Chuyện đời Bùi Giáng – Kỳ 1 : Ai đưa Bùi Giáng vào nhà thương điên ? 18/09/2013 03:20 Không chỉ là một giọng thơ lạ lùng, cuộc đời Bùi Giáng cũng có vô số chuyện lạ lùng bởi ông “chẳng sống theo thời thế, mà chỉ biết sống từ cõi văn nghệ lúy túy càn khôn”. Thanh Niên xin giới thiệu với bạn đọc những tài liệu mới nhất về thi sĩ Bùi Giáng.
Bùi Giáng qua ký họa của Chóe - Ảnh: Tư liệu Có cuộn băng cassette ghi lời kể của chính Bùi Giáng về nguyên do ông bị “áp tải” vào nhà thương điên Biên Hòa. Những tài liệu này ghi nhận qua các buổi gặp gỡ với đại diện của Bùi tộc Vĩnh Trinh tại TP.HCM - ông Bùi Dương Thạch, hoặc những người từng sống gắn bó nhiều năm với Bùi Giáng như ông Nguyễn Thanh Hoài tại số 482/35/5 Lê Quang Định, P.11,
Q.Bình Thạnh, TP.HCM. Chính ở địa chỉ đó, hiện vẫn còn lưu giữ các cuốn băng với nhiều chi tiết sống động do Bùi Giáng kể ra, được Thanh Hoài ghi âm: “Những năm cuối đời của bác Giáng, nhất là từ 1990 trở đi, hai bác cháu thường ngồi nói những chuyện riêng tư cho đỡ buồn trước hiên nhà, hoặc dưới tàng cây trong sân vào mỗi đêm khi gia đình đã đi ngủ hết. Bác kể hết sức chi tiết về chuyện đời của bác, từ thời còn nhỏ cho đến lúc lớn lên, rời miền Trung vào Sài Gòn sinh sống, làm thơ và giao du với ai, cũng như việc sáng tác, in ấn như thế nào… Một bữa, tôi lấy máy cassette để ghi âm lại lời nói của bác thì thấy bác có vẻ băn khoăn hỏi: “Mi thâu làm cái chi?”. Tôi nói với bác thâu để có gì hay thì cháu nghe lại không thôi nó quên! Bác nói rứa thì được, mi cứ thâu đi, tao nói cho nghe”. Và Bùi Giáng nói về “sự cố” đã đẩy ông vào nhà thương Biên Hòa với nội dung như lời Thanh Hoài tóm lược dưới đây. “Vào những năm đầu tiên của thập niên 1960, bác Giáng viết rất nhiều, gần như không có ngày nào dừng bút, bản thảo dày lên chưa kịp in thì xảy ra vụ cháy nhà nơi bác đang ở trên đường Phan Thanh Giản, nay là đường Điện Biên Phủ, khiến bao nhiêu bản thảo cháy rụi. Bác nói với tôi là tao quá tiếc và đau đớn nhất là công trình biên soạn về truyện Kiều ròng rã suốt 3 năm trời đã thành tro, làm tao buồn quá bỏ hết để rong chơi khắp lục tỉnh, sông nước kênh rạch chỗ nào có dịp là tao tới. Khi về, thì Tòa đại sứ Pháp và Tòa đại sứ Đức ở Sài Gòn có mời tao đến hỏi thăm, họ nói nếu tao cần sách gì họ sẽ mang tặng không đòi một đồng nào. Nhưng nhà cháy rồi, lấy sách của Pháp của Đức về cũng không có chỗ để, nên tao cám ơn rồi từ chối, không nhận. Thế nhưng hai tòa đại sứ kia không biết thế nào vẫn lại tìm cách gửi đến tao mấy thùng sách quý của các tác giả nổi danh ở nước họ và trên thế giới. Tao đành phải nhận nhưng không biết cất nơi nào nên tao mới đến gặp ông chủ (tạm giấu tên) của NXB VT để vui vẻ tặng lại cho ông ta. Nhưng ông ta không nhận, vì ông nói người Pháp người Đức tặng cho anh toàn sách quý, nếu anh không có chỗ cất vì nhà đã cháy, thì tôi chỉ giữ giùm, khi nào anh cần đến nói là tôi giao lại cho anh. Tao vui vẻ ra về. Đến không lâu sau tao kẹt quá, không có tiền đủ để ăn cơm bình dân và uống la-de con cọp chai loại lớn nên tao đến gặp ông chủ NXB kia để nhận lại số sách đã gửi. Nhưng kỳ cục là khi tao đến lấy, thì ông ta không giữ lời, nhất định không chịu trả. Tao nhắc lại là tại sao khi tao tặng thì không nhận, nói giữ giùm, bây chừ đến lấy tại sao lại không đưa? Ông ta cứ một mực tỉnh bơ, không trả. Tao nổi điên tao chửi một trận, rồi tao về. Bước ra ngoài đường tao thấy chiếc xe hơi kiểu Nhật sang trọng của ông chủ đó đang đậu trước nhà, luôn tiện tức quá tao lượm một cục đá xanh thiệt to ném thẳng vào chiếc xe đó cho hả giận, ai dè nó bể cái kính xe, mà lúc đó chiếc xe trị giá cả bạc triệu. Ông ta chạy ra thì sự đã rồi, vừa tiếc của, vừa giận tao lắm, mới điện thoại cho thằng em ruột của tao (không nêu tên) lúc ấy là sĩ quan của quân đội ông Thiệu đến mắng vốn và để chở tao về. Khi về đến nhà, thằng em ruột của tao ngao ngán nhìn tao và có lẽ nhớ đến chiếc xe đắt giá bị bể kiếng rồi sợ rằng tao ở trong nhà nó có thể cũng sẽ gây ra cảnh tương tự như thế. Nói trắng ra là thằng em tao với đứa con gái út của nó chắc hẳn nghĩ rằng tao điên nên đã cùng nói với tao là thôi để ngày mai tụi em chở anh về Vũng Tàu vài hôm nghỉ mát cho khỏe người tĩnh trí anh à. Tao cứ tưởng thật nên sáng hôm sau ngồi lên xe cho chúng chở đi về Vũng Tàu. Nào ngờ đến Biên Hòa tụi nó đã chở thẳng tao vào nhà thương điên để gửi, tao có nói gì đi nữa thì bọn “cai ngục” chung quanh cũng chẳng ai tin, mi thấy có đắng họng không?”. Về sau ông viết mấy câu: “Gặp người tôi tưởng người điên - gặp tôi tôi tưởng tôi điên như người”… (Còn nữa)
“Bùi Giáng chưa bao giờ điên. Cũng như anh chẳng bao giờ giả điên. Càng chưa bao giờ Bùi Giáng bất mãn trước bất cứ thời thế nào. Bởi lẽ dễ hiểu là Bùi Giáng chẳng sống theo thời thế, mà chỉ biết sống từ cõi văn nghệ lúy túy càn khôn của anh. Thời kỳ của Bùi Giáng bộc phát ra bên ngoài mà chúng ta gọi là điên, ấy là thời kỳ tĩnh tại và hưng phấn cùng độ của người nghệ sĩ. Tất cả lẽ chân thiện mỹ của nghệ thuật thi ca từ nhiều đời nhiều kiếp đều dồn về lúc đó… Bây giờ người thi sĩ này chỉ còn một cách duy nhất để sáng tác nguồn cảm hứng kia là sống. Sống dạt dào - sống nóng hổi tươi mới. Sống và sống là thi ca tràn đầy trong thiên nhiên, trong tình cảm và giữa vạn loài. Ôi thời gian là thực chất mới mẻ đang dâng hiến, dâng hiến bất tuyệt cho người, cho ta, cho cây cỏ, cho nắng mưa, cho rượu chè, cho phở tái, cho tình yêu chan chứa giữa lòng nhau mà đau khổ càng rõ nét, càng vút cao tính khoan hòa thánh thiện… Tính cách này đạo Thiền gọi là phỉ lạc, Bùi Giáng gọi là Niết bàn của thi sĩ…”. Trần Đới (Thích Thông Bác)
Giao Hưởng >> Ấn tượng Bùi Giáng
Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 2: Thiên tài không thể định nghĩa 19/09/2013 00:20 Tọa đàm khoa học đầu tiên về Bùi Giáng đã khép lại hôm 14.9 nhưng âm vang trên diễn đàn ấy 'vẫn còn tiếp tục truyền thông và mở rộng' như lời ông Bùi Dương Thạch - đại diện Bùi tộc Vĩnh Trinh tại tọa đàm, đã nói với chúng tôi trong cuộc gặp chiều hôm qua 18.9. >> Chuyện đời Bùi Giáng: Ai đưa Bùi Giáng vào nhà thương điên ?
Bùi Giáng tại nhà đường Lê Quang Định - Ảnh: Tư liệu Thưa ông, vui lòng cho biết một trong những điều 'vẫn còn truyền thông' sau tọa đàm? Tôi muốn nói đến tiểu sử Bùi Giáng mà trước đây thường do các tác giả ngoài tộc Bùi viết với một số chi tiết khác nhau làm công chúng băn khoăn. Nay qua tọa đàm, Bùi tộc Vĩnh Trinh chúng tôi thu thập thêm tài liệu để chính thức thông báo về các nét chính trong đời ông sau đây. Bùi Giáng sinh ngày 17.12 năm Bính Dần 1926 tại làng Thanh Châu, xã Vĩnh Trinh, H.Duy Xuyên,
Quảng Nam, là con thứ nam của ông Bùi Thuyên (thuộc đời thứ 16 họ Bùi ở Quảng Nam) và bà Huỳnh Thị Kiền. Ông lấy vợ năm 1944, lúc 18 tuổi. Vợ ông là hoa khôi trong vùng: bà Phạm Thị Ninh; khi mang thai bà bị bệnh, phải sinh non và cả hai mẹ con đều qua đời. Từ đó ông in sâu vào lòng một quá khứ không vui: “Xin ngó lại bàn chân em bước/Vì em đi vào lúc gió đương bay”. Rồi ông nói với người đã khuất trên núi rừng Trung Việt: “Khung cảnh ấy nằm sâu trong đáy mắt/Có lệ buồn, khóc với lệ hòa vui/Để tràn ngập hương mùa lên ngan ngát/Rồi tan đi trong hố thẳm chôn vùi”... Về các chi tiết khác, nghe nói đã có một số tài liệu mới về Bùi Giáng vừa lưu hành trong nội bộ của Bùi tộc Vĩnh Trinh tại TP.HCM? Đó là ấn phẩm dày khoảng 360 trang lần đầu tiên chúng tôi tập hợp các bài viết về Bùi Giáng được xem là một bộ sưu tập nhỏ dùng làm tặng phẩm kỷ niệm cho bà con trong Bùi tộc. Chúng tôi cám ơn và ghi nhận nhiều cách nhìn về Bùi Giáng mà chú Bùi Văn Nam Sơn gọi một cách hình ảnh là “Bùi Giáng trong chiếc kính vạn hoa”. Chẳng hạn anh Mai Thảo viết về Bùi Giáng rất sống động và tài tình, riêng chuyện “điên” mà Mai Thảo nhắc đến qua 4 câu: “Và ở Sài Gòn vẫn còn Bùi Giáng. Tối tối về chùa đêm làm thơ. Ngày ca múa khóc cười giữa chợ. Kẻ sĩ điên thế kỷ mù rồi” thì anh Huỳnh Hữu Ủy không đồng tình, cho là “Mai Thảo rất nhầm lẫn khi quy tội điên của Bùi Giáng cho những nguyên nhân thời đại” vì Bùi Giáng đã: “Thoát ra khỏi mọi phiền trược của cuộc đời, chẳng còn câu chấp chi cả, ông sống hoan hỷ như một đứa trẻ với một nguồn thơ tinh khôi, hồn nhiên, đầy hoan lạc” như mấy câu: “Người con gái lội qua khe/Bàn chân với nước lạnh đè lên nhau/Nỗi niềm tưởng lại xưa sau/Bàn chân với nước cùng nhau lại đè”... Còn những điểm sáng tương đồng tương cảm? Có lẽ cần nhắc đến kết luận của Thái Tú Hạp rằng: “Dù với bao nhiêu lời nhận định nào đi nữa ta vẫn thấy một điểm chung của mọi người là đã dành sự yêu mến cho con người siêu lãng tử lẫn thiên tài độc đáo này”. Một điểm chung
“Hiếm có tác giả nào mà khi ta đọc đôi câu cũng có thể cảm thụ được cái tinh thể của toàn bộ văn nghiệp đồ sộ, nhìn một hành vi mà thấy được phong độ dị thường của cả bình sinh. Một giọt nước mắt mang cả lượng hải hàm của đại dương - nói như nhà Phật. Các bậc thâm trầm ngày xưa gọi đó là “mở cửa thấy núi, một khí xuyên suốt (khai môn kiến sơn, nhất khí quán hạ). Phương Tây bảo rằng Văn là Người. Quả ở đây, Người trở thành Văn, Văn với Người không hai. Anh Giáng là sao Văn Khúc (...) thuộc vào loại thiên tài không định nghĩa được (génie indéfinissable)”. Bùi Văn Nam Sơn (Bùi tộc phổ hệ)
tiếp theo là nhắc đến “một Bùi Giáng lang thang trên vỉa hè Sài Gòn đau đáu nhớ nhung về mảnh đất hẹp Quảng Nam mà vẫn đem triết học Đông Tây về với ca dao lục bát, vẫn có thể quàng vào thân thể của Brigitte Bardot hay Monroe những xiêm y của Xuân Hương” như Nguyễn Hoàng Vân đã viết từ Melbourne (Úc). Các bài viết trước năm 1975 của Trần Tuấn Kiệt, Cao Thế Dung, Tạ Tỵ, Du Tử Lê, hoặc sau này của Huy Cận, Trụ Vũ, Phạm Thiên Thư, Vũ Đức Sao Biển, cùng nhiều tác giả khác đều tựu trung nhắc đến Bùi Giáng là thi sĩ đã đưa thơ “vượt qua những rào cản của ngôn ngữ”. Nỗi nhớ quê hương của ông cũng thật lạ như: “Người hỏi tôi: Từ đâu ông đến đây?/Thưa cô thôn nữ từ đây tôi về/Ủa phải anh Sáu Giáng đó không?/Và cô có phải là cô Bông năm nào?/Anh còn nhớ rõ ôi chao!/Vợ chồng tôi cũng lúc nào nhớ anh/Anh điên mà dzui-dzẻ thập thành/Chúng tôi tỉnh táo mà đành buồn hiu”. Những năm cuối đời, có lần Bùi Giáng về thăm những “cô gái quê” thuở xưa: “Bảy mươi tuổi quá nặng nề/Còn em đã sáu tám rồi em ơi”. Ông cũng viết một bài thơ trước khi mất do Bùi Kiến Quốc chép lại: “Chiêm bao tôi thấy tôi về Quảng Nam/Rong chơi Đại Lộc, Điện Bàn/Duy Xuyên, Tiên Phước, Hòa Vang, Thăng Bình/Tìm người bạn cũ không ra/Còn phong cảnh cũ khác xa những ngày/Xóm làng, đồng ruộng lạ thay!/Chỉ còn dáng núi chạy dài xa xa/Giữ nguyên hình ảnh đậm đà/Còn trong kỷ niệm bao la tuổi nào/Ngắm nhìn, tim máu xôn xao/Tôi rời đất Quảng trở vào miền Nam/Tâm hồn bao xiết hoang mang/Bài thơ viết vội, dở dang lạ lùng...”. Riêng ông nhớ nhất những câu gì của Bùi Giáng? Câu: “Ta đi còn gửi đôi giòng/Lá rơi có dội ở trong sương mù”, thơ của ông gửi lời hẹn không chỉ đến người ở cõi này, mà còn đến những ngày “hội” ở kiếp sau. Đồng thời cũng làm chúng ta liên tưởng đến người vợ xinh đẹp của ông cùng qua đời với đứa con đầu lòng khi tuổi mới thanh xuân - và chắc chắn biến cố ấy đã làm ông đau xót hẹn hò: “Mai sau còn dự hội nào/Ngó nhau từ kỷ niệm đầu bão giông...”. (Còn nữa) Giao Hưởng >> Chuyện đời Bùi Giáng: Ai đưa Bùi Giáng vào nhà thương điên ? >> Ấn tượng Bùi Giáng
Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 3: Cuốn sổ nợ 'đoạn trường' 20/09/2013 11:16 Lúc 9 giờ sáng nay 20.9, lễ tưởng niệm 15 năm ngày mất Bùi Giáng (1998 - 2013) sẽ cử hành tại ngôi mộ của ông ở nghĩa trang Gò Dưa, Q.Thủ Đức, TP.HCM.
>> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 2: Thiên tài không thể định nghĩa >> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 1: Ai đưa Bùi Giáng vào nhà thương điên ? >> Bùi Giáng và bài thơ 'phù thủy Ngày Bùi Giáng mất theo âm lịch là 17.8 Mậu Dần, nên hằng năm lễ giỗ thường được tổ chức ngày 16.8 âm lịch (năm nay rơi vào 20.9.2013 dương lịch). Vì thế, trưa nay gia đình sẽ cúng ngọ với mâm chay đặt trước mộ và mâm mặn dành cho các văn nghệ sĩ khắp nơi yêu thơ ông đến viếng để uống chén rượu nhớ ngày ông ra đi giữa “ngàn thu rớt hột”. Nhà thơ Trần Đới người gắn bó với Bùi Giáng suốt 15 năm trên “chiếc đu bay” sẽ có mặt. Và dự kiến Đắc Phúc sẽ hát tại chỗ một số bài nhạc do anh phổ thơ Bùi Giáng, bên cạnh tay đàn tây ban cầm cổ điển Lê Quốc Phong và nghệ sĩ nhạc rock Linh Xù (Phan Ngọc Linh), Lư Châu (Phan Văn Châu). Dịp này, chúng tôi đến ngôi nhà cũ Bùi Giáng ở nhiều năm trước lúc qua đời và được gia đình cho xem các cuốn sổ nợ do chính ông ghi từ 1993 đến 1998. Trong đó, ông thường ghi nợ ở một quán mở gần nhà (nằm trong con hẻm đường Lê Quang Định), chủ quán là ông Tốt rất “từ bi”, hễ Bùi Giáng uống rượu chịu bao nhiêu vẫn cứ để ghi sổ dài dài, nên cuối năm 1997, giáp Tết Mậu Dần 1998 (năm Bùi Giáng mất), đã viết mấy câu vào sổ nợ: “Bài thơ thân tặng Đại ca/Kính thưa ông Tốt là cha thằng Bùi khùng”. Nghe nói ông Tốt đã xin Bùi Giáng đừng gọi ông ta bằng “cha” mà ông ta sẽ bị tổn thọ. Song Bùi Giáng bác bỏ, nói biết đâu kiếp trước, kiếp xưa, kiếp xa “ngài” đã mấy triệu lần làm cha “Bùi” này rồi. Chiều 30 tết, gia đình ra trả nợ để lấy cuốn sổ ấy về, thay vào cuốn sổ mới, Bùi Giáng lập tức ghi mở hàng: “Trả xong món nợ láng giềng/Lòng vui phơi phới tháng giêng Mậu Dần”. Nhưng chỉ vài giờ sau giao thừa, Bùi Giáng lại xuất hiện trước cửa ông Tốt “đạp đất” để khai bút đầu năm vào sổ, thiếu “một ngàn rưỡi ngày nguyên đán”. Mồng hai, mồng ba cũng vậy, đến: “hôm nay mồng bốn tháng giêng/hai ngàn nợ này - say rượu suốt hoài trăm năm” và kéo dài gần hết tháng giêng: “sau tết 20 ngày nợ hai ngàn rưỡi” và “sau tết 22 ngày/nợ nơi này hai ngàn rưỡi”… Điều khác người, là tiền nợ ông ghi bằng chữ chứ không ghi bằng số. Cũng có chỗ nợ chỉ năm ngàn nhưng ông ghi: “nợ nần năm triệu” với chú thích rõ bên dưới: “tức là năm ngàn Việt Nam”. Có lần ông Tốt méc với gia đình là bác Giáng ngồi uống rượu ngoài quán la hét rằng làm vua, làm tổng thống, làm chủ tịch nước không sướng bằng ông Tốt sinh ra để suốt đời bán rượu cho thằng khùng, đúng như ông đã viết trong sổ nợ: “Muôn thu thiên thượng lâu đài/không bằng bán rượu lai rai cho thằng khùng - năm ngàn hôm nay - giờ này số dzách - 1998 January”. Có những câu
khá buồn: “Tháng năm sắp đổi sắp dời/Một mình ngồi uống biết mời mọc ai/Chỉ còn cô độc đeo đai...” . Những câu ấy nhắc chúng tôi nhớ lại tham luận của GS-TS Huỳnh Như Phương mới đây tại Tọa đàm khoa học về Bùi Giáng có đoạn đại ý nói rằng tọa đàm mở ra ngoài các mục đích nghiên cứu khoa học, còn được xem là lời xin lỗi với vong linh Bùi Giáng về nhiều năm đã “bỏ quên” ông… Trong “sổ đoạn trường” ấy Bùi Giáng cũng nói trước về ngày ra đi của mình: “Nợ nần ông trả từ nay/Về sau ắt sẽ còn đâu nợ nần”. Thật ra, chính chúng ta nợ ông rất nhiều. Món nợ lớn nhất (chưa nói đến giá trị văn chương và tư tưởng độc đáo của ông), là nguồn vui lạ lùng mà cuộc sống lang thang của ông đã lan tỏa ra ngoài, không hề tính toán và đòi hỏi gì, như Huy Tưởng đã viết và đọc cách đây đúng 15 năm trong giờ vĩnh biệt: “anh Bùi Giáng đã dấn mình một cách hiên ngang và khốc liệt vào cõi Thơ ca, TẬN HIẾN hết cả đời mình cho duy-nhất-thơ-ca (…) tận hiến mà không hề nhận lại một sự bù đắp đối đãi nào của nhân thế, trút gởi hết thảy xương máu và hồn phách, lưu lại ở đời như vay tạm một hình cốt mong manh bi thiết và mộng mị. Hình ảnh đắm chìm của tận hiến hung hiểm đó chính là một tượng đài vĩ đại đến khủng khiếp của thiên tài thơ Bùi Giáng (…) Xin vĩnh biệt anh Bùi Giáng yêu kính. Cầu cho hồn anh được siêu sinh tịnh độ, nương theo mây trắng mà về lại với quê nhà, tiếp tục rong ruổi vui chơi trên cõi trời Đâu suất…”. Thật vậy, ông đã mang “những hạt nắng bảy màu” đến với nhân sinh cùng tiếng cười vui bất ngờ đâu đó: “Cái vui ấy ông đã ban tặng cho đời mãi đến ngàn sau, không những bằng ngôn từ mà cả bằng thân xác” (Thích Nhuận Châu) - và nay ông đã về “cố quận” (như chữ ông thường dùng) để lại mấy câu da diết: “Đất hoa khóc vĩnh biệt người/Ngàn cây cố quận đôi lời sương thu”. Lời cố quận là tên một tập khảo luận nổi tiếng của Bùi Giáng - cùng với tập Lễ hội tháng ba trở thành hai cuốn sách mà bạn đọc có thể tìm hiểu về tư tưởng được xem là “ẩn mật” của ông - như Bùi Văn Nam Sơn nhận định. Sáng nay, ông có thể sẽ trở về trong hương khói, với “niềm vui ẩn mật” mà Nguyễn Quang Thanh từng khẳng định là luôn luôn được “phơi bày ở trong chính mình và ở quanh mỗi chúng ta”. Phơi bày trong im lặng và im lặng như thơ Bùi Giáng viết: “Một lời chẳng nghĩa là bao/Dẫu lời không tiếng lẽ nào không nghe?”. (Còn nữa)
Bùi Giáng đã tạo ra được một cuộc hôn phối kỳ lạ giữa Trời và Đất, Đông và Tây, giữa Heidegger đìu hiu gió tuyết và Nguyễn Du tịch mịch sương chiều. Bùi Giáng không bao giờ là một nhà “giải minh” tư tưởng triết học hiểu theo nghĩa hàn lâm của thuật ngữ này (...) ông không bao giờ sử dụng các “phương pháp phân tích” và diễn giảng của nhà trường để đi sâu vào một tác phẩm hay một tác giả. Với ông, chỉ có sự đồng cảm hay thấu cảm với một tâm hồn đồng điệu nào đó hoặc với suối nguồn uyên nguyên của tư tưởng mới là điều đáng kể, còn ngoài ra tất cả đều là phù phiếm, dù cho sự phù phiếm này có được nâng lên thành một hệ thống quan niệm có tính chất phương pháp luận. Trần Trung Phượng Giao Hưởng >> Ấn tượng Bùi Giáng >> Bùi Giáng và bài thơ 'phù thủy >> Tọa đàm khoa học đầu tiên về Bùi Giáng >> Người vợ của Bùi Giáng
Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 4: Đạt đạo cõi thơ 21/09/2013 00:30 Chiều qua (20.9), dự lễ tưởng niệm Bùi Giáng ở Nghĩa trang Gò Dưa (TP.HCM) xong, lão thi sĩ Trần Đới, 82 tuổi - tác giả thi phẩm Tảo mộ lênh đênh, đã nói chuyện với chúng tôi một cách say mê về Bùi Giáng, mở đầu vỏn vẹn với bốn chữBùi Giáng đạt đạo. >> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 3: Cuốn sổ nợ 'đoạn trường >> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 2: Thiên tài không thể định nghĩa >> Chuyện đời Bùi Giáng: Ai đưa Bùi Giáng vào nhà thương điên ?
Đạt đạo như thế nào? Nghe hỏi, Trần Đới nói với giọng khá to: - Đạt đạo ở chữ “mỹ”. Có người vào đạo qua chữ “chân”, hoặc chữ “thiện”, còn Bùi Giáng đạt đạo ở cõi thơ tức vào đạo qua chữ “mỹ”. Giống như muốn vào một thành phố có nhiều cửa, người ta chỉ cần vào một cửa là được - Bùi Giáng đã theo cửa “mỹ” ấy để vào, thì cả “chân” và “thiện” cũng thành tựu một lần theo bước chân ông. Trần Đới nói: “Mình bắt đầu quen Bùi Giáng tại Đại học Vạn Hạnh - Sài Gòn năm 1972”, lúc ấy đại học này quy tụ một số tài danh thi văn như Phạm Công Thiện, Phạm Thiên Thư, Tuệ Sỹ, Trần Xuân Kiêm… Những ngày sống với Bùi Giáng tại một căn phòng vừa rộng vừa trống trải tại Tổng vụ thanh niên Phật tử, mỗi sáng hễ rủng rỉnh vài ba đồng trong túi là họ kéo qua quán phở Vũ Hùng gần đó ăn, xong về nằm “mỗi người làm việc của mình” trên những cái giường sắt trải nệm vừa cũ vừa mòn, nhưng có thể nhún nhảy tha hồ nhờ đám lò xo bên dưới. Chính ở đó Trần Đới đã làm thơ rồi đưa Bùi Giáng đọc, có lần Bùi Giáng đọc xong đã nhắc ông hãy tránh lối nói đao to búa lớn: “Chuyện như kia mà nói lời như thế, đó là lời tục tĩu của bọn phàm phu muốn bắt chước các ông thánh. Siêu thực không phải chỉ là chuyện ở trên mây. Càng không nên bắt chước lối nói của Phật, Chúa, Khổng, Lão. Phật, Chúa, Khổng, Lão đang nằm nhún nhảy, giỡn cười và hút thuốc trên giường đây nè! Chú mày hãy nghe tiếng cút kít của chiếc giường và nhận ra pháp âm của đạo. Ngôn ngữ của thi ca là cảm tính đi trước, tư tưởng đi sau…”. Và muốn làm thơ lục bát nên đọc và ngẫm các câu: “Đồn xa quằn quại bóng cờ/Phất phơ buồn tự thời xưa trở về… Người lên ngựa kẻ chia bào/Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san… Cặp trên của ai vậy anh? - Huy Cận. - Dưới thì Kiều… - Ừ. - Rứa còn của anh? câu nào mà anh cho là đạt nhất? - Ông lộn xộn hoài… Muốn gì đấy? Mưa nguồn và Lá. Nhưng đọc xong thì quên tuốt mẹ nó đi. Hãy quên, tất cả những gì mà từ trước đến nay đã biết. Hãy quên đi rồi hãy viết. Hãy viết như viết trong chiêm bao: nơi đó mọi thứ đã trộn lẫn. Một thứ trộn lẫn đầy cảm động và mãnh liệt. Đừng có chằm hăm vào một cái gì, một chỗ nào. Hãy nên chằm hăm vào rạt rào, như vậy, như vậy… - Vậy vậy!”. Lão thi sĩ Trần Đới nói đại ý người “đạt đạo” không ngự trên mây xanh mà hòa lẫn với vạn duyên trong trời đất, không từ chối niềm xôn xao chào đón của những hạt bụi, cỏ hoang, hoa dại và sương khói bên đường. Có thể nghiệm ra điều ấy qua hành trang của một Bùi Giáng lang thang, khi thì ngồi làm thơ trên “xô xích le” (xe xích lô), khi thì
Vừa nói, Trần Đới vừa đưa chúng tôi xem tập san kỷ niệm Bùi lượm bao ni lông, giấy vụn… Giáng in đã lâu nhưng chỉ phổ biến rất hạn chế trong vòng thân hữu chứ chưa rộng rãi và bảo chúng tôi nếu thấy được hãy trích giới thiệu với bạn đọc trẻ ngày nay, trong đó có đoạn Trần Đới hỏi: “- Lô hỏa thuần thanh là chi rứa anh Bùi?” - “Ngọn lửa đã xanh… Lửa đã xanh thì tươi mát như ngọn lá đa mới nở. Nhưng sức nóng mãnh liệt của nó xuyên thủng bất cứ thứ cứng rắn nào”.Trần Đới cũng nhắc đến một người: Phạm Mạnh Hiên tác giả của một bài viết khác trong tập san trên, trích dưới đây: “Tôi nhớ năm 1973, nhà văn Mai Thảo (đã chết ở Mỹ) và Nguyễn Xuân Hoàng lúc đó đang trông coi tập san Văn có ý muốn làm số đặc biệt về Bùi Giáng. Tôi vốn mê thơ Bùi Giáng từ lâu, dù chưa được gặp anh, tôi xăng xái viết cho Văn một lúc hai bài (ký bút danh Nam Chữ và Thục Khưu). Báo ra, một bữa tôi đến tòa soạn lãnh nhuận bút, bất ngờ gặp Bùi Giáng ở đấy. Sau lời giới thiệu của N.X.H rồi cùng kéo nhau ra quán cóc bên hông tòa soạn uống lave. Thế là tôi đã được gặp Bùi Giáng, một Bùi Giáng bằng xương bằng thịt hẳn hoi! Tôi cảm thấy vô cùng mãn nguyện đồng thời cảm thấy nhỏ bé trước anh vô cùng. Từ đó giữa anh Bùi Giáng và tôi trở nên thân thiết. Anh Bùi Giáng ở một góc nhỏ trong căn phòng rộng với vài vị sư khác trong Viện đại học Vạn Hạnh. Tôi thường lên anh chơi. “Tài sản” của anh chỉ có chiếc giường sắt cá nhân, manh chiếu mỏng, dưới gầm giường lủ khủ đủ thứ loại sách. Tôi rất ngạc nhiên, sau bao nhiêu năm thân thiết với anh, chẳng bao giờ tôi thấy anh ngồi bàn viết (mà bên chỗ anh nghỉ ngơi cũng không có chiếc bàn chiếc ghế nào). Lúc nào anh cũng nằm ngửa viết, nằm ngửa đọc trên chiếc giường cá nhân của mình. Anh viết nhanh, viết nhiều bằng những cuốn vở tập học sinh, những cuốn sổ dày kẻ ca-rô. Tôi thường cùng anh ngao du khắp Sài Gòn, Chợ Lớn, bất kể đêm ngày. Những lúc đó tôi thấy anh làm thơ sao mà dễ dàng, ngồi đứng gì chữ cũng cứ theo ngòi bút trên tay anh trào ra ào ạt. Anh làm thơ bất cứ đâu, bất cứ chỗ nào, miễn là trên tay anh có bút giấy hay những trang sách nào đó cũng được, đặc biệt sách nào anh đọc qua đều thấy chằng chịt những ghi chú lẫn cả thơ anh viết. Được đi ngao du với anh như thế cũng là đã lắm rồi. Có lần say ngất ngưởng, sáng tỉnh dậy, thấy mình đang nằm ở vỉa hè. Thú vị xen lẫn với ngỡ ngàng, ngơ ngác!”. (Còn nữa). Giao Hưởng DÒNG SỰ KIỆN
Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 11: Bùi Giáng nổi giận trong sân chùa Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 10: Nhà thơ nói về... thế kỷ 35! Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 9: Cái nhìn Bùi Giáng về Kim Dung Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 8: Với Thanh Tuệ và NXB An Tiêm Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 7: Bùi Giáng - Phạm Công Thiện với 'ngày tháng ngao du' Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 6: Những bài thơ cuối đời
Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 5: Bùi Giáng với Bùi tộc Vĩnh Trinh 22/09/2013 03:00 “Viết về bất cứ danh nhân nào người ta thường phải nhắc đến nơi chôn nhau cắt rốn cũng như dòng dõi huyết thống của danh nhân đó - ở đây chúng tôi muốn nói đến Bùi Giáng với Bùi tộc Vĩnh Trinh”. Ông Bùi Dương Thạch (ảnh), 65 tuổi - đại diện Bùi tộc Vĩnh Trinh tại TP.HCM – đã mở đầu như vậy trong buổi gặp gỡ thân mật với chúng tôi vào trưa qua 21.9, rồi tiếp: “Bùi Giáng thuộc đời thứ 17 của dòng họ Bùi ở Quảng Nam. Dòng họ này rời đất Hoan Châu, tỉnh Nghệ An ngày nay, vào cuối thế kỷ 15 dưới thời vua Lê Thánh Tôn, để theo cuộc Nam tiến lịch sử cùng tiền nhân của Đào tộc vào vùng đất Quảng Nam sáng lập ra xã hiệu Bình Khương, hiện nay là làng Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, với đệ nhất tổ là ngài Bùi Tấn Diên và đệ nhị tổ là ngài Bùi Tấn Trường, khai khẩn và phân ranh giới 6 thôn: Lệ Trạch, Vĩnh Trinh, Thanh Châu, Cổ Tháp, Cù Bàn và An Lâm, thường gọi “lục thôn”. Bài minh trên bia đá kỷ niệm trùng tu đình Lục thôn (Đình Châu) năm 1754 ghi: “Nguyên châu chúng ta ngày trước có ngài cai phủ Khánh Sơn hầu Bùi Quý công cấu tạo đình sở - đất linh, người giỏi, tiếng đồn vang khắp châu thôn - người gần lấy làm hài lòng - kẻ xa rủ nhau kéo đến - họp thành chợ đông vào lúc ban trưa đến nay chưa ai quên được”...
Ông Thạch kể, về sau họ Bùi phân định làm 5 phái vào đời thứ 13. Sang đời thứ 14, Bùi gia đã nổi tiếng “của nhiều người đông”. Đến đời thứ 15, nhiều vị đã từ Vĩnh Trinh sang lập nghiệp ở các phủ huyện khác như: Điện Bàn, Đại Lộc, Quế Sơn. Tiêu biểu nhất cho nếp sống nho phong có ông Bùi Túc, hai vị đỗ đạt là ông Bùi Hữu Chí và Bùi Giác. Đến đời 16, nổi tiếng trong nước về lĩnh vực văn hóa có Bùi Văn Nam Sơn hiện nay và Bùi Thế Mỹ trước kia. Bùi Thế Mỹ (1904 - 1943) là nhà văn, ký giả nổi danh với bút hiệu Lan Đình và Thông Reo, chủ bút nhật báo Điện Tín - cộng tác thường xuyên với các tờ: Tân Thế kỷ, Đông Pháp thời báo, Thần Chung, Phụ nữ Tân Văn, Công Luận, Dân báo và từng bảo với bạn mình là Thiếu Sơn: "Tôi không tha thứ cho bọn gian lận kiếm ăn trên địa hạt văn chương". Khi ông mất, cụ Huỳnh Thúc Kháng đã có câu đối khóc ông trên báo Tiếng Dân. Đời thứ 17 có Bùi Kiến Tín du học và tốt nghiệp bác sĩ y khoa tại Pháp, về nước ông sáng chế loại dầu chữa bệnh thời khí nổi danh có tên “Dầu khuynh diệp bác sĩ Tín” thông dụng toàn quốc. Công thức bào chế của ông hiện nay vẫn được một số xí nghiệp dược phẩm Việt Nam dùng để tái sản xuất. Bác sĩ Tín là thân phụ của tiến sĩ Bùi Kiến Thành - người Việt đầu tiên được đào tạo tại Mỹ trong lĩnh vực tài chính và có quá trình hơn 40 năm hoạt động trong lĩnh vực này trên trường quốc tế (sau năm 1975, ông Thành trực tiếp hỗ trợ Ban Biên giới chính phủ nghiên cứu cơ sở luật pháp để bảo vệ chủ quyền Việt Nam trên thềm lục địa, khu vực dầu khí biển Đông). Bác sĩ Tín cũng là thân phụ của kiến trúc sư Bùi Kiến Quốc. Cũng đời thứ 17 đã xuất hiện Bùi Giáng, “sinh tại làng Vĩnh Trinh, nay thuộc thôn Vĩnh Trinh, xã Duy Hòa, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, là con thứ hai của ông Bùi Thuyên và bà Huỳnh Thị Kiền - nhưng nếu tính tất cả các anh em trong nhà thì Bùi Giáng là con thứ năm. Sau này khi ông vào sống ở Sài Gòn được gọi theo cách gọi miền Nam là Sáu Giáng”, ông Thạch nói. Như vậy, từ chiếc nôi Vĩnh Trinh, thi sĩ Bùi Giáng đã bước vào “cuộc lữ”, mang theo những kỷ niệm không quên về thời trẻ ở quê nhà: “Đường đi nhật nguyệt trôi qua/Tha hương cố quận lạc hoa một nhành/Trường miên nguyện ngủ dưới ngành tùng trăng”. Nội hàm của hai tiếng “cố quận”, “quê hương” hoặc “quê
Rời quê hương, Bùi Giáng ra đi, đi và đi mãi, và đã gặp những ai trong lễ hội tháng ba, tháng tư tháng năm, tháng chín tháng mười, tất cả mọi tháng nào “còn sơ nguyên mộng” ? Gặp Bồ Tát cười vui như nắc nẻ Một hôm nào nương tử bước hai chân Vén xiêm áo nghe tượng thần mở hé Tòa thiên nhiên ngồi xuống cỏ vô ngần (...) Người ta chết lúc làm thơ như thế Không hề gì vì chết rỡn cho vui... BÙI GIÁNG
nhà”, trong sáng tác của Bùi Giáng mang nhiều ý nghĩa. Có thể đó là quê hương “nhất như” của tất cả mọi loài. Là nơi trăn trở “hướng về” của loài người bị “lưu đày” qua nhiều đời nhiều kiếp. Cũng có
thể là chiếc nôi Vĩnh Trinh trong thương nhớ đời này của ông với những “mộng ban đầu”, với những “cái gì đã mất”, được ghi qua di cảo: “Hình dung ở dưới trăng ngà/Một hình bóng cũ nảy hoa dưới trời/Tình yêu đã mất em ôi/Chiêm bao mộng tưởng rong chơi suối vàng”. Cũng trong bản thảo viết tay của ông để lại, đã đọc thấy những dòng hoài niệm: “Anh sắp đặt em một chỗ nằm/Khoát tay em bảo em không nằm ngồi” - mà muốn “đứng” mãi trong trái tim ông. Và ông (cũng trong di cảo) đã đưa “tình trong tim máu ra ngoài rong chơi”. Đó là hiểu quê hương theo cái nghĩa xương thịt nguồn cội của Bùi tộc, còn “quê hương” và “nỗi nhớ” trong thế giới thơ Bùi Giáng quá đa nghĩa, mà chúng ta cần có thời gian chiêm nghiệm - ông Bùi Dương Thạch đã nói như vậy vào cuối buổi gặp mặt. Giao Hưởng (Lời cố quận, Martin Heidegger - giảng giải thơ Hoelderlin. Bùi Giáng dịch giải - NXB An Tiêm, Sài Gòn 1972) >> Chuyện đời Bùi Giáng: Ai đưa Bùi Giáng vào nhà thương điên ? >> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 2: Thiên tài không thể định nghĩa >> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 3: Cuốn sổ nợ 'đoạn trường >> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 4: Đạt đạo cõi thơ DÒNG SỰ KIỆN
Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 11: Bùi Giáng nổi giận trong sân chùa Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 10: Nhà thơ nói về... thế kỷ 35! Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 9: Cái nhìn Bùi Giáng về Kim Dung Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 8: Với Thanh Tuệ và NXB An Tiêm Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 7: Bùi Giáng - Phạm Công Thiện với 'ngày tháng ngao du' Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 6: Những bài thơ cuối đời
Ông Bùi Dương Thạch
Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 6: Những bài thơ cuối đời 23/09/2013 11:00 Sáng nay 23.9 ra mắt tập thơ cuối đời của Bùi Giáng gồm 88 bài trước đây còn nằm trong bản thảo chưa in, vừa được gia đình kết hợp NXB Văn hóa Văn nghệ ấn hành, với tựa do chính Bùi Giáng đặt lúc sinh thời: Tâm sự tuổi già. >> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 5: Bùi Giáng với Bùi tộc Vĩnh Trinh >> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 4: Đạt đạo cõi thơ >> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 3: Cuốn sổ nợ 'đoạn trường >> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 2: Thiên tài không thể định nghĩa >> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 1: Ai đưa Bùi Giáng vào nhà thương điên ?
Đây cũng là tập di cảo thứ 11 xuất bản trong vòng 15 năm qua - kể từ ngày Bùi Giáng rời “cõi người ta” - và chính thức bắt đầu phát hành hôm nay ở ngôi nhà ông đã sống và viết tập ấy trước khi mất năm 1998 ở số 482/35/5 Lê Quang Định, P.11, Q.Bình Thạnh, TP.HCM (nhà sách Quỳnh Na) và một địa chỉ khác: 245 Nguyễn Thị Minh Khai, Q.1, TP.HCM (nhà sách Hà Nội). Giở tập thơ ra, ngay bài thứ nhất cũng cho ta biết ông viết trước lúc ra đi không lâu: “Bảy mươi ba tuổi Xóm Gà chơi/Xóm núi xưa xa ở cuối trời”. Xóm núi xưa xa là xóm núi nào? Đó là: “miền quê hẻo lánh, xung quanh có ruộng đồng sông núi trùng điệp, những đám cỏ chạy suốt cả tuổi thơ (làng tôi có xưa kia nhiều cỏ mọc - cỏ mọc từ trong làng ra ngoài ruộng, tới những cồn gò, đồi núi thật xanh). Từ đó về sau, tôi tìm kiếm mãi một màu xanh không còn nữa vì những trái bom và hòn đạn thiêu nướng khổng lồ” như Bùi Giáng từng bộc lộ. Cuối bài thơ là hai câu: “Sơn ổ cuối trời xa có biết/Tâm tình dị khách thất thập dư?”. Ông tự nhận mình là một “dị khách” vào tuổi “thất thập dư” và “sơn ổ cuối trời” được nhắc đến trong bài chính là nơi ông đã mừng chào cô Chín nào đó: “Mừng chào cô Chín Quảng Nam/Duy Xuyên phủ huyện Vĩnh Trinh thôn làng”. Có tác giả từng nhận xét “Bùi Giáng càng điên... càng tỉnh - càng già... càng lãng mạn” (Nguyễn Hưng Quốc), ứng với bài Lần cuối trong di cảo Tâm sự tuổi già: “Thăm em lần cuối cùng này/Tặng em chẳng rõ lấy gì tặng nhau/Ngỡ ngàng chuyện trước chuyện sau...” và chú thích bên dưới bằng hai câu thơ tuyệt vời của Nguyễn Đình Toàn: “Ru em lần cuối cùng này/Bằng hơi mát của một ngày sắp qua”. Nối theo là: “Giòng sông chảy tới tận cùng/Ngày đêm không một phút ngừng chảy trôi” - gợi đến Apollinaire mà ông đã dịch thơ và bài Mon destin oh Marie chẳng hạn: “Tình chấn động suốt vùng cây suối liễu/Mà bỗng dưng nay chẳng kiếm ra giòng”. Cũng
liên tưởng đến A une passante của Baudelaire, được Bùi Giáng dịch với câu: “Có nghe trong gió mộng triền miên qua”. Vậy đó, một mảng đậm đà trong di cảo này gồm những bài có dính dáng đến “mộng”: “Chiêm bao luống những nhiều rồi/Nhớ dòng sông cũ nhớ đồi núi xưa” - “Tuổi già còn được bao lâu/Mà mơ với mộng đằm đằm chiêm bao” vừa được Đắc Phúc phổ nhạc và in vào tập này (cùng với các nhạc phẩm: Xuân hồng và Trăm năm hồng lệ). Các ý thơ tương tự viết năm 73 tuổi (vài tháng trước khi Bùi Giáng qua đời) đưa ta về với thơ Saint John Perse, như bài Je me souviens, với lời dịch thi thoát của ông: “Trong ly nước mộng tuyệt vời/Với sầu giao động nỗi đời giao thoa/Linh hồn định mệnh âm ba/Bông vàng khép mở đầu hoa mơ hồ”! Một dấu nhấn nữa trong Tâm sự tuổi già là những lời “chào” viết lúc ông sắp qua đời: “Già quá sắp chết đến nơi/Chào nhau biết có ai đâu mà chào (...) Chào em những buổi chiều chiều/Ra bờ sông ngắm ngọn triều đang lên”. Đứng trên “bờ sông” sinh tử, ông vẫn cười và vẫn “phá thể” trong thơ: “Bà nay đã tám mươi ba/Tôi nhỏ hơn bà mười tuổi/Tôi nay chỉ bảy mươi ba mà thồi” (chữ thồi ở đây có nghĩa là thôi). Cũng có những câu gửi vào cõi nào xa lắm: “Tôi về nhà chốn Phiêu Bồng/Tôi về nơi chốn có Mồng Một Giêng”. Ba chữ “Mồng Một Giêng” viết hoa nói đến một cuộc “tái lai” của ông. Còn hiện đời: “Còn chi nữa? Nữa còn chi/Còn chi nữa chẳng chút chi là còn”. Một kiếp thi sĩ, một kiếp thị hiện tài hoa, rồi cũng trôi qua như màu hoa trên dòng nước xiết: “Giòng thu nước chảy chan hòa/Sóng xuân thủy lục vì hoa hồng vàng”. Đậm nét qua những bài thơ cuối đời trong di cảo thứ 11 này là những câu ghi lại “hành trạng” của ông trên đường lang thang: “Ăn trong vườn ngủ ngoài đường/Ấy là tình nghĩa máu hường cho tim/Nhành mai hỏi, đóa lan xin/Chiều nay ngõ trúc vắng tin tức người” (Ăn và ngủ). Có bài với tựa nghe rất buồn: Rồi tôi khóc - nhưng đọc lại thấy ấm áp: “Triền miên một phút vô cùng/Một giây vô tận tao phùng tình yêu”. Ông cũng nhắc đến nhiều con vật: “Rằng sao rất mực người ta/Mà ngơ ngẩng vịt mà già nua trâu”. Vịt, được Huỳnh Hữu Ủy kể: “Có một bữa, ông đòi tôi chở về căn nhà nào đó bên miệt Phú Nhuận để ông cho vịt ăn, vì nhiều ngày qua rồi ông chưa trở về chắc là vịt đói lắm. Trên căn gác tôi đưa ông về, ông rào một chuồng vịt khoảng mấy thước vuông, ông ném gạo cho vịt ăn, nói nói cười cười, rất hoan hỉ, nhưng đàn vịt ấy chỉ toàn là một bầy vịt bằng... nhựa!”. (Còn nữa).
Thi sĩ Phạm Phú Hải (đã qua đời) - tác giả tập thơ với cái tựa độc đáo và vang bóng: Gánh nước tưới sông - có đăng bài thơ Không đề khá dài trong đặc sanTưởng niệm Bùi Giáng, mà khi đọc chúng ta thấy hồn thơ của Phạm Phú Hải cùng “Bùi Giáng đại huynh” dường như kẻ trước người sau tiếp nối từ một nguồn Hồng Lĩnh. Xin trích đôi dòng: Ngọn hồng và cỏ ngủ quên Gót son (và) mặt đất nghiêng bên chân người Áo bay nghiêng một bầu trời Tiếng cười nghiêng một chút thời gian xanh Gió là cánh của âm thanh Ngày là sóng của biển hành tinh xa Xuân là nguyên đán giao thoa Nắng là mật của ngàn hoa không màu... Giao Hưởng DÒNG SỰ KIỆN
Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 11: Bùi Giáng nổi giận trong sân chùa Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 10: Nhà thơ nói về... thế kỷ 35! Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 9: Cái nhìn Bùi Giáng về Kim Dung Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 8: Với Thanh Tuệ và NXB An Tiêm Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 7: Bùi Giáng - Phạm Công Thiện với 'ngày tháng ngao du' Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 6: Những bài thơ cuối đời
Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 7: Bùi Giáng - Phạm Công Thiện với 'ngày tháng ngao du' 24/09/2013 01:32 Ngồi lại với nhau nhân ngày đầu tiên phát hành tập thơ cuối đời của Bùi Giáng: Tâm sự tuổi già vào hôm qua (23.9), các bạn làng văn có nhắc đến một trong những gương mặt dị thường từng sống mãnh liệt cùng Bùi Giáng qua những “ngày tháng ngao du”... Đó là nhà thơ - học giả Phạm Công Thiện, sinh năm 1941 tại Mỹ Tho, tài hoa và rất thông minh như Bùi Giáng - thạo tiếng Anh, Pháp, Nhật, Tây Ban Nha và Sanskrit (một cổ ngữ của Ấn Độ) từ 15 tuổi, biên soạn Anh ngữ tinh âm lúc 16 tuổi, bắt đầu viết Ý thức mới trong văn nghệ và triết học lúc 19 tuổi.
Phạm Công Thiện nổi tiếng với một loạt sách biên khảo: Bồ đề Đạt ma - tổ sư Thiền tông (1964), Im lặng hố thẳm và Hố thẳm của tư tưởng (1967), dịch cuốn: Tự do đầu tiên và cuối cùng (nguyên tác Krishnamurti - 1968), Về thể tính của chân lý(Martin Heidegger - 1968), Tôi là ai? Đây là người mà chúng ta mong đợi! (Friedrich Nietzsche - 1969). Ông làm Khoa trưởng Văn khoa của Viện Đại học Vạn Hạnh, chủ biên Tạp chí Tư Tưởng của viện này từ 1968 và đã xuất gia thọ giới với pháp danh Thích Nguyên Tánh tại chùa Hải Đức. Năm 29 tuổi (1970), từ giã Bùi Giáng và làng văn Sài Gòn, Phạm Công Thiện rời Việt Nam qua Đức, Pháp, rồi Mỹ, giảng dạy tại College of Buddhist Studies. Ở hải ngoại, ông tiếp tục viết nhiều tác phẩm, như: Trên tất cả đỉnh cao là im lặng, Đối mặt với 1.000 năm cô đơn của Nietzche và qua đời tại thành phố Houston (Texas, Mỹ) ngày 8.3.2011, thọ 71 tuổi. Là một học giả, một nhà văn nổi danh với các cuốn: Mặt trời không bao giờ có thực hoặc: Đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất, nhưng trước hết Phạm Công Thiện tự nhận mình là nhà thơ, với tập: Ngày sinh của rắn (1967), trong đó nhiều câu được người yêu thơ đọc thuộc: “Mưa chiều thứ bảy tôi về muộn/Cây khế đồi cao trổ hết bông” - hoặc cả đoạn dài: “Gió thổi đồi tây hay đồi đông/Hiu hắt quê hương bến cỏ hồng/Trong mơ em vẫn còn bên cửa/Tôi đứng trên đồi mây trổ bông/Gió thổi đồi thu qua đồi thông/Mưa hạ ly hương nước ngược dòng/Tôi đau trong tiếng gà xơ xác/Một sớm bông hồng nở cửa đông” (Lê Uyên Phương phổ nhạc). Để giúp thêm tư liệu, một kỳ lão trong làng văn cho chúng tôi mượn cuốn đặc san Tưởng niệm Bùi Giáng do thầy Thích Quảng Hạnh và Thích Thông Bác chủ biên, có đăng bài của nhà văn Tuấn Huy viết về những “ngày tháng ngao du” giữa Bùi Giáng và Phạm Công Thiện như sau: “Mỗi lần Phạm Công Thiện gặp Bùi Giáng là hai người thường gây nhau. Gây nhau về những “triết thuyết” này và “tư tưởng” nọ. Nhưng với thơ văn thì hai người lại “thương” nhau vô cùng. Bùi Giáng thường đọc những câu thơ ngắn cho Phạm Công Thiện nghe và ngược lại. Trong thơ không có điều gì phải luận giải, trong thơ chỉ có sự chia sẻ và cảm thông. Chúng tôi nhìn hai nhà thơ quàng ôm nhau. Hai nhà thơ ngó nhau cười dịu dàng. Hai nhà thơ uống những ngụm bia lạnh. Hai nhà thơ hút thuốc lá. Rồi hai nhà thơ ngồi yên như pho tượng” (…) Một ngày khác, tôi chở Phạm Công Thiện đến thăm Bùi Giáng. Căn gác gỗ ọp ẹp ở bến xe đò gần đường Trần Quốc Toản (nay là đường 3/2- PV). Vừa bước lên cầu thang, đã thấy một dãy “gà mên” xếp đầy trước một khung cửa đóng kín. Phạm Công Thiện gõ cửa. Mùi thức ăn (từ gà mên để lâu ngày) gây nồng, và những con ruồi bay chấp chới trên những chiếc vung bằng nhôm xám xỉn. Một lúc, Bùi Giáng ló đầu ra. Áo quần nhăn nhúm và tóc tai bù rối. Căn phòng nhỏ, chật cứng sách vở. Một chiếc mền màu tro cũ và một ngọn điện được kéo thấp xuống còn cháy sáng. Bùi Giáng, một tay đẩy những đống sách cho gọn gàng lại, một tay hất hất chiếc mền. Cả ba chúng tôi vẫn đứng vì căn phòng quá hẹp. Một đôi đũa và mấy chiếc mũ quăng bừa bãi trên một cuốn sách của Camus. Một đôi vớ đen lẫn lộn giữa một cuốn sách của Heidegger. Bùi Giáng nói: “Ngồi đi, ngồi đi…” (…) nhưng chúng tôi đứng lổn ngổn như mấy con ngựa hoang giữa
một lòng núi hẹp”. Bùi Giáng giải thích nhiều bữa ông đã quên ăn, cứ để những phần cơm trước cánh cửa đóng im lìm, nhưng người nấu cơm tháng cứ theo lệ hằng ngày vẫn xách tới thêm, để sẵn. Tuấn Huy kể tiếp: “Tôi nhìn lại những chiếc gà mên và những con ruồi đậu xuống như một tấm lưới không hề có thực. Lát sau chúng tôi đến một tiệm cơm chay ở góc đường Trần Quốc Toản, đối diện với Việt Nam Quốc tự (…) Phạm Công Thiện gọi một ly cà phê. Tôi gọi một ly trà đá. Riêng Bùi Giáng gọi (một lúc bốn thứ cả thảy): một tô hủ tíu, một tô mì, một ly cà phê sữa và một ly đá chanh. Tôi ngơ ngác nhìn Bùi Giáng, nhưng càng ngơ ngác hơn khi thấy ông ăn một miếng mì, rồi lại ăn một miếng hủ tíu, uống một chút nước chanh, rồi lại nhắm nháp một chút cà phê (…) Ông gắp cái này một chút, uống cái kia một chút - như người nhạc trưởng uyển chuyển trước một dàn nhạc. Ngay cả đồ gia vị cũng vậy. Ông rắc một chút tiêu lên tô này, lại thêm một chút ớt vào tô nọ. Xúc một muỗng đường, xin vài hạt muối. Muối cho vào ly đá chanh. Đường cho vào tô mì, lung linh chộn lộn. Có lẽ chỉ có ông-trời-xanh hay bà-trời-trắng mới biết được ông đang ăn uống hay đang chơi dạo giữa mùa trăng châu thổ?” (Còn nữa).
“Bùi Giáng - thi nhân thấu thị, đã sống kiệt tận miên bạc bình sinh, đã là một trong số hiếm hoi những linh hồn đã đi đến tận đáy của cái vực sâu không đáy, đã yêu đắm đuối cả cuộc bể dâu thê thảm, để công phu ghi tặng lại, bằng ngòi bút lô hỏa thuần thanh...”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Thanh Giao Hưởng >> Ấn tượng Bùi Giáng >> Bùi Giáng và bài thơ 'phù thủy >> Tọa đàm khoa học đầu tiên về Bùi Giáng >> Người vợ của Bùi Giáng >> Tối nay, ông Bùi Giáng xuất hiện! >> Bùi Giáng “nhập” vào nhạc Trần Quế Sơn DÒNG SỰ KIỆN
Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 11: Bùi Giáng nổi giận trong sân chùa Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 10: Nhà thơ nói về... thế kỷ 35! Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 9: Cái nhìn Bùi Giáng về Kim Dung Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 8: Với Thanh Tuệ và NXB An Tiêm Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 7: Bùi Giáng - Phạm Công Thiện với 'ngày tháng ngao du' Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 6: Những bài thơ cuối đời
Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 8: Với Thanh Tuệ và NXB An Tiêm 25/09/2013 00:35 “Lá nằm duỗi dọc duỗi ngang/An tiêm xuất bản một tràng cỏ hoa/Trăm năm trong cõi người ta/Ông là thanh tuệ tôi là tuệ thanh”... >> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 7: Bùi Giáng - Phạm Công Thiện với 'ngày tháng ngao du >> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 6: Những bài thơ cuối đời >> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 5: Bùi Giáng với Bùi tộc Vĩnh Trinh Đấy là bốn câu trích từ bài thơ của Bùi Giáng tặng ông Thanh Tuệ (hai chữ thanh tuệ viết thường) in trong cuốn Sa mạc phát tiết ấn hành tại Sài Gòn năm 1969 bởi NXB An Tiêm. NXB này đã in nhiều sáng tác, dịch thuật, biên khảo của Bùi Giáng và do Thanh Tuệ sáng lập điều hành từ năm 1965, nhà văn Tuấn Huy ghi: “Dạo đó tôi thường gặp Bùi Giáng ở nhà Thanh Tuệ sát cạnh nhà tôi, trong một hẻm nhỏ đường Lý Thái Tổ. Ngôi nhà lầu ngăn đôi, bên này một mình tôi mướn lại của nhà văn Song Linh, bên kia Thanh Tuệ thuê, vừa làm NXB An Tiêm vừa ở đó với mấy người bạn. Một lần, đang nằm ở bên này, tôi nghe tiếng bước chân xầm xập lên chiếc cầu thang gỗ. Rồi tiếng Bùi Giáng ồn ào cười nói. Có khi ông đọc thơ. Có khi ông chuyện trò với Thanh Tuệ và những người khác, bằng cái giọng vừa ồm ôm, vừa chọ chẹ. Một lúc huyên náo như thế, rồi bặt im, không một tiếng động nào nữa. Những căn nhà san sát mê thiếp dưới ánh nắng xế và lớp gió chiều quấn lộng... Tôi bước sang đẩy cánh cửa khép hờ, thấy Bùi Giáng đang ngồi ngủ gục trên một chiếc ghế. Thanh Tuệ thì nhẹ nhàng ý tứ xếp lại những chồng sách mới in. Tôi cũng nhẹ nhàng ý tứ đến gần bên Thanh Tuệ, nhặt một cuốn sách lên, để mùi thơm của giấy mới loãng tan trong khứu giác. Thanh Tuệ ngó Bùi Giáng, cười. Nụ cười tươi tắn và hồn hậu. Tôi khẽ gật đầu. Chúng tôi để yên cho nhà thơ chúng tôi ngủ”.
Đến 1981, Thanh Tuệ sang Pháp, tiếp tục hoạt động xuất bản ở Paris, đặt văn phòng liên lạc tại số 3 đường Vincent Van Gogh. Mùa thu 2004, để chuẩn bị thêm tài liệu kỷ niệm 40 năm thành lập NXB An Tiêm (1965 -2005), Thanh Tuệ đến Mỹ lưu lại mấy tuần tại San Jose, rồi đến Nam Cali, ở tại chùa Liên Hoa do hòa thượng Thích Chơn Thành trụ trì và đột ngột lâm bệnh phải đưa vào Bệnh viện Garden Grove cấp cứu. Song ông đã qua đời lúc 7 giờ 30 tối 16.8 năm ấy, thọ 69 tuổi. Bấy giờ đời sống gia đình ông ở Pháp rất đạm bạc, ngặt nghèo, vợ ông là bà Đỗ Ngọc Lệ cùng trưởng nữ Thu Hương và hai cháu ngoại Hoàng Minh và Hoàng Bảo phải mượn tiền mua vé máy bay qua Mỹ.
Con đường vào thơ của Bùi Giáng dẫn tới cửa chùa. Nói cụ thể hơn, không có NXB An Tiêm của Thanh Tuệ (một tu sĩ Phật giáo) thì bạn đọc không có cơ hội thấy hết được sự nghiệp thơ đồ sộ của Bùi Giáng. “Cuộc chơi lớn” của Bùi Giáng không dễ tìm được một NXB nào chịu bỏ tiền ra in cho ông, ngoài nhà An Tiêm.
Tiền nhà thương, tiền nhà quàn, tiền hỏa táng lên tới hàng chục ngàn USD...
Nhà văn Nguyễn Mộng Giác
Hay tin, từ nước Đức, Thái Kim Lan viết những dòng “ai điếu” Thanh Tuệ qua bài Đi tìm dấu vết An Tiêm gặp Bùi Giáng, nhắc lời dịch giả Bửu Ý từng sống với Thanh Tuệ trong những năm mới thành lập An Tiêm: “thời ấy anh Thanh Tuệ thấy quyển sách nào trình bày đẹp, nhất là
sách ngoại quốc từ Pháp, từ Mỹ, từ Đức, từ Ý trong các hiệu sách là anh mua về cho anh em đọc, rồi cắt bìa giữ lại làm tư liệu cho những cuốn sách mà anh sẽ hư cấu, chọn bìa, chọn giấy thích hợp với nội dung” để in. Trong 10 năm (1965 - 1975) NXB An Tiêm mở rộng cửa đón nhận nhiều tác phẩm danh tiếng trên thế giới, qua các bản dịch bởi Bửu Ý (chẳng hạn: Vườn đá tảng của Nikos Kasantzakis - 1967; Đứa con đi hoang trở về của A.Gide - 1967; Văn học thế giới hiện đại của R.M.Alberes - 1973), và các tác phẩm khác của Phạm Công Thiện, Vũ Khắc Khoan, Tuệ Sỹ... có hình bìa hoặc phụ bản của Đinh Cường, Hiếu Đệ, Trịnh Cung. Giáo sư Lê Văn Lợi nhắc: “Nguyễn Hiến Lê - dịch giả tác phẩm Chiến tranh và hòa bình của Leon Tolstoi 4 tập dày cộm (gồm 3.000 trang) - rất ít khen ai và tự xuất bản sách của thầy, lại hết lời cảm phục tài năng và tấm lòng Thanh Tuệ với văn chương chữ nghĩa”... Rõ nét nhất là các tác phẩm của Bùi Giáng do NXB An Tiêm in, mà nhà văn Nguyễn Mộng Giác ở hải ngoại đã đề cập đến vài hôm sau ngày Thanh Tuệ mất: “có thể nói hầu hết những tác phẩm quan trọng của Bùi Giáng đều do anh Thanh Tuệ in, dù NXB biết không thể lấy lại vốn in đã bỏ ra (...) Một nhà thơ lớn (như Bùi Giáng) đẩy thơ vào một cuộc chơi lớn, thì ngay lập tức cũng có một NXB “chịu chơi” có đôi mắt xanh sẵn sàng bỏ công bỏ sức ra in thành quả khác thường của cuộc chơi ấy (...). Tôi tin chắc rằng anh Thanh Tuệ kiếp trước cũng là một nhà thơ. Không, tôi lầm. Không cần phải đi ngược lên kiếp trước. Ngay trong phút này, anh “đã là” một nhà thơ. Thi nghiệp của anh là An Tiêm (...) anh đứng đợi Bùi Giáng vào lúc, vào chỗ thích hợp nhất, để hai người sánh vai thực hiện một cuộc hành trình mới vào thơ”. Còn Bùi Giáng trong “thơ điên” của mình vẫn nhắc: “Tuy nhiên xuất bản một thầy/Tu hành thanh tuệ còn ngây thơ cười” - cười thanh thản, vì đã góp tay mở được một cánh cửa mới và đầy “màu hoa trên ngàn” cho khu vườn văn học miền Nam, đưa An Tiêm vào huyền thoại đẹp của ngành xuất bản Sài Gòn một dạo (còn nữa). Giao Hưởng
DÒNG SỰ KIỆN
Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 11: Bùi Giáng nổi giận trong sân chùa Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 10: Nhà thơ nói về... thế kỷ 35! Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 9: Cái nhìn Bùi Giáng về Kim Dung Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 8: Với Thanh Tuệ và NXB An Tiêm Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 7: Bùi Giáng - Phạm Công Thiện với 'ngày tháng ngao du' Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 6: Những bài thơ cuối đời
Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 9: Cái nhìn Bùi Giáng về Kim Dung 26/09/2013 10:45 Trong các tài liệu do gia đình thi sĩ Bùi Giáng vừa cung cấp qua đợt tưởng niệm 15 năm ngày mất của ông, có một số nội dung liên quan đến tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung mà ông viết đến...
Bùi Giáng đã dịch Kim kiếm điêu linh của Ngọa Long Sinh và nhận định: “Những kiệt tác của Ngọa Long Sinh đi song song với Kim Dung và Gia Cát Thanh Vân - thực hiện cuộc chuyển biến dị thường trong lịch sử văn học tư tưởng Trung Hoa”. Không chỉ đọc suông, theo Bùi Giáng, đọc truyện võ hiệp là “một trong những phép tu dưỡng ký ức và khơi dẫn nguồn vui ẩn mật trong mình. Đọc theo lối hồn nhiên, hoặc vừa đọc vừa suy gẫm. Chưởng lực, kiềm chế, nội kình phát ra có thể là tinh thể của tinh thần phát hiện”. Riêng với thi sĩ, sách võ hiệp sẽ “giúp bạn làm thơ lai láng một cách không ngờ - điều đó không có chi lạ: ban sơ vũ học, văn học, thi nhạc cùng phát khởi tại một cỗi nguồn: uyên nguyên của tinh thần xuất phóng” (Sương Bình Nguyên, NXB Võ Tánh, Sài Gòn 1969). Đoạn trên do nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Chiến trích dẫn về Bùi Giáng và Đỗ Long Vân với truyện võ hiệp trong tài liệu chúng tôi mượn được, có ghi nhận xét của Bùi Giáng về cuốn Vô Kỵ giữa chúng ta - hay Hiện tượng Kim Dung của Đỗ Long Vân (NXB Trình bày, Sài Gòn 1967): “Ông Đỗ Long Vân nhận định thâm viễn khoảng vắng lặng vô ngôn trong sách vũ hiệp... Những khuyết điểm của bản dịch không làm trở ngại Đỗ Long Vân. Vì những kẻ tư tưởng chân thành, vốn thường nhận ra rất mau những gì gọi là “ý tại ngôn ngoại” hoặc “huyền ngoại chi âm” (âm thanh ngoài cây đàn - H.N.C) - hoặc “ngôn tại thử nhi ý tại bỉ” (lời ở đây mà ý nằm ở nơi khác - H.N.C)”. Bùi Giáng cũng viết “Sách tôi bị cháy hết, nhưng tôi sẽ tìm riêng cuốn Vô Kỵ giữa chúng ta để đọc lại”.
Những nhận định của Đỗ Long Vân về nội lực, về nguyên lý võ học và cơ cấu luận... đều bắt nguồn từ cái nhìn sâu thẳm vào tinh
Huỳnh Ngọc Chiến cho biết đôi dòng về Đỗ Long Vân “là người thâm cứu văn học Tây Phương, được đào tạo tại Pháp, nhưng tâm hồn ông lại hòa điệu và rất gần gũi với suối nguồn Đông Phương Sơ Thủy, nên dễ dàng thể hội phần tinh túy hoằng viễn trong tư tưởng Kim Dung bằng những suy niệm chân thành”. Bùi Giáng đánh giá cao những gì Đỗ Long Vân bàn về Kim Dung và cho cuốn Vô Kỵ giữa chúng ta đã “nằm trong vùng thâm viễn như cuốn Nho giáo
thể tinh yếu của vấn đề, và gợi cho người đọc rất nhiều dư hưởng mênh mông khát vọng từ các kiệt tác kim cổ Đông Tây (...). Còn Bùi Giáng có một cái nhìn rất lạ về tác phẩm Kim Dung nói riêng và sách báo võ hiệp nói chung.
của Trần Trọng Kim, chẳng những giúp người Việt Nam hiểu tư tưởng lớn của thiên tài Trung Hoa, mà còn khiến người Trung Hoa, người Đông Phương Tây
Huỳnh Ngọc Chiến
Phương nói chung ngày sau sực tỉnh. Tầm quan trọng của cuốn sách kia quả thật rộng rãi không cùng. Tôi có thể đưa ra vài nhận định khác ông ở đôi chi tiết. Nhưng không cần. Điều cốt yếu ông (Đỗ Long Vân) đã nói xong, và những dư vang vô số sẽ tỏa khắp mọi chốn. Và sẽ còn khiến người ta thể hội cái mạch thẳm trong những tác phẩm của những thiên tài xưa nay, bất luận là Đông Phương hay Tây Phương”. Đến đây, để minh họa thêm cho các nội dung trên, chúng tôi trích mấy câu trong loạt bài Chuyện tình qua tiểu thuyết Kim Dung của Hồng Hạc và bài Xuân và hoa trong tiểu thuyết Kim Dung của Phi Pháp, đăng trên Báo Thanh Niên từ cuối năm 2005 (Hồng Hạc và Phi Pháp là hai bút danh khác của Giao Hưởng) như sau: “Là một vương tử, nhưng tâm hồn đa cảm của Đoàn Dự gần với gió bụi. Ông đi khắp giang hồ. Đến trước tượng thạch nữ sau núi Vô Lượng của phái Tiêu Dao, Đoàn Dự ngây ngất trước một "thiên nhan" mang hai quyền năng gần như mâu thuẫn nhau: sát sinh và tái tạo. Với những người muốn chiếm đoạt thạch nữ thì sẽ chết dưới chân "nàng". Với Đoàn Dự, thạch nữ đã "sinh" ra cho ông một niềm ngây ngất, nhẹ nhàng như hương trà mà ông từng nếm trải. Và cũng lạ lùng từa tựa như tâm thái quá thân thương trước một người xa lạ mà ta mới gặp và không giải thích được vì sao. Ngày kia, đôi mắt chứa những cơn sóng tình không ngừng vỗ của ông dừng lại ở một người: "Ôi Vương Ngữ Yên! Nàng ở đâu? Người con gái ấy chưa bao giờ động thủ, nhưng võ công nào cũng thấu triệt... Và mỗi lần nàng mở miệng mách một thế võ cho một cao thủ thượng thừa thì, nghe cái giọng yêu kiều và xa xôi như đến từ một thế giới khác, người ta muốn nghĩ rằng nàng ở giữa cuộc đời như nàng tiên của tri thức thuần túy (...). Tiếc thay võ học trong đời này chỉ là chuyện phụ. Người con gái ấy, cũng như Đoàn Dự, ngoài tình yêu chẳng coi gì là trọng(Đỗ Long Vân)”. Đỗ Long Vân hạ bút: “Tham vọng có thể dẫn đến tuyệt vọng. Nhưng tình yêu là cái đam mê duy nhất trong Kim Dung không bao giờ biết đến sự ăn năn. Cái tên Bất Hối mà Kỷ Hiểu Phù đã đặt cho đứa con hoang của mình có lẽ đã đánh dấu trang sử diễm lệ nhất của võ lâm và có lẽ Mộ Dung Phục sẽ bị trừng trị đến hóa điên, không phải vì tham vọng của chàng quá lớn, mà tại vì chàng là nhân vật rất hiếm của Kim Dung đã không biết thế nào là tình yêu”. Bùi Giáng cũng vậy, ông viết: “Thật ra, sự vật không có phân ly chia cắt. Và nghệ thuật của con người xoay quanh một đề tài duy nhất là tình yêu muôn thuở vẫn gửi gắm về riêng một lời ước hẹn với Hữu Thể Sơ Nguyên”. (Còn nữa) Giao Hưởng >> Ấn tượng Bùi Giáng >> Bùi Giáng và bài thơ 'phù thủy >> Tọa đàm khoa học đầu tiên về Bùi Giáng >> Người vợ của Bùi Giáng >> Đoản văn của Bùi Giáng >> Tọa đàm thơ Bùi Giáng
Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 10: Nhà thơ nói về... thế kỷ 35! 27/09/2013 00:30 Tuần tới, vào ngày 4.10, chương trình tưởng niệm thi sĩ Bùi Giáng tại quê hương Quảng Nam của ông sẽ bắt đầu lúc 18 giờ ở Trúc Lâm Viên số 8 Trần Quý Cáp - TP.Đà Nẵng do Chi hội Hội Nhà văn Việt Nam, cùng văn phòng đại diện NXB Văn học ở miền Trung và Tây nguyên tổ chức. >> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 9: Cái nhìn Bùi Giáng về Kim Dung >> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 8: Với Thanh Tuệ và NXB An Tiêm >> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 7: Bùi Giáng - Phạm Công Thiện với 'ngày tháng ngao du
Với chủ đề Bùi Giáng - cõi phiêu bồng, chương trình có các nhà văn nhà thơ: Ngân Vịnh, H’ Man, Lê Anh Dũng, Nhã Tiên, Vô Biên, Thúy Liễu, Ái Niệm, Văn Nho, Thư Lan, Thu Thủy, nhà thư pháp Hồ Công Khanh, nhạc sĩ Trần Quế Sơn và ca sĩ Lê Cát Trọng Lý góp mặt. Đại diện Bùi tộc Vĩnh Trinh tại TP.HCM thông báo như vậy và nhắc đến nhận định của nhà văn Thu Bồn (Hà Đức Trọng 1935 2003) lúc sinh thời: “Riêng một mình thơ ông (Bùi Giáng) cũng đã có chỗ đứng trong thơ Việt Nam. Trường phái Bùi Giáng - một trường phái mà không một nhà thơ nào học nổi. Nếu chúng ta không lưu ý nghiên cứu nhà thơ này thì quả là một mất mát đáng tiếc”. Khi biên soạn và sưu tập thơ Quảng Nam thế kỷ 20, Thu Bồn đã viết hồi ức về chuyện gặp Bùi Giáng lần đầu tiên năm 1976 giữa cơn mưa lớn ở TP.HCM. Lúc ấy Bùi Giáng đang đứng giữa trời chỉ trỏ cho xe cộ lưu thông, “người ông ướt mèm, tay chân run cầm cập”. Thu Bồn đưa ông về nhà mình để nhen lửa sưởi ấm cho ông, rồi lấy một bộ quần áo khô ra đưa ông mặc. Bùi Giáng nhìn quanh tìm chỗ kín để thay, Thu Bồn bảo không cần phải tìm chỗ kín làm gì, cứ hãy cởi truồng ra đi, Bùi Giáng nói: “Cái đó đâu phải như thơ mà lúc nào cũng bày ra được!”. Với ông, “thơ” như dòng nước cuộn trước mắt, mà thi sĩ sẵn sàng quăng thân vào đó: “Nửa đời bỏ lại thân anh/Nửa linh hồn bỏ nước xanh lên bờ/Khổ đau về chẳng hẹn giờ...”. Và vượt ra ngoài ngôn ngữ thường tình, để “nghe” được tiếng động của mầm non mới nở: “Nằm nghe ngọn lúa trổ hoa/Mây trời kết trái tên là hột sương”. Để rồi, trong tương lai - thơ sẽ trở thành ngôn ngữ thường ngày của nhân loại. Khi gặp nhau mọi người sẽ nói bằng thơ... lục bát. Về điều ẩn mật đó, thêm một lần nữa, phải nhờ đến lời giải mã của lão thi sĩ Trần Đới (người gần gũi nhiều năm và hiểu sâu về Bùi Giáng): “Có một hôm giữa chiều đói bụng, ngồi bên góc hè gần Thư quán Vạn Hạnh nhìn sinh viên ra vào mua sách vở, Bùi Giáng với giọng thuốc rê khò khè: “Bước đi của văn hóa thật là kỳ ảo đậm đặc hơn mấy lần cái màu khói thuốc gì mà nhạt thếch này...”. Nói qua lại một lát, Bùi Giáng bảo:“Ngay giờ này tớ thấy mình đã về đến thế kỷ 35, một - ngàn - rưỡi - năm nữa tớ sẽ đầu thai xuống “Sè gòn”, lúc đó người ta gọi là “Sãi gòn” và trong đô thị mà tên gọi được phát âm theo giọng “mới” ấy chỉ còn “nửa giọt Mưa nguồn rớt hột trên ngọn Lá Hoa Cồn”. Bùi thi sĩ tiếp: “Lúc đó
“Gương mặt tinh anh và cặp mắt sắc sảo (của Bùi Giáng) làm tôi kính sợ. “Đó, Bồ tát đó” - người bạn nói để giới thiệu người tôi hâm mộ mà trước đó chưa từng gặp (...) cũng như Tế Điên, hình như Bùi Giáng đến cõi đời này để dạo chơi, để đùa giỡn và cũng để giáo hóa cho con người thấy tất cả đều chỉ là trò ảo giác của sắc thân, của chữ nghĩa, của tư tưởng...”. Nguyễn Tường Bách (Mùi hương trầm, NXB Trẻ, TP.HCM 2001)
Mưa nguồn sẽ chuyển dịch thành kinh điển thi ca” và “tăng ni, các cha cố sẽ ngâm thơ thay cho đọc kinh, tụng chú, lúc đó bước đi của văn hóa đã nhập thân cõi nguồn xưa sau một màu thơ và mộng (...) Sau này lời nói thành thơ, toàn thơ lục bát...”. Ví dụ thay vì hỏi: “Anh đi đâu đó?” - thì theo Bùi Giáng thế kỷ 35 thiên hạ sẽ hỏi đáp có vần điệu như sau: Hỏi: “Mi đi mô rứa thằng tê?” Đáp: “Tao về nhà ngủ nằm kề vợ tao!” Hoặc thay vì nói: “Nhà tôi ở gần nhà thờ Đức Bà” - họ sẽ diễn bằng thơ: “Nhà tao cạnh góc nhà thờ/Nhà mi ở tận góc chùa Vĩnh Nghiêm”. Một thí dụ nữa do Bùi Giáng đưa ra về việc “lang thang school” bằng “ô tô bước”, để được ngắm phố phường rộn rịp thích hơn: “Đi xe chậm, máy bay nhanh/Thua tao cuốc bộ loanh quanh Sài Gòn”. Mấy cái đó còn dễ “nói bằng thơ”, chứ vào sòng bạc nói sao? Bùi Giáng đáp - nói thế này: “Tao xin tất cả ăn thua/Đứa nào tiền lẻ thì đưa bố xài”. Nhưng đấy là cách người ta nói với nhau bằng thơ vào thế kỷ... 35! Chứ thế kỷ 20 và 21 này loài người phải đang tiếp tục nói bằng thứ ngôn ngữ “khôn ngoan” một cách “dại khờ”, vì kết quả của thứ tiếng nói “lịch sự, lịch lãm” ấy thường đem lại trăn trở, khổ đau, lường gạt, dối trá nhiều hơn là chân thành và hạnh phúc! Nên Bùi Giáng thường thích sống trong cõi miền “Sơ nguyên lặng lẽ” và chìm vào “im vắng thanh lương”. Tuy vậy, ở nơi đó - từ “tâm không” sâu thẳm của ông - lắm lúc đã thình lình vọt lên những lời thơ thiết tha và lãng mạn: “Anh quỳ xuống giơ hai tay bệ vệ/Chỉ xin nâng một giọt lệ êm đềm”... (Còn nữa). Giao Hưởng DÒNG SỰ KIỆN
Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 11: Bùi Giáng nổi giận trong sân chùa Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 10: Nhà thơ nói về... thế kỷ 35! Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 9: Cái nhìn Bùi Giáng về Kim Dung Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 8: Với Thanh Tuệ và NXB An Tiêm Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 7: Bùi Giáng - Phạm Công Thiện với 'ngày tháng ngao du' Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 6: Những bài thơ cuối đời
Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 11: Bùi Giáng nổi giận trong sân chùa 28/09/2013 03:00 Những “ngày tháng ngao du” đây đó, Bùi Giáng thường dừng chân ở các ngôi chùa và quen biết đàm đạo với rất nhiều vị thiền sư, tăng ni, cư sĩ cũng như các nhà nghiên cứu Phật học ở Sài Gòn...
Trong chồng bản thảo dày cộm chưa in của ông, gia đình đọc thấy bài “kính gởi Hạnh Thanh ni cô thượng thừa”, với câu: “Người qua tôi cũng đi qua/Người dừng tôi cũng qua loa tạm dừng” - và một số khác nữa gửi những gốc Bồ đề và các “nhà sư vướng lụy”. Nhắc đến duyên nợ thắm thiết giữa nhà thơ với nhà chùa, nhà văn Nguyễn Mộng Giác cho là tinh thần vô chấp của đạo Phật “rất thích hợp với khát vọng suy nghĩ và sáng tạo tự do của văn nghệ sĩ. Nhà thơ vào chùa thoải mái, không bị ngăn chặn cửa thu thẻ căn cước, khỏi phải rón rén bước đi vì kinh sợ đấng thần linh (...) đúng là chỗ an trú lý tưởng của các nhà thơ, khi họ cần một chỗ trú. Vì thế, Phạm Công Thiện là khách quý của khắp các chùa lớn, chùa nhỏ ở Việt Nam và ở hải ngoại. Nguyễn Tất Nhiên lái xe đến chùa trước khi quyết định từ giã cõi đời. Và Bùi Giáng trong suốt cuộc chơi lớn với đời vẫn xem chùa chiền là nơi dừng nghỉ thoải mái”. Đúng, quanh năm, Bùi Giáng đã đến rất nhiều ngôi chùa trên đường lang thang của mình, như Huệ Nghiêm ở Bình Chánh, Huỳnh Kim ở Gò Vấp, Quán Thế Âm ở Phú Nhuận, đi bộ tới những chùa xa so với chỗ ở của ông như chùa Trúc Lâm ở chợ Cây Quéo, gần hơn như Pháp Hoa, Pháp Vân, Pháp Trí, Pháp Võ, lang thang khi ở Giác Lâm, Giác Viên, lúc nằm tại thiền viện Quảng Đức, hoặc ngồi nghỉ dưới gốc mai già 100 năm ở chùa Gò (Phụng Sơn). Sau này, khoảng hơn 15 năm cuối đời, ông thường lui tới các chùa gần hẻm nhà ông đang ở lúc ấy trên đường Lê Quang Định, như chùa Già Lam - nơi có phòng bán kinh sách - để “mua chịu” những tác phẩm do chính ông viết được tái bản, có giấy nợ ghi: “Nợ O Thêm chùa Già Lam 4 cuốn: Mưa nguồn, Cõi người ta, Ngộ nhận (và Hán Tự Bài Cú). Tất cả tổng cộng là 45 ngàn”. Chính ở đây, ông đã một lần nổi giận la hét. Nguyên sân chùa Già Lam có trồng một cây y sa trổ bông màu vàng nghệ như màu áo cà sa của các vị sư. Thấy hoa đẹp, Bùi Giáng lượm một vài bông rụng quanh gốc đưa lên miệng, vừa hôn hoa, vừa hớn hở cười lớn, mừng rỡ như gặp “người thân” xa xưa. Một phật tử nói: “Bác không được ồn ào như thế”. Ông hỏi lại: “Tại sao?”. Người kia đáp: “Vì Phật dạy không nên”. Ông bừng bừng nổi giận: “Phật dạy lúc nào? Ở đâu? Với ai?”. Rồi ông mắng một tràng rằng, không nên lặp lại lời của Phật như con vẹt, là vì Phật thuyết không chỉ tám vạn bốn ngàn pháp môn, mà cả triệu triệu tỉ tỉ và vô lượng pháp môn, mỗi môn tùy người nói, chứ không phải bất cứ ai Phật cũng nói như nhau. Cảnh này, chỗ Già Lam này, lúc này, không nên “trụ” vào lời Phật cách đây đã hơn 2.000 năm trước để nói năng hoạnh họe như rứa. Hãy về nhà bán hết gia tài để mua cuốn Tư tưởng hiện đại của “thằng Giáng tên Bùi về đọc thì sẽ hiểu được điều đó chút ít!”. Cuốn Tư tưởng hiện đại của Bùi Giáng giảng giải về tư tưởng Kierkegaard - Malraux - Jaspers - Heidegger - với phần phụ lục khá quan trọng: “muốn đi vào cõi thơ Bùi Giáng và hiểu những nét thâm hậu nhưng bay bướm của ông thì không thể không đọc phần phụ lục ấy” - sa môn Huệ Thiện nhận xét như thế. Vì lẽ trên, chúng tôi trân trọng trích ra đây đoạn văn của Bùi Giáng viết với ngôi xưng “tao” để trách mắng “chúng” nào đó, như kiểu ông nổi giận trên sân chùa Già Lam hôm nào: “Krishnamurti không phải là không biết chịu chơi, nhưng lúc chúng nó dòm qua phía Tây Phương và xô bồ công kích, chúng nó không phân biệt chân và giả, chúng nó tư tưởng một chiều, chúng nó không nhận ra sự hóa thân thiên hình vạn trạng của chư vị Bồ Tát cùng những vô lượng phương tiện lực trong xảo mật ngữ. Chỗ ngu si cốt yếu của chúng là: chúng quên mất rằng cái đường cày, cái lối cuốc, cái hột giống gieo ra, phải thuận theo mảnh đất. Cày cuốc trên đất núi không như cày cuốc trên đất phù sa, cấy lúa trên đất phù sa không như cấy lúa giữa thành phố, chăn bò ở giữa núi không giống phép chăn bò ở giữa đồng bằng với những ruộng lúa ruộng ngô nằm mấp mé bên đồng cỏ (và bất cứ lúc nào tứ chi con bò cũng có thể nhảy vọt từ đồng cỏ xuống ruộng đồng). Không một thằng tư tưởng Đông Phương nào ngày nay còn có thể nhìn ra Shakespeare trụ tại chỗ nào trong Bát Nhã Hoa Nghiêm để lập thuyết (mà riêng cái lối dịch L’Immoraliste của Đười Ươi đã mật nhiên khẩn thiết đáp vào). Trong đời tao quả thật tao chưa gặp một thằng học giả nào có được chút trí tuệ tối thiểu của kẻ chăn bò và người cày ruộng. Chúng nó ru rú rút vào căn phòng ngăn nắp tôn sùng Bồ Đề Đạt Ma, Long Thọ Bồ Tát, nhưng nếu cũng ông Bồ Tát ấy, cũng ông Đạt Ma ấy, khoác bộ áo khác, đi lững đững ở một phương trời khác, mà gặp chúng nó, thì lập thời chúng nó phỉ báng ngay. Hỏi làm sao thế. Chúng đáp: bởi vì mày không giống ông Đạt Ma Long Thọ của tao tôn thờ. Cõi tư tưởng vẫn còn rối loạn mãi, chung quy chỉ tại bọn học giả không biết học tập chăn bò, cày ruộng, trước khi mở mồm mở miệng bi bô”. (Còn nữa)
Buổi chiều cuối cùng “Thật là quá xúc động. Xúc động đến sững sờ khi thấy ông nằm bọc trong lớp drap trắng xóa, đôi mắt trắng đục nhìn sững chúng tôi. Nét tinh anh ngày nào không còn nữa, chỉ còn đủ để phản chiếu lại hình ảnh lờ mờ của chúng tôi trong ấy. Còn tất cả đều lặng lờ trong tịch mịch (như thơ ông): “Vì con mắt một lần kia đã ngó/Giữa nhân gian bủa dựng một bầu trời/Đài vũ trụ hồn nhiên bao rạng
tỏ/Một nụ cười thế giới sẽ chia đôi”. Hôm sau 7.10.1998, cũng đôi mắt ấy, đã không bao giờ còn mở ra lần nữa. Thích Nhuận Châu Giao Hưởng >> Ấn tượng Bùi Giáng >> Bùi Giáng và bài thơ 'phù thủy >> Tọa đàm khoa học đầu tiên về Bùi Giáng >> Người vợ của Bùi Giáng >> Tọa đàm thơ Bùi Giáng >> Tối nay, ông Bùi Giáng xuất hiện!
Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 12: Giữa cõi đời hư thực 29/09/2013 03:20 Mấy ngày qua chúng tôi được xem một số bản thảo viết tay của Bùi Giáng trên những trang giấy đã bạc màu, nhiều chỗ xóa đi viết lại bên lề, gạch ngang sổ dọc, với nét chữ phóng túng tự do như chính con người ông đã sống…
Bùi Giáng đang mua chim phóng sinh trước Lăng ông Lê Văn Duyệt - Ảnh: Gia đình cung cấp Có tờ lấm tấm những vết loang nhỏ, có lẽ do ông ngồi viết say sưa lặng lẽ ngoài trời, dưới bóng cây mít, hoặc tàng vú sữa trên sân nhà còn đọng nước mưa giọt xuống. Đọc di cảo ấy, thấy Bùi Giáng đã viết không ít về thế giới “thực” và “hư” này, với những chữ “mộng” triền miên xuất hiện ở những dòng thơ cuối… Như chút tình ông muốn trao cho ai ông cũng thấy nó là lạ mỏng manh ảo ảnh thế nào: “Anh trao em từ mật niệm thiên thai/Một tặng vật lạ lùng hư hay thiệt?”. Cả tên của ông nữa, ông cũng muốn kẻ khác hãy“quên đi” lời đã gọi lâu nay: “Thấy anh em chợt nhớ rằng/Anh từ tộc Giáng đổi tên họ Bùi”. Một bài với tựa nghe khá vui: “La hét!”, lại có một dòng buồn len xuống: “tình người có lẽ như tình chiêm bao”. Một số trong bản thảo trên đã xuất bản sau ngày ông qua đời, số khác vẫn chưa có dịp in. Chúng tôi hỏi anh Thanh Hoài là, anh đã đọc tất cả, vậy anh nhớ nhất những bài nào, câu nào? - Nhiều, nhưng tôi nhớ và thường nhắc đến hai câu thơ của bác Giáng viết về tiếng hót của loài chim mà tôi hay đọc cho bạn bè nghe mỗi lần thấy họ cãi vã, to tiếng nhau. - Câu gì vậy? - Con chim ca hót thơ ngây/Con người nói ít mà gây gổ nhiều. Thường khi đọc câu ấy xong các bạn của tôi im lặng, cười, giảm bớt nóng giận đi. Thơ đã xuất bản khi ông còn sống, so với thơ trong bản thảo chưa in, thường cùng nhắc về một “nơi chốn” ở kiếp nào đó ông đã sinh ra: “Đi về một bữa hôm nay/Nhớ ngàn xưa đã về đây một lần”. Cả thiên nhiên, suối ngàn, cây cỏ, mưa gió trong thơ ông cũng “đầu thai” nhiều bận như ông: “Ra đi gió định trở về/Ngày sau mây hẹn trả khe đầu ngàn”. Ông không cho cái chết là chấm hết:
Bùi Giáng là một trong những nhà thơ thuộc loại hiếm của gia tài thi ca dân tộc, đã chạm được một tay vào chính cái chỗ ta vẫn thường nói khi thảo luận về tôn giáo, đó là quyền năng. Nhưng ông không là một giáo chủ… mà là một nhà thơ đã nắm được quyền lực: quyền lực thi ca. Trong thế giới tâm linh - trực giác thiên khải đó và cuộc đời “vật dục - trần gian” u mê này, ông đã đi về như một “tự do cá nhân”, không một vết xước nhân quyền. Đặng Ngọc Như
“Mai sau hẹn với ban đầu/Chờ nhau ngỏ khác ngó màu nguyên xuân”. Mang theo nỗi lòng “trường mộng” trong những chuyến “luân hồi” ấy, ông bước ra đường phố, say sưa cười nói, múa may, khó có ai hiểu ông muốn gì. Lúc ông chửi bới này kia khiến có người ngỡ lầm là ông chửi họ, nên nổi sân si, xúc phạm, đánh ông bị thương phải vào bệnh viện như một tay bán hủ tiếu nọ. Người ta giục ông viết đơn kiện, nhưng ông lắc đầu nói hãy tha cho nó, vì “nếu mà kiện không chừng công an sẽ bắt nó lấy ai nuôi con nó, rồi lỡ nó ngồi tù nữa thì lấy ai bán hủ tiếu cho bà con ăn”. Tận mắt chứng kiến một cảnh tương tự giữa phố, nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Thanh ghi lại: “Khoảng mươi người hiếu kỳ, và vài ba người trai tráng bặm trợn, đang hung hăng la hét ồn ào, chỉ chỏ sừng sộ vào một ông già lạ lùng đang đứng ở giữa. Ông già mang một cặp kính trắng dày cộm, mái tóc bạc bù xù, vài lọn tóc dài nghiêng xuống vầng trán rộng. Có vẻ như ông già vừa bị hành hung (…) đám đông thì đích thị chửi mắng thô lỗ ông già bằng tiếng Việt, còn ông già thì vi vu mắng chửi bằng tiếng Pháp, mà đối tượng ông gửi gắm không nhất thiết nhắm vào đám đông cụ thể mà ông đang đối diện. Tôi tiến tới gần, ép chiếc xe đạp của mình sát vào đám đông. Nhìn thấy một vết bầm tím đỏ bất thường trên trán ông, tôi hốt hoảng y như nhìn thấy người huynh đệ quyến thuộc của mình bị nạn, tôi thảng thốt kêu lên: Anh Bùi Giáng!” (Bùi Giáng - Lời không tiếng). Không chỉ “kể”, Nguyễn Quang Thanh còn có lời bình được nhiều người tâm đắc: “Nói cãi vã, nhưng thật ra, chắc là, ông chẳng định ý tranh biện cãi vã với ai. Vì có lẽ, đối với ông, còn có gì đâu để cãi vã, khi mà mọi lẽ đời xuôi ngược ỡm ờ đã được ông tự đặt mình vào những tình huống đối nghịch tương ứng khác nhau, và rồi, ông đã mổ xẻ quá đầy đủ qua những tác phẩm kiệt xuất của ông. Ông đã tự đối thoại, tự tranh biện, tự đặt tâm hồn và thân xác mình vào những vị trí và vai trò khác nhau của cõi đời hư thực, trụ vào những vị trí khác nhau, trụ vào những vị trí không vị trí, trụ vô sở trụ, để cười, để khóc, để suy tư, để chiêm nghiệm, để sáng tạo, một cõi sáng tạo vừa xa vừa gần với cõi xứ mà những thiên tài kim cổ thường hội ngộ”. (Còn nữa) Giao Hưởng >> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 11: Bùi Giáng nổi giận trong sân chùa >> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 10: Nhà thơ nói về... thế kỷ 35! >> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 9: Cái nhìn Bùi Giáng về Kim Dung >> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 8: Với Thanh Tuệ và NXB An Tiêm >> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 7: Bùi Giáng - Phạm Công Thiện với 'ngày tháng ngao du
>> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 6: Những bài thơ cuối đời >> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 5: Bùi Giáng với Bùi tộc Vĩnh Trinh >> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 4: Đạt đạo cõi thơ >> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 3: Cuốn sổ nợ 'đoạn trường >> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 2: Thiên tài không thể định nghĩa >> Chuyện đời Bùi Giáng: Ai đưa Bùi Giáng vào nhà thương điên ?
Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 13: Bùi Giáng với làng báo Sài Gòn 30/09/2013 00:35 Ghé tòa soạn tạp chí Văn những năm trước 1975, Bùi Giáng thường “ra tắm ở cái máy nước trước tòa soạn, thản nhiên trước người qua kẻ lại, quần áo lướt thướt đi qua đường, một đám con nít tròn mắt đi theo”... >> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 12: Giữa cõi đời hư thực >> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 11: Bùi Giáng nổi giận trong sân chùa >> Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 10: Nhà thơ nói về... thế kỷ 35!
Bùi Giáng đọc số Báo Thanh Niên có đăng thơ ông - Ảnh: Gia đình cung cấp Nhà văn Mai Thảo kể như thế trong hồi ức của mình và nhớ lại thời ấy Bùi Giáng “chỉ còn là da bọc xương trong bộ quần áo thùng thình, mái tóc dài đạo sĩ, cái túi vải còn thêm cây gậy”, nhiều lúc ông ngủ ngon lành trên bàn viết, rồi “lặng lẽ bỏ đi, cái bóng dáng gãy đổ, gầy guộc trong chiều xuống”. Sau 1975, Bùi Giáng “đi xích lô đến tòa soạn Báo Phụ Nữ TP.HCM để gửi thơ (…) đi tìm ai, nếu không gặp, ông nhắn lại… bằng thơ! (Lê Minh Quốc)”. Ông cũng “lãng du” đến tòa soạn Báo Tuổi Trẻ năm 1994, đưa bài thơ đăng trên Báo Xuân Tuổi Trẻ 1995 có hai câu cuối: “Nhành đời gió lộng trùng khơi/Nhặt lên thả xuống chiều vời vợi bay”. Với Báo Thanh Niên, vào một dịp có giải bóng đá thế giới, anh em phóng viên có truyền nhau mấy câu cho là của ông: “Truyền hình trực tiếp đá banh/Sao không trực tiếp truyền thanh Mưa nguồn”… Ông biết được, cười vui vẻ và đã viết mấy dòng “nói cho rõ” như sau: “Câu thơ ấy chắc là của anh em Câu lạc bộ cao hứng nói ra. Nghe vui thật. Hay thật. Ngộ nghĩnh thật. Nhưng quả nhiên là không phải của tôi. Mong quý Báo, quý anh em thông cảm. Ký tên: Bùi Giáng”. Ông cũng gửi đến Báo Thanh Niên bài thơ Nàng tiên ấy với bốn câu mở đầu: “Nàng tiên ấy đã đi đâu/Hay còn luẩn quẩn giữa màu lá cây/Nàng đi nhớ tháng thương ngày/Thương năm tháng rộng thương ngày cong cong…” và bài Ly rượu cuối cùng - cả hai đều đăng trên Thanh Niên số Xuân Bính Tý 1996.
Mấy dòng Bùi Giáng gửi Báo Thanh Niên - Ảnh: Tư liệu Ông cũng thăm nhiều tòa soạn khác. Đọng lại nhất trong chúng tôi là hôm ông “ghé” Báo Khoa học phổ thông năm 1983 - cách đây đã tròn 30 năm. Nguyên hôm ấy, ông lang thang từ chùa Xá Lợi về hội quán Văn nghệ số 81 Trần Quốc Thảo, Q.3, TP.HCM. Thời đó, quán 81 bán bia hơi có “kèm mồi”, anh em mời ông ngồi uống, ông nốc cạn một ly rồi đi ngay ra cửa. Chúng tôi theo để gọi xích lô cho ông. Đến ngã tư Trần Quốc Thảo - Võ Thị Sáu một đoạn, ông đứng khựng lại chỉ vào tấm bảng có ghi: Tòa soạn Báo Khoa học phổ thông. Ông sừng sộ, hai tay xỉa xói từng chập lên cái bảng hiệu Khoa học phổ thông ấy. Nghe ông la mấy tiếng “đồ khoa học điên đảo!”, “khoa học đáng nguyền rủa!” - người trong tòa soạn ngỡ ông đang kiếm chuyện “gây” báo mình. Nhưng không. Vì thực ra ông không có gì để đụng đến tòa soạn uy tín này. Mà chỉ nhân hai chữ “khoa học” đọc thấy tình cờ trên tấm bảng, đã gợi lên niềm uất giận trong ông. Uất thế nào? Chúng tôi tự đi tìm lời giải đáp qua những dòng ông viết: “Khoa học giết người, triết học giết người. Khoa học giết người, ta nhìn thấy rõ. Triết học giết người, ta nhìn không thấy rõ. Và ít ai hiểu rằng sở dĩ khoa học giết được nhiều con người đến thế là chính bởi triết học khốn nạn đã dọn đường, chính triết học hư tà đã phạm tội trước tiên. Khoa học thơ ngây được phép không ngờ. Khoa học đã hồn nhiên gieo bóng tối. Nhưng cái ghê tởm nhất là cái bóng tối từ ở giữa lòng triết học tỏa ra. Nietzsche đã chịu một mình mang tủi nhục để gào to. Nietzsche - cái kẻ dịu dàng như hươu non đành chịu bóp chết lòng mình để rống to như thú dữ. Nhưng lập tức lời nguyền rủa từ bốn phía vang lên. Và Nietzsche đã điên. Trước Nietzsche mấy chục năm, Hoelderlin cũng đã điên. Cùng với bao kẻ khác đã điên. Để ngày nay… để ngày nay chúng ta tụ hội về đây, xôn xao nêu câu hỏi: cớ sao mà điên? Nêu một cách rất ngây thơ, tròn trĩnh. (…) Suốt hai mươi mấy thế kỷ, các nhà triết gia học giả Âu Tây đã gây điên đảo cho triết học như thế nào? Và từ một vài thế kỷ nay, tại sao khoa học lại gieo rắc đau thương nhiều đến thế? Phải nêu câu hỏi đó lên, ta mới rõ vì sao Einstein một mực đòi đi bán bánh mì, Heidegger cùng với Nietzsche một mực đòi chôn vùi hay đập vỡ nền triết học từ Aristote về sau. Từ đó mà đi các bạn không còn chỉ trích chúng tôi sao lại cố tâm cố ý đưa những hình ảnh thiên nhiên - và gọi chúng là những tượng số - về ở giữa triết học hoạt tồn, triết học tồn lưu tồn thể… Đã là người Việt Nam, thì chẳng lẽ lại viết triết học bằng chữ. Phải viết bằng lời. Mà lời của biển dâu không thể là lời của văn xuôi. Phải là lời thơ “tái tân thanh” tái tạo. Văn xuôi cũng phải buộc là thơ. Và mở cửa cho thơ rúc vào nằm trong một vòm tròn trịa méo mó ôm nhau…” (Tư tưởng hiện đại, NXB Tân An, Sài Gòn 1974 và NXB Văn hóa Sài Gòn - Quỳnh Na 2008). Đọc đoạn trên để hiểu phần nào về nguyên do khiến Bùi Giáng có những cơn giận bất ngờ trên đường phố, quay quắt bỏ đi, đi hoài tới trước. Và chắc là những lúc đó thơ ông cứ như thác đổ, ào ào tuôn dội từ những cơn “mưa nguồn” đổ xuống sau lưng! (Còn nữa)
Giao Hưởng DÒNG SỰ KIỆN
Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 13: Bùi Giáng với làng báo Sài Gòn Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 12: Giữa cõi đời hư thực Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 11: Bùi Giáng nổi giận trong sân chùa Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 10: Nhà thơ nói về... thế kỷ 35! Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 9: Cái nhìn Bùi Giáng về Kim Dung Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 8: Với Thanh Tuệ và NXB An Tiêm
Người vợ của Bùi Giáng 09/02/2013 11:00 (TN Xuân) Đọc thơ Bùi Giáng, người ta nghĩ ông chỉ có những tình yêu viễn mộng. Ít ai biết ông đã có một người vợ đẹp và những bài thơ tình hay nhất của ông là dành cho vợ. Người phụ nữ ấy chỉ sống với ông trên đời có 3 năm. Đọc thơ Bùi Giáng, người ta nghĩ ông chỉ có những tình yêu viễn mộng. Ít ai biết ông đã có một người vợ đẹp và những bài thơ tình hay nhất của ông là dành cho vợ. Người phụ nữ ấy chỉ sống với ông trên đời có 3 năm. Tháng 7.2012, tôi trở lại thăm quê nhà ông - làng Thanh Châu (xã Duy Châu, Duy Xuyên, Quảng Nam). Ghé thăm nhà thờ tộc Bùi, được người phụ nữ chăm lo hương khói nơi đây cho xem gia phả của tộc. Qua câu chuyện, tôi khẳng định một điều mới mẻ: Nhà thơ Bùi Giáng đã có vợ. Hình tượng của bà và tình thương yêu, tiếc nuối ông dành cho bà là nội dung chủ đạo trong 4 tập thơ của ông: Mưa nguồn, Lá hoa cồn, Ngàn thu rớt hột và Màu hoa trên ngàn (in tại Sài Gòn từ năm 1962 - 1964).
Bà nhớ lại Bùi Giáng được cha mẹ cưới vợ cho năm 1945, khi ông vừa 19 tuổi. Hôn nhân ngày trước thường do cha mẹ đôi bên sắp đặt. Có lẽ, cuộc hôn nhân của Bùi Giáng cũng không đi ra ngoài quy ước đó. Người phụ nữ giữ nhà thờ tộc Bùi xác nhận: “Chị Bùi Giáng về làm dâu nhà ông bà bác tôi (cụ Bùi Thuyên và bà Huỳnh Thị Kiền - cha mẹ ông Bùi Giáng) năm 18 tuổi. Chị là người Duy Xuyên, đẹp lắm, tóc dài da trắng cái chi cũng đẹp. Tên thật của chị là Vạn Ninh”. Tất cả thành viên trong gia đình đều quý yêu bà chị dâu trẻ. Ông Bùi Luân - em ruột Bùi Giáng - tỏ lòng quý mến của mình với người chị dâu trong tập thơ Chớp biển của Bùi Giáng in tại Canada năm 1996: “Phải nhận là chị xinh đẹp, cởi mở, vui tính, hồn nhiên… Gương mặt chị, hình ảnh chị đã nổi bật, sáng ngời mãi trong ký ức tôi. Duy có điều bất cứ ai, dù không biết gì nhiều về tướng số, gặp chị là cũng nhận ra ngay: Chị không thể ở lâu với chúng ta trên cõi đời này, dù cõi đời vốn đã ngắn ngủi. Lấy chồng được ba năm, chị đã đột ngột lìa đời lúc mới ngoài hai mươi tuổi… Chị trút hơi thở một cách bình thản”. Vợ chồng Bùi Giáng được cha mẹ cho một khu vườn đẹp ở làng Trung Phước để lập nghiệp. Trung Phước là thung lũng trù phú ven sông Thu, kế cận mỏ than huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam ngày nay. Làng Trung Phước cách Thanh Châu trên dưới ba chục cây số. Có lẽ cuộc hôn nhân của lứa đôi trẻ trung này giữa miền đất Trung Phước không được êm ấm cho lắm. Ông Bùi Luân viết tiếp: “Chỉ một thời gian ngắn sau ngày cưới, người vợ trẻ đã phải lặn lội từ cái thung lũng ngoạn mục nhất đó, xuôi sông Thu Bồn êm đềm với ngàn dâu xanh ngát, về nhà bố mẹ chồng ở Thanh Châu cách hàng mấy chục cây số. Trên chiếc đò bé nhỏ, chàng trai nói với người vợ trẻ: Nếu em không đổi ý quay về, không bỏ qua chuyện cũ thì tôi sẽ… nhảy ra khỏi đò! Khách xuôi đò tưởng người con trai đùa dọa người vợ mảnh dẻ. Để nguyên quần áo, ngay lập tức anh mình gieo xuống giữa dòng sông Thu. Và bơi theo đò. Để rồi thả trôi theo dòng nước hết chỗ mấy chục cây số đó, tới tận bến nhà”. “Bỏ qua chuyện cũ” là chuyện gì? Đó là một chuyện hết sức tức cười và trẻ con. Ông Bùi Luân tiết lộ: “Cô con dâu đứng bên bà mẹ chồng sụt sùi: Anh cho con ăn toàn khoai lang và rau luộc. Anh không cho con mua cá mua thịt…”. Thì ra, Bùi Giáng đã… đi trước thời đại chúng ta về chủ trương… ăn chay. Ông hiểu một cách tuyệt đối thế nào đó về ẩm thực dưỡng sinh, nên chỉ thuận cho cô vợ ăn rau cải, củ quả mà không cho phép bà ăn gà, bò - hai món thịt ngon nhất của vùng Trung Phước. Người vợ qua đời năm 1948 khi Bùi Giáng vắng nhà. Ông Bùi Luân viết tiếp: “Phút lâm chung, chị không thấy mặt chồng… Tôi chỉ biết là anh có mặt vào phút chót của buổi tiễn đưa chị về nơi an nghỉ cuối cùng - anh đứng bên cạnh chiếc quan tài với vành khăn trắng trên đầu”. Bùi Giáng yêu vợ nhưng vẫn muốn… bỏ nhà đi chơi. Cũng bình thường như bao nhiêu người đàn ông Quảng Nam lãng mạn khi xa vợ, Bùi Giáng có thể gặp gỡ, giao lưu với những người phụ nữ khác và nhận ra họ vượt trội vợ ông về một vài phương diện nào đó. Thế nhưng, tình yêu và nỗi xót xa dành cho người vợ ở quê nhà thì rất đỗi mặn mà, vô cùng tha thiết: “Mình ơi, tôi gọi bằng nhà/Nhà ơi, tôi gọi mình là nhà tôi”. Hai năm sau cái chết của người vợ trẻ, ông dẫn một bầy dê lên Nông Sơn chăn thả, ngao du qua những đồi núi, suối khe mơ màng để nhớ thương vợ. Hai năm sau đó nữa, ông gửi bầy dê lại cho… chuồn chuồn và châu chấu, bỏ quê nhà đi chơi tiếp. Ở đâu, ông cũng phục hiện những hình ảnh yêu dấu xưa. Bài thơ nhớ vợ có một không khí rất đỗi bi ai, tràn đầy hoài cảm: “Em chết bên bờ lúa. Để lại trên lối mòn. Một dấu chân bước của. Một bàn chân bé con! Anh qua trời cao nguyên. Nhìn mây buồn bữa nọ. Gió cuồng mưa khóc điên. Trăng cuồng khuya trốn gió. Mười năm sau xuống ruộng. Đếm lại lúa bờ liền. Máu trong mình mòn ruỗng. Xương trong mình rả riêng. Anh đi về đô hội. Ngắm phố thị mơ màng. Anh vùi thân trong tội lỗi. Chợt đêm nào, gió bờ nọ bay sang”. Bùi Giáng bỏ cố quận ra đi biền biệt. Ra đi nhưng ông vẫn nhớ, đến tha thiết não nùng. Nhớ nhưng ông không dám trở về bởi nơi nào ở cố quận cũng nhắc ông nghĩ đến tình yêu của người vợ khổ. Ông gọi bà với nhiều tên gọi khác nhau. Đầu tiên, bà được gọi là “gái trần gian”. Ông có thể gặp gỡ, cười đùa, tán tỉnh cả trăm người phụ nữ khác nhưng lòng ông chỉ yêu và chỉ nhớ mỗi mình bà, đặc biệt những khi ông còn lại một mình, đối mặt với chính tâm thức cô đơn của mình: “Đùa với Tuyết, giỡn với Vân. Một mình nhớ mãi gái trần gian xa. Sương buổi sớm, nắng chiều tà. Trăm năm hồng lệ có là bao nhiêu?”. Thứ hai, ông gọi bà là “con mọi nhỏ”. Người Duy Xuyên có lệ thương yêu ai thì gọi người ấy là “con mọi”, “thằng mọi”. Tôi lấy làm tiếc khi có vài người nghiên cứu văn học hiểu nhầm chữ “mọi” trong thơ Bùi Giáng: “Mọi em là mọi sương xuân. Ban sơ núi đỏ chào mừng non xanh”. Thơ ông viết cho “con mọi nhỏ” của mình tràn đầy nỗi thương xót và tình yêu dấu: “Giờ ly biệt, ta xin em đừng khóc. Nào phải không? Lệ chảy có vui gì? Trang phượng mở giữa nguồn em hãy đọc. Nước xuôi dòng, ngàn thu hận ra đi”.
Ông phong tặng người vợ của mình - con mọi nhỏ, lên thành mẹ của giang san: “Em thành Mẹ của giang san. Em là thần nữ đoạn trường chở che”. Thơ ông viết cho vợ càng lúc càng trang trọng. Tất cả cái mẫu tính dịu dàng, hồn nhiên, tươi đẹp, đôn hậu toát lên từ con người của bà Bùi Giáng khiến ông cảm phục vợ. Từ một con người cụ thể, mảnh mai, bà vụt trở thành hình tượng cao quý nhất trong lòng ông, trong thơ ông: “Em thuyền quyên ban mưa móc xum xuê. Em rắc gieo khắp xứ sở bốn bề. Suốt địa hạt tình quê hương ba ngõ. Anh quỳ xuống gọi em: Em mọi nhỏ”. Lắm khi ở phương xa, ông nhớ cố quận. Qua mấy mươi năm, hình ảnh người vợ trẻ, hiền ngoan ấy vẫn sống trong lòng ông. Ông uống trà giữa Sài Gòn mà hình ảnh của bà ngày xưa ở Quảng Nam như hiển hiện trước mắt: “Trung niên thi sĩ uống trà. Thưa em mọi nhỏ, em đà uống chưa?”. Một nửa cuộc đời ông, một nửa trái tim ông dành để nhớ bà. Vũ Đức Sao Biển >> Đoản văn của Bùi Giáng >> Tọa đàm thơ Bùi Giáng >> Bùi Giáng với Hoàng tử bé >> Bùi Giáng “nhập” vào nhạc Trần Quế Sơn
Tọa đàm khoa học đầu tiên về Bùi Giáng 13/09/2013 03:25 Sáng 14.9, tọa đàm khoa học về thi sĩ Bùi Giáng sẽ khai mạc tại Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM.
Đây là lần đầu tiên các nhà khoa học và nghiên cứu chuyên ngành văn học, ngôn ngữ học cùng có mặt trong ban tổ chức: PGSTS Võ Văn Sen, TS Nguyễn Khắc Cảnh, PGS-TS Lê Giang, TS Huỳnh Thị Hồng Hạnh, TS Võ Văn Nhơn, TS Nguyễn Ngọc Thơ, phối hợp nội dung với GS-TS Huỳnh Như Phương để mở tọa đàm về Bùi Giáng - nhà thơ thiên tài, nhà nghiên cứu uyên bác, dịch giả tài hoa của nước ta nửa sau thế kỷ 20. Đến nay, sau hơn 3 tháng thông báo, ban tổ chức đã nhận được tham luận của PGS-TS Hồ Thế Hà về đề tài Bản mệnh thơ Bùi Giáng, PGS-TS Nguyễn Thị Thanh Xuân về Bùi Giáng bản nhiên, nhà nghiên cứu Nhật Chiêu về góc cạnh độc đáo khiBùi Giáng chơi, PGS Nguyễn Công Lý về Thơ Bùi Giáng đôi điều cảm nhận, TS Trần Hoài Anh về Bùi Giáng trong cái nhìn phê bình văn học của miền Nam trước 1975. Cùng các tham luận khác của Phạm Phú Phong, Huỳnh Thị Thu Hậu, Bùi Văn Ký, Phan Nguyễn Kiến Nam, Nguyễn Đức Chính, Trần Nữ Phượng Nhi, Tâm Nhiên, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Đình Trân. Tất cả tập trung đánh giá về giá trị của sự nghiệp nghiên cứu, dịch thuật, sáng tác, cũng như một số hồi ức và giai thoại về Bùi Giáng. Dịch giả và là một trong những nhà nghiên cứu triết học hàng đầu của Việt Nam hiện nay - Bùi Văn Nam Sơn (chú họ Bùi Giáng) sẽ tham gia chủ tọa đoàn, nêu nhận định: “Bùi Giáng là một hồn thơ rất cổ kính đồng thời lại mang tâm thức hiện đại, đúng hơn: hậu hiện đại (post-moderne), nơi đó mọi ý,
mọi lời đều đa tầng, đa nghĩa, đa chức năng, nhằm bộc lộ cho được một cái gì rất Sơ Nguyên - Đơn Giản, song đã trải qua biến dịch nên phong phú, điệp trùng”. Giới báo chí, văn nghệ sĩ cũng được mời tham luận: Vũ Đức Sao Biển về đề tài Bùi Giáng - quê nhà và cuộc đời, Lê Minh Quốc về Bùi Giáng - thi sĩ tinh quái của nền thi ca Việt Nam hiện đại, Giao Hưởng về Bùi Giáng với kinh Phật thuyết đại thừa Vô lượng thọ - trang nghiêm thanh tịnh bình đẳng giác. Tọa đàm được mở nhân kỷ niệm 15 năm ngày mất Bùi Giáng (1998 - 2013).
Đoản văn của Bùi Giáng 30/09/2012 03:15 Mới đây, chúng tôi được tiếp cận một số bản thảo viết tay của thi sĩ Bùi Giáng chưa xuất bản, trong đó có hai đoản văn ngồ ngộ. Xin giới thiệu với độc giả nhân dịp kỷ niệm 14 năm ngày thi sĩ mất.
>> Tọa đàm thơ Bùi Giáng >> Bùi Giáng “nhập” vào nhạc Trần Quế Sơn >> Bùi Giáng với Hoàng tử bé Bài Ông Trời chất vấn ông điên - rằng: “Tại sao chú mày đánh đấm con vợ của chú mày như thế?”. “Tại vì nó có lỗi”. “Có lỗi như thế nào?”. “Tôi thì hằng năm tôi tắm rửa một lần để ăn tết. Còn nó thì mỗi ngày nó mỗi tắm… tức không chịu nổi!”. “Ủa, nó tắm rửa cho sạch sẽ thơm tho có gì đâu mà gọi là tội lỗi?”. “Nhưng mà nó càng sạch sẽ thơm tho bao nhiêu, thì thiên hạ càng thấy rõ cái dơ dáy thối tha của tôi bấy nhiêu. Có phải rằng nó có ý muốn vạch rõ cái thối tha bẩn thỉu của tôi? Tôi mang mặc cảm bấy lâu nay. Còn đâu hài hòa vợ chồng tâm đầu ý hiệp chứ”. Rồi “ông điên” muốn bỏ vợ để lấy “gái sa mạc” vì “sa mạc khô khan quanh năm, đâu có nước giếng nước biển nước sông để tắm cho nhiều”. Ông Trời gật gù: “À ra thế ấy, lọ là thế kia!”…
Bài thứ hai Mẹ ôi!, kể về cô gái 16 tuổi chửa hoang, bà mẹ thay vì phiền trách đã hân hoan reo lên: “Ồ, thế thì vạn phước đấy con ạ. Kiếp xưa có lẽ con khéo léo tu hành lắm đó, nên kiếp này mới gặp gỡ được thằng Mít (…) đến như con là đứa nghiêm trang nghiêm túc như thế mà nó chỉ la cà cày bừa trên bụng con đôi lần mà kết quả huy hoàng rực rỡ chói lòa thì đủ biết tài năng cày sâu cuốc bẫm của nó… Ha ha ha! Mẹ giao luôn cho nó cái khu vườn tược ba mẫu này để nó chăm sóc trồng dâu, trồng dừa: Ùn lên ngọn nước bốn mùa. Núi phơ phất tuyết, cổng chùa tịch liêu. Hai hàng phượng đỏ giấn liều. Đứa con gay cấn một chiều chửa hoang. Ha ha ha!!! Mẹ sắp có cháu ngoại để o bế o bồng rất mực bồng bế o o !!!”. Đọc hai đoản văn trên hẳn có người sẽ nghĩ Bùi Giáng viết chỉ để “cà rỡn” chơi. Thật ra trong cái “cà rỡn” ấy vẫn ẩn chứa một điều gì khang khác là lạ so với những chuyện cười suông. Riêng chúng tôi, đọc hai bài trên, nghĩ mấy chữ “cổng chùa tịch liêu”, “đứa con gay cấn” và “sa mạc” là cái “chĩa ba” của một cây cổ thụ trong rừng ngôn ngữ mà Bùi Giáng trên đường ngao du đã đặt lên đó “một cách nhìn” để kể về: 1. Những “ông điên” quay cuồng theo các cặp đối trị: tốt - xấu, sạch - nhớp, khen - chê, vinh - nhục… 2. Những “đứa con gay cấn” đã rời “cổng chùa tịch liêu” để kết hôn với bọt nước, với nắng tàn, với sương mai và ánh chớp vội vàng vào mỗi chiều giông. Và thê thảm nhất là đã tự nhốt mình trong sách vở tư biện như ông từng viết: “tự nghìn năm triết học luận lý trường trại đã bóp ngột tư tưởng con người (…) nó khiến tư tưởng không thể nào bước đi thong dong trên ngã ba (…) không còn nghe ra ngôn ngữ Nguyễn Du, Shakespeare…”. (Đường đi trong rừng). Ông ca ngợi “sa mạc” - muốn tìm về “sự tĩnh lặng mênh mông, trong đó mọi năng lực, hùng tâm, dũng khí, thảy thảy tương hệ tương giao cùng rì rào hoạt động” và “im lặng vì xao xuyến dị thường” (Lời cố quận). Đó là “niềm im lặng” lên đường, tìm về nguồn cội sẵn có trong chính mình. Khi lạc lối, ông lại phải “chăn trâu” hoặc “lùa dê” để lần về lối cũ: “Trăm năm trong cõi người ta - Chăn dê bò tại ngã ba đường rừng”. Và đây nữa: “Anh lùa dê vào núi rừng mây tím. Cho dê nhảy cỡn giữa mây ngàn (…) Dê lùa anh vào đồi sim trái chín. Anh lạc đường nghe dê gọi kêu vang”.
Lúc đầu ông “nghe dê gọi”. Đến sau ông quên cả dê, quên cả trâu, quên cả bò đang gặm cỏ, mà “chỉ nghe tiếng cọ rì rào”, rồi tự hỏi: “Có hay không bò đương gặm đó? Hay là đây tiếng gió thì thào? Hay là đây tiếng suối lao xao? Không biết nữa mà cần chi biết nữa”. Ông chả cần “biết” âm thanh tiếng động xung quanh mà đã quay “cái nghe” vào sâu nơi mình. Để từ trong cái “nghe tự tánh” ấy, đã tuôn chảy ra ngoài dòng sữa của thi ca… Giao Hưởng
Bùi Giáng với Hoàng tử bé20/10/2011 0:34
Bìa cuốn Hoàng tử bé (2011)
Ngày 20.10, NXB Văn hóa Văn nghệ kết hợp với cơ sở Quỳnh Na phát hành tác phẩm dịch được xem là bay bướm và truyền cảm nhất của thi sĩ Bùi Giáng:Hoàng tử bé (nguyên tác: Le Petit Prince của nhà văn Pháp Saint Exupéry). Sách ấn hành nhân dịp tác phẩm trên được xét chọn để trao Giải thưởng sách hay 2011 về lĩnh vực dịch thuật. Mặc dù trải qua gần 50 năm kể từ ngày xuất bản lần đầu tiên tại Sài Gòn nhưng đến nay văn phong và thần sắc trong Hoàng tử bé vẫn đầy sức quyến rũ. Trước hết vì tính cách nhân bản có sức lan tỏa lạ lùng trong nguyên tác của Saint Exupéry với mấy dòng mở đầu: “Tôi xin lỗi các bé con, vì đã đề tặng cuốn sách này cho một người lớn (...) Tôi rất muốn đề tặng cho đứa bé con mà xưa kia người lớn nọ vốn đã từng là (nó) vậy. Mọi người lớn, ban sơ, đều đã từng là những bé con (nhưng ít người trong số đó ghi nhớ điều kia). Vậy tôi xin sửa chữa lời đề tặng: Gửi Léon Werth thuở ông ta còn là bé con”. Một lẽ khác, về phía người dịch: Bùi Giáng - đã không ngần ngại hạ bút xác định: “Le Petit Prince là tác phẩm thơ mộng nhất và u uẩn nhất trong những tác phẩm của Saint Exupéry” viết về một thiên thần đi về trần gian để “dấn thân” và sau đó “chia tay bụi hồng không một lời oán hận”. Vậy tác phẩm có gì lạ mà Bùi Giáng dịch và giới thiệu trân trọng như thế. Lạ vì, trong tập sách mỏng chỉ chừng 125 trang mà đã chuyển đến bạn đọc cả “một thế giới ở ngoài trái đất”. Lạ nữa, thế giới “ở ngoài” ấy lại được kể và thể hiện bởi một hoàng tử đang “ở trong” mặt đất, trên sa mạc Sahara. Chú hoàng tử cô độc đến từ một tinh cầu xa thẳm đã gặp một phi công cũng một thân một mình đáp xuống sa mạc khi máy bay của ông ta gặp nạn, bị hỏng hóc. Thế là họ, một người lớn và một chú bé hoàng tử, đã “sống” bên nhau những thời khắc tuyệt vời và tâm cảm, nhất là chuyện chú bé thao thức vì một con cừu nào đó đã ăn mất của chú một đóa hoa hồng: “Cái điều xui ta cảm động nhất nơi Hoàng tử bé đang ngủ này, ấy là sự trung thành của chú đối với một đóa hoa, ấy là một hình ảnh một đóa hoa hồng vẫn sáng ngời ở trong người chú như một ngọn đèn, ngay cả khi chú ngủ... Và tôi nhận thấy chú còn mỏng manh hơn nữa. Phải bảo vệ những ngọn đèn: Một cơn gió có thể làm cho tắt mất”. Tắt mất đây không chỉ “tắt” sự sống ngoài thể xác, mà là “tắt” nguồn ánh sáng ban sơ trong tâm hồn của những người đang hiện diện trên “mặt đất trầm trọng và đau thương” này. Lần tái bản này có in kèm những ký họa màu nước của tác giả Saint Exupéry và các chú thích của dịch giả Bùi Giáng. Giao Hưởng
Bùi Giáng “nhập” vào nhạc Trần Quế Sơn23/10/2011 23:15
Ảnh: tư liệu
Vào lúc 19 giờ ngày 26.10 tại Trung tâm văn hóa tỉnh Quảng Nam (TP Tam Kỳ) sẽ diễn ra đêm nhạc Thôn nữ, với những bài thơ của thi sĩ Bùi Giáng do nhạc sĩ Trần Quế Sơn phổ nhạc. Hầu như giới yêu thơ ca ở miền Nam ai cũng biết đến thi tài xuất chúng của “Trung niên thi sĩ”. Nhưng biết (và yêu) thơ ông là một chuyện, còn “dám” phổ nhạc thơ của ông lại là chuyện khác, bởi thơ Bùi Giáng tuy không trúc trắc nhưng chữ nghĩa lại quá ư siêu việt và bí hiểm… Vậy mà, một nhạc sĩ còn khá trẻ như Trần Quế Sơn lại say mê, thẩm thấu để rồi phổ nhạc thơ Bùi Giáng thì cũng là chuyện lạ. Sơn có một trình độ nhạc lý vững vàng (anh tốt nghiệp khoa Sáng tác hệ chính quy tại Nhạc viện TP.HCM năm 1999), từng liên tiếp đoạt những giải thưởng cao của Hội Nhạc sĩ VN (Tre Việt Nam - giải nhì năm 2004, Cõng mẹ đi chơi - giải nhất 2005)… Sơn kể rằng năm 28 tuổi mới biết đến thơ Bùi Giáng qua những buổi “hầu rượu” các bậc đàn anh văn nghệ. Nghe họ đọc và bình thơ Bùi Giáng, thấy “đã” quá, bèn tìm đọc. Càng đọc càng mê. Có lẽ, cái phương ngữ Quảng Nam trong thơ Bùi Giáng đã là cầu nối để chàng nhạc sĩ hậu bối cùng quê “rượu Hồng Đào chưa nhấm đã say” này tìm được sự đồng cảm. Rồi anh thử phổ thơ Bùi Giáng. Đó là vào năm 2002, với hai bài đầu tiên: Em đi (phổ thành ca khúc Gót son lấp vùi) và bài Phụng hiến do ca sĩ Quang Minh ghi âm. Tuy nhiên, cái khó của Sơn (và của nhiều nhạc sĩ khác) khi phổ thơ Bùi Giáng là ngôn ngữ thơ ông quá bí hiểm, cắt bỏ hoặc thêm lời đều khó. Có bài cực ngắn mà có bài rất dài, đa phần thuộc thể thơ lục bát nên dễ trùng lặp tiết điệu… Cho nên, từ chỗ “cảm” thơ Bùi Giáng, Trần Quế Sơn đã lọc lấy ý, lấy cái “tinh thần, cốt cách” của Bùi Giáng để phổ thành ca khúc chứ không bê nguyên từng câu chữ. Sơn bảo, trước đây trong một năm Sơn chỉ viết được dăm ca khúc. Vậy mà khi “gặp” Bùi Giáng, anh viết (phổ thơ) như… “bị ông Bùi ám” , có tháng viết được 11 bài. Đến nay, anh đã hoàn thành được gần 20 ca khúc phổ từ thơ Bùi Giáng (một số bài đã được công bố trong album Ôi một người con gái do ca sĩ Quang Hào thể hiện). Hỏi tại sao Sơn không tổ chức đêm nhạc tại TP.HCM hay Hà Nội sẽ tạo được tiếng vang hơn, Sơn bảo “Ân tình với đất Quảng Nam mới là điều chính yếu”.
Đêm nhạc Thôn nữ do đạo diễn Đinh Anh Dũng thực hiện, với sự góp mặt của các ca sĩ: Đàm Vĩnh Hưng, Phương Linh, Xuân Phú, Tấn Minh, Quang Hào, Nguyễn Ngọc Anh, Lều Phương Anh, Vy Thảo và nhóm bè Sao Việt, được truyền hình trực tiếp trên các sóng VTV Đà Nẵng, VTV Cần Thơ và ARICO… Hà Đình Nguyên
Thi sĩ Bùi Giáng - Ảnh: Tư liệu của Thanh Hoài Gửi đến tọa đàm có bài viết của Đắc Phúc - tác giả đã phổ nhạc một số bài thơ của Bùi Giáng, trong đó có bài Người con gái mặc quần mà theo Đắc Phúc đã được viết bằng ngôn ngữ phù thủy, ngữ từ rụng lả tả hai ba bốn lần, là một bài thơ rất hay trong tập Rong rêu, tuy vậy nếu đọc kỹ chúng ta sẽ thấy thiếu và đúng là thiếu thật vì cuối cùng như bị bỏ lửng, tựa như một người con gái đỏng đảnh, chỉ mặc áo mà không chịu mặc… quần! Tìm hiểu thêm, chúng tôi được biết khi tập Rong rêu sắp in lúc đó Bùi Giáng còn sống, người cháu rể của Bùi Giáng là anh Thanh Hoài chuẩn bị bản thảo để xin giấy phép đã bàn với ông nên tạm thời “cất” phần cuối của bài thơ đó đi để việc kiểm duyệt được nhanh chóng. Nên in ra, chỉ có phần đầu của bài thơ, như sau: “Người con gái hôm nay mặc quần đỏ/Vì hôm qua đã mặc quần đen/Đen và đỏ là hai màu rồi đó/Cũng như đời đường hai nẻo xuống lên/Người con gái hôm nay mặc quần trắng/Vì hôm qua đã mặc chiếc quần hồng/Hồng và trắng là hai màu bẽn lẽn/Như núi rừng đều rất mực chênh vênh/Người con gái hôm nay mặc quần tím/Vì hôm qua đã mặc chiếc quần vàng/Vàng và tím là hai màu mím miệng/Mím môi cười và chúm chím nhe răng/Người con gái hôm nay mặc quần rách/Vì hôm qua đã mặc chiếc quần lành/Lành và rách đều vô cùng trong sạch/Bởi vì là lành rách cũng long lanh”.
Bốn câu thơ Bùi Giáng “tiên tri” về cái chết của mình lần đầu tiên được giới thiệu tại tọa đàm - Ảnh: G.H Nay ở hành lang của tọa đàm, Đắc Phúc và Thanh Hoài cho biết về đoạn cuối của bài thơ trên: “Người con gái hôm nay xé toạc cái mảnh quần/Thành ra một nữ nhi không quần áo/Tất nhiên là tuyệt đối gái ở truồng/Truồng như nhộng và truồng như gái gái/Khắp năm châu bốn biển ngọn nguồn/Trần trụi khắp tân châu và cổ tái/Và bỗng nhiên - thập thành thành thục nữ thiên đường”. Và Đắc Phúc đã phổ nhạc với tựa Thục nữ thiên đường. Có điều đáng nói, bài thơ không chấm dứt ở đó mà trong di cảo Bùi Giáng còn có thêm một bài ngắn dường như để nối theo ý thơ của bài trên với tựa Gái không mặc quần (chưa phổ biến), được Đắc Phúc và Thanh Hoài đưa ra: “Người con gái hôm nay không mặc quần nữa/Vì có lẽ hôm qua đã mặc quần rồi/Chẳng lẽ suốt đời mặc quần mãi/Nên bây giờ là chấm dứt chia phôi/Thế nào cũng thế mà thôi”. Đó là chuyện người con gái “không mặc quần” chúng tôi nghe kể chiều hôm qua 13.9. Đáng nói là, cũng chiều qua, chúng tôi thấy bên ngoài phòng tọa đàm của Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM có một khuôn hình phóng to 4 câu thơ của Bùi Giáng trước khi mất với tựa Ông chào các con, nguyên văn: “Ông từ viễn mộng tương lai/Về trong hiện tại ngàn mai giậy giàng/Mậu Dần mật thể thênh thang/Ông về chín suối đá vàng chào con”. Dưới bài thơ có chữ ký của Bùi Giáng kèm theo mấy chữ “trước khi lìa đời” do ông viết. Đây là lần đầu tiên 4 câu thơ ấy được phóng to để trưng bày (tại tọa đàm), cho thấy Bùi Giáng đã “tiên tri” về cái chết của mình vào năm Mậu Dần 1998. Đã 15 năm qua, người yêu thơ Bùi Giáng vẫn nhớ nhiều câu mượt mà lai láng và vui vẻ của ông như hai câu: “Sài Gòn Chợ Lớn rong chơi/Đi lên đi xuống đã đời du côn”. Nay “cuộc đi” ấy đã dừng lại từ lâu, nhưng tiếng thơ của ông vẫn tiếp tục cuộc hành trình vào lòng người. Vì thế, đã có thêm những phân tích khoa học về ngôn ngữ thi ca của Bùi Giáng, như Bùi Thanh Tường với tham luận Nghệ thuật sử dụng từ ngữ Hán Việt của Bùi Giáng trong tọa đàm này. Cũng tại tọa đàm, ông Bùi Dương Thạch, đại diện Bùi tộc Vĩnh Trinh (Quảng Nam), cùng nghệ sĩ Kim Cương trao tặng quà cho các tác giả có công trình nghiên cứu về Bùi Giáng gần đây, chuẩn bị tư liệu và thư pháp về Bùi Giáng để trưng bày, trong đó có
một số bài viết trước đây của các nhà nghiên cứu phê bình uy tín trong và ngoài nước như Đặng Tiến với nhận xét: “Tác phẩm và cuộc đời Bùi Giáng là niềm thủy chung trước sau như một với một Màu Hoa Trên Ngàn: ông khởi đi từ đây và trở về lại đấy”. Hoặc như Huỳnh Hữu Ủy đánh giá: “Bùi Giáng có một sức đọc và viết vô cùng kinh khủng. Viết liên tu bất tận, ngưng viết thì đọc, ngưng đọc thì viết. Dịch sách Tây, sách Tàu, Đức ngữ, Pháp ngữ. Cái lạ lùng vô cùng quý báu mà Bùi Giáng mang lại cho chúng ta chính là sự uyên bác, tài hoa, thâm trầm, bí ẩn của ông, tất cả đều nhờ nhào biến một cách vô cùng tự nhiên rồi hiện ra trong một vẻ giản dị tài tình của một tâm hồn và ngôn ngữ Việt”. Hoặc Bùi Vĩnh Phúc: “Nét tài hoa ẩn mật mở phơi hào hứng của ông còn được thể hiện rất rõ trong dịch phẩm mà ông đã để lại cho đời”, Đỗ Lai Thúy thì: “Bùi Giáng, tôi nghĩ là một thi sĩ triết gia, một nhà thơ đồng thời là một nhà triết học. Thi sĩ - triết gia, khác với triết gia - thi sĩ, vì tồn tại trước hết với tư cách nhà thơ, sau đó mới đến nhà triết học”. Và Bùi Giáng luôn luôn nhắc nhở “nơi ông là những bóng vang ai khác” nghĩa là ông đã rời khỏi cái “ngã” chật hẹp (Thanh Tâm Tuyền) để trở thành một “nhà thơ của ngày tháng ngao du” (Cung Tích Biền) và để “rong chơi một đời” (Mai Thảo), lên đường với “đôi mắt lạc thần” (Thanh Thảo) phóng những tia nhìn yêu thương và từ bi vào tháng ngày hữu hạn trong “cõi người ta” (Ý Nhi)… Giao Hưởng
Giỗ lần thứ 8 thi sĩ Bùi Giáng05/10/2006 22:47
Nhà thư pháp Bùi Hiến bên cạnh bức chân dung Bùi Giáng do ông chụp lần đầu công bố - Ảnh: Đông Dương
Gia đình thi sĩ Bùi Giáng kết hợp NXB Văn Nghệ (TP.HCM) vừa in xong và phát hành tập di cảo thứ tư của ông gồm trên 120 bài thơ sáng tác mùa thu 1997, tức khoảng một năm trước ngày ông qua đời. Nhan đề tập thơ này do chính ông đặt: Mùa màng tháng tư, dày 142 trang. Cùng lúc, một số tác phẩm khác trong đó có cuốn Ngộ nhận (Malentendu) của nhà văn Albert Camus do Bùi Giáng dịch cũng được tái bản. Đợt sách trên ấn hành nhằm kỷ niệm ngày giỗ lần thứ 8 của "thi sĩ vĩnh viễn trung niên" này ngày 16.8 Bính Tuất, nhằm ngày thứ bảy 7.10.2006. Lễ giỗ sẽ được tổ chức ngay tại ngôi mộ của ông tại nghĩa trang Gò Dưa, Thủ Đức, TP.HCM bắt đầu từ 9 giờ sáng ngày nói trên. Cũng trong thời gian này, cuộc triển lãm thư pháp - thơ Bùi Giáng với chủ đề Mưa nguồn hòa âm của Bùi Hiến và Triều Nguyên đã khai mạc tại Trung tâm văn hóa Phú Nhuận (70 Nguyễn Văn Trỗi, Q.3, TP.HCM) đến 10.10.2006. Triển lãm giới thiệu 30 tác phẩm ảnh, thư pháp lần đầu tiên công bố. Đặc biệt trong sáng thứ bảy 7.10 sẽ có chương trình nhạc thơ tưởng niệm Bùi Giáng với nhiều văn nghệ sĩ từ miền Trung vào như nhà thơ Phạm Thư Cưu, Quốc Phong, nghệ sĩ Thúy Vinh, Bích Quý... Giao Hưởng - Đông Dương