N G U Y E N
T H I
K H A N H
H U Y E N
Các giai đoạn phát triển và biến đổi của trường Bauhaus
Thời kỳ Weimar. • Dưới thời hiệu trưởng WALTER GROPIUS, quan điểm “Lý tưởng cao cả của sự thống nhất nghệ thuật và kỹ thuật” • đảm nhận việc đào tạo các nhà thiết kế và kiến trúc sư của thế kỷ 20. • Ông tuyển dụng những nhân tài, thuê các nghệ sỹ và thợ thủ công để giảng dạy, hình thành một hệ thống giáo dục kiểu mới kết hợp lý thuyết với thực hành, giảng dạy nghệ thuật với thao tác thủ công.
Thời kỳ Mies. • Chuyển trường đến một tòa nhà văn phòng bỏ hoang ở Berlin và hi vọng tập trung lại trường. • Nhưng tinh thần Bauhaus không được phát xít Đức chấp nhận, Mies bất lực khi phải đối diện với chính quyền Phát xít mới lên nắm quyền. • Đến tháng 8, Bauhaus được tuyên bố đóng cửa vĩnh viễn. Đến tháng 11/1933, Bauhaus chính thức bị đóng cửa và kết thúc quá trình lịch sử phát triển 14 năm.
Thời kỳ Dessau. • Trường Bauhaus được xây dựng lại ở Dessau, thực hiện phương pháp giảng dạy nhất thể hóa giữa thiết kế và thao tác thực hành và đạt được kết quả xuất sắc. • Năm 1928, GROPIUS từ chức, người kế nhiệm là chủ nhiệm khoa kiến trúc HANNS MEYER. Ông có xuất thân từ Đảng Cộng Sản và đưa nghệ thuật Bauhaus mở rộng sang chính trị khiến nó phải đối mặt với áp lực chính trị ngày càng tăng. • Cuối cùng chính Meyer phải từ chức năm 1930 và người đảm nhận chức vụ của ông sau đó là L MIES VAN DE ROHE.
Phong trào Bauhaus mang lại giá trị to lớn trong nghệ thuật
Chương trình đào tạo thiết kế của Bauhaus: đây là chương trình đào tạo được xây dựng và
Tìm hiểu về phong trào Bauhaus hiện đại
Nhấn mạnh phong cách làm việc nhóm, tập thể để đánh bại rào cản cá nhận của giáo dục nghệ thuật, đặt nền tảng phát triển doanh nghiệp
phát triển cho đến hoàn thiện bởi nhiều thế hệ giảng viên của Bauhaus từ Walter Gropius, Johannes Itten, László Moholy-Nagy đến Josef Albers. Chương trình này tích hợp các kiến thức về mỹ thuật thuần túy lẫn thiết kế. Nó bắt đầu bằng một khóa sơ bộ để giúp học viên làm quen với chất liệu, lý thuyết về màu sắc, đường nét, hình khối và các “đơn vị” cơ bản nhất của nghệ thuật thị giác… để chuẩn bị cho các nghiên cứu chuyên sâu hơn.
Bauhaus có đóng góp lớn cho ngành thiết kế công nghiệp hiện đại, đặc biệt ảnh hưởng sâu rộng đến giáo dục thiết kế. Phương pháp giảng dạy của nó đã trở thành nền tảng của giáo dục nghệ thuật ở nhiều trường học trên thế giới và đào tạo ra các kiến trúc sư, nhà thiết kế xuất sắc cho kiến trúc hiện đại, đưa thiết kế lên một tầm cao mới. Ảnh hưởng của Bauhaus không nằm ở thành tựu mà ở tinh thần. Tư tưởng Bauhaus trong một thời gian đã từng được coi là kinh điển của chủ nghĩa hiện đại. Tuy nhiên những hạn chế của nó cũng dần được nhìn nhận, những ảnh hưởng không tốt của nó đến thiết kế công nghiệp cũng bị phê bình. Cụ thể, để theo đuổi những hình thức thiết kế mới, Bauhaus nhấn mạnh quá nhiều vào các hình học lập thể trừu tượng trong thiết kế. Quan điểm “hình lập thể là thượng đế” bất cứ sản phẩm nào, vật liệu nào cũng sử dụng tạo hình lập thể có thể phá hỏng chức năng sử dụng của sản phẩm đó. Hơn nữa, việc áp dụng tạo hình hình lập thể khiến ta có cảm giác lạnh lẽo, thiếu tính nhân văn đối với các vật liệu, sản phẩm. Bauhaus tích cực truyền bá nghệ thuật đến công chúng, nhưng thiết kế của nó có tính trừu tượng và sâu sắc, chỉ có số ít bộ phận trí thức hoặc người giàu có mới thưởng thức được. Đến nay, không ít các tác phẩm theo phong cách Bauhaus có giá trị rất cao, đắt đỏ, nhưng chỉ được xem như tượng trưng cho cái đẹp thẩm mỹ và địa vị xã hội. Một ví dụ điển hình là chiếc ghế Mise của Barcelona, với giá bán hàng trăm đô la.
Nhấn mạnh tiêu chuẩn để phá vỡ sự tự do hóa hời hợt và phi tiêu chuẩn của việc giáo dục nghệ thuật thời kỳ đầu. Thiết lập một hệ thống giáo dục mới có nền tảng khoa học, nhấn mạnh sự kết hợp giữa phương pháp làm việc logic, khoa học với biểu hiện nghệ thuật. Đưa hệ thống giáo dục từ nghệ thuật cá nhân chuyển thành nghệ thuật dựa trên khoa học Đưa trọng tâm thiết kế từ sáng tạo ngoại hình chuyển thành giải quyết vấn đề sáng tạo. Bởi vậy, thiết kế đầu tiên đã loại bỏ những sai lầm về hình thức, đạt được yêu cầu mỹ quan, kinh tế, tiện lợi và nhu cầu thực tế sử dụng. Đặt nền tảng vững chắc cho sự phát triển của thiết kế hiện đại Dựa trên thí nghiệm của nhà thiết kế người Bỉ Henry van der Weld, Bauhaus đã sáng tạo ra các loại văn phòng làm việc bằng các chất liệu khác nhau như kim loại, gỗ, gốm sứ, dệt may, nhiếp ảnh… Phá vỡ khuôn khổ giáo dục nghệ thuật theo phong cách cũ, sáng tạo nên phương thức kết hợp sản xuất đại công nghiệp, đặt nền móng cho giáo dục thiết kế hiện đại. Bồi dưỡng nhiều tài năng có chuyên môn thành thục nghệ thuật truyền thống lại am hiểu phương thức sản xuất công nghiệp hiện đại kết hợp với quy luật thiết kế mới. Hình thành nên một phong cách mỹ thuật mới, đẹp mắt và tối giản, nâng cao chất lượng các sản phẩm công nghiệp hiện đại.
Tiếp đó, học viên sẽ được đến các workshops để học song song với thực hành tạo ra những sản phẩm của riêng mình. Những workshops này được phân loại theo chất liệu, bao gồm đồ kim loại, đồ gỗ, dệt may, đồ gốm, typography và vẽ tranh tường. Từ 1925 trở về sau, Bauhaus mở thêm nhiều workshops về các chất liệu khác, về photography, và cả kiến trúc. Thời kì đầu, mỗi workshop có 2 giáo viên, 1 chuyên về kỹ thuật và 1 chuyên về mỹ thuật. Về sau, khi trình độ mỗi giáo viên được nâng cao, đồng thời 1 số học viên xuất sắc được giữ lại giảng dạy, chỉ còn cần 1 giáo viên đảm nhiệm workshop. Chương trình đào tạo thiết kế của Bauhaus là chương trình đào tạo thiết kế hoàn chỉnh đầu tiên, làm nền tảng cho sự ra đời của các chương trình đào tạo thiết kế ngày nay, trong đó có thiết kế đồ họa. Bauhaus đã khẳng định một điều tạo tác cái đẹp là một năng lực có thể được truyền dạy và khơi nguồn từ chính mỗi người.
1. Triết lý của Bauhaus: Tính toàn thiện, hoàn chỉnh của mọi thiết kế: Bauhaus muốn liên kết các loại hình nghệ thuật tạo tác từ kiến trúc, điêu khắc đến hội họa với kỹ thuật và thủ công mỹ nghệ cũng như tái lập và đúc kết kinh nghiệm từ tất cả những trường phái mỹ nghệ trước đó để tạo ra những sản phẩm có tính nhất quán và hoàn chỉnh về tinh thần, nội dung lẫn hình thức. Gropius quan niệm mọi nghệ thuật thị giác đều phải hướng đến việc thiết lập một tổng thể có tính vật chất, cụ thể là không gian sống, nhằm làm địa hạt cho các trải nghiệm giác quan của con người văn minh. (Theo đó, mỹ thuật thuần túy sẽ trở thành mỹ thuật ứng dụng, và cùng với tri thức về khoa học kỹ thuật và tính phổ cập đại chúng, nó trở thành khái niệm ‘thiết kế’.)
Hình thức phải tuân theo chức năng: Dù tạo tác của thiết kế có là một cái ghế, một cái tủ hay một ngôi nhà, thì hình thức của nó cũng phải trung thành với chức năng của chính nó, nghĩa là, nó phải hữu hiệu, bền chắc, kinh tế và đẹp.
Thiết kế hướng đến bình đẳng xã hội: Về phía người tạo tác, sẽ không còn phân biệt giữa nghệ sĩ và nghệ nhân thủ công mỹ nghệ hay người sản xuất, không còn ngăn cách về địa vị, năng lực, sự phù phiếm hay kiêu ngạo… vì nghệ nhân đồng thời là nghệ sĩ, nghệ sĩ đồng thời là kỹ sư, tất cả những kiến thức đa ngành sẽ được hội tụ lại ở 1 con người để đảm bảo tính toàn thiện và hoàn chỉnh. Về phía người tiêu dùng và thưởng lãm, các sản phẩm được tạo ra sẽ hướng đến sự giản tiện, tiết kiệm và đồng nhất để phục vụ cho sự tiêu dùng của toàn dân – bất kể họ thuộc giai tầng xã hội nào. (Hai điều trên được thể hiện ở Bauhaus Manifesto năm 1919 của Walter Gropius)
Giản tiện trong sự đa dạng, tiết kiệm về không gian, chất liệu, thời gian, tiền bạc: Bauhaus khuyến khích sự khám phá những chất liệu mới, sự tìm tòi nghiên cứu những kỹ thuật mới. Song, với thiết kế, mỗi cá nhân phải sáng tạo dựa trên nền tảng truyền thống để phát triển những sự mới mẻ trong thiết kế; nghĩa là, thiết kế phải tuân thủ những luật lệ nguyên tắc của thời đại, không có những chi tiết bóng bẩy, phù phiếm không cần thiết. Sự giới hạn về những đặc điểm thiết kế, hình dạng và màu sắc là để đảm bảo khả năng tái thực hiện bởi những người khác trong sản xuất công nghiệp trên quy mô lớn. Việc thiết lập tiêu chuẩn trong thiết kế là để đảm bảo cho sản xuất công nghiệp để phục vụ đại chúng. Trong kiến trúc, cụm từ “tính công năng” có thể dùng để mô tả đặc điểm này. (Hai điều trên được thể hiện ở Principles of Bauhaus Production năm 1926 của Walter Gropius)
2. Cơ sở lý thuyết thiết kế: Trong suốt thời gian tồn tại của mình, thông qua những workshops, những buổi triển lãm, những tạp chí và sách được biên soạn bởi những giảng viên và học viên xuất sắc, Bauhaus đã để lại những lý thuyết quan trọng trong lĩnh vực thiết kế mà đến nay vẫn còn được đánh giá cao:
Lý thuyết thị giác Gestalt:
Bauhaus vận dụng công trình nghiên cứu mang tính phổ quát của thị giác con người này để đề xuất những phát kiến của mình về thiết kế. Lý thuyết Gestalt đề xuất khái niệm về similarity/continuity; closure/proximity; figure-ground; symmetry.
Negative Space:
tức khoảng trống, vùng không gian không có một objects hay text gì cả. Khác với Expressionism ngay trước đó, các nghệ sĩ Bauhaus cảm thấy sự dồn nén, sát khít và quá mức của các đối tượng hình ảnh gây ra một sự khó chịu và thiếu lí tính, đồng thời không thể được cảm thụ hiệu quả bởi đại chúng. Họ nhận ra việc tận dụng khoảng trống có giá trị quan trọng trong việc tạo ra tính cân bằng và hài hòa của thiết kế. Và họ đã áp dụng điều này không chỉ trong hội họa, mà trong cả điêu khắc, nhiếp ảnh, kiến trúc…
Functionalist Typography:
Typography của Bauhaus chịu ảnh hưởng bới triết lí về “tính công năng”. Theo đó, chữ được đối xử như đúng mục đích sử dụng của nó – phương tiện giao tiếp. Vì vậy, Bauhaus hạn chế mọi biến đổi thêm thắt đối với các chữ cái. Mặt khắc, Bauhaus hướng đến sự cắt giảm các chi tiết thừa của con chữ nhưng vẫn đảm bảo tính dễ đọc, ngắn gọn, đơn giản. Bauhaus hầu như chỉ tập trung phát triển chữ Sans Serif, phủ nhận font Serif và font Black Letter của dân tộc Đức hiện thời vì cho là chúng cầu kì một cách thừa thải, thiếu tính bình đẳng, tính đại chúng và tính quốc tế. (Điều này về sau là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự kềm cặp về chính trị của Đức Quốc Xã đối với Bauhaus) Bauhaus xem chữ có sức nặng tương đương hình ảnh, và đối đãi với nó như với shape vậy. Những đặc tính nổi bật nhất của typgraphy của Bauhaus là clean lines, less is more, geometric foundation và text as shapes.
Lý thuyết về màu sắc: Lý thuyết về màu sắc của Bauhaus được khai mở đầu tiên bởi Johannes Itten với các lý thuyết về hue, saturation, sự nóng lạnh của màu sắc, về khả năng phối màu… mà đến ngày nay vẫn còn được dạy ở nhiều nơi. Về sau Josef Albers mở rộng thêm lý thuyết này tới cái ảo giác về màu sắc, tác động của chúng lên nhận thức và tình cảm con người… khi nghiên cứu và phân tích nó dưới ánh sáng của tâm lý học. Đây là những đóng góp rất quan trọng trong lý thuyết về sử dụng màu sắc trong thiết kế đồ họa đương đại. Một trong những điều được kể lại rất nhiều là những giảng viên lẫn học viên ở Bauhaus thực sự đã xây dựng được một cộng đồng cùng chung sống và làm việc tích cực, hiệu quả và giàu tình cảm. Họ luôn đoàn kết, yêu thương và giúp đỡ lẫn nhau.
Geometric Abstraction:
Không gian hai chiều trong tạo hình mỹ thuật của Bauhaus đã thay đổi cách thể hiện truyền thống bằng cách triệt tiêu các nỗ lực tả thực. Các shape được ngăn cách ra bởi những line màu với độ dài biến đổi. Wasily Kandinsky, Paul Klee, Johannes Itten, Oskar Schlemmer, Laszlo MoholyNagy, và Josef Albers đều tin là việc sử dụng những hình học cơ bản là cách thể hiện phù hợp nhất của thời hiện đại. Trong cuốn Point and Line, Kandinsky nói, “Một cách tự nhiên nhất, kiến thức khoa học mới của mỹ thuật có thể phát triển khi cho phép những dấu hiệu được trở thành biểu tượng và mắt nhìn và tai nghe của con người tự biết mở ra một con đường từ tĩnh lặng đến ngôn từ.“
……….
KIẾN TRÚC ĐƯƠNG ĐẠI 2021.2022