VIỆT NHÂN LƯU THỦY
Á ĐÔNG
TẠP BỆNH LUẬN BẢN NGHĨA - Nguyên Văn : Hán, Trương Trọng Cảnh - Bản Nghĩa
: Việt Nhân Lưu Thủy
- Người dịch : Lương Y Huỳnh Hiếu Hữu - Biên tập
: Lương Y Lâm Văn Sơn
- Đánh máy
: Nhan Ngọc Tấn
Phục bản 2012 : Huỳnh Hiếu Nghị 2006 - 2012 1
DANH SÁCH *
THÀNH VIÊN NHÓM HỌC TẬP ĐÔNG Y HÁN VIỆT ***
12345678-
Lương Y Huỳnh Hiếu Hữu Cư sĩ Phạm Văn Nam Lương Y Hoàng Văn Anh Lương Y Nhan Thành Huê Lương Y Lâm Văn Sơn Bác Sĩ Đinh Việt Thức Lương Y Bùi Huy Giám Ktv Nhan Ngọc Tấn
___________________________ *Theo thứ tự thời biểu tham gia nhóm.
2
LỜI NGƯỜI DỊCH _____________________
Đức Trọng Cảnh làm sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận chỉ có chung một bài tựa, Ngài còn nói “hiệp thành 16 quyển”. Chứng tỏ Ngài chỉ làm một bộ sách, một bộ Thái Cực Luận bệnh gồm : Nhất Dương là Thương Hàn Luận, nói về Thái Dương làm bệnh, Thái Dương là Dương Hàn làm bệnh tại Biểu, Dương bị Thương bởi Hàn mà bệnh nên sách gọi là Thương Hàn. Nhất Âm là Tạp Bệnh Luận, nói về Thiếu Âm làm bệnh, Thiếu Âm là Âm Nhiệt làm bệnh tại Lý, vì Âm tính đa đoan, phức tạp, nghĩa này đã từng tỏ lộ ở Kinh Dịch cho nên gọi là Tạp Bệnh. Như vậy 2 sách này không thể đọc xa rời nhau và cái nghĩa “Nhất Âm Nhất Dương chi vi Đạo “ đã được tác giả cụ thể tuân thủ. Người đời sau đổi tên Tạp Bệnh Luận thành “Kim Quỷ Yếu Lược” chẳng những không hiểu thâm nghĩa của chữ Tạp mà còn không thấy được ý nghĩa làm sách của Trọng Sư, khiến cho Tiên sinh Việt Nhân Lưu Thủy phải chê trách nơi lời tựa. Chúng tôi do tuân thủ ý nghĩa làm sách này, cho nên dịch thuật, trình bày cũng y theo phương thức đã làm tại Thương Hàn Luận Bản Nghĩa, nói rõ nơi phàm lệ của sách, ở đây không lập lại. Ước mong các bằng hữu từng đọc sách Thương Hàn Luận Bản Nghĩa, tiếp tục đọc sách này cho khỏi thiếu xót. Trước khi đọc sách này nên đọc Thương Hàn Bản Nghĩa, mới mong thấu rõ cội nguồn truyền thống của Đông Y.
Quý Thu năm Ất Dậu 2005 Lương Y Huỳnh Hiếu Hữu
3
Tiểu sử Cụ Lưu Thủy Nguyễn Văn Ngôn Tiên Sanh
Cụ Lưu Thủy tiên sanh sinh giờ Thìn, ngày mồng 3 tháng 5 năm Mậu Tý (1887). Sinh chánh quán tại làng La Thọ, tổng Hạ-Nông phủ Viện-Bàn, tỉnh Quảng Nam. Nay đổi lại là: thôn La Thọ, xã Thanh Phong, quận Điện Bàn, Quảng Nam. Thân sinh của Cụ là ông Nguyễn Văn Ý, xuất thân trong hàng Nho Giáo, học vấn uyên thâm, đậu tiếp 3 khoa Tú Tài, học trò theo học rất đông, thành đạt rất nhiều. Cụ Lưu Thủy nhờ nền nếp nhà nho, học hành mau giỏi, 16 tuổi đã vào trường Đốc học tỉnh, 19 tuổi khoa ngọ thi hương,, Cụ đậu đến trường nhì, vào đặng trường ba, rồi kế tiếp học sanh tại trường tỉnh. Tài hoa lổi lạc, nhưng chẳng gặp thời. Ngay lúc bây giờ, văn học nước nhà chia phôi nhiều nẽo; Âu Á trộn nhầu, nửa cũ nửa mới, lăn xăn không nhứt định. Cụ đành quyết chí vào Nam, trãi khắp sơn lam thắng cảnh, dưa muối một bầu, tìm đường giải thoát; lúc bây giờ Cụ lo lễ Phật tụng kinh, đánh chuông gõ mỏ. Cụ để tâm nghiên cứu Triết lý nhà Phật, có hồi ở Nam bộ giảng kinh, cũng có lúc về Quảng Nam thuyết pháp. Cụ thường vãng du giao thiệp với chùa Chúc Thánh Hội An, và chùa Phổ Thiên Đà Nẳng. Các chùa ở Quảng Nam, cử Cụ làm thượng tọa thuyết pháp. Cụ ăn chay, niệm Phật, thường khảo cứu kinh Phật sách Nho, đặng rõ thấy cái thâm ý của Thánh hiền xưa, lấy sự độ sanh làm mục đích, và lấy sự cứu thế làm phương châm. Sẵn nền Nho học, nên Cụ hết lòng nghiên cứu các sách thuốc Đông Y; trãi 36 năm đăng đẳng, đã lắm công phu. 4
Ngoài Tố Vấn, Nan Kinh, Cụ chăm ý nhứt tìm tâm cởi mở. Các sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận của Thánh y Trương Trọng Cảnh; ấy là tinh lực trong một đời của Cụ đó. Cụ chú thích luận Thương Hàn và luận Tạp Bệnh, nhơn khi chưa bệnh, mà đã biết trước lúc ốm đau, nhơn sự ốm đau, mà ấn định chứng bệnh để mà trị bệnh đó. Ấy là pháp môn rất giản tiện về sự nhận bệnh và trị bệnh vậy. Cụ chú thích 2 bộ sách Thương Hàn và Tạp Bệnh đã thành trãi nhiều phen lo xuất bản, mà chưa kịp; Bị tuổi cao, thân già, sức yếu, Cụ giao 2 bộ sách đó cho quý liệt vị NAM DƯƠNG HỌC PHÁI, gia tâm nghiên cứu thêm, để lần lần xuất bản. Ấy là tâm chí mong muốn của Cụ đó. Giờ Mùi,ngày 21,tháng 9, năm Giáp Thìn.Tức là 3 giờ chiều,ngày 26,tháng 10, năm 1964. Cụ tiêu diêu về nước an dưỡng. Hưởng thọ 78 tuổi. Qua giờ Thìn, ngày 23, tháng chín, năm Giáp Thìn.Tức là 10 giờ sáng, ngày 28, tháng 10 năm 1964. Ninh thố Cụ tại Hoa Viên. Thống tích tai ! Thương Hàn Tạp Bệnh, thượng vị thành công; Hữu chí đồng tâm, ưng tu nổ lực. Tạm dịch nghĩa: Thương thay ! Thương Hàn Tạp Bệnh chữa thành công. Hữu chí đồng tâm, lo gắng sức. Ngày mồng 1 tháng 11 năm Giáp Thìn Tức là ngày 4 tháng 12 năm 1964 Cháu, Nguyễn Văn Định (tức Giáo Nhự, Hiệu Như Sanh) Phụng Cung Lục
______________________________________________________________________________ *Lời người dịch: Có nhiều đoạn dông dài hoặc trùng ý với lời tựa của tác giả, xin lược bớt cho được giản dị. 5
TẠP BỆNH LUẬN BẢN NGHĨA ___________________________________
BÀI TỰA
- Sao gọi là Tạp Bệnh ? – Vì là phản ảnh của Thái Dương. Tạp Bệnh Luận chủ trương Thiếu Âm, tiết thứ 10 trong chương Thể lệ của luận này đã nói rõ. - Sao lại lấy Thái Dương làm chủ ? Thưa : Thiếu Âm không thể làm chủ. Chủ là ở Thái Dương, tiết thứ 11 tiếp theo đó có dẫn Nội Kinh rằng : ‘Khuyết Dương độc hành’ là nói cái gì ? Giải đáp rằng : ‘Đó là có Dương không Âm’ , ý nói rằng Khuyết Dương là Thái Dương Hàn Khí, trong Dương đã có Âm không cần Thiếu Âm làm ra.
Đọc 2 tiết này (tiết 10 và 11) một chữ Tạp đã mặc nhiên ngụ ý này rồi ! chẳng dè người đời sau không rõ nghĩa của chữ Tạp, mà xưng là Kim Quỷ, chuộng hư danh mà bỏ mất hiện thực. Cho nên người chú giải tuy rất nhiều, nhưng đều gãi không đúng chỗ ngứa. Bởi đó, nên tôi cảm thấy Y Đạo sở dĩ không tiến hành là do không thấu rõ học thuyết Âm Dương mà ra, Âm Dương không phải là vật vu vơ không thể chỉ đích xác. Luận điều Tam Dương Tam Âm không thông, thì công dụng của Thái Dương và Thiếu Âm không rõ rệt. Thái Dương Thiếu Âm không rõ rệt thì tông chỉ Thái Dương thống lãnh tất cả sẽ mù mờ.
Y Đạo đã thiếu cội nguồn thì cái gọi là ‘thực học cứu đời’ ở đâu ? Cái chi là Tam Dương Tam Âm ? - Thiếu Dương là Dương mới sinh. – Dương Minh là Dương đã lớn mạnh (tráng Dương). – Thái Dương là Dương cùng tột, Dương cùng tột rồi Âm sinh, do đó Thái Dương chủ Hàn Khí, một câu ‘Thái Dương Kinh’ là đủ cả Âm Dương rồi. - Thái Âm là Âm cùng tột. – Khuyết Âm là Âm cùng tột rồi hết. – Thiếu Âm là Âm hết rồi Dương sinh, do đó Thiếu Âm chủ Nhiệt Khí, một câu ‘Thiếu Âm Kinh’ là đủ cả Âm Dương rồi. 6
Ngoài ra như Thiếu Dương Hỏa Khí, Dương Minh Táo Khí, Thái Âm Thấp Khí, Khuyết Âm Phong Khí đều theo trong Thái Dương Hàn Khí và Thiếu Âm Nhiệt Khí biến hóa mà ra các thứ bệnh danh. Sở dĩ như thế là sao ? Bởi Thái Dương Thiếu Âm gồm đủ tính Âm Dương, đủ tính Hàn Nhiệt, đủ tính căn nguyên của các bệnh tật. Cho nên gọi là Âm Dương, quyết nhiên chỉ là 2 Kinh này (Thái Dương Thiếu Âm). Thế nào là Thái Dương thống lãnh tất cả ? - Như trên đã nói, Thái Dương Thiếu Âm đủ tính Âm Dương, đủ tính Hàn Nhiệt. Các Kinh Khí khác đều thuộc dưới Thái Dương Hàn Khí. Tuy Thiếu Âm có đủ tính Âm Dương, đủ tính Hàn Nhiệt nhưng không được làm chủ vì chỉ là hóa thân của Thái Dương. Sở dĩ như thế là vì Thái Dương Thiếu Âm bản lai nhất Kinh, Chủ Hàn chủ Nhiệt bản lai nhất Khí, làm sao biết như thế ? Ở tiết cứu Biểu cứu Lý trong chương Thể lệ của bản luận đã nêu rõ ý này. Đó là ‘đệ nhất nghĩa’ khi đọc Thương Hàn Tạp Bệnh Luận. Hoặc giả hỏi rằng : Thánh xưa cố ý an bày như thế chăng ? Thưa rằng : cổ thánh ‘gần lấy xa cầu’, theo đó để nhòm thấu chỗ sâu kín của Âm Dương, thuận lẽ tự nhiên của tính mệnh. Chẳng phải chỉ riêng Y Đạo mới như thế ! thử xem từ xưa đến nay, người nói Đạo Âm Dương của Trời Đất chưa ai bằng Phục Hy, Văn Vương, tới Khổng Tử viết Hệ Từ thì là rốt ráo vậy. Xưa nay người nói được Âm Dương trong thân người, chưa ai bằng Hiên Viên, Kỳ Bá, tới Trọng Cảnh viết Thương Hàn Luận thì là rốt ráo vậy. Cô Dương không sanh, Độc Âm chẳng lớn, Âm Dương đối lập rồi sau nhân loại mới sinh tồn. Càn là Kiện Dương, Khôn là Thuận Âm. Âm tất theo Dương rồi sau xã hội mới thành lập. Bởi Âm Dương đối lập cho nên Thái Dương Thiếu Âm chẳng lúc nào xa rời nhau, đó là tông chỉ của Thương Hàn Luận. Bởi Âm tất theo Dương, cho nên Thái Dương bao gồm Thiếu Âm, đó là tông chỉ của Tạp Bệnh Luận. Âm Dương của cá nhân tức Âm Dương của xã hội. Âm Dương phản nghịch thì xã hội bệnh, Âm Dương hòa thuận thì xã hội bình, Y Đạo thông với Trị Đạo. Hỏi rằng : Trọng Cảnh làm luận chủ trương Thái Dương vốn để cứu đời bệnh tật, học thuyết này nay còn dùng được không ? Đáp rằng : nơi lời tựa Trọng Cảnh chê trách các Y gia thuận cựu, nói làm thuốc cần phải tùy thời bệnh tật để thích ứng nhu cầu. Lúc này là lúc nào ? là lúc nhân loại rất hổn tạp ! Bệnh rất phức tạp ; nên theo phép trị Tạp Bệnh, chủ trương nghiên cứu phản ảnh của Thái Dương, ‘Tạp Bệnh Luận Bản Nghĩa’ còn đó, nay tựa. Lão Y, 77 tuổi – VIỆT NHÂN LƯU THỦY soạn. 7
TẠP BỆNH LUẬN QUYỂN I Nguyên Văn : Hán, Trương Trọng Cảnh. Bản Nghĩa : Việt Nhân Lưu Thủy. _________________________________ CHƯƠNG 1 :
PHỦ TẠNG KINH LẠC TIÊN HẬU (18 Tiết, từ 1 đến 18)
LUẬN TẠP BỆNH THỂ LỆ 1- Thể Lệ Phủ Tạng truyền Kinh Tiên Hậu. 2- Thể Lệ Kinh Lạc tương truyền Tiên Hậu. 3- Thể Lệ vọng sắc biết được Ngũ Tạng truyền Kinh. 4- Thể Lệ vọng sắc biết Ngũ Tạng mắc bệnh. 5- Thể Lệ văn ngữ thinh biết các Kinh mắc bệnh. 6- Thể Lệ văn tức thinh biết các Lạc mắc bệnh. 7- Thể Lệ văn tức thinh biết các Khí mắc bệnh. 8- Thể Lệ phối hợp bắt mạch vọng sắc biết sự truyền Kinh. 9- Thể Lệ nghiệm thời tiết tương ứng với bệnh tật. 10- Thể Lệ Thiếu Âm làm chủ Tạp Bệnh. 11- Thể Lệ Thiếu Âm vốn là Thái Dương biến tướng. 12- Thể Lệ Kinh Lạc vốn tại Tấu mà đi đến Phủ Tạng. 13- Thể Lệ Kinh Lạc hành Biểu Lý mà tập trung tại Tấu. 14- Thể Lệ Kinh Lạc thâu tóm trăm bệnh. 15- Thể Lệ Thái Dương Thiếu Âm vốn là một Kinh Khí. 16- Thể Lệ phép trị các Lạc tùy các Kinh. 8
17- Thể Lệ phép trị các Kinh tùy các Khí. 18- Thể Lệ phép trị các Khí tùy các Tạng.
NGUYÊN VĂN (1) Hỏi rằng : Bậc Thượng công trị ‘vị bệnh’ là thế nào ? Thầy bảo rằng : Trị ‘vị bệnh’ nghĩa là thấy bệnh ở Can, biết rằng Can sẽ truyền cho Tạng chưa bệnh là Tỳ. Nên trước phải làm cho Tỳ mạnh lên. Bốn tháng Quí Tỳ vượng không thọ Tà, chớ nên bổ nó. Bậc Trung công không hiểu lệ tương truyền, thấy Can bệnh không giải bằng cách làm cho Tỳ mạnh lên mà chỉ trị ở Can. Phàm trị bệnh của Can, bổ nó dùng vị chua, trợ nó dùng vị đắng khét, ích nó dùng vị ngọt để điều hòa. Vị chua vào Can, đắng khét vào Tâm, ngọt vào Tỳ. Tỳ có thể làm tổn thương Thận, Thận Khí suy yếu thì Thủy không hành, Thủy không hành thì Hỏa Khí của Tâm thịnh lên làm tổn thương Phế. Phế bị tổn thương thì Kim Khí không hành, Kim Khí không hành Can Khí thịnh lên, bệnh của Can tự hết. Đó là diệu pháp trị Can bằng cách bổ Tỳ. Can hư dùng phép này, còn Can thực thì không dùng. Kinh nói : không được làm hư thêm cái đã hư, làm thực thêm cái đã thực ; nhưng phải bổ chỗ không đủ, Tả bớt chỗ có thừa, là như thế. Các Tạng còn lại suy theo cách đó mà chữa. BẢN NGHĨA (1/1) *Đây,Thể Lệ Phủ Tạng truyền Kinh Tiên Hậu. - Sách Thương Hàn Luận bệnh tại Biểu lấy Thái Dương làm chủ. - Sách Tạp Bệnh Luận bệnh tại Lý lấy Thiếu Âm làm chủ. Nhiệt Khí của Thiếu Âm làm bệnh tại Lý do Hàn Khí của Thái Dương làm bệnh tại Biểu biến tướng mà đến, cho nên gọi là Tạp. Thương Hàn Luận Truyền Kinh là nói sự truyền của Lục Khí tại Biểu, lấy Thái Dương Hàn Khí thọ Khuyết Âm Phong Khí làm sơ khởi. 9
Tạp Bệnh Luận Truyền Kinh là nói sự truyền của Ngũ Hành tại Lý, lấy Thiếu Âm Tâm Thận thọ Can truyền làm sơ khởi. Luận điểm này nói Biểu Lý tương ứng, Học giả nên rõ. - Bậc Thượng Công hiểu lý tương truyền, biết Can bệnh trước phải làm cho Tỳ mạnh lên: Tương khắc truyền Kinh. - Bậc Trung Công thì không như vậy, thấy Can bệnh không giải bằng cách làm cho Tỳ mạnh lên: không hiểu tương khắc truyền Kinh. - Chỉ duy trị bệnh ở Can: không hiểu tương sinh truyền Kinh. - Phàm trị bệnh của Can, bổ nó dùng vị chua, trợ nó dùng vị đắng khét, ích nó dùng vị ngọt để điều hòa: Nói Can bệnh không tương sinh truyền cũng không tương khắc truyền, chỉ tại Bản Kinh, cho nên chỉ dùng phép trị Bản Kinh. - Chua vào Can, đắng khét vào Tâm, ngọt vào Tỳ: Nói Thiếu Âm Tâm thọ truyền của Can rồi truyền sang Tỳ là tương sinh truyền vậy. - Tỳ có thể làm tổn thương Thận: Nói Thiếu Âm Thận thọ truyền của Tỳ, do Tỳ thọ truyền của Can mà đến là tương khắc truyền Kinh vậy. *Như vậy tương khắc truyền Kinh làm bệnh thì tương sinh truyền Kinh cũng làm bệnh, riêng tại Can Tạng không truyền cũng bệnh; ba trường hợp này ắt chung một mối, người khéo trị bệnh một khi thấy là biết ngay. Từ đây trở xuống nói về lý Ngũ Hành Sinh Khắc. - Thận Khí suy yếu thì Thủy không hành, Thủy không hành thì Tâm Hỏa thịnh, Tâm Hỏa thịnh thì tổn thương Phế, Phế bị thương thì Kim Khí không hành thì Can thịnh; đó là diệu pháp trị Can bằng cách bổ Tỳ: có thể thấy bệnh tại Can Thực truyền Tỳ Hư làm khởi đầu, mà chỗ yếu diệu của nó là do Thận Thủy Tâm Hỏa đưa tới. - Can hư thì dụng phép này : Can truyền Tâm, Tâm truyền Tỳ. - Thực thì không tại đây mà tại kia : Can truyền Tỳ, Tỳ truyền Thận. - Hư là Chính hư – Thực là Tà thực. - Bổ bất túc: là trị Chính hư. - Tả hữu dư: là trị Tà thực. 10
Bệnh tại Kinh nào lấy Kinh đó làm Tiên , Tạng thọ truyền làm Hậu, đều theo nghĩa lấy Can làm sơ khởi. Phủ tùy Tạng, y theo cách đó.
NGUYÊN VĂN (2) Con người bẩm Ngũ Thường, nhân Phong Khí mà sinh trưởng. Phong Khí tuy có thể sinh vạn vật, cũng có thể hại vạn vật, như nước có thể nâng thuyền cũng có thể làm đắm thuyền. Nếu cái Nguyên chân của Ngũ Tạng thông sướng, thì người được an hòa. Khách Khí, Tà Phong trúng vào người phần nhiều làm chết. Ngàn thứ tật bệnh không ra ngoài 3 điều : - Một là Kinh Lạc thọ Tà nhập Phủ Tạng là nguyên nhân bên trong. - Hai là Tứ Chi, Cửu Khiếu Huyết Mạch tương truyền bị Hàn ủng tắc không thông là cái trúng Bì Phu ở bên ngoài. - Ba là chuyện buồng the, tai nạn dao búa, trùng thú làm bị thương, lấy đó để hiểu rõ hết mọi nguyên do của bệnh tật. Nếu con người biết cẩn thận giữ gìn, không để cho Tà Phong can phạm tới Kinh Lạc ; mới vừa trúng Kinh Lạc chưa truyền vào Phủ Tạng thì liền điều trị ngay. Tứ Chi vừa cảm thấy nặng nề thì lập tức Đạo dẫn, Hô hấp, Châm cứu, dán cao xoa bóp, chớ để cho cửu khiếu bế tắc, càng không nên phạm vào vương pháp, hoặc để cho trùng thú làm tổn thương, việc buồng thechớ để cho kiệt quệ, việc ăn mặc điều độ, nóng lạnh, đắng chua cay ngọt, không để cho hình thể bị suy yếu, thì bệnh không còn do đâu để nhập vào Tấu Lý. Tấu chính là chỗ Tam Tiêu thông hội Nguyên chân. Lý là Văn lý của Bì Phu Phủ Tạng. BẢN NGHĨA (1/2) *Đây,Thể Lệ Kinh Lạc truyền nhau trước sau. - Con người bẫm Ngũ Thường : gốc ở Thuyết Ngũ Vận Nội Kinh. - Nhân Phong Khí mà sinh trưởng: gốc ở Thuyết Lục Khí Nội Kinh. - Phong Khí tuy có thể sinh vạn vật cũng có thể hại vạn vật: Sinh lý tại đó, bệnh lý cũng tại đó, là Triết học bất dịch của y gia tự ngàn xưa.
11
- Như nước có thể nâng thuyền cũng có thể làm đắm thuyền: không cần viện dẫn học thuyết vi trùng khuẩn độc. - Từ Tấu Lý đến Phủ Tạng Kinh Lạc cùng nhau qua lại thông sướng thì con người được an hòa. - Từ Tấu Lý đến Bì Phu Khách Khí Tà Phong theo Kinh Lạc vào thẳng Phủ Tạng, trúng người phần nhiều làm chết. - Ngàn thứ tật bệnh không ra ngoài ba điều: đều tóm tại Kinh Lạc mà thôi:
Một là Kinh Lạc do Tấu Lý nhập Phủ Tạng.
Hai là Kinh Lạc thọ Biểu Tà từ Tấu nhập Lý.
Ba là Kinh Lạc tại Tấu Lý bị phòng thất làm hao kiệt, trùng thú làm tổn thương.
Thầy thuốc cần phải nhận rõ chỗ Kinh Lạc này là nguyên nhân dẫn bệnh ra vào. Lại càng phải nhận rõ nơi Tấu Lý là chỗ Kinh Lạc trong ngoài tụ tập. Nguyên do của bệnh đều tóm hết ở đó. - Không để cho Tà Phong can phạm tới Kinh Lạc, chưa truyền vào Phủ Tạng thì trị ngay: Khiến cho Kinh Lạc không do Tấu nhập Phủ Tạng. - Tay chân nặng nề cửu khiếu bế tắc liền trị ngay: khiến cho Kinh Lạc thọ Biểu Tà không ủng tắc tại Tấu. - Càng không nên phạm vào Vương pháp, không để trùng thú làm bị thương: không làm hao tổn hệ thống Kinh Lạc tại Tấu. - Chuyện buồng the chớ để suy kiệt: không làm hao tổn Khí Huyết của Kinh Lạc tại Tấu. - Việc ăn mặc điều độ, nóng lạnh, đắng chua cay ngọt không sơ sót: Bồi dưỡng nhu cầu của Kinh Lạc tại Tấu. Tuy hình thể có tổn thương nhưng bệnh không có con đường nhập vào Tấu Lý. - Tấu là chỗ Tam Tiêu thông hội nguyên chân. Lý là Văn Lý của Bì Phu Phủ Tạng: là khu cơ (then máy) tối yếu của thân người. Tại sao như vậy ? - Chỗ Kinh Lạc phát bệnh là Tiên, chỗ Kinh Lạc lưu truyền là Hậu. Kinh Lạc tại Tấu là Tiên, Kinh Lạc tại Biểu Lý là Hậu. Biết rõ Tiên Hậu thì trị pháp sáng tỏ.
12
NGUYÊN VĂN (3) Hỏi rằng : Bệnh nhân có khí sắc hiện lên bộ mặt, xin được nghe thuyết này. Thầy đáp : Đầu mũi màu xanh là trong bụng đau, lại khó chịu vì lạnh là chết. Đầu mũi sắc hơi đen là có Thủy Khí ; sắc vàng là trên ngực có lạnh ; sắc trắng mất máu. Nếu như sắc hơi đỏ mà không hợp lúc là chết. Mắt người bệnh tròn xoe đứng tròng là chứng Kỉnh không trị được. BẢN NGHĨA (1/3) *Đây,Thể Lệ nhìn sắc biết Ngũ Tạng truyền Kinh. - Đầu mũi mắt xanh: Can; trong bụng đau lại khó chịu vì lạnh là chết: Can truyền Tỳ. - Đầu mũi sắc hơi đen: Thận; có Thủy Khí chỉ tại Bản Kinh. - Sắc vàng: Tỳ; trên ngực có lạnh: Tỳ truyền Phế. - Sắc trắng: Phế; là vong Huyết: Phế truyền Tâm. - Nếu như sắc hơi đỏ không hợp lúc là chết. Mắt người bệnh tròn xoe không nháy là chứng Kỉnh không trị được: Tái truyền ở Can, thất truyền [7 lần truyền theo vòng Ngũ Hành tương khắc] thì chết, là lệ vậy.
NGUYÊN VĂN (4) Lại sắc xanh là đau, sắc đen là lao, sắc đỏ là phong, sắc vàng là đi cầu khó, sắc tươi sáng là có lưu ẩm (đọng nước). BẢN NGHĨA (1/4) *Đây,Thể Lệ nhìn sắc biết Ngũ Tạng mắc bệnh. - Sắc xanh là đau: bệnh tại Can. - Sắc đen là lao: bệnh tại Thận. - Sắc đỏ là phong: bệnh tại Tâm. - Sắc vàng là đi cầu khó: bệnh tại Tỳ. - Sắc tươi sáng là có lưu ẩm: bệnh tại Phế.
13
NGUYÊN VĂN (5) Thầy nói : người bệnh im lặng, không nói hay kinh sợ, kêu la là bệnh trong các khớp xương. Tiếng nói ấm ớ không thấu rõ là bệnh giữa Tâm Cách, tiếng nói lí nhí nhỏ mà dài là bệnh ở trong đầu. BẢN NGHĨA (1/5) *Đây, Thể Lệ nghe tiếng nói biết các Kinh mắc bệnh. - Nghe tiếng nói im lặng hoặc không nói, thường kinh sợ, kêu la biết bệnh trong các khớp xương: Tại Túc Âm Kinh (Tỳ - Can – Thận). - Nghe tiếng nói ấm ớ không thấu rõ biết bệnh giữa Tâm Cách: Tại Thủ Tam Âm Kinh (Phế Bào – Tâm). - Nghe tiếng nói lí nhí nhỏ mà dài biết bệnh đau trong đầu: tại Thủ Túc Tam Dương Kinh (Đại Trường – Tiểu Trường – Tam Tiêu – Vỵ - Đởm – Bàng Quang).
NGUYÊN VĂN (6) Thầy nói thở lay động vai là trong Tâm cứng (Tà Khí thực). Thở kéo hơi lên từ trong ngực là ho. Thở há miệng, hơi ngắn là Phế Nuy (Phổi teo), nhổ bọt giải. BẢN NGHĨA (1/6) *Đây, Thể Lệ nghe tiếng thở biết các Lạc mắc bệnh. - Thở lay động vai là trong Tâm cứng : bệnh tại các Lạc phần giữa. - Thở kéo hơi lên từ trong ngực là ho : bệnh tại các Lạc phần dưới. - Thở há miệng, hơi ngắn là Phế nuy, nhổ bọt giải : bệnh các Lạc phần trên.
NGUYÊN VĂN (7) Thầy nói : Thở hít vào hơi nhanh là bệnh tại Trung tiêu thực, nên cho Hạ thì khỏi, người hư thì không trị được. Bệnh tại Thượng tiêu thì hơi hít vào gấp rút. Bệnh tại Hạ tiêu thì hơi hít vào dài, xa, đều là khó trị. Thở ra hít vào lay động run run là không trị được. .
14
BẢN NGHĨA (1/7) *Đây, Thể Lệ Nghe tiếng thở biết các Khí mắc bệnh. - Trung tiêu Khí Thực mà hít vào hơi nhanh, cho Hạ thì lành; Trung tiêu Hư mà hít vào hơi nhanh thì không trị được. - Thượng tiêu hít vào gấp rút, Hạ tiêu hít vào dài xa: đều do các Khí ở Trung tiêu hư mà ra, đều là khó trị. - Tiếng thở đều, từ dưới mà lên lay động run run là không trị được.
NGUYÊN VĂN (8) Thầy nói : Thốn khẩu mạch Động, nhân khi vượng thời mà động, giá như Can vượng sắc xanh, bốn mùa, mỗi mùa tùy sắc của nó. Nếu Can sắc xanh mà trái lại sắc trắng, Sắc Mạch chẳng hợp thời, đều phải bệnh. BẢN NGHĨA (1/8) *Đây, Thể Lệ bắt Mạch hiệp với Sắc biết Ngũ Tạng truyền Kinh. - Can vượng sắc xanh: Mạch Huyền mà Cấp. - Tâm vượng sắc đỏ mạch Phù Đại mà Tán. - Tỳ vượng sắc vàng mạch Hoãn mà Đại. - Phế vượng sắc trắng mạch Phù Sáp mà Đoản. - Thận vượng sắc đen mạch Trầm Tiểu mà Hoạt. - Bốn mùa đều tùy sắc của nó, đều tùy mạch của nó, đó là Sắc hợp Mạch tương ứng vậy. - Giá như Can sắc xanh mạch Huyền Cấp, trái lại được sắc trắng của Phế, mạch Phù Sáp mà Đoản. Do đó mà suy: . Được Tỳ sắc vàng mạch Hoãn mà Đại, đấy là Sắc hiệp với mạch tương thắng, là khó trị. . Được Tâm sắc đỏ mạch Phù Đại mà Tán; được Thận sắc đen mạch Trầm Tiểu mà Hoạt, đấy là Sắc hiệp với Mạch tương sinh, là dễ trị. *Kinh nói: Thấy Sắc mà không được Mạch của Bản Tạng, trái lại thấy Mạch của tương thắng thì chết, được mạch của tương sinh thì khỏi, là như thế. 15
NGUYÊN VĂN (9) Hỏi rằng : có khi chưa đến mà đến rồi, có khi đã đến mà chưa đến, có khi đến rồi lại không đi, có khi đến mà thái quá ; là thế nào ? Thầy đáp : Sau tiết Đông Chí ngày Giáp Tý nửa đêm Thiếu Dương khởi, thời của Thiếu Dương là lúc Dương mới sinh, tiết Trời được ôn hòa. Chưa đến Giáp Tý mà Trời đã ôn hòa, đấy là chưa đến mà đến rồi. Đã đến Giáp Tý mà Trời chưa ôn hòa, là đến mà không đến. Đã đến Giáp Tý mà Khí Trời Đại hàn chưa giải, đấy là đến mà không đi. Đã đến Giáp Tý mà khí Trời ôn như thịnh Hạ lúc tháng năm tháng sáu, đấy là đến mà thái quá. BẢN NGHĨA (1/9) *Đây, Thể Lệ nghiệm thời tiết với Tạp Bệnh tương ứng. - Sau Đông chí ngày Giáp Tý nửa đêm Thiếu Dương khởi: cử một Giáp Tý để làm đầu mối cho vô số Giáp Tý. - Thời của Thiếu Dương là lúc Dương mới sinh, tiết trời được ôn hòa: Nêu lên Khí Thiếu Dương ôn hòa, cho thấy duyên cớ không ôn hòa là nguyên do sinh ra tật bệnh. - Giáp Tý chưa đến mà khí ôn hòa đã đến cùng với Giáp Tý đã đến mà khí ôn hòa không đến: Khí với Tiết không đều (không đồng thời) là nguyên do sinh bệnh tật. - Giáp Tý đến mà Đại hàn không giải cùng với Giáp Tý đến mà Đại nhiệt chợt đến: Khí với Tiết bất cập, thái quá là nguyên do bệnh tật thêm nặng.
NGUYÊN VĂN (10) Mạch Phù ở trước bộ Quan là bệnh tại Biểu, Phù ở sau bộ Quan là bệnh tại Lý. Eo lưng đau, xương sống cứng không đi được ắt thở ngắn hơi cùng cực. BẢN NGHĨA (1/10) *Đây, Thể Lệ Tạp Bệnh, Thiết Mạch biện chứng lấy Thiếu Âm làm chuẩn. - Phù ở trước Bộ Quan: Mạch Thiếu Âm tại Biểu. - Phù ở sau Bộ Quan: Mạch Thiếu Âm tại Lý. 16
- Eo lưng đau, xương sống cứng không đi được: chứng của Túc Thiếu Âm Thận. - Thở ngắn hơi cùng cực: chứng của Thủ Thiếu Âm Tâm. *Nhất thiết Mạch, nhất thiết Chứng lấy đây làm chuẩn, bởi vì Thiếu Âm làm chủ Tạp Bệnh.
NGUYÊN VĂN (11) Hỏi rằng : Kinh nói ‘Khuyết Dương độc hành’ là như thế nào ? Thầy đáp : đấy là có Dương không Âm cho nên xưng là ‘Khuyết Dương’. BẢN NGHĨA (1/11) *Đây, Thể Lệ Thiếu Âm vốn là Thái Dương biến tướng. - Khuyết Dương là trong Dương có Hàn Khí. - Độc hành là không cần có Âm Khí. - Đấy là có Thái Dương Thương Hàn chủ Biểu thì có Thái Dương biến tướng Tạp Bệnh chủ Lý, có thể gọi đó là vô Âm, cho nên xưng là Khuyết Dương.
NGUYÊN VĂN (12) Hỏi rằng : Mạch Thốn Trầm mà Huợt, Trầm đó là Thực ; Hượt đó là Khí, Thực Khí chọi nhau, Khí Huyết nhập Tạng thì chết ; nhập Phủ thì khỏi, đó là chứng Thốt quyết (thình lình xây xẩm, té ngã) là thế nào ? Thầy đáp : môi miệng xanh, mình lạnh là nhập Tạng thì chết ; như thân mình nóng lạnh điều hòa, mồ hôi tự ra là nhập Phủ nên khỏi. BẢN NGHĨA (1/12) *Đây, Thể Lệ Kinh Lạc gốc tại Tấu mà đi đến Phủ Tạng. - Mạch thốn Trầm: Dương Hàn tại Biểu nhập Tấu. - Mà Huợt: Âm Nhiệt chủ tại Tấu. - Trầm đó là Thực: Dương Hàn Thực tại Tấu. 17
- Huợt đó là Khí: Âm Nhiệt Khí tại Tấu. - Dương Hàn do Tấu nhập Tạng thì chết: Bởi cớ Dương Hàn Thực. - Do Tấu nhập Phủ thì khỏi: Bởi cớ Âm Nhiệt Thực. - Đó là chứng Thốt quyết: Dương Hàn tại Tấu thốt nhiên nhập Lý. - Môi miệng xanh, mình lạnh: là tại Tấu Âm Nhiệt vong, cho nên Dương Hàn từ Tấu nhập Tạng thì chết. - Thân điều hòa mồ hôi tự ra: là tại Tấu Âm Nhiệt còn, cho nên Dương Hàn từ Tấu nhập Phủ nên khỏi.
NGUYÊN VĂN (13) Hỏi rằng : Mạch Thoát nhập Tạng thì chết, nhập Phủ thì khỏi là tại sao ? Thầy đáp : không phải là một bệnh mà trăm bệnh đều như vậy. Thí dụ : như Tẩm dâm sang bắt đầu mọc từ miệng lan ra tay chân thì có thể trị được, từ tay chân chảy lan tới miệng thì không trị được. Bệnh ở ngoài có thể trị, nhập Lý thì chết. BẢN NGHĨA (1/13) *Đây, Thể Lệ Kinh Lạc tại Biểu tại Lý nhưng tập trung tại Tấu. - Mạch Thoát: vong Dương. - Nhập Tạng thì chết: cớ bởi vong Âm Nhiệt tại Tấu. - Nhập Phủ thì khỏi: cớ bởi có Âm Nhiệt tại Tấu. - Cho nên hết thảy bệnh đều như vậy: Từ Tấu ra Biểu có thể trị, từ Tấu vào Lý không trị được. - Như Tẩm dâm sang tại ngoại có thể trị: Âm Nhiệt vẫn còn tại Tấu; vào Lý thì chết: Âm Nhiệt tại Tấu đã vong.
NGUYÊN VĂN (14) Hỏi rằng : Dương bệnh có 18 thứ là sao ? Thầy đáp : Đầu đau, gáy, eo lưng, xương sống, cánh tay, chân rút đau. 18
- Âm bệnh có 18 thứ là sao ? Thầy đáp : Ho, hơi đưa lên, suyễn, ọe, nghẹn, ruột sôi, trướng đầy, Tâm đau, co quắp. Mỗi Tạng có 18 thứ bệnh, 5 Tạng có cả thảy có 90 bệnh. Người ta còn có 6 vi, mỗi vi còn có 18 bệnh, cả thảy có 108 bệnh. Ngũ Lao (5 thứ lao), Thất thương (7 thứ tổn thương), Lục cực (6 thứ cực) ; Ba mươi sáu bệnh đàn bà không nằm số này. Thanh Tà ở trên, Trọc Tà ở dưới, Đại Tà ở Biểu, Tiểu Tà ở Lý, Tà của cơm nước vào từ miệng là túc thực (đồ ăn cũ không tiêu). Năm thứ Tà trúng vào người, mỗi thứ đều có pháp độ : Phong trúng đằng trước, Hàn trúng đằng sau. Thấp tổn thương ở dưới, Sương mù tổn thương ở trên. Phong làm cho mạch Phù, Hàn làm cho mạch Khẩn ; Sương mù làm tổn thương Bì Tấu ; Thấp chạy nơi khớp xương. Ăn uống làm tổn thương Tỳ Vỵ. Cực Hàn thương Kinh – Cực Nhiệt thương Lạc. BẢN NGHĨA (1/14) *Đây, Thể Lệ Kinh Lạc thống bách bệnh. - Lưng là Dương có 6 Khí, 6 Kinh, 6 Lạc, cộng là 18 thứ bệnh. - Bụng là Âm có 6 Khí, 6 Kinh, 6 Lạc, cộng là 18 thứ bệnh. - Ngũ Tạng, mỗi Tạng có 3 Âm, 3 Dương, Khí, Kinh, Lạc, công kích nhau thì mỗi Tạng có 18 thứ bệnh, hiệp lại thành 90 thứ bệnh. - Lục Vi là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Không, là tạo ra từ những vi trần cực nhỏ, mỗi vi có 18 hiệp lại thành 108 thứ bệnh. - Ngũ Lao, Thất Thương, Lục Cực: xem ở chương Hư Lao. - Đàn bà 36 thứ bệnh không nằm trong số này: riêng thuộc Huyết chứng không phải bệnh thông thường. 19
- Thanh Tà thuộc Vinh, Vinh gốc Tâm Huyết ở trên. - Trọc Tà thuộc Vệ, Vệ gốc Thận Khí ở dưới. - Đại Tà thuộc Dương từ Biểu nhập vào. - Tiểu Tà thuộc Âm từ Lý xuất ra. - Vỵ cư Trung Thổ, thọ thức ăn uống làm thành Túc Thực. - Phong trúng đằng trước: Phong từ Âm (ngực, bụng) rồi đến Dương (lưng). - Hàn trúng đằng sau: Hàn từ Dương (lưng) rồi đến Âm (ngực, bụng). - Thấp là Địa Khí cho nên tổn thương ở dưới. - Sương mù là Thiên Khí cho nên tổn thương ở trên. - Phong trú Cơ Nhục cho nên mạch Phù. - Hàn trú Bì Phu cho nên mạch Khẩn. - Sương mù lạnh nên tổn thương Bì; sương mù nóng tổn thương Tấu. - Thấp tổn thương tại khớp xương; ăn uống tổn thương tại Tỳ Vỵ. - Kinh mạch thuộc Lý, Hàn Khí chủ Biểu; cực Hàn thì nhập Lý thương Kinh. - Chia nhánh rồi đi ngang là Lạc, đều thấy ở ngoài ; Nhiệt Khí chủ Lý; cực Nhiệt thì xuất ngoại thương Lạc. *Ý nói suốt Nội Ngoại đều là Kinh Lạc, cho nên Kinh Lạc thống bách bệnh.
NGUYÊN VĂN (15) Hỏi rằng : Bệnh có lúc gấp nên cứu Lý, cứu Biểu là sao ? Thầy đáp : Thầy thuốc cho Hạ, tiếp theo ỉa chảy phân sống không dứt, thân thể đau nhức gấp nên cứu Lý. Sau đó thân còn đau nhức, đại tiện tự điều hòa gấp nên cứu Biểu. BẢN NGHĨA (1/15) *Đây, Thể Lệ Thái Dương Thiếu Âm gốc là một Kinh Khí. - Kinh suốt Biểu Lý vì thế phải gấp cứu: Biểu Lý tuy bất đồng nhưng Kinh thì chỉ có một. 20
- Tại Biểu thuộc Thái Dương Kinh, cho Hạ tiếp đó bị tiêu chảy nước trong không dứt, mình đau nhức: chuyển sang tại Lý thuộc Thiếu Âm Kinh. - Gấp nên cứu Lý: là Biểu chuyển sang Lý, Dương chuyển sang Âm. - Sau đó mình còn đau nhức, đại tiện tự điều hòa: Bệnh tại Biểu mà không tại Lý. - Gấp nên cứu Biểu: Biểu thuộc Thái Dương tức Lý thuộc Thiếu Âm, bởi cớ nó vốn là một Kinh. *Vì thế trị chứng Biểu không giải xét đến Thiếu Âm, trị chứng Lý không giải xét đến Thái Dương. Đó là bí quyết vậy.
NGUYÊN VĂN (16) Phàm người bệnh cố tật, lại mắc thêm bệnh đột nhiên, nên trị bệnh đột nhiên trước rồi sau mới trị cố tật. BẢN NGHĨA (1/16) *Đây, Thể Lệ phép trị các Lạc tùy các Kinh. - Bệnh cố tật: thuộc Lạc. - Bệnh đột nhiên: thuộc Kinh Khí. *Ý nói trị Lạc nên tùy Kinh.
NGUYÊN VĂN (17) Thầy nói : Tạng nào trong 5 Tạng bệnh mà gặp sở đắc (cái nó thích hợp) thì khỏi. Tạng nào trong 5 Tạng Bệnh mà gặp sở ố (cái nó ghét) hoặc là cái nó không ưa thì làm thành bệnh. Người bệnh vốn không chịu ăn mà trái lại bắt ép họ ăn, tất phải phát sốt. BẢN NGHĨA (1/17) *Đây, Thể Lệ phép trị các Kinh tùy các Khí. - Tạng nào trong 5 Tạng bệnh mà gặp sở đắc thì khỏi: như các loại bệnh, Hàn gặp được Nhiệt; bệnh Nhiệt gặp được Hàn thì giải. - Tạng nào trong 5 Tạng gặp sở ố thì bệnh: như các loại bệnh Hàn nhập Nhiệt Kinh, Nhiệt nhập Hàn Kinh. 21
- Tạng nào gặp chỗ nó không ưa thì bệnh: như các loại bệnh Hàn không ưa Hàn; Nhiệt lại không ưa Nhiệt. - Không chịu ăn mà bắt ép ăn, tất phát sốt: Đó là Hàn cực phản Nhiệt như loại bệnh ‘Trừ Trung’; Nhiệt cực phản Hàn như loại phải dùng Bạch Hổ thang để trị ; có chứng lưng sợ lạnh, tay chân nghịch lãnh ‘Biểu hữu Nhiệt, Lý hữu Hàn’.
NGUYÊN VĂN (18) Phàm các bệnh tại Tạng muốn công nó đều tùy chỗ sở đắc mà công ; như người bệnh khát cho uống Trư Linh thang. Còn lại đều phỏng theo đó. BẢN NGHĨA (1/18) *Đây, Thể Lệ phép trị các Khí tùy các Tạng. - Muốn công bệnh tại các Tạng đều tùy chỗ sở đắc của bản Tạng Khí mà công. - Như người bệnh khát tùy Nhiệt Khí của Thiếu Âm Tạng, cho uống Trư Linh thang. *Nêu lên chứng khát của Thiếu Âm để làm lệ cho các bệnh còn lại. Đấy là cái lý Tạp Bệnh Luận chủ trương Thiếu Âm.
(Trên đây, chương thứ 1, 18 tiết, luận Phủ Tạng Kinh Lạc Tiên Hậu). 22
CHƯƠNG 2 :
KỈNH – THẤP – YẾT
(26 Tiết, từ 19 đến 44)
LUẬN TAM ÂM 1- Khuyết Âm thọ Thái Dương tại Nhục phần làm Kỉnh. 2- Khuyết Âm thọ Thiếu Âm tại Nhục phần làm Kỉnh. 3- Khuyết Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Nhục phần làm Kỉnh. 4- Khuyết Âm thọ Thái Dương tại Bì phần làm Kỉnh. 5- Khuyết Âm thọ Thiếu Âm tại Bì phần làm Kỉnh. 6- Khuyết Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Bì phần làm Kỉnh. 7- Khuyết Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Tấu phần làm Kỉnh. 8- Khuyết Âm thọ Thái Dương tại Tấu phần làm Kỉnh. 9- Khuyết Âm thọ Thiếu Âm tại Tấu phần làm Kỉnh. 10- Khuyết Âm thọ Thái Dương tại Biểu đến Tấu làm Kỉnh. 11- Khuyết Âm thọ Thiếu Âm tại Tấu đến Biểu làm Kỉnh. 12- Khuyết Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Tấu Cách làm Kỉnh. 13- Thái Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Tấu làm Thấp. 14- Thái Âm thọ thọ Thiếu Âm tại Tấu đến Biểu làm Thấp. 15- Thái Âm thọ Thái Dương tại Biểu đến Tấu làm Thấp. 16- Thái Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm làm Thấp truyền Xung Kinh. 17- Thái Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm làm Thấp truyền Nhâm Kinh. 18- Thái Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm làm Thấp truyền Đốc Kinh. 19- Thái Âm thọ Thái Dương Hàn Thấp tại Tấu phần. 20- Thái Âm làm Thấp có thọ Thái Dương Phong Thấp, có thọ Thiếu Âm Phong Thấp. 21- Thái Âm thọ Thiếu Âm Phong Thấp tại Tấu phần. 23
22- Thái Âm thọ Thái Dương Hàn Thấp tại Biểu đến Tấu. 23- Thái Âm thọ Thiếu Âm Phong Thấp tại Tấu đến Biểu. 24- Thiếu Âm Trúng Yết tại Tấu đến Lý đến Biểu. 25- Thiếu Âm Trúng Nhiệt truyền các Túc Kinh. 26- Thiếu Âm Trúng Nhiệt truyền các Thủ Kinh.
NGUYÊN VĂN (19) Thái Dương Bệnh phát sốt không mồ hôi, trái lại sợ lạnh, gọi là Cương Kỉnh. BẢN NGHĨA (2/1) *Đây, Khuyết Âm thọ Thái Dương tại Nhục phần làm Kỉnh. - Phát sốt không mồ hôi: tại Cơ đến Bì. - Trái lại sợ lạnh: thọ Dương Hàn. - Gọi là Cương Kỉnh.
NGUYÊN VĂN (20) Thái Dương Bệnh phát sốt mồ hôi ra mà không sợ lạnh, gọi là Nhu Kỉnh. BẢN NGHĨA (2/2) *Đây, Khuyết Âm thọ Thiếu Âm tại Nhục phần làm Kỉnh. - Phát sốt ra mồ hôi: bệnh tại Nhục phần. - Không sợ lạnh: thọ Âm Nhiệt. - Gọi là Nhu Kỉnh.
NGUYÊN VĂN (21) Thái Dương Bệnh phát sốt mạch Trầm mà Tế, gọi là Kỉnh, là khó trị. 24
BẢN NGHĨA (2/3) *Đây, Khuyết Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Nhục phần làm Kỉnh. - Khuyết Âm thọ Dương Hàn thì mạch Trầm, thọ Âm Nhiệt thì mạch Tế. Đây là lưỡng cảm làm Kỉnh, khó trị.
NGUYÊN VĂN (22) Thái Dương Bệnh Phát Hãn quá nhiều nhân đó làm Kỉnh. BẢN NGHĨA (2/4) *Đây, Khuyết Âm thọ Thái Dương tại Bì làm Kỉnh. - Thái Dương Kinh hành Thủy, Khuyết Âm Kinh hành Huyết, Phát Hãn quá nhiều thì Thủy kiệt Huyết Táo cho nên làm Kỉnh.
NGUYÊN VĂN (23) Phàm Phong Bệnh cho Hạ thì làm Kỉnh, cho Phát Hãn thì co quắp. BẢN NGHĨA (2/5) *Đây, Khuyết Âm thọ Thiếu Âm tại Bì làm Kỉnh. - Thọ Dương Hàn tại Ngoại làm Trúng Phong, thọ Âm Nhiệt tại Nội làm Phong bệnh. - Cho Hạ thì làm Kỉnh: Âm Nhiệt Khí dồn vào Khuyết Âm. - Cho Phát Hãn thì co quắp: Dương Hàn Khí dồn vào Khuyết Âm.
NGUYÊN VĂN (24) Người bệnh ghẻ, tuy mình đau nhức không thể cho Phát Hãn, mồ hôi ra thì làm Kỉnh. BẢN NGHĨA (2/6) *Đây, Khuyết Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Bì làm Kỉnh. 25
- Thái Dương Thủy với Thiếu Âm Huyết hiệp bệnh tại Bì làm bệnh ghẻ, tuy mình đau nhức, không nên Phát hãn, mồ hôi ra thì làm Kỉnh.
NGUYÊN VĂN (25) Người bệnh mình nóng chân lạnh ; cổ gáy cứng gấp, sợ lạnh ; có lúc đầu nóng, mặt đỏ, mắt đỏ, riêng đầu lắc lư, đột nhiên khẩu cấm, lưng ển ; làm bệnh Kỉnh. Nếu cho Phát Hãn bệnh này thì Hàn Thấp gặp nhau, liền sợ lạnh nhiều, Phát Hãn rồi mạch người bệnh như rắn bò. BẢN NGHĨA (2/7) *Đây, Khuyết Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Tấu làm Kỉnh. - Mình nóng: thọ Thiếu Âm – Chân lạnh: thọ Thái Dương. - Cổ gáy cứng gấp, sợ lạnh: Bản Hàn truyền nhập Kinh. - Có lúc đầu nóng, mặt đỏ, mắt đỏ: Bản Nhiệt chuyển hệ. - Riêng đầu lắc lư: Thái Dương tại đầu, Thiếu Âm cùng hiệp tại đầu. - Đột nhiên khẩu cấm: Bản Nhiệt tại Cách, Bản Hàn cùng hiệp tại Cách. - Lưng ển:Dương Hàn Âm Nhiệt tranh nhau tại ngực lưng.Đó là Âm Dương hiệp làm Kỉnh tại Tấu. - Phát Hãn liền sợ lạnh nhiều: Dương Khí đi mà Hàn Khí hiệp Nội. - Phát Hãn rồi mạch người bệnh như rắn bò: bởi cớ có Âm không Dương.
NGUYÊN VĂN (26) Thình lình bụng trướng to là bệnh muốn giải. Mạch như cũ trái lại Phục Huyền làm Kỉnh. BẢN NGHĨA (2/8) *Đây, Khuyết Âm thọ Thái Dương tại Tấu làm Kỉnh. - Thình lình bụng trướng to: Thái Dương bỗng nhiên nhập Lý hiệp Khuyết Âm. - Muốn giải: là nói Kỉnh nhập Lý thì tại Biểu giải. - Mạch như cũ: Dương Hàn mạch Khẩn. 26
- Trái lại Phục Huyền là Kỉnh: Dương Hàn tại Tấu ắt thọ Âm Nhiệt thì mạch Khẩn Phục Huyền.
NGUYÊN VĂN (27) Phàm bệnh Kỉnh, án thấy Khẩn như dây cung căng thẳng đi lên xuống. Kỉnh bệnh có vết phỏng do cứu là khó trị. BẢN NGHĨA (2/9) *Đây, Khuyết Âm thọ Thiếu Âm tại Tấu làm Kỉnh. - Dương Hàn làm Kỉnh thì mạch Khẩn,hiệp Âm Nhiệt thì như dây cung căng thẳng đi lên xuống. - Chỉ Dương Hàn làm Kỉnh thì có thể trị, hiệp Âm Nhiệt làm Kỉnh là khó trị. - Có vết phỏng do cứu: là nói Âm Nhiệt.
NGUYÊN VĂN (28) Thái Dương Bệnh chứng đầy đủ, thân thể cứng đơ lan cả cổ gáy, mạch trái lại Trầm Trì đấy là Kỉnh, Quát Lâu Quế Chi thang làm chủ. QUÁT LÂU QUẾ CHI THANG PHƯƠNG Quát Lâu Căn 3 lạng Sinh Cương 3 lạng
Chích Thảo 2 lạng Bạch Thược 3 lạng
Quế Chi 2 lạng Đại Táo 12 trái.
6 vị trên, nước 9 thăng, nấu lấy 3 thăng, chia uống ấm 3 lần, cho đổ mồ hôi ít ít. Nếu mồ hôi không ra, khoảng sau bữa ăn húp cháo nóng để Phát Hãn. BẢN NGHĨA (2/10) *Đây, Khuyết Âm thọ Thái Dương từ Biểu đến Tấu làm Kỉnh. - Thái Dương chứng đầy đủ, thân thể cứng đơ lan đến cổ gáy: Đây chứng Kỉnh tại Biểu. - Mạch trái lại Trầm Trì: Thái Dương nhập Tấu thì mạch Trầm cùng với Thiếu Âm tại Tấu bằng nhau thì mạch Trầm Trì, đây là Kỉnh tại Tấu. Quát Lâu Quế Chi thang làm chủ.
27
NGUYÊN VĂN (29) Thái Dương Bệnh không mồ hôi mà trái lại tiểu tiện ít, khí xung lên yết hầu, miệng ngậm cứng không nói được muốn là Cương Kỉnh, Cát Căn thang làm chủ. CÁT CĂN THANG PHƯƠNG Cát Căn 4 lạng
Chích Thảo 2 lạng
Ma Hoàng 3 lạng
Quế Chi 2 lạng
Đại Táo 12 trái
Sinh Cương 3 lạng
Bạch Thược 3 lạng
7 vị trên, nước 1 đấu, trước nấu Cát Căn, Ma Hoàng giảm 2 thăng, vớt bỏ bọt, cho các thuốc vào nấu lấy 3 thăng, bỏ bả, uống ấm 1 thăng, đắp chăn cho đổ chút ít mồ hôi không cần húp cháo, còn lại việc nghỉ ngơi và cấm kỵ như phép dùng Quế Chi thang. BẢN NGHĨA (2/11) *Đây, Khuyết Âm thọ Thiếu Âm tại Tấu đến Biểu làm Kỉnh. - Thái Dương bệnh không mồ hôi: Tại Tấu Thái Dương chuyển sang Thiếu Âm. - Tiểu tiện trái lại ít: Thọ Túc Thiếu Âm Trúng Phong. - Miệng ngậm cứng không nói được: Thọ Thủ Thiếu Âm Trúng Phong. - Muốn làm Cương Kỉnh: Muốn từ Âm chuyển qua Dương. - Cát Căn thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (30) Kỉnh làm bệnh, ngực đầy, miệng ngậm cứng, nằm không dính chiếu, chân co quắp ắt nghiến răng, có thể cho uống Đại Thừa Khí thang. ĐẠI THỪA KHÍ THANG PHƯƠNG Đại Hoàng 4 lạng rửa rượu
Hậu Phác ½ cân bỏ vỏ ngoài
Chỉ Thực 5 quả (nướng)
Mang Tiêu 3 cáp
4 vị trên, nước 1 đấu, trước nấu Hậu Phác, Chỉ Thực lấy 5 thăng, bỏ bả cho Đại Hoàng vào nấu lấy 2 thăng, bỏ bả cho Mang Tiêu vào lại đặt lên lửa nhỏ nấu sôi 1 – 2 dạo, chia uống ấm 2 lần, nếu đi cầu được thì khỏi uống lần sau. 28
BẢN NGHĨA (2/12) *Đây, Khuyết Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm từ Tấu đến Cách làm Kỉnh. - Ngực đầy: tại Tấu. - Miệng ngậm cứng: tại Cách. - Nằm không dính chiếu: Dương Hàn Âm Nhiệt tranh nhau tại ngực và lưng. - Chân co quắp ắt nghiến răng: Dương Hàn Âm Nhiệt làm hại nhau ở trên dưới, có thể cho uống Đại Thừa Khí thang.
NGUYÊN VĂN (31) Thái Dương Bệnh các khớp xương đau nhức mà phiền, mạch Trầm mà Tế, đó gọi là Trúng Thấp cũng tên là Thấp Tý. Chứng hậu của Thấp Tý là tiểu tiện không lợi, đại tiện trái lại dễ, chỉ cần lợi tiểu tiện là được. BẢN NGHĨA (2/13) *Đây, Thái Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm làm Thấp tại Tấu. - Khớp xương đau nhức mà phiền: chứng Thái Âm Thấp tại Tấu. - Mạch Trầm mà Tế: Mạch Thái Âm Thấp tại Tấu. - Thái Dương nhập Tấu thọ Âm Nhiệt thì mạch Trầm. - Thiếu Âm tại Tấu thọ Dương Hàn thì mạch Tế. - Thái Âm cùng thọ thì mạch Trầm mà Tế. - Đây, là tại Tấu thọ Thái Dương tên là Trúng Thấp, tại Tấu thọ Thiếu Âm tên là Thấp Tý. - Chứng hậu của Thấp Tý là tiểu tiện không lợi: Bởi cớ thọ Âm Nhiệt. - Đại tiện trái lại dễ: cớ bởi Âm Hàn thọ Dương Hàn. - Chỉ cần lợi tiểu tiện: Âm Nhiệt giải thì Âm Hàn giải, Dương Hàn tự giải vậy.
.
29
NGUYÊN VĂN (32) Thấp gia (người bệnh Thấp) khi phát tán khắp cả mình đau nhức, phát sốt, mình vàng như xông cho vàng. BẢN NGHĨA (2/14) *Đây,Thái Âm thọ Thiếu Âm làm Thấp tại Tấu đến Biểu. - Khắp cả mình đau nhức, phát sốt: Thấp tại Tấu. - Mình vàng như xông cho vàng: Thấp ra ngoài.
NGUYÊN VĂN (33) Thấp gia chỉ đầu ra mồ hôi, lưng gáy cứng, muốn được đắp chăn và hơ lửa. Nếu như cho Hạ quá sớm thì sinh ọe hoặc ngực đầy, tiểu tiện không lợi, trên lưỡi có rêu, là vì Đơn Điền có Nhiệt, trên ngực có Hàn, khát muốn uống nước nhưng không uống được cho nên miệng ráo và phiền. BẢN NGHĨA (2/15) *Đây, Thái Âm thọ Thái Dương làm Thấp tại Biểu đến Tấu. - Chỉ đầu ra mồ hôi: Dương Hàn tại đầu thọ Tấu Nhiệt. - Lưng gáy cứng muốn được đắp chăn và hơ lửa: Dương Hàn truyền Kinh tại Tấu. - Cho Hạ quá sớm thì sinh ọe: Bởi cớ Dương Hàn tại Tấu nhập Lý. - Hoặc ngực đầy tiểu tiện không lợi: Bởi cớ có Truyền Kinh ắt có Chuyển Thuộc. - Trên lưỡi có rêu: từ Tấu vào Cách. - Là vì Đơn Điền có Nhiệt: Bởi cớ Chuyển Thuộc Âm Nhiệt. - Trên ngực có Hàn: Bởi cớ Truyền Kinh Dương Hàn. - Khát muốn uống nước: Âm Nhiệt. - Nhưng không uống được: có Dương Hàn. - Cho nên miệng ráo và phiền: cùng thọ tại Cách. 30
* Ba tiết kể trên nói: . Trúng Thấp là Thái Dương. . Thấp Tý là Thiếu Âm. . Thấp gia là Thái Âm.
NGUYÊN VĂN (34) Thấp gia cho Hạ, trên trán ra mồ hôi, hơi suyễn, tiểu tiện lợi là chết, nếu Hạ lợi không dứt thì cũng chết. BẢN NGHĨA (2/16) *Đây, Thái Âm Thấp nhập Xung Kinh. - Bệnh Thấp cho Hạ: trị không đúng. - Trên trán ra mồ hôi, hơi suyễn: Xung Kinh ở dưới thọ Thấp mà thoát lên. - Tiểu tiện lợi thì chết: ở dưới không Âm Nhiệt. - Hạ lợi không dứt thì cũng chết: Dương Hàn hãm vào trong, Âm Nhiệt vong.
NGUYÊN VĂN (35) Phong Thấp tương bác, khắp mình đau nhức, theo phép nên cho ra mồ hôi mà giải, gặp ngày trời mưa âm u không dứt, Thầy thuốc bảo rằng trường hợp này, không thể Phát Hạn, mồ hôi ra bệnh không khỏi, cớ sao vậy ? Bởi vì Phát Hạn mà mồ hôi ra nhiều thì chỉ có Phong Khí bị trừ đi, Thấp Khí vẫn còn cho nên không khỏi. Nếu muốn trị Phong Thấp thì nên cho ra mồ hôi ít ít, Phong Thấp đều bị trừ. BẢN NGHĨA (2/17) *Đây, Thái Âm Thấp nhập Nhâm Kinh. - Phong Thấp chọi nhau: Nói chứng Thấp do Thái Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Lý. - Khắp mình đau nhức: tại Lý rồi ra Biểu. - Bệnh tại Biểu nên cho ra mồ hôi mà giải: Theo phép vốn nó là thế.
31
- Gặp ngày trời mưa âm u không dứt: Bảo rằng Thái Âm thọ Thấp nhập Nhâm Kinh, rồi lại thọ Thấp. - Thầy thuốc bảo rằng trường hợp này không thể Phát Hãn: Đúng vậy. - Mồ hôi ra bệnh không khỏi là vì sao: vì Phong nhập Nhâm Kinh đã trừ mà Thấp nhập Nhâm Kinh chưa trừ. - Trị Phong Thấp nên cho ra mồ hôi ít ít: Rồi sau đó Phong Thấp trong phần Huyết của Nhâm Kinh mới có thể theo mồ hôi mà giải.
NGUYÊN VĂN (36) Thấp gia mình nhức, phát sốt, mặt vàng mà suyễn, đầu đau, mũi nghẹt mà phiền, người bệnh mạch Đại, tự ăn uống được, trong bụng điều hòa không bệnh. Bệnh Phong Thấp ở trong đầu cho nên mũi nghẹt, nhét thuốc vào lỗ mũi thì khỏi. BẢN NGHĨA (2/18) *Đây, Thái Âm Thấp nhập Đốc Kinh. - Mình nhức, phát sốt, mặt vàng mà suyễn: Thọ Thiếu Âm Phong Thấp nhập Đốc Kinh. - Đầu đau mũi nghẹt mà phiền: Thọ Thái Dương Phong Thấp nhập Đốc Kinh. - Người bệnh mạch Đại: Âm Dương hiệp mạch. - Tự ăn uống được, trong bụng không bệnh: không bệnh ở Xung Nhâm Kinh. - Bệnh ở trong đầu, mũi nghẹt: chỉ bệnh ở Đốc Kinh. - Nhét thuốc vào lỗ mũi thì khỏi: chuyên trị Đốc Kinh. *Ba tiết ở trên nói: Thái Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm làm bệnh Thấp nhập 3 Kỳ Kinh, mỗi tiết đều có biện chứng của Bản Kinh.
NGUYÊN VĂN (37) Thấp gia mình nhức phiền, có thể cho uống Ma Hoàng gia Bạch Truật thang, cẩn thận không nên dùng phép cứu để công. .
32
MA HOÀNG GIA BẠCH TRUẬT THANG PHƯƠNG (Trị Thái Dương Hàn Thấp nhập nội ; Thấp gia là Thấp tại Nội, là Thấp tại bên trong Tạng làm bệnh). Ma Hoàng 3 lạng Hạnh Nhân 70 hạt
Bạch Truật 4 lạng
Quế Chi 2 lạng
Chích Thảo 2 lạng
5 vị trên, nước 9 thăng, trước nấu Ma Hoàng giảm 2 thăng bỏ bọt nổi lên, cho các thuốc vào nấu lấy 2 thăng, bỏ bả uống ấm 8 cáp, đắp chăn cho ra chút ít mồ hôi. BẢN NGHĨA (2/19) *Đây, Thái Âm thọ Thái Dương Hàn Thấp tại Tấu. - Mình nhức phiền: Hàn Thấp tại Tấu. - Có thể cho uống Ma Hoàng gia Bạch Truật thang, cẩn thận không dùng phép cứu để công: Nói bệnh tại Tấu thọ Hàn Thấp, cho nên dùng Bản phương trong đó có Quế Chi.
NGUYÊN VĂN (38) Người bệnh khắp mình nhức, phát sốt, xế chiều thì bệnh nặng thêm, đó là Phong Thấp. Bệnh này mắc phải do đổ mồ hôi mà ra gió, hoặc bị tổn thương lâu ngày do lạnh làm bệnh, có thể cho uống Ma Hoàng Hạnh Nhân Dĩ Nhân Cam Thảo thang. MA HOÀNG HẠNH NHÂN DĨ NHÂN CAM THẢO THANG PHƯƠNG Ma Hoàng ½ lạng
Hạnh Nhân 10 hạt
Dĩ Nhân ½ lạng
Chích Thảo 1 lạng
Các vị trên chặt nhỏ bằng hạt đậu mè, mỗi lần uống lấy 4 chỉ tiền xúc, 1 chén rưỡi nước, nấu còn 8 phân, bỏ bả uống ấm cho ra chút ít mồ hôi, kiêng gió. BẢN NGHĨA (2/20) *Đây, Thái Âm bệnh Thấp do Thái Dương Phong Thấp, có mắc phải Thiếu Âm Phong Thấp. - Khắp mình nhức phát sốt, xế chiều thêm nặng, đó là Thiếu Âm Phong Thấp cũng là Thái Dương Phong Thấp làm sao biết như vậy ? - Đó là mắc phải do đổ mồ hôi mà ra gió: Thiếu Âm Phong Thấp. 33
- Hoặc bị tổn thương lâu ngày do lạnh: Thái Dương Phong Thấp. - Có thể cho uống Ma Hoàng Hạnh Nhân Dĩ Nhân Cam Thảo thang. *Cùng tham khảo với Thái Dương thiên, Phong Thấp tương bác (Thương Hàn Luận).
NGUYÊN VĂN (39) Bệnh Phong Thấp mạch Phù, mình nặng, ra mồ hôi, sợ gió ; Phòng Kỷ Hoàng Kỳ thang làm chủ. PHÒNG KỶ HOÀNG KỲ THANG PHƯƠNG Phòng Kỷ 1 lạng
Hoàng Kỳ 1 lạng
Bạch Truật 7 chỉ rưỡi
Chích Thảo ½ lạng
Các vị trên chặt nhỏ như hạt đậu mè, mỗi lần dùng 5 chỉ tiền xúc, Sinh Cương 4 lát, Đại Táo 2 trái, nước 1 chén rưỡi nấu lấy 8 phân, bỏ bả uống ấm. - Suyễn gia Ma Hoàng ½ lạng. - Trong Vỵ bất hòa gia Bạch Thược 3 phân (có chuyển thuộc Bản Nhiệt). - Khí xung lên gia Quế Chi 3 phân. - Bên dưới có lạnh lâu ngày gia Tế Tân 3 phân (có truyền Kinh Bản Hàn). Sau khi uống như có trùng bò trong da từ eo lưng trở xuống lạnh như băng (là Thủy Khí bị trục). Sau đó ngồi trên nệm, rồi dùng 1 tấm chăn quấn quanh eo lưng làm cho ra mồ hôi chút ít, bệnh bớt. BẢN NGHĨA (2/21) *Đây, Thái Âm thọ Thiếu Âm Phong Thấp tại Tấu. - Mạch Phù: mạch Thiếu Âm tại Tấu. - Mình nặng: Tấu Kinh thọ Phong Thấp. - Ra mồ hôi: Thiếu Âm Nhiệt Khí. - Sợ gió: Thái Âm là Âm Hàn. - Phòng Kỷ Hoàng Kỳ thang làm chủ. 34
NGUYÊN VĂN (40) Thương Hàn 8 – 9 ngày Phong Thấp tương bác, thân thể nhức phiền, không thể xoay chuyển, không ụa, không khát, mạch Phù Hư mà Sáp ; Quế Chi Phụ Tử thang làm chủ. Nếu đại tiện rắn, tiểu tiện tự lợi khứ Quế Chi gia Bạch Truật thang làm chủ. QUẾ CHI PHỤ TỬ THANG PHƯƠNG Quế Chi 4 lạng, Phụ Tử 3 củ (bào),
Chích Thảo 2 lạng,
Đại Táo 12 trái,
Sinh Cương 3 lạng
5 vị trên, nước 6 thăng nấu lấy 2 thăng, bỏ bả chia uống ấm 3 lần. BẠCH TRUẬT PHỤ TỬ THANG PHƯƠNG Bạch Truật 4 lạng, Phụ Tử 3 củ (bào), Chích Thảo 2 lạng, Đại Táo 12 trái, Sinh Cương 3 lạng. 5 vị trên, nước 3 thăng nấu lấy 1 thăng, bỏ bả chia uống ấm 3 lần. Uống lần đầu cảm giác mình tê, độ nửa ngày uống lần sau, uống hết 3 lần, người bệnh trạng như xây xẩm, chớ có sợ, đó chỉ là Bạch Truật Phụ Tử cùng chạy trong da để trục thủy khí, mà chưa trừ hết cho nên như vậy. BẢN NGHĨA (2/22) *Đây, Thái Âm thọ Thái Dương Hàn Thấp tại Biểu nhập Tấu. - Thương Hàn 8 – 9 ngày: Thương Hàn nhập Lý chuyển làm Hàn Thấp. - Phong Thấp tương bác: Hàn Thấp chuyển làm Phong Thấp. - Thân thể nhức phiền không thể tự xoay chuyển: Bởi cớ Hàn Thấp tại Tấu. - Không ụa, không khát: Bởi cớ không truyền Kinh Bản Hàn cũng như không chuyển thuộc Bản Nhiệt. - Mạch Phù Hư mà Sáp: Tấu Nhiệt Hư mà Hàn Kết. - Quế chi Phụ Tử thang làm chủ: trị Hàn Thấp chuyển làm Thái Dương Phong Thấp. - Nếu Tấu Nhiệt thực thì đại tiện rắn: Hàn truyền kinh thì tiểu tiện tự lợi: Hàn Thấp chuyển làm Thiếu Âm Phong Thấp; Quế chi gia Bạch Truật thang làm chủ. *Đây là 2 loại Phong Thấp không thể trị lẫn lộn, Học giả nên rõ.
.
35
NGUYÊN VĂN (41) Phong Thấp tương bác, khớp xương phiền nhức, đau rút, không thể co duỗi, chạm vào thì đau nặng thêm ; ra mồ hôi, đoản khí, tiểu tiện không lợi, sợ gió, không muốn cởi áo hoặc mình có hơi thủng ; Cam Thảo Phụ Tử thang làm chủ. CAM THẢO PHỤ TỬ THANG PHƯƠNG Chích Thảo 2 lạng
Phụ Tử 2 củ
Bạch Truật 2 lạng
Quế Chi 4 lạng
4 vị trên, nước 6 thăng nấu lấy 3 thăng, bỏ bả uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần. Sau khi uống lần đầu hơi ra mồ hôi thì giải. Nếu ăn được, mồ hôi ra rồi lại phiền thì chỉ uống 5 cáp ; sợ 1 thăng là nhiều thì nên uống 6 – 7 cáp. BẢN NGHĨA (2/23) *Đây, Thái Âm thọ Thiếu Âm Phong Thấp tại Tấu ra Biểu. - Phong Thấp tương bác, khớp xương phiền nhức, đau rút, không thể co duỗi, chạm vào thì đau nặng thêm: Tại Tấu Hàn Thấp chuyển làm Phong Thấp. - Ra mồ hôi, đoản khí, tiểu tiện không lợi: chuyển làm Thiếu Âm Phong Thấp. - Sợ gió không muốn cởi áo hoặc mình hơi thủng: chuyển làm Thái Dương Phong Thấp. - Cam Thảo Phụ Tử thang làm chủ. *5 tiết kể trên nói nguyên do Thái Âm làm bệnh Thấp. . Thọ Thái Dương làm Hàn Thấp; thọ Thiếu Âm làm Phong Thấp. . Thọ tại Tấu thì đồng mà mạch chứng khác thì trị khác. . Phát Hãn tại Tấu là khó mà Phát Hãn của Thiếu Âm tại Tấu càng khó. . Vã chăng tại Biểu làm Thương Hàn, nhập Lý làm Hàn Thấp : - Có Hàn Thấp chuyển làm Thiếu Âm Phong Thấp. - Có Hàn Thấp chuyển làm Thái Dương Phong Thấp. . Đây là Thái Dương Thiếu Âm cùng nhau làm Biểu Lý, cùng nhau chuyển biến, không thể không biết vậy. .
36
NGUYÊN VĂN (42) Bệnh Thái Dương Trúng Yết, phát sốt sợ lạnh, mình nặng mà đau nhức, mạch Huyền Tế Khâu Trì, đi tiểu tiện xong, ớn lạnh lông dựng đứng (nổi da gà), tay chân nghịch lãnh, làm việc một chút thì người nóng lên, miệng há, răng cửa khô. Nếu Phát Hãn thì sợ lạnh nhiều ; gia Ôn châm thì phát sốt dữ, cho Hạ thì đi tiểu rất khó. BẢN NGHĨA (2/24) *Đây, Thiếu Âm tại Tấu trúng Nhiệt. - Thái Dương không nói bệnh : Thái Dương đã chuyển sang Thiếu Âm. - Không nói Trúng Nhiệt mà nói Trúng Yết: cũng như Dương Minh Thiếu Dương thuộc Táo Hỏa Khí mà gọi là Ôn, đều là nghĩa thọ Thái Dương Bản Hàn truyền Kinh. Đó là ‘Tự gia sở tập’ của Trọng Sư, thuật theo Hiên Viên, Kỳ Bá mà có cải tiến vậy. - Phát sốt sợ lạnh: Trúng Thiếu Âm Khí. - Mình nặng mà đau nhức: Trúng Thiếu Âm Kinh. - Mạch Huyền Tế Khâu Trì: Trúng Thiếu Âm Lạc. . Tại Tấu Thái Dương chuyển Thiếu Âm thì mạch Huyền. . Thiếu Âm thọ Thái Dương thì mạch Tế. . Thiếu Âm tại Tấu Hư thì mạch Khâu. . Thái Dương tại Tấu Thực thì mạch Trì. - Tiểu tiện xong, ớn lạnh nổi da gà: truyền Dương Hàn Kinh. - Tay chân nghịch lãnh: truyền Âm Hàn Kinh. - Làm việc một chút thì người nóng lên: truyền Âm Nhiệt Kinh. - Miệng há, răng cửa khô: truyền Dương Nhiệt Kinh. - Nếu cho Phát Hãn thì sợ lạnh: Âm Nhiệt đi mà Âm Hàn hiện ra. - Gia ôn châm thì phát sốt nhiều: Bản Hàn Truyền kinh thì Bản Nhiệt Chuyển thuộc. - Cho Hạ thì tiểu tiện rất khó: Hàn Nhiệt cùng hạ.
37
NGUYÊN VĂN (43) Thái Dương Trúng Yết là Trúng Nhiệt vậy ; ra mồ hôi, sợ lạnh, mình nóng mà khát. Bạch Hổ gia Nhân Sâm thang làm chủ. BẠCH HỔ GIA NHÂN SÂM THANG PHƯƠNG Tri Mẫu 6 lạng Chích Thảo 2 lạng
Thạch Cao 1 cân (đâm, bọc vải)
Cánh Mễ 6 cáp
Nhân Sâm 3 lạng
5 vị trên, nước 1 đấu, nấu gạo chín thang thành, uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần. BẢN NGHĨA (2/25) *Đây, Thiếu Âm trúng Nhiệt nhập các Túc Kinh. - Ra mồ hôi, sợ lạnh: Nhiệt trúng các Âm Kinh. - Mình nóng mà khát: Nhiệt trúng các Dương Kinh. - Bạch Hổ gia Nhân Sâm thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (44) Thái Dương Trúng Yết, mình nóng, nhức nhói nặng nề mà mạch Vi Nhược, đó là tháng hè bị thương bởi nước lạnh, nước chạy trong da làm nên. Nhất Vật Qua Đế thang làm chủ. NHẤT VẬT QUA ĐẾ THANG PHƯƠNG Qua Đế 20 cái : 1 vị trên, bâm nhỏ, dùng 1 thăng nước nấu lấy 5 cáp, bỏ bả uống ấm. BẢN NGHĨA (2/26) *Đây, Thiếu Âm trúng Nhiệt nhập các Thủ Kinh. - Mình nóng: thọ Thiếu Âm Bản Nhiệt. - Nhức nhói nặng nề: thọ Thái Dương Bản Hàn truyền Kinh. - Mạch Vi Nhược: Ly khai Tiêu Âm mà Bản Nhiệt bệnh một mình. - Tháng hè: nói Bản Nhiệt. - Bị thương bởi nước lạnh: thọ Bản Hàn truyền Kinh. 38
- Nước chảy trong da làm nên: Nói Nhiệt bệnh do thương bởi Hàn dẫn tới. Nội Kinh nói thương bởi Hàn thì làm Nhiệt bệnh, là nói chỗ này vậy. - Nhất Vật Qua Đế thang làm chủ. *Nhìn lại câu ‘Thủy hành bì trung’ này, thấy Thương Hàn Luận, Thái Dương Hàn Khí ‘kết tinh’ tại đây; để tiếp diễn Tạp Bệnh Luận do Thiếu Âm chủ trương.
(Trên đây, chương thứ 2, 26 tiết, luận bệnh Kỉnh Thấp Yết)
39
TẠP BỆNH LUẬN QUYỂN II _______________________________ CHƯƠNG 3 : BÁCH
HỢP – HỒ HOẶC- ÂM DƯƠNG ĐỘC (13 Tiết, từ 45 đến 57)
LUẬN CÁC THỦ KHÍ KINH LẠC 1- Các Thủ Kinh Lạc từ Cách đến Tấu. 2- Các Thủ Kinh Lạc từ Cách đến Bì. 3- Các Thủ Kinh Lạc từ Cách đến Cơ. 4- Các Thủ Kinh Lạc tại Cách. 5- Các Thủ Kinh Lạc từ Tấu đến Cách. 6- Các Thủ Kinh Lạc từ Tấu đến Bì. 7- Các Thủ Kinh Lạc từ Tấu đến Cơ. 8- Các Thủ Kinh Lạc tại Tấu. 9- Các Thủ Khí làm bệnh Bách Hợp. 10- Các Thủ Khí làm bệnh Hồ Hoặc. 11- Các Thủ Lạc làm bệnh Độc. 12- Thủ Âm dồn đến Thủ Dương làm bệnh Dương Độc. 13- Thủ Dương dồn đến Thủ Âm làm bệnh Âm Độc.
NGUYÊN VĂN (45) Luận rằng: Bệnh Bách Hợp, trăm mạch đồng một mối dẫn đến bệnh này. Ý muốn ăn lại không ăn được, thường im lặng, muốn nằm không nằm được, muốn đi không đi được, ăn uống có lúc biết ngon hoặc có lúc không thích nghe mùi đồ ăn, như lạnh mà không lạnh, như nóng mà không nóng, miệng đắng, tiểu tiện đỏ, các thuốc không trị được. Uống thuốc vào thì thổ lợi nhiều. Như có thần linh, mà thân mình như bình thường không bệnh, mạch hơi Súc. Mỗi khi đi tiểu nhức đầu thì 60 ngày khỏi. Nếu đi tiểu đầu không đau, chỉ ớn lạnh thì 40 ngày khỏi. Nếu đi tiểu dễ dàng, chỉ đầu xây xẩm thì 20 ngày khỏi. Chứng của nó hoặc khi chưa bệnh mà đã dự kiến; hoặc đã bệnh 4 – 5 ngày rồi mới hiện ra; hoặc có khi bệnh 20 ngày, hoặc 1 tháng sau mới thấy, tùy chứng của từng trường hợp mà chữa. BẢN NGHĨA (3/1) * Đây, các Thủ Kinh Lạc từ Cách đến Tấu. 40
- Chương Kỉnh Thấp Yết trước đây nói Thương Hàn Tạp Bệnh nên hiệp đọc, tiết này hai chữ Luận Viết nói nên phân đọc. - Phàm bệnh lấy mạch làm gốc, chẩn mạch ở Kinh Thủ Thái Âm, ý nói Thủ Kinh là nơi trăm mạch gồm về một mối đều có thể dẫn đến bệnh, cho nên gọi là Bách Hợp Bệnh. - Phàm nhận thức Kinh Lạc khởi đầu là tại Thủ Kinh; Thủ Tam Âm với Thủ Tam Dương là Lạc; Bản luận trước đề ra các Thủ Kinh Lạc là ý này. - Ý muốn ăn trái lại không ăn được: nói Kinh Lạc đều tập trung tại Cách Tấu, địa điểm này Vỵ Khí làm chủ, Vỵ Khí hư đó là nguyên do sinh bệnh Bách Hợp. - Thường mặc mặc nhiên: Tà bế tại Tấu Cách. - Muốn nằm: Thủ Âm Kinh. Không nằm được: bởi vì ‘Lạc’ với Thủ Dương Kinh. - Muốn đi: Thủ Dương Kinh. Không đi được: bởi vì ‘Lạc’ với Thủ Âm Kinh. - Ăn uống hoặc có lúc ngon miệng: Vỵ Khí hòa. - Hoặc có lúc không muốn nghe mùi đồ ăn: Vỵ Khí bất hòa. - Thủ Dương tại Ngoại thọ Dương Hàn cho nên như lạnh, nhập Nội thọ Âm Nhiệt cho nên không lạnh. - Thủ Âm tại Nội thọ Âm Nhiệt cho nên như nóng, xuất Ngoại thọ Dương Hàn cho nên không nóng. - Miệng đắng: Thủ Âm thọ Hàn. Tiểu tiện đỏ: Thủ Dương thọ Nhiệt. - Các thuốc không trị được: bởi cớ không biết các Thủ Kinh Lạc cùng với bệnh của chúng. - Uống thuốc vào thì bệnh nặng: không biết phép trị Thủ Kinh. - Thổ lợi: Thủ Dương chứng. - Như có Thần linh: Thủ Âm chứng. - Thân hình như bình thường: bệnh không ở Túc Kinh. - Mạch hơi Sác: Mạch của các Thủ Kinh. - Mỗi khi đi tiểu thì nhức đầu: Thủ Âm tại Thượng mà bệnh tại Hạ làm đi tiểu; Thủ Dương tại Hạ mà bệnh tại Thượng làm đau đầu. Thủ với Thủ tương ứng vậy. - 60 ngày khỏi: các Thủ Kinh hành một Giáp Tý là một chu kỳ lên xuống vào ra. 41
- Mỗi lần đi tiểu không đau đầu, chỉ ớn lạnh thì 40 ngày khỏi: tại Trung Hạ, Kinh hành 40 ngày một chu kỳ. - Nếu đi tiểu dễ dàng, chỉ đầu xây xẩm thì 20 ngày khỏi: tại Thượng, Kinh hành 20 ngày một chu kỳ. - Chứng của nó hoặc chưa bệnh mà đã dự kiến: Thủ Kinh tại Cách. - Hoặc 4 - 5 ngày mới hiện ra: Thủ Kinh tại Tấu. - Hoặc 20 ngày: Thủ Kinh tại Lý. - Hoặc sau một tháng: Thủ Kinh tại Biểu. - Kinh Lạc khởi đầu tại Cách Tấu rồi đi đến Biểu Lý, cho nên bệnh có lâu có mau không giống nhau, có thể tùy chứng mà trị.
NGUYÊN VĂN (46) Bệnh Bách Hợp, sau khi Phát Hãn dùng Bách Hợp Tri Mẫu thang làm chủ. BÁCH HỢP TRI MẪU THANG PHƯƠNG Bách Hợp
7 cái
Tri Mẫu 3 lạng
Trước dùng nước rửa Bách Hợp, ngâm 1 đêm cho ra bọt trắng, bỏ nước đi. Lấy riêng nước suối 2 thăng nấu Bách Hợp lấy 1 thăng, bỏ bả, lấy riêng 2 thăng nước suối nấu Tri Mẫu còn lại 1 thăng, bỏ bả. Sau đó hiệp 2 nước lại, cô còn 1 thăng 5 cáp, chia uống ấm 2 lần. BẢN NGHĨA *Đây, các Thủ Kinh Lạc từ Cách đến Bì.
NGUYÊN VĂN (47) Bệnh Bách Hợp sau khi cho Hạ, Bách Hợp Hoạt Thạch Đại Giả Thạch thang làm chủ. BÁCH HỢP HOẠT THẠCH ĐẠI GIẢ THẠCH THANG PHƯƠNG Bách Hợp 7 miếng (đâm) Hoạt Thạch 3 lạng, Đại Giả Thạch to như viên đạn (2 thứ đồng giả nát, bọc vải) 42
Đầu tiên nấu Bách Hợp như phép trước, lấy riêng 2 thăng nước suối nấu 2 vị còn lại 1 thăng, bỏ bả, sau đó hiệp 2 nước lại nấu còn 1 thăng 5 cáp, chia uống ấm 2 lần. BẢN NGHĨA (3/3) *Đây, các Thủ Kinh Lạc từ Cách đến Cơ.
NGUYÊN VĂN (48) Bệnh Bách Hợp sau khi cho thổ, Bách Hợp Kê Tử hoàng thang làm chủ. BÁCH HỢP KÊ TỬ HOÀNG THANG PHƯƠNG Bách Hợp 7 miếng (đâm)
Kê Tử Hoàng 1 cái
Đầu tiên nấu Bách Hợp như phép trước, rồi cho Kê Tử hoàng vào khuấy đều cô lại còn 5 phân, uống ấm. BẢN NGHĨA (3/4) *Đây, các Thủ Kinh Lạc tại Cách.
NGUYÊN VĂN (49) Bệnh Bách Hợp chưa trải qua Hãn, Thổ, Hạ, chứng trạng còn như lúc ban đầu, Bách Hợp Địa Hoàng thang làm chủ. BÁCH HỢP ĐỊA HOÀNG THANG PHƯƠNG Bách Hợp 7 miếng (đâm)
Sinh Địa Hoàng trấp 1 thăng
Đầu tiên nấu Bách Hợp như phép trước, cho Địa Hoàng trấp vào nấu còn 1 thăng 5 cáp, chia uống ấm 2 lần, trúng bệnh chớ uống lần sau, đại tiện phân đen như sơn. BẢN NGHĨA (3/5) *Đây, các Thủ Kinh Lạc tại Tấu đến Cách. - Chứng trạng còn như lúc ban đầu: ý nói cùng với tại Cách đến Tấu có đồng chứng trạng, tức phép trị cũng đồng. .
43
NGUYÊN VĂN (50) Bệnh Bách Hợp một tháng không giải biến thành chứng khát, Bách Hợp Tẩy phương làm chủ. BÁCH HỢP TẨY PHƯƠNG Bách Hợp 1 thăng : Dùng 1 đấu nước, ngâm Bách Hợp 1 đêm, lấy nước đó rửa mình. Rửa xong ăn bánh lạt, chớ dùng đậu tương mặn. BẢN NGHĨA (3/6) * Đây, các Thủ Kinh Lạc tại Tấu đến Bì.
NGUYÊN VĂN (51) Bệnh Bách hợp khát mãi không dứt, Quát Lâu Mẫu Lệ tán làm chủ. QUÁT LÂU MẪU LỆ TÁN PHƯƠNG Quát Lâu Căn
Mẫu Lệ (rang)
2 vị đồng cân lượng tán thành bột, uống mỗi lần 1 thìa phương thốn, ngày 3 lần. BẢN NGHĨA (3/7) * Đây, các Thủ Kinh Lạc tại Tấu đến Cơ.
NGUYÊN VĂN (52) Bệnh Bách Hợp biến chứng phát sốt, Bách Hợp Hoạt Thạch tán làm chủ. BÁCH HỢP HOẠT THẠCH TÁN PHƯƠNG Bách Hợp 1 lạng (chích)
Hoạt Thạch 3 lạng
2 vị tán bột, uống 1 thìa phương thốn, ngày 3 lần, đi cầu được thì ngưng, vì nhiệt đã trừ. BẢN NGHĨA (3/8) * Đây, các Thủ Kinh Lạc tại Tấu.
.
44
NGUYÊN VĂN (53) Bệnh Bách Hợp hiện ở Âm thì dùng phép Dương mà trị. Hiện ở Dương thì dùng phép Âm mà trị. Bệnh hiện ở Dương mà công Âm lại cho Phát Hãn , đó là nghịch; bệnh hiện ở Âm mà công Dương lại cho Hạ , đó cũng là nghịch. BẢN NGHĨA (3/9) * Đây, các Thủ Khí trên dưới của Cách, trong ngoài của Tấu. - Thấy Thủ Âm tại Hạ dùng phép trị Thủ Dương tại Hạ, cứu giúp nó. - Thấy Thủ Dương tại Thượng dùng phép trị Thủ Âm tại Thượng, cứu giúp nó. Ý nói bệnh tại Cách Thượng thì trị Thượng, tại Cách Hạ thì trị Hạ, nhưng nắm chắc ở chỗ Thủ Âm trị tại Thượng còn Thủ Dương trị tại Hạ. - Thấy Thủ Dương bệnh tại Ngoại mà dùng phép công Thủ Âm tại Ngoại để trị, đó là Nghịch. - Thấy Thủ Âm bệnh tại Nội mà dùng phép công Thủ Dương tại Nội để trị, đó cũng là Nghịch. Ý nói Thủ Âm Thủ Dương tại Tấu vào Nội ra Ngoại tùy theo Bản Kinh, chẳng thể vay mượn chi khác.
NGUYÊN VĂN (54) Hồ Hoặc ‘chi vi’ bệnh, chứng trạng giống như Thương Hàn, lìm lịm muốn ngủ mà mắt không nhắm được, nằm ngồi không yên, trùng đục khoét ở hầu gọi là hoặc, đục khoét ở Âm bộ gọi là hồ, không muốn ăn uống, sợ nghe mùi đồ ăn, mặt mắt người bệnh chợt đỏ, chợt đen, chợt trắng. Trùng đục khoét ở Thượng bộ thì thinh âm khàn khàn, Cam Thảo Tả Tâm thang làm chủ. Trùng đục khoét ở Hạ bộ thì yết khô, dùng Khổ Sâm thang rửa nó. Trùng đục khoét ở giang môn, dùng Hùng Hoàng đốt xông nó. CAM THẢO TẢ TÂM THANG PHƯƠNG Chích Thảo 4 lạng Bán Hạ ½ thăng
Hoàng Cầm 3 lạng
Càn Cương 3 lạng
Hoàng Liên 2 lạng
Đại Táo
Nhân Sâm 3 lạng
12 trái
7 vị trên dùng một đấu nước nấu lấy 6 thăng, bỏ bả, lại nấu lấy 3 thăng, uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần.
.
45
KHỔ SÂM TẨY PHƯƠNG Khổ Sâm 1 thăng : Nước 1 đấu, nấu lấy 7 thăng, bỏ bã xông rửa 3 lần. HÙNG HOÀNG HUÂN PHÁP Hùng Hoàng 1 vị tán nhuyễn - Dùng 2 miếng ngói ống hiệp lại, đốt Hùng Hoàng xông khói hướng hậu môn. BẢN NGHĨA (3/10) * Đây, các Thủ Kinh tại Thượng Hạ của Cách, tại Nội Ngoại của Tấu. - Hồ là giống ban đêm mới thấy, ý gọi Thủ Âm. - Hoặc là giống thấy ban ngày, ý gọi Thủ Dương. Các Thủ Kinh u uẩn khó thấy, cho nên dùng 2 vật này để so sánh. - Chứng trạng giống như Thương Hàn: ý nói, có Kinh Lạc thì có thể tìm thấy. - Lìm lịm muốn ngủ: thọ Dương Hàn. - Mắt không nhắm được: thọ Âm Nhiệt. - Ngồi nằm không yên: Thủ Kinh không thuận tiếp với Thủ Lạc. - Trùng đục khoét ở hầu là Hoặc: ý nói Thủ Dương. - Trùng đục khoét ở Âm bộ là Hồ: ý nói Thủ Âm. - Không muốn ăn uống, sợ nghe mùi đồ ăn: Thủ Kinh tại Tấu bất hòa với Vỵ Khí. - Mặt mắt chợt đỏ, chợt đen, chợt trắng: Thủ Dương hành Thủy, Thủ Âm hành Huyết, tại Cách 2 chức năng này không bí biệt (chia riêng) được. - Trùng đục khoét ở Thượng bộ thì thinh âm khàn khàn: Thủ Dương tại Đới Hạ nhưng Kinh hành ở Cách Thượng. - Cam Thảo Tả Tâm thang làm chủ. - Trùng đục khoét ở Hạ bộ thì yết khô: Thủ Âm tại Cách Thượng nhưng Kinh hành tới Đới Hạ, dùng Khổ Sâm thang rửa nó, Hùng Hoàng xông nó.
.
46
NGUYÊN VĂN (55) Người bệnh mạch Sác không sốt, hơi phiền, lìm lịm chỉ muốn nằm, ra mồ hôi; mới mắc phải 3- 4 ngày, mắt đỏ như chim Tu hú, bởi 7 – 8 ngày thì xung quanh mí mắt đen. Nếu như ăn được là mủ đã thành, Đương Qui Xích Tiểu Đậu tán làm chủ. ĐƯƠNG QUI XÍCH TIỂU ĐẬU TÁN PHƯƠNG Xích Tiểu Đậu 3 thăng ngâm cho ra mầm rồi sấy khô
Đương Qui 10 phân
2 vị trên tán bột, uống 1 thìa phương thốn, ngày 3 lần với nước tương thủy (nấu chín gạo đổ vào trong nước lạnh ngâm trong 5 -6 ngày thành nước có vị chua, sắc trắng. BẢN NGHĨA (3/11) * Đây, các Thủ Lạc tại Thượng Hạ của Cách, tại Nội Ngoại của Tấu. - Mạch Sác không sốt: Nhiệt nhập Lạc. - Hơi phiền, lìm lịm: Thủ Lạc tại Tấu. - Chỉ muốn nằm: Thủ Lạc tại Tấu thọ Dương Hàn. - Mồ hôi ra: Thủ Lạc tại Tấu thọ Âm Nhiệt. - Mới mắc phải: Thủ Lạc mới đầu tại Cách Tấu rồi đi đến Biểu Lý. - 3 – 4 ngày mắt đỏ như mắt chim Tu hú: Thủ Âm Lạc hành Huyết tại Cách Thượng Hạ. - 7 – 8 ngày xung quanh mí mắt đen: Thủ Dương Lạc hành Thủy tại Tấu Nội Ngoại. - Nếu muốn ăn được: Các Thủ Lạc từ Nội xuất Ngoại làm thành nùng (mủ). - Đương Qui Xích Tiểu Đậu tán làm chủ.
NGUYÊN VĂN (56) Dương độc chi vi bệnh, Mặt mắt loang lổ như vân gấm, yết hầu đau, mửa mủ máu 5 ngày có thể trị, 7 ngày không thể trị, Thăng Ma Miết Giáp thang làm chủ. THĂNG MA MIẾT GIÁP THANG PHƯƠNG Thăng Ma, Đương Qui, Cam Thảo mỗi thứ 2 lạng, Xuyên Tiêu sao khứ mồ hôi 1 lạng, Miết Giáp 1 miếng to bằng ngón tay nướng, Hùng Hoàng ½ lạng nghiền. 47
6 vị trên, dùng 4 thăng nước nấu lấy 1 thăng, uống hết 1 lần, người già và trẻ nhỏ chia làm 2 lần uống, cho ra mồ hôi. BẢN NGHĨA (3/12) * Đây, Thủ Âm Kinh hành Huyết dồn đến Thủ Dương. - Huyết dồn đến Thủ Kinh cho nên mặt mắt loang lổ như vân gấm. - Các Thủ Kinh đều hội tại Yết hầu cho nên đau, thọ chịu sự dồn của Huyết cho nên mửa mủ máu. - Ngũ nhật khả trị: Ngũ Tạng truyền Kinh một chu kỳ. - Thất nhật không trị được: Thất truyền thì chết là nghịch truyền. Thăng Ma Miết Giáp thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (57) Âm độc ‘chi vi’ bệnh, mặt mắt xanh, mình đau như bị gậy đánh, Yết hầu đau 5 – 6 ngày có thể trị, 7 ngày không thể trị, Thăng Ma Miết Giáp khứ Xuyên Tiêu, Hùng Hoàng thang làm chủ. BẢN NGHĨA (3/13) * Đây, Thủ Dương Kinh hành Thủy dồn đến Thủ Âm. - Thủy dồn Thủ Kinh cho nên mặt mắt xanh. - Thọ độc tại Cách cho nên mình đau như bị gậy đánh. - Yết hầu đau 5 ngày có thể trị, 7 ngày không thể trị: xem tiết trên. - Bệnh Thủ Dương không cần trị Huyết cho nên khứ Xuyên Tiêu, Hùng Hoàng.
(Trên đây, chương thứ 3, 13 tiết, luận bệnh Bách Hợp Hồ Hoặc Âm Dương Độc) 48
CHƯƠNG 4:
NGƯỢC TẬT
(5 Tiết, từ 58 đến 62) LUẬN TAM TIÊU 12345-
Ngược mạch của Tiêu Kinh tại Tấu với tại Cách. Tiêu Kinh tại Đới thọ Âm phần Hàn Nhiệt làm Ngược mẫu. Tiêu Kinh tại Cách thọ Âm phần Hàn Nhiệt làm Đan ngược. Tiêu Kinh tại Cách thọ Dương phần Hàn Nhiệt làm Ôn ngược. Tiêu Kinh tại Đới thọ Dương phần Hàn Nhiệt làm Mẫu ngược.
NGUYÊN VĂN (58) Thầy nói : Mạch của bệnh sốt rét vốn là Huyền, Huyền Sác là Nhiệt nhiều, Huyền Trì là Hàn nhiều, Huyền Tiểu Khẩn cho Hạ thì bớt, Huyền Trì thì có thể dùng phép Ôn, Huyền Khẩn thì có thể Phát hãn hoặc Ôn châm, Phù Đại thì có thể cho Thổ, Huyền Sác là do Phong phát, dùng phép ăn uống và nghỉ ngơi để trị dứt nó. BẢN NGHĨA (4/1) * Đây, Tam Tiêu Kinh tại Nội Ngoại của Tấu và tại Thượng Hạ của Cách làm bệnh Ngược. - Thương Hàn Luận nói bệnh sốt rét tại Biểu, phần nhiều chú trọng tại Tấu. - Tạp Bệnh Luận nói bệnh sốt rét tại Lý, phần nhiều chú trọng tại Cách. Tấu là địa phương của Bán Biểu Bán Lý. Cách là khu vực của Bán Dương Bán Âm là do Tam Tiêu Kinh đảm đương. - Mạch bệnh sốt rét vốn Huyền: Mạch Huyền đi căng thẳng lên xuống là hiệp mạch của Dương Hàn Âm Nhiệt, lại cũng là hiệp mạch của Dương Nhiệt Âm Hàn. - Huyền Sác thì Nhiệt nhiều: thọ Thiếu Âm Nhiệt Khí. - Huyền Trì thì Hàn nhiều: thọ Thái Dương Hàn Khí. - Huyền Tiểu Khẩn cho Hạ thì bớt: thọ Âm Nhiệt tại Cách Hạ. - Huyền Trì thì dùng phép Ôn: thọ Âm Hàn tại Cách Nội. - Huyền Khẩn thì có thể Phát Hãn hoặc Ôn châm: Dương Hàn tại Cách Ngoại. 49
- Mạch Phù Đại thì cho mửa: thọ Dương Nhiệt tại Cách Thượng. - Mạch Huyền Sác là do Phong phát: thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Cách. - Dùng phép ăn uống, nghỉ ngơi để trị dứt nó: nói phải nên hòa Vỵ Khí.
NGUYÊN VĂN (59) Bệnh sốt rét phát ngày 1 của tháng nên đến ngày 15 thì khỏi, nếu như không bớt thì giải ở cuối tháng, nếu lại không bớt thì phải như thế nào ? Thầy nói: Đó là Kết làm Trưng Hà gọi là Ngược mẫu, phải trị gấp nên dùng Miết Giáp Tiển hoàn làm chủ. MIẾT GIÁP TIỂN HOÀN PHƯƠNG Miết Giáp 13 phân
Xạ Can 3 phân đốt
Hoàng Cầm 3 phân
Sài Hồ 6 phân
Càn Khương, Đại Hoàng, Quế Chi, Thạch Vi (bỏ lông), Hậu Phác, Tử Uy, Bán Hạ, A Giao, Thược Dược, Mẫu Đơn, Giá Trùng mỗi vị 5 phân, Đình Lịch, Nhân Sâm mỗi vị 1 phân Phong Oa đem nướng 4 phân
Cù Mạch 2 phân
Xích Tiêu 12 phân
Khương Lang 6 phân
Đào Nhân 12 phân
23 vị trên tán bột, lấy 1 đấu tro bếp lò rèn, rượu trong 1 hộc 5 đấu, ngâm tro đợi cho rượu cạn hết phân nửa cho Miết Giáp vào trong nấu nát nhừ như keo sơn, vắt lấy nước cốt cho các thuốc vào cô đặc làm hoàn to bằng hạt ngô đồng, lúc bụng đói uống 7 hoàn, ngày 3 lần. BẢN NGHĨA
(4/2)
* Đây, Tam Tiêu Kinh tại Đới thọ Âm phần Hàn Nhiệt làm Ngược Mẫu - Chương Bách Hợp nói các Thủ Kinh hành 1 giáp tý là 1 chu: tại thượng phần hành 20 ngày, tại Trung Hạ phần hành 40 ngày, theo 60 là 1 giáp tý truyền kinh mà nói. Đây Thủ Tiêu Kinh hành 15 ngày, theo 24 Khí hành Kinh mà nói, cùng hành không trái nhau. Ban đầu hành Thượng Tiêu 15 ngày, Trung Tiêu 15 ngày, Hạ Tiêu 15 ngày; vừa vặn tại Đới phần thọ 3 Âm Kinh Huyết Kết làm Trưng Hà, gọi là Ngược Mẫu. Mẫu là mẹ ý gọi sinh ra nhiều chứng khác, gấp trị đi nên dùng Miết Giáp Tiển hoàn. .
50
NGUYÊN VĂN (60) Thầy nói Âm Khí cô tuyệt (một mình Âm Khí tuyệt), Dương Khí độc phát (một mình Dương Khí phát), thì Nhiệt mà thiểu Khí, bứt rứt khó chịu, tay chân nóng mà muốn mửa, gọi là Đơn Ngược. Nếu chỉ nóng mà không lạnh là Dương Khí trọng ở Tâm, Ngoại trú ở khoản phân Nhục khiến cho người bệnh teo rút cơ nhục. BẢN NGHĨA (4/3) * Đây,Tam Tiêu Kinh tại Cách thọ Âm phần Hàn Nhiệt làm Đơn Ngược - Âm Khí cô tuyệt: là Thủ Âm Bào Phế không được Túc Âm Can Tỳ hổ trợ. - Dương Khí độc phát: là Túc Âm Thận Kinh không thể tư dưỡng Tâm Dương cho nên Nhiệt Khí độc phát. - Nhiệt mà thiểu Khí, bứt rứt khó chịu: chứng ngược của Phế Tỳ. - Tay chân nóng mà muốn mửa: chứng ngược của Can Bào. - Gọi là Đơn Ngược: tại Thủ Túc Âm Hàn Kinh. - Nếu chỉ nóng mà không lạnh là Tâm Dương không được Thận Thủy chu cấp. - Nhiệt chứa ở Tâm,Ngoại trú ở khoảng phân nhục khiến cho người bệnh teo rút cơ nhục: chứng ngược tại Thủ Túc Âm Nhiệt Kinh.
NGUYÊN VĂN (61) Bệnh Ôn Ngược mạch như Bình, mình không lạnh chỉ có nóng, xương khớp nhức khó chịu, thỉnh thoảng ói, Bạch Hổ gia Quế Chi thang làm chủ. BẠCH HỔ GIA QUẾ CHI THANG PHƯƠNG Tri Mẫu 6 lạng Chích Thảo 2 lạng
Thạch Cao 1 cân đâm bọc vải Quế Chi 2 lạng
Ngạnh Mễ 2 cáp
5 vị trên, dùng một đấu nước nấu gạo chín là được, uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần. BẢN NGHĨA (4/4) * Đây, Tam Tiêu Kinh tại Cách thọ Dương phần Hàn Nhiệt làm Ôn Ngược 51
- Ôn Ngược là: Dương Hàn Dương Nhiệt tại Cách làm Ngược. - Mạch như Bình: Dương phần Hàn Nhiệt bằng nhau. - Mình không lạnh chỉ có nóng: Vỵ Trường, Tiêu, Đởm, chứng Ngược của các Dương Nhiệt tại Cách. - Xương khớp nhức khó chịu, thỉnh thoảng ói: Bàng Quang, Tiểu Trường, chứng Ngược của các Dương Hàn tại Cách. - Bạch Hổ gia Quế Chi thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (62) Bệnh rét lạnh nhiều gọi là Mẫu Ngược, Thục Tất tán làm chủ. THỤC TẤT TÁN PHƯƠNG Thục Tất rửa bỏ mùi tanh (ngọn non của Thường Sơn) Vân Mẫu (thiêu 2 ngày đêm)
Long Cốt các vị đồng phân lượng
3 vị trên tán bột, trước lúc chưa phát uống với nước Tương thủy ½ tiền. BẢN NGHĨA (4/5) * Đây, Tam Tiêu Kinh tại Đới thọ Dương phần Hàn Nhiệt làm Mẫu Ngược - Rét lạnh nhiều: Rét thọ Bản Hàn truyền Kinh. - Gọi là Mẫu (con đực) Ngược: gọi Dương Kinh tại Đới Hạ làm rét. - Thục Tất tán làm chủ.
(Trên đây, chương thứ 4 , 5 tiết, luận Ngược Tật) 52
CHƯƠNG 5:
TRÚNG PHONG - LỊCH TIẾT (13 Tiết, từ 63 đến 75) LUẬN BÀO
1- Trúng Phong tại Thượng Hạ của Cách 2- Trúng Phong tại Nội Ngoại của Tấu. 3- Trúng Phong tại Tấu trị pháp. 4- Trúng Phong tại Cơ làm thỉ (bắt đầu). 5- Trúng Phong tại Cách các Âm Kinh. 6- Trúng Phong tại Cách các Dương Kinh. 7- Trúng Phong tại Biểu trị pháp. 8- Lịch tiết các Túc Kinh với Bào. 9- Lịch tiết các Thủ Kinh với Bào. 10- Lịch tiết Bào với các Túc Kinh. 11- Lịch tiết Bào với các Thủ Kinh. 12- Lịch tiết tại Nội trị pháp. 13- Lịch tiết tại Ngoại trị pháp. NGUYÊN VĂN (63) Phàm Phong ‘chi vi’ bệnh, làm chứng bại liệt nửa người, hoặc chỉ bại cánh tay đó gọi là bệnh Tý, mạch Vi mà Sác do Trúng Phong làm ra như thế. BẢN NGHĨA (5/1) * Đây, Bào Kinh thọ Phong tại Lý đến Cách và tại Biểu đến Cách. - Bại liệt nửa người hoặc chỉ bại cánh tay: tại Lý đến Cách. - Mạch Vi mà Sác do Trúng Phong làm ra: tại Biểu đến Cách. Hai trường hợp này với trị pháp tại Cách là một.
NGUYÊN VĂN (64) Thốn khẩu mạch Phù mà Khẩn, khẩn là Hàn, Phù là Hư, Hư Hàn tương bác, Tà tại Bì Phu. Phù là Huyết Hư, Lạc mạch trống rổng, Tặc Tà không tiết được hoặc ở bên trái hoặc ở bên phải, Tà Khí làm giản, Chính Khí làm rút, Chính Khí dẫn kéo Tà Khí làm miệng mắt méo lệch, tay chân bất toại, Tà ở Lạc thì cơ phu tê dại (mất cảm giác), Tà ở Kinh thì tay chân nặng nề 53
không cử động được, Tà nhập vào Phủ thì không biết ai là ai, Tà nhập vào Tạng lưỡi không nói được, miệng mửa nước dãi. BẢN NGHĨA (5/2) * Đây, Bào Kinh tại Tấu Ngoại nhập Tấu Nội. - Mạch Phù mà Khẩn: Phù là Âm Nhiệt xuất Ngoại. - Khẩn là Dương Hàn nhập Tấu. - Khẩn là Dương Hàn thực. Phù là Âm Nhiệt Hư. Âm Nhiệt cùng với Dương Hàn tương bác tại Bì Phu. - Bào Kinh thọ Dương Hàn thì Huyết Hư, Lạc mạch trống rỗng đó là nguyên do Trúng Phong. - Tặc Tà nhập vào hoặc ở bên trái hoặc ở bên phải, Tà kết với Chính làm chứng hoãn (giãn). Chính Khí không hành được nên hành chứng cấp (rút). - Chính Khí bị Tà làm hoãn cho nên méo lệch, bất toại. - Tà tại Bào Lạc thì cơ phu tê dại. - Tà tại Bào Kinh thì nặng nề không cử động được. - Tà nhập Vỵ Phủ thì không biết người là ai. - Tà nhập Tâm Tạng nên lưỡi khó nói, miệng mữa nước dãi.
NGUYÊN VĂN (65) Hậu thị hắc tán trị Đại Phong, tứ chi bứt rứt, nặng nề, trong Tâm sợ lạnh, bất túc. HẬU THỊ HẮC TÁN PHƯƠNG Cúc Hoa 40 phân
Bạch Truật, Phòng Phong mỗi vị 10 phân
Cát Cánh 8 phân
Hoàng cầm 5 phân
Tế Tân, Càn Khương, Nhân Sâm, Đương Qui, Xuyên khung, Mẫu Lệ, Phàn Thạch, Quế Chi mỗi vị 3 phân.
54
14 vị trên tán bột uống 1 thìa phương thốn, ngày 1 lần. Ban đầu uống với rượu ấm 20 ngày, kiêng tất cả Cá, Thịt, Tỏi. Nên thường ăn lạnh đến 60 ngày ngưng, tức là thuốc sẽ tích lại trong bụng không xuống, ăn nóng vào thì xổ, ăn lạnh là trợ được dược lực. BẢN NGHĨA (5/3) * Đây, Phép trị Bào Kinh Trúng Phong tại Tấu. - Huyết tại Phế thì trắng, Huyết tại Tâm thì đỏ, tại Bào thì đen. Nguồn gốc bởi Tâm sinh Huyết rồi do Cách Khí điều hòa phân bố trong ngoài trên dưới. Nay gọi là Hắc tán là nói Huyết tại Bào Trúng Phong. Tấu là Kinh Lạc lên xuống ra vào Tấu tập (nhóm họp), tại đây thọ Phong cho nên gọi là Đại. - Tay chân bứt rứt nặng nề: Âm Nhiệt tại Tấu xuất Ngoại. - Trong Tâm sợ lạnh, bất túc: Dương Hàn tại Biểu nhập Tấu. - Ban đầu uống thuốc với rượu ấm 20 ngày: trị Bào Kinh hành Tấu Thượng phần. - Sau 40 ngày ăn thức ăn lạnh: trị Bào Kinh hành Tấu Trung phần, Hạ phần. - 60 ngày: Bào Kinh cùng với các Kinh hành Nội Ngoại Thượng Hạ một giáp tý là một chu. - Nên dùng thức ăn lạnh thì thuốc tích lại trong bụng không xuống: làm cho Nội Ngoại Bào Kinh đều hành, không bị Bào Phong chiếm đoạt. - Ăn nóng: thì trợ được Khí của Tấu Nhiệt, thuốc tích lại liền xổ. - Ăn lạnh trợ được sức thuốc: Ngăn chặn Bào Phong hoành hành.
NGUYÊN VĂN (66) Thốn khẩu mạch Trì mà Hoãn, Trì là Hàn, Hoãn là Hư, Vinh hoãn thì là mất máu, Vệ hoãn thì là Trúng Phong, Tà Phong Trúng Kinh thì mình ngứa mà nổi mề đay, Tâm Khí bất túc, Tà nhập Tâm thì ngực đầy, hơi ngắn. BẢN NGHĨA (5/4) * Đây, Trúng Phong bắt đầu tại Cơ Nhục. - Mạch Trì: là Dương Hàn Thực. - Mạch Hoãn: là Âm Nhiệt Hư. 55
- Âm Nhiệt là Vinh, Vinh hoãn thì Bào Huyết vong. - Dương Hàn là Vệ, Vệ hoãn thì Bào Trúng Phong. - Phong tại Cơ Nhục thì mình ngứa mà nổi mề đay. - Phong nhập Tấu thì ngực đầy hơi ngắn.
NGUYÊN VĂN (67) Phong dẫn thang trừ Nhiệt nan giản. PHONG DẪN THANG PHƯƠNG Long Cốt 4 lạng
Hàn Thủy Thạch 2 lạng
Đại Hoàng, Càn Khương mỗi vị 4 lạng , Quế Chi, Cam Thảo, Mẫu Lệ mỗi vị 2 lạng Hoạt Thạch, Xích Thạch Chỉ, Bạch Thạch Chỉ, Tử Thạch Anh, Thạch Cao mỗi vị 6 lạng. 12 vị trên, giả thô rồi rây đựng trong túi da, mỗi lần lấy một nhúm 3 ngón tay thuốc; 3 thăng nước giếng nấu sôi 3 dạo, uống ấm 1 thăng. Trị người lớn Phong dẫn, trẻ con Kinh giản co giật, ngày phát nhiều lần, thầy thuốc không trị được. BẢN NGHĨA (5/5) * Đây, Bào Kinh tại Cách Trúng Phong nhập các Âm Kinh. - Phong dẫn thang: tên thuốc lấy nghĩa người lớn. Bệnh Phong dẫn, trẻ con Kinh giản, ngày phát nhiều lần cũng có thể dùng. - Thầy thuốc không trị được: không biết tại Cách các Âm Kinh Trúng Phong.
NGUYÊN VĂN (68) Phòng Kỷ Địa Hoàng thang trị bệnh trạng như cuồng, chạy bậy, nói một mình không thôi, mạch Phù. 56
PHÒNG KỶ ĐỊA HOÀNG THANG PHƯƠNG Phòng Kỷ, Cam Thảo mỗi vị 1 phân. Quế Chi, Phòng Phong mỗi vị 2 phân 4 vị trên, dùng 1 chén rượu ngâm, vắt lấy nước cốt. Sinh Địa Hoàng 4 lạng xé nhỏ, đem chưng thời gian như nấu 1 đấu gạo, dùng dụng cụ bằng đồng đựng nước cốt thuốc, sau đó đổ nước cốt Địa Hoàng vào, phân uống 2 lần. BẢN NGHĨA (5/6) * Đây, Bào Kinh tại Cách Trúng Phong nhập các Dương Kinh. - Bệnh trạng như cuồng: các Dương Kinh tại Cách Trúng Phong. - Chạy bậy: Túc Dương Kinh Trúng Phong. - Nói một mình không thôi: Thủ Dương Kinh Trúng Phong. - Mạch Phù: Bào Huyết tại Cách Hư.
NGUYÊN VĂN (69) ĐẦU PHONG MA TÁN PHƯƠNG - Các bệnh trong chương Trúng Phong Lịch Tiết đều có thể dùng. Đại Phụ Tử 1 củ Muối ăn phân lượng bằng nhau 2 vị tán nhuyễn, tắm xong dùng 1 thìa phương thốn, chà sát trên chỗ bệnh, để cho sức thuốc chạy. BẢN NGHĨA (5/7) * Đây, Phép trị Bào Kinh tại Ngoại Trúng Phong. - Tùy bệnh ở chỗ nào để uống các phương trên. Dùng phương này chà sát trên chỗ bệnh khiến cho sức thuốc trong ngoài trợ lẫn nhau.
57
NGUYÊN VĂN (70) Thốn khẩu mạch Trầm mà Nhược, Trầm chủ cốt, Nhược chủ Cân, Trầm tức là Thận, Nhược tức là Can. Người bệnh ra mồ hôi lại vào trong nước, nếu như thủy thương Tâm thì các khớp xương đau, đổ mồ hôi vàng nên gọi là Lịch Tiết. BẢN NGHĨA (5/8) * Đây, Bào Kinh cùng các Túc Kinh làm Lịch Tiết. - Thốn khẩu mạch Trầm mà Nhược: Bào Lạc Hư. - Trầm chủ cốt, Nhược chủ cân: tuần hành ở gân xương nhưng Bào Kinh bị Hư. - Trầm tức là Thận, Nhược tức là Can: Bào Kinh Huyết Hư do Túc Âm Kinh Huyết hư dẫn đến. - Người bệnh ra mồ hôi lại vào trong nước, nếu như thủy thương Tâm: Bào Kinh có Thủy là do Túc Dương Kinh thủy nhập mà ra. - Huyết Hư thì Thủy không lợi, do đó các khớp xương đau. - Từ Tấu mà ra cho nên đổ mồ hôi vàng, gọi là Lịch Tiết.
NGUYÊN VĂN (71) Phu Dương mạch Phù mà Hoạt, Hoạt thì Cốc Khí thực, Phù thì mồ hôi tự ra. Thiếu Âm mạch Phù mà Nhược, Nhược thì Huyết không đủ, Phù thì là Phong, Phong Huyết tương bác thì đau nhức như bị kéo rút. Người mập mạp mà mạch Sáp Tiểu, thở ngắn, tự ra mồ hôi, khớp xương không dễ co duỗi, như thế đều bởi uống rượu, đổ mồ hôi rồi ra gió mà bệnh. BẢN NGHĨA (5/9) * Đây, Bào Kinh cùng các Thủ Kinh làm Lịch Tiết. - Phu Dương mạch Hoạt thì Cốc Khí thực;Phù thì tự ra mồ hôi: Bào thọ Thủ Dương Kinh Thủy Thực. - Thiếu Âm mạch Nhược thì Huyết không đủ, mạch Phù là Phong: Bào thọ Thủ Âm Kinh Huyết Hư. - Phong Huyết tương bác thì đau nhức như bị kéo rút: Bào Huyết hư thọ thủy thì Phong khởi mà đau nhức. 58
- Người mập mạp mà mạch Sáp Tiểu: nói người xương yếu mà da thịt đầy đặn. - Tâm Khí hư, Tâm Huyết tý (tắc nghẽn) thì mạch tiểu mà thở ngắn, tự ra mồ hôi. - Chứng Bào Kinh Lịch Tiết không thể co duỗi: là do Thủ Âm Tâm dẫn đến, không cần chọn lấy Kinh khác. - Uống rượu: Nói Huyết Hư; Đổ mồ hôi: nói Thủy Thực; Ra gió: nói Bào là Phong Kinh.
NGUYÊN VĂN (72) Các chứng khớp xương đau nhức, thân thể gầy ốm, chân sưng đến nứt da, đầu xây xẩm, thở ngắn, hơi nôn nao muốn mửa, Quế Chi Bạch Thược Tri Mẫu thang làm chủ. QUẾ CHI BẠCH THƯỢC TRI MẪU THANG PHƯƠNG Quế Chi 4 lạng
Bạch Thược 2 lạng
Sinh Khương 3 lạng
Cam Thảo, Phụ Tử, Ma Hoàng mỗi vị 2 lạng Bạch Truật, Tri Mẫu, Phòng Phong mỗi vị 4 lạng 9 vị dùng 7 thăng nước, nấu lấy 2 thăng uống ấm 7 cáp, ngày 3 lần. BẢN NGHĨA (5/10) * Đây, Các Túc Kinh nhập Bào làm Lịch Tiết. - Các khớp xương đau nhức: Bào Kinh nhập các Túc Kinh. - Thân thể gầy ốm: Bào Huyết tý các Túc Âm Kinh. - Chân sưng đến nứt da: Bào Thủy tý các Túc Âm Kinh. - Đầu xây xẩm, thở ngắn hơi: Bào Huyết tý các Túc Dương Kinh. - Nôn nao muốn mửa: Bào Thủy tý các Túc Dương Kinh. - Quế Chi Bạch Thược Tri Mẫu thang làm chủ.
59
NGUYÊN VĂN (73) Vị toan thì thương Cân, Cân bị thương thì hoãn, gọi là Tiết. Vị hàm thì thương Cốt, Cốt bị thương thì xụi, gọi là khô. Khô và Tiết tương bác gọi là Đoạn Tiết. Vinh Khí không thông, Vệ Khí không vận hành một mình, Vinh Vệ đều yếu, Tam Tiêu không có gì chế ngự nó, bốn bên Khí Huyết không tới, thân thể gầy ốm, chỉ có chân là sưng to, đổ mồ hôi vàng, ống chân lạnh; giá như phát sốt thì là Lịch Tiết. BẢN NGHĨA (5/11) * Đây, Các Thủ Kinh nhập Bào làm Lịch Tiết. - Vị chua tổn thương làm Gân giản, Vị mặn tổn thương xương làm xụi: Bào Thủy nhập các Thủ Kinh cho nên làm Tiết; các Thủ Kinh không Bào Huyết cho nên bệnh khô. - Huyết bị Thủy đánh bạt thì Huyết đoạn (không tới) mà Thủy Tiết (qua) gọi là Đoạn Tiết. - Vinh Huyết không thông ra ngoài, bởi Huyết bị Đoạn. - Vệ Khí không vận hành một mình ở trong, do đó Thủy Tiết. - Vinh Vệ đều yếu, Tam Tiêu trên dưới không có quyền thống ngự. - Bốn bên trong ngoài bị hại thì Khí Huyết không tới. - Thân thể gầy ốm: Bào Huyết khô. - Chỉ riêng chân sưng to: Bào Thủy Tiết. - Đổ mồ hôi vàng: Thủy Huyết giao khốn (chuyển hóa không được). - Giá như phát sốt thì là Lịch Tiết: Từ Tấu ra ngoài.
NGUYÊN VĂN (74) Bệnh Lịch Tiết không thể co duỗi, đau nhức, Ô đầu thang làm chủ, cũng có thể trị cước khí, đau nhức không thể co duỗi.
.
60
Ô ĐẦU THANG PHƯƠNG Ma Hoàng, Bạch Thược, Hoàng Kỳ, Chích Thảo mỗi vị 3 lạng Ô Đầu 5 củ vỡ ra từng miếng. Dùng mật 2 thăng nấu Ô Đầu lấy 1 thăng,hoặc thay Đại Phụ Tử cũng được. 4 vị trước dùng 3 thăng nước nấu lấy 1 thăng bỏ bả, cho mật vào trong lại nấu tiếp, uống 7 cáp không thấy hiệu quả thì uống hết luôn. BẢN NGHĨA (5/12) * Đây, Phép trị Bào Kinh Lịch Tiết tại Nội. - Bệnh Lịch Tiết: Tức các chứng Lịch Tiết ở 4 Tiết trên. - Không thể co duỗi: gồm có sưng ở trong. - Đau nhức: chứng của Bào với các Thủ Túc Kinh. - Bản phương có thể trị Lịch Tiết từ Nội đến Ngoại, cũng có thể trị cước khí từ Hạ đến Thượng.
NGUYÊN VĂN (75) Phàn Thạch thang trị cước khí xung Tâm. PHÀN THẠCH THANG PHƯƠNG Phàn Thạch 2 lạng - Tương thủy 1 đấu 5 thăng, nấu sôi 3 đến 5 dạo, dùng ngâm chân rất tốt. BẢN NGHĨA (5/13) * Đây, Bào Kinh từ Nội đến Ngoại làm Lịch Tiết, từ Hạ đến Thượng làm Cước Khí.
(Trên đây, chương thứ 5, 13 tiết, luận bệnh Trúng Phong Lịch Tiết) 61
TẠP BỆNH LUẬN QUYỂN III _________________________________ CHƯƠNG 6 : HUYẾT
TÝ – HƯ LAO
(16 Tiết, từ 76 đến 91) LUẬN TÂM 1- Huyết Tý tại Cách đến Tấu 2- Huyết Tý tại Tấu. 3- Huyết Tý tại Tấu, Hư Lao tại Cách. 4- Hư Lao tại Cách. 5- Hư Lao tại Tấu đến Cách. 6- Hư Lao tại Biểu đến Cách. 7- Hư Lao tại Đới đến Cách 8- Huyết Tý Đốc Kinh. 9- Huyết Tý Xung Kinh. 10- Huyết Tý Nhâm Kinh. 11- Hư Lao tại Tấu Âm Nhiệt chuyển sang Dương Hàn. 12- Hư Lao tại Cách Âm Nhiệt chuyển sang Dương Hàn. 13- Hư Lao tại Đới Âm Nhiệt chuyển sang Dương Hàn. 14- Hư Lao tại Tấu Dương Hàn chuyển sang Âm Nhiệt. 15- Hư Lao tại Cách Dương Hàn chuyển sang Âm Nhiệt. 16- Hư Lao tại Đới Dương Hàn chuyển sang Âm Nhiệt. NGUYÊN VĂN (76) Hỏi rằng : Bệnh Huyết Tý do đâu mà bị ? Thầy đáp : Người giàu sang xương yếu mà da thịt đầy đặn, lại thêm mệt nhọc đổ mồ hôi, nằm ngủ xoay trở không hợp lúc, bị thêm gió nhẹ bèn mắc phải. Chỉ nên căn cứ vào mạch tự Vi Sáp tại Thốn khẩu, Quan thượng Tiểu Khẩn. Nên châm dẫn Dương Khí để mạch Hòa, mạch Khẩn không còn thì bệnh lành. BẢN NGHĨA (6/1) * Đây, Huyết Tý tại Cách đến Tấu. - Xương yếu da thịt đầy đặn: Vinh Huyết không rót vào bên trong Tấu mà rót vào bên ngoài Tấu. 62
- Lại nhân mệt nhọc đổ mồ hôi, nằm ngủ xoay trở không hợp lúc: Vệ Khí không gìn giữ ở ngoài Tấu mà nhiểu loạn ở bên trong Tấu. - Lại thêm tại Cách Âm Nhiệt Hư, cho nên bị gió nhẹ làm cho tại Tấu mắc chứng Huyết Tý. - Mạch Vi Sáp tại Thốn khẩu: Tâm Kinh tại Cách thọ Dương Hàn. - Quan thượng Tiểu Khẩn: Tâm Kinh Âm Nhiệt thọ Kết của Dương Hàn. - Nên châm dẫn Dương Khí để cho Âm Nhiệt với Dương Hàn hòa nhau, mạch Khẩn không còn thì bệnh lành.
NGUYÊN VĂN (77) Bệnh Huyết Tý mạch Âm Dương đều Vi, Thốn khẩu, Quan thượng, Xích trung Tiểu khẩn; ngoại chứng thân thể mất cảm giác như trạng Phong Tý, Hoàng Kỳ Ngũ Vật thang làm chủ. HOÀNG KỲ NGŨ VẬT THANG PHƯƠNG Hoàng Kỳ, Quế Chi, Bạch Thược mỗi vị 3 lạng Sinh Khương 6 lạng, Đại Táo 20 trái 5 vị trên, nước 6 thăng nấu lấy 2 thăng, uống ấm 7 cáp, ngày 3 lần. BẢN NGHĨA (6/2) * Đây, Huyết Tý tại Tấu. - Mạch Âm Dương đều Vi: Tại Cách Huyết Tý tức tại Tấu Huyết Tý. - Thốn khẩu, Quan thượng, Xích trung Tiểu Khẩn: Thượng Hạ của Cách đều bị Huyết Tý. - Chứng ngoài mình mẩy mất cảm giác như Trạng Phong Tý: Nội Ngoại của Tấu đều bị Huyết Tý. - Hoàng Kỳ Ngũ Vật thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (78) Phàm đàn ông bình thường, mạch Đại là Lao, mạch cực Hư cũng là Lao. 63
BẢN NGHĨA (6/3) * Đây, Tâm Kinh tại Tấu làm Huyết Tý, tại Cách làm Hư Lao. - Đàn ông: phân biệt với đàn bà; người bình thường: phân biệt với người bệnh. Ý nói đàn bà thường Huyết Hư, người bệnh thì Huyết kém, không phải là chứng Huyết Tý Hư Lao. - Mạch Đại: Âm Nhiệt chuyển sang Dương Hàn, Âm Dương hiệp bệnh cho nên mạch Đại là Hư Lao. - Mạch cực Hư:Tâm Kinh vốn là Âm Nhiệt không được Dương Hàn điều hòa, cho nên mạch cực Hư. - Cũng là Lao. *Âm Dương ly thì bệnh, Âm Dương hiệp cũng bệnh, Học giả nên rõ.
NGUYÊN VĂN (79) Đàn ông sắc mặt nhợt nhạt, chủ bệnh Khát và mất máu; thình lình Suyễn,hồi hộp,mạch Phù là Lý Hư. BẢN NGHĨA (6/4) * Đây, Hư Lao của Tâm Kinh tại Cách. - Sắc mặt nhợt nhạt: Tâm Dương tại Cách hư. . Dương hư không thể hóa Khí cho nên chủ bệnh khát. . Dương hư thì Huyết mất chỗ dựa cho nên vong Huyết (mất máu). . Dương hư thì Huyết Tý, làm trở ngại Khí nên Suyễn,Huyết kém thì Thần khiếp sợ nên hồi hộp. - Đây, tại Cách Huyết hư mạch Phù do Lý Tâm Tạng hư dẫn đến.
NGUYÊN VĂN (80) Đàn ông mạch Hư Trầm Huyền, không chứng Hàn Nhiệt, thở ngắn, Lý cấp, tiểu tiện không lợi, sắc mặt trắng, có lúc mắt mờ kiêm chảy máu mũi, bụng dưới đầy, đấy là Lao làm ra như thế. 64
BẢN NGHĨA (6/5) * Đây, Tâm Kinh tại Tấu đến Cách làm Hư Lao. - Mạch Hư: Tại Tấu Âm Nhiệt Hư. Trầm là tại Biểu Dương Hàn nhập Tấu. Huyền là Dương Hàn Âm Nhiệt hiệp tại Tấu. - Không chứng Hàn Nhiệt, thở ngắn, Lý cấp (trong bụng co thắt): do Tấu nhập Cách. - Tiểu tiện không lợi, sắc mặt trắng: Tâm Kinh chuyển Dương Nhiệt xuống dưới, Âm Hàn lên trên. - Có lúc mắt mờ, kiêm chảy máu mũi, bụng dưới đầy: Tâm Kinh chuyển Âm Nhiệt lên trên, Dương Hàn xuống dưới. - Đấy là Tâm Huyết Hư tại Tấu - Cách làm ra như thế.
NGUYÊN VĂN (81) Lao ‘chi vi’ bệnh, mạch Phù Đại, tay chân bứt rứt, mùa Xuân Hạ nặng, mùa Thu Đông nhẹ, dương vật lạnh, tinh tự ra, chân tê teo không thể đi lại. Đàn ông mạch Phù Nhược mà Sáp là không sinh được con, Tinh Khí trong và lạnh. BẢN NGHĨA (6/6) * Đây, Tâm Kinh tại Biểu đến Cách làm Hư Lao. - Mạch Phù Đại: Dương Hàn hiệp Âm Nhiệt tại Cách. - Tay chân bứt rứt: Âm Nhiệt hiệp Dương Hàn tại Biểu. - Xuân Hạ nặng: Tâm Kinh theo thiên khí khai phát. - Thu Đông nhẹ: Tâm Kinh theo thiên khí thâu liễm. - Dương vật lạnh, tinh tự ra: bởi cớ từ Biểu Dương Hàn nhập Lý. - Chân tê teo không thể đi lại: bởi cớ từ Lý Âm Nhiệt tan ra ngoài. - Mạch Phù Nhược: Âm Nhiệt Hư. Sáp là Dương Hàn Nội kết. - Là không sinh được con,tinh khí trong và lạnh:tại Cách Tâm Kinh chuyển Âm Nhiệt sang Dương Hàn. 65
NGUYÊN VĂN (82) Phàm người bệnh mất tinh kinh niên, bụng dưới gồng thắt, đầu dương vật lạnh, mắt xây xẩm, tóc rụng, mạch cực Hư Khâu Trì là ỉa chảy, mất máu, mất tinh. Khám thấy các mạch Khâu Động Vi Khẩn, con trai mất tinh, con gái mộng giao, Quế Chi Cam Thảo Long Cốt Mẫu Lệ thang làm chủ. QUẾ CHI CAM THẢO LONG CỐT MẪU LỆ THANG PHƯƠNG Quế Chi, Bạch Thược, Sinh Khương mỗi vị 3 lạng, Long Cốt, Mẫu Lệ mỗi vị 3 lạng,
Cam Thảo 2 lạng Đại Táo 12 trái
7 vị trên, nước 5 thăng nấu lấy 3 thăng, chia uống ấm 3 lần. THIÊN HÙNG TÁN PHƯƠNG Thiên Hùng 3 lạng, thay Đại Phụ Tử cũng được. Bạch Truật 8 lạng
Quế Chi 6 lạng
Long Cốt 3 lạng
4 vị tán nhuyễn,uống nửa thìa phương thốn với rượu,ngày 3 lần, không hiệu quả thì tăng thêm chút ít. BẢN NGHĨA (6/7) * Đây,Tâm Kinh tại Đái đến Cách làm Hư Lao. - Tâm Kinh chủ Cách,Thận Kinh chủ Đái,đồng là Kinh Thiếu Âm,đồng thọ Dương Hàn gọi là Thất tinh gia. - Bụng dưới gồng thắt, đầu dương vật lạnh: Tâm Kinh tại Đái chuyển Âm Nhiệt sang Dương Hàn. - Mắt xây xẩm, tóc rụng: Thận Kinh tại Cách chuyển Âm Nhiệt sang Dương Hàn. - Mạch cực Hư Khâu Trì: Tâm Kinh thọ Hàn, bệnh tới Tỳ,Can,Thận làm ỉa chảy, mất máu, mất tinh. - Khám thấy mạch Khâu Động Vi Khẩn: Tâm Kinh thọ Hàn,bệnh tới Tâm Bào Phế làm mất tinh, mộng giao. - Quế Chi Cam Thảo Long Cốt Mẫu Lệ thang: trị Tâm Kinh tại Cách thọ Hàn. - Thiên Hùng tán: trị Tâm Kinh tại Đái thọ Hàn. 66
NGUYÊN VĂN (83) Đàn ông bình thường mạch Hư Nhược Vi Tế thì hay đổ mồ hôi trộm. Người tuổi 50 mạch Đại là có chứng Tý (tê đau) dọc hai bên sống lưng, lại thêm sôi ruột, Mã đao (kết hạch dưới nách), Hiệp anh (kết hạch hai bên cổ), đều do lao sinh ra. BẢN NGHĨA (6/8) * Đây, Huyết Tý truyền Đốc Kinh. - Mạch Hư Nhược Vi Tế hay đổ mồ hôi trộm: Đây là mạch chứng còn tại Tâm Kinh chưa truyền. - Mạch Đại: là Âm Nhiệt của Tâm chuyển sang Dương Hàn mà truyền Kinh. - Tê dại dọc hai bên sống lưng: truyền Đốc Kinh. - Lại thêm sôi ruột,Mã đao,Hiệp anh: đều là chỗ Đốc Kinh đi qua,đều thọ Hư lao của Tâm mà mắc phải.
NGUYÊN VĂN (84) Mạch Tiểu Trầm Trì gọi là thoát Khí, người bệnh nếu đi nhanh thì suyễn hen, tay chân nghịch lãnh, bụng đầy, nặng nữa thì đi cầu lỏng, ăn không tiêu hóa. BẢN NGHĨA (6/9) * Đây, Huyết Tý truyền Xung Kinh. - Mạch Tiểu: Tâm Âm Nhiệt Hư. - Trầm Trì: chuyển sang Dương Hàn. - Gọi là thoát Khí: Khí không Huyết thì thoát. - Đi nhanh thì Suyễn hen: Xung Kinh thọ Huyết Tý. - Tay chân nghịch lãnh: Huyết Tý tại Ngoại. - Bụng đầy: Huyết Tý tại Nội. - Nặng nữa thì đi cầu lỏng: Huyết Tý tại Hạ. - Ăn không tiêu hóa: Huyết Tý tại Thượng. *Đều là Xung Kinh hành ở Nội Ngoại Thượng Hạ thọ Huyết Tý.
67
NGUYÊN VĂN (85) Mạch Huyền mà Đại, Huyền là giảm (bớt), Đại là Khâu. Giảm thì là Hàn, Khâu thì là Hư, Hư Hàn tương bác đó gọi là Cách, đàn bà thì sanh non, lậu hạ; đàn ông thì mất máu, di tinh. BẢN NGHĨA (6/10) * Đây, Huyết Tý truyền Nhâm Kinh. - Huyền là tại Biểu Huyết Hàn. - Đại là tại Biểu Huyết Hư. - Huyền thì là ‘giảm’: Biểu Huyết Hàn do Lý Âm Nhiệt ‘giảm’. - Đại thì là Khâu : Biểu Huyết Hư do Lý Âm Nhiệt ‘Hư ’. - Hư Hàn tương bác tại Tấu, nay đổi thành tương kết đó gọi là Cách. - Đàn bà thì sanh non, rong Huyết: Huyết Hàn kết thì không dưỡng thai nên ‘sanh non’; Huyết Tý thì Thủy tự hành nên ‘lậu hạ’. - Đàn ông thì mất máu, di tinh: Tâm Khí Hàn thì ‘Huyết vong’, Tâm Huyết Hàn thì ‘Thất tinh’.
NGUYÊN VĂN (86) Hư Lao Lý cấp (trong bụng co thắt), hồi hộp, chảy máu mũi, trong bụng đau, mộng tinh, tứ chi ê nhức, tay chân nóng bứt rứt, yết khô, miệng ráo, Tiểu Kiến Trung thang làm chủ. TIỂU KIẾN TRUNG THANG PHƯƠNG Quế Chi 3 lạng Sinh Khương 3 lạng
Bạch Thược 6 lạng Đại Táo 12 trái
Chích Thảo 3 lạng Di Đường 1 thăng
6 vị trên, nước 7 thăng nấu lấy 3 thăng bỏ bả, cho Di Đường vào, lại đặt lên lửa riêu riêu cho tan, uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần. BẢN NGHĨA (6/11) * Đây, Hư Lao tại Tấu Âm Nhiệt chuyển Dương Hàn. - Lý cấp: Âm Nhiệt chuyển sang Dương Hàn. 68
- Dương Hàn nhập Lý thì Quý (hồi hộp). Âm Nhiệt ra Biểu thì Nục (chảy máu mũi). - Trong bụng đau: tại Tấu hiệp Biểu Hàn Lý Nhiệt. - Mộng tinh: thọ Dương Hàn tại Tấu đến Lý. - Tứ chi ê nhức: Thọ Âm Nhiệt tại Tấu đến Biểu. - Tay chân nóng bứt rứt, yết khô, miệng ráo: tại Tấu hiệp Dương Hàn Âm Nhiệt. - Tiểu Kiến Trung thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (87) Hư Lao Lý cấp, các chứng không đủ, Hoàng Kỳ Kiến Trung thang làm chủ. HOÀNG KỲ KIẾN TRUNG THANG PHƯƠNG Tiểu Kiến Trung thang nguyên phương gia Hoàng Kỳ 1 lạng rưỡi. . Thở ngắn, ngực đầy gia Sinh Khương. . Bụng đầy bỏ Đại Táo gia Phục Linh 1 lạng rưỡi. . Cùng trị liệu Phế Hư tổn không đủ, bổ khí gia Bán Hạ 3 lạng. BẢN NGHĨA (6/12) * Đây, Hư Lao tại Cách Âm Nhiệt chuyển Dương Hàn. - Lý cấp: xem chú ở trên. - Các chứng không đủ: là Tâm Huyết tại Cách bất túc, nhất thiết Kinh Huyết bất túc, Hoàng Kỳ Kiến Trung thang làm chủ. - Thở ngắn, ngực đầy gia Sinh Khương: trị tại Cách chuyển sang Dương Hàn. - Bụng đầy khứ Đại Táo gia Phục Linh 1 lạng rưỡi: Huyết không lợi là do Thủy, cho nên trị Thủy tại Hạ phần. - Cùng trị liệu Phế Hư tổn: trị Thủy tại Thượng phần. - Bổ Khí gia Bán Hạ: trừ Thủy để Bổ Khí mà hành Huyết. 69
NGUYÊN VĂN (88) Hư Lao eo lưng đau, bụng dưới co thắt, tiểu tiện không lợi, Bát Vị Thận Khí hoàn làm chủ (xem phương ở chương Phụ Nhơn Tạp Bệnh). BẢN NGHĨA (6/13) * Đây, Hư Lao tại Đái Âm Nhiệt chuyển Dương Hàn. - Eo lưng đau: chuyển tại Đái Thượng. - Bụng dưới co thắt: chuyển tại Đái. - Tiểu tiện không lợi: chuyển tại Đái Hạ, Bát Vị Thận Khí hoàn làm chủ.
NGUYÊN VĂN (89) Hư Lao các chứng bất túc, Phong Khí bách bệnh, Thự Dự hoàn làm chủ. THỰ DỰ HOÀN PHƯƠNG Thự Dự 30 phân, Nhân Sâm 7 phân, Bạch Truật 6 phân, Phục Linh 5 phân, Bạch Liễm 2 phân A Giao 7 phân, Đại Táo 100 trái vi cao (làm cao), Cát Cánh 5 phân, Quế Chi 10 phân, Sài Hồ 9 phân, Hoàng Đậu Uyển 10 phân, Cam Thảo 20 phân, Đương Qui 10 phân, Bạch Thược 6 phân, Xuyên Khung 6 phân, Mạch Môn Đông 6 phân, Can Khương 5 phân, Hạnh Nhân 6 phân, Phòng Phong 6 phân, Thần Khúc 10 phân, Địa Hoàng 10 phân 20 vị trên tán nhuyễn, làm hoàn mật to bằng viên đạn, uống 1 hoàn với rượu lúc bụng đói, 100 hoàn là 1 tể. BẢN NGHĨA (6/14) * Đây, Hư Lao tại Tấu Dương Hàn chuyển Âm Nhiệt. - Các Kinh đều tập trung tại Tấu, Tấu Hư bất túc thì các Kinh đều bất túc. - Thiếu Âm là Nội Phong bao gồm hết thảy bệnh, Phong Khí trăm bệnh; sinh ra từ đó. - Thự Dự hoàn làm chủ.
.
70
NGUYÊN VĂN (90) Hư Lao hư phiền không ngủ được, Toan Táo Nhân thang làm chủ. TOAN TÁO NHÂN THANG PHƯƠNG Táo Nhân 2 thăng
Phục Linh 2 lạng
Tri Mẫu 2 lạng
Cam Thảo 2 lạng
Xuyên Khung 2 lạng
5 vị trên nước 8 thăng, trước nấu Táo Nhân giảm 2 thăng, cho các thuốc vào nấu lấy 3 thăng, chia uống ấm 3 lần. BẢN NGHĨA (6/15) * Đây, Hư Lao tại Cách Dương Hàn chuyển Âm Nhiệt. - Hư phiền: chỉ có Âm Nhiệt. - Không ngủ được: Vinh Huyết Tý không cùng hòa hài với Vệ Khí. - Toan Táo Nhân thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (91) 5 chứng Lao cực hư gầy ốm, bụng đầy không ăn uống được; các chứng thương bởi ăn, thương bởi ưu phiền, thương bởi uống, thương bởi phòng thất, thương bởi đói, thương bởi lao nhọc, thương đến Kinh Lạc Vinh Vệ Khí; bên trong có càn Huyết, da thịt đóng vẩy, mặt mắt đen tối. Phép chữa nên hoãn trung, bổ hư, dùng Đại Hoàng Già Trùng hoàn làm chủ. ĐẠI HOÀNG GIÀ TRÙNG HOÀN PHƯƠNG Đại Hoàng 10 phân chưng, Đào Nhân 1 thăng, Hoàng Cầm 2 lạng Hạnh Nhân 1 thăng Thược Dược 4 lạng, Cam Thảo 3 lạng, Can Địa Hoàng 10 lạng, Thủy Điệt 100 con, Càn Tất 1 lạng, Tề Tào 1 thăng, Manh Trùng 1 phân, Già Trùng ½ thăng. 12 vị trên tán nhuyễn luyện mật hoàn to bằng hạt tiểu đậu, mỗi lần uống với rượu 5 hoàn, ngày 3 lần. BẢN NGHĨA (6/16) *Đây, Hư Lao tại Đái Dương Hàn chuyển Âm Nhiệt. - 5 chứng Lao là: Khí, Huyết, Nhục, Cân, Cốt. 71
- Cực hư: Tâm hư. - Gầy ốm: Tâm Huyết hư tại Cách. - Bụng đầy: Tâm Huyết Tý tại Đái. - Không ăn uống được: Tâm Huyết Tý tại Tỳ Vỵ. - 7 chứng thương: đều do Tâm Huyết Tý làm nên. - Bên trong có máu khô: tại Đái và Cách. - Da thịt đóng vẩy: máu khô tại Đái. - Mặt mắt đen tối: máu khô tại Cách. - Hoãn kết tại Đái Trung, bổ hư tại Cách Thượng. - Đại Hoàng Giá Trùng hoàn làm chủ.
(Trên đây, chương thứ 6, 16 tiết, luận bệnh Huyết Tý Hư Lao) 72
CHƯƠNG 7:
PHẾ NUY – PHẾ UNG – KHÁI THẤU – THƯỢNG KHÍ (13 Tiết, từ 92 đến 104) LUẬN PHẾ 1- Biện chỗ dị (khác) của Nuy và Ung. 2- Biện chỗ đồng (giống) của Nuy và Ung. 3- Biện Thượng khí Âm chứng. 4- Biện Thượng khí Dương chứng. 5- Phế truyền Nhâm Kinh. 6- Phế truyền Xung Kinh. 7- Phế truyền Đốc Kinh. 8- Phế Kinh tại Tấu thọ Âm Nhiệt Dương Hàn. 9- Phế Kinh tại Cách thọ Âm Nhiệt Dương Hàn. 10- Phế Ung chuyển thuộc các Âm Kinh. 11- Các Âm Kinh chuyển thuộc Phế làm Ung. 12- Các Dương Kinh chuyển thuộc Phế làm Trướng. 13- Phế Trướng chuyển thuộc các Dương Kinh.
NGUYÊN VĂN (92) Hỏi rằng : Nhiệt tại Thượng tiêu nhân ho làm bệnh Phế Nuy.Bệnh Phế Nuy do đâu mắc phải ? Thầy đáp : Hoặc do đổ mồ hôi, hoặc do ói mữa, hoặc do Tiêu khát, tiểu tiện lợi mà nhiều lần, hoặc do đại tiện khó lại bị thuốc xổ làm cho tiêu chảy nhiều lần bị mất tân dịch cho nên mắc phải. Hỏi rằng : Thốn khẩu mạch Sác, người bệnh ho, trong miệng trái lại nhổ nước bọt đục là thế nào ? Đáp : là bệnh Phế Nuy. Nếu trong miệng khô ráo, ho thì trong ngực ngầm ngầm đau, mạch trái lại Sác Hoạt đó là Phế Ung. Ho nhổ mủ máu, mạch Sác Hư là Phế Nuy; mạch Sác Thực là Phế Ung. BẢN NGHĨA (7/1) * Đây, biện chỗ dị (khác) của Ung và Nuy. - Âm phần Hàn Nhiệt tại dưới mà đi lên Phế làm ho. - Nuy là do Phế Kinh vong tân dịch dẫn đến, đầu mối của nó không phải một. 73
- Thốn khẩu mạch Sác, người bệnh ho: Phế tòng (theo) Âm Nhiệt. - Trong miệng, trái lại nhổ nước bọt đục: Âm Hàn không lìa Âm Nhiệt, đó là bệnh Phế Nuy. - Nếu như trong miệng ráo, ho thì trong ngực ngầm ngầm đau: Phế thọ Dương Hàn. - Mạch trái lại Sác Hoạt: Dương Nhiệt không lìa Dương Hàn, đó là Phế Ung. - Ho nhổ mủ máu: Nuy và Ung đều có chứng này, chỉ khác nhau là Nuy thuộc Âm mạch Sác Hư. Ung thuộc Dương mạch Sác Thực.
NGUYÊN VĂN (93) Hỏi rằng : Xem mạch bệnh Khái nghịch, làm sao biết đó là bệnh Phế Ung ? Bệnh này đương nhiên có mủ máu, đến lúc thổ ra thì chết, mạch đó thuộc loại nào ? Thầy đáp : Thốn khẩu mạch Vi mà Sác; Vi là Phong, Sác là Nhiệt. Vi thì đổ mồ hôi, Sác thì sợ lạnh. Phong trúng vào Vệ thì thở ra mà không hít vào. Nhiệt đến ở Vinh thì hít vào mà không thở ra. Phong tổn thương Bì Mao, Nhiệt tổn thương Huyết Mạch. Phong ghé vào Phế thì người bệnh ho, miệng khô, suyễn đầy, yết ráo, không khát, nhổ nhiều nước bọt đục, thỉnh thoảng lạnh run; Nhiệt đến chỗ bệnh thì huyết bị ngưng trệ, chứa kết thành Ung Nùng, thổ ra như cháo, bệnh đến lúc Nùng (mủ) thành thì chết.
BẢN NGHĨA (7/2) * Đây, biện chỗ đồng của Phế Ung và Phế Nuy. - Khái nghịch là do Ngoại nhập Phế hoặc do Nội nhập Phế, Ung và Nuy đều có chứng này. - Làm sao biết đó là Phế Ung? Bệnh này đương nhiên có mủ máu, đến lúc thổ ra thì chết: Ung và Nuy đều có chứng chết khi thổ mủ máu. - Mạch của nó thuộc loại nào? Đáp rằng Thốn khẩu mạch Vi mà Sác: Phế mạch. - Vi là Phong: Phế Hư thọ Dương Hàn. - Sác là Nhiệt: Phế Hư thọ Dương Nhiệt. - Vi thì đổ mồ hôi: Dương Hàn nhập Phế chuyển sang Âm Nhiệt. - Sác thì sợ lạnh: Dương Nhiệt nhập Phế chuyển sang Âm Hàn. 74
- Phong trúng vào Vệ thì thở ra mà không hít vào được: Dương Hàn tại Ngoại, Phế không nạp vào được. - Nhiệt đến ở Vinh thì hít vào mà không thở ra được: Âm Nhiệt tại Nội, Phế không phát ra được. - Phong tổn thương Bì Mao: Dương phần Hàn Nhiệt thương Phế Ngoại. - Nhiệt tổn thương Huyết mạch: Âm phần Hàn Nhiệt thương Phế Nội. - Phong là gọi Dương Tà, Âm Tà cùng ghé vào Phế thì người bệnh ho: đó là chổ sở dĩ Ung Khái, Nuy Khái giống nhau. - Miệng khô: thọ Dương Nhiệt. - Suyễn đầy: thọ Dương Hàn. - Yết ráo: thọ Âm Nhiệt. - Không khát: thọ Âm Hàn. - Nhổ nhiều nước bọt đục, thỉnh thoảng lạnh run: cùng thọ Dương Hàn Âm Hàn. - Nhiệt đến chổ bệnh thì Huyết bị ngưng trệ: cùng thọ Dương Nhiệt Âm Nhiệt. - Chứa kết thành Ung Nùng: đó là Ung Nuy đều có chứng này, cho nên giống nhau. - Mửa ra như cháo: Dương phần Hàn Nhiệt có thể thổ rồi giải. - Mủ thành thì chết: Âm phần Hàn Nhiệt kết thành mủ thì chết.
NGUYÊN VĂN (94) Người bệnh kéo hơi lên, mặt phù thũng, thở cử động vai, mạch Phù Đại thì không trị được, lại thêm ỉa chảy càng nặng. BẢN NGHĨA (7/3) * Đây, biện Thượng Khí tại Âm Kinh. - Mặt phù thủng, thở so vai: Âm Nhiệt nhập Phế. - Mạch người bệnh Phù Đại là bất trị: Dương Hàn theo cùng nhập vào. 75
- Lại thêm ỉa chảy càng nặng: Âm Hàn cùng nhập.
NGUYÊN VĂN (95) Suyễn kéo hơi lên mà vật vã, đó là Phế trướng muốn làm Phong thủy, Phát hãn thì lành. BẢN NGHĨA (7/4) * Đây, Biện Thượng Khí tại Dương Kinh. - Suyễn là Phế thọ Dương Hàn. - Vật vã là Phế thọ Dương Nhiệt. - Đó là Dương phần Hàn Nhiệt nhập Phế làm trướng. - Muốn làm Phong thủy: do Dương Kinh xuất Ngoại. Phát hãn thì khỏi.
NGUYÊN VĂN (96) Phế Nuy mửa bọt dãi mà không ho; người bệnh không khát ắt đái són, tiểu tiện nhiều lần; sở dĩ như thế vì bởi trên Hư không chế được dưới. Đó là trong Phế lạnh, ắt xây xẩm, nhổ nhiều nước dãi, nên dùng Cam thảo Càn Cương thang để Ôn. Nếu uống thang rồi mà khát là thuộc chứng Tiêu khát. CAM THẢO CÀN CƯƠNG THANG PHƯƠNG Cam Thảo chích 4 lạng
Bào Khương 2 lạng
2 vị xé nhỏ dùng 3 thăng nước, nấu lấy 1 thăng 5 cáp, bỏ bả, chia uống ấm 2 lần. BẢN NGHĨA (7/5) * Đây, Phế thọ Dương Hàn Âm Nhiệt truyền Nhâm Kinh. - Phế thọ Dương Hàn truyền Nhâm Kinh thì mửa bọt dãi mà không ho, không khát, đái són, tiểu tiện nhiều lần. - Nhâm Kinh thọ Dương Hàn truyền Phế thì trong Phổi lạnh, ắt xây xẩm, nhổ nhiều nước dãi. - Nhâm Kinh và Phế thọ Dương Hàn nên dùng Cam Thảo Can Khương thang. 76
- Nhâm Kinh và Phế thọ Âm Nhiệt thì theo phép trị chứng Tiêu khát.
NGUYÊN VĂN (97) Ho mà kéo hơi lên, trong hầu như có tiếng gà nước, Xạ Can Ma Hoàng thang làm chủ. XẠ CAN MA HOÀNG THANG PHƯƠNG Xạ Can 3 lạng
Ma Hoàng 4 lạng
Sinh Khương 4 lạng
Tế tân, Tử Uyển, Khoản Đông Hoa mỗi vị 3 lạng Ngũ Vị Tử ½ thăng
Bán Hạ ½ thăng
Đại Táo 7 trái
9 vị trên, nước 1 đấu 2 thăng, trước nấu Ma Hoàng sôi 1 – 2 dạo, vớt bỏ bọt, cho các thuốc vào nấu lấy 3 thăng, chia uống ấm 3 lần. BẢN NGHĨA (7/6) * Đây, Phế thọ Dương Hàn Âm Nhiệt truyền Xung Kinh. - Ho mà kéo hơi lên: Xung Kinh truyền Phế. - Trong hầu như có tiếng gà nước: Phế truyền Xung Kinh. - Xạ Can Ma Hoàng thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (98) Ho nghịch kéo hơi lên,thỉnh thoảng mửa đàm đục, chỉ ngồi không ngủ được Tạo giác hoàn làm chủ. TẠO GIÁC HOÀN PHƯƠNG Tạo Giác 8 lạng, cạo bỏ vỏ ngoài, bôi rượu mà nướng. Tán bột luyện mật, làm hoàn to bằng hạt ngô đồng, uống mỗi lần 3 hoàn với táo cao. Ngày 3 đêm 1. BẢN NGHĨA (7/7) * Đây, Phế thọ Dương Hàn Âm Nhiệt truyền Đốc Kinh. 77
- Ho nghịch kéo hơi lên, thỉnh thoảng mửa đàm đục: Đốc Kinh truyền Phế. - Chỉ ngồi không ngủ được: Phế truyền Đốc Kinh. - Tạo Giác hoàn làm chủ.
NGUYÊN VĂN (99) Ho mà mạch Phù, Hậu Phác Ma Hoàng thang làm chủ. Ho mà mạch Trầm, Trạch Tất thang làm chủ HẬU PHÁC MA HOÀNG THANG PHƯƠNG Hậu Phác 3 lạng
Ma Hoàng 4 lạng
Thạch Cao to bằng quả trứng gà
Hạnh Nhân ½ thăng
Bán Hạ ½ thăng
Càn Cương, Tế Tân mỗi vị 3 lạng
Tiểu Mạch ½ thăng
Ngũ Vị Tử ½ thăng
9 vị trên, dùng 1 đấu 2 thăng nước, trước nấu Tiểu Mạch chín, bỏ xác, cho các thuốc vào nấu lấy 3 thăng, uống 1 thăng ngày 3 lần. TRẠCH TẤT THANG PHƯƠNG Bán Hạ ½ thăng Tử Uyển, Sinh Khương, Bạch Tiền mỗi vị 5 lạng Cam Thảo, Hoàng Cầm, Nhân Sâm, Quế Chi mỗi vị 3 lạng Trạch Tất 3 thăng (dùng nước chảy hướng Đông 5 đấu, nấu lấy 1 đấu 5 thăng). Cho 9 vị trên vào trong thang Trạch Tất nấu còn 5 thăng, uống ấm 5 cáp, tới đêm thì hết. BẢN NGHĨA (7/8) * Đây, Phế Kinh tại Tấu làm ho. - Mạch Phù : thọ Tấu Âm Nhiệt mà ho. Hậu Phác Ma Hoàng thang làm chủ. - Mạch Trầm : thọ Tấu Dương Hàn mà ho. - Trạch Tất thang làm chủ.
78
NGUYÊN VĂN (100) Hỏa nghịch kéo hơi lên, yết hầu không lợi, dùng phép chỉ nghịch Hạ khí, Mạch Môn Đông thang làm chủ. MẠCH MÔN ĐÔNG THANG PHƯƠNG Mạch Môn Đông 7 thăng
Bán Hạ 1 thăng
Nhân Sâm, Cam Thảo mỗi thứ 1 lạng
Ngạnh Mễ 3 cáp
Đại Táo 12 trái
6 vị trên, nước 1 đấu 2 thăng, nấu lấy 6 thăng, uống ấm 1 thăng, ngày 3 đêm 1. BẢN NGHĨA (7/9) * Đây, Phế Kinh tại Cách Thượng Khí. - Hỏa nghịch: Âm Nhiệt nhập Phế. - Thượng Khí: Âm Hàn cùng nhập Phế. - Yết hầu không lợi: Phế Kinh tại Cách cùng thọ. - Chỉ nghịch của Âm Nhiệt, Hạ Khí của Dương Hàn. - Mạch Môn Đông thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (101) Phế Ung, Suyễn không nằm được, Đình Lịch Đại Táo Tả Phế thang làm chủ. ĐÌNH LỊCH ĐẠI TÁO TẢ PHẾ THANG PHƯƠNG Đình Lịch rang vàng quết nhuyễn làm hoàn to bằng viên đạn
Đại Táo 12 trái
Trước dùng 3 thăng nước nấu Đại Táo lấy 2 thăng bỏ xác, cho 1 viên Đình Lịch vào nấu lấy 1 thăng, uống hết 1 lần. BẢN NGHĨA (7/10) * Đây, Phế Ung chuyển nhập các Âm Kinh. - Phế thọ các Dương làm Ung. Từ Dương đến Âm tức là từ Ung đến Nuy, cho nên Suyễn không nằm được, Đình Lịch Đại Táo Tả Phế thang làm chủ. 79
NGUYÊN VĂN (102) Ho mà ngực đầy, lạnh run, mạch Sác, yết khô, không khát, có lúc nhổ ra nước đục tanh hôi, lâu ngày mửa mủ như cháo, đó là Phế Ung, Kiết Cánh Cam Thảo thang làm chủ. KIẾT CÁNH CAM THẢO THANG PHƯƠNG Kiết Cánh 1 lạng
Cam Thảo 2 lạng
Nước 3 thăng nấu lấy 1 thăng, chia uống ấm 2 lần thì mửa mủ máu. BẢN NGHĨA (7/11) * Đây, các Âm Kinh chuyển nhập Phế làm Ung. - Ho mà ngực đầy, lạnh run: Âm Hàn nhập Phế. - Mạch Sác, yết khô: Âm Nhiệt nhập Phế. - Không khát, có lúc nhổ ra nước đục tanh hôi: Âm Hàn nhập Phế chuyển sang Dương Hàn. - Lâu ngày mửa mủ như cháo: Âm Nhiệt nhập Phế chuyển sang Dương Nhiệt. - Đây là từ Âm chuyển Dương, từ Nuy chuyển Ung làm chứng Phế Ung, Cát Cánh Cam Thảo thang làm chủ, mửa được mủ máu là có thể trị.
NGUYÊN VĂN (103) Ho mà kéo hơi lên đó là Phế trướng, người bệnh suyễn mắt như lồi ra, mạch Phù Đại, Việt Tỳ gia Bán Hạ thang làm chủ. VIỆT TỲ GIA BÁN HẠ THANG PHƯƠNG Ma Hoàng 6 lạng
Chích Thảo 2 lạng
Thạch Cao ½ cân
Bán Hạ ½ thăng
Sinh Khương 3 lạng
Đại Táo 12 trái
6 vị trên, nước 6 thăng, trước nấu Ma Hoàng vớt bỏ bọt, cho các thuốc vào nấu lấy 3 thăng, chia uống ấm 3 lần. BẢN NGHĨA (7/12) * Đây, các Dương Kinh nhập Phế làm trướng. 80
- Ho mà kéo hơi lên đó là Phế trướng: Các Dương nhập Phế. - Suyễn mắt như lồi ra: Dương Hàn Dương Nhiệt cùng nhập Phế Kinh. - Mạch Phù Đại: cũng cùng nhập Phế Lạc. - Việt Tỳ gia Bán Hạ thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (104) Phế trướng, ho mà kéo hơi lên, bứt rứt vật vã mà suyễn, mạch Phù là dưới Tâm có Thủy Khí, Tiểu Thanh Long gia Thạch Cao thang làm chủ. TIỂU THANH LONG GIA THẠCH CAO THANG PHƯƠNG Ma Hoàng, Bạch Thược, Quế Chi, Can Khương, Tế Tân mỗi vị 3 lạng Ngũ Vị Tử ½ thăng
Bán Hạ ½ thăng
Cam Thảo 2 lạng
Thạch Cao 2 lạng
9 vị trên, nước 1 đấu, trước nấu Ma Hoàng vớt bỏ bọt, cho các thuốc vào nấu lấy 3 thăng. Người mạnh uống 1 thăng, người gầy yếu thì giảm bớt, ngày 3 lần, trẻ con uống 4 cáp. BẢN NGHĨA (7/13) * Đây, Phế trướng chuyển nhập các Dương Kinh. - Ho mà kéo hơi lên: Phế nhập các Dương Kinh. - Bứt rứt vật vã mà Suyễn: nhập Dương Nhiệt Kinh. - Mạch Phù có Thủy Khí: nhập Dương Hàn Kinh. - Tiểu Thanh Long thang gia Thạch Cao làm chủ. - Tiểu Thanh Long thang trị Dương Hàn gia Thạch Cao trị Dương Nhiệt.
(Trên đây, chương thứ 7, 13 tiết, luận bệnh Phế Nuy - Phế Ung - Khái Thấu -Thượng Khí) 81
TẠP BỆNH LUẬN QUYỂN IV _________________________________ CHƯƠNG 8 : BÔN
ĐỒN KHÍ
(5 tiết, từ 105 đến 109) LUẬN TIỂU TRƯỜNG 1- Tiểu Trường với Tứ Bộ liên quan. 2- Tiểu Trường với Thưọng Hạ liên quan. 3- Tiểu Trường với Nội Ngoại liên quan. 4- Tiểu Trường Khí với Kinh liên quan. 5- Tiểu Trường Khí với Kinh Lạc liên quan.
NGUYÊN VĂN (105) Thầy nói : Bệnh có Bôn Đồn (khí từ dưới lên như con heo con chạy), có thổ nùng (mửa mủ), Kinh bố (sợ sệt), Hỏa tà. Bốn bộ bệnh đó đều do kinh sợ phát bệnh. BẢN NGHĨA (8/1) *Đây, Tiểu Trường với Tứ Bộ liên quan. - Tứ bộ là: Dương Hàn, Dương Nhiệt, Âm Hàn, Âm Nhiệt. 12 Kinh Lạc với Phủ Tạng đều như thế, chẳng phải riêng Tiểu Trường mới có. - Có Bôn Đồn: thọ Âm Hàn. - Có thổ nùng: thọ Âm Nhiệt. - Có Kinh bố: thọ Dương Hàn. - Có Hỏa tà: thọ Dương Nhiệt. - Đều do kinh sợ phát bệnh: nói Tiểu Trường có tính của Thủ Dương Hàn, cùng với tứ bộ bệnh, đều phát bệnh do kinh sợ. 82
NGUYÊN VĂN (106) Thầy nói : bệnh Bôn Đồn phát khởi từ bụng dưới xung lên yết hầu, lúc phát cơn người bệnh muốn chết, rồi trở lại ngưng, đều do kinh khủng gây ra. BẢN NGHĨA (8/2) *Đây, Tiểu Trường Kinh tại Cách cùng với Thượng Hạ liên quan. - Bôn Đồn: Tiểu Trường chứng. - Từ bụng dưới xung lên yết hầu: Tiểu Trường Kinh quán suốt Cách Thượng Hạ. - Lúc phát cơn người bệnh muốn chết: bệnh tại Cách. - Rồi trở lại ngưng: tại Thượng Hạ của Cách. - Đều do kinh khủng gây ra: Kinh là thọ Tâm chứng tại Cách thượng. Khủng là thọ Thận chứng tại Cách hạ. *Nói rằng Tiểu Trường Kinh Thượng ‘tế’ Tâm Hỏa, Hạ ‘giao’ Thận Thủy.
NGUYÊN VĂN (107) Bôn Đồn, Khí xung lên ngực, bụng đau, vãng lai Hàn Nhiệt, Bôn Đồn thang làm chủ. BÔN ĐỒN THANG PHƯƠNG Cam Thảo, Đương Qui, Xuyên Khung, Hoàng Cầm, Bạch Thược mỗi vị 2 lạng Bán Hạ, Sinh Khương mỗi vị 4 lạng Cát Căn 5 lạng
Lý Căn Bạch Bì 1 thăng
9 vị trên, nước 2 đấu nấu lấy 5 thăng, uống ấm 1 thăng, ngày 3 đêm 1. BẢN NGHĨA (8/3) *Đây,Tiểu Trường Kinh tại Tấu cùng với Nội Ngoại liên quan. - Xung lên ngực: tại Tấu. - Bụng đau: tại Tấu Bán Lý. - Vãng lai Hàn Nhiệt: tại Tấu Bán Biểu. - Bôn Đồn thang làm chủ. 83
NGUYÊN VĂN (108) Sau khi Phát Hạn, lại ‘Thiêu châm’ làm cho đổ mồ hôi, chỗ châm bị lạnh, nổi mụn đỏ ắt phát Bôn Đồn, hơi từ bụng dưới xung lên Tâm ; cứu trên mụn mỗi chỗ một tráng, Quế Chi gia Quế thang làm chủ. QUẾ CHI GIA QUẾ THANG PHƯƠNG Quế Chi 5 lạng
Đại Táo 12 trái
Bạch Thược, Sinh Khương, Chích Thảo mỗi vị 3 lạng 5 vị trên, nước 7 thăng, dùng lửa nhỏ nấu lấy 3 thăng, bỏ bả, uống ấm 1 thăng ngày 3 lần. BẢN NGHĨA (8/4) *Đây, Tiểu Trường Khí cùng với Kinh liên quan. - Sau khi Phát hạn : trị Khí nhưng không trị Kinh. - Thiêu châm làm cho đổ mồ hôi : trị Nhiệt Kinh mà không trị Hàn Kinh. - Chỗ châm bị lạnh : Thủ Thái Dương Hàn Kinh bị Hàn. - Nổi mụn đỏ : ứng của Thủ Thái Dương Tiêu Dương. - Phát Bôn Đồn, Khí từ bụng dưới xung lên Tâm : Khí cùng với Kinh liên quan làm bệnh. - Cứu trên mụn mỗi chỗ 1 tráng : trị sai thất của Thiêu châm. - Quế Chi gia Quế thang : Phép trị Kinh Khí cùng bị Hàn.
NGUYÊN VĂN (109) Sau khi Phát Hạn, dưới rún hồi hộp muốn phát Bôn Đồn, Phục Linh Quế Chi Cam Thảo thang làm chủ. PHỤC LINH QUẾ CHI CAM THẢO ĐẠI TÁO THANG PHƯƠNG Phục Linh ½ cân
Quế Chi 4 lạng
Cam Thảo 2 lạng
Đại Táo 15 trái
Dùng Cam Lan Thủy 1 đấu, trước nấu Phục Linh giảm 2 thăng, cho các thuốc vào nấu lấy 3 thăng, bỏ bả, uống ấm 1 thăng ngày 3 lần. 84
BẢN NGHĨA (8/5) *Đây, Tiểu Trường Khí cùng với Kinh Lạc liên quan. - Sau khi Phát hạn: trị Khí. - Dưới rún hồi hộp: Khí bệnh đến cả Lạc. - Muốn phát Bôn Đồn: Lạc bệnh đến cả Kinh. - Phục Linh Quế Chi Cam Thảo Đại Táo thang làm chủ: phép chế Cam lan thủy xem ở Thái Dương thiên trung (Thương Hàn Luận).
(Trên đây, chương thứ 8, 5 tiết, luận bệnh Bôn Đồn Khí). 85
CHƯƠNG 9:
HUNG TÝ – TÂM THỐNG – ĐOẢN KHÍ (9 Tiết, từ 110 đến 118) LUẬN ĐỞM
123456789-
Đởm Kinh đảm trách Thượng Dương Hạ Âm. Đởm Kinh đảm trách Bán Biểu Bán Lý. Đởm Kinh tại Cách thọ Dương Hàn Âm Nhiệt. Đởm Kinh tại Tấu thọ Dương Hàn Âm Nhiệt. Đởm Kinh tại Nội Ngoại của Tấu. Đởm Kinh tại Thượng Hạ của Cách. Các Dương Kinh nhập Đởm. Đởm chuyển nhập các Dương Kinh. Đởm Kinh với các Âm Kinh cùng nhập qua lại.
NGUYÊN VĂN (110) Thầy nói : Phàm xem mạch nên xét chỗ thái quá, bất cập. Dương mạch Vi Âm mạch Huyền tức là Hung Tý Tâm thống. Sở dĩ như thế là trách lỗi, tại cực hư. Dương mạch hư, biết tại Thượng tiêu làm ra Hung Tý Tâm thống, bởi cớ Âm mạch Huyền. BẢN NGHĨA (9/1) * Đây, Đởm Kinh đảm trách Thượng Dương Hạ Âm. - Xem mạch là nắm lấy chỗ thái quá, bất cập của Âm Dương. - Dương mạch Vi: Dương tại Thượng bất cập. - Âm mạch Huyền: Âm tại Hạ thái quá. - Đấy là chứng Hung tý Tâm thống, trách lỗi tại Đởm Kinh Dương Khí bất cập. - Tại Thượng Dương Khí hư thì Hung tý Tâm thống, bởi vì tại Hạ Âm mạch Huyền.
NGUYÊN VĂN (111) Người bình thường không nóng lạnh, hơi ngắn không đủ thở là Thực. 86
BẢN NGHĨA (9/2) * Đây, Đởm Kinh đảm trách Bán Biểu Bán Lý. - Không nóng lạnh: Đởm tại Bán Biểu không thọ Dương phần Hàn Nhiệt. - Hơi ngắn không đủ thở: Đởm tại Bán Lý thọ Âm phần Hàn Nhiệt.
NGUYÊN VĂN (112) Hung tý ‘chi vi’ bệnh, suyễn thở, ho khạc, ngực lưng đau, hơi ngắn, Thốn khẩu mạch Trầm mà Trì, bộ Quan mạch Tiểu Khẩn Sác, Quát Lâu Giới Bạch Bạch Tửu thang làm chủ. QUÁT LÂU GIỚI BẠCH BẠCH TỬU THANG PHƯƠNG Quát Lâu thực 1 trái
Giới Bạch ½ thăng
Bạch Tửu 7 thăng
3 vị trên, đồng nấu lấy 2 thăng, chia uống ấm 2 lần. BẢN NGHĨA (9/3) * Đây, Đởm Kinh tại Cách thọ Dương Hàn Âm Nhiệt. - Suyễn: thọ Dương Hàn; Tức (thở) thọ Âm Nhiệt. - Ho khạc: cùng thọ. - Ngực lưng đau: Đởm Kinh bệnh. - Hơi ngắn: Đởm Khí bệnh. - Thốn khẩu mạch Trầm mà Trì: tại Cách thọ Dương Hàn. - Bộ Quan mạch Tiểu Khẩn Sác: tại Cách thọ Âm Nhiệt. - Quát Lâu Giới Bạch Bạch Tửu thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (113) Hung tý không nằm được, Tâm đau thấu đến lưng, Quát Lâu Giới Bạch Bạch Tửu Bán Hạ thang làm chủ. .
87
QUÁT LÂU GIỚI BẠCH BẠCH TỬU BÁN HẠ THANG PHƯƠNG Quát Lâu thực 1 trái
Giới Bạch 3 lạng
Bạch Tửu 1 đấu
Bán Hạ ½ thăng
4 vị trên, nấu lấy 4 thăng, uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần. BẢN NGHĨA (9/4) * Đây, Đởm Kinh tại Tấu thọ Dương Hàn Âm Nhiệt. - Hung tý: Đởm Kinh tại trước ngực thọ Tà. - Không nằm được: Đởm Kinh tại sau lưng thọ Tà. - Tâm đau thấu đến lưng: Đởm Kinh đi 2 mé bên thân (nối liền trước sau). - Quát Lâu Giới Bạch Bạch Tửu Bán Hạ thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (114) Hung tý trong Tâm bỉ, Khí đọng lại Kết tại Hung, ngực đầy, dưới hiếp nghịch thượng đến Tâm, Chỉ Thực Giới Bạch Quế Chi thang làm chủ; Nhân Sâm thang cũng làm chủ. CHỈ THỰC GIỚI BẠCH QUẾ CHI THANG PHƯƠNG Chỉ Thực 4 trái
Giới Bạch ½ thăng
Hậu Phác 4 lạng
Quát Lâu thực 1 trái
Quế Chi 1 lạng
5 vị trên, nước 5 thăng, trước nấu Chỉ thực, Hậu phác lấy 2 thăng bỏ bả, cho các thuốc vào nấu sôi vài dạo, chia uống ấm 3 lần. NHÂN SÂM THANG PHƯƠNG Nhân Sâm, Can Khương, Bạch Truật mỗi vị 3 lạng Quế Chi, Cam Thảo mỗi vị 4 lạng Các vị trên, nước 9 thăng, trước nấu lấy 5 thăng, cho Quế Chi vào nấu lấy 3 thăng, uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần. BẢN NGHĨA (9/5) * Đây, Đởm Kinh thọ Dương Hàn Âm Nhiệt tại Nội Ngoại của Tấu. 88
- Trong Tâm bỉ: thọ tại Tấu Nội. - Khí đọng lại kết tại Hung: thọ tại Tấu Ngoại. - Ngực đầy dưới sườn nghịch lên Tâm: thọ tại Tấu. - Chỉ Thực Giới Bạch Quế Chi thang làm chủ: trị tại Tấu Ngoại. - Nhân Sâm thang cũng làm chủ: trị tại Tấu Nội.
NGUYÊN VĂN (115) Hung tý, trong ngực Khí tắc, thở ngắn, Phục Linh Hạnh Nhân Cam Thảo thang làm chủ, Quất Bì Chỉ Thực Sinh Khương thang cũng làm chủ. PHỤC LINH HẠNH NHÂN CAM THẢO THANG PHƯƠNG Phục Linh 3 lạng
Hạnh Nhân 50 hạt
Cam Thảo 1 lạng
3 vị trên, nước 1 đấu nấu lấy 5 thăng, uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần, không bớt thì uống tiếp. QUẤT BÌ CHỈ THỰC SINH KHƯƠNG THANG PHƯƠNG Quất Bì 1 cân
Chỉ Thực 3 lạng
Sinh Khương 2 lạng
3 vị trên, nước 5 thăng nấu lấy 2 thăng, bỏ bả, chia uống ấm 2 lần. BẢN NGHĨA (9/6) * Đây, Đởm Kinh thọ Dương Hàn Âm Nhiệt tại thượng hạ của Cách. - Trong ngực Khí tắc: thọ tại Cách Hạ. - Thở ngắn: thọ tại Cách Thượng. - Tại Cách Thượng Phục Linh Hạnh Nhân Cam Thảo thang làm chủ. - Tại Cách Hạ Quất Bì Chỉ Thực Sinh Khương thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (116) Chứng Hung tý hoặc Hoãn, hoặc Cấp, Dĩ Nhân Phụ tử tán làm chủ. 89
DĨ NHÂN PHỤ TỬ TÁN PHƯƠNG Dĩ Nhân 15 lạng
Phụ Tử 3 lạng
2 vị trên tán nhuyễn, uống mỗi lần 1 thìa phương thốn, ngày 3 lần. BẢN NGHĨA (9/7) * Đây, Đởm Kinh thọ kết của các Dương. - Thọ Dương Nhiệt thì Hoãn, thọ Dương Hàn thì Cấp. - Dĩ Nhân Phụ Tử tán làm chủ.
NGUYÊN VĂN (117) Trong Tâm bỉ, các chứng nghịch Tâm đau như bị treo, Quế Chi Sinh Khương Chỉ thực thang làm chủ. QUẾ CHI SINH KHƯƠNG CHỈ THỰC THANG PHƯƠNG Quế Chi, Sinh Khương mỗi vị 3 lạng
Chỉ Thực 5 lạng
3 vị trên, nước 6 thăng nấu lấy 3 thăng, chia uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần. BẢN NGHĨA (9/8) * Đây, các Dương Kinh thọ kết tại Đởm. - Trong Tâm bỉ: các Dương kết ở Đởm. - Các chứng nghịch Tâm đau như bị treo: Đởm kết ở các Dương Kinh. - Quế Chi Sinh Khương Chỉ Thực thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (118) Tâm đau thấu lưng, lưng đau thấu Tâm, Ô Đầu Xích Thạch Chỉ hoàn làm chủ.
.
90
Ô ĐẦU XÍCH THẠCH CHỈ HOÀN PHƯƠNG Ô Đầu 1 phân (bào) Phụ Tử ½ lạng
Xuyên Tiêu, Càn Khương mỗi vị 1 lạng Xích Thạch Chỉ 1 lạng
5 vị trên tán nhuyễn, hoàn mật to như hạt ngô đồng, trước khi ăn uống 1 hoàn, ngày 3 lần, không thấy hiệu nghiệm thì tăng chút ít. BẢN NGHĨA (9/9) * Đây, Đởm Kinh cùng các Âm Kinh kết nhau. -
Tâm đau thấu lưng: Đởm kết ở các Âm Kinh.
-
Lưng đau thấu Tâm: Các Âm Kinh kết ở Đởm.
-
Ô Đầu Xích Thạch Chỉ hoàn làm chủ.
(Trên đây, chương thứ 9, 9 tiết, luận bệnh Hung Tý- Tâm Thống- Đoản Khí) 91
CHƯƠNG 10 : PHÚC MÃN
– HÀN SÁN – TÚC THỰC
(26 Tiết, từ 119 đến 144) LUẬN ĐẠI TRƯỜNG 1- Thọ Âm Hàn làm Phúc mãn. 2- Thọ Âm Nhiệt làm Phúc mãn. 3- Thọ Âm Hàn truyền Đốc Kinh. 4- Thọ Âm Hàn truyền Nhâm Kinh. 5- Thọ Âm Hàn truyền Xung Kinh. 6- Thọ Âm Nhiệt truyền Đốc Kinh. 7- Thọ Âm Nhiệt truyền Nhâm Kinh. 8- Thọ Âm Nhiệt truyền Xung Kinh. 9- Thọ tại Tấu Dương Hàn Âm Nhiệt đến Đới. 10- Thọ tại Biểu Dương Hàn đến Tấu. 11- Thọ tại Tấu Âm Nhiệt đến Biểu. 12- Thọ tại Cách Dương Hàn Âm Nhiệt đến Đới. 13- Thọ tại Cách Âm Nhiệt đến Biểu. 14- Thọ tại Biểu Dương Hàn đến Cách. 15- Thọ Dương Hàn Âm Nhiệt chuyển làm nguyên do Hàn sán. 16- Hàn sán chuyển Âm Nhiệt sang Dương Hàn truyền Thủ Âm. 17- Hàn sán chuyển Âm Nhiệt sang Dương Hàn truyền Thủ Dương. 18- Hàn sán chuyển Âm Nhiệt sang Dương Hàn truyền Túc Âm. 19- Hàn sán chuyển Âm Nhiệt sang Dương Hàn truyền Túc Dương. 20- Thọ Dương Hàn Âm Nhiệt kết làm nguyên do Túc Thực. 21- Túc Thực kết tại Nội Ngoại của Tấu. 22- Túc Thực kết tại Tấu. 23- Túc Thực kết tại Thượng Hạ của Cách. 24- Túc Thực kết tại Cách. 25- Túc Thực tại Lý đến Biểu. 26- Túc Thực tại Biểu đến Lý. NGUYÊN VĂN (119) Mạch Phu Dương Vi Huyền, ‘Pháp đương’ bụng đầy; nếu không đầy ắt đại tiện khó, hai bên sườn đau nhức, đó là Hư Hàn muốn từ dưới đi lên phải dùng thuốc ấm mà trị. BẢN NGHĨA (10/1) * Đây, Đại Trường thọ Âm Hàn làm Phúc mãn. - Mạch Vi Huyền: thọ Âm Nhiệt Vi (ít) mà Âm Hàn thậm (nhiều). 92
- ‘Pháp đương’ bụng đầy: Bởi cớ thọ Âm Hàn. - Nếu không đầy ắt đại tiện khó: bởi có Âm Hàn ắt có Âm Nhiệt. - Hai bên sườn đau nhức: Đại Trường tại Hạ nhưng Kinh hành ở Thượng. - Phải dùng thuốc ấm mà trị.
NGUYÊN VĂN (120) Người bệnh bụng đầy, đè vào không đau là Hư, đau là Thực có thể cho Hạ, lưỡi vàng là chưa được Hạ, Hạ rồi thì lưỡi vàng tự hết. BẢN NGHĨA (10/2) * Đây, Đại Trường thọ Âm Nhiệt làm Phúc mãn. - Đè vào không đau là Âm Hàn; đau là Âm Nhiệt. - Lưỡi vàng là chứng của Âm Nhiệt, nên cho Hạ.
NGUYÊN VĂN (121) Bụng đầy có lúc giảm rồi trở lại như cũ đó là Hàn; phải uống Ôn dược. BẢN NGHĨA (10/3) * Đây, Đại Trường thọ Âm Hàn truyền Đốc Kinh. - Bụng đầy có lúc giảm: Đầy tại Đốc Kinh. - Rồi trở lại như cũ: Đầy tại Đại Trường, phải uống Ôn dược.
NGUYÊN VĂN (122) Người bệnh vàng da, héo úa, vật vã mà không khát, trong bụng Thực Hàn lại đi lợi không dứt thì chết. BẢN NGHĨA (10/4) * Đây, Đại Trường thọ Âm Hàn truyền Nhâm Kinh. 93
- Người bệnh vàng da, héo úa: Nhâm Kinh hành Huyết thọ Hàn. - Vật vã mà không khát: Đại Trường Táo Khí thọ Âm Hàn. - Trong bụng thực Hàn lại đi lợi không dứt thì chết: vì cớ Đại Trường với Nhâm Kinh cùng thọ Hàn.
NGUYÊN VĂN (123) Thốn khẩu mạch Huyền, dưới sườn co thắt mà đau, người bệnh ơn ớn sợ lạnh. BẢN NGHĨA (10/5) * Đây, Đại Trường thọ Âm Hàn truyền Xung Kinh. - Mạch Huyền: Đại Trường Táo Khí thọ Hàn. - Dưới sườn co thắt mà đau: Âm Hàn truyền Xung Kinh. - Người bệnh ớn ớn sợ lạnh: Đại Trường với Xung Kinh cùng thọ Hàn.
NGUYÊN VĂN (124) Người bệnh trúng Hàn hay ngáp, chảy mũi nước trong, phát sốt, sắc hòa thì hay hắt hơi. BẢN NGHĨA (10/6) * Đây, Đại Trường thọ Âm Nhiệt truyền Đốc Kinh. - Người bệnh Trúng Hàn: Nói Đại Trường thương phải Hàn thì phát Nhiệt. - Mũi chảy nước trong: Đốc Kinh thọ Âm Nhiệt. - Phát Nhiệt: Đại Trường thọ Âm Nhiệt. - Hay hắt hơi: bệnh không tại Khí phần, chỉ tại 2 Kinh từ dưới mà đi lên.
NGUYÊN VĂN (125) Người trúng Hàn hạ lợi là vì Lý Hư. Muốn hắt hơi mà không được, đó là trong bụng lạnh. 94
BẢN NGHĨA (10/7) * Đây, Đại Trường thọ Âm Nhiệt truyền Nhâm Kinh. - Thọ Âm Nhiệt mà hạ lợi: tại Lý Âm Nhiệt hư. - Muốn hắt hơi mà không được: bởi cớ đồng thọ Hư Nhiệt.
NGUYÊN VĂN (126) Phàm người gầy, đau quanh rún ắt có Phong lãnh, cốc khí không vận hành mà trái lại cho Hạ, Khí người bệnh ắt xung lên, nếu không xung lên thì dưới Tâm Bỉ. BẢN NGHĨA (10/8) * Đây, Đại Trường thọ Âm Nhiệt truyền Xung Kinh. - Người gầy: Đại Trường hư. - Đau quanh rún: Xung Kinh hư. - Tất có Phong lãnh tại Xung Kinh, bởi cớ Cốc Khí tại Đại Trường không vận hành. - Cho Hạ thì Khí ắt xung lên: Đại Trường hiệp Xung Kinh mà đi lên. - Nếu không xung lên thì làm Bỉ: Đại Trường hiệp Xung Kinh tại Hạ làm Bỉ.
NGUYÊN VĂN (127) Bụng đầy phát sốt 10 ngày, mạch Phù mà Sác, ăn uống như thường, Hậu Phác Thất Vật thang làm chủ. HẬU PHÁC THẤT VẬT THANG PHƯƠNG Hậu Phác ½ cân
Đại Táo 10 trái
Chỉ Thực 5 quả
Quế Chi 2 lạng
Cam Thảo, Đại Hoàng mỗi vị 3 lạng 7 vị trên, nước 1 đấu, nấu lấy 4 thăng bỏ bả, uống ấm 8 cáp, ngày 3 lần. . Nếu ói gia Bán Hạ 5 cáp. . Ỉa chảy bỏ Đại Hoàng. . Lạnh nhiều gia Sinh Khương đến ½ cân. 95
Sinh Khương 5 lạng
BẢN NGHĨA (10/9) * Đây, Đại Trường thọ Dương Hàn Âm Nhiệt tại Tấu đến Đới - Bụng đầy phát sốt 10 ngày: Đại Trường Kinh đi từ Tấu đến Đới 1 chu trong Giáp Tý. - Mạch Phù: tại Tấu. - Mà Sác là Âm Nhiệt hư, Dương Hàn cũng hư. - Ăn uống như thường: bệnh không tại Tấu, Cách mà là tại Đới. - Hậu Phác Thất vật thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (128) Trong bụng có Hàn Khí, sôi ruột, đau như cắt, ngực sườn nghịch đầy, ói mửa, Phụ Tử Ngạnh Mễ thang làm chủ. PHỤ TỬ NGẠNH MỄ THANG PHƯƠNG Phụ Tử 1 củ (bào)
Bán Hạ, Ngạnh Mễ mỗi vị ½ thăng
Cam Thảo 1 lạng
Đại Táo 10 trái
5 vị trên, nước 8 thăng, nấu đến gạo chín là thang được, bỏ bả, uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần. BẢN NGHĨA (10/10) * Đây, Đại Trường thọ Dương Hàn tại Biểu nhập Tấu - Hàn Khí, ruột sôi, đau như cắt: Biểu Hàn đuổi Tấu Nhiệt. - Ngực sườn nghịch đầy, ói mửa: Tấu Nhiệt thọ Biểu Hàn. - Phụ Tử Ngạnh Mễ thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (129) Đau bụng mà đại tiện không thông, Hậu Phác Tam Vật thang làm chủ.
.
96
HẬU PHÁC TAM VẬT THANG PHƯƠNG Đại Hoàng 4 lạng
Chỉ Thực 5 quả
Hậu Phác 8 lạng
Sinh Khương 5 lạng
Các vị trên, nước 1 đấu 2 thăng, trước nấu 2 vị giảm phân nửa nước, cho Đại Hoàng vào lại nấu lấy 3 thăng, bỏ bả, uống ấm 1 thăng, lấy đi cầu được làm độ. BẢN NGHĨA (10/11) * Đây, Đại Trường thọ Âm Nhiệt tại Tấu đến Biểu - Tấu Nhiệt bị Biểu Hàn bế cho nên đau. Hậu Phác Tam Vật thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (130) Đè tay vào dưới Tâm đầy đau, đó là Thực; phải cho Hạ, nên dùng Đại Sài Hồ thang. ĐẠI SÀI HỒ THANG PHƯƠNG Hoàng Cầm, Bạch Thược mỗi vị 3 lạng Sài Hồ ½ cân
Bán Hạ ½ thăng
Đại Hoàng 2 lạng
Đại Táo 12 trái
Chỉ Thực 4 quả Sinh Khương 5 lạng
8 vị trên, nước 1 đấu 2 thăng, nấu lấy 6 thăng, bỏ bả, lại nấu tiếp, uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần. BẢN NGHĨA (10/12) * Đây, Đại Trường thọ Dương Hàn Âm Nhiệt tại Cách đến Đới - Dưới Tâm đầy đau, đó là Dương Hàn Âm Nhiệt thực tại Cách mà đến Đới, phải cho Hạ, nên dùng Đại Sài Hồ thang.
NGUYÊN VĂN (131) Bụng đầy không giảm, giảm không đáng kể, phải cho Hạ, nên dùng Đại Thừa Khí thang (xem phương tại chương bệnh Kỉnh). BẢN NGHĨA (10/13) * Đây, Đại Trường thọ Âm Nhiệt tại Cách đến Biểu. 97
- Bụng đầy không giảm: tại Cách. - Tại Cách đến Biểu cho nên giảm không đáng kể. - Phải cho Hạ: Bệnh tại Nội nên Hạ, nên dùng Đại Thừa Khí thang.
NGUYÊN VĂN (132) Trong Tâm ngực rất lạnh và đau, không thể ăn uống, trong bụng đầy, khí xung lên xuất hiện ra da, có đầu chân lên xuống, đau không thể sờ vào, Đại Kiến Trung thang làm chủ. ĐẠI KIẾN TRUNG THANG PHƯƠNG Xuyên Tiêu 2 cáp (sao bỏ mồ hôi)
Can Khương 4 lạng
Nhân Sâm 2 lạng
3 vị trên, nước 4 thăng nấu lấy 2 thăng, bỏ bả, cho Di Đường 1 thăng vào, dùng lửa nhỏ nấu còn 1 thăng rưỡi, chia uống ấm 2 lần. Sau thời gian khoảng nấu 1 bữa cơm, có thể ăn 2 thăng cháo. Sau đó lại uống thuốc, phải ăn cháo nhừ 1 ngày và đắp chăn cho ấm. BẢN NGHĨA (10/14) * Đây, Đại Trường thọ Dương Hàn tại Biểu nhập Cách. - Trong Tâm ngực rất lạnh: Dương Hàn nhập Cách. - Không thể ăn uống: chủ Cách, Vỵ Khí hư. - Trong bụng đầy, Khí xung lên xuất hiện ra da: Nội Ngoại cùng bệnh. - Có đầu chân lên xuống, đau không thể sờ vào: Thượng Hạ cùng bệnh. - Đại Kiến Trung thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (133) Dưới một bên sườn đau, phát sốt mạch Huyền Khẩn, đó là Hàn, lấy thuốc ấm để Hạ nó, nên dùng Đại Hoàng Phụ Tử thang làm chủ. ĐẠI HOÀNG PHỤ TỬ THANG PHƯƠNG Đại Hoàng, Phụ Tử mỗi vị 3 lạng 98
Tế Tân 2 lạng
3 vị trên, nước 5 thăng nấu lấy 2 thăng, chia uống ấm 3 lần. Nếu người khỏe thì nấu lấy 2 thăng rưỡi, chia uống ấm 2 lần. Sau khi uống thời gian khoảng như người bộ hành 4 -5 dặm thì uống tiếp lần nữa. BẢN NGHĨA (10/15) * Đây, Đại Trường chuyển Âm Nhiệt sang Dương Hàn, nguyên do của Hàn sán. - Dưới một bên sườn đau, phát sốt: Đại Trường thọ Âm Nhiệt. - Mạch Huyền Khẩn: chuyển Âm Nhiệt sang Dương Hàn. - Nên dùng Ôn dược để Hạ, Đại Hoàng Phụ Tử thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (134) Hàn Khí quyết nghịch, Xích hoàn làm chủ. XÍCH HOÀN PHƯƠNG Ô Đầu 2 lạng (bào)
Tế Tân 1 lạng
Phục Linh 4 lạng
Bán Hạ 4 lạng
4 vị trên, tán nhuyễn hoàn mật to bằng hạt mè, Chu Sa làm áo, trước khi ăn, uống với rượu 3 hoàn, Ngày 2 đêm 1 lần, không thấy hiệu nghiệm thì tăng chút ít, lấy hiệu nghiệm làm mức độ. BẢN NGHĨA (10/16) * Đây, Hàn Sán chuyển Âm Nhiệt sang Dương Hàn truyền Thủ Âm Kinh. - Hàn Khí: là Tâm Nhiệt Kinh thọ Hàn. - Quyết nghịch: là Bào Phế Hàn Kinh thọ Hàn. - Xích hoàn làm chủ: là nghĩa của Thủ Âm tại Thượng tiêu, lấy khí, lấy trấp biến hóa ra màu đỏ, lại dùng Chu Sa làm áo.
NGUYÊN VĂN (135) Bụng đầy mạch Huyền mà Khẩn, Huyền thì Vệ Khí không hành tức sợ lạnh, Khẩn thì không muốn ăn, Tà Chính tương bác tức làm Hàn Sán, Hàn Sán quanh rún đau, nếu phát hạn thì Bạch Tân (nước tân dịch màu trắng) ra, tay chân lạnh móp, mạch Trầm Khẩn, Đại Ô Đầu tiển làm chủ. 99
ĐẠI Ô ĐẦU TIỂN PHƯƠNG Ô Đầu thứ lớn 5 củ rang, bỏ vỏ không cần xé nhỏ. Nước 3 thăng nấu lấy 1 thăng, bỏ bả, cho vào 3 thăng mật, cô lại cho hết thủy khí còn 2 thăng, uống 7 cáp, người yếu uống 5 cáp, không bớt thì hôm sau lại uống, không nên một ngày uống 2 lần. BẢN NGHĨA (10/17) * Đây, Hàn Sán chuyển Âm Nhiệt sang Dương Hàn truyền Thủ Dương Kinh. - Bụng đầy: Đại Trường Âm Nhiệt hư. - Âm Nhiệt hư nên Dương Hàn thịnh, vì thế mạch Huyền. - Âm Nhiệt hiệp Dương Hàn cho Huyền mà Khẩn. - Do đó Vệ Khí không hành tức sợ lạnh, vì Âm Hàn mạch Huyền. - Không muốn ăn: vì hiệp Dương Hàn mạch Khẩn. - Âm Nhiệt là chính, Dương Hàn là tà, tương bác tức làm bệnh Hàn Sán. - Hàn Sán quanh rún đau: truyền Thủ Dương. - Nếu phát hạn thì Bạch tân ra : từ Hạ lên Thượng. - Tay chân lạnh móp: từ Nội ra Ngoại. - Mạch Trầm Khẩn: mạch Dương Hàn tại Tấu. - Đại Ô Đầu tiển làm chủ.
NGUYÊN VĂN (136) Hàn Sán trong bụng đau đến sườn cũng đau, Lý cấp Đương Qui Sinh Khương Dương Nhục thang làm chủ. ĐƯƠNG QUI SINH KHƯƠNG DƯƠNG NHỤC THANG PHƯƠNG Đương Qui 8 lạng
Sinh Khương 3 lạng
Dương nhục 1 cân
3 vị trên, nước 8 thăng nấu còn 3 thăng, uống ấm 7 cáp, ngày 3 lần. 100
. Hàn nhiều gia Sinh Khương thành 1 cân. . Đau nhiều mà ói gia Quất Bì 2 lạng, Bạch Truật 1 lạng, gia thêm Sinh Khương, cũng gia thêm nước 5 thăng, nấu lấy 3 thăng 2 cáp để uống. BẢN NGHĨA (10/18) * Đây, Hàn Sán chuyển Âm Nhiệt sang Dương Hàn truyền Túc Tam Âm. - Trong bụng đau: Đại Trường Hàn Sán. - Đau đến sườn, Lý cấp: truyền Túc Tam Âm. - Đương Qui Sinh Khương Dương Nhục thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (137) Hàn Sán trong bụng đau, lạnh móp, tay chân tê mất cảm giác, nếu như mình đau nhức, châm cứu và các thuốc không trị được, Ô Đầu Quế Chi Để Đương thang làm chủ. Ô ĐẦU QUẾ CHI ĐỂ ĐƯƠNG THANG PHƯƠNG Ô Đầu 5 củ - 1 vị này dùng 2 thăng mật cô giảm phân nửa, bỏ bả, lấy 5 cáp Quế Chi thang hiệp với Ô Đầu thành 1 thăng hòa đều để uống. Lúc đầu uống 2 cáp, thấy không hiệu quả thì uống 3 cáp, lại thấy không hiệu quả nữa thì gia thêm đến 5 cáp. Hiệu nghiệm thì như người say, mửa được là trúng bệnh. BẢN NGHĨA (10/19) * Đây, Hàn Sán chuyển Âm Nhiệt sang Dương Hàn truyền Túc Tam Dương. - Hàn Sán: Đại Trường chứng. - Trong bụng đau: Đại Trường Kinh Lạc tại Nội. - Lạnh móp: Đại Trường Kinh Lạc tại Ngoại. - Tay chân tê mất cảm giác: truyền Túc Dương Lạc. - Nếu như mình đau nhức: truyền Túc Dương Kinh. - Châm cứu và các thuốc không trị được: Thủ Túc cùng bệnh, Kinh Lạc cùng bệnh vậy. - Ô Đầu Quế Chi Để Đương thang làm chủ. 101
NGUYÊN VĂN (138) Mạch Sác mà Khẩn, lại Huyền trạng như dây cung, đè vào không dời chỗ. Mạch Huyền Sác thì nên cho Hạ cái lạnh. Mạch Khẩn Đại mà Trì thì dưới Tâm ắt phải cứng. Mạch Đại mà Khẩn là trong Dương có Âm, có thể cho Hạ. BẢN NGHĨA (10/20) * Đây, Đại Trường thọ kết của Dương Hàn Âm Nhiệt làm Túc thực. - Mạch Sác: Âm Nhiệt; mà Khẩn: Dương Hàn. - Lại Huyền là hiệp của Dương Hàn Âm Nhiệt. - Mạch Huyền Sác: là Âm Nhiệt nhiều hơn Dương Hàn, nên cho Hạ cái lạnh. - Mạch Khẩn Đại mà Trì: là Dương Hàn nhiều hơn Âm Nhiệt; dưới Tâm ắt phải cứng. - Mạch Đại mà Khẩn là trong Dương có Âm: là Dương Hàn Âm Nhiệt tương kết, nguyên do của bệnh Túc thực, có thể cho Hạ.
NGUYÊN VĂN (139) Hỏi rằng : Bệnh có Túc thực làm sao phân biệt ? Thầy đáp : Thốn khẩu mạch Phù mà Đại, án vào trái lại Sáp, bộ Xích cũng Vi mà Sáp, cho nên biết có Túc thực, Đại Thừa Khí thang làm chủ. BẢN NGHĨA (10/21) * Đây, Đại Trường Kinh tại Nội Ngoại của Tấu làm Túc thực. - Hàn Sán là Dương Hàn Âm Nhiệt tương chuyển. Túc thực là Dương Hàn Âm Nhiệt tương kết. Đó là chỗ phân biệt. - Mạch Phù là Âm Nhiệt tại Tấu ra Ngoại. Đại là Âm Nhiệt xuất Ngoại hiệp Dương Hàn. - Án vào trái lại Sáp: Dương Hàn tại Ngoại kết Âm Nhiệt ở Ngoại. - Bộ Xích cũng Vi mà Sáp: Dương Hàn nhập Nội kết Âm Nhiệt ở Nội. Đó là Túc thực, Đại Thừa Khí thang làm chủ. .
102
NGUYÊN VĂN (140) Mạch Sác mà Hoạt, đó là Thực. Như thế đoán có Túc thực, cho Hạ thì khỏi, nên dùng Đại Thừa Khí thang. BẢN NGHĨA (10/22) * Đây, Đại Trường tại Tấu làm Túc thực. - Mạch Sác mà Hoạt, đó là Âm Nhiệt Thực tại Tấu, Dương Hàn cũng Thực tại Tấu. - Có mạch này tại Tấu tức có Túc thực tại Đại Trường, có thể đoán mà biết, cho Hạ nên dùng Đại Thừa Khí thang.
NGUYÊN VĂN (141) Hạ lợi không muốn ăn, đó là có Túc thực, phải cho Hạ nên dùng Đại Thừa Khí thang. BẢN NGHĨA (10/23) * Đây, Đại Trường Kinh tại Thượng Hạ của Cách làm Túc Thực. - Hạ lợi: chứng tại Cách Hạ. - Không muốn ăn: chứng tại Cách Thượng. - Đó là Đại Trường Kinh tại Cách làm Túc thực, phải cho Hạ nên dùng Đại Thừa Khí thang.
NGUYÊN VĂN (142) Túc thực tại Thượng quản, phải cho Thổ nên dùng Qua Đế tán. QUA ĐẾ TÁN PHƯƠNG 1 vị Qua Đế tán bột, dùng Hương Xị 7 cáp, nấu lấy nước cốt hòa với 1 thìa phương thốn thuốc tán, uống ấm. Nếu không thổ gia thêm chút ít, lấy thổ được làm độ. BẢN NGHĨA (10/24) * Đây, Đại Trường Kinh tại Cách làm Túc thực. - Túc thực tại Thượng quản: tại Cách. 103
- Tại Cách phải cho Thổ nên dùng Qua Đế tán.
NGUYÊN VĂN (143) Mạch Khẩn như sơi dây chuyển vặn, vô thường là có Túc thực. BẢN NGHĨA (10/25) * Đây, Đại Trường Kinh có Túc thực tại Lý đến Biểu. - Mạch Khẩn như sợi dây chuyển vặn: là mạch Dương Hàn Âm Nhiệt đều có. - Vô thường: Hoặc tại Lý hoặc tại Biểu. - Nếu Đại Trường có Túc thực, đó là tại Lý đến Biểu.
NGUYÊN VĂN (144) Mạch Khẩn đầu đau có chứng Phong Hàn, trong bụng có Túc thực do không tiêu hóa. BẢN NGHĨA (10/26) * Đây, Đại Trường Kinh có Túc thực tại Biểu đến Lý. - Mạch Khẩn, đầu đau có chứng Phong Hàn: Nói Thái Dương Thương Hàn có chứng mạch Khẩn, đầu đau, Thiếu Âm Trúng Phong cũng có chứng mạch Khẩn, đầu đau. - Bởi cớ có 2 chứng này, cho nên tại Đại Trường, trong bụng có Túc thực do không tiêu hóa, đó là Túc thực từ Biểu đến Lý.
(Trên đây, chương thứ 10, 26 tiết, luận bệnh Phúc Mãn – Hàn Sán – Túc Thực) 104
CHƯƠNG 11:
NGŨ TẠNG – PHONG HÀN – TÍCH TỤ (21 Tiết, từ 145 đến 165) LUẬN NGŨ TẠNG KHÍ MẠCH
1- Phế Dương tích Khí. 2- Phế Âm tích Khí. 3- Phế tích Khí làm Mạch. 4- Can Dương tích Khí. 5- Can Âm tích Khí. 6- Can tích Khí làm Mạch. 7- Can tích Khí tại Cách. 8- Tâm Dương tích Khí. 9- Tâm Âm tích Khí. 10- Bào tích các Dương Khí. 11- Tâm tích Khí làm Mạch. 12- Bào tích các Âm Khí. 13- Tỳ tích Khí. 14- Tỳ tích Khí làm Mạch. 15- Tỳ tích Khí tại Cách Hạ Đái Thượng. 16- Thận tích Khí tại Đái. 17- Thận tích Khí làm Mạch. 18- Vỵ Quang Đởm tụ Khí tại Vỵ Trung quản rồi phân ra Thượng Hạ. 19- Tam Tiêu Đại Tiểu Trường tụ Khí tại Trung Tiêu rồi phân ra Thượng Hạ. 20- Phủ Tạng thọ Khí ăn uống trong Vỵ làm Mạch. 21- Phủ Tạng tích tụ Khí xuất làm mạch đều tùy theo Phế Vỵ. 105
NGUYÊN VĂN (145) Phế Trúng Phong miệng ráo mà Suyễn, thân chuyển động mà nặng nề, đầu nặng, mắt tối mà thũng trướng. BẢN NGHĨA (11/1) *Đây, Phế Tích Dương Khí. - Miệng ráo: Dương Nhiệt. - Mà Suyễn: Dương Hàn. - Thân chuyển động mà nặng nề: thọ tại Phế Kinh. - Mạo (đầu nặng, mắt tối) mà thũng trướng: thọ tại Phế Lạc.
NGUYÊN VĂN (146) Phế Trúng Hàn thì mửa nước mũi đục. BẢN NGHĨA (11/2) *Đây, Phế Tích Âm Khí. - Âm phần Hàn Nhiệt tích ở Phế cho nên mửa nước mũi đục. - Trúng Phong là gọi Dương Hàn Dương Nhiệt. - Trúng Hàn là gọi Âm Hàn Âm Nhiệt. Còn lại phỏng theo đó.
NGUYÊN VĂN (147) Phế Tử Tạng (Tạng Phế chết), mạch nó nhẹ tay thì Hư, ấn vào thì nhược như cọng hành, đi xuống (bộ Xích), vô căn là chết. BẢN NGHĨA (11/3) *Đây, Phế tử mạch. - Nhẹ tay thấy Hư: Âm Nhiệt xuất Ngoại Hư. - Ấn vào thấy nhược như cọng hành, vô căn là chết: Âm Nhiệt tại Nội Hư. 106
NGUYÊN VĂN (148) Can Trúng Phong, đầu mắt máy giật, hai bên sườn nhức, lúc đi thường khờm lưng, người bệnh thích ngọt. BẢN NGHĨA (11/4) *Đây, Can Tích Dương Khí. - Đầu mắt máy giật: thọ Dương Nhiệt. - Hai bên sườn nhức: cùng thọ Dương Hàn Dương Nhiệt. - Lúc đi thường khờm lưng: thọ Dương Hàn. - Người bệnh thích ngọt: Can truyền Tỳ.
NGUYÊN VĂN (149) Bệnh Can Trúng Hàn, hai cánh tay không đưa lên được, lưỡi ráo, thường thở dài, trong ngực đau không xoay chuyển được, ăn vào thì mửa mà đổ mồ hôi. BẢN NGHĨA (11/5) *Đây, Can Tích Âm Khí. - Hai cánh tay không đưa lên được: là tích Âm Hàn. - Lưỡi ráo thường thở dài: tích Âm Nhiệt. - Trong ngực đau không xoay chuyển được: Can liền Cách. - Ăn vào thì mửa mà đổ mồ hôi: Can truyền Tâm.
NGUYÊN VĂN (150) Mạch chết của Can, nhẹ tay thấy Nhược, ấn vào sợi dây không lại (không đi lại) hoặc uốn khúc như rắn bò là chết. BẢN NGHĨA (11/6) *Đây, Mạch chết của Can. 107
- Nhẹ tay thấy nhược: Âm Nhiệt xuất Ngoại mà Hư. - Như sợi dây không đi lại hoặc uốn khúc như rắn bò là chết: Âm Hàn thực ở Nội.
NGUYÊN VĂN (151) Người bệnh Can trước (có Huyết ứ tại gan) thường muốn được dẫm đạp lên ngực, trước khi mắc bệnh chỉ muốn uống nóng, Triền Phúc Hoa thang làm chủ. TRIỀN PHÚC HOA THANG PHƯƠNG Triền Phúc Hoa 3 lạng
Thông (hành) 14 cọng
Tân giáng chút ít 3 vị trên, dùng nước 3 thăng, nấu lấy 1 thăng, uống hết 1 lần. BẢN NGHĨA (11/7) *Đây, Can tích Khí tại Cách làm mạch. - Can Huyết tý tại trên ngực, cho nên thường muốn được dẫm đạp. - Chỉ muốn uống nóng: Can Huyết kết. Triền Phúc Hoa thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (152) Tâm Trúng Phong thì hâm hấp phát sốt, không đứng dậy được, trong Tâm đói, ăn vào liền ói mửa. BẢN NGHĨA (11/8) *Đây, Tâm Tích Dương Khí. - Phát sốt: Âm Nhiệt. - Không đứng dậy được: Âm Nhiệt không lìa Dương Hàn. - Trong Tâm đói: Dương Nhiệt. - Ăn vào liền mửa: Dương Nhiệt không lìa Âm Hàn.
108
NGUYÊN VĂN (153) Tâm Trúng Hàn, người bệnh khổ sở như trạng ăn phải tỏi, nặng hơn thì Tâm đau thấu đến lưng, lưng đau thấu đến Tâm, giống như có trùng bò, mạch người bệnh Phù, tự mửa được thì lành. BẢN NGHĨA (11/9) *Đây, Tâm tích Âm Khí. - Khó chịu như Trạng ăn phải tỏi : Tâm Kinh tại Cách thọ Âm phần Hàn Nhiệt. - Nặng hơn thì Tâm đau thấu đến lưng, lưng đau thấu đến Tâm: tại Cách đến Tấu. - Mạch người bệnh Phù, tự mửa được thì lành: tại Tấu đến Biểu.
NGUYÊN VĂN (154) Tâm bị thương, người bệnh mệt nhọc thì đầu mặt liền đỏ và nặng trằn phần dưới, trong Tâm đau mà tự bứt rứt, phát sốt, tại rún nhảy động, mạch người bệnh Huyền, đó là do Tâm bị thương làm ra. BẢN NGHĨA (11/10) *Đây, Bào tích Dương phần Hàn Nhiệt. - Đầu mặt đỏ: Dương Nhiệt. - Nặng trằn phần dưới: Dương Hàn. - Trong Tâm đau mà tự bứt rứt: Hàn Nhiệt hiệp bệnh. - Phát sốt: Bào Khí. - Tại rún nhảy động: Bào Kinh. - Mạch Huyền: Bào Lạc.
NGUYÊN VĂN (155) Mạch Tâm Tạng chết, nhẹ tay thấy thực như hạt đậu mè, ấn vào càng thấy táo tật (nhanh gấp) là chết. 109
BẢN NGHĨA (11/11) *Đây, Tâm tử mạch. - Nhẹ tay thấy thực như hạt đậu mè: Âm Hàn nhập Tâm. - Ấn vào càng thấy táo tật là chết: Đánh bạt Âm Nhiệt ra ngoài.
NGUYÊN VĂN (156) Bệnh Tà khốc, Hồn phách không yên là do Huyết Khí kém, Huyết Khí kém là thuộc về Tâm. Tâm Khí hư thì người bệnh hay sợ, hễ nhắm mắt muốn ngủ thì chiêm bao thấy đi xa mà tinh thần ly tán, Hồn Phách chạy bậy. Âm khí suy thì làm điên, Dương Khí suy thì làm cuồng. BẢN NGHĨA (11/12) *Đây, Bào tích Âm phần Hàn Nhiệt. - Bệnh Tà khốc: tại Bào Huyết Khí kém. - Cái thiếu ở Bào do cái thiếu ở Tâm. - Cái hư của Tâm tức cái hư của Bào. - Sợ sệt mà muốn ngủ: Bào thọ Âm Hàn. Âm Hàn đánh bạt Âm Nhiệt tán mạn (tan tràn ra) ở Tâm Can Tỳ Thận làm cho tinh thần hồn phách bất an. - Bào Khí suy tại Cách các Âm Kinh làm điên. - Bào Khí suy tại Cách các Dương Kinh làm cuồng.
NGUYÊN VĂN (157) Tỳ Trúng Phong, hâm hấp phát sốt, hình như người say, trong bụng khó chịu, nặng nề, da mắt giật giật mà hơi thở ngắn. BẢN NGHĨA (11/13) *Đây,Tỳ tích Âm Dương Khí. - Phát sốt như trạng người say : Âm Dương cùng tích. 110
- Trong bụng khó chịu, nặng nề : Tích Âm Khí. - Da mắt giật giật, hơi thở ngắn : Tích Dương Khí. *Không nói Trúng Hàn vì Tỳ là Âm Hàn Kinh.
NGUYÊN VĂN (158) Mạch chết của Tạng Tỳ, nhẹ tay thấy Đại kiên, ấn xuống thấy như chén úp trống rỗng, trạng như lay động là chết. BẢN NGHĨA (11/14) *Đây, mạch chết của Tỳ. - Nhẹ tay thấy Đại kiên (to cứng) : Âm Dương của Tỳ tự ra ngoài. - Ấn xuống thấy như chén úp trống rổng, trạng như lay động : Âm Dương muốn thoát.
NGUYÊN VĂN (159) Mạch Phu Dương Phù mà Sáp, Phù thì Vỵ Khí cường, Sáp thì tiểu tiện khó, Phù Sáp tương bác thì đại tiện rắn, Tỳ bị ước (bó buộc), Ma Nhân hoàn làm chủ. MA NHÂN HOÀN PHƯƠNG Ma Nhân 2 thăng Chỉ Thực ½ cân
Bạch Thược ½ cân
Đại Hoàng bỏ vỏ ngoài 1 cân
Hậu Phác 1 xích
Hạnh Nhân 1 thăng bỏ vỏ nghiền thành mỡ.
6 vị trên tán nhuyễn hoàn mật to bằng hạt ngô đồng, uống với nước chín 10 hoàn, ngày 3 lần, lấy hiệu nghiệm làm độ. BẢN NGHĨA (11/15) *Đây, Tỳ tích Khí làm mạch tại Cách Hạ Đái Thượng. - Mạch Phù là Âm Nhiệt cường. - Mạch Sáp là Âm Hàn kết.
111
- Đại tiện rắn, Tỳ bị ước: Tỳ Kinh thọ Âm phần Hàn Nhiệt kết tại Cách Hạ Đái Thượng. Ma Nhân hoàn làm chủ.
NGUYÊN VĂN (160) Bệnh Thận ‘Trước’, người bệnh thân thể nặng nề, trong eo lưng lạnh như trạng ngồi trong nước, trái lại không khát, tiểu tiện tự lợi, ăn uống như thường, bệnh thuộc Hạ tiêu, thân thể mệt nhọc, đổ mồ hôi. Ăn mặc để bị thấp lạnh lâu ngày dễ bị mắc phải, từ eo lưng trở xuống lạnh đau, vùng bụng nặng nề như đeo mang năm ngàn đồng tiền, Cam Thảo Càn Cương Phục Linh Bạch Truật thang làm chủ. CAM THẢO CÀN CƯƠNG PHỤC LINH BẠCH TRUẬT THANG PHƯƠNG Cam Thảo , Bạch Truật mỗi vị 2 lạng Càn Cương, Phục Linh mỗi vị 4 lạng 4 vị trên, nước 5 thăng nấu lấy 3 thăng, chia uống ấm 3 lần, trong eo lưng liền ấm. BẢN NGHĨA (11/16) *Đây, Thận tích Khí làm mạch tại Đái Hạ. - Thân thể nặng nề: tích Khí tại Thận. - Eo lưng lạnh như ngồi trong nước: tích tại Thận Lạc. - Trái lại không khát, tiểu tiện tự lợi: tích tại Thận Kinh. - Ăn uống như thường, bệnh thuộc Hạ tiêu: Thận tại Đái Hạ. - Thân thể mệt nhọc, đổ mồ hôi: Thận liên quan tới Tâm. - Vùng bụng nặng nề như đeo mang 5000 đồng tiền: chỗ của Thận ‘trước’. - Cam Thảo Càn Cương Phục Linh Bạch Truật thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (161) Mạch chết của Tạng Thận, nhẹ tay thấy kiên (cứng), ấn xuống thấy như viên đạn loạn chuyển, càng đi xuống bộ Xích là chết. 112
BẢN NGHĨA (11/17) *Đây, mạch chết của Thận. - Phàm Tạng bệnh mà mạch Phù đều chết. - Mạch thấy cứng đồng với mạch chết của Tỳ, khác với mạch chết của Can xem thấy Nhược. Có thể căn cứ vào Bản Khí của Tạng mà xem xét. - Ấn xuống thấy như viên đạn loạn chuyển: cùng với ấn xuống thấy trống rổng trạng như lay động, lại có thể dựa vào phép tỷ giảo mà xem xét. - Đi xuống bộ Xích là chết: cùng với mạch Phế đi xuống ‘vô căn’ là chết. Biết chỗ khác lại biết chỗ đồng đều là tập sự khi học mạch.
NGUYÊN VĂN (162) Hỏi rằng : về bộ Tam Tiêu kiệt, Thượng Tiêu kiệt thì hay ợ hơi là tại sao ? Thầy đáp : Thượng Tiêu thọ Khí của Trung Tiêu chưa hòa, không thể tiêu hóa thức ăn, cho nên thường hay ở hơi đó thôi. Hạ Tiêu kiệt, đái dầm, són đái, Khí của nó bất hòa không thể tự kiềm chế, không cần trị, lâu ngày thì khỏi. BẢN NGHĨA (11/18) *Đây,Túc Dương tụ Khí tại Vỵ Trung quản mà phân ra hành Thượng Hạ làm mạch. - Đởm ở Thượng Tiêu thọ Trung Tiêu Vỵ Khí, Khí này kiệt thì không tiêu hóa thức ăn mà hay ợ hơi. - Bàng Quang tại Hạ Tiêu thọ Trung Tiêu Vỵ Khí, Khí này kiệt thì đái dầm và són đái. - Phàm các Túc Dương Khí không hòa, không cần trị, chỉ đắc Trung Quản Vỵ khí hòa thì lành.
NGUYÊN VĂN (163) Thầy nói : Thượng Tiêu Nhiệt thì nhân ho làm bệnh Phế Nuy, Nhiệt tại Trung Tiêu làm chứng ‘Kiên’, Nhiệt tại Hạ Tiêu làm chứng đái ra máu, cũng làm chứng đái khó, đái không thông.Đại Trường có Hàn thì làm chứng ỉa lỏng, phân như cứt vịt, có Nhiệt thì đại tiện ra chất bẩn của ruột. Tiểu Trường có Hàn thì người bệnh mót rặn, đại tiện ra máu, có Nhiệt thì ắt bị bệnh Trĩ. 113
BẢN NGHĨA (11/19) *Đây, các Thủ Âm từ Thượng mà xuống Hạ, các Thủ Dương từ Hạ mà lên Thượng đều do Tam Tiêu phân bố làm mạch. - Phế Nuy ở Thượng cùng với Trung Tiêu làm chứng ‘Kiên’ của Tâm bệnh; Hạ Tiêu, đái ra máu, đái khó, đái không thông của Bào Kinh, đó là Thủ Âm Kinh đều thọ Âm Nhiệt tại Hạ đi lên Thượng làm mạch. - Đại Trường có Hàn làm ỉa chảy, phân như cứt vịt, có Nhiệt đại tiện ra chất bẩn của ruột, cùng với Tiểu Trường có Hàn thì mót rặn, đại tiện ra máu, có Nhiệt thì ắt bị Trỉ; đó là các Thủ Dương Kinh đều thọ Dương Hàn tại Thượng mà đi xuống Hạ làm mạch.
NGUYÊN VĂN (164) Hỏi rằng : Bệnh có Tích, có Tụ, có Nhẩm Khí là tại sao ? Thầy đáp : Tích là Tạng bệnh, Tụ là Phủ bệnh, phát tác có lúc, xoay chuyển, có dời đổi chỗ đau, là có thể trị. Nhẩm Khí là dưới sườn đau, ấn vào thì hết, rồi lại phát ra là Nhẩm Khí. BẢN NGHĨA (11/20) *Đây, Phủ Tạng thọ Khí ẩm thực trong Vỵ để làm mạch. - Khí của Phủ Tạng phát tác hữu thời, thuận nghịch lưu chuyển đều có thường độ, phép nó xem rõ ở Nội Nạn. - Nhẩm Khí là Khí của thức ăn uống trong Vỵ từ dưới sườn phân bố khắp bộ phận bên ngoài, rồi lại từ dưới sườn phân bố khắp bộ phận bên trong, ấn vào thì hết, rồi lại phát ra là Nhẩm Khí, đó là nghĩa của nó.
NGUYÊN VĂN (165) Phép lớn xem các bệnh Tích, mạch đến Tế mà sát xương ấy là Tích. Thốn khẩu là tích tại Hung Trung (giữa ngực), hơi ra khỏi thốn khẩu là tích tại Hầu trung (trong hầu), bộ Quan là tích tại Tề bàng (bên rún), lên trên bộ Quan là tích tại Tâm Hạ (dưới Tâm), hơi xuống tại bộ Quan là tích tại Thiếu phúc (bụng dưới), bộ Xích là tích tại Khí xung. 114
Mạch ra bên tả là tích tại tả, mạch ra bên hữu là tích tại hữu, mạch ra cả hai bên là tích tại trung ương, mỗi mỗi đều theo bộ vị của nó mà xác định. BẢN NGHĨA (11/21) *Đây, Phủ Tạng Tích Khí làm mạch, mỗi mỗi đều tùy theo Bộ vị. - Tích là Tích khí ở Nội để làm mạch ở Ngoại, như:
Can ‘trước’ là Tích Khí tại Cách làm mạch.
Thận ‘trước’ là Tích Khí tại Đái làm mạch.
Tỳ ‘ước’ là Tích Khí tại Cách Hạ Đái Thượng làm mạch.
Thử xem bộ Quan với trên bộ Quan cùng dưới bộ Quan, đều là chỗ của Can Tỳ Thận, Đởm Vỵ Bàng Quang tùy theo đó. Đến như: Tâm, Bào Phế, Vỵ tại Thượng mà Kinh hành ở Hạ; Tam Tiêu, Đại Tiểu Trường, Vỵ tại Hạ mà Kinh hành ở Thượng tức là Thốn khẩu; hơi ra Thốn khẩu cùng là bộ Xích đều có thể án tay mà thấy được. Xem ở tiết Thượng Tiêu kiệt cùng với tiết Nhiệt tại Thượng Tiêu có thể biết. Tóm lại Nam Dương mạch pháp biến thông, linh hoạt, có thể khéo quan sát mà nắm bắt được.
(Trên đây, chương thứ 11, 21 tiết, luận Ngũ Tạng – Phong Hàn – Tích Tụ) 115
TẠP BỆNH LUẬN QUYỂN V _______________________________ CHƯƠNG 12 :
ĐÀM ẨM - KHÁI THẤU
(30 Tiết, từ 166 đến 195) LUẬN VỴ 1- Vỵ Kinh hành Thủy. 2- Vỵ Kinh hành Thủy ở tứ bộ. 3- Vỵ Thủy tại Lý. 4- Vỵ Thủy tại Biểu. 5- Vỵ Thủy tại Tấu. 6- Vỵ Thủy tại Cách. 7- Tại Lý Âm Dương Kinh Thủy nhập Vỵ. 8- Tại Lý Vỵ Thủy nhập Âm Dương Kinh. 9- Tại Tấu Âm Kinh Thủy nhập Vỵ. 10- Tại Tấu Vỵ Thủy nhập Âm Dương Kinh. 11- Tại Tấu Dương Kinh Thủy nhập Vỵ. 12- Tại Biểu biện Vỵ ẩm. 13- Tại Cách biện Vỵ ẩm. 14- Đàm Ẩm nhập Thận. 15- Đàm Ẩm nhập Tỳ. 16- Đàm Ẩm nhập Phế. 17- Đàm Ẩm nhập Can. 18- Đàm Ẩm nhập Đại Tiểu Trường. 116
19- Đàm Ẩm nhập Bào Tiêu. 20- Đàm Ẩm nhập Bàng Quang. 21- Đàm Ẩm tại bản Kinh (Vỵ). 22- Đàm Ẩm nhập Đởm. 23- Đàm Ẩm nhập Tâm. 24- Đàm Ẩm nhập Đốc Kinh. 25- Đàm Ẩm nhập Xung Kinh. 26- Đàm Ẩm nhập Nhâm Kinh. 27- Đàm Ẩm nhập Xung Lạc. 28- Đàm Ẩm nhập Nhâm Lạc. 29- Đàm Ẩm nhập Đốc Lạc. 30- Đàm Ẩm nguyên do.
NGUYÊN VĂN (166) Hỏi rằng: Ẩm có 4 thứ, gọi là gì ? Thầy đáp: Có Đàm Ẩm, có Huyền Ẩm, có Dật Ẩm, có Chi Ẩm. BẢN NGHĨA (12/1) *Đây, Vỵ là Kinh hành Thủy. - Kinh này không hành thì làm bệnh Đàm Ẩm.
NGUYÊN VĂN (167) Hỏi rằng : Bốn chứng Ẩm, khác nhau thế nào ? Thầy đáp : Người bệnh vốn mập mạp nay gầy, có tiếng nước chảy rốc rách trong khoảng ruột, gọi là Đàm Ẩm. 117
. Sau khi uống nước đọng lại dưới sườn, ho khạc dẫn đau gọi là Huyền Ẩm. . Nước chảy gom về tứ chi, đáng lẽ ra mồ hôi mà không ra được, thân thể nhức nặng gọi là Dật Ẩm. . Ho nghịch phải ngồi dựa để thở, không nằm được hình dạng như thũng, gọi là Chi Ẩm. BẢN NGHĨA (12/2) *Đây, Vỵ Ẩm tại Cơ- Cách- Bì- Tấu gọi là tứ Ẩm. - Vốn mập mạp nay gầy ốm: Vỵ Thủy hóa Khí ở Cơ cùng với không hóa Khí ở Cơ. - Nước chảy trong khoảng ruột có tiếng rốc rách: không hóa Khí ở Cơ, trái lại nhập vào Lý làm Đàm Ẩm. - Nước đọng lại dưới sườn, ho khạc dẫn đau làm Huyền Ẩm: gọi là Thủy tại Cách. - Nước chảy đến tứ chi không ra mồ hôi, thân thể nặng nề là Dật Ẩm: gọi là Thủy tại Bì. - Ho nghịch phải ngồi dựa để thở, không nằm được: tại Tấu Âm Nhiệt thọ Dương Hàn. - Hình dạng như thũng: Hàn đánh bạt Nhiệt ra ngoài làm Chi Ẩm, gọi là Thủy tại Tấu.
NGUYÊN VĂN (168) Thủy tại Tâm, dưới Tâm cứng, óc ách, hơi ngắn, sợ nước không muốn uống. Thủy tại Phế, mửa nước bọt, nước dãi, muốn uống nước. Thủy tại Tỳ, thiếu hơi, mình nặng. Thủy tại Can, dưới sườn đầy một bên, hắt hơi thì đau. Thủy tại Thận, dưới Tâm hồi hộp. BẢN NGHĨA (12/3) *Đây, Vỵ Ẩm tại Lý. . Uống nước vào Vỵ không hóa Khí được, đọng lại làm Đàm Ẩm.
118
- Thủy tại Tâm hạ là tại Vỵ. Thủy ngưng đọng tại Vỵ Kinh thì kiên (cứng). Thủy hành Vỵ Kinh thì trúc (óc ách). Thủy làm trở ngại hô hấp thì đoản khí (thở ngắn); trong Vỵ ứ đọng Thủy cho nên sợ nước không muốn uống. - Thủy tại Phế Kinh thì mửa ra nước dãi, nước bọt, mửa ra hết thì muốn uống nước. - Thủy tại Tỳ Kinh hiệp Thấp, cho nên thiếu hơi, mình nặng. - Thủy tại Can Kinh hiệp Phong, cho nên dưới sườn đầy một bên, hắt hơi thì đau. - Vỵ Thủy nhập Thận Kinh, cho nên dưới Tâm hồi hộp.
NGUYÊN VĂN (169) Dưới Tâm có lưu Ẩm, lưng người bệnh có vùng lạnh bằng bàn tay. Người có lưu Ẩm đau dẫn đến Khuyết bồn (hỏm vai), ho khạc được thì hết. Trong ngực có lưu Ẩm, người bệnh thở ngắn hơi mà khát, các khớp tay chân nhức, mạch Trầm là có lưu Ẩm. BẢN NGHĨA (12/4) *Đây, Vỵ ẩm tại Biểu. - Lưng có vùng lạnh bằng bàn tay: tại Biểu Dương Hàn Kinh thọ Vỵ Ẩm. - Dưới sườn đau dẫn đến hỏm vai, ho khạc được thì hết: tại Biểu Dương Nhiệt Kinh thọ Vỵ Ẩm. - Thở ngắn hơi mà khát: tại Biểu Âm Nhiệt Kinh thọ Vỵ Ẩm. - Tay chân nhức, mạch Trầm: tại Biểu Âm Hàn Kinh thọ Vỵ Ẩm.
NGUYÊN VĂN (170) Bệnh tại Cách Thượng, đầy nhiều đờm, ho mửa, phát bệnh nóng lạnh, lưng đau, eo lưng nhức, nước mắt tự ra, người bệnh run run, mình máy giật, nặng hơn nữa thì có Phục Ẩm. BẢN NGHĨA (12/5) *Đây, Vỵ ẩm tại Tấu. - Đầy nhiều đờm, ho mửa, phát bệnh nóng lạnh, lưng đau, eo nhức : tại Tấu các Dương Kinh thọ Vỵ Ẩm. 119
- Nước mắt tự ra, run run,mình máy giật : tại Tấu các Âm Kinh thọ Vỵ Ẩm. - Nặng hơn nữa thì có Phục Ẩm : Tấu thọ Vỵ Ẩm, gốc của Vỵ Ẩm phục (núp) tại Cách.
NGUYÊN VĂN (171) Người bệnh uống nước nhiều, ắt bạo phát suyễn đầy. Phàm ăn ít, uống nhiều, nước đọng lại dưới Tâm, nặng thì làm hồi hộp, nhẹ thì làm hơi thở ngắn. Mạch song Huyền (2 bên tay) là Hàn, đều do xổ mạnh làm Lý hư. Mạch thiên Huyền (1 bên tay) là bệnh Ẩm. Bệnh Phế Ẩm mạch không Huyền, chỉ khổ sở vì thở suyễn ngắn hơi. Bệnh Chi Ẩm cũng suyễn mà không nằm được, thêm thở ngắn hơi, mạch người ấy Bình. BẢN NGHĨA (12/6) *Đây, Vỵ Ẩm tại Cách. - Uống nước nhiều, ắt bạo phát suyễn đầy: Vỵ Ẩm tại Cách Thượng. - Ăn ít uống nhiều, nước đọng lại dưới Tâm: Vỵ Ẩm tại Cách Hạ. - Nặng thì làm hồi hộp: Ẩm nhập Tâm Thận. - Nhẹ thì làm thở ngắn: chỉ tại Cách. - Mạch song Huyền là Vỵ có Ẩm, Cách cũng có Ẩm. Đó là vì sau khi xổ mạnh Vỵ và Cách đều hư. - Mạch thiên Huyền là chỉ có Vỵ Ẩm. - Phế thọ Vỵ Ẩm mạch không Huyền, chỉ khổ sở vì thở suyễn ngắn hơi. - Tấu thọ Vỵ Ẩm cũng thở suyễn mà không nằm được. Nếu như thêm thở ngắn là Cách mạch Huyền cùng với Tấu mạch Huyền tương Bình. *Nói Cách cùng với Tấu, Bộ vị rất gần, mạch chứng liền nhau, phép trị hơi giống nhau.
.
120
NGUYÊN VĂN (172) Bệnh Đờm Ẩm nên dùng thuốc Ôn Dược để hòa dưới Tâm có Đờm Ẩm, ngực sườn đầy một bên, mắt xây xẩm, Quế Chi Phục Linh Cam Thảo Bạch Truật thang làm chủ. QUẾ CHI PHỤC LINH CAM THẢO BẠCH TRUẬT THANG PHƯƠNG Quế Chi, Phục Linh, Bạch Truật mỗi vị 3 lạng
Cam Thảo 2 lạng
4 vị trên, nước 6 thăng nấu lấy 3 thăng, chia uống ấm 3 lần, thì tiểu tiện được lợi. BẢN NGHĨA (12/7) *Đây, tại Lý các Kinh Thủy nhập Vỵ. - Bệnh Đàm Ẩm nên dùng ôn dược để hòa : Trị các Âm Kinh Thủy nhập Vỵ. - Bệnh Đàm Ẩm ngực sườn đầy một bên, mắt xây xẩm: Trị các Dương Kinh Thủy nhập Vỵ. - Quế Linh Cam Truật thang làm chủ: Lợi Thủy tại Thượng Tiêu, có thể thông dụng.
NGUYÊN VĂN (173) Phàm thở ngắn hơi là có chút ít Ẩm, phải trừ khử nó theo đường tiểu tiện, Quế Linh Cam Truật thang làm chủ. Thận Khí hoàn cũng làm chủ (Phương xem ở chương Phụ Nhơn Tạp Bệnh). BẢN NGHĨA (12/8) *Đây, tại Lý Vỵ Ẩm nhập các Kinh. - Thở ngắn hơi là có chút ít Ẩm, phải trừ khử nó theo đường tiểu tiện : Phép trị Vỵ Ẩm thông dụng. - Quế Linh Cam Truật thang : trị Vỵ Ẩm nhập các Dương Kinh. - Thận Khí hoàn cũng làm chủ : trị Vỵ Ẩm nhập các Âm Kinh.
NGUYÊN VĂN (174) Người bệnh mạch Phục, muốn tự lợi, lợi rồi trái lại dễ chịu, tuy lợi vẫn tiếp tục đầy cứng, đó bởi vì có lưu Ẩm muốn được trừ đi, Cam Toại Bán Hạ thang làm chủ. 121
CAM TOẠI BÁN HẠ THANG PHƯƠNG Cam Toại thứ lớn 3 củ
Bạch Thược 5 củ
2 vị trên, nước 1 thăng nấu còn ½ thăng, bỏ bả. Bán Hạ 12 củ , Cam Thảo bằng ngón tay, chích (2 vị nước 1 thăng nấu còn ½ thăng, bỏ bả). Dùng ½ thăng mật hòa với nước trấp của thuốc, cô lại còn 8 cáp, uống hết một lần. BẢN NGHĨA (12/9) *Đây, Tại Tấu các Âm Kinh Thủy do Cách nhập Vỵ. - Vỵ thọ Thủy của các Âm Kinh do Tấu nhập Cách; cho nên mạch không thể từ Tấu ra Cách mà Phục. - Muốn tự lợi, lợi rồi trái lại dễ chịu: Ẩm tại các Thủ Âm được trừ. - Tuy lợi vẫn tiếp tục đầy cứng: Ẩm tại các Túc Âm chưa được trừ. - Cam Toại Bán Hạ thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (175) Mạch Phù mà Tế Hoạt là Thương Ẩm. Mạch Huyền Sác là có Hàn Ẩm. Mùa Đông mùa Hạ khó trị. BẢN NGHĨA (12/10) *Đây, tại Tấu Vỵ Ẩm do Cách nhập các Kinh. - Mạch Phù là tại Tấu.
Dương Hàn Kinh thọ Vỵ Ẩm cho nên mạch Tế.
Dương Nhiệt Kinh thọ Vỵ Ẩm cho nên mạch Hoạt. Đó là Dương Kinh Thương Ẩm.
Âm Hàn Kinh thọ Vỵ Ẩm cho nên Huyền.
Âm Nhiệt Kinh thọ Vỵ Ẩm cho nên Sác. 122
Đó là Âm Kinh có Hàn Ẩm. - Mùa Đông Âm Kinh thọ Ẩm thì khó trị. - Mùa Hạ Dương Kinh thọ Ẩm thì khó trị.
NGUYÊN VĂN (176) Mạch Trầm mà Huyền là Huyền Ẩm, đau bên trong. Bệnh Huyền Ẩm, Thập Táo thang làm chủ. THẬP TÁO THANG PHƯƠNG Nguyên Hoa (rang), Cam Toại, Đại Kích các vị đồng phân lượng 3 vị trên, đâm nhỏ rây mịn, nước 1 thăng 5 cáp, trước nấu 10 trái Táo lớn lấy 8 cáp, bỏ bả, rồi cho thuốc bột vào uống. Người khỏe uống 4 tiền chủy (thìa đồng tiền). Người gầy uống ½ tiền. Sáng sớm uống ấm, không Hạ thì sáng hôm sau lại uống gia thêm nửa tiền, cho được lợi dễ dàng, dùng cháo nhừ để tự dưỡng. BẢN NGHĨA (12/11) *Đây, Tại Tấu các Dương Kinh Thủy do Cách nhập Vỵ. - Mạch Trầm: Dương Khí phục (ẩn núp), mà Huyền : Thủy Ẩm thực. - Huyền Ẩm, đau bên trong: Ý nói các Dương Kinh do Tấu Huyền hệ (treo buộc) ở Cách, là chỗ Đàm Ẩm đọng lại. Bệnh ở chỗ này dùng Thập Táo thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (177) Bệnh Dật Ẩm, phải cho Phát Hạn, Đại Thanh Long thang làm chủ, Tiểu Thanh Long thang cũng làm chủ. ĐẠI THANH LONG THANG PHƯƠNG Ma Hoàng 6 lạng
Hạnh Nhơn 40 hạt
Quế Chi, Cam Thảo mỗi vị 2 lạng ;
Đại táo 12 trái
Sinh Khương 3 lạng
Thạch Cao to bằng trứng gà lớn.
7 vị trên, nước 9 thăng, trước nấu Ma Hoàng giảm 2 thăng, vớt bỏ bọt, cho các thuốc vào nấu lấy 3 thăng, bỏ bả, uống ấm 1 thăng cho ra mồ hôi rịn rịn, mồ hôi nhiều thì dùng ôn phấn để xoa. 123
TIỂU THANH LONG THANG PHƯƠNG Ma Hoàng khứ tiết (bỏ mắt), Thược Dược, Càn Cương, Cam Thảo chích, Tế Tân, Quế Chi mỗi vị 3 lạng Ngũ Vị Tử ½ thăng
Bán Hạ ½ thăng
8 vị trên, nước 1 đấu, trước nấu Ma Hoàng giảm 2 thăng, vớt bỏ bọt, cho các thuốc vào nấu lấy 3 thăng, bỏ bả, uống ấm 1 thăng. BẢN NGHĨA (12/12) *Đây, tại Biểu các Kinh với Vỵ Ẩm hổ tương nhập vào nhau. - Dật Ẩm là Vỵ Ẩm nhập từ ngoài. - Tại Biểu nên Phát hạn.
Phát hạn của Nhiệt Kinh nên dùng Đại Thanh Long thang.
Phát hạn của Hàn Kinh nên dùng Tiểu Thanh Long thang.
NGUYÊN VĂN (178) Chi Ẩm ở khoảng Cách, người bệnh suyễn đầy, dưới Tâm Bỉ cứng, sắc mặt đen tối, mạch Trầm Khẩn, mắc phải vài mươi ngày, thầy thuốc đã cho Thổ Hạ vẫn không lành. Cho uống Mộc Phòng Kỷ thang, người hư khỏi liền. Người thực, ba ngày sau lại phát, lại cho uống thuốc như trước không khỏi, nên dùng bản phương, khứ Thạch Cao gia Phục Linh Mang Tiêu thang làm chủ. MỘC PHÒNG KỶ THANG PHƯƠNG Mộc Phòng Kỷ, Quế Chi mỗi vị 3 lạng, Nhân Sâm 4 lạng, Thạch Cao (bằng trứng gà lớn) 2 miếng. 4 vị trên, nước 6 thăng nấu lấy 2 thăng, chia uống ấm 2 lần. MỘC PHÒNG KỶ KHỨ THẠCH CAO GIA PHỤC LINH MANG TIÊU THANG PHƯƠNG Mộc Phòng Kỷ, Quế Chi mỗi vị 3 lạng, Nhân Sâm 4 lạng, Phục Linh 4 lạng, Mang Tiêu 3 cáp. 5 vị trên, nước 6 thăng, nấu lấy 2 thăng, bỏ bả, cho Mang Tiêu vào lại nấu lửa nhỏ cho tan, phân uống ấm 2 lần, hơi đi cầu được thì khỏi. 124
BẢN NGHĨA (12/13) *Đây, tại Cách Vỵ Ẩm cùng với các Kinh hổ tương nhập vào nhau. - Chi Ẩm ở khoảng Cách: Cách với Tấu gần sát nhau. - Người bệnh suyễn đầy: Các Khí tại Cách thọ Vỵ Ẩm. - Dưới Tâm Bỉ: Các Kinh tại Cách thọ Vỵ Ẩm. - Sắc mặt đen tối: Các Lạc tại Cách thọ Vỵ Ẩm. - Mạch Trầm Khẩn: Mạch của Ẩm tại Cách. - Mắc phải vài mươi ngày: Nói nhật kỳ của các Kinh hành tại Cách Thượng Hạ. - Cho Thổ Hạ vẫn không lành: Bởi vì Vỵ Ẩm nhập các Kinh. - Cho uống Mộc Phòng Kỷ thang, người Hư liền khỏi: Trị Vỵ Ẩm nhập các Kinh. - Người thực không lành: Bởi vì các Kinh nhập làm Vỵ Ẩm.
Ba ngày là chỉ nói ngày các Kinh nhập Vỵ.
Bản phương khứ Thạch Cao gia Phục Linh Mang Tiêu thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (179) Dưới Tâm có Chi Ẩm, người bệnh khổ vì xây xẩm, nặng đầu, tối mắt, Trạch Tả thang làm chủ. TRẠCH TẢ THANG PHƯƠNG Trạch Tả 5 lạng
Bạch Truật 2 lạng
2 vị trên, nước 2 thăng, nấu lấy 1 thăng, bỏ bả, chia uống ấm 2 lần. BẢN NGHĨA (12/14) *Đây, Vỵ Ẩm nhập Thận. - Thủy tại Thận thì khổ vì xây xẩm, nặng đầu, tối mắt. - Chi Ẩm: Nói tại Tấu (sau này phỏng theo đó). - Trạch Tả thang làm chủ. 125
NGUYÊN VĂN (180) Chi Ẩm ngực đầy, Hậu Phác Đại Hoàng thang làm chủ. HẬU PHÁC ĐẠI HOÀNG THANG PHƯƠNG Hậu Phác 1 xích
Đại Hoàng 6 lạng
Chỉ Thực 5 trái
3 vị trên, nước 5 thăng nấu lấy 2 thăng, bỏ bả, chia uống ấm 2 lần. BẢN NGHĨA (12/15) *Đây, Vỵ Ẩm nhập Tỳ. - Có thể thấy đạo lộ của 12 Kinh du nhập với nhau đều tại Tấu.
NGUYÊN VĂN (181) Chi Ẩm không thở được, Đình Lịch Đại Táo thang làm chủ (phương xem ở Phế Ung). BẢN NGHĨA (12/16) *Đây, Vỵ Ẩm nhập Phế.
NGUYÊN VĂN (182) Ẩu gia (người thường ói) vốn khát, khát là muốn giải, nay trái lại không khát, là vì dưới Tâm có Chi Ẩm, Tiểu Bán Hạ thang làm chủ. TIỂU BÁN HẠ THANG PHƯƠNG Bán Hạ ½ thăng
Sinh Khương ½ cân
2 vị trên, nước 7 thăng nấu lấy 1 thăng rưỡi, chia uống ấm 2 lần. BẢN NGHĨA (12/17) *Đây, Vỵ Ẩm nhập Can. - Ẩu gia: thuộc Can, vốn có chứng Tiêu khát. - Khát là muốn giải: Thủy tại Can giải. 126
- Nay trái lại không khát: Đây là Vỵ Ẩm nhập Can. - Tiểu Bán Hạ thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (183) Bụng đầy, miệng khô, lưỡi ráo, đó là vì trong ruột có Thủy Khí, Đình Lịch Phòng Kỷ Xuyên Tiêu Đại Hoàng hoàn làm chủ, xảo tăng (hơi tăng thêm), trong miệng có tân dịch, khát thì gia Mang Tiêu nửa lạng. ĐÌNH LỊCH PHÒNG KỶ XUYÊN TIÊU ĐẠI HOÀNG HOÀN PHƯƠNG Đình Lịch, Phòng Kỷ, Xuyên Tiêu, Đại Hoàng mỗi vị 1 lạng 4 vị trên, tán nhuyễn luyện mật làm hoàn, to bằng hạt ngô đồng, trước khi ăn uống 1 hoàn, ngày 3 lần. BẢN NGHĨA (12/18) *Đây, Vỵ ẩm nhập Đại Tiểu Trường. - Bụng đầy, miệng khô, lưỡi ráo: Đó là trong Đại Tiểu Trường có Vỵ Ẩm, Lịch Kỷ Tiêu Hoàng hoàn làm chủ. - Xảo tăng: chứng trước do Khí không hóa. Chứng này là Thủy không hóa, cho nên trong miệng có tân dịch mà vẫn khát, gia Mang Tiêu để trừ Thủy Ẩm.
NGUYÊN VĂN (184) Thình lình ói mửa, dưới Tâm Bỉ, trong Cách có Thủy Khí, xây xẩm, hồi hộp, Tiểu Bán Hạ gia Phục Linh thang làm chủ. TIỂU BÁN HẠ GIA PHỤC LINH THANG PHƯƠNG Bán Hạ 1 thăng
Sinh Khương ½ cân
3 vị trên, nước 7 thăng nấu lấy 1 thăng 5 cáp, chia uống ấm 2 lần. BẢN NGHĨA (12/19) *Đây,Vỵ Ẩm nhập Tiêu Bào Kinh. 127
Phục Linh 4 lạng
- Thình lình ói mửa: Tiêu Bào Kinh tại Cách Thượng thọ Vỵ Ẩm. - Dưới Tâm Bỉ: Tiêu Bào Kinh tại Cách Hạ thọ Vỵ Ẩm. - Đó là trong Cách có Thủy Khí, nhập Bào thì xây xẩm, nhập Tiêu thì hồi hộp, Tiểu Bán Hạ gia Phục Linh thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (185) Giả như người gầy, dưới rún hồi hộp, mửa bọt dãi mà chóng mặt, đó là bệnh Thủy, Ngũ Linh tán làm chủ. NGŨ LINH TÁN PHƯƠNG Trạch Tả 1 lạng 6 thù,
Quế Chi ½ lạng,
Trư Linh, Phục Linh, Bạch Truật mỗi vị 18 thù.
5 vị trên, tán nhuyễn, uống 1 thìa phương thốn với nước chín, ngày 3 lần. Uống nhiều nước ấm ra được mồ hôi thì khỏe. BẢN NGHĨA (12/20) *Đây, Vỵ Ẩm nhập Bàng Quang. - Người gầy : Thủy không hóa Khí ở Ngoại. - Dưới rún hồi hộp : Bàng Quang tại Nội thọ Vỵ Ẩm. - Mửa bọt dãi mà chóng mặt : Bàng Quang tại Hạ mà Kinh hành ở Thượng. Ngũ Linh tán làm chủ.
NGUYÊN VĂN (186) Khái gia (người thường bệnh ho), mạch Huyền là có Thủy, Thập Táo thang làm chủ. BẢN NGHĨA (12/21) *Đây, Vỵ Kinh tại Cách có Đờm Ẩm. - Khái gia : Nói Đờm Ẩm gốc tại Vỵ mà làm ra Ẩm. - Mạch Huyền: Kinh thuộc Vỵ Táo mà thọ Hàn Ẩm. 128
- Thập Táo thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (187) Có người bệnh Chi Ẩm, ho phiền, đau trong ngực, không chết ngay, kéo dài một tháng hoặc nửa năm, nên dùng Thập Táo thang. BẢN NGHĨA (12/22) *Đây, Vỵ Ẩm nhập Đởm. - Có người bệnh Chi Ẩm, ho phiền, đau trong ngực: nói Vỵ Ẩm tại trong khoảng Tấu Cách, qua lại nhau cho nên ho phiền; lôi kéo nhau cho nên đau trong ngực. - Vỵ là Kinh đa Khí đa Huyết cho nên không chết ngay. - Kéo dài một tháng hoặc nửa năm: khác với chứng ho thuộc Phế, nên dùng Thập Táo thang.
NGUYÊN VĂN (188) Ho lâu vài năm, mạch Nhược là có thể trị, mạch Thực Đại Sác thì chết. Mạch Hư thì khổ vì mạo (nặng đầu, tối mắt), bởi vì người bệnh vốn có Chi Ẩm ở trong ngực, phép trị thuộc Ẩm gia. BẢN NGHĨA (12/23) *Đây, Vỵ Ẩm nhập Tâm. - Ho lâu vài năm, mạch Nhược có thể trị: chứng hư của Vỵ Ẩm tại Cách. - Mạch Thực Đại Sác thì chết: chứng thực của Vỵ Ẩm tại Cách. - Mạch Hư thì khổ vì mạo: Vỵ Ẩm hư cho nên không nhập Tâm, chỉ tại Cách làm ra khổ vì mạo. - Tại Cách là do Tấu mà đến, cho nên nói vốn có Chi Ẩm, phép trị nên thuộc Vỵ Ẩm gia tại Tấu.
NGUYÊN VĂN (189) Ho nghịch, phải dựa để thở, không nằm được, Tiểu Thanh Long thang làm chủ. 129
BẢN NGHĨA (12/24) * Đây,Vỵ Ẩm nhập Đốc Kinh. - Ho nghịch: Đốc Kinh tại lưng thọ Vỵ Ẩm tại ngực làm ra khái nghịch. - Phải dựa để thở, không nằm được: Bởi cớ Đốc Kinh tại lưng có Ẩm, Tiểu Thanh Long thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (190) Uống thang Tiểu Thanh Long rồi, người bệnh nhổ nhiều, miệng ráo, mạch Thốn Trầm, mạch Xích Vi, tay chân nghịch lãnh, khí theo bụng dưới xung lên ngực và yết (họng nuốt), tay chân tê, mặt nóng hâm hấp như trạng nười say, nhân đó chảy xuống mé trong đùi, tiểu tiện khó, có lúc lại Mạo, Quế Chi Phục Linh Cam Thảo Ngũ Vị Tử thang làm chủ. QUẾ CHI PHỤC LINH CAM THẢO NGŨ VỊ TỬ THANG PHƯƠNG Quế Chi, Phục Linh mỗi vị 4 lạng,
Cam Thảo 3 lạng,
Ngũ Vị Tử ½ thăng
4 vị trên, nước 8 thăng, chia uống ấm 3 lần. BẢN NGHĨA (12/25) *Đây, Vỵ Ẩm nhập Xung Kinh. - Tiểu Thanh Long thang: trị Ẩm tại Đốc Kinh không phải trị tại Xung Kinh. - Nhổ nhiều, miệng ráo là Ẩm tại Xung Kinh. - Mạch Thốn Trầm: Dương Nhiệt Trầm. - Mạch Xích Vi: Âm Nhiệt Vi. - Dương Nhiệt Trầm thì Âm Hàn thạnh, cho nên tay chân nghịch lãnh, Âm Nhiệt Vi thì Dương Hàn nhập Nội. - Khí theo bụng dưới xung lên ngực, họng: đó là Xung Kinh tại Nội thọ Ẩm. - Tay chân tê, mặt nóng hâm hấp như trạng người say: đó là Xung Kinh tại Ngoại thọ Ẩm. - Nhân đó chảy xuống mé trong đùi, tiểu tiện khó, có lúc lại mạo: đó là Xung Kinh trên dưới thọ Ẩm, Quế Linh Cam Vị thang làm chủ. 130
NGUYÊN VĂN (191) Xung Khí liền hạ xuống mà trái lại càng ho thêm, ngực đầy, dùng phương thang trên, khứ Quế gia Càn Cương Tế Tân để trị chứng ho đầy. LINH CAM VỊ CÀN CƯƠNG TẾ TÂN THANG PHƯƠNG Phục Linh 4 lạng,
Ngũ Vị Tử ½ thăng,
Tế Tân, Cam thảo, Càn Cương mỗi vị 3 lạng.
5 vị trên, nước 8 thăng nấu lấy 3 thăng, uống ấm ½ thăng, ngày 3 lần. BẢN NGHĨA (12/26) *Đây, Vỵ Ẩm nhập Nhâm Kinh. - Lại càng ho đầy: Vỵ Ẩm nhập Nhâm Kinh. - Linh Cam Vị Khương Tân thang làm chủ.
Xung mạch thọ Ẩm dùng Quế Chi.
Nhâm mạch thọ Ẩm dùng Can Khương, trường hợp nào cũng thích nghi vậy.
NGUYÊN VĂN (192) Ho đầy liền dứt mà trở lại khát, xung Khí phát trở lại, vì bởi Càn Cương, Tế Tân là thuốc Nhiệt, uống vào phải khát mà trái lại không khát là thuộc Chi Ẩm, ‘pháp đương’ mạo, mạo thì ắt phải ói, ói thì lại cho Bán Hạ vào để trừ Thủy. LINH CAM VỊ KHƯƠNG TÂN BÁN HẠ THANG PHƯƠNG Phục Linh 4 lạng
Cam Thảo 2 lạng
Tế Tân, Càn Cương mỗi vị 2 lạng,
Bán Hạ, Ngũ Vị Tử mỗi vị ½ thăng
6 vị trên, nước 8 thăng nấu lấy 3 thăng, uống ấm ½ thăng, ngày 3 lần. BẢN NGHĨA (12/27) *Đây, Vỵ Ẩm nhập Xung Lạc. - Uống thuốc Nhiệt phải nên khát mà trái lại khát dứt là vì Xung Lạc thọ Ẩm. - Xung Lạc thọ Ẩm ‘pháp đương’ mạo, mạo thì ắt ói: Mạo với ói đều là Xung Lạc thọ Ẩm, nên lại cho thêm Bán Hạ để trừ Thủy Ẩm. 131
NGUYÊN VĂN (193) Thủy trừ ói dứt, người bệnh thân hình thũng, dùng bản phương gia Hạnh Nhân thang làm chủ. Chứng này nên cho thêm Ma Hoàng, nhưng vì người bệnh có chứng tê nên không cho vào. Nếu như nghịch mà cho vào ắt phát quyết, bởi vì người bệnh Huyết Hư còn Ma Hoàng thì ‘phát Dương’. LINH CAM VỊ KHƯƠNG TÂN BÁN HẠ HẠNH NHÂN THANG PHƯƠNG Phục Linh 4 lạng,
Cam Thảo, Càn Cương, Tế Tân mỗi vị 3 lạng
Ngũ Vị Tử, Bán Hạ, Hạnh Nhân mỗi vị ½ thăng 7 vị trên, nước 1 đấu nấu lấy 3 thăng, bỏ bả, uống ấm ½ thăng, ngày 3 lần. BẢN NGHĨA (12/28) *Đây, Vỵ Ẩm nhập Nhâm Lạc. - Dùng Bán Hạ trừ Ẩm tại Xung Lạc, cho nên Thủy trừ ói dứt. - Nay thì Nhâm Lạc có Thủy Ẩm, cho nên hình như thũng, dùng bản phương gia Hạnh Nhân thang làm chủ. - Chứng này nên cho thêm Ma Hoàng vào mà không cho, bởi vì Nhâm Lạc Huyết hư thọ Ẩm, còn Ma Hoàng thì phát Dương Khí ở trong Huyết.
NGUYÊN VĂN (194) Mặt nóng như trạng say rượu, đó là Vỵ Nhiệt xung lên mặt, gia Đại Hoàng để cho lợi. LINH CAM VỊ TÂN KHƯƠNG BÁN HẠ HẠNH NHÂN GIA ĐẠI HOÀNG THANG PHƯƠNG Phục Linh 4 lạng
Cam Thảo 2 lạng
Ngũ Vị Tử, Bán Hạ, Hạnh Nhân mỗi vị ½ thăng
Càn Cương, Tế Tân mỗi vị 3 lạng Đại Hoàng 2 lạng
8 vị trên, nước 1 đấu, nấu lấy 3 thăng, bỏ bả, uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần. BẢN NGHĨA (12/29) *Đây, Vỵ Ẩm nhập Đốc Lạc.
132
- Mặt nóng như trạng say rượu: đó là Đốc Lạc thọ Vỵ Ẩm xung lên. Dùng bản phương gia Đại Hoàng để cho lợi.
NGUYÊN VĂN (195) Trước khát rồi sau ói là Thủy đình dưới Tâm, đó là thuộc Ẩm gia, Tiểu Bán Hạ gia Phục Linh thang làm chủ. BẢN NGHĨA (12/30) *Đây, Nguyên do của Vỵ Ẩm. - Tiên khát là Vỵ Khí thọ Âm Nhiệt để làm Bản Khí, đó là ‘Kỳ tiên’. - Hậu ẩu là Vỵ Khí thọ Âm Hàn để làm tân dịch, đó là ‘Kỳ hậu’. - Âm Nhiệt hư thì Âm Hàn thực, nên Thủy đình dưới Tâm, đó là nguyên do của Đờm Ẩm. - Tiểu Bán Hạ gia Phục Linh thang làm chủ.
(Trên đây, chương thứ 12, 30 tiết, luận bệnh Đàm Ẩm – Khái Thấu). 133
CHƯƠNG 13:
TIÊU KHÁT – TIỂU TIỆN BẤT LỢI – LÂM BỆNH (13 Tiết, từ 196 đến 208) LUẬN BÀNG QUANG
1- Với các Kinh Khí liên quan. 2- Với các Bộ vị liên quan. 3- Các Âm Kinh Thủy nhập Bàng Quang. 4- Các Dương Kinh Thủy nhập Bàng Quang. 5- Bàng Quang Thủy chuyển nhập các Dương Kinh. 6- Bàng Quang Thủy chuyển nhập các Âm Kinh. 7- Với Thủ Âm tương nhập làm bệnh Lâm. 8- Với Thủ Dương tương nhập làm Tiêu khát. 9- Với Túc Dương tương nhập làm Tiêu khát. 10- Với Túc Âm tương nhập làm tiểu tiện bất lợi. 11- Với các Kinh tại Tấu làm tiểu tiện bất lợi. 12- Với các Kinh tại Cách Thượng làm khát. 13- Với các Kinh tại Cách Hạ làm khát, tiểu tiện bất lợi.
NGUYÊN VĂN (196) Khuyết Âm ‘chi vi bệnh’, Tiêu khát Khí xung lên Tâm, trong Tâm nhức nóng, đói không muốn ăn, ăn thì mửa giun, cho Hạ thì lợi không dứt. BẢN NGHĨA (13/1) *Đây, Bàng Quang với các Kinh Khí liên quan. - Bàng Quang không thể tiêu Thủy mà khát với Khuyết Âm giống nhau. - Khí xung lên Tâm: với Dương Hàn. - Trong Tâm nhức nóng: với Dương Nhiệt. - Đói không muốn ăn: với Âm Nhiệt. - Ăn thì mửa giun: với Âm Hàn. - Cho Hạ thì lợi không dứt: bởi vì Khuyết Âm là Kinh cực Âm, là gốc của Hàn Khí.
134
NGUYÊN VĂN (197) Thốn khẩu mạch Phù mà Trì, Phù tức là Hư, Trì tức là Lao, Lao thì Vệ Khí không đủ, Hư thì Vinh Khí kiệt. Phu Dương mạch Phù mà Sác, Phù tức là Khí, Sác tức tiêu cơm mà ‘đại tiện rắn’, Khí thạnh thì tiểu tiện nhiều, tiểu tiện nhiều thì ‘kiên’, kiên Sác tương bác tức làm Tiêu khát. BẢN NGHĨA (13/2) * Đây, Bàng Quang với các Bộ Vị liên quan. - Bàng Quang tại Tấu bộ thọ Âm Nhiệt ra ngoài nên Phù mà Hư, thọ Dương Hàn vào trong nên Trì mà Lao. - Dương Hàn bị Lao thì tại Tấu Ngoại Vệ Khí không đủ. - Âm Nhiệt bị Hư thì tại Tấu Nội Vinh Khí suy kiệt. - Bàng Quang tại Cách bộ: Thọ cái Phù của Dương Hàn nên là Khí. Thọ cái Sác của Âm Nhiệt nên tiêu cơm đại tiện rắn. - Do đó Bàng Quang tại Lý bộ Khí thạnh mà tiểu tiện nhiều, tiểu tiện nhiều mà đại tiện rắn. Đại tiện rắn cùng với tiểu tiện nhiều đồng thời làm bệnh, đó là nguyên do của chứng Tiêu khát.
NGUYÊN VĂN (198) Đàn ông tiêu khát, tiểu tiện trái lại nhiều, như uống nước một đấu, tiểu tiện cũng một đấu, Thận Khí hoàn làm chủ (xem phương ở Chương Phụ Nhơn Tạp Bệnh). BẢN NGHĨA (13/3) * Đây, Bàng Quang thọ nhập các Âm Kinh Thủy. - Đàn ông Tiêu khát: bệnh tại Âm Khí hư chẳng phải Âm Huyết hư. - Tiểu tiện trái lại nhiều: Thủy nhập từ các Âm Kinh. - Uống nước một đấu, tiểu tiện cũng một đấu: Bàng Quang không được Âm Nhiệt Khí trợ giúp nên không thể tiêu Thủy. - Thận Khí hoàn làm chủ. 135
NGUYÊN VĂN (199) Mạch Phù, tiểu tiện không lợi, hơi sốt, Tiêu khát, nên lợi tiểu tiện Phát hạn, Ngũ Linh tán làm chủ (xem phương ở chương Đàm Ẩm). BẢN NGHĨA (13/4) * Đây, Bàng Quang thọ nhập các Dương Kinh Thủy. - Mạch Phù: Dương Kinh mạch. - Tiểu tiện không lợi: Bàng Quang không hóa Thủy. - Hơi sốt: có Dương mà không hành được Dương. - Tiêu khát: có Thủy mà không thể ’tiêu Thủy chỉ khát’. - Nên lợi tiểu tiện: hành Thủy tại Nội. - Phát hạn: hành Thủy tại Ngoại. - Ngũ Linh tán làm chủ.
NGUYÊN VĂN (200) Khát muốn uống nước, nước vào thì mửa, gọi là Thủy nghịch, Ngũ linh tán làm chủ. BẢN NGHĨA (13/5) * Đây, Bàng Quang Thủy chuyển nhập các Dương Kinh. - Khát muốn uống nước: các Dương Kinh Thủy không hóa. - Nước vào thì mửa, gọi là Thủy nghịch: bởi vì các Dương Kinh hành Thủy, trái lại thọ Bàng Quang Thủy, cho nên gọi Thủy nghịch. - Ngũ Linh tán làm chủ.
NGUYÊN VĂN (201) Khát muốn uống nước không thôi, Văn Cáp tán làm chủ. VĂN CÁP TÁN PHƯƠNG Văn Cáp 5 lạng : 1 vị tán nhuyễn, dùng 5 cáp nước sôi, hòa 1 thìa phương thốn uống. 136
BẢN NGHĨA (13/6) *Đây, Bàng Quang Thủy chuyển nhập các Âm Kinh. - Khát muốn uống nước: các Âm Kinh Thủy không hóa. - Không thôi là Âm Kinh Thủy do Dương Kinh Thủy liên tục mà đến. - Văn Cáp tán làm chủ.
NGUYÊN VĂN (202) Lâm ‘chi vi’ bệnh, tiểu tiện trạng như hạt thóc, bụng dưới gồng thắt đau dẫn tới trong rún. BẢN NGHĨA (13/7) *Đây, Bàng Quang Thủy cùng với Thủ Âm chuyển nhập nhau. - Tiểu tiện trạng như hạt thóc: Thủ Âm Kinh Thủy nhập Bàng Quang. - Bụng dưới gồng thắt đau dẫn tới trong rún: Bàng Quang Kinh Thủy chuyển nhập Thủ Âm.
NGUYÊN VĂN (203) Phu Dương mạch Sác, trong Vỵ có Nhiệt tức là Tiêu khát dẫn tới phải uống, đại tiện ắt rắn, tiểu tiện ắt nhiều lần. BẢN NGHĨA (13/8) *Đây, Bàng Quang Thủy cùng với Thủ Dương chuyển nhập nhau. - Mạch Sác trong Vỵ có Nhiệt: Thủ Dương Kinh Thủy thọ Vỵ Nhiệt nhập Bàng Quang tức là Tiêu khát dẫn đến phải uống. - Đại tiện rắn,tiểu tiện nhiều lần: Bàng Quang Kinh thọ Vỵ Nhiệt chuyển nhập Thủ Dương.
NGUYÊN VĂN (204) Lâm gia (người vốn có bệnh đái khó) không nên Phát Hạn, Phát Hạn ắt tiểu tiện ra máu. .
137
BẢN NGHĨA (13/9) *Đây, Bàng Quang Thủy cùng với Túc Dương chuyển nhập nhau. - Lâm gia: Túc Dương Kinh Thủy thọ Vỵ Nhiệt nhập Bàng Quang, cho nên không thể Phát hạn. - Phát hạn ắt tiểu tiện ra máu: Bàng Quang Kinh Thủy thọ Vỵ Nhiệt chuyển nhập Túc Dương.
NGUYÊN VĂN (205) Tiểu tiện không lợi là có Thủy Khí, người bệnh khổ vì khát, Quát Lâu Cù Mạch hoàn làm chủ. QUÁT LÂU CÙ MẠCH HOÀN PHƯƠNG Thự Dự 3 lạng
Phục Linh 3 lạng
Quát Lâu Căn 2 lạng
Phụ Tử (bào) 1 củ
Cù Mạch 1 lạng
5 vị trên, tán nhuyễn luyện mật làm hoàn to bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống 2 hoàn với nước chín, nếu chưa thấy hiệu nghiệm thì tăng đến 7 - 8 hoàn, lấy tiểu tiện lợi trong bụng ấm, làm độ. BẢN NGHĨA (13/10) * Đây, Bàng Quang Thủy cùng với Túc Âm chuyển nhập nhau. - Tiểu tiện không lợi có Thủy Khí: Túc Âm Kinh Thủy nhập Bàng Quang. - Người bệnh khổ vì khát: Bàng Quang Kinh Thủy nhập Túc Âm. - Quát Lâu Cù Mạch hoàn làm chủ.
NGUYÊN VĂN (206) Tiểu tiện không lợi, Bồ Khôi tán làm chủ, Hoạt Thạch Bạch Ngư tán làm chủ, Phục Linh Nhung Diêm thang làm chủ. BỒ KHÔI TÁN PHƯƠNG Bồ Khôi ½ phân
Hoạt Thạch 5 phân
2 vị tán nhuyễn, mỗi lần uống 1 thìa phương thốn, ngày 3 lần. .
138
HOẠT THẠCH BẠCH NGƯ TÁN PHƯƠNG Hoạt Thạch, Loạn phát (tóc rối), Bạch Ngư (Cá diếc) mỗi vị 3 lạng 3 vị tán nhuyễn, mỗi lần uống 1 thìa phương thốn. PHỤC LINH NHUNG DIÊM THANG PHƯƠNG Phục Linh ½ cân
Bạch Truật 2 lạng
Nhung Diêm to bằng viên đạn 1 viên
3 vị trên, trước nấu Phục Linh, Bạch Truật cho thành, rồi cho Nhung Diêm vào sắc tiếp, chia làm 3 lần uống ấm. BẢN NGHĨA (13/11) * Đây, Bàng Quang Kinh tại Tấu. - Phàm tiểu tiện không lợi đều do Bàng Quang thọ Tấu Nhiệt. - Tấu chủ Nhiệt Khí lại chủ hành Huyết. Bồ Khôi tán làm chủ: Thủy Huyết cùng trị. Các Dương Kinh tại Tấu làm tiểu tiện không lợi, Hoạt Thạch Bạch Ngư tán làm chủ. Các Âm Kinh tại Tấu làm tiểu tiện không lợi, Phục Linh Nhung Diêm thang làm chủ. *Trị Thủy phần đều chiếu cố đến Huyết phần vậy.
NGUYÊN VĂN (207) Khát muốn uống nước, miệng khô, lưỡi ráo, Bạch Hổ gia Nhân Sâm thang làm chủ. (xem phương ở chương Kỉnh – Thấp - Yết ). BẢN NGHĨA (13/12) * Đây, Bàng Quang Kinh tại Cách Thượng cùng với các Dương Kinh. - Khát muốn uống nước: thọ Cách Nhiệt. - Miệng khô, lưỡi ráo: các Dương Kinh thọ Cách Nhiệt. Bạch Hổ gia Nhân Sâm thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (208) Mạch Phù, Phát sốt, khát muốn uống nước, tiểu tiện không lợi. Trư Linh thang làm chủ. 139
TRƯ LINH THANG PHƯƠNG Trư Linh khứ bì (bỏ vỏ ngoài), Phục Linh, A Giao, Trạch Tả, Hoạt Thạch mỗi vị 1 lạng. 5 vị trên, nước 4 thăng, trước nấu 4 vị lấy 2 thăng, bỏ bả, cho A Giao vào hòa tan, uống ấm 7 cáp, ngày 3 lần. BẢN NGHĨA (13/13) * Đây, Bàng Quang Kinh tại Cách Hạ cùng với các Âm Kinh. - Mạch Phù: tại Cách. - Phát sốt: từ Cách mà đến Tấu. - Khát muốn uống nước: các Âm Kinh thọ Tấu Nhiệt. - Tiểu tiện không lợi: Bàng Quang Kinh thọ Tấu Nhiệt. - Trư Linh thang làm chủ.
(Trên đây, chương thứ 13, 13 tiết, luận bệnh Tiêu Khát – Tiểu Tiện bất lợi – Lâm bệnh) 140
TẠP BỆNH LUẬN QUYỂN VI __________________________________ CHƯƠNG 14: THỦY
KHÍ BỆNH
(30 Tiết, từ 209 đến 238) LUẬN TÚC TAM DƯƠNG KINH 1234567-
Túc Tam Dương Kinh hành Thủy. Túc Dương Kinh hành Thủy cùng với Túc Âm Kinh hành Huyết chú nhập nhau. Dương Hàn Kinh Thủy tại Biểu Tấu Lý làm Phong Thủy. Dương Hàn Kinh Thủy tại Cách làm Phong Thủy. Dương Nhiệt Kinh Thủy tại Biểu Tấu Lý làm Bì Thủy. Dương Nhiệt Kinh Thủy tại Cách làm Lý Thủy. Dương Hàn Dương Nhiệt tương chuyển chú (chuyển tưới vào nhau) tại Cách Thượng Hạ. 8- Dương Nhiệt Dương Hàn tương chuyển chú tại Tấu Nội Ngoại. 9- Thủy Khí tại Thủ Dương Kinh 10- Thủy Khí tại Thủ Âm Kinh. 11- Thủy Khí tại Túc Âm Kinh. 12- Thủy Khí tại Túc Dương Kinh. 13- Thủy Khí tại Tấu. 14- Thủy Khí tại Biểu tại Lý. 15- Thủy Khí tại Cách. 16- Dương Hàn Thủy chú nhập Âm Nhiệt Huyết. 17- Dương Nhiệt Thủy chú nhập Âm Hàn Huyết. 18- Thủy Khí tại Đốc Xung Nhâm Kinh. 19- Thủy Khí tại Đốc Xung Nhâm Lạc. 20- Phong Thủy do Thái Dương. 21- Phong Thủy do Thiếu Âm. 22- Bì Thủy thọ Thái Dương tại Biểu đến Lý. 23- Lý Thủy thọ Thiếu Âm tại Lý đến Biểu. 24- Thủy Khí tại Tấu Thiếu Âm làm chủ. 25- Thủy Khí tại Cách là gọi chung mọi chứng Thủy. 26- Âm Huyết chú nhập Dương Thủy tại Cách làm Hoàng hãn. 27- Âm Huyết chú nhập Dương Thủy tại Biểu tại Lý làm Hoàng hãn. 28- Âm Huyết chú nhập Dương Thủy tại Tấu làm Hoàng hãn. 29- Tại Tấu Thiếu Âm Khí phần hư. 30- Tại Tấu Khí phần hư mà Thủy phần, Huyết phần bệnh.
141
NGUYÊN VĂN (209) Thầy nói : bệnh có Phong Thủy, có Bì Thủy, có Chính Thủy, có Thạch Thủy, có Hoàng Hãn. BẢN NGHĨA (14/1) * Đây, Túc Dương là Kinh hành Thủy. - Tại Cơ làm Phong Thủy.
- Tại Bì làm Bì Thủy.
- Tại Cách làm Chính Thủy.
- Tại Đái làm Thạch Thủy.
- Tại Tấu làm Hoàng Hãn.
NGUYÊN VĂN (210) Phong Thủy mạch nó tự Phù, chứng ngoài là khớp xương đau nhức, sợ gió. Bì Thủy mạch nó cũng Phù, chứng ngoài là mu bàn chân thũng, đè vào thì lún ngón tay, không sợ gió, bụng to như cái trống, không khát nên Phát hãn. Chính Thủy mạch nó Trầm Trì, chứng ngoài là tự suyễn. Thạch Thủy mạch nó tự Trầm, chứng ngoài là bụng đầy, không suyễn. Hoàng hãn mạch nó trầm Trì, mình phát sốt, ngực đầy, tay chân đầu mặt thũng, lâu ngày không khỏi ắt phát ung nùng (nhọt có mủ). BẢN NGHĨA (14/2) *Đây, Túc Dương Kinh hành Thủy cùng với Túc Âm Kinh hành Huyết chuyển chú nhau ở Nội Ngoại. - Phong Thủy mạch nó tự Phù: tại Ngoại Túc Dương Hàn Kinh Thủy thọ chú của tại Nội Túc Âm Nhiệt Kinh Huyết. Chứng ngoài là khớp xương đau nhức, sợ gió: Dương Thủy Âm Huyết tương hội tại Cơ. - Bì Thủy mạch nó cũng Phù: tại Ngoại Túc Dương Nhiệt Kinh Thủy thọ chú của tại Nội Túc Âm Hàn Kinh Huyết. Chứng ngoài là mu bàn chân thũng, đè vào thì lún ngón tay: Nhiệt Thủy với Hàn Huyết đều là Túc Kinh tại Hạ. Không sợ gió: Dương Nhiệt Kinh Thủy làm bệnh. Bụng lớn như cái trống: Âm Hàn Kinh Huyết làm bệnh. 142
Không khát nên cho Phát hạn: bởi là Bì Thủy. - Chính Thủy mạch nó Trầm Trì: tại Nội Túc Âm Hàn Kinh Huyết thọ chú của Túc Dương Nhiệt Kinh Thủy. Chứng ngoài là tự Suyễn: bởi vì Hàn Kinh thọ Thủy tại Cách. - Thạch Thủy mạch nó tự Trầm: tại Nội Túc Âm Nhiệt Kinh Huyết thọ chú của Túc Dương Hàn Kinh Thủy. Chứng ngoài là bụng đầy, không Suyễn: bởi vì Nhiệt Kinh thọ Thủy tại Đái. - Hoàng Hãn: tại Tấu. Mạch nó Trầm Trì: Dương Hàn nhập Tấu thì mạch Trầm. Tại Tấu Âm Nhiệt thọ phải thì mạch Trì. Mình phát sốt, ngực đầy: chứng tại Tấu. Tay chân, đầu mặt thũng: các Dương Thủy và các Âm Huyết hệ (ràng buộc nhau), do Tấu mà làm ra thũng ở tay chân đầu mặt. Hệ nhau lâu ngày thì làm ra ung nùng.
NGUYÊN VĂN (211) Mạch Phù mà Hồng, Phù thì là Phong, Hồng thì là Khí, Phong mạnh thì làm ẩn chẩn (mần đai), thân thể bị ngứa, ngứa là do Phong rỉ ra, Phong lâu ngày thì làm da sần sùi. Khí mạnh thì là Thủy làm cho khó cúi ngữa. Phong Khí hại nhau, thân thể phù thũng, mồ hôi ra được thì khỏi. Sợ gió là hư, đó là Phong Thủy; không sợ gió, tiểu tiện thông lợi là Thượng tiêu có Hàn, miệng có nhiều nước miếng đó là Hoàng hãn. BẢN NGHĨA (14/3) * Đây, Túc Dương Hàn Thủy Kinh tại Biểu Tấu Lý [Tấu Biểu] làm Phong Thủy. - Phù thì là Phong: thọ tại Tấu Âm Nhiệt. - Hồng thì là Khí: thọ tại Biểu Dương Hàn. - Phong mạnh thì làm ẩn chẩn, già lại (da sần sùi): Đây là tại Biểu chứng Phong Thủy bởi Âm Nhiệt mạnh. 143
- Khí mạnh thì là Thủy làm cho khó cúi ngữa: Đây là tại Biểu chứng Phong Thủy bởi Dương Hàn làm mạnh. - Âm Nhiệt Kinh hệ ở Dương Hàn, Dương Hàn Kinh hệ ở Âm Nhiệt, vì thế thân thể phù thũng. - Ra được mồ hôi thì khỏi: đó là tại Biểu chứng Phong Thủy bởi Dương Hàn Âm Nhiệt bình (bằng nhau). - Sợ gió là hư: đó là tại Tấu chứng Phong Thủy bởi Âm Nhiệt yếu. - Không sợ gió, tiểu tiện thông lợi, Thượng Tiêu có Hàn, miệng có nhiều nước miếng: đó là tại Tấu Dương Hàn cường (mạnh). - Không gọi Phong Thủy mà gọi Hoàng Hãn, bởi vì chứng của nó tại Tấu.
NGUYÊN VĂN (212) Mạch Thốn khẩu Trầm Hoạt là bên trong có Thủy Khí, mặt mắt sưng to, có sốt gọi là Phong Thủy. Nhìn thấy trên bao mắt người bệnh hơi sưng, trạng như con tầm mới ngủ dậy, mạch ở cổ (mạch Nhân Nghinh) người bệnh động, thỉnh thoảng ho, ấn trên tay chân người bệnh thấy lõm xuống mà không nổi lên, đó là Phong Thủy. BẢN NGHĨA (14/4) * Đây, Túc Dương Hàn Thủy Kinh tại Cách làm Phong Thủy. - Mạch Thốn khẩu Trầm Hoạt: Trầm là Dương Hàn nhập Tấu, Hoạt là tại Tấu Âm Nhiệt, đó là Dương Hàn Âm Nhiệt hệ nhau, bên trong có Thủy Khí. - Mặt mắt sưng to, có sốt gọi là Phong Thủy: đó là tại Cách bởi Âm Nhiệt mạnh. - Bao mắt hơi sưng và trên tay chân đè vào lõm xuống mà không thể nổi lên, đó là Phong Thủy: đây là tại Cách Phong Thủy do bởi Dương Hàn mạnh.
NGUYÊN VĂN (213) Thái Dương Bệnh mạch Phù mà Khẩn, ‘pháp đương’ khớp xương đau nhức, trái lại không nhức, thân thể trái lại nặng nề mà ê buốt, người bệnh không khát, ra được mồ hôi liền khỏi, đó là Phong Thủy. Sợ lạnh, đó là cực hư mắc phải do Phát hãn; khát mà không sợ lạnh, đó là Bì Thủy. 144
Mình nặng mà lạnh như trạng chu tý, trong ngực tắc nghẹn không ăn được, trái lại cái đau dồn lại, chiều tối vật vã không ngủ được, đó là Hoàng hãn. Đau tại khớp xương, ho mà suyễn không khát, đó là Phế trướng, trạng nó như thũng, Phát hãn thì khỏi. Nhưng các bệnh đó, khát mà hạ lợi, tiểu tiện thường đều không thể Phát hãn. BẢN NGHĨA (14/5) * Đây, Túc Dương Nhiệt Thủy Kinh tại Biểu Tấu Lý làm Bì Thủy. - Phù là tại Tấu Âm Nhiệt xuất Biểu. - Khẩn là tại Biểu hiệp Dương Hàn, hiệp thì pháp đương (đáng lẽ) khớp xương đau nhức: ‘pháp’ là Dương Hàn Âm Nhiệt làm tôn chủ. - Trái lại không nhức, thân thể trái lại nặng mà ê buốt: Dương Nhiệt Âm Hàn làm bệnh, trái với nó là Dương Hàn Âm Nhiệt làm bệnh, cũng không khác, pháp nó vốn như thế. - Người bệnh không khát, ra mồ hôi bèn khỏi, đó là chứng Bì Thủy, bởi Dương Nhiệt Âm Hàn cùng với chứng Phong Thủy, bởi Dương Hàn Âm Nhiệt không khác. - Sợ lạnh, đó là cực hư mắc phải do Phát hãn: đó là chứng Bì Thủy bởi Dương Nhiệt Âm Hàn tại Lý cùng với chứng Phong Thủy bởi Dương Hàn Âm Nhiệt tại Lý không khác. Vì lẽ đó Bì Thủy tức là Phong Thủy, theo pháp vậy. - Khát mà không sợ lạnh, đó là Bì Thủy tại Tấu, không chỉ tại Biểu tại Lý là vậy, tại Tấu cũng vậy. - Mình nặng mà lạnh, trạng giống như Chu tý, trong ngực nghẹn tắc không ăn được: chứng tại Tấu của Dương Nhiệt Âm Hàn cũng không khác với chứng của Dương Hàn Âm Nhiệt. - Trái lại cái đau dồn lại, chiều tối vật vã không ngủ được: chứng tại Tấu Dương Nhiệt thắng Âm Hàn cũng không khác chứng tại Tấu Âm Nhiệt thắng Dương Hàn. - Đó là Hoàng hãn: tức là Bì Thủy tại Tấu bởi Dương Nhiệt cường làm ra Hoàng hãn, cũng không khác với chứng Phong Thủy tại Tấu bởi Âm Nhiệt cường làm ra Hoàng hãn, không chỉ như thế, chứng Phế trướng cũng vậy. - Đau tại khớp xương: Dương Nhiệt Âm Hàn tại Tấu làm bệnh, Dương Hàn Âm Nhiệt làm bệnh cũng vậy. - Ho mà Suyễn, không khát: Âm Hàn thắng Dương Nhiệt tại Tấu làm bệnh, Dương Hàn thắng Âm Nhiệt tại Tấu làm bệnh cũng như vậy. .
145
Tóm lại tại Tấu Phong Thủy, Bì Thủy, Phế trướng các chứng, phàm: Chủ Tấu Nhiệt Khí thắng mà thũng, có thể Phát Hãn thì khỏi. Chủ Tấu Nhiệt Khí hư, khát mà hạ lợi, tiểu tiện thường thì đều không thể Phát hãn.
NGUYÊN VĂN (214) Bệnh Lý Thủy, cả mình, mặt mắt vàng thũng, mạch Trầm, tiểu tiện không lợi, cho nên bệnh Thủy. Nếu như tiểu tiện tự lợi, đó là vong tân dịch, cho nên khát, Việt Tỳ gia Truật thang làm chủ. BẢN NGHĨA (14/6) * Đây, Túc Dương Nhiệt Kinh Thủy tại Cách làm Lý Thủy. - Lý Thủy: là nói ‘tùy bệnh sở tại’, tuy có 5 tên bệnh Thủy, kỳ thật chỉ một Lý Thủy. - Cả mình, mặt mắt vàng thũng: Dương Nhiệt Thủy tại Cách ra Ngoại. - Mạch Trầm, tiểu tiện không lợi: Dương Nhiệt Thủy tại Cách vào Nội. - Cho nên Dương Nhiệt Thủy tại Cách ra vào làm bệnh Thủy. - Nếu như tiểu tiện tự lợi, đó là Dương Hàn không tư trợ Dương Nhiệt tại Cách mà độc hành ở Hạ, làm cho tại Cách vong tân dịch cho nên khát, Việt Tỳ gia Truật thang làm chủ. *Nội Ngoại Thượng Hạ làm bệnh không là một nhưng Dương Nhiệt tại Cách thì là một, cho nên dùng bản phương.
NGUYÊN VĂN (215) Phu Dương mạch ‘đương’ [đáng lẽ] Phục nay trái lại Khẩn là vốn tự có Hàn, Sán hà trong bụng đau, Thầy thuốc trái lại cho Hạ liền bị ngực đầy, thở ngắn hơi; Phu Dương mạch ‘đương’ Phục nay trái lại Sác là vốn tự có Nhiệt, tiêu cốc, tiểu tiện thường nay trái lại tiểu tiện không lợi, đó là muốn làm bệnh Thủy. BẢN NGHĨA (14/7) * Đây, Dương Hàn Thủy với Dương Nhiệt Thủy cùng hành ở Thượng Hạ của Cách. 146
- Dương Hàn Kinh có Thủy thì mạch Phục tại Cách, nay trái lại Khẩn là gốc của Dương Hàn tại Cách Hạ làm bệnh Sán hà, trong bụng đau, nay lại từ Cách Hạ mà đi lên Cách Thượng, nên ngực đầy, thở ngắn hơi. - Dương Nhiệt Kinh có Thủy thì mạch Phục tại Cách, nay trái lại Sác là gốc của Dương Nhiệt tại Cách Thượng làm tiêu cốc, tiểu tiện thường; nay lại từ Cách Thượng mà đi xuống Cách Hạ, nên tiểu tiện không lợi, muốn làm bệnh Thủy. *Ý nói Dương Hàn Kinh Thủy từ Hạ lên Thượng. Dương Nhiệt Kinh Thủy từ Thượng xuống Hạ cùng đi lại không trái nhau, sinh lý hành Kinh như vậy, bệnh lý hành Kinh cũng vậy.
NGUYÊN VĂN (216) Mạch Thốn khẩu Phù mà Trì, Phù thì là Nhiệt, Trì thì là Tiềm, Tiềm Nhiệt tương bác gọi tên là Trầm. Mạch Phu Dương Phù mà Sác, Phù thì là Nhiệt, Sác thì là Chỉ, Nhiệt Chỉ tương bác gọi tên là Phục. Trầm Phục tương bác gọi tên là Thủy, Trầm thì Lạc mạch hư, Phục thì tiểu tiện nan (khó), hư nan tương bác, Thủy chạy ở Bì Phu nên làm bệnh Thủy. BẢN NGHĨA (14/8) * Đây, Dương Hàn Thủy với Dương Nhiệt Thủy cùng hành ở Nội Ngoại của Tấu. - Mạch Phù là Nhiệt: Dương Nhiệt Thủy. - Mạch Trì là ‘tiềm’: Dương Hàn Thủy. - Dương Hàn ‘bác’ Dương Nhiệt thì Dương Nhiệt Khí Trầm, do đó tại Tấu Ngoại có Thủy. - Mạch Phù là Nhiệt: Âm Nhiệt Khí. - Mạch Sác là chỉ: Âm Hàn Khí. - Âm Hàn ‘bác’ Âm Nhiệt thì Âm Nhiệt Phục, do đó tại Tấu Nội có Thủy. - Dương Nhiệt ở Tấu Ngoại Trầm. Âm Nhiệt ở Tấu Nội Phục, do đó ỏ Tấu có Thủy. - Dương Nhiệt Trầm thì Lạc mạch hư. Âm Nhiệt Phục thì tiểu tiện nan, Lạc hư tiện nan là nguyên do của Thủy chạy ở Bì Phu. .
147
*Ý nói Dương Hàn Thủy từ Ngoại vào Nội, Dương Nhiệt Thủy từ Nội ra Ngoại, do đó Thủy bệnh là gốc từ Thiếu Âm Nhiệt Khí tại Tấu hư.
NGUYÊN VĂN (217) Mạch Thốn khẩu Huyền mà Khẩn, Huyền thì Vệ Khí không hành, Khẩn thì sợ lạnh, Thủy không chảy theo Kinh mà chạy ở trong ruột. BẢN NGHĨA (14/9) * Đây, Thủy Khí tại Thủ Dương Kinh. - Thủ Dương Kinh hành từ Ngoại đến Nội. Mạch Huyền thì Vệ Khí không hành ở Nội. Mạch Khẩn thì Hàn Khí hiện ở Ngoại. - Thủy không theo Tam Tiêu Kinh mà hành tẩu (đi lại) ở trong Đại Tiểu Trường làm bệnh Thủy.
NGUYÊN VĂN (218) Thiếu Âm mạch Trầm mà Khẩn, Khẩn thì là đau, Trầm thì là Thủy, tiểu tiện khó. BẢN NGHĨA (14/10) * Đây, Thủy Khí tại Thủ Âm Kinh. - Thủ Âm Kinh tại Thượng mà hành ở Hạ. - Khẩn thì là đau: tại Thượng Thủ Âm Kinh có Thủy. - Trầm thì là Thủy: tại Hạ Thủ Âm Kinh có Thủy. - Tiểu tiện khó: bởi có Thủy tại Thủ Âm Kinh.
.
148
NGUYÊN VĂN (219) Xem thấy các loại mạch Trầm, nên trách là có Thủy, thân thể phù thũng nặng nề, bệnh Thủy mạch ‘xuất’ là chết. BẢN NGHĨA (14/11) * Đây, Thủy Khí tại Túc Âm Kinh. - Mạch Trầm, nên trách có Thủy: Túc Âm Kinh tại Nội có Thủy. - Thân thể phù thũng nặng nề: Túc Âm Kinh tại Ngoại có Thủy. - Bệnh Thủy mạch ‘xuất’ (Phù vô căn) là chết. Bởi Âm Nhiệt tại Nội hư mà ra hết ở ngoài.
NGUYÊN VĂN (220) Phàm người bệnh Thủy, dưới mắt như có con tằm nằm, mặt mắt tươi nhuận, mạch Phục. Người bệnh Tiêu khát, bụng lớn, tiểu tiện không lợi, mạch Trầm tuyệt là có Thủy, có thể cho Hạ. BẢN NGHĨA (14/12) * Đây, Thủy Khí tại Túc Dương Kinh. - Người bệnh Thủy: Túc Dương Kinh hành Thủy mà trái lại bệnh Thủy. - Dưới mắt như có con tằm nằm, mặt mắt tươi nhuận, mạch Phục: thọ Dương Nhiệt Thủy. - Người Tiêu khát bệnh Thủy: thọ Dương Hàn Thủy. - Bụng lớn, tiểu tiện không lợi, mạch Trầm tuyệt: cùng thọ Dương Hàn Dương Nhiệt Thủy, có thể cho Hạ.
NGUYÊN VĂN (221) Hỏi rằng : sau khi bệnh Hạ lợi, khát uống nước, tiểu tiện không lợi, bụng đầy, nhân đó thũng là cớ sao ? Đáp rằng : ‘pháp đương’ đó là bệnh Thủy. Nếu như tiểu tiện tự lợi, còn ra được mồ hôi, thì tự khỏi. 149
BẢN NGHĨA (14/13) * Đây, Thủy Khí tại Tấu. - Sau khi Hạ lợi, khát uống nước: Dương Nhiệt Thủy tại Tấu. - Tiểu tiện không lợi, bụng đầy, nhân đó thũng: Dương Hàn Thủy tại Tấu hiệp bệnh. - ‘Pháp đương’ bệnh Thủy: Ý nói pháp trị Thủy tại Tấu. - Tiểu tiện tự lợi: giải Thủy ở Tấu Nội. - Còn ra được mồ hôi: giải Thủy ở Tấu Ngoại.
NGUYÊN VĂN (222) Người bệnh Tâm Thủy, mình nặng, kém hơi, không nằm được, bứt rứt mà vật vã, âm vật sưng thũng. Người bệnh Can Thủy, bụng lớn không thể tự xoay chuyển, dưới sườn đau, thỉnh thoảng sinh ra tân dịch chút ít, tiểu tiện tiếp tục thông. Người bệnh Phế Thủy, tiểu tiện khó, mình thũng có lúc đi lỏng như phân vịt. Người bệnh Tỳ Thủy, bụng lớn, tay chân khó chịu nặng nề, tân dịch không sinh, khổ vì ít hơi, tiểu tiện khó. Người bệnh Thận Thủy, bụng lớn, rún thủng, eo lưng đau, không đi tiểu được, âm vật ẩm ướt như mồ hôi trên mũi trâu, chân lạnh đến gối, mặt trái lại gầy. BẢN NGHĨA (14/14) * Đây, Thủy Khí tại Biểu tại Lý. - Mình nặng, kém hơi, không nằm được: tại Lý Nhiệt Thủy nhập Tâm. - Bứt rứt mà vật vã, âm vật thũng: tại Biểu Hàn Thủy hiệp nhập Tâm. - Bụng lớn không thể xoay chuyển: tại Lý Nhiệt Thủy nhập Can. Dưới sườn đau, thỉnh thoảng tân dịch sinh chút ít, tiểu tiện tiếp tục thông: tại Biểu Hàn Thủy hiệp nhập Can. - Tiểu tiện khó, mình thũng: tại Lý Nhiệt Thủy nhập Phế. 150
Có lúc đi lỏng như phân vịt: tại Biểu Hàn Thủy hiệp nhập Phế. - Bụng lớn, tay chân khó chịu nặng nề, tân dịch không sinh: tại Lý Nhiệt Thủy nhập Tỳ. Khổ vì thiếu hơi, tiểu tiện khó: tại Biểu Hàn Thủy hiệp nhập Tỳ. - Bụng lớn, rún thũng, eo lưng đau, không đi tiểu được: tại Lý Nhiệt Thủy nhập Thận. Âm vật ẩm ướt như mũi trâu luôn có mồ hôi, chân lạnh đến gối, mặt trái lại gầy: tại Biểu Hàn Thủy hiệp nhập Thận.
NGUYÊN VĂN (223) Thầy nói : các loại bệnh có Thủy, từ eo lưng trở xuống thũng, nên lợi tiểu tiện; từ eo lưng trở lên thũng, nên Phát hạn thì khỏi. BẢN NGHĨA (14/15) * Đây, Thủy Khí tại Cách. - Các loại bệnh có Thủy: Hàn Thủy, Nhiệt Thủy. - Eo lưng trở xuống thũng, nên lợi tiểu tiện: Phép trị Thủy tại Cách Hạ. - Eo lưng trở lên thũng,Phát hạn thì khỏi: Phép trị Thủy tại Cách Thượng.
NGUYÊN VĂN (224) Thầy nói : Thốn khẩu mạch Trầm mà Trì, Trầm thì là Thủy, Trì thì là Hàn, Hàn Thủy tương bác. Phu Dương mạch Phục, cơm nước không tiêu, Vỵ Khí suy thì thân thũng. Thiếu Dương mạch ‘Ti’ (nhược), Thiếu Âm mạch Tế, đàn ông thì tiểu tiện không lợi, đàn bà thì Kinh Thủy không thông. Kinh hành Huyết, Huyết không lợi thì bị Thủy, tên gọi Huyết phần. BẢN NGHĨA (14/16) * Đây, Dương Hàn Kinh Thủy nhập Âm Nhiệt Kinh Huyết. - Trầm là Thủy, Trì là Hàn: Dương Hàn Thủy nhập Âm Nhiệt Huyết tại Thượng phần.
151
- Mạch Phục, cơm nước không tiêu, Vỵ hư thân thũng: Dương Hàn Thủy nhập Âm Nhiệt Huyết tại Trung phần. - Thiếu Dương mạch ‘Ti’, Thiếu Âm mạch Tế, đàn ông tiểu tiện không lợi, đàn bà Kinh Thủy không thông: Dương Hàn Thủy nhập Âm Nhiệt Huyết tại Hạ phần. - Âm Nhiệt Kinh hành Huyết, Huyết không lợi thì bị Dương Hàn Thủy chú nhập (rót vào) gọi là Âm Nhiệt Kinh Huyết phần thọ Thủy.
NGUYÊN VĂN (225) Thầy nói : Thốn khẩu mạch Trầm mà Sác, Sác thì là xuất, Trầm thì là nhập, xuất thì là Dương thực, nhập thì là Âm kết. Phu Dương mạch Vi mà Huyền, Vi thì không Vỵ Khí, Huyền thì không thở được. Thiếu Âm mạch Trầm mà Hoạt, Trầm thì là tại Lý, Hoạt thì là Thực, Trầm Hoạt tương bác, Huyết kết bào môn, chứng Hà không tả ra được, Kinh Lạc không thông, tên gọi Huyết phần. BẢN NGHĨA (14/17) * Đây, Dương Nhiệt Kinh Thủy nhập Âm Hàn Kinh Huyết. - Thốn khẩu mạch Sác thì là xuất: là Âm Nhiệt xuất. Trầm thì là nhập: là Dương Nhiệt nhập. Âm Nhiệt xuất cùng với Dương Hàn Kinh làm Thực. Dương Nhiệt nhập cùng với Âm Hàn Kinh Huyết kết. Đó là Dương Nhiệt Kinh Thủy nhập cùng với Âm Hàn Kinh Huyết tại Thượng phần. - Phu Dương mạch Vi thì không Vỵ Khí, mạch Huyền thì Thủy thạnh không thở được. - Thiếu Âm mạch Trầm thì Thủy tại Hạ. - Mạch Hoạt thì Nhiệt tại Hạ. Đó là Dương Nhiệt Thủy nhập Âm Hàn Huyết tại Trung Hạ phần. - Trầm Hoạt tại Hạ tương bác, Huyết kết bào môn, chứng Hà không tả: không trừ được chứng Hà thì Kinh Lạc không thông, gọi là Dương Nhiệt Thủy nhập Âm Hàn Kinh Huyết phần. 152
NGUYÊN VĂN (226) Hỏi rằng : Bệnh có Huyết phần, Thủy phần là thế nào ? Thầy nói : Kinh Thủy dứt trước rồi sau bệnh Thủy, gọi là Huyết phần đó là khó trị. Trước bệnh Thủy rồi sau Kinh Thủy mới dứt, gọi là Thủy phần,Kinh này dễ trị, cớ sao vậy ? Trừ được Thủy thì Kinh (nguyệt) tự ra. BẢN NGHĨA (14/18) * Đây, Thủy Khí nhập Đốc Xung Nhâm Kinh. - Đốc Kinh thọ Thủy làm cho Kinh Thủy dứt trước rồi sau bệnh Thủy, gọi là Huyết phần thọ Thủy. - Đốc Kinh chủ hành Nhiệt Huyết của Tâm Thận, thọ Thủy thì khó trị. - Xung Nhâm Kinh thọ Thủy làm cho trước bệnh thủy rồi sau Kinh Thủy mới dứt, gọi là Thủy phần thọ Huyết. - Xung Nhâm Kinh chủ hành Hàn Huyết ở Can Tỳ, thọ Thủy thì dễ trị, trừ được Thủy thì Kinh tự ra.
NGUYÊN VĂN (227) Hỏi rằng : Người bệnh khổ vì Thủy, mặt mắt thân thể tay chân đều thũng, tiểu tiện không thông, khi xem mạch không nói bệnh Thủy, trái lại nói đau trong ngực, Khí xung lên, yết giống như bị nướng thịt, nên có chứng ho suyễn nhẹ, xét lại đúng như lời thầy, mạch nó thuộc loại nào ? Thầy nói : Thốn khẩu mạch Trầm mà Khẩn, Trầm là Thủy, Khẩn là Hàn, Trầm Khẩn tương bác kết tại Quan Nguyên. Lúc mới mắc còn nhẹ, nhiều năm không biết, sau khi Dương suy, Doanh Vệ phạm nhau, Dương tổn Âm thịnh, kết Hàn động nhẹ, Thận Khí xung lên, yết hầu tắc nghẹn, dưới sườn đau ngặt. Thầy thuốc cho là lưu ẩm nên cho là xổ mạnh, Khí dính lại không đi, bệnh chứng không trừ, thầy thuốc lại còn cho thổ làm cho Vỵ hư, bứt rứt, họng khô muốn uống nước, tiểu tiện không lợi, cơm nước không tiêu, mặt mắt tay chân phù thũng.
153
Lại uống Đình Lịch hoàn để xổ Thủy, ngay lúc đó có bớt chút ít, ăn uống quá độ thũng trở lại như trước, ngực sườn đau khó chịu, tượng như Bôn đồn, chứng Thủy tràn lên thì nổi cơn ho suyễn nghịch. Phải trước tiên công kích xung khí cho dứt rồi trị ho, ho dứt thì suyễn tự bớt. Trị bệnh mới trước còn bệnh cũ trị sau. BẢN NGHĨA (14/19) * Đây, Thủy Khí nhập Đốc Xung Nhâm Lạc. - Mặt mắt thân thể tay chân đều thũng, tiểu tiện không thông: Thủy nhập các Lạc. - Trong ngực đau: do từ Cách Lạc nhập chỗ liên hệ của Xung Nhâm Đốc Lạc. - Khí xung lên, yết giống như bị nướng thịt, nên có chứng ho suyễn nhẹ: Thủy nhập Xung Nhâm Đốc Lạc. - Bệnh tại 3 Kỳ Kinh mạch của nó phân loại thế nào ? - Thốn khẩu mạch Trầm thì là Thủy: Dương Hàn Thủy nhập Tấu. Khẩn thì là Hàn: tại Tấu Âm Nhiệt thọ Dương Hàn. - Trầm Khẩn tương bác kết tại Quan Nguyên: 3 Kỳ Kinh một nguồn mà 3 nhánh. - Lúc đầu bệnh còn đương tại Kinh Khí nên nhiều năm không biết. - Sau khi Dương suy tức Âm Nhiệt suy. - Vinh bị Vệ xâm phạm, Âm Nhiệt là Dương che chở bên ngoài, ngày càng hao tổn, Dương Hàn là Âm ngày càng thạnh. Hàn kết Quan nguyên độn đến Thận Khí xung lên, yết hầu tắc nghẽn, dưới sườn đau ngặt là Đốc Xung Nhâm Lạc bệnh. - Thầy thuốc cho là lưu ẩm: nói Thủy tại Kinh Khí mà cho xổ mạnh; Khí cùng với Kinh Lạc ràng buộc nhau không đi, bệnh không trừ. - Lại thêm cho Thổ, Vỵ gia hư phiền: làm tổn thương Vỵ Khí là chủ ở Cách. - Yết ráo muốn uống nước: tổn thương Xung Lạc. - Tiểu tiện không lợi: tổn thương Đốc Lạc. - Cơm nước không tiêu, mặt mắt tay chân phù thũng: tổn thương Nhâm Lạc. - Lại uống Đình Lịch hoàn để xổ Thủy, lúc đó bệnh như hơi bớt, là vì vẫn trị Thủy tại Kinh Khí nên không trị được Thủy trong Lạc. 154
- Ăn uống quá độ thũng trở lại như trước: Vỵ Khí lại thọ thương. - Ngực sườn đau khó chịu, giống như Bôn đồn: Xung Nhâm Lạc lại thọ thương. - Thủy tràn lên thì ho suyễn: Đốc Lạc lại thọ thương. - Nên trước công kích Xung Khí cho dứt: trị Thủy Khí tại Lạc hệ ở Khí. - Rồi trị đến ho, ho dứt thì suyễn tự bớt: trị Thủy Khí tại Lạc hệ ở Kinh. - Trước trị bệnh mới sinh, rồi sau trị bệnh cũ do các Kỳ Kinh thọ Thủy Khí. *Nguyên trước khi bệnh nói: mới đầu còn tại Kinh Khí và lúc thanh xuân Khí Huyết cường tráng nên không biết. Đến tuổi trung niên, sau khi Dương suy Âm Nhiệt suy mà biến chứng đua nhau sinh khởi, lại gặp thầy thuốc tầm thường không rõ nhân do của Khí Kinh Lạc, thấy bệnh ở đầu trị đầu, thấy bệnh ở chân trị chân, chỉ trị ngọn không lưu tâm đến căn bản.
NGUYÊN VĂN (228) Phong Thủy mạch Phù, mình nặng đổ mồ hôi, sợ gió, Phòng Kỷ Hoàng Kỳ thang làm chủ, bụng đau gia Bạch Thược (xem phương ở chương Kỉnh -Thấp – Yết , tiết 39). BẢN NGHĨA (14/20) * Đây, Phong Thủy do Thái Dương Hàn Khí. - Mạch Phù: Âm Nhiệt xuất Ngoại. - Mình nặng: Dương Hàn nhập Nội. - Đổ mồ hôi, sợ gió: Âm Nhiệt hư mà ra mồ hôi nên Dương Hàn nhập vào mà sợ gió. - Phòng Kỷ Hoàng Kỳ thang làm chủ, bụng đau gia Bạch Thược: kiêm trị Âm Nhiệt.
NGUYÊN VĂN (229) Phong Thủy sợ gió, khắp mình sưng thũng, mạch Phù không khát, liên tục tự đổ mồ hôi, mình không nóng lắm, Việt Tỳ thang làm chủ. Sợ gió gia Phụ Tử, Phong Thủy gia Bạch Truật.
.
155
VIỆT TỲ THANG PHƯƠNG Ma Hoàng 6 lạng, Thạch Cao ½ cân, Cam Thảo 2 lạng, Sinh Khương 3 lạng, Đại Táo 12 trái 5 vị trên, nước 6 thăng, trước nấu Ma Hoàng vớt bỏ bọt, cho các thuốc vào nấu lấy 2 thăng, chia uống ấm 3 lần. Sợ gió gia Phụ Tử 1 củ, Phong Thủy gia Bạch Truật 4 lạng. BẢN NGHĨA (14/21) * Đây, Phong Thủy do Thiếu Âm Nhiệt Khí. - Sợ gió: Tấu Khí hư. - Khắp mình sưng thũng: Tấu hiệp Thượng Hạ Nội Ngoại. - Mạch Phù không khát: Dương Hàn tại Tấu. - Liên tục ra mồ hôi mình không nóng lắm: Âm Nhiệt tại Tấu. - Việt Tỳ thang làm chủ. Sợ gió gia Phụ Tử: trị Dương Hàn tại Tấu. Phong Thủy gia Bạch Truật: trị Âm Nhiệt tại Tấu.
NGUYÊN VĂN (230) Bì Thủy làm bệnh tứ chi thũng, Thủy Khí rung động trong Bì Phu, Phòng Kỷ Phục Linh thang làm chủ. PHÒNG KỶ PHỤC LINH THANG PHƯƠNG Phòng Kỷ, Hoàng Kỳ, Quế Chi mỗi vị 3 lạng
Phục Linh 6 lạng
Cam Thảo 2 lạng
5 vị trên, nước 6 thăng, sắc còn 3 thăng, chia uống ấm 3 lần. BẢN NGHĨA (14/22) * Đây, Thủy Khí từ Biểu vào Lý.(thọ Biểu Dương Hàn nhập vào mà làm bệnh Thủy). - Nhiệt Thủy Khí tại Lý do Hàn Thủy ở Bì Phu nhưng có khác, trong Hàn có Nhiệt cho nên Bì Phu rung động. - Phòng Kỷ Phục Linh thang kiêm trị. 156
NGUYÊN VĂN (231) Lý Thủy, Việt Tỳ gia Truật thang làm chủ (Việt Tỳ gia Truật xem ở trước). Cam Thảo Ma Hoàng thang cũng làm chủ. CAM THẢO MA HOÀNG THANG PHƯƠNG Cam Thảo 2 lạng
Ma hoàng 4 lạng
Nước 5 thăng, trước nấu Ma Hoàng vớt bỏ bọt, cho Cam Thảo vào nấu lấy 2 thăng, uống ấm 1 thăng, đắp chăn cho ra mồ hôi lại uống lần nữa. Cẩn thận không để bị gió lạnh. BẢN NGHĨA (14/23) * Đây, Thủy Khí từ Lý ra Biểu (thọ Lý Âm Nhiệt xuất ra mà làm bệnh Thủy). - Hàn Thủy tại Biểu là do Nhiệt Thủy tại Lý mà đến. - Trị Lý Nhiệt Thủy: Việt Tỳ gia Truật thang. - Trị Biểu Hàn Thủy: Cam Thảo Ma Hoàng thang.
NGUYÊN VĂN (232) Thủy ‘chi vi’ bệnh, mạch Trầm Tiểu thuộc Thiếu Âm, mạch Phù là Phong, là không có Thủy; hư trướng là Khí, hai chứng này cho Phát hạn liền dứt. Mạch Trầm nên dùng Ma Hoàng Phụ Tử Cam Thảo thang. Mạch Phù nên dùng Hạnh Tử thang. MA HOÀNG PHỤ TỬ CAM THẢO THANG PHƯƠNG Ma Hoàng 3 lạng
Phụ Tử 1 củ (bào)
Cam Thảo 2 lạng
3 vị trên, nước 7 thăng, trước nấu Ma Hoàng vớt bỏ bọt, cho các thuốc vào nấu 2 thăng rưỡi, uống ấm 8 cáp, ngày 3 lần. HẠNH TỬ THANG PHƯƠNG (Tức Ma Hạnh Thạch Cam thang) BẢN NGHĨA (14/24) *Đây, Thủy Khí tại Tấu. - Phàm Thủy bệnh mạch Trầm Tiểu: Thiếu Âm tại Tấu hư. 157
Phù là: Thiếu Âm tại Tấu thực. Hư trướng là: Thiếu Âm tại Tấu hư. Hai chứng này đều có thể Phát hạn liền dứt. - Mạch Trầm là Thiếu Âm tại Tấu có Thủy tức Nhiệt Khí yếu. Ma Hoàng Phụ Tử Cam Thảo thang làm chủ. - Mạch Phù là Thiếu Âm tại Tấu có Khí tức Nhiệt Khí mạnh. Hạnh Tử thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (233) Bì Thủy mà Quyết, Bồ Khôi tán làm chủ. BẢN NGHĨA (14/25) * Đây, Thủy Khí tại Cách. - Quyết là Thủy tại Cách. - Bì Thủy tức do Lý Thủy là tổng xưng của 5 chứng Thủy. - Bồ Khôi tán làm chủ.
NGUYÊN VĂN (234) Hỏi rằng : bệnh Hoàng hãn, thân thể thũng phát sốt, đổ mồ hôi mà khát như trạng Phong Thủy, mồ hôi ra ướt áo màu thật vàng như nước trấp Hoàng Bá. Mạch tự Trầm do đâu mắc phải ? Thầy nói : vì lúc ra mồ hôi vào trong nước tắm rửa, nước theo lổ chân lông vào mà mắc bệnh, nên dùng Hoàng Kỳ Bạch Thược Quế Chi Khổ Tửu thang làm chủ. HOÀNG KỲ BẠCH THƯỢC QUẾ CHI KHỔ TỬU THANG PHƯƠNG Hoàng Kỳ 5 lạng
Bạch Thược, Quế Chi mỗi vị 3 lạng
3 vị trên, dùng Khổ Tửu (dấm) 1 thăng, nước 7 thăng hiệp lại nấu còn 3 thăng uống ấm 1 thăng, uống thuốc vào thì Tâm phiền đến 6 – 7 ngày thì giải, Tâm phiền không dứt là vì Khổ tửu làm trở ngại. 158
BẢN NGHĨA (14/26) * Đây, Túc Âm Huyết chú nhập Túc Dương Thủy tại Cách. - Bệnh Hoàng hãn thân thể thũng: Huyết thũng không phải Thủy thũng. - Phát sốt đổ mồ hôi mà khát: Âm Nhiệt tại Tấu. - Trạng như Phong Thủy: Phong Thủy là Thủy nhập Huyết Kinh. Hoàng Hãn là Huyết nhập Thủy Kinh, cho nên nói là ‘như ’. - Mồ hôi ướt áo mà vàng như nước trấp Hoàng Bá: Huyết tại Cách thọ Thủy làm ra. - Mạch tự Trầm: Huyết Thủy kết tại Cách. - Vì sao như vậy: Âm Huyết do Cách mà xuất, Dương Thủy do Cách mà nhập, Cách Khí hư không thể bí biệt (lựa chọn chia riêng), Hoàng Kỳ Bạch Thược Quế Chi Khổ tửu thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (235) Bệnh Hoàng hãn, hai ống chân tự lạnh, nếu như phát sốt đấy là thuộc Lịch tiết, ăn rồi đổ mồ hôi lại thân thường ra mồ hôi trộm, đó là thuộc Vinh Khí. Nếu như đổ mồ hôi rồi, trái lại phát sốt, lâu ngày thân mình ắt đóng vẩy, phát sốt không dứt thì ắt sinh ác sang. Nếu như mình nặng đổ mồ hôi rồi, thân liền nhẹ nhàng, lâu ngày ắt mình máy giật tức trong ngực đau, lại nửa từ eo lưng trở lên ra mồ hôi, phía dưới không mồ hôi, eo lưng, khớp chân đau rã rời trạng như có vật ở trong da, nặng hơn thì không ăn được, mình nhức nặng, bứt rứt vật vã, tiểu tiện không lợi đó là Hoàng hãn, Quế Chi gia Hoàng Kỳ thang làm chủ. QUẾ CHI GIA HOÀNG KỲ THANG PHƯƠNG Quế Chi, Bạch Thược mỗi vị 3 lạng
Cam Thảo, Hoàng Kỳ mỗi vị 2 lạng
Sinh Khương 3 lạng
Đại Táo 12 trái
6 vị trên, nước 8 thăng nấu lấy 3 thăng, uống ấm 1 thăng, chốc lát húp 1 thăng cháo nóng để trợ sức thuốc, đắp chăn cho hơi ra mồ hôi, nếu chưa ra mồ hôi lại uống tiếp. .
159
BẢN NGHĨA (14/27) * Đây, Túc Âm Huyết chú nhập Túc Dương Thủy tại Tấu. - Ống chân lạnh phát sốt: đó là Bào Huyết thọ Thủy làm Lịch Tiết. - Thân mình thường ra mồ hôi trộm: đó là Tâm Huyết thọ Thủy làm Vinh Khí. - Đổ mồ hôi trái lại phát sốt, lâu ngày mình nổi vẩy, phát sốt không dứt sẽ sinh ác sang: đó là tại Biểu Nhiệt Kinh Huyết thọ Thủy. - Mình nặng đổ mồ hôi liền nhẹ, da thịt máy giật, trong ngực đau: đó là tại Biểu Hàn Kinh Huyết thọ Thủy. - Từ eo lưng trở lên có mồ hôi, dưới không mồ hôi, eo lưng, khớp chân đau rã rời, trạng như có vật ở trong da: đó là tại Tấu Hàn Kinh Huyết thọ Thủy. - Không ăn được, mình nặng bứt rứt vật vã, tiểu tiện không lợi: đó là tại Tấu Nhiệt Kinh Huyết thọ Thủy. Như thế đều là chứng Hoàng hãn dùng Quế Chi gia Hoàng Kỳ thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (236) Thầy nói : thốn khẩu mạch Trì mà Sáp, Trì thì là Hàn, Sáp thì là Huyết không đủ. Phu Dương mạch Vi mà Trì, Vi thì là Khí, Trì thì là Hàn, ‘Hàn khí bất túc’ thì tay chân nghịch lãnh, tay chân nghịch lãnh tức là Vinh Vệ không lợi thì bụng đầy, ruột sôi đuổi nhau, Khí chuyển Bàng Quang Vinh Vệ đều lao. Dương Khí không thông thì thân mình lạnh, Âm Khí không thông thì xương nhức. Dương thông trước thì sợ lạnh, Âm thông trước thì tê mất cảm giác, Âm Dương tương đắc thì Khí mới hành; một lần Đại Khí chuyển thì Khí mới phân tán, thực thì đánh rấm, hư thì són đái gọi là Khí phần. BẢN NGHĨA (14/28) * Đây, Túc Âm Huyết chú nhập Túc Dương Thủy tại Biểu tại Lý. - Thốn khẩu mạch Trì là Hàn Thủy, mà Sáp là Huyết không đủ; đây là Huyết tại Thượng phần thọ Thủy. - Phu Dương mạch Vi thì là Khí: Nhiệt Khí hư; Trì thì là Hàn: Hàn Thủy thực. 160
Đây là Huyết tại Trung Hạ phần thọ Thủy. - Thủy nhập Huyết thì Huyết Hàn, Huyết thọ Thủy thì Khí bị trở ngại: gọi là ‘Hàn Khí bất túc’. - Tại Biểu Huyết Hàn thì tay chân nghịch lãnh. - Tại Cơ Huyết Hàn thì Vinh Vệ không lợi. - Tại Lý Huyết Hàn thì bụng đầy ruột sôi. - Tại Hạ thì Thủy Huyết đuổi nhau, Khí chuyển Bàng Quang. - Tại Thượng thì Thủy Huyết tương bác Vinh Vệ đều lao. - Thủy Huyết tại Ngoại thọ Dương Hàn thì mình lạnh, Tại Nội thọ Âm Nhiệt thì xương nhức. - Riêng Dương Thủy thông trước thì sợ lạnh. - Riêng Âm Huyết thông trước thì tê mất cảm giác. Dương Thủy Âm Huyết có tương đắc thì Khí của nó mới phân bố khắp châu thân. - Đại Khí là Thiếu Âm Nhiệt Khí tại Tấu. Tại Tấu một lần đại Khí chuyển thì Khí này mới phân tán ở Biểu Lý. Cho nên, tại Tấu Nhiệt Khí thực thì bệnh Huyết làm ra đánh rấm. Tại Tấu Nhiệt Khí hư thì bệnh Thủy làm ra són đái. - Tên gọi Khí phần: Ý nói tại Tấu gồm hết Thủy Khí phần.
NGUYÊN VĂN (237) Khí phần, dưới Tâm như cái mâm, bìa như vành mâm, Quế Chi Phụ Tử Ma Hoàng Tế Tân Sinh Khương Đại Táo Cam Thảo thang làm chủ. QUẾ CAM TÂN KHƯƠNG PHỤ TỬ MA HOÀNG ĐẠI TÁO THANG PHƯƠNG Quế Chi, Sinh Khương mỗi vị 3 lạng
Tế Tân, Cam Thảo, Ma Hoàng mỗi vị 2 lạng
Phụ Tử 1 củ
Đại Táo 12 trái
161
7 vị trên, nước 7 thăng, trước nấu Ma Hoàng vớt bỏ bọt, cho các thuốc vào nấu lấy 2 thăng, chia uống ấm 2 lần. Nên đổ mồ hôi và cảm giác như có sâu bò trong da thì khỏi . BẢN NGHĨA (14/29) * Đây, Tại Tấu Khí phần hư. - Dưới Tâm như cái mâm: Khí hư cho nên Huyết không hành. - Bìa như cái vành mâm: Khí hư cho nên Thủy không hành. - Quế Chi Ma Hoàng Tế Tân Phụ Tử Sinh Khương Cam Thảo Đại Táo thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (238) Dưới Tâm cứng lớn như cái mâm, bìa như cái vành mâm do Thủy Ẩm làm ra, Chỉ Thực Bạch Truật thang làm chủ. CHỈ THỰC BẠCH TRUẬT THANG PHƯƠNG Chỉ Thực 7 trái
Bạch Truật 2 lạng
2 vị nước 5 thăng nấu lấy 3 thăng, mỗi lần uống 1 thăng, ngày 3 lần trong bụng mềm thì bệnh tan. BẢN NGHĨA (14/30) * Đây, tại Tấu Khí hư mà Thủy Huyết không hành. - Dưới Tâm cứng lớn như cái mâm: Tấu Huyết không hành. - Bìa như cái vành mâm, Thủy Ẩm làm nên: Tấu Thủy không hành. - Chỉ Thực Bạch Truật thang làm chủ.
(Trên đây, chương thứ 14, 30 tiết, luận Thủy Khí Bệnh) 162
TẠP BỆNH LUẬN QUYỂN VII __________________________________ CHƯƠNG 15:
BỆNH HOÀNG ĐẢN
(24 Tiết, từ 239 đến 262) LUẬN TỲ 1- Tỳ làm nguyên do bệnh Hoàng đãn. 2- Tỳ Huyết thọ Âm Hàn làm Cốc đãn. 3- Tỳ Huyết thọ Âm Nhiệt làm Nữ lao đãn. 4- Tỳ Huyết thọ Dương Nhiệt làm Tửu đãn. 5- Tỳ Huyết thọ Dương Hàn dục (muốn làm) Cốc đãn. 6- Tỳ Huyết thọ Thủy tại Tấu. 7- Tỳ Huyết thọ Thủy tại Tấu Nội Ngoại. 8- Tỳ Huyết thọ Thủy tại Cách. 9- Tỳ Huyết thọ Thủy tại Cách Thượng Hạ. 10- Tỳ Huyết thọ Thủy nhập Xung Kinh. 11- Tỳ Huyết thọ Thủy nhập Đốc Kinh. 12- Tỳ Huyết thọ Thủy nhập Nhâm Kinh. 13- Nhật số của Tỳ Kinh tại Tấu hành ở Nội Ngoại. 14- Nhật số của Tỳ Kinh tại Cách với Tấu. 15- Tỳ thọ Thái Dương Thủy làm Cốc đãn. 16- Tỳ thọ Thiếu Âm Huyết làm Nữ Lao đãn. 17- Tỳ Huyết nhập Thủ Dương Kinh làm đãn. 18- Thủ Dương Kinh Thủy nhập Tỳ làm đãn. 19- Thủ Âm Kinh Huyết nhập Tỳ làm đãn. 20- Túc Dương Kinh Thủy nhập Tỳ làm đãn. 21- Túc Âm Kinh Huyết nhập Tỳ làm đãn. 22- Tỳ Huyết nhập Túc Âm Kinh làm đãn. 23- Tỳ Huyết nhập Túc Dương Kinh làm đãn. 24- Tỳ Huyết nhập Thủ Âm Kinh làm đãn.
NGUYÊN VĂN (239) Thốn khẩu mạch Phù mà Hoãn, Phù thì là Phong, Hoãn thì là Tý, Tý chẳng phải Trúng Phong, tay chân bứt rứt rất khó chịu, màu sắc của Tỳ ắt vàng, do ứ Nhiệt làm ra.
163
BẢN NGHĨA (15/1) * Đây, Tỳ làm nguyên do bệnh Hoàng Đãn. - Thốn khẩu mạch Phù là Phong: Âm Nhiệt hư xuất Ngoại. - Hoãn thì là Tý: Tỳ gốc thuộc Âm Hàn Kinh ắt tùy Âm Nhiệt xuất Ngoại làm mạch Hoãn,Phong Tý vậy. - Tỳ chẳng phải Trúng Phong: Phong Tý của Thái Dương tại Ngoại. - Tay chân bứt rứt khó chịu: thọ Phong Tý của Thiếu Âm tại Nội. - Màu sắc Tỳ ắt vàng do ứ Nhiệt làm ra: Tỳ sở dĩ làm bệnh Hoàng Đãn là Tỳ gốc sắc vàng thọ ứ của Âm Nhiệt ở trong rồi đi ra ngoài.
NGUYÊN VĂN (240) Phu Dương mạch Khẩn mà Sác, Sác thì là Nhiệt, Nhiệt thì tiêu hóa thức ăn, Khẩn thì là Hàn, ăn vào liền bị đầy. Xích mạch Phù là tổn thương Thận. Phu Dương mạch Khẩn là thươngTỳ. Phong Hàn tương bác, ăn cơm liền xây xẩm, cốc Khí không tiêu, trong Vỵ khó chịu vì chất dơ, trọc Khí chảy xuống, tiểu tiện không thông. Âm riêng bị Hàn, Nhiệt chảy vào Bàng Quang, cả người đều vàng, tên gọi Cốc đãn. BẢN NGHĨA (15/2) * Đây, Tỳ Huyết thọ Âm Hàn làm Cốc Đãn. - Phu Dương mạch Sác là Nhiệt thì tiêu hóa thức ăn: Nói Tỳ thọ Âm Nhiệt nên tiêu hóa thức ăn. - Mạch Khẩn là Hàn, ăn vào liền bị đầy: Nói Âm Nhiệt hư thì Tỳ Hàn, ăn vào liền bị đầy. - Xích mạch Phù là tổn thương Thận: Âm Nhiệt hư. - Phu Dương mạch Khẩn là thương Tỳ: là Tỳ Âm Hàn thực. - Phong Hàn tương bác: Phong là Âm Nhiệt, Hàn là Âm Hàn. 164
Phong bị Hàn đánh bạt nên ăn cơm vào liền xây xẩm. - Tỳ nhờ Vỵ lưu hành tân dịch, Tỳ Hàn thì trọc Khí trong Vỵ chảy xuống cho nên tiểu tiện không thông. - Tỳ là Âm phần Hàn Nhiệt đầy đủ, nay chỉ ‘bị’ Hàn mà không bị Nhiệt, cho nên Nhiệt chảy vào Bàng Quang mà cả người đều vàng, tên gọi Cốc Đãn.
NGUYÊN VĂN (241) Trên trán đen hơi đổ mồ hôi, lòng bàn tay chân nóng, gần tối thì phát, Bàng Quang đau ngặt, tiểu tiện tự lợi, tên gọi Nữ lao đãn, bụng như trạng bệnh Thủy là không trị được. BẢN NGHĨA (15/3) * Đây, Tỳ Huyết thọ Âm Nhiệt làm Nữ Lao Đãn. - Trên trán đen hơi đổ mồ hôi: Tỳ Huyết thọ Tâm Âm Nhiệt. - Lòng bàn tay chân nóng, gần tối thì phát: Tỳ Huyết thọ Thận Âm Nhiệt. - Bàng Quang đau ngặt: bởi cớ Nhiệt chảy xuống Bàng Quang. - Tiểu tiện tự lợi: bởi cớ Âm bị Hàn. - Tên gọi Nữ Lao Đản: bệnh tại Tỳ Thận Âm Huyết. - Bụng như trạng bệnh Thủy là không trị được: Huyết bệnh dẫn tới Thủy bệnh; Thủy Huyết cùng bệnh cho nên không trị được.
NGUYÊN VĂN (242) Trong Tâm áo nùng (buồn bực) mà sốt không ăn được, có lúc muốn mửa, tên gọi Tửu đãn. BẢN NGHĨA (15/4) * Đây, Tỳ Huyết thọ Dương Nhiệt Thủy làm Tửu Đãn. - Trong Tâm buồn bực mà sốt, không ăn được: Tỳ Huyết thọ Dương Nhiệt Thủy. - Có lúc muốn mửa: Dương Nhiệt Thủy thọ Tỳ Hàn. Tên gọi Tửu Đãn. 165
NGUYÊN VĂN (243) Dương Minh bệnh mạch Trì, khó ăn cơm no, no thì hơi bứt rứt, đầu xây xẩm, tiểu tiện ắt khó, đó là muốn làm Cốc đãn, tuy cho Hạ bụng đầy như cũ, vì sao như vậy ? vì bởi mạch Trì. BẢN NGHĨA (15/5) * Đây, Tỳ Huyết thọ Dương Hàn Thủy muốn làm Cốc Đãn. - Đầu xây xẩm: bởi cớ Âm Kinh tại Thượng. - Tiểu tiện ắt khó: bởi cớ Dương Kinh tại Hạ. - Đó là muốn làm Cốc Đãn: thọ Âm phần Hàn Nhiệt thì làm Cốc Đãn, Còn thọ Dương phần Hàn Nhiệt thì ‘muốn’ làm Cốc Đãn. - Cho Hạ bụng đầy như cũ: lưỡng Hàn hiệp bệnh. - Sở dĩ như vậy là vì mạch Trì; nên khảo sát duyên cớ của nó: Dương Hàn gốc ở Âm Hàn. Âm Hàn lại gốc ở Dương Hàn. Cho nên Dương Minh ‘thừa’ Thái Dương. Cho nên Tạp Bệnh ‘thừa’ Thương Hàn.
NGUYÊN VĂN (244) Bệnh Tửu Hoàng đãn, ắt tiểu tiện không lợi, xem thấy trong Tâm nóng, dưới bàn chân nóng, đấy là chứng của nó. BẢN NGHĨA (15/6) * Đây, Tỳ Huyết thọ Dương Hàn Dương Nhiệt Thủy tại Tấu. - Tửu là nói Dương Nhiệt Thủy. - Hoàng Đãn là nói Dương Hàn Thủy. - Ắt tiểu tiện không lợi: Hàn Nhiệt Thủy hiệp bệnh. - Trong Tâm nóng, dưới bàn chân nóng: Hàn nhập Nội thì Nhiệt, tùy Kinh mà ra Ngoại. 166
NGUYÊN VĂN (245) Tửu Hoàng đãn, hoặc không sốt, nói năng tỉnh táo, bụng đầy muốn mửa, mũi ráo, mạch Phù nên trước cho Thổ, mạch Trầm Huyền nên trước cho Hạ. BẢN NGHĨA (15/7) * Đây, Tỳ Huyết thọ Dương Hàn Dương Nhiệt Thủy tại Nội Ngoại của Tấu. - Tửu Hoàng Đãn: xem chú ở trước. - Hoặc không sốt: Dương Hàn Thủy. - Nói năng tĩnh táo: Dương Nhiệt Thủy. - Bụng đầy: tại Tấu Nội. - Muốn mửa, mũi ráo: tại Tấu Ngoại. - Mạch Phù: tại Tấu Ngoại nên cho Thổ trước. - Mạch Trầm Huyền: tại Tấu Nội nên cho Hạ trước. Chữ ‘trước’ là nói lúc còn ở Nội Ngoại nên trị, để không nhập Tấu.
NGUYÊN VĂN (246) Bệnh Tửu đãn trong Tâm nóng muốn mửa, cho mửa thì khỏi. BẢN NGHĨA (15/8) * Đây, Tỳ Huyết thọ Dương Hàn Dương Nhiệt Thủy tại Cách. - Cho mửa thì khỏi: bệnh tại Thượng trị Thượng.
NGUYÊN VĂN (247) Bệnh Tửu đãn cho Hạ, lâu ngày làm thành Hắc đãn, mắt xanh, mặt đen trong Tâm giống như trạng ăn tỏi, đại tiện thật đen, da thịt cào vào không có cảm giác, mạch Trầm Nhược, tuy đen mà hơi vàng cho nên biết là nó.
167
BẢN NGHĨA (15/9) * Đây, Tỳ Huyết thọ Dương Hàn Dương Nhiệt Thủy tại Thượng Hạ của Cách. - Tửu Đãn cho Hạ: nói Hàn Nhiệt Thủy nhập Cách. - Lâu ngày làm thành Hắc Đãn: do Cách vào Tỳ. Do Tỳ vào Thận làm thành Hắc Đãn. - Mắt xanh: Thủy, mặt đen là Huyết. - Trong Tâm như trạng ăn tỏi: Thủy Huyết hiệp bệnh. Đều là tại Cách làm ra. - Đại tiện thật đen: do Cách mà ra. - Da thịt càu vào không cảm giác: do Cách mà ra Ngoại. - Mạch Trầm Nhược: Cách Khí hư. - Tuy đen mà hơi vàng cho nên biết: bệnh do Tỳ Huyết tại Cách dẫn đến.
NGUYÊN VĂN (248) Thầy nói : bệnh Hoàng đãn, phát sốt phiền khát, ngực đầy miệng ráo, là vì lúc phát bệnh dùng lửa cưỡng ép phát hãn, hai cái nóng gặp nhau, tuy nhiên người mắc bệnh ‘Hoàng gia’ theo Thấp mắc phải, cả người phát sốt mà vàng, bụng nóng nhiệt tại Lý, nên cho Hạ. BẢN NGHĨA (15/10) * Đây, Tỳ Huyết thọ Thủy nhập Xung Kinh. - Bệnh Hoàng Đãn: Tỳ Huyết thọ Thủy. - Phát sốt phiền khát: tại Tấu Xung Kinh thọ Tỳ Thủy Huyết. - Ngực đầy miệng ráo: tại Cách Xung Kinh thọ Tỳ Thủy Huyết. - Dùng lửa cưỡng ép phát hãn, hai cái nóng gặp nhau: nói lúc bệnh tại Tấu còn dùng lửa bên ngoài cưỡng ép phát hãn. - Lúc bệnh tại cách ‘Hoàng gia’ là do Nội Thấp mà mắc phải. 168
- Cả người phát sốt mà vàng: Xung Kinh tại Tấu thọ Tỳ Thủy Huyết mà đi ra ngoài làm vàng da. - Bụng nóng Nhiệt tại Lý: Xung Kinh tại Cách thọ Tỳ Thấp mà hành ở Lý làm vàng da. Hai chứng này đều nên cho Hạ.
NGUYÊN VĂN (249) Mạch Trầm, khát muốn uống nước, tiểu tiện không lợi, đều phát vàng. BẢN NGHĨA (15/11) *Đây, Tỳ Huyết thọ Thủy nhập Đốc Kinh. - Mạch Trầm: Tỳ Huyết thọ Hàn Thủy. - Khát muốn uống nước: Tỳ Huyết thọ Nhiệt Thủy. - Tiểu tiện không lợi: Đốc Kinh thọ Tỳ Thủy Huyết. - Đều là nguyên do phát vàng: chẳng phải riêng một Đốc Kinh.
NGUYÊN VĂN (250) Bụng đầy, lưỡi vàng héo, vật vã không ngủ được thuộc Hoàng gia (bệnh vàng da kinh niên). BẢN NGHĨA (15/12) * Đây, Tỳ Huyết thọ Thủy nhập Nhâm Kinh. - Bụng đầy: Tỳ Huyết thọ Thủy. - Lưỡi vàng héo: Nhâm Kinh thọ Hàn của Tỳ Huyết. - Vật vã không ngủ được: Nhâm Kinh thọ Nhiệt của Tỳ Huyết. - Thuộc vàng da: chỉ cần trị Tỳ Huyết thọ Hàn Nhiệt của Thủy,mà Nhâm Kinh tự dứt.
.
169
NGUYÊN VĂN (251) Bệnh Hoàng đãn nên lấy 18 ngày làm kỳ hạn để trị, 18 ngày trở lên bệnh nên bớt, trái lại nặng hơn là khó trị. BẢN NGHĨA (15/13) * Đây, nhật số của Tỳ Kinh do Tấu mà hành Nội Ngoại. - Tỳ với các Kinh lưu chuyển Nội Ngoại 1 chu kỳ là 12 ngày,nay nói 18 ngày là ngày tái Kinh tại Tấu. - Bệnh nên bớt là ngày tại Tấu, từ Âm ra Dương. - Nặng hơn là khó trị: ngày tại Tấu, từ Dương vào Âm (6 ngày là 1 kỳ, Tấu nhập Nội, Tấu xuất Ngoại là 2 kỳ, tái Kinh lại nhập Tấu 1 kỳ, gọi là tái tức 3 kỳ vậy).
NGUYÊN VĂN (252) Bệnh Đãn (vàng da) mà khát là khó trị ; Bệnh Đãn mà không khát là có thể trị. Phát ở Âm bộ người bệnh ắt ói; phát ở Dương bộ người bệnh lạnh run mà phát sốt. BẢN NGHĨA (15/14) * Đây, Tỳ Kinh do Cách mà hành ở Thượng Hạ, Nội Ngoại. (Nhật số của Tỳ Kinh, tại Cách với Tấu). - Phàm 12 Kinh đều tụ hội ở Cách, cho nên bất luận Kinh nào, ắt tại Cách cũng nhận lấy chỗ tòng Âm, tòng Dương của nó, như: Bệnh Đãn mà khát là tại Cách tòng Thiếu Âm, bệnh Đãn này khó trị. Bệnh Đãn mà không khát là tại Cách tòng Thái Dương, bệnh Đãn này có thể trị. Đây là do Cách mà hành ở Nội Ngoại. - Phát ở Âm bộ ắt ói: tòng Thiếu Âm tại Hạ. - Phát ở Dương bộ ắt lạnh run phát sốt: tòng Thái Dương tại Thượng. Đây do Cách mà hành ở Thượng Hạ.
170
*Nói nhật số hành Kinh theo bệnh mà tính toán. Biểu bệnh theo Nội Ngoại tính, Lý bệnh theo Thượng Hạ tính, Nội Ngoại Thượng Hạ cùng hành mà không sai trái.
NGUYÊN VĂN (253) Bệnh Cốc đãn nóng lạnh không ăn, ăn thì đầu xây xẩm, Tâm ngực không an, lâu ngày phát vàng làm Cốc đãn, Nhân Trần Cao thang làm chủ. NHÂN TRẦN CAO THANG PHƯƠNG Nhân Trần 6 lạng
Đại Hoàng 3 lạng
Chi Tử 14 trái
3 vị trên, nước 1 đấu, trước nấu Nhân Trần nước còn 6 thăng, cho 2 vị vào nấu lấy 3 thăng bỏ bả, chia uống ấm 3 lần. Tiểu tiện nên lợi, nước tiểu như nước trấp Tạo giác màu thật đỏ, qua 1 đêm bụng giảm, màu vàng được trừ theo tiểu tiện. BẢN NGHĨA (15/15) * Đây, Tỳ Huyết theo Dương phần Hàn Nhiệt làm Cốc Đãn. - Nóng lạnh không ăn: Hàn Nhiệt nhập Tỳ. - Ăn vào đầu xây xẩm: Tỳ Huyết theo Dương tà hành ở trên. - Tim ngực không an: Tỳ Huyết theo Dương tà bế ở Nội. - Lâu ngày phát vàng làm Cốc Đãn: Tỳ Huyết theo Dương tà, lâu lâu phát ra ngoài, Nhân Trần Cao thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (254) Hoàng gia, xế chiều phát sốt mà trái lại sợ lạnh, đấy là do Nữ lao mắc phải, Bàng Quang đau ngặt, bụng dưới đầy, khắp mình vàng, trên trán đen, lòng bàn chân nóng, nhân đó làm Hắc đãn, bụng người bệnh trướng như trạng bệnh Thủy, đại tiện ắt đen có lúc đi lỏng, đấy là bệnh Nữ lao chẳng phải bệnh Thủy, bụng đầy là khó trị, Tiêu Thạch Phàn Thạch Tán làm chủ.
171
TIÊU THẠCH PHÀN THẠCH TÁN PHƯƠNG Tiêu Thạch rang vàng, Phàn Thạch đốt : 2 vị bằng nhau. 2 vị tán nhuyễn hòa uống với nước trấp cháo Đại Mạch, 1 thìa phương thốn, ngày 3 lần, bệnh được trừ theo đường đại tiểu tiện. Tiểu tiện màu thật vàng, đại tiện màu thật đen, là dấu hiệu để xét. BẢN NGHĨA (15/16) * Đây, Tỳ Huyết thọ Âm phần Hàn Nhiệt làm Nữ lao đãn. - Vàng da, xế chiều phát sốt: thọ Âm Nhiệt. - Mà trái lại sợ lạnh: thọ Âm Hàn. - Đấy là Tỳ Huyết mắc bệnh ở Âm phần Hàn Nhiệt làm Nữ Lao Đãn. - Bàng Quang đau ngặt, bụng dưới đầy, khắp mình vàng: đấy là Tỳ Huyết thọ Âm tà hành ở các Dương Kinh. - Trên trán đen nhân đó làm Hắc Đãn: bệnh tại Tỳ Lạc nhân đó lan đến Thận Lạc. - Bụng người bệnh trướng như trạng bệnh Thủy: bệnh tại Tỳ Lạc nhân đó lan tới Can Lạc. - Đại tiện ắt đen, có lúc đi lỏng: đây là Tỳ Huyết thọ Âm tà hành ở các Âm Kinh. - Đây là bệnh Nữ Lao Huyết trướng chẳng phải bệnh Thủy trướng. - Bụng đầy là khó trị: do Lạc đến Kinh có thể trị, từ Kinh đến Lạc không trị được. - Tiêu Thạch Phàn Thạch tán làm chủ: Kinh Lạc tinh (cùng) trị.
NGUYÊN VĂN (255) Tửu đãn trong Tâm buồn bực hoặc nóng đau, Chi Tử Đại Hoàng thang làm chủ. CHI TỬ ĐẠI HOÀNG THANG PHƯƠNG Chi Tử 14 trái
Đại Hoàng 2 lạng
Chỉ Thực 5 trái
4 vị trên, nước 6 thăng, nấu lấy 2 thăng, chia uống ấm 2 lần. 172
Đậu Xị 1 thăng
BẢN NGHĨA (15/17) * Đây, Thủ Dương Kinh thọ Tỳ Huyết làm Đãn. - Tửu Đãn: Thủ Dương Kinh hành Thủy làm Đãn. - Trong Tâm buồn bực: Thủ Dương Kinh có Hàn Thủy Kinh. - Hoặc nóng đau: Thủ Dương Kinh có Nhiệt Thủy Kinh. - Chi Tử Đại Hoàng thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (256) Các bệnh ‘Hoàng gia’ chỉ lợi tiểu tiện để trị. Nếu như mạch Phù phải dùng phép Hãn để giải nó, nên dùng Quế Chi gia Hoàng Kỳ thang làm chủ (xem phương ở chương Thủy Khí). BẢN NGHĨA (15/18) * Đây, Tỳ Huyết nhập các Thủ Dương Kinh làm Đãn. - Các bệnh ‘Hoàng gia’: bệnh vàng da của các Thủ Dương Kinh. - Chỉ lợi tiểu tiện: trị bệnh Đản tại Nội. - Mạch Phù phải dùng phép Hãn để giải: trị bệnh Đãn tại Ngoại. - Quế Chi gia Hoàng Kỳ thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (257) Các bệnh vàng da, Trư Cao Phát tiển làm chủ. TRƯ CAO PHÁT TIỂN PHƯƠNG Trư Cao (mỡ lợn) : ½ cân
Loạn Phát (tóc rối) như trứng gà lớn 3 cuộn.
2 vị trên hòa vào trong mỡ lợn để cô, tóc tiêu đi là thuốc thành, chia uống ấm 2 lần, bệnh ra theo đường tiểu. BẢN NGHĨA (15/19) * Đây, Thủ Âm Kinh thọ Tỳ Huyết làm Đãn. 173
NGUYÊN VĂN (258) Bệnh Hoàng đãn, Nhân Trần Ngũ Linh tán làm chủ. NHÂN TRẦN NGŨ LINH TÁN PHƯƠNG Nhân trần tán bột 10 phân
Ngũ Linh tán 5 phân
2 vị trên hòa lại, trước khi ăn, uống 1 thìa phương thốn, ngày 3 lần. BẢN NGHĨA (15/20) * Đây, Túc Dương Kinh thọ Tỳ Huyết làm Đãn.
NGUYÊN VĂN (259) Bệnh Hoàng đãn bụng đầy, tiểu tiện không lợi mà đỏ, tự ra mồ hôi, đấy là Biểu hòa Lý thực cho nên Hạ, nên dùng Đại Hoàng Tiêu Thạch thang. ĐẠI HOÀNG TIÊU THẠCH THANG PHƯƠNG Đại Hoàng, Hoàng Bá, Tiêu Thạch mỗi vị 4 lạng
Chi Tử 15 trái
4 vị trên, nước 6 thăng, nấu lấy 2 thăng bỏ bả, cho Mang Tiêu vào nấu đặc còn 1 thăng, uống 1 lần. BẢN NGHĨA (15/21) * Đây, Túc Âm Kinh thọ Tỳ Huyết làm Đãn. - Bụng đầy: Túc Âm Hàn Kinh thọ Tỳ Huyết. - Tiểu tiện không lợi mà đỏ, tự ra mồ hôi: Túc Âm Nhiệt Kinh thọ Tỳ Huyết. - Đây là hòa tại Biểu mà thực tại Lý, cho Hạ nên dùng Đại Hoàng Tiêu Thạch thang.
NGUYÊN VĂN (260) Bệnh Hoàng đãn, màu nước tiểu không đổi, tiểu tiện muốn tự lợi, bụng đầy mà suyễn, không thể trừ Nhiệt, nếu trừ thì ọe, Tiểu Bán Hạ thang làm chủ (xem phương ở chương Đàm Ẩm).
174
BẢN NGHĨA (15/22) * Đây, Tỳ Huyết nhập Túc Âm Kinh làm Đãn. - Màu nước tiểu không đổi, tiểu tiện muốn tự lợi: bệnh Đãn tại Can Hàn Kinh. - Bụng đầy mà Suyễn: bệnh Đãn tại Tỳ Âm Hàn Kinh. - Không thể trừ Nhiệt, Nhiệt bị trừ thì ọe: Tỳ Can là Âm Hàn ắt phải cậy nhờ Thận Nhiệt. - Tiểu Bán Hạ thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (261) Các bệnh vàng da, đau bụng mà ói, nên dùng Tiểu Sài Hồ thang (xem phương ở chương Phụ Nhơn Tạp Bệnh). BẢN NGHĨA (15/23) * Đây, Tỳ Huyết nhập Túc Dương Kinh làm Đãn. - Bụng đau: Túc Dương Kinh Thủy thọ Tỳ Huyết. - Ói là Tỳ Huyết thọ Túc Dương Thủy. - Tiểu Sài Hồ thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (262) Đàn ông vàng da, tiểu tiện tự lợi, nên uống Hư Lao Tiểu Kiến Trung thang (xem phương ở chương Hư lao). BẢN NGHĨA (15/24) * Đây, Tỳ Huyết nhập Thủ Âm Kinh làm Đãn. - Đàn ông vàng da: (không phải đàn bà bệnh Huyết làm vàng da). - Tiểu tiện tự lợi là Huyết hư mà vàng da. - Nên uống Hư Lao Tiểu Kiến Trung thang: theo phép trị Tâm Huyết Hư Hàn.
(Trên đây, chương thứ 15, 24 tiết, luận Bệnh Hoàng Đãn) 175
CHƯƠNG 16 : KINH QUÝ
– NỤC HUYẾT – THỔ HUYẾT - HẠ HUYẾT -
HUNG MÃN – HUYẾT Ứ (17 Tiết, từ 263 đến 279) LUẬN THỦ KINH 1- Thủ Dương Kinh hành Thủy, Thủ Âm Kinh hành Huyết. 2- Thủ Dương tại Hạ mà Kinh hành ở Thượng. 3- Thủ Âm tại Nội mà Kinh hành ở Ngoại. 4- Thủ Âm Kinh Huyết chú nhập Thủ Dương Kinh Thủy. 5- Thủ Dương Kinh Thủy chú nhập Thủ Âm Kinh Huyết. 6- Thủ Kinh Thủy Huyết nhập Đốc Kinh. 7- Thủ Kinh Thủy Huyết nhập Xung Kinh. 8- Thủ Kinh Thủy Huyết nhập Nhâm Kinh. 9- Thủ Kinh tại Biểu tại Lý. 10- Thủ Kinh tại Cách. 11- Thủ Kinh tại Tấu. 12- Thủ Dương Kinh Hàn Thủy tại Tấu. 13- Thủ Dương Kinh Nhiệt Thủy tại Tấu. 14- Thủ Dương Thủy thọ Thủ Âm Huyết tại Tấu. 15- Thủ Âm Huyết thọ Thủ Dương Thủy tại Cách. 16- Thủ Âm Kinh Hàn Huyết tại Cách. 17- Thủ Âm Kinh Nhiệt Huyết tại Cách. NGUYÊN VĂN (263) Thốn khẩu mạch Động mà Nhược, Động tức làm Kinh (sợ sệt), Nhược tức làm Quý (hồi hộp). BẢN NGHĨA (16/1) * Đây, Thủ Dương Kinh hành Thủy, Thủ Âm Kinh hành Huyết. - Thủ Dương Thủy Thực cho nên mạch Động làm Kinh. - Thủ Âm Huyết Hư cho nên mạch Nhược làm Quý.
NGUYÊN VĂN (264) Thầy nói : mạch Xích Phù, con ngươi mắt quáng vàng, chảy máu mũi chưa dứt. Quáng vàng hết, con ngươi mắt sáng tỏ, biết là chảy máu mũi đã hết. 176
BẢN NGHĨA (16/2) * Đây, Thủ Dương Thủy tại Hạ mà Kinh hành ở Thượng. - Mạch Xích Phù: nói Thủ Dương tại Hạ. - Con ngươi mắt quáng vàng, chảy máu mũi chưa dứt: Kinh hành ở Thượng thọ Thủ Âm Huyết. - Quáng vàng hết, con ngươi mắt sáng tỏ, biết là chảy máu mũi đã dứt: Huyết không bệnh thì Thủy không bệnh.
NGUYÊN VĂN (265) Lại nói : Từ Xuân đến Hạ Nục Huyết (chảy máu mũi) là thuộc Thái Dương. Từ Thu đến Đông Nục Huyết là thuộc Dương Minh. BẢN NGHĨA (16/3) * Đây, Thủ Âm Huyết tại Nội mà Kinh hành ở Ngoại. - Thái Dương chủ Khai, Thủ Âm Huyết tùy nó mà ra ngoài. - Dương Minh chủ Hạp, Thủ Âm Huyết không yên ở Nội mà ra Ngoại.
NGUYÊN VĂN (266) Người vốn có bệnh Nục Huyết không thể Phát Hãn, mồ hôi ra thì trên trán lõm xuống, mạch Khẩn Cấp, mắt trực thị không nháy, không ngủ được. BẢN NGHĨA (16/4) * Đây, Thủ Âm Huyết chú nhập Thủ Dương Thủy. - Nục là Huyết; Hãn là Thủy. Huyết hư thì Thủy hư cho nên Nục gia không thể Phát Hãn. - Phát Hãn ắt trên trán lõm xuống: bệnh tại chỗ Thủ Dương Thủ Âm giao nhau. - Mạch Khẩn Cấp: Hiệp mạch của Thủ Dương Thủ Âm. 177
- Mắt trực thị không nháy, không ngủ được: Thủ Dương Thủ Âm cùng hư.
NGUYÊN VĂN (267) Người bệnh mặt không có sắc (nhợt nhạt), không nóng lạnh, mạch Trầm Huyền là Nục Huyết, Mạch Phù Nhược ấn xuống thấy Tuyệt là Hạ Huyết; bứt rứt ho ắt là Thổ Huyết. BẢN NGHĨA (16/5) * Đây, Thủ Dương Thủy chú nhập Thủ Âm Huyết. - Mặt không có sắc, không nóng lạnh, mạch Trầm Huyền là Nục Huyết: Tam Tiêu Kinh Nhiệt Thủy chú nhập Bào Hàn Huyết. - Mạch Phù Nhược ấn xuống thấy Tuyệt là Hạ Huyết: Đại Trường Nhiệt Thủy chú nhập Phế Hàn Huyết. - Bứt rứt ho ắt là Thổ Huyết: Tiểu Trường Kinh Hàn Thủy chú nhập Tâm Nhiệt Huyết.
NGUYÊN VĂN (268) Phàm Thổ Huyết ho nghịch Thượng Khí (thở hơi lên), mạch Sác mà có sốt, không nằm được là chết. BẢN NGHĨA (16/6) * Đây, Thủ Kinh Thủy Huyết nhập Đốc Kinh. - Thổ Huyết: Thủ Âm Huyết. - Ho nghịch Thượng Khí: Thủ Dương Thủy. - Mạch Sác mà có sốt: Mạch chứng của các Thủ hiệp bệnh. - Không nằm được là chết: Thủy Huyết cùng nhập Đốc Kinh.
NGUYÊN VĂN (269) Người nghiện rượu mà ho ắt sẽ Thổ Huyết, đấy là nhân ‘cực ẩm’, quá độ dẫn tới. 178
BẢN NGHĨA (16/7) * Đây, Thủ Kinh Thủy Huyết nhập Xung Kinh. - Người nghiện rượu ho: Thủ Dương Thủy. - Ắt sẽ Thổ Huyết: Thủ Dương Thủy bệnh lan đến Thủ Âm Huyết. - ‘Cực ẩm’: Thủy, quá độ: lan đến Huyết. - Sở trí (dẫn tới): nhập Xung Kinh. *Huyết bệnh lan đến Thủy, trị nó khó; Thủy bệnh lan đến Huyết, trị nó dễ (tham khảo chương Thủy Khí, mục Thủy phần, Huyết phần).
NGUYÊN VĂN (270) Thốn khẩu mạch Huyền mà Đại, Huyền thì là Giảm, Đại thì là Khâu, Giảm thì là Hàn, Khâu thì là Hư, Hàn Hư tương bác gọi là Cách. Đàn bà thì sanh non, lậu hạ, đàn ông thì mất máu, di tinh. BẢN NGHĨA (16/8) * Đây, Thủ Kinh Thủy Huyết nhập Nhâm Kinh. - Xem lời giải đoạn trên ở chương Hư lao (nguyên văn 85, bản nghĩa 6/10). - Sanh non: chứng Thủ Âm Huyết. - Lậu hạ: chứng Thủ Dương Thủy. - Vong Huyết: Thủ Kinh không có Âm Nhiệt. - Di tinh: Thủ Kinh thọ Dương Hàn. *Có thể biết đây là chứng Nhâm Kinh tại Hạ thọ Thủy Huyết.
NGUYÊN VĂN (271) Người vốn bệnh vong huyết không thể Phát hãn, mồ hôi ra ắt lạnh run lập cập. .
179
BẢN NGHĨA (16/9) * Đây, Thủ Dương Thủy, Thủ Âm Huyết liên quan tại Biểu tại Lý. - Vốn bị vong Huyết không thể Phát hãn: tại Lý Thủ Âm Huyết vong không thể Phát tại Biểu hãn của Thủ Dương. - Mồ hôi ra ắt lạnh run lập cập: tại Biểu Thủ Dương Thủy kiệt do tại Lý Thủ Âm Huyết hư.
NGUYÊN VĂN (272) Người bệnh ngực đầy, môi héo, lưỡi xanh, miệng ráo, chỉ muốn ngậm nước không muốn nuốt, không nóng lạnh, mạch hơi Đại lại Trì ; bụng không đầy nhưng người bệnh nói tôi đầy, là có ứ huyết. BẢN NGHĨA (16/10) * Đây, Thủ Dương Thủy, Thủ Âm Huyết hiệp ứ tại Cách. - Ngực đầy: tại Cách. - Môi héo: Đại Trường Thủy với Phế Huyết ứ. - Lưỡi xanh: Tam Tiêu Thủy với Bào Huyết ứ. - Miệng ráo: Tiểu Trường Thủy với Tâm Huyết ứ. - Chỉ muốn ngậm nước (súc miệng) không muốn nuốt : bởi cớ Thủy với Huyết hiệp ứ. - Không nóng lạnh: bởi tại Cách Thượng. - Mạch hơi Đại lại Trì: bởi Thủy Huyết hiệp hành. - Bụng không đầy, nói tôi đầy: bởi cớ tại Cách Hạ.
NGUYÊN VĂN (273) Người bệnh như trạng có Nhiệt, phiền mãn, miệng khô ráo mà khát, mạch trái lại không có Nhiệt, đấy là Âm phục là ứ huyết vậy, phải cho Hạ.
.
180
BẢN NGHĨA (16/11) * Đây, Thủ Dương Thủy, Thủ Âm Huyết hiệp ứ tại Tấu. - Nhiệt tại Thủ Dương cho nên nói như, tại Tấu cho nên có Nhiệt. - Tại Tấu có Huyết lại có Thủy cho nên phiền mãn. - Miệng khô ráo: Huyết ứ, khát: Thủy ứ. - Mạch trái lại không có Nhiệt là tại Tấu Âm Nhiệt làm nơi Thủy Huyết ứ, phải cho hạ.
NGUYÊN VĂN (274) ‘Hỏa tà’ Quế Chi khứ Bạch Thược gia Thục Tất Long Cốt Mẫu Lệ Cứu Nghịch thang làm chủ. QUẾ CHI KHỨ BẠCH THƯỢC GIA THỤC TẤT LONG CỐT MẪU LỆ CỨU NGHỊCH THANG PHƯƠNG Quế Chi 3 lạng
Chích Thảo 2 lạng
Long Cốt 4 lạng
Mẫu Lệ 5 lạng
Sinh Khương 3 lạng
Đại Táo 12 trái
Thục Tất rửa sạch mùi tanh 3 lạng 7 vị trên, tán nhỏ, nước 1 đấu 2 thăng, trước nấu Thục Tất giảm 2 thăng rồi cho các thuốc vào nấu lấy 3 thăng bỏ bả, uống ấm 1 thăng. BẢN NGHĨA (16/12) * Đây, Thủ Dương Kinh Hàn Thủy tại Tấu. - Hàn Thủy gốc tại Ngoại mà nhập Tấu Hỏa phần, gọi là Hỏa tà. - Túc Dương Hàn Thủy gốc tại Hạ hiệp Thủ Dương đi lên làm nghịch, cho nên có tên Thang cứu nghịch.
NGUYÊN VĂN (275) Dưới Tâm hồi hộp, Bán Hạ Ma Hoàng hoàn làm chủ.
181
BÁN HẠ MA HOÀNG HOÀN PHƯƠNG Bán Hạ, Ma Hoàng đồng phân lượng : 2 vị tán nhuyễn luyện mật làm hoàn như hạt Tiểu đậu, mỗi lần uống 3 hoàn với nước chín, ngày 3 lần. BẢN NGHĨA (16/13) * Đây, Thủ Dương Kinh Nhiệt Thủy tại Tấu. - Thủ Dương Nhiệt Thủy gốc tại Thượng, Túc Dương Hàn Thủy gốc tại Hạ, trái lại cư Thượng cho nên hồi hộp, Bán Hạ Ma Hoàng hoàn làm chủ.
NGUYÊN VĂN (276) Thổ Huyết không dứt, Bá Diệp thang làm chủ. BÁ DIỆP THANG PHƯƠNG Bá Diệp, Can Khương mỗi vị 3 lạng
Ngãi Diệp 3 nắm.
3 vị trên, nước 5 thăng, Mã thông trấp (nước đái ngựa) 1 thăng, nấu còn 1 thăng chia uống ấm 2 lần, không có Mã thông dùng Đồng tiện để thay. BẢN NGHĨA (16/14) * Đây, Thủ Dương Thủy nhập Thủ Âm Huyết tại Tấu. - Thổ Huyết: Thủ Âm Huyết. - Không dứt: Bởi có Thủ Dương Thủy chú nhập. - Bá Diệp thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (277) Hạ Huyết (đại tiện ra máu), trước đi phân sau ra Huyết, đấy là Viễn Huyết, Hoàng Thổ thang làm chủ. 182
HOÀNG THỔ THANG PHƯƠNG Cam Thảo, Địa Hoàng, Bạch Truật, Phụ tử bào mỗi vị 3 lạng A Giao, Hoàng Cầm mỗi vị 3 lạng.
Hoàng Thổ (đất giữa lòng bếp) ½ thăng
7 vị trên, nước 7 thăng, nấu lấy 3 thăng, chia uống ấm 3 lần. BẢN NGHĨA (16/15) *Đây, Thủ Âm Huyết nhập Thủ Dương Thủy tại Cách. - Hạ Huyết: chứng của Thủ Âm. - Trước đi phân (tiện) của Thủ Dương rồi sau ra Huyết của Thủ Âm. - Đấy là Viễn Huyết, Hoàng Thổ thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (278) Hạ Huyết, trước ra Huyết sau đi tiện, đấy là Cận huyết, Xích Tiểu Đậu Đương Qui tán làm chủ (xem phương ở chương Hồ Hoặc). BẢN NGHĨA (16/16) * Đây, Thủ Âm Kinh Hàn Huyết tại Cách. - Hạ Huyết: Thủ Âm. - Trước ra Huyết của Thủ Âm rồi sau đi tiện của Thủ Dương. - Đấy là Cận Huyết, Xích Tiểu Đậu Đương Qui tán làm chủ.
NGUYÊN VĂN (279) Tâm Khí bất túc, Thổ Huyết, Nục Huyết, Tả Tâm thang làm chủ. TẢ TÂM THANG PHƯƠNG Đại Hoàng 2 lạng
Hoàng Liên, Hoàng Cầm mỗi vị 1 lạng
3 vị trên nước 3 thăng, nấu lấy 1 thăng, uống hết 1 lần. 183
BẢN NGHĨA (16/17) * Đây, Thủ Âm Kinh Nhiệt Huyết tại Cách. - Âm Dương tương đắc là Tâm Khí. - Tâm Khí bất túc: Tâm Âm Khí bất túc do Dương Khí thái quá. - Tả Tâm thang làm chủ là tả Tâm Dương để cho tương đắc với Tâm Âm.
(Trên đây, chương thứ 16, 17 tiết, luận bệnh Kinh Quý –Nục Huyết –Thổ Huyết –Hạ Huyết – Hung Mãn – Huyết Ứ) 184
TẠP BỆNH LUẬN QUYỂN VIII __________________________________ CHƯƠNG 17 :
ẨU THỔ - UẾ – HẠ LỢI
(47 Tiết, từ 280 đến 326) LUẬN CAN 1- Can thọ Âm Nhiệt. 2- Can thọ Dương Nhiệt. 3- Can thọ Âm Hàn. 4- Can thọ Dương Hàn. 5- Can Kinh 6- Can Khí. 7- Can Lạc. 8- Can Lạc tại Cách. 9- Can Kinh tại Cách. 10- Can Lạc tại Cách đến Tấu Bán Lý. 11- Can Kinh tại Cách đến Tấu Bán Lý. 12- Can Lạc tại Cách đến Biểu. 13- Can Kinh tại Cách đến Biểu. 14- Can Kinh tại Cách đến Tấu Bán Biểu. 15- Can Lạc tại Cách đến Tấu Bán Biểu. 16- Can Kinh tại Cách đến Đái. 17- Can Lạc tại Cách đến Đái. 18- Can nhập Đốc Kinh. 19- Can nhập Đốc Lạc. 20- Can nhập Nhâm Kinh. 21- Can nhập Nhâm Lạc. 22- Can nhập Xung Kinh. 23- Can nhập Xung Lạc. 24- Thủ Âm Hàn nhập Can tại Tấu. 25- Thủ Âm Nhiệt nhập Can tại Tấu. 26- Túc Âm Hàn nhập Can tại Tấu. 27- Túc Âm Nhiệt nhập Can tại Tấu. 28- Thủ Dương Hàn nhập Can tại Tấu 29- Thủ Dương nhiệt nhập Can tại Tấu. 30- Túc Dương nhiệt nhập Can tại Tấu. 31- Túc Dương Hàn nhập Can tại Tấu. 32- Can nhập Thủ Dương tại Tấu. 33- Can nhập Túc Dương tại Tấu. 185
34- Can nhập Thủ Âm tại Tấu. 35- Can nhập Túc Âm tại Tấu. 36- Can nhập Túc Dương tại Biểu tại Lý. 37- Can nhập Thủ Dương tại Biểu tại Lý. 38- Can nhập Túc Âm tại Biểu tại Lý. 39- Can nhập Thủ Âm tại Biểu tại Lý. 40- Thủ Âm Hàn Kinh nhập Can tại Biểu tại Lý. 41- Thủ Âm Nhiệt Kinh nhập Can tại Biểu tại Lý 42- Túc Âm Hàn Kinh nhập Can tại Biểu tại Lý. 43- Túc Âm Nhiệt Kinh nhập Can tại Biểu tại Lý. 44- Thủ Dương Nhiệt Kinh nhập Can tại Biểu tại Lý. 45- Thủ Dương Hàn Kinh nhập Can tại Biểu tại Lý. 46- Túc Dương Nhiệt Kinh nhập Can tại Biểu tại Lý. 47- Túc Dương Hàn Kinh nhập Can tại Biểu tại Lý. NGUYÊN VĂN (280) Người vốn bệnh Ẩu (ói) có ung nùng (nhọt mủ) không thể trị Ẩu, mủ hết thì tự khỏi. BẢN NGHĨA (17/1) * Đây, Can thọ Âm Nhiệt. - Ẩu gia: Can thuộc Âm Hàn. - Có nhọt mủ: thọ Âm Nhiệt. - Không thể trị (Ẩu): Âm Hàn cần phải chú ý tới Âm Nhiệt. *Nói Can Hàn ắt tư trợ Thận Nhiệt.
NGUYÊN VĂN (281) Trước Ẩu rồi tới khát, đấy là muốn giải. Trước khát rồi đến ẩu là Thủy đình dưới Tâm, đấy là thuộc Ẩm gia. Người bệnh Ẩu vốn khát nay trái lại không khát vì bởi dưới Tâm có Chi Ẩm, trị thuộc Ẩm gia. BẢN NGHĨA (17/2) * Đây, Can thọ Dương Nhiệt. - Trước Ẩu rồi đến khát: nói Can Hàn thọ Dương Nhiệt đấy là muốn giải. 186
- Trước khát rồi đến Ẩu: Dương Nhiệt thọ Can Hàn là Thủy đình dưới Tâm, cần phải trị Can thọ Vỵ Ẩm, bởi không có Dương Nhiệt Khí. - Người bệnh Ẩu vốn khát: Can thọ Âm Nhiệt, trái lại không khát dưới Tâm có Chi Ẩm, cần phải trị Can thọ Vỵ Ẩm bởi không có Âm Nhiệt Khí. *Can Hàn cần phải được Âm Nhiệt giúp đỡ. Vỵ Ẩm cũng cần được Âm Nhiệt giúp đỡ.
NGUYÊN VĂN (282) Hỏi rằng : người bệnh mạch Sác, Sác là Nhiệt đáng lẽ tiêu cơm, bắt uống mà trái lại mửa, là vì sao ? Thầy đáp : vì Phát Hãn làm cho Dương Khí vi, Cách Khí hư mạch mới Sác. Sác là khách Nhiệt không thể tiêu cơm, trong Vỵ hư lạnh. Mạch Huyền là bởi hư, Vỵ Khí không đủ, sáng ăn chiều mửa, biến thành ‘Vỵ phản’ . Hàn ở trên, thầy thuốc trái lại cho Hạ khiến cho mạch Huyền, cho nên gọi là Hư. BẢN NGHĨA (17/3) *Đây, Can thọ Âm Hàn. - Cách Nhiệt thì mạch Sác,Sác là Nhiệt mà không thể tiêu cơm, bắt uống mà trái lại mửa,là vì sao ? Vì tại Cách Nhiệt hư, Vỵ Khí chủ Cách, Cách hư do trong Vỵ hư lãnh dẫn đến. Trong Vỵ hư lãnh lại do Can Hàn dẫn đến, bởi vì mạch Huyền cho nên biết như vậy. - Sáng ăn chiều mửa biến thành ‘Vỵ phản’: Can Hàn phản cư Vỵ Thượng. - Âm Hàn tại Thượng nên dùng phép Ôn mà trái lại cho Hạ, cho nên mạch Huyền và vì thế Cách hư.
NGUYÊN VĂN (283) Thốn khẩu mạch Vi mà Sác, Vi thì không có Khí, không có Khí thì Vinh hư, Vinh hư thì Huyết không đủ, Huyết không đủ thì trong ngực ắt lãnh. .
187
BẢN NGHĨA (17/4) * Đây, Can thọ Dương Hàn. - Mạch Vi mà Sác: Dương Hàn nhập Nội thì mạch Vi, Âm Nhiệt hư thì mạch Sác. - Không có Âm Nhiệt Khí tức là không có Thái Dương Khí. - Không có Dương Khí thì Vinh hư mà Huyết không đủ: không có Dương Khí tức là không có Âm Nhiệt Khí cho nên Huyết không đủ, Hàn Khí cởi lên nó nên trong ngực lạnh. *Nói Thái Dương tức là Nhiệt Khí, Hàn Khí tức là Thiếu Âm. Hai chữ Dương Hàn bao quát Thái Dương Thiếu Âm.
NGUYÊN VĂN (284) Phu Dương mạch Phù mà Sáp, Phù thì là hư, Sáp thì thương Tỳ, Tỳ thương thì không tiêu cơm, sáng ăn tối mửa, tối ăn sáng mửa, cơm lâu ngày không tiêu hóa gọi là ‘Vỵ phản’, mạch Vi mà Sáp, bệnh này khó trị. BẢN NGHĨA (17/5) * Đây, Can Kinh. - Mạch Phù: tại Tấu Thận Nhiệt hư. - Mạch Sáp: tại Tấu Tỳ Hàn kết. - Tỳ Hàn cùng với Can Hàn kết nhau thì không chà sát được thức ăn. - Sáng ăn tối mửa: đắp đổi nhau làm bệnh. - Cơm lâu ngày không tiêu hóa: Can Hàn ‘phản’ tại ‘Vỵ’ Thượng. - Mạch Vi: Thận Dương Vi, Sáp là Can Tỳ Hàn kết, là khó trị.
NGUYÊN VĂN (285) Người bệnh muốn mửa thì không thể cho Hạ. 188
BẢN NGHĨA (17/6) * Đây, Can Khí. - Can là Hàn Kinh mà chủ Phong Khí. - Muốn mửa là Hàn Phong đi lên, Hàn Phong thì không thể cho Hạ.
NGUYÊN VĂN (286) Ọe mà bụng đầy thì xem xét ‘tiên hậu’ của nó, biết bộ nào không lợi, cho lợi thì khỏi. BẢN NGHĨA (17/7) * Đây, Can Lạc. - Ọe là Can Lạc thọ Hàn. - Bụng đầy là Lạc Hàn do bởi Kinh Khí Hàn dẫn đến. - Xem xét tại Tấu bộ nào không lợi ở Can, cho lợi thì khỏi. *Theo ‘tiên’ đến vào Can là Thực tà. Theo ‘hậu’ đến vào Can là Hư tà.
NGUYÊN VĂN (287) Ói mà ngực đầy, Ngô Thù Du thang làm chủ. NGÔ THÙ DU THANG PHƯƠNG Ngô Thù Du 1 thăng
Nhân Sâm 3 lạng
Sinh Khương 6 lạng
4 vị trên, nước 5 thăng nấu lấy 2 thăng, uống ấm 7 cáp, ngày 3 lần. BẢN NGHĨA (17/8) * Đây, Can Lạc tại Cách. - Can là Hàn Kinh mà Nhiệt Lạc cho nên ói. - Hàn Nhiệt hiệp bệnh cho nên ngực đầy. - Ngô Thù Du thang làm chủ. 189
Đại Táo 12 trái
NGUYÊN VĂN (288) Càn ẩu (ói liên thanh), mửa bọt dãi, đau đầu, Ngô Thù Du thang làm chủ. BẢN NGHĨA (17/9) * Đây, Can Kinh tại Cách. - Càn ẩu: Can là Hàn Kinh lại thọ Hàn truyền. - Mửa bọt dãi: Kinh hành tại Cách bị Hàn. - Đầu đau: Kinh hành tại đầu bị Hàn. - Ngô Thù Du thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (289) Ói mà ruột sôi, dưới Tâm Bỉ, Bán Hạ Tả Tâm thang làm chủ. BÁN HẠ TẢ TÂM THANG PHƯƠNG Bán Hạ ½ cân (rửa). Hoàng Liên 1 lạng
Can Khương, Hoàng Cầm, Nhân Sâm, Chích Thảo mỗi vị 3 lạng Đại Táo 12 trái
7 vị trên, nước 1 đấu, nấu lấy 6 thăng bỏ bả, lại nấu còn 3 thăng, uống ấm 1 thăng ngày 3 lần. BẢN NGHĨA (17/10) * Đây, Can Lạc tại Cách đến Tấu Bán Lý. - Ói: Can chứng. - Ruột sôi: nhập Tấu Bán Lý. - Dưới Tâm Bỉ: Can Hàn với Tấu Nhiệt kết bỉ. - Bán Hạ Tả Tâm thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (290) Càn ẩu mà hạ lợi, Hoàng Cầm gia Bán Hạ Sinh Khương thang làm chủ. 190
HOÀNG CẦM GIA BÁN HẠ SINH KHƯƠNG THANG PHƯƠNG Hoàng Cầm, Sinh Khương mỗi vị 3 lạng,
Cam Thảo 2 lạng
Bạch Thược 1 lạng
Đại Táo 12 trái
Bán Hạ ½ thăng
6 vị trên, nước 1 đấu, nấu lấy 3 thăng bỏ bả, uống ấm 1 thăng ngày 2 đêm 1 lần. BẢN NGHĨA (17/11) * Đây, Can Kinh tại Cách đến Tấu Bán Lý. - Càn ẩu: xem ở trên. - Hạ lợi là Can Hàn hiệp Cách Nhiệt hạ lợi. - Hoàng Cầm gia Bán Hạ Sinh Khương thang làm chủ. *Bệnh ở Lạc thì ẩu, ở Kinh thì Càn ẩu, hiệp Tấu Nhiệt thì bỉ, hiệp Cách Nhiệt thì hạ lợi, rất là tinh tế vậy.
NGUYÊN VĂN (291) Các chứng ói mửa, cơm nước không xuống được, Tiểu Bán Hạ thang làm chủ (xem phương ở Đàm Ẩm). BẢN NGHĨA (17/12) * Đây, Can Lạc tại Cách đến Biểu. - Các chứng ói mửa: đều thọ Can Hàn. - Cơm nước không xuống được: vì Can Lạc tại Cách bị Hàn. - Tiểu Bán Hạ thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (292) Ói mửa mà bệnh tại Cách Thượng, sau đó muốn uống nước là bệnh giải, nên cho uống gấp. Muốn uống nước Trư Linh Bạch Truật tán làm chủ.
191
TRƯ LINH BẠCH TRUẬT TÁN PHƯƠNG Trư Linh, Phục Linh, Bạch Truật các vị đồng phân lượng. 3 vị tán bột, mỗi lần uống 1 thìa phương thốn với nước chín, ngày 3 lần. BẢN NGHĨA (17/13) * Đây, Can Kinh tại Cách đến Biểu. - Ói là Can Huyết. - Mửa là Can Thủy. - Bệnh tại Cách Thượng là chổ Huyết với Thủy hội nhau. - Sau đó muốn uống nước là bệnh giải, nên cho uống gấp: Can Huyết muốn được Can Thủy để giải kết. - Muốn uống nước Trư Linh Bạch Truật tán làm chủ: bổ Cách Dương, lợi Cách Thủy không tổn thương Cách Huyết.
NGUYÊN VĂN (293) Ói mà mạch Nhược, tiểu tiện lại lợi, mình có hơi nóng mà thấy quyết (lãnh) là khó trị, Tứ Nghịch thang làm chủ. TỨ NGHỊCH THANG PHƯƠNG Phụ Tử 1 củ dùng sống
Can Khương 1 lạng rưỡi
Chích Thảo 2 lạng
3 vị trên, nước 3 thăng nấu lấy 1 thăng, chia uống 2 lần. Người khỏe có thể dùng Phụ Tử 1 củ lớn, Can Khương 3 lạng. BẢN NGHĨA (17/14) * Đây, Can Kinh tại Cách đến Tấu Bán Biểu. - Ói mà mạch Nhược: Can Hàn không được Âm Nhiệt trợ giúp. - Tiểu tiện lại lợi: do bởi Can Hàn. - Mình có hơi nóng: Can Nhiệt xuất Ngoại. 192
- Thấy quyết lãnh là Âm Nhiệt xuất Ngoại, Âm Hàn cùng xuất Ngoại theo nó. - Khó trị: bởi cớ ‘Âm Nhiệt Âm Hàn’ cùng xuất Ngoại. - Tứ Nghịch thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (294) Ói mà phát sốt, Tiểu Sài Hồ thang làm chủ (xem phương ở mục Hoàng đãn). BẢN NGHĨA (17/15) * Đây, Can Lạc tại Cách đến Tấu Bán Biểu. - Ói là Can. - Phát sốt là tại Tấu Bán Biểu. - Tiểu Sài Hồ thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (295) ‘Vỵ phản’ , ói mửa, Đại Bán Hạ thang làm chủ. ĐẠI BÁN HẠ THANG PHƯƠNG Bán Hạ 2 thăng
Bạch Mật 1 thăng
Nhân Sâm 3 lạng
3 vị trên, nước 1 đấu 2 thăng, hòa mật khuấy 240 lần cho đến nước thuốc còn lại 2 thăng, chia uống ấm 2 thăng, còn lại uống hết lần sau. BẢN NGHĨA (17/16) * Đây, Can Kinh tại Cách đến Đái. - ‘Vỵ phản’ là Can Hàn tại Đái mà ‘phản cư Vỵ Thượng’ làm ra ói mửa. Đại Bán Hạ thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (296) Ăn xong liền mửa, Đại Hoàng Cam Thảo thang làm chủ. 193
ĐẠI HOÀNG CAM THẢO THANG PHƯƠNG Đại Hoàng 4 lạng
Cam Thảo 2 lạng
2 vị trên nước 3 thăng nấu lấy 1 thăng, chia uống ấm 2 lần. BẢN NGHĨA (17/17) * Đây, Can Lạc tại Cách đến Đái. - Ăn xong liền mửa: Can Hàn thọ Cách Nhiệt. - Đại Hoàng Cam Thảo thang: Cách Nhiệt bị trừ, Can Hàn tự dứt.
NGUYÊN VĂN (297) Vỵ phản, mửa mà khát muốn uống nước, Phục Linh Trạch Tả thang làm chủ. PHỤC LINH TRẠCH TẢ THANG PHƯƠNG Phục Linh ½ cân Bạch Truật 3 lạng
Trạch Tả 4 lạng
Cam Thảo, Quế Chi mỗi vị 2 lạng
Sinh Khương 4 lạng
6 vị trên, nước 1 đấu, nấu thuốc còn 3 thăng cho Trạch Tả vào lại nấu còn 2 thăng rưỡi, uống ấm 8 cáp, ngày 3 lần. BẢN NGHĨA (17/18) * Đây, Can KInh tại Cách nhập Đốc Kinh. - Vỵ phản: Can Hàn. - Mửa mà khát muốn uống nước: Can Hàn không thể hóa Thủy, làm bệnh tới Đốc Kinh. - Phục Linh Trạch Tả thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (298) Sau khi mửa khát, muốn uống nước mà rất háo uống, Văn Cáp thang làm chủ. Thang này kiêm trị ‘Vi phong’ mạch Khẩn đầu đau. .
194
VĂN CÁP THANG PHƯƠNG Cam Thảo, Văn Cáp, Thạch Cao mỗi vị 5 lạng,
Ma Hoàng 3 lạng
Hạnh Nhân 50 hạt
Sinh Khương 2 lạng
Đại Táo 12 trái
7 vị trên, nước 6 thăng nấu lấy 2 thăng, uống ấm 1 thăng ra mồ hôi liền khỏi. BẢN NGHĨA (17/19) * Đây, Can Lạc tại Cách nhập Đốc Kinh. - Sau khi mửa khát: Can Hàn đã đi. - Muốn uống nước mà rất háo uống: Can Hàn đi mà Can Phong nhập Đốc Kinh. - Văn Cáp thang làm chủ, kiêm trị ‘vi phong’ mạch Khẩn đầu đau: trị Thiếu Âm đầu thống.
NGUYÊN VĂN (299) Càn ẩu, mửa nghịch, mửa bọt dãi, Bán Hạ Can Khương tán làm chủ. BÁN HẠ CAN KHƯƠNG TÁN PHƯƠNG Bán Hạ, Can Khương đồng phân lượng- 2 vị trên, tán bột, mỗi lần dùng 1 thìa phương thốn với tương thủy 1 thăng rưỡi nấu còn 7 cáp, uống hết 1 lần. BẢN NGHĨA (17/20) * Đây, Can Kinh tại Cách nhập Nhâm Kinh. - Càn ẩu: Can là Âm Hàn Kinh. Nhâm Kinh cũng là Âm Hàn Kinh. - Mửa nghịch, mửa bọt dãi: Thủy theo Nhâm Kinh mà đi lên. - Bán Hạ Can Khương tán làm chủ.
NGUYÊN VĂN (300) Người bệnh trong ngực tựa suyễn mà không suyễn, tựa ói mà không ói, tựa ọe mà không ọe, suốt trong Tâm bồi hồi không chịu được, Bán Hạ Sinh Khương thang làm chủ. 195
BÁN HẠ SINH KHƯƠNG THANG PHƯƠNG Bán Hạ ½ thăng
Sinh Khương trấp 1 thăng
2 vị trên nước 3 thăng nấu Bán Hạ lấy 2 thăng, cho Sinh Khương trấp nấu lấy 1 thăng rưỡi, để nguội chia uống ấm 4 lần, ngày 3 đêm 1 lần. Ngưng ói thì sau không uống nữa. BẢN NGHĨA (17/21) * Đây, Can Lạc tại Cách nhập Nhâm Kinh. - Trong ngực: tại Cách. - Tựa suyễn, tựa ói, tựa ọe: chứng Can Kinh. - Không suyễn, không ói, không ọe: lại chứng của Can Lạc. - Suốt trong Tâm bồi hồi không chịu được: Nhâm Lạc tùy Nhâm Kinh suốt ở trên dưới. - Bán Hạ Sinh Khương thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (301) Càn ẩu, ọe nếu như tay chân quyết lãnh, Quất Bì thang làm chủ. QUẤT BÌ THANG PHƯƠNG Quất Bì 4 lạng
Sinh Khương ½ cân
2 vị trên, nước 7 thăng nấu lấy 3 thăng, uống ấm 1 thăng. Thuốc xuống khỏi yết liền khỏi. BẢN NGHĨA (17/22) * Đây, Can Kinh tại Cách nhập Xung Kinh. - Càn ẩu, ọe: Can Hàn, Xung Kinh cũng Hàn. - Tay chân quyết lãnh: bệnh tại Ngoại cho nên thuốc xuống dưới yết liền hết. - Quất Bì thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (302) Ọe nghịch, Quất Bì Trúc Nhự thang làm chủ. 196
QUẤT BÌ TRÚC NHỰ THANG PHƯƠNG Quất Bì 2 cân
Trúc Nhự 2 cân
Sinh Khương ½ cân
Nhân Sâm 2 lạng
Đại Táo 30 trái
Cam Thảo 5 lạng
6 vị trên, nước 1 đấu 2 thăng nấu lấy 3 thăng bỏ bả, uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần. BẢN NGHĨA (17/23) * Đây, Can Lạc tại Cách nhập Xung Kinh. - Ọe là Can Kinh bệnh, Can Lạc cũng bệnh. - Nghịch là Hàn nghịch Thượng, Nhiệt cũng nghịch Thượng. - Quất Bì Trúc Nhự thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (303) Lục Phủ Khí tuyệt ở Ngoại thì tay chân lạnh, thở hơi lên, chân co rút. Ngũ Tạng tuyệt ở Nội thì lợi (ỉa chảy) không cầm, nặng nữa tay chân mất cảm giác. BẢN NGHĨA (17/24) * Đây, Thủ Âm Hàn Kinh nhập Can tại Tấu. - Tay chân lạnh, thở hơi lên: tại Ngoại Phế thọ Can Hàn. - Chân co rút: tại Ngoại Bào thọ Can Hàn. - Lợi không cầm: tại Nội Phế thọ Can Hàn. - Tay chân mất cảm giác: tại Nội Bào thọ Can Hàn.
NGUYÊN VĂN (304) Hạ lợi (ỉa lỏng), mạch Trầm Huyền là mót rặn; mạch Đại là chưa dứt; mạch Vi Nhược Sác là muốn tự dứt.Tuy phát sốt không chết. BẢN NGHĨA (17/25) * Đây, Thủ Âm Nhiệt Kinh nhập Can tại Tấu. 197
- Hạ lợi, mạch Trầm Huyền là mót rặn: Can Hàn thọ Tâm Nhiệt. - Mạch Đại là chưa dứt: Can Hàn Tâm Nhiệt bằng nhau. - Mạch Vi Nhược Sác là muốn tự dứt: Can Hàn thua mà Tâm Nhiệt thắng. - Tuy phát sốt không chết: Hàn thua Nhiệt là nghịch mà không chết.
NGUYÊN VĂN (305) Hạ lợi tay chân quyết lãnh, không có mạch dùng phép cứu mà không ấm được. Nếu như mạch không có trở lại, dùng phép cứu mà hơi suyễn là chết. Thiếu Âm thua Phu Dương là thuận. BẢN NGHĨA (17/26) * Đây, Túc Âm Hàn Kinh nhập Can tại Tấu. - Hạ lợi tay chân quyết lãnh: Can với Tỳ đều Hàn. - Không có mạch dùng phép cứu không ấm được là không có Âm Nhiệt. - Nếu như mạch không có trở lại dùng phép cứu mà hơi suyễn là chết: Âm Hàn bức ép Âm Nhiệt ở ngoài. - Thiếu Âm thua Thái Dương là thuận mà chết, vì Nhiệt thua Hàn.
NGUYÊN VĂN (306) Hạ lợi, mình hơi nóng mà khát, mạch Nhược là tự khỏi. BẢN NGHĨA (17/27) * Đây, Túc Âm Nhiệt Kinh nhập Can tại Tấu. - Hạ lợi: Can Hàn. - Mình hơi nóng mà khát: thọ Túc Âm Nhiệt. - Mạch Nhược là khỏi: Thận Nhiệt Can Hàn bằng nhau.
198
NGUYÊN VĂN (307) Hạ lợi, mạch Sác có hơi nóng ra mồ hôi là tự khỏi. Ví như mạch Khẩn là chưa giải. BẢN NGHĨA (17/28) * Đây, Thủ Dương Hàn Kinh nhập Can tại Tấu. - Hạ lợi: là Can. - Mạch Sác có hơi nóng ra mồ hôi là tự khỏi: Can Hàn được Thận Nhiệt trợ giúp. - Ví như mạch Khẩn là chưa giải: Can Hàn thọ Dương Hàn.
NGUYÊN VĂN (308) Hạ lợi, mạch Sác mà khát là tự khỏi. Ví như không bớt ắt đi ra mủ máu, vì bởi có Nhiệt vậy. BẢN NGHĨA (17/29) * Đây, Thủ Dương Nhiệt Kinh nhập Can tại Tấu. - Hạ lợi: Can Hàn. - Mạch Sác mà khát là tự khỏi: Can Hàn gặp được Thủ Dương Nhiệt. - Ví như không bớt ắt đi ra mủ máu: thọ Thủ Dương Nhiệt thái quá.
NGUYÊN VĂN (309) Hạ lợi mạch trái lại Huyền, phát sốt mình ra mồ hôi là khỏi. BẢN NGHĨA (17/30) * Đây, Túc Dương Nhiệt nhập Can tại Tấu. - Hạ lợi mạch trái lại Huyền: Âm Hàn có Dương Nhiệt. - Phát sốt mình ra mồ hôi là khỏi: Dương Nhiệt giải Âm Hàn tự giải.
199
NGUYÊN VĂN (310) Hạ lợi đi nhiều hơi, nên cho lợi tiểu tiện. BẢN NGHĨA (17/31) * Đây, Túc Dương Hàn nhập Can tại Tấu. - Hạ lợi đi nhiều hơi: Can Âm Hàn gặp được Dương Hàn. - Nên cho lợi tiểu tiện: Âm Hàn giải Dương Hàn tự giải.
NGUYÊN VĂN (311) Hạ lợi, mạch trái lại Trầm Sáp ắt là đi ra mủ máu. BẢN NGHĨA (17/32) * Đây, Can nhập Thủ Dương Kinh tại Tấu. - Hạ lợi: Can Hàn. - Mạch trái lại Trầm Sáp: nhập Thủ Dương Hàn Kinh. - Ắt đi ra mủ máu: nhập Thủ Dương Nhiệt Kinh.
NGUYÊN VĂN (312) Hạ lợi thanh cốc (ỉa phân sống), không thể công Biểu, mồ hôi ra ắt trướng đầy. BẢN NGHĨA (17/33) * Đây, Can nhập Túc Dương Kinh tại Tấu. - Hạ lợi thanh cốc: Can Âm Hàn lại thọ Dương Hàn. - Không thể công biểu, mồ hôi ra ắt trướng đầy: tại Ngoại Dương Hàn bị trừ thì tại Nội Âm Hàn thực.
.
200
NGUYÊN VĂN (313) Hạ lợi mạch Trầm mà Trì, người bệnh mặt hơi đỏ, mình có hơi nóng, hạ lợi thanh cốc, ắt phải uất mạo mồ hôi ra mà giải, người bệnh có ‘vi quyết’, bởi vì là ‘đới dương’, Hạ hư cho nên vậy. BẢN NGHĨA (17/34) * Đây, Can nhập Thủ Âm Kinh tại Tấu. - Mạch Trầm: Can Hàn tại Nội. - Mà Trì là Thủ Âm Nhiệt tại Nội thọ Can Hàn. - Mặt hơi đỏ, mình có hơi nóng: Can Hàn muốn bức ép Thủ Âm Nhiệt ở ngoài. - Hạ lợi thanh cốc: Thủ Âm Hàn Kinh tại Nội, Can Hàn Kinh cũng tại Nội. - Ắt uất mạo (nặng đầu tối mắt), mồ hôi ra mà giải, người bệnh có hơi quyết: Thủ Âm Nhiệt Kinh xuất Ngoại, Can Hàn cũng xuất Ngoại. - Sở dĩ Thủ Âm Nhiệt xuất Ngoại làm chứng ‘đới dương’, bởi vì Túc Âm Nhiệt của người bệnh tại Hạ hư.
NGUYÊN VĂN (314) Sau khi hạ lợi mạch Tuyệt, tay chân quyết lãnh, một ngày đêm mạch có trở lại, tay chân ấm là sống, mạch không trở lại là chết. BẢN NGHĨA (17/35) * Đây, Can nhập Túc Âm Kinh tại Tấu. - Sau khi hạ lợi mạch Tuyệt: không có Âm Nhiệt. - Tay chân quyết lãnh: Âm Nhiệt hư thì Âm Hàn thực. - Một ngày đêm mạch có trở lại, tay chân ấm là sống: có Âm Nhiệt. - Mạch không trở lại là chết: không Âm Nhiệt.
.
201
NGUYÊN VĂN (315) Hạ lợi bụng đầy trướng, thân thể đau nhức, trước tiên ôn Lý rồi mới công Biểu, ôn Lý nên dùng Tứ Nghịch thang, công Biểu nên dùng Quế Chi thang. BẢN NGHĨA (17/36) * Đây, Can nhập Túc Dương Kinh tại Biểu tại Lý. - Bụng trướng đầy: tại Lý Can nhập Túc Dương Kinh. - Thân thể đau nhức: tại Biểu Can nhập Túc Dương Kinh. - Trước tiên ôn Lý dùng Tứ Nghịch thang rồi sau công Biểu dùng Quế Chi thang.
NGUYÊN VĂN (316) Hạ lợi ba bộ mạch đều Bình, ấn vào dưới Tâm cứng, gấp cho Hạ nên dùng Đại Thừa Khí thang. BẢN NGHĨA (17/37) * Đây, Can nhập Thủ Dương Kinh tại Biểu tại Lý. - 3 bộ mạch đều Bình: nói mạch Thủ Dương thuộc vào Túc Dương không chuyên lấy ở bộ vị khác. - Dưới Tâm cứng: thọ Can Hàn. - Gấp cho Hạ: sợ Âm Hàn thực thì Âm Nhiệt vong, nên dùng Đại Thừa Khí thang.
NGUYÊN VĂN (317) Hạ lợi mạch Trì mà Hoạt là Thực, lợi chưa muốn dứt, gấp cho Hạ nên dùng Đại Thừa Khí thang. BẢN NGHĨA (17/38) * Đây, Can nhập Túc Âm Kinh tại Biểu tại Lý. - Mạch Trì: Âm Hàn. - Mà Hoạt: Âm Nhiệt. 202
- Lợi chưa muốn dứt: Âm Nhiệt Thực Âm Hàn cũng Thực. - Gấp cho Hạ nên dùng Đại Thừa Khí thang.
NGUYÊN VĂN (318) Hạ lợi mạch trái lại Hoạt, có chỗ cần phải trừ khử cho Hạ thì khỏi, nên dùng Đại Thừa Khí thang. BẢN NGHĨA (17/39) * Đây, Can nhập Thủ Âm Kinh tại Biểu tại Lý. - Hạ lợi: Can Hàn. - Mạch trái lại Hoạt: thọ Nhiệt của Thủ Âm. - Có chỗ cần phải trừ khử, cho Hạ thì khỏi: cần phải Hạ Nhiệt của Thủ Âm, cũng cần phải Hạ Hàn của Thủ Âm. Nên dùng Đại Thừa Khí thang.
NGUYÊN VĂN (319) Hạ lợi đã bớt, đến đúng năm, tháng, ngày, giờ lại phát, bởi vì bệnh chưa tận hết. Nên dùng Đại Thừa Khí thang. BẢN NGHĨA (17/40) * Đây, Thủ Âm Hàn Kinh tại Biểu tại Lý. - Thủ Âm Hàn Kinh thọ Can Hàn hoặc tại Biểu hoặc tại Lý, đến năm tháng ngày giờ hành Kinh, vừa qua đúng Can Kinh thì lại phát; bởi vì trong lúc bệnh không thể trừ tận hết. Nên dùng Đại Thừa Khí thang.
NGUYÊN VĂN (320) Hạ lợi, nói xàm là vì có phân táo, Tiểu Thừa Khí thang làm chủ. BẢN NGHĨA (17/41) * Đây, Thủ Âm Nhiệt Kinh nhập Can tại Biểu tại Lý. 203
- Hạ lợi: Can Hàn. - Nói xàm: thọ Thủ Âm Nhiệt. - Vì có phân táo: thọ Âm Nhiệt ắt có hiệp với Dương Nhiệt. - Tiểu Thừa Khí thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (321) Hạ lợi ỉa mủ máu, Đào Hoa thang làm chủ. ĐÀO HOA THANG PHƯƠNG Xích Thạch Chỉ 1 hộc, phân nửa để nguyên, phân nửa nghiền nát Can Khương 3 lạng
Ngạnh Mễ 1 thăng
3 vị trên, nước 7 thăng nấu gạo chín, thang thành bỏ bả, uống ấm 7 cáp cho vào bột Thạch chỉ 1 thìa phương thốn, ngày 3 lần. Nếu như 1 lần uống, bệnh hết không cần uống nữa. BẢN NGHĨA (17/42) * Đây, Túc Âm Hàn Kinh nhập Can tại Biểu tại Lý. - Hạ lợi ỉa mủ máu: Can Tỳ đều là Hàn Kinh, đều là Kinh hành Huyết. - Đào Hoa thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (322) Nhiệt lợi hạ trọng, Bạch Đầu Ông thang làm chủ. BẠCH ĐẦU ÔNG THANG PHƯƠNG Bạch Đầu Ông 2 lạng .
Hoàng Liên, Hoàng Bá, Tần Bì mỗi vị 3 lạng
4 vị trên, nước 7 thăng nấu lấy 2 thăng bỏ bả, uống ấm 1 thăng, không khỏi lại uống. BẢN NGHĨA (17/43) * Đây, Túc Âm Nhiệt Kinh nhập Can tại Biểu tại Lý. 204
- Nhiệt lợi hạ trọng: Can Hàn thọ Âm Nhiệt. - Bạch Đầu Ông thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (323) Sau khi hạ lợi lại phiền, ấn vào dưới Tâm thấy mềm là hư phiền, Chi Tử Xị thang làm chủ. CHI TỬ XỊ THANG PHƯƠNG Chi Tử 14 trái (đâm)
Hương Xị 4 hiệp (bọc vải)
2 vị trên nước 4 thăng, trước nấu Chi Tử giảm còn phân nửa, cho Xị vào nấu giảm phân nửa bỏ bả, chia uống ấm 2 lần. Uống 1 lần đổ được mồ hôi [hoặc mửa được ?] liền khỏi. BẢN NGHĨA (17/44) * Đây, Thủ Dương Nhiệt Kinh nhập Can tại Biểu tại Lý. - Sau khi hạ lợi lại phiền: Can Hàn thọ Thủ Dương Nhiệt. - Ấn vào thấy mềm là hư phiền: Thủ Dương Nhiệt hư. - Chi Tử Xị thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (324) Hạ lợi thanh cốc, Lý Hàn Ngoại Nhiệt, ra mồ hôi mà quyết, Thông Mạch Tứ Nghịch thang làm chủ. THÔNG MẠCH TỨ NGHỊCH THANG PHƯƠNG Phụ Tử 1 củ dùng sống
Can Khương 3 lạng
Chích Thảo 2 lạng
3 vị trên, nước 3 thăng nấu lấy 1 thăng 2 cáp, bỏ bả, chia uống ấm 3 lần. BẢN NGHĨA (17/45) * Đây, Thủ Dương Hàn Kinh nhập Can tại Biểu tại Lý. - Hạ lợi thanh cốc: Dương Hàn nhập Âm Hàn.
205
- Lý hiệp Dương Hàn thì Âm Nhiệt xuất Ngoại, Âm Nhiệt xuất Ngoại nên ra mồ hôi, Âm Hàn tòng theo nó, nên quyết (lãnh). - Thông Mạch Tứ Nghịch thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (325) Hạ lợi Phế thống (Phế đau), Tử Sâm thang làm chủ. TỬ SÂM THANG PHƯƠNG Tử Sâm ½ cân
Cam Thảo 3 lạng
2 vị trên, nước 6 thăng, trước nấu Tử Sâm giảm nửa, cho Cam thảo vào lại nấu giảm nửa,chia uống ấm 3 lần. BẢN NGHĨA (17/46) * Đây, Túc Dương Nhiệt Kinh nhập Can tại Biểu tại Lý. - Can Âm Hàn tại Hạ làm lợi mà lại thọ tại Thượng Dương Nhiệt cho nên Phế đau. - Tử Sâm thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (326) Khí lợi (đi lợi kèm theo nhiều hơi), Kha Lê Lặc tán làm chủ. KHA LÊ LẶC TÁN PHƯƠNG Kha Lê Lặc 10 trái - 1 vị trên, tán nhuyễn hòa uống với cháo, uống hết 1 lần. BẢN NGHĨA (17/47) * Đây, Túc Dương Hàn Kinh nhập Can tại Biểu tại Lý. - Can Hàn thọ Hàn hạ lợi nặng đến Thủy tận đến Huyết, Huyết tận đến Khí. - Kha Lê Lặc tán để cố (bền chắc) Khí.
(Trên đây, chương thứ 17, 47 tiết, luận bệnh Ẩu Thổ - Uế – Hạ Lợi) 206
CHƯƠNG 18:
UNG SANG – TRƯỜNG UNG – TẨM DÂM SANG (8 Tiết, từ 327 đến 334) LUẬN THỦ LẠC
12345678-
Thủ Lạc tại Thượng tiêu làm Ung thũng. Thủ Lạc tại Trung tiêu làm Trường ung. Thủ Lạc tại Hạ tiêu làm Phúc ung. Thủ Âm Lạc hành Huyết Thủ Dương Lạc hành Thủy liên quan. Các Thủ lạc tại Tấu. Các Thủ Lạc tại Đái. Các Thủ Lạc tại Cách. Các Thủ Lạc tại Bì.
NGUYÊN VĂN (327) Các mạch Phù Sác đáng lẽ phải sốt mà trái lại ớn ớn lạnh, nếu như có chổ đau thì sẽ phát Ung. Thầy nói : các chứng Ung thũng muốn biết có nùng (mủ), hay không nùng, dùng tay đè lên chổ thũng, thấy nóng là độc đã tụ đúng là có nùng, không nóng là không có nùng. BẢN NGHĨA (18/1) * Đây, các Thủ Lạc tại Thượng Tiêu làm Ung thũng. - Các mạch Phù Sác: các mạch của Thủ Lạc tại Thượng Tiêu. - Đáng lẽ phát sốt mà trái lại sợ lạnh: các Thủ Lạc đều có Hàn có Nhiệt. - Chỗ các Thủ Lạc Thủy Huyết tương bác làm đau là chỗ phát ung. - Ung thì làm thũng, thũng thì có Nùng, lấy tay đè lên chỗ thũng thấy nóng là Thủy Huyết tụ mà đã kết thành nùng, không nóng là Thủy Huyết đã tụ mà chưa kết thành nùng.
NGUYÊN VĂN (328) Trường ung ‘chi vi’ bệnh, mình mẩy đóng vẩy, da bụng căng đè tay thấy mềm như trạng bệnh thũng, bụng không có tích tụ, mình không nóng mạch Sác, đấy là trong ruột có Ung nùng, Dĩ Nhân Phụ Tử Bại Tương tán làm chủ.
207
DĨ NHÂN PHỤ TỬ BẠI TƯƠNG TÁN PHƯƠNG Dĩ Nhân 10 phân
Phụ Tử 2 phân
Bại Tương 5 phân
3 vị trên, tán nhuyễn lấy 1 thìa phương thốn, 2 thăng nước nấu giảm phân nửa, uống hết 1 lần (bệnh hạ theo tiểu tiện). BẢN NGHĨA (18/2) * Đây, các Thủ Lạc tại Trung Tiêu làm Trường Ung. - Trường Ung là Lạc làm bệnh tại Trung Tiêu. - Mình đóng vẩy: Thủy Lạc tại Ngoại không cộng với Huyết Lạc. - Da bụng căng: Huyết Lạc tại Nội không cộng với Thủy Lạc. - Đè vào thấy mềm như trạng bệnh thũng: Lạc hư. - Bụng không tích tụ: không phải tại Nội tích tụ mà thũng. - Mình không nóng: không phải tại Ngoại thọ Nhiệt mà thũng. - Mạch Sác: Âm Nhiệt hư. - Đấy là trong ruột có Ung nùng: Lạc bệnh không phát ở Ngoại vì tại Nội, Kinh Khí yếu kém. Dĩ Nhân Phụ Tử Bại Tương tán làm chủ.
NGUYÊN VĂN (329) Bệnh Ung nùng bụng dưới thũng bĩ đè vào đau như chứng Lâm, tiểu tiện tự điều, thỉnh thoảng phát sốt, tự ra mồ hôi lại sợ lạnh. Mạch người bệnh Trì Khẩn là nùng chưa thành, có thể cho Hạ. Mạch Hồng Sác là nùng đã thành, không thể cho Hạ. Đại Hoàng Mẫu Đơn thang làm chủ. ĐẠI HOÀNG MẪU ĐƠN THANG PHƯƠNG Đại Hoàng 4 lạng
Mẫu Đơn 1 lạng
Đào Nhân 50 hạt
Mang Tiêu 3 cáp
Đông Hoa Nhân ½ thăng
5 vị trên, nước 6 thăng nấu lấy 1 thăng bỏ bả, cho Mang Tiêu vào lại nấu cho sôi vài dạo, uống hết 1 lần, có nùng thì đi hạ ra nùng, không nùng thì đi hạ ra huyết. 208
BẢN NGHĨA (18/3) * Đây, các Thủ Lạc tại Hạ Tiêu làm Phúc Ung. - Bụng dưới thũng bĩ: Thủ Lạc kết tại Hạ Tiêu. - Đè vào đau như chứng Lâm: Lạc bệnh. - Tiểu tiện tự điều: Lạc bệnh mà Kinh không bệnh. - Thỉnh thoảng phát sốt: Lạc bệnh. - Tự ra mồ hôi lại sợ lạnh: Lạc bệnh mà Khí tự bệnh. - Mạch Trì Khẩn là Dương Hàn thắng Âm Nhiệt. - Nùng chưa thành có thể cho Hạ: Thủy có thể Hạ mà Huyết tự Hạ. - Mạch Hồng Sác là Âm Nhiệt thắng Dương Hàn. - Nùng đã thành không thể cho Hạ: Huyết không thể cho Hạ, Thủy cũng không thể cho Hạ. - Đại Hoàng Mẫu Đơn thang làm chủ. *Nói Thủy Huyết đều Hạ một lúc không thể phân ra.
NGUYÊN VĂN (330) Hỏi rằng : Thốn khẩu mạch Phù Vi mà Sáp, ‘pháp đương’ vong huyết (mất máu). Nếu ra mồ hôi, giả sử không ra mồ hôi là sao ? Đáp rằng : Nếu như mình có ghẻ, bị thương bởi dao rìu, mất máu cho nên thế. BẢN NGHĨA (18/4) * Đây, Thủ Âm Huyết Lạc cùng với Thủ Dương Thủy Lạc liên quan. - Mạch Phù Vi mà Sáp, ‘pháp đương’ vong Huyết: Thủ Âm Huyết Lạc. - Nếu ra mồ hôi, giả sử không ra mồ hôi: Thủ Dương Thủy Lạc. Hai câu trên nói Huyết với Thủy liên quan. - Mình có ghẻ: Thủy Huyết đều bệnh. 209
- Bị thương bởi dao rìu, mất máu: Thủy Huyết đều vong. Nói Thủy với Huyết lại cùng liên quan mật thiết.
NGUYÊN VĂN (331) Bệnh Kim sang (dao búa tổn thương từ ngoài), Vương Bất Lưu Hành tán làm chủ. VƯƠNG BẤT LƯU HÀNH TÁN PHƯƠNG Vương Bất Lưu Hành 14 phân
Sóc Diệu Tế Diệp 10 phân
Tang Bạch Bì (rễ hướng Đông Nam) 18 phân
Cam Thảo 8 phân
Hoàng Cầm 2 phân
Xuyên Tiêu 3 phân
Hậu Phác 6 phân
Can Khương 2 phân
Bạch Thược 2 phân
9 vị trên, Tang Căn, Tế Diệp, Lưu Hành đốt tồn tính. Các vị đâm riêng, rây nhuyễn hiệp lại để trị, mỗi lần uống một thìa phương thốn, vết thương nhỏ thì đắp thuốc, vết thương lớn là chỉ uống, Sản phụ cũng có thể uống. BẢN NGHĨA (18/5) * Đây, Các Thủ Lạc tại Tấu. - Kim sang: tự Ngoại nhập Tấu. Vương bất lưu hành tán làm chủ. - Vết thương nhỏ đắp thuốc bột: trị Tấu Ngoại. - Vết thương lớn uống thuốc: trị tại Tấu. - Sản phụ cũng có thể uống: trị tại Tấu Nội.
NGUYÊN VĂN (332) BÀI NÙNG TÁN PHƯƠNG Chỉ Thiệt 16 trái
Bạch Thược 6 phân
Cát Cánh 2 phân
3 vị trên, tán làm bột, lấy tròng đỏ trứng gà 1 cái, lượng thuốc bột với tròng đỏ trứng bằng nhau, khuấy cho trứng và thuốc trộn đều, rồi uống ngày 1 lần. 210
BẢN NGHĨA (18/6) * Đây, Các Thủ Lạc tại Đái. - Chỉ nói phương Bài Nùng tán, không nói chứng là vì Sang nùng tại Đái chứng của nó rất nhiều. Đây chỉ bài trừ đi thôi.
NGUYÊN VĂN (333) BÀI NÙNG THANG PHƯƠNG Cam Thảo 2 lạng
Cát Cánh 3 lạng
Sinh Khương 1 lạng
Đại Táo 10 trái
4 vị trên, nước 3 thăng nấu lấy 1 thăng, uống ấm 5 cáp ngày 2 lần. Đây là tể hành Vinh Vệ. BẢN NGHĨA (18/7) * Đây, Các Thủ Lạc tại Cách. - Chỉ nói phương Bài Nùng thang, không nói chứng là vì Sang tại Cách chỉ cần điều hòa Vinh Vệ, Khí Huyết mà thôi.
NGUYÊN VĂN (334) Tẩm dâm sang khởi từ miệng hướng đến tứ chi là có thể trị, khởi từ tứ chi hướng nhập vào miệng là không thể trị, Tẩm Dâm Sang Hoàng Liên Phấn làm chủ. HOÀNG LIÊN PHẤN PHƯƠNG Hoàng Liên 1 vị làm phấn, rịt đắp bên ngoài, nặng thì uống bên trong. BẢN NGHĨA (18/8) * Đây, Các Thủ Lạc tại Bì. - Bệnh tại Ngoại có thể trị,nhập Nội không thể trị, chẳng phải một bệnh mà trăm bệnh đều như vậy.
(Trên đây, chương thứ 18, 8 tiết, luận bệnh Ung Sang – Trường Ung – Tẩm Dâm Sang) 211
CHƯƠNG 19 : PHU KHUYẾT
– THỦ CHỈ TÝ THŨNG – CHUYỂN CÂN –
HỒ SÁN – VƯU TRÙNG. (7 Tiết, từ 335 đến 341) LUẬN TÚC KINH 1234567-
Túc Dương Kinh. Túc Dương với Thủ Dương là Kinh. Túc Âm Kinh. Túc Âm với Thủ Âm là Kinh. Túc Dương Kinh hành Thủy thọ Túc Âm Kinh hành Huyết. Túc Âm Kinh hành Huyết thọ Túc Dương Kinh hành Thủy. Các Túc Kinh đều do Hạ mà hành ở Thượng.
NGUYÊN VĂN (335) Thầy nói : bệnh Phu Khuyết, người bệnh chỉ đi tới trước không đi lùi được, châm bắp chân sâu 2 thốn (huyệt Thừa Sơn ? ) đấy là Kinh Túc Thái Dương bị thương. BẢN NGHĨA (19/1) * Đây, Túc Thái Dương Kinh từ đầu chạy xuống chân.
NGUYÊN VĂN (336) Người bệnh ngón tay sưng thũng, bàn tay cánh tay thường hay lay động, người này thân thể hay máy giật, Lê Lư Cam Thảo thang làm chủ (chưa thấy phương, tìm xem ở Y học đại từ điển). BẢN NGHĨA (19/2) * Đây, Túc Dương với Thủ Dương là Kinh.
NGUYÊN VĂN (337) Chuyển cân (chuột rút) ‘chi vi’ bệnh, người này tý (cánh tay), cước (cẳng chân), mạch đi lên xuống hơi Huyền. Bệnh chuyển cân nhập phúc (chuột rút vào bụng), Kê Thỉ Bạch tán làm chủ. .
212
KÊ THỈ BẠCH TÁN PHƯƠNG Kê Thỉ Bạch -
1 vị tán nhỏ lấy 1 thìa phương thốn hòa uống với 6 cáp nước ấm.
BẢN NGHĨA (19/3) *Đây, Túc Âm Kinh từ chân chạy đến bụng.
NGUYÊN VĂN (338) Bệnh Âm hồ Sán khí, hòn dái có lớn nhỏ thiên một bên, có lúc lên lúc xuống, Tri Thù tán làm chủ. TRI THÙ TÁN PHƯƠNG Tri Thù 14 con rang cháy
Quế Chi ½ lạng
2 vị tán bột dùng 8 phân hòa với nước chín uống ngày 2 lần. Làm hoàn mật cũng được. BẢN NGHĨA (19/4) * Đây, Túc Âm cùng với Thủ Âm là Kinh.
NGUYÊN VĂN (339) Hỏi rằng : người bệnh đau bụng có trùng, mạch nó phân biệt thế nào ? Thầy đáp : trong bụng đau mạch nó nên Trầm, nếu như Huyền trái lại Hồng Đại biết là có Vưu trùng (sán lãi). BẢN NGHĨA (19/5) * Đây, Túc Dương Thủy Kinh thọ Túc Âm Huyết Kinh. - Bụng đau: nói tại bụng Thủy Kinh thọ nhập của Huyết Kinh. - Mạch nên Trầm: Túc Dương Hàn Thủy Kinh. - Nếu như Huyền: Túc Dương Nhiệt Thủy Kinh. - Trái lại Hồng Đại biết là có Vưu trùng: thọ Túc Âm Huyết Kinh.
213
NGUYÊN VĂN (340) Vưu trùng ‘chi vi’ bệnh, làm cho người bệnh mửa nước dãi, Tâm đau phát lên có lúc, dùng thuốc độc không dứt, Cam Thảo Phấn Mật thang làm chủ. CAM THẢO PHẤN MẬT THANG PHƯƠNG Cam Thảo 2 lạng
Bạch Mật 1 lạng
Bạch Phấn 1 lạng
3 vị trên dùng 3 thăng nước, trước nấu Cam Thảo lấy 2 thăng bỏ bả, cho Phấn mật vào trộn đều cô thành như cháo loãng, uống ấm 1 thăng, bệnh bớt thời ngưng. BẢN NGHĨA (19/6) * Đây, Túc Âm Kinh Huyết thọ Túc Dương Kinh Thủy. - Bệnh Vưu trùng: Túc Âm Kinh Huyết. - Mửa nước dãi: Túc Dương Kinh Thủy. - Tâm đau: nói tại chỗ Cách Huyết Kinh thọ Thủy. - Phát lên có lúc: Âm Dương Kinh hành có giờ Vượng. - Dùng thuốc độc không dứt: Kinh hành theo đạo thường,không cần dùng đến thuốc độc. - Cam Thảo Phấn Mật thang làm chủ: tư dưỡng Kinh Lạc là trị được bệnh.
NGUYÊN VĂN (341) Bệnh Vưu quyết (sán lãi làm lạnh tay chân), người bệnh nên mửa lãi; nay người bệnh yên tĩnh mà lại có lúc phiền, đấy là Tạng Hàn, lãi đi lên vào Cách cho nên phiền giây lát rồi dứt. Ăn vào mà ói lại phiền là lãi nghe mùi đồ ăn, đi ra người bệnh nên mửa lãi. Bệnh Vưu quyết, Ô Mai hoàn làm chủ. Ô MAI HOÀN PHƯƠNG Ô Mai 300 trái
Can Khương 10 lạng
Tế Tân 6 lạng
Hoàng Liên 1 cân
Đương Qui, Xuyên Tiêu mỗi vị 4 lạng. Phụ Tử (bào), Quế Chi, Nhân Sâm, Hoàng Bá mỗi vị 6 lạng 214
10 vị giã riêng rây nhuyễn rồi hiệp lại. Dùng dấm ngâm Ô Mai 1 đêm bỏ hột, chưng với 5 thăng gạo, cơm chín giã thành bùn trộn đều với thuốc bột, cho vào trong cối cùng với mật giã 2000 chày, hoàn to bằng hạt ngô đồng, trước khi ăn uống 10 hoàn. Cấm các vật sống lạnh, béo, hôi tanh. BẢN NGHĨA (19/7) * Đây, Túc Kinh đều từ dưới mà đi lên trên. - Vưu quyết là Túc Âm Huyết Kinh có Dương Thủy nhập. - Nên mửa lãi: trong Túc Dương Thủy Kinh có Âm Huyết nhập. - Đấy là Tạng Hàn: các Túc Kinh đều gốc tại Thái Xung Âm Tạng. - Lãi đi lên vào Cách cho nên phiền: do Thái Xung Kinh mà đi lên nơi ‘quảng minh’. - Ăn vào nghe mùi đồ ăn: nhờ vào Khí của thức ăn uống, trong Vỵ mới thành được Kinh này. - Mửa Lãi, Vưu quyết: là nói các Túc Kinh. - Ô Mai hoàn làm chủ.
(Trên đây, chương thứ 19, 7 tiết, luận bệnh Phu Khuyết – Thủ Chỉ - Tí Thũng – Chuyển Cân – Hồ Sán – Vưu Trùng) 215
TẠP BỆNH LUẬN QUYỂN IX ________________________________ CHƯƠNG 20 : PHỤ NHƠN
NHÂM THẦN
(11 Tiết, từ 342 đến 352) LUẬN TÚC LẠC 1- Túc Dương Thủy Lạc chủ thai tháng 1 – 2 . 2- Túc Âm Huyết Lạc chủ thai tháng 3 – 4 . 3- Túc Dương Thủy Lạc, Túc Âm Huyết Lạc chủ thai tháng 6 – 7 . 4- Các Túc Lạc từ kết thai đến khi sanh. 5- Nhâm thần thọ Âm Nhiệt tại Đái. 6- Nhâm thần thọ Âm Hàn tại Đái. 7- Nhâm thần thọ Dương Nhiệt tại Đái. 8- Nhâm thần thọ Dương Hàn tại Đái. 9- Nhâm thần thọ Thủy Huyết của các Lạc chú nhập tại Đái. 10- Nhâm thần thọ tại Đái Thủy Huyết chú nhập các Lạc. 11- Nhâm thần liên quan các Túc Lạc với Thủ Lạc. NGUYÊN VĂN (342) Thầy nói : đàn bà có mạch Bình, Âm mạch (bộ xích) Tiểu Nhược, người đói khát, không ăn được, không nóng lạnh, gọi là Nhâm thần, Quế Chi thang làm chủ. Theo phép 60 ngày nên có chứng này; giả như có thầy thuốc trị sai nghịch, đã qua một tháng lại thêm chứng mửa, ỉa thì tuyệt đối không nên dùng. BẢN NGHĨA (20/1) * Đây, Túc Dương Thủy Lạc chủ thai tháng 1 - 2. - Bình mạch: mạch không có bệnh. - Âm mạch Tiểu Nhược: với Dương mạch tự phân biệt. - Khát: Thủy không hóa. - Không ăn được: Khí không hóa. - Không nóng lạnh: bệnh tại Lạc không tại Kinh (kinh khí). - Gọi là Nhâm thần (có thai): Thủy kết tại Bàng Quang Lạc của Huyết thất. 216
- Quế Chi thang làm chủ: Điều Âm Dương hòa Khí Huyết. - 60 ngày: tức thai tháng 1 – 2. - Theo phép nên có chứng mửa: bởi vì Thủy kết tại Bàng Quang Lạc. - Giả như thầy thuốc không biết phép của nó mà trị nghịch. - Đã qua một tháng lại thêm chứng mửa, ỉa tuyệt đối không nên dùng: không thể dùng Quế Chi thang. *Nói một tháng trước Bàng Quang Lạc chưa thọ kết của thai Thủy nên dùng Quế Chi thang, một tháng sau có chứng mửa đã thọ kết của thai Thủy, không thể dùng Quế Chi thang vậy.
NGUYÊN VĂN (343) Đàn bà sẳn có bệnh Trưng, Kinh Thủy ngưng chưa đến 3 tháng mà có lậu hạ không dứt, thai động tại trên rún, đấy là bệnh Trưng lâu ngày làm hại. Đàn bà có thai 6 tháng, thai động là : . Trước 3 tháng Kinh Thủy lợi là có thai. . Sau khi Kinh Thủy ngưng 3 tháng ra huyết là Bội (huyết ứ). Sở dĩ ra huyết không dứt là vì bệnh Trưng không được trừ. Cần phải cho Hạ chứng Trưng, Quế Chi Phục Linh hoàn làm chủ. QUẾ CHI PHỤC LINH HOÀN PHƯƠNG Quế Chi, Phục Linh, Đơn Bì, Đào Nhân, Bạch Thược các vị đồng phân lượng. 5 vị tán bột luyện mật làm hoàn to như cứt thỏ, mỗi ngày trước khi ăn uống 1 hoàn, không thấy hiệu nghiệm thì tăng thêm đến 3 hoàn. BẢN NGHĨA (20/2) * Đây, Túc Âm Huyết Lạc chủ thai tháng 3 - 4. - Đàn bà sẳn có bệnh Trưng: vốn có bệnh lậu hạ Huyết. - Đàn bà có thai 3 tháng trước do Bàng Quang Thủy Lạc làm chủ; 3 tháng sau do Thận Huyết Lạc làm chủ. 217
- Chưa đến 3 tháng mà có lậu hạ không dứt: bệnh tại thời gian Thủy Lạc với Huyết Lạc giao đại (trao đổi). - Thủy Huyết giao kết thai mà động tại trên rún, đấy là bệnh Trưng lâu ngày làm hại: Tức là Thủy Huyết giao làm bệnh. - 6 tháng thai động, 3 tháng trước lúc Kinh Thủy lợi: Thủy với Huyết kết thai. - Ra Huyết sau khi Kinh Thủy ngưng 3 tháng: chỉ là kết của Thủy là Bội. - Sở dĩ Huyết ra không dứt là chứng Trưng không được trừ: bởi vì không thành thai. - Cần phải trừ chứng Trưng: nói Thủy Huyết giao đại lúc thai 3 tháng là chổ trị bệnh có thai nên biết. - Quế Chi Phục Linh hoàn làm chủ.
NGUYÊN VĂN (344) Đàn bà có thai 6 -7 tháng, mạch Huyền phát sốt, cái thai càng trướng, bụng đau sợ lạnh, bụng dưới như bị gió quạt; sở dĩ như thế là vì tử cung mở, dùng Phụ Tử thang để làm ấm Tạng. PHỤ TỬ THANG PHƯƠNG Phụ Tử 2 củ dùng sống,Phục Linh 3 lạng, Bạch Truật 4 lạng, Nhân Sâm 3 lạng,Bạch Thược 3 lạng. 5 vị trên, dùng nước nấu bỏ bả, uống ấm 1 thăng ngày 3 lần. BẢN NGHĨA (20/3) * Đây, Túc Dương Thủy Lạc, Túc Âm Huyết Lạc chủ thai 6 – 7 tháng. - 5 – 6 tháng Túc Dương Thủy Lạc làm chủ. - 7 – 8 tháng Túc Âm Huyết Lạc làm chủ. - Nói 6 – 7 tháng là lúc Túc Dương Nhiệt Lạc, Túc Âm Hàn Lạc giao đại. - Mạch Huyền phát sốt: có Dương Nhiệt, có Âm Hàn. - Cái thai càng trướng: lúc thai 6 tháng. - Bụng đau sợ lạnh: Dương Thủy Âm Huyết giao làm bệnh. - Bụng dưới như bị gió quạt: lúc thai 7 - 8 tháng. 218
- Sở dĩ như thế: đã gần lúc sanh cái thai đã lớn tử cung đã mở. - Nên dùng Phụ Tử thang làm ấm Tạng: trị Túc Âm Hàn Huyết làm chủ lúc có thai.
NGUYÊN VĂN (345) Thầy nói : Đàn bà có chứng lậu hạ, có chứng sanh non, rồi sau nhân vì thế tiếp tục ra huyết không dứt, có chứng Nhâm thần hạ huyết. Nếu như đàn bà có thai mà đau trong bụng làm ‘bào trở’, A Giao Ngãi Diệp thang làm chủ. A GIAO NGÃI DIỆP THANG PHƯƠNG A Giao, Xuyên Khung, Cam Thảo mỗi vị 2 lạng. Ngãi Diệp, Đương Qui mỗi vị 3 lạng.
Can Địa Hoàng 6 lạng. Bạch Thược 4 lạng.
7 vị trên, nước 5 thăng, 3 thăng rượu trong hiệp lại nấu lấy 3 thăng bỏ bả, cho A Giao vào tan hết, uống ấm 1 thăng ngày 3 lần, không bớt nấu uống thêm. BẢN NGHĨA (20/4) * Đây, Các Túc Lạc từ kết thai đến lúc sanh. - Có chứng lậu hạ: Bàng Quang Thủy Lạc chủ thai, lúc trước hoặc sau tháng 1 – 2. - Sau khi sanh non nhân đó tiếp tục ra Huyết không dứt: Thận Huyết Lạc chủ thai, lúc trước hoặc sau tháng 3 – 4. - Đàn bà có thai ra Huyết: Dương Nhiệt Âm Hàn chủ thai, lúc trước hoặc sau tháng 6 – 7 . - Trong bụng đau: sau 9 tháng Thủy Lạc Huyết Lạc bức bách chia xé nhau, có trở ngại tại bào môn. Cần phải lợi Thủy hành Huyết, Giao Ngãi thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (346) Đàn bà mang thai, trong bụng quặn đau, Đương Qui Thược Dược tán làm chủ. ĐƯƠNG QUI THƯỢC DƯỢC TÁN PHƯƠNG Đương Qui, Xuyên Khung mỗi vị 3 lạng Trạch Tả ½ cân
Thược Dược 1 cân
Phục Linh, Bạch Truật mỗi vị 4 lạng 219
6 vị trên, tán bột, dùng 1 thìa phương thốn hòa rượu uống ngày 2 lần. BẢN NGHĨA (20/5) * Đây, Nhâm thần thọ Âm Nhiệt Huyết tại Đái phần. - Quặn đau: Âm Nhiệt Huyết Lạc động, Thủy Lạc cũng động. - Đương Qui Bạch Thược tán làm chủ.
NGUYÊN VĂN (347) Nhâm thần ẩu thổ không dứt, Can Khương Nhân Sâm Bán Hạ hoàn làm chủ. CAN KHƯƠNG NHÂN SÂM BÁN HẠ HOÀN PHƯƠNG Can Khương, Nhân Sâm mỗi vị 1 lạng
Bán Hạ 2 lạng
3 vị trên tán bột, dùng nước trấp Sinh Khương hòa làm hoàn to bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống 10 hoàn ngày 3 lần. BẢN NGHĨA (20/6) * Đây, Nhâm thần thọ Âm Hàn Huyết tại Đái phần. - Ẩu thổ: Âm Hàn Lạc Huyết. - Không dứt là do Đái mà đi lên. - Can Khương Nhân Sâm Bán Hạ hoàn làm chủ.
NGUYÊN VĂN (348) Nhâm thần tiểu tiện khó, ăn uống như thường, Đương Qui Bối Mẫu Khổ Sâm hoàn làm chủ. ĐƯƠNG QUI BỐI MẪU KHỔ SÂM HOÀN PHƯƠNG Đương Qui, Bối Mẫu, Khổ Sâm mỗi vị 4 lạng 3 vị trên, tán bột luyện mật làm hoàn như hạt tiểu đậu, mỗi lần uống 3 hoàn gia đến 10 hoàn. 220
BẢN NGHĨA (20/7) * Đây, Nhâm thần thọ Dương Nhiệt Thủy tại Đái. - Tiểu tiện khó: Túc Dương Nhiệt Thủy tại Đái phần. - Ăn uống như thường: Nhiệt Thủy không tùy Kinh mà đi lên. - Đương Qui Bối Mẫu Khổ Sâm hoàn làm chủ.
NGUYÊN VĂN (349) Nhâm thần có Thủy Khí, mình nặng, tiểu tiện không lợi, ớn ớn sợ lạnh, khởi dậy đầu liền xây xẩm, Quì Tử Phục Linh tán làm chủ. QUÌ TỬ PHỤC LINH TÁN PHƯƠNG Quì Tử 1 thăng
Phục Linh 3 lạng
2 vị tán bột uống 1 thìa phương thốn với nước chín ngày 2 lần, tiểu tiện lợi thì khỏi. BẢN NGHĨA (20/8) * Đây, Nhâm thần thọ Dương Hàn tại Đái. - Có Thủy Khí, mình nặng, tiểu tiện không lợi: thọ Dương Hàn Thủy tại Đái. - Ớn ớn sợ lạnh, khởi dậy đầu liền xây xẩm: Dương Hàn Thủy Lạc tùy Kinh mà đi lên. - Quì Tử Phục Linh tán làm chủ.
NGUYÊN VĂN (350) Đàn bà có thai nên uống Đương Qui tán làm chủ. ĐƯƠNG QUI TÁN PHƯƠNG Đương Qui, Hoàng Cầm, Bạch Thược, Xuyên Khung mỗi vị 1 cân,
Bạch Truật ½ cân
5 vị trên tán bột uống với rượu 1 thìa phương thốn, ngày 2 lần. Có thai thường uống sẽ dễ sanh,thai không tật bệnh thống khổ,Sản hậu bách bệnh làm chủ hết thảy. 221
BẢN NGHĨA (20/9) * Đây, Nhâm thần thọ các Lạc Thủy Huyết nhập Đái. - Thường uống Đương Qui tán thì các Lạc Thủy Huyết thông lợi dễ sanh. - Trước có thai có thể uống, sau khi sanh có thể uống, trăm bệnh không ngoài Thủy Huyết, hai loại này mà thôi.
NGUYÊN VĂN (351) Nhâm thần dưỡng thai, Bạch Truật tán làm chủ. BẠCH TRUẬT TÁN PHƯƠNG Bạch Truật, Xuyên Tiêu, Mẫu Lệ, Xuyên Khung mỗi vị 3 lạng 4 vị trên, tán bột uống với rượu 1 thìa phương thốn, ngày 3 đêm 1 lần. - Chỉ đau khó chịu gia Bạch Thược, Mẫu Lệ. - Tâm bứt rứt mửa, đau không ăn uống được gia Tế Tân 1 lạng, Bán Hạ lớn 20 củ. Sau khi uống lại dùng nước dấm để uống. - Nếu như ói, dùng nước dấm để uống lại không giải thì dùng nước trấp Tiểu mạch để uống. - Uống rồi mà khát dùng nước trấp Đại mạch để uống. - Bệnh tuy hết vẫn tiếp tục uống chớ bỏ. BẢN NGHĨA (20/10) * Đây, Nhâm thần tại Đái Thủy Huyết nhập các Lạc. - Tại Đái Thủy Huyết dùng để dưỡng thai. - Nếu đau gia Bạch Thược; “độc thống” gia Xuyên Khung: trị tại Đái Huyết bất hành ở các Lạc. - Tâm bứt rứt, mửa, đau không thể ăn uống được gia Tế Tân, Bán Hạ: trị tại Đái Thủy bất hành ở các Lạc. - Dùng nước dấm để uống: trị Huyết Lạc tại Đái. - Nước trấp Tiểu mạch để uống: trị Thủy Lạc tại Đái. - Nước trấp Đại mạch để uống: cùng trị Thủy Lạc, Huyết Lạc tại Đái. - Bệnh tuy khỏi vẫn cứ uống chớ bỏ: trị bệnh tại Lạc, uống nhiều có thể trị tại Kinh. 222
NGUYÊN VĂN (352) Đàn bà tổn thương thai, thân cưu mang bụng đầy, không tiểu tiện được, từ eo lưng trở xuống nặng như trạng có Thủy. Mang thai đã 7 tháng, đáng lẽ Kinh Thái Âm phải dưỡng trái lại không dưỡng, đấy là Tâm Khí Thực, nên châm tả huyệt Lao Cung và Quan Nguyên, tiểu tiện hơi lợi thì khỏi. BẢN NGHĨA (20/11) * Đây, Các Túc Lạc với các Thủ Lạc liên quan. - Tổn thương thai: Túc Lạc Thủy Huyết bị thương. - Thân cưu mang bụng đầy, không tiểu tiện được: Túc Lạc Thủy Huyết bị thương, Thủ Lạc Thủy Huyết không tránh khỏi. - Eo lưng trở xuống nặng như trạng có Thủy: Túc Lạc Thủy Huyết có Thủ Lạc Thủy Huyết tại Nội. - Mang thai 7 tháng, tháng của Túc Thái Âm Huyết Lạc dưỡng thai. - Đáng lẽ phải dưỡng trái lại không dưỡng là Huyết của Thủ Thái Âm Phế Lạc không cộng với Huyết của Túc Thái Âm Tỳ Lạc. *Thủ Thái Âm Phế Huyết không tương cộng, do Thủ Thiếu Âm Tâm Huyết không tương cộng. - Phần lớn hể Huyết Lạc hư thì Thủy Lạc thực, đấy là Thủy thực tại Thiếu Âm Tâm Lạc. - Châm tả huyệt Lao Cung : tả Tâm Huyết tại Thượng thọ Thủy. - Và Quan Nguyên tả Tâm Huyết tại Hạ thọ Thủy. - Trị Tâm Lạc tức trị Phế Lạc, trị Phế Lạc tức trị Túc Thái Âm Tỳ Lạc, tiểu tiện hơi lợi thì khỏi.
(Trên đây, chương thứ 20, 11 tiết, luận Phụ Nhơn Nhâm Thần) 223
CHƯƠNG 21: PHỤ NHƠN
SẢN HẬU
(11 Tiết, từ 353 đến 363) LUẬN TÚC TAM ÂM 1- Túc Tam Âm là Kinh hành Huyết. 2- Túc Tam Âm Kinh Huyết tại Tấu thọ Hàn. 3- Túc Tam Âm Kinh Huyết tại Tấu thọ Nhiệt. 4- Túc Tam Âm Kinh Huyết tại Đái thọ Hàn. 5- Túc Tam Âm Kinh Huyết tại Đái thọ Nhiệt. 6- Túc Tam Âm Kinh Huyết tại Đái mà hành ở Thượng Hạ. 7- Túc Tam Âm Kinh Huyết tại Tấu mà hành ở Nội Ngoại. 8- Túc Tam Âm tại Tấu chuyển Âm Nhiệt sang Dương Hàn xuất Ngoại. 9- Túc Tam Âm tại Tấu chuyển Dương Hàn sang Âm Nhiệt nhập Nội. 10- Túc Tam Âm tại Đái chuyển Âm Hàn sang Âm Nhiệt mà lên Thượng. 11- Túc Tam Âm tại Đái chuyển Âm Hàn sang Âm Nhiệt mà xuống Hạ.
NGUYÊN VĂN (353) Hỏi rằng : đàn bà mới sanh có 3 bệnh : . 1 là bệnh Kỉnh. . 2 là bệnh Uất mạo. . 3 là đại tiện khó là vì sao ? Thầy đáp : mới sanh huyết hư, ra nhiều mồ hôi, dễ bị Trúng phong cho nên bệnh Kỉnh. Mất máu lại đổ mồ hôi, lạnh nhiều cho nên Uất mạo. Vong tân dịch, Vỵ ráo cho nên đại tiện khó. BẢN NGHĨA (21/1) * Đây, Túc Tam Âm là Kinh hành Huyết. - Kỉnh là chứng Túc Khuyết Âm. - Uất mạo là chứng Túc Thiếu Âm. - Đại tiện khó là chứng Túc Thái Âm. - Như vậy là tại sao ? Túc Tam Âm là Kinh hành Huyết, có chứng Lý lại có chứng Biểu. 224
- Mới sanh tại Lý Túc Khuyết Âm Huyết hư, tại Biểu dễ bị Trúng Phong làm bệnh Kỉnh. - Mới sanh tại Lý Túc Thiếu Âm mất máu, tại Biểu thọ Hàn làm ra Uất mạo. - Mới sanh tại Lý Túc Thái Âm Huyết hư, vong tân dịch, Vỵ là Biểu của Tỳ cho nên Vỵ ráo đại tiện khó.
NGUYÊN VĂN (354) Sản phụ Uất mạo, mạch Vi Nhược, ói không ăn được, đại tiện trái lại cứng, chỉ đầu ra mồ hôi. Sở dĩ như vậy là vì huyết hư mà ‘quyết’, quyết thì ắt phải mạo, người vốn có chứng Mạo muốn giải, ắt ra nhiều mồ hôi vì huyết hư phần dưới quyết lạnh, ‘cô dương’ vượt lên cho nên đầu ra mồ hôi. Sở dĩ sản phụ dễ ra mồ hôi là do vong Âm huyết hư, Dương Khí độc thạnh cho nên phải ra mồ hôi, Âm Dương mới phục hồi; đại tiện rắn, ói không ăn được Tiểu Sài Hồ thang làm chủ. BẢN NGHĨA (21/2) * Đây, Túc Tam Âm Kinh Huyết tại Tấu Ngoại. - Sản phụ Uất mạo: Huyết hư tại Lý mà bệnh tại Biểu. - Mạch Vi Nhược: bởi cớ Huyết hư. - Ói không ăn được là Âm Hàn Huyết. - Đại tiện trái lại rắn, chỉ đầu ra mồ hôi là Âm Nhiệt Huyết. - Sở dĩ như vậy là vì Huyết hư mà ‘quyết’: chứng Âm Hàn. - Quyết thì ắt phải mạo: chứng Âm Nhiệt, bệnh thì cùng bệnh. - Mạo gia muốn giải ắt ra nhiều mồ hôi: giải thì cùng giải. - Huyết hư phần dưới quyết lạnh: Âm Hàn Huyết bệnh. - ‘Cô dương’ vượt lên cho nên đầu ra mồ hôi: Âm Nhiệt Huyết bệnh. - Sở dĩ như vậy là Túc Âm đồng là Kinh hành Huyết, Huyết hư mà bệnh, tương liên làm bệnh. - Sản phụ là Huyết hư, hay ra mồ hôi là vong Âm, Huyết hư Dương Khí độc thạnh cho nên phải ra mồ hôi, Âm Dương mới phục hồi. 225
*Nói Âm hư thì Dương trở lại, Huyết hư thì hạn xuất, không riêng phụ nhơn Huyết hư mới như thế. - Đại tiện rắn: Âm Nhiệt. - Ói không ăn được: Âm Hàn. - Tiểu Sài Hồ thang làm chủ: có thể trị Dương phần Hàn Nhiệt cũng có thể trị Âm phần Hàn Nhiệt, chỉ cần bệnh tại Tấu Bán Biểu là được.
NGUYÊN VĂN (355) Bệnh giải rồi, ăn được 7 – 8 ngày lại phát sốt, đấy là Vỵ thực, nên dùng Đại Thừa Khí thang làm chủ. BẢN NGHĨA (21/3) * Đây, Túc Tam Âm Kinh Huyết tại Tấu Nội. - Bệnh giải: không bệnh ở Biểu. - Ăn được: không bệnh ở Lý. - 7 – 8 ngày phát sốt: bệnh tại Tấu thực. - Vỵ Khí chủ Tấu, Vỵ hư thì Tấu hư, Vỵ thực thì Tấu thực, Đại Thừa Khí thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (356) Sau khi sanh trong bụng quặn đau, Đương Qui Sinh Khương Dương Nhục thang làm chủ. Cùng trị trong bụng Hàn sán, Hư lao bất túc (xem phương ở Hàn sán). BẢN NGHĨA (21/4) * Đây, Túc Tam Âm Kinh Huyết tại Đái thọ Hàn. - Sau khi sanh trong bụng quặn đau: tại Đái Âm Huyết hư Hàn, Đương Qui Sinh Khương Dương Nhục thang làm chủ. - Trị trong bụng Hàn Sán: Thận Huyết hư Hàn. - Trị Hư Lao bất túc: Tâm Huyết hư Hàn. 226
NGUYÊN VĂN (357) Sau khi sanh bụng đau phiền đầy, không nằm được, Chỉ Thực Bạch Thược tán làm chủ. CHỈ THỰC BẠCH THƯỢC TÁN PHƯƠNG Chỉ Thực (đốt cháy đen chớ thái quá), Bạch Thược các vị đồng phân lượng. 2 vị tán bột uống với nước chín 1 thìa phương thốn, ngày 3 lần. Cùng trị Ung nùng dùng cháo Đại mạch để uống. BẢN NGHĨA (21/5) * Đây, Túc Tam Âm Kinh Huyết tại Đái thọ Nhiệt. - Bụng đau phiền đầy không nằm được: Âm Kinh Huyết Nhiệt tại Đái Thượng, Chỉ Thực Bạch Thược tán làm chủ. - Thủy Huyết kết Ung tại Đái Hạ: dùng cháo Đại mạch để uống thuốc.
NGUYÊN VĂN (358) Thầy nói : Đàn bà sau khi sanh, bụng đau theo Phép nên dùng Chỉ Thực Bạch Thược tán. Giả như không hết đó là trong bụng có ứ huyết tại dưới rún, Hạ Ứ Huyết thang làm chủ, cùng chủ trị Kinh Thủy bất lợi. HẠ Ứ HUYẾT THANG PHƯƠNG Đại Hoàng 3 lạng
Đào Nhân 30 hạt
Manh Trùng 20 con (bỏ chân rang)
3 vị trên, tán bột luyện mật làm thành 4 hoàn, dùng 1 thăng rượu nấu 1 hoàn lấy 8 cáp, uống hết 1 lần. Ứ huyết ra như gan heo. BẢN NGHĨA (21/6) * Đây, Túc Tam Âm Kinh Huyết tại Đái mà hành ở Thượng Hạ. - Bụng đau: tại Đái Thượng theo phép nên dùng Chỉ Thực Bạch Thược tán. - Bụng có ứ Huyết tại dưới rún: bệnh tại Đái Hạ, nên dùng Hạ Ứ Huyết thang.
227
NGUYÊN VĂN (359) Sản hậu 7 - 8 ngày không có chứng Thái Dương, bụng dưới rắn đầy, đấy là ác lộ (máu dơ sau khi sanh) không hết dứt; không đại tiện, bứt rứt vật vã phát sốt. Bắt mạch thấy hơi thực lại càng phát sốt, lúc xế chiều phiền táo không ăn, ăn thì nói xàm đến đêm thì hết. Nên dùng Đại Thừa Khí thang làm chủ. Đấy là Nhiệt tại Lý kết tại Bàng Quang. BẢN NGHĨA (21/7) * Đây, Túc Tam Âm Kinh Huyết tại Tấu mà hành ở Nội Ngoại. - Sản hậu 7 - 8 ngày: Huyết hư tại Tấu Nội. - Không có chứng Thái Dương: không có chứng Tấu Ngoại. - Bụng dưới rắn đầy, đấy là ác lộ không hết dứt: dư Huyết tại Tấu. - Không đại tiện, phiền táo phát sốt: tại Tấu Bán Biểu Dương Nhiệt với Dương Hàn làm bệnh. - Bắt mạch thấy hơi thực, lại thêm phát sốt, xế chiều phiền táo không ăn: tại Tấu Bán Lý Âm Nhiệt với Âm Hàn làm bệnh. - Ăn thì nói xàm: Âm Hàn tòng Âm Nhiệt. - Đến đêm thì hết: Âm Nhiệt tòng Âm Hàn. - Nên dùng Đại Thừa Khí thang làm chủ. - Đấy là Âm Nhiệt Huyết tại Tấu Bán Lý cùng với Dương Hàn Thủy kết tại Bàng Quang. *Chứng bệnh Sản hậu cũng không ngoài Thủy Huyết mà thôi.
NGUYÊN VĂN (360) Chứng Phong sau khi sanh, liên tục vài mươi ngày không giải, đầu hơi nhức, sợ lạnh thỉnh thoảng có sốt, dưới Tâm khó chịu, ói liên tục, ra mồ hôi. Tuy lâu ngày chứng Dương đán vẫn còn, có thể dùng Dương đán thang. DƯƠNG ĐÁN THANG PHƯƠNG Tức Quế Chi thang tăng Quế 1 lạng gia Phụ Tử 1 củ.
228
BẢN NGHĨA (21/8) * Đây, Túc Tam Âm tại Tấu chuyển Âm Nhiệt sang Dương Hàn. - Chứng Phong sau khi sanh: nói Phong do Nội Huyết hư mà phát. - Liên tục vài mươi ngày không giảm: bệnh tại Tấu cho nên không giải. - Đầu hơi nhức: Dương Hàn Kinh thọ Âm Nhiệt Huyết. - Sợ lạnh thỉnh thoảng có sốt: Dương Nhiệt Kinh thọ Âm Hàn Huyết. - Dưới Tâm khó chịu: bệnh tại Tấu muốn ra nhưng không ra được. - Càn ẩu: Âm Hàn xuất Ngoại hiệp Dương Hàn. - Mồ hôi ra: Âm Nhiệt xuất Ngoại hiệp Dương Nhiệt. - Tuy lâu ngày chứng Dương Đán vẫn còn, có thể dùng Dương Đán thang: nửa đêm về sáng, Âm tận rồi đến Dương gọi là Dương Đán.
NGUYÊN VĂN (361) Sản hậu Trúng phong, phát sốt mặt đỏ gay, suyễn mà đầu đau, Trúc Diệp thang làm chủ. TRÚC DIỆP THANG PHƯƠNG Trúc Diệp 1 nắm
Cát Căn 3 lạng
Phòng Phong, Cát Cánh, Quế Chi, Nhân Sâm, Cam Thảo mỗi vị 1 lạng Sinh Khương 5 lạng
Đại Táo 15 trái
9 vị trên, nước 1 đấu, nấu lấy 2 thăng rưỡi chia uống ấm 3 lần, đắp chăn cho ra mồ hôi. . Cổ gáy cứng dùng Phụ Tử 1 củ bổ ra như hạt đậu lớn, nấu thành thang bỏ bọt. . Ói gia Bán Hạ ½ thăng rửa sạch. BẢN NGHĨA (21/9) * Đây, Túc Tam Âm tại Tấu chuyển Dương Hàn sang Âm Nhiệt. - Sản hậu Trúng Phong: nói Huyết hư, Phong do Ngoại nhập. 229
- Phát sốt mặt đỏ gay: Âm Nhiệt hiệp Dương Nhiệt nhập Nội. - Suyễn mà đầu đau: Nhiệt đã hiệp Nhiệt thì Âm Hàn cũng hiệp Dương Hàn mà nhập. Trúc Diệp thang làm chủ. - Cổ gáy cứng: Bản Hàn truyền Tam Âm. - Nấu thang bỏ bọt: để cho thuốc nhập Kinh. Phàm dùng Ma Hoàng bỏ bọt ý đồng. - Ói gia Bán Hạ: Tam Âm từ dưới mà đi lên.
NGUYÊN VĂN (362) Đàn bà nhủ trung hư, phiền loạn, ói ngược, An trung ích khí, Trúc Bì Đại hoàn làm chủ. TRÚC BÌ ĐẠI HOÀN PHƯƠNG Sinh Trúc Nhự, Thạch Cao mỗi vị 1 phân. Quế Chi, Bạch Vi mỗi vị 2 phân.
Cam Thảo 7 phân.
5 vị trên, tán bột, dùng Táo Nhục (thịt quả táo) hòa hoàn như viên đạn lớn, mỗi lần uống 1 hoàn, ngày 3 đêm 2 lần. . Có sốt bội Bạch Vi. . Phiền, suyễn gia Bá thực (Bá Tử Nhân) 1 phân. BẢN NGHĨA (21/10) * Đây, Túc Tam Âm tại Đái chuyển Âm Hàn sang Âm Nhiệt mà đi lên. - Đàn bà nhủ trung hư: tại Cách Huyết hư. - Phiền loạn: Âm Nhiệt tại Đái mà đi lên làm loạn. - Ói nghịch: Dương Hàn theo đó nghịch lên. - An trung ích Khí: an Đái trung Khí, ích Cách trung Huyết. Trúc Bì Đại hoàn làm chủ. - Cách Huyết Nhiệt bội Bạch vi. - Đái Khí thực gia Bá thực.
230
NGUYÊN VĂN (363) Sản hậu, hạ lợi cực hư, Bạch Đầu Ông gia A Giao Cam Thảo thang làm chủ. BẠCH ĐẦU ÔNG GIA A GIAO CAM THẢO THANG PHƯƠNG Bạch Đầu Ông, Cam Thảo, A Giao mỗi vị 2 lạng Tần Bì, Hoàng Liên, Hoàng Bá mỗi vị 4 lạng 6 vị trên, nước 7 thăng nấu lấy 2 thăng rưỡi, bỏ bả, cho A Giao vào tan hết, chia uống ấm 3 lần. BẢN NGHĨA (21/11) * Đây, Túc Tam Âm tại Đái chuyển Âm Hàn sang Âm Nhiệt mà đi xuống. - Sản hậu: Huyết hư. - Hạ lợi: Thủy hư. - Cực hư là Huyết Thủy đều hư. - Đấy là Âm Hàn chuyển sang Âm Nhiệt mà hạ lợi: Bạch Đầu Ông gia A Giao Cam Thảo thang làm chủ.
(Trên đây, chương thứ 21, 11 tiết, luận Phụ Nhơn Sản Hậu) 231
CHƯƠNG 22: PHỤ NHƠN
TẠP BỆNH
(23 Tiết, từ 364 đến 386) LUẬN THẬN 1- Thận Kinh tại Đái thọ Dương Hàn. 2- Thận Kinh tại Đái thọ Âm Nhiệt. 3- Thận Kinh tại Đái thọ Âm Hàn. 4- Thận Kinh tại Đái thọ Dương Nhiệt. 5- Thận Kinh tại Đái chuyển Âm Hàn lên trên. 6- Thận Kinh tại Đái chuyển Âm Nhiệt lên trên. 7- Thận Kinh tại Đái chuyển Dương Hàn Dương Nhiệt ra ngoài. 8- Thận Kinh tại Đái thọ Bản Hàn kết Đốc Xung Nhâm Lạc. 9- Thận Kinh tại Đái thọ Bản Hàn kết Xung Kinh. 10- Thận Kinh tại Đái thọ Bản Hàn kết Đốc Kinh. 11- Thận Kinh tại Đái thọ Bản Hàn kết Nhâm Kinh. 12- Thận Kinh tại Đái Thủy Huyết đều đi xuống. 13- Thận Kinh tại Đái Thủy Huyết đều kết. 14- Thận Kinh tại Đái Huyết kết. 15- Thận Kinh tại Đái Thủy kết. 16- Thận Kinh tại Đái chủ nhất thiết Huyết. 17- Thận Kinh tại Đái chủ nhất thiết Thủy. 18- Thận Kinh tại Đái chủ nhất thiết Dương Kinh. 19- Thận Kinh tại Đái chủ nhất thiết Âm Kinh. 20- Thận Kinh tại Đái chủ nhất thiết Hàn Lạc. 21- Thận Kinh tại Đái chủ nhất thiết Nhiệt Lạc. 22- Thận Kinh tại Đái chủ Hậu thiên chư Khí. 23- Thận Kinh tại Đái chủ Tiên thiên chư Khí. NGUYÊN VĂN (364) Đàn bà Trúng phong 7 - 8 ngày, liên tục nóng lạnh, phát lên có lúc, Kinh Thủy vừa dứt, đấy là Nhiệt nhập Huyết thất, Huyết người bệnh ắt kết, khiến cho như trạng sốt rét, phát lên có lúc, Tiểu Sài Hồ thang làm chủ. BẢN NGHĨA (22/1) * Đây, Thận Kinh tại Đái thọ Dương Hàn. - Đàn bà Trúng Phong: nói Huyết hư thọ Phong tại Cơ Nhục. - Liên tục nóng lạnh, phát lên có lúc: do Cơ nhập Tấu. 232
- Kinh Thủy vừa dứt: không hiệp với Tấu Huyết. - Đấy là Nhiệt nhập Huyết thất, huyết người bệnh ắt kết: do Tấu nhập Đái. - Khiến cho như trạng sốt rét, phát lên có lúc: Dương Hàn tại Đái muốn ra ngoài. Tiểu Sài Hồ thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (365) Phụ Nhơn Thương Hàn phát sốt, Kinh Thủy vừa đến, ban ngày tĩnh táo, đêm thì nói xàm như trạng thấy quỉ, đấy là Nhiệt nhập Huyết thất, trị nó chớ phạm Vỵ Khí, và hai Tiêu trên ắt tự khỏi. BẢN NGHĨA (22/2) * Đây, Thận Kinh tại Đái thọ Âm Nhiệt. - Thương Hàn phát sốt: Âm phần Hàn Nhiệt. - Kinh Thủy vừa đến: hiệp với Tấu Huyết. - Ban ngày tĩnh táo: Dương Hàn không làm bệnh. - Đêm thì nói xàm như trạng thấy quỉ: chỉ riêng Âm Nhiệt làm bệnh. - Đấy là Nhiệt nhập Huyết thất: Thận Kinh tại Tấu nhập Đái. - Trị nó chớ phạm Vỵ Khí: tức Hạ Tiêu Thận Khí. - Và hai Tiêu trên ắt tự khỏi: nói chỉ trị Thận Huyết thọ tà, chớ phạm Thận Khí có phương hại đến hai Tiêu trên. - Vỵ Khí: tại Thượng là Vỵ Khí, tại Hạ là Thận Khí, chỉ là một Khí vậy.
NGUYÊN VĂN (366) Đàn bà Trúng Phong, phát sốt sợ lạnh, Kinh Thủy vừa đến, mắc phải 7 - 8 ngày hết sốt, mạch Trì mình mát, ngực sườn đầy như trạng kết hung, nói xàm, đấy là Nhiệt nhập Huyết thất, cần phải châm Kỳ Môn, tùy cái thực của nó mà tả đi. .
233
BẢN NGHĨA (22/3) * Đây, Thận Kinh tại Đái thọ Âm Hàn. - Đàn bà Trúng Phong: xem chú ở trên. - Phát sốt sợ lạnh là tại Cơ. - Kinh Thủy vừa đến: hiệp với Tấu Huyết. - Mắc phải 7 - 8 ngày hết sốt, mạch Trì mình mát: thọ Tấu Âm Hàn nhập Lý. - Ngực sườn đầy như trạng kết hung, nói xàm: thọ Âm Hàn ắt có Âm Nhiệt tại Nội. - Đấy là Nhiệt nhập Huyết thất: Thận Kinh tại Tấu nhập Đái. - Cần phải châm Kỳ Môn: bệnh tại Âm Kinh ắt có Dương Kinh tại Nội. - Tùy cái thực của nó mà tả đi: biện xem nó thực tại Âm Hàn hoặc Âm Nhiệt.
NGUYÊN VĂN (367) Dương Minh bệnh ỉa máu, nói xàm, đấy là Nhiệt nhập Huyết thất, chỉ đầu ra mồ hôi, cần phải châm Kỳ Môn, tùy chứng thực của nó mà tả, dâm dấp ra mồ hôi thì khỏi. BẢN NGHĨA (22/4) * Đây, Thận Kinh tại Đái thọ Dương Nhiệt. - Dương Minh bệnh ỉa máu, nói xàm, đấy là Nhiệt nhập Huyết thất: Thận Kinh tại Tấu nhập Đái. - Chỉ đầu ra mồ hôi: Âm Nhiệt hiệp với Dương Hàn. - Châm Kỳ Môn: cùng tả Âm Dương. - Tùy thực mà tả, dâm dấp ra mồ hôi thì khỏi: làm cho Dương bệnh theo Âm phần xuất ra.
NGUYÊN VĂN (368) Đàn bà trong Yết (họng nuốt) như có miếng thịt nướng, Bán Hạ Hậu Phác thang làm chủ. .
234
BÁN HẠ HẬU PHÁC THANG PHƯƠNG Bán Hạ 1 thăng,
Hậu Phác 3 lạng,
Phục Linh 4 lạng,
Tô Diệp 2 lạng,
Sinh Khương 5 lạng.
5 vị trên, nước 7 thăng nấu lấy 4 thăng, chia uống ấm ngày 3 đêm 1 lần. BẢN NGHĨA (22/5) * Đây, Thận Kinh tại Đái chuyển Âm Hàn lên trên. - Thận Huyết thọ Âm Hàn đi lên kết ở yết. - Bán Hạ Hậu Phác thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (369) Đàn bà Tạng táo, bi thương muốn khóc, tượng như bị Thần linh làm nên, thường ngáp dài, Cam Mạch Đại Táo thang làm chủ. CAM MẠCH ĐẠI TÁO THANG PHƯƠNG Cam Thảo 3 lạng
Tiểu Mạch 1 thăng
Đại Táo 10 trái
3 vị trên, nước 6 thăng nấu lấy 3 thăng, ngày uống 3 lần, cũng bổ Tỳ Khí. BẢN NGHĨA (22/6) * Đây, Thận Kinh tại Đái chuyển Âm Nhiệt lên trên. - Tạng táo: Thận Huyết tại Tạng thọ Âm Nhiệt. - Buồn thương muốn khóc, giống như bị Thần linh làm nên: Thận Kinh từ Đái mà đi lên đến Tâm. - Thường ngáp dài: Huyết ráo. - Cam Mạch Đại Táo thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (370) Đàn bà mửa bọt dãi, thầy thuốc trái lại cho Hạ, dưới Tâm liền Bỉ, trước tiên phải trị chứng mửa bọt dãi, Tiểu Thanh Long thang làm chủ. Bọt dãi dứt rồi mới trị Bỉ, dùng Tả Tâm thang làm chủ. 235
. TIỂU THANH LONG THANG xem phương ở mục Đàm Ẩm. . TẢ TÂM THANG tức Cam Thảo Tả Tâm thang xem phương ở mục Bách Hợp, Hồ Hoặc. BẢN NGHĨA (22/7) * Đây, Thận Kinh tại Đái chuyển Dương Hàn Dương Nhiệt ra ngoài. - Mửa bọt dãi: tại Đái thọ Dương Hàn. - Trái lại cho Hạ khiến dưới Tâm Bỉ: Dương Hàn hiệp Dương Nhiệt làm Bỉ. - Mửa bọt dãi, Tiểu Thanh Long thang làm chủ: trị Dương Hàn. - Bọt dãi dứt rồi mới trị Bỉ: trước trị Dương Hàn giải rồi, mới trị Dương Nhiệt hiệp làm Bỉ, Tả Tâm thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (371) Bệnh của đàn bà nhân bởi hư, tích lãnh, Khí kết làm cho các Kinh Thủy đoạn tuyệt, trải qua nhiều năm Huyết Hàn tích kết Bào môn, Hàn làm thương Kinh Lạc ngưng cứng. Tại Thượng ói mửa bọt dãi, lâu ngày thành Phế Ung hình thể hao tổn. Tại Trung Hàn kết, Hàn sán quanh rún hoặc hai bên sườn đau nhức, tương quan với Tạng (tử cung) hoặc kết nóng ở trong, đau tại Quan Nguyên, mạch Sác mà không có ghẻ, da thịt giống như vẩy cá, có lúc thấy cả đàn ông không riêng ở đàn bà. Tại Hạ bệnh chưa nhiều, Kinh Lạc không cân bằng khiến cho Âm bộ đau rút, bụng dưới sợ lạnh hoặc dẫn tới eo lưng, xương sống xuống đến gốc Khí nhai, Khí xung đau gấp, đầu gối, cẳng chân nhức khó chịu, bổng như mạo muội trạng như ‘Khuyết điên’, hoặc có khi sầu thảm, bi thương hay giận. Như thế đều là bệnh của Đái hạ chẳng phải quỷ thần quấy phá. Lâu ngày gầy ốm, hình thể hư lạnh nhiều, ba mươi sáu loại bệnh, thiên biến vạn đoan, xem xét mạch, hoặc Âm Dương, hoặc Hư Thực Khẩn Huyền, tiến hành Châm Cứu hoặc cho thuốc, trị nguy được an, bệnh tuy có đồng nhưng mạch vẫn khác nguồn gốc, thầy thuốc cần phải biện xét, ghi nhớ chớ bảo là không thể. BẢN NGHĨA (22/8) * Đây, Thận Kinh tại Đái thọ Hàn kết Xung Nhâm Đốc Lạc.
236
- Bệnh của đàn bà nhân Huyết hư mà tích lãnh, nhân tích lãnh mà Hàn Khí kết làm cho các Kinh Thủy đoạn tuyệt, Thận Huyết thọ Hàn lâu ngày kết tại Bào môn. - Hàn thương Thận Huyết ngày càng sâu, các Kinh Lạc ngưng cứng: Kinh kết Lạc cũng kết. - Bệnh đến Thượng phần Phủ Tạng các Lạc, như các loại ói mửa bọt dãi, lâu ngày thành Phế Ung. - Bệnh đến Trung phần Phủ Tạng các Lạc, như các loại Hàn sán quanh rún, hai bên sườn đau nhức. - Bệnh đến Hạ phần Phủ Tạng các Lạc, như loại kết Nhiệt ở trong, đau tại Quan nguyên. - Mạch Sác không có ghẻ: Thận Huyết thọ Hàn kết ở trong. - Da thịt giống như vẩy cá: Thận Huyết thọ Hàn kết ở ngoài. - Có lúc thấy ở đàn ông chẳng phải riêng ở đàn bà: Hàn tích Bào môn. - Tại Hạ bệnh chưa nhiều, Kinh Lạc không cân bằng: Hàn làm tổn thương Kinh Lạc ngưng cứng. - Khiến cho âm bộ đau rút, bụng dưới sợ lạnh hoặc dẫn đến eo lưng, xương sống: Thận Huyết kết Hàn truyền Nhâm Lạc. - Xuống gốc Khí nhai, Khí xung đau gấp: Thận Huyết kết Hàn truyền Xung Lạc. - Đầu gối cẳng chân nhức khó chịu, bổng chốc mạo muội trạng như ‘khuyết điên’: Thận Huyết kết Hàn truyền Đốc Lạc. - Hoặc có sầu thảm, bi thương hay giận, như thế đều là Thận Huyết kết Hàn tại Đái Hạ truyền đến Can Tỳ Lạc. - Chẳng phải có quỉ thần như chứng Huyết kết Tâm Lạc. - Lâu ngày thì gầy ốm như chứng Huyết kết Bào Lạc. - Hình thể hư lạnh nhiều như chứng Huyết kết Phế Lạc. - Ba mươi sáu bệnh, thiên biến vạn đoan như chứng Huyết kết các Thủ Túc Dương Lạc. - Xem xét mạch tại Dương Hàn Âm Nhiệt, chính hư tà thực, Khẩn mạch của Dương Hàn hiệp Âm Nhiệt, Huyền mạch của Dương Nhiệt hiệp Âm Hàn mà thôi. 237
- Tiến hành châm cứu, cho thuốc trị nguy được an, chứng có tuy đồng là thọ Thận Huyết kết Hàn mà mạch thì Âm Dương Hư Thực Khẩn Huyền mỗi mỗi đều khác nguồn gốc. - Cần phải nhận rõ Thận Lạc Huyết hư mà Hàn kết, chớ cho là có nguyên nhân khác.
NGUYÊN VĂN (372) Hỏi rằng : Đàn bà tuổi 50, bị bệnh hạ lợi vài mươi ngày không dứt, chiều tối phát sốt, bụng dưới đau ngặt, bụng đầy lòng bàn tay nóng khó chịu, môi miệng khô ráo là sao ? Thầy đáp : Đấy là bệnh thuộc Đái Hạ, vì cớ sao ? . Đã từng đẻ non, có ứ huyết bụng dưới chưa trừ, làm sao biết như thế ? . Chứng của nó môi miệng khô ráo, cho nên biết, Ôn Kinh thang làm chủ. ÔN KINH THANG PHƯƠNG Ngô Thù Du 3 lạng
Bán Hạ ½ thăng
Mạch Đông 1 thăng
Đương Qui, Xuyên Khung, Bạch Thược, A Giao, Nhân Sâm, Quế Chi, Đơn Bì, Sinh Khương, Cam Thảo mỗi vị 2 lạng 12 vị trên nước 1 đấu nấu lấy 3 thăng, chia uống ấm 3 lần. . Cũng chủ trị đàn bà bụng dưới lạnh không thọ thai, băng huyết hoặc kinh nguyệt quá nhiều cùng là đến kỳ không thấy Kinh. BẢN NGHĨA (22/9) * Đây, Thận Kinh tại Đái thọ Hàn kết Xung Kinh. - Đàn bà tuổi 50: thời gian Kinh Huyết hết dứt. - Bệnh hạ lợi vài mươi ngày không dứt: lúc Kinh Thủy cũng kiệt. - Chiều tối liền phát sốt: Thận Khí hư. - Bụng dưới đau ngặt, bụng đầy: Thận Huyết Hàn kết. - Lòng bàn tay nóng khó chịu: Tâm Kinh Hàn kết. - Môi miệng khô ráo: Phế Kinh Hàn kết. 238
- Như thế đều là bệnh tại Đái Hạ của chứng Thận Kinh Hàn kết. - Đã từng đẻ non: Thận Huyết hư. - Ứ Huyết tại bụng dưới: Thận Huyết Hàn kết. - Chứng của nó môi miệng khô ráo: Hàn kết Xung Kinh từ dưới mà lên trên. - Ôn Kinh thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (373) Bệnh thuộc Đái Hạ, Kinh Thủy không lợi, bụng dưới đầy đau hoặc một tháng thấy kinh hai lần, Thổ Qua căn tán làm chủ. THỔ QUA CĂN TÁN PHƯƠNG Thổ Qua căn, Bạch Thược, Quế Chi, Giá Trùng mỗi vị 3 phân 4 vị trên tán bột, uống với rượu mỗi lần 1 thìa phương thốn, ngày 3 lần. BẢN NGHĨA (22/10) * Đây, Thận Kinh tại Đái thọ Hàn kết Đốc Kinh. - Đái Hạ: chỗ tập hợp của Kinh Lạc Thận. - Kinh Thủy không lợi: Đốc Kinh thọ Nhiệt của Thận Huyết. - Bụng dưới đầy đau: kết tại Đốc Kinh. - Kinh nguyệt một tháng thấy hai lần: Đốc Kinh thọ Hàn của Thận Huyết. - Thổ Qua căn tán làm chủ.
NGUYÊN VĂN (374) Thốn khẩu mạch Huyền mà Đại, Huyền thì là giảm, Đại thì là Khâu, giảm thì là Hàn, Đại thì là Hư, Hư Hàn tương bác như thế gọi là Cách. Đàn bà đẻ non, lậu hạ, Triền Phúc Hoa thang làm chủ. .
239
TRIỀN PHÚC HOA THANG PHƯƠNG Triền Phúc Hoa 3 lạng
Thông (hành) 14 thân
Tân Giáng chút ít.
3 vị trên, nước 3 thăng nấu lấy 1 thăng, uống hết 1 lần. BẢN NGHĨA (22/11) * Đây, Thận Kinh tại Đái thọ Hàn kết Nhâm Kinh. - Thốn khẩu mạch Huyền mà Đại: Huyền là tại Biểu Huyết Hàn. Đại là tại Biểu Huyết Hư. - Huyền thì là giảm: Biểu Huyết Hàn do tại Lý Nhiệt giảm. - Đại thì là Khâu: Biểu Huyết Hư do Lý Nhiệt Hư. Huyết của Biểu Lý đều Hàn thì Tấu Huyết sao khỏi bị Hàn ? - Đấy là Thủy Hàn cùng với Huyết Hư tương bác, tên gọi là Cách: cải cách tương bác thành tương kết tại Nhâm Kinh. - Đàn bà đẻ non: Huyết chứng. - Lậu hạ: Thủy chứng. - Triền Phúc Hoa thang làm chủ: trừ kết của Thủy Huyết tại Nhâm Kinh.
NGUYÊN VĂN (375) Đàn bà hãm Kinh (Kinh Huyết hãm xuống), lậu hạ sắc đen không giải, Giao Khương thang làm chủ. GIAO KHƯƠNG THANG PHƯƠNG A Giao, Sinh Khương đồng phân lượng - 2 vị sắc uống (sách chép thiếu phương này, có chú gia ghi là Giao Ngãi chương Nhâm Thần). BẢN NGHĨA (22/12) * Đây, Thận Kinh tại Đái Thủy Huyết đều Hạ. - Hãm Kinh là Huyết. 240
- Lậu hạ là Thủy. - Huyết Thủy đều Hạ sắc đen không giải: Thận Kinh. - Giao Khương thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (376) Đàn bà bụng dưới đầy giống như độn dày lên, tiểu tiện hơi khó mà không khát. Sau khi sanh, đấy là Thủy với Huyết đều kết tại Huyết thất, Đại Hoàng Cam Toại thang làm chủ. ĐẠI HOÀNG CAM TOẠI THANG PHƯƠNG Đại Hoàng 4 lạng
Cam Toại, A Giao đều 2 lạng
3 vị trên, nước 3 thăng nấu lấy 1 thăng, uống hết 1 lần, Huyết kết phải hạ. BẢN NGHĨA (22/13) * Đây, Thận KInh tại Đái Thủy Huyết đều kết. - Bụng đầy như độn dày lên: Thủy Huyết kết tại Thận Kinh. - Tiểu tiện hơi khó mà không khát: Thủy kết. - Sau khi sanh là Huyết kết. - Đấy là Thủy Huyết đều kết: tại Thận Kinh của Đái. - Đại Hoàng Cam Toại thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (377) Đàn bà Kinh Thủy không lợi, Để Đương thang làm chủ. ĐỂ ĐƯƠNG THANG PHƯƠNG Thủy Điệt 30 con rang
Manh Trùng 30 con rang
Đào Nhân 20 hạt bỏ vỏ và đầu nhọn
Đại Hoàng 3 lạng tẩm rượu
4 vị trên tán thô, nước 5 thăng nấu lấy 3 thăng bỏ bả, uống ấm 1 thăng. 241
BẢN NGHĨA (22/14) * Đây, Thận Kinh tại Đái Huyết kết. - Thủy bị Kinh làm bế, muốn trừ Thủy ắt trước phải trừ Huyết. - Để Đương thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (378) Đàn bà Kinh Thủy bế không lợi, tử cung có hòn cứng không dứt, bên trong có càn huyết, ra vật trắng, Phàn Thạch hoàn làm chủ. PHÀN THẠCH HOÀN PHƯƠNG Phàn Thạch 3 phân đốt
Hạnh Nhân 2 phân
2 vị tán nhuyễn, luyện mật làm hoàn to bằng quả táo, đặt vào tử cung, bệnh nặng thì đặt lần nữa. BẢN NGHĨA (22/15) * Đây, Thận Kinh tại Đái Thủy kết. - Kinh bị Thủy làm bế tại Bào môn thành hòn cứng không dứt, Huyết ở trong bị khô, Thủy ở ngoài ra vật trắng, Phàn Thạch hoàn làm chủ.
NGUYÊN VĂN (379) Đàn bà 62 loại Phong, trong bụng khí Huyết làm đau nhói, Hồng Lam hoa tửu làm chủ. HỒNG LAM HOA TỬU PHƯƠNG Hồng Hoa 1 lạng : 1 vị trên, dùng 1 thăng rượu lớn, nấu giảm phân nửa, uống hết 1 nửa, chưa dứt thì uống lần 2. BẢN NGHĨA (22/16) * Đây, Thận Kinh tại Đái chủ nhất thiết Huyết. - Sáu mươi hai loại Phong: do Thận Huyết sinh nhất thiết Phong. 242
- Trong bụng Khí Huyết làm đau nhói: tại Đái Thận Huyết làm bệnh. - Hồng Lam Hoa tửu làm chủ. *Tham khán chương Hư lao Phong Khí bách tật: Nội Phong đều do Thiếu Âm Tâm Thận.
NGUYÊN VĂN (380) Đàn bà các chứng đau trong bụng, Đương Qui Bạch Thược tán làm chủ. (xem phương chương Nhâm Thần tiết 346). BẢN NGHĨA (22/17) * Đây, Thận Kinh tại Đái chủ nhất thiết Thủy. - Trong bụng: Thận Kinh tại Đái. - Các chứng đau: nói nhất thiết Thủy chứng. - Đương Qui Bạch Thược tán làm chủ.
NGUYÊN VĂN (381) Đàn bà trong bụng đau, Tiểu Kiến Trung thang làm chủ (xem phương ở chương Hư Lao). BẢN NGHĨA (22/18) * Đây, Thận Kinh tại Đái chủ nhất thiết Dương Kinh. - Trong bụng đau: nhất thiết Thủy Huyết trong Dương Kinh đều gốc ở Thận Kinh tại Đái. Tiểu Kiến Trung thang làm chủ.
NGUYÊN VĂN (382) Hỏi rằng : bệnh đàn bà ăn uống như thường, phiền nhiệt không nằm được mà trái lại phải ngồi dựa để thở là vì sao ? Thầy đáp : đấy gọi là chuyển Bào không đi tiểu được, vì ‘ Bào hệ’ nhiễu loạn đưa tới bệnh này; chỉ lợi tiểu tiện thì khỏi. Thận Khí hoàn làm chủ. 243
THẬN KHÍ HOÀN PHƯƠNG Thục địa 8 lạng Quế Chi 1 lạng
Sơn Dược, Sơn Thù mỗi vị 4 lạng
Phụ Tử 1 củ
Trạch Tả, Đơn Bì, Phục Linh mỗi vị 3 lạng
8 vị trên, luyện mật làm hoàn to bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống 15 hoàn gia đến 20 hoàn với rượu, ngày 2 lần. BẢN NGHĨA (22/19) * Đây, Thận Kinh tại Đái chủ nhất thiết Âm Kinh. - Đàn bà bệnh: Thận Huyết bệnh. - Ăn uống như thường: bệnh không tại Thượng mà tại Đái hạ. - Phiền Nhiệt không nằm được: các Âm Kinh tại Đái phần ở sau lưng. - Mà trái lại phải ngồi dựa để thở: các Âm Kinh tại Đái phần ở trước ngực. - Đấy gọi là chuyển Bào không tiểu tiện được: Các Thủ Âm tại Thượng mà chuyển xuống Hạ. - Vì ‘Bào hệ’ nhiễu loạn: các Túc Âm Kinh tại Hạ nhưng không thuận tiếp. - Cần phải lợi tiểu tiện mới khỏi, Thận Khí hoàn làm chủ.
NGUYÊN VĂN (383) Đàn bà âm hộ hàn, làm ấm trong âm hộ bằng thuốc đặt, Xà Sàng Tử tán làm chủ. XÀ SÀNG TỬ TÁN PHƯƠNG Xà Sàng Tử 1 vị tán bột, dùng 1 ít bột trộn đều, viên như hạt táo, bọc vải đặt vào trong âm hộ tự nhiên sẽ ấm. BẢN NGHĨA (22/20) * Đây, Thận Kinh tại Đái chủ nhất thiết Hàn Lạc. - Âm Hàn: Âm hộ Huyết Lạc thọ Hàn dùng bột Xà sàng tử bọc vải đặt vào.
244
NGUYÊN VĂN (384) Thiếu Âm mạch Hoạt mà Sác là trong Âm sanh ghẻ, trong Âm trùng đục ghẻ lở, dùng Lang Nha thang để rửa. LANG NHA THANG PHƯƠNG Lang Nha 3 lạng : 1 vị nước 4 thăng nấu lấy ½ thăng, dùng bông quấn vòng quanh như cái kén, tẩm thuốc mà vắt nhỏ giọt vào trong âm hộ, ngày 4 lần. BẢN NGHĨA (22/21) * Đây, Thận Kinh tại Đái chủ nhất thiết Nhiệt Lạc. - Mạch Hoạt Sác: Nhiệt mạch. - Trong Âm hộ sinh ghẻ: Nhiệt chứng. - Trùng đục ghẻ lở: Âm Lạc bị thương, dùng Lang Nha thang để rửa.
NGUYÊN VĂN (385) Vỵ Khí tiết xuống, âm xuy (trong âm hộ có tiếng kêu) liên tục, đấy là cốc khí thực, Trư Cao Phát tiển làm chủ. (xem phương ở chương Hoàng Đản). BẢN NGHĨA (22/22) * Đây, Thận Kinh tại Đái chủ nhất thiết Hậu Thiên chư Khí. - Vỵ Khí tiết xuống: Vỵ Khí tại Cách. - Âm xuy liên tục: Thận Khí tại Đái. - Đấy là cốc khí thực: nói trong Vỵ thọ Khí của Hậu Thiên Thủy cốc, để bồi dưỡng Khí Tiên Thiên phát sinh trong Thận. - Trư Cao Phát tiển làm chủ.
NGUYÊN VĂN (386) TIỂU NHI CAM TRÙNG THỰC XỈ PHƯƠNG Hùng Hoàng, Đình Lịch 2 vị bằng nhau : 2 vị tán bột, lấy mỡ heo thắng ra nước, dùng cành hòe quấn bông nơi đầu 4 – 5 cái, chấm thuốc, ủi vào chổ răng đau. 245
BẢN NGHĨA (22/23) * Đây, Thận Kinh tại Đái chủ nhất thiết Tiên Thiên chư Khí. -
Tiểu nhi xỉ (răng trẻ con), Tiên Thiên Khí xung đủ rồi sau mới sinh, có cam trùng dùng phương này làm chủ.
(Trên đây, chương thứ 22, 23 tiết, luận Phụ Nhơn Tạp Bệnh).
*Xem xét mạch chứng căn bản của Bản luận. Kinh Lạc sở dĩ làm nên sinh lý của con người ở đó, tức sở dĩ làm bệnh lý nơi con người cũng ở đó. Hãy đọc kỹ thì nắm bắt được, không cần cầu ở đâu khác.
246
DANH MỤC PHƯƠNG THANG Xếp theo mẫu tự ABC. Sau mỗi tên thang phương là số tiết có dùng phương, số đậm là có thành phần và cách dùng thuốc (nơi bản gốc). 1- A Giao Ngãi Diệp thang 345. 2- Bá Diệp thang 276. 3- Bách Hợp Địa Hoàng thang 49. 4- Bách Hợp Hoạt Thạch tán 52. 5- Bách Hợp Hoạt Thạch Đại Giả Thạch thang 47. 6- Bách Hợp Kê Tử Hoàng thang 48. 7- Bách Hợp Tẩy phương 50. 8- Bách Hợp Tri Mẫu thang 46. 9- Bạch Đầu Ông thang 322. 10- Bạch Đầu Ông gia A Giao Cam Thảo thang 363. 11- Bạch Hổ thang 17. 12- Bạch Hổ gia Nhân Sâm thang 43, 207. 13- Bạch Hổ gia Quế Chi thang 61. 14- Bạch Truật Phụ Tử thang 40. 15- Bạch Truật tán 351. 16- Bài Nùng thang 333. 17- Bài Nùng tán 332. 18- Bán Hạ Can Khương tán 299. 19- Bán Hạ Hậu Phát thang 368. 20- Bán Hạ Ma Hoàng hoàn 275. 21- Bán Hạ Sinh Khương thang 300. 247
22- Bán Hạ Tả Tâm thang 289. 23- Bát Vị Thận Khí hoàn 88. 24- Bồ Khôi tán 206, 233. 25- Bôn đồn thang 107. 26- Cam Mạch Đại Táo thang 369. 27- Cam Thảo Can Khương thang 96. 28- Cam Thảo Can Khương Phục Linh Bạch Truật thang 160. 29- Cam Thảo Ma Hoàng thang 231. 30- Cam Thảo Phấn Mật thang 340. 31- Cam Thảo Phụ Tử thang 41. 32- Cam Thảo Tả Tâm thang 54. 33- Cam Toại Bán Hạ thang 174. 34- Can Khương Nhân Sâm Bán Hạ hoàn 347. 35- Cát Cánh Cam Thảo thang 102. 36- Cát Căn thang 29. 37- Chi Tử Đại Hoàng thang 255. 38- Chi Tử Xị thang 323. 39- Chỉ Thực Bạch Thược tán 357. 40- Chỉ Thực Bạch Truật thang 238. 41- Chỉ Thực Giới Bạch Quế Chi thang 114. 42- Dĩ Nhân Phụ Tử tán 116. 43- Dĩ Nhân Phụ Tử Bại Tương tán 328. 44- Dương Đán thang 360. 45- Đại Bán Hạ thang 295. 46- Đại Hoàng Cam Thảo thang 296. 248
47- Đại Hoàng Cam Toại thang 376. 48- Đại Hoàng Già Trùng hoàn 91. 49- Đại Hoàng Mẫu Đơn thang 329. 50- Đại Hoàng Phụ Tử thang 133. 51- Đại Hoàng Tiêu thạch thang 259. 52- Đại Kiến Trung thang 132. 53- Đại Ô Đầu Tiển phương 135. 54- Đại Sài Hồ thang 130. 55- Đại Thanh Long thang 177. 56- Đại Thừa Khí thang 30, 131, 139, 140, 141, 317, 318, 319, 355, 359. 57- Đầu Phong Ma tán 69. 58- Đào Hoa thang 321. 59- Để Đương thang 377. 60- Đình Lịch hoàn 227. 61- Đình Lịch Đại Táo Tả Phế thang 101, 181. 62- Đình Lịch Phòng Kỷ Xuyên Tiêu Đại Hoàng hoàn 183. 63- Đương Qui tán 350. 64- Đương Qui Bạch Thược tán 346, 380. 65- Đương Qui Bối Mẫu Khổ Sâm hoàn 348. 66- Đương Qui Sinh Khương Dương Nhục thang 136, 356. 67- Đương Qui Xích Tiểu Đậu tán 55. 68- Giao Khương thang 375. 69- Hạ Ứ Huyết thang 358. 70- Hạnh Tử thang 232. 71- Hậu Phát Đại Hoàng thang 180. 249
72- Hậu Phát Ma Hoàng thang 99. 73- Hậu Phát Tam Vật thang 129. 74- Hậu Phát Thất Vật thang 127. 75- Hậu Thị Hắc tán 65. 76- Hoàng Cầm gia Bán Hạ Sinh Khương thang 290. 77- Hoàng Kỳ Bạch thược Quế Chi Khổ Tửu thang 234. 78- Hoàng Kỳ Kiến Trung thang 87. 79- Hoàng Kỳ Ngũ Vật thang 77. 80- Hoàng Liên Phấn phương 334. 81- Hoàng thổ thang 277. 82- Hoạt Thạch Bạch Ngư tán 206. 83- Hồng Lam Hoa tửu 379. 84- Hư Lao Tiểu Kiến Trung thang 262. 85- Kê Thỉ Bạch tán 337. 86- Kha Lê Lặc tán 326. 87- Lang Nha thang 384. 88- Lê Lư Cam Thảo thang 336. 89- Linh Cam Vị Khương Tân thang 191. 90- Linh Cam Vị Khương Tân Bán Hạ thang 192. 91- Linh Cam Vị Khương Tân Bán Hạ Hạnh Nhân thang 193. 92- Linh Cam Vị Tân Khương Bán Hạ Hạnh Nhân gia Đại Hoàng thang 194. 93- Ma Hạnh Ý Cam thang 38. 94- Ma Hoàng gia Bạch Truật thang 37. 95- Ma Hoàng Phụ Tử Cam Thảo thang 232. 96- Ma Nhân hoàn 159. 250
97- Mạch Môn Đông thang 100. 98- Miết Giáp tiển hoàn 59. 99- Mộc Phòng Kỷ thang 178. 100- Mộc Phòng Kỷ khứ Thạch Cao gia Phục Linh Mang Tiêu thang 178. 101- Ngô Thù Du thang 287, 288. 102- Ngũ Linh tán 185, 199, 200. 103- Nhân Sâm thang 114. 104- Nhân Trần Cao thang 253. 105- Nhân Trần Ngũ Linh tán 258. 106- Nhất Vật Qua Đế thang 44. 107- Ô Đầu thang 74. 108- Ô Đầu Quế Chi Để Đương thang 137. 109- Ô Đầu Xích Thạch Chỉ hoàn 118. 110- Ô Mai hoàn 341. 111- Ôn Kinh thang 372. 112- Phàn Thạch thang 75. 113- Phàn Thạch hoàn 378. 114- Phong Dẫn thang 67. 115- Phòng Kỷ Địa Hoàng thang 68. 116- Phòng Kỷ Hoàng Kỳ thang 39, 228. 117- Phòng Kỷ Phục Linh thang 230. 118- Phụ Tử thang 344. 119- Phụ Tử Ngạnh Mễ thang 128. 120- Phục Linh Hạnh Nhân Cam Thảo thang 115. 121- Phục Linh Nhung Diêm thang 206. 251
122- Phục Linh Quế Chi Cam Thảo Đại Táo thang 109. 123- Phục Linh Trạch Tả thang 297. 124- Qua Đế tán 142. 125- Quát Lâu Cù Mạch hoàn 205. 126- Quát Lâu Giới Bạch Bạch Tửu thang 112. 127- Quát Lâu Giới Bạch Bạch Tửu Bán Hạ thang 113. 128- Quát Lâu Mẫu Lệ tán 51. 129- Quát Lâu Quế Chi thang 28. 130- Quất Bì thang 301. 131- Quất Bì Chỉ Thực Sinh Khương thang 115. 132- Quất Bì Trúc Nhự thang 302. 133- Quế Chi thang 315, 342. 134- Quế Chi Bạch Thược Tri Mẫu thang 72. 135- Quế Chi Cam Thảo Long Cốt Mẫu Lệ thang 82. 136- Quế Chi gia Quế thang 108. 137- Quế Chi gia Hoàng Kỳ thang 235, 256. 138- Quế Chi khứ Bạch Thược gia Thục Tất Long Cốt Mẫu Lệ Cứu Nghịch thang 274. 139- Quế Chi Phụ Tử thang 40. 140- Quế Chi Phục Linh hoàn 343. 141- Quế Chi Sinh Khương Chỉ Thực thang 117. 142- Quế Linh Cam Truật thang 172, 173. 143- Quế Linh Cam Vị thang 190. 144- Quế Cam Tân Khương Phụ Tử Ma Hoàng Đại Táo thang 237. 145- Quì Tử Phục Linh tán 349. 146- Tả Tâm thang 279, 370. 252
147- Tạo Giác hoàn 98. 148- Tiêu Thạch Phàn Thạch tán 254. 149- Tiểu Bán Hạ thang 182, 260, 291. 150- Tiểu Bán Hạ gia Phục Linh thang 184, 195. 151- Tiểu Kiến Trung thang 86, 381. 152- Tiểu Nhi Xỉ 386. 153- Tiểu Sài Hồ thang 261, 294, 354, 364. 154- Tiểu Thanh Long thang 177, 189, 370. 155- Tiểu Thanh Long gia Thạch Cao thang 104. 156- Tiểu Thừa Khí thang 320. 157- Toan Táo Nhân thang 90. 158- Toàn Phúc Hoa thang 151, 374. 159- Tứ Nghịch thang 293, 315. 160- Tử Sâm thang 325. 161- Thăng Ma Miết Giáp thang 56, 57. 162- Thận Khí hoàn 173, 198, 382. 163- Thập Táo thang 176, 186, 187. 164- Thiên Hùng tán 82. 165- Thổ Qua Căn tán 373. 166- Thông Mạch Tứ Nghịch thang 324. 167- Thục Tất tán 62. 168- Thự Dự hoàn 89. 169- Trạch Tả thang 179. 170- Trạch Tất thang 99. 171- Tri Thù tán 338. 253
172- Trúc Bì Đại hoàn 362. 173- Trúc Diệp thang 361. 174- Trư Cao Phát tiển 257, 385. 175- Trư Linh thang 18, 208. 176- Trư Linh Bạch Truật tán 292. 177- Xạ Can Ma Hoàng thang 97. 178- Xà sàng tử tán 383. 179- Xích hoàn phương 134. 180- Xích Tiểu Đậu Đương Qui tán 278. 181- Văn Cáp thang 298. 182- Văn Cáp tán 201. 183- Việt Tỳ thang 229. 184- Việt Tỳ gia Truật thang 214, 231. 185- Việt Tỳ gia Bán Hạ thang 103. 186- Vương Bất Lưu 187- Hành tán 331.
Tôi không giữ bản quyền với kỳ vọng thế hệ nối tiếp sẽ làm trong sáng và lợi ích hơn các di sản văn hóa của dân tôc Việt.
254
MỤC LỤC ĐỀ MỤC
TRANG
Lời Người dịch
3
Tiểu sử Cụ Lưu Thủy
4
Lời Tựa
6
Chương 1 : Phủ Tạng Kinh Lạc Tiên Hậu
8
Luận Tạp Bệnh Thể Lệ Chương 2 : Kỉnh Thấp Yết
23
Luận Tam Âm Chương 3 : Bách Hợp – Hồ Hoặc – Âm Dương Độc
40
Luận các Thủ Khí Kinh Lạc Chương 4 : Ngược Tật
49
Luận Tam Tiêu Chương 5 : Trúng Phong Lịch Tiết
53
Luận Bào Chương 6 : Huyết Tý – Hư Lao
62
Luận Tâm Chương 7 : Phế Nuy – Phế Ung khái thấu thượng khí
73
Luận Phế Chương 8 : Bôn Đồn khí
82
Luận Tiểu Trường Chương 9 : Hung Tý – Tâm Thống – Đoản Khí
86
Luận Đởm Chương 10 : Phúc Mãn – Hàn Sán – Túc Thực
92
Luận Đại Trường .
255
Chương 11 : Ngũ Tạng – Phong Hàn – Tích Tụ
105
Luận Ngũ Tạng Khí Mạch Chương 12 : Đàm Ẩm – Khái Thấu
116
Luận Vỵ Chương 13 : Tiêu Khát – Tiểu tiện bất lợi - Lâm bệnh
134
Luận Bàng Quang Chương 14 : Thủy Khí bệnh
141
Luận Túc Tam Dương Kinh Chương 15 : Bệnh Hoàng Đản
163
Luận Tỳ Chương 16 : Kinh Quý – Nục Huyết – Thổ Huyết – Hạ Huyết – Hung Mãn – Huyết Ứ
176
Luận Thủ Kinh Chương 17 : Ẩu Thổ - Ọe – Hạ Lợi
185
Luận Can Chương 18 : Ung Sang – Trường Ung – Tẩm Dâm Sang
207
Luận Thủ Lạc Chương 19 : Phu Khuyết – Thủ chỉ tí thũng – Chuyển Cân – Hồ Sán – Vưu Trùng
212
Luận Túc Kinh Chương 20 : Phụ Nhơn – Nhâm Thần
216
Luận Túc Lạc Chương 21 : Phụ Nhơn – Sản Hậu
224
Luận Túc Tam Âm Chương 22 : Phụ Nhơn Tạp Bệnh
232
Luận Thận Danh mục Phương Thang
247
Mục lục
255
256