phrăng và Anh, Mỹ đã đồng ý rút xuống vĩ tuyến 17. Bác và chúng tôi đều ngỡ ngàng. Phải chăm chú tìm trên bản đồ mới thấy dòng sông nhỏ Bến Hải ở phía bắc tỉnh Quảng Trị. Bác nói với so sánh lực lượng trên thực tế chiến trường hiện nay, ta đề ra vĩ tuyến 13 là hợp lý, vĩ tuyến 17 đối với ta là không thể chấp nhận, chí ít cũng phải giành được vĩ tuyến 16. Trước đây đã có tiền lệ khi Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật ở hai miền Nam, Bắc Đông Dương cũng lấy vĩ tuyến 16 làm ranh giới tạm thời. Trước lúc đoàn ta ra về, đồng chí Chu nói với Bác: - "Tôi sẽ bàn với đồng chí Môlôtốp hết sức cố gang thực hiện chỉ thị của Hồ Chủ tịch. Vì ở xa không có điều kiện trao đổi, nếu việc đấu tranh xác định ranh giới tạm thời gặp khó khăn, vạn bất đắc dĩ phải chọnvĩ tuyến 17, mong Hồ Chủ tịch chú ý vấn đề quan trọng nhất hiện nay là tranh thủ cho được hòa bình và những điều kiện để hòa bình thống nhết Việt Nam". Ngồi trên xe lửa, tôi nói với Bác: "Pháp còn gần năm mươi vạn quân, lại thêm Mỹ giúp thì rất ít có khả năng hòa bình thống nhất Việt Nam ! " . Từ cuộc họp trở về, Bác rất suy nghĩ. Bác nói trong Bộ Chính trị nếu muốn chấm dứt chiến tranh, phải chấp nhận một giới tuyến quân sự tạm thời giữa ta và địch. Các bạn Liên Xô và Trung Quốc đều ngại chiến tranh Đông Dương kéo dài, muốn ta đạt được một thỏa thuận với Pháp. So sánh lực lượng giữa ta và địch lúc này, ta đang ở thế có lợi, nhưng về mặt quân sự, với ự giúp đỡ của Mỹ, địch vẫn có nhiều khả năng không những bù đắp những tổn thất mà còn tăng cường thêm lực lượng. Ta cũng cần có một thời gian hòa bình, một khu vực hoàn chỉnh, có thủ đô, cảng biển, sân bay... để củng cố những thành quả của cách mạng và kháng chiến, xây dựng lực lượng chuẩn bị cho cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất hoàn toàn. Nhưng vĩ tuyến 17 đối với ta là khó chấp nhận. Mỹ nhất định không chịu bỏ Đông Nam á,đang chuẩn bị một chiến lược mới rất nguy hiểm. Trong trường hợp nào chúng ta cũng phải đòi đưa vàovăn bản sự cam kết tôn trọng độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Đông Dương, không có căn cứ nước ngoài... để làm cơ sở cho cuộc đấu tranh lâu dài.

IV - Hội nghị Geneva về Đông Dương giai đoạn cuối cùng (Từ 10 đến 20/07/1954)

Sau phiên họp giới hạn thứ #16 ngày 19/06/1954, đa số các trưởng đoàn chính yếu cầm đầu phái đoàn đã lần lược rời khỏi Hội Nghị Geneva nhưng các cuộc gặp riêng và các buổi họp giới hạn vẫn tiếp tục dưới quyền của những phó trưởng đoàn của 5 phái đoàn “cường quốc”. Tới đây có thể xem như là cuối giai đoạn II của Hội nghị Geneva, và các bên tham gia đàm phán vẫn thăm dò lẫn nhau về giải pháp và đưa ra lập trường của mình mà không đi đến một thỏa thuận thực chất nào. Cũng trong thời điểm nầy, trong khi phái đoàn CSVM vẫn giữ nguyên như cũ thì phái đoàn của Quốc Gia Việt Nam bắt đầu có sự thay ngôi đổi chủ. Mặc dù nội các của thủ tướng chỉ định Ngô Đình Diệm chưa được chính thức thành lập ở Việt Nam nhưng Ông Diệm đã VSTK - 3816


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

nhanh chóng cắt cử Ông Trần Văn Đỗ làm Ngoại Trưởng trưởng đoàn Quốc Gia Việt Nam tại Hội Nghị Geneva để thay thế cựu Ngoại trưởng Nguyễn Quốc Định. Theo một Công Điện tối mật từ Geneva gửi về Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ở Hoa Thịnh Đốn thì chiều ngày 07/07/1954 Trần văn Đỗ mời Bonsai và Dwan trong phái đoàn Hoa Kỳ tại Hội Nghị Geneva dự buổi ăn khoản đãi. Trong buổi ăn nầy còn có Ngô Đình Luyện cùng với thành viên mới của phái đoàn QGVN Nguyễn Hữu Châu, thành viên cũ của phái đoàn Nguyễn Đắc Khê, và tùy viên quân sự tòa đại sứ Quốc Gia Việt Nam tại Hoa Thịnh Đốn Lê Quang Triều. Trong buổi gặp nầy, Ngô Đình Luyện giữ vai trò phát ngôn nhân cho phái đoàn Quốc Gia Việt Nam để tố giác với phía Hoa Kỳ nhiều điều Pháp đã đơn phương hành động và quyết đoán trong giai đoạn thương lượng tại Hội Nghị Geneva trước đây, như là không cần tham khảo hay hội ý với phái đoàn Quốc Gia Việt Nam mà cũng không cho biết trước chủ trương rút quân Pháp-Việt và bỏ rơi vùng Đồng bằng Bắc Việt cho CSVM, rằng Pháp vẫn còn tham vọng làm tái sinh nước “Cộng Hòa Nam Kỳ” để họ có thể ở lại khai thác một miền giàu có trù phú ở miền Nam Việt Nam và bỏ rơi miến Bắc cho CSVM; Pháp vẫn còn ngoan cố dây dưa chưa chịu ký chuẩn nhận Hiệp Định Pháp-Việt công nhận Độc Lập và chủ quyền toàn vẹn cho Quốc Gia Việt Nam. Nguyễn Đắc Khê chỉ trích Pháp muốn bỏ rơi hai vùng giáo khu chiến đấu chống CSVM ở Bắc Việt và đề nghị Hoa Kỳ cần tiếp tục giữ mối liên hệ với hai giáo khu chiến đấu nầy và Hoa Kỳ cần tiếp tục thả dù súng óng, đạn dược, quân nhu, quân dụng để ám trợ cho họ. Nguyễn Đắc Khê còn nói thông tấn xã AP của Hoa Kỳ tố giác rằng chính là phe CS Việt Minh tại bàn Hội Nghị Geneva đã xướng xuất việt chia cắt Việt Nam ra làm hai từ vĩ tuyến thứ 16. Nguyễn Hữu Châu phát biểu rằng bộ đội CSVM không tấn công vào những vị trí quân sự do một mình Quân Đội Quốc Gia Việt Nam trú đóng ở Nam Việt. Tuy nhiên, phía Hoa Kỳ tham dự buổi tiệc do Trần Văn Đổ chiêu đãi đã có những phê phán không thân thiện gửi về Hoa Thịnh Đốn như sau: “Hiệu quả đại thể của cuộc nói chuyện là sự thất VSTK - 3817


1

2

3 4 5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

vọng. Chẳng có người nào phía Việt Nam gây được ấn tượng về khả năng để đảm nhiệm trách vụ lãnh đạo hoặc là để nhận thức hay để thi hành những công việc khó khăn.” (General effect of conversation was depressing. None of Vietnamese give impression of ability to exercise leadership or to conceive of or to carry out practical enterprises.)162

Trong một bức Công Điện gửi đi từ tòa Đại sứ Hòa Kỳ ở Sài Gòn, nơi phần ghi chú số # 1 viết về cá nhân ngoại trưởng mới của Quốc Gia Việt Nam là “thuộc tầng lớp cấp trí thức có khuynh hướng trung lập, tiền hậu bất nhất, mâu thuẫn, nói nhiều hơn là thành động. . .,là bạn thân rất lâu và chia xẻ cùng quan điểm với Ngô Đình Luyện.”163 Khi trở về Bắc Kinh, trước Đại Hội mở rộng của Cục Chính Trị Trung Ương đảng CSTQ vào ngày 07/07/1954 Chu Ấn Lai phúc trình về diễn tiến tại Hội Nghị Geneva cùng với và kết quả tại Hội Nghị CS Hoa-Việt ở Liễu Châu. Họ Chu báo cáo rằng phái đoàn CSTQ chủ trương một chính sách song hành liên hợp với Pháp, Anh, các quốc gia Đông Nam Á và 3 quốc Gia Đông Dương tức là kết hợp các lực lượng quốc tế nếu có thể kết hợp được nhằm mục tiêu cô lập hóa Hoa Kỳ, bao hàm và phá vỡ âm mưu bành trướng chế độ đế quốc bá chủ của Hoa Kỳ trên thế giới, Trọng tâm của kế sách Chu Ấn Lai đặt trên nền tảng thực hiện một cuộc dàn xếp hòa bình các vấn đề rắc rối ở Đông Dương. Họ Chu thẩm định rằng diễn tiến thương thảo tại bàn Hội Nghị Geneva cho đến nay có thể mang đến một dự dàn xếp. Chủ tịch đảng CSTQ Mao Trạch Đông hoan hô và chấp nhận những báo cáo của họ Chu.164 Trong giai đoạn nầy có thể nói rằng tình hình giằng co, kéo lên kéo xuống đường ranh chia cắt Việt Nam trong phạm vi vùng đất nằm giữa hai vĩ tuyến thứ 13 và thứ 18 và những vấn đề về áp dụng để cho một thỏa thuận có thể đạt được là những chủ đề đã hoàn toàn chiếm mất hết thời gian thảo luận giữa CSVM và Pháp mà không đạt được một kết quả cụ thể nào cho đến ngày thủ tướng mới của Pháp Mendès-France quay trở qua Geneva. Tình trạng không tiến triển tại bàn Hội Nghị Geneva và ở Đông Dương cũng khiến cho CSLS lo ngại tìm cách hối thúc các VSTK - 3818


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

trưởng đoàn chính yếu cần sớm quay trở lại Geneva. Ngoại trưởng Anh Eden đáp ứng là sẽ trở qua Geneva nhưng không cho biết lúc nào; Chu Ấn lai dự trù sẽ trở lại bàn hội nghị trong khoản thời gian hai ngày 12, 13/07/1954. Molotov trở lại Geneva vào ngày 08/07/1954, sớm hơn những người khác.164bis - Chuẩn bị cho cuộc hội kiến Mendès France-Molotov Đại sứ Pháp tại Thụy Sĩ kiêm phụ tá trưởng đoàn Pháp tại hội nghị Geneva Jean Chauvel đã đến gặp riêng Trưởng đoàn CSLS/Ngoại trưởng Molotov để chuyển đạt đề nghị của Mendès-France muốn gặp riêng với Molotov ở Geneva. Thời gian gặp mặt được ấn định. Trong dịp nầy, Molotov, với sự hiện diện của phó trưởng đoàn Liên Sô Kousnetzoff, đã yêu cầu Chauvel phát biểu ý kiến cho biết các tình hình công tác đã qua của phái đoàn Pháp tại bàn hội nghị Geneva trong khi các trưởng đoàn chính yếu của hầu hết các phái đoàn vắng mặt. Sau khi trình bày các tình huống bế tắt kéo dài cho đến hiện tại, Chauvel nhận định rằng cá nhân đương sự rất đỗi ngạc nhiên mà thấy rằng không có sự nhất quán thống nhất giữa hai phái đoàn Chính trị và chuyên viên quân sự của CSVM tại Hội Nghị Geneva: Trong khi Phạm Văn Đồng gây cảm tưởng như là sắp đạt được một thỏa thuận thì phía đại diện quân sự của CSVM lại tỏ ra thiếu hiểu biết không muốn hợp tác. Nhận định nầy gây cho Molotov ngạc nhiên và chưa tin. Chauvel nêu lên trường hợp điển hình về việc CSVM đòi hỏi qua đáng và xuẩn động về thời hạn rút quân Pháp khỏi Bắc Việt. Sau buổi gặp mặt nầy, hai phái đoàn quân sự Pháp và Liên Sô đã gặp nhau bàn luận trên bản đồ.165 - Phái đoàn Quân sự Pháp-Liên Sô gặp riêng 10/07/1954 Trong buổi họp riêng nầy, đại tá Brébisson của phái đoàn Pháp đã thông báo tình trạng bế tắt về đàm phán quân sự giữa Pháp-Việt Minh cho hai chuyên gia quân sự của phái đoàn Liên Sô Fedenko và Tzygichko. Ba vấn đề bế tắt là: (i) đường ranh chia cắt vùng tập kết, (ii) vấn đề tập kết quân ở Lào, (iii) vấn đề rút quân viễn chinh Pháp và quân đội Quốc Gia Việt Nam khỏi vùng đồng bằng Bắc Việt. VSTK - 3819


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

Vấn đề lựa chọn đường ranh chia cắt gặp khó khăn dàn xếp vì VM cứ cố chấp đòi hỏi hai vĩ tuyến thứ 13 và 14 mà không cần đến sự bàn bạc nào về đề nghị vĩ tuyến thứ 18 của Pháp. Về vấn đề quân sự ở Lào thì Pháp chỉ muốn quốc gia Lào có được đường thuộc địa số 9 để có thể thông ra biển Đông và con đường nầy cần phải do Pháp kiểm soát. Bờ biển và bến cảng Đà Nẵng thì cũng không không quan trọng nhiều đối với Pháp mà Pháp cũng không có dự định thiết đặt một sân bay ở Đà Nẵng. Brébisson gợi ý rằng có thể tìm thấy nhiều vùng địa hình hẹp ở Việt Nam để thiết đặt đường ranh chia cắt chứ không nhất thiết phải là đường vĩ tuyến thứ 18 như Pháp đã xướng nghị. Để nhấn mạnh tính cách không thiên lệch về yêu cầu của phía Pháp, đại tá Brébisson đã viện dẫn quyền lợi của chính quyền Quốc Gia Việt Nam do quốc trưởng Bảo Đại lãnh đạo đối với hải cảng và sân bay Đà Nẵng cùng với hoàng thành cố đô Huế. Đương sự còm xa gần cảnh báo rằng hiện có nhiều quốc gia thứ ba - ám chỉ Hoa Kỳ- đang dòm ngó vùng lãnh thổ miền Trung nầy của Việt Nam. Nội dung của cuộc gặp gỡ nầy đã được báo trình đến ngoại trưởng CSLS Molotov để làm tài liệu tham khảo cho cuộc gặp gỡ Mendès France-Molotov cùng vào buổi tối ngày hôm nay.165 bis - Hội kiến Mendès France-Molotov ở Geneva 10/07/1954

Trong buổi gặp mặt từ 9 Giờ 30 tối 10/07/1954 nầy Molotov muốn rằng các thành viên cấp ngoại trưởng cần gặp nhau tại Geneva và Mendès France đáp ứng là hai chủ tọa Hội Nghị Geneva có thể ấn định ngày gặp nhau nầy kể từ ngày mai. Tuy nhiên theo nhận định của Mendès France với sự thừa nhận của Molotov thì những phiên họp khoán đại với sự hiện diện các cấp ngoại trưởng như thế không có kết quả đáng kể so với những cuộc gặp gỡ riêng giữa các thành viên tham dự Hội Nghị Geneva. Mendès France cho biết sẽ gặp riêng Phạm Văn Đồng vào ngày mai 11/07/1954.

VSTK - 3820


1

2

3

4

5

6

7

8 9 10 11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

Theo cảm nghĩ của Molotov thì hội nghị có một số tiến triển nhưng lại chú trọng nhiều với hai miền Nam và Bắc Việt Nam nhiều hơn là miền Trung. Những vấn đề của 2 quốc gia Miên, Lào cũng ít được đề cặp tới. Mendès France giải thích cho Molotov rằng từ lúc đầu phía Pháp đã đề nghị đường ranh chia cắt chạy đọc ngang qua cửa ải An Nam (cửa ải Hải Vân) vì nó ngắn, và phù hợp với địa hình thiên nhiên và quá trình lịch sử hình thành lãnh thổ của nước Việt Nam. (Cửa ải nầy còn được gọi là Ải Vân nằm trên đường Cái Quan Nam –Bắc tức Quốc lộ số 1 ngà1y nay trên một độ cao 900 bộ, phía Nam Hà Tỉnh và cách Huế 200km về hướng Bắc /La porte d'Annam, sur la Route Mandarine, en haut d'un escalier de 900 marches ( au sud de Ha Tinh, 200 km au nord de Hué)

Mendès France đưa ra lý do rằng một đường ranh song song với vĩ tuyến thứ 18 như phía Pháp đề nghị hợp lý hơn là một đường ranh nằm giữa hai vĩ tuyến thứ 13-14 như phía Việt Minh đòi hỏi bởi vì với vĩ tuyến thứ 18 làm chuẩn để chia cắt thì sẽ tránh được tình trạng một vùng địa hình lọt vào giữa 2 sự kiểm soát của hai miền Nam-Bắc. Molotov cũng đưa ra lý do tại sao phía Việt Minh đòi hỏi đường ranh cắt ngang nằm giữa vĩ tuyến thứ 13-14 bởi vì nó đáp ứng được những nhu cầu thiên nhiên và hơn nữa căn cứ vào thực trạng thì một số vùng địa phương nằm dọc theo đường ranh nầy đã được đặt dưới quyền kiểm soát của Việt Minh từ hơn 10 năm qua. Mendès France thừa nhận có những vùng địa phương ở miền Nam Việt Nam nằm dọc theo lằng ranh nằm giữa vĩ tuyến 13-14 đã từng ở dưới quyền kiểm soát của Việt Minh. Tuy nhiên Mendès France cũng phản biện rằng có nhiều vùng địa phương ở Bắc Việt cũng hiện đang dưới quyển kiểm soát của chính quyền Pháp . Molotov thắc mắc tại sao hai phía Pháp-Việt Minh lạ quá chú trọng đến đường thuộc địa số 9 nối liền 2 lãnh thổ Lào-Việt. Mendès France nói rằng đường nầy nó nằm trong lãnh vực chia cắt theo đề nghị của Pháp vì đường nầy chạy dọc theo vĩ tuyến thứ 16 và VNDCCH nếu muốn xử dụng đường nầy trong tương lai thì có thể thương lượng riêng với Pháp. Như vậy, Molotov cho rằng hai vấn đề quan trọng chưa được giải quyết lúc nầy là: (i) đường ranh chia cắt và (ii) giải pháp chính trị chưa thấy được nói tới nhiều. Mendès France nói rằng phía Pháp đang dự thảo một công bố tổng quát về vấn đề chính VSTK - 3821


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

trị mà tất cả các thành viên tham dự hội nghị có thể chấp nhận được. Mendès France trả lời với Molotov rằng đương sự sẽ gặp Phạm văn Đồng vào ngày mai (11/07).165 ter - Hội kiến Mendès France –Phạm Văn Đồng 11/07/1954

Nội dung của cuộc gặp mặt tay đôi nầy đã được phụ tá đặc biệt của Mendès France là Georges Boris kể lại trong một buổi họp riêng với Philip Bonsal cố vấn đặc biệt trong nhóm Đông Dương của phái đoàn Hoa Kỳ như sau: “Phạm văn Đồng đã đồng ý rằng thời điểm cho các cuộc tuyển cử chưa có thể ấn định ở giai đoạn nầy nhưng nó sẽ phải là kết quả của sự thương thảo giữa VNDCCH và Quốc Gia Việt Nam vào một ngày nào đó về sau. Boris cho đây là một thành quả quan trọng “ bởi lẽ chúng ta có lợi để làm cho những cuộc tuyển cử bị chậm trễ càng lâu càng tốt”. Về vấn đề đường ranh chia cắt Boris nói rằng ngày hôm nay (13/07/1954) Phạm Văn Đồng đã có một nhượng bộ chấp nhận đưa đường ranh chia cắt từ vĩ tuyến thứ 13 lên đường vĩ tuyến thứ 14 về hướng Bắc. Một sự nhượng bộ mà theo sự mô tả chi tiết của Mendès France với Ngoại trưởng (Phạm Văn Đồng) là chưa đủ và Mendès France đã lập lại tính cách quan yếu của đường vĩ tuyến thứ 18 (ở Đồng Hới)”.166 Cuộc họp mặt nầy vẫn chưa gặt hái được một kết quả nào về 2 vấn đề đường ranh chia cắt và thành phần các thành viên kiểm soát Quốc Tế cho việc ngừng bắn ở Đông Dương. Mặt khác, thái độ của phía Hoa Kỳ kể từ khi tướng Smith phó trưởng đoàn rời khỏi Geneva đã tỏ ra là không còn tin tưởng để tiếp tục đặt nhiều tâm lực vào Hội Nghị nầy nữa. Rồi có dư luận qua báo chí rằng ngoại trưởng Hoa Kỳ Dulles đang trên đường từ Hoa Thịnh Đốn sang Paris để hội kiến với thủ tướng Pháp Mendès-France cùng với ngoại trưởng Anh Eden vào ngày 13 và 14/07/1954 theo sự dàn xếp của đại sứ Hoa Kỳ Dijon và thư mời chính thức của thủ tướng Pháp mà Dulles mới nhận vào sáng ngày 12/07/1954. Chuyến du hành nầy của ngoại trưởng Mỹ có thể xem như là một hình thức bắt đầu lại mối quan tâm sâu xa mà Hoa Kỳ nhận lấy đối với những hiện tình diễn tiến ở Đông Dương và Âu Châu mà cũng cho thấy rằng Hoa Kỳ đang VSTK - 3822


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

mong muốn bảo đảm một cách nghiêm chỉnh về một hành động liên hợp phải được thực hiện như thế nào bởi Pháp, Anh và Hoa Kỳ nhằm đạt tới những mục tiêu tốt nhất mà Hoa Kỳ cần phải chia xẻ với các quốc gia tự do một cách tổng quát.167 Tin tức chuyến du hành của ngoại trưởng Hoa Kỳ sang Paris thêm vào cuộc hội kiến mới đây giữa J. Chauvel-Molotov ở Geneva và kết quả của hội nghị CS Hoa-Việt ở Liễu Châu đã tạo ra 2 hiệu quả đáng chú ý như sau: (i) Phạm Văn Đồng và các đại biểu quân sự của Việt Minh từ trước tới nay luôn luôn cố giữ lấy ý riêng đòi cho bằng đươc vĩ tuyến thứ 13 rồi nhượng bộ kéo đường ranh chia cắt ranh giới hai miền Bắc-Nam lên vĩ tuyến thứ 14 trong cuộc hội kiến với Mendès France. Rồi sáng ngày 13/07/1954 trước lúc thủ tướng Pháp lên đường rời Geneva trở về Paris để gặp Ngoại đã nâng lên ba mức độ vĩ tuyến: từ vĩ tuyến thứ 13 lên vĩ tuyến thứ 16. (ii) Sau cuộc gặp gỡ DullesMendès France-Eden ở Paris, Trưởng đoàn Hoa Kỳ tướng Smith cũng sữa soạn quay trở lại Geneva.168 Rõ ràng là CSVM đã chịu áp lực của CSTQ và CSLS để đưa ra một đề nghị thay đổi về đường ranh vĩ tuyến chia cắt Việt Nam trước khi có sự can dự không thể đo lường trước của Hoa Kỳ vào giai đoạn cuối cùng của việc thương lượng tại bàn hội nghị Geneva khi mà tất cả các trưởng đoàn chính yếu của “5 cường quốc” đã có mặt đầy đủ ở Geneva. Mặc dù thế, sự nhượng bộ của VM về đường ranh chia cắt như vừa kể vẫn chưa đáp ứng được lập trường đòi hỏi của thủ tướng Pháp.

VSTK - 3823


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

Ngày 15/07/1954, thủ tướng Pháp Pierre Mendès France lên má y bay tại phi trường de Villacouplay từ Pháp trở qua Thụy Sĩ để tham dự hội nghị thượng đỉnh về Triều Tiên và Đông Dương ở Geneva. Ra phi trường tiễn đưa có bộ trương Nội vụ François Mitterrand, và bộ trưởng Tài chánh Edgar Faure.

- Hội kiến Mendès France-Molotov ở Geneva 15/07/1954 Trong buổi họp mặt vào lúc 8 giờ 30 tối nầy, Mendès France phát biểu với Molotov rằng bế tắt lớn nhất hiện giờ tại bàn hội nghị Geneva chính là vấn đề ấn định đường ranh chia cắt nước Việt Nam. Do đó thủ tướng Pháp đề nghị một cuộc họp mặt riêng giữa 3 ngoại trưởng Anh-Pháp-Liên Sô vào ngày 16/07/1954 sau giờ ăn trưa: Anh sẽ nhận vai trò điều hợp với Hoa Kỳ, Liên Sô sẽ điều hợp với CHNDTQ và VNDCCH, Pháp sẽ điều hợp với 3 quốc gia Đông Dương. Molotov đồng ý. Kế đến thủ tướng Pháp chỉ tay lên một bản đồ nước Việt Nam để cho Molotov thấy đường ranh chia cắt Việt Nam nằm tại vị trí nào ở vĩ tuyến thứ 18. Đến cuối buổi họp mặt thì vấn đề chia cắt ranh giới cho 2 miền Việt Nam vẫn chưa thông suốt vì Mendès France vẫn giữ vững lập trường đề nghị lấy vĩ tuyến thứ 18 làm chuẩn cho việc chia cắt nhằm giữ lấy đường số 9 (từ Savanakhet di Quảng Trị) và cố đô Huế. Sau khi nghe thủ tướng Pháp nói rằng Pháp sẽ nhượng bộ trong những vấn đề khác nếu phía Việt Minh chịu nhượng bộ và đồng ý vĩ tuyến thứ 18 là ranh chia cắt Việt Nam, Molotov nói sẽ trình bày lập trường của Mendès France về vấn đề đường ranh chia cắt nầy với Phạm Văn Đồng.169 VSTK - 3824


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

- Hội kiến Chu Ấn Lai-Molotov-Phạm Văn Đồng ngày 16/07/1954 Trong buổi họp riêng nầy, Molotov đã cho Phạm Văn Đồng và Chu Ấn Lai biết rằng trong cuộc hội kiến ngày 15/07/1954, Mendès France đã đề cặp với Molotov các vấn đề chính yếu như: ấn định thời gian thực hiện tổng tuyển cử ở Việt Nam, Lào, Cao Miên, ấn định đường ranh chia cắt Việt Nam và thời hạn rút quân ngoại nhập. Sau cuộc gặp mặt nầy, Molotov có cảm nghĩ rằng Mendès France có thể đồng ý thiết định một đường ranh chia cắt tại một vị thế nào đó phía trên hướng Bắc của đường vĩ tuyến 16. 170 - Hội kiến riêng giữa Harold Garcia, phụ tá Ngoại trưởng Anh và phụ tá Ngoại trưởng TQ Zhang Wentiang ngày 18/07/1954 và 19/07/1954

Trong buổi họp nầy, Garcia cho biết là Mendès France đã gặp riêng Phạm Văn Đồng vào buổi trưa ngày 18/07/1954 để thương thảo về đường ranh chia cắt và thành phần Ủy Ban Kiểm Soát Quốc Tế Đình Chiến ở Đông Dương và vấn đề phía Pháp phải được quyền kiểm soát đường Thuộc Địa (RC) số 9 nhưng vẫn chưa đạt được thỏa thuận giữa đôi bên. Zhang đáp ứng rằng VM đề nghị đường ranh chia cắt tại vĩ tuyến thứ 16 còn Pháp thì đòi hỏi vĩ tuyến thứ 18 cho nên nếu phía Pháp có thể điều chỉnh ý muốn của họ thì mọi việc trở nên dễ dàng hơn. Trong buổi gặp mặt ngày kế tiếp19/07/1954, Zhang yêu cầu Garcia cho biết ý muốn của ngoại trưởng Anh Eden ra sao nếu đường ranh chia cắt lui xuống phía Nam vĩ tuyến thứ 18? Garcia nói rằng đường ranh nầy cần phải đáp ứng 2 điều kiện: (i) Pháp phải kiểm soát được đường số 9. (ii) Phải có một vùng khoảng cách an toàn ở hướng Bắc đường số 9 cho việc xử dụng và duy trì con đường nầy. Garcia nói rằng trong khu vực nằm giữa vĩ tuyến 18 và đường số 9 có hai con sông: một sông đỗ ra biển ở cửa Đông Hà (tức cửa Tùng) và một sông khác không rõ tên cũng đỗ ra biển (có thể là sông Gianh: chú thích riêng của VSTK). Cả hai con sông nầy đáp ứng được nhu cầu bảo vệ an toàn cho đường số 9. Zhang lại hỏi có phải Eden nói rằng nếu đường số 9 an toàn cho người Pháp thì Pháp sẽ thỏa thuận việc ấn định đường vĩ tuyến chia cắt. VSTK - 3825


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

Zang lại hỏi : có phải người Pháp nhất quyết giữ lấy đường số 9 ? Garcia trả lời nhất định là phải như thế. Zang nói rằng sẽ phúc trình quan điểm nầy của Eden lên thủ tướng Chu Ấn Lai. Cuộc gặp mặt lại vào lúc buổi tối cùng ngày 19/07/1954 Zhang cho biết VNDCCH đã nhượng bộ thêm để đề nghị rằng cần có một vùng trái trái độn rộng khoảng 10 cây số phía Bắc đường số 9. Nếu phí kia vẫn không chịu thì phía bên nầy chỉ còn có thể mua vé máy bay để trở về nước. Garcia tuyên bố thay mặt phía Pháp không chấp nhận đề nghị mới nầy và sẽ để vấn đề nầy được thương lượng tiếp theo trong cuộc gặp mặt giữa Phạm Văn Đồng và Mendès France.170 - Hội kiến Mendès France –Phạm Văn Đồng 19/07/1954

Hai bên gặp nhau vào buổi tối 19/07/1954 để thương lượng về những đề nghị đã nêu ra trong các cuộc gặp mặt giữa Zhang và Garcia. Đặc biệt, Mendès France đề nghị lấy đường giới ranh phân cách hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị làm đường chia cắt Việt Nam tức là đường vĩ tuyến thứ 17. Phạm Văn Đồng không phản ứng. Trưa ngày 20/07/1954, CSLS, CSTQ và CSVM họp riêng với nhau để lấy những quyết định dứt khoác trước thời hạn đánh cuộc của Mendès France và gửi những quyết định nầy tới Ngoại trưởng Anh Eden. Những điểm đề nghị chính yếu cũng đã được gửi báo cáo về Bắc Kinh. 171 Có thể là trong buổi họp của 3 phe CS vừa kể trên mà Phạm Văn Đồng đã bị Chu Ấn Lai và Molotov gây áp lực bắt phải nhận chịu điều kiện lấy vĩ tuyến thứ 17 mà Mendès France vừa mới đưa ra như là một tối hậu thư. Nơi trang 143 của quyển sách “Mao’s China & the Cold War”, China and the First IndoChina War, tác giả Chen Jian viết: “Họ Chu nổi bật trong giai đoạn cuối cùng ở bàn hội nghị Geneva. Mendès France đòi hỏi rằng vĩ tuyến thú 17 phải là đường ranh giới cuối cùng mà đương sự có thể nhượng bộ và nếu sự nhượng bộ nầy không được tiếp nhận thì đương sự bắt buộc phải từ nhiệm. Họ Chu quyết định làm thay đổi đòi hỏi của Cộng Sản để chấp nhận vĩ tuyến 17 thay vì vĩ tuyến 16 để VSTK - 3826


1

2

3

4

5

6

phù hợp với lập trường của thủ tướng Pháp và họ Chu khuyến dụ phía Sô Viết, đặc biệt là đối với phía Cộng Sản Việt Nam, cần phải chấp nhận sự thay đổi. Hội Nghị Geneva đã đạt được được thoả thuận về vấn đề Việt Nam vào sáng ngày 21/07/1954, trước khi thời hạn chót ấn định của Mendès France.”172 * V – Hiệp Định Đình Chiến Geneva

7

8

9

10

Sau 8 phiên họp toàn thể và 23 phiên thu hẹp, ngày 21 tháng 7 năm 1954, HiệpĐịnh Đình Chỉ Chiến sự ở Việt Nam được ký kết giữa đại diện Quân đội CS Việt Minh Tạ Quang Bửu và Henri Delteil đại diện Quân đội Liên hiệp Pháp.

Tạ Quang Bửu đại diện phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và tướng Pháp Henri Delteil, Quyền Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương đại diện phái đoàn Pháp đang ký Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam. Nguồn: (http://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BB%87p_%C4%91%E1%BB%8Bnh_Gen%C3%A8ve,_1954)

VSTK - 3827


1

2

3

4

Theo Hiệp Định đó, Việt Nam được chia làm 2 vùng tập trung; ranh giới là vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải). Một khu phi quân sự, rộng không quá 5 cây số dài theo hai bên bờ sông Bến Hải, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 14 tháng 8 năm 1954.

Cửa Tùng nằm trong thôn An Đức, xã Vĩnh Quang, huyện Vĩnh Linh thuộc tỉnh Quảng Trị. Từ Đông Hà đến bãi biển dài cỡ 30km về phía Bắc. 5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

- Đường Giới Tuyến Quân Sự Tạm Thời Tạm dịch: "Giới tuyến quân sự giữa hai vùng tập hợp kéo dài ra ngoài hải phận theo một đường thẳng góc với đường vẽ ven bờ biển. Các lực lượng quân sự Liên Hiệp Pháp sẽ phải rút ra khỏi tất cả những hòn đảo gần bờ biển ở về phía Bắc giới tuyến nầy, các lực lượng quân đội nhân dân Việt Nam cũng sẽ phải rút ra khỏi tất cả những hòn đảo gần bờ biển ở về phía Nam giới tuyến nầy.” - Khu trái độn Phi Quân sự 174

Điều 1 của Phụ Bản kèm theo Nghị Định Ngừng Bắn ở Việt Nam quy định vị trí của đường vẽ tạm thời ranh giới và vùng trái độn phi quân sự tại vĩ tuyến thứ 17 như sau:

VSTK - 3828


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

1.- Vẽ đường ranh giới quân sự tạm thời và vùng phi quân sự (theo điều 1 của Nghị Định Ngừng Bắn- dựa trên bản đồ Đông Dương tỷ lệ:1/100.000) a) Đường ranh giới quân sự tạm thời được quy định như sau theo chiều từ hướng Đông sang hướng Tây: - Cửa sông Bến Hát (Bến Hải, sông Cửa Tùng) và dòng sông đó (trong vùng núi sông nầy gọi là sông Rào Thành cho đến làng Bô-hô-su cho đến tận biên giới Lào-Việt. b) Vùng phi quân sự sẽ được quy định bởi Ủy Ban Liên Hợp Quân Sự ở Trung Giả phù hợp với những sự ấn định trong điều 1 của Hiệp Định Đình Chiến ở Việt Nam.

- Thời hạn tổng tuyển cử thống nhất hai Miền 12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

Trong văn kiện kèm theo Hiệp Định Đình Chiến ở Đông Dương gọi là Lời Tuyên Bố Sau Cùng được phổ biến trong buổi họp Toàn Thể (Thượng đĩnh) thứ 8 từ lúc 3 giờ chiều ngày 21/07 của Hội Nghị Geneva về Đông Đương, mục số 7 viết: “Hội nghị tuyên cáo rằng, đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị, thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải khiến cho nhân dân Việt nam được hưởng những quyền tự do căn bản, được bảo đảm bởi những định chế dân chủ được thành lập tiếp theo sau những cuộc tổng tuyển cử tự do qua việc bỏ phiếu kín. Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đúng mức cần thiết cho nhân dân Việt VSTK - 3829


1

2

3

4

5

6

7

8

9

Nam và để cho tất cả những điều kiện cần thiết được hội đủ để tự do bày tỏ ý nguyện của quốc gia, những cuộc tổng tuyển cử sẽ được tổ chức vào tháng 7 năm 1956 dưới sự kiểm soát của một ủy ban quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ủy Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự. Những cuộc tham khảo ý kiến sẽ được tổ chức bởi những đại diện của các viên chức có thẩm quyền của hai vùng kể từ ngày 20 tháng 7 năm 1955.175

*

VSTK - 3830


KHẢO LUẬN 1

2

3

4

5

6

I/ NHẬN ĐỊNH TỔNG QUÁT

Việc phân tích sâu rộng Hiệp Định Geneva về Đông Dương nói chung và về Việt Nam nói riêng là một việc làm tốn công mất thời giờ vô ích bởi vì nó quá tạp nhạp, chứa đựng đầy tràn mâu thuẫn và bất đồng ý kiến. Ở đây chi cần đưa ra những vấn đề chính yếu rút từ những văn kiện”thỏa thuận” tạo thành Hiệp Định đó như sau:

21

1. Hiệp Định nầy được ký kết giữa 2 đại diện Quân Sự của VNDCCH và Liên Hiệp Pháp có hiệu lực chấp hành đối với chính phủ Quốc Gia Việt Nam và đối với một Quốc Gia thứ 3 nào (Hoa Kỳ) hay không? 2. Hiệu lực của Hiệp Định sẽ như thế nào sau khi quân Pháp phải rút hết quân ra khỏi miền Nam Việt Nam và bãi bỏ chức Tổng Tư Lệnh Quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương vào năm 1956? 3. Thân cách pháp lý của Bản Tuyên Bố Cuối Cùng như thế nào? Bởi lẽ nó chỉ là tờ giấy viết chữ nhưng không có một kẻ nào đặt bút ký tên vào thì tờ giấy đó có hiệu lực trói buột bất kỳ ai hay không ngay cả nhưng kẻ đã gật đầu đồng ý với những lời lẽ được viết ra trong tờ giấy đó? Theo một nhận định được ghi trong một văn thư của Quốc Hội Anh Quốc sau khi Hội Nghị Geneva chấm dứt thì “tờ giấy có cái tên là Bản Tuyên Bố Cuối Cùng có một tính cách đúng nghĩa hay nói khác đi nó chỉ là biểu hiện của một sự phát biểu về một dự định hay một chính sách về phần của những thành viên tham dự Hội Nghị đã gật đầu tán thành nội dung của tờ giấy Tuyên Bố đó”.

22

(A.Cameron, s.đ. d., cước chú 3, tr. 287).

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

Nếu dựa trên nền tảng công pháp và án lệ quốc tế đã được thừa nhận thì rất khó để có thể hình dung được bằng cách nào để nói rằng tờ giấy Tuyên Bố Chung kia có hay không có hiệu lực pháp lý cưỡng hành nhiều hay ít đối với bất kỳ thành viên nào hiện diện trong buổi họp toàn thể Hội Nghị Geneva trong hai ngày 20 và 21/07/1954. Một điểm quan trọng cần lưu ý là tờ giấy đó chỉ một là một quái thai chung của 4 trong 5 cường quốc đầu sỏ tự phong lúc bấy giờ là Anh, Trung Quốc, Liên Sô và Pháp trong 9 phái đoàn tham dự đã tích cực tán thành nội dung của tờ giấy đó. 4. Ai là kẻ có trách nhiệm để cho thấy Hiệp Định Geneva về ngưng bắn và các điều khoản của tờ giấy Tuyên Bố Cuối Cùng được thực hiện? Có một hay nhiều Cường Quốc “tự phong” và là thành viên tham dự Hội Nghi có bổn phận đứng ra hành động để cưỡng hành những thỏa hiệp hoặc áp dụng chế tài nếu có vi phạm không tuân hành những thỏa ước đó? Và nếu thế thì phải dựa trên những quyền hạn và những phương cách nào? II/ KHÔNG CÓ TỔNG TUYỂN CỬ CHO VIỆT NAM, TẠI SAO?

A. Chuyện gì đã xảy ra trong những ngày 18, 20 và 21/07/1954 ở Hội Nghị Geneva về Đông Dương? VSTK - 3831


1

2

3

4

5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45

46

47

48

1/ Trưa ngày 18/07/1954, tân ngoại trưởng Quốc Gia Việt Nam Trần Văn Đỗ đã chuyển đạt cho tướng Smith, trưởng đoàn Hoa Kỳ tạ bàn Hội Nghị Geneva, một văn thư không chính thức được dịch ra tiếng Anh để lưu ý như sau: “Trong trường hợp mà đề nghị một cuộc ngừng bắn không cần chia cắt (của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam) bị bát bỏ và nhằm mục đích không làm chậm trễ tiến trình tìm một giải pháp hòa bình khác, phái đoàn Quốc Gia Việt Nam long trọng lưu ý các phái đoàn khác những điểm sau đây: “Thỏa ước ngừng bắn, chỉ được xem như là một hành vi có bản chất quân sự , chỉ có hiệu lực với với tư lệnh tối cao của Pháp và của Việt Minh, tuy nhiên vì chỉ được ký kết bởi hai tư lệnh và những đại diện của họ, cho nên sẽ đưa đến những hậu quả cho việc thỏa hiệp trong tương lai của Quốc Gia Việt Nam.” “Thực vậy, thỏa hiệp ngưng bắn như thế dẫn đến sự bỏ rơi lãnh thổ, dân chúng, các cơ chế công quyền phục vụ nhân dân. “Sự ủy thác quyền hạn cho Cao Ủy Pháp trên các binh đội Quốc Gia Việt Nam cho đến nay không có nghĩa là Quốc Gia Việt Nam phải cam chịu những hậu quả nghiêm trọng như thế. “(a) Về đường phân chia ranh giới: Phái đoàn Quốc Gia Việt Nam rất tiếc không thể đăng ký cho một giải pháp chia cắt, hay sự từ bỏ để cho Việt Minh nguyên cả miền Bắc, một vùng đông dân cư nhất ở Việt Nam, một sự bỏ rơi trên bình diện quân sự và chính trị khiến cho Quốc Gia Việt Nam không còn có khả năng kháng chiến chống sự bành trướng của Cộng Sản. “Quốc Gia Việt Nam không thể nào bỏ rơi dân chúng Ki Tô Giáo với ý chí bộc lộ cho thấy họ sẽ tự mình dàn xếp và sẽ dàn xếp để thoát khỏi chế độ Cộng sản. Chính vì thế mà phái đoàn Quốc Gia yêu cầu: “(b) Nhằm bảo vệ cho những người dân, mọi cách sẽ được áp dụng để người dân có thể được bảo vệ một cách hiệu quả chống trả lại sự tiêu diệt nhân thể chính trị và đạo đức của họ, và để họ có thể được thuyên chuyển đến một vùng tự do mong muốn một cách an toàn với những điều kiện có hiệu quả nhất. “Đối với quyền hạn của Quốc Gia Việt Nam xử dụng cho việc bảo vệ quốc phòng. “Sự cấm vận vũ khí mới vào Việt Nam sau khi ngừng bắn chỉ có lợi cho Việt Minh vì nếu không có sự giám sát thì trên thực tế họ sẽ không bị cấm vận để tiếp tục vũ khí từ phía bên kia vùng biên giới Hoa-Việt bao la. “Ngược lại, sự cấm vận vũ khí sẽ trói buột làm tê liệt khả năng tự bảo vệ quốc phòng của Quốc Gia Việt Nam, chỉ được dựa vào sự bảo hộ của đoàn quân viễn chinh Pháp mà chính phủ của họ tuyên bố là sẽ đưa họ trở về mẫu quốc càng sớm càng tốt. ‘Bởi các lẽ đó, Quốc Gia Việt Nam không chấp nhận để thấy mình bị cướp đoạt không phải chỉ có phần lãnh thổ sinh tồn của số dân chúng trên phần lãnh thổ đó mà ngoài ra còn bị cướp đoạt cả chủ quyền và độc lập quốc gia trong việc tổ chức quốc phòng theo một phương cách mà quốc gia Việt Nam tin tưởng phù hợp nhất cho những quyền lợi của mình.”176

2/ - Phiên họp giới hạn thứ 23 ngày 18 và 19 /07/1954 Trong phiên họp giới hạn thứ 23 vào lúc 4 giờ chiều ngày 18/07/1954 do Molotov chủ tọa, đến phiên, ngoại trưởng QGVN Trần Văn VSTK - 3832


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

Đỗ phát biểu rằng có nguồn tin cho biết rằng buổi họp giới hạn nầy sẽ duyệt xét lời tuyên bố chung cuộc của Hội Nghị Geneva. Nhằm để tranh sự hiểu lầm ngoại trưởng Đỗ cần xác định rằng phái đoàn QGVN không thể tự mình tham gia tiến trình bàn luận về Lời Tuyên Bố Chung Cuộc nầy dựa trên 2 điểm sau đây: (i) phái đoàn QGVN không đồng ý đối với các kiện áp đặt trước khi có cuộc ngừng bắn. (ii) Phái đoàn của tân nội các QGVN chưa được được trình bày trước những đề xuất của mình cho việc giải quyết vấn đề đặt nền tảng của những quy tắc hòa bình, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ. Về điểm (i), Trần Văn Đỗ nhận xét rằng bản dự thảo do phái đoàn Pháp đề xuất trong buổi họp ngày 16/07/1954 đã đề cặp đến các “Vùng” (Zones) đặc biệt trong hai khoản thứ 6 và 7. Bản dự thảo của phái đoàn Liên Sô trong ngày 15/07/1954 cũng có đề xuất giống như thế nơi hai điều khoản 8 và 10. Những bản văn vừa kể của Liên Sô và của Pháp chứng tỏ cho thấy Việt Nam sẽ phải bị chia cắt thành những vùng mà . Liên Sô gọi là Bắc và Nam. Hơn thế nữa, đã nhiều ngày nay mọi người đều đang nói về một sự “chia cắt”, và những đường “vĩ tuyến”. Phái đoàn QGVN không thể làm gì được ngoài việc cực lực phản kháng ý định chia cắt. Do đó, phái đoàn QGVN bát bỏ không chấp nhận cả hai dự thảo của Liên Sô và Pháp.

19 20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

Về điểm (ii) , phái đoàn QGVN giành quyền đưa ra một đề xuất cho cả vấn đề và lên tiếng mạnh mẽ đề xuất nầy trước một phiên họp toàn thể nhằm yêu cầu Hội Nghị tổ chức bàn luận một cách đứng đắn đề xuất của phái đoàn QGVN. Phái đoàn Việt Nam cũng cần lưu ý Hội Nghị rằng trong cả hai dự thảo đề xuất của Liên Sô và và Pháp không có đề cặp gì tới Quốc Gia Việt Nam. Vì thế, Quốc Gia Việt Nam không chấp nhận Lời Tuyên Bố mà càng dứt khoác hơn a fotiori không chấp nhận một hiệp định mà trong đó không có đếm xỉa gì tới Quốc Gia Việt Nam vốn được chính thức triệu mời tới bàn Hội Nghị nầy.177 3/ - Phiên họp toàn thể thứ 8 và sau cùng ngày 20 và 21/07/1954 Hội nghị Geneva về Đông Dương đi đến kết thúc trong hai ngày 20 và 21/07/1954 với một loạt dự thảo văn bản thỏa thuận chính yếu về vấn đề ngừng bắn ở Đông Dương và một văn bản gọi là Tuyên Bố Cuối Cùng mà trong đó có đề xuất một giải pháp chính trị đáng chú ý là thời hạn Tổng Tuyển Cử. * Những văn bản cuối cùng đã dược chấp nhận về các thỏa thuận cho vấn đề Việt Nam và Lào cho thấy rằng chúng đã được ký vào lúc 12 giờ đêm 20/07/1954. 177bis

36

37

38

Sáng ngày 21/07/1954, trước thời điểm khai mạc buổi Họp Toàn Thể thứ 8, Ngoại trưởng Đỗ đã hội kiến riêng với tướng Smith trưởng đoàn Hoa Kỳ để thông báo cho biết rằng phái đoàn QGVN sẽ tham dự Buổi Họp Toàn VSTK - 3833


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30

31

32

33

34

35

36

37

38 39 40 41 42

43

44

Thể cuối cùng để tuyên bố rằng chính phủ QGVN rất vui mừng vì một cuộc ngừng bắn đã được dàn xếp nhưng QGVN sẽ phản kháng cách thức theo đó đã được xử dụng để thương lượng và trên thực tế chính phủ QGVN đã chưa bao giờ được thông báo. Ngoại trưởng Đỗ sẽ công bố rằng chính phù QGVN không có dự định xử dụng vũ lực để phá hủy việc ngừng bắn nhưng sẻ giành quyền hành động một cách tự do trên bình diện chính trị. 178 4/ - Phiên họp Toàn thể cuối cùng vào lúc 3 giờ 10 chiều ngày 21/07/1954 dưới quyền chủ tọa của ngoại trưởng Anh Eden. Lần lượt điều trần trong buổi họp gồm có Trần Văn Đỗ, Mendès France, Eden, Tep Phan (Cao Miên), Smith, Molotov, Phạm Văn Đồng, Chu Ấn Lai và Phoui Sananikone (Lào).179 Trần Văn Đỗ trình bày rằng phái đoàn QGVN đã đưa lên bàn Hội Nghị một giải pháp ngừng bắn mà không cần phải chia cắt, bao gồm vấn đề giải giới tất cả các lực lượng quân sự, một số vùng giới hạn để tập kết, trao cho Liên Hiệp Quốc tạm thời cai quản Quốc Gia Việt Nam và việc dàn xếp sau cùng bằng những cuộc tuyển cử tự do. Trần Văn Đổ phản kháng Hội Nghị đã bỏ qua đề xuất nầy của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam mà không bàn luận cứu xét. Sự phản kháng nầy của trưởng đoàn QGVN đặt trên sự thật là vấn đề ngừng bắn ở Việt Nam chỉ có mỗi một mình tư lệnh quân đội của Pháp bàn thảo thương lượng mặc dù quyền hạn của tư lệnh nầy hành xử trên quân binh của QGVN lại là do chính Quốc Trưởng QGVN ủy nhiệm cho phép. Điểm phản kháng tiếp theo là chủ trương bỏ rơi vùng lãnh thổ hiện đang do chính quyền QGVN kiểm soát và cai quản và như vậy có nghĩa là tước đoạt chủ quyền QGVN trong việc tổ chức quốc phòng mà không cần phải bị phụ thuộc vào binh đội ngoại quốc. Điểm phản kháng sau cùng của ngoại trưởng Đỗ là sự ấn định giải pháp chính trị để kèm theo thỏa thuận ngừng bắn việc áp đặt một thời hạn cho việc Tổng Tuyển Cử (Điều 7 trong bản Tuyên Bố Chung Cuộc của Hội Nghị Geneva về Đông Dương). Do đó QGVN hoàn toàn tự do giành quyền hành động để bảo vệ thống nhất, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của mình. 180

Để đáp trả lời tố cáo của Trần Văn Đỗ, Mendès France trả lời rằng “Phái đoàn Pháp không muốn quay trở lại để tranh luận về những điểm mà ngoại trưởng Đỗ của phái đoàn Việt Nam nêu lên nhưng lại tin tưởng rằng tư lệnh quân sự Pháp đã thi hành trong phạm vi đã được ủy nhiệm.”181 Cuối cùng Trần Văn Đỗ yêu cầu bổ xung vào sau điều khỏa thứ 10* của bản văn Lời Tuyên Bố Chung Cuộc lời Tuyên bố sau đây của phái QGVN: “Hội Nghị ghi nhận tuyên bố của chính phủ Quốc Gia Việt Nam cam kết như sau: “ Để tạo dựng và yểm trợ mọi cố gắng tái lập một nền hòa bình thực sự và lâu dài ở Việt Nam; không xử dụng bạo lực để chống lại những phương cách được dùng để thi hành việc ngừng bắn một cách hiệu quả, mặc dù có những sự phản kháng và những sự hạn chế mà phái đoàn QGVN đã biểu lộ, đặc biệt là trong lời tuyên bố cuối cùng của phái đoàn.”182

Chủ tọa Buổi Họp Toàn Thể A.Eden đáp ứng một cách chung chung rằng “Lời Tuyên Bố Chung Cuộc đã được dự thảo xong rồi và đề nghị VSTK - 3834


1

2

3

4 5 6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

Hội Nghị ghi nhận lời tuyên bố của phái đoàn QGVN.” Tuy nhiên sau đó phái đoàn Quốc Gia Việt lại yêu cầu ghép thêm lời tuyên bố của phái đoàn vào bản văn của Lời Tuyên Bố Chung Cuộc của Hội Nghị thì Eden lại cũng đáp ứng cho xong chuyện rằng “ Dự thảo Lời Tuyên Bố Chung Cuộc của Hội Nghị không thể sữa đổi được nữa, nhưng Hội Nghị có thể ghi nhận lới tuyên bố của phái đoàn QGVN.”183

Ghi nhận bằng cách nào thì Eden không đề cặp tới. Cần lưu ý rằng chưa thấy có tài liệu chính thức nào cho biết là trong mỗi buổi họp tại bàn Hội Nghị Geneva có Thư Ký riêng để viết biên bản chi tiết cho tất cả những gì xảy ra trong lúc bàn luận hay không và nếu có thì những biên bản chung cho mỗi buổi họp đó bây giờ ở đâu? Khi phát biểu những lời kết thúc Hội Nghị Geneva vào ngày 21/07/1954, Chủ tọa Antony Eden có nói rằng : “Mặc dù Hội Nghị nầy không có một bộ phận nào gọi là Ban Bí Thư đúng với ý nghĩa thường lệ, hai chủ tịch các buổi họp đã phải hết sức miễn cưỡng chịu nhiều ác cảm để đảm trách phần vụ ghi chép của Ban Bí Thư nầy.” 183bis Khi chủ tọa phiên họp Anthony Eden hỏi từng phái đoàn, thì chỉ có các phái đoàn Anh, Pháp, Liên Xô, CHNDTH, VNDCCH, Lào và Cambodge (Cambodia) trả lời miệng “đồng ý. Phái đoàn Hoa Kỳ và phái đoàn QGVN không đồng ý, và tự đưa ra tuyên bố riêng của mình.184 5/ - Tuyên bố đơn phương của phái đoàn Hoa Kỳ tại phiên họp Toàn Thể cuối cùng của Hội Nghị Geneva ngày 21/07/1954 Trong bản tuyên bố nầy, khi đề cặp đến vấn đề ấn định thời hạn 2 năm cho việc tổng tuyển cử ở Việt Nam nơi điều khoản thứ 6 của bản Tuyên Bố Chung Sau Cùng của Hội Nghị Geneva tướng Smith, trưởng đoàn Hoa Kỳ tại Hội Nghị Geneva cảnh cáo rằng “Đối với những Quốc Gia, nay bị chia cắt ngược với ý nguyện của họ, Hoa Kỳ sẽ tiếp tục tìm cách thực hiện sự thống nhất xuyên qua những cuộc bầu cử tự do, dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc để bảo đảm rằng những cuộc bầu cử đó được thực hiện một cách công bằng.” Đối với lời tuyên bố đơn phương của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam tướng Smith tuyên bố rằng “Hoa Kỳ xác quyết lại vị thế truyền thống của mình là mọi người có quyền quyết định riêng cho tương lai và không cần phải liên kết chung vào với bất kỳ một sự dàn xếp nào có thể ngăn cản điều nầy. Không có điều gì trong lời tuyên báo nầy của QGVN có ẩn ý hay cho thấy là tách rời vị thế truyền thống của Hoa Kỳ.”185

38

B. Hiệu lực chấp hành của Hiệp Định và Bản Tuyên Bố Sau Cùng của Hội Nghị Geneva 1954

39

1/ - Ai Ký Hiệp Định Ngừng Bắn?

37

VSTK - 3835


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

Không ai có thể chối cãi được rằng Hiệp Định Quân Sự Ngừng Bắn ở Việt Nam là do Pháp và CSVM ký kết. Người Pháp biện luận rằng họ đã được Quốc Gia Việt Nam ủy nhiệm thay mặt ký kết Hiệp Định nầy.Trên thực tế chưa có văn bản nào ký kết riêng giữa Quốc Gia Việt Nam và Pháp để cho phép người Pháp hành động như thế mà không cần hội ý với Quốc Gia Việt Nam. Tại sao người Pháp lại hành động ngang nhiên đối một quyết định có tính cách sống còn của một Quốc Gia mà họ không phải là một chủ nhân chính thống? Bởi vì người Pháp thực dân đã xâm chiếm Việt Nam và họ vẫn luôn luôn coi đây là một lãnh thổ Pháp Quốc Hãi Ngoại của họ cho nên họ muốn làm gì thì làm không cần biết gì tới ý nguyện của những người dân- những người chủ thực sự- của Quốc Gia Việt Nam. Bản chất đế quốc thực dân thuộc địa thoái hóa của một tập đoàn người Pháp vẫn tiếp tục lưu truyền ngay cả sau khi họ bị Nhật Bổn đuổi ra khỏi Đông Dương và sau khi thua trận nhục nhã ở Điện Biên Phủ. Ngày 04/06/1954, cuộc thương lượng trao trả độc lập hoàn toàn cho Quốc Gia Việt kéo dài từ lâu giữa chính quyền Quốc Gia Việt Nam và chính quyền Pháp đưa tới 2 thỏa ước ở Paris: (1) Thỏa Ước thừa nhận nền Độc Lập thực sự và toàn vẹn cho Quốc Gia Việt Nam; (2) Thỏa Ước về Liên Hiệp giữa Pháp và Quốc Gia Việt Nam. Thủ tướng Bửu Lộc

21

(mang kính đen) 22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

Điều cần lưu ý là hai văn bản Thỏa Ước nầy chỉ mới có Thủ tướng Pháp Joseph Laniel và thủ tướng Quốc Gia Việt Nam Bửu Lộc ký tên tắt ở cuối mỗi văn bản, mà cũng chưa bao giờ được chuẩn phê thực sự bởi chính phủ Pháp hay chính phủ Quốc Gia Việt Nam. (Xem phần cước chú số 122 Cameron, Viet Nam Crisis, s.đ.d.,tr.tr.208-271.) Hậu quả là, Pháp vẫn tự cho mình vẫn còn có quyền uy và trách nhiệm trên mặt pháp lý về việc ký kết thi hành các thỏa ước thỏa ước quốc tế mặc dù Quốc Gia Việt Nam được xem như là đã hoàn toàn độc lập. Quốc Trưởng Bảo Đại đã phải chua chát mà viết trong nhật ký của mình rằng đây lần thứ năm “nước Pháp công nhận Việt Nam là một Quốc Gia độc lập toàn vẹn” nhưng là lần đầu tiên Pháp đề cặp “…và có chủ quyền tối thượng để hành xử những thẩm quyền được công pháp quốc tế thừa nhận” “Hai văn kiện nầy là một sự kiện lặp đi lặp lại thật lố bịch.” Bởi vì người Pháp vẫn cố tình trói buộc Quốc Gia Việt Nam vào tổ chức Liên Hiệp Pháp của họ và phải để cho họ độc quyền nắm giữ về Quốc Phòng và Ngoại Giao. (Xem cước chú số 123)

37 38

39

40

41

42

43

Tân thái thú Toàn Quyền Đông Dương Paul Ély vào ngày 19/07/1954 dã nói với đại sứ Hoa Kỳ Health ở Sài Gòn rằng để chận đứng không cho phép Chính Quyền Quốc Gia Việt Nam khích động dân chúng biểu tình chống đối việc ngừng bắn làm rối loạn an ninh trật tự công cộng, hoặc bất cứ hành động nào hay lời tuyên bố nào khiến gây náo loạn trong các hang các binh sĩ Việt Nam bản xứ đang thi hành nhiệm vụ trong đội binh Liên VSTK - 3836


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

Hiệp Pháp, đương sự sẽ có cách hành động để đối phó ngay cả việc xử dụng biện pháp tống giam thủ tướng Ngô Đình Diệm nếu cần.186 2/ - Ai đã gật đầu chấp nhận Lời Tuyên Bố Cuối Cùng? Theo lời phát biểu của A. Eden thì mỗi thành viên trong buổi họp khoán đại cuối cùng 21/07/1954 đều có trong tay bản dự thảo trên giấy trắng mực đen nầy và khi chủ tọa phiên họp A.Eden hỏi từng phái đoàn, thì chỉ có các phái đoàn Anh, Pháp, Liên Xô, CHNDTH, VNDCCH, Lào và Cambodge (Cambodia) trả lời miệng “đồng ý”. Đây là một Văn Bản tương đương với một thỏa thuận Quốc Tế nhưng lại rất khôi hài bởi vì đây chỉ là một tờ giấy vô giá trị không có chữ ký 187 giống như một mảnh giấy quảng cáo rao và chào hàng trong thương trường, không có hiệu lực thúc buột và đối với những kẻ gật đầu đồng ý thì cũng chỉ là những cái gật đầu vô thưởng vô phạt bởi vì họ biết rằng tờ giấy nầy không có giá trị pháp lý để trói buột họ. Vậy khi có vi phạm những điều khoản trong Bản Tuyên Bố Chung Cuộc nầy thì sao? Trước hết những kẻ vi phạm Bản Tuyên Bố Cuối Cùng không có chữ Ký nầy chỉ có thể là: Pháp, CSVM, CSTQ, CS Miên – Lào, 2 Vương Quốc QG Lào và Cao Miên. Vậy ai sẽ đúng ra tài phán những vi phạm nầy: Liên Hiệp Quốc? Anh Quốc? Liên Sô? Hay phải triệu tập lại Hội Nghị Geneva? Còn QGVN thì làm sao? Không làm sao cả, bởi lẽ người Pháp Thực Dân đã giành hết phần chủ động và chịu trách nhiệm cho Quốc Gia Việt Nam và chính quyền Quốc Gia Việt Nam lúc nầy trên thực tế vẫn còn là một chính quyền bù nhìn bất lực, vẫn phải chịu dưới quyền chi phối của thực dân Pháp hay nói khác đi cho đến khi nào người Pháp chưa rút ra hết khỏi Việt Nam thì QGVN sẽ “không được quyền có trách nhiệm gì cả” trên bình diện Bang Giao Quốc Tế và Quốc Phòng. Chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Đảng Lao Động CSVM ở miền Bắc dư biết tình trạng bù nhìn của Quốc Gia Việt Nam kể từ khi nước Việt Nam chưa bị chia cắt CHO ĐẾN SAU KHI CÓ MỚ GIẤY TẠP NHẠP của hội nghị GENEVA 20/071954. Vậy thì, vì cớ gì mà họ phải viết công hàm đề ngày 19/07/1955 yêu cầu chính quyền bù nhìn Quốc Gia Việt Nam đó ở miền Nam mở Hội Nghị Hiệp Thương188 căn cứ trên điều khoản số 7 quái dị của một tờ giây có tên là Tuyên Bố Cuối Cùng ở Hội Nghị Geneva về Đông Dương mà Phạm Văn Đồng trưởng đoàn phái đoàn CSVM chỉ biết gật đầu nghe theo không có được một lời phản kháng nào tương tựa như lời phản kháng của phái đoàn bù nhìn của Quốc Gia Việt Nam. Tại sao chính quyền VNDCCH không gửi thư yêu cầu thực dân Pháp vào lúc đó vẫn còn là nhà đương cục có thẩm quyền lấn lướt ở miền Nam để tổ chức Hội Nghị Hiệp Thương. Chắc gì thực dân Pháp sẽ để yên cho chính phủ bù nhìn QGVN và chính phủ CSVM bàn VSTK - 3837


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45

chuyện riêng tư giữa những người Việt Nam với nhau? Ngày 30/08/1954, cao Ủy Đông Dương, tướng Paul Ély tuyên bố: chính sách của Pháp ở Đông Dương không thay đổi.189 Pháp rút hết ra khỏi miền Nam và chính phủ Quốc Gia Việt Nam ở miền Nam trở thành chính phủ của Việt Nam Cộng Hòa hoàn toàn độc lập, tự do và tự chủ thì lúc nầy Việt Nam Cộng Hòa có quyền quyết định hợp tác hay không hợp tác đối với bất cứ Quốc Gia nào trên thế giới và đặc biệt là đối với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của CSVM ở miền Bắc mà không cần phải biện bạch bất cứ một lý do nào nhất là đối với lý do dựa trên tờ giấy Tuyên Bố Chung Cuộc không có ký tên của một Hội Nghị bất bình đẳng và phe phái ở Geneva về Đông Dương 1954. Sau khi đã thụ đắc được ½ nước Việt Nam từ phía Bắc vĩ tuyến thứ 17, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Đảng Lao Động Việt Nam của CSVM không muốn ngừng lại ở đó. Họ nhất quyết phải chiếm luôn phần đất Miền Nam của Việt Nam Cộng Hòa bằng mọi cách, bằng mọi lý do trong đó tuyên truyền, kêu gọi, khích động dân chúng Việt Nam ở cả 2 miền NamBắc và tố cáo chính quyền Quốc Gia VNCH ở miền Nam với dư luận trong nước và thế giới không tuân thủ thi hành Hiệp Định Geneva nhất là điều #7 của Bản Tuyên Bố Cuối Cùng không có chữ ký. Ý đồ của CSVM miền Bắc xâm chiếm Miền Nam của Việt Nam Công Hòa được biểu hiện qua Nghị quyết Hội nghị Trung ương đảng Lao Động của CSVM lần thứ tám (tháng 8 nǎm 1955) trong đó có nhiều đoạn kích động dư luận nhân dân trong nước và người nước ngoài đòi hỏi chính quyền VNCH của miền Nam phải tiến hành hiệp thương “theo ấn định của Hiệp Định Geneva 20/07/1954” : “. . . . . . “4- Để thực hiện thống nhất nước nhà, phải mở rộng và củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất, đoàn kết và lãnh đạo nhân dân toàn quốc đấu tranh kiên quyết, bền bỉ và khôn khéo, phá tan mọi âm mưu của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng, đòi đương cục miền Nam phải hiệp thương với Chính phủ ta, tiến tới thực hiện tổng tuyển cử tự do trong toàn quốc. “Đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng nhất định sẽ tìm mọi cách để ngǎn trở và phá hoại sự nghiệp thống nhất nước ta. Nhưng nếu trên cơ sở miền Bắc được củng cố, ta tập hợp được các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình trong cả nước, tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hoà bình thế giới, thì nhất định ta sẽ giành được thắng lợi. -“ở miền Bắc, cần động viên quần chúng nhân dân kết hợp cuộc đấu tranh đòi mở hội nghị hiệp thương, tiến tới thống nhất nước nhà, với mọi công tác củng cố miền Bắc, làm cho mọi người đều lấy thành tích lao động và công tác trước mắt mà ủng hộ bản cương lĩnh chung một cách tích cực. -“ở miền Nam, cần vận động quần chúng nhân dân dùng những hình thức đấu tranh thích hợp đòi thi hành đúng đắn Hiệp định Giơnevơ, đòi hiệp thương và tổng tuyển cử, đòi đảm bảo an ninh, trật tự và sinh mệnh, tài sản của nhân dân, đòi các quyền tự do dân chủ, chống khủng bố, chống báo thù những người trước đây đã tham gia kháng chiến, phản đối Mỹ lôi VSTK - 3838


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

kéo miền Nam Việt Nam vào khối liên minh quân sự của Mỹ, v.v.. Các cuộc đấu tranh đó phải theo đúng phương châm có lý, có lợi, có mức, tránh bộc lộ lực lượng. Kết hợp phong trào đấu tranh của quần chúng với những hoạt động và đấu tranh của ta ở Uỷ ban liên hợp đình chiến và Uỷ ban quốc tế. Trong quá trình đấu tranh của quần chúng ở miền Nam, dần dần phải hình thành một Mặt trận rộng rãi tập hợp mọi lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình, đòi thực hiện tổng tuyển cử tự do trong toàn quốc. “Đối với ngoài nước, cần ra sức tuyên truyền tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ tích cực của nhân dân Pháp, nhân dân và Chính phủ các nước Đông Nam á và nhân dân yêu chuộng hoà bình toàn thế giới đối với bản cương lĩnh chung của ta.” . . . .190

Tháng 7 năm 1956, sau khi yêu cầu đàm phán không được chính quyền Ngô Đình Diệm trả lời, Hà Nội yêu cầu các đồng chủ tịch hội nghị Geneva tổ chức một cuộc hội nghị mới, yêu cầu này lại được lặp lại vào tháng 8. Các yêu cầu đàm phán với chính phủ Ngô Đình Diệm tiếp tục được gửi vào tháng 6 và tháng 7 năm 1957, tháng 3 và tháng 12 năm 1958, tháng 7 năm 1959, và tháng 7 năm 1960, nhưng đều bị từ chối. Tóm lại, Hiệp Định Geneva được xem như là thành công qua sự thực hiện được một sự ngừng bắn kéo dài 8 năm ở Đông Dương và giúp cho thực dân Pháp rút chân ra khỏi Việt Nam “một cách không danh dự cho lắm”. Tuy nhiên, như đã xét qua 4 điểm đã đề cặp ở các phần trên, Bản Hiệp Định nầy rất phức tạp lờ mờ và nó không mang đến một giải pháp chính trị Việt Nam. Trong số những nan đề chính trị nầy thì có lẽ vấn đề cơ bản là sự công nhận ngấm ngầm hay ít nhất có sự tiếp nhận bởi Hội Nghị Geneva hai chính quyền trên một lãnh thổ là duy nhất Việt Nam: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Quốc Gia Việt Nam. Vì tính chất ô tạp của Hiệp Định Geneva và sự khiếm khuyết những phương tiện chế tài việc chấp hành những thỏa ước trong bản Hiệp Định nầy cho nên nó chỉ có thể có hiệu lực khi nào mà những thành viên đối tượng của Hiệp Định đồng ý hợp tác hổ tương để bảo đảm cho việc thực thi một cách hoàn toàn những thỏa ước đó. Khốn thay, sự hợp tác hổ tương mong ước không thể thực hiện được trước hết là do sự đối đầu không thân thiện giữa hai chính quyền Nam, Bắc Việt Nam. Kế đến là vì Hội Nghị đã không đủ hấp dẫn để lôi kéo Hoa Kỳ cùng với Quốc Gia Việt Nam nhập cuộc một cách thành khẩn và tích cực. Và sau cùng là cuộc rút lui của thực dân Pháp ra khỏi Việt Nam vào năm 1956 càng khiến cho hiệu lực của những thỏa ước Hiệp Định Geneva trở thành ảo tưởng và sớm muộn gì thì những thỏa ước ảo tưởng nầy cũng i sẽ tái tạo một hình thức phân tranh theo một kiểu cách nào đó không thể tránh được.190 (A.Cameron, s.đ.d., tr.tr.286-288) (Viết xong ngày 20/07/2014 phần “Hội Nghị Geneva về Đông Dương 20/07/1954”) * VSTK - 3839


PHẦN II

HAI NƯỚC VIỆT NAM (1954 -1963) CHƯƠNG 1 1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

I/ TÌNH HÌNH TỔNG QUÁT SAU HIỆP ĐỊNH GENEVA 21/07/1954

A. Thi hành các điều khoản Hiệp Định Geneva Hiệp Định Geneva bao gồm những thỏa ước quân sự cho việc chấm dứt những nghịch thù, được ký kết bởi các đại biểu quân sự với tướng Delteil đại biểu cho Pháp và 3 Quốc Gia Đông Dương và Tạ Quang Bửu thứ trưởng bộ Quốc Phòng đại biểu cho Việt Minh và một Bản Tuyên Bố Cuối Cùng về việc tái lập Hòa Bình mà không có một chữ ký nào của một thành viên chính thức của Hội Nghị Geneva. Phái đoàn Quốc Gia Việt Nam đã cực lực phản đối “hình thức ngừng bắn mà Hội Nghị đã ra quyết nghị” và cũng phảng đối điều thứ 7 của Bản Tuyên Bố Cuối Cùng liên hệ tới các vấn đề tổng tuyển cử để thống nhất hai nước Việt Nam. Phái đoàn Hoa Kỳ cũng tự hạn chế không dự phần vào việc “gật đầu” cho Bản Tuyên Bố Cuối Cùng nầy và tự ý xác định vị thế của Hoa Kỳ đối với vấn đề “tuyển cử tự do”. Với những điều kiện như thế, chính phủ Quốc Gia Việt Nam ở miền Nam và chính phủ Hoa Kỳ tự coi không phải là những thành viên trong số những thành viên tham dự đã chấp nhận những nghị quyết của Hội Nghị và do đó không bị ràng buộc bởi những nghị quyết đó về mặt pháp lý.192 Bên cạnh đó thì Pháp là một trong hai chủ sự của việc ký tên các điều ước quân sự và vì thế cho nên Pháp phải nhận lãnh trách nhiệm thi hành tốt Hiệp Định đó. Dù sao thì cũng không có một thành viên nào của Hội Nghị Geneva có thể được xem như là chủ thể chính thức bảo đảm việc thi hành những điều quy định trong Bản Tuyên Bố Cuối Cùng. Sau Hiệp Định Geneva 21/07/1954, ngoại trừ thành viên VSTK - 3840


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

chính Quốc Gia Việt Nam ở miền Nam, tất cả 8 thành viên còn lại của Hội Nghị đều nghĩ rằng chỉ có việc chia cắt đất nước Việt Nam là phương cách duy nhất để tách rời những phe lâm chiến, ổn định những yêu cầu bức thiết về mặt quân sự, chính trị giữa Pháp và Việt Minh để kết húc trận chiến bằng một cuộc ngừng bắn. Ngoài ra còn có thể nói thêm rằng có 8 phái đoàn ngầm muốn rằng đường ranh chia cắt chỉ là tạm thời cũng như thời hạn tổng tuyển cử ở Việt Năm là vào năm 1956 mặc dù nội dung của các điều ước không có ý định công khai như thế. Bởi vì Hiệp Định đả tạo ra hai thể chế hành chánh cai trị khác nhau (điều 14-a của Thỏa Hiệp Quân Sự), tạo ra hai vùng tập kết quân sự, lập ra những quy định cho sự di chuyển của người dân đến vùng nào mà họ mong muốn và ấn định thời hạn Tổng Tuyển cử là 2 năm, cho nên những thành viên nào của Hội Nghị Geneva đã là tác giả của những quy định như thế sẽ khiến cho việc dàn xếp một thỏa ước chính trị đúng nghĩa và công bình rất khó thực hiện trong tương lai ở Việt Nam. Thực vậy, đường ranh chia cắt tại vĩ tuyến thứ 17 chỉ có tính cách tạm thời cho tiến trình thực hiện ngừng bắn được dễ dàng nhưng mặc dù không cố ý, nó vẫn đưa tới một hậu quả nghịch thường là tạo ra thời gian và không gian để phát sinh và củng cố 2 chính quyền đối kháng nhau về chế độ, chính sách ngoại giao, cơ chế tổ chức kinh tế, xã hội, quân sự. Nếu trọng tâm của những thỏa ước của Hội Nghị Geneva về Đông Dương nói chung và về Việt Nam nói riêng đã bị phá vỡ thì những thành viên tham dự Hội Nghị là những kẻ thủ phạm vì họ đã bày vẽ ra một giải pháp chính trị bằng cách chia cắt - một quái thai thứ ba193đã được sinh ra vào ngày 21/07/1954 - không thể dung hợp với quy luật tự nhiên và tâm lý của nhân dân Việt Nam.194 B. Mưu đồ của các Thành viên tham dự Hội Nghị Geneva 1. Phe Cộng Sản

Tại sao hai khối CS đầu sỏ TQ và LS lại có thể “thành khẩn lưu tâm” đến tình trạng thống nhất của nước Việt Nam xuyên qua quá trình đàm phán của Hội Nghị Geneva? Thực ra thì nước Việt Nam sẽ được thống nhất hay không bằng một cuộc Tổng VSTK - 3841


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

tuyển cử hay từ sự phân hóa tự tiêu hủy của chế độ Quốc Gia và chính quyền miền Nam Việt Nam thì cũng chưa phải là mối quan tâm ưu tiên của hai khối CS đầu sỏ nầy mặc dù họ đã có dự liệu là sẽ biến toàn thể Việt Nam hoàn toàn theo chế độ CS vào tháng 07/1956. Vậy thì mưu đồ chính yếu của Moscova và Bắc Kinh là gì để họ ủng hộ một cách nhiệt tình- quá nhiệt tình- cho vấn đề giải quyết chiến tranh ở Đông Dương và Việt Nam ? Đáng chú ý là vai trò và cung cách ứng xử của Ngoại trưởng CSLS Molotov đã tìm đủ cách để cứu vảng Hội Nghị Geneva không phải chết non, đứt gánh nửa đường mặc dù dưới con mắt của người Tây phương thì đương sự không phải là một nhân vật nhiệt tình trong việc đề xướng một phương cách hòa bình để giải tỏa một tình trạng căng thẳng trên chính trường quốc tế. Ngoài ra, nơi bàn Hội Nghị Geneva, người ta thấy CSLS và CSTQ ngoài mặt thì rất là hòa điệu với nhau nhưng thực sự thì phản phất có một tình trạng đồng sàn dị mộng vì quyền lợi Quốc Gia riêng tư giữa hai khối CS khổng lồ nầy trong khi cả hai đều ước muốn giải quyết một vấn đề tranh chấp có tính cách quốc tế. a. Mục tiêu của CSLS

Theo tài liệu mật của Lầu Năm Gốc bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ nghiên cứu thì nếu ngược dòng thời gian của tiến trình Hội Nghị Geneva, CSLS đã hướng về bốn mưu đồ như sau: 195 (i) Làm thay đổi chiều hướng của một cuộc chiến tranh chính yếu ở Đông Dương vì nó kích thích sự liên kết thống nhất của các nước Tây phương và giúp cho Hoa kỳ có thêm nhiều triển vọng lôi kéo các nước nầy vào kế sách thành lập Khối Liên Minh Hành Động Chung ở Á Châu mà Hoa Kỳ đã đề ra trước đây nhưng đã không được Anh và Pháp nghe theo và từ đó có nguy cơ thúc ép CSLS phải có nghĩa vụ quốc tế CS để phòng vệ cho CSTQ đối phó với Khối Liên Minh Hành Động Chung do Hoa Kỳ làm minh chủ. Điểm nầy cho thấy CSLS đã có sự lo ngại rằng nếu vì một số tình huống nào đó xảy ra, đế quốc Tư bản Hoa Kỳ sẽ không ngần ngại tìm cho được một phương cách hành động để tham gia tích cực vào cuộc chiến ở Đông Dương mặc dù CSLS cũng như CSTH chưa kịp thời biết được kế sách Hành Động Chung của Hành Pháp Hoa Kỳ xướng xuất đang bị VSTK - 3842


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

bế tắt vào trung tuần tháng 06/1954 vì sự bất đồng giữa Hành Pháp và Lập Pháp của Hoa Kỳ ở Hoa Thịnh Đốn. Dư luận báo chí thế giới bàn tán xôn xao về khả năng Hoa Kỳ sẽ can dự tích cực vào cuộc chiến ở Đông Dương càng khiến cho hai phe trùm CS hoang mang bất ổn về những sách lược quân sự của Hoa Kỳ trong tương lai. Với những cuộc gặp mặt riêng trong khi Hội Nghị Geneva đang tiến hành, Ngoại trưởng CSLS Molotov thường biểu lộ cho thấy là đương sự rất e ngại rằng nếu Hội Nghị đổ vỡ thì cuộc chiến ở Đông Dương sẽ gia tăng và trở thành một cuộc chiến tranh thế giới thứ III. Nước Pháp từ chối không tham gia vào kế sách Khối Hành Động Chung của Hoa Kỳ nhưng theo hồ sơ mật của Lầu Năm Gốc Hoa Kỳ thì phó trưởng đoàn Pháp tại Hội Nghị Geneva là Jean Chauvel trong những cuộc đi đêm riêng tư với phe CS cũng đã không ngần ngại dựa vào kế sách chưa thành hình đó của Hoa Kỳ để đe dọa với phó trưởng đoàn CSLS là Kuznetsoff rằng nếu đề xuất của Pháp lấy vĩ tuyến thứ 18 làm ranh giới chia cắt không được phe CS tại bàn Hội Nghị ưng thuận thì e rằng sẽ có nguy cơ dẫn đến tình trạng quốc tế hóa cuộc chiến ở Đông Dương. 196 Trong Hội Nghị Liễu Châu giữa CSTQ và CSVN từ 03 đến 05 tháng 07 năm 1954, Chu Ấn Lai đã cảnh cáo Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và Hoàng Văn Hoan rằng sẽ có nguy cơ Hoa Kỳ can dự trực tiếp và tích cực vào chiến cuộc ở Đông Dương khiến cho tình hình căng thẳng thế giới càng thêm rắc rối và làm mất đi những thành quả mà CSVM đã đạt được từ trước đến nay. Điều nầy chứng tỏ rằng CSTQ cũng chỉ mù mờ biết được kế sách Hành Động Chung của Hoa Kỳ đang thành hình nhưng không biết là nó đang bị bế tắt ở thủ phủ Hoa Thịnh Đốn.197 Theo hồ sơ mật của CSLS thì trong sổ Nhật Ký biên bản riêng của Ngoại trưởng CSLS Molotov có ghi chép lại một cuộc họp bí mật giữa CSLS, CSTQ và CSVM vào ngày 16/07/1954 ở Geneva. Trong buổi họp nầy, Molotove đã kể lại cho Chu Ấn Lai và Phạm Văn Đồng nghe về cuộc Hội kiến riêng giữa đương sự và thủ tướng Pháp Mendès France về những vấn đề chính yếu đang bị bế tắt tại bàn Hội nghị Geneva như thời hạn tổ chức tổng tuyển cử cho Việt Nam, Lào, Cao Miên, đường ranh chia cắt VSTK - 3843


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

Việt Nam và thời hạn rút quân ngoại nhập về các vùng tập kết. Trong buổi họp nầy Chu Ấn Lai có phát biểu ý kiến và nhấn mạnh sự nghi ngại của TQ về mối nguy cơ Hoa Kỳ đang thành lập Khối Hành Động Chung bao gồm có Kỳ, Anh, Pháp và họ dã có những thỏa thuận sơ khởi rồi. Nếu điều nầy thực sự sẽ xảy ra thì Hoa Kỳ sẽ lôi kéo Quốc Gia Việt Nam của chính quyền Bảo Đại và 2 vương quốc Miên, Lào vào khối nầy thì các điều khoản dự định ngăn cấm các quốc gia vừa kể gia nhập vào bất cứ một liên minh quân sự nào hoặc không được để cho ngoại quốc thiết đặt các căn cứ quân sự trên các quốc gia đó sẽ trở thành vô nghĩa. Molotov đồng ý với sự nghi ngại của Chu Ấn Lai rồi góp ý rằng trong những cuộc gặp riêng với thủ tướng Pháp Mendès France ở Geneva và ngoại trưởng Anh Antony Eden, TQ và Liên Sô cần phải nêu ra những dư luận báo chí về những mưu toan đang tiến hành để thành lập những khối liên minh quân sự ở vùng Đông Nam Á và cùng tuyên bố rằng TQ và LS phản đối sự hiện hữu của những khối liên minh quân sự kiểu đó. Molotov còn nói rằng vấn đề nghi ngại nầy cần phải nêu ra nơi bàn Hội Nghị Geneva khi sơ thảo bản văn Lời Tuyên Bố Cuối Cùng. Chu Ấn Lai còn cho biết rằng theo tin tức mà TQ thu nhặt được thì Anh quốc đang hoạt động tích cực một Liên Minh phòng thủ Đông Nam Á và chính vì thế mà Hoa Kỳ phải đối kháng lại bằng cách dự định thành Lập Khối Hành Động Chung. Cả hai Anh và Hoa Kỳ đều chủ định cho một tổ chức liên minh quân sự bao gồm có Thái Lan, Pakistan, Quốc Gia Việt Nam của Bảo ĐạI, Lào, và Cao Miên vì thế trong cuộc họp mật kể trên Chu Ấn Lai đã khẩn quyết rằng TQ và LS cần phải cực lực phản đối việc thành lập những khối Liên Minh Quân Sự ở Á Châu và cần phải khai thác lợi thế về mối bất đồng quan điểm hiện có giữa Hoa Kỳ và Anh Quốc về vấn đề thành lập khối Liên Minh Quân Sự trước hay sau Hội Nghị Geneva.198 Tại sao CSLS lại e ngại phản ứng bất ngờ của Hoa Kỳ trong vấn đề Đông Dương? Bởi vì Liên Sô đã từng chứng kiến phản ứng bất cặp và vô trách nhiệm của Hoa Kỳ trong quá khứ sẵn sàng xử dụng “vũ khí mới” như trong việc thả bom nguyên tử xuống nước Nhật trong thế chiến I, và gần đây những lời tuyên bố hăm dọa xa gần

37

VSTK - 3844


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

trong chính sách “Cái Nhìn Mới” của Tổng Thống Hoa Kỳ Eisenhower và lời cảnh cáo của Ngoại trưởng Hoa Kỳ F. Dulles ngày 12/01/1954 về một hành động của Hoa Kỳ “giáng trả khủng khiếp” để chống lại những cuộc gia tăng gây hấn của CS.199 Để tóm lược về điểm (i) trên đây, có thế nói rằng mục tiêu ưu tiên của CSLS khi tham dự Hội Nghị Geneva là làm giảm thiểu đi khả năng can thiệp đơn phương hay đa phương của Hoa Kỳ vào vùng Đông Nam Á vì nó sẽ khiến cho CSLS bị áp lực đè nặng cũng phải có thêm những sự can dự mới vào vùng nầy. (ii) Làm giảm đi triển vọng chuẩn phê của Quốc Hội Pháp đối với Cộng Đồng Phòng Thủ Âu Châu / EDC chống CSLS và các nhóm CS ở Đông Âu. Theo nhận định của Lầu Năm Gốc/ Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ thì sự lo âu của Moscova về một trận chiến lan rộng nếu đã có thể thúc hối Moscova đi đến một kết thúc bằng một sự ngừng bắn thì điều nầy nhất thiết cũng không biểu hiện được hết tất cả những động cơ thúc đẫy CSLS cần phải tích cực nơi bàn hội Nghi Geneva. Cộng Đồng Phòng Thủ Âu Châu/DEC mới là mục tiêu hàng đầu trong tâm trí của Molotov.200 Chưa có dấu hiệu hay chứng cớ nào để chứng minh cho luận điểm nói rằng Molotov nhất định là đã cò mồi thủ tướng Pháp Mendès France bằng miếng mồi Đông Dương để câu lấy con cá lớn Cộng Đồng Phòng Thủ Âu Châu với con dấu không chuẩn phê của Quốc Hội Pháp. Thực ra Molotov không cần phải dụ mồi đổi chác như thế với Pháp. Từ năm 1953 đến năm 1954, CSLS ưu tiên mở chiến dịch tuyên truyền đã phá EDC và nguy cơ tái vũ trang cho nước Đức (Tây Đức). Có thể, qua tài liệu mật của Lầu Năm Gốc thì Hoa Kỳ dự đoán rằng, nếu CSLS áp lực CSVM nhượng bộ Pháp thì một phần đoàn quân viễn chinh cơ động Pháp ở Đông Dương sẽ được rảnh rang hơn để rút về Mẫu Quốc để tăng cường và củng cố hiệu lực hơn việc quốc phòng của họ ở Âu Châu và như thế họ sẽ không thấy cần thiết đối với việc thành lập EDC. Tại sao Hoa Kỳ đưa ra dự đoán như thế? Bởi vì trên thực tế, EDC là sản phẩm do cựu thủ tướng Pháp René Pleven và cựu

36

VSTK - 3845


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

ngoại trưởng Pháp Robert Schuman đề xuất bao gồm các quốc gia Pháp, Bỉ, Ý, Lục Xâm Bảo Tây Đức dưới bóng dù bao che của Hoa Kỳ nhằm bao vây CSLS. Tuy nhiên Pháp đã tỏ dấu hiệu cho Hoa Kỳ thấy là Pháp sẽ không thực hiện hoặc hủy bỏ EDC nếu Kỳ làm ngơ không tiếp tay cho Pháp ở Đông Dương. Cần nhắc lại là giữa Pháp và Hoa Kỳ đã xuất hiện một tình trạng mâu thuẫn kể từ khi phe Đồng Minh (bao gồm cả Liên Sô) đổ bộ lên bờ biển Normandie của Pháp vào ngày 06/06/1944 để giải phóng nước Pháp khỏi gót giày thống trị độc tài Đức Quốc Xã của Hitler. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tướng De Gaulle của Pháp không kịp đưa quân kháng chiến Pháp về chiếm giử thủ đô Paris trước khi quân đội Hoa Kỳ do tướng Eisenhower tổng tư lệnh quân đội Đồng Minh vào tiếp thu Paris? Giống như trường hợp Liên Sô tiến chiếm thủ đô Berlin của nước Đức, phải chăng nước Pháp cũng sẽ chịu chung số phận chia đôi như nước Đức và một nửa nước Pháp sẽ thành một quốc gia CS vệ tinh của CSLS giống như trường hợp của Đông Đức? Và kể từ đó, mặc dù Pháp và Hoa Kỳ vẫn dược xem như là Đồng Minh với nhau trong khối Tự Do Tư Bản nhưng lúc nào cũng có mâu thuẫn giữa hai nước vốn cách biệt nhau hàng vạn cây số nhất là đối với các vấn đề chính trị hoặc quân sự có dính líu đến lục địa Âu Châu. Pháp rất không hài lòng đối với vai trò Cảnh Sát Trưởng Quốc Tế mà Hoa Kỳ luôn luôn muốn giành lấy. Vì thế, dù không nhấn mạnh đến việc thuyết phục Pháp từ chối gia nhập EDC để đổi lấy cuộc ngưng chiến ở Đông Dương, CSLS vẫn tin tưởng khai thác mâu thuẫn giữa Pháp và Hoa Kỳ về vấn đề thành lập khối EDC và tái vũ trang cho Tây Đức. (iii) Tuyên truyền cho thế giới biết CSLS là vô địch kiến tạo Hòa Bình: sách lược “Tấn Công Hòa Bình” toàn cầu của CSLS khởi phát kể từ sau khi trùm CS Quốc Tế Staline qua đời cũng là động cơ thúc đẩy cho Molotov nhận lấy vai trò trọng yếu kiến tạo hòa bình xuyên suốt quá trình bàn thảo tại Hội Nghị Geneva về Đông Dương. Điểm nầy được biểu hiện công khai rõ nét trong bài nhận định cuối cùng của đương sự trong ngày kết thúc Hội Nghị Geneva 21/07/1954 bằng cách lớn tiếng tuyên xưng rằng thành quả các thỏa ước đạt được tại Hội Geneva về Đông VSTK - 3846


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

Dương là một chiến thắng trọng đại giành cho các lực lượng chiến đấu vì Hòa Bình và là một bước tiến chủ yếu nhằm lảm giảm thiểu những tình hình căng thẳng thế giới. Molotov cho rằng Hội Nghị Geneva đã chứng tỏ cho thấy giá trị của những cuộc thương thảo quốc tế nhằm dàn xếp những sự tranh chấp nguy hiểm. Đương sự tuyên bố rằng “kết quả từ Hội Nghị Geneva về Đông Dương đã xác nhận được nguyên tắc chính đáng của Liên Sô là nền tảng cho toàn thể chính sách ngoại giao của Liên Bang Sô Viết, nói một cách cụ thể là không có bất kỳ vấn đề quốc tế nào ở thời buổi hiện đại nầy lại không có thể giải quyết và sắp xếp được xuyên qua các cuộc thương lượng và thỏa thuận vì mục tiêu củng cố hòa bình.” Vào một thời đại mà Tư Bản Hoa Kỳ nổi tiếng là liều lĩnh gây tai họa cho Hòa Bình với “chính sách bạo lực” của họ thì CSLS có thể khẳng định rằng họ không cần phải nổ lực trong công cuộc tìm kiếm những đường hướng để né tránh sự tàn sát khủng khiếp của bạo lực nguyên tử.201 (iv) CSLS củng cố uy thế của CSTQ như là kẻ phụ tá của CSLS trong vai trò lãnh đạo phong trào sống chung hòa bình thế giới chứ không cần phải nhắm mục đích tranh giành vai trò lãnh đạo trùm CSTQ ở vùng Á Châu bởi vì CSTQ hiện tại được xem như là một bạn đồng hành quan trọng cho sách lược “Tấn công Hòa Bình” của CSLS và vì thế mà Molotov trong một sớm một chiều đã phải nâng uy thế của CSTQ trở thành một trong 5 cường quốc tại Hội Nghị Geneva. Tuy nhiên CSLS chỉ muốn CSTQ đạt tới một vị thế cường quốc tại bàn Hội Nghị Geneva mà thôi chứ không phải là có ý định biến CSTQ thành một cường quốc trong tương lai có vai vế quan trọng ở Á Châu hay khắp thế giới.202 Tóm lại, CSLS có lợi với một cuộc dàn xếp hòa bình nhanh chóng hơn là phải kéo dài dây dưa để rồi đi đến đổ vỡ. Tích cực mở cho Pháp một con đường thoái lui danh dự nơi bàn Hội Nghị Geneva, dự kiến của CSLS đã trở thành hiện thực: Quốc Hội Pháp đã không chịu phê chuẩn Cộng Đồng Phòng Thủ Âu Châu /EDC vào 30/08/1954 với 264 phiếu thuận đối với 319 phiếu VSTK - 3847


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

chống.203 Đây là một trò đánh cuộc ít hao tốn của CSLS nhưng lại mang đến cho họ một món hời lớn.204 b. Mục tiêu của CSTQ

Đối với Bắc Kinh thì Hội Nghị Geneva về Đông Dương là thời vận đã tới cho CSTQ trở nên một cường quốc có tiếng nói đáng kể đối với các Cộng đồng dân tộc ở vùng Á Châu. Khi dược 4 cường quốc trong Hội Nghị Berlin triệu mời tham dự như là một cường quốc mới nổi, cường quốc thứ năm, CSTQ đã tiên định rằng mình sẽ nấm giữ một vai trò quan yếu trong việc giải quyết những vấn đề tranh chấp thuộc về Á Châu. Do đó CSTQ cho rằng chấp nhận cần phải có một cách giải quyết ngắn gọn, không cần phải chờ cho CSVM chiến thắng hoàn toàn, là phù họp nhất vào lúc nầy vì nó sẽ chứng tỏ cho thế giới thấy được thực tâm yêu chuộng hòa bình của một cường quốc thế giới vừa mới được khai sinh. Cuộc chiến tranh ở Đông Dương là một môi trường trắc nghiệm để CSTQ chứng tỏ thực tâm trung thành của họ đối với 5 nguyên tắc Sống Chung Hòa Bình do chính CHNDTQ cùng với Cộng Hòa Ấn Độ đã đề xuất ngày 29/04/1954: (1) Tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của nhau; (2) Không tấn công nhau; (3) Không can thiệp vào việc nội bộ của nhau; (4) Bình đẳng và hai bên cùng có lợi; (5) chung sống hòa bình.205 CSTQ đã có lợi ngay tử lúc được 4 cường quốc thế giới Hoa Kỳ, Liên Sô, Anh, Pháp triệu mời chính thức như là 1 trong 5 thành viên sơ khởi của Hội Nghị Geneva về Đông Dương. Tuy nhiên, CHNDTQ còn có một điểm lợi khác là có thể thu hút các quốc gia Á Châu đang khát khao hòa bình ra khỏi vòng quỹ đạo của Tư Bản Hoa Kỳ hung hăng háo chiến với đường lối hăm dọa “cột mây hạt nhân”. Động lực thúc đẩy mà CSTQ áp dụng để mưu tìm vai trò đế quốc lãnh đạo vùng Á Châu trong suốt tiến trình của Hội Nghị Geneva là dùng chủ đề thuyết minh rằng tất cả những giải pháp thương thảo đều có thể áp dụng để giải quyết những tranh chấp thế giới còn tồn động. Chỗ đứng của CHNDTQ trên chính trường thế giới bắt đầu được chú ý bởi vì ngoài việc được đối xử ngang hàng - cho dù chỉ là hình thức bề ngoài – như là 1 trong 5

36

VSTK - 3848


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

cường quốc thế giới hiện nay, Bắc Kinh còn là thành viên của Hội Nghị giải quyết chiến tranh Triều Tiên, đã ký hiệp ước với Ấn Độ về vấn đề Tây Tạng, đã cùng với Ấn Độ và Miến Điện song phương chủ xướng 5 nguyên tắc Sống Chung Hòa Bình. Tuy nhiên việc mưu tìm một thế đứng nổi bật ở Á Châu cũng chưa phải là mục tiêu chính yếu khiến cho Bắc Kinh phải hối hả góp phần tích cực giải quyết nhanh chống chiến cuộc Đông Dương trong vòng thời gian 3 tháng chứ không thể kỳ kèo trả giá, kéo dài lê thê suốt hai năm giống như ở hội nghị Bàn Môn Điếm giải quyết chiến tranh Triều tiên trước đây. Tại sao hối hả? Theo tài liệu mật của Ngủ Giác Đài/bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ thì có 3 lý do: (i) đã nhất trí với CSLS về khả năng can dự của Hoa Kỳ sẽ khiến cuộc chiến lan rộng thêm; (ii) hai vương quốc Miên, Lào đã có thể trung lập hóa một cách hiệu quả; (iii) đã dược thỏa mãn vì rằng đã có một quốc gia Cộng Sản ở cạnh sườn phía Nam biên giới Trung-Việt. Với lý do (i) người ta thấy rõ ràng là CSTQ có e dè “hàm răng nguyên tử của con hổ giấy Hoa Kỳ” xuyên qua những lời tuyên bố cảnh cáo gần đây của các nhân vật “diều hâu” như ngoại trưởng Dulles và tổng Tham Mưu Trưởng Liên Quân Radford của Hoa Kỳ về một “loại vũ khí mới” sẽ được dùng tới để đối phó với việc CSTQ, ngay cả trên lãnh thổ của CSTQ, nếu CSTQ tiếp tục viện trợ quân sự ồ ạt cho CSVM. Hơn nữa, sau khi tình nguyện nướng người và phung phí của cải vật chất vào chiến tranh Triều Tiên với quá nhiều hao tổn, giờ đây thay vì tiếp tục gây hấn một cách bất lợi với “con hổ giấy Hoa Kỳ” thì CSTQ cần nên kiềm chế để ưu tiên lo việc chấn hưng kinh tế và xây dựng đất nước Trung Quốc. Với lý do thứ (ii) và thứ (iii) CSTQ sẽ được an toàn hơn vì hai quốc gia trung lập Miên-Lào cũng là lá chắn bảo vệ cho CS Bắc Việt để Bắc Việt trở nên một nước phiên giậu trấn giữ an toàn ở biên cương phía Nam Trung Quốc. Thêm vào đó, các điều ước trong hiệp định ngừng bắn ở Đông Dương quy định cấm chỉ 3 quốc gia Đông Dương không được phép gia nhập bất cứ một tổ chức liên minh quân sự nào mà cũng không được để cho các nước khác lập bất cứ một hình thức căn cứ quân sự nào. VSTK - 3849


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

Điều nầy càng khiến cho CSTQ thêm an tâm hơn đối với sách lược bao vây và chận đứng CS của Hoa Kỳ.206 Tóm lại, những suy diễn kể trên dựa theo những nhận định trong các tài liệu của Lầu Năm Gốc Hoa Kỳ đã được giải mật cho thấy rằng CSLS và CSTQ không bận tâm nhiều đến những hạn định cho việc giải quyết vấn đề Đông dương một khi những chủ đích căn bản của họ đã đạt tới xuyên qua Hội Nghị Geneva. Một sự dàn xếp để mang đến cho VNDCH một lãnh thổ riêng với một đường ranh chia cắt Việt Nam, với sự việc tạo cho Pháp một ảo giác là Pháp không bị bán đứng, không bị mất uy thế danh dự của một cường quốc, với kết quả tạo thêm cho CTQ có điều kiện củng cố an toàn lãnh thổ và thụ đắc những tham vọng chính trị bá quyền ở vùng Đông Nam Á Châu, với việc làm giảm bớt nguy cơ Hoa Kỳ có thể nông nổi bỏ rơi Hội Nghị Geneva về Đông Dương, thì tất cả những điều nầy chính là những mục tiêu mong đợi và được chấp nhận một cách thỏa đáng bởi Bắc Kinh và Moscova.207 Hội Nghị Geneva đã mang sự tín nhiệm của Pháp cho CSLS qua sự việc Quốc Hội Pháp bát bỏ dự án EDC và tạo an ninh cho Bắc Kinh qua sự hình thành một quốc gia CS vệ tinh trái độn ở phía Nam ranh giới Trung-Việt vậy là xem như là tạm ổn; ngoài ra số phận của miền Nam Việt Nam sẽ như thế nào thì CSLS va CSTQ không cần phải bận tâm ít nhất là trong hiện tại trước mất.208 c. Mục tiêu của CSVM

Rõ ràng là CSVM sau khi nghe theo chỉ thị của Bắc Kinh đã dồn toàn lực biển người - bất chấp sinh mạng của chiến binh CSVM - để hạ bằng được cứ điểm Điện Biên Phủ để làm quà tặng cho phe CS đàn anh nơi bàn Hội Nghị Geneva đồng thời, giống như một con ngựa ở trường đua được tiêm cho thuốc kích thích tăng lực, thừa thắng xong lên, CSVM dùng chiến thắng nầy để đặt nhiều điều điều kiện hung hăng khó chấp nhận, bắt buộc Pháp phải nhượng bộ để đổi lấy một cuộc ngừng bắn “danh dự” ở 3 quốc gia Đông Dương. Trong giai đoạn đầu Hội Nghị Geneva về Đông Dương, CSVM cố tình không nhượng bộ đối những điều kiện của họ đưa ra. Mục tiêu của những diều kiện nầy

36

VSTK - 3850


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

là một lãnh thổ Việt Nam riêng cắt ngang từ vĩ tuyến thứ 13-14, một hải cảng, quân Pháp tập kết hết về Nam Kỳ, một giải pháp chính trị liền ngay sau cuộc ngừng bắn. Các đòi hỏi nầy của CSVM khiến Hội Nghị bế tắt không thu được một kết quả nào và sắp tan rả cho đến khi có lời tuyên bố đánh cuộc đầy đe dọa của tân thủ tướng Pháp Mendès France: Nếu Hội Nghị không giải quyết nhanh chóng vấn đề Đông Dương trong vòng một tháng kể từ ngày đương sự nhậm chức Thủ Tướng thì đương sự sẽ phải từ chức và Hội Nghị Geneva sẽ bị phó mặc cho tan rả.Tuyên bố nầy không làm cho CSVM lo lắng nhưng lại khiến CSLS và CSTQ e ngại vì nếu Hội Nghị Geneva về Đông Dương thất bại thì những mục tiêu, ước vọng của họ dự trù - rất có nhiêu cơ mai được thực hiện nhờ sự thành công của Hội Nghị Geneva - sẽ trở thành những lâu đài ước mơ xây trên cát. Con ngựa bất kham Việt Minh cần phải được CSLS và CSTQ ghìm dây cương, bắt phải chạy chậm lại. CSVM đã phải vâng lời tuân phục hai trùm CS lớn nhất thế giới. Mục tiêu dự định của CSVM từ khởi đầu Hội Nghị đã bị hai bậc CS đàn anh của mình ép buộc cắt xén quá nhiều so với những đề xuất của trưởng phái đoàn CSVM Phạm Văn Đồng tại phiên họp toàn thể thứ #2 Hội Nghị Đông Dương ngày 10/05/1954.209 Tuy nhiên, bộ máy tuyên truyền của CSVM vẫn cứ tuyên xưng là một đại thắng lợi của Đảng và nhà nước VNDCCH210 mặc dù thắng lợi nầy không thể bù đắp những hao tổn mất mát và hy sinh vô vàng của bộ đội CSVM nơi chiến trường Điện Biên Phủ và cũng mất đi uy quyền “tiểu bá” đối với hai nhóm CS Miên Lào lại còn phải rút lui hết bộ đội CSVM “ngoại nhập” ra khỏi các vùng chiếm đóng trên hai quốc gia nầy. Tóm lại, chỉ có CSLS và CSTQ là thắng lợi lớn thu hoạch từ Hội Nghị Geneva về Đông Dương. 2. Phe Tư Bản Anh, Pháp, Hoa Kỳ

a. Mục tiêu của Anh Quốc Anh Quốc chủ trương đường lối hòa hoãn, e ngại chiến tranh ở Đông Dương lôi kéo sự can dự của Hoa Kỳ sẽ có thể gây ra những ảnh hưởng xấu cho các thuộc địa của nước này, đặc biệt là Hong Kong nằm trong nội địa của Trung Quốc, và những vùng VSTK - 3851


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

Anh có ảnh hưởng và quyền lợi nằm ở phía tây và tây nam bán đảo Ðông Dương như là Mã Lai và Singapore. Nếu Hoa Kỳ can dự trực tiếp vào chiến cuộc Đông Dương, chính phủ của thủ tướng Anh Churchill sẽ phải đối diện với một quyết định vô cùng khó khăn: hoặc là (i) phải tham gia một cuộc chiến tranh mạo hiểm mà theo quan điểm của Anh là một quyết định xuẩn động về chính trị và quân sự hoặc là (ii) tránh né với đường lối của Hoa Thịnh Đốn hiện nay đối với vấn nạn CS và nếu như thế thì phải giải quyết bằng cách nào đối với mối liên kết gắn bó đã có từ trước tới nay giữa Anh và Hoa Kỳ. Việc Anh quốc kiên trì thuyết phục cần phải tạm ngưng các tiến trình quân sự không thể cưỡng lại được bao gồm mưu đồ thiết lập tổ chức Phòng Thủ Đông Nam Á cho đến lúc phe Cộng Sản có cơ hội thực hiện tốt nhiệt thành Hòa Bình mà họ đang tuyên truyền khắp thế giới để giải quyết vấn đề Đông Dương mà Hoa Kỳ đã phải tự chế và miễn cưỡng nghe theo. Như thế, việc gở rối cho vấn đề Đông Dương bằng đường lối ngoại giao là ước vọng ưu tiên mà cũng là phương tiện rộng lớn cho việc thực hành những trách nhiệm quốc tế của Anh Quốc. Nếu phe Đồng Minh không bị áp lực phải đáp ứng các tiến trình thành hình các biện pháp quân sự thì Anh và Pháp sẽ là những thành viên được tán thành hơn hết cho việc xây dựng nền tảng giải quyết vấn đề Đông Dương. Việc đóng góp công sức của ngoại trưởng Anh Eden cho những thành quả của Hội Nghị Geneva mặc dù không không thể coi như là tích cự vô song, nhưng chúng vẫn là những đóng góp đáng nể vì, được Molotov và Chu Ấn Lai tuyên Dương trong ngày bế mạc Hội Nghị Geneva về Đông Dương. Cũng nhờ sự đôn đốc dàn xếp bằng đường lối ngoại giao chứ không phải bằng các biện pháp quân sự mà Anh Quốc còn có thêm lợi thế là được quyền tự do tham gia cùng chung với Hoa Kỳ vào bất kỳ một tổ chức phòng thủ quân sự khu vực nào ngay sau khi Hội Nghị Geneva bế mạc. Anh quốc chưa bao giờ phản đối việc thành lập khối Hành Động Chung/ Liên Phòng Đông Nam Á/SEATO ngoài việc thời điểm thành lập tổ chức nầy: nó không thể được thành hình trước hay trong khi Hội Nghị Geneva về Đông Dương đang diễn tiên vì nếu làm như

37

VSTK - 3852


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

thế thì sẽ bị xem là khiêu khích CSTQ và sẽ có hại cho tiến trình thương thảo tái lập Hòa Bình ở Đông Dương. Về điểm nầy, người ta thấy Anh Quốc đã thành công trong việc cãi thiện mối bang giao thực tiễn với CSTQ.211 b. Mục tiêu của Hoa Kỳ Hoa Kỳ muốn can dự nhiều hơn vào Đông Dương để ngăn chặn sự bành trướng của thế giới Cộng Sản nhưng vẫn chưa thể hòa hợp với Pháp vì óc nghi kỵ của người Pháp cho rằng Hoa kỳ muốn tống khứ và thay chân Pháp ở Đông Dương. Tại hội nghị Geneva, Hoa Kỳ chỉ tham dự như một quốc gia đồng minh lỏng lẽo với Pháp - Anh và chỉ giữ một vai trò phụ thuộc đối với các quốc gia liên kết với Pháp bởi vì Pháp - Anh không tham gia vào Khối Hành Động Chung do Hoa Kỳ chủ xướng trước khi hoặc trong khi có Hội Nghị Geneva. Từ tình trạng của người phúc ta mà Pháp đang lợi dụng để lấy viện trợ bom đạn, súng óng đạn dược, máy bay, xe bọc sắt và tiền bạc.... của Hoa Kỳ để tiếp tục cố bám giữ ba quốc gia Đông Dương thì người có thể cảm nhận được tại sao Hoa Kỳ không chịu nâng đỡ chính sách lỗi thời thực dân thuộc địa của đế quốc Pháp. Hoa kỳ ghi nhận những kết quả của Hội Nghị với nhiều tâm trạng khác nhau. Một mặt thì những điều khoản giải quyết của Hội Nghỉ lại phù hợp một cách đáng ngạc nhiên với những những dự kiến giải quyết của chính quyền Hành Pháp Hoa Kỳ, được Anh và Pháp đồng quan điểm, sẽ được Hoa Kỳ chấp nhận. Mặc dù không làm gì khác hơn mà chỉ có “tôn trọng” và ghi nhận” những thỏa ước của Hiệp Định Geneva, Hoa Kỳ vẫn phải thừa nhận rằng những thỏa ước đó đã biểu hiện một hiệu quả có chừng mực đối với trạng thái giao hảo hỗn loạn của phe Đồng Minh trước khi Hội Nghị khai mạc chẳng hạn như là sự từ chối của Pháp về một khả năng quân sự có thể thay thế và sự không thừa nhận ưu thế quân sự không thể phủ nhận của Việt Minh từ bên ngoài cũng như bên trong nước Việt Nam. Mặt khác, dưới một cái nhìn khác, chính quyền Hành Pháp Hoa Kỳ thú nhận rằng cách dàn xếp của Hội Nghị Geneva cũng VSTK - 3853


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

bao gồm những yếu tố thất bại, thua thiệt. Một phần “tài sản” ở vùng Viễn Đông đã bị mất vào tay của khối TQ và LS. Các Đồng Minh Tây Phương của Hoa Kỳ cáo lỗi xin từ khước đề nghị một phương cách đối phó CS bằng vũ lực hoặc không chịu gia nhập một tổ chức Liên Minh Á-Âu Chống Cộng Sản đã sẵn sàng để hành động. Hoa Kỳ đã phải bắt buộc tham dự một Hội Nghị quốc tế để không những chuẩn nhận bằng đường lối ngoại giao những gì mà phe CS đã chiếm được bằng vũ lực vũ lực mà còn phải đề cao hình ảnh của họ ở vùng Á Châu hay trên thế giới như là những kẻ gương mẫu kiến tạo hòa bình.212 Đối với những kết quả lấy ra từ Hiệp Định Geneva thì ít ra chính sách ngoại giao Hoa Kỳ cũng đã được coi là thành công trong việc giữ tình trạng toàn vẹn và thống nhất của 2 quốc gia Miên Lào; thể chế Quốc Gia không CS ở Miền Nam Việt Nam vẫn tiếp tục được duy trì và không có điều khoản nào ngăn cấm miền Nam tiếp tục thành lập các lực lượng quân đội mới và hữu hiệu để bảo vệ quốc phòng của miền Nam; Miền Nam có thể mua thêm “vũ khí đạn được thay thế” dưới hình thức một đổi một như ấn định và cũng có quyền xử dụng những cố vấn ngoại quốc sau khi ngừng bắn; ủy ban kiểm soát đình chiến tuy không phải do Liên Hiệp Quốc đảm trách như phái đoàn QGVN và Hoa Kỳ đề nghị mà cũng không chấp nhận một ủy ban kiểm soát đình chiến bản xứ nội địa VM-Pháp như phái đoàn CSVM đề nghị nhưng nó được thay thế bằng một ủy ban liên hợp quốc tế kiểm soát đình chiến trong đó có một quốc Á Châu thực sự trung lập là Ấn Độ, một quốc gia Bắc Mỹ không thiên Cộng là Canada và một quốc gia CS Đông Âu là Ba Lan. Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến Đông Dương nầy được tự do đi lại khắp nơi để thi hành nhiêm vụ được giao phó.213 c. Mục tiêu của Pháp Chỉ có Pháp là không bị thua thiệt nhiều ngoài việc phải cắt một phần đất ở Đông Dương để đánh đổi một cuộc thất trận rút lui “danh dự”- ê chề nhục nhã thì đúng hơn – nhưng Pháp đã hả hể thỏa mãn về việc rút lui danh dự nầy, và Đông Dương vẫn còn là của Pháp, càng khép kín gần gũi hơn với 2 quốc Gia Miên-Lào. Đội quân hỗn tạp của Liên Hiệp Pháp đã bị suy liệt VSTK - 3854


1

2

3

4

5

6

7

nhưng bề ngoài thì đội quân nầy vẫn có vẽ vẫn hùng hổ ở Đông Dương; tất cả những quyền lợi kinh tế, văn hóa, xã hội, tài chánh, ngoại giao của Pháp ở Đông dương vẫn tiếp được họ khai thác độc quyền ngoại trừ miền Bắc Việt Nam CS. Không phải Quốc Hội Pháp lựa chọn tân thủ tướng Mendès France cho nước Pháp mà chính là Hội Nghị Geneva đã làm việc đó dùm cho Quốc Hội Pháp.

*

VSTK - 3855


CHƯƠNG 1 (tiếp theo) 1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

II/ THỦ TƯỚNG NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ MIỀN NAM QUỐC GIA VIỆT NAM

A. Miền Nam Quốc Gia Việt Nam sau ngày 21/07/1954 Quốc Gia Việt Nam Độc kể từ lúc cựu hoàng Bảo Đại tuyên ngôn Độc Lập vào ngày 12/03/1945 sau khi quân phiệt Nhật Bản đảo chính và chiếm toàn bộ bán đảo Đông Dương. Ngày 14/04/1954, chính phủ Quốc Gia Việt Nam Trần Trọng Kim được thành lập. 214 Tháng 07/1945, thủ tướng Trần Trọng Kim đã được quân phiệt Nhật chấp nhận trao trả chủ quyền tất cả các cơ quan hành chánh công quyền ở Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng.214bis Phần đất Nam Kỳ cũng được Trần Trọng Kim Hối thúc quân Phiệt Nhật gắp rút trao trả cho chính phủ Quốc Gia Việt Nam những chủ quyền hành chánh cai tri nhưng người Nhật chưa kịp thực hiện thì họ đã phải đầu hàng Đồng Minh và CSVM thừa cơ cướp chính quyền ở Hà Nội rồi phái Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận vào Huế để thu nhận ấn tín và trao quyền của Bảo Đại vào ngày 25/08/1945. Những ngày mùa Thu năm 1945, Bảo Đại được Hồ Chí Minh trao giữ chư Cố vấn Chính Trị Tối Cao trong bộ máy chính quyền non trẻ của CSVM ở Bắc Kỳ rồi lại được CSVM sắp xếp cho đi gặp Tưởng Giới Thạch lãnh tụ của Trung Hoa Quốc Dân Đảng ở Trùng Khánh/Trung Quốc 16/03/1946 rồi được lệnh của Hồ Chí Minh tiếp tục nghĩ dài hạn ở Trung Hoa để Hồ Chí Minh được tự do và độc quyền thương lượng với Pháp và các phe phái Quốc Gia. Ngày 15/09/09/1946, Bảo Đại chọn Hồng Kong là nơi lưu vong tạm thời của mình. 214ter Với những giấy tờ mơ hồ ký kết với thực dân thuộc địa Pháp, danh nghĩa Quốc Trưởng của Bảo Đại tiếp tục tồn tại cho đến khi Hiệp Định Geneva ký kết vào ngày 21/07/1954 chia hai Quốc Gia Việt Nam bằng vĩ tuyến thứ 17. Thủ Tướng hiện tại của Miền Nam Quốc Gia Việt Nam là Ông Ngô Đình Diện. Miền Nam Việt Nam sau khi có Hiệp Định Geneva đã trở thành một Quốc Gia không CS nhưng lại là một quốc gia đang bị đe dọa nhiều hơn hết so với hai quốc gia Miên – Lào cùng nằm trên bán đảo Đông Dương. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở miền VSTK - 3856


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

Bắc Việt Nam không còn che dấu hình dạng CS của mình và ý đồ xâm chiếm miền Nam Việt Nam với bất cứ phương tiện hoặc thủ đoạn nào. Cuối năm 1954, số phận của Miền Nam Quốc Gia Việt Nam cực kỳ mong manh. CSVM được chia cắt một nửa quốc gia Việt Nam ở miền Bắc và khi tập kết, đã bí mật lưu lại phần lớn những cơ sở nằm vùng hạ tầng của họ ở Miền Nam Việt Nam nhất là tại những vùng đã từng ở dưới quyền kiểm soát của họ trong suốt thời gian chưa có Hiệp Định Geneva. Thậm chí có cả nhiều tỉnh, quận, huyện ở miền Nam nhất là ở những vùng xâu, vùng xa và nông thôn bị CSVM nằm vùng khống chế và kiểm soát. Cuộc di cư không lường trước được của hơn một triệu đồng bào Công Giáo cùng với các người chủ chăn của họ từ miền Bắc Việt Nam càng làm tăng thêm sự hỗn độn và bất ổn cho chính quyền Quốc Gia Việt Nam của miền Nam. Các giáo phái vũ trang Cao Đài, Hòa Hảo và nhóm lực lượng vũ trang Bình Xuyên ngoài vòng pháp luật đã cùng nhau cấu kết với thực dân Pháp ở miền Nam từ nhiều năm qua để thực hiện những mưu đồ riêng tư, đòi hỏi đặc quyền kiểm soát nhiều vùng lãnh thổ và độc quyền thao túng về mặt xã hội, kinh tế, tài chánh dưới danh nghĩa là những nhóm người Quốc Gia cùng với thực dân Pháp chống CSVM. Các phe phái vũ trang “tự trị” nầy hiện nay đang phải đối phó trực tiếp với thủ tướng Ngô Đình Diệm của chính phủ Quốc Gia Việt Nam ở miền Nam đang chủ trương tái lập sự thống nhất các thành phần Quốc Gia chống Cộng Sản. Ngoài ra cựu hoàng Bảo Đại mặc dù vẫn còn là quốc trưởng hợp pháp của Quốc Gia Việt Nam ở miền Nam sau ngày Hiệp Định Geneva ra đời nhưng vẫn tiếp tục ở lại nước Pháp kể từ đầu năm 1954, chưa chịu về Việt Nam để cùng với thủ tướng Ngô Đình Diệm điều hành guồng máy chính quyền Quốc Gia ở miền Nam. Sự kiện nầy càng tạo cho tình hình chính trị của Quốc Gia Việt Nam ở miền Nam càng thêm rắc rối, phức tạp và đầy mâu thuẫn. Bởi vì Hoa Kỳ muốn chống Cộng Sản khỏi lan tràn thêm nữa xuống phía Nam vùng Đông Nam Á Châu, Hoa Kỳ cần có một tiền đồn ngăn chận CS mà trước mắt là nguy cơ CSVM sẽ xâm lăng miền Nam Quốc Gia Việt Nam với sự trơ lực của VSTK - 3857


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28 29 30 31

32 33 34 35 36 37 38

CSTQ và CSLS. Do đó, Hoa Kỳ cần phải có ngay một nhân vật cột trụ chống Cộng Sản, một đối thủ thực sự của Hồ Chí Minh để lãnh đạo chính quyền Quốc Gia Việt Nam ở miền Nam và dưới mắt của Hoa Thịnh Đốn trong tình hình hiện tại thì không thể có ai khác hơn là một người mà cựu Hoàng Bảo Đại trước đây, vào lúc quân phiệt Nhật đảo chánh và chiếm Đông Dương, đã từng ưu chọn trước khi chọn Trần Trọng Kim vào tháng 04/1945 để giữ chức vụ thủ tướng chính phủ Quốc Gia Việt Nam. Nhân vật đó chính là thủ tướng đương nhiệm Ngô Đình Diệm của chính quyền Quốc Gia Việt Nam ở miền Nam kể từ tháng 06/1954. Vào thời điểm nầy, tập đoàn thực dân thuộc địa Pháp ở Sài Gòn trong mọi lãnh vực quân sự, dân sự, kinh tế, xã hội, giáo dục, hành chánh công quyền không cần biết đến việc cần thiết phải có một sự lựa chọn về một nhân vật lãnh đạo chính trị như thế cho Quốc Gia Việt Nam ở miền Nam hiện tại không bị sụp đỗ và rơi vào vòng kiềm tỏa của CS. Tập đoàn người Pháp chậm tiến nầy kết án Ngô Đình Diệm là một kẻ cuồng tín “chống chủ nghĩa Thực Dân Pháp” và bọn họ đã thuyết phục Cao Ủy Đông Dương Paul Ély và chính phủ Mendès France ở Paris phải tìm đủ cách để hạ bệ Ông Diệm. Trong một Công điện MẬT cuả đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn gửi về Hoa Thịnh Đốn ngày 19/07/1954, nay đã được giải mật cho biết tướng Paul Ély, Cao Ủy Kiêm Tổng Tư Lệnh quân đội viễn Chinh Pháp ở Đông Dương, đã hăm dọa bắt giam thủ tướng Ngô Đình Diệm nếu cần để cho việc thi hành Hiệp Định Đình Chiến Geneva không bị thủ tướng Quốc Gia Việt Nam ngăn trở “phá hoại”: 751G.00/7-1954: Telegram The Ambassador at Saigon (Heath) to the Department of State SECRET SAIGON, July 19, 1954-7 p. m. 249. Repeated information Paris 94, Geneva 52, Hanoi unnumbered.

“Sau khi hội kiến với thủ tướng Diệm vào ngày hôm nay, bản chức đã gặp tướng Ély. Vấn đề ưu tiên của Ély là sự lo ngại chính phủ Quốc Gia Việt Nam cho phép những cuộc biểu tình chống lại việc ngưng bắn gây nguy hại cho nền an ninh trật tự công cộng hoặc có một vài hành động hay tuyên bố có ảnh hưởng làm mất kỹ luật quân đội trong hàng ngũ binh lính Việt Nam hiện đang phục vụ trong đoàn quân của Khối Liên Hiệp Pháp. Đương sự nói với bản chức rằng nếu VSTK - 3858


1 2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

có bất cứ chuyện nào như thế xảy ra thì đương sự dẽ không ngần ngại xử dụng hành động cứng rắn, ngay cả đến mức phải bắt giam Ông Diệm.” 215

Trách vụ của Thủ tướng Diệm càng trở nên khó khăn rắc rối nhiều hơn nữa vì các chức quyền tư lệnh quân sự của đoàn quân viễn chinh Pháp như tướng Salan và Jacquot đã khuyến khích, bao che và hỗ trợ cho các lực lượng bộ đội vũ trang ly khai Việt Nam đồng loạt nổi dậy chống đối thủ tướng Diệm trong khi quân đội người bản xứ của Quốc Gia Việt Nam ở miền Nam trên thực tế vẫn còn nằm dưới quyền chỉ huy và điều động của của các tướng lãnh và sĩ quan của Pháp hoặc có quốc tịch Pháp. Tập đoàn tàn dư thực dân ở Đông Dương và nhiều chính trị gia chậm tiến trong chính quyền Pháp ở ở Paris vẫn còn bị giam hãm trong những ảo tưởng di vãng vàng son của thời đế quốc thuộc địa và còn bị ám ảnh rằng chủ quyền đế quốc thực dân Pháp ở Đông Dương từ xa xưa sắp sửa bị biến mất để nhường chỗ cho một đế quốc khác. Tân thủ tướng Pháp gốc người Do Thái Mendès France biết rằng sau 5 năm dài chiến tranh thế giới lần thứ II, 7 năm chiến tranh Đông Dương, cuộc dẹp loạn ở Bắc Phi (Algeria), cùng với những trách nhiệm của Pháp đối với tổ chức OTAN, nước Pháp giờ đây kiệt huệ không thể ôm đồm quá nhiều việc cùng một lúc. Đương sự cần phải giải quyết trước mắt những khó khăn cấp bách về quân sự và tài chánh của nước Pháp nhưng đồng thời cũng muốn bám giữ lấy Việt Nam không để cho phân nửa Quốc Gia còn lại nầy ở miền Nam bị CS chiếm đoạt trong tương lai. Để có thể thực hiện những dự định kể trên, Mendès France nhất định cần phải dựa vào cánh tay trợ giúp của Hoa Kỳ. Ngày 04/09/1954, đương sự đã đánh điện tín cho trưởng phái đoàn Pháp đang tham dự Hội Nghị Tổ Chức Phòng Thủ Đông Nam Á (O.T.A.S.E.) ở Manila thủ đô của Phi Luật Tân để chỉ thị rằng chiều hướng chính sách của Pháp ở của miền Nam Việt Nam kể từ bây giờ cần phải được cứu xét một cách cẩn trọng để phù hợp với của Hoa Kỳ bằng cách thực hiện với Hoa kỳ một sự đồng thuận về một chính sách đối với chính quyền Quốc Gia Việt

36

VSTK - 3859


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

Nam ở miền Nam. Vài ngày sau, Mendès France xác định rằng: “Ở Đông Dương, chính sách của nước Pháp chúng ta tái hợp với chính sách của Hoa Kỳ áp dụng trên vùng Đông Nam Á Châu”. Từ đó, để phòng thủ miền Nam Quốc Gia Việt Nam chống lại CS, Pháp ký tên vào Hiệp Định Manila vào ngày 08/09/1954. Ngày 30/09/1954, quốc vụ khanh của chính phủ Pháp đặt trách 3 quốc gia Đông Dương là Guy La Chambre tuyên bố rằng: “Hoa kỳ là quốc gia chủ trì của liên minh phòng thủ Đông Nam Á - …dans le Sud-Est asiatique c’est l’Amérique qui est le leader de la coalition.” 216 Có 2 quyết định của thủ tướng Pháp Mendès France dùng làm căn bản cho chính sách kể trên của chính phủ Pháp tại Đông Dương vào lúc bấy giờ. Trước hết, từ ngày 25 đến ngày 28/09/1954

15

tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn, Guy La Chambre và Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ, tướng Smith (Ngoại trưởng Hoa Kỳ F.Dulles Dulles đã sang Luân

16

Đôn dự Hội nghị 9 Cường Quốc/ F.Dulles was in London for the Nine-Power Conference)

14

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

đã ký một thỏa ước yểm trợ chính phủ Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam thành một chính quyền Quốc Gia,vững mạnh, chống Cộng Sản.217 Kế đến, một đại diện đặc biệt của tổng thống Hoa Kỳ ở Sài Gòn là tướng Collins ký kết với tướng Pháp Tổng Cao Ủy Đông Dương Paul Ély trao trách nhiệm cho Hoa Kỳ huấn luyện và đào tạo quân đội Quốc Gia Việt Nam ở miền Nam để quân đội nầy sẽ trở thành hoàn toàn độc lập với nước Pháp và quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương vào ngày 01/07/1955. 218 Những quyết định kể trên của thủ tướng Pháp Mendès France đã gặp sự chống đối và bất mãn của những phần tử đầu óc có sạn trong quốc hội Pháp và tập đoàn chậm tiến đầu não thực dân thuộc địa Pháp chậm tiến ở Sài Gòn vì họ cho rằng ba quốc gia Đông Dương vẫn luôn luôn nằm trong khối Liên Hiệp Pháp. Ngoài ra dư luận báo chí ở Paris đều bị ám ảnh rằng Hoa Kỳ đang tìm cách để loại trừ Pháp ra khỏi Đông Dương bằng cách đứng sau lưng thủ tướng Ngô Đình Diệm. Những ý tưởng hẹp hòi của những hạn người Pháp vừa kể chỉ là phản ảnh bất công của những kẻ háo ăn sợ chén cơm của mình đang ăn sẽ bị Hoa Kỳ hất đỗ mặc dù trên thực tế cho mãi đến năm 1975, tất cả VSTK - 3860


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

tình trạng về kinh tế. văn hóa của người Pháp ở miền Nam Việt Nam chưa hề bị Hoa Kỳ đụng chạm tới hoặc tranh giành. Tất cả người Việt Quốc Gia ở miền Nam Việt Nam cho đến 30/04/1975 đều thấy được điều đó. Hoa Kỳ không cần gạo thóc, cao su của miền Nam Việt Nam nhưng CSVN ở miền Bắc Việt Nam rất cần những thứ đó. Nếu sự thực Hoa Kỳ muốn thế chân Pháp ở Đông Dương thì nhất định không phải là lý do giành ăn nhưng là vì Pháp quá yếu để có thể chống cự ngăn chận một cách hiệu quả làn sóng đỏ lan tràn khắp vùng Đông Dương và Đông Nam Á. B. Thủ tướng Ngô Đình Diệm Vào lúc tháng 06/1954, khi quốc trưởng Bảo Đại triệu gọi Ông Diệm thay thế thủ tướng Bửu Lộc thì tiến trình Hội Nghị Geneva đã đi đến gia đoạn cuối một cách đen tối ít có người - kể cả Ông Diệm và cựu hoàng Bảo Đại - có thể hình dung được kết quả cuối cùng của hội nghị ra sao trước ngày 21/07/1954 qua sự xuất hiện của một thủ tướng mới của Pháp gốc người Do Thái, thủ tướng Mendès France. Người Pháp không hứa hẹn gì nhưng chỉ đầu môi chót lưỡi với Ông cho qua chuyện để họ không còn phải bận tâm mà lo “thua trận một cách danh dự” qua trung gian của cái quái thai Hội Nghị Geneva . Hoa Kỳ thì chưa có dấu hiệu gì ủng hộ miền Nam Quốc Gia Việt Nam và họ chỉ xem Ông Diệm như một nhân vật tạm thời-vì chưa tìm ra được ai khác- để “thay ngựa giữa dòng”. Ngô Đình Diệm sinh ngày 3/1/1901, tại huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình có truyền thống khoa bảng. Cha ông là Ngô Đình Khả, từng làm quan dưới triều Nguyễn. Sau khi Vua Thành Thái bị Pháp đày sang châu Phi, ông Khả trả ấn từ quan về quê làm ruộng. Một thuyết khác cho rằng, vì ông Khả không chịu ký vào đơn yêu cầu Thành Thái thoái vị, nên bị thực dân Pháp cách chức. Ông Diệm bẩm sinh thông minh, đường học vấn lẫn chốn quan trường đạt nhiều thuận lợi. Năm 1921, khi mới 20 tuổi, ông tốt nghiệp Trường Hậu Bổ tại Hà Nội, được phong chức Tri huyện Hương Trà, sau đó chuyển sang làm Tri huyện Hương VSTK - 3861


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

Thủy, Quảng Điền (Thừa Thiên Huế). Năm năm sau, năm 1926, ông được bổ nhiệm làm Tri phủ Hải Lăng (Quảng Trị). Năm 1929, ông Diệm nhậm chức Tuần vũ tỉnh Phan Thiết (Bình Thuận). Bốn năm sau, được bổ nhiệm làm Thượng thư Bộ lại dưới triều Vua Bảo Đại. vào lúc 32 tuổi, một quan Thượng thư trẻ nhất trong triều Nguyễn lúc bấy giờ. Ngay khi nhậm chức, Ông đề trình việc thành lập Viện Dân biểu với quyền hành pháp, nhưng chính phủ bảo hộ không thừa nhận. Tháng 7/1933, ông từ quan để phản ứng lại sự phủ nhận Viện Dân biểu của Pháp. Sau khi rời khỏi quan trường, Ông lui về ở ẩn, nhưng vẫn ngấm ngầm ủng hộ Hoàng thân Cường Để và Phan Bội Châu đang sống lưu vong ở hải ngoại với ý định thực hiện một cuộc cách mạng lật đổ Pháp hoàn toàn. Suốt từ năm 1933 cho đến năm 1940, Ông được coi là một nhân vật Quốc Gia cực đoan, xếp chung với Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam. Ngoại hình của Ông Diệm không oai vệ, không có sức thuyết phục người khác, mà cũng không có dáng vẽ tân thời của cựu hoàng Bảo Đại hay một khuôn mặt chữ điền khắc nghiệt đầy sát khí của cựu thủ tướng Nguyễn Văn Tâm. Mặc dù ăn vận âu phục nhưng dáng điệu của Ông phục phịch, hai cổ bàn tay mềm mại giống như đang lúc mặc quốc phục khăn đóng áo dài truyền thống Việt Nam, nhưng lại không có kiểu cách Á Đông. Nét hiền hậu của Ông lại bị ánh mắt cứng cỏi lấn lướt cùng với cái miệng bướng bỉnh ngoan cố khi thốt lời hay chỉ biết ngậm câm chịu đựng khi tức giận. Trong thời kỳ quân phiệt Nhật chiếm đóng Đông Dương, vì tinh thần chống Pháp cực đoan của Ông, Ông được nhà cầm quyền quân phiệt Nhật ở Việt Nam để mắt tới như là một nhân vật có thể lãnh đạo nhân dân Việt Nam để hợp tác và thực hiện chính sách Đại Đông Á do Nhật làm minh chủ. Chính công an Nhật Kempetai đã giúp Ông Diệm thoát khỏi màn lưới công an mật vụ của chính quyền thực dân Pháp thời đô đốc Decoux làm Cao Ủy Đông Dương. VSTK - 3862


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

Ông bị Việt Minh bắt vào khoản tháng 09/1945 trên đường ra Huế để khuyến cáo cựu hoàng Bảo Đại không nên hợp tác với họ Hồ qua chức vụ bù nhìn Cố Vấn Tối Cao Nguyễn Vĩnh Thụy do họ Hồ ban phát cho sau ngày thoái vị và trao quyền cho VM ở Huế, Ông bị VM chận bắt rồi đưa ra Bắc giam giữ ở một miền núi gần biên giới Việt-Hoa. Sáu tháng sau, họ Hồ ra lệnh đưa Ông Diệm về Hà Nội để chiêu dụ đầu hàng và hợp tác nhưng Ông Diệm cực lực từ khước vì mối hận thù VM đã sát hại người anh của Ông là Ngô Đình Khả và con trai của ông Khả, khiến họ Hồ phải trả tự do cho Ông. Năm 1981, một đảng viên CSVN cao cấp là Hoàng Tùng đã tuyên bố rằng trả tự do cho họ Ngô là một sai lầm nghiêm trọng của họ Hồ vào lúc đó.218 Năm 1949 Ông Diệm cũng không nhận đề nghị hợp tác với quốc trưởng Bảo Đại bởi vì thực dân Pháp vẫn chưa dứt khoác trao trả độc lập thực sự cho Việt Nam. Ông chủ trương Phong Trào Quốc Gia Thống Nhất có tính cách cực đoan chống Thực Dân Thuộc Địa Pháp cùng với người em trai là Ông Ngô Đình Nhu đề ra Thuyết Cần Lao Nhân Vị và chọn lựa đảng viên Cần Lao để đối kháng với học thuyết và chế độ Xã Hội Duy Vật Mácxít của VM trên bình diện ý thức hệ và hành động. Chủ thuyết nhân vị tôn trọng nhân bản của con người, lấy con người làm trọng điểm ngược chủ thuyết Xã Hội Duy Vật lấy danh nghĩa tập thể để khai thác khả năng và trí tuệ của con người. Đa số người dân bình thường ở thành thị hay ở nông thôn không thể hiểu cái gì là Cần Lao Nhân Vị, cái gì là Xã Hội Duy Vật Biện Chứng. Trên thực tế, đảng Cần Lao là một hình thức bao trùm kiểm soát trong mọi lãnh vực xã hội nhất là trong quân đội và các tổ chức hành chánh công quyền của miền Nam Việt Nam qua trung gian của những tổ chức riêng biệt của đảng để lãnh đạo quần chúng mà nổi bật hơn hết là Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia, Thanh Niên, Thanh Nữ Cộng Hòa, Cán Bộ Xây dựng Nông Thôn, Phụ Nữ Liên Đới . . . . Trong khi chờ thời cơ đúng lúc để ra mặt, Ông Diệm bôn ba ở hải ngoại, đi sang Hoa Kỳ rồi rút sang Âu Châu tạm trú ở Ý nơi một dòng tu Công Giáo ở Rome cho đến khi Ông nhận lời của quốc trưởng thành lập nội các Quốc Gia Việt Nam trong VSTK - 3863


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

chức vụ thủ tướng thay thế cựu thủ tướng hoàng thân Bửu Lộc trong giai đoạn cuối cùng của Hội Nghị Geneva về Đông Dương. C. Những khó khăn khởi đầu của Ông Diệm ở miền Nam Kể từ đầu mùa Xuân 1955, vị thế của thủ tướng Ngô Đình Diệm rất bắp bênh. Tình hình ở Việt Nam sau ngày xuất hiện bản Hiệp Định Geneva hết sức hỗn độn điển hình nhất là làn sóng di cư của những đồng bào Việt Nam từ trong vùng phía Bắc vĩ tuyền thứ 17 bằng mọi phương tiện tìm đương vào miền Nam Việt Nam. Cuộc di cư nầy được chính quyền Quốc Gia Việt Nam ở miền Nam cổ súy với sự đồng tình tiếp trợ một cách tích cực của Hoa Kỳ. Số lượng khổng lồ đồng bào Việt Nam di cư từ phía bắc xuống miền Nam vĩ tuyến thứ 17 đã vượt quá mức tưởng tượng của người Pháp và khiến cho tình hình chính trị của miền Nam càng thêm rắc rối khó khăn. Điểm số 6 trong bản Tuyên Bô Cuối Cùng kèm theo Hiệp Định Geneva ngày 21/07/1954 nói rằng: “Kể từ ngày Bản Hiệp Định Geneva nầy có hiệu lực cho đến khi cuộc tập kết quân sự được hoàn tất, bất cứ người dân nào ở trong một khu vực do bên nầy kiểm soát muốn dời sang sống trong khu vực đã được chỉ định cho bên kia thì chính quyền của bên nầy phải cho phép và giúp đỡ cho họ di chuyển đến bên kia.” Điều 2 của Hiệp Định Ngừng Bắn ấn định việc tập kết quân sự phải được hoàn tất trong vòng 300 ngày. Do đó làn sóng di cư của đồng bào từ miền Bắc Việt Nam để tị nạn CSVM cũng phải hối hả chạy đua với thời hạn chót của 300 ngày 19/05/1955. Trên thực tế, chính quyền Miền Nam Quốc Gia Việt Nam của thủ tướng Ngô Đình Diệm đang ở trong trạng cô thế ở ngay trung tâm Sài Gòn. Dân chúng miền Nam đã bị phân tán ngoài ý muốn của mình qua những năm tháng giặc giã triền miên với tình hình chính trị bất ổn chưa có lối thoát, với tình rạng quân đội Quốc Gia bị tùy thuộc vào ngoại bang, với sự quấy nhiễu của những giáo phái và tổ chức xã hội đen tự võ trang ở miền Nam tạo ra một tình trạng nghịch thường “ những quốc gia trong một quốc gia”. Trong khi đó thì quốc trưởng Bảo Đại vẫn cứ ở bên VSTK - 3864


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

Pháp tại ngôi lầu đài Thorenc để bị dư luận dân chúng và báo chí kết tội là kẻ ăn chơi cờ bạc trên sự đau khổ của người dân Việt Nam. Trên thực tế thì quốc trưởng Bảo Đại đã bị người Pháp khóa chân với lý do là nhân dân Việt Nam hiện giờ không muốn thấy sự hiện diện của Ông: người Pháp phải làm cho Hoa Kỳ vui lòng để Hoa Kỷ yểm trợ gián tiếp Ông Diệm. Những phần tử hợp tác, tay sai của chính quyền thực dân Pháp ở Sài Gòn công khai ra mặt chống đối uy quyền của thủ tướng Diệm. Khởi đầu là cơn sốt khủng hoảng xuất hiện từ trong hàng ngũ quân đội và Cảnh sát Công An của “Quốc Gia miền Nam” do tướng dân Tây Nguyễn Văn Hinh hiện giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng cấu kết với Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Công An Lại Văn Sang, một thủ hạ thân tín của Lê Văn Viễn trùm xã hội đen Bình Xuyên để âm mưu khởi phát một cuộc đảo chánh, hạ bệ Ông Diệm. Ngày 11/09/1954, qua tin tức tình báo của Hoa Kỳ ở Sài Gòn cung cấp, để phòng ngừa phản loạn từ quân đội của tướng Hinh nấm giữ với sự tán trợ ngầm của tướng Pháp Raoul Salan 219, Ông Diệm cắt cử tướng Hinh đi công cáng sang Pháp sáu tháng nhưng tướng Hinh không thi hành lệnh nầy. Ngày16/09/1054, các thủ lãnh giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo quyết định không hợp tác trong thành phần nội các của Ông Diệm220. Đích thân đầu lãnh Bình Xuyên Lê Văn Viễn đồng thời tuyên bố đại diện cho hai giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo đến gặp quốc trưởng Bảo Đại ở Cannes để yêu cầu cách chức Ông Diệm. Đồng thời tướng Hinh cũng gửi thư cáo giác đến quốc trưởng Bảo Đại là quân đội Quốc Gia miền Nam không chịu phục tùng Ông Diệm.221 D. Hoa Kỳ khởi sự gia tăng can dự vào Miền Nam QGVN 1- Thái độ lừng khừng của Hoa Kỳ đối với cá nhân Ông Diệm

Trong một công điện mật từ tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn ngày 23/07/1954 gửi về bổ Ngoại giao Hoa Thịnh Đốn, đại sứ Health báo cáo rằng thủ tướng Diệm đã nói với đương sự là chính quyền Quốc Gia ở miền Nam Việt Nam hiện đang phải đối diện VSTK - 3865


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26

27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37

với nhiều vấn đề cực kỳ khó khăn với khả năng giới hạn của con người nhưng Ông Diệm có nhiệm vụ phải giải quyết chúng với ý chí và niềm tin. Ông Diệm tuyên bố sẽ không có dự định từ nhiệm. Ông Diệm bảo rằng nếu Ông có được sự tin tưởng vào sự giúp đỡ và viện trợ của Hoa Kỳ thì số người đồng bào lánh nạn chế độ CS từ miền Bắc Việt Nam di cư vào miền Nam Việt Nam có thể lên đến một triệu, hai triệu người mà theo ý kiến của tướng Pháp cao ủy Đông Dương Ély thì nếu dự đoán nầy của Ông Diệm xảy ra thì Ông Diệm nhất định Ông Diệm sẽ đắc thắng trong cuộc tổng tuyển cử do Hiệp Geneva quy định trong vòng 2 năm sắp tới. Trong phần nhận định ở phần cuối của bức công điện, đại sứ Health viết như sau:222 “Cho đến khi nào bản chức nhận định được nhiều hơn về khả năng hành sự của Ông ta, bản chức không thể tin chắc được Ông Ngô Đình Diệm sẽ thành công trong việc lãnh đạo Quốc Gia tái thiết về mặt quân sự và chính trị để đối phó với vô số trở ngại mà Ông ấy đang gặp phải, trong đó có vấn đề đối phó với các nhóm sứ quân ngoài quân đội Quốc Gia như 2 giáo phái vũ trang Cao Đài, Hòa Hảo và bộ đội Bình Xuyên, đó là chưa kể đến các nhóm ly khai ở miền Nam. Ông Diệm đã tỏ ra can cường không chịu khuất phục trước các giáo phái, bè phái vừa kể và về mặt chính trị đã cẩn trọng không khiêu khích họ. Ông Diệm đã tỏ ra sáng trí không cách chức ngay tướng Nguyễn Văn Hinh tham mưu trưởng quân đội Quốc Gia Việt Nam khi khám phá được âm mưu đảo chánh của viên tướng nầy để chờ tìm được một viên tướng chỉ huy nồng cốt và những sĩ quan trung thành với Ông. Ông Diệm nổi tiếng là một nhân vật ngay thẳng, ái quốc và chân thật.” Comment: “Until I have had more observation of his performance, I cannot be certain that Ngo Dinh Diem will succeed in leading a national movement of military and political reconstruction against tremendous obstacles that face him, among which are war lord "confessional" groups of Cao Daists, Hoa Haos and Binh Xuyen, not to mention southern separatists. He has shown courage in not submitting to three sects named above and political prudence in not antagonizing them. He has shown good sense, I think, in not dismissing General Hinh, Chief of Staff of Vietnamese National Army, although he knows latter is not loyal to him, until he can find a competent successor and nucleus of loyal officers. He has national reputation for sincerity, nationalism and honesty…..”

VSTK - 3866


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31

32

33

34

35

36

37

38

39

Trong khi đó thì ở Paris, đại sứ Hoa Kỳ Dillon gặp mặt với Quốc Vụ Khanh của nội các Mendès France đặc trách 3 quốc gia Đông Dương Guy la Chambre vào ngày 27/07/1954 để thảo luận về tương lai của miền Nam Quốc Gia Việt Nam, đặc biệt là vấn đề viện trợ của Hoa kỳ. Trong cuộc thảo luận nầy G.la Chambre cho biết Bảo Đại nói với đương sự rằng đoàn quân Viễn Chinh của Pháp cần phải ở lại Việt Nam bởi vì nếu rút đi thì đây là một han vi của người Pháp bỏ rơi miền Nam Việt Nam. G. la Chambre còn cho rằng Ông Diệm đang tạo thêm nhiều rắc rối bằng sự khuấy động của nhóm đồng bào Công Giáo di cư từ miền Bắc Việt Nam và người dân bản xứ cùng với nhiều nhóm giáo phái miền Nam Việt Nam không muốn ủng hộ Ông Diệm, tức là theo ý của G. la Chambre thì không nên đặt Ông Diệm vào chức vụ thủ tướng. Ngoài ra, đương sự còn cho rằng chế độ phong kiến quan quyền của Bảo Đại không được lòng dân chúng nông thôn và do đó cần phải truất phế đi nhưng đương sự không cho biết phải truất phế Bảo Đại bằng phương cách nào: “ La Chambre then said that Diem constituted a certain problem as the bulk of his support came from the Catholic provinces of the north and Diem had very little support in the south and did not get along well with the various sects in that region. He said he felt that Diem shld remain as part of any govt that was formed because of his high moral standing and because he wld help with the Catholic population which remained in the north under Vietnam control. He clearly indicated, however, that he did not think that Diem was suitable to continue as prime minister. . . . . . “ “He then said that part of the difficulty in Vietnam came from the Bao Dai regime which was in effect a Mandarin regime and disliked by many of the peasants. Therefore, he felt the time had come to gradually ease Bao Dai out of the picture and create a truly democratic govt in south Vietnam. He offered no indications of just how the removal of Bao Dai cld be brought about. . . ..” 223

Công Điện Mật đề ngày 26/08/1954 của đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn gửi về Hoa Thịnh Đốn cho biết: - Phó tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương là Bordaz cho rằng cần phải thay thế Ông Diệm bởi một trong 2 cựu thủ tướng thân Pháp trước đây là Nguyễn văn Tâm hoặc Trần Văn Hữu vì trong nội các Ông Diệm có quá ít những phần tử người bản xứ miền Nam Việt Nam tham chính. - Sau đó đại sứ Hoa Kỳ đã khuyến cáo Ông Diệm cần nhanh VSTK - 3867


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

chóng nới rộng nội các với các nhóm giáo phái vũ trang ở miền Nam bởi vì Ông Diệm không thể trông cậy vào khả năng của một thiểu số nhân sự hiện nay trong chính quyền hiện tại cũng như sự khuấy động của một thiểu số quần chúng yêu nước cực đoan biểu dương đả đảo đòi người Pháp phải tức khắc rút ra khỏi miền Nam Việt Nam khiến cho dư luận thế giới nghĩ rằng Ông Diệm che chở cho họ chống Pháp chứ không phải chống CS Việt Minh. -Theo Ông Diệm thì các giáo phái vũ trang không muốn hợp tác với chính quyền của Ông là vì sự hiện diện của tướng dân Tây Nguyễn Văn Hinh trong chức vụ tư lệnh quân đội Quốc Gia Việt Nam. Ông Diệm đưa ý kiến là nên cho tướng Hinh đi công cán một thời gian ở hải ngoại. Đại sứ Hoa Kỳ nói rằng việc nầy Ông Diệm nên bàn luận thẳng với tướng Cao Ủy Đông Dương Paul Ély.224 2- Âm mưu lật đỗ thủ tướng Ngô Đình Diệm

Theo một công điện mật của tòa đại sứ Hoa Kỳ đánh đi từ Sài Gòn ngày 27/08/1954 thì âm mưu lật đỗ chính phủ Ngô Đình Diệm đã được chuẩn bị xong xuôi và sắp thực hiện thì phải ngưng lại vì có sự khuyến cáo của đại sứ Hoa Kỳ cứng rắn yêu cầu tướng Cao Ủy Ély và phụ tá Bordaz ngừng tay chờ Ông Diệm thương lượng với các giáo phái để nới rộng thành phần chính phủ Miền Nam Quốc Gia Việt Nam.225 Cũng theo công điện nầy thì có hai âm mưu khác nhau cùng một lúc nhắm vào Ông Diệm và nội các chính phủ của Ông: (i) Một âm mưu của các giáo phái vũ trang và bộ đội Bình Xuyên nhằm trước tiên phát động những cuộc biểu tình của dân chúng xuống đường đòi Ông Diệm từ chức rồi dựa vào những đòi hỏi nầy của dân chúng các giáo phái sẽ yêu cầu Ông Diệm từ chức. Nếu Ông Diệm không nghe theo lời yêu cầu nầy thì quốc trưởng Bảo Đại, do theo lời yêu cầu của các giáo phái qua sự đại diện của thủ lãnh Bình Xuyên, sẽ ra lệnh cách chức Ông Diệm và giải tán nội các của Ông. Phe âm mưu nầy không xác định ai là người của họ sẽ thay thế Ông Diệm nhưng họ đã yêu cầu tướng Cao Ủy Ély hãy đứng ngoài vòng tranh chấp không can dự vào hay theo một phe phái nào. VSTK - 3868


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

(ii) Theo âm mưu của người Pháp do tướng Cao Ủy Paul Ély chủ trương thì, sau khi hạ bệ Ông Diệm, cựu thủ tướng Nguyễn Văn Tâm- cha của tướng Hinh- sẽ thay thế Ông Diệm trong chức vụ thủ tướng kiêm tổng trưởng Nội Vụ và cựu thủ tướng Trần Văn Hữu sẽ là chủ tịch Quốc Hội. Sau lời khuyến cáo kiên quyết của đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn, tướng Cao Ủy Đông Dương Ély bảo rằng sẽ đồng ý chờ xem nhưng với điều kiện là Ông Diệm phải giao chức Tổng Trưởng Nội Vụ cho Nguyễn Văn Tâm nhưng đại sứ Hoa Kỳ nói rằng Ông Diệm sẽ khó có thể chấp nhận để cho hai cha con TâmHinh thao túng một cách hợp pháp nếu đặt ông Tâm trong chính quyền Quốc Gia ở miền Nam Việt Nam và quyền chỉ huy quân sự lại là Hinh đứng đầu. Mới đây, tướng Hinh còn muốn cấu kết với các Giáo phái vũ trang và Bình Xuyên để tiến hành âm mưu hạ bệ Ông Diệm. Rốt cuộc, Ély muốn thay thế Ông Diệm vì đương sự cho rằng Ông Diệm và nội các của Ông kém khả năng không có hiệu quả. Từ đây đến thượng tuần tháng 09/1954, đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn là bức tường trung gian ngăn chận các phe phái âm mưu đảo chánh lật đỗ Ông Diệm bằng cách dùng lá bài viện trợ của Hoa Kỳ cho Việt Nam sẽ bị cắt đứt nếu Ông Diệm bị hạ bệ đồng thời cũng khuyến cáo Ông Diệm phải cải tổ và nới rộng nội các. Kết quả là đợt song âm mưu đảo chánh Ông Diệm lần lần mất đi cường độ hung hảng. Tuy nhiên, tướng dân tây Nguyễn Văn Hinh vẫn chưa từ bỏ hẳn ý định dùng quân đội đảo chính Ông Diệm cho nên đã bí mật triệu tập một Hội Đồng Quân Đội Quốc Gia vào ngày 05/09/1954 bao gồm nhiều sĩ quan thuộc hạ của Hinh trong đó có 2 thuộc hạ thân tín là đại tá Lắm và đại tá Giai và một số tư lệnh quân sự từ nhiều tiểu khu. Tướng Hinh khích động các sĩ quan có mặt trong trong Hội Đồng Quân Đội Quốc Gia bằng cách tố giác tình trạng bất lực của chính quyền dân sự do Ông Diệm lãnh đạo và nói rằng đây là lúc quân đội phải có bổn phận đứng ra để cứu nguy đất nước. Sau đó tướng Hinh rời khỏi nơi hội họp để cho đại tá Lắm chủ trì việc bàn luận hạ bệ Ông Diệm

36

VSTK - 3869


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

nhưng cuối cùng Hội Đồng cũng phải giải tán vì không thể tìm ra phương hướng hành động thích đáng cho cuộc âm mưu đảo chính. Mật vụ của Ông Diệm đã khám phá ra được âm mưu phản loạn của nhóm quân nhân nầy. Ông Diệm đã ra lệnh cho bộ trưởng Quốc Phòng Lê Ngọc Chấn (thuộc VNQDĐ/ Việt Quốc) bắt và quản thúc tại gia 2 viên đại tá Lắm và Giai nhưng vẫn để yên cho tướng Hinh vì Ông Diệm sợ để lộ tung tích những nhân viên mật vụ trong hàng ngủ quân đội Quốc Gia Việt Nam. Khi gặp mặt tướng Hinh, Ông Diệm nói xa gần rằng Ông có đầy đủ bằng chứng ai là kẻ chủ mưu triệu tập Hội Đồng Quân Đội Quốc Gia ngày 05/09/1954 nhưng tránh không nói thẳng kẻ chủ mưu chính là tướng Hinh đang đối diện với Ông. Giữa lúc tranh luận câu chuyện, tướng Hình lên tiếng cắt ngang rồi đề nghị Ông Diệm để cho đương sự đi nghĩ phép 3 tháng ở ngoại quốc nhưng Ông Diệm lại đề nghị cho nghỉ phép 6 tháng và phải lên đường đi ngay. Sau đó Ông Diệm yêu cầu đại sứ Hoa Kỳ đến gặp và yêu tướng Ély thúc ép tướng Hinh lên đường ngay để sang Pháp nghỉ phép. Tướng Hinh không nhận ngay đề nghị của Ông Diệm nhưng hẹn trả lời vào sáng hôm sau 09/09/1954 nhưng không đúng hẹn. Ngày 07/09/1954, Pháp giao trả dinh Norodom/Dinh Độc Lập cho chính quyền Ngô Đình Diệm trong một buổi lễ trọng thể. Các Công sở được nghĩ.226 Ngày 08/09/1954, Ký kết Hiệp ước Manilla/Phi Luật Tân Tổ Chức Liên Phòng Đông Nam Á/ SEATO. Thành viên gồm có Pháp, Hoa Kỳ, Anh, Úc, Tân Tây Lan, Phi Luật Tân, Thái Lan và Hồi Quốc (Pakistan) 227 Ngày 10/09/1954/ thủ tướng Diệm ra lệnh tướng Hinh đến trình diện rồi nói thẳng âm mưu của tướng Hinh. Tướng Hinh cố tình chạy tội và nói rằng đương sự muốn đi nghĩ phép là vì Ông Diệm giam giữ hai thuộc hạ thân tín của đương sự. Ông Diệm tuyên bố ngưng chức tướng Hinh nhưng để tướng Hinh không bị mất mặt, Ông Diệm ký sự vụ lệnh cho đương sự đi công cán sang Pháp 6 tháng. Trước đó cùng trong ngày, thủ tướng Diệm đã bổ nhiệm tướng Nguyễn Văn Vỹ thay thế tướng Hinh nhưng VSTK - 3870


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

tướng Vỹ không nhận sựbổ nhiệm nầy. Ông Diệm phải lựa chọn đại tá Dương Văn Minh nhưng cũng bị từ chối. Rồ1t cuộc Ông Diệm phải chỉ định Tổng trưởng Quốc Phòng Lê Ngọc Chấn kiêm giữ chức Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội thay thế tướng Hinh.226 Ngày 17/09/1954, tướng Nguyễn Văn Xuân lại được thủ tướng Diệm miễn cưỡng giao chức vụ Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng theo lời cố vấn của đại sứ Hoa Kỳ Heath. 228 3- Vùng vẫy giữa vòng bao vây để sinh tồn 3.1- Nguyễn Văn Hinh, người Pháp và Quốc trưởng Bảo Đại, Các giáo phái võ trang và Bộ Đội Bình Xuyên

Lê Ngọc Chấn gặp Nguyễn Văn Hinh, để trao lệnh của thủ tướng Diệm yêu cầu Hinh rời Việt Nam ngay nhưng Hinh cực lực từ chối không chịu đi ngay. Trong khi đó thì một ký giả người Pháp tên Lucien Bodard cho đăng tin là tướng Hinh bị Ông Diệm cách chức một cách bất công oan ức vì tội âm mưu đảo chánh và tướng Hinh là nạn nhân vô tội. Bài báo nầy tới tai Ông Diệm và bộ Nội Vụ yêu cầu kiểm duyệt cắt bỏ nhưng Ông Diệm vẫn cho phép đăng vì chính sách tự do báo chính của chính phủ. Bài báo của Bodard khiến tung tích và hành động của tướng Hinh bị phơi bày trước dư luận quần chúng khiến cho tướng Hinh phẫn nộ cực điểm và hăm dọa sẽ có hành động đáp ứng thích đáng đối với Ông Diệm rồi ra lệnh cho hai xe bọc sắt và thêm nhiều binh lính án ngữ quanh tư dinh của mình để phòng ngừa phe Ông Diệm tấn kích đồng thời tướng Hinh cũng tiếp cận với Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo để liên minh hạ bệ Ông Diệm.229 Ngoài mặt, Pháp luôn luôn tỏ ra cho Hoa Kỳ thấy rằng họ không chấp nhận để cho tướng Hinh làm rối loạn chính quyền của Ông Diệm nhưng thực tế họ vẫn ngầm ủng hộ tướng Hinh và các nhân vật thân Pháp như hai cựu thủ tướng Nguyễn Văn Tâm, Trần Văn Hữu thay thế Ông Diệm. Trong suốt thời gian có cuộc tranh giành quyền Tổng Tư Lệnh quân đội Quốc Gia Việt Nam giữa Ông Diệm và tướng Hinh, đại sứ Heath và nhiều nhân vật khác nhau từ tòa Đại Sứ VSTK - 3871


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

Hoa Kỳ ở Sài Gòn đã can thiệp với các chức quyền quân sự Pháp ở Việt Nam yêu cầu họ ngăn chận mọi âm mưu đảo chánh của tướng Hinh. Tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn cũng tiếp xúc thẳng với tướng Hinh để dàn xếp những mối bất đồng giữa tướng Hinh và Thủ tướng Diệm nhưng tướng Hinh vẫn tiếp tục thực hiện tham vọng quyền bính quân sự của mình. Cũng vào lúc nầy, quốc trưởng Bảo Đại đánh điện chấp thuận việc Ông Diệm cắt cử tướng Hinh đi công cán sang Pháp. 230 Được biết trước đó không lâu, quốc trưởng Bảo Đại từ Cannes đã thông báo với quốc vụ khanh đặc trách 3 quốc Gia Đông Dương DeJean ý định thay thế thủ tướng Ngô Dình Diệm. Khi được tướng Ély cho biết việc nầy, đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn đã yêu cầu tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Paris đánh tiếng khuyến cáo quốc trưởng Bảo Đại rằng cất chức thủ tướng Diệm vào lúc nầy là một sự sai lầm nghiêm trọng.231 Để có thể tiếp tục hưởng viện trợ của Hoa Kỳ ở Đông Dương, chính quyền người Pháp ở Đông Dương và chính phủ Pháp ở Paris đã áp dụng chính sách kẻ tung người hứng đối với với thủ tướng Diệm nhưng họ luôn ngầm hổ trợ cho những phe phái người Việt Quốc Gia thân Pháp hạ bệ Ông Diệm. Qua một cuộc hội đàm với tướng Cao Ủy Đông Dương P. Ély, đại sứ Hoa Kỳ Heath cho biết rằng lãnh tụ Bình Xuyên Lê Văn Viễn đã họp báo ở Paris vào ngày 17/09/1954 để tuyên bố cần phải có một chính phủ Miền Nam thân thiện với người Pháp. Điều nầy khiến cho đại sứ Hoa Kỳ tin rằng tướng Ély ở Đông Dương, và Bộ Quốc Vụ Khanh đặc trách 3 quốc gia Đông Dương của chính phủ Mendès France ở Paris muốn khai trừ thủ tướng Diệm. Tướng ÉLy còn nói rằng tướng Lê văn Viễn đã mang theo một bao lớn tiền của, vàng bạc sang Cannes để hối lộ quốc trưởng Bảo Đại truất phế Ông Diệm .232 Ngày 18/09/1954, tướng Lê Văn Viễn từ Cannes trở về Sài Gòn. Ngày 21/9/1954 tướng Viễn triệu tập những chức sắc đầu não của các Giáo phái Hòa Hảo, Cao Đài và tổ chức Công Giáo vũ trang cùng với tướng Hinh đến hành dinh của đương sự lập kiến nghị yêu cầu thủ tướng Diệm từ chức. Đồng thời tướng Viễn cũng phái thuộc hạ đến gặp để hăm dọa tướng Xuân và VSTK - 3872


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

những thành viên trong nội các của Ông Diệm phải tự động rời bỏ nhiệm vụ của họ. Trong khi đó thì tòa Đại sứ Hoa Kỳ được mật báo rằng tướng Hinh sẽ thực hiện một cuộc đảo chính vào ngày 21/09/1954, ra lệnh quân lính dưới quyền bao vây dinh Độc Lập.233 Để xoa dịu và ổn định tình thế căn thẳng giữa Ông Diệm và tướng Hinh, đại sứ Hoa Kỳ Ở Sài Gòn phái tướng O’ Daniel và tùy viên cố vấn Kidder đi gặp tướng Hinh vào ngày 19/09/1945 để được tướng Hinh xác định thái độ dứt khoác đối với Ông Diệm: tướng Hinh nhất quyết Ông Diệm phải rời khỏi ghế thủ tướng hoặc phải cải tổ nội các trong đó Ông Diệm chỉ được giữ một vai trò hư vị tượng trưng và tướng Hinh phải là Tổng tư lệnh quân lực Quốc Gia Việt Nam ở miền Nam. Nếu không được như thế, tướng Hinh hăm dọa, các giáo phái vũ trang sẽ đứng ra sách động dân chúng biểu dương tại thành phố Sài Gòn và vào ngày mai 20/09/1954sẽ có 3 bộ trưởng trong nội các của Ông Diệm tự ý từ chức.234 Ngày 21/09/1954, dân chúng biểu tình ở Sài Gòn, xô xát với cảnh sát khiến có 2 người chết và một số bị thương. Theo Đoàn Thêm thì đám biểu tình nầy đòi chính quyền Ông Diệm phải đưa họ trở ra miền Bắc.235 Đồng thời nội các của Ông Diệm cải tổ nới rộng với nhiều nhân vật thuộc các giáo phái vũ trang tham chính như tướng Trần Văn Soái của Hòa Hảo, tướng Nguyễn Thành Phương của Cao Đài giữ chức vụ Quốc Vụ Khanh, Ủy Viên Quốc Phòng. Ông Diệm là thủ tướng kiêm giữ Nội Vụ và Quốc Phòng, đại tá Hồ Thông Minh giữ chức vụ thứ trưởng Quốc Phòng và một số tín đồ Đảng Dân Xã Hòa Hảo được bổ nhiệm, vào các vị trí chính phủ như Huỳnh Văn Nhiệm (Tổng Trưởng Nội Vụ). Lương Trọng Tường (Tổng Trưởng Kinh Tế), Nguyễn Công Hầu (Tổng Trưởng Canh Nông).236 Ngày 24/09/1954, tòa đại sứ Hoa Kỳ nhận được báo cáo tướng Xuân tự ý từ chức Tổng Quốc Phòng bởi vì, theo như đương sự tuyên bố với thủ tướng Diệm, quốc trưởng Bảo Đại đã chấp thuận lời yêu cầu tướng Hinh đã quyết định giao cho tướng VSTK - 3873


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

Xuân thành lập nội các mới. Tướng Xuân còn nói rằng tướng Hinh sẽ họp báo vào 1 giờ trưa hôm nay để phổ biến tin tức nầy và tướng Viễn sẽ tổ chức quần chúng xuống đường biểu tình đã đảo chính phủ của Ông Diệm nhất là nhắm vào các thành phần giáo phái vũ trang hợp tác với Ông Diệm. Tuy nhiên tướng Xuân không trưng dẫn được một cách minh bạc chứng cớ nào để cho thấy quốc trưởng đã quyết định như thế qua trung gian tướng Hinh. Tướng Hinh không có mặt trong buổi họp báo như tướng Xuân đã tuyên bố và chỉ có một mình tướng Xuân đã tung tin cho báo chí biết về quyết định của quốc trưởng Bảo Đại chỉ định đương sự thành lập nội các mới.237 Cùng trong ngày nầy, thủ tướng Diệm cải tổ nội các trong đó có tướng Hòa Hảo Trần Văn Soái và tướng Cao Đài Nguyễn Thành Phương giữ chức Quốc Vụ Khanh Ủy Viên Quốc Phòng. Thủ tướng Diệm kiêm giữ hai bộ Nội Vụ và bộ Quốc Phòng và Hồ Thông Minh giữ chức Phụ Tá Quốc Phòng. 237bis 3.2- Quyết tâm của Hoa Kỳ ủng hộ thủ tướngDiệm

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

Quyết tâm của Hoa Kỳ ủng hộ Ông Diệm đã được thực hiện qua sự nhận định rằng Pháp rất không thực tâm trong việc hỗ trợ cho Ông Diệm. Lúc nầy là lúc nước Pháp đang bị bối rối về sự chia rẽ chính trị nội bộ, và gặp khó khăn nghiêm trọng về vấn đề Algeria- một thuộc địa của Pháp ở Bắc Phi - đang nổ ra chiến tranh công khai với Pháp tháng 11-1954 cho nên Pháp rất miễn cưỡng trong việc giúp đỡ cho Quốc gia Việt Nam. Sự chống đối Ông Diệm trong những người Pháp theo thuyết “chung sống hoà bình” của Mendès France cũng rất mạnh. J.R. Leygues, Cố vấn Liên hiệp Pháp, được coi như là một kẻ trong “nhóm tham mưu” về Đông Dương của Mendès France, đã nói với Đại sứ Dillon là những vụ tiếp xúc của Pháp ở Hà Nội cho Paris thấy là Nam Việt Nam đã suy vi và biện pháp duy nhất có thể cứu vãn được một cái gì đó là phải chịu đi chung với CSVM và tìm cách lôi kéo họ khỏi sự ràng buộc của Cộng sản Quốc Tế để hy vọng tạo ra được một CSVM theo kiểu Cộng Sản Nam Tư của Tito có thể cộng tác với Pháp và thậm chí có khả năng tham gia Khối Liên hiệp Pháp. R. Leygues cho biết Pháp đã trì hoãn không đáp lại những sự mong muốn của Hoa Kỳ về việc ủng hộ chính phủ ở Sài Gòn, VSTK - 3874


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

chẳng qua là chỉ nhằm để lấy thêm tiền cho đội quân viễn chinh Pháp và đỗ tội cho Hoa Kỳ trách nhiệm về việc có thể để mất Nam Việt Nam. 238 Những ý nghĩa này đã làm náo động các nhà làm chính sách của Hoa Kỳ và ngày 24-10-1954, Tổng thống Eisenhower đã gửi cho Diệm một bức thư, thông báo rằng Mỹ sẽ cung cấp việc trợ kinh tế và quân sự trực tiếp cho miền Nam Quốc Gia Việt Nam do Ông Diệm lãnh đạo nội các chính phủ. 239 Việc chuyển nguồn tài chính hỗ trợ to lớn của Hoa Kỳ từ Pháp sang thẳng cho người Việt Nam đã làm cho Pháp suy thoái thảm hại khiến cho Pháp phải lớn tiếng kêu ca về vai trò mở rộng của Mỹ. Nước Pháp đã chẳng chịu chấp nhận bị loại trừ một cách êm xuôi, nên qua mùa thu 1954, quan hệ Mỹ Pháp đã xấu đi thậm tệ. Đại sứ Bonnet ở Washington tỏ lời oán trách ngoại trưởng Hoa Kỳ Dulles là bức thư của Tổng thống Hoa Kỳ đã quá nới lỏng cho Ông Diệm mà không có điều kiện tiên quyết là Ông Diệm phải lập được một chính phủ mạnh và ổn định. Bonnet nói thêm, bức thư có thể là một sự vi phạm cuộc đình chiến và CSVM sẽ lợi dụng điều đó. Đến khi đại sứ Dillon ở Pháp nêu ra vấn đề ở Bộ Ngoại giao Pháp là Pháp đã chẳng có gì gọi là ủng hộ Ông Diệm đúng mức cần thiết phải có khiến Bộ trưởng các nước Liên Hiệp thất vọng. Guy la Chambre nổi giận nói rằng đây không phải chỉ là một sự xuyên tạc, mà là một lời phỉ báng trực tiếp đối với tướng Cao Ủy Đông Dương Ély, Chính phủ ở Paris, và danh dự của nước Pháp; cá nhân La Chambre tin rằng Diệm đang đưa Nam Việt Nam tới thảm hoạ nhưng đương sự vẫn ủng hộ Diệm: “Chúng tôi muốn chịu thất bại ở Việt Nam cùng với người Mỹ hơn là thắng ở đó mà không có họ… Chúng tôi sẽ ủng hộ Diệm, dù cho biết rằng Diệm đang đi tới thất bại, và qua đó gìn giữ sự đoàn kết Pháp - Mỹ hơn là gây chuyện với ai đó có thể giữ Việt Nam lại trong thế giới tự do nếu điều đó có nghĩa là phải phá vỡ mối đoàn kết Pháp - Mỹ”.240 La Chambre nói rằng Hoa Kỳ nên để cựu thủ

tướng thân Pháp Nguyễn Văn Tâm giữ chức chức Tổng trưởng Bộ Nội Vụ vì nhân vật nầy biết cách đối phó với CSVM, nhưng Hoa Kỳ bát bỏ đề nghị nầy. (M. La Chambre said he was personally convinced

35

Diem was leading South Vietnam to disaster but would still support him:We prefer to lose

36

in Vietnam with the U.S. rather than to win without them . . . we would rather support

37

VSTK - 3875


1

Diem knowing he is going to lose and thus keep Franco-U.S. solidarity than to pick

2

someone who could retain Vietnam for the free world if this meant breaking Franco-U.S.

3

solidarity.)

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

Ngày 03/11/1954, Tòa Bạch Ốc đã đưa đưa ra thông cáo về công tác điều phối những chương trình viện trợ của Hoa Kỳ cho miền Nam Quốc Gia Việt Nam với sự cử nhiệm tướng Collins làm sứ thần đặc nhiệm sang ngay Việt Nam để thanh xét và phối hợp với đại sứ Hoa Kỳ Health tổ chức viện trợ của Hoa Kỳ cho miền Nam Quốc Gia Việt Nam.241 Song song với những dấu hiệu của phía Hành Pháp Hoa Kỳ đang có chiều hướng tích cực ủng hộ Miền Nam Quốc GiaViệt Nam do thủ tướng Diệm lãnh đạo, Quốc Hội Hoa Kỳ cũng đã có khuynh hướng thuận lợi đối với chính quyền của Ông Diệm xuyên qua bản phúc trình của thượng Nghị sĩ Mike Mansfield trước Ủy Ban Ngoại Giao Thương Viện Hoa Kỳ ngày 15/10/1954. Sau một chuyến du hành tìm sự thật ở miền Nam Quốc Gia Việt Nam, thượng nghị sĩ Mansfield phát biểu rằng Ông Diệm là nhân vật thích hợp để nắm chính quyền miền Nam Quốc Gia Việt Nam ở Sài Gòn. Vấn đề ở đây không phải là cá nhân bất toàn của Ông Diệm nhưng chính là chương trình của Ông ấy chủ xướng đang phản ảnh một chế độ Quốc Gia độc lập chân chính nhằm đương đầu một cách hiệu lực với tệ nạn tham nhũng và cãi thiện hiện tình an sinh nội bộ hiện đang bị phá hoại và làm tê liệt bởi âm mưu của các phe phái đối lập bên ngoài cũng như bên trong nước. Từ 2, 3 năm trước đây hằng khối nhân vật chính trị ở Sài Gòn đã không thành công. Nếu một mai Ông Diệm bị hạ bệ thì sẽ khó có thể người khá hơn Ông để thay thế. Bất cứ một âm mưu thay thế nào xảy ra vào lúc nầy thì chỉ có thể xảy ra dưới hình thức của một hành động độc tài quân phiệt xuyên qua âm mưu cấu kết, đòi hỏi đặc quyền đặc lợi của những đảng, phe nhóm hiện đang chống đối chính quyền hiện tại. Cuối cùng Mansfield kết luận rằng, nếu Ông Diệm bị hạ bệ thì Hoa Kỳ phải ngưng ngay viện trợ cho Việt Nam và các lực lượng quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương.242 3.3- Tướng Nguyễn Văn Hinh ra đi

Ngày 10/11/1954, Thủ tướng Diệm thông báo cho đại sứ VSTK - 3876


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

Hoa Kỳ ở Sài Gòn biết rằng quốc trưởng Bảo Đại đã ra chỉ thị cho tướng Hinh sang ngay Cannes trình diện quốc trưởng. Chỉ thị nầy gửi đến tướng Hinh hai bản: một qua trung gian của bộ Quốc Phòng và một qua trung gian của Văn Phòng Vương Tộc nhà Nguyễn ở Sài Gòn nhưng tướng Hinh đã thông báo cho Ông Diệm biết là đương sự không tuân lệnh của quốc trưởng Bảo Đại để rời khỏi Việt Nam ngay. Đại sứ Hoa Kỳ cho rằng thủ tướng Diệm cần nên tìm cách để tướng Hinh ra đi một cách danh dự mặc dù hiện tại đương sự là một trở ngại cho chính quyền miền Nam nhưng có thể sẽ là một nhân vật hữu dụng trong tương lai. Tướng ÉLy cũng đồng ý với đại sứ Hoa Kỳ là tướng Hinh cần phải thi hành ngay chỉ thị của quốc trưởng Bảo Đại. Ngày 11/11/1954 đại sứ Heath gặp tướng Hinh. Tướng Hinh đã thẳng thắng phê phán Ông Diệm như sau: - Không có khả năng lãnh đạo hữu hiệu. - Không thể tổ chức được những cơ cấu hạ tầng và những chương trình thiết yếu để ngăn chận CS xâm nhập và nằm vùng nhất là tại các vùng nông thôn và ngoại ô các thành phố. - Chỉ có quân đội có kỹ luật, có tổ chức, có phương tiện để định hướng cho người dân quay lại với chính quyền Quốc Gia. - Quân đội dưới quyền tư lệnh của tướng Hinh đã đứng ra giúp đỡ dân chúng ở nhiều tỉnh và rất được dân chúng ủng hộ. Theo Hinh thì quân đội trong thời bình cần phải giúp dân như thế thì sẽ rất có lợi cho chính quyền. - Hinh đề cặp tới những nhóm dân sự cấp đại đội gồm khoản 100,000 dân chính tình nguyện không trả lương, đa số là dân lao động dưới quyền kiểm soát của cục Tâm Lý Chiến quân đội đang hoạt đông giúp dân như thế và lực lượng dân chính nầy đã khiến cho chính quyền Ông Diệm lo lắng họ sẽ nổi dậy làm cách mạng lật đỗ chính quyền. - Tướng Hinh tuyên bố rằng nếu muốn là cách mạng lật đỗ thì dương sự đã làm từ trước, hoặc ngay ngày hôm nay nếu muốn nhưng vì lợi ích của nhân dân cho nên đương sự chưa thực hiện. . . . . - Đương sự muốn chứng tỏ cho thế giới thấy là sự bất lực Ông Diệm đã gây ra tình trạng căng thẳng giữa hai người. VSTK - 3877


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

- Tình trạng căng thẳng nầy cần phải chấm dứt ngay nếu không thì Việt Nam sẽ mất chỉ trong vòng một vài tháng. - Chỉ có hai lựa chọn để hạ bệ Ông Diệm: (1) Hoặc là do quốc trưởng Bảo Đại cách chứ Ông Diệm hoặc (2) là qua một cuộc đảo chính do chính đương sự thực hiện. - Chẳng qua là vì có yếu tố ngoại lai can thiệp vào cho nên đương sự chưa thể hạ bệ Ông Diệm. Tuy nhiên nếu Ông Diệm còn được ngồi ở đó thì Ông Diệm cần phải cộng tác với nhiều thành phần của xã hội nhất là với quân đội. - Tướng Hinh thừa nhận rằng Việt Nam cần đến viện trợ của Hoa Kỳ nhưng nếu viện trợ nầy rơi vào tay của kẻ không đủ khả năng thì sẽ bị thảm bại và nếu như thế thì thà chẳng cần có viện trợ. - Đại sứ Hoa Kỳ khuyến cáo tướng Hinh nên tuân theo chỉ thị của quốc trưởng để lên đường ngay và chiêu dụ rằng Hoa kỳ sẽ không làm điều gì để hạ giá trị và uy thế của tướng Hinh đối với quân đội trong lúc tướng Hinh vắng mặt. - Đại sứ Hoa Kỳ nói rằng nếu tướng Hinh không tuân thủ lệnh của quốc trưởng mà ở lại làm đảo chánh thì chắc chắn là Hoa Kỳ sẽ cắt viện trợ. -Đại sứ Hoa Kỳ cho Tướng Hinh biết là tướng Pháp Alexandri theo lời yêu cầu của quốc trưởng Bảo Đại đã trở qua Sài Gòn để nhận định tình hình và đề nghị rằng nội các của Ông Diệm cần nới rộng với hoàng thân Bửu Lộc là phó thủ tướng, Lê Kiểu của Bình Xuyên hoặc Nguyễn Văn Tâm giữ bộ Nội Vụ và Hồ Thông Minh giữ bộ Quốc Phòng. Đại sứ Hoa Kỳ cam đoan với tướng Hinh rằng sẽ dùng mọi khả năng khi gặp thời cơ để khuyến cáo thủ tướng Diệm nới rộng nội các. - Theo nhận xét của đại sứ Hoa Kỳ thì tướng Hinh là người thẳng thắng, có tư cách và có khả năng nhưng vẫn còn non trẻ, háo thắng và nhiều tham vọng. Tuy nhiên con người nầy có thể hữu dụng trong tương lai nếu biết phát uy năng lực xây dựng của đương sự. 243 Ngày 13/11/1954, đại sứ Heath lại đi dự buổi diễn thuyết của tướng Hinh mặc dù thủ tướng Diệm phản đối việc nầy. Sau -

VSTK - 3878


1

2

3

4

5

6

7

đó tướng Hinh cho đại sứ Heath biết là đương sự dự định vào ngày 18/11 1954 sẽ lên đường sang Pháp.244 Ngày 14/11/1954, đại sứ Heath chấm dứt nhiệm vụ ở Việt Nam. Trong khi chờ đợi một đại sứ mới, tùy viên đại sứ Kidder xử lý thường vụ tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn.245

8

3.4- Biên Bản Thỏa Thuận Collins-Ély và bế tắt giữa Hoa Kỳ-Pháp

9

-

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

Biên Bản Thỏa Thuận Collins-Ély:

Theo tài liệu mật của Lầu Năm Gốc Hoa Kỳ thì từ lúc khởi đầu, kế hoạch hành động của Hoa Kỳ dựa trên trên 3 giả định: (i) Ông Diệm có thể khuyến dụ để chấp nhận những đề xuất của Hoa Kỳ, (ii) tướng Hinh cần phải tuân phục chính phủ dân sự, (iii) và người Pháp trên tất cả đẳng cấp sẽ chịu hợp tác với Hoa Kỳ. Nhưng mọi sự đều không xảy ra như giả định của Hoa Kỳ. Do đó Hoa Kỳ áp dụng một sách lược khác bằng cách đặc phái tướng J.Lawton Collins, một thành viên trong Ủy Ban Quân sự trong tổ chức NATO, sang Việt Nam vào ngày 08/11/1954 với nhiệm vụ của một Đại sứ để phối hợp với tướng Cao Ủy Đông Dương P.Ély trong việc phát thảo chương trình viện trợ của Hoa Kỳ cho miền Nam Quốc Gia Việt Nam. Sách lược nầy của Hoa Kỳ đã bị tướng Cao Ủy Đông Dương Ély phản đối ngay vì cho rằng đây là bước đầu trong âm của Hoa Kỳ nhằm loại trừ Pháp ra khỏi Đông Dương. Tuy nhiên sau đó Ély lại thỏa thuận hợp tác chặt chẽ với Collins để ký kết một dự thảo vào ngày 13/12/1954 ấn định chương trình viện trợ 7 điểm về chính trị, quân sự và kinh tế mà theo đó Pháp sẽ giao toàn quyền quân đội Quốc Gia cho chính quyền Quốc Gia Việt Nam ở miền Nam vào ngày 01/07/1955 và Hoa Kỳ sẽ hoàn toàn gánh nhận công tác huấn luyện binh đội Quốc Gia Việt Nam kể từ tháng 01/1955 và đoàn quân viễn chinh Pháp vẫn tiếp tục ở lại miền Nam Việt Nam với một đề nghị Ngân khoản viện trợ của Hoa Kỳ cho đến tháng 12/1955 là 100 triệu đô la.246 Chính phủ Pháp ở Paris không hài lòng với thỏa ước tạm thời Collins-Ély vì huấn luyện viên của Pháp bị loại ra khỏi VSTK - 3879


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

chương trình huấn luyện quân sự cho quân đội Quốc Gia Việt Nam và cũng không thỏa mãn với ngân sách tài trợ 100 triệu đô la trong bản thỏa ước tạm nầy. Mãi cho đến ngày 11/02/1955 thì bản tạm ước Collins-Ély mới được Pháp-Hoa Kỳ xem như là có hiệu lực trên mặt giấy tờ sau khi số ngân khoản viện trợ của Hoa Kỳ được tăng lên đến 214.5 triệu đô la với điều kiện là các huấn luyện quân sự cho quân đội QGVN sẽ do Hoa Kỳ cùng với Pháp đảm trách và sẽ cùng chấm dứt nhiệm vụ nầy khi quân đội Quốc Gia Việt Nam bắt đầu vững mạnh. Ngay ngày hôm sau 12/02/1955 tướng Hoa Kỳ O’Daniel nhận trách nhiệm huấn luyện các lực lượng quân đội Quốc Gia Việt Nam song song với sự thành lập Ủy Ban Phối Hợp và Huấn Luyện (TRIM/Training Relations and Instruction Mission).247 -

Bế tắt giữa Hoa Kỳ-Pháp về thủ tướng Ngô Đình Diệm

Giải quyết những vấn đề viện trợ quân sự chính yếu ở Việt Nam từ bên trong nội bộ của chính phủ Hoa Kỳ cũng như từ mối liên hệ giữa chính phủ hai nước Pháp-Hoa Kỳ đã được hoàn thành một cách suông sẻ hợp lý. Tuy nhiên khác biệt về mặt chính trị thì không thể giải quyết một cách tương tựa như thế. Vấn đề ở đây là ủng hộ hay hạ bệ Ông Diệm. a/ Đối với chính phủ Pháp ở Paris: Ông Diệm không thích hợp trong trách vụ lãnh đạo guồng máy quyền lực hiện nay của miền Nam Quốc Gia Việt Nam. Vào đầu tháng 12, trước khi có hội nghị các ngoại trưởng Anh, Pháp, Hoa Kỳ gặp nhau ở Paris vào ngày 19/12/1954, thủ tướng Pháp Mendès France đã có lập trường dứt khoác rằng đã đến lúc phải thay đổi bằng 2 cách: (i) hoặc là quốc trưởng Bảo Đại cắt cử một “Tổng Đốc” toàn quyền hành động giống như là một quốc trưởng nhằm tập hợp các phần tử đấu tranh chính trị. Những ứng viên thích hợp cho chức chưởng Tổng Đốc nầy có thể là Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm hay bác sĩ Phan Huy Quát. (ii) hoặc là quốc trưởng Bảo Đại trở về Sài Gòn ngay để thành lập một nội các mới trong đó Trần Văn Hữu là thủ tướng, Nguyễn Văn Tâm giữ bộ Nội Vụ và Phan Huy Quát giữ bộ Quốc Phòng Pháp muốn hạ bệ Ông Diệm vì nhiều lý do: trước hết là VSTK - 3880


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

vì Ông Diệm căm ghét hằn học với người Pháp và hiệu ứng chống Cộng Sản của Ông Diệm tạo ly gián trong nội bộ chính trị của nước Pháp. Kế đến là vì thái độ của Hoa Kỳ tự cho mình như là người bạn duy nhất của những người chống Cộng Sản ở Việt Nam. Nhưng Hoa Kỳ chỉ tiếp thu những lời cảnh cáo của Pháp cho rằng Ông Diệm đã và sẽ bất lực trong việc thống nhất những người Quốc gia và mang lại sự ổn định cho miền Nam Quốc Gia Việt Nam.248 b/ Đối với tướng J. Collins: Viên tướng nầy cho rằng Ông Diệm không thể lãnh đạo miền Nam Quốc Gia Việt Nam. Từ khởi đầu công vụ của mình, tướng Collins đã hoài nghi Ông Diệm; vào tháng 12/1954, đương sự tin chắc rằng chính phủ Hoa Kỳ cần có biện pháp thích đáng sau khi thủ tướng Diệm từ chối không chịu giao bộ Quốc Phòng cho bác sĩ Phan Huy Quát. Tướng Collins và đại tá mật vụ Hoa Kỳ Lansdale đều khuyến cáo Ông Diệm nên cắt cử Ông Quát vào chức vụ tổng trưởng Quốc Phòng với lý do là chỉ cần có Ông Quát thì cũng đủ mạnh để đoàn kết quân đội Quốc Gia Việt Nam. Ngày 13/12/1954, tướng Collins đưa ra những lý do khiến đương sự đối lập với Ông Diệm: (1) Ông Diệm không có hảo ý để giao quyền kiểm soát quân lực cho một nhân vật có mạnh; (2) Ông Diệm lo sợ Ông Quát sẽ chiếm địa vị thủ tướng; (3) Ông Diệm đối lập với các giáo phái vũ trang và Bình Xuyên nhất là cũng sợ phải có một nhân vật mạnh giữ bộ Quốc Phòng; (4) Ông Diệm chịu ảnh hưởng của Ông Nhu và Ông Luyện không muốn chia xẻ quyền lực với bởi bất cứ một nhân vậ nào có khả năng đảm nhận chức vụ thủ tướng; (5) Ông Diệm tham quyển cố vị. Từ đó, J. Collins đề nghị tiếp tục ủng hộ Ông Diệm một thời gian ngắn nữa theo mức hạn viện trợ hiện thời của Hoa Kỳ mà không can dự thêm bất cứ chương trình đặc biệt nào của Hoa Kỳ cho chính phủ của Ông Diệm. Hoa Kỳ cần cứu xét ngay việc dự định đưa quốc trưởng Bảo Đại trở về Việt Nam. Nếu qua một thời gian tiếp tục mà Ông Diệm không có hành động nào thay đổi đáng kể thì Hoa Kỳ cần phải ủng hộ đưa quốc trưởng Bảo VSTK - 3881


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

Đại về nước ngay. Tuy nhiên, nếu chính phủ Hoa Kỳ không đồng ý giải pháp Bảo Đại trở về Việt Nam và Ông Diệm vẫn tiếp tục bất lực trong việc đoàn kết những thành phần người miền Nam Tự Do chống Cộng Sản thì Hoa Kỳ phải cần xét lại những kế hoạch viện trợ của Hoa Kỳ ở vùng Đông Nam Á dựa trên đề nghị trước đây vào ngày 13/12/1954 của đương sự tức là Hoa Kỳ sẽ từ từ rút lui sự can dự vào Việt Nam.249 c/ Đối với Bộ Ngoại Giao của Hoa Kỳ Theo nhận định của bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thì hiện nay chưa có ai có khả năng hơn Ông Diệm dể đảm nhận chức vụ thủ tướng chính quyền miền Nam Quốc Gia Việt Nam. Các chức quyền bộ Ngoại Giao đồng ý đề nghị của tướng Collins tạm ngưng mọi chương trình viện trợ đặc biệt cho Việt Nam nhưng không cho rằng giải pháp Bảo Đại theo Collins đề nghị là thích đáng để hạ bệ Ông Diệm vào thời điểm nầy. Cựu đại sứ Heath ở Việt Nam hiện nay đang là ủy viên trong Cục Viễn Đông Sự Vụ của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ở Hoa Thịnh Đốn đã đưa ra một Giác thư phê phán lập trường hấp tấp của tướng J. Collins chủ trương phải có một giải pháp ngưng ngay tức khắc viện trợ của Hoa kỳ cho Việt nam hoặc tiếp tục viện trợ cho một chính quyền bất toàn khác của miền Nam . Lập trường nầy của tướng Collins có nguy cơ tiếp tay thêm cho CS miền Bắc thôn tính miền Nam một cách nhanh chóng. Theo quan điểm của Heath thì trong khi chưa có giải pháp chính trị nào thực sự hữu dụng cho miền Nam thì Hoa Kỳ sẽ vẫn phải tiếp tục ủng hộ Ông Diệm bởi gì hiện nay chẳng có ai khác có thể hành động phù hợp và tốt hơn đối với những mục tiêu của Hoa Kỳ, kể cả giải pháp Bảo Đại, bởi vì nhân vật nầy không được nhân dân ủng hộ và trong quá khứ đã tỏ ra bất lực trong vai trò lãnh đạo đất nước Việt Nam.250 d/ Hội Nghị tay ba Anh, Pháp, Hoa Kỳ 09/12/1954 Trong hội nghị nầy, thủ tướng Pháp lặp lại sự thỏa thuận giữa Pháp-Hoa Kỳ trước đây sẽ hợp lực tối đa để yểm trợ Ông Diệm thành công trong nhiệm vụ lãnh đạo miền Nam Quốc Gia Việt Nam nhưng sự yểm trợ như thế đến nay đã không hiệu nghiệm gì cả vì thái độ tiêu cực của Ông Diệm không có một VSTK - 3882


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

dấu hiệu nào muốn cải tổ thành phần nội các chính phủ hiện nay. Vì vậy Pháp và Hoa Kỳ cần phải dự trù ngay một nhân vật khác thích ứng hơn Ông Diệm. Ngoại trưởng Dulles không cho rằng giải pháp thay thế Ông Diệm bây giờ qua giải pháp Bảo Đại hay giải pháp “Tổng Đốc” là thượng sách mà chỉ cần tạo áp lực nhiều hơn để Ông Diệm nới rộng thành phần nội các chính phủ miền Nam Quốc Gia Việt Nam đồng thời cũng đồng ý với thủ tướng Pháp là trao cho tướng Collins và tướng Cao Ủy Đông Dương Ély tìm một giải pháp thích đáng bao gồm giải pháp Bảo Đại để dự phòng đối phó với tình hình tiếp tục giậm chân tại chỗ của chính phủ Ông Diệm. Tuy nhiên Ngoại trưởng Hoa Kỳ không đồng ý là phải giới hạn thời gian để cho thủ tướng Diệm cãi thiện nội các hiện tại như Pháp đề nghị.251 4- Cuộc Binh biến mùa Xuân 1955 ở Đô Thành Sài Gòn-Chợ Lớn - Những bước đầu cãi thiện ở miền Nam Việt Nam

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

Ngày 01/12/1954, thiếu tướng Lê Văn Tỵ được cử thay thế tướng Hinh trong chức vụ Tham Mưu Trưởng Quân Đội Quốc Gia Việt Nam. Ngày 17/12/1954, Bùi Kiện Tín từ chức bộ trưởng phủ Thủ Tướng. Trần Trung Dung thay thế. Đồng thời Phụ tá Quốc Phòng Hồ Thông Minh được Ông Diệm bổ Tổng Trưởng Quốc Phòng và Đinh Quang Chiêu thay thế Phạm Duy Khiêm. Ngày 29/12/1954, ký kết các Hiệp định chấm dứt chế độ Quốc Gia Liên Kết của 3 quốc gia Việt-Miên-Lào đối với khối Liên Hiệp Pháp. Ngày 31/12/1954, Pháp chuyển giao Viện phát hành tiền tệ cho Việt Nam. Ngày 01/01/1955, Thương cảng Sài Gòn được chuyển giao về chính phủ miền Nam Quốc Gia Việt Nam.252 Cũng từ ngày 01/01/1954, ngoại trưởng Hoa Kỳ F.Dulles quyết định tiến hành và bắt đầu viện trợ thẳng cho miền Nam Quốc Gia Việt Nam một cách linh động, có thể thay đổi, điều chỉnh tùy theo tình hình và đối tượng để có thể ngừng lại bất cứ

33

VSTK - 3883


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

lúc nào trong tương lai cũng như ở hiện tại.253 Được sự yểm trợ hiện nay của Hoa Kỳ, thủ tướng Diệm đã đi vào cuộc khủng hoảng mùa Xuân 1955 ở miền Nam đối với các nhóm và phe phái vũ trang không chịu thống thuộc vào quân đội chính quy của chính phủ Quốc Gia Việt Nam. Cuộc khủng hoảng lần nầy không giống với cuộc khủng hoảng đảo chánh của quân đội vào mùa Thu 1945 do tướng Hinh chủ động hay cuộc khủng hoảng nội các do bác sĩ Quát chủ động vào tháng 12/1954 vừa qua. Trong cuộc khủng hoảng mùa Xuân 1955 nầy Ông Diệm đã hành động một cách dứt khoác không kéo dài dây dưa hay tái diễn nhiều lần. 1. Giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo và bộ đội Bình Xuyên

Trước đây các giáo phái vũ trang tự trị Hòa Hảo và Cao Đài được chính quyền thực dân Pháp ở miền Nam trợ cấp tiền bạc cho nên đã giữ yên lặng nhưng bắt đầu manh động kể từ lúc các chức sắc lãnh đạo của họ tham gia nội các của thủ tướng Diệm vào tháng 09/1954 và người Pháp kể từ 15/02/1954 cũng đã ngưng không còn trợ cấp khiến cho họ bị chấn động và bất mãn.254 Trong tình hình quân đội giao thời chuyển tiếp giữa chính phủ Quốc Gia Việt Nam và người Pháp ở miền Nam, thủ tướng Diệm chỉ chấp nhận trả cho khoản 40,000 bộ đội của họ một phần nào trợ cấp mà thôi để họ giải ngủ trở về đời sống dân sự. Tuy nhiên, việc chuyển tiếp không được suông sẻ như ý muốn của những người có liên hệ: trước hết, thủ tướng Diệm không chấp nhận tình trạng một quân đội trong một quân đội của Quốc Gia miền Nam với cấp chỉ huy riêng biệt của họ và không theo lệnh của chính quyền Quốc Gia ở Sài Gòn. Kế đến các Giáo phái đòi chính phủ trợ giúp nhiều hơn cho những bộ đội giải ngủ của họ và một đòi hỏi quan trong hơn hết là Ông Diệm không được đụng tới những vùng thánh địa và những vùng do họ kiểm soát. Thủ tướng Diệm đã cực lực phủ quyết những đòi hỏi như thế và từ đó khủng hoảng và gay cấn bắt đầu. Mặc dù trùm mật vụ Hoa Kỳ Lansdale ở Việt Nam đã khuyến cáo phía chính quyền nên thương lượng nhưng Ông Diệm đã không nắm lấy cơ hội hòa giải với các giáo phái.255 VSTK - 3884


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17 18

Ngày 06/02/1955 Mendès-France từ chức. Cựu Bộ trưởng Tài chính Faure thuộc đảng Xã Hội Cực Đoan (Radical Socialist) lên thay ngày 23/02/1955. Ngoại trưởng là Antoine Pinay. Henri Laforest làm Quốc Vụ Khanh Các Quốc Gia Liên Hiệp. 2. Mặt Trận Thống Nhứt Toàn Lực Quốc Gia (MTTNQG)

Cơ hội hòa giải không còn nữa bởi vì vào ngày 22/02/1955 các chức sắc chỉ huy quân sự giáo phái vũ trang Cao Đài, Hòa Hảo với một số chi nhánh đảng Dân Xã của khối Phật Giáo Hòa Hảo (Trần Văn Soái, Nguyễn Bảo Toàn) đã cùng với đầu lãnh lực lượng vũ trang Bình Xuyên hợp nhau lại theo đề nghị của Hộ Pháp Cao Đài Phạm Công Tắc để thành lập Mặt Trận Thống Nhất Tòan Lực Quốc Gia.256

Ngày 21-3-1955, trong 1 bản kiến nghị được xem như là tối hậu thư, Mặt Trận Thống Nhất Các Lực Lượng Quốc Gia yêu cầu Thủ tướng Ngô Đình Diệm trong kỳ hạn 5 ngày phải cải tổ toàn diện nội các. KIẾN NGHỊ CỦA MẶT TRẬN THỐNG NHỨT TOÀN LỰC QUỐC GIA

257

http://www-personal.usyd.edu.au/~cdao/booksv/BuiVanTiep/congvanlichsu-II/congvanlichsu-II.htm

19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45

Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia Chủ Tịch Đoàn KIẾN NGHỊ Gởi ông Thủ Tướng Chánh Phủ Việt Nam. - Xét vì tình thế nước nhà đang hồi nghiêm trọng cần đến sức chiến đấu của Toàn Lực Quốc Gia mới mong cứu nguy được Tổ Quốc. - Xét vì nhân dân Việt Nam đang đòi hỏi một chánh quyền liên hiệp quốc gia dân chủ và lành mạnh để lãnh Đạo dân tộc vượt qua khó khăn nầy. - Xét vì ngồi điềm nhiên tọa thị trong lúc nước nhà nghiên ngửa là một trọng tội đối với Tổ Quốc và tiền nhân. CHÚNG TÔI QUYẾT ĐỊNH 1) Xây dựng một chánh quyền liên hiệp quốc gia và lành mạnh. 2) Đề đạt ý kiến nầy lên Thủ Tướng Ngô Đình Diệm yêu cầu trong thời gian 4 ngày, cải tổ toàn diện nội các hiện hữu để thay thế vào một nội các mới với sự thỏa thuận của Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia. Tây Ninh ngày 20-3-1955 Ký tên: Đức Hộ Pháp : Phạm Công Tắc Trung Tướng: Trần Văn Soái Trung Tướng: Nguyễn Thành Phương Thiếu Tướng: Lâm Thành Nguyên Thiếu Tướng: Lê Quang Vinh Thiếu Tướng: Trình Minh Thế

(Lời phê của Thiếu Tướng Trình Minh Thế: Tôi là Thiếu Tướng Quân Đội Quốc Gia, cố nhiên không có quyền làm chánh trị. Nhưng vì nhận rõ nguy cơ của dân tộc, tôi tán thành bản quyết nghị nầy). VSTK - 3885


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

Ngoài ra còn có Bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn của đảng Đại Việt miền Nam), Phan Quang Đán (đảng Dân Chủ) và Hồ Hữu Tường (Bình Xuyên) cũng tham gia mặt trận nầy.258 Ngày 24/03/1954, qua làn sóng của đài phát thanh, Ông Diệm yêu cầu các thành viên của Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia vào dinh Độc Lập để thảo luận về bản Kiến Nghị của họ. Lập trường của Ông Diệm là “Hãy giải quyết dứt khoát vấn đề thống nhất quân đội, rồi sau đó, sẽ giải quyết các vấn đề chính trị”.

Có 8 thành viên giáo phái trong nội các của Ông Diệm từ chức nhưng sau đó tướng Trịnh Minh Thế và tướng Đỗ Thành Phương đã thay đổi lập trường rút tên ra khỏi MTTNQG để tiếp tục ủng hộ thủ tướng Diệm.259 Cũng trong tháng 03/1955, một đại diện của MTTNQG đã đến gặp quốc trưởng Bảo Đại ở Pháp để yêu cầu cất chức Ông Diệm.260 Nhưng trước đây không lâu, một thư riêng đề ngày 19/02/1955 của Tổng Thống Hoa Kỳ Eisenhower đã gửi sang Pháp rất đúng lúc để cho biết tình hoạt động của chính phủ Ngô Đình Diệm đang theo chiều hướng thích hợp với các mục tiêu chống Cộng Sản của Hoa Kỳ tại vùng Á Châu. Lá thư không có ngụ ý nào để bảo đảm là Hoa Kỳ chưa xóa tên quốc trưởng Bảo Đại ra khỏi chính trường hoặc muốn nói rằng quốc trưởng cần phải suy đi xét lại để đi theo phe các giáo phái khiến cho Hoa Kỳ phẫn nộ. Quốc trưởng Bảo Đại đã không nghe theo đề nghị của đại diện MTTNQG261 nhưng trong Hồi Ký Le Dragon d’Annam, quốc trưởng Bảo Đại viết rằng chưa kịp đáp ứng yêu cầu của người đại diện MTTNQG thì ở Việt Nam họ đã ra Kiến Nghị “Tối Hậu Thư” cho thủ tướng Diệm.262 Pháp cũng muốn quốc trưởng Bảo Đại làm trung gian giữa Ông Diệm và MTTNQG. Hoa Kỳ thì lại muốn đưa ra một thông cáo chung để nói với các giáo phái rằng Hoa Kỳ và Pháp phản đối bạo lực và để cảnh cáo rằng quân đội viễn chinh Pháp ở Việt Nam sẽ ngăn chận các hướng tiến về Sài Gòn của bộ đội Hòa Hảo để tăng viện cho bộ đội Bình Xuyên. Tướng Cao ủy Ély và chính phủ Paris đã không chấp nhận dự định nầy của Hoa Kỳ và tuyên bố rằng quân đội Pháp chỉ hành động để bảo vệ tánh mạng

36

VSTK - 3886


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

và tài sản cho các kiều dân Pháp và ngoại quốc.263 3. Thủ tướng Diệm quyết định tiểu trừ bộ đội Bình Xuyên

Ngày 26/03/1955, thủ tướng Diệm quyết định thiết đặt một Sở Cảnh Sát Đô Thành Sài Gòn-Chợ Lớn do một Đô Trưởng chỉ huy không thuộc quyền kiểm soát của Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Công An Bình Xuyên Lại Văn Sang.264 Trong lúc MTTNQG đang đặt điều kiện cải tổ nội các hiện tại thì trùm mật vụ Hoa Kỳ Landsdale hầu như họp mặt từng đêm với thủ tướng Diệm. Theo phúc trình của đương sự với cấp trên thì Ông Diệm đã mong muốn một cách vô vọng Hoa Kỳ và Pháp ám trợ để tiểu trừ Nha Công An hiện đang dưới quyền kiểm soát của các lực lượng bộ đội Bình Xuyên nhưng Ông Diệm được khuyến cáo là phải hành động từ từ và cẩn trọng bởi vì tình hình không cho phép để hành động như thế. Tướng Cao ủy Paul Ély vừa mới từ Pháp trở lại Sài Gòn vào ngày 27/03/1955 đã phải tức tốc đặt các đơn vị quân binh Pháp ở Sài Gòn trong tình trạng báo động: các đơn vị xe bọc sắt của Pháp được bố trí khắp nội thành và ngoại ô Sài Gòn-Chợ Lớn. 265 Cũng trong ngày nầy, tướng Cao Đài Trịnh Minh Thế rút tên khỏi MTTNQG. Sáng ngày 28/03/1955, P. Ély hội kiến và yêu cầu Ông Diệm chưa nên có hành động gây hấn quân sự nhưng thủ tướng Diệm vẫn tiếp tục thực hiện ý định của mình: quá nửa đêm ngày 28/03/1955, một đại đội quân lính dù trung thành với chính phủ đã khởi đầu tấn công và chiếm Tổng Nha Cảnh Sát ở đường Catinat do bộ đội Bình Xuyên trú giữ.266 Ngày 29/03/1954, Ông Diệm hội ý với Tổng trưởng Quốc Phòng Hồ Thông Minh để cách chức Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Lại Văn Sang của Bình Xuyên. Vì ngăn cản không được hành động tự quyết của Ông Diệm không có sự tham khảo hội đồng Nội Các cho nên Hồ Thông Minh đã từ nhiệm. 267 Trong đêm 29 rạng ngày 30/03/1955, Bình Xuyên đánh trả lại, pháo kích vào dinh Độc Lập và công an xung phong Bình Xuyên tấn kích Bộ Tổng Tham Mưu đặt trụ sở tại căn nhà lớn số 606 Trần Hưng Đạo, cố gắng tái chiếm đô thành Sài Gòn-Chợ Lớn VSTK - 3887


1

2

nhưng bị lực lượng quân đội Quốc Gia trung thành với chính phủ đẫy lùi. 4. Ngừng bắn nhưng vẫn hỗn loạn chưa yên

3

a. Mật vụ Lansdale phản bác sáng kiến ngừng bắn của tướng Ély 4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

Đại tá mật vụ Hoa Kỳ Lansdale ở Sài Gòn không đánh giá một cách nịnh hót tình hình tạm ổn và sang kiến ngừng bắn của tướng Ély và cho rằng tướng Collins đã bị Ély khuyến dụ phải nghe theo một cách khờ khạo bởi vì Collins tin rằng Ély có thể thuyết phục Bình Xuyên rút lui ra khỏi Tổng Nha Cảnh Sát/ Công An Đô Thành Sài Gòn-Chợ Lớn. Landsdale tố giác rằng nhân sự người Pháp hoạt động chung với đương sự trong ban An Ninh Quốc Gia của Ủy Ban Phối Hợp và Huấn Luyện (TRIM/Training Relations and Instruction Mission) đã có những hành vi phá hoại chế độ của Ông Diệm và các chương trình của Hoa Kỳ đưa ra để giúp củng cố chế độ nầy: “Hằng ngày họ nhồi nhét, tuyên truyền rằng Ông Diệm yếu kém, khát máu, và rằng tinh thần quân đội Quốc Gia rất thấp kém... không có khả năng chiến đấu, rằng người Hoa Kỳ không hiểu biết gì về người Việt Nam, rằng những người da trắng chỉ nên chọn lựa những người Việt trung thành với người Pháp bởi vì những người Việt còn lại sẽ quay mặt chống lại “cắt cổ”tất cả những người da trắng trong một đêm giống như đã xảy ra trong biến cố năm 1946.” Lansdale tiếp tục tố cáo: “Người Pháp cứ một mực bêu xấu quân đội Quốc Gia Việt Nam chỉ là một cái giỏ không trống rỗng, hàng sĩ quan thì khước từ chiến đấu ....tinh thần quân đội xa súc, chẳng thà đào ngủ bỏ trốn còn hơn là đánh giặc cho kẻ khát máu như Ông Diệm.” Chỉ có tướng Collins mới bị rơi vào bẫy tuyên truyền như thế của người Pháp nhưng Lansdale thì không bị rơi và bẫy như thế. Về tác phẩm ngừng bắn của tướng Cao Ủy Ély, Lansdale phúc trình rằng Pháp đã cảnh cáo nếu Ông Diệm cố tình chiếm lấy bộ Chỉ Huy Trung Ương của Cảnh Sát Công An nằm trong khu vực có kiều dân Pháp thì quân đội Pháp sẽ nổ súng vào quân binh của chính phủ Quốc Gia Việt Nam ....Người Pháp đã dùng

34

VSTK - 3888


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

tiền bạc mua chuộc các sĩ quan của cả hai phe lâm chiến để họ đồng ý ra lệnh binh sĩ dưới quyền ngừng bắn, kẻ nào không nhận tiền mua chuộc thì sẽ bị ám hại.268 Vào 1 giờ sáng ngày 30/03/1954, tướng Cao ủy Ély đã vào dinh Độc Lập gặp thủ tướng Diệm đề nghị phương cách ngừng bắn giữa bộ đội Bình Xuyên và quân đội Quốc Gia Việt Nam với lý do là nếu giao tranh tiếp tục thì chỉ có lợi cho CSVM. Ông Diệm tức giận nhung đã đồng ý với Ély để cắt cử tướng Pháp Gambier làm trung gian sắp xếp cuộc ngừng bắn và tạm giao cho quân Pháp bố trí đóng chốt giữa trận tuyến của hai phía thù địch để ngăn chận tiếng súng tái phát nhưng đây không phải là một tình trạng giới nghiêm thiết quân luật do Pháp chủ động. Qua sự trung gian “khôn khéo” của tướng Gambier, một sự ngừng bắn được quân đội chính phủ và bộ đội Bình Xuyên chấp nhận kể từ ngày 31/03/1955. Cuộc ngừng bắn kéo dài đến tháng 04/1955 nhưng vẫn chưa làm dịu bớt tình hình căng thẳng giữa hai phe lâm chiến.269 Bởi vì tình hình nhân sự xấu đi từ bên trong của nội các của Ông Diêm: một loạt thành viên thuộc phe giáo phái từ chức trong số đó có tướng Hòa Hảo ủy viên quốc phòng Trần Văn Soái và tổng trưởng Kinh tế Lương Trọng Tường cũng của Hòa Hảo, Nguyễn Công Hầu tổng trưởng Canh Nông thuộc đảng Dân Xã . . . 270 (Đoàn Thêm, tr.167.) Tuy nhiên quyết tâm của Ông Diệm triệt hạ nhóm Bình Xuyên càng mạnh mẽ hơn dựa vào sự việc tướng Cao Đài Nguyễn Thành Phương, Lê Văn Tất và nhiều tướng tá khác của Cao Đài kể từ ngày 31/03/1955 đem tất cả lực lượng bộ đội của họ hợp tác với chính phủ của Ông Diệm.271 Được biết trước đây, ngày 14/01/1955, đại tá Nguyễn văn Huệ, tham mưu trưởng của tuớng Trần văn Soái, Hòa Hảo đem 3.500 về với quân đội quốc gia. Ngày 13/02/55 tướng Trình Minh Thế, Lực lượng Kháng Chiến Liên Minh Quốc Gia Cao đài dẫn 5.000 quân về với thủ tướng Ngô Đình Diệm. Ngày 10/03/1955 Thiếu tá Nguyễn văn Đầy, Lực lượng Hòa Hảo Quốc Gia đem 5.000 quân về theo Thủ Tướng Ngô Đình Diệm. Tướng Nguyễn giác Ngộ, Lực lượng Dân xã Hòa hảo, từ VSTK - 3889


Thủ tướng Ngô Đình Diệm gắn cấp cho Tướng Trình Minh Thế272 (http://hon-viet.co.uk/HuynhVanLang_DeNhutCongHoaCuaMienNam1955_1963.htm) 1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33

Ngày 23 tháng 2 đã hứa đem 8,000 quân về, nhưng phải đợi qua thág 5, khi thủ tướng NĐD dẹp xong lực lượng Bình Xuyên mới chịu thi hành lời hứa. 273 b. Quyết định của Ély và Collins: Ông Diệm phải ra đi

Ngày 07/04/1955, Collins và Ély bàn thảo về thủ tướng Diệm đng gặ quá nhiều khó khăn. Theo Ély thì Ông Diệm phải bị thay thế với để miền Nam không rơi vào tay của Cộng Sản. Tướng Collins cũng có một ý nghĩ tương tựa như Ély. Trước đây một tuần, chính Collins đã khuyến cáo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cần phải dự trù một giải pháp khác thay thế Ông Diệm. Đến nay, ngày 07/04/1955, Collins lại đánh điện về cho ngoại trưởng Hoa Kỳ Dulles quyết liệt yêu cầu hạ bệ Ông Diệm và đề nghị Trần Văn Đỗ hoặc Phan Huy Quát thay thế.274 Nội dung bức điện phê phán Ông Diệm nầy có những đoạn đáng chú ý như sau: - Từ bản phúc trình tháng 01/1955, Collins càng lúc càng tỏ ý nghi ngờ khả năng lãnh đạo của Ông Diệm trong tình hình khó khăn và phức tạp của đất nước Việt Nam hiện tại. - Nay, đương sự phải cho rằng Ông Diệm không có khả năng để thực hiện sự nhất trí từ nhân dân về mục tiêu và hành động cần yếu để tránh cho đất nước không bị rơi vào vòng kiểm soát của Cộng sản. Thật đáng tiếc phải phê phán như thế nhưng đương sự tin là đúng. - Qua 5 tháng công tác ở Việt Nam, đương sự thừa nhận rằng Ông Diệm rất đáng khâm phục trên nhiều khía cạnh: tinh thần cao, thanh liêm, không tham nhũng, một nhân vật Quốc Gia nhiệt thành, rất kiên trì, ngoan cường. - Tuy nhiên những phẩm hạnh rất có giá trị đó lại nối kết với sự khiếm khuyết ý thức chính trị để hành sự, không biết cách thỏa hiệp, không có năng lực cố hữu để hòa hợp với những người có khả năng, có khuynh hương nghi kỵ về những động cơ thúc đẩy của bất kỳ người nào không hợp ý mình khiến cho Ông trở thành bất lực trong việc đoàn kết nhân sự trong nội các. - Thường nghe theo những lời cố vấn của 2 người em Nhu, Luyện hơn là nghe theo lời cố vấn của tướng Cao ủy Ély hay tướng Collins. - Không chịu áp dụng chính sách tản quyền giao trách nhiệm cho các tổng, bộ trưởng hay tham khảo trước ý kiến của họ đối với những quyết định hệ trọng VSTK - 3890


1 2 3 4 5 6

7 8 9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31 32 33 34 35 36 37 38

khiến hàng loạt nhân sự trong nội các phải từ chức vì họ không chịu cung cúc, khom lưng cúi đầu trước mặt Ông Diệm - ....... - Tóm lại, mặc dù là người tốt, nhưng Ông Diệm thiếu khả năng và phẩm chất lãnh đạo để và hành sự một cách thành công trong việc đối địch với chính quyền gắng bó, hiệu nghiệm của CSVM do Hồ Chí Minh lãnh đạo. - Chương trình, kế hoạch Collins-Ély là hợp lý và khả thi ; hai nhân vật Đỗ hay Quát có thể được lựa chọn để đứng đầu một chính quyền hữu hiệu của miền Nam Quốc Gia Việt Nam.275

c. Lập trường bất định của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ về Ông Diệm

Ngoại trưởng đáp ứng yêu cầu của Collins giống như lập trường trước đây đương sự đã tuyên bố vào tháng 12/1954: nếu hạ bệ Ông Diệm để giải quyết những đòi hỏi của các nhóm cát cứ vũ trang ở Miền Nam Việt Nam thì Hoa Kỳ không còn có lý do chính đáng nào để ủng hộ người kế vị Ông Diệm. Uy tín của Hoa Kỳ sẽ mất đi nếu một mặt viện trợ cho các chế độ chống Cộng Sản ở Á Châu còn một mặt lại hạ bệ hoặc bỏ rơi những lãnh tụ Quốc Gia thực sự chống Cộng Sản ở các quốc gia nầy chỉ vì Hoa Kỳ bị áp lực từ các lợi ích của thực dân thuộc địa của Pháp. Ngoài ra chiều hướng « thân Diệm » hiện nay trong Quốc Hội Hoa Kỳ qua phúc trình của thượng nghị sĩ Mike Mansfield chỉ chấp thuận Hoa Kỳ Viện trợ cho chính quyền miền Nam Quốc Gia Việt Nam do Ông Diệm lãnh đạo. Tuy nhiên Dulles đồng ý sẽ cứu xét đề nghị của tướng Ély và Collins sau khi nghe Collins trở về Hoa Thịnh Đốn để tham khảo ý kiến rõ ràng và chi tiết hơn.276 d. Lập trường của NS M.Mansfield đối với phúc trình Collins

Để đáp ứng về những lời phúc trình của tướng Collins báo cáo xấu cho Ông Diệm, nghị sĩ Mansfiel có những phản biện như sau: - Hoa Kỳ giữ vững lập trường ủng hộ cho Ông Diệm bởi vì Ông là một nhân vật Quốc Gia chân chính lãnh đạo Quốc Gia Việt Nam. Mặc dù hy vọng đối với Ông Diệm chỉ có 50/% nhưng vì nguy cơ của vùng Đông Nam Á với hiểm họa Cộng Sản quá nghiêm trọng và là mối đe dọa lớn cho Hoa Kỳ cho nên Hoa Kỳ cũng phải cần chấp nhận 50% hy vọng đó. - Hiện giờ chỉ có hai nhân vật lãnh đạo Quốc Gia Việt Nam là Ngô Đình Diệm và Hồ Chí Minh. Nếu loại trừ Ngô Đình Diệm tức là sẽ giao trọn nước Việt Nam cho Hồ Chí Minh. Ông Diệm là người được dân chúng miền Trung và Miền VSTK - 3891


16

Nam ủng hộ lại thêm có hơn ½ triệu đồng bào Công giáo Bắc Việt di cư đứng sau lưng. - Bỏ rơi Ông Diệm vào lúc nầy là đưa tới tình trạng hỗn loạn và phân hóa. Bình Xuyên chắc chắn sẽ nắm lấy cơ hội giành quyền lãnh đạo. - Không thể tin người Pháp trên bất cứ mặt nào.. Cao Đài và Hòa Hảo chỉ biết tư lợi, Bảy Viễn và băng đảng của đương sự hoàn toàn không thể tin cậy được. Phải cứng rắn đối đầu với họ bây giờ hay về sau. Ông Diệm có thể đã hiểu rõ vấn đề nầy và sẽ phải đối đầu với nó nhưng người Pháp cứ ngăn chận cản trở Ông Diệm. Ngay cả công trình tạm ngừng Bắn của Pháp cũng là bất hảo. Cần phải để cho Ông Diệm tự do hành động để dẹp trừ nhóm Bình Xuyên khiêu khích muốn hạ bệ chính quyền nếu không thì bất cứ nội các nào khác cũng sẽ bị vướng mắc cùng một vấn nạn như thế. Hiện nay, nếu Hoa Kỳ bỏ rơi Ông Diệm thì uy tính của Hoa Kỳ sẽ bị lu mờ một cách rộng khắp ở vùng Á Châu và gây chán nản cho những người Quốc Gia thực tâm chống Cộng Sản ở Việt Nam, làm lu mờ nguyên cớ của Hội Nghị Á Phi Băn Đung đang diễn ra ở Nam Dương. (The Conference of Asian and African States at

17

Bandung, Indonesia, April 18-24,1955.)

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15

18 19 20 21 22 23 24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

- Hoa Kỳ cần công khai xác nhận tiếp tục ủng hộ Ông Diệm, mặc tình cho Pháp gây khó khăn. - Mặc dù đã có đọc các phúc trình của tướng Collins, nhưng theo Mansfield thì không có cách nào khác ngoài Ông Diệm và Hoa Kỳ không có gì gọi là hỗ thẹn đã ủng hộ Ông Diệm trong quá khứ cũng như trong tương lai. - Tuy nhiên Hoa Kỳ phải nói rõ lý do tại sao và trong giới hạn nào Hoa Kỳ chủ trương ủng hộ Ông Diệm.277

e. Lập trường của chính phủ Pháp ở Paris đối với Ông Diệm

Chính phủ Pháp đã mất kiên nhẫn nhanh chóng và hô hào rằng đã tới lúc phải thành lập một chính phủ đáp ứng với tuyệt đại đa số những lực lượng chính trị ở Việt Nam, và hủy bỏ chính sách không thực tế của Hoa Kỳ cố bám giữ và tăng cường cho Ông Diệm. Chính phủ Pháp đề xuất thành lập một Thượng Hội Đồng đại diện cho Ông Diệm và nhóm theo Ông, cho nhóm cát cứ và giáo phái, cho những nhà trí thức, cho các chính trị gia và cho quân đội. Thượng Hội Đồng sẽ biểu quyết chính sách và nội các với những thành phần chuyên gia, kỹ thuật thuần túy do Ông Diệm đứng đầu nội các. Hoa Kỳ bát bỏ đề xuất nầy của chính phủ Pháp và nói rằng thủ tướng Diệm được quyền giáng trả bằng vũ lực chống lại bộ đội Bình Xuyên; Pháp cùng với Hoa Kỳ phải hỗ trợ cho Ông Diệm về mặt tinh thần và sách lược.278 Liền sau đó, Hoa Thịnh Đốn đã yêu cầu Paris trả lời một loạt VSTK - 3892


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14 15

16 17 18 19 20 21 22 23 24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

câu chất vấn để cho biết nếu dựa trên lập luận của Cao ủy P.Ély thì chính phủ Pháp có những kế hoạch đặc biệt nào để thay đổi chính quyền miền Nam Quốc Gia Việt Nam hiện nay: (a) Ai là người có nhiều triển vọng hơn hết để thay thế Ông Diệm thực hiện các chương trình chính phủ và củng cố Tự Do cho Việt Nam? (b) Khi nào thì đề nghị bất cứ một sự thay đổi nào phải được thực hiện? (c) Biện pháp nào sẽ được áp dụng để chính phủ có thể kiểm soát Cảnh Sát Công An Quốc Gia hiện đang dưới quyền chỉ huy của Bình Xuyên? (d) Phương cách nào phải áp dụng để thực hiện cho mỗi sự thay đổi? (d) Phía Pháp đã có những đề xuất nào để bảo đảm rằng các phe phái cát cứ ủng hộ một chính phủ mới? (f) Chính phủ mới có cậy đến mức nào để có thể nương tựa vào các lực lượng quân sự viễn chinh Pháp?279 Telegram From the Secretary of State to the Embassy in France" Washington, April 12, 1955-7:45 p.m. ............. a. Who would succeed Diem with best prospects carry out governmental programs and strengthen Free Vietnam? b. When is it proposed that any change would take place? c. What action would be taken to ensure governmental control of National police now under Binh Xuyen? d. What procedure would be followed in any proposed change? e. How do French propose to ensure sects' support of a new government? f. What support could new government count on from French forces?

......... Chính quyền Pháp ở Paris phản ứng một cách vội vã những điều chất vấn kể trên bằng cách cãi lại rằng những câu hỏi của Hoa Kỳ cần phải được trả lời một cách liên hợp nếu không thì cố gắng chung Pháp-Hoa Kỳ ở Việt Nam sẽ đổ vỡ và Pháp bắt buộc phải công bố cho công chúng biết là Hoa Kỳ đã đơn phương gánh trách nhiệm cho các chương trình mở mang Quốc Gia Việt Nam. Tuy nhiên vào giữa tháng 04/1955, Pháp trả lời một số câu hỏi của Hoa Kỳ- bỏ trống không trả lời câu hỏi a) Ai là người có nhiều triển vọng hơn hết để thay thế Ông Diệm thực hiện các chương trình chính phủ và củng cố Tự Do cho Việt Nam?(cần phải có hội ý tham khảo liên hợp !). Paris cũng đã đề nghị giao trách nhiệm cho Collins-Ély dự thảo một bản kê danh sách các nhân vật sẽ đảm nhận các vai trò quan trọng trong nội các miền

39

VSTK - 3893


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

Nam Quốc Gia Việt Nam để sau khi hai chính phủ Pháp-Hoa Kỳ chuẩn phê bản danh sách sẽ yêu cầu quốc trưởng Bảo Đại triệu mời những phần tử đại diện do Pháp-Hoa Kỳ lựa chọn sang Cannes để cùng nhau thương thảo tìm một phương hướng giải quyết tình trạng bế tắt giữa ông Diệm và Bình Xuyên. Các phe phái cát cứ nhất định sẽ ủng hộ chính phủ nếu họ được hứa chắc chắn là một thành viên của Thượng Hội Đồng cùng với một chương trình danh dự, trợ cấp và sáp nhập bộ đội của họ vào quân đội của chính phủ miền Nam Quốc Gia Việt Nam.280 Kể từ ngày 14/04/1955, tướng Cao ủy Ély và tướng Collins không còn có thể hoạt động hòa nhịp với nhau để đối phó với lập trường cứng cỏi của thủ tướng Diệm trong vấn đề hòa giải với Bình Xuyên. Tướng Ély còn biết được rằng chính phủ Hoa Kỳ đã chỉ thị cho Collins tìm một giải pháp thế nào cũng được nhưng nhất định phải giữ ông Diệm ở nguyên vị. Theo Ély, chủ trương và chính sách khác biệt của Hoa Kỳ và Pháp vào lúc nầy chỉ kéo dài thêm tình hình nghiêm trọng hiện nay mà đáng lẽ ra nó phải được giải quyết xong từ lâu rồi.281 f. Kế sách Bảo Đại Ngày 21/04 quốc trưởng Bảo Đại công bố kế sách của mình nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng và rất đáng chú ý là kế sách nầy không khác gì nhiều với kế sách của chính phủ Pháp ở Paris đưa ra trong khỉ trả lời các câu chất vấn của Hoa Kỳ như vừa kể ở mục e trên đây: (a) triệu tập một đại biểu khác nhau qua Cannes; (b) cử bác sĩ Quát làm thủ tướng để thành lập một nội các chuyên môn; (c) thành lập một Thượng Hội Đồng Nhân Sĩ và kỳ hạ cho Hoa Kỳ phải đáp ứng kế hoạch nầy trước ngày 27/05/1955 nếu không thì quốc trưởng sẽ tự động tiến hành kế sách của mình. Trong khi đó thì tướng Collins đã rời Sài Gòn về Hoa Thịnh Đốn để hội ý với ngoại trưởng Hoa Kỳ F.Dulles. Trước khi rời Sài Gòn, Collins hội kiến với Landsdale và xác định “không thực tình” với Lansdale rằng Hòa kỳ vẫn ủng hộ Ông Diệm trái với các tin đồn ngược lại của báo chí; rằng các toán cố vấn Hoa Kỳ ở nông thôn có ý kiến riêng là Ông Diệm cần được sự ủng hộ của Hoa Kỳ; rằng quân đội VSTK - 3894


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22 23 24 25 26

27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39

quốc Gia của chính phủ đã ủng hộ Ông Diệm và có đủ khả năng dánh bại quân Bình Xuyên.282

g. Quyết định của Ngoại trưởng Hoa Kỳ F.Dulles Tướng Collins và Ngoại trưởng Dulles hội kiến ngày 27/04/1955 và Dulles đã đồng ý với Collins cứu xét việc thay thế Ông Diệm để ủng hộ Phan Huy Quát hay Trần Văn Đỗ mà một thông tư của bộ Ngoại Gia Hoa Kỳ về dự định thay đổi nầy sẽ được gửi sang tòa Đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn nhưng dứt khoát là sẽ không hội ý với Pháp về quyết định nầy cho tới khi nào Pháp đã xác minh rõ ràng và đầy đủ với Hoa Kỳ về ý đồ của họ đối với cuộc khủng hoảng hiện nay với Ông Diệm. Việc xác minh nầy cần phải bao gồm có một sự bảo đảm không mâu thuẫn giả hình để ủng hộ thực lòng bất cứ một sự dàn xếp mới nào về mặt chính trị ở Sài Gòn và một sự thanh thỏa đối với một số sự việc mơ hồ nhập nhằng trong chính sách của Pháp dối với CS Bắc Việt. Trong khi chờ đợi đáp ứng của Pháp thì Hoa Kỳ sẽ không tiết lộ cho họ biết là Hoa Kỳ thật tình có sự thay đôi nào hay không đối với trường hợp của Ông Diệm.283 Kế hoạch của Dulles thay đổi Ông Diệm sau khi hội kiến với tướng Collins được ghi rõ trong một Công điện “Tối Mật” đề ngày 27/05/1954 gửi cho tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Pháp như sau:284 Công Điện từ Ngoại trưởng Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ gửi Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ờ Pháp Hoa Thịnh Đốn, ngày 27/04/1955-6 Giờ 11, chiều .......... A. Đề nghị của chúng ta áp dụng những thủ tục sau đây: 1) Hoa Kỳ cần phải giữ tư thế hoàn toàn ủng hộ ông Diệm cho đến khi hoặc ít ra là những nhân vật lãnh đạo Việt Nam đã phát họa được một thể thức thay thế mà Bảo Đại có thể ủng hộ. 2) Trước khi Hoa Kỳ cứu xét việc ủng hộ cho bất cứ một sự thay đổi nào, cả hai chính phủ (Pháp-Hoa Kỳ) cần thông báo cho Bảo Đại phải bảo đảm :ban sắc lệnh chuẩn phê quyền hạn của thủ tướng đối với các chức quyền Cảnh sát, phải loại Bình Xuyên ra khỏi những cơ quan Cảnh sát và Công an, và các nhóm cát cứ phải chịu đặt mình vào trong một chương trình sáp nhập rộng rãi vào nếp sống của nhân dân Việt Nam trên nền tảng “một quốc gia duy nhất, một chính quyền duy nhất, một quân đội duy nhất và một tổ chức hành chánh công quyền duy nhất”. Sắc lệnh của Bảo Đại phải được thực hiện trước khi ông Diệm rời khỏi chức vụ và trước khi thủ tướng VSTK - 3895


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31

32 33

34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46

mới được chỉ định để dứt khoác ngăn chận Bình Xuyên “chiến thắng” ông Diệm gây hậu hoạn cho người kế vị sau nầy. 3) Một khi Bảo Đại đã cung ứng những bảo đảm thích hợp rồi thì Collins và Ély phả tiến hành ngay giai đoạn trợ giúp phía Việt Nam hiệu chỉnh tìm đường hướng mới, khuyến dụ ông Diệm hợp tác trong một cương vị mới và nếu ông Diệm đồng ý sẽ hợp tác thì Hoa Kỳ sẽ yểm trợ hoàn toàn cho chính phủ mới. Nếu ông Diện từ chối hợp tác thì cũng chẳng sao vì Hoa Kỳ vẫn tiếp tục thực hiện chương trình thay đổi của mình. 4) Mặc dù những người Sài Gòn phải những khung sườn cho nội các mới nhưng tướng Collins và Ély phải là những nhân tố xúc tác khi thực hành đi vào thực tế. Đây có thể là kết quả của những “câu chuyện” bàn bạc giữa Collins và Ély theo một “công thức của họ” nhưng phải cố gắng làm sao để nó mang nhãn hiệu Việt Nam. 5) Tướng Collins và Ély sẽ phải báo cho ông Diệm biết rằng vì ông Diệm bất lực để xây dựng một nội các liên hiệp mở rộng và cũng vì người dân Việt Nam chống đối ông Diệm cho nên các chức quyền trong chính phủ của họ không còn có cách nào khác để ngăn ngừa ông Diệm không bị rời khỏi chức vụ thủ tướng. Tinh thần ái quốc của ông Diệm là một giá trị tiềm tàng to lớn của Việt Nam và đất nước nầy hy vọng rằng ông Diệm sẽ đưa tay đóng góp những khả năng của ông cho nội các mới. 6) Vì là đại diện hợp pháp của Hoa Kỳ và của Pháp cho nên cho Collins và Ély từ phía sau hậu trường chính trị gợi ra công thức như đã đề cặp ở mục 4) trên đây cho những nhân vật lãnh đạo của Việt Nam. Nếu họ, kể cả ông Diệm, chấp nhận công thức đó thì họ cần có sự chuẩn nhận của Bảo Đại. Nếu có sự bất đồng giữa họ trong việc chọn lựa bất cứ một ứng viên nào thì đích thân Collins cùng với Ély chọn lấy ứng viên rồi gửi sang thong báo cho Bảo Đại ra chỉ thị cho ứng viên nầy đứng ra thành lập nội các chính phủ đúng theo thủ tục và điều kiện pháp lý. B. sau:

Đề nghị của chúng ta về sự thành lập một tân nội các như

1) Nội các: Cơ quan chấp hành toàn quyền đứng đầu bởi ông Đỗ hay ông Quát làm thủ tướng hay phó thủ tướng tương ứng theo mỗi người và bao gồm có một số nhân vật Quốc Gia nồng cốt có khả năng lãnh đạo. Tốt nhất là có được một số thành viên cũ trong nội các của Ông Diệm và một số khuôn mặt mới. Nội các nầy hoạt động như là một chính phủ lâm thời cho đến khi Quốc Hội được bầu cử xong và thành lập. Công tác trước mắt của nội các mới sẽ là (a) giải quyết vấn đề các phe nhóm cát cứ, (b) đổi mới hoàn toàn các lực lượng quân đội và cảnh sát, (c) định cư thỏa đáng cho các đồng bào di cư hiện tại và tương lai, (d) bổ xung năng lực chương trình chính trị ở tỉnh thị, (e) tăng gia hoạt động bang giao quốc tế ở Đông Nam Á và (f) bàn thảo với Việt Minh về Tổng tuyển cử vào năm 1956 theo Hiệp Định Geneva và thực hiện mọi sự chuẩn bị cho các cuộc VSTK - 3896


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17

bầu cử thành lập một Quốc Hội Việt Nam tự do vào một thời điểm nào đó. 2) Hội Đồng Tham Vấn: Một định chế Tham Vấn gồm có 25-35 những cá nhân và những đại biểu kỳ hào bao gồm các phe nhóm cát cứ. Nếu có thể, ông Diệm sẽ được khẩn mời giữ vai trò Chủ tịch của Hội Đồng nầy. Định chế nầy là biểu tượng tinh thần thống nhất hợp quần của toàn dân và các phe phái của Quốc Gia Việt Nam Tự Do. Nếu có sự yêu cầu của Thủ tướng hay Nội các chính phủ, định chế nầy sẽ cố vấn trên những vấn đề trọng đại của chính quyền Quốc Gia. Định chế nầy không có tư cách Hành Pháp hay Lập Pháp và sẽ tiếp tục hiện hữu cho tới khi đã có một Quốc Hội Lập Hiến và một chính phủ Hợp Hiến. 3) Quốc Hội Lâm Thời: Định chế bán chính thức nầy chọn lựa và cắt cử những thành viên dân biểu như đã được đề nghị ở phần trên, ấn định thời gian thành lập và triệu tập nội các càng sớm càng tốt. Quốc Hội nầy duyệt xét Ngân sách và chỉ định một Ủy Ban đặc biệt soạn thảo chương trình cho việc thành lập một Quốc Hội Lập Hiến.

*

VSTK - 3897


KHẢO LUẬN 1 2

Tình hình tổng quát của chính phủ và dân chúng Sài Gòn trước và sau khi tướng Collins về hội kiến với ngoại trưởng Dulles ở Hoa Thịnh Đốn (Từ 01/04/1955 – 28/04/154)

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33

34

35

36

37

38

39

40

Ngày 01/04/1955, Đô Trưởng Sài Gòn - Chợ Lớn Trần Văn Hương từ chức. Đốc Phủ Sứ Nguyễn Phú Hải ngạch quan lại Nam Kỳ được thủ tướng Diệm cử lên thay.285 Ngày 09/04/1955, Thủ tướng Diệm triệu tập nhiều thành phần đảng phái vào dinh Độc Lập để bàn thảo về việc thiết lập một Thượng Hội Đồng Chính Trị.286 Theo phần ghi chú số #2 của một công điện đề ngày 13/04/1955 Dulles gửi Tòa Dại sứ Hoa Kỳ Sài Gòn, thì tại Sài Gòn Collins đã gửi công điện về Hoa Thịnh Đốn phúc trình rằng đương sự gặp và khuyến cáo ông Diệm phải tổ chức bầu cử Quốc Hội trước ngày 15/05/1955. Trong dịp nầy ông Diệm cho Collins biết “có người” đã đề xuất thành lập một chính phủ lâm thời trong thời gian hai tháng trước ngày bầu cử Quốc Hội Lập Hiến và ông Diệm đã tỏ ra quan tâm tới kế hoạch nầy. Ông Diệm cũng nói với Collins rằng lợi ích của một kế hoạch như là để cho thấy ông Diệm không có tham quyền cố vị lâu dài riêng cho cá nhân của ông. Lời tuyên bố nầy của ông Diệm là dấu hiệu cho thấy Ông có thể sẵn sàng rút lui khỏi chính quyền nếu Quốc Hội Lập Hiến được sớm thành hình:287 “ghi chú #2. Paragraph 3 of this telegram, which is dated April 13 and reports a conversation Collins held with Diem that day, reads in part as follows: "[Diem] said certain people with whom he had consulted recommend formation of an interim govt to govern pending general elections for a constituent assembly which would be held in possibly two months. Diem gave some indication that he is tempted by this proposal. He said advantage of such a scheme would be to indicate that he did not wish to remain in power forever or to perpetuate a personal govt. Latter statement may have been intended as hint that Diem might be willing to withdraw from govt if constitutional [constituent?] assembly could be quickly formed. For reasons given in earlier embtels, I do not think this is feasible. I suggested to Diem he proceed with plans for election provisional assembly May 15.”

Ngày 12/04/1955, phái đoàn chính phủ Miền Nam Quốc Gia Việt Nam tham dự Hội nghị Á Phi tại thủ đô Bandung của Miến Điện. Giờ chót Ông Diệm không đi, giao cho Tổng trưởng Kế hoạch và Kiến thiết Nguyễn Văn Thoại cầm đầu phái đoàn.,288 Trưa ngày 19/04/1955, ở Sài Gòn Công An Xung Phong (CAXP) của Bình Xuyên gây hấn ném lựu đạn vào một đoàn quân xa, vào trụ sở Tổng Thanh Tra quân đội, bắn phá bộ Tham mưu. VSTK - 3898


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

Chiều 19/4/1955, Collins gặp Trần Văn Đỗ, Phan Huy Quát, Hồ Thông Minh và Trần Văn Văn để biết phản ứng của họ về việc “có người” đã đề xuất thành lập một chính phủ lâm thời trong thời gian hai tháng trước ngày bầu cử Quốc Hội Lập Hiến. Theo công điện nầy, “người đề xuất” chính là Tổng Trưởng Kế Hoạch và Kiến Thiết Nguyễn Văn Thoại. Phải chăng vì đề xuất nầy mà Nguyễn Văn Thoại đã bị ông Diệm đa nghi cử đi ngoại quốc tham dự Hội Nghị các nước Á Phi ở Miến Điện? Nội dung của cuộc họp mặt nầy đã được tướng Collins gửi công điện báo cáo về bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Có thể nói đây là một cuộc gặp gỡ có tầm quan trọng đáng chú ý bởi vì những nhân vật Việt nam hiện diện đều là những người mà Collins và Ély đã và đang ngắm nghía sẽ được dùng như là những “con ngựa phòng hờ có triễn vọng” để giữa dòng thay thế chỗ của một “tuấn mã bất kham” đang được chủ nhân Hoa Kỳ-Pháp nuôi dưỡng nhưng không chịu để những người chủ ngoại quốc nầy cầm dây cương cưỡi trên lưng. Câu hỏi đặt ra là việc đề xuất của Nguyễn Văn Thoại với ông Diệm làm thế nào mà Collins nắm vững mọi chi tiết rõ ràng để mang ra dọ ý với Đỗ, Quát, Minh, và Văn mặc dù Ông Diệm chỉ nói việc nầy một cách chung chung “có người đã đề xuất”. Phải chăng đề xuất của Nguyễn Văn Thoại đã được trao cho Collins trước khi Thoại lên đường dự Hội Nghị Á Phi ở thủ đô Miến điện? Hay nói khác đi, phải chăng Thoại làm nội gián cho Tòa Đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn? Trong công điện báo cáo của mình Collins mở đầu rằng: “Bản chức đã gặp Đỗ, Quát, Minh và Văn với mục đích thăm dò ý phản ứng của họ vào lúc 15 Giờ ngày 19/04 nhằm để điều chỉnh đề xuất của Nguyễn Văn Thoại. Bản chức đã đưa ra từng giai đoạn một cách thận trọng nhằm để tránh khỏi sự hiểu sai theo như ý nghĩa của bản chức.” (I met with Do, Quat, Minh and Tran Van Van 1500 April 19 to review with them their reactions to modified Thoai proposal. I went over each step carefully, so that there would be no misunderstanding as to my meaning.) - Hồ Thông Minh cho rằng tình hình khủng hoảng hiện nay sẽ được giải quyết dễ hơ nếu không có ông Diệm. Theo ý hướng của Hồ Thông Minh thì cần có một cuộc tổng tuyển cử để có thể thành lập Quốc Hội Lập Hiến trong vòng 3 hay 4 tháng. Ngoài ra, đương sự cũng cho rằng cần có một chính phủ Liên Hiệp nhưng chắc là sẽ khó thực hiện nếu ông Diệm giữ vị trí thủ tướng - Phan Huy Quát không có ý kiến về một chính phủ Liên Hiệp nhưng lại muốn góp ý về tình hình khủng hoảng hiện nay. Theo đương sự thì có 2 căn nguyên chính : (i) chính quyền của Ông Diệm, (ii) tình trạng các phe cát cứ VSTK - 3899


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

và giáo phái vũ trang. Một căn nguyên khác ít gay gắt hơn là dư luận chính trị của những thành phần không thuộc các phe phái cát cứ và giáo phái vũ trang. Những sai lầm hiển nhiên và phương cách hành sự không đúng của ông Diệm đã tạo ra một hào thành ngăn cách càng ngày càng sâu rộng và khó tiếp cận hơn giữa Ông ấy với các thành phần khác trong xã hội. Phan Huy Quát nghĩ rằng bất cứ thành phàn nội các nào do ông Diệm đứng đầu cũng không thể hóa giải được sự chống đối của các phe phái cát cứ và giáo phái vũ trang. Quát cũng cho rằng một quốc hội do quốc trưởng Bảo Đại triệu tập do Trần Văn Đỗ cho biết cũng không hợp thời. Tốt hơn là nên thành lập một Quốc Hội Lâm Thời nhưng phải là không có ông Diệm nấm giữ ghế thủ tướng. Trần Văn Đỗ thì cho rằng nội các của ông Diệm không thành công trong chính sách quy tụ quần chúng hoặc các phe nhóm chính trị để tiếp trục bảo vệ chống lại hiểm họa của CSVM. Trả lời câu hỏi của ông Đỗ, Phan Huy Quát cho rằng một nội các lâm thời do ông Diệm đúng đầu thì cũng sẽ không có ai muốn tham dự Trần văn Văn thì nói rằng cho dù ông Diệm có thể chấp nhận thành lập một nội các lâm thời như đề nghị của Nguyễn Văn Thoại thì nhóm chính trị của Văn cũng không tham gia bởi vì ông Diệm không được lòng dân chúng. Cuộc họp mặt tay 5 kể trên cũng không đạt được một ý kiến chung dứt khoác nào đối với đề xuất của Nguyễn Văn Thoại nhưng lại cho thấy là không có ai hài lòng với ông Diệm.289 Vào lúc 6 Giờ chiều cùng ngày 19/04/1955, tướng Collins lại vào dinh Độc Lập gặp Ông Diệm để yêu cầu cho biết ý kiến về đề nghị của Nguyễn Văn Thoại. Ông Diệm trao cho Collins nguyên văn một công hàm gồm có 8 điểm bằng Anh ngữ tạm dịch như sau: 1) Bản chức chấp nhận một nội các liên hiệp nếu thực sự nội các nầy là biểu hiện thực sự đại diện của đại đa số đa số nhân dân; 2) Đó là điều phù hợp với niềm tin của bản chức với chính phủ đại diện nhân dân mà để đạt tới như thế bản chức đang cố gắng hết mức để chống lại biết bao nhiêu khó khăn gây ra cho Việt Nam; 3) Bản chức không cảm nhận được rằng tên những nhân vật được đề nghị trở thành những nhân sự trong nội các của bản chức – những nhân vật từ những đảng phái đối lập chỉ đại diện một nhúm tay dân chúng – phù hợp với nguyên tắc cần phải có đại diện của đại đa số số nhân dân trong chính quyền mà bản chức biết đây là sự ước vọng tương hổ của chúng ta. Thật sự đây cũng là chính sách của Hoa Kỳ áp dụng đối với chính quyền của mình. VSTK - 3900


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

4) Bản chức thừa nhận rằng không thể được tổ chức Quốc Hội bởi một cá nhân độc diễn để mặc tình thao túng sai trái. Chính vì thế bản chức đề nghị rằng chúng ta tổ chức một cuộc tổng tuyển cử theo cách thức quen thuộc trong dân chúng để thành lập một Quốc Hội; 5) Qua một cuộc tổng tuyển cử thì mới hợp lý để mong ước rằng nhân dân sẽ được đại diện qua những người do chính tay họ bỏ phiếu lựa chọn chứ không phải là tiếng nói của những người tự cho mình là đại diện của quần chúng. 6 )Bản chức tin rằng bất cứ người Viện Nam nào yêu chuộng Tự do, khi phải đối diện lựa chọn giữa Tự Do và Cộng Sản thì họ sẽ khiếp sợ Cộng Sản sẽ được chọn vào những vị trí cao cấp trong chính quyền nhờ có một cuộc tổng tuyển cử. 7) Bản chức ưu chọn để cho một quốc hội do toàn dân tuyển chọn qua một cuộc tổng tuyển cử thực hiện yếu tố quyết định cho sự sinh tồn của chính phủ hiện tại nầy hơn là để cho một cơ cấu rắc rối phức tạp của sự đại diện tính toán cho dù rằng cơ cấu nầy có khéo léo chia chác thế đến mức nào giữa một nhóm người với nhau. Nhân dân là những người đang sống trong tình trạng bị đe dọa. Nhân nhất định cẩn phải có tiếng nói cho chính số phận tương lai của họ. 8) Vì những nền tảng trên dây là rất quý báu đó đối với bản chức cũng như đối với những người yêu chọn Tự Do trên khắp thế giới, cho nên bản chức sẵn sàng chấp nhận liên hiệp.290 Collins yêu cầu cho biết ai sẽ là người mà ông Diệm chọn vào thành phần nội các Liên Hiệp thì được trả lời rằng những thành phần nội các của ông nhất định là phải là có “năng lực và trung lập”, Collins cho rằng đây là một câu trả lời không rõ ràng mà ông Diệm muốn ám chỉ thành phần nội các hiện nay của ông hay là thành phần nội các sẽ được thành lập sau khi đã có tổng tuyển cử Quốc Hội trong vòng 3 hay 4 tháng tới. Ông Diệm lại nói chính phủ của ông phải là một chính phủ bài trừ phong kiến , đuổi thực dân, và chống cộng sản. Nếu một chính quyền như thế đã được tồn tại từ 5 đến 10 năm qua thì có thể áp dụng những thể thức hòa bình. Tuy nhiên vì tình hình đòi hỏi cho nên biện pháp quân sự cần phải được áp dụng và ông tin rằng nhân dân Việt Nam tin tưởng vào nguyên tắc nầy. Collins lại lưu ý ông Diệm rằng hiện giờ không có không có luật bầu cử mà cũng chẳng có một cơ quan tổ chức bầu cử nào. Đa số ý kiến của những người được thăm dò đều cho rằng tổ chức tổng tuyển cử vào lúc nầy là VSTK - 3901


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

không thể thực hiện được bởi vì nội các của ông Diệm với tình trạng hiện tại thì không thể nào đứng vững được thêm 3 tháng. Ông Diệm lại phản biện rằng nếu dân chúng biết được nhất định sẽ có trong vòng 3 tháng thì dân chúng sẽ đổi ý. Trong vòng 3 tháng chờ đợi tới đây ông Diện sẽ dùng thời gian nầy để tiếp tục những cải cách và các chương trình mà ông đang quen thực hiện và để được như thế ông đề nghị hãy để cho ông chọn lấy những nhân sự có cùng chung chí hướng chính trị để bổ xung nội các hiện tại. Đây là một cuộc đấu tranh khó khăn và vì thế sẽ không thể có sự thỏa hiệp. Khi được hỏi có những nhận xét gì đối với Phan Huy Quát, Trần Văn Đỗ, Trần Văn Văn và Nguyễn Văn Thoại ông Diệm nói rằng Quát, chỉ biết áp dụng những phương cách nhượng bộ còn Đỗ thì e ngại khó khăn và không có được một kế hoạch nào, còn Thoại thì chỉ biết nghĩ về phòng thí nghiệm hóa học của mình mà thôi. Ông Diệm lại trả lời với Collins rằng chỉ vì thỏa hiệp mà đã bị thất trận với CSVM. Collins nói rằng ông Diệm sẽ đưa đất nước đến nội chiến và nhất định đương sự phải báo cáo như thế với cấp trên ở Hoa Thịnh Đốn. Ông Diệm nói rằng nếu quốc trưởng Bảo Đại quyết định cách chức ông trong tình thế hiện tại thì là quyền của Quốc Trưởng nhưng đây sẽ là một điều bất hạnh. Collins mong rằng trong khi đương sự vắng mặt ở Sài Gòn để trở về Hoa Thịnh Đôn thì Ông Diệm cần phải cố gắng tìm mọi biện pháp để tránh xung đột. Ông Diệm trả lời rằng nếu Ông đã có thề khai trừ Giám Đốc Cảnh Sát Lai Văn Sang của Bình Xuyên kể từ khi mới thành lập nội các thì Sài Gòn giờ đây đã và đang được sống bình an. Theo Collins kết luận nếu như thế thì không còn cách nào khác hơn là phải thay thế ông Diệm.291 Hôm sau, 20/04/1955, Collins về Hoa Thịnh Đốn. Ngày 23/04/1955, Thủ tướng Diệm hiệu triệu quốc dân, kêu gọi CAXP Bình Xuyên về quy thuận chính phủ, yêu cầu các lực lượn vũ trang của các giáo phái gia nhập quân đội của chính phủ, yêu cầu người Pháp chấm dứt gây rối ở miền Nam Quốc Gia Việt Nam. Ông Diệm hứa với nhân dân rằng chính phủ sẽ tổ chức tuyển cử Quốc Hội và thành lập Hội Đồng Chính Trị.292 Ngày 25/04 và 27/04/1955, tướng Collins liên tiếp hội kiến với ngoại trưởng Hoa Kỳ Dulles hai lần. Dulles đồng ý sẽ ủng hộ Quát hay Đỗ, và hứa sẽ gửi điện tín qua Sài Gòn như đã truy cứu nơi các trang trước đây. VSTK - 3902


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

h. Ngày 28/04/1955 lịch sử: Thủ tướng Diệm phóng lao Ngày 25/04/1954, thủ tướng Diệm chấm dứt nhiệm vụ Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Công An Lai Văn Sang rồi cử đại tá Nguyễn Ngọc Lễ thay thế, giải tán CAXP của Bình Xuyên, di chuyển trụ sở cảnh sát từ đường Catinat (sau đổi tên là đường Tự Do) gần nhà thờ Đức Bà Sài Gòn xuống đường Trần Hưng Đạo.293 Một Giác thư của Phụ tá Ngoại trưởng Hoa Kỳ về Viễn Đông Sự Vụ (Sebald) gửi cho ngoại trưởng Dulles vào ngày 27/04/1955 mô tả tình Việt Nam kể từ giữa trưa ngày 27/04/1955 được tóm lược như sau:294 - Tình hình Sài Gòn rất nghiêm trọng giữa chính phủ với Bình Xuyên. Quân đội chính phủ trong tình trạng báo động và sẵn sang. Việc ngừng bắn được coi như là vẫn tiếp tục có hiệu lực cho đến ngày 01/05/1955. Hoa Kỳ được biết rằng quốc trưởng Bảo Đại sẽ có hành động can thiệp chậm nhất là từ ngày thứ Năm 28/04/1955 để loại Ông Diệm và chỉ định một thủ tướng mới nhưng Hoa Kỳ yêu cầu Bảo Đại hãy chờ. - Ông Diệm tỏ ra kiên quyết bám trụ. Ngày 26/04/1955, ông đã ký một Nghị Định cách chức Giám Đốc Cảnh Sát Công An Lai Văn Sang của Bình Xuyên và cử đại tá Nguyễn Ngọc Lễ thay thế (Ghi chú #2). Tuy nhiên ông Diệm chưa thực hiện việc đánh chiếm trụ sở cũ Cảnh Sát Quốc Gia hiện vẫn đang do CANBX đóng giữ. Chưa thấy Bình Xuyên có phản ứng nào. Mặc dù Ông Diệm bề ngoài vẫn như là một người độc diễn mọi thứ trong chính phủ nhưng cũng có dấu hiệu cho thấy rằng một số phần tử chính trị quan trọng địa phương đang tách rời khỏi Mặt Trận Toàn Lực Quốc Gia của các giáo phái đối lập để về theo ông Diệm. . . . . . .

Lai Văn Sang tuyên bố không tuân lệnh của Ông Diệm cách chức đương sự “vì lý do vi phạm kỹ luật trầm trọng” và cho rằng chỉ có quốc trưởng Bảo Đại mới có quyền cách chức đương sự.295 Ngay vào buổi tối 26/04/1955, Sang dùng đài phát thanh của Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia để tuyên bố cho dân chúng biết là sẽ không rời bỏ chức vụ và chỉ có quốc trưởng Bảo Đại mới có quyền cách chức đương sự mà thôi.295 bis Ngày 27/04/1955 từ Cannes, qua trung gian của văn phòng quốc trưởng ở Sài Gòn, Bảo Đại đã gửi 2 bức Công Điện: một CĐ cho thủ tướng Diệm và một CĐ gửi cho Lai Văn Sang. CĐ VSTK - 3903


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

thông báo cho Sang biết rằng trái với mọi sự đồn đãi, quốc trưởng Bảo Đại hiện không có quyết định hay biện pháp nào đối với Sang. Nội dung CĐ gửi cho thủ tướng Diệm thông báo văn phòng Quốc Trưởng đã nhận được CĐ của Lai Văn Sang và các phe phái vũ trang ngoài chính quyền phản kháng hành động của Ông Diệm với các xử sự gần đây của ông Diệm đã gây ra những xáo trộn nghiêm trọng. Bảo Đại cho biết là đã ra lệnh cho các phe phái vũ trang ngoài chính quyền và Lai Văn Sang phải tự chế và tôn trọng tình trạng tạm ngừng bắn: “Quốc trưởng yêu cầu quý vị (ông Diệm và Sang) từ nay về sau không được có bất cứ biện pháp nào trái ngược với chính sách nhân nhượng thỏa hiệp mà quốc trưởng đã lựa chọn để áp dụng. Không được có hành vi manh động nào như vừa kể nếu chưa tham khảo ý kiến của quốc trưởng.”296 Qua ngày 28/04/1954, quốc trưởng Bảo Đại lại đánh công điện yêu cầu thủ tướng Diệm sang Cannes trễ lắm là ngày 03/05/1954 để cùng tham dự một cuộc Hội nghị vào ngày 05/05/1955 cùng với những thân hào nhân sĩ Việt Nam do quốc trưởng chọn lựa để tìm phương cách giải quyết khủng hoảng của đất nước hiện giờ. Từ Đà Lạt, qua một Công Điện khác ngày 28/04/1955 tướng Vỹ yêu cầu quốc trưởng Bảo Đại cho phép được thực hiện cuộc đảo chính Ông Diệm mà vào tháng 10/1954 trước đây tướng Hinh không thể thực hiện được.296bis Ngày 28/04/1955, lệnh ngừng bắn bị tan vỡ. Ông Diệm than phiền với đại tá mật vụ Hoa Kỳ E. Lansdale rằng dân chúng và quân đội trách cứ người Pháp gây ra sự khủng hoảng giữa chính phủ và Bình Xuyên bởi vì chính mắt họ nhìn thấy xe bọc sắt và binh đội của Pháp sẵn sàng hành động chống trả người Việt Nam. Lansdale cùng với người phụ tá đáp ứng lời ông Diệm rằng dân chúng Việt Nam giờ đây cần có một lãnh đạo và ông Diệm hiện giờ đang là thủ tướng, vì thế Hoa Kỳ vẫn phải tiếp tục ủng hộ ông Diệm. 297 VSTK - 3904


http://martincatino.wordpress.com/2011/06/03/in-the-midst-of-wars/ Lansdalel và thủ tướng Diệm 1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

Tài liệu của Lầu Năm Gốc viết rằng vào trưa ngày 28/04/1954, bí thư riêng của thủ tướng Diệm gọi điện thoại cho đại tá Lansdale để khẩn báo Dinh Độc Lập đang bị pháo kích nặng nề bằng sung cối. Rằng thủ tướng đang nói chuyện với tướng Pháp Cao ủy Paul Ély, và Ély đã nói với thủ tướng là đương sự chẳng nghe thấy có tiếng đạn nổ nào cả khiến thủ tướng phải cầm óng nghe điện thoại đưa ra sát ngoài khung cửa để cho Ély có thể nghe thấy những tiếng nổ quanh sân dinh Độc Lập. Viên bí thư vừa mới

bắt đầu hỏi Lansdale là phải ứng phó cách nào thì đã phải cắt ngang câu chuyện để thông báo ngay cho Lansdale được biết rằng thủ tướng Diệm vừa mới ra lệnh cho quân đội Quốc Gia phản công và thủ tướng thông báo ngay cho tướng Ély biết lệnh phản công nầy.298 Trong Hồi Ký L’ Indochine dans La Tourmente, tướng P.Ély đã viết về cuộc binh biến ở Sài Gòn vào trưa ngày 28/04/1955 như sau: “Những âm mưu khủng bố gia tăng ở Sài Gòn mà không biết ai là tác giả. Ngày 28/04, sau nhiều ngày chuẩn bị và suy tư, thủ tướng Diệm phát động tấn công vào những địa điểm chính yếu trú đóng của lực lượng Bình Xuyên. Ông Diệm đã cho bản chức biết qua điện thoại một phần quyết định của ông vào lúc 13.Giờ 30. Ông Diệm xác minh quyết định của mình là để đáp ứng với những trận pháo kích vừa rồi bằng súng cối vào dinh Độc Lập và hơn nữa những trận báo kích nầy rõ ràng là miếng đánh trả đối với những cuộc tấn kích được phát động vào xế trưa hôm nay vào những điểm tựa quân địch. Trước thái độ như thế, bản chức chỉ còn có thể khuyến cáo rằng ông Diệm phải cẩn thận đối với trách nhiệm nặng nề mà VSTK - 3905


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

ông phải chuốc lấy đối với đất nước của ông với sự mạo hiểm đưa đất nước vào cuộc nội chiến và rằng bản chức giành quyền tự do đầy đủ để hành động trong phạm vi quyền hạn và trách nhiệm của mình.”299

Một đoạn Xã luận ghi chép dưới hình thức ghi chú dưới một CĐ đề ngày đề ngày 27/04/1955 của Bộ Ngoại Giao gửi sang tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn đã ghi lạ cuộc khởi đầu binh biến Bình Xuyên ở Sài Gòn như sau: Theo những báo cáo sớm nhất từ Sài Gòn thì cuộc giao tranh giữa quân đội Quốc Gia Việt Nam và Bình Xuyên, giống như đã xảy ra lẻ tẻ từ mấy ngày trước đây, đã khởi phát vào lúc giữa trưa (Giờ Sài Gòn) ngày 28/04 trong vùng Sài Gòn-Chợ Lớn. Vào lúc 12 giờ 15 trưa những đợt pháo kích bằng súng cối không biết của phe phái nào đã rơi vào gần một khu vực do Bình Xuyên kiểm soát gây thương tích cho 6 người và 7 binh sỉ Pháp canh gát một trạm phát điện. Rồi kế đến vào lúc 1 giờ 15 trưa, Bình Xuyên pháo kích nhiêu đợt vào dinh Thủ Tướng. Ông Diệm hiện còn đang ở nơi phòng ở riêng trong Dinh đã gọi điện thoại cho tướng Ély và thông báo rằng nếu pháo kích vào dinh Thủ Tướng còn tiếp tục thì bắt buộc ông phải ra lệnh cho quân đội chính phủ Quốc Gia Việt Nam phản công. Pháo kích vào Dinh Thủ Tướng vẫn tiếp tục, và ông Diệm đã ra lệnh quân đội đưa quân tấn công Bình Xuyên. Những trận chạm trán lớn đã tiếp diễn trong suốt buổi trưa và chiều.300

Trưởng Đoàn Cố Vấn Quân Sự Hoa Kỳ ở Đông Dương O’Daniel đã tóm lược cuộc binh biến ở Đô Thành Sài Gòn-Chợ Lớn khởi phát vào lúc 1 giờ trưa ngày 28/04/1955 như sau: “Xung đột giữa quân đội Quốc Gia và Bình Xuyên khởi phát vào lúc 13 Giờ 15 địa phương ngày 28/04 với đạn súng cối pháo kích vào dinh thủ tướng tiếp theo sau những cuộc nổ súng rời rạc trong những ngày gần đây. Trước 2 giờ trưa, tướng Gambier (của Pháp) được mời tới Tổng Hành Dinh Việt Nam ở đường Galliéni (sau đổi tên là đại lộ Trần Hưng Đạo) để chứng kiến việc pháo kích của đạn súng cối nhưng lúc đó lại chưa có tiếng súng cối nào pháo kích. Tướng Gambier vừa rời khỏi hiện trường một lúc thì đạn súng cối pháo kích vào Tổng Hành Dinh, quân Quốc gia Việt Nam liền phản pháo và trận đánh bắt đầu tập trung dọc theo đại lộ Galliéni. Đạn pháo kích của Bình Xuyên bắn cháy lều trại binh sĩ dựng chung quanh bãi đậu xe nơi Tổng Hành Dinh và quân VSTK - 3906


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

41

42

đội quốc gia chỉ bị thiệt 2 xe, không có thiệt hại nhân mạng. Khu dân cư nằm giữa kinh Tàu Hủ và đường Galliéni bị thiêu cháy suốt cả buổi trưa, Kể từ 5 giờ chiều, thủ tướng Diệm ra lệnh quân đội quốc Gia của chính phủ càn quét Bình Xuyên và phản công với 4 tiểu đoàn lính dù. Quân chính phủ dứt điểm thành công những ổ kháng cự Bình Xuyên dọc hai bờ kinh Tàu Hủ vào lúc 1 giờ trưa ngày 29/04/1955, chiếm đống Nha Tổng Giám Đốc Cảnh Sát của Bình Xuyên ở đường Galliéni và đánh bật Công An Bình Xuyên ra khỏi nhiều yếu điểm quan trọng bên trong thành phố. Trong một cuộc hành quân khác, quân đội quốc gia của chính phủ đã đánh chiêm đồn bót của Bình Xuyên gần trương Trung học Petrus Ký. Một cứ điểm mạnh của Bình Xuyên là ở sòng bạc Grande Monde ở Chợ Lớn bị thiêu hủy. Cầu chữ Y lót đà cây dùng để vận chuyển bộ đội rút về các đồn bót ở hướng Nam kinh Tàu Hủ đã bị Bình Xuyên cho nổ sập hư hại không còn xử dụng được nữa. Lửa cháy thiêu rụi dọc đường Galliéni vào lúc dáng ngày 29/04. Giao tranh giảm bớt vào trưa 29/04 nhưng lại tái diễn kể từ 5 giờ chiều. Giữa trưa ngày 24/09, quân đội chính phủ nhất quyết càn quét truy kích Bình Xuyên ra khỏi mọi khu vực. Quân đội chính phủ ước lượng có 20-30 tử trận, 150 bị thương vào bệnh viện cò phí Bình Xuyên có 100 tử trận, 400 bị thương. Số dân chúng bị vạ lây rất nặng. Vào lúc 2 giờ 30, Pháp đưa quân của họ bố trí dọc chung quanh các ranh giới các khu kiều dân Âu Châu đông đúc có thể là để phòng ngừa bất trắc các cuộc giao tranh lan rộng hay là để chận cạnh sườn quân chính phủ. Nguồn tinh của quân đội chính phủ cho biết là tại các đồn bót do Pháp kiểm soát ở Sài Gòn do 3 đại đội Công An Xung Phong Bình Xuyên trú giữ và điều nầy càng khiến cho tình trạng trở nên căn thẳng. Quân đội chính phủ tỏ ra đủ khả năng, tinh thần và ý chí cương quyết thanh toán ngay Bình Xuyên. Quân đội quốc gia vốn đã bị tổn thất trong những tháng vừa qua cộng thêm những lệnh truyền của quốc trưởng Bảo Đại dựa trên những sự tham khảo với chính quyền Pháp ở Paris hiển nhiên là đã khiến cho những khuynh hướng Hoa Kỳ ủng hộ mạnh mẽ chính phủ của ông Diệm mất tinh thần và bất định. Bất kỳ một thay đổi nào trong việc lãnh đạo hay chỉ huy vào thời điểm nầy sẽ có thể tạo ra hỗn loạn.”301

i. Hoa Thịnh Đốn lại đổi ý: Hoa Kỳ ủng hộ Ông Diệm Chiến thắng vang vội ít ai ngờ của Ông Diệm ở Sài Gòn đã khiến cho Hoa Kỳ phải nhanh chóng có hành động đáp ứng. Tất VSTK - 3907


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

cả cơ quan của Hoa Kỳ ở miền Nam đều được lệnh ngưng ngay mọi hành động chuẩn bị thay thế Ông Diệm theo chỉ thị Ngoại trưởng F.Dulles trong các công điện số 140,141,142 gửi sang tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn vào chiều tối ngày 27/04/1955 trước đây.302 Điều trần trước phiên họp thứ 246 ngày 28/04/1955 của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ ở Hoa Thịnh Đốn, Ngoại Trưởng Foster Dulles báo cáo như sau: “. . . . . . . . .Nhưng, vào buổi trưa ngày thứ Sáu tuần rồi bộ Ngoại Giao chúng tôi đã gửi đi hàng loạt công điện sang Sài Gòn phát họa những phương án thay thế ông Diệm và nội các của ông ấy. Tuy vậy, nhận định tình hình diễn tiến và sự bộc phát của đêm hôm qua, chúng tôi đã chỉ thị cho những người của tòa đại sứ ở Sài Gòn hãy ngưng hành động theo kế hoạch của chúng tôi nhằm thay thế ông Diệm. Những sự việc biến chuyển tối hôm qua có thể khiến cho việc hạ bệ ông Diệm càng xảy ra nhanh hơn hoặc là khiến ông nổi bật như một người hùng thoát khỏi cơn hiểm loạn. Vì thế, chúng tôi tạm ngưng để chờ xem kết cục ra sao trước khi đặt ông Quát hay bộ trưởng Quốc Phòng (sai!) Đỗ như là những phần tử có thể thay thế ông Diệm. Ngoại trưởng Dulles thú nhận rằng mình không tin tưởng bộ trưởng Quốc Phòng. Mặc khác, cho đến lúc có một sự cố nào đó xảy ra trong những chuỗi rối loạn ở Sài Gòn thì Ông Diệm sẽ vẫn là nhân vật nổi bật.”303

j. Ông Diệm và Hội Đồng Cách Mạng Quốc Gia Trong khi ở Sài Gòn tình hình rối loạn quân sự đang sôi sục cùng với sự căng thẳng giữa thủ tướng Diệm và tướng Collins “Diệm must go!” thì vào ngày 28/04/1955 quốc trưởng Bải Đại lại gửi công điện yêu cầu ông Diệm và tướng Lê Văn Tỵ sang Cannes trình diện đồng thời cũng cắt cử tướng Nguyễn Văn Vỹ thân Pháp thay thế tướng Tỵ trong chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội Quốc Gia Việt Nam rồi biệt phái tướng Hinh về Sài Gòn mang theo nhiều chỉ thị riêng của quốc trưởng.304 Ngày 29/04/1955, cuộc xung đột tiếp tục ở khu trường trung học công lập Pétrus Ký và suốt dọc đường Trần Hưng Đạo, khu Bàn Cờ, khu chợ cầu Ông Lãnh, dân chúng chạy tránh đạn khắp VSTK - 3908


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

các đường phố nhất là vùng chợ Nancy.305 Nhiều đồn bót cảnh sát do công an xung phong Bình Xuyên đóng chốt bắt đầu bị bỏ trống trước sức tấn cồng mãnh liệt, gan dạ của các đội lính dù mủ đỏ trung thành với chính phủ Quốc Gia. Sức nặng của áp lực bị bao vây tứ phía đè trên vai Ông Diệm bắt đầu nhẹ đi. Sau khi nhận được 2 công điện đề ngày 28/04/1954 của quốc trưởng Bảo Đại từ Cannes gửi về thì ngày 29/04/1955 thủ tướng Diệm liền triệu tập các thân hào nhân sĩ, đại diện của nhiều đoàn thể, phe phái quốc gia miền Nam vào họp trong Dinh Thủ tướng để tham khảo ý kiến về 2 bức công điện vừa kể.

13 14

15

16

17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33

Trong tập Ký Ức Huỳnh Văn Lang-Tập 1 (từ trang 511-539) có đoạn viết về cuộc họp nầy như sau:306 Ngày 29-4-1955, hội nghị gồm 52 đại diện cho 18 đảng phái và 34 nhân sĩ khai mạc tại phòng khánh tiết dinh Độc Lập. Chủ tọa đoàn : Ông Nguyễn bảo Toàn, bí thư Dân Xã đảng, Hòa hảo. Hội nghị bầu ra một Ủy ban Cách mạng Quốc gia, gồm ba nhân vật đầu não là Nguyễn bảo Toàn, Chủ tịch, Hồ hán Sơn, Phó chủ tịch, Nhị Lang làm Tổng thư ký. Ủy ban thảo một bản kiến nghị 3 điểm, được tất cả 52 người chấp nhận và ký tên : 1- Truất phế Quốc trưởng Bảo Đại, 2Giải tán Chánh phủ Ngô Đình Diệm. 3- Ủy nhiệm Chí sĩ Ngô Đình Diệm thành lập chánh phủ mới để trừng trị bọn phiến loạn Bình Xuyên, thu hồi chủ quyển Quốc gia, yêu cầu triệt thoái quân đội viễn chinh Pháp và bầu cử quốc dân đại hội. Ở đây tôi muốn nói đến tính cách đại diện bao quát của Hội nghị, chưa bao giờ miền Nam có một Hội nghị gồm đại diện của những 18 đoàn thể nếu không nói là chính đảng và có những 34 nhân sĩ tên tuổi.(#3) (ghi chú #3): 18 chánh đảng là: - Mặt trận Quốc gia Kháng chiến VN – VN Phục quốc hội – Thanh niên Quốc dân Xã VN –VN Dân chủ VSTK - 3909


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

11

12

13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29

Xã hội – Phong trào tranh thủ Độc lập VN –Phụ nữ Quốc dân xã VN – VN Cần lao Nhân vị Cách mạng đảng – Tịnh độ Phật giáo đồ VN – Tổng Liên đoàn Lao công VN – Phong trào Dân chúng Liên hiệp VN – Phong trào Cách mạng Quốc gia – Tập đoàn Công dân – Nhóm Tinh thần – Xã hội Công giáo – Thanh niên Dân chủ VN –Cựu Chiến sĩ Kháng chiến VN – Nghiệp đoàn Ký giả VN – Hội tương trợ Đồng bào Nghệ Tỉnh /Bình. Rất tiếc là không còn đâu có danh sách 29 nhân sĩ. Trong số những nhân sĩ nầy tôi quen thân với BS Huỳnh kim Hữu và ông Huỳnh minh Y, bố vợ anh Huỳnh sanh Thông và anh Dư phước Long và năm ba nhân sĩ nữa, toàn là người Nam kỳ.

Nhị Lang, tác giả của quyển sách "Phong trào kháng chiến Trình Minh Thế" (nxb Alpha, Virginia,1989), kể lại: . . . . đúng 10 giờ sáng ngày ghi trên, Thủ tướng Diệm tiến vào phòng họp với vẻ mặt ưu tư, tuyên bố vắn tắt lý do, xong kiếu từ ngay, "để Quý Ngài được tự do thảo luận". Hội nghị bầu Nguyễn Bảo Toàn vào ghế chủ tọa, Phạm Việt Tuyền vào ghế Tổng thư ký. Như đã thoả thuận với nhau từ trước, Nhị Lang, NBToàn và HH Sơn khai pháo bằng cách đặt thẳng với Hội nghị một vấn đề duy nhất: truất phế Bảo Đại, khỏi bàn đến chuyện gì khác. Nếu Hội nghị từ chối chương trình nghị sự này, ba đoàn thể của họ sẽ rút lui liền. Bầu không khí cực kỳ sôi động. Bên ngoài, lúc đó, từ cầu chữ Y, quân Bình Xuyên pháo kích xung quanh Dinh Độc Lập. Các tổ chức và phần tử ủng hộ từ lâu TT Diệm tỏ ra quá khích. Nhà báo Bùi Quang Nga, bút hiệu Văn Ngọc, vừa hô to Nguồn hình: http://www.youtube.com/watch?v=GbIRZrcFZ2E

30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46

"Đả đảo Bảo Đại", vừa tuột giày, ném vào bức chân dung đồ sộ của Cựu Hoàng treo trên vách Phòng Khánh Tiết. Tiếp theo, nhiều nhân vật như Vũ Văn Mẫu, Hoàng Cơ Thụy... công kênh Nhị Lang lên vai họ để triệt hạ chân dung này giữa tiếng hoan hô vang dội. Hội nghị bầu ra một Ủy ban cách Mạng, sau đổi là Hội đồng Nhân Dân Cách mạng, rồi Hội đồng Nhân dân Cách mạng Quốc gia, thể theo ý kiến của một số nhân vật "ôn hoà" lo ngại chính quyền Diệm sẽ không kiểm soát nổi khuynh hướng cực đoan. Hội đồng này gồm có Nguyễn Bảo Toàn (chủ tịch), Hồ Hán Sơn (Phó chủ tịch), Nhị Lang (Tổng thư ký) và một số ủy viên như Hoàng Cơ Thụy, Trần Thanh Hiệp, Đoàn Trung Còn, Hoàng Phố, Văn Ngọc, bà Đức Thọ, Huỳnh Minh Ý, Hà Huy Liêm và Nguyễn Hữu Khai. Cuối cùng, Hội nghị đưa ra một bản Quyết nghị nảy lửa, gồm ba điểm: Truất phế Bảo Đại, giải tán Chính phủ Diệm và ủy nhiệm chí sĩ N Đ Diệm thành lập Chính phủ Cách Mạng Lâm thời, tổ chức tổng tuyển cử, tiến tới chế độ cộng hoà.307 VSTK - 3910


1 2 3 4 5 6 7

8 9 10 11 12 13

Lúc 5 giờ chiều, sau phiên nhóm kéo dài 7 tiếng, chủ tịch Nguyễn Bảo Toàn mời TT Diệm xuống phòng họp nghe kết quả. Nhị Lang viết: "Khi Thủ tướng nghe xong, tôi thấy mặt ông tái hẳn đi. Tôi chắc ông không ngờ Hội nghị này lại quay sang một chiều hướng khác và lôi kéo ông đi một bước quá xa như vậy... Thủ tướng Diệm lộ vẻ đăm chiêu và nói bằng một giọng trầm mặc: "Xin quý ngài cho tôi được có thời giờ suy nghĩ kỹ về vấn đề trọng đại này!"(trang 310).

Nguồn hình: http://www.youtube.com/watch?v=GbIRZrcFZ2E *Nhị Lang/Thái Lân Nhị Lang, tên thật là Thái Lân, xin tị nạn tại Nam Vang cuối 1955 và chỉ trở lại VN sau vụ đảo chính 1963. Đảng viên VN Quốc Dân Đảng, rể của Nhất Linh, ông làm cố vấn từ 1951 cho Trình Minh Thế, lãnh tụ nhóm Cao Đài kháng chiến Liên Minh.

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

Tướng Thế và tướng Phương đã nói riêng với trùm mật vụ Hoa Kỳ Lansdale rằng Ủy Ban Cách Mạng được hình thành từ một Hội Nghị các Đoàn thể, Phong trào mà em của ông Diệm là ông Nhu đã thử thành lập không bao lâu từ những ngày trước đây nhưng tướng Thế và tướng Phương không thỏa mãn vì chỉ có sự tham gia của những hội đoàn yếu thế mà ông Nhu dựa vào để làm hậu thuẫn. Vì vậy, hai tướng lãnh nầy mới hợp nhau tổ chức một cơ chế năng động hơn và gọi là Ủy Ban Cách Mạng để đáp ứng với sự đe dọa của tướng Vỹ và quốc trưởng Bảo Đại: họ muốn truất phế Bảo Đại và muốn người Pháp chấm dứt xen lấn vào nội tình của quốc gia Việt Nam.308 k. Tướng Nguyễn Văn Vỹ mưu đồ đảo chính

27

28

29

30

Cũng trong ngày 29/04/1955 quốc trưởng Bảo Đại nhận được công điện phúc đáp của ông Diệm rằng ông không thể rời khỏi Việt Nam trong lúc tình hình xáo trộn. VSTK - 3911


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

Ngày 30/04/1955, quốc trưởng Bảo Đại lại gửi Công Điện trách cứ thủ tướng Diệm là bất tuân thượng lệnh về việc trao quyền tổng tư lệnh tối cao quân đội cho tướng Nguyễn Văn Vỹ thay thế tướng Lê Văn Tỵ cũng như không chịu lên đường sang Cannes theo lệnh triệu gọi của quốc trưởng: “Những lý do viện dẫn trong công điện của Thủ tướng hoàn toàn không đầy đủ, vì thế Thủ tướng chỉ cần phải tuân lệnh của bản chức. Bản chức lập lại một lần nữa và đây là lần chót ra lệnh cho Thủ tướng phải sang Cannes để trình diện.”309 Cùng ngày 30/04/1955, Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng Quốc Gia lại nhóm họp tại tòa Đô Chính Sài Gòn với sự xuất hiện diện và hậu thuẫn của các tướng Trịnh Minh Thế, Nguyễn Thành Phương, Nguyễn Giác Ngộ. Có rất đông quan khách và dân chúng tham dự. Hội Đồng lập ra một ban chỉ đạo do 3 tướng vừa kể đứng đầu310 rồi ra tuyên cáo: -Truất phế Bảo Đại. - Giải tán chính phủ Ngô Đình Diệm. - Ủy thác cho Ông Diệm lập chính phủ mới, dẹp phiến loạn, triệu tập Quốc Hội.-Khuyến cáo người Pháp không được tiếp tục gây bất ổn thêm tại miền Nam quốc gia Việt Nam.311 Theo Hồi Ký Le Dragon d’Annam thì vào buổi chiều ngày 30/04/1955, sau khi đã được sự chấp thuận của quốc trưởng Bảo Đại, tướng Vỹ đã tự mình vào dinh thủ tướng để đòi hỏi ông Diệm thi hành lệnh bàn giao chức chưởng Tổng tham mưu trưởng quân đội Quốc gia. Thủ tướng Diệm đã ra lệnh bắt tướng Vỷ. Tướng Vỹ chỉ được trả tự do sau khi có sự can thiệp của đại tá Đỗ Cao Trí, nguyên là một bạn thân của tướng Vỹ và có công lớn trong các trận mở màn dẹp loạn Bình Xuyên. Sau đó, tướng Vỹ quay trở về Đà Lạt.312 Trước đây, vào tháng 10/1954, tướng Nguyễn Văn Vỹ được bổ nhiệm chức vụ Tổng tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia Việt Nam thay tướng Nguyễn Văn Hinh. Tháng 12/1954, theo lệnh của thủ tướng Diệm, tướng Vỹ bàn giao chức vụ này lại cho tướng Lê Văn Tỵ và nắm giữ chức Tổng Thanh tra Quân đội kiêm Tham mưu trưởng Võ phòng Ngự Lâm Quân của hoàn đế Bảo Đại. Tiến sĩ Lâm Lễ Trinh khi viết về những ngày đầu của thủ tướng Diệm đã tìm gặp người đã trực tiếp dùng súng lục uy hiếp VSTK - 3912


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

tướng Nguyễn Văn Vỹ tại Dinh Độc Lập và hành động này làm thay đổi cuộc diện trong cuộc tranh chấp giữa thủ tướng Ngô Đình Diệm và quốc trưởng Bảo Đại. Từ sau biến cố này, cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức. Ngày 09/10/2005, với bài viết Truất phế Bảo Đại và khai sinh Đệ Nhất Cộng Hòa. Ký Ức 50 năm sau TS. Lâm Lễ Trinh đã kể lại biến cố âm mưu đảo chánh của tướng Nguyên Văn Vỹ như sau: 313 ........ Qua ngày 30 tháng 4, lại một cuộc tập hợp đông đảo khác tại Phòng Khánh tiết Toà Đô chính Sàigòn để triệt hạ hình Bảo Đại và nghe N B Toàn, H H Sơn, Nhị Lang tường trình. Trình Minh Thế, Nguyễn Thành Phương và Nguyễn Giác Ngộ xuất hiện, dân chúng hoan hô. Một Hội Đồng Chỉ Đạo được thành lập, gồm có ba tướng giáo phái này, để bao trùm lên Ủy ban Cách Mạng, theo lời đề nghị đầy tham vọng của Nguyễn Thành Phương. Khi sáu nhân vật vừa kể lập một phái đoàn vào Dinh Độc Lập lúc 6 giờ chiều, để thông báo cho Thủ tướng thì họ thấy lối 50 sĩ quan Quân đội quốc gia có mặt ở tầng dưới và hai tướng Nguyễn Văn Vỹ và Lê Văn Tỵ trong phòng khách nhỏ ở tầng trên. Trong hối ký “VN Nhân Chứng” (nxb Xuân Thu, 1989), Trân Văn Đôn kể lại: Trưa 29.4.1955, Vỹ và Đôn đến nhà tướng Tỵ yêu cầu trao quyền cho Vỹ theo sắc lệnh của Bảo Đại, ông Tỵ trả lời: “Tôi sẵn sàng nếu Thủ tướng ra lệnh”. Tất cả đồng ý vào gặp Thủ tướng. Chỉ có Đổ Cao Trí đòi ở lại: “Các anh vô đi. Nếu có gì xảy ra, tôi đến vây Dinh Độc Lập.”

30 31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

41

Một bi kịch bất ngờ xảy ra làm đảo lộn lịch sử Đất nước: Với sự chấp thuận của Trình Minh Thế và Nguyễn Thành Phương, Nhị Lang lặng lẽ đột nhập vào phòng khách, chĩa thẳng khẩu súng Colt 45 vào người tướng Vỹ, hô to: “Dơ tay lên, không tôi bắn!”. Vỹ hoảng hốt dơ tay khỏi đầu. Tướng Tỵ liều mạng chạy lại ôm lấy Nhị Lang nhưng bị gạt ra. Nhị Lang gọi Hồ Hán Sơn, chỉ về phiá Vỹ: “Hãy bốc ga lông của ông này cho tôi!”, Sơn làm ngay. Phóng viên Francois Sully chụp được tấm hình và cho đăng vào báo Life, số phát hành tháng 7.1955. Bộ trưởng Trần Trung Dung cấp báo với Thủ tướng: “Cụ! Cụ! Chúng nó đang định bắt giết ông Vỹ!”. TT Diệm vội ra kéo Vỹ vào phòng. VSTK - 3913


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

Cố vấn Nhu chạy đến can gián Nhị Lang: “Thôi đừng nóng, mấy ông tướng đang họp bàn với cụ” Trả lời người viết (Lâm Lễ Trinh), Nhị Lang cho biết những diễn tiến sau đó: trong một buổi họp liền tiếp theo giữa TT Diệm, Nhị Lang, Hồ Hán Sơn và hai tướng Vỹ, Tỵ trong phòng ngủ (vừa dùng làm văn phòng) của ông Diệm, tướng Vỹ cuối cùng – để được tự do – chịu ký một tuyên ngôn ngắn “tự nguyện từ bỏ hết mọi quyền hành chức chưởng do Bảo Đại ban cho và tự nguyện gia nhập hàng ngũ cách mạng” (nguyên văn). Ngoài ra, lấy lại được chức Tham mưu trưởng, tướng Tỵ cũng bảo đảm “ Vỹ sẽ không làm phản”. Trong suốt phiên họp, Đổ Cao Trí và hai tiểu đoàn Ngự Lâm quân bao Dinh Độc lập để gây áp lực, không ngớt kêu vào xin nói chuyện với Vỹ. Rốt cuộc, họ êm thấm rút lui vì bị kềm kẹp giữa hai đối thủ, phía trước là toán binh phòng vệ Dinh Độc Lập của đại tá Vinh, phía sau là các đơn vị Cao Đài của Nguyễn Thành Phương bố trí tại đường Trần Quý Cáp và Liên Minh của Trình Minh Thế phục kích ở đường Phan Đình Phùng.

Nguồn hình: http://www.youtube.com/watch?v=GbIRZrcFZ2E

VSTK - 3914


Nguồn hình: http://www.youtube.com/watch?v=GbIRZrcFZ2E

?tuyên bố Nguồn hình: http://www.youtube.com/watch?v=GbIRZrcFZ2E

Đại tá Hồ Hán Sơn tuyên bố tiếp theo Nguồn hình: http://www.youtube.com/watch?v=GbIRZrcFZ2E VSTK - 3915


Nguồn hình: http://www.youtube.com/watch?v=GbIRZrcFZ2E

VSTK - 3916


Nguồn hình: http://www.youtube.com/watch?v=GbIRZrcFZ2E

Tướng Vỹ ép tuớng Tỵ Nguồn hình: http://www.youtube.com/watch?v=GbIRZrcFZ2E

Nhị Lang bắt tướng Vỹ Nguồn hình: http://www.youtube.com/watch?v=GbIRZrcFZ2E

Nguyễn Giác Ngộ

Nguyễn Giác Ngộ

Trần Văn Soái

Lê Quang Vinh Ba Cụt

Nguyễn Thành Phương VSTK - 3917


Nguyễn Giác Ngộ và Trần Văn Soái http://www.miscellanees.com/images/bogros020.jpg

Trịnh Minh Thế

Phan Huy Quát

Collins

Nguyễn Văn Vỹ

http://www.readbag.com/chimviet-free-fr-lichsu-ngcaoduc-bay-vien

VSTK - 3918


Lực Lượng Bình Xuyên Hòa Hảo gia nhập 1955

*

VSTK - 3919


PHẦN II (Tiếp theo)

HAI NƯỚC VIỆT NAM (1954 -1963) CHƯƠNG 2 THỦ TƯỚNG DIỆM CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN VÀ ỔN ĐỊNH TÌNH THẾ MIỀN NAM QUỐC GIA VIỆT NAM

1 2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

1- Quân đội chính phủ Việt Nam bình định hỗn loạn quân sự

Có được sự yểm trợ và ủng hộ mặc dù là ngấm ngầm, với bất cứ vì lý do hay mục đích gì, đã giúp ích rất nhiều cho thủ tướng Diệm vượt thoát khỏi vòng rối chính trị ở Việt Nam và lấy lại niềm tin của Hoa Kỳ. Về mặt quân sự, Ông Diệm chưa hề tỏ ra khiếp sợ đối với sự đe dọa của quốc trưởng Bảo Đại, của tướng Hinh hay tướng Vỹ. Quân đội của chính phủ Quốc Gia Việt Nam đã mạnh hơn là người Pháp và Hoa Kỳ đã tưởng tượng: quân đội nầy không chịu đặt dưới quyền của tân tổng tham mưu trưởng quân đội của tướng Vỹ do quốc trưởng Bảo Đại sắc phong. Khi từ Đà Lạt về Sài Gòn để vào dinh gặp thủ tướng Diệm, Nguyễn Văn Vỹ đã kéo đội quân ngự vệ của cựu hoàng Bảo Đại đi theo, chiếm đóng Nha Bưu Điện; với chiến xa hộ tống họ đã chiếm Đài phát thanh quân đội và Ngân Hàng Quốc Gia.314 Ngày hôm sau (01/05/1955) theo Trần Văn Đôn trong hồi ký, tướng Vỹ họp báo cho biết Quân đội sẽ đảo chính vì TT Diệm bị Thế, Toàn và Nhị Lang lấn quyền. Các sĩ quan nhóm, có mặt Nguyễn Hữu Có, Dương Văn Đức, T V Đôn..vv.. Lê Văn Tỵ hỏi: Các anh làm gì đó? Vỹ đáp: Tôi đảo chính! Tỵ: Anh lấy gì để đảo chính? Vỹ: Quân đội. Tướng Tỵ lột sao cuả mình bỏ xuống bàn: "Tôi lột lon trao cho anh đây. Tôi không theo anh đâu!" Nguyễn Văn Vỹ và Nguyễn Tuyên bay lên Đà Lạt, từ đó qua Cao Miên rồi sang Pháp sống lưu vong.315

Tướng Đôn và tướng Tỵ đã kể lại với Landsdale câu chuyện họ bị tướng Vỹ thúc ép làm đảo chính bằng cách khoe khoang khoác lác rằng đương sự đang có ưu thế là nếu muốn người Pháp ở Sài Gòn giúp điều gì thì sẽ được điều đó.316 VSTK - 3920


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

Theo hồ sơ mật của Lầu Năm Gốc Hoa Kỳ thì trong những ngày nầy, tướng Cao Ủy Đông Dương Paul Ély càng tin tưởng rằng ông Diệm không những là vô trách nhiệm mà còn là một kẻ điên khùng mất trí.. Ély chỉ lo bảo vệ cho các khu vực đông kiều dân Pháp và Âu Châu bị nguy hại vì cuộc chiến lan tràn ở Sài Gòn nhưng đương sự không có cách nào để có được sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ và Anh quốc đế tái lập tình trạng ngừng bắn. Xử lý thường vụ tòa Đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn Kidder cho rằng tướng Ély mới chính là kẻ quá khích động để cho cảm xúc riêng tư xen lấn vào tâm trí khiến cho đương sự trở thành vô tích sự đối với nước Pháp và Hoa Kỳ. Linh cảm của Ély về sự xung đột giữa Việt-Pháp là vô căn cứ và không thấy xảy ra.317 Tướng Collins trở lại Sài Gòn, khuyến cáo ông Diệm cần phải kiểm soát cẩn thận Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng vì theo nguồn tin tình báo của Pháp và theo nhận định của Collins thì có CS Việt Minh trà trộn trong hàng ngũ của tổ chức Hội Đồng nầy và nếu ông Diệm đặt tin tưởng quá nhiều vào tổ chức đó thì ông Diệm sẽ trở thành tù nhân của họ. Collins cũng yêu cầu thủ tướng Diệm cãi tổ nội các để tiến hành những công cuộc cãi cách, xúc tiến việc tuyển chọn đệ triệu tập một Quốc Dân Đại Hội để giải quyết số phận của quốc trưởng Bảo Đại. Ngày 02/05/1955, thủ tướng Diệm đã làm theo sự khuyến cáo của Collins bằng cách triệu tập và tuyển chọn theo hình thức rút thăm 50 trong khoản 700 thân hào nhân sĩ từ 39 tỉnh thành, đô thị miền Nam Việt Nam để thành lập một Quốc Dân Hội Nghị (Hội Nghị Dân Chính) để thảo ra một ngụ quyết yêu cầu quốc trưởng Bảo Đại trao toàn quyền hành động dân sự và quân sự cho ông Diệm cho tới khi có Quốc Hội Lập Hiến trong vòng 6 tháng sắp tới.318 Cùng ngày 02/05/1955, trong khi quân đội trung thành với chính phủ phản công Bình Xuyên ở các vùng cầu chữ Y, cầu Nhị Thiên Đường, Xóm Củi, Phú Lâm, chiếm bản doanh Bình Xuyên ở cầu chữ Y và các đồn bót do công an xung phong Bình Xuyên trú đóng thì từ các tỉnh, các cơ quan, các đoàn thể tiếp tục gửi kiến nghị hoặc điện văn san quốc trưởng Bảo Đại ở Pháp để bày tỏ sự ủng hộ của họ đối với chính phủ Ngô Đình Diệm. Ở Huế có VSTK - 3921


1

2

3

biểu tình lớn lập kiến nghị đã kích và đòi truất phế quốc trưởng Bảo Đại, dẹp phiến loạn, buộc quân đội Pháp rút lui, yêu cầu ông Diêm lập Chính phủ khác.319 .

VSTK - 3922


Trong khi đó (ngày 02/05/1955), ở Ở Hoa Thịnh Đốn, các thượng nghị sĩ Mansfield và Knoland tuyên bố mạnh mẽ ủng hộ thủ tướng Diệm. Thượng Nhị sĩ Hubert Humphrey tuyên bố trước Quốc Hội Hoa Kỳ rằng “Ông Diệm là niềm hy vọng tốt nhất mà Hoa Kỳ đang có ở Việt Nam. Ông là nhà lãnh đạo của nhân dân Việt Nam. Ông rất xứng đáng để được chính phủ và chính sách Ngoại Giao của Hoa Kỳ hết long trợ giúp. Đây không phải là lúc Hoa Kỳ phân vân bất định hay chỉ yểm trợ Ông Diêm nữa chừng . . . .Nếu có điều gì đáng chê trách về mặt lãnh đạo ở Việt Nam thì sự chê trách đó phải hướng về Bảo Đại . . . .Nếu chính quyền Việt Nam không đủ chỗ cho hai người cùng một lúc thì Bảo Đại phải bị loại ra . . .”320

Cầu Tân Thuận 1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

Ngày 03/05/1955, trước tòa Đô Chính Sài Gòn dân chúng tụ họp rất đông dưới trời mưa để nghe và hoan hô Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng đọc quyết nghị ngày 29/04/1955 đòi truất phế quốc trưởng Bảo Đại; giải tán chính phủ hiện hữu của thủ tướng Diệm; ủy nhiệm ông Diệm lập chính phủ mới. Trong khi đó, vào buổi trưa cùng ngày tiếng súng liên tục phát ra từ phía cầu Tân Thuận. Mặt trận nầy do tướng Trình Minh Thế đảm trách để truy kích bộ đội Bình Xuyên từ vùng Cầu Chữ Y và Cầu Nhị Thiên Đường rút về hướng Rừng Sát xuyên qua cầu Tân Thuận còn gọi là cẩu Nhà Bè. Tướng Thế đi xe Jeep qua cầu cầu Tân Thuận thì bị trúng đạn chết ngay trận vào lúc chiều tối. Bản tin phổ biến trên báo chí được Đoàn Thêm ghi lại như sau: 321. “Từ 14 giờ, súng nổ dữ dội ở cầu Tân Thuận. Tướng Trịnh Minh Thế đi xe Jeep qua cầu Lang-To, bị Bình Xuyên bắn từ 1 chiếc xuồng máy, hồi 19 giờ. Tướng Thế tới chỉ huy trận đánh chiếm cầu Nhà Bè. Viên đạn bắn suốt từ tai mặt qua tai trái.”

17

VSTK - 3923


1

Cầu Tân Thuận https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/14937530578/in/set-72157647176986755/ 2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

Theo một tài liệu mật của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, trưa ngày 04/5/1955, đại sứ Hoa Kỳ Collins yêu cầu được gặp thủ tướng Diệm. Cuộc gặp mặt khởi đầu bằng lời thương tiếc của Collins về cái chết của tướng Trình Minh Thế; ông Diệm tỏ ra hết sức lo âu và quan tâm về việc nầy bởi vì theo Ông thì tướng Thế là một phần tử ôn hòa. Ông Diệm nói với Collins rằng tướng Thế đã không chịu dùng xe bọc sắt mà cũng không chịu tránh núp súng đạn của kẻ thù. Collins nói rằng thật đáng tiếc là có người nào đó (tên bị xóa bỏ) báo cáo với đại tá tùy viên quân sự tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn John F. Gebheart rằng phát súng giết chết tướng Thế xuất phát từ các giang thuyền của người Pháp dưới sông bắn lên. Ông Diệm liền rời khỏi phòng hội kiến để đi hỏi chuyện với người đó (tên bị xóa bỏ). Collins nói rằng khi quay trở lại phòng hội kiến ông Diệm đã hài lòng với phản ứng nhất thời của người đó (tên bị xóa bỏ). Khi bước vào nơi phòng hội kiến, người đó cho biết có nghe những thuộc hạ của tướng Thế kể chuyện rằng tướng Thế bị bắn từ phía sau. Theo Collins thì những tin đồn đãi như thế rất nghiêm trọng cho sự tưởng nhớ tướng Thế bởi vì nó sẽ khuấy động một cách nguy hiểm tình cảm chống Pháp. Ông Diệm ngắt lời Collins và nói rằng đúng ra thì người đó (tên bị xóa bỏ) cần phải tham khảo ý kiến của ông Diệm trước khi đưa ra những lời phát biểu như thế và nếu đó là VSTK - 3924


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

những điều xác thật thì ông Diệm sẽ có những công bố cần thiết.322 Buổi chiều cùng ngày, Collins gặp tướng Cao Ủy Đông Dương Ély và cho biết phản ứng của ông Diệm nghi ngờ người Pháp có thể phải chịu trách nhiệm gây ra cái chết của tướng Thế. Ély đáp ứng với Collins rằng các giang thuyền nầy thuộc quyền sở hữu của cơ quan cảnh sát Pháp ngày trước và sau khi Pháp tháo hết các trang bị, vũ khí rồi mới được chuyển giao cho Nha Tổng Giám Cảnh Sát Việt Nam từ thời Bình Xuyên đảm trách quyền chỉ huy cơ quan nầy: “Ely

replied that the launches were part of the police equipment turned over to the Vietnamese Police (i.e. Binh Xuyen) when police powers were transferred.”323

Ông Diệm đã cho tổ chức quốc tang tướng Trịnh Minh Thế nhưng đã không tiến hành điều tra thực sự để tìm ra cái chết của Thế là do làn đạn từ phía nào bắn tới hoặc do ai bắn. Và cho tới VSTK - 3925


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

bây giờ vẫn không có một chứng cớ xác nhận nào khả tín về vấn đề ai là những kẻ chủ mưu gây ra cái chết này cho một trong tướng trẻ được coi là có tài, nhiều triển vọng tương lai trên chính trường miền Nam Quốc Gia Việt Nam khiến dư luận cho rằng chính quyền ông Diệm đã khuất lấp bao che một nghi án hình sự hết sức quan trọng và còn có nhiều dư luận cho rằng chính quyền ông Diệm đã chủ trương loại trừ tướng Thế để ngừa hậu hoạn. Trưa ngày 05/05/1955, theo một tài liệu Ủy Ban các Tham Mưu Trưởng Liên Quân Hoa Kỳ (The Joint Chiefs of Staff/JCS), 50 đại biểu toàn quốc đã được rút thăm tuyển chọn theo lời đề nghị của tướng Collins đã vào dinh thủ tướng họp thành một Hội Nghị Dân Chính Toàn Quốc để thảo luận, ra nghị quyết về trường hợp của quốc trưởng Bảo Đại. Đã có sự cãi vả bất đồng ý kiến trong khi bàn thảo giữa các đại biểu Bắc Phần, Trung Phần và Nam Phần khiến cho 18 trong số 20 đại biểu của Nam Phần rời phòng họp ra về. Số 32 đại biểu cỏn lại đã ra một quyết nghị yêu cầu quốc trưởng Bảo Đại trao toàn quyền hành động về Hành Chánh, Quân Sự cho ông Diệm cho đến khi một quốc Hội Lập Hiến được thành hình trong vòng 6 tháng tới. Cùng ngày nầy, khoảng 4,000 phần tử cực hữu cốt cán đại diện cho 95 đoàn thể, đảng phái chính trị xuống đường biểu tình và tụ họp trước một rạp hát để nghe Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng tuyên đọc cương lĩnh. Mặc dù Hội Đồng nầy đã mất đi nhiều thành viên chính trị quan trọng kể từ khi có tin tướng Trình Minh Thế bị tử vong ngoài mặt trận chống Bình Xuyên vào ngày 03/05/1955 nhưng trong số những thành viên còn lại thì vẫn còn có “những thành phần quá khích và mị dân (extremism and demagoguery)” hiên đang khích động quần chúng nghe theo và ủng hộ 3 nghị quyết của Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng: (i) Hạ bệ Bảo Đại; (ii) Giải tán chính phủ hiện thời của thủ tướng Diệm; (iii) Ủy nhiệm ông Ngô Đình Diệm đại diện Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng thành lập một Nội Các Lâm Thời.324 Trong sách Hai Mươi Năm Qua Việc Từng ngày (1954-1964) Đoàn Thêm ghi chép như sau:325 - 04/05/1955- hơn 100 đại biểu các Tỉnh và Thị xã, cùng các VSTK - 3926


1

2

3

4

5

6

đại biểu đoàn thể được mời nhóm họp trong dinh Độc Lập để bàn xét về tình thế. - Tối nay, chỉ còn hai nơi cố thủ của Bình Xuyên: bót Đakao và bót Catinat. - 05/05/1955- Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng họp tại rạp hát Nguyễn Văn Hảo, đòi truất phế Bảo Đại.

Dân chúng biểu tình trước rạp hát Nguyễn Văn Hảo ngày 05/05/1955 Trong hình, các nhân vật đầu não của Hội Đồng Nhân Dân Các Mạng trèo lên đứng trên bao lơn mặt tiền rạp hát để cổ động quần chúng tụ họp biểu tình phía dưới đường trước rạp hát. Người đứng hàng 1 kể từ bên trái có xách cặp da có thể là Nhị Lang (?). Số người tham dự hoan hô cổ động ngoài đường và bên trong rạp hát có khoản 4,000 người. VSTK - 3927


Mặt tiền của rạp hát Nguyễn Văn Hảo hướng về đường Galliéni (đường Trần Hưng Đạo hiện nay),Cửa hậu của rạp Nguyễn Văn Hảo trổ ra đường Bùi Viện.Rạp hát có ba tầng khán ghế ngồi. Tổng cộng số ghế cho khán giả trong rạp là 1200 ghế, và nhiều ghế phụ đặt dọc theo đường đi . Tầng ba dành cho khán giả hạng ba có 300 ghế; Ghế ở lầu tầng nầy được đóng bằng ván dài, đóng từng hàng từ thấp lên cao như ghế băng trong sân đá bóng. Tầng hai dành cho khán giả hạng nhì và hạng nhất có 400 ghế bọc nệm da đỏ có lưng dựa..Tầng trệt có 500 ghế bọc nệm da đỏ, dành cho khán giả thượng hạng và hạng nhất.

Ngày 06/05/1055- Các đại biểu địa phương họp tại dinh Độc Lập hôm nay biểu quyết 3 kiến nghị: (i) Chống Cộng; (ii) Tỏ lòng thành kính và tín nhiệm quân đội; (iii) Yêu cầu quốc trưởng Bảo Đại hứa trả quyền cho Quốc Hội khi nào Quốc Hội được bầu và trong khi chờ đợi, hãy để toàn quyền cho Thủ Tướng Ngô Đình Diệm ổn định tình thế và triệu tập Quốc Hội trong hạn 6 tháng. 1

2

3

4

5

6

7

8

*

VSTK - 3928


KHẢO LUẬN 1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30 31 32 33 34 35 36

37

38

39

40

41

42

43

Không có một biểu hiện cụ thể nào rõ nét trong cuộc tranh chấp rắc rối giữa các phe phái chính trị và những chính khách cá nhân khác nhau xảy ra một lúc với những sự oán giận đùng đùng nhắm vào thực dân và các vua chúa bù nhìn. Hai cơ chế mới được sinh ra là Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng và Hội Nghị Dân Chính Toàn Quốc rõ thật nóng bỏng nhưng nếu quyết định định số phận chính trị của hai nhân vật Bảo Đại và Ngô Đình Diệm thì phải là những kẻ ngoại bang Pháp và Hoa Kỳ. Ngoại trưởng Hoa Kỳ F.Dulles và thủ tướng mới của Pháp là Edgar Faure - thay thế cựu thủ tướng Mendes France từ tháng 02/1955 - đã gặp nhau ở Paris từ trung tuần tháng 05/1955 để đôi co, kỳ kèo về số phận tương lai của ông Diệm. Đây là lần thứ tư trong vòng 9 tháng vừa qua Pháp-Hoa Kỳ đã cố gắng mưu tìm một giải pháp cho vấn đề nầy nhưng lần nầy lại chính là lần bất đồng gay gắt hơn hết. Vào lúc Bình Xuyên khởi phát binh biến, Hoa Kỳ đã phải đồng ý thảo luận với Pháp về vấn đề đi hay ở của thủ tướng Diệm. Tuy nhiên những biên cố bi kịch xảy ra ở Sài Gòn, với sự thành công ngoạn mục của quân đội trung thành với chính phủ đã làm xáo trộn hoàn toàn tình thế, khiến cho ngoại trưởng Hoa Kỳ F.Dulles vào ngày 01/05/1955 phải gửi công điện cho tòa Đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn cũng như ở Paris để khẩn báo rằng Quốc Hội và dư luận quần chúng Hoa Kỳ dứt khoác sẽ không dùng biện pháp chế tài nới lỏng sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với thủ tướng hiện nay của miền Nam Quốc Gia Việt Nam. Bức công điện có đoạn viết: “Vấn đề hiện nay không còn đơn giản chỉ là bằng cách nào và dưới những điều kiện nào chính phủ của ông Diệm cần phải được thay đổi. Đối với Hoa kỳ và nhiều quốc gia trên thế giới thì mặc dù đúng hay sai thì ông Diệm vẫn đang trở thành một biểu tượng Ái Quốc của Việt Nam đang tranh đấu chống lại chủ nghĩa Thực Dân Pháp và những phần tử tham nhũng chậm tiến. Mặc dù đúng hay sai thì những biện pháp mà Bảo Đại đề xuất cũng toa rập với những thế lực thực dân và tham nhũng nầy và ở đây ông Diệm nổi bật lên như một anh hùng của dân tộc.” 326 (1. Events in past few days have put Vietnamese situation in broader and different perspective than when you were here. It is now no longer simply a question of whether and under what conditions Diem Government should be altered. In the US and the world at large Diem rightly or wrongly is becoming symbol of Vietnamese nationalism struggling against French colonialism and corrupt backward elements. Rightly or wrongly Bao Dai by his recent measures gives the appearance of acting in league with these forces and Diem is emerging as popular hero here.)

Sau bao nhiêu lần phân vân tiền hậu bất định, giờ đây một lần nữa, Hoa Kỳ lại cứng rắn quyết định đứng phía sau ông Diệm. Tuy nhiên, sự lệch lạc đường hướng, quan điểm hầu như là hoàn toàn giữa Hoa Kỳ và Pháp ở Sài Gòn cũng như giữa Hoa Thịnh Đốn và ở Paris lại đang đe dọa làm tê liệt những cố gắng của thế giới Tự Do trong công cuộc chống Cộng Sản trên bình diện thế giới và đặc biệt là ở vùng Đông Nam Châu Á hiện nay. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi hội nghị tai ba Anh-Pháp- Hoa Kỳ gặp VSTK - 3929


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15 16 17

nhau ở Paris vào ngày 08/08/1955 ở thủ đô Paris của nước Pháp để bàn bạc vấn đề phòng thủ Âu Châu lại kéo thêm cả những chuyện rắc rối ở Việt Nam vào chương trình nghị sự. Trong khi bàn luận, ngoại trưởng Hoa Kỳ đã cứng rắn tuyên bố rằng hoặc là Hoa Kỳ tiếp tục ủng hộ ông Diệm chứ không phải là bù nhìn Bảo Đại hoặc là Hoa Kỳ sẽ hoàn toàn rút khỏi mọi can dự vào Việt Nam có nghĩa là sẽ chấm dứt viện trợ cho Pháp thêm nữa ở Việt Nam. Thủ tướng Pháp E. Faure thì nói rằng ông Diệm không những là một kẻ không có năng lực mà còn là một kẻ điên khùng nữa (Diem is not only incapable 327, but mad (fou) . Ông Diệm đã lợi dụng sự vắng mặt của đại sứ Hoa Kỳ Collins để tiến hành tổ chức cuộc đảo chính bằng vũ lực tấn kích Bình Xuyên. Lưu giữ ông Diệm đồng nghĩa với việc giúp giáo bằng cách nầy hay cách khác cho Việt Minh Cộng Sản chiến thắng, tạo ra thái độ thù địch của mọi người lên người Pháp. Đi đến kết quả là khối liên minh Pháp-Hoa Kỳ bị tan vỡ. (Continuing with Diem would have three disastrous results: (1) It would bring on a Viet Minh victory, (2) It would focus the hostility of everyone on French, and (3) It will bring on a 328 Franco-US breach.)

23

Thủ tướng Pháp kết luận rằng sự chọn lựa ông Diệm là một chọn lựa không đúng cách, là một giải pháp bất khả thi vì sẽ không có hy vọng gì gặt hái kết quả để cải tiến tình hình. Thủ tướng Pháp hăm dọa bằng cách hỏi ngoại trưởng Hoa Kỳ nghĩ thế nào nếu Pháp rút hết ngay Đoàn quân Viễn Chinh của nước Pháp ra khỏi Đông Dương và giao cho Hoa Kỳ việc bảo vệ các kiều dân và tài sản của người Pháp và những đồng bào tị nạn Công Sản.

24

(What would you say if we were to retire entirely from Indochina and call back the FEC as soon as

18

19

20

21

22

25 26 27 28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

41

42

43

44

possible. I fully realize this; would be a grave solution, as it would leave French civilians and French interests in a difficult position. There is also the question of the refugees' fate. If you think this might be a possible solution, I think I might be able to orient myself towards it if you say so.) 329

Như vậy giữa Hoa Kỳ và Pháp chỉ có hai cách lựa chọn để giải quyết vấn đề ông Diệm nó riêng và vấn đề chống cộng sản ở Đông Dương/ Đông Nam Á nói chung: hoặc là Pháp rút lui hay là Hoa Kỳ rút lui. Hoa Kỳ nghĩ rằng Pháp không phải chỉ hăm dọa đánh lận tráo trở cho nên F.Dulles cần phải tham khảo ý kiến với JSC/ Hội Đồng Tham Mưu Trưởng Liên Quân Hoa Kỳ cũng như sự góp ý của tướng Collins Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn. JSC cho rằng cả hai lựa chọn đều nguy hại: Pháp rút hết quân sẽ tạo ra một tình trạng bất ổn cho miền Nam Việt Nam bởi vì quân đội Quốc Gia Việt Nam chưa có đủ khả năng lấp đầy hố trống quân sự mà Hoa Kỳ thì không thể đưa lực lượng quân sự của mình vào Việt Nam vì các điều khoản cấm đoán trong Hiệp Định Ngừng Chiến Geneva. Hoa kỳ rút lui cũng không ổn bởi vì nếu không có sự yểm trợ tinh thần và vật chất của Hoa Kỳ thì người Pháp không thể nào phát triển một cách hiệu quả và hòa hợp với các lực lượng quân sự bản xứ Việt Nam. Bất kỳ sự lựa chọn rút lui nào thì cũng khiến miền Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng Sản. JSC cho rằng vấn đề tiếp tục hay không tiếp tục ủng hộ Ông Diệm là quyết định của chính phủ Hoa Kỳ nhưng theo theo quan điểm của JSC thì hiện nay nội các của thủ tướng VSTK - 3930


1 2 3 4 5

6

7

8

9

10 11 12 13 14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

41

42

Diệm là có nhiều hy vọng hơn hết để thực hiện sự ổn định nội chính. 330

(The Joint Chiefs of Staff recommend that Mr. Dulles be advised that from the military point of view: a. The government of Prime Minister Ngo Dinh Diem shows the greatest promise of achieving the internal stability essential for the future security of Vietnam.)

Tướng Collins đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn cũng cực lực chống lại việc rút lui của Đoàn Quân Viễn Chinh Pháp ( French Expeditionary Corps/FEC) ra khỏi Đông Dương bởi vì theo như Collins thì Pháp được xem như là quốc gia thụ ủy của Minh Ước Phòng Thủ Đông Nam Á để chống Cộng sản ở Đông Dương và hiển nhiên là Hoa Kỳ hay Khối Thịnh Vượng Chung Anh Quốc chưa thể chuẩn bị sẵn sàng để tiếp nhận trách nhiệm của FEC (a. If FEC should be withdrawn from Vietnam, a strategic military vacuum would be left in this area which could be dangerous. As it stands now, France has accepted major strategic responsibility for the defense of Vietnam, Laos and Cambodia, under the broad aegisof the Manila Pact. I doubt if the US, British Commonwealth, or India is prepared to step in now and assume this responsibility. ) Kế

đến, FEC rất cần yếu cho việc huấn luyện và phát triên quân đội của miền Nam Việt Nam vì Pháp đang tiếp tục cung ứng công tác tiếp vận hậu cần cho quân đội Quốc Gia Việt Nam cũng như cung cấp huấn luyện viên cho phái bộ Cố Vấn Quân Sự Hoa Kỳ/ MAAG trong chương trình huấn luyện quân sự cho chính phủ Miền Nam Việt Nam. Mặc dù sự tồn tại của FEC tạo ra cai đắng trong lòng người dân Việt Nam nhưng Collins tin rằng FEC là một động lực đối trọng cho tình hình chính trị bất kham của miền Nam hiện tại. (On balance, however, is clear that presence of FEC exerts desirable moderating influence.) 331 Với những quan điểm đóng góp của JSC và của đại sứ Collins, ngày 11/05/1955 Ngoại trưởng Dulles đã đề nghị với thủ tướng Pháp hãy tiếp tục ủng hộ ông Diệm cho đến khi Quốc Hội tương lai của miền Nam Quốc Gia Việt Nam được tuyển cử và tổ chức dể quyết định chính thức cơ chế chính trị tối ưu cho miền Nam Việt Nam mà trong đó có thể có hoặc không có ông Diệm. 332 Thủ tướng Pháp E. Faure đồng ý nhưng kèm theo: - Nới rộng nội các ông Diệm và thúc hối tuyển cử Quốc Hội; Giải quyết ôn hòa cuộc xung đột với các Giáo phái và Bình Xuyên; chấm dứt tình trạng tuyên truyền đã đảo người Pháp; tiếp tục giữ chức vụ Quốc trưởng của Hoàng đế Bảo Đại; chấm dứt nhiệm vụ các chức quyền của Hoa Kỳ - nhất là đại tá Lansdale - và của Pháp đang gây rối loạn cho mối liên kết của Pháp với Hoa Kỳ; bảo đảm mối liên hệ giữa Pháp với miền Nam Việt Nam về các quyền lợi kinh tế, giáo dục, tài chánh. Ngoại trưởng Dulles đồng ý nhưng nêu rõ rằng chính quyền ông Diệm không phải là một chính quyền bù nhìn của Hoa Kỳ và Hoa Kỳ chỉ có thể cố vấn chứ không thể ra lệnh. Đối với vấn đề Việt Nam hiện nay chưa có một thỏa ước ràng buộc nào giữa Hoa Kỳ và Pháp hay nói khác đi mọi dư định thực hiện một chính sách chung Pháp-Hoa Kỳ sẽ không thể thực hiện được và trong tương lai Hoa Kỳ sẽ có tự do hơn để hành động mà không còn lệ thuộc vào chính sách và đường lối riêng của Pháp: (Secretary said Faure's

44

suggestion helpful at this stage but repeated his statement that the situation does not lend itself to a contractual arrangement between, the two governments) hay nói theo kiểu bình dân của

45

người Việt Nam là “mạnh ai nấy lo!”.332

43

VSTK - 3931


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

Vấn đề còn lại ở tại miền Nam Quốc Gia Việt Nam hiện giờ là Bình Xuyên đã không còn chỗ để dung thân vì chiến dịch càn quyết của quân đội Quốc Gia trung thành với chính phủ hiện nay của ông Diệm. Tuy nhiên, một khó khăn rắc rối khác lại phát sinh: Ông Diệm phải đối phó cách nào trong thế kẹt giữa hai cơ chế mới được khai sinh là Hội Đồng Cách Mạng Quốc Gia một thiểu số phần tử trên dưới 10 người thiêng hữu một cách cực đoan với khoảng 4,000 cổ động viên nghe theo và Hội Nghị Dân Chính Toàn Quốc Lâm Thời với 1,000 thân hào nhân sĩ tuyển chọn do ông Diệm triệu tập. Ông Diệm phải nghe theo ai đây? Dù cố ý hay không cố ý, sau cái chết của tướng Trịnh Minh Thế, thái độ và hành động của ông Diệm có vẽ như không chấp nhận sự hiện hữu của Hội Đồng Cách Mạng Quốc Gia biểu hiện qua việc ông Diệm triệu tập Hội Nghị Dân Chính Lâm Thời nhưng lại không phải để đòi truất phế quốc trưởng Bảo Đại ngay tức thì theo như đòi hỏi của Hội Đồng Cách Mạng Quốc Gia đang sôi nỗi gào thét. Có phải đây là dấu hiệu khởi phát tình trạng rạng nứt, chia rẽ đầu tiên của những người Quốc Gia của Miền Nam chống Cộng Sản Việt Minh? *

17 18 19 20 21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

South East Asia Collective Defense Treaty (Manila Pact); September 8.29.54: SEATO / Minh Ước Phòng Thủ Đông nam Á gồm có: Thái Lan (02/12/1954) Hoa Kỳ, Úc, Pháp, Tân Tây Lan, Pakistan, Phi Luật Tân, Vương Quốc Anh (19/02/1955).

2. Bình minh ló dạng ở miền Nam Việt Nam và những ngày tàn lụi của Thực dân Thuộc địa Pháp

Chiều tối 08/05/1955, chốt kháng cự quan trọng của Bình Xuyên là bót Catinat (đường Catinat, sau đổi là đường Tự Do) buông sung đầu hàng quân chính phủ với 88 Công An Xung Phong/CAXP, 20 xe quân sự và nhiều sung óng đạn dược. Sáng ngày 10//05/ 1955, bót cuối cùng của CAXP Bình Xuyên cuối cùng ở khu vực Đa Kao/Tân Định trên đường Legrand de la Liraye (sau đổi gọi là đường Phan Thanh Giản) bỏ trống, còn để lại một số vũ khí.333

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

Cuộc khủng hoảng binh biến Bình Xuyên trong nội thành Sài Gòn – Chợ Lớn và các vùng phụ cận đã bị dẹp tan. Thủ tướng Diệm đã đối phó một cách dứt khoác và nhanh chóng với Mặt Trận Liên Minh Toàn Lực các Giáo Phái và Bình Xuyên và đây là một một đòn hóc hiểm mà thực dân Pháp không có thể nào ngờ tới và vẫn chưa chịu tin là có thật. Đầu lĩnh Bình Xuyên Bảy Viễn và các thủ hạ phải tháo chạy rút trốn về vùng Rừng Sát và bị chính quyền ông Diệm đặt ngoài vòng pháp luật, tịch thu tài sản. VSTK - 3932


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

Mặc dù thủ tướng Diệm đang thu gặt được nhiều kết quả khả quan về mặt quân sự nhưng vẫn còn quá nhiều vấn đề bức xúc vây quanh. Các giáo phái vũ trang ở miền Tây, ở miền Đông, tàn quân của Bình Xuyên vẫn chưa chịu nằm yên cùng với CSVM nằm vùng bắt đầu quậy phá khiến cho nhu cầu bình định đánh dẹp của quân đội chính phủ trở thành mối ưu tư hàng đầu của ông Diệm. Vấn đề triệu tập cho bằng được một Quốc Hội Lập Hiến cần phải được xúc tiến không thể để dây dưa kéo dài. Mối đe dọa “hợp pháp” của quốc trưởng Bảo Đại cũng là một bài toán nhứt đầu cho ông Diệm. Thêm nữa, những vấn đề lấn cấn trên bình diện diện chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, giáo dục, tài chính với tập đoàn thực dân Pháp chậm tiến còn hiện diện trên phần đất miền Nam Việt Nam “hoàn toàn độc lập” cũng cần phải được giải quyết minh bạch và dứt khoác. Sau cùng, vấn đề nghiêm trọng hơn hết là sự quyết định của chính quyền miền Nam hiện do ông Diệm đứng đầu về việc Tổng Tuyển Cử Thống nhất đất nước vào tháng 07/1956 như đã dự trù trong Hiệp Định Geneva mà chính quyền Quốc Gia Việt Nam không có ký tên vào. Ngày 10/05/1955, thủ tướng Diệm cải tổ nội các với một thành phần “chuyên gia kỹ thuật” có ít hoặc chưa có tiếng tăm VSTK - 3933


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

trên diễn đàn chính trị ở miền Nam để hoạt động cho tới khi Quốc Hội được bầu cử. Thành phần nội các nầy gồm có: - Thủ tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng - Tổng Trưởng Nội Vụ - Tổng Trưởng Tư Pháp - Tổng Trưởng Ngoại Giao - Tổng Trưởng Tài Chánh-Kinh Tế - Tổng Trưởng Thông Tin - Tổng Trưởng Quốc Gia Giáo Dục và Thanh Niên - Tổng Trưởng Xã Hội và Y Tế - Tổng Trưởng Lao Động - Tổng Trưởng Canh Nông - Tổng Trưởng Công Chánh - Tổng Trưởng Điền Thổ và Cải Cách Điền Địa - Tổng Trưởng Đại Diện Phủ Thủ Tướng - Tổng Trưởng Phụ Tá Quốc Phòng

Ngô Đình Diệm Bùi Văn Thinh Nguyễn Văn Sĩ Vũ Văn Mẫu Trần Hữu Phương Trần Chánh Thành Nguyễn Dương Đôn Vũ Quốc Thông Huỳnh Hữu Nghĩa Nguyễn Công Viên Trần Văn Mẹo Nguyễn Văn Thời Nguyễn Hữu Châu Trần Trung Dung

Một điều đặc biệt đáng lưu ý là nội các nầy được thành lập qua một Sắc Lệnh không do quốc trưởng Bảo Đại ấn ký mà là do cựu thủ tướng Diệm của nội các cũ ký tên và đóng dấu.334 Điều nầy cho thấy là Ông Diệm đã bắt đầu tách rời khỏi quyền lực thượng cấp của quốc trưởng Bảo Đại để hành động một mình, bởi vì quốc trưởng Bảo Đại bây giờ chỉ còn là một mối đe dọa ở quá xa đối với ông Diệm và người Pháp thì không còn cách nào vượt qua sự yểm trợ bao che của Hoa Kỳ cho ông Diệm. Ngày 12/05/1955, tướng Nguyễn Văn Vỹ bị thủ tướng cất chức Tổng Thanh Tra Quân Đội Quốc Gia Việt Nam. Đoàn quân hộ vệ của hoàng đế Bảo Đại sáp nhập vào hàng ngủ Quân Đội Quốc Gia kể từ ngày 15/05/1955. Các tướng Nguyễn Văn Thành. Lê Văn Viễn, Nguyễn Văn Vỹ, đại tá Nguyễn Tuyên, Lai Hữu Tài, Lai Văn Sang bị truy tố trước Tòa Án Quân sự về tội phá hoại an ninh và phản bội Quốc Gia. Tàn quân Bình Xuyên bị truy đuổi, càn quét nặng nề ở đặc khu Rừng Sát. Tài sản chương mục Ngân hàng của Bình Xuyên bị niêm phong, tịch thu, trị giá trên hơn trăm triệu đồng.335 Tướng Ély Cao Ủy Đông Dương và tướng Collins đại sứ đặc nhiệm của Hoa Kỳ ở Sài Gòn là hai nhân vật rất hòa điệu với nhau trong bản nhạc hòa tấu chống đối ông Diệm theo nhịp điệu VSTK - 3934


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

võ biền của họ chứ không phải theo cung cách quy ước của những nhà ngoại giao chuyên nghiệp. Trước đây không lâu, chính sách của Hoa Kỳ đối với ông Diêm rất phân vân bất định mà phần lớn chỉ dựa vào những quan điểm một chiều của tướng Collins và tướng Ély: chống đối ông Diệm. Quan điểm của Collins-Ély đã được Collins truyền đạt lại cho tân đại sứ Hoa Kỳ trước khi Collins chấm dứt trách vụ đại sứ đặc nhiệm của mình trong đó có đoạn nêu rõ là cần phải đối phó và giải quyết chính quyền của của ông Diệm như thế nào:336 . . .Nội các cũ của ông Diệm có rất ít người có năng lực và căn bản chính trị thì rất giới hạn. Khốn khổ là là mọi cố gắng khuyến dụ ông Diệm đặt để những người có năng đều bị thất bại. Thay vào đó, bởi vì với cung cách điều hành của một vị thủ tướng, ông Diệm bị mất tất cả những người có năng lực trong nội các của ông. . . .Vẫn còn quá sớm để phê phán nội các mới được cải tổ của ông Diệm sẽ hoạt động như thế nào. Có rất ít thành viên của nội các nầy có kinh nghiệm về nếp sống của dân chúng và năng lực của họ thì mơ hồ không rõ. Cuối cùng Cũng may là một tổng trưởng Nội Vụ mới đã được bổ nhiệm nhưng thủ tướng vẫn cứ kiêm giữ Bộ Quốc Phòng, mà trong quá khứ thì đây là một tình trạng làm phương hại cho những quá trình hoạt động của cơ quan nầy. Một yếu điểm thiết yếu khác là cơ cấu tổ chức chính quyền vẫn là một mớ hổ lốn lẫn lộn các cơ cấu hành chánh giữa chính quyền Quốc Gia với chính quyền địa phương, tỉnh thành và các tổ chức chính quyền cộng đồng.

Đến nay thì Quốc Hội và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã hoàn toàn xoay chiều để ủng hộ ông Diệm dựa trên những sự kiện thực tế không thể chối cãi mà ông đã gặt hái thành công. Do đó, không có lý do chính đáng nào để bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ có thể biện minh cho việc họ vẫn sẽ tiếp tục để cho tướng Collins ngồi ở nguyên vị ngoại giao phá đám bên cạnh thủ tướng Ngô Đình Diệm hiện vẫn còn đang ở trong tình thế tứ bề bị giặc trong, giặc ngoài rình rập mưu hại. Ngày 14/05/1955, tướng Collins đại sứ đặc nhiệm của Hoa Kỳ ở Sài Gòn đã bị triệu hồi về nước.337 Ngày 28/05/1955, tại dinh Độc Lập, tân đại sứ Hoa Kỳ Frederic Rheinardt trình ủy nhiệm thư lên thủ tướng Diệm.338

VSTK - 3935


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

Ngày 02/06/1955, tướng Cao Ủy Paul Ély cũng được triệu hồi về Pháp. Tướng Jacquot xử lý thường vụ trong khi chờ đợi chính phủ Pháp ở Paris bổ nhiệm một Cao Ủy mới cho 3 quốc gia Đông Dương.339 Từ cuối tháng 05/1955 cho đến gần cuối tháng 06/1955, thủ tướng Diệm chỉ tiếp nhận một cách hời hợt các sự thay đổi nhân sự của Hoa Kỳ và của Pháp bởi vì Ông đang phải bỏ nhiều tâm lực để đối phó với tình hình quân sự ở nhiều nơi tại Nam phần. Mặc dù các lực lượng Bình Xuyên gần như đã bị tan rã hoàn toàn nhưng các đồng minh của họ là các lực lượng vũ trang Hòa Hào của tướng Trần Văn Soái (Năm Lửa) và tướng Lê Quang Vinh (Ba Cụt) đang dàn trải bộ đội của họ phong tỏa các đường thủy vận trên nhánh sông Mékong, sông Bassac, gây khó khăn khốn đốn kinh tế cho nhiều tỉnh thành ở sâu xuống phía Nam và họ cũng cố gắng không thành công trong việc mở một tuyến đường thủy vận rút lui cho tàn quân của Bình Xuyên.340 Từ 05/06/1955 đến 08/6/1955, tổng tư lệnh quân đội Quốc Gia Ngô Đình Diệm ra lệnh cho đại tá Dương Văn Đức mở các cuộc hành quân Đinh Tiên Hoàng đợt I để càn quét và bình định miền Tây Nam phần tức vùng Đồng Bằng sông Cửu Long sau khi hai đồn quân của chính phủ ở Cái Răng (Cần Thơ) và Cái Vồn thuộc tỉnh Cần Thơ-Vĩnh Long bị bộ đội Hòa Hảo của tướng Soái tấn kích. Tổng hành dinh của tướng Soái ở Cái Vồn (Long Xuyên) bị quân chính phủ chiếm đóng, tuyến giao thông Cần Thơ - Cái Vồn - Vĩnh Long được giải tỏa. Nhiều đơn vị bộ đội cấp tiểu đoàn của tướng Soái ra đầu hàng với bộ chỉ huy hành quân của chính phủ.341 Ngày 10/06/1955 Tổng trưởng Đại diện phủ thủ tướng Nguyễn Hữu Châu cùng với Cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu sang Pháp để yêu cầu chính phủ Pháp giải quyết những vấn đề tồn động liên quan tới chủ quyền độc lập toàn vẹn của miền Nam Quốc Gia Việt Nam, yêu cầu quân đội viễn chinh Pháp rút hết ra khỏi miền Nam Việt Nam đồng thời thay thế chức vị Cao ủy Pháp bằng một đại sứ của Pháp bên cạnh chính phủ Ngô Đình Diệm ở Sài Gòn bởi vì Việt Nam không còn ở trong Liên Bang Đông Dương nữa. Cùng ngày, thủ tướng Diệm ra Sắc Dụ đặt ra VSTK - 3936


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

ngoài vòng pháp luật tướng Trần Văn Soái và tướng Lê Quang Vinh của Hòa Hảo.342 Theo trưởng cơ quan mật vụ tình báo Hoa Kỳ Lansdale thì vào ngày 13/05/1955 tướng Trần Văn Soái của Hòa Hảo đã hiến dụ hòa hiệp với ông Diệm với điều kiện rằng các lực lượng bộ đội Hòa Hảo sẽ tuyên bố trung thành với chính quyền Quốc Gia nếu ông Diệm chịu chi bảy triệu đồng để trả những tháng tiền lương quá hạn lương kỳ mà tướng Soái chưa phát cho thuộc hạ của mình và tiếp theo là chính quyền phải bắt đầu nhận trách nhiệm trả tiền trợ cấp cho tất cả bộ đội Hòa Hảo mỗi tháng là nửa triệu đồng. Thủ tướng Diệm cực lực bát bỏ đòi hỏi và đặt điều kiện nầy của tướng Soái. Do đó, tướng Soái đã đào hào đắp lũy phòng ngự quanh đồn binh ở Cái Vồn, phong tỏa sông Bassac để ngăn chận các đường thủy lộ của tỉnh Cần Thơ. Tướng Ba Cụt cũng chuyển bộ đội vũ trang riêng tới cứ điểm Cái Vồn của tướng Soái rồi bắt đầu pháo kích vào tỉnh thành. Rõ ràng là việc tấn kích nầy là để chứng minh cho lời tuyên bố của các đầu lãnh của Hòa Hảo rằng họ vẫn tự tín có thể đánh bại quân đội trung thành của chính phủ để hạ bệ ông Diệm.343 Kể từ ngày 17/06/1955 đến 29/06/1955, quân đội chính phủ do đại tá Dương Văn Đức mở cuộc hành quân Đinh Tiên Hoàng đợt II trên các địa bàn kiểm soát của tướng Lê Quang Vinh và Trần Văn Soái ở Thất Sơn thuộc các tỉnh Long Xuyên, Cần Thơ, Rạch Giá và các thị trấn Lai Vung, Ô Môn, Thốt Nốt, Gò Quao, v.v... , chiếm bản doanh của tướng Vinh ở vùng núi Ba Chúc, nhiều bộ đội cấp tiểu đoàn Hòa Hảo nộp vũ khí đầu hàng với đoàn quân của chính phủ. Tuy nhiên, vì địa bàn chiến dịch miền Tây Nam Phần quá rộng lớn nên đại tá Đức chưa thể giành thắng lợi ngay.344 Ngày 29.12.1955, ông Diệm đã ra lệnh chấm dứt hai đợt chiến dịch Đinh Tiên Hoàng do đại tá Đức chỉ huy và cắt cử Đại tá Dương Văn Minh thay thế. Ngoài ra ông Diệm cũng cắt cử một nhân vật dân sự là Nguyễn Ngọc Thơ để làm cố vấn chính trị và phụ tá cho đại tá Minh VSTK - 3937


1

2

3

4

5 6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

trong nhiệm vụ thực hiện chiến dịch Nguyễn Huệ từ 1-1-1956 đến 31-5-1956 bình định miền Tây. Hai nhân vật nầy là người miền Nam, và sinh trưởng ở miền Tây, hiểu biết về tâm lý, nhân tâm, đạo giáo, văn hóa dân chúng miền đồng bằng ruộng lúa sông Cửu Long.345 (http://nguyentin.tripod.com/dvduc-u.htm)

3. Không có Tổng Tuyển Cử thống nhất Việt Nam theo Hiệp Định Geneva vào tháng 07/1956

Một công điện đề ngày 29/6/1955, của Đại sứ Rheinhard từ Sài Gòn gửi về Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ở Hoa Thịnh Đốn cho bết rằng Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu đã thông báo với Đại sứ Hoa Kỳ rằng nội các chính phủ Việt Nam đã có quyết định vệ lập trườngế của mình đối những cuộc bầu cử theo Hiệp định Geneva quy định cùng với những sự kêu gọi việc tuân hành Thỏa ước Geneva. Hội Đồng Nội các đã thông qua để Thủ tướng công bố với những yếu tố như sau: a. Chính phủ chủ trương thống nhất Việt Nam. b. Việc thống nhất nầy phải được thực hiện bằng hình thức những cuộc bầu cử dân chủ c. Những cuộc bầu cử phải tự do và được bảo vệ bằng những phương cách an toàn. d. Lập trường trên đây không phải là vì Chính phủ không công nhận Hiệp Định Geneva nhưng đó là một sự biểu hiện lòng mong ước nhiệt tình của chính phủ về một sự thống nhất đất nước theo phương thức dân chủ. Công điện nầy còn cho biết rằng nội các của ông Diệm có ý muốn dự trù thêm vào bản công bố sắp tới của thủ tướng là việc tổ chức tổng tuyển của toàn quốc phải do chính quyến hiến định của miền Nam Việt Nam tổ chức nhưng đại sứ Reinhardt khuyến cáo là nên dành điều khoản nầy để dùng về sau thì tốt hơn “I think I convinced Mau that this variant might best be saved for possible later use”.346

Ngày 07/07/1955 kỷ niệm 1 năm chấp chính của thủ tướng Ngô Đình Diệm. Ảnh của ông Diệm bắt đầu được chính quyền treo lên nơi công sở. Tại bộ Xã Hội, trước sự hiện diện của Tổng VSTK - 3938


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

trưởng Vũ Quốc Thông, một nhân viên tùng sự ở bộ nầy đã tuyên bố hiến ½ lít máu để vẽ chân dung của ông Diệm 347 để phản đối ngày nước Việt Nam bị chia cắt bởi hiệp định Geneva 20/07/1954. Ngày 13/07/1955, sinh viên học, học sinh xuống đường biểu tình phản đối Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế thiên vị CSVM, đòi thả tất cả binh sĩ người Việt Nam vẫn còn bị CSVM giam giữ. Ngày 17/07/1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm tuyên bố Quốc Gia Việt Nam không ký kết Hiệp Định Geneva cho nên không bị ràng buộc phải tuân theo những điều quy định của Hiệp Định nầy nhưng chính quyền Quốc Gia Việt Nam ở miền Nam luôn luôn trung thành với chính sách hòa bình cho nên sẵn sàng tổ chức Tổng Tuyển cử nếu toàn dân cả nước Việt Nam từ Nam chí Bắc có quyền và có thể đi bầu một cách tự do. 347 Bản tuyên bố nầy đã được dự thảo từ ngày 16/07/1955 và được dịch ra tiếng Anh để ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu trao cho đại sứ Hoa Kỳ Reinhard tham khảo ý kiến trước khi thủ tướng Diệm công bố trên đài phát thanh. Bản dự thảo gồm có 12 mục (*lưu ý: đánh số chỉ với mục đích tham khảo mà thôi.) trong đó mục số 2 ,số 3 và số 7 viết: “-2. Chính phủ chúng tôi không có ký tên vào những điều ước của Hiệp Định Geneva. -3. Không có cách nào để ràng buộc Chính phủ chúng tôi phải tuân hành những điều ước đã được quy định đi ngược lại ý muốn của nhân dân Việt Nam. -7. Chính phủ chúng tôi sẽ không bỏ qua bất cứ dịp may nào để thực hiện một cách tự do việc thống nhất lãnh thổ của nhân dân. Tuy nhiên không thể có chuyện quan tâm đến bất cứ đề nghị nào của Việt Minh nếu chính phủ chúng tôi không được trưng dẫn bằng chứng rằng họ đặt quyền lợi của dân tộc cao hơn quyền lợi của chủ nghĩa Cộng Sản; nếu họ chưa chị từ bỏ khủng bố và áp dụng nhưng phương cách chuyên chế; nếu họ chưa chịu từ bỏ vi phạm những điều họ đã cam kết chẳng hạn như họ đã ngăn chận đồng bào miền Bắc di cư vào miền Nam và gần đây họ đã vi phạm qua việc họ đã cùng với CS Phathet Lào tấn công quốc gia huynh đệ Vương Quốc Lào.”348

Đại sứ Hoa Kỳ đã yêu cầu ngoại trưởng Mẫu đề nghị với nội các: VSTK - 3939


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33 34

35

36

37

(a) chuyển hai mục 2 và 3 của bản dự thảo nói trên xuống vị trí 5 và 6. (b) Thay nhóm chữ quan tâm đến “examining” bằng nhóm chữ cứu xét đến “considering”. Tuy nhiên khi phát thanh, Ông Diệm vẫn để nguyên vị trí của mục 2 và 3 nhưng đồng ý dùng chữ Cứu Xét đến/Considering thay thế cho chữ quan tâm đến/ Examining. 349 4. Phản ứng khắp nơi về bản công bố ngày 17/07/1955 của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm về vấn đề Tổng Tuyển Cử thống nhất Việt Nam

4.1 Phản ứng của Pháp Lời Tuyên Bố Cuối Cùng của các thành viên có chữ ký trong Hiệp Định Geneva Hội Nghị Geneva dự định thực hiện Tổng Tuyển Cử Thống Nhất Việt Nam vào tháng 07/1956 và những cuộc tham khảo lẫn nhau giữa các đối tác có thẫm quyền bắt đầu từ tháng 07/1955. Tuy nhiên nội dung Lời Tuyên Bố Cuối Cùng rất là mù mờ, không nêu rõ lý lịch của những đối tác có thẫm quyền là ai và đã được phổ biến trong buổi họp Toàn Thể (Thượng đĩnh) thứ 8 từ lúc 3 giờ chiều ngày 21/07/1954 của Hội Nghị Geneva về Đông Đương, mục số 7 viết: “Hội nghị tuyên cáo rằng, đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị, thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải khiến cho nhân dân Việt nam được hưởng những quyền tự do căn bản, được bảo đảm bởi những định chế dân chủ được thành lập tiếp theo sau những cuộc tổng tuyển cử tự do qua việc bỏ phiếu kín. Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đúng mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam và để cho tất cả những điều kiện cần thiết được hội đủ để tự do bày tỏ ý nguyện của quốc gia, những cuộc tổng tuyển cử sẽ được tổ chức vào tháng 7 năm 1956 dưới sự kiểm soát của một ủy ban quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ủy Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự. Những cuộc tham khảo ý kiến sẽ được tổ chức bởi những đại diện của các viên chức có thẩm quyền của hai vùng kể từ ngày 20 tháng 7 năm 1955.”(Xem bản văn tiếng Anh / Pháp nơi phần Cước chú số # 175).

Vào lúc Hiệp Định Geneva ra đời, Thực dân Pháp là kẻ nấm quyền lực cai trị nước Việt Nam từ Nam chí Bắc mà cũng chính người Pháp một mình đã đặt chữ ký của họ vào Hiệp Định Đình VSTK - 3940


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

Chiến Geneva và thuận nhận trách nhiệm thi hành các điều khoản ấn định của Hiệp Định nầy. Tuy nhiên, vào tháng 07/1955 thì quyền lực của Pháp ở Việt Nam đã bị suy mòn một các thảm hại đến mức không còn có thể thi hành những trách vụ của họ nếu không có sự đồng tình và hợp tác của chính phủ do ông Diệm đứng đầu. Hàng ngũ chính khách Pháp quốc đang bị áp lực dư luận dân chúng của họ đòi hỏi rằng người Pháp không thể để cho CSVM với bất cứ lý do nào tái tục sự nghịch thù với đoàn quân Viễn Chinh Pháp vẫn còn đang có mặt ở Đông Dương. Vì thế Pháp phải tìm cho bằng được một phương cách nào đó để thực hiện điều kiện ấn định về vấn đề tham khảo ý kiến giữa các đối tác trong tháng 07/1955. Bởi vì Chính phủ Quốc Gia Việt Nam ở miền Nam do ông Diệm lãnh đạo không ký kết Hiệp Định Geneva cho nên giải pháp thực tiễn hơn hết cho người Pháp là làm sao thuyết phục Thủ Tướng Diệm chấp thuận tham khảo ý kiến với CSVM. Do đó Pháp phải cầu cứu với đồng chủ tịch Hội Nghị Geneva là Anh Quốc thuyết phục chính quyền Quốc Gia Miền Nam hiện tại. 4.2 Phản ứng của Anh Một Công điện từ tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở Pháp đề ngày 06/07/1955 gửi về Bộ Ngoại Giao ở Hoa Thịnh Đốn cho biết rằng từ mấy ngày qua, Văn phòng Bộ Ngoại Giao Pháp và tòa Đại Sứ Anh ở Paris đang quan ngại về thái độ không thỏa đáng của Ông Diệm qua bản dự thảo Tuyên bố do ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu chuyển trao cho đại sứ Hoa Kỳ Reinhard ở Sài Gòn để tham khảo ý kiến trước khi ông Diệm công bố trên đài phát thanh. Họ cho rằng nếu bản Tuyên Bố nầy được phát thanh thì đối với nhân dân Việt Nam và thế giới xem đây như là chứng cớ cho thấy chính quyền miền Nam của ông Diệm không có ý định thi hành các điều khoản quy định trong Hiệp Định Geneva và như thế thì sẽ có những hậu quả đáng tiếc cho phe Đồng Minh Pháp-Anh-Hoa Kỳ. Quan điểm từ Tòa Đại sứ Anh Quốc ở Paris được xác định sáng ngày hôm nay 06/07/1955 là tất cả những thành viên có chữ ký trong Hiệp Định Geneva đều có nghĩa vụ ngang nhau để làm cho các điều khoản trong Hiệp Định nầy được VSTK - 3941


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

chấp hành. Pháp kể luôn cả Việt Minh và nhân dân Việt Nam đều có nghĩa vụ. Anh và Hoa Kỳ đều có cùng một quan điểm với Pháp cho rằng nếu tiến trình thăm dò ý kiến Tổng Tuyển Cử không được thực hiện trước hay đúng ngày 20/04/1955 thì sẽ tạo ra tình hình khủng bố và rất có thể là những hành động thù nghịch sẽ tái phát. Anh và Hoa Kỳ cũng đồng ý với Pháp rằng nếu chính quyền của thủ tướng Diệm không Công bố về ý định thực hiện sự thăm dò Tổng Tuyển Cử trước thời hạn 20/07/1977 thì Việt Minh có thể đệ đơn tố giác Pháp đang vi phạm Hiệp Định Geneva với Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến Đông Dương hoặc với 2 trong 05 Cường Quốc của Hội Nghị Geneva về Đông Dương 1954. Để đáp ứng, Pháp biện bác rằng Việt Nam hiện giờ hoàn toàn độc lập và ngoài vòng kiểm soát của nước Pháp cho nên Pháp không thể tiếp tục áp đặt những điều trói buộc ngoài ý muốn của Việt Nam hay nói khác đi, người Pháp cho rằng trách nhiệm thi hành Hiệp Định Geneva là trách nhiệm chung của tất cả những quyền lực có chữ ký tên trên bản Hiệp Định nầy.350 Pháp đã được Anh giúp đỡ. Với tư cách là một đồng chủ tịch với CSLS tại Hội Nghị Geneva cùng đóng vai đạo diễn dàn xếp Hiệp Định Geneva . Anh quốc mong muốn rằng miền Nam Việt Nam nên theo một tiến trình nào có thể được coi như là phù hợp với sự dàn xếp đó. Người Anh tin rằng việc Ông Diệm công nhận nguyên tắc Tham Khảo Ý Kiến và Tổng Tuyển cử là điều thiết yếu cho dù Ông Diệm chưa muốn mở cuộc Tham Khảo Ý Kiến về vấn đề Tổng Tuyển Cử vào lúc nầy. Bằng mọi giá, Ông Diệm cần ngăn ngừa quần chúng đã đảo Hiệp Định Geneva. Vì thế, các chuyên gia ngoại giao Anh và Pháp ở Sài Gòn đã liên hợp với nhau để hối thúc Ông Diệm mở cuộc Tham Khảo Ý Kiến với chính quyền VNDCH ở miền Bắc.351 Tuy nhiên, chính sách của chính phủ Anh về vấn đề Tổng Tuyển Cử để thống nhất hai miền Nam-Bắc Việt Nam đã được bộ trưởng Ngoại Giao Anthony Nutting trong khi tường trình trước Quốc Hội Anh quốc vào ngày 15/06/1955 đã trình bày rằng “chính phủ Anh không ra lệnh cho chính quyền miền Nam Việt Nam hiện tại phải tiến hành việc mở hội đàm tham khảo”. Vấn VSTK - 3942


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

đề rắc rối là người Pháp ký tên vào Hiệp Định trước khi chính quyền miền Nam Việt Nam được độc lập. Nhưng hiện giờ Miền Nam Việt Nam hoàn toàn độc lập và nếu các thế lực Âu Châu dựa vào lý do nầy để tránh né trách nhiệm kiểm soát và đôn đốc hoặc gây ảnh hưởng chấp hành thì Hiệp Định Geneva kể như không còn nữa. Để đáp ứng chất vấn nạn nầy, Mutting phát biểu rằng chính phủ Anh quốc mặc dù không có quyền ra lệnh nhưng có thể dùng mọi khả năng ảnh hưởng của mình để thuyết phục chính quyền miền Nam Việt Nam chấp nhận việc sắp xếp của Ủy Ban Giám Sát Đình Chiến trong tiến trình tham khảo và tổ chức tổng tuyển cử thống nhất nước Việt Nam nhưng cũng không thể để cho Ủy Ban nầy nghiên ngửa phe phái giúp đỡ cho một phía Việt Nam nào thắng cử.352 4.3 Phản ứng của Hoa Kỳ Trong một bức thư đề ngày 10/06/1955 gửi đi từ Hoa Thịnh Đốn, Giám đốc Sự Vụ Đông Nam Á và Phi Luật Tân lưu ý đại sứ Hoa Kỳ Reinhardt ở Sài Gòn rằng trong khi Hội Đồng An Ninh Quốc Gia chưa có thái độ dứt khoác về vấn đề miền Nam và miền Bắc Việt Nam ngồi với nhau để bàn định việc tổ chức Tổng Tuyển Cử Thống Nhất đất nước thì Pháp đưa ra tối hậu thư đòi Ông Diệm phải ra đi đồng thời Ấn Độ, Anh và Pháp cũng tạo áp lực yêu cầu Hoa Kỳ thúc buộc Ông Diệm phải tuân hành quy định tiến trình Tổng Tuyển Cử vào tháng 07/1956. Áp lực như thế có thể khích động cho CSVM với sự tiếp tay của Pháp quậy phá qua các hình thức khủng bố hoặc xâm nhập đánh phá miền Nam. Vị thế chính trị của Ông Diệm trong nước cũng như ở ngoài nước được coi nhu là vững vàng nhưng chưa chắc là có nhiều quốc gia khác có thiện cảm với Ông Diệm và các thành phần Quốc Gia không Cộng Sản của miền Nam Việt Nam.353 Trong cuộc họp báo ngày 28/06/1955, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Dulles đã tránh đề cặp đến vấn đề hai phía Việt Nam mở cuộc đàm phán thảo luận vấn đề Tổng Tuyển Cử ở Việt Nam nhưng phát biểu để cho thấy Hoa Kỳ không e ngại việc tổng tuyển cử để thống nhất Việt Nam với điều kiện là cuộc tổng tuyển cử nầy phải được tiến hành trong những điều kiện thực sự tự do bởi vì VSTK - 3943


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

theo Dulles thì Cộng Sản Việt Minh từ trước tới nay chưa hề được thắng trong những cuộc bầu cử tự do của dân chúng. 354 4.4 Quan điểm của CS Liên Sô và Ấn Độ Ngày 23/06/1955, Thủ tướng CSLS Bulganin và Thủ tướng Ấn Độ Nehru từ Moscova đã cùng nhau đưa ra một Thông Cáo chung là tất cả các thành viên có chữ ký trong Hiệp Định Geneva cần phải có hành động thích ứng nhất để được giải tỏa khỏi những trách nhiệm của mình.355 Ngày 19/07/1955, chính quyền miền Bắc VNDCCH do Phạm Văn Đồng thay mặt ký tên đã gửi một thông điệp chinh thức yêu cầu Ông Diệm và Quốc trưởng Bảo Đại mở hội đàm tham khảo Tổng Tuyển Cử. Thông điệp có đoạn viết : “ . . .Tiếp theo Tuyên bố ngày 06/06/1955 của VNDCCH, đài phát thanh Sài Gòn vào ngày 16/07/1955 đã cho biết lập trường của chính quyền Quốc Gia Việt Nam đối với vấn đề Tổng Tuyển cử để thống nhất lãnh thổ quốc gia. Sự công bố đã đề cặp đến việc Tổng Tuyển Cử và Thống Nhất nhưng không đá động gì tới một sự thảo luận quan trọng hơn hết và rất thực tế đó là cuộc gặp gỡ của những những đại diện có thẫm quyền của hai miền cho việc đàm phán hội ý về vấn đề Tổng Tuyển Cử và Thống Nhất như Hiệp Định Geneva đã quy định. Hơn nữa, có những điều không đúng và như thế sẽ không giúp ít gì để tạo được một môi trường thuận lợi cho việc triệu tập một cuộc đàm phán hội ý.”356 4.5 Hội Nghị Thượng Đĩnh Geneva tháng 07/1955 Thông điệp của CHDCVN ngày 16/07/1955 gửi cho chính quyền Quốc Gia Việt Nam ở miền Nam đã gây bối rối thêm cho 3 cường quốc Tây phương Anh, Pháp, CS Liên Sô và cường quốc Hoa Kỳ , không có “cường quốc mới lên” CS Trung Hoa, đang gặp nhau ở Hội Nghị Thượng Đĩnh Geneva kể từ ngày 18/07/1955. Trong cuộc họp thượng đĩnh nầy, Anh , Pháp, Hoa Kỳ đều thỏa thuận với nhau rằng sẽ cố gắng tránh né việc thảo luận các vấn đề có liên hệ đến Đông Dương, sẽ từ chối áp lực của CSLS yêu cầu mời cường quốc mới là CSTH tham dự Hội Nghị Thuợng Đĩnh nầy để bàn luận về vấn đề Đông Dương hoặc mưu định tái nhóm Hội Nghị Geneva 1954. Với vẽ bề ngoài suy yếu VSTK - 3944


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

và ôn hòa, Hội Nghị đã có thể chấm dứt mà không đá, động gì đến các vấn đề ở Đông Dương. Tuy nhiên, hay ngày sau khi Hội Nghị Thượng Đĩnh khai mạc, một biến cố xảy ra ở Sài Gòn gây xôn xao báo chí khắp thế giới.357 Để kỷ niệm ngày quốc hận, ngày 20/07/1955, một cuộc xuống đường biểu tình chống cán bộ CSVM và phản đối chia đôi nước Việt Nam, đập phá nhiều phòng óc khách sạn Majestic ở đường Catinat (Tự Do) và một khách sạn khác ở đường Galliénie (Trần Hưng Đạo) nơi có cán bộ quân sự CSVM liên lạc với Ủy Hội Kiểm Quốc Tế Soát Đình Chiến Đông Dương. 358 Nhiều kiều dân Hoa Kỳ cũng bị vạ lây trong cuộc biểu tình nầy và đã được các nhân viên Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ che đỡ tiếp cứu khỏi sự hành hung của đám biểu tình. Chính phủ Sài Gòn đã chính thức xin lỗi và đền bồi thiệt hại nhưng sự thiệt hại không phải chỉ có thế: Ủy Hội Kiểm Soát Đình Chiến đã tố giác tình trạng vô luật pháp gây tai hại cho cuộc đình chiến ở Việt Nam để rồi kêu gọi hai đồng chủ tịch Hội Nghị Geneva 1954 là Anh quốc và Liên Sô (Eden và Molotov) phải đưa ra những chỉ thị mới để quy trách rằng cuộc biểu tình nầy đã bị xúi giục. Thủ tướng Ấn Độ Nehru cũng đánh điện tố giác với Eden và Molotov là chính quyền miền Nam đã có những hành động không thân thiện với Ủy Ban Quốc Tế Kiển Soát Đình Chiến. Tuy nhiên tại Hội Nghị Thượng Đĩnh Geneva, tố giác của Nehru không có trong chương trình nghị sự nhưng Eden và Molotov đã gặp nhau riêng để xét bàn về vụ nầy. Nhiều kiều dân Hoa Kỳ cũng bị vạ lây và đã được các nhân viên Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ che đỡ cứu vớt khỏi sự hành hung của đám biểu tình quá khích. Chính phủ Sài Gòn đã chính thức xin lỗi và đền bồi thiệt hại nhưng sự thiệt hại không phải chỉ có thế: Ủy Hội Kiểm Soát Đình Chiến đã tố giác tình trạng vô luật pháp gây tai hại cho cuộc đình chiến ở Việt Nam để rồi kêu gọi hai đồng chủ tịch Hội Nghị Geneva 1954 là Anh quốc và Liên Sô (Eden và Molotov) phải đưa ra những chỉ thị mới để quy trách rằng cuộc biểu tình nầy đã bị xúi giục. Thủ tướng Ấn Độ Nehru cũng đánh diện tố giác với Eden và Molotov là chính quyền miền Nam đã có những hành động không thân thiện với Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến. Tuy nhiên tại VSTK - 3945


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

Hội Nghị Thượng Đĩnh Geneva, tố giác của Nehru không có trong chương trình nghị sự nhưng Eden và Molotov đã gặp nhau riêng để xét bàn về vụ nầy.359 Từ một Công điện của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Dulles đề ngày 22/07/1955 gửi cho Đại sứ Reinhart ở Sài Gòn cho biết là tại Hội Nghị Thượng Đĩnh Geneva 3 phái đoàn Tây phương hôm nay đồng ý về những chỉ thị chung của 3 phái đoàn trình bày quan điểm của họ về vấn đề Tổng Tuyển cử để thống nhất lãnh thổ Việt Nam như sau: “Hôm qua (21/07/1955), sau khi nhận được công điện tố giác của Thủ tướng Ấn Độ Nehru, hai đồng chủ tịch Hội Nghị Geneva, ba Ngoại trưởng phương Tây đã thảo luận Thông điệp của Việt Minh gửi cho chính quyền Việt Nam về vấn đề Tham khảo ý kiến giữa hai bên. Các thành viên Âu Châu của Hội Nghị Thượng Đĩnh Geneva (Không có Hoa Kỳ) đã quyết định yêu cầu những giới chức đại diện ngoại giao của nước họ tại Sài Gòn thông tri cho Thủ tướng Diệm rằng chính phủ của họ mong rằng thủ tướng Diệm không nên từ chối đáp lại Thông điệp mà Việt Minh vừa mới gửi đến cho Ông.”360

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

Đáp ứng những khuyến cáo của ba cường quốc Tây phương từ Hội Nghị Thượng Đĩnh Geneva tháng 07/1955, Thủ tướng Diệm lại một lần nữa chính thức tuyên bố vào ngày 09/08/1955, lập lại những lý do chính yếu để từ chối tổ chức Hiệp Thương như đã được đưa ra trong lời tuyên bố qua đài phát thanh Sài Gòn vào ngày 16/07/1955 trước đây. Trong bản tuyên bố 09/08/1955 lần nầy, chính phủ Ông Diệm tố cáo chiêu bài Hiệp Thương đề ngày 19/07/1955 của các chức quyền CSVM ở miền Bắc chỉ nhằm mục đích tuyên truyền lừa phỉnh để chứng tỏ ra chỉ có họ là những người chống giữ cho nền thống nhất lãnh thổ của nước Việt Nam. Bản tuyên bố 09/08/1955 nhắc lại rằng tại Hội Nghị Geneva năm 1954, chính Việt Minh đòi chia cắt cho họ một vùng lãnh thổ kinh tế trù phú trong khi phái đoàn Quốc Gia Việt Nam đề nghị một cuộc ngừng bắn không có chia cắt lãnh thổ để bảo tồn những quyền thiên liên của dân tộc Việt Nam: thống nhất lãnh thổ, độc lập quốc gia và tự do. Lập trường chính phủ Quốc Gia ở VSTK - 3946


1

2

3

miền Nam là kiên định. Toàn thể con người của đất nước phải được sinh sống một cách thống nhất không phải sợ hãi, hoàn toàn độc lập tự do không bị kiềm chế dưới ách độc tài và đàn áp.

4

(http://www.youtube.com/watch?v=cO5zaBl-r_s)

5

6

7

8

9

10

11

Bản tuyên bố 09/08/1955 kết thúc rằng cho đến khi nào mà chế độ Cộng Sản ở miền Bắc Việt Nam chưa cho phép mỗi người công dân Việt Nam được thụ hưởng quyền tự do dân chủ và và những hình thức nhân quyền căn bản thì sẽ vẫn chưa có được điều gì gọi là xây dựng để tiến tới những mục tiêu như thế.361 4.6 Phản ứng của khối Cộng Sản (i) Cộng Sản Việt Minh VSTK - 3947


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

Ngày 20/07/1955, Chủ tịch CHDCVN Hồ Chí Minh dưới bút hiệu H.B đã cho đăng tải lên tờ báo Nhân Dân số 504 một bài viết có tựa đề là: “Những lời nói phá hoại và quanh co trong những câu văn dịch vụng” để tố cáo “Thủ tướng Diệm là tai sai chống lại hiệp thương, phá hoại thống nhất đất nước theo Hiệp định Geneva.”

Một bài khác đăng tãi trên báo Nhân Dân số 505 vào ngày kế tiếp 21/07/1955 “vạch trần luận điệu xảo trá của bè lũ Ngô Đình Diệm và quan thầy Mỹ chống lại hiệp thương hai miền Nam -Bắc vào ngày 20-71955.”

Ngày 31/07/1955, với bài viết: Ý dân là ý trời, đăng trên báo Nhân dân, số 515, H.B “lên án chế độ độc tài Ngô Đình Diệm ngoan cố phá hoại Hiệp định Geneva, lảng tránh những đề nghị đầy thiện chí của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà về tổ chức hiệp thương tổng tuyển cử ở Việt Nam. Nhưng do bị dư luận trong nước và trên thế giới chỉ trích, Ngô Đình Diệm cũng buộc phải nhắc tới chủ trương hiệp thương tổng tuyển cử.”

Ngày 06/08/1955, với bài viết: "Quốc trị thiên hạ bình", đăng trên báo Nhân dân, số 521, H.B “lên án chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm ngoan cố chống lại chủ trương lập lại quan hệ bình thường giữa hai miền Nam - Bắc. Việc đó hoàn toàn trái ngược với lời của người xưa: Quốc trị thiên hạ bình, tức là tình hình trong nước yên ổn, thế giới hoà bình.”

Sau khi Thủ tướng Diệm tuyên bố dứt khoác lần thứ hai vào ngày 09/08/1955, rằng chính quyền Quốc Gia miền Nam không có vấn đề hiệp thương tham khảo ý kiến với chính quyền CSVM ở miền Bắc như Hiệp Định Geneva quy định, thì Chủ tịch CHDCVN lại dùng bút danh H.B cho đăng tải trên báo Nhân Dân số 532 ngày 17/08/1955 bài viết có tựa đề là Geneva (*Ghi chú của VSTK: Hội Nghị Tứ Cường Geneva tháng 07/1955, không có CSTH). Trong bài viết nầy, H.B “nêu lên những kết quả mà Hội nghị bốn nước lớn (Liên Xô, Anh, Mỹ, Pháp) đã đạt được ở Geneva.” H.B “cũng chỉ ra những thiếu sót của hội nghị: "Dù Chủ tịch Bunganin (Liên Xô) đã đề nghị giải quyết vấn đề Viễn Đông (Đài Loan và Đông Dương) và Thủ tướng Nêru cũng nhắc bốn nước thảo luận vấn đề ấy, nhưng hội nghị không thảo luận". H.B “kết luận, những kết quả mà hội nghị đạt được "là do chính sách hoà bình của Liên Xô và sự phấn đấu không ngừng của lực lượng hoà bình thế giới cho nên nhân dân yêu chuộng hoà bình thế giới phải tiếp tục đấu tranh nữa để làm cho tình hình quốc tế trở nên êm dịu hơn".362 VSTK - 3948


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

Cùng ngày 17/08/1955 chính quyền CHDCVN cũng đã yêu cầu hai đồng chủ tịch Hội Nghị Geneva 1954 (Anh-Liên Sô) phải có hành động “để bảo đảm chắc chắn rằng phải có sự tôn trọng đối với những quy ước trong Hiệp Định Geneva, đối với sự dàn xếp giải pháp chính trị ở Việt Nam, đối với việc triệu tập ngay tức khắc hiệp thương tham khảo ý kiến.”363

(ii) Cộng Sản Liên Sô Trong diễn văn kết thúc Hội Nghị Thượng Đĩnh Geneva tháng 07/1955, Chủ tịch nhà nước Liên Sô Bulganin tuyên bố rằng “ mọi sự trì hoãn thi hành những quy ước của Hiệp Định Geneva về Đông Dương và mọi vấn đề khác sẽ không được tha thứ”.364 (iii) Cộng Sản Trung Quốc Sau nhiều ngày Hội Nghị Thượng Đĩnh Geneva 1955 chấm dứt, Thủ tướng CSTH Chu Ấn Lai chỉ trích chế độ Ông Diệm qua việc chính quyền miền Nam Quốc Gia Việt Nam “đã dung túng cho đám đông du thủ du thực tấn công hành hung nhân viên Ủ Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến Đông Dương” rồi họ Chu tuyên bố rằng “vấn đề thật cấp thiết hiện giờ là . . .Vấn đề Hiệp thương tham khảo ý kiến cho cuộc Tổng Tuyển Cử.”365

Thủ tướng Pháp E Faure cũng ngã theo sự đòi hỏi của CSTH để khuyến cáo Tổng Thống Hoa Kỳ Eisenhower tại Hội Nghị Thượng Đĩnh Geneva rằng “nếu không có những bước tiến hành tham khảo Hiệp thương Tổng Tuyển Cử cho Việt Nam thì các nước Tây phương sẽ phải đối đầu với một cuộc khủng hoãn toàn diện ở Đông Dương.” 366

*

VSTK - 3949


KHẢO LUẬN 1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

41

Thông điệp ngày 16/07/1955 của Phạm Văn Đồng lần đầu tiên gửi thẳng cho chính quyền quốc Gia miền Nam Việt Nam do thủ tướng Diệm lãnh đạo. Dư luận có thể coi đây như là một chuyển biến quan trọng bởi vì từ trước tới nay CSVM luôn luôn coi chính quyền Quốc Gia Việt Nam từ thời cựu Thủ tướng Trần Trọng Kim, Thủ tướng Bảo Đại . . .và trải qua bao nhiêu trào lưu theo thời gian, tất cả thủ tướng khác của Quốc Gia Việt Nam đều là tai sai bù nhìn của thực dân Pháp trước đây và bây giờ lại làm tai sai bù nhìn cho đế quốc tư bản Hoa Kỳ mặc dù chính là từ những trào lưu thủ tướng Quốc Gia không Cộng Sản như thế đã từng bao nhiêu lần dành lại độc lập và thống nhất lãnh thổ cho đất nước Việt Nam. Khi chịu hòa đàm với chính quyền miền Nam Quốc Gia Việt Nam, phải chăng CHDCVN đã chịu công nhận một cách mặc nhiên chính quyền do Ông Diệm đứng đầu là một chính quyền chính thống và hợp pháp của Quốc Gia Việt Nam? Không phải, bởi vì chỉ vào đúng thời điểm nầy, trong khi Thủ tướng Diệm và hiện tình miền Nam như người bị cơn sốt liệt giường mới hồi phục được một phần sức lực và trong khi đó thì con vi trùng thực dân dân gặm nhắm ngoại bang từ Tây Phương cùng với hàng khối thứ vi khuẩn khác bên trong cũng như bên ngoài chưa được trục xuất ra hết khỏi cơ thể hay trừ khử thì CSVM có thể vật ngã dễ dàng con bệnh qua chiêu bài Tổng Tuyển Cử Thống Nhất đất nước. Ngay bây giờ hoặc sẽ còn lâu lắm hay sẽ không bao giờ còn cơ hội nào khác cho CSVM chiếm nốt miền Nam Việt Nam. Quá khứ cho thấy đã biết bao nhiêu lần rồi CSVM dùng chiêu bài Thống Nhất, Đồng Minh, Liên Minh,Liên Hiệp, Quốc Gia, Đoàn Kết . . . . để ghép cho Quốc Hội Quốc Gia, Chính Phủ Liên Hiệp Quốc Gia, Chính Phủ Đoàn Kết Quốc Gia . . . . rồi sau đó loại trừ các thành phần không Cộng Sản trong quốc hội, trong chính quyền thống nhất để độc quyền thi hành chế độ CS của họ? Chiêu bài Thống Nhất đất nước vẫn được họ tiếp tục áp dụng sau ngày 30/04/1975 để loại trừ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, một tổ chức CS vệ tinh của CSVM. Theo sự mô tả của một trong những cơ chế chính quyền hiện nay của CSVM là Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam thì các chiêu bài vừa kể trên đã được tiếp tục xử dụng để thành lập các cơ cấu sau đây: 367 1/Mặt trận Thống nhất phản đế Đông dương/ Hội Phản đế đồng minh . “Ngày 18/11/1930 Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông dương (ĐCSĐD) đã ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đế đồng minh hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.” 2/ Phản đế liên minh . “Tháng 3 năm 1935, Đại hội Đảng (ĐCSĐD) lần thứ nhất đã thông qua nghị quyết về công tác Phản đế liên minh, quyết định thành lập và thông qua điều lệ của tổ chức nhằm tập hợp tất cả các lực lượng phản đế toàn Đông dương. Điều lệ của Phản đế liên minh rộng và linh hoạt hơn Điều lệ Hội VSTK - 3950


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

41

42

43

phản đế đồng minh. Bất kỳ người hoặc đoàn thể nào thừa nhận nghị quyết, Điều lệ và thường xuyên nộp hội phí thì được thừa nhận là hội viên.” 3/ Mặt trận Thống nhất nhân dân Phản đế . “Chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân Phản đế được phổ biến qua tài liệu chung quanh vấn đề chính sách mới ngày 30/10/1936 khắc phục những sai lầm trong nhận thức và hành động trong quá trình thực hiện liên minh thời kỳ trước. Việc tập hợp lực lượng trong Mặt trận được công khai qua bức thư ngỏ của Đảng Cộng sản Đông Dương gửi cho Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp bày tỏ sự đồng minh với nhân dân Pháp, kêu gọi ban hành một số quyền tự do dân chủ cơ bản cho nhân dân Đông Dương và hô hào "tất cả các đảng phái chính trị, tất cả các tầng lớp nhân dân Đông Dương tham gia Mặt trận nhân dân Đông Dương". 4/ Mặt trận Dân chủ Đông dương . “Tháng 9-1937 một loạt các tổ chức như Thanh niên Dân chủ Đông Dương, Hội Cứu tế bình dân, Công hội, Nông hội ra đời cùng với việc hoạt động công khai và nửa công khai của các tổ chức quần chúng như hội ái hữu, tương tế, các hội hoạt động âm nhạc... từng bước hình thành một Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Tháng 6/1938 Đảng Cộng sản Đông Dương gửi thư công khai cho các đảng phái đề nghị gác các ý kiến bất đồng để "bước tới thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương" chính trong thời kỳ này từ những phong trào Mặt trận đã dần hình thành Mặt trận với tính chất của một tổ chức.” 5/ Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông dương. “Tháng 9 năm 1939,chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, Mặt trận Dân chủ Đông dương bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp. Cùng với sự đầu hàng thoả hiệp của thực dân Pháp với phát xít Nhật, vấn đề sống còn của các dân tộc Đông Dương đã đặt ra. Tháng 11/1939 Đảng Cộng sản Đông Dương đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo, chuyển cuộc vận động Mặt trận Dân chủ thành Mặt trận Dân tộc thống nhất chống chiến tranh đế quốc với tên gọi chính thức: Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông dương nhằm liên hiệp tất cả các dân tộc Đông Dương, các giai tầng, đảng phái, cá nhân có tinh thần phản đế muốn giải phóng dân tộc chống đế quốc, bè lũ tay sai của chúng và vua chúa bản xứ phản bội quyền lợi dân tộc. Các tổ chức phản đế phát triển nhanh chóng dưới hình thức bí mật và công khai.” 6/ Việt nam Độc lập đồng minh hội gọi tắt là Việt Minh. “Năm 1940, quân Nhật kéo vào Đông dương, thực dân Pháp đầu hàng và làm tay sai cho phát xít Nhật. Tại Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8, theo đề nghị của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc, Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát xít Pháp Nhật với tên gọi Việt nam Độc lập đồng minh gọi tắt là Việt minh đã ra đời ngày 19.5.1941 lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh làm cờ của Việt minh và làm cờ tổ quốc "khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà". 7/ Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam. (29-5-1946) VSTK - 3951


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

41

42

“Năm 1946, giữa lúc nước Việt nam dân chủ cộng hoà vừa ra đời phải đương đầu với nhiều khó khăn lớn, một Ban vận động thành lập Hội liên hiệp quốc dân Việt nam gồm 27 người với đại biểu Việt minh là Hồ Chí Minh, được thành lập nhằm mở rộng hơn nữa khối đoàn kết dân tộc. Việt minh và Liên Việt đã cùng nhau làm chỗ dựa vững chắc cho chính quyền Cách mạng non trẻ đối phó có hiệu lực với thù trong giặc ngoài.” 8/ Mặt Trận Liên Việt. (3-3-1951) “Năm 1951, trong lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã đi vào giai đoạn quyết liệt, thực hiện khẩu hiệu " Tất cả cho tiền tuyến ", yêu cầu tập hợp các hình thức tổ chức Mặt trận để đoàn kết động viên toàn dân ta tập trung sức người sức của đẩy mạnh kháng chiến trở nên cấp bách. Với các chủ trương đường lối đúng đắn Đảng Lao động Việt Nam và sự ủng hộ tích cực của các Đảng Xã hội, Đảng Dân chủ, các tổ chức chính trị, các nhân sĩ trí thức trong Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt, hai tổ chức Mặt trận được hợp nhất thành Mặt trận Liên Việt. Mặt trận Liên Việt đã góp phần động viên công sức của toàn quân, toàn dân lập nên chiến thắng lịch sử Điện Biên phủ, đưa đến việc ký kết hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 công nhận chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt nam. 9/ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.(10-9-1955) Đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam Việt nam, hất cẳng thực dân Pháp và phá hoại hiệp định Giơ-ne-vơ âm mưu chiếm đóng miền Nam chia cắt lâu dài nước ta. Cách mạng Việt nam lúc này có hai nhiệm vụ chiến lược là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã được hoàn toàn giải phóng và hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà. Trong bối cảnh đó, ngày 10.9.1955, Mặt trận Tổ quốc Việt nam ra đời với mục đích đoàn kết mọi lực lượng dân tộc và dân chủ, đấu tranh đánh bại đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai, xây dựng một nước Việt nam hoà bình thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.” 10/ Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam “Trong cao trào đồng khởi của đồng bào miền Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ra đời (20-12-1960) nhằm đoàn kết toàn dân đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh đổ ngụy quyền tay sai của chúng, giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc. Với đường lối đúng đắn ấy, Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã tập hợp dưới ngọn cờ đại nghĩa của mình các tầng lớp nhân dân, các tổ chức và mọi người Việt nam yêu nước, để cùng nhau chống Mỹ cứu nước. Mặt trận dân tộc giải phóng không ngừng củng cố và mở rộng khối đoàn kết dân tộc, tổ chức và động viên đồng bào và chiến sĩ miền Nam đẩy mạnh đấu tranh trên cả ba mặt trận: quân sự, chính trị và ngoại giao. ảnh hưởng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng không ngừng được mở rộng trong VSTK - 3952


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

các tầng lớp nhân dân miền Nam và uy tín của mặt trận đã được nâng cao trên trường quốc tế.” 11/ Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ và Hòa Bình Việt Nam. (20-4-1968) “Trong cao trào tiến công và nổi dậy đầu xuân Mậu Thân (1968) Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình Việt nam ra đời (20-41968). Kết tụ từ các phong trào đấu tranh yêu nước của các giới sinh viên, học sinh, trí thức, đồng bào tôn giáo, công thương gia, nhân sĩ dân chủ tại các thành thị miền Nam, Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình Việt nam bằng những công tác trong nước và ngoài nước đã góp sức động viên xúc tiến các phong trào ấy, tăng thêm sức mạnh cho khối đoàn kết toàn dân, chống Mỹ cứu nước. Phấn đấu cho một mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, bảo vệ và xây dựng miền Bắc thực hiện thống nhất nước nhà, Mặt trận Tổ quốc Việt nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình Việt nam đã luôn luôn hợp tác chặt chẽ, hỗ trợ nhau tạo nên một sức mạnh không gì lay chuyển nổi của khối đại đoàn kết dân tộc, và đã đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của toàn dân đến thắng lợi hoàn toàn, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất nước nhà.” 12/ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. (4-2-1977) “Sau khi cả nước đã được độc lập, sự thống nhất và toàn vẹn của một quốc gia đòi hỏi hợp nhất 3 tổ chức mặt trận. Nhằm đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới, Đại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất họp từ 31-1 đến 4-2-1977 tại thành phố Hồ Chí Minh đã thống nhất ba tổ chức Mặt trận ở hai miền Nam Bắc nước ta thành một tổ chức Mặt trận Dân tộc thống nhất duy nhất lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống nhất ý chí của tất cả các tổ chức của các giai tầng trong xã hội, các cá nhân tiêu biểu của các dân tộc, tôn giáo, tầng lớp, các vị lãnh đạo tiêu biểu cho ý chí đoàn kết của dân tộc, luôn phấn đấu xây dựng khối Đại đoàn kết dân tộc vững mạnh thực hiện lời dạy của Hồ Chí Minh vị lãnh tụ của toàn dân tộc: "Mục đích phấn đấu của Mặt trận Dân tộc thống nhất là xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh". 367

36

5. Trưng Cầu Dân Ý ở miền Nam Quốc Gia Việt Nam

37

5.1 Những liên hệ kéo dài giữa Pháp và Quốc Gia Việt Nam

38

39

40

41

Vào cuối tháng 06/1955 một phái đoàn của chính quyền ở miền Bắc do Chủ tịch VNDCCH Hồ Chí Minh cùng với Tổng Bí thư CSVM/ĐLĐVN Trường Chinh du hành thăm viếng hữu nghị CSTrung Hoa và CS Liên Sô. Cả hai chuyến thăm viếng hữu VSTK - 3953


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30 31

32

33

34

35

36

37

38

nghị của CSĐD đều có thông cáo chung với hai nước CS đàn anh hứa hẹn viện trợ kinh tế và sẽ ủng hộ VNDCCH thực hiện thống nhất lãnh thổ Việt Nam .Sau khi trở về nước Chủ tịch nhà nước VNDCH Hồ Chí Minh đã báo cáo như sau:368 “Cũng như trong thời kỳ kháng chiến, phương châm của ta hiện nay là: tự lực cánh sinh là chính, việc các nước bạn giúp ta là phụ. Các nước bạn giúp ta cũng như thêm vốn cho ta. Ta phải khéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng của ta, phát triển khả năng của ta. Song nhân dân và cán bộ ta tuyệt đối chớ vì bạn ta giúp nhiều mà đâm ra ỷ lại. Trái lại, chúng ta phải học tinh thần tự lập tự cường, tinh thần hăng hái thi đua sản xuất vụ tiết kiệm của nhân dân các nước bạn. Nước ta là một bộ phận trong đại gia đình dân chủ và xã hội chủ nghĩa, gồm hơn 900 triệu người. Chúng ta đã kinh qua 8, 9 năm kháng chiến gian khổ và anh dũng. Ngày nay, hoà bình đã trở lại, nhưng chưa củng cố, đất nước ta còn tạm chia làm hai miền; đế quốc Mỹ đang âm mưu trường kỳ chia rẽ nước ta. Trước tình hình ấy, chúng ta phải nâng cao chí khí phấn đấu và tinh thần cảnh giác. Chúng ta phải đoàn kết nhất trí từ Bắc đến Nam, kiên quyết đấu tranh vượt mọi khó khăn để thi hành triệt để Hiệp định Giơnevơ. Chúng ta phải bồi dưỡng lòng nồng nàn yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính. Các nước bạn giúp ta, chúng ta càng thêm lực lượng đấu tranh để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà bằng cuộc tổng tuyển cử tự do, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước. -----------Báo Cáo về việc đoàn Đại biểu của Chính phủ ta đi thăm viếng Liên Xô và Trung Quốc. Đọc ngày 23-7-1955.

* Trong khi chính quyền VNDCH ở miền Bắc đi tìm sự hỗ trợ từ CSTH và CSLS, thì ở miền Nam, chính quyền Quốc Gia Việt Nam lại phải tiếp tục thương lượng gay go với Thực dân Pháp về nền độc lập “nữa chừng” mà họ đã trao lại cho Việt Nam. Vấn đề quan tâm hạng nhất mà Ông Diệm phải vẫn tiếp tục đối phó với người Pháp ở Việt Nam và ở Paris là sự hiện diện của Tổng Tư Lệnh Quân Đội Tối Cao do tướng Cao Ủy Đông VSTK - 3954


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

Dương Paul Ély kiêm nhiệm và Đoàn quân Viễn Chinh (FSC) của họ bởi vì Việt Nam bị trói buột là thành viên của Khối Liên Hiệp Pháp. Ông Diệm biện luận rằng tình trạng nầy khiến cho miền Nam Quốc Gia Việt Nam bị thế giới coi như vẫn còn là thuộc địa của thực dân Pháp theo chiến dịch tuyên truyền xuyên tạc của CSVM và CS Quốc Tế. Và nếu tình trạng nầy kéo dài thì những đại diện thương lượng của miền Nam Quốc Gia Việt Nam sẽ không thể nào đối mặt tương xứng với CSVM với luận điệu là chính quyền miền Nam không có chủ quyền lãnh thổ Quốc Gia. Do đó Ông Diệm đòi hỏi rằng người Pháp phải tôn trọng lời hứa danh dự của cựu Thủ Tướng Pháp Mendes-France trước đây ở Hội Nghị Geneva 1954 là chính phủ Pháp sẽ trao trả chức chưởng Tổng Tư Lệnh Quân Đội cho quân đội miền Nam Việt Nam và rút hết đoàn quân Viễn Chinh ra khỏi Việt Nam. Để thực hiện đòi hỏi nầy, Ông Diệm cử đại diện chính phủ Nguyễn Hữu Châu sang Pháp để điều đình đồng thời để cùng chính phủ Pháp bàn xét lại mối liên quan Việt-Pháp trên các lãnh vực khác như kinh tế, tài chánh, văn hóa. Trong khi cuộc trả giá kỳ kèo về mặt quân sự Việt-Pháp ở Paris chưa ngã ngũ thì Ông Diệm lại đưa ra một vấn đề khác có tính cách đối kháng với người Pháp: Ông Diệm đòi rằng mối liên lạc Ngoại Giao với Pháp từ nay phải do chính Bộ Ngoại Giao Việt giao thiệp thẳng với Bộ Ngoại Giao Pháp ở Paris chứ không phải giao dịch với Bộ Trưởng (Quốc Vụ Khanh?) Đặc Trách các vấn đề của 3 Quốc Gia Đông Dương tức là người Pháp phải thay thế Thổng Đốc Cao Ủy ở Việt Nam bằng một đại diện Ngoại Giao giống như các đại diện Ngoại Giao của các nước ngoại quốc khác ở Sài Gòn. Pháp nhượng bộ Ông Diệm bằng cách thay đổi danh xưng Thống Đốc Cao Hủy và thay thế bằng danh xưng Đại Sứ Pháp ở Sài Gòn. Pháp nhượng bộ.369 Ngày 16/08/1955, Đại sứ Henri Hoppenot sang Sài Gòn trình ủy Nhiệm Thư nhưng vẫn tiếp tục phụ trách các vấn đề Ngoại Giao của 3 quốc Gia Đông Dương trong Khối Liên Hiệp Pháp. 370 Ông Diệm không đồng ý tình trạng như thế. Chính quyền Pháp liền tạm ngưng cuộc họp bàn về vấn đề quân sự với Nguyễn Hữu Châu ở Paris.371 VSTK - 3955


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

Vào hạ tuần tháng 08/1955, chính quyền Ông Diệm bắt giam hai sĩ quan Pháp và công bố sẽ đưa họ ra xử trước tòa án Việt Nam về tội đồng lỏa phá hoại, xâm phạm nền an ninh quốc Gia Việt Nam. Tháng 10/1955,Pháp tức giận hủy bỏ mọi thương thảo Việt-Pháp về quân sự cho đến khi nào Ông Diệm ra lệnh trả tự do cho hai sĩ quan Pháp ở Sài Gòn. Việc giải quyết về mối liên hệ Pháp-Việt sau thời kỳ Hiệp Định Genva bị bế tắt mãi cho đến cuối năm 1955 thì người Pháp mới bắt đầu có những dấu hiệu nhân nhượng đối với các yên cầu của chính quyền của Ông Diệm. Trước tiên là Pháp chuyển giao trách nhiệm đối ngoại với miền Nam Việt Nam từ Bộ Trưởng (Quốc Vụ Khanh?) Đặc Trách các vấn đề của 3 Quốc Gia Đông Dương sang cho Bộ trưởng Ngoại Giao. Kế đến, nhằm trấn an Thủ tướng Diệm, Pháp từ chối để cho VNDCCH lập tòa Đại sứ ở Paris và giải thích rõ ràng về nhiệm vụ của đại diện Pháp Sainteny chỉ là để bảo vệ các quyền lợi kinh tế và văn hóa của người Pháp ở miền Bắc Việt Nam mà thôi. Sau cùng, Pháp cũng đã chịu công nhận thể chế Việt Nam Cộng Hòa của miền Nam Quốc Gia Việt Nam (VNCH) sau khi Ông Diệm thắng cử chức vị Quốc Trưởng của cựu Hoàng Bảo Đại trong một cuộc Trưng Cầu Dân Ý vào tháng 10/1955 với tỷ số gần như tuyệt đối 98% cử tri đi bầu và trở thành một Tổng Thống đầu tiên của VNCH. Sau đó VNCH đã chuyển giao hai sĩ quan phạm nhân cho chính chính phủ Pháp thụ lý. 372 Những nhượng bộ của Pháp vừa kể cũng chưa đủ để dọn sạch con đường giao hảo giữa Pháp và miền Nam Việt Nam bởi vì chính sách của ông Diệm đối với người Pháp còn ở lại miền Nam trở nên khắc khe hơn và quá đột ngột đối với họ: cuối năm 1955, Ông Diệm tuyên bố bãi bỏ các điều ước về Kinh Tế, Tài Chánh ký kết với Pháp trước đây tại Hội Nghị Paris vào năm 1954, dùng giá trị đồng đô la Hoa Kỳ trong vấn đề Hối đoái và Ngoại tệ thay vỉ đồng quan/ Franc của Pháp và áp dụng nghiêm ngặt luật lệ thương mại trên các cuộc doanh thương của người Pháp ở miền Nam Việt Nam khiến họ phải bỏ cuộc khá nhiều và rời khỏi Việt Nam. Ông Diệm đã đưa ra những nguyên tắc dứt khoác để xét lại việc giao hảo với người Pháp: Pháp phải bát bỏ sự công nhận Hiệp Định Geneva 1954, không tiếp tục nhắc tới VSTK - 3956


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

cuộc Tổng Tuyển Cử vào năm 1956 tại Việt Nam; công nhận vô điều kiện chính sách của VNCH, chấm dứt mọi liên hệ với Việt Minh và triệu hồi đại diện Sainteny rời khỏi miền Bắc. Ít lâu sau, Ông Diệm triệu hồi đại biểu của miền Nam Việt Nam ra khỏi Quốc Hội của Khối Liên Hiện Pháp.373 Người Pháp không còn có thể hành động nào khác hơn để có thể tiếp tục trói buộc ông Diệm. Tiếng nói của ông Diệm là đại diện cho chính quyền bắt đầu ổn định của miền Nam, không còn cần đế sự tiếp hơi của người Pháp. Kể từ tháng 02/1956, Chỉ còn có 15,000 quan binh của Đoàn quân Viễn Chinh Pháp ở Việt Nam và trong số đó, 10,000 quan binh sẽ được chuyển đi vào cuối tháng 03/1956. Chức vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Đội Pháp ở Đông Dương được bãi bỏ vào 26/04/1956. Chỉ còn rất ít cố vấn quân sự Pháp trong Phái Bộ Liên Lạc Huấn Luyện/ The Training Relations Instruction Mission (TRIM). Ông Diệm cũng từ chối không nhận lãnh thay thế Pháp trong vai trò hợp tác liên lạc trực tiếp và công khai với Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát (ICC) thi hành Hiệp Định Geneva 1954 bởi lẽ Ông Diệm tuyên bố rằng mặc dù không tăng gia ý định để vô hiệu hóa Hiệp Định Geneve nhưng chính quyền miền Nam cũng không thể tiếp hơi thêm cho nó. Mãi cho đến tháng 07/1956, VNCH mới chịu đảm nhận hoàn toàn trách vụ nầy của Pháp. Dù thế, Pháp không còn thể nào đáp ứng được đòi hỏi của Việt Minh về vấn đề Tổng Tuyển Cử vào năm 1956 cho Việt Nam. Kể cà Anh Quốc và Liên Sô cũng không còn bắt ép được Ông Diệm phải thực hiện cuộc Tổng Tuyển Cử nầy. Hoa Kỳ thì hậu thuẫn cho Ông Diệm.374. 5.2 Chiến dịch bày trừ các phe phái vũ trang đối lập

Sở dĩ Ông Diệm có thái độ tự tin thách thức và bất chấp người Pháp hiện tại ở miền Nam một phần là do việc quân đội quốc gia trung thành của chính phủ đã chiến thắng vang dội lực lượng vũ trang đối lập Bình Xuyên ở Sài Gòn và các vùng phụ cận. Chiến thắng nầy làm gia tăng uy thế Thủ tướng Diệm ở Sài Gòn, tuy nhiên, muốn chuẩn bị con đường chính trị sắp tới của mình, ông Diệm cần phải có biện pháp tảo trừ các thế lực vũ trang đối lập đang nổi dậy từ các thành tỉnh của miền Nam Việt Nam. Ông Diệm có tham vọng thực hiện biện pháp tảo trừ nầy VSTK - 3957


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

với số vốn quân đội Quốc Gia ít ỏi, yếu kém kinh nghiệm chiến trường của chính phủ cùng với một tình trạng chính trị giống như là một con bệnh còn yếu sức vừa mới ra khỏi nhà thương. Bình Xuyên và Hòa Hảo vẫn còn là hai thế lực vũ trang đối lập khá mạnh để tiếp tục tạo khốn khó cho ông Diệm. Tàn binh Bình Xuyên của tướng Lê Văn Viễn (Bảy Viễn) vào khoản 1,200 người đã rút về vùng đầm lầy Rừng Sát phía Đông Nam Sài Gòn để ẩn trú và mưu sinh bằng cách chận ghe thuyền buôn bán trên các rạch sông để thâu thuế. Lực lượng vũ trang của giáo phái Hòa Hảo là nhóm vũ trang đối lập đe dọa lớn hơn. Mặc dù đã có hơn 6,000 bộ độ vũ trang của giáo phái nầy về hợp tác và đã được sáp nhập nhập vào quân đội của chính phủ hoặc tuyền bố trung thành với chính phủ nhưng vẫn còn hàng chục ngàn bộ đội của tướng Trần Văn Soái (Năm Lửa) và của tướng Lê Quang Vinh (Ba Cụt) bày ra một trận tuyến trải dài từ biên giới quốc gia Cao Miên đến bờ biển Nam Hải dọc theo hai bờ của 2 nhánh sông Mékong và Bassac. Tổng hành dinh của hai tướng Hòa Hảo nầy cũng là điểm hẹn của những phần tử đồng hội đồng thuyền âm mưu hạ bệ cho bằng được thủ tướng Diệm bao gồm cả tướng Vỹ phái viên “đảo chánh” của cựu Hoàng Bảo Đại. Tình báo mật vụ Hoa Kỳ tin rằng nhiều sĩ quan người Pháp đã tiếp tế cho các bộ đội Hòa Hảo của 2 tướng Soái và Vinh. Và xúi giục họ tấn công quân đội quốc gia của chính phủ miền Nam.375 Các lực lượng vũ trang Cao Đài thì lại cắt ra làm hai nhóm. Nhóm của Hộ pháp Phạm Công Tắc đối lập với chính quyền và liên kết với các nhóm vũ trang đối lập khác để hạ bệ ông Diệm. Nhóm. Nhóm của tướng Cao Đài Nguyễn Thành Phương kể từ ngày 31/03/1955 chịu thỏa hiệp hợp tác với chính phủ của ông Diệm và đã sáp nhập 15,000 quan binh Cao Đài vào quân đội VSTK - 3958


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

Quốc Gia miền Nam.376 Có một sự chia rẽ bất hòa nội bộ giữa hai chức sắc cao cấp nầy để nấm giữ quyền lãnh đạo tối cao giáo phái Cao Đài ở Tòa Thánh Tây Ninh và đã khiến cho Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia do Hộ Pháp Phạm Công Tắc thành lập ngày 22/02/1955 để kình chống ông Diệm377 bị tan rã vào lúc xảy ra cuộc binh biến Bình Xuyên vào tháng 5/1955 ở Sài Gòn cùng với sụ tử nạn nơi mặt trận của tướng Cao Đài Trình Minh Thế. Kể từ đó, lực lượng vũ trang giáo phái Cao Đài của Hộ pháp Phạm Công Tắc không còn là mối đối đầu đáng ngại đối với ông Diệm.378 Vào cuối mùa Xuân 1955 (?), mật vụ tình báo Hoa Kỳ có bằng chứng chắc chắn rằng người Pháp đang trợ giúp các nhóm vũ trang đối lập miền Nam chống đối ông Diệm. Những sĩ quan của Pháp không những cản trở mọi nổ lực của ông Diệm dẹp loạn Bình Xuyên mà họ còn giữ vai trò cố vấn và yểm trợ tài chánh và súng óng đạn dược cho cả hai giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo. Phó Cục Trưởng Ban Tình Báo của Ủy Ban Tham Mưu Trưởng Liên Quân Hoa Kỳ vào đầu tháng 6/1955 đã phúc trình lên Chủ Tịch Ủy Ban nầy rằng, “người Pháp biểu lộ cho thấy kế sách của họ hiện giờ bao gồm cả việc yểm trợ những nhóm giáo phái đối lập với chính quyền của ông Diệm với mục đích tạo ra một tình hình nổi dậy sâu rộng ở miền Nam Việt Nam để quân viễn chinh Pháp có cớ mà can thiệp dưới chiêu bài tái lập trật tự nội an và để bảo trợ cho một tân chính phủ thân Pháp....qua trung gian của cựu hoàng Bảo Đại.”379 Người Pháp không thể cứu các nhón giáo phái đối lập với ông Diệm. Sau khi tái lập quyền uy quân đội chính phủ ở Sài Gòn, ông Diệm liền tung ra mấy chục tiểu đoàn quân đội trung thành của chính phủ để tấn kích Hòa Hảo ở miền Tây Nam phần. Vào giữa trung tuần và gần cuối tháng 06/1955, bộ đội của tướng Trần Văn Soái/Năm Lửa và tướng Lê Quang Vinh/ Ba Cụt bị các chiến dịch hành quân quy mô của chính phủ gây thiệt hại nặng nề và tan rả tứ phía.380 Cờ Quốc Gia Việt Nam của chính phủ miền Nam chiến thắng được cắm khắp một vùng lãnh thổ Thất Sơn ở phía Tây Nam Nam phần trước đây do Hòa Hảo làm chủ và kiểm soát. VSTK - 3959


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

Ngày 21/09/1955,Thủ tướng Diệm ra lệnh cho quân đội mở chiến dịch Hoàng Diệu do đại tá Dương Văn Minh chỉ huy và trung tá Nguyễn Khánh chỉ huy phó với trên 20 tiểu đoàn quan binh quân đội Quốc Gia gia truy kích tàn quân Bình Xuyên.381 Vào cuối năm 1955, khi quân đội Quốc Gia hoàn tất chiến dịch Đinh Tiên Hoàng ở miền Tây, thu được 1,600 vũ khí, phá hủy nhiều căn cứ địa của Hòa Hảo382, các các tổ chức vũ trang đối lập ly khai chống chính quyền Quốc Gia miền Nam hầu như không còn là những tổ chức đe dọa nghiêm trọng đối với chính quyền. Tuy nhiên quân đội Quốc Gia miền Nam vẫn còn phải tiếp tục hành quân tảo thanh và càn quét những ổ tàng quân du kích cướp bóc và các phần tử vũ trang nằm vùng của CSVM ở các tỉnh thành và các quận huyện ở nông thôn. Do đó chính quyền miền Nam cần có một tổ chức quân sự hoàn chỉnh hơn để thực hiện công tác càn quét và bình định nầy ngay cả trước khi các nhóm vũ trang đối lập ở miền Nam bị tiêu diệt hoàn toàn.383 5.3 Tổ chức chiến dịch bình định nội an từ tháng 06/1955

Mặc dù các nhóm vũ trang Bình Xuyên, Hòa Hảo đối lập ly khai đã bị đánh bại nhưng tàng binh của họ vẫn còn quấy phá cộng thêm CSVM nằm vùng bắt đầu nổi dậy hoạt động khủng bố tuyên truyền và ngầm phá hoại tình hình nội an của miền Nam Quốc Gia Việt Nam khiến cho chính quyền Quốc Gia chưa thể đạt được tới mức ổn định như ý muốn. Ảnh hưởng của CSVM/Việt Cộng lần lần chi phối và cuống hút nhóm tàng quân ly khai tiếp tục lén lút phá rối khiến cho quân đội quốc gia lại phải tiếp nối các cuộc hành quân bình định tảo thanh. Ngày 02/06/1955 đồn Cái Răng bị súng cối của Hòa Hảo pháo kích. Ngày 03/06/1955 bộ đội Hòa Hảo của tướng Soái tấn công một đồn quân của chính phủ gần quận trấn Cái Vồn gây 3 tử vong và 3 bị thương cho quân đồn trú. Ngày 05/06/1955 quân đội chính phủ mở Chiến dịch Đinh Tiên Hoàng bình định miền Tây Nam phần do đại tá Dương Văn Đức chỉ huy đánh chiếm quận trấn Cái Vồn thuộc tỉnh Cần Thơ VSTK - 3960


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

là bản doanh của tướng Soái, giải tỏa tuyến giao thông từ Cần Thơ đi Vĩnh Long. Bộ đội Hòa Hảo của tướng Soái ra quy hàng quân đội chính phủ rất nhiều lên đến cấp tiểu đoàn. Từ 17 đến 29/06/1955, quân đội của chính phủ hành quân lớn với Chiến dịch Đinh Bộ Lĩnh càng quét, bao vây, tiêu diệt các khu chống cự then chốt của Trần Văn Soái, bao vây trung đoàn Lê Lợi và chiếm vùng núi Ba Chúc tổng hành dinh của tướng Lê Quang Vinh/Ba Cụt ở Thất Sơn. Kết quả chiến dịch Đinh Bộ Lĩnh tính đến ngày 06/07/1955 có 247 bộ đội Hòa Hảo tử trận, 162 tù binh, 827 đầu hàng nhiều đơn vị tác chiến lớn cấp tiểu đoàn, trung đoàn của Ba Cụt bị tan rả. Quân đội tiến về Rạch Giá bao vây trung đoàn Lê Quang của tướng Ba Cụt/Lê Quang Vinh.384 Ảnh hưởng áp lực phá hoại của VC nằm vùng được biểu thị qua những hoạt động khủng bố lén lút, hăm dọa, làm tiền của những tàng binh du kích từng tham gia đánh phá trong các phe phái vũ trang đối lập chính phủ nay không còn chỗ dung thân và bị đạt vào thành phần ngoài vòng pháp luật nên phải đi theo VC. Với những chiến dịch càn quét bình định của quân đội chính phủ khắp nơi ở miền Nam. VC và các nhóm vũ trang đối lập ngoài vòng pháp luật hiện nay không có thể hoạt động một cách hung hảng và công khai mặt đối mặt với quân đội chủ lực của miền Nam Quốc Gia Việt Nam. Tuy nhiên, những quấy rối về mặt quân sự nầy của VC nằm vùng thuộc về loại chiến tranh du kích không quy ước và gây hậu quả cho quân đội chủ lực của chính quyền miền Nam phải bận rộn đánh dẹp liên miên, phân tán khắp nơi. Do đó cần phải chấn chỉnh, tái huấn luyện và tổ chức quân đội chính phủ hữu hiệu hơn để tránh cho tình trạng quân chủ lực phải đảm trách hai nhiệm vụ truy tìm đánh dẹp bình định rồi còn phải đóng trụ ở lại gìn giữ an ninh những vùng vừa mới được bình định hay nói khác đi, cần có những đơn vị quân đội đặc biệt thi hành những nhiệm vụ đối phó với các hình thức du kích chiến không quy ước của VC nằm vùng ở lại miền Nam sau ngày Hiệp Định Geneva được ký kết và cùng với tàng dư các phe phái vũ trang đối lập chính quyền miền ở Nam. VSTK - 3961


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

Từ giữa năm 1955 Chủ Tịch Tổng Tham Mưu Liên Quân Hoa Kỳ đã theo lời cố vấn của trùm mật vụ Lansdale thực hiện một kế hoạch biên chế lại các đơn vị quân đội miền Nam để có thể lập ra những lực lượng quân đội giữ gìn an ninh với mục đích trước hết là kiểm soát và tiễu trừ VC và tàng dư phá hoại dã bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, kế đến là tạo niềm tin và sự trung thành của dân chúng đối với chính quyền Quốc Gia miền Nam đồng thời cải tiến khả năng và phẩm chất các sĩ quan chỉ huy của quân đội của chính phủ được cử nhiệm trong các chiến dịch bình định. Landsdale đã trưng dẫn bằng chứng một quốc gia đã áp dụng thí nghiệm thành công chiến lược quân sự không quy ước của người Á Châu như thế để chống lại và tiêu diệt Cộng sản Huk của Phi Luật Tân vào những năm 1950-1951 và trường hợp miền Nam Việt Nam hiện nay cũng giống như thế. Kế hoạch của Lansdale được các chức quyền cao cấp quân đội Hoa Kỳ hoan nghinh khi được tham khảo ý kiến và được Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ chấp thuận cho tiến hành. Một Trung Tâm Huấn Luyện Sĩ Quan Đặc Biệt cho miền Nam Việt Nam được tổ chức tại một quốc gia thành viên của minh ước Phòng thủ Đông Nam Á là Phi Luật Tân và do các huấn luyện viên nhiều kinh nghiệm của Phi Luật Tân đảm trách với chi phí do Hoa Kỳ đài thọ; Lansdale được thuyên chuyển sang phái bộ MAAG để phụ trách phối hợp với ông Diệm thực hiện chương trình huấn luyện và kế hoạch tác chiến không quy ước nầy. Khóa sinh là những sĩ quan Quốc Gia miền Nam có thành tích trận mạc và phải qua một kỳ tuyển chọn trước khi được gửi sang Phi Luật Tân thụ huấn. Những sĩ quan nầy sau khi tốt nghiệp trở về Việt Nam sẽ là những huấn luyện viên chuyên môn cho kế hoạch huấn luyện và thành lập các Biệt Động Đội.385 Những đơn vị đầu tiên của binh chủng mang tính chất “cơ động” (Truy kích và tiêu diệt) được gọi là Biệt Ðộng Ðội và quân-số chỉ đến cấp đại đội: các đơn vị Biệt Động Quân đầu tiên của quân đội miền Nam Quốc Gia Việt Nam bắt đầu được hình thành.386 5.4 Kế sách Chính Trị của ông Diệm

Với nhiều thắng lợi đáng kể làm giảm đi rất nhiều tình hình vô pháp luật và những phần đầy hăm dọa, Thủ tướng Diệm đã VSTK - 3962


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

khai thác sự may mắn thành công của mình trên bình diện quân sự để tự tín tiến vào mặt trận chính trị kể mùa Hè 1955. Với chiến tháng cuộc binh biến Bình Xuyên ở Sài Gòn trong những tháng Tư và tháng Năm 1955 cùng với những thành công lớn của quân đội trung thành của chính phủ ở miền Tây và vùng đầm lầy Rừng Sát đã giúp cho uy tín của Ông Diệm nổi lên trong dân chúng khắp miền Nam Việt Nam. Ngay cả Hoa Kỳ giờ đây cũng chủ quan kết luận rằng chỉ có chính quyền do Ông Diệm đứng đầu mới có thể thực hiện được sự ổn định, dân chủ và an ninh cho miền Nam Việt Nam. Chính vì thế mà ông Diệm và những kẻ đối lập của Ông từ nước ngoài cũng như ở trong nước đều biết rằng việc yểm trợ và cố vấn tài vật của Hoa Kỳ cho miền Nam Quốc Gia Việt Nam được bảo đảm nếu ông Diệm tiếp tục lèo lái vững vàng để gặt hái thêm nhiều thành công như thế. Sau hết là ông Diệm đã có thể thanh lọc hàng ngũ các tướng tá chỉ huy trong quân đội của chính phủ nhất là đối với những phần tử sĩ quan thân hữu với các phe phái vũ trang đối lập. Các tướng tá trung thành với chính phủ càng lúc càng tăng thêm sau mỗi chiến thắng trong những chiến dịch bình định ở miền Nam; những điều vừa kể càng khiến cho uy quyền và lòng tự tin của ông Diệm gia tăng đến mức độ quá tự tin, tự quyết, độc diễn, mất đi đức khoan hồng độ lượng đối với các thành phần Quốc Gia đối lập trong việc điều hành chính quyền khiến cho các giới chức ngoại giao Hoa Kỳ càng lúc càng e ngại vì có dư luận cho rằng chính là Hoa Kỳ đứng sau lưng thúc đẫy ông Diệm chủ trương chính sách như thế. Nội các có tính cách chuyên gia của Ông Diệm hoàn toàn trở thành những cấp thừa hành mệnh lệnh của cấp trên mà không được có ý kiến. Trái lại, ông Diệm lại chịu ảnh hưởng nặng nề từ những người thân trong gia đình họ Ngô mà nổi bật là ông cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu.387 Hiện tại thì không có dấu hiệu nào cho thấy Thủ tướng Diệm có ý định thay đổi thành phần nội các chính phủ cho đến khi nào những cơ chế của một chính quyền hiến định đã được thực hiện song song với những cơ chế mà chỉ có bản thân một mình ông Diệm kiểm soát, điều khiển. Sách lược chính trị Quốc Gia được ông Diệm thiết kế dựa trên lòng tự tín mới thụ đắc được cùng với khuynh hướng cá nhân chuyên chế tập quyền. Những sách lược VSTK - 3963


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

nầy do ông Diệm tự mình lựa chọn qua ba giai đoạn để tiến đến việc thành lập một chính quyền hiến định: (i) Một cuộc Trưng Cầu Dân Ý ở miền Nam để giải quyết thân phận và vị thế của Quốc trưởng Bảo Đại. (ii) Nếu ông Diệm thắng cuộc Trưng Cầu Dân Ý thì trở thành Quốc trưởng của Quốc Gia Việt Nam rồi đích thân ông Diệm sẽ thảo ra và tuyên bố một bản Hiến Uớc Tạm Thời. Hiến Ứớc tạm thời nầy quy định thể chế Quốc Gia Việt Nam là Việt Nam Cộng Hòa và người lãnh đạo đứng đầu là một Tổng Thống. (iii) Sau hết là tổ chức một cuộc bầu phiếu trực tiếp của dân chúng để thành lập Quốc Hội Lập Hiến. Kế sách chính trị vừa kể của ông Diệm đã bị đại sứ Hoa Kỳ Reinhart khuyến cáo là không có tính cách dân chủ bởi vì tiến trình thực hiện của nó đã bị ông Diệm đảo lộn thứ tự trước ra sau, sau ra trước. Ông Diệm đã khước biện rằng nếu làm đúng trình tự dân chủ thì sẽ quá chậm trễ để truất phế Bảo Đại và thông qua dự thảo Hiến Pháp tương lai của chế độ VNCH vì phải qua thủ tục tranh cãi, biểu quyết nhiêu khê của Quốc Hội. Theo nhận định của đại sứ Rheinhardt thì ông Diệm không muốn có trước một Quốc Hội với quá nhiều quyền hạn kiểm soát chính phủ trước khi ông Diệm đã thụ đắc được ưu thế uy quyền chính trị.388

Bất chấp lời khuyến cáo của đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn, ngày 04/10/1955, một Ủy Ban Trưng Cầu Dân Ý được thành lập, đưa kiến nghị đòi truất phế Q.T. Bảo Đại và suy tôn ông Diệm. Ủy Ban gồm có đại diện nhiều đoàn thể chính trị tôn giáo, thanh niên, lao động. Ngày 06//10/1955, Hội Đồng Chính Phủ quyết định tổ chức Trưng cầu dân ý truất phế Q.T. Bảo Đại. Tổng trưởng Nội Vụ được trao nhiệm vụ công bố và tổ chức. Ngày 08/10/1955, Bộ Nội Vụ thông báo sẽ tổ chức vào ngày 23/10/1955.389 Từ Cannes, Bảo Đại phản ứng một cách tuyệt vọng để giữ lại vị thế và quyền lực Q.T của Ông bằng cách khuyến cáo vả phản đối với Anh-Pháp-Hoa Kỳ, yêu cầu họ không thừa nhận kết quả cuộc Trưng Cầu Dân Ý.390 Ngày 18/10/1955, Q.T.Bảo Đại cất chức Thủ Tướng Diệm. Ngày 23/10/1955, Trưng Cầu Dân Ý. Số người đi bỏ phiếu theo thông báo của bộ Nội Vụ là 5,838,907 với kết quả như sau: - 5,721735 phiếu truất phế Bảo Đại và suy tôn Th.T. Diệm lên chức vị Quốc Trưởng. VSTK - 3964


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

- 63,017 phiếu không chịu truất phế Bảo Đại. - 131,395 không có ý kiến. - 44,155 phiếu không hợp lệ.

Ngày 26/10/1955, hàng vạn dân chúng tựu họp trước dinh Độc Lập để nghe Q.T. Ngô Đình Diệm công bố Hiến Ước Tạm Thời mà theo đó: - Việt Nam là một nước Cộng Hòa /VNCH. - Quốc Trưởng có danh xưng là Tổng Thống VNCH. - Một Ủy Ban soạn Dự Án Thảo Hiến Pháp được thành lập. - Một Quốc Dân Dại Hội sẽ được tổ chức và triệu tập để xét định và biểu quyết về Dự Án Hiến Pháp kể trên. - Các luật lệ hiện hành vẫn tạm giữ nguyên. - Chính phủ cũ lưu lạ để xử lý thường vụ. - Ngày 26/10 sẽ là ngày Quốc Khánh của VNCH.391 Ngày 29/10/1955, thành lập chính phủ VNCH, danh xưng Tổng Trưởng được đổi gọi là Bộ Trưởng với thành phần nội các cũ. Cùng ngày chính phủ VNCH thông báo cho Pháp rõ: không triển hạn hiệp định Thương Mại sắp hết vào ngày 31/12/1955.392

*

VSTK - 3965


KHẢO LUẬN 1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

Dân chúng miền Nam Việt Nam đã được quy động để đi bỏ phiếu Trưng Cầu Dân Ý truất phế Q.T. Bảo Đại và suy tôn ông Diệm thay thế chức vụ Quốc Trưởng Quốc Gia Việt Nam. Phiếu Trưng Cầu Dân Ý có in hình của Q.T. Bảo Đại và Th.T Diệm chia thành hai mãnh. Người bỏ phiếu chỉ cần xe làm đôi phiếu nầy, chọn một trong hai mãnh phiếu rồi bỏ vào thùng phiếu. 98% phiếu trưng cầu dân ý bỏ vào thùng phiếu có in hình Th.T. Diệm còn hình của Q.T.Bảo Đại rơi khắp đầy mặt đất tại các địa điểm bỏ phiếu. Hiển nhiên là kết quả theo như Bộ Nội Vụ thông cáo thì cuộc bỏ phiếu Trưng Cầu Dân Ý nầy đã thể hiện rõ rệt người dân miền Nam không còn tin tưởng cựu Q.T. Bảo Đại và uy tín của ông Diệm đã được người dân miền Nam Quốc Gia Việt Nam xác định mạnh mẽ ngoại trử một thiểu số đảng phái đối lập yếu thế chẳng hạn thế như đảng Đại Việt tuyên bố không tham dự cuộc Trưng Cầu Dân Ý bởi vì chính quyền của ông Diệm đã giới hạn không cho phép những cuộc vận động tự do trước khi bỏ phiếu bỏ phiếu, không được phản đối, chỉ trích hay một hành động nào cản trở việc thành lập chế độ Cộng Hòa tại miền Nam. Tuy nhiên, ông Diệm lại có sau lưng Đảng Cần Lao Nhân Vị và Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia do những người trong gia đình của ông Diệm tổ chức và lãnh đạo Hoa Kỳ không hài lòng với mẫu mực chế độ Dân chủ do Ông Diệm chuyên quyền ấn định bởi vì họ cho rằng chính sách chuyên quyền nầy sẽ khiến cho những thành phần đảng phái Quốc Gia chống CSVM sẽ tẩy chay không hợp tác với ông Diệm trong tương lai .Mặt khác, cần phải đối diện thực tế tình hình chính trị của nhân Việt Nam: không có một nhân vật lãnh đạo chính trị nào trong chính quyền hay ngoài chính quyền của miền Nam Việt Nam hiện tại hành động theo các nguyên tắc Dân Chủ. Vấn đề thận lợi đối với Hoa Kỳ cũng như đối với ông Diệm hiện giờ thì cần phải có một chính quyền vững mạnh hơn là chạy theo những xu hướng tuyệt đối xa vời về lý tưởng Dân Chủ. Theo quan điểm của tòa Đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn, ít ra ông Diệm đã có thể tạm thời kiểm soát được Chính Phủ Hành Pháp và Cơ chế Lập Pháp của VNCH. Nay thì ông Diệm có thể là phát ngôn nhân đứng đầu trong chính quyền không còn bị ràng buộc hay tùy thuộc vào Thực dân Pháp, một chính quyền không còn đứng trên bờ rơi xuống vực sâu. Chính sách của ông Diệm gặt hái, sau khi phải trải qua tám tuần lễ tiếp theo sau cuộc binh biến của các phe phái vũ trang tự quyền và đối lập với chính phủ Quốc Gia ở miền Nam, đã củng cố thân thế chính trị của Ông, được dân chúng ủng hộ đáng kể, loại ra những thành phần đối lập, tuyên xưng thể chế VNCH và giữ chức chưởng Tổng Thống.393

VSTK - 3966


VSTK Q.12 Tập 1 PHẦN II (Tiếp theo)

HAI NƯỚC VIỆT NAM

(1954 -1963) CHƯƠNG 3 I/ TÌNH HÌNH Ở MIỀN BẮC VIỆT NAM SAU H.Đ. GENEVA -

DI TẢN DÂN CHÚNG MIỀN BẮC TỊ NẠN DI TẢN VŨ KHÍ ĐẠN DƯỢC VÀ QUÂN DỤNG CỦA PHÁP DO HOA KỲ CUNG CẤP CHO QUÂN ĐỘI PHÁP DI TẢN CÁC DỤNG CỤ KỸ NGHE CỦA NGƯỜI PHÁP CÃI CÁCH VÀ TĂNG GIA KINH TẾ NÔNG NGHIỆP CỦA VNDCCH TÁI THIẾT VÀ GIA TĂNG KINH TẾ KỸ NGHỆ CỦA VNDCCH KẾ HOẠCH 3 NĂM VÀ TIẾP THEO CỦA VNDCCH CHÍNH QUYỀN CỦA VNDCCH ĐỐI LẬP Ở MIỀN BẮC CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO CỦA VNDCCH, 1954-1960

VSTK Q.12 Tập2 PHẦN II (Tiếp theo)

HAI NƯỚC VIỆT NAM

(1954 -1963) CHƯƠNG 4 II/ TÌNH HÌNH KHẢ QUAN CỦA VNCH TRONG NĂM 1956 -

-

-

BẦU CỬ QUỐC HỘI VÀ TÂN HIẾN PHÁP TRÁCH NHIỆM CỦA VNCH SAU KHI NGƯỜI PHÁP RÚT LUI KHỎI MIỀN NAM VIỆN TRỢ CỦA HOA KỲ CHO VNCH TÌNH HÌNH ĐE DỌA AN NINH CỦA VNCH QUÂN LỰC VNCH QUÂN ĐỘI HIỆN DỊCH VNCH VẤN ĐỀ THU HỒI QUÂN TRANG, QUÂN CỤ TỪ QUÂN ĐỘI VIỄN CHINH PHÁP KHÔNG LỰC VÀ HẢI LỰC VNCH PHÁI ĐOÀN CỐ VẤN QUÂN SỰ HOA KỲ MAAG NHỮNG LỰC LƯỢNG BÁN QUÂN SỰ VNCH: - BẢO AN VÀ DÂN VỆ CHÍNH SÁCH M ỚI CỦA HOA KỲ Đ ỐI VỚI VNCH

III/ MIỀN NAM VIỆT NAM 1957-1959

-

TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ CÃI CÁCH RUỘNG ĐẤT TÌNH HÌNH QUỐC PHÒNG VNCH QUÂN LỰC VNCH QUÂN ĐỘI CHÍNH QUY VNCH KHÔNG LỰC VNCH HẢI LỰC VNCH ĐÁNH GIÁ QUÂN LỰC VNCH CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ TRUNG ƯƠNG TẬP QUYỀN CỦA ÔNG DIỆM CUỘC NỔI DẬY Ở VIỆT NAM 1957-1959.

IV/ MIỀN NAM VIỆT NAM 1960-1963 1

VSTK - 3967


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

I/ TÌNH HÌNH Ở MIỀN BẮC VIỆT NAM SAU H.Đ. GENEVA

Dù muốn hay không muốn thì hiệu quả của Hiệp Định Geneva 1954 cũng đã giúp VMCS kiểm soát hoàn toàn miền Bắc Việt Nam và áp dụng thể chế VNDCCH trên ½ lãnh thổ của nước Việt Nam phía Bắc vĩ tuyến thứ 17. Ngay sau khi đó, VNDCH đã nhận thấy được rằng các mối quan tâm ưu tiên về các vấn đề kinh tế và chính trị ở miền Bắc Việt Nam đã lấn át những vấn đề quân sự gây chiến. Trước khi có Hiệp Định Geneva, chế độ CS miền Bắc có thể thu phục nhân tâm quy động nhân lực dân một cách hữu hiệu dưới chiêu bài đấu tranh giành độc lập cho đất nước và khi đối diện với những khó khăn về chính trị và xã hội họ đã có thể kêu gọi dân chúng cùng chung đã đảo phong kiến thối nát, đánh đuổi thực dân thuộc địa xâm lược. Tuy nhiên tình trạng “tốt đẹp” nầy của VNDCCH nay không còn nữa kể từ sau ngày ký kết Hiệp Định Geneva vì phải đang đối phó với những yêu cầu mới cần phải giải quyết hơn là tiếp tục chuẩn bị tiếp tục chiến tranh. 1- DÂN CHÚNG MIỀN BẮC TỊ NẠN

Điều 2 Hiệp Định Geneva về Việt Nam viết rằng các lực lượng quân binh của Pháp và Việt Minh phải tập trung vào những vùng lãnh thổ quy định trong vòng 330 ngày sau khi lệnh ngừng bắn giữa Pháp-Việt Minh bắt đầu có hiệu lực. Quân Pháp phải rút đi qua ba giai đoạn: quanh vùng Hà Nội trong vòng 80 ngày; quanh vùng Hải Dương trong vòng 100 ngày và quanh vùng Hải Phòng g trong vòng 300 ngày. Việc rút quân Pháp ở Hà Nội và Hải Dương tiến hành đúng thời hạn ấn định. Quân binh Pháp chỉ còn có mặt ở Hải Phòng và cũng phải rút đi kể từ 22/04//1955 và giao cho Việt Minh vào ngày 16/05/1955, sớm hơn thời gian ấn định hai ngày. Cuộc lui binh và trao lãnh thổ giữa VM và Pháp ở miền Bắc Việt Nam hoàn tất mà không có gì bất thường xảy ra và VNDCCH kể từ giờ phút nầy hoàn toàn làm chủ miền Bắc Việt Nam kể từ vĩ tuyến thứ 17 để chờ đợi ngày thực hiện giải pháp chính trị cuối cùng để có thể hy vọng lấy thêm được miền Nam Việt Nam. Song song với tiến trình rút lui quân Pháp khỏi miền Bắc, điều 14 mục (d) Hiệp định ngừng bắn Geneva viết: VSTK - 3968


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33

34

35

36

37

38

39

40

“Kể từ ngày bản Thỏa hiệp nầy có hiệu lực cho đến khi cuộc chuyển quân được hoàn tất, bất cứ những người dân nào ở trong một khu vực do một bên nầy kiểm soát muốn rời bỏ sang sống trong khu vực đã được chỉ định cho bên kia thì chính quyền tại mỗi khu vực đó phải cho phép và giúp đỡ cho họ di chuyển.”

Theo điều khoản 14, mục (d) kể trên thì có thể suy diễn thêm là thời hạn di tản của dân chúng ở miền Bắc từ vĩ tuyến thứ 17 cũng là trong vòng 300 ngày. Tuy nhiên chỉ trong vòng vài ngày sau khi H. Đ. Geneva đã được ký kết giữa Pháp và Việt Minh thì Pháp và chính quyền Quốc Gia ở miền Nam Việt Nam đã lâm vào tình trạng lung túng khó khăn vì không có đầy đủ phương tiện chuyên chở số lượng to lớn đồng bào Việt Nam ở miền Bắc gắp rút rời bỏ nơi chôn nhao cắt rốn của mình để di cư vào miền Nam. Vào đầu tháng 05/08/1954, theo một phúc trình của cựu Đại sứ Hoa Kỳ Health ở Sài Gòn thì kế hoạch di tản đồng bào miền Bắc đang bị đe dọa trầm trọng vì sự khủng bố của Việt Minh, song song với sự khiếm khuyết phương tiện của chính quyền Quốc Gia miền Nam và bởi sự yếu kém không thể sửa đổi được của bộ tham mưu quân sự Pháp. Nếu Tổng thống Hoa Kỳ không củng cố và đảm trách việc lãnh đạo thì kế hoạch di tản sẽ bị thất bại.394 It is our considered judgment here that this vitally important mass movement of non-Communist population from North Vietnam will be a failure with political and psychological repercussions that may well be disastrous unless US steps boldly and strongly forward and deals with problem. In view of inexperience and incompetence of Vietnamese authorities and daily demonstrated confusion, lack of adequate planning and incorrigibly weak staff work on part of French, US is only source for leadership, planning, direction and facilities to carry out this vital operation. If large part of refugees are not moved in remainder of this month, success of this whole venture will be gravely imperiled. I believe that President should be informed of this situation. HEATH

Do đó, ngày 07/08/1954 theo lời yêu cầu trợ giúp của Pháp và chính quyền miền Nam của Thủ tướng Diệm, chính phủ Hoa Kỳ đã nhanh nhẩu đáp ứng chỉ thị cho tướng O’Daniel trưởng đoàn Cố Vấn Quân Sự Hoa Kỳ ở Việt Nam mở chiến dịch di tản Exodus. Thiếu tướng Hải quân Hoa Kỳ Lorenzo S. Sabin được chỉ định tổ chức Lực Lượng Đặc Nhiệm 90 điều động 41 đội hải quân và tàu hải vận cùng với nhiều tàu tiếp cứu để hổ trợ cho VSTK - 3969


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

quân đội Pháp thi hành nhưng cuộc không và hải vận di tản dân chúng tị nạn từ hải cảng Hải Phòng đưa vào Nam đến các trại tạm trú ở Sài Gòn và Vũng Tàu. Khi đi vào việc thực hành cho chiến dịch di tản Exodus, lực lượng đặc nhiệm 90 nhận định rằng ở những vùng Hà Nội, Hải Phòng và Hải Dương đang bị rơi vào tình trạng phức tạp và hỗn độn: làn song dân cư từ các miền quê ùa về các thành thị la liệt khắp ngỏ ngách đường phố, dinh thự khiến cho tình trạng vệ sinh ô uế xuất hiện khắp nơi. Trong khi đó thì cán bộ thông tin tuyên truyền của Việt Minh phát động chương trình quay phim chụp hình những hình ảnh hỗn độn vô trật tự của những đoàn người ùa ra các bờ biển tranh nhau leo lên tàu, ghe cứu vớt trong chiến dịch “lùa bầy” của người Pháp. Các chức quyền quân sự Pháp không có thái độ hữu nghị để hợp tác với các chức sắc quân sự Hoa Kỳ trong chiến dịch di tản Exodus trong lãnh vực truyền thông tin tức và y tế vệ sinh cho các đoàn người tị nạn. Mặc dù tiền tài vật lực là do Hoa Kỳ cung ứng cho Pháp nhưng người Pháp chỉ muốn của người phúc ta, không hài lòng sự can dự của Hoa Kỳ: “Yêu cầu các ông đừng can thiệp vào công việc của chúng tôi bởi vì người Phápchúng tôi biết cách nào để trình diễn và kết thúc tuồng tích. Người Pháp chúng tôi sẽ tự mình hành động theo cách nào được xem là tốt hơn hết.”395 Trong khi đó thì ở miền Nam, quân đội của chính quyền Quốc Gia Việt Nam đã cung ứng nhiều đơn vị quân đội của mình để làm các công tác lao dịch lều trại tạm trú cho các đồng bào di cư mới từ miền Bắc mới vào Nam. Rất nhiều tổ chức từ thiện tình nguyện tham gia vào việc chăm sóc, tiếp rước giúp đỡ trên nhiều mặt. Các trung tâm tạm trú càng lúc càng rộng lớn với số lượng di dân khổng lồ mới tới khiến cho chính quyền miền Nam Quốc Gia Việt Nam chao đảo và bất lực trong việc điều động nhân lực bên cạnh mối bất hòa phân tranh quyền lực tổng tư lệnh quân đội Quốc Gia giữa tướng Hinh và thủ tướng Diệm vào thời điểm đó. Đa số các đồng bào di cư phải tạm trú trong các lều trại tại nhiều trung tâm tiếp cư khác nhau nhiều tháng trước khi được đưa đi định cư ở khắp miền Nam Việt Nam. VSTK - 3970


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33 34

35

Tính đến ngày 20/11/1954 thì có tổng số người dân miền Bắc di cư vào Nam là 473,000 người. Đó là không kể một số lượng không nhỏ đồng bào theo đường bộ hoặc ghe thuyền tự túc vượt sông Bến Hải và vĩ tuyến 17 để vào miền Nam. Chiến dịch di tản Exodus ở Hải Phòng chấm dứt vào ngày 16/05/1955. Trong khoản tháng /08/1954 và tháng 05/1955 có tổng cộng 620,000 đồng bào tị nạn CSVM miền Bắc vào miền Nam với một tương lai bất định. Đa số là đồng bào Công Giáo La Mã trốn chạy vì e sợ CSVM bách hại. Tổng số đồng bào tị nạn nhất định sẽ cao hơn trong thời hạn 300 ngày ngừng bắn nếu không có sự khủng bố và ngăn chận của CSVM. Điều nầy làm chấn động lương tâm của nhân loại trên khắp thế giới không theo chế độ Cộng Sản đưa đến sự kêu gọi cần phải có một thời gian gia hạn để đồng bào miền Bắc có thể tiếp tục di cư vào miền Nam không Cộng Sản. Các thành viên ký kết Anh, Pháp, Liên Sô cùng với Hoa Kỳ và thành viên Gia Nã Đại của Ủy Ban Quốc Tế đình Chiến Đông Dương đều tiếng đều phải lưu ý đến dư luận và lương tâm thế giới đang quan ngại về tình hình CSVM ngăng chận làn sóng tị nạn ở Việt Nam. Chính quyền VNDCCH đồng ý kéo dài thêm thời hạn ngừng bắn không phải vì sợ dư luận thế giới phê phán nhưng là vì đã suy luận và hy vọng rằng nguyên tắc tự do đi lại giữa hai miền có thể lại được VNDCCH viện dẫn để áp dụng trong tương lai cho việc đòi hỏi hiệp thương văn hóa, kinh tế giữa hai miền Nam, Bắc mà cơ quan tuyên truyền, báo chí, đài phát thanh của họ đã và đang kêu gọi từ nhiều tháng qua. Ngày 20/05/1955, VNDCCH chấp nhận kéo dài thời hạn ngừng bắn đến 20/07/1955. Mặc dù tình hình khủng bố và đe dọa của VM không giảm sút nhưng cũng vẫn có thêm hơn 150,000 đồng bào rời khỏi miền Bắc di cư vào miền Nam sau khi trung tâm tiếp cứu tị nạn Hải Phòng đóng cửa. Theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thì tổng cộng có khoảng 900,000 đồng bào di cư vào miền Nam.396 2. DI TẢN VŨ KHÍ ĐẠN DƯỢC VÀ QUÂN DỤNG DO HOA KỲ CUNG CẤP CHO QUÂN ĐỘI VIỄN CHINH PHÁP Ở MIỀN BẮC

(Military Defense Assistance Program /MDAP)

36

VSTK - 3971


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

Các loại, quân cụ, quân dụng nầy được Hoa Kỳ cung cấp cho quân đội viễn chinh Liên Hiệp Pháp theo Chương Trình Thụ Đắc Phòng Thủ Quân Sự/MDAP ở Bắc Việt. Hoa kỳ e sợ rằng khi người Pháp rút lui khỏi miền Bắc thì các hạng mục quân sự dùng cho việc phòng thủ nầy trị giá trên 200 triệu đô la sẽ rơi vào tay của CSVM bởi vì nó không nằm trong quy định trong vấn đề di tản trong vòng 300 ngày theo quy định của Hiệp Định Geneva. Pháp hứa với Hoa Kỳ là họ sẽ không bỏ lại các loại quân cụ, quân dụng phòng thủ ở Hải Phòng cho CSVM. Vào tháng 02/1955 thì việc tháo gở và chuyển vận hầu hết các vật dụng quân sự nói trên vào miền Nam, tồn trữ để phân phối cho quân đội quốc gia Việt Nam, Lào Cao Miên và các quốc gia ở Viễn Đông được quyền hưởng dụng theo Chương trình MDAP trong tương lai.397 Một hạng mục dụng cụ hạng nặng dùng để trang thiết bị cho mỏ than Hòn Gay ở Hải Phòng do cơ quan FOA của Hoa Kỳ (Foreign Operations Administration) yểm trợ tài chánh vẫn chưa được người Pháp tháo gở và chuyển đi. Tướng Cao Ủy Pháp Đông Dương Paul Ély đã được chính phủ Pháp chỉ thị là không được có hành vi nào có thể gây hấn với VM bởi vì VM sẽ không ngồi yên để ngó người Pháp tháo gở trang thiết bị ở mỏ than Hòn Gay. Mặc dù thế, sau một thời gian ngắn chần chừ, vào cuối tháng 03/1955 tướng Ély đã cố gắng thực hiện việc tháo gở và hoàn tất việc chuyển vận các trang thiết bị vừa kể vào Sài Gòn. Tướng Collins đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn đã phúc trình về việc đó như sau: “Ely said that removal of Charbonnages equipment had been completed 26th. I congratulated him on this and said it was owing to him that program had succeeded.”398 3. NỀN CÔNG NGHỆ CỦA NGƯỜI PHÁP RỜI KHỎI MIỀN BẮC

Sở dĩ người Pháp có thái độ chần chừ trong vấn để tháo gở các trang thiết bị Công Kỹ nghệ ở miền Bắc để di dời vào miền Nam là vị họ hy vọng rằng những quyền lợi thương mại của các doanh gia Pháp ở miền Bắc sẽ có thể tiếp tục tồn tại dưới chế độ CS sau khi quân đội Liên Hiệp Pháp rút đi hết. Chính sách của người đại diện cho nước Pháp Sainteny ở miền Bắc- một người được coi như là “bạn thâm tình” trước đây của chủ tịch VSTK - 3972


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

VNDCCH- chủ trương tiếp tục sự hiện diện của người Pháp ở miền Bắc Việt Nam CS trên các lãnh vực kinh tế, công nghệ và văn hóa. Chính sách nầy bắt đầu xuất hiện kể từ thời cựu thủ tướng Pháp gốc người Do Thái Mendès France và đến nay vẫn được chính quyền tân thủ tướng Pháp Edgar Faure tiếp tục nhằm thuyết phục các doanh nhân, kỹ nghệ gia Pháp ở lại miền Bắc tiếp tục hợp tác, hùng hạp, làm ăn, chia phần với chính quyền CS của VNDCCH. Tuy nhiên các tập đoàn doanh gia Pháp từ chối nếu chính phủ Pháp không có những biện pháp bảo đảm về mặt tài chánh mà họ sẽ thu hoạch được trong tương lai, một điều mà chính quyền Pháp không muốn bảo đảm. Sau khi cứu xét một đề nghị nhằm thuyết phụ Hồ Chí Minh quốc tế hóa ở Hải cảng Hải Phòng và miễn trừ cho các cách doanh gia Pháp không bị chi phối bởi luật lệ của VNDCCH trong việc khai thác, làm ăn, Sainteny đã khuyến dụ chính phủ Pháp cho thí nghiệm kế hoạch thiết lập những công ty hỗn hợp Việt-Pháp bằng cách chuyển trao toàn bộ quyền quản lý tài vật bất động sản của Pháp ở Hải Phòng cho Việt Minh để thành lập một công ty hợp tác mới Pháp-Việt mà trong đó VNDCCH sẽ giữ quyền kiểm soát lợi tức. Chính phủ Pháp đồng ý giải pháp thí nghiệm nầy của Sainteny và địa bàn thí nghiệm Pháp được tuyển chọn là những mõ than Hòn Gai ở Hải Phòng trước đây do Hoa Kỳ tiếp trợ tài chánh để người Pháp khai thác cho đến nay. Bộ Ngoại Giao Pháp biện luận để thuyết phục Hoa Kỳ rằng chính sách thí nghiệm nầy có lợi cho các quốc gia không cộng sản khỏi phải nhìn thấy CS Trung Hoa sẽ đổ xô đưa các chuyên gia kỹ thuật đến để điều hành, khai thác những cơ sở doanh nghiệp và kỹ nghệ của người Pháp để lại ở miền Bắc. Ngoài ra chính sách thử nghiệm nầy nếu thành công thì khiến VNDCCH, giống như quốc gia CS Nam Tư của Titô, sẽ không trở thành một quốc gia Cộng Sản vệ tinh của CSTH và CSLS.399 Theo các nhân vật chính trị của chính quyền Hoa Kỳ thì quan niệm của chính phủ Pháp thử nghiệm giải pháp Sainteny viễn vong thiếu thực tế đối chiếu với kinh nghiệm về chế độ và chính sách CS trong quá khứ. Hơn nữa đề nghị của Sainteny hợp tác với CSVM thời kỳ sau Hiệp Định Geneva là phản bội và mâu

37

VSTK - 3973


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

thuẫn với chính sách ủng hộ của Pháp đối với chính quyền Quốc Gia miền Nam ở Sài Gòn do Ông Diệm đang lãnh đạo. Hoa kỳ cũng kết luận rằng việc hùng hạp làm ăn được tổ chức theo kiểu Sainteny đề xuất sẽ không phù hợp với hình thức tổ chức thuần túy của các quốc gia Tây phương không bị đặt trong tình trạng phong tỏa của Hoa Kỳ đối với sự các vật dụng có tính cách chiến lược được chuyên chở đến các quốc gia Cộng Sản ở vùng Viễn Đông hay nói khác đi, nếu không có sự tiếp trợ của Hoa Kỳ thì các hình thức làm ăn hợp tác giữa người Pháp và VNDCCH ở miền Bắc sẽ không được bảo đảm vấn đề nhập cảng các nguyên vật liệu có tính cách chiến lược cần yếu cho việc điều hành cơ sở khai thác làm ăn Pháp-Việt. Ngoài ra, trong khi thương lượng với Sainteny và đại diện điều hành mỏ than Hòn Gai, Chủ tịch VNDC đòi hỏi rằng phía Việt Nam phải được hưởng 95% lợi nhuận của các công ty hỗn hợp Việt-Pháp. Pháp bất mãn không còn muốn tiếp tục khai thác các mõ than Hòn Gai và không còn muốn ngó tới giải pháp thử nghiệm của Sainteny. Khi Việt Minh tiếp thu Hải Phòng vào tháng 05/1955 thì nơi đây không còn có các cơ sở doanh thương và công nghiệp của người Pháp nữa mà chỉ còn lại một số rất ít chuyên gia kỹ thuật mà thôi.400 4.TÁI THẾT VÀ PHÁT TRIỄN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP MIỀN BẮC 4.1 Chính sách cải cách ruộng đất (CCRĐ)

Là một trong số những vùng có số dân cư đông đúc hơn hết trên thế giới, miền Bắc Việt Nam trong tiến trình lịch sử cũng là một vùng nghèo kém về thực phẩm căn bản nhất là lúa thóc. Nhìn từ gốc độ bên ngoài thì VNDCCH đang hạ quyết tâm thực hiện một chính sách tự túc về thực phẩm để khỏi bị lệ thuộc vào các nguồn cung ứng thực phẩm từ ngoại quốc qua việc làm thế nào để áp dụng một đường lối sản xuất nông nghiệp tập thể khởi động từng bước thận trọng nhưng kiên quyết bởi vì sau cuộc chiến với thực dân Pháp, nền kinh tế nông nghiệp ở miền Bắc đã bị gián đoạn và Hiệp Định Geneva đã khiến cho VNDCCH không còn có thể được cung ứng tiếp tế lúa gạo từ miền Nam Việt Nam. Hơn nữa, tình hình canh tác không tốt khiến cho việc thu hoạch lúa thóc lâm vào tình trạng thiếu hụt tồi tệ thấp kém. Mặc dù có được 100,000 tấn gạo chi viện từ CSTH nhưng mức VSTK - 3974


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

thiếu hụt vẫn vọt cao lên đến mức 200,000 tấn vào năm 1954 và 700,000 tấn vào năm 1955. Chính quyền VNDCCH đã đỗ tội lên đầu các thành phần địa chủ cường hào ác bá miền Bắc đang phá hoại chương trình cải cách nông nghiệp của chính quyền Việt Minh. Kể từ tháng 02/1955, chính sách hạn chế và kiểm tra khẩu phần lương thực phân phát cho mỗi gia đình người dân. Mặc dù thế, mức thiếu hụt tại nhiều vùng ở miền Bắc vẫn tiếp tục và giá gạo tại Hà Nội gia tăng gắp đôi. Nông dân phải nộp thuế 40% trên tổng số mức thu hoạch của họ. Kiểm kê thuế má và đánh thuế thật nặng và giới hạn thị trường thương mại lúa gạo khiến cho hầu hết các thương gia phải dẹp tiệm để chỉ còn có chính quyền độc diễn thu mua lúa thóc và các loại thực phẩm khác. Thêm vào đó, sự vắng bóng các thương nghiệp và chuyên gia kỹ thuật nông nghiệp ngoại quốc khiến cho chính quyền phải phụ thuộc nhiều hơn vào việc nhập cảng tốn hao khiến cho nền tài chánh trong nước bị thiếu hụt. Đồng tiền VNDCCH bị mất giá trầm trọng đè nặng thêm trách nhiệm của chính quyền song song với chính sách lao động cưỡng bách khiến cho người dân miền Bắc phải ra sức người để thay thế cho sức trâu bò trong tiến trình canh tác sản xuất nông nghiệp.

http://www.youtube.com/watch?v=3_tPghCGjfY&index=43&list=PLAiSP76Ta1FDDa6w_1mkEPpGRIsZ7csNC 21

22

23

24

Theo các chuyên viên tình báo của Hoa kỳ thì rất khó phát hiện được những dấu hiệu chống đối của nhân dân miền Bắc sau một năm Việt Minh làm chủ miền Bắc với chính sách áp bức, đè nén của chính quyền VNDCCH sẵn sàng đàn áp, tiêu diệt không VSTK - 3975


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

khoan nhượng những “bọn phản động” địa chủ phú nông, cường hào, ác bá. Một lãnh vực phát triển có kết quả đáng kể của VNDCCH mà không cần phải lưu tâm đến tình cảm dư luận bất mãn của dân chúng miền Bắc: đó là chương trình phục hồi và cãi tạo canh tác các đồng ruộng không sản xuất. Với chương trình phục hồi nầy thì vào cuối năm 1956 đã có 85% đất canh tác ở miền Bắc đã được canh tác đi vào sản xuất, gia tăng 15% so với đất canh tác của năm trước.401 Một mục tiêu chính yếu khác về chế độ cải cách ruộng đất của VNDCCH là chủ trương tịch thu ruộng đất của những đại điền chủ mà chủ điểm là các đất đai của giáo phận Ki Tô Giáo và các công điền công thổ ở miền Bắc do tư nhân sở hữu chủ để phân chia cho các thành phần dân quê làm mướn bần cố nông. Đúng ra là không đến mức VNDCCH cần phải đặt ra chính sách phân phát ruộng đất kiểu nầy nếu không phải là chỉ nhằm những mục đích tuyên truyền hứa hẹn hoặc mưu đồ phô trương chính trị bởi vì tổng số ruộng đất canh tác với diện tích tối đa 3.6 hec-ta cho mỗi tập đoàn canh tác bị tịch thu thì cũng chỉ chiếm được có 17% trên tổng số ruộng đất ở miền Bắc. Nếu chính sách nầy được áp dụng ở miền Nam Việt Nam thì đa số người nông dân nghèo làm thuê làm mướn sẽ ủng hộ hoan nghinh nhiệt liệt vì đa số cá nhân trung và đại điền chủ ở miền Nam là những kẻ chiếm hữu những diện tích ruộng rộng lớn cò bay thẳng cánh từ thời khởi đầu Pháp thuộc ở Nam KỲ hiện đang cho tá canh hoặc bỏ hoang vì không có tá điền thuê mướn. Tuy vậy, việc tái phân phối ruộng đất là giai đoạn khởi đầu của chính quyền miền Bắc VNDCCH trong kế hoạch xã hội hóa nông nghiệp và với việc tiêu diệt một thiểu số địa chủ phú nông, VSVM tin rằng sẽ loại trừ được những nguồn gốc chống đối chủ nghĩa tập thể đồng thời lại tạo ra được ý hướng trung thành biết ơn từ số người được chia ruộng đất đối với chính quyền VNDCCH. Sau khi làm chủ hoàn toàn miền Bắc Việt Nam nhờ có Hiệp Định Geneva, VNDCCH chưa áp dụng khắc nghiệt chính sách cải cách ruộng đất của mình đã hình thành từ trước trong những

36

VSTK - 3976


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

năm kháng chiến chống Pháp tại các vùng “giải phóng an toàn” ở miền Bắc để che dấu hình tích quá khích của chế độ CS dưới mắt nhìn của người Tây phương và những giai tầng nông dân của miền Nam Quốc Gia Việt Nam, Tuy nhiên kể từ năm 1955, với sự chỉ dẫn của các chuên gia CSTH và CSLS, Hội Đồng Kế Hoạch Quốc Gia của VNDCCH đã đưa ra một kế hoạch hai năm để bắt đầu cuộc cải cách ruộng đất một cách đúng mức theo hình thức tổ chức của nước CS chủ chốt Trung Hoa và Liên Sô. Đảng CS Việt Minh, nay đã đổi tên là Đảng Lao Động Việt Nam đã cắt cử những cán bộ đầu não phụ trách thi hành kế hoạch cải cách ruộng đất thực sự của trong hai năm nầy. Nhiều tòa án nhân dân của từng địa phương được thành lập để thanh lọc và xếp loại các giai cấp địa chủ phú nông ở miền Bắc. Thành phần cốt cán của các tòa án nhân dân là các cán bộ CSVM sống lẫn lộn với các dân quê nghèo khó nhằm để lèo lái, khích động sự hận thù của người dân trong những phiên tòa nhân dân được tổ chức nhằm đấu tố, hạ thủ, tiêu diệt cường hào, địa chủ ác ôn, phú nông bóc lột trước khi tuyên bố tịch thu tài sản đất đai cho chương trình cải cách ruộng đất của chính phủ. Các hình thức tòa án nhân dân được tổ chức theo kiểu cách CSTH để áp dụng ở miền Bắc Việt Nam thường trở thành những phương tiện hợp pháp cho những cá nhân cán bộ CSVM với đầu óc thoái hoá, quê mùa kém học thực hiện những hành vi cửa quyền, trả thù và thỏa mãn dục vọng cá nhân hơn là vì quyền lợi chính đáng của người nông dân miền Bắc Việt Nam.402

4.2 Sai lầm trong khi thi hành chính sách CCRĐ

Việc xếp hạng những nạn nhân bị phân loại là “đại điền chủ ở miền Bắc không có được tới 4 mẫu ruộng” để chia lại cho một tập thể khổng lồ bần cố nông là một hành vi sai lầm, bất công, vô lý bởi vì không khác gì đem một hạt muối nhỏ bỏ vào biển cả VSTK - 3977


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12 13

14 15 16 17

18

19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29

30 31 32 33 34 35

36 37 38 39 40 41

cho thêm độ mặn, chẳng làm ăn thêm gì được cho người nhận được phần chia hạt muối nhỏ bé. Nguồn gốc phát xuất sự sai lầm của chính sách cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam có thể tìm thấy ở bài học số 5 của đợt học tập Chính Huấn cho cán bộ CS của Đảng Lao Động do Tổng bí thư Đảng Lao Động của VNDCH Trường Chinh chủ biên và cũng là Uỷ viên Bộ Chính trị được phân công cùng Đảng tổ Uỷ ban cải cách ruộng đất chỉ đạo công tác phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất. Tài liệu chính trong bài học thứ 5

này là bản báo cáo của Trường Chinh đọc tại Đại hội I của Đảng Lao động, họp tại Việt Bắc từ 14 đến 23/11/1953. Lập luận của Trường Chinh trong bản báo cáo nầy được trích dẫn như sau: ..........

I. Tại sao phải thực hiện cải cách ruộng đất trong kháng chiến? ....... Để giải đáp những câu hỏi đó, chúng ta cần nghiên cứu vấn đề từ gốc của nó. 1. Tình hình phân phối ruộng đất trong xã hội Việt Nam Cơ sở kinh tế phong kiến ở nước ta còn khá rộng. Đại bộ phận kinh tế nước ta là nông nghiệp. Dưới quyền thống trị của thực dân Pháp, chủ nghĩa tư bản ra đời ở Việt Nam, xã hội Việt Nam hoàn toàn phong kiến khi trước đã đổi thành xã hội có tính chất thuộc địa và nửa phong kiến. Song những hình thức bóc lột theo lối phong kiến còn rất phổ biến. Ruộng đất tập trung vào tay một số ít người là giai cấp địa chủ phong kiến và một phần vào tay bọn thực dân Pháp. Nông dân là số đông người đã dùng sức lao động của mình để khai phá đất đai, làm thành ra đồng ruộng, có công sản xuất để nuôi dân tộc và giữ gìn đất nước từ khi lập quốc đến nay, mà vẫn không có ruộng đất hoặc thiếu ruộng đất, bị đế quốc và phong kiến áp bức, bóc lột thậm tệ. Ruộng đất trồng lúa và hoa màu trong cả nước (không kể những đất trồng cây công nghiệp như chè, cà phê, cao su, v.v. của bọn thực dân) gồm hơn 5 triệu hécta. Nếu ước lượng toàn quốc có 5 triệu hộ thì với số ruộng đất trên đây, mỗi hộ có thể có gần 3 mẫu Bắc Bộ. Nhưng trong thực tế một nửa số hộ ở Việt Nam không có ruộng đất. Trong số hơn 5 triệu hécta trên đây, thực dân Pháp đã chiếm đoạt 9%; ruộng công và nửa công nửa tư là 10,2%; ruộng nhà thờ công giáo là 1%; địa chủ Việt Nam chiếm gần 50%. Như thế là thực dân Pháp, địa chủ Việt Nam và nhà thờ công giáo chiếm đến 60% tổng số ruộng đất trồng trọt trong nước. Đấy là chưa kể những đất đai có nguồn lợi khác, như đồn điền cà phê, VSTK - 3978


1 2

3 4 5 6 7

8

9 10 11 12 13 14 15

16 17 18 19 20 21 22 23

24 25 26 27 28 29 30 31 32

33 34 35 36 37

38

39 40 41 42 43

cao su, rừng cây lấy gỗ, v.v. của bọn đại địa chủ Việt Nam và bọn thực dân. Ruộng đất công và nửa công nửa tư ở Việt Nam từ bao đời nay vẫn bị bọn địa chủ phong kiến chiếm đoạt và lợi dụng, cũng coi như ruộng đất phong kiến. Cho nên tính ước lượng, có thể nói bọn thực dân và giai cấp địa chủ chiếm trên 70% ruộng đất ở Việt Nam, còn nông dân gần 90% số dân chỉ có dưới 30% ruộng đất. 2. Hai trở lực lớn ngǎn cản bước tiến của xã hội Việt Nam Không đầy 5% số dân là giai cấp địa chủ bóc lột 90% số dân là nông dân bằng tô cao, tức nặng, v.v.. Đó là chưa kể những hình thức bóc lột có tính chất hoàn toàn trung cổ ở những vùng thiểu số có chế độ thổ ty, lang đạo, phìa tạo, cà rá. Bọn địa chủ cường hào lại nắm quyền thế ở nông thôn, đánh đập nông dân, cướp ruộng, cướp vợ, cướp nhà của nông dân một cách vô cùng tàn nhẫn. Chế độ áp bức, bóc lột của phong kiến thật là vô nhân đạo! Từ khi đế quốc Pháp thống trị Việt Nam, giai cấp địa chủ Việt Nam lại dựa vào thế lực đế quốc để áp bức, bóc lột nông dân Việt Nam nặng nề thêm. Một số khá đông nông dân quanh nǎm đầu tắt mặt tối mà vẫn ǎn đói, mặc rách. Dưới chế độ thực dân và nửa phong kiến, gặp tai nạn bất thường, nông dân lao động chết đói rất nhiều. Cuối nǎm 1944 và đầu nǎm 1945, hai triệu nông dân chết đói vì bọn đế quốc phát xít Nhật - Pháp vơ vét tàn nhẫn và giai cấp địa chủ phong kiến bóc lột dã man. Với hình thức bóc lột phong kiến, từ trước đến nay giai cấp địa chủ ngồi mát ǎn bát vàng, không cần cải tiến kỹ thuật canh tác, trái lại phản đối cải tiến kỹ thuật, kìm hãm sức sản xuất. Nông dân bị bóc lột nặng nề, cho nên không phấn khởi sản xuất, không muốn và cũng không có phương tiện cải tiến kỹ thuật. Nông dân là số người tiêu thụ lớn nhất trong nước, nhưng nghèo khổ, thiếu thốn, sức mua sút kém; thị trường trong nước bị co hẹp; công thương nghiệp ở nước ta vì vậy khó phát triển. Công thương nghiệp không phát triển ảnh hưởng trở lại làm cho nông nghiệp không đủ điều kiện phát triển nhanh. Đế quốc và phong kiến là hai trở lực lớn nhất trên con đường tiến lên của xã hội Việt Nam hiện nay. Nhân dân Việt Nam cần phải phá tan hai trở lực đó, đánh thông đường cho xã hội Việt Nam phát triển; phá tan những xiềng xích thực dân và phong kiến, giải phóng lực lượng sản xuất, giải phóng nhân dân, giải phóng dân tộc. 3. Về nhiệm vụ và tính chất của cách mạng Việt Nam Đế quốc và phong kiến là hai lực lượng phản động nhất câu kết với nhau để thống trị Việt Nam đã hơn 80 nǎm nay. Chính bọn phong kiến nhà Nguyễn đã bán nước cho đế quốc Pháp, và sau khi đế quốc Pháp chiếm nước ta, chúng đã biến thành ngụy quyền, làm tay sai cho đế quốc. Đế quốc dùng phong kiến làm chỗ dựa để xâm lược Việt Nam. VSTK - 3979


1 2 3 4 5 6

7 8 9 10

11 12 13

Phong kiến Việt Nam ôm chân đế quốc để duy trì quyền lợi ích kỷ. Ngụy quyền Bảo Đại và phe lũ bù nhìn hiện nay tiêu biểu cho giai cấp địa chủ phong kiến và tư sản mại bản, đang tích cực chống kháng chiến, phản nước, hại nòi. Đế quốc và phong kiến là hai đối tượng chủ yếu của cách mạng Việt Nam, hai kẻ thù chủ yếu của nhân dân Việt Nam. Muốn đánh đổ đế quốc phải đồng thời đánh đổ phong kiến. Ngược lại, muốn đánh đổ phong kiến phải đồng thời đánh đổ đế quốc. Hai nhiệm vụ phản đế và phản phong kiến khắng khít với nhau, không thể tách rời. Cần chống những tư tưởng tách rời hai nhiệm vụ phản đế và phản phong kiến hoặc cho rằng chỉ có đế quốc mới là kẻ thù chủ yếu, còn phong kiến là kẻ thù phụ.

14

Từ lâu Xtalin đã nói:

15

"Thực chất của vấn đề dân tộc là vấn đề nông dân".

16

4. Chính sách ruộng đất của Đảng và Chính phủ ta

17 18 19

20

21 22 23

24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36

37 38 39 40 41 42

Dựa trên cơ sở nhận định trên đây về tình hình xã hội Việt Nam, về tính chất và nhiệm vụ cách mạng Việt Nam, chính sách ruộng đất của ta phải như thế nào? Mục đích của chính sách đó là: - Xoá bỏ quyền đế quốc chiếm hữu ruộng đất ở nước ta, xoá bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân, thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng. - Giải phóng sức sản xuất khỏi quan hệ phong kiến, tạo điều kiện phát triển sản xuất, phát triển nông nghiệp và công thương nghiệp, làm cho nước nhà ra khỏi tình trạng lạc hậu về kinh tế, xây dựng cơ sở kinh tế dân chủ nhân dân. - Cải thiện đời sống cho nông dân, bồi dưỡng sức dân, bồi dưỡng lực lượng kháng chiến, duy trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến lâu dài đặng tiêu diệt thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, đánh đổ ngụy quyền, hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân và góp phần bảo vệ hoà bình và dân chủ trên thế giới. - Đập tan uy thế chính trị của địa chủ phong kiến, thực hiện ưu thế chính trị của nông dân lao động ở nông thôn, giải phóng nông dân khỏi ách phong kiến, cường hào; chỉnh đốn các tổ chức quân, dân, chính, Đảng ở địa phương. Muốn đạt mục đích ấy, phải cải cách ruộng đất. Song vì do lực lượng đối sánh giữa ta và đế quốc quyết định, vì mục đích cần thiết tập trung lực lượng đánh đổ kẻ thù chủ yếu nhất là chủ nghĩa đế quốc và làm tê liệt sức phản kháng của giai cấp địa chủ phong kiến trong một thời gian nhất định, cho nên chính sách ruộng đất của ta tiến hành theo ba bước: VSTK - 3980


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11

12 13 14 15

16

17 18 19 20 21 22 23

24 25 26 27 28 29 30

31 32 33 34 35 36

37 38 39

40 41

42

1. Tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian, chia lại ruộng công và sử dụng ruộng vắng chủ; tập trung mũi nhọn của chính sách ruộng đất vào bọn đế quốc và bè lũ phong kiến phản động nhất. 2. Giảm tô, giảm tức, hoãn nợ và xoá nợ, làm yếu thế lực kinh tế và bước đầu hạ uy thế chính trị của giai cấp địa chủ phong kiến ở nông thôn, bước đầu bồi dưỡng lực lượng nông dân lao động. 3. Cải cách ruộng đất, xoá bỏ quyền phong kiến chiếm hữu ruộng đất, tiêu diệt thế lực chính trị của phong kiến, thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng và nông dân lao động hoàn toàn làm chủ nông thôn. Bước thứ nhất chuẩn bị cho bước thứ hai, bước thứ hai chuẩn bị cho bước thứ ba. Ta đang ở bước thứ hai. Nay đã đến lúc cần phải chuyển sang bước thứ ba. 5. Tại sao phải thực hiện cải cách ruộng đất trong kháng chiến? Trước cuộc chiến tranh ngày thêm ác liệt, giai cấp địa chủ phong kiến ngày càng phản động, tư tưởng đầu hàng và thất bại của nó ngày càng tǎng. Ta càng đẩy mạnh việc thi hành những chính sách dân chủ cần thiết (chính sách ruộng đất, chính sách thuế nông nghiệp, v.v.), giai cấp địa chủ phong kiến càng phản ứng mạnh, càng câu kết chặt chẽ với đế quốc, chống lại kháng chiến, chống lại chính quyền nhân dân. Chứng cớ là trong phát động quần chúng giảm tô hiện nay, qua quần chúng tố khổ, chúng ta đã khám phá ra nhiều vụ địa chủ tổ chức gián điệp, lấy tin cho địch, làm cơ sở cho biệt kích của địch, hoặc lập ra những tổ chức phản động, phá các chính sách thuế khoá, ruộng đất, dân công, sản xuất, v.v. của Chính phủ ta. ở một số địa phương, chúng lợi dụng chi bộ, chính quyền, nông hội và Liên Việt xã để tiếp tục áp bức và bóc lột nông dân, phá hoại kháng chiến, phá hoại chính sách. Trong phát động quần chúng giảm tô đợt hai vừa rồi, phản ứng của địa chủ khá mạnh. Có tên giết cán bộ, đốt nhà nông dân, bỏ thuốc độc xuống giếng, cầu cứu đế quốc và ngụy quyền, chỉ điểm cho máy bay bắn phá trụ sở nông hội, v.v.. Còn thực dân Pháp thì đánh thọc ra vùng tự do để phá rối cuộc phát động quần chúng của ta ở Liên khu 3 và Liên khu 4. Địa chủ phong kiến phản động thật là bọn tay sai của đế quốc xâm lược và đế quốc xâm lược là quan thầy của địa chủ phong kiến phản động. 6. Kiểm điểm chính sách ruộng đất và việc thi hành chính sách ruộng đất của Đảng . . . . .Chính sách đoàn kết dân tộc rất đúng và rất cần thiết. VSTK - 3981


1 2 3 4 5

Nhưng mấy nǎm gần đây, chúng ta đã quan niệm một chiều về chính sách đoàn kết rộng rãi dân tộc để kháng chiến, chúng ta lại thiếu kinh nghiệm, không thấy hết yêu cầu và triển vọng của cuộc kháng chiến lâu dài. Chúng ta có phần xem nhẹ vai trò của nông dân trong kháng chiến và trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.

6 7 8 9 10 11 12 13 14

15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27

28 29 30 31 32 33 34

35

36 37 38 39 40 41

42 43 44 45

Mặt khác, chúng ta đã máy móc áp dụng kinh nghiệm cách mạng Trung Quốc trong thời kỳ kháng Nhật; không thấy rằng trong tám nǎm kháng Nhật, cách mạng Trung Quốc chỉ giảm tô là vì lúc đó nhân dân Trung Quốc có một đối tượng hợp tác chống Nhật là chính quyền của Tưởng Giới Thạch, tiêu biểu cho giai cấp địa chủ và giai cấp tư sản quan liêu Trung Quốc. Còn ta thì trái lại, trong kháng chiến không có đối tượng hợp tác như thế, cho nên ta không cần phải tự hạn chế trong bước giảm tô. Những sai lầm, thiếu sót trên đây không những đã ảnh hưởng đến việc không kịp thời đề ra vấn đề cải cách ruộng đất và kịp thời chuẩn bị thực hiện cải cách ruộng đất, mà còn ảnh hưởng ngay đến công tác thực hiện giảm tô nữa. ......... Về thi hành chính sách, sai lầm chủ yếu của ta trước đây là không nhận rõ việc thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng và Chính phủ . . . . Rốt cuộc, địa chủ ngoan cố, không chịu thi hành đúng chính sách của Đảng và Chính phủ, còn nông dân thì không được giáo dục ý thức giai cấp và tổ chức mạnh mẽ để đấu tranh. Chính sách ruộng đất có nơi không được thực hiện, có nơi thực hiện một cách nửa vời. Cá biệt cũng có nơi biến cuộc vận động thực hiện chính sách ruộng đất thành cuộc đấu tranh chính trị quá trớn, "tả" khuynh, thiếu sách lược. Ruộng đất của đế quốc và Việt gian tịch thu từ Cách mạng Tháng Tám đã tạm cấp cho nông dân nghèo. Song những nông dân đó không được giúp đỡ bao nhiêu trong việc phát triển sản xuất. Từ nǎm 1949 trở đi, nhiều nơi tuy có giảm tô, nhưng vì không phát động nông dân đấu tranh, cho nên hầu hết địa chủ không chịu giảm đúng mức, hoặc bề ngoài nói giảm mà bên trong không giảm, hoặc giảm tay này lấy lại tay kia. 7. Đường lối chung của Đảng ở nông thôn hiện nay Muốn thực hiện cải cách ruộng đất, điều quan trọng bậc nhất là phải định rõ đường lối chung của Đảng ở nông thôn hiện nay. Như Hồ Chủ tịch đã nói, đường lối đó là "dựa hẳn vào bần cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp phú nông, tiêu diệt chế độ bóc lột phong kiến từng bước và có phân biệt, phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến". Cố nông là vô sản và bần nông là nửa vô sản ở nông thôn. Bần cố nông chiếm khoảng trên dưới 50% nhân khẩu ở nông thôn. Họ là những người lao động nhiều nhất, nhưng lại nghèo khổ nhất ở nông thôn. Họ không có ruộng đất hoặc chỉ có một phần rất ít. Từ VSTK - 3982


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

11 12 13 14 15 16 17 18 19

20 21 22 23

bao đời nay, họ bị địa chủ phong kiến (vua quan, cường hào) và đế quốc áp bức, bóc lột nặng nề. Cách mạng Tháng Tám mới mang lại cho họ rất ít ruộng đất. Bần cố nông thiết tha nhất với khẩu hiệu người cày có ruộng. Họ hǎng hái cách mạng, tích cực kháng chiến và kiên quyết chống phong kiến nhất ở nông thôn. Vì vậy, muốn thực hiện cải cách ruộng đất, phải dựa hẳn vào bần cố nông, tin tưởng ở tinh thần đấu tranh cách mạng của bần cố nông, phát huy tác dụng trung kiên của họ, thoả mãn yêu cầu của họ; đồng thời, giáo dục họ, làm cho họ không vì quyền lợi trước mắt mà quên quyền lợi lâu dài của cách mạng. Trên cơ sở dựa vào bần cố nông, phải đoàn kết trung nông. Vì trung nông cũng là nông dân lao động, cũng bị đế quốc và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Trung nông chiếm trên dưới 40% nhân khẩu ở nông thôn, có nhiều kinh nghiệm sản xuất. Họ là một lực lượng cách mạng đáng kể. Có đoàn kết trung nông, bần cố nông mới không bị cô lập và mới thêm sức mạnh chống giai cấp địa chủ. Muốn đoàn kết trung nông, phải chiếu cố lợi ích của trung nông, giáo dục trung nông về quyền lợi giai cấp, về khẩu hiệu bần cố trung nông đoàn kết một nhà. Đối với phú nông, chính sách của ta hiện nay là về chính trị liên hiệp phú nông, về kinh tế bảo tồn kinh tế phú nông, không đụng chạm đến kinh tế phú nông. Phú nông vẫn được thuê mướn nhân công, tǎng gia sản xuất.

24 25 26 27

Liên hiệp phú nông thì cô lập được giai cấp địa chủ để dễ đánh đổ nó, đưa phú nông vào hàng ngũ chống đế quốc và chống phong kiến, đồng thời cũng ổn định được tinh thần của trung nông.

28 29 30 31 32

33 34 35 36 37 38 39

40

41

42 43

44 45

Dựa hẳn vào bần cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp phú nông là cốt để xoá bỏ quyền phong kiến chiếm hữu ruộng đất từng bước và có phân biệt, nhằm phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến. Nói về toàn bộ chính sách, tịch thu ruộng đất của Pháp và Việt gian là bước thứ nhất, giảm tô, giảm tức là bước thứ hai, cải cách ruộng đất là bước thứ ba. Ta giảm tô trước để chuẩn bị điều kiện tiến lên cải cách ruộng đất, đó là tiến hành từng bước một cách chắc chắn Đó là tinh thần và nội dung cơ bản của đường lối chung của Đảng ở nông thôn hiện nay. Muốn thực hiện tốt cải cách ruộng đất phải thấm nhuần đường lối đó.

II. Xoá bỏ quyền đế quốc và phong kiến chiếm hữu ruộng đất ở nước ta như thế nào? 1. Những đặc điểm của tình hình Việt Nam hiện nay cần chú ý trong cải cách ruộng đất Vì vậy, phương châm định ra chính sách cải cách ruộng đất và kế hoạch thực hiện chính sách đó có thể bao gồm những điểm dưới đây: VSTK - 3983


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

11 12

13 14

15 16 17 18 19 20 21 22 23

24 25 26

27 28

29

30 31 32

33 34 35 36

37 38 39

40 41

a) cần chú trọng phân biệt đối xử với các hạng địa chủ, triệt để phân hoá giai cấp địa chủ. b) Cần phân biệt xử lý các loại ruộng đất khác nhau, c) Cần xử lý thích đáng đối với việc phân tán ruộng đất của địa chủ, d) Phải tiến hành cải cách ruộng đất từng bước một, nơi nào có đủ điều kiện thì làm trước, chưa đủ điều kiện thì làm sau, không thể làm ào một lượt; đ) Cần phải vừa làm vừa đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Các cơ quan lãnh đạo cũng phải qua công tác thực tế mà học tập thêm kinh nghiệm, bổ sung chính sách, chấn chỉnh và tǎng cường. 2. Những biện pháp dùng để xoá bỏ quyền đế quốc và phong kiến chiếm hữu ruộng đất ở nước ta Bọn đế quốc, thực dân đi cướp nước ta. Chúng không có quyền chiếm hữu ruộng đất ở nước ta. Giai cấp địa chủ phong kiến là phản động. Quyền chiếm hữu ruộng đất của nó là bất hợp pháp. Song thực tế ở nước ta hiện nay có ba hạng địa chủ: địa chủ Việt gian, phản động, cường hào gian ác, địa chủ thường và địa chủ tham gia kháng chiến, trong đó có một số ít là nhân sĩ dân chủ. Ruộng đất cũng có từng loại khác nhau: ruộng đất của đế quốc, ruộng đất của phong kiến, ruộng đất của nông dân, ruộng đất của Nhà nước, v.v.. Trong ruộng đất phong kiến, có ruộng đất của địa chủ, ruộng đất công, ruộng đất nửa công nửa tư, ruộng đất của tôn giáo, v.v.. Vì mục đích phân biệt đối xử với các hạng địa chủ và phân biệt xử lý các loại ruộng đất, nên dùng những biện pháp dưới đây để xoá bỏ quyền đế quốc và phong kiến chiếm hữu ruộng đất ở nước ta: Đối với ruộng đất của bọn đế quốc, thực dân thì nhất loạt tịch thu (không bồi thường). Đối với ruộng đất của địa chủ phong kiến thì dùng ba biện pháp: 1. Tịch thu (không bồi thường), 2. Trưng thu (không bồi thường), 3. Trưng mua (bắt buộc phải bán theo giá Nhà nước quy định). Tịch thu là một cách xử trí và một hình thức trừng phạt đối với bọn phản cách mạng, bọn phạm tội ác với kháng chiến, với nhân dân. Cần tịch thu ruộng đất, tài sản của những địa chủ là Việt gian, phản động, cường hào Như thế là dùng ba biện pháp tịch thu, trưng thu và trưng mua để phân biệt đối xử với địa chủ tuỳ theo thái độ chính trị của mỗi hạng địa chủ. 3. Tịch thu, trưng thu, trưng mua theo thành phần giai cấp, chứ không theo diện tích ruộng đất VSTK - 3984


1 2 3 4 5 6 7

Chính sách ruộng đất của ta trong giai đoạn cách mạng này là nhằm xoá bỏ quyền đế quốc và phong kiến chiếm hữu ruộng đất, tiêu diệt chế độ bóc lột phong kiến của giai cấp địa chủ. Vì vậy, ngoài ruộng đất, tài sản của đế quốc cần tịch thu ra, ta chủ trương tịch thu, trưng thu, trưng mua ruộng đất của giai cấp địa chủ, chứ không tịch thu, trưng thu, trưng mua theo diện tích ruộng đất từ bao nhiêu mẫu trở lên.403 *

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41

Dấu hiệu bất mãn của các tầng lớp nông dân miền Bắc xuất hiện hầu hết các nơi ở miền Bắc đối với những sai trái quá mức của chương trình CCRĐ và mở màn cho những tình trạng chống đối khiến chính quyền VNDCCH phải áp dụng nhiều biện pháp sửa sai nhưng đã quá trễ. Trước khi Tổng Bí Thư Đảng Lao Động Trường Chinh ra tường trình chính sách CCRĐ trước Đại Hội Đảng vào tháng 11/1953 như vừa trích dẫn ở phần trên thì ngày 05/02/1953, chính chủ tịch VNDCCH đã phải lên tiếng xác nhận đã trong quá khứ và hiện tại có nhiều khuyết điểm trong khi thi hành chính sách CCRĐ qua một bức thư gửi HỘI NGHỊ NÔNG VÂN VỤ DÂN VẬN TOÀN QUỐC như sau:404 Thân ái gửi Hội nghị nông vận vụ dân vận, Các đồng chí, Nông dân lao động là một lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất chắc chắn của giai cấp công nhân. Muốn kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công ắt phải dựa vào quần chúng nông dân. Muốn dựa vào nông dân ắt phải bồi dưỡng lực lượng của họ. Muốn nông dân có lực lượng dồi dào thì phải làm cho họ có ruộng cày, có cơm ăn, áo mặc, nhà ở. Đảng và Chính phủ đề ra chính sách ruộng đất đã lâu. Nhưng đến nay, chính sách ấy chưa được thực hiện triệt để; nông dân lao động vẫn chưa được hưởng quyền lợi chính đáng của họ. Khuyết điểm ấy, một phần là do Trung ương đôn đốc, kiểm tra không chặt chẽ. Nhưng phần lớn là do cán bộ: - Không nắm vững chính sách của Đảng và Chính phủ, - Không đi đúng đường lối quần chúng, - Không nhận rõ vai trò quan trọng của nông dân, - Không săn sóc đến đời sống của nông dân, - Làm việc thì quan liêu, mệnh lệnh, bao biện; không làm gương mẫu, thậm chí tự tư tự lợi, làm trái hẳn chính sách của Đảng và Chính phủ. Vì cán bộ ta mắc những khuyết điểm ấy, cho nên địa chủ phong kiến vẫn nắm quyền kinh tế và chính trị ở nông thôn, nông dân vẫn bị áp VSTK - 3985


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43

bức bóc lột, và thuế nông nghiệp, dân công, tăng gia sản xuất đều không được như mức đã định. Năm nay, chúng ta nhất định phải phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức và giành ưu thế chính trị cho nông dân. Đó là một công tác trung tâm mà Đảng, Chính phủ và toàn dân phải thực hiện cho kỳ được. Phát động quần chúng là một việc rất quan trọng và cũng rất phức tạp, cho nên phải chuẩn bị rất kỹ càng, phải có phương châm rõ ràng, kế hoạch đầy đủ, cách làm chắc chắn. Trước nhất là: - Lập trường giai cấp của cán bộ phải vững chắc dứt khoát, "đứng về phía nào? phục vụ quyền lợi ai?", tư tưởng của cán bộ phải đánh thông. Có như thế, mới thi hành đúng chính sách của Đảng và Chính phủ, mới đi đúng đường lối quần chúng, mới phát động được quần chúng nông dân thực hiện chính sách ruộng đất. Mong các cô các chú nghiên cứu kỹ lưỡng, bàn bạc thấu suốt, áp dụng đúng đắn những chỉ thị và tài liệu về việc phát động quần chúng. Chúc các đại biểu mạnh khoẻ. Chúc Hội nghị thành công. Chào thân ái và quyết thắng Ngày 5 tháng 2 năm 1953 Hồ Chí Minh

4.3 Những sai trái trong khi thi hành chính sách CCRĐ

Sau khi nghe báo cáo của Bộ Chính trị, của Đảng tổ Uỷ ban cải cách ruộng đất Trung ương và của Ban Tổ chức Trung ương về công tác cải cách ruộng đất và công tác chỉnh đốn tổ chức, Hội nghị Trung ương lần thứ 10 (mở rộng) từ ngày 25-8 đến ngày 5-10-1956 đã thảo luận các bản báo cáo đó, chủ yếu là để kiểm điểm việc thực hiện đường lối chính sách do Trung ương đã đề ra về công tác cải cách ruộng đất và công tác chỉnh đốn tổ chức và vạch rõ vấn đề sai trái của việc thi hành chính sách CCRĐ như sau: “Tuy nhiên, trong cuộc vận động giảm tô và cải cách ruộng đất, về mặt lãnh đạo, nhất là trong việc chỉ đạo thực hiện, chúng ta đã phạm nhiều sai lầm. Đó là những sai lầm nghiêm trọng, phổ biến, kéo dài về nhiều mặt, những sai lầm về những vấn đề nguyên tắc, trái với chính sách của Đảng, trái với nguyên tắc và điều lệ của một đảng theo chủ nghĩa Mác Lênin, trái với chế độ pháp luật của nhà nước dân chủ nhân dân. Những sai lầm đó không những đã hạn chế những thắng lợi đã thu được, mà lại gây ra những tổn thất rất lớn cho cơ sở của Đảng, của chính quyền, của các tổ chức quần chúng, ảnh hưởng tai hại đến chính sách mặt trận của Đảng ở nông thôn cũng như ở thành thị, ảnh hưởng nhiều đến tình cảm và đời sống bình thường của nhân dân ta, làm cho tình hình nông thôn cǎng thẳng, ảnh hưởng đến tinh thần đoàn kết và phấn khởi trong Đảng VSTK - 3986


19

và trong nhân dân, đến công cuộc củng cố miền Bắc, đến sự nghiệp đấu tranh để thực hiện thống nhất nước nhà. Những sai lầm nói trên đã có từ lúc đầu, nhưng càng về sau thì càng thêm nặng, nhất là từ khi hoà bình lập lại, trong giảm tô đợt 7 và đợt 8, trong cải cách ruộng đất đợt 4 và đợt 5. Về việc chấp hành đường lối nông thôn của Đảng . . . . .Nhưng vì không nắm vững chính sách nên ở nhiều nơi trong việc phân định thành phần giai cấp là một vấn đề quan trọng, nhiều người đã bị vạch lầm thành phần. . . . . . . . .Về việc phát động quần chúng đánh đổ giai cấp địa chủ, kết hợp trấn áp bọn phá hoại hiện hành . . . . . dùng phương pháp cưỡng bức và trấn áp thay cho phát động quần chúng, truy bức, nhục hình một cách phổ biến, cho nên việc đánh địch càng đi tới càng mất phương hướng, đánh tràn lan, đánh vào địch và đánh cả vào ta. Vì đánh giá sai tổ chức của Đảng, của chính quyền, của các đoàn thể quần chúng, cho nên đã coi tổ chức của ta là do địch lũng đoạn, do đó đã bắt bớ và xử trí bừa bãi những nông dân vô tội, đả kích mù quáng vào nhiều đảng viên và cán bộ tốt của Đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng.405

20

4.4 Những biện pháp sửa sai chính sách CCRĐ từ mùa Hè 1956

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

Trước những sai lầm nghiêm trọng này, tháng 9 năm 1956, theo Quyết định [*lưu ý: không phải là Quyết Nghị của Hội nghị Trung ương lần thứ 10 (mở rộng)] của của Ủy Ban Chấp Hành Trung Ương

Đảng hiện diện trong Hội nghị Trung ương lần thứ 10 (mở rộng) kể trên Trường Chinh đã buộc phải từ chức Tổng Bí thư và lãnh đạo Đảng CSVN, cách chức Bộ Chính trị Hoàng Quốc Việt, cũng như cách chức Ủy viên TU Đảng Hồ Viết Thắng. Đến tháng 10 năm 1956, tướng Võ Nguyên Giáp, đã phải thừa nhận sai lầm và phát động chiến dịch sửa sai.

Cũng theo Quyết định của Ủy Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng hiện diện trong Hội nghị Trung ương lần thứ 10 (mở rộng) kể trên thì nội dung sửa chữa sai lầm sẽ quy định theo 12 điểm chính sách như sau: 1. Đối với những chi bộ bị giải tán hoặc bị đǎng ký sai, nay đều phải tuyên bố xoá bỏ các quyết định ấy. Lịch sử các đảng bộ tỉnh, huyện, chi bộ đã bị kết luận sai hoặc bị xuyên tạc, nay đều phải xoá bỏ những kết luận ấy. Tất cả các đảng viên bị xử trí sai đều phải được trả lại đảng tịch. Những đảng viên thuộc thành phần địa chủ, phú nông đủ VSTK - 3987


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

tiêu chuẩn đảng viên, nhưng trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức đã bị xử trí sai, nay cũng đều được trả lại đảng tịch. Đối với những đảng viên và cán bộ đã hy sinh vì bị xử trí oan thì nay phải tuyên bố huỷ án cũ, trả lại danh dự, đảng tịch; chính quyền và đoàn thể phải đặc biệt chú trọng an ủi, giúp đỡ gia đình các đồng chí đó. 2. Cán bộ và những người dân bị xử trí sai đều được sửa lại: về chính trị, được khôi phục công quyền, danh dự, công tác. Những người bị bắt oan đều phải được trả lại tự do. Về kinh tế, họ sẽ được đền bù thích đáng, được giúp đỡ sinh sống. Tất cả những huân chương, bằng khen, huy hiệu đã bị tước hoặc bị mất, đều phải được trả lại. Phải đặc biệt chú trọng các cán bộ ngoài Đảng và người dân vì bị xử trí oan mà phải hy sinh; ngoài việc tuyên bố huỷ bỏ án cũ, trả lại danh dự, công quyền, thì chính quyền và đoàn thể phải hết sức an ủi và giúp đỡ gia đình của họ. 3. Phải chấp hành đúng chính sách ưu đãi đối với quân nhân cách mạng, quân nhân phục viên, thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình của những người có công với cách mạng, gia đình cán bộ, gia đình bộ đội và gia đình nhân sĩ dân chủ. 4. Sửa lại thành phần cho những người bị quy lầm lên địa chủ, phú nông, hoặc bị quy lầm là có ít ruộng đất phát canh. Xoá bỏ việc vạch thành phần bóc lột khác, ai đã bị vạch thành phần đó, đều phải sửa lại. Người nào đã được sửa thành phần thì họ được hưởng mọi quyền lợi chính trị theo thành phần của họ; về kinh tế họ được đền bù thích đáng để làm ǎn sinh sống. Việc đền bù tài sản cho những người bị quy lầm thành phần lên địa chủ hoặc bị xử trí sai sẽ do nông dân bàn bạc để giải quyết trên tinh thần đoàn kết, nhân nhượng, thương lượng ổn thoả, giúp đỡ lẫn nhau, để đủ điều kiện làm ǎn sinh sống, nhưng nói chung, tránh đụng đến những quyền lợi nông dân đã được chia trong giảm tô và cải cách ruộng đất. 5. Đối với phú nông, không được coi như địa chủ. Phải thực hiện đúng chính sách liên hiệp phú nông. Đối với địa chủ thì thi hành đúng những điều đã quy định đối với địa chủ sau cải cách ruộng đất. VSTK - 3988


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

6. Phải chấp hành đúng chính sách tôn giáo. Nơi nào để lại ruộng đất cho nhà chung, nhà chùa, từ đường họ không đúng chính sách thì phải điều chỉnh lại ruộng đất cho đúng. 7. Phải chấp hành đúng chính sách dân tộc, sửa chữa những sai lầm đụng chạm đến phong tục tập quán của đồng bào thiểu số. 8. Phải điều chỉnh lại diện tích và sản lượng cho đúng để nhân dân yên tâm sản xuất và đóng góp được công bằng. Chỗ nào sai thì sửa, không sửa lại tràn lan. 9. Phải gấp rút cứu giúp những người vì sai lầm trong cải cách ruộng đất mà hiện bị đau ốm nặng hoặc không có cách gì sinh sống, chú trọng cứu giúp người già, trẻ con, bất cứ họ thuộc thành phần nào. 10. Bỏ tất cả những lệnh quản chế đối với những người bị quy oan là phản động, hoặc cường hào gian ác, bất cứ thuộc thành phần nào. Trừ trường hợp đối với địa chủ cường hào gian ác, chưa đáng tù và bọn lưu manh có lệnh quản chế của toà án tỉnh. Bỏ cách bao vây đối với bất cứ người nào, kể cả người bị quản chế. Cấm bắt bớ lung tung. Trường hợp bắt người phạm pháp quả tang thì phải đưa lên huyện ngay. 11. Đối với cán bộ cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức phạm sai lầm thì cần phải kiểm thảo, lấy giáo dục làm chính để giúp đỡ sửa chữa. Sửa lại những trường hợp thi hành kỷ luật và khen thưởng sai. 12. Cần tiến hành ngay việc sửa chữa những sai lầm trong phát động quần chúng chỉnh đốn tổ chức ở các xí nghiệp, công trường, nông trường, cơ quan. Bộ Chính trị sẽ có chỉ thị cụ thể.405 Ngoài ra Đại Hội Đảng 10 Nới Rộng cũng quyết định cách chức hoặc khai trừ các cán bộ đầu não của Đảng Lao Động, những kẻ chủ chốt trong kế sách và thực hiện chính sách CCRĐ.

Trường Chinh - Lê Văn Lương – Hoàng Quốc Việt Những nhân vật chủ chốt trong chính sách CCR Đ ở miền Bắc Việt Nam VSTK - 3989


Nguồn ảnh: http://www.youtube.com/watch?v=PNZvNPjyLy0

Photos by the Soviet photojournalist Dmitri Baltermans (1912-1990) taken in North Vietnam in 1955 Được đang tải trên CORBIS Images Collections Nguồn ảnh :https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/sets/72157625139582419/ VSTK - 3990


1

2

3

4

5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46

Sau đây là Quyết định của Hội nghị trung ương lần thứ 10 mở rộng về việc thi hành kỷ luật đối với một số đồng chí Trung ương phạm sai lầm trong công tác cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức: Về trách nhiệm đối với sai lầm đã phạm phải trong công tác cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, Hội nghị Trung ương lần thứ 10 (mở rộng) đã nhận định rằng Bộ Chính trị chịu trách nhiệm trước Trung ương về những sai lầm đã xảy ra, song trách nhiệm trực tiếp và chủ yếu là ở một số đồng chí uỷ viên Trung ương phụ trách Đảng tổ Uỷ ban cải cách ruộng đất và Ban Tổ chức Trung ương. Với mức độ nghiêm trọng khác nhau, sai lầm của các đồng chí đó chủ yếu là: Về lãnh đạo tư tưởng, đã chống hữu khuynh một chiều; Về lãnh đạo chính sách, đã không chấp hành đúng đắn chính sách cụ thể của Trung ương, thậm chí có đồng chí đã tự động ra những chỉ thị sai lầm; Về lãnh đạo tổ chức thì có nhiều khuyết điểm trong chính sách cán bộ; Về tác phong thì quan liêu, không nắm tình hình, mệnh lệnh, độc đoán, không lắng nghe ý kiến quần chúng, nên đã báo cáo không đúng, thậm chí đưa ra những đề nghị sai lầm; Về tư tưởng, thì chủ quan, tự mãn, do đó mà thiếu tôn trọng nguyên tắc, Điều lệ của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Cǎn cứ nhận định ấy, Hội nghị Trung ương lần thứ 10 quyết định: Thi hành kỷ luật đối với đồng chí Hồ Viết Thắng: Đồng chí Hồ Viết Thắng giữ nhiệm vụ thường trực trong Đảng tổ Uỷ ban CCRĐ Trung ương, trực tiếp chỉ đạo công tác CCRĐ. Những khuyết điểm của đồng chí Hồ Viết Thắng về mặt tư tưởng và tác phong cũng như về mặt chỉ đạo chính sách và chỉ đạo tổ chức đã gây ra những sai lầm nghiêm trọng trong công tác phát động quần chúng giảm tô và CCRĐ. Trong thời gian gần đây, đồng chí Hồ Viết Thắng đã tỏ ra hối hận và lo lắng về việc sửa chữa sai lầm. Hội nghị Trung ương lần thứ 10 quyết định đưa đồng chí Hồ Viết Thắng ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Thi hành kỷ luật đối với đồng chí Lê Vǎn Lương: Đồng chí Lê Vǎn Lương là người phụ trách chỉ đạo trực tiếp công tác chỉnh đốn tổ chức, đặc biệt ở các cấp tỉnh và huyện. Những khuyết điểm của đồng chí Lê Vǎn Lương do nhận định sai về tình hình tổ chức đảng đã đưa đến những chủ trương sai lầm, gây nên những tổn thất nặng cho Đảng. Sau khi phát hiện sai lầm, đồng chí Lê Vǎn Lương đã hết sức tích cực trong việc giúp Trung ương lãnh đạo việc sửa chữa. Theo lời yêu cầu của đồng chí Lê Vǎn Lương, Hội nghị Trung ương lần thứ 10 quyết định đồng ý đồng chí Lê Vǎn Lương rút ra khỏi Bộ Chính trị, Ban Bí thư và đưa xuống làm Uỷ viên dự khuyết của Ban Chấp hành Trung ương.406 VSTK - 3991


1

2

3

4

5 6 7 8 9 10

Tổng Bí Thư Đảng Lao Động Trường Chinh cũng “xin từ chức” theo quyết định của Hội nghị trung ương lần thứ 10 mở rộng về chức Tổng Bí thư của Đảng, về Bộ Chính trị và Ban Bí thư: Về chức Tổng Bí thư: Đồng chí Trường Chinh là Tổng Bí thư của Đảng, là Uỷ viên Bộ Chính trị được phân công cùng Đảng tổ Uỷ ban cải cách ruộng đất chỉ đạo công tác phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất. Đồng chí Trường Chinh có trách nhiệm quan trọng trong việc chỉ đạo chấp hành đường lối, chính sách của Trung ương trong công tác phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất.

11 12 13 14 15

16 17

18

Đồng chí Trường Chinh đã tự phê bình trước Hội nghị Trung ương lần thứ 10 (mở rộng), xin từ chức Tổng Bí thư và được Hội nghị Trung ương đồng ý. Đồng chí Trường Chinh vẫn là Uỷ viên Bộ Chính trị và Uỷ viên trong Ban Bí thư của Trung ương Đảng. Hội nghị Trung ương lần thứ 10 đã nhất trí bầu đồng chí Hồ Chí Minh là Chủ tịch Đảng kiêm làm Tổng Bí thư của Đảng. Về Bộ Chính trị:

23

Hội nghị Trung ương lần thứ 10 cử thêm bốn đồng chí: - Đồng chí Hoàng Vǎn Hoan, - Đồng chí Phạm Hùng, - Đồng chí Nguyễn Duy Trinh, - Và đồng chí Lê Thanh Nghị, bổ sung vào Bộ Chính trị.

24

Về Ban Bí thư:

19 20 21 22

25 26 27 28 29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

Hội nghị Trung ương lần thứ 10 cử lại Ban Bí thư gồm có: - Đồng chí Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư, - Đồng chí Trường Chinh, - Đồng chí Phạm Vǎn Đồng, - Đồng chí Võ Nguyên Giáp, - Và đồng chí Nguyễn Duy Trinh.407

Vào mùa Hè 1956 thì việc thi hành sai lầm chính sách CCRĐ của VNDCCH đã tạo ra bất mãn sâu đậm và phản kháng trong các tầng lớp nông dân tại nhiều nơi ở miền Bắc điển hình nhất là cuộc nổi loạn của Nông Dân ở Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An vào tháng 11/1956 mặc dù chính quyền VNDCCH và đảng Lao Động đã tìm biện pháp sửa sai nhưng cũng quá chậm và máu người dân vô tội của miền Bắc đã đỗ quá nhiều. Ngày 13/11/1956, đài phát thành Hà Nội nhìn nhận có cuộc nổi dậy ở Quỳnh Lưu vì nhiều sai lầm của cán bộ trong cuộc cải cách rộng đất.408 Đoàn Thêm, tr.208

40

VSTK - 3992


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

4.5 Chính sách CCRĐ từ sau mùa Hè 1956

Những sai lầm trong tiến trình thi hành chính sách CCRĐ đã được nêu lên khá rõ rệt và đầy đủ, nhưng người phụ trách Ủy ban cải cách ruộng đất là Trường Chinh tuy không chối cãi được, nhưng cứ lý luận rằng cải cách đã đưa lại ruộng đất cho nông dân là một thắng lợi lớn, còn những sai lầm thì tránh né không thừa nhận một cách thẳng thắn. Hoàng Quốc Việt cũng không nhận sai lầm. Chỉ có Lê Văn Lương, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương là thành thực nhận sai lầm trong việc chỉnh đốn tổ chức. Chủ tịch VNDCCH tuy không ở trong Ủy ban cải cách ruộng đất, nhưng với cương vị là Chủ tịch Đảng, đã nghiêm khắc tự phê bình trước Hội nghị về việc thiếu kiểm tra đôn đốc, và chủ trương kiên quyết sửa sai. Theo Hoàng Văn Hoan kể lại trong Hồi Ký Giọt Nước Trong Biển Cả thì “Hội nghị Trung ương đáng lẽ phải có một nghị quyết tổng kết kinh nghiệm về cải cách ruộng đất. Nhưng Trường Chinh vừa là Tổng Bí thư Trung ương Đảng vừa là Trưởng ban cải cách ruộng đất, vì đang bị bối rối, tư tưởng không sáng suốt, nên dự thảo nghị quyết mấy lần đều không được Hội nghị Trung ương chấp nhận. Kết quả vì cuộc họp đã lâu quá không thể kéo đài, đành phải kết thúc bằng chủ trương kiên quyết sửa chữa và thi hành kỷ luật với một số người phụ trách. Còn về nghị quyết thì phải tạm gác lại, giao cho Trường Chinh viết lại để trình Trung ương duyệt trong một phiên họp khác.” Cũng theo Hoàng Văn Hoan thì “khi thực hành chính sách CCRĐ, do tác phong gia trưởng và ý thức tả khuynh của Trường Chinh đã đưa đến những sai lầm nghiêm trọng là đánh tràn lan vào trung nông, phú nông và những người có một ít ruộng đất cho thuê, đánh tràn lan cả vào cơ sở Đảng.” . . . . . “Do phương pháp chỉ nghe nhân chứng không trọng vật chứng, và phương pháp nhục hình ép phải cung nhận, kết quả là chỗ nào cũng có người “phản Đảng” hoặc người “chui vào Đảng để phá hoại”. Ở Nghệ-Tĩnh là nơi cơ sở Đảng mạnh nhất, thì cũng là nơi bị phá hoại nghiêm trọng nhất. “Từ trước, Trung ương vốn tin ở Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, nay vì sai lầm lớn ở Nghệ-Tĩnh, sự phản ứng mãnh liệt của nhân dân vang dội đến Hà Nội, Trung ương phải khấn VSTK - 3993


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

cấp họp hội nghị đặc biệt để nghiên cứu tình hình. Việc sửa sai bắt đầu.”409

Mặc dù bị chậm lại vì cuộc nổi loạn của nông dân Quỳnh Lưu và sự chống đối của nhiều tầng lớp nông dân khác tại nhiều nơi nhưng cơ bản thì chính sách CCRĐ ở miền Bắc có thể xem như đã hoàn tất vào tháng 10/1956. Nhìn chung thì “giai cấp địa chủ” hầu như đã bị tiêu diệt để nhường chỗ cho những kiểu mẫu nông hội nhỏ đang hình thành hầu hết trong nền kinh tế nông nghiệp ở miền Bắc Việt Nam. Rồi sau đó chính quyền khởi phát một cách thận trọng,từ từ hàng loạt những biện pháp khuyến dụ những nông dân tham gia vào một trong hàng loạt chương trình xã hội hóa nông nghiệp. Những biện pháp như thế bao gồm sự luân chuyển trao đổi nhân lực giữa các các nhóm sản xuất riêng rẽ, của các hợp tác xã để tiến lần đến công xã sản xuất tập thể. Vào cuối năm 1957 thì chính sách tập thể hóa Nông nghiệp của VNDCCH được phát động mạnh mẽ và toàn diện khắp nơi. Năm 1958 đã có 65% nông dân miền Bắc từ các công xã sản xuất tập thể được đưa vào kế hoạch luân phiên trao đổi nhân công và đến giữa năm 1960 thì đã có hơn ½ tổng số gia đình nông dân miền Bắc tham gia vào các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Kế sách của VNDCCH là hướng đến một chế độ tập thể hóa nông nghiệp hoàn toàn trên khắp lãnh thổ miền Bắc nhưng điều nầy không thể nào thực hiện chỉ trong vòng mới có vài năm làm chủ miền Bắc Việt Nam. Với mọi cố gắng đáng kể, VNDCCH cũng đã đi đến mức tự túc nông nghiệp qua sự tăng gia tổng sản lượng thóc gạo mà đa số tình huống là áp dụng kế hoạch tái khai thác triệt đễ các ruộng đất trồng trọt, không những vượt hơn sản lượng hàng năm ở Bắc Việt trước khi có Hiệp Định Geneva 1954 mà còn có thể khởi sự xuất cảng gạo sang Ấn Độ và Nam Dương.410 Thành quả đạt được như kể trên từ chính sách CCRĐ của chính quyền VNDCCH chắc chắn là không thuyết phục được tầng lớp tiêu thụ Việt Nam bởi vì trong khi chính quyền tích cực đẫy mạnh tăng gia sản xuất gạo thóc một cách đáng kể thì khẩu phần nhà nước ấn định để cấp phát cho mỗi nhân khẩu chỉ hơn 300kg / mỗi năm, đưa đến tình trạng người dân miền Bắc phải VSTK - 3994


1

2

3

4

theo chế độ thắt lưng buột bụng, ăn kèm ngô, sắn, khoai . . . theo mộ tiêu chuẩn khẩu phần còn thấp kém hơn là tiêu chuẩn khẩu phần vào thời kỳ trước chiến tranh thế giới thứ II ở Đông Dương.411

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

Nói tóm lại những hoạt động TÁI THẾT VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP MIỀN BẮC kể từ sau Hiệp Định Geneva 1954 ít ra cũng đã có thể giúp dân chúng miền Bắc Việt Nam thực hiện chế độ khẩu phần đến một mức đáng kể để ngăn chận tình trạng chết chốc vì đói kém như đã từng xảy ra trước đây trong thế chiến II xảy ra trên đất nước nầy . Kế đến, chính sách CCRĐ của VNDCCH có thể được đánh giá là hứa hẹn khả quan trong mục tiêu tự túc thực phẩm để không còn phải nhập cảng từ các nước ngoài. Sau hết, trong khi thi hành chính sách CCRĐ một cách giáo điều nhưng cũng biết mềm dẻo thích ứng cho nên đảng Lao Động và VNDCCH đã lần lược vượt được rất nhiều khó khăn và trở ngại mà họ gặp phải.412

19

5/ TÁI THIẾT VÀ GIA TĂNG KINH TẾ KỸ NGHỆ & KẾ HOẠCH 3 NĂM VÀ TIẾP THEO CỦA VNDCCH

20

5.1 Tái thiết và gia tăng Kinh Tế Kỹ Nghệ

18

21

22

23

24

25

26

27

Để tạo dựng một nền kinh tế có thể đứng vững được, VNDCCH đã tìm cách bổ túc thêm cho những cố gắng của mình trong lãnh vực canh nông bằng cách đề ra một chương trình tái thiết và phát triển kỹ nghệ miền Bắc với triển vọng rằng chương trình nầy sẽ tạo ra những thành phẩm hỗ trợ cho chủ trương tự lực kinh tế đồng thời cũng sản xuất được những tiện ích xuất cảng để đánh đổi những sản phẩm không thể sản xuất được từ VSTK - 3995


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

trong nước. Những nguồn tài nguyên thiên nhiên ở miền Bắc mặc dù có nhiều hơn miền Nam Việt Nam nhưng cũng chưa đủ để VNDCCH có được vị thế là một lãnh thổ đã được kỹ nghệ hóa mặc dù miền Bắc từ trước đến hiện tại vào lúa rất nhiên thợ thủ công nghiệp cùng với một vài lãnh vực kỹ nghệ nhẹ trong khi mà nền công nghiệp nặng chỉ có quy hướng về việc khai thác độc quyền các nguyên vật liệu. Tài nguyên thiên nhiên của miền Bắc có rất nhiều triển vọng trong tương lai đặc biệt là các vùng mõ than được xem là chính yếu ở vùng Đông Nam Á. Ngoài các ngành kỹ nghệ về bông vải, cao su và nhiều tài nguyên thiên nhiên khác cũng rất nhiều triển vọng. Tất cả kế hoạch và chính sách khai thác về các lãnh vực kỹ nghệ vừa kể bây giờ được đặt dưới quyền kiểm soát của nhà nước VNDCCH qua Ủy Ban Kế Hoạch Nhà Nước được thành lập vào cuối năm 1955. Song song với chính sánh đưa ý thức hệ CS vào với thực tại để thúc đẩy nhanh việc phục hồi nền kinh tế miền Bắc càng sớm càng tốt.Chính quyền VNDCCH đã có thực hiện ngay việc phát triển và xã hội hóa nền tiểu, thủ công nghệ mà không gặp nhiều khó khăn đáng kể vì không cần phải có số vốn đầu tư lớn lao, không cần thiết phải có khả năng kỹ thuật cao và máy móc hiện đại Ngoài ra nền tiểu thủ công nghệ còn có thể tạ ra những sản phẩm gia dụng và những vật dụng cần thiết cho chương trình phục hồi nông nghiệp mà không cần phải nhập cảng nông cụ, tiết kiệm ngoại tệ để mua sắm các dụng cụ kỹ nghệ nặng mà trong nước chưa có khả năng sản xuất. Mặc dù thế, nhờ có sự tăng gia năng lực sản xuất, tỷ lệ phát triển nền kỹ nghệ nặng ở miền Bắc chỉ chiếm có 17% tổng sản lượng vào năm 1956 cũng đã gia tăng lên mức 36% vào năm 1957. 413 JSC, tr.tr.105-106 5.2 Kế hoạch 3 năm và những năm tiếp theo của VNDCCH

Cuộc nổi dậy của nông dân Quỳnh Lưu vào năm 1956 chống lại CSRĐ khiến cho chính quyền của chế độ CS miền Bắc phải xét lại vấn đề nông nghiệp và làm chậm trễ chương trình phục hồi và tái thiết kỹ nghệ vừa mới bắt đầu vào năm 1954. VNDCCH thấy cần phải có một khoảng thời gian để xoa dịu và lấy lại hơi sức. Vì thế thế đảng và nhà nước mới đặt ra một kế hoạch khiêm nhường một năm cho năm 1956 và 1957. VSTK - 3996


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

Đến cuối nǎm 1957, giá trị sản lượng nông nghiệp và công nghiệp tính chung đã xấp xỉ nǎm 1939. Sản xuất nông nghiệp, nhất là lương thực đã vượt mức trước chiến tranh. Ba nǎm sau khi hoà bình lập lại, sản lượng thóc ở miền Bắc đạt được 4 triệu tấn, đảm bảo tự cung cấp theo mức bình quân khoảng 300kg thóc một đầu người; đó là một thắng lợi to lớn về kinh tế và chính trị. Thủ công nghiệp khôi phục và phát triển nhanh, tǎng thêm nhiều ngành, nghề, nhiều sản phẩm mới. Sản xuất công nghiệp tuy chưa bằng trước chiến tranh nhưng hầu hết các nhà máy cũ đã chạy đều, được thay thế và bổ sung thiết bị, một số nhà máy mới được xây dựng thêm, cơ sở công nghiệp hiện đại tǎng nhiều hơn trước. Giá trị sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp chiếm một phần ba tổng giá trị sản lượng nông nghiệp và công nghiệp, trong đó công nghiệp hiện đại chiếm trên 9%.414

Vào đầu năm 1958, VNDCCH thấy rằng đã đến lúc cần phát động rầm rộ một kế hoạch phát triển và cãi tạo 3 năm trên bình diện nông nghiệp và Công nghiệp theo chủ nghĩa Xã Hội của Cộng Sản: tăng gia sản lượng nông nghiệp, công nghiệp trước tiên là để thỏa mãn nhu cầu thực phẩm tiêu thụ trong nước và thặng dư để xuất cảng lấy ngoại tệ nhập cảng công cụ nặng; kế đến là đặt nền móng vững chắc cho công cuộc hiện đại hóa nền công nghiệp. Từ ngày 16 đến ngày 29-4-1958, kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá I của VNDCCH đã thông qua kế hoạch 3 năm cải tạo và phát triển kinh tế quốc dân (1958-1960). Kế hoạch 3 năm có một mục tiêu chính trị và một mục tiêu kinh tế.; sự kiểm soát của nhà nước lan rộng ra nhiều lãnh vực hoạt động kinh tế. Đặc biệt là lãnh vực hoạt động của những Hợp tác xã nông nghiệp được tổ chức rộng khắp và sự kiểm soát của nhà nước lấn rộng sang lãnh vực công nghiệp bằng cách chuyển đổi các ngành công nghiệp tư nhân nhân tập thể thành một nền kinh tế Xã Hội chủ nghĩa.. Vào cuối năm 1960 thì phần lớn các lãnh vực Công nghiệp và Thương mại tư nhân đã được nhà nước chuyển hóa thành những Công Ty Hợp Doanh nhưng vẫn dùng các chủ nhân cũ tiếp tục kinh doanh. Nhà nước quốc hữu hóa 9/10 cổ phần của các Công Ty Hợp doanh công-thương nghiệp và 4/5 cổ phần trên tất cả các lãnh vực giao thông vận tãi. Khoảng ¾ nhà buôn tiểu thương và thủ công nghiệp phải gia VSTK - 3997


1 2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

nhập vào các hợp tác xã do nhà nước tổ chức và kiểm soát. 415 JCS, p.106

Cǎn cứ tình hình của miền Bắc VNDCCH và yêu cầu chuyển tiếp từ thời kỳ khôi phục kinh tế sang thời kỳ phát triển kinh tế, nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch ba nǎm được tóm lược như sau: 1. Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, lấy sản xuất nông nghiệp làm trọng tâm, nhằm giải quyết vấn đề lương thực, giải quyết phần lớn hàng tiêu dùng và hết sức chú trọng tǎng thêm các tư liệu sản xuất. 2. Ra sức cải tạo nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản tư doanh theo chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhất là đẩy mạnh hợp tác hoá nông nghiệp, đồng thời tích cực phát triển và củng cố thành phần kinh tế quốc doanh. 3. Trên cơ sở sản xuất phát triển, nâng cao một bước đời sống vật chất và vǎn hoá của nhân dân, nhất là nhân dân lao động và tǎng cường củng cố quốc phòng.416

Ngày 5/9/1960, đảng Lao Động Việt Nam họp Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 3. Ủy viên chính trị ban Chấp hành Trung ương Đảng Lê Duẫn trong khi đọc diễn văn khai mạc đã tuyên bố kế hoạch 5 năm bắt đầu vào năm 1961. Với kế hoạch mới 5 năm nầy, VNDCCH hướng tới mục tiêu gia tăng 148/% tổng sản lượng công nghiệp và 96% tổng sản lượng nông nghiệp. Vào cuối năm 1960, các hợp tác Xã đã có 85% hộ gia đình nông dân tham gia vào việc sản xuất cho các Hợp Tác Xã và 99% thu hoạch hoa mùa đã được thu gặt cho các họp tác Xã như thế. Vào cuối năm 1963, số hộ nông dân gia nhập Hợp tác Xã gia tăng lên mức 87.7% nhưng tình hình thu gặt vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cần thiết trong nước với đà dân số gia tăng là 3.5% mỗi năm tức là cần phải gia tăng ít nhất là 200 ngàn tấn thực phẩm mỗi năm để nuôi sống dân chúng miền Bắc. Tuy nhiên trong kế hoạch 5 năm lại không có dự trù nào để giải quyết tình trạng khiếm khuyết nầy.417 Tóm lại, Đại hội đảng Lao Động đã xác định những nhiệm vụ cơ bản cho Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) như: VSTK - 3998


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

- Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp nhẹ. - Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh, mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc doanh. - Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân, đẩy mạnh đào tạo cán bộ và công nhân lành nghề, nâng cao năng lực quản lý kinh tế của cán bộ, xúc tiến công tác khoa học kỹ thuật. - Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, mở mang phúc lợi công cộng, xây dựng đời sống mới ở nông thôn và thành thị. - Ra sức củng cố quốc phòng, trật tự an ninh xã hội. Các nhiệm vụ đó liên hệ mật thiết với nhau. Cũng trong kỳ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III nầy, Đảng đã bầu Ban Chấp hành Trung ương mới do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Đảng và Lê Duẫn làm Bí thư thứ nhất; 47 uỷ viên chính thức và 31 uỷ viên dự khuyết.

Chủ tịch Đảng Lao Động Việt Nam Hồ Chí Minh phát biểu khai mạc tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Đảng Lao động Việt Nam, 9/1960. Lê Duẫn (1907-1986) – được bầu làm Bí thứ thứ nhất Đảng Lao động Việt nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, 9/1960

VSTK - 3999


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị gồm 11 uỷ viên chính thức là: Hồ Chí Minh, Lê Duẫn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Hoàng Văn Hoan. 2 ủy viên dự khuyết là đồng chí Trần Quốc Hoàn và Văn Tiến Dũng. Ban Bí thư: Lê Duẫn, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Anh, Tố Hữu và Lê Văn Lương.418 6/ CHÍNH QUYỀN CỦA VNDCCH

Song song với những cố gắng vượt sức con người trên các lãnh vực cãi tạo và phát triển nông nghiệp, công nghiệp, trong những năm tiếp theo sau Hiệp Định Geneva, VNDCCH còn phải tìm cách áp đạt và củng cố việc kiểm soát chính trị trên toàn miền Bắc Việt Nam. Để đạt được mục tiêu kiểm soát nầy, Đảng Cộng Sản và cơ chế nhà nước miền Bắc đã phải cãi tiến và củng cố. Đảng đã tìm phương cách đế cắt tỉa gọn lại cơ chế kiểm soát của chính quyền và nới rộng hạ tầng cơ sở chính trị của đảng mặc dù vào năm 1954, đảng đã có gần ¼ triệu đảng viên nhưng đảng vẫn còn yếu ở các vùng nông thôn. Để ngăn ngừa mối nguy về tình trạng chỉ biết trông cậy vào một nhúm nhỏ trong dân chúng, đảng đã tìm cách đưa vào hàng ngũ lãnh đạo nổi bật của mình những đảng viên CS từ miền Nam Việt Nam, những đảng viên từ quân đội và các đảng viên dân tộc thiểu số. Sau khi quân dội viễn chinh của thực dân Pháp rút đi hết thì miền Bắc trở thành cô lập đối với các quốc gia Tây phương và nhanh chống trở thành một nhà nước cai trị bằng công an, cảnh sát và mật vụ.419 Vào cuối mùa Xuân 1955, dân chúng Hà Nội đã phải đặt trong tình trạng hàng ngũ hóa theo chế độ CS. Một hệ thống cán bộ CS chỉ đạo nồng cốt đã được trao cho nhiệm vụ quy động dân chúng trong các cuộc tuần hành và biểu tình. Khắp nơi đều có thể tìm thấy cờ xí, biểu ngữ, truyền đơn dùng để hoan hô, ủng hộ đường lối lãnh đạo của đảng và để kích động dân chúng đã đảo nguyền rủa Hoa Kỳ một cách sôi nổi thậm tệ. Nhà nước VNDCCH đã thẳng tay và công khai dùng phương cách canh giữ và tuần tra mặc dù không có nguy cơ nào xảy ra cho chế độ. Chế độ công an cảnh sát được áp dụng sâu rộng, các tòa án nhân dân VSTK - 4000


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

được tổ chức một cách lố bịch, thi đua sản xuất, tự phê, tự kiểm, đấu tố và tẩy não các tù nhân chính trị, tất cả sự việc nầy lại là biểu tượng của Hà Nội đang chuyển mình quá độ từ chủ nghĩa thực dân Pháp để tiến qua chủ nghĩa Cộng Sản Việt Nam. 420 Mặc dù Hiến Pháp do Hồ Chí Minh ban hành vào năm 1946 đặt quyền lực tối cao vào Quốc Hội nhưng trên thực tế thì tất cả những chính sách có tính cách quyết định trong nước đều ở trong tay của Bộ Chính Trị Trung Ương đảng CSVM. Hơn nữa, chính quyền nhà nước miền Bắc lại có sự ràng buộc khắng khít với hầu hết những cán bộ đầu não của đảng và những hạng cán bộ nầy lại nấm giữ gần hết các chức vụ then chốt trong chính quyền. Người lãnh đạo cao nhất của VNDCCH vẫn là chủ tịch Hồ Chí Minh và một tập đoàn thiểu số phe nhóm. Ngoại trừ chuyến đi thăm viếng hữu nghị sang Bắc Kinh và Moscova được quản cáo tung hô rầm rộ vào năm 1954, Ông Hồ hiện giờ không còn là trọng tâm chú ý thường xuyên của thế giới nữa và tâm tiếng của Ông ở trong nước như là một biểu tượng ái quốc khiến cho Ông vẫn tiếp tục là một lãnh tụ chủ yếu của VNDCCH. Sau chiến thắng vang dội ở Điện Biên Phủ, Tổng Tư Lệnh quân đội nhân dân Võ Nguyên Giáp nhận lãnh rất nhiều trọng trách trong chính quyền VNDCCH. Tiếng tâm của Ngoại trưởng Phạm Văn Đồng vào năm 1954 cũng thăng tiến và được giao phó chức vụ thủ tướng chính phủ VNDCCH vào năm 1955. Khác với đảng CS, Quân đội Nhân dân của VNDCCH được đặt căn cứ rộng khắp và đội ngũ quân đội đông đảo được huấn luyện chu đáo, trang bị đầy đủ của tướng Võ Nguyên Giáp là sức mạnh quan trọng chính yếu để nới rộng quyền lực cộng sản trên khắp miền Bắc. Vì có một vị thế an toàn hơn hết trong chính quyền VNDCCH cho nên quân đội nhân dân có thể ứng dụng những chính sách khe khắc không được quần chúng yêu chuộng. Cán binh, bộ đội đa số được động viên từ các thành phần dân quê có trình độ học thức kém và dân tộc thiểu số miền thượng du Bắc Việt. Quân số quân đội miền Bắc vào khoản 240,000 vào giữa năm 1955. Theo tin tức tình báo của Hoa Kỳ thì quân số của miền Bắc vào năm 1963 là 380,000 bộ đội tại ngũ bao gồm VSTK - 4001


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

cả 100,000 các lực lượng dân quân tự vệ. . Cộng Sản Trung Hoa đã chuyên chở viện trợ ồ ạt càng giúp cho bộ đội CSVM có thêm nhiều súng óng đạn dược và giúp thêm tính cách cơ động cho quân đội nhân dân miền Bắc. Tập huấn quân đội được tổ chức liên tục và thường xuyên nhằm tăng cường hiệu năng của quân đội và bảo đảm lòng trung thành của các bộ đội trên bình diện chính trị. các cơ quan tình báo Hoa Kỳ cho rằng quân lực của VNDCCH chẳng những có đủ khả năng để giúp đảng CS Lao Động kiểm soát chặt chẽ an ninh và dân tình ở miền Bắc mà quân đội nầy còn có thế đánh bại tất cả các quân đội góp chung lại của Lào, Cao Miên và Việt Nam Cộng Hòa hiện tại. Có một sự kiện đáng lưu ý là vào sau thời kỳ căng thẳng chia rẽ bang giao giữa CSLS và CSTH (từ 1956), nhân vật quyền lực đứng đầu quân đội nhân dân của VNDCCH là Võ Nguyên Giáp đã không e ngại chỉ trích, phê phán CSTH mặc dù vào thời điểm nầy CSTH vẫn để yên cho các chuyến chuyên chở vũ khí và tiếp liệu của CSLS viện trợ cho VNDCCH ngang qua lãnh thổ Trung Hoa. Trong thời điểm nầy chủ tịch CSTH Mao Trạch Đông đang cực lực lên án chủ nghĩa xét lại chung sống Hòa Bình của chủ tịch đảng CSLS Nikita Khrushchev nhưng Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp lại ngả theo chủ trương của Khrushchev. Thực tế là các cán bộ tình báo quân sự của tướng Giáp đã từng hoạt động ngay bên trong lãnh thổ của CSTH để tìm thu các tin tức tình báo quân sự nhằm để bảo vệ nền an ninh quốc phòng của VNDCCH.421 7/ CHỐNG ĐỐI Ở MIỀN BẮC

Trong tiến trình củng cố quyền lực của mình, chế độ CS miền Bắc bị trở ngại và cũng phải đối đầu với những chống đối của , một số thành phần dân chúng tuy không nhiều, nhưng cũng gây tai tiếng không tốt cho VNDCCH. Thành phần chống đối nầy phát nguồn từ ba nhóm: những giáo dân Kitô giáo mà đa số là giáo phái Công Giáo Rôma, một số các bộ lạc dân tộc thiểu số miền thượng du và những thành phần có học thường được CS gọi là văn nhân. Còn thêm một nhóm thứ tư nữa là những nông dân mặc dù không không có tổ chức nề nếp nhưng lại là thành VSTK - 4002


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

phần sôi nổi chống đối Chính sách Cãi cách Ruộng Đất của Nhà nước CS xã hội chủ nghĩa của miền Bắc. 7.1 Nhóm Công Giáo Roma Năm 1945, Việt Minh đã tạm thời thành công trong việc tìm hậu thuẫn của giáo phái vũ trang Công Giáo Rô Ma qua việc Giám Mục Lê Hữu Từ được mời giữ chức vụ Cố vấn Chính trị trong Chính quyền Lâm thời liên hiệp Quốc Gia của Việt Minh. Đến năm 1950, giáo đô Công giáo Vatican ở Rôma đã công nhận ngoại giao với chinh chính quyền Quốc Gia Việt Nam do cựu hoàng Bảo Đại đại đứng đầu nhưng vẫn bị lệ thuộc vào thực dân Pháp, mối liên hệ giữa chế độ CS và Giáo phái Công Giáo ơ miền Bắc không còn nữa. Làn sóng di cư ồ ạt của nhân dân miền Bắc vào miền Nam Việt Nam sau ngày ký Hiệp Định Geneva mà đa số là là dồng bào Công giáo Rôma đã khiến cho VNDCCH bối rối kinh ngạc cho nên nhà nước phải ra lệnh áp dụng chính sách xoa dịu tạm thời nới lỏng việc kiểm soát để cho giáo phái Công giáo Rôma ở miền Bắc có thể thực hành đạo giáo một cách thoải mái hơn. Tuy nhiên, các cán bộ hạ tầng cơ sở của CSVM lại chấp hành một cách méo mó lệnh truyền và chỉ thị hòa hoàn của nhà nước ban xuống khiến cho làn sóng di cư vẫn tiếp tục kéo dài bất chấp mọi hăm dọa hiểm nguy. Nhà nước CS miền Bắc thấy đã đến lúc không thể nhân nhượng thêm nữa và đã ra lệnh dung biện pháp mạnh để ngăn chận làn sóng di cư của các Giáo dân Công giáo Rôma đồng thời cũng tuyên truyền, giải thích và mua chuộc nhiều thành phần lãnh đạo và tín hữu Công giáo miền Bắc gia nhập đảng CS để hoạt động trong khối dân chúng rộng lớn ở miền Bắc. Mặt khác, nhà nước CS của đảng Lao Động cũng áp dụng vũ lực cảnh sát, công an và quân đội để trấn áp những cuộc nổi dậy ở thôn quê và các cuộc biểu tình của giáo dân tạ nhiều làng mạc, bắt nhốt cầm tù các chức sắc Công giáo chống chính quyền, tống khứ các nhà truyền giáo và tu sĩ Pháp ra khỏi miền Bắc Việt Nam. Phong trào Công giáo chống đối chính quyền

34

VSTK - 4003


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

miền Bắc lần lần bị yếu đi và kể như bị chế độ CS miền Bắc đè bẹp một cách hữu hiệu. Không những thế, cuộc di cư vĩ đại gần một triệu người khiến cho một số khá lớn ruộng vườn, nhà cửa ở miền Bắc bị bỏ hoang. Điều nầy giúp ít không nhỏ cho chương trình cãi cách ruộng đất của nhà nước VNDCCH trong tiến trình phân chia ruộng đất cho các bần cố nông ở miền Bắc mà cũng không cần phải bận tâm thêm nhiều vì những chuyện “phá rối” có thể xảy ra trong tương lai.422. 7.2- Nhóm dân tộc thiểu số miền thượng du Bắc Việt Chỉ có một thiểu số nhóm dân tộc thiểu số miền thượng du sinh sống không có tổ chức thành đội ngũ ở gần ranh giới chiến lược Hoa -Việt là những thành phần thù địch và chống với chế độ CS của VNDCCH. Chính quyền nhà nước miền Bắc đã cố gắng không thành công để xoay chuyển tình thế chống đối của nhóm sắc tộc thiểu số nầy bằng cách thiết lập những miền thượng du sắc tộc thiểu số tự trị nhưng cuối cùng rồi cũng phải áp dụng bạo lực trấn áp của quân đội để tiểu trừ những nhóm nổi loạn thiểu số nầy. Sống với hình thức tổ chức hàng ngũ hợp đoàn lỏng lẽo và bột phát, không có được một mức thu nhập kinh tế tối thiểu cho cuộc sống hằng, nhóm “phiến loạn” miền thượng du Bắc Việt đã bị phân tán thành những nhóm nhỏ rải rác chống đối lén lút chính quyền nhà nước VNDCCH. Năm 1956, chính quyền VNDCCH tuyên bố rằng sau Hiệp Định Geneva đã có hơn 300 “giặc thổ phỉ” thiểu số miền thượng du bị giết và khoản 5,700 bị bắt cầm tù. 423 7.3- Nhóm trí thức văn nhân miền Bắc Nhóm “trí thức miền Bắc” kể từ sau Hiệp Định Geneva mặc dù không có đoàn kết tổ chức thành hàng ngũ đúng cách để hành động chống đối nhà nước VNDCCH nhưng lại là nhóm bị CS miền Bắc Việt Nam xếp vào hạng nguy hiểm hơn hết so với những nhóm chống đối vừa kể trên. Để hưởng ứng và thi đua với phong trào Trăm Hoa Đua Nở do chủ tịch đảng CSTH Mao Trạch Đông phát động vào năm 1956, đang CS Lao Động VNDCCH cũung tuyên bố cho phép nhiều khuynh hướng chính trị được tự do phát biểu, bàn luận các đề tài có tính cách chính VSTK - 4004


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

trị và văn hóa . Sự nới rộng quyền tự do tư tưởng nầy của đản CS Lao Động khiến cho giai cấp văn nhân, nghệ sĩ, thi sĩ, trí thức miền Bắc phấn khởi cho nên đã phóng tay phát hành những tác phẩm thi văn, kịch phẩm chính trị văn học phê phán kịch liệt nhà nước và chế độ CS của VNDCCH. Tuy nhiên chỉ trong vòng 3 tháng, quyền tự do báo chí bị nhà nước câm đoán và phong trào Trăm Hoa Đua Nở ở miền Bắc Việt Nam Việt Nam bị cấm chỉ tuyệt đối. Vào tháng 05/1957 nhà nước VNDCCH có hơi nới nhẹ tay đối xử với văn giới miền Bắc nhưng phong trào đã kích chống đối lại xuất hiện trở lại và bị nhà nước và đảng CS Lao Động lần nầy kết án và bắt giam hàng trăm các văn nhân, thi sĩ, trí thức với tội danh là những thành phần có tư tưởng chính trị phản động rồi đưa đi đến các trại cãi tạo, chấm dứt việc cho phép phát hành báo chí một cách tự do. Có người bị quy vào tội phản quốc. 7.4- Tình trạng chống đối chính quyền đi liền ngay khi có cuộc nổi loạn ở Nghệ An vào ngày 13/11/ 1956. Mặc dù vấn đề trọng yếu là chính sách cãi cách ruộng đất của VNDCCH nhưng từ vấn đề nầy nó lại kéo theo sự chống đối của những người bần khổ đối với chính quyền về nếp sống cơ cực khó khăn của họ trong chế độ Cộng Sản ở miền Bắc. Việc thi hành chính sách CCRĐ một cách mù quáng tàn bạo và sai lầm của các cán bộ kém học, thiếu kiến thức đã tạo ra sự bất mãn cho nhiều tầng lớp nông dân không phân biệt giàu nghèo hay bần cố nông kể cả những người trung thành đã từng góp công góp của cho cách mạng Việt Minh ở miền Bắc trước khi có Hiệp Định Geneva.

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

E ngại rằng tình hình bất mãn của nông dân kéo dài sẽ đưa đến tình trạng ruộng, vườn trồng trọt sẽ bị bỏ hoang không ai chịu cày cấy sản xuất, nhà nước Cộng Sản VNDCCH đành phải chấp nhận,tuyên bố công khai với các tầng lớp nông gia sai lầm nghiêm trọng của nhà nước trong việc áp dụng chính sách CCRĐ và động một chương trình sửa sai, kiểm thảo, hạ tầng công tác nhiều cán bộ cao cấp quan trọng ở trung ương của đảng Lao Động và bồi thường cho các nạn nhân bị giết hại oan uổng hoặc bị tịch thu rụng đất một cách bừa bãi bất công. Tuy nhiên, mặc dù nhà nước VNDCCH và đảng CS Lao Động đã thành VSTK - 4005


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

công trong việc trấn áp và chấm dứt cuộc nổi loạn, nhưng sự phẫn uất vẫn và khuynh hướng chống đối vẫn còn tồn động trong tình cảm của giai cấp nông dân đối vớ chính quyền cho nên sự chống có thể bùng nổ trở lại trong tương lai. 423 8/ CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO CỦA VNDCCH, 1954-1960

Sau Hiệp Định Geneva, thân trạng của VNDCCH chỉ là một chủ thể chính trị tạm thời được chấp nhận vì tình trạng thực tế thực tế de facto để kiểm soát miền Bắc Việt Nam để chờ ngày tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Tuy nhiên, ngay sau khi VNDCCH đã tiếp thu và trở thành chủ nhân miền Bắc, Hà Nội bắt đâu hành động với chung cách của một Quốc Gia riêng biệt với toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ để rồi vào cuối năm 1955 VNDCCH công khai ứng dụng một thể chế Cộng Sản dưới chiêu bài Đảng Lao Động Việt Nam ( ra mắt 03/03/1951 hoàn toàn tên lãnh thổ miền Bắc Việt Nam. Trong sách Hồi Ký Đường tới Điện Biên Phủ của tướng Võ Nguyên Giáp có đoạn viết như sau:

17 18 19 20 21

Trong kháng chiến, mọi hoạt động của Đảng, cũng như những sinh hoạt của đảng viên, vẫn tiến hành bí mật. Chỉ đôi khi những người cộng sản mới xuất hiện dưới danh nghĩa "hội viên Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác".

22 23 24 25 26 27

Đầu năm 1950, sau khi đi gặp các đảng bạn Liên Xô và Trung Quốc trở về, Bác bàn với Trung ương đã tới lúc Đảng ra hoạt động công khai. Tình hình cách mạng trong nước cũng như trên thế giới đã thay đổi nhiều. Qua những năm lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo kháng chiến, uy tín của Đảng trong nhân dân đã trở thành tuyệt đối.

28

41

Các nước xã hội chủ nghĩa đã công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sự xuất hiện công khai của Đảng sẽ mang lại một nguồn động viên mới trong nhân dân thúc đẩy cuộn kháng chiến sớm đi tới thắng lợi. Nhưng xét cả về bối cảnh quốc tế cũng như tình hình trong nước, để tập hợp quần chúng thật rộng rãi như chủ trương của Đảng nhiều năm qua, và hạn chế sự tuyên truyền xuyên tạc của kẻ thù, Đảng cần có một cái tên mới. Bác đề nghị lấy tên Đảng Lao động Việt Nam. Việc thay đổi tên Đảng không phải là vấn đề riêng của cách mạng Việt Nam mà còn liên quan đến cách mạng Lào và Campuchia. Những vấn đề lớn này phải do Đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định. . Tuy nhiên, tổ chức một đại hội Đảng giữa thời kỳ chiến tranh ác liệt và rất khẩn trương, là điều không dễ dàng. Trung ương quyết định triệu tập đại hội vào tháng 2 năm 1951.424 Võ Nguyên Giáp, Đường tới

42

Điện Biên Phủ, Chương 4: Đảng Lao Động Việt Nam.

29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40

VSTK - 4006


1 2 3 4

5

6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50

Lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam (3-3-1951) Hồ Chí Minh toàn tập Tập 6 (1950 - 1952) 18:48 | 01/05/2003 http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30008&cn_id=191135 Thưa các vị, Sau khi nghe đồng chí Trường Chinh báo cáo về việc Đảng Lao động Việt Nam thành lập, các vị đều tỏ ý hoan nghênh. Các vị là những người đại biểu cho Mặt trận dân tộc thống nhất, tức là đại biểu cho toàn dân. ý kiến của các vị tức là ý kiến chung của toàn dân. Vì vậy, các vị đã hoan nghênh, yêu chuộng Đảng Lao động Việt Nam, thì chúng tôi chắc rằng đối với Đảng Lao động Việt Nam, toàn thể nhân dân đều sẽ hoan nghênh, yêu chuộng. Về chính sách, Đảng cương, tổ chức, v.v. của Đảng Lao động Việt Nam, đồng chí Trường Chinh đã trình bày tường tận. Đây tôi chỉ thay mặt Đảng Lao động Việt Nam mà trân trọng cảm ơn các vị, và tóm tắt lại vài điểm sau này: - Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN PHỤNG SỰ TỔ QUỐC - Nhiệm vụ của Đảng Lao động Việt Nam là kiên quyết lãnh đạo toàn dân đi đến: KHÁNG CHIẾN THẮNG LỢI, KIẾN QUỐC THÀNH CÔNG Chính sách quân sự, chính trị, kinh tế, vǎn hoá, v.v. của Đảng Lao động Việt Nam đã nói rõ trong bản Tuyên ngôn và Chính cương. Chính sách ấy có thể đúc lại trong mấy chữ là làm cho nước Việt Nam ta: ĐỘC LẬP - THỐNG NHẤT - DÂN CHỦ - PHÚ CƯỜNG Chúng tôi xin nói thêm hai điểm, nói rõ để tránh mọi sự có thể hiểu lầm: Một là về vấn đề tôn giáo, thì Đảng Lao động Việt Nam hoàn toàn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mọi người. Hai là đối với các đảng phái, các đoàn thể bạn trong Mặt trận dân tộc, thì Đảng Lao động Việt Nam chủ trương: Đoàn kết chặt chẽ, đoàn kết lâu dài, cùng nhau tiến bộ. Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc kiên quyết nhất, hǎng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Những người mà: - Giàu sang không thể quyến rũ, - Nghèo khó không thể chuyển lay, - Uy lực không thể khuất phục. Nói về người cách mạng và đảng cách mạng, nhà đại vǎn hào Trung Quốc là ông Lỗ Tấn có câu thơ: "Hoành my lãnh đối thiên phu chỉ, Phủ thủ cam vi nhũ tử ngưu". Xin tạm dịch là: "Trợn mắt xem khinh nghìn lực sĩ, Cúi đầu làm ngựa các nhi đồng". "Nghìn lực sĩ" có nghĩa là những kẻ địch mạnh, thí dụ: lũ thực dân Pháp, bọn can thiệp Mỹ. Cũng có nghĩa là những sự khó khǎn gian khổ. "Các nhi đồng" nghĩa là quần chúng nhân dân hiền lành, đông đảo. Cũng có nghĩa là những công việc ích quốc, lợi dân. Đảng Lao động Việt Nam không sợ kẻ địch nào dù cho chúng hung tợn đến mấy, không sợ nhiệm vụ nào dù nặng nề nguy hiểm đến mấy, nhưng Đảng VSTK - 4007


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

39

40

41

Lao động Việt Nam sẵn sàng vui vẻ làm trâu ngựa, làm tôi tớ trung thành của nhân dân. Tuy vậy Đảng Lao động Việt Nam cũng do nhiều người tổ chức lại mà thành. Mà người thì ai cũng có ít nhiều khuyết điểm. Vì vậy Đảng Lao động Việt Nam mong mỏi và hoan nghênh sự phê bình thật thà của các đảng phái và đoàn thể bạn, của các nhân sĩ và của toàn thể đồng bào để cho Đảng tiến bộ mãi. Sau hết, chúng tôi xin hứa rằng Đảng Lao động Việt Nam quyết làm tròn nhiệm vụ của mình là đưa toàn dân đến: Kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công. Phát biểu ngày 3-3-1951. Báo Nhân dân, số 2, ngày 25-3-1951.

Nhằm mục tiêu đẫy mạnh một cách gắp rút tiến trình phục hồi nền kinh tế miền Bắc và thực hiện việc thống nhất chính trị trên bình diện cả nước Việt Nam, VNDCCH đã cố sức giữ gìn và khuyến khích thực hiện tốt những mối bang giao quốc tế với một số quốc gia Tây phương đặc biệt là với nước Pháp với hy vọng là chính phủ Pháp đang chán chê với chủ trương “đã Thực” của Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam do Ông Diệm lãnh đạo. Thủ tướng Phạm Văn Đồng của VNDCCH đã nhấn mạnh về mối liên hệ đặc biệt Pháp-Việt ở miền Bắc Việt Nam bằng lời khuyến cáo ngày 01/01/1955 rằng : “Chính là với quý vị, những người Pháp, mà VNDCCH chúng tôi cùng ký tên vào những điều ước Geneva và chính là trách nhiệm của các ông phải giữ cho các điều ước đó được tôn trọng.” 425 Ngay sau khi nước Việt Nam bị Hiệp Định Geneva chia đôi do hai chủ chốt trong cuộc là thực dân Pháp và cộng sản Việt Minh chủ trương, nhóm thực dân Pháp tàn dư ở Đông Dương và ở Paris vẫn muốn tiếp tục diễn tuồng chính trị bắt cá hai tay giữa hai miền NamBắc Việt Nam: hầm mõ, quặng phong phú ở miền Bắc và rừng cao su ngút ngàn, lúa gạo tràn ngập ở miền Nam. Do đó, thực dần Pháp đã vội vã đạc cử một “bạn cũ” của chủ tịch VNDCCH là Sainteny trở lại Hà Nội để bàn tính chuyện làm ăn hợp tác hữu nghị với chủ nhân mới của miền Bắc. VNDCCH thì lại muốn rằng nhân dịp nầy phải đòi người Pháp công nhận và thiết lập ngoại giao với nhà nước và thể chế CS ở miền Bắc cũng như thúc hối Pháp gây áp lực với chính quyền của Ông Diệm ở miền Nam phải thực hiện tổng tuyển cử thống nhất đất nước theo quy định của Hiệp Định Geneva. Người Pháp không thể gây áp lực với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam mà cũng từ chối không thiết lập bang giao với VNDCCH ở miền Bắc. Vì vậy cuộc làm ăn giữa Pháp và Việt Minh bị đổ vỡ mặc dù vào năm 1958 VSTK - 4008


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

Pháp chấp nhận cho VNDCCH một toán đại diện 2 người ở Paris nhưng không được hưởng quy chế ngoại giao quốc tế giống như Sainteny của Pháp cũng không được hưởng quy chế nầy ở Hà Nội. Mối liên hệ Pháp-Việt Minh càng trở nên tồi tệ khi nhà nước VNDCCH xử công khai một vụ án can tội gián điệp trong đó có những can phạm là chức sắc trong phái đoàn đại diện đặc nhiệm của Pháp ở Hà Nội, khiến cho chính quyền VNDCCH của đảng CS Lao Động phẫn nộ và rút bỏ mọi tổ chức giao dịch thương mại của miền Bắc Việt Nam ở Pháp kể từ tháng 10/1959 và bắt đầu gây hấn với phái đoàn đại diện của Pháp đang hoạt động ở Hà Nội. Kể từ năm 1960, thì những dấu chỉ ảnh hưởng của Pháp ở miền Bắc Việt Nam chỉ còn lại một số rất nhỏ. 426

Vào thời điểm nầy, Hoa Kỳ được xem như là một quốc gia chính yếu và mạnh nhất ủng hộ chế độ Việt Nam Cộng Hòa của miền Nam Việt Nam và vì thế Hoa Kỳ trở thành tiêu điểm cho VNDCCH phỉ bang và kết tội. Sau Hiệp Định Geneva, CS miền Bắc Việt Nam phản đối bà tố cáo rằng chính Hoa Kỳ là nguyên do chính, là kẻ chủ mưu chia cắt vĩnh viễn nước Việt Nam kể từ năm 1956 và chính quyền Ngô Đình Diệm là tay sai bù nhìn của đế quốc tư bản Hoa Kỳ. Điều nầy, cùng một lúc khiến cho khối Cộng Sản thế giới thỏa mãn, tương ứng với tiến trình đòi hỏi hòa hợp Bắc Nam, đang tạo ra một làn sóng chống đối chế độ tư bản Hoa Kỳ như là lý tưởng keo sơn của Quốc gia và đồng thời cũng làm lu mờ, đánh lạc hướng vấn đề tranh cãi về ý thức hệ Cộng Sản. Do đó Hoa Kỳ đang và tiếp tục sẽ là một mục tiêu ưu tiên của VNDCCH trong hầu hết các chiến dịch tuyên truyền, các kế hoạch chống phá, và phơi xấu đế quốc tư bản thực dân mới đang thay thế đế quốc thực dân cũ ở miền Nam Việt Nam. Thoạt đầu, Hoa Kỳ không có ý định áp dụng chính sách cứng rắn không nhượng bộ với Cộng Sản ở miền Bắc Việt Việt Nam. Tuy nhiên Hội Nghị Geneva, những nhà kế hoạch chính sách của chính quyền Hoa Kỳ đã trở thành bất đồng ý kiến với nhau về chính sách của Hoa Kỳ đối VNDCCH. Theo bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ biện luận rằng miền Bắc Việt Nam đã trở thành một vệ tinh trong quỹ đạo Cộng Sản quốc tế còn những hội viên của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ /NSC thì cho rằng cần khai thác nhiều phương cách có thể có được để ngăn ngừa VNDCCH VSTK - 4009


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

trở thành lệ thuộc vĩnh viễn vào khối Cộng Sản Liên Sô. Chủ trương của NSC được thắng thế và chính quyền Hành Chánh Hoa Kỳ áp dụng chính sách nầy lâu dài bằng cách đạt một lãnh sự quán Hoa Kỳ ở Hà Nội nhưng trong nhiều năm liên tục kế tiếp Hoa kỳ lại không có một đường hướng nào rõ rệt để tách rời CS Bắc Việt khỏi khối CS Sô Viết mà VNDCCH còn tỏ ra chống đối không khoan nhượng Hoa Kỳ và gây hấn, sinh sự liên tục với viên chức Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ ở Hà Nội khiến cho Hoa Kỳ không còn cách nào khác hơn là phải đóng của tòa Lãnh sự của mình vào giữa năm 1955. 427 Sau khi đóng cửa Lãnh sự quán ở Hà Nội, Hoa Kỳ bắt đầu áp dụng đối xử cứng rắn đối với VNDCCH theo chính sách của bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ đề ra vào năm 1954 trước đây. Tháng 09/1956, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ/NSC lại quyết định rằng VNDDCH không được xem như là một thể chế hợp pháp và Hoa kỳ cần phải khuyến cáo các quốc gia khác không được thừa nhận ngoại giao chính quyền miền Bắc Việt Nam. Năm 1958, NSC lại đề nghị áp dụng chính sách phong tỏa kinh tế, ngăn chận mọi sự tiếp tế cho VNDCCH từ các nước đệ tam giống như đã áp dụng phong tỏa CSTQ và CS Bắc Triều Tiên: . . . . . ."76. Apply, as necessary to achieve U.S. objectives, restrictions on U.S. exports and shipping and on foreign assets similar to those already in effect for Communist China and North Korea.".428 Anh quốc nguyên là một đồng chủ tọa Hội Nghị Geneva về Đông Dương cũng có một phái đoàn đại diện ở Hà Nội giống như chủ trương của Canada. Mặc dù đoàn nầy không có một quy chế ngoại giao chính thức nhưng vẫn được hoạt động thoải mái hơn là phái đoàn đại diện của Hoa Kỳ. Ngoài ra còn có những nhà báo, những nhân vật quốc Hội Anh đến tham quan Hà Nội, tất cả những điều đó khiến một số phần tử của chế độ VNDCCH vội vàng cho rằng Anh Quốc đang mặc nhiên thừa nhận chế độ VNDCCH cộng sản. Tuy nhiên, thời gian trôi qua, nhưng Anh Quốc vẫn từ chối chính thức tuyên bố công nhận ngoại giao cho nên CS miền Bắc Việt Nam đã thay đổi thái độ đối xử và bắt đầu chiến dịch tuyên truyền tố cáo và kết tội Anh quốc đã không thi VSTK - 4010


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

38

hành và chu toàn trách nhiệm của một đồng chủ tọa Hội Nghị Geneva 1954. 429 Sau Hội Nghị Geneva , VNDCCH đã đặc biệt cố gắng lôi kéo những quốc gia trung lập ở các vùng châu Á và châu Phi ủng hộ những khát vọng của mình và đã thành công khá tốt tạo được sự thừa nhận “thực tại/de facto”từ các quốc gia Ấn Độ, Nam Dương, Pakistan. Ở Hà Nội đã có sứ quán Ấn Độ và Nam Dương. Thủ tướng Ấn Dộ Nehru và thủ tướng Miến Điện U Nu đã sang thăm viếng hữu nghị Hà Nội vào năm 1954. Thủ tướng Phạm Văn Đồng cùng phái đoàn VNDCCH đã đến tham dự Hội Nghị các quốc gia Á-Phi ở Bandung vào tháng 04/1955. Tuy nhiên, ngay cả những quốc gia Phi Châu mới giành lại được độc lập thì họ cũng chưa chịu công nhận chế độ Cộng sản VNDCCH là một chế độ hợp pháp và là chính quyền duy nhất của nhân dân Việt Nam. Chỉ có đảng Cộng Sản “trung lập” Nam Tư là nhìn nhận hoàn tòan chế độ VNDCCH giống như CSLS và CSTQ. Mặc dù vậy, VNDCCH vẫn tiếp tục gây thiện cảm với các quốc gia Á-Phi bằng cách tôn vinh và tuyên truyền hình ảnh của chủ tịch nước VNDCCH qua quá trình chống thực dân xâm lược Pháp của nhân vật nầy và luôn tung hô, cổ võ, ủng hộ các nguyên tắc Trung Lập sống chung hòa bình. Được làm chủ ½ nước Việt Nam, VNDCCH đã nhanh chóng củng cố những mối liên hệ giao hảo với các quốc gia trong khối Cộng Sản. Chỉ trong một thời gian không lâu, lần lược đã có 10 quốc gia cộng sản công nhận ngoại giao với chính quyền VNDCCH của ông Hồ Chí Minh và đặt tòa đại sứ ở Hà Nội. Mối liên hệ ngoại giao và thân hữu của CS Việt Nam với CSLS và CSTQ rất gần gũi nhưng không phải chỉ là thuần tùy trên bình diện ý thức hệ CS thuần túy duy lý mà thực sự còn là vì những lý do “duy vật thực tế” đặc biệt. Sau ngày thực dân Pháp rút ra hết khỏi miền Bắc, VNDCCH cần phải có viện trợ kinh tế, kỹ thuật từ khối CS mà chính yếu là CSLS và CSTQ. Mao Trạch Đông đã tiên phong viện trợ cho CSVN từ tháng 12/1954, cung cấp máy móc dụng cụ để sửa sang, kiến tạo các đường giao thông trên bộ, đường sắt, các công trình thủy lợi khắp miền Bắc Việt Nam, và tái thiết các trạm liên lạc truyền thông giữa hai nước Việt-Hoa. Theo tin tức báo chí từ Hà Nội thì chuyến tàu hỏa đầu tiên khởi hành từ Hà Nội đi đến Pug Siang trên lãnh thổ Trung Hoa vào ngày 01/08/1955. 430

Dung lượng viện trợ ồ ạt của CSTQ cho CSVM trong khoảng 1954-1955 gia tăng nhanh đến một mức độ mà vào cuối nửa năm VSTK - 4011


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

31

32

33

34

35

36

37

đầu 1955 nhiều quan sát viên nước ngoài đã suy định rằng VNDCCH đã rơi vào ách khống chế của CSTQ. Các chuyên viên kỹ thuật và kinh doanh của CSTQ đã gây ra một tác động sâu sắc lên nền kinh tế của VNDCCH mà người Pháp có mặt ở Hà Nội phải bi quan kêu lên rằng ở miền Bắc “người Hoa đã thay thế người Pháp mất rồi!” (3. He was not optimistic about situation in north which he said was getting no better (from Western point of view). Remarked "'It is Chinese who will replace us here".)431 Đầu năm 1955, miền Bắc Việt Nam bị thiếu hụt thực phẩm trầm trọng khiến cho nhà nước VNDCCH phải kêu gọi sự giúp đỡ của hai nước CS đàn anh Liên Sô, Trung Quốc. Mùa Hè 1955, đích thân chủ tịch Hồ Chí Minh phải đi sang Moscôva xin tiếp cứu và trong liên tiếp 2 năm, VNDCCH đã nhận được hơn 100 triệu viện trợ kinh tế và khoản 1,000 chuyên gia cố vấn kỹ thuật. CSLS cũng là nguồn tiếp tế săng, dầu và cá sản phẩm dầu khí. Đổi lại, CS Việt Nam chỉ xuất cảng sang Liên Sô những sản phẩm miền nhiệt đới và các mặt hàng nghệ thuật để đổi lấy máy móc thông thường không phải là vật dụng có giá trị tối tân. 432 Nội bộ của đảng CS Lao Động Việt Nam bị chia rẽ đối vấn đề lựa chọn sự trung thành, thân thiện với CSLS hay CSTQ. Sự chia rẽ nội trong đảng CSVN càng gia tăng khi hai đảng CS lớn nhất thế giới bất hòa với nhau về vấn đề đấu tranh ý thức hệ đối với các giáo điều của lý thuết CS qua việc CSTQ hô hào đã đảo “chủ nghĩa xét lại” của CSLS (chung sống hòa bình với đế quốc tư bản, nối lại quan hệ với chế độ của Josip Broz Tito tại Nam Tư là chế độ mà Staline đã lên án năm 1947) sau khi Staline qua đời và tách rời riêng ra. Đa số các cán bộ cao cấp quan trọng của CSVN ngã theo chế độ CSLS bởi vì vào lúc nầy CSLS mạnh và giàu hơn CSTQ. Hơn nữa, lịch sử trong quá khứ, đế quốc Nga ngày xưa và CSLS bây giờ chưa từng xâm lăng đánh chiếm nước Việt Nam như đế quốc bành trướng gây hấn và xâm lược Trung Quốc ngày xưa. Mặc dù vậy, trong chiến tranh đánh đuổi thực dân thuộc địa xâm lược Pháp, VNDCH đã được khai sinh ngay trong lòng đất của Trung Quốc và mắc nợ CSTQ rất nhiều thứ để giành được chiến tích vang dội Điện Biên Phủ và một nữa nước Việt Nam từ phía Bắc vĩ tuyến 17. Cho dù trung thành, thân thiện với ai thì đảng CSVN cũng cũng bị lệ thuộc và không được độc lập tự do hành động nhằm tạo phúc lợi riêng cho VNDCCH kể từ sau năm 1955 VSTK - 4012


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

nhất là đối với những cuộc giao thương một cách tương đối, giới hạn giữa VNDCCH với các quốc gia CS khác và các quốc gia tư bản không CS thế giới. 433

Trong khoản thời gian 1957-1960, VNDCCH được thả lỏng tự quyền hành động nhiều hơn, đã đứng trung lập trong sự tranh chấp ý thức hệ giữa hai đảng CS khổng lồ của thế giới và thường xử dụng chiêu thức “Khối các quốc gia Xã Hội Chủ Nghĩa Dân Chủ Nhân Dân do Liên Sô và Trung Quốc dẫn đầu.” để hô hào kêu gọi hai đàn anh CS hãy giải quyết mối bất hòa bằng những phương cách thương thảo thỏa đáng và hữu nghị. 434 Nói tóm lại, trong vòng sau 5 năm làm chủ miền Bắc Việt Nam, VNDCCH, nhờ có sự trợ giúp dồi dào của Bắc Kinh và Moscôva, đã vượt thoát được hầu hết những khủng hoảng do một nền kinh tế bệnh hoạn bất toàn gây ra. Nhà nước và đảng CS Lao Động cũng thành công trong việc kiểm soát chặt chẽ và trấn áp cuộc sống của nhân dân miền Bắc trên các mặt Chính trị, Xã hội và Văn hóa. Về mặt quân sự, VNDCCH đã tăng gia, nới rộng và cãi tiến quân đội trở thành một đội ngũ vũ lực có thể đánh bại bất cứ đội quân phối hợp nào ở vùng Đông Nam Châu Á. Về mặt bang giao quốc tế, VNDCCH đã cố gắng đứng độc lập không bị lệ thuộc quá mức vào ảnh hưởng của CS ngoại bang và với tình hình khá ổn định ở miền Bắc, đảng và nhà nước Cộng Sản VNDCCH cho rằng đã đến lúc phải hành động, dùng bạo lực để thực hiện việc thống nhất toàn cõi đất nước Việt Nam từ Bắc chí Nam.

*

VSTK - 4013


VSTK - 4014


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.