VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC DỰ ÁN
vectorstock.com/28062412
Ths Nguyễn Thanh Tú eBook Collection
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHUẨN BỊ BÀI CHO GIỜ HỌC NGỮ VĂN THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ CHỦ VÀ TỰ HỌC CỦA HỌC SINH WORD VERSION | 2022 EDITION ORDER NOW / CHUYỂN GIAO QUA EMAIL TAILIEUCHUANTHAMKHAO@GMAIL.COM
Tài liệu chuẩn tham khảo Phát triển kênh bởi Ths Nguyễn Thanh Tú Đơn vị tài trợ / phát hành / chia sẻ học thuật : Nguyen Thanh Tu Group Hỗ trợ trực tuyến Fb www.facebook.com/DayKemQuyNhon Mobi/Zalo 0905779594
MỤC LỤC Trang Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ…………………………………………………………. . .1 1.1. Lý do chọn đề tài ………………………………………................................. .1 1.2. Mục tiêu, ý nghĩa, tính mới của đề tài ………………………….......................2 1.3. Phương pháp nghiên cứu ……………………………………………...............3 1.4. Phạm vi nghiên cứu ……………………………………………………….......3 Phần II. NỘI DUNG ………………………………………………………….......4 2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn ………………………………………………..........4 2.1.1. Cơ sở lý luận …………………………………………………………….......4 2.1.1.1. Năng lực tự chủ, tự học là gì?………………………………………….. .. ..4 2.1.1.2. Tại sao nên quan tâm đến dạy học phát triển năng lực tự học cho học sinh trong bối cảnh hiện nay? .......................................................................................... 5 2.1.1.3. Đặc điểm và vai trò của phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ Văn theo định hướng phát triển năng lực tự chủ và tự học của học sinh………………………………………………………….......................6 2.1.1.3.1. Đặc điểm phương pháp dạy học dự án......................................................6 2.1.1.3.2. Cách tiến hành phương pháp dạy học dự án..............................................7 2.1.1.3.3. Vai trò của phương pháp dạy học dự án....................................................8 2.1.2. Cơ sở thực tiễn ………………………………………………………….... . 10 2.1.2.1. Thực tiễn tình hình triển khai phương pháp dạy học dự án..................... .. 10 2.1.2.2. Thực trạng hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ Văn ở trường THPT.......................................................................................................................11 2.2. Vận dụng “Dạy học dự án” trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ Văn theo định hướng phát triển năng lực tự chủ và tự học của học sinh.............. . 13 2.2.1. Điều kiện để áp dụng phương pháp “Dạy học dự án”................................. . 13 2.2.1.1. Nội dung học tập................................................................................ ........ 13 2.2.1.2. Đối tượng người học và người dạy................................................. ........... 14 2.2.1.3. Phương tiện dạy học......................................................................... ......... 14 2.2.1.4. Các điều kiện khác........................................................................... .......... 14 2.2.2. Khả năng vận dụng phương pháp “Dạy học dự án” trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ Văn ở trường THPT...............................................................14 2.2.2.1. Đối với các giờ đọc văn..............................................................................14 2.2.2.2. Đối với các bài học tiếng Việt....................................................................18
2.2.2.3. Đối với các bài học làm văn.......................................................................19 2.2.3. Quy trình áp dụng phương pháp “Dạy học dự án” trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn THPT................................................................... ....... 23 2.2.3.1. Quy trình chung........................................................................................ . 23 2.2.3.2. Vận dụng phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài “Hạnh phúc của một tang gia”, “Chí Phèo” của Nam Cao thuộc chuyên đề “ Văn xuôi hiện thực Việt Nam 1930-1945”......................................................... . 25 Giai đoạn 1: Xây dựng dự án........................................................................... ....... 26 Giai đoạn 1: Thực hiện dự án.......................................................................... ....... 26 Giai đoạn 3: Hoàn thành sản phẩm và tổng kết dự án..................................... ....... 26 2.3. Thực nghiệm sư phạm.................................................................................... . 27 2.3.1. Mục đích thực nghiệm................................................................................. . 27 2.3.2. Địa điểm, đối tượng và thời gian thực nghiệm............................................ . 28 2.3.3. Tiến trình thực nghiệm................................................................................ . 28 2.3.3.1. Chuẩn bị cho quá trình thực nghiệm............................................ .............. 28 2.3.3.2. Tiến trình thực nghiệm...................................................................... ........ 29 2.4. Kết quả thực hiện đề tài…………………………………………………..... .. 33 2.4.1. Hiệu quả kinh tế................................................................................ ............ 33 2.4.2. Hiệu quả về chất lượng giáo dục.......................................................... ........ 33 Phần III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ …………………………………………. . 40 3.1. Kết luận …………………………….…………………………………….... .. 40 3.1.1. Quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài.......................................................... 40 3.1.2. Ý nghĩa của đề tài............................................................................ ............. 40 3.2. Kiến nghị ………………………….……………………………………….. . 41
Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. Lý do chọn đề tài Năng lực tự chủ và tự học là một trong những năng lực chung trong yêu cầu cần đạt của chương trình giáo dục nói chung và môn Ngữ văn nói riêng. Năng lực này được hình thành và phát triển không chỉ thông qua nội dung dạy học mà còn thông qua phương pháp và hình thức tổ chức dạy học mới với việc chú trọng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Học sinh có những trải nghiệm phong phú, phát triển được vốn sống, có khả năng nhận biết cảm xúc, tình cảm, sở thích, cá tính và khả năng của bản thân; từ đó có khả năng suy ngẫm về bản thân, tự nhận thức và điều chỉnh được những hạn chế của mình trong quá trình học tập, không ngừng học hỏi để tự hoàn thiện. Năng lực tự chủ và tự học là một trong 10 năng lực cốt lõi trong yêu cầu cần đạt của chương trình giáo dục phổ thông mới, bao gồm: Tự chủ và tự học, giao tiếp và hợp tác, giải quyết vấn đề và sáng tạo, tìm hiểu tự nhiên và xã hội, công nghệ, thể chất, tin học, tính toán, ngôn ngữ và thẩm mĩ. Đối với môn Ngữ văn, để có một giờ học hiệu quả thì khâu chuẩn bị bài rất quan trọng. Ngày nay, việc tìm tài liệu cũng không khó khăn với học sinh. Yêu cầu học sinh tự khai thác thông tin liên quan đến mở rộng tri thức đọc hiểu về văn bản là một hoạt động rất cần thiết giúp học sinh hình thành và rèn luyện một số kĩ năng như: Tự học, tự nghiên cứu, tìm và chọn lọc thông tin…Vì vậy trong hoạt động chuẩn bị bài, ngoài thực hiện việc soạn bài theo câu hỏi “Hướng dẫn học bài” trong sách giáo khoa Ngữ văn, để có thể đạt hiệu quả học tập tốt hơn, học sinh nên thực hiện một số hoạt động chuẩn bị bài một cách chủ động. Những năm gần đây, dạy học Ngữ văn đã có nhiều đổi mới về phương pháp, kiểm tra đánh giá, hướng đến phát triển năng lực cho học sinh, đặc biệt là năng lực tự chủ và tự học. Tuy nhiên, trong thực tế dạy học, phát triển năng lực tự chủ và tự học của học sinh trung học phổ thông vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Thói quen học thụ động vẫn còn khá phổ biến. Đa số các em không quan tâm đến hoạt động tự tìm đến tri thức mà quen nghe, chép và ghi nhớ, tái hiện một cách máy móc, rập khuôn những gì mà giáo viên đã giảng. Điều này làm triệt tiêu óc sáng tạo, suy nghĩ của người học, biến người học thành nô lệ của sách vở. Vì chưa có hào hứng, chưa quen bộc lộ suy nghĩ tình cảm của cá nhân trước tập thể nên khi phải nói và viết, học sinh cảm thấy rất khó khăn. Bởi vậy, theo tôi phát triển năng lực tự chủ và tự học cho học sinh là vấn đề cấp thiết của ngành giáo dục nói chung và dạy học môn Ngữ văn nói riêng. Trước thực trạng còn nhiều tồn tại trên, vấn đề đặt ra cấp thiết là phải đổi mới phương pháp dạy học. Và cốt lõi của việc đổi mới này là chú trọng hơn nữa phương pháp tự học cho học sinh, khả năng hợp tác, khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; đa dạng hóa các hình thức hoạt động học tập, xây dựng môi trường học tập tích cực, tương tác, thể hiện rõ đặc trưng bộ môn; tạo động lực học tập Ngữ 1
văn cho học sinh, giúp học sinh thực sự hứng thú, say mê với môn học; sử dụng phương pháp để giúp học sinh rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, hình thành năng lực giao tiếp; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học Ngữ văn. Qua thực tế giảng dạy, tôi đã tìm ra cách dạy mà tôi cho là hiệu quả nhất: Áp dụng phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn. Đó một phương pháp hay một hình thức dạy học, trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, có tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch, đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện. Điểm cốt lõi của học tập dựa trên dự án là: Học qua làm (Learning by doing) tức là thông qua làm việc (Hành động có chủ định) mà hiểu biết và lĩnh hội giá trị. Từ đó, kích thích được sự chủ động và sáng tạo của học sinh phát triển được năng lực tự chủ và tự học cho học sinh, phù hợp với đặc trưng riêng của môn Ngữ văn và yêu cầu đổi mới của dạy học văn trong bối cảnh hiện nay. Từ những vấn đề được trình bày ở trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Vận dụng phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực tự chủ và tự học của học sinh”. 1.2. Mục tiêu, đóng góp, tính mới của đề tài - Mục tiêu của đề tài là vận dụng phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn để phát triển năng lực tự chủ và tự học cho học sinh. Để từ đó học sinh có khả năng tự học, tự chiếm lĩnh giá trị nghệ thuật của tác phẩm văn học. Từ đó bồi dưỡng kĩ năng và tâm hồn, tư tưởng cho học sinh; hướng học sinh đến những cách cảm, cách suy nghĩ, hành động đẹp trong đời sống, không ngừng hoàn thiện bản thân mình. - Đóng góp mới của đề tài: Giúp cho người dạy và người học văn thay đổi cách dạy, cách học của mình; đối với người học, biết đặt ra mục tiêu học tập chi tiết, tìm kiếm, đánh giá và lựa chọn được nguồn tài liệu phù hợp với mục đích và nhiệm vụ học tâp khác nhau, nâng cao hứng thú học tập, phát huy sở trường của mình; làm cho giờ dạy học văn trở nên hứng thú, sinh động, giáo viên có thể phát huy được các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực. - Tính mới của đề tài: Theo quan điểm đổi mới dạy học Ngữ văn hiện nay, việc chủ động tham gia hoạt động học, phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu thì việc chuẩn bị bài kĩ trước giờ học là hoạt động rất quan trọng, cần thực hiện nghiêm túc. Thực hiện tốt hoạt động này không chỉ giúp học sinh chủ động tham gia giờ học mà còn tạo hứng thú học tập, có tâm thế tiếp nhận và có đủ tri thức nền để tham gia hoạt động đọc hiểu một cách tự tin sáng tạo và hiệu quả. Đây là một đề tài mới, đề xuất những hướng đi mới phù hợp với bộ môn và bắt kịp xu hướng phát triển giáo dục hiện nay. 2
1.3. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích. - Phương pháp so sánh. - Phương pháp thống kê. - Phương pháp thực nghiệm khoa học. 1.4. Phạm vi nghiên cứu đề tài: Chương trình Ngữ văn Trung học phổ thông
3
Phần II. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn 2.1.1. Cơ sở lý luận 2.1.1.1. Năng lực tự chủ, tự học là gì? Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 đã xác định mục tiêu hình thành và phát triển cho học sinh các năng lực cốt lõi gồm các năng lực chung và các năng lực đặc thù. Năng lực tự chủ và tự học là một trong các năng lực chung, năng lực cơ bản làm nền tảng cho mọi hoạt động của con người trong cuộc sống và trong lao động nghề nghiệp. Ở cấp Trung học phổ thông, năng lực tự chủ và tự học có các biểu hiện như sau: - Tự lực: Luôn chủ động, tích cực thực hiện những công việc của bản thân trong học tập và trong cuộc sống; biết giúp đỡ người khác vươn lên để có lối sống tự lực. - Tự khẳng định và bảo vệ quyền, nhu cầu chính đáng: Biết khẳng định và bảo vệ quyền, nhu cầu cá nhân phù hợp với đạo đức và pháp luật. - Tự điều chỉnh tình cảm, thái độ, hành vi của mình: Đánh giá được những ưu điểm và hạn chế về tình cảm, cảm xúc của bản thân tự tin, lạc quan; biết tự điều chỉnh tình cảm, thái độ, hành vi của bản thân, luôn bình tĩnh và có cách cư xử đúng; sẵn sàng đón nhận và quyết tâm vượt qua thử thách trong học tập và đời sống; biết tránh các tệ nạn xã hội. - Thích ứng với cuộc sống: Điều chỉnh được hiểu biết, kĩ năng, kinh nghiệm của cá nhân cần cho hoạt động mới, môi trường sống mới; thay đổi cách tư duy, cách biểu hiện thái độ, cảm xúc của bản thân để đáp ứng với yêu cầu mới, hoàn cảnh mới. - Định hướng nghề nghiệp: Nhận thức được cá tính và giá trị sống của bản thân; nắm được những thông tin chính về thị trường lao động, về yêu cầu và triển vọng của các ngành nghề; xác định được hướng phát triển phù hợp sau khi học phổ thông, lập được kế hoạch, lựa chọn các môn học phù hợp với định hướng nghề nghiệp bản thân. - Tự học, tự hoàn thiện: Xác định được nhiệm vụ học tập dựa trên kết quả đã đạt được, biết đặt mục tiêu học tập chi tiết, cụ thể, khắc phục những hạn chế. Đánh giá và điều chỉnh được kế hoạch học tập, hình thành cách học riêng của bản thân, tìm kiếm, đánh giá và lựa chọn được nguồn tài liệu phù hợp với mục đích, nhiệm vụ học tập khác nhau. Ghi chép thông tin bằng các hình thức phù hợp, thuận lợi cho việc ghi nhớ, sử dụng, bổ sung khi cần thiết. Tự nhận ra và điều chỉnh được những sai sót, hạn chế của bản thân trong quá trình học tập, suy ngẫm cách học của mình, rút kinh nghiệm để có thể vận dụng vào tình huống khác, biết tự điều chỉnh 4
cách học. Biết thường xuyên tu dưỡng theo mục tiêu phấn đấu cá nhân và các giá trị công dân. Môn Ngữ văn có nhiều ưu thế trong việc góp phần hình thành và phát triển toàn diện các năng lực chung đã được nêu trong chương trình giáo dục phổ thông tổng thể. Những năng lực chung này được hình thành và phát triển không chỉ thông qua nội dung dạy học mà còn thông qua phương pháp và hình thức tổ chức dạy học mới với việc chú trọng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học trong hoạt động tiếp nhận và tạo lập văn bản. Năng lực tự chủ và tự học thể hiện qua kĩ năng đọc, viết, nói và nghe được hình thành và phát triển từ môn Ngữ văn là công cụ tốt để học sinh học các môn học khác và tự học. Học sinh biết tự tìm kiếm, đánh giá và lựa chọn nguồn tài liệu phù hợp với các mục đích, nhiệm vụ học tập khác nhau, biết lưu trữ và xử li thông tin bằng các hình thức phù hợp. Thông qua đọc, viết, nói và nghe các loại văn bản đa dạng, môn Ngữ văn mang lại cho học sinh những trải nghiệm phong phú; nhờ đó, học sinh phát triển được vốn sống, có khả năng nhận biết cảm xúc, tình cảm, sở thích, cá tính, và khả năng của bản thân, biết tự làm chủ để có hành vi phù hợp, sự tự tin, tinh thần lạc quan trong học tập và đời sống. Môn Ngữ văn cũng giúp người đọc có khả năng suy ngẫm về bản thân, tự nhận thức và điều chỉnh được những hạn chế của mình trong quá trình học tập và không ngừng học hỏi để tự hoàn thiện. 2.1.1.2. Tại sao nên quan tâm đến dạy học phát triển năng lực tự học cho học sinh trong bối cảnh hiện nay? Ngày nay, sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kĩ thuật, số liệu các tri thức cần lĩnh hội tăng lên, đòi hỏi chúng ta phải thay đổi căn bản cả nội dung giáo dục lẫn phương pháp dạy học. Dạy học phát triển phẩm chất năng lực đang trở nên phổ biến trên thế giới. Dạy học phát triển phẩm chất năng lực quan tâm tới việc người học làm được gì sau khi đào tạo chứ không thuần túy là chỉ biết được gì; quan tâm tới người dạy sẽ dạy như thế nào để hình thành phẩm chất, năng lực của người học chứ không phải chỉ là dạy nội dung gì cho người học với mong muốn người học biết càng nhiều, càng sâu. Dạy học hiện đại đặt ra hàng loạt các yêu cầu đối với các thành tố của hoạt động dạy học, trong đó đặc biệt lưu tâm đến các phương pháp dạy học và kĩ thuật dạy học phát triển năng lực, phẩm chất cho người học. Xu hướng hiện đại về phương pháp, kĩ thuật dạy học phát triển năng lực được xem là chiều hướng mang tính mới, tiên tiến. Phương pháp dạy học và kĩ thuật dạy học chú ý rèn luyện phương pháp học, hình thành kĩ năng tự học, bồi dưỡng hứng thú và lòng say mê học tập cho học sinh như dạy học dựa trên dự án, công não… Dạy học phát huy tính tích cực độc lập nhận thức sáng tạo ở học sinh. Mặt khác, Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo của Đảng (tháng 9 - 2013) đã mở ra một thời kì mới cho việc dạy - học trong trường phổ thông ở nước ta: Nhấn mạnh đến việc phát triển năng lực của người học hơn là cung cấp tri thức cho họ. Ngữ văn là môn học được tích hợp từ ba phân môn là Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn (trước đó ba phân môn này là ba môn độc lập, có 5
sách giáo khoa riêng). Mục tiêu của môn Ngữ văn ở trường phổ thông là hình thành và phát triển ở học sinh năng lực chung (năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực tự quản lí, năng lực giao tiếp,năng lực hợp tác, năng lực sử dụng thông tin và truyền thông, năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực tính toán) và các năng lực đặc thù (năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực tự quản bản thân, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực sử dụng ngôn ngữ). Giáo dục nói chung và giáo dục nhà trường nói riêng có vai trò chủ đạo với sự hình thành và phát triển phẩm chất và năng lực. Cần quan tâm đến mỗi học sinh, gồm năng khiểu, phong cách học tập, các loại hình trí thông minh, tiềm lực nhất là khả năng hiện có, triển vọng phát triển của mỗi học sinh để thiết kế các hoạt động học hiệu quả. Đồng thời, cần chú trọng phát triển năng lực tự chủ, tự học vì yếu tố “ Cá nhân tự học tập và rèn luyện” đóng vai trò quyết định đến sự hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực của mỗi học sinh. Tích cực của người học được biểu hiện qua hứng thú, sự tự giác học tập, khát vọng thông hiểu, sự nỗ lực chiếm lĩnh nội dung học tập. Từ đó, học sinh sẽ tiếp cận kiến thức thiết thực, hiện đại để từng bước hình thành năng lực giải quyết các vấn đề thực tiễn, chủ động, tích cực, có cơ hội hòa nhập, hội nhập quốc tế để cùng tồn tại và phát triển trong bối cảnh hiện đại và không ngừng đổi mới. 2.1.1.3. Đặc điểm và vai trò của phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực tự chủ và tự học của học sinh.
2.1.1.3.1. Đặc điểm phương pháp dạy học dự án. Dạy học dự án là cách thức dạy học, trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, có tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế họach, đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện. Điểm cốt lõi của học tập dựa trên dự án là: Học qua làm (Learning by doing) tức là thông qua làm việc (hành động có chủ định) mà hiểu biết và lĩnh hội giá trị. Đặc điểm của dạy học dự án: Là định hướng học sinh, định hướng thực tiễn và định hướng sản phẩm và được sơ đồ hóa như sau: Mang tính phức hợp
Tính tự lực cao
Hợp tác làm việc
Dạy học dự án
Định hướng thực tiễn
Định hướng sản phẩm
6
- Định hướng thực tiễn: Chủ đề của dự án xuất phát từ những tình huống của thực tiễn xã hội, thực tiễn nghề nghiệp cũng như thực tiễn đời sống. Nhiệm vụ của dự án cần chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả năng nhận thức của người học. Các dự án học tập có ý nghĩa thực tiễn xã hội, góp phần gắn việc học tập trong nhà trường với thực tiễn đời sống xã hội.
- Mang tính phức hợp, liên môn: Nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực hoặc nhiều môn học khác nhau nhằm giải quyết một nhiệm vụ, vấn đề mang tính phức hợp. - Định hướng hứng thú người học: Người học được tham gia lựa chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân. Ngoài ra, hứng thú của người học cần được tiếp tục phát triển trong quá trình thực hiện dự án. - Định hướng hành động: Trong quá trình thực hiện dự án có sự kết hợp giữa nghiên cứu lí thuyết và vận dụng lí thuyết vào trong hoạt động thực hành. Thông qua đó, kiểm tra, củng cố, mở rộng hiểu biết lí thuyết, rèn luyện kĩ năng hành động. - Tính tự lực của người học: Người học cần tham gia tích cực, tự lực vào các giai đoạn của quá trình dạy học. Đòi hỏi tính trách nhiệm, sự sáng tạo của người học. Giáo viên đóng vai trò tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ. - Cộng tác làm việc: Các dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm, trong đó có sự cộng tác làm việc và phân công công việc giữa các thành viên trong nhóm. Dạy học dự án đòi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kĩ năng cộng tác làm việc giữa các thành viên tham gia, giữa học sinh và giáo viên cũng như các lực lưỡng khác tham gia trong dự án. - Định hướng sản phẩm: Trong quá trình thực hiện dự án, các sản phẩm được tạo ra không chỉ giới hạn trong những thu hoạch lí thuyết mà còn có thể tạo ra những sản phẩm vật chất của hoạt động thực tiễn, thực hành. Những sản phẩm này có thể sử dụng, công bố, giới thiệu bằng nhiều hình thức khác nhau với các quy mô khác nhau. 2.1.1.3.2. Cách tiến hành phương pháp dạy học dự án Dạy học dựa trên dự án cần được tiến hành theo ba giai đoạn: Giai đoạn 1: Chuẩn bị dự án - Đề xuất ý tưởng và chọn đề tài dự án: Đề tài dự án có thể nảy sinh từ sáng kiến của giáo viên, học sinh. Học sinh là người quyết định lựa chọn đề tài, nhưng phải đảm bảo nội dung phù hợp với mục đích học tập, phù hợp chương trình và điều kiện thực tế. Để thực hiện dự án, học sinh phải đóng những vai có thực trong xã hội để tự mình tìm kiếm thông tin và giải quyết công việc. - Chia nhóm và nhận nhiệm vụ dự án: Giáo viên chia nhóm và giao nhiệm vụ cho các nhóm học sinh và những yếu tố khác liên quan đến dự án. Trong công
7
việc này, giáo viên là người đề xướng nhưng cũng cần tạo điều kiện cho học sinh tự chọn nhóm làm việc. - Lập kế hoạch thực hiện dự án: giáo viên hướng dẫn các nhóm học sinh lập kế hoạch thực hiện dự án, trong đó học sinh cần xác định chính xác chủ đề, mục tiêu, những công việc cần làm, kinh phí, thời gian và phương pháp thực hiện. Ở giai đoạn này, đòi hỏi học sinh tính tự lực và tính cộng tác để xây dựng kế hoạch của nhóm. Sản phẩm tạo ra ở giai đoạn này là bản kế hoạch dự án. Giai đoạn 2: Thực hiện dự án Ở giai đoạn này, với sự giúp đỡ của giáo viên, học sinh tập trung vào việc thực hiện nhiệm vụ được giao với các hoạt động như: đề xuất các phương án giải quyết và kiểm tra, nghiên cứu tài liệu, tiến hành các thí nghiệm, trao đổi và hợp tác với các thành viên trong nhóm. Giáo viên tạo điều kiện cho việc làm chủ hoạt động học tập của học sinh và nhóm học sinh, khuyến khích học sinh tạo ra một sản phẩm cụ thể có chất lượng. Giai đoạn 3: Báo cáo và đánh giá dự án Học sinh thu thập kết quả và công bố sản phẩm trước lớp. Sau đó, giáo viên và học sinh tiến hành đánh giá. Học sinh có thẻ tự nhận xét quá trình thực hiện dự án và tự đánh giá sản phẩm nhóm mình và đánh giá nhóm khác. Giáo viên đánh giá toàn bộ quá trình thực hiện dự án của học sinh, đánh giá sản phẩm và rút kinh nghiệm để thực hiện những dự án tiếp theo. 2.1.1.3.3. Vai trò phương pháp dạy học dự án - Về nội dung kiến thức: kiến thức được mở rộng, phong phú hơn; gắn với thực tế và có tính liên môn. Có thể lí giải điều này qua sơ đồ về tỉ lệ tiếp thu trung bình Sơ đồ về tỉ lệ tiếp thu trung bình Thuyết giảng
1
Đọc
5% 10%
Nghe nhìn Mô tả, trình bày Thảo luận nhóm Thực hành Ứng dụng ngay việc học/ Dạy cho người khác
20% 30% 50% 50% 75% 90%
Nguồn: http://www.lorober.com/Resources/Images/RetentionRate
8
- Dạy học dựa theo dự án có ưu thế hình thành các phẩm chất và năng lực chủ yếu và các năng lực chung như sau: Chăm chỉ Phẩm Trung thực chất Trách nhiệm
Thường xuyên thực hiện và theo dõi việc thực hiện các nhiệm vụ được phân công trong dự án Có ý thức báo cáo chính xác, khách quan kết quả thực hiện dự án đã thực hiện được. Có ý thức hoàn thành công việc mà bản thân được phân công, phối hợp với các thành viên trong nhóm để hoàn thành dự án.
Tự lựa chọn đề tài dự án, tự phân công nhiệm vụ cho Tự chủ và tự các thành viên trong nhóm, tự quyết định cách thức học thực hiện dự án, tự đánh giá về quá trình và kết quả thực hiện dự án.
Năng lực Chủ động đề ra kế hoạch, cách thức thực hiện dự án, Giải quyết vấn cách thức xử lí các vấn đề phát sinh một cách sáng tạo Chung đề và sáng tạo nhằm đạt được kết quả tốt nhất. Giao tiếp và Tăng cường sự tương tác tích cực giữa các thành viên hợp tác trong nhóm khi thực hiện dự án.
Dạy học dựa trên dự án có thể được sử dụng cùng với những phương pháp khác để đạt được một số yêu cầu cần đạt trong kế hoạch dạy học; hoặc được sử dụng chủ đạo để dạy một chủ điểm hay một loạt bài ôn tập/ hoạt động ngoại khóa/ chuyên đề học tập. - Dự án phải gắn với thực tiễn đời sống. + Trong môn Ngữ văn, nhiều nội dung dạy học có thể gắn với thực tiễn cuộc sống nên phù hợp để sử dụng dạy học dựa trên dự án. Chẳng hạn những nội dung dạy học liên quan đến các kĩ năng như viết, nói và nghe, đọc hiểu văn bản thông tin và văn bản nghị luận thường tạo nhiều cơ hội để giáo viên tìm ra được mối liên hệ giữa những vấn đề thực tiễn đang diễn ra trong cuộc sống với nội dung bài học; từ đó xây dựng nên những chủ đề học tập theo hình thức dự án. Tuy nhiên, không phải mọi nội dung dạy học, mọi yêu cầu cần đạt của môn Ngữ văn đều phù hợp để triển khai bằng dạy học dựa trên dự án nên giáo viên cần cân nhắc kĩ. + Hoặc môn Ngữ văn có thể tích hợp với những môn học khác tạo thành những dự án học tập mà ở đó, những nội dung dạy học của môn Ngữ văn cũng chủ yếu được thiết kế theo định hướng hình thành, phát triển cho học sinh năng lực giao tiếp với những biểu hiện cụ thể liên quan đến đọc, viết, nói và nghe. Giáo viên phải xác định rõ mục tiêu, yêu cầu cần đạt nào về phẩm chất, năng lực mà học sinh cần đáp ứng khi hoàn thành dự án. Những mục tiêu, yêu cầu cần 9
đạt khác của bài dạy chưa thể hình thành và phát triển qua việc học sinh tham gia thực hiện dự án thì giáo viên cần sắp xếp để phát triển bằng việc phối hợp sử dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học khác. - Dạy học dựa trên dự án sẽ tốn nhiều thời gian. Vì thế, giáo viên cũng cần cân nhắc để chọn lựa sử dụng phối hợp với các phương pháp và kĩ thuật dạy học khác sao cho phù hợp với quỹ thời gian cho phép. Đồng thời khi lựa chọn nội dung dạy học dựa trên dự án, giáo viên cũng nên ưu tiên những nội dung học tập có tính chất trọng tâm của học kì/ năm học để phát huy được hiệu quả của phương pháp này, tương ứng với thời gian thực hiện. - Trong suốt quá trình thực hiện dự án cũng như bước trình bày, đánh giá sản phẩm dự án, giáo viên cần chú ý đến tính hiệu quả của dự án về mặt hình thành và phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh; tránh việc đi vào hình thức, mang tính trình diễn, gây tốn kém thời gian và tiền bạc. - Với đặc trưng dạy học thông qua hoạt động chuẩn bị bài của chính người học nhằm hình thành và phát triển các kĩ năng tự học, tự nghiên cứu và dạy học dựa trên việc đánh giá, tự đánh giá và cùng đánh giá, phương pháp dạy học dự án ̣̣ đã thể hiện được ưu điểm nổi bật của mình trong việc hướng tới các mục tiêu của giáo dục hiện đại mà UNESCO đề xướng: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”. - Dạy học dự án được vận dụng vào hoạt động chuẩn bị bài cho giờ dạy học môn Ngữ văn ở trường Trung học phổ thông sẽ phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập; tạo được hứng thú cho học sinh và góp phần đa dạng hóa các phương pháp dạy học. Bởi lẽ học sinh sẽ hứng thú hơn với việc học khi có cơ hội thâm nhập vào những vấn đề phức tạp, mang tính thách thức cao và đôi khi đầy rẫy những vấn đề nhưng rất sát với thực tế đời sống. Vậy nên, dạy học dự án đã trở thành một trong những phương pháp dạy học “Làm cho giáo viên chỉ cần dạy ít mà học sinh học được nhiều và làm cho nhà trường bớt sự nhàm chán và bớt sự nhọc nhằn” (GI. Comenski) 2.1.2. Cơ sở thực tiễn 2.1.2.1. Thực tiễn tình hình triển khai phương pháp dạy học dự án
- Dạy học dự án là một chiến lược dạy học ở nhiều nước trên thế giới Mầm mống đầu tiên của dạy học dự án đã có trong quan niệm của các nhà giáo dục kinh điển như Rouseau (1712-1778), H.Pestalozzi (1746-1827), F.Frobel (1782-1852) và W. Humboldt ... Xuất hiện trước hết từ châu Âu rồi lan sang Bắc Mĩ. Ngày nay, dạy học dự án mang tính toàn cầu. Đã có nhiều công trình của các nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu về Dạy học dự án, đó là các công trình: J.Deway, W.Kilpatrich (Mĩ), Celestin Freinet (1896-1966) và Macarenko- nhà sư phạm tiên tiến Liên Xô cũ.
10
- Dạy học dự án đã được triển khai rộng rãi trong các trường Trung học phổ thông ở Việt Nam Ở Việt Nam, dạy học dự án chính thức du nhập vào năm 2003. Có rất nhiều bài viết tiếp cận dạy học dự án từ góc độ lý luận trên các tạp chí và website; tiêu biểu các tác giả như: PGS.TS Đỗ Hương Trà, PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Hoa và Võ Thị Bảo Ngọc, TS Nguyễn Văn Cường và Th.S Nguyễn Thị Diệu Thảo... Ngoài ra, dạy học dự án cũng được nghiên cứu trong các khóa luận và luận văn tốt nghiệp, các sáng kiến kinh nghiệm của các đồng nghiệp trên khắp cả nước. Và năm học 2020- 2021 Bộ Giáo dục và Đào tạo có chương trình tập huấn và bồi dưỡng giáo viên ( trong đó có dạy học dự án cho các giáo viên phổ thông toàn quốc). 2.1.2.2. Thực trạng hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn ở trường Trung học phổ thông
Đối với môn Ngữ văn, việc tổ chức hoạt động cho học sinh trước tiết học hết sức quan trọng. Để tiến hành một giờ học văn có hiệu quả thì đòi hỏi học sinh cần có sự chuẩn bị chu đáo trước khi đến lớp. Nhưng việc chuẩn bị bài của học sinh có đạt hiệu quả hay không lại phụ thuộc vào vai trò hướng dẫn của giáo viên. Hoạt động này được giáo viên thực hiện cuối mỗi tiết học chính. Thực chất đó là khâu dặn dò cuối mỗi bài học. Giáo viên tùy theo đơn vị bài học mà vạch ra kế hoạch hướng dẫn cụ thể những nhiệm vụ học sinh phải chuẩn bị bài trước ở nhà cho những tiết học sau. Thông thường, giáo viên yêu cầu học sinh soạn bài theo hệ thống câu hỏi ở sách giáo khoa. Tuy nhiên, hệ thống câu hỏi chuẩn bị bài trong sách giáo khoa còn mang tính định hướng chung chung, không có hướng dẫn chi tiết trong từng phần hoặc từng mục. Chẳng hạn, trong tác phẩm “Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân), câu hỏi hướng dẫn học bài như sau: 1. Tình huống truyện của tác phẩm Chữ người tử tù là gì? Tác dụng của tình huống này đối với việc thể hiện tính cách nhân vật và kịch tính của truyện? 2. Phân tích vẻ đẹp độc đáo của hình tượng Huấn Cao. Qua nhân vật Huấn Cao anh/ chị có nhận xét gì về quan niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp? 3. Nhân vật quản ngục có phẩm chất gì khiến Huấn Cao cảm kích coi là “Một tấm lòng trong thiên hạ” và tác giả coi đó là “Một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”? 4. Phân tích đoạn văn tả cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục trong nhà lao. Vì sao tác giả coi đây là “Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”? 5. Anh/ chị có nhận xét gì về bút pháp xây dựng nhân vật, bút pháp miêu tả cảnh vật và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân trong truyện “Chữ người tử tù”? 11
Những câu hỏi trong phần hướng dẫn học bài trên thực chất mang tính chất gợi mở tìm hiểu những vấn đề lớn của tác phẩm, bao gồm: 1. Tình huống truyện và tác dụng của tình huống. 2. Nhân vật Huấn Cao. 3. Nhân vật quản ngục. 4. Cảnh cho chữ. 5. Đặc sắc nghệ thuật. Hoặc hệ thống câu hỏi hướng dẫn đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” (Trích “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng): 1. “Hạnh phúc của một tang gia” là một phần của nhan đề chương XV tiểu thuyết “Số đỏ” do chính Vũ Trọng Phụng đặt. Anh/ chị có suy nghĩ gì về nhan đề này và tình huống trào phúng của đoạn trích? 2. Vì sao cái chết của cụ cố tổ lại là niềm “hạnh phúc” của mọi thành viên trong gia đình cụ? Phân tích những niềm “hạnh phúc” khác nhau của mỗi người trong đại gia đình cụ cố Hồng và những người đến đưa đám ma do cái chết của cụ cố tổ đem lại. 3. Anh/chị hãy phân tích cảnh đám ma gương mẫu. 4. Từ niềm “Hạnh phúc” của các nhân vật do cái chết của cụ cố tổ đem lại và cảnh tượng của cái “Đám ma gương mẫu”, anh/chị nhận xét như thế nào về xã hội thượng lưu thành thị đương thời? Thái độ của nhà văn với xã hội này ra sao? 5. Anh/chị nhận xét gì về nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng ở đoạn trích này? Rõ ràng hệ thống câu hỏi trên còn quá chung, chưa thể hiện được ý đồ tiếp cận tác phẩm theo hệ thống. Trong khi ở câu 1, câu 2 yêu cầu học sinh tiếp cận đoạn trích theo lối "Bổ dọc", từ nhan đề đến nhân vật thì câu 3 lại tiếp cận theo lối "Bổ ngang". Hơn thế nữa hệ thống câu hỏi chưa lôgic. Tiếp cận đoạn trích phải từ nghệ thuật trào phúng, được biểu hiện cụ thể qua nhan đề, tình huống, nhân vật, cách miêu tả. Từ đó, mới nhận xét khái quát ý nghĩa của việc sử dụng nghệ thuật trào phúng cũng như thái độ của nhà văn. Do đó, câu hỏi 4 và 5 sắp xếp chưa hợp lí. Ở một số bài các câu hỏi đưa ra có lúc yêu cầu quá cao hoặc chưa phù hợp với “tầm đón nhận” của học sinh. Ví dụ, trong phần hướng dẫn học bài tác phẩm “Tự tình” (II) của Hồ Xuân Hương, câu hỏi 4: “Bài thơ vừa nói lên bi kịch duyên phận, vừa cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương. Anh/chị hãy phân tích điều đó”, là một câu hỏi tương đối khó với học sinh khi mới bắt đầu tiếp cận văn bản để soạn bài. Chính vì thế, giáo viên cần phải chi tiết, cụ thể hóa vấn đề thành các nhiệm vụ hoặc câu hỏi nhỏ để học sinh dễ dàng hơn trong việc chuẩn bị bài. 12
Với hình thức dự giờ, trao đổi, xem vở học sinh, tôi đã có cái nhìn khá khách quan, sát thực tế về tình hình hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài của giáo viên và việc chuẩn bị bài ở nhà của học sinh hiện nay ở trường Trung học phổ thông, thiết nghĩ đó cũng là thực trạng chung, phổ biến của hầu hết giáo viên và học sinh nhiều nơi. Trước yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, chúng ta thật sự ghi nhận sự nhiệt tình và tích cực của nhiều thầy cô giáo trong việc đi tìm, đề xuất và thực hiện các phương pháp dạy học Văn nhằm phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong giờ học. Nhiều giáo viên đã hướng dẫn học sinh tìm đọc về tác giả qua những câu chuyện, giai thoại, tài liệu tham khảo; sưu tầm một số ý kiến của các chuyên gia, của bạn đọc nhận xét đánh giá về tác giả, tác phẩm; tìm đọc toàn bộ tác phẩm nếu văn bản là đoạn trích, tìm đọc một số bài thơ tiêu biểu trong tập thơ có bài thơ được học; tiếp cận tác phẩm qua các loại hình nghệ thuật khác như phim ảnh, kịch; chuẩn bị những bài tập trình bày theo nhóm, sưu tầm tranh ảnh, hoặc có thể là đi tham quan, đi thực tế, đi xem phim để phục vụ cho tiết học. Thực trạng lên lớp theo kiểu thầy giảng - trò nghe, thầy đọc - trò chép đã giảm đáng kể. Quan sát trong các tiết dự giờ cho thấy: Học sinh có sự chuẩn bị bài kĩ càng, phù hợp nội dung bài học dưới sự hướng dẫn tích cực của giáo viên thì giáo viên thuyết giảng ít hơn, học sinh chủ động chiếm lĩnh tri thức, giờ học hiệu quả hơn. Tuy nhiên, khách quan mà nói, số tiết học sinh có sự chuẩn bị bài chu đáo với nhiều cách thức khác nhau chưa phải là nhiều. Hầu như chỉ tập trung trong những giờ thao giảng, hội giảng của giáo viên. Đa số giáo viên, sau mỗi bài dạy, mỗi tiết học thường dặn dò chung chung: Các em về nhà học bài và chuẩn bị bài cho tiết sau. Hoặc có hướng dẫn cho học sinh nhưng còn sơ sài ví dụ như: soạn bài theo câu hỏi sách giáo khoa, xem bài tiếp theo… Việc hướng dẫn học sinh soạn bài mới, tài liệu ở nhà chưa cụ thể, chưa định hướng được cho các em phần nào là quan trọng, phần nào cần sơ lược. Phần lớn học sinh có soạn bài trước khi đến lớp nhưng không hiệu quả, không biết chỗ nào là quan trọng. Việc soạn bài mang tính chất đối phó nên học sinh thường chép mạng, sách “Học tốt Ngữ văn”. Vì vậy, các em khó nắm bắt kiến thức một cách cụ thể, lười tìm tòi kiến thức mới, luôn ỷ lại và chờ đợi vào bài giảng của giáo viên để chép. Ở nhà không chuẩn bị bài, trên lớp cô lại giảng với lượng kiến thức nhiều, cô nói điều gì trò cũng cảm thấy mới tinh cho nên việc tiếp thu diễn ra rất thụ động. 2.2. Vận dụng dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực tự chủ và tự học của học sinh. 2.2.1. Điều kiện để áp dụng phương pháp dạy học dự án. 2.2.1.1. Nội dung học tập.
- Đặc điểm chủ đề nội dung bài học: Gắn liền với thực tiễn và mang tính thời sự, cập nhật - Mục tiêu cơ bản nhất của bài học: tập trung rèn luyện và phát triển kĩ năng 13
thực hành cho học sinh thông qua hoạt động của chính các em. Trước đây, hoạt động chuẩn bị bài này thường được giáo viên thực hiện cuối mỗi tiết học chính. Thực chất là khâu dặn dò cuối mỗi buổi học. Giáo viên tùy theo từng đơn vị kiến thức mà vạch ra hướng dẫn cụ thể những nhiệm vụ mà học sinh cần phải chuẩn bị ở nhà cho tiết học sau. Hiện nay, để phát huy năng lực tự chủ và tự học của học sinh, giáo viên có thể đa dạng hóa các phương pháp, hình thức chuẩn bị bài như: vẽ tranh minh họa, quay clip, đi thực tế, đi xem phim để phục vụ cho tiết học sau. 2.2.1.2. Đối tượng người học và người dạy
- Người học: Được trang bị đầy đủ kiến thức (về môn học; liên môn và về phương pháp dạy học dự án); có thói quen làm việc chủ động; phương pháp học tập khoa học và có ít nhiều kĩ năng về công nghệ thông tin. - Người dạy: Có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ; phong cách làm việc chuyên nghiệp và khả năng quản lí học sinh. Khả năng tư duy linh hoạt và cần một bản lĩnh nghề nghiệp. 2.2.1.3. Phương tiện dạy học
Đầy đủ các phương tiện dạy học cơ bản và có sự hỗ trợ của các phương tiện dạy học hiện đại. 2.2.1.4. Các điều kiện khác
- Sự đồng thuận của cấp quản lí trường học; các Ban ngành địa phương - Cơ chế thi cử cần chú trọng đến tính thực tiễn của kiến thức: Theo Thông tư số 26/2020/TTBGDĐT - Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đánh giá, xếp loại học sinh Trung học cơ sở và học sinh Trung học phổ thông ban hành kèm theo Thông tư số 58/2011/TT-BGDĐT ngày 12 tháng 12 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. 2.2.2. Khả năng vận dụng phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn ở trường Trung học phổ thông. 2.2.2.1. Đối với các giờ đọc văn.
Căn cứ vào chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn năm 2018, giáo viên chủ động, linh hoạt xây dựng và tổ chức các bài học theo định hướng: Tăng cường, phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh; dành nhiều thời gian cho học sinh nghiên cứu sách giáo khoa và tài liệu học tập, luyện tập, thực hành, trình bày, thảo luận, bảo vệ kết quả học tập để học sinh biết tự đọc, viết, nói và nghe theo những yêu cầu và mức độ khác nhau; kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ học tập của học sinh. Trên cơ sở đó, việc dạy đọc văn bản nói chung ở nhà trường phổ thông được thực hiện theo những định hướng cụ thể sau: 14
"Yêu cầu học sinh đọc trực tiếp toàn bộ văn bản, chú ý quan sát các yếu tố hình thức của văn bản, từ đó có ấn tượng chung và tóm tắt được nội dung chính của văn bản; tổ chức cho học sinh tìm kiếm, phát hiện, phân tích, suy luận ý nghĩa các thông tin, thông điệp, quan điểm, thái độ, tư tưởng, tình cảm, cảm xúc,...được gửi gắm trong văn bản; hướng dẫn học sinh liên hệ, so sánh giữa các văn bản, kết nối văn bản với bối cảnh lịch sử, văn hoá, xã hội, kết nối văn bản với trải nghiệm cá nhân học sinh... để hiểu sâu hơn giá trị của văn bản, biết vận dụng, chuyển hoá những giá trị ấy thành niềm tin và hành vi ứng xử của cá nhân trong cuộc sống hằng ngày”. Để học sinh chủ động tham gia hoạt động học, phát triển năng lực tự học tự nghiên cứu thì việc chuẩn bị bài kĩ trước giờ học là hoạt động rất quan trọng. Giáo viên có thể áp dụng phương pháp dạy học dự án để kịp thời hướng dẫn, động viên các em nâng cao khả năng tự chiếm lĩnh tác phẩm, thoát li dần và không phụ thuộc một cách thụ động vào sách học tốt, sách tham khảo. - Đối với văn bản văn học:
Để giảm bớt áp lực về mặt thời gian cho việc tổ chức đọc văn bản tại lớp, giáo viên có thể thiết kế và chuyển giao một số nhiệm vụ đọc cho học sinh tại nhà theo phương pháp dạy học dự án và phải đảm bảo việc kiểm tra kết quả đọc của những nhiệm vụ ấy khi học sinh đến lớp và sử dụng những kết quả ấy để tiếp tục tổ chức những hoạt động đọc trực tiếp văn bản khác tại lớp. Ở giai đoạn trước khi đọc, học sinh sẽ được giáo viên tổ chức, hướng dẫn thực hiện các hoạt động chủ yếu sau: xác định mục đích đọc; huy động, bổ sung tri thức nền cho học sinh (nếu thiếu), trải nghiệm những tình huống có liên quan đến nội dung văn bản; quan sát tổng thể văn bản (chủ yếu là các yếu tố hình thức); dự đoán về nội dung đọc. Một số hoạt động của giai đoạn trước khi đọc có thể được chuyển thành nhiệm vụ học tập cho học sinh tại nhà, trước giờ học đầu tiên về văn bản trên lớp, chẳng hạn như huy động tri thức nền của học sinh, bổ sung tri thức nền cho học sinh bằng cách kiểm tra kết quả học sinh đọc một số tri thức công cụ hỗ trợ cho việc đọc hiểu văn bản như tri thức về tác giả, hoàn cảnh ra đời của văn bản, tri thức về toàn văn bản nếu văn bản đọc là một đoạn trích. Về cơ bản, quá trình dạy đọc ở trường phổ thông có thể được thực hiện với việc sử dụng kết hợp những phương pháp dạy học, kĩ thuật dạy học truyền thống lẫn hiện đại như: Dạy học hợp tác, dạy học giải quyết vấn đề, dạy học dựa trên dự án, phương pháp đọc diễn cảm, phương pháp thuyết trình, phương pháp đàm thoại gợi mở, phương pháp đóng vai, dạy học tình huống, dạy học theo trạm, kĩ thuật phòng tranh, kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật sơ đồ tư duy, kĩ thuật mảnh ghép, kĩ thuật nhóm chuyên gia, sử dụng phiếu học tập/ hồ sơ đọc trong dạy học…Ngoài ra, giáo viên cũng có thể tổ chức dạy đọc kết hợp phương pháp dạy học dự án với một số hoạt động trải nghiệm quen thuộc để tạo cơ hội cho học sinh được làm việc trực tiếp nhiều hơn với văn bản như diễn kịch, sân khấu hóa, vẽ tranh, chuyển thể kịch bản, dựng phim, viết lại câu chuyện/ kết thúc truyện, kể chuyện sáng tạo, tổ chức 15
hội thảo đọc, câu lạc bộ đọc sách, nhật kí đọc sách, bàn tròn văn chương, sưu tầm tranh ảnh, bài viết, video clip về những nội dung, vấn đề được đề cập trong văn bản, tổ chức trò chơi/ cuộc thi…Những dạng thức sản phẩm này có thể yêu cầu học sinh thực hiện cùng với các nhiệm vụ đọc hiểu văn bản tại nhà để tạo hứng thú, động cơ học tập cho học sinh, khuyến khích các em chủ động tìm hiểu và khám phá văn bản. Thông thường các tác phẩm được chọn đưa vào chương trình và sách giáo khoa đều là những tác phẩm nổi tiếng, thường được chuyển thể sang loại hình nghệ thuật khác. Nhiều tác phẩm văn học Nga, văn học phương Tây đều được chuyển thể và trở thành những tác phẩm điện ảnh, những vở kịch nổi tiếng. Với văn học Việt Nam, các tác phẩm Chí Phèo, Lão Hạc của Nam Cao đã được chuyển thể và trở thành tác phẩm kinh điển của điện ảnh Việt Nam trong “Làng Vũ Đại ngày ấy”. Tương tự phim “ Chị Dậu” được chuyển thể từ Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Phim “Trò đời” được chuyển thể từ Số Đỏ và một số tác phẩm khác của Vũ Trọng Phụng. Vì thế, khi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài cho bài học Chí Phèo, Hạnh phúc của một tang gia cũng nên tiếp cận toàn bộ tác phẩm từ góc nhìn của điện ảnh. Giáo viên có thể hướng dẫn và phát huy tính tự học của học sinh thông qua dạy học dự án kết hợp với hoạt động trải nghiệm sáng tạo như “ Tôi là diễn viên”. Cũng cần lưu ý rằng khi chuyển thể tác phẩm văn học với chất liệu là ngôn từ sang tác phẩm điện ảnh hay sân khấu với chất liệu nghệ thuật là giọng nói, hình thể tâm lí diễn viên, không gian sân khấu, phim trường …thì nội dung tác phẩm, ý đồ nghệ thuật của tác phẩm không hoàn toàn trùng khít. Vì vậy, giáo viên cần lưu ý học sinh đọc văn bản đoạn trích, bám sát vào văn bản ngôn từ. Giáo viên cũng có thể căn cứ vào nội dung của một số bài học có tính thực tiễn và mang tính thời sự, cập nhật, hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài qua dạy học dự án, qua đó khuyến khích tinh thần tự học, sáng tạo, là động lực quan trọng làm cho học sinh tự tin, nhờ đó say mê khám phá tác phẩm. Tôi có thể dẫn ra một số ví dụ sau: Khi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà trước khi học tác phẩm Tràng Giang của Huy Cận, Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, giáo viên có thể gợi ý cho học sinh dự án: “Anh chị hãy thể hiện tình cảm và trách nhiệm của mình với những dòng sông quê hương bằng cách xây dựng dự án tìm hiểu về một dòng sông nơi mình sinh sống”. Làm việc theo nhóm để ghi vào phiếu học tập những nội dung cơ bản của dự án (Tên dự án, mục tiêu của dự án, thời gian thực hiện, dự kiến sản phẩm, nhiệm vụ của từng thành viên, dự kiến cách thức công bố sản phẩm). Khi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài “Người cầm quyền khôi phục uy uyền”, giáo viên có thể hướng dẫn: Tiểu thuyết những người khốn khổ gửi đến độc giả thông điệp: “Trên đời, chỉ có một điều ấy thôi, đó là yêu thương nhau” và “Yêu thương đừng chỉ cất kĩ trong tim/ Yêu thương hãy trở thành hành động”. Anh/ chị hãy lên ý tưởng cho một dự án cộng đồng có chủ đề “Kết nối yêu thương” và ghi lại vắn tắt ý tưởng đó (tên dự án, mục tiêu dự án, thời gian thực hiện, người thực 16
hiện, các điều kiện mà anh chị hoặc nhóm của anh chị đã có để thực hiện, các nguồn lực hỗ trợ, kế hoạch thực hiện…) Chia sẻ ý tưởng dự án của anh/chị trước lớp để lựa chọn và cùng nhau thực hiện. Khi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng, giáo viên có thể đặt ra vấn đề: Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy/ Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi. Gần 70 năm trước, con đường Tây Tiến vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng, mĩ lệ đã in dấu chân của một binh đoàn hào hoa, kiêu hùng. Mỗi hình ảnh được nhắc đến trong bài thơ của Quang Dũng không chỉ là tên đất, tên mường, tên sông, tên núi, đồng đội, mà còn là kí ức về một thế hệ đã sẵn sàng “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Dự án này mời bạn lên “Tây Tiến mùa xuân ấy” bằng cách: 1. Lựa chọn để giới thiệu về một địa danh của con đường Tây Tiến huyền thoại 2. Đưa ra phương án kết nối địa danh này vào các tuor du lịch để khách tham quan thực sự thấy ấn tượng, thuyết phục, thêm hiểu, thêm yêu quý, tự hào về đất và người Tây Tiến. Hãy phác thảo đề cương của dự án Khi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề bằng phương pháp dạy học dự án: Hoàng Phủ Ngọc Tường đã cảm nhận: “Chính trong những giây phút bồng bềnh giữa cõi thực và cõi thơ ấy, tôi đã cảm nhận ra cái âm hưởng sâu thẳm của Huế trên mỗi trang Truyện Kiều: dòng sông đáy nước in trời và những nội cỏ thơm, nắng vàng khói biếc, nỗi u hoài của dương liễu và sắc đẹp nồng nàn của hoa trà mi, những mùa thu quan san, những vầng trăng thắm thiết…chính sông Hương và thành phố của nó đã vẫn gợi cho tôi, như một vang bóng trong thời gian, hình tượng của cặp tình nhân lí tưởng của Truyện Kiều: tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc, và cả hai cùng gắn bó với nhau trong một tình yêu muôn thủa”. Dự án này mời bạn cùng trải nghiệm vẻ đẹp của dòng sông ai đã đặt tên. Hãy lựa chọn và khám phá một loại dịch vụ du lịch gắn với dòng sông Hương mà theo bạn có thể giúp chúng ta cảm nhận ấn tượng, sâu sắc nhất về dòng sông, đồng thời đảm bảo an toàn cho du khách và thân thiện với môi trường. Hãy cùng chia sẻ điều anh chị lựa chọn vào phiếu học tập này trước khi chúng ta quyết định chặng hành trình đến với dòng Hương? - Đối với bài đọc- hiểu các văn bản nhật dụng: Đây là loại văn bản không sử dụng hư cấu, tưởng tượng. Đặc điểm nổi bật của văn bản nhật dụng là tính thực tiễn và tính cập nhật. Đặc trưng này làm cho bài học này có sức lôi cuốn người học không những trong hoạt động đọc - hiểu văn bản mà còn cuốn hút họ trong việc sưu tầm, tìm hiểu các thông tin có liên quan, thống kê số liệu về các vấn đề tương tự đang diễn ra xung quanh họ. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc văn bản nhật dụng trở thành sợi dây kết nối người học với thực tiễn. Nhằm đáp ứng được mục tiêu trên, nguyên tắc chỉ đạo trong các giờ đọc 17
- hiểu văn bản nhật dụng là: tổ chức cho học sinh liên hệ tới bản thân và các vấn đề nhật dụng có liên quan; đảm bảo cá nhân trực tiếp tham gia bài học và kết hợp làm việc trên văn bản lấy từ thực tiễn. Điều này cho thấy, với bài đọc - hiểu văn bản nhật dụng phải tạo cơ hội nhiều nhất cho học sinh tham gia đọc - hiểu văn bản theo hướng tự tìm hiểu, thuyết minh tư liệu liên quan đến chủ đề bài học. Giáo viên giúp học sinh hiểu nội dung của một số bài viết về các vấn đề cấp thiết đặt ra trong cuộc sống; biết cách đọc - hiểu văn bản nhật dụng và nâng cao ý thức trách nhiệm của cá nhân với xã hội. Hướng vận dụng dạy học dự án ở đây khá phong phú. Dựa trên hoàn cảnh thực tế và bằng khả năng tổ chức, giáo viên có thể vận dụng dạy học dự án trong khâu chuẩn bị bài. Và khi cần, với những vấn đề có tính thời sự cấp thiết, có thể áp dụng dạy học dự án trong các hoạt động ngoại khóa để tiến hành khảo sát thực trạng, đề xuất giải pháp và tham gia (nếu có thể). - Đối với văn bản thông tin:
Việc dạy đọc cần bám sát đặc trưng của văn bản. Cụ thể là ở giai đoạn trước khi đọc, giáo viên cần hướng dẫn học sinh: Xem xét các yếu tố hình thức của văn bản như: cách trình bày nhan đề; tiêu đề của các phần, chương, đoạn, mục lục; một số từ khóa hay đoạn văn đặc biệt được tô đậm, in nghiêng...); đặc biệt là các phương tiện phi ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản như: hình minh họa, lời chú thích dưới hình minh họa, bảng chú thích, lời tựa, lời bạt, sơ đồ, bảng biểu, kí hiệu… để dự đoán nội dung của văn bản. - Xác định cấu trúc của văn bản bằng cách dựa vào những từ ngữ manh mối như: vì, do đó, thứ nhất là, bên cạnh đó… - Hình dung khái quát về văn bản qua các phần giới thiệu, tóm tắt hoặc câu hỏi (nếu có). - Xác định mục đích tạo lập để định hướng cách thức đọc văn bản. Khi dạy đọc văn bản thông tin, giáo viên sử dụng dạy học dựa trên dự án kết hợp việc dạy đọc với một số hoạt động trải nghiệm quen thuộc, tạo điều kiện cho học sinh vận dụng các thông tin rút ra từ văn bản để giải quyết những vấn đề thực tiễn, liên quan trực tiếp đến hoạt động của học sinh như thiết kế poster tuyên truyền, vận động; làm video clip về thực trạng môi trường sống ở địa phương; thực hiện phóng sự ảnh về tình trạng của một số di tích lịch sử ở địa phương; sưu tầm tranh ảnh về một chủ đề khoa học tự nhiên hoặc xã hội (tích hợp liên môn hoặc xuyên môn). Những hình thức này tạo điều kiện cho học sinh làm việc trực tiếp với văn bản, có cơ hội phân tích và đánh giá thông tin mà văn bản cung cấp một cách sâu sắc hơn. 2.2.2.2. Đối với các bài học tiếng Việt - Đặc điểm bài học:
Các bài học tiếng Việt được đưa vào chương trình Trung học phổ thông chỉ tập trung vào một số nội dung chính (Hoạt động giao tiếp; Phong cách ngôn ngữ; Những vấn đề chung về tiếng Việt) và chú trọng thực hành, các đơn vị kiến thức 18
gần gũi và liên quan tới thực tiễn giao tiếp hằng ngày của học sinh. - Mục tiêu bài học
Chú trọng đến thực hành, không mang tính “hàn lâm”, “kinh viện”. Phần tiếng Việt gồm 2 loại bài: Loại bài thiên về hình thành kiến thức, kĩ năng mới và Loại bài thực hành để củng cố kiến thức, kĩ năng. Xét về số lượng: Loại bài thực hành có số lượng lớn hơn. Có thể minh họa bằng số liệu sau: Phần tiếng Việt trong SGK Ngữ văn 11, trừ 1 tiết dành cho bài Ôn tập tiếng Việt, trong 17 tiết học thì nội dung có tính chất lí thuyết chiếm 7 tiết (hơn 40%), nội dung có tính chất thực hành chiếm 10 tiết (non 60%). Còn xét về cấu trúc: Ngay ở cả các Loại bài thiên về hình thành kiến thức, kĩ năng mới thì ở cuối mỗi bài đều có phần Luyện tập và kiến thức, kĩ năng mới chỉ được hình thành thông qua hoạt động thực hành (từ khâu tìm hiểu, phân tích ngữ liệu thực tế,...). - Từ 2 đặc điểm nêu trên và qua khảo sát kĩ lưỡng từng bài học tiếng Việt trong chương trình, chúng tôi thấy ngoài nội dung các bài thực hành, một số đơn vị kiến thức là những vấn đề lý thuyết nhưng rất lại gần gũi, quen thuộc và có liên quan tới thực tiễn giao tiếp trong cuộc sống hằng ngày của học sinh. Cụ thể: - Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ với các nhân tố tham gia giao tiếp, hai quá trình giao tiếp (tạo lập và lĩnh hội), hai dạng (nói và viết trong giao tiếp), sản phẩm của giao tiếp là văn bản. Đây là một hoạt động mà các em thường xuyên tiến hành trong cuộc sống gia đình, nhà trường và ngoài xã hội. - Các phong cách chức năng: trừ phong cách ngôn ngữ nghệ thuật thì phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, phong cách ngôn ngữ báo chí, phong cách ngôn ngữ hành chính...cũng không phải là những vấn đề quá xa lạ với học sinh. Chẳng hạn ở phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, ngôn ngữ sinh hoạt là lời ăn tiếng nói hằng ngày để thông tin, trao đổi ý nghĩ, đáp ứng nhu cầu tự nhiên của con người trong cuộc sống. Còn với phong cách ngôn ngữ báo chí, ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ được dùng trong các thể loại báo chí (tin tức, phóng sự) thì các em cũng được thấy thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng: đài, báo, truyền hình,... - Khả năng vận dụng dạy học dự án:
Khi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài, giáo viên có thể sử dụng dạy học dự án như một biện pháp hoặc một kĩ thuật dạy học nhằm đa dạng hóa các hoạt động học tập. Giáo viên có thể xây dựng dự án nhỏ, học sinh thực hiện được trong khỏang thời gian ngắn trước khi tiết học diễn ra. Điển hình ở các bài học về phong cách ngôn ngữ. Ví dụ khi dạy bài phong cách ngôn ngữ báo chí, phỏng vấn và trả lời phỏng vấn, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh thực hiện các dự án nhỏ như: tôi là phóng viên để giúp học sinh tìm hiểu và tiếp cận phong cách ngôn ngữ báo chí trước khi tiết học diễn ra. 2.2.2.3. Đối với các bài học Làm văn
- Đặc điểm bài học: 19
Tập trung vào một số nội dung sau: Trình bày một vấn đề; Phát biểu theo chủ đề; Kế hoạch cá nhân; Văn bản quảng cáo; Văn bản tổng kết; Bản tin; Tiểu sử tóm tắt... Mặt khác, đề làm văn trong chương trình mở rộng phạm vi hơn, có huy động hiểu biết về đời sống của học sinh, gắn liền với các tri thức trong phần Văn học và tiếng Việt. Về cơ bản, nội dung phần làm văn Trung học phổ thông gần gũi, thiết thực với đời sống. - Mục tiêu bài học: Chủ yếu rèn luyện và nâng cao kĩ năng tạo lập văn bản: tạo lập các kiểu văn bản viết và văn bản dạng nói. Nguyên tắc chỉ đạo trong dạy học làm văn là: bằng thực hành, thông qua thực hành và hướng tới thực hành. - Khả năng vận dụng dạy học dự án: Vận dụng được ở cả 2 hình thức: Chuẩn bị bài ở nhà và trong các hoạt động ngoại khóa, hoạt động trải nghiệm sáng tạo + Trong môn Ngữ văn, nhiều nội dung dạy học có thể gắn với thực tiễn cuộc sống nên phù hợp để sử dụng dạy học dựa trên dự án. Chẳng hạn những nội dung dạy học liên quan đến các kĩ năng như viết, nói và nghe, đọc hiểu văn bản thông tin và văn bản nghị luận thường tạo nhiều cơ hội để giáo viên tìm ra được mối liên hệ giữa những vấn đề thực tiễn đang diễn ra trong cuộc sống với nội dung bài học; từ đó xây dựng nên những chủ đề học tập theo hình thức dự án. Tuy nhiên, không phải mọi nội dung dạy học, mọi yêu cầu cần đạt của môn Ngữ văn đều phù hợp để triển khai bằng dạy học dựa trên dự án nên giáo viên cần cân nhắc kĩ. + Hoặc môn Ngữ văn có thể tích hợp với những môn học khác tạo thành những dự án học tập mà ở đó, những nội dung dạy học của môn Ngữ văn cũng chủ yếu được thiết kế theo định hướng hình thành, phát triển cho học sinh năng lực giao tiếp với những biểu hiện cụ thể liên quan đến đọc, viết, nói và nghe. Giáo viên phải xác định rõ mục tiêu, yêu cầu cần đạt nào về phẩm chất và năng lực mà học sinh cần đáp ứng khi hoàn thành dự án. Những mục tiêu, yêu cầu cần đạt khác của bài dạy chưa thể hình thành và phát triển qua việc học sinh tham gia thực hiện dự án thì giáo viên cần sắp xếp để phát triển bằng việc phối hợp sử dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học khác. Dạy học dựa trên dự án sẽ tốn nhiều thời gian. Vì thế, giáo viên cũng cần cân nhắc để chọn lựa sử dụng phối hợp với các phương pháp, kĩ thuật dạy học khác sao cho phù hợp với quỹ thời gian cho phép. Đồng thời khi lựa chọn nội dung dạy học dựa trên dự án, giáo viên cũng nên ưu tiên những nội dung học tập có tính chất trọng tâm của học kì/ năm học để phát huy được hiệu quả của phương pháp này, tương ứng với thời gian thực hiện. Trong suốt quá trình thực hiện dự án cũng như bước trình bày, đánh giá sản phẩm dự án, giáo viên cần chú ý đến tính hiệu quả của dự án về mặt hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh; tránh việc đi vào hình thức, mang tính 20
trình diễn, gây tốn kém thời gian và tiền bạc. Trên cơ sở đã trình bày, giáo viên tiến hành xây dựng bảng mô tả chi tiết từ số tiết, chủ đề, phương pháp, hình thức hoạt động có thể ứng dụng phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài: Khối
Số tiết 9
Chủ đề, bài học trải nghiệm
Phương pháp
Hình thức DH
Văn tự sự
Dạy học dự án; sắm vai; trò chơi; Phương pháp làm việc nhóm
Thể nghiệm/tương tác
- Tổ quốc của tôi Bài dạy văn thuyết minh 9 10
1
9
2
(Thuyết minh về một nét đẹp văn hóa dân tộc Việt Nam) Trang phục, ẩm thực, Kiến trúc, tết Việt Nam…) Viết quảng cáo Thanh niên Việt Nam xưa và nay ( Truyện thơ nôm trung đại) Phong cách ngôn ngữ báo chí. Tập là phóng viên
11
1
(Phỏng vấn và trả lời phỏng vấn) Tôi là diễn viên
13
( Các tác phẩm truyện ngắn, kịch)
9
Tôi là nhà thơ
Dạy học dự án; sắm vai; trò chơi; Phương pháp làm việc nhóm
Hình thức khám phá Thể nghiệm/tương tác
Dạy học dự án; trò chơi; Phương pháp làm việc nhóm
Thể nghiệm/tương tác
Dạy học dự án; Phương pháp giải quyết vấn đề Phương pháp làm việc nhóm
Thể nghiệm/tương tác
Dạy học dự án; Phương pháp giải quyết vấn đề Phương pháp làm việc nhóm
Thể nghiệm/tương tác
Dạy học dự án; Phương pháp giải quyết vấn đề Phương pháp làm việc nhóm
Thể nghiệm/tương tác
Dạy học dự án; sắm vai; trò chơi; Phương pháp làm việc nhóm
Hình thức khám phá Thể nghiệm/tương tác
Dạy học dự án; trò
Thể nghiệm/ 21
( Các tác phẩm thơ hiện đại)
chơi; Phương pháp làm việc nhóm;
tương tác
Phương pháp giải quyết vấn đề
3
Tôi yêu tiếng Việt ( Các bài tiếng Việt)
3
Phát biểu theo chủ đề
10
Người lính trong thơ ca kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ( Các tác phẩm thơ văn kháng chiến)
4
12 4
4
Tiếng Việt hôm nay ( Các bài tiếng Việt)
Dạy học dự án; trò chơi; Phương pháp làm việc nhóm; Phương pháp giải quyết vấn đề
Dạy học dự án; sắm vai; trò chơi; Phương pháp làm việc nhóm Dạy học dự án; sắm vai; trò chơi; Phương pháp làm việc nhóm.
Dạy học dự án; trò chơi; Phương pháp làm việc nhóm; Phương pháp giải quyết vấn đề
Việt Nam quê hương tôi (Các tác phẩm thơ, ký về đất nước)
Dạy học dự án; sắm vai; trò chơi; Phương pháp làm việc nhóm
Sau ngày mở cửa
Dạy học dự án; trò chơi; Phương pháp làm việc nhóm;
( Các tác phẩm văn học sau 1975)
Phương pháp giải quyết vấn đề
Thể nghiệm/tương tác Thể nghiệm/tương tác Thể nghiệm/tương tác
Thể nghiệm/tương tác Thể nghiệm/tương tác Thể nghiệm/tương tác
Nhận định chung: Với bất cứ dạng bài học của môn Ngữ văn Trung học phổ thông nào, giáo viên cũng có thể tìm thấy đơn vị kiến thức phù hợp để vận dụng phương pháp dạy học dự án vào hoạt động chuẩn bị bài. Nhân tố có ý nghĩa quyết định là sự nhạy cảm, bản lĩnh và kinh nghiệm của giáo viên. Và có 2 khả năng vận dụng dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn ở trường Trung học phổ thông có tính khả thi nhất. Đó là: Vận dụng phương pháp dạy học dự án trong các giờ học bình thường và vận dụng dạy học dự án trong các 22
hoạt động trải nghiệm sáng tạo.
2.2.3. Quy trình áp dụng phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài môn Ngữ văn Trung học phổ thông 2.2.3.1. Quy trình chung
Nghiên cứu các bước trong dạy học dự án, tôi đề xuất quy trình vận dụng phương pháp dạy học dự án để hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn nhằm phát huy năng lực tự chủ và tự học như sau: *Giai đoạn 1: Xây dựng dự án (Hoạt động trước giờ học) Bước 1: Xác định chủ đề, nội dung dự án trong hoạt động chuẩn bị bài - Khảo sát trong chương trình môn học các bài học, nội dung cơ bản có liên quan hoặc có thể ứng dụng vào thực tế. - Phát hiện những gì tương ứng đã và đang xảy ra trong cuộc sống. Chú ý vào những vấn đề lớn mà xã hội và thế giới đang quan tâm. - Giáo viên phân chia lớp học thành các nhóm, hướng dẫn học sinh đề xuất, xác định tên đề tài. Đó là một dự án chứa đựng một nhiệm vụ cần giải quyết, phù hợp với các em, trong đó có sự liên hệ nội dung học tập với hoàn cảnh thực tiễn đời sống xã hội. - Giáo viên cũng có thể giới thiệu một số đề tài để học sinh lựa chọn. Bước 2: Xây dựng kế hoạch dạy học dự án trong chuẩn bị bài - Việc xây dựng kế hoạch cho một dự án là công việc hết sức quan trọng vì nó mang tính định hướng hành động cho cả quá trình thực hiện, thu thập kết quả và đánh giá dự án. - Xác định mục tiêu học tập cụ thể bằng cách dựa vào chuẩn kiến thức và kĩ năng của bài học/chương trình, những kĩ năng, phẩm chất, năng lực cần đạt. - Giáo viên hướng dẫn học sinh xác định mục đích, nhiệm vụ, cách tiến hành, kế hoạch thực hiện dự án; xác định những công việc cần làm, thời gian dự kiến, vật liệu, kinh phí… - Giáo viên xây dựng các biểu mẫu: Mẫu kế hoạch thực hiện dự án của nhóm học sinh, Phiếu đánh giá sản phẩm, Phiếu đánh giá thái độ, tinh thần làm việc và các biểu mẫu, phiếu khác. *Giai đoạn 2: Thực hiện dự án (Hoạt động trước và trong giờ học) Bước 1: Giao nhiệm vụ - Giáo viên giới thiệu kế hoạch dự án với học sinh. Chia lớp thành các nhóm học sinh. - Các nhóm bầu chọn nhóm trưởng, thư ký, phân công nhiệm vụ cho mỗi thành viên. 23
Bước 2: Tìm kiếm thông tin, khảo sát thực tế - Các thành viên trong nhóm thực hiện kế hoạch đã đề ra. - Học sinh thu thập dữ liệu từ nhiều nguồn khác nhau rồi tổng hợp, phân tích và tích lũy kiến thức thu được qua quá trình làm việc. Như vậy, các kiến thức mà người học tích lũy được thử nghiệm qua thực tiễn. - Giáo viên cùng với học sinh khảo sát thực tế để đảm bảo tính khả thi của dự án; đánh giá, kiểm tra lại nội dung và trình tự của các việc, thời gian thực hiện cho từng việc, xem xét tính hợp lý, khả năng thực hiện và kết quả cần đạt được; phát hiện những sai sót hoặc bất hợp lý ở khâu nào, bước nào, nội dung nào hay việc nào để kịp thời điều chỉnh. Bước 3: Tiến hành dự án, hoàn thành sản phẩm - Khi thực hiện dự án, các hoạt động trí tuệ và hoạt động thực hành, thực tiễn xen kẽ và tác động qua lại với nhau; kết quả là tạo ra sản phẩm của dự án. - Kết quả thực hiện dự án có thể được viết dưới dạng dạng ấn phẩm (bản tin, báo, áp phích, thu hoạch, báo cáo…) và có thể được trình bày trên Power Point, hoặc thiết kế thành trang Web, video… - Tất cả học sinh cần được tạo điều kiện để trình bày kết quả cùng với kiến thức mới mà các em đã tích lũy thông qua dự án (theo nhóm hoặc cá nhân). - Sản phẩm của dự án có thể được trình bày giữa các nhóm học sinh, giới thiệu trước lớp, trong trường hay ngoài xã hội. Bước 4: Báo cáo và đánh giá, chấm sản phẩm của nhóm và các nhóm khác - Giáo viên và học sinh đánh giá quá trình thực hiện và kết quả dự án dựa trên những sản phẩm thu được, tính hấp dẫn và hợp lý trong cách thức trình bày của các em. - Giáo viên hướng dẫn người học rút ra những kinh nghiệm cho việc thực hiện các dự án tiếp theo. - Kết quả dự án có thể được đánh giá từ bên ngoài. *Giai đoạn 3: Lưu sản phẩm (hoạt động sau dự án) - Giáo viên lưu sản phẩm của học sinh làm căn cứ báo cáo quá trình tổ chức thực hiện hoạt động chuẩn bị bài của học sinh - Sản phẩm có thể được lưu: Thư viện; phòng truyền thống; trên các thiết bị điện tử của giáo viên, học sinh, lattop, smartphone…; trên mạng xã hội như YouTube…. 24
2.2.3.2. Vận dụng phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài “Hạnh phúc của một tang gia” của Vũ Trọng Phụng, “Chí Phèo” của Nam Cao thuộc chuyên đề “ Văn xuôi hiện thực Việt Nam 1930-1945”.
Chúng tôi nhìn nhận dạy học dự án như một phương pháp dạy học theo Modun Trung học phổ thông 18 - Phương pháp dạy học tích cực: “Dạy học theo dự án là một phương pháp dạy học trong đó học sinh thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lí thuyết và thực tiễn, thực hành. Nhiệm vụ này được học sinh thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập. Làm việc nhóm là hình thức cơ bản của dạy học dự án. Dạy học theo dự án là hoạt động học tập tạo cơ hội cho học sinh tổng hợp kiến thức từ nhiều lĩnh vực áp dụng một cách sáng tạo vào cuộc sống”. Để vận dụng phương pháp dạy học dự án vào hoạt động chuẩn bị bài, giáo viên cần nắm quy trình xây dựng một dự án bao gồm 6 bước như sau: Thứ 1. Quyết định tên dự án: Tên của dự án phải thể hiện tính có vấn đề kích thích động cơ và hứng thú cho học sinh nghiên cứu, tìm hiểu, phải gắn với tính thực tiễn, tính xã hội, tính giáo dục. Vì thế đối với chủ đề văn học hiện thực Việt Nam 1930-1945 có thể đặt tên: Tôi là diễn viên, hoặc sức sống của văn xuôi hiện thực 1930-1945 trong lòng bạn trẻ… Thứ 2. Xác định mục tiêu của dự án: Tạo tâm thế tích cực và chủ động của học sinh khi tiếp cận tác phẩm. Nhận biết và phân tích được bức tranh đời sống và tư tưởng, các nét đặc sắc về phong cách của nhà văn. Vận dụng được những hiểu biết của bản thân về cuộc sống để có những trải nghiệm cùng tác phẩm. Thứ 3. Xác định bộ câu hỏi định hướng: Giáo viên đặt vấn đề và định hướng cho học sinh các nhiệm vụ cần giải quyết qua bộ câu hỏi định hướng gồm câu hỏi tổng quát và bộ câu hỏi nội dung. Với dự án “Tôi làm diễn viên” chúng tôi xây dựng câu hỏi tổng quát - Giá trị đích thực của đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia”, tác phẩm “Chí Phèo”? - Giải pháp để đưa các tác phẩm đó đến gần hơn với giới trẻ? - Hãy thể hiện tình yêu và niềm đam mê của chính bạn bằng trải nghiệm: sân khấu hóa tác phẩm? Thứ 4. Xác định hệ thống phương tiện và phương pháp thực hiện dự án. Thứ 5. Xác định đối tượng, thời gian và môi trường thực hiện dự án: Đối tượng dự án là học sinh khối 11. Thứ 6. Xây dựng các hoạt động của dự án: Dự án được tiến hành gồm 3 giai đoạn: giai đoạn xây dựng dự án, giai đoạn thực hiện dự án và giai đoạn hình thành 25
sản phẩm và tổng kết dự án. Giai đoạn 1- Xây dựng dự án Giáo viên giới thiệu cho học sinh hình thức dạy học dự án và thiết lập dự án; Lên danh sách nhóm và chia nhóm, phân công nhiệm vụ. Việc chia nhóm là sự đăng kí tự nguyện của học sinh phù hợp với nguyện vọng, năng lực và sở trường của các em để giải quyết các nhiệm vụ học tập: nhóm biên kịch gồm người dẫn truyện, người viết kịch bản; nhóm nghệ sĩ gồm diễn viên, trang điểm; nhóm điều tra viên… Chuẩn bị tài liệu: Giáo viên cần có định hướng về các loại tài liệu bản cứng, bản mềm, tài liệu là sách, báo, tạp chí, video, phim, trang web. Thiết kế chương trình: Các nhóm học sinh tự thiết kế chương trình, các phần việc cần làm xoay quanh nội dung của bộ câu hỏi định hướng sau đó thảo luận, trao đổi với giáo viên để thống nhất hoạt động và định hướng sản phẩm của nhóm là tập san, truyện tranh hoặc tập tranh, clip, kịch… Giai đoạn 2: Thực hiện dự án - Học kĩ năng: Ở giai đoạn này, Giáo viên giới thiệu cho học sinh các kĩ năng cần thiết để thực hiện dự án đáp ứng các mục tiêu đã đặt ra của dự án. Ví dụ kĩ năng Công nghệ thông tin: làm video, clip, làm broucher, photovoice- những bức ảnh biết nói...kĩ năng làm phiếu khảo sát và phỏng vấn thăm dò… - Hoạt động trải nghiệm sáng tạo: Tổ chức cho học sinh đóng vai các nhân vật trong “Hạnh phúc của một tang gia”, “Chí Phèo” - Dạy học chuyên đề văn xuôi hiện thực Việt Nam 1930-1945: Gắn với dự án là dạy học chuyên đề trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1 với thời lượng 6 tiết trên lớp đối với các lớp khối A, 8 tiết đối với các lớp khối D Việc dạy học chủ đề sẽ được kết hợp dạy học dự án và dạy học theo hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Giáo viên yêu cầu học sinh đọc toàn văn bản “Số Đỏ”, “ Hạnh phúc của một tang gia”, “Chí Phèo”, nắm những nét tổng thể về giá trị nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm để hiểu cụ thể và sâu hơn về các đoạn trích. Giai đoạn 3 - Hoàn thành sản phẩm và tổng kết dự án Kết thúc dự án, học sinh nộp sản phẩm đã đăng kí ban đầu: là các bài thu hoạch, các bài cảm nhận, các bài phỏng vấn, bài phóng sự, thơ, nhạc, thư pháp, tranh và biên tập thành tập san…Sản phẩm là các video, clip, sơ đồ tư duy vẽ bằng phần mềm Iminmap. Giáo viên đánh giá và thẩm định sản phẩm, tổ chức buổi tổng kết dự án, đánh giá vai trò, ý nghĩa của dự án, rút ra những bài học kinh nghiệm, những kiến nghị, đề xuất và các hình thức mở rộng dự án, quảng bá dự án. Có hình thức khen thưởng và trao giải cho những sản phẩm tốt, đặc sắc. Việc dạy học theo dự án giúp học sinh có cái nhìn toàn diện và sâu sắc về 26
giá trị, ý nghĩa, sức sống, sức lan tỏa của các tác phẩm văn xuôi hiện thực Việt Nam 1930-1945, khơi dậy niềm yêu thích và đam mê của thế hệ trẻ với các tác phẩm kinh điển của nền văn học dân tộc. Bên cạnh đó dạy học “Hạnh phúc của một tang gia”, “Chí Phèo” từ phương pháp dạy học theo dự án góp phần giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, đặc biệt học sinh được phát triển nhiều năng lực, rèn luyện nhiều kĩ năng như giao tiếp, kĩ năng lập kế hoạch, tổ chức, kĩ năng thuyết trình, phản biện, kĩ năng tự học, thu thập và xử lí tài liệu, kĩ năng công nghệ thông tin… Dạy học theo dự án còn góp phần định hướng nghề nghiệp, các em học sinh phát hiện ra thế mạnh và sở trường của bản thân, phát huy các phẩm chất: Hòa đồng, tự tin, thấu hiểu và chia sẻ… Dạy học theo dự án còn có ý nghĩa thực tiễn thiết thực là hình thành tư liệu học tập mới từ các sản phẩm chất lượng của học sinh. Giáo viên cần lưu ý khi tổ chức dạy học dựa trên dự án không có nghĩa là cắt bỏ hết những giờ học kiến thức trên lớp có liên quan dự án học tập. Tùy vào nội dung, cách thức tổ chức dự án học tập mà giáo viên vẫn cần thiết tổ chức dạy học các nội dung kiến thức có liên quan đến dự án học tập vào những giờ học chính thức trên lớp vì nếu không được hướng dẫn tìm hiểu kiến thức thì học sinh sẽ không có đủ kiến thức nền để thực hiện dự án. Tuy nhiên việc tổ chức dạy học các nội dung lí thuyết cũng cần được tiến hành trên tinh thần hướng dẫn học sinh chủ động phát hiện kiến thức và có thể kết hợp với việc hướng dẫn học sinh thực hành, vận dụng lí thuyết vào việc giải quyết nhiệm vụ mà dự án học tập đã thiết kế. Như vậy, Phương pháp dạy học dự án được vận dụng trong các hoạt động sau: - Hoạt động 1: Chuẩn bị dự án, định hướng bài học + Xây dựng ý tưởng dự án và kịch bản dự án: Để chuẩn bị tốt cho giờ học Ngữ văn đoạn trích “Hạnh phúc một tang gia”, tác phẩm “Chí Phèo” thay vì trả lời câu hỏi sách giáo khoa, em hãy tập làm diễn viên nhằm sân khấu hóa đoạn trích mà em sẽ học? + Xác định mục tiêu dự án: + Xác định các nguồn hỗ trợ dạy và học - Hoạt động 2: Thiết kế dự án + Lập kế hoạch bài dạy và soạn giáo án + Chia nhóm học sinh và phân công nhiệm vụ cho các nhóm + Cung cấp bộ công cụ hỗ trợ dự án + Chuẩn bị trang thiết bị và cơ sở vật chất để thực hiện tốt dự án 2.3. Thực nghiệm sư phạm 2.3.1. Mục đích thực nghiệm 27
Kiểm nghiệm tính khả thi của dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài của môn Ngữ văn ở trường Trung học phổ thông và đánh giá triển vọng của phương pháp này trong việc tạo ra nhiều hứng thú, tích cực hóa hoạt động của học sinh, phát triển năng lực tự chủ, tự học cho học sinh. - Lí do chọn sử dụng dạy học dựa trên dự án trong hoạt động chuẩn bị bài: + Dạy học dựa trên dự án phù hợp với dạy viết, nói và nghe để phát triển các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe; thông qua đó phát triển các năng lực chung và năng lực đặc thù cho học sinh. + Cơ sở vật chất: Dự án này không yêu cầu cơ sở vật chất đặc biệt nên phù hợp cho việc triển khai ở các lớp/ các địa phương với nhiều điều kiện cơ sở vật chất khác nhau. + Nhiệm vụ học tập: Đây là nhiệm vụ mang tính tổng hợp, học sinh thực hiện dự án học tập theo nhóm, tạo ra sản phẩm học tập hướng đến đích cuối cùng là các kiến thức về tác giả, tác phẩm, tạo lập văn bản viết và các văn bản đa phương thức (dạng bài trình chiếu có hình ảnh, âm thanh); đồng thời qua dự án, học sinh có cơ hội thực hành kĩ năng nói và nghe tương tác; trong quá trình thực hiện dự án, học sinh có cơ hội phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác. 2.3.2. Địa điểm, đối tượng và thời gian thực nghiệm Phương pháp dạy học dự án được thực nghiệm tại trường THPT Diễn Châu 3 - Diễn Châu, Nghệ An với cơ sở vật chất tương đối đầy đủ. Đối tượng lớp 11A12 với 42 học sinh có ý thức học tập tốt, đa số có niềm đam mê và năng khiếu về văn chương. Thời gian thử nghiệm sư phạm diễn ra trong 1 tuần từ 07/11/2019 - 13/ 11/2019. Tài chính: dự án học tập này không đòi hỏi kinh phí tài chính nên phù hợp cho việc triển khai ở các địa phương, nhà trường với nhiều điều kiện thực tế khác nhau. 2.3.3 Tiến trình thực nghiệm 2.3.3.1. Chuẩn bị cho quá trình thực nghiệm
- Xây dựng kế hoạch bài dạy và giáo án. - Giới thiệu cho các em về dạy học dự án. - Giới thiệu bài học “Văn xuôi hiện thực Việt Nam 1930-1945” (SGK Ngữ văn 11, Tập 1). - Giới thiệu về dự án để học bài “Văn xuôi hiện thực Việt Nam 1930-1945” (SGK Ngữ văn 11, Tập1): Tôi làm diễn viên - Nhân vật văn học 28
Để chuẩn bị tốt cho giờ học Ngữ văn đoạn trích “Hạnh phúc một tang gia”, tác phẩm “Chí Phèo” thay vì trả lời câu hỏi sách giáo khoa, em hãy tập làm diễn viên nhằm sân khấu hóa đoạn trích mà em sẽ học? - Chuyển giao nhiệm vụ cho học sinh + Chia nhóm học sinh: Thành 2 nhóm và đảm bảo mỗi nhóm có học sinh giỏi (khá), học sinh trung bình và có lưu ý đến hứng thú của học sinh. + Phân công nhiệm vụ và chỉ dẫn cụ thể: Mỗi nhóm nhận 2 nhiệm vụ như sau: Nhiệm vụ 1: Sưu tầm một số văn bản, bộ phim về “Số đỏ”, đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” của Vũ Trọng Phụng. Hãy thể hiện tình yêu và niềm đam mê của chính bạn bằng trải nghiệm: dựng thành một clip về tác phẩm? Nhiệm vụ 2: Sưu tầm một số văn bản, bộ phim về “Chí Phèo” của Nam Cao. Hãy thể hiện tình yêu và niềm đam mê của chính bạn bằng trải nghiệm: dựng thành một clip về tác phẩm? + Cung cấp cho học sinh các tài liệu in sẵn và 1 số địa chỉ trang web; Tiêu chí đánh giá sản phẩm, Phiếu hướng dẫn nghiên cứu dự án và Kế hoạch dự án (xem phụ lục) + Thống nhất với học sinh kế hoạch thực hiện. 2.3.3.2. Tiến trình thực nghiệm.
- Thực hiện dự án: Học sinh làm việc theo nhóm trong thời gian 1 tuần dưới sự đôn đốc, nhắc nhở và kiểm tra tiến độ dự án của giáo viên Hoạt động của Giáo viên
Hoạt động của học sinh
- Nêu lại ý tưởng và kịch - Họp nhóm, tập hợp lại tài liệu được lựa chọn bản dự án đã thống nhất và - Nhóm trưởng nhắc lại nhiệm vụ của nhóm và các nhiệm vụ đã bàn giao điều hành các thành viên trong các vai: cho các nhóm + Diễn viên: Mọi thành viên trong nhóm đều phải - Chỉ dẫn cách thực hiện và tham gia tìm kiếm thông tin và nghiên cứu văn hạn định thời gian bản, nắm được tâm lí, lời thoại và tính cách nhân - Thường xuyên kiểm tra vật. tiến độ thực hiện dự án của + Quay phim: quay clip từng nhóm + Biên tập viên: ghi chép quá trình làm việc của - Quan sát bao quát thái độ nhóm làm việc của các thành viên + Người thuyết trình: giới thiệu quá trình nghiên trong các nhóm cứu của nhóm, trình bày kết quả (có thể kết hợp - Hỗ trợ kịp thời khi học nhiều cá nhân) sinh gặp vướng mắc - Các thành viên thực hiện dự án trên cơ sở Kế 29
hoạch dự án, Phiếu hướng dẫn nghiên cứu dự án và Tiêu chí đánh giá sản phẩm do giáo viên cung cấp trước giờ lên lớp.
- Nhóm cùng chỉnh sửa, hoàn thiện sản phẩm.
Hình ảnh minh họa cho quá trình thực hiện dự án
- Báo cáo kết quả: Giáo viên tổ chức buổi sinh hoạt câu lạc bộ, các nhóm thành viên lần lượt trình bày. Hoặc giáo viên cho học sinh trình bày trong tiết học. Hoạt động 1: Giáo viên nêu lại nhiệm vụ, chỉ dẫn về cách thức và thời gian trình bày cho các nhóm. Hoạt động 2: Các nhóm trình bày sản phẩm và chọn ra sản phẩm ấn tượng nhất. + Mỗi nhóm trình bày sản phẩm của mình (Xem lại clip) + Các nhóm nhận xét, phân tích, đánh giá và chọn ra clip hay nhất và kết quả clip của nhóm 1 về tác phẩm Chí Phèo là hay nhất. Clip của nhóm 2 được đánh giá là độc đáo nhất. Hoạt động 3: Giáo viên tổ chức cho các nhóm học sinh phân tích video và trên cơ sở nhận xét của các nhóm, Giáo viên tổng hợp và định hướng kiến thức bài học về: thế giới nhân vật, nội dung tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm. - Đánh giá dự án: Đánh giá theo tiêu chí đã thống nhất. Giáo viên đánh giá thái độ, tinh thần thực hiện dự án; tháo gỡ khó khăn vướng mắc, rút kinh nghiệm cho dự án sau. Tổ chức thảo luận: các nhóm cử đại diện đưa ra các nhận xét và câu hỏi chất vấn (nếu có) về dự án của các nhóm khác. Giáo viên đóng vai “Trọng tài” điều hành cuộc thảo luận. + Học sinh điền vào các phiếu: Phiếu phỏng vấn, Phiếu đánh giá (xem phần 30
phụ lục) + Cùng với việc trực tiếp quan sát thái độ làm việc và sự cộng tác, giáo viên tập hợp các kết quả kết hợp với biên bản làm việc nhóm, phiếu đánh giá để xem xét tính điểm cho tổng điểm toàn nhóm. Từ việc nhận điểm tổng của giáo viên, các nhóm học sinh đã căn cứ vào quá trình làm việc và phân chia điểm hợp lý trong nhóm rồi báo cáo lại cho giáo viên. Như vậy, sau hoạt động dạy học dựa trên dự án, giáo viên tạo cơ hội để học sinh chủ động kiến tạo tri thức, hình thành kĩ năng và vận dụng tổng hòa các yếu tố đó để hoàn thành các sản phẩm học tập của dự án. Sự thể hiện việc đạt được các yêu cầu cần đạt do dự án học tập đề ra qua hình thức thực hiện các sản phẩm học tập được trình bày cụ thể như sau: Các yêu cầu cần đạt do dự án Sự thể hiện qua hình thức thực hiện các đề ra sản phẩm học tập cụ thể Phân tích và đánh giá được chủ Trả lời các câu hỏi trong hướng dẫn đọc đề, tư tưởng, thông điệp mà văn hiểu. bản muốn gửi đến người đọc thông qua hình thức nghệ thuật của văn bản Nhận biết và phân tích được một số yếu tố của truyện như: cốt truyện, nhân vật, người kể chuyện, độc thoại nội tâm, bút pháp miêu tả ngôn ngữ…
- Tham
gia trả lời các câu hỏi trong tiết học
- Thuyết
trình về một số đoạn trích trong tác
phẩm.
Vận dụng được những hiểu biết về - Sưu tầm một số ý kiến của chuyên gia, bạn tác giả để đọc hiểu một số tác đọc nhận xét, đánh giá về tác giả, tác phẩm phẩm của tác giả này - Tìm đọc toàn bộ tác phẩm nếu văn bản là đoạn trích, tìm đọc tác phẩm khác của tác giả. Vận dụng được kinh nghiệm đọc, - Soạn 4 câu hỏi và đáp án gửi cho ban tổ trải nghiệm về cuộc sống và hiểu chức có liên quan đến Chí Phèo, Hạnh phúc biết về lịch sử văn học Việt Nam của một tang gia và một số đoạn trích được để nhận xét, đánh giá văn bản văn giáo viên đề xuất. học Phân tích được ý nghĩa hay tác - Liên hệ bản thân: động của văn bản văn học trong + Từ câu chuyện Chí Phèo và sự trải nghiệm việc làm thay đổi suy nghĩ, tình 31
cảm, cách nhìn và cách thưởng của bản thân, anh chị hãy trả lời câu hỏi: thức, đánh giá của cá nhân đối với Khi vấp ngã, người ta đứng lên bằng cái gì? văn học và cuộc sống - Đề ra giải pháp:
Trong đoạn trích nhà văn Vũ Trọng Phụng đã dựng lên nhiều chân dung biếm họa đặc sắc, ấn tượng nhằm tạo ra tiếng cười đả kích, lật tẩy bản chất giả dối, lố lăng, đồi bại của xã hội thượng lưu thành thị trước Cách mạng tháng 8. Trong cuộc sống quanh ta, bên cạnh những điều tốt đẹp vẫn có không ít những trò diễn đạo đức giả cần lên án. Em hãy phác họa bằng ngôn từ hoặc bằng nét vẽ một chân dung biếm họa mà anh chị thấy trong cuộc sống hôm nay? Dự án “Tôi là diễn viên - Nhân vật văn học” học sinh và giáo viên đã lưu sản phẩm hoạt động như sau: https://www.facebook.com/trankimthien2k2/videos/863620140757475 (Hạnh phúc của một tang gia)
Hình ảnh được cắt từ clip
https://www.facebook.com/thptdc3/videos/559737174584224 (Chí Phèo)
Hình ảnh được cắt từ clip 32
2.4. Kết quả thực hiện đề tài Một trong những yếu tố dẫn đến sự thành công trong nghề dạy học chính là người Thầy phải giải phóng được mọi tiềm năng trong học sinh. Việc tạo ra những tình huống có vấn đề sẽ kích thích được nhu cầu khám phá của học sinh, tạo động lực cho quá trình học tập. Phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài sẽ khơi dậy ở học sinh niềm say mê học tập, khả năng tìm tòi, bồi dưỡng năng lực thích ứng và giải quyết các vấn đề đặt ra trong học tập cũng như trong cuộc sống. 2.4.1. Hiệu quả kinh tế Đối với lĩnh vực giáo dục rất khó để đánh giá tính hiệu quả của sáng kiến về mặt kinh tế. Vì kết quả hoạt động giáo dục là những phẩm chất, năng lực, hứng thú, kết quả học tập của học sinh. Tuy nhiên khi vận dụng phương pháp dạy học dự án vào hoạt động chuẩn bị bài, tôi nhận thấy về hiệu quả kinh tế như sau. - Khi thiết kế những dự án học tập nhỏ sẽ góp phần giảm kinh phí hoạt động trải nghiệm sáng tạo so với những hình thức học tập như: thực địa, thực tế, tham quan, cắm trại... - Sử dụng tốt, có hiệu quả nguồn lực có sẵn của giáo viên, học sinh, gia đình học sinh, nhà trường, xã hội. 2.4.2. Hiệu quả về chất lượng giáo dục Việc vận dụng phương pháp dạy học dự án vào hoạt động chuẩn bị bài đối với môn Ngữ văn tại trường THPT Diễn Châu 3 đem lại những hiệu quả sau: - Đối với học sinh: Được tham gia vào các hoạt động chuẩn bị bài với phương pháp dạy học dự án, các em sẽ phát triển phẩm chất, năng lực tự chủ và tự học theo yêu cầu đổi mới giáo dục, không chỉ phát huy năng lực, phẩm chất học trong một thời gian ngắn mà nó mang lại hiệu quả lâu dài, không chỉ trong năng lực riêng( môn Ngữ văn) mà còn giúp các em phát triển năng lực chung. Mỗi bài học đều trở nên hấp dẫn với học sinh vì đó là những vấn đề có thật trong cuộc sống. + Về kết quả học tập: Kết quả hoạt động chuẩn bị bài được giáo viên lưu lại và là căn cứ để cộng vào điểm 15 phút (bài kiểm tra 15 phút số 3) của lớp 11A12. Sau khi kết thúc bài học, ở tiết dạy tiếp theo giáo viên ra đề kiểm tra 15 phút lần 3 ở lớp 11A12 như sau: “Trong đoạn trích nhà văn Vũ Trọng Phụng đã dựng lên nhiều chân dung biếm họa đặc sắc, ấn tượng nhằm tạo ra tiếng cười đả kích, lật tẩy bản chất giả dối, lố lăng, đồi bại của xã hội thượng lưu thành thị trước Cách mạng tháng 8. Trong cuộc sống quanh ta, bên cạnh những điều tốt đẹp vẫn có không ít những trò diễn đạo đức giả cần lên án. Em hãy phác họa bằng ngôn từ hoặc bằng nét vẽ một chân dung biếm họa mà anh chị thấy trong cuộc sống hôm nay?”
Kết quả bài làm của học sinh được tôi thống kê trong sự đối chiếu với bài kiểm tra 15 phút số 1, bài kiểm tra 15 phút số 2 như sau: 33
Bảng 1: Bảng so sánh kết quả kiểm tra 15 phút ở lớp 11A12
Bài kiểm tra
Lớp
11A12
Sĩ Điểm 9-10 Điểm 8 số SL % SL %
Điểm 7
Dưới Điểm 5-6
SL
%
SL
%
4
9,6
1
2,4
0
0
Yếu SL %
Bài 15’ số 1
42
8
19
Bài 15’ số 2
42
23
54,7
18 42,9
1
2,4
0
0
0
0
Bài 15’ số 3
42
38
90,4
4
0
0
0
0
0
0
29
69
9,6
Lớp 11A12 là lớp khối D nên đa số các em có tinh thần học tập và có năng khiếu văn chương. Kết quả học tập của các em khá đồng đều. So sánh với điểm kiểm tra 15 phút số 1,2 và số 3, tôi nhận thấy kết quả học tập của các em có sự tiến bộ. Ở bài kiểm tra 15 phút số 1, số học sinh đạt điểm 9,10 là 8 em chiếm 19%, số học sinh đạt điểm 8 là 29 em chiếm 69%. Ở bài kiểm tra 15 phút số 2, số học sinh đạt điểm điểm 9,10 là 23 em chiếm 54,7%, số học sinh đạt điểm điểm 8 là 18 em chiếm 42,9% Ở bài kiểm tra 15 phút số 3, số học sinh đạt điểm 9,10 là 38 em chiếm 90,4 %, số học sinh đạt điểm 8 là 4 em chiếm 9,6 % Hầu như ở bài kiểm tra 15 phút số 3, các em đều đạt được số điểm khá cao. Kiến thức và kĩ năng được rèn luyện càng thuần thục hơn nữa. Các em không chỉ nắm được kiến thức về tác giả, tác phẩm mà còn có sự quan sát, biết đặt ra vấn đề liên hệ giữa tác phẩm và cuộc sống hiện tại. Từ đó, giáo viên rèn luyện thêm cho học sinh các kĩ năng, năng lực khác như: năng lực giao tiếp, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực ngôn ngữ, năng lực cảm thụ thẩm mỹ... Sơ đồ so sánh kết quả kiểm tra 15 phút ở lớp 11A12 SL 38
40 35 29
30
23
25 18
20 15
8
10 5
4 0
0
0
1
0
0
4 1
0
0 Yếu
Dưới điểm 5-6 Bài 15' số 1
Điểm 7 Bài 15' số 2
Điểm 8 Bài 15' số 3
Điểm 9-10
34
Ở lớp đối chứng 11A13, là lớp khối D nhưng học sinh vẫn sử dụng phương pháp soạn bài và kiểm tra truyền thống. Tôi sử dụng đề kiểm tra 15 phút số 3 của lớp 11A12 để ra đề bài kiểm tra 15 phút số 3 ở lớp 11A13. Dựa trên kết quả thu được từ học sinh lớp 11A13, tôi đối chiếu kết quả bài kiểm tra 15 phút số 3 ở lớp 11A12 như sau: Bảng 2: Bảng so sánh kết quả kiểm tra 15 phút số 3 ở lớp 11A12 và 11A13
Bài kiểm tra
Sĩ số
Kiểm tra 11A12 15 phút số 3
42
Kiểm tra 15 phút số 3
41
Lớp
11A13
Điểm 910 SL
%
Điểm 8
Điểm 7
Điểm 56
Yếu
% SL
% SL
SL
%
SL
SL
38 90,4
4
9,6
0
0
0
0
0
0
0
28
68,4
11
26,8
1
2,4
1
2,4
0
So sánh kết quả nhận thức của 2 lớp thực nghiệm và lớp đối chứng qua 2 biểu đồ. Tôi thấy có sự chênh lệch đáng kể giữa kiến thức và năng lực của hai lớp. Ở lớp vận dụng phương pháp dạy học dự án vào hoạt động chuẩn bị bài, các em thường chủ động, tích cực hơn trong quá trình hình thành kiến thức. Ở lớp soạn bài theo phương pháp truyền thống đa số các em vẫn bị động trong quá trình học tập, chiếm lĩnh kiến thức nghiêng về lối đọc, chép nên giờ học không sôi nổi và hiệu quả giờ học không cao. SL 38
40 35 28
30 25 20 15
11
10 5
4 1
0
0
1
0
0
0 Yếu
Dưới điểm 5-6
Điểm 7 11A12
Điểm 8
Điểm 9-10
11A13
Sơ đồ thể hiện số lượng điểm của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng
+ Về nội dung kiến thức bài học Chúng tôi tiến hành Phiếu phỏng vấn lấy ý kiến của học sinh sau hoạt động thực nghiệm (Phiếu đánh giá - xem phụ lục 5), chúng tôi đi đến một số nhận định 35
về việc vận dụng dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài môn Ngữ văn ở trường Trung học phổ thông như sau: Với câu hỏi “Để giải quyết các bài tập dự án trong hoạt động chuẩn bị bài, em đã khai thác và sử dụng nội dung thông tin từ những nguồn nào dưới đây?” a. Từ sách giáo khoa Ngữ văn b. Từ vốn hiểu biết và kĩ năng của chính bản thân c. Từ các nguồn tư liệu tham khảo và khai thác qua máy tính có nối mạng Internet d. Từ các điều giáo viên định hướng; các bạn học hỗ trợ và ý kiến của các chuyên gia e. Cả 4 đáp án trên Ở đây có tới 32/42 học sinh (chiếm tới 76.1%) đã lựa chọn đồng thời đáp án e. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc, để thực hiện các nhiệm vụ học tập trong dạy học dự án ở hoạt động chuẩn bị bài, học sinh đã huy động tối đa nội dung thông tin từ nhiều nguồn khác nhau. Bên cạnh đó, từ số liệu ở trên, có tới số lượng học sinh đạt điểm giỏi và khá là 38 học sinh (chiếm 90,4 %), chứng tỏ hầu như học sinh trong lớp trả lời tốt các câu hỏi bài học và nắm bài ngay trên lớp. Điều này đã khẳng định: Do học sinh hoàn toàn chủ động trong dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài từ xây dựng đến triển khai kế hoạch học tập, đặc biệt là được ứng dụng ngay kiến thức lí thuyết vào thực tiễn cuộc sống, kiến thức được lưu giữ hơn trong trí nhớ của học sinh; hơn nữa, các đơn vị nội dung bài học được mở rộng và được hiểu sâu hơn. + Về môi trường học tập
Trong tiết học thực nghiệm, việc vận dụng dạy học dự án vào chuẩn bị bài học Ngữ văn đã đem đến một bầu không khí học tập thật mới mẻ. Lấy ý kiến từ học sinh sau tiết học thực nghiệm, chúng tôi thấy đã có 40/42 học sinh chọn phương án a và không có học sinh nào chọn b,c cho câu hỏi: “Khi cùng các bạn chuẩn bị bài học theo dự án, em thấy không khí giờ học diễn ra như thế nào? a. Giờ học sôi nổi, thoải mái không nhiều áp lực và có một sự trải nghiệm thú vị. b. Giờ học bình thường như bao giờ học khác mà không có dạy học dự án giờ học tẻ nhạt, trầm lắng; không có nhiều hấp dẫn. c. Giờ học tẻ nhạt, trầm lắng không hấp dẫn. Rõ ràng dạy học dự án đã cải thiện được không khí đơn điệu, buồn tẻ của những giờ học mà ở đó thuần túy chỉ là sự truyền thụ một chiều của giáo viên. Trong giờ học có sử dụng dạy học dự án, được trực tiếp tham gia kiến tạo và xây dựng kiến thức cùng với sự trải nghiệm thú vị của chính bản thân, học sinh đã cảm thấy rất thoải mái, cởi mở và thân thiện. Chính không khí sôi nổi này đã kích thích tinh thần 36
học tập, đem lại rất nhiều hào hứng cho các em khi thực hiện các nhiệm vụ học tập. Đây cũng là điều góp phần tháo gỡ được sự lúng túng của rất nhiều giáo viên Ngữ văn hiện nay trong việc tìm kiếm một phương pháp dạy học có thể nâng cao được hứng thú học tập cho học sinh. + Về năng lực tư duy và rèn luyện kĩ năng Trong bài học “Văn xuôi hiện thực Việt Nam 1930 – 1945” có sử dụng dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài, phương pháp dạy học này đã tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh và đảm bảo học sinh được tiếp nhận kiến thức một cách chủ động, tích cực. Qua kết quả cuộc phỏng vấn, con số 35/42 học sinh khẳng định: Hoạt động chuẩn bị bài thực nghiệm này là tham gia thực hiện các bài tập dự án, thảo luận sôi nổi và đưa ra được ý kiến của cá nhân. Và 30/42 học sinh có thừa nhận đã tự nghiên cứu và tìm hiểu thêm các tài liệu trước khi bắt đầu với tiết học thực nghiệm. Có thể dễ dàng nhận thấy, khi dạy học dự án đặt học sinh vào vị trí “tác giả tích cực” của quá trình học tập, học sinh được tự đề xuất, lựa chọn vấn đề nghiên cứu và tự tiến hành các công việc thì học sinh đã hoàn toàn chủ động (thu thập, xử lý thông tin; tích cực thực hiện các hành động học trong sự tương tác với người khác). Nhờ đó mà tính tự lực, tính trách nhiệm đồng thời năng lực tư duy sáng tạo và giải quyết vấn đề có điều kiện phát triển. Hơn nữa, khi học sinh đưa ra được ý kiến của cá nhân đó là lúc các em được tự tìm hiểu chính mình và tự khẳng định mình. Đây cũng chính là biểu hiện của kĩ năng tự học mà dạy học dự án hình thành và phát triển ở người học. Hầu hết học sinh đều nhận thấy kiến thức mà các em lĩnh hội được từ học tập theo dự án không phải chỉ từ sự cung cấp và truyền đạt của giáo viên mà đều thông qua hình thức làm việc nhóm, hợp tác với các bạn trong lớp. Dạy học dự án đã tạo được môi trường học tập tương tác đa chiều. Trong quá trình làm việc nhóm, năng lực cộng tác, chia sẻ và năng lực lĩnh hội, đánh giá được củng cố và nâng cao. Phát huy được năng lực tự chủ và tự học của học sinh. Khi có được những kĩ năng thiết yếu của xã hội hiện đại này, học sinh sẽ trở thành con người năng động, tự tin. Như vậy, Dạy học dự án hoàn toàn có khả năng vận dụng vào hoạt động chuẩn bị bài học môn Ngữ văn trong trường Trung học phổ thông ở Việt Nam và nếu được vận dụng một cách phù hợp, sáng tạo thì sẽ tạo được nhiều hứng thú cho học sinh; phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập, hình thành các năng lực tự chủ và tự học và góp phần đa dạng hóa các phương pháp dạy học Ngữ văn theo xu hướng hội nhập quốc tế.
37
Bảng 3: Thang đo thái độ hứng thú học tập với phương pháp dạy học dự án được vận dụng vào hoạt động chuẩn bị bài
Mức độ (%) Hiệu quả có thể mang lại
Nội dung kiến thức
- Nội dung bài học được mở rộng, phong phú hơn và gắn liền với thực tiễn cuộc sống
Nhiều
không đáng kể
Không
90%
10%
..........
- Kiến thức được lĩnh hội dựa trên việc ứng dụng ngay lý thuyết được học vào thực tiễn nên được lưu giữ 100% sâu hơn - Các đơn vị kiến thức được hình thành một cách năng động thông qua việc xâu chuỗi với nhiều môn học
Về năng lực
Có nhưng
90%
- Phát triển kĩ năng tự học, tự định hướng và xử lý các vấn đề phức tạp 100% (Học sinh được tự đề xuất, lựa chọn vấn đề nghiên cứu và tự tiến hành các công việc)
tư duy - Rèn luyện các kĩ năng thu thập và 90% và xử lí thông tin và kĩ năng công nghệ ........... kĩ thông tin năng - Kĩ năng làm việc nhóm (sự cộng tác, chia sẻ, biết lắng nghe và lĩnh 90% hội,...) - Phát triển kĩ năng tư duy sáng tạo 100% và giải quyết vấn đề ( trong thiết kế sản phẩm dự án và trình diễn sản phẩm ấy ) - Nâng cao kĩ năng thuyết trình và 90% khả năng giao tiếp Về hứng thú học tập
............ ............
10%
..............
.......... ..........
10%
.......... .........
............... 10% ..............
10%
Nội dung học tập gắn với sở thích, nhu cầu của người học nên dễ hình 100% ............. thành ở học sinh hứng thú học tập tạo ra bầu không khí học tập cởi mở, thoải mái
..........
38
- Về phía giáo viên: Qua việc vận dụng phương pháp dạy dự án trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn, bản thân mỗi giáo viên có cơ hội học tập từ đồng nghiệp, học sinh, chuyên gia, nhà khoa học …để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kĩ năng mềm một cách nhanh chóng, tiết kiệm và hiệu quả nhất. - Về phía nhà trường, gia đình, xã hội:
Qua hoạt động chuẩn bị cho giờ học Ngữ văn, học sinh biết vận dụng sáng tạo những kiến thức, kĩ năng vào thực tiễn cuộc sống hiện tại; học sinh biết tôn trọng các giá trị truyền thống, tốt đẹp của gia đình, đất nước, giữ được bản lĩnh của mình trước các tệ nạn xã hội, đóng góp cho xã hội những công dân trong thời đại 4.0.
39
Phần III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận 3.1.1. Quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài Qua triển khai đề tài “Vận dụng phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực tự chủ và tự học của học sinh”, chúng tôi đã đưa ra và giải quyết các vấn đề sau: - Chúng tôi đã làm rõ đặc điểm bản chất của dạy học dự án; ưu điểm, hạn chế của nó đồng thời chỉ ra được vai trò của giáo viên và học sinh; đặc biệt có nhấn mạnh đến vai trò của học sinh trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn. - Trên cơ sở bộ tiêu chí điều kiện để vận dụng dạy học dự án, chúng tôi tiến hành phân tích các dạng bài học của môn Ngữ văn Trung học phổ thông và nhận thấy có hai khả năng vận dụng dạy học dự án được coi là mang tính khả thi hơn cả: vận dụng phương pháp dạy học dự án trong các giờ học bình thường và vận dụng dạy học dự án trong các hoạt động ngoại khóa. Với quan điểm này, dựa trên tiến trình chung của dạy học dự án, chúng tôi trình bày quy trình vận dụng phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học môn Ngữ văn ở trường trung học phổ thông. - Chúng tôi tiến hành thực nghiệm sư phạm tổ chức áp dụng phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị cho bài học “Hạnh phúc của một tang gia” của Vũ Trọng Phụng và “Chí Phèo” của Nam Cao cho học sinh lớp 11 Trường THPT Diễn Châu 3. Quá trình thực nghiệm đã chứng tỏ tính khả thi của phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn ở trường Trung học phổ thông nhằm tích cực hóa hoạt động của học sinh và tạo được hứng thú cho các em. Tuy nhiên, thực nghiệm sư phạm mới chỉ được tiến hành một lần nên việc đánh giá hiệu quả của đề tài còn chưa có tính khái quát. Chúng tôi sẽ tiếp tục thực nghiệm trên diện rộng hơn để có thể áp dụng dạy học dự án vào hoạt động chuẩn bị bài một cách đại trà. Kết quả của hoạt động chuẩn bị bài đã khẳng định tính khả thi của dự án. Từ đó cho thấy rằng giáo viên hoàn toàn có thể và nên áp dụng phương pháp dạy học dự án vào hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học môn Ngữ văn và tiến trình dạy học ở trên lớp. Đề tài được nghiên cứu và thực hiện một cách khách quan, khoa học, sử dụng số liệu chính xác, đã được khảo sát, có cơ sở lý luận và thực tiễn đầy đủ, rõ ràng, phù hợp với thực trạng dạy học. Đề tài được trình bày có tính hệ thống, theo quy định về viết sáng kiến kinh nghiệm, lập luận rõ ràng, chặt chẽ, lôgíc. 3.1.2. Ý nghĩa của đề tài Đề tài có ý nghĩa giúp cho người dạy và người học văn thay đổi cách dạy, cách học của mình. Những giải pháp mà tôi áp dụng trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn là những giải pháp phát triển năng lực tự học cho học sinh, 40
tạo tâm thế tiếp nhận và có đủ tri thức nền để tham gia hoạt động đọc hiểu một cách tự tin, sáng tạo và hiệu quả; từ đó phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu dự thi học sinh giỏi môn Ngữ văn và bước đầu cũng đã góp phần nâng cao thành tích của đội tuyển dự thi học sinh giỏi các cấp môn Ngữ văn. Đồng thời, giáo viên có thể phát hiện và bồi dưỡng một số em có năng khiếu diễn xuất, định hướng nghề nghiệp cho các em sau này. 3.2. Kiến nghị Qua nghiên cứu và thực hiện đề tài này, tôi có đề xuất kiến nghị sau: - Đối với giáo viên: Thứ nhất, vận dụng phương pháp dạy học dự án vào hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn đã phát huy vai trò trung tâm thực hiện nhiệm vụ học tập của học sinh, kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu. Các nhiệm vụ học tập được học sinh thực hiện theo nhóm với tính tự giác, tự lực cao. Thứ hai, giáo viên phải là người quan sát, nhận xét, góp ý để đánh giá ngay trong quá trình hoạt động thực tiễn, dựa trên các biểu hiện cụ thể về phương thức chứ không chỉ dựa vào kết quả hoạt động cuối cùng của học sinh. Thứ ba, cần thu hút sự tham gia, phối hợp, liên kết nhiều lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường như: giáo viên chủ nhiệm, cha mẹ học sinh...tham gia hỗ trợ hoạt động với học sinh. Thứ tư, cần sử dụng nhiều phương pháp khác nhau khi tổ chức hoạt động vận dụng phương pháp dự án vào hoạt động chuẩn bị bài để tránh nhàm chán, thu hút được toàn thể học sinh tham gia. Thứ năm, đổi mới hình thức kiểm tra đánh giá, nội dung kiểm tra cần chú trọng đến thực tiễn của kiến thức mà các em đã được học. Thứ sáu, giáo viên cần phải có tinh thần trách nhiệm cao, yêu nghề, tích cực tự học, tự bồi dưỡng để trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, thường xuyên đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh. Thứ bảy, giáo viên và học sinh cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng và chu đáo khi lên kế hoạch tổ chức thực hiện dự án. - Đối với học sinh: phải thấy được vai trò của môn Văn trong việc giáo dục nhân cách và bồi dưỡng tâm hồn con người. Từ đó, có thái độ học tập đúng đắn với môn học, cần nâng cao tinh thần chủ động, tự học, tự sáng tạo, tìm tòi. - Đối với tổ chuyên môn và các cấp quản lý: Cần có sự đầu tư về cơ sở vật chất và các phương tiện dạy học, trang thiết bị hiện đại để dạy học dự án đạt được hiệu quả tối ưu. Các ban ngành giáo dục cần quan tâm nhiều hơn nữa đến bộ môn Văn, tiếp tục có những đợt tập huấn, chuyên đề về cách dạy học để phát triển năng lực tự chủ và tự học cho học sinh theo tinh thần của đổi mới dạy học hiện nay của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Cần tiếp tục phát huy hình thức kiểm tra đánh giá theo hướng đánh giá năng lực người học là chủ yếu. Nhà trường tăng cường các câu lạc 41
bộ Văn học để học sinh có dịp mở rộng hiểu biết văn chương, giúp các em có hứng thú học Văn nhiều hơn, đạt kết quả cao hơn. Sáng kiến kinh nghiệm “Vận dụng phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực tự chủ và tự học của học sinh” tuy thể hiện niềm đam mê của người thực hiện đề tài nhưng vẫn mang sắc thái chủ quan. Mong các thầy cô giáo và Ban giám khảo góp ý để bài dạy ngày càng tốt hơn, hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! Diễn Châu, ngày 9 tháng 3 năm 2021
42
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ giáo dục & Đào tạo. Chương trình giáo dục phổ thông. Nxb giáo dục, 2006 2. Bộ giáo dục & Đào tạo. Phân phối chương trình Ngữ văn 10,11,12 3. Bộ giáo dục& Đào tạo. SGK Ngữ văn 10, 11,12 ( tập I, II). Nxb giáo dục, 2009 4. Phan Trọng Luận. Thiết kế bài giảng ngữ văn 10, 11 và 12 (Tập 1,2). Nxb giáo dục, 2006. 5. Nguyễn Thị Phương Hoa- Võ Thị Bảo Ngọc. Tình hình vận dụng phương pháp project trong dạy học ở trường Đại học Ngoại Ngữ- Đại học Quốc gia Hà Nội. Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2004. 6. Phạm Toàn. Công nghệ dạy văn. Nxb Lao động, 2006. 7. Debbie Candau, Jennifer Doherty, Robert Hannafin, John Judge, Judi Yost, Paige Kuni. Intel teach to the future (Chương trình dạy học cho tương lai của Intel). Nxb Lao động xã hội, 2004. 8. Đỗ Ngọc Thống (2004), “Đổi mới nội dung và hình thức kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn”, Tạp chí Dạy và Học ngày nay, số 9 tháng 4 năm 2004, tr. 15- 17. 9. Phạm Đức Quang (2004), “Về phương pháp dạy học tích cực & dạy học theo dự án”, Tạp chí Dạy và Học ngày nay, số 3 tháng 4 năm 2004, tr. 10- 17. 10. Đỗ Hương Trà (2007), “Dự án và tiến trình thực hiện”, Tạp chí giáo dục số 157 kỳ 1 tháng 3 năm 2007, tr. 12- 14. 11. Nguyễn Thị Diệu Thảo- Nguyễn Văn Cường (2004), “Dạy học theo dự ánmột phương pháp có chức năng kép trong đào tạo giáo viên”, Tạp chí giáo dục, số 80 (4/ 2004), tr. 15- 17. 12. Các trang web có liên quan http://honghia.net/day-hoc-theo-du-an.aspx http://vi.wikipedia.org (các từ khóa : méthode, pédagogie, pédagogie active, pédagogie de project, project,...). http: //www.eduquer-respect. Pédagogie- et- didactique/index.html 13. Bộ giáo dục và đào tạo, Tài liệu bồi dưỡng giáo viên phổ thông đại trà.
43
PHỤ LỤC 1 SỔ THEO DÕI DỰ ÁN Tên dự án: ............................................ Trường:..................................................
Năm học:
Lớp: ........................................................ Nhóm: ................................................... STT
Họ và tên
Lớp
Chức vụ
Thầy cô giáo hướng dẫn: STT
Họ và tên
Môn
Những người khác có liên quan: STT
Họ và tên
Chức vụ
Giới thiệu chung về dự án: - Thời gian thực hiện: từ .................... đến ................ - Vấn đề nghiên cứu: ................................................... - Những ý tưởng ban đầu- Kết quả mong đợi - Phương pháp làm việc- Phương tiện cần thiết: - Kế hoạch thực hiện và phân công nhiệm vụ STT
Thời gian
Công việc
Người thực hiện
Quá trình làm việc: Những hoạt động chính và kết quả Những khó khăn gặp phải và biện pháp giải quyết: 44
PHỤ LỤC 2 BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM (Mẫu báo cáo kết quả làm việc nhóm dùng cho học sinh trong quá trình học tập theo dự án) Tên bài học:......................................................... Thời gian:............................................................ Tên nhiệm vụ nhóm:........................................... Danh sách nhóm và các nhiệm vụ được phân công STT Họ và tên Nhiệm vụ Tự đánh giá Ghi chú 1..…… 2..…… PHỤ LỤC 3 Tên bài học: “Văn xuôi hiện thực Việt PHIẾU HƯỚNG DẪN NGHIÊN Nam 1930-1945” (SGK Ngữ văn11) CỨU Lớp:11A12- THPT Diễn Châu 3 Dự án: Tôi là diễn viên- Nhân vật văn học Tên nhóm: ……………………… 1. Nhà biên kịch: - Nghiên cứu tìm kiếm và lựa chọn tư liệu liên quan đến bài học (sưu tầm các tác phẩm văn học và các bộ phim về Số đỏ của Vũ Trọng Phụng và Chí Phèo của Nam Cao trên báo chí và truyền hình; ý kiến của nhà phê bình văn học; các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng và Nam Cao) - Tìm hiểu các nội dung bài học “Văn xuôi hiện thực Việt Nam 1930-1945” (SGK Ngữ văn11) - Chuyển thể kịch bản từ một truyện ngắn, tiểu thuyết 2. Diễn viên: - Nghiên cứu đặc điểm về nhân vật, nghệ thuật miêu tả về nhân vật trong đoạn trích, tác phẩm để có thể chuyển tải tư tưởng mà nhà văn muốn gửi gắm. Chọn cách tốt nhất để diễn đạt đầy đủ những nội dung trên: + Trang phục: phù hợp với nhân vật + Từ ngữ: độc thoại hoặc đối thoại của nhân vật + Hành động, diễn biến tâm lí của nhân vật: bám sát văn bản trong sách giáo khoa để am hiểu về nhân vật và thể hiện tốt vai mình đảm nhận. 3. Đạo diễn - Chỉ đạo diễn xuất - Lựa chọn các vai diễn phù hợp 4. Quay phim: 5. Phụ trách âm thanh, ánh sáng, trang phục
45
PHỤ LỤC 4 TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ DỰ ÁN Bài học “Văn xuôi hiện thực Việt Nam 1930-1945” (SGK Ngữ văn 11, tập 1) Các tiêu chí đánh giá
Điểm số
Clip chuyển thể từ tác phẩm văn học sang điện ảnh VỀ NỘI DUNG
30
* Nội dung trong clip có bám sát các đoạn trích/ tác phẩm SGK
15
* Ngôn ngữ, hành động của diễn viên thể hiện được tâm lí nhân vật, tư tưởng nhà văn muốn gửi gắm.
15
VỀ DIỄN VIÊN
30
* Trang phục phù hợp với nhân vật
10
* Diễn tả tâm lí, hành động của nhân vật
10
* Truyền cảm xúc cho người xem
10
CHẤT LƯỢNG HÌNH ẢNH
20
Hình ảnh có rõ nét, cảnh quay phong phú PHỐI HỢP GIỮA CÁC THÀNH VIÊN TRONG NHÓM
20
* Các cảnh quay có sự liên kết chặt chẽ, thấy được sự chuyển biến của cốt truyện.
10
* Các thành viên trong nhóm thực hiện “Tròn vai”
10
Tổng điểm
100
46
PHỤ LỤC 5 PHIẾU ĐÁNH GIÁ DỰ ÁN Nhóm................. Ngày....tháng....năm 20… Các tiêu chí đánh giá
Điểm số
Clip chuyển thể từ tác phẩm văn học sang điện ảnh VỀ NỘI DUNG
30
* Nội dung trong clip có bám sát các đoạn trích/ tác phẩm SGK
15
* Ngôn ngữ, hành động của diễn viên thể hiện được tâm lí nhân vật, tư tưởng nhà văn muốn gửi gắm.
15
VỀ DIỄN VIÊN
30
* Trang phục phù hợp với nhân vật
10
* Diễn tả tâm lí, hành động của nhân vật
10
* Truyền cảm xúc cho người xem
10
CHẤT LƯỢNG HÌNH ẢNH
20
Hình ảnh có rõ nét, cảnh quay phong phú PHỐI HỢP GIỮA CÁC THÀNH VIÊN TRONG NHÓM
20
* Các cảnh quay có sự liên kết chặt chẽ, thấy được sự chuyển biến của cốt truyện.
10
* Các thành viên trong nhóm thực hiện “Tròn vai”
10
Tổng điểm
100
47
PHỤ LỤC 6 PHIẾU PHỎNG VẤN Các em học sinh thân mến! Để góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn ở trường Trung học phổ thông và đa dạng hóa các phương pháp dạy học Ngữ văn nhằm gây được nhiều hứng cho học sinh, tôi xin ý kiến đánh giá của các em về việc vận dụng phương pháp dạy học dự án trong hoạt động chuẩn bị môn Ngữ văn ở trường Trung học phổ thông. Mong các em vui lòng trả lời những câu hỏi dưới đây. Các thông tin thu được, tôi hoàn toàn sử dụng với mục đích nghiên cứu.
1. Từ những hiểu biết về phương pháp dạy học dự án (DHDA) và từ sự trải nghiệm với học tập theo dự án ở hoạt động chuẩn bị bài “Văn xuôi hiện thực Viêt Nam 1930-1945”, theo em, trong các vai được chỉ định, học sinh Trung học phổ thông( HS THPT) có thể tự lực triển khai các dự án học tập khi học Ngữ văn được không? - Em nghĩ rằng HS THPT có thể thực hiện nhưng không tốt lắm bởi sẽ gặp rất nhiều khó khăn. - Em nghĩ rằng HS THPT không đủ khả năng. - Em nghĩ rằng HS THPT hoàn toàn có khả năng đảm nhận tốt nhiệm vụ học tập này khi có sự định hướng của giáo viên (GV). - Ý kiến khác 2. Em có sẵn sàng với hoạt động chuẩn bị bài có sử dụng phương pháp DHDA không? - Không muốn và chỉ thích soạn bài theo câu hỏi hướng dẫn học bài trong SGK. - Sẵn sàng. - Em sẽ tích cực tham gia nếu GV thiết kế được các nhiệm vụ học tập hấp dẫn, có chủ đích, sát cuộc sống.
Ý kiến của em:............. 3. Em cho rằng việc vận dụng DHDA vào chuẩn bị bài cho giờ học Ngữ văn ở trường THPT thích hợp hơn cả trong trường hợp nào sau đây? - Khi chủ đề nội dung bài học Ngữ văn gắn liền với thực tiễn mang tính thời sự, cập nhật và có cơ sở để thiết lập được các nhiệm vụ học tập có chủ đích, sát cuộc sống. - Khi nội dung bài học Ngữ văn thiên về cảm xúc. - Khi nội dung bài học Ngữ văn là những vấn đề cần phải có sự liên hệ với người học. 48
- Ý kiến của em:.................... 4. Khi cùng các bạn chuẩn bị bài theo dự án, em thấy không khí giờ học diễn ra như thế nào? - Giờ học sôi nổi, thỏai mái không nhiều áp lực và có một sự trải nghiệm thú vị. - Giờ học bình thường như bao giờ học khác mà không có DHDA.
- Giờ học tẻ nhạt, trầm lắng không hấp dẫn. - Ý kiến của em:....................
5. Trước khi bắt đầu với tiết học thực nghiệm, em có tự nghiên cứu và tìm hiểu thêm các tài liệu phục vụ bài học không? - Công việc ấy được tiến hành rất chu đáo. - Có làm nhưng không đáng kể. - Không chuẩn bị gì cả ngoài đọc sách giáo khoa. - Ý kiến của em:................ 6. Hoạt động chủ yếu của em trong tiết học thực nghiệm này là gì? - Tham gia thực hiện các bài tập dự án, thảo luận sôi nổi và đưa ra được ý kiến của cá nhân. - Chỉ trả lời câu hỏi do GV đưa ra và lắng nghe, ghi chép lời giảng của GV mà bản thân không có ý kiến gì. - Làm việc riêng. Ý kiến của em:................ 7. Để giải quyết các bài tập dự án trong tiết học thực nghiệm, em đã khai thác và sử dụng nội dung thông tin từ những nguồn nào dưới đây? (Em có thể lựa chọn nhiều đáp án) - Từ sách giáo khoa Ngữ văn. - Từ vốn hiểu biết và kĩ năng của chính bản thân. - Từ các nguồn tư liệu tham khảo và khai thác qua máy tính có nối mạng Internet. - Từ các điều giáo viên định hướng; các bạn học hỗ trợ và ý kiến đóng góp của chuyên gia. - Các ý kiến trên. 8. Sau khi học xong bài “Văn xuôi hiện thực Việt Nam 1930-1945” có sử dụng DHDA, em có được những hiểu biết về kiến thức bài học chủ yếu thông qua con đường nào? 49
- Giáo viên cung cấp và truyền đạt. - Cá nhân em độc lập làm việc. - Bằng hình thức làm việc nhóm cộng tác với các bạn và có sự tham vấn của GV. - Ý kiến của em:................ 9. Khó khăn lớn nhất mà em gặp phải khi chuẩn bị bài theo các dự án học tập là gì? - Khi dự án lựa chọn ý tưởng dự án và xây dựng kế hoạch triển khai dự án. - Thiết kế sản phẩm và trình bày sản phẩm. - Đánh giá dự án. - Ý kiến của em:............ 10. Căn cứ vào đặc điểm của DHDA và thực tiễn trải nghiệm của em với học tập theo dự án, hãy thử đưa ra đánh giá về những hiệu quả của phương pháp DHDA đối với môn Ngữ văn ở trường THPT theo các tiêu chí sau: Mức độ Hiệu quả có thể mang lại
Nội dung kiến thức
Nhiều
- Nội dung bài học được mở rộng, phong phú hơn và gắn ............ liền với thực tiễn cuộc sống - Kiến thức được lĩnh hội dựa trên việc ứng dụng ngay lý ........... thuyết được học vào thực tiễn nên được lưu giữ sâu hơn
Có nhưng không đáng kể
Không
............
..........
............
............
..............
..........
.........................
..........
.........................
..........
.........................
..........
- Các đơn vị kiến thức được hình thành một cách năng động thông qua việc xâu chuỗi với nhiều môn học - Phát triển kĩ năng tự học, tự định hướng và xử lý các vấn ............ Về năng đề phức tạp (HS được tự đề xuất, lựa chọn vấn đề nghiên lực cứu và tự tiến hành các công ............. tư duy việc) ............. và - Rèn luyện các kĩ năng thu kĩ năng thập và xử lí thông tin và kĩ .............
50
năng công nghệ thông tin - Kĩ năng làm việc nhóm (sự cộng tác, chia sẻ, biết lắng nghe và lĩnh hội,...) - Phát triển kĩ năng tư duy sáng tạo và giải quyết vấn đề (trong thiết kế sản phẩm dự án và trình diễn sản phẩm ấy) - Nâng cao kĩ năng thuyết trình và khả năng giao tiếp Về hứng thú học tập
Nội dung học tập gắn với sở thích, nhu cầu của người học ........... nên dễ hình thành ở HS hứng thú học tập tạo ra bầu không khí học tập cởi mở, thoải mái
.............
..........
Các thông tin cá nhân (Nếu các em vui lòng cung cấp): Họ và tên:.............................Lớp:.............
Xin cảm ơn các em! Chúc các em học tốt!!!
51
PHỤ LỤC 7 SẢN PHẨM DỰ ÁN CỦA HỌC SINH LỚP THỰC NGHIỆM
52
53