Noi cong Thieu Lam Tu

Page 1

NỘI CÔNG THIẾU LÂM NHỮNG ĐIỂM CẦN LƯU Ý ............................................................................................. 2 1. VÙNG RIÊNG CỦA NỘI CÔNG VÀ NGOẠI CÔNG .................................................. 2 2. SỰ GIỐNG & KHÁC GIỮA NỘI CÔNG VÕ THUẬT VÀ NỘI CÔNG ĐẠO GIA ... 4 3. ĐIỂM THEN CHỐT CHỦ YẾU CỦA NỘI CÔNG ....................................................... 5 4. TU DƯỠNG ĐẠO ĐỨC ................................................................................................. 6 5. QUAN HỆ CỦA HÀNH CÔNG VỚI TRỊ TẠNG ......................................................... 8 6. NỘI CÔNG VỚI THỞ RA HÍT VÀO .......................................................................... 10 7. TAM YẾU CỦA LUYỆN CÔNG ................................................................................. 11 8. TẦNG THỨ CỦA NỘI CÔNG ..................................................................................... 12 9. CỬA ẢI KHÓ KHĂN CỦA LUYỆN TẬP NỘI CÔNG.............................................. 13 10. NGƯỜI LUYỆN VÕ CẦN GIỮ ĐIỀU NGĂN CẤM & CÓ LÒNG YÊU NƯỚC .. 14 11. LUYỆN CÔNG TẤT CẦU DANH SƯ ...................................................................... 15 12. NỘI CÔNG QUAN HỆ VỚI NGỒI THIỀN ............................................................... 16 13. PHÉP TẮC CỦA NGỒI THIỀN ................................................................................. 18 14. NGŨ QUYỀN CỦA NỘI CÔNG THIẾU LÂM ......................................................... 19 15. PHÉP LUYỆN TẬP NGŨ QUYỀN ............................................................................ 20 HỔ QUYỀN ................................................................................................................... 20 BÁO QUYỀN ................................................................................................................. 23 LONG QUYỀN .............................................................................................................. 26 XÀ QUYỀN ................................................................................................................... 29 HẠC QUYỀN ................................................................................................................. 31 16. NỘI CÔNG THIẾU LÂM VÀ DỊCH CÂN KINH ..................................................... 34 17. PHÉP LUYỆN TẬP TIỀN BỘ DỊCH CÂN KINH .................................................... 35 18. PHÉP LUYỆN TẬP HẬU BỘ DỊCH CÂN KINH .................................................... 45 19. LỜI BÀN CỦA NGƯỜI BIÊN DỊCH ......................................................................... 55

1


NHỮNG ĐIỂM CẦN LƯU Ý - Người từ 6 tuổi trở lên - Nên chọn tập nơi yên tĩnh, không khí trong sạch. Không tập nơi có gió lùa - Ăn vừa đủ no, không say rượu - Giải khai đại tiểu tiện trước khi tập, không nên nhịn trong khi tập - Y phục rộng - Không nên tập lúc tinh thần không thoải mái, hoặc đang bị cảm, cúm, sốt, - Trong khi tập nếu có tiếng người gọi hoặc điện thoại reo cũng không nên đáp lại ngay - Tập thường xuyên, tuần tự tiệm tiến từ nhẹ đến nặng, từ ít đến nhiều - Khi tập phải tập trung tinh thần, tránh những suy nghĩ lung tung - Khi tập xong không nên uống, rửa hay tắm bằng nước lạnh ngay 1. VÙNG RIÊNG CỦA NỘI CÔNG VÀ NGOẠI CÔNG Phàm vào việc luyện tập võ thuật, trừ các loại quyền pháp ra, nhất định kiêm luyện một, hai loại công phu(1) để giúp cái bất túc(2). Dường như tất cả đều lấy thủ pháp làm phép tắc của động tác khi gặp kẻ địch, còn công phu thì làm gốc rễ của chế(3)địch lấy thắng. Nếu luyện được công phu mà không thành thuộc quyền pháp là thiếu, mặc dù thiếu là ít. Ngược lại, nếu biết quyền pháp mà không tập công phu thì động tác tuy nhanh nhạy nhưng lại không đủ để chế người, kết quả là nhất định cái bị thiếu đó là thiếu rất lớn. Cho nên dân gian có câu: “đánh quyền mà không luyện công, đến già là một bãi trống” (đả quyền bất luyện công, đáo lão nhất trường không). Công phu ấy không thể không luyện. Chú thích: (1) Công phu: Từ ngữ chỉ chung các phương pháp luyện tập nào đó. (2) Bất túc: Không đủ. Bất cứ một bài tập võ thuật nào cũng đều gây ra một tác dụng phụ có hại, cái đó gọi là bất túc, cần phải luyện công phu để hỗ trợ, tránh cái hại ớn khi bài tập lặp lại nhiều lần. (3) Chế: Trói buộc. Loại công phu cũng nhiều không kể xiết, nếu phân vùng đại thể(1) thì không ngoài hai loại là nội công và ngoại công. Ngoại công thì chuyên luyện cương kình(2), như phép “đả mã an thiết tý bạc”(3), chế người thì có thừa mà tự vệ(4) thì không đủ. Nội công thì chuyên luyện nhu kình(5) như “Dịch cân kinh”, phép luyện rèn điều hành khí(6) vào mạc(7) để đủ chắc khắp thân thể, tuy không đủ để chế người, nhưng luyện đến cảnh “lò lửa thuần xanh”(8), chẳng những bị quyền đánh cước(9) đạp không thể tổn thương dến sợi tơ sợi tóc, mà dao cắt, kiếm đâm cũng không hề bị tổn thương. Chú thích: (1) Đại thể: Phân loại lớn nói chung. (2) Cương kình: Cứng mạnh dữ dội. (3) Tên một phép luyện đánh yên ngựa cho cánh tay như sắt (4) Tự vệ: Che gữ thân mình. (5) Nhu kình: Mềm mạnh dữ dội. (6) Hành khí: Dùng ý dẫn khí đi. (7) Mạc: Màng dai bao bọc các tổ chức gân, cơ, xương trong thân mình. 2


(8) Lò lửa thuần xanh: Một thuật ngữ riêng, chỉ mức độ đạt được của phép luyện khí (có tính chất tượng trưng). (9) Cước: Chân. Dựa theo đó mà bàn thì nội công hơn hẳn ngoại công, chắc chắn không phải đợi trí giả(1) về sau mới biết. Người luyện tập võ thuật vốn là lấy khỏe mạnh thể phách, trừ bệnh tật, kéo dài tuổi thọ làm gốc. Học cái đó kiêm để phòng rắn độc, thú dữ xâm phạm và hại vạ của trộm cướp gây ra ngoài ý muốn, cho nên không dạy người đánh giết, đấu hận đò thù. Vì vậy, lời thiền sư Hàm Hư nói rằng: “Người học võ kỹ(2), tôn sùng đức, không tôn dùng lực, coi nặng thủ(3), không coi nặng công(4), chỉ giữ cái tĩnh ấy, tĩnh là cỗ máy sống, chỉ riêng công mới động, động là cỗ máy chết”. Người luyện ngoại công, khi chẻ, đánh, dính, đâm (bốn kỹ thuật tấn công là phách, kích, niêm, thích), trong ý niệm(5) đều ở chế áp(6) người, đó là nặng ở công. Chú thích: (1) Trí giả: Người có hiểu biết sâu rộng. (2) Võ kỹ: Kỹ thuật nghề võ. (3) Thủ: Giữ mình. (4) Công: Tiến đánh. (5) Ý niệm: Tự mình nhắc nhở mình. (6) Chế áp: Trói buộc ép người. Nếu thủ thì loại công phu ấy hoàn toàn mất hiệu dụng(1). Công thì không những đủ để giết người, cũng lại đủ để tự giết mình cho nên gọi là cỗ máy chết (tử cơ). Người luyện nội công, vận khí(2) đủ khắp thân thể như dựng trường xây lũy, ý niệm ở tự giữ gìn, người khác đến công họ, họ cũng rất tự nhiên để chịu đựng người đánh một cách bất ngờ, không đến nỗi phải giết người là nhờ một chữ thủ. Công phu ấy đúng là lớn, tức là có thể giữ gìn, không cần phải ra khỏi thủ để công người ta, đã không đắc chí(3), thế của họ tất biết gặp khó mà tự lùi, cho nên gọi đó là cỗ máy sống (sinh cơ). Nhưng người học võ phần nhiều là luyện tập ngoại công mà ít thấy luyện nội công. Vì sao lại thế? Bởi vì học ngoại công tương đối dễ dàng mà thời gian học lại ngắn, nhiều là ba năm, ít là một năm có thể đạt được. Chẳng hạn, luyện “đả mã an” (đánh yên ngựa), sau ba năm quyền như sắt đá, dùng lực đánh một nhát có thể thủng tường vách. Chú thích: (1) Hiệu dụng: Kết quả sau khi đã dùng. (2) Vận khí: Dùng khí dẫn ý đi đến trong cơ thể. (3) Đắc chí: Đạt được mong muốn. Tâm lý tránh nặng được nhẹ chắc chắn người đời đều có. Nếu đến với nội công thì dứt khoát không có cách nào khác là từng bước, từng bước mà tiến lên, thâm ảo(1) lạ thường, học cái đó đã rườm rà khó làm mà lại hao tổn ngày giờ và không hẹn thời gian sẽ thành công, cho nên người ta đều sợ cái khó đó mà lùi bước. Khi đã vào cửa thiếu lâm, họ bước đầu đều chưa biết trong phái Thiếu Lâm cũng có nội công tinh thuần(2) và họ đều bỏ cái đó mà học ngoại công, đúng là tâm lý tránh nặng được nhẹ. Đến khi luyện nội công thì họ không theo nền tảng, vừa vào tay đã luyện, khi khó thì tự họ không giữ được lời hứa. Nếu như người nào đó có ý chí cứng rắn, thân thể khỏe mạnh mà lại có đủ thông minh sớm thì luyện cái này lại rất phù hợp, bởi vì nội công chắc chắn là nặng về đòi hỏi tính “ngộ”(3). Chú thích: 3


(1) Thâm ảo: Tinh vi, sâu xa, khó hiểu (2) Tinh thuần: Tinh xảo thuần khiết. (3) Ngộ: Hiểu rất rõ ràng. 2. SỰ GIỐNG & KHÁC GIỮA NỘI CÔNG VÕ THUẬT VÀ NỘI CÔNG ĐẠO GIA Nội công trong võ thuật thì không giống nhau với công phu nội tráng(1) của Đạo gia. Người ngày nay (tức cuối đời Thanh- TG) nói đến nội công đều nhằm vào nội công luyện đan(2) tu Đạo của Đạo gia, vì vậy họ nói Thiếu Lâm thuộc về ngoại gia mà không có nội công. Cũng do đó họ nói Thiếu Lâm là học trò đức Thích ca, lấy cứu vớt mọi chúng sinh làm mục đích ý nghĩa, không chuyên tu mạng thọ(3) của một mình, cho nên không có việc gọi là luyện đan. Bởi thế họ nói người ngoài giới tu Đạo đúng là đã không tu luyện thuật này, từ đó mà nói chắc chắn rằng không có nội công. Đây thật là một nhầm lẫn rất lớn. Chú thích: (1) Nội tráng: Khỏe tinh, khí thần bên trong (2) Luyện đan: Phép tu của Đạo gia làm cho tinh, khí, thần biến thành thuốc trường sinh. (3) Mạng thọ: Thân mình sống lâu dài. Họ không biết rằng có sự khác nhau của nội công trong võ thuật với nội công của Đạo gia. Hai cái đó có thể làm ấn chứng cho nhau, mà tuyệt đối không thể trộn lẫn nhau làm một, mặc dầu cũng có phần nào giống nhau, tức là vận hành khí huyết để đầy đủ khắp thân thể. Điều đó chứng minh trong võ thuật ở phái Thiếu Lâm cũng có nội công mà không phải chỉ trong phái Võ Đang mới có. Trong Đạo gia, phép luyện ấy nặng ở "vận khí, ngưng thần, tụ tinh" làm cho ba điều ấy kết hợp với nhau, đem hai khí âm dương trong bản thân trộn hòa vào nhau mà gọi tên là "hòa hợp âm dương". Âm dương đã hòa, nhất định làm cho tinh (âm) thần (dương) cấu hợp(1), như làm đạo vợ chồng thì gọi là long hổ cấu. Sau khi đã cấu, tinh thần đã ngưng tụ, mà thành thai thì gọi là "thánh mẫu linh thai"(2). Chú thích: (1) Cấu hợp: Kết hợp hai nhà trai gái với nhau (2) Thánh mẫu linh thai: Thuật ngữ chỉ kết quả bước đầu của phép tu đạo. Đợi đến khi linh thai kết thành mà đủ tượng của ngã(1) thì gọi là "phôi dục anh nhi"(2) mà thành đan lớn, từ đó mà chứng đạo thành tiên. Luyện như thế là nội công. Người luyện lấy phép "thiêu duyên luyện hống"(3) chắc chắn là không nhiều, nhưng cũng gọi đó là nội công, tuy không hẳn là đơn giản dễ dàng đạt tới đó nhưng người ta đã lấy cái đó làm mục đích cầu mong để thúc đẩy luyện tập. Nó với võ công không có mảy may quan hệ. Tuy người tu sau khi chứng được Đạo, làm thành cái thân bất hoại(4) mà không lo sợ sự xâm hại từ bên ngoài, nhưng người thành công ở mức đó từ xưa đến nay cố thể nói là rất hiếm. Chú thích: (1) Tượng của ngã: Hình ảnh của bản thân người tu hiện ra bằng cảm nhận của phép tu. (2) Phôi dục anh nhi: Thai nhỏ đẻ ra sơ sinh, một mức độ của đắc đạo. (3) "Thiêu duyên luyện hống": Phép luyện thuốc trường sinh bất tử ngày xưa xây lò bát quái nấu duyên (chì) luyện (thủy ngân) hy vọng được tiên đan. Đời nhà Đường, loại thuốc này đã làm chết các vua Đường Thái Tông, Hiến Tông, Mục Tông, Kính Tông, Vũ 4


Tông, Tuyên Tông và nhiều đại thần. Từ đó đạo gia bỏ phép luyện ngoại đan này, nhưng vẫn giữ các khái niệm đó mà dùng vào luyện nội đan lấy duyên (chì) để chỉ về tinh, lấy hống (thủy ngân) để chỉ về khí. (4) Bất hoại: Không gì làm hỏng được. Nội công trong võ thuật không thể coi ngang với "linh thai", "phôi phục", riêng vận khí thì giống nhau. Đó là lấy thần đưa vào khí, lấy khí sai khiến lực, lấy lực chắc chắn đôi chân. Ba cái ấy đi theo thứ tự, qua lại, đi khắp vòng không nghỉ thì thân khỏe mà thịt chắc. Sự sống của con người ta chắc chắn nhờ trọn vẹn ở khí huyết, mà khí vận hành hoàn toàn là ở trong phủ, ngoài việc cùng với huyết dịch dựa theo đúng cân(1) lạc(2) mà tuần hành tương ứng ở giữa thể mạc, khí chắc chắn sẽ không thể đi tới đâu. Nội công võ thuật được gọi là nội công bởi vì đem khí huyết vận ở trong mạc, là phép làm cho thân thể rắn cứng, cũng không như Đạo gia tu luyện khí rót xuống "đan điền"(3) trộn lẫn tinh hợp với thần (tinh sinh khí, khí sinh thần). Chú thích: (1) Cân: Gân. (2) Lạc: Mạch nối các đường kinh. (3) Đan điền: Ruộng thuốc, là tên một vùng bụng dưới của con người, khoảng từ huyệt Khí hải đến huyệt Quan nguyên, là chỗ dựa của nguyên khí toàn thân. Người tu luyện lấy đây làm lò luyện tinh hóa khí. Sau khi luyện công trong võ thuật đã thành, con người có thể sống lâu không già, toàn thân rắn chắc, muốn khí chảy vào chỗ nào thì khí đến ngay nơi ấy, nơi khí đến thì gân thịt như sắt, quyền đánh chân đạp khác thường cũng không thể hại, kiếm đâm búa chẻ cũng không sợ. Nhưng nếu chỉ luyện được một bộ phận của nội công đã thôi, thì không thể đạt được những điều đã nói ở trên. Luyện tập nội công trong võ thuật chắc chắn phức tạp, rườm rà gấp năm, bảy lần so với ngoại công, nhưng so với nội công của Đạo gia thì dễ dàng hơn nhiều. 3. ĐIỂM THEN CHỐT CHỦ YẾU CỦA NỘI CÔNG Luyện tập nội công, lúc bắt đầu rất khó, không như luyện ngoại công chỉ cần dựa vào động tác của chi thể và làm chăm không lười thì có thể thu được hiệu quả. Bởi vì nội công nặng ở vận khí, nếu ta muốn khí đến lưng thì sẽ đầy ắp ở lưng, nếu ta muốn khí đến cánh tay thì khí sẽ đầy ắp ở cánh tay, khí đảm đương ý đó không đi không được, cái đó có thể thu được thực dụng. Thử nghĩ ý muốn là như thế, nhưng nói mới dễ làm sao? Khí vốn không tự đi, nó đi là do thần đi. Cho nên khi tập buổi tập đầu tiên, phải lấy thần đưa vào khí. Khi bắt đầu tập luyện, do không có một nền tảng mà muốn khí đảm đương ý vận hành không vướng các kết khối, nhất định không thể được. Cái gọi là lấy thần đưa vào khí là theo tưởng niệm lúc bắt đầu tập, như ta muốn khí chảy vào lưng, ý ta tưởng trước khi khí đến lưng, khí tuy chưa tới nhưng thần đã tới. Nghĩ như thế lâu dài, khí nhất định có thể dần dần theo thần đều đến. Cái gọi là khí lấy thần để đi là như thế. Đây là phép tắc ở bước thứ nhất. Cũng rất khó phân biệt đến từ ý tưởng mà thành sự thật. Dẫu rất nhiều lời cũng chưa thể tả gãy gọn hết về nó, vạn việc đều như thế, không chỉ một việc hành công. Khi mới bắt đầu tập, cần định chắc chắn một vùng mà lấy thêm vận dụng ý, trước hết là ý đến, sau đó là thần theo ý đến, cuối cùng là khí theo thần đến. Sau khi đạt tới mức cuối cùng của bước một, lại đổi một bộ phận khác, theo đúng phép vận hành đó, làm như thế khắp mọi nơi chốn, thay đổi dần dần để đến toàn thân. 5


Lại thay đổi tiến lên một bước làm cho khí có thể theo thần vận đi các vùng toàn thân không một chút vướng trệ. Đó là công lớn đã thành. Riêng bốn chữ “dĩ thần đầu khí” (lấy thần đưa vào khí) nói thì không khó, làm thì chỉ thấy khó. Luyện đến thành công hay không, thời gian luyện nhiều hay ít, thì thành công(1) chỉ có một then chốt ở đó. Hành công tối kỵ(2) là các việc thô nổi (thô phù), tiến táo bạo (táo tiến), hám được (tham đắc), nhảy vọt (việt liệp). Luyện tập ngoại công chắc chắn cũng kỹ như thế. Chú thích: (1) Hành công: Làm việc luyện công. (2) Tối kỵ: Cần kiêng tránh nhất. Song luyện tập nội công cái kỵ đó hơn nhiều, bởi vì ở ngoại công nếu phạm số kỵ đó tuy đã đủ để làm hại nhưng cái hại đó vẫn chỉ tới chi thể. Nếu ở nội công mà phạm những tệ bệnh ấy là làm hại vùng trong lại khó chữa, cho nên đây là việc cần chú ý. Không thấy ai nói do luyện tập nội công mà thành chứng tàn phế hoặc phát bệnh điên cuồng bại liệt, bởi vì người ta không quy tội ở di hại(1) của nội công. Họ rất không biết khi họ hành công nhất định đã phạm tệ bệnh kể trên mà gây ra đến như thế. “Thô nông” thì thần khí dễ tan, “tiến táo bạo” thì thần khí thúc gấp, “nhảy vọt” thì khí không theo thần, “hám được” thì thần bại, khí hại. Tất cả đều là hại lớn của hành công, người phạm bệnh tệ ấy rất khó cứu. Do sự sống của con người dựa cả vào việc thở hít khí, khí còn thì sống, khí hết thì chết, khí vượng thì khỏe cứng, khí tán thì bệnh tật. Chú thích: (1) Di hại: Cái hại về sau mới bộc lộ ra. Vận hành khí không đúng là đủ đưa đến có hại, không phải nói cũng có thể biết. Người tâm thô khí nổi, vận khí không đúng, làm cho khí ở vào ngã ba đường, như đi vào ngõ cụt, thế tất thành tàn tật. Nếu như tiến táo bạo, nhảy vọt, công chưa tới mà muốn gượng đạt đến chỗ trên nữa thì như đứa trẻ con lúc đầu chỉ mới có thể bước dò dẫm mà bảo nó nhảy vọt, ít có đứa không ngã. Bại liệt, điên cuồng là một loại chứng bệnh, thực chỉ do đó mà đến, không phải là do nội công không đủ tốt đã để lại di hại, mà đúng là do người luyện tập không tự xét kỹ để cho bị có cái hại ấu trĩ(1) ấy. Phàm người luyện tập nội công, đối với loại then chốt đó nếu họ có chú ý thêm thì chỉ khó với đả phá nó, chẳng khó với thành công của nó. Người ta nói rằng tham nhiều, muốn được, không những không có thể thành công mà nhẹ thì hại đến chi thể, nặng thì nguy tới mạng sống. Thiết nghĩ, đi theo con đường đó là sai với mục đích ý nghĩa của luyện công, mong người học cẩn thận. Chú thích: (1) Ấu trĩ: Non kém, chưa có hiểu biết nhiều. 4. TU DƯỠNG ĐẠO ĐỨC Mục đích của luyện tập võ công là rèn luyện thân thể cho rắn chắc, khỏe mạnh, cũng là để phòng nạn trùng, thú, trộm, cướp, không dạy người lấy việc “hiếu dũng đấu hận” cho nên thiền sư Hàm Hư có học tập võ thuật, và ông đã nói: “tôn sùng đức, không tôn sùng sức”. Ôi! tới tột cùng của đức, trơ như vàng đá cũng có thể mở ra, chui ở dưới sâu như cá lóc cũng có thể cảm động, bước đầu không nhất định phải dùng vũ lực nặng mà mới 6


gặp có thể đã làm cho người ta gập người kính phục, cho nên người học võ thuật đối với việc tu dưỡng đạo đức cũng là việc rất trọng yếu. Nếu như không giảng đạo đức mà chuyên việc võ công, tuy có đủ sức để làm cho người ta ở một thời phải cúi đầu kính nể, nhưng cuối cùng cũng không thể làm cho người ta vui lòng kính phục thành thật lâu dài mãi mãi. Cái sức đủ để uốn cong thân người ta mà không thể làm gục cái tâm người ta. Thường thấy người võ thuật công phu thâm hậu kiêm điềm đạm, có lễ, êm ái có thể gần gũi. Giả sử thấy có người bị làm nhục ở trên đường lúc đang đi, bị đánh ở nơi đông người, họ có thể nín chịu, dấu kín công phu sâu, không hành động bừa bãi để đến nỗi làm cho người khác bị tổn thương. Nếu người ấy công phu đã tinh, mà không nín chịu thì chỉ ở khoảnh khắc giơ chân đưa tay của họ đều đủ để giết người. Họ biết rằng giết người là việc mất đức, cho nên đã không làm thế. Riêng kẻ nào đó cướp được một hai thế tay, biết qua loa võ công nông cạn, là tâm thô khí nổi, giơ tay quăng chân, muốn bộc lộ rõ cái mình có thể làm. Phải nói rằng trước hết đó là việc nhỏ, quá lắm thì hiếu dũng đấu hậu. Tự mình ta đụng với người một trận quyền, thắng cũng không ích gì mà bại thì tàn thân. Nếu ngẫu nhiên thắng, ta cũng không phải chờ đến lúc chết mà sớm hay muộn sẽ có người thắng lại ta. Chú thích: (1) Thâm hậu: Sâu sắc có bề dầy. (2) Điềm đạm: Bình tĩnh nhẹ nhàng. Điều đó tục ngữ gọi là “có gậy thứ nhất lại có gậy thứ hai” là thế. Cử động ngang ngạnh thế đúng là con đường tự sát, bỏ xa mục đích ý nghĩa của võ học, lấy cái dùng hào nhoáng bề ngoài mà cuối cùng là bại ở dòng sông bẩn thỉu. Không phải võ công đó không tới mà là đức đó không tới. Cho nên tu dưỡng đức tính nên đồng thời cùng tiến với võ công. Người có phẩm chất tốt đẹp tập việc võ thì giữ thân mà xa vạ. Người có tính tình tàn bạo tập việc võ thì dẫn đến vạ, rước về cái sai, lý đó nhất định không thể khác. Xưa thấy có người đem thân học tập võ Thiếu Lâm, tăng chủ im lặng quan sát người đó thấy anh ta kiêu ngạo tự mãn, nét kiêu ngạo rất riêng khác và tiếng nói lại oang oang nhưng vẫn được ông giữ lại trong chùa. Thoạt đầu ông không dạy kỹ thuật nghề võ, hàng ngày chỉ ra lệnh cho người đó vào núi hái củi, mỗi ngày ấn định nhiều ít bó củi. Anh ta không ngần ngại, dù mưa gió, sương tuyết cũng không bỏ đứt quãng, không đủ số quy định đó thì đi lấy cả đêm, ý chí đó hơi ngược lại với người thường, chịu đựng gian khổ để dựng chí, người đó trải qua hết mọi thử thách chỉ mong lấy được kỹ thuật nghề võ, ngậm sự nhịn để đợi chờ. Trải qua 3 năm dài, khí kiêu căng được mài dần gần hết, lúc ấy tăng chủ mới dạy kỹ thuật. Đó không chỉ là tăng chủ muốn thử thách, mà đúng là nếu để cái kiêu căng rất nặng ấy học được võ công, từ sâu thẳm ông sợ rằng sẽ gây vạ ở ngoài làm ảnh hưởng tới danh dự Thiếu Lâm. Xem lại việc đó thấy người kia đã mài hết cái kiêu căng ấy mà không phải là tự tu dưỡng hết. Trong 10 điều ngăn cấm cũng có một điều giới sát (cấm giết người) và háo dũng (ham khoe sức mạnh) đấu hận (đánh trả thù). Qua việc đó cũng có thể thấy võ thuật Thiếu Lâm đối với tu dưỡng đức tính cũng rất được chú ý. Phàm người có võ thuật tinh thâm(1), ngoài việc tự thân tu dưỡng, đối với việc nhận học trò cũng cần chú ý thêm đặc biệt. Việc nhất định chọn người tính tình tốt lành mới truyền cho y bát(2), nếu người có tính tình cường bạo(3) có thể mời ra ngoài tất cả mọi cửa, như thế cũng làm cho sở học sẽ thất truyền(4) cũng không thể được. 7


Chú thích: (1) Tinh thâm: Hiểu rõ một cách tỷ mỷ sâu sắc. (2) Y bát: Áo cà sa và bát xin ăn của sư tổ đời trước trao lại cho đời sau làm tin là theo dòng chính thống. (3) Cường bạo: Dùng sức mạnh một cách ác độc. (4) Thất truyền: Mất đi sự truyền nối của dòng phái. Bởi thế sau khi chúng ta học được võ nghệ, nếu háo dũng đấu hận chắc chắn đủ để hại người, quá lắm thì lại phiêu bạt(1) giang hồ làm trộm, làm giặc, giết người, dẫm đạp lên tiền bạc, trước hết làm ảnh hưởng đến môn sư(2), cho nên phải chú ý, không thể không có quan hệ giúp nhau giữa con người và con người. Sau khi đã nhận học trò, thường ngày ngoài viêc đốc thúc luyện tập công phu ra, đối với viêc tu dưỡng đạo đức cũng nên chú ý kèm theo. Hun đúc như thế thì người ta sẽ học đến thành, nhất định không đến nỗi để họ vượt qua lẽ phải, nhảy qua thân phận của mình. Chú thích: (1) Phiêu bạt: Trôi nổi. (2) Môn sư: Cửa thầy, tên thầy. 5. QUAN HỆ CỦA HÀNH CÔNG VỚI TRỊ TẠNG Phàm người luyện tập võ thuật không kể là ở ngoại công hay nội công, đều cần lấy ngưng thần, cố khí(1) làm chủ. Muốn ngưng thần, tụ khí lại không thể không làm công dẹp trừ mọi suy nghĩ bậy, trừ bỏ mọi bệnh tật. Trị tạng(2) tức là điều trị nội tạng làm cho tạng sạch không có ngoại tà(3) xâm nhập, sau đó mới luyện tập công phu thì thần trọn vẹn, khí đầy đủ, thành công sẽ nhiều, thu hiệu quả rất nhanh. Không như thế thì khi bệnh ở trong không được trù, ngoại tà dễ vào, khi ta buông thả sẽ làm cho ngày tập không để lại dấu vết, không những không thể trông đợi vào việc tập đó có thành, quá lắm lại có thể bị nó tàn hại. Cho nên người đời thường nói: “Tập ngồi dễ thành ngu xuẩn (Bạch si), tập thổ nạp (thở khí ra, hít khí vào) dễ thành lao phổi”. Những việc tập ngồi, tập thổ nạp đều chưa thể làm trước việc điều trị nội tạng, không được lấy việc làm trước là con đường đúng. Chú thích: (1) Cố khí: Chắc chắn phần khí. (2) Tạng: 5 tạng là tim, gan, tỳ, phổi, thận. (3) Ngoại tà: Bệnh từ ngoài vào. Đến khi ngoại tà lấn vào, bệnh ở trong tăng thịnh mà thành nhiều loại bệnh lạ, cuối cùng đến nỗi có thuốc cũng không thể cứu. Phàm hành công có thập yếu (10 điều cần thiết), thập kỵ (10 điều kiêng tránh) và thập bát thương (18 cái hại) đều là then chốt cần nhất trong phép trị tạng. Luyện nội công, việc cần là ghi chắc ở tâm, giữ ý ở mọi nơi. Sau khi trị tạng đã chắc chắn trọn vẹn mới theo đúng phép hành công, lúc đó mới có thể có hiệu quả. Giờ hành công lấy Tý và Ngọ, mỗi giờ làm một lần tập là đẹp. Lấy Tý để gặp dương sinh, lấy Ngọ để gặp âm sinh, hợp hai khí âm dương trộn lại thì thành tượng (hình ảnh) của tiên thiên(1), lúc này thần của sự suy nghĩ được yên tĩnh, máy móc trong thân thể không làm việc, mọi tạp niệm(2) không có chỗ mà sinh, một khí hỗn nhiên thành công tự nó dễ dàng. 8


Quyết để trị tạng chỉ có sáu chữ là: Ha, Hư, Hô, Hu, Xuy, Hi. Hàng ngày tĩnh tọa(3), gõ răng nuốt nước bọt, niệm sáu chữ đó có thể lấy đó trừ trăm thứ bệnh của tạng phủ. Chú thích: (1) Tiên thiên: Khí của Trời và Đất vốn tự có từ trước. (2) Tạp niệm: Mọi nhắc nhở hỗn tạp trong đầu óc (3) Tĩnh tọa: Ngồi yên lặng. Riêng khi niệm nên nhẹ, tai không nghe thấy tiếng là khéo nhất, lại cần liền một hơi thẳng xuống, không được đứt quãng là hiệu quả như thần. Bài ca về hành công 6 chữ rằng (Lục tự hành công ca) Can dụng Hư thời mục tình tinh (Gan khi dùng Hư, mắt mở to tròng mắt). Phế nghi Hu xứ thủ song kình (Phổi nên dùng Hu, hai tay giơ lên cao cứng mạnh). Tâm Ha đỉnh thượng liên xoa thủ (Tim nên dùng Ha, hai bàn tay dính chéo lên đỉnh đầu). Thận Xuy bão thủ tất đầu bình (Thận nên dùng Xuy, ôm lấy hai đầu gối ngang nhau). Tỳ bệnh Hô thời tu tối khẩu (Bệnh tỳ dùng Hô, miệng chúm lại). Tam tiêu hữu nhiệt ngoại Hi ninh (Tam tiêu có nhiệt, nằm yên mà Hi). Bài ca ứng với thời hậu của sáu chữ (Ứng thời hậu ca) Xuân Hư minh mục mộc quyết can (Mùa xuân dùng Hư, mắt sáng, mộc chọn lấy gan). Hạ nhật Ha tâm hỏa tự nhàn (Mùa hạ dùng Ha, Tâm hỏa tự an nhàn). Thu Hu định thân kim phế nhuận (Mùa thu dùng Hu, đúng là lấy được phổi hành kim mềm mại). Đông Xuy thủy vượng khảm cung an (Mùa đông dùng Xuy, vượng thủy thì thận(khảm) được yên). Tam tiêu trưởng quan Hi trừ nhiệt (Tam tiêu là chức quan lớn dùng Hi thì trừ được nhiệt). Tứ quý Hô tỳ thượng hóa xan (Bốn đoạn cuối của bốn mùa dùng Hô, trên tạng tỳ, bữa ăn được tiêu hóa tốt). Thiết kỵ xuất thanh văn lưỡng nhĩ (Tất cả đều kỵ tiếng ra để hai tai nghe thấy). Kỳ công chân thắng bảo thần đan (Công ấy đúng là tốt hơn cả thuốc thần quý giá). Bài ca khen ngợi công ấy (Tán công ca) - Hư thuộc can hề, ngoại chủ mục Xích ế hôn mông lệ như khóc. Chỉ nhân can hỏa thượng lai công Hư nhi trị chi hiệu tối tốc. (Hư thuộc gan, bên ngoài chủ về mắt, Màng đỏ lờ mờ, nước mắt như khóc, Chỉ bởi cái hỏa của gan xông lên tới, Dùng Hư thì chữa cái đó rất nhanh). 9


- Ha thuộc tâm hề, ngoài chủ thiệt, Khẩu trung càn khổ, tâm phiền nhiệt, Lương tật thâm nạn dĩ Ha chi, Hầu kết, hầu sang giai tiêu diệt. (Ha thuộc tim, bên ngoài chủ lưỡi, Trong miêng khô đắng, tâm nóng bứt rứt, Chừng bệnh sâu và kéo dài lấy Ha đó, Hầu kết và lưỡi mọc mụn đều bị tiêu diệt). - Hu thuộc phế, ngoại bì mao, Thương phong khái thấu đàm các giao, Tỵ trung lưu thuế kiêm hàn nhiệt, Dĩ Hu trị chi y bất lao. (Hu thuộc phổi, bên ngoài chủ da lông, Cảm gió ho hắng, mọi thứ đờm dính, Trong mũi chảy ra nước mũi có kèm nóng rét, Lấy Hu trị cái đó thì không bị lao). Xuy thuộc thận hề, ngoài chủ nhĩ, Yêu toan, tất thống dương đạo suy, Vi vi thổ khí dĩ Xuy chi, Bất dụng cứu phương dữ được lý (Xuy thuộc thận, bên ngoài chủ tai, Lưng buốt, gối đau và liệt dương, Thở hơi ra nhè nhẹ, lấy âm Xuy ấy, Không phải dùng phép cứu ngải và bài thuốc nào khác). - Hô thuộc tỳ hề chủ trung thổ, Hung đường phúc trướng khí như cổ, Tứ chi trệ muộn trường tả da, Hô nhi trị chi phúc như cố. (Hô thuộc tỳ, chủ về trung tiêu tỳ thổ, ngực bụng trướng hơi căng như trống, chân tay mỏi mệt ruột ỉa chảy nhiều, lấy Hô trị cái đó bụng trở lại như xưa). -Hi thuộc tam tiêu trị úng tắc, Tam tiêu thông xướng trừ tích nhiệt, Đản tu nhất tự dĩ Hi chi, Thử hiệu thường hành dung dị đắc. (Hi thuộc tam tiêu trị chất lỏng úng tắc, tam tiêu thông suốt thì trừ được cái nhiệt bị chứa lại, nhưng cần lấy một chữ Hi ấy, hiệu quả này thường dễ dàng làm được). Hô suốt cả loạt bài ca trên là công trị tạng thật lớn. Tức là nếu không muốn luyện tập võ công, làm theo đúng phép này cũng đã có thể trừ được bệnh khỏe được thân. Mà người luyện tập nội công đối với việc điều lý(1). Trở lại trật tự tự nhiên vốn có) nội tạng cần phải chú ý nhất ngoài những cái bao la khác, bởi vì điều hòa tạng phủ ở bên trong thì thần trọn vẹn, khí đủ, lợi cho hành công. Nếu như tạng phủ ở bên trong không điều thì thần với khí tách rời nhau, ngoại tà dễ dàng xâm nhập mà thành bệnh bên trong, trên việc hành công sẽ phát sinh chướng ngại lớn nhất, quá lắm thì làm thành các loại bệnh lạ đến nỗi không thể cứu chữa, cho nên đưa ra phép này để dễ học tập nội công. Mới đầu bắt tay vào nội công, trước hết làm phép này mà lý nội tạng ấy để tránh và trừ mọi chướng ngại. Chú thích: (1). Lý: Trở lại trật tự tự nhiên vốn có. (Lời người dịch: Theo sách “ Châm cứu đại thành” và sách “ Quách lâm khí công” thì khi hô 6 chữ có kèm theo các con số, như Hư (8), Hu (9), Ha (7), Xuy (6), Hô (5), Hi (4), cần tìm thêm tài liệu khác để xác minh các số này có phải là số lần hô của các âm hay không?). 6. NỘI CÔNG VỚI THỞ RA HÍT VÀO Phép thở ra hít vào ở Đạo gia gọi là thổ nạp, là có ý thổ ra cái dơ bẩn, nạp vào cái trong sạch. Thở, hít là phép căng chướng hay thả trùng vùng phổi. Phế là phủ (nơi chứa giữ) của khí, khí là vua của lực. Nói đến lực không thể tách rời việc thở khí. Phế khỏe thì sức vượng, phế yếu thì sức ít, lý ấy từ ngàn xưa đã không sai, cho nên trong 10


phái Thiếu Lâm đối với việc này đã được chú ý khác thường. Đã có người bỏ hết việc, khổ công luyện tập thở hít để tăng thêm khí lực. Thiền sư Hồng Tuệ nói rằng: “Công của thở hít có thể làm cho khí xuyên suốt toàn thân, cho nên có khí kích động ở vùng ngực, sườn, bụng, đầu, làm cho người ta dùng gậy gỗ cứng hoặc sắt đành mạnh mà không thấy đau đớn, khí đi kích động như cái lưới bọc lấy thân cho nên thế”. Nhưng muốn khí đó đi kích động như cái lưới bọc lấy mà đầy cứng trong thân mình cũng không phải là việc dễ, phải khổ công luyện thở hít trên dưới một phen. Về nguyên tắc này ở phương Bắc được coi trọng tột bậc, còn người trong giới võ thuật phương Nam hình như ít chú ý. Chỉ sau khi thiền sư Tuệ Mãnh trụ trì ở Nam Trung treo bảng dạy học trò, từ đó mới truyền thuật thở hít, người học dần dần chú ý, làm cho võ thuật phương Nam cũng thường coi trọng đạo ấy. Chỉ có một việc thở hít, nhìn bề ngoài tưởng như giản tiện tột bậc và dễ làm, nhưng ở từng lúc, từng nơi đều phải xét chọn, nếu ngẫu nhiên, không cẩn thận, không những không được ích, mà ngược lại bị đủ mọi thứ hại. Thuật này giới võ nghệ hai tỉnh Hà Nam, Giang Tây đều coi là diệu pháp không gì hơn. Họ lấy thở dài hít ngắn làm bí truyền; phái Hà Nam gọi là “Đan điền đề khí thuật” (thuật nâng khí ở vùng đan điền); phái Giang Tây gọi là “Dũng tử kình” (cái thùng cứng mạnh), tên mục tuy gọi khác nhau mà thực tế thì không có nhiều chỗ khác nhau. Luyện tập thở hít cũng có nhiều điều phải kiêng tránh. Khi mới bắt đầu tập luyện, thở hít cần chậm chậm, từ từ, lấy 49 nhịp thở hít làm một định. Hít vào từ từ, không thể quá mạnh, cũng không trước thêm sau bớt. Thở hít lần thứ nhất thế nào thì đến thở hít lần cuối cùng tốc độ vẫn đúng dạng như cũ. Số nhịp bắt đầu từ 49, dần dần tăng thêm đến 81 thì dừng. Nếu như thở hít quá mạnh và thêm bớt đều là đại kỵ, đều đủ hại đến thân thể. Giờ giấc và nơi thở hít cũng rất là trọng yếu. Khoảng sáng sớm khí trong sạch, là lúc thở hít rất phù hợp. Nơi thở hít thì phải chọn nơi trống rộng, tối và yên lặng thì nhiều khí trong sạch, đồng thời khí dơ bẩn ở trong miệng thở ra cũng dễ tan mất, khí hít vào thuần trong sạch không gì so sánh được. Nếu là nơi bụi bẩn hôi tanh và trong nhà cũng đều phải tránh, ở đó khí sạch ít mà khí dơ bẩn nhiều. Mới bắt đầu thở hít, lấy mồm thở hít không có hại, đem đuổi cái ác vẩn đục ở phổi ra, nhưng chỉ lấy 3 miệng đến 7 miệng khí làm mức. Về sau nói chung dùng lỗ mũi thở hít mới có thể tránh được nạn khí dơ bẩn lẩn vào vùng phổi. Khi thở hít lại cần một hơi đến dưới cùng. Thoạt đầu có thể làm cho co nở vùng phổi, dùng để thổ (thở ra) hết khí dơ bẩn, nạp (hít vào) khí trong sạch để tăng khí lực. Nếu như hoàn toàn dùng mũi nạp khí, dùng miệng thổ khí, đó cũng là điều phải kỵ. Khi hít thở cần chuyên tâm nhất chí, không suy nghĩ vẩn vơ, tâm trí không yên. Nếu phạm bệnh ấy thì khí tán thần hao. Khí tán ở ngoài thì cái hại là nhỏ, nếu tán ở trong sẽ công dội nội phủ thì hại rất dữ dội. Cho nên mọi việc suy nghĩ phải được cấm ngăn. Nếu luyện tập được như trên thì sau khi công thành sẽ thấy gân mạch khắp người linh hoạt, xương thịt đầy chắc, khí huyết có thể theo thở hít mà đi suốt, chỗ ý đến thì khí không thể không đến, lực không thể không đến, có thể gọi là cái diệu của vận hành cực nhanh nhạy. Tuy nhiên, đó mới là kết quả ban đầu, còn hiệu quả lớn thì chưa có thể thần tốc (nhanh như thần). 7. TAM YẾU CỦA LUYỆN CÔNG Luyện tập công phu có ba hạng việc cần, không thể không biết. Ba hạng việc cần đó là “tiệm tiến, hằng tâm, tiết dục” (tiến chậm, bền lòng làm đều đặn, hạn chế ham 11


muốn). Người bình thường chưa từng luyện qua công phu thì mạch lạc, gân xương toàn thân thả lỏng tuy chẳng tới mức ngưng trệ, nhưng cũng nhất định không linh hoạt trọn vẹn so với người luyện tập võ công. Vì thế luyện tập võ công, không kể là ngoại công hay nội công là việc cần làm, ví như cày vỡ ruộng hoang. Mới đầu tập có thể đi theo từng bước chầm chậm làm cho gân xương, mạch lạc theo đó mà linh hoạt dần dần. Nếu quá vội vàng mà luyện thuật đó nhanh chóng dữ dội, dùng sức quá mạnh tất sẽ bị hại, nhẹ thì gân lạc căng chùng mất điều, huyết khí úng tích mà thành các loại hại không rõ ràng, nặng thì phủ tạng bị rung động quá mức cũng đủ để phát sinh tổn hại lớn. Thường gặp hiện tượng này ở lứa tuổi thiếu niên, do luyện tập võ công mà gặp chứng tàn tật lao thương, thậm chí bởi thế mà chết non, người đời đều quy về lỗi không tốt của võ thuật, tất cả bởi người học không biết tiến chậm từ từ. Người ta lập thân ở đời, không kể là việc gì đều phải bền lòng. Người luyện công đã được truyền phương pháp đúng, với thầy có tên tuổi chỉ bảo, lại phải có lòng bền bỉ đi trước, chăm chỉ năm giữ mới có thể thành công. Nếu như gặp khó nghĩ lùi, thấy lạ thì thay lòng đổi ý, hoặc có đầu không đuôi, giữa đường dừng đứt, đúng là ngang với không học. Có thể nói rằng trong 10 người sẽ có đến 8-9 người là thế. Riêng số người có thể chăm chỉ luyện tập cẩn thận, đầu cuối không trễ nải mà đạt tới thành công, đúng là cả trăm không được lấy một. Thế là vì sao? Bởi cái khó của võ công không dễ luyện thành chăng? Không đúng! chỉ bởi người học không bền bỉ mà đến thế. Nếu có một tấm lòng bền bỉ, không kể là người luyện ngoại công hay luyện nội công thì ba năm sẽ thành nhỏ, mười năm sẽ thành lớn, nhất định không làm người ta không được chút ít gì. Ngoài ra, có một việc làm tối khẩn yếu của luyện công mà người ta lại rất là khó tránh, tức là chữ “dục”, cái vạ sắc dục chắc chắn không kém cái hại của nước lụt và mãnh thú. Riêng nước lụt và mãnh thú người ta có thể biết rõ hướng tránh, còn ở việc sắc dục, không những không biết hướng tránh, lại được vui, do đó càng dễ bị hại sâu. Người bình thường nên lấy thanh tâm quả dục làm việc cần để giữ gìn cuộc sống, còn ở người luyện tập võ công, việc đó càng cần phải coi trọng. Luyện tập nội công vốn là muốn cho tinh, huyết, thần, khí kết tụ lại giúp nhau mà làm nên thành quả thân cứng, phách khỏe. Một việc sắc dục đúng là đủ để hao tinh huyết, tán thần khí, mà suy yếu thân thể. Khí huyết ở thân người sau khi đã qua rèn luyện thì linh hoạt dễ động, nếu như lúc đó mà phạm dâm dục thì toàn bộ tinh hoa sẽ nhất định ở vào thế như vỡ đê sóng lớn, vỡ tràn lan không sót lại, để đến nỗi không gom sửa được. Nếu như đã luyện công mà còn ham sắc dục sẽ không đủ để có ích, ngược lại không thể nói là hơn không luyện. Cho nên người tập luyện nội công, nhất định trước hết là hạn chế sắc dục, sau đó có thể thần trọn vẹn khí đủ, tinh huyết ngưng chắc chắn mà thu được cái hiệu của thành công. Ba việc đưa ra trên đây, đúng là then chốt của luyện tập võ công. Trong đời thường, ba việc ấy có quan hệ không lớn lắm, nhưng trong cửa Thiếu Lâm, các đệ tử coi ba việc đó là phép tột bậc, không dám coi nhẹ. 8. TẦNG THỨ CỦA NỘI CÔNG Thiền được phân làm tam thừa, nội công cũng phân làm tam thừa (ba bậc). - Thượng thừa là vận hóa cương nhu, điều hòa thần khí, đảm đương ý ấy khí không đi không thể được, cứng không thuần cương, trong cương có nhu; nhu không thuần nhu, trong nhu có cương; dừng yên thì một khí hỗn nhiên ngầm như vô cực, làm động cái ấy thì linh hoạt nhanh nhạy, biến hóa khôn lường, có thể vận một miệng khí lớn để đánh người ở xa ngoài trăm bước mà không chút nào không tới, không rắn nào mà không vào. Khi gặp địch, địch tuy mạnh mẽ cũng không thể chống đỡ. Tạm thời bị thương không biết đến vết thương là gì, trượt ngã không biết đến ngã là gì, đúng như 12


con thần long uốn đẹp, du hành khó lường, có thể thấy cái khéo của đầu mà không thấy cái khéo của đuôi. Chắc chắn là vận dụng tay chân không nhất định, ngay từ bước đầu có thể chế được người. Công phu loại đó là tối cao trong nội công. Kiếm tiên ngày xưa do có thể vận khí đúc kiếm, ở trong vòng trăm bước lấy mạng người như lấy vật ở trong túi sâu. Đã là công ấy, công phu bậc ấy, cao sâu đã cực độ không được chân truyền nhất định là khó luyện được. Mà vận khí như thế cũng không phải một, hai năm có thể thành, tới tình thế ấy phải tốn công vất vả, trải qua hết mọi thử thách mới có thể được như mong muốn, phếp ấy ở ngày nay tuy không thể gọi là hoàn toàn thất truyền, nhưng không phải ở đâu cũng còn thấy có, đúng là khôn dễ thấy. - Đến trung thừa thì công phu hơi kém hơn, nhưng cũng có thể cương nhu giúp nhau, động tĩnh vì nhau, thần khí ngưng kết.Tuy không thể vận khí để đánh người nhưng cũng có thể lấy thần đưa vào khí, lấy khí vận sức, làm cho khí ấy đi khắp toàn thân, no đầy trong mạc; khí là chất vốn nhu, vận thì thành cương để có thể chống đỡ giặc ngoài. Không những quyền đánh cước đá cũng không có thể hại, mà là dùng rìu búa, chùy lớn để đánh trẻ cũng không đủ gây tổn thương người ấy chút xíu. Công phu bậc ấy trong cửa Thiếu Lâm có thể rất nhiều mà ngày nay cũng khó thấy, công phu bước ấy tuy không đủ để chế người, nhưng chống đỡ giặc ngoài thì có thừa. Võ thuật vốn vì cứng thân và để phòng nạn mà luyện tập, ngoại tà cũng không thể xâm, sống khoẻ cũng có thể hết thời gian trời định, thế cũng đã đủ, tại sau nhất định phải cầu được cái phép chế người. Công phu trung thừa đó tuy có thể tự tập, xem lại cho tinh xảo đó, nếu không được danh sư chỉ bảo cũng không dễ lãnh ngộ được. Khi luyện tập, ít nhất cũng phải sáu bảy năm. Nếu người thiến tính ngu dốt, hoặc người thể nhược lắm bệnh thì khó khăn nhiều hơn, không thể chỉ tổn hao sáu bảy năm đó. - Đến ở hạ thừa thì không những không đủ để vận khí đánh người, tức vận nhu thành cương dùng để chống đỡ giặc ngoài cũng cảm thấy không đủ, nhưng có thể đem thần khí hợi hợp vận hành ở nội phủ và có thể tới được trong mạc của gân bắp. Công hiệu đó là cầu điều hòa nội phủ trăm bệnh không sinh, cứng thân kéo dài tuổi để hưởng cái vui trong cảnh sống lâu mạnh khỏe. Công phu bước đó có thể cầu ở trong phép trị tạng, khi luyện tập cũng hết sức giản tiện, chỉ cần nắm vững và làm bền bỉ là có trông đợi thành công, chắc chắn không nhất định phải rườm rà đan xen như của luyện tập thượng thừa và trung thừa. Khoảng chừng ba năm là có thể thấy hiệu quả. Mà công phu bước một ấy đúng là bước đầu vào tay nội công, là muốn luyện tập công phu trung thừa hoặc thượng thừa, cũng đồng thời phải làm trị trị tạng, bởi vì nội phủ không sạch, ngoại tà đột nhiên xâm phạm vào là đủ để phát sinh nhiều loại bệnh tật, người có bệnh muốn làm nội công, đúng là việc không thể, khí tán thần hại, nhất định khó sử dụng. Nếu không trước hết khử bệnh làm cho thần khí đầy đủ trọn vẹn, chắc chắn không được. Phép trị tạng đó là phương pháp phóng to cái cái sạch sẽ ở nội phủ, phương pháp cực diệu để trừ hết bệnh tật. chăm làm cẩn thận, công hiệu rất lớn, lại rất thần tốc. Cho nên người luyện tập nội công nên kiêm trị tạng. 9. CỬA ẢI KHÓ KHĂN CỦA LUYỆN TẬP NỘI CÔNG Bất kể là luyện tập loại công phu nào, nhất định phải trải qua một vài cửa ải khó khăn, nhưng ở nội công khó khăn sẽ nhiều hơn. Muốn vượt qua được những khó khăn đó dứt khoát không phải là việc dễ. Còn ở ngoại công chuyên nặng ở luyện tập thực lực, cửa ải khó khăn sẽ dễ qua. Nội công thì nặng ở lấy khí đi lực, mà nghiêng ở trong mạc của gân bắp, cho nên nhiều cửa ải khó khăn mà không dễ vượt qua. Mới bước đầu tập luyện, khi tập phép 18 tay La hán quyền, thường cảm thấy khó khăn là thân không theo tay, tay không ứng với thân, không sai ở rất mạnh thì sai ở rất lỏng. Nhưng nếu 13


chăm chỉ luyện tập và khi đã tập thuộc thì tự thân và tay theo nhau, tâm và tay hợp nhau, không nhất định phải vòng quanh lần mò sửa chữa lặt vặt, cửa ải đó có thể không phải tiến đánh mà nó tự bị phá. Kịp thời tiến lên mà luyện phép ngũ quyền thì động tác của thân và tay chắc chắn sẽ ngang với tâm, hợp với ý, không thể đến nỗi lại phát sinh khó khăn như trước, dễ cảm thấy sức đến mà khí không đến, khí đến mà thần không đến, chúng mất sự liên lạc đó mà không thể hô ứng giúp nhau. Xét về điểm chủ yếu của luyện quyền pháp ta thấy quán lực là lực xuyên suốt, ứng khí đi thì khí đi, một cái nhìn hợp mà đi, tâm trí chuyên nhất (tập trung), lâu dài về sau cũng dễ công phá mọi trở ngại. Đến bước thứ ba là luyện tập tiền bộ dịch cân kinh, nhất định cần khí và lực cùng đi, không chỗ nào không tới. Bắt đầu tập, thường thường chỉ có lực đến mà khí không đến, nhất định cần lấy ý đưa vào thần, lấy thần đưa vào khí làm cho dần dần có thể cùng đi. Của ải đó đúng là tới không dễ, không trải qua danh sư chỉ bảo với cái tâm hiểu biết và không tự mình nghiên cứu, rõ ràng không thể làm công. Tiến thêm bước nữa là luyện tập hậu bộ dịch cân kinh, cái khó lại càng nhiều. Bởi lẽ, một vật là khí, vận hành ở trong phủ mà có thể theo ý đến nơi đã là không dễ, nay lại muốn khí đó đi ở khoảng mạc gân, lạc mạch nghe theo ý mà đi lại không nơi nào vước tắc, việc đó không khó mà lại khó. Bước luyện tập đầu tiên là bước luyện khí lưu hành nội phủ, đợi sau khi ở nội phủ lưu hành hoạt động, thì tiến lên mà luyện tập khí đi suốt ở khoảng mạc gân. Nguyên tắc chung của công phu này là không ngoài tám chữ lấy “Thần đưa vào khí, lấy khí đi lực”. Tuy nhiên, khi luyện tập phải có danh sư chỉ bảo từng bước mới thấy rõ hết. Phàm người luyện tập nội công, nếu vượt qua được một lớp cửa ải khó khăn rồi thì con đường lớn trước mặt sẽ sáng sủa. Dân gian thường nói: “Trên đời không việc khó, chỉ sợ người dụng tâm”, nghĩa là không kể việc khó thế nào, chỉ cần dùng tâm để cầu, tất có thể trông mong ở sự thành công. Người luyện tập nội công cũng tựa như thế, trong đó tuy có nhiều cửa ải khó khăn, nhưng có thể nắm giữ lấy lòng bền, chăm làm không lười, lại tính danh sư chỉ bảo khêu gợi, thì sau thời gian dài tập luyện, các cửa ải khó khăn đó cũng sẽ vượt qua và đạt tới thành tựu đỉnh cao. Nếu sợ khó mà ngập ngừng không tiến, hoặc chí lập không chắc thì cửa ải khó khăn đó khó lòng vượt qua được và mãi mãi không có ngày thành công. Việc đời phần nhiều đều như thế cả, chắc chắn không chỉ có luyện tập nội công mới như thế. 10. NGƯỜI LUYỆN VÕ CẦN GIỮ ĐIỀU NGĂN CẤM & CÓ LÒNG YÊU NƯỚC Trong cửa Thiếu Lâm đối với một việc giới ước (ngăn cấm, hạn chế) rất là coi trọng. Phàm người luyện tập võ công, nhất định phải tuân thủ giới ước, nếu có vi phạm sẽ bị đuổi ra khỏi sơn môn, không nhận làm để tử Thiếu Lâm. Giới ước của Thiếu Lâm bắt đầu lập ra từ thời Giác Viễn Thượng nhân, tất cả có mười điều, được nói về đạo đức và kỹ thuật, đi sâu vào ý nghĩa mục đích của cửa Phật, dựa theo cõi đời thẳng đến “ngọc sáng đổi mới”. Từ khi người Mãn vào làm chúa ở Trung Quốc, dòng dõi quý tộc đã lâu đời buồn rầu vì sự chìm đắm của cố quốc, họ muốn mưu kế diệt Thanh phục Minh nên đã theo nhau trốn vào Thiếu Lâm. Trong đó có Trương Nhất Toàn đã làm lại mười điều giới ước, thề tuân thủ chung. Hạng giới ước đó so với thời của Giác Viễn thượng nhân đúng là khác nhiều, bởi vì ông Giác ấy riêng một cái thiện làm chủ cái thân, còn ông Trương thì lấy hết mình vì tổ quốc làm chủ. Giới ước đó có: 14


- “ Người học tập nghiệp thuật kỹ kích Thiếu Lâm, nhất định cần lấy khôi phục Trung Quốc làm ý chí, sớm tối chăm chỉ tu, không một chút lười biếng. Và: Hàng ngày sớm dậy nhất định phải đến trước minh tổ làm lễ kêu xin, rồi sau đó luyện tập kỹ thuật, đến chiều khi quay về giường ngũ cũng như thế không được đứt quãng. Và: Mã bộ trong kỹ thuật Thiếu Lâm, nếu khi diễn tập đã lấy lùi sau ba bước, lại tiến về trước ba bước, gọi là đạp cung trung, biểu hiện ý nghĩa không quên tổ quốc. Và: Phàm khi diễn tập quyền giới (quyền và vũ khí) của phái Thiếu Lâm, trước hết nên nâng tay làm lễ riêng khác với các nhà khác. Các nhà khác thì bàn tay trái duỗi, bàn tay phải nắm (tả chưởng hữu quyền), với tay ngang lông mày. Tông của ta thì hai bàn tay làm kiểu móng hổ, để hai mu bàn tay dựa vào nhau ngay ngắn ngang với ngực, dùng để biểu thị phản đối tộc Hồ, lòng để ở Trung Quốc. Xem mọi điều trên đây, ta có thể thấy mục đích của luyện tập là diệt thanh Phục Minh. Cho nên đầu đời Thanh, phái Thiếu Lâm đã có đủ tinh thần cách mạng của nòi giống, bởi thế số điều giới ước kể trên đều chỉ ra vì quốc gia cả. Còn nói về cá nhân người luyện võ thì có: - Phàm thuộc Tông phái Thiếu Lâm, nên rất thành thực, thân ái, cứu trợ giúp nhau như anh em, như tay chân, người quay lưng lại điều ấy đã được coi là phản giáo. - Và: Nếu ở lúc du hành, gặp người nhất định đòi đọ tài, trước hết giơ tay làm lễ kiểu như trên. Nếu quan hệ cùng phái, tất hòa hảo với nhau. Nếu thuộc về tông phái ngoài đã không biết như thế thì tùy cơ mà động. Chủ yếu là tự giữ thân, không thể đánh nhau để làm hại họ. - Và: Khi truyền dạy cho học trò (môn đồ) thì nên tuyển chọn cẩn thận. Nếu học trò là những người trung nghĩa, thật thà, lương thiện, thì hết lòng truyền dạy kỹ thuật cho họ. Tóm lại là nên chọn người mà dạy tất cả không được coi nhẹ để lộ bí mật. - Và: Chí khôi phục sơn hà là mục đích thứ nhất của tông phái; còn một hơi thở, chí đó không dễ để rơi mất. Nếu không biết điều đó có thể gọi là Thiếu Lâm ngoại gia. - Và: Giúp nguy phù nghiêng, nhẫn nhục độ thế, đã ăn cơm mặc áo cửa Phật, tự mình phải lấy từ bi làm chủ, không thể dựa vào thế mạnh mà khinh thường kẻ yếu. - Và: Tôn sư trọng đạo, kính người lớn, yêu bạn, trừ tham, khử bậy, giới dâm, kỵ hận. Người nào không tuân thủ, sẽ bị đông người cùng phạt. Nhìn chung các điều giới ước kể trên, ở việc nước, ở việc mình đều có gắn chặt. Phàm con em đã ở trong cửa Thiếu Lâm, đều phải tuân thủ mười điều giới ước. Nếu ai đó không tuân thủ, phạm nhẹ thì đuổi ra ngoài mọi cửa, nặng thì có thể đánh phạt. Từ xưa truyền tới nay không học võ thuật Thiếu Lâm thì thôi, nếu học võ thuật Thiếu Lâm, ở một việc giữ giới ấy cũng coi là một công việc cần duy nhất. 11. LUYỆN CÔNG TẤT CẦU DANH SƯ Học tập võ công muốn chắc, muốn sâu, muốn nắm được hết cái tinh hoa của nó, dứt khoát phải có danh sư chỉ bảo, cho nên giới võ thuật rất tôn trọng đối với thầy truyền, nguyên nhân là ở đó. Quyền pháp ngoại công đã là như thế, cho nên một phép nội công thì hơn rất nhiều. Ngoại công quyền pháp là việc nông rõ rệt, tuy người ngoại môn không thể tự ngộ, nhưng một lần trải qua nói rõ, nhất định có thể hiểu cả. Riêng công phu nội tráng, lý ấy cực sâu, lại ẩn tối lạ thường, nếu là người ngoại môn phái không thể tự thăm dò ở chỗ ảo diệu đó mà phải trải qua thầy truyền chỉ bảo. Nếu đã trải qua thầy truyền chỉ bảo mà công phu tự mình chưa tới cũng không dễ thấy rõ ràng. Cho nên nội công đối với thầy truyền càng là trọng yếu kể từ khi bắt đầu vào tay đến lúc thành công mới thôi. Ở trong thời gian này không thể một ngày xa rời thầy truyền, sự 15


chỉ bảo của thầy truyền cũng cần từ từ, dần dần mà vào, đi từng bước một, không thể trong thời gian ngắn đã nghiêng thúng đổ hòm để ra. Giới võ thuật nước ta (Trung Quốc), hướng phân hai phái Nam Bắc, thử một việc xem xét tình hình đó, thì Bắc phái thịnh hơn Nam phái. Ta chẳng đợi nói, mà suy nghĩ nguồn gốc xưa, người Bắc đối với việc tôn trọng thầy truyền đúng là tới tột bậc. Người phương Bắc cầu được danh sư, hoặc đến ở trong nhà, hoặc theo người ấy hầu hạ, nhất định tới khi tròn đầy công trình mới rời nhau. Từ đầu đến cuối thường thường trải qua hơn mười năm bền bỉ không lười nhác, tự có thể truyền hết tài ấy, được hết cái bí ấy mà tạo cái thành lớn. Và người phương Bắc thường thường sau khi thành tài nghệ còn du lịch bốn phương làm cử chỉ tìm thầy hỏi bạn, nghe có danh sư không xa ngàn dặm thì tìm cầu để hy vọng được chân quyết (Lời quyết đúng nhất). Cuối cùng có hết đời theo hơn mười thầy lâu dài để lấy mỗi cái chuyên lớn của mỗi nhà, không như thế thì không thể tìm được. Trong Nam phái thì đơn giản hơn thế, lại thịnh hành dựng xưởng để quản thúc, để thời gian cực ngắn mà dạy người ta lấy một số ít thủ pháp ứng dụng, phu diễn, đó là việc đã xong, đó là lấy ngôn công. Cũng không qua cắm vào cát, đánh vào yên ngựa bàn tay không biết đau đớn, không đủ để lấy những cái khác. Nhưng nói chung trong võ học, việc cầu danh sư là tối cần thiết, nếu theo thầy không tốt thì để lại cái nhầm lẫn suốt đời. Cho nên cầu thầy, hơn hết nhất định cầu danh sư mới có thể chỉ bảo uốn nắn tỷ mỷ, mới có thể có hiệu quả “thăm dò ngựa đen được ngọc” (1). Việc đó đúng là một việc cực khó, khắp cõi đời danh sư chắc chắn không nhiều lắm, người già nói: “hiệu pháp hồ thượng, cần đắc hồ trung, vu mang mang nhân hải trung”. (Phép có kết quả là ở trên hết, chăm chỉ thì được ở giữa biển người mênh mông). Muốn cầu một thuật đạt tới thượng thừa, mà tìm người có thể làm thầy ta chẳng dễ dàng gì. Thuật quyền cước ngoại công, người thầy có thể có nhiều, cầu lại dễ, nếu nội công đã đạt tới tinh áo sâu xa, không phải người thường có thể nhìn ngó con đường tắt tới cửa đó, người thầy phải là cực giỏi, muốn cầu hạng danh sư đó, thật là vô cùng khó, chỉ bởi vì ngày xưa hạng tinh áo sâu xa này lại không tiếp nhận thầy không có danh tiếng làm việc chỉ bảo giải thích. Người không như thế, chỉ nghiên cứu trong sách vở, tuy có thể được cái hời hợt, nhất định khó được tinh túy đó, mà vận khí sai lầm đúng là nhiều nguy hại, không như loại phép quyền cước ngoại công giản tiện dễ học, có thể trong sách vở tìm kiếm được cái thực dụng đó. Cho nên người luyện tập nội công Thiếu Lâm, ngoài việc tu dưỡng tinh tường cẩn thận, lại cần chú ý chọn người thầy truyền, sau đó mới có thể tuần tự mà tiến để có thể thành lớn. Chú thích: (1). Một thành ngữ cổ 12. NỘI CÔNG QUAN HỆ VỚI NGỒI THIỀN (1) Việc ngồi thiền, không kể Đạo gia. Thích gia đều coi là phép tắc cực trọng yếu. Ở Đạo gia là nội quan (nhìn bên trong), luyện thai tức của đạo trường sinh, ở Thích gia là thiền định, tu làm công minh tâm kiến tính, tuy chí thú khác nhau, đúng là khác nguồn mà cùng quả. Người ngồi thiền, đúng từ trong tĩnh để cầu bộ máy được tự nhiên. Nho gia cũng từng nói: “ Tĩnh mà sau có thể định, định mà sau có thể an “. Có thể thấy một chữ tĩnh này là cái diệu của công. Người luyện tập nội công, vốn ngược lại với ngoại công, ngoại công đều làm công phu từ trên chữ động, nội công tự phải ngộ diện mục đích ý nghĩa ở trên chữ tĩnh, chỗ ấy gọi là lấy nhu khắc cương, lấy tĩnh chế động là đúng.

16


Người ta sống ở đời này sự vật vốn đã rất nhiều mà tán loạn, tình cảm nhiều lớp mà không thuần, thanh sắc(2) đánh phá ở ngoài, yêu ghét vây ở trong, bộ máy tự nhiên đó dần dần bị che mờ mà đến bị tiêu diệt, ở khi đó mà muốn trừ bỏ thất tình (bảy thứ tình cảm: Hỉ, nộ, ái, ố, ai, bi, khủng) đó, tránh xa lục dục(3), đưa mọi thứ việc tham, sân, si, ái mà cắt đứt đi, ngược về gốc trở lại nguồn (phản bản hoàn nguyên), làm cho tứ đại đều không, tam tướng cùng mất, lục căn thanh tịnh(4), việc đó không khó mà lại khó, nếu không vất vả làm tu trì(5), sao có thể đạt đến đó. Người ngồi thiền đã để cho mất đi diệu pháp của bộ máy, cho nên Đạo gia, Thích gia đều coi trọng, mà người luyện tập nội công phải coi trọng hơn hết ở lúc vào tay. Then chốt chủ yếu của nội công chắc chắn là chủ ở ba việc: Ngưng thần, liễm khí, cố tinh. Nếu tâm như gương sáng, không nhiễm hạt bụi, một niệm chẳng sinh, một niệm không diệt, thì thần tự ngưng, khí tự liễm, tinh tự cố. Nếu như trong tâm tạp niệm đưa vào tán loạn, yêu ghét nổi lên rồi mất đi thì thần hao, khí tán, tinh bại. Ba thứ thần, khí, tinh đó nếu muốn gom giữ lại, không mượn sức ở ngồi thiền sẽ không thể được. Chú thích: (1). Ngồi thiền: Còn gọi là Đả tọa, là Tọa vong (ngồi quyên). (2). Thanh sắc: Sắc đẹp và lời hát của người đàn bà. (3),(4). Những thậu ngữ của nhà Phật nói về nội dung tu và kết quả tu. (5). Tu trì: Giữ việc tu đều đặn, thường xuyên. Người nội công, chắc chắn lấy phép nhu chế cương, lấy thái độ yên lành mà khắc cái bạo động của kẻ địch. Muốn được cái yên đó, nhất định trước hết phải có thể định, muốn được cái định đó, nhất định trước hết phải có thể tĩnh, muốn được cái tĩnh đó, thì phải ngồi thiền mới đạt kết quả. Từ đó mà xem thì một phép ngồi thiền trong nội công chiếm địa vị trọng yếu, chắc chắn chẳng đợi trí giả mới biết. Ở nơi trần tục, muốn quên mọi tưởng niệm vốn không dễ dàng, cho nên lúc mới vào tay ngồi thiền ý niệm ấy nhất định không thể đạt ngay tới cảnh dừng tĩnh, do không tránh khỏi cái lo nhiễu loạn mà nhất định phải bày ra phép để đuổi trừ, quên niệm làm cho tâm cảnh sáng suốt mà sau đó có thể tới dứt cảnh do nhiễu loạn gây ra. Chú thích: (1). Còn gọi là Đả tọa, là tọa vong (ngồi quên). (2). Sắc đẹp và lời hát hay của đàn bà. (3). Những thuật ngữ của nhà Phật nói về nội dung tu và kết quả tu. (4). Những thuật ngữ của nhà Phật nói về nội dung tu và kết quả tu. (5). Giữ việc tu đều đặn thường xuyên. Phép đó như thế nào ? Tức tự nhìn là được. Người xưa gọi người ngồi thiền nhất định phải có đủ ba cái nhìn. Ba cái nhìn là: Mắt nhìn mũi, mũi nhìn mồm, mồm nhìn tâm. Ở khi ngồi thiền, nhất định tụ họp ý của người ta vào ba cái nhìn đó, sau đó mọi tạp niệm có thể từ từ tự lánh xa. Ta nói không nhất định niệm ba cái nhìn đó, có thể là niệm A di đà phật, hoặc một, hai, ba, bốn…đều có thể được. Sở dĩ cần làm như thế là muốn ý chí tập trung lại, không sinh tạp niệm, không nhất định là ba cái nhìn. Hoặc là ba cái nhìn ấy đều có pháp lực gì ? Đó chẳng qua là một loại phương pháp khi mới vào tay và tới tâm ý chắc dần, tạp niệm tự nhiên đi xa, mà đạt ở cảnh tự nhiên. Sau khi công phu đã sâu, không những tạp niệm không có cớ để sinh là ta đã tự mình đuổi đi vỏ cứng của mình, cũng ngoài ý của xếp đặt, mà đạt tới cảnh vật và ta đều quên, là cực tĩnh dứt. Làm công tới đó 17


thì cái “lợi “ và cái”dục” không đủ để động cái tâm ấy, “vinh nhục” không đủ để nhiễu cái chí ấy, đã có sự sáng suốt nơi tâm, cái “thú” đó “tự thích”. Ngày xưa luyện tập nội công nhất định trước hết phải vào tay từ ngồi thiền để cầu cái tĩnh ấy, lại ở trong tĩnh cầu động, là làm động thật (chân động), cứng thân khỏe phách(1) khí đi như cầu vồng, tuy không thể bay lên giữa ban ngày, cũng không thể để cho bệnh tà, hoặc kẻ ngoài dễ dàng gây hại. Chú thích: (1). Phách: Vía. 13. PHÉP TẮC CỦA NGỒI THIỀN Việc ngồi thiền lấy tĩnh làm quý, có thể mở ở tĩnh thất, bày ra giường thiền là hay nhất. Hình thức của giường thiền đại khái như một cái ghế ngồi không có chỗ tựa, vuông mà rất to, vuông chừng hai thước rưỡi (chừng 1 mét), đều lấy ván gỗ chế thành, nó cầm rắn chắc, nếu không có phòng thừa làm tĩnh thất thì làm ở trên giường ngủ cũng được, chỉ lấy gỗ trải lên là đẹp, nếu dùng đệm bông, lót bằng đệm day móc có đàn hồi thì khi ngồi thiền không tránh khỏi bệnh gù, lệch nghiêng một bên, cho nên chỉ hợp với dùng ván gỗ. Hàng ngày vào các buổi sớm tối ngồi một lúc, lúc không phải là quá lâu, chầm chậm tăng thêm dễ thu được đúng hiệu quả. Khi ngồi không đụng nhau, không nắm giữ thở hít, nhận theo một sự tự nhiên ấy. Cột sống nên ngay ngắn, miệng nên ngậm khít, hàm răng nên cắn nhau, lưỡi nên liếm dừng ở vòm hàm trên, hai bàn tay nắm nhẹ, đặt ở dưới đan điền. Ngổi có phân làm bán già, toàn già. Bán già tức là một đùi vòng tròn ở dưới, lấy riêng một đùi vòng tròn đặt ở trên cách rất đơn giản dễ làm (còn gọi là đơn bàn). Toàn già thì theo đúng cách bán già, đem bàn chân ở dưới ngược lên, đặt lên trên mặt đầu gối trên, làm cho hai lòng bàn chân đều hướng lên mặt, mà hai đùi thì giao chéo kết lại thành một bó (kiết già, song bàn), cái ấy so với bán già thì khó làm hơn. Vị trí của tay cũng có hai loại: Lấy ngón tay cái bàn tay trái nắm nhẹ ngón giữa, mà ngón cái tay phải cắm vào trong hố khẩu tay trái, để ngón cái và ngón trỏ tay phải nắm nhẹ gốc ngón nhẫn tay trái, gọi là ấn “Thái cực đồ”. Hoặc hai lòng bàn tay đều ngửa đặt chồng lên nhau là ấn “Tam muội”. Ngồi thụt xuống ngưng thần, trước hết từ trong miệng thổ ra một miệng khí dơ bẩn, lại từ mũi hít vào khí trong sạch, để bổ cho đan điền thở khí ra. Khi thở thì hơi nhanh, khi hít thì hơi chậm, khi thở cần thở hết. Sau ba thở, ba hít như thế, khí trong nội phủ thổ ra hết trọn vẹn, sau đó lại chính thức hành công. Khi mới vào tay, nhất định có tạp niệm vây quanh tâm, cái đó dễ trừ đi. Phương pháp niệm A di đà phật hoặc một, hai, ba, bốn, để tự chặt yên cái thần suy nghĩ đều được. Lâu dài về sau công phu đã sâu thì tâm cảnh tự nhiên sáng suốt, lại không cần như thế nữa. Khi ngồi nên thanh thần quả dục, thu liễm thân tâm. Sáng sớm hành công, bởi ban đêm tĩnh định là tĩnh trong động. Buổi tối hành công, bởi ban ngày lao động mà tập định tĩnh, đúng là động trong tĩnh. Nắm giữ đều như thế là làm động tĩnh có thường, âm dương sinh nhau. Phật gia tọa thiền đều dùng phép song bàn (toàn già, kiết già), gân lạc toàn thân được khẩn trương (căng khít), thân thể dễ dàng ngay thẳng, mà thu hiệu rất rộng rãi. Khi ngồi có nhiều cái cần, không thể không biết: - Một là còn nghĩ ngợi, tức là còn muốn niệm tĩnh định mà tâm mờ, tâm trừ diệt. - Hai là vòng tròn chân, là theo đúng phép ngồi chân vòng tròn ngồi thụp xuống. - Ba là tiếp xúc bàn tay, để hai bàn tay đặt tiếp xúc nhau che ở đan điền. 18


- Bốn là bắc cầu, là lấy lưỡi liếm vòm hàm trên làm cho sinh ra nước bọt (sinh tân). - Năm là buông rèm, nhắm mí mắt lại, giữ hơi hé mở một ít. - Sáu là giữ đan điền, tức là ý còn giữ ở đan điền, mà không rời. - Bảy là hòa hợp nhịp thở, là điều hòa hơi thở, làm cho liền liền không đứt. Biết bảy điều cần đó là hết phép của tọa thiền. Ngoài phép ngồi đó ra lại còn có cách ngồi gọi là ngũ tâm triều thiên, đúng là thuộc về phép ngồi trong cửa đạo, có phép ngồi Quan âm, ngồi Kim Cương, là phép riêng ở trong Thiền môn, tùy tính tình của người mà cải biến, ta yêu phép ngồi nào thì ngồi cách ấy, chắc chắn không gò bó ở định kiến, riêng cuối cùng là lấy phép ngồi song bàn (kiết già – toàn già) làm chính tông. Thời gian ngồi lấy bắt đầu vào tay là một khoảng nấu bữa ăn, sau đó tăng thêm dần thẳng đến nửa thời gian kể trên là dừng, có thể ngồi lâu dài đến như thế thì tâm cảnh lắng đọng hết, mọi tạp niệm không có cớ mà sinh, mọi tà ma không có cớ mà vào, là minh tâm kiến tính, có thể quay về chính giác. 14. NGŨ QUYỀN CỦA NỘI CÔNG THIẾU LÂM Nội công Thiếu Lâm ước có thể phân phép luyện tập ra làm 3 bước. Ở lúc mới vào tay, nên trước hết luyện ngũ quyền. Ngũ quyền là năm phép long, hổ, báo, xà, hạc. Từ đời Lương, Đạt Ma thiền sư truyền trước là mười tám tay quyền La Hán, sau này thẳng tới thời Kim, Nguyên, có Bạch Ngọc Ngạn cắt tóc vào núi, chỉnh lý kỹ thuật Thiếu Lâm, đã nghiên cứu thêm, từ mười tám tay mà tăng đến một trăm hai mươi tám tay. Ở trong phép một trăm hai mươi tám tay đó, lại phân làm ngũ quyền long, hổ, báo, xà, hạc. Ý của ông Bạch cho rằng một thân người ta có tinh, lực, khí, cốt, thần đều cần phải rèn luyện thêm, làm cho chúng giúp nhau mà dùng. Từ mức mới đầu đến mức thượng thừa, cái tinh không luyện không chắc, lực không luyện không cứng, khí không luyện không tập trung, cốt không luyện không rắn, thần không luyện không ngưng. Ngũ quyền là phép để luyện tinh, lực, khí, cốt, thần. Cho nên đầu tiên làm ra năm thức đó, làm cho nội ngoại cùng tu mà đạt tới cảnh biến đổi. Long quyền luyện thần. khi luyện tập không cần sử dụng ngoại lực, chỉ cần thầm lặng đưa vào trong khí làm cho đi đến đan điền mà khắp thân hoạt bát, hai cánh tay thì trầm tĩnh không động, làm cho lòng bàn tay và lòng bàn chân thước tấc hợp nhau, đó gọi là “ngũ tâm tương ấn”. Luyện đi như thế, lúc công thành, như con rồng thần đi trong khoảng trống, linh hoạt tự tại. Hổ quyền luyện cốt. Xương ở trong phần khô của thân xác, chiếm vị trí nơi chịu đựng rất nặng, xương nếu không rắn, thì khí lực tự nó không có chỗ thực hành. Cho nên nhất định dùng hổ quyền để luyện. Khi luyện cần vận khí đủ toàn thân, làm cho thắt lưng và lưng trên thật rắn, cánh tay và bắp đùi rắn chắc khỏe mạnh, sức của nách đầy đủ, nâng lên thả xuống có thế, mắt trợn lên, cổ cứng, hai bàn tay giống như móng hổ, giống như thế mãnh hổ ra khỏi núi. Báo quyền luyện lực. Báo là loài vật, thân thể hùng vĩ và hình dáng, uy vũ của nó đều không bằng hổ, mà sức thì hơn hẳn hổ, lại có vùng thắt lưng, thân rắn cứng hơn hổ, cho nên nhảy vọt giỏi hơn hổ, lấy cái đó mà luyện lực rất là hợp. Luyện tập cách của báo, việc nên làm là bàn tay nắm khít lại, năm ngón tay như móng sắt, câu thép, toàn thân nên dùng mã bộ ngắn mà giơ lên thả xuống, mà kích động sức toàn thân. Phép bậc đó thì lại có tên là Bạch báo quyền, là lấy hình giống như con báo trắng. 19


Xà quyền luyện khí. Xà là loài vật, đi đi lại lại uốn mềm, từng đốt từng đốt linh hoạt vọt lên. Khí ở trong thân người cũng quý ở nuốt vào, nôn ra, co gập lại, giơ lên. Lấy trầm tĩnh, nhu chắc làm chủ là chưa tìm được như con vật đó. Nếu như không có sức tới mức giống như là con vật đó thì khí đó thu liễm, sẽ hơn hẳn dũng phu (người khỏe). Người luyện xà quyền, chính là đã làm cho khó giống như con rắn dài đi lại từng đốt, từng đốt nhanh nhạy thông nhau. Khi luyện quyền đó, lấy mềm thân mà ra, cánh tay trơn, thắt lưng nhanh nhạy, hai ngón tay bày ra thành đôi với nhau, giơ lên thả xuống mà đẩy ấn, để giống như lưỡi của miệng rắn, lại gập gãy quay trở lại, có ý đi là đi, có ý dừng là dừng, luyện cương làm nhu, chỗ gọi là hành khí như cầu vồng tức là thế. Hạc quyền luyện tinh. Hạc là loài vật, tuy thuộc loài cầm lông vũ, xem lại thì tinh đủ thần trọn vẹn, mà sẽ được hưởng tuổi lớn. Thân người ta thì vật rất trọng yếu cũng là chỉ có tinh thần. Khi luyện quyền đó, nên ở giữa hoãn và cấp. Ngưng tinh đúc thần, thả lỏng cánh tay vận khí. Chỗ gọi là thần khí hợp nhau là tâm và tay hợp nhau (tương ấn). Năm loại quyền kể trên, nếu có thể luyện đến cảnh tinh thuần thì tinh chắc, sức cứng, khí tụ, xương rắn chắc, thần ngưng. Năm thứ hợp nhau giúp nhau hóa trộn, là cái dụng đó diệu không thể kể hết, nếu như để đàn áp người, thì chỉ một khoảng giơ tay, một khoảng đưa chân là làm cho khẻ địch ngoan cường cũng có thể gãy gục, lại ra dáng vẻ nhẹ viết nhạt mà cũng chẳng cần hết hình, tận tướng. Mục đích ý nghĩa kỳ diệu ở trong đó có thể lấy tâm ngộ mà không thể dùng lời truyền, tất cả là ở người học ra công khổ luyện, dùng tâm suy cho sáng tỏ. 15. PHÉP LUYỆN TẬP NGŨ QUYỀN Ngũ quyền là năm hình long, hổ, báo, xà, hạc. Trước vừa bàn rõ về cái đó, riêng phép luyện tập nó do chưa thuật tới, nay lại phân tiết nói rõ hơn. Mỗi loại hình dáng quyền pháp, trong đó lại phân làm nhiều tiết nhỏ, như trong hổ quyền thì có hắc hổ thí trảo (hổ đen thử móng) và hắc hổ tọa động (hổ đen ngồi trong động) là các loại hình thức. Hạc quyền thì có bạch hạc lượng xí (hạc trắng cao cánh), dã hạc tầm thực (hạc hoang tìm ăn). Chắc chắn không chỉ có năm loại thành pháp. Nay đem các phép phân ra miêu tả ở sau để tiện học tập. HỔ QUYỀN 1- Hắc hổ thí trảo (hổ đen thử móng) Hai chân phân mở, gập hai đầu gối mà dìm thân trên xuống, đạp thành mã bộ. Bàn tay phải đặt tiếp ở thắt lưng, lòng bàn tay hướng xuống, dùng sức ấn xuống. Bàn tay trái thì đẩy ra hướng phải. Thân trên cũng xoay tròn theo hướng phải tới chéo về phía trước làm mức. Đầu và thân cùng hướng, trố mắt nhìn về phía trước (xem hình 1). Hơi dừng chốc lát, lại theo phép trên làm hướng bên trái.

20


Hình 1 2- Hổ chưởng bà phong (bàn tay hổ gãi gió) Hai bàn chân phân mở, làm mã bộ như thức trên. Bàn tay trái làm như móng hổ, từ bên trái phía dưới nâng lên, lòng bàn tay trái hướng ra ngoài, vận sức ngón tay kéo lôi ra hướng trái. Đồng thời bàn tay phải từ cạnh phải ngang cánh tay giơ lên, bàn tay ngược hướng lên đến ngang lông mày thì gãy cẳng tay hướng vào, ngón tay làm móng hổ giống như dáng cào cái đai của vật trở lại. Thân hướng ngay phía trước, đầu lệch ở bên phải. Trố mắt nhìn bàn tay phải như hình 2. Hơi dừng một lúc, lại như phép này làm về hướng bên trái.

Hình 2 3- Ngạ hổ tầm dương (hổ đói tìm dê) Chân trái hướng về bên phải đạp tiến một bước. Đồng thời toàn thân xoay hướng sang phải, hai cánh tay kéo theo cạnh sườn thẳng lên, lòng bàn tay hướng về phía trước, khi tới ngang vai thì hướng trước từ từ ép xuống làm giống như móng hổ đập con vật rơi xuống đến ngang thắt lưng thì gập khuỷu và dùng sức ngón tay lôi kéo về hướng sau. Đồng thời thân trên thì thăm dò ra hướng trước. Bàn tay kéo đến khoảng sườn làm mức, như hình 3. Thăm dò như thế rồi lùi, rồi lại thăm dò và lùi ba lần thì dừng.

21


Hình 3 4- Hắc hổ tọa động (hổ đen ngồi trong động) Trước hết hai chân phân mở làm mã bộ. Bàn tay trái từ dưới phía trước bẻ lên, làm như cấu vật đưa lên đến trên đầu thì dừng. Bàn tay phải từ chỗ thắt lưng trái đưa lên, hướng về phía phải kéo mở làm giống như xé vật, đến phía trước vú bên phải làm mức. Vùng mông thụp xuống. Thân trên hơi ngửa về phía sau. Đầu lệch sang phía phải như hình 4, hơi đừng một lát, rồi lại như phép trên làm ở hướng trái một lần.

Hình 4 5- Mãnh hổ thân yêu (hổ mạnh duỗi lưng) Trước hết phân mở hai chân làm mã bộ. Hai bàn tay đồng thời hướng lên trên vai phải giơ lên. Bàn tay trái thì từ trước trán chao qua trước hướng về bên trái kéo mở đến phía ngoài vai trái thì dừng. Bàn tay phải thì từ cạnh bên kéo về đến trước ngực làm mức. Trong khi hai bàn tay kéo về, chân phải duỗi thẳng. Thân trên rời về hướng trái và gãy. Đầu lệch về bên phải, mắt nhìn lên như hình 5. Hơi dừng một lát, lại như phép trên hướng về bên trái làm một lần.

Hình 5 6- Bạch hổ thôi sơn (hổ trắng đẩy núi) 22


Trước hết dùng chân trái đạp đất đẩy người về bên phải thành thế cung tên (tấn chữ đinh). Hai bàn tay từ phía trước nâng lên đến trước vai, đồng thời xoay ra hướng trước, sau đó dùng sức hai bàn tay từ từ đẩy ra hướng trước. Thân trên thừa thế ưỡn thẳng, đến khi cánh tay thẳng thì dừng, toàn thân hướng về bên phải. Mắt nhìn đầu chót ngón tay như hình 6. Thực hiện ba lần đẩy, ba lần lùi như thế là dừng.

Hình 6 BÁO QUYỀN 1- Kim báo định thân (con báo vàng thân ổn định) Hai chân đứng chụm lại xoay tròn hướng bên phải. Toàn thân xoay đến phương chéo bên phải làm mức. Hai bàn tay nắm quyền (nắm quyền cần rất khít). Trong khi xoay thân, vận sức từ từ gấp khuỷu nâng lên đến ngang thắt lưng thì dừng. Lòng bàn tay hướng xuống, miệng quyền chấm vào thắt lưng. Đầu hơi ngửa lên cao. Mắt nhìn hướng lên như hình 7. Hơi dừng một lát, sau đó quay lại vị trí ban đầu. Lại như phép đó hướng về phía trái làm một lần.

Hình 7 2- Địa bồn tư triết (xé gãy chậu đất) Trước hết đem hai bàn tay giao chéo ở trước bụng, tay trái ngoài phải trong thành hình chữ thập chéo. Hai chân phân mở đạp thành mã bộ. Hai cánh tay trong lúc đó hướng về phía trước xoay ngược lên đến nơi ngang dưới ngực trên rốn, khi lòng bàn tay hướng về trước mặt, thì đem hai bàn tay dùng sức phân mở hướng về hai bên cạnh giống như cào ở một vật, như để xé rách, bàn tay trái ở trước rốn, bàn tay phải ở trước 23


ngực. Thân hướng phía trước ngay ngắn như hình 8. Hơi dừng một lát, lại thay đổi hai tay làm lại một lần.

Hình 8 3- Báo tử xuyên nhai (con báo đi xuyên mé núi) Trước hết đem chân phải đạp đất bước sang phải một bước. Thân trên cũng theo hướng phía phải, làm thành cánh cung bên phải của mặt bên phải, chân trái thẳng như mũi tên bên trái. Đồng thời bàn tay phải nắm quyền, từ dưới nâng lên che thắt lưng, lòng bàn tay hướng lên, miệng quyền hướng ra ngoài, bàn tay trái cũng nắm khít tay quyền, gãy cổ tay làm cho lòng bàn tay hướng về phía trước. Sau đó gập khuỷu đưa quyền lên cao, đến ngang vai thì dừng. Thân trên đại khái nghiêng về hướng trước. Mắt trố ra nhìn quyền bên trái, lúc đó lòng bàn tay của quyền bên phải đã hướng vào trong như hình 9. Hơi dừng một lát, sau khi trở lại vị trí ban đầu, lại như phép trên làm một lần hướng chân cung bên trái, chân tên bên phải thẳng.

Hình 9 4- Báo tử lộng cầu (con báo chơi đùa với quả bóng) Trước hết đem chân phải đạp đất bước một bước về hướng bên phải. Chân phải khuỵu gối, chân trái thẳng phải. Đồng thời bàn tay trái năm ngón tay mở ra, duỗi ra đến trước mặt, quay ngược lòng bàn tay ra hướng ngoài, sau khi duỗi thẳng thì dùng sức hướng vào khéo trở lại, bàn tay cũng nắm lại thành quyền, khi đến cạnh sườn thì dừng lại. Đồng thời đem bàn tay phải mở năm ngón tay duỗi ra đến mặt bên cạnh, lòng bàn tay hướng về sau, từ từ họp ngón tay lại ép xuống, khi đến bên ngoài thắt lưng thì nắm bàn tay quyền lại bẻ lên hướng trên phía trước, (như nắm ở một vật, giống như nâng gẫy hướng trước). Mắt nhìn quyền bên phải như hình 10. Hơi dừng một lát rồi trở lại vị trí cũ. Lại như phép trên làm hướng bên trái một lần. 24


Hình 10 5- Kim báo triều thiên (báo vàng chầu trời) Trước hết đem chân phải đạp đất bước hướng sang phải một bước. Thân trên theo đó xoay chuyển, chân phải thành cánh cung khuỵu gối, chân trái thành mũi tên thẳng. Hai cánh tay đồng thời mở căng hướng sau. Hai bàn tay thì để lòng bàn tay hướng ra ngoài, hướng sức đi ra phía sau, khi đến cực độ, lại nắm quyền gãy cổ tay làm cho lòng bàn tay hướng vào trong, dùng sức đẩy lên hướng trên, quyền và cẳng tay tiếp sát nhau, quyền ngang ở đỉnh đầu. Đầu hơi ngửa lên, Mắt nhìn vào đôi quyền như hình 11. Hơi dừng một lát, sau đó trở lại vị trí cũ. Lại như phép trên làm về hướng bên trái một lần.

Hình 11 6- Kim báo trực quyền (báo vàng quyền thẳng) Trước hết đem chân phải đạp đất bước sang bên phải một bước, chân phải thành cánh cung khuỵu gối, chân trái thành mũi tên thẳng. Toàn thân ngay thẳng hướng phía phải. Trong lúc xoay thân, hai bàn tay nắm quyền. Hai cánh tay từ hai bên giơ lên, ngang vai thì dừng. Lòng bàn tay hướng về phía trước, hổ khẩu hướng lên. Tới đó lại đem quyền bên phải hợp vào hướng trong, đến khi tay thẳng ở phía trước thì dừng. Lúc này quyền bên trái cũng gấp hợp vào hướng nơi vai phải, đến mỏm vai thì dừng, như hình 12. Hơi dừng một lát, trở lại vị trí cũ rồi lại như phép trên làm hướng bên trái một lần.

25


Hình 12 LONG QUYỀN 1-Song long trạo vĩ (đôi rồng vẫy đuôi) Trước hết đem hai chân phân mở ra.Thân trên ngồi xuống, làm thành kiểu cưỡi ngựa. Trong khi thân trên chìm xuống thì chụm hai bàn tay ở dưới khít ngón tay, gãy khuỷu nâng lên hướng trên,đặt ở đúng ngực giống như hòa? nam. Sau đó phân mở bàn tay từ từ hướng về hai bên đẩy ra đến khi hai cánh tay thẳng ngang thì dừng. Phép đó lực cần dừng ở gốc bàn tay mà xuyên suốt ở đầu chót ngón tay.Thân hướng ngay ngắn phía trước. Đầu hơi lệch về bên phải. Hơi dừng một lát, thả bàn tay rơi xuống. Lại làm nối theo một lần nữa, động tác cũng giống thế như hình 13. Riêng vùng đầu hướng về phía vai trái.

Hình 13 2- Kim long hiến trảo (rồng vàng biểu diễn móng) Trước hết đem hai bàn chân phân mở ra hai bên thành thế giống như cưỡi ngựa. Hai cánh tay thì từ bên trái và bên phải gập khuỷu nâng lên làm cho cẳng tay cánh tay và đầu thành một hình chữ sơn ( ), lòng bàn tay hướng trước. Sau khi hơi dừng một chốc lát thì dùng sức gập ngón tay làm giống như móng rồng.Đồng thời đem cẳng tay hướng phía trước ép xuống.Khi bàn tay đến trước vai hơi dừng một lát rồi tiếp tục đưa hai cánh tay căng sang hai bên, cùng với hai bàn tay và cẳng tay, ngược lại hướng sau, đến phái ngoài hai đầu chót vai thì dừng lại. Các vùng thân và đầu đều ngay ngắn hướng về phía trước như hình 14. Ba lần nâng, ba lần thả rớt xuống như thế thì dừng.

26


Hình 14 3- Bạch long hồi đầu (rồng trắng quay đầu lại) Trước hết chân phải đạp đất bước về hướng phải lên trước một bước, thành chân phải thành cánh cung hơi khuỵu gối, chân trái thành mũi tên thẳng. Thân cũng theo đó mà xoay chuyển. Bàn tay phải duỗi thẳng phía sau. Bàn tay trái thì chéo về phía dưới hướng sau làm giống như nhặt vật lên. Hơi dừng một lát, bàn tay trái giơ lên chéo hướng trên. Bàn tay phải thì làm giống như cào vật gãy khuỷu thu trở về. Đồng thời vươn thẳng chân phải, gập chân trái xuống. Thân trên cũng nghiêng chéo hướng bên trái. Đầu lệch về phía phải. Hai mắt nhìn lên như hình 15. Hơi dừng một lát. Sau khi quay lại vị trí cũ. Lại như phép trên làm một lần về hướng bên trái.

Hình 15 4- Long khí hoành giang (khí của rồng ngang sông) Trước hết bước chân phải về phía phải một bước. Hai bàn tay giao chéo nhau ở trước thân bụng, tay trái ngoài tay phải trong. Lại từ từ đưa thân xoay tròn sang hướng phải, biến thành chân phải thành cánh cung khuỵu gối chân trái thành mũi tên thẳng. Đồng thời đưa bàn tay trái quay ngược lại phân ra hướng sau, còn bàn tay phải thì xoay lòng bàn tay hướng lên, đưa từ dưới lên cao lấy đầu nhọn ngón tay ngang lông mày làm mức. Thân trên hướng ngay ngắn phía phải, hơi ngửa về phía sau. Mắt nhìn đầu chót ngón tay phải như hình 16. Hơi dừng một lát. Sau khi quay trở lại vị trí ban đầu, lại như phép trên làm hướng phía trái một lần.

27


Hình 16 5- Bàn long thám trảo (long xoay tròn xem móng) Trước hết đưa chân phải bước sang hướng phải một bước. Thân theo đó xoay đều, làm thành chân phải hình cánh cung hơi khuỵu, chân trái thành mũi tên thẳng. Thừa thế đem bàn tay trái nâng lên đặt ở khoang thắt lưng, lòng bàn tay hướng về phía trước. Ngón tay đều chuyển cong lại. bàn tay phải thì nâng đến giữa vú, đẩy ra phía trước đến thẳng cánh tay thì dừng. Hơi dừng một lát, tiếp đó tay phải kéo về đặt ở khoảng thắt lưng, đồng thời bàn tay trái đẩy ra phía trước. Sau đó đem thân xoay sang hướng trái. Theo đúng phép làm lại một lần là dừng. Ở hình vẽ 17 là của thế lần thứ nhất.

Hình 17 6- Du long thoái bộ (long đi chơi lùi bước) Trước hết đem hai chân phân mở sang hai bên, làm kiểu cưỡi ngựa. Bàn tay trái giơ ngang ở bên cạnh. Lòng bàn tay hướng trước. Bàn tay phải đặt ở bên trái thắt lưng, lòng bàn tay hướng vào trong. Thân trên hơi nghiêng về bên trái. Sau đó đem bàn tay trái gập ngón hướng chéo xuống ngăn lại đến phía trước bên phải thắt lưng làm mức, lòng bàn tay hướng vào trong. Bàn tay phải thì đồng thời giơ lên chéo hướng trên, lòng bàn tay hướng trước. Đùi trái thừa thế duỗi thẳng. Thân trên thì nghiêng hướng phía phải. Hình 18 là thuộc về hướng bên trái của thế đã định.

28


Hình 18 XÀ QUYỀN 1-Bát quái xà hình (hình rắn tám quẻ) Trước hết đem hai chân phân mở sang hai bên. Thân trên ngồi xuống, làm kiểu cưỡi ngựa. Thân hơi lệch phải. Bàn tay trái gập cẳng tay, đặt ở dưới rốn. Bàn tay phải gập cẳng tay, đặt ở trên rốn. Sau đó đem thân trên từ từ xoay sang hướng trái. Tay trái ở dưới gẫy cổ tay xoay lên trước mặt đến đúng ngực thì dừng, lòng bàn tay hướng ra ngoài. Bàn tay phải thì từ trong ấn hướng đi xuống đến phía trước bụng thì dừng, lòng bàn tay hướng xuống. Thân trên lệch chéo bên trái như hình 19. Hơi dừng một lát, lại như phép trên làm lại một lần, thân xoay hướng phải.

Hình 19 2-Bạch xà thổ tín (rắn trắng nôn ra tin tức) Trước hết đem hai chân phân mở sang hai bên, thành kiểu cưỡi ngựa. tay trái gấp cẳng tay đưa lên đặt trên đầu gối trái, gấp ngón tay út và ngón nhẫn, bàn tay phải thì chao đến phía trái, đưa lên hướng phải phân đi, cũng gấp hai ngón tay.Đồng thời thân trên hướng bên trái ngồi xuống đến cực độ. Sau đó lại đem thân dời đến hướng phía phải.Tay phải gập cẳng tay đặt trên đầu gối, còn tay trái nguyên gập trước đây thì hướng về phía trái phân đi.Thân lệch về bên phải. Đầu hơi cúi xuống. Hai mắt thì nhìn đầu nhọn ngón tay trái. Hình 20 trên biểu thị chỗ đó. Lại hướng về bên trái định thế.

29


Hình 20 3- Độc xà hoành lộ (rắn độc ngang đường) Trước hết đem hai chân phân mở ra hai bên, đạp thành kiểu cưỡi ngựa. Bàn tay trái duỗi thẳng ngón trỏ và ngón giữa đi tìm về phía phải. Bàn tay phải cũng gập cẳng tay dựng đứng lên, phóng ở phía ngoài vai. Thân trên nghiêng về phía phải. Sau đó đem bàn tay trái từ trước mặt phân ngang sang bên trái đến ngoài vai thì gập khuỷu co về. Bàn tay phải thì đồng thời đẩy qua hướng trái phóng ở trước bàn tay trái, thẳng vai làm mức. Đầu lệch về bên phải kiểu như hình 21 trên. Hơi dừng một lát, lại như phép trên làm hướng bên trái một lần.

Hình 21 4- Lưỡng xà phân lộ (hai con rắn phân nhau đường) Trước hết đem hai chân phân mở sang hai bên. Bàn tay trái đưa đặt ở phía trước bên phải thắt lưng. Bàn tay phải thì duỗi thẳng ngón trỏ và ngón giữa, gập cẳng tay đưa lên, lòng bàn tay hướng vào trong, đầu ngón tay ngang với mũi. Sau đó đem thân xoay tròn về hướng phải, chân đạp thành chân phải hình cánh cung cong chân trái thành mũi tên thẳng. Bàn tay trái thì dùng sức từ từ đẩy ra phía sau. Bàn tay phải thì gãy cổ tay chỉ ra hướng trước. Toàn thân hướng về bên phải. Mắt nhìn đầu ngón tay phải. Kiểu như hình 22 trên. Hơi dừng rồi xoay thân về hướng trái như phép trên cũng làm một lần.

Hình 22 5- Bạch xà bàn thử (rắn trắng vòng lấy chuột) 30


Trước hết đem hai chân phân mở ra hai bên hai bàn tay đều thẳng, ngón trỏ và ngón giữa gập cẳng tay mà đặt ở trước ngực. Thân trên xoay tròn về hướng phải. Hai chân đạp thành chân phải hình cánh cung cong, chân trái thành mũi tên thẳng, bàn tay trái thì từ trước mặt chao về hướng phải chỉ ra. Lòng bàn tay về hướng trước, đầu ngón tay hướng bên phải. Thân trên xoay đến bên phải phía sau làm mức. Sau đó đem bàn tay trái thu về đặt ở trước thắt lưng. Bàn tay phải từ trước mặt chao qua chỉ ra. Thân theo đó xoay đến phía trước bên phải thì dừng. Kiểu như hình 23 trên. Hơi dừng lại xoay thân về hướng trái, như phép trên làm một lần.

Hình 23 6- Độc xà thủ động (rắn độc giữ động) Trước hết đem hai chân phân mở sang hai bên, đạp thành kiểu cưỡi ngựa. Đem thân trên hơi xoay về hướng phải. Hai bàn tay đồng thời đẩy đi về hướng phải chéo lên. Thân cũng tìm về phía trước. Sau đó tay trái rơi xuống theo nơi cũ, đặt ở trước đầu gối trái. Bàn tay phải thì ở trước mặt từ từ ép xuống hướng phía chéo xuống đến trên mặt bàn tay trái là dừng. Thân trên cũng dời xoay về hướng trái, ngồi xuống cực độ. Đầu lệch bên phải nhìn lên. Kiểu như hình 24 trên. Hơi dừng lại như phép trên sau đó làm lại một lần.

Hình 24 HẠC QUYỀN 1-Bạch hạc lượng xí (hạc trắng cao cánh) Trước hết đem bàn chân trái từ phương gốc bước về hướng trước nửa bước. Với bàn chân phải phía sau thì bước thêm về phía trước một ít. Đồng thời đem hai tay gập, cẳng tay bẻ lên, phóng ở phía ngoài hai vai. Đầu ngón tay hướng lên trên, lòng bàn tay ra hướng ngoài. Sau đó đem mũi bàn chân hơi hơi nhấn lên. Hai bàn tay thì đồng thời hướng trái phải phẩy xuống, đến cánh tay thẳng làm mức, mà hai lòng bàn tay thì hoàn toàn không thay đổi hướng. Thân và đầu đều hướng về trước mặt. Kiểu như hình 25 trên. 31


Hơi dừng một lát, tay chân trở lại vị trí cũ. Lại lấy chân phải đạp về phía trước như phép trên mà làm.

Hình 25 2- Dã hạc tầm thực (hạc hoang kiếm ăn) Trước hết đem chân trái bước ra hướng phải một bước. Thân trên theo đó mà xoay tròn, đến ngay phương phải đạp thành chân trái thành cánh cung, chân phải thành mũi tên thẳng. Hai bàn tay thì duỗi thẳng ba ngón cái, trỏ, giữa, gập hai ngón còn lại, gập cẳng tay nâng lên. Trước là đem bàn tay trái hướng xuống làm giống như cào vật. Sau đó chân phải đạp tiến một bước, thu tay trái về, đổi dùng tay phải hướng xuống làm như cào vật. Thân trên nghiêng về phía trước mắt nhìn nơi trên. Kiểu như hình 26 trên. Hơi dừng một lát, trở lại vị trí cũ. Lại như phép trên, làm về hướng bên trái một lần.

Hình 26 3- Hùng hạc loát linh (hạc trống rỉa lông) Trước hết đem hai chân mở sang hai bên. Hai bàn tay đều duỗi thẳng 3 ngón cái, trỏ, giữa mà gập hai ngón còn lại. Gập cẳng tay nâng lên đặt ngang ở phía trước mỏm vai, lòng bàn tay hướng xuống. Lại xoay thân hướng trái. Bàn tay trái thuận thế, duỗi đi về hướng phía sau. Bàn tay phải ấn xuống đến trước vú bên trái. Sau khi toàn thân hướng về bên trái, thì hơi dừng một lát, sau đó xoay thân hướng phải. Bàn tay phải theo đúng phép duỗi ra. Bàn tay trái thì thu về đặt ở phía trước vú phải toàn thân dời về phía trước bên trái. Đầu lệch về bên phải. Mắt nhìn đầu ngón tay bên phải. Kiểu như hình 27.

32


Hình 27 4- Trưởng cao độc lập (đứng một mình cao lớn) Trước hết đem hai bàn tay gập hai ngón út và nhẫn, duỗi thẳng ba ngón cái, trỏ, giữa, nâng lên hướng trước, khi đến ngang vai thì phân mở hướng hai bên phải trái, đến khi thành hình chữ nhất thì dừng. Lòng bàn tay hướng xuống. Ở lúc bàn tay làm động tác, chân phải gập gối nâng lên hướng trên, đầu gối đạt tới ngang bụng. Sau đó lại đem hai bàn tay gập cẳng tay lại từ phía dưới chao chéo lên, nâng lên trước vai. Kiểu như hình 28 trên. Hơi dừng một lát, trở lại vị trí cũ. Lại nâng chân trái lên, như phép trên làm như thế.

Hình 28 5- Hạc trảo ấn sa (móng hạc in trên cát) Trước hết đem toàn thân xoay hướng phía phải. Chân phải đạp tiến phía trước một bước, dùng riêng đầu ngón chân chấm đất, và không đạp thật. Tay trái thì từ phía dưới dùng sức hơi gập của cẳng tay đưa lên hướng trên, tới ngang trước mặt thì dừng, lòng bàn tay hướng trước. Bàn tay phải thì từ phía bên cạnh gấp cẳng tay đưa lên đến phía ngoài vai, sau đó hướng về phía trước đẩy ép mà xuống, khi bàn tay đến ngang vú thì dừng, lòng bàn tay hướng xuống, khuỷu tay hơi gấp. Đầu hơi ngửa về phía sau. Kiểu như hình 29 trên. Hơi dừng một lát, trở lại vị trí cũ. Lại như phép trên làm hướng sang trái một lần.

33


Hình 29 6- Lãnh hạc thủ mai (hạc bị lạnh giữ cây mai) Trước hết đem thân thể xoay chuyển về hướng phải. Hai bàn tay đều gập ngón út và ngón nhẫn, mà duỗi ba ngón cái, trỏ, giữa theo đúng phép trưởng cao độc lập. Hai cánh tay từ bên cạnh nâng cao lên đến khi thành hình chữ nhất thì dừng. Chân phải đồng thời gập gối nâng lên hướng trên, đầu gối cao tới vú. Sau đó đem hai bàn tay từ bên cạnh thu vào ôm lấy đầu gối, tay phải ở ngoài, tay trái ở trong. Kiểu như hình 30 trên. Hơi dừng một lát, trở lại vị trí cũ. Lại xoay hướng phía trái, nâng chân trái lên, thực hiện như phép trước một lần nữa.

Hình 30 16. NỘI CÔNG THIẾU LÂM VÀ DỊCH CÂN KINH Nội công trong cửa Thiếu Lâm lấy hai kinh: Dịch cân, Tẩy tủy làm tối tinh thuần. Kinh Tẩy tủy vốn là nhà tiên lấy ý thay lông rửa tủy. Cái đó cao sâu áo diệu, vượt cao hơn mọi võ công, không dễ lãnh ngộ, mà bản gốc đó đã sớm thất truyền. Thế gian đã có sách đó, nhưng đều là người sau này sưu tập ở ngoài và có sự phụ họa thêm vào mà thành, ví như nhổ củ cải bỏ vào buồng chứa sâm, chắc chắn không biết cái đó có thể thu hiệu quả ra sao. Riêng kinh Dịch cân trong cửa Thiếu Lâm, do nhiều cách truyền cũng chưa mất hẳn. Riêng với bản khắc ở thế gian, đúng, sai còn chưa khẳng định. Người ngày nay nói về Dịch cân kinh lại phân làm Ngoại công Dịch cân kinh và Nội công Dịch cân kinh, cũng là nói một cách khiên cưỡng. Người ta thử khảo nghĩa của mệnh danh đó thì có thể biết Dịch cân kinh chỉ có một kinh, không có nhiều chỗ chứa sự phân tích nhấn mạnh. Dịch nghĩa là thay đổi, Cân là gân mạch. Nói Dịch Cân là nói đến sự biến đổi bỏ đi cái nguồn dẫn đến suy nhược vô dụng của gân mà thay đổi làm cho gân có sự rắn cứng hữu dụng. Cũng là nói sau khi luyện tập công ấy, có thể biến đổi gân xương làm cho cứng rắn hữu dụng. Từ đó nhìn lại, thì công hiệu đó đã cùng tên với dịch cân. Mà công phu của dịch cân thuộc về ở nội công trong cửa Thiếu Lâm, lại không được phân 34


định gò ép. Đó đúng là người đời không biết xem xét tỉ mỉ nghĩa của tên gọi đó, mà quên phân tích thêm. Tôi được biết, một kinh Dịch Cân đúng là truyền từ Chấn đản sư tổ Đạt Ma thiền sư, toàn bộ có 24 đoạn, được phân làm hai bộ tiền hậu. Bộ tiền đó rất dễ luyện tập, là bí quyết của nhập môn, bộ hậu đó rất là tinh áo đã làm thành công qua con đường đó. Người ngày nay không biết, đều lấy bộ tiền làm ngoại công Dịch cân kinh, và lấy bộ hậu làm nội công Dịch cân kinh, đúng là nhầm to. Lại có người nói ngoại công Dịch cân kinh có 12 đoạn là phép làm thông tới ngày nay, nội công Dịch cân kinh có 24 đoạn nay đã thất truyền, mà không biết là tổng cộng tiền hậu chỉ có 24 đoạn. Sau khi luyện thành bước công phu đó, là vào trung thừa của nội công, có thể vận nhu thành cương để chống đỡ sự hỗn láo bên ngoài, chỗ gọi là dịch cân, không thật sự có thể làm cho kinh lạc của cơ thể con người tự biến đổi trở thành gân cứng rắn, mà chỉ sau khi luyện công phu đó lâu ngày thì có thể làm cho gân xương đó rắn cứng, thắng ở lúc đi luyện như thoát thai đổi xương. Kinh tẩy tủy ta không thấy được, kinh Dịch cân thì không chỉ thấy bản đó rất nhiều, mà đã từng học tập việc đó, ở cùng ấp với tiên sinh Tưởng Cận Vi, người đã được chân truyền ở vị sư già Thiếu Lâm, lại có giữ bản thật. Bản ấy do Tôn Kiểu Khê đã từng mượn đem về sao chép lại chính chỗ tinh áo đó. Bản thân ông có nhiều bệnh, sau khi luyện tập một năm tuy chưa thể biến từ người đàn ông mềm yếu làm thành người con trai khỏe mạnh nhưng đã tránh xa bệnh chết, thân thể bình yên, do có sự chăm chỉ tập luyện ở giai đoạn trước đây, điều này có thể chứng tỏ công phu này đúng là có đủ công hiệu tuyệt lớn. Nghe Tiểu Khê nói: Tiên sinh Cận Vi có thể vận khí ở toàn thân, ông thường bảo người ta lấy dao sắc đâm chém mà không thể bị thương, chỉ riêng đánh tránh vào tai, mắt và hai má tai. Công phu đó đều từ trong Dịch cân kinh mà luyện được. Đây lại có thể chứng tỏ Dịch cân kinh có thể lấy chống đỡ đao thương mà không phải là nói suông. Bản khắc của ông Tưởng và bản khắc ngoài phố có chỗ giống và chỗ khác nhau. Hiện nay người ta đã lấy bản đó làm bản khắc. Để không có sự nhầm lẫn, xin nhắc lại lời của Tiểu Khê để cho người học thức ở đời biết rằng: "Dịch cân kinh chỉ phân hai bộ tiền hậu, để tiện cho người luyện tập được tiến dần dần và đều thuộc ở trong nội công Thiếu Lâm. Thực không chỗ nào gọi là phân ra nội công, ngoại công, nếu không thì lại gượng ép phân riêng phái, ta không dám để lại sự đùa cợt ở tai người hiểu biết". 17. PHÉP LUYỆN TẬP TIỀN BỘ DỊCH CÂN KINH Bộ Dịch cân kinh này bày ra các phép, tức là cái mà dân gian truyền đây là ngoại công Dịch cân kinh. Cộng có 12 đoạn, mỗi đoạn có động tác khác nhau, mà mỗi cái có chỗ diệu của nó. Nên ở lúc sáng sớm và chập tối, ở nơi rộng rãi thoáng sạch, theo đúng phép luyện tập, đợi sau khi làm xong 12 đoạn, lại từ đoạn thứ nhất luyện trở lại, hết vòng thì trở lại từ đầu, mỗi buổi sớm tập luyện ba lần. Sau một năm, thì từ người tinh thần yếu đuối có thể cấp tốc phấn chấn, người tinh thần khỏe vượng thì thực lực tăng thêm, thần trọn vẹn khí đủ, đúng là có cái diệu thay xương đổi gân. Nhưng cần làm đều hàng ngày liền nhau. Nói chung không thể có chút đứt quãng. Nếu như lười bỏ không chăm, quyết không thể hẹn thời gian thu hiệu quả. Đoạn thứ nhất Mắt hướng về phía Đông mà đứng. Hai chân phân mở, khoảng giữa cách nhau chừng một thước mở rộng ngang. Nơi đặt bàn chân, cần chú ý ngón và mu bàn chân cùng một phương hướng. Nói chung cấm đứng thành hình chữ bát. Ngưng thần điều hơi thở, bỏ đi tạp niệm. Kích động khí ở bụng, không làm cho chạy đi tiểu tiện. Vùng đầu hơi cao hướng trên, miệng nên ngậm khít. Hàm răng tiếp nhau. Đầu lưỡi liếm cong lên ở vòm trên. Hai mắt mở to nhìn hướng trước, tròng con mắt cần yên một chỗ 35


(định), không thể hơi có mở khép (chớp mắt). Sau đó đem hai bàn tay gãy cổ tay ngang lên, làm cho lòng bàn tay hướng xuống. Đầu ngón tay hướng trước. Lại từ từ gập qua loa khớp khuỷu, đem bàn tay hơi nâng lên một chút đến hơi dưới vùng thắt lưng làm mức. Riêng hai bàn tay tuy nâng lên, mà khí lực của hai cánh tay tất cần đi xuống giống như ấn xuống bàn nhảy thân lên. Sau khi hơi dừng quãng giữa, mới đem mười ngón tay vận sức giơ nâng như cong đuôi chim hướng trên, mà gốc bàn tay thì vận sức nhấn xuống. Khi làm phải cực từ từ. Sau khi đến cực độ lại dừng quãng giữa một chốc lát, lại buông ngón tay xuống, nâng gốc bàn tay lên, trở về như cũ. Như thế một bay lên, một ấn xuống là làm một lần. Chầm chậm làm bốn mươi chín lần là hoàn tất công phu đoạn thứ nhất. Cần im lặng ghi nhớ đoạn này, ấn đó gọi là thế "Hỗn nguyên nhất khí" tượng của tiên thiên. Một giơ nâng như cong đuôi chim, một nhấn xuống, được bộ máy hoạt động. Dừng quãng giữa quán khí, được tĩnh định. Động tĩnh vì nhau mà âm dương phân mở, vạn vật sinh ra. Cho nên các đoạn từ đây trở xuống, đều từ kiểu đó mà hóa sinh. Khi làm nên để thần trọn vẹn đi xuyên suốt ở khoảng lòng bàn tay và ngón tay, không thể rời nhau. Sau lâu ngày thì theo thần đến mà vận ở trong, lực do khí sinh mà đi ở ngoài. Trong ngoài hợp nhau mà vượt qua tất cả. Nếu như thần khí phân tán, lực không chuyên chú, phải là đại kỵ. Khi hai bàn tay nâng lên, nhất định không thể quá đến trên thắt lưng, không thì chẳng những không được thêm, mà còn tổn ở gân xương. Cẩn thận cái đó (xem hình 31).

Hình 31 Đoạn thứ hai Sau khi làm đoạn công phu trước đã xong thì đem khí lực thu lên trở lại trạng thái đứng gọn bình thường, làm cho gân xương toàn thân thư giãn, để tránh cái tệ quá mệt. Thời gian thư giãn nghỉ ngơi đó thì không hạn định nhất định. Khi làm đoạn thứ hai, Trước hết đem hai chân chụm lại, toàn thân đứng ngay ngắn. Kích động thì ngậm miệng. Cao đầu mở to mắt nhìn, hoàn toàn giống với đoạn thứ nhất. Hai bàn tay thì đem ngón tay gập chuyển thành nắm quyền, riêng ngón cái duỗi thẳng. Lúc đó nắm quyền cực lỏng, không thể dùng sức. Sau khi nắm quyền đã yên thì đem dời quyền đặt ở mặt trước của đùi. Lòng bàn tay với mặt đùi dán vào nhau. Hai ngón tay cái thì xa xa nhằm vào nhau. Tới đó sau khi hơi dừng giữa chừng một lát, thì đem từng ngón tay cái của bàn tay cong như đuôi chim lên hướng trên để đến hết mức. Đồng thời bốn ngón còn lại của bàn tay thì dùng sức nắm khít, việc dùng chọn vẹn sức, mà sức của hai cánh tay cần đi xuông nhất định không chút nào nâng lực khí (đề kình). 36


Sau khi hơi dừng chốc lát, hai ngón tay cái thì từ từ buông xuống, các ngón còn lại cũng từ từ mở lỏng ra, để trở lại hình dáng cũ. Hai cánh tay thì nên dùng cách nâng lực khí làm cho khí lực thu lên. Một khít một lỏng làm một lần. Khi làm nên ngưng thần rót vào trong khí, chuyên tâm nhất chí, làm bốn mươi chín lần. công phu đoạn thứ hai đã xong. Xem hình 32.

Hình 32 Khi cong ngón tay như đuôi chim, không thể hơi xen lẫn ý nâng lực khí, phải để khí lực rót xuống, xuyên suốt ở khoảng ngón tay quyền, khiến cho quyền có thể càng nắm khít, ngón tay có thể càng cong lên như đuôi chim càng cao. Làm đoạn công phu này, cũng nên thực hiện từ từ chậm chậm. Khi khít thì khí lực rót xuống, khi thả lỏng thì khí lực nâng lên, một rót xuống một nâng lên, cho nên hành khí sai khiến lực. Nhìn ở mặt ngoài, giống như công phu chăm chỉ tới ngón tay và cánh tay, thực là phổ cập tới toàn thân. Chỉ lấy chi thể thân người, không thể không thông liền, mà nguồn dòng của khí lại từ trong phủ đi chảy mà tới, không chỗ nào không đến. Khi hành công, tối kiêng thở hít miện mũi, thân thể lắc động, bởi vì đều đủ để hao khí tán lực. Đoạn thứ ba Sau khi làm xong đoạn công phu thứ hai, nghỉ ngơi qua loa một chút, lại làm nối theo đoạn thứ ba. Đoạn này đứng ngay ngắn như trước. Trước hết đem hai chân phân mở, khoảng giữa cách nhau trên dưới chừng một thước, ngón chân và mu bàn chân nhất định thành đường thẳng, kiêng làm hình chữ bát. Vùng đùi nên vận sức rót xuống. Không thể làm cho có chút lỏng nổi, không thì thân thể dễ lắc động mà đưa đến thần khí tản rời. Đầu cao, mắt trố, miệng ngậm, răng đụng nhau. Kích động khí trong bụng, giống với đoạn hai. Hai bàn tay thì trước hết đem ngón cái cong đặt vào lòng bàn tay, bốn ngón còn lại thì nắm khít mặt ngoài ngón cái. Hai cánh tay thõng thẳng xuống. Hai tay nắm quyền đặt ở hai cạnh đùi, phía lòng bàn tay dán vào đùi, lưng của quyền hướng ra ngoài. Khi ở trên tay, vùng cánh tay trên lại không dùng sức, quyền cũng được nắm cực lỏng. Sau khi hơi hơi dừng lại giữa chừng thì đem hai quyền từ từ nắm khít đến cực độ thì dừng. Đồng thời vận lực ở cánh tay làm cho rót xuống, tức là dùng lực đem hai cánh tay vươn thẳng, làm cho khớp khuỷu tay lồi ra, mà khí lực dễ đạt tới khoảng bàn tay và ngón tay. Sau khi hơi dừng giữa chừng một lát, lại từ từ thu sức ở cánh tay, thả lỏng ngón tay quyền, mà trở lại hình dáng cũ. Một khít một lỏng như thế làm một lần. Cộng làm bốn mươi chín lần là xong công phu đoạn thư ba. Xem hình 33.

37


Hình 33 Theo đúng điểm chủ sức của đoạn này, phép hành khí ở quyền và cánh tay, một nâng lên một rót xuống, nhất định không phân biệt với đoạn trên, nhưng trong dó có chỗ khác nhau. Cũng chẳng dừng ở một đầu mối, trên thì chụm chân, đây thì phân mở, trên thì duỗi thẳng ngón cái mà đây thì gấp nắm ngón tay cái, tất đều phải mỗi cái có dụng ý riêng. Hai chân phân mở cho nên vòng tròn dưới chắc chắn, không dễ động lắc. Nắm ngón tay cái trong lòng bàn tay, cho nên đầy lòng nắm đấm mà dễ ở gặp lực. Cánh tay vươn hướng xuống, mà lồi khớp khuỷu đó, làm cho khí lực trọn vẹn ở cánh tay rót xuống ở quyền, còn động tác ở các đoạn không mấy khác nhau. Khi hành công, ngoài động tác, cần chú ý ở thần khí rót xuyên suốt, cũng làm cho tinh thần và khí lưc trộn chung làm một. Đạt thì đạt trọn vẹn, thu gom thì thu gom trọn vẹn. Nếu như tinh, thần, khí, lực không trộn nhau, thì luyện trăm năm cũng là vô ích. Đoạn thứ bốn Sau khi đã làm xong công phu đoạn thứ ba, nghỉ ngơi chốc lát, để thư giãn gân xương. Sau đó lại làm nối theo đoạn thứ tư. Đoạn này so với các đoạn kể trên không giống nhau. Trước hết đứng ngay ngắn toàn thân, hai bàn chân chụm lại. Dùng khí lực của hai đùi rót xuống để chắc chắn bàn chân dưới. Sau đó đem hai ngón tay cái gập lại đặt trong lòng bàn tay, lại lấy các ngón còn lại gập đặt ở ngoài nắm lại thành quyền. Hai quyền từ hướng trước mặt đưa nâng lên hướng trên, lấy ngang vai làm mức, lòng bàn tay nhằm vào nhau, hổ khẩu hướng lên, khoảng cách xa nhau giữa hai quyền thì bằng với độ rộng của cạnh vai. Khi nâng lên, hai cánh tay nên thẳng, thân trên nhất định cấm động lắc. Hơi dừng nghỉ giữa chừng một lát, là vận lực đem quyền nắm lại khít khít để đến cực độ, mà hai cánh tay đồng thời duỗi đi hướng trước. Vị trí tuy không thể duỗi về phía trước bao nhiêu, nhưng khí lực thì rót về phía trước hoàn toàn. Dừng nghỉ giữa chừng chốc lát, thì đem quyền buông lỏng ra, thu khí về vẫn duỗi cứng hai cánh tay. Khi duỗi ra nhất định cấm động tùy tiện về bên trái bên phải. Một nắm một thả lỏng làm một lần. Cộng làm 49 lần xong đoạn công phu thứ tư. Xem hình 34.

38


Hình 34 Theo đúng một đoạn này là phép rót khí đi ngang bằng, làm cho khí lực tiến thì rót vào quyền và cánh tay, lùi thì chảy đi vào vai và lưng trên. Chỉ nắm quyền duỗi cánh tay, hai vai nhất định tìm ra hướng trước, vai tìm vế hướng trước, lưng trên đều có gân có thịt, sẽ nhất đinh kéo căng. Lúc này khí lực trọn vẹn thấu về phía trước. Đợi lỏng bàn tay thu sức, như khắp gân thịt hoàn toàn lỏng lẻo, khí lực cũng bởi thế mà đi lui, chảy rót vào các vùng vai và lưng trên. Tối kỵ của đoạn này là khi làm dùng sức hai quyền động tùy tiện về hướng trái hướng phải. Bởi vì hai nắm tay quyền động tùy tiện thì khí lực toàn thân không thể chuyên chú ở trước mà đi tán loạn bên cạnh. Thế tán thì thần loạn. Làm như thế không những không đủ để thu được ích, lại đủ để rước hại. Cho nên cần hết sức chú ý. Đoạn thứ năm Làm đoạn công phu thứ bốn xong, nghỉ qua loa, làm nối đoạn thứ năm này.Toàn thân đứng ngay ngắn, hai chân căng chụm, đầu cao, mắt mở to nhìn. Miệng ngậm răng cắn, ngưng thần kích động khí như hình dạng đoạn thứ nhất. Đen hai bàn tay nắm quyền rất lỏng. Xoay lòng bàn tay hướng ngoài từ từ theo hai cạnh nâng lên, dựng đứng ở trên đầu, lòng bàn tay hướng vào nhau, hổ khẩu hướng về phía sau, khớp khuỷu hơi cong. Hai cánh tay cần mở cách chỗ bờ tai một thốn, nhưng không được dính khít tai. Khi giơ hai cánh tay lên, hai chân cũng kiễng cao lên, để hai gót chân cách đất trên dưới một thốn làm mức. Hơi dừng nghỉ giữa chừng chốc lát, lại đem hai quyền nắm khít chặt lại. Hai cánh tay thì rút sức hướng tụt xuống giống như khi kéo ở ống sắt, đem thân trên dạng như thu về, đồng thời hai gót chân lại thừa thế nâng lên hướng trên đến cực độ là dừng. Ngừng nghỉ giữa chừng chốc lát, lại đem hai quyền từ từ thả lỏng, thu hồi khí lực. Hai gót cũng từ từ thả xuống, nhưng đến cách đất trên dưới một thốn thì dừng. Như thế một lên một rơi xuống làm một lần. Cộng làm 49 lần là xong công phu đoạn thứ năm. Xem hình 35.

Hình 35 39


Theo đúng một đoạn công phu này là phép đem khí lực rót chảy toàn thân. Việc nâng gót chân định ngón chân thì nơi háng đùi nhất định khí rót xuyên suốt mà sau đó rắn đầy. Nếu khí lực không rót vào thì đùi háng hư phù. Đùi háng hư phù thì nhất định làm cho thân động lắc, không thể đứng thẳng, khó cho hành công. Khi hai tay giơ lên, là muốn làm cho gân thịt ở các vùng vai, lưng trên, ngực,sườn, bụng, thắt lưng, nơi nơi đều căng kéo, để cho khí lực dễ rót chảy tiến lùi. Rất cần chú ý trong đoạn này là khi đang nắm khít đôi quyền, thụt xuống cánh tay, có nghĩa là vận khí ở hai cánh tay đó trọn vẹn sức đi hướng thụt xuống, chứ không phải là đem hai cánh tay làm động tác thụt xuống. Đây đúng là phép vận ý mà đưa vào sai khiến khí lực, phải đặc biệt chú ý. Hai gót chân lên xuống, cần phải thực hiện từ từ, không được nhanh mạnh. Bởi vì lên xuống nhanh mạnh hai gót dễ bị kích động, đủ để ảnh hưởng tới não và buồng tim, là hại rất dữ dội. Đoạn thứ sáu Làm xong đoạn công phu thứ năm. Hơi dừng nghỉ chốc lát, sau đó làm nối đoạn thứ sáu. Toàn thân đứng ngay ngắn, cao đầu, mở to mắt, miệng ngậm kích động khí như trước. Trước hết hai chân phân mở, cách nhau chừng trên dưới một thước. Gót và ngón chân cần phải thẳng, hai bàn chân song song và ngang bằng nhau. Nhất định không thể đứng thành kiểu chữ bát, bởi vì kiểu chữ bát sức không chuyên chú mà dễ động lắc. Hai bàn tay thì đem ngón tay cái thả ở mặt ngoài lấy bốn ngón còn lại nắm quyền, sau đó đưa ngón tay cái đặt ở ngoài khớp đốt các ngón tay, khi nắm cũng cần buông lỏng, không thể quá khít. Sau đó đưa hai cánh tay từ bên cạnh giơ lên, lòng bàn tay hướng lên. Khi hai cánh tay thẳng đến ngang vai thì gập xoay khớp khuỷu, đưa cẳng tay dựng đứng lên gập vào trong, mặt quyền hướng vào hai tai. Toàn cánh tay thành hình tam giác. Quyền để cách xa tai hơn một thốn làm mức. Lòng bàn tay thì hướng về chỏm vai. Sau khi hơi dừng giữa chừng chốc lát, thì đem quyền từ từ nắm khít để đến cực độ. Cẳng tay thì dùng sức gập vào hướng trong. Cánh tay trên thì dùng sức đẩy hướng lên. Đây đều thuộc về dùng sức, không lấy hình thức mà làm. Sau việc hơi dừng nghỉ giữa chừng thì từ từ thả mở để trở lại vị trí cũ. Một khít một lỏng như thế là một lần. Từ đầu tới cuối cộng là bốn mươi chín lần là xong một công phu đoạn thứ sáu. Xem hình 36.

Hình 36 Theo đúng đoạn công phu này, là vận làm cho khí lực tiến mà rót chảy ở khoảng cánh tay, khuỷu tay, khớp ngón tay, lùi thì rót chảy ở vùng vai, lưng trên vòng ngoài ngực. Cẳng tay gập vào trong thì gân thịt căng kéo mà khí lực dễ chảy đi. Nội phủ và mọi cơ quan cũng từ đó mà có thể duỗi giãn, nơi nơi động sức, không chút lơi lỏng. Trong khi thực hiện, thân trên nhất định không được động lắc, hai cánh tay không được rung rẩy. Muốn tránh cái đó, thì trong lúc dùng sức, cần phải chậm chậm từ từ theo việc. Nếu như cử động nhanh mạnh thì nhất định khó tránh xảy ra. 40


Đoạn thứ bảy Sau khi làm công phu đoạn thứ sáu, nghỉ ngơi chốc lát, làm nối theo đoạn thứ bảy. Hai chân đứng chụm lại, toàn thân thẳng đứng, cao đầu, mở to mắt nhìn. Kích động khí miệng ngậm như trên. Hai bàn tay thì mỗi bên đều đem bốn ngón nắm ở mặt trong, còn ngón tay cái thì gõ ở ngoài khớp các ngón. Nắm quyền rất lỏng, từ phía trước mặt giơ lên đến trước vai, khi thành hình tam giác vuông, hơi dừng chốc lát, thì vận lực ở cẳng tay, từ từ hướng sang bên trái, bên phải phân đi, đến ngang bằng vai thành hình chữ nhất thì dừng. Lòng bàn tay hướng xuống. Thân trên thì hơi ngửa hướng sau. Sau khi hai cánh tay phân mở, thì đem hai mũi bàn chân từ từ đẩy lên cách đất chừng hơn một thốn. Hai gót chân luôn chạm đất. Đồng thời đem quyền từ từ nắm khít. Từ trong mũi hít vào một miếng khí sạch, hít hết một miếng, lại đem mũi bàn chân từ từ thả xuống. Hai quyền từ từ thả mở ra. Đồng thời từ trong miệng thổ ra một miếng trọc khí. Để trở lại hình dáng cũ. Làm như thế cộng là bống mươi chín lần là xong công. Kiểu như hình 37 trên. Theo đúng đoạn này là phép vận làm cho khí lực đi bên cạnh mà kiêm điều hòa nội phủ. Duỗi cánh tay nắm quyền làm cho tăng thêm khí lực. Một thở một hít cho nên điều hòa nội tạng là ý thổ trọc nạp thanh (thở khí dơ bẩn ra nạp khí sạch sẽ vào), cho nên khi làm thân trên nhất định cần ngửa ra sau, thoạt đầu chậm để làm cho ngoại vi lồng ngực nở ra mà có thể lấy hết lượng khí thở hít. Đến lúc mũi bàn chân nâng lên muốn làm cho phía dưới bàn chân chắc thực mà không hư phù. Gót chân dính đất, khí lực nếu như không rót xuyên suốt, thì không những động lắc mà thấy đứng nghiêng đổ. Người học ở đây cần chú ý.

Hình 37 Đoạn thứ tám Sau khi làm xong đoạn thứ bảy, nghỉ ngơi chốc lát, lại làm nối đoạn thứ tám. Phép đoạn này với đoạn bốn, giống cái lớn mà khác cái nhỏ. Chụm chân đứng ngay ngắn, đầu cao, mắt mở to nhìn. Giấu hơi thở kích động khí như trên. Trước hết đem hai ngón tay cái gập xoay đặt ở trong lòng bàn tay, lại lấy bốn ngón còn lại nắm quyền ở bên ngoài. Quyền nắm rất lỏng. Lại đem quyền từ hướng trước mặt nâng lên, lấy ngang vai làm mức, hổ khẩu hướng lên. Lòng bàn tay nhằm vào nhau. Khoảng cách giữa hai quyền không lấy khoảng cách hai vai làm chuẩn, mà cách nhau tương đối ần, khoảng chừng hai ba thốn. Khi giơ hai quyền lên, thì hai gót chân cũng từ từ nâng lên cách đất chừng hơn hai thốn, mũi bàn chân luôn dính đất. Sau đó đem hai quyền dùng sức từ từ nắm khít để đến cực độ. Sau khi dừng nghỉ giữa chừng chốc lát, lại đem quyền từ từ thả lỏng, hai gót cũng nhè nhẹ rơi xuống. Khi bàn chân chạm đất cần cực nhẹ. Một khít một trùng như thế là một lần. Trước sau cộng làm bốn mươi chín lần là xong công. Xem hình 38.

41


Hình 38 Theo đúng đoạn này luyện động lơ lửng ở không trung, làm cho khí chảy rót ở các vùng trên dưới. Chỗ khác nhau với đoạn thứ tư ở trên là: Mức xa gần của khoảng cách hai quyền, nâng gót và không nâng gót chân. Sau khi nắm khí đôi quyền, lại nên đem hai cánh tay phân đi hướng ngoài để đến khi giữa vai với khuỷu ngang bằng nhau. Đến khi thả lỏng thì lại từ từ hợp cánh tay lại. Điểm khó nhất của đoạn này là không được để thân trên hướng trước sau cúi ngửa mà làm cho bàn chân dưới không thể đủ chắc chắn, cho nên một đoạn công phu này là khó so với đoạn thứ tư. Đoạn thứ chín Làm xong đoạn công phu thứ tám, nghỉ chốc lát, lại làm nối đoạn thứ chín.Toàn thân đứng thẳng, đầu ngay ngắn, mắt nhìn phía trước, thân trên cần thẳng, miệng ngậm kích động khí như trước. Hai chân chụm khít, đem ngón tay cái gập đặt ở trong lòng bàn tay, lấy bốn ngón còn lại nắm phía ngoài. Nắm quyền rất lỏng. Sau đó đem hai quyền từ phía dưới nâng lên, nhất định cần ở ngay phía trước nâng lên, nâng đến phía trước bụng thì gập hai cẳng tay xoay lên hướng trên, đến đúng mặt làm mức, lòng bàn tay hướng ngoài. Hai mặt quyền thì chéo hướng về hai cạnh chót mũi. Khuỷu cánh tay gập thành hình tam giác. Hai quyền cách nhau chừng hơn ba thốn. Sau đó lại đem quyền từ từ nắm khít để đến cực độ. Đồng thời đem cẳng tay dùng sức xoay chuyển hướng vào, cánh tay trên thì dùng sức ép ra phía trước, khớp khuỷu thì phân dẫn hướng ra mặt sau các vùng, đồng thời vận dụng khí lực. Sau khi hơi dừng việc giữa chừng, lại từ từ thả lỏng hai quyền, thu về khí lực ở các vùng, để trở lại tình trạng cũ. Một khít một lỏng như thế là một lần, từ đầu đến cuối cộng làm bốn mươi chín lần là xong công. Xem hình 39.

Hình 39 Theo đúng đoạn này thì xoay cẳng tay hướng lên trên, nên giống như dạng nắm cần câu vật nặng xoay nâng lên hướng trên, tuy trong bàn tay lại chưa có cần câu, trong tâm phải nghĩ làm như là có. Đoạn này bản ở ngoài phố nhầm lẫn rất nhiều, đã đem nói 42


lẫn làm một với đoạn thứ sáu để lại cái nhầm cho người đời không biết bao nhiêu mà kể. Cho nên đặc biệt cải chính thêm, và chỉ ra cái nhầm đó để thông báo với người học chỗ không giống với đoạn thứ tám đó. Nhưng cần phải xem thêm hai cái dưới, không khó lãnh ngộ (nhận và hiểu). Đoạn thứ mười Sau khi làm xong đoạn công phu thứ chín, nghỉ chốc lát, lại làm nối đoạn này. Đứng ngay ngắn như trước, hai chân chụm khít, cao đầu, ưỡn ngực, tròng mắt mở to nhìn, miệng ngậm giấu hơi thở. Kích động khí ở trong. Đem hai ngón tay cái gập đặt ở trong lòng bàn tay, để bốn ngón còn lại nắm thành quyền và không nắm khít nhiều lắm. Hổ khẩu dán vào đùi, Lòng bàn tay hướng về phía sau. Lại đan hai cánh tay giơ lên theo mặt trước. Khi đến ngang vai, lại vận sức của khuỷu tay phân đi hai bên hướng trái phải ngang nhau với đầu chót vai, đồng thời hai cẳng tay cũng dựng đứng lên trên. Giơ thẳng làm mức. Khi nâng hai cánh tay và đầu đúng là thành hình chữ sơn ( ). Lòng bàn tay hướng trước. Hổ khẩu hướng hai tai. Sau khi dừng nghỉ giữa chừng qua loa, từ từ đem quyền nắm khít, để đến cực độ. Đồng thời hai cánh tay dùng sức đỡ hướng lên. Như thế của hai tay đỡ ngàn cân. Hai khớp khuỷu thì ép ra hướng ngoài, như muốn làm cho cái đó tụ họp lại. Nhưng đều dùng hư lực, mà lại không có hình của động tác đó. Như thế dừng giữa chừng chốc lát thì từ từ lỏng tay. Một khít một lỏng như thế là một lần. Cộng làm bốn mươi chín lần thì xong công. Xem hình 40.

Hình 40 Theo đúng đoạn này lại luyện khí lực đi lên. Trừ nắm quyền ra, còn lại đều không có hình của động tác, cũng là phép vận ý sai khiến lực. Quyền gia gọi ý đến, thần đến mà lực theo là như thế. Bản thường ở ngoài phố không biết mục đích ý nghĩa tinh thần trong này, cuối cùng đều diễn có hình của động tác, là thế loạn thần tán mà muốn thu hiệu quả, cái đó có thể được chăng? Nhầm, bỏ đi chỗ đó người học nên tìm tòi suy nghĩ mà phân biệt rõ để tránh dẫn đến sự sai lầm. Đoạn thứ mười một Làm xong đoạn công phu thứ mười, nghỉ chốc lát lại làm nối đoạn thứ mười một.Toàn thân đứng ngay ngắn, hai bàn chân chụm lại, đầu cao, mắt mở to nhìn, miệng ngậm, kích động khí như trước. Hai bàn tay mỗi cái đem bốn ngón gập trong lòng bàn tay, mà lấy ngón cái che ở ngoài, nắm thành quyền cực lỏng. Lại vận động lực của cánh tay, khuỷu tay đem quyền nâng lên hướng trên, đặt ở phía trước bụng dưới vừa đúng hai bên vòng quanh rốn. Quyền cách bụng chừng trên dưới một thốn. Hơi dừng việc giữa chừng một lát là đem bốn ngón tay của mỗi bàn tay từ từ khít quyền đến cực độ, mà hai ngón tay cái thì dùng sức cong lên như đuôi chim, càng cao càng hay. Hai cánh tay tuy không làm động tác có 43


hình, nhưng khí lực lại cần nâng lên, không thể rót xuống, dạng như nâng cần câu vật nặng. Dừng việc giữa chừng một lát, lại đem ngón tay cái từ từ thả xuống, bốn ngón từ từ thả lỏng, mà đem khí lực của hai cánh tay từ từ rót xuống. Một khít một lỏng như thế là một lần. Từ đầu đến cuối cộng làm chín lần là xong đoạn công phu này. Xem hình 41.

Hình 41 Theo đúng đoạn công phu này, là phép vận khí thăng lên giáng xuống. Ở khi nắm khít thì từ trong mũi hít vào khí sạch một miếng, ở khi thả lỏng, thì từ trong miệng thổ ra một miếng khí dơ bẩn. Chỉ cần làm chậm từ từ. Hít cần hít hết, thổ cần thổ hết, khi thở hít phải đều đặn không được ngừng nghỉ giữa đường, dẫn tới làm cho vùng trong bị kích động ngoài ý muốn. Vận lực nâng lên, vốn là động tác không có hình, hai vai nhất định không thể cao chót vót. Đúng là cần tột bậc. Đoạn mười hai Làm đã xong đoạn công phu mười một,nghỉ ngơi chốc lát, lại làm nối đoạn thứ mười hai.Toàn thân đứng ngay ngắn. Hai bàn chân chụm khít. Đầu cao, mắt mở to nhìn thẳng. Ngậm miệng kích động khí như trước. Hai cánh tay buông thẳng xuống, đầu chót ngón tay hướng xuống. Lòng bàn tay hướng trước. Lại đem cánh tay từ từ giơ lên theo mặt trước đến ngang vai làm mức. Ngón cái ở ngoài, lòng bàn tay hướng lên trên. Khoảng cách giữa hai bàn tay ngang với mức rộng của hai cạnh vai. Trong khi hai tay giơ lên, hai gót chân cũng đồng thời nâng lên lấy cách đất hơn hai thốn làm mức. Sau khi hơi dừng nghỉ giữa chừng, hai tay từ từ thả xuống, hai gót chân cũng nhè nhẹ rơi xuống đất. Một nâng lên một rơi xuống như thế là một ần. thực hiện mười hai lần. Lại nâng bàn tay như trước, bàn tay hướng trước nâng lên, một nâng khuỷu thì hướng xuống đâm một cái. Đồng thời hai gót chân nâng lên, lại nhè nhẹ thu về, trở lại dạng cũ. Sau khi gót chân rơi xuống đất, thì đem ngón chân cong hướng lên như đuôi chim, lấy cách đất một thốn làm mức. cũng làm liên tục như thế mười hai lần là xong trọn vẹn công phu. Xem hình 42.

44


Hình 42 Theo đúng đoạn này là phép thư giãn đường gân mạch huyết toàn thân, chỉ lấy công phu mười một đoạn trên, mỗi cái có công hiệu, khi làm khí lực không tránh khỏi rót đi lệch, cho nên nhất định cần dùng một đoạn để điều hòa cái đó, mà làm cho khí lực đi lệch ở tất cả các vùng không bị bệnh thái quá, bất cập. Cũng là bởi người đánh quyền sau khi đã xong một lượt, nhất định đi tản bộ chốc lát, sau đó thì nghỉ ngơi. Tóm lại, mười hai đoạn công phu kể trên, hàng ngày nếu chăm chỉ tập thì sau ba năm, nhất định có thể đạt được hiêu quả là khí lực theo nhau.

18. PHÉP LUYỆN TẬP HẬU BỘ DỊCH CÂN KINH Mười hai đoạn tiền bộ Dịch cân kinh tuy cũng chú trọng ở khí và lực theo nhau, chỉ bởi lấy lực làm chủ, cương nhiều nhu ít, là phép lấy lực đi khí. Sau khi luyện tập thành công, tuy có thể lấy khí và lực theo nhau, nhưng muốn là nghiêng tới toàn thân, chảy đi trong mạc mà không trở ngại, thì lại khó có thể thực hiện được đầy đủ như mong muốn. Muốn đạt đến trình độ loại đó, nhất định sau khi luyện thành tiền bộ dịch cân kinh, cần phải tiếp tục luyện hậu bộ dịch cân kinh. Nhưng cũng không thể vào tay là có thể luyện tập ngay hậu bộ, bởi bước công phu này hoàn toàn chú trọng vận hành khí lực ở trong mạc để sung thực (đầy đủ) gân thịt toàn thân, mà không phải ở tăng thêm thực lực. Những người không đủ thực lực, muốn khí lực ở đó vận hành, chắc chắn không dễ là có thể luyện thành, hoặc có hiệu quả thì cũng rất là nhỏ yếu. Cho nên cần luyện trước tiền bộ, nhằm để tăng thêm thực lực làm cho khí lực theo nhau. Sau đó lại tiến lên mà luyện tập hâu bộ. Ở trong thuần nhu cầu con đường vận hành, tự thay đổi ở vào tay mà thu hiệu cũng rất là thần tốc. Cho nên luyện riêng một tiền bộ, không luyện hậu bộ thì có thể được. Riêng luyện hậu bộ thì không thể được hiệu cường lực tráng đó, là không tiến bước thêm lần nữa mà cầu cái đó có thể ở vận hành trong mạc, cũng đủ để lại bệnh nhiều năm. Bởi vì hậu bộ là chuyên giảng ở đạo vận hành, nếu chỉ luyện riêng hậu bộ thì không có chỗ dùng chút nào, cho nên rõ ràng mệt mỏi vất vả mà không thu công gì là thế. Phàm người luyện nội công Thiếu Lâm, đối với việc này, không thể không biết. Dưới đây là các phép luyện tập mười hai đoạn Dịch cân kinh hậu bộ. Đoạn thứ nhất Trước hết ngồi xếp vòng tròn gập gối, lấy mu bàn chân phải dặt trên mặt trên đùi trái, lại đem chân trái từ ngoài đầu gối phải kéo lên, để mu bàn chân trái để lên mặt đùi phải, làm cho hai lòng bàn chân đều hướng lên, đó là phép “song bàn phu tọa” (ngồi 45


vòng hai mu bàn chân), là ngồi thiền bình thường cũng hay dùng phép này. Để luyện tập có hiệu quả, mới đầu có thể tự nhiên, khi ngồi thân nên ngay thẳng, mà không thể có chỗ dựa dẫm, là ngồi trên phản gỗ, bởi vì lót dây móc, chất mềm sẽ có sức đàn hồi, dễ làm cho thân thể người ta nghiêng lệch, cho nên không phù hợp. Hai tay thì nắm khít đôi quyền, bốn ngón gập ở trong, mà lấy ngón cái che ở ngoài, hai quyền thả ở trên đầu gối, cần thuần phó mặc tự nhiên cái đó, không thể có một chút dùng sức, đem đôi mí mắt thả xuống, miệng ngậm khít, hàm răng trên dưới hợp kín nhau, lưỡi liếm ở trong vòm hàm, mờ tâm che hơi thở, toàn thân không dùng chút xíu lực gắng gượng. Chỉ đem ba thứ tinh, khí, thần dùng phép ý tưởng mà rót vào đan điền. Ở khi mới vào tay, quyết không thể trông đợi chúng hội họp. chỉ như thế ngừng suy nghĩ tồn thần, lâu ngày tự có công hiệu. Xem hình 43.

Hình 43 Dựa theo đúng đoạn này, lúc đầu chưa làm công, bởi vì trong tâm tạp niệm, một lúc không dễ tiêu diệt hoàn toàn. Tạp niệm không mất đi thì tâm thần không yên, là tinh thần rời tan, làm công cũng bằng không làm, nhất định không thu được chút xíu hiệu quả. Cho nên dùng trước phép này làm mất đi tạp niệm, sau đó làm công phu, tự không còn có trở ngại. Vì vậy nhất định rót suy nghĩ ở đan điền, chỉ lấy đó làm trung cung của nội phủ. Đoạn thứ hai Làm xong đoạn công phu thứ nhất, ước chừng lấy một lúc nấu bữa ăn làm mức. Sau đó lại làm nối theo đoạn hai. Ngồi phép phu tọa (ngồi mu bàn chân) như trước, hai chân chụm không mở ra, thân thể cũng hoàn toàn khôn động. Riêng hai bàn tay thì đem ngón tay nắm bàn tay từ từ mở ra, lấy duỗi thẳng làm mức. Sau dó đem hai cánh tay chầm chậm theo bên cạnh đưa lên, lòng bàn tay hướng lên. Khi đưa đến ngang vai thì gập cẳng tay dẫn vào trong, từ đầu chao lên đến mặt sau, đồng thời xoay chuyển cổ tay làm cho lòng bàn tay hướng về phía trước, ngón cái ở dưới, tới khi áp vào huyệt Chẩm ở mặt sau,hai bàn tay từ từ tiếp hợp, mười ngón đan chéo nhau mà ôm giữ sau đầu.

46


Hình 44 Hai gốc của bàn tay tiếp đúng ở trên huyệt Nhĩ môn. Hai cánh tay thì thành hình tam giác. Khi ôm không nên dùng sức hữu hình. Đầu hơi ngửa ra sau, ngực hơi lồi ra phía trước. Riêng ở lúc hai bàn tay làm động tác, các vùng thân mình không nên hơi có chấn động, tâm ý vẫn cần rót vào đan điền. Sau khi ôm ở đầu sọ, hơi tạm dừng việc giữa chừng, thì đưa khí lên trên, ý nghĩa này là một miếng khí tựa như từ Đan điền mà lên, đi qua vành rốn, lên tới tâm bào, qua kết hầu, thẳng đến đỉnh đầu (Bách hội) mà dừng giữa chốc lát, lại làm cho từ đỉnh đầu hướng về phía sau đi xuống, qua huyệt Ngọc chẩm, từ đốt sống cổ ven theo cột sống mà xuống, qua xương đuôi đến Hải để (Hội âm), lại chuyển lên mà đến Đan điền. Khi mới làm thì không tiến một loại ý tưởng, khí lực nhất định không có thể tuân theo đường kinh này mà vận đi tự tại, chỉ có luyện tập đã lâu, tự có thành hiệu nghiệm. Riêng lúc làm công phu này cần mọi thứ thuần nhận lĩnh tự nhiên, không thể có một chút gắng gượng, lại không thể quá ở tham công, là người học nên chú ý. Theo đúng một đoạn công phu này là phép làm cho khí lực chuyển vận đi theo đường tròn. Cái đỉnh đầu là huyệt Bách hội thật là khu trọng yếu vùng đầu. Mà huyệt Đan điền dưới rốn thật là kho báu của nội phủ. Sự khẩn yếu giống nhau như một. Làm cho khí lực đi lên thì cất dấu ở Bách hội, khí lực đi xuống thì quay về Đan điền. Một thăng, một giáng, là đạo tuần hoàn chu thiên. Một khởi một phục cũng là máy của âm dương tạo hóa. Cho nên cần mọi thứ thuần nhận lĩnh tự nhiên, cái gốc ở ôn hòa tĩnh lặng của thiên nhiên, mà tới sinh động của hậu thiên. Khi luyện tập lấy tuần hoàn hai lần thì dừng dứt. Lại đem hai bàn tay buông mở ra, nắm quyền thu về đặt ở trên đầu gối, trở về dạng cũ. Xem hình 44. Đoạn thứ ba Sau khi làm xong đoạn công phu thứ hai, lại đem vòng tròn của đùi từ từ buông xuống. Hơi nghỉ việc một lát, làm cho gân xương vùng đùi được thư giãn, khí huyết không đến vì thế mà úng tắc, nhưng ở lúc nghỉ này tâm thần bởi cần yên tĩnh, nhất định không thể có chút xíu tạp niệm nổi lên. Sau một thời gian bằng lúc nấu cơm (khoảng nghỉ bằng nấu nồi cơm), lại đem hai chân từ từ duỗi đi hướng trước, đến khi vùng đùi thẳng bằng làm mức, hai đùi chụm khít, phía sau của hai gót chân thả ở trên phản gỗ, bàn chân thì dựng thẳng lên, lòng bàn chân hướng về trước, mũi bàn chân hướng lên. Lại đem thân trên từ từ cúi xuống. Hai bàn tay thì theo hai bên cạnh chao về phía trước, khi đến trước bàn chân thì lại đan chéo hết mười ngón tay thu ở hai chân. Cần đem hai chân dùng sức duỗi vươn về phía trước, còn hai bàn tay thì kéo dẫn về phía sau mới là được sức. Hai vùng thắt lưng và lưng trên, mới đầu có thể vì thế mà căng khít. Sau khi thành hình thái của thế đó, lại đem khí cất giữ ở Đan điền vận ở các vùng vai, lưng trên, thắt lưng, mông. Khi mới đầu cũng cần ý nghĩ có thể đến, luyện đến công phu sâu dần 47


thì khí lực cũng có thể theo đến đủ. Làm một đoạn công phu này cũng lấy khoảng trời gian nấu nồi cơm làm mức. Sau đó từ từ buông mở, quay lại trạng thái ngồi bằng cũ. Xem hình 45.

Hình 45 Theo đúng như một đoạn công phu này là phép đầy đủ thật mềm đúng các vùng, nơi chủ yếu đó là ở thắt lưng, xương cùng. Bởi vì một vùng đó ở trong các vùng của thân người là rất mềm yếu, khí lực cũng rất khó rót xuyên qua, cho nên khi làm nhất định cần cúi toàn thân đến cực độ, sau đó mới có thể làm cho căng khít gân thịt của vùng thắt lưng. Sau khi gân thịt căng khít, khí lực cũng rất dễ đạt tới, chăm chỉ luyện tập thêm, tự có diệu dụng riêng khi thân thể nhổm lên, rớt xuống. Nhất định cần chầm chậm, dứt khoát không thể lấy lắc động hướng bên trái, phải, để loạn thần ấy, tán khi ấy, đúng là cần thiết trọng yếu. Người học cẩn thận chỗ đó. Đoạn thứ bốn Làm xong đoạn công phu thứ ba, nghỉ ngơi qua loa, lại làm nối đoạn thứ tư. Trước hết đem hai chân từ từ vòng lên, lấy mu bàn chân phải để lên mặt trên đùi bên trái người, sau đó đem bàn chân trái từ ngoài đầu gối phải cong lên, đặt ở mặt trên đùi bên phải. Hai lòng bàn chân đều hướng lên trời, thành thế ngồi song bàn (toàn già). Riêng khi hai bàn chân vòng tròn lại mà ngồi, thân trên dứt khoát cấm lắc động về trước, sau hoặc trái, phải. Sau khi ngồi yên, thần ổn định một chút, rót khí vào Đan điền, trừ bỏ mọi tạp niệm, hơi dừng việc giữa chừng một lát, hai bàn tay thì từ từ xoay cổ tay, làm cho lòng bàn tay hướng ra ngoài, sau đó hai cánh tay theo hai cạnh trái phải từ từ giơ lên đến mặt trên của đỉnh môn (bách hội) thì họp nhau, đan chéo mười ngón tay, lại đem cổ tay xoay về hướng trước, làm cho lòng bàn tay hướng lên. Hai lòng bàn tay dùng sức đẩy lên, đồng thời vận dụng khí đó, làm cho khí từ đan điền nâng lên hướng trên, chuyển vào hai cánh tay mà tới ngón bàn tay. Cũng dùng phép lấy ý đưa vào thần, lấy thần đưa vào khí, và động tác không có hình, riêng chỉ có chuyên chú ở ý niệm. Làm một đoạn công phu này cũng lấy một lúc nấu cơm làm mức. Sau đó đem bàn tay từ từ mở lỏng ra, đan hai cánh tay cũng theo hai bên rơi xuống, vận khí xuống dưới, trở lại dáng cũ. Xem hình 46.

48


Hình 46 Theo đúng đoạn này là phép khí đi ở cánh tay và ngón tay, so với đoạn thứ ba là khó. Bởi vì bắp thịt vùng cánh tay rắn và chắc, khí không dễ đi. Nếu muốn luyện đến cảnh ý tới thì khí tới, khí tới thì lực theo, thời gian không ngắn để có thể thực hiện hiệu quả, rất tốn công vất vả, là chỗ đã cần ngồi vòng tròn mà làm. Chắc chắn thật là vòng chân tròn ở dưới, chồng tay ở trên đỉnh môn thì có thể làm cho toàn thân nâng lên, thế được ngay thẳng làm cho khí dễ đạt ở trên, lại không đến nỗi vướng vấp nhiều chỗ giữa đường. Khi ở động tác hai tay, nhất định cần chầm chậm mà chắc thần khí, không thể qua loa đại khái. Đoạn thứ năm Sau khi đã làm xong đoạn công phu thứ tư, lại đem hai chân chỗ vòng tròn, từ từ thả mở ra, duỗi đi hướng trước, lấy đùi thẳng làm mức. Hai chân chụm nhau, để cho vùng sau gót chân thả ở trên phản, lòng bàn chân hướng về phía trước, mũi bàn chân hướng lên, giống nhau với khởi tay đoạn thứ ba. Sau khi nghỉ qua loa chút ít, là làm nối theo đoạn công phu thứ năm. Trước hết đem hai tay từ từ mặt dưới của hai bên cạnh, từ từ dời về phía sau, mà hai mu bàn tay thì dính ở hai bên huyệt Vĩ lư. Cần trọng yếu dán được khít khít, không thể hơi có chút lỏng và nổi. Hai đầu và vai thì dùng sức ép ra phía trước, kiêm cho lên hướng trên. Nhất định làm cho gân thịt của các bộ phận vai và lưng trên căng khít lạ thường. Sau đó dùng phép của ý tưởng vận dụng khí lực, làm cho đầy đủ chắc ở vai và lưng trên. Mới bắt đầu chẳng qua làm ý, lâu dài về sau có thể tự đạt đến. Làm công phu một đoạn này, cũng lấy giờ nấu một nồi cơm là mức. Sau đó từ từ thu hai bàn tay về, trở lại dáng cũ. Xem hình 47.

49


Hình 47 Theo đúng vùng vai và lưng trên, xương nhiều gân tạp, da thịt rất mỏng mà rắn chắc lạ thường. Cho nên khí lực không dễ vận hành ở đó, ngang với ngón tay cánh tay. Luyện tập cũng rất khó, thu hiệu quả thì chận chạp, so với từng đoạn trong mọi đoạn trên khó là nhiều hơn. Nhưng có thể ra công vất vả cũng nhất định có thành. Chỗ này lấy hai bàn tay thả ở mặt sau và hai vai ép về phía trước mà kiêm cho lên, có ý muốn làm cho căng khít gân thịt của bộ phận vai và lưng trên, mà dễ cho vận hành khí ấy, làm cho đạt tới, không đến nỗi vướng vấp nhiều chỗ. Riêng ở khi vận khí, lại là động tác không có hình. Thuần lấy ý mà làm. Đoạn thứ sáu Làm đã xong đoạn công phu thứ năm, nghỉ việc qua loa đại khái. Sau đó làm nối đoạn thứ sáu. Trước hết đem hai chân thu về thành dáng ngồi vòng tròn, lấy mu bàn chân phải để ở mặt trên đùi bên trái, lại đem bàn chân trái từ phía ngoài đầu gối phải cong lên, cũng đem mu bàn chân để ở mặt trên đùi bên phải, làm thành phép song bàn tọa, giống nhau với đoạn thứ nhất. Khi làm động tác hai chân, thân trên dứt khoát cấm lắc động. Sau khi ngồi yên, trước hết đem hai bàn tay từ bên cạnh dời đến mặt trước, khi đến dưới rốn, hai bàn tay hợp nhau mà mười ngón thì giao chéo nhau, xoay cổ tay hướng vào trong, lấy lòng bàn tay bưng ở bụng dưới. Lúc mới lại không dùng sức. Mờ tâm giữ niệm (minh tâm tồn niệm), đại khái là yên lặng thầm suy nghĩ, sau đó vận khí từ Đan điền mà rót vào túi thận (bìu) để hoạt động hạnh hoàn (trứng dái). Khi dừng nghỉ việc giữa chừng chốc lát, lại nâng khí thăng lên, để trở về chỗ cũ. Làm cho ý nghĩ giống như muốn đem hai viên hạnh hút vào trong bụng. Khi đang nâng khí thăng lên, đồng thời hai lòng bàn tay cũng tàm tạm dùng sức, hơi làm thế xoa lên hướng trên. Hơi dừng chốc lát, lại vận khí rót vào túi thận, thăng giáng như thế mỗi thứ mười hai lần là xong công. Xem hình 48.

50


Hình 48 Theo đúng túi thận là vật tối trọng yếu của thân người, hạnh hoàn lại cực non yếu, hơi bị ngoại lực thì dễ phá hại. Một đoạn công phu này là phép luyện thu liễm hạnh hoàn, tức người đời gọi là “liễm âm công”. Khi mới luyện cái đó, hạnh hoàn nhất định khó theo khí thăng, giáng, nhưng luyện tập hơi lâu, thì dễ hoạt động, lại thu hiệu quả dễ hơn so với vận khí ở vai và lưng trên, vì túi thận là gân lạc mà thành, trong rỗng mà nối tiếp ở bụng dưới, cách nhau với Đan điền rất gần, cho nên khí dễ vận đến. Đợi luyện tập đã lâu, hạnh hoàn tự có thể theo khí lên xuống. Luyện tập thành công này, người ta muốn lấy thẳng hạ bộ ta mà chế mạng của ta cũng không thuận theo sự ra tay của họ. Đoạn thứ bảy Làm xong đoạn công phu thứ sáu, nghỉ việc qua loa một chút, lại làm nối đoạn công phu thứ bảy. Thân trên và hai đùi hoàn toàn không động, theo kiểu cũ hơi hơi để nghỉ ngơi giữa chừng thêm. Hai bàn tay thì từ trên bụng dưới, từ từ lùi xuống, dời hướng sang hai cạnh đùi ấn ở trên phản gỗ, ngón cái ở trong, đầu nhọn ngón tay thì hướng về trước mặt. Lòng bàn tay ấn mặt phản gỗ, không nên quá phần dùng sức, nhưng cần là có thể hợp dính nhau. Sau khi tâm thần đã định (yên lặng) thì đem hai cánh tay từ từ dùng sức rót xuống, ý muốn đem thân trên làm dạng thăng lên hướng trên, chỉ với động tác không có hình, đồng thời nâng khí thăng lên, làm cho đầy đủ ở lồng ngực. Ngưng trệ không động. Trải qua một hít thở dài, lại đem khí theo đường cũ giáng xuống. Ngưng ở đan điền, mà sức ở hai cánh tay cũng dồng thời thả lỏng. Trở lại dáng cũ, qua một lần thở hít, lại nâng khí thăng lên như trước. Thăng lên giáng xuống như thế mười hai lần là dừng. Công phu đoạn này tuy không khó lắm, nhưng ở lúc mới vào tay cũng không tránh khỏi có những trở ngại, cần trải qua một thời gian nào đó mới có thể thăng giáng như tự nó. Xem hình 49.

Hình 49 51


Theo đúng một đoạn công phu này là phép đầy chắc lồng ngực. Vận khí ở trong, chắc chắn so với khi đi giữa gân mạc là dễ hơn. Riêng vận hành tuy dễ, mà một việc ngưng trệ cực là phiền khó. Nếu như người ta thần khí chưa có thể chắc chắn hết, quyết khó vận đến mục đích này. Đây là phép Đạo gia gọi là “ngưng thần đúc khí” (ngưng thần trù khí). Khi mới vào tay chưa có thể dừng lâu, là lúc không trở ngại cơ quan rõ rệt, để sau thành công dần dần lớn thêm là được, là người học tự mình châm chước. Đoạn thứ tám Sau khi làm xong công phu đoạn thứ bảy, thì sẽ nghỉ việc đại khái kiểu cũ, điều hòa khí lực, làm cho hơi chùng giãn ra, sau đó lại làm nối theo đoạn thứ tám. Đoạn này thân trên và hai chân đều không động, tư thế như một của đoạn thứ hai kể trên. Chỉ đem hai bàn tay nâng lên làm cho rời khỏi mặt phản gỗ, sau đó từ từ dời đi về hướng trước, vòng đến trên mặt hai lòng bàn chân thì lấy lòng bàn tay trái ấn khít lòng bàn chân phải, lòng bàn tay phải ấn khít lòng bàn chân trái, là để huyệt Trung chử nhằm khít huyệt Dũng tuyền, ngón cái ở trong, đầu ngón tay nhắm vào nhau, hai khuỷu tay hơi cong, vùng cánh tay trên lại không dùng hết khí lực. Chỉ lấy hai lòng bàn tay dính hợp vào lòng bàn chân làm mức. Sau khi dừng việc giữa chừng qua loa, mới đem hai cánh tay dùng sức chút ít chống đẩy, đồng thời đem khí từ trong Đan điền vận hành ra, sai khiến cái đó từ dưới chao qua bên trái chuyển lên vòng qua phía phải mà xuống về tới Đan điền. Vòng một vòng ở bốn chung quanh rốn.Trên thì tới phía dưới dạ dày, bên cạnh thì tới trước thắt lưng. Sau khi vận hành một vòng như thế thì nghỉ một nhịp thở ra hít vào, lại làm vận hành, làm chín lần thì dừng. Nếu là con gái, thì nên từ phải sang trái (vòng ngược lại). Xem hình 50. Theo đúng đoạn này là phép luyện khí đủ chắc ở bụng, mà kiêm tới vùng trước của thận và thắt lưng. Khi làm cần trước hết kích động đủ khí ấy, không những động tác không nên để bề mặt ngoài có hình rõ rệt giống như thân thể lắc động, mà ngay ở trong bụng cũng không nên có hình ảnh tiến khí tranh lực, cần thuần nhận lãnh tự nhiên ấy. Khi mới đầu chắc chắn chưa nhất định có thể như ý ta hết thảy. Lâu về sau thì nhất định có thể thành công.

Hình 50 Đoạn thứ chín Sau khi làm xong đoạn công phu thứ tám, vẫn giữ ngồi vòng tròn hai chân như kiểu cũ, nghỉ việc qua loa, thân trên và đùi hoàn toàn bất động, một kiểu như trên. Riêng đem hai bàn tay từ từ dời đến mặt bên cạnh, vẫn ấn trên phản gỗ. nghỉ ngơi chừng ba nhịp thở ra hít vào, thì nối đoạn thứ chín này. Trước hết đem bàn tay phải ở mặt trước từ từ gấp cẳng tay đưa lên hướng chéo về phía trên gấp đến trên vai trái thì dùng bàn tay đáp lên ở trên vai. Lòng bàn tay ấn đúng ở 52


trên huyệt lõm vai, năm ngón tay thì ở sau vai. Cẳng tay thì dán khít ở mặt trước sườn ngực. Sau đó lại đem bàn tay trái cũng theo mặt trước từ từ gấp cẳng tay đưa lên chéo hướng phía trên, lòng bàn tay trái ấn ở huyệt lõm vai phải, cẳng tay thì dán khít ở cạnh ngoài cẳng tay phải, dùng sức từ từ đáp khít, làm cho gân thịt vai và lưng trên căng khít đến cực độ. Đồng thời vận dụng khí của Đan điền làm cho nó đi lên trên, mà đủ chắc vùng trong của vai và lưng trên. Lúc mới đầu, nhất định khí khó theo thần đến, nhưng nên dùng phép ý tưởng làm việc đó, sau lâu ngày tự có thể vận đi không vướng. Xem hình 51.

Hình 51 Theo đúng một đoạn này cũng là phép thuộc về hành khí ở vai và lưng trên. Vai và lưng trên lấy gân tạp và thịt mỏng làm thành khí lực rất không dễ vận đến. Riêng cái đó không thể vận đến, cho nên cần luyện nhiều, mà trong Dịch cân kinh hậu bộ này nhằm vào phép luyện tập một mình vai và lưng trên cũng lấy cái này rất nhiều. Khi làm nhất định hai tay ôm vai đáp nhau khít khít, cũng chính là muốn làmcho vai và lưng trên căng khít và khí dễ rót xuyên suốt. Đoạn thứ mười Làm xong đoạn công phu thứ chín, trước hết đem bàn tay trái từ từ rơi xuống ấn ở trên phản gỗ, rồi đến bàn tay phải rơi xuống ấn trên phản, sau đó đem hai đùi vòng tròn từ từ thả mở ra, duỗi thẳng ở phía trước nghỉ ngơi qua loa lại làm nối theo đoạn thứ mười. Cần dem hai chân thu về, gập đầu gối mà quỳ, hai đùi dựa khít vào nhau, mu bàn chân dính trên phản, vùng mông ngồi ở mặt trên của bắp chân dưới, xương cùng thì dựa khít vào hai gót chân. Thân trên hơi ngửa phía sau. Đầu ngay ngắn, mắt nhìn phía trước. Nhưng qua một phen làm động tác này, tâm thần nhất định không còn rõ bên ngoài, cho nên cần nghỉ ngơi chốc lát để gom giữ thêm. Khi tâm thần đã định, thì từ từ đem hai bàn tay theo mặt bên cạnh chao lên phía dưới mặt trước, gập cẳng tay đưa lên hướng trên, đến lõm tâm cạnh dưới hai vú làm mức. Lại đem hai bàn tay nhè nhẹ ấn ở trên sườn, hai khuỷu tay thì hơi hơi dùng sức lôi về sau. Chỉ làm động tác không có hình. Sau khi ấn yên lặng, thì nâng khí thăng lên, dùng phép ý tưởng, làm cho khí đầy đủ ở hai bầu vú, đình trệ không động. Trải qua một nhịp thở dài, vẫn theo đường cũ làm cho khí giáng xuống. Thăng giáng mỗi thứ chín lần là dừng. Xem hình 52.

53


Hình 52 Ấn bầu vú ở trước ngực cũng thuộc về bộ phận chủ yếu, mà huyệt lớn Ưng song, Nhũ căn đều ở đó, nếu không luyện khí làm cho cái đó đủ chắc, rất dễ bị ngoại lực hại chỗ đó. Với một đoạn công phu liễm âm, đúng là có cùng bậc khẩn yếu như nhau. Chỗ quỳ để làm đoạn này là muốn làm cho thân trên ngay thẳng, mà khí dễ vận hành, Hai tay ấn sườn là vì biểu hiện đường tuần hành của khí. Làm đã xong đoạn công phu thứ mười thì theo kiểu cũ hơi nghỉ chốc lát. Hai bàn tay thì từ từ thả thõng xuống ở bên cạnh, hơi hơi thư giãn, làm nối theo đoạn thứ mười một. Trước hết đem hai tay đưa lên chút ít, từ từ dời về hướng trước mặt, đến che phía trên của đầu gối. Lại đem lòng bàn tay phải ấn che phía trên của đầu gối phải, lòng bàn tay trái ấn, che ở phía trên đầu gối trái, là chỗ xương đầu gối và xương đùi tiếp hợp nhau. Ngón tay cái ở phía trong, đầu nhọn ngón hướng trước. Hai cánh tay trên hơi dùng sức làm dạng nhấn chống. Thân trên thì phía sau làm thế dựa tựa. Đầu thì ngửa sau đến cực độ. Sau khi tâm thần đã định thì đem khí nâng lên trên, đi dọc qua vành rốn, vùng lõm tâm mà lên trên, đến huyệt Kết hầu thì dừng giữ không động làm cho vùng đầu đủ chắc, qua một lúc thở hít như thế, lại đem khí giáng xuống, đình trệ ở Đan điền. Cũng qua một lúc thở hít, lại vận khí thăng lên mà rót đủ ở huyệt Kết hầu. Thăng giáng như thế mỗi cái chín lần, sau lại đem thân trên từ từ ngồi thẳng, đầu cũng cúi xuống. Hai tay cũng thu về thõng xuống hai bên, về lại dạng cũ. Xem hình 53.

54


Hình 53 Khảo về Yết hầu là nơi tối trọng yếu của thân người, chỗ quan trọng của đầu cửa ải sống chết, mà ống hầu là một xương sụn, tuy có gân thịt che ở ngoài đó, nhưng cực mỏng yếu, cho nên vùng đó rất dễ bị thương, hơi nặng đã đủ quản thúc mạng. Cho nên nhất định cần rèn luyện thêm. Nếu như có thể vận khí vào không đủ để tổn hại tơ tóc. Riêng đoạn công phu này cũng rất khó luyện. Làm đã xong đoạn công phu thứ mười một thì đem thân trên nâng lên mà làm cho hai chân từ từ thư giãn. Duỗi thẳng hai chân về phía trước. Sau khi nghỉ luyện qua loa, thì thu hai chân lên ngồi vòng tròn. Vẫn lấy mu bàn chân phải đặt ở trên đùi trái, mu bàn chân trái thì đặt ở trên đùi phải, thành thế ngồi song bàn. Sau động tác đó, thần chí không tránh khỏi không thấy rõ bên ngoài, cho nên cần mờ mắt, tĩnh tâm để gom lại nắm giữ cái đó. Đợi sau khi tâm thần đã yên lặng thì đem hai bàn tay dời đến phía trước, úp hai bàn tay vào nhau. Tay phải ở dưới, tay trái ở trên, lòng bàn tay trái từ từ sang phải xoa vòng tròn bảy mươi hai lần. Lúc này lòng bàn tay phát nóng như lửa, mới đem hai bàn tay dời sang dán ở sau thắt lưng. Trước hết từ ngoài xoa xoay vào trong. Xoa tròn bảy mươi hai lần. Lại từ trong xoa tròn ra ngoài, cũng xoa xoay tròn bảy mươi hai lần thì xong đoạn công phu đó. Lại thu về hai tay, làm thế của ngồi mu bàn chân đoạn thứ nhất. Xem hình 54.

Hình 54 Thực hiện mười hai đoạn công phu này đều thuộc về phép ngồi làm, mà ngồi lâu hại tinh, là một trong mười tám cái hại của hành công. Một đoạn này thêm ở sau của mười một đoạn, rất không thể không làm. Lại sợ người làm công phu ngồi lâu mà tổn thương ở tinh, cho nên dùng một đoạn này để dưỡng tinh ấy. Phía sau lưng là cửa của tinh. Cửa tinh êm ái thì sinh khí tự đủ lại không lo tổn thương cái đó vậy. 19. LỜI BÀN CỦA NGƯỜI BIÊN DỊCH "Luyện công với các ngón tay có quan hệ đặc biệt quan trọng". Còn như cơ sở sinh lý học lại là ở trên 10 ngón tay và 10 ngón chân có 12 đường kinh lạc nối tiếp với 12 tạng phủ để duy trì mọi mặt hoạt đông của sự sống cả thể xác và tâm linh. Các phép luyện tập tùy theo mục đích của môn phái và tôn giáo cần đạt mà đã sáng tạo ra các động tác ngón tay, ngón chân khác nhau. Theo học thuyết kinh lạc thì: - Ngón tay cái thuộc Phế. Ngón trỏ thuộc Đại trường. - Ngón giữa thuộc Tâm bào. Ngón nhẫn thuộc Tam tiêu. - Ngón út thuộc Tâm và Tiểu trường. 55


- Ngón chân cái thuộc Can và Tỳ. Ngón chân 2 thuộc Vị. - Ngón chân 4 thuộc Đảm. Ngón chân út thuộc Thận và Bàng quang. Nay xét về tư thế ngón tay trong Dịch cân kinh trong tiền bộ Dịch cân kinh có 12 đoạn với ngón tay ở các tư thế như sau: - Ở đoạn 1 và đoạn 12 cả 5 ngón tay duỗi thẳng. - Đoạn 2 nắm quyền 4 ngón, riêng ngón cái duỗi thẳng. - Các đoạn 3, 4, 5, 8, 9, 10, nắm quyền, ngón cái ở trong, kiểu ấn ngũ lôi. - Các đoạn 6, 7, 11 nắm quyền, ngón cái ở ngoài. Ngoài 2 đoạn 1 và 12 ngón tay duỗi thẳng, chúng ta đặc biệt chú ý đoạn 2, nắm quyền bốn ngón, ngón cái duỗi thẳng cong lên như đuôi chim và 3 đoạn ngón cái ở ngoài 4 ngón nắm quyền, 6 đoạn ngón cái ở trong 4 ngón nắm quyền. Như vậy phía đáng chú ý ở đây là ngón cái tay. Ngón cái thuộc Phế. Khi ngón cái duỗi thẳng riêng là riêng luyện Phế, khí. Khi ngón cái ở trong quyền 4 ngón còn lại ở ngoài, là các tạng khí khác hỗ trợ Phế (6 đoạn) trong quá trình hành khí trong mạc. Khi ngón tay cái ở ngoài, 4 ngón còn lại nắm quyền ở trong là Phế khí, hỗ trợ các tạng khí khác trong quá trình hành khí trong mạc. Trong hậu bộ Dịch cân kinh có 12 đoạn với ngón tay ở các tư thế như sau: - Đoạn 1: Nắm quyền, ngón cái ở ngoài. - Đoạn 2, 3, 4, 6, các ngón ở hai bàn tay đan chéo nhau kiểu ấn lễ Phật đỡ ở các vùng khác nhau. - Đoạn 7, ngón tay duỗi quay về phía trước. - Đoạn 5, lòng bàn tay quay ra phía sau, mu bàn tay ở hai bên huyệt Vĩ lư. - Đoạn 8, 9, 10, 11, 12, lòng bàn tay úp ở các vùng khác nhau và xoa xát thận du. Ở trong tiền bộ nếu trọng tâm là luyện khí phế và quan hệ khí ở phế với khí ở các tạng phủ khác, thì ở hậu bộ này ngoài một số động tác ngón tay giống ở tiền bộ như ở đoạn 1, đoạn 7, 5 còn lại có 4 đoạn các ngón tay đan chéo nhau và 5 đoạn úp bàn tay vào các vùng. Trọng tâm ở hậu bộ sẽ là: Khi ngón tay ở hai bàn tay đan chéo nhau cũng có nghĩa là các đường kinh cùng tên ở bên trái và bên phải nối kín nhau, không để kinh khí giao lưu với ngoại môi, theo đường tỉnh huyệt, mục đích bảo tồn kinh khí trong nội bộ cơ thể, không thể ảnh hưởng ngoại môi can dự vào quá trình hành khí trong mạc. Do đó, ngoài việc phải tuân thủ đúng tất cả mọi tư thế, thứ tự yếu lĩnh nói chung trong từng đoạn ra, còn lại là việc làm đúng tư thế các ngón tay, yếu lĩnh lỏng, khít ngón tay khi nắm quyền, hay cong ngón tay như đuôi chim có thể cũng sẽ là một nội dung trọng yếu như ông Trương Trừng Cơ đã viết trong sách “Thiền đạo tu tập” rằng... “Nhờ đó một hành giả có thể đánh thức dậy cái Kundalini (sinh lực)…” và do đó… “Cách chính xác của vận động này được giữ tuyệt đối bí mật”…Vì vậy động tác yếu lĩnh ngón tay cũng góp phần quan trọng trong sự thành công, cần phải chuyên chú và càng cần không được phép làm sai.

56


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.