QUYỂN II
THỜI ĐẠI TỰ CHỦ CHƯƠNG I
TRẦN THÁI TÔNG ( 1225 - 1258 ) Niên hiệu : Kiến Trung (1225-1237) Thiên Ứng Chính Bình (1238-1350) Nguyên Phong (1251-1258) 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
Năm Ất Dậu (1225), tháng 12, Trần Cảnh1, tên úy là Bồ, làm chi hậu chính2 triều nhà Lý, được Trần Thủ Độ mưu mô xếp đặt để vợ Trần Cảnh là vua Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi vua3, nay lên ngôi tức là Trần Thái Tông, đổi niên hiệu là Kiến Trung. Bính Tuất, Kiến Trung năm thứ 2 (1266), phong Lý Chiêu Hoàng làm hoàng hậu, đổi gọi là Chiêu Thánh hoàng hậu, phong Trần Thủ Độ làm Thái sư thống quốc hành quân vụ chính thảo sự4. Giáng truất tước thượng hoàng của Lý Huệ Tông và giam lỏng ở chùa Chân Giáo. Tháng 2, định ra luật lệnh. Giặc cướp quấy nhiễu ở vùng núi Tản Viên và Quảng Oai, Thủ Độ được sai cầm quân đi bình định, dẹp yên nhưng không diệt được Nguyễn Nộn ở vùng Bắc Giang - Đông Ngạn5 và Đoàn Thượng ở Hồng Châu6. Do đó, Thủ Độ đề nghị Trần Thái Tông phong vương cho hai đầu đảng giặc cướp nầy nhưng chỉ có Nguyễn Nộn chịu nhận tước phong của nhà Trần. Tháng 5, Trần Thái Tông phong cho em cùng mẹ là Nhật Hiệu mới được 2 tuổi tước Khâm Thiên đại vương. Xét công trạng ban thưởng quan tước cho những kẻ theo giúp họ Trần trong âm mưu đoạt ngôi nhà Lý. Tháng 8, Trần Thủ Độ giết Lý Huệ Tông ở chùa Chân Giáo7. Giáng mẹ vợ8 của Trần Thái Tông là Trần
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43
thị hoàng thái hậu của nhà Lý9 xuống làm Thiên Cực công chúa rồi đem ban gả cho Trần Thủ Độ làm vợ10, các phi tần, cung nữ, đàn bà, con gái trong họ hàng của Lý Huệ Tông đều bị Trần Thủ Độ mang đi bán gả cho các tù trưởng dân tộc thiểu số11. Tháng 10, tôn cha là Trần Thừa làm thái thượng hoàng giữ quyền cai trị; phong cho mẹ là Lê thị làm Quốc Thánh hoàng thái hậu. Ấn định giá trị tiền tệ12. Chọn bắt con gái của dân để đưa vào làm nô tì13 trong cung vua. CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN: 1 Trần Cảnh: con của Trần Thừa, cháu họ của Trần Thủ Độ và Trần thị (Dung). Trần thị và Trần Thủ Độ là chị em họ con chú con bác với nhau. Có thể là chị em ruột. 2 Chi hậu chính: tức là chức nội thị chính thủ. Đây là một chức quan ở trong cung sảnh trách nhiệm đội người làm đầy tớ hầu hạ vua trong cung đình. 3 Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi: ĐVSKTT viết :..nhận thiền vị của Chiêu Hoàng có nghĩa là chuyển ngôi. KĐVSTGCM viết: truyền ngôi cho Trần Cảnh. 4 Thái sư thống quốc hành quân vụ chính thảo sự: tức là chức quan nắm giữ toàn quyền bên ngành quân sự trong nước giống như chức Tổng tư lệnh quân đội ngày nay. 5 Bắc Giang và Đông Ngạn: vùng đất của tỉnh Bắc Ninh cũ, nay thuộc tỉnh Hà Bắc. Đông Ngạn là vùng đất huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc. 6 Hồng Châu: gồm có vùng Tây Bắc và vùng phía Nam của tỉnh Hải Dương, nay thuộc tỉnh Hải Hưng. 7 Trần Thủ Độ giết Lý Huệ Tông: Thủ Độ là một tên đầu sỏ gian ác, giết người bằng lời nói chứ không cần dùng tới gươm đao. ĐVSKTT viết: <<Có lần Thủ Độ qua trước cửa chùa, thấy Huệ Tông ngồi xổm nhổ cỏ bèn nói: "Nhổ cỏ thì cần phải nhổ cho tận gốc."Huệ Tông phủi tay đứng dậy nói: "Lời của nhà ngươi nói ta hiểu rồi".Kế đến lại cho người giả trá mang hương hỏa đến bảo Huệ Tông: "Quan thượng phụ sai chúng tôi đến mời". Huệ Tông nói: "Ta tụng kinh xong sẽ tự xử" . Sau đó Huệ Tông tự treo cổ ở vườn phía sau chùa.. Thủ Độ ra lệnh cho các quan đến khóc, khoét tường thành ở phía Nam để làm cửa, đưa xác ra phường Yên Hoa (nay là Yên Phụ, quận Tây Hồ, Hà Nội) để thiêu, chứa tro xương vào tháp chùa Bảo Quang.>> (BK/Q.5/2a,b). KĐVSTGCM cũng chép giống như thế (CB/Q.6/3). 8 Mẹ vợ của Trần Thái Tông: cũng là cô họ của Trần Thái Tông (Trần thị là em họ của Trần Thừa). 9 Trần thị hoàng thái hậu nhà Lý: tức là vợ của Lý Huệ Tông, mẹ ruột của Lý Chiêu Hoàng.
VSTK - 294
1 2 3 4 5 6 7 8
10 Ban
gả cho Trần Thủ Độ: KĐVSTGCM viết: Truất ngôi thái hậu nhà Lý là Trần thị xuống làm Thiên Cực công chúa, rồi gả cho Trần Thủ Độ .(CB.6/3) 11 Dân tộc thiểu số: ĐVSKTT và KĐVSTGCM đều gọi là tù trưởng người Mán . 12 Ấn định giá trị tiền tệ: gọi là thể lệ tỉnh bách, tức là lấy 77 làm 100 hay còn gọi là 100 thiếu hay 100 bớt; một tiền dân xài thì bằng 69 đồng, còn nộp vào công quỹ thì một tiền có giá trị 70 đồng. 13 Nô tì: có phận sự phục dịch, hầu hạ cho nhà vua cùng với gia tộc của vua.
KHẢO LUẬN: I/ Về mưu mô xếp đặt của Trần Thủ Độ để đưa Trần Cảnh lên ngôi vua : 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38
Hai bộ sử cũ đều chép giống nhau về việc lên ngôi của Trần Cảnh bằng cách đưa ra tờ chiếu chỉ giả tạo, bắt Lý Chiêu Hoàng ký vào rồi tuyên đọc như sau : "Từ xưa nước ta đã có đế vương trị vì thiên hạ. Họ Lý ta vâng mệnh trời, có cả bốn biển. Các liệt thánh ta (tức các vua nhà Lý) nối tiến ngôi vua hơn hai trăm năm, chẳng may tình thế gian nguy, giặc cướp nổi lên khắp cùng, nhân dân bị loạn lạc không ngưng. Vua cha vướng bệnh, không người nối nghiệp, trẫm (tiếng dùng để vua chúa tự xưng với bề tôi trong triều đình) nhận mệnh lệnh theo thánh chỉ bất đắc dĩ (ngoài ý muốn) nhận lên ngôi vua, từ xưa chưa từng có việc truyền ngôi như thế. Khốn nỗi, việc giữ ngôi báu là hệ trọng mà trẫm là đàn bà không đủ tài cán, khả năng phải gánh vác những chuyện quan trọng của nước nhà không ai giúp đỡ. Nay trẫm đã suy xét kỹ và thấy chỉ có Trần Cảnh là người văn chất đủ vẻ, uy nghi đường hoàng, có phong độ bậc quân tử hiền nhân, có thể nhường ngôi để đúng theo ý trời, xứng đẹp lòng trẫm, mong Trần Cảnh đồng lòng hết sức gánh vác trọng trách dẹp yên loạn lạc, cứu giúp vận nước đang hồi nghiêng ngửa để mọi người cùng hưởng phúc thái bình. Nay bố cáo cho thiên hạ khắp nơi được biết ". Việc dùng giấy tờ giả mạo để phế bỏ, cướp giựt ngôi vua trong thời phong kiến là một phương tiện rẻ tiền thường được dùng để che mắt thế gian. Ở triều đại nhà Lý, việc giả mạo chiếu chỉ của Lý Thần Tông trong âm mưu phế lập của ba người đàn bà đã từng xảy ra để đưa Thiên Tộ tức Lý Anh Tông lên ngôi vua. Trong quá trình âm mưu phế lập, cướp ngôi của người khác thì Trần Thủ Độ nếu so với nhà sư Vạn Hạnh thì Thủ Độ phải được xem là cao tay hơn và có vẻ thực tế hơn Vạn Hạnh: Vạn Hạnh khóa miệng dư luận bằng cách dựa vào uy lực của ma quỷ thần linh và giấy tờ giả dối còn Thủ Độ thì dựa vào tình trạng nguy ngập thực sự của đất nước, thực tế vợ chồng Trần Cảnh-Lý Chiêu Hoàng cùng với giấy tờ giả mạo để cho việc thay ngôi đổi chủ có vẻ danh chính ngôn thuận . VSTK - 295
1 2 3 4 5
Tuy nhiên, dù có khác nhau về phương pháp áp dụng nhưng cả hai đều gặt hái được kết quả giống nhau: trước đây họ nhà Lý cướp ngôi họ nhà tiền Lê, bây giờ đến lượt họ nhà Trần cướp ngôi họ nhà Lý, cả hai trường hợp đều cá mè một lứa. cả hai đều vừa ăn cướp vừa đánh trống la làng.
II/ Về việc Trần Thủ Độ âm mưu giết Lý Huệ Tông : 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19
Đây là một hành động ném đá giấu tay bẩn thỉu ác độc. Sử cũ kể lại rằng Lý Huệ Tông tự mình treo cổ sau vườn chùa Chân Giáo. Có thật như thế hay không? Có những chi tiết sau đây rất đáng nghi ngờ : 1./ Việc Trần Thủ Độ sai người đem hương hoa đến chùa Chân Giáo dâng biếu để gọi Lý Huệ Tông về triều gặp quan thượng phụ (tức gặp Trần Thủ Độ); 2./ Những lời nói cuối cùng của Lý Huệ Tông trước khi chết: "Ta tụng kinh xong sẽ tự tử ."và lời nguyền rủa: "Thiên hạ nhà ta đã về tay ngươi, ngươi lại còn giết ta, ngày nay ta chết, mai sau con cháu nhà ngươi cũng phải chịu như thế ". 3./ Việc Trần Thủ Độ ra lệnh cho các quan đến khóc, rồi khoét tường thành phía sau làm cửa (người bấy giờ gọi là cửa khoét) đưa xác Lý Huệ Tông đến phường Yên Hoa để hoả thiêu. *Về điểm nghi ngờ thứ nhứt :
20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37
Trần Thủ Độ cho người mang hương quả đến chùa Chân Giáo gọi Lý Huệ Tông đi đâu và với mục đích gì? Đấy chỉ là một trò viết sử láo theo lệnh của Thủ Độ. Những tên nầy sự thật là những tên đao phủ thủ đi theo Thủ Độ để thi hành việc bức tử Lý Huệ Tông. Hương quả của chúng mang theo chính là những phương tiện đặc biệt dùng để sát hại Huệ Tông. Những phương tiện sát nhân đó là gì? Theo nhiều truyện cũ của Trung Quốc viết về những án tích trong cung đình thì những hàng vua chúa hoặc vương tộc khi bị xử tội chết thì được ban cho một ân huệ đặc biệt là người bị tuyên án tử hình có thể lựa chọn một trong ba cách thi hành bản án tử hình: một là tự uống thuốc độc, hai là tự tận bằng dao ngắn, ba là dùng vải khăn dài để thắt cổ. Riêng cách thức thứ 3 thì cần có hai người đứng ra để kéo khổ vải dùng để thắt cổ tử tội theo thế đứng hoặc quỳ. Trong trường hợp tử tội không chịu lựa chọn thì những kẻ có nhiệm vụ thi hành bản án sẽ dùng phương cách thứ ba. Rất có thể Trần Thủ Độ đã xử dụng cách dùng vải thắt cổ để giết Lý Huệ Tông rồi treo xác lên cây phía sau chùa để phao tin là Lý Huệ Tông tự thắt cổ. *Về điểm nghi ngờ thứ hai: VSTK - 296
1 2 3 4 5 6 7 8
Những lời nói cuối cùng của Lý Huệ Tông nhất định phải hướng về một kẻ đang có mặt ở chùa lúc đó. Câu nói: "Ta tụng kinh xong sẽ tự tử " là một lời yêu cầu của người sắp bị giết chết nói với những kẻ sát nhân nhưng không được chấp nhận . Câu nguyền rủa nhất định là phải hướng về phía kẻ chủ mưu hiện có mặt ở đó tức là Trần Thủ Độ và kẻ gian tà nầy liền áp dụng ngay cách thi hành hình phạt thứ ba để thắt cổ Lý Huệ Tông ngay trước bệ thờ Phật bên trong chùa. *Về điểm nghi ngờ thứ ba:
9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27
Nếu thực sự Lý Huệ Tông tự treo cổ thì cớ sao Trần Thủ Độ phải dùng cách thức trèo tường khoét vách của bọn đầu trộm đuôi cướp, lén lút giựt xác của Lý Huệ Tông mang đi ra ngoài thành để hoả thiêu ngõ hầu phi tang chứng tích giết người của mình. Còn như bọn tay sai của Thủ Độ được đưa tới để than khóc cũng chỉ là một màn đạo diễn rẻ tiền của Thủ Độ, những giọt nước mắt cá sấu nhằm đánh lừa những thế hệ mai sau. Ngô Sĩ Liên nói: ". . .Đã lấy nước của người ta, lại giết vua của người ta thì thực là quá bất nhân ác độc. . .Thủ Độ coi việc đó là hết lòng trung, lo việc nước, nhưng có biết đâu thiên hạ đời sau đều vạch mặt chỉ tên gọi là giặc giết vua, huống chi còn làm thói chó lợn (ĐVSKTT/BK.5/2b,3a) (chỉ việc Trần Thủ Độ đã giết Huệ Tông lại lấy vợ của Huệ Tông, đã thế người đàn bà nầy còn là chị của Trần Thủ Độ nữa)". Tự Đức có lời phê như sau: "Thủ Độ là công thần nhà Trần, nhưng là tội nhân nhà Lý. Huống chi làm những nết xấu như chó lợn, bụng dạ độc ác
như hùm beo, dựng nước kiểu như thế thì làm sao bền vững cho được? Nhưng chẳng qua cũng là do nhà Lý tự chuốc lấy tai họa thì còn trách cứ vào đâu được nữa!". (CM/CB.6/3) III/. Về những trò dâm loạn vô luân trong dòng họ nhà Trần:
28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39
Phan Phú Tiên nói: "Cương thường là luân lý lớn nhất của loài người. Trần Thái Tông là vua dựng nghiệp, cần phải lập nên khuôn phép để lại đời sau, thế mà lại nghe theo mưu gian của Trần Thủ Độ, lấy vợ của anh mình để lập hoàng hậu, như vậy có phải là khơi đầu cho mầm móng dâm loạn chăng? Về sau các vua nhà Trần, anh em con chú con bác lấy lẫn nhau, tệ trạng đó lưu truyền về sau đến mức anh chị em ruột một nhà làm chuyện thô bỉ dâm loạn với nhau như Trần Dụ Tông chẳng hạn, tất cả đều do Trần Thái Tông khởi xướng ra từ đầu"(LTHCLC/ Lễ nghi Chí/Phan Huy Chú). Phan Huy Chú cũng có nhận xét như sau :"Việc vợ chồng của các triều đại trước phần nhiều không được chính đáng chẳng hạn như nhà Đinh nhà Lý thì lập nhiều hoàng hậu, Nhà Trần thì dòng họ anh chị em VSTK - 297
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14
lấy lẫn nhau trái cả luân thường, nhơ cả điển lễ, để lại tiếng thị phi trong sử sách "(LTHCLC/Lễ nghi Chí /như trên). Ngô Sĩ Liên và Tự Đức thì xem những kẻ bày ra những trò dâm loạn đó thuộc về loài "chó lợn". Lời giải của Hoàng Xuân Hãn trong Đại Nam Quốc Sử Diễn ca viết: "Trong thi ca kể nhiều chuyện tỏ rằng nhà Trần trong họ lấy lẫn nhau; đời sau cho thế là loạn luân. Một phần cũng là vì Trần Thủ Độ là một người gian hùng, không ngại gì mà không làm miễn là xây vững được cơ nghiệp nhà họ Trần. Nhưng ta không nên quên rằng hồi ấy phong tục có lẽ khác với phong tục thế kỷ 19 nhiều". Ngày nay, khi đọc lại những trang sử viết về sự khởi đầu vương nghiệp của nhà họ Trần, người ta không khỏi tặc lưỡi, lắc đầu nghẹn lời không biết phải dùng danh từ xấu xa tồi tệ nào khác để gọi đám lưu manh đầu xỏ của họ nhà Trần đó.
VSTK - 298
TRẦN THÁI TÔNG (tiếp theo) 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
Ban cho Phùng Tá Chu chức tri phủ Nghệ An14, được quyền ban tước cho người khác. Tá Chu trước kia là quan nhà Lý, nay về bè đảng với họ nhà Trần nên được thưởng công như thế. Đinh Hợi Kiến Trung năm thứ 3 (1227), hợp các quan làm lễ tuyên thệ ở đền Đồng Cổ15. Mậu Tý, Kiến Trung năm thứ 4 (1228), tháng Giêng, ban cho em trai tên là Nhật Hiệu tước vương16. Tháng 2, thi lại viên17. Tháng 8, ban cho anh là Trần Liễu chức thái úy18. Kiểm kê nhân khẩu19 tỉnh Thanh Hóa. Hoài Đạo vương Nguyễn Nộn đánh và tiêu diệt Đoàn Thượng ở Hồng Châu20 uy thế lẫy lừng.Trần Thủ Độ lo lắng, xúi Trần Thái Tông phong chức thêm cho Nộn tước Đạo Hiếu vũ vương và đem Ngoạn Thiềm công chúa gả cho để ngầm theo dõi nhưng Nộn không bị rơi vào mưu bẫy của Thủ Độ. Kỷ Sửu, Kiến Trung năm thứ 5 (1229), tháng 3, Nguyễn Nộn chết21, loạn Hồng Châu không còn, các lãnh địa do Nguyễn Nộn cai quản nay trở lại dưới quyền kiểm soát của nhà Trần. Gửi sứ sang trung Hoa để báo cáo với nhà Tống việc lên ngôi của Trần Thái Tông. Canh Dần, Kiến Trung năm thứ 6 (1230), tháng 3, khảo xét các luật lệ của triều trước để định thể lệ làm thành sách Quốc Triều Thông Chế đồng thời cũng sửa đổi và viết lại sách Hình luật đã có từ những triều trước. Hai công tác này được viết thành 20 quyển22. Tiếp theo lại sai các quan chép các công việc về lễ nghi của triều nhà Lý, gồm 10 quyển và gọi là Kiến Trung thường lễ23. Tháng 9, mẹ đẻ của Trần Thái Tông là Quốc Thánh hoàng thái hậu họ Lê mất, được truy tôn là Thuận Từ hoàng thái hậu.
VSTK - 299
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
Tân Mão, Kiến Trung năm thứ 7 (1231), đào vét sông Trầm và sông Hào24 từ phủ Thanh Hoá đến giáp ranh phía Nam Diễn Châu. Nhâm Thìn, Kiến Trung năm thứ 8 (1232), tháng Giêng, phong tước Hoài Đức vương cho đứa con rơi của Trần Thượng tên là Bà Liệt25. Tháng 2, thi Thái học sinh26. Trong khoa thi nầy có Trần Chu Phổ đỗ đệ tam giáp. Tháng 8, gió bão lớn gây bệnh dịch trong dân chúng. Trần Thủ Độ ám sát27 hết gia tộc còn lại của của nhà Lý. Quý Tỵ, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 2 (1233), lũ lụt lớn. Giáp Ngọ, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 3 (1234), cha của Trần Thái Tông là Trần Thượng chết. Trần Liễu được phong chức Hiển hoàng phụ chính thay thế vào chỗ của Trần Thượng. CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN
17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39
Phùng Tá Chu được quyền ban tước cho người khác: Phùng Tá Chu là một hạng quan lại không trung thành của triều nhà Lý đã hùa theo làm tay sai cho Trần Thủ Độ và được ban chức tri phủ Nghệ An, được Trần Thủ Độ cho phép tuyển dụng những loại nhân viên làm việc từ bậc xá nhân trở xuống (giống như chức vụ thư ký ngày nay có nhiệm vụ thảo công văn giấy tờ theo lệnh và chỉ thị của cấp trên). 15 Tuyên thệ ở đền Đồng Cổ (@): Việc nầy bắt chước theo lệ cũ của nhà Lý: Nhà Lý và nhà Trần đều đoạt ngôi của người khác, không có chính nghĩa, e sợ quan quân và dân chúng không ủng hộ cho nên mới bày ra trò ép buộc uống máu ăn thề trung thành với chế độ mới. ĐVSKTT và KDVSTGCM viết lời thề đó như sau: "Làm tôi tận trung, làm quan trong sạch, nếu ai trái lời thề nầy, thần minh sẽ giết chết ". (@) Đền Đồng Cổ: nay vẫn còn ở làng Đông, vùng các làng Bưởi, thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. 16 Ban tước vương cho Nhật Hiệu : Nhật Hiệu là em cùng mẹ với Trần Thái Tông. 17 Thi lại viên: thi cách thức thảo công văn giấy tờ. Ai trúng tuyển, được cho vào làm việc ở các sảnh hoặc viện; quan chế nhà Trần có Trung thư sảnh, Môn hạ sảnh, Hàn lâm viện, Thẩm hình viện, Thái y viện và Thái chúc viện. 18 Thái úy: Trước kia Trần Liễu lấy công chúa Lý Thuận Thiên được phong Phụng Kiền Vương, nay phong là Thái úy; chức nầy có quyền hành cao hơn các hàng vương tước vì còn được kiêm nhiệm chức vụ tể 14
VSTK - 300
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
tướng phụ tá vua cai trị việc nước. 19 Kiểm kê và xếp loại nhân khẩu: sử cũ gọi là đơn số, tức là khai báo số người và xếp theo từng loại như: quan, quân, tùy tùng, tạp lưu, trai tráng, già yếu, tật bệnh tạm trú, người dời đổi phiêu bạt không có chỗ ở nhất định. . . 20 Diệt Đoàn Thượng ở Hồng Châu: Đoàn Thượng chiếm cứ huyện Đường Hào thuộc Hồng Châu, đào hào đắp lũy ở xã Yên Nhân để phòng thủ. Nguyễn Nộn đem quân đến dẹp tan được. Huyện Đường Hào bây giờ là huyện Mỹ Văn tỉnh Hưng Yên còn xã Yên Nhân nay là thị trấn Bần Yên Nhân thuộc Mỹ Văn tỉnh Hưng Yên. Vùng nầy nổi tiếng về nghề làm tương thường gọi là tương bần. Ở đây có rất nhiều làng thờ Đoàn Thượng, và tôn xưng Thượng là Đông Hải vương. 21 Nguyễn Nộn chết: ĐVSKTT và KĐVSTGCM đều viết rằng Nguyễn Nộn vì kiêu căng, chơi bời phóng túng quá độ nên mắc bệnh nặng. Nộn dự định về hàng phục nhà Trần nhưng chưa kịp thì chết. 22 Sách Quốc Triều Thông Chế: LTHCLC/ Phan Huy Chú cho biết là bộ sách nầy nay không còn. Do đó có thể suy rằng đoạn sử về Triều đại nhà Trần đã được viết lại sau giai đoạn giặc nhà Minh vơ vét gom góp nhiều sách vở, tài liệu hiện có dưới triều đại nhà Trần đem về Tàu. Trong LTHCLC, những sách sử cho đến thời đại Trần Thái Tông mà Phan Huy Chú ghi nay không còn gồm có : Lý triều ngọc điệp: soạn vào thời Lý Thái Tổ năm thứ 17 (1026) . . . . . . . 1 quyển. Hình thư: Lý Thái Tông (1039), sai trung thư sửa định, tham chước sự nghị hiện thời, chia từng loại, chép từng điều, ban khắp trong nước. . .. 3 quyển. Nam Bắc phiên giới địa đồ: Lý Anh Tông (1172), tuần du các cửa biển, vẽ bản đồ hình thể sông núi và chép phong tục sản vật. . . . . . . . 1 quyển. Quốc triều thông chế, Trần Thái Tông (1230) . . . . . . . . . . . . . . 20 quyển (Trong số 20 quyển nầy có thể bao gồm luôn cả 3 quyển Hình thư của triều nhà Lý đã được tu soạn lại dưới triều Trần Thái Tông mà trong LTHCLC/ Phan Huy Chú gọi là Quốc triều hình Luật. Còn theo Trần Trọng Kim trong VNSL thì bộ sách Quốc triều thông chế chỉ có 10 quyển và 1 quyển Hình luật riêng biệt). Kiến trung thường lễ: Trần Thái Tông (1230), chép các công việc về nghi lễ của đương triều, định làm lễ thường . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 10 quyển (Bộ sách nầy không được đề cập tới trong KĐVSTGCM ): có thể theo bộ sử nầy thì 10 quyển của bộ Kiến trung thường lễ đã nằm trong số 20 quyển của bộ Quốc triều thông chế rồi vì thế không đề cập tới nữa; về sau nầy Trần Trọng Kim cũng theo chủ trương của KĐVSTGCM cho nên đã viết rằng Quốc triều thông lễ hay thông chế gồm có 10 quyển và Thường lễ niên hiệu Kiến Trung gồm có 10 quyển).
VSTK - 301
1 2 3 4 5 6 7
Qua các sự ghi chép khác biệt vừa kể, có thể suy luận như sau: vì trong cổ luật có sự hỗn đồng giữa hai phạm vi pháp luật và hình luật cho nên thường chép chung hai lãnh vực nầy vào làm một. Vì thế, nếu theo cách chép của ĐVSKTT và LTHCLC thì bộ Quốc triều thông chế có thể chia tách ra như sau : Hình luật: 3 quyển, (được tu soạn từ 3 quyển Hình thư của triều nhà Lý). Pháp luật hay lễ pháp: 10 quyển,
8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23
Thể lệ về hình phạt: 7 quyển. Kiến Trung thường lễ: xem chú giải (22) phần trên. 24 Sông Trầm và sông Hào: thuộc huyện Ngọc Sơn (nay là Tĩnh Gia), Thanh Hóa. 25 Bà Liệt: tức là thôn Bà Liệt. Bà Liệt là tên gọi đặt cho đứa con rơi của Trần Thừa sinh ra ở thôn Bà Liệt, huyện Tây Chân (hay Nam Chân, nay thuộc tỉnh Nam Hà). 26 Thái học sinh: tức là khoa tiến sĩ. Ngày nay chữ tiến sĩ thường được dùng để gọi cấp bằng đốc tờ (docteur/doctor) chuyên khoa bậc đại học. Thời nhà Trần, người thi đỗ tiến sĩ thì gọi là Thái học sinh và được xếp thành 3 cấp bậc đỗ cao thấp: lúc đầu gọi là tam giáp, sau đổi gọi là tam khôi. Khoa thi nầy Trương Hanh, Lưu Diễm đỗ đệ nhất giáp; Đặng Diễn, Trịnh Phẫu đỗ đệ nhị giáp; Trần Chu Phổ đỗ đệ tam giáp. 27 Thủ Độ ám sát hết vương tộc nhà Lý: Thủ Độ ngầm đào hố sâu rồi giựt nhà sập chôn sống hết vương tộc nhà Lý để trừ nguy hại về sau. 23
TRẦN THÁI TÔNG (tiếp theo)
30
Phong Thủ Độ làm Thống quốc thái sư. Gia phong cho Phùng Tá Chu tước Hưng Nhân vương; bổ dụng Phạm Kim Ân làm Thái phó kèm theo tước Bảo trung hầu. Hai người nầy xưa làm quan nhà họ Lý, nay phản chủ đi theo giúp nhà họ Trần tiếm đoạt ngôi vua của nhà Lý. Bính Thân, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 5 (1236), tháng Giêng, định phẩm hàm28 cho các quan chức.
31
28
24
25
26
27
28
29
32 33 34 35 36
Phẩm hàm: là một tước hiệu ban kèm theo một chức quan chính thức. Những người thuộc bà con họ hàng nhà vua được cho vào làm quan tại triều hoặc là các hàng quan chức như Thái sư, Thái phó, Thái bảo, Thái úy, Tư đồ, tả hữu tướng quốc, đều được kèm thêm chức hàm Kiểm hiệu đạc tiến nghi đồng Tam ty bình chương sự, tức là ngang hàng với chức tể tướng.
VSTK - 302
KHẢO LUẬN :
I/ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14
Về cái chết của Nguyễn Nộn :
ĐVSKTT viết: "Sau khi chiếm nhập quân của Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn tự xưng là Đại Thắng vương, chè chén, chơi bời bừa bãi và cũng hiểu rằng mình không thể nào chống đối với nhà Trần được cho nên dự định tháng 10 sẽ vào chầu song còn do dự chưa quyết. Đến khi đau nặng, vua sai nội nhân tới hỏi thăm, Nộn cố gượng ăn cơm, phi ngựa để tỏ ra còn khỏe mạnh, không bao lâu thì chết.. . .Sau khi Nộn chết, thiên hạ lại quy về một mối"(BK/Q.5/5b). KĐVSTGCM cũng chép giống như thế (CB/6/8). Chuyện nầy cũng giống như chuyện Trần Thủ Độ mưu giết Lý Huệ Tông: lần nầy dùng sắc đẹp đàn bà để làm gián điệp và tiêu phá sức lực của Nguyễn Nộn, kế đến giả trá đưa bộ hạ tới thăm hỏi để ngầm hạ độc giết chết rồi bảo rằng Nộn vì chơi bời quá độ cho nên mắc bệnh mà chết. Kẻ có phận sự ghi chép những biến cố lịch sử trong thời điểm nầy có thể đã bóp méo sự thật và viết láo để bịt miệng dư luận. II/ Về việc Trần Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý:
15 16 17 18 19 20 21
Trong ĐVSKTT, ở đoạn viết về việc làm ác độc nầy của Trần Thủ Độ thấy có một ghi chú như sau: (Xét thời Trần Anh Tông còn có người họ Lý làm tướng, hơn nữa Phan Phú Tiên không ghi lại, việc nầy chưa chắc đã có thực, hãy tạm chép vào đây). Từ sự ghi chú vừa kể, có thể suy luận rằng cuộc giết hại lần nầy của Thủ Độ chỉ nhằm tiêu diệt những người có họ hàng xa gần với nhà Lý chứ không phải bất cứ ai mang họ Lý đều bị tiêu diệt hết.
TRẦN THÁI TÔNG (tiếp theo)
22
23
24
25
26
Tháng 6 (1236), Trần Liễu cưỡng dâm một người phi cũ1 của triều Lý ở cung Lệ Thiên2, việc báo cáo lên trên, Liễu bị giáng truất chức Hiển Hoàng. Tháng 10, sứ nhà Tống sang phong cho Trần Thái Tông tước An Nam Quốc vương3. VSTK - 303
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
Đinh Dậu, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 6 (1237), tháng Giêng, ấn định cách thức về việc lập chúc thư, văn khế4 cầm cố mua bán ruộng đất hoặc vay mượn . Thủ Độ và Trần thị Dung âm mưu bắt ép vợ của Trần Liễu là Lý Thuận Thiên đã có thai 3 tháng phải lấy Trần Thái Tông và truất giáng hoàng hậu Lý Chiêu Thánh xuống hàng công chúa5. Khoảng tháng 7 năm Đinh Dậu (tháng 9 năm 1237 Dương lịch), Lý Thuận Thiên sinh con trai đặt tên là Trần Quốc Khang6. Trần Liễu tức giận, tụ tập bè đảng ở vùng sông Cái nổi loạn. Trần Thủ Độ toan giết Trần Liễu nhưng Trần Thái Tông xin giảng hòa, dụ Trần Liễu bãi binh rồi cấp thái ấp và phong cho làm An sinh vương. Quân dân theo Liễu làm loạn ở vùng sông Cái đều bị Thủ Độ giết sạch. Mậu Tuất, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 7 (1238), tháng 2, Trần Thủ Độ đích thân kiểm kê nhân khẩu phủ Thanh Hóa7. Kỷ Hợi, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 8 (1239), tháng Giêng, sai Phùng Tá Chu về hương Tức Mặc xây hành cung8. Tháng 2, thi Thái học sinh. Tháng 3, xếp hạng thanh niên khỏe mạnh thành 3 bậc thượng, trung, hạ để bắt lính. Canh Tý, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 9 (1240), tháng Giêng, lại sai Phùng Tá Chu dựng 5 sở hành cung ở Thanh Hóa. Tháng 9, con đích trưởng của Trần Thái Tông và Lý Thuận Thiên tên là Hoảng sinh, lập làm Đông Cung thái tử9. Tân Sửu, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 10 (1241), tháng 9, em cùng mẹ với Hoảng là Trần Quang Khải sinh10. Nhâm Dần, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 11 (1242), tháng 2, cắt đặt, chia những vùng lãnh thổ trọng VSTK - 304
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
yếu trong nước thành 10 lộ11; mỗi lộ đặt An sứ và Trấn sứ, mỗi chức gồm có một chánh và một phó, giữ việc cai trị: trấn sứ giữ việc an ninh, quân sự; an sứ giữ việc an sinh, hành chánh, hộ tịch. Ngoài ra trong thời nầy lại còn có các phủ, châu, trấn như phủ Nghệ An, phủ Lâm Bình11bis, trấn Thái Nguyên, trấn Quảng Nam. . . Ở cấp xã thì có xã trưởng, xã giám và quan tư xã: kiêm nhiệm nhiều xã gọi là quan đại tư xã do quan chức từ hàng ngũ phẩm trở lên đảm nhiệm, từ lục phẩm trở xuống gọi là quan tiểu tư xã; đảm trách việc trị an một xã thì có xã trưởng, xã giám cùng với quan tư xã giữ việc hành chánh hộ tịch. Kiểm kê hộ khẩu và ấn định thuế nhân đinh12 và thuế ruộng13. CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:
14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37
Cưỡng dâm một người phi cũ của triều Lý: ở đây lại thêm một kiểu viết luồn lách gian xảo nhằm che đậy một điều xấu xa nhơ nhớp khác của đám nhà họ Trần. Xét từ lúc xảy ra câu chuyện hãm hiếp quái đản nầy và ngược thời gian gần nhất trở về trước người ta thấy người phi cũ của triều Lý có thể là : Nguyên phi An Toàn họ Đàm, vợ của Lý Cao Tông Nguyên phi Trần thị, là vợ của Lý Huệ Tông, bỏ Lý Huệ Tông để lấy em trai mình là Trần Thủ Độ 2 Cung Lệ Thiên: đã có từ đời Lý Thần Tông (1128), dùng làm cung dinh hoàng hậu và các người phi của vua Lý Thần Tông. Hoàng hậu cung Lệ Thiên lúc đó là Lệ Thiên hoàng hậu họ Lý, con gái của điện tiền chỉ huy sứ Lý Sơn. Sau khi chuyện hiếp dâm nhơ nhớp xảy ra, Trần Thủ Độ đã đổi tên cung Lệ Thiên thành cung Thưởng Xuân đồng thời cũng giáng chức Trần Liễu xuống làm Hoài vương. 3 Nhà Tống phong tước An Nam quốc vương cho Trần Thái Tông: việc phong tước nầy ĐVSKTT chép vào năm 1229, nhưng KĐVSTGCM đã theo sách Cương Mục tục biên của Trung Hoa để chép vào năm 1236. Có thể là năm 1229 nhà Trần mới tiếm ngôi nhà Lý cử người sang Tống để xin thụ phong nhưng mãi đến năm 1236 nhà Tống mới chịu tấn phong cho Trần Thái Tông. 4 Ấn định thể thức lập văn tự khế ước: trong thể thức nầy, người làm chứng phải in dấu tay ở ba dòng đầu văn tự và người bán in dấu tay ở 4 dòng cuối văn tự. 5 Truất giáng hoàng hậu Lý Chiêu Thánh: bấy giờ Chiêu Thánh 1
VSTK - 305
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
chưa có con trai với Trần Thái Tông mà vợ của Trần Liễu là Lý Thuận Thiên (chị ruột của Chiêu Thánh) đã có thai Quốc Khang được 3 tháng. Thủ Độ cùng Thiên Cực tức Trần thị (Dung) bắt ép Trần Thái Tông mạo nhận lấy bào thai để phòng hờ cho việc nối ngôi về sau, vì thế mới cưỡng đoạt Lý Thuận Thiên đem vào cung bắt phải làm vợ của Trần Thái Tông. 6 Trần Quốc Khang: con trai của Trần Liễu và Lý thị Thuận Thiên. Sử cũ không chép rõ ngày sanh nhưng có thể suy đoán ra được vì Thuận Thiên mang thai Quốc Khang được 3 tháng kể từ tháng Giêng năm Đinh Dậu, cộng thêm 6 tháng 10 ngày tiếp theo thì sinh ra Quốc Khang tức là vào khoảng tháng 7 năm Đinh Dậu (hay vào khoảng tháng 9 năm 1237 dương lịch). 7 Kiểm kê nhân khẩu phủ Thanh Hóa: về việc nầy, Ngô Thời Sĩ viết trong VSTA như sau: "Năm Kiến Trung thứ 4 (1228) đã xét định trước tịch Thanh Hóa, đến nay lại giao việc ấy cho Thủ Độ đích thân đứng ra làm. Ngoài ra chỉ có một lần sai Phùng Tá Chu duyệt các danh sắc ở Nghệ An, còn số dân đinh các lộ khác đến năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 12 (1243) mới làm. Việc làm trước tịch duy chỉ có Thanh Hóa là làm trước và tường tận hơn và do một quan thân tín đảm trách. Như vậy cho tới cuối triều Lý việc sắp xếp trướng tịch ở Thanh, Nghệ vẫn còn quá lỏng lẻo cho nên đến nay mới phải làm đi làm lại cho thật cẩn thận ?" 8 Hành Cung: cung điện xây dựng ở địa phương cho vua ở mỗi khi vua rời kinh đô đi thanh sát (di hành hay tuần du). 9 Đông cung thái tử Hoảng: theo sử cũ thì đứa con nầy mới đúng là máu mủ thực sự của Trần Thái Tông với Lý Thuận Thiên. 10 Trần Quang Khải: em trai cùng mẹ cùng cha với Hoảng. Sau Trần Quang Khải còn có nhiều em trai, em gái khác nữa. Điểm cần lưu ý là bản Trần triều thế phổ trong VNSL/Trần Trọng Kim không có tên Trần Nhật Vĩnh và ngược lại trong ĐVSKTT không có tên Trần Nhật Duật. Như vậy có thể 2 người nầy cũng là một người chăng? Tuy nhiên, theo LTHCLC của Phan Huy Chú thì Trần Nhật Duật là người con thứ 6 của Trần Thái Tông, tức là phải bao gồm và kể từ Quốc Khang và Trần Nhật Vĩnh; như thế thì Trần Nhật Duật mới đúng là người con thứ 6 của Trần Thái Tông. Một điểm đáng chú ý ở đây là Lý Thuận Thiên từ khi làm vợ Trần Thái Tông đã sinh hạ rất nhiều con trai, hầu như mỗi năm đều có sinh con. 11 Lộ: ĐVSKTT chép là 12 lộ. LTHCLC/Địa dư chí của Phan Huy Chú cũng gọi là lộ nhưng chỉ có 10 lộ. Sách An Nam chí lược của Lê Tắc kê chép 15 lộ nhưng chỉ có 6 lộ là trùng hợp với 6 trong 12 lộ kê chép trong KDTGVSCM. KĐVSTGCM kê ra 12 lộ nhưng lại chua rằng: "sử cũ không chép rõ, nhưng căn cứ vào những tài liệu ghi chép từ trước. . .", những tài liệu từ trước là những tài liệu nào thì KDVSTGCM không nói. Có một
VSTK - 306
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24
điều cần nói rõ ở đây là những người làm ra KDVSTGCM thường lấy sử sách tài liệu của Trung Hoa để tham chiếu và trong rất nhiều trường hợp đã dựa và viết theo ý kiến của người Tàu. Ở đây, có thể KDVSTGCM đã dựa theo An Nam Chí lược của Lê Tắc, một kẻ theo giặc Nguyên chạy sang sống ở bên Trung Hoa, trở thành người Hoa viết sử An Nam. Theo Phan Huy Chú thì 10 lộ vào năm 1242, đời Trần Thái Tông là: lộ Thiên Trường, lộ Hồng, lộ Khoái, lộ Quốc Oai, lộ Hải Đông, lộ Bắc Giang, lộ Hoàng Giang, lộ Lạng Giang, lộ Thanh Hóa, lộ Diễn Châu. ngoài ra còn có phủ, châu, trấn như phủ Nghệ an, phủ Tân Bình11bis,châu Hoá@,trấn Thái Nguyên, trấn Quảng Nam ... 11bis Phủ Lâm Bình: KĐVSTGCM và LTHCLC đều viết là Tân Bình nhưng tên Tân Bình chỉ có vào cuối đời Trần và nằm trong phía Bắc trấn Thuận Hóa. Trước đó phủ Tân Bình gọi là phủ Lâm Bình. @ Châu Hóa: vào năm 1242 chưa có châu Hóa bởi vì mãi đến năm 1306 Trần Anh Tông mới đổi tên châu Ô thành Thuận châu và châu Lý thành Hóa châu.(THCLC/Địa dư chí/Thuận Hóa) 12 Thuế Nhân đinh: một mẫu nộp một quan tiền, ba mẫu hay 4 mẫu nộp 2 quan, từ 5 mẫu trở lên nộp 3 quan. (Thời Pháp thuộc cũng có loại thuế tương tựa gọi là thuế thân rồi về sau đổi gọi là thuế lợi tức cá nhân). 13 Thuế ruộng: mỗi mẫu nộp 100 thăng lúa. ai không có ruộng đất thì được miễn nộp thuế. (Thời Pháp thuộc gọi là thuế điền thổ hay thuế thổ trạch). KHẢO LUẬN Về việc Trần Liễu hiếp dâm vợ của cha mình :
25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40
Cho đến năm 1236, năm xảy ra câu chuyện hãm hiếp của Trần Liễu, có thể nói rằng chỉ có nhan sắc 2 người phi cũ của triều Lý là có khả năng khơi động được bản tính dâm dục của dòng họ nhà Trần nói chung và Trần Liễu nói riêng. Hai người phi đó là : *Nguyên phi An Toàn họ Đàm, vợ của Lý Cao Tông. Người đàn bà nầy có thể là quá già so với tuổi của Trần Liễu. *Nguyên phi Trần thị (Dung) vợ của Lý Huệ Tông, rồi bỏ Lý Huệ Tông để lấy em trai mình là Trần Thủ Độ. Tuy nhiên, nếu đọc lại sử cố viết về năm 1226 thì thấy rằng, sau khi ám sát Lý Huệ Tông,Thủ Độ đã đưa các cung nhân và con gái họ hàng của Lý Huệ Tông đem gả cho các tù trưởng Mán Mường, nhất định trong số đó có cả vợ của Lý Cao Tông là hoàng hậu An Toàn họ Đàm. Kế đến, năm 1231, Thủ Độ lại tru diệt hết tôn thất nhà Lý bằng cách chôn sống. Như vậy, chẳng còn ai gọi là người phi cũ của nhà Lý sống sót ngoại trừ một người phi cũ của Lý Huệ Tông: đó là nguyên phi Trần thị (Dung).
VSTK - 307
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
Như vậy không có gì đáng ngạc nhiên mà cũng không có gì trở ngại để suy luận rằng chuyện hiếp dâm nầy trong lịch sử rốt cuộc cũng chỉ là một trò dâm loạn giữa kẻ bề trên thuộc hàng cô dì là Trần thị với kẻ bề dưới thuộc hàng con cháu là Trần Liễu. Trần thị đã không sợ dư luận, thản nhiên lấy em trai mình làm chồng thì không lý do gì để y thị e dè mà không làm trò dâm loạn với cháu trai mình là Trần Liễu. Câu chuyện đổ bể và muốn tránh tai tiếng, Trần thị phải báo cáo láo lên Trần Thủ Độ rằng Trần Liễu đã cưỡng dâm mình mà sử cũ viết láo là triều thần hặc tấu. Sau đó ta thấy có sự bất hòa giữa Trần Liễu với Trần Thủ Độ và Trần Liễu suýt bị Thủ Độ đánh ghen chém chết nếu Trần Liễu đã không được Trần Thái Tông che chở.
TRẦN THÁI TÔNG (tiếp theo) 12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
Quý Mão, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 12 (1243), tháng Giêng, ra lệnh cho các tỉnh lộ làm sổ hộ khẩu. Giáp Thìn, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 13 (1244), bổ nhiệm1 các quan văn đi làm việc ở các lộ2, phủ, châu. Chức quan văn ở lộ là Thông phán3, ở phủ là Tri phủ, ở Châu là Tào vận sứ4 chánh, phó . Ấn định án phạt trong hình luật và pháp luật5. Định cấp lương bổng cho các hàng quan chức6. Ất Tỵ, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 14 (1245), lũ lụt, mưa bảo làm vỡ đê Long Đàm7.
Canh Ngọ, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 15 (1246), tháng 2, xếp đặt tên gọi cho các hàng quân lấy từ các lộ tỉnh8, để lập thành quân đội túc trực phòng vệ và đội quân bảo vệ riêng của nhà vua9. Tháng 7, ấn định hạn kỳ10 thi Đại tiến sĩ, mỗi 7 năm thi một lần. Đinh Mùi, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 16 (1247), tháng 2, mở khoa thi tiến sĩ11 có xếp hạng đỗ cao thấp12. Trong khóa thi nầy, Nguyễn Hiền đỗ tiến sĩ hạng nhất 13 Lê Văn Hưu@ đỗ tiến sĩ hạng nhì14, Đặng Ma La đỗ tiến sĩ hạng ba15 và 48 người khác đỗ tiến sĩ hạng thường. VSTK - 308
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
Tháng 8, mở khoa thi về 3 giáo phái có xếp hạng cao thấp16. Mậu Thân, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 17 (1248), tháng 2, ra lệnh cho các tỉnh lộ đắp đê phòng lụt theo kiểu quai vạc, từ đầu nguồn sông chạy suốt dọc ra đến cửa biển17. Tháng 4, dựng cầu Lâm Ba bắt ngang qua ao Ngoạn Thiền ở chùa Chân Giáo. Tháng 6, Lý Thuận Thiên chết và sau nầy được Trần Thánh Tông truy tôn là Hiển Tử Thuận Thiên hoàng thái hậu18. Sai các đạo sĩ19 đi trấn yểm20 ma quỉ ở khắp các núi sông. Tân Hợi, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 18 (1251), tháng Giêng, Trần Quốc21 Tuấn thông dâm với cô ruột của mình là công chúa Thiên Thành22. Việc nầy vỡ lở cho nên Trần Thái Tông đành phải mở tiệc yến trong nội điện để gả cưới Thiên Thành cho Quốc Tuấn. Đến lúc rượu sai, vua quan đều nhảy múa mất cả thể thống, tư cách, luôn cả quan ngự sử Trần Chu Phổ23 cũng hưởng ứng bằng cách vỗ tay nghêu ngao hát theo và lặp đi lặp lại câu: "Sử quan ca rằng, sử quan ca rằng24".( Ghi chú của VSTK: Sử quan ở đây tức là ngự sử quan chứ không phải là quan chuyên lo về việc viết lịch sử). Tháng 4, Trần Liễu chết. Nhâm Tý, Nguyên Phong năm thứ 2 (1252), tháng Giêng, Trần Thái Tông tự cầm quân đi đánh Chiêm Thành25 tạm giao việc giữ kinh đô cho Nhật Hiệu26. Tháng 12, rút quân về, bắt vợ của vua Chiêm27 và tù binh đem về. Năm Quý Sửu, Nguyên Phong năm thứ 3 (1253). Tháng 4, thăng chức cho Nhật Hiệu làm thái úy. Tháng 6, thiết lập viện Quốc học, đắp tượng Chu Công, Khổng Tử, Mạnh Tử và họa hình 72 người học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử28 để thờ phụng. VSTK - 309
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
Tháng 8, lập nhà giảng võ. Tháng 9, cho phép Nho học sinh trong nước được vào trường Quốc Tử để nghe giảng dạy về Kinh Thư29. Giáp Dần, Nguyên Phong năm thứ 4 (1254), bán ruộng công cho dân30 . Ất Mão, Nguyên Phong năm thứ 5 (1255), tháng 2, bồi đắp các đê sông ở phủ Thanh Hóa. Sau đó, những tỉnh lộ nào có đê đập thì đặt người hằng năm chuyên lo chăm sóc đê, ruộng đất, sông ngòi, đề phòng thủy tai, hạn hán gọi là Hà đê chánh, phó sứ. Trần Nhật Duật, con trai thứ 6 của Trần Thái Tông sinh. Bính Thìn, Nguyên Phong năm thứ 6 (1256), tổ chức thi tiến sĩ ở kinh đô và ở các tỉnh lộ cùng một lúc31. Vét sông Tô Lịch. Đúc một loạt nhiều chuông đồng. Đinh Tỵ, Nguyên Phong năm thứ 7 (1257), tin từ trại Quy Hóa31(bis) báo cho biết quân Mông Cổ động binh ở biên giới giữa hai nước và sai sứ sang ra lệnh cho nhà Trần phải chịu thần phục. Trần Quốc Tuấn được lệnh cầm quân đi trấn giữ. Tháng 12, quân Mông Cổ32 do Uriyangqadai33 chỉ huy tràn sang, tiến xuống đến vùng địa phận sông Thao. Trần Thái Tông tự cầm quân với sự phụ tá của Lê Phụ Trần đi chống cự nhưng bị thua phải rút quân lui về khu vực sông Phú Lương34 . Quân Mông Cổ chiếm thành Thăng Long, Trần Thái Tông được Lê Phụ Trần hộ tống rút chạy về Sơn Nam, lập tuyến phòng thủ tại khu vực sông Thiên Mạc35 thuộc huyện Đông Yên, Phủ Khoái Châu, phía Bắc trấn Sơn Nam. Thái Úy Trần Nhật Hiệu bí mật cố vấn bảo Trần Thái Tông nên đầu hàng nhà Tống36. Trần Thái Tông bàn định với Trần Thủ Độ, Thủ Độ quyết định tiếp tục chống cự37.
VSTK - 310
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
Quân Mông vào thành Thăng Long, giết hết dân chúng trong thành nhưng không thể ở lại lâu vì không hạp với khí hậu, phải rút lui. Trần Thái Tông cùng thái tử Hoảng38 hay tin quân Mông rút lui liền quay trở về Thăng Long. Quân Mông lui trở về Quy Hóa nhưng lại bị người địa phương39 tập kích ở đó cho nên cuối cùng phải rút quân về Vân Nam. Mậu Ngọ, Nguyên Phong năm thứ 8 (1258), Trần Thái Tông định công trạng và phong tước cho Lê Phụ Trần chức ngự sử đại phu và đem vợ cũ của mình là Lý Chiêu Hoàng gả cho. Sau khi đánh đuổi nhà Tống và chiếm gần trọn nước Trung Hoa, vua Mông Cổ cho sứ sang đòi nhà Trần phải thần phục, triều cống. Trần Thái Tông phải cử Lê Phụ Trần sang Tàu để thương lượng với Mông Cổ, định mỗi 3 năm triều cống một lần. Tháng hai năm Mậu Ngọ (1258),Trần Thái Tông nhường ngôi cho thái tử Hoảng để làm thái thượng hoàng. CHÚ GIẢI :
20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37
Bổ nhiệm các quan văn cai trị các lộ: năm 1242, đã đặt ra chức an sứ chánh phó để giữ việc cai trị mỗi lộ. Năm 1244 lại bổ nhiệm các quan văn chia nhau đi cai trị các lộ. Việc nầy ĐVSKTT cũng như KĐVSTGCM không có một giải thích nào rõ ràng. Về việc cắt đặt ở năm 1242, LTHCLC/Quan chức chí/ Phan Huy Chú viết: "Năm thứ 11 (1242), đặt chức an phủ, trấn phủ ở các lộ, mỗi chức đều có một viên chánh, một viên phó". Theo cách viết của Phan Huy Chú thì trong mỗi lộ có 2 ngạch quan nắm giữ việc cai trị: một người chánh và một người phó coi về an ninh trấn đóng, gọi là trấn sứ chánh, phó, thường được giao cho những hàng quan võ có kinh nghiệm về quân sự và phòng vệ nhưng không có khả năng về các việc hành chánh, thuế khóa và hộ tịch. Một người chánh và một người phó khác cai quản vấn đề hành chánh, hộ tịch, tài chánh, kiện tụng gọi là an sứ chánh, phó. Vậy có thể suy diễn rằng: chức vụ An sứ ở lộ hoặc ở phủ trước năm 1244 do trấn sứ kiêm nhiệm. Về sau cho rằng quan võ không có học thức và kinh nghiệm trong trong các vấn đề về mặt an sinh hành chính, và hơn nữa việc kiêm nhiệm sẽ làm giảm sút hiệu năng quân sự, phòng thủ của trấn sứ cho nên đến năm 1244 Trần Thái Tông mới bỏ sự kiêm 1
VSTK - 311
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
nhiệm và bổ nhiệm các quan văn chia nhau đi giữ chức vụ An sứ ở các lộ hoặc phủ và có thể coi như là người phó của trấn sứ. Ở cấp xã thì có các xã quan coi việc hành chánh hộ tịch và xã trưởng giữ việc an ninh phòng vệ. 2 Lộ: ĐVSKTT viết là các phủ, lộ trong nước gồm 12 nơi. KĐVSTG viết là 12 lộ. LTHCLC/ Dư địa chí chỉ kê khai 10 lộ. 3 Thông phán: đời Lý là chức phó của trấn sứ. Năm 1242, Trần Thái Tông gọi là an sứ, coi về hành chánh, hộ tịch, thuế khóa, kiện tụng. . .v.v. . .ở cấp lộ. Đến năm 1244 lại đổi là Thông phán. Tri phủ: năm 1242 Trần Thái Tông gọi là an phủ sứ. 4 Tào vận chánh phó sứ: tức là chức tri châu đời nhà Lý. 5 Ấn định án phạt trong hình luật và pháp luật: ĐVSKTT viết: "Định các thể thức về luật hình" còn KĐVSTGCM thì: "Định luật hình". Ở đây cho thấy là thời phong kiến chưa có sự phân biệt rõ ràng về luật pháp và án phạt; cả hai lĩnh vực nầy đều hỗn đồng lẫn lộn vào nhau: khi định một loại tội phạm thì thường kèm theo phần phạt, không phân biệt hình sự hay thường sự mà chỉ gọi chung là luật hình. LTHCLC/viết: "Xét: Sách Cố Sự Sao nói: "Hình pháp nhà Trần rất tàn khốc, kẻ ăn trộm và kẻ trốn tránh thì bị chặt ngón chân, giao cho người chủ nhà được xử trị theo ý mình hoặc cho voi giày đạp nát thây ". Có lẽ ngoài luật thường ra, nhà Trần lại đặt thêm những hình phạt nghiêm khắc này để trừ cho hết kẻ trộm đạo chăng?. . .Hình pháp các đời Lý Trần không thể biết rõ từng điều tỉ mỉ kỹ càng. Buổi đầu định ra luật cách tưởng cũng là dùng theo chế độ các đời Đường, Tống. . " 6 Định cấp lương bổng: trước kia đã có ấn định bằng cách cho lấy từ tiền thu thuế theo tỷ lệ số thuế thu được. Đến nay định lại ngạch lương bổng tùy theo cấp bậc, ngạch trật lớn nhỏ khác nhau. 7 Đê Long Đàm: tên huyện thời nhà Trần; thời thuộc Minh đổi là Thanh Đàm; thời nhà Lê đổi là Thanh Trì; nay là đê Thanh Trì, Hà Nội. 8 Đặt tên gọi cho các hàng quân túc trực phòng vệ: tuyển lựa người khoẻ mạnh đưa vào 3 đoàn quân phòng vệ có tên là Tứ Thiên, Tứ Thánh, Tứ Thần ; đoàn quân Tứ Thiên gồm có 2 đội Thiên Thuộc và 2 đội Thiên Cương; đoàn quân Tứ Thánh gồm có 2 đội Thánh Chương và 2 đội Thánh Dực; đoàn quân Tứ Thần gồm có 2 đội Thần Sách và 2 đội Thần Củng. Cung ứng quân số cho các đoàn quân phòng vệ nầy bằng cách bắt lính ở các lộ Thiên Trường (nay là Nam Hà), lộ Long Hưng (nay là Thái Bình), lộ Hồng (vùng phía Tây Hải Dương ngày nay), lộ Khoái (vùng phía Nam tỉnh Hưng Yên), lộ Trường Yên (nay là Ninh Bình), lộ Kiến Xương (nay là vùng nam Thái Bình). Còn các lộ khác thì cung cấp người sung vào đoàn quân bảo vệ riêng cho nhà vua ở triều cung và đội lính khiêng kiệu võng. Theo LTHCLC/ Binh Chế chí/ Phan Huy Chú thì vào thời Trần Thái Tông mỗi đội quân gồm có 2,400 người. Các quân cấm vệ và các đoàn
VSTK - 312
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
quân phòng vệ kinh đô ước chừng chưa được tới số 100,000 người. Quân số chưa tới 100,000 có lẽ là quân số chủ lực trong thời bình không có giặc giã. Còn số quân trừ bị ở mỗi lộ thì lúc thời bình được cho về nhà làm ruộng lo việc sản xuất và chỉ bị gọi động viên khi có giặc xăm lăng từ nước ngoài. 9 Quân bảo vệ riêng của vua: gọi là đoàn quân cấm vệ. Ấn định hạn kỳ thi đại tiến sĩ: ĐVSKTTviết là: Đại tỷ tiến sĩ; KDVSTGCM cũng gọi là thi đại tỷ và viết thêm ở phần mục như sau: "Bấy giờ thi đại tỷ chưa có định kỳ niên hạn, nay ấn định cứ mỗi 7 năm thì thi một lần. Định kỳ thi cử bắt đầu có từ đấy". Như vậy Đại tỷ, có thể hiểu theo 2 cách: 10
Hiểu theo cách thứ nhất: hoặc là cứ 7 năm một lần thì tổ chức cho những người đã đỗ kỳ thi Thái học sinh (bằng tiến sĩ hạng thường) để cho dự tranh lấy bằng đại tiến sĩ mà sử củ gọi là đại tỷ tiến sĩ có xếp hạng thấp cao: đại tỷ thứ 1 gọi là trạng nguyên, đại tỷ thứ 2 gọi là bảng nhãn, đại tỷ thứ 3 gọi là thám hoa. Hiểu theo cách thứ hai: Nếu trong số người cũ đã đỗ Thái học sinh từ trước không có ai ra dự tranh thì sẽ lấy ba người đỗ đầu từ kỳ thi Thái học sinh được tổ chức cùng một lúc với kỳ thi đại tỷ để xếp hạng trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa. Cách tổ chức thi cử của nhà Trần đã theo cách thức của người Trung Hoa: Sách Chu Lễ cho biết: những người giữ chức khanh, đại phu, cứ mỗi 3 năm một lần đại tỷ để xét về đức hạnh, đạo nghệ, kẻ nào là hiền tài thì được cất nhắc. 11 Khoa thi tiến sĩ : tức là khoa thi Thái học sinh. 12 Có xếp hạng đỗ cao thấp: trước kia hai khoa Nhâm Thìn (1232) và Kỷ Hợi (1239) xếp cao thấp theo Giáp, Ất; đến khoa thi nầy mới có xếp hạng gọi là tam khôi. 13 Tiến sĩ hạng nhất: tức là trạng nguyên. 14 Tiến sĩ hạng nhì: tức là Bảng Nhãn 15 Tiến sĩ hạng ba: tức là Thám Hoa. 16 Thi tam giáo có xếp hạng: tam giáo là Nho giáo, Thích giáo, Phật giáo và lấy bậc Giáp, Ất cũ của các kỳ thi Thái học sinh trước đây để xếp hạng cao thấp. 17 Đắp đê phòng lụt kiểu quai vạt: sử cũ gọi là đê Đỉnh Nhĩ. 18 Hiếu Từ Thuận Thiên hoàng thái hậu: là con gái lớn của Lý Huệ Tông, chị của Lý Chiêu Hoàng, nguyên trước đây là vợ của Trần Liễu, lúc mang thai đã bị Trần Thủ Độ và Trần thị Dung bắt ép phải lấy Trần Thái Tông. Ở đây có thể sử cũ đã chép sai khiến cho người đọc hiểu lầm là do Trần Thái Tông truy phong cho Lý thuận Thiên chức Hiếu Tử Thuận Thiên hoàng thái hậu có nghĩa là Lý thị là mẹ ruột của Trần Thái Tông. 19 Đạo sĩ: người theo một giáo phái và tự nhận giáo phái mình có nhiều pháp thuật quỉ quái như trù yểm, cầu mưa, trấn áp yêu tinh. 20 Trấn yểm: đè nén, kiềm hãm không cho hoạt động.
VSTK - 313
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43
Trần Quốc Tuấn: tức Hưng Đạo Vương, con trai thứ của Trần Liễu. 22 Công chúa Thiên Thành: con gái út của Trần Thừa, em gái út của Trần Liễu tức là cô, dì của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. 23 Trần Chu Phổ: quan ngự sử của Trần Thái Tông, có nhiệm vụ can ngăn những việc làm sai quấy của vua và của các quan trong triều chứ không phải là quan viết sử. 24 Sử quan ca rằng: ở đây có nghĩa là quan ngự sử ca rằng chứ không phải là quan viết sử ca rằng như sử sách thời trước đây đã giải thích. 25 Đánh Chiêm Thành: ĐVSKTT và KĐVSTGCM viết rằng Trần Thái Tông bắt được vợ của vua Chiêm Thành cùng với nhiều thê thiếp và dân Chiêm đem về nước. 26 Nhật Hiệu: là con của Lý Thuận Thiên và Trần Liễu. Khi Lý Thuận Thiên đang có thai Nhật Hiệu thì bị Trần Thủ Độ ép phải bỏ Trần Liễu để lấy em trai của Trần Liễu là Trần Cảnh tức Trần Thái Tông. 27 Vua Chiêm: lúc đó là Bố Gia La. 28 Khổng Tử: (551-479), tên là Khưu, người nước Lỗ (năm 1941 thuộc tỉnh Quảng Đông của nước Trung Hoa) trước làm quan Đại tư khấu (coi về việc hình) ở nước Lỗ rồi lên đến chức nhiếp sự tướng. Sau đó bị vua nước Lỗ không còn muốn dùng, Khổng Tử phải đi khắp các nước chư hầu trong 14 năm để tìm đường làm quan nhưng chẳng có nước nào chịu dùng. Khổng Tử thất vọng quay về nước Lỗ viết sách và thu nhận học trò. 29 Kinh Thư: gồm có 5 quyển Kinh và 4 quyển Thư là những sách làm gốc cho Nho giáo và là kinh điển của các người theo Nho giáo. *Tứ Thư: tức là 4 quyển sách Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử. 21
*Ngũ Kinh: tức là 5 quyển sách Kinh. Ngày trước có 6 Kinh nhưng vua Trung Hoa là Tần Thủy Hoàng(246-209) trong chiến dịch đốt sách đã thiêu hủy gần hết một quyển Kinh Nhạc cho nên chỉ còn lại có 5 Kinh là: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ Ký, Kinh Xuân Thu.
Bán ruộng công cho dân: ĐVSKTT và KĐVSTGCM viết rằng cứ mỗi diện (tức là mỗi mẫu) thì nhà nước bán ra cho dân với giá là 5 quan tiền. Ruộng công nguyên văn chữ Hán phiên âm ra là quan điền. 31 Tổ chức thi tiến sĩ ở kinh đô và ở tỉnh: sử cũ gọi là Kinh, Trại. Trại bao gồm các tỉnh từ Thanh Hoá, Nghệ An trở xuống phía Nam, còn từ Thanh Hoá trở lên phía Bắc thì gọi là Kinh. Người đỗ đầu tiến sĩ ở Trại thì gọi là Trại trạng nguyên, ở Kinh đô thì gọi là Kinh trạng nguyên. 31bis Quy Hóa: là vùng đất nằm giữa hai tỉnh Phú Thọ và Yên Bái. 32 Mông Cổ: nước Mông Cổ ở phía Bắc nước Trung Hoa, vùng thượng lưu sông Amour. Họ đánh giặc giỏi, có tài cưỡi ngựa, bắn cung; 30
VSTK - 314
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25
quân đội có kỹ luật và thiện chiến. (xin đọc thêm nơi phụ bản II viết về Mông Cổ). 33 Uriyangqadai: có sách viết là Wouleangotai và dịch là Ngột Lương Hợp Thai hay Ngột Lương Cáp Thai. 34 Sông Phú Lương: KĐVSTGCM viết rằng sông Phú Lương trên liền với sông Bạch Hạc tỉnh Sơn Tây, dưới thông với sông Đại Hoàng tỉnh Nam Định chảy suốt ra biển. Theo cách mô tả nầy thì sông Phú Lương tức là hai nhánh của sông Hồng ngày nay. 35 Sông Thiên Mạc: ở hạ lưu sông Phú Lương tức là đoạn sông Hồng chảy qua xã Tân Châu, huyện Châu Giang, tỉnh Hải Hưng hiện nay. 36 Đầu hàng nhà Tống: hai bộ sử cũ đều viết rằng Nhật Hiệu khi được Trần Thái Tông hội ý về việc chống cự quân Mông Cổ đã xúi Trần Thái Tông chạy sang Trung Hoa nương cậy nhà Tống bằng cách lén viết ở bên mạn thuyền hai chữ "nhập Tống". 37 Trần Thủ Độ quyết định tiếp tục chống cự: Hai bộ sử đều viết lại những lời nói của Trần Thủ Độ với Trần Thái Tông như sau: "Đầu của tôi chưa rơi xuống đất thì bệ hạ chớ có nghĩ ngợi chuyện khác". 38 Thái tử Hoảng: sau nầy lên ngôi vua tức là Trần Thánh Tông, con trai đích trưởng của Trần Thái Tông và Lý Thuận Thiên. Trước Hoảng còn có một người anh trai cùng mẹ khác cha là Trần Quốc Khang. Bố đích thật của Quốc Khang là Trần Liễu. 39 Quân Mông Cổ bị người địa phương tập kích ở Quy Hóa: do chủ trại Quy Hóa là Hà Bổng chiêu tập dân quân người Mán đánh úp. Sau khi quân Mông Cổ rút lui, Trần Thái Tông thưởng cho Hà Bổng tước hầu. KHẢO LUẬN: I/ Về việc đắp đê phòng lũ lụt ở hai bên bờ sông Hồng:
26 27 28 29 30 31 32 33
Theo lời phê của vua Tự Đức thì việc bắt đầu đắp đê dưới thời nhà Trần vào năm Mậu Thân (1284) là một việc làm thất cách, rất tai hại cho các thế hệ sau này phải gánh chịu. Lời phê của Tự Đức hợp lý nhưng Tự Đức không đưa ra một phương cách nào khác để phòng chống lụt lội ở vùng trung châu Bắc Việt Nam lúc đó. Thời bấy giờ, phương tiện kỹ thuật đào vét sông ngòi kinh rạch chưa có cho nên chỉ còn có mỗi một phương cách là đắp đê để phòng chống lụt lội mà thôi. II/ Về việc Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn thông dâm với người cô ruột của mình là công chúa Trần Thiên Thành:
34 35 36
Ngô Sĩ Liên nói: "Thái Tông đem (em gái) Thiên Thành công chúa gả xuống cho Trung Thành Vương (người trong thân tộc họ Trần), nhưng công chúa lại về với Hưng Đạo vương, việc hôn nhân rất là bất VSTK - 315
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23
chính. . .Vì vua (Trần Thái Tông) đã bất chính trong đạo vợ chồng, cho nên người bề dưới cũng bắt chước. Hơn thế nữa, hôn nhân chẳng lấy người khác họ mà lại lấy người cùng họ thì chỉ có nhà Trần làm thế. Trong việc trái lễ, thì nay lại trái lễ nữa"(ĐVSKTT/ BK.5/ 18b). Trong KĐVSTGCM, Tự Đức phê như sau: "Trần Quốc Tuấn là người văn võ toàn tài, đủ cả trung lẫn hiếu duy chỉ có một vết xấu to lớn nầy cho nên không được coi như là một con người hoàn toàn. Có lẽ cái thói chung chạ của nhà họ Trần đã ăn sâu vào đầu óc đến nỗi bọn họ cho việc ấy là tự nhiên không có gì gọi là quái lạ".
Nguyễn Nghiễm, đệ nhị giáp tiến sĩ khoa Tân Hợi, năm Vĩnh Khánh thứ 3 (1731), Tổng tài Quốc sử quán đời Lê Hiển Tông (1740-1786) có lời bàn như sau:" Nước với đất bản chất đều thuộc về phần âm, nước lớn, đất động đều là do khí âm không điều hòa. Suốt đời Trần Thái Tông có 6 lần lũ lụt (những năm 1233, 1236, 1238, 1243, 1245 và năm 1255), 3 lần động đất (1240, 1247, 1250), một lần đất nứt ra (1241), đó là bởi cái lỗi trên dưới loạn dâm làm cho khí dương mất tiết độ mà khí âm tự phóng túng thế mà lúc đó không thấy tỏ ra một dấu hiệu gì là sợ hãi, tự sửa sai. Tai biến xảy ra liên tục vậy mà vẫn xem thường, Vua thì khi nước dâng cao mà ra chơi du ngoạn Hồ Tây (1255), bầy tôi thì nhân khi nước to mà hiếp dâm cung nữ (chỉ việc Trần Liễu hiếp dâm một người vợ cũ của nhà Lý ở cung Lệ Thiên vào năm 1236). Lấy việc tai ương làm trò vui, chỉ ham mê dâm dật cho thỏa thích, chưa bao giờ thấy có sự quá độ như vậy ". III/ Về trận chiến năm 1257 giữa quân nhà Trần và quân Mông Cổ:
24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41
ĐVSKTT cũng như KDVSTGCM không thấy mô tả rõ ràng trận chiến lần thứ nhất nầy giữa quân Mông Cổ và quân của Trần Thái Tông. Sử cũ viết một cách mơ hồ rằng: khí thế quân Mông Cổ rất mạnh tiến thẳng đến Đông Bộ Đầu. Như vậy có nghĩa là quân Mông Cổ chỉ mới tràn đến phía Đông sông Nhị Hà tức là thành Thăng Long chỉ bị quân Mông Cổ vây hãm chứ chưa mất. Sau đó sử cũ lại viết tiếp rằng quân Mông Cổ đuổi gấp, bắn phá tứ tung, Lê Phụ Trần phải lấy cái sạp thuyền che đỡ cho Trần Thái Tông rút chạy về vùng sông Thiên Mạc/ Hưng Yên (nay thuộc tỉnh Hải Hưng) tức là quân Mông Cổ đã vào thành Thăng Long và Trần Thái Tông phải bỏ kinh đô để chạy về Hưng Yên. Trong lúc nầy, sử cũ cũng không nhắc nhở gì tới tên Trần Thủ Độ mà chỉ thấy có một Lê Phụ Trần xong pha giữa làn tên mũi giáo của quân Mông Cổ để hộ tống Trần Thái Tông chạy thoát về Hưng Yên. Sách sử của nhà Nguyên (Mông Cổ) và Cương Mục tục biên của Trung Quốc đều cho biết rằng Ngột Lương Hợp Thai sau khi đã chiếm được nước Đại Lý (nay thuộc tỉnh Vân Nam,Trung Hoa) liền sai sứ ba VSTK - 316
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
lần sang bảo Trần Thái Tông phải đầu hàng nhưng cả ba lần đều không thấy sứ trở về, bấy giờ quân Mông Cổ mới chia đường tiến quân, nhân thế thắng kéo vào chiếm thủ đô Thăng Long, khi vào thành, thấy 3 người sứ của họ được sai sang từ trước còn bị giam trong ngục của nhà Trần, người nào cũng bị những nan tre bó chặt vào người cứa sát da thịt, khi được quân Mông cởi trói ra thì một người đã chết; quân Mông Cổ liền tàn sát hết cả dân chúng còn bị kẹt ở lại trong thành rồi đóng quân ở đây được 9 ngày, nhưng vì không chịu được thời tiết oi bức nóng nực, phải rút về. Lại sai sứ giả đến dụ hàng, Trần Thái Tông tức giận về việc quân Mông tàn phá cho nên lại bắt trói hai sứ Mông Cổ rồi đuổi về . Sách sử cũ Trung Hoa và Nguyên Mông (Nguyên Mông: sau khi chiếm toàn lãnh thổ nước Trung Hoa, Mông cổ đổi xưng là nhà Nguyên) viết là quân Mông tự động rút về còn sách sử cũ của Việt Nam thì viết quân Mông bị quân của nhà Trần đánh thua cho nên phải bỏ chạy về Đại Lý (Vân Nam). Như vậy, có thể suy diễn về trận chiến năm 1257 giữa quân Mông Cổ và quân nhà Trần như sau: Sau khi chiếm được nước Đại Lý (Vân Nam), quân Mông Cổ cho sứ sang bảo nhà Trần về quy phục nhưng Trần Thái Tông không nghe theo mà còn bắt giữ sứ của Mông Cổ cho nên quân Mông Cổ tràn sang đánh chiếm các vùng Phú Thọ, Yên Bái rồi tiến quân thẳng xuống vùng sông Nhị Hà bao vây thủ Đô Thăng Long (Hà Nội). Trần Thái Tông phải bỏ thủ đô Thăng Long chạy về trấn Sơn Nam, lập tuyến phòng thủ tại khu vực sông Thiên Mạc ở huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu; tuyến phòng thủ nầy nằm về phía Bắc trấn Sơn Nam. Quân Mông vào thành Thăng Long, tàn sát , vơ vét, cướp bóc, đốt phá nhưng chỉ ở lại trong thành một thời gian rất ngắn rồi rút quân về Trại Quy Hóa vì không chịu được phong thổ và thời tiết ở Thăng Long. Trần Thái Tông nghe tin quân Mông đã rút lui mới quay trở về Thăng Long; nhưng ĐVSKTT và KĐVSTGCM lại viết thêm rằng quân Trần Thái Tông chận đánh tan quân Mông ở Đông Bộ Đầu (Vùng thượng lưu sông Nhị Hà). Rất có thể đoạn viết thêm nầy làchỉ nhằm tô vẽ, tuyên truyền, quảng cáo cho Trần Thái Tông mà thôi chứ trên thực tế lúc đó chắc không có việc nhà vua (Trần Thái Tông) đánh tan quân Mông Cổ ở Đông Bộ Đầu. Có thể còn một lý do khác nữa khiến cho quân Mông Cổ phải rút quân nhanh về Vân Nam. Lý do đó là vì lúc nầy quân Mông Cổ vừa mới chiếm được nước Đại Lý và lại tiến quân quá sâu xuống phía Đông Nam để đánh với quân nhà Trần. Nếu trong thời gian nầy quân của nhà Tống đưa quân tràn sang biên giới Việt Nam để chận đánh quân Mông Cổ (trường hợp Trần Thái Tông nghe lời Trần Nhật Hiệu nhập Tống) và quân của Trần Thái Tông từ vùng Thiên Mạc (Sơn Nam) phản công trở lại thì quân Mông Cổ ở Thăng Long sẽ bị kẹp ở giữa trong thế gọng
VSTK - 317
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19
kiềm và sẽ bị tiêu diệt. Vì thế cho nên quân Mông vội vàng bỏ Thăng Long, rút nhanh quân về nước Đại Lý (nay là tỉnh Vân Nam của Trung Hoa) vừa mới chiếm được. Có một điểm đáng chú ý cần nêu ra: tại sao Trần Thái Tông sau khi bỏ thành Thăng Long lại lui về lập tuyến phòng thủ ở phía Bắc trấn Sơn Nam ? Bởi vì ở phía Đông trấn Sơn Nam có làng Tức Mạc, mà làng Tức Mạc là quê hương của tổ tiên dòng họ nhà Trần cho nên Trần Thái Tông mới lui về Sơn Nam để lập phòng tuyến chống giữ. Đến năm 1262, Trần Thánh Tông nâng cấp làng Tức Mạc lên làm phủ Thiên Trường, dựng cung Trùng Quang, cung Trùng Hoa và chùa Phổ Minh ở đó. Các vua nhà Trần sau khi nhường ngôi cho con đều về ở nơi nầy. Thời Nguyễn Huệ (nhà Tây Sơn) trấn Sơn Nam chia thành 2 trấn: Sơn Nam thượng và Sơn Nam hạ. Thời nhà Nguyễn (Gia Long), tháng 12 năm Nhâm Ngọ (1822) vua Minh Mạng đổi tên Sơn Nam Thượng là Sơn Nam còn Sơn Nam hạ đổi thành phủ Nam Định gồm một phần huyện Xuân Thủy, Nam Trực, Trực Ninh và thành phố Nam Định (bây giờ là tỉnh Nam Hà); làng Tức Mạc thuộc thành phố Nam Định .
VSTK - 318
CHƯƠNG II
TRẦN THÁNH TÔNG ( 1258 - 1278 ) Niên hiệu : Thiệu Long (1258-1272) Bảo Phù (1273-1278).
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
Thái tử Trần Hoảng sinh ngày 25 tháng 9 năm Canh Tý (1240), lên ngôi vua tức là Trần Thánh Tông, đổi niên hiệu là Thiệu Long, tôn Trần Thái Tông là Hiễn Nghiêu Thánh Thọ thái thượng hoàng, truy tôn cho mẹ sinh là Lý Thuận Thiên đã chết1 từ năm 1248 làm Hiển Tử Thuận Thiên hoàng thái hậu. Lập con gái của Trần Liễu2 là Trần thị Thiều3 làm hoàng hậu. Mậu Ngọ, ngày 11, tháng 11, Thiệu Long năm thứ 1 (1258) đứa con thứ nhì4 của Trần Thánh Tông là trưởng hoàng tử Khâm sinh. Cùng trong tháng 11 nầy, Trần Thánh Tông phong cho em Trần Quang Khải chức Chiêu Minh Đại Vương. Kỷ Mùi, Thiệu Long năm thứ 2 (1259), tháng 2, Trần thị Dung chết và được Trần Thánh Tông truy phong là quốc mẫu5. Trần thị Dung là chị và cũng là vợ của Trần Thủ Độ. Tháng 6, phong cho Lê Phụ Trần làm thủy quân đại tướng. Tân Dậu, Thiệu Long năm thứ 4 (1261), tháng 2, bắt lính6. Sứ Nguyên Mông sang chiêu dụ. Trần Thánh Tông cử sứ mang thư sang đáp lễ. Nguyên Mông phong cho Trần
Thánh Tông chức An Nam Quốc Vương và ấn định điều kiện triều cống7, mỗi 3 năm triều cống một lần, bắt đầu từ năm 1263, lại tự động bổ nhiệm người của Mông Cổ sang và ở lại giám sát việc cai trị8 của triều đình nhà Trần. Trong nước, Trần Thánh Tông bổ dụng Trần Quang Khải làm thái úy. VSTK - 319
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
Nhâm Tuất, Thiệu Long năm thứ 5 (1262), đổi hương Tức Mạc làm phủ Thiên Trường, dựng cung Trùng Quang, cung Trùng Hoa và chùa Phổ Minh ở đó. Ra lệnh cho quân đội chuẩn bị vũ khí và tập trận ở vùng ven sông Bạch Hạc9 ở trấn Sơn Tây. Giáp Tý, Thiệu Long năm thứ 7 (1264), Trần Thủ Độ chết, thọ 71 tuổi. Ất Sửu, Thiệu Long năm thứ 8 (1265) tháng 3, con thứ ba của Trần Thánh Tông tên là Trần Đức Việp sinh. Tháng 3, thi Tiến sĩ. Tháng 10, cho phép dòng họ vương tộc bắt dân nghèo làm nô tỳ khai khẩn đất hoang để lập thành ruộng đất và nông trại riêng: vương hầu có điền trang riêng bắt đầu từ đó. Đinh Mão, Thiệu Long năm thứ 10 (1267), định thể lệ lập ngọc điệp (gia phả)10 nhánh chính trong dòng họ của vua. Tháng 4, cho những người có học vào làm việc ở quán, các, sảnh và viện11.
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
Tháng 5, Trần Thánh Tông phong cho em là Trần Ích Tắc12 tước Chiêu Quốc Vương. Tháng 8, lại phong cho em Trần Nhật Duật làm Chiêu Văn Vương. Ấn định quân ngũ: mỗi quân gồm có 30 đô, mỗi đô có 80 quân, chọn người trong vương tộc có kinh nghiệm quân sự để chỉ huy. Mậu Thìn, Thiệu Long năm thứ 11 (1268), hạn hán, lũ lụt, dân đói. Trần Nhật Hiệu chết. Sứ Mông Cổ sang gây sự13 bắt lỗi về việc triều đình của nhà Trần không thi hành đúng nghi lễ tiếp đón sứ thần Mông Cổ. Tân Mùi, Thiệu Long năm thứ 14 (1271), phong cho Trần Quang Khải làm Tướng quốc thái úy thống lĩnh mọi việc trong nước. VSTK - 320
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
Nhâm Thân, Thiệu Long năm thứ 15 (1272), Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử viện giám tu Lê Văn Hưu soạn xong bộ Đại Việt Sử Ký chép từ đời Triệu Đà đến đời Lý Chiêu Hoàng. Nhà Nguyên sai sứ sang hạch hỏi về cột đồng móc biên giới do tướng Mã Viện14 đã đặt từ trước. Giáp Tuất, Bảo Phù năm thứ 2 (1274), lập con trưởng là Khâm làm hoàng thái tử, đưa con gái trưởng của Trần Quốc Tuấn15 về làm vợ cho Trần Khâm.
Đinh Sửu, Bảo Phù năm thứ 5 (1277) tháng 4, Trần Thái Tông chết. Mậu Dần, Bảo Phù năm thứ 6 (1278) tháng 3 Lý Chiêu Hoàng mất16. Tháng 10, Trần Thánh Tông nhường ngôi cho thái tử Khâm. CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:
16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37
1 Lý Thuận Thiên hoàng thái hậu: chết năm 1248, sử cũ đã ghi rằng Trần Thái Tông "truy tôn là Hiển tử Thuận Thiên hoàng thái hậu ". Việc truy tôn nầy đã bị Nguyễn Nghiễm phê phán gắt gao bởi vì theo lệ thường chỉ có con khi lên ngôi vua mới phong cho mẹ đẻ của mình làm hoàng thái hậu. Nguyễn Nghiễm cho rằng nếu Trần Thái Tông ra lệnh truy tôn nầy vào năm 1248 thì Lý Thuận Thiên phải là mẹ đẻ của Trần Thái Tông chứ không phải là vợ. 2 Lập con gái của Trần Liễu làm hoàng hậu: ĐVSKTT chép rõ là "con gái thứ 5 của Trần Liễu", tức là chị em họ con bác con chú lại lấy nhau! Đây là thói hư dâm dật của dòng họ nhà Trần đã trở thành lệ không thể nào sửa đổi được nữa. 3 Trần thị Thiều: là tên đứa con gái thứ 5 của Trần Liễu vừa đề cập ở chú giải (2) kể trên. KĐVSTGCM không chép rõ ràng như thế. 4 Con thứ nhì của Trần Thánh Tông: con thứ nhất của Trần Thái Tông là công chúa Trần Thiên Thụy gả cho con trai của Trần Quốc Tuấn tên là Trần Hiếu: cũng là chị em con bác con chú lấy nhau. Có lẽ đây là chính sách và chủ trương của dòng họ nhà Trần để củng cố ngôi vua không cho rơi vào tay một dòng họ khác chăng? 5 Quốc mẫu: tức là người mẹ của dân tộc. Đấy là một sự sỉ nhục cho dân tộc nước Đại Việt lúc đó. Trần thị Dung đáng lẽ phải được xếp vào hạng tú bà vô luân, dâm dật, mưu mô xảo quyệt kết hợp với Trần Thủ Độ là một hạng ma cô lừa đảo và ác độc. Rõ ràng là dòng họ gia đình
VSTK - 321
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
trị nhà Trần chẳng còn đếm xỉa gì tới dư luận và xem thường người dân của nước Đại Việt tới mức cùng tột. 6 Bắt lính: bắt dân ở các lộ, người nào khoẻ sung làm lính còn thì sung vào phục vụ ở các sảnh, viện, cục hay ở các phủ, lộ, huyện. 7 Ấn định điều kiện triều cống: buộc nhà Trần phải tuyển chọn người có khả năng của Đại Việt sang làm nô lệ phục dịch cho nhà Nguyên Mông cũng như phải triều cống ngọc, ngà châu báu và sản vật quý cho họ. 8 Người của Nguyên Mông giám sát: chức vụ nầy gọi là Đạt lỗ hoa xích, một chức quan của Mông Cổ, tức là quan trưởng ấn, giữ nhiệm vụ giám sát việc cai trị quận huyện của triều đình Nguyên Mông. Như vậy có nghĩa là Nguyên Mông xem nước Đại Việt trong thời đại của Trần Thánh Tông như là một quận huyện của họ. 9 Vùng ven sông Bạch Hạc: sông nầy ở địa phận huyện Bạch Hạc, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây. 10 Ngọc Điệp: con cái thuộc dòng chính trực hệ chính tông của vua gọi là ngọc điệp (lá ngọc ghi nhánh chính thống) thì được phong tước vương; từ hàng cháu của vua thì gọi là kim chi (cành vàng: chỉ dòng dõi quyền quý): cháu 3 đời thì được phong tước ấm quận vương, cháu 4 đời được tước ấm minh tự, cháu 5 đời được tước ấm thượng phẩm. 11 Dùng những người có học làm việc ở quán, các, sảnh, viện: Ngày trước những việc làm ở những nơi nầy đều do bọn hoạn quan đảm trách.(Tức là loại quan bị cắt bỏ bộ phận sinh dục để được đưa vào hầu hạ cho vua và hoàng hậu trong cung điện. Việc cắt bỏ bộ phận sinh dục là nhằm mục đích tránh những chuyện lang chạ của bọn quan nầy với các vợ và phi tần cung nữ của vua). 12 Trần Ích Tắc: con trai thứ 3 của Trần Thái Tông, thông minh, người có tài năng văn học nhưng về sau đầu phục quận Mông Cổ và chạy theo quân giặc sang đất Trung Hoa. 13 Sứ Mông Cổ gây sự, bắt lỗi về nghi thức ngoại giao: sứ Mông Cổ bắt Vua quan nhà Trần phải quỳ lại để chào đón sứ giả thay mặt vua Nguyên Mông tức là coi triều đình nhà Trần như là một chư hầu của Nguyên Mông. Trần Thánh Tông không chấp nhận sự đòi hỏi nầy. 14 Sứ Nguyên Mông lại sang hạch hỏi về cột đồng móc biên giới của Mã Viện: đây không phải là một công tác khảo cổ. Thâm ý của Nguyên Mông là cố tình gợi lại chuyện ngày xưa để có cớ chứng minh rằng nước Đại Việt của nhà Trần ngày nay chính là lãnh thổ của nhà Đông Hán ngày xưa. Nay, cả nước Trung Hoa đã về tay Mông Nguyên thì lãnh thổ Đại Việt nầy cũng là của bọn họ. 15 Con gái trưởng của Trần Quốc Tuấn về làm vợ Trần Khâm: chị em con bác con chú lấy nhau. 16 Lý Chiêu Hoàng mất: là vua cuối cùng của Nhà Lý, vợ đầu tiên của Trần Thái Tông. Bị dòng họ nhà Trần dùng mưu chước hiểm độc cướp ngôi; lại bị Trần Thái Tông phế bỏ rồi đem gán gả cho Lê Phụ
VSTK - 322
1 2 3 4
Trần như là một món vật phần thưởng. Đây là một người đàn bà đáng thương nhất trong thời đại phong kiến Lý-Trần. ĐVSKTT viết rằng Lý Chiêu Hoàng lấy Lê Phụ Trần hơn 20 năm, sinh được 1 con trai tên Tông và 1 con gái tên là Khuê.
VSTK - 323
CHƯƠNG III
TRẦN NHÂN TÔNG ( 1279 - 1293 ) Niên hiệu: Thiệu Bảo (1272-1284) Trùng Hưng (1285-1293) 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
Thái tử Trần Khâm, con trai trưởng của thượng hoàng Trần Thánh Tông, sinh năm Mậu Ngọ, Nguyên Phong năm thứ 8 (1258), mẹ là Cảm Thánh1 hoàng thái hậu, lên ngôi vua tức là Trần Nhân Tông. Lập Trần thị con gái của Trần Quốc Tuấn làm hoàng hậu2. Kỷ Mão, Thiệu Bảo năm thứ 1 (1279), ở Trung Hoa, quân Mông Nguyên tiêu diệt nhóm quân nhà Tống cuối cùng ở Nhai Sơn3. Vua Tống nhảy xuống biển chết. Tân Tỵ, Thiệu Bảo năm thứ 3 (1281), Trần Nhân Tông sai chú họ là Trần Di Ái thay mặt cùng với Lê Mục, Lê Tuân đi sứ sang Nguyên Mông. Vua Nguyên Mông tức giận về việc Trần Nhân Tông đã không chịu đích thân sang chầu mà còn từ chối việc đặt cơ quan giám sát4 của Nguyên Mông trong lãnh thổ Đại Việt. Nhâm Ngọ, Thiệu Bảo năm thứ 4 (1282), để trả đũa và gây hấn, từ Trung Quốc, vua Nguyên Mông lập Trần Di Ái làm vua nước Đại Việt, phong cho Lê Mục làm Hàn Lâm học sĩ, Lê Tuân làm thượng thư rồi sai tướng Mông Cổ là Sài Thung dẫn một đoàn quân 1,000 người hộ tống Trần Di Ái và tùy thuộc về nước nhưng bị quân của nhà Trần chận đường đánh tan5; Trần Di Ái và tất cả tùy thuộc đều bị bắt mang về Đại Việt, xử tội đồ làm lính. Cho phép Nguyễn Thuyên được đổi họ Nguyễn thành họ Hàn tức là Hàn Thuyên vì có công đuổi cá sấu6 ở sông Phú Lương7. Tháng 10, năm Nhâm Ngọ (1282), có tin cấp báo từ châu Lạng8 cho hay: con vua Nguyên Mông là Thoát Hoan quy động 500 ngàn quân từ các tỉnh Hồ Nam, Hồ VSTK - 324
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
Bắc, Quảng Đông, Quảng Tây (gọi chung là Hồ Quảng), rồi giả trá cho sứ sang đòi nhà Trần cho mượn đường đi ngang qua nước Đại Việt để tiến đánh nước Chiêm Thành, một mặt lại sai tướng Toa Đô đưa quân theo đường biển đánh chiếm Chiêm Thành rồi sẽ tiến quân đánh bọc lên từ hướng Nam, hợp với quân của Thoát Hoan từ hướng Hồ - Quảng tiến xuống, lập thành thế gọng kiềm để đánh quân nhà Trần. Trần Nhân Tông liền hội các vương hầu và tướng lãnh ở Bình Than9 để bàn định kế hoạch phòng ngự và đánh trả quân Nguyên Mông. Sau khi hợp bàn, Trần Khánh Dư10 được phong phó đô tướng, Trần Quang Khải làm thượng tướng thái sư11. Quý Mùi, Thiệu Bảo năm thứ 5 (1283), cử Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn nắm giữ chức Quốc công tiết chế12 . Tháng 8, thao diễn tập đánh trận rồi chia quân đi đóng giữ phòng tuyến ở Bình Than cùng các nơi xung yếu khác. Tháng 11, sai sứ sang Nguyên Mông điều đình hoãn binh nhưng thất bại. Tháng 12, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông quy tụ những người lớn tuổi vào hội nghị ở thềm điện Diên Hồng để hỏi ý kiến nên chủ chiến hay chủ hoà với quân Nguyên Mông. Tất cả đồng loạt quyết định "Phải đánh". Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đích thân dẫn quân ra biên giới, lập bộ chỉ huy ở cửa ải Nội Bàng13 trong vùng núi Kheo Cấp14 và chia quân trấn giữ các cửa ải khác ở châu Lạng. Quân Nguyên Mông kéo tới cửa ải Lộc Châu, cho sứ sang chiêu dụ nhưng bị Trần Quốc Tuấn đuổi về. Ngày 26 tháng 12 năm Giáp Thân (đầu năm 1285 dương lịch), quân Mông từ cửa ải Lộc Châu15 và Khả Ly16 tràn sang lãnh thổ Đại Việt đánh chiếm ải Chi
VSTK - 325
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
Lăng, khí thế rất mạnh. Trần Quốc Tuấn chống trả không nổi phải lui quân về đóng giữ Vạn Kiếp18. Trần Nhân Tông dùng ghe nhỏ ra Hải Đông19 hợp bàn với Trần Quốc Tuấn, lấy quân của lộ Hải Đông và từ các hương Vân Trà20, Ba Điểm21 điều động lập tuyến phòng thủ ở phía Nam. Đưa các đoàn quân từ Bình Hà22, Na Sản23, Trà Hương, Long Nhãn24 tổng số lên tới 200,000 quân đến tuyến đầu Vạn Kiếp dưới quyền chỉ huy của Trần Quốc Tuấn chận đường tiến của Nguyên Mông để phòng thủ 2 lộ Bắc Giang25 thượng và Bắc Giang hạ. Ất Dậu, Thiệu Bảo năm thứ 7 ngày 6 tháng Giêng (1285), tướng Mông là Ô Mã Nhi đánh vỡ các tuyến phòng thủ của quân Trần ở khu vực sông Bình Than26 và vùng núi Phả Lại27, vây hãm Vạn Kiếp. Ngày 12 tháng Giêng (1285), Trần Quốc Tuấn đón đánh quân Mông trên sông Vạn Kiếp nhưng bị thua to, các huyện Gia Lâm28, Vũ Ninh29, và Đông Ngàn30 bị quân Mông tràn ngập, quân dân nhà Trần31 bị sát hại tàn khốc, hai lộ Bắc Giang thượng, hạ đều bị mất. Quân Mông thắng thế kéo đến Đông Bộ Đầu32 vây hãm thành Thăng Long. Nhà Trần cử Đỗ Khắc Chung33 sang doanh trại quân Mông để thương lượng ngưng chiến nhưng Ô Mã Nhi không chấp nhận. Vua quan nhà Trần phải rời bỏ kinh đô rút chạy về phủ Thiên Trường sau khi lệnh cho tướng Trần Quang Khải đem quân trấn giữ Nghệ An để chận đường tiến quân của Toa Đô từ hướng Chiêm Thành tràn qua. Ngày 13 tháng Giêng (1285), thành Thăng Long bị quân Nguyên Mông tràn ngập.
CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:
VSTK - 326
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
Cảm Thánh: con gái của Trần Liễu, vừa là cô vừa là mẹ đẻ của Trần Nhân Tông; tức là Trần Thánh Tông lấy chị của mình làm vợ. 2 Trần Nhân Tông lập Trần thị làm hoàng hậu: Trần thị là con gái của Trần Quốc Tuấn, tức là chị em họ lấy nhau. 3 Nhóm quân cuối cùng của Nhà Tống ở Nhai Sơn: Mông Nguyên đánh đuổi quan quân nhà Tống phải chạy về Nhai Sơn ở phía Nam huyện Tân Hội, tỉnh Quảng Đông. 4 Đặt cơ quan giám sát của Nguyên Mông: các triều đình thực dân của Tàu ngày trước đặt quan An Nam tiết độ sứ để cai trị hoặc giám sát các nước thuộc địa của họ; nay Nguyên Mông lại lập ty tuyên phủ ở Đại Việt để kiềm chế triều đình nhà Trần. 5 Quân nhà Trần chận đánh quân Mông Nguyên: đây là lần thứ nhất quân nhà Trần và quân Nguyên đánh nhau. Về việc nầy 2 bộ sử cũ chép khác nhau: ĐVSKTT thì viết rằng Mông Nguyên sai Sài Thung dẫn 1,000 quân hộ tống, làm hậu thuẫn đưa bọn Trần Di Ái về nước, khinh thường ngang nhiên hống hách đi thẳng vào triều cung, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn phải đích thân đến gặp Sài Thung để bàn bạc thương lượng (BK/Q.5/). KĐVSTGCM thì viết theo sử sách của Nguyên Mông chép rằng quân Mông bị quân Trần đón đánh và giết được Sài Thung ngay ở biên giới của 2 nước và bắt Trần Di Ái cùng tùy thuộc mang về trị tội (KĐVSTGCM/ CB.7/ 25). 6 Hàn Thuyên đuổi cá sấu ở sông Phú Lương: sử cũ chép rằng Nguyễn Thuyên làm bài văn thả xuống sông, cá sấu tự nhiên bỏ đi,. giống như chuyện Hàn Dũ đời nhà Đường bên Trung Hoa (Đường Hiếu Tông): năm 819, Hàn Dũ làm thứ sử Triều Châu, biết được ở một con sông có cá sấu tới phá hại, Hàn Dũ liền đem dê, lợn để cúng vái và làm một bài văn tế cá sấu rồi vứt tất cả xuống sông, bỗng nhiên sấm gió nổi lên, và kể từ ngày sau đó người ta không còn thấy cá sấu xuất hiện nữa. Chuyện Hà Dũ cũng là một loại chuyện dị đoan nhảm nhí và sử cũ chép lại để gán ghép, đổi họ cho Nguyễn Thuyên. Nguyễn Thuyên người làng Thanh Lâm, tỉnh Hải Dương, có khiếu về thơ phú viết theo âm vận và cách viết của vần quốc ngữ (tức là chữ Nôm, một loại chữ Hán được thay đổi cách đọc và dạng chữ viết của người Đại Việt), được nhiều người bắt chước theo và thường gọi là thơ Hàn luật, nghĩa là làm thơ phú theo kiểu của Hàn Thuyên đặt ra. 7 Sông Phú Lương: tức là sông Nhị Hà hiện nay. 8 Châu Lạng: hay Lạng Giang, tức Lạng Sơn. 9 Bình Than: tên của một bến đò ở địa phận xã Trần Xã, huyện Chí Linh, lộ Hải Đông. 10 Trần Khánh Dư: ngày trước bị cách chức vì thông dâm với Thiên Thụy công chúa; nay vì có giặc ngoại xâm cho nên được trả lại chức cũ (Thiên Thụy công chúa là con gái lớn của Trần Thánh Tông, vợ của Trần Hiến mà Trần Hiến lại là con trai lớn của Trần Quốc Tuấn tức là anh em chú bác lấy nhau). 1
VSTK - 327
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
Thượng tướng thái sư: giống như chức thủ tướng do một tướng quân đội đảm nhiệm . 12 Quốc công tiết chế: giống như chức Tổng tư lệnh quân đội. 13 Cửa ải Nội Bàng: nay thuộc tỉnh Hà Bắc. 14 Kheo Cấp: nay là phố Kỳ Lừa, tỉnh Lạng Sơn. 15 Cửa ải Lộc châu: nằm trên lãnh thổ của nước Trung Hoa. Đến đầu đời nhà Lê (Lê Lợi) mới thuộc vào châu Lộc Bình, nay thuộc tỉnh Lạng Sơn. 16 Cửa ải Khả Ly: có lẽ cũng giống như trường hợp của Lộc châu, nhưng không có tài liệu kê cứu rõ là ở đâu. 17 Ải Chi Lăng: thuộc huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn ngày nay. 18 Vạn Kiếp: có sách gọi là làng Kiếp Bạc; nay là vùng Vạn Yên, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng. 19 Hải Đông: tức An Bang; các nhà Đinh, Lê, Lý đều gọi là đạo Hải Đông. Nhà Trần đổi là lộ Hải Đông để chỉ chung vùng Hải Dương cũ (nay là Hải Hưng) và vùng Hải Phòng hiện nay. Thời nhà Lý có lập một nơi gần bờ biển cho ghe thuyền khách thương ngoại quốc đến ở và buôn bán gọi là trang Vân Đồn. Thời nhà Trần, quân Nguyên Mông thường dùng lộ Hải Đông là địa bàn xâm nhập để đánh phá nhưng cũng là vùng đất chết dành riêng cho bất kỳ kẻ xâm lăng nào xuất phát từ phương Bắc. Nơi đây có con sông Bạch Đằng nổi tiếng với chiến trận hiển hách của Ngô Quyền giết tướng Hán Hoằng Tháo ngày trước và Vân Đồn cũng là vùng tử địa của quân xâm lược Nguyên Mông. 20 Hương Vân Trà: nằm trong lộ Hải Đông. Vân Trà còn gọi là Trà Hương. Thời Lê Thánh Tông (1460-1497) là huyện Kim Thành, phủ Kinh Môn, xứ Hải Dương (trước gọi là trấn Nam Sách).Theo Địa dư chí của Phan Huy Chú thì: "huyện Kim Thành (Vân Trà hay Trà Hương) có các sông bọc vòng quanh như một thành đồng hiểm yếu, phía nam giáp An Lão, phía tây tiếp giáp huyện Giáp Sơn". 21 Hương Ba Điểm: có lẽ cũng nằm trong lộ Hải Đông. 22 Bình Hà: hay Bàng Hà hay huyện Chí Linh, đời nhà Lê sau nầy gọi là huyện Thanh Hà nằm trong phủ Nam Sách, lộ Hải Đông. Huyện Thanh Hà được bao bọc bởi nhiều nhánh sông lớn giống như ổ nhện, phía Tây tiếp giáp với thành Đông Hà, phía Đông giáp huyện Tiên Minh. Ngày nay Thanh Hà thuộc huyện Nam Thanh, tỉnh Hải Hưng và huyện Tiên Lãng, Hải Phòng. 23 Na Sản: hay Na Ngạn, huyện Lục Ngạn, gần huyện Vạn Kiếp, phủ Lạng Giang, lộ Bắc Giang; nay là tỉnh Hà Bắc. 24 Long Nhãn: tức huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang; nay thuộc Yên Dũng, tỉnh Hà Bắc. 25 Bắc Giang thượng, Bắc Giang hạ: đời nhà Đinh là đạo Bắc Giang; nhà tiền Lê chia thành châu Cổ Pháp, châu Vũ Ninh, châu Lạng; nhà Lý lấy châu Cổ Pháp làm phủ Thiên Đức, hộ Vũ Ninh và hộ Lạng Giang. Nhà Trần đổi làm lộ Bắc Giang thượng và lộ Bắc Giang hạ. Nhà Lê sau 11
VSTK - 328
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23
nầy đổi thành thừa tuyên Bắc Giang rồi lại đổi là Kinh Bắc; thời Minh Mạng nhà Nguyễn gọi là tỉnh Bắc Ninh; ngày nay thuộc tỉnh Hà Bắc. 26 Khu vực Bình Than: tên một bến đò nằm ở địa phận xã Trần Xã, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, lộ Hải Đông. Địa điểm nầy có thể là tiếp giáp với huyện Chi Lăng. 27 Vùng núi Phả Lại: cạnh sông Lục Đầu, đối diện trấn Phả Lại, huyện Chí Linh, Hải Đông (nay là Hải Hưng). Huyện Gia Lâm: phía Tây Nam phủ Thuận An, lộ Bắc Giang hạ; nay thuộc Hà Bắc. 28
Huyện Vũ Ninh: sau đổi gọi là huyện Võ Giàng, phủ Từ Sơn; nay là huyện Quế Võ, tỉnh Hà Bắc. 30 Huyện Đông Ngàn: hay huyện Võ Giàng, thuộc phủ Từ Sơn, nằm ở giữa hai lộ Bắc Giang thượng, hạ; nay là huyện Quế Vỏ, tỉnh Hà Bắc. 31 Đông Bộ Đầu: tức ngoại ô thành Thăng Long; nay là bến sông Hồng, phía trên cầu Long Biên, Hà Nội. 32 Quân dân bị sát hại: theo hai bộ sử cũ thì quân dân ở Bắc Giang hạ ai cũng thích vào cánh tay hai chữ "Sát Thát", nghĩa là giết quân Thát (chữ Thát phiên âm từ chữ Tartar), vì thế quân Mông Nguyên tức giận, tàn sát thẳng tay. 33 Đỗ Khắc Chung: chỉ là quan hầu cận riêng của vua nhà Trần chứ không phải là tướng đánh trận nhưng theo sử cũ thì Khắc Chung là một người ăn nói rất khôn khéo và can đảm khi đối đáp với tướng Nguyên Mông Ô Mã Nhi. 29
TRẦN NHÂN TÔNG (tiếp theo) 24
25
26
27
28
29
Ô Mã Nhi xua quân truy đuổi ráo riết vua quan nhà Trần. Trần Quốc Tuấn phải hộ tống Trần Nhân Tông và thượng hoàng Trần Thánh Tông chạy sang Hải Đông , giao cho tướng Trần Bình Trọng2 ở lại phủ Thiên Trường làm nút chận sự truy đuổi của quân Nguyên Mông.
VSTK - 329
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
Trần Bình Trọng chận đánh quân của Ô Mã Nhi ở bãi Đà Mạc3 nhưng chống cự không lại, bị giết. Quân Nguyên Mông tiếp tục truy đuổi về mạn Hải Đông. Ngày mồng 1 tháng 2 năm Ất Dậu (1285), Trần Nhân Tông và Trần Thánh Tông phải đánh lạc hướng quân Nguyên rồi dùng ghe nhỏ chạy ra Tam Trì4 nhưng vẫn bị truy đuổi cho nên lại phải theo đường bộ chạy đến xã Thủy Chú5 rồi lấy thuyền theo sông Nam Triệu6 (tức sông Bạch Đằng), ra cửa biển Đại Bàng7 vào Thanh Hóa vào khoảng tháng 3 năm Ất Dậu (1285). Trần Ích Tắc7bis đầu hàng quân Nguyên. Ở phía Nam, quân của Toa Đô chiếm các châu Ô, châu Lý, châu Hoan, châu Ái và uy hiếp Nghệ An. Trần Quang Khải chống cự không được phải rút quân; Trần Kiện8 và Lê Trắc9 trấn thủ Thanh Hóa ra đầu hàng và theo quân Nguyên. Tháng 4 năm Ất Dậu (1285), vì bị chận đứng sức tiến quân trên bộ ở mạn Thanh Hóa, Toa Đô phải dùng đường thủy ven biển đưa quân từ Nghệ An ra phủ Thiên Trường đóng ở Tây Kết10, nhập với quân của Ô Mã Nhi, chờ phối hợp với quân của Thoát Hoan từ Chương Dương tiến vào Nam để tiêu diệt quân nhà Trần. Tháng 5 năm Ất Dậu (1285), quân Đại Việt bắt đầu phản công: quân của các tướng Trần Quang Khải, Trần Quốc Toản, Trần Thông, Nguyễn Khả Lập và Nguyễn Truyền đánh bại quân của Thoát Hoan ở bến Chương Dương, lấy lại Thành Thăng Long. Thoát Hoan thua trận, phải vượt sông Phú Lương (sông Lô hay sông Hồng) chạy về Vạn Kiếp nhưng bị quân của Trần Quốc Tuấn mai phục đón đánh tan nát, cố hết sức mới trốn thoát11 được về Trung Hoa. Toa Đô và Ô Mã Nhi ở Thiên Trường vẫn không hay biết gì về sự thất trận của Thoát Hoan. Từ Thanh Hoá, Trần Nhân Tông cùng với Trần Thánh Tông tự cầm quân ra vây hãm phủ Thiên Trường: VSTK - 330
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
từ phía Tây cho quân của Trần Nhật Duật đánh ngang qua phòng tuyến quân của Toa Đô ở cửa sông Hàm Tử, từ Chương Dương đưa quân của Trần Quốc Toản đánh xuống, quân của Trần Quốc Tuấn từ Chí Linh, Vạn Kiếp giải phóng Hải Đông rồi cũng kéo quân hướng về Hàm Tử. Quân Nguyên tan vỡ, từ Hàm Tử rút chạy về Tây Kết gần vùng cửa biển Thiên Trường. Ngày 20 tháng 5 năm Ất Dậu (1285), quân Đại Việt bao vây Tây Kết, tướng Nguyên Toa Đô bị giết chết tại trận12, tướng Ô Mã Nhi nhân trời tối kéo tàn binh chạy vào Thanh Hóa, quân Đại Việt truy đuổi, bắt sống rất nhiều quân Nguyên13. Ô Mã Nhi phải dùng ghe nhỏ ra cửa sông Thanh Hóa, vượt biển trốn thoát về Trung Hoa. Chiến tranh lớn đầu tiên giữa quân Đại Việt và quân ngoại xâm Nguyên Mông kéo dài 3 năm, kể từ năm Nhâm Ngọ (1282) tức là từ khi Thoát Hoan và Toa Đô xuất quân từ Hồ - Quảng cho đến khi Toa Đô bị tử trận vào năm Ất Dậu (1285) ở Tây Kết. Ngày mồng 6 tháng 6 năm Ất Dậu (1285), Trần Nhân Tông và Trần Thánh Tông trở về Thăng Long. CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:
23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34
Trần Bình Trọng: sử cũ viết: Quân nhà Nguyên đóng ở bãi Tha Mạc, Bình Trọng kéo quân đến đánh chận nhưng bị thua to và bị bắt, Bình Trọng không chịu ăn uống gì. Tướng Nguyên tra hỏi về tình hình quan quân nhà Trần, Bình Trọng không thèm trả lời. Tướng Nguyên dụ ban vương tước, Bình Trọng trả lời :" Thà làm quỉ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc". Vì thế Bình Trọng bị giết chết. Sử cũ cũng cho biết rằng Trần Bình Trọng là thân tộc của Lê Đại Hành, là chồng sau của công chúa Trần thị Thụy Bảo; Thụy Bảo em gái của Trần Thánh Tông, tức là cô của Trần Nhân Tông. 3 Bãi Đà Mạc: vùng đất bồi sông Thiên Mạc (hạ lưu sông Nhị Hà), nay gọi là bãi Mạn Trù thuộc tổng Đông Kết, huyện Châu Giang (trước là Đông An), Hưng Yên. 2
VSTK - 331
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41
Tam Trì: nay gọi sông Ba Chẽ, ở huyện Ba Chẽ, thuộc tỉnh Quảng Ninh. Có sách gọi là Tam Trỉ. 5 Thủy Chú: nay thuộc tỉnh Quảng Ninh, nhưng không biết rõ là ở đâu. 6 Sông Nam Triệu: tức sông Bạch Đằng. 7 Cửa biển Đại Bàng: nay là cửa Văn Úc thuộc huyện Kiến An, Hải Phòng. 7bis Trần Ích Tắc: con trai thứ của Trần Thái Tông và Lý Thuận Thiên. ĐVSKTTviết: "Đến 15 tuổi, thông minh hơn người, làu thông kinh sử và xã thuật, luôn luôn có ý tranh đoạt ngôi vua với anh là Trần Thánh Tông và với cháu là Trần Nhân Tông. Ích Tắc đã từng nhờ khách buôn ở trang Vân Đồng đưa thơ qua cho giặc Nguyên Mông mời gọi giặc vào chiếm Đại Việt để mong được làm vua. Sau khi đầu hàng, giặc phong làm An Nam Quốc vương ". 8 Trần Kiện: là con vợ lẻ của Trần Quốc Khang. Khang là con trai của Trần Liễu và Lý Thuận Thiên; lúc còn là bào thai 3 tháng, Trần Thủ Độ vì sợ Trần Thái Tông không có con nối ngôi cho nên ép Lý Thuận Thiên phải bỏ Trần Liễu để lấy Trần Thái Tông. Trần Kiện bị người nhà của Trần Quốc Tuấn bắn chết. 4
Lê Trắc: là kẻ đầu hàng quân Nguyên, sau trở thành người của nhà Nguyên, viết sách An Nam Chí Lược. 10 Tây Kết: không thấy có sách cũ nào nói rõ ràng về địa điểm nầy. Trong Địa Dư Chí của Phan Huy Chú, đời nhà Lê khoảng năm 1466, có một tên huyện gọi là huyện Đông Yên hay Đông An, thuộc phủ Khoái Châu, thừa tuyên Thiên Trường, tức là Sơn Nam ngày trước. Huyện Đông Yên hay Đông An có 10 tổng, 78 xã. Như vậy Tây Kết có thể là một tổng hay một xã nằm trong huyện Đông An . Sở dĩ có sự suy đoán như vậy là vì phủ Khoái Châu thời trước thuộc tỉnh Nam Định và gồm có các huyện Ân Thi (trước là Thiên Thi), Kim Động, Phù Tiên (gộp 2 huyện Phù Dung + Tiên Lữ để thành huyện Phù Tiên), Châu Giang (có thể là huyện Đông An cũ) và trong huyện Châu Giang của tỉnh Hải Hưng hiện giờ có một thôn tên là Đông Kết ở xã Đông Bình; ngày nay thôn Đông Kết nằm cách khoảng 3-5 cây số ở phần hạ lưu sông Hồng: như vậy có lẽ thôn Tây Kết cũng nằm ven và ở phía bờ bên kia hạ lưu sông Hồng, đối diện thôn Đông Kết. 11 Thoát Hoan trốn thoát về Trung Hoa: ĐVSKT viết rằng Thoát Hoan phải chui trốn vào một loại chung khạp bằng đồng và được tùy tướng là Lý Quán ôm chạy về Tàu. 12 Toa Đô bị giết tại trận: theo An Nam Chí Lược của Lê Trắc thì Toa Đô phóng ngựa xuống nước chết còn theo sử sách của Nguyên Mông thì Toa Đô chết ở sông Cầu. 13 Bắt sống rất nhiều quân giặc: hai bộ sử cũ viết rằng quân Nguyên Mông bị quan quân nhà Trần bắt hơn 50,000 tù binh. 9
*
VSTK - 332
TRUNG
Thu Vật
HOA
* TÜ Minh
Bạch Hạt * Khả Lỵ * Nội Bàng * Vạn Kiếp
Chi Lăng * Phù Ninh*
Thăng Long
ChÜÖng DÜÖng Hàm Tử Tây Kết Thiên TrÜ©ng TrÜ©ng Yên
ÁI CHÂU
DIỄN CHÂU
ĐÔNG HẢI
GHI CHÚ
:
HOAN CHÂU
Quân Đại Việt phản công Quân Đại Việt chận đánh Hướng xâm nhập và tấn công của quân Nguyên.
CHÂU Ô CHÂU LÝ
Hướng rút chạy của quân Nguyên
CHÀM
Kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 2 (1258)
[H. 1526]
VSTK - 333
TRUNG HOA
Hướng tiến của quân Nguyên Hướng rút chạy của quân Nguyên BIỂN ĐÔNG Quân nhà Trần chận đánh Quân nhà Trần phản công Quân nhà Trần phục kích Đoàn quân của Ô Mã Nhi Đoàn thuyền tải quân lương của Trương Văn Hổ Đoàn quân của Thoát Hoan Khu căn cứ quân sự của Nguyên Mông.
Kháng chiến của quân dân Đại Việt chống quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ 3 (1287 – 1288)
[H. 1529]
VSTK - 334
QUYỂN II
THỜI DẠI TỰ CHỦ ĐẠI PHÁ GIẶC NGUYÊN MÔNG LẦN THỨ BA1 CHƯƠNG III
TRẦN NHÂN TÔNG (tiếp theo) Niên hiệu: Thiệu Bảo (1272-1284) Trùng Hưng (1285-1293) 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
Năm Ất Dậu, Thiệu Bảo năm thứ 7, ngày mồng 6 tháng 6 (1285), sau khi đánh đuổi hết quân Nguyên Mông chạy về Trung Hoa, Trần Nhân Tông cùng thượng hoàng Trần Thánh Tông trở về Thăng Long. Phong thưởng cho các quan quân có công trong trận chiến phòng thủ và đánh đuổi quân Nguyên, trị tội những kẻ theo quân ngoại xâm. Trả tù binh Chiêm Thành đã2 đi theo trợ lực quân Nguyên Mông. Tháng 9 đổi niên hiệu là Trùng Hưng năm thứ 1 (1285). Bính Tuất, Trùng Hưng năm thứ 2, tháng Giêng (1286), tha cho tù binh Nguyên Mông được trở về Trung Hoa. Trong khi vua Nguyên Mông3 ở bên Trung Hoa đang chuẩn bị quân số và chiến thuyền để đánh Nhật Bản4 thì Thoát Hoan và Ô Mã Nhi bị thua trận ở Đại Việt chạy về. Tháng 3, Nguyên Mông sai sứ sang chiêu dụ5 Đại Việt thần phục nhưng không được Đại Việt đáp ứng theo ý muốn. Tháng 6, Trần Nhân Tông giao cho Trần Quốc Tuấn việc đốc thúc các vương hầu tôn thất tự mộ quân, chế tạo vũ khí, đóng thuyền chiến để phòng bị. Tháng 10, kiểm tra chương trình huấn luyện và thao diễn tập trận cho các đoàn quân mới mộ được. VSTK - 335
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
Đinh Hợi, Trùng Hưng năm thứ 3, tháng 2 (1287), Thiên Cảm Trần thị hoàng thái hậu mất. Quân số Nguyên Mông được điều động để chuẩn bị xâm lăng Đại Việt lần nầy gồm có: Đoàn quân dự trù để đánh Nhật Bổn ngày trước gồm có : 500,000 quân và 300 chiến thuyền6. Lấy thêm 76,000 quân từ Giang Hoài, Hồ Quảng, Giang Tây, Vân Nam. Thêm 200 chiến thuyền7 cùng với 15,000 quân ở đảo Hải Nam8. Sai tướng vạn hộ Hải đạo Trương Văn Hổ giữ nhiệm vụ tiếp tế lương thực9 bằng đường biển. Cử các tướng Áo Lỗ Xích, A Bát Xích, Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy các đoàn quân Nguyên Mông dưới quyền tổng tư lệnh của Thoát Hoan. Tháng 11,Thoát Hoan thống lĩnh đoàn bộ binh từ Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông tiến đến phủ Tư Minh10, tràn sang đánh chiếm Lạng Sơn. Trình Bằng Phi và Áo Lỗ Xích đem 20,000 quân đánh chiếm Chi Lăng rồi chia quân đóng doanh trại ở vùng núi Phả Lại và vùng núi Chí Linh. Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp theo đường biển tiến đánh bến cảng Vân Đồn. Tướng Trần Khánh Dư của nhà Trần trấn lãnh vùng bờ biển dàn quân ra đón đánh nhưng bị thua phải rút chạy; Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp chuyển hướng quân xuống vùng cửa sông Bạch Đằng. Thoát Hoan ra lệnh đánh chiếm Vạn Kiếp từ 3 hướng: quân của Trình Bằng Phi và Áo Lỗ Xích tiến quân từ Chí Linh, Phả Lại đánh xuống, quân của Ô Mã Nhi và Phàn tiếp từ phía hạ lưu sông Bạch Đằng đánh lên, quân của Thoát Hoan từ hướng Bắc Giang thượng đánh xuống. Quân nhà Trần đem quân đón chận quân Thoát Hoan ở cửa sông Đại Than11 nhưng không cản được quân Nguyên. Thủy quân nhà Trần truy cản không nổi
VSTK - 336
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
thủy quân của Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp ở Đa Mỗ 12 mặc dù quân Nguyên có bị thiệt hại. Vạn Kiếp thất thủ. Quân Nguyên toàn bộ hướng về vùng sông Phú Lương13 uy hiếp kinh đô Thăng Long, bỏ ngõ vùng bờ biển lộ Hải Đông. Tháng 11, năm Đinh Hợi (1287), Trần Nhân Tông và Trần Thánh Tông lại phải rời Thăng Long chạy về phủ Thiên Trường, rồi xuống phủ Long Hưng14. Mậu Tý, Trùng Hưng năm thứ 4 (1288) tháng Giêng, bị Ô Mã Nhi truy đuổi tới Long Hưng, 2 vua nhà Trần lại phải chạy, dùng đường thủy vào Thanh Hóa. Tháng 2, năm Mậu Tý, truy đuổi không kịp vua nhà Trần, Ô Mã Nhi liền từ Long Hưng kéo quân ngang qua đánh chiếm An Hưng15 ở Hải Đông rồi đóng quân ở lại để chờ đón đoàn thuyền chở lương thực của Trương Văn Hổ đưa vào từ cửa biển Đại Bàng. Trong lúc đó, đoàn thuyền do tướng Trương Văn Hổ chỉ huy tiến vào vùng biển bến cảng Vân Đồn. Thừa cơ hội vắng quân của Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp, tướng Trần Khánh Dư liền quay trở lại Vân Đồn chận đánh, tiêu diệt và nhận chìm toàn bộ đoàn thuyền chở lương thực của Trương Văn Hổ. Ô Mã Nhi đợi lâu không thấy tin tức gì của Trương Văn Hổ liền đốt phá sạch trại An Hưng rồi rút quân về Vạn Kiếp. Tháng 3, (1288), quân Nhà Trần phản công. Quân Nguyên Mông bắt đầu thiếu lương thực và nhiễm bệnh vì không hạp khí hậu, thời tiết. Các tướng Nguyên Mông đề nghị với Thoát Hoan rút quân. Thoát Hoan đồng ý; lệnh cho Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp kéo quân và thuyền chiến, theo dường sông Bạch Đằng ra biển còn Thoát Hoan, Trình Bằng Phi, A Bát Xích và Áo Lỗ Xích rút quân theo đường bộ qua cửa ải Nội Bàng16.
VSTK - 337
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
Được tin quân Nguyên đang ở thế nao núng rút quân, Trần Quốc Tuấn liền đóng cọc nhọn ở gần cửa sông Bạch Đằng làm chướng ngại vật không cho thuyền chiến của quân Nguyên thoát ra biển. Đợi lúc nước triều đang lên, trong khi đoàn thuyền của quân nguyên trên sông Bạch Đằng di chuyển ra cửa biển rất chậm vì ngược dòng thủy triều, Trần Quốc Tuấn lệnh cho thủy quân của tướng Nguyễn Khoái giả trá truy đuổi khiêu khích, thuyền chiến quân Nguyên quay lại nghênh chiến, thủy quân nhà Trần lại giả thua, vừa cầm cự vừa thối lui để cho thủy quân Nguyên đuổi theo sâu vào phía thượng nguồn. Đến lúc nước triều bắt đầu xuống, Nguyễn Khoái tung toàn bộ thủy binh ra hỗn chiến, quân Nguyên nao núng xuôi dòng thủy triều đang xuống, lợi dụng sức nước chảy nhanh để thoát ra biển nhưng khi gần đến cửa Đại Bàng bị vướng cọc nhọn, thuyền chiến và thủy binh giặc bị nhận chìm vô số; cùng một lúc, đoàn chiến thuyền của Trần Nhân Tông từ cửa Đại Bàng đánh ép vào: quân Nguyên bị tiêu diệt gần hết trên sông Bạch Đằng, tướng Ô Mã Nhi và Tích Lệ Cơ, Phàn Tiếp bị bắt sống tại trận. Quân Nhà Trần tịch thu được hơn 400 thuyền chiến và bắt được rất nhiều tù binh, tàn binh của quân Nguyên rút thuyền chạy về hướng đảo Hải Nam. Ở mặt trận trên bộ, Thoát Hoan hay tin quân của Ô Mã Nhi bị đánh tan trên sông Bạch Đằng, liền vội vã dẫn bọn Trình Bằng Phi, A Bát Xích, Áo Lỗ Xích, Trương Quân, Trương Ngọc đi đường bộ chạy về hướng cửa ải Nội Bàng nhưng bị quân nhà Trần17 chận đánh và truy đuổi đến cửa ải Nữ Nhi18 và núi Kheo Cấp19. Tướng Nguyên Trương Ngọc, A Bát Xích bị giết tại trận, Thoát Hoan phải chạy sang Lộc Châu20, dùng đường tắt về phủ Tư Minh rồi cùng với Áo Lỗ Xích thu thập tàn quân rút chạy về Trung Hoa.
VSTK - 338
1
2
Ngày 27 tháng 3 năm Mậu Tý (1288),Trần Nhân Tông cùng với Trần Thánh Tông trở về Thăng Long. CHÚ GIẢI & THẢO LUẬN:
3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40
1 Đại phá quân Nguyên Mông lần thứ ba: Quân Nguyên Mông sang xâm lược Đại Việt trước sau tất cả là 3 lần : lần thứ nhứt vào tháng 12 năm Đinh Tỵ (1257) do tướng Ngột Lương Hợp Thai cầm quân (sử cũ không chép số lượng quân Nguyên là bao nhiêu). lần thứ nhì vào tháng 12 năm Giáp Thân (1284) do Thoát Hoan, Ô Mã Nhi và Toa Đô thống lãnh 500,000 quân thủy bộ sang xăm lăng, bị quan quân nhà Trần và nhân dân Đại Việt đánh tan vào tháng 6 năm Ất Dậu (1285). lần thứ 3, gần 600,000 giặc Nguyên Mông bắt đầu xâm phạm Đại Việt vào ngày 11 tháng 11 năm Đinh Hợi (1287) và bị quét sạch vào ngày mồng 8 tháng 3, năm Mậu Tý(1288) với chiến thắng to lớn trên bến Vân Đồn và trên sông Bạch Đằng. Đó là chưa kể lần Nguyên Mông gây sự, sai tướng Sài Thung mang 1000 quân hộ tống đưa Trần Di Ái và tùy thuộc trở về Đại Việt để làm vua nhưng bị quân nhà Trần chận đánh từ ngoài cửa ải biên giới vào tháng Giêng, năm Tân Tỵ (1281). 2 Trả tù binh Chiêm Thành: hai tướng Chiêm Thành và 30 tù binh bị quân nhà Trần bắt nay sai sứ đưa trả bọn nầy về nước. 3 Vua Nguyên Mông: lúc đó là Hốt Tất Liệt (Koubilai). 4 Chuẩn bị quân số và thuyền chiến để đánh Nhật Bản:theo ĐVSKTT thì số quân đưa sang đánh Đại Việt lần nầy là 500,000 quân và 300 thuyền chiến đã chuẩn bị từ trước dùng để đánh Nhật Bản nay lại dùng để làm bộ phận chủ lực. Số quân nầy lấy từ 3 tỉnh Chiết Giang, Hồ Quảng, Giang Tây; lại lấy thêm lính ở Vân Nam và lính người Lê ở đảo Hải Nam và dành riêng một đoàn thuyền đi biển để chở lương thực. Tuy nhiên theo KĐVSTGCM thì đoàn quân chủ lực lấy từ ở các tỉnh Giang Hoài, Hồ Quảng, Giang Tây tất cả chỉ có bảy vạn quân (70,000), cộng thêm 6,000 lính ở Vân Nam và một vạn năm ngàn (15,000) lính người Lê cùng với 500 chiếc thuyền tức là theo KĐVSTGCM, đoàn quân Nguyên Mông lần nầy chỉ có 90,000; hoặc là con số nầy chỉ là con số tăng cường để cộng thêm vào số quân đã có sẵn mà trước đó đã dự trù dùng đánh Nhật Bản chứ không lý nào lần trước quân Nguyên Mông với một đội quân 500,000 người đã bị thảm bại với quân nhà Trần mà lần nầy quyết đánh trả thù lại chỉ đem có 100,000 quân vào Đại Việt. Có một điểm cần chú ý ở đây là những người viết KDVSTGCM và nhất là vua Tự Đức thường có những lời cẩn án hoặc lời phê hạ thấp giá trị các chiến công của những triều đại trước, lần nầy
VSTK - 339
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
lại chép theo sách sử của Nguyên Mông cho nên con số chưa tới 100,000. 5 Nguyên Mông sai sứ sang chiêu dụ: việc nầy theo ĐVSKTT thì xảy ra vào tháng 2 năm Bính Tuất (1286), sau khi nhà Trần thả tù binh Nguyên Mông về Trung Hoa nhưng không nói rõ là sứ Nguyên Mông sang lần nầy với mục đích gì. Tuy nhiên có thể suy định rằng, vì muốn rảnh tay để xăm lăng Nhật Bản cho nên sứ Nguyên mới sang Đại Việt để dụ nhà Trần chịu thần phục nhưng triều đình nhà Trần không chịu cho nên quân Nguyên lại gây hấn. Đây là một sự may mắn cho Nhật Bản nhưng lại là một đại bất hạnh cho nhân dân Đại Việt. 6 300 chiến thuyền: ĐVSKT chép 300 chiến thuyền và 50 vạn quân; KĐVSTGCM chép 500 chiếc thuyền. Con số 300 ở đây nhất định phải là số chiến thuyền đã có từ lúc dự định đánh Nhật Bản; sau đó, khi quyết định xăm lăng Đại Việt lần thứ ba, Nguyên Mông mới tăng cường thêm 200 chiếc thuyền nữa vì lần nầy ngoài thuyền chiến, quân Nguyên còn cần thêm thuyền để cho tướng Trương Văn Hổ chuyên chở lương thực bằng đường biển. Như vậy con số 500 chiếc thuyền ghi trong KĐVSTGCM là hợp lý. 7 Thêm 200 chiến thuyền: xem chú giải(5) trên. 8 Đảo Hải Nam: một hòn đảo lớn nằm ở phía Đông Nam hải phận nước Trung Hoa và vào thời nầy gồm có 4 châu Nhai, Quỳnh, Đạm, Vạn. Trên đảo nầy có một sắc tộc gọi là người Lê. 9 Tiếp tế lương thực: ĐVSKTT viết là chở 700,000 thạch lương thực; mỗi thạch có 10 đấu. Con số nầy hợp lý vì phải nuôi ăn cho hơn 500,000 quân và cũng vì số lượng lớn như thế cho nên phải tổ chức riêng một đoàn ghe đi biển để chuyển vận số lương thực nầy vào Đại Việt. 10 Phủ Tư Minh: nay là phủ Thái Bình, tỉnh Quảng Tây, giáp giới với Lạng Sơn của Đại Việt. 11 Cửa sông Đại Than: ở Xã Đại Than, huyện Gia bình, phủ Thuận Thiên, trấn Kinh Bắc; nay là huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc tức là cửa sông Đuống. 12 Đa Mỗ: vùng cửa sông Bạch Đằng. Đây là trận đánh chận cánh quân của Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp đang từ hướng Vân Đồn tiến xuống sau khi đánh bại tướng trấn thủ mặt biển của nhà Trần là Trần Khánh Dư. Vùng nầy bây giờ là vùng mũi Ngọc, gần thị trấn Móng Cái. 13 Sông Phú Lương: bây giờ là sông Nhị Hà, Hà Nội. 14 Phủ Long Hưng: là đất huyện Đa Cương cũ. Vì mộ tổ nhà Trần chôn ở đó nên đổi gọi là Long Hưng. Nay là huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Khi Ô Mã Nhi đánh đuổi, vua nhà Trần chạy trốn về đây nhưng Ô Mã Nhi truy đuổi tiếp. Khi vào Long Hưng, Ô Mã Nhi đã khai quật mộ chôn Trần Thái Tông để trả thù lần thất trận ngày trước. 15 An Hưng: thuộc lộ Hải Đông, nay thuộc vùng huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh.
VSTK - 340
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20
Cửa ải Nội Bàng: theo KĐVSTGCM thì cửa ải nầy thuộc Lạng Giang (tức Lạng Sơn). Địa Dư Chí của Phan Huy Chú không thấy có tên cửa ải Nội Bàng trong vùng Lạng Giang mà chỉ có ải Chi Lăng, Ôn Châu (nay là phố Kỳ Lừa ở Đồng Đăng), và cửa ải Trấn Nam còn gọi là Mục Nam ở phía Bắc ải Chi Lăng. Có sách viết ngày nay là vùng Chủ, tỉnh Hà Bắc. 17 Quân nhà Trần chận đánh: không rõ do tướng nào của nhà Trần chỉ huy nhóm quân nầy; có sách viết là do tướng Phạm Ngũ Lão chỉ huy đánh phục kích quân rút lui của Thoát Hoan. 18 Cửa ải Nữ Nhi: giống như trường hợp cửa ải Nội Bàng vừa chú giải ở trên. 19 Núi Kheo Cấp: trong vùng cửa ải Trấn Nam. Theo LTHCLC thì ở cửa ải nầy, hai bên trái, bên phải núi kéo liền nhau, chắn ngang như cái thành, là mốc giới tự nhiên để ngăn cách bờ cõi của nước Nam và nước Trung Hoa. Ngoài ra còn có cửa ải Quỉ Môn: tướng Liễu Thăng của nhà Minh bị Lê Lợi chém rơi đầu ở cửa ải nầy. 20 Lộc Châu: theo KDVSTGCM, thời Nguyên Mông, Lộc Châu thuộc lộ Tư Minh của nước Trung Hoa. Đến năm 1426 thì Châu Lộc bị Bình Định vương Lê Lợi đánh chiếm và trở thành lãnh thổ của Đại Việt. Ngày nay là châu Lộc Bình, thuộc tỉnh Lạng Sơn. 16
KHẢO LUẬN: Về các chiến công của quan quân nhà Trần : 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40
Người ta thường nhận định rằng: ngựa chứng là ngựa hay, người có tài thường là người có tật. Áp dụng vào dòng họ nhà Trần thì nhận định nầy có vẻ khá đúng. Tài đánh trận, chỉ huy binh sĩ, tham mưu chiến lược, chiến thuật thì phải nói rằng khó có người so sánh được với Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn; đó là về mặt "tài". Về mặt trung hiếu thì ĐVSKTT viết về viên tướng nầy như sau: "Lúc ấy, xa giá nhà vua phiêu giạt lênh đênh, lại có Trần Quốc Tuấn tài ba đi theo hộ tống. Nhưng vì Quốc Tuấn có mối hận cũ với Trần Thái Tông (Trần Thái Tông đã chiếm đoạt vợ của Trần Liễu là cha ruột Trần Quốc Tuấn), nên nhiều người nghi ngại Quốc Tuấn nhân dịp nầy sẽ làm điều càng bậy để rữa hận cho cha mình. Quốc Tuấn theo vua, tay cầm gậy chỉ huy có bịt sắt nhọn, nhưng vì thấy mọi người nghi ngờ e ngại cho nên bẻ gãy đầu sắt nhọn vứt đi ". Ngô Sĩ Liên có lời bàn về việc nầy như sau: "Bậc đại thần ở vào hoàn cảnh bị hiềm nghi nguy hiểm, tất phải thành thật tin tưởng nhau, phải sáng suốt khéo xử sự thì mới có thể giữ được tròn danh dự, tạo nên sự nghiệp. Quách Tử Nghi nhà Đường, Trần Quốc Tuấn nhà Trần đã làm được như vậy ". "Tật xấu" của người danh tướng nầy là chuyện giựt vợ của người khác, mà vai vế của người đàn bà nầy lại thuộc vào hàng cô dì ruột của VSTK - 341
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41
42 43 44
mình. Nước Pháp có danh tướng Napoléon cũng rất luộm thuộm về vấn đề đàn bà. Tuy nhiên tật xấu của Trần Quốc Tuấn đúng ra cũng chỉ là cùng một nòi của dòng họ nhà Trần mà thôi. Viên tướng tài ba thứ nhì của nhà Trần là Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư. Đây là một nhân vật có công rất lớn trong công cuộc chống giữ và đánh đuổi quân ngoại xâm nhưng cũng là hiện thân của một con người tầm thường, tham nhũng, keo kiệt và cũng lăng nhăng, luộm thuộm, rắc rối với đàn bà. Người Trung Hoa có câu: "Vân Đồn kê khuyển diệc giai kinh" (Ở bến Vân Đồn gà chó thảy đều kinh sợ), câu nầy có ý chửi Trần Khánh Dư tham lam, thô bỉ như loài gà chó. Về mặt liên hệ với đàn bà, viên tướng nầy đã thông dâm với công chúa Thiên Thụy.(Thiên Thụy con gái của Trần Thánh Tông, vợ của Hưng Vỏ Vương Hiển, con trai cả của Trần Quốc Tuấn). Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật, là nguời nhã nhặn, độ lượng, thông hiểu kinh điển và là một tướng giỏi có mưu lược, đã từng cho đoàn quân của mình giả dạng quân Tống khiến cho quân Nguyên Mông phải rút chạy vì tưởng rằng quân Đại Việt có thêm quân nhà Tống đánh giúp. Cũng nhờ viên tướng nầy kiên quyết phòng thủ mà đạo quân của Toa Đô từ Chiêm Thành tràn qua không thể đi ngang qua Thanh Hóa để hợp quân với Thoát Hoan. Với cách giả dạng quân nhà Tống như vừa kể, Trần Nhật Duật đã cùng với Trần Quốc Toản và tướng Nguyễn Khoái chận đánh Toa Đô ở bến Hàm Tử và đuổi quân Nguyên chạy về hướng phủ Thiên Trường để đoàn quân của Trần Quốc Tuấn tiêu diệt ở mặt trận Tây Kết. Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải là viên tướng chỉ huy đánh trận Chương Dương, giải phóng thành Thăng Long và đuổi chạy tướng Nguyên sừng sỏ Toa Đô. Sau đó viên tướng nầy đã cùng Trần Nhật Duật chia quân án ngữ, cắt đứt sự tiếp ứng lẫn nhau giữa quân của Toa Đô ở phía Nam và quân của Thoát Hoan đang trốn chạy ở mạn Bắc, để cho đích thân Trần Quốc Tuấn chỉ huy đánh dứt điểm quân Nguyên ở Tây Kết, Toa Đô bị chết tại trận, Ô Mã Nhi lẩn trốn ra Thanh Hóa rồi chạy về Trung Hoa. Còn ở mạn Bắc, tướng Nguyễn Khoái chỉ huy quân phục kích ở Vạn Kiếp để chờ đoàn quân tháo chạy của Thoát Hoan. Trong trận phục kích nầy, tướng Nguyên là Lý Nguyên chết tại trận, còn Thoát Hoan phải chui vào một chum đồng để cho đội quân bại trận vác chạy về Trung Hoa. Sử cũ hầu như không viết gì nhiều về Nguyễn Khoái, viên tướng tài giỏi và lập được rất nhiều công trạng cho nhà Trần. Chỉ biết rằng sau khi dẹp yên quân ngoại xâm Nguyên Mông, Trần Nhân Tông gia phong cho Nguyễn Khoái chức hầu và được ban cấp một làng gọi là Khoái Lộ (tức là Phủ Khoái Châu). Giai thoại về tướng trẻ Trần Quốc Toản được sử cũ viết như sau: Khi ấy, vua thấy Hoài Văn hầu Quốc Toản, Hoài Nhân vương Kiện đều còn trẻ tuổi, không cho bàn việc quốc sự. Quốc Toản lòng hổ thẹn VSTK - 342
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16
phẫn nộ, quả cam đang cầm trong tay bị bóp nát lúc nào mà cũng không hay biết.. Sau đó Quốc Toản lui về tập hợp hơn nghìn tùy thuộc gia nô, rèn đút vũ khí, đóng thuyền chiến, viết lên lá cờ hiệu dòng chữ "Phá cường địch, báo hoàng ân"(phá giặc mạnh để đền đáp những ân sủng của vua đã ban cho). Sau nầy khi đánh với giặc, luôn luôn đi đầu để chỉ huy. . ." Tướng Trần Bình Trọng là một mẫu mực trung hiếu và khí tiết, thà chết chứ không vì danh lợi mà phản bội tổ quốc. Ông là dòng dõi Lê Đại Hành. Dưới triều Trần, gia tộc ông được mang họ Trần. Thời chống quân ngoại xâm Nguyên Mông, ông bị bắt, quân Nguyên dụ hàng và hứa phong vương tước nhưng ông từ khước: "Thà làm ma nước Nam, không làm vương đất Bắc". Rồi bị giết. Các vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông là những người sáng suốt và bất khuất, biết nghe ý dân, biết tin tưởng vào sức chiến đấu của quân dân Đại Việt và nhất là luôn luôn ở bên cạnh, cùng sống chết với binh sĩ của mình để chiến đấu chống ngoại xâm. Hội Nghị Diên Hồng:
17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40
Đây là một sự sáng tạo chưa từng có ở vùng Á Châu vào thời đó, một hình thức trưng cầu dân ý lần đầu tiên xảy ra trên đất nước của bộ tộc Việt Nam. Lúc đó, trong nội bộ hàng vương tộc có rất nhiều kẻ chủ bại muốn đầu hàng cường địch nhưng cuối cùng tiếng nói của người dân ở thềm điện Diên Hồng đã đoàn kết quân dân một lòng đánh đuổi quân xăm lăng đến từ nước Trung Hoa. Đây là một đóng góp lớn lao của Trần Thánh Tông khi đang ở địa vị thượng hoàng cùng chia xẻ lo việc quốc sự với Trần Nhân Tông. Về sự kiện nầy, Ngô Sĩ Liên đã có nhận định như sau: "Giặc Hồ (tức là giặc Nguyên Mông) vào cướp là nạn lớn của đất nước. Hai vua hiệp mưu, bày tôi họp bàn há lại không có kế sách gì chống giặc hay sao mà lại phải cần ban yến hỏi kế ở các phụ lão? Đó chẳng qua là vì muốn biết lòng dân có ủng hộ chính sách của triều đình hay không nhưng đồng thời cũng là để khích động ý chí quật cường chống ngoại xăm của người dân. Đó cũng còn là một việc làm có ý nghĩa người xưa nuôi người già để xin lời hay tiếng đẹp vậy". Tự Đức là một người tự cao tự đại, khinh mạn nhưng rốt cuộc cũng phải công nhận những công trạng hiển hách của vua quan nhà Trần qua lời phê như sau: "Lúc bấy giờ nhà Nguyên mới nổi lên, khí thế lừng lẫy bạo ngược. Nhà Trần cũng vừa mới nổi lên, được các vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông sáng suốt và các hàng quan văn tướng võ có tài cán cho nên đã đánh bại được giặc, giữ được nước, chứ nếu như gặp các vua tôi khác không được anh dũng trung hiếu như vua tôi nhà Trần hay ở vào lúc không được hưng thịnh như lúc nhà Trần mới nổi lên thì tình thế không biết sẽ ra sao".
VSTK - 343
TRẦN NHÂN TÔNG (tiếp theo) 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
Năm Mậu Tý, ( 1288) tháng 4, miễn giảm thuế tô, thuế dịch cho dân chúng bị thiệt hại vì chiến tranh và ở những nơi bị giặc tàn phá, cướp bóc nhiều lần. Tháng 9, Trần thị Thiên Thành vợ của Trần Quốc Tuấn chết. Tháng 10, sai Đỗ Thiên Hư đi sứ sang Trung Hoa để điều đình việc bang giao với triều đình Nguyên Mông. Kỷ Sửu, Trùng Hưng năm thứ 5, tháng 2 (1289), đưa trả cho nhà Nguyên Mông tướng Tích Lệ Cơ Ngọc và tro cốt của Phàn Tiếp cùng các tù binh khác đồng thời giả trá nhắn tin rằng Ô Mã Nhi bị đắm thuyền chết1. Tháng 4, xét thưởng cho những người có công trong cuộc chống ngoại xâm Nguyên Mông; những người có thành tích, lập nhiều công trạng đặc biệt đều được xướng danh, họa hình vào tập Trùng Hưng Thực Lục2. Xét tội những vương, hầu hoặc các quan lại đã đầu hàng và hợp tác với quân ngoại xâm. Trong dịp xét tội nầy, dân ở hai làng Bàng Hà và Bà Điểm bị xử tội đồ làm nô tỳ cho các vương hầu vì dân trong hai làng đó khi quân Nguyên mới đến đã ra đầu hàng ngay; từ nay trở đi dân của hai làng nầy cũng bị cấm không được tiến thân làm quan với triều đình. Canh Dần, Trùng Hưng năm thứ 6 (1290), bổ nhiệm hàng quan văn chia nhau đi cai trị các lộ. Trần Nhân Tông tự cầm quân đánh Ai Lao vì sợ Ai Lao lợi dụng tình thế chưa ổn định ở Đại Việt mang quân đánh úp bất ngờ. Tháng 5, ngày 25, năm Canh Dần (1290), Trần Thánh Tông mất, làm vua 21 năm, giữ ngôi thượng hoàng 13 năm, thọ 51 tuổi, chôn ở phủ Long Hưng. Lệnh bổ dụng Phạm Ngũ Lão quản lĩnh đoàn quân Thánh Dực. VSTK - 344
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
Tháng 8, sai sứ sang báo tang với vua Nguyên Mông. Dân chúng bị nạn đói to. Lệnh miễn xá thuế và lấy thóc trong kho cứu đói cho dân nghèo. Tân Mão, Trùng Hưng năm thứ 7, tháng 10 (1291), sứ Nguyên Mông sang mang chiếu lệnh bắt Trần Nhân Tông phải đích thân sang chầu. Trần Nhân Tông khước từ và chỉ cử sứ thần đi thay vào năm sau (Nhâm Thìn/ 1292). Nhâm Thìn, Trùng Hưng năm thứ 8, tháng 2 (1292), lập thái tử Trần Thuyên làm hoàng thái tử. Đưa con gái trưởng của Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng về làm phi cho thái tử Thuyên. Quý Tỵ, ngày 9 tháng 3, Trùng Hưng năm thứ 9 (1293), Trần Nhân Tông nhường ngôi cho hoàng thái tử Trần Thuyên. CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:
16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36
Giả trá nhắn tin về việc Ô Mã Nhi bị đắm thuyền chết: về việc nầy, ĐVSKTT và KĐVSTGCM chép không giống nhau. ĐVSKTT chép:" Sai nội thư gia Hoàng Tá Thốn đưa bọn Ô Mã Nhi về nước rồi dọc đường dùng kế của Hưng Đạo Vương, cho người biết bơi lặn giỏi sung làm phu thuyền rồi ban đêm đục thuyền cho đắm, bọn Ô Mã Nhi đều chết đuối cả ". (BK/Q.5/56). KĐVSTGCM tham khảo sách Thiên Nam hành kỷ của tác giả người Nguyên Mông Từ Minh Thiện rồi viết như sau:" Trong trận chiến thắng ở Bạch Đằng, quân ta bắt được tướng Nguyên Mông là Ô Mã Nhi và bọn Tích Lệ Cơ Ngọc, Phàn Tiếp. Sau đó nhà vua sai Nguyễn Thịnh đưa Cơ Ngọc về trước, còn Phàn Tiếp bị bệnh chết, cho hỏa táng rồi đưa cho vợ con của hắn mang tro cốt về Tàu.; tất cả những đầu mục, quân binh của Nguyên Mông bị bắt cũng được trả về. Duy có Ô Mã Nhi chém giết cướp bóc dân ta một cách tàn khóc, nhà vua căm giận lắm, nên theo kế của Quốc Tuấn, sai nội thư gia Hoàng Tá Thốn đưa trả về nước, dùng người tài lội nước sung làm phu chèo thuyền, nhân đêm dùi thủng thuyền cho đắm, Ô Mã Nhi bị chết đuối. Nhân đấy nhà vua mới phúc thư với nhà Nguyên Mông rằng: Vì thuyền rỉ nước bị đắm, quan tham chính Ô Mã Nhi sức vóc to lớn, không sao cứu vớt được, thành ra chết đuối. Nhà Nguyên cũng không tra cứu gì đến việc nầy". 1
VSTK - 345
1 2 3
Sách Trùng Hưng Thực Lục: theo LTHCLC của Phan Huy Chú thì tập sách nầy gồm có 2 quyển do Trần Nhân Tông cho lệnh biên soạn, ghi việc đánh đuổi giặc Nguyên Mông. 2
KHẢO LUẬN: Về việc tuyên án phạt tập thể 2 làng Bàng Hà và Bà Điểm: 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26
Bàng Hà tức là huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, phía Đông Bắc của lộ Hải Đông. Không thấy sử sách cũ viết rõ về địa danh Bà Điểm, nhưng có thể là trong cùng một vùng với núi Phả Lại, phủ Từ Sơn, lộ Bắc Giang thượng bởi vì khi quân Nguyên Mông tràn qua đã đánh chiếm hai làng Bàng Hà và Bà Điểm trước tiên rồi đóng doanh trại ở 2 vùng núi Chí Linh và Phả Lại để làm bàn đạp đánh xuống Vạn Kiếp. Dân chúng trong 2 làng nầy đương nhiên phải chịu khuất phục dưới gót giày của quân ngoại xâm và đó là điều phải xảy ra bởi vì trong giai đoạn nầy, quan quân nhà Trần trấn đóng ở Bắc Giang thượng và ở phía Đông Bắc lộ Hải Đông đều lo rút lui né tránh áp lực của quân Nguyên Mông, bỏ rơi những người thường dân trong tay không một tấc sắt ở lại trong vùng quân Nguyên vừa mới chiếm đóng: nếu họ không đầu hàng quân ngoại xâm thì chắc chắn là họ sẽ không còn sống sót để chờ ngày tuyên án phạt tập thể của Trần Nhân Tông. Sự tuyên phạt nầy là một vết đen bôi bẩn cho nền luật pháp của triều đại nhà Trần vì không lý xét tới trường hợp khẩn thiết của người dân trong hai làng đó khi đứng trước quân xâm lược Nguyên Mông hung bạo và hiếu sát, không phân biệt giữa cá nhân và tập thể. Án phạt tập thể nầy còn cho thấy trình độ ấu trĩ, bất công và độc đoán của một kẻ nắm giữ quyền sinh sát dân chúng trong tay. Nếu có phạt thì phải phạt những kẻ gọi là cha mẹ dân, những bọn quan lại cầm quyền cai trị địa phương đã lo chạy thoát thân bỏ thí dân chúng ở lại nheo nhóc dưới tay của quân ngoại nhập. Về cái chết mờ ám của tướng Ô Mã Nhi:
27 28 29 30 31 32 33 34 35 36
Lời cẩn án trong KDVSTGCM viết: "Đoạn văn nầy Sử cũ chép là bọn Ô Mã Nhi đều bị chết đuối; còn trường hợp của Cơ Ngọc và Phàn Tiếp thì trình bày không rõ ràng, như thế có phần sai sự thật, nay tham khảo sách Thiên nam hành kỷ của Từ Minh Thiện nhà Nguyên Mông, cải chính lại ". Tự Đức phê bình việc đục thuyền giết Ô Mã Nhi như sau: "Bất nhân phi nghĩa! ". Cái chết của tướng Ô Mã Nhi rõ ràng là một cái chết rất mờ ám đáng dị nghị. Cách chép trong 2 bộ sử cũ về việc nầy có 1 chi tiết mâu thuẫn nhau đó là trường hợp của Tích Lệ Cơ Ngọc và 2 chi tiết giống VSTK - 346
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35
nhau: cái chết thực sự của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp và chuyện đục thủng làm đắm thuyền. Một chi tiết khác cũng được ghi trong 2 bộ sử cũ cần được lưu ý: sau khi đánh bại quân Nguyên, tháng 10 năm Mậu Tý (1288) vua nhà Trần phải sai sứ sang triều đình nhà Nguyên để thương lượng việc giao hảo, hòa bình giữa 2 nước. Nhất định là vua nhà Nguyên có đặt điều kiện nhà Trần phải trao trả hết tù binh và các tướng của nhà Nguyên đang bị quân nhà Trần bắt giữ; sau đó triều đình nhà Trần thi hành điều kiện nầy vào tháng 2, năm Kỷ Sửu (1289). Tuy nhiên có thể là vào lúc đó tất cả những tướng đầu sỏ của nhà Nguyên bị bắt đã bị vua nhà Trần giết hết rồi. Nhưng các tướng Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp và Tích Lệ Cơ bị giết lúc nào và ở đâu ? ĐVSKTT có đoạn viết:" Hai vua trở về Long Hưng. Ngày 17 tháng 3 năm Mậu Tý, đem các tướng giặc bị bắt là Tích Lệ Cơ Ngọc, nguyên soái Ô Mã Nhi, Tham chính Sùng Đoàn, Phàn Tiếp, nguyên soái Điền, các Vạn hộ, Thiên hộ làm lễ dâng thắng trận ở Chiêu Lăng. Trước đó, quân Nguyên đã khai quật Chiêu Lăng muốn phá đi nhưng chưa phạm được tới quan tài ". KĐVSTGCM gọi việc nầy là hiến tiệp có nghĩa là dâng tâu chiến công đã đánh thắng và bắt được cường địch. Lễ dâng thắng trận nầy chính là dịp để cho hai vua nhà Trần trả thù việc Ô Mã Nhi đã quật mồ của Trần Thái Tông bằng cách đem hết bọn tướng của nhà Nguyên bị bắt ra tế sống tức là giết đi để dâng hiến cho thần linh hoặc cho ngÜời đã chết dÜới mộ. Đây là một thói lệ giống nhÜ lệ Çem tù binh của quân địch chém đầu lấy máu để tế cờ trÜớc khi xuất quân đi đánh trận. Cũng cần biết rằng, trong các thời đại phong kiến, đụng chạm tới cung điện mồ mả của họ hàng vÜÖng tộc là một tội đại phản nghịch không ÇÜợc ân xá hoặc giảm tội. NhÜ vậy, việc làm Çắm thuyền để phi tang là một mÜu lÜợc tài tình của HÜng ñạo vÜÖng Trần Quốc Tuấn, một màn Çấu trí ngoại giao ngoạn mục đã qua mặt đÜợc triều đình nhà Nguyên và tuy rằng người nhà Nguyên có thể biết rõ chủ mÜu làm Çắm thuyền nhÜng cũng không còn đủ uy lực sau một lần đại bại để phản đối triều đình nhà Trần về vụ âm mÜu giết ngÜời dấu tay nầỵ
VSTK - 347
HÜng ñåo VÜÖng Trần Quốc Tuấn
VSTK - 348
QUYỂN II
THỜI ĐẠI TỰ CHỦ CHƯƠNG IV
TRẦN ANH TÔNG ( 1293 - 1314 ) Niên hiệu: Hưng Long 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
Năm Quý Tỵ, tháng 3, Trùng Hưng năm thứ 9 (1293), thái tử Trần Thuyên lên ngôi, tức là Trần Anh Tông, đặt niên hiệu là Hưng Long năm thứ 1, phong Văn Đức1 làm phu nhân, nhưng rồi phế đi để lấy em gái của Văn Đức2. Tháng 7, ngày mồng 3 năm Giáp Ngọ (1294), thượng tướng thái sư chiêu minh đại vương Trần Quang Khải mất, thọ 54 tuổi. Tháng 8, thượng hoàng Trần Nhân Tông tự cầm quân xăm lăng nước Ai Lao, có tướng Phạm Ngũ Lão trợ chiến, bắt được nhiều người, cướp phá tài sản và gia sút của nhân dân Ai Lao. Bính Thân, tháng 3, Hưng Long năm thứ 4 (1296), thượng phẩm Nguyễn Hưng vi phạm luật cấm cờ bạc, bị phạt đánh bằng trượng chết. Đinh Dậu, tháng 2, Hưng Long năm thứ 5 (1297), thay đổi quy chế binh lính hiện dịch: tuyển dân đinh người nào khoẻ mạnh bắt suốt đời làm lính. Đổi quân hiệu giáp binh thành hương binh. Tháng 12, bổ dụng Trần Khắc Chung làm Đại An phủ sứ3 ở kinh đô. Kỷ Hợi, tháng 5, Hưng Long năm thứ 7 (1299), bổ dụng Đoàn Nhữ Hài4 làm Ngự sử trung tán. Tháng 7, Trần Nhân Tông vào tu ở am Ngọa Vân5. Canh Tý, tháng 3, Hưng Long năm thứ 8 (1300), Trần Quốc Khang6 chết. Ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý (1300), Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn mất ở phủ dinh Vạn Kiếp, được VSTK - 349
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
truy tặng thái thượng phụ thượng quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo đại vương. Dân ở châu Lạng Giang lập đền thờ7. Ngày 21, tháng 8 năm Canh Tý (1300) hoàng tử Trần Mạnh sinh. Mẹ sinh của Trần Mạnh là con gái Trần Bình Trọng. Quý Mão, tháng10, Hưng Long năm thứ 11 (1303), Bổ dụng Trần Khắc Chung chức Nhập nội hành khiển8. Giáp Thìn, tháng 3, Hưng Long năm thứ 12 (1304), thi Thái học sinh: tất cả có 44 người đỗ trong đó Mạc Đỉnh Chi9 đỗ trạng nguyên; Nguyễn Trung Ngạn10 mới 16 tuổi đỗ hạng tư. Ất Tỵ, tháng Giêng, Hưng Long năm thứ 13 (1305), lập thái tử Trần Mạnh làm Đông11 cung thái tử. Bính Ngọ, tháng Giêng, Hưng Long năm thứ 14 (1306), Tá Thiên vương Trần Đức Việp12 chết, thọ 42 tuổi. Tháng 6, Hưng Long năm thứ 14 (1306), gả Huyền Trân13 công chúa cho vua Chiêm Thành là Chế Mân để đổi lấy châu Ô và châu Lý. Đinh Mùi, tháng Giêng, Hưng Long năm thứ 15 (1307), đổi tên châu Ô, châu Lý là Thuận châu, Hóa châu. Cử Đoàn Nhữ Hài đi trấn nhậm và phủ dụ dân chúng ở hai châu ấy. Tháng 9, sứ Chiêm sang báo tin vua Chế Mân mất. Tháng 10, sai Trần Khắc Chung sang Chiêm Thành tìm cách đưa Huyền Trân công chúa trở về nước14 vì theo tục lệ Chiêm Thành, khi vua chết thì các bà vợ và cung tần của vua cũng sẽ bị hỏa thiêu chết theo. Chế Chí lên ngôi vua Chiêm liền yêu cầu trả lại đất đai của họ đã bị nhà Trần sáp nhập vào Đại Việt15. Mậu Thân, tháng Giêng, Hưng Long năm thứ 16 (1308), bổ dụng Trương Hán Siêu16 làm Hàn Lâm học sĩ.
VSTK - 350
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
Ngày mồng 3 tháng 11 năm Mậu Thân (1308), Trần Nhân Tông mất ở am Ngọa Vân trên núi Yên Tử, an táng ở Đức lăng, phủ Long Hưng, ở ngôi 14 năm, giữ ngôi thượng hoàng 13 năm, thọ 51 tuổi. Thiên Thụy17 công chúa cũng mất cùng một ngày. Kỷ Dậu, tháng 2, Hưng Long năm thứ 17 (1309), Trần Anh Tông lập Đông cung thái tử Trần Mạnh làm hoàng thái tử và Thánh Tư Trần thị phu nhân được lập làm Thuận Thánh hoàng hậu; mẹ đẻ của Trần Mạnh là con gái của Trần Bình Trọng được phong làm hoàng nguyên phi Huy Tư. Thứ phi Phạm thị là con gái Phạm Ngũ Lão, không có con với Trần Anh Tông, xin rời cung điện để đi tu. Tân Hợi, tháng 12, Hưng Long năm thứ 19 (1311), Trần Anh Tông cùng với Trần Quốc Chân và Trần Khánh Dư đưa quân sang xâm lăng nước Chiêm Thành với lý do là Chế Chí phản trắc18 không giữ những điều giao ước19 đã có từ trước. Nhâm Tý, tháng 5, Hưng Long năm thứ 20 (1312), quan quân nhà Trần bắt được Chế Chí; đưa người em của Chế Chí là Chế Đà19bis lên làm vua bù nhìn nước Chiêm Thành. Tháng 6, Trần Nhân Tông trở về Thăng Long. Quý Sửu, tháng 2, Hưng Long năm thứ 21 (1313), Chế Chí chết ở Gia Lâm20, đem hoả táng. Cử An phủ sứ Đỗ Thiên Hư làm Kinh lược sứ Nghệ An và Lâm Bình kiêm luôn nhiệm vụ giám sát nước Chiêm Thành. Giáp Dần, tháng 3, Hưng Long năm thứ 22 (1314), Trần Anh Tông nhường ngôi cho hoàng thái tử Trần Mạnh . CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:
VSTK - 351
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
Văn Đức Phu nhân: có thể là con gái lớn của Phạm Ngũ Lão và em gái của Văn Đức phu nhân có lẽ là Thánh Bà phu nhân. 2 Em của Văn Đức: từ lúc chưa lên ngôi vua, Trần Thuyên (tức Trần Anh Tông) đã có vợ chính là Thánh Tư phu nhân, con gái trưởng của Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng (Tảng là con trai của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn). Nhưng vì người vợ nầy không có con trai với Trần Thuyên cho nên khi vừa lên ngôi vua, Trần Thuyên (lúc nầy là Trần Anh Tông) mới lấy con gái trưởng của Phạm Ngũ Lão là Văn Đức để làm vợ thứ. Nhưng Văn Đức cũng không có con trai cho nên Anh Tông lại lấy em của Văn Đức là Thánh Bà làm phi. Thánh Bà cũng không sinh được con trai cho nên Anh Tông lại lấy con gái của Trần Bình Trọng là Huy Tư làm phi; Huy Tư sinh Trần Mạnh. Sau khi Trần Anh Tông lên ngôi, Huy Tư được phong làm hoàng nguyên phi, Thánh Tư làm Thuận Thánh hoàng hậu còn Thánh Bà vì không sinh được con nối ngôi xin được rời khỏi cung điện, đi tu. Như vậy, Trần Mạnh sau nầy sẽ có hai người mẹ: Thánh Tư phu nhân hay Thuận Thánh hoàng thái hậu là mẹ đích và hoàng nguyên phi Huy Tư Trần thị là mẹ đẻ. 3 Đại an phủ sứ ở kinh đô: giống như chức đô trưởng hành chánh ngày nay. 4 Đoàn Nhữ Hài: người làng Trường Tân, huyện Gia phúc, tỉnh Hải Dương. 5 Am Ngọa Vân: trên ngọn núi Tử Tiêu trong vùng núi Yên Tử, thuộc huyện Đông Triều tỉnh Hải Dương. Trần Nhân Tông lấy hiệu là Trúc Lâm Đại Sĩ tức là sư tổ sáng lập ra phái thiền tông Trúc Lâm và thường được niệm gọi là Tái Thế Thích Ca trong kinh tụng; sư tổ đời thứ 2 là sư Pháp Loa, niệm gọi là Ca Diếp và sư tổ đời thứ 3 là sư Huyền Quang niệm gọi là Át Nan. 6 Trần Quốc Khang: con trai của Trần Liễu và Lý Thuận Thiên nhưng Trần Thái Tông cướp vợ của Trần Liễu (tức là Lý Thuận Thiên) trong khi mang thai Quốc Khang cho nên Quốc Khang xem như là con của Trần Thái Tông. 7 Đền thờ Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn: ở xã Vạn An, huyện Lục Ngạn, phủ Lạng Giang, tức là đền thờ Kiếp Bạc, nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. 8 Nhập nội hành khiển: ngang với chức tể tướng hay thủ tướng. 1
Mạc Đỉnh Chi: tự là Tiết Phu, người làng Lũng động, huyện Chí Linh, lộ Hải Đông, người rất thông minh, thẳng thắn và liêm khiết nhưng diện mạo xấu xí. Mạc Đăng Dung là cháu 7 đời của Mạc Đỉnh Chi. Sau khi tiếm ngôi nhà Lê, Mạc Đăng Dung truy tôn Mạc Đỉnh Chi là Huệ Cảm Linh Khánh vương, xây điện Sùng Đức trên nền nhà cũ của Mạc Đỉnh Chi ở Lũng Động. 9
Nguyễn Trung Ngạn: (1289-1370) người làng Thổ Hoàng, huyện Thiên Thi, Hưng Yên, Năm 1304 đỗ tiến sĩ vào lúc 16 tuổi, đứng hạng thứ 4 sau hàng tam khôi. Năm 1329 làm ra quyển Thực Lục. 10
VSTK - 352
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
Năm 1337, làm An phủ sứ Nghệ An kiêm coi việc chép quốc sử ở viện Quốc sử. Vào thời Trần Dụ Tông, cùng Trương Hán Siêu biên soạn bộ Hoàng Triều Đại Điển và bộ Hình thư của nhà Trần. Có tập thơ Giới Hiên toàn tập lưu hành ở đời. 11 Đông cung: là cung điện dành riêng cho người con được lập làm hoàng thái tử nối ngôi vua cha trong tương lai. 12 Trần Đức Việp: em trai của Trần Nhân Tông. 13 Huyền Trân: con gái của Trần Nhân Tông, em gái của Trần Anh Tông. ĐVSKTT chép theo thứ tự thời gian như sau: " Tân Sửu, tháng 3 (1301), Thượng hoàng (Trần Nhân Tông) vân du khắp nơi, sang Chiêm Thành. Tháng 11, từ Chiêm Thành trở về. Ất Tỵ, tháng 2 (1305), Chiêm Thành sai Chế Bồ Đài và tùy tùng hơn trăm người dâng hiến vàng bạc, hương quý, vật lạ làm lễ vật cầu hôn . . . Các quan trong triều đều cho là không nên, duy chỉ có Văn Túc vương Trần Đạo Tái (con của Trần Quang Khải) và Trần Khắc Chung tán thành. Chúa Chiêm Thành lại dâng 2 châu Ô và châu Lý để làm lễ cưới và vì vậy mới có quyết định bán gả Huyền Trân. Bính Ngọ, tháng 6 (1306), gả công chúa Huyền Trân cho chúa Chiêm Thành Chế Mân. Trước đây thượng hoàng Trần Nhân Tông vân du sang Chiêm Thành, đã hứa gả rồi. Các văn nhân trong triều, ngoài nội mượn chuyện nhà Hán gả con gái cho Hung Nô (tức là chuyện Chiêu Quân cống Hồ), làm thơ để chế giễu về việc cưới gả nầy ". 14 Trần Khắc Chung đưa Huyền Trân trở về Đại Việt: ĐVSKTT chép chuyện nầy như sau: "Theo tục lệ Chiêm Thành, mỗi khi chúa Chiêm chết thì vợ của chúa phải lên giàn hỏa thiêu sống để được chết theo chồng. Trần Anh Tông được tin Chế Mân chết, sợ công chúa bị hại, sai bọn Trần Khắc Chung, mượn cớ là sang viếng tang. . .rồi dùng thuyền nhỏ cướp lấy công chúa đem về, rồi tư tình thông dâm với công chúa, lênh đênh dây dưa trên mặt biển, kéo dài rất lâu mới về đến Thăng Long ". 15 Trả lại đất đai của Chiêm Thành bị sáp nhập vào Đại Việt: ĐVSKTT và KĐVSTGCM đều viết là Chế Chí, vua mới của Chiêm Thành thường hay phản trắc nhưng không nói rõ phản trắc như thế nào. Nếu suy tới cùng thì chính quan quân nhà Trần mới là những kẻ phản trắc: cướp Huyền Trân mang trở về nhưng vẫn khư khư giữ hai châu Ô và châu Lý mà trước đây Chế Mân đã dâng nạp để làm sính lễ cưới hỏi. Chính nhà Trần đã bội ước trong việc cưới hỏi cho nên nhà Trần đáng lý ra phải có nghĩa vụ trả lại sính lễ mà hơn nữa còn phải đền bù thiệt hại nữa mới phải chứ có đâu sau đó lại đem quân sang đánh người, vu cáo rằng vì bọn họ phản trắc không giữ những điều giao ước từ trước. 16 Trương Hán Siêu: tự là Thăng Am, người làng Phúc Thành (Phúc Am), huyện Yên Ninh (Yên Khang hay Yên Khánh), là bạn thân của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Đến thời Trần Dụ Tông, cùng với Nguyễn Trung Ngạn biên định bộ Hoàng Triều Đại Điển và khảo soạn
VSTK - 353
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41
bộ Hình Thư. Là một người ương bướng, văn chương, chính sự đều giỏi, bài bác thói dị đoan. 17 Thiên Thụy công chúa: là chị của Trần Nhân Tông. Chuyện hai chị em chết cùng một ngày chép trong sử cũ có vẻ mờ ám khó hiểu. ĐVSKTT viết: Bấy giờ thượng hoàng (Trần Nhân Tông) xuất gia, tu ở ngọn Tử Tiêu núi Yên Tử, tự hiệu là Trúc Lâm đại sĩ. Bà chị là Thiên Thụy ốm nặng, thượng hoàng xuống núi, tới thăm và bảo: "Nếu chị đã đến ngày đến giờ thì cứ đi, thấy âm phủ có hỏi thì trả lời rằng: xin đợi một chút, em tôi là Trúc Lâm đại sĩ sẽ tới ngay ". Nói xong thượng hoàng trở về núi, dặn dò người hầu là Pháp Loa các việc về sau, rồi bỗng nhiên ngồi mà hóa. Thiên Thụy cũng mất vào hôm đó. Có vẻ như là hai người đã có hẹn ước trước với nhau sẽ cùng chết một lúc. Hoặc giả sử cũ muốn tạo uy linh và thần thánh hóa Trúc Lâm đại sĩ chăng? Nếu không có điều mờ ám thì cần gì phải kể lễ biện bạch về cái chết cùng một lúc của chị em nhà họ Trần? Những chuyện gái trai mờ ám trong tộc họ nhà Trần đầy dẫy, ở bất cứ triều đại nào của họ nầy cũng thấy xảy ra. 18 Chế Chí phản trắc: đây chỉ là một lý do không chính đáng do nhà Trần đưa ra để biện bạch cho bản chất xăm lăng hiếu chiến và chính sách bành trướng lãnh thổ của mình. 19 Chế Chí không giữ những điều giao ước : xem chú giải(15) trên. 19 bis Chế Đà: ĐVSKTT viết: "phong cho em hắn là Chế Đà A Bà Niêm làm Á hầu để trấn giữ đất ấy ". 20 Chế Chí chết ở Gia Lâm: ĐVSKTT viết: "Tháng 6 (1312), phong cho Chế Chí tước Hiệu Trung vương, sau lại đổi là Hiệu Thuận vương. Tháng 2, Quý Sửu (1313), Chế Chí đến Hành cung Gia Lâm, chết, đem hỏa táng ". Hành cung là nơi để cho vua Nhà Trần ở tạm mỗi khi rời kinh đô để đi thanh sát dân tình hoặc đi đánh trận. Chế Chí đến hành cung Gia Lâm để làm gì để rồi chết ở đó? Cái chết nầy của Chế Chí cũng giống như cái chết mờ ám của các tướng Nguyên Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp sau khi bị quan quân nhà Trần bắt giữ. Dòng họ nhà Trần thường hay dùng chính sách thủ tiêu để giết hại những người chống đối hoặc tướng bên địch bị bắt rồi thiêu xác đi để phi tang; chính sách nầy được áp dụng kể từ thời Trần Thủ Độ ám sát vua Lý Huệ Tông rồi đem thiêu xác để phi tang. Cái chết Chế Chí có thể xảy ra như sau: Trần Nhân Tông âm mưu dụ hàng để bắt Chế Chí rồi đưa em của Chế Chí là Chế Đà lên làm vua bù nhìn nước Chiêm Thành, còn Chế Chí thì bị bắt đưa về Đại Việt. Khi về đến hành cung Gia Lâm thì Chế Chí bị giết đi, xác đem thiêu đốt để không còn chứng cớ, rồi giả trá phong tước vương cho Chế Chí để đánh lừa nhân dân Chiêm Thành rằng Chế Chí chết một cách bình thường chứ không phải do Trần Nhân Tông ám hại. KHẢO LUẬN:
VSTK - 354
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42
Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn:
Tài và công trạng của Trần Quốc Tuấn là một sự thật hiển nhiên không có ai có thể bài bác dị nghị. Khi giặc Nguyên Mông xâm lăng, ông soạn sách Binh Gia Yếu lược và bài Hịch tướng sĩ để kích động các tướng. Bài Hịch đại lược như sau: <<Ta từng nghe, Kỷ Tín1 đem mình chết thay để giải vây cho Hán Cao Đế, Do Vu2 đưa lưng đỡ giáo để che cho Sở Chiêu vương, Dự Nhượng3 nuốt than để báo thù cho chủ mình là Trí Bá, Thân Khoái4 chặt tay để chết theo nạn nước; Uất Trì Cung Kính Đức5 là một tướng trẻ mà xả thân phò tá Đường Thái Tông thoát khỏi vòng vây hãm của Vương Thế Sung; Nhan Cảo Khanh6 là một tôi thần ở ngoài biên giới xa xôi mà luôn miệng mắng chửi An Lộc Sơn, nhất quyết không theo bọn phản tặc Xem như vậy thì kể từ ngày xưa, các bậc trung thần, nghĩa sĩ bỏ mình vì tổ quốc đời nào cũng có. Ví bằng các hạng người đó cứ khư khư theo thói thường tình thì chỉ có chết ở xó cửa chứ làm sao lại có thể lưu danh nơi sử sách, muôn đời không bị mai một cùng trời đất. Các ngươi xuất thân là dòng dõi võ tướng, không thông hiểu nhiều văn nghĩa cho nên khi nghe những chuyện ấy thì không khỏi nửa tin nửa ngờ.Vậy, hãy tạm gát lại không bàn những chuyện đời trước. Nay ta đem chuyện quân Tống, chuyện quân Mông làm đầu đề nói chuyện: Vương Công Kiên là người thế nào cùng tỳ tướng Nguyễn Văn Lập là người thế nào mà lại dám lấy thành Điếu Ngư 7 nhỏ bé để chống lại hàng trăm vạn quân của Mông Kha hiếu chiến khiến cho trăm họ nhân dân của nhà Tống đến bây giờ vẫn còn đội ơn sâu. Tên Ngột Lương Hợp Thai8 là người thế nào và tỳ tướng Cân Tu Tư của hắn là kẻ như thế nào mà cả hai lại có thể xong pha muôn dặm đi vào chốn đường xa sơn lam chướng khí và chỉ trong khoảng vài tuần đã đè bẹp quân Nam Chiếu8bis khiến cho vua quan Thát Đát nổi danh lẫy lừng mãi cho đến hôm nay. Huống chi ta cùng các ngươi, sinh ra nhằm vào thời buổi nhiễu nhương, trưởng thành trong đau khổ, nhìn thấy bọn sứ giặc ngông nghênh trên đường phố, uốn miệng lưỡi cú diều thốt lời sĩ nhục triều đình ta, ỷ cái thân chó dê mà khinh nhờn tể phụ9; dựa vào mệnh lệnh của Vân Nam Vương10 để đòi hỏi mèo nheo11 ngọc ngà gấm vóc, vơ vét sách nhiễu không còn giới hạn, chẳng khác gì ném thịt cho hổ đói dễ gì thoát khỏi tai vạ về sau. Ta thường tới bữa quên ăn, trằn trọc vỗ gối nửa đêm, nước mắt đầm đìa, ruột đau như bị dao cắt, luôn căm hận muốn được cắt da, xẻo thịt, moi gan, hứng máu giặc thù cho dù ta phải phơi thây ngoài đồng cỏ, dù xác ta phải bọc bằng da ngựa thì ta cũng không ân hận. Các ngươi là những hàng công tác thân cận, những người nắm quyền binh, khi các ngươi thiếu thốn ta cấp cho cho ăn, cho mặc. Quan chức thì ta thăng thưởng, lương bổng thì ta cho thêm, qua sông qua biển thì VSTK - 355
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43
ta cấp thuyền, đường bộ nhọc nhằn thì ta cấp ngựa; khi xong pha trận mạc thì sống chết có nhau, khi ở nhà thì an lạc cùng vui hưởng, tất cả những điều đó nếu đem so với việc Vương Công Kiên hậu đãi kẻ tùy tướng, Ngột Lương Hợp Thai ưu đãi kẻ phụ tá thì cũng chẳng kém sút. Nay các người ngồi yên trơ mắt mà nhìn chủ bị khinh khi, cả nước bị sỉ nhục mà bản thân các ngươi không biết hổ thẹn, các ngươi là tướng tá của triều đình nhưng phải quỳ lụy hầu hạ quân giặc mà không biết tức, tai nghe nhạc vui tai thết yến sứ ngụy mà không biết căm, lấy chuyện đá gà làm vui, đánh bạc làm thú, chăm chuốt vườn ruộng để nuôi riêng cho gia đình, ích kỷ quyến luyến vợ con, lo làm giàu bỏ lơi việc nước, bê tha rượu chè, săn bắn, hát xướng mà quên đi việc phòng chống giặc ngoài. Thảng hoặc có giặc Thát Mông tràn sang thì cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh, vườn ruộng sung túc không thể che chở được tấm thân quý giá, vợ con bận bịu không có lợi gì cho việc quân quốc; tiền của dù nhiều cũng không mua được đầu giặc, lũ chó săn tuy khỏe nhưng làm sau cắn đuổi được giặc thù. Chén rượu thơm ngon không thể dùng làm thuốc độc để tiêu diệt giặc cướp nước, đàn nhạc hay không chọc thủng được tai lũ giặc ngông nghênh. Cho tới độ ấy chúa tôi, quan quân đều bị giặc bắt thì sẽ bị đau xót đến nhường nao. Lúc đó thì không phải chỉ có riêng thái ấp của ta bị giặc chiếm đoạt mà ngay cả bổng lộc của các ngươi cũng vào tay quân dữ; không những gia quyến của ta bị truy đuổi mà ngay cả vợ con của các ngươi cũng bị chúng bắt đi; không lý nào xã tắc của tổ tiên ta bị chúng giày xéo mà chúng lại để yên không đào quật mồ mả ông bà cha mẹ của các ngươi? Không lẽ chỉ có mỗi thân danh của cá nhân ta kiếp nầy bị ô nhục cho đến mãi ngàn đời sau còn thân phận của các ngươi là hạng tướng tá bại trận thì người đời không mỉa mai nhở tới? Đợi cho đến lúc giặc vào nhà thì lúc đó liệu rằng các ngươi còn có thể tự do phóng túng để thoả lòng vui thú hay không? Nay ta nói rõ cho các người rằng: phải nhớ chuyện đặt mồi lửa vào dưới đóng củi làm mối nguy cơ, nên lấy việc sợ canh nóng mà lại đi thổi rau nguội12 để tự răn cho bản thân. Hãy rèn luyện binh sĩ, tập dượt kiếm cung, làm sao để cho mọi người đều giỏi như Bàng Mông, Hậu Nghệ13 để có thể chém đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, phơi xác Vân Nam vương ở Cao Nhai. Như vậy chẳng những thái ấp của ta mãi mãi lưu truyền mà bổng lộc của các ngươi cũng đời đời thụ hưởng; chẳng những gia quyến của ta được yên ấm gối chăn mà vợ con của các ngươi cũng được sống lâu dài yên ấm; chẳng những tông miếu của ta được đời đời thờ phượng cúng bái mà tổ phụ của các ngươi cũng được hương khói quanh năm. Nếu bản thân ta kiếp nầy đắc chí thì tiếng thơm dành cho các ngươi muôn một về sau vẫn còn. Chẳng những tên ta được lưu truyền mãi mãi mà họ tên của các ngươi cũng lưu danh trong sử .
VSTK - 356
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34
sách. Lúc bấy giờ dù các ngươi có thoái thác không muốn vui thú thì cũng không thể làm được. Nay ta chọn binh pháp của các nhà quân sự để soạn thành một quyển gọi là Binh Gia Yếu lược. Nếu các ngươi biết theo sách mà luyện tập, nghe theo lời của ta hướng dẫn thì trọn đời các ngươi là chiến hữu với ta, còn làm trái lời ta thì trọn đời sẽ là cừu thù. Tại sao? Vì giặc Mông Thát là kẻ thù không đội trời chung mà các người cứ điềm nhiên không nghĩ tới chuyện rửa nhục, không lo diệt hung tàng, không huấn dạy binh sĩ, như thế tức là hạ gươm giáo, đầu hàng giặc để vết nhơ cho muôn đời sau khi giặc đã bị dẹp sạch, lúc đó các ngươi đâu còn mặt mũi nào để được trời che đất chở cho nữa? Cho nên ta viết bài hịch14 nầy để hết thảy các ngươi thấu rõ lòng ta ". Cao Huy Diệu có lời tiếm bình về Hưng Đạo vương như sau: "Vương vì là dòng dõi của họ Đông A, nên nhân lời trối15 của cha là An Sinh vương, nhưng mà vương không chịu tuân theo loạn mệnh cho nên vẫn giữ là trang hiếu tử trong nhà. Gặp đại biến thời Trùng Hưng mà lập vững được công to, nên chi thực là bậc trung thần đối với nước. Duy trung, duy hiếu, mới che đậy hết cái lỗi của tiên nhân. Công trùm cả thiên hạ, ngôi tột hết nhân thần, danh dậy suốt hoa di16 ,và sau khi mất, lại được muôn đời huyết thực. Triều nhà Trần, tướng văn tướng võ, vẫn nhiều kẻ thành bậc danh thần nhưng cuối cùng không ai bằng vương đang thời lừng lẫy. Phải chăng đó là báo đền ân đức hiếu trung của vương chăng? Nước Mông Cổ17 khởi dậy nơi phương Bắc, thâu gồm xứ Linh Hạ, hiếp đất Cường Kim, lật nhà Cự Tống, cung nỏ đi tới đâu thì ở ngoại bang sông núi, biển ngàn chỉ nghe hơi gió là đã tan tành sụp đổ. Gom quân lại, chúng xua xuống phía Nam, lấp cạn sông, xô ngã núi, gió kinh hoàng gầm rú ào ạt, khói lửa mây trôi chảy ngút ngàn. Vương chỉ một mình, dám đem tàn quân ra mà chống cự, có khác chi đem trứng chọi với núi Thái Sơn. Như vậy mà chỉ cần một hồi trống giục ở sông Bạch Đằng đã làm quân Mông phơi thây nghìn dậm! Há chẳng phải là một sử cố vĩ đại đệ nhất trần đời hay sao, chẳng phải chỉ là một công lớn cho thời đại nhà Trần nhưng đó còn là công lớn trùm đời sau nữa. Thử không có Hưng Đạo vương thì cõi Nam Giao nầy chắc đã phải cột tóc đuôi sam18 mất rồi. " CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:
35 36 37 38 39 40
Kỷ Tín: Hán vương Lưu Bang bị Sở vương Hạng Võ bao vây ở thành Huỳnh Dương, Kỷ Tín giả làm Lưu Bang ra hàng Sở vương để cho Lưu Bang trốn thoát còn Kỷ Tín thì bị Hạng Võ thiêu sống. 2 Do Vu: trong thời Xuân Thu ở Trung Hoa, khi nước Sở bị vua nước Ngô là Hạp Lư đánh, Chiêu vương nước Sở phải chạy sang Vân Mộng, trong lúc đang nằm ngủ có kẻ lẻn vào để ám sát, lúc ấy Do Vu nằm bên 1
VSTK - 357
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43
cạnh đã lấy thân mình che cho Chiêu vương. Do Vu bị ngọn giáo nhọn đâm trúng vai nhưng Chiêu vương thoát nạn. 3 Dự Nhượng: thời Chiến Quốc bên Trung Hoa, Trí Bá bị Triệu Tương Tử giết, Dự Nhượng tìm kế để giết Tương Tử báo thù cho Trí Bá: ám sát lần đầu bị bắt nhưng được tha. Dự Nhượng lại giả làm người bị phong hủi, làm cho giọng nói đổi khác đi dể ám sát Triệu Tương Tử lần thứ nhì nhưng cũng bị bắt. Cuối cùng Dự Nhượng xin cho đánh vào cái áo Tương Tử đang mặc để trả thù; quân hầu mang cái áo của Tương Tử ra, Dự Nhượng kêu trời ba lần, vừa kêu vừa đánh vào cái áo rồi tự sát. 4 Thân Khoái: người thời Xuân Thu, thuộc hạ giữ việc chăm sóc ao cá của Tề Trang Công. Trang Công bị Thôi Trư giết, Thân Khoái tự tử chết theo. 5 Uất Trì Cung Kính Đức: người đời Tùy Đường, một viên tướng có sức mạnh hơn người của Lý Thế Dân Đường Thái Tông. Uất Trì rất giỏi về môn đánh giáo và rất khéo tránh né gươm đao của quân địch trong khi đánh trận, thường một mình một ngựa xong pha vào trận địa, giặc tập trung bao vây, Uất Trì Cung chẳng những không bị thương mà lại còn cướp được gươm giáo của giặc để giết giặc. Lúc Lý Thế Dân đem 500 quân ra trận để nghênh chiến, bị Vương Thế Sung đem hơn chục ngàn quân bao vây. Tướng của Vương Thế Sung là Đơn Hùng Tín rượt đuổi và dùng ngọn giáo đâm Lý Thế Dân, Uất Trì Cung phóng ngựa tới đoạt giáo và đâm Đơn Hùng Tín ngả ngựa khiến cho quân của Vương Thế Sung phải khiếp sợ tháo chạy, nhờ vậy Lý Thế Dân mới thoát khỏi vòng vây. 6 Nhan Cảo Khang: quan của nhà Đường, giữ chức vụ thái thú ở Thường Sơn. Vào lúc An Lộc Sơn tạo phản, Cảo Khang khởi binh đánh An Lộc Sơn nhưng thua và bị bắt. Lộc Sơn dụ hàng. Cảo Khanh không chịu hàng mà còn mắng chửi Lộc Sơn vì thế bị mang ra cắt lưỡi và hành hạ cho tới chết. 7 Thành Điếu Ngư: Vương Công Kiên, tri châu Hợp Châu (Tứ Xuyên), đã huy động quân dân nhà Tống đón đánh đoàn đại quân Mông Cổ ở vùng núi Điếu Ngư và kéo dài trong mấy tháng liền, cho tới lúc tên tướng chỉ huy của Mông Cổ là Mông Kha bị ốm chết, quân Mông Cổ phải rút lui. 8 Ngột Lương Hợp Thai: tức Uriyangqadai, tướng giỏi của Mông Cổ đã từng đánh chiếm nước Nam Chiếu (tức vùng Vân Nam) rồi tiến quân xâm lăng Đại Việt vào năm 1258. 8bis Nam Chiếu: Năm 1253, Hốt Tất Liệt và Ngột Lương Hợp Thai vượt sông Kim Sa và chỉ trong một tuần đã đánh chiếm nước Đại Lý. Vua nước Đại Lý là Đoàn Hưng Trí bị bắt và đầu hàng. Nam Chiếu tức là nước Đại Lý, nay là vùng Vân Nam của Trung Hoa. 9 Tể phụ: là những chức quan cao rất được trọng vọng, thường nắm giữ những chức vụ đầu não then chốt của triều đình.
VSTK - 358
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
Vân Nam vương: sau khi chiếm nước Đại Lý, năm 1267 Hốt Tất Liệt cử con trai là Hugodi (Hốt Kha Xích) làm Vân Nam vương đem quân đi đóng giữ nước Đại Lý nay là vùng Vân Nam. 11 Đòi hỏi mèo nheo: tức là đưa ra những điều kiện khó khăn và tốn kém để bắt buộc vua nhà Trần phải phục tùng làm theo chẳng hạn như: ấn định những sản phẩm địa phương phải cống nạp, nộp học trò giỏi, thợ khéo, thầy thuốc hay; Nguyên Mông có quyền đặt thái thú để kiểm soát việc cai trị nước Đại Việt, vua nhà Trần phải đích thân sang chầu vua Nguyên Mông, phải đưa con em của vua nhà Trần sang Trung Hoa làm con tin, phải kê khai nhân khẩu, cung cấp quân số và nộp thuế cho họ. 12 Đặt mồi lửa dưới đống củi làm mối nguy cơ, nên lấy việc sợ canh nóng mà lại đi thổi rau nguội: Trong sách Hán thư có câu: "Ôm mồi lửa đặt dưới đống củi rồi nằm lên trên, lửa chưa kịp cháy tới đống củi cho nên vẫn tưởng là êm thắm an toàn". Lấy từ trong sách Sở từ : "kẻ sợ canh nóng thường thổi cả rau nguội". 13 Bàng Mông, Hậu Nghệ: hai nhân vật giỏi có biệt tài bắn cung trong truyện xưa của Trung Hoa. 14 Bài hịch: là một bài văn viết đưa ra các lý lẽ phải trái, để kêu gọi, khuyên bảo, khơi động lòng lòng trung nghĩa của người khác. 15 Nhân lời trối: cha của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn là An Sinh vương Trần Liễu có sự xung đột hận thù riêng với Trần Thái Tông. Lúc sắp chết Trần Liễu cầm tay Trần Quốc Tuấn trối lại bảo Quốc Tuấn phải cướp lấy ngôi vua của nhà Trần. Lúc đó Quốc Tuấn chỉ biết gật đầu nhưng rồi chỉ giữ riêng một mình điều đó ở trong lòng cho đến lúc vận nước ngửa nghiêng, Quốc Tuấn mới đem lời trối của Trần Liễu nói với 2 tùy tướng của mình Dã Tượng và Yết Kiêu. Hai người tùy tướng nầy khuyên Quốc Tuấn không nên nghe theo và Quốc Tuấn cũng đồng ý. 16 Hoa di: tức là dân tộc Trung Hoa; dân tộc kém văn minh chậm tiến thì người Hoa gọi là Man di. 17 Mông Cổ: dân tộc Mông Cổ (Mongolia) ở về phía Bắc nước Trung Hoa, gồm nhiều bộ lạc sống bằng nghề chăn nuôi, săn bắn, cỡi ngựa, rất hùng mạnh và rất giỏi đánh trận. Vào thế kỷ thứ 13, Gengiskhan (Thành Cát Tư Hãn) thống nhất các bộ lạc Mông, rồi mang quân tràn sang Trung Á (Midle East), Mãn Châu (Cao Ly hay Triều Tiên 1201), Tây Hạ (1209), A Phú Hãn (Afganistan), Ba Tư (Iran hay Perse), Tân Cương Nga (1224), và một phần Đông Âu (Eastern Europe, 1241) gồm có Nga (Russia), Đức (Germany), Bảo Gia Lợi (Bungaria), Hung Gia Lợi (Hungaria), Ba Lan (Poland). Thành Cát Tư Hản mất, người con thứ ba là Agotai (A Loa Thai) lên làm vua Mông. A Loa Thai truyền ngôi cho Gouyouk (Quý Đô). Khi Quý Đô mất, ngôi vua Mông Cổ truyền cho một chi họ khác là Mong Ké (Mong Kha) cũng là cháu nội của Thành Cát Tư Hãn. Trong khi em của Mong Kha là Hốt Tất Liệt 10
VSTK - 359
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
đang đánh nhà Tống của nước Tàu thì Mong Kha chết. Hốt Tất Liệt phải rút quân về để tranh ngôi vua với một người em khác của Mong Kha. Hốt Tất Liệt lên ngôi vua đổi quốc hiệu là nhà Nguyên rồi năm 1279 tiêu diệt luôn nhà Tống, làm chủ cả nước Trung Hoa. Lúc chưa lên ngôi vua và đang trên đường tiến quân đánh nhà Tống, Hốt Tất Liệt đã sai tướng Ngột Lương Hợp Thai sang đánh chiếm nước Đại Lý và tiện đường đánh thẳng vào Đại Việt, chiếm thành Thăng Long rồi lật đật rút lui nhanh vì không chuẩn bị đầy đủ và nhất là vì quân Mông không chịu được khí hậu và thời tiết ở Thăng Long. 18 Cột tóc đuôi sam: Nguyên Mông để tóc dài từ nửa phía trên đầu trở về sau và cột thắt thành bím dài giống như cái đuôi của con sam.
*
VSTK - 360
THỜI ĐẠI TỰ CHỦ CHƯƠNG V
TRẦN MINH TÔNG ( 1314 - 1329 ) Niên hiệu : Đại Khánh (1314-1323) Khai Thái (1324-1329) 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
Năm Giáp Dần, ngày 18 tháng 3 (1314), Trần Mạnh lên ngôi vua tức là Trần Minh Tông, đổi niên hiệu là Đại Khánh năm thứ 1, suy tôn cha Trần Anh Tông làm thái thượng hoàng, tôn vợ cả của Trần Anh Tông làm Thuận Thánh Bảo Từ thái thượng hoàng hậu và tôn mẹ sinh Trần thị Huy Tư làm Chiêu Thánh thái thượng hoàng phi. Tháng 10, thi Thái học sinh. Sai Nguyễn Trung Ngạn và Phạm Ngộ sang báo cáo với nhà Nguyên Mông về việc lên ngôi của Trần Minh Tông. Ất Mão, Đại Khánh năm thứ 2 (1315), xuống chiếu lệnh cấm người trong họ hàng không được kiện cáo nhau bao gồm cả hàng gia nô. Tháng 6, đại hạn. Bính Thìn, Đại Khánh năm thứ 3 (1316), xét duyệt lại phẩm trật hàng quan văn để ấn định mức ban cấp số hộ khẩu thu bổng lộc. Mậu Ngọ, Đại Khánh năm thứ 5 (1318), Tuyên Từ đại thái hậu1 chết, chôn cạnh mộ lăng của Trần Nhân Tông. Kỷ Mùi, Đại Khánh năm thứ 6, ngày 17 tháng 5 (1319), thái tử Trần Vượng2 sinh; tháng 11, thái tử Trần Nguyên Trác sinh. Canh Thân, Đại Khánh năm thứ 7, ngày 16 tháng 3 (1320), Trần Anh Tông mất. Tháng 6, tháng 8, thủy tai, gió bão. Tháng 11, Phạm Ngũ Lão mất, thọ 66 tuổi. Tháng 12, dân chúng bị nạn đói. Quý Hợi, Đại Khánh năm thứ 10 , tháng 8 (1323), thi Thái học sinh.
VSTK - 361
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
Tháng 12, lập con gái Huệ Vũ vương Trần Quốc Chân là Huy Thánh công chúa làm Lệ Thánh hoàng hậu. Vợ thứ của Trần Minh Tông là Lê thị Minh Tư3, mẹ đẻ của Trần Vượng. Giáp Tý, Khai Thái năm thứ 1, (1324) tháng 4, phong cho Trần Quốc Chân chức Quốc phụ thượng tể, phong cho Trần Nhật Duật làm Tá thánh thái sư. Mậu Thân, Khai Thái năm thứ 5, (1328) tháng 3, Trần Minh Tông bắt giam Trần Quốc Chân và bỏ đói cho chết: con trai của Trần Nhật Duật hợp bè đảng với Trần Khắc Chung để đưa Trần Vượng lên nắm ngôi hoàng thái tử với lý do là hoàng hậu Lệ Thánh không có con trai nhưng Trần Quốc Chân cản trở bảo phải chờ đến chừng nào Lệ Thánh có con rồi mới bàn định chuyện thiết lập ngôi vị hoàng thái tử và vì thế cho nên bọn Khắc Chung đã gian xảo tố cáo Quốc Chân âm mưu tạo phản. Nhưng sau đó Trần Minh Tông mới rõ là Trần Quốc Chân bị oan ức.
VSTK - 362
CHƯƠNG VI
TRẦN HIẾN TÔNG ( 1329 - 1341 ) Niên hiệu : Khai Hựu (1329-1341) 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
Năm Kỷ Tỵ Khai Thái năm thứ 6, ngày mồng 7 tháng 2 (1329), Trần Minh Tông sách phong Trần Vượng làm Hoàng Thái Tử. Ngày 15 tháng 2 năm Kỷ Tỵ (1329), Trần Minh Tông nhường ngôi vua cho Trần Vượng. Trần Vượng lên ngôi vua tức là Trần Hiến Tông, tôn Trần Minh Tông làm thái thượng hoàng; vợ chánh của Trần Minh Tông là Lệ Thánh làm Huệ Từ thái thượng hoàng hậu, đổi niên hiệu là Khai Hựu năm thứ 1. Thượng hoàng Trần Minh Tông đích thân cầm quân đi dẹp giặc Ngưu Hống4 ở đạo Đà Giang5, giặc thua nhưng dư đảng vẫn còn tiếp tục quấy phá. Canh Ngọ, Khai Hựu năm thứ 2, tháng 7 (1330), Thuận Thánh Bảo Từ6 đại hoàng thái hậu Trần thị, vợ cả của Trần Anh Tông mất. Thái sư Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật mất, thọ 77 tuổi. Trần Khắc Chung7 chết. Giáp Tuất, Khai Hựu năm thứ 6 (1334), thượng hoàng Trần Minh Tông tự cầm quân đánh Ai Lao nhưng chưa đánh quân Ai Lao đã rút chạy trước. Trần Minh Tông sai Phạn Trung Ngạn đục núi ghi chiến công8 để tuyên truyền cho cuộc hành quân nầy rồi đem quân về. Ất Hợi, Khai Hựu năm thứ 7 (1335), thượng hoàng Trần Minh Tông cùng Đoàn Nhữ Hài lại đem quân đánh Ai Lao ở Nam Nhung9 nhưng lần nầy bị thua, Đoàn Nhữ Hài bị chết chìm. Bính Tý, Khai Hựu năm thứ 8, tháng 10, ngày 19 (1336), thái tử Hạo, con của thượng hoàng Trần Minh Tông sinh (sau nầy là Trần Dụ Tông). Đinh Sửu, Khai Hựu năm thứ 9, tháng 6 ngày mồng 2 (1337), thái tử Kính, con của thượng hoàng Trần Minh VSTK - 363
1
2
3
4
5
6
7
8
Tông sinh (sau nầy là Trần Duệ Tông). Tân Tỵ, Khai Hựu năm thứ 13, ngày 11 tháng 6 (1341), Trần Hiến Tông mất, ở ngôi vua 13 năm, thọ 23 tuổi. Thượng hoàng Trần Minh Tông không lập con trưởng của mình là Cung Túc vương Trần Dục lên kế ngôi vua vì Trần Dục có tính ngông cuồng. Tháng 8, Trần Hạo mới 6 tuổi được Trần Minh Tông đưa lên nối ngôi vua tức là Trần Dụ Tông. CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:
9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38
Tuyên Từ đại thái hậu: cũng là vợ của Trần Nhân Tông mà cũng là dì ruột của Anh Tông. Mẹ của Anh Tông là vợ cả của Nhân Tông và là chị của Tuyên Từ (hai chị em cùng là vợ của Trần Nhân Tông). 2 Trần Vượng: con của vợ thứ Trần Minh Tông. 3 Lê thị Minh Tư: mẹ đẻ Trần Vượng; người cùng làng Giáp Sơn với Trần Khắc Chung. Khắc Chung cũng là thầy dạy Trần Vượng. 4 Giặc Ngưu Hống: tên một tộc người Mán. Theo Hưng Hóa phong thổ ký của Hoàng Trọng Chinh đời Hậu Lê thì ngôn ngữ và chữ viết của tộc Ngưu Hống cũng giống như của nước Ai Lao. Ngưu Hống nay là Yên Châu, tỉnh Hưng Hóa. 5 Đà Giang: thuộc tỉnh Hưng Hóa. Đời nhà Lý gọi là đạo Lâm Tây. Khi thuộc Minh gọi là châu Gia Hưng, nhà Lê đổi là phủ Gia Hưng, thời Minh Mạng nhà Nguyễn cũng gọi là phủ Gia Hưng. 6 Thuận Thánh Bảo Từ đại hoàng thái hậu: vợ cả của Trần Anh Tông, mẹ đích của Minh Tông, tức là bà nội đích của Hiến Tông. Ở đây VSTK dùng chữ đại hoàng thái hậu tức là bà của vua để phân biệt với hoàng thái hậu là mẹ vua. 7 Trần Khắc Chung: nguyên là họ Đỗ, người làng Giáp Sơn thuộc Hải Dương, làm việc ở chi hậu cục, người hầu của Trần Nhân Tông. Năm 1285, khi quân Nguyên kéo tới Đông Bộ Đầu, Trần Nhân Tông muốn sai người đi dò xem tình hình quân Nguyên hư thực ra sao nhưng không có ai dám tình nguyện ra đi, Đỗ Khắc Chung đã tình nguyện nhận công tác đi sang trại quân Nguyên đối mặt với tướng Ô Mã Nhi để xin ngưng chiến. Việc làm nầy của Khắc Chung được Trần Nhân Tông khen ngợi như sau: "Ai ngờ trong đám ngựa kéo xe muối, lại có được ngựa kỳ, ngựa ký như thế", ý nói người ở hàng quan thấp kém mà có lòng trung nghĩa, có can đảm và tài năng hơn người. Sử cũ cũng viết rằng ngay cả tướng nhà Nguyên là Ô Mã Nhi cũng phải khâm phục và khen ngợi sự dũng cảm và tài ứng đối khéo léo của Khắc Chung. Nhờ có công trạng như thế, cho nên sau khi đánh đuổi hết quân Nguyên, 1
VSTK - 364
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22
năm 1289 Khắc Chung được ban cho chức đại hành khiển và được mang họ Trần. Năm 1298 được Trần Anh Tông bổ dụng làm Đại an phủ sứ ở kinh đô Thăng Long. Năm 1303 được thăng chức nhập nội hành khiển tức là tể tướng. Năm 1306, chính Trần Khắc Chung tán thành việc bán gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô, Lý. Năm 1307, Trần Khắc Chung được cử đi giải cứu Huyền Trân khỏi bị thiêu sống chết theo vua Chiêm Chế Mân nhưng trên đường về nước lại thông dâm với Huyền Trân. Vì mối tình vụng trộm nầy giữa Huyền Trân và Khắc Chung mà bố vợ của Trần Anh Tông là Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng (con trai của Trần Quốc Tuấn) rất ghét Khắc Chung. Năm 1326 Khắc Chung lại được gia phong làm Thiếu Bảo và gia hàm chức Bình Chương Sự tức là một chức quan tột đỉnh lớn nhất trong hàng các quan ở triều đình. Như vậy, Khắc Chung là một viên quan thuộc hàng đại thần trải qua 4 triều đại: Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Trần Hiến Tông và khi chết còn được truy tặng chức Thiếu sư. 8 Đục núi ghi chiến công: bài văn nầy khắc ở núi Thành Nam, thôn Trầm Hương, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An. Theo KĐVSTGCM thì nét chữ khắc to bằng bàn tay, sâu vào trong vách đá hơn một tấc. Đây chỉ là một cách phô trương láo lếu chiến công "không đánh mà thắng" để tuyên truyền và bôi vẽ cho chế độ mà thôi. 9 Nam Nhung: ấp Nam Nhung, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An. KHẢO LUẬN: Về âm mưu đưa Trần Vượng lên ngôi hoàng thái tử và giết hại Trần Quốc Chân :
23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39
ĐVSKTT chép việc nầy như sau: "Bấy giờ vua (Trần Minh Tông) ở ngôi được 15 năm, tuổi đã cao mà chưa lập thái tử. Cha hoàng hậu là Trần Quốc Chân giữ ý định đợi hoàng hậu có con rồi sẽ lập. Cương Đông vương Hiến Hầu là con của Tá Thánh thái sư Trần Nhật Duật, muốn đánh đổ hoàng hậu để lập hoàng tử Vượng (con của Lê thị, thứ phi của Trần Minh Tông), mới đem 100 lượng vàng hối lộ đút lót cho gia nô của Quốc Chân là Trần Phẫu xúi giục hắn vu cáo Quốc Chân âm mưu phản loạn. Vua tin là thật, giam Quốc Chân ở chùa Tư Phúc rồi đem chuyện đó hỏi Thiếu Bảo Trần Khắc Chung. Khắc Chung về hùa cùng với Văn Hiến, hơn nữa, mẹ đẻ của Vượng là người cùng làng Giáp Sơn với Khắc Chung và Khắc Chung còn là thầy dạy của Vượng. Vì thế Khắc Chung đã xúi Trần Minh Tông rằng: "Bắt hổ thì dễ, thả hổ về rừng thì nguy" (Tróc hổ dị, phóng hổ nan). Vua nghe thế mới bắt Quốc Chân tự tử bằng cách tuyệt đối cấm không cho ăn uống. Hoàng hậu lén lấy áo tẩm nước mặc vào mình rồi thừa lúc được vào thăm vắt nước cho Quốc Chân uống, uống xong thì chết. Rất nhiều người bị liên lụy bắt bớ và chịu án phạt, tù đày một cách oan ức. VSTK - 365
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39
Vài năm sau, chuyện ăn hối lộ và cáo gian của tên Trần Phẫu bị phát giác.Tên Phẫu bị xử phạt lăng trì nhưng chưa kịp hành hình thì gia nô của Quốc Chân đã ăn sống hết cả thịt của nó. Văn Hiến (tức Hiến Hầu) được miễn tội chết nhưng bị giáng xuống làm thường dân, xóa tên trong sổ của dòng họ hoàng tộc ". (Hình phạt lăng trì: đây là một loại hình phạt dã man và ghê rợn nhất ở thời đại phong kiến: trước hết chặt hai chân, hai tay; đàn ông, con trai thì cắt bộ phận sinh dục, đàn bà, con gái thì lấy cọc nhọn đóng vào âm hộ rồi mổ bụng, moi hết ruột gan ra, thịt da bị cắt xẻo từ từ thành từng miếng lớn nhỏ, xong rồi hốt bỏ vào ngâm cho thối rửa ra giống như người ta ngâm làm mắm. KĐVSTGCM cũng chép giống như thế. Đây cũng lại là một vụ án mờ ám khác trong dòng họ nhà Trần và cái chết của Trần Quốc Chân cũng tương tựa như cái chết của Lý Huệ Tông trước đây: sử cũ chép rằng: Quốc Chân được con gái vắt nước cho uống nhưng sau khi uống xong thì ngã lăn ra chết. Lý do cái chết của Quốc Chân thật là đơn giản và rất khó tin. Những kẻ thù của dòng họ nhà Trần thường bị bí mật giết chết hoặc thủ tiêu một cách mờ ám rồi viện dẫn bày ra những lý do ngoại lai để giải thích về cái chết của những kẻ thù nạn nhân của họ. Hoặc đây cũng lại là một màn đạo diễn giả tạo sắp xếp để diệt trừ Trần Quốc Chân mà trong đó có cả sự tham dự của Trần Minh Tông. Tại sao? Trước hết Trần Quốc Chân là em trai của Trần Anh Tông tức là chú ruột của Trần Minh Tông. Nếu ngày xưa Anh Tông chết sớm hoặc không có con trai thì ngôi vua đã chuyển sang chi họ Trần Quốc Chân. Đến nay, Trần Quốc Chân vẫn còn có khả năng lên ngôi vua nếu Trần Minh Tông chết đi một cách bất thần mà chưa có con trai để lập thái tử. Vì thế, Trần Minh Tông xem Quốc Chân là mối đe dọa thường xuyên cho ngôi vua của mình. Ngoài ra cách xử sự cố chấp không khéo léo của Trần Quốc Chân khiến cho Trần Minh Tông càng vững tin rằng trước sau gì rồi thì Trần Quốc Chân cũng tạo phản cướp ngôi vua cho nên đã cùng Trần Khắc Chung dàn cảnh để khử trừ Trần Quốc Chân. Một sự kiện khác củng cố thêm cho nghi án là sau khi Trần Quốc Chân vừa mới chết, Trần Vượng (Trần Hiến Tông) đã được truyền ngôi vua một cách hấp tấp; rồi sau khi Trần Quốc Chân được giải oan, kẻ đồng mưu với Trần Minh Tông là Trần Khắc Chung vẫn không bị hề hấn gì mà kể từ lúc đó còn được thăng quan tiến chức đều đều. Sử cũ lấp liếm hành vi chủ mưu mờ ám của Trần Minh Tông bằng cách viết rằng Minh Tông "kém thông minh", không nhận biết mưu gian của Khắc Chung khiến Quốc Chân phải chết oan. Khảo luận về Trần Khắc Chung :
40 41 42
Ngô Sĩ Liên viết về Trần Khắc Chung như sau: "Thói gian tà của Trần Khắc Chung thực quá quắt lắm! Không những hắn bày trò chó lợn ở đây (chỉ việc Khắc Chân thông dâm với công chúa Huyền Trân) mà sau nầy còn vào VSTK - 366
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13
hùa với Văn Hiến vu hãm quốc phụ thượng tể (tức Trần Quốc Chân) vào tội phản nghịch, làm liên lụy và chết oan đến hơn trăm người. Thế mà hắn được trọn đời phú quý.
Khổng Tử nói: Kẻ gian tà được sống sót là may mà thoát tội chăng?". ĐVSKTT viết: "Khắc Chung là người cố làm ra vẻ khác đời để cầu tiếng khen chứ không phải vì dân vì nước. Tất cả việc làm của hắn đều là giả dối. Thường hay cờ bạc suốt sáng thâu đêm với Nguyễn Sĩ Cố hai, ba ngày liền không ngơi nghỉ. Tiệc tùng nào mời gọi cũng tới. . .Hắn là người xu thời giả tạo, chỉ có mỗi một việc đi cầu hòa với quân Nguyên Mông là được nổi danh và khiến cho người đời lầm lẫn mà khen hắn là người tài giỏi. Khi chết, đưa về chôn ở làng Giáp Sơn, bị gia nô của Trần Quốc Chân quật mồ băm nát thây ra ".
VSTK - 367
Tờ 11b
HÎch tܧng sï cûa HÜng ñåo VÜÖng TrÀn QuÓc TuÃn chép trong ñVSKTT/Bän K›/Q.5/T© 11 (ñ†c tØ c¶t trái sang phäi, tØ trên xuÓng dܧi)
VSTK - 368
Tờ 11a
Tờ 12b
Tờ 12a
HÎch tܧng sï cûa HÜng ñåo VÜÖng TrÀn QuÓc TuÃn chép trong ñVSKTT/Bän K›/Q.5/T© 12 (ñ†c tØ c¶t trái sang phäi, tØ trên xuÓng dܧi)
VSTK - 369
Tờ 13a
HÎch tܧng sï cûa HÜng ñåo VÜÖng TrÀn QuÓc TuÃn chép trong ñVSKTT/Bän K›/Q.5/T© 13 (ñ†c tØ c¶t trái sang phäi, tØ trên xuÓng dܧi)
VSTK - 370
Tờ 13b
Tờ 14b
Tờ 14a
HÎch tܧng sï cûa HÜng ñåo VÜÖng TrÀn QuÓc TuÃn chép trong ñVSKTT/Bän K›/Q.5/T© 14 (ñ†c tØ c¶t trái sang phäi, tØ trên xuÓng dܧi)
VSTK - 371
THỜI ĐẠI TỰ CHỦ CHƯƠNG VII TRẦN DỤ TÔNG (1341 - 1369 ) Niên hiệu : Thiệu Phong (1341-1357)
Đại Trị (1358-1369)
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
Năm Tân Tỵ, tháng 8, ngày 21 (1341), con thứ 10 của Trần Minh Tông là Hạo lên ngôi vua tức Trần Dụ Tông, đổi niên hiệu là Thiệu Phong năm thứ 1. Dụ Tông lúc đó mới được 6 tuổi, mẹ đẻ là vợ cả của thượng hoàng Trần Minh Tông tức Lệ Thánh. Nhâm Ngọ, Thiệu Phong năm thứ 2, tháng 4 (1342), bổ dụng Cung Tỉnh vương Trần Nguyên Trác làm Thái Úy. Tháng 7, tôn mẹ đẻ Lệ Thánh lên làm Hiến Từ hoàng thái hậu. Quý Mùi, Thiệu Phong năm thứ 3, tháng 5, tháng 6 (1343), hạn hán; tháng 11, dân bị nạn đói.Giáp Thân, Thiệu Phong năm thứ 4 (1344), phục hồi quan tước cho Trần Quốc Chân.Đặt 20 đoàn quân đặc biệt ở các lộ chuyên lo việc đánh bắt trộm cướp đang nổi lên khắp nơi. Mất mùa, đói kém không dứt, dân phải đi làm gia nô hoặc cạo đầu làm sư sải để kiếm sống. Ất Dậu, Thiệu Phong năm thứ 5 (1345), thi Thái học sinh; đại hạn; sai Phạm Sư Mạnh đi sứ sang triều đình nhà Nguyên để thảo luận về cột đồng biên giới ngày trước của Mã Viện. Bính Tuất, Thiệu Phong năm thứ 6 (1346), quân nước Ai Lao quấy nhiễu ở biên giới, dẹp yên được. Mậu Tý, Thiệu Phong năm thứ 8 (1348) tháng Giêng, lấy Đỗ Tử Bình1 làm thị giảng2 . Hạn hán; rồi lại lũ lụt. Kỷ Sửu, Thiệu Phong năm thứ 9 tháng 10 (1349), Trần Dụ Tông lập con gái Huệ Túc vương là Trần thị làm Nghi Thánh hoàng hậu. Tân Mão, Thiệu Phong năm thứ 11 tháng 7 (1351), lũ lụt lớn.
VSTK - 372
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
Trần Dụ Tông nghe lời hướng dẫn quái dị của một tên thầy thuốc Bắc3 tên là Trâu Canh4, giết đứa bé trai để lấy mật uống rồi thông dâm với chị ruột mình là công chúa Thiên Ninh4bis để chữa bệnh liệt dương5. Nhâm Thìn, Thiệu Phong năm thứ 12 tháng 7 (1352), lũ lụt lớn làm vỡ đê Bát Tràng và Thổ Khối6, mất mùa lớn ở Khoái Châu7, Hồng Châu8 và Thuận An9. Giáp Ngọ (1354), giặc loạn ở Lạng Châu và Nam Sách. Đinh Dậu, Thiệu Phong năm thứ 17 tháng 2 (1357), thượng hoàng Trần Minh Tông mất, ở ngôi vua 15 năm, làm thái thượng hoàng 28 năm, thọ 58 tuổi. Mậu Tuất (1358), giặc cướp Ngô Bệ trước đây (năm Giáp Thân/1344) quấy nhiễu ở vùng núi Yên Phụ10 bị dẹp tan nay lại tụ tập dư đảng làm loạn. Kỷ Hợi, Đại Trị năm thứ 2 tháng 4 (1359), Chiêu Từ (tức Huy Từ, mẹ đẻ của Trần Minh Tông) hoàng thái phi mất. Canh Tý, Đại Trị năm thứ 3 (1360) tháng 3, tướng giặc cướp Ngô Bệ cùng 30 đồng đảng bị quân triều đình bắt giải về kinh đô xử chém. Ở Trung Quốc, nhà Nguyên bắt đầu suy. Con của Trần Ích Tắc là Trần Hữu Lượng tự xưng là Hán đế lấy niên hiệu là Đại Nghĩa để tranh giành làm chủ nước Trung Hoa với Chu Nguyên Chương lúc nầy cũng nổi lên đánh phá và tự xưng là Minh đế. Tân Sửu, Đại Trị năm thứ 4 (1361) tháng 2, Chu Nguyên Chương đánh Trừ Châu, chiếm Kim Lăng, đánh nhau với Trần Hữu Lượng ở Long Châu11, Bằng Tường12, Hữu Lượng thua phải rút quân cố thủ Vũ Xương và cho người sang Đại Việt xin viện quân nhưng Trần Dụ Tông từ chối. Trần Dụ Tông bắt đầu ăn chơi, xướng hát, cờ bạc, rượu chè sai sưa với đám quan thần trong triều, xây hồ thả cá, sửa sang vườn hoa cây kiển, nuôi chim lạ. Giáp Thìn, Đại Trị năm thứ 7 (1364) tháng 10, Cung Túc vương Nguyên Dục13 mất. Bính Ngọ, Đại Trị năm thứ 9 (1366) tháng 6, Trần Dụ Tông đi chơi đêm bị cướp mất hết ấn kiếm, cho là điềm
VSTK - 373
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
chẳng lành14 cho nên lại càng bung thùa hưởng thụ, ăn chơi dâm dật nhiều hơn. Ở Trung Hoa, Trần Hữu Lượng đánh nhau với Chu Nguyên Chương. Hữu Lượng bị Nguyên Chương giết tại trận ở vùng hồ Phiên Dương, con của Hữu Lượng là Trần Lý phải đầu hàng. Đinh Mùi, Đại Trị năm thứ 10 (1367), Chu Nguyên Chương diệt luôn nhà Nguyên, chiếm trọn hết nước Trung Hoa, khởi đầu triều đại nhà Minh. Tháng 12, Trần Dụ Tông sai Trần Thế Hưng và Đỗ Tử Bình đi đánh Chiêm Thành ở Chiêm Động, bị thua to, thiệt hại nặng nề. Thế Hưng bị Chiêm Thành bắt.
Mậu Thân, Đại Trị năm thứ 11 (1368) tháng 4, Chu
13
14
15
16
17
18
19
20
21
Nguyên Chương lên ngôi đế ở Kim Lăng bên Trung Hoa tức là Minh Thái Tổ, lấy niên hiệu là Hồng Vũ, sai sứ sang Đại Việt thông báo. Tháng 8, Đại Việt sai Lễ bộ thị Lang Đào Văn Đích sang Trung Hoa đáp lễ với vua nhà Minh. Kỷ Dậu, Đại Trị năm thứ 12 (1369) ngày 25 tháng 5, Trần Dụ Tông chết, không có con trai để nối ngôi. Theo di chiếu15 để lại, truyền ngôi vua cho tên Dương Nhật Lễ16. CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:
22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38
Đỗ Tử Bình: sử cũ không ghi được lý lịch của người nầy. Có sách ghi rằng ở huyện Cổ Lan có vườn Tử Bình. Huyện Cổ Lan tức là Đông Quan, thời Minh Mạng thuộc tỉnh Nam Định, nay thuộc Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. 2 Thị giảng: một chức quan làm việc ở viện Hàn Lâm, chuyên lo soạn thảo những chiếu, chế, cáo, chỉ của vua. 3 Thầy thuốc Bắc: tức là những người đến từ nước Trung Hoa (Bắc phương) chuyên làm nghề khám bệnh cho toa hốt thuốc. Về sau lại có thêm thầy thuốc Nam tức là những người thầy thuốc ở phía Nam nước Tàu; người được xem như là ông tổ thầy thuốc Nam cổ truyền của Việt Nam là Lãng Thượng Lão Ông. 4 Trâu Canh: Trong khoảng những năm 1251-1257, một tên lính Nguyên Mông tên là Trâu Tôn bị quân nhà Trần bắt nhưng vì biết nghề chẩn mạch hốt thuốc để chữa bệnh cho dòng họ nhà Trần nên được tha chết. Trâu Canh là con trai của Trâu Tôn. Lúc Trần Dụ Tông còn nhỏ, đi chơi rong bị té xuống nước gần ngừng thở, Trâu Canh đã dùng thuật 1
VSTK - 374
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33
34 35 36 37 38
39
40 41 42 43 44
châm cứu để cứu sống Dụ Tông cho nên càng được tin dùng. Khi Trần Dụ Tông lên ngôi vua thì vì ăn chơi quá độ nên mắc phải bệnh yếu đường sinh lý; Trâu Canh khám bệnh hốt thuốc nói rằng đây là bệnh liệt dương, muốn chữa khỏi thì Dụ Tông phải thông dâm với chị hoặc em gái ruột của mình thì phương thuốc đặc biệt của hắn mới hiệu nghiệm. Trần Dụ Tông nghe lời làm theo lời dạy của tên lang băm, thông dâm với chị ruột là công chúa Thiên Ninh. Sau khi lên ngôi vua, Trần Dụ Tông đem gả Thiên Ninh Chính Túc vương Kham. 4 bis Thiên Ninh: là con vợ thứ của Trần Minh Tông. 5 Bệnh liệt dương: KKĐVS viết rằng lý do bệnh liệt dương của Trần Dụ Tông là vì lúc 4 tuổi đi chơi rong bị té xuống nước suýt bị chết nhưng có thể cứu sống bằng cách châm cứu tuy nhiên theo lời cố vấn của tên thầy thuốc Bắc Trâu Canh thì sau nầy Dụ Tông sẽ bị liệt dương; liệt dương theo sử cũ có lẽ là nói về việc Dụ Tông không thể có con chứ không phải hiểu theo nghĩa mất khả năng giao cấu ăn nằm với đàn bà; bằng chứng là sau nầy Dụ Tông đã làm tình với chị ruột của mình và nhất là sau khi bị mất ấn tín và kiếm lệnh, tin là điềm xấu sẽ chết sớm cho nên Dụ Tông càng ăn chơi dâm dật bung thùa nhiều hơn. Cũng cần lặp lại rằng, dòng họ nhà Trần cùng chung huyết tộc thường chung chạ lấy nhau lẫn lộn vì thế có thể ảnh hưởng tai hại cho khả năng tạo sinh thụ thai, gây ra bệnh hiếm muộn không có con hoặc nếu có con thì tuổi thọ của những đứa con loại nầy thường không sống dài lâu; đa số các vua nhà Trần đều có tuổi thọ dưới 70 và có người chết rất sớm. 6 Đê Bát Tràng và Thổ Khối: tên 2 xã ở huyện Gia Lâm, Hà Nội. 7 Khoái Châu: nay là các huyện Châu Giang, Kim Thì và Phù Tiên tỉnh Hải Hưng. 8 Hồng Châu: gồm các huyện Mỹ Văn, Cẩm Bình, Ninh Thanh, Tứ Lộc tỉnh Hải Hưng. 9 Thuận An: gồm huyện Thuận Thành, Gia Lương của tỉnh Hà Bắc, huyện Văn Giang của tỉnh Hải Hưng và huyện huyện Gia Lâm, Hà Nội. 10 Yên Phụ: ở huyện Kim Môn, tỉnh Hải Hưng. 11 Huyện Long Châu: thuộc tỉnh Quảng Tây ở Trung Hoa, giáp tỉnh Lạng Sơn của Đại Việt. 12 Bằng Tường: tức động Bằng Tường; đời Minh là Thổ châu; nay là huyện Bằng Tường, tỉnh Quảng Tây, Trung Hoa. 13 Cung Túc vương Nguyên Dục: con trai dòng đích của Trần Minh Tông (mẹ là Hiến từ hoàng thái hậu) tức là anh trai của Trần Dụ Tông (con thứ 10 của Minh Tông). 14
Điềm chẳng lành: sử cũ viết rằng bị mất ấn kiếm đối với Dụ Tông là điềm
xấu báo ngày sắp chết đã gần kề.
Theo di chiếu: ĐVSKTT viết như sau: Ngày vua (Trần Dụ Tông) sắp băng, vì không có con, xuống chiếu đón Nhật Lễ vào nối đại thống". Một đoạn khác lại viết: Lúc nầy thái hậu Hiến Từ (có sách gọi là Huệ Từ) bảo các quan rằng: "Nguyên Dục là con đích trưởng mà 15
VSTK - 375
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22
không được nối ngôi vua, lại sớm lìa đời; vậy Nhật Lễ chẳng phải là con của Nguyên Dục hay sao." Bèn đón Nhật Lễ lập làm vua. Cứ theo cách viết nầy thì chính hoàng thái hậu Hiến Từ đã đứng ra sắp xếp để cho Nhật Lễ lên ngôi vua mặc dù Nhật Lễ không phải là máu mủ thật sự và chính tông của dòng họ nhà Trần. Tuy nhiên, thông thường, khi hoàng thái hậu còn sống thì đa số trường hợp quyền hạn của thái hậu bao trùm trên tất cả quyền hạn những người khác kể cả quyền hạn của người con đang làm vua. Trong chuyện sắp xếp nầy, phản phất như có một điều ẩn khuất nào đó khiến cho Hiến Từ hành động như vậy để thoả lòng căm tức chôn dấu trong lòng từ lâu kể từ khi Trần Dụ Tông lên ngôi vua. Nhất định Hiến Từ biết rõ việc làm của mình sẽ làm sụp đổ dòng họ nhà Trần nhưng vẫn cứ làm và như vậy nhất định là phải có một lý do sâu xa nào đó mà sử cũ không viết ra; lý do đó rất có thể là việc Trần Minh Tông chọn con dòng thứ là Vượng (tức Trần Hiến Tông) để nối ngôi vua rồi tiếp theo lại chọn Hạo (tức Trần Dụ Tông) để nối ngôi vua mà không chọn con đích là Cung Túc vương Trần Nguyên Dục, người được thái hậu Hiến Từ thương yêu. 16 Dương Nhật Lễ: con của một kép hát tuồng tên là Dương Khương. Mẹ Nhật Lễ cũng là một ả đào hát tuồng; trong tuồng "Vương mẫu hiến bàn đào"; ả đào hát tuồng nầy đang có thai Nhật Lễ, thủ vai vương mẫu, Cung Túc vương Trần Nguyên Dục quá mê thích nên chiếm lấy làm vợ. Đến khi đẻ, Nguyên Dục nhận Nhật Lễ làm con mình. KHẢO LUẬN : Về việc Trần Dụ Tông thông dâm với chị của mình là công chúa Thiên Ninh:
23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37
Đây lại là một trò dâm loạn vô luân khác của dòng họ họ nhà Trần nhưng lần nầy thì lại càng thô bỉ và đốn mạc hơn những trường hợp trước đây và được che đậy dưới màn thầy thuốc lang băm chữa bệnh liệt dương. Không còn lời lẽ nào để phê bình được nữa bởi vì dòng nào thì giống nấy, không có gì phải ngạc nhiên. Tự Đức có lời phê như sau: "Phong hóa nhà Trần không nghiêm chỉnh lại còn tệ hơn phong hóa nhà Đường ở bên Tàu". [phụ chú: ngày trước ở bên Trung Hoa, Đường Thái Tông Lý Thế Dân sau khi đã giết em ruột là Nguyên Cát lấy luôn vợ của Nguyên Cát là Dương thị, sau đẻ con tên là Minh cho thừa tự Nguyên Cát. Đường Thái Tông Lý Thế Dân mất, con là Trị lên nối ngôi tức là Đường Cao Tông lại lấy vợ thứ của cha là Vũ Chiếu rồi lập làm hoàng hậu tức là Vũ Tắc Thiên. Đến đời Đường Huyền Tông thì lại cướp vợ (Dương Thái Chân) của con trai mình (Thọ vương) đem vào hoàng cung lập làm quý phi]. Phan Phú Tiên bàn như sau: "Tam cương, ngũ thường (vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em và bạn bè), đó là luân lý trọng đại của loài
VSTK - 376
người. . . . .Suốt đời nhà Trần, quen thói dâm loạn chung chạ lẫn nhau kể cả việc Trần Dụ Tông dâm loạn càn bậy chính là do từ Trần Thái Tông đã làm đầu têu từ trước". Ngô Thời Sĩ cũng có lời bàn: "Cả một đời nhà Trần vẫn gọi là không có nghi lễ ".
VSTK - 377
CHƯƠNG VII /PHỤ
DƯƠNG NHẬT LỄ ( 1369 - 1370 ) Niên hiệu: Đại Định 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
Kỷ Dậu, Đại Định năm thứ 1, tháng 8 (1369), Nhật Lễ lên ngôi, đổi niên hiệu là Đại Định năm thứ 1, tôn Hiến Từ làm Hiến Từ Tuyên Thánh đại1 hoàng thái hậu, tôn vợ Trần Dụ Tông là Nghi Thánh làm Huy Từ Tá Thánh hoàng thái hậu; lập con gái Cung Định vương Trần Phủ làm hoàng hậu. Phủ là con vợ thứ Lê thị2 và là con trai thứ 3 của Trần Minh Tông. Dùng Cung Tỉnh vương Nguyên Trác3 làm thượng tướng quốc thái tể4; Cung Định vương Phủ làm thái sư tả tướng quốc; Cung Tuyên vương Cảnh5 làm hữu tướng quốc. Tháng 12, Dương Nhật Lễ giết6 Hiến Từ Tuyên Thánh đại hoàng thái hậu để được nắm trọn quyền ngôi vua không bị ràng buộc dưới uy quyền7 của Tuyên Thánh. Kể từ khi đoạt ngôi vua, Nhật Lệ ngày ngày ăn chơi, rượu chè, dâm dật, hát xướng suồng sã với bọn vô loại và mưu định thiết lập vương triều cho dòng họ Dương, tiêu diệt dòng họ nhà Trần. Canh Tuất, Đại Định năm thứ 2, tháng 9 (1370), thái tể Nguyễn Trác và con trai Nguyễn Tiết hợp cùng với 2 người8 con của công chúa Thiên Ninh định mưu trừ diệt Nhật Lễ nhưng thất bại, nhóm khởi xướng gồm cha con Nguyễn Trác và nhiều người khác tất cả 18 người đều bị Dương Lễ giết chết. Cung Định vương Phủ cũng chạy trốn lên trấn Đà Giang rồi cùng với các em là Cung Tuyên vương Kính, Chương Túc thượng hầu Nguyên Đáng, Thiên Ninh Công chúa Ngọc Tha hội ở sông Đại La9, phủ Thanh Hóa để dấy quân diệt trừ Dương Nhật Lễ với sự tiếp trợ ngầm của Trần Ngô Lang từ bên trong nội bộ của Nhật Lễ. Tháng 11, Cung Định vương Phủ kéo quân hướng về Kinh đô; ngày 13 đến phủ Kiến Hưng10, tuyên lệnh phế Nhật Lễ xuống làm Hôn Đức Công. Ngày 15 tháng 11 năm Canh Tuất, Cung Định vương Phủ lên ngôi vua tức Trần Nghệ Tông, đổi niên hiệu, mọi
VSTK - 378
1
2
3
4
5
6
7
công việc đều theo lệ cũ từ niên hiệu Khai Thái11 của Trần Minh Tông. Ngày 21, Nhật Lễ nghe lời dụ của Trần Ngô Lang ra quy phục nhận tội với Trần Nghệ Tông; sau đó biết được Ngô Lang làm nội tuyến cho Nghệ Tông, Nhật Lễ lập mưu giết Ngô Lang và do đó bị Nghệ Tông xử phạt đánh chết bằng trượng, Trần Ngô Lang được truy phong tước vương. CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:
8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40
Đại hoàng thái hậu: sử cũ gọi là thái hoàng thái hậu, tức bà nội của vua. Cách gọi theo sử cũ làm cho người đọc bối rối, khó hiểu. Đại hoàng thái hậu là cách gọi của VSTK tức là bà của vua để phân biệt với hoàng thái hậu là mẹ đích hoặc mẹ đẻ của vua đang tại vị. 2 Con vợ thứ Lê thị: ĐVSKTT viết là con trai thứ 3 của Trần Minh Tông, mẹ đẻ là thứ phi Lê thị. Viết như thế có nghĩa là Lê thị có rất nhiều con với Minh Tông. Con trai lớn nhất của Lê thị và Minh Tông là Trần Hiến Tông Vượng. Thứ phi Lê thị là em gái cùng mẹ, khác cha với Hiến Từ; cả hai đều là vợ của Trần Minh Tông. 3 Cung Tỉnh vương Nguyên Trác: giữ chức thái úy và tả tướng quốc dưới thời Trần Dụ Tông, là con vợ thứ của Trần Minh Tông. Con gái của Nguyên Trác tên là Triều Môn, thứ phi của Trần Dụ Tông. 4 Quốc thái Thượng tướng tế: tướng lớn tuổi nhất triều đình, đứng vào hàng ông, bác hay chú của vua. 5 Cung Tuyên vương Cảnh: sử cũ không cho biết là con dòng đích hay thứ của Trần Minh Tông mà chỉ nói là em của Trần Minh Tông (BK.VII, 31b). 6 Nhật Lễ giết Hiến Từ: ĐVSKTT không nói lý do tại sao Hiến Từ bị giết. KĐVSTGCM viết: "Khi Nhật Lễ đã lên ngôi rồi, bà Hiến Từ hoàng hậu thường hối hận rằng hắn không phải là con của Cung Túc Vương Dục. Nhật Lễ bèn ngầm đầu độc giết chết Hiến Từ"(CB/ X,23). 7 Uy quyền của Tuyên Thánh: sử cũ không nói tới điều nầy nhưng chắc chắn rằng Tuyên Thánh muốn áp dụng quyền hạn của một người thái hậu đã có công đưa Nhật Lễ lên ngôi vua nhưng thất bại và ân hận vì không nắm giữ và điều khiển được Nhật Lễ theo ý mình. 8 Hai người con của công chúa Thiên Ninh: sử cũ không nói rõ tên của 2 người con nầy và ai là cha của họ; có thể một trong hai người là con của Trần Dụ Tông với Thiên Ninh khi Dụ Tông uống mật xanh của đứa trẻ nít và làm chuyện tà dâm với chị ruột mình là Thiên Ninh để chữa bệnh liệt dương không thể có con. Sử cũ cũng chép rằng kiểu chữa bệnh liệt dương nầy có công hiệu, công hiệu ở đây phải chăng là Dụ Tông đã có thể tạo thai với Thiên Ninh và để khỏi bị tiếng đời gièm pha dị nghị Dụ Tông đã gả Thiên Ninh cho Chính Túc vương Kham 1
VSTK - 379
1 2 3 4 5 6 7
vào năm 1342. Còn người con thứ nhì là con của Thiên Ninh và Chinh Túc vương Kham. 9 Sông Đại Lại: là dòng sông phụ của sông Lương (sông Mã) thuộc địa phận tỉnh Thanh Hóa. 10 Phủ Kiến Hưng: nay là các vùng đất ở các huyện Vụ Bản, Nghĩa Hưng và Ý Yên, tỉnh Hà Nam Ninh. 11 Đời Khai Thái: niên hiệu Thời Trần Minh Tông (1324-1328).
VSTK - 380
QUYỂN II THỜI ĐẠI TỰ CHỦ CHƯƠNG VIII
TRẦN NGHỆ TÔNG ( 1370 - 1372 ) Niên hiệu : Thiệu Khánh 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
Tên húy là Phủ, con thứ ba của Trần Minh Tông. Mẹ cả là Hiến Từ hoàng hậu của Minh Tông, mẹ đẻ là Minh Từ họ Lê em gái cùng mẹ khác cha với Hiến Từ, thứ phi của Minh Tông. Ngày 15 tháng 11 năm Canh Tuất (1370), Thiệu Khánh năm thứ 1, Trần Phủ lên ngôi vua ở phủ Kiến Hưng, trở về thủ đô, bắt giết Dương Ngọc Lễ; trừng trị người trong vương tộc là Trần Nhật Hạch đã a dua theo Ngọc Lễ mưu đồ lật đổ nhà Trần. Quốc Tử giám tư nghiệp Chu An1 mất. Tân Hợi, Thiệu Khánh năm thứ 2 (1371), truy tôn mẹ đẻ Lê thị làm Minh Từ hoàng thái phi. Phong cho công chúa Ngọc Ninh làm Lạng Quốc thái trưởng công chúa. Bỏ lệ chiếm lấn đất bãi gần sông có đất phù sa bồi đắp do đám dòng họ vương tộc thường tự tiện áp dụng. Ra lệnh kiểm kê di sản của các nhà giàu có quyền quý đã chết để giao nạp cho cho nhà nước, không được tự do chia cho con cháu như trước. Tháng 3 nhuận, Chiêm Thành theo cửa biển Đại An2 vào cướp phá kinh đô Thăng Long, Nghệ Tông phải chạy sang Đông Ngàn. Tháng 4, Trần Nghệ Tông từ Đông Ngàn trở về kinh đô rồi lập em là Cung Tuyên vương Kính làm hoàng thái tử. Kính là con của Đôn Từ họ Lê, cung phi của Trần Minh Tông. Tháng 5, lấy người họ ngoại là Lê Quý Ly3 làm Khu mật đại sứ4. Hai chị em Minh Từ và Đôn Từ là bà cô của Lê Quý Ly. Tháng 8, sai Quý Ly vào Nghệ An bình định biên giới và chiêu an dân chúng, khi trở về được gia phong tước Trung Tuyên quốc thượng hầu. VSTK - 381
1
2
3
4
5
6
Tháng 10, sai lang trung bộ lễ Phan Nghĩa soạn định các tiết mục về chế độ pháp luật và lễ nghi5. Nhâm Tý, Thiệu Khánh năm thứ 3 (1372) tháng 4, dùng Đỗ Tử Bình làm Hành khiển6, tham mưu quân sự trấn nhậm Nghệ An. Tháng 11, truyền ngôi cho thái tử Kính. CHƯƠNG IX
TRẦN DUỆ TÔNG ( 1372 - 1377 ) Niên hiệu: Long Khánh 7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
Tên húy là Kính, con thứ 11 của Trần Minh Tông, em của Trần Nghệ Tông, mẹ đẻ là Đôn Từ họ Lê; lên ngôi vua ngày mùng 9 tháng 11 năm Nhâm Tý (1372) tức Trần Duệ Tông. Truy tôn Đôn Từ làm hoàng thái phi. Quý Sửu, Long Khánh năm thứ 1 (1373), đổi niên hiệu là Long Khánh năm thứ 1. Lập Lê thị Hiển Trinh, em gái con nhà chú bác của Lê Quý Ly làm Gia Từ hoàng hậu. Tháng 8, thao luyện binh sĩ, đóng sửa chiến thuyền, tích trữ quân lương, đặt thêm quân hiệu để chuẩn bị đánh Chiêm Thành. Ra lệnh cho quân dân nộp thuế để được ban chức tước. Giặc cướp nổi dậy nhiều nơi. Giáp Dần, Long Khánh năm thứ 2 (1374) tháng 2 thi tiến sĩ: Đào Sư Tích đậu trạng nguyên. Đào vét các sông ở Thanh - Nghệ . Ất Mão, Long Khánh năm thứ 3 (1375), tháng Giêng, dùng Lê Quý Ly làm tham mưu quân sự; xếp đặt lại các lộ ở Hoan Châu, Diễn Châu và phủ Lâm Bình rồi cử quan triều đình lùa bắt dân sửa sang đường sá từ lộ Cửu Chân đến huyện Hà Hoa7. Tháng 8, bắt lính. Lệnh cho những nhà giàu ở các lộ phải nộp thuế bằng thóc để được ban phẩm tước. Bính Thìn, Long Khánh năm thứ 4 (1376), tháng 5, sau khi ăn chận và dấu yểm 10 mâm vàng của vua Chiêm Thành Chế Bồng Nga dâng cống cho vua nhà Trần, trấn thủ Nghệ An Đỗ Tử Bình báo cáo man trá về triều rằng vua Chiêm Thành ngạo mạng, khinh nhờn, vô lễ, cần đưa quân đánh VSTK - 382
1
2
3
4
5
6
phạt. Duệ Tông tin lời liền ra lệnh chuẩn bị quân binh, khí giới, chiến thuyền để tự mình chỉ huy đi đánh Chiêm Thành. Triều thần can gián nhưng Duệ Tông không nghe. Sai quân và dân ở Thanh Hóa, Nghệ An chuyển vận lương thực vào Hóa Châu để dự trữ nuôi quân rồi cùng thượng hoàng Nghệ Tông duyệt binh thủy, bộ ở vùng sông Bạch Hạc. Tháng 12, từ Thăng Long xuất quân đánh Chiêm Thành, sai Lê Quý Ly bắt dân phu khuân vác, vận tải lương thực cho quân đội. Đến cửa biển Di Luân8, đoàn chiến thuyền tiếp tục tiến quân theo đường biển. Một cánh quân do Trần Duệ Tông đích thân chỉ huy đổ bộ lên bờ rồi đi theo ven biển đến đóng doanh trại ở vùng cửa biển Nhật Lệ9, thao diễn, tập trận hơn một tháng ở đó. Đinh Tỵ, Long Khánh năm thứ 5 (1377) tháng Giêng, thuyền chiến của Trần Duệ Tông tiến vào cửa biển Thị Nại10, đổ quân đánh hạ đồn Thạch Kiều11 và động Ỷ Mang12 rồi kéo quân vây hãm kinh đô Đồ Bàn của Chiêm Thành. Chế bồng Nga lập đồn phòng thủ, phục kích bên ngoài thành Đồ Bàn13, cho người trá hàng sang trại quân của Trần Duệ Tông phóng tin rằng vua Chiêm đã bỏ thành chạy trốn. Duệ Tông tin lời tên trá hàng, ra lệnh tiến quân chiếm thành Đồ Bàn, không đếm xỉa gì đến những lời can ngăn, cố vấn của đám thuộc hạ dưới quyền. Quân mai phục của Chiêm Thành bất thần đổ ra tập kích, Trần Duệ Tông bị vây hãm, chết tại trận; các tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp và Phạm Huyền Linh cũng bị tử trận, Ngự Câu vương Húc14 đầu hàng và được vua Chiêm gả cho con gái. Đỗ Tử Bình chỉ huy đoàn hậu quân không lên tiếp cứu; Lê Quý Ly nghe tin bại trận quá sợ hãi vội trốn về một mình bỏ rơi dân phu bị Quý Ly bắt theo để làm lao công chiến trường khuân vác quân lương. Đỗ Tử Bình chỉ bị thượng hoàng Trần Nghệ Tông phạt tội đồ làm lính dù rằng đáng xử tội chết. Lê Quý Ly không bị quở phạt.
VSTK - 383
CHƯƠNG X
TRẦN ĐẾ HIỆN ( 1377 - 1388 ) Niên hiệu: Xương Phù 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
Đinh Tỵ, Long Khánh năm thứ 5, ngày 13 tháng 5 (1377), Trần Nghệ Tông lập con trưởng của Duệ Tông là Hiện lên nối ngôi vua tức là Trần Đế Hiện15 còn gọi là Trần Phế Đế16. Đinh Tỵ, Xương Phù năm thứ 1, tháng 6 (1377), Chiêm Thành sang cướp phá kinh đô Thăng Long. Thượng hoàng Trần Nghệ Tông đã sai Cung Chính vương Sư Hiền giữ cửa biển Đại An18 nhưng quân giặc lại chuyển hướng xăm nhập quân vào cửa biển Thần Phù18 rồi tiến chiếm kinh đô. Sau khi cướp phá, vơ vét, giết hại dân chúng và thiêu hủy công thự, nhà cửa, Chiêm Thành rút quân về, qua cửa biển Đại An gặp sóng gió lớn bị chết chìm rất nhiều. Tháng 9, lập con gái của Trần Nghệ Tông là công chúa Thiên Huy làm hoàng hậu. Sai sứ sang Trung Hoa để báo tang với nhà Minh về cái chết của Trần Duệ Tông. Nhà Minh sai sứ giả trá sang điếu tang để dọ thám, tính chuyện xăm lăng. Mậu Ngọ, Xương Phù năm thứ 2, tháng 5 (1378), Chiêm Thành đưa Ngự Câu vương Húc về đánh chiếm phủ Nghệ An, tự xưng vua, chiêu dụ dân chúng đi theo rất nhiều rồi từ cửa sông Đại Hoàng19 tiến quân về hướng kinh đô. Đỗ Tử Bình đã được trọng dụng trở lại, đưa quân đánh chận nhưng bị thua phải rút chạy. Quân Chiêm vào Thăng Long cướp của, bắt người rồi rút đi. An phủ sứ Lê Giốc bị quân Chiêm bắt giết. Dân bị lụt lội lớn, đói kém nhưng vua nhà Trần nghe theo lời cố vấn của Đỗ Tử Bình áp dụng việc thu thuế đinh19bis đánh vào cả đám dân nghèo để chi dùng vào việc quân sự. Hồi đầu đời Trần, dù có thu thuế đinh nhưng đánh vào tầng lớp dân nhà giàu có ruộng đất mà thôi; nay chỉ có binh lính mới được miễn thuế. Kỷ Mùi, Xương Phù năm thứ 3 (1379) mùa Hạ, hạn hán, dân chúng bị nạn đói lớn. Vua nhà Trần không lo việc chỉnh đốn phòng bị chống quân Chiêm lại lo mang tiền của, vàng VSTK - 384
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
bạc, châu báu đem đi giấu vào núi Thiên Kiện20 và nơi tầng dưới tháp chùa Khả Lãng ở Lạng Sơn. Tháng 10, Cung Tín vương Trạch mất. Trạch là con trai thứ 3 của Trần Minh Tông. Canh Thân, Xương Phù năm thứ 4 (1380), biết quan quân nhà Trần suy nhược, Chiêm Thành lại sang đánh phá Thanh Hóa. Trần Nghệ Tông sai Lê Quý Ly và Đỗ Tử Bình đem quân thủy bộ đến trấn giữ vùng Ngu Giang21 thuộc huyện Hoằng Hóa, lộ Thanh Hóa và đẩy lui được quân Chiêm. Đỗ Tử Bình từ đó cáo bệnh xin thôi nhiệm vụ binh quyền để trốn tránh khỏi phải ra trận đánh trận và sau đó lại được thăng chức làm nhập nội hành khiển, tả tham tri chính sự kiêm Kinh lược sứ Lạng giang, được vài năm thì chết, được truy tặng Thái Bảo và được thờ phụng ở Văn Miếu22. Còn Lê Quý Ly thì được ban chức nguyên nhung chỉ huy quân sự vùng Hải Tây23, một vùng lãnh thổ suốt từ Thanh Hóa trở vào phía Nam đến Thuận Hóa. Tân Dậu, Xương Phù năm thứ 5 (1381), tháng 2, thi Thái học sinh. Nhâm Tuất, Xương Phù năm thứ 6 (1382), Chiêm Thành lại đưa quân đánh Thanh Hóa. Lê Quý Ly cùng với tướng Nguyễn Đa Phương đem quân đón đánh. Nguyễn Đa Phương phá được quân Chiêm ở cửa biển Thần Đầu24, đuổi đánh đến đất Nghệ An rồi về. Quý Hợi, Xương Phù năm thứ 7 (1383), tháng Giêng, sai Lê Quý Ly mang thủy binh đi đánh Chiêm Thành nhưng bị gió bão ở eo biển Ô Tôn25 nơi vùng biển Lại Bộ Nương26 làm hư hại nhiều thuyền chiến, phải quay trở về. Tháng 6, vua Chiêm Thành Chế Bồng Nga cùng tùy tướng La Khải đưa bộ binh đi theo đường núi tiến ra lộ Quảng Oai26bis . Tướng nhà Trần là Lê Mật Ôn được lệnh đem quân chận đánh ở vùng Tam Kỳ27 nhưng bị quân Chiêm phục kích bắt sống. Thủ đô Thăng Long trong tình trạng báo động; Trần Nghệ Tông và Trần Đế Hiện chạy trốn sang Đông Ngàn28. Có người khẩn cầu hai vua nhà Trần ở lại cùng quân dân chiến đấu chống giặc nhưng Nghệ Tông vì quá khiếp sợ nên bỏ mặc, không nghe. VSTK - 385
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
Tháng 12, Chiêm Thành rút quân, Trần Nghệ Tông không về thủ đô nhưng qua ở nơi cung Bảo Hoà và tại đây đã sai Nguyễn Mậu Tiên và Phan Nghĩa ghi chép những chuyện đã qua và soạn thành 8 quyển Bảo Hòa Dư Bút do Đào Sư Tích đề lời tựa. Giáp Tý, Xương Phù năm thứ 8 (1384), tháng hai, Nghệ Tông cho mở khoa thi Thái học sinh ở chùa Vạn Phúc trên núi Tiên Du29. Ở Trung Quốc, nhà Minh đã diệt được nhà Nguyên và bắt đầu dòm ngó, hạch sách, đòi hỏi đủ điều, có ý muốn xăm lấn lãnh thổ Đại Việt: năm Giáp Tý (1384) sai sứ sang bắt Đại Việt phải cung cấp và chuyển vận 5,000 thạch lương cho quân nhà Minh trên đường tiến chiếm Vân Nam; năm Ất Sửu (1385), bắt Đại Việt phải dâng nạp sang Kim Lăng 20 sư tăng; năm Bính Dần (1386) lại bắt cống nạp các loại cây quý, voi đánh trận, lương thực đưa đến Vân Nam và bắt ép phải cho mượn đường ngang qua lãnh thổ Đại Việt để quân Minh tiến đánh Chiêm Thành. Cũng trong năm Bính Dần (1386), Nghệ Tông lấy Hồ Tông Thốc30 làm Hàn lâm học sĩ phụng chỉ. Đinh Mão, Xương Phù năm thứ 11 (1387), tháng 2, Trần Nghệ Tông trở về thủ đô Thăng Long, phong cho Lê Quý Ly chức Đổng bình chương sự31. Mậu Thìn, Xương Phù năm thứ 12 (1388), tháng 8, Trần Đế Hiện thấy quyền lực của Lê Quý Ly càng ngày càng nới rộng bèn bàn định với Thái úy Ngạc tìm cách trừ khử. Lê Quý Ly biết được liền trình tấu với Nghệ Tông truất ngôi Trần Đế Hiện, giáng Trần Đế Hiện xuống làm Linh Đức vương, lập Chiêu Định vương Ngung là con của Nghệ Tông lên nối ngôi vua. Các tùy tướng của Đế Hiệu đưa giáp binh vào cứu nhưng Đế Hiện ngăn lại không cho và yêu cầu giải giáp32; sau đó Nghệ Tông cho người đưa Đế Hiện ra phủ Thái Dương rồi thắt cổ cho chết; các tùy tướng và binh sĩ trung thành với Đế Hiện đều bị giết hoặc đưa đi đày ở các vùng biên giới xa xôi. Riêng thái úy Ngạc cũng là con trai của Nghệ Tông, chối không nhận âm mưu lật đổ Quý Ly cho nên không bị giết33. VSTK - 386
CHƯƠNG XI
TRẦN THUẬN TÔNG ( 1388 - 1398 ) Niên hiệu: Quang Thái 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
Trần Nghệ Tông sau khi nghe theo lời cố vấn của Lê Quý Ly giết Đế Hiện đã lập Cung Định vương Ngung lên ngôi vua tức là Trần Thuận Tông, đổi niên hiệu là Quang Thái. Lập con gái lớn của Quý Ly34 làm hoàng hậu; phong cho thái úy Trang Định vương Ngạc làm đại vương. Nghe theo lời cố vấn và đề nghị của Lê Quý Ly, Nghệ Tông chọn Phạm Cự Luận làm Thiêm thư Khu mật viện35 sự và đưa tùy thuộc vây cánh của Quý Ly vào nắm giữ các chức vụ chỉ huy trong quân đội. Giặc giã trong nước nổi lên khắp nơi: ở Thanh Hóa có Nguyễn Thanh tự xưng vua ở vùng sông Lương36, ở Nông Cống37 có Nguyễn Kỵ tự xưng là Lỗ vương. Kỷ Tỵ, Quang Thái năm thứ 2 (1389), tháng 10, vua Chiêm Thành Chế Bồng Nga vào cướp phá Thanh Hóa. Lê Quý Ly được cử đi đánh dẹp nhưng bị thất trận thua to, thiệt hại rất nhiều, Quý Ly bỏ trốn về bỏ mặc cho các tuỳ tướng ở lại cầm cự với quân Chiêm ở Ngu Giang38. Quý Ly xin Nghệ Tông thêm quân tăng viện không được bèn tự ý rời bỏ nhiệm vụ chỉ huy quân đội. Nghệ Tông phải cử đô tướng Trần Khát Chân lên thay và đem quân ra đón chận nhưng quân Chiêm đã tiến đến địa phận Hoàng Giang39. Khát Chân rút quân về lập tuyến phòng thủ ở vùng sông Hải Triều40. Để chạy tội thất trận và đào ngũ, Lê Quý Ly trút hết tội cho đồng bọn của mình là Nguyễn Đa Phương, Nghệ Tông tin theo, bắt Đa Phương phải tự tử. Tháng 12, một người sư tên Phạm Sư Ôn nổi loạn, vây hãm Kinh đô; quan quân nhà Trần bỏ chạy lên Bắc Giang rồi phải điều động đoàn quân của tướng Hoàng Phụng Thế từ mặt trận Chiêm Thành quay về để bất thần chận đánh, bắt được Phạm Sư Ôn cùng đồng bọn và giết đi. Canh Ngọ, Quang Thái năm thứ 3 (1390), ngày 23 tháng Giêng, nhờ có tin tức nội tuyến từ phía quân Chiêm41, tướng Trần Khát Chân dùng súng lôi hỏa giết được Chế Bồng Nga VSTK - 387
1
2
3
rồi ra lệnh tiến đánh, quân Chiêm tan rã; tướng giặc La Ngai thiêu xác Chế Bồng Nga42, rút tàn quân về nước rồi tự xưng làm vua mới của nước Chiêm Thành. CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:
4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41
Chu An: hay Chu Văn An (1292-1370), quê ở thôn Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Đàm, nay là Thanh Trì, Hà Nội. Ông là người cương nghị, thẳng thắn, trong sạch, có tiết tháo của một nhà nho chính danh. Ông dạy học trò rất kỹ luật, nghiêm minh và có nhiều học trò đỗ đạt đại khoa như Phạm Sư Mạnh và Lê Bá Quát. Ông nổi tiếng với tờ sớ tấu yêu câu Trần Dụ Tông chém 7 tên nịnh thần "thất trảm sớ" nhưng không có hiệu quả, ông bèn bỏ chức quan về quê sinh sống. Thời Trần Minh Tông, ông được mời làm Quốc tử giám tư nghiệp (ngang hàng với chức phó viện trưởng đại học ngày nay) để dạy học cho hoàng thái tử. Ông được ban tên thụy là Văn Trinh và được cúng thờ ở Văn Miếu. 2 Cửa biển Đại An: còn gọi là cửa Liêu hay Đại Nha, ở xã Quần Liêu, huyện Đại An, nay là huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Hà Nam Ninh. 3 Lê Quý Ly: tự là Lý Nguyên. Ông Tổ của Quý Ly là Hồ Hưng Dật người tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Thời Ngũ Quý bên Trung Hoa (907-959), Hồ Hưng Dật chạy sang Giao Châu khai hoang lập ấp ở hương (làng) Bào Đột, Diễn châu (nay là huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An). Cháu đời thứ 12 là Hồ Liêm di cư sang ở hương Đại La, Thanh Hóa rồi thành con nuôi của Lê Huấn cho nên mang họ Lê (Lê Liêm) từ lúc đó. Quý Ly là cháu 4 đời của Hồ Liêm (hay Lê Liêm). 4 Khu mật đại sứ: giống như thành viên hội đồng an ninh của nhà nước hiện nay. 5 Soạn định chế độ pháp luật và lễ nghi: đời Trần Thái Tông, năm Kiến Trung thứ 6 (1230) đã soạn định Quốc triều thông chế và hình luật lễ nghi gồm 20 quyển. Đến nay có thể là chỉ duyệt định lại để cho hợp với thời gian hiện tại. 6 Hành khiển: điều khiển hành chánh, giống như chức thủ tướng ngày nay. 7 Hà Hoa: nay là Kỳ Anh, Cẩm Xuyên, thuộc tỉnh Hà Tỉnh. 8 Cửa biển Di Luân: xã Di Luân, huyện Bình Chánh, nay là cửa Ròn, huyện Quảng Trạch tỉnh Quảng Bình. 9 Cửa biển Nhật Lệ: ở xã Động Hải, huyện Phong Lộc tức cửa sông Nhật Lệ ở Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình bây giờ. 10 Cửa biển Thị Nại: nay là hải cảng Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. 11 Thạch Kiều: không rõ ở đâu. 12 Động Ỷ Mang: theo KĐVSTGCM thì động nầy có thể là ở vùng núi thôn Phú Hòa vì nơi đây có một đồn lũy rất xưa cổ còn tồn tại. 1
VSTK - 388
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
Đồ Bàn: hay Chà Bàn, là kinh đô của nước Chiêm Thành hồi đó. Nay dấu tích vẫn còn ở tỉnh Bình Định. 14 Ngự Câu vương Húc: cũng là con trai của Trần Nghệ Tông. Sử cũ không viết rõ ràng thân thế của Húc mà chỉ đưa ra 2 sự kiện có liên quan tới nhân vật nầy : 1/ Năm 1377 cùng với Trần Duệ Tông đánh Chiêm Thành, Duệ Tông tử trận, Húc đầu hàng quân Chiêm và được Chế Bồng Nga gả cho con gái. Năm 1378, Chiêm Thành đưa Húc trở về chiếm Nghệ An, Húc tự xưng vương, tiến chiếm Thăng Long, cướp phá rồi rút đi: sử cũ viết là rút về nhưng có lẽ là Húc ở lại lập triều đình ở Nghệ An và kể từ lúc đó Nghệ An là điểm xuất quân của Húc dưới sự yểm trợ quân sự của Chiêm Thành để đánh phá Thanh Hoá và tiến về kinh đô. Năm 1380, Chiêm Thành tiến đánh Thanh Hóa (từ Nghệ An) nhưng bị Hồ Quý Ly và Đỗ Tử Bình chận đánh; trong trận nầy sử cũ viết là Chế Bồng Nga thua trận trốn về (Chiêm Thành). Năm 1381, Đế Hiện chiêu dụ Húc ra đầu thú và vì Húc là con của thượng hoàng Nghệ Tông cho nên được phong cho tước Quan Phục hầu nhưng đất Nghệ An vẫn còn dưới quyền kiểm soát của những tay chân bộ hạ người Chiêm Thành và chính vì thế khi quân Chiêm bị đánh bại vào năm 1382, Lê Quý Ly và Nguyễn Đa Phương chỉ truy đuổi đến Nghệ An rồi rút về. 2/ Cuối năm 1381, Quan Phục hầu Húc bị Đế Hiện giết chết có thể là sợ Húc làm nội ứng cho Chiêm Thành trong trận chiến 1382. Hành động sát nhân nầy của Trần Đế Hiện đã khiến thượng hoàng Nghệ Tông rất căm giận. KĐVSTGCM có lời cẩn án rằng: "Sử cũ chép nhà vua (Trần Đế Hiện) dụ Quan Phục Hầu đại vương Húc mà giết chết, và chép liền với sự kiện bà Gia Từ mất (Gia Từ là vợ của Duệ Tông và là mẹ đẻ của Đế Hiện) nhưng lý do vì sao mà dụ sát thì bỏ qua không chép, nay chép riêng ra đợi sẽ khảo về sau ". 15 Trần Đế Hiện: còn gọi là Trần Phế Đế. 16 Trần Phế Đế: để gọi Đế Hiện sau khi bị Trần Nghệ Tông truất phế ngôi vua. 17 Cửa biển Đại An: xem chú giải 2. 18 Cửa biển Thần Phù: tên cũ là Thần Đầu, ở địa giới huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình; nay là cửa Chính Đại. 19 Sông Đại Hoàng: tức là con sông ở xã Đại Hữu, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. 19bis Thuế đinh: giống như thuế thân dưới thời Pháp thuộc. 20 Núi Thiên Kiện: còn gọi là núi Địa Cận, xã Thiên Kiện, huyện Thanh Liêm nay thuộc tỉnh Hà Nam. 21 Ngu Giang: là một nhánh của sông Mã nằm ở địa phận huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hóa, nay gọi là sông Lạch Trường. 22 Văn Miếu: là nơi dùng để thờ phụng những nhân tài nho học có công trạng. Phan Phú Tiên viết: "Bậc danh nho các đời giữ được đạo thống thì mới được thờ phụng ở Văn Miếu nhằm tỏ rạng đạo họ có gốc 13
VSTK - 389
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36
có cội nguồn. Trần Nghệ Tông cho Chu Văn An, Trương Hán Siêu được thờ phụng ở đó vì Hán Siêu là là người cứng cỏi, bài xích mê tín dị đoan, còn Chu Văn An là người trong sạch, có khí tiết, bất cầu vinh hiển quan tước, thì còn tạm được. Còn như tên Đỗ Tử Bình là thứ đồ nhảm nhí, tham lam bòn vét, là kẻ gian thần hại nước hại vua thì sao lại được cho len lỏi vào nơi thờ phụng quý trọng đó?" 23 Hải Tây: vùng đất ven biển Đông trở vào thì coi là ở phía Tây nên gọi là Hải Tây. Sau nầy, nhà Lê (1428) có đặt một đạo gọi là đạo Hải Tây. 24 Cửa biển Thần Đầu: xem chú giải 18 ở trên. 25 Eo biển Ô Tôn: tức là eo biển Vĩnh Sơn, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. 26 Vùng biển Lại Bộ Nương: là cửa biển Nương Loan, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. 26bis Lộ Quảng Oai: gồm một phần đất của huyện Lương Sơn tức là phủ Anh Sơn (hay Anh Đô, nằm giữa trấn Nghệ An) và một phần đất của huyện Tùng Thiện (tức là huyện Minh Nghĩa của trấn Sơn Tây). Như vậy Quảng Oai nằm giữa Sơn Tây và Nghệ An. 27 Vùng Tam Kỳ: Sử cũ không ghi rõ địa điểm nầy. Theo LTHCLC của Phan Huy Chú thì: khi Lê Quý Ly ép buộc Trần Thuận Tông dời về Tây Đô ở động An Tôn (thuộc huyện Vĩnh Phúc, gồm có 75 xã, ) thì phủ Thanh Hoa đổi làm Thiên Xương, hợp với phủ Cửu Chân và Ái Châu phụ thuộc Tây Đô gọi là kinh kỳ tam phụ. Như thế, vùng tam kỳ có lẽ là 3 vùng Thanh Hoa, Cửu Chân, và Ái Châu. (Thành Tây Đô: rộng ước hơn 300 mẫu, đường đi lối ngang lối dọc đều lát đá hoa, móng thành bốn mặt đều xây đá xanh, từ mặt đất trở lên xây gạch, vuông vắn dày dặn, rất bền vững, hai bên trái, bên phải của thành gần sát núi đá, sông Mã sông Lương họp lại chảy về phía trước; đến nay vẫn còn thấy chân móng sót lại). 28 Đông Ngàn: tức là sông Thiên Đức, còn gọi là sông Diên Uẩn, nay là sông Chiêm Đức, tỉnh Bắc Ninh. 29 Chùa Vạn Phúc trên Núi Tiên Du: tức là chùa Phật Tích, ở núi Phật Tích, thuộc xã Phật Tích, huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc. 30 Hồ Tông Thốc: người Thổ Thành ở Diễn Châu (Nghệ An), xã Vô Ngại, huyện Đường Hào (nay là Mỹ Hào, Hưng Yên), đậu Thái học sinh đời Trần Nghệ Tông, có sang sứ Tàu.. Năm 1386 được bổ làm Hàn Lâm học sĩ phụng chỉ kiêm thẩm hình viện sứ. Đến khi Lê Quý Ly tiếm ngôi vua của nhà Trần, ông lui về ẩn dật, uống rượu làm thơ Thảo Nhàn Hiệu Tần Tập, viết sử Việt Sử Cương Mục và tập Việt Nam Thế Chí ; thọ 80 tuổi. 31 Đổng bình chương sự: ngang với chức tể tướng. 32 Giải giáp: giải tán giáp binh.
VSTK - 390
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35
Thái úy Ngạc không bị giết: sử cũ viết rằng Lê Quý Ly đánh tiếng phao đồn Ngạc muốn kế ngôi vua của Đế Hiện nhưng Ngạc không nhận vì thế Quý Ly đề nghị Nghệ Tông phong cho tước đại vương. 34 Con gái lớn của Lê Quý Ly: tên là Lê Thánh Ngân. 35 Thiêm Thư Khu mật viện: một chức quan ở viện khu mật, được tham gia bàn bàn thảo những việc cơ mật của triều đình, giống như hội đồng an ninh quốc gia ở các nước tiên tiến ngày nay. 36 Vùng sông Lương: sông Lương còn gọi là Lương Giang hay sông Chu ở Thanh Hoá. Lương Giang cũng là huyện Lương Giang ở Thanh Hoá, sau đổi là huyện Thụy Nguyên, rồi Thiệu Hoá; nay là một phần đất huyện Thiệu Yên, Thanh Hoá. 37 Nông Cống: tức là huyện Tư Nông, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hoá. 38 Ngu giang: tức sông Lương; theo KĐVSTGCM là một nhánh của sông Mã ở địa phận huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hoá ngày nay. 39 Hoàng Gang: ở huyện Nam Xang, phủ Lý Nhân, trấn Sơn Nam. Huyện Nam Xang cách Thăng Long 2 ngày đường. 40 Hải Triều: nay là sông Luộc, khúc sông chảy qua các huyện Phù Tiên, Hải Hưng và Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. 41 Tin tức nội tuyến từ phía quân Chiêm: hai bộ sử cũ đều viết rằng Chế Bồng Nga cùng với hàng tướng Nguyên Diệu (Diệu là em của Đế Hiện, vì muốn báo thù cho nên qua đầu hàng quân Chiêm Thành) kéo hơn trăm chiến thuyền để thị sát chiến trường. Một kẻ gia nô của Chế Bồng Nga bị trách phạt, sợ bị giết cho nên chạy qua doanh trại Trần Khát Chân đầu hàng và làm điềm chỉ viên nhận diện chiếc thuyền do Chế Bồng Nga đứng chỉ huy. Trần Khát Chân liền ra lệnh đội súng hỏa pháo nhắm hướng bắn chết Chế Bồng Nga. Quân Chiêm sợ hãi tan vỡ. Nguyên Diệu thừa cơ hội cắt lấy đầu Chế Bồng Nga có ý định lập công trở về đầu thú với quân nhà Trần nhưng bị người của Trần Khát Chân giết chết và cướp lấy đầu của Chế Bồng Nga đưa về. Khát Chân liền sai bỏ vào hòm gửi về cho Nghệ Tông hiện đang đóng bản doanh ở Bình Than. 42 La Ngai thiêu xác Chế Bồng Nga: ĐVSKTT viết: "La Ngai dẫn tàn quân chạy đến bờ sông Lô hỏa táng xác Bồng Nga rồi ngày đêm đi bộ men theo chân núi để rút quân về nước". KĐVSTGCM cũng viết tương tựa. 33
VSTK - 391
TRẦN THUẬN TÔNG (tiếp theo) 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
Kể từ tháng 2 năm Canh Ngọ, Quang Thái năm thứ 3 (1390), sau khi trận chiến với Chiêm Thành tạm yên, quyền lực, vây cánh của Lê Quý Ly càng ngày càng mạnh hơn. Tân Mùi (1391), Quý Ly ngầm sai bộ hạ giết Trang Định vương Trần Ngạc rồi báo cáo láo với Nghệ Tông rằng Ngạc quá bạo ngược với quân binh ở trại Vạn Ninh nên bị họ giết chết, sau đó Nghệ Tông biết mình lầm nhưng đã muộn. Các tướng trấn giữ Hóa Châu là Phan Mãnh và Chu Bỉnh Khê cũng bị Quý Ly sát hại rồi đưa bộ hạ là Đặng Tất thay thế. Nhâm Thân (1392), Nghệ Tông nghe lời xúi giục của Quý Ly giết tôn thất Trần Nhật Chương. Quý Dậu (1393), Quý Ly đưa tay chân bộ hạ là Hồ Cương lên chỉ huy quân Tả Thánh Dực để mưu đồ việc tiếm nghịch về sau. Trong năm nầy đại hạn, động đất, thủy tai, dịch sâu bọ phá hoại mùa màn xảy ra khắp nơi. Nghệ Tông tiếp tục tin cẩn Quý Ly một cách mù quáng, người nào có ý chống đối Quý Ly thì Nghệ Tông đều báo cho Quý Ly biết. Vì thế, những trung thần không ai còn dám hé môi can gián hoặc cố vấn cho Nghệ Tông nữa. Ngoài ra, Quý Ly còn khóc lóc thề thốt trung thành, hứa hẹn xa xôi khiến Nghệ Tông tin tưởng nhiều hơn. Ngày 15 tháng 12 năm Giáp Tuất, Quang Thái năm thứ 7 (1394), thượng hoàng Trần Nghệ Tông mất, ở ngôi vua 3 năm, giữ ngôi thượng hoàng 27 năm, thọ 74 tuổi. Ất Hợi, Quang Thái năm thứ 8 (1395), Quý Ly sai giết các người trong vương tộc là Nguyên Uyên, Nguyên Dận và nhân sĩ Nguyễn Phù nhưng lại được Trần Thuận Tông phong chức phụ chính thái sư, được vào ở trong cung điện làm thầy dạy vua. Bính Tuất (1396), Quý Ly ban hành tiền giấy gọi là tiền thông bảo để đổi và thu hồi tiền bằng đồng đúc đang xài trong dân chúng; định thể lệ mới cho việc thi cử gọi là thi tứ trường; quy định thể lệ mũ và áo may mặc để phân biệt quan với dân thường.
VSTK - 392
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
Đinh Sửu (1397), Quý Ly sai người đi Thanh Hóa xây cất thủ đô mới. Đặt một số phủ, lộ thành trấn cùng quy lại định chức quan giữ việc ở lộ, phủ, châu, huyện: ở lộ đặt an phủ sứ chánh và phó, ở phủ đặt trấn phủ sứ chánh và phó, ở châu đặt thông phán và thiêm phán, ở huyện đặt lệnh úy và chủ bạ; lộ thống trị phủ, phủ thống trị châu, châu thống trị huyện. Ở mỗi lộ đều có sổ sách ghi chép về thuế má, hộ tịch, kiện tụng và mỗi năm lộ phải tổng kết báo cáo về trung ương ở thủ đô. Về mặt an ninh, quân sự thì Quý Ly đặt ra các chức đô đốc, đô hộ, đô thống, tổng quản, thái thú để giao cho vây cánh của mình ở các lộ, phủ. Ở các phủ, châu đều đặt viên quan chuyên lo về việc giáo dục. Hạn chế quyền làm chủ ruộng đất của dân thường, không được quá 10 mẫu. Tháng 11 năm Đinh Sửu, Quý Ly bắt ép Trần Thuận Tông dời kinh đô đến Thanh Hoá. Mậu Dần, Quang Thái năm thứ 11 (1398), Quý Ly sai bộ hạ là tên đạo sĩ Nguyễn Khánh khuyến dụ Trần Thuận Tông từ bỏ ngôi vua để tu đạo tiên. Nghệ Tông nghe theo, truyền ngôi cho con trưởng là hoàng thái tử An tức Trần Thiếu Đế rồi ra cung Bảo Thanh ở phía Tây Nam núi Đại Lại ở huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa để thực hiện việc tu hành.
VSTK - 393
CHƯƠNG XII
TRẦN THIẾU ĐẾ ( 1398 - 1400 ) Niên hiệu: Kiến Tân
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
Quý Ly tự xưng là Khâm Đức Hưng Liệt đại vương. Kỷ Mão (1399), Quý Ly ép Thuận Tông phải ra tu ở quán Ngọc Thanh thôn Đạm Thủy, huyện Đông Triều, lộ Hải Dương và cho người theo mưu sát bằng thuốc độc, rồi lại bỏ đói nhưng vẫn chưa thể giết được. Quý Ly bèn sai Phạm Khả Vĩnh đem Thuận Tông đi thắt cổ cho chết. Nhóm trung thành với nhà Trần là Thái bảo Trần Nguyên Hảng, và thượng tướng Trần Khát Chân lập mưu hội thề để giết Quý Ly nhưng cơ mưu bại lộ, cả hai bị Quý Ly giết chung với thân thuộc tất cả gần bốn trăm mạng người, gia sản bị tịch thu. Diệt xong nhóm đối lập, Quý Ly tự xưng là Quốc tổ chương hoàng, vào ở cung Nhân Thọ, dùng nghi vệ dành riêng cho bậc vua. Con Quý Ly là Hán Thương tự phong chức quyền nhiếp Thái phó và vào ở điện Hoàng Nguyên; phong cho Hồ Nguyên Trừng làm Tư đồ. Canh Thìn, Kiến Tân năm thứ 3 (1400), tháng 2 ngày 28 Quý Ly bức Trần Thiếu Đế phải nhường ngôi và bắt buộc các người trong vương tộc nhà họ Trần và triều thần phải ba lần dâng biểu cầu cạnh Quý Ly mới chịu lên ngôi vua. Trần Thiếu Đế là cháu ngoại của Quý Ly cho nên không bị giết mà chỉ bị truất xuống làm Bảo Ninh đại vương. Nhà Trần mất.
KHẢO LUẬN VỀ TRIỀU ĐẠI NHÀ TRẦN 1. TRẦN THÁI TÔNG Người khoan hậu, thích văn học, đặt khoa thi, trọng dụng người có tài, chế triều nghi lễ bái, áp đặt luật pháp và hình phạt để cai trị,
VSTK - 394
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14
quy định điển chương cho chế độ. Quá sùng tín và thiên lệch về mặt đạo giáo. Không chủ động trong các kế hoạch trị nước và giữ nước, quá tin tưởng người thân thuộc đến mức yếu mềm quỵ lụy, khiến mọi quyền hành đều tập trung vào tay của kẻ gian tà Trần Thủ Độ. Phong hóa và đạo lý của vương tộc nhà Trần bị hủ bại và suy đồi là do Trần Thái Tông khởi xướng. Dùng thủ đoạn ám sát ma giáo để đoạt ngôi vua và tiêu diệt dòng họ nhà Lý. Về mặt kinh tế và dân sinh thì chỉ có công tác đắp đê hai bờ sông Hồng để phòng chống lũ lụt. Thuế khóa đặt ra nhiều hơn để vơ vét tiền bạc của dân chúng ngay cả những mặt nhu yếu cần thiết như tôm, cá, rau, quả cũng bị đánh thuế. Về mặt quân sự thì cũng không có chiến công nào lừng lẫy. 2. TRẦN THÁNH TÔNG
15 16
17 18 19 20 21 22 23 24 25
Chỉ có một thành tích đặc biệt là hoàn thành bộ Đại Việt Sử Ký do Lê Văn Hưu biên soạn. 3. TRẦN NHÂN TÔNG
Là một người thông minh, quả quyết, có trí lược, biết huy động toàn quân toàn dân đoàn kết để chống giặc ngoại xâm, là một người lãnh đạo biết chịu đựng gian khổ để chiến đấu bên cạnh binh sĩ ngoài trận mạc. Tạo dựng được hai thành tích rạng rỡ và tiêu biểu là phát khởi chiến dịch chống ngoại xâm qua việc triệu tập quốc hội Diên Hồng và ba lần đại phá quân xâm lược Nguyên Mông. Triều đại nầy sản xuất được nhiều tướng lãnh vương tộc dũng cảm, mưu lược, tài giỏi và trung hiếu, nổi bật nhất là Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Thành tích cải thiện kinh tế, dân sinh không có. 4. TRẦN ANH TÔNG
26 27 28 29 30
Không có thành tích nào đặc biệt ngoài việc bán gả Huyền Trân cho vua Chiêm đổi lấy châu Ô và châu Lý để rồi sau đó lại tráo trở, thất ước, sai Trần Khắc Chung cướp lại Huyền Trân đem trở về, tạo dịp cho việc dụng trộm tai tiếng giữa Khắc Chung và Huyền Trân cũng như gây thù hận dây dưa với dân tộc Chiêm Thành. 5. TRẦN MINH TÔNG
31 32 33
Không có thành tích nào đáng kể ngoại trừ việc u mê nghe lời gian thần Trần Khắc Chung giết hại người ngay là công thần Trần Quốc Chân.
VSTK - 395
TRẦN HIẾN TÔNG
6. 1
Không có thành tích gì đặc biệt. TRẦN DỤ TÔNG
7. 2 3 4
Là hiện thân của hoang dâm, đồi trụy và vô luân bậc nhất trong dòng họ vương tộc nhà Trần. Cơ nghiệp nhà Trần suy sụp bắt đầu kể từ đây. 8.
5 6 7 8 9
TRẦN NGHỆ TÔNG
Có công khôi phục ngôi vua của Nhà Trần từ tay tên ngoại tộc Dương Nhật Lễ nhưng là một người nhu nhược, u mê, không có óc xét đoán, không biết phân biệt gian thần với tôi trung khiến cho quân xâm lược nước ngoài lấn cướp kinh đô, trong thì phản thần Lê Quý Ly ngắp nghé ngôi vua, đất nước suy tàn. 9.
10 11 12 13
TRẦN DUỆ TÔNG
Là kẻ ương gàn, cố chấp, ấu trĩ, không nghe lời can ngăn cố vấn của người có kinh nghiệm, xem thường quân giặc cho nên mang họa vào thân, dù vì nước bỏ mình nhưng không đáng được coi là anh hùng liệt sĩ của dân tộc Đại Việt. 10. TRẦN ĐẾ HIỆU
14 15
Chỉ là một kẻ u mê, nhu nhược, một hình nộm bù nhìn của nhóm bội phản Lê Quý Ly.
16
11. TRẦN THUẬN TÔNG 17 18 19 20 21 22
Là một kẻ ăn bám sống nhờ, đần độn, trên thực tế thì chỉ còn có Lê Quý Ly sắp xếp điều khiển mọi việc trong nước. Đầu óc mê muội, mơ màng, muốn trở thành tiên thánh cho nên bị dụ dỗ bỏ ngôi để đi tu, phủi sạch trọng trách của một người công dân đứng hàng đầu nêu gương chống giặc và xây dựng đất nước. Dù bị gian thần ám hại, nhưng người đời sau không thấy tội nghiệp hay thương tiếc. 12. TRẦN THIẾU ĐẾ
23 24
Chỉ là đứa trẻ con ngơ ngáo mới có 3 tuổi, chẳng biết gì tới việc của những người lớn đang làm và sẽ làm. VSTK - 396
1 2 3 4 5 6 7 8
Tóm lại: Họ Trần dùng mưu gian chước quỉ để đoạt ngôi vua của người thì nay lại có kẻ khác dùng phương cách gian hùng để cướp ngôi vua của nhà Trần, rất hợp với câu: kẻ nào gieo gió thì sẽ gặt bão, ác nhân không chóng thì chầy rồi cũng phải gặp quả báo và đền tội. Các chiến công bình Chiêm, phá Nguyên dù lẫy lừng vang dội cũng không thể xóa đi những vết nhơ nhớp về mặt đạo lý của cả dòng họ nhà Trần từ trên xuống tới dưới.
Tên gọi của địa danh Tam Kỳ trong hai bộ sử cũ:
9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40
ĐVSKTT viết: "Thượng hoàng sai tướng chỉ huy quân Hoa Ngạch là Lê Mật Ôn đem quân đi chống giữ.. Mật Ôn đến Tam Kỳ châu định bày trận chống giữ. Nhưng giặc đã mai phục từ trước, quân voi đều xong ra, quan quân thua chạy, Mật Ôn bị giặc bắt sống.." Chữ châu viết theo chữ Hán có nghĩa là bãi ( giống như bãi biển, bãi sông, cù lao) như vậy Tam Kỳ châu có nghĩa là bãi Tam Kỳ (bãi sông hoặc bãi biển Tam Kỳ). Theo KDVSTGCM thì viết chữ châu theo nghĩa chia đất ra từng khu (châu quận). Tham khảo LTHCLC của Phan Huy Chú thì đời Trần cho tới đầu năm 1400 không thấy có địa danh nào gọi là châu hay quận Tam Kỳ như KDVSTGCM đã viết. Hồ Hán Thương làm vua, đánh Chiêm Thành lấy được Chiêm Động và Cổ Lũy đặt ra 4 châu là châu Thăng, châu Hoa, châu Tư, châu Nghĩa. Sau nầy nhà Lê hợp hai châu Thăng và châu Hoa để lập thành phủ Thăng Hoa và trong phủ Thăng Hoa nầy có huyện Hà Đông. Đời nhà Lê (sau nhà Hồ), phủ Thăng Hoa trở thành thừa tuyên Quảng Nam và vẫn giữ nguyên huyện Hà Đông. Đời nhà nhà Nguyễn (Gia Long) gọi là tỉnh Quảng Nam và huyện Hà Đông vẫn giữ tên cũ. Có người cho rằng huyện Hà Đông sau đó đổi thành huyện Tam Kỳ. Trong huyện Hà Đông có cửa biển Tân Áp. Cửa biển nầy là bãi tụ nước của hai con sông Bản Giang và sông Tam Kỳ. Như vậy có thể suy diễn theo 2 cách: 1. Các chữ Tam Kỳ châu dùng trong ĐVSKTT là đúng và có nghĩa là ở vùng bãi đất cửa sông Tam Kỳ chảy ra biển. Sự suy đoán nầy có thể chấp nhận được, bởi vì vào thời nhà Trần, vùng cửa sông Tam Kỳ, huyện Hà Đông và phủ Thăng Hoa vẫn là vùng đất của Chiêm Thành và trong trận đánh nầy (1383), điểm xuất quân của Chế Bồng Nga là từ Chiêm Động (tức là phủ Thăng Hoa) nơi mà tướng nhà Trần Lê Mật Ôn đem quân chận đánh nhưng bị quân Chiêm phục kích bắt sống. Sau đó quân Chiêm tiến về lộ Quảng Oai (một vùng nằm giữa Sơn Tây-Nghệ An) khiến cho quan quân nhà Trần kinh hãi phải bỏ kinh đô Thăng Long chạy lánh sang Đông Ngàn VSTK - 397
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
2. ĐVSKTT và KĐVSTGCM đều viết rằng quân Chiêm tiến ra lộ Quảng Oai. Như vậy có nghĩa là Nghệ An, Thanh Hoa đã mất và quân Chiêm đã tiến chiếm thêm một phần đất của lộ Quảng Oai nằm ở phía Bắc Thanh Hoa. Đời nhà Lê (sau nhà Hồ và hậu Trần) Quảng Oai trở thành phủ Quảng Oai thuộc Sơn Tây (còn gọi là Tam Giang) và con sông có tên là Tam Kỳ cũng nằm trong thừa tuyên nầy. Như vậy, sông Tam Kỳ có thể có một đoạn sông chảy ngang qua một vùng nằm giữa Sơn Tây và Thăng Hoa tức là vùng Quảng Oai lúc đó và cũng vào thời nầy có một bãi đất phù sa do sông Tam Kỳ bồi đắp gọi là Tam Kỳ châu. Tướng của nhà Trần là Lê Mật Ôn đem 3 quân ra chận đánh quân Chiêm của Chế Bồng Nga tại nơi nầy nhưng bị thua và bị quân Chiêm bắt sống.
VSTK - 398
THÀNH NHÀ HỒ
Thành nhà HÒ ª Thanh Hóa. Hình tØ trên cao chøp xuÓng. Trong khung thành hình vuông, dÃu v‰t các b© tÜ©ng thành vÅn còn tÒn tåi. (Hình trích Çæng tØ tÆp san BVH, sÓ 1/2, næm 1934) (True type fonts)
VSTK - 399
QUYỂN II
NHÀ HỒ CHƯƠNG I
HỒ QUÝ LY ( 1400 ) Niên hiệu : Thánh Nguyên
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
Canh Thìn, Kiến Tân năm thứ 3 (1400) tháng hai, Lê Quý Ly truất ngôi Trần Thiếu Đế xuống làm Bảo Ninh đại vương rồi tự xưng vua, đổi họ là Hồ1, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, đặt quốc hiệu là Đại Ngu2, lập con là Hán Thương làm thái tử. Đặt các chức thanh tra3 ở các lộ để kiểm soát đức độ và theo dõi cách thức làm việc, tinh thần phục vụ cho dân chúng của các quan lại ở địa phương; kể từ đó quan chức địa phương4 thường được thay đổi luôn cho hợp với dân tình. Tháng 8, mở khoa thi Thái học sinh. Nguyễn Trãi5, Lý Tử Tấn6, Vũ Mộng Nguyên7 đều đỗ trong kỳ thi nầy. Sai các tướng Trần Tùng, Đỗ Mẫn đem quân thủy bộ đánh Chiêm Thành nhưng thất bại. Trần Tùng phải tội đày làm lính. Hồ Quý Ly nhường ngôi cho Hồ Hán Thương rồi tự xưng là thượng hoàng cùng với Hồ Hán Thương nắm giữ quyền cai tri.
VSTK - 400
CHƯƠNG II
HỒ HÁN THƯƠNG ( 1401 - 1407 ) Niên hiệu : Thiệu Thành (1401-1402) Khai Đại (1403-1407) 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
Hồ Hán Thương phong cho cung phi Trần thị làm Hiến Gia Hoàng hậu. Hán Thương là con thứ của Quý Ly, em của Hồ Nguyên Trừng8. Mẹ Hán Thương là công chúa Huy Ninh9, con gái của Trần Minh Tông. Sai sứ sang nhà Minh báo cáo sai là dòng họ nhà Trần đã tuyệt tự và hiện nay Hán Thương là cháu ngoại của Trần Minh Tông tạm quản nhiệm công việc cai trị trong nước. Đánh thuế các thuyền buôn và xếp thành 3 hạng: hạng cao đánh thuế mỗi tay chèo10 là 5 quan; hạng trung 4 quan, hạng thấp 3 quan. Tân Tỵ, Thiệu Thành năm thứ 1 (1401), kiểm tra hộ tịch và kê khai lại nhân khẩu, từ 2 tuổi đều phải ghi vào sổ hộ, kiểm kê nhân số trong hạng tuổi từ 15 đến 60, tăng nhiều hơn trước, do đó bắt lính được nhiều hơn. CHÚ GIẢI:
15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33
Đổi trở lại họ Hồ: Quý Ly còn có tên là Lý Nguyên, tự cho rằng ông tổ của mình là Hồ Hưng Dật, gốc người Hoa ở Chiết Giang, đời hậu Hán (947-950) thời Ngũ Quý (còn gọi là Ngũ Đại, một giai đoạn ghi trong sử của Trung Hoa gồm có 5 triều đại: Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tần, Hậu Hán, Hậu Chu), sang làm thái thú ở Diễn Châu. Đến đời cháu thứ 12 tên là Hồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại trấn Thanh Hoa, làm con nuôi của Lê Huấn mới đổi theo họ Lê; Quý Ly là cháu đời thứ 4 của Hồ Liêm, nay lên ngôi vua lấy trở lại họ Hồ.(VSKTT/ BK VIII/ 33a và (LTHCLC/ Nhân Vật Chí). 2 Đại Ngu: ngày xưa ở Trung Hoa, con của Ngu Yên tên là Vỉ Mãn được Chu Vũ vương phong tước, cấp đất cho và được gọi là Hồ Công, sau đó Ngu Vỉ Mãn dùng chữ Hồ làm họ. Vì thế Quý Ly tự nhận là con cháu của Ngu Yên cho nên mới đổi là họ Hồ và lấy quốc hiệu là Đại Ngu. 3 Thanh tra: KKĐVSTGCM gọi là Liêm phóng sứ. Thời Pháp thuộc cũng có loại cơ quan nầy và cũng được gọi là sở liêm phóng tương tựa như công tác công an, mật vụ ngày nay. 4 Quan chức địa phương: hai bộ sử cũ gọi là thú lệnh để gọi chung những chức quan đứng đầu ở phủ, châu, huyện. Thú tức là thái thú; lệnh tức là lệnh doãn. 1
VSTK - 401
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26
Nguyễn Trãi: (1379-1442) tên hiệu là Ức Trai, người huyện Thường Phúc, trấn Sơn Nam, nay là huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Là con Nguyễn Phi Khanh, cháu ngoại Trần Nguyên Đán. Ông là tác giả Ngọc Đường Thi Tập. Bị án tru di tam tộc (giết hết 3 họ) trong vụ án mơ hồ Nguyễn thị Lộ (Thị Lộ là vợ nhỏ của Nguyễn Trải, ăn nằm với Lê Thái Tông, triều đình đổ tội cho Thị Lộ dùng thuốc độc giết vua cho nên Nguyễn Trãi cũng bị kết án là đồng mưu với Thị Lộ). Thọ 63 tuổi. 6 Lý Tử Tấn: (1381-1461) người làng Triều Đông, huyện Thượng Phúc, Hà Đông; sau nầy theo Lê Lợi, rồi làm quan từ đời Lê Thái Tông đến đời Lê Nhân Tông. Là tác giả của tập Chuyết Âm tập. Thọ 80 tuổi (giả định rằng Tử Tấn đỗ thái học sinh vào lúc 19 tuổi, suy ra năm sinh là 1400 -19 =1381; thọ 80 tuổi, mất vào năm 1381+80= 1461). 5
Vũ Mộng Nguyên: tên hiệu là Vi Khê, người làng Đông Sơn, huyện Tiên Du, Bắc Ninh (nay là huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh). Khi Hồ Quý Ly tiếm ngôi nhà Trần, ông bỏ đi ẩn dật; sau lại được Lê Lợi vời gọi trở lại làm quan. 8 Hồ Nguyên Trừng: con trai đầu của Hồ Quý Ly. Năm 1394 được Hồ Quý Ly cho giữ chức Phán tư sự (kiểm soát việc thi hành pháp luật hay còn gọi là kiểm pháp quan); Năm 1399, khi Quý Ly tự xưng Quốc Tổ chương hoàng thì Nguyên Trừng được Quý Ly phong cho giữ chức Tư Đồ. Không được lập làm thái tử vì không qua được cuộc trắc nghiệm ứng đáp của Quý Ly. 9 Công chúa Huy Ninh: là con gái Trần Minh Tông, em gái của Trần 7
Nghệ Tông. Năm 1371, Nghệ Tông cử Hồ Quý Ly làm khu mật viện đại sứ và đem Huy Ninh vừa mới góa chồng để gả cho. Huy Ninh làm vợ Hồ quý Ly và sinh ra Nguyên Trừng và Hán Thương. 10 Tay chèo: xếp hạng thuyền tùy theo số người dùng để chèo thuyền gọi là tay chèo.
HỒ HÁN THƯƠNG (tiếp theo) 27
28
29
30
31
32
33
34
35
Từ năm Tân Tỵ, Thiệu Thành năm thứ 1 (1401), nhà Hồ sửa đổi và áp dụng những chính sách như sau : -Hạn chế số gia nô và bớt số ruộng riêng của hàng vương tộc từ các triều trước, chiếu theo phẩm cấp. -Lập kho dự trữ gạo gọi là thường bình để ổn định giá cả thị trường lúa gạo: khi được mùa thì thu mua để dự trữ, khi thất mùa đói kém thì bán ra cho dân với giá rẻ. -Lệnh cho các lộ sản xuất gạch để dùng vào việc trùng tu thành Tây Đô. VSTK - 402
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
-Định lại quan chế và hình luật cho nước Đại Ngu. Nhâm Ngọ, Thiệu Thành năm thứ 2 (1402), xét duyệt quân đội. Đắp sửa hệ thống đường lộ từ Tây Đô đến Hóa Châu gọi là đường thiên lý đồng thời xây cất thêm phố xá và trạm liên lạc, đưa thư dọc theo hai bên đường. Tháng 7, đưa quân đánh Chiêm Thành. Vua Chiêm sợ hãi dâng đất Chiêm Động1 và Cổ Lũy2 để xin Hồ Hán Thương rút quân. Sau đó chia cắt hai vùng lãnh thổ vừa mới thu được thành 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa. Đặt An phủ chánh sứ và phó sứ để cai trị bằng cách điều động An phủ sứ lộ Thanh Hóa là Nguyễn Cảnh Chân đến nắm giữ lộ Thăng Hoa3 và bổ dụng người Chiêm Chế Ma Nô Đã Nan làm Cổ Lũy thượng hầu trấn giữ 2 châu Tư, Nghĩa để lấy lòng, vỗ về, chiêu dụ dân chúng người Chiêm ở 2 châu đó. Quy định lại các loại thuế ruộng đất4 tư và thuế đinh5. Quý Mùi, Khai Đại năm thứ 1 (1403), áp dụng chính sách di dân bám trụ6, đưa dân của Đại Ngu từ các lộ về định cư tại các vùng vừa mới chiếm được của Chiêm Thành ở lộ Thăng Hoa; chính sách tái định cư nầy gây xáo động7 trong dân chúng. Cung cấp trâu8 cày cho những người mới đến định cư ở Thăng Hoa. Ấn định bốn vùng lãnh thổ xung quanh trực thuộc Tây đô8bis gọi là tứ phụ kinh kỳ gồm có: phủ Thiên Xương9, phủ Linh Nguyên10, Cửu Chân và Ái Châu. Đặt chức thị giám trông coi các nơi buôn bán; ban hành mẫu mực về cân, đo, đong, đếm; ấn định giá xuất tiền giấy lưu hành trong dân chúng; người nào không xài tiền giấy theo đúng quy định của nhà nước thì sẽ bị tội và cấm không cho tiếp tục buôn bán. Sứ nhà Minh sang dò xét hư thực về dòng họ nhà Trần, ngầm điều tra xem còn có ai là huyết tộc của nhà Trần hay không để đối chiếu với sự báo cáo của Hán Thương trước đây. Nhưng nhà Hồ đã khôn khéo che giấu11 vì thế nhà Minh rốt cuộc cũng phải tin và phong cho Hán Thương tước An
VSTK - 403
1
2
Nam quốc vương.Đặt ra cơ quan Y tế12 để chăm sóc và chữa bệnh cho người dân bằng phương pháp châm cứu. CHÚ GIẢI:
3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41
Chiêm Động: trước thuộc quận Nhật Nam; từ thời nhà Đường của Trung Hoa trở đi gọi là Chiêm Thành, đời Trần và Hồ là phủ Thăng Hoa, nay là phủ Thăng Bình, Quảng Nam. 2 Cổ Lũy: xưa là địa phận quận Nhật Nam; từ đời Đường trở đi là đất Chiêm Thành. Hồ Hán Thương đánh chiếm được đặt thành hai châu: châu Tư, châu Nghĩa; nhà Lê hợp lại thành một phủ gọi là phủ Tư Nghĩa; nay là tỉnh Quảng Ngãi. 3 Thăng Hoa: nay là tỉnh Quang Nam. 3(bis) Chế Ma Nô Đà Man: con của vua Chiêm Chế Bồng Nga theo lời chua trong KĐVSTGCM. 4 Thuế ruộng đất: mỗi mẫu ruộng thâu 5 thăng lúa (nhà Trần chỉ thâu có 3 thăng), đất bãi trồng dâu chia ra 3 bậc: 5 quan, 4 quan và 3 quan trên mỗi mẫu (nhà Trần chỉ đánh nhắm chừng 9 quan hoặc 7 quan trên mỗi mẫu). 5 Thuế đinh: hay thuế đinh nam, cũng gọi là thuế lược dịch; căn cứ trên số ruộng để đánh thuế: trên 2 mẫu phải đóng thuế 3 quan; dưới hai mẫu được chước giảm. Người không ruộng, mồ coi hoặc góa bụa được châm chước hoặc miễn bị đánh thuế nầy. 6 Chính sách di dân bám trụ: tức là nước xâm lăng sau khi đã đánh chiếm được vùng nào của ngoại quốc thì đưa thường dân của nước xăm lăng đến nơi đó định cư để vừa giữ đất vừa sản xuất với ý định giữ và sáp nhập vĩnh viễn vùng mới chiếm vào lãnh thổ của nước xăm lăng. 7 Gây xáo động trong dân chúng: ĐVSKTT cũng như KĐVSTGCM đều viết rằng Hồ Hán Thương áp dụng chính sách di dân bám trụ bằng cách ép bắt những người có tiền (tức là nhà giàu hay còn gọi là tư sản) từ những vùng thị tứ đông dân đến định cư ở các vùng đất mới xa xôi hẻo lánh để khai phá, sản xuất, cải thiện kinh tế. Chính sách nầy tương tựa như khu trù mật, khu kinh tế mới mà nhiều chế độ chính trị hiện tại đã hoặc đang áp dụng. Vì có tính cách ép buộc cho nên chính sách nầy thường gây phẫn uất và xáo động cho những người giàu có quen ăn sung mặc sướng ở thành thị nay lại bị chính quyền đưa đi làm việc cày bừa chân tay, thiếu thốn, khổ sở ở những nơi thâm sơn cùng cốc. ĐVSKTT viết: "Hán Thương đem những người không có ruộng mà có của dời đến Thăng Hoa, tổ chức thành đội ngũ (giống như dân quân). Quan lại ở các lộ, phủ, châu, huyện chia đất cho họ ở. Người ở châu nào (tức là những châu mới chiếm được từ đất Chiêm Thành) thì thích hai chữ tên châu ấy vào hai cánh tay để làm dấu hiệu (để nhận diện truy bắt những người bỏ trốn không chịu chính sách định cư). Đến năm sau đưa vợ con đi theo, gặp nhiều trắc trở giữa đường, đau yếu chết 1
VSTK - 404
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25
chóc, dân phần nhiều ta thán. Hán Thương lại bắt dân cung cấp trâu để giao cho dân mới dời đến ở Thăng Hoa.( tức là bắt đám người bị ép buộc đi định cư ở Thăng Hoa phải làm việc cày bừa sản xuất)"(ĐVSKTT/ BK/ VIII/ 42b). 8 Cung cấp trâu cày: xem chú giải (7) trên. 8bis Thành Tây đô: rộng khoảng hơn 300 mẫu, đường đi lối ngang lối dọc đều lát đá hoa, móng thành bốn mặt đều xây bằng đá xanh, từ mặt đất trở lên xây gạch, vuông vắn dày dặn, rất bền vững, hai bên trái, bên phảỉ của thành gần sát núi đá, sông Mã, sông Lương hợp lại chảy về phía trước; đến nay vẫn còn thấy dấu tích chân móng của thành nầy. 9 Thiên Xương: tức là phủ Thanh Đô, ở phía cực Tây trấn Thanh Hoa, phần nhiều theo tục Man (Mường), liền núi, gần sông, tiếp giáp nước Ai Lao. 10 Linh Nguyên: tức là phủ Diễn Châu, ở về phía bắc Nghệ An, giáp liền với Thanh Hoa. 11 Nhà Hồ che dấu: KĐVSTGCM viết về việc nầy như sau: "Sứ nhà Minh là Dương Bột sang dỗ dụ các quan triều của Hồ Hán Thương và phụ lão trong nước Đại Ngu để dò xét lời tâu của Hán Thương thực hay láo. Hán Thương lại sai sứ sang triều đình nhà Minh dâng nạp tờ báo cáo cam đoan của quan triều và phụ lão nhận là đúng như lời tâu trước đây của Hán Thương: Hán Thương đã tâu là dòng dõi họ Trần bị tuyệt tự, Hán Thương tự lấy tư cách là cháu ngoại tạm giữ công việc trong nước. Vua nhà Minh tin là thật, phong Hán Thương làm An Nam quốc vương ". 12 Cơ quan Y tế: hai bộ sử cũ đều gọi là cơ quan Quảng Tế.
HỒ HÁN THƯƠNG (tiếp theo) 26
27
28
29
30
31
32
33
34
Giáp Thân, Khai Đại năm thứ 2 (1404), tháng 2, sai sứ sang cống nhà Minh. Định lại phép thi cử. Sửa đổi quân hiệu. Đào đắp lũy phòng thủ Liên Cảng1 nối Tân Bình với Thuận Hóa nhưng không thành công. Đóng thuyền chiến bằng đinh sắt nhưng bên ngoài ngụy trang giống như thuyền chuyên chở hàng hóa lương thực để che mắt gián điệp của quan quân nhà Minh. VSTK - 405
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
Sứ nhà Minh là Lý Kỳ sang Đại Ngu tra hỏi về sự bạo nghịch và lừa dối của cha con nhà Hồ. Lý Kỳ trở về báo cáo cho vua nhà Minh tất cả tình trạng gian dối của nhà Hồ do đó nhà Minh có cớ để đòi hỏi và gây hấn với Đại Ngu. Ất Dậu, Khai Đại năm thứ 3 (1405), nhà Minh sai sứ sang đòi lại đất Lộc Châu vì cho rằng trước đây Lộc Châu là đất thuộc châu Tư Minh của Trung Hoa. Nhà Hồ giao cho Hoàng Hối Khanh nhiệm vụ giải quyết chuyện nầy. Hối Khanh đem đất 59 thôn ở Cổ Lâu2 trả cho nhà Minh. Nhà Hồ bất mãn và ân hận về việc phải trả lại đất quá nhiều cho nên sai người ngầm giết hết những quan cai trị do nhà Minh bổ nhiệm đến trấn thủ ở các vùng đất vừa mới được nhà Hồ trao trả. Để chuẩn bị chống quân xâm lược nhà Minh, tháng 6, Hán Thương ra lệnh thiết đặt các kho vũ khí để sửa chữa, chế tạo binh khí và đồ quân dụng. Tháng 7, đi thanh sát các nơi xung yếu để lập phòng tuyến an ninh. Tháng 9, tổ chức, chấn chỉnh quân ngũ, đắp thành Đa Bang3 và sai đóng cọc ở sông Bạch Hạc để án ngữ quân Minh từ mặt Tuyên Quang tiến sang. Hội hợp các quan văn võ cả nước để bàn định kế hoạch đối phó với quân ngoại xâm. Trong cuộc hợp bàn nầy Hồ Nguyên Trừng nói: " Không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân có theo hay không mà thôi ". Bính Tuất, Khai Đại năm thứ 4 (1406), tháng 4, nhà Minh sai bọn Hàn Quan và Hoàng Trung đem 5,000 quân hộ tống tên Trần Thiêm Bình4 tự nhận là con của Trần Nghệ Tông trở về Đại Ngu để đòi lại ngôi vua. Hồ Nguyên Trừng đưa quân đón chận ở ải Chi Lăng, bắt được Thiêm Bình giết đi, quân Minh thua, bỏ chạy về Trung Hoa. Trong trận đánh nầy, 4 tướng5 của nhà Hồ bị tử trận. Để tránh chiến tranh, Hồ Hán Thương cử sứ giả sang cầu hoà với nhà Minh và chịu triều cống nhưng nhà Minh không chấp nhận, bắt giữ sứ giả không cho về. Để chuẩn bị chiến tranh, Hồ Hán Thương ra lệnh bắt lính, gọi các quan của triều cũ chờ lệnh trưng dụng, đóng cọc VSTK - 406
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
nhọn để lập tuyến phòng thủ ở bờ phía Nam sông Nhị, đặt chướng ngại vật ở các cửa sông và cửa biển, lập chiến khu bên bờ phía Nam sông Phú Lương dự phòng cho việc rút lui và trường kỳ6 kháng chiến. Tháng 9, nhà Minh sai các tướng Chu Năng, phó tướng Trương Phụ, phó tướng Mộc Thạnh đem 800,000 quân sang đánh, xuất phát từ 2 hướng Quảng Tây và Vân Nam. Trên đường tiến quân, tướng chỉ huy Chu Năng chết ở Long Châu7, Trương phụ lên thay. Trương Phụ từ Quảng Tây theo đường Bằng Tường8 đưa quân vượt cửa ải Pha Lũy tiến thẳng đến sông Phú Lương; Mộc Thạnh từ hướng Vân Nam tiến đánh cửa ải Phú Lệnh9 rồi kéo quân thẳng đến sông Thao. Hai đạo quân nhà Minh cùng tụ hội ở phía Bắc bờ sông Bạch Hạc. Hồ Hán Thương hạ lệnh cho tướng Hồ Nguyên Trừng và Hồ Đỗ đem quân thủy bộ ra cầm cự. Quân giặc dùng chiến dịch tuyên truyền chia rẽ10 khiến cho quân binh, tướng tá bất mãn với nhà Hồ bỏ hàng ngũ đón quân Minh để đầu hàng rất nhiều nhưng quân Minh vẫn không phá được những tuyến phòng thủ ở các bờ sông sông Nhị và sông Thao. Bính Tuất, tháng 12 (1406), đoàn quân xâm lược chuyển hướng tấn công, đem toàn bộ lực lượng vây hãm và đánh phá thành Đa Bang từ hai hướng Đông Nam và Tây Bắc. Quan quân nhà Hồ cố thủ và phản công nhưng thua. Thành Đa Bang bị mất vào tay quân Minh; quân binh của nhà Hồ phòng thủ ở các bờ sông đều tan vỡ nhanh chóng; Hồ Nguyên Trừng lui về vùng sông Hoàng Giang; quân Minh dọc theo sông Phú Lương kéo xuống, tiến thẳng vào Đông đô Thăng Long, cướp bóc, tịch thu lương thực, giết hại và hãm hiếp không nương tay. Đinh Hợi, Khai Đại năm thứ 5 (1407), tháng 2, quân Minh bị quân nhà Hồ cầm cự ngày đêm ở cửa Muộn11, lại bị thời tiết trái chướng không hạp cho nên chuyển quân về đóng ở bến Hàm Tử. Hồ Nguyên Trừng lại đưa quân tới Hoàng Giang để hợp với quân của Hồ Hán Thương từ Tây đô đến, chuẩn bị phản công quân Minh ở bến Hàm Tử.
VSTK - 407
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
Tháng 3, Hồ Nguyên Trừng chỉ huy hơn 70 ngàn12 quân thủy, bộ phản công, đánh vào bến Hàm Tử nhưng bị quân Minh phục kích đánh tan rã. Vua quan nhà Hồ kéo tàn binh trốn chạy về Thanh Hoá. Quân Minh truy đuổi ráo riết, đến Lỗi Giang13 thì quân nhà Hồ bị tiêu diệt gần hết. Quý Ly cùng Hán Thương chạy vào Nghệ An. Tháng 5, quân Minh kéo đến cửa biển Kỳ La 14, bắt được Hồ Nguyên Trừng rồi tiến đánh Vĩnh Ninh15, bắt được Hồ Quý Ly vào ngày 11 tháng 5. Ngày hôm sau, Hồ Hán Thương cùng con trai là thái tử Hồ Nhuế bị bắt ở núi Cao Vọng16. Quan quân nhà Hồ, người ra hàng17, người bị bắt18, người tự tử. Nhà Hồ mất. Nước Đại Ngu mất vào tay người nhà Minh: đoàn quân xâm lược nầy đã chiếm được 48 châu, phủ; 168 huyện; kiềm toả hơn 3 triệu hộ dân; thu 112 voi, 420 ngựa; hơn 35,000 trâu bò và gần 9,000 ghe thuyền. CHÚ GIẢI:
17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36
Liên Cảng: trong ĐVSKTT và KĐVSTGCM hai chữ Liên Cảng có thể dùng để chỉ một con sông đào hoặc là một con kinh đào nối liền phủ Tân Bình với trấn Thuận Hóa. Liên Cảng cũng có thể là một thành lũy đắp chạy dọc theo ven bờ biển, từ cửa biển Nhật Lệ (ở huyện Lệ Thủy) và cửa biển Minh Linh (ở châu Minh Linh) phủ Tân Binh đến địa giới trấn Thuận Hóa (ĐVSKTT viết: từ Tân Bình đến địa giới Thuận Hóa nhưng không nói rõ là địa giới phía Nam hay phía Bắc) nhằm mục đích kiểm soát và ngăn chận quân Chiêm Thành và quân xâm lược từ nước Trung Hoa tiến vào nội địa của Đại Ngu bằng đường biển. ĐVSKTT viết: "Hán Thương khai Liên Cảng từ Tân Bình đến địa giới Thuận Hóa" nhưng không nói rõ là địa giới phía Nam hay phía Bắc của Thuận Hóa: nếu từ Tân Bình (nay là Quảng Bình) trở về phía Nam giáp giới với châu Tư (nay là Quảng Nam, địa giới phía Nam của Thuận Hóa) thì thành lũy Liên Cảng thời nhà Hồ chạy dài từ các cửa biển Nhật Lệ, Minh Linh ở tỉnh Quảng Bình ngày nay xuống về phía Nam đến tận địa phận của tỉnh Quảng Nam bây giờ. Và nếu đúng như thế thì đây là cả một công trình đào đắp quy mô, vĩ đại; tuy nhiên vì xây trên nền cát bùn ven biển không có nền móng vững chắc cho nên bị sụp đổ liên miên, thất bại. Địa dư chí của Phan Huy Chú viết: "Huyện Lệ Thủy và huyện Minh Linh đều giáp cửa biển Lũy Thầy trên từ đỉnh Động Hồi dưới đến cửa biển Nhật Lệ: lũy cao 7 trượng 5 thước, dài hơn 3,000 trượng ngoài lũy 1
VSTK - 408
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38
cắm rào và cọc lim, trong đắp đất, trên lũy cao đến 5 tầng, mỗi tầng cao 1 thước 5 tấc, voi ngựa đi ở trên được (tức là có thể dùng bờ lũy nầy trong việc giao thông chuyên chở)". Lũy nầy được đắp vào thời Hiếu Văn vương Nguyễn Phúc Nguyên (chúa Nguyễn). LTHCLC cũng viết "Cửa Minh Linh ở châu Minh Linh. Có cửa ải đóng quân để phòng giữ, vì là chỗ xung yếu; từ cửa Nhật Lệ đi 2 ngày đến đấy ". Như thế, sự suy đoán của VSTK cho rằng Liên Cảng là một bờ lũy phòng thủ mặt biển được nhà Hồ đào đắp là một suy đoán có thể chấp nhận được. 2 Cổ Lâu: nay thuộc tỉnh Quảng Tây ở Trung Hoa. 3 Thành Đa Bang: theo KDVSTGCM thì thành nầy ở xã Cổ Pháp, huyện Tiên Phong tỉnh Sơn Tây; nay thuộc huyện Ba Vì, Hà Tây. 4 Trần Thiêm Bình: Trần Khang là gia nô, bè đảng với Trần Tôn Nguyên. Tôn Nguyên trước giữ chức thiếu bảo triều nhà Trần, lúc Chiêm Thành sang cướp phá Đại Việt, Tôn Nguyên ngầm thông mưu với quân Chiêm. Khi quân Chiêm rút lui, Trần Thuận Tông ra lệnh truy bắt Tôn Nguyên để trị tội, Tôn Nguyên nhảy xuống nước tự tử còn bè đảng là Trần Khang chạy trốn sang Lão Qua (Lào) rồi sang Trung Hoa, theo đường Vân Nam đến Yên Kinh đổi tên là Trần Thiêm Bình và nói sai mình là con của Trần Nghệ Tông, tố cáo với nhà Minh về việc tiếm nghịch lừa đảo của Quý Ly và xin nhà Minh đưa lục quân (tức là 6 quân của nhà vua, mỗi quân có 12, 500 người: thời cổ thì thiên tử mới có 6 quân, còn các vua chư hầu, nếu là nước lớn thì được 3 quân, nước cỡ trung thì được 2 quân, nước nhỏ chỉ được quyền có 1 quân) hộ tống trở về đòi lại ngôi vua của nhà Trần bị Quý Ly cướp đoạt.; nhà Minh vì thế mới sai Lý Kỳ sang Đại Ngu để điều tra. 5 Bốn tướng của nhà Hồ bị tử trận: ĐVSK kể tên 4 tướng là Phạm Nguyên Khôi, Chu Bỉnh Trung, Trần Nguyên Huyên, Trần Thái Bộc. 6 Trường kỳ: hạn kỳ dài, lâu. Long Châu: thuộc tỉnh Quảng Tây bên đất Trung Hoa, tiếp giáp với Lạng Sơn. 8 Bằng Tường: thuộc Quảng Tây, tiếp giáp với Lạng Sơn. 8bis Phả Lũy: ở xã Đồng Đăng, huyện Văn Huyên, Lạng Sơn bây giờ 7
là Mục Nam Quan. 9 Phú Lệnh: thuộc Tuyên Quang. 10 Tuyên truyền chia rẽ: với chiến dịch tuyên truyền nầy, quân Minh phao tin vào hàng ngũ quan quân nhà Hồ rằng sẽ diệt nhà Hồ và đem con cháu của nhà Trần trở lại ngôi vua. Vì thế, quan quân của nhà Hồ vốn đã oán hận chính sách cai trị gò bó, hà khắc của nhà Hồ từ lâu, nay nghe lời phao đồn như thế thì không còn chí khí để chiến đấu nữa. 11 Cửa Muộn: là cửa sông Hồng ở địa phận huyện Giao Thủy, Nam Định; nay đã thành bãi đất bồi lấn ra biển. 12 70 ngàn quân thủy, bộ: nhưng quân nhà Hồ lại phao đồn là 210 ngàn để phô trương thanh thế và dọa hù quân Minh.
VSTK - 409
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23
Lỗi giang: một nhánh sông phụ của sông Mã ở huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hoa, hạ lưu sông nầy thông với sông Đại La. 14 Cửa biển Kỳ La: ở huyện Kỳ Anh, phủ Đức Quang (nay là Hà Tỉnh), trấn Lâm An (tức Nghệ An). 15 Vĩnh Ninh: thời nhà Trần và nhà Hồ là huyện Vĩnh Phúc, phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Đô (Thanh Hoa) nơi đó Hồ Quý Ly xây dựng Tây Đô ở động An Tôn; nay là huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. 16 Núi Cao Vọng: cùng một vùng với cửa biển Kỳ La. 17 Người ra hàng: trong số người ra hàng quân Minh từ khởi đầu cuộc chiến có Nguyễn Phi Khanh. Phi Khanh tên thật là Ứng Long người làng Nhị Khê, huyện Thường Phúc, Hà Đông; đỗ thái học sinh đời Trần Duệ Tông (1374), lấy con gái Trần Nguyên Đán, bị Trần Nghệ Tông chê là xuất thân từ hàng dân nghèo hèn nên không trọng dụng. Sau được Hồ Hán Thương cất nhắc và bổ dụng làm Hàn Lâm Viện học sĩ và cho đổi tên là Phi Khanh. Nguyễn Phi Khanh là tác giả Nhị Khê thi tập và cũng chính là cha ruột của Nguyễn Trãi. ĐVSKTT và KĐVSTGCM đều chép Nguyễn Phi Khanh đầu hàng quân Minh từ trước nhưng trong sách Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Dương Quảng Hàm lại ghi rằng Nguyễn Phi Khanh bị quân Minh bắt giải về Trung Hoa rồi chết ở bên đó. 13
Người bị bắt: ngoài gia đình, con cháu nhà Hồ, quân Minh còn bắt được các tướng Hồ Đồ, Đoàn Bồng, hành khiển Nguyễn Ngạn Quang, Lê Cảnh Kỳ. Tất cả đều bị giải qua Kim Lăng giao nạp cho vua nhà Minh. 18
KHẢO LUẬN VỀ NHÀ HỒ 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40
Thái độ và dư luận của thời phong kiến đối với nhà Hồ:
Theo quan niệm phong kiến, những dòng họ cướp ngôi thì không được coi là chính thống. Những sử gia thời phong kiến phần lớn bị áp lực của những người làm vua đã phải nhắm mắt đi theo quan niệm đó để phân định vua nào là thuộc triều đại chính thống và vua nào là thuộc về ngụy triều hay nhuận triều. Chỉ có những triều đại chính thống mới được chép riêng thành kỷ như kỷ Hồng Bàng, Kỷ họ Thục, kỷ họ Triệu, kỷ Trưng vương, kỷ Sĩ vương, kỷ thuộc Ngô, Tống, Tề, Lương, Kỷ Tiền Lý, Kỷ Triệu Việt vương, kỷ nhà Đinh, Kỷ nhà Lê, kỷ nhà Lý, Kỷ nhà Trần. . .vân. . .vân. Triều nhà Hồ và triều nhà Mạc sau nầy không được coi là triều đại chính thống nên không được chép thành Kỷ Nhà Hồ và Kỷ nhà Mạc. ĐVSKTT viết: "Sử cũ đem hai người họ Hồ chép từng năm thành kỷ, nay truất bỏ và sửa cho đúng "(BK/VIII/33a). Phần đề mục viết ở phía trên thì viết: " Phụ: Hồ Quý Ly và Hán Thương ". Sự phân biệt chính thống triều và nhuận triều hay ngụy triều chỉ là một sản phẩm của bọn vua chúa kiêu căng, tham quyền cố vị VSTK - 410
1 2 3 4 5 6 7 8 9
10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39
và là một ý niệm mơ hồ không có một nền tảng vững chắc, không có một tiêu chuẩn nhất định, có tính chất độc quyền và kỳ thị rõ rệt. Nếu cho rằng những kẻ cướp ngôi vua của người khác phải bị coi là bọn ngụy thì những kẻ được gọi là chính thống trong sử cũ kể từ sau đời nhà Đinh đến đầu đời nhà Hồ đều là ngụy cả: Lê cướp ngôi nhà Đinh, Lý cướp ngôi nhà Lê, Trần cướp ngôi nhà Lý. Đó là chưa kể đến những phương thuật tinh ma quỉ quái, xảo trá, lương lẹo và tàn độc mà họ đã dùng để tranh ngôi đoạt vợ của người khác. Về mặt đạo đức, phong hoá thì những kẻ tự cho mình là chính thống lại chính là những hạng người vô địch về hoang dâm vô độ, loạn luân bừa bãi, phung phí của công để thoả mãn dục vọng riêng tư, không thấy làm được một việc gì có ích lợi nâng cao mức sống cho dân chúng trong suốt thời gian bọn họ nắm quyền cai trị. Lê Đại Hành mưu mô cướp ngôi nhà Đinh nhưng lại được Lê Tung khen trong Việt Giám Thông Khảo Tổng Luận như sau: "có mưu lược to lớn của bậc đế vương ". Lý Công Uẩn dùng mê tín dị đoan dọn đường rồi cướp ngôi nhà Lê thì lại được viết rằng: "hiệp điềm tốt sét đánh chuyển lời vào thân cây, ứng mệnh trời, thuận lòng người, thừa thời cơ mở vận nghiệp vua ". Nhờ âm mưu gian tà của Trần Thủ Độ, nhà Trần cướp ngôi nhà Lý nhưng Trần Thái Tông lại được xem là người "ứng mệnh trời trao cho". Đối với nhà Hồ, soạn giả VGTKTL viết:" Còn như Hồ Quý Ly dựa thế thân thích ở nội cung mà tích chứa tội ác gian thần, thả sức bạo ngược hại dân, lừa dối vua để cướp ngôi báu, tội oán chất chồng, lòng dân ta thán lìa xa, giặc Minh xăm lấn, nước mất nhà tan, thân tù tội, chết làm ma đất khách, cuối cùng chỉ để lại tiếng cười chê cho đời sau..Hồ Hán Thương nối ngôi thoáng đoạt, chính trị bạo ngược, ức hại đoạ đày dân chúng; giặc Minh xăm lăng, đất nước, bờ cõi tan hoang; lưới trời rộng lớn bao la tuy thưa thớt mà khó chui qua để thoát ". Trong Phàm Lệ về việc biên soạn sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên, có đoạn viết: "Dương Tam Kha và hai họ Hồ trước (chỉ Hồ Quý Ly), họ Hồ sau (chỉ Hồ Hán Thương), đều theo như lệ Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, chỉ chép tên, là để đè nén kẻ tiếm nghịch ". Phạm Công Trứ viết trong bài tựa sách Đại Việt Sử Ký Bản Kỷ Tục Biên như sau: " Phàm phần tục biên thì dưới chỗ chép năm, nếu là niên hiệu không phải chính thống hoặc là niên hiệu của triều đình phương Bắc (tức triều đình bên Tàu) ) thì đều chia ra chua làm 2 dòng. Đó là để tôn chính thống mà truất tiếm ngụy, nêu lên giường mối lớn để làm gương khuyên răn ". Ngô Sĩ Liên là người chống đối nhà Hồ mạnh mẽ nhất, đến mức độ gọi quân Minh và Chiêm Thành là nước láng giềng hoặc người láng giềng vì theo Ngô Sĩ Liên thì những kẻ xâm lăng nầy đã có công
VSTK - 411
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43
trạng tiêu diệt nhà Hồ. Ngô Sĩ Liên nói: "Họ Hồ giết Trần Thuận Tông mà cướp lấy nước. Nhưng bọn loạn thần tặc tử thì ai ai cũng có thể giết chúng được và trời không dung, đất không tha ! Người trong nước giết chúng không được, thì người nước láng giềng có thể giết, người nước láng giềng giết không được thì người Di người Địch có thể giết được. Vì thế người Minh mới có thể giết được chúng ". Trên đây là thái độ và dư luận của những người viết sử có liên hệ với bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Còn những người trong quốc sử quán triều Nguyễn Gia Long, những người giữ trọng trách biên soạn bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục thì thái độ của họ ra sao? Trong bản Tấu Nghị ngày 10 tháng 6 năm Tự Đức thứ 9 (11/7/1856), ngay từ lúc bắt đầu, nhóm sử gia trong bộ biên tập của quốc sử quán đã đề cập ngay vấn đề chính thống như sau: " Chúng tôi trộm nghĩ: trong công việc soạn sửa lịch sử, không có gì trọng đại hơn là làm sáng tỏ được nền chính thống " (phiên âm bản viết chữ Tàu: Các đăng nhân, thần đẳng thiết tu sử chi sự, mạc đại ư minh chính thống). Quan niệm Chính thống của nhóm quốc sử quan triều Nguyễn đặt trên tiêu chuẩn nào? Bản Tấu Nghị, viết rõ ràng là họ đã lấy tiêu chuẩn chính thống của người Tàu từ đời nhà Tống để đem áp dụng vào KĐVSTGCM. Bản tấu nghị viết: "Mười hai sứ quân nổi lên tranh quyền ngang nhau, chưa phải là chính thống. Đến Bộ Lĩnh là Đinh Tiên Hoàng mới hợp làm một. Chúng tôi vâng nghĩ nên đặt Đinh Tiên Hoàng vào chính thống để nối theo nền chính thống của vua Hùng. Nay chúng tôi vâng lệnh tra cứu Phàm lệ của sách Cương Mục (sách của một tác giả người Hoa, đời nhà Tống) thì thấy chính thống có các triều nhà Chu, nhà Tần, nhà Hán, nhà Tấn, nhà Tùy, nhà Đường. Và thể lệ biên chép về chính thống như sau: Triều đại nào hợp được thiên hạ vào một mối thì gọi là chính thống, niên hiệu của triều đại đó được chép bằng chữ lớn; trái lại triều đại nào không thống nhất được thiên hạ thì niên hiệu sẽ được ghi chú thành 2 hàng chữ nhỏ. Triều đại nào, mặc dù có thống nhất thiên hạ thực sự, nhưng vì vua không phải là dòng dõi chính hoặc là một người đàn bà thì niên hiệu cũng được chép thành 2 hàng. Chúng tôi cũng có tra cứu thể lệ biên chép về những người thừa cơ hội loạn lạc mà cướp nước, soán ngôi: Lê Đại Hành là tôi nhà Đinh nhưng thừa cơ nguy yếu để cướp ngôi. Đến con là Lê Ngọa Triều làm chuyện cướp ngôi, hoang dâm ngang , hung tàn bạo ác. Bàn về phương diện được nước thì xếp ngang với Vương Mãn và Tào Tháo; về mặc dẹp loạn thì công trạng không bằng nhà Tần và nhà Tùy. Sách Cương Mục Tục Biên đã xếp tất cả vào hạng phản thần, con nghịch.
VSTK - 412
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29
Vậy mà sử cũ (chỉ ĐVSKTT và các bộ sử trước ĐVSKTT) lại chép (nhà họ Lê) là chính thống, như thế thì còn lấy gì để phân biệt nêu gương răn dại cho người đời sau? Chúng tôi vâng nghĩ, về đời Tiền Lê thì nên lấy thể lệ áp dụng cho những đời vua chiếm đoạt nước trong sách Cương Mục mà chép niên hiệu của triều đó bằng hai hàng chữ nhỏ . Lý Thái Tổ vào lúc nhà họ Lê (Tiền Lê) hỗn loạn rối ren, nghe theo lời của nhiều người thúc đẩy rồi nhận sự suy tôn thì việc lấy được ngôi vua nầy cũng giống như Thái Tổ nhà Tống (tức là Triệu Khuông Dẫn, vua đầu tiên của triều nhà Tống bên Tàu từ năm 960 đến năm 976). Đến Trần Thái Tông, cũng có điều đáng dị nghị chỉ trích. Xét kỹ nguyên nhân được nước của họ nhà Trần thì cũng không tàn tệ quá lắm so với nhà họ Tiền Lê. Vậy xin cho phép chép chữ lớn theo thể lệ sách Cương Mục dành cho các triều đại chính thống." Mặc dù không thấy nhóm quốc sử quán triều Nguyễn đề cập gì tới trường hợp của nhà Hồ trong bản tấu nghị của họ, nhưng khi viết về việc Hồ Quý Ly truyền ngôi vua cho Hồ Hán Thương họ đã dùng hai chữ ngụy vị (ngôi vua giả dối) và đó đây, qua những lời bút phê của Tự Đức người ta có thể thấy rằng Nhà Hồ đã không được những người làm sử thời phong kiến triều Nguyễn (Gia Long) đánh giá một cách khách quan và đúng mức. Tại sao? Bởi vì họ chịu hai áp lực lớn khi viết sử: áp lực của kẻ đang làm vua và áp lực nhồi sọ của Nho giáo trong đó có phổ biến một quan điểm sai lầm tai hại là phải trung thành với với vua trước nhất rồi kế đến mới yêu tổ quốc: trung quân, ái quốc; phải chết vì vua: quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; đó là một sản phẩm ngoại lai từ nước Trung Hoa xâm nhập và ăn sâu vào đầu óc của các nhà nho và dân chúng thời phong kiến, vì thế cho nên họ chép ngôi vua của Quý Ly là ngụy vị.
30 31 32 33 34 35 36 37 38 39
Thái độ khách quan và nghiêm minh về nhà Hồ :
Trong suốt quá trình hơn 30 năm nắm giữ quyền chính từ triều nhà Trần qua đến triều nhà Hồ (1371-1407), Hồ Quý Ly đã thực hiện một cuộc sửa đổi rộng lớn và mới mẻ trên nhiều lãnh vực khác nhau của nước Đại Việt và Đại Ngu thời bấy giờ. * Về mặt tổ chức hành chánh lãnh thổ địa phương, những lộ ở các vùng xa xôi Hồ Quý Ly đổi thành trấn, đặt thêm quan chức chuyên lo về việc trị an ở các lộ, phủ, châu, huyện thống thuộc theo chiêu dọc từ trên xuống dưới: lộ coi phủ, phủ coi châu, châu coi huyện. Lộ nào cũng phải có sổ sách ghi chép về những việc đinh điền, kiện tụng và hằng năm phải báo cáo tình hình địa phương về chính quyền trung VSTK - 413
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43
ương ở thủ đô và đặc biệt hơn hết là tại mỗi vùng lãnh thổ hành chánh quan trọng như lộ, trấn, Hồ Quý Ly còn đặt ra một cơ quan an ninh mật vụ do Liêm phóng sứ điều hành để theo dõi và dò xét mọi hành vi hoạt động của quan, quân và dân chúng. * Về mặt kinh tế, tài chánh, một chính sách đổi mới quan trọng nhất của nhà Hồ là việc hạn chế quyên chiếm hữu ruộng đất và quyền sở hữu gia nô của đám người quyền quý và đám vương tộc. - Sửa đổi chính sách thuế má, đặt mức thuế đinh đánh trên người nghèo nhẹ hơn các chế độ trước. - Phát hành tiền giấy, thu hồi hết các loại tiền kim khí nhằm giảm bớt mức tiêu xài tiền bạc trong dân chúng. * Về mặt văn hóa xã hội, Hồ Quý Ly không chấp nhận lối học sáo rỗng, chỉ có lý thuyết suông, không thể áp dụng được trên thực tế để giúp ích cho đời. - Quý Ly soạn sách Minh Đạo trong đó phê phán rằng: những lời truyền dạy học trò trong sách Luận Ngữ cũng có những điểm đáng nghi ngờ và dị nghị; danh nho Hà Dũ đời nhà Đường bên Trung Hoa là một kẻ ăn trộm, một tên "đạo nho" ngoài miệng nói đạo nghĩa thánh hiền nhưng hành động như tên trộm cắp bởi vì Hàn Dũ trong khi kịch liệt bài bác đạo Phật nhưng lại giao du rất thân mật với một nhà sư chùa Phật có tên là Đại Diên, lời nói hành động trái ngược nhau cho nên Quý Ly cho là đạo nho (đạo có nghĩa là ăn cắp); đám người Hoa được gọi là "người hiền" như Chu Mậu Thúc, Trình Hiệu, Trình Di, Dương Quy Sơn, La Trọng Tố, Lý Diên Bình, Chu Tử thì Hồ Quý Ly xép vào hạng người có học nhưng chỉ là học được những điều viển vông, không sát với thực tế, chỉ là sao chép góp nhặt văn chương của người xưa. Đó là một cái nhìn đúng mức và sáng suốt của Hồ Quý Ly nhưng Ngô Sĩ Liên lại cho rằng Quý Ly là kẻ không biết tự lượng sức mình, dám đại ngôn khinh xuất bàn bạc và phê luận về Khổng Tử. Người ta không cần phải bàn bạc gì về lời nhận định của Ngô Sĩ Liên nhưng chỉ cần nhớ rằng bản thân Khổng Tử là một người đã chẳng được một nước nào trọng dụng để trao cho trọng trách cai trị bằng mớ lý thuyết mơ hồ, xa rời thực tế của ông ta. - Nhà Hồ rất quan tâm tới việc giáo dục: mở mang thêm trường học; các thầy dạy học đều được cấp ruộng; đặt cơ quan chăm lo về giáo dục ở các lộ, phủ, châu; định lại cách thức thi cử để đưa vào nề nếp. - Cơ quan Y tế chăm lo sức khoẻ và chữa bệnh cho người dân lần đầu tiên được thành lập dưới thời Hồ Quý Ly nắm giữ quyền lực. * Vấn đề tiêu chuẩn hóa các hệ thống đo lường cũng chỉ mới được xuất hiện trong thời Hồ Quý Ly và đây là một đóng góp đáng kể rất có giá trị cho trình độ tiến bộ văn minh của dân chúng nước Đại Ngu.
VSTK - 414
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
* Thời nhà Hồ có 2 công trình kiến trúc quy mô vĩ đại có tính cách chiến lược về mặt quốc phòng: đó là công trình xây dựng Tây Đô và công trình đào đắp chiến lũy Liên Cảng. Thủ đô Thăng Long còn gọi là Đông đô, trải qua nhiều thời đại là một mục tiêu gần rất dễ bị đánh chiếm đối với quân xâm lược đến từ Trung Hoa và cứ mỗi lần họ tràn qua thì vua quan và dân chúng kéo nhau mà chạy tứ tán hết nơi nầy đến chỗ khác, không có được một phòng tuyến vững chắc dành cho việc rút lui về phòng thủ và tổ chức công cuộc chống cự lâu dài với quân ngoại xăm. Ở mặt phía Nam, trải qua nhiêu đời, Chiêm Thành đã biết bao nhiêu lần xâm nhập từ mặt biển vào đánh phá các vùng Nghệ An, Thanh Hóa rồi tiến thẳng ra Thăng Long như vào chỗ không người. Quân ngoại xâm phương Bắc cũng dùng mặt biển để áp tải quân lính và lương thực tiếp tế và tăng cường cho đoàn quân của viễn chinh của họ từ hướng Bắc tiến sâu xuống về phía Nam. Kinh nghiệm cho thấy, quân ngoại xâm từ phương Bắc thường bị đánh bại mỗi khi họ tiến quân sâu xuống phía Nam mà không được tiếp tế lương thực và thuốc men để phòng chống bệnh hoạn chết chóc do phong thổ và thời tiết gây ra. Trong lúc quân xâm lược ở trong khí thế hung hăng, quân cụ, quân nhu đầy đủ thì thành Thăng Long rất khó chống giữ với họ từ lúc khởi chiến; họ chỉ dám tiếp tục đánh ép sâu về phía Nam nếu họ có được lực lượng hổ trợ tăng viện xăm nhập từ mặt biển đánh thốc ngược lên phía Bắc. Như vậy, Tây đô nhất định phải là một phòng tuyến lý tưởng để rút lui, một chiến khu để trường kỳ kháng chiến, chờ dịp phản công khi Xâm lược cạn nguồn tiếp tế, đói khát, mệt mỏi, bệnh tật vì sơn lam chướng khí. Còn ở mặt biển thì chận sự xăm nhập của quân ngoại nhập (từ Trung Hoa hoặc từ Chiêm Thành) bằng bờ lũy Liên Cảng chạy dài dọc theo bờ biển từ Quảng Nam ở phía Nam ra tới Quảng Bình ở phía Bắc. Bờ lũy Liên Cảng nhất định phải có một tầm mức quan trọng rất lớn về mặt phòng thủ và phát triển kinh tế liên vùng. Do đó, Lê Thánh Tông sau nầy trong khoảng những năm của niên hiệu Quang Thuận (1460-1469) đã khơi vét và sửa chữa lại công trình Liên Cảng của nhà Hồ chạy suốt từ Nghệ An ra đến Thanh Hóa (KDVSTGCM/ CB/ XXI/ 10,11). * Về mặt Quân Sự & Quốc Phòng, biết trước người nhà Minh thế nào cũng sẽ kiếm chuyện gây hấn xăm lược Đại Ngu, Hồ Quý Ly đã tập trung mọi nguồn nhân lực lo việc quân sự hầu đối phó . - Để có một đội quân hùng hậu một triệu người, Hồ Quý Ly kiểm tra nhân khẩu và lập sổ hộ tịch, buộc mọi công dân từ 2 tuổi trở lên phải đăng ký, kẻ nào trốn tránh thì bị án phạt. Nhờ đó, số người trong hạn tuổi bắt đi lính (từ 15 tuổi đến 60) tăng lên một cách đáng kể. - Hồ Quý Ly cũng sắp xếp lại hàng ngũ quân đội, cải thiện thủy quân và đội thuyền chiến, chế tạo và dự trữ các kho vũ khí; ở các cửa biển và
VSTK - 415
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
những nơi hiểm yếu trên các vùng sông lớn đều đóng cọc nhọn để phòng ngự. Có một điểm đáng lưu ý là số quân cấm vệ dùng để bảo vệ an ninh riêng cho gia đình nhà Hồ chỉ có 5 đội tức là chưa tới 100 binh sĩ (1 dội có 18 người) và cũng chịu dưới quyền điều động của tổng tư lệnh quân đội chứ không phải dành riêng cho vua độc quyền sai khiến trong nội vi cung đình như ở các triều đại trước. KĐVSTGCM cho biết rằng tháng 9 năm Ất Dậu (1405) Hồ Hán Thương đã tổ chức và chấn chỉnh lại hàng ngũ quân đội như sau: -Nam và Bắc chia làm 12 vệ, -Đông và Tây chia làm 8 vệ; mỗi vệ 18 đội, mỗi đội 18 người. -Đại quân 30 đội, trung quân 20 đội, doanh 15 đội, đoàn 10 đội. -Quân bảo vệ hoàng cung tại thủ đô nơi vua ở (thường gọi là cấm vệ đô) 5 đội (tức chỉ có 90 quân lính).(KĐVSTGCM/CB/ Q XII/ 8). Điều nầy càng cho thấy rằng Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương đã coi sự an nguy của nước Đại Ngu quan trọng hơn là sự an ninh cá nhân của dòng họ vương tộc nhà Hồ: tận dụng tối đa nhân lực cho quân đội để bảo vệ đất nước. Nhà Hồ đã thực hiện những sự thay đổi như vừa kể với một ý chí cả quyết, một tài năng hiếm có với một bản lĩnh đáng khâm phục. Nhưng tại sao nhà Hồ lại thất bại? Có dư luận cho rằng, những chính sách cải cách kinh tế xã hội của nhà Hồ chỉ dùng để tước đoạt thế lực của họ nhà Trần đồng thời làm lợi riêng cho họ nhà Hồ nhiều hơn là vì lợi ích nhân dân. Những chính sách nầy gồm có chính sách hạn điền, hạn nô và phát hành tiền giấy. Tháng 6 năm Đinh Sửu (1397), với chức vụ phụ chính thái sư, Lê Quý Ly đã thảo định chính sách hạn điền để thượng hoàng Trần Nghệ Tông và vua Trần Thuận Tông ban hành (KĐVSTGCM/CB/ Q.XI/ 30). Chính sách hạn điền nầy không phải chờ đến lúc nhà Hồ nắm giữ ngôi vua mới có: năm Tân Hợi (1371), lúc mà Lê Quý Ly chỉ là một quan hầu cận chưa nắm giữ một chức vụ quan trọng nào trong việc điều hành triều chính thì Trần Nghệ Tông đã ra lệnh "Trừ bỏ thói lệ sa châu tiệt cước (nghĩa là xắn lấy chân bãi bên sông có đất phù sa mới bồi) " (CB/Q.X/29,30) bởi vì ngày trước các dòng họ vương tộc thường tự động cắt lấy những bãi phù sa mới bồi ở ven sông để chiếm làm ruộng đất riêng của mình hoặc bắt dân làm nô lệ đắp đê ngăn nước mặn các vùng đất ven biển để khai khẩn làm ruộng hay làm trang trại riêng. Dù đã có lệnh bãi bỏ của Trần Nghệ Tông nhưng tệ trạng nầy vẫn kéo dài hơn 20 năm (1371-1397) cho đến khi Lê Quý Ly lên giữ chức vụ phụ chính thái sư (năm Ất Hợi/1395). Như vậy, chính sách hạn điền năm Đinh Sửu (1397) chỉ là một chính sách cũ của nhà Trần được lặp lại nhưng với chi tiết rõ ràng hơn để thi hành và đồng thời cũng để chấm dứt tình trạng chiếm đoạt của công bừa bãi và vô hạn định để dùng làm của riêng trong hàng tôn thất nhà Trần. Với chính sách mới nầy thì trong dòng họ tôn thất chỉ có
VSTK - 416
35
người nào được phong tước đại vương hoặc là công chúa trưởng mới được quyền có nhiều ruộng đất; dưới hai hạng người nầy, dù là thuộc dòng họ tôn thất thì cũng chỉ được chiếm hữu có 10 mẫu giống như các tầng lớp thường dân ngoài xã hội. Người nào có ruộng quá số quy định 10 mẫu thì phải trả lại số ruộng dư cho nhà nước hoặc dùng để chuộc tội nếu bị phạm pháp. Có thể nói rằng chính sách hạn điền năm 1397 là một chính sách được áp dụng một cách khá công bình và toàn diện bởi vì vào thời đó thử hỏi có bao nhiêu đại vương và công chúa trưởng trong vương tộc họ nhà Trần nếu không nói là đếm trên đầu ngón tay. Còn người dân thường ngoài xã hội thì lúc đó rất ít người có ruộng tư trên số 10 mẫu, đa số là dân nghèo trắng tay, làm thuê hoặc làm nô lệ cho bọn tôn thất để kiếm sống, không có được một mảnh đất cắm dùi huống hồ là có đến 10 mẫu ruộng. Ngay cả Lê Quý Ly và gia đình thân tộc lúc đó cũng không có ai là đại vương hoặc là công chúa trưởng để được hưởng quyền chiếm hữu ruộng đất một cách vô giới hạn như chính sách hạn điền mới quy định. Vã lại, lúc đó Lê Quý Ly đã nắm trọn quyền hành, muốn làm gì lại không được, cần gì phải vẽ vời bày trò lập phép nầy lệ nọ để thu tóm ruộng đất tài vật về cho mình hoặc để giúp cho dòng họ được phú quý giàu sang. Chính sách nầy có mục tiêu chính yếu là thu ngắn lại hố cách biệt giàu nghèo trong xã hội lúc đó đồng thời hạn chế lòng tham vô bờ của đám quý tộc từ các triều đại cũ ngày trước. Sau khi ban hành chính sách hạn điền (1397), năm Mậu Dần (1398), Lê Quý Ly tiến hành việc kiểm kê đo đạc ruộng cho dân, những ruộng bỏ hoang hoặc có chủ nhưng không được khai khẩn trồng trọt đều phải xung vào của công, người nào có ruộng phải khai báo số mẫu ruộng, trên mặt ruộng phải cắm bản đề tên của người chủ ruộng; các quan ở lộ, phủ, châu, huyện đều phải lập ra một hội đồng theo dõi, kiểm xét công tác đo đạc và ghi chép vào sổ sách. Đây là một công tác cải cách điền địa quy mô kéo dài 5 năm mới xong (1398-1402). Cuộc cải cách điền địa nầy đã đụng chạm đến quyền lợi bất chính của đám quan lại hủ lậu, chậm tiến của triều đình nhà Trần khiến cho tên hành khiển Hà Đức Lân phải sốt ruột lên tiếng chỉ trích: "Đặt ra phép nầy chỉ để đoạt cướp ruộng đất của dân chúng đấy thôi" (ĐVSKTT/BK/Q.III/32b; KĐVSTGCM/CB/Q.XI/6; ĐVSKTB/Nguyễn Tây
36
Sơn/BK/Q.IX/24b).
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34
37 38 39 40 41 42 43
* Cuối năm Canh Thìn (1400), vua Hồ Quý Ly truyền ngôi vua cho con trai thứ là Hồ Hán Thương. Mẹ của Hán Thương, Huy Ninh công chúa, nguyên là con gái của Trần Minh Tông. Như vậy trên thực tế, Hồ Hán Thương là cháu ngoại của Trần Minh Tông lên làm vua kế tục triều đại nhà Trần còn chính đáng hơn là những kẻ khác dòng máu cướp ngôi vua của nhiều người từ các triều đại trước kia chẳng hạn như Lê Đại Hành, Lý Công Uẩn, Trần Cảnh.
VSTK - 417
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37
Năm Tân Tỵ (1401), vua Hồ Hán Thương lập phép hạn chế việc bắt dân làm nô lệ riêng tư cho đám quý tộc, quan lại và những kẻ giàu có từ chế độ cũ. Chính sách hạn nô quy định hạng người nào được phép dùng nô lệ, tùy theo chức bậc mà dùng nhiều ít khác nhau. Số nô lệ dư thừa theo quy định phải giao trả cho nhà nước quản trị và cắt đặt phối trí vào những công tác có lợi ích chung cho cả nước chứ không phải như ý kiến sai lầm cho rằng người dân nô lệ bị chuyển chủ, từ đám quý tộc tư nhân sang làm nô lệ cho nhà nước, trước sau vẫn hoàn toàn không được giải phóng. - Chính sách tiền giấy bắt đầu thi hành dưới triều đại nhà Trần từ năm 1396: theo sự cố vấn của thiếu bảo Vương Nhữ Chu, thái sư Lê Quý Ly cho phát hành bảy loại tiền giấy gọi là "thông bảo hội sao" và ấn định hối xuất đổi tiền đồng ra tiền giấy. Trong lịch sử nước Việt Nam, đây là lần đầu tiên tiền giấy xuất hiện và là kế hoạch lần đầu áp dụng để phục hồi một nền tài chánh yếu kém èo uột của nhà nước do chế độ phong kiến thối nát nhà Trần tạo ra. Chính sách nầy còn có một mục đích khác nữa là thu hồi đồng về để dùng trong việc chế tạo vũ khí. Sử sách cũ khi viết về nhà Hồ không có chỗ nào cho thấy là dòng họ nhà Hồ chiếm công vi tư, ăn chơi xa xỉ, hoang dâm vô độ, tiêu phí của công vào những công trình vô bổ như các triều đại trước đã làm. Xây dựng Tây Đô, đắp thành An Bang, đắp lũy Liên Cảng, động viên dân đi lính và giảm tiêu xài phung phí, giản dân tới các vùng đất mới để tăng cường tiềm lực kinh tế, tất cả những chính sách đó đều được làm vì một mục tiêu khẩn thiết: đất nước trong tình trạng chuẩn bị chiến tranh, toàn quân, toàn dân đều phải chịu khó, hy sinh lợi ích cá nhân để cùng lo việc chống ngoại xăm phong kiến phương Bắc đang đe doạ nền độc lập của nước Đại Ngu. Nhà Hồ đã đi đúng chiều hướng đó; so sánh với nhà Trần thì nhà Hồ vượt trội hơn nhiều nhưng lại thất bại! Tại sao? Cái gì đã xảy ra? Nhà Hồ đã khiếm khuyết thành tố nào trong công cuộc chống giặc ngoại xâm và giữ nước? Nhà Trần thành công vì nhà Trần biết để yên cho dân ngủ. Nhà Hồ bắt dân phải tỉnh ngủ và đưa dân vào khuôn khổ cho nên không được lòng dân. Con trai cả của Hồ Quý Ly là Hồ Nguyên Trừng đã thấy được điều đó khi tuyên bố rằng: "Đánh với quân giặc không ngại, chỉ sợ lòng dân có theo hay không mà thôi." * Nhà Hồ không được lòng dân ở những điểm nào?
38 39 40 41
Có người cho rằng nhà Hồ không chiếm được lòng dân vì đã dùng bạo lực đoạt chính quyền và tiến hành chính sách đổi mới một cách quá khắt khe: trong cuộc tàn sát dòng họ nhà Trần và những kẻ đối lập, Hồ Quý Ly đã sát hại, thủ tiêu gần 400 mạng người, gián tiếp và trực tiếp
VSTK - 418
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
giết nhiều vua của triều cũ và vẫn tiếp tục thanh lọc, loại trừ những mầm móng chống đối trong những năm kế tiếp khiến cho mọi người vào thời đó cho nhà Hồ là gian xảo, sát nhân. Dân chúng bị các nhà nho hũ lậu, ngủ gục phổ cập và nhồi sọ mớ kinh tụng bá láp "trung quân, ái quốc" khiến cho nhà Hồ bị người đời coi như là những kẻ phản tặc giết vua, đáng chết, mặc dù các ông vua bị nhà Hồ hạ bệ là những ông vua tồi tệ đáng quăng vào chuồng cho hổ dữ ăn thịt. Thử hỏi, nếu họ Hồ không ra tay sớm và cứ để mặc tình cho chế độ thối nát của nhà Trần tiếp tục cai trị thì nước nhà lúc đó sẽ ra sao? Nhà Hồ không khởi xướng thì liệu đám triều thần hèn kém, lơ láo vào cuối đời nhà Trần có ai dám đứng ra gánh vác hay không? Tất cả đều trốn tránh trách nhiệm và lẩn trốn hết đến độ Hồ Hán Thương phải xuống chiếu mời gọi họ trở lại để chờ lệnh bổ dụng. Ngoại trừ Ngô Quyền và Đinh bộ Lĩnh, các triều Lê, Lý, Trần đều là những triều đại tiếm nghịch cả và chưa chắc hẳn là những triều đại đó được lòng dân: vào thời phong kiến, người dân ở dưới bất cứ triều vua nào cũng là những kẻ khốn cùng bất hạnh, những người nô lệ thấp cổ bé họng và mặc dù thế, nô lệ người trong nhà còn hơn là làm tôi tớ cho giặc ngoài cho nên người dân mới câm nín chịu đựng chứ không phải vì được hay mất lòng dân. Tiêu diệt đối lập, áp dụng chính sách bắt dân thắt lưng buộc bụng, làm lụng cật lực để phát triển quốc gia, những chính sách như thế thì ngay cả trong thời đại văn minh hiện đại vẫn còn hàng khối nước trên thế giới đang áp dụng. Không phải vì dùng bạo lực cướp ngôi nhà Trần, mà cũng không phải vì đã áp dụng chính sách cai trị đày đọa đã làm cho nhà Hồ mất lòng dân. Nhà Hồ bị mất lòng dân của nước Đại Việt bởi vì nhà Hồ đã chối bỏ tư cách công dân nước Đại Việt của mình và tự tuyên bố mình là người đến từ một nước cừu địch thường xuyên với nước Đại Việt: đổi họ thay tên, xóa quốc hiệu, biến Đại Việt thành Đại Ngu, chẳng khác gì tự nhận mình như là một tiểu quốc ở bên Trung Hoa, do một thái thú người Hoa họ Hồ cai trị, như thế thì làm sao lôi kéo được lòng dân Đại Việt. Đấy là một sự kiêu hãnh mù quáng về nguồn gốc và gia thế của mình. Nếu Hồ Quý Ly không thay họ, xóa bỏ quốc hiệu Đại Việt thì tình thế có lẽ đã đổi khác. Trên thực tế, thì những chính sách sau đây thường làm mất lòng dân mặc dù có lý do và mục tiêu chính đáng : - Lật đổ chính quyền hiện hữu bằng bạo lực hoặc do người nước ngoài cầm đầu khởi xướng; - Cải cách thuế khóa, bắt dân phải nộp thuế, đóng góp nhiều hơn; - Bắt dân chúng quen sống nhàn hạ sung túc ở các nơi thị tứ, tức là những thành phần giàu có, đưa đi vào các vùng xa xôi hẻo lánh để khai
VSTK - 419
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
phá và sản xuất. Về việc nầy sử gia Ngô Thời Sĩ có bàn luận như sau: "Lúc bấy giờ người Chiêm Thành dâng đất mà không có dân, cho nên Hán Thương mới làm kế di dân cho kín nơi biên giới. Không biết rằng chính sách di dân xưa đã có nhiều và thời đó có lẽ là chỉ chiêu mộ những kẻ vô lại tình nguyện di chuyển, cấp cho trâu bò để cày bừa, khí cụ để làm ruộng và gặt hái lúa thóc, cung cấp giống, lựa nơi đất tốt để cấp phát, khiến cùng nhau ở thành thôn xóm, khai khẩn ruộng hoang chứ chưa từng thấy cưỡng ép dân giàu có khiến họ phải xa quê hương chuyển dịch vợ con bắt phải đến đấy xum họp; huống hồ đất Thăng Hoa là vùng mới được đáng lẽ phải đặt đồn trại canh giữ, sao không dùng mưu kế đưa quân giả dạng thường dân đến trú đóng, phát lương hậu và cấp giấy chứng nhận, cho phép dìu dắt cả vợ con đi theo làm việc thì có ai lại không muốn đi, đâu cần phái thúc ép. Sinh sản sum họp 10 năm, đều trở thành người bản xứ, tuy là dân mà nằm trong số quân, thì có chỗ nào sơ hở phải đáng lo? Tiếc thay vua tôi Hán Thương không đủ kiến thức thấy được như thế mà lại nghỉ rằng cứ dùng mệnh lệnh và bạo lực trong nhất thời để thúc ép, thì về lâu rồi cũng sẽ yên." - Bắt dân thi hành bổn phận đi lính, đánh giặc. - Bắt dân phục dịch để xây dựng những công trình kiến trúc rộng lớn, quy mô. - Tiêu diệt, cầm tù đối lập. - Không dùng mà giam nhốt những người thuộc chế độ cũ. Dùng chính sách cai trị kiềm kẹp bằng lực lượng liêm phóng công an, mật vụ. - Áp dụng chính sách bè phái, gia đình trị. Tất cả những chính sách vừa kể là nội dung của một xu hướng tất nhiên và thường có của những người làm chính trị đang nắm giữ vận mạng quốc gia trong tình trạng khẩn cấp. Hồ Quý Ly là một người có tài thao lược. Việc nhà Hồ thay thế nhà Trần thối nát là một việc làm hợp thời thế. Chính sách cai trị của nhà Hồ là một chính sách đúng và cần thiết vào tình hình khẩn trương lúc đó. Tuy nhiên việc thay họ, đổi quốc hiệu là một tính toán sai lầm nghiêm trọng làm mất tất cả hậu thuẫn của nhân dân nước Đại Việt. Trong trận chiến, nhà Hồ không biết khích động quan quân như ngày trước Trần Quốc Tuấn đã làm. Tướng giỏi của nhà Hồ đếm trên đầu ngón tay, chỉ được mỗi một Hồ Nguyên Trừng cô đơn xong pha gánh gồng trên khắp các mặt trận chính yếu. Về cách dùng binh, nhà Hồ không có được sự kiên nhẫn chờ đợi như quan quân nhà Trần ngày trước nhất là không chịu ép mình rút lui chờ thời cơ. Khi rút lui khỏi Đông đô Thăng Long thì không phá hủy kho tàng, lương thực để cho quân xâm lược tịch thu dùng làm nguồn tiếp tế để tiến sâu xuống phía Nam: về chiến lược lâu dài thì nhà Hồ rất sáng tạo, hơn hẳn nhà Trần nhưng về chiến thuật đánh trận thì nhà Hồ
VSTK - 420
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
thua xa quan quân của nhà Trần. Nếu nhà Hồ có được vài người như Trần Quốc Tuấn và Trần Quang Khải thì tình thế có lẽ đã đổi khác. Nhà Trần đại thắng quân Nguyên Mông ở mặt trận Hàm Tử. Nhưng cũng tại mặt trận Hàm Tử, hơn 200 ngàn quân của nhà Hồ đã bị đại bại tan tát dưới sức tấn công của quân xâm lược hung bạo nhà Minh. Cuối cùng, nếu khách quan và công bình thì hậu thế phải dành cho nhà Hồ một vị trí xứng đáng trong lịch sử nhất là về việc gia đình nhà Hồ đã chiến đấu đến cùng để rồi bị quân xâm lược nhà Minh bắt giữ chứ không hèn yếu đầu hàng, chạy trốn hay tự thiêu khi đất nước đang ở trong tình thế nguy cấp tuyệt vọng.
VSTK - 421
QUYỂN II
THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN XÂM LƯỢC NHÀ MINH
NHÀ HẬU TRẦN CHƯƠNG I
GIẢN ĐỊNH ĐẾ TRẦN NGỖI ( 1407 - 1409 ) Niên hiệu: Hưng Khánh
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
Đinh Hợi, Khai Đại năm thứ 5 (1407), tháng 5 và tháng 6, tướng chỉ huy của quân Minh là Mộc Thạnh sau khi bắt giải gia tộc nhà Hồ đưa qua Kim Lăng liền sai Trương Phụ tiến chiếm Nghệ An, cướp bóc vơ vét rồi rút quân. Phạm Thế Căng một quan lại cũ của nhà Trần đầu hàng quân Minh nay được Trương Phụ giao cho chức tri phủ Tân Bình. Đại Tri Châu Đặng Tất vì thế cô phải chịu ép mình tạm thời đầu hàng và được cho cai quản Hóa Châu. Con của Trần Nguyên Đán là Trần Thúc Dao được quân nhà Minh giao cho giữ đất Diễn Châu. Cựu trào nhà Trần là Trần Nhật Chiêu cũng đầu hàng, được cho trấn giữ Nghệ An. Tháng 7, quân Minh truy lùng những người có tài năng của Đại Việt không chịu hợp tác và đang lẩn trốn, bắt đưa qua Kim Lăng ở Trung Hoa, về dụ ngọt, tuyên truyền nhồi sọ, trao phong quan chức rồi đưa trở về Đại Việt để làm tay sai ở các phủ, châu, huyện. Thừa dịp nầy, bọn người hám danh, vọng ngoại đã ra đầu thú rất đông để được làm quan và hợp tác với quân xâm lược Tháng 8, Trương Phụ và Mộc Thạnh rút quân Minh về nước chỉ để lại Lữ Nghị và Hoàng Phúc trấn giữ Đại Việt. Đinh Hợi, Khai Đại năm thứ 5 (1407), tháng 10, được Trần Triệu Cơ chiêu mộ dân chúng ở Thiên Trường đi theo, VSTK - 422
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
con trai thứ của Trần Nghệ Tông là Giản Định vương Ngỗi tự lập làm vua ở bến Yên Mô, xưng là Giản Định đế, đặt niên hiệu là Hưng Khánh. Đinh Hợi, Hưng Khánh năm thứ 1 (1407), giặc Minh đem quân tới đánh; dân quân mới chiêu tập chưa được huấn luyện của Giản Định đế đánh không lại, tự tan rã. Giản Định chạy về Nghệ An. Đặng Tất ở Hoá Châu nghe tin liền nổi dậy, giết quan sứ của nhà Minh trấn nhậm ở đó rồi đem quân đi theo Giản Định, đánh chiếm Nghệ An và Hoá Châu, bắt được Trần Thúc Dao và Trần Nhật Chiêu cùng đám thuộc hạ hơn 500 người giết đi. Đặng Tất dâng con gái cho Giản Định và được Giản Định phong làm quốc công. Tháng 12, Giản Định sai các tướng Trần Nguyên Tôn, Trần Dương Đình, Trần Ngạn Chiêu và Phạm Chấn đưa quân tiến về Bình Than nhưng bị quân Minh đón đánh nên phải rút lui về Nghệ An. Mậu Tý, Hưng Khánh năm thứ 2 (1408), tướng nhà Minh là Trương Phụ lại được phái trở sang Đại Việt để phụ trách việc bình định đánh dẹp quân nhà Trần. Tháng 4, Trương Phụ đánh vào Diễn Châu, quân nhà Trần chống cự không nổi phải rút chạy về Nghệ An. Quân Minh trí trá dùng chính sách khoan hồng để thu phục lòng dân chúng Đại Việt. Tháng 6, Đặng Tất nhà Trần đánh Phạm Thế Căng1 ở cửa biển Nhật Lệ, bắt được Thế Căng đưa về giao nạp cho Giản Định xử chém. Tháng 10, Giản Định sai Đặng Tất điều động quân ở các lộ Thuận Hóa, Tân Bình, Nghệ An, Diễn Châu và Thanh Hóa tiến đánh thành Đông Đô. Các quan thuộc cũ của nhà Trần và nhân dân Đại Việt các nơi hưởng ứng đi theo rất đông, thế quân trở thành mạnh. Vua nhà Minh phải sai tướng Mộc Thạnh đem 40 ngàn quân từ Vân Nam trở sang tăng viện, hợp với quân của Lữ Nghị ở bến Bô Cô2 để chận đánh quân nhà Trần.
VSTK - 423
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
Quân nhà Trần lại dùng chiến thuật đóng cọc ở lòng sông, dụ địch rồi tung quân phục kích từ các bờ lũy ven sông ùa ra đánh. Quân Minh thua rút chạy, tướng Lữ Nghị và Lưu Tuấn bị chết tại trận. Mộc Thạnh thoát chạy về thành Cổ Lộng. Giản Định nhân khí thế của quân binh đang lên muốn tiến nhanh, đánh mạnh để chiếm thành Đông Quan3 nhưng Đặng Tất trù trừ muốn dồn toàn lực để tiêu diệt hết tàn quân của Mộc Thạnh ở Cổ Lộng4. Quan quân nhà Trần còn chưa quyết định dứt khoát thì quân Minh trấn đóng ở Đông Quan đã đến cứu viện, đón Mộc Thạnh vào thành. Quân Nhà Trần mất dịp tốt đoạt thành Đông Quan, bây giờ chỉ còn có thể chia quân vây hãm các châu, phủ, lộ quanh Đông Quan. Kể từ lúc đó rồi từ đó bắt đầu có hiềm khích mâu thuẫn giữa Giản Định đế và Đặng Tất. Kỷ Sửu, Hưng Khánh năm thứ 3 (1409), tháng 2, Giản Định nghe lời gièm pha của tên hoạn quan Nguyễn Quỹ giết Đặng Tất và tham mưu quân sự Nguyễn Cảnh Chân. Con của Đặng Tất là Đặng Dung cùng với con của Nguyễn Cảnh Chân là Nguyễn Cảnh Dị tức giận bèn đem quân Thuận Hóa về Thanh Hóa, rước con của Trang Định vương Ngạc là Trần Quý Khoách đưa vào Nghệ An lập làm vua. CHƯƠNG II
TRÙNG QUANG ĐẾ TRẦN QUÝ KHOÁCH ( 1409 - 1413 ) Niên hiệu: Trùng Quang
24
25
26
Quý Khoách lên ngôi ở Chi La6, đổi niên hiệu là Trùng Quang , dùng Nguyễn Súy làm Thái phó, Nguyễn Cảnh Dị làm Thái Bảo và Đặng Dung làm Đồng bình chương sự.
VSTK - 424
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
Trong khi Giản Định ở Ngự Thiên7 dang chống cự với quân Minh, Nguyễn Súy đem quân đánh úp và bắt được Giản Định đem về Tam Chế7bis ở Nghệ An. Trần Quý Khoách đón rước theo vai bậc chú cháu và tôn Giản Định làm thái thượng hoàng để cùng nhau hợp lực đánh đuổi quân xâm lược nhà Minh, khôi phục nhà Trần. Kỷ Sửu Trùng Quang năm thứ 1 (1409), tháng 7, quân nhà Hậu Trần tiến chiếm các châu huyện, hào kiệt các lộ hưởng ứng đi theo; thượng hoàng Giản Định cầm quân chiếm đóng Hạ Hồng8; Quý Khoách chỉ huy quân binh tiến chiếm Bình Than; quân Minh cố thủ Đông Quan chờ viện binh. Vua nhà Minh hay tin tướng Mộc Thạnh đại bại ở Bô Cô liền sai tướng Trương Phụ và phó tướng Vương Hữu đem quân sang tiếp cứu. Thế lực trở nên mạnh, quân Minh liền tiến đánh mặt Hạ Hồng. Giản Định không thể chống cự phải theo đường thủy chạy về trấn Thiên Quan9; Trương Phụ truy đuổi đến Mỹ Lương10 bắt được Giản Định giải về Kim Lăng. Tháng 8, Quý Khoách giao cho Đặng Dung đưa quân ra trấn giữ bến Hàm Tử nhưng vì thiếu lương thực cho nên không thể cầm cự lâu ; Hàm Tử bị quân Minh chiếm; quan quân nhà Hậu Trần bỏ Bình Than, rút chạy về Nghệ An cố thủ và chấn chỉnh lực lượng. Các kinh, lộ, phủ, huyện từ Thanh Hóa trở ra phía Bắc khắp nơi lần lược bị quân Minh tiến chiếm, đốt phá, cướp bóc, tàn sát, chém giết dã man, tàn bạo vô số dân lành; những người dân còn sống sót thị bị bắt làm nô lệ và đem đi bán tan tác khắp nơi11. Bọn người hèn nhát hám danh ra đón quân Minh để đầu hàng: đa số đều được quân Minh trao cho quan chức. Canh Dần, Trùng Quang năm thứ 2 (1410), quân Minh khai thác các đồn điền ở những vùng ven Đông Quan, bắt dân gặt hái rồi tịch thu hết lúa thóc ở các phủ Tuyên Hóa, Thái Nguyên và Tam Giang để làm kho lương thực dự phòng cho binh đội xăm lược của họ. Quân Hậu Trần chưa được củng cố hàng ngũ và tổ chức đúng mức thì lại nhận được lệnh tiến đánh Hồng Châu, bị thất bại, phải rút chạy về Nghệ An. VSTK - 425
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
Quý Khoách sai sứ sang cầu hòa nhưng quân Minh bắt giam sứ giả và giết đi. Tân Mão, Trùng Quang năm thứ 3 (1411), Trương Phụ được lệnh vua nhà Minh áp dụng chiến dịch vỗ về, ve vuốt để lấy lòng dân ở các vùng quân Minh đang chiếm đóng. Tháng 9, Quý Khoách lại sai sứ sang nhà Minh cầu hoà và xin phong tước. Nhà Minh nhân cơ hội dọ hỏi các sứ giả tình hình nội bộ của quan quân nhà Hậu Trần rồi giả trá phong tước cho Quý Khoách chức Giao Chỉ Bố Chính Sứ. Quý Khoách biết được manh tâm của người Minh nên chuẩn bị quân lực để tiếp tục chiến đấu. Nhâm Thìn, Trùng Quang năm thứ 4 (1412), tháng 6, Trương Phụ và Mộc Thạnh dẫn quân tiến đánh Nghệ An. Đặng Dung, Nguyễn Súy đem quân ra bến Yên Mô11bis chận đánh nhưng không chận được sức tấn công của quân Minh; quân của Hậu Trần bị thua bỏ chạy tứ tán khắp nơi. Tháng 7, quân sĩ và lương thực lại được chuyển từ Quảng Đông sang tăng viện cho quân Minh để tiến công đánh Nghệ An: Thanh Hóa, Diễn Châu đều bị quân Minh vây hãm. Quý Tỵ, Trùng Quang năm thứ 5 (1413), tháng 4, Trương Phụ đưa quân tiến đánh Nghệ An, quân của Quý Khoách đã bị hao tổn quá nhiều lại không có lương thực tiếp tế, phải bỏ Nghệ An rút chạy đến Hóa Châu và sai Nguyễn Biểu12 vào Nghệ An điều đình cầu hoà. Trương Phụ bắt giữ Nguyễn Biểu và giết đi. Tháng 9, quân Minh bị Nguyễn Súy chận đánh ở cảng Sái Già13, Đặng Dung đánh úp doanh trại, suýt bắt sống được Trương Phụ nhưng vì binh ít thế yếu cho nên bị quân Minh phản công, quân của Đặng Dung tan vỡ, rút chạy. Quan quân nhà Hậu Trần phải lẩn trốn ẩn núp trong rừng, tàn quân tan rã. Tháng 12, quân Minh truy đuổi và bắt được Quý Khoách, Đặng Dung, Nguyễn Súy và Nguyễn Cảnh Dị. Cảnh Dị lúc vừa bị bắt đã mắng chửi Trương Phụ thậm tệ cho nên bị phanh thây. Dân tộc Đại Việt lại rơi vào ách cai trị của đoàn quân xăm lược đến từ phương Bắc. VSTK - 426
CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43
Phạm Thế Căng: trước đây, quân của Trương Phụ kéo đến cửa biển Bố Chính, Phạm Thế Căng đón đường xin đầu hàng, được trao giữ chức tri phủ ở Tân Bình; sau đó thừa lúc tình trạng hỗn độn xôi đậu, tụ họp bè đảng chiếm cứ luôn đất Tân Bình rồi tự xưng là Duệ Vũ đại vương. Đặng Tất đem quân đến đánh, bắt được Thế Căng ở cửa biển Nhật Lệ giải giao cho Giản Định đế trị tội. 2 Bô Cô: tên một bến đò ở địa phận huyện Phong Doanh, tỉnh Nam Định ngày trước, nay là xã Hiếu Cổ, tỉnh Nam Hà. 3 Thành Đông Quan: tức Đông đô (Thăng Long); quân Minh đem Đông đô làm phủ lỵ Giao Châu, gọi Đông đô là thành Đông Quan. 4 Cổ Lộng: thành do quân nhà Minh xây đắp, ở xã Bình Cách, Huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định cũ, nền cũ vẫn còn, tục gọi là thành Cách. 5 Trần Quý Khoách: ĐVSKTT và KĐVSTGCM đều viết là Trần Quý Khoáng, con thứ của Mẫn vương Trần Ngạc, cháu nội của Trần Nghệ Tông, cháu gọi Giản Định đế Trần Ngỗi bằng chú. 6 Chi La: tên huyện, sau là La Sơn nay thuộc huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. 7 Ngự Thiên: tức huyện Ngự Thiên trước là làng Đa Cương; vì có mộ tổ của dòng họ nhà Trần ở đó cho nên mới đổi gọi là Ngự Thiên; nhà Lê vẫn giữ tên ấy, đời nhà Nguyễn Gia Long đổi là Hưng Nhân thuộc tỉnh Hưng Yên; ngày nay thuộc huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình. 7bis Sông Tam Chế: đoạn sông Lam ở gần chân núi Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tỉnh. 8 Hạ Hồng: xưa thuộc Hồng Châu. Hồng Châu đời Lê là 2 phủ Thượng Hồng và Hạ Hồng, nay là hai phủ Bình Giang, Ninh Giang, đều thuộc tỉnh Hải Dương. 9 Trấn Thiên Quan: tức là phủ Trường Yên, Hồ Quý Ly đổi thành trấn Thiên Quan.(KĐVSTGCM/CB/Q.XI/ 27). 10 Mỹ Lương: tên huyện, thuộc Sơn Tây giáp giới với Nho Quan, nay là một phần huyện Chương Mỹ (Hà Tây) và huyện Lương Sơn (Hòa Bình) 11 Quân Minh tàn sát dã man: quân Minh đi tới đâu giết hại rất nhiều, có nơi thây chất thành núi, có chỗ moi ruột quấn vào cây hoặc rán thịt người lấy mỡ, dùng cột đồng bôi mỡ cho trơn, dưới cột đồng đốt lữa cháy hừng hực rồi bắt người phải ôm cột đồng trơn trợt mà trèo lên phía ngọn cột, nếu bị rơi vào đống lửa ở phía dưới chết thiêu thì quân Minh khoái chí reo hò. (Trò chơi rừng rú nầy gọi là nhục hình bào lạc do vua Trụ từ đời nhà Thương bên Trung Hoa sáng chế ra để làm trò vui cho người vợ của Trụ tên là Đắc Kỹ). Quân Minh còn bắt đàn bà đang có thai mổ bụng lấy thai để cắt lấy tai của mẹ, tai của con mang về lãnh thưởng bởi vì số tai mang về càng nhiều thì càng chứng tỏ là giết được nhiều quân địch. (ĐVSKTT/BK/Q.IX/14b), (KĐVSTGCM/CB/ Q.XII/ 31). 11bis Yên Mô: nay ở xã Yên Mô, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. 1
VSTK - 427
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13
Nguyễn Biểu: người ở Bình Hồ, La Sơn, Nghệ An. Bị tướng nhà Minh Trương Phụ bắt giữ lại, Nguyễn Biểu giận mắng rằng:" Trong bụng bọn bây thì âm mưu đánh chiếm nước người, ngoài mặt bọn bây thì lại giả bộ rêu rao nhân nghĩa, trước thì nói lập lại ngôi vua cho nhà Trần nay lại tráo trở đặt quận huyện, cướp bóc của cải, giết hại tàn sát thường dân vô tội, chúng bây đúng là loài giặc dữ bạo ngược". Trương Phụ nổi giận, sai giết Nguyễn Biểu đi. 13 Sái Già: hay sông Thái Già; không truy cứu được là ở đâu. KĐVSTGCM dẫn theo sách Minh sử và Minh sử ký sự của người Hoa Cốc Ưng Thái chép về việc nầy đều nói đánh nhau ở sông Ái Tử, như thế Thái Già có thể là chỗ nầy. Theo Việt Sử Cương Mục Tiết Yếu của Đặng Xuân Bảng chú giải thì Ái Tử nay là huyện Đăng Xương, Quảng Trị. 12
KHẢO LUẬN: 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38
39
Hậu Trần Giản Định đế Ngỗi và Hậu Trần Trùng Quang đế Quý Khoách là con cháu dòng họ nhà Trần. Vì thế, mục tiêu của các cuộc nổi dậy của họ trước hết là khôi phục ngôi vua của nhà Trần đồng thời phải chống chọi sự xâm lăng của quân binh nhà Minh. Cuộc nổi dậy đã tập hợp được đám tôn thất và quan lại cũ của nhà Trần cũng như người dân trong một số vùng trước đây đã bỏ lơ không ủng hộ nhà Hồ trong giai đoạn người Minh mới khởi sự xâm lăng nước Đại Ngu. Ở đây người ta mới nhận thấy được ảnh hưởng của quan niệm trung quân ái quốc hủ lậu đã thâm nhiễm vào đầu óc của người dân lúc đó đã đưa tới một hậu quả tai hại như thế nào: dưới con mắt của người dân Đại Việt, nhà Hồ là kẻ phản quốc vì họ Hồ cướp ngôi nhà Trần và nhà Trần dù mất ngôi vua nhưng dân chúng vẫn tiếp tục ủng hộ và coi nhà Trần như là người chủ chính danh và hợp pháp của nước Đại Việt. Nếu ngày đó, nhà Hồ có được sự ủng hộ của đám quý tộc cũng như dân chúng chịu mở mắt thấy được sự thối nát và bất lực của chế độ cũ thì tình thế có lẽ đã khác đi. Những cuộc nổi dậy nầy có lúc đã giải phóng được khu vực từ Thanh Hóa trở vào Nam và từ đó mở nhiều cuộc đánh phá ra Bắc, gây nhiều tổn thất cho quân Minh. Đặc biệt, ngày 14 tháng 12 năm Mậu Tý (1408), quân dân của Giản Định đế Ngỗi do quốc công Đặng Tất chỉ huy đã chiến thắng một trận lớn ở bến Bô Cô (nay thuộc tỉnh Nam Hà), chém được một số tướng giỏi của quân Minh, chỉ có tướng xăm lược Mộc Thạch thoát chết chạy về thành Cổ Lộng. Nhưng rồi mâu thuẫn, bất hoà, nghi kỵ trong hàng ngũ lãnh đạo của vua quan nhà Hậu Trần, đưa đến tình trạng tiêu diệt lẫn nhau, tạo ra sự chia rẽ, không còn uy tín để đoàn kết toàn dân cho nên cuối cùng đi tới thảm bại và bị tiêu diệt.
VSTK - 428
CHƯƠNG III
NHỮNG PHONG TRÀO NỔI DẬY CHỐNG QUÂN XÂM LƯỢC MINH TRONG KHOẢNG NHỮNG NĂM ( 1414 - 1420 ) 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
Giáp Ngọ, tháng Giêng (1414), quân Minh làm sổ hộ tịch ở Tân Bình và Thuận Hóa, chia đặt quan cai trị cùng làm việc với các thổ hào địa phương. Tháng 4, tướng Trương Phụ bắt được Trùng Quang đế Quý Khoách cùng với Nguyễn Súy,Đặng Dung từ Lão Qua mang về Đông Quan để giải giao qua Yên Kinh. Trùng Quang đế giữa đường nhảy xuống nước chết; Đặng Dung nhảy xuống nước chết theo. Nguyễn Súy sau khi lừa đập chết tên cai tù xong cũng nhảy xuống nước tự tận. Tháng 8, Trương Phụ trở về Trung Hoa, bắt mang theo rất nhiều đàn bà và phụ nữ. Quân Minh bắt các phủ, châu, huyện lập Văn Miếu1 và đàn thờ Bách thần2 như đàn xã tắc, sông núi, gió mây và phải cúng tế thời tiết theo kiểu mẫu của người Trung Hoa. Tháng 10, quân Minh đặt nhà học ở các phủ, châu, huyện để tuyên truyền, phổ biến văn hóa người Trung Hoa nhằm xóa đi nền văn hóa cổ truyền của dân Đại Việt. Lại cấm con trai, con gái Đại Việt không được cắt tóc. Phụ nữ phải mặc áo ngắn, quần dài, hoàn toàn theo thói ăn mặc của Trung Hoa. Bắt dân khai khẩn ruộng và lấy thuế gấp ba lần3 ngày trước, mỗi mẫu đất bãi thu 2 lạng tơ, mỗi cân tơ thu vào thì dệt được một tấm lụa. Bắt dân phu mở công trường đào xới đãi đất tìm mỏ vàng, mỏ bạc, vào rừng bắt voi trắng, xuống biển lặn mò ngọc trai, thuế má rất nặng, dân Đại Việt không còn gì để sống. Lại đặt quy chế về việc lấy nước biển làm ruộng muối, ấn định việc tồn trữ, xử dụng muối, cấm dân không được tự tiện sản xuất và bán muối; người nào nấu lậu hoặc bán lậu muối
VSTK - 429
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
đều phải tội như nhau. Các trạm thu thuế đặt khắp nơi để thu góp, bóc lột, vơ vét. Tháng 10, vua nhà Minh lại cử Trương Phụ sang trấn giữ. Trương Phụ liền đặt các trạm kiểm soát giao thông thủy bộ: đường thủy nối liền Khâm Châu ở Quảng Đông qua châu Vạn Ninh, Đông Triều, Chí Linh để đi đến thành Đông Quan; Từ Sơn4 , Gia Lâm5 đều đặt trạm kiểm soát trên đường bộ vận chuyển bằng lừa, ngựa. Bính Thân, tháng 2 (1416), Trương Phụ quy định: cứ 2 hoặc 3 suất đinh thì bắt 1 suất lính tức là một phần ba dân đinh trai tráng của Đại Việt phải đi quân dịch cho đội quân chiếm đóng của nhà Minh. Đinh Dậu, tháng 2 (1417), vua nhà Minh nghe theo lời tấu trình của Mã Kỳ, gọi Trương Phụ về nước vì sợ Trương Phụ làm phản rồi cử Phong Thành hầu Lý Bân sang thay, giao cho Mã Kỳ giữ chức giám quân. Kể từ lúc nầy quan quân nhà Minh mặc tình tham lam, bòn rút, Mã Kỳ càng tệ hại làm nhiều điều trái phép, vơ vét trân châu vàng ngọc, dân Đại Việt bị trị chịu muôn ngàn khổ đau, lòng người xáo động, quân, dân nổi loạn khắp nơi, quân Minh không còn cách nào để khống chế, dập tắt được nữa. Mậu Tuất, tháng Giêng (1418), Lê Lợi, người Thanh Hóa dấy quân ở hương Lam Sơn, xưng là Bình Định Vương. Tướng Mã Kỳ đưa quân Minh đến bức bách, Lê Lợi lui binh đóng ở Lạc Thủy5bis và mai phục. Quân Mã Kỳ tràn tới, quân mai phục do các tướng của Lê Lợi là Lê Thạch, Lê Ngân và Lê Lý đổ ra chận đánh, Mã Kỳ thua chạy. Một vài ngày sau, có kẻ nội phản tên Ái dẫn đường cho quân Minh đánh úp từ phía sau, quân của Lê Lợi bị tan vỡ phải bí mật rút về ẩn náu ở núi Chí Linh6. Tháng 7, quân Minh dựng công trường mò ngọc trai ở hải phận Tỉnh Yên6bis và Vân Đồn, ngày ngày bắt hàng ngàn dân địa phương lặn hụp dưới biển sâu để mò ngọc dâng nạp. Lại hạch sách, vơ vét cho đầy túi tham không đáy; bắt dân thu hoạch giao nộp tiêu hột, hương liệu, săn bắt hưu trắng, ngựa trắng, voi trắng, vượn mặt trắng, chim muôn, thú rừng để chuyển đưa về Yên Kinh bên Trung Hoa . Dân chúng Đại VSTK - 430
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
Việt điêu linh, náo động. Kỷ Hợi, tháng 2 (1419), quân Minh ra lệnh phổ biến các loại kinh sách như Tứ Thư, Ngũ Kinh, Tính Lý Đại Toàn do người Hoa viết để bắt dân Đại Việt phải nghiền ngẫm học tập. Tịch thu các sử sách và thư tịch của Đại Việt từ thời nhà Trần trở về trước đưa về Kim Lăng7. Tháng 4, Lê Lợi đánh chiếm đồn Nga Lạc8, bắt giết được chỉ huy của quân Minh là Nguyễn Sao rồi lại rút về Chí Linh. Quân Minh lại kéo tới vây hãm Chí Linh. Đô tổng quản Lê Lai phải liều mình, giả dạng Lê Lợi xong ra đón chận, đánh lạc hướng quân Minh để Lê Lợi thoát hiểm. Chiến đấu kiệt sức, Lê Lai bị bắt và giết chết. Quân Minh rút quân về Tây Đô, Lê Lợi lại trở về Chí Linh. Tháng 7, người Minh tri phủ Nghệ An là Phan Liêu bị Mã Kỳ bức hiếp đòi hỏi phải gia tăng việc thu nộp trân châu ngọc quý cho nên làm phản; Phan Liêu đem quân vây thành Nghĩa Liệt9 của quân Minh ở Nghệ An. Tướng Lý Bân đem quân tới dẹp. Phan Liêu chống cự không lại, bỏ chạy trốn sang Ai Lao. Tháng 11, Trịnh Công Chứng và Lê Hành ở Hạ Hồng, Phạm Thiện ở Tân Minh10, Nguyễn Đặc ở Khoái Châu, Nguyễn Đa Cấu và Trần Nhuế ở Hoàng Giang đồng loạt dấy binh, ngược dòng sông Lô11, đánh phá cầu phao11bis, vây hãm Đông Đô nhưng bị tướng Lý Bân dẹp tan. Phong trào chống Minh nổi lên như ong, châu huyện rối bời, chỉ còn có Tam Giang, Tuyên Quang, Hưng Hóa được tạm yên hơn các nơi khác mà thôi. Canh Tý, tháng 6 (1420), thổ hào ở Đồ Sơn, Phụng Hóa12 là Trần Thái Xung, Phạm Ngọc cũng khởi binh nổi dậy nhưng bị Lý Bân dẹp tan. Lê Ngã tự nhận là cháu 5 đời của Trần Duệ Tông từ Lão Qua về, được Bế Thuấn, tù trưởng đạo Đan Ba13 gả con gái cho rồi lập lên ngôi thủ lãnh, chiêu mộ được hàng vạn người theo ủng hộ, tự xưng là Thiên thượng hoàng đế, lấy niên hiệu là Vĩnh Thiên, đặt quan chức, đúc tiền, đốt phá thành Xương Giang14, chiếm cứ trại Bình Than; tàn quân của Trịnh VSTK - 431
1
2
3
4
5
Công Chứng, Phạm Ngọc đều về theo, thanh thế rất mạnh. Tướng nhà Minh Lý Bân đem quân thủy bộ đến đánh, Lê Ngã và Bế Thuấn bị đánh bại phải bỏ trốn. Nguyễn Thuật, người Kiến Xương khởi binh đánh Hoàng Giang bắt được người của quân Minh là Hầu Bảo giết đi. CHÚ GIẢI:
38
Văn Miếu: đây là văn miếu của quân Minh lập ở các phủ, huyện để bắt người dân Đại Việt phải tôn thờ các loại quỉ thần mơ hồ hiện đang được thờ lạy, cúng bái ở Trung Hoa. 2 Đàn thờ Bách thần: tức là đàn thờ nhiều loại thần của người Hoa tưởng tượng ra. 3 Lấy thuế ruộng gắp 3 lần ngày trước: quân Minh khai thác ruộng để thu góp lương thực, mỗi hộ một mẫu thì tính thành 3 mẫu để đánh thuế; mỗi mẫu thu 5 thăng (thăng là một đơn vị cân đong ngày xưa, thường là một loại thúng lớn bằng tre nứa). Ép buộc dân chúng phải tăng gia sản xuất lúa gạo bằng cách tính tăng lên số ruộng đã có của mỗi hộ gia đình là 10 mẫu (3 sào thì tính là 1 mẫu, do đó, 10 mẫu thực ra chỉ là 3 mẫu). 4 Từ Sơn: là đất của châu Cổ Pháp xưa; quân Minh gọi là huyện Từ Sơn; triều Lê (Bình Định Vương) nâng lên thành phủ, triều Nguyễn Gia Long cũng gọi là phủ Từ Sơn, thuộc tỉnh Bắc Ninh. 5 Gia Lâm: huyện Gia Lâm thuộc phủ Thuận Thành, Kinh Bắc (LTHCLC/Phan Huy Chú). 5bis Lạc Thủy: tức Cử Long, tên của một dân tộc Mán. Nhà Đinh, nhà Tiền Lê (Lê Đại Hành) gọi là Mán Cử Long, nhà Lý khống chế và sát hại bộ tộc nầy. Năm Thuận Thiên (1428-1433), nhà Lê đặt là huyện Lạc Thủy; năm Quang Thuận (1460-1469) đổi là Cẩm Thủy; triều Nguyễn (Gia Long) vẫn gọi là Cẩm Thủy, thuộc phủ Quảng Hòa, tỉnh Thanh Hóa. 6 Núi Chí Linh: ở địa phận Mường Giao Lão, đất phủ Trấn Định, Nghệ An. 6bis Tỉnh Yên: xưa là châu Vĩnh An; triều Nguyễn (Gia Long) gọi là Quảng Yên, cũng gọi là Quảng Yên. Quảng Yên, Vân Đồn nay đều thuộc tỉnh Quảng Ninh. 7 Tịch thu sử sách của Đại Việt mang về Kim Lăng: (Kim Lăng là địa phận thành phố Nam Kinh và huyện Giang Kinh ở Trung Hoa). Theo LTHCLC/Văn tịch chí của Phan Huy Chú thì từ đời nhà Trần trở về trước có những loại thư tịch sau đây đã bị người Minh tịch thu mang về Trung Hoa:
39
Tên sách
40
Hình thư
6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37
1
VSTK - 432
Số quyển
3
Thời gian xuất bản
Lý Thái Tông
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19
Quốc triều thông lễ Hình Luật Kiến trung thường lễ Khóa hư tập Ngự thi Di hậu lục Cơ cừu lục Thi tập Trần triều đại điển Trùng hưng thực lục Thi tập Thi tập Thủy vân tùy bút Bảo hoà điện dư bút Thi tập Binh gia yếu lược Vạn kiếp bí truyền Tứ thư thuyết ước Tiều ẩn thi
10 1 10 1 1 2 1 1 2 2 1 1 2 8 1 1 bộ 1 bộ 1 bộ 1 tập
Chu Văn Văn An khi về ẩn dật ở núi Chí Linh
20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35
36 37 38 39 40 41 42 43 44
Trần Thái Tông Trần Thái Tông Trần Thái Tông Trần Thái Tông Trần Thái Tông Trần Thánh Tông Trần Thánh Tông Trần Thánh Tông Trần Dụ Tông Trần Nhân Tông Trần Nhân Tông Trần Minh Tông Trần Anh Tông Trần Nghệ Tông Trần Nghệ Tông Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn Chu Văn Trinh (An) Linh Sơn tiều ẩn tức
Sầm lâu tập Lạc đạo tập Băng hồ Ngọc phức tập Giới hiên thi tập Hiệp thạch tập Cúc Đường di thảo Thảo nhàn hiệu tập Việt Nam thế chí Việt Sử cương mục Đại Việt sử ký Nhị Khê thi tập Phi sa tập Việt Điện u linh
1 quyển 1 1 1 1 2 1 1 bộ 1 bộ 30 quyển (?) 1 1 1
Trần Quốc Tuy Trần Quang Khải Trần Nguyên Đán Nguyễn Trung Ngạn
Phạm Sư Mạnh Trần Nguyên Đào Hồ Tông Thốc Hồ Tông Thốc Hồ Tông Thốc Lê Văn Hưu Nguyễn Phi Khanh Hàn Thuyên Lý Tế Xuyên
Những sách kê trên đây quân Minh đã tịch thu, vơ vét đưa hết về bên Trung Hoa nay không còn vết tích gì để kê cứu về nội dung của các sách ấy. 8 Đồn Nga Lạc: ở gần Lam Sơn, vào khoảng vùng Bái Thượng, Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. 9 Thành Nghĩa Liệt: còn gọi là Lam thành do quân Minh xây đắp ở xã Nghĩa Liệt, huyện Hưng Nguyên. 10 Tân Minh: tức huyện Tiên Minh, nay là đất huyện Tiên Lãng, Hải Phòng. VSTK - 433
Sông Lô: tức sông Nhị Hà Cầu phao: Theo sách Đại Thanh Nhất Thống Chí trong khoảng những năm 1403-1424, giặc phương Bắc là Trương Phụ làm cầu phao ở bến Đông Tân, sông Nhị. 12 Phụng Hóa: tức huyện Phụng Hóa, phủ Thiên Quan, còn gọi là Nho Quan, nằm về phía Tây Bắc trấn Thanh Hoa. Một nửa đất nầy thuộc về người Man, người Lạo chưa được khai hóa nhiều cho nên phong tục và con người khác rất nhiều với người miền xuôi. {LTHCLC/Địa dư chí/ Phan Huy Chú}. 13 Đan Ba: tức huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn. 14 Xương Giang: thành Xương Giang do quân Minh đắp, ở xã Thọ Xương, huyện Bảo Lộc, phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Ninh. Nay thuộc thị Xã Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.
1
11
2
11bis
3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13
KHẢO LUẬN : Chính sách cai trị đồng hóa bóc lột của quân xâm lược nhà Minh và những hậu quả của nó. 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39
Sau khi đánh bại nhà Hồ, quân Minh thực hành ngay thủ đoạn thủ tiêu nền độc lập và cơ cấu chính quyền của nước Đại Ngu để tái lập lại chế độ quận huyện của những thờì kỳ Bắc thuộc ngày trước. Tháng 6 năm Đinh Hợi (1407), quân Minh đổi nước Đại Ngu thành quận Giao Chỉ, lập phủ, huyện, đặt quan lại do người của họ đưa sang nắm quyền cai trị, dụ dỗ, mua chuộc một số quan lại cũ của nước Đại Ngu ham sống, sợ chết, hám danh, cầu lợi và bọn thổ hào bất tín ở nhiều địa phương trước đây ra hợp tác và làm tay sai điềm chỉ viên cho đoàn quân xâm lược đến từ lãnh thổ Trung Hoa. Ngoài số quân viễn chinh từ mẫu quốc, người Minh tăng cường và bổ xung đoàn quân xăm lược bằng cách bắt một phần ba số dân đinh địa phương ở tại các vùng bị chiếm đóng phải phục dịch trong đoàn quân chiếm đất của họ. Họ dùng những chính sách trấn áp, khủng bố tàn bạo.Thành lũy, đồn ải, trạm kiểm soát đường thủy, đường bộ dựng lên khắp cùng. Trong các cuộc đánh chiếm, ngoài việc cướp bóc, hãm hiếp, quân Minh còn dùng những thủ đoạn trả thù hèn hạ, dã man, rừng rú thật ghê rợn như mổ bụng đàn bà có thai, cắt lỗ tai người để lãnh thưởng, thiêu sống dân vô tội để mua vui làm trò, rán thịt người lấy mỡ v.v. .. Về mặt kinh tế, quân Minh áp dụng thẳng tay chính sách và đường lối khai thác, bóc lột, vơ vét, tham ô, vô nhân đạo. Khi vừa mới tiêu diệt được nhà Hồ, họ đã lo lùa bắt vô số trâu bò, tịch thâu vô số thóc gạo, của cải để tuồng về nước mẹ của họ. Sau khi thiết lập được chính quyền đô hộ thì bộ máy bóc lột của họ càng được tổ chức có hệ thống quy mô và hiệu quả hơn. Mọi thứ sưu cao, thuế nặng đều được áp dụng để đặt lên đầu lên cổ của người dân bị trị. VSTK - 434
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16
Người nhà Minh nắm quyền kiểm soát và hạn chế việc sản xuất và tiêu dùng các loại nhu yếu phẩm như gạo, thóc, muối ăn nhằm kiềm tỏa đời sống hằng ngày của dân chúng. Bắt người dân trắng tay làm nô lệ để lặn xuống biển mò ngọc trai, vào rừng bắt thú dữ để dâng nạp cho họ. Ra sức tiêu hủy các di sản văn hóa của dân tộc Đại Việt và thi hành chính sách đồng hóa một cách gắp rút và liên tục bằng cách hủy bỏ mọi phong cách, tục lệ, thói quen lâu đời để thay vào bằng những thói ăn mặc, cư xử, thờ phụng, tín ngưỡng y hệt phong tục tập quán và nếp sống của người Hoa nghèo khốn, tôi đòi, nô lệ ngay trên đất nước tổ tiên của họ. Quân Minh đã kết hợp vũ lực xâm lược cùng với phương pháp áp bức bóc lột bằng bạo lực đàn áp,song song với thủ đoạn nham hiểm thâm độc để đồng hóa, chia rẽ. Người dân bị trị bị kiềm hãm, chà đạp, gánh chịu muôn vàn khổ đau, lòng người xáo động, thân phận còn tệ hơn là kẻ bị tù đày nô lệ. Những cuộc nổi dậy chống quân xâm lược nhà Minh
17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41
Quân Minh xâm lược và đánh bại nhà Hồ. Tuy nhiên, với tình yêu tổ quốc tha thiết, với ý chí quật khởi kiên cường đã được tích lũy và nung đúc hằng bao nhiêu đời trước tạo thành nền quốc thống và niềm kiêu hãnh dân tộc, nay đứng trước một cơn thử thách vô cùng ngặt nghèo ảnh hưởng to tác đến sự mất còn của đất nước, nền độc lập tự quyết dân tộc và quyền sống có phẩm giá, có tình nghĩa con người, trong khi mà các thế lực thống trị mê muội tham quyền cố vị chỉ muốn làm lợi riêng cho dòng họ của mình, mặc cho dân tình chịu nhục nhã, sống chết mặc bây thì người dân Đại Việt (Đại Ngu) khắp các miền của đất nước, từ các hạng quan binh yêu nước xuống đến hạng người nông dân nô dịch, từ miền kinh đến miền thượng, nơi đồng bằng hay ở miền núi, khắp mọi nơi đều nổi dậy chống đối và đánh trả quân xâm lược hung bạo bằng nhiều hình thức: đánh phá các nơi quân Minh đồn trú hoặc các chốt mà họ đã dựng lên để kiểm soát cai trị dân chúng; tiêu diệt các quan cai trị của nhà Minh ác nhân và những hạng người phản bội thừa cơ đón gió hợp tác với quân ngoại xâm, phá ngục giải thoát người dân bị giam nhốt một cách oan ức; giựt sập, phá hủy cầu đường, đốt phá doanh trại của quân Minh. Tầm vóc của những cuộc nổi dậy lớn nhỏ có khác nhau nhưng tất cả đều quy hướng về một mục tiêu duy nhất: đánh đuổi quân Minh xâm lược ra khỏi bờ cõi đất nước Đại Việt. Từ cuối đời nhà Hồ (1407), có rất nhiều cuộc nổi dậy lớn có tổ chức và có tầm hoạt động lan rộng như cuộc khởi dậy của nhà Hậu Trần do Trần Ngỗi (1407-1409) và Trần Quý Khoách (1409-1413) chủ xướng và phát động; của Phạm Ngọc (1419-1420), của Lê Ngã (1419).
VSTK - 435
1 2 3 4
Tất cả những cuộc nổi dậy trên dù không thành công nhưng chính là những ngọn gió thổi đầu tiên khơi dậy ngọn lửa đấu tranh đang cháy âm ỷ trong tiềm thức của dân tộc Đại Việt để rồi bùng cháy dữ dội với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi.
VSTK - 436
NHỮNG PHONG TRÀO NỔI DẬY CHỐNG QUÂN XÂM LƯỢC NHÀ MINH CHƯƠNG IV
BÌNH ĐỊNH VƯƠNG LÊ LỢI1 ( 1418 - 1428 ) 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
Lê Lợi người làng Lam Sơn2, huyện Lương Giang3, trấn Thanh Hóa, sinh ngày mùng 6 tháng 8 năm Ất Sửu (1385) tại làng Chủ Sơn4 , huyện Lôi Dương5. Sau khi diệt được nhà Hồ, quân Minh xăm lược dùng pháp luật hà khắc, hình phạt tàn độc, thuế nặng, sưu cao. Biết rằng Lê Lợi được lòng dân, quân Minh đã dùng phương cách dụ dỗ, lấy quan tước, lợi lộc để lôi kéo nhưng Lê Lợi không chịu khuất phục nghe theo, tiếp tục ẩn náu nơi rừng núi, chiêu mộ nghĩa sĩ, thu nạp những người tài trí, tụ hợp những người dân phiêu bạt, chọn lựa người biết cầm quân xong trận rồi cùng với các tướng tá Lê Lai, Lê Thạch, Lê Liễu, Lê Ngân, Lê Lý, Đinh Lễ, Đỗ Bí và Lê Xí, và Nguyễn Trãi từ Lam Sơn khởi xướng cuộc nổi dậy vào mùa xuân năm Mậu Tuất (1418), tự xưng là Bình Định vương, ra quân đánh bại và đuổi chạy tướng Mã Kỳ ở Lạc Thủy6 rồi tạm rút lui về ẩn náu ở núi Chí Linh7. Kỷ Hợi, tháng 4 (1419), Lê Lợi đánh đồn Nga Lạc8, bắt giết được tướng Minh là Nguyễn Sao rồi lại lui về giữ núi Chí Linh. Quân Minh đưa đại binh đến đánh úp, Lê Lai9 phải liều mình giả dạng Lê Lợi đánh lạc hướng quân Minh bằng cách đưa nghĩa quân xung phong phá vòng vây, quân Minh đuổi theo bắt được. Tưởng rằng đã bắt được Lê Lợi, quân Minh kéo quân trở vào Tây Đô. Lê Lợi và nghĩa binh ở Chí Linh được tạm yên để chỉnh đốn hàng ngũ. Canh Tý, tháng 6 (1420), quân Minh cử tham tướng Trần Trí đến trấn nhậm vùng Phụng Hóa10. Nghĩa quân Lam Sơn chiếm đóng Mường11 Thôi. Lý Bân biết được kéo quân từ Tây Đô vào đánh úp nhưng bị nghĩa quân mai phục chận đánh ở Thi Lang12. Nghĩa quân lại tiến chiếm sách Ba Lẫm13 thuộc Lỗi Giang14. Quân Minh phải VSTK - 437
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
chia lực lượng đóng ở Nga Lạc và Quan Du15 để bảo vệ Tây Đô. Tháng 10, nghĩa quân từ Ba Lẫm đánh chiếm các đồn lũy ở Nga Lạc, quân Minh rút lui, cố thủ trại Quan Du. Lê Lợi sai các tướng Lê Sát và Lê Hào đánh úp vào trại Quan Du, gây thiệt hại nặng nề cho quân Minh khiến cho khí thế quân Minh bị sa sút tột cùng. Tân Sửu, tháng 9 (1421), vua nhà Minh cử Trần Trí thay Lý Bân. Tháng 11, tướng Trần Trí đem hơn 100,000 quân đến vây đánh nghĩa quân ở Ba Lẫm16. Lê Lợi dùng phục binh đánh bại quân Minh ở Đèo Ống17, Trần Trí phải rút lui. Thừa cơ nghĩa quân đang bận rộn chống trả quân Minh, tù trưởng nước Ai Lao là Mãn Sát đem quân và voi trận bất thần tấn công nghĩa quân, bị Lê Lợi dùng binh thế gọng kềm đánh tan và tiêu diệt nhưng tướng giỏi Lê Thạch bị sụp hầm chong nhọn tử trận. Nhâm Dần, tháng 12 (1422), từ Ba Lẫm nghĩa quân tiến đến Quan Du; bị quân Minh liên hợp với quân Lào đánh hai mặt trước sau, nghĩa quân đánh không lại phải chạy lui về giữ sách Khôi18. Quân Minh tập hợp quân bao vây bốn phía rất nguy khốn; Lê Lợi xao xuyến, khích lệ tướng sĩ thuộc quyền liều chết phá vòng vây khiến 2 tướng Mã Kỳ và Trần Trí phải tháo chạy còn quân Ai Lao phản phúc cũng rối loạn lẩn trốn. Lê Lợi rút lui về Chí Linh lần thứ ba, quân binh bị hao tổn, lương thực thiếu thốn, binh sĩ phải kiếm rau, hái cỏ mà ăn, phải giết cả ngựa, voi để lấy thịt nuôi quân, tinh thần nghĩa quân kiệt quệ, thể lực suy yếu, mọi người đều muốn ngưng chiến, Lê Lợi bất đắc dĩ phải sai Lê Trăn xin hòa hoãn với quân Minh. Quân Minh ưng thuận, có ý dùng các phương cách vuốt ve, mua chuộc để dụ hàng Lê Lợi, Lê Lợi cũng giả cách cầu hòa, thân thiện ngoài mặt nhưng vẫn ngầm chỉnh đốn hàng ngũ nghĩa quân. Quý Mão, tháng 4 (1423), Lê Lợi quay về Lam Sơn, đóng quân ở Lô Sơn18, cắt đứt chính sách hoà hoãn giao hảo với quân Minh. VSTK - 438
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
Giáp Thìn, tháng 9 (1424), Lê Lợi hợp các tướng bàn bạc kế hoạch tiến công diệt Minh. Thiếu úy Nguyễn Chích đề nghị đánh chiếm Trà Lung19bis làm bàn đạp tiến chiếm Nghệ An để khai thác nguồn nhân lực và tài lực dồi dào ở đó rồi tiến đánh Đông Đô. Lê Lợi nghe theo, đưa quân vào Nam, đánh úp đồn Đa Căng20: trấn thủ đồn là Lương Nhữ Hốt21 thua, bỏ đồn chạy thoát. Nghĩa quân tiến vào vùng lãnh giới Nghệ An. Đại quân Minh tăng viện do Trần Trí, Phương Chính chận đánh hai mặt trước sau ở Quỳ Lạp22 nhưng bị phục binh của Lê Lợi đánh bại, quân Minh chạy về thành Nghệ An. Giáp Thìn, tháng 11 (1424), nghĩa quân bao vây Trà Lung. Tri phủ Trà Lung là Cầm Bành chờ viện binh không thấy tới, phải ra hàng. Trà Lung bị nghĩa quân chiếm đóng. Lê Lợi vào Trà Lung, vỗ an dân tình, chiêu mộ thêm được rất nhiều nghĩa binh, thế quân rất mạnh. Trần Hiệp trình báo sự thua trận liên tục của quân Minh và thế lực ngày càng lan rộng của nghĩa quân Lam Sơn, vua Minh khiển trách và ra lệnh cho Trần Trí, Phương Chính phải gắp rút dẹp yên. Quân Minh đưa quân thủy bộ vây cửa ải Khả Lưu23 nhưng bị thua, Trần Trí, Phương Chính lại phải lui quân về cố thủ thành Nghệ An. Ất Tỵ, tháng Giêng (1425), Lê Lợi tiến quân đến Đa Lôi24 thuộc huyện Thổ Du25, dân chúng mừng vui tiếp đón, cung cấp lương thực, thức ăn cho nghĩa quân. Tri phủ của nhà Minh ở Ngọc Ma26 đem quân và voi đến quy thuận, được Lê Lợi phong làm thái úy. Ra lệnh nghiêm cấm nghĩa quân không được xăm phạm đến tài sản của dân chúng trong các vùng của giặc vừa mới được nghĩa quân giải phóng. Nghĩa quân bao vây thành Nghệ An. Tướng Lý An đưa quân Minh từ Đông Quan27 vượt biển đến tăng viện cho Trần Trí để phối hợp lực lượng phản công nhưng Lê Lợi đặt quân phục kích ở cửa sông Đỗ Gia28 cả phá được quân Minh. Trần Trí chạy về Đông Quan, Lý An rút chạy vào thành Nghệ An cố thủ.
VSTK - 439
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
Tháng 5, tướng Trương Hùng dùng đường biển chở lương thực từ Đông Đô tiếp tế cho quân Minh ở thành Diễn Châu29, gặp phục binh của nghĩa quân do tướng Đinh Lễ chỉ huy đánh chận cướp lấy thuyền lương, đuổi Trương Hùng chạy trốn vào Tây Đô. Thừa thắng, Lê Lợi tuyển quân và voi trận, sai Lê Sát và Lưu Nhân Chú hợp quân với Đinh Lễ tiến sát Tây Đô, chiêu an dân chúng, chuẩn bị vũ khí, chiến cụ để phá thành. Dân chúng Thanh Hóa dắt dìu nhau đến và đi theo nghĩa quân rất đông. Tháng 7, Lê Lợi điều động thuyền chiến do Lê Ngân chỉ huy từ Nghệ An vượt biển vào hội với quân của Trần Hãn và Lê Nỏ để tấn công và đánh hạ 2 thành Tân Bình30 và Thuận Hoá31. Quân dân ở đó đều ra hàng phục. Trần Hãn32 chiêu mộ được thêm rất nhiều nghĩa quân, đặt người trấn giữ rồi kéo quân về. Từ đây, các tướng tôn gọi Lê Lợi là Đại thiên hành hóa đại vương33. Bính Ngọ, tháng 4 (1426), hay tin nghĩa quân của Lê Lợi đã chiếm đóng Trà Lung và các tướng Trần Trí, Phương Chính bị đánh bại liên miên, vua Minh liền cử Thành Sơn hầu Vương Thông làm tổng binh, đô đốc Mã Anh làm tham tướng, chuẩn bị đem quân tiếp ứng cho Đông Quan. Bính Ngọ, tháng 8 (1426), thấy quân Minh tập trung cả lực lượng nồng cốt và tinh nhuệ để bảo vệ Nghệ An nhưng lơi lỏng việc phòng thủ Đông Đô, Lê Lợi liền điều động nghĩa quân chuyển hướng tấn công vào các vùng lãnh thổ ở mạn Bắc: - Các tướng Phạm Văn Xảo, Lê Triện, Lê Khả, Lê Như Huân, Lê Bí đưa quân đi bình định và đóng chốt ở các vùng Thiên Quan34, Quảng Oai35, Quốc Oai36, Gia Hưng37, Quy Hóa38, Đà Giang39, Tam Đái40, Tuyên Quang41 để cắt đứt đường viện binh quân Minh từ Vân Nam sang. - Các tướng Lưu Nhân Chú, Bùi Bị kéo nghĩa quân từ Thiên Quan42 ra bình định và đóng chốt ở các vùng Thiên Trường, Kiến Xương43, Tân Hưng44, Thượng Hồng, Hạ Hồng, Lạng Giang để cắt đứt đường tiếp viện của quân Minh từ Quảng Đông, Quảng Tây tiến sang.
VSTK - 440
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
- Đinh Lễ và Nguyễn Xí thống lãnh đoàn nghĩa binh tinh nhuệ đánh thẳng vào Đông Quan để phô trương thanh thế. - Lê Triện từ mạn Quốc Oai, Tam Đái tiếp tục tiến quân ra uy hiếp thành Đông Quan. Tướng nhà Minh Trần Trí đưa quân chận đánh ở mạn Ninh Kiều45, Ứng Thiên46 nhưng bị thua trận phải rút chạy. Liên quân của Lê Triện, Lê Khả, Lê Bí truy đuổi rồi tiến đóng ở phía Tây sông Ninh Giang47. Trần Trí phải đào thêm hầm lũy để phòng ngự thành Đông Quan và gọi quân của Lý An, Phương Chính từ Nghệ An ra tăng cương phòng thủ Đông Quan, để thành Nghệ An cho Thái Phúc chống giữ. Tháng 9, một vạn viện binh đầu tiên của nhà Minh do Vương An Lão từ Vân Nam kéo sang nhưng bị nghĩa quân đón đánh ở cầu Xa Lộc48 thuộc lộ Tam Giang, quân Minh phải rút chạy vào thành Tam Giang49 cố thủ. Lê Triện và nghĩa quân đuổi theo cánh quân của Trần Trí, đánh nhau ở cầu Nhân Mục50, bắt sống tướng Minh Vi Lượng rồi rút quân về Ninh Giang51. Lê Lợi sai các tướng Lê Ngân, Lê Văn An, Lê Bôi, Lê Thận và Lê Văn Linh ở lại tiếp tục vây hãm thành Nghệ An còn đích thân Lê Lợi thống suất đại quân thủy bộ đuổi theo Lý An, Phương Chính. Nghĩa quân ra đến Thanh Hóa, vây hãm Tây Đô nhưng quân Minh cố thủ, Lê Lợi phải dừng quân đóng bản doanh ở Lỗi Giang. Tháng 10, hai tướng Vương Thông và Mã Anh điều động 50,000 quân sang giải cứu Đông Quan. Trần Trí và Phương Chính bị vua nhà Minh cách chức và đặt dưới quyền xử dụng của Vương Thông và Mã Anh, còn Trần Hiệp được cho giữ chức tham táng quân vụ. Vương Thông tập hợp quân binh cũ mới được 100,000 quân, cùng với Trần Hiệp, Phương Chính chia thành 3 cánh quân cùng tiến đánh: 1. Vương Thông từ Khâu Ôn52 tới, qua cầu Tây Dương53 và lập bản doanh ở bến Cổ Sở54. 2. Phương Chính tiến quân từ cầu Yên Quyết55 và lập doanh trại ở cầu Sa Đôi56. 3. Mã Kỳ và Sơn Thọ đóng quân ở cầu Thanh Oai57.
VSTK - 441
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
Khí thế của của quân Minh rất hung hăng, đồn lũy của giặc xếp đặt liên tiếp nối nhau dài hàng chục dặm, cờ xí, gươm giáo rực trời. Lê Triện, Lê Bí đặt nghĩa quân mai phục từ Ninh Kiều58 đến Cổ Lãm59, cho quân tiền sát60 đánh phá trại binh của Mã Kỳ rồi giả thua bỏ chạy. Quân Minh đuổi theo đến cầu Tam La61 bị phục binh của nghĩa quân đánh cắt ngang đội hình, quân Minh tan vỡ, chạy bừa, sa lầy, tử vong vô số. Nghĩa quân truy kích đến cầu Nhân Mục, xác chết quân Minh nằm la liệt khắp nơi, tù binh bị bắt hàng ngàn, Mã Kỳ bỏ hàng ngũ chạy trốn một mình. Nghĩa quân thừa thắng tiến đánh bọc hậu doanh trại của Phương Chính nhưng Phương Chính nhân đêm tối đã ngầm rút lui về hội quân với Vương Thông. Ngày hôm sau, nghĩa quân của Lê Triện bao vây quân của Vương Thông quanh vùng Cổ Sở62 nhưng quân Minh đào hầm chong đánh phục kích, Lê Triện phải rút lui về giữ Cao Bộ64 và cấp báo với Đinh Lễ và Lê Xí mang quân từ Thanh Đàm65 đến tăng viện, chia quân phục kích ở Tốt Động66 và Chúc Động67. Bắt và khai thác quân thám báo của đối phương, nghĩa quân biết được mưu định và kế hoạch hành quân của Vương Thông: Vương Thông ra lệnh phải đợi đến khi nghe có tiếng súng nổ báo hiệu, lực lượng kỵ binh của quân Minh sẽ bất thần pháo kích, đánh bọc hậu các tuyến bố phòng của nghĩa quân đồng thời đoàn chính binh của Vương Thông từ Ninh Kiều sẽ vượt qua sông đánh thẳng vào mặt trước. Đinh Lễ và Lê Triện dùng mưu chước của địch để dụ địch: lệnh cho nghĩa quân phải án binh bất động khi nghe thấy có tiếng pháo hiệu. Đinh Lễ giả cho nổ súng ở các nơi hiểm yếu để đánh lừa đối phương. Quân Minh nghe tiếng súng liền đồng loạt tiến kích bất kể mưa gió lầy lội. Đinh ninh nghĩa quân đang rút chạy, quân Minh truy lùng ráo riết đến Tốt Động, phục binh của nghĩa quân ở Tốt Động bốn phía đánh ập lại, chém chết tướng Trần Hiệp và Lý Lượng, quân Minh rút chạy,giày xéo lên nhau chết rất nhiều, rơi xuống nước xác đầy sông. Nghĩa quân bắt sống được vô số tù binh, tịch thu vũ khí, quân nhu nhiều vô kể. Phương VSTK - 442
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
Chính, Mã Kỳ lo chạy thoát lấy thân, Vương Thông bị thương cũng chạy trở vào Đông Quan. Nghĩa quân thừa thắng tiến quân bao vây thành Đông Quan. Quân Minh trong thành phải phá hủy chuông Quy Điền68 và vạc Phổ Minh69 để rèn đút thêm vũ khí, quân dụng đang bị thiếu thốn trầm trọng sau lần bại trận vừa qua. Lê Lợi từ Lỗi Giang, Thanh Hóa được tin thắng trận ở mạn Bắc liền hội các đạo nghĩa quân ở Hải Tây cùng với voi trận hướng ra Đông Quan, tới Tây Phù Liệt70, các tướng ra đón mừng. Tướng Trần Hãn điều động thủy quân và hơn trăm thuyền chiến theo sông Đại Lũng71 ra cửa sông Hát72, xuôi dòng xuống đến bến Đông Bộ Đầu73 trên sông Lô74. Bùi Bị đem 10,000 bộ binh bí mật chiếm đóng khu vực cầu Tây Dương75. Đích thân Lê Lợi chỉ huy đạo nghĩa quân chủ lực tiến ra vây hãm thành Đông Quan, bắt được rất nhiều thuyền chiến của đối phương. Đông Quan bị nghĩa quân bao vây, cô lập, quân Minh phải đào thêm hào lũy để cố thủ. Dân chúng ở khắp các phủ huyện, các tù trưởng vùng biên trấn, hào kiệt ở các kinh lộ hưởng ứng đi theo nghĩa quân rất đông ; Lê Lợi chiêu an phủ dụ, thưởng người trung nghĩa, phạt kẻ phản bội, xử dụng, bố trí mọi người tùy theo khả năng tài trí, pháp chính nghiêm minh, mọi người cảm kích, nghĩa quân đi tới đâu đều được lòng dân hưởng ứng, yểm trợ. Lê Lợi tạm thời chia đặt các kinh lộ trấn dưới quyền kiểm soát của nghĩa quân thành 4 đạo75bis, cắt đặt các chức quan văn võ trong ngoài và tuần kiểm ở các cửa biển để canh phòng kiểm soát, theo dõi mọi hoạt động tình báo của những kẻ theo hợp tác làm gián điệp cho quân Minh. Bính Ngọ, tháng 11(1426), quân Minh muốn ngừng chiến nhưng sợ mang tiếng bại trận cho nên đề nghị với Lê Lợi tìm lập con cháu nhà Trần theo lời chiếu cũ của vua nhà Minh ngày trước. Lê Lợi muốn dân tình thoát cảnh binh lửa và bảo toàn binh lực cho nên ưng thuận đề nghị của quân Minh. Ngày trước, ở châu Ngọc Ma có tên Hồ Ôn mạo xưng là
VSTK - 443
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
cháu ba đời của Trần Nghệ Tông (1370-1372), Lê Lợi giả trá cho đón Hồ Ôn về, đổi tên là Trần Cảo để kế tục ngôi vua của nhà Trần, đặt cho niên hiệu là Thiên Khánh, cũng lập cung dinh cho ở vùng núi Không Lộ76, nhưng đặt Lê Quốc Hưng kề cận để kiểm soát vua bù nhìn Trần Cảo. Lê Lợi lúc nầy tự xưng là Vệ quốc công, thay Trần Cảo gửi biểu thư đưa sang vua Minh xin công nhận và tước phong cho vua Trần Cảo. Các tướng Vương Thông, Sơn Thọ trong thành Đông Quan sai người đến bàn định ngừng chiến và rút quân Minh về nước. Lê Lợi ưng thuận, yêu cầu Vương Thông ra lệnh cho quân Minh ở các thành Nghệ An, Diễn Châu, Thanh Hóa phải đình chiến và tập kết về Đông Quan để rút lui toàn bộ về Trung Hoa. Ngay lúc nầy, những người của nước Đại Việt đi theo và hợp tác với quân xâm lược nhà Minh là Trần Phong77, Lương Như Hốt và Trần An Vinh78 lo sợ sau khi quân Minh rút hết về Trung Hoa thì họ sẽ bị người Đại Việt trả thù hết đường sống sót, cho nên họ ngấm ngầm tạo nghi ngờ ly gián, phá hoại cuộc hoà đàm đình chiến, bằng cách nêu lên trường hợp ngày trước Ô Mã Nhi bị thua trận ở sông Bạch Đằng phải chịu đầu hàng, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn cho hàng rồi dùng mưu lấy thuyền lớn đưa Ô Mã Nhi cùng tùy thuộc về nước nhưng lại bí mật cho người đục thủng thuyền nhận chìm chết tất cả các tướng của nhà Nguyên. Vương Thông tin lời, đem lòng ngờ vực, đổi ý, bề ngoài giả bộ cầu hoà, nhưng lại tiếp tục đào hào, thả chông, ngầm sai người đưa tin về vua Minh để xin viện binh. Lê Lợi bắt được mật thư tráo trở của Vương Thông liền hủy bỏ cuộc hòa đàm và ra lệnh tiếp tục tiến công, vây hãm các thành của quân Minh đang trú đóng: - Lê Quốc Hưng đánh 2 thành Điêu Diêu78bis và được thêm quân tăng viện của Lê Chích từ Nghệ An đưa ra để phối hợp cùng đánh thành Thị Cầu97. - Trịnh Khả, Lê Khuyển đánh thành Tam Giang. - Lê Sát, Lê Thụ, Lê Lý, Lê Lãnh và Lê Triện đánh thành Xương Giang80. VSTK - 444
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
Lê Lựu, Lê Bôi đánh thành Khâu Ôn. Tuyển những nhân sĩ đặt làm an phủ sứ ở 24 lộ và viên ngoại lang81 ở 6 bộ khi còn tạm thời đóng bản doanh hành chánh ở Bồ Đề82. Đinh Mùi, tháng Giêng (1427), Lê Lợi tiến quân đóng ở bờ Bắc sông Nhị Hà, doanh trại, đồn lũy nghĩa quân áp sát thành Đông Quan. Trịnh Khả đánh phá và chận quân Minh ở cửa Đông, Đinh Lễ đóng quân ở cửa Nam, Lê Chửng chỉ huy vây hãm cửa Tây và Lê Triện án ngữ cửa Bắc. Toàn bộ nghĩa quân thủy bộ, thuyền chiến đều được duyệt khảo, chuẩn bị quân khí, chế tạo chiến xa đặc biệt83, đài cao bằng gỗ dùng để đánh phá tường thành, thao tập trận thế, sẵn sàng tổng tấn công đánh chiếm thành Đông Quan. Lê Lợi cũng tìm người có mưu lược để làm cố vấn, cũng như ban thưởng để cổ động dân chúng cung cấp thóc gạo, lương thực cho nghĩa quân. Tướng giữ thành Nghệ An và Diễn Châu là Thái Phúc và Tiết Tụ đều ra hàng. Hai thành nầy vào tay của nghĩa quân, uy thế quân Minh càng lúc càng bị cô lập. Lê Lợi lại cử người mang thư vào thành Đông Quan dụ hàng Vương Thông. Thư dụ hàng do Nguyễn Trãi viết như sau: <<Đại nhân được lệnh vua Minh ủy nhiệm giữ binh quyền vượt cửa ải, lấn biên cương, đáng lý nên xử sự thành thật uy tín, vậy mà lại lừa dối, trí trá, phỉnh gạt, tự kiêu, cao ngạo, như thế thì tín nghĩa ở đâu? Nếu như giữ lời hứa thì hãy ra lệnh rút quân về cho trọn tình giao hảo trước đây, còn phần ta cũng sẽ giao trả những người đã đầu hàng và các binh sỉ đã bị bắt làm tù binh. Nếu không thế, đại nhân cứ thử đem đám quân binh đầy lòng cừu hận chất chứa lâu nay từ các thành về đây cùng quyết chiến với ba mươi vạn nghĩa quân thân thuộc của ta dưới chân thành Đông Quan nầy để xem đại nhân xử trí như thế nào? Bổ nhiệm Nguyễn Trãi làm Lại bộ thượng thư, nhập nội hành khiển kiêm khu mật viện sứ. Những lời cố vấn, bàn bạc, của Nguyễn Trãi được Lê Lợi tin tưởng nghe theo. Các
VSTK - 445
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
chiếu, lệnh nội bộ, các loại văn bản giao dịch bên ngoài đều giao cho Nguyễn Trãi soạn thảo. Trần Lựu đánh chiếm thành Khâu Ôn, tướng Minh Tụ bỏ thành chạy trốn. Các tướng Minh Trương Lân, Trần Vân ra hàng, thành Điêu Diêu vào tay của nghĩa quân. Tháng 2, tướng Phương Chính ngầm đem quân đánh úp xã Cảo Động, huyện Từ Liêm; tướng nghĩa quân Lý Triện bị tử trận, Đỗ Bí bị quân Minh bắt làm tù binh. Sứ nước Chiêm Thành sang cống, Lê Lợi gởi Hà Lật sang Chiêm đáp lễ. Tướng Minh thành Đường Bảo Trinh đầu hàng, thành Thị Cầu thuộc quyền kiểm soát của nghĩa quân. Đưa số lượng đông đảo tù binh, tướng tá của quân Minh bị nghĩa quân bắt hoặc ra đầu hàng vào các trại tập trung ở Lam Sơn, Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình. Chiêu dụ và ban quan tước cho các tù trưởng trấn thủ ở các vùng biên giới. Sửa sang tu bổ lăng miếu các đời trước bị hư hại vì nạn binh lửa. Tháng 3, sai Nguyễn Trãi ra thành Tam Giang dụ được tướng Minh thành Lưu Thanh ra hàng và dâng nạp thành Tam Giang cho nghĩa quân. Vương Thông đưa quân Minh tinh nhuệ từ trong thành Đông Quan đánh úp Lê Nguyễn ở Tây Phù Liệt84. Lê Lợi sai Đinh Lễ, Lê Xí đi cứu, đánh nhau ở My Động85: bị thua, Đinh Lễ, Lê Xí đều bị bắt. Đinh Lễ không chịu khuất phục, bị giết, Lê Xí nhân trời tối dùng mưu trốn thoát. Trước đây, tháng 10 năm Bính Ngọ (1426), quân Minh bị nghĩa quân đánh bại ở mặt trận Tụy Động, tướng Minh Trần Hiệp và Lý Thượng bị giết tại trận, Vương Thông phải xin vua Minh cho thêm quân tăng viện để giải vây thành Đông Quan. Vua Minh cử con trai Liễu Thăng cùng các đại tướng Lương Minh, Thôi Tụ, Lý Khánh, Hoàng Phúc và Nguyễn Đức Huân thống lĩnh 100,000 quân binh và 20,000 ngựa chiến từ Quảng Tây tiến đánh cửa ải Phả Lũy86. Mặt khác, vua nhà Minh cũng cử tướng Mộc Thạnh cùng với các tướng Từ Hanh, Đàm Trung từ Vân Nam tiến đánh VSTK - 446
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
cửa ải Lê Hoa. Các tướng sĩ của Lê Lợi nghe tin đại quân cứu viện của nhà Minh sắp kéo sang, phần đông đều thúc hối Lê Lợi nên đánh dứt điểm thành Đông Quan để tránh tình trạng đối phương dùng chiến thuật ngoài đánh vào, trong đánh ra. Lê Lợi cho rằng chỉ cần chận đánh và tiêu diệt quân cứu viện của người Minh đang mệt mỏi thì thành Đông Quan không cần đánh cũng sẽ về tay nghĩa quân. Kể từ lúc đó, Lê Lợi một mặt đốc thúc nghĩa quân vây đánh các thành trì còn do quân Minh cố thủ, một mặt vẫn tiếp tục bao vây Đông Quan và củng cố hàng ngũ quân dân bằng cách ban hành và áp dụng thật nghiêm minh các luật lệnh, biện pháp trong tình trạng chiến tranh khẩn cấp như: - Cấm tả đạo bày trò ma quỉ để lường gạt dân chúng. - Lệnh đưa dân chúng phiêu bạt vì binh lửa trở về nguyên quán làm ăn như cũ. - Cho phép những kẻ hợp tác với quân xâm lược trước đây được lấy tiền để chuộc tội sau khi bị nghĩa quân bắt hoặc đã tự ý ra hàng. - Đưa hơn 6,000 tù binh người Minh đến các trại tập trung ở Thiên Trường, Lý Nhân, Kiến Xương và Tân Hưng. - Ban bố 3 điều huấn lệnh áp dụng cho các quan: không tắc trách khinh nhờn, không lơ là thờ ơ, không gian tà tham nhũng. - Quy định 10 điều kỹ luật quân đội87 để áp dụng trong hàng ngũ các tướng lãnh và nghĩa quân. - Ấn định tướng hiệu88 lúc xuất quân đánh trận. Kế đến, Lê Lợi sắp xếp việc phòng thủ một cách nghiêm mật hơn: - Ra lệnh cho dân chúng các lộ Lạng Giang, Bắc Giang, Tam Đái, Tuyên Quang, Huy Hóa tiêu hủy đồng ruộng hoa màu89 và di tản đi nơi khác để tránh né viện binh của quân xâm lược tràn tới. - Ra lệnh cho nghĩa quân phải chờ cho đến lúc quân Minh thấm mệt vì đường xa tới mới được tấn công khi có hiệu lệnh. - Sai các tướng Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Thụ, Lê Linh, VSTK - 447
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
Đinh Liệt đem 10,000 nghĩa quân và voi trận mai phục ở ải Chi Lăng90. - Đặt các tướng Lê Lý và Lê Văn An chỉ huy 30,000 nghĩa quân dùng làm lực lượng tấn kích trừ bị. Tháng 9, ngày mồng 8, năm Đinh Mùi (1427), các tướng Trần Hãn, Lê Sát đánh hạ thành Xương Giang trước khi viện binh của Liễu Thăng tràn tới. Các tướng Minh thủ thành là Kim Dận, Lý Nhâm đều tự sát. Tháng 9, ngày 18, năm Đinh Mùi (1427), tướng Liễu Thăng, Lương Minh, Thôi Tụ, Lý Khánh, Hoàng Phúc, Nguyễn Đức Huân với 100,000 quân và 20,000 ngựa trận đánh vào Phả Lũy. Các tướng Mộc Thạnh, Từ Hanh, Đàm Trung thúc 50,000 quân Minh cùng với 10,000 ngựa chiến tràn sang cửa ải Lê Hoa. Lê Lựu giữ cửa ải Pha Lũy thấy uy thế của quân Minh quá hung hảng liền lui binh về giữ cửa Ái Lưu91 rồi lại giả thua lui về Chi Lăng. Đối phương lầm tưởng được thắng thế nên cứ rầm rộ tiến quân thẳng tới uy hiếp ải Chi Lăng. Nghĩa quân vẫn tiếp tục giả thua tháo chạy. Ngày 20, Liễu Thăng và quân Minh rơi vào ổ phục kích của nghĩa quân ở Chi Lăng. Quân mai phục của Lê Sát và Lưu Nhân Chú từ bốn phía ào ra chém giết, quân Minh đại bại, Liễu Thăng bị chém chết ở núi Mã Yên92, xác quân Minh nằm la liệt khắp nơi. Ngày 25, đạo quân trừ bị 30,000 người của Lê Lý và Lê Văn An cũng kéo tới Chi Lăng xung kích quân Minh, chém tại trận tướng Lương Minh. Ngày 28, tướng Minh Lý Khánh không có đường chạy thoát, phải tự vẫn. Thôi Tụ, Hoàng Phúc miễn cưỡng đôn đốc quân Minh tiến lên nhưng cũng bị đánh bại và rút chạy về hướng Xương Giang, lại bị nghĩa binh của Lê Sát đón đánh. Quân Minh bị tiêu diệt vô số, nghĩa quân tịch thu rất nhiều lừa, ngựa, trâu bò, quân dụng, quân nhu. Thôi Tụ và Hoàng Phúc phải đào hào, đắp lũy ngoài đồng trống để cầm cự với nghĩa quân.
VSTK - 448
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
Lê Lợi ra lệnh quân thủy, bộ bao vây, chận đường tiếp tế lương thực của đố phương , đem 30,000 nghĩa quân của các tướng Phạm Vấn, Lê Khôi, Lê Xí đến tăng cường. Phòng tuyến cố thủ của quân Minh rối loạn, nghĩa quân giết được hàng nghìn quân xâm lược, bắt sống Thôi Tụ, Hoàng Phúc. Thôi Tụ không chịu hàng phục cho nên bị giết chết. Tướng Minh lão luyện nhiều kinh nghiệm Mộc Thạnh khi đem quân tiến vào cửa ải Lê Hoa thì chạm trán ngay với các tướng của Lê Lợi là Phạm Văn Xảo, Lê Khả, Lê Trung, Lê Khuyến. Theo kế hoạch, nghĩa quân ở mặt trận nầy phải áp dụng chiến thuật mai phục, chờ xem phản ứng và động tĩnh của đối phương mà ứng biến, không được có những hành động nông nổi bộc phát khi chưa được lệnh. Sau khi giết được Liễu Thăng, Lê Lợi chọn kẻ tùy tướng của Liễu Thăng bị nghĩa quân bắt đưa qua hành doanh của Mộc Thạnh, mang theo sắc thư, ấn tín của tướng Liễu Thăng. Nhìn thấy các tín vật của Liễu Thăng, Mộc Thạnh kinh hoàng, mất hết nhuệ khí vội vã bỏ trốn thoát thân lấy một mình, mặc cho đoàn quân Minh hoang mang, nhốn nháo. Các tướng Phạm Văn Xão, Lê Khả được lệnh tiến công, nghĩa quân ào ra chém giết, truy kích, quân Minh lớp bị giết, lớp bị bắt sống nhiều vô số kể, nghĩa quân thu đoạt rất nhiều chiến lợi phẩm. Lê Lợi lại sai Đặng Hiếu giải tướng Minh là Hoàng Phúc bị nghĩa quan bắt sống ở Xương Giang trước đây cùng với binh phù của Liễu Thăng, dấu ấn, cờ kiếm, sổ sách của các tướng Lý Khánh (đã tự sát) và Hoàng Phúc, cho người đưa vào thành Đông Quan trong khi bên ngoài thành thì nghĩa quân vẫn tiếp tục ào ạt đổ tới vây hãm. Đồng thời, Lê Lợi sai tướng Nguyễn Lôi mang thư dụ hàng các thành Cổ Lộng và Tây Đô lúc đó cũng đang bị nghĩa quân trùng điệp bao vây. Trong thành Đông Quan, Vương Thông và Sơn Thọ kinh hoàng bối rối, phải dụng kế hoà hoãn, rồi lại tiếp tục phản công nhưng cuối cùng cũng phải hàng phục cho người mang thư đến xin giảng hòa. Lê Lợi chấp thuận nhưng bắt Quân Minh phải hội thề ở phía Nam thành Đông Quan để cam kết VSTK - 449
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
không được tráo trở xóa bỏ hoà ước đã được hai bên thỏa thuận, hẹn đến tháng 12 âm lịch thì đoàn quân Minh xâm lược phải rút hết về Trung Hoa. Ra lệnh cho nghĩa quân giải toả vòng vây các thành Tây Đô, Cỗ Lộng và Chí Linh, cho phép quân Minh được tập kết93 ra thành Đông Quan thi hành việc rút quân. Cũng sai Nguyễn Trãi mượn danh nghĩa của vua bù nhìn Trần Cảo viết tờ biểu, kèm theo lễ vật, sổ sách kê khai tù binh và chiến lợi phẩm sẽ được trao trả lại cho nhà Minh, rồi cho người đưa sang Yên Kinh để báo cáo và yêu cầu vua nhà Minh phong vương tước cho Trần Cảo. Vua nhà Minh xem biểu biết là giả dối nhưng vì đa số triều thần nhà Minh đều muốn chấm dứt binh đao cho nên phải chịu phong cho Trần Cảo làm An Nam quốc vương, bãi bỏ cơ quan đại diện cai trị Bố Chính sứ của nhà Minh đặt ở Giao Chỉ94, ra lệnh rút hết quân Minh về nước. Dân, quân trong nước vì căm hận quân Minh tàn bạo muốn trả thù, nhưng nghe theo cố vấn của Nguyễn Trãi, và vì lợi ích hòa bình lâu dài của dân tộc và đất nước trong tương lai, Lê Lợi chẳng những tha chết cho quan binh xăm lược của nhà Minh mà còn cung cấp phương tiện vận chuyển thủy bộ, sửa chữa cầu đường và hộ tống cho tướng tá, quan binh của họ được an toàn rút lui về nước95. Đất nước đã đại định96, sạch bóng quân xâm lược đến từ phương Bắc kể từ ngày 17 tháng 12 âm lịch năm Đinh Mùi (1427). Sai Nguyễn Trãi soạn bản Đại cáo97 để tường trình khắp thiên hạ. CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:
28 29 30 31 32 33 34 35
Lê Lợi: Đại Việt Thông Sử của Lê Quý Đôn viết về lai lịch của Lê Lợi như sau: "Vương họ Lê, tên húy là Lợi, người làng Lâm Giang, phủ Thanh Hoa. Tằng tổ của vương (tức Lê Lợi) tên là Hối, tính tình chất phát ngay thẳng, hiền hậu, ít nói nhưng hiểu biết rất sâu sắc, có thể đoán trước được việc sẽ xảy ra. Khi dạo chơi dưới núi Lam Sơn, nhìn thấy thế đất ở đây giống như một đám người tụ hội cho nên nghĩ rằng đây là nơi đất lành, bèn dời nhà đến ở đấy, khai phá ruộng vườn, tự chăm lo cày cấy, chằng bao lâu thì thành sản nghiệp, từ đấy, đời đời là 1
VSTK - 450
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
hùng trưởng một phương. Sau nầy vương dựng đô mở nước chính thực cũng gây nền từ ở chốn đó. Hoằng tổ (tức ông nội) của vương tên là Thinh nối được cơ nghiệp tiền nhân, có lòng thương người, thiên hạ gần xa đều kéo nhau tới quy phụ, trong nhà lúc nào cũng đông đúc hàng ngàn người. Bà nội của vương là Nguyễn thị, tên Quách, sinh được hai con trai, con trưởng là Tòng, con thứ tên Khoáng là cha ruột của vương. Cha của vương lấy lễ nghĩa nuôi dưỡng tân khách, thương yêu dân lành, giúp đỡ nuôi dưỡng kẻ khốn cùng nghèo khó, săn sóc người bệnh tật, cả một vùng đều mến phục nghĩa khí. Mẹ của vương là Trịnh thị, tên Ngọc Thương, sinh hạ 3 con trai, con trưởng là Học, con thứ là Trừ, con trai út tức là vương (Lợi). Khi lớn lên, vương thông minh dũng lược, khoan dung độ lượng hơn người, vẻ người tươi đẹp hùng dũng kiện tráng, mắt sáng mồm rộng; sống mũi cao, xương mi mắt nhô lên; vai bên trái điểm 7 nốt ruồi, bước đi bệ vệ như rồng như hổ; tiếng nói vang vang như tiếng chuông. Người thức giả nhìn thấy đều biết ngay vương là một nhân vật phi thường. Khi nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần, vương ở quê nhà đọc sách, nghiền ngẫm binh pháp, ép mình chờ thời vận. Đến khi giặc Minh sang đánh bắt họ Hồ mang về Kim Lăng, đặt nước ta thành quận huyện, vương ngầm có chí khôi phục non sông nên hạ mình tôn người hiền, bỏ tiền của ra nuôi binh sĩ, chiêu nạp những kẻ tội đồ trốn lánh hoặc chống đối, được nhiều người đến xin quy phục. Các vua Hậu Trần Hưng Khánh và Trùng Quang nối tiếp khởi binh chống giặc Minh, lấy danh nghĩa là khôi phục ngôi vua nhà Trần, được nhiều người hưởng ứng nhưng vương biết rõ thời thế, cho rằng sẽ không thành công và vì thế không tham gia, tiếp tục hết sức ẩn dấu lý lịch hình tích, không lộ tiếng tăm. Những hào kiệt thời ấy như Lê Văn An, Lê Văn Linh, Bùi Quốc Hưng, Nguyễn Trãi, Lưu Nhân Chú, Trịnh Vô, Vũ Uy, Lê Liễu, Lê Xa Lôi đều kẻ trước người sau đến quy phục, tất cả đều được vương kính cẩn đón tiếp, cùng nhau bí mật mưu việc khởi nghĩa". 2 Lam Sơn: nay thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa. 3 Lương Giang: nay là huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, Thanh Hóa. 4 Chủ Sơn: còn gọi là Thủy Chú, huyện Lôi Dương, nay thuộc xã Xuân Thắng, huyện Thọ Xương, Thanh Hóa. 5 Lôi Dương: nay thuộc huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa. 6 Lạc Thủy: theo KĐTGCM là Cử Long, một vùng của tộc người Mán. Nhà Đinh, nhà Tiền Lê gọi là mán Cử Long, nhà Lý diệt được và chiêm cứ. Năm Thuận Thiên (1428-1433) nhà Lê (Lê Lợi) đặt là huyện Lạc Thủy; năm Quang Thuận (1460-1469) đổi là Cẩm Thủy, nay thuộc phủ Quang Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Có thuyết cho là một địa điểm ở vùng thượng lưu sông Chu, phía trên Lam Sơn .
VSTK - 451
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15
16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43
Núi Chí Linh: tức là núi Pù Rinh, thuộc xã Giao An, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa ngày nay. 8 Nga Lạc: ĐVSKTT và VSCMTY ghi chú thì đồn Nga Lạc ở gần Lam Sơn, thuộc vùng Bái Thượng ngày nay. KDVSTGCM chua là huyện Nga Sơn thuộc phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Theo sách Thiên hạ quận quốc lợi bệnh toàn thư của nhà Minh thì ải nầy thuộc huyện Nga Lạc 9 Lê Lai: người xã Dậng Tú, huyện Thụy Nguyên. ĐVTS ghi: ông người thôn Dậng Tú, sách Đức Giang, huyện Lương Giang (Ghi chú trong LTHCLC thì Lương Giang là huyện Thụy Nguyên). 10 Phụng Hóa: tức Thiên Trường 11 Mường: trong các sử sách cũ ghi chép bằng tiếng Hán thường gặp rất nhiều từ không quen thuộc, ít khi được nghe thấy dùng để gọi các vùng địa hạt hành chánh chẳng hạn như: mường, man, mọi, động, sách, tuần, vạn, trang, trại, sở, nha, đội, quán, nguyên, châu, ải, quan...vân...vân. 7
Việt Sử Tân Khảo cố gắng truy cứu nghĩa của các từ không quen thuộc nầy để liệt kê thành một số định nghĩa tổng quát tuy nhiên mức độ chính xác của những định nghĩa nầy thì còn phải chờ nhiều ý kiến đóng góp. Mường: địa hạt của dân tộc thiểu số chiếm cứ, tương đương với một thôn hoặc ấp ở miền xuôi. Thí dụ: mường Thôi, là thôn Thôi, nay là huyện Man Xôi, phía Tây Bắc tỉnh Thanh Hóa giáp ranh nước Lào. Man: hay Mán, một bộ tộc dân thiểu số. Thí dụ: man Mang Hổ ở Sầm Châu, sau gọi là Sầm Nứa, ở về phía Tây Nam Thanh Hóa, giáp giới với Ai Lao. Mọi: để chỉ chung nhóm tộc thiểu số chưa được khai hóa nhiều so với người Kinh. Động: địa hạt của dân tộc thiểu số chiếm cứ, thường là ở các vùng núi ở biên giới, có thể lớn bằng nhiều làng dưới miền xuôi của người kinh. Thí dụ: động An Bang, động Hóa Long, theo chú giải của KĐVSTGCM thì các động nầy ở châu An Bình, thuộc phủ Thái Bình, trấn Sơn Nam, tên các động nầy nay đã thay đổi nhưng không thể tra cứu. Sách: xóm dân cư miền sơn cước, thường được rào và cắm cọc chung quanh để ngăn ngừa thú dữ hoặc người lạ; còn được coi là một địa hạt hành chánh của dân tộc thiểu số ngày trước, giống như đơn vị thôn, xã của người Kinh. Thí dụ: sách Nguyệt Ấn nay thuộc huyện Thụy Nguyên (trước là huyện Lương Giang), phủ Thiệu Thiên, Thanh Hóa. Tuần: địa điểm xung yếu có đặt cơ quan chính quyền để kiểm soát và đánh thuế đồng thời cũng đảm trách việc canh phòng an ninh. Vạn: địa hạt miền bờ biển có đông dân cư chuyên nghề chài lưới, đánh bắt thủy sản.
VSTK - 452
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43
Trang: thôn ấp hay một vùng đất riêng do một đại điền chủ hoặc do những kẻ có uy quyền lập ra rồi cho người khác thuê mướn để khai thác thương mại, hoặc trồng trọt. Thí dụ: trang Vân Đồn. Trại: xóm người ở nơi một vùng đất hoang xa xôi hẻo lánh hay ở những nơi phù sa đất bồi để khai khẩn. Chữ trại còn có thể được dùng những nơi nào không phải là kinh đô. Thí dụ: Kinh trạng nguyên, Trại trạng nguyên. Sở: Nơi tập hợp người làm công, thợ thuyền, phu phen để xây dựng hoặc làm công tác trồng trọt, canh nông một cách quy mô rộng lớn. Thí dụ: Sở trồng trà, sở trồng và chế biến cao su. Dưới thời Tự Đức nhà Nguyễn, có Sở Vạn Niên là nơi tập trung nhiều thợ và phu để xây lăng tẩm kéo dài nhiều năm liền. Nha: Thí dụ như Nha môn, thường là nơi làm việc của các quan phủ huyện. Đội: Một đơn vị trong tổ chức binh đội ngày xưa thường gồm có 100 người. Danh từ đội còn có nghĩa là một nhóm, một toán người cùng chung làm một việc gì. Quán: Nơi để hành khách ở trọ, ăn uống. Nhà học trong làng cũng được gọi là Thôn quán. Nguyên: Nguồn, chẳng hạn như nguồn nước thủy nguyên; chỗ khởi đầu chẳng hạn như nguyên thủy; còn có nghĩa là nơi bắt đầu vào một vùng có lập quán xá và có dân chúng cư ngụ gọi là nguyên đầu. Châu: một cồn đất hay cồn cát hay một bãi đất sông thường nổi lên có nước bọc chung quanh ngăn cách với đất liền nhưng không phải là một cù lao. Ải: thí dụ như cửa ải, tức là một vị trí đi vào hoặc đi ra biên giới của một nước, thưởng có đặt binh lính để kiểm soát việc xuất, nhập người và hàng hóa. Thí dụ: Ải quan. 12 Thi Lang: không thể tra cứu. 13 Ba Lẫm: tên một Sách. ĐVSKTT chú thích và cho rằng có lẽ là vùng Chiền Lẫm ở xã Điền Lư, thuộc huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa. 14 Lỗi Giang: tức là một nhánh phân lưu của sông Mã, ở huyện VĨnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, hạ lưu của sông Lỗi Giang thông với sông Đại Lại. 15 Quan Du: tên một trại xưa, nay là châu Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa. 16 Ba Lẫm: xem chú thích 13 trên. 17 Đèo Ống: nguyên là Úng Ải; ở xã Thiết Ống , tả ngạn sông Mã. 18 Sách Khôi: tức là huyện Khôi, thuộc trấn Thiên Quan, ở giữa 2 huyện Nho Quan tỉnh Ninh Bình và huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa. 19 Lô Sơn: ở khoản giữa hai xã Trịnh Điện và Hựu Thủy, cách châu Quan Hóa gần 100 dặm về phía Tây. 19bis Trà Lung: có sách chép là Trà Long hay Trà Lân, đất huyện Con Cuông, Tương Dương, tỉnh Nghệ An ngày nay.
VSTK - 453
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
Đa Căng: có thể là đồn nầy ở Bất Căng, thuộc xã Thọ Nguyên, nằm trên hữu ngạn sông Chu ở Thanh Hóa. 21 Lương Nhữ Hốt: người ở Trạo Vịnh, thuộc Hoằng Hóa, Thanh Hóa; theo hợp tác với quân Minh làm đến chức tham chính. Sau khi quân Minh bị đánh đuổi về nước, Nhữ Hốt cùng với Trần Phong, An Vinh, Trung, Tồn, Sĩ Văn, Xác và Sùng Lể lại trở về đầu hàng nghĩa quân, được Lê Lợi khoan hồng tha tội hợp tác với quân ngoại xâm nhưng sau họ lại mưu phản, định cấu kết với quân Minh một lần nữa để làm nội ứng cho nên ngày 24 tháng 11 năm Mậu Thân (1428) đều bị giết cả. (ĐVSKTT/BK/Q.X/ 25a,62a,62b) 22 Quỳ Lạp: còn gọi là Bồ Lạp, Bồ Cứ, Bồ Đằng, đó là một ngọn núi ở xã Châu Nga, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. 23 Cửa ải Khả Lưu: ở phía Bắc sông Lam, nay thuộc xã Vĩnh Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh nghệ An. 24 Đa Lôi: nay là xã Nam Kinh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. 25 Thổ Du: tên huyện, nay là huyện Thanh Chương thuộc tỉnh Nghệ An. 26 Ngọc Ma: châu Ngọc Ma, nay là phủ Trấn Định thuộc tỉnh Nghệ An. 27 Đông Quan: tức thành Thăng Long còn gọi Đông Đô, bị quân Minh chiếm đóng bị đổi tên là Đông Quan. 28 Cửa sông Đỗ Gia: tên huyện xưa, nay là huyện Hương Sơn, thuộc Nghệ An. 29 Thành Diễn Châu: còn có tên là thành Trài, nay còn dấu vết ở xã Diễn Hồng, Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, cách quốc lộ số 1 chừng 400 thước về phía Đông và cách Cửa Vạn khoảng 2 cây số. 30 Thành Tân Bình: tên phủ thời quân Minh chiếm đóng, nay gồm đất các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, Lệ Ninh, Tuyên Hóa, Bến Hải, tỉnh Quảng Bình. 31 Thành Thuận Hóa: tên phủ thời quân Minh, gồm các huyện Triệu Hải, Hương Điền, Hương Phú, Hương Hóa, Phú Lộc, tỉnh Quảng Trị và tỉnh Thừa Thiên/ Huế ngày nay. 32 Trần Hãn: có sách chép là Trần Nguyên Hãn, người làng Sơn Đông, huyện Lập Thạch (nay thuộc Vĩnh Phúc), là dòng họ Trần Nguyên Đán, sau được ban cho mang họ Lê. 33 Đại thiên hành hóa : tức thay trời tiến hành việc giáo hóa. 34 Thiên Quan: vùng đất huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình hiện nay. 35 Quảng Oai: thuộc Sơn Tây. 36 Quốc Oai: thuộc Sơn Tây. 37 Gia Hưng: thuộc Hưng Hóa. 38 Quy Hóa: thuộc Hưng Hóa. 39 Đà Giang: thuộc Hưng Hóa. 40 Tam Đái: bây giờ là Vĩnh Tường, Sơn Tây. 41 Tuyên Quang: thời kỳ bị quân Minh xâm chiếm gọi là Tuyên Quang phủ; thời Minh Mệnh (nhà Nguyễn/ Gia Long) gọi là tỉnh Tuyên Quang. Tuyên Quang phía Tây giáp giới tỉnh Vân Nam của nước Trung Hoa, 20
VSTK - 454
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
phía Đông giáp Sơn Tây, phía Bắc liền với Thái Nguyên, phía Nam tiếp cận Hưng Hóa. 42 Thiên Quan: xem chú thích 34 trên. 43 Kiến Xương: nay thuộc tỉnh Nam Định. 44 Tân Hưng: nay là phủ Tiên Hưng thuộc tỉnh Thái Bình. 45 Ninh Kiều: nay thuộc xã Ngọc Sơn, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây, nằm trên đường đi từ Đông Quan vào Thiên Quan và Thanh Hóa. 46 Ứng Thiên: nay là phủ Ứng Hòa, thuộc Hà Tây. 47 Ninh Giang: phía trên liền với với cửa sông Hát, phía dưới đổ vào sông Xá (tục gọi là Thá tức là chỗ Ngã Ba Thá) rồi thông với Châu Giang chảy vào sông Hoàng Giang (tức là sông Hồng). Ngày nay là đoạn sông Đáy chảy qua Hà Tây, Nam Hà rồi theo sông Mỹ Đô chảy vào sông Hồng. 48 Cầu Xa Lộc: ngày trước quen gọi là cầu Ròng Fọc ở gần làng Tứ Xã, huyện Lâm Thao cũ, nay thuộc huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ. 49 Thành Tam Giang: là trị sở của phủ Tam Giang, nằm ở phía Bắc ngã ba Hạc, có thể là thành cổ Dục Mỹ, ở gần cầu Xa Lộc. 50 Cầu Nhân Mục: tức là cống Mộc, ở xã Nhân Chính, huyện Từ Liêm (nay là quận Thanh Xuân) Hà Nội. Cầu bắc ngang qua sông Tô Lịch, trên đường từ Đông Quan đến Ninh Kiều. 51 Ninh Giang: xem chú thích 47 trên. 52 Khâu Ôn: còn gọi là Kheo Ôn, nay thuộc tỉnh Lạng Sơn. 53 Cầu Tây Dương: tức cầu Giấy bắc ngang sông Tô Lịch, huyện Từ Liêm, Hà Nội ngày nay. 54 Bến Cổ Sở: tức bến Giá ở xã Yên Sở, huyện Hoài Đức, Hà Tây ngày nay. 55 Cầu Yên Quyết: tức cống Cót ở Hạ Yên Quyết, gần Láng, Hà Nội. 56 Cầu Sa Đôi: phía tây xã Đại Mỗ, huyện Từ Liêm, Hà Nội. cầu nầy bắt ngang sông Nhuệ. 57 Cầu Thanh Oai: bắc qua sông Động ở xã Bình Minh, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây ngày nay. 58 Ninh Kiều: xem giải thích 45 ở trên. 59 Cổ Lãm: là tổng Thắng Lãm, còn gọi là Số, nay gồm các xã Phú Lãm, Phú Cường, Văn Khê, huyện Thanh Oai, Tỉnh Hà Tây. 60 Quân tiền sát: quân đi trước để quan sát và tìm nơi quân địch phục kích hoặc trú đóng để báo về cho quân chính quy tới để đánh. 61 Cầu Tam La: tức Ba La, còn gọi là Ba La Bông Đỏ, sát thị xã Hà Đông, trên đường đi Thanh Oai và Vân Đình, nay thuộc tỉnh Hà Tây. 62 Cổ Sở: xem chú thích 54 trên. 63 (không có chú thích 63). 64 Cao Bộ: còn có tên là Bụa, thuộc xã Trung Hoà, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây ngày nay. 65 Thanh Đàm: là huyện Thanh Trì. Trị sở ngày xưa ở Đông Nam Văn Điển, Hà Nội.
VSTK - 455
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
Tốt Động: còn gọi là làng Rét, một vùng đất thấp và lầy lội, cũng là một vùng đồng chiêm trũng. 67 Chúc Động: cách Tốt Động 6 km về phía Đông Bắc và phía Tây Ninh Kiều. Hai con đường từ Ninh Kiều đến Cao Bộ đều phải đi qua vùng Chúc Động, nay là Chúc Sơn, xã Ngọc Sơn, huyện Chương Mỹ Hà Tây. 68 Chuông Quy Điền: ở thôn Thanh Bảo, huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Nội có chùa Một Cột. Sử cũ về đời nhà Lý có viết rằng: nhà Lý đúc quả chuông lớn đặt ở chùa Một Cột nhưng đánh không có tiếng kêu ngân cho nên đem vứt chuông đó xuống ruộng rùa; ruộng nầy trũng, ẩm thấp nên có nhiều rùa cho nên gọi là ruộng tụ hợp của loại rùa tức Quy Điền (quy là rùa. điền là ruộng). 69 Vạc Phổ Minh: là chiếc vạc lớn để ở chùa Phổ Minh, gần thành phố Nam Định, tỉnh Nam Hà. Chùa nầy được xây vào năm 1262, đời Trần Thánh Tông. 70 Tây Phù Liệt: thuộc huyện Thanh Trì ngày nay. 71 Sông Đại Lũng: là sông Đáy hiện nay. 72 Sông Hát: ở xã Hát Môn, huyện Phú Thọ 73 Đông Bộ Đầu: tức là bến Đông Tân sông Nhị Hà, nay ở khoảng dốc Hàng Than, phía trên cầu Long Biên, Hà Nội. 74 Sông Lô: tức sông Hồng ngày nay. 75 Cầu Tây Dương: là cầu Giấy ngang qua sông Tô Lịch, huyện Từ Liêm, Hà Nội. 75bis Bốn Đạo: 1-Tây Đạo gồm có Tam Giang, Tuyên Quang, Hưng Hóa Hóa,Gia Hưng; 2- Đông Đạo gồm có các lộ Hồng Sách thượng, Hồng Sách hạ, và trấn Yên Bang; 3- gồm có lộ Bắc Giang và trấn Thái Nguyên; 4- Nam Đạo gồm các lộ Khoái Châu, Lý Nhân, Tân Hưng, Kiến Xương và Thiên Trường. 76 Núi Không Lộ: ở huyện Thạch Thất, trên một ngọn núi ở tỉnh Sơn Tây có chùa Lạc Lâm, đời nhà Lý có nhà sư tên là Không Lộ tu ở đó vì vậy lấy tên nhà sư đặt cho ngọn núi (trích dẫn cước chú trong ĐVSKTT/BK/Q.X/24b). 77 Trần Phong: người xã Ma Thiện, huyện Chí Linh, đầu hàng và được quân Minh ban cho chức Đô ty. 78 Trần An Vinh: đầu hàng và được quân Minh ban cho chức Đô chỉ huy. 78 bis Thành Điêu Diêu: ở huyện Gia Lâm, Hà Nội. 79 Thành Thị Cầu: nay thuộc thị xã Bắc Ninh, tỉnh Hà Bắc. 80 Thành Xương Giang: nay là thị xã Bắc Giang, tỉnh Hà Bắc. 81 Ngoại Lang: một chức quan ở hàm tòng lục phẩm không có nhiệm vụ cố định, được quyền tham dự bàn chính sự. Sáu bộ là: Lại bộ, Binh bộ, Lễ bộ, Công bộ, Hộ bộ, Hình bộ. 82 Bồ Đề: ở phía bắc sông Hồng, ở thôn Phú Hữu, huyện Gia Lâm ,vì có cây bồ đề nên mới gọi như vậy. 66
VSTK - 456
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43
Chiến xa đặc biệt: ĐVSKTT gọi các xe nầy là xe phần ôn, xe phi mã. Xe Phần ôn là loại xe có 4 bánh, căng dây làm khung che bằng da trâu, bên dưới có thế núp ẩn được chục người; sắt, lửa, đá, gỗ không thể xuyên phá nổi xe nầy. Xe phi mã cũng là một loại xe để đánh thành. 84 Tây Phù Liệt: xem chú thích 70 ở trên. 85 My Động: xã Hoàng Mai, huyện Thọ Xương (nay thuộc quận Hai Ba Trưng), Hà Nội. 86 Cửa ải Phả Lũy: Ở xã Đồng Đăng, huyện Văn Uyên, tỉnh Lạng Sơn, nay là Nam Quan còn gọi là Mục Nam Quan. 87 Mười điều kỹ luật quân đội: còn gọi là quân kỹ. Mười điều quân kỹ áp dụng cho nghĩa binh của Lê Lợi như sau: 1. Trong hàng quân huyên náo, không nghiêm. 2. Vô cớ gây kinh động, mê hoặc lòng quân. 3. Lúc ra trận không nghe theo tiếng trống hoặc nhì theo cờ hiệu để tiến tới. 4. Không nghe hiệu lệnh dừng quân. 5. Không chịu lui quân khi nghe hiệu chiêng. 6. Phòng thủ lỏng lẻo, rời bỏ điếm canh phòng, đào ngũ, bỏ trốn. 7. Không thi hành nghĩa vụ quân sự, lén mướn người khác đi thay. 8. Tham ô ăn tiền đút lót để không bắt lính. 9. Theo thói ưa ghét riêng làm đảo lộn công tội của người. 10. Gian ác, trộm cướp. 88 Tướng hiệu: là mẫu mực ra hiệu lệnh để cho các tướng áp dụng trong hàng quân của mình. Các tướng hiệu nầy như sau: 1. Nghe một tiếng súng lớn mà không có tiếng chiêng thì phải đến ngay để nhận lệnh của cấp trên; 2. Nghe hai hoặc ba tiếng súng lớn có kèm theo tiếng chiêng là báo động; 3. Khi có báo động khẩn cấp thì viên chấp lệnh (nhỏ cấp bậc hơn viên chánh đốc) phải nhanh chóng chỉnh đốn hàng ngũ, viên thiếu úy (nhỏ cấp bậc hơn đại tư mã) phải trình diện ngay để nhận lệnh; 4. Lúc lâm trận, kẻ nào lùi chạy, bỏ trốn, không tiếp cứu đồng đội thì bị chém; 5. Nếu hợp sức lo đem xác của đồng đội để mang về thì không có tội. 89 Tiêu hủy đồng ruộng, hoa màu: tức là áp dụng biện pháp vườn không nhà trống nhằm mục đích để cho giặc vào chiếm đóng nhưng giặc sẽ không còn gì để sinh sống sử cũ gọi là dùng kế thanh dã. 90 Cửa ải Chi Lăng: một cửa ải rất trọng yếu trên đường từ Phả Lũy đến Đông Quan, cách Phả Lũy khoảng 60 km, nay thuộc xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn. 91 Cửa Ái Lưu: trên đường từ Khâu Ôn đến Chi Lăng, nằm ở khoảng Lạng Nắc, vùng giáp giới hai xã Nhân Lý và Sao Mai, huyện Chi Lăng ngày nay. 83
VSTK - 457
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13
Núi Mã Yên: tức là gò Đảo Mả, còn gọi là núi Yên Ngựa, một hòn núi nhỏ không cao lắm, vào khoảng 40m cao, chu vi 300m, nằm ở phía Nam cánh đồng Chi Lăng. Dưới chân núi là đồng nước lầy lội, muốn lên núi thì phải bắc cầu mới qua được. 93 Tập kết: gom tụ tất cả về một nơi nhất định. 94 Giao Chỉ: tên gọi người Trung Hoa Tàu thường dùng để chỉ nước Đại Việt, thời thuộc Minh đổi gọi là Giao Châu. 95 Cung cấp phương tiện vận chuyển thủy bộ: gồm có 500 chiếc thuyền cho bọn Phương Chính, Mã Kỳ lãnh nhận. Trên bộ, cấp phát lương thảo cho bọn Sơn Thọ, Hoàng Phúc lãnh nhận. Giao trả hàng ngàn tù binh, hàng ngàn xe, ngựa do Mã Anh lãnh nhận. 96 Đại định: hoàn toàn ổn định, hòa bình, độc lập và tự chủ. 97 Đại cáo: tường trình, báo cáo tất cả mọi sự việc đã làm.. 92
KHẢO LUẬN: 1. Về việc Lê Lai liều mình cứu Lê Lợi 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37
Chuyện Lê Lai liều mình cứu Lê Lợi, bị quân Minh bắt được hầu hết sử sách cũ ghi chép nhưng lại không thấy nói tới trong ĐVSKT. Rất có thể là những điều viết về Lê Lai của các sử sách viết sau ĐVSKTT đã không phản ảnh đúng sự thật để che dấu một hành động nhầm lẫn hay một quyết định quá tay nào đó của Lê Lợi trong việc đối xử với các công thần đã từng nằm gai nếm mật, chung lưng đấu cật đánh đuổi giặc Minh và ngay cả việc hy sinh tính mạng của mình liều chết để cứu vớt Lê Lợi trong lúc nguy kịch ngặt nghèo. Lê Lai bị giặc bắt giết hay chính tay Lê Lợi đã lấy mạng sống của Lê Lai? Các sách, sử cũ như KĐVSTGCM và VSCMTY đều viết rằng rằng Lê Lai bị quân Minh bắt và giết đi. ĐVSKTB/thời Tây Sơn thì lại viết rằng quân Minh bắt Lê Lai về xử cực hình. ĐVTS/ Liệt Truyện/Chư Thần Truyện/Lê Quý Đôn cũng viết là Lê Lai bị quân Minh bắt và xử cực hình. Nhưng trước đó, trong phần ĐVTS/ Đế kỷ viết về Lê Lợi có chép chuyện Lê Lai và viết: ". . .Lê Lai chống cự đến kiệt sức thì bị bắt, quân Minh dẫn Lê Lai về thành Đông Quan giết chết, chúng bèn lui quân, ta được thoát nạn". LTHCLC/Nhân vật chí của Phan Huy Chú có lời án như sau: "Còn như Lê Thạch làm tiên phong thường thắng; Lê Lai vì nước bỏ mình; Lê Triệu; Lê Lễ bày mưu lạ phá giặc đều là tướng giỏi có tiếng một thời, tiếc rằng chết vì việc nước, so với các tướng khác được cùng với nước cùng hưởng vui sướng thì có phần thiệt thòi, cho nên không riêng chép ra, chỉ nhân thể chép phụ vào sau thôi "; và phần phụ chú (b) thì
VSTK - 458
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43
viết về Lê Lai như sau :". . .Ông xin đi. Bèn mặc áo bào, đem quân xong vào hàng trận của giặc, đánh đến đuối sức, bị bắt. Vua (Lê Lợi) nhân dịp trốn thoát ". Như vậy, chỉ có một điều chắc chắn là Lê Lai có bị quân Minh bắt nhưng Lê Lai có bị quân minh giết hay không thì sách sử cũ đã viết lách tiền hậu bất nhất: chỗ nầy thì viết một cách mơ hồ là Lê Lai bị quân Minh áp dụng cực hình nhưng không nói loại cực hình gì bởi lẽ bị áp dụng cực hình không nhất thiết là phải bị giết; chỗ khác thì lại viết rằng Lê Lai bị quân Minh giết nhưng không nói rõ họ giết Lê Lai ở đâu, rồi họ vứt xác hoặc chôn vùi xác Lê Lai ở đâu? Lại nữa, tại sao Phan Huy Chú khi viết về Lê Lai thì lại dùng lối than thở tiếc rằng chết vì nước và cái chết của Lê Lai có phần thiệt thòi so với các tướng khác? Chết vì nước thì có gì gọi là đáng tiếc và thiệt thòi? Nhất định Phan Huy Chú không muốn hậu thế hiểu như thế. Tiếc rẻ và thiệt thòi có thể là vì cái chết của Lê Lai là một cái chết oan uổng, bất công, và mờ ám. Cái chết đến với Lê Lai bởi vì Lê Lai quá nôn nóng lo âu cho vận mạng và tiền đồ của đất nước đến mức độ bất đồng chính kiến, muốn đi ngược lại chủ trương và đường lối của một người thượng cấp đầy quyền lực lúc đó hay nói khác đi, Lê Lai chết không phải vì bị quân xâm lược nhà Minh bắt giết nhưng Lê Lai chết là do chính Lê Lợi đã tuyên bản án tử hình cho người bạn trung nghĩa đã từng dám hy sinh cả mạng sống để cứu thoát Lê Lợi khỏi nanh vuốt của quân xâm lược phương Bắc. Tại sao lại đưa ra nghi vấn nầy? Bởi vì trong ĐVSKTT của Ngô Sĩ Liên cũng như trong ĐVTS của Lê Quý Đôn khi chép về những sử cố xảy ra trong tháng Giêng năm Đinh Mùi (1427) đều có một đoạn viết đáng được khảo xét như sau: "Ngày 13, giết Tư mã Lê Lai; tịch thu gia sản, vì Lai cậy có chiến công, nói năng khinh mạn".(ĐVSKTT/BK/Q.X/27b), (ĐVTS/Q.I/Đế Kỷ Đệ nhất/27b/Lê Quý Đôn Toàn Tập). Tư mã Lê Lai nầy là ai? Còn Đô tổng quản Lê Lai chịu chết thay cho Lê Lợi là ai? Phải chăng là có 2 Lê Lai khác nhau hay là 2 người nầy trước sau chỉ là một? Hoặc là vì có sách sử viết đúng, có sách sử viết sai? Tại sao trong KĐVSTGCM và ĐVKTB/Tây Sơn không chép về việc Lê Lợi giết tư mã Lê Lai vào thời kỳ tháng Giêng năm Đinh Mùi (1427)? Sách sử nào ghi chép đúng, trung thực và sách sử nào luồn lách, bao che viết sai sự thật? ĐVSKTT cho biết rằng: Lê Lợi là người đa nghi, hiếu sát, (BK/Q.X/1a và 75 a). ĐVTS của Lê Quý Đôn viết: "Vua cảm động vì lòng trung nghĩa của ông (Lê Lai), trước hết sai người ngầm tìm di hài ông, đem về mai táng ở Lam Sơn" (Lê Quý Đôn Toàn tập/ĐVTS/Liệt Truyện/Chư Thần Truyện/108a).
VSTK - 459
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39
Việc tìm thấy được di hài của Lê Lai sau khi bị quân Minh bắt đem đi rồi giết chết là một chuyện mò kim đáy biển, khó tin. Năm Đinh Mùi (1427) là năm mà Lê Lợi ban hành tình trạng chiến tranh khẩn trương và áp dụng luật pháp quân sự một cách cứng rắn cho tất cả mọi người không phân biệt quan quân hay thường dân, không vị tình đối với bất cứ người nào. Riêng đối với các hàng quan và tướng lãnh thì Lê Lợi có ba điều răn dạy : 1- Chớ vô tình; 2- Chớ khinh nhờn; 3- Chớ gian tham. Trong khung cảnh đó, Lê Lợi đã thẳng tay trừng trị để răn đe và làm gương những người vi phạm quân pháp, dù kẻ bị trừng trị là đại công thần cũng không được tư vị hay gia giảm tội. Rất có thể sau khi đã dụ được quân Minh rượt theo mình để cho Lê Lợi thoát thân thì Lê Lai vẫn còn sống sót thoát khỏi sự truy đuổi của quân Minh, Lê Lai đã trở về vùng căn cứ an toàn của nghĩa quân và được Lê Lợi ban cho chức tư mã. Sau đó, ỷ mình có công lao cứu mạng cho Lê Lợi, Lê Lai đã không giữ ý tứ và xử sự không đúng theo thứ bậc của mình trong những cuộc bàn định chống quân xâm lược, đi đến mức khinh nhờn, bất đồng chính kiến với Lê Lợi khiến cho Lê Lợi phẫn nộ giết đi. Sau đó, để cho Lê Lợi không bị mang tiếng vong ân bội nghĩa, giết hại công thần, thì trong sử sách của đình thần triều Hậu Lê phải viết ra chuyện Lê Lai liều mình cứu chúa, bị quân Minh bắt giết đi. Dù sao, những điều khảo luận kể trên về cái chết của Lê Lai cũng chỉ là một nghi án nêu lên để người đi sau sáng suốt hơn có thể tìm ra được một giải đoán thích đáng và chính xác về trường hợp có tới 2 nhân vật lịch sử cùng có tên là Lê Lai nầy. Việt Sử Tân Khảo theo ý kiến cho rằng chỉ có một Lê Lai liều mình cứu chúa, còn tư mã Lê Lai bị Lê Lợi giết là một viên tướng nào đó cũng được mang họ Lê nhưng tên không phải là Lai như ĐVSKTT đã nhầm lẫn viết là Lê Lai. Bản ĐVTS của Lê Mạnh Liên, phần chữ hán chép tay lưu trữ trước đây tại viện khảo cổ Sài Gòn dưới số VS.15 chỉ ghi như sau: "Viên tư mã họ Lê, cậy có chiến công. . .", không có chữ "Lai". Trong Việt Sử Tiêu Án của Ngô Thời Sĩ cũng viết rằng: " Lê Lai khiêu chiến với quân Minh rồi chết" và không chép chuyện viên tư mã họ Lê (Bản dịch năm 1960 của hội Việt Nam Nghiên Cứu Liên Lạc Á Châu). Việt Sử Tân Khảo ngày nay cũng không chính thức ghi lại chuyện của viên tư mã họ Lê mơ hồ nầy. 2. Về cuộc chiến tranh của người dân đại việt để dành độc lập, tự do từ 1407 đến 1427
VSTK - 460
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
* Sử thần Ngô Thời Sĩ bàn: "Người Minh đặt nước ta làm quận huyện, tự cho rằng uy lực có thể áp chế được, sẽ không có người nào dám ngu động.Nhưng từ tháng 5 năm Đinh Hợi (1407), bắt được họ Hồ; tháng 8, Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân về, tháng 10 vua Hậu Trần Giản Định lên ngôi, rồi tiếp đến vua Trùng Quang, đâu đâu các hào kiệt cũng kéo nhau ra hưởng ứng, xé quần áo làm cờ, vác cuốc làm binh khí. Người ngã xuống thì cứ ngã, người đứng lên cũng cứ đứng lên, suốt 5,6 năm chiến tranh không dứt, giặc Minh mới biết là khó bình định, do đấy (giặc) mới ban chiếu sắc cầm quyền hoặc ủy dụ quân dân, hoặc khen thưởng an ủi thổ dân (thổ dân: là người dân địa phương của lãnh thổ bị giặc chiếm đóng). Đến bây giờ lại ban dụ cho các quan bố chánh phủ, huyện, và các hạng kỳ lão quan lại nhân dân những lòng nhân tha lỗi, những chính sách ca ngợi bậc trung lương những điều khoản giáo hóa để cho dân trở thành tục tốt tràn đầy sử sách. Nhưng Trương Phụ đi đến đâu cũng tàn nhẫn như hổ dữ nuôi con, lệnh của Hoàng Phúc đầy dẫy như lông bò. Vua Minh ở nơi thâm cung ngồi khoanh tay xa xôi hàng vạn dặm không biết rằng những bang nội thuộc đang khổ sở với quan văn tướng võ như vậy." Ở một đoạn khác Ngô Thời Sĩ cũng viết: "Vua Giản Định, vua Trùng Quang đều là con cháu của Trần Nghệ Tông, vua Giản Định nhu nhược, mê muội tài trí đều kém. Trần Triệu Cơ tôn phò lên để nối lại cái cơ nghiệp đã bị dứt, bọn Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân dìu dắt để chống lại nước láng giềng đương mạnh; chiến thắng ở Bô Cô đã hơi gây được thanh thế, nhưng lại đi nghi người trung nghĩa, nghe kẻ nịnh, bỏ vuốt nanh của mình cho kẻ thù được khoái chí, tự chuốc lấy bại vong chẳng đáng bàn tới nữa. Vua Trùng Quang trổi dậy trong bước đường cô quạnh. Người nâng bên hữu, người đỡ bên tả cũng chỉ có hai tướng họ Nguyễn họ Đặng nhưng khi đem quân đi đánh thì sơ hở, khi lui giữ thì chỉ giữ được một góc xứ Nghệ An, Diễn Châu ngoài ra không còn có đất dụng võ. Chiến thắng ở Bến La, Bình Than không đủ để bù được thất bại ở Linh Trường, Nguyệt Thường. Vua Trùng Quang đánh nhau với giặc Minh thường bị thua ở cửa biển Linh Trường và ở sông Nguyệt Thường. Nghĩa quân thì gần như tan rã, sứ gởi đi cầu phong thì không thấy về (chỉ việc Nguyễn Biểu đi sứ mắng chửi giặc bị giặc giết). Chí khí của Đặng Dung, Nguyễn Súy tuy không nhụt nhưng bọn giặc bạo ngược thường chiếm mất sự thuận tiện.. . .Vua chết vì nước, bề tôi chết vì vua. Sau thời hai vua Hồ, nhà Trần lại chưa mất được 7 năm vì trời đã phát sinh ra cha con Đặng Tất, Đặng Dung, Cảnh Chân, Cảnh Dị và Nguyễn Súy làm người phụ tá cho Hưng Khánh, Trùng Quang. Không có 5 người ấy thì nhà Trần không thể hồi phục dù là chỉ tạm thời nhưng nếu 5 người đó chưa chết thì nhà Trần cũng chưa mất.. Cứ xem Đặng Tất, Cảnh Chân bị hại vì Hưng Khánh; Đặng Dung, Cảnh Dị lại lập một vua, cố sức với dòng họ nhà Trần, lặn lội vất vả, liều sống liều
VSTK - 461
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24
chết, chỉ biết có nước mà chẳng nghĩ tới tình nhà, chỉ biết có vua mà quên cả bản thân mình.. Đặng Dung tự mình nhảy lên thuyền giặc suýt bắt sống được giặc nhưng tiếc thay không tìm được tướng giặc ở đâu; Nguyễn Súy sai người đi ám sát giặc Trương Phụ, một người đầu thuyền, một người mũi thuyền, gươm giáo chật đất, sức cùng lực kiệt mà chí khí vẫn hăng; đùa với rồng rắn, hét với hổ lang, coi thường như nắm đồ vật trong tay, thề sống chết với bọn giặc, thực là dũng cảm oanh liệt! Bậc anh hùng cái thế không lập được công nghiệp phi thường mà đành ôm hận với cái chết, hàng trăm đời sau có ai là không phục cái chí khí, cái tiết tháo quyết liệt và thanh cao của các ông?" * Sử thần Ngô Sĩ Liên cũng có lời bàn về thời Kỳ Hậu Trần như sau: "Vua Trùng Quang với một lữ quân mong khôi phục nước, trong lúc loạn lạc lưu ly, cũng như lấy một cây gỗ để chống cả một tòa nhà đã nghiêng đổ. Há lại không biết rằng, thế không thể cứu vãn được hay sao? Nhưng hãy làm hết trách nhiệm mà mình nên làm, may ra có thể kéo lại thời mệnh. Còn như bị giặc bắt đem về, giữ nghĩa không chịu nhục đành nhảy xuống nước chết, cùng mất với Nước đúng như câu nói "Quốc quân chết vì xã tắc". Vua thực là người như thế. Còn các bề tôi của vua như Cảnh Dị chửi giặc muốn cho chóng bị giết; Nguyễn Biểu kể tội ác của giặc rồi chết, tất cả đều rạng rỡ đáng khen.. Ôi, những kẻ bề tôi trung với nước dù chết vì nghĩa cũng không có tội gì, mà tiếng thơm còn mãi; những kẻ bất trung phản quốc cũng chẳng tránh được cái chết mà còn lại tiếng xấu đến nghìn năm. Đúng như thế đấy"(ĐVSKTT/BK/Q.IX/24a,24b). 3. Về cuộc tụ nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi từ năm 1416 đến 1427
25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
Có những lời bàn luận như sau: * Ngô Sĩ Liên nói: "Loạn lạc tột cùng thì trị bình sẽ tới, đó là vận hành của trời. Sự loạn lạc bờ cõi nước Việt ta thì chưa có thời nào cùng cực như thời ấy, các lần dấy nghiệp đế vương chưa bao giờ khó khăn như thời ấy. Triệu Vũ Đế nhân nhà Doanh Tần loạn lạc, Trung Quốc không có người đứng đầu, bọn hùng trưởng tranh giành nhau để tranh dành đất đai thì cũng chưa gọi là khó. Đinh Tiên Hoàng nhân khi họ Ngô mất nước, 12 sứ quân tản mác cát cứ không có kỷ cương mà gây dựng cơ nghiệp thì cũng chưa gọi là khó. Nhà Lê (chỉ nhà Tiền Lê do Lê Hoàn sáng lập) thay nhà Đinh, nhà Lý thay nhà Lê, nhà Trần thay nhà Lý đều là thời nối theo buổi thái bình, nhân có suy loạn thì càng dễ lắm. Đúng ra, tất cả đều là cướp ngôi dành nước của người ta chứ chẳng phải là hành động nhân nghĩa có thể để lại tiếng thơm cho thiên hạ hay dùng làm gương sáng cho mọi người noi theo giống như gương sáng của vua Thang, vua Vũ đã làm sự đổi đời. Nhà Hồ cướp ngôi, tự chuốc lấy bại vong, giặc Minh bạo tàn gian giảo hòng thay đổi bờ cõi, giả nhân giả nghĩa để diệt nước người ta, giết hại, làm càn, thả VSTK - 462
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
tay chém giết dân ta, con thơ mọn mắc vòng thảm họa gươm đao chết chóc, quăng xác, mổ thây.. Người lớn thì thì chạy sang Chiêm Thành về phía Nam, phía Tây trốn sang Đại Lý, làng xóm hoang tàn, xã tắc thành gò đống làm hang làm ổ cho thỏ ở, làm bãi cho hưu ăn, bãi hoang cho chim đậu, núi cao cho hổ náu mình. Rồi giặc chia châu, đặt huyện, đào hào, đắp lũy đưa quân sang đồn trú trấn thủ ở hơn 20 năm, đổi phong tục thành người phương Bắc tóc dài trắng răng (phong tục của người Tàu để tóc dài, răng trắng, phong tục của người Đại Việt lúc đó là tóc ngắn, răng nhuộm đen). Thật là loạn lạc tột cùng chưa từng thấy có! Vương (chỉ Lê Lợi) sinh vào thời buổi ấy, bẩm chất văn võ bẩm sinh, đương buổi trời đất đoái nhìn, không thể ngồi yên lấy mắt ngó nhìn dân chúng lầm than, quân giặc ngang ngược. Nghĩ rằng việc nhân nghĩa thay trời đánh giặc nếu không là vương đảm trách thì còn ai dám cán đáng. Nhưng vẫn lo rằng vận hội chưa thông, việc khó khăn cùng tột khó có thể thành đạt, làm nên tức khắc, cho nên mới tụ hội bầy tôi cùng chung một chí hướng, rèn kiếm, ẩn náu nơi Lam Sơn, đợi thời cơ, chờ địch sơ hở. Gặp việc thì đắn đo suy xét không hấp tấp làm càng, tìm nơi hiểm yếu mà đặt binh, lấy quân ít đánh địch nhiều, tùy tình hình mà ứng biến thay đổi. Tịch thu, gom góp khí cụ lương khô của giặc để dùng đánh lại giặc, củng cố xây dụng lực lượng trong 10 năm bằng tất cả tâm trí nghị lực. Chính nhờ ở mưu sâu, tính kỹ cho nên hể đánh thì thắng, vây thành thì hạ được. Đánh một trận dẹp yên Hoan châu, Hóa châu; trận thứ hai thì bình định châu Diễn, châu Ái. Khi phất cờ đại nghĩa thì khí thế nghiêm minh. Vượt biển thúc quân khiến cho quân giặc từ Cổ Lộng, đến Chí Linh đều khiếp vía, hành quân trèo đèo vượt suối mà giặc ở Tam Giang, Đông Quan phải bay hồn. Các tướng giặc Vương Thông, Phương Chính thế cùng lực tận co ro chờ viện binh tiếp cứu. Liễu Thăng hướng Bắc, Mộc Thạnh phía Tây ào quân xăm lấn mong tiếp nối việc hung tàng bạo ngược của thời Hạ Kiệt. Nực cười cho hai đạo viện binh, khác gì mang càng châu chấu cho đá xe, đúng là lũ điên khùng chẳng khác gì đem thân tự trói. Giặc giống như ác thú đã bị bắt nhốt vào chuồng, vẩy đuôi hiền thục xin thương, thì vương cũng mở lưới khoan nhân mà tha cho, mười vạn quân đầu hàng được toàn tính mạng cho trở về phương Bắc. Lấy chí nhân thay cường bạo, bốn biển khắp nơi đều sợ uy chăm lo tiến cống, mọi người chiêm ngưỡng nhớ ơn vì được sống lại, tốt đẹp biết nhường nào ! Thế mới biết, khi cực loạn thì đời trị càng thịnh, lòng nhân sâu thi người nhớ tất xa". (ĐVSKTT/BK/Q.X/52b, 53a,b, 54a,b). * Sử thần Ngô Thời Sĩ bàn: "Khi giặc Minh xâm lấn Phương Nam thì bọn chúng cho vùng Lạng Sơn là chỗ yết hầu liền đắp nhiều thành lũy, xếp đất đá mà làm thật cao rộng, kiên cố, Phả Lũy và Chi Lăng có thành xây bằng gạch. Thành Chi Lăng dựa lưng vào núi đá, qua một cái khe thi mới tới được vòng thành, cửa Nam của thành có một hòn đá
VSTK - 463
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
nằm khắc hàng chữ "Hoàng tráng nhị thập đội" trông như mới. Bên cạnh hòn đá thì gạch nung chất đống như gò; hào, ao thì chỗ nào cũng có. Đó là công tác xây hào đắp lũy của giặc Minh làm kế cố thủ và từ đó có thể suy ra được rằng các thành khác của giặc đều tương tựa như thế. Xét ra việc đặt nơi hiểm trở xung yếu dĩ nhiên là việc cần thiết không thể lơ là thiếu sót, tuy nhiên được lợi về địa thế thì không thể cùng sánh với việc được lòng dân, giặc Minh muốn chiếm đất nhưng lại không lo đến việc vỗ về ngời dân trong những nơi bị chúng chiếm đóng. Người dân đã cùng cực dưới chính sách cai trị cứng rắn của Hồ quá lâu, rồi thì bệnh tật, đói khát binh đao liên miên, thương vong, chết chóc gần hết. Bấy giờ bọn quan lại của giặc Minh không một chút thương sót dân lành, mệnh lệnh thì dày đặc như lông bò, chính sự thì hà khắc như loài hùm dữ mọc thêm cánh, bắt dân khẩn hoang làm ruộng, đặt lệnh cấm và giới hạn tư nhân sản xuất và tiêu dùng muối, nông dân, thương nhân thống khổ; thổ quan, thổ lại, nhà nho, thầy thuốc, thầy bói lần lượt bị đuổi; từ học trò, người có học cho đến thứ dân đều bị khổ ải bắt làm lụng xây cất cho giặc; đường thủy bộ đi sang Yên Kinh thì chia thành trạm để kiểm soát việc đi lại của người dân; bắt đãi vàng bạc, lặng mò trân châu, bòn vét tài nguyên ở rừng núi, biển khơi; chặt đốn cây hương liệu, bắt voi trắng khiến cho chim muông, thú rừng bị khuấy động tuyệt giống. Thế mà còn mưu toan củng cố thành lũy, chia quan ty, đặt thủ bị để mãi mãi có quận huyện đất lành tức là đã không đạt được điều căn bản mà chỉ dấy lên nhất thời, để thỏa mãn dục vọng trong khi còn vắng bóng người lãnh đạo chân chính. Chẳng bao lâu vương (Lê Lợi) ứng vận ở Lam Sơn, nghĩa quân đi tới đâu thì giặc Minh không thể cự đương được, thành giặc cướp được nhưng giặc lại không thể giữ được. Quan quân văn võ độc ác của giặc Minh hoặc bỏ chạy, hoặc bị giết; tướng giặc Hoàng Phúc cũng bó tay bị bắt làm tù binh, hả được lòng oán hận của quỉ thần, nhân dân đã rửa nhục cho đất nước. Đến nay di tích của giặc Minh cũ chỉ còn lũy hoang, thành đổ, lau cỏ mọc đầy, gai góc khắp nơi. Quan binh của giặc xăm lăng không trở về nước Tàu còn tới vài chục vạn, đời đời đồng hóa với dân nước ta, người Tàu cho là điều sỉ nhục và ân hận lâu đời không thể gột rửa. Tham công lớn, ích lợi tiêu tan!" (ĐVSKTB/TBK/Tây Sơn/ Q.X/ 54b, 55a, b, 56a). * Tự Đức trong KĐVSTGCM có lời phê như sau: Bình Định vương là bậc tài trí sáng suốt, lại giỏi dụng binh, các tướng chẳng ai sánh kịp. Vì thế cho nên chiến thắng được quân địch mạnh lớn, khai sáng được cơ nghiệp, dõi truyền được quốc thống: thật là xứng đáng!" (CB/Q.XIV/20) * Lê Quý Đôn trong ĐVTS có lời bàn rằng: "Vua Thái Tổ ta (chỉ Lê Lợi), có tài dùng binh, khi mới dựng cờ khởi nghĩa, chỉ vỏn vẹn có hai trăm quân thiết đột, hai trăm dũng sĩ và với ba trăm nghĩa binh. Thế mà phía Tây, Ai Lao phải thần phục, phía Bắc dẹp hết giặc Ngô (giặc
VSTK - 464
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
13
14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41
Ngô là tiếng gọi thường được dùng trong sử cũ của Việt Nam để chỉ chung những đoàn quân xâm lược đến từ Trung Hoa). Xét về kế mật, mưu kỳ, phần nhiều là do tài thao lược. Vua lại tinh tường việc chính trị; khi mới đến hành doanh Bồ Đề, đã tuyển chọn hiền tài để xử dụng, đặt quan chia chức, trừ tàn cấm bạo, thương yêu quân dân, thu hút các bộ lạc, phòng bị nơi biên cương. Thực đã có ngay một quy mô đại định thiên hạ (Lê Quý Đôn Toàn Tập/ĐVTS). * Thiện Đình Đặng Xuân Bảng trong VSCMTY xét: "Từ khi quân nhà Trần bắt Ô Mã Nhi đến nay, Phương Nam (chỉ nước Đại Việt) đắc chí với Phương Bắc (chỉ nước Trung Hoa), chưa bao giờ có thắng lớn như lúc nầy" (tức là lúc nghĩa quân của Lê Lợi bắt được các tướng của quân Minh là Thôi Tụ và Hoàng Phúc cùng với hơn 3 vạn tù binh). 4. Chiến thắng Lịch sử Chi Lăng - Xương Giang Chi Lăng là một cửa ải hiểm yếu nằm trên đường từ Lạng Sơn đến Đông Quan. Đó là một thung lũng nhỏ có diện tích vào khoảng 4 km vuông. Phía Tây là một dãy núi đá vôi lởm chởm, sườn núi thẳng đứng, phía Đông là núi rừng dày đặc trùng điệp. Giữa thung lũng Chi Lăng có 5 ngọn núi nhỏ cùng với những vũng, đầm lầy lội. Với vị trí và địa hình như thế, Chi Lăng là mồ chôn thường xuyên các đạo quân xâm lược đến từ Trung Hoa như quân Tống, quân Nguyên trước đây. Tuy nhiên trận Chi Lăng nổi tiếng và vang vội nhất trong lịch sử là do chiến công của nghĩa quân Lam Sơn vào tháng 9 âm lịch, năm Đinh Mùi (1427). Quân binh của Lê Lợi đã bố trí trận địa mai phục sẵn trong ải và sắp xếp quân đánh dụ địch từ trên đường tiến quân của địch để dẫn đưa địch lọt vào vào ổ phục kích. Tướng Minh Liễu Thăng với 10 vạn quân dưới quyền đã tỏ ra chủ quan, kiêu căng và khinh địch. Khi tiến gần tới cửa ải, tướng giặc đơn thân chỉ huy một đội quân cỡi ngựa xung trận tiến lên trước để mở đường. Ngày 20 tháng 9 âm lịch, năm Đinh Mùì (1427), toàn bộ đoàn quân mã tiên phong mở đường của Liễu Thăng lọt vào trận địa mai phục của nghĩa quân do Lê Sát và Lưu Nhân Chú chỉ huy, quân Minh hoảng hốt, đội ngũ rối loạn, bị tiêu diệt gọn, Liễu Thăng bị chém chết bên sườn núi Mã Yên. Nghĩa quân thừa thắng tiến công liên tục, tiêu diệt hàng vạn quân Minh. Kế tiếp, quân Minh cố chấn chỉnh đội ngũ, tiến về Đông Quan. Phó tướng Lương Minh lên thay thế Liễu Thăng để chỉ huy. Ngày 25 tháng 9 âm lịch, năm Đinh Mùi (1427), quân Minh lại bị chận đánh quyết liệt ở Cầu Trạm (nay là vùng Kép và một ở một số xóm phía Tây Nam xã Hương Sơn, huyện Lạng Giang, tỉnh Hà Bắc ngày nay), tướng Lương Minh bị chém chết tại trận.
VSTK - 465
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
Ngày 28 tháng 9 âm lịch, 2 tướng của nhà Minh là Thôi Tụ và Lý Khánh dẫn đám quân tơi tả gắng gượng tiến về thành Xương Giang vì đinh ninh thành nầy vẫn còn ở trong tay của quân Minh. Với trận phục kích của nghĩa quân ở một vùng đồi đất giữa Cầu Trạm và Xương Giang (vùng Phố Cát, khoảng xã Xương Lâm, huyện Lạng Giang, Hà Bắc ngày nay) khiến tướng Lý Khánh quá khiếp sợ nên phải tự sát vào ngày 28 tháng 9 âm lịch năm Đinh Hợi (tức ngày 18 tháng 10 dương lịch năm 1427). Thôi Tụ một mình dẫn đám tàn quân hướng nhanh về Xương Giang nhưng đến nơi thì mới vỡ lẽ là thành Xương Giang đã vào tay của nghĩa quân 10 ngày trước khi quân Minh tràn vào biên giới Đại Việt. Quân Minh ngơ ngác kinh hoàng, phải đóng quân lại ngay giữa cánh đồng trống trải. Nghĩa quân đưa quân tăng cường trùng điệp bao vây. Ngày 15 tháng 10 âm lịch, năm Đinh Mùi (ngày 3 tháng 11 dương lịch, năm 1247), nghĩa quân đồng loạt tấn kích, tiêu diệt gọn toàn bộ quân Minh, bắt sống tất cả các tướng chỉ huy, thu được vô số vũ khí, quân trang và lương thực. Các quân binh người Minh nào chạy thoát thì lại gặp người dân quê địa phương tóm gọn, trong vòng 5 ngày không sẩy chạy một ai. Sử cũ Đại Việt viết rằng: những quân giặc chạy trốn thì trong khoảng không đến năm ngày đều bị những dân chăn trâu, những người dân kiếm củi bắt bằng hết, không sót tên nào). Chưa đầy một tháng, phòng tuyến Chi Lăng-Xương Giang đã đè bẹp và tiêu diệt hầu hết 100,000 ngàn quân tiếp viện của đoàn quân xâm lược. Chiến thắng vang vội nầy là kết quả sáng tạo khôn khéo của một bộ tham mưu tài giỏi, có kỹ luật, dùng chiến lược lấy ít đánh nhiều phối hợp với kỹ thuật đánh phục kích đầy biến hóa, hiệu nghiệm, chiến đấu với một lòng dũng cảm hy sinh vô song của toàn thể vua, quan, tướng, lính và dân chúng. Chiến thắng Chi Lăng-Xương Giang là chiến thắng quyết định cho công cuộc chiến tranh đuổi giặc ngoại xâm và giải thoát nhân dân Đại Việt khỏi ách nô lệ của ngoại bang bởi vì, nghe tin đạo quân của Liễu Thăng bị tiêu diệt, đạo quân của tướng già đầy kinh nghiệm Mộc Thạnh đang dằn co với nghĩa quân ở vùng biên giới đã phải kinh hồn bạt vía vội tháo chạy. Nghĩa quân truy kích giết được hàng vạn , bắt sống hàng ngàn quân nhà Minh. Hai đạo viện binh của người Minh bi tiêu diệt mất tăm hơi khiến cho tướng giặc còn kẹt lại ở Đông Quan là Vương Thông và nhiều tướng khác của nhà Minh tại những thành khác hoàn toàn bị cô lập và tuyệt vọng, phải xin đầu hàng và chịu gục đầu thề ước để dược quân dân Đại Việt tha chết cho rút quân về Trung quốc. Không những cho quân xâm lược được rút lui an toàn về nước, quân và dân Đại Việt còn cung cấp cho họ lương thực, và phương tiện vận chuyển để họ thi hành hoà ước rút quân. Đây là một nghệ thuật kết
VSTK - 466
1 2 3 4 5 6
7
8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42
thúc chiến tranh hết sức ngoạn mục thể hiện ý chí hoà bình và tình cảm nhân đạo hiếm có của dân tộc Đại Việt, có thể nói đó là lần đầu tiên xảy ra ở vùng đất Á Châu xa xôi nầy. Ngày 17 tháng 12 âm lịch năm Đinh Mùi tức vào khoảng ngày 3 tháng 1 đương lịch năm 1428, kẻ xâm lược cuối cùng bị quét sạch ra khỏi bở cõi nước Đại Việt. 5. Nguyễn Trãi và bản Bình Ngô Đại Cáo Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, sinh năm 1380 tại Thăng Long, quê vốn ở làng Chi Ngại (Chí Linh, Hải Hưng), nhưng sau dời về làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc, Hà Đông (Thường Tín, Hà Tây) là con của Nguyễn Phi Khanh, cháu ngoại Trần Nguyên Đán, đỗ tiến sĩ (Thái học sinh) năm 21 tuổi vào cuối đời nhà Trần (1400), có ra làm quan dưới triều đại nhà Hồ. Lúc quân Minh xăm lăng, cuộc kháng chiến của nhà Hồ thất bại, Nguyễn Phi Khanh bị quân Minh bắt nhưng Nguyễn Trãi thoát được, sau đó tướng nhà Minh là Trương Phụ bắt ép Nguyễn Phi Khanh phải viết thư gọi ông ra đầu thú rồi giam lỏng ông ở thành Đông Quan để tìm cách dụ dỗ, mua chuộc nhưng ông nhất định không chịu hợp tác, và suýt bị Trương Phụ giết chết. Khi các phong trào chống Minh trong nước bắt đầu nổi dậy, Nguyễn Trãi mới tìm cách trốn đi, lặng lội vào Thanh Hóa tìm gặp Lê Lợi ở Lỗi Giang với tập Bình Ngô Sách, trong đó vạch rõ những đường lối và phương hướng cơ bản để chống quân ngoại xâm , giành lại độc lập và chủ quyền cho đất nước Đại Việt. Mùa Xuân, năm Đinh Mùi (1247), Nguyễn Trãi được Lê Lợi cho giữ chức triều liệt đại phu, nhập nội hành khiển, thượng thư bộ Lại, làm việc viện Khu mật. Các thư từ đi lại giao dịch với quân Minh và những bài hiểu dụ gửi cho các tướng của quân Minh trú đóng trong các thành do họ chiếm được đều do ông soạn. Sau Khi Lê Lợi nghe theo lời cố vấn của ông tha cho đoàn quân bại trận nhà Minh về nước , ông vâng mệnh soạn bài Bình Ngô Đại Cáo, một bản tuyên ngôn độc lập của một dân tộc nhỏ bé nhưng rất anh hùng trong vùng trời châu Á. Sau chiến thắng của nghĩa quân trên hai mặt trận Tốt Động và Chúc Động, quân Minh càng ngày càng bị lún sâu vào thế phòng thủ, thụ động, không dám lựa chọn một chiến trường nhất định nào để tranh đua với nghĩa quân nữa, trong khi nghĩa quân Lam Sơn thừa thắng phát động mạnh mẽ các cuộc vây bủa, tiến công trên khắp các chiến trường. Thành Đông Quan và nhiều thành khác do quân xâm lược tạm thời chiếm đóng nay đang trong tình trạng sôi bỏng, sống dở chết dở, tiến thối đều tắt nghẽn, đành phải ngóng ngồi chờ viện binh cứu viện từ Trung Quốc đồng thời cũng giả trá xin cầu hòa thương lượng để dùng kế sách hoãn binh. Nguyễn Trãi được Lê Lợi trao trọng trách thương
VSTK - 467
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
lượng với giặc. Mặc dù biết quân Minh man trá dùng kế hoãn binh để chờ người của họ tiếp cứu, nhưng Nguyễn Trãi vẫn được lệnh tiếp tục cuộc đàm phán. Trong công tác nói chuyện phức tạp nầy, Nguyễn Trãi lúc nào cũng cho quân xâm lược thấy chính nghĩa và thế nhất định phải thắng của toàn dân Đại Việt, đồng thời lột trần bản chất phi nhân, phi nghĩa, tàn bạo, của quân Minh để rồi nói cho họ biết rõ lý do tại sao họ chắc chắn sẽ bị thảm bại:"Nay tính dùm cho các ông thì thấy có 6 điều sau đây khiến các ông phải thua: Nước lụt ngập tràn, tường rào nghiên đổ, lương khô rơm cỏ túng cùng, ngựa chết, quân đau. Đó là điều phải thua thứ nhất. Xưa Đường Thái Tông chỉ cần bắt được Kiến Đức thì Thế Sung phải ra hàng. Nay ở những nơi quan ải hiểm yếu đều có quân voi của nghĩa quân đồn giữ, thảng viện binh các ông có tới thì nhất định phải thua. Viện binh đã thua thì bọn các ông tất bị bắt. Đó là điều phải thua thứ hai. Nước Trung Hoa của các ông hiện nay, quân hùng tướng mạnh, ngựa tốt đều tập trung đưa lên mạn phía Bắc để phòng bị quân Nguyên, còn hơi đâu nữa để mà ghé mắt dòm ngó che đỡ cho các ông ở phía Nam nầy. Đó là điều phải thua thứ ba. Luôn luôn gây chiến, dấy động can qua, người sống không vui, nhao nhao thất vọng. Đó là điều phải thua thứ tư. Gian thần chuyên chính, chúa yếu giữ ngôi, xương thịt hại nhau, gia đình sinh biến. Đó là điều phải thua thứ năm. Nay chúng tôi dấy nghĩa binh, trên dưới một lòng, anh hùng lừng lẫy, quân hùng tướng giỏi, khí giới sáng ngời, vừa cày ruộng vừa đánh giặc còn trong thành thì quân binh của các ông đầu đau lưng mỏi, chờ giờ thảm bại diệt vong. Đó là điều phải thua thứ sáu" (Nguyễn Trãi Toàn Tập) Trong giai đoạn chuẩn bị đón đánh đoàn quân cứu viện của quân Minh đến từ mạn Bắc, công tác vận động, kêu gọi và thuyết phục kẻ địch được đẩy mạnh để hỗ trợ cho cuộc tấn công toàn diện bằng quân sự của nghĩa quân. Nguyễn Trãi được giao nhiệm vụ trực tiếp điều hành và thực hiện công tác dân vận và địch vận một cách linh hoạt và hiệu quả. Đối với quân xâm lược hung hăng, lì lợm, hiếu chiến như Phương Chính thì Nguyễn Trãi vạch mặt chỉ tên, đả kích không nhân nhượng: "Ta nói với ngươi, tên giặc dữ Phương Chính kia: đạo làm tướng thì phải dùng nhân nghĩa làm gốc, trí dũng giúp thêm. Nay lũ ngươi chuyên lừa dối phỉnh gạt, giết hại người vô tội, xô đẩy người vào chỗ chết mà không biết xót thương. Các việc làm đó của lũ bây thì trời không dung, đất không tha, quỉ thần phẫn nộ, người đời oán ghét, cho nên dù cứ năm tháng chinh phạt liên miên, nhưng đánh chỗ nào thì thua chỗ đó". Đối với kẻ ngoại thù thì giọng lưỡi của Nguyễn Trãi thật đanh đá và sôi nổi. Nhưng đối với những kẻ bỏ dân tộc theo quân ngoại xâm thì
VSTK - 468
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25
Nguyễn Trãi lại kiên trì, nhẫn nại và ôn hòa thuyết phục để kêu gọi, đánh thức lương tri những kẻ đi lầm đường hãy quay trở về với dân tộc. Tình cảm quê hương, tình yêu tổ quốc giống nòi, tình yêu gia đình được Nguyễn Trãi khơi dậy để kêu gọi những hạng người vong bản phải tự cứu mình, cứu gia đình mình và cứu tổ quốc mình: Người xưa có câu: Chim quạ bay xa, quay về tổ cũ, cáo chồn lúc chết quay đầu hướng về núi xưa. Loài cấm thú còn như thế huống nữa là người! Các ngươi vốn người Âu Việt, thuộc dòng giống văn minh. Trước nhân nhà Hồ mất nước giặc Ngô lăng loàn, có người thì thân bị giam hãm ở tặc đình, có người thì hám danh nên bị ràng buộc vì quan chức, tất cả đều là những chuyện chẳng đặng đừng mà các ngươi bất đắc chí phải làm chứ tự trong thâm tâm của các ngươi thì không phải thế.. . Nay, nếu bọn các ngươi biết sửa lòng đổi dạ, bỏ nghịch mà trờ về với thuận, hoặc cứ ở lại làm nội ứng cho quân ta, hoặc ra đầu hàng với nghĩa quân thì các ngươi không những rửa được mối hổ thẹn ngày trước mà cũng được phần soi xét về sau. Ví bằng các ngươi còn tiếc tham quyền chức của giặc thí cho mà tiếp tục chống cự nghĩa binh, khi thành bị quân ta chiếm đóng thì tội các ngươi tất nặng hơn bọn giặc Ngô đấy" (Nguyễn Trãi Toàn Tập). Trước sự vây hãm trùng điệp và tấn công quân sư liên tục của nghĩa quân kết hợp với chiến dịch chiêu dụ và địch vận của Nguyễn Trãi, quân Minh trong các thành Nghệ An, Diễn Châu, Tam Giang, Điêu Diêu, Thị Cầu đều lục tục ra hàng. Hai thành Khâu Ôn và Xương Giang, hai điểm kháng cự cuối cùng của quân Minh cũng bị tiêu diệt trước khi viện binh của họ tràn sang biên giới Đại Việt.
Ψ 6. Bản Bình Ngô Đại Cáo 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35
Nguyễn Trãi là một thiên tài lỗi lạc, một đại công thần dựng nước. Ông có văn chương mưu lược, tài ba thao lược, kinh bang tế thế. Ông đã đem hết sở trường, tài năng của mình để phục vụ cho tổ quốc với cả con tim và nghị lực. Ông là một người anh hùng của dân tộc, một nhà nho chân chính, một tướng lãnh phi phàm, một nhà cố vấn tham mưu đại tài với đầy đủ nhân, trí, dũng, hiếu, trung. Bản Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi là một thiên hùng ca vang vội làm cho bất cứ loại quân xăm lược nào khi nghe nói tới đều phải e dè suy nghĩ. Toàn væn bản Đại Cáo của Nguyễn Trãi nhÜ sau: VSTK - 469
Bình Ngô Đại Cáo 1
VSTK - 470
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
Bình Ngô Đại Cáo 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
VSTK - 471
Bình Ngô Đại Cáo 1
2
VSTK - 472
3
4
5
6
7
8
9
10
11
Bình Ngô Đại Cáo 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
VSTK - 473
Bình Ngô Đại Cáo 1
VSTK - 474
2
3
4
5
Phiên âm bài Bình Ngô Đại Cáo
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32
1 Cái văn: nhân nghĩa chi cử , yếu tại an dân ; điếu phạt chi sự , mạc tiên khử bạo . duy ngã Đại Việt chi quốc . thực vi văn
2 3 4 hiến Hán thủ chi ĐÜ©ng bại bang Tống , , Nguyên nhi sÖn nhi Triệu xuyên các Tiết chi đế hiếu phong nhất đại vực phÜÖng dĩ ký . xúc thù Tuy vong , cÜ©ng , nam nhÜ®c Toa bắc thì Đô chi hữu ký phong bất cầm tục đồng Ü diệc , Hàm dị nhi Tử . hào quan Tự kiệt , Triệu thế Ô Đinh vị Mã Lý thÜ©ng Hựu Trần phạp ế chi . Ü triệu Cố Bạch tạo LÜu Đằng ngã Cung hải quốc tham , , công Kê dữ dĩ chÜ
5 vãng cổ , quyết hữu minh trÜng . Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà , trí sử nhân tâm chi oán bạn , Cuồng Minh tứ khích , nhân dĩ độc
6 ngã dân ; ngụy đảng hoài gian , cánh dĩ mãi ngã quốc . Hân thÜng sinh Ü ngÜ®c diễm , hảm xích tử Ü họa khanh . Khi thiên võng dân
7 , quỷ kế cái thiên vạn trạng ; liên binh kết hấn , nẫm ác đãi nhị thập niên . Bại nghĩa thÜÖng nhân , kiền khôn ky hồ dục tức ;
8 trọng khoa hậu liễm , sÖn trạch mỹ hữu kiết di , Khai kim trÜ©ng , tắc mạo lam chܧng nhi phủ sÖn Çào sa ; thái minh châu , tắc xúc
9 giao long nhi hoàn yêu thộn hải . Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh , diễn vật chức thúy cầm chi võng la . Côn trùng thảo mộc giai bất
10 đắc dĩ toại kỳ sinh , quan quả diên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sÖ , Tuấn sinh dân chi huyết , dĩ nhuận kiệt liệt chi vẫn nha ;
11 cực thổ mộc chi cô , dĩ sùng công tÜ chi giải vũ , châu lý chi chinh dao trọng khốn , lÜ diêm chi trữ trục giai không . Quyết Đông
Chú ý: đọc từ trên xuống, đọc hết cột số 1 rồi trở lên bắt đầu đọc tiếp cột số 2. Thí dụ cột số 1: Cái văn: nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân; điếu phạt chi sÜ, mạc tiên khử bạo duy ngã Đại Việt chi quốc, thực vi văn. Đọc tiếp cột số 2: hiến chi bang, sÖn xuyên chi phong. . . .
VSTK - 475
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32
1 2 hải địa chi chi thủy sở bất bất dung túc , dĩ Dư trạc phấn kỳ tích ô Lam ; Sơn Khánh , Nam thê sơn thân chi hoang trúc dã , . bất Niệm túc thế dĩ thù thư khởi kỳ khả ác cộng . đái Thần , nhân thệ chi nghịch sở tặc cộng nan phẩn dữ , câu thiên sinh
3 4 5 6 , chi thì mưu Thống thư , mô tâm ; chính duy tật tức tặc ác thủ cổ thế giả giả nghiệm phương hựu thường kim trương quả thập , chi kỳ dư tế nhật trợ niên suy . . , cứu Nại Đặc hưng dĩ dĩ thường vong nhân cứu đảm chi tài dân ngọa lý thu chi tân . diệp niệm giả Đồ , , cái hồi tuấn mỗi phi chi kiệt uất nhất chí thần uất nhật , tinh nhi . ngộ . dục Phát mỵ Bôn đông phẩn bất tẩu ; vong vong tiền cố thực , hậu ư , Đương giả đãi mỗi nghĩa ký hiền nghiên kỳ phạp chi đàm sơ kỳ xa thao khởi nhân , lược chi , thường
7 cấp cấp dĩ hư tả . Nhiên kỳ đắc nhân chi hiệu , mang nhược vọng dương ; do kỷ chi thành , thậm ư chửng nịch . Phẩn hung đồ chi
8 vị diệt , niệm quốc bộ chi lao truân . Linh Sơn chi thực tận kim tuần , Khôi huyện chi chúng vô nhất lữ . Cái thiên dục khốn ngã dĩ
9 giáng quyết nhâm , cố dư ích lệ chi dĩ tế vu nạn . Yết can vi kỳ , manh lệ chi đồ tứ tập ; đầu giao hưởng sĩ , phụ
Chú ý: đọc từ trên xuống, đọc hết cột số 1 rồi trở lên bắt đầu đọc tiếp cột số 2.
VSTK - 476
10 11 tử dĩ chi đại binh nghĩa , nhất nhi tâm thắng . hung Dĩ tàn nhược , chế dĩ cường chí , nhân hoặc nhi công dịch nhân cường chi bạo bất . bị Bồ ; Đằng dĩ chi quả đình địch khu chúng điện , xiết thường , thiết Trà phục Lân dĩ chi xuất trúc kỳ phá . khôi Tốt phi năng .
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33
1 Sĩ khí dĩ chi ích tăng , quân thanh dĩ chi đại chấn . Trần Trí Sơn Thọ , văn phong nhi trỉ phách ; Lý An Phương Chính , dả tức
2 dĩ thâu sinh . Thừa thắng trường khu , Tây kinh ký vi ngã hữu ; tuyển phong tiến thủ , Đông Đô tận phục cựu cương . Ninh Kiều chi huyết
3 thành xuyên , lưu tình vạn lý ; Tụy Động chi thi tích dã , di xú thiên niên . Trần Hiệp tặc chi phúc tâm , ký kiêu kỳ thủ ;
4 Lý Lượng tặc chi gian đố , hựu bộc quyết thi . Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần , Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ .
5 Bỉ trí cùng nhi lực tận , thúc thủ đãi vong ; ngã mưu phạt vi tâm công , bất chiến tự khuất . Vị bỉ tất dịch tâm nhi cải lự
6 , khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô . Chấp nhất kỷ chi kiến , dĩ giá họa ư tha nhân ; Tham nhất thì chi công , dĩ di tiếu
7 ư thiên hạ . Toại lệnh Tuyên Đức1 chi giảo đồng , độc binh vô yếm ; nhưng mệnh Liễu2 Thăng chi nhụ3 tướng , dĩ du cứu phần . Đinh vị
8 cửu nguyệt , Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn nhi tiến ; bản niên bản nguyệt , Mộc Thạnh diệc phân đồ tự Vân Nam nhi lai . Dư tiền
9 ký tuyển binh tắc hiểm dĩ tồi kỳ phong , dư hậu tái diều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực . Bản nguyệt thập bát nhật , Liễu Thăng vi ngã
10 11 quân sơn sở . công Nhị , thập kế ngũ đọa nhật ư , Chi Bảo Lăng định chi bá dã Lương ; Minh bản trận nguyệt hãm nhị nhi thập táng nhật khu , ; Liễu nhị Thăng thập vi bát ngã nhật quân , sở thượng bại thư , Lý thân Khánh tử kế ư cùng Mã nhi Yên vẫn chi thủ
Chú ý: đọc từ trên xuống, đọc hết cột số 1 rồi trở lên bắt đầu đọc tiếp cột số 2. 1Tuyên Đức: vua nhà Minh. 2Liễu: nguyên bản chữ Hán ở đây chép Thạnh Thăng tức là Mộc Thạnh và Liễu Thăng; riêng bản phiên âm nầy thay chữ Thạnh bằng chữ Liễu . 3Nhụ tướng: có người dịch là tướng nhát. Liễu Thăng không phải là một tướng nhát. Chữ nhụ còn có nghĩa là tùy thuộc vào, tức có ý nói Liễu Thăng là tùy tướng tướng thân cận của vua Tuyên Đức.
VSTK - 477
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33
1 . Ngã toại nghinh nhận nhi giải , bỉ tự đảo qua tương công , kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi , kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi
2 3 điễn cổ diệt nhi . kình Viên khô tuyển ngạc tùy đoạn hưu , chi tái sĩ cổ , nhi thân điểu mệnh tán trảo quân nha kinh chi . thần Quyết . hội Ẩm nghị tượng ư nhi băng hà đê thủy , can chấn , cương ma phong đao ư nhi cảo sơn diệp thạch . khuyết Đô . đốc Nhất Thôi
4 Tụ tất hàng nhi tống khoản , thượng thư Hoàng Phúc diện phược dĩ tựu cầm . Cương thi tắc Lạng Giang Lạng Sơn chi đồ , Chiến huyết xích Xương Giang
5 Bình Than Chi thủy . Phong Vân vị chi biến sắc , nhật nguyệt thảm dĩ vô quang . Kỳ Vân Nam binh vi ngã quân sở ách ư Lê Hoa ,
6 tự đỗng nghi hư hát nhi tiên dĩ phá đảm . Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Thăng quân đại bại ư Cần Trạm , toại lận lạ bôn hội nhi cận đắc
7 thoát thân . Lãnh Câu chi huyết xử phiêu , giang thủy vị chi ô yết ; Đan Xá chi thi sơn tích , dã thảo vị chi ân hồng . Lưỡng
8 lộ cứu binh , ký bất tuyền chủng nhi câu bại ; các thành cùng khấu , diệc tương giải giáp dĩ xuất hàng . Tặc thủ thành cầm , bỉ ký
9 điệu ngạ hổ khất liên chi vỹ ; thần vũ bất sát , dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm . Tham tướng Phương Chính , nội quan Mã Kỳ
Chú ý: đọc từ trên xuống, đọc hết cột số 1 rồi trở lên bắt đầu đọc tiếp cột số 2
VSTK - 478
10 11 , mã tiên sổ cấp thiên hạm dư ngũ thất bách , dư dĩ sưu hoàn , quốc ký nhi độ ích hải tự nhi cổ do lật thả tâm hồn kinh phi . phách Bỉ táng ký . úy Tổng tử binh tham Vương sinh Thông , , nhi tham tu chính hiếu Mã hữu Anh thành , ; hựu dư cấp dĩ
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33
1 toàn quân vi thượng , nhi dục dân đắc tức . Phi duy kế mưu chi cực kỳ thâm viễn , cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn . xã
2 tắc dĩ chi điện an , sơn xuyên dĩ chi cãi quán . Kiền khôn ký bỉ nhi phục thái , nhật nguyệt ký hối nhi phục minh . Vu dĩ khai
3 vạn thế thái bình chi cơ , vu di tuyết thiên cổ vô cùng chi sỉ . Thị do thiên địa tổ tông chi linh , hửu dĩ mặc tương âm hựu
4 , nhi trí nhiên dã . Ô hô ! Nhất nhung đại định , ngật thành vô cạnh chi công , tứ hải vĩnh thanh , đản bố duy tân chi cáo
5 . Bá cáo hà nhĩ , hàm sử væn tri .
* Bài phiên âm nầy được trình bày theo kiểu viết của bài Bình Ngô Đại Cáo chữ Hán được sao chép theo nguyên văn từ tập Hoàng Việt Văn Tuyển.
Chú ý: đọc từ trên xuống, đọc hết cột số 1 rồi trở lên bắt đầu đọc tiếp cột số 2.
VSTK - 479
Bản dịch bài Bình Ngô Đại Cáo Cái văn: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, Quân cứu nước trước lo trừ bạo. Xét như nước Đại Việt ta, Đích thật là một quốc gia văn hiến, Núi sông cương vực có riêng, Về phong tục thì Bắc, Nam cũng khác. Từ các đời Ngô1, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước, Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, riêng làm chủ một phương. Tuy nước ta lúc mạnh, lúc yếu khác nhau, Nhưng về hào kiệt thì không bao giờ thiếu. Như Lưu Cung ngày trước tham công mà đại bại, Triệu Tiết hám lợi danh to mà tan tành mất xác. Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô, Sông Bạch Đằng Ô Mã Nhi bị giết. Lần dở chuyện xưa, chứng cớ rõ ràng : Thừa lúc nhà Hồ chính sự không yên, Khiến lòng người phản kháng kêu la, Giặc Minh loạn cuồng thừa dịp hại dân ta. Cùng đám gian tà âm mưu bán nước, Đốt dân đen trong lửa hồng bạo ngược, Chôn con đỏ xuống hầm tai ách. Láo với trời, đảo lừa người thế, với muôn ngàn quỉ kế, Binh hợp gây hấn, lỗi ác chứa đầy, hai mươi năm ch¤n. Phá tan đạo nghĩa, thương tổn con người, đất trời tựa hồ muốn dứt; Thuế khóa vét đầy, núi khe sạch nhẵn. Mỏ vàng khai phá, chướng khí xong pha, đãi bùn đục núi; Đáy biển mò châu, giao long phó mặc, dây dòng quẳng biển. Bức dân đào lỗ bẫy bắt nai đen, Hại vật lưới giăng, chim trời bẫy sập. Bọ sâu cây cỏ, mất chốn tựa nương . Góa bụa khốn cùng không nơi yên ổn. Hút máu dân lành, miệng giặc tham ác, béo nhờn răng nanh,
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32
nguyên bản chữ Hán, các bản phiên âm và các bản dịch cũ đều viết là Triệu tức Triệu Đà. Triệu Đà cũng là một kẻ xâm lược từ phương Bắc. Những người khởi đầu triều đại Việt Nam trước nhà Đinh là Trưng Trắc, là Ngô Quyền chứ không phải là người Hoa Triệu Đà.Việt Sử Tân khảo chọn Ngô Quyền để thế chỗ của úy Đà. 1Ngô:
VSTK - 480
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
Công trình tráng lệ, dân đen nhọc sức, Dựng cây đắp đất, xây cất tư dinh. Chốn châu huyện sưu cao nặng thuế, Nơi xóm làng bỏ phế dệt đan. Tát cạn nước bể xanh, mùi tanh không thể rửa, Dù đẳng sạch trúc núi Nam, Tội ác đầy trời cũng không nơi ghi chép. Thần linh căm giận, người trần uất ức, Trời không dung, đất không tha. Từ Lam Sơn vết chân ta khởi phát, Chốn đồng hoang đất trống ẩn thân. Dưới gầm trời cùng giặc khó kết bạn gần Thề không đội trời cùng quân cướp nước. Tâm lao đau nhức 10 năm khổ sầu, Mật nếm gai nằm phải đâu một buổi. Giận quên ăn, ngẫm nghiền sách lược, Lấy gương trước suy bước tương lai. Lẽ hưng vong nghiệm nay suy cũ, Chí phục thù, ngày đêm khó ngủ. Lúc đương thì phát khởi nghĩa quân, Cũng là thời giặc ác hung hăng. Thế mà : hùng kiệt khó khăn, Nhân tài khan hiếm lá thu mò tìm. Trốn trước tránh sau, kẻ che bao không thấy, Tham mưu rập bẫy cũng chưa mấy người dâng. Mưu cứu dân để dạ, háo hức muốn về Đông , Người hiền giả xe chờ đón rước, Ghế trái ngồi vẫn được sóc chăm. Mịt mù biển sóng tuấn nhân khó tìm. Bản thân hung đúc nhân điềm, Gắp hơn cứu đuối cho người trôi sông. Giận hung đồ chưa diệt sạch, Buồn vận nước còn gian truân Khi Linh Sơn lương cạn mấy tuần, Lúc Khôi huyện quân tàn binh thiếu. Bởi trời trao khốn cho ta, Gán cho trách nhiệm phong ba gánh gồng. Bền gan lướt vượt cuồng phong, Nhấc cao gậy chống thế trông hiệu cờ. Bốn phương dân kéo đến chờ, Rượu nồng cùng uống, thân sơ một lòng. Lấy binh ít đánh giặc đông, Phục kích ngầm thắng lơi lỏng. Thế nên, đem đại nghĩa chống hung tàn,
VSTK - 481
Lấy chí nhân đập tan cường bạo. Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật, Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay. Khắp quân trường sĩ khí hăng say, Trương thanh thế binh oai càng mạnh. Trần Trí, Sơn Thọ nghe tin mất vía, Phương Chính, Lý An, cầu toàn nín thở. Nghĩa binh thắng thế ruổi giong, Tây kinh giặc trú quân ta chiếm về. Binh hùng tuyển chọn tiến lên, Đông thành đất cũ quy hoàn tay ta. Bến Ninh Kiều sông pha máu đậm, Nước tanh hôi muôn dặm trôi qua. Trận Tụy Động thây giặc phơi cùng khắp , Xác chướng sình phủ lắp ngàn năm. Chém bêu đầu Trần Hiệp tâm phúc giặc yêu, Giết sâu mọt Lý Lương cùng một lúc. Vương Thông càng gỡ rối, lửa nóng càng sôi sục, Mã Anh sang tiếp cứu, oán hận chất càng cao. Đã tới hồi giặc mòn hao kiệt sức, Đứng bó tay chờ thần chết mang đi. Với riêng ta: mưu chiến bằng con tim, Không cần đánh mà giặc ngoài phải khuất. Cứ tưởng rằng giặc ăn năn nghĩ lại, Nào ngờ chúng vẫn ác hại gây tai. Cố chấp ý riêng phiền gây đổ vạ, Hám danh một thời thiên hạ cười chê. Vua non Tuyên Đức không dứt động binh, Thuộc tướng Thạnh, Thăng cầm quyền chinh. chiến. Đinh Mùi tháng chín dẫn binh, Khâu Ôn xuất phát Liễu Thăng tràn vào. Mộc Thạnh lãnh ấn theo mau, Cùng năm tháng ấy, từ Vân Nam kéo đến. Nghĩa binh phục yểm từ lâu, Tiền binh giặc tới hầm sâu lọt nhào; Điều binh giáp chận đường vào tiếp tế. Cánh quân ta, ngày mười tám đánh thế chận ngăn. Ải Chi Lăng giặc hăng thua kế. Ngày hai mươi Liễu Thăng đại bại, Núi Mã Yên thân hoại mất thây. Hai mươi lăm, ta đến bủa vây, Lương Minh trận hãm phơi thây chiến hào. Hai mươi tháng tám đánh theo, Kế cùng Lý Khánh thắt treo thoát đời.
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
VSTK - 482
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
Thừa khí thế ta vung đao bén, Khiến giặc thù chèn nén đạp nhau. Bốn bề binh nghĩa phủ bao, Cùng diệt giặc tháng mười sau xóc tới. Thế cho nên binh hùm tuyển mộ, Gọt vuốt nanh, chư tướng hộ thân. Voi uống nước, sông tràn cạn đáy. Núi đá hao, mài bén kiếm đao. Một hồi trống sạch bao kình ngạc, Trống lần hai tan tác chim muôn. Khơi lỗ hỏng sụp tan đê vỡ. Cơn gió lùa lá khô rụng hết. Đô đốc Thôi quỳ lết xin tha, Thượng thư Hoàng bước ra chịu trói. Lạng Sơn, Giang thây thối đầy đường, Chốn Xương, Bình máu tuông đỏ nước. Gió mây kia trôi lướt đổi màu, Trời, trăng sáng cũng u sầu đen tối. Giặc Vân Nam tới Lê Hoa nghẽn lối, Vỡ mật, kinh hồn bối rối khó xoay. Từ Cần Trạm tin tướng Liễu bỏ thây, Quân Mộc Thạnh xéo nhau quay đầu chạy. Lãnh Câu suối máu, nước chảy sông gào, Miền Đan Xá thây cao chất núi. Đồng hoang cỏ nội, tắm gội máu đỏ. Cứu binh hai ngõ, binh nỏ chưa bung, Tìm đường trốn chạy lung tung. Giặc khốn trong thành, dâng nhanh binh giáp, Thủ thành tự nạp, hổ cạp vẫy đuôi cầu sống. Vũ uy vang vọng, khoan hồng không giết. Thể lòng trời đất, tỏ đức hiếu sinh, Tha cho Phương, Mã, hàng binh, Thôi không gây hấn được quay về cố thổ. Năm trăm thuyền chuyên chở đưa theo, Ra biển cả giặc vẫn còn đem theo ác mộng. Vương Thông, tham chính Mã Anh, Trăm xe ngàn ngựa cấp nhanh cho về. Thoát thân nhờ có ước thề, Trở về nước mẹ chưa hề yên tâm. Giặc hèn sợ chết sống tham, Gục đầu tập kết rõ ham hiếu hòa. Cũng vì muốn quân dân ngơi nghỉ, Nên đã dùng chước kế mưu sâu. Chước thần từ trước có đâu,
VSTK - 483
Xã tắc được bình an từ đó, Khắp núi sông chuyện cũ bỏ từ đây. Càn khôn bỉ cực đến nay an lành. Trời, trăng trả lại bình minh, Bỏ công gầy dựng, thái bình trăm năm. Điều sỉ nhục ngàn thu nay đã rửa, Đất Trời, tổ tông nơi cửa linh thiêng. Chắc cũng có dự phần phá giặc. Ôi ! Một gươm đại định, công trạng vô song, Bốn biển lặng yên, đổi thay ban lệnh. Xa gần đại cáo, thông báo người nghe . (VSTK phỏng dịch)
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
KHẢO LUẬN: 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28
Bình Ngô Đại Cáo là một thiên anh hùng ca độc nhất vô nhị, một bức tranh vẽ tài tình, sống động và chính xác ghi lại cả một quá trình 10 năm dài kiên trì tranh đấu liên tục để giành lại chủ quyền, độc lập cho người dân Đại Việt dưới tài lãnh đạo tài ba, mưu lược của Lê Lợi cùng với nhà tham mưu sáng tạo, đa năng Nguyễn Trãi. Sự hoà hợp nhuần nhuyễn của đôi nhân tài anh hùng Lê Lợi Nguyễn Trãi đã được ghi lại thật đậm nét trong bản đại cáo. Tác phẩm còn là mộ bản văn kiệt tác, một bản tổng kết rất đại thể về con người của nước Đại Việt với đầy đủ phẩm chất độc đáo cao quý và hằng cửu cùng với những kinh nghiệm mà tổ tiên của dân tộc nầy truyền lại từ hàng ngàn năm về trước. Những phẩm chất cao quý của dân tộc Đại Việt luôn luôn được phát huy tột mức trong bất kỳ cuộc chiến tranh chống lại đám quân ngoại xăm đến từ bốn phương, tám hướng, nêu cao truyền thống độc lập, tự do, ý chí quật cường bất khuất và đặc biệt hơn hết là tinh thần tha thứ nhân đạo không giết quân xâm lược khi họ đã bị đánh bại ngã ngựa.
VSTK - 484
Chân dung Nguyễn Trãi (Tranh vẽ trên lụa)
VSTK - 485
Thành của quân Minh bị nghĩa quân bao vây Thành của quân Minh bị nghĩa quân tái chiếm
Khởi nghĩa Lam Sơn 1418 – 1427
VSTK - 486
Nghĩa quân tấn công Nghĩa quân mai phục Tuyến phòng ngự của nghĩa quân Nghĩa quân bao vây Thành, đồn quân Minh bị tiêu diệt Quân Ming bị đánh tan Hướng tiến của quân Minh
Chiến thắng ở mặt trận Chi Lăng và Xương Giang
VSTK - 487
Bia Vĩnh Lăng (Lam Sơn, Thanh Hóa)
VSTK - 488
Thành nhà HÒ
ñông Môn, hܧng ñông Nam thành nhà HÒ. Nh»ng khÓi Çá xây c°ng thành Ça sÓ n¥ng trên 15 tÃn. (Hình trích Çæng tØ tÆp san BAVH, sÓ 1/2, næm 1934)
VSTK - 489
QUYỂN II
THỜI KỲ NHÀ HẬU LÊ CHƯƠNG I
LÊ THÁI TỔ ( 1428 - 1433 ) Niên hiệu: Thuận Thiên 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
Năm Mậu Thân, ngày 10 tháng Giêng (1428), vua bù nhìn Trần Cảo tự ý theo đường biển lén trốn vào châu Ngọc Ma, bị quan quân của Lê Lợi đuổi theo bắt đem về thành Đông Quan, xử tội chết bằng thuốc độc1. Sai sứ sang triều đình nhà Minh thông báo về việc Trần Cảo đã chết. Tháng Tư năm Mậu Thân (1428) tại Đông Đô, Bình Định vương Lê Lợi lên ngôi vua tức là Lê Thái Tổ, lấy quốc hiệu là Đại Việt2, đổi niên hiệu là Thuận Thiên năm thứ nhứt. Thưởng công, ban chức tước cho các quan binh, tướng sĩ có công lao theo Lê Lợi từ hồi ở Lũng Nhai3: phong cho con trai là Lê Nguyên Long làm Lương quận công. Phong tước hầu cho Nguyễn Trãi; Trần Nguyên Hãn làm tả tướng quốc; Phạm Văn Xảo làm thái úy Lê Vấn, Lê Quy, Lê Dịch, Lê Ồ, Lê Bồ, Lê Liệt, Lê Khả, Lê Trễ, Lê Nghiễn và nhiều người khác trong đội quân thiết đột4, tất cả trên 200 người đều được ban chức đại phu, được mang họ Lê, và được ban danh hiệu công thần. Truy phong cho những tướng đã bỏ mình vì đất nước trong trận đánh ở My Động: Đinh Lễ làm nhập nội tư đồ, Lý Triện làm nhập nội Tư Mã. Chia nước lại thành 5 đạo5. Đặt vệ quân do Tổng quản, Đô tổng quản và Ty tổng quản chỉ huy chia theo cấp bậc trên dưới. Ở mỗi đạo đều có chức hành khiển, tham tri, đồng tri, chủ bạ và các thuộc chức khác. Đại xá trong toàn cả nước: ngưng thâu hai năm các loại thuế điền tô, thuế vàng, bạc, đầm nước, đồi nương, bãi dâu; miễn sai dịch cho người già trên 70 tuổi; miễn sưu dịch cho
VSTK - 490
1
2
gia đình hiện đang có người thân trong quân ngũ và cho các nạn nhân bị thiệt hại vì binh lửa.
17
Xử tội chết Trần Cảo bằng thuốc độc: đây là một trong ba hình phạt tử hình áp dụng riêng cho hàng vương tộc thường gọi là tam ban triều điển và gồm có: 1-thuốc độc, 2- dao ngắn, 3- đoạn vải dài để thắt cổ; người bị xử tội được phép lựa một trong 3 loại hình phạt nầy. ĐVSKTT viết: "Có thuyết nói: Cảo tự biết người trong nước không phục, bèn dùng bọn Văn Nhuệ lén vượt biển trốn đến ải Cổ Lộng. Nhà vua sai người đuổi theo giết đi". KDDVSTGCM chép theo ĐVSKTT: "Cảo, khi đã được lập làm chúa, đóng dinh ở núi Không Lộ, sau dời đi Ninh Giang, rồi lại dời đến thành Cổ Lộng. Triều thần đều nói với Bình Định Vương rằng: Cảo không có công cán gì, sao lại được ở ngôi cao, ăn trên ngồi trước người ta, nên sớm trừ đi. Nhà vua (Lê Lợi) cũng biết như vậy nhưng không nỡ, đãi ngộ càng hậu hơn. Cảo tự biết người trong nước không phục theo cho nên lẻn vượt biển trốn vào châu Ngọc Ma, quan quân đuổi theo bắt được đem về Đông Quan, Cảo phải uống thuốc độc chết."
18
(ĐVSKTT/BK/QX/55a,b.) (KDDVSTGCM/CB.XV/1)
3 4 5 6 7 8 9 10 11
12 13 14 15 16
19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41
1
Đại Việt : theo ĐVSKTB/Tây Sơn thì quốc hiệu Đại Việt đã được Lưu Nham (ĐVSKTB/ Tây Sơn gọi là Lưu Nghiễm) dùng vào năm 917. Năm ấy, Lưu Nham sau khi nối nghiệp anh là Lưu Ẩn để giữ chức Nam Hải vương được nhà Lương bên Trung Quốc tiến phong; ít lâu sau tự xưng đế tại Quảng Châu và đặt quốc hiệu là Đại Việt, niên hiệu là Kiền Hanh (hay Càn Hanh) năm thứ 1 rồi sau lại đổi quốc hiệu là Nam Hán (Nam Hán là một trong nhiều nước vào thời Ngũ đại ở Trung Quốc. Nam Hán bao gồm tỉnh Quảng Đông, một phần phía Nam tỉnh Quảng Tây và phía Nam tỉnh Phúc Kiến ngày nay trị vì được 5 đời vua. Vua cuối cùng của triều đại Nam Hán là Lưu Xưởng (958-970). Đại Việt cũng được Lý Thánh Tông chọn làm quốc hiệu vào tháng 10 năm Giáp Ngọ (1054). 3 Lũng Nhai: tức là thôn Lũng Uy, xã Lam Sơn. Tại đây, vào tháng 2 năm Bính Thân (1416) có cuộc hội thề của những người tiên phong theo Lê Lợi để xướng nghĩa chống quân Minh xâm lược. Những người có công lao khó nhọc ở Lũng Nhai là những người tiên phong tham gia cuộc xướng nghĩa Lam Sơn từ lúc khởi đầu 4 Quân thiết đột : đây là đạo quân đầu tiên được thành lập của Lê Lợi, về sau chia làm trung quân (ở giữa), tiền quân (ở trước), tả quân (phía cánh trái), hữu quân (phía cánh mặt). Tiếp đến lại đổi thành 14 quân vệ, trong đó đạo quân thiết đột đầu tiên là một vệ, mỗi vệ có các chức thượng tướng quân, đại tướng quân, tướng quân, đô chỉ huy sứ và hoả đầu, hoả thủ.{LTHCLC/Binh Chế Chí/ Quân hiệu/ Phan Huy Chú}. 2
VSTK - 491
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
11 12 13 14
Chia nước lại thành 5 đạo: ĐVSKTT viết: "Chia cả nước làm 3 đạo "{BK/q.X/ 57b} nhưng không nói rõ là những đạo nào. Theo ghi chú trong LTHCLC/ Dư Địa Chí thì 5 đạo là: Nam, Bắc, Đông, Tây và đạo Hải Tây. Mỗi đạo gồm có các phủ, huyện, lộ, trấn. Các trấn như Tam Giang, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Gia Hưng thuộc đạo Tây; các lộ Thượng Hồng, Hạ Hồng, Thượng Sách và trấn An Bang thuộc đạo Đông. Các trấn và lộ như Bắc Giang, Lạng Giang, Thái Nguyên thuộc đạo Bắc; các lộ Khoái Châu, Lỵ Nhân, Tân Hưng, Kiến Xương, Thiên Trường thuộc đạo Nam. Các lộ Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa thuộc đạo Hải Tây. Trước đây, khi Lê Lợi đến Đông Đô thì tạm chia cả nước thành 4 đạo. Nay lại đặt thêm đạo Hải Tây; lấy Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình (Quảng Bình) và Thuận Hóa (Thừa Thiên, Quảng Trị) sáp nhập vào đạo Hải Tây. 5
KHẢO LUẬN: 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28
Sau khi đánh đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi, Lê Lợi lên ngôi vua nước Đại Việt, sáng lập ra triều Hậu Lê, lo củng cố những thành quả đạt được và nền thống trị của giai cấp phong kiến cũng như lo bảo vệ những đặc quyền đặc lợi của nhóm thống trị. Đây là khuynh hướng tất nhiên của những người làm chính trị từ ngàn xưa. Ngay cả trong thời buổi văn minh hiện đại, khuynh hướng củng cố quyền lực vào một nhóm người thống trị vẫn còn thấy xảy ra ở rất nhiều nơi trên thế giới bởi vì những người được gọi là kẻ chiến thắng, có công, không dễ gì bỏ đi những ngày tháng cơ cực đấu tranh, nằm gai nếm mật để đoạt cho bằng được chính quyền để rồi sau đó lại để mặc tình người dân áp dụng các hình thức dân chủ tự do. Rốt cuộc rồi thì người dân vẫn tiếp tục là những người nô lệ, lần nầy không phải là nô lệ cho giặc ngoại xâm nhưng là nô lệ cho cho một tập đoàn quyền lực phong kiến khác vừa mới nổi lên ngay trong đất nước của mình.
*
VSTK - 492
CHƯƠNG I
LÊ THÁI TỔ ( 1428 - 1433 ) Niên hiệu: Thuận Thiên (tiếp theo) 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
Bắt đầu áp dụng các biện pháp truy lùng, bắt bớ, giam nhốt, thanh trừng những kẻ hợp tác với quân Minh1 bằng cách hạ lệnh cho các đại thần, thiếu úy, chấp lệnh, các quan chức ở các lộ nếu thấy những kẻ hợp tác với quân xâm lăng ngoại quốc, những quan lại địa phương theo người Minh đang ẩn trốn thì phải bắt nộp. Bất cứ ai dung túng và che chở hoặc để sẩy chạy những hạng người nầy thì sẽ bị tội chém. Quy định luật lệ về kiện tụng2, điển lệ về việc phong tước và phẩm trật3. Tháng 10 năm Mậu Thân (1428), ra lệnh kiểm kê và tịch thu tài sản, ruộng đất của các quan ty và của các gia đình bề thế từ triều đại nhà Trần, của những người tuyệt tự, của những kẻ hợp tác với quân Minh, của các quan, quân binh bỏ hàng ngũ nghĩa quân trong thời kháng chiến chống Minh. Nếu ai giấu giếm hoặc chiếm lấy làm của tư, biến không thành có thì sẽ bị xử tội đồ hoặc tội lưu, biếm chức hoặc bãi chức. Ra lệnh kê khai đầy đủ, rõ ràng nguyên liệu cùng với những sản vật do địa phương sản xuất. Tháng 11, ngày 24, năm Mậu Thân (1428), trị tội những kẻ phản quốc Trần Phong, Lương Nhữ Hốt4 và những kẻ làm gián điệp cho quân Minh. Xuống chiếu ra lệnh lập sổ ruộng đất và sổ hộ tịch. Đặt chức xã quan: xã lớn từ 100 dân trở lên thì đặt 3 xã quan, xã bậc trung từ 50 dân trở lên thì có 2 xã quan, xã nhỏ dưới 50 dân thì có 1 xã quan. Ra lệnh miễn cho tất cả những con cháu của nghĩa quân Lam Sơn5 khỏi phải thi hành nghĩa vụ quân dịch và làm dân công tạp dịch cho chính quyền của triều Lê. Đúc tiền Thuận Thiên và ấn định hối xuất tiền tệ6. Kỷ Dậu, tháng Giêng (1429), ra lệnh cấm say sưa rượu chè, ăn thua cờ bạc: đánh bạc thì bị chặt 3 phân ngón tay; đánh cờ chặt 1 phân. Không có việc gì mà lại tụ tập chè chén
VSTK - 493
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
uống rượu thì bị phạt đánh 100 trượng. Người chứa chấp bị tội kém một bậc. Đem số ruộng đất tịch thâu từ đám người giàu có ăn ở không chẳng giúp được gì cho công cuộc kháng chiến chống Minh nhập với các loại ruộng đất của chính quyền hiện có để phân phối cho quan quân đã theo Lê Lợi từ ngày khởi nghĩa ở Lam Sơn. Lập con là Tư Tề làm quốc vương và Nguyên Long làm hoàng thái tử7. Tháng 3 năm Kỷ Dậu (1429), thao diễn binh đội. Sau đó chia mỗi vệ quân thành 5 năm phiên: một phiên lưu lại tại ngũ còn 4 phiên làm ruộng8 lo việc sản xuất. Đặt chức quan Ngự sử đài. Nghi kỵ và loại trừ công thần Trần Nguyên Hãn9. Phong tước hầu9bis cho 93 công thần đã theo Lê Thái Tổ từ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Truy thưởng những người có công bị bỏ sót. Chiêu mộ và kêu gọi người có tài ra làm việc với triều đình. Thi minh kinh10 và khảo hạch các tăng sĩ và đạo sĩ11. Truy phong chức thái úy cho Lê Lai12. Sai Đào Công Soạn13, Lê Đức Huy đi sứ sang triều đình nhà Minh. Năm Canh Tuất, tháng 6 (1430), đổi Đông Đô gọi là Đông Kinh; Tây Đô gọi là Tây Kinh. Tháng 11, nịnh thần bí mật báo rằng Thái úy Phạm Văn Xảo ngầm tổ chức phản nghịch. Lê Thái Tổ tin lời vu cáo, bắt Văn Xảo phải chết13bis. Thổ tù Bế Khắc Thiệu và Nông Đắc Thái ở châu Thạch Lâm14 thuộc Thái Nguyên tranh quyền nhau. Lê Thái Tổ lấy cớ những kẻ nầy ngày trước cấu kết với Trần Nguyên Hãn để mưu việc phản nghịch15 cho nên nhân dịp rối loạn nầy Lê Thái Tổ bèn quyết định đích thân tuyển chọn quân ở Bồ Đề đi đánh dẹp. Năm Tân Hợi, tháng Hai (1431), quân của Lê Thái Tổ đánh châu Thạch Lâm, bắt được Nông Đắc Thái mang về kinh còn Bế Khắc Thiệu thua bỏ chạy rồi chết.
VSTK - 494
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
Tháng Ba, Lê Thái Tổ trở về kinh đô. Đem tội trạng của Bế Khắc Thiệu và Nông Đắc Thái báo cáo khắp kinh đô và ở các lộ. Tháng 12, năm Tân Hợi (1431), sách Lam Sơn Thực Lục16 do Lê Thái Tổ xuống chiếu cho các nho thần tu soạn, nay đã hoàn tất. Sách trình bày, ca tụng những công trạng của Lê Lợi gây dựng cơ nghiệp đế vương. Lê Lợi viết đề tựa cho sách và tự xưng là Lam Sơn động chủ. Lại cho rằng thổ tù Đèo Cát Hãn ở châu Mường Lễ17 thông đồng với Phạm Văn Xảo làm loạn, liên kết với người Ai Lao là Kha Lại để đánh phá biên giới Đại Việt, Lê Thái Tổ sai tướng Lê Sát và quốc vương Tư Tề dẫn quân đi đánh nhưng rồi lại đích thân cầm quân đi dẹp. Năm Nhâm Tý, tháng Giêng (1432), quân của Lê Thái Tổ đánh hạ Mường Lễ, Kha Lại bị giết, Đèo Cát Hãn trốn thoát, tất cả dư đảng đều bị bắt, Mường Lễ bị đổi thành châu Phục Lễ. Tháng 3 kéo quân trở về. Tháng 11, Đèo Cát Hãn và con là Mạnh Vượng xin quy hàng, được Lê Thái Tổ tha tội và ban cho tước tư mã. Năm Quý Sửu, tháng Tám (1433), xuống chiếu giáng Tư Tề xuống chức quận vương với lý do: Tư Tề không trung hiếu với cha mẹ, ngược đãi quần thần, lỗi đạo với trời đất và các tiên vương. Lại ra chiếu cho thái tử Nguyên Long được quyền cai trị nước và thừa kế ngôi vua18. Ngày 22 tháng Tám nhuận, năm Quý Sửu (1433), Lê Thái Tổ mất, ở ngôi 6 năm, thọ 49 tuổi. CHÚ GIẢI :
27 28 29 30 31 32 33 34 35
Áp dụng các biện pháp truy lùng, bắt bớ những người hợp tác với quân Minh: về việc nầy, chỉ có ĐVSKTT ghi chép (BK/Q.10/tờ 56.a). KDDVSTGCM không chép. ĐVTS của Lê Quý Đôn ghi: “Ra lệnh trị tội các ngụy quan đã theo giặc.” (ĐVTS/Q.II/ tờ 44b). Những chuyện bắt bớ giam cầm những người cùng trong một nước nhưng ở về phía đối nghịch thì ngay cả trong thời buổi văn minh hiện nay vẫn còn thấy xảy ra. Đây là một chủ trương sai lầm nghiêm trọng chẳng những rất có hại cho việc đoàn kết và hòa giải dân tộc, lại còn làm mất đi sự hợp tác của những người có tài năng mà trước đây vì một 1
VSTK - 495
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25
26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36
37 38 39 40 41 42 43 44
hoàn cảnh hay vì lầm lẫn nào đó bắt buộc phải chấp nhận hợp tác với quân quân ngoại xâm. Khi bắt bớ, giam cầm những người đồng hương không cùng một chiến tuyến, dù che dấu dưới bất cứ hình thức nào thì hành động thất sách nầy của kẻ chiến thắng vẫn bị dư luận lên án là một hành động trả thù theo kiểu nói: thắng là vua thua là giặc. 2 Quy định luật lệ về kiện tụng: sử cũ không nói rõ quy định luật lệ kiện tụng như thế nào. Tuy nhiên, trong buổi giao thời người ta thấy triều đại Lê Lợi vẫn tiếp tục dùng luật pháp đã có sẵn từ đời nhà Trần với một vài sự sửa đổi. Chẳng hạn như luật ấn định án phạt chặt tay những kẻ cờ bạc thì cũng giống như luật của nhà Trần bắt chước theo luật pháp tàn độc của nhà Đường, nhà Tống bên Trung Quốc theo hình thức án phạt chặt ngón chân hoặc cho voi giày đạp chết những kẻ phạm tội trộm cấp. 3 Điển lệ phong tước và phẩm trật: lúc mới khởi nghĩa, Lê Lợi tự xưng là Bình Định vương, quân thần thì đặt các chức thái úy, thiếu úy, thái bảo, tư đồ, tư không, tư mã, bình chương sự, thượng tướng quân, tả hữu bộc xạ, lục bộ thượng thư, hàn lâm thừa chỉ, nhập nội hành khiển, xu mật đại sứ và thái giám; khi mới đến Đông Đô thì chia các lộ, trấn thành 4 đạo, đặt các chức quan văn, quan võ từ trung ương đến dịa phương, đặt các cấp quân sự, các thị vệ và chức tuần kiểm hải quan nơi các cửa biển, còn các vệ quân đội ở các lộ, phủ thì cử các cấp quan lớn làm kiêm tri, tổng tri, đồng tri để cai quản và thi hành theo mệnh lệnh của chính quyền trung ương; ở những nơi gọi là vùng trấn thủ thì có chức quan sát và phòng ngự; ở các vùng hang, sách, động, rừng, núi thì có chức thủ ngữ và đoàn luyện. Lúc về Đông Đô, Lê Lợi lại chia nước thành 5 đạo, mỗi đạo đặt vệ quân dưới quyền chỉ huy của viên chức tổng quản, lại có thêm chức hành khiển giữ sổ sách quân và dân. Ở các cửa sông, cửa biển đều đặt chức trấn thủ; ở trung ương thì có chức thiết đột ngũ quân tổng quản, ngự tiền lục quân tri quân sự, điện tiền đô hiệu điểm và đô chỉ huy, các chức quan văn, quan vỏ trong triều đình; ở các lộ, phủ và huyện thì đặt chức xã quan. Một cách tổng quát thì quan chức từ đầu đời nhà Lê /Lê Lợi đều phỏng theo chế độ quan chức nhà Trần mà nhà Trần theo nhà Lý, nhà Lý thì rập khuôn theo chế độ quan chức của nhà Tống ở Trung Quốc (Kiến Văn Tiểu Lục/Q.II/ Thể lệ thượng/Quan chức/Lê Quý Đôn). Theo LTHCLC của Phan Huy Chú thì Lê Lợi khi mới dựng nước, đặt quan có các tên gọi như bình chương, tư đồ (về sau lại gọi là đại tư đồ), đại tư không, đại tư mã, khu mật đại sự, thiếu úy, thượng tướng, đại tướng, á hầu, thông hầu, quan phục hầu, trước phục hầu. Đến khi tiến ra Đông Đô, đặt bày ra các chức quan, cắt đặt lại các lộ ở Đông Đô làm 4 đạo (chưa có đạo Hải Tây), đặt các chức văn võ liêu thuộc ở bên trong kinh đô và phía ngoài các đạo thì lúc đó mới có các chức bộc xạ, thị trung, thiếu bảo, hành khiển, thượng thư, hàn lâm. VSTK - 496
1 2
3 4
5 6 7 8 9 10 11 12
13 14
15 16 17 18 19 20 21 22 23 24
25 26 27 28 29 30 31 32
33 34 35 36
37 38 39 40 41
là tổng tri quân dân sự miền Quốc Oai, Tam Đái, Quảng Oai; Bùi Văn Đài làm kiêm tri cai quản sổ sách và công việc quân dân ở Đông Đạo. Đặt các ngạch chức của cơ quan Mật viện: viên chánh giữ chức mật viện sứ, viên phó là quan chức thừa hành làm các công việc của viện, dưới thì có các chức thiêm tri, thiêm sự. Chức quan ở các bộ thì đứng đầu là thượng thư chẳng hạn như Lại bộ thượng thư Nguyễn Trãi, Lễ bộ thượng thư Bùi Văn Đài; dưới thì có các chức lang trung, viên ngoại. Chức quan ở các sảnh như thượng thư sảnh, môn hạ sảnh tả hữu hỏa sau đổi là ta hữu ty. Chức quan ở viện hàn lâm có các chức thừa chỉ, học sĩ, đãi chế, chủ thư thị sử, chủ thư sứ, nội lệnh sứ, quốc tử bác sĩ. Các cơ quan ở hình viện thì có các chức như thẩm hình viện sứ, thẩm hình viện phó sứ, phán đại lý chính. Ở mỗi vệ quân đều có chức tổng lĩnh đứng đầu. Cấp chỉ huy cầm quân có các chức đốc quản, chánh đốc, chấp lệnh, giám quân. Các quan chức ở ngoài các đạo thì có các chức gọi là sứ: quan sát sứ, phòng ngự sứ, tuyên úy sứ, an phủ sứ, đều là những chức nhiệm ở các trấn, châu, huyện. Lại đặt chức tuần kiểm ở các cửa biển và các chức thủ ngữ, đoàn luyện; phong cho các tù trưởng ở các nơi ngoại phiên. Các chức như nhập nội, tư không, bình chương sự, thượng tướng quân, đại tướng quân cũng được dùng để ban cấp cho các tù trưởng về quy thuận hoặc có công lớn với triều đình. Nếu ai dâng kế sách hợp với ý nhà vua thì được phong là quân sư. Đối với với các quan văn võ cận thần thân tín của vua thì được ban kèm thêm hai chữ "nhập nội" như nhập nội tư mã, nhập nội hành khiển. Sau khi dẹp yên quân xâm lược nhà Minh, định công thưởng chức cho các công thần mới đặt các chức tướng quốc thí dụ như tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn, hữu tướng quốc Tư Tề; thái bảo (Phạm Văn Xảo), thái úy. Ở các vệ quân thì có chức tổng quản, đô tổng quản, đồng tổng quản, trên dưới liên hệ hệ nhau, lớn nhỏ giữ gìn kiểm soát nhau. Lại đặt chức hành khiển ở 5 đạo chia giữ việc sổ sách và từ tụng của quân dân, dưới hành khiển thì đến các chức tham tri, đồng tri, chủ bạ, đạo thuộc và các chức đô tri tả hữu để giữ của cải chứa trong . Lại định quan các lộ, các huyện: lộ thì đặt tri phủ, chưởng ấn thứ đến là các chức trấn phủ sứ, an phủ sứ, tuyên phủ sứ, chiêu thảo sứ; ở huyện thì đặt tuần án, chưởng ấn, thứ đến chuyển vận chánh và phó sứ. Các nơi hiểm yếu thì đặt quan trấn thủ. Định chức phẩm các quan văn võ, mỗi phẩm trật đều có chánh, có tòng. Quan võ thì từ tổng quản, tổng lĩnh, đồng tri xuống đến đại đội trưởng, đội trưởng; quan văn thì từ hành khiển, thượng thư xuống đến thất phẩm. Ở các xã thì có xã quan (LTHCLC/Quan Chức Chí/Chia đặt quan chức qua các đời/q.XIII/Phan Huy Chú).
VSTK - 497
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38
Trị tội những kẻ phản quốc Trần Phong, Lương Nhữ Hốt: những kẻ nầy đã từng đầu hàng về với quân Minh, được Lê Lợi tha tội nhưng sau đó lại ngầm sai thuộc hạ lén đem thư bí mật ước hẹn sẽ làm nội ứng khi quân Minh trở lại xăm lược Đại Việt. Âm mưu phản bội của họ bị khám phá. Lê Thái Tổ cho báo cáo khắp các nơi trong kinh đô và ngoài lộ được hay biết rồi giết hết những kẻ phản bội. ( Lưu ý: xin xem thêm phần phụ chú ở trang 637) 5 Miễn nghĩa vụ quân dịch và dân công cho con cháu của nghĩa quân Lam Sơn: ĐVSKTT (BK/q.X/63a,b) có chép rằng: “Tháng 12, ngày mồng 7 năm Mậu Thân (1428) ra lệnh chỉ cho các quan văn võ: người nào đã đưa vợ con lên lẩn tránh ở núi rừng cùng với trẫm (vua tự gọi mình để xưng hô) mưu lo việc nước, từ Mường Thôi đến ở Bồ Đằng, Chí Linh, Khả Lam thì con hoặc cháu được miễn các việc quân dịch và dân dịch. Nếu đã làm quan thì không thuộc lệ nầy. Con cháu của kẻ nào đã bỏ đạo nghĩa, cầu an, hàng giặc thì không được nhận. Ai làm trái thì xử tội biếm hay bãi chức". Đây là một ưu đãi, một đặc ân có tính cách bè phái dành riêng cho tập đoàn đang nắm quyền cai trị trong nước mà ngày nay người ta vẫn còn thấy tồn tại ở một số nước chậm tiến trên thế giới. Thời buổi nào thì cũng có những hạng con ông, cháu cha như thế. Chỉ có người dân đen là phải gánh chịu mọi điều cơ cực vì dân công, quân dịch. 6 Đúc tiền Thuận Thiên và ấn định hối xuất tiền tê cũ: cứ 50 đồng là một tiền. Trước đây, thời Trần Thái Tông, năm Kiến Trung thứ 2 (1226) có chiếu ấn định tỷ lệ hối xuất (tức là tỷ lệ giá trị của đồng tiền) áp dụng cho người dân thường thì mỗi tiền là 69 đồng; còn dùng tiền chính thức cho việc công (sử cũ gọi là chính dụng) thì mỗi tiền là 70 đồng. Như vậy, dưới thời Lê Thái Tổ, không có sự ưu đãi hối xuất tiền tệ cho nhà nước và cả nước chỉ có một hối xuất chung là 50 đồng để đổi lấy một tiền. 7 Lập con Tư Tề làm quốc vươn : đây là một hình thức vua cha nhường ngôi vua cho con để lên làm thái thượng hoàng giống như các triều đại trước. Tuy nhiên ở đây, Lê Lợi vẫn giữ quyền chỉ định hoàng thái tử và vẫn nắm giữ tất cả mọi quyền lực khác, Tư Tề chỉ là một quốc vương bù nhìn, chỉ có tiếng mà không có quyền. Có lẽ vì lý do nầy khiến cho Tư Tề trở thành đứa con ngỗ nghịch, bất hiếu và vô đạo. 8 Chia phiên quân binh làm ruộng: chia mỗi vệ quân ra 5 phiên, lưu lại một phiên lo việc phòng thủ và bảo vệ lãnh thổ còn 4 phiên lo việc làm ruộng, tức là hơn 70 phần trăm quân số. 4
VSTK - 498
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24
25 26 27 28 29 30 31
32
33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
Sử sách cũ không nói rõ là số người nầy được đưa đi làm ruộng lo việc sản xuất trong một thời hạn bao lâu và khi hết thời hạn cày cấy sản xuất thì có trở lại quân ngũ làm nhiệm vụ quốc phòng để phiên khác ra thay thế theo thể thức xoay vòng hay không? KDDVSTGCM có viết về việc nầy như sau: “Trước kia, khi ra Đông Đô nhà vua có dụ bảo tướng sĩ rằng: Số quân hiện tại của ta nay có 35 vạn, đợi khi nào khôi phục được Đông Đô thì bấy giờ sẽ cho 25 vạn về làm ruộng, chỉ để lại 10 vạn quân ở lại làm việc phòng thủ và bảo vệ đất nước”(CB/q.XV/ tờ 19). Như vậy có thể là số quân cho về làm ruộng là số quân được giải ngũ để trở về đời sống dân sự sau khi đất nước hoà bình. 9 Loại trừ công thần Trần Nguyên Hãn: Trần Nguyên Hãn là dòng dõi tư đồ Trần Nguyên Đán, có học thức, thao lược quân sự. Khi nghe tin Lê Lợi tụ nghĩa ở Lam Sơn, Hãn vào Thanh Hóa gia nhập cuộc khởi nghĩa. Lê lợi nhận biết được Hãn là người tài lược cho nên đối đãi rất hậu, cho được hợp bàn những việc tham mưu, Hãn lập được rất nhiều công trạng, được lên đến chức tư đồ. Khi Lê Lợi đã thành công lên ngôi vua, nghe lời gièm pha của những kẻ xu nịnh tố cáo Hãn âm mưu làm phản, Lê Lợi bèn ra lệnh đến bắt nhưng nhưng thuyền chở Hãn về giao nạp bị gió bảo lật chìm và Hãn chết (ĐVTS/ Liệt truyện/Lê Quý Đôn), (KDDVSTGCM/CB/ XV/20a). LTHCLC/Nhân vật chí/Phan Huy Chú và VSCMTY/ Q.IV của Đặng Xuân Bản đều có ghi việc nầy. Tuy nhiên, trong ĐVSKTT bản Chính Hòa thứ 18 (1697), không thấy ghi chép về việc Lê Lợi loại trừ Trần Nguyên Hãn và đây là nghi vấn sẽ được cứu xét trong phần khảo luận. 9bis Phong tước hầu cho 93 công thần: theo LTHCLV của Phan Huy Chú: Thái tổ phong tước liệt hầu cho các công thần. Đứng đầu là huyện thượng hầu, thứ đến á thượng hầu, thứ nữa đến đình thượng hầu, thứ nữa đến huyện hầu, thứ nữa đến á hầu, rồi đến quan nội hầu, quan phục hầu, trước phục hầu, tất cả gồm 9 bậc. 10 Thi minh kinh: KDDVSTGCM viết: ". . Đến đây nhà vua mở khoa minh kinh". ĐVSKTT chép một cách tổng quát nhưng không gọi là thi minh kinh. ĐVTS của Lê Quý Đôn ghi chép hơi khác với 2 bộ chính sử cũ: “Ngày 28 tháng 11 năm Mậu Thân (1428), ban mệnh lệnh cho quan viên và quân nhân khắp thiên hạ, cho biết đến tháng 5 sang năm, tới Đông kinh dự thi: ban văn thi kinh sử, ban võ thi về võ kinh cùng pháp lệnh và kỳ thư ". Năm Kỷ Dậu (1429), DVTS tiếp theo ghi rằng: “Ngày 26 (tháng 5 năm Kỷ Dậu), vua ban mệnh cho quân nhân các phủ, các lộ và những kẻ sĩ ẩn dật nơi sơn lâm, có ai thông kinh sử, giỏi văn học, ngày 28 (tháng 5 năm Kỷ Dậu) thảy đều tới sảnh đường ghi danh đợi đến ngày định kỳ thi sẽ vào thi. Ai trúng tuyển sẽ được bổ dụng làm quan. Lại ban mệnh cho các quan văn võ, có ai tinh thông kinh sử, từ tứ phẩm trở xuống thảy đều tới sảnh đường dự hội thí vào ngày 29 tháng này (tháng 5 năm Kỷ Dậu) "(ĐVTS/tờ 47b và 48 a). VSTK - 499
1 2 3 4
5 6 7 8
9 10 11 12 13
14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
Từ những cách ghi chép trên của sử sách cũ, có thể suy luận rằng ngày 29 tháng 5 năm Kỷ Dậu (1429), Lê Lợi đã mở một kỳ thi lớn cho tất cả quan, quân và thường dân trong cả nước để chọn người bổ dụng vào những chức vụ quan trọng. Đặc biệt trong kỳ thi nầy, những quan quân từ hàng tứ phẩm trở xuống đến hàng binh sĩ đã đi theo Lê Lợi từ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nay muốn được trọng dụng hoặc thăng quan tiến chức thì cũng phải ghi danh dự kỳ thi nầy. 11 Khảo hạch các tăng sĩ và đạo sĩ: ngày 10 tháng 6 năm Kỷ Dậu (1429), ra lệnh cho các tăng sĩ, đạo sĩ người nào thông kinh điển, trong sạch, giữ tiết hạnh thì phải đến sảnh đường trình diện vào ngày 20 tháng này để được duyệt xét cho thi khảo hạch.; ai đỗ thì cho tiếp tục làm tăng sĩ, đạo sĩ, ai không đỗ thì phải trở về đời sống dân thường để lao động sản xuất. 12 Truy phong chức thái úy cho Lê Lai: khi trong nước vừa yên, Lê Lợi truy phong cho Lê Lai tước Thiếu úy Lũng Nhai công thần. Đến nay lại tặng phong thêm tước Thái úy. 13 Đào Công Soạn: có tên tự là Tân Khanh, người làng Thiện Phiến, huyện Tiên Lữ (nay là xã Thiện Phiến, huyện Phù Tiên, tỉnh Hưng Yên). Năm Bính Ngọ (1426), Lê Lợi ra Đông Đô, mở cuộc thi tìm người giỏi, Soạn được đỗ thứ nhất. Ông có tài ngoại giao cho nên thường được cử đi sứ sang triều đình nhà Minh. Làm quan đến chức thượng thư bộ Lễ và nhiều lần được giữ chức nhập nội đại hành khiển. Ông là người ôn hòa, lễ độ, cần kiệm liêm chính. Thơ ông cũng thanh thoát, ý tứ dồi dào. Khi chết, tuổi 78 (có lẽ chết vào năm Bính Tý / 1456 hoặc năm Đinh Sửu / 1457). 13bis Loại trừ công thần Phạm Văn Xảo: đây lại thêm một trường hợp khác về việc Lê Lợi sát hại những người công thần tương tựa như trường hợp của Trần Nguyên Hãn. 14 Châu Thạch Lâm: tức Thông Nông, thuộc Thái Nguyên, nay thuộc Cao Bằng. 15 Nhóm thổ tù ở châu Thạch Lâm cấu kết với Trần Nguyên Hãn để làm phản: chuyện nầy được ghi chép trong Đại Việt Thông Sử của Lê Quý Đôn. ĐVSKTT, KDDVSTGCM, VSCMTY không chép là nhóm thổ tù nầy liên kết với Trần Nguyên Hãn mưu phản. Đây là chi tiết rất đáng được khảo xét vì nó có liên quan đến việc Lê Lợi loại trừ những công thần đã từng sống chết với mình từ lúc khởi nghĩa Lam Sơn. 16 Sách Lam Sơn Thực Lục: sách ĐVSKTT chép về việc soạn sách Lam Sơn Thực Lục đời Lê Thái Tổ (Lê Lợi) rất sơ sài như sau: “Năm Tân Hợi, niên hiệu thuận thiên thứ tư tháng 12, ngày mồng 6 (tức vào khoản ngày 9 tháng 1 năm 1432 dương lịch) sai làm sách Lam Sơn thực lục; vua tự làm bài tựa, đề tên là Lam Sơn động chủ" (đoạn viết nầy bằng chữ hán được phiên âm ra như sau: Tân Hợi, Thuận Thiên, tứ niên thập nhị nguyệt lục nhật, đế mệnh tác Lam Sơn thực lục, đế tự tác tựa, chước VSTK - 500
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
13 14 15 16 17 18 19
Lam Sơn động chủ) (BK/Q.10/73b). Theo cách viết nầy của ĐVSKT thì Lê Lợi sai người khác làm ra (đế mệnh tác) sách LSTL còn Lê Lợi chỉ viết lời tựa cho sách mà thôi (tự tác tựa). Tuy nhiên, nếu đọc nội dung lời tựa do Lê Lợi viết trong sách LSTL thì thấy rằng sách nầy do đích thân Lê Lợi chép (nãi bút vu thư = liền chép thành sách). Thời điểm viết bài tựa nầy cũng khác với ĐVSKTT: “ngày tốt tháng trọng Đông (tức tháng 11 âm lịch) niên hiệu Thuận Thiên thứ tư (tháng 12 năm 1431 dương lịch), Lam Sơn động chủ Thuận Thiên tứ niên, trọng đông nguyệt cốc nhật, Lam Sơn động chủ tự”. Như vậy có thể hiểu ý nghĩa của cách viết trong ĐV SKTT về sách LSTL như sau: Vào lúc khởi nghĩa ở Lam Sơn, Lề Lợi tự tay viết lấy những chuyện xảy ra tuần tự theo thời gian vào một tập nhật ký nào đó. Đến khi đã đuổi hết quân Minh ra khỏi bờ cõi nước Đa,i Việt rồi lên ngôi vua, Lê Lợi liền ra lệnh cho các nho thần đem sách nhật ký đó sửa lại cấu trúc, lời văn và đặt tên cho quyển nhật ký là Lam Sơn Thực Lục, Lê Lợi viết thêm bài tựa. 17 Châu Mường Lễ: trước là châu Ninh Viễn, sau đổi là châu Phục Lễ, là vùng đất tỉnh Lai Châu ngày nay. 18 Trao quyền cai trị nước và thừa kế ngôi vua : đây cũng giống như hình thức vua và thái thượng hoàng trong triều đại nhà Trần ngày trước. KHẢO LUẬN: Sử gia phê luận về Lê Lợi:
27
Khởi đầu kỷ nhà Lê, ĐVSKTT viết nguyên văn như sau: <<Vua họ Lê, tên húy là Lợi, người hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn Thanh Hóa. Ở ngôi 6 năm, thọ 51 tuổi, táng ở Vĩnh Lăng. Vua hăng hái dấy nghĩa binh đánh dẹp giặc Minh. Sau 10 năm thì thiên hạ đại định. Đến khi lên ngôi, đã ấn định luật lệnh, chế tác lễ nhạc, mở khoa thi, đặt cấm vệ, xây dựng quan chức, thành lập phủ huyện, thu thập sách vở, mở mang trường học, có thể gọi là có mưu kế xa rộng mở mang cơ nghiệp. Song đa nghi, hiếu sát, đó là chỗ kém.>>(ĐVSKTT/BK/Q.X/
28
1a).
20 21 22 23 24 25 26
29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41
Sau khi Lê Thái Tổ (Lê Lợi) mất, ở tờ 75 a và b của ĐVSKTT có đoạn Lời bàn cũng viết tương tựa như đoạn khởi đầu kỷ nhà Lê nói trên. Lời bàn:"Song đa nghi và hiếu sát, đó là chỗ kém" không biết là do ai ở vào triều đại nhà Hậu Lê đã táo bạo ghi chép lời phê luận một các tách bạch và khá thẳng thắn như thế đối với ông tổ của triều đại nầy. Đa số những lời bàn khác đều là những lời tâng bốc khen ngợi hết lời về công đức to lớn của Lê Lợi. KDDVSTGCM cũng có đoạn viết tương tựa: ". . . . nhưng hay nghi kỵ đa sát: đó là chỗ kém của nhà vua Lê " (CB/ q.XV/ 32). Ở đây cũng cần lưu ý rằng, trong ĐVSKTT/ Bản Kỷ/ q.X không có kê khai tên của sử gia nào biên soạn hoặc tu sửa (thí dụ ở phần Ngoại Kỷ/ q.I, khởi đầu tờ 1 có ghi pho Triều Liệt Đại phu, quốc tử giám tư nghiệp kiêm sử quan tu soạn thần Ngô Sĩ Liên biên soạn. Ở phần ĐVSKTT/Bản Kỷ Thực Lục/ q.XI/ tờ 1 cũng có ghi rõ VSTK - 501
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26
27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43
tác giả là Ngô Sĩ Liên biên soạn). Như vậy, có thể suy luận rằng, ĐVSKTT/BK/ q.X là do Ngô Sĩ Liên khởi phát nhưng sau đó đã có nhiều người tu soạn, viết đi viết lại và thêm vào những đoạn viết mở đầu hoặc lời phê luận táo bạo như trên. Nhóm sử gia cuối cùng tu soạn và viết nối tiếp bộ ĐVSKTT là nhóm của Hồ Sĩ Dương và kế tiếp là Lê Hy. Trên thực tế, nhà Hậu Lê chỉ còn là một triều đại bù nhìn kể từ khi Lê Anh Tông (1556-1573) và Lê Kính Tông (1600-1619) bị Trịnh Tùng bức tử lần lược trước sau vào năm Quý Dậu (1573) và năm Kỷ Mùi(1619), rồi từ đó việc cai trị hoàn toàn do phủ chúa Trịnh nắm giữ. Nhóm Lê Hy là quan thần của phủ chúa Trịnh.Lúc bấy giờ Lê Hy giữ chức thượng thư bộ Hình từ năm 1693, cùng Nguyễn Quán Nho giữ chức thượng thư bộ binh đều trực thuộc làm việc với chức vụ Thamtụng bên phủ chúa Trịnh. Lê Hy đã vâng lệnh của chúa Trịnh Tạc (thời Lê Hy Tông từ 1676-1705) hoàn chỉnh bộ ĐVSKTT và soạn tiếp cho đến năm 1675. Cùng tham gia tu sửa và biên soạn với Lê Hy còn có các quan chức cao cấp khác của phủ chúa Trịnh Tạc như các bồi tụng Nguyễn Quý Đức, Nguyễn Công Đổng, Vũ Thanh, Hà Tông Mục và Nguyễn Hành. Do đó, ĐVSKTT kể từ Lê Hy thì không còn lý do gì để e dè sợ sệt trong việc nhận định và phê phán những triều đại cũ từ trước nhất là đối với triều đại nhà Hậu Lê. Cần viết thêm rằng, từ thời Lê Huyền Tông (1663-1671), uy quyền của Trịnh Tạc lấn lướt hết uy quyền của vua Lê, ra vào gặp mặt vua không cần bái lại, sớ tấu không cần viết tên, ghế ngồi thiết triều của Trịnh Tạc đặt ngang ở phía trái ghế ngồi của vua Lê. Trong bài tựa Sử Ký Tục Biên, Lê Hy viết: “Bèn nhân lúc nhàn rỗi sai bọn hạ thần khảo đính sử cũ, chỗ nào sai thì sửa lại, chỗ nào đúng thì chép lấy. . . . . . . . .."(ĐVSKTT/Tựa ĐVSKTB/q.Thủ/ 2b). Tóm lại, nếu có những nhận xét phê phán ngay thẳng đúng mức trong ĐVSKTT thì những nhận xét phê phán đó chỉ có thể là bút phê của một trong các chúa Trịnh hoặc là do các sử quan trong nhóm Lê Hy viết thêm vào vì họ không bị áp lực nặng nề của dòng họ nhà Hậu Lê. Còn thời gian trước Lê Hy, các sử quan như Lê Tung, Phạm Công Trứ, Vũ Quỳnh, Ngô Sĩ Liên, Phan Phu Tiên, tất cả chỉ là những con cá nằm trên thớt của một triều đại nhà Hậu Lê đang lúc thịnh vượng và đầy quyền uy sinh sát: những cung cách phê phán của họ chỉ có thể là "xấu che, tốt khoe" chứ không thể có những phê phán "phạm thượng" để tự mang họa vào thân .Lời bàn của Lê Quý Đôn trong Đại Việt Thông Sử cũng chỉ có lời khen tâng bốc nhưng không thấy đá động gì đến các lầm lỗi của Lê Lợi trong việc sát hại, loại trừ các công thần. Chuyện nầy cũng dễ hiểu, bởi vì Lê Quý Đôn không bao giờ đứng hẳn về một phía với phủ chúa Trịnh mà cũng chưa bao giờ được chúa Trịnh (Trịnh Sâm, rồi Trịnh Doanh) tin dùng để giao phó cho việc tu sửa chính sử (chính sử tức là loại sách sử được chính quyền công nhận, do chính quyền phát hành, in ấn và cho phép phổ biến trong dân gian).
VSTK - 502
1 2 3
4 5
6 7 8
Nhóm sử gia Hồ Sĩ Dương trong bài tựa sách Trùng San Lam Sơn Thực Lục cũng chỉ có những lời tâng bốc khen ngợi. Phan Huy Chú trong LTRHCLC cũng không thấy có đoạn nào chê trách Lê Lợi. Nhóm sử gia trong quốc sử quán triều Nguyễn (Tự Đức) chỉ chép lại những phê phán "phạm thượng" đã có sẵn trong ĐVSKTT. VSCMTYcủa Đặng Xuân Bảng chỉ ghi lại giống như KDDVSTGCM và chép thêm lời bàn khen tụng của Lê Quý Đôn trong ĐVTS chứ không có ý kiến riêng. Quan điểm khách quan về Lê Lợi:
9 10
11 12 13 14 15 16 17 18 19 20
21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40
Dư luận cho Lê Lợi là một người đa nghi, hiếu sát đã căn cứ vào đâu để đưa ra những phê phán như vậy? Nhất định là việc giết hại và loại trừ các công thần đã đưa đến sự phê phán đó. Mặc dù chủ trương loại trừ các phe phái đối nghịch là một hành vi tất yếu và cần thiết của những kẻ đang nắm độc quyền cai trị, nhưng nếu chủ trương loại trừ, giam nhốt nầy bắt nguồn từ sự thù hận, từ khuynh hướng trả thù hay vì nghi kỵ nghe theo những kẻ xu nịnh bợ đỡ thì sự giết hại đó rất đáng chê trách. Hơn nữa, nếu tạo ra những duyên cớ mờ ám, hoặc đặt bày, vẽ chuyện để chụp mũ rồi buộc tội và xử tội những người mà mình không thích hoặc bị nghi ngờ thì lại còn đáng phải mang tiếng thêm là một hạng thủ lãnh tiểu nhân, nhỏ nhen, hôn quân vô đạo. Cái chết của công thần Trần Nguyên Hãn có vẻ như không phải do chính tay Lê Lợi ra lệnh nhưng nó cũng giống như cái chết có vẻ tự nhiên của tướng giặc Ô Mã Nhi ngoài biển khơi vào thời nhà Trần mặc dù thuyền chở Ô Mã Nhi đã bị Trần quốc Tuấn bí mật cho bộ hạ đục thủng cho chìm. Lê Lợi nêu rõ lý do cái chết của Nguyên Hãn là vì Hãn cấu kết với thổ mục ở biên giới để làm phản nhưng trong thâm tâm Lê Lợi dư biết rõ Trần Nguyên Hãn thuộc dòng họ nhà Trần mà nếu không lo tuyệt trừ thì sẽ tai hại về sau giống như ngày xưa nhà Trần đã tiêu diệt sạch dòng họ nhà Lý theo phương châm nhổ cỏ thì phải nhổ cho tận gốc. Về cái chết của Phạm Văn Xảo, Lê Quý Đôn ghi trong ĐVTS như sau: “Nguyên là khi vua Thái Tổ (Lê Lợi) tuổi già, nhiều bệnh, con trưởng là quận vương Tư Tề thì điên cuồng bậy bạ, vua Thái Tông thì còn nhỏ mà Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo đều là các bề tôi mở nước có công đầu, rất được người đương thời trọng vọng. Nguyên Hãn lại là con cháu tông tộc nhà Trần, mà văn Xảo cũng là người Kinh lộ. Vua Thái Tổ sợ rằng ngày sau chúa nhỏ cầm quyền thì hai người nầy sẽ sinh lòng phản nghịch đoạt ngôi. Vì thế, bề ngoài thì lấy lễ ý tôn sùng trọng vọng nhưng trong lòng vẫn nghi ngờ. Bọn Đinh Bang Bản, Lê Quốc Khí, Trình Hoàng Bá, Nguyễn Tông Chí, Lê Đức Dư đón biết ý vua, tranh VSTK - 503
1 2 3 4 5
nhau dâng mật sớ khuyên vua nên sớm quyết ý trừ đi. Những người mà bọn Lê Quốc Khí không bằng lòng đều bị vu cáo cho là bè đảng của Nguyên Hãn và Văn Xảo, bị án xử tử và tù giam rất nhiều”. Qua đoạn văn nầy người ta thấy thêm được Lê Lợi cũng là một con người bình thường nham hiểm, thâm độc và giả hình. Về việc truất phế Tư Tề năm 1433
6 7 8 9 10 11
12 13 14 15 16 17 18 19
20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38
Tới đây lại thêm một cách viết mờ ám của sử cũ: không viết rõ Tư Tề ngỗ nghịch, bất hiếu và vô đạo như thế nào. Rất có thể đây cũng là một âm mưu phế lập giữa hai phe con trưởng, con thứ và Lê Lợi là người nghe theo những kẻ nịnh thần gièm pha để truất bỏ quyền kế vị ngôi vua của người con trưởng là Tư Tề để chọn con thứ Nguyên Long làm hoàng thái tử. Người ta thường thấy trong sử cũ, cứ mỗi lần có sự phế lập về việc thừa kế ngôi vua thì liền ngay sau đó vua cha chết: ở đây, theo ĐVSKTT và KDDVSTGCM thì vào tháng 8 năm Quý Sửu (1433), Lê Lợi giáng con trưởng Tư Tề từ chức quốc vương xuống chức quận vương rồi ra tờ chiếu truyền ngôi vua cho con thứ Nguyên Long và cùng một lúc lại phong cho Lê Sát chức đại tư đồ nhận lãnh di chiếu làm phụ chính để giúp vua nhỏ Nguyên Long lúc đó chỉ mới được 11 tuổi (tức Lê Thái Tông). KDDVSTGCM viết rằng: “Bấy gìờ nhà vua đau nặng, thái tử còn nhỏ tuổi, Lê Sát là kẻ công thần tín cẩn , định giao cho công việc nhận lãnh di chiếu làm phụ chính để giúp vua nhỏ, cho nên nay có mệnh lệnh phong cho chức nầy “(CB/q.XV/ tờ 31) và tháng 8 nhuận (năm Quý Sửu có hai tháng 8) Lê Lợi mất. Những người sắp chết, thần trí trở nên mê muội chính là lúc những trò thay ngôi đổi chủ thường xảy ra dưới hình thức những lời trăn trối trong di chiếu: vào những giờ phút như thế thì các phe phái đối nghịch thường lợi dụng danh nghĩa của người sắp chết để kéo bè kéo phe, sắp xếp việc thừa hưởng ngôi vua. Cần lưu ý một điểm là đám công thần thân tín của Lê Lợi từ thuở Lam Sơn khởi nghĩa không được Tư Tề ưa thích kể luôn cả Lê Sát.Như vậy thì người ta có thể suy luận rằng: Lê Sát và những người cùng một nhóm của ông ta rất có thể đã đạo diễn việc hạ bệ Tư Tề để đưa cậu bé con Nguyên Long lên kế vị ngôi vua của Lê Lợi để họ có thể mặc tình thao túng lộng quyền trong việc triều chính. Tiểu sử của Lê Sát cho thấy ông ta là một người cố chấp, tham quyền cố vị, có khuynh hướng độc tài và lấn áp quyền của vua. Khi Lê Thái Tông (Nguyên Long) lớn khôn, đã có óc hiểu biết phán đoán thì thấy được chân tướng của Lê Sát và không dùng ông ta nữa.
VSTK - 504
1
2 3 4 5
6 7 8 9 10 11
Để kết luận, có thể nói rằng: 1- Tất cả những yếu điểm của Lê Lợi là hình ảnh chung và trung thực của lớp vua chúa và các hàng lãnh đạo trong thời đại phong kiến ngày xưa và vẫn còn tồn tại ở nhiều quốc gia chậm tiến ngày nay trên thế giới. 2 - Dù sao thì những khía cạnh bất toàn kể trên cũng không thể làm cho hậu thế không công nhận Lê Lợi là một người anh hùng của nước Đại Việt, một nhà quân sự tài ba, một nhà lãnh đạo khôn khéo nhiều mưu lược và nếu so sánh với các vua có tài và có công với đất nước từ trước kể từ Ngô Quyền thì Lê Lợi là người đáng được dân tộc Đại Việt tôn vinh và nhớ ơn rất nhiều.
VSTK - 505
QUYỂN II THỜI KỲ NHÀ HẬU LÊ CHƯƠNG II
LÊ THÁI TÔNG ( 1433 - 1442 ) Niên hiệu: Thiệu Bình (1434-1439), Đại Bảo (1440-1442) 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
Ngày mồng 8 tháng 9 năm Quý Sửu, năm Thuận Thiên thứ 6 (1433), thái tử Nguyên Long, 11 tuổi, lên ngôi vua tức Lê Thái Tông, đổi niên hiệu dùng cho năm tiếp theo là Thiệu Bình năm thứ 16 . Nguyễn Trãi vâng lệnh soạn văn bia Vĩnh Lăng1 kể lại công trạng và sự nghiệp đánh đuổi quân xâm lược nhà Minh của Lê Lợi. Xây điện Lam Kinh2. Giáp Dần, Thiệu Bình năm thứ 16, tháng Giêng (1434), sai sứ sang Tàu để đưa trả tù và nạp cống cho nhà Minh3. Ra lệnh cho con cháu của các quan từ lục phẩm trở lên phải vào học ở Quốc tử giám. Lại khảo thí học sinh ở các lộ chia làm 3 hạng: hạng nhất và hạng nhì thì được đưa vào học Quốc tử giám, hạng ba vẫn được tiếp tục học ở các lộ, tất cả đều được miễn sai dịch4 . Lê Sát giữ chức tể tướng, lập mưu giết Lưu Nhân Chú và biếm chức em của Chú là hành khiển Nam đạo Lưu Khắc Phục, đày giám sinh Nguyễn Đức Minh ra châu xa. Nịnh thần Trình Hoành Bá trước đây đã bị Lê Lợi đuổi đi không dùng nay Lê Sát lại được nâng đỡ kéo trở về theo phe mình nhưng Lê Thái Tông không thuận. Lê Sát lại giáng chức nhập nội thiếu bảo Trịnh Khả vì ghét Khả. Bắt lính: con trai của hàng dân và của các gia đình quân binh5 đều phải trình diện để qua cuộc tuyển chọn. Con của các hàng quan văn võ đang tại chức từ lục phẩm trở lên, cũng như các sinh viên trường quốc tử giám được miễn trình diện tuyển lính. Nhà nào có 3 con trai thì chỉ được miễn 1 người. Tháng 4, mùa hạ, không mưa, hạn hán.
VSTK - 506
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
Tháng 5, quy định lại thuế bãi dâu còn các loại thuế khác vẫn theo lệ năm Quý Sửu (1433)6. Lê Sát có chuyện bất hòa với Nguyễn Trãi7. Lê Thái Tông truy tôn mẹ là Phạm thị Ngọc Trân, vợ lẻ của Lê Lợi, làm cung từ quốc thái mẫu. Mùa thu tháng 7, mở hội Vu Lan8. Tháng 8, định thể lệ thi và kỳ hạn khoa thi tiến sĩ: năm Thiệu Bình thứ 5 sắp tới (1448) sẽ thi Hương ở các đạo, năm Thiệu Bình thứ 6 (1449) thi Hội ở sảnh đường tại kinh đô. Từ đó trở đi, cứ 3 năm một lần thi lớn, coi như đây là một quy định lâu dài, người nào thi đỗ thì được ban danh hiệu tiến sĩ xuất thân9. Thể lệ thi chia thành 4 kỳ: kỳ thứ nhất thi tứ thư10 và ngũ kinh11, mỗi thư một bài, mỗi kinh một bài, mỗi bài từ 300 chữ trở lên; kỳ thứ hai: thi chế, chiếu, biểu; kỳ thứ ba: thi thơ, phú; kỳ thứ tư: thi 1 bài văn sách từ 1,000 chữ trở lên. Lệnh các trưởng quan khảo hạch công trạng và đạo đức của các quan chức thuộc hạ rồi lập bản tường trình đầy đủ chi tiết11bis. Tháng 9, vua mới của nước Ai Lao là Dụ Quần12 dâng nạp vàng bạc và voi xin hàng phục Đại Việt. Sứ Chiêm Thành sai sứ mang cống vật sang để cầu hoà. Tháng 10, sâu bọ phá hoại ruộng lúa. Tháng 11, sứ nhà Minh sang điếu tang Lê Lợi. Tháng 12, Lê Thụ bị xử phạt vì cưới thêm vợ lẻ và lén lút bắt lính xây dựng dinh phủ riêng cho mình trong khi khắp nước còn đang để tang Lê Lợi13. Cho phép nộp vàng chuộc tội. Ất Mão, Thiệu Bình năm thứ 2, tháng 2 (1435), nhà Minh sai sứ phong chức quyền thự An Nam quốc sự cho Lê Thái Tông. Tháng 3, đúc sáu loại ấn triện bằng vàng, bạc và gồm có: ấn "thuận thiên thừa vận"14 dùng cho việc truyền ngôi, ấn "đại thiên thành hóa"15 dùng trong khi đưa quân đi bình định dẹp loạn, ấn "chế cáo" dùng cho các loại chế chiếu, ấn "sắc mệnh" dùng cho các sắc dụ và các hiệu lệnh thưởng VSTK - 507
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
phạt, ấn "ngự tiền" dùng để đóng dấu trên các giấy tờ, sổ sách, ấn "ngự tiền tiểu bảo" dùng cho các giấy tờ kín mật. Còn việc hành chánh bình thường thì vẫn dùng những ấn triện làm bằng ngà voi như lệ cũ. Sai người đi điều tra tình trạng tham nhũng của các quan chức trong ngoài sau đó bắt giữ và cho điều tra xét hỏi hơn 50 người. Cuối năm Ất Mão (1435), sai quân đội vét sông Đông Ngàn. Bính Thìn, Thiệu Bình năm thứ 3 (1436), cử sứ sang Trung Quốc xin nhà Minh phong tước vương cho Lê Thái Tông. Đinh Tỵ, Thiệu Bình năm thứ 4 (1437), vua nhà Minh sai sứ sang Đại Việt ban tước An Nam quốc vương cho Lê Thái Tông. Tháng 5, giao cho Nguyễn Trãi và Lương Đăng chế tác lễ nhạc. Những đề nghị của Nguyễn Trãi trong việc nầy không được Lê Thái Tông nghe theo do đó Nguyễn Trãi xin thôi nhiệm vụ nầy, Lương Đăng tiếp tục việc chế tác: về lễ có những lễ đại triều như lễ tế trời, lễ cáo miếu, lễ ngày sinh của vua, lễ ngày mồng một Tết âm lịch; về nhạc thì có nhạc tế giao16, nhạc tế miếu, nhạc tế ngũ tự17, nhạc dùng khi có nhật thực hay nguyệt thực, nhạc đại triều, thường triều, đại yến, nhạc trong cung vua. Tháng 6, Lê Thái Tông tự thanh lọc và sắp xếp lại quan chức triều đình: - loại ra ngoài Lê Ê và Lê Hiển là đồng bọn tay chân bộ hạ của Lê Sát; phục chức cho Trịnh Khả trở về coi cấm quân; - cách hết chức tước của Lê Sát với lý do là Lê Sát đã chuyên quyền, ganh ghét người hiền tài, giết Lưu Nhân Chú, truất Trịnh Khả, đày Ư Đài, đuổi Cầm Hổ ; - đổi Đặng Đắc đi Lạng Sơn vì là kẻ bay mưu lập kế cho Lê Sát, sau đó tống giam Đắc vào ngục và xử tội chết ; - hạ chức Lê Văn Linh và Lê Ê . - phục hồi chức Trung thừa cho Bùi Cầm Hổ.
VSTK - 508
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
Tháng 7, bắt Lê Sát phải tự tử, tịch thu hết gia sản, phế ngôi vị nguyên phi con gái của Sát là Lê thị Ngọc Dao xuống hàng cung tần không có thứ bậc. Lập con gái của đô đốc Lê Ngân lên hàng Huệ phi. Phan Thiên Tước, Lê Bồ, Lê Lao, Lê Lỗi đều bị bãi hoặc giáng chức vì là bộ hạ thân tín của Lê Sát. Tham nghị Nguyễn Liễu bị đày đi châu xa vì phê phán hoạn quan Lương Đăng trong việc chế tác lễ nhạc. Tháng 12, giết nhập nội đại đô đốc Lê Ngân, tịch thu gia sản, giáng truất Huệ phi18, con gái của Lê Ngân, xuống làm tư dung19. Lý do: Lê Ngân thờ tượng phật Quan Âm trong nhà để cầu nguyện cho con gái là Huệ phi được vua thương yêu chiều chuộng nhiều hơn. Người đàn bà lo việc cúng thờ tượng Quan Âm ở nhà Lê Ngân cũng bị đày đi châu xa. Ra lệnh cho người Hoa sinh sống ở Đại Việt phải ăn mặc theo kiểu của người Đại Việt và phải cắt tóc ngắn20. Mậu Ngọ, Thiệu Bình năm thư 5, tháng 2 (1438), vét các sông ở Trường Yên, Thanh Hóa và Nghệ An. Phế quận vương Tư Tề xuống làm dân thường21. Tháng 12, sứ nhà Minh sang đòi lại hai động An Bang và Hóa Long thuộc châu An Bình của Trung Quốc. Lê Thái Tông cũng sai sứ sang Trung Quốc đòi lại các động ở Vũ Đức của Đại Việt22 . Kỷ Mùi, Thiệu Bình năm thứ 6, tháng 3 (1439), quy định hối xuất tiền đồng, kích thước vải vóc và giấy viết: 60 đồng là một tiền. Lụa mỗi tấm dài 30 thước, ngang từ 1 thước 5 tấc trở lên. Vải gai nhỏ mỗi tấm dài 24 thước, ngang từ 1 thước 3 tấc trở lên. Vải gai mỗi tấm dài 24 thước. Vải bông thô mỗi tấm dài 22 thước. Giấy thì cứ mỗi xấp là 100 tờ. Tháng 8, bắt lính. Tháng 10, hoàng tử Lê Nghi Dân sinh. Đổi niên hiệu là Đại Bảo năm thứ 1. Canh Thân, Đại Bảo năm thứ 1 tháng Giêng (1440), lập con trưởng Lê Nghi Dân làm hoàng thái tử. Mẹ đẻ của Nghi Dân là thần phi Dương thị Bí.
VSTK - 509
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
Tháng 6, phong cho Ngô thị Ngọc Giao làm tiệp dư23, được vào ở cung Khánh Dương. Tân Dậu, Đại Bảo năm thứ 2, tháng 5 (1441), hoàng tử Bang Cơ sinh. Mẹ sinh Bang Cơ là thần phi Nguyễn thị Anh. Tuyển gái đẹp ở các nơi đưa vào cung hầu hạ vua. Vợ của Nguyễn Trãi là Nguyễn thị Lộ24 tấu với vua là cần phải bắt giam những hạng đàn bà kiêu căng, ghen tương, ngỗ nghịch. Giáng thần phi Dương thị Bí, mẹ của hoàng thái tử Nghi Dân xuống hạng vợ thứ vì cho rằng Dương thị ngỗ nghịch, đức độ không tốt. Nghi Dân vì là con của Dương thị cho nên cũng bị giáng xuống làm Lạng Sơn vương, lập Bang Cơ làm hoàng thái tử và Khắc Xương25 làm Tân Bình vương. Nhâm Tuất Đại Bảo năm thư 3 (1442) tháng 3, tổ chức thi Hội: Nguyễn Trực, Nguyễn Như Đỗ, Lương Như Hộc đỗ tiến sĩ cập đệ26; Trần Văn Huy và 6 người khác đỗ tiến sĩ xuất thân27; 23 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân28 trong đó có Ngô Sĩ Liên29. Sai dựng bia đề tên những người đỗ tiến sĩ. Bia tiến sĩ bắt đầu có từ đây. Tháng 7, hoàng tử Tư Thành sinh. Mẹ sinh Tư Thành là tiệp dư Ngô thị Ngọc Giao. Lê Thái Tông đi tuần miền Đông. Đến Chí Linh được Nguyễn Trãi mời đến du ngoạn ở chùa Côn Sơn30. Tháng 8, trên đường trở về, Lê Thái Tông dừng lại ở trại Vải31, huyện Gia Định, xã Đại Lại32, bên bờ sông Thiên Đức, truy hoan suốt đêm với vợ của Nguyễn Trãi là Nguyễn thị Lộ rồi chết ở đó. Triều đình dấu kín chuyện nầy, lặng lẽ đưa xác Lê Thái Tông về kinh đô rồi hai ngày sau tức ngày mồng 6 tháng 8 năm Nhâm Tuất (1442) mới truyền rao tin vua chết cho mọi người hay và công bố rằng Nguyễn thị Lộ mưu hại Lê Thái Tông. Hoàng thái tử Bang Cơ lên ngôi, lúc đó mới 2 tuổi. Nguyễn thị Lộ bị triều đinh xử tội chết. Nguyễn Trãi cũng bị xử tội chết và tru di 3 họ. CHÚ GIẢI:
VSTK - 510
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43
Văn bia Vĩnh Lăng: nói về sự nghiệp, chiến công và thành tích của Lê Lợi. Bài văn nầy do Nguyễn Trãi soạn tháng 10 năm Quý Sửu (1438) và khắc lên bia đặt nơi chôn Lê Lợi ở Vĩnh Lăng. 2 Điện Lam Kinh: theo lời chua của KĐVSTGCM trích dẫn Hoàng Việt địa dư chí thì điện nầy ở xã Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, nay là Xuân Lam huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa (CB .XV/33). 3 Trả tù và nộp cống cho nhà Minh: trước đó nhà Minh sai sứ sang sang hỏi về tù binh người Minh còn bị giam nhốt ở Đại Việt và số vàng phải nộp cống cho vua nhà Minh. 4 Ra lệnh các quan chức phải đưa con cháu vào Quốc tử Giám để học: đây là một chính sách ưu đãi đặc biệt có tính cách phân biệt giai cấp và phe phái đối với người dân thường bởi vì, người dân thường muốn tiến thân thì trước hết phải thi đỗ để được vào học quốc tử giám trong khi các hạng con cháu của các quan lại cao cấp thì được miễn thi. Một điểm cần lưu ý ở đây là chính sách miễn sai dịch được áp dụng để khuyến khích việc rèn luyện, học tập của giới trẻ nhằm tạo dựng nhân tài cho tương lai . 5 Bắt lính: chỉ có con em thường dân và của các gia đình binh sĩ bị bắt phải trình diện đi lính, còn con cái của các hàng quan lại thì được miễn. 6 Theo thể lệ thuế quy định ở năm Quý Sửu (1433): các ngạch thuế khác đã được quy định vào năm Quý Sửu (1433) nhưng thuế bãi dâu thì chưa được quy định cho nên nay mới quy định rõ ràng. 7 Lê Sát có chuyện bất hòa với Nguyễn Trãi: Nguyễn Trãi thảo văn thư để cho sứ mang sang Trung Quốc cầu phong. Người của Lê Sát muốn sửa đổi văn thư, bị Nguyễn Trãi chê là hạng xu nịnh và làm cho cả nước bị thiên tai. Lê Sát hay được trách Nguyễn Trãi, cho rằng thiên tai là do lỗi của vua và tể tướng (Lê Sát lúc đó là tể tướng của triều đình), Nguyễn Trãi chê bai như thế tức là nói lời quá đáng với vua và tể tướng . 8 Hội Vu Lan: tức hội Vu Lan Bồn của đạo Phật tổ chức vào ngày 15 tháng 7 Âm lịch hằng năm. Kinh phật chép rằng, mẹ của Mục Liên phải sống trong địa ngục, ăn uống gì đều hóa thành lửa, ăn không được nên bị đói khát ở địa ngục. Phật bảo Mục Liên làm hội Vu Lan bồn vào ngày rằm tháng 7 (tức ngày 15 tháng 7 Âm lịch), dùng một cái bồn lớn đựng nhiều loại thức ăn để cúng dường chư Phật khắp nơi thì mẹ của Mục Liên sẽ được giải thoát. Các đời sau, lễ Vu Lan bồn là để cúng thí cho các hạng cô hồn đói khát đau khổ và là dịp để con cái báo hiếu cho cha mẹ. 9 Tiến sĩ xuất thân: tức là bằng cấp tiến sĩ dùng để ra làm quan. Đây là kiểu thi phỏng theo kiểu thi của người Tàu từ thời nhà Tống: vua Tống Chân Tông định điều lệ thi tiến sĩ, chia người đỗ làm 5 bậc: bậc nhất, bật nhì gọi là cập đệ, bậc ba là xuất thân, bậc năm là đồng xuất thân. 1
VSTK - 511
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43
Tứ thư: là 4 quyển sách của người Nho học: Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử. 11 Ngũ kinh: năm cuốn sách kinh. Trước kia có 6 kinh nhưng sau chiến dịch đốt sách của Tần Thủy Hoàng (246-249) thì Kinh Nhạc (âm nhạc) hầu như hoàn toàn bị tiêu hủy và chỉ còn được có một thiên và sau nầy được nhập vào sách Lễ Ký để đặt thành thiên Nhạc Ký. Năm cuốn kinh còn lại gồm có :1- Thi (thơ), do Khổng Tử sưu tập và lựa chọn. 2- Thư (ghi chép), cũng do Khổng Tử sưu tập các loại điển (phép tắc), mô (Mưu mô, kế sách), huấn (dạy dỗ, giao huấn), cáo (bố cáo, lời truyền rao), thệ (lời răn bảo tướng lãnh và binh sĩ), mệnh (lệnh truyền, mệnh lệnh) của các vua, quan người Tàu kể từ các đời vua Nghiêu, vua Thuấn đến đời Đông Chu tức từ năm 2357 đến 771 TCN. 3- Dịch : (chuyển đổi), viết về bói toán và lý học, giải thích sự thay đổi của trời đất và và sinh hoạt của muôn vật. 4- Lễ ký (chép về lễ nghi), lễ nghi trong gia đình, trong các nhóm đảng hoặc trong triều đình nhà vua. 5- Xuân Thu (mùa Xuân và mùa Thu), là sách viết về sử ký của nước Lỗ, được Khổng Tử sửa đổi và chép lại theo thể ghi chép từng năm (biên niên) từ đời Lỗ Ẩn Công đến đời Lỗ Ai Công (722-481 TCN). 11bis Khảo hạch công trạng và đạo đức các quan chức thuộc hạ: tức là điều tra và kê khai lý lịch, đức hạnh nhân viên của mình. Ở huyện, lộ, trấn thì do hành khiển ở đạo khảo sát và điều tra; ở các trấn do tổng quản đạo đảm trách; thuộc viên các sảnh, viện, cục thì do thiếu bảo và hữu bật xét; thuộc viên các tả, hữu ban do áp nha và nội mật viện xét. Hình thức kiểm tra lý lịch và thành tích cá nhân nầy ngày nay vẫn còn thấy áp dụng nơi các đảng phái, hội đoàn chính trị nhất là trong những nước theo thể chế độc đảng cầm quyền cai trị. Phiếu lý lịch nầy thường được đem ra cứu xét để định công ban thưởng hoặc phạt tội. 12 Dụ Quần: tên vua mới của nước Ai Lao. Vua cũ của Ai Lao là Côn Cô bị một triều thần tên là Nữu Tại giết và phế bỏ rồi lập Dụ Quần lên làm vua. 13 Lê Thụ bị xử phạt: trong khi Đại Việt có quốc tang Lê Lợi, thì trong cả nước mọi ăn chơi xa xí đều bị cấm bất luận là quan quân hay dân thường. Lê Thụ vi phạm lệnh cấm nầy nên bị xử phạt. Đây là phản ảnh của một nền pháp chế độc tài, ấu trĩ và bất công bắt chước theo luật lệ ngoại bang từ phương Bắc. Đã thế, sau khi Lê Thụ nộp vàng hối lộ thì lại được tha. Như vậy luật nầy đặt ra chỉ để áp dụng cho hạng người dân cùng khổ không có vàng để hối mại, chuộc tội. 14 Thuận thiên thừa vận: thuận theo ý trời để tiếp nhận vận mệnh của đất nước. 15 Đại thiên hành hóa: thay trời để thi hành việc dạy dỗ người dân. 16 Nhạc tế giao: loại nhạc dùng trong những dịp lễ tế trời đất. 17 Ngũ tự: theo thiên viết về Nguyệt lệnh trong Kinh Lễ thì ngũ tự là 5 loại lễ tế các thần: thần hộ (thần giữ cửa), thần táo (bếp), thần trung lựu 10
VSTK - 512
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42
(thần giữ nhà chính giữa), thần môn (thần giữ các cửa lớn, cổng lớn), thần hành (thần giữ các đường đi). Thuyết khác lại cho rằng ngũ tự gồm có các thần câu mang (thần cây cối), thần nhục du (thần kim loại), thần huyền minh (thần nước), thần chúc dung (thần lửa), thần hậu thổ (thần đất) còn gọi là thần ngũ hành: mộc, kim, thủy, hỏa, thổ. 18 Huệ phi: là một trong các hàng phi, vợ thứ của vua. 19 Tư dung: một chức vị của vợ lẻ vua (không phải là vợ thứ thuộc hàng phi). Có ba hạng tư: tư nghi, tư dung, tư viện; chức vị nhỏ hơn hàng tam chiêu: chiêu nghi, chiêu dung, chiêu viện nhưng lớn hơn hàng tam sung: sung nghi, sung dung, sung viện. Cả ba cấp chiêu, tư, sung đều gọi là chín hạng tần cho nên những người vợ của vua thường gọi là phi hoặc tần ngoại trừ vợ chính thức gọi là hoàng hậu. Dưới hạng cữu (9) tần còn có sáu chức cung giai như tiệp dư, dung hoa, tuyên vinh, tài nhân, lương nhân, mỹ nhân rồi cuối cùng còn có 6 cấp nữ quan xếp từ cấp nhất, nhì. . . đến cấp sáu. Ngoài ra các hạng người nữ hầu hạ phục dịch trong cung vua, cung hoàng hậu, cung phi, cung tần thì gọi là cung nữ hay tì cung. Tất cả những hạng phụ nữ vừa kể trên đều thuộc quyền xử dụng tùy thích của vua, số lượng có khi lên đến hàng trăm, hàng nghìn trong cung vua. Truyện xưa của Trung Quốc có kể rằng, Tề Tuyên vương, vì số người đàn bà quá đông đảo, cho nên mỗi đêm Tề Tuyên vương phải ngồi trên xe dê kéo đi vòng quanh các phòng, con dê dừng lại ở phòng nào thì vua sẽ vào ngủ với người đàn bà ở phòng đó. Vì thế, cứ mỗi đêm, những phi tần, cung nữ đều tranh nhau rải bông và lá sua đũa trước cửa phòng mình để hấp dẫn cho con dê dừng lại vì giống dê rất thích ăn bông và lá sua đũa. 20 Ăn mặc và cắt tóc ngắn theo người Đại Việt: chỉ có ĐVSKTT ghi chép về việc nầy. 21 Phế quận vương Tư Tề xuống hàng dân thường: Tư Tề là anh của Lê Thái Tông; trước kia Tư Tề đã bị biệt lập, cấm không cho người giao dịch, tiếp xúc; đến nay phế hẳn làm dân thường. 22 Sứ nhà Minh sang đòi trả đất: hai bên chiếm lấn đất đai ở biên giới giữa hai nước, nay nhà Minh sai sứ sang đòi lại. 23 Tiệp dư: xem chú giải (19) ở trên. 24 Nguyễn Thị Lộ: người huyện Hải Triều, huyện ngự Thiên nay là xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình, là vợ của Nguyễn Trãi, người đẹp và có học thức. Lê Thái Tông để ý ưa thích liền vời vào cung lấy tiếng là phong cho quan chức làm Lễ nghi học sĩ nhưng thực sự là để hầu hạ riêng tư và ăn nằm với Lê Thái Tông. Việc nầy rất có thể làm cho thần phi Dương thị Bí ghen tức và tỏ thái độ hung hăng khiến cho Nguyễn thị Lộ gièm pha với Lê Thái Tông qua lời cố vấn "cần phải bắt giam những hạng đàn bà kiêu rông, ghen tương và ngỗ nghịch "(ĐVSKTT/BK/Q.XI/54a), và Lê Thái Tông đã nghe theo lời cố vấn
VSTK - 513
37
nầy để giáng phế chức thần phi Dương thị Bí khiến cho con trai của Dương thị Bí là hoàng tử Nghi Dân cũng vạ lây bị tước bỏ chức hoàng thái tử mặc dù Nghi Dân là con trai trưởng của Lê Thái Tông. 25 Khắc Xương: theo Lê Quý Đôn thì sau Khi Lê Nghi Dân cướp ngôi cải phong cho Khắc Xương làm Cung vương. Người rất phong nhã, đạm bạc, ăn mặc, chi dùng rất cần kiệm, chất phát như một nho sinh. Cuối năm Diên Ninh (1549), nhóm đại thần Lê Lăng sau khi đã diệt được Nghi Dân, muốn đưa Khắc Xương lên ngôi vua nhưng Khắc Xương từ chối và vì thế họ mới rước Lê Thánh Tông để lập làm vua. Lê Thánh Tông rất tức giận về chuyện nầy cho nên về sau nghe theo lời gièm pha giết Lê Lăng và trong lòng rất ghét Khắc Xương. Năm Hồng Đức thứ 7 (1476), có kẻ tố cáo Khắc Xương mưu đồ làm phản, Lê Thánh Tông bèn hạ chiếu tới bắt, Khắc Xương quá lo lắng mà chết. Không biết mẹ ruột của Khắc Xương là ai. Rất có thể đây là con của Lê Thái Tông và Nguyễn Thị Lộ nhưng vì là kết quả của một cuộc tình vụng trộm vô luân cho nên sử cũ không dám viết ra? Phải chăng Nguyễn thị Lộ bị giết là vì bị nghi ngờ là đã mưu phản giết hại Lê Thái Tông để đưa con trai của Nguyễn thị Lộ là Khắc Xương lên ngôi vua? Sau nầy Lê Thánh Tông có thể khơi lại chuyện phản nghịch của Nguyễn Thị Lộ để rồi vinh vào đó cũng ghép tội cho Khắc Xương là mưu phản nghịch? Đây là một nghi án rất đáng được truy cứu bởi vì thói quen trong sử cũ, mỗi khi dòng họ vương tộc có xảy ra điều dâm ô nhơ nhớp thì các sử gia thường viết vẽ vòng vo, luồng lách, dối trá để che mắt thế gian và hậu thế. 26 Tiến sĩ cập đệ: tức là tiến sĩ hạng nhất và hạng nhì; hạng ba gọi là tiến sĩ xuất thân; hạng tư, hạng năm gọi là đồng tiến sĩ xuất thân. 27 Tiến sĩ xuất thân: xem chú giải 9 ở trên. 28 Đồng tiến sĩ xuất thân: xem chú thích 9 ở trên. 29 Ngô Sĩ Liên: được xem như là một trong những tác giả của sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư mà cũng chính là sử gia đầu tiên đưa vào chính sử phần Ngoại kỷ chép lịch sử từ họ Hồng Bàng cho đến hết đời An Dương Vương. 30 Chùa Côn Sơn: còn gọi là chùa Tư Quốc. Chùa được xây ở núi Côn Sơn còn gọi là núi Hun, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng ngày nay. 31 Trại Vải: nguyên văn chữ Hán là "Lệ chi viên". Theo Bắc Kỳ tạp biên của Ngô Cao Lãng thì trại nầy ở xã Đại Lai. 32 Đại Lai: tên xã, thuộc huyện Gia Bình, nay là huyện Gia Lương, tỉnh Bắc
38
Ninh.
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36
KHẢO LUẬN: 39 40 41
ĐVSKTT/Kỷ nhà Lê, phần mở đầu viết về Lê Thái Tông Văn Hoàng
Đế như sau: " ..Vua thiên tư sáng suốt, nối vận thái bình; bên trong ức chế quyền thần, bên ngoài đánh dẹp Di địch. Trọng đạo sùng nho, mở VSTK - 514
1 2 3 4
5 6 7 8
9 10 11 12 13 14
15 16 17 18 19 20 21 22 23 24
25 26 27 28 29 30
khoa thi chọn hiền sĩ; xử tù, xét án phần nhiều tha thứ khoan hồng. Cũng là bậc vua tài giỏi biết nối giữ cơ đồ. Song đam mê tửusắc, đến độ chết bất ngờ ở ngoài cung đình thì đó lại là tự mình tự gánh lấy họa vào thân"(BK/q.XI/1a). Một lời bàn không biết rõ là của ai cũng viết: "Nữ sắc làm hại người ta quá lắm. Thị Lộ chỉ là một người đàn bà thôi, Thái Tông yêu người đàn bà đó mà thân phải chết, Nguyễn Trãi lấy người đó làm vợ mà 3 họ phải bị diệt" (BK/q.XI/ 56a). Lời phê của vua Tự Đức trong KĐVSTGCM: "Đời Lê Thái Tông, vua thì sàm sở buông tuồng, bầy tôi thì chuyên quyền. Nguyễn Trãi nếu thực là người sáng suốt thì lẽ ra phải biết rút lui , ẩn náu tung tích để bảo toàn danh thơm của mình. Thế mà lại đi đón mời và thả lỏng cho vợ làm việc hoang dâm, vô liêm sĩ với Lê Thái Tông.. Cái vạ tru di tam tộc là do Nguyễn Trãi tự gây ra" (KĐVSTGCM/CB/q.XVII/23). Phan Huy Chú trong LTHCLC/Nhân Vật chí, khi viết về Nguyễn Trãi có đoạn như sau: "Năm Đại Bảo, Nhâm Tuất (1442),ông 63 tuổi, vì có vợ là Nguyễn thị Lộ vào hầu vua rồi dùng thuốc độc giết vua, triều đình kết án phải giết ba họ. . . .Đời truyền rằng trong một cái gò lớn ở làng của Nguyễn Trãi có một con rắn lớn. Nơi đó cây cối um tùm nhưng người làng không ai dám đụng tới để dọn dẹp. Ông nội của Nguyễn Trãi thấy nơi đó phong thủy hạp ý mới dựng nhà học trên cái gò đó, sai người chặt cây cỏ để dọn dẹp, nhỡ giết phải con rắn ấy. Con rắn ấy mang thù oán mới đầu thai thành Thị Lộ về làm vợ Nguyễn Trãi để trả thù dòng họ nhà Nguyễn. Người ta cho rằng rắn báo oán ". Đặng Xuân Bảng trong VSCMTY có nhận xét: "Trãi là công thần tá mệnh, làm tể phụ của hai triều, hết lòng trung thành, dạy dỗ vua nhỏ, đứng đầu công thần thời Lê Sơ. Vào cuối đời mình, Nguyễn Trãi không còn luyến tiếc công danh, địa vị quyền thế nữa. Chỉ vì Thị Lộ mà đến nỗi cả ba họ bị giết. Đàn bà đẹp muôn đời vẫn là loài cọp dữ dưới lớp phấn son, lời nói nầy thực là đúng" (VSCMTY/q.IV). *
31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42
Đúc kết những nhận định và phê luận, người ta có thể thấy được rằng, đời Lê Thái Tông ngoài những cải cách không mấy quan trọng như chỉnh đốn việc thi cử, ban nhiều đặc quyền cho con cháu của các công thần, ấn định lại giá trị tiền tệ, kỳ dư thì không thấy có một chính sách kinh tế xã hội nào tạo lợi ích thiết thực cho người dân. Những người cầm quyền đương thời lại là những võ quan già vô học, tham quyền, bè phái, ganh tị từ thời Lê Lợi để lại, chỉ biết lo kình chống, thanh toán lẫn nhau chứ chẳng góp ích gì cho việc an sinh xã hội Đại Việt. Người đứng đầu đất nước là Lê Thái Tông chỉ là một thanh niên bồng bột, tự tung tự tác, chỉ biết làm theo ý riêng của mình không đếm xỉa gì tới những lời khuyên ngăn, cố vấn của những người lớn tuổi có học thức, nhiều kinh nghiệm dưới quyền. Khiếm khuyết lớn nhất của
VSTK - 515
1 2
Lê Thái Tông là tính háo sắc dâm dục và là một con người vô luân khi giựt vợ của thuộc hạ mình.
VSTK - 516
QUYỂN II THỜI KỲ NHÀ HẬU LÊ CHƯƠNG III
LÊ NHÂN TÔNG ( 1442 - 1459 ) Niên hiệu: Thái Hoà (1443-1453) Diên Ninh (1454-1459) 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
Tên húy là Bang Cơ, mới được 2 tuổi, con thứ ba của Lê Thái Tông, mẹ là Nguyễn thị Anh người xã Bố Vệ, huyện Đông Sơn, thần phi của Lê Thái Tông. Được Trịnh Khả, Lê Thụ, Nguyễn Xí, Lê Liệt, Lê Bôi, Tạ Thanh đưa lên ngôi vua vào ngày 12 tháng 8 Âm lịch, năm Nhâm Tuất (1442) tức là Lê Nhân Tông, lấy năm sau Quý Hợi (1443) làm niên hiệu Thái Hoà năm thứ 1. Quý Hợi, Thái Hòa năm thứ 1, tháng Giêng (1443), Thái hậu Nguyễn thị Anh nắm quyền chính sự triều đình vì Lê Nhân Tông còn quá nhỏ. Tháng 11, sứ nhà Minh sang tế điếu Lê Thái Tông và phong cho Lê Nhân Tông tước An Nam quốc vương. Lê Nhân Tông sai Lương Nhữ Hộc sang tạ ơn vua Minh về việc tế điếu. Khi trở về nước Nhữ Hộc mang theo nghề khắc ván gỗ để in truyền dạy lại cho dân. Kể từ năm Giáp Tý, Thái Hoà năm thứ 23 , (1444) cho đến năm Bính Dần, Thái Hoà năm thứ 4 (1446), vua Chiêm Thành là Bí Cái thường xuyên đem quân đánh phá châu Hoá. Quân triều đình phải tốn công sức nhiều lần đánh dẹp nhưng vua Chiêm vẫn tiếp tục gây rối. Tháng 2, năm Bính Dần (1446), Triều đình sai Lê Thụ, Lê Khả đem quân vào đánh Chiêm Thành, đánh thẳng đến cửa Thị Nại1, tiến chiếm thành Chà Bàn2, phá tan quân Chiêm, bắt sống Bí Cái cùng phi tần, tướng tá thuộc hạ, ngựa voi, vũ khí mang về Đại Việt rồi lập Ma Ha Quý Lai lên làm vua mới của Chiêm Thành; Bí Cái cùng với gia đình thì bị giam nhốt ở Đại Việt. Nhà Minh can thiệp, xuống chiếu lệnh buộc triều đình Đại Việt phải trả tự do cho Bí Cái. Triều đình Đại Việt lại VSTK - 517
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
phải cử sứ sang Tàu để trình bày về việc gây hấn của giặc Chiêm Thành. Mậu Thìn, Thái Hoà năm thứ 6, (1448), tháng 4, ra lệnh cấm quan, quân, dân không được chiếm ruộng đất công làm của riêng. Giảm bớt quân số đội vệ sĩ và số tướng hiệu ở các vệ quân để tiết kiệm công quỹ. Tháng 7, miền Tây Đạo gồm các trấn Tam Giang, Tuyên Quang, Hưng Hóa và Gia Hưng là những miền rừng núi cằn cỗi, thường hay bị nạn đói. Triều đình lấy thóc trong kho nhà nước cho dân vay theo lời trình tấu của Tri Tây đạo Nguyễn Phú. Sáp nhập xứ Bồn Man vào lãnh thổ Đại Việt, đổi thành châu Quy Hợp, thuộc phủ Lâm An. Đất nầy phía Đông Nam giáp Nghệ An và Quảng Bình, phía Tây Bắc giáp Hưng Hóa. Cấm dân không được dùng y phục màu vàng và có thêu vẽ hình rồng, phượng. Tháng 11, đem em gái của Lê Nhân Tông là công chúa Vệ Quốc, mới 10 tuổi, bị câm gả cho Lê Quát con trai thái úy Lê Thụ. Kỷ Tỵ, Thái Hòa năm thứ 7 (1449), tháng Giêng, nới rộng việc miễn quân dịch cho con cháu của các hàng quan lại của triều đình xuống tới hàng thất phẩm và bát phẩm; các hoạn quan cũng cho miễn 1 người thân thuộc. Trước đây chỉ cho miễn xuống đến hàng quan lục phẩm mà thôi. Sai Trịnh Khắc Phục đôn đốc quân, dân đào nối thêm sông Bình Lỗ3 bắt đầu từ Lãnh Canh3bis thuộc Thái Nguyên đến cầu Phù Lỗ ở huyện Kim Anh4, thông suốt đến Bình Than5 ở huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương để làm phương tiện giao thông đường sông giữa Thái Nguyên và Hải Dương. Ở Chiêm Thành, Quý Do cướp ngôi vua của Ma Ha Quý Lai rồi cử sứ sang Đại Việt xin công nhận nhưng bị từ khước. Tháng 11, con trai của đại đô đốc Lê Khuyển là Quán Chi tụ hợp bè đảng cùng với bọn con cháu hoang đàng của các quan quyền khác đánh nhau khiến xảy ra án mạng chết người nhưng vì là con của đại thần, Quán Chi không bị ghép tội đánh chết người mà chỉ phạt tiền bồi thường mà thôi. VSTK - 518
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
Biếm chức thiếu úy Lê Lan vì không biết dạy con để cho hắn tụ hợp bọn bất lương tổ chức đánh bạc, ăn cướp rồi thủ tiêu, giết người bịt miệng6. Quy định chính thức 14 điều luật về ruộng đất7.
Tân Mùi, Thái Hoà năm thứ 9 (1451), tháng 7, hoàng thái hậu Nguyễn thị Anh quy tội mưu phản để giết cha con Lê Khả và cha con Lê Khắc Phục hầu ém nhẹm chuyện trước đây Lê Khả và Lê Khắc Phục cùng với hoạn quan Tạ Thanh đã từng âm mưu với hoàng thái hậu truất phế mẹ con Nghi Dân để lập Bang Cơ, con đẻ của Nguyễn thị Anh lên ngôi hoàng thái tử8. Nhâm Thân, Thái Hoà năm thứ 10 (1452), tháng tư, bắt giam thái úy Lê Thụ vì tội không dạy và kiểm soát được con để hắn làm những chuyện dị đoan phù chú bùa ếm. Năm Quý Dậu, Thái Hoà năm thứ 11(1453), đổi niên hiệu là Diên Ninh năm thứ 1 từ tháng Giêng năm Giáp Tuất (1454). Hoàng thái hậu Nguyễn thị Anh không còn trực tiếp nắm chính quyền9. Giáp Tuất, Diên Ninh năm thứ 1 (1454), tháng Giêng, phát hành tiền đúc Diên Ninh. Ất Hợi, Diên Ninh năm thứ 2 (1455), sai quốc tử bác sĩ Phan Phú Tiên sửa chữa và soạn lại bộ Đại Việt Sử Ký, chép từ đời Trần Thái Tông (1225-1257) cho đến khi người Minh rút về nước (1427), gồm có 10 quyển. Bính Tý, Diên Ninh năm thứ 3 (1456), tháng Giêng, tổ chức tiệc lớn ban thưởng cho các quan và triều thần; Lạng Sơn vương Nghi Dân cũng được mời về tham dự10. Tháng 5, cấp tiền lương hằng năm cho các quan11. Mậu Dần, Diên Ninh năm thứ 5 (1458), thi Hội. Nguyễn Văn Nễ đỗ tiến sĩ xuất thân12. Kỷ Mão, Diên Ninh năm thứ 6 (1459), tháng 10, Lạng Sơn vương Nghi Dân cùng với Phạm Đồn, Phan Ban và Trần Lăng bất thần đột nhập vào cung thành, bên trong đã có Lê Đắc Ninh chỉ huy đoàn quân hộ vệ làm nội ứng, giết chết Lê Nhân Tông và phó chưởng Đào Biểu; hôm sau giết luôn hoàng thái hậu Nguyễn thị Anh. Lê Nhân Tông ở ngôi vua
VSTK - 519
được 17 năm, thọ 19 tuổi. CHÚ GIẢI: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37
Cửa biển Thị Nại: cửa biển Qui Nhơn, tỉnh Bình Định. Thành Chà Bàn: kinh đô của nước Chiêm Thành, nay vẫn còn dấu tích ở Bình Định. 3 Sông Bình Lỗ: theo chú thích trong Địa dư chí của Nguyễn Trãi thì từ đời nhà Lý đã đào sông Bình Lỗ để tiện đường đi lại ở Thái Nguyên. Như vậy sông Bình Lỗ không thể là sông Cà Lồ trong huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Rất có thể sông Bình Lỗ được đào khơi thêm để nối vào sông Cà Lồ và về sau nầy chỉ gọi một tên là sông Cà Lồ. 3bis Lãnh Canh: hay Lãnh Kinh, có sách cho rằng vùng nầy ở khoảng gần Đáp Cầu, tỉnh Hà Bắc ngày nay. Còn cầu Phù Lỗ bắt ngang qua sông Cà Lồ ở xã Phù Lỗ, huyện Kim Anh cũ, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội. 4 Kim Anh: nay là huyện Sóc Sơn, Hà Nội. 5 Bình Than: thuộc huyện Chí Linh, Hải Dương. 6 Thủ tiêu, giết người bịt miệng: về chuyện nầy ĐVSKTT viết: "Chém bọn bộ hạ của Lê Nhân Lập ở chợ Tây. Nhân Lập là con của thiếu úy Lê Lan tụ hợp với bọn người kinh do Nguyễn Thọ Vực đầu đảng để cờ bạc, trộm cướp. Nhân Lập sợ chuyện làm sái quấy của đám bộ hạ bị tiết lộ cho nên sai chúng đến tận nhà thủ tiêu bọn Nguyễn Thọ Vực. Việc giết người bịt miệng nầy bị phát giác, cả bọn Nhân Lập bị bắt giam và xử chém cả " (BK/Q.XI/ tờ 81a). 7 14 điều luật về ruộng đất: trước kia Lê Lợi chỉ chú tâm vào việc áp dụng chính sách quân điền cho nên không có những luật lệnh quy định cho các loại ruộng đất của tư nhân. Đến nay mới quy định bổ xung vào; tuy nhiên nếu xét kỹ thì thấy đây là những điều luật quy định về việc thừa kế ruộng đất của tư nhân chứ không hẳn là luật lệ về điền sản đúng nghĩa của nó. 8 Âm mưu của hoàng thái hậu Nguyễn thị Anh: Đại Việt Thông Sử của Lê Quý Đôn ghi lại lời tuyên bố của Nghi Dân sau khi tiếm ngôi vua của Lê Nhân Tông như sau: " Trẫm (tức Lê Nghi Dân) là con trưởng của Thái Tông Văn hoàng đế (Lê Thái Tông), trước đã ở ngôi hoàng thái tử. Không may tiên đế đi tuần ở miền Đông, bổng băng ở ngoài. Nguyễn thái hậu muốn vững quyền vị, ngầm sai bọn nội quan là Tạ Thanh dựng Bang Cơ làm vua, cho trẫm làm phiên vương. Đến sau Tạ Thanh tiết lộ âm mưu ấy, việc liên lụy đến thái úy Trịnh Khả và tư khấu Lê Khắc Mục. Họ bị Nguyễn thái hậu đem giết cả để hết người nói ra"(ĐVTS/Nghịch thần truyện/Nghi Dân/tờ 157a,157b). 1 2
VSTK - 520
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31
Hoàng thái hậu Nguyễn thị Anh không còn trực tiếp nắm chính quyền ở: sử sách cũ ghi rằng: " Ngày 21 tháng tháng 2 năm Quý Dậu (1453). . .vua (tức Lê Nhân Tông) bắt đầu đích thân coi chính sự, đổi miếu hiệu, đại xá ". Đây là một chuyện vô lý, khó tin bởi vì đến năm Quý Dậu (1453), Lê Nhân Tông vẫn còn là một đứa trẻ con mới được 12, 13 tuổi làm gì có đủ khả năng và đầu óc để tự một mình đảm đang việc chính sự. Rất có thể ở vào thời điểm nầy, thái hậu Nguyễn thị Anh muốn xoa dịu dư luận đang nghi ngờ về những việc làm mờ ám của bà, cho nên phải tung tin giả ra ngoài rằng Lê Nhân Tông bắt đầu tự nắm quyền cai trị không còn tùy thuộc vào hoàng thái hậu nữa nhưng thực sự thì phía sau, mọi chính sách, kế hoạch, đường lối vẫn do thái hậu nắm giữ như cũ. 10 Nghi Dân được mời tham dự tiệc: chỉ thấy ĐVSKTT có ghi chép việc nầy. 11 Cấp tiền lương hằng năm cho các quan: trước kia các hàng vương tộc, công chúa, đại thần văn võ đều chiếu theo phẩm trật cao thấp mà được hưởng số hộ để ăn lộc. Đến nay lại cấp thêm lương bổng hằng năm tùy theo phẩm trật khác nhau. Theo Kiến Văn Tiểu Lục của Lê Quý Đôn thì đầu đời nhà Hậu Lê, chế độ bổng lộc như sau: "hoặc ban cho 50 hộ hay 100 hộ để người được hưởng cứ thu thuế từ các hộ ấy mà hưởng. Có khi lại ban thêm lộc điền nữa. Lại quy định thêm: phàm các vương, công chúa và các đại thần văn võ bách quan, hằng năm, được cấp tiền bổng có hơn kém khác nhau: quốc công 127 quan, quận công 120 quan, tước hầu 113 quan, tước bá 106 quan, phò mã 92 quan, chanh nhất phẩm 85 quan, tòng nhất phẩm 82 quan, vân.vân...thân vương 200 quan. Về phần quan văn thì tùy theo đỗ cao thấp mà cấp cho hộ suất; tiến sĩ 35 hộ suất, hoàng giáp 42 suất, thám hoa 45 suất, bảng nhãn 50 suất, trạng nguyên 55 suất. . . huy ." (Kiến Văn Tiểu Lục/Chế độ bổng lộc/ Lê Quý Đôn Toàn Tập.) 12 Thi hội năm Mậu Dần (1458): chỉ thấy ĐVSKTT có ghi chép việc nầy. 9
KHẢO LUẬN: 32 33 34 35 36 37 38 39 40
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư/BK/Q.XI/tờ 96b, 97a, 97b có trích dẫn bài Trung Hưng Ký năm Quang Thuận, một đoạn viết rất đáng chú ý về sử cố Nghi Dân cướp ngôi. (Có thể tác giả bài Trung Hưng Ký nầy là do Thân Nhân Trung cùng với Đỗ Nhuận viết vào những năm Quang Thuận thời Lê Thánh Tông = đây là ghi chú riêng của Việt Sử Tân Khảo). Bài ký đó viết: "Nhân Tông mới lên hai tuổi đã sớm nối ngôi vua. Thái hậu Nguyễn thị là gà mái gáy sớm, đô đốc Lê Khuyển như thỏ khôn giữ mệnh. Vua đàn bà mắt quáng buông rèm ngồi chốn thâm khuê, bọn họ ngoại lòng tham, khoác lác hoành hành khắp cõi, kẻ thân
VSTK - 521
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15
16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28
29 30 31 32 33 34 35 36
37 38
thuộc nắm giữ quyền vị, nạn hối lộ tỏ rõ công khai. Việc giáo dục thì lặng lẽ như băng hàn, người hiền từ phải xếp cánh. Đám nho thần hiểu biết như Lý Tử Tấn, Trình Thuấn Du thì cho ngồi chơi xơi nước không được xử dụng đúng chỗ; đám ngu si dốt đặc thì ồn ào khua môi múa mõm như đàn ong vở tổ, như chó chuột nhe răng. Tể thần như Lê Sát, Lê Sủng thì tối tâm dốt nát không phân biệt đâu là sáu loại súc vật. Chưởng binh Lê Điên, Lê Luyện thì mù tịt không biết được một năm có mấy mùa. Bậc lương thần như Trịnh Khả, Khắc Phục thì kèn cựa tìm cách giết đi, người tài sĩ như Nguyễn Mộng Tuyên thì đẩy vào vòng tai họa. Oan uổng không chỗ kêu xin, mọi việc thảy đều đổ nát. Văn giai như Đào Công Soạn tuổi gần 80, tể thần như Lê Ê không biết một chữ. Bọn trẻ không biết nghĩ làm bậy ngông cuồng, người già chẳng chết đi, trở thành mối họa. Buôn quan bán chức, mua chuộc kiện cáo, ưa giàu ghét nghèo. Bọn nịnh hót được tin dùng, kẻ đao bút được tiến cử. Lòng người sôi động, đường sá xôn xao. . . ." Đó là sự phát họa của một thời kỳ suy đồi dưới sự cầm quyền của thái hậu Nguyễn thị Anh: bè phái, kình địch, tranh giành quyền lực, thanh toán nội bộ, tướng tá vô học cầm quyền cai trị, con cháu quan quyền thì ăn không ngồi rồi, chơi bời cờ bạc, kết bè đảng để cướp giật, chém giết. Lê Nhân Tông chỉ là một đứa trẻ con vô tư, mặc tình cho thái hậu Nguyễn thị Anh tự tung tự tác. Cho đến lúc Lê Nhân Tông có thể gọi là biết suy nghĩ xét đoán thì hậu quả của những sự thối nát do bà mẹ gây ra đã trở thành ung thối không còn thuốc nào chữa được nữa. Trong trường hợp Nghi Dân không làm chuyện cướp ngôi thì có lẽ cũng sẽ có một nhóm nào đó đứng ra để phế bỏ quyền lực ma giáo của thái hậu Nguyễn thị Anh. Nạn nhân đáng tội nghiệp ở đây chính là vua trẻ Lê Nhân Tông và những người đã từng tiếp tay với thái hậu để cướp đoạt quyền lực để rồi lại bị người đàn bà nầy thủ tiêu một các oan ức. Về mặt xây dựng, kinh tế, thì chỉ thấy có được một công trình đào vét sông Bình Lỗ để cải thiện phương tiện lưu thông giữa Thái Nguyên và Hải Dương. Về mặt xã hội an sinh thì chỉ có một lần xuất lúa thóc từ kho chứa của nhà nước để cho dân bị nạn đói ở các vùng rừng núi khô cằn vay mượn chứ không phải cứu đói bằng cách cho không. Về mặt văn hóa giáo dục thì có Phan Phu Tiên tu soạn được 10 quyển Đại Việt Sử Ký để rồi bị bỏ xó ở một góc trong nhà chứa sách, chẳng được triều đại nhà Lê ban hành. Tóm lại, thời đại Lê Nhân Tông là một thời đại xấu, không có gì đáng được tuyên dương.
VSTK - 522
THỜI KỲ NHÀ HẬU LÊ CHƯƠNG IV
LÊ NGHI DÂN ( 1459 - 1460 )
Niên Hiệu: Thiên Hưng (1459-1460) 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
Ngày mùng 7 tháng 10 năm Kỷ Mão (1459), Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân tự lập, lên ngôi vua, đại xá, đổi niên hiệu là Thiên Hưng năm thứ 1. Ban ơn rộng rãi và thăng chức cho tất cả các quan văn võ của cựu trào nhà Hậu Lê mỗi người 1 tư. Sai Lê Cảnh Huy, Nguyễn Như Đỗ, Hoàng Thanh, Nguyễn Nghiêu Tư đi cống sứ theo thường lệ của triều trước và yêu cầu triều đình nhà Minh hủy bỏ ước khoản buộc triều đình Đại Việt mò ngọc trai để tiến cống. Lại sai Trần Bá Linh sang nhà Minh cầu phong. (Lưu ý: xin xem thêm phần phụ chú ở trang 637) Canh Thìn, Thiên Hưng năm thứ 2 (1460) tháng 2, phong cho Lê Khắc Xương làm Cung vương và phong cho Bình nguyên Tư Thành làm Gia vương (theo ĐVTS của Lê Quý Đôn/ Nghịch thần truyện) Bàn đặt quan chức ở phủ, huyện, châu, tổ chức lại các bộ ở kinh đô từ 2 bộ là bộ Lại và bộ Lễ của chế độ trước, nay thêm các bộ: Hộ, Binh, Hình, Công và 1 thư, 5 khoa:Trung thư, Hải Khoa, Đông khoa, Tây khoa, Nam khoa và Bắc khoa. Ở 5 đạo ngoài kinh đô đều đặt hành khiển giữ việc quân sự và dân sự. Các quan chức ở phủ, lộ, trấn, huyện châu đều thống thuộc vào chức quyền hành khiển. Tháng 5, các cựu thần Đỗ Bí, Lê Ê, Lê Ngang, Lê Thụ âm mưu lật đổ Lê Nghi Dân, việc bại lộ tất cả bị giết. Những sự thay đổi trong đường lối và chính sách cai trị của Lê Nghi Dân kèm theo việc tiêu diệt thanh toán hàng ngũ những người cũ để ngăn ngừa mầm móng chống đối phản loạn đã khiến cho nhóm đại thần của cựu trào nao núng, lo sợ vì ngày xưa họ đã từng cùng thái hậu Nguyễn thị Anh âm mưu, xếp đặt truất phế Lê Nghi Dân để đưa Lê Nhân Tông lên ngôi vua. Nay, các nhóm nầy do Nguyễn Xí, VSTK - 523
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
Đinh Liệt, Lê Lăng, Lê Nhân Thuận cầm đầu phải cùng nhau liên kết để đối phó với tập đoàn cai trị mới của nhà Hậu Lê dưới quyền của vua Lê Nghi Dân. Canh Thìn, Thiên Hưng năm thứ 2, ngày mồng 6 tháng 6 âm lịch (1460), sau buổi chầu triều với vua Nghi Dân, nhóm cựu trào của Nguyễn Xí đang khi dự phiên hội quan triều ở nhà nghị sự đã bất thần bắt giết Phạm Đồn và Phan Ban rồi sai Lê Nhân Thuận, Lê Nhân Khoái thống lĩnh cấm binh lùng bắt Trần Lăng cùng hơn trăm thuộc hạ, giết hết. Nhóm chủ xướng đảo chính tự quyền lấy quyết định truất phế Lê Nghi Dân xuống làm Lệ Đức hầu rồi xử tội chết bằng hình phạt thắt cổ. Phân chia bè phái trong nội bộ nhóm đảo chính về việc tìm người đặt lên ngôi vua: nhóm Lê Lăng, Lê Nhân Thuận muốn phò lập Cung vương Khắc Xương; nhóm Nguyễn Xí, Lê Niệm, Đinh Liệt mạnh hơn ủng hộ Gia vương Tư Thành, đem xe kiệu đến đón Tư Thành và đặt lên làm vua tức Lê Thánh Tông. KHẢO LUẬN:
19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35
36 37 38
Tất cả sách sử cũ đều đồng loạt lên án và nguyền rủa cuộc đảo chính của Lê Nghi Dân. Những người viết sử dưới thời đại Hậu Lê dĩ nhiên là phải lên án hành vi đoạt ngôi của Lê Nghi Dân chứ không thể nào viết khác hơn được. Những người viết sử nối tiếp theo sau và đến mãi thời đại dân chủ văn minh ngày nay, Lê Nghi Dân luôn luôn vẫn bị xem là kẻ phản loạn, tiếm nghịch đáng chết. Với một cái nhìn khách quan và bình tỉnh hơn, người ta sẽ không ngạc nhiên nhiều về biến cố Lê Nghi Dân bởi vì kể từ thời Lê Thái Tông những âm mưu trong bóng tối, những xung đột giữa các phe phái được gọi là đại công thần để tranh giành, cướp đoạt quyền lực đã diễn ra thật gay gắt mà sử cũ đã ém nhẹm không viết ra. Đó là hậu quả do chế độ phong kiến chuyên chế tạo ra và trở thành một loại bệnh kinh niên của loại chế độ chính trị nầy vào lúc giai cấp thống trị bắt đầu thụ hưởng sau khi đã hoàn thành công cuộc chiếm đoạt chính quyền qua những gian truân, vất vả đấu tranh và những năm tháng dài khát khao quyền lực. Các cuộc xung đột đó diễn ra triền miên, có khi thì âm thầm hiểm độc, có lúc thì bùng nổ khốc liệt dưới nhiều hình trạng khác nhau. Từ trong nội bộ triều Lê, nhất là dưới triều đại của Lê Thái Tông, dần dần đã hình thành những phe phái đối kháng riêng rẽ để âm mưu, lộng quyền và tiếm đoạt. VSTK - 524
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32
33 34 35 36 37
38 39 40 41 42
43 44
Người đáng quy trách nhiệm tạo ra những phe phái, những sự rối ren trong cung đình trong thời buổi sơ khởi của nhà Hậu Lê chính là Lê Thái Tông, một con người háo sắc, dâm ô, vô đạo. Khởi đầu là chuyện quan phụ chính vô học Lê Sát cậy quyền, trái phép, kiêu ngạo, tham quyền cố vị, triệt hạ những người không cùng phe. Rồi đến phiên Lê Thái Tông mê đấm tửu sắc, được vợ mới nới vợ cũ, nghe lời đàn bà ghen tuông xúi giục bỏ con trưởng lập con thứ. Bốn người con trai của của Lê Thái Tông với bốn bà mẹ khác nhau, ganh ghét, ghen tuông, rình rập nhau, mỗi bà kéo theo một phe nhóm cận thần riêng để mưu tính chuyện đoạt ngôi vua về cho con trai của mình. Lê Nghi Dân là nạn nhân đầu tiên trong cuộc chạy đua tranh giành nầy. Nghi Dân chẳng có một lầm lỗi nào nhưng lại bị truất ngôi hoàng thái tử một cách bất công, vô lý chỉ vì mẹ của Nghi Dân là thần phi Dương thị Bí bị Lê Thái Tông chán chê ruồng bỏ. Kể từ đây, Lê Nghi Dân với sự yểm trợ của Phạm Đồn, Phan Ban, Trần Lăng và Lê Đắc Ninh tạo thành một nhóm áp lực đảo chính thường xuyên đang tạm thời ép mình trong bóng tối chờ thời cơ hành động. Nạn nhân thứ 2 trong cuộc tranh giành ngôi vua nầy là nhóm Nguyễn thị Lộ, Nguyễn Trãi và Tân Bình vương Lê Khắc Xương. Sử cũ không nói rõ mẹ đẻ của Lê Khắc Xương là ai và chỉ viết một cách mơ hồ Khắc Xương là con của Lê Thái Tông, khiến người ta có quyền nghi ngờ Nguyễn thị Lộ, vợ lẻ cuả Nguyễn Trãi, chính là mẹ đẻ của Lê Khắc Xương. Rải rác đó đây trong sử cũ người ta đọc được những đoạn viết ngắn nói về những hành vi cố vấn châm chọc, xúi bẩy nhỏ to của người đẹp trí thức Nguyễn thị Lộ từ khi được vào cung cận kề đêm ngày bên cạnh Lê Thái Tông nhằm mục đích hạ bệ lần lần và êm thắm những người vợ khác và loại bỏ đám võ quan vô học lộng quyền của Lê Thái Tông, dọn đường nối ngôi vua cho con trai mình là Lê Khắc Xương. Tuy nhiên, ý đồ và tham vọng của Nguyễn thị Lộ không thể qua mắt được đối phương, cho nên Nguyễn thị Lộ mới bị đối phương giết, kéo theo cái án tru di ba họ của Nguyễn Trãi. Còn Lê Khắc Xương vì là máu mủ của Lê Thái Tông cho nên chưa bị hại. Nhóm thứ ba trong cuộc tranh giành thừa kế ngôi vua Lê Thái Tông là nhóm của tiệp dư Ngô thị Dao mẹ đẻ của Gia vương Tư Thành, con trai thứ tư của Lê Thái Tông (Sinh ngày 20 tháng 7 âm lịch năm Nhâm Tuất , Đại Bảo năm thứ 3/1442). Nhóm nầy được Lê Lăng, Lê Nhân Thuận ủng hộ nhưng lại là nhóm yếu thế. Nhóm thứ tư là nhóm Tạ Thanh, Trịnh Khả, Nguyễn Xí, Lê Thụ, Lê Liệt, Lê Bôi theo về phe của thần phi Nguyễn thị Anh, mẹ đẻ của Bang Cơ. Sau khi Lê Nghi Dân bị Lê Thái Tông phế bỏ ngôi vị hoàng thái tử vào năm Tân Dậu (1441), cùng lúc Bang Cơ vừa mới sinh, nhóm nầy đã gây áp lực để Lê Thái Tông lập Bang Cơ làm hoàng thái tử. Đây là nhóm có uy quyền bao trùm lấn lướt luôn uy quyền của nhà vua và chính nhóm nầy đã đặt đứa trẻ 2 tuổi Bang Cơ lên ngôi vua bù VSTK - 525
1 2 3
4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17
18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
nhìn dưới chiêu bài nhận di mệnh của Lê Thái Tông. Cũng nhóm nầy chủ động đạo diễn tung tin Nguyễn thị Lộ đầu độc giết hại Lê Thái Tông rồi tự quyền ra lệnh giết Thị Lộ và tru di 3 họ của Nguyễn Trãi. Sự thật ai là kẻ thủ phạm đã gây ra cái chết của Lê Thái Tông? Trong những giờ phút chót của Lê Thái Tông chuyện gì đã xảy ra? Một chi tiết rất nhỏ nhưng rất quan trọng chỉ được chép lại trong Đại Việt Thông Sử của Lê Quý Đôn ở phần Liệt thần truyện khi viết về Trịnh Khả như sau: "Khi vua Thái Tông đi tuần phía Đông, mắc bệnh nguy kịch, ông (tức Trịnh Khả) hầu hạ thuốc men không rời lúc nào. Vua mất, ông nhận cố mệnh, rước quan tài về kinh sư, phò lập Nhân Tông, ông được trao thêm chức nhập nội tư mã" (ĐVTS/Liệt thần truyện/tờ 145b). Một đoạn khác cũng khá quan trọng được Lê Quý Đôn viết như sau: "Khi Quang Thục hoàng thái hậu (tức Ngô thị Dao, mẹ của Lê Thánh Tông) còn là tiệp dư của Lê Thái Tông, đã từng vì trái ý, bị vua Thái Tông bỏ tù ở Vườn hoa. Ông (Trịnh Khả) cứu bà thoát nạn. Cho nên vua Lê Thánh Tông nhớ lại ơn trước, nhắc dùng con cháu ông, có ưu đãi hơn các bề tôi khác ."(ĐVTS/ Liệt thần truyện/ tờ 147a). Sau hết, khi lên ngôi vua, Lê Nghi Dân ban tờ đại xá trong đó có đoạn viết: "Diên Ninh (tức Bang Cơ Lê Nhân Tông) tự biết không phải là con của tiên đế (tức Lê Thái Tông), vã lại lòng người lìa tan, ngày mồng 3 tháng 10 năm nay muốn trẫm (tức Lê Nghi Dân) thay ngôi"(ĐVTS/Nghịch thần truyện/ 157b,158a). Những chi tiết quan trọng nầy không thấy một sử gia nào của triều Hậu Lê đưa vào quyển chính sử ĐVSKT, KĐVSTGCM và những sách sử từ đó trở về sau cũng chẳng thấy có ai đề cập tới 3 chi tiết quan trọng nầy. Như vậy, với 3 chi tiết do Lê Quý Đôn viết về Trịnh Khả người ta có thể thấy rõ ràng là trong những giờ phút cuối cùng của Lê Thái Tông có hai nhân vật quan trọng lẩn quẩn bên giường bệnh của ông vua trác táng. Hai nhân vật đó là Nguyễn Thị Lộ và Trịnh Khả: một người là nữ lưu văn nho tay yếu chân mềm trói gà không nổi, còn một bên là một kẻ võ biền vô học hiện đang quản lĩnh đội quân thiết đột Thánh Dực hậu đội kiêm chức thái giám. Khỏi cần phải suy nghĩ nhiều, người ta thấy được ngay cuộc tranh chấp đưa người lên ngôi vua trong những giờ phút chót của Lê Thái Tông là một cuộc tranh chấp không cân xứng. Diễn tiến cuộc tranh chấp nầy có thể suy diễn như sau: sau cuộc tuần du miền Đông với sự hộ tống của đội quân thiết đột Thánh Dực do Trịnh Khả chỉ huy, trên đường trở về kinh đô, Lê Thái Tông ghé lại Vườn Vải để truy hoan với Nguyễn thị Lộ rồi bất thần ngã bệnh rất nguy kịch. Rất có thể trong lúc nầy Lê Thái Tông đã trối với Nguyễn thị Lộ và Trịnh Khả để lập Khắc Xương lên ngôi vua bởi vì Bang Cơ không phải là con của Lê Thái Tông. Trịnh Khả không thể nào chấp nhận di mệnh nầy bởi vì, nếu nhóm văn nho học thức Khắc Xương, Nguyễn thị Lộ, Nguyễn Trãi cầm quyền triều chính thì quyền uy đám quan võ biền vô học của Trịnh Khả sẽ tan thành mây khói. Do đó sau khi Lê Thái Tông chết, VSTK - 526
1 2 3 4
5 6 7
8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24
25 26 27 28 29
30 31
32 33 34 35 36 37 38 39
40 41 42 43 44
nhóm Trịnh Khả đã giết ngay Nguyễn thị Lộ để bịt miệng, đưa ngay Bang Cơ lên ngôi vua rồi loan truyền trong ngoài là Nguyễn thị Lộ đã cùng Nguyễn Trãi âm mưu đầu độc Lê Thái Tông để thực hiện việc phản nghịch. Lê Nhân Tông lên ngôi, thái hậu Nguyễn thị Anh được nhóm Trịnh Khả trao cho việc nắm quyền cai trị nhưng thực tế chỉ là một con rối do nhóm Trịnh Khả giựt dây. Lần lần thái hậu Nguyễn thị Anh cất nhắc những người thân thích họ hàng lên nắm giữ những chức vị quan trọng trong triều đình và bắt đầu diệt vây cánh và kiềm chế uy quyền của đám đại thần võ quan của nhóm Trịnh Khả: trước tiên là thanh toán Tạ Thanh vì Tạ Thanh không được Nguyễn thị Anh trọng dụng đã rao truyền, thổ lộ lý lịch mẹ con Lê Nhân Tông và âm mưu của nhóm Trịnh Khả kéo bè với thái hậu trong việc hạ bệ Nghi Dân trước đây; kế đến tước chức, giam nhốt thái phó Lê Liệt (1444), tiếp theo là tước chức và giam ngục đô đốc Nguyễn Xí (1445) một thời gian rồi đuổi ra khỏi triều chính. Năm Tân Mùi (1451), Trịnh Khả biết rằng sẽ đến lượt mình bị thái hậu Nguyễn thị Anh tìm cách loại trừ để diệt hết tang chứng cho nên Trịnh Khả mới kết bè cùng Lê Khắc Phục để lật đổ thái hậu nhưng âm mưu bị khám phá, cha con Trịnh Khả và cha con Lê Khắc Phục tất cả đều bị giết. Cho đến lúc nầy, nhóm ủng hộ Nguyễn thị Anh nay chỉ còn có Lê Bôi, Lê Lăng, Lê Niệm là chưa bị thanh toán. Vào năm Canh Ngọ (1456), thái hậu đem công chúa Đà Quốc gả cho cho con trai của Lê Lăng là Lê Bộc và ban cho Lê Bộc chức phò mã (ĐVSKTT/BK/q.XI/93b). Như vậy, cho đến lúc nầy, trước khi Lê Nghi Dân đoạt ngôi vua, các cựu đại thần ngày trước ủng hộ thái hậu Nguyễn thị Anh và Lê Nhân Tông đã tách thành 2 nhóm rõ rệt: nhóm bị thái hậu cách chức hoặc giam nhốt gồm có Nguyễn Xí, Đinh Liệt và nhóm trung thành với thái hậu gồm có Lê Lăng, Lê Niệm, Lê Thụ, Lê Bôi. Sau khi Nghi Dân cướp ngôi, Lê Thụ cùng Lê Ê, Lê Thụ, Đỗ Bí, Lê Ngang âm mưu lật đỗ, bị Nghi Dân giết chết hết. Nhóm Nguyễn Xí - Đinh Liệt, nhóm Lê Niệm - Lê Bôi, nhóm Lê Lăng - Lê Nhân Thuận và tất cả hàng quan lại dưới triều Lê Nhân Tông đều được Nghi Dân thăng cấp và cho tiếp tục ở lại làm việc. Mặc dù có sự chia rẽ trong nội bộ của ba nhóm võ quan cựu thần kể trên mà trước đây cũng đã có tham dự vào việc phế bỏ Nghi Dân để phò lập Bang Cơ Lê Nhân Tông, nhưng đứng trước nguy cơ bị Nghi Dân trả thù tiêu diệt các nhóm nầy lại phải liên kết với nhau để lật đổ Lê Nghi Dân vào ngày mồng 6 tháng 6 âm lịch, năm Canh Thìn (1460). Sau khi đã diệt trừ Lê Nghi Dân, lại có sự chia rẽ, bất đồng giữa nhóm cựu thần cầm đầu cuộc đảo chính: Nhóm Lê Lăng, Lê Nhân Thuận, đề nghị đưa Cung vương Lê Khắc Xương lên ngôi vua nhưng nhóm Nguyễn Xí, Đinh Liệt không đồng ý và đưa kiệu đến rước Gia vương Tư Thành để đưa lên ngôi vua tức là Lê Thánh Tông. Chính về VSTK - 527
1 2 3
4 5 6 7 8 9 10
11 12 13 14 15 16 17 18 19
20 21 22 23 24
việc chia rẽ bất đồng nầy, sau khi lên ngôi vua, Lê Thánh Tông không ưa nhóm Lê Lăng và Lê Nhân Thuận, để rồi vu cáo bọn họ mưu làm phản mà giết đi. Nói tóm lại, sử cố Nguyễn thị Lộ và Lê Nghi Dân là hai nghi án rất tăm tối mù mịt. Hai biến cố quan trọng nầy đã bị các nhà viết sử ở thời đại phong kiến, nhất là những sử gia dưới triều đại nhà Hậu Lê, đã cố tình lấp liếm bưng bít để che đậy bản chất thuổng nát, vô đạo, tham quyền của những kẻ vua chúa cùng các bọn quần thần ngu dốt đang nắm giữ chính quyền và những cuộc chém giết giành giựt uy quyền bẩn thiểu trong các triều đại phong kiến ngày xưa. Một nhóm người không dám mang tên tộc thực sự của mình, bỏ tên họ riêng, để được mang họ Lê, giống như những kẻ ở trong rừng, từ các hang động thời sơ khai nay ra thành thị được tắm rửa sạch sẻ và được đặt vào những chỗ ăn trên ngồi trước đã mặc tình quậy phá, thao túng triều chính, bỏ bê con cái không dạy dỗ để cho bọn chúng bung thùa, ỷ thế, cậy quyền của cha ông mà kết băng đảng lêu lỏng, bài bạc, cướp giật, gây án mạng, tạo nhiều ung thối cho xã hội. Những đám người như thế không thể nào dung hợp được với những kẻ được giáo dục, có đầu óc tiến bộ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ, Khắc Xương. Chế độ phong kiến của nhà Hậu Lê có thể được cải thiện nếu Lê Nghi Dân không bị bọn cựu đại thần quân phiệt vô học của Lê Lợi, đã ăn lộc thưởng của Nghi Dân để rồi lại tiếp tục những trò phản phúc trở giáo. Sử cũ lên án Lê Nghi Dân, bởi vì những người viết sử cũ chỉ là những hạng nho sĩ bồi bút của triều đại Hậu Lê. * Phần phụ chú:
25 26
27 28 29 30 31 32 33 34
35 36
37 38 39 40
Tất cả sử sách cũ đều viết rằng Lê Nghi Dân sai Trần Phong, Lương Như Học và Trần Bá Linh sang nhà Minh để cầu phong. Tuy nhiên, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của nhà Lê, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục của quốc sử quán triều Nguyễn và Việt Sử Cương Mục Tiết Yếu của Đặng Xuân Bảng đều viết rằng Trần Phong và Lương Như Hốt đã bị Lê Lợi giết chết vào ngày 21 tháng 11 năm Mậu Thân (1428) vì tội phản quốc làm gián điệp cho quân xâm lược nhà Minh (xin đọc lại VSTK ở trang 594). Riêng Đại Việt Thông Sử của Lê Quý Đôn thì chỉ viết rằng Lê lợi "Ra lệnh trị tội các ngụy quan đã theo giặc", không nêu rõ tên các kẻ bị Lê Lợi Trị tội. Qua đến đời Lê Thánh Tông lại có thiếu bảo Trần Phong bị Lê Thánh Tông giết (xin đọc VSTK, trang 648) Như vậy, Trần Phong, Lương Như Học thời Lê Nghi Dân (1459) phải chăng là Trần Phong, Lương Như Hốt thời Lê Lợi (1428)? VSTK nêu lên sự kiện nầy để chờ sự truy cứu và giải thích của những nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam trong tương lai. VSTK - 528
QUYỂN II
THỜI KỲ NHÀ HẬU LÊ CHƯƠNG V
LÊ THÁNH TÔNG ( 1460 - 1497 ) Niên Hiệu: Quang Thuận (1460-1469) Hồng Đức (1470-1497) 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
Tên húy là Tư Thành, 18 tuổi, con thứ tư của Lê Thái Tông; mẹ sinh là tiệp dư1 Ngô Thị Dao. Ngày mồng 8 tháng 6 âm lịch, năm Canh Thìn (1460) lên ngôi vua tức Lê Thánh Tông, tự xưng là Thiên Nam động chủ2, đổi niên hiệu là Quang Thuận năm thứ 1; tôn mẹ Ngô thị Dao làm Quang Thục hoàng thái hậu. Bổ dụng Nguyễn Xí và Đinh Liệt làm tể tướng3 nhập nội thái phó, kèm thêm tước quận công. Truy thăng một tư4 cho nội quan Đào Biểu bị Lê Nghi Dân giết và ban cho 5 mẫu ruộng công để thờ cúng. Trị tội Lê Đắc Ninh vì đã về phe với Lê Nghi Dân. Ra lệnh luyện tập võ bị trong các hàng ngũ quân binh. Tháng 8, cho quân lính và thường dân được dùng thóc để mua quan tước5. Tháng 10, lập bản danh sách những người có công trong cuộc đảo chánh hạ bệ Lê Nghi Dân và phò tá Lê Thánh Tông lấy được ngôi vua. Trong bảng danh sách nầy, Lê Thánh Tông đã gạt bỏ tên của Lê Ê, Lê Thụ, Đỗ Bí, Lê Ngang vì cho rằng những người nầy vô tài, bất lực, đã thất bại trong việc âm mưu lật đỗ Lê Nghi Dân và bị Nghi Dân giết chết Thưởng cấp ruộng đất cho 30 quan thần có công: Lê Lăng 300 mẫu, Lê Niệm 200 mẫu, Lê Nhân Thuận 130 mẫu. Tháng 12, bắt lính theo như lệ cũ6 từ trước. Tân Tỵ, Quang Thuận năm thứ 2 (1461), tháng 3, ra lệnh cho các quan ở phủ, huyện, lộ, trấn, xã đốc thúc dân chúng lo cày cấy, sản xuất, không được ăn không, lười biếng tìm nghề rỗi. Không được xây cất thêm chùa miếu.
VSTK - 529
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
Nhâm Ngọ, Quang Thuận năm thứ 3 (1462), tháng Giêng, ấn định thể thức lễ bái và thủ tục lễ tế: cứ đầu mỗi mùa xuân thì làm lễ tế Giao6bis tức là tế lạy trời đất. Nhân dịp nầy, Lê Thánh Tông đã phê phán nghiêm khắc Ngô Sĩ Liên và Nghiên Nhân Thọ: hai người nầy không tán thành việc tế Giao vì cho rằng đây là thói tệ của những nhóm dân tộc thiểu số chậm tiến7 chưa được khai hoá ở các miền hang động, rừng núi, hoặc ở nơi các vùng biên cương xa xôi; Lê Thánh Tông cũng nhắc lại việc Ngô Sĩ Liên và Nghiên Nhân Thọ ham tước lộc đã cuối đầu thần phục hợp tác với Lê Nghi Dân nhưng khi Nghi Dân bị loại trừ thì hai người nầy lại không trung tiết chết theo; mắng Sĩ Liên và Nhân Thọ là bọn gian thần bán nước. Tháng 4, ấn định điều kiện thi Hương: chỉ những người có lý lịch tốt và rõ ràng mới được ghi danh dự thi. Những hạng người bất hiếu, bất nghĩa, loạn luân, điêu ngoa, xướng ca, con hát, những kẻ phản nghịch, bản thân quan quân và con cháu của họ hoặc dân thường trước đây hợp tác tích cực với Lê Nghi Dân, những hạng nầy dù văn hay chữ tốt, tất cả đều bị cấm không được dự thi8. Tháng 8, vu cáo cho Lê Lăng tội âm mưu làm phản rồi giết đi9. Tháng 9, ấn định hạng tuổi thôi làm quan: 65 tuổi cho các hàng quan văn và quan vỏ; 60 tuổi cho các sinh viên tại quốc tử giám (gọi là giám sinh), học sinh con cháu của quan viên (gọi là nho sinh), những người đỗ đạt sau khi đã trải qua 3 kỳ thi Hương (gọi là sinh đồ). Tháng 12, Lê Thánh Tông sai sứ sang nhà Minh để xin sách phong tước An Nam Quốc vương và xin ban mũ áo. Lập con là Tranh làm hoàng thái tử. Thăng chức cho Nguyễn Xí làm nhập nội hữu tướng quốc. Quý Mùi, Quang Thuận năm thứ 4, (1463) tháng Giêng, ấn định kỳ hạn ba năm thi Hội một lần. Tháng 7, đại hạn, động đất. Giáp Thân, Quang Thuận năm thứ 5, (1464) tháng 7, ban cho Anh Vũ, con trai của Nguyễn Trãi, chức quan huyện VSTK - 530
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
để bù lại việc giết oan Nguyễn Trãi trước đây. Biếm chức Binh bộ tả thị lang Nguyễn Đình Mỹ và nói với Đình Mỹ rằng: "Dùng đồ thì cần đồ mới, dùng người thì nên tìm người cũ. Nho thần kỳ cựu như bọn nhà ngươi nay rất hiếm hoi. Nay nhà ngươi phạm tội đáng bãi chức nhưng vì tiếc tài của ngươi nên chỉ biếm chức thôi. Luật của nước nhà thì vua, quan, mọi người đều phải tuân phục, ngươi phải nhớ lấy ". Tháng 12, cấm các quan chức địa phương không được vô cớ về kinh đô. Bãi bỏ việc cho phép con cháu của các cựu quan đại thần được tiếp tục mang họ Lê và phải trở về họ gốc tổ của mình. Ất Dậu, Quang Thuận năm thứ 6 (1465) tháng ba, đổi sáu bộ thành sáu viện, mỗi viện đều đặt chức thượng thư10 và tả hữu thị lang. Các khoa cũ Trung, Hải, Đông, Tây, Nam, Bắc thành các khoa Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công; bãi bỏ chức hành khiển ở các đạo, thay thế bằng tuyên chính sứ, dưới là tham chính, tham nghị, dưới nữa thì có chủ sự. Tháng Tư, cấm người dân không được thừa dịp cầu cúng hoặc lợi dụng mùa lễ Vu Lan để tổ chức đình đám, ăn uống, vui chơi. Xây cất điện Cần Đức. Tháng 10, Nguyễn Xí mất, được Lê Thánh Tông truy tặng chức thái sư, gia phong thêm tước Cương quốc công. Tháng 11, đại xá, cho miễn thuế nhân dịp khánh thành hai điện Kính Thiên và Cần Đức được xây xong. Bính Tuất, Quang Thuận năm thứ 7 (1466) tháng Giêng, bắt dân trả lại các phần thuế được miễn trong dịp ân xá vào tháng 11 năm trước (1465). Thi Hội, lấy đỗ tiến sĩ 27 người. Tháng 4, sửa đổi cơ cấu tổ chức quân sự thành 5 phủ11. Đổi đặt 6 viện thành sáu bộ và 6 tự11bis. Tháng 5, phân phối cho một nửa quân số trở về làm ruộng12. Tháng 6, quy định màu sắc y phục cho các quan văn võ. Chia lại các vùng lãnh thổ từ 5 đạo trước kia nay thành 12 thừa tuyên13, nhập chung 2 huyện Quảng Đức, Thọ Xương VSTK - 531
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34 35 36 37
vào phủ Trung Đô14. Ra lệnh cho khắp nơi tra xét hình thế sông núi cùng truy cứu các sách vở viết về địa dư, ghi sự tích xưa nay của hạt mình, vẽ sơ phác bản đồ, ghi chú rõ ràng, gửi về bộ Hộ để chuẩn bị lập bản đồ cho cả nước15. Các lộ, trấn đổi gọi là phủ: an phủ sứ đổi là tri phủ, trấn phủ sứ là đồng tri phủ; phòng ngự sứ là tri châu; chuyển vận sứ là tri huyện; tuần sát sứ làm huyện thừa; xã quan là xã trưởng. Tháng 10, thay đổi tổ chức bộ Hình để cho việc điều tra và xử án được nhanh chóng và phù hợp với khả năng chuyên ngành của quan viên làm việc ở bộ nầy. Đinh Hợi, Quang Thuận năm thứ 8 (1467) tháng 2, tịch thu đất đai của những người giàu có ở Lam Sơn16 để ban cấp cho các người trong dòng họ vương tộc và các quan viên có công trạng được mang họ vua từ hàng nhất phẩm xuống đến thất phẩm với lý do Lam Sơn là đất riêng của vua17. Dùng công quỹ mua thuốc chữa bệnh cho dân chúng nhân có bệnh dịch ở vùng Quốc Oai và Tam Đới và kể từ đó, nơi nào có bệnh, hay bị dịch thì sẽ áp dụng việc mua thuốc để chữa bệnh cho dân. Tháng 3, ra lệnh tìm các tác phẩm, thơ, văn của Nguyễn Trãi bị thất thoát. Lấy Trần Phong18 giữ chức Hình bộ thượng thư, Nguyễn Cư Đạo19 giữ chức ngự sử đài Đô Ngự sử kiêm nhiệm chức thượng thư Hộ bộ. Thổ tù Thuận Châu là Cầm Đồng liên kết với giặc Ai Lao quấy nhiễu chiếm động Cư Lộng20 ở Thuận Châu21. Triều đình sai tổng binh Khuất Đả đem quân đánh dẹp yên. Vì số sinh viên ở quốc tử giám theo học về Ngũ kinh rất đông cho nên bổ nhiệm chức Ngũ kinh bác sĩ để giảng dạy. Tháng 4, in và phát sách ngũ kinh cho sinh viên quốc tử giám. Lệnh buộc tất cả quan quân phải học tập để biết đọc sách. Tháng 5, thổ tù nhà Minh là Tống Thiệu quấy nhiễu cửa ải Tỏa Thoát22. Thái sư Đinh Liệt và quần thần cố vấn chỉ nên chống giữ chứ không nên gây hấn với nhà Minh.
VSTK - 532
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
Cho phép các người mang họ vua Lê được trở về họ gốc của mình. Tháng 6, khởi sự công trình in bản đồ địa dư23. Sa thải các thầy giáo dạy con trai vua ở Đông cung là Vũ Nguyên Tiềm và Tạ Bưu vì trình độ văn hóa của họ bị Lê Thánh Tông cho là kém. Bãi chức đô đốc Lê Thiệt vì không kiểm soát quân lính và thuộc hạ của mình, để chúng dọa nạt cướp bóc dân chúng trong cuộc hành quân tuần tiểu ở châu Thoát. Ra lệnh cho sử quan23bis Lê Nghĩa trình nhật lịch24 cho vua xem. Giá gạo ở thủ đô tăng vọt vì đồng ruộng thiếu nước, bị hạn hán. Ra lệnh trưng thu gạo từ Nghệ An để cung cấp cho thủ đô. Sửa đổi toàn thể tổ chức quân đội: trong kinh có 66 ty và 19 vệ và ở 12 thừa tuyên có tất cả là 26 vệ. Mỗi Ty là 100 quân; mỗi vệ có 5 hoặc 6 sở. Mỗi sở có 20 đội. Mỗi đội có 20 quân. Tổng cộng quân số toàn quốc lúc nầy là: 31,600 quân ở kinh đô và 62,400 quân ở 12 thừa tuyên cộng chung là 94,000 quân24bis . Bão lụt lớn ở các phủ Nam Sách, Giáp Sơn, Thái Bình, Kiến Xương, đê điều bị phá vỡ, ruộng lúa bị ngập lụt, dân chúng bị nạn đói. Các huyện vùng ven biển ở Nghệ An bị thiệt hại nặng. Bãi bỏ chức vụ kiêm nhiệm hành chánh của Tổng binh quân sự ở các đạo để giao nhiệm vụ nầy cho những quan văn đảm trách. Tháng 10, sứ nước Ai Lao xin phụ nhập vào Đại Việt nhưng Lê Thánh Tông từ chối, chê dân tộc nước nầy là tráo trở, mê muội. Tháng 11, khảo hạch lại những nho quan đã đậu tiến sĩ: thị chế tiến sĩ Phạm Như Châu bị hạ chức vì không trao dồi trí thức, không tiến bộ, bị suy thoái. Kiểm tra hộ khẩu kiều dân Chiêm Thành sinh sống ở Đại Việt. Tháng 12, khôi phục quan chức cho Lê Thiệt. Mở khoa thi hoành từ25: quan viên từ hạng tứ phẩm trở VSTK - 533
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33
34
35
36
37
38
xuống đều được dự thi. Giám sát Ngự sử Nam Đạo Lê Bá Trân bị giáng chức và thuyên chuyển công tác ở Lộng Nguyên26 vì đã thẳng thắn vạch bày những khuyết điểm về chính sách cai trị của triều đình khiến Lê Thánh Tông tức giận. Mậu Tý, Quang Thuận năm thứ 9 (1468) tháng 4, quy định các hình thức giao dịch văn kiện, khế ước cầm thế, mua bán ruộng đất. Tháng 10, Lê Bô phạm tội; hình bộ thượng thư Trần Phong can thiệp để Lê Bô dùng tiền chạy tội khỏi bị vạch chữ lên mặt. Lê Thánh Tông không thích27 Trần Phong từ lâu, bèn nhân dịp nầy quy tội Trần Phong không tôn trọng luật pháp của triều đình, ra lệnh bắt giam Trần Phong giao cho quan hình sự xét xử. Kỷ Sửu, Quang Thuận năm thứ 10 (1469) tháng 2 nhuận, cấm tàng trữ vũ khí bất hợp pháp. Tháng 3, định và in xong bản đồ cả nước. Bản đồ gồm có 12 thừa tuyên: Thừa tuyên: số Phủ: Thanh Hóa 4 Nghệ An 8 Thuận Hóa 2 Nam Sách 4 Thiên Trường 11 Quốc Oai 6 Bắc Giang 4 An Bang 1 Tuyên Quang 1 Hưng Hóa 3 Lạng Sơn 1 Thái Nguyên 3 Trung Đô phủ Cộng: 48
số Huyện: số Châu: Cước chú: 6 4 1 2 7 4 18 đổi gọi là Hải Dương 42 " Sơn Nam 24 " Sơn Tây 19 " Kinh Bắc 3 4 2 5 4 17 7 8 7 " Ninh Sóc 2 " Phụng Thiên 163 50
Canh Dần, Hồng Đức năm thứ 1 (1470) tháng Giêng, nhắc lại lệnh cấm tiệc tùng, chè chén, cờ bạc trong khi đang có tang chế. Quy định nghi thức lễ hỏi và lễ cưới. Tháng 8, Chiêm Thành đánh phá Hóa Châu. VSTK - 534
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
Tháng 10, sai Nguyễn Đình Mỹ và Quách Đình Bảo sang sứ nhà Minh để báo cáo việc Chiêm Thành đánh phá vùng biên giới Hóa Châu. Tháng 11, Lê Thánh Tông ra lệnh động viên để tăng cường quân số rồi đích thân thống lĩnh 260,000 quân chuẩn bị đánh Chiêm Thành. Sai thái sư Đinh Liệt và thái bảo Lê Niệm chỉ huy thủy quân đi trước. Tân Mão, Hồng Đức năm thứ 2 (1471) tháng 2, quân của Lê Thánh Tông bao vây thành Đồ Bàn28. Ngày mồng 1 tháng 3, quân nhà Lê hạ thành Đồ Bàn, bắt sống vua Chiêm Trà Toàn và 3 vạn tù binh và dân Chiêm. Sau đó chia cắt phần đất chiếm được của Chiêm Thành ra làm hai nước nhỏ là, Hoa Anh29 và Nam Bàn30. Một phần năm còn lại của đất Chiêm Thành cũ từ Phan Lung31 trở vào Nam thì đã bị tướng của Trà Toàn là Bô Trì32 chiếm giữ rồi tự xưng là vua Chiêm Thành, chịu thần phục và nộp cống, được Lê Thánh Tông phong cho tước vương. Lê Thánh Tông cũng phong tước vương đặt người cho cai trị hai nước mới Hoa Anh và Nam Bàn. Các tù trưởng ở vùng biên giới phía Tây nước Đại Việt lần lượt sang triều cống ngay sau khi cuộc chiến tranh giữa Đại Việt và Chiêm Thành chấm dứt. Tháng 4, Lê Thánh Tông ra lệnh rút quân. Cắt đầu vua Chiêm Trà Toàn33, cắt tai34 của số tù binh Chiêm bị bắt để làm lễ dâng tù ở thái miếu. Tháng 6, sáp nhập các phần đất đã chiếm được từ trước tới nay của nước Chiêm Thành để đặt thành thừa tuyên Quảng Nam, gồm có 3 phủ, 9 huyện. Thái sư Đinh Liệt chết, được truy phong là Trung Mục vương. Đinh Liệt là công thần của họ nhà Hậu Lê trải qua 4 triều vua; thời Lê Thánh Tông làm tể tướng gần 10 năm và được Lê Thánh Tông rất tin dùng. Bắt đầu đặt chức hiến sát sứ35 ở 12 đạo. Lập con thứ 5 là Tân làm Kiến vương. Tháng 9, quy định chế độ quan chức của triều đại nhà Hậu Lê. Sai sứ sang nhà Minh báo cáo lý do về việc quân binh nhà Hậu Lê xăm lăng nước Chiêm Thành từ tháng 2 vừa rồi. VSTK - 535
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
Ấn định kích thước đo đạc ruộng đất: mỗi mẫu là 10 sào 6 thước 5 tấc. Ấn định thuế bãi dâu, chia thành 3 bậc tùy theo số mẫu trồng dâu để đánh thuế. Ấn định thuế nhân đinh, mỗi người nộp 8 tiền. Tháng 11, em của Trà Toàn là Trà Toại ngày trước trốn vào rừng núi, nay tự xưng vua nước Chiêm Thành khởi binh chống lại triều đình nhà Hậu Lê. Lê Thánh Tông sai Lê Niệm đi dẹp, bắt được Trà Toại mang về Đông đô. Chuyển Ngô Sĩ Liên từ chức Đô ngự sử xuống làm Sử quan tu soạn; Đỗ Nhuận, Quách Đình Bảo làm Đông các hiệu thư. Nhâm Thìn, Hồng Đức năm thú 3 (1472) tháng 3, ấn định cách thức thi Hội và định ngạch chức35bis cho những người đỗ tiến sĩ. Tháng 10, ấn định kích thước đo đạc của 1 sào là 16 thước 5 tấc. Quý Tỵ, Hồng Đức năm thứ 4 (1473) tháng 4, quy định nhiệm vụ và quyền hạn của các quan chức Ngự sử đài và Hiến sát ty. Tháng 7, thi y khoa36, đề thi bao gồm 4 môn. Giáp Ngọ, Hồng Đức năm thứ 5 (1474) tháng 4, định thể lệ thừa tự37 của con cháu các công thần tự hy sinh vì nhiệm vụ. Tháng 10, tu bổ, sửa đắp lại Đông Đô. Ất Mùi, Hồng Đức năm thứ 6 (1475) tháng 7, thủy tai lớn làm vỡ đê Tô Lịch. Đặt chức quan chuyên trông lo chăm sóc đê điều, đường sá và chức quan trông lo, đôn đốc dân chúng trong việc cày cấy. Bính Thân, Hồng Đức năm thư 7 (1476) tháng 8, tìm cớ38 cáo buộc Cung vương Khắc Xương mưu phản nghịch để giết đi rồi loan tin Khắc Xương vì quá lo sợ mà chết. Đinh Dậu, Hồng Đức năm thứ 8 (1477). Mậu Tuất, Hồng Đức năm thứ 9 (1478). Kỷ Hợi, 9 Hồng Đức năm thứ 10 (1479) tháng Giêng, sai Ngô Sĩ Liên biên chép bộ Đại Việt Sử Ký, gồm có phần Ngoại Kỷ 5 quyển chép từ đời nhà Hồng Bàng đến đời nhà VSTK - 536
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
Ngô Quyền; phần Bản Kỷ 10 quyển chép từ đời Đinh Tiên Hoàng đến hết đời Lê Lợi. Tháng 7, Lê Thánh Tông đích thân cầm quân xâm lăng nước Ai Lao. Tháng 8, xâm lăng nước Lão Qua. Tháng 10, sai Lê Niệm đánh Bồn Man. Canh Tý, Hồng Đức năm thứ 11 (1480). Tân Sửu, Hồng Đức năm thứ 12 (1481). Nhâm Dần, Hồng Đức năm thứ 13 (1482). Quý Mão, Hồng Đức năm thứ 14 (1483). Giáp Thìn, Hồng Đức năm thứ 15 (1484) tháng 2, sai Lễ bộ thượng thư Quách Đình Bảo dựng bia tiến sĩ39 từ khoa năm Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3 đời Lê Thái Tông (1442) đến khoa Tân Tỵ, niên hiệu Hồng Đức thứ 12 đời Lê Thánh Tông (1481) tất cả gồm có 9 khoa. Hạ lệnh cho những quan văn có trình độ nho học và giỏi viết văn40 chia nhau biên soạn các bài văn bia. Tháng 10, bắt đầu dựng đàn thờ Thần Nông41 và dựng đài cao để cho vua ngồi xem nông dân làm ruộng: trong những dịp nầy vua đích thân đi cày ruộng tượng trưng gọi là cày ruộng tịch điền42. Ất Tỵ, Hồng Đức năm thứ 16 (1485) tháng 3, thái phó Lê Niệm chết. Niệm là cháu của Lê Lai, làm tướng cho triều Lê gần 30 năm, lập công trạng rất nhiều cho triều đại nhà Hậu Lê. Giết Thiếu bảo Trần Phong. Bính Ngọ, Hồng Đức năm thứ 17 (1486). Đinh Mùi, Hồng Đức năm thứ 18 (1487) tháng 2, ấn định cách thức xưng hô theo ngôi thứ, cấp bậc43. Mậu Thân, Hồng Đức năm thứ 19 (1488) tháng 7, ấn định thời hạn tra xét án ngục: án nhỏ 5 ngày, án lớn 10 ngày, không được xử oan, không được để chậm trễ ứ đọng. Kỷ Dậu, Hồng Đức năm thứ 20 (1489) tháng 5, đại hạn, ân xá. Canh Tuất, Hồng Đức năm thứ 21 (1490) tháng 2, nạn đói xảy ra ở Đông đạo; phát chẩn gạo cho dân .
VSTK - 537
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
Tháng 4, lại chia nước thành 13 xứ: trước đây chỉ có 12 thừa tuyên và Trung Đô phủ, nay sáp nhập các đất chiếm được của Chiêm Thành để lập thành xứ Quảng Nam và đổi gọi tất cả là 13 xứ gồm 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 36 phường, 6851 xã, 322 thôn, 637 trang, 40 sách, 40 động, 30 nguồn, 30 trường. Đặt sở thủ ngữ kinh lược sứ44: ở Nghệ An có 7 sở, Thuận Hoá có 6 sở, Yên Bang có 9 sở, Tuyên Quang có 5 sở, Hưng Hoá có 8 sở, Thái Nguyên có 22 sở, Lạng Sơn có 18 sở, Quảng Nam có 2 sở. Tháng 11, sửa và nới rộng thêm chu vi phòng vệ kinh thành để ngăn ngừa các âm mưu phản loạn đảo chánh giống như vụ Lê Nghi Dân trước đây. Tân Hợi, Hồng Đức năm thứ 22 (1491) tháng 8, mưa to nước lũ dâng ngập điện Kính Thiên45. Nhâm Tý, Hồng Đức năm thứ 23 (1492) tháng 12, đói lớn, dân phải đào củ nâu để ăn. Quý Sửu, Hồng Đức năm thứ 24 (1493) . Giáp Dần, Hồng Đức năm thứ 25 (1494). Ất Mão, Hồng Đức năm thứ 26 (1495) tháng 11, soạn 9 bài thơ ca gọi là 9 khúc ca trong vườn Quỳnh "Quỳnh Uyển cửu ca". Đầu đề 9 bài thơ đó là: 1- Phong niên46, 2- Quân đạo47, 3- Thần tiết48, 4- Minh lương49 , 5- Anh hiền50, 6Kỳ khí51, 7- Thư thảo52, 8- Văn nhân53, 9- Mai hoa54. Lê Thánh Tông tự xưng là Tao đàn55 nguyên soái56 và viết bài tựa cho tập thơ nầy. Bính Thìn, Hồng Đức thứ 27, (1496) tháng 2, hoàng thái hậu57 mất, thọ 76 tuổi. Tháng 8, mưa lớn ngập lụt, phá hủy nhà cửa, ruộng vườn của dân. Tháng 11, Lê Thánh Tông ngã bệnh nặng58. Đinh Tỵ, Hồng Đức năm thứ 28 (1497) tháng Giêng: -Ngày mồng 29, truyền ngôi vua cho hoàng thái tử Tranh; -Ngày 30, Lê Thánh Tông chết ở điện Bảo Quang, ở ngôi 38 năm, thọ 56 tuổi, chôn ở Chiêu Lăng. Có 14 người con trai59.
VSTK - 538
BẢN ĐỒ NƯỚC VIỆT NAM THỜI LÊ THÁNH TÔNG
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Bản đồ nầy có thể là bản in sau khi Lê Thánh Tông đã sửa đổi một lần nữa các khu vực lãnh thổ hành chánh vào năm Canh Tuất, niên hiệu Hồng Đức thứ 21 (1490) thành 13 thừa tuyên gồm có: 52 phủ, 178 huyện, 50 châu. Một cách đại cương thì có thể bản đồ nầy cũng giống như bản đồ của niên hiệu Quang Thuận thứ 10 (1469) mà nhiều người ngày trước thường gọi là Thiên Hạ Bản Đồ. *Lung Lăng (số 2): có thể là phiên âm từ chữ Ran Ran, một nước nhỏ trong vương quốc Chiêm Thành. * An Kỳ Sinh (số 58): tên một người Hoa thời Tần Thủy Hoàng sang làm nghề bán dạo thuốc Bắc ở Đại Việt. Người dân mê tín dị đoan thời đó bị người Hoa nhồi sọ phao đồn tên bán thuốc dạo đã đắc đạo thành thần tiên tại vùng địa danh nầy.
VSTK - 539
BẢN ĐỒ TRUNG ĐÔ PHỦ
VSTK - 540
GHI CHÚ: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40
Tiệp dư: một chức bật ban cho vợ nhỏ của vua. Thiên Nam động chủ: đây là một cách tự xưng có tính cách cao ngạo và có nghĩa là chủ nhân những động ở vùng trời miền Nam. Lê Lợi trước đây cùng tự xưng là Lam Sơn động chủ. Chữ Động thường được dùng để chỉ những vùng đất nơi biên cương rừng núi xa xôi hiểm trở hoặc ở những nơi phiên trấn và thường chỉ có các bộ tộc người thiểu số gọi chung là người Mọi hoặc người Thượng sinh sống ở những nơi đó. 3 Tể tướng: hàng quan võ đứng đầu ở triều đình. 4 Truy thăng 1 tư: giống như cấp, bậc, hay một thứ điểm (points, marks) ghi trên hồ sơ cá nhân để dùng trong những dịp thăng thưởng hoặc trách phạt 5 Cho dân chúng mua quan tước: các chức tước thuộc loại mua bán nầy chỉ có danh suông mà thôi chứ không được nắm giữ trách vụ gì trong chính quyền. Từ việc mua quan bán tước nầy người ta có thể thấy được chính sách cai trị của Lê Thánh Tông là một chính sách bóc lột, vơ vét tiền bạc, của cải, vật chất của dân chúng để cung phụng cho một thiểu số cầm quyền cai trị và thoả mãn một số hạng người giàu có ngu dốt muốn có danh vị trong xã hội. 6bis Lễ tế Giao: theo Lê triều hội điển, nghi lễ tế Giao hồi khởi đầu triều Hậu Lê được tổ chức như sau: đắp đàn ở phía Nam kinh đô: đàn chính ở giữa dài 15 thước, cao 5 tấc, dùng để tế trời, đất; đàn bên trái và bên phải, mỗi đàn dài 16 thước, cao 3 tấc, dùng để tế các ngôi sao và thần núi. Bốn phía xung quanh đàn trồng cây, phía trước đàn mở 3 cửa. 6 Bắt lính theo lệ cũ: tức là theo lệ đã có từ đời Lê Thái Tông. Theo lệ nầy thì con cháu của những người có chức vị trong xã hội thời đó, con của các quan võ từ lục phẩm trở lên, sinh viên quốc tử giám mà đa số là con cái của quan lại, con cái của những nô tỳ hầu hạ vua hoặc nô tỳ của của các hàng vương tước, quan quyền, tất cả đều được miễn quân dịch. Tức là chỉ có con cái của hạng dân đen cùng khổ, con em của những hạng binh lính hạ cấp mới được chính quyền Lê Thánh Tông chiếu cố bắt đi làm nghĩa vụ quân sự. 7 Dân tộc thiểu số, chậm tiến: thường là những bộ tộc sinh sống trong các hang, động, buông, sóc nơi các miền rừng núi ở các vùng biên giới xa xôi hẻo lánh hoặc ở những nơi vùng cao rất khó đi lại. Sử cũ Việt Nam gọi những bộ tộc nầy là Phiên bang. Người Hoa gọi họ là dân Man di, Mọi rợ. 8 Cấm không được ghi danh dự thi: đây là một chính sách thi cử theo lý lịch, không cần đếm xỉa gì đến tài năng và sự ăn năng hối cải của những người đã có lầm lỗi trong quá khứ. 1 2
VSTK - 541
23
Vu cáo và giết Lê Lăng: Lê Thánh Tông đã ngầm ghét Lê Lăng từ lâu bởi vì nhóm Lê Lăng ngày trước đề nghị phò lập Cung vương Khắc Xương lên ngôi vua không ủng hộ Lê Thánh Tông, nhưng lúc đó nhờ có nhóm Nguyễn Xí mạnh hơn phù trợ cho nên Lê Thánh Tông mới chiếm được ngôi vua sau khi Lê Nghi Dân bị hạ bệ. 10 Thượng thư: ngang với chức tổng, bộ trưởng trong các tổ chức chính quyền ngày nay trên thế giới. 11 Sửa đổi cơ cấu tổ chức quân sự thành 5 phủ: -Thanh Hóa, Nghệ An thuộc phủ Trung quân, gồm có 31 sở. -Nam Sách, An Bang thuộc phủ Đông quân, gồm có 31 sở. -Thiên Trường, Thuận Hóa thuộc phủ Nam quân, gồm có 31 sở. -Quốc Oai, Hưng Hoá thuộc phủ Tây quân, gồm có 30 sở. -Bắc Giang, Lạng Sơn thuộc phủ Bắc quân, gồm có 31 sở. Mỗi phủ có 6 vệ, mỗi vệ có 5 hoặc 6 sở, mỗi sở gồm có 400 quân số. Còn hai đạo Thái Nguyên và Tuyên Quang thuộc quân phụng trực. 11bis Sáu bộ và 6 tự: -Sáu bộ là: bộ lại, bộ hộ, bộ binh, bộ hình, bộ công. -Sáu tự là: đại lý, thái thường, quang lộc, thái bộc, hồng lô, thượng bảo. Các tự nầy giống như các cục hay tổng cục trong các chính phủ thời buổi ngày nay để chuyên lo về một lãnh vực đặc biệt , thí dụ như cục vé số kiến thiết, cục an ninh tình báo. . . 12 Một nửa quân số trở về làm ruộng: nhằm mục đích tăng gia mức sản xuất lúa gạo trong nước đồng thời cũng giảm miệng ăn cho cho quân
24
đội.
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22
25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42
9
Mười hai thừa tuyên: Từ thời Lê Lợi, lãnh thổ hành chánh quân sự được chia thành 5 đạo. mỗi đạo chia thành lộ, trấn, châu, huyện và xã. Nay Lê Thánh Tông chia thành 12 đơn vị hành chánh quân sự gọi là thừa tuyên. Ở mỗi thừa tuyên đặt 2 ty: đô ty do tổng binh và phó tổng binh quân sự nắm giữ, cai quản về mặt an ninh và phòng thủ lãnh thổ, an sinh xã hội; thừa ty thì có thừa tuyên chính sứ và thừa tuyên chính phó sứ coi về hành chánh, hộ tịch, tranh tụng luật pháp. Đổi lộ thành phủ, đổi trấn thành châu. An phủ sứ nay là tri phủ; trấn phủ sứ là đồng tri phủ, phòng ngự sứ là tri châu, chuyển vận sứ là tri huyện, tuần sát sứ là huyện thừa, xã quan là xã trưởng. 14 Phủ Trung Đô: là một đơn vị lãnh thổ hành chánh ở kinh đô giống như các toà đô chính ở nhiều nước trên thế giới hiện nay. Phủ Trung Đô có các chức phủ doãn, thiếu doãn và thị trung. 15 Lập bản đồ cho cả nước: đây là dự thảo bản đồ sẽ được in và phát hành trong niên hiệu Quang Thuận thứ 10 (1469) và có thể bản in nầy được nhiều sử sách cũ gọi là Thiên hạ bản đồ. 16 Tịch thu đất đai ở Lam Sơn: để phân phát cho các cận thần mang họ của nhà Hậu Lê. 13
VSTK - 542
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40
Lam Sơn là đất của vua: ĐVSKTT chép về việc nầy như sau: “Lê Thánh Tông ra dụ chỉ cho dân chúng và các quan rằng: "Lam kinh (Lam Sơn) là đất căn bản nơi quê vua (Lê Lợi ), không thể để hỗn tạp như các đất đai ở những kinh sư khác được. Những nhà giàu có chiếm đất ở đây để làm của riêng, trong khi các công chúa không có được một tấc đất để hưởng dụng. Đáng lẽ phải dùng pháp luật ghép tội những kẻ chiếm hữu đất của vua, nhưng nghĩ rằng nên dùng lễ nghĩa báo trước (tức là chỉ cần tịch thu đất đai và giải thích cho những người có ruộng đất bị tịch thâu biết đây là đất riêng của dòng họ nhà Hậu Lê), sao cho họ vua ngày một đông đúc, có chỗ mà nương thân“(BKTL/q.XII/ 27b). 18 Trần Phong: lý lịch của nhân vật nầy sử cũ không ghi rõ nhưng không phải là Trần Phong theo quân Minh làm đến chức đô ti và bị Lê Lợi xử tội chết vào năm Mậu Thân (1428). Trần Phong thời Lê Thánh Tông là một nhân vật khác, không làm đẹp lòng Lê Thánh Tông cho nên bị Lê Thánh Tông xử tội. 19 Nguyễn Cư Đạo: người làng Đông Khối, huyện Gia Bình, đỗ đồng tiến sĩ năm Nhâm Tuất (1442). 20 Cư Lộng: sử sách cũ không ghi rõ chi tiết; không thể tra cứu, rất có thể là một động trong vùng Thuận Châu. 21 Thuận Châu: còn gọi châu Mỗi, thuộc phủ Gia Hưng, Hưng Hoá; nay là huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. 22 Cửa ải Toả Thoát: ở huyện Quảng Uyên, Cao Bằng, nay là cửa ải quả Thoát;còn huyện Quảng Uyên nay là huyện Quang Hoà. 23 Khởi sự in bản đồ: xem chú thích 15. 23bis Sử quan: tên gọi một giới chức giữ việc ghi chép các việc chính trị trong nước, kể cả những lời nói việc làm của vua chúa, quan quân tại triều đương thời, dù đúng hay sai đều phải ghi chép một cách trung thực để sau nầy đưa vào chính sử. Trong thực tế, sử quan phải ghi chép một cách nịnh bợ, giấu giếm, bóp méo sự thật để làm đẹp lòng nhà vua đang trị vì lúc đó. 24 Nhật lịch: tập sách ghi hằng ngày những công việc vua và triều quan bàn luận hoặc thi hành chính sách cai trị trong nước cũng như ghi chép tường tận những lời nói, việc làm của vua rồi cuối ngày giao cho sử quan niêm phong cất giữ. 24bis Sửa đổi cơ cấu tổ chức quân đội: Sử cũ viết về vấn đề nầy rất là lộn xộn. Những con số đưa ra trong Việt Sử Tân Khảo là dựa theo sách Hồng Đức thiên Nam dư hạ tập và tham khảo phần Binh chế chí/Ngạch quân/triều Hậu Lê trong LTHCLC của Phan Huy Chú. 25 Thi hoành từ: gồm có các môn thi như: thơ, phú, tán, tụng, ca châm; không có thể thức nhất định. 17
VSTK - 543
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42
Lộng Nguyên: từ đời nhà Lý trở về trước gọi là châu Quảng Nguyên; niên hiệu Quang Thuận, Lê Thánh Tông đổi là châu Lộng Nguyên, niên hiệu Hồng Đức lại đổi là Quảng Uyên; ngày nay là huyện Quảng Uyên hợp với huyện Phú Hòa thành huyện Quảng Hoà, thuộc tỉnh Cao Bằng. 27 Trần Phong bị Lê Thánh Tông ghét bỏ, giam ngục: Trần Phong giao dịch thân cận với bố và anh vợ của Lê Thánh Tông để được họ nâng đỡ bao che. Lê Thánh Tông cho rằng Trần Phong chỉ nhờ bợ đỡ nịnh hót “doãn ung thị trĩ “ nghĩa là liếm mụn, mút ung thối cho cha và anh vợ của vua để được quyền quý giàu sang, thăng quan tiến chức; vì thế cho nên Thánh Tông không ưa Trần Phong. 28 Thành Đồ Bàn: kinh đô của nước Chiêm Thành, nay là huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Thời Nguyễn Huệ/Tây Sơn gọi là hoàng đế thành; thời Nguyễn Ánh/ Gia Long đổi gọi là thành Bình Định. 29 Hoa Anh: không thể tra cứu tường tận được. Bộ tộc Hoa Anh nầy có thể là một sắc dân thiểu số ở vùng đất thuộc các tỉnh Phú Yên, Khánh Hoà tức tỉnh Phú Khánh ngày nay. 30 Nam Bàn: lời chua trong KĐVSTGCM ghi: "từ trước cho đến đầu thời Hậu Lê, Nam Bàn là lãnh thổ của Chiêm Thành, đến khi Lê Thánh Tông đánh Chiêm Thành, mở đất đai đến núi Thạch Bi, phong dòng dõi chúa cũ Chiêm Thành làm Nam Bàn quốc vương và chia cho giữ đất đai từ núi Thạch Bi trở về phía Tây, từ phủ Hoài Nhơn (phủ Hoài Nhơn ở phía Nam trấn Quảng Nam tức là tỉnh Qui Nhơn hiện nay) đi theo đường thượng đạo .(thượng đạo có lẽ muốn nói là đường vòng theo núi cao = ghi chú của VSTK) thì phải đi 14 ngày mới đến nước nầy "(CB/q.XXII/tờ 5). Theo Địa dư chí/ Phan Huy Chú thì nước nầy vào thời đó có đến hơn 50 thôn. Ở giữa có núi Bà Nam rất cao và lớn rộng làm vách chắn biên cương cho một nước. Trong nước chia ra hai nước nhỏ gọi là Thủy Xá và Hoả Xá cai trị bởi 2 vua Thủy, vua Hỏa chia ở bên Đông và bên Tây núi Bà Nam. Dân tộc Nam Bàn ở nhà sàn cất cao khỏi mặt đất, ở tựu tập thành từng thôn, sóc (thôn, sóc = một nhóm vài trăm người, người Kinh thường gọi là sóc mọi, thôn mọi), dùng dao, mát xới đất để trồng trọt, đốt cỏ, phá rừng để cấy lúa. Tháng Giêng gieo mạ, tháng 5 lúa chín, không gặt lúa nhưng dùng tay tuốt hạt lúa bỏ vào gùi bị mang trên lưng mang về. Thời đó họ chưa biết dùng ngày tháng ghi theo trong lịch. Vua cởi voi dắt theo vài chục tùy tùng đi vòng quanh thôn sóc để thu thuế: dân khi nghe 3 hồi chiêng sẽ đến chỗ vua tạm ngừng để nộp thuế, ít nhiều tùy ý chứ không có định mức: nồi đồng, nông sản, vải vóc, sản vật rừng núi đều có thể dùng để nộp thuế. Hai vua đều có màu da đen ngâm và xấu nhưng vợ và nàng hầu người nào cũng đẹp, ăn mặc sặc sỡ. 26
VSTK - 544
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26
27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43
Khi có vua mới lên nối ngôi thì các tù trưởng từ các thôn, sóc tề tựu về để lạy chào. Nước Nam Bàn ngày nay là vùng cao nguyên Gia Lai, Pleiku, Kontum, Darlac ở miền Nam nước Việt Nam bây giờ. 31 Phan Lung: tức Bình Thuận và Khánh Hoà, nay là Phan Rang thuộc tỉnh Thuận Hải. 32 Bô Trì: ĐVSKTT ghi Bố Trì chiếm giữ được một phần năm (1/5) đất của nước Chiêm Thành cũ. 33 Cắt đầu vua Chiêm Trà Toàn: sử sách cũ đều viết rằng vua Chiêm Thành Trà Toàn vì lo buồn mà chết. Lại thêm một trò giết người dấu tay giống như nhiều trường hợp khác được viết ra trong sử cũ. Ở đây, Trà Toàn bị Lê Thánh Tông bắt, đem ra chém đầu tế lễ dâng tù ở thái miếu nhưng các sử gia dưới triều đại nhà Hậu Lê lại phải giấu giếm, khuất lấp hành động sát nhân dã man, tàn bạo nầy của Lê Thánh Tông bằng cách cho Trà Toàn bị bệnh lo âu mà chết và do đó Lê Thánh Tông mới cắt bêu đầu để làm lễ dâng tù chứ không phải Lê Thánh Tông ra lệnh giết chết Trà Toàn. Đây là một trò che dấu lấp lửng, hèn hạ và ác độc cần được phanh phui cho hậu thế. 34 Cắt tai của số tù binh bị bắt: Lê Thánh Tông bắt sống được 3 vạn tù binh Chiêm Thành. Như vậy, trong lễ dâng tù ở thái miếu, đã có ít nhất là 3 vạn cái tai của tủ binh Chiêm Thành bị cắt đứt một cách tàn ác, vô nhân đạo, một hành động của những hạng người vô tri, chậm tiến chưa được khai hóa. 35 Hiến sát sứ: còn gọi là án sát sứ, phụ trách tâu trình các việc đúng sai, điều tra và xét hỏi những việc làm trái phép, tra cứu xét hỏi việc kiên tụng, cứu xét để đề nghị thưởng phạt cho hàng quan chức và quân binh trong mỗi đạo hoặc thừa tuyên. 35bis Ấn định ngạch chức cho những người đã thi đỗ tiến sĩ: gồm có năm hạng ngạch chức: 1- đệ nhất giáp đệ nhất danh tức là trạng nguyên: được hàm chánh lục phẩm 8 tư; 2- đệ nhị danh tức là bảng nhãn: hàm tòng lục phẩm, 7 tư; 3- đệ tam danh tức là thám hoa: hàm chánh thất phẩm, 6 tư; 4- đệ nhị giáp tức là hoàng giáp: hàm tòng thất phẩm, 5 tư; 5- đệ tam giáp tức là tiến sĩ: hàm chánh bát phẩm, 4 tư. Tất cả, hạng ngạch khởi đầu đều được bộ dụng vào viện Hàn Lâm, được gia một cấp sau đó cứ lấy theo ngạch chức hàm của họ để bổ dụng giữ các chức giám sát ngự sử hoặc tri huyện. 36 Thi y khoa: đây là một sử cố rất đặc biệt nhưng chỉ có ĐVSKTT có ghi chép nhưng rất sơ lược. Những sách sử khác không thấy ghi về kỳ thi y khoa nầy. 37 Định thể lệ thừa tự của con cháu các công thần tự hy sinh vì nhiệm vụ: mỗi công thần sẽ được ban quan tước cho một người con hoặc cháu; nếu không có con hay cháu thì cho một người thân thuộc được miễn binh dịch và lao dịch để lo việc thờ cúng cho hạng người công thần nầy.
VSTK - 545
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
Lấy cớ cáo buộc Khắc Xương: sau khi Nghi Dân bị hạ bệ, nhóm Lê Lăng, Lê Nhân Thuận định đưa Khắc Xương lên ngôi vua nhưng vì nhóm nầy yếu thế cho nên thất bại, phải để cho nhóm Lê Niệm đưa Lê Thánh Tông lên ngôi; vì vậy Lê Thánh Tông rất ghét nhóm Lê Lăng, Lê Nhân Thuận và Khắc Xương. Sau khi đã vu cáo để giết Lê Lăng và Lê Nhân Thuận, đến nay Lê Thánh Tông lại đặt điều vu cáo cho Khắc Xương là âm mưu làm phản, tống giam Khắc Xương vào ngục rồi giết đi nhưng sử quan của Lê Thánh Tông lại lấp liếm viết rằng Khắc Xương vì quá lo âu nên chết bệnh ở trong ngục. Đây là một trò ma giáo giết người giấu tay mà Lê Thánh Tông thường hay dùng để khỏi bị hậu thế cho mình là kẻ nham hiểm, độc ác và hiếu sát. 39 Dựng bia tiến sĩ: các bia nầy bằng đá trinh thạch, một loại đá rất cứng có thể để lâu đời được. Ngày nay các hàng bia tiến sĩ vẫn còn tồn tại Văn Miếu ở Hà Nội nhưng đã được tu bổ và trên có che thêm mái ngói để che nắng mưa, các hàng cây cổ thụ phía trước các bia nầy đã bị bứng nhổ đi hết để làm lối đi cho khách du lịch. 40 Quan văn có trình độ nho học và giỏi viết văn: gồm có Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Đào Thuấn Cử, Đàm Văn Lễ chia nhau soạn văn bia. 41 Thần Nông: theo truyện cổ tích của người Hoa, Thần Nông là một ông vua của Trung Quốc thời thượng cổ có công dạy cho tổ tiên người Hoa biết cày cấy trồng trọt. 42 Ruộng tịch điền: ở xã Hồng Mai, huyện Thanh Đàm, nay thuộc phường Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. 43 Ấn định cách thức xưng hô theo thứ bậc: thân vương tự xưng là phủ hạ, người dưới gọi thân vương là điện hạ; công, hầu, bá, phò mã, nhất phẩm thì kẻ dưới gọi họ là các hạ; nhị tam phẩm gọi là môn hạ; tứ, ngũ, lục phẩm gọi là đại nhân; thất, bát, cửu phẩm gọi là quan trưởng. Ai xưng hô bậy bạ, lộn xộn thì người gọi và người nhận đều bị đánh 50 roi và phạt 10 quan tiền. 44 Sở thủ ngữ kinh lược sứ: thủ ngữ là chức nhiệm trao cho các tù trưởng ở các vùng biên giới; sở thủ ngữ kinh lược sứ là cơ quan đặt tại một xứ để giám sát việc cai trị những chức nhiệm thủ ngữ. 45 Điện Kính Thiên: lời chua trong KDVSTGCM viết: "Theo Cổ Lê dã lục thì điện nầy ở trên đỉnh núi Nùng. Núi Nùng ở trong tỉnh thành Hà Nội "(CB/q.XV/tờ13). 46 Phong niên: được mùa 47 Quân đạo: đạo làm vua. . 48 Thần tiết: tiết tháo hay tư cách của người làm tôi. 49 Minh lương: vua sáng tôi hiền. 50 Anh hiền: người anh tuấn, tài giỏi. 51 Kỳ thí: tài lạ. 52 Thư thảo: viết nhanh, ghi nhanh, phát thảo. 53 Văn nhân: là người có học vấn. 38
VSTK - 546
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21
Mai hoa: bông hoa mai.. Tao đàn: tao là tao nhã, thanh tao, tuyệt diệu; đàn có nghĩa là một hội trường; giống như văn đàn, tức là một nhóm nhà thơ tao nhã hay nhà văn nổi tiếng lập thành một hội hay một câu lạc bộ. 56 Nguyên soái: tức là viên tướng chỉ huy, cầm đầu, hay chủ tịch của một tổ chức. 57 Hoàng thái hậu chết: là Ngô thị Dao, mẹ ruột của Lê Thánh Tông. 58 Lê Thánh Tông ngã bệnh nặng: LTHCLC /Phan Huy Chu viết rằng: "Về già, Lê Thánh Tông vì dâm dục quá nhiều nên mắc tật phong thũng." Vũ Quỳnh khảo luận trong ĐVSKTT như sau: " Tiếc rằng vua (Lê Thánh Tông) có quá nhiều vợ, phi tần, cung nữ cho nên mắc bệnh nặng. Trường Lạc hoàng hậu Nguyễn thị Hằng (tức là mẹ ruột của vua Lê Hiến Tông) vì bị vua giam nhốt ở cung khác, cho nên đến khi vua ốm nặng mới được cho vào hầu bệnh, bèn ngầm dấu thuốc độc trong tay rồi bôi vào chỗ phong lở trên người của vua, bệnh vua vì thế càng thêm trầm trọng (BK Thực Lục/ q.XIII/tờ 79a,b). 59 Mười bốn con trai của Lê Thánh Tông: con trưởng hoàng thái tử tên là Tranh (KDVSTGCM viết là Chanh), các con thứ gồm có 13 người trong đó có một người tên là Trang (KĐVSTGCM viết là Tranh). Lê Thánh Tông còn có 20 người con gái, tổng cộng tất cả là 34 người con. 54 55
KHẢO LUẬN:
LÊ THÁNH TÔNG 22 23 24 25 26
27 28 29 30 31 32 33 34 35
36 37 38
Từ trước tới nay, người đọc sử chỉ thấy Lê Thánh Tông là một ông vua đại tài và có người còn so sánh rằng tài đức của Lê Thánh Tông vượt hẳn các vua được gọi là giỏi của Trung Quốc như Vũ Đế nhà Hán và Thái Tông nhà Đường; được sánh ngang với Thiếu Khang nhà Hạ và nối gót Tuyên Vương nhà Chu. Vũ Quỳnh bàn luận về Lê Thánh Tông như sau: “Vua tư chất cao siêu, anh minh quyết đoán, hùng tài, đại lược, võ giỏi văn hay, siêng năng học tập sách vở của những người hiền, ham đọc sách, bất cứ lãnh vực nào cũng đều thông suốt bao quát. Văn thơ thì vượt hẳn khuôn mẫu của đám văn thần. . .tự xưng là Thiên Nam động chủ, Đạo âm chủ nhân, sùng chuộng nho học, nâng đỡ nhân tài, tuyển chọn được rất nhiều người tài giỏi về cả hai mặt văn, võ để dùng trong việc cai trị, chế tác lễ nhạc, hiệu lệnh văn chương, làm gương cho người đời sau noi theo. Thuở còn làm phiên vương, vua vẫn tự khép giấu tài năng; đến khi nội triều gặp đại biến, các quan thần mới khẩn kíp đến đón lập lên ngôi vua. Hào kiệt lúc khởi đầu đa số đều kính phục. Các tướng lĩnh ỷ công VSTK - 547
41
cao ngạo lần lượt bị giết nhằm mục đích răn đe triều thần dưới quyền, trong ngoài khắp nơi đều uy nghiêm cẩn mật. Lấy người thân đặt vào các bộ phận chỉ huy, dùng những người bên họ nhà mẹ để đảm trách công việc theo dõi và kiểm soát quân dân. Chọn bề tôi tín cẩn để làm nanh vuốt tay chân bu quanh hầu hạ, vua chỉ cần ra lệnh không cần phải đích thân ra tay mà trong nước vẫn được yên ổn. Vua cho rằng Chiêm Thành là mối đe dọa thường xuyên cho nên cần phải tiêu diệt vì vậy phía Nam thì đánh Trà Toàn để lấn chiếm đất đai của Chiêm Thành, phía Tây thì đánh và quét sạch sào huyệt tộc Nhã Lan, đánh Sơn Man tạo uy thế với phương Bắc, đánh Bồn Man để mở rộng biên giới phía Tây. Quy mô xếp đặt, công nghiệp trung hưng có thể sánh ngang với Thiếu Khang nhà Hạ, nối gót Tuyên Vương nhà Chu mà còn có thể khinh khi Quang Vũ nhà Hán, Hiến Tông nhà Đường là thuộc hạng thấp kém hơn mình vậy.” Trong LTHCLC,Phan Huy Chú viết: “Tư chất và tính khí vua cao sáng, ham học, ham đọc, ham sách vở không biết mệt; kinh sử, lịch số, toán chương đều tinh thông; văn thơ thì lại giỏi hơn các bầy tôi. Về trị nước thì vua tôn trọng Nho thuật, cất nhắc nhân tài, sáng lập chế độ, khôi phục mở mang bờ cõi, van võ tài lược trội hơn các đời trước khiến cho chính trị đời Hồng Đức rất thịnh đạt. Về già vì quá ham mê dâm dục cho nên mắc phải bệnh phong lậu”. Trong KĐVSTGCM, rải rác có những lời phê của vua Tự Đức như sau: Phê phán việc Lê Thánh Tông vu cáo và giết Lê Lăng: "Vua Thánh Tông còn như thế có lẽ là vì đạo đức chưa được tinh thuần chăng? Thế mà mà cứ ba hoa văn chương, ra điều biện bác để làm gì ?" (CB/q.XIX/ tờ 21). Tháng 11 năm Ất Dậu (1465), nhân dịp khánh thành hai điện Kính Thiên và Cần Đức, Lê Thánh Tông ra lệnh đại xá cho dân chúng trong việc nộp tô thuế. Việc nầy, Tự Đức phê là: "Phiếm lạm của công, không thiết thực" (CB/ q.XIX/ tờ 35). Sau đó, vào tháng Giêng năm Bính Tuất (1466), Lê Thánh Tông lại hạ lệnh truy thâu trở lại tô thuế vì Lê Thánh Tông cần tiền để tiêu dùng. Tự Đức phê: "vua Chính lệ đổ nát, mất tín nhiệm với dân" (CB/ q.XX/ tờ 1). Hoặc: "Vua thì mắc bệnh hay thay đổi; bầy tôi thì lại quen thói bợ đỡ đón trước cái ý của nhà vua"(CB/q.XX/ tờ 22). Lê Thánh Tông bắt sử quan phải dâng trình nhật lịch cho mình xem khiến Tự Đức phải phê rằng Lê Thánh Tông là một kẻ hám danh giống như vua nước Tàu Đường Thái Tông ngày xưa bắt bầy tôi phải dâng trình nhật lịch để kiểm duyệt việc ghi chép những lời nói và việc làm hằng ngày của vua và triều thần thân cận của vua (CB/q.XX/tờ 27). Hoặc: "Đại để ở đây chép phần nhiều là lời khoa trương" (CB/q.XXII/tờ
42
26).
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14
15 16 17 18 19 20 21
22 23
24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40
43
Những nhận định về cá nhân Lê Thánh Tông trong sử sách cũ chỉ
VSTK - 548
1 2 3 4 5
6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28
29 30 31
nói lên được một cách hời hợt về các thói hư tật xấu của Lê Thánh Tông nhưng lại thổi phòng tài đức và chiến công "xâm lược diệt chủng" của Lê Thánh Tông khiến cho người đời sau nếu không đào sâu, đọc kỹ thì nhất định là phải gật gù khâm phục và biết ơn công đức của ông vua nầy. Là một kẻ cao ngạo tột bực cho nên Lê Thánh Tông phải nâng cao thân phận và tông tích tộc giống của mình lên ngang hàng với con trời "thiên tử" giống như những ông con trời bên Trung Quốc bằng cách cho phép Ngô Sĩ Liên đưa vào chính sử kỷ Hồng Bàng để từ đó cho phối giống giữa thần ma với giống vật bò sát rồng rắn, thuồng luồng mà sinh ra các bậc tiên đế chính thống của dân Đại Việt và từ đó về sau, chỉ có người nào là con trời, là dòng dõi con rồng, cháu tiên mới có tư cách làm vua. Lê Thánh Tông còn là một người nham hiểm, ác độc, nghi kỵ, hay để tâm trả thù: giết hại oan ức những người bị coi là không cùng phe nhóm với mình ngay cả anh em cùng một cha với Lê Thánh Tông cũng không nhân nhượng. Tệ hại và đáng trách hơn hết là thói xấu giết người dấu tay của Lê Thánh Tông để khỏi bị mang tiếng là hiếu sát, tàn bạo, phi nhân: cứ mỗi lần thủ tiêu kẻ địch hoặc người không cùng ý hướng với Lê Thánh Tông thì nạn nhân được ghi là bị đau ốm hoặc vì quá lo lắng mà chết chứ không phải do Lê Thánh Tông ra lệnh giết chết. Lê Thánh Tông là một kẻ hợm mình khoe khoang, tự tôn, tự đại, coi mình như là bậc thầy trùm khắp thiên hạ bằng các danh xưng như Thiên Nam động chủ, Tao Đàn nguyên soái, và bằng các hành động khác như khảo hạch các người có học đã đỗ đạt, đánh giá và sa thải các người thầy dạy học trong hoàng cung. Đối với dân chúng, Lê Thánh Tông không đếm xỉa gì đến họ mà chỉ lo ban phát các đặc quyền đặc lợi cho các bọn cận thần lâu đời giỏi xu nịnh và con cháu của bọn nầy. Trên đây mới chỉ là những nhận xét về cá nhân của Lê Thánh Tông. Chính sách và đường lối cai trị của triều đại Lê Thánh Tông sẽ được đề cập tới trong phần tổng luận về triều đại nhà hậu Lê.
VSTK - 549
QUYỂN II
THỜI KỲ NHÀ HẬU LÊ CHƯƠNG VI
L Ê HIẾN TÔNG ( 1497 - 1504 ) Niên hiệu: Cảnh Thống (1498-1504) 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
Đinh Tỵ, tháng 2 (1497), thái tử Tranh lên ngôi tức Lê Hiến Tông, tiếp tục giữ niên hiệu Hồng Đức năm thứ 28, lấy năm kế tiếp Mậu Ngọ (1498) là niên hiệu Cảnh Thống thứ nhất. Tôn mẹ ruột Nguyễn thị Huyên làm hoàng thái hậu ở cung Trường Lạc. Dân Nghệ An bị nạn đói. Lấy lúa từ kho nhà nước cho dân nghèo vay 100 thăng để làm mùa. Đại hạn. Tháng 3, ấn định thể lệ thu thuế mắm muối. Mậu Ngọ, Cảnh Thống năm thứ 1 7 (1428) tháng Giêng, hạ lệnh cho canh giữ cẩn mật các cung điện của vua ở những địa phương ngoài kinh đô gọi là hành tại để mỗi khi vua đi tuần sát đến địa phương nào thì có nơi an toàn và đầy đủ tiện nghi cho vua ở. Tháng 3, định thể lệ nộp thuế tơ tằm. Tháng 5, định thuế bông vải. Tháng 12, ra lệnh các xứ Hải Dương, Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc nộp thóc vào kho chứa ở kinh đô. Mỗi xứ đều phải thu nạp 12,500 học thóc gạo. Các xứ khác, lúa thóc thu nạp được của dân thì chứa vào kho của nhà nước ở mỗi xứ. Kỷ Mùi, Cảnh Thống năm thứ 2 (1499) tháng 4, định lại điều lệ về thi Hội. Tháng 7, ban hành 24 điều giáo huấn trong kinh đô và ngoài các xứ. Tháng 8, sửa đổi thói lệ về việc mua quan bán tước: từ nay chỉ có những kẻ lương thiện mới được hưởng tệ trạng nầy. Cấm không được kết hôn với đàn bà, phụ nữ người nước Chiêm Thành để người Đại Việt được thuần giống.
VSTK - 550
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
Cấm dân chúng ở Quảng Nam không được tự tiện mua dân Man làm nô tỳ. Trùng tu chùa Thiên Phúc. Tháng 12, lập con trai thứ ba là Thuần làm hoàng thái tử. Canh Thân, Cảnh Thống năm thứ 3 (1500). Tân Dậu, Cảnh Thống năm thứ 4 (1501) tháng 12, định lại điều lệ thi Hương. Nhâm Tuất, Cảnh Thống năm thứ 5 (1502). Quý Hợi, Cảnh Thống năm thứ 6 (1503), tháng Giêng, tháng 2 hạn hán. Tháng 4 đắp đê sông Tô Lịch, đào cừ Yên Phú. Giáp Tý, Cảnh Thống năm thứ 7 (1504) tháng 5, Lê Hiến Tông vì dâm dục quá độ, ngã bệnh nặng, chết, ở ngôi 7 năm, thọ 44 tuổi, có 6 người con trai. KHẢO LUẬN:
15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27
Vũ Quỳnh viết về Lê Hiến Tông như sau: “Vua đặc biệt anh minh thông duệ, nhân từ, hòa dịu. Vua thường nói: thánh tổ ta (tức Lê Lợi) v gầy dựng đất nước, vua cha ta sửa trong dẹp ngoài, quy mô đã định sẵn, ta không cần phải thay đổi bày đặt thêm, chỉ cần tuân giữ phép cũ, mở rộng và phát huy thêm để tỏ rõ công đức của ông cha ta mà thôi.”(ĐVSKTT/BK Thực lục/q.14/ tờ 35b). Lời bàn của Vũ Quỳnh quá đầy đủ để cho thấy Lê Hiến Tông chỉ là một ông vua tầm thường không đóng góp được gì thêm cho đất nước cũng như không cải thiện được chút nào cuộc sống cùng khốn của người dân nghèo lúc đó và cũng lại nối tiếp chính sách kỳ thị và tiêu diệt chủng tộc Chiêm Thành do các vua trước của nhà Hậu Lê chủ xướng. Giống như hầu hết các vua chúa trong các thời đại phong kiến, Lê Hiến Tông rốt cuộc rồi cũng chết vì quá mê đắm sắc dục.
VSTK - 551
QUYỂN II
THỜI KỲ NHÀ HẬU LÊ CHƯƠNG VII
LÊ TÚC TÔNG ( 1504 - 1505 ) Niên hiệu: Thái Trinh (1505) 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21 22 23 24 25
Tên húy là Thuần, con thứ 3 của Lê Hiến Tông, lên ngôi vua tức Lê Túc Tông, áp dụng niên hiệu mới từ tháng 6 năm Giáp Tý (1504) là Thái Trinh năm thứ 1; tôn bà nội1 là Trường Lạc hoàng thái hậu Nguyễn thị Huyên tước vị đại hoàng thái hậu. Truy tôn cho mẹ ruột đã chết là quý phi Nguyễn thị Ngọc Hoàn2 tước vị Trung Thuận Minh Ý hoàng thái hậu. Giáp Tý, Thái Trinh năm thứ 1 (1504) tháng 12, Lê Túc Tông bệnh nặng, ra di chiếu cho triều thần phò lập con thứ 2 của Lê Hiến Tông là Tuấn lên ngôi vua nhưng đại hoàng thái hậu Nguyễn thị Huyên cho rằng Tuấn là con của người tỳ thiếp không xứng đáng nối ngôi vua, nhân đó đòi lập một người con khác của Lê Hiến Tông là Lã Côi vương. Triều thần chỉ yên lặng không bàn luận gì. Giáp Tý, Thái Trinh năm thứ 1, ngày mồng 8 tháng 12 âm lịch (1504), Lê Túc Tông chết, thọ 17 tuổi, ở ngôi chưa được 1 năm. Triều thần làm theo di chiếu của Lê Túc Tông, rước người con thứ 2 của Lê Hiến Tông là Tuấn lên ngôi vua tức Lê Uy Mục. Bà nội: tức mẹ ruột của Lê Hiến Tông. Nguyễn thị Ngọc Hoàn: người xã Bình Lăng huyện Thiên Thi thuộc phủ Khoái Châu, nay là huyện Kim Thi, tỉnh Hưng Yên. Vào hầu cho Lê Hiến Tông từ lúc còn ở cung thái tử. Hiến Tông lên ngôi vua phong cho làm quý phi, sinh ra Lê Hiến Tông nhưng chết sớm. 1 2
VSTK - 552
QUYỂN II
THỜI KỲ NHÀ HẬU LÊ CHƯƠNG VIII
LÊ UY MỤC ( 1505 - 1509 ) Niên hiệu: Thái Trinh (1505) Đoan Khánh (1505-1509 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
Ất Sửu, Đoan Khánh năm thứ 1 (1505) tháng 2, Lê Uy Mục lên ngôi vua, truy tôn mẹ Nguyễn thị Cẩn làm Chiêu Nhân Hoằng Ý hoàng thái hậu. Nguyễn thị Cẩn trước đây phải bán mình ở đợ cho người ta, sau đó bị bắt vào làm nô tỳ trong cung hầu hạ mẹ Lê Hiến Tông; Lê Hiến Tông hám sắc bèn đem về cung cho làm phi, sinh ra Lê Uy Mục rồi chết sớm. Tháng 3, bí mật ám sát Trường Lạc đại hoàng thái hậu Nguyễn thị Huyên vì trước đó bà nầy phản đối việc đặt Lê Uy Mục lên ngôi vua. Để che mắt thế gian về việc làm ám muội nầy, Lê Uy Mục cho nghỉ thiết triều 7 ngày, giả trá chịu tang và cho xây miếu điện để cúng thờ tổ tiên của Nguyễn thị Huyên. Tháng 6, cách chức thượng bộ Lễ Đàm văn Lễ và Đô Ngự sử Nguyễn Quang Bật, giam ngục rồi giết đi vì ngày trước vào lúc Lê Hiến Tông sắp chết hai người nầy đã không phò lập Lê Uy Mục lên ngôi vua nhưng lại thi hành di chiếu của Lê Hiến Tông để đưa Lê Túc Tông nối ngôi vua sau khi Lê Hiến Tông chết. Bính Dần, Đoan Khánh năm thứ 2 (1506) tháng Giêng, lập Trần thị Tùng làm hoàng hậu. Trần thị Tùng là con của một người nguyên là cháu của một vua nhà Trần. Mậu Thìn, Đoan Khánh năm thứ 4 (1508) tháng 2, bổ dụng Mạc Đăng Dung làm đô chỉ huy sứ quản lĩnh vệ quân Thiên Vũ. Dung lúc nhỏ có sức khoẻ, nhà nghèo, làm nghề đánh bắt cá. Đăng Dung thi tuyển đô lực sĩ, được sung vào đội quân túc trực bảo vệ cung vua, đến nay được Lê Uy Mục bổ dụng cho chức đô chỉ huy sứ. VSTK - 553
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
Tháng 10, người Lô Lô của vương quốc Hắc La La1 đánh phá cửa ải Chu Quan2. Lê Uy Mục sai tướng Lê Quýnh và Trần Thúc Mại đem quân đánh dẹp, lập lại ranh giới quan ải rồi rút quân về. Kỷ Tỵ, Đoan Khánh năm thứ 5 (1509) tháng 2, đặt ra hai đội binh voi trận và binh ngựa để hằng ngày biểu diễn đánh nhau làm trò vui giải trí cho Lê Uy Mục. Hằng đêm, Lê Uy Mục chè chén, giởn cợt uống rượu đến khi nhừ sai thì rượt giết bừa bãi các cung nhân, tỳ nữ. Ở các địa phương thì các thân tộc bên họ ngoại của Lê Uy Mục ỷ thế, dựa hơi mặc tình thao túng, bắt chẹt làm tiền quan lại sở tại, cướp giật, giết hại dân chúng, tạo oán hờn khắp nơi. Trong triều thì truy lùng giết hết những cựu thần ngày trước không chịu phò lập Lê Uy Mục. Cho người ngầm theo dõi những người trong dòng họ nhà Hậu Lê rồi bắt giam người anh họ là Giản Tu công Lê Dinh. Kinh vương Lê Kiện con trai út của Lê Thánh Tông mà cũng là chú của Lê Uy Mục vì quá sợ hãi bỏ trốn biệt tích. Nhóm tôn thất và cựu thần đều bị đuổi về xứ Thanh Hóa. Trong triều chỉ còn nhóm họ bên ngoại của Lê Uy Mục tự tung tự tác, làm cho chính sự nghiêng ngửa. Hậu quả là mọi người vì sống trong tình trạng khủng bố, kìm kẹp, tính mạng luôn bị đe doạ cho nên mầm móng nổi loạn đang âm ỉ manh nha. Lê Uy Mục sai đô đốc Lê Tử Văn, Vũ Cảnh tuần sát vùng đất Quảng Nam và hạ lệnh giết hết các tù binh và người dân Chiêm Thành hiện bị lưu đài khổ sai ở đó lấy cớ là kiều dân Chiêm Thành làm nô lệ cho các đám công thần thế gia của nhà Hậu Lê bỏ trốn về nước Chiêm Thành để mưu định làm phản. Em trai của cố Trường Lạc đại hoàng thái hậu Nguyễn thị Huyên là Nguyễn Văn Lang hợp cùng với tôn thất Lê Năng Cẩn và thủ lĩnh nhóm người nô lệ người Chiêm là Chế Mạn, khởi động dân chúng ở ba phủ Tỉnh Gia, Hà Trung, Thiệu Thiên thuộc xứ Thanh Hóa kéo về Tây Đô rồi đem quân trấn giữ cửa biển Thần Phù3 . Giản Tu công Lê Dinh đút lót hối VSTK - 554
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34 35 36
lộ cho cai tù và trốn thoát khỏi ngục, chạy thoát đến Tây Đô, được Nguyễn Văn Lang ra đón lập làm minh chủ4 nhóm khởi xướng nổi loạn rồi cùng với Nguyễn Diễn, Ngô Khế, Nguyễn Bá Cao, Lê Trạm hợp với những viên quan ở Thanh Hoá là tổng binh Nguyễn Bá Tuấn, thừa tuyên sứ Lê Tung, tham chính Nguyễn Thì Ung khởi binh tiến quân về Tây đô, giả xưng là quân của Cẩm Giang vương Lê Sùng. Lê Uy Mục nghe tin liền bắt mẹ, em trai và anh của Lê Dinh là Cẩm Giang vương Lê Sùng giết đi rồi sai thủ hạ thân cận đem quân triều đình đón đánh quân nổi loạn ở núi Thiên Kiện5 nhưng quân của Lê Uy Mục bị thua, các tướng đều bị quân nổi loạn giết chết. Tháng 12, quân nổi loạn chiếm xã Bảo Đà6 và xã Hồng Mai7. Tình thế nguy cấp, Lê Uy Mục giao quyền chỉ huy quân sự cho hai tướng Trình Chí Sâm và Lê Quảng Độ, ra lệnh thả tù nhân rồi đem tiền dụ những tù nhân nầy tình nguyện làm lính đánh giặc nhưng chẳng ai theo. Lê Uy Mục lại cử người đi cầu viện binh từ các xứ Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bang nhưng không còn kịp vì quân nổi loạn của Lê Dinh đã tiến đến Bồ Đề8 ở bờ phía Bắc sông Nhị Hà, sát Đông Đô. Quan quân triều đình bỏ thành chạy trốn; hoàng hậu của Lê Uy Mục chạy ra xã Hồng Mai rồi tự treo cổ chết. Tướng Lê Quảng Độ bấy giờ quay theo nhóm loạn quân làm nội ứng từ trong thành đánh ra, ngoài thành quân của Lê Dinh đánh vào, đuổi Lê Uy Mục chạy sang cửa Bắc thành Đông Đô. Lê Huy Mục chạy đến phường Nhật Chiêu9 thì bị một tên vệ sĩ đi theo bắt trói đem nạp cho Lê Dinh. Lê Dinh vì quá căm hận Lê Huy Mục giết hại mẹ và anh em mình cho nên xử tội Lê Huy Mục hình phạt phanh thây rồi đem thiêu đốt hết hài cốt10, chỉ cho lấy một ít tro tàn của Lê Uy Mục đem chôn mà thôi.Tên vệ sĩ đã bắt nạp Lê Uy Mục cũng bị Lê Dinh giết vì bị khép tội là kẻ bất nghĩa. Vương quốc Hắc La La: ngày xưa ở 1 vùng của tỉnh Vân Nam nước Tàu bây giờ. 2 Cửa ải Chu Quan: ở châu Thủy Vĩ, xứ Hưng Hóa. 1
VSTK - 555
19
Cửa biển Thần Phù: cửa biển nầy ngày nay đã bị đất bồi phủ lấp nhưng dấu vết cũ vẫn còn tìm thấy ở huyện Yên Mô, nay thuộc huyện Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình. 4 Minh chủ: ngày xưa, những nhóm người cùng liên kết với nhau để thực hiện một chương trình hoặc một mưu đồ tranh giành quyền lực thì nhóm người nầy thường uống máu ăn thề đoàn kết: họ chọn một người nào có uy thế trong nhóm để suy tôn lên chủ trì việc tế lễ thề nguyền và gọi người đó là minh chủ. 5 Núi Thiên Kiện: còn gọi là núi Địa Cận, ở xã Thiên Kiện, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam ngày nay. 6 Xã Bảo Đà: thuộc huyện Thanh Oai, Hà Nội; nay thuộc tỉnh Hà Tây. 7 Xã Hồng Mai: thuộc huyện Thọ Xương, Hà Nội; nay đổi là Bạch Mai. 8 Bồ Đề: tức xã Bồ Đề, ở về phía bờ bắc sông Nhị Hà; nay thuộc huyện Gia Lâm ở ngoại thành Hà Nội. 9 Phường Nhật Chiêu : nay là phường Nhật Tân, quận Tây Hồ, Hà Nội. 10 Phanh thây, thiêu hủy hài cốt Lê Uy Mục: sử sách cũ đều đồng loạt viết rằng Lê Uy Mục tự tử chết và sau đó bị Lê Dinh dùng súng trọng pháo bắn
20
cho tan xác.
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18
3
KHẢO LUẬN: 21 22 23 24
25 26 27 28 29 30
Giống như tất cả các đám vua chúa ở bất cứ thời đại phong kiến nào ngày trước, Lê Uy Mục là một kẻ ăn chơi, dâm dật, bạo ngược, bè phái, gia đình trị, bốc lột và nham hiểm, chẳng làm được lợi ích gì cho nhân dân. Ngoài ra Lê Uy Mục còn là một kẻ kỳ thị, diệt chủng tàn ác khủng khiếp nhất trong số những kẻ kỳ thị, diệt chủng nổi tiếng của dòng họ nhà Hậu Lê: tàn sát hết một loạt binh lính và kiều dân Chiêm Thành bị bắt làm tù binh đưa đi các trại tập trung khổ sai ở Quảng Nam; đây là một tội đại ác đối với nhân loại và tạo thành một mối hận thù truyền kiếp giữa hai dân tộc Chiêm Thành và Việt Nam.
VSTK - 556
QUYỂN II
THỜI KỲ NHÀ HẬU LÊ CHƯƠNG IX
LÊ TƯƠNG DỰC ( 1510 - 1516 ) Niên hiệu: Hồng Thuận (1510-1516) 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
Lê Dinh lên ngôi vua tức Lê Tương Dực, đổi niên hiệu là Hồng Thuận năm thứ 1. Truy tôn cho cha là Kiến vương Lê Tân làm Kiến hoàng đế, cho mẹ là Trịnh thị Tuyên làm hoàng thái hậu. Thưởng công cho những người đã theo phò tá Lê Dinh lên ngôi vua, phong cho Nguyễn Văn Lang làm Nghĩa quốc công, Lê Quảng Độ làm Thiệu quốc công, Lê Phụ làm Lượng quốc công, Lê Bá Lân làm Uy quốc công, Trịnh Duy Đại làm Văn quốc công, Trịnh Hựu làm Thọ quận công, Lê Tung làm Lại bộ thượng thư. Trịnh Duy Sản làm Mỹ Huệ hầu và những người khác đều được ban thưởng theo thứ bậc khác nhau. Tháng 4, hoạn quan thái giám Nguyễn Khắc Hài mưu đảo chính, Lê Tương Dực sai Trịnh Hựu đem quân dẹp trừ, giết hết nhóm đảo chính. Nước Ai Lao xin thần phục nhưng bị Lê Tương Dực từ khước không nhận. Tháng 10, gọi Lương Đắc Bằng trở lại triều chính và trao chức vụ cho nhưng Bằng từ chối không nhận mà chỉ đề nghị lên Lê Tương Dực 14 kế hoạch và chính sách cai trị1. Thăng chức thêm nữa cho Lê Quảng Độ làm Bình chương quân quốc trọng sự, nắm giữ tất cả chính quyền trong nước. Tân Mùi, Hồng Thuận năm thứ 3 (1511) tháng 2, Thân Duy Nhạc nổi loạn nhưng bị bắt đưa về kinh đô xử tội chết. Tháng 3, thi Hội. Tháng 4, sách Đại Việt thông giám do Vũ Quỳnh biên soạn và hoàn tất, gồm 26 quyển, từ thời Hồng Bàng đến thời 12 sứ quân làm Ngoại Kỷ; từ thời Đinh Tiên Hoàng đến
VSTK - 557
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
những năm đầu Lê Lợi Thái Tổ làm Bản Kỷ. Lại sai Lê Tung viết bài Tổng luận cho sách nầy. Phong cho Mạc Đăng Dung tước Vũ Xuyên Bá. Lấy điển lệ của các triều trước có liên hệ đến phong tục tập quán và chính sách cai trị để biên soạn thành sách Trị bình bảo phạm2 phát hành cho cả nước, gồm 50 điều. Tháng 5, phong thêm chức tể tướng cho Lê Phụ và Nguyễn Văn Lang. Tháng 11, Trần Tuân ở Sơn Tây nổi loạn, tiến sát đến huyện Từ Liêm. Trịnh Duy Sản được lệnh đi đánh dẹp, lúc đầu bị thua khiến quân dân kinh đô nhốn nháo, náo động. Nguyễn Văn Lang dự định hộ tống Lê Tương Dực chạy vào Thanh Hóa nhưng sau đó Trịnh Duy Sản đã tập hợp tàn quân phản công và giết được Trần Tuân, Nguyễn Văn Lang đưa quân truy đuổi, loạn quân tan vỡ. Trịnh Duy Sản được thăng phong làm Nguyên quận Công; quan quân dưới quyền của Trịnh Duy Sản ai giết và cắt được nhiều tai của loạn quân trình nộp đều được ban thưởng hoặc thăng chức rất trọng hậu: cách xét thưởng công trong quân đội theo kiểu cắt tai nầy bắt đầu có từ ngày đó. Đỗ Nhạc và 11 người khác có công ở lại lo việc cố thủ Kinh thành cũng được biểu dương, khen thưởng. Định mức thuế vàng và thuế bạc: mỗi năm các nơi trong nước phải thu nộp về riêng cho vua tiêu phí: vàng 10 hạng tốt:449 lạng, vàng 10 hạng thường: 2900 lạng; bạc 10 hạng tốt: 6124 lạng. Nhâm Thân, Hồng Thuận năm thứ 4 (1512) tháng Giêng, sai Đỗ Nhạc tuần tra Sơn Tây, Hưng Hoá và bình định, tiêu diệt đám quân tàn dư của Trần Tuân. Lê Hy, Trịnh Hưng và Lê Minh Triệt khởi dậy nổi loạn ở Nghệ An. Trịnh Duy Sản và Đỗ Nhạc được sai đi đánh dẹp, giết được Lê Minh Triệt, bắt sống Lê Hy và Trịnh Hưng. Hạn hán; dân bị nạn đói. Ra lệnh bắt dân lao dịch để khởi công xây cất, làm đi làm lại cung điện quy mô và đài cao trăm nóc. Dân công đi lao dịch bị đau ốm chết chóc rất nhiều với công tác xây cất kéo dài nầy.
VSTK - 558
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
Quý Dậu, Hồng Thuận năm thư 5 (1513) tháng Giêng, Nguyễn Văn Lang chết được truy tặng tước vương. Sứ nhà Minh sang phong tước An Nam quốc vương cho Lê Tương Dực và đưa lời nhận định rằng Lê Tương Dực đa dâm giống như loài heo. Tháng 2, xây dựng điện Mục Thanh và hai miếu điện Đông, Tây kề cận với điện Mục Thanh3 để phụng thờ tổ tiên nhà Hậu Lê. Tháng 6, nước lũ làm vỡ đê ở phường Yên Hoa, tràn ngập Hồ Tây. Giáp Tuất, Hồng Thuận năm thứ 6 (1514) tháng 5, đắp bờ thành cao cắt ngang sông Tô Lịch rồi xây cất hoàng thành ở phía trên; cửa thông nước phía dưới bờ thành xây bằng gạch đá với song sắt chắn ngang suốt khổ rộng của cửa. Lại sai thợ vẽ kiểu làm thuyền chiến, rồi bắt đám nữ nô tỳ trần truồng khỏa thân chèo thuyền du ngoạn trên Hồ Tây. Ất Hợi, Hồng Thuận năm thứ 7 (1515) tháng 2, Lê Tương Dực sau khi xem tập trận ở Định Công4bis, đến nhà Lê thị làm chuyện dâm dật; Lê thị nguyên là một trong những người vợ cũ của Lê Uy Mục. Lại làm trò dâm dật với vợ lẻ của Kiến vương Lê Tân, cha ruột của Lê Tương Dực. Bính Tý, Hồng Thuận năm thú 8 (1516) tháng Giêng, Lê Tương Dực đích thân đem quân bình định quân nổi loạn Trần Công Ninh ở Yên Lãng5. Tháng 3, Trần Cao6 tự xưng là Đế Thích, chiêu mộ dân chúng nổi loạn ở xã Hà Lôi, huyện Đông Triều, chiếm các huyện Tiên Du, Quế Dương, Gia Lâm, tiến quân sát đến Bồ Đề. Lê Tương Dực đích thân điều động binh tướng chận đánh. Trần Cao thua chạy đến Trâu Sơn7. Trong lúc Lê Tương Dực đang bận rộn đối phó với giặc Trần Cao thì Trịnh Duy Sản, Lê Quảng Độ, Trình Chí Sâm mưu việc phế lập vì nhóm nầy không được Lê Tương Dực trọng dụng8. Nhóm âm mưu sửa soạn thuyền bè, quân lính ở bến Thái Cực9, rêu rao là đi chận đánh giặc Trần Cao rồi vào lúc nửa đêm mang hơn 3,000 binh vào cửa Bắc Thần chận đón giết Lê Tương Dực nơi Hồ Chu Tước10, phường Bích
VSTK - 559
1
2
Câu11. Vợ của Lê Tương Dực là Khâm Đức hoàng hậu Nguyễn thị Đạo nhảy vào lửa tuẩn tiết. CHÚ GIẢI:
3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40
Kế Hoạch và chính sách do Lương Đắc Bằng đề nghị: trước đây Lương Đắc Bằng giữ chức thị lang ở bộ Lại xin từ bỏ quan chức vì gia đình có tang. Nay được Lê Tương Dực mời gọi trở lại làm việc nhưng Đắc Bằng lấy cớ còn tang chế để từ chối và đưa ra 14 điều cố vấn cho Lê Tương Dực như sau: 1) Phải luôn cảnh giác, răn ngừa. 2) Phải thành tâm hiếu đạo. 3) Xa lánh nữ sắc, dâm ô. 4) Không dùng bọn siểm nịnh. 5) Không tặng phong quan tước bừa bãi. 6) Kén chọn, bổ dụng quan lại một cách công bằng. 7) Tiết kiệm không phung phí. 8) Khen thưởng người tiết nghĩa. 9) Diệt trừ tham ô, hối lộ, đút lót. 10) Chỉnh đốn quân bị. 11) Chọn người chính trực vào ngự sử đài. 12) Nới nhẹ việc bắt dân lực dịch. 13) Hiệu lệnh phải đúng và uy tín.. 14) Chế độ luật pháp phải nghiêm minh cẩn trọng. 2 Sách Trị bình bảo phạm : có nghĩa là sách dạy về những khuôn phép quý báu để bình định và cai trị. Sử sách cũ ghi sách nầy gồm có 50 điều nhưng ĐVSKTT, KĐVSTGCM chỉ ghi ra 6 điều, LTHCLC ghi ra có 4 điều, không thấy có sách nào đề cập nội dung toàn bộ 50 điều của sách nầy. Một cách đại lược, các huấn điều được ghi ra có nội dung như: bề tôi phải trung thành với vua, không được a dua nịnh hót để mưu cầu lợi lộc, tước vị; công thần được mang họ vua phải khéo dạy bảo con cái không được để chúng ỷ thế kiêu căng, nhiễu hại người dân . . .. …..Ngoài ra, ĐVSKTT và LTHCLC còn có ghi toàn văn bài dụ của Lê Tương Dực ở đầu sách Trị bình bảo phạm. Bài dụ nầy không thấy ghi trong KĐVSTGCM. 3 Điện Mục Thanh: ở phía trước điện Phụng Thiên. 4 Phường Yên Hoa: nay là phường Yên Phụ, Hà Nội. 4 bis Định Công: thuộc huyện Thanh Trì, nay thuộc ngoại thành Hà Nội. 5 Yên Lãng: thuộc phủ Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phú và huyện Sóc Sơn, Hà NộI 6 Trần Cao : người làng Đường Chân, huyện Thủy Đường, nay là huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng. 7 Trâu Sơn: ở xã Trâu Cầu, huyện Quế Dương, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh nay là huyện Quế Vỏ, tỉnh Hà Bắc. 8 Âm mưu truất phế Lê Tương Dực: Trịnh Duy Sản thường hay can gián làm trái ý và khiến Lê Tương Dực bực tức nổi giận, bắt phạt đánh Duy Sản bằng trượng. 9 Bến Thái Cực: phường Thái Cực, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, Hà Nội; nay là phố Hàng Đào, Hà Nội. 10 Hồ Chu Tước: ở phường Bích Câu. 1
VSTK - 560
1 2
Phường Bích Câu: ở huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức, Hà Nội; nay thuộc về quận Đống Đa, Hà Nội. 11
KHẢO LUẬN:
8
Lời bàn trong ĐVSKTT viết về Lê Tương Dực như sau: "Linh Ẩn vương (tức Lê Tương Dực sau khi bị giết và giáng chức) gian dâm với vợ lẻ của cha mình, để tang cha mẹ vài ngày cho có lệ, gian ngoa mượn tên anh mình để cướp nước của người khác, xa hoa dâm dục quá độ, hình phạt năng nề, thuế khóa chồng chất, ám sát giết hại thân tộc, giặc loạn nổi lên tứ phía, người thời ấy gọi là con heo làm vua {BKTL/ q.XV/
9
tờ 29a}.
3 4 5 6 7
10 11 12 13 14 15 16 17 18 19
Nếu chỉ đọc và xét lời dụ của Lê Tương Dực và 6 điều giáo huấn trong sách Trị bình Bảo phạm thì mọi người đời phải cuối đầu khâm phục và ghi ơn ông vua nầy. Tuy nhiên, căn cứ vào những điều mà sử sách cũ đã ghi chép, người đời sau nhất định sẽ phải chán ngán lắc đầu: trong suốt quá trình của thời đại phong kiến, có rất nhiều con heo giống như con heo Lê Tương Dực; những con heo nầy thường hay mặc áo choàng của người đạo đức để làm những điều ác độc, dâm ô, trái nghĩa. Qua 14 điều cố vấn của mình, Lương Đắc Bằng đã nhìn thấy rõ được chân tướng của Lê Tương Dực cho nên đã tìm cách thoái thác không hợp tác với loài súc sinh.
VSTK - 561
QUYỂN II
THỜI KỲ NHÀ HẬU LÊ CHƯƠNG X
LÊ CHIÊU TÔNG ( 1516 - 1526 ) Niên hiệu: Quang Thiệu (1516-1526) 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
Sau khi đã giết Lê Tương Dực, nhóm đảo chính Trịnh Duy Sản đưa con trai của Mục Ý vương Lê Doanh1 là Lê Quang Trị mới được 8 tuổi lên ngôi vua. Ba ngày sau, con trai của Nguyễn Văn Lang là An Hoà Hầu Nguyễn Hoằng Dụ nghe tin nhóm Trịnh Duy Sản giết Lê Tương Dực liền nổi giận, đem quân từ Bồ Đề vượt sông tiến vào kinh thành Đông Đô đánh phá. Nhóm Trịnh Duy Sản bèn giao Lê Quang Trị cho Trịnh Duy Đại đưa vào Tây Đô rồi giết đi. Trịnh Duy Sản và Lê Nghĩa Chiêu liền phò lập con trai trưởng của Cẩm Giang vương Lê Sùng2 tên là Lê Y, lên ngôi vua tức Lê Chiêu Tông, đưa Lê Chiêu Tông về Tây Đô để né tránh quân binh của Nguyễn Hoằng Dụ. Lê Quảng Độ cũng bỏ chạy đến đầu hàng Trần Cao. Trần Cao liền khởi binh tiến về Đông Đô. Nguyễn Hoằng Dụ không thể chống cự phải rút quân chạy về Tây Đô đầu thú Lê Chiêu Tông. Dân chúng trong Đông Đô náo loạn cướp giật, đốt phá khắp nơi. Ngày 11 tháng 4 năm Bính Tý (1516), Trần Cao vượt sông Nhị Hà, vào chiếm kinh thành Đông Đô, tự xưng vua, đổi niên hiệu là Thiên Ứng, phong cho Lê Quảng Độ chức phụ chính cùng cai trị. Lê Chiêu Tông từ Tây Đô hô hào, xướng xuất quân dân từ 3 phủ Thiệu đả Thiên3, Hà Trung4 và Tỉnh Gia5 tiến thẳng về bao vây Đông Đô. Trần Cao đóng cửa thành cố thủ nhưng quân của Trịnh Duy Sản và Nguyễn Hoằng Dụ dốc sức phá thành. Trần Cao không có quân tiếp viện bèn bỏ thành, vượt sông Thiên Đức chạy trốn lên Lạng Nguyên6. Ngày 24 tháng 4 năm Bính Tý (1516), Lê Chiêu Tông đóng bản doanh ở xã Thanh Đàm. Ngày 25 Nguyễn Thì Ung
VSTK - 562
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
và Đỗ Nhạc đón Lê Chiêu Tông trở về Đông Đô, đổi niên hiệu là Quang Thiệu năm thứ 1, ra lệnh đại xá. Tháng 11, sai Trịnh Duy Sản, Nguyễn Hoằng Dụ đưa quân bình định và truy lùng tàn quân của Trần Cao ở vùng núi Trâu, huyện Chí Linh. Trịnh Duy Sản bị Trần Cao bắt, giết đi. Trần Cao thừa thắng tràn quân xuống đến Bồ Đề nhưng lại bị tướng của Lê Chiêu Tông là Trần Chân7 đón đánh tan cho nên Cao lại phải chạy đi trốn lánh ở Lạng Nguyên và từ đó không ra đánh nữa. Đinh Sửu, Quang Thiệu năm thứ 2(1517) tháng 7, Nguyễn Hoằng Dụ và em của Trịnh Duy Sản là Trịnh Tuy vì hiềm khích, đưa quân lính của mình đánh lẫn nhau. Lê Chiêu Tông giải hòa không được, rồi lại nghe lời đồn đãi xúi giục của Nguyễn Văn Lự sai bắt anh của Trịnh Duy Sản là Trịnh Duy Đại giết đi. Lê Chiêu Tông lại lần lượt sai Nguyễn Công Độ và Mạc Đăng Dung đem quân truy đuổi Nguyễn Hoằng Dụ phải thua bỏ chạy vào xã Thuần Hựu8 ở Thanh Hóa. Con nuôi của Trịnh Duy Sản là Trần Chân9 ủng hộ Trịnh Tuy cũng cất quân đánh Nguyễn Hoằng Dụ và được Lê Chiêu Tông phong tước Thiết Sơn Bá lại cho nắm giữ nhiều quyền bính. Đặt Trịnh Tuy trấn giữ Sơn Nam. Tháng 12, Lê Quảng Độ bị bắt giải về kinh đô xử tội chết. Đói lớn, dân chúng bị chết khắp nơi nhất là ở các huyện Đông Triều, Giáp Sơn thuộc Hải Dương và ở các huyện Yên Phong, Tiên Du, Đông Ngàn thuộc Kinh Bắc. Mậu Dần, Quang Thiệu năm thứ 2 (1518) tháng 7, Lê Chiêu Tông nghe lời gièm pha, sợ Trần Chân lộng quyền cho nên ra lệnh bắt và giết đi. Bộ hạ bè đảng của Trần Chân là Hoàng Duy Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn Áng hay tin Trần Chân bị Lê Chiêu Tông giết hại liền tụ tập quân binh xong vào đánh phá kinh thành. Lê Chiêu Tông phải trốn lánh sang dinh Bồ Đề ở Gia Lâm. Nghe kinh thành có bạo loạn, quân của Trịnh Tuy ở Sơn Nam tự động bỏ hàng ngũ đi hết. Lê Chiêu Tông lại cho người đến huyện Thuần Hựu ở Thanh Hóa để kêu gọi Nguyễn Hoằng Dụ đưa quân tiếp viện VSTK - 563
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
ra đánh nhóm nội loạn Hoàng Duy Nhạc nhưng Nguyễn Hoằng Dụ không hưởng ứng lời kêu gọi của Lê Chiêu Tông. Cuối cùng, Lê Chiêu Tông phải cầu cứu với Mạc Đăng Dung ở Hải Dương. Mạc Đăng Dung yêu cầu Lê Chiêu Tông dời hành dinh từ xã Dương Quang10 thuộc huyện Siêu Loại11 về Bồ Đề rồi cho người bí mật điều đình chiêu dụ nhóm nổi loạn12 nhưng không thành công, đám nổi loạn vẫn không chịu giải tán rút quân ra khỏi kinh thành. Tháng 9, Mạc Đăng Dung đề nghị rút hành dinh từ Bồ Đề về Bảo Châu13 để tránh xa áp lực của quân nổi loạn. Đỗ Nhạc và Nguyễn Dự can gián không nên dời đi. Mạc Đăng Dung sai bộ hạ bắt hai người giết đi rồi cứ đưa Lê Chiêu Tông về Bảo Châu. Từ đây mọi quyền hành đều nằm trong tay của họ Mạc. Hay tin Mạc Đăng Dung đã đưa Lê Chiêu Tông về Bảo Châu, Trịnh Tuy cùng với Nguyễn Sư14 liên kết với nhóm làm loạn Nguyễn Kính, Nguyễn Áng, Hoàng Duy Nhạc lập cháu nội của Lê Khắc Xương14bis tên là Lê Bảng15 lên làm vua, lấy niên hiệu là Thiên Đức nhưng lại truất phế đi rồi đưa em của Lê Bảng là Lê Do lên ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Hiến, đặt quan chức triều đình ở Do Nha16, huyện Từ Liêm. Lê Chiêu Tông từ Bảo Châu lại sai người vào Thanh Hóa để chiêu dụ và cầu viện binh của Nguyễn Hoằng Dụ. Nguyễn Hoằng Dụ đem quân của mình từ Thanh Hóa về hợp với quân của Mạc Đăng Dung ở Sơn Nam để tiến đánh nhóm Nguyễn Áng, Nguyễn Kính ở Sơn Tây nhưng bị thua to, Nguyễn Hoằng Dụ bỏ cuộc, rút quân của mình chạy trở về Thanh Hoá, chỉ còn một mình Mạc Đăng Dung cầm cự với nhóm Trịnh Tuy, Nguyễn Áng. Tháng 10, Lê Chiêu Tông giao hết binh quyền cho Mạc Đăng Dung thống lĩnh. Trong nước giờ đây có hai vua, hai triều đình đối địch nhau với 2 niên hiệu khác nhau: triều đình của Lê Chiêu Tông ở Bảo Châu với niên hiệu Quang Thiệu và triều đình Lê Do ở Do Nha với niên hiệu Thiên Hiến.
VSTK - 564
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
Kỷ Mão, tháng Giêng (1519), Lê Chiêu Tông đem lực lượng quân bị về Bồ Đề. Trịnh Tuy cho quân bắt cầu vượt qua sông đón đánh quân của Lê Chiêu Tông nhưng Trịnh Tuy bị thua phải đưa Lê Do chạy về Yên Lãng16bis. Tháng 7, Mạc Đăng Dung đưa quân thủy bộ vây đánh, bắt được vua Lê Do, Nguyễn Áng và Nguyễn Sư ở Ninh Sơn, đem giết đi. Trịnh Tuy rút chạy về Thanh Hóa. Nguyễn Kính và Hoàng Duy Nhạc đầu hàng được Mạc Đăng Dung che chở và thu nạp để làm vây cánh. Tháng 9 năm Kỷ Mão, Lê Chiêu Tông trở về Đông Đô. Ra lệnh đại xá, phong cho Mạc Đăng Dung làm Minh quận công. Canh Thìn, Quang Thiệu năm tứ 5 (1520) tháng Giêng, Mạc Đăng Dung được giao nắm quyền Tổng chỉ huy quân đội trong khắp cả nước và Phạm Gia Mô, thông gia của Mạc Đăng Dung, giữ chức cố vấn quân sự17. Tháng 4, cho dựng bia tiến sĩ khoa Giáp Tuất, niên hiệu Hồng Thuận năm thứ 6 (1514). Tháng 8, truy tặng tước Thiếu Bảo cho Đỗ Nhạc trước đây bị Mạc Đăng Dung giết. Tân Tỵ, Quang Thiệu năm thứ 6 (1521) tháng 7, con của Trần Cao là Trần Cung18 tiếp nối nghiệp cha tự xưng vua ở Lạng Nguyên. Mạc Đăng Dung đem quân bình định, bắt giết hết vợ con của Trần Cung. Trần Cung một mình chạy trốn vào châu Thất Nguyên. Mạc Đăng Dung được Lê Chiêu Tông tuyên dương công trạng và thăng tước Thái phó. Hậu thuẫn quân lực của Mạc Đăng Dung càng ngày càng thêm mạnh, đa số triều thần đều khuất phục, lòng người dân bắt đầu hướng về họ Mạc. Nhâm Ngọ, Quang Thiệu năm thứ 7 (1522), uy quyền của Mạc Đăng Dung ngày càng được củng cố khiến cho Lê Chiêu Tông lo sợ bèn ngầm cùng đám nội quan Phạm Hiến, Phạm Thứ bàn mưu tính kế để triệt hạ Mạc Đang Dung, bí mật cho người vào Thanh Hóa cầu viện Trịnh Tuy đem quân ra yểm trợ rồi đến đêm cùng với đám nội quan rời kinh thành chạy ra xã Mộng Sơn19 thuộc huyện Minh Nghĩa, Sơn Tây, bỏ lại mẹ và người em của Lê Chiêu Tông tên là Xuân.
VSTK - 565
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
Mạc Đăng Dung sai Hoàng Duy Nhạc truy đuổi. Quân hộ vệ Lê Chiêu Tông kháng cự, bắt được Hoàng Duy Nhạc, giết chết. Mạc Đăng Dung liền cùng với triều thần bàn định lập em của Lê Chiêu Tông là Xuân lên làm vua rồi dời hành dinh đến huyện Gia Phúc20 thuộc Hải Dương, lập phòng tuyến Cẩm Giàng21 và đặt em rể là Vũ Hộ trấn giữ mạng Sơn Tây. Nhóm trung thành với Lê Chiêu Tông22 từ mạn Bắc Giang đưa viện quân tiến về vùng sông Tây Kiều ở huyện Đông Ngàn để giao tranh với quân binh của Mạc Đăng Dung nhưng bị Phạm Tại phản bội trở cờ về theo Mạc Đăng Dung quay đánh lại, nhóm trung thành với Lê Chiêu Tông bị thua, bỏ chạy về mạn Bắc.
*
VSTK - 566
QUYỂN II
THỜI KỲ NHÀ HẬU LÊ CHƯƠNG XI LÊ CUNG HOÀNG ( 1522 - 1527 ) Niên hiệu: Thống Nguyên 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
Tháng 8, năm Nhâm Ngọ (1522), Nhóm Mạc Đăng Dung chính thức lập em của Lê Chiêu Tông là Xuân lên ngôi vua tại hành dinh ở Gia Phúc, tức Lê Cung Hoàng, đổi niên hiệu là Thống Nguyên năm thứ 1; tóm thâu hết tiền của, châu báu, vàng bạc chứa cất trong cung thành mang về Gia Phúc. Lê Chiêu Tông hô hào đám cựu thần, chiêu mộ được nhiều quân binh rồi tiến đánh Lê Cung Hoàng nhưng bị Mạc Đăng Dung chận đánh, cầm cự ở Gia Lâm, Văn Giang23, Đường Hào24 , Cẩm Giàng và Lang Tài25. Lê Chiêu Tông lại cầu viện với Trịnh Tuy. Trịnh Tuy đem quân 3 phủ Tỉnh Gia, Hà Trung, Thiệu Hóa về cứu viện nhưng rồi Lê Chiêu Tông lại nghe theo đám xu nịnh giết chết thuộc tướng của Trịnh Tuy là Nguyễn Bá Ký. Trịnh Tuy bất mãn bèn bắt Lê Chiêu Tông mang về Thanh Hóa. Triều thần trung thành với Lê Chiêu Tông đều tự sát. Tháng 12, Lê Cung Hoàng trở về Đông Đô. Quý Mùi, (Quang Thiệu năm thứ 8) Thống Nguyên năm thứ 2 (1523) tháng Giêng, Mạc Đăng Dung sai các tướng đi đánh Trịnh Tuy ở Thanh Hóa. Trịnh Tuy phải bỏ chạy và bắt theo Lê Chiêu Tông đến châu Lang Chánh26. Tháng 8, Lê Cung Hoàng ban lệnh phế truất Lê Chiêu Tông xuống làm Đà Dương vương. Giáp Thân, (Quang Thiệu năm thứ 9)- Thống Nguyên năm thứ 3 (1524), Mạc Đăng Dung nắm giữ chức bình chương quân quốc trọng sự thái phó Nhân quốc công. Sai em là Mạc Quyết đem quân vào đánh Trịnh Tuy ở Lang Chánh, chiếm hầu hết các quận huyện ở Tây Đô. Trịnh Tuy bị bệnh chết. Ất Dậu, (Quang Thiệu năm thứ 10)- Thống Nguyên năm thứ 4 (1525) tháng 10, Mạc Đăng Dung đích thân cầm quân VSTK - 567
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
đi bình định Thanh Hoá, bắt được Lê Chiêu Tông tại động An Nhân27 ở Lang Chánh mang về giam giữ ở phường Đông Hà, huyện Thọ Xương. Quan thần văn võ của Lê Chiêu Tông người bị giết, người tự sát, tất cả không còn ai. Bính Tuất, (Quang Thiệu năm thứ 11)- Thống Nguyên năm thứ 5 (1526) tháng 12, Mạc Đăng Dung cho người ám sát Lê Chiêu Tông ở phường Đông Hà rồi đem xác về chôn trong lăng Vĩnh Hưng ở Thanh Đàm28. Lê Chiêu Tông giữ ngôi vua được 11 năm, thọ 26 tuổi. Đinh Hợi, Thống Nguyên năm thứ 6 (1527) tháng 4, Lê Cung Hoàng sai người đến Cổ Trai29 phong tước cho Mạc Đăng Dung làm An Hưng vương, cho phép được hưởng nghi vệ cửu tích30 của hàng vương tộc. Tháng 5, Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai vào Đông Đô yêu cầu Lê Cung Hoàng nhường ngôi vua. Tháng 6, Mạc Đăng Dung lại vào Đông Đô, được dân chúng và triều thần ở kinh thành hoan hô, ngưỡng mộ đón rước. Lê Cung Hoàng thấy lòng dân đã phai nhạt với dòng họ Hậu Lê và bản thân mình chỉ là một ông vua bù nhìn không có quyền lực, bèn thoái vị, xuống chiếu nhường ngôi vua cho Mạc Đăng Dung. CHÚ GIẢI:
22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37
Lê Doanh: con của Kiến vương Lê Tân tức cháu nội của Lê Thánh Tông. 2 Lê Sùng: anh của Lê Doanh. 3 Thiệu Thiên : tên phủ , còn gọi là Thiệu Hóa, thuộc tỉnh Thanh Hóa. 4 Hà Trung : tên phủ, thuộc tỉnh Thanh Hóa. 5 Tỉnh Gia : tên phủ, thuộc tỉnh Thanh Hóa. 6 Lạng Nguyên : có thể là vùng đất từ phía Bắc sông Cầu giáp ranh với Lạng Sơn. 7 Trần Chân: người xã La Ninh, huyện Từ Liêm. 8 Thuần Hựu: nay là huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa 9 Trần Chân, con nuôi của Trịnh Duy Sản: Trịnh Tuy là anh em họ với Trịnh Duy Sản 10 Dương Quang: thuộc huyện Siêu Loại. 11 Siêu Loại: nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc 12 Nhóm nổi loạn: tức là nhóm Hoàng Duy Nhạc, Nguyễn Kính và Nguyễn Áng. 1
VSTK - 568
1 2 3
4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30
31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44
Bảo Châu: ở huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, nay là Tứ Tổng, ngoại thành Hà Nội. 14 Nguyễn Sưng: người xã Ly Trai, huyện Yên Lãng, đỗ hoàng giáp. 14bisLê Khắc Xương: con của Lê Thái Tông. Sử cũ không nói mẹ sinh của Khắc Xương là ai. Rất có thể đây là con của Lê Thái Tông và Nguyễn thị Lộ (vợ của Nguyễn Trãi). 15 Lê Bảng: con của Lê Lộc. Lê Lộc là con trai của Khắc Xương. 16 Do Nha: còn gọi là Miêu Nha ở huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức; nay là thôn Miêu Nha, thuộc xã Tây Mỗ, huyện Tử Liêm, Hà Nội. 16bis Yên Lãng: thuộc phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây, nay thuộc Vĩnh Phúc. 17 Cố vấn quân sự: tức là chức tán lý quân vụ. Phạm Gia mô người xã Ninh Xá, huyện Nghi Dương nay là thôn Lê Xá, xã Tú Sơn, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng. 18 Trần Cung: con của Trần Cao, nối nghiệp Trần Cao, lấy niên hiệu là Tuyên Hòa. 19 Xã Mộng Sơn: thuộc huyện Minh Nghĩa, Sơn Tây; nay là huyện Tùng Thiện thuộc tỉnh Hà Tây. 20 Gia Phúc: nay là huyện Gia Lộc, Hải Dương, nay thuộc tỉnh Hải Hưng. 21 Phòng tuyến Cẩm Giàng: nay là huyện Cẩm Giàng, thuộc tỉnh Hải Hưng. 22 Nhóm trung thành với Lê Chiêu Tông: gồm có Phạm Tại, Hà Phi Chuẩn, Nghiêm Bá Ký, Nguyễn Xí, Nguyễn Kính, Lê Vĩnh, Kiều Bá Khiêm. 23 Văn Giang: thuộc Kinh Bắc, nay thuộc Châu Giang, tỉnh Hưng Yên. 24 Đường Hào: thuộc Hải Dương, nay là huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên 25 Lang Tài: thuộc Kinh Băc 26 Lang Chán: thuộc Thanh Hóa. 27 Động An Nhơn: thuộc Thanh Hóa. 27 bis Phường Đông Hà : huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức; nay thuộc quận Hoàn Kiếm, Hà NộI 28 Thanh Đàm: nay là Thanh Trì. 29 Cổ Trai: huyện Nghi Dương, phủ Kiến Thụy, tỉnh Hải Dương; nay là xã Ngũ Doan, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng, là quê hương của tổ tiên dòng họ Mạc. 30 Nghi vệ cửu tích: theo sách Kinh lễ thì cữu tích gồm có 9 thứ: xe ngựa. 2) Y phục. 3) Dụng cụ âm nhạc. 4) Cửa son (được sơn cửa màu đỏ). 5) Nạp bệ, (theo các chú thích trong sử sách cũ thì đây các bậc thềm dinh được xây bên trong chứ không phải ở ngoài trời, tuy nhiên, đây có thể hiểu theo một cách khác: người được ban ân huệ nầy khi vào chầu vua thì được phép bái quỳ từ các bậc thềm xây ở bên trong dinh điện của vua chứ không giống như những quan chức thường khác phải bái lại vua từ các bậc thềm xây ở ngoài trời từ cổng đi vào). 6) Hồ bôn 13
VSTK - 569
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
(được phép có lực sĩ làm hộ vệ riêng). 7) Cung, tên. 8) Phủ việt (lưỡi búa). 9) Cự sưởng (rượu ngon dùng trong việc thờ cúng).Trong các chế độ phong kiến, nghi vệ cửu tích là một thể thức của vua ban tặng những món đồ dùng quý giá và cho phép xử dụng nghi lễ theo cung cách của bậc vua chúa để biểu dương một người có công lớn với triều đình. Sách Bạch hổ thông chép: “Biết vỗ về yên dân thì ban cho xe, ngựa. Làm cho dân giàu thì ban cho quần áo. Làm cho dân hòa vui thì ban cho nhạc cụ. Làm cho dân số gia tăng thì được dùng cửa son. Biết cố vấn điều hay cho vua thì được nạp bệ. Biết đẩy lùi điều ác của vua thì ban cho quân hồ bôn. Ban cho phủ việt để trừ kẻ phạm tội. Giao cho cung tên đê giết kẻ phản nghịch. Có lòng thảo kính thì ban cho rượu ngon để cúng.” (KĐVSTGCM/CB.XXVII/tờ14).
KHẢO LUẬN VỀ TRIỀU ĐẠI HẬU LÊ 13 14 15 16 17 18
19 20 21 22 23 24 25 26
Sau khi đánh đuổi được quân xâm lược nhà Minh, Lê Lợi lên ngôi vua, sáng lập ra triều đại Hậu Lê. Triều đại nầy chỉ có một công trạng lớn đối với người dân Đại Việt lúc đó là hướng dẫn toàn quân, toàn dân đánh đuổi quân ngoại xâm và đưa người dân Đại Việt ra khỏi ách nô lệ trực tiếp của người Hoa mặc dù sau đó vẫn phải thần phục triều cống cho triều đình phương Bắc. Nhưng, cũng giống như bất cứ chế độ phong kiến nào, triều đại nầy liền bắt đầu việc biến những thành quả đấu tranh của toàn dân như là chiến lợi phẩm riêng của một thiểu số tầng lớp phong kiến thượng tầng để rồi tiến hành ngay việc củng cố những đặc quyền đặc lợi của tầng lớp thống trị nầy. Vào đầu thời đại Hậu Lê, từ thế kỷ thứ 15 đến đầu thế kỷ thứ 16, chế độ phong kiến tập quyền phát triển rất mạnh theo hướng độc tài chuyên chế, nhất là vào thời đại của Lê Thánh Tông (14601497).
27 28 29 30 31 32 33 34
Sự phát triển của chế độ phong kiến tập quyền thời đại nhà Hậu Lê
Việc sản xuất nông nghiệp
Từ khi Lê Lợi lên ngôi, ruộng đất được coi như là tài sản riêng của vua Lê Lợi, do đó Lê Lợi mặc tình ban phát cho hàng trăm hàng ngàn đám thuộc hạ của mình đã có công phò tá Lê Lợi lên nắm quyền làm chủ toàn vẹn giang sơn Đại Việt. Đám thuộc hạ võ biền nầy ngày trước là hạng dân thường không có tài sản, đất đai, sau những năm tháng lặng lội theo Lê Lợi nơi rừng núi, đến ngày chiến thắng được mang họ Lê của vua và trở thành những ông chủ ruộng đất giàu sụ. Ở các thời đại trước, chỉ có một thiểu số dòng VSTK - 570
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22
họ vương tộc chiếm hữu một số lớn ruộng đất làm của riêng thế mà người dân ở vào các thời đại đó còn bị chết đói triền miên huống hồ tới thời đại của Lê Lợi, ngoài những ông hoàng, bà chúa, cha mẹ, anh chị em của vua được chia cho những vùng đất màu mỡ, những người được mang họ Lê cũng được nhà vua ban cấp cho những ân huệ tương đương, coi họ như là dòng họ phụ của vương tộc. Ruộng đất ban cấp cho bọn người nầy sử cũ gọi là Lộc điền , một loại đặc quyền dành riêng cho quý tộc tôn thất và hàng ngàn quan lại cao cấp từ hàng tứ phẩm trở lên. Theo các sách LTHCLC, T Hồng Đức Thiên nam dư hạ tập, và Kiến Văn Tiểu Lục Dun thì vào thời niên hiệu Hồng Đức năm thứ 8 (1477), Lê Thánh Tông sửa đổi định lệ cấp ruộng đất cho họ hàng vương tộc và các hàng quan viên cao cấp như sau: -Thân vương tức là con, anh, em hàng trực hệ với vua: ruộng thế nghiệp 600 mẫu, đất thế nghiệp 40 mẫu, ruộng ban riêng cho để thu lợi hưởng dụng 1,000 mẫu, đất trồng dâu 150 mẫu, ruộng tế tự 300 mẫu, tổng cộng vào khoảng 2,000 mẫu ruộng đất cho mỗi thân vương đó là chưa kể đặc quyền thu thuế trên các hộ người dân sống trên vùng đất của thân vương gọi là thực phong. -Công chúa hàng trực hệ: khoảng 1,200 mẫu. -Những hàng vương tộc dưới hàng thân vương thì cũng hưởng điền lộc tương tựa như thế chỉ kém hơn chút ít. -Quốc công: khoảng hơn 1,100 mẫu, không có thực phong. -Quận công: khoảng 950 mẫu
23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43
-Quan chức chánh tứ phẩm: khoảng 40 mẫu. -Người chủ Lộc điền có quyền cho người nông dân nghèo thuê mướn trồng trọt sản xuất mà khỏi phải đóng góp lại cho nhà nước một xu hào nào cả. -Những hàng binh cấp thấp đã từng theo Lê Lợi thì may mắn hơn so với người nông dân thường ngoài xã hội. Để giảm bớt việc nuôi ăn, những cựu chiến binh của Lê Lợi đã bị đẩy đi làm ruộng sản xuất theo chính sách quân điền của nhà nước. Sử cũ thời đại hậu Lê không cho biết số lượng ruộng đất cấp phát cho những người cựu chiến binh nầy. Tuy nhiên, LTHCLC của Phan Huy Chú cho biết rằng vào khoảng năm Cảnh Trị thứ 1, Lê Huyền Tông (1663) ra lệnh đo đạc các hạng ruộng đất của nhà nước ở Thanh Hóa và Nghệ Tĩnh rồi cấp cho binh lính mỗi người 1 mẫu (LTHCLC/ Quốc dụng Chí/ Chế độ ruộng đất). Như vậy, ở thời Lê Lợi vào thời bình, mỗi người cựu chiến binh làm ruộng theo chính sách quân điền có thể được giao cho khoảng từ 1 đến 5 mẫu để cày bừa sản xuất cho nhà nước. Đây chỉ là một sự ước định, trên thực tế có thể thấp hơn mức nầy. Sử cũ thời Hậu Lê không nói người dân thường được cấp bao nhiêu ruộng đất để mưu sinh và nộp thuế cho nhà nước nhưng người ta có thể suy đoán được rằng, thân phận và tầm mức ân huệ mà nhà vua ban phát
VSTK - 571
1 2 3 4 5
6 7 8 9 10 11
cho những người nông dân thường ngoài xã hội không thể nào vượt qua khỏi thân phận và tầm mức ân huệ của các hàng quân binh đã từng bôn ba sống chết với kẻ khai sáng ra nhà Hậu Lê. Người nông dân cày ruộng đất của nhà nước trên thực tế là người tá điền của nhà nước, phải nộp thuế, đi lính và lao dịch cho thiểu số tập đoàn thống trị. Chế độ tư hữu ruộng đất được nới rộng nhưng chỉ nới rộng trong phạm vi nội bộ của tầng lớp thống trị bằng cách tịch thu ruộng đất của người dân thường giàu có rồi ban phát cho tập đoàn thống trị để gọi là thưởng công. Chính sách phân phối ruộng đất kiểu nầy chỉ nhằm một mục đích củng cố chế độ trung ương tập quyền cũng như bảo đảm quyền bóc lột thu địa tô của những nhóm địa chủ mới xuất hiện.
12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25
Niên hiệu Hồng Đức năm thứ 12 (1481), Lê Thánh Tông ra lệnh bắt người dân phải dồn hết sức vào việc làm ruộng để kho lẫm tích trữ của nhà nước được dồi dào và do đó hạ lệnh thiết lập các vùng sản xuất kinh tế gọi là đồn điền mà lực lượng lao động chủ yếu là người dân nghèo không có nơi ăn chốn ở nhất định vì loạn chiến tranh, những đám tù binh Chiêm Thành, các bọn người phạm pháp và một số quân binh đồn trú ở địa phương. Các sở đồn điền phần lớn là các vùng đất mới chiếm được của Chiêm Thành về phía Nam, kế đến là những vùng ven biển và vùng Trung du. Rõ ràng đây là một chính sách nô lệ hóa đi đôi với chính sách khai thác, vơ vét, bóc lột công sức người dân của chế độ nhà Hậu Lê có tác dụng thúc đẩy đà phát triển nông nghiệp nhưng chỉ là để tạo lợi ích riêng cho thiểu số mà thôi, cuộc sống của người dân thường trong xã hội thời đó cũng chẳng thấy có gì được gọi là cải thiện tốt đẹp hơn.
26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38
Mở rộng công cuộc khẩn hoang
Củng cố và tăng cường guồng máy cai trị
Ở vào thời Lê Lợi, guồng máy chính quyền vẫn tiếp tục một phần nào tổ chức chính quyền của các triều đại trước. Đến thời Lê Thánh Tông thì guồng máy hành chánh và tổ chức quân đội đạt đến mức tinh vi và chặt chẽ hơn trước đặt dưới quyền điều khiển trực tiếp và độc quyền của nhà vua: bãi bỏ chức tể tướng, không ai có quyền có quân binh riêng, cả nước chỉ có một tổ chức quân đội mà tổng tư lệnh tối cao là Lê Thánh Tông. Nhà vua được tôn vinh là con trời, uy quyền nhà vua là tột bực; vua là người đại diện cho công lý, là chủ muôn dân và muôn loài kể cả thần thánh ma quỉ, mạng sống của người dân hoàn toàn nằm trong tay của nhà vua, đất nước là của vua vì thế vua hoàn toàn tự do muốn xử dụng cách nào cũng được. Khuynh hướng chuyên quyền, độc đoán, hà lạm càng ngày càng phát triển và có ưu thế.
VSTK - 572
2
Bộ máy quan lại mở rộng để làm tay sai, để thi hành quyền lực của vua và để bù lại, đám quý tộc, tôn thất rất được trọng đãi nhưng đa số chỉ ăn
3
không ngồi rồi để lo xoi bói, bàn mưu, ngầm hại lẫn nhau..
1
4 5 6 7 8 9 10
Nhà nước nắm độc quyền tổ chức và xây dựng các lực lượng quân sự và cấm tuyệt đối mọi người dân không được tàng trữ vũ khí bất hợp pháp. Những người lính khi hết nhiệm vụ đánh giặc thì lại phải gánh gồng nhiệm vụ sản xuất theo chính sách ngụ binh ư nông để cho nhà nước bớt được miệng nuôi ăn đồng thời để những cấp trên và con cháu của họ được ngồi không mà yên hưởng thành quả 10 năm chiến đấu từ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23
Sự phát triển và củng cố chế độ quân chủ chuyên chế của nhà Hậu Lê làm gia tăng sự áp bức bóc lột nhân dân và đưa tới khuynh hướng hiếu chiến, xem thường, lấn áp các quốc gia láng giềng và đưa đến tội ác diệt chủng: nhà Lê sáp nhập đất Bồn Man của nước Ai Lao vào lãnh thổ Đại Việt để lập thành phủ Trấn Ninh vào năm 1447. Năm 1471 đích thân Lê Thánh Tông cầm quân xâm lăng nước Chiêm Thành, chiếm đất của nước nầy để lập ra đạo Quảng Nam kéo dài xuống tới tỉnh Bình Định ngày nay và tự động lấy đèo Cù Mông làm biên giới phía Nam của nước Đại Việt không cần đếm xỉa gì đến công pháp quốc tế. Tội ác diệt chủng của dòng họ nhà Lê thể hiện qua việc Lê Uy Mục sai Lê Tử Văn và Vũ Cảnh đi tuần tra vùng đất Quảng Nam vào năm Mậu Thìn (1508) để theo lệnh nhà vua tàn sát tập thể hết những tù binh và kiều dân Chiêm Thành bị lưu đài khổ sai làm nô lệ sản xuất ở nơi đó.
24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40
Chính sách đối ngoại
Văn hóa, giáo dục
Về mặt văn hoá, tư tưởng, nhà Hậu Lê, nhất là trong thời đại của Lê Thánh Tông đã tiếp nhận một cách cuồng tín các lý thuyết và ý thức hệ mơ hồ viển vông của Nho giáo và các mẫu mực lễ giáo huyền hoặc mê tín của đám phong kiến người Hoa đặt bày ra để nhồi nhét vào đầu óc người dân Đại Việt. Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thức và trở thành quốc giáo của chế độ phong kiến nhà Hậu Lê bởi vì những kinh điển, những thuyết giảng trong Nho giáo dạy cho con người phải trung thành tuyệt đối với vua và cũng từ Nho giáo mà uy quyền của nhà vua được thần thánh hóa và tỏ rõ thứ bậc giữa vua, quan và người dân thường. Người học trò đi học muốn tiến thân làm quan, muốn trở thành giai cấp cai trị hay nói khác đi muốn trở thành người quân tử thì phải thông lào kinh sử của người Hoa và phải thấm nhuần ý thức hệ Nho giáo, phải theo đúng tiêu chuẩn đạo đức của 72 ông thánh hiền người Hoa và ông tổ của họ là Khổng Tử. Cách đào tạo theo kiểu cách như thế sẽ làm cho đầu óc của người học trò bị cùn nhụt trong nếp suy nghĩ, không còn ý thức độc lập, mất đi sự phê phán sắc bén và vô tư để rồi nếu may mắn VSTK - 573
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15
được đỗ đạt làm quan thì cũng chỉ là những kẻ triều thần khúm núm, lơ láo hoặc trở thành những đầy tớ bồi bút cho cho các đám vua chúa con trời, hoặc cho các tên đại thần quyền uy hung ác. Những nhà nho có tinh thần dân tộc, những học giả uyên bác, những nhà văn, nhà thơ lỗi lạc, những nhà viết sử độc lập khách quan góp phần vào việc xây dựng nền văn hóa chung của dân tộc, rốt cuộc cho tới ngày nay chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Nền văn học của triều đại Hậu Lê là một nền văn học dùng để tô vẽ, thổi phòng và tuyên truyền cho chế độ nhất là dưới triều đại của Lê Thánh Tông. Hội Tao Đàn với 28 ông ngôi sao và ông nguyên soái Lê Thánh Tông chỉ là một sân khấu giải trí và là chỗ để cho các ông ngôi sao văn hay chữ tốt có dịp tâng bốc và ca ngợi tài đức của Lê Thánh Tông, lại cũng là nơi để cho Lê Thánh Tông có chỗ để khoe khoang và lưu truyền tài năng thi phú hiếm có của mình cho hậu thế với một số bài thơ cầu kỳ, sáo ngữ, giả hình, khô khan và hợm mình.
16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41
Thời kỳ suy tàn của chế độ phong kiến nhà Hậu Lê
Trật tự xã hội của nhà Hậu Lê dựa trên một cấu trúc mẫu mực chung đã và đang được áp dụng trong các quốc gia ở phương Đông vào thời đó: mẫu mực đó là một chính thể độc tài chuyên chế với một nhà nước chiếm độc quyền làm chủ trên con người và trên tất cả tài sản của nhà nước mà nhà nước trong chính thể phong kiến độc tài chuyên chế chính là kẻ cầm quyền cao nhất, là ông vua. Quyền sở hữu tối cao của ông vua đã tước đoạt mất hết quyền tư hữu của nhân dân khiến nẩy sinh ra tình trạng trì trệ phát triển kinh tế bởi vì người dân cùng khổ, mặc dù là những nhân tố chính thức và thiết yếu trong việc lao động sản xuất nhưng chẳng được hưởng gì nhiều hơn từ những thành quả do sức lao động của họ bỏ ra làm nô lệ cho nhà nước. Dưới thời Hậu Lê, tình trạng trì trệ trong sản xuất xảy ra thường xuyên khiến nhà vua đã phải nhiều lần lên tiếng dạy bảo dân chúng không được trây lười, phải chăm lo việc cày cấy, nông tang và đặt thêm một loại quan chức đặc biệt gọi là khuyến nông sứ để theo dõi, đôn đốc và kiểm soát việc sản xuất nông nghiệp để kho lẫm của nhà vua lúc nào cũng được dồi dào dư thừa nhưng đến những lúc dân gặp nạn đói thì nhà vua chỉ xuất kho cho dân tạm vay mượn để làm mùa chứ không phải là nhà vua cứu đói cho không. Người nông dân và dân chúng cùng khổ trong xã hội nhà Hậu Lê là hạng người hạ cấp bị bóc lột, áp bức liên tục từ triều vua nầy tới triều vua khác; do đó, mâu thuẫn giữa hạng người dân cùng đinh nghèo khổ đa số là thành phần nông dân - với chế độ nhà Hậu Lê là mâu thuẫn cơ bản và phổ cập trên khắp đất nước Đại Việt. Cuối thời Lê Thánh Tông, người dân đã bắt đầu hướng tìm một vị cứu tinh mới để mong có được một cuộc sống đỡ cơ cực hơn.
VSTK - 574
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41
Cũng vào thời đại nhà Hậu Lê với chế độ tập quyền chuyên chế người ta thấy có một sự thật không thể chối cãi được: chỉ có những kẻ nắm chính quyền và ở trong chính quyền mới được phép tham dự vào việc quản lý và xử dụng của cải, tài sản trong xã hội và chính những đặc quyền đặc lợi nầy lại làm phát sinh, nẩy nở ra những màn tranh giành quyền lợi ngay từ trong nội bộ của giai cấp phong kiến đưa đến nạn kết bè kết phái, mỗi nhóm chiếm lĩnh một phương để gây nội loạn không thua gì thời 12 sứ quân ngày trước. Dấu hiệu suy thoái của nhà Hậu Lê bắt đầu hiện rõ kể từ đời Lê Uy Mục và Lê Tương Dực. Đám người thống trị bắt đầu ăn chơi, xa xí, đồi trụy, càng ngày càng trở nên mục thối, hủ bại. Lê Uy Mục nổi danh là vua quỉ còn Lê Tương Dực được gọi là vua heo. Đời sống của người dân đen càng ngày càng trở nên bần khổ, điêu đứng hơn với sưu cao, thuế nặng, phu dịch, dân công, đi lính. Nền kinh tế nông nghiệp của vua, của nhóm quý tộc và đám công thần Lam Sơn bị người nông dân lơ là tẩy chay không còn ai hăng hái châm lo sản xuất cật lực, các công trình đê điều thủy lợi bị hư hỏng bỏ bê không ai dòm ngó. Hạn hán, lụt lội, mất mùa, nạn đói xảy ra thường xuyên. Từ trong nội bộ triều Hậu Lê, những phe phái của tập đoàn phong kiến mặc tình lộng quyền, đối chọi nhau, xâu xé nhau bằng binh lực, ai nấy đều có dã tâm làm chuyện đoạt ngôi vua. Dân chúng bạo động nổi lên chống chính quyền khắp nơi; nhiều tổ chức nổi loạn liên tiếp tấn công và đã có lần chiếm được Đông Đô khiến vua quan nhà Hậu Lê phải trốn chui trốn nhủi, bỏ chạy vào Thanh Hóa. Từ năm Canh Ngọ (1510) với cuộc đảo chánh của thái giám Nguyễn Khắc Hài nhằm lật đổ Lê Tương Dực nhưng không thành công cho tới năm Nhâm Ngọ (1522), tất cả các phong trào nổi dậy chống chính quyền đã bị triều đình nhà Lê đàn áp và dập tắt phần lớn là do công lao của Mạc Đăng Dung và cũng kể từ lúc nầy, tập đoàn phong kiến do Mạc Đăng Dung càng ngày càng trở nên lớn mạnh và lấn lướt trùm khắp triều đình nhà Hậu Lê, khiến cho Lê Chiêu Tông lo ngại tìm cách diệt trừ. Đến đến đây thì chỉ còn có hai thế lực phong kiến chính yếu đối địch nhau để tranh giành quyền làm chủ nhân dân và đất nước Đại Việt. Rồi chính Lê Chiêu Tông của nhà Hậu Lê, vào lúc mà dòng họ nhà nầy đã mất hết lòng dân, lại là kẻ gây hấn khởi xướng âm mưu cuộc đảo chánh để giành quyền lực với Mạc Đăng Dung. Năm Ất Dậu (1525), Mạc Đăng Dung bắt được Lê Chiêu Tông rồi giết đi: đây là một hậu quả tất nhiên, bởi vì Mạc Đăng Dung không lý do gì lại đi tha chết hoặc tiếp tục phù trợ cho một ông vua phản trắc đã tự ý bỏ cung thành ra ngoài rồi đem quân trở về để tiêu diệt họ Mạc. Kế tiếp theo là việc Mạc Đăng Dung bắt ép Lê Cung Hoàng thoái vị và nhường ngôi vào năm Đinh Hợi (1527). Đây cũng chỉ là một kết cục xảy ra tự nhiên, không có gì phải bàn tán bởi vì nó chính là hậu quả của
VSTK - 575
chế độ phong kiến chuyên chế tạo ra và đã được lặp đi lặp lại chưa bao giờ dứt. Có khác chăng, ở đây, Mạc Đăng Dung đã không dùng những âm mưu lừa dối hạ cấp để đoạt ngôi vua của người khác giống như những trường hợp đoạt ngôi vua ở những triều đại phong kiến trước kia; Mạc Đăng Dung đã đoạt ngôi vua của nhà Hậu Lê một cách thanh thiên bạch nhật, gọn, nhẹ, không giấu tay. Ngay trong thời đại văn minh ngày nay, ở nhiều nước trên thế gìới, có bao nhiêu người lãnh đạo chính trị làm khác hơn Mạc Đăng Dung nếu họ đặt mình vào trong hoàn cảnh và thời điểm của họ Mạc?
VSTK - 576
viŒt phÀn
sº 2 :
chú
tân giäi
&
khäo
khäo luÆn
Bản đồ nước Việt Nam thời cổ
q u y ‹ n
2
VSTK - 577
Mục - Lục Quyển II THỜI ĐẠI TỰ CHỦ: NHÀ TRẦN Chương I
Trang
Trần Thái Tông Đánh đuổi quân nguyên lần thứ nhứt
293 - 311
Chương II
Trần Thánh Tông
319 - 323
Chương III
Trần Nhân Tông Đánh đuổi quân Nguyên lần thứ nhì
324 - 334
311 - 318
THỜI ĐẠI TỰ CHỦ: ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN Chương III
Trần Nhân Tông Đánh đuổi quân Nguyên lần thứ ba
335 - 348
Chương IV
Trần Anh Tông
349 - 360
Chương V
Trần Minh Tông
361 - 362
Chương VI
Trần Hiến Tông
363 - 371
Chương VII
Trần Dụ Tông
372 - 377
Chương VII/Phụ Dương Nhật Lễ
378 - 380
Chương VIII
Trần Nghệ Tông
381 - 382
Chương IX
Trần Duệ Tông
382 - 383
Chương X
Trần Đế Hiện
384 - 386
Chương XI
Trần Thuận Tông
387 - 393
Chương XII
Trần Thiếu Đế Khảo luận về triều đại Nhà Trần
394 394 - 399
THỜI ĐẠI TỰ CHỦ: NHÀ HỒ Chương I
Hồ Quý Ly
400 -
Chương II
Hồ Hán Thương
401 - 410
Khảo luận về nhà Hồ
410 - 421
VSTK - 578
ii KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN MINH
Trang
Chương I Chương II
Trần Ngỗi Trần Quý Khoách
422 - 424 424 - 428
Chương III
Những phong trào chống quân Minh trong khoảng 1414 – 1420
429 - 436
Lê Lợi
437 - 458
Chương IV
- Khảo luận về việc Lê Lai Liều mình cứu Lê Lợi - Khảo luận về cuộcc chiến Tranh dành độc lập với cuộc Tụ nghĩa Lam Sơn - Chiến thắng Chi Lăng - Nguyễn Trãi và bản Bình Ngô Đại Cáo
458 - 460
460 - 463 464 - 467 467 -
THỜI ĐẠI NHÀ HẬU LÊ Chương I
Lê Thái Tổ
490 - 505
Chương II
Lê Thái Tông
506 - 516
Chương III
Lê Nhân Tông
517 - 522
Chương IV
Lê Nghi Dân
523 - 528
Chương V
Lê Thánh Tông
529 - 549
Chương VI
Lê Hiến Tông
550 - 551
Chương VII
Lê Túc Tông
552 -
Chương VIII
Lê Uy Mục
553 - 556
Chương IX
Lê Tương Dực
557 - 561
Chương X
Lê Chiêu Tông
562 - 566
Chương XI
Lê Cung Hoàng
567 - 576
VSTK - 579