Một Thoáng Suy Tư

Page 1



Một Thoáng Suy Tư

để tạ ơn Thiên Chúa để cám ơn đời cám ơn người Kính dâng hương hồn Tứ Thân Phụ Mẫu Cho các con các cháu yêu quý

TRƯƠNG XUÂN SAO NGUYỄN THỊ TIẾT



Một Thoáng Suy Tư

Thời gian thật quý giá! Từng hơi thở từng nhịp sống từng giây phút trong đời là ân huệ Thiên Chúa ban cho Tôi đang sống giây phút hiện tại tuyệt đẹp này Một thoáng hít thở thật đầy một thoáng ngắm nhìn thật kỹ tôi đang an hưởng tràn đầy yêu thương Elisabeth Nguyễn



Thư ngỏ Thưa, đây chỉ là những cảm nghĩ vụn vặt được góp nhặt như những áng mây trắng nhỏ bé hiền hòa trong cuộc sống hằng ngày dưới khung trời bao la xanh biếc của vũ trụ, dưới ánh nắng tinh khiết của mặt trời, khi vươn lên đón nhận những hạt sương sa mong manh tươi mát, khi vui mừng tận hưởng làn gió mát lay động thoáng qua, lúc cô đơn buồn lặng lẽ trong đêm thâu hiu quạnh, song mây vẫn là mây của yêu thương… Ý nghĩ chợt đến - chợt đi - thoáng hiện rồi biến mất trong những phút giây bất ngờ, quyến luyến lắng đọng trong khối óc con tim. Thời gian có trôi nhanh, không gian có vô tình nhưng những suy tư đầy tính chất cá biệt được lưu giữ trong tâm hồn. „Một Thoáng Suy Tư“ là chút trải nghiệm niềm thương yêu quý trọng của người viết với Đấng Tạo Dựng vũ trụ thiên nhiên hùng vĩ, Đấng làm chủ lịch sử loài người. „Một Thoáng Suy Tư“ giữa đất trời vô tận, trong dòng đời tất bật và trong không gian huyền ảo. Vâng, chỉ một thoáng … thôi trong ý nghĩ không định trước, không hờ hững, không vô tình, nhưng tràn đầy thi vị… là niềm vui, niềm an ủi, hân hoan cho cuộc sống hằng ngày giữa cuộc đời đầy biến động. „Một Thoáng Suy Tư“ được ghi lại để nhắc nhở, cuộc đời luôn cần đến niềm tin phó thác và hy vọng, giữ cho mình chút ý nghĩa nhân ái, bình an. „Một Thoáng Suy Tư“ là món quà kỷ niệm nho nhỏ cho cuộc đời, cho bạn bè thân thương và cho con cháu yêu quý. Phaolo Trương Xuân Sao 07


Nhớ về Dalat Nói đến Dalat chắc chắn ai ai cũng đều biết, nghe tên, hoặc đã có lần đặt chân đến miền đất lạnh cao nguyên sương mù này. Dalat là quê hương nhỏ bé của riêng tôi, nơi tôi được sinh ra và lớn lên, nơi vẫn được mệnh danh là trung tâm du lịch hàng đầu của Việt Nam mà một số du khách ngoại quốc gọi là „Petit Paris“. Thành phố xinh đẹp này nằm trên vùng đồi núi cao nguyên Lâm Viên, cách thủ đô Saigon 250km đường chim bay. Nhờ ở cao độ 1500m nên khí hậu lúc nào cũng dễ chịu. Nhiệt độ trung bình là 18 độ bách phân. Dalat có hai mùa mưa nắng rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4, thỉnh thoảng có mưa đá. 08


Tôi còn nhớ có trận mưa đá thật lớn đổ xuống rất nhiều đá, lúc đó tôi mới 10 tuổi và cô em gái kế thích quá, hai đứa rủ nhau chạy ra tắm mưa, bốc những hòn đá từ trời rơi xuống một cách say mê sung sướng bỏ vào miệng nhai rau ráu. Báo hại đêm đó chúng tôi lên cơn sốt vì bị nhiễm lạnh. Mẹ tôi đang buồn rầu vì tất cả rau trái trong vườn bị hư hại nặng, nhất là những trái dâu tây chín mọng tới kỳ sẽ hái vào sáng ngày hôm sau, thế mà vì trận mưa vừa rồi làm tan nát tất cả, nhìn mảnh vườn xơ xác mẹ tôi cứ thở dài thườn thượt, giờ lại phải lo cho 2 cô con gái bịnh nữa. Mùa mưa thường hay có sương mù bao phủ trên các thung lũng như tấm áo trắng lạnh toát. Riêng trên toàn diện cao nguyên chỉ tỏa một lớp sương mù mỏng mầu lam tím làm cảnh vật càng trở nên diễm ảo. Trước năm 1897 Dalat vẫn còn là vùng đất xa lạ đối với nhiều người. Rừng núi hoang vu, quanh năm mây mù, lác đác dưới những thung lũng một vài thôn ấp nhỏ, mấy cụm chòi tranh lưa thưa, những nhà sàn thô sơ được bao quanh bởi những rặng thông xanh bát ngát cùng những đóa lan rừng hoang dại. Đó đây bầy cà-tong (loài hươu cao cẳng) nhàn nhã dạo chơi, bầy nai lững thững gặm cỏ bên những con suối nhỏ róc rách nước trong veo. Ngày ấy, vùng đất này thuộc quyền cai trị của viên Tù Trưởng người Thượng tên Yagut, thuộc chủng tộc Koho. Dân chúng Dalat đã lấy tên ông đặt tên cho một con đường để nhớ sự góp công khai phá thành phố đó là đường Yagut nối từ đường Hoàng Diệu (Lò Gạch cũ) với đường Trần Bình Trọng dẫn đến dinh thự của bà Ngô Đình Nhu. Mùa thu năm 1897, một y sĩ Pháp, ông Yersin và người yêu là nữ hầu tước Luxembourg, lần đầu tiên đặt chân lên vùng đất này đã nhận thấy đây là nơi lý tưởng để khai hoang lập nghiệp. Ý nghĩ của y sĩ Yersin phù hợp với tham vọng của viên toàn quyền Pháp lúc bấy giờ là Paul Doumer. Ông này cho thiết lập các cơ 09


sở hành chánh, đài khí tượng, vườn ương cây..., đắp một con đường giao thông huyết mạch nối Dalat với vùng hạ du qua đèo Ngoạn Mục (Bellevue) và một đường khác xuôi nam qua đèo Bảo Lộc (Blao), dẫn về Saigon. Đến năm 1903 đường xe lửa răng cưa từ Phan Rang lên Dalat tên là „đường xe lửa răng cưa Lâm Viên“ được bắt đầu thực hiện. Đoạn đường này chỉ có 84km mà phải mất đến 30 năm mới hoàn thành. (Đoạn đường từ Tháp Chàm đến Sông Pha 41km được hoàn tất và xử dụng năm 1919; đọan đường từ Sông Pha lên Dalat 43km hoàn thành năm 1932). Dalat thuở đó như một thiếu nữ dậy thì duyên dáng, kiêu sa đã thu hút mọi giới đổ xô đến lập nghiệp và một số những doanh gia giàu có cùng những quan quyền thời đó đổ xô đến Dalat xây cất những dinh thự làm nơi nghỉ mát. Dalat có khá nhiều hồ, hồ Xuân Hương nằm ở trung tâm thị xã, rất nên thơ với những hàng thông xanh thiên nhiên và hàng cây anh đào được trồng ở ven bờ hồ. Mỗi độ Tết đến những hàng anh đào này nở rộ, trang điểm cho bầu trời Dalat thêm phần lãng mạn. (Tên của hồ này không phải tên của nữ sĩ Hồ Xuân Hương như nhiều du khách thường nghĩ). Thời còn cắp sách đến trường nữ trung học Bùi Thị Xuân, lũ con gái chúng tôi, khi có giờ nghỉ giữa giờ, thường rủ nhau xách xe đạp chạy vòng quanh bờ hồ và luôn luôn chúng tôi dừng chân nơi vườn „Bích Câu Kỳ Ngộ“, mặc dù chẳng có chàng nào để mà kỳ ngộ cả. Sau đó lại phải bay về trường thật nhanh để kịp giờ học kế tiếp. Hồ Mê Linh, hồ Than Thở, hồ Đa Thiện nằm cách thị xã khoảng 5 km với những rặng cây bạch tùng, ngô tùng và những loại thông hai lá, thông ba lá mọc san sát ven các con đường uốn khúc quanh co, tạo cho toàn cảnh Dalat một vẻ nên thơ đặc biệt. Ngoài ra, do cấu tạo địa chất, các sông suối của Dalat chảy qua nhiều loại đá khác nhau, tạo nên nhiều ghềnh thác; thác Cam Ly 10


rất đẹp là đầu nguồn của sông Đồng Nai. Đập Suối Vàng cách Dalat 18km. Nơi đây lớp chúng tôi cũng đã có dịp được cô giáo hướng dẫn cho đi du ngoạn một lần. Nhìn mặt nước óng ánh vàng lấp lánh khi phản chiếu tia nắng mặt trời, chúng tôi cứ nghĩ, thảo nào tên đập được gọi là Suối Vàng. Thác Prenn với lượng nước rất mạnh, nhất là vào mùa mưa, tọa lạc trên tuyến đường Saigon-Dalat nên rất được nhiều du khách thăm viếng, Thác Gougah, thác Datanla hùng vĩ nằm khuất trong đồi thông xanh. Đối với nhiều người, nhắc đến Dalat là nhắc đến thành phố của các loại hoa, các loại rau vùng ôn đới. Nhờ khí hậu ôn hòa, thành phố này có thật nhiều màu xanh. Màu xanh của những rặng thông già, của những đồi cỏ trùng trùng điệp điệp, hòa lẫn màu xanh của những hồ nước trong, màu xanh của bầu trời tạo cho con người cảm giác bình an, thoải mái, nhàn nhã gần gũi với thiên nhiên. Vì thế con người Dalat hiền hòa, nhu mì, chất phác, Dalat quy tụ rất nhiều kỳ hoa dị thảo. Tất cả các loại hoa hiếm qúy trên thế giới đều có thể trồng được ở Dalat, từ những khóm hoa nhỏ bé như violet, forger-me-not, pensée, mugée đến những loại hoa anh đào Nhật Bản, những loại hoa tulipe đủ mầu của Hòa Lan v.v... Chỉ riêng hoa hồng, Dalat đã có mấy chục loại, khác nhau từ hương đến sắc khiến du khách đến Dalat đều mê mẩn vì hoa. Ngày nay có rất nhiều nhà trồng hoa ở Dalat được các chuyên gia canh nông từ Hòa Lan đem các loại hoa giống của Hòa Lan đến Dalat hướng dẫn cách trồng và chỉ cách lai tạo giống cũng như lai tạo màu, rất thành công. Hoa của Dalat ngày nay đã có xuất cảng ra ngoại quốc. Hoa lan có đến hàng ngàn thứ, từ những loại dễ trồng trong chậu như thổ lan đến các loại phong lan sống bám trên cây, hương sắc vô cùng phong phú. Tôi còn nhớ vườn lan của ông nội chúng tôi cũng có thật nhiều loại lan, sáng nào cũng có những người 11


Thượng mang lan trong những chiếc gùi đem đến bán cho ông nội tôi. Chúng tôi, lũ cháu nội (khoảng 20 đứa) quỷ quái suốt ngày thích thú chạy chơi, đùa giỡn dưới những giò hoa lan muôn màu treo lủng lẳng ở trên đầu với thoang thoảng hương thơm của đủ loại lan. Tôi cứ tưởng vườn lan của ông nội tôi là đẹp nhất Dalat rồi, ngờ đâu trong một dịp theo ba tôi về thăm rẫy ở Tùng Nghĩa, khi trở về được ba tôi cho ghé thăm vườn lan của nhà văn Nhất Linh, tôi mới thấy vườn lan của ông nội mình thật còn kém xa vì chẳng những hoa lan đã ít hơn mà cách trang trí để làm tôn vẻ kiêu sa những giò lan lên một cách điệu nghệ thì vườn lan của ông nội tôi thua xa. Là một thành phố tân lập, ngoài những sắc dân thiểu số như Koho, M-nông, Tày, Thái v.v… Cư dân Dalat đến từ nhiều vùng đất nước nên giọng nói mang một âm hưởng thật đặc biệt, pha trộn giọng nói của ba miền Bắc Trung Nam, nghe thật ngộ nghĩnh, ngọt ngào dễ thương. Các thiếu nữ Dalat, nhờ khí hậu hiền hòa nên có làn da thật mịn màng, đôi má lúc nào cũng hây hây đỏ hồng làm rung động biết bao trái tim trai trẻ. Sinh hoạt Dalat bắt đầu từ tờ mờ sáng. Khi màn đêm còn bao phủ, người người còn nồng say giấc điệp thì tiếng chuông chùa Linh Sơn đã ngân vang, thức tỉnh thế gian. Đây là ngôi chùa lớn nhất Dalat, tọa lạc trên ngọn đồi ở đường Phan Đình Phùng, sau chùa là đồi chè bát ngát xanh um, kế bên tháp chuông chùa là trường trung học tư thục Bồ Đề. Từ ngày xa Dalat định cư ở Tây Đức, những năm đầu tiên trên xứ người, cứ vào khoảng trời gần sáng tôi đều nằm mơ nghe thấy rõ ràng tiếng chuông chùa Linh Sơn ngân vang... mãi những năm sau này mới không còn bị ám ảnh nữa. Giờ này, trên khắp các nẻo đường từ thành phố dẫn về những thôn làng, những người sống bằng nghề trồng rau đang lũ lượt kéo nhau về sau phiên chợ khuya. Ai nấy gánh những quang 12


gánh nhẹ tênh vì tất cả những rau cải, bắp sú, cà rốt, củ cải, rau, bắp và mận, dâu...(những đặc sản của nhà vườn) đã được bán hết cho bạn hàng tiểu thương đóng rau chở về các tỉnh. Vài chiếc xe ngựa nặng nhọc thồ những kiện rau cải lớn về chợ Dalat, tiếng móng ngựa gõ trên đường khuya hòa lẫn tiếng nói cười xôn xao của những cô gái quê đi chợ về sớm tạo thành một âm thanh ma quái trong sương khuya. Chợ Đêm, đây là một sinh hoạt rất đặc biệt của Dalat, họp từ 1 giờ khuya kéo dài đến khoảng 4, 5 giờ sáng. Giờ họp chợ này thường chỉ bán rau trái, bông hoa của nhà vườn và các tiểu thương mua bán trong lãnh vực này mà thôi. (Vì xa Dalat đã lâu tôi không biết ngày nay Dalat còn sinh hoạt này hay không?) Dĩ nhiên cũng có tất cả những hàng quà vặt và hàng quà sáng như hàng cà phê, bánh mì, các hàng xôi, hàng bánh v.v… Khi ánh dương ló dạng, những tia nắng đầu ngày chiếu xuyên qua làn sương mù trông như những hào quang của phép lạ, chiếu lóng lánh những hạt sương đêm còn đọng trên những búp hoa, tàu lá và trên những thảm cỏ xanh biếc... thì lác đác trên các nẻo đường từ buôn làng dẫn vào thành phố, vài nhóm người Thượng thuộc chủng tộc Koho đi hàng một, thành từng nhóm nhỏ, những cô gái Thượng mình trần phơi làn ngực căng tròn nhựa sống, chỉ quấn quanh bụng một chiếc Sàrông dài đến gót chân, lưng đeo gùi và địu con nhỏ trước bụng. Người nào cũng đen đúa, đi chân đất, con trai, đàn ông có người vẫn còn đóng khố, vai vác chà gạc, lưng đeo gùi đựng đầy nhưng khúc củi ngo dùng để nhóm bếp hay những giò lan rừng đem ra chợ để đổi lấy gạo, muối. Dalat vào đêm với màn sương giăng giăng một màu lam tím nhạt, ánh đèn đường vàng vọt yếu ớt chiếu không lọt qua màn sương tạo thành một thứ ánh sáng mờ ảo huyễn hoặc như từ một 13


thế giới không thực. Những cơn gió từ mặt hồ Xuân Hương gây gây lạnh khiến ta thèm không khí ấm cúng và giòng nhạc trữ tình của quán cà-phê Tùng với hương vị cà-phê thật đặc biệt, đậm đà ấm áp, uống một lần là nhớ mãi. Người ta đồn cà-phê Tùng có pha hạt cau khô nên hương vị khác những cà-phê của quán khác, điều này không biết thực hư thế nào nhưng tất cả dân Dalat đều kháo nhau như thế. Nếu thích không khí bập bùng quyến rũ với ly cà-phê pha Rhum thì bạn nên đến Ca-phê Vui của nữ minh tinh màn bạc Kim Vui giữa dốc đường Minh Mạng nối Khu Hòa Bình với đường Phan Đình Phùng. Nữ tài tử này có thân hình rất đẹp, quyến rũ nên mỗi buổi trưa ấm áp, nàng thường diện bộ bikini, leo lên xe hơi bỏ mui chạy vài vòng thành phố và quanh một vòng bờ hồ khiến dân chúng Dalat rất ngưỡng mộ, nhất là lũ học trò con gái chúng tôi. Sau đó nếu còn hứng thú đi thăm một vài nơi, mời bạn cùng tôi „từng bước từng bước thầm“ tay trong túi áo manteau nhẩn nha dạo phố. Đi vòng quanh Khu Hòa Bình gặp không biết bao nhiêu nam thanh nữ tú, ai ai cũng ăn mặc thật lịch sự, thật đúng là thành phố thanh lịch. Đi một lúc đã mỏi chân, khát nước. Thì đây, mời bạn ghé lề đường Minh Mạng uống một ly sữa đậu nành nóng hổi thơm phức mùi lá dứa mà bạn đã ngửi thấy từ xa trên đầu ngọn gió. Bạn cũng nên mua vài trái bắp nướng nóng hổi của người bán rong bên vỉa hè, trước tiệm bánh mì Vĩnh Chấn, Vĩnh Hòa vừa đi vừa lẩy từng hạt nhỏ bỏ vào miệng, vị ngọt ngào và dẻo quánh của từng hạt bắp mới hái ngon mộc mạc mà đằm thắm tình quê hương. (Ngày nay tôi cũng đi du lịch khắp nơi và nơi nào có bắp nướng, tôi cũng sà vào mua vài trái, nhưng chưa có trái bắp nào mà nó ngon như những trái bắp Dalat năm xưa). Nhắc đến Vĩnh Chấn mà không nhắc đến những buổi tụ tập của chúng tôi, lũ học sinh, sinh viên, trước tiệm bánh mì này, vừa 14


tán gẫu vừa chờ những chiếc bánh mì thật thon dài và thật nóng dòn vừa mới ra lò, mà hợp với túi tiền của lũ học trò chúng tôi. Rồi chúng tôi vừa ăn vừa tiếp tục tán gẫu đủ thứ chuyện học hành, chuyện trường lớp, chuyện thời sự, chuyện bồ bịch, chuyện riêng tư ... Bạn cũng đừng quên ông già bán đậu phụng rang của Dalat, ông này có biệt tài rang đậu phụng thật khéo, thật dòn, thật nóng mà lớp vỏ nâu nâu duyên dáng của hạt đậu phụng vẫn còn nguyên. Một đặc điểm khác là trông ông rất nghệ sĩ, điển trai kiểu tài tử gánh xiệc, lúc nào cũng đóng bộ quần áo của ông bầu đoàn xiếc, chiếc nơ không khi nào thiếu trên cổ áo chemise và nụ cười không khi nào vắng trên môi. Ông thường đeo chiếc thùng gỗ, đựng đậu phụng rang trước bụng đi bán trong các rạp chiếu bóng Ngọc Lan, Ngọc Hiệp và Hòa Bình. Sau đó ông đeo thùng đậu phụng đằng sau xe đạp, rảo quanh khắp các phố chính, nơi nhiều du khách qua lại với tiếng rao khàn khàn đục đục: “Đậu phụng don don, đậu phụng dòn dòn đây...“. Đêm đã khuya, bụng đã đói, mời bạn ghé đường Trương Vĩnh Ký, sau lưng nhà hàng khách sạn Thủy Tiên. Nơi đây bạn tha hồ chọn món ăn: Một tô cháo lòng hay phở xào Bà Béo, miến gà Thủy Tiên hay mì hoành thắn Chú Ba, một bát chè trứng vịt hay chè chế-mà-phù, chè kê ... của cô Tàu trẻ có nụ cười duyên dáng, ăn nói dễ thương ngọt ngào không kém chi chè của cô ta. Những thức ăn bình dân ở đây cam đoan với bạn, nấu không thua gì nhà hàng Chic-Changai hoặc Sơn Nam, Nam Kinh. Đối diện với những quán ăn khuya này là trường Đoàn Thị Điểm mà trước kia là trường tiểu học công lập đầu tiên của thành phố Đalạt (École Primaire de Dalat), là trung tâm các kỳ thi lấy bằng Tiểu Học (Primaire) thời bấy giờ của toàn tỉnh. Vị hiệu trưởng các niên học 1950 - 1953 là thầy Lê Thêm.

15


Ngoài thắng cảnh nên thơ, khí hậu tươi mát, Dalat còn nổi tiếng là nơi tọa lạc của Trường Võ Bị Quốc Gia, Trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị, nơi đào tạo quân sự những thanh niên ưu tú của đất nước. Trường Đại Học Quân Sự (Chỉ Huy Tham Mưu), huấn luyện bổ túc cho các sĩ quan từ cấp tá, chỉ huy những đơn vị lớn của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Những ai từng dự Lễ Mãn Khóa tại trường Võ Bị Dalat, chắc hẳn không thể quên hình ảnh oai hùng của sinh viên thủ khoa lúc dương cung bắn bốn mũi tên đi bốn phương trời, tượng trưng cho chí tang bồng hồ thỉ, cũng như không thể quên được đêm Chiêu Hồn Tử Sĩ vào trước ngày Lễ Mãn Khóa. Những chiều cuối tuần, khắp các nẻo đường phố Dalat và nhất là con đường quanh bờ hồ Xuân Hương, chúng ta thấy những chàng trai khôi ngô, tuấn tú oai hùng trong bộ quân phục sinh viên sĩ quan song hành bên cạnh những tà áo dài muôn mầu, muôn sắc trang điểm cho Dalat những ngày cuối tuần thơ mộng, nhộn nhịp, tươi vui và đầy sinh khí. Dalat còn nổi tiếng với Viện Đại Học Thụ Nhân (viện Đại Học Công Giáo), nơi có phân khoa chính trị kinh doanh đầu tiên của Việt Nam và trụ sở Giáo Hoàng Học Viện Dalat là nơi đào tạo các linh mục cho cả vùng Đông Nam Á, mà ngày nay đã có nhiều vị trở thành các vị Giám mục. Dalat cũng có những trường học chương trình Pháp Couvent des Oiseau, Domaine de Marie cho nữ sinh, trường Lycee-Yersin giảng dạy cho nam sinh. „Lắng nghe chiều xuống thành phố mộng mơ, màu lam tím Dalat sương phủ mờ, từng đôi đi trên phố vắng, bước chân em giữa không gian hoàng hôn của màn đêm...“ Bản nhạc gợi nhớ đến Thanh Tuyền, cô ca sỹ nổi tiếng của Dalat; rồi danh ca Khánh Ly, rồi Lệ Khánh với thi phẩm „Em là gái trời bắt xấu“ giờ đang lưu lạc nơi đâu? Hỡi những nữ sinh Bùi Thị Xuân, nam sinh Trần Hưng Đạo, các bạn Trí Đức, Văn Học, Việt Anh, 16


Lycee-Yersin, Couvent des Oiseaux... giờ này các bạn đang ở đâu, có nhớ về Dalat với bao nhiêu nuối tiếc như tôi? Rừng Ái Ân, Hồ Than Thở, Vườn Bích Câu, nơi hẹn hò của bao nam thanh nữ tú. Thung Lũng Tình Yêu bên Bờ Hồ Đa Thiện với Đường Vòng Lâm Viên, cùng bạn bè thi đua đạp xe đạp leo dốc Nhà Thờ Chánh Tòa dựng đứng. Rồi Sân Cù với những buổi rủ nhau „cúp cua“ ôm cặp sách lang thang trên những thảm cỏ xanh mướt hay túm năm tụ ba, chuyện ngắn chuyện dài dưới bóng mát gốc thông già. Những buổi được nghỉ học lũ con gái chúng tôi ngồi trên xe đạp, kéo nhau chạy trên con đường vòng qua Giáo Hoàng Học Viện đến Nhà Dòng Đông Các Cô (DonBosco) để ăn cắp hoa tươi và được tận mắt nhìn các thầy đàn hát thánh ca vang dội cả một góc trời Dalat. Giờ đây Dalat đã nghìn trùng xa cách. Kể từ khi lọt vào tay những người lãnh đạo cộng sản, Dalat mất hẳn địa vị thành phố du lịch. Những vườn hoa của các ngôi biệt thự đã thay thế bằng những vồng khoai lang, những luống hành ngò, rau húng v.v... Tôi không biết Dalat ngày nay ra sao, như thế nào? Xin mượn lời của Vũ Lâm, tác giả „Câu chuyện về đường xe lửa Dalat“ thay lời kết: „Dalat ngày nay, Dalat nhân tạo, xanh xanh đỏ đỏ với những kiến trúc rẻ tiền của đám lãnh đạo có trình độ thấp kém, vô học trong chế độ cộng sản. Kiểu kiến tạo giả dối, tiểu công nghệ, ăn xổi ở thì, cho mong mau tay móc túi du khách, kiểu xin tiền lẻ, moi bạc cắc. Dalat ngày xưa như người con gái đẹp thơ ngây hồn nhiên mộc mạc không son phấn, Dalat ngày nay như cô gái ăn sương, đứng đường chờ khách trong đêm tối, lòe loẹt phấn son!“./17


18


Cầu nguyện Khái niệm cầu nguyện đã nhen nhúm nơi mỗi Kitô hữu từ môi trường gia đình. Ngay từ tấm bé, khi bập bẹ biết nói, chúng ta được mẹ dạy cầu nguyện bằng cách nhìn lên tượng Chúa Giêsu hay tượng Đức Mẹ vòng tay cúi đầu ạ Chúa. Đến khi lớn một chút thì tập cho biết làm dấu thánh giá, rồi từ từ dạy cho ta đọc Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng, Sáng Danh vv… Ở môi trường xứ đạo, là em bé đi nhà thờ với bà hay với mẹ đã được dạy quỳ gối chào Chúa, rồi làm dấu Thánh Giá và khi vào ghế ngồi thì cử chỉ phải khoan thai, phải nhẹ nhàng, nghiêm nghị, không được trò chuyện, không được ngó qua ngó lại, mắt nhìn thẳng lên Cung Thánh. Trong Thánh Lễ cũng phải ngồi im, không được hó hé gì cả. Khi đã khôn lớn được học hỏi Giáo Lý mình mới biết khi quỳ gối là chấp nhận mình nhỏ bé thấp hèn trước sự cao cả của Thiên Chúa. Làm dấu Thánh Giá là mình tuyên xưng mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi để xác tín rằng mình được tạo dựng và trở nên nghĩa tử của Ngôi Cha Chí Thánh, được cứu chuộc nhờ mầu nhiệm sự chết và sự sống lại của Ngôi Con xuống thế làm người, và sống nhờ Ngôi Ba: Thánh Thần. Ba Ngôi là cội rễ của niềm tin Kitô giáo. Đức tin của chúng ta có trưởng thành cũng là nhờ sự gắn kết với cội rễ này. Như cây cần nước để có thể sống, cần ánh mặt trời để nảy nụ đơm hoa, thì đời sống Kitô hữu trưởng thành cần việc cầu nguyện. Khi cầu nguyện là chúng ta dành thời gian để sống thân tình với Chúa. Người Việt Nam có câu „vô tri bất mộ,“ nếu tôi không biết Chúa thì làm sao tôi có thể yêu Ngài. Mà muốn biết thì phải học hỏi, tìm hiểu, lắng nghe và thưa chuyện với Ngài. Vì thế cầu 19


nguyện là để biết Chúa hơn. Và khi đã cảm nghiệm được sự vĩ đại của Thiên Chúa thì hạnh phúc của người cầu nguyện là để chúc tụng, tôn vinh Ngài, để múc lấy sức mạnh của đức Tin, đức Cậy, đức Mến từ Thiên Chúa. Nhưng tôi phải cầu nguyện như thế nào cho phải? Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ: „Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại“ (Mt 6,7). Lời Kinh duy nhất mà Đức Giêsu dạy, Kinh Lạy Cha (Mt 6: 9-13) bắt đầu bằng lời tuyên xưng đầy hiệp nhất „Lạy Cha chúng con, ở trên trời.“ Rồi tiếp theo là ba lời nguyện ước: Xin cho „Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.“ Đây là giấc mơ của Chúa Giêsu, Ngài mời gọi chúng ta, con cái của Ngài cùng thực hiện để giấc mơ của Ngài được hiển trị. Rồi mới đến bốn lời khấn xin: „1) cho chúng con lương thực hằng ngày. 2) và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. 3) Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. 4) Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ“. Đức Giêsu dạy chúng ta trước tiên hãy nghĩ đến Cha Trên Trời, hãy quan tâm đến Nước Chúa. „Các con hãy tìm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người trước đã, các sự khác sẽ được ban thêm cho các con“ (Mt 6, 33). Thường thường chúng ta cầu nguyện thì chỉ quy hướng về bản thân mình, mà không vượt ra được cái bản ngã thấp hèn để trước tiên hãy quy hướng về Thiên Chúa và Nước của Cha, sau đó chúng ta mới cầu xin những gì cần thiết để mưu ích thực sự cho cuộc sống của chúng ta. Mẫu gương cầu nguyện của Mẹ Teresa Calcutta là một mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta noi theo. Mẹ cầu nguyện với Chúa Giêsu trong công việc mình đang làm hằng ngày. Mẹ Teresa Calcutta trả lời cho một phóng viên báo Time, USA hồi tháng 12/1989 20


- Sáng nay mẹ làm gì? - Cầu nguyện. - Bắt đầu từ mấy giờ? - 4 giờ rưỡi. - Và sau khi cầu nguyện? - Chúng tôi tiếp tục cố gắng cầu nguyện qua công việc bằng cách làm công việc đó với Chúa Giêsu, vì Chúa Giêsu và cho Chúa Giêsu. Điều này giúp chúng tôi đặt tất cả trái tim và tâm hồn vào công việc mình đang làm. Những người đang hấp hối, những người đang co quắp, những người bệnh tâm thần, những người bị bỏ rơi, những người không được yêu thương. Họ là Chúa Giêsu cải trang… Theo gương Mẹ Teresa Calcutta chúng ta nên sống bắt đầu ngày bằng cầu nguyện như để kín múc năng lượng, để định hướng hành động và để phó dâng ngày mới trong sự quan phòng của Thiên Chúa. „Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn.“ Một đời sống cầu nguyện, kết hợp mật thiết với Chúa Kitô chịu đóng đinh là trọng tâm đời sống Kitô hữu. Phần kết của cầu nguyện là cầu xin những ơn cần thiết cho mình, cho gia đình, cho cộng đoàn, cho Giáo Hội, cho thế giới, cho mọi biến cố v.v., song phải cầu nguyện hiệp nhất với Giáo Hội và hoàn toàn tin tưởng vào Chúa, chứ không phải cầu xin theo lòng ham muốn của chính mình. „Anh em xin mà không được vì anh em xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc“ (Gc 4, 3). Ước mong chúng ta luôn cầu nguyện để Danh Cha được cả sáng, Nước Cha được trị đến và sống theo Ý Ngài, theo Lời Ngài dạy để luôn làm đẹp lòng Ngài, chính là bổn phận của chúng ta khi chúng ta đáp trả tình yêu thương vô biên của Ngài. Lạy Thầy Giêsu, xin giúp con luôn tỉnh thức, cầu nguyện và biết sống theo ý Thầy. Amen. 21


Kể chuyện một chuyến đi „Người nào trong các ông có 100 con chiên mà bị mất một con, lại không để 99 con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai.Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: „Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên bị mất. Vậy, tôi nói cho các ông hay: Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là 99 người công chính cần phải sám hối“ (Lc. 15, 4-7)

22


Là người Công Giáo không ai là người chưa từng nghe qua dụ ngôn con chiên bị mất, tôi cũng thế, đã đọc qua đoạn Kinh Thánh nầy nhiều lần. Trong những buổi tĩnh tâm linh thao tôi cũng đã được các cha giảng phòng giải thích cặn kẻ rõ ràng từng chi tiết một, thế nhưng tôi chỉ tiếp nhận được qua phần lý thuyết để củng cố đức tin còn phần thực hành ngoài đời thì chưa có kinh nghiệm nào. Năm nay 2008, dịp may đã đến - bà xã tôi ngỏ ý rủ tôi theo chân cha Lê Thắng, Dòng Ngôi Lời (SVD), đi tìm thăm đoàn chiên lạc của cha – đoàn chiên mà cách nay khoảng 4 năm cha đã tìm được trên bước đường truyền giáo của cha, khi cha vừa mới được thụ phong linh mục. Điểm đến của chuyến đi này là Budapest – một địa danh rất nổi tiếng của Âu Châu, là trục lộ giao tiếp giữa Ấn-Âu. Budapest, thủ đô của xứ Hungary, nơi đó đã phát sinh ra vị vua Thánh Stêphanô Hungary, và Thánh nữ Elisabeth Hungary. Budapest là viên ngọc cũng là nữ hoàng của dòng sông Danube thơ mộng, khách vãng lai thường gọi cái tên thân thương là Paris của miền đông. Tôi làm sao từ chối được, một công việc tông đồ đạo đức cộng thêm sự lôi cuốn hấp dẫn của địa danh mà tôi hằng mơ ước có ngày được đặt chân đến. Thế là tôi tình nguyện theo đoàn chiên của cha Thắng, để làm phần vụ phụ việc. Đoàn gồm 4 người, cha Thắng, Anh Dũng và vợ chồng tôi. Chiếc phi cơ Lufthansa 3440 của Đức đáp xuống phi trường Budapest (BUD) lúc 9 giờ 20 ngày 27.12.2008, trời ở đây vẫn còn sương mù, khung cảnh ở sân bay rất nhộn nhịp cho chúng tôi niềm thích thú vui tươi. Có lẽ vì thuộc cộng đồng chung Âu Châu, nên chúng tôi không bị ngăn chận bởi một sự kiểm soát giấy tờ hộ chiếu lần nào – Hành lý nhận được cũng rất nhanh. Vừa ra khỏi khu vực kiễm 23


soát thuế má (cửa bỏ trống không thấy ai) đã được một con chiên của cha Thắng, anh Nghĩa dẫn theo bé gái khoảng 2 tuổi và bé trai tên Nguyên, 8 tuổi vui vẻ mừng rỡ đón chúng tôi ở ngay cổng. Trên xe về tu viện Dòng Ngôi Lời qua phần giới thiệu, chúng tôi được biết anh Nghĩa, là người mà cha Thắng lần đầu sang đây, khi đang ngơ ngác giữa dòng người trong khu chợ trời đông đảo, tìm kiếm, hỏi thăm từng người để mong gặp được anh chị em nào theo đạo Công Giáo, thì gặp anh Nghĩa. Thế là anh Nghĩa trở nên gạch nối và đầu cầu giúp cha hoàn thành sứ vụ tìm những anh chị em Công Giáo khác. Một cộng đoàn nhỏ bé và hạn hẹp với một vài gia đình, một vài anh em gom lại thành một ràng chiên nhỏ bé dễ thương, cùng nhau dâng lên Thiên Chúa lời ca cảm tạ. Thế rồi vì công tác mục vụ nhà Dòng cha đành chuyển giao ràng chiên nhỏ bé này lại cho một đấng chăn chiên đồng nghiệp khác để trở về Đức. Noel năm này, nhớ con chiên quá, cũng nhân muốn phối hợp một vài dự án được bề trên cho phép, muốn xem dò địa điểm, liên lạc với nhà Dòng tại Budapest để chuẩn bị một cuộc sinh hoạt du ngoạn đạo đức cho giới trẻ Việt Nam tại Đức – cũng như tạo môi trường trao đổi học hỏi cho giới trẻ Việt Nam ở hai quốc gia. Trên đoạn đường từ phi trường về nơi cư trú dài trên hơn 20 cây số, nhưng với khung cảnh mới lạ chung quanh qua những công viên xây dựng tân kỳ, cổ kính, những căn nhà, dãy phố, đường giao thông như mắc cửi, vui vẻ nhộn nhịp người qua lại làm chúng tôi quên mất thời gian, thì 10 giờ xe đã đến nhà. Dòng Ngôi Lời Budapest ngự trị ở trên một khu đất to rộng với hai dãy lầu cao đẹp, được nối với nhau bằng một hành lang có mái che và tường bọc kín, đi qua lại như đi trong nhà. Bên ngoài với những thảm cỏ xanh mướt bao bọc căn nhà trông thật khang trang, đẹp mắt. 24


Ra mở cổng cho chúng tôi là một thầy da ngâm ngăm đen, sau đó là cha Francis, giám đốc đào tạo (Nhà Tập), bạn cha Thắng ở Chicago ra chào đón. Oai ghê! chúng tôi được tiếp đón như người nhà từ xa đến – mọi sự ngỡ ngàng xa lạ ban đầu, trốn vội đi đâu mất! Chúng tôi li lô với cha vài ba câu xã giao chào hỏi ngọng ngịu nửa Đức nửa Anh (vì cả ba chúng tôi vốn liếng Anh ngữ cộng lại chỉ bằng nắm tay!), nhưng cha cũng hiểu, chúng tôi đồng cười huề vui vẻ. Thăm viếng vội vã, nhận phòng ốc xong, bốn cha con xin phép cha bề trên đi ra phố để thăm viếng bà con đồng hương. Vì bận công việc cho mấy cháu nên Nghĩa đành bỏ chúng tôi trước cổng vào khu chợ trời, với lời dặn dò cho cha Thắng địa điểm để gặp anh Lập, người vừa được bầu thay thế ban hành giáo cũ của ràng chiên tại đây. Vào chợ, chúng tôi gặp anh Lập và một số anh chị buôn bán ở chợ, cha con vui vẻ và ván cờ tướng được dàn ra ngay sau đó để cha con tranh tài cao thấp, vừa đấu trí vừa thảo luận công việc mục vụ. Rốt cuộc con bại, cha thắng trong vui vẻ, nhưng trong ánh mắt của cha không tránh phần nể phục những nước cờ của đối thủ. Khu chợ bên này do những người Hoa và Việt buôn bán chung, không thấy đông đảo người mua sắm, có lẽ chúng tôi đến đây những ngày còn nghỉ lễ nên ít người mua sắm. Thấy chúng tôi tò mò muốn đi đây đó cho biết, cũng như sự nóng lòng muốn gặp những con chiên cũ mới của cha, anh Lập đã dẫn chúng tôi sang bên kia đường, đó chính là cổng chính vào khu buôn bán, nhìn tấm bảng treo trên cổng vào tôi mới biết đây là khu chợ Bốn Con Hổ thuộc quận VIII, một nơi tập trung buôn bán của chung các sắc dân Hung, Việt, Hoa và Thổ Nhĩ Kỳ. Phần bên này thì quá xô bồ nhộn nhịp, nhưng vui vẻ, kẻ buôn người bán qua lại tấp nập, chen chân nhau mà đi. Anh Lập muốn trước hết cha con 25


chúng tôi phải có cái gì dằn bụng – thế là chúng tôi vâng lời – đến ăn ở một quán xép trong chợ - Tôi, cha Thắng, anh Dũng mỗi người một dĩa cơm, thức ăn tùy chọn, bà xã tôi, anh Lập mỗi người một tô bún. Tạ ơn Chúa – phần sống trong ngày coi như tạm ổn. Một anh Thổ Nhĩ Kỳ đến dụ đổi tiền Euro. 1 Euro = 262 tiền Hung, so với đổi ở phi trường lời hơn 40. Chúng tôi nhe răng cười tình với anh, anh nhún vai cười lại rồi bỏ đi. Tại đây giáo dân có khoảng 40 người trên tổng số gần 4000 Việt, có người là Công Giáo nhưng vẫn không dám nhận mình là người Công Giáo, có những giáo dân đã trên 10 năm chưa hề xưng tội, cuộc sống chỉ lo làm ăn buôn bán liên miên, có người vì tình cảm kết hợp bạn bè với những anh chị em tôn giáo khác hay không tôn giáo, nên mắc cở, sợ sệt không dám nhận mình là người Kitô Giáo. Cha con chúng tôi cũng đã gặp được các con chiên cũ của cha, Chị Hợp, chị Loan…...Hai chị là người miền Nam ở Sàigòn, rất vui vẻ - sau đó chị Loan đã bỏ cả buôn bán giao cho chị Hợp, lấy xe đưa chúng tôi đi thăm thành phố. Chị cho biết trước đây người Hung rất hiền hòa, tế nhị, vui vẻ, ưa giúp đỡ - nhưng đến nay điều đó có phần giảm đi, kể cả trước đây họ không biết nhận tiền trà nước, nhưng nay thì có, nhất là ngành cảnh sát!!! Chị hy vọng đó chỉ là thiểu số hay nhận xét có phần khiếm diện của chị! Qua những đường phố, những cây cầu, những địa danh, chị đều giải thích tường tận, sau cùng chị đưa chúng tôi đến thăm viếng nhà thờ Matthias được kiến trúc theo kiểu Gothic ở trên cao và quần thể thành những người đánh cá (fishermen’s Bastion), đã được dân xứ Hung bình chọn là một trong „bảy kỳ quan kiến trúc của Hungary“. Chúng tôi đến bên lan can tại đây trông xuống dòng sông Danube thật tuyệt đẹp, có cảm tưởng như mình đang ngồi kề be thuyền trôi trên nước. 26


Trời đã tối chúng tôi tìm đường về nhà Nghĩa như đã hẹn, Loan đưa chúng tôi qua lộ trình khu thành quách xưa có tường dày bằng đá kiên cố - Từ bên dưới đường nhìn lên công viên xinh tươi trên đỉnh đồi như muốn mời gọi du khách lên thăm ngắm tượng „nữ thần tự do“ hai tay nâng cao cành lá cọ, biểu tượng của chiến thắng và hòa bình. Đường phố đã lên đèn, ánh sáng, ánh nước sông Danube, lung linh, cộng thêm những phần trang trí đường sá bằng những giây đèn giáng sinh đủ màu sắc hình dạng - Budapest ban đêm đẹp lạ kỳ, không hổ danh là trái tim của Âu Châu. Tại nhà Nghĩa-Hằng chúng tôi được dùng một bữa cơm gia đình đầy tình nghĩa. Chúng tôi cũng đã không ngại ngùng chia sẻ với nhau những kinh nghiệm cuộc sống, đời sống đức tin, mục vụ và giao tiếp. Trong câu chuyện chúng tôi biết được một vài uẩn khuất có thể tạo nên sự sứt mẻ tình yêu thương tin tưởng của nhau do hiểu lầm tạo nên trong ràng chiên mà cha Thắng đã dày công xây dựng và thương yêu như yêu chính bản thân mình. Riêng chúng tôi thì cảm nhận được niềm đau của mọi thành viên, khi chính ai ai cũng muốn nỗ lực tích cực xây dựng tốt đẹp chiếc tổ ấm tình thương Kitô Giáo thương yêu đó, mà thần dữ thì cứ tìm cách này, cách nọ để phá. Đem sự hiểu biết về phân biệt thần loại của thánh Inhaxiô, chúng tôi giải thích cho nhau biết về mình, về người và mưu mô xảo quyệt của thần dữ, việc thần dữ làm có thể lúc khởi đầu sẽ hướng dẫn sự việc đi vào con đường tốt tuyệt hảo, nhưng xen vào đó một vài sai quấy với biện minh vào công trạng, thời gian sẽ điều chỉnh, nhưng chỉ hứa để đó rồi thành thông lệ và cứ thế tiếp theo con đường sai quấy. Buổi tâm tình chia sẽ thật là qúy báu – nhận ở nhau nhiều hiểu biết, tôi nghĩ đây phải là một ơn đặc biệt của Chúa Thánh Thần. Chúng tôi về đến nhà Dòng khi cổng đã khóa chặt, trời khuya, chúng tôi phải quấy rầy bấm chuông để một thầy ra mở cửa. 27


Sáng Chúa Nhật 28.12.2008, chúng tôi thức dậy trễ, tuy vậy vẫn được dự buổi cầu nguyện chung với nhà Dòng trong một nhà Nguyện nhỏ rất ấm cúng, sau đó 12 giờ dùng cơm trưa với nhà Dòng. Tại phòng ăn chúng tôi được nói chuyện vui vẻ với từng cha, từng thầy mà chúng tôi đếm được tất cả là 14 người, 7 quốc gia , trong đó có 4 cha, 10 thầy. Sau bữa ăn chúng tôi được cha bề trên phái ba thầy Andrea (biết tiếng Đức), Alexandre (lái xe) và một thầy tôi quên tên đưa cha con chúng tôi đến Dòng Don Bosco, thăm Dòng, thăm cha Nghị và các thầy Hùng, Biệt, Ly. Tại đây chúng tôi cũng gặp được cha bề trên của Dòng là một người Bỉ rất tốt lành vui vẻ nhã nhặn. Các cha và các thầy cũng nhắc đến cha Nam (Don Bosco) ở Bonn – Thầy Ly là một nhân tài hội họa, thầy không học vẽ, nhưng có khiếu vẽ rất đẹp, khi vào nhà thờ của Dòng, kính viếng Chúa, được cha Nghị giới thiệu từng bức tranh một của thầy được trưng bày đầy trong nhà thờ - một bức tranh khác của thầy đã làm chúng tôi chú ý nhiều về ý nghĩa cũng như nét vẽ, đó là bức tranh diễn tả giấc mơ của Thánh Don Bosco cầu nguyện cho con thuyền giáo hội, mà trên thuyền là hàng giáo phẩm của giáo hội muốn vượt qua bao nhiêu trở ngại sóng gió để đến đích lý tưởng, nhờ hai dây xích cột chặt vào hai cột trụ là Thánh Thể và Mẹ Maria. Sau đó cha Nghị đưa chúng tôi thăm qua tất cả những nơi cha làm việc - nào phòng hội họp –nơi sinh hoạt giới trẻ với nhiều vật dụng để các em vừa chơi vừa học. Đặc biệt do sáng kiến riêng của cha một nhà nguyện rất nhỏ vừa đủ một hai người ngồi hoặc quỳ cầu nguyện, được đặt kế cận đó để khi chơi các em có đôi giây phút vào cầu nguyện với Chúa. Người Hung đưa con cái đến đây rất thán phục Idee này của cha, - kết quả rất khả quan, nhà nguyện được hầu hết các em đến cầu nguyện. Chúng tôi cảm ơn rồi chia tay cha và 3 thầy, sau khi cha Nghi 28


kéo riêng cha Thắng của chúng tôi đến một góc vườn xầm xì điều gì xem tương đắc lắm. Thoáng nghe tiếng được tiếng mất, chúng tôi đoán biết hai cha đang lưu tâm nói chuyện về cộng đoàn (ràng chiên) của hai cha. Tạ ơn Chúa, việc Chúa làm rất nhiệm mầu. Về lại Dòng Ngôi Lời, nghỉ ngơi giây lát, 4 cha con chúng tôi cùng với những người thân của nhà Dòng ở rải rác khắp nơi trong thành phố được các thầy đưa đón về hoặc tự động đến, sốt sắng tham dự Thánh Lễ ngày Chúa Nhật tại nhà thờ hầm trong nhà. Thánh lễ rất trang nghiêm thánh thiện với những tiếng hát lời kinh bằng tiếng Hungary. Sau lễ chính những người đến tham dự mang thức ăn đến dùng chung bữa tối với nhà Dòng rất là vui vẻ. Riêng bốn chúng tôi được cha bề trên cho phép tự do lục lọi tung hoành riêng trong nhà bếp bên cánh hữu nơi phòng ăn của nhà Dòng, mà nồi cơm điện đã được cha bề trên tế nhị tự tay vo gạo nấu để sẵn cho chúng tôi. Đền ơn cha bề trên và sự lưu tâm của nhà Dòng, chúng tôi bàn với nhau là ngày mai sẽ làm một bữa phở đãi cả nhà, nhân tiện mời những con chiên của cha Thắng cùng vào tham dự - bốn người đồng ý vui vẻ, hạ quyết tâm sẽ thực hiện thành công. Cha Thắng điện thoại mời ngay mọi người, và kèm theo nhờ mua giùm một số gia vị cần thiết. Giờ gặp gỡ sẽ là lúc 19giờ ngày thứ hai. Sáng thứ hai 29.12.2008, Qua sự nhiệt tình vui vẻ của Thầy Elmer (không biết viết đúng tên không) người Phi, mới 25 tuổi, đã tám năm ở trong Dòng dẫn đưa chúng tôi ra siêu thị để mua thịt. Lên xe buýt, thầy đã lấy vé đi xe riêng của Thầy bao chúng tôi. Đến chợ còn sớm nhiều cửa hàng chưa chịu mở cửa, cả nơi đổi tiền cũng thế, chúng tôi phải chờ. Đến khi mua xong, con người nhỏ bé của Thầy lại phải khệ nệ mang hàng họ do chúng tôi vừa mới mua về nhà Dòng để chúng tôi thông thả vào phố dạo chơi. Tôi cảm 29


thấy chưa lần đi chơi nào sướng bằng lần đi này. Cảm ơn Thầy Elmer nhỏ bé của chúng tôi. Giờ thì không còn ai hướng dẫn, ba chúng tôi lần thứ nhất đến xứ sở nầy, chỉ có cha Thắng là độc nhất có qua lại đôi ba lần, nhưng có lẽ tuổi trời mỗi ngày thêm tăng và thời gian xa cách quá lâu, nên cha chỉ nhớ mang máng, nhớ một cách vừa phải, nên cũng tạo phần lúng túng đôi chút, phải nhờ đến bản đồ của một cha đêm qua vất vả lục tìm cho mượn, lại còn chịu khó tận tình chỉ vẽ hướng dẫn, nên chúng tôi đi cũng đến nơi, về đến chốn mà không có sự trục trặc nào, dù phải đổi nhiều tuyến xe buýt, xe điện khác nhau. Sáng nay chúng tôi đã từ thành phố Buda núi cổ kính, sang thành phố bình nguyên Pest nằm bên đông. Được biết thủ đô Budapest này là sự ghép nối của hai thành phố trên và được nối kết qua lại bởi tám cây cầu huyết mạch mà mỗi chiếc cầu là một công trình nghệ thuật, có những chiếc cầu từng bị chiến tranh phá hoại gãy đổ nhưng lại được phục hồi nguyên vẹn như xưa. Chúng tôi qua Pest bằng chiếc cầu Elisabeth đẹp xinh và đặt mình trên đại lộ Andrassy có bề dày lịch sử 135 năm là con đường chính tại đây, hình thành từ thời Hungary còn là một bộ phận của đế chế Áo-Hung, đại lộ Andrassy mang dáng dấp Champs-Elysees của Paris, ngoài các cửa hàng to lớn còn có vô số tiệm càphê, nhà hàng, quán nghệ sĩ, là nơi gặp gỡ của giới văn nghệ sĩ hơn thế kỷ nay. Quảng trường anh hùng rộng thênh thang nằm tại cuối con đường là đài kỷ niệm thiên niên kỷ cao vút với dãy tượng các vua chúa lập quốc, anh hùng dân tộc, biểu tượng và sức mạnh của Hung. Cũng theo đại lộ này cách đó không xa chúng tôi lần ra nhà thờ chánh tòa uy nghi Saint Stephan, tên vị hoàng đế đầu tiên của Hungary lên ngôi trị vị vào năm 1000. Đây cũng là nơi lưu giữ bàn tay của vị vua đã hiển thánh này, đặt trong một chiếc quách nhỏ trang trọng nơi cuối phòng bên cánh trái của 30


nhà thờ, được xem như thánh tích thiêng liêng của người dân Hung. Chúng tôi đã nộp tiền chụp được một vài tấm ảnh để làm kỷ niệm. Trên đường trở về chúng tôi dự định tìm một cái gì độc đáo của Hung để ăn cho biết, như món súp cá Halaszle truyền thống hay goulash hấp dẫn nấu từ rau xanh và thịt bò, nhưng thì giờ quá eo hẹp nên chỉ kịp ghé tiệm Burger King làm vội mỗi người một phần ăn nhỏ rồi lên xe về lại nhà Dòng. Về đến nhà Dòng đã hơn bốn giờ, bốn cha con bắt tay vào việc bếp núc ngay, mỗi người một việc, làm việc thật chuyên nghiệp là tay đầu bếp Dũng – năm giờ vợ chồng Tuyết-Thủy và Nghĩa Hằng cùng hai cháu Nguyên, Ly đến, phụ thêm việc sửa soạn – Đúng bảy giờ các cha, các thầy đến, thế là bữa tiệc phở bắt đầu. Khai vị bằng món chả giò chiên (do Thủy làm từ nhà mang vào tăng cường) – tiếp theo là chầu phở xe lửa hiện đại mỗi người mỗi tô thật to và tràn đầy – mà chẳng ai dám tự hào ăn hết, chỉ riêng cha Thắng là đạt chức vô địch. Phải công nhận phở ngon và đầy đủ hương vị không thua gì các tiệm nổi tiếng. Bữa ăn tối hôm nay thật vui vẻ, hòa đồng, mọi người cùng hát chung những bài quen thuộc, nhất là những bài hát về tôn giáo, về giáng sinh. Cha Giám đốc đào tạo thủ đờn Guitare, một thầy da đen người Ghana khèn nhịp trống, một thầy da trắng rung chiếc xập xỏa, và tôi nhịp muổng – cùng chung ca hát. Vui ôi là vui – đáng nhớ làm sao. Mặc dầu còn bịn rịn, chúng tôi chia tay nhau lúc 9giờ30 tối, sau khi cha giám đốc nhà dâng lời cầu nguyện tạ ơn. Điều đặc biệt đáng ghi nhớ đối với chúng tôi đêm nay là hai người phụ dọn dẹp phòng ốc sau cùng của bữa tiệc lại chính là hai cha: Giám đốc nhà Dòng và cha Francis – Ôi biết nói sao đây? Trả lại sự yên tĩnh cho nhà Dòng, anh em Việt Nam chúng tôi kéo nhau vào phòng chia sẻ tâm sự và khuyến khích nhau thực hiện tốt những niềm ước vọng xây dựng cộng đồng. Chúng tôi 31


chia tay lúc nửa đêm. Ngày 30.12.2008 – Theo chương trình dự định thì sáng nay chúng tôi đi tắm nước nóng thiên nhiên và mua sắm một chút ít quà về cho gia đình. Riêng phần cha Thắng vì muốn hoàn chỉnh những điều đã thảo luận với cha Nghị và hứa hẹn với anh em trong ràng chiên của cha, nên sáng nay cha dành trọn thời gian để hoàn thành công tác mục vụ đó. Ba chúng tôi theo thầy Elmer hướng dẫn đến suối nước nóng thiên nhiên trong thành phố để tắm – để biết những điều mới lạ ở đây. Ở đây với mạch nước nóng thiên nhiên chúng tôi đã trải qua hơn hai giờ thoải mái ngâm mình trong đó, qua các hồ bơi đông đúc người là người, với những phòng Sauna, phòng xông hơi, cũng như các hồ nhỏ trong nhà dưới nhiều độ ấm khác nhau, có hồ nóng trên 40 độ C. Nhờ có thầy Elmer nên chúng tôi thoải mái vui chơi mà không phải lo lắng điều gì cả. Chúng tôi về lại nhà lúc 16 giờ, cơm nước vừa xong, thì cha Thắng cũng về đến, cha ăn vội rồi từ giã nhà Dòng để ra phi trường, chúng tôi chia tay cha Giám Tỉnh ở phi trường khi cha đưa chúng tôi đến đó – Anh chị em Việt Nam còn lưu luyến nên giã từ sau đó. Trong khi chờ đợi chuyến bay cất cánh, cha Thắng kể cho chúng tôi nghe chuyến mục vụ hòa giải của cha ngày hôm nay rất tốt đẹp – anh chị em ban chấp hành cũ rất hài lòng. Cha vui – mà chúng tôi cũng rất vui. „Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa“ (Mt : 5, 9) Tôi nghĩ chuyến đi nầy chỉ lo mỗi chuyện là thăm viếng anh em – chuẩn bị cho chuyện du hành sinh hoạt thanh niên giới trẻ, không ngờ Chúa Giêsu và Đức Mẹ sắp xếp cho chúng tôi làm thêm công việc hữu ích hòa giải những khúc mắc hiểu lầm – Chúng tôi nhận được nhiều niềm vui đậm đà và học được rất nhiều kinh nghiệm hữu ích trong chuyến đi này. Tạ ơn Chúa. 32


Lễ Vật Giao Hòa „Vậy nếu khi anh em sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó, trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. (Mt 5, 23-24)

Những buổi chiều tối ở thành phố Dalat thật lạnh, cái lạnh se sắt cắt da. Phố xá đã lên đèn. Tôi dắt bốn đứa con đến nhà thờ chánh tòa để tham dự lễ đêm. Hàng cây hai bên đường ủ rũ đứng im lặng trong sương đêm, mẹ con tôi dắt díu nhau đi trên phố vắng thật vắng, khung cảnh buồn da diết, như tâm hồn tôi cũng da diết buồn, „người buồn cảnh có vui đâu bao giờ“. Nhìn bốn đứa con gầy guộc, hốc hác, so với những ngày bình yên trước 1975, lòng tôi đau như cắt, nước mắt chỉ chực rơi. 33


Miền Nam đổi chủ 30.04.1975, Dalat thơ mộng của chúng tôi cùng cả miền Nam Việt Nam đón tiếp những hoảng hốt, những nghi ngờ, sơ hãi. Nhìn vẻ mặt thất thần của những em bé thơ ngây, những học sinh mới lớn đến các cụ già đều hằn sâu nét nhẫn nhục, chịu đựng, sợ sệt. Chính sách đổi tiền của nhà nước cộng thêm sự càn quét của cải ở miền Nam đem ra Bắc khiến dân miền Nam rơi vào cảnh đói nghèo khốn khổ. Từ ngày chồng tôi được nhà nước kêu đi trình diện mang theo lương thực cho 10 ngày. Thế mà cho đến nay đã bốn năm rồi, mẹ con tôi chờ đợi mòn mỏi trong thất vọng rồi trong tuyệt vọng (tôi nghĩ chắc là không bao giờ còn được gặp mặt nhau nữa) Cảnh sống bữa đói, bữa lưng lửng thường trực ngự trị hằng ngày giữa mẹ con tôi. Trong tháng 3.1975 khi cả miền Nam sôi xục hốt hoảng chạy, mẹ con chúng tôi theo đoàn người di tản về Saigon vì hy vọng chồng tôi cũng từ đơn vị đóng ở Pleiku sẽ theo đoàn quân di tản về Saigon, nên „đồ tuế nhuyễn, của riêng tây“ trong nhà bị mất sạch. Tháng 5 chúng tôi trở về Dalat thì may mắn còn căn nhà trống không, cỏ trong vườn cao ngập đầu người. Để tồn tại, tôi cố gắng tập tành buôn thúng bán bưng nuôi 4 đứa con vị thành niên. Tôi ra chợ Dalat tìm những người quen của ba mẹ tôi xưa kia bán hàng ngoài chợ xin họ cho tôi lấy trái cây đem đi bán lẻ để kiếm chút tiền lời đong gạo nuôi con mà cũng không nên thân. Đêm về thì luôn luôn hồi hộp lo sợ, không bao giờ được ngủ yên giấc vì bụng đói cồn cào, vì lo lắng không biết sống ra sao, vì sợ nhỡ công an đang đêm đập cửa, nói là khám xét nhà, rồi vô cớ bắt tôi đi tù cải tạo nữa thì các con tôi còn quá nhỏ sẽ ra làm sao đây (vì tôi là công chức của Bộ Thông Tin Việt Nam Cộng Hòa), cứ nghĩ đến đó là rùng mình!

34


Thời gian này có cô hàng xóm trước kia sống gần bên cạnh nông trại của ba mẹ tôi ở ấp Đa Thiện, nhìn thấy tôi khổ sở quá nên động lòng thương, rủ tôi đi buôn chung với cô. Tôi không có một đồng xu lận lưng thì làm sao buôn chung được. Cô tự nguyện bỏ tiền ra, mỗi buổi sáng sớm tôi và cô ta, hai chị em ra chợ găp nhau, rồi cùng đi vào các làng trồng rau quả xem có gì thì mua nấy và đem ra chợ bán kiếm lời. Ngày nào lời được chút tiền thì hai chị em được ăn phần cơm trưa, cũng có chút tiền mua gạo cho con và vài cục đường hay gói bột bích chi để dành cuối tháng đi thăm chồng trong tù cải tạo.Tạ ơn Chúa, cho thiên thần là cô bạn quý này đến giúp mẹ con tôi trong lúc khốn khổ tột cùng, kéo dài cuộc sống. Trong lúc mẹ con tôi sống cơ cực, túng quẫn và khốn khổ như thế, mà cô bạn thân học cùng với nhau thời trung học, từ đệ thất đến đệ nhất, đến nhờ giúp đỡ, cô ta bị người tình phụ bạc, quất ngựa truy phong. Bây giờ mang cái bào thai oái oăm đến xin tá túc nhà tôi. Thời buổi này nhà nước họ kiểm soát gắt gao lắm. Cứ vài ngày ông tổ trưởng dân phố lại ghé thăm mà mắt thì láo liên dòm từng ngõ ngách, làm sao tôi dám chứa cô bạn mình ở nhà đây!? Phần thì cơm gạo đâu mà nuôi thêm hơn một miệng ăn nữa chứ, trong khi mẹ con tôi còn phải hàng ngày nhịn bớt để có chút đỉnh tiền mà đi thăm nuôi chồng trong tù cải tạo. Ôi! Gánh tôi sao mà nặng thế này!!! Bạn mình không dám về nhà vì sợ ba mẹ, sợ thiên hạ xầm xì, phỉ nhổ, cười chê gia đình nên cứ liều ở lì nhà tôi. Tôi cũng liều cưu mang bạn mình. Tôi dấu bạn tôi ở trên gác, chỉ thỉnh thoảng vào lúc đêm tối mới dám đưa bạn ra ngoài đi dạo một chút. Vài tháng sau tôi trở thành con nợ như chúa chổm. Tối nào cũng có người đến đòi nợ, cô bạn tôi có chút tiền dành dụm cũng tiêu 35


tan hết. Chúng tôi chả còn biết trong cậy vào đâu? Cô bạn tôi đánh liều sai tôi đi Saigon thú thật hết mọi việc cho hai cụ thân sinh của bạn để xin viện trợ. Thế là tôi chạy vạy, vay mượn đủ tiền mua một vé xe đò đi về Saigon gặp hai cụ để ca bài „con cá nó sống vì nước“. Sau khi trình bày ngọn ngành tình trạng khó khăn của mẹ con tôi và tình trạng đau thương của cô bạn, cụ bà liền phán một câu: „Cho nó chết đi chứ sống làm gì mà làm nhục gia phong như thế à“. Tôi chỉ biết cúi đầu và ngậm câm. „Thôi được rồi, bây giờ bác đưa cho con ít tiền để con cưu mang nó trong lúc này, con cứ để nó ở trên Dalat và dấu kỹ nó dùm cho bác, chứ nó mà chường mặt ra cho dân Dalat trông thấy hay vác cái bầu ấy về đây thì bác độn thổ con ạ“. Thế là từ đó thỉnh thoảng cạn tiền tôi lại được sai đi Saigon. Nhờ món tiền này của mẹ bạn, tôi thanh toán một số nợ nần khi tôi mua chịu thức ăn nuôi hơn 6 miệng ăn trong gia đình, và nuôi sống chúng tôi trong lúc khốn quẫn quá chừng quá đỗi. Để lo tìm người quen và tin cẩn gởi đứa bé. Tôi phải mất nhiều thời gian dò hỏi và may mắn tìm được người hàng xóm trước kia của chúng tôi. Anh chị đều là nhân viên cảnh sát, đã nhanh chân chạy về Saigon khi di tản và đổi tên, đổi họ ở lại Saigon, anh chị sống bằng cách nhận đan áo len cho các tiệm bán quần áo và sinh sống ở Tân Định, Gần đến ngày mãn nguyệt khai hoa của bạn, tôi đưa bạn mình về Saigon và gởi ở nhà anh chị cho đến khi sanh nở. Bây giờ đến lượt anh chị săn sóc cho bạn tôi song tôi vẫn là người liên lạc với các cụ, để các cụ cứ nghĩ là tôi còn dấu con và cháu gái của cụ ở Dalat. Khi bé gái đầy tháng tôi về Saigon đưa bạn tôi về nhà xin lỗi hai 36


cụ và xin hai cụ chu cấp hàng tháng cho hai mẹ con cách kín đáo. Hai cụ đồng ý song vẫn còn giận con gái nên không cho bén mảng đến nhà. Nhân dịp này bà cụ đòi tôi phải trả lại nửa số tiền cụ đưa cho tôi hàng tháng để lo cho con gái cụ. Trong người tôi không có một đồng xu dính túi lấy tiền đâu mà trả cho cụ. Đồng tiền như miếng chín, có thì tiêu, nhất là „tiền vào nhà khó như gió vô nhà trống“. Tôi buồn và giận lắm, vì hai cụ chỉ biết quý đồng tiền mà không hề nghĩ đến công khó của tôi trong mấy tháng cưu mang bạn mình trong lúc hoạn nạn. Hai cụ cũng không thương mẹ con tôi trong hoàn cảnh khốn khó lúc thay đổi đời như thế này mà chồng tôi còn trong tù cải tạo.Tôi về Dalat lấy cuốn sổ ghi tất cả những chi phí cho bạn mình trong thời gian tôi giúp đỡ cho đến nay, đem xuống trao cho cụ. Từ đó tôi không hề liên lạc với hai cụ và với bạn mình. ***

Đêm nay, trong ngôi Vương Cung Thánh Đường Dalat, với không khí thật nghiêm trang, thiêng liêng của buổi lễ. Đoạn Thánh Kinh: „Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.“ (Mt 5,23-24). Sau khi nghe cha chủ tế giảng „đâu là bác ái của người Kitô hữu? Anh chị em thể hiện tình bác ái thế nào với tha nhân? Nếu mình có lỗi với anh em mà mình biết lỗi và đến xin lỗi thì chuyện rất bình thường. Nhưng Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta, cả tôi và anh chị em, con cái của Ngài phải thể hiện tình bác ái bằng cách, khi người anh em có lỗi với mình, mình đến với họ, xin lỗi họ, làm hòa với họ“, như thế mình mới thể hiện lòng bác ái của Chúa Kitô“. (Cha chủ tế nay là Tổng Giám Mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn Việt Nam) 37


Âm vang của đoạn Phúc Âm và lời giảng của cha đánh động tâm tư tôi rất mạnh. Nhìn lại mình tôi thấy mình cũng có lỗi trong chuyện này là mình không có chút khiêm nhường, không chút kính trọng nào với bậc trưởng thượng như cha mẹ mình, Tôi có lỗi đã không chịu nhẹ nhàng giải thích cho hai cụ hiểu mà thương đến hoàn cảnh khó khăn của hai chúng tôi, cả tôi và bạn tôi đều có lỗi bất hiếu với hai cụ. Nhưng thật khó khăn làm sao! Chúa ơi, xin Ngài giúp con để con can đảm thực hành việc này. Tôi đắm chìm trong cầu nguyện, tha thiết xin Chúa giúp. Cho đến lúc rước Thánh Thể Giêsu vào lòng, tôi tự hứa với Chúa Giêsu là tôi sẽ nhất quyết đến làm hòa với bạn mình và xin lỗi hai cụ. Tuần sau đó, vào một buổi tối ở Saigon, tôi đến nhà bạn. Người ra mở cửa là cô em bạn tôi. Vừa nhìn thấy tôi, cô ta quay vào nhà la thật lớn: „Chị V. ơi, chị T.“ rồi cầm tay tôi lôi vào nhà. Bạn tôi từ trên lầu chạy ào xuống ôm chầm lấy tôi, hai đứa không nói được lời nào. Chỉ có nước mắt đã nói thay tất cả. Hai chúng tôi khóc, cô em gái khóc và ông cụ đang đau ốm, trên giường bệnh đã mấy năm nay cũng khóc. Tôi được biết cụ bà đã qua đời cách đây vài tháng vì bệnh tim. Trong khi nằm bệnh viện và trước lúc qua đời cụ cứ nhắc đến tôi với lòng thương cảm và chút ân hận. Tạ ơn Chúa đã thêm sức cho con, đã đồng hành với con để giúp con biết làm hòa với anh chị em con như Lời Chúa dạy. Phần thưởng Chúa ban cho chúng tôi là tình thân gia đình và tình bạn của chúng tôi lại thắm thiết hơn xưa. Cụ ông cứ nắm tay tôi hoài không buông và nói „bác thương con lắm“. Tôi sung sướng tràn ngập đón nhận tình thương của gia đình bạn và tình thương này đã nâng đỡ đời sống tôi rất nhiều. Tạ ơn Chúa và Ngợi Khen Ngài. 38


Mứt mận Đàlạt Chị tôi nay đã là một sư cô ở Làng Hồng bên Pháp, chị đi du học tại Đức Quốc từ năm 1970. Tôi đến Đức theo diện tị nạn cộng sản do chồng con bảo lãnh năm 1983. Khoảng năm 1994, khi được tin chị tôi đã xuất gia đầu Phật, tôi điện thoại thăm hỏi và ngỏ ý muốn sang thăm chị và thăm làng, chị rất mừng nói: „dì sang đây ngay đi, qua đây hái mận về làm mứt, các sư cô, sư chú ở đây đang hái mận và làm mứt mận, vui lắm“. Tôi háo hức bay sang liền, gặp chị sau bao nhiêu ngày xa cách, nay đã xuống tóc, hiền từ, dịu dàng, nhỏ nhắn trong bộ áo sida, chị em ôm nhau mà rơm rớm nước mắt. Chị tôi mang hoàn toàn hình ảnh của Mẹ tôi. Bao nhiêu năm xa Mẹ nay được gặp lại chị mình tôi sung sướng tận hưởng sự êm ái dịu dàng của đứa con được gặp lại hình ảnh Mẹ trong vòng tay chị hiền, thật là tuyệt diệu biết 39


bao! Chị tôi dắt vào nhà bếp giới thiệu với các sư cô, sư chú đang nấu mứt mận, lúc bấy giờ tôi mới biết mình „bé cái lầm“ trong bụng, bị mừng hụt vì cứ đinh ninh là các sư làm mứt mận giống như mứt mận Đàlạt, ai ngờ đâu, các sư nấu mứt mận đây là nấu confiture mận. Tôi nói cho chị tôi biết cái ý nghĩ và cái háo hức của mình làm chị tôi bật cười thành tiếng, nhưng mắt chị lại chớp chớp… Ngày xưa, khi còn sống chung dưới mái gia đình, chị em tôi cũng thường hay tập tành làm những món này vì mận thì sẵn ở vườn nhà, không làm mứt thì cũng để cho chim ăn hay chín rụng đầy sân lại phải cất công đi quét dọn. Du khách đến viếng thành phố hoa Đàlạt, khi trở về, hoặc người dân sống ở Đalạt, khi đi xa thăm bà con, không ai là không đem theo những đặc sản của Đàlat để làm quà, một bó hoa „lay dơn“ sang trọng, một chục hoa hồng kiêu sa, một cành mimosa vàng tươi nhí nhảnh hay khóm cúc đại đóa màu hoàng yến, hoặc màu huyết dụ đài các, một chậu cúc chi nho nhỏ hiền hòa, duyên dáng trong trắng, một bó thược dược đủ màu sắc rực rỡ v.v… hay vài kí lô dâu tây, vài ký mận đỏ, mận vàng Đàlạt, hồng dòn, hồng chín… hoặc rau tươi đủ loại, có cả những thứ hiếm quý như artichaut, củ radischen, fencheln, spinat v.v… mà du khách ngoại quốc rất thích. Ngoài những đặc sản đó Đàlạt còn sản xuất những món khô dự trữ được lâu như hồng khô, khoai lang dẻo và mứt như mứt dâu tây, mứt mận, rượu dâu, rượi mận v.v… Bước đến trước ngôi chợ lầu Đàlạt, một dãy hàng hoa rực rỡ đủ màu sắc, ngát hương, tươi mát, vui vẻ hớn hở chào đón du khách. Sau dãy hàng hoa, những sạp hàng trái cây đang mời gọi du khách thưởng lãm, ngoài những thứ trái cây được chuyên chở từ miền Tây đến như cam, xoài, sầu riêng, măng cụt, mãng cầu, trái na v.v.., những trái vải, trái nhãn được đem vào bắng máy bay từ miền Trung hay từ Vũng Tàu, mít tố nữ và các loại mít đủ loại cùng chôm chôm, đu đủ được chở về từ Bảo Lộc và 40


Long Khánh, cùng những trái cây được nhập cảng từ các nước tây phương như nho, táo, lê v.v… song nhiều nhất dĩ nhiên là sản phẩm của Đalạt, du khách sẽ được chiêm ngưỡng những sàng dâu tây đỏ hồng, chất vun lên hình kim tự tháp, nhìn thấy là tuyến nước miếng bắt buộc làm việc liên tục liền, những mẹt hồng dòn màu xanh lá mạ duyên dáng bên cạnh những mẹt hồng chín màu cam đỏ, những nải chuối hương vàng tươi, xinh xinh như những ngón tay, bên cạnh chuối Laba trái thon dài xanh xanh, lấm chấm tàn nhang, loại chuối này thơm ngon và dẻo chỉ ở Laba Dalat mới có, những thúng mận Trại Hầm màu vàng mơ hay đỏ tím như trái mồ quân, nơi cuống trái mận lũm vào một núm đồng tiền mũm mĩm trông thật gợi tình, gợi thèm. Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng đã tả trái „mận Đàlạt, thứ trái cây nhỏ và tròn như một cái hôn, nhìn thật dễ thương, nhưng ghé răng cắn vào thì vừa đắng, vừa chát, vừa tê tái cả chiếc lưỡi và đau đớn 32 chiếc răng“. Có lẽ Nguyễn Thị Hoàng đã được các cậu học trò trường Nam Trung học Trần Hưng Đạo tặng cho những trái mận dùng để làm mứt mà các cậu vừa mới „hành quân“ ở vườn nhà ai hay vườn nhà ba mẹ tôi. (Nguyễn Thị Hoàng là giáo sư dạy văn tại trường này, bà ở trọ ngôi biệt thự gần trường). Bên cạnh những sạp trái cây tươi này, du khách bị quyến rũ bởi những lọ mứt mận mầu nâu đỏ, những lọ mứt dâu màu hồng đậm thật hấp dẫn cùng những chai rượu dâu hồng hồng, những chai rượu mận màu xanh lá mạ hoặc màu đỏ nâu như mầu rựơu chát Bordeau. Đàlạt được trồng rất nhiều loại mận, nổi tiếng nhất là “mận Trại Hầm“. Trại Hầm là một thôn ấp nằm dưới một thung lũng thật sâu, cách thành phố khoảng chừng 3, 4 cây số. Không hiểu tại sao, cũng là một vùng đồi núi cao nguyên Đalạt mà chỉ có mận trồng ở nơi đây ngon dòn và ngọt hơn trồng ở các thôn ấp khác. Phần này phải dành cho các nhà nông lâm học nghiên cứu. 41


Tuy vậy, kẻ viết bài này, lúc nhỏ chỉ thích loại mận của nhà cụ Trần Văn Khắc mà thôi. Chung quanh ngôi biệt thự của cụ là những cây mận đỏ, mận vàng sai chĩu chít. Quả nhiều đến nỗi mỗi cành phải có một cây chống để cành khỏi gãy, vì loại cành cây mận rất dòn. Khi còn học tiểu học, cứ mỗi chiều thứ bảy, sau giờ ăn trưa, lũ trẻ con chúng tôi có đến khoảng hai chục đứa, là những đứa cháu nội cưng của ông nội chúng tôi, không chịu chạy đi chơi xa như mọi chiều thứ tư (hồi những năm 1950 và 1955 học sinh đi học nguyên ngày chỉ được nghỉ chiều thứ tư và chiều thứ bảy) mà cứ quanh quẩn chơi ở khoảng sân rộng nhà ông nội chúng tôi để ngóng chờ chiếc xe traction đen của cụ Khắc. Cụ thường đến nhà ông nội chúng tôi vào chiều cuối tuần để cùng các cụ khác thăm 120 quân (chơi bài tổ tôm hay tài bàn). Khi chiếc xe đỗ xịch ở cổng là chúng tôi ùa ra đón cụ bằng một loạt đạn „chào cụ ạ, lạy cụ a, chào cụ ạ…“ đứa nào cũng hai tay khoanh trước ngực và cúi xuống thật sâu. Có hôm chờ lâu quá chúng tôi mải chơi, chạy xa khỏi sân nhà, khi cụ đến thế nào cụ cũng cất cao giọng đầy yêu thương nhân hậu, thật ấm áp „các cháu ơi, các cháu, về đây ông cho quà“. Thế là lũ chúng tôi kéo nhau về, chúng tôi ùa đến và mỗi đứa đều được cụ phân phát cho những trái mận vàng mận đỏ chín mềm, thơm tho và ngọt lịm. Có hôm cụ còn cho chúng tôi mỗi đứa một gói bắp rang bằng máy, hạt bắp nở bung như chiếc hoa bé nhỏ dính chút đường ngọt ngào, thơm thơm mùi bơ, hấp dẫn làm sao! Thành phố Dalat chỉ có một máy rang bắp của cụ Khắc đem từ Paris về. Trời chiều Dalat se se lạnh dưới tia nắng yếu ớt cuối ngày, tất cả dân có mặt trong phố chợ Dalat đều được thưởng thức ngào ngạt mùi bắp rang ngọt ngào thơm lừng trong gió thoảng từ trên dốc Thành Thái, nơi tọa lạc Kiost của cụ. Vườn nhà ông nội chúng tôi cũng trồng nhiều mận, có cả những loại khi chín không mềm nhũn mà dòn ngọt lại nhiều nước, thế 42


mà chúng tôi chỉ thích mận của cụ Khắc thôi, có lẽ, vì chúng tôi hồi đó cứ nghĩ rằng mận của cụ là giống mận được đem từ bên Tây về nên nó ngon ngọt hơn mận nhà ông nội chúng tôi. Giờ nghĩ lại thấy thật ngây thơ biết bao! Trong lúc đang ngồi viết những dòng này tôi nhận được số báo Làng Văn mới và được biết cụ đã quy tiên ở Montreal, Canada. Kính xin cụ, dù ở bên kia thế giới, nhận nơi đứa cháu này niềm yêu mến, kính trọng sâu xa. Có loại mận khi chín vẫn chát chát, người ta dùng để làm mứt. Làm mứt mận là cả một nghệ thuật, rất công phu. Mận được hái vào lúc trái vừa dậy thì, nghĩa là trái còn xanh, còn nhiều chất chát, không được hái non quá mà cũng không được để nó bước sang lúc bắt đầu chín, nghĩa là lúc chất chát bắt đầu đổi trái mận thành ngọt lịm hay nhạt thèo hoặc chua loét. Hái mận này về nhà, cả nhà có bao nhiêu người là phải trưng dụng cho hết để cắt mận, vì nếu cắt không kịp để một hai ngày sau mận héo hay chín mất thì không làm được nữa. Thường thì phải mượn thêm các bạn bên hàng xóm sang tiếp tay hoặc thuê thêm người làm phụ giúp trong mấy ngày làm mứt, để cắt mận cho kịp. Cắt mận là cả một nghệ thuật công phu, đòi hỏi người cắt mận phải khéo tay và kiên nhẫn. Dùng dao thật sắc, khứa một nửa trái mận bằng nhiều khứa nhỏ theo chiều ngang, mỗi khứa chỉ bằng 0,01mm, còn nửa kia lại khứa dọc. Phải cắt thế nào mà những khứa mận thật đều đặn, không một khứa nào được rời ra, không được khuyết mất cũng không được sát vào tận hột, để khi cắt mận xong, cầm chỗ giáp mí hai lằn ngang dọc ấn mạnh thì hình thể trái mận biến thành như hai con sò đang âu yếm nhau trông thật là dễ thương, nghệ thuật. Mận cắt xong phải bỏ ngay vào dung dịch nước vôi đã lọc trong, để ngâm như thế trong hai ngày. Vớt mận ra xả với thật nhiều nước lạnh, xong để thật ráo hết nước. Bây giờ mới đến lúc cần 43


sự kiên nhẫn của người làm mứt. Bỏ đường vào xóc với mận rồi để độ bốn hoặc năm tiếng đồng hồ, hoặc để qua một đêm, bỏ mận lên bếp than hồng rim. (Vì làm số nhiều cho nên phải dùng những thau bằng nhôm thật lớn). Khi nước đường bắt đâu sôi sủi tăm thì bớt lửa, và phải giữ lửa riu riu, nước đường trong thau chỉ sôi sủi tăm rất nhẹ thôi, trong lúc này người làm mứt phải luôn tay rưới nước đường lên mận, cho đến khi tới nước đường. (Vì nấu bằng than nên người nấu mứt không được rời bếp mà phải 24 trên 24 túc trực để khi thì thêm hoặc bớt than, khi thì rưới nước đường lên trên mứt, luôn tay như thế) . Khi nhắc thau mứt xuống, người làm mứt gắp từng trái một ra mâm để cho nguội, nếu đảo mạnh thì các phần thịt mận đã được khứa có thể bị rụng, nếu gắp một lần nhiều trái thì mận không có hình dáng đẹp như lúc cắt nữa. Và phải gắp nhanh tay không thì khi đường nguội những trái mận sẽ dính vào nhau làm hư rách hay méo mó đi. Vì thế phải cần nhiều đến các bàn tay khéo léo của các cô, các bà. Để mận nguội hẳn mới xếp từng trái vào lọ thủy tinh và đem trình làng. Ở Hải Ngoại chắc chắn chúng ta cũng thấy nhiều sản phẩm mà ngày xưa ở trong nước chỉ có Đàlạt sản xuất. Tuy nhiên món mứt mận này thì chúng tôi chưa thấy nơi nào có bán cả. Xa nhà đã hơn chục năm rồi, lúc nào nhớ đến mứt mận Đàlạt, là cả một vùng trời quê hương thuở thiếu thời hiện về. Lúc gần đây, người Việt mình đi đi về về thăm quê như đi chợ. Những sản phẩm hiếm quý của quê hương đều được các con buôn khai thác triệt để. Mứt me, mứt mãng cầu, mứt quất, mứt chanh v.v… đều thấy họ đem sang đây bày bán trong các siêu thị Á Châu nhưng tuyệt nhiên tôi để ý tìm hoài cũng không thấy một lọ mứt mận Đàlạt nào cả. Thôi thì đành chờ ngày nào bọn qủy đỏ ở bắc bộ phủ bị chôn vùi, mình sẽ về thăm từ Nam ra Bắc và đến thành phố nào mình cũng thưởng thức đặc sản của thành phố đó cho bõ những ngày nhớ nhung./44


Thăm Pằng-Tiêng Tôi quen cha Gioan Nguyễn Xuân Thu, Dòng Chúa Cứu Thế, cha phó nhà thờ Tùng Lâm Đàlat, biết cha đang hăng say phụ trách một địa điểm truyền giáo cho người dân tộc thiểu số ở một vùng sâu xa, trong khu vực rừng núi bạt ngàn thuộc thị trấn Lạc Dương và ranh giới Tỉnh Darlac cũ. Trong tâm tình hàn huyên chia sẻ tôi được biết Pằng-Tiêng (Bằng Tiên) là tên của một Thôn Làng người dân tộc sắc dân Kơho. Thôn làng này nằm cách thành phố Đàlạt khoảng 40 cây số về hướng tây nam, cách Suối Vàng hơn 10 cây số. Địa danh này đã có từ trước cuộc chính biến 1975. Thôn Pằng-Tiêng khi xưa tập trung ở trong một khu vực, đất đai phì nhiêu có nhiều ruộng nước nên dân làng ở đây thường gọi là Pằng-Tiêng-Sre hay là Pằng-Tiêng-Ruộng, cách gọi khác là Làng Dưới. Khoảng năm 1995-1996 có 70 gia đình di chuyển ra một địa điểm mới, cách chỗ ở cũ 5 cây số, làm nhà gần con 45


sông, hưởng nguồn nước từ đập Suối Vàng chảy về gọi là Pằng Tiêng Đạ Đờn = Pằng Tiêng Sông Lớn, hay còn gọi là Làng Trên. Ở lại Pằng Tiêng ruộng (Pằng Tiêng cũ) chỉ còn 30 gia đình không di chuyển đến chỗ ở mới như những gia đình kia. Tính đến nay kể cả hai nơi cũ, mới có trên 107 gia đình = 120 hộ, dân số có khoảng 600 người, trong đó có hơn 500 người theo đạo Công Giáo. Nghề chính của người dân ở đây làm rẫy, trồng cà phê, trồng lúa. Vì không biết cách đầu tư, không biết kỹ thuật canh nông, nên mùa màng thường không mang lại nhiều hoa lợi, cũng như lợi nhuận bị thất thu do bản tính hiền lành chất phác, đơn sơ bị sự lừa gạt của một số con buôn ma mãnh từ thành phố len lỏi vào buôn bán đổi chác, như đem rượu đổi sản phẩm, hoặc mua sản phẩm giá rẻ tạo nên sự nghèo đói, thiếu thốn triền miên. Với lịch sử vùng đất này, khởi đầu anh chị em được đón nhận Lời Chúa qua các cha thuộc Hội Thừa Sai Paris (Missionnaire de Paris) đến truyền giáo vào khoảng thập niên 50-60. Từ sau năm 1975, có nhiều khủng hoảng khó khăn trong việc phụng vụ đức tin, vắng bóng linh mục nhưng anh chị em ở đây vẫn giữ vững đức tin tôn thờ Chúa một cách đáng trân qúy, bằng cách tụ họp với nhau cùng cầu nguyện. Trước đây vì trong làng không có nhà nguyện hay nhà thờ để thờ phượng Chúa cách xứng hợp, những ngày lễ anh chị em phải kêu gọi nhau cơm đùm, cháo bọc, đi bộ, băng rừng lội suối về Thị Trấn Xã Lát dưới chân núi Lang-Biang để dự lễ và đón nhận các Bí Tích. Khi Tà Nung có nhà thờ mới, đường đi lại tương đối gần hơn nên anh chị em chuyển về hướng Tà Nung gần Huyện lỵ Đức Trọng để dự lễ, tuy sự di chuyển có khi phải hai ba ngày đường đi lại, chưa kể phải tắm nắng dầm mưa trong thời gian trên. Một điều may mắn cho những người con yêu của Thiên Chúa, vào những năm 2000 – 2001 có mấy em trong Thôn được ra học 46


và nội trú tại Trường Đống Đa tức Trường Minh Đức khi xưa của Dòng Chúa Cứu Thế, trên địa bàn Tùng Lâm, từ đó có mối dây liên lạc, anh chị em ở Pằng-Tiêng bắt đầu về Tùng Lâm, dù đường đi cách xa nhau khoảng 25 cây số để dự các Thánh Lễ và sinh hoạt học giáo lý ở đây. Cứ mỗi thứ bảy chừng 300 đến 400 người, đi bộ, đi xe đạp, xe thồ v.v... dự lễ tối thứ bảy, ngủ lại và trưa Chúa Nhật lại gồng gánh bồng bế nhau về lại buôn làng. Điều đáng nói ở đây là đã suốt gần 10 năm qua, họ liên tục chuyên cần, hầu như không tuần nào không về tham dự Thánh lễ. Họ về đây để học giáo lý với cha Thu....Kể từ thời điểm này Pằng Tiêng trở thành một họ nhánh của giáo xứ Chúa Cứu Thế Tùng Lâm. Trong năm 2005, nhiều người được rửa tội từ thời các cha thừa sai ngoại quốc, hoặc cha Anrê Thành vào đây truyền giáo, đến nay mới được Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn ban phép Bí tích Thêm sức, trong dịp này gần 100 anh chị em khác cũng nhận được bí tích khai tâm Kitô giáo. Một số đôi vợ chồng cũng được hợp thức hóa phép hôn phối. Qua những sự kiện hy sinh gian khổ của anh em làng Pằng Tiêng, với lòng kính Chúa kiên trung. Giáo phận nhận thấy những nhu cầu thiết thực của anh chị em nên đã can thiệp với nhà cầm quyền giúp đỡ 600 anh chị làng Pằng Tiêng nghèo khổ này có một ngôi nhà nguyện tại chỗ, để anh chị em đỡ phải đi lại đường sá xa xôi vất vả, tốn kém, tiết kiệm được sức khỏe, giờ giấc... và có thời gian nhiều hơn để canh tác mang lại sự phát triển lớn mạnh cho thôn làng. Được nhà cầm quyền cho phép. Một số anh chị em ở chung quanh khu vực tốt đẹp được chọn lựa, đã hy sinh nhượng phần đất riêng tư của gia đình mình lại cho nhà chung, vì họ biết với nguyên tắc đương thời còn quá nhiều phiền toái, rắc rối sẽ làm đình trệ ước mơ của họ, họ chỉ ao ước nơi đây có ngay nơi thờ 47


phượng xứng đáng để họ tôn thờ Thiên Chúa của họ. Do đó họ đã quyết tâm làm giấy cho phép nhà chung làm nhà nguyện trên phần đất của gia đình họ, họ chỉ xin nhận lại số tiền đền bồi tương đối gần như hiến dâng. để Nhà Nguyện có thể thực hiện được nhanh chóng. mà không phải rắc rối chờ đợi sự giải quyết theo nguyên tắc giấy tờ phiền phức của nhà cầm quyền. Ngày 18.11.2009, Làng Pằng Tiêng đã vinh dự đón tiếp Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn và 50 linh mục trong Giáo phận hội tụ về Pằng Tiêng giữa vùng đồi núi trùng điệp hiệp dâng Thánh lễ đồng tế, lập nghi thức làm phép diện tích và đặt viên đá đầu tiên xây dựng Nhà Nguyện mang tên „Kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam“, cùng với sự hiện diện của các cộng đoàn tu sĩ nam nữ và khoảng 1.400 giáo dân từ nhiều nơi đến tham dự. Khi làm nghi thức đặt viên đá đầu tiên, qua bài Kinh Thánh „ Ông Phêrô tuyên xưng Đức Giê-su là con Thiên Chúa“ (Mt. 16,13-19), Đức Cha Phêrô, Giám Mục Giáo phận Đàlạt nhắn nhủ thêm: „Làm phép diện tích Nhà thờ hay đặt viên đá đầu tiên chỉ là tượng trưng. Việc xây dựng này không chỉ dựa trên vật chất mà còn phải dựa trên nền tảng đức tin: Viên đá được làm phép, đặt trân trọng vì là biểu tượng chính Đức Kitô. Ngài là Đá Tảng và chúng ta là những viên đá thiêng liêng được xây dựng trên nền tảng đó. Việc làm này đòi hỏi chúng ta phải có đức tin, bằng không, chúng ta chỉ làm một công việc trần tục, chẳng bõ công và không mang lại lợi ích gì. Sau khi ông Phêrô tuyên xưng đức tin thì Chúa đã chọn và xây dựng Hội Thánh trên Phêrô. Chúng ta bắt đầu xây dựng một ngôi Nhà thờ, phải hiểu rằng đây là việc xây dựng Hội Thánh, cách riêng là Hội Thánh tại Pằng Tiêng. Nhà thờ này là nơi anh chị em Pằng Tiêng đến để cầu nguyện, nghe Lời Chúa, đón nhận Bí tích, gặp gỡ nhau. Chúng ta khấn cầu Thiên Chúa để Ngài ban ơn chúc phúc cho việc làm hôm nay“. 48


Là một người được cha Thu ưu ái mời về tham dự buổi lễ đặt viên đá đầu tiên Nhà Nguyện Pằng Tiêng như các anh chị em tham dự khác, rất tiếc vì giờ giấc, thời gian và ở xa... nên chúng tôi lỡ dịp..... Hôm nay dù trễ nhưng có dịp về thăm quê hương và mang theo một món quà nhỏ của anh chị em thiện nguyện ở München chuyển đến nhờ cha Thu giúp các em Thượng Pằng Tiêng nghèo khó, mà mỗi buổi sáng các em phải nhịn đói di chuyển đến trường học cách xa hơn 10 cây số, để học, để bắt được vài ba cái chữ (theo tiếng nói của đồng bào ở Pằng Tiêng) mở mang trí thức. Liên lạc với cha Thu, được hứa dẫn đi thăm Làng Păng Tiêng, tôi sung sướng hẹn giờ giấc gặp Cha tại Nhà thờ Tùng Lâm. Từ Tùng Lâm tôi được bác tài xe ôm là cha Thu với chiếc xe Honda cũ kỹ, rã rời nhiều bộ phận, ọp ẹp đèo tôi phom phom lên đường hướng về phía Suối Vàng nằm hướng tây nam Lạc Lâm. Cũng may chữ Suối Vàng này chỉ là địa danh mà bác sĩ Yersin tìm kiếm ở thế kỷ trước đã in vào bản đồ, có suối nước trong mát với đập thủy điện cung cấp điện lực cho nhiều vùng chứ không phải chữ nghĩa Suối Vàng nằm ở thế giới bên kia của thế gian!!!. Tuy thế đoạn đường lắc lư ghồ ghề khó di chuyển, làm tôi rùng mình liên tưởng đến một sự bất hạnh nào đó đang chờ đợi cha con tôi. Biết đâu, rủi ro, cha con có mệnh hệ nào thì làm sao đây? Phần tôi thì đã có cha Thu sát bên, nếu có mệnh hệ nào thì có cha ban phép giải tội khi cần thiết. Còn cha thì sao.... Tôi chỉ biết lầm bầm cầu xin Chúa thương cho cha con đi đến nơi về đến chốn... bình an. Từ ngã ba Suối Vàng, cha không chọn con đường rẽ phải đưa tôi xuống Suối Vàng, có lẽ biết tôi sợ vì từ ngữ ám ảnh, cha đã chọn con đường đi tiếp vào Pằng Tiêng như dự tính. Từ đây về điểm đến còn hơn 10 cây số, mặc dầu đường sá cũng chẳng tốt lành 49


gì, con đường này được tạm thời cày bừa rải đá cấp phối cách đây đã hơn 5 năm, làm tạm cho những chiếc xe be, xe chở cây hoặc chở đá di chuyển, vả lại thời tiết mưa nắng qua nhiều mùa nên đã xấu đi rất nhiều. Tuy vậy đường lên (Pằng) Tiên vẫn có nhiều hấp dẫn hơn nẻo về Suối Vàng. Hơn 1 giờ đồng hồ, trên đường đá lởm chởm, có lúc phải chạy qua những đoạn đường mòn đi bộ lượn theo những triền dốc đồi thông với lá thông rơi vãi phủ đầy, độ trơn còn hơn dầu mỡ, tôi cảm thấy thiên đàng và địa ngục không xa, chỉ một cái lắc tay sơ ý là về Thiên đàng hay địa ngục ngay. Qua những thung lũng sâu, không chỉ sâu về địa thế mà còn sâu về phương tiện xã hội (lời cha Antôn Trần thế Phiệt, Quản xứ Tùng Lâm) rốt cùng cha con chúng tôi cũng đến Pằng Tiêng bình an. Pằng Tiêng Đạ Đờn nằm giữa một thung lũng đẹp, bao bọc bằng những đồi núi xanh mát, địa điểm chọn lựa xây cất Nhà Nguyện nằm chính trung tâm điểm, có suối nước chảy cận bên. Chung quanh là nhà của giáo dân với những gốc cà phê, cây ăn trái trồng quanh nhà, lá xanh bông trắng tỏa bóng mát xum xuê. Cha Thu dẫn tôi đến ngay chỗ phần đầu của khu đất, chỉ cho xem một hố nhỏ nơi trang trọng nhất được che đậy cẩn thận bên trên ở đầu khu đất, tháo gỡ vật che đậy tôi thấy một viên đá được đặt ngay ngắn bên dưới, cha giải thích cho biết đây là viên đá do Đức Cha địa phận đặt trong Thánh Lễ vừa qua, bàn thờ của Nhà Nguyện khi xây cất xong chính chổ này. Tôi nghĩ đến bài đọc I (Is 2,1-5), qua hình ảnh tiên tri Isaia loan báo trước sẽ có một ngày Nhà của Thiên Chúa được xây dựng trên núi cao, để muôn dân thiên hạ trông thấy và tuôn về. Dù Pằng Tiêng không phải là núi cao, nhưng nhiều người sẽ trông thấy và tìm đến để gặp Chúa, được Ngài dạy dỗ. Dân chúng ở đây thật là hiền hòa, chất phác, gặp tôi và cha Thu ai cũng cúi đầu chào kính với lời lẽ thân thương lễ phép. Cha cũng dẫn tôi đi thăm 50


một vài nhà đồng bào ở chung quanh khu vực này để biết sự tình. Ở Thôn mới này có trường cấp I đã được xây dựng. Các em học sinh cấp II phải đi bộ xuyên rừng 5 cây số để đến trường phổ thông cơ sở Đạ Nghịt, một thôn làng cách thôn này khoảng 5 cây số đường rừng. Học sinh cấp III phải đi trọ học ngoài Xã Lát, hoặc tại trường dân tộc nội trú của tỉnh. Đức Cha địa phận thấy tình trạng khó khăn của các gia đình có con em học sinh phải vất vả, khó khăn trong việc học hành hứa sẽ xây một trường Mẫu Giáo 3 phòng với kinh phí khoảng từ 150 đến 200 triệu đồng VN. Nhưng đã nhiều năm qua chương trình này vẫn chưa thực hiện được vì chưa được giao đất. Đức Cha cũng hứa chịu tiền cho làng gửi 3 cô giáo đi học về hướng dẫn các lớp mẫu giáo. Thấy sự sinh hoạt hằng ngày ở đây cũng vui vui, kẻ thì cầm nơm đi bắt cá, người thì trải cà phê, trải lúa ra phơi. Tôi thấy một hai cô gái ở tuổi mười tám, đôi mươi đang leo trèo hái cà phê với giọng cười đùa vui vẻ đang chuyền từ cành này sang cành cây khác đuổi bắt nhau, chỉ tội áo quần quá thiếu thốn rách rưới, nghèo nàn. Ở trên cao nhưng cũng đã ơi ới chào cha khi thấy chúng tôi đến, hỏi cha có mang quà vào cho chúng con không? Tôi cũng thấy cả hơn 10 em bé khép nép sau những bụi cây, lén lút, tò mò nhìn chúng tôi đi qua. Cha Thu gọi các em lại, các em muốn đến nhưng còn sợ sệt vì thấy có người lạ. Tôi dụ ngọt và bế được một em bé nhất, thấy tôi cũng hiền từ như cha nên các em khác đều túa đến quanh tôi, thật là vui vẻ. Nghe các em trả lời tôi bằng những tiếng Việt ngọng nghịu dễ thương. Cha giới thiệu qua từng nhà, từng hoàn cảnh và từng cuộc sống của từng người, họ trả lời những câu hỏi của tôi thật niềm nở, chất phác. Lòng tôi rung động, tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho tôi cuộc thăm viếng này. Tại mỗi nhà cha đều phân phối cho những món quà, 51


nhà nào không có người ở nhà thì cha gởi lại cho nhà bên cạnh. Cha Thu chỉ cho tôi những cơ sở do cha đã thực hiện được nhưng phải nhường lại cho chính quyền, cha nghĩ do ai đứng tên cũng được, miễn điều lợi thiết thực mà người dân thụ hưởng là được rồi. Cha đưa tôi vào làng cũ để xem những ruộng nương của cư dân ở đây, trên đường đi tôi cũng thấy được một vài quán bán buôn lặt vặt, nhưng chủ yếu thấy họ bán rượu nhiều hơn các loại hàng hóa cần thiết khác, biết đó là những quán của người Kinh, cha cho biết họ lợi dụng sự thiếu hiểu biết và tính tình chất phác của anh chị em dân tộc, họ chuốc rượu vì biết anh em dân tộc người nam thích uống rượu, khi rượu đã vào thì những anh em này coi như không biết gì nữa, lợi dụng lúc đó họ dụ dỗ mua bán với giá bèo (rẻ mạt), ngay cả đất đai cũng thế. Có một con đường chính nối liền làng cũ và mới, họ đã dụ người chủ mảnh đất này bán cho họ bằng cách đổi rượu lấy đất, và khi mua xong họ đóng cọc rào con đường lại, tuyệt đối không cho ai qua lại trên con đường đó, dù đó là con đường huyết mạch nối làng trong và làng ngoài, ngoài con đường này dân hai thôn không còn con đường thứ hai, nếu phải đi con đường khác, thì con đường khác chính là những đám ruộng nước họ phải lội qua, hoặc cách khác bằng cách phải leo lên những sườn đồi dốc núi để vượt qua. Cha đã bất bình kiện tụng qua lại, cuối cùng bên kia phải nhượng bộ để cho đồng bào có một lối đi nhỏ nhưng lúc nào cũng hăm dọa sẽ tìm cách bứng cha đi. Họ là người nhà của những kẻ cầm quyền tại đây, đầy uy lực nhưng họ không thắng nổi lòng thương mến của đồng bào ở đây đối với cha. Cha Thu cũng chỉ cho tôi một cây thánh giá bằng hai đòn cây ghép lại được dựng trước ngôi nhà vườn trẻ do cha và đồng bào ở đây xây dựng, cho biết đó là nơi dâng Thánh Lễ cho đồng bào ở đây. Ngoài ra một nơi khác ở dưới một gốc cây mép bờ ruộng 52


cũng là nơi để dâng Thánh Lễ cho đồng bào. Trong làng cũ không có nhà mẫu giáo, không có trường học. Do đó các em mẫu giáo và các em cấp I phải ra làng ngoài hoặc đi xa hơn để học, Các em mẫu giáo quá nhỏ phụ huynh hằng ngày phải mất hơn 4 tiếng đồng hồ để đưa đón hoặc gởi ở làng ngoài. Cha dẫn tôi đến thăm một nghĩa trang của hai Thôn, thấy nghĩa trang tươm tất khang trang như một nghĩa trang ở thành phố, hàng mộ được chôn cất ngay ngắn, sạch sẻ. Cha cho biết đó là Hồng Ân của Chúa đặc biệt ban cho cha. Trước đây nơi này chỉ là những bụi rậm hoang vu, cỏ cây um tùm, vắng vẻ chỉ có dăm ba ngôi mộ nhỏ nằm lấp dưới những lùm cây cây cổ thụ to lớn, cha đã vận động bà con anh chị em tín hữu nơi đây đến xây dựng lại, tìm những ngôi mộ nằm rải rác khắp nơi gom về đây lập nghĩa trang, cha đã giải thích cho đồng bào dân tộc biết công lao của tổ tiên ông bà cha mẹ, con cái phải hiếu thảo như lời Chúa dạy bảo. Qua hồng ân của Chúa cha đã làm được nhiều việc kỳ lạ như những nhà ngoại cảm thường làm, cha giúp nhiều gia đình truy tìm được những thân xác của những gia đình có người thân, ông bà cha mẹ đã chết, bị thất lạc không truy tìm được. Cha đã chỉ đâu là trúng đó, thân nhân của ai – xác thân đó của người thân nào. Khi nhận được những thân xác đó với những tư vật, vật dụng của gia đình rất chính xác. Tôi ngạc nhiên hỏi: chẳng lẽ cha là một nhà ngoại cảm sao? Làm sao mà cha biết được những điều xảy ra chính xác như vậy. Cha cười trả lời: Em chỉ cầu xin Chúa, tin tưởng vào sự chỉ vẽ của Ngài, lời nói của em được nói ra chính lời nói của Ngải chỉ dẫn em nói, hiểu biết sao nói vậy. Điều xác quyết em biết là do Hồng Ân của Chúa luôn luôn sáng soi giúp đỡ nên sự nhận xét của em bao giờ cũng đúng, em nghĩ đó là phép lạ. Việc làm của em có phần nào ảnh hưởng đến tâm lý mê tín dị đoan của đồng bào dân tộc ở nơi đây. Ồ ra là thế... Điều gì Thiên Chúa cũng an bài cả.. 53


Tại làng trong này chúng tôi cũng đi thăm nhiều nhà anh chị em dân tộc và nhà nào cũng niềm nở mời mọc dùng chung bữa. Rất tiếc vì giờ giấc đã ngã bóng về chiều, chúng tôi cần phải về lại thị xã Đàlạt sớm nên chúng tôi khiêm tốn từ chối, cảm ơn lòng ưu ái chân tình của họ. Tôi từ giã Pằng Tiêng bằng những cái vẫy chào luyến tiếc với những nụ hôn vội vàng trên má ngây thơ của các em. Nơi đây cho tôi nhiều suy nghĩ, thúc đẩy tôi hăng say trên những bước đường kế tiếp để làm một chút gì đó cho nơi này. Tôi ao ước nơi thung lũng vùng sâu xa này, không những chỉ phát triển về đời sống vật chất mà còn được sống xứng đáng vững mạnh về đức tin. Tôi cầu nguyện xin Chúa cho cha Thu được khỏe mạnh, an bình trong Hồng Ân của Chúa, xin Chúa giúp cha đầy nghị lực cũng như sự sáng suốt để giúp đỡ hướng dẫn đoàn con cái của Chúa ở nơi đây. Xin giã từ Pằng Tiêng (Bằng Tiên) (Chuyến đi cuối năm 2009)

54


Pằng-Tiêng, Thung Lũng Tình Yêu Tôi sinh ra và lớn lên tại thành phố mù sương nơi mà nhiều người ưa thích thường đặt cho những mỹ danh đầy thơ mộng: Thành phố hoa, Thành phố thơ, thành phố xanh v.v và v.v….. Tôi hãnh diện là con cái của mảnh đất thân thương này và tự hào nhận đây là quê hương của chính mình. Do đó những gì của Dalat cũng chính là của tôi. Và tôi yêu Dalat, yêu cả những nơi chốn của Dalat. Pằng-Tiêng là một thôn làng mà tôi có nhiều cảm xúc yêu quí cần ghi lại. Pằng-Tiêng là một phần thân thể của Dalat, là một thôn làng xa xôi hẻo lánh của đồng bào dân tộc thuộc tộc họ K’ho, cuộc sống nơi đây còn lạc hậu, nghèo đói, lại nằm sâu trong rừng núi rậm rạp Tây Nguyên. Pằng-Tiêng trước đây thuộc xã Pitô, huyện Lâm Hà, và bây giờ đã được sát nhập vào xã Lat, huyện Lạc 55


Dương, là một thôn làng nghèo nhất của xã này. Muốn đi từ Pằng-Tiêng về Thành Phố Dalat cũng phải trải qua đoạn đường dài hơn 40 cây số, với đường sỏi đá gồ ghề cheo leo, nguy hiểm... Pằng-Tiêng với dân số trên hơn 700 với nguồn sống chính là trồng càphê, sản xuất lúa nước, lúa thổ và các loại khoai củ, nhưng nguồn thu không đáng kể. Năm 2009 tôi có dịp theo chân linh mục Gioan Nguyễn Xuân Thu, dòng Chúa Cứu Thế đến thăm viếng nơi nầy, địa điểm gần như hàng ngày cha phải với chiếc xe máy cọc cạch lê từ làng Tùng Lâm cách hơn 20 cây số đến có mặt để giúp đỡ bà con người dân tộc nơi đây. Chúng tôi dừng chân chỗ trung tâm thung lũng, chung quanh rải rác, lưa thưa một vài căn chòi, nằm hắt hiu, cheo leo chung quanh trên các sườn đồi với kế bên là một con suối mà dân làng nói là nước mắt của chàng K’lang khóc nàng Biang từ núi Lâm Viên (LangBiang) chảy về, ghé qua thăm làng. Nơi đây cha Thu cho biết ngày 18.11.2009 vừa qua, Đức cha địa phận, Phêrô Nguyễn Văn Nhơn đã đến đặt viên đá đầu tiên để xây dựng nhà nguyện. Một địa điểm tương đối phù hợp cho một nơi muốn tụ tập đông người giữa một thung lũng mà chung quanh chập chùng nhiều đồi núi, khó có nơi nào tốt hơn hơn. Tôi chúc mừng cha. Cha cười nói: Khó lắm mới có được chỗ này đấy bác ạ. Khu đất này nguyên thuộc đất tư của một số giáo dân muốn nhượng lại với giá phải chăng trong tinh thần đóng góp trong ước muốn tại địa điểm này có một nhà nguyện để hằng ngày đến với Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Phần chính quyền sở tại dứt khoát không muốn, nhưng dân thì nhất quyết. Cuối cùng là Ý Chúa được thể hiện - ngôi nhà tình yêu kết nối giữa Thiên Chúa và con người được đặt viên đá hình thành. Điểm nổi bật nhất ở đây là ý muốn hình thành một ngôi Thánh Đường tại Pằng-Tiêng để giúp đỡ giáo dân Pằng-Tiêng khỏi 56


phải hằng tuần vất vả từ chiều thứ sáu sắp xếp bồng bế lội đèo vượt suối trên quãng đường gần 20 cây số ra Tùng Lâm học hỏi Giáo Lý, dự Thánh Lễ, để ngày Chúa Nhật lại vội vã vất vả lộn trở về. Dự án xây cất thì ổn định tốt đẹp ,nhưng phần thực hành xây dựng thì thiên nan vạn nan, giáo dân thì còn quá nghèo khổ không thể đóng góp được gì hơn ngoài công sức và tấm lòng yêu mến Chúa. Cha Thu phải kêu gọi sự hảo tâm của toàn thể dân Chúa ở khắp nơi, kẻ ít người nhiều góp gió thành bão, góp tiểu thành đại để thực hiện dự án, giúp giáo dân nơi đây có một ngôi Thánh Đường để cầu nguyện, tâm sự cùng Chúa. Cha dẫn tôi đến nơi viên đá Đức Cha vừa về đặt, bên trên được đậy bằng một vài mảnh ván, chỉ cho biết đây sẽ là Cung Thánh của ngôi Thánh Đường tương lai. Tạ ơn Chúa, Chúa đã chọn nơi đây làm Nhà Chúa, để ban tình thương của Chúa cho anh em dân tộc nơi xa xôi hẻo lánh này. Trên viên đá vừa đặt Chúa đã xây Giáo Hội của Chúa tại đây. Nguyện xin Chúa hãy gìn giữ và chở che họ. Tôi trở về thành phố với lo nghĩ không biết dự án xây cất này có hình thành được không? Có ngoài sức lo lắng của cha Thu không? Khi nhà cầm quyền đang chực chờ một một cơ hội thuận tiện nào đó là sẽ bắt ngưng ngay dự án. Tôi không tin khả năng của Cha Thu mặc dú cha rất năng nổ, cương quyết. Tôi mất tin tưởng trong chờ đợi sự tráo trở của những kẻ cầm quyền. Nhưng tôi tin vào quyền năng của Thiên Chúa, cảm nhận được Ý Chúa, biết Chúa xử dụng cha Thu như công cụ để Ngài thực hiện kế hoạch của Ngài. Tôi liên lỉ cầu nguyện. Qua sự an bài của Thiên Chúa vào lúc 9g30 sáng ngày 27.7.2011 Đức Giám Mục Giáo Phận Đàlạt đã đến chủ tế nghi thức cung hiến ngôi nhà thờ Pằng Tiêng. Cơ sở này thuộc Giáo 57


xứ Tùng Lâm. Địa điểm năm 2009 tôi đến thăm là một thung lũng, khúc khỷu, cây cối um tùm, rậm rạp, nơi hang, hố hùm beo ẩn trốn. Chính nơi đó do công sức của cha Thu hằng ngày chăm bón, cùng chung sức với giáo dân, bưng, xê, khiêng vác những tảng đá từ lòng suối lấp đầy những hố thủng để có mặt phẳng tốt đẹp của ngày hôm nay. Năm nay 2011. Nơi này có Ngôi Thánh Đường Chúa ngự trị nổi bật giữa nền trời trong xanh, nương rẩy tốt tươi bao bọc chung quanh. Vùng thung lũng Pằng-Tiêng ngày nay có thể được gọi là „Thung Lũng Tình Yêu“. Vì nơi đây Tình Yêu của Thiên Chúa đã và đang tuôn đổ cách dồi dào trên nhóm dân nhỏ bé của Ngài. Ngài không bỏ sót một ai bao giờ, dù người đó ở đâu? Chỗ hang cùng ngõ tận cũng không bao giờ người bỏ sót. Vinh Danh và Tạ Ơn Thiên Chúa.

58


Giờ bên Thầy Thầy yêu dấu của con, Năm nay đi linh thao mà con chưa ghi được lời nào trong „nhật ký tĩnh tâm“ như thường khi con vẫn làm trong các khóa linh thao. Con vẫn nhớ những giây phút êm ả bên Thầy trong giờ thong dong, quỳ chiêm ngắm Thầy yêu dấu trong Mặt Nhật, được đặt trên chiếc bàn nhỏ, trước ngọn đèn chầu trong căn phòng ấm 59


cúng này. Nơi đây con nhớ đến mầu nhiệm Thánh Thể, mà mỗi ngày vẫn được tái diễn qua lời truyền phép của linh mục chủ tế, người đại diện Thầy trang trọng kính cẩn cử hành, để bánh và rượu trở nên Mình và Máu của Thầy hiển hiện và hiện diện trong hình bánh, để Thầy ở với chúng con mọi ngày cho tới tận thế. Thánh Thể là một Hồng Ân Thiên Chúa ban cho loài người, là món quà vô giá thể hiện Tình Yêu Thương vĩnh viễn của Ngài ban cho chúng con, cho toàn thể nhân loại. Nơi đây, vì yêu thương,Trái Tim Thầy luôn mở rộng để đón nhận tất cả nhân loại, cho dù nhân loại đầy tội lỗi… cho dù hàng ngày Thầy vẫn bị loài người chúng con đóng đinh, sỉ nhục và phản bội Thầy bằng những cử chỉ dối trá, tham lam, giận dữ, gian manh, ăn chặn, giết người, bất công, chèn ép, bách hại. Trong ba ngày tĩnh tâm theo phương pháp linh thao của Thánh Inhazio Loyola, linh mục đang giúp chúng con gặp gỡ Thầy qua Lời Thầy do Thánh Sử Marco ghi lại. Thầy đã thắp lên cho chúng con một ngọn lửa tin yêu, cách riêng cho chính con, và con tự nhủ, phải giữ gìn ngọn lửa này để luôn sưởi ấm tâm hồn mình và để mang hơi ấm đến cho anh chị em con, những người ở ngay bên cạnh con, trong gia đình con, những người ở xa con, những người mà Thầy cho con gặp gỡ họ. Nghĩ đến anh chị em, đến tha nhân con lại nhớ năm vừa rồi con đi dự một khóa tĩnh huấn ba ngày Cursillo với tôn chỉ „một tay nắm Chúa, một tay nắm anh em“ của Phong Trào Cursillo. Ba ngày hồng ân đó con đã học được nhiều điều hay, nhiều điều rất ích lợi cho đức tin của con, mà điều con ghi nhớ nhất là tinh thần phục vụ của các anh chị em đi trợ tá khóa. Các anh chị phục vụ mọi người với một tâm tình quảng đại, đầy lòng nhân 60


ái, và kiên nhẫn dịu dàng trong từng cử chỉ, từng lời nói. Có phải giây phút này Thầy nhắc nhở con, hãy học gương phục vụ đó mà thực hành nắm tay anh chị em để giới thiệu với Thầy. Thầy ơi, muốn được như vậy thì chính con phải học tập nhiều với Thầy về tình yêu thương, về lòng từ bi, về sự từ bỏ mình và nhất là phải luôn ở trong Thầy như Lời Thầy ở trong con. Từ bỏ những tội lỗi trong con người yếu hèn của con. Xin Thầy giúp con để con biết sống đẹp lòng Thầy. Thầy ơi! Ngày xưa, cách đây 2000 năm, thời của Thầy đang sống và đi rao giảng cùng với các môn đệ, Thầy cũng gặp bao nhiêu là khó khăn, bao sự hiểu lầm, bao sự ganh ghét, đố kỵ đến nỗi họ muốn giết Thầy. Thầy có buồn không khi Thầy bị treo trên cây thập tự thì môn đệ của Thầy cũng bỏ Thầy mà chạy tản mát. Con nghĩ, hẳn là Thầy cũng buồn chứ, nhưng mà Thầy thương họ nhiều hơn, vì Thầy biết họ chỉ là những „chiếc bình sành“ dễ vỡ. Ngày nay chúng con, những đứa con đầy tội lỗi của Thầy cũng bỏ Thầy mà tản mát khắp nơi, song Thầy cũng vẫn thương yêu và kiên nhẫn chờ đợi chúng con trở về. Xin Thầy đưa chúng con về hiệp nhất với Thầy và ở trong Thầy, Thầy nhé. Treo trên thập tự, hình ảnh này làm lòng con quặn đau Thầy ơi, Thầy tinh tuyền vô tội mà Thầy chịu để cho thế gian lên án, sỉ nhục, đánh đòn, bêu rếu suốt đoạn đường vác cây thập tự. Hình phạt này đế quốc Roma chỉ dành cho người nô lệ, họ coi Thầy như nô lệ, Thầy chịu hạ mình đến vô cùng tận, Thầy chịu hủy mình ra không „Thầy bị đâm vì chúng con phạm tội, Thầy bị nghiền nát vì chúng con lỗi lầm, Thầy chịu sửa trị để chúng con được bình an, Thầy mang thương tích để cho chúng con được chữa lành. (Is 53, 5)

61


Thầy ơi, „người Do Thái cho cái chết của Thầy trên thập tự là một sự ô nhục , dân ngoại thì coi đó là một cái chết điên rồ, ngu xuẩn, nhưng Chúa Cha công nhận đó là sự vinh hiển, sự khôn ngoan của Thầy. (ICr 1,24) Họ nghĩ như thế vì họ không biết được đó chính là mầu nhiệm cao cả mà chỉ có Thiên Chúa đầy quyền uy, Đấng tạo thành trời đất, Đấng yêu nhân loại đầy tội lỗi và muốn cứu nhân loại, nên sai Thầy đến thế gian này mà chịu khổ hình, chịu chết và sống lại để cứu độ tất cả chúng con. Họ không hiểu rằng giờ này chính là lúc „Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!“(Ga 12,23) vì „nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi nó mới sinh được nhiều hạt khác“ (Ga 12,24). Con người trong thế giới ngày nay họ không cần Thiên Chúa, họ say mê tiền tài của cải, vật chất, danh vọng, nên họ đánh mất đi sự thẳng thắn, chân thật, tinh khiết của lương tâm con người, trái tim họ trở nên chai đá, vì thế sự ác, sự dữ lan tràn khắp mặt đất. Họ say mê „cái tôi“ của họ khi họ phát minh hay khám phá ra được những kỳ công mà họ nghĩ là chỉ nhờ trí thông minh của họ, nhất là những giá trị khoa học hiện đại ngày nay. Họ tự tôn vinh chính mình thay vì tôn vinh Thiên Chúa. Họ tự cho mình quyền hành của một vị tạo hóa trong việc can thiệp vào nhiệm mầu sự sống con người. Con xin Thầy ban cho họ ơn nhận biết được Tình Yêu của Thiên Chúa, biết đến sự hiện diện của Thầy ở thế gian này, chính nhờ Thần Khí Thầy mà trái đất này trở nên nhân ái hơn, đẹp đẽ hơn và có ý nghĩa hơn, phải không Thầy yêu dấu của con. Con cám ơn Thầy ban cho con những giây phút thắm thiết này. Xin tôn vinh và cảm tạ Thầy. Thầy ơi, con yêu Thầy, con yêu Thầy. 62


Chuyến đi U Qua thông báo của cha Lê Thắng, Dòng Ngôi Lời, hai vợ chồng tôi ghi danh theo cha đi U. Báo cho các con tôi biết ngay để nhờ trông chừng nhà cửa và chăm sóc chú chó Yorshi khi chúng tôi đi vắng. Vợ tôi gọi cháu báo là sẽ đi U. Con tôi ngạc nhiên hỏi vặn lại: „Bố mẹ đi U nào, và tại sao lại phải đi U, từ nhà bố mẹ đâu có U nào để đi, bố mẹ phải lên Frankfurt mới có U. Sao bố không lái xe đưa mẹ đi có phải tiện không? Bố biết việc này mà“. Nghe đối thoại của hai mẹ con, tôi thấy vui vui vì sự hiểu lầm của con mình. Vợ tôi nói đi U theo lời kêu gọi của cha Thắng là đi Ukraine, mà người miền Bắc Việt Nam ở đó gọi đất nước này là U, ngắn gọn như thế. 63


Ukraine là một quốc gia thuộc khu vực Đông Âu, giáp với liên Bang Nga về phía đông, với Bạch nga (Belarus) về phía bắc, với Ba Lan, Slovakia, Hungary về phía tây, Romania và Moldova về phía tây nam. Biển Đen và Biển Azov nằm giáp đất nước này ở phía nam. Thủ đô là thành phố Kiev. Lịch sử của Ukraina cũng như của nước Nga bắt đầu từ khoảng thế kỷ thứ 9 sau công nguyên khi vùng đất này trở thành trung tâm của nền văn minh Đông Slav với quốc gia Nga Kiew hùng mạnh tồn tại đến thế kỷ 12. Khi đế quốc Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn trỗi dậy và bành trướng. Nga Kiew bị Mông Cổ đánh tan tác chịu cảnh nô lệ suốt nhiều thế kỷ. Sau khi Mông Cổ suy yếu, lãnh thổ của Ukraina lại bị phân chia giữa nhiều thế lực khác nhau tại Âu Châu cụ thể là Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ và Nga. Đến thế kỷ 19 khi Nga bành trướng và đánh bại hai địch thủ còn lại, hầu hết lãnh thổ của Ukraina đã nằm trong Đế Chế Nga. Năm 1922, Ukraina trở thành một nước đồng sáng lập Liên Bang Xô Viết vả trở thành một nước cộng hòa theo thể chế xã hội chủ nghĩa nằm trong Liên Xô. Năm 1991, Liên Xô sụp đổ và Ukraina lại trở thành một quốc gia độc lập. Tuy Ukraina đã xây dựng nền kinh tế thị trường, nhưng vẫn còn là một trong những quốc gia có thu nhập bình quân thấp nhất Châu Âu. Ukraina gồm có 24 tỉnh (oblast), một nước cộng hòa tự trị Crimea và hai thành phố đặc biệt Kiev và Sevastopol không thuộc trung ương, theo thể chế cộng hòa bán tổng thống. Nhóm chúng tôi gồm có Cha Thắng đầu tàu kéo theo 4 toa là tôi, vợ tôi, Trần Anh Dũng, Nguyễn Thanh Sơn. Chúng tôi hẹn gặp nhau ở phi trường Borispol ở Kiev. Vì không cùng xuất phát ở một địa điểm, vợ chồng tôi mua vé máy bay Lufthansa khởi hành từ Frankfurt và sẽ đến Kiev sớm hơn gần 3 tiếng đồng hồ, Riêng cha Thắng, Sơn và Dũng thì lấy máy bay hãng Germanwings khởi hành từ Köln. Trên chuyến bay tôi ngồi cạnh một 64


người đàn bà hơi lớn tuổi rất dể thương. Thấy tôi người Á Châu bà làm quen và cho biết bà là dân Ukraina, nhưng hiện không còn ở Ukraine, lần này bà chỉ về thăm quê hương thôi, bà đã từng đi du lịch Việt Nam và thấy Việt Nam dễ thương, nhưng sự sinh hoạt xã hội có phần nào giống quê hương bà. Bà dở áo kéo ra một cái ví nhỏ dấu bên trong người, và khuyên tôi cũng làm như thế, cảnh giác tôi ở Ukraine rất nguy hiểm, trộm cắp nhiều, nên cẩn thận, đừng tin ai cả. Người tốt cũng nhiều nhưng bọn xấu cũng không ít. Tôi cảm ơn bà, mỉm cười và thầm nghĩ, sao tư tưởng và hành xử của bà này giống mình y chang vậy cà, vì giấy tờ và ví tiền của tôi cũng đã được nhét sâu vào trong người không để lơ là bên ngoài? Có chăng một ít tiền lẻ bỏ túi bên ngoài để ngụy trang hoặc cần đến để ăn uống hay mua một vài cái gì lặt vặt. Tôi không ngờ tư tưởng đông tây lại gặp nhau ở đây, hay nói cách rõ ràng hơn là Việt - U có sự tính toán giống như nhau. Tôi có cảm tình với U qua người đàn bà lịch sự và tốt bụng này, tuy vậy vẫn để tâm nghi ngờ những sự việc chung quanh. Kinh nghiệm cho tôi biết đây là một đất nước Cọng Sản có nhiều năm sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, kinh nghiệm nhỏ này do những tích lủy của những chuyến đi Du (rumani), đi Hung trước đây. Đến U (Kiev) lúc 13 giờ 20, thủ tục nhập khẩu dễ dàng, có lẽ Passport của chúng tôi là Đức, nên không có gì trục trặc xẩy ra. Qua cổng kiểm soát hành lý ra phòng chờ, chúng tôi thấy phi trường này nhỏ, chỉ thuộc loại bằng các phi trường hạng C của nước Đức. Tất cả các chuyến bay đến, theo nhận xét của tôi chỉ có một cổng ra duy nhất (không biết có cổng nào khác nữa không?). Phòng chờ ở ngoài nầy cũng nhỏ hẹp, chỉ có một quán ăn nhanh phục vụ người chờ đợi đi, đến. Ngoài quán ăn này người nào vội vàng muốn tìm mua một chai nước cũng là điều khó khăn, phải đi hỏi những quán bán đồ lặt vặt hay quán bán đồ 65


souvenir, những nơi này có bán nước, đây là điều lạ đối với tôi. Tôi nghĩ, có lẽ vì chỗ lạ mình không biết rõ nên tò mò, trong khi chờ đợi số anh em chưa đến, đi khắp mọi nơi trong khu vực này để biết mình nghĩ đúng hay sai. Cuối cùng tôi chắc chắn là mình nghĩ đúng. Điều lạ thứ hai ở chỗ này có một quày Information. Bà xã tôi đến hỏi phương tiện nào thuận lợi để đi về Kharkov, thì nhân viên nơi này gần như không nắm vững các yếu tố chuyên biệt này. Họ chỉ dẫn vu vơ cách lấy xe lửa. Trước hết từ phi trường phải ra trạm xe ở phố, thời gian đi khoảng một tiếng đồng hồ, sau đó mới có thể lấy xe về Kharkov. Đi xe Bus thì họ không biết. Giá cả họ cũng vu vơ hỏi qua hỏi lại lung tung. Bà xã tôi muốn có ít tiền địa phương nhờ họ chỉ địa điểm đổi tiền, họ nói họ không biết và tại quày Information của họ có nhận đổi tiền. Bà xã tôi đổi 100 Euro và sau đó bước đi vài bước ở mặt sau của quày này có quày đổi tiền thật sự, hỏi hối xuất thì họ cho biết giá đổi cao hơn rất nhiều chỗ vừa đổi là quầy Information, một sự lường gạt trắng trợn mà du khách là những con mồi ngon nhất, ngây thơ nhất. Nhóm Cha Thắng đến, tham khảo nhanh ý kiến nhau chúng tôi quyết định thuê xe tại phi trường tự lái về Kharkov. Xe vừa ra khỏi Park cho thuê, đậu tạm lại bên lề đường, giữa hai hướng, định hỏi hướng về Kharkov, thì một chú An ninh (có lẽ là cảnh sát) mặt non choẹt, nhưng rất chuyên nghiệp ngoắc xe đến, hỏi giấy tờ. Anh Dũng tài xế đưa bằng lái xe – anh ta vội chộp lấy ra lệnh đậu xe và dắt(một mình anh Dũng) tài xế theo anh ta đến một gốc cây bên lề đường cách đó khoảng 100 – 200 thước – ra giá nếu chịu đưa anh ta 200 US đô la, anh ta sẽ cho đi. Kỳ kèo qua lại không kết quả, ngôn ngữ bất đồng, chú ta ngoài tiếng U không biết ngoại ngữ nào khác, cha Thắng phải vất vả chạy vào chỗ cho thuê xe Avis, kéo anh nhân viên biết tiếng Anh này ra thông dịch và trình bày. Anh an ninh này quả quyết là xe chúng 66


tôi không muốn chạy vào trước cửa phi trường theo mũi tên chỉ dẫn mà chỉ muốn chạy ngay ra ngoài, trong khi chúng tôi chỉ ngừng xe giữa hai lối đi để định tìm người hỏi thăm. Giấy tờ thì chú nhỏ gian manh nầy cầm giữ nên chúng tôi đành mặc cả, từ 10 đến 35 Euro, giá mà cậu ta gật đầu đồng ý vì bây giờ có nhiều người qua lại nhòm ngó nên cậu ta chộp nhanh số tiền này bỏ vội vào túi, gọi xe đồng bọn đến, nhảy lên và dọt lẹ. Một kỷ niệm đáng nhớ với chúng tôi. Quá tức bực cho sự việc vừa qua, tài xế Dũng không còn đủ can đảm để tiếp tục lái xe, nhường tay lái lại cho bác tài Nguyễn Thanh Sơn, lì hơn, can đảm nhận lãnh trách nhiệm khổ cực tiếp theo. Xe chúng tôi cũng nhanh chóng vào được xa lộ M03 chạy theo nhịp độ của lưu thông hướng về Kharkov theo bản đồ chỉ dẫn, với khoảng cách trên 500 cây số. Nhìn bản đồ thì thấy xe đã chạy đúng hướng, nhưng những bảng chỉ dẫn hai bên đường làm tất cả người trên xe lo lắng, vì chữ địa danh viết khác nhau, lúc thì viết theo chữ Ukraine, lúc thì viết theo chữ Nga, không biết ra sao để lường, để định, phải qua thật lâu đối chiếu cách này cách khác mới dám xác quyết là xe đi đúng. Nhà cửa hai bên đường có chỗ cũng đẹp, cũng hấp dẫn, nhưng cũng có những nhóm nhà bên đường cũ kỹ, đường đá lởm chởm gồ ghề gợi nhớ đến những đoạn đường cho xe be ở Việt Nam. Hai bên đường thỉnh thoảng chúng tôi được ngắm những cánh đồng gợi cảm với loại vàng tuyệt đẹp. Nhiều đoạn đường người U mang hàng nhà (vườn) như trứng, cà chua, cá, mắm, muối v.v.. ra bày bán, trông thấy lạ lạ, dễ thương và vui vui. Chúng tôi dừng xe để tìm mua vài thức ăn vì ai cũng đói bụng và khát nước… Chọn được một vài món vừa ý, có lẽ cũng hợp khẩu như cà chua, hạt dẻ, mật ong v.v... giá cũng tương đối rẻ. Chúng tôi mua mỗi thứ một ít. Rất tiếc chúng tôi không có tiền lẻ U, mà chỉ riêng bà xã tôi còn chẵn tờ 50 tiền U. 67


Chúng tôi lấy tiền này trả cho họ, nhưng bốn năm người bán hàng mà cộng tiền lại vẫn không có đủ tiền để thối lại cho chúng tôi. Thật thấy thương họ quá! Sau cùng chúng tôi đành giao lại những thứ đã mua cho họ, hai bên chỉ biết nhìn nhau cùng tíu tít cười vui và chia tay. Thôi đành nhịn đói đi tiếp về Kharkov. Trời bắt đầu tối mà xe thì hình như chạy vào nơi vô định, có những chặng đường mà hai hướng xe nghịch chiều cùng chạy trên một con đường, đã thế ở U xe chạy trời tối mà tài xế vẫn chưa chịu bật đèn, không phải chỉ một ông tài xế nào đó bất cẩn hoặc lười biếng, mà cả mọi xe đều thế. Tôi nghĩ có lẽ người U mắt sáng hơn dân ngoại quốc chúng tôi. Xe chạy trong nguy hiểm, không an toàn nhất là những dân lạ nước, lạ đường. Chỉ tội cho bác tài Sơn phải cố nhướng mắt thật to để mà nhìn. Đến Pemetulibka. Thấy bên đường có quán với con số 305 thật lớn đèn đuốc sáng chói trên nóc quán. Thôi! liều vào xem sự tình ra sao. Bước vào quán thấy ba ông bạn dân đang ngồi nơi đó, ông nào cũng súng ống đầy đủ, nhưng nét mặt không ngậu xị như chú an ninh ở phi trường – chào xã giao các ông và được chào lại... thế là an lòng. Biết tại điểm này đã cách Kiev đúng 305 cây số, hơn nửa đoạn đường rồi. Trong quán bầy biện đơn sơ nhưng „roman tic“. Chủ quán là hai cô gái người U xinh như mộng, một cô tên là Ruslana, một cô tên Julia, không biết ai là chị ai là em. Chủ khách trao đổi câu chuyện với nhau bằng nhiều thứ tiếng, mà trong ấy tôi biết chắc là một phần tiếng U, một phần tiếng Anh, nhưng phần còn lại là tiếng tay, tiếng chân, kiểu cách điệu bộ. Tuy vậy hai bên vẫn không hiểu ý nhau muốn gì. Nhìn ông Trưởng đoàn là Cha Thắng lúc này thật là vui. Cha mạnh dạn, không câu nệ nắm tay hai cô tự nhiên lôi vào bếp, chỉ nồi súp đang bốc khói, tay chỉ nồi súp, tay chỉ vào miệng ý nói muốn ăn. Thế là hai bên hiểu nhau. Chẳng bao lâu năm tô xúp nóng hổi, hấp dẩn được hai cô mang ra kèm theo một dĩa đựng 5 68


khoanh bánh mì. Bụng đói nên tô xúp cho mỗi người và năm khoanh bánh biến nhanh vào bụng từng người một cách vui vẻ thoải mái. Đứng sau quày thu ngân nhìn chúng tôi ăn các cô vung tay cười cười chỉ chỏ không biết là muốn nhạo báng chúng tôi mê ăn hay lạ lùng nghĩ đây là cách ăn uống của người dân tộc lạ. Một cô tới bàn hỏi, có lẽ cô muốn hỏi chúng tôi ăn có ngon không? Dĩ nhiên chúng tôi trả lời gút, gút ăn gút. riêng cha Thắng không biết mò đâu ra một tiếng U hù chúng tôi, cha trả lời cô ta „đốprê“. Sau này hỏi lại thì cha cho biết đó là tiếng Ba Lan, có nghĩa là rất ngon, nhưng cha không bảo đảm là có đúng không, chứ viết như tôi hiện tại sai là cái chắc. Chỉ biết có điều sau này chữ „đốprê“ của Ba Lan và Ukraine lại trùng nghĩa với nhau. Cô ta chạy nhanh vào bếp bê ra một ổ bánh mì Klep thật to. Cứ tưởng là sẽ bị chặt đẹp, không ngờ khi tính tiền mới biết đó là quà tặng đặc biệt mà cô ta muốn tặng riêng cha Thắng vì cô có nhiều cảm tình với cha. 5 tô súp, 3 ly cà phê, 2 cốc trà = 56 Leva (chừng 6 Euro). Rẻ quá chừng chừng. Trước khi chia tay hai cô bé đã chịu bỏ quán ra ngoài chụp hình chung với 4 ông tây, một bà đầm nhiều kiểu ảnh để làm kỷ niệm. Hứa lượt về sẽ tặng ảnh cho hai cô.. Nhưng lượt về thất hứa không thực hiện được, thật là một điều áy náy. Những cảm tình ban đầu bị mất đi khi sự việc tại phi trường xảy ra, nhưng tại quán 305 Pemetulibka với sự hồn nhiên trong sáng của dân quê qua hình ảnh của hai cô bán quán dịu hiền dể thương. Tình cảm của U lại bình thường trở về trong tôi. Giờ nầy thì người đón chúng tôi đã sốt ruột, không biết chúng tôi đi đứng ra sao và có đến được Kharkov không? Người đó là Soeur Lan và Soeur Diễm, dòng Saint Paul hiện được nhà Dòng cử ở Kharkov để giúp đồng bào Việt Nam ở đây. Cứ 15 phút hay 30 phút là có tiếng gọi của Soeur: Cha và các chú, cô, anh đã đến đâu rồi?. Người nghe thì cũng chịu thôi, vì thật sự đâu 69


biết mình đang ở đâu? Đang ở đoạn đường nào? Chữ trên bảng thì thấy đó nhưng đâu có biết đọc làm sao, thật tình bị coi như mù chữ từ khi vào U, còn trả lời địa danh thì không biết đọc làm sao nói được địa danh với địa tánh nào đang qua, đang đến. Chỉ trả lời u ơ cho người nghe vui lòng thôi. Cha Thắng thì tiếu lâm xổ một hơi dài những âm lạ lùng, coi như nói tiếng lạ, không biết hai Soeur nghe có hiểu ý cha muốn nói gì không, riêng cha thi chắc chắn 100% cha không hiểu cha đã nói gì? (Phải không cha Thắng). Chúng tôi gọi một taxi nhờ họ dẫn đường nên cuối cùng thì đoàn cũng đã đến Kharkov lúc hơn 12 giờ khuya. Thông báo cho hai Soeur và đưa điện thoại cho ông tài xế Taxi nói chuyện, để hai Soeur nói địa chỉ cho taxi chạy trước dẫn đoàn về nhà Soeur. Buổi đón tiếp khách phương xa bằng một bữa cháo khuya thật ấm lòng. Mọi lo âu của người đón, người đến rồi cũng được nhẹ nhàng trôi qua trong sự vui vẻ của mọi người, bình an trong ý Chúa – Một giấc ngủ êm đềm không mơ mộng suy tư sau chặng đường dài mệt nhọc - Xin tạ ơn Chúa. *** Tại Kharkov. Đây là địa điểm và là mục đích chuyến đi của phái đoàn chúng tôi: Thăm Cộng Đoàn Dân Chúa Việt Nam ở Kharkov... Sau kinh sáng trong nhà nguyện nho nhỏ xinh xinh của hai Soeur trù trì Lan – Diễm. Lợi dụng thời gian chờ dùng điểm tâm, tôi lục lọi tủ sách của hai Soeur và tìm hiểu tình hình địa phương nơi đoàn đang hiện diện. Sự tò mò cho tôi biết: Kharkov (Ха́рьков) là tiếng Nga, còn Kharkiv (Ха́рків) là tiếng Ukraina. Kharkov là thành phố lớn thứ hai của Ukraina, nằm ở ngã ba các sông Udy, Lopan và Kharkov, bị thiệt hại nặng nhất trong đệ nhị thế chiến. Đây là trung tâm hành chính của tỉnh Kharkiv đồng 70


thời cũng là trung tâm hành chính, công nghệ, văn hóa giáo dục của vùng Kharkivsky Raion xung quanh nói riêng, của Ukraine nói chung. Dân số năm 2008 khoảng 1.461.300 người. Nơi đây có hệ thống tàu điện ngầm (Metro = Ubahn) dài 35 km với 28 ga. Thành phố có nhiều địa điểm du lịch như: Derzhprom, Memorial Complex, Tự do Square, Taras Shevchenko Tượng đài, gương Stream, Dormition Nhà thờ chính tòa, Militia Bảo tàng, Nhà thờ chính tòa, T. Shevchenko Gardens, funicular, Annunciation Cathedral, gauge hẹp cho trẻ em đường sắt và nhiều hơn nữa. Người Việt sinh sống ở Ukraina có khoảng 7.000 người , chia ra thủ đô Kiev 1000, 1000 ở Odesa, còn 5000 người làm ăn buôn bán tại Kharkov. Về tôn giáo ở Uraine nói chung, ở Kharkov nói riêng rất phức tạp, tuy cùng tôn thờ một Thiên Chúa chí thánh, chí tôn. Nhưng danh xưng và giáo lý, cũng như cách phụng vụ của các tôn giáo lại có nhiều điểm dị đồng. Chính thống giáo đa số, nhưng cũng phân chia theo chính thống giáo Kiev hay chính thống giáo Moscow, chính thống độc lập Ukraina. Công giáo chỉ là thiểu số, phần nhiều do các tu sĩ là người Ba Lan sang đây truyền giáo. Cộng đoàn Công Giáo Việt Nam tại đây bắt đầu sinh hoạt chung khoảng vào năm 2005, có hơn 100 thành viên chính thức sinh hoạt cộng đoàn, ngoài ra còn khoảng hơn 200 người chỉ muốn làm người Công Giáo thầm lặng không liên lạc với cộng đoàn vì vợ hoặc chồng là người tôn giáo khác, ngoài ra còn với nhiều lý do tế nhị nào đó, nên chưa đến với cộng đoàn. Cộng đoàn Công Giáo người Việt ở Kharkov hiện chỉ có hai Soeur Lan, Diễm dòng Saint Paul giúp đỡ sinh hoạt phụng vụ cũng như làm công tác xã hội, ngoài ra chưa có linh mục Việt Nam đảm trách mục vụ, nên còn gặp rất nhiều khó khăn, chưa thể phát triển lớn mạnh. Tuy vậy nhờ sự hy sinh, hăng say và khéo léo của hai 71


Soeur bé nhỏ với sự nâng đỡ của Đức Giám Mục giáo phận Marian, đã cho cộng đoàn mượn, xử dụng hội trường và nhà thờ chính tòa „Đức Mẹ Lên Trời“ làm nơi sinh hoạt và dâng thánh lễ. Đức cha cũng lưu tâm giúp đỡ nhiều mặt khó khăn khác của cộng đoàn mà ngài biết được, dù hai Soeur chưa dám trình bày, Đức cha cũng đã tạm cử cha Stanislav giúp phụ trách cộng đoàn, chờ có linh mục Việt Nam do đó mỗi tháng có một thánh lễ với ngôn ngữ Ukraine. Trước thời gian năm 2005, khi cộng đoàn chưa được hình thành, anh em tín hữu Công Giáo Việt Nam sang đây, chưa phân biệt được những khác biệt căn bản của các giáo hội tại đất nước này nên chỉ thấy nơi nào có nhà thờ, có thánh lễ, có thánh giá Chúa là vào để xem lễ, cầu nguyện. Sau đó nhận thức rõ hơn, biết tường tận hơn, nhưng vì thói quen nên vẫn đi dự lễ ở những nhà thờ Chính Thống Giáo. Ngôn ngữ thì bị giới hạn, nên ngoài hiệp thông thánh lễ, anh chị em không còn biết gì hơn, chỉ suy đoán lờ mờ về những lời giảng, nên phần hiểu biết về Chúa thật hạn hẹp. Lý do chính khác là sự bon chen tranh đua chạy theo cuộc sống bán buôn hằng ngày ở đây nên lơ là về phần đức tin Hiện giờ nhờ sự giúp đỡ của Tòa Giám Mục. Hai Soeur Lan, Diễm năng nổ đi tìm những tín hữu đầu tiên qua những công tác viếng thăm, giúp đỡ, chăm sóc, giữ trẻ, dạy giáo lý cá nhân ,thiếu nhi, gia đình và hôn nhân, tạo thành những thanh gỗ kết nối với những anh chị em Công Giáo cùng sống chung một địa phương, tôn thờ một Chúa mà trước đây không hề biết nhau là cùng chung ràng chiên của Ngài. Đối với anh chị em Công Giáo đã tham gia cộng đoàn, dù rằng hằng ngày bận rộn với công việc buôn bán ở chợ thường xuyên, chỉ được nghỉ ngày thứ hai trong tuần. Anh chị em cũng đã hy sinh, sắp xếp để hằng tuần trong gia đình có người đến tham dự thánh lễ. 72


Để được thăm viếng làm quen từng anh chị em giáo hữu thuộc cộng đoàn đang buôn bán tại Kharkov. Sau bữa cơm sáng tại khách sạn tư gia của hai soeur, tại một chung cư cao ốc củ kỷ nhưng được tọa lạc tại ngay gần trung tâm thành phố, từ lầu cao ngút ngàn của chung cư, một anh em nào đó trong chúng tôi đã thốt nên lời : ở nhà các Soeur nếu có sớm về nước trời với Chúa, có lẽ nhanh hơn vì ở nơi cao như thế này. Có điều nhà không có thang máy nếu hàng ngày phải bê lương thực từ tầng dưới đất lên đến đây để nuôi cuộc sống chờ ngày Chúa gọi thì e rằng không đủ sức. Soeur Lan không biết có nghe được lời bình luận này không? hay đang bận rộn nghĩ đến cách nào đó hướng dẫn chúng tôi đến khu thương mại Barabanova mà không bị lạc lại phải đi nhanh để về đúng giờ!!! Thị trường Barabashova là thị trường lớn nhất ở phía đông Ukraina và là một trong 14 thị trường lớn nhất của thế giới. Trung tâm thương mại Barabasova có diện tích 60 ha. Hơn 21.500 điểm bán hàng, ảnh hưởng đến cuộc sống của 1/3 dân số ở Kharkov. Hơn một nửa diện tích của trung tâm nầy là của người Việt. Cách trung tâm nầy không xa, gần ga tầu điện ngầm trên đại lộ Moskovsky, một siêu thị khác cũng của người Việt mang tên Sun City Plaza. Tại đây người ta có thể tìm mua đủ tất cả mọi thứ từ cây kim sợi chỉ bé tẹo, đến giầy dép áo quần, thịt rau, thượng vàng hạ cám với mức giá mong muốn, nhưng với điều kiện là phải lục tìm và ngã giá rốt ráo: Người ta cũng có thể chỉ vài bước chân bước sang một bên có thể mua được món hàng y chang với nửa giá của chỗ vừa mua. Nơi này cũng thường xảy ra trộm cắp, điều tốt nhất là người mua sắm phải lưu ý và thường xuyên kiểm soát xem lại túi xách và những thứ có giá trị khác. Thị trường này sinh hoạt hằng ngày trừ thứ hai, sáng từ 7 giờ đến 15 giờ, ngày cuối tuần đến 17 giờ. Đặc biệt tối thứ hai và thứ năm trung tâm có sinh hoạt đêm từ 21 giờ. Hàng 73


hóa ở đây xuất phát từ Trung hoa, Ba Lan, Thổ Nhỉ Kỳ và Việt Nam. Tại chợ này chúng tôi được soeur Lan giới thiệu từng thành viên, chỉ cho biết từng mặt hàng, từng cách sinh hoạt bán buôn ở đây. Chúng tôi cũng thấy những cô bán hàng người Ucraine đứng bán hàng cho những chủ Việt. Nơi buôn bán xô bồ này chúng tôi đã gặp, hàn huyên vui vẻ với các anh Phú, Tiệp, các chị Nữ, Tình và một số anh chị em khác. Thấy sự sinh hoạt quá náo nhiệt, tôi vui đùa hỏi một anh tín hữu đang bỏ hàng rong: Buôn bán như vầy ngày kiếm được khá nhiều không hở cháu? Anh trả lời : Cũng vừa đủ thôi bác ạ - tìm được chút tiền còm bỏ ống ấy mà. Ngày nào khá thì cũng vài ba trăm, ngày nào ế ẩm thì cũng trên trăm. Tôi nhẩm tính, nếu cứ một trăm đô/ngày, thì cả tháng là trên 3000 đô cầm chắc. Tôi hỏi tiếp. Kinh tế dồi dào thế, thì ngày Chúa Nhật có đi dự lễ không nào. Anh gãi tai, xoa đầu trả lời: Có chứ, nhưng thỉnh thoảng thôi bác ạ. Vì ngày có lễ cháu phải đi bán như hôm nay, anh lại tiếp: Chúa thông cảm ấy mà, cháu biết Chúa giàu lòng thương xót, Chúa sẽ tha tội cho cháu mà!!! Tôi biết Chúa sẽ vì lòng thương xót, sẽ tha thứ tất cả, nhưng chúng ta không được phép lợi dụng lòng vị tha của Ngài để rồi phạm luật, khi cuộc sống của chúng ta đã dư giả. Tôi chỉ biết thầm cầu nguyện, xin Chúa cho những anh chị em này sáng suốt hơn, nhận biết vật chất ở đời là do Thiên Chúa tạo ra để ban cho con người xử dụng, nhưng không phải tạo ra vật chất để lôi kéo con phải người chạy theo nó mà quên cả Người có quyền phép tạo ra ban cho, nếu Người đã cho thì Người cũng có thể cất đi nếu Người muốn. Chúng tôi mua vội một vài thứ rau cỏ để về nhà trọ nấu cơm trưa, một vài nơi giáo dân không chịu nhận tiền trả của chúng 74


tôi. Chúng tôi chỉ biết chân tình cám ơn mà thôi, và giữ mãi những kỷ niệm này trong lòng. Trở về nhà trọ bằng hệ thống xe điện ngầm, chúng tôi phải đi thật sâu xuống lòng đất, để chọn một loại xe trong nhiều loại xe mà trạm xe lại trình bày các màu sắc khác nhau, chúng tôi không đủ thời gian để tìm hiểu, phân biệt sự khác biệt màu sắc trên. Hy vọng có dịp hội ngộ (nếu có) chúng tôi phải tìm hiểu tường tận hơn. Buổi chiều chúng tôi cũng được các Soeur đưa đến một khu chợ khác của Kharkov (không nhớ tên chợ) để mua hoa quả, trái cây chuẩn bị cho thánh lễ ngày mai, trước khi đi thăm một vài địa danh khác của Kharkov. Tại đây giá cả cũng tương đối, nhưng không gặp cửa hàng nào của người Việt. Mấy ông an ninh bến bãi, thấy chúng tôi là dân tóc đen nên có vẻ theo dỏi chăm sóc kỷ lắm, sau chúng tôi mới khám phá ra rằng vì người Việt ở đây là món lợi cho các anh ấy dễ kiếm tiền trà nước. Người Việt Nam sinh sống ở Ukraine nói chung và Kharkov nói riêng, phần lớn do hợp tác lao động thời Liên Xô cũ, sau khi khối cộng sản tan rã, người Việt chuyển qua nghề buôn bán để kiếm sống, cuộc sống lệ thuộc vào việc đỏ đen buôn bán, thời vận. Ngôn ngữ chỉ đủ dùng trong việc trao đổi bán buôn. Công việc bán buôn đôi khi cũng phải cần sự mánh mung dối trá, phạm pháp, nên đa số rất sợ cảnh sát thăm hỏi. Để thay thế cho sự trả lời gọn nhẹ nhất là dí một ít tiền cho cảnh sát hay người an ninh kiểm soát, thế là được nhanh chóng rời hiện trường càng nhanh càng tốt. Do đó đã tạo một thói quen hối lộ cho các nhân viên an ninh. Sự kiện hôm nay cho chúng tôi xác quyết điều đó rõ ràng hơn vì chính xe chúng tôi là người trong cuộc của một sự kiện: Soeur Điễm vì vội vả mở cửa xe, vô ý để cửa xe va nhẹ vào xe bên cạnh. Sự tình thì không có gì, nhưng đám an ninh vì đã theo dõi từ đầu, nên đã có mặt ngay và can dự vào chuyện đáng ra không có gì. Sau đó thì chúng tôi cũng giúp Soeur Diễm một số tiền 75


lớn gấp bốn lần tiền phụ cấp hàng tháng sống của Soeur để lấp vào chỗ lỗi nhỏ đó. Một kinh nghiệm thật vui, nhưng cũng thật ray rức!!! Sau đó chúng tôi đến thăm Chùa Trúc Lâm, một công trình kiến trúc vĩ đại có thể lớn nhất ở Âu Châu. Muốn vào Chùa chúng tôi phải trình giấy cho kiểm soát cho người U gác cổng. Chùa rất đẹp, hiện diên trong một khuôn viên rộng rãi được bao bọc kín đáo ở chung quanh. Chùa yên tịnh nhưng vắng vẻ, có lẽ vì ngày thăm viếng của chúng tôi là một ngày thường. Sau đó chúng tôi được hướng dẫn sang thăm làng Thời Đại cũng được kiểm soát giấy vào cửa như ở Chùa Trúc Lâm. Trong làng có Tượng đài Thánh Gióng oai hùng. Trên đường trở về chúng tôi được hướng dẫn thăm Quãng trường Tự Do: Tự do Square (Ploshcha Svobody) là quảng trường chính của Kharkov, nơi dành cho tất cả sự kiện như các buổi hòa nhạc, biểu tình, hội chợ, hội họp v.v... Là quảng trường rộng nhất nhì ở châu Âu, chỉ xếp sau Quảng trường Thiên An Môn ở Trung Quốc, lớn hơn quảng trường Đỏ ở Moscau. Tổng diện tích của Quảng trường là 11,9 ha, chiều dài 960-750 mét với hai trạm tàu điện ngầm nằm dưới Universitet trạm vuông (Saltivska của dòng và Derzhprom của Oleksiivska dòng) mà Derzhprom (hoặc Gosprom) là điểm chính yếu của vòng một phần của quảng trường Tự Do. Nơi đây mốc kiến trúc được xây dựng từ năm 1920 và trở thành các khu nhà chọc trời đầu tiên trong cả nước Ukraine. Đây chính là trung tâm đồ sộ của thành phố. Tại Quảng trường trong thời gian chúng tôi ghé thăm, chính là lúc người ta dùng cát nén đồ sộ để trình bày những tác phẩm nghệ thuật bằng cát. Những hình ảnh thần thoại nổi tiếng, cũng như những kỳ quan trên thế giới, trông như thật và nghệ thuật vô 76


cùng, như Kim Tự Tháp ở Ai Cập, Tháp Effel ở Paris, Vương Cung Thánh đường và Công trường Thánh Phêrô ở Rôma, Vạn Lý Trường Thành ở Trung Hoa, Tượng Abraham v.v... Thật là một buổi thăm viếng kỳ thú vui vẻ. Chúa Nhật ngày 6.8.2009, chúng tôi thăm xã giao Đức Cha Marianus, Giám Mục địa phận Marian, được chính Ngài tiếp đón tại phòng khách tòa Giám Mục giáo phận, kế cận bên nhà thờ Chính Tòa Kharkov. Cơ sở Tòa Giám Mục còn nhỏ văn phòng một nhà xứ ở nước Đức. Nơi làm việc của ngài không khác gì một tổ chim, khi ngài ra vào nơi này, ngài phải di chuyển đi lại như chú chim bồ câu vào chuồng. Chỗ Đức Cha tiếp chúng tôi cũng khiêm tốn, dễ thương như tính tình của ngài. Tuy thế cha con thăm hỏi nhau niềm nở đượm thắm tình con con cái một Cha Chung Trên Trời. Chúng tôi trình bày những khó khăn của cộng đoàn, tất cả đều được Ngài hứa sẽ lưu tâm giúp đỡ. Biết chúng tôi là công dân giấy của nước Đức, Ngài cười cho biết Ngài cũng thế, ngài là dân Ba Lan. Qua chuyện gặp gỡ ngày hôm nay chúng tôi mới cảm nhận được, có những nơi Giáo Hội còn rất nghèo khổ, thiếu thốn nhiều phương tiện, gặp nhiều khó khăn do các thể chế xã hội của loài người tạo nên, nhưng qua phong cách cử chỉ những Kitô hữu, con cái của Chúa phục vụ ở những nơi này là những tấm gương sáng cho cộng đoàn của chúng ta cần học hỏi noi theo. Tiếp theo Thánh Lễ cho dân địa phương, cộng đoàn được quyền xử dụng dâng thánh lễ Mừng Mẹ Lên Trời trong nhà thờ chính tòa danh hiệu Mẹ. Dân công giáo Việt Nam đến đông chật cả nhà thờ, cha Thắng thì bận rộn ban phép hòa giải cho mọi người ở phòng hòa giải. Soeur Lan đánh đàn, anh Dũng tập hát cho các ca viên, Soeur Diễm bận rộn sắp xếp chu đáo, chỉ vẽ, sắp xếp mọi người để nghi thức phụng vụ trong thánh lễ được chu đáo 77


trang nghiêm hơn. Thánh lễ diễn ra bằng ngôn ngữ tiếng mẹ Việt Nam, với sự đồng tế của cha Stanislav. Những bài thánh ca quen thuộc được tất cả mọi người tham dự cùng cất cao để tôn vinh Chúa và Mẹ. Bài giảng tiếng Việt thân quen được cha chủ tế giảng giải rất hay, đánh động tâm hồn từng mỗi một giáo dân. Trong niềm hân hoan đón mừng Thánh lễ, hai em bé Giuse được ban phép thánh tẩy. Một đôi vợ chồng trẻ cũng được đón nhận bí tích hôn phối. Trước khi kết thúc thánh lễ, anh Tiệp đại diện cộng đoàn lên ngỏ lời cảm ơn phái đoàn từ nước Đức tới thăm, anh phát biểu: Dù thời gian ngắn ngủi, nhưng là nguồn động viên lớn lao cho cộng đoàn bé nhỏ ở Kharkov, sau đó anh đại diện tặng quà cho cha Thắng. Cha Thắng lại tặng quà cho cha Stanislav. Sau cùng Đức Giám Mục lên ban phép lành cho cộng đoàn.Thánh lễ kết thúc, mọi người chia tay trong bịn rịn, hứa hẹn sẽ liên lạc để dìu dắt, nâng đõ nhau trong đúc tin. Dù chỉ mấy ngày ngắn ngủi, theo bước cha Thắng thực hiện công tác rao truyền Tin Mừng, chúng đã nhận được thật nhiều Hồng Ân của Thiên Chúa. Xin cảm tạ ơn Cha Trên Trời. Qua những ngày sống với cộng đoàn ở Kharkov, chúng tôi nhận thấy anh chị em ở đây có tinh thần và niềm tin tưởng, cậy trông vào Thiên Chúa rất mạnh. Tuy công ăn việc làm có lôi kéo làm trì trệ niềm tin. Phải chi nơi đây có một linh mục Việt Nam, ở bên cạnh anh chị em, thường xuyên giúp đỡ anh chị em phần thiêng liêng, chắc chắn cộng đoàn tại đây mỗi ngày một triển nở hơn. Đức Cha địa phận ngài cũng ước mong như thế, nhưng chính ngài cũng chưa có phương cách giải quyết!. Vậy ai thực hiện được điều này? Giáo Hội Công Giáo Việt Nam có biết được hoàn cảnh này không? Người công giáo Việt Nam hải ngoại sẽ giúp đỡ được gì?. 78


Riêng chúng tôi chỉ biết cầu nguyện và mơ ước ơn gọi sẽ được Chúa nhìn đến cộng đoàn nhỏ bé này. Riêng các linh mục Việt Nam có dịp cũng nên ghé qua đây để giúp đỡ cộng đoàn, nuôi dưởng những đứa con, đúa em, đua cháu đang bơ vơ này. Viết bài này chúng tôi cũng thầm cảm ơn Thiên Chúa đã cho Dòng Saint Paul gởi hai Soeur đến giúp cộng đoàn. Cảm ơn hai Soeur. Cảm ơn cha Thắng đã đến giúp cộng đoàn, đã hứa về xin bề trên sai đi- nhưng không biết Chúa sẽ sắp xếp như thế nao??? Nhóm 5 người truyền giáo (danh từ cha Thắng dùng) rồi cũng phải chia tay anh chị em ở đây để về lại Đức, tiếp tục cầu nguyện cho nhau. Xin từ biệt anh chị em, xin anh chị em giữ vững niềm tin, thường xuyên cầu nguyện và phó thác mọi việc cho Chúa. Chúng tôi từ giã Kharkov buổi sáng sớm để về một chi nhánh khác của nhà Dòng Saint Paul ở gần Kiev để thăm mẹ bề trên người Pháp và Soeur Nga trụ trì ở đây, đồng thời ngủ nhờ qua đêm để sáng ngày hôm sau về lại Đức. Chia tay hai soeur Lan, Diễm mà cảm thấy thương thương quyến luyến làm sao!..hai Soeur như hai đứa cháu gái nhỏ bé mà tâm hồn rất trong sáng, biết kính yêu Thiên Chúa, yêu tha nhân, biết hy sinh phục vụ đồng loại, hướng dẫn cộng đoàn tụ họp trong ràng chiên Thiên Chúa. Trên đường về cũng không suông sẻ như chuyến đi, chỉ trên hơn 500 cây số, thế mà vẫn bị cảnh sát lưu thông xa lộ, chận soát, hoạnh hoẹ đủ điều, trong khi xe chạy rất nghiêm túc, đúng quy luật cây số ấn định. Họ không chận ai lại chỉ nhắm mấy ông đầu đen để chận lại. Sự kiện nầy thường xảy ra chắc chỉ tại mấy ông đầu đen của chúng ta, vụng về chỉ vẽ để tạo thành thói quen xấu hư cho họ. Trước khi chia tay, một người anh em đưa chúng tôi 79


ra xa lộ để về lại Thủ Đô U đã nhắc khéo chúng tôi, nhớ phải có sẵn tiền U phòng bị trong túi, để nếu nhỡ gặp mấy ông bạn dân đường sá hỏi thăm, thì xì ra trước mời họ trà nước là Ô kê – nhớ đấy nhé. Nhưng thật tình bọn tôi đều ỉ i, và không ai còn đủ tiền U trong túi. Tại nơi bị chận lần đầu họ nói gì mặc họ, chúng tôi u ơ, coi như câm, điếc không biết gì, nhất là không bao giờ xìa giấy tờ gì cho họ cả (đây là do kinh nghiệm ở phi trường), thế là họ phất tay cho đi nhanh. Hú vía tưởng là thoát, không ngờ sau đó vài cây số lại bị chận lại, và cũng y chang lần vừa rồi, chúng tôi diễn lại trò cũ, và họ cũng cho đi. Chúng tôi nghĩ có lẽ đây là một điều lạ Chúa ban. Lần thứ ba, sau hơn 350 cây số đường vượt qua vô sự. Tới một đoạn đường có nhiều cây um tùm hai bên, một chú cảnh sát ra giơ bảng chận xe lại. Và dẫn tài xế của chúng tôi qua phía bên kia đường để mặc cả. Cuối cùng ngã giá lên xuống, chúng tôi đành cũng phải chi 50 đô la mới được tiếp tục lăn bánh. Đến một trạm xăng xin đổ và trả tiền Euro, tiền Đôla, thẻ tín dụng, đều bị từ chối. Thật là vô lý, nhưng đành chịu chứ biết sao? Qua hai ba trạm xăng khác cũng thế. Cuối cùng Chúa cũng sắp xếp cho chúng tôi có xăng mà chạy về Đức. Một trạm cho đổ xăng với hối xuất cắt cổ, cũng đành chịu chứ biết sao hơn, nhưng bọn họ vẫn nghĩ rằng họ mạo hiểm chứ chưa chắc họ đã có lời, họ cãi qua cãi lại chưa dứt khoát nhận hay không, nhưng anh tài xế Thanh Sơn đã nhanh tay đổ xăng vào bình. Đổ xăng xong chúng tôi ra một park nhỏ gần đó để kiếm chút gì nhét vào bụng, thì thấy một chàng của nhóm bán xăng leo lên xe chạy vút đi, khoảng 10 phút sau thì trở lại vẻ mặt đầy hí hửng, họ ngoắt gọi mời chúng tôi vào đổ xăng tiếp. Chúng tôi vui vẻ ngoắt tay chào từ giã… Tạ ơn Chúa cho chúng tôi một chuyến đi vui, ý nghĩa và nhiều kỷ niệm đẹp nhớ đời./80


Cầu nguyện cho Linh mục „Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi. Chính anh em là ánh sáng cho trần gian…… Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”. (Mt. 5, 13-14). Linh mục là ánh sáng trần gian, là muối cho đời. Khi lãnh nhận chức linh mục, các phó tế nằm sấp mình trên nền đất Cung Thánh Nhà Thờ trong khi cộng đoàn dân Chúa hát kinh Cầu Các Thánh. Hình ảnh nầy biểu tượng cho sự chết đi con người xác thịt, khi trỗi dậy, tiến lên Cung Thánh lãnh nhận bí tích Truyền Chức Thánh từ tay Đức Giám Mục, các tân linh mục bước vào cuộc sống mới trong Thần Khí của Thiên Chúa. Các ngài được mặc chiếc áo linh mục đầu tiên trong đời tận hiến. „Khi chúng 81


ta mặc chiếc áo khiêm hạ, chúng ta cảm thấy trên vai và trong tâm hồn chúng ta gánh nặng và khuôn mặt các tín hữu, các Thánh và các vị tử đạo của chúng ta“. Ngài nói: „Phẩm phục Thánh của vị thượng tế thật phong phú về biểu tượng. Tên của con cái Israel được ghi khắc trên những viên đá trang điểm vai áo Efod, là xuất xứ áo lễ của chúng ta ngày nay: 6 tên trên viên đá bên vai trái, 6 tên trên viên đá bên vai phải, viên đá đeo trước ngực ghi tên 12 chi tộc Israel. Điều này có nghĩa là vị tư tế hành lễ, mang trên vai dân được ủy thác cho mình“. (Đức Giáo Hoàng Franxico) “Trong mọi sự chúng tôi luôn chứng tỏ mình là những thừa tác viên của Thiên Chúa: gian nan, khốn quẫn, lo âu, đòn vọt, tù tội, loạn ly, nhọc nhằn, vất vả, mất ăn, mất ngủ, chúng tôi rất mực kiên trì chịu đựng. Chúng tôi còn chứng tỏ điều đó bằng cách ăn ở trong sạch, khôn khéo, nhẫn nhục, nhân hậu, bằng một tinh thần thánh thiện, một tình thương không giả dối, bằng lời chân lý, bằng sức mạnh của Thiên Chúa. Chúng tôi lấy sự công chính làm vũ khí tấn công và tự vệ”(2Cr. 6, 47). Linh mục nào cũng xác tín như thế trong những năm tháng đầu đời linh mục. Xác tín này sẽ phai nhạt dần, vì công việc mục vụ, tiếp xúc với giáo dân nhiều phức tạp, vì cử hành phụng vụ quá quen thuộc, hằng ngày lập đi lập lại nên tính thiêng liêng mất dần theo thời gian. Vì thế các linh mục phải tự đòi hỏi chính mình một cuộc sống kỷ luật nghiêm nhặt, năng làm phút hồi tâm và năng cầu nguyện “không thể sống nhân đức mà không có cầu nguyện” (Thánh Gioan Kim Khẩu). Tôi được nghe vị linh mục người Tây Ban Nha, dòng Chúa Giêsu giảng phòng bằng tiếng Việt nói trong một khóa linh thao: ”Chúng tôi khi chịu chức linh mục thì phải ít ra 10 năm sau sống với thiên chức này, chúng tôi mới trở thành linh mục thật sự”. Một câu nói thật đáng qúy, rất khiêm nhường và chân thật. 82


Linh Mục Phan Quang, SVD cũng tâm sự:“Tôi thích nhìn cuộc đời linh mục như một hành trình trở nên, a journey of becoming. Trở nên con người linh mục. Ngày truyền chức, cuộc hành trình trở nên linh mục bắt đầu. Linh mục không phải là một sản phẩm đã hoàn tất trong ngày chịu chức, mà là khởi đầu của một hành trình trở nên. Tôi không nghĩ là có một linh mục hoàn hảo (perfect priest), tôi chỉ tin vào một linh mục đang bước tới, a becoming priest”.(Đôi lời tâm sự về cuộc đời linh mục của tôi sau 5 năm). Tuy vậy, thời đại ngày nay không thiếu những linh mục bất toàn.“Phạm lỗi và thiếu sót trong bổn phận hàng ngày là như cơm bữa. Ngày nào mà linh mục không phạm lỗi, lỗi trong tư tưởng, lời nói việc làm. Thất tình vẫn chìm sâu trong lòng con người linh mục. Linh mục có đầy đủ cả hỉ, nộ, ái, ố, ai, ô, dục. Rồi tham sân si cứ đeo đuổi mọi nơi mọi lúc, chẳng khi nào chịu ngưng. Có mắt đó cứ phải nhìn. Có tai đó, cũng cứ được nghe đủ mọi mọi truyện. Có miệng lưỡi, ngôn từ nào cũng có thể phát biểu. Đôi khi dùng tòa giảng để khai chiến, chửi bới hay nói bóng, nói gió những người không cùng quan điểm với mình. Lỗi phạm cá nhân như tham danh vọng và chức quyền. Có những linh mục muốn đến để được phục vụ chứ không phải để phục vụ. Nhiều khi linh mục còn bót chắt tiền bạc cho riêng mình. Ngày xưa Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh các luật sĩ và biệt phái như nối dài tua áo, thẻ kinh, cầu nguyện lâu giờ để nuốt hết những tài sản của các bà góa. Ngày nay cũng không thiếu linh mục đi vào con đường lầm lạc đó. Rồi những lạm dụng chức vụ và phạm những lỗi lầm gây thương tổn cho bộ mặt của Giáo Hội. Trong thời gian qua, Giáo Hội và gióa dân đã chịu khổ vì những oan khiên của một số linh mục lạm dụng tình dục trẻ em và sống đời hai mặt. Một số các linh mục đã gây gương mù và gương xấu về những liên hệ tình dục không đúng đắn. Ôi kể sao cho 83


hết! Lầm lỗi của con người linh mục cũng chẳng thua kém gì lỗi lầm của mọi người“.(LM Giuse Trần Việt Hùng) *

Chúng tôi, những tín hữu công giáo luôn luôn tạ ơn Chúa đã ban các linh mục để dẫn đưa chúng tôi đến với Chúa Cha, vì“anh em không thể tìm thấy một ân huệ của Thiên Chúa mà bên cạnh không có hình bóng một linh mục” (Thánh Gioan Vianney). Thật vậy, linh mục như cây cầu nối kết giữa con người với Thiên Chúa. LM thay mặt Chúa giúp giáo dân lãnh nhận phép Thánh Tẩy lúc sơ sinh và tân tòng gia nhập đạo. Nào là nâng đỡ các linh hồn đau khổ, chữa lành những khi phạm tội, an ủi khi âu lo buồn phiền, thất chí, giải đáp những thắc mắc và hướng dẫn Thánh Kinh v.v… Chúng tôi luôn cầu nguyện cho các đấng chăn chiên để các ngài luôn sống binh an trong tình yêu của Chúa Giêsu, nhất là trong thời đại này,“Thời đại chỉ cần những linh mục thánh” (Lời Thánh PIÔ XII). Bổn phận của chúng tôi là hỗ trợ các linh mục hoàn thành sứ mạng của các ngài „Anh em hãy vâng lời những kẻ dẫn dắt anh em, hãy kính trọng họ vì họ phải săn sóc linh hồn anh em và chịu trách nhiệm trước mặt Chúa” (Dt. 13,17) vì các ngài đã hy sinh thật nhiều. Hãy nghe lời cầu nguyện của linh mục Michel Quoist –Prières để yêu thương và kính trọng các ngài. “Lạy Chúa, chiều nay con chỉ có một mình… những tiếng động trong nhà thờ lần lần tắt im… những người đi chầu đã về hết. Và con trở về nhà xứ, một mình. Này con đây, lạy Chúa, con chỉ có một mình. Sự yên lặng làm con khó thở. Sự cô quạnh đè nặng trên con … Lạy Chúa, nay con được 34 tuổi, Con có một thân thể như những người khác, với những bàn tay gân guốc để làm việc, với một quả tim được dành để yêu đương, 84


nhưng con đã phó dâng cho Chúa hết. Thật ra Chúa đang cần những cái đó. Con đã dâng tất cả cho Chúa rồi, nhưng lạy Chúa, dâng vậy thật là đau khổ. Thật đau khổ khi phải yêu tất cả mọi người mà không được giữ riêng lại một người nào. Thật đau khổ khi con phải dâng thân xác cho Chúa, bởi vì thân xác đó nó muốn tự hiến cho một người khác. Thật là đau khổ khi con bắt lấy một bàn tay mà con không được giữ luôn … Thật là đau khổ khi con gây được một mối tình và rồi phải trao mối tình đó lại cho Chúa. Thật là đau khổ khi con không được sống cho mình chút nào mà phải hoàn toàn sống cho kẻ khác. Thật là đau khổ để biết tội lỗi kẻ khác, trong khi con không được từ chối việc tiếp đón và nâng đỡ họ. Thật là đau khổ khi con nhận biết những sự ẩn kín của người ta mà không được tiết lộ cho ai. Này con đây, lạy Chúa. Này thân xác con. Này trái tim con. Này linh hồn con. Xin cho con được cao thượng đủ để nâng đỡ thế gian. Xin cho con trong sạch đủ để ôm ấp thế gian mà không muốn giữ nó lại cho con. Lạy Chúa, chiều nay, trong khi mọi sự đều yên lặng, và trong khi trái tim con cảm thấy đau đớn, khô quạnh. Trong khi mọi người đang dày vò hồn con và con cảm thấy bất lực để làm cho họ được thỏa mãn. Trong khi bao nhiêu khốn nạn và tội lỗi của thế gian là cả một sức nặng đè trên vai con. Thì con xin nói lại với Chúa là con sẵn sàng hy sinh luôn, không phải nói với một giọng cười diễu nhưng nói một cách chậm rãi, suy nghĩ và khiêm nhường. Lạy Chúa, Này con một mình trước mặt Chúa, trong sự yên lặng của buổi chiều nay. Amen! 85


Kỷ niệm thời thơ ấu Vừa đến cổng nhà thằng Trung, Trực gặp ngay hai chị em con Thu và con Thi đang ngồi trên bậc thềm xi măng nhà nó, hai tay cầm miếng dưa to đưa lên miệng. Vừa thấy bóng thằng Trực, miệng chúng bô bô: „Nhem nhem thèm, tao cho một miếng!... Nhem nhem thèm, tao cho một miếng!“ Con Thi và con Thu vừa nói vừa nhồm nhoàm ngoạm vào miếng dưa hấu đỏ au, trông thật hấp dẫn, khiến vị giác của thằng Trực làm việc liên hồi, nước miếng, nước dãi cứ thi nhau tiết ra khiến nó phải mấy lần nuốt vào ừng ực. Nhìn hai chị em con Thi con Thu vừa ăn vừa nhem thèm nó với điệu bộ nghênh ngang ta đây mà thằng Trực muốn tống cho mỗi đứa một thoi cho bõ ghét. Nhưng đó chỉ là ý nghĩ thôi, chứ đời nào nó dám đụng đến hai đứa con gái này, hai con nhè, em của thằng bạn thân của nó từ lớp năm đến giờ.(lớp năm là lớp một bây giờ). 86


Đã 5 năm rồi nó và thằng Trung thân nhau còn hơn ruột thịt, lúc ăn, lúc chơi, lúc ngủ, lúc nào cũng như bóng với hình. Hằng ngày cứ giờ tan học buổi trưa là thằng Trung rủ nó mà như ép buộc nó về nhà thằng Trung ở lại ăn cơm trưa và chiều hai đứa lại cắp sách đến trường (thời gian đó học trò bậc tiểu học đi học cả ngày, chỉ được nghỉ chiều thứ tư hoặc chiều thứ năm, tùy trường). Có khi không muốn về nhà, nó ngủ lại với thằng Trung, vậy mà má thằng Trung không la rầy chi cả, còn khuyến khích nó ở đây luôn với thằng Trung cho có bầu có bạn. Mới đầu bà nó không cho phép nó ăn ngủ lại nhà thằng Trung, bà nó la nhiều lần lắm, nhưng sau má thằng Trung phải đến nói chuyện với bà nhiều lần, bà nó nể lời nên bà nó mới cho phép. Ở nhà này không khi nào nó dám động đến hai cô tiểu thư Thu và Thi cả. Hai cô bé này đang học lớp tư và lớp ba, nổi tiếng là hay nhè, động một tí là nước mắt ngắn nước mắt dài tuôn ròng ròng, làm như mắt của chúng chỉ dùng để khóc không thôi vậy, và lại còn khóc dai không ai dỗ nổi nữa chứ. Nó thấy hai đứa này khác xa con em của nó, con Chôm cũng bằng tuổi con Thu và học lớp ba với con Thi. Em gái nó mới bằng ấy tuổi mà đã biết nấu cơm, giặt quần áo, dọn dẹp nhà cửa thật gọn gàng vén khéo, lại còn phụ giúp bà nó nhổ cỏ tưới rau v.v… Quần áo thì thiếu thốn chứ đâu có được như hai chị em con con Thi Thu này. Thế mà lúc nào nụ cười cũng đượm trên môi em chứ có khóc nhè bao giờ đâu. Chắc tại vì không có ai dỗ dành nên em không khóc nhè chăng? Thằng Trực cũng biết thân phận anh em nó côi cút, từ ngày lớn lên nó không được biết ba mẹ nó là ai cả. Nó lớn lên trong sự thương yêu đùm bọc của bà nội nó trong mái nhà tranh và mảnh vườn nho nhỏ do tự tay bà nó vun trồng những luống cải, những luống xà-lách và gieo thêm ít luống ngò, trồng vài liếp rau thơm, rau húng, rau răm v.v… Mỗi ngày bà nó và em nó hái rau đem 87


ra chợ bán để lấy tiền mua gạo và thức ăn hàng ngày. Thường thì ở nhà chỉ có nó là con trai nên những công việc như xách nước đổ đầy chum, hoặc gánh nước tưới rau là việc của nó. Thế mà đôi khi bà nó cũng không cho nó làm vì bà nó cứ nói rằng, để thì giờ cho nó học hành, sau này đỗ đạt ra làm quan cho bà nó nhờ. Vì thế trong lớp không khi nào nó không được lãnh bằng danh dự đem về nhà. Bà nó rất hãnh diện về nó vì lúc nào nó cũng được thầy giáo khen là học giỏi và ngoan ngoãn nhất trường lớp. Việc bếp núc thì không khi nào bà nó cho nó mó tay vào vì bà bảo đó không phải là việc của con trai, con trai phải làm những việc to lớn chứ ai lại cứ chui vào bếp với những việc cỏn con lụn vụn… Thằng Trực lên tiếng hỏi: „Ê thằng Trung có nhà không?“ Hai con nhè không thèm trả lời câu hỏi của thằng Trực mà còn toét miệng cười và lập lại câu „nhem, nhem, thèm tao cho một miếng!“. Con Thi vừa nói vừa nghiêng đầu nhìn nó, hàm răng trắng bóng cắn ngập vào miếng dưa hấu đỏ tươi khiến nước dưa chảy chan hòa hai bên mép xuống chiếc áo đầm xanh lơ có viền nhiều đăng-ten như chiếc áo của cô công chúa Bạch Tuyết với bảy chú lùn mà nó thấy trong phim. Chiếc áo mà con Chôm em nó thường mơ ước mà bà nó không bao giờ sắm cho em nó. Bà nó nói mình là con nhà nghèo, phải ăn mặc giản dị, phải „ăn theo thuở, ở theo thì“. Nó cũng biết là chẳng bao giờ bà nó có nổi tiền để mua chiếc áo đó cho em nó, với lại bà nó nói cũng đúng, em nó mà mặc chiếc áo đó vô thì chắc là không đẹp bằng con Thi đâu. Nó thấy tiếc cho chiếc áo bị dính những giọt nước dưa đo đỏ. Nó quên mất ý nghĩ muốn thoi cho chị em con Thu mỗi đứa một thoi cho bõ ghét, nên tự nhiên miệng nó thốt ra: „Thèm, cho tao một miếng!” Cơn thèm làm cho thằng Trực không giữ được mồm miệng mà thốt ra câu ấy. Con Thu nhìn con Thi, con Thi nhìn lại con Thu, 88


không đứa nào muốn cho nó cắn một miếng, thế mà miệng chúng ra rả: “Đứa nào thèm tao cho một miếng”. Sau khi thốt ra khỏi miệng câu nói trên, nó thấy hối hận ngay và không để cho chị em con Thu, Thi thốt lời nào, nó bèn bỏ chạy một mạch về nhà chui vào bếp đóng cửa lại, ngồi xuống xó bếp gục đầu vào lòng mà thấy hối hận và xấu hổ không biết chừng nào. Nếu bà nó mà biết được là nó đi xin ăn một miếng dưa hấu của chị em con Thu thì thế nào bà nó cũng đánh cho một trận. Đòn thì nó không sợ vì bà nó có bao giờ đánh đau đâu, nhưng nó sợ nhất là bà nó buồn, bà nó sẽ vắt tay lên trán và thở dài mãi. Những tiếng thở dài của bà nó làm cho nó chết điếng trong lòng. Nó nhớ có một lần nó lén lấy trái cây trên bàn thờ mà bà nó vừa mới cúng xong, khi biết ra bà nó không la rầy cũng không đánh mắng chi nó mà bà cứ nằm vắt tay lên trán mà thờ dài mãi làm nó từ đó đến giờ không bao giờ dám phạm lỗi nữa. Thế mà hôm nay tự dưng nó lại phạm một lỗi lầm to thế… Miếng dưa hấu lại ám ảnh nó khiến tuyến nước miếng lại thi đua nhau làm việc. Nó vội nuốt ực cơn thèm muốn và tủi nhục xuống bụng rồi gục đầu vào hai bàn tay suy nghĩ. Tại sao cũng là người cả mà bà nó và anh em nó phải nghèo nàn thiếu thốn như vậy mà nhà thằng Trung thì cái gì cũng có. Quần áo thì chúng thay mỗi ngày một bộ, đi học về lại thay bộ khác để mặc ở nhà. Các em nó thì có cả đống áo đầm, cái nào cũng đẹp cũng sang hết. Đồ chơi của chúng nó không thiếu một thứ gì, từ những khẩu súng bắn bằng nút điên điển tối tân mà nó không bao giờ dám mơ ước đến, những chiếc xe hơi bằng sắt vặn dây thiều của thằng Trung đến những con búp bê nhắm mắt mở mắt mà anh em nó thèm thuồng biết chừng nào. Tất cả, nhà thằng Trung có hết.

89


Ba nó thì có đầy cả mấy tủ sách, báo thì có người đến đưa tận nhà hằng ngày. Lần nào đến nhà thằng Trung, nó cũng thấy ba thằng Trung nằm trên võng hay ngồi chồm hổm trước cửa mà đọc sách hay đọc báo. Có lẽ ba thằng Trung có cái thú đọc báo khi ngồi chồm hổm hay sao ấy, mà lần nào nó cũng thấy như vậy. Ông lại thích ngồi ngay trước cửa lớn của ngôi nhà trên nền xi-măng láng bóng, vừa đọc báo vừa nhâm nhi những hột đậu phụng rang giòn bỏ trong một cái lọ thủy tinh tròn to. Nhiều lần thằng Trung và nó cũng đã bốc trộm những nắm đậu phụng rang trong hũ nhưng ba nó không thấy vì ham đọc báo hay vì ông để mặc cho chúng nó tự do làm như thế? Những hột đậu phụng mà chị người giúp việc nhà thằng Trung rang thật khéo, không bị bong mất vỏ nâu nâu bên ngoài mà đậu vẫn giòn thơm như thường. Thường thường thị chị ấy rang một lúc đầy cả một thẩu lớn như thế rồi đậy nắp thật kỹ để cho ba nó ăn dần. Mỗi lần thấy ba thằng Trung đi đâu về cũng có một nắm kẹo Nougat phân phát cho các con của ông. Trực thèm có một ông bố quá chừng. Nó cũng luôn luôn được bố của thằng Trung chia phần như các con ông và còn xoa đầu nó khen ngoan nữa khiến nó cảm động cúi đầu rưng rưng nước mắt và tưởng tượng thấy bố nó cũng giống bố thằng Trung vậy, nghĩa là cũng cưng con, hay mua quà cho các con… Thế mà bố nó không còn nữa. Nó nghe bà nội nó bảo là bố nó chết trận vì đi lính đánh nhau với Việt cộng. Anh em nó lớn lên trong sự đùm bọc, săn sóc thương yêu của bà nội nó. Từ khi lớn lên đến giờ nó không biết mẹ nó là ai cả, chỉ nghe bà nội nó nói là mẹ nó đã đi thêm bước nữa. Nó cũng không hiểu “đi thêm bước nữa” là thế nào, nó có hỏi thì bà nó gắt: “là đi theo thằng bố khác rồi!..” Thế là từ đó nó không bao giờ dám gợi chuyện với bà để hỏi về thân thế của bố và mẹ nó nữa. Giá nó có một bà mẹ hay một ông bố hoặc là có cả hai như 90


những đứa trẻ khác thì nó đâu có khổ, đâu có thiếu thốn mà thấy dưa hấu đến thèm thuồng như vậy. Sao mà hai cái con nhè ấy dễ ghét đến như thế cơ chứ. Mọi khi đến nhà chơi với thằng Trung mà hễ có hai cái con nhè này sà đến đòi chơi chung là thằng Trung liền quắc mắt rồi đuổi đi chỗ khác chơi liền: “Đồ con gái hay nhè, cút chỗ khác chơi!” Thế là hai con nhè, nước mắt ngắn nước mắt dài, chạy đi mách mẹ. Thằng Trung chẳng sợ mẹ nó rầy chi cả, còn tỉnh bơ kéo nó vào phòng riêng chơi đánh kiếm hay làm cao-bồi bắn súng, chơi chán rủ nhau ra sân bắn bi, đánh đáo, vít hình… Chỉ khi nào chúng nó chơi tạt lon hay rượt bắt thì mới cho hai con nhè chơi chung mà thôi, nhưng trong trò chơi lúc nào Trực cũng phải nhường hai con nhè hết, nên những lúc chơi với chúng nó, Trực chẳng thấy hứng thú gì hết. Trực và em nó luôn được tiếng là ngoan nhất làng, vì con mồ côi ở với bà mà đi đâu quần áo cũng tươm tất, lại được đến trường học hành, lúc nào cũng lễ phép với người lớn, hòa hoãn với những đứa bé cùng lứa tuổi nên anh em nó đi đến đâu cũng được mọi người thương mến, vì thế má thằng Trung thích nó ở chơi với thằng Trung, vì má thằng Trung thường nói với thằng Trung là “gần mực thì đen, gần đền thì sang” con phải chơi với anh em thằng Trực mà học cái tánh nết na nhu mì của anh em nó. Ba ngày nay rồi, trưa nào thằng Trung cũng rủ Trực về nhà ăn Trung cơm mà Trực nhất định không chịu khiến thằng Trung thắc mắc mãi. Mày giận gì tao hả Trực? Không. Nó trả lời với vẻ mặt lầm lì. Thế sao mấy ngày rồi mày không về nhà tao ăn cơm? Mẹ tao nhắc mày luôn đó, bà nói hôm nay tao phải rủ cho được mày 91


về ăn cơm đó. Hôm nay bà nấu canh cá với lại món tôm rim mà mày thích đó. Hôm nay tao phải về nhà tao, bà tao bảo vậy. Thế thì mai mày sang nhà tao nhé. Nào, ngoéo tay. Thằng Trung đưa ngón tay trỏ cong cong ra chờ đợi ngón tay trỏ của thằng Trực ngoéo vào là lời hứa đã được chấp thuận, như lúc tụi nó đã ngoéo tay thề hứa chơi chung với nhau suốt đời, không bỏ nhau. Trực không muốn thấy hai cái bản mặt hai con nhè tí nào cả vì vẫn còn tức cái hận xin dưa hôm nọ, nhưng nó thấy ngón tay của thằng Trung chờ lâu quá không đành, với lại cái món tôm rim mà nó và thằng Trung đều thích ăn. Má thằng Trung mà kho rim thì phải biết, nó ăn đến ba bốn chén cơm mà vẫn cứ còn thòm them. Khi ngón tay của nó đưa ra, thằng Trung liền ôm lấy vai nó xiết mạnh một cách thân thiết làm nó cảm động và cơn giận kéo dài ba bốn ngày nay tan biến một cách nhẹ nhàng. Trưa hôm đó nó lại về nhà thằng Trung ăn cơm như thường lệ và hai cái con nhè kia cũng vẫn nhìn nó cười thay cho cái chào. Con Thi còn hỏi han nó nữa chớ: Ê Mấy ngày nay mày đi đâu mà không lại ăn cơm? Ờ, tao phải về nhà với bà tao. Bà mày đau hả? Không. Vậy sao mày không đến nhà tao ăn cơm rồi đi học chiều luôn? Ờ, ờ… tao… tao…

92


Thằng Trực chưa tìm ra được lời nào để trả lời câu hỏi của con Thi thì con Thu đã chạy ra nắm lấy tay nó kéo vào bàn học của nó để khoe tập giấy màu và cây kéo mới. Này anh Trực ơi, có đẹp không hả? Ba em mới mua ngày hôm qua đó. Vừa nói Thu vừa đưa cây kéo vào tay Trực: Này, anh cắt thử mà xem, nó sắc lắm. Khi nào anh cần thì Thu cho anh mượn nhé? Ừ. *** Thằng Trực vừa cười vừa trả lời con Thu và cơn bối rối cùng những giận hờn đã tan biến đâu mất. Trực đi thật nhẹ nhàng định đến sau lưng Trung bịt mắt xem thằng bạn có đoán ra là ai chăng, nhưng thật vô ích vì con Thu ngồi đối diện với Trung đã lên tiếng: Kìa anh Trực đến... thế là Trung đã a thần phù chạy ra đón Trực vào. Hôm nay là ngày ăn mừng con Thi vừa thi đỗ bằng tiểu học và trúng tuyển vào lớp đệ thất trường nữ trung học công lập độc nhất trong tỉnh lỵ. Em Chôm cũng thi đỗ như nó nhưng chẳng có ăn mừng gì hết ráo, em chỉ được bà nội của Trực thưởng cho mười đồng bạc mà mừng đến phát khóc và được Trực dắt em đi chơi, bao em một chầu xi nê phim Bambino, sau đó hai anh em làm thêm một chầu đậu đỏ bánh lọt bên hè đường là em vui vẻ và hài lòng lắm rồi. Thật con nhà giàu có khác, bà nội Trực vẫn thường nói là "phú quý sính lễ nghĩa"con ạ. Hôm nay, thực tình Trực cũng không muốn đến dự bữa tiệc này một tí nào cả, nhưng vì chỗ quá thân tình, ngày thường còn có mặt luôn thì những ngày đặc biệt này Trực vắng mặt coi sao được. Phần thì vì Trực năn nỉ mãi mà em Chôm nhất định không chịu cùng đến dự, viện lẽ là em không thích tiệc tùng đông 93


người, phần thì Trực cũng ngại ngùng vì đến dự tiệc mà mình không có bộ đồ vía nào cho ra hồn cả, mà lại đến dự tiệc nhà giàu nữa thì thế nào cũng có đông họ hàng bà con nhà thằng Trung nữa. Nhưng Trung cứ nhất định là Trực phải đến, nếu không thì nó giận luôn cho coi và những lúc như thế nó lại nhắc lại lời hứa của hai đứa thề hứa nghoéo tay với nhau từ lúc còn học lớp tư lớp năm với nhau, nay hai đứa cùng là học sinh lớp đệ lục trường trung học Nam công lập chứ bộ, sang năm hết hè này là vào lớp đệ ngũ rồi chứ ít sao. Trên chiếc bàn ăn mọi khi, hôm nay được phủ một lớp khăn trắng muốt, những chiếc ly thuỷ tinh trong suốt, bên trong mỗi ly là một khăn giấy đủ màu trông rất đẹp, bày bên cạnh mỗi chiếc ly là một chiếc chén kiểu và một đôi đũa chạm trổ rất đẹp mà mọi khi Trực thường thấy chúng được chưng trong tủ kiếng, thức ăn bày la liệt trên bàn. Chu choa ơi, tiệc con nít mà trịnh trọng còn hơn những bữa giỗ của nhà bà cháu Trực nữa. Mỗi lần giỗ ông nội hay giỗ ba Trực, bà chỉ mua có một con gà, làm sạch sẽ xong đem luộc chín rồi cho nó ngậm một chiếc hoa hồng, trông con gà thật đẹp trong chiếc đĩa to tròn, trịnh trọng làm sao! Bà nó bày con gà lên bàn thờ khói hương nghi ngút, bên cạnh con gà là đĩa bánh cốm mà bà rất thích, bà mua ở tiệm bánh „Rồng Vàng“, tiệm bánh mà bà nó thường nói là làm bánh vừa khéo vừa tinh khiết, nổi tiếng từ Hà Nội vào đến Dalat và đĩa trái cây đủ loại. Cúng xong bà hạ con gà xuống chặt ra làm hai đĩa, phần cổ cánh thì bà nấu canh với su su trồng trong vườn, còn bộ đồ lòng gà thì bà xào với đậu hoà lan hay su hào cũng tự tay bà trồng trong vườn nhà. Trực tự nhiên thấy ngậm ngùi làm sao, cúi nhìn xuống đất di di mũi giày trên nền xi măng láng bóng mà nỗi hờn tủi kéo đến xâm chiếm đầy hồn... - Anh Trực à, ngồi gần em đi, chỗ này em để dành cho anh đó. Chôm đâu mà không đến hả anh? 94


Thi lên tiếng mời chào khiến Trực đâm ra ngượng ngập thế nào. Sao hôm nay tử tế thế, lại còn gọi Trực bằng anh nữa, mọi khi nó vẫn mày tao với Trực luôn cơ mà. Thật ra thì có khi nào con Thi không tử tế với Trực đâu, lúc nào nó cũng vui vẻ với Trực, cũng coi Trực như anh Trung của nó đấy chứ, mà những lúc nó mày tao với Trực, Trực lại thấy dễ chịu hơn là khi nó anh anh em em với Trực. Vậy mà lúc nào Trực cũng có cảm tưởng là nó không có cảm tình với Trực vậy, có lẽ vì Trực mặc cảm cái lần xin dưa năm nào chăng... Cái chuyện xa xưa đó chắn chắn là con Thi chẳng nhớ một tí gì, nhưng với Trực thì sao nó vẫn cứ dai dẳng trong đầu, nên hễ nhìn thấy Thi là nó thấy ghét cái bản mặt con nhè. Bây giờ Thi không còn nhè nữa nhưng cái tội nhõng nhẽo ba mẹ nó thì Trực thấy nó không bỏ một tí nào cả, mỗi lần thấy nó nhõng nhẽo mẹ nó là Trực lại thấy ghét con Thi thậm tệ và thương em Chôm của Trực vô cùng. Mà nghĩ cho cùng Trực là thằng chúa giận dai chứ con Thi nó có khi nào để bụng đâu. Có lần Trực cũng làm cho nó giận đến cả tuần không thèm nhìn mặt Trực đó thôi. Một hôm Trực và Trung từ trong phòng đi ra, ngang qua phòng hai con nhè, Trực nghe tiếng hát vọng từ trong phòng ra "chùa Hương có người chết trôi...."Trực liền phóng miệng "có cô đái dầm...“ Thế là con Thi giận lắm, mà chắc là nó mắc cở nhiều hơn vì nó có bệnh đái dầm từ nhỏ đến giờ chưa hết, mặc dù má nó đưa nó đi chữa bệnh khắp nơi từ ông lang ta cho đến những ông „đốc tờ“ nổi tiếng mà bệnh của nó cũng không thuyên giảm, sau má nó lại nhờ đến những hoàn thuốc tễ mua ở tiệm thuốc của ông tàu hiệu "Con Cua", rồi đến những liều thuốc chữa mẹo mà mọi người mách cho má nó, chẳng hạn như bằng cách bắt con nhện to đen đem nướng rồi nghiền thành tro cho nó uống, hoặc là bằng cách lấy ba cái lông đuôi gà rửa sạch đốt cháy thành than, tán nhỏ hoà với rượu uống là hết ngay v.v…, nhưng bệnh của nó cũng không 95


hề dứt được, nên hễ ai nhắc tới căn bệnh của nó là nó mắc cở dữ lắm và giận ghê lắm. Suốt một tuần lễ sau đó hễ cứ thấy mặt Trực là nó lui vô phòng, và hễ bữa cơm nào có Trực là con Thi viện cớ nọ cớ kia để bỏ cơm, làm Trực không dám đến nhà nó nữa, và sau đó Trực phải xin lỗi nó, và nói chuyện với má nó để bà hiểu, má nó phải dỗ dành nhiều lần con Thi mới chịu thôi không giận Trực nữa. Trực ngồi xuống bên cạnh con Thi và Trung, rồi đến Tân, Huy, hai người em họ của Trung, bên cạnh Thi thì con Nga, con Thuý, cũng vừa thi đỗ như nó và con Tý em của Tân, Huy, đứa nào cũng diện áo đầm đẹp đẽ, tóc cài nơ vì chúng là con nhà giàu cả. Trực lại nhớ em Chôm, may mà em không đến chứ em mà đến đây với bộ quần áo mộc mạc thì em Chôm và Trực xấu hổ biết chừng nào bên cạnh những chiếc áo đầm rực rỡ sang trọng. Trực là con trai ăn mặc sao cũng được cả chứ em... Trực nhìn sang con Thi trong chiếc áo đầm màu hồng, tóc cũng cài nơ hồng, đối diện nó là con Thu cũng ăn mặc y hệt chị nó. Trực lại ngậm ngùi nghĩ đến em Chôm và đến bà, vài tháng nữa bà lại phải may sắm cho em vài bộ đồng phục nhà trường, quần dài, áo dài trắng, áo dài xanh, guốc dép, sách vở v.v và v.v... anh em Trực càng lớn càng là gánh nặng cho bà Trực, vì thế đứa nào cũng cố gắng học hành ngoan ngoãn. Chưa lúc nào mà Trực và em Chôm đứng dưới hạng thứ ba trong lớp mỗi cuối tháng, bà Trực thường nói đó là phần thưởng của hai anh em đem về cho bà, như vậy là bà vừa lòng và vui lắm rồi. Con Tý nhìn Trực, cái nhìn soi mói từ đầu tới chân làm Trực hơi mất tự nhiên. Trực trừng mắt nhìn lại nó khiến nó quay nhìn đi chỗ khác. Tự ái trong lòng Trực lại nổi lên, Trực rất ghét con Tý vì con này rất chanh chua, thương ganh tỵ với em Chôm vì em học giỏi và thấy Trực hay lui tới chơi thân với Trung nên nó ghét lắm. Một hôm Trực và cả nhà Trung đang ăn cơm trưa thì 96


nó và mẹ nó đến nhà Trung, nó liền sà xuống mâm cơm và nói ngay vào mặt Trực. "Ê, đồ ăn chực, Trực, trực, là đồ ăn chực". Trực giận lắm, vừa tủi thân vừa tức giận nên nước mắt ứa ra và Trực buông bát cơm cắm cổ chạy về nhà, mặc cho thằng Trung chạy theo năn nỉ. Chiều đó Trực bỏ học, nằm nhà gặm nhấm nỗi buồn tủi và giận đời hết sức... Đến tối má thằng Trung và cả má con Tý đến nhà xin lỗi bà Trực và khuyên Trực đừng giận gì con Tý cả vì nó còn nhỏ ăn nói tầm bậy tầm bạ, yêu cầu Trực bỏ qua. Nhờ vậy cơn giận cũng lắng dần dần, nhưng sự đi lại nhà Trung tự nhiên Trực cũng thưa thớt dần vì kỷ niệm chua cay đau đớn này cứ ám ảnh Trực mãi. *** Không khí và thời tiết California luôn luôn gợi Trực nhớ đến Dalat thân yêu, nơi Trực được sinh ra và lớn lên với biết bao nhiêu vui buồn tủi cực, bao nhiêu êm đềm cũng như sóng gió trong cuộc đời, nơi đó biết bao người thân yêu của Trực đã đi vào lòng đất, và biết bao người thân yêu còn đang sống dưới chế độ hà khắc bóc lột của bạo quyền Việt cộng. Những kỷ niệm xa xưa từ thuở thơ ấu lại kéo về, Trực ngẫm nghĩ và mỉm cười một mình, tuổi thơ sao nhiều kỷ niệm quá, mà về phần Trực, chàng chỉ nhớ những kỷ niệm chua cay nhiều hơn là những kỷ niệm êm đềm những ngày sống bên anh em Trung. Nếu không nhận được thư của em Chôm và tập nhật ký của Thi nhờ Chôm trao lại cho chàng lúc em ra đi vượt biển tìm tự do, thì Trực không bao giờ biết được rằng trong lòng cô gái đài các nhà giàu đó lại đã yêu mình tha thiết mà không hề thốt một lời nào. Những giòng nhật ký với hàng chữ xinh xắn của thuở xa xưa gợi cho Trực nhiều thương cảm, ngậm ngùi về người con gái đẹp đã có với Trực rất nhiều kỷ niệm thời thơ ấu. Từ khi Trung và Trực 97


đỗ tú tài xong, năm đó em Chôm và Thi cũng đậu bằng trung học đệ nhất cấp, Trung tiếp tục theo học nốt phần tú tài II và sau đó được gia đình cho đi du học ở Pháp, phần Trực ra đi làm để giúp bà và để em Chôm được tiếp tục ăn học. Trực thì sau khi đi làm việc được vài năm ở một hãng của Mỹ, thì em Chôm lập gia đình với một thằng bạn học của Trực, vài tháng sau bà Trực bị bịnh nặng qua đời. Trực tình nguyện vào Quân Trường Thủ Đức, từ đó chàng lang bạt giang hồ, vui với đời binh nghiệp, không một lần trở về thăm Chôm và gia đình Trung cho đến ngày vật đổi sao dời năm 1975. Trực không hề gặp lại Thi lần nào, tuy Trực và Trung vẫn thư từ liên lạc với nhau luôn. Trực đâu có ngờ rằng trong thời gian đó là thời gian Thi thường lui tới với vợ chồng em Chôm để dò la tin tức của Trực, nàng cũng mong ngóng một ngày về phép của Trực như em Chôm đã từng mong ngóng, thế mà Trực vẫn cố tình làm ngơ để tự cho phép mình sống một cuộc đời binh nghiệp phóng túng. Ngồi ngả người ra trên chiếc ghế bành bọc da, mắt lim dim theo khói thuốc vấn vít trên trần nhà Trực để hồn mình tự do phiêu du với những lời cầu khẩn cho Thi, cho ngừơi con gái lúc nào cũng xa cách Trực, một khoảng cách do Trực ngăn ra từ những ngày còn thơ bé hay chơi đùa bên nhau, có lẽ vì hai hoàn cảnh gia đình khiến Trực muốn giữ mãi khoảng cách. Đâu ngờ rằng trong lòng cô gái đài các ấy lại thương yêu, lưu giữ hình ảnh cái thằng Trực nghèo nàn này. Anh thật không ngờ em gái có một tâm hồn thầm lặng và sâu sắc quá, thật khác xa với bề ngoài vui vẻ và trực tính của em. Em ạ, hãy ngủ yên trong lòng biển lạnh, anh sẽ nhớ em qua những nén nhang để cầu nguyện cho hương hồn em, em gái ạ. Em mãi mãi là em gái của anh, của Trung, Thi nhé. Hãy ngủ yên em gái dễ thương của anh./-

98


Một thoáng suy tư Để tình yêu thương trong gia tộc luôn được liên kết và triển nở, ngoài những họp mặt ngày Tết, ngày giỗ, thỉnh thoảng gia đình chúng tôi tổ chức, ông bà, cha mẹ, con cháu cùng đi chơi, đi ăn vào cuối tuần, hay họp mặt vào những dịp mừng sinh nhật, mừng ngày kỷ niệm hôn phối, ngày Motherday, Fatherday v.v… lần này chúng tôi rủ nhau thăm công viên thành phố. Công viên thật rộng lớn với đủ mọi thứ hoa rất lạ, những cây kiểng hiếm quý của tất cả các quốc gia trên thế giới được đem về trồng nơi đây. Bước vào nhà kiếng rộng mênh mông, một cây dâu tằm khá lớn được trồng trong một chậu bằng sứ mầu xanh cẩm thạch thật to, 99


có chạm trổ hình Phước Lộc Thọ đập ngay vào mắt, tôi ngỡ ngàng dương mắt thật lớn mà nhìn. Một chút sững sờ và vui mừng khôn xiết, nỗi mừng „tha hương ngộ cố tri“! Nhìn kỹ thì cây dâu này chăc cũng được sống ở đây nhiều năm rồi, gốc cây dâu già cỗi, cành dâu khẳng khiu, mầu lá xanh bạc bạc, đầy cành nhưng mỏng mảnh, song „người ta“ vẫn không kém phần duyên dáng. Cả một trời quê hương trong tôi sống dậy, tôi ngẩn ngơ, lòng vui như mở hội, cứ đứng ngắm „người ta“ mãi không chán. „Vườn dâu xanh ngát một màu“ đang trải dài đến tận chân đồi, tiếp cận hòa hợp với những đồi trà trùng trùng điệp điệp trước mắt tôi. Chắc chắn cây dâu này đã được mang từ Bảo Lộc (Dalat) về đây, chứ còn ở đâu nữa!!! Trong cái trí óc bảo thủ, ích kỷ và hiểu biết nhỏ nhoi của tôi cứ nhắc đi nhắc lại như thế. Một loại cây sống ở miền nhiệt đới mà được nâng niu, „cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa“. Không cưng sao được, „người ta“ là dân sống ở xứ nóng trong nhiệt độ quanh năm khoảng 25 đến 35 độ bách phân. Trong khi nơi đây thì suốt năm sương mù lạnh lẽo, chỉ có được vài tháng nắng ấm mà thôi. Thế mà „người ta“ vẫn sừng sững đứng ngạo nghễ giữa vườn đầy những cỏ cây hoa lá hiếm quý nơi xứ lạnh quê người. (tôi quên mất là „người ta“ đang được đứng trong nhà kiếng, hi hi… Và những con tằm đang độ „ăn lên“ hay gọi là „ăn rỗi“ lúc nhúc trong những chiếc nong ở bên quê nhà lại hiện rõ lên trong trí óc tôi.Tằm „ăn lên“ là tằm đang độ lớn, ăn rất mạnh. Tuy tầm chỉ ăn có vài ngày thôi nhưng tốn rất nhiều lá dâu, những chiếc lá dày dặn xanh biếc vừa bỏ vào nong, chỉ nghe được những tiếng cắn lá rột roạt, sột soạt của tằm, nhoáng cái đã hết mớ lá dâu. Phải bỏ lá dâu cho tằm ăn liên tiếp không nghỉ trong suốt thời gian đó. Ngắm nhìn những chiếc lá dâu làm kiểng ở đây, nó mỏng mảnh và màu xanh của lá trông nhợt nhạt, không tự nhiên, 100


có lẽ, vì được vun bồi bằng chất hóa học đặc biệt. Tôi nghĩ, giá mà những chú tằm được ăn những lá dâu này thì chắc chắn tằm sẽ không có sức mà cho những cái kén đầy đặn và như thế, tơ sẽ không đẹp, không mượt mà, hoặc chẳng cho được sợi tơ nào! Trước khi làm kén, tằm ăn ít lại rồi ngưng, không ăn nữa, chỉ bài tiết thôi. Ngày cuối cùng, khi chất dơ đã được bài tiết hết, toàn thân tằm bây giờ như có một phép lạ, ánh lên một màu vàng óng rất đẹp; lúc này nhìn thân tằm như một chiếc túi nhỏ đựng chất tơ lỏng. Khi tằm nhả tơ ra khỏi miệng, chất tơ này tiếp xúc với không khí liền cứng lại thành những sợi tơ. Lúc này tằm được cho lên „bổi“ (bổi là những cành cây để cho tằm giăng tơ) để nhả tơ làm kén. Tằm chọn chỗ thuận tiện, bắt đầu kết những mối tơ bên ngoài rồi nằm vào giữa, đan dày cái ổ của mình lên cho đến khi trong bụng hết tơ. Thật là tuyệt diệu! (Ngắm nhìn tiến trình sống của con tằm mới thấy rõ quyền năng sáng tạo của Đấng Tạo Hóa). Tằm làm việc thật là chăm chỉ, từ lúc nhả tơ cho đến khi hết tơ trong bụng, tằm không ngưng nghỉ. Có lẽ khi tằm ăn cũng không nghỉ thì bây giờ nhả tơ, tằm cũng không nghỉ.!? (theo luật bù trừ của tạo hóa mà) và tới đây là chung kết kiếp con tằm. Tôi cảm thương con tằm quá! Đã đến giai đoạn ươm tơ. Những cái kén được thả nổi trên mặt nước, trong nồi nước đang sôi, người ươm tơ gỡ mối tơ ngoài cùng, chặp ba mối, bốn mối hay năm mối làm một, tùy theo tơ dày hay mỏng rồi đính vào một cái guồng, quay quấn vào đó. Từ những sợi tơ này cho đến lúc dệt thành tấm lụa và đem ra bán cho người tiêu dùng còn phải qua tay người thợ dệt lành nghề và con mắt nghệ thuật của họ, mà trên thị trường đầy rẫy tơ lụa, nào là lãnh, sa, xuyến, lương, nhiễu, đũi v.v…(Lụa Hà Đông ở quê của ba mẹ tôi cũng một thời nổi tiếng là lụa đẹp, mượt mà và mỏng nhẹ, có màu vàng ươm tự nhiên của tơ tằm. Ngày nay ở Hà Đông không thấy còn trồng dâu nuôi tằm và dệt lụa nữa.) 101


Chúng ta thấy rõ sự mầu nhiệm và tỉ mỉ của Thiên Chúa, tinh vi vô cùng khi tạo dựng muôn loài, muôn vật. Thiên Chúa tạo dựng ra con vật nào cũng có ích cả. Những con vật bé tí như con tằm chỉ ăn lá dâu mà sản xuất ra được những sợi tơ óng ả là thế. Con ong suốt ngày vo ve bên hoa để lấy phấn hoa mà cho ta những giọt mật ngọt ngào thanh khiết. Đấy là chưa kể đến những diệu kỳ của tổ chức loài ong mà Đấng Tạo Hóa đã sắp đặt thật là trật tự, ngăn nắp, lớp lang, trên dưới. Con mối thì nhỏ xíu và thân mình mỏng manh mà đùn ổ thật to lớn, có khi ổ mối to như cái nhà, để rồi những chỗ đó khi ổ tan đi thì cho mọc lên một loại nấm bụ bẫm, xinh đẹp, gọi là nấm mối. Khi còn ở quê nhà mẹ tôi thường hái những nấm này về nấu canh thật ngọt và thơm. Con giun ở dưới đất cũng có công dụng để làm cho đất xốp, thoáng khí v.v… Loài chim thì có không biết bao nhiêu loại, chúng ca hót thật hay, đủ điệu, đủ tông. Chúng đều là những kỹ sư tuyệt diệu khi xây tổ, những chú chim nhỏ bé này xây tổ có một kết cấu bền vững và có đủ kích cỡ, đủ hình thù khác nhau lạ thường. Hầu hết tổ chim được làm từ những cọng cỏ khô, chỉ vài cọng cỏ mà chúng treo lủng lẳng một tổ chim trên cành thật là mỹ thuật. Những loại vật dưới biển thì có đủ loại cá tôm to nhỏ, dài ngắn, mập ốm, đủ mầu sắc xanh đỏ tím trắng vàng đen, lại còn có cá hiền, cá dữ nữa… Lan man suy nghĩ, tôi nhận thấy, tất cả tạo vật trong vũ trụ đều phản ảnh nét toàn hảo và hiển hiện sự sống cùng bản chất của Thiên Chúa. Ngài thổi sức sống vào tất cả những gì Ngài tạo dựng. Dưới bầu khí quyển chúng ta đang sống đây còn biết bao kỳ công tuyệt diệu mà càng nhìn ngắm, càng suy gẫm, với trí óc hạn hẹp của con người không thể nào hiểu thấu và khám phá hết được mầu nhiệm tuyệt diệu của bàn tay Thiên Chúa. Xin ngợi khen, tôn vinh và cảm tạ Ngài./-

102


Suy Tôn Thánh Giá „Không ai lên trời được, ngoại trừ Con Người, Đấng đã từ trời xuống. cũng như ông Mose đã dương cao con rắn trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ được dương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời“ Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một., để ai tin vào Con Của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậỵ, Thiên Chúa sai Con Của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con Của Người mà được cứu độ“(Ga. 3, 13-17)

Đoạn Phúc Âm này được Giáo Hội đưa vào Lịch Phụng Vụ đọc trong ngày Lễ Suy Tôn Thánh Giá hằng năm. Suy tôn Thánh Giá là một niềm hãnh diện và vui mừng của tín hữu công giáo hoàn vũ, là dịp được ca tụng, tôn vinh Chúa Giêsu Kitô: „Như ông Mose đã dương cao con rắn trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải được dương cao như vậy, để những ai tin vào Người thì được sống muôn đời“. Đóng đinh trên thập giá là hình phạt của Đế Quốc La-Mã dành cho những quân nô lệ và quân phản loạn chống lại thực dân La mã. Vì thế khi Chúa Giêsu bị treo trên thập tự thì „người Do Thái cho đó là cái chết ô nhục, dân ngoại thì cho đó là một sự điên rồ, nhưng Chúa Cha công nhận đó chính là sự khôn ngoan và vinh hiển của Thầy“(1Cr1,24) vì chính „Đức Chúa đã muốn Người phải bị nghiền nát vì đau khổ,…. Và nhờ 103


Người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu“ (Is 53,10). Chúa Giêsu đã thánh hóa cây thập tự bằng giá máu của mình, đã tự hủy mình ra không, mang lấy thân phận hèn hạ nhất như hàng nô lệ và bị liệt vào hàng phạm nhân, để chuộc tội cho loài người, cho chúng ta, cho chính cá nhân tôi „bởi vì Người đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thật ra, Người mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi“ (Is 53,12b) Trong cuộc xuất hành về miền đất hứa, ông Mose đưa dân Israel ra khỏi Ai Cập để đến miền đất hứa Canaan, đi qua sa mạc dòng dã 40 năm, họ bị đói, bị khát nên họ mất kiên nhẫn.“Họ kêu trách Thiên Chúa và ông Mose rằng: „Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai Cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? Chúng tôi chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này“. Bấy giờ, Đức Chúa cho rắn độc đến hại dân. Chúng cắn họ, khiến nhiều người phải chết, (Ds, 21,5-6) Lúc bấy giờ. dân đến năn nỉ ông Mose: „Chúng tôi đã phạm tội, vì đã kêu trách Đức Chúa và kêu trách ông. Xin ông khẩn cầu Đức Chúa để Người xua đuổi rắn xa chúng tôi“ (Ds 21,7b) Ông Mose khẩn cầu Chúa, và được Chúa cho phép „Ông Mose bèn làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống“ . Nhìn con rắn đồng để trị con rắn đã cắn người ta khỏi chết (Thiên Chúa lấy độc trị độc) *** Chúa Giêsu hiển dung trên núi Thánh vinh quang, Ngài đem theo 3 môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê, khi Chúa đàm đạo với Mose và Elia: „Hai vị hiện ra rạng ngời vinh hiển và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Gierusalem“ (Lc 9,31). Cưộc thương khó của Chúa Giêsu chính là cuộc xuất hành của Ngài tại Gierusalem, Ngài đưa chúng ta ra khỏi miền 104


nô lệ của tội lỗi, đưa chúng ta đến miền đất hứa là nước trời, „khi Chúa Giêsu bị treo trên Thập Giá, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời“ (Lấy độc trị độc: lấy cái chết để cứu nhân loại khỏi chết) Chúng ta, những Kitô hữu hãy nhìn chính mình xem cuộc xuất hành của chính cá nhân mình thì sao? Hỏi tức là chúng ta tự trả lời về cuộc sống của mình trước mặt Chúa. Xuất hành của chúng ta là theo Thầy, nên giống Thầy, chịu khổ với Thầy để được vinh hiển vào ngày sống lại với Thầy. „Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Đức Giêsu, Đấng khơi nguồn Đức Tin và làm cho nó nên hoàn tất vì trông mong niềm vui đang chờ đón mình. Người đã chịu khổ giá, bất chấp sự hổ thẹn và rồi lên ngự bên hữu Ngai Thiên Chúa. Anh em hãy tưởng nghĩ đến Đấng đã liều thân chịu cuộc tấn công dữ dội của những người tội lỗi vào chính con người của Ngài, ngõ hầu anh em khỏi mệt mỏi mà thất vọng“ (Dt 12, 2-3) Chúng ta phải làm một Kitô hữu đích thực „một Kitô hữu đích thực phải đi ra ngoài truyền bá Phúc Âm như một môn đệ khôn khéo, hoan lạc“ (Lời DTC Francisco) 14.2.2014). Chúng ta hãy khẩn cầu xin ơn phù trợ của Chúa Thánh Thần để qua Thầy mà đến với Chúa Cha, „Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo“ (Mt,16,24). Chúng ta chỉ có thể khám phá ra chiều sâu đức tin này bằng cầu nguyện và chiêm niệm với Thánh Kinh. (Lectio Divina) để chúng ta được hưởng vinh phúc với Thầy trong Nước Trời. „Làm Kitô hữu nghĩa là sống mối liên hệ với bản thân của Chúa Giêsu, nghĩa là mặc lấy Chúa Kitô, là nên giống Ngài „Thánh Giá nói với chúng ta về cái chết là sự sống, vì nó nói với chúng ta về Tình Yêu, Tình Yêu của Thiên Chúa nhập thể; Một Tình Yêu không chết nhưng chiến thắng sự dữ và sự chết“ (lời DTC Francisco ngày30.10.2013) 105


106


Tưởng nhớ CHA DOMINICI ĐỖ MINH TRÍ Nhìn tấm Metall khắc tên P. Dominici Gildo với nét chữ tròn đẹp cộng với con số 2003 mà trưa ngày 05.03.2003 người ta đã gắn vội lên khung tường đá lạnh nơi mộ cha ở nghĩa trang Dòng Tên Rôma trong khung nhà + SOCIETAS IESV +. Tôi nhìn thật kỹ để ghi nhớ con số 03.03.03. Ngày này, năm này tôi đã mất đi một người cha trân quý nhất vào lúc 12,30. Cũng đúng chính qua con số ngày an táng, 68 năm trước, ngày 03.03.1935 cậu Dominici Gildo đã được sinh ra. Như vậy ngày tiễn đưa cha về với Chúa cũng chính là ngày sinh nhật của cha. Trước 10 giờ sáng ngày 05.03.2003 chúng tôi đến nhà thờ Chiesa del Jesu, Roma đã thấy đông đủ các linh mục, các soeur và giáo dân, trong đó một số đông là giáo dân Việt Nam tại Rôma. Chúng tôi nhận ra một số linh mục chúng tôi quen biết, trong đó có cha Elizalde và cha Hoài, Dòng Tên. 107


Quan tài của cha được phủ nhẹ một khung vải màu tím đặt nằm ngay giữa nhà thờ trông rất đơn sơ, mộc mạc hiền lành như con người của cha ngày nào, người đến tiễn đưa cảm nhận được cha đang mỉm cười chào gặp chia tay lần cuối. Thánh lễ đồng tế do Đức Cha Antonelli Giám Mục Florence, bạn thân của cha chủ tế, cùng với sự đồng tế của hơn 30 linh mục, trong số đó có hơn 10 linh mục Việt Nam. Trong thánh lễ Đức Giám Mục cảm động đã chia sẻ những tâm tình và kỷ niệm riêng giữa Đức Cha và cha Trí. Đặc biệt những ngày gần nhất cha Trí đã tâm sự với Đức Cha : „Con cảm thấy Thiên Chúa kêu mời „Lasciati amare a modo mio“ (con để Cha thương yêu con theo kiểu cách của Cha), „Non cambiarei la mia situazione con nessun’altra“ tôi không muốn thay đổi tình trạng của tôi với tình trạng nào khác). Đức Cha đã kết thúc tâm tình bài giảng với kinh của Thánh Y Nhã; „Xin hãy nhận lấy tất cả….“ Khi rước lễ xong, Cha Hoàng Minh Thắng, chủ tịch Liên Tu Sĩ tại La Mã, ngỏ lời chia buồn với nhà Dòng, với gia đình và sau đó cha đã đọc bằng tiếng Ý lá thư của anh Hy và của cháu Ân (là thành viên CLC ở USA), con của anh chị Cường Tuyết đã gởi đến cha Dominici hai ngày trước đó, lúc cha đang mệt nên người thân chăm sóc cha không thể đọc để cha nghe được tâm tình của anh em. Trong thánh lễ tiễn đưa cha, chắc chắn cha đã nghe và đã dâng tất cả lên Thiên Chúa tâm tình mến thương của con cái cha ở khắp mọi nơi, đang luyến nhớ tiếc thương cha. Thánh lễ xong, quan tài của cha được mọi người đưa tiễn ra đặt trên xe của gia đình. Vợ chồng tôi bịn rịn chưa muốn rời cha, muốn theo cha đến nơi cha được đặt nằm xuống để chia tay cha lần cuối, gởi theo cha một cành hoa, rảy lên quan tài cha một vài giọt nước Thánh, và nhắn theo cha lời cầu xin, cha nhớ đến con cái Việt Nam và cầu nguyện cho quê hương thứ hai của cha. Vợ chồng tôi, cha Hoài SJ, hai sơ dòng Tiểu Muội cùng với một 108


sơ người Ý (người đã chăm sóc cha lúc cha sắp lìa đời), một cặp vợ chồng người Ý và gia đình của cha gồm có người em dâu, em gái và các cháu của cha đã tiễn đưa cha Dominici Gildo đến nơi an nghỉ cuối cùng. Người em trai duy nhất của cha bệnh nặng đang nằm bệnh viện nên không đến tiễn đưa cha được. Trước mộ cha, khi từ giã cha để về lại Đức, tôi tự nghĩ khi nào lễ giỗ ba năm của cha, tôi sẽ viết một kỷ niệm nhỏ nhỏ nào đó về cha, người cha ngoại quốc có trái tim nhân hậu sâu sắc đầm thắm – đã yêu quê hương Việt Nam như chính quê hương của mình. Hôm nay đúng ngày kỷ niệm lễ giỗ ba năm của cha – Tên Việt Nam của cha là Đỗ Minh Trí – người Ý chịu chức linh mục năm 1960 tại Giáo phận Assisi, sau bốn năm làm cha Triều, cha xin chuyển qua Dòng Tên, nhà của gia đình cha ở cạnh ngay sau nhà thờ Thánh Phanxicô Khó Khăn, là con trai trưởng trong gia đình, có một em trai, một em gái – cha được bề trên cử theo học Giáo Luật và có bằng tiến sĩ về môn này. Cha luôn khao khát mang sở học của mình vào hoạt động truyền giáo. Năm 1968 cha được bề trên nhà Dòng cử đến Việt Nam làm giáo sư tại Giáo Hoàng Học Viện Đàlạt. Cha nói và viết tiếng Việt rất thông thạo. Năm 1975 nhà nước Cộng Sản Việt Nam buộc cha cùng nhiều linh mục thừa sai khác phải rời khỏi Việt Nam, nơi mà cha yêu thương và nhận là quê hương thứ hai của cha. Tháng 5/1977 cha được nhà Dòng gởi đến Galang (Indonesia) để phục vụ đồng bào Việt Nam tỵ nạn tại đây. Năm 1985 cha lại chuyển đến Bataan (Phi Luật Tân). Sau đó lại chuyển tiếp đến các trại tị nạn tại Thái Lan cho đến năm 1990. Tại bất cứ nơi đâu cha cũng đã tận tình giúp đỡ mọi người, không kể lương giáo, không chỉ giúp đỡ về phần tình cảm và tâm linh của người tỵ nạn. nhưng cả về phần vật chất, cha đã sống giữa họ và chia sẻ niềm đau buồn, bênh vực kẻ thế cô của từng người, từng gia đình. Vì thế cha bị chính quyền buộc phải rời khỏi Trại. 109


Từ đầu năm 1990 đến năm 1993 cha làm linh hướng cho anh chị em Đồng Hành Linh Thao tại Mỹ. Giới Trẻ Công Giáo Việt Nam tại đây đã may mắn được hưởng thụ những giúp đỡ, dạy dỗ của cha rất nhiều – cha đã giúp họ hiểu ra tình yêu bao la của Thiên Chúa, giúp họ gặp Chúa và biết qúy trọng di sản Công Giáo của mình. Cha rất chuyên về thần học luân lý, cha đã viết nhiều quyển sách giá trị vể Việt Nam, trong đó hai tác phẩm in sâu vào tâm khảm mọi người, đáng ghi nhớ nhất là quyển „Việt Nam Quê Hương Tôi“ và quyển „Đi Tìm Anh Em“. Cha đã dành hết cả cuộc đời của chính mình để phục vụ tha nhân – là một linh mục biết phục vụ Chúa một cách sốt mến, vâng phục bề trên, thương yêu mọi người. Cuộc đời của cha là cả một chuỗi yêu thương chân chất, đôn hậu, dịu dàng… Những ai đã có dịp được tiếp xúc với cha đều cảm nhận được điều này. Năm 1996, cha được gọi về Rôma để phục vụ trong nhà Tĩnh tâm Galloro của Dòng, hai năm sau (1998) các bác sĩ cho biết cha bị ung thư. Biết mình bị bệnh hiểm nguy cha bình tĩnh phó thác và tâm sự : „Tôi có làm cuộc tĩnh tâm cá nhân và có giờ suy niệm về Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu. Tôi hiểu ra tình yêu lớn nhất của Thiên Chúa dành cho tôi không phải là cứu sống mạng tôi, nhưng là trong chính căn bệnh ung thư của tôi. Trong kỳ tĩnh tâm vào tháng 10 năm 1998, tôi nghe như có tiếng Chúa nói với tôi „Con hãy để Cha yêu con bằng cách thức của Cha chứ không phải bằng cách thức của con.“ Cách thức Thiên Chúa yêu chúng ta hoàn toàn khác hẳn cách thức yêu thương của con người. Mẹ tôi, em trai tôi, em gái tôi và thân nhân của tôi nhận ra tình yêu của Thiên Chúa khi Ngài đừng để tôi phải chết. Nhưng đối với Thiên Chúa, điều này khác hẳn. Trong khi đối với chúng ta, ân huệ qúy nhất là giữ được mạng sống mình, nhưng đối vời Thiên Chúa, ân huệ qúy nhất là được sống như Con Một của Ngài là Chúa Giêsu trên 110


Thập giá vào giờ phút cảm thấy bị hoàn toàn bỏ rơi. Trở nên như Chúa Giêsu là ân huệ cao quý nhất. Giờ đây, mối quan tâm hàng đầu của tôi không phải là sức khoẻ, nhưng là làm sao biết tận dụng sự đau yếu của mình hầu chia sẻ sự tương đồng với Chúa Giêsu. Tôi cảm thấy được Thiên Chúa yêu thương… Tôi chấp nhận cái chết có thể xảy đến. Tôi cảm thấy bình an. Sống hay chết không thành vấn đề đối với tôi. Vâng theo ý Chúa là việc làm tốt nhất. Trong suốt 3o năm, tôi làm việc cho người Việt Nam. Tôi là người rất hoạt động. Giờ đây, Chúa bắt tôi dừng lại. Tôi không có công việc nào cả. Nhưng tôi cảm thấy hạnh phúc bỏi vì tôi nghiệm ra mình vẫn là nhà thừa sai. Chúa Giêsu sống và làm việc 30 năm ở Nazarét, rao giảng Tin Mừng trong 3 năm, cuối cùng chịu vài tiếng đồng hồ treo trên Thập giá…nhưng Ngài đã cứu cả nhân loại qua ít giờ chịu đau khổ và chết mòn dần trên Thập giá đó. Tôi xin phó dâng mọi sự; vì lòng yêu Chúa. Vì thế, giờ đây tôi tin tưởng mình không kém phần hữu dụng đối với Vương quốc của Ngài như khi tôi bận rộn đi giảng tĩnh tâm ở Hoa Kỳ.“ (Maximum of love). *** Lần đầu tiên tôi được gặp cha vào năm 1994. Thường vào mùa chay hàng năm chúng tôi tổ chức các khóa tỉnh tâm Linh thao ba ngày cuối tuần để cùng được ngồi lại với nhau học biết về Chúa, sống với Chúa. Năm nay chúng tôi muốn tổ chức thêm một khóa tĩnh tâm cho giới trẻ vì trong dịp này cha Nguyễn Trọng Tước từ Palawan (Phi Luật Tân) viết thư sang cho biết cha sẽ sang Âu Châu trong thời gian này, và muốn chúng tôi tổ chức cho cha một khóa. Chúng tôi xúc tiến ngay việc mướn phòng ốc và lên chương trình, rồi viết thư sang trình cha châm chước du di cho một vài trở ngại như ngày giờ, và phòng ốc không đúng như yêu cầu của cha, cha muốn mỗi tham dự viên phải một phòng riêng, và phải có mặt để khai giảng vào sáng thứ sáu. Trong khi bên này chúng tôi không mượn được phòng riêng cho các em và ngày thứ sáu 111


các em buổi sáng còn phải đi học, đi làm. Thế là cha Tước từ chối. Chúng tôi mới chập chững đứng ra tổ chức linh thao nên có nhiều sơ sót. Chúng tôi tiến thoái lưỡng nan… Sau mấy ngày suy nghĩ và cầu nguyện chúng tôi đánh liều ngỏ ý mời cha Elizaldé ở Rôma sang giúp khóa này. Thật ra ngoài cha Nguyễn Thế Minh SJ ở Paris, thường xuyên và hằng năm sang giúp chúng tôi, tôi chưa được quen cha nào khác thuộc Dòng Tên nữa cả. Với các cha Elizalde, cha Dominici Đỗ Minh Trí, Cha Giuse Nguyễn Trọng Tước, Cha Gomez, cha Robert… chúng tôi chỉ biết tên các cha qua báo chí mà thôi. Khi nhận được điện thoại trình bày sự khó khăn của chúng tôi. Cha Elizalde Thành tuy bận với các khóa khác mà cha đã lên chương trình trước cả năm rồi. Cha giới thiệu cha Gildo Dominici Đỗ Minh Trí – và trực tiếp gọi điện thoại cho cha Trí sau đó thông báo ngay cho chúng tôi biết cha Trí nhận lời. Thế là cha con quen nhau từ đó. Qua công việc tổ chức tĩnh tâm này cha con thân mật nhau hơn, và thường xuyên liên lạc với nhau. Được nói chuyện với cha về cách thức tổ chức - về chuyện đạo, chuyện đời – in ấn tài liệu chuẩn bị cho khóa, tìm sẵn tài liệu phim ảnh vidéo về cuộc đời Đức Chúa Giêsu. Mỗi sự kiện, công việc trao đổi tôi đã học hỏi được ở cha rất nhiều. Cha muốn cho khóa được hoàn hảo tốt đẹp và mang lại lợi ích thiết thực cho người tham dự, nên đã giới thiệu cho chúng tôi với những thành viên Focolare ở Đức để nhờ những anh chị em đó giúp cha làm bạn đường cầu nguyện cho khóa. v.v và v.v… Bốn ngày trước khi vào khóa cha đã có mặt tại nhà tôi để chuẩn bị kỹ lưỡng tất cả những điều cần thiết cho khóa, từ những giây vải để bịt mắt chuẩn bị trò chơi dẫn vào cầu nguyện, từ những tấm carton lớn nhỏ, cho đến những cây bút chì màu, giấy bút, tập nhật ký ghi chép. Cha đều tỉ mỉ sắp xếp kiểm soát cặn kẽ. 112


Gặp cha lần đầu tiên mà như đã quen nhau từ lâu rồi. Tình thương yêu đằm thắm từ nơi cha tỏa ra chan hòa trong gia đình chúng tôi, trong những bữa ăn, những giờ cha con đi dạo ở bờ sông, cho đến những lúc tâm tình chia sẻ hoặc trong khi bận rộn chuẩn bị công việc. Lúc nào cha cũng vui vẻ, chỉ vẽ thật ôn tồn. Cha luôn nhắc nhở về ơn phó thác vào Thiên Chúa với chúng tôi „mình còn yếu đuối nên cần sự trợ lực giúp đỡ của Cha Trên Trời. Cha khuyên chúng tôi hãy tập kiên nhẫn, nhẫn nhịn, thông cảm và yêu thương, Sự yêu thương không chỉ giữa ngưòi với người và ngay yêu thương với cả sự việc nữa. Chính Chúa của chúng ta muốn như thế“. Thấy cha dùng thời gian quá nhiều cho những việc linh tinh mà chúng tôi cho là không quá cần thiết mới hỏi cha: -Sao cha dùng quá nhiều thời gian cho các việc linh tinh này? Cha bảo: -„Những điều cha chuẩn bị là để mang lại lợi ích thiết thực cho các linh hồn dự khóa, vì làm việc gì mà chuẩn bị kỹ lưỡng thì thành công đã có ½ rồi“. Mỗi lần ngồi vào mâm cơm, chúng tôi xin cha dâng lời cầu nguyện và ban phép lành cho bữa ăn, cha làm dấu và chỉ đọc độc nhất, lần nào cũng như lần nào chỉ mỗi Kinh Sáng Danh… sau mỗi lần như thế cha cười nói : „Cha đọc Kinh Sáng Danh cho nhanh…vì cha đói bụng rồi…!!!“. Có lần chúng tôi mời cha đi ăn tiệm với ước mong được gián tiếp giới thiệu với cha các món đặc sản của Đức cũng như cách sinh hoạt của các quán ăn ở Đức. Thì cha từ chối trả lời : “cha chỉ thích các món ăn do các con nấu thôi, nhất là những món ăn thuần túy Việt Nam…cha rất thích ăn cơm Việt Nam, đi đâu cha cũng nhớ cả“, Lời cha thật là tâm tình và dễ thương làm sao! Trong gia đình, ông Xã Xệ tôi quen tật cứ luôn miệng sai tôi làm cái nầy, lấy cái nọ, nhất là vào các bữa ăn không bao giờ cho tôi yên, ngồi chưa nóng ghế lại bắt phải đứng lên ngồi xuống liên tù tì, sai vặt đủ điều. Nhân suốt mấy ngày có cha trong nhà, cha đã 113


thấy tất cả, tôi muốn cha giúp đỡ sửa đổi giùm tánh tình của ông chồng dở hơi này, tôi mới phân trần với cha: Cha coi đó, thật đúng là chồng Việt Nam cảnh chồng chúa vợ tôi, phải không cha? Cha nhìn tôi hóm hỉnh cười với một chút ái ngại :“Chị Sao à, Chúa chẳng bảo vợ phải vâng phục chồng đó sao“. Tưởng cha bênh vực mình, nhưng tôi bé cái lầm gân cổ lên cãi: „Thì con đã có không vâng phục đâu, ...nhưng mấy ông chồng Việt Nam thì luôn luôn lấn lướt, ăn hiếp vợ… không như những ông tây – bình quyền hơn phải không cha? – Cha đưa mắt nhìn ông xã tôi cười hiền hòa… *** Cha hướng dẫn khóa tĩnh tâm giới trẻ kết quả thành công quá bất ngờ, ngoài dự tưởng của mọi người – các em rất hài lòng là đã được đồng hành tìm Chúa cùng với cha suốt trong thời gian ba ngày tĩnh tâm. Tình thương của cha đối với các em đã lôi cuốn các em, nhất là vừa vào khóa các em đã được cha hướng dẫn chơi trò chơi bịt mắt ngoạn mục - Lại được nghe ông cha mắt xanh mũi lõ nói tiếng Việt Nam giọng hơi lơ lớ nhưng hay tuyệt hảo. Sau khóa các em ngỏ ý với ban tổ chức, mỗi năm cần có một khóa tĩnh tâm để được nhìn lại mình trong tình thương của Chúa Kitô. Những năm kế tiếp cha luôn luôn bận rộn với các khóa tĩnh tâm linh thao tại Mỹ và Canada nên chúng tôi không làm sao mời được cha qua lại Đức, nhưng năm nào cha cũng gởi bài cho tập san linh thao của chúng tôi. Bẳng đi bao năm tháng, lần cuối cùng vợ chồng chúng tôi gặp lại cha tại Rôma trong thánh lễ an táng ĐHY Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận vào ngày 21 .09.2002. Vừa nhìn thấy cha vào chỗ ngồi trong đền Thánh Phêrô, mặc dù chúng tôi đã yên vị ở hàng ghế ngồi cách đó cũng hơi xa, một địa điểm rất tốt để dự 114


Thánh Lễ, bên cánh trái bàn thờ chính, nếu bỏ chỗ lúc này thì là một ý nghĩ điên rồ và vụng tính. Thế nhưng vì quá mừng chúng tôi đã bỏ chỗ ngồi, chạy đến mừng chào gặp cha. Cha con mừng vui nhưng chỉ thăm hỏi nhau vài câu thôi rồi chúng tôi chụp chung với cha một tấm ảnh để kỷ niệm, không ngờ lần gặp này là lần cuối cùng. Thời gian này qua tin tức từ cha Elizalde, từ bạn bè, báo chí và anh em linh thao, gia đình Đồng Hành, chúng tôi được biết cha đang đau nặng, nhưng gặp cha lần này thì thấy cha rất tươi đẹp, cha ốm đi nhiều nhưng mặt cha tươi tắn, nụ cười rạng rỡ nở trên môi. Cặp mắt cha sáng long lanh - vẻ đẹp của cha sao thánh thiện như một thiên thần tại thế. Hình ảnh những ngày đầu gặp cha khác hẳn một trời một vực với một cha Đỗ Minh Trí hôm nay. Tôi cứ xit xoa với chồng tôi: „Sao mà cha đẹp quá, đẹp như một Thiên Thần..hả anh? Con người cha thật là đang tràn đầy Chúa Giê su anh ạ“ Thật không thể tưởng tượng một người bị bệnh ung thư ở giai đoạn nguy hiểm mà đẹp an nhiên tự tại và tươi tắn như thế.!!! Nhìn cha đố ai biết cha đang bịnh nặng chờ ngày về với Chúa. Cha vui vẻ đi cạnh hai người bạn, một nam cỡ tuổi cha và một bà rất đẹp lịch sự. Thưa cha, hôm nay ngồi ghi lại những dòng chữ này với niềm yêu thương quý mến và kính trọng. Cha đã dùng tình yêu thương của Thiên Chúa tràn ngập trong hồn cha mà san sẻ cho biết bao linh hồn nghèo nàn khốn khó, trong đó có chúng con. Chúng con cảm ơn cha về lòng thương yêu cha dành cho dân tộc Việt Nam chúng con. Chúng con cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho dân tộc Việt Nam một món quà quý giá: cha Gildo Dominici Đỗ Minh Trí, mà giờ đây cha đang được Thiên Chúa ôm ấp trong vòng tay yêu thương, và cha đang cầu bầu cho chúng con để chúng con biết yêu thương tha nhân như chính cha đã yêu thương./ 115


Những giai thoại về cha Đỗ Minh Trí SJ Tại Hải Ngoại: Nhà văn Sắc Không rất ngưỡng mộ cha Đominici Đỗ Minh Trí. Một hôm ông hỏi ngài: -Thưa cha, với tư cách nhà văn, cha nghĩ gì về một số cây bút tị nạn, chủ trương hòa hợp hòa giải với Đảng Cộng Sản? Cha cười trả lời; - Ai cấm được người ta đánh đu với tình! Sắc Không lại hỏi: -Biết đâu chẳng có người Cộng Sản lương thiện, nhà văn nghĩ sao? Cha trả lời; - Ai cấm được cừu đinh ninh sói cũng ăn cỏ? Trước năm 1975: Cha rất thích người dân quê ở Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. Nơi sàn xuất trà ngon Bảo Lộc. Cha cảm thấy rất hạnh phúc đặc biệt với dân ở đây, họ thường quây quần bên mâm cơm gia đình trên manh chiếu trải ở giữa nhà. Khi đi lễ thì áo dài vắt trên vai, đến sân nhà thờ mới mặc vào, gặp cha thì „Nạy cha ạ“ và cây dừa thì nói là „cây rừa“ làm cha nhiều phen lúng túng lúc ban đầu. Cha thường nói đùa với mọi người „Assisi là quê hương của Thánh Phanxico, Bảo Lộc là quê của tôi“. (Cha sinh trưởng ở Assisi). Khi còn ở Saigon Việt Nam, một hôm cha đi cùng với cha Hoàng Văn Đạt SJ (bây giờ là Đức Cha Bắc Ninh), gặp hai người VN đang cãi nhau gay gắt. Họ nói thứ tiếng Việt phi văn phạm và phi tự điển. Cha không hiểu được nên hỏi cha Đạt: “ Họ nói gì vậy?“ Cha Đạt nói: „Cha đến bảo họ nói chậm chậm thôi, nói nhanh quá không hiểu được!“. Cha liền đến trước hai người và nói ngay: „Làm ơn nói chậm chậm…“ May mà họ nhận ra cha là người ngoại quốc chứ không thì hôm đó cha Đạt 116


là người lãnh đủ. Ở Nha Trang, một hôm đi dạo trên bãi biển, cha đến làm quen với mấy em bé. Các em ngạc nhiên thấy một ông tây nói tiếng Việt Nam. Các em la lên „Ông Mỹ“. Cha tỉnh bơ: „Tôi là người Việt Nam“. Một phụ nữ bán hàng gần đó la lên: „Mặt mũi thế kia mà xưng là người Việt Nam“. Cha trả lời kèm theo nụ cười tươi: „Tôi là người Việt Nam gốc Hà Nội“. Một số người bán hàng rong gần đó thấy vui quá, bỏ cả bán hàng chạy đến nói chuyện với cha. Mấy bà đố cha hết cái này đến cái khác, cái nào cha cũng trả lời được hết. Đến khi một bà cầm chiếc đòn gánh lên hỏi: „Thế cái này là cái gì?“ Cha trả lời tỉnh bơ: „Cái đó ở Hà Nội không có, tôi không biết“. Thế là mọi người được một trận cười vỡ bụng, cười nghiêng ngả. Sau năm 1975, có thời gian cha làm việc trong các trại tị nạn ở các nước Thái Lan, Nam Dương. Một hôm, cha bị cảnh sát Indonesia chất vấn: „Tại sao mỗi khi có bất đồng giữa chính quyền và người tị nạn, ông luôn luôn đứng về phía họ?“. Cha trả lời: „Vì quý vị có quyền có tiền có súng, còn họ chẳng có gì hết!“. Sau đó ít lâu, cha nhận được một lá thư. Mở thư ra là một viên đạn và một dòng chữ „Xin mời ông đi chỗ khác“ Thơ của chị Đông Khê (Tiếu Xuân) viết cho cha Dominici Đỗ Minh Trí: Cha ở nơi nào, con đến thăm Cha nằm mộ vắng lạnh ánh trăng? Xác thân con biết là tro buị Sao còn than khóc chuyện gian trần? Ngày cha mặc áo làm linh mục Đã biết hôm nay đến mộ phần! Ơn đời linh mục rất thâm sâu, Chúa mời gọi cha, đứa con đầu Bỏ mẹ, bỏ em còn nhỏ dại Cha đi, không ngoái lại đằng sau…

Quê huong cha: Đất Thánh nhiệm mầu Phanxico, con nhà phú hộ thương nhân trần tội lỗi khổ đau. Chàng đi tu, lập dòng, nên Thánh Trút bỏ thế gian, bỏ mộng đầu. Và Clara, gương lành khổ hạnh Cảm phục Thầy nối gót theo sau. Con đã hai lần đến nơi đây Thánh Đường bát ngát trên đồi cây, Con về nhớ mải mầu áo Thánh Chắp vá đôi tà, vá cả tay… 117


Ngày nay ai biết tìm chắp vá Vá những đau thương vá đọa đầy Vá bao tâm hồn nhiều rách nát Họ cần an ủi nỗi đắng cay…

Cha học ngôn từ, học văn chương để rao giảng Tình Thương linh động. Bao cuộc đời nhờ cha mà được sống Bao cõi lòng tan nát được bình an…

Ngày xưa mưa Hồng Ân tuôn đổ Assissi làm nên hai vị Thánh Ngày nay, gió Thiên Phúc gởi cha về nơi quê con bất hạnh.

Giờ đây, cha bước tới Thiên Đàng Thánh Tử Đạo hân hoan chào đón. Con cám ơn cha, cho đồng bào, cho chủng tộc, cho quê hương.

Quê con nghèo, khô cằn sỏi đá Con cám ơn tà áo Mùa Thương của Họa giao tranh là họa tương tàn đời Linh Mục. Giá chiến trường là giá đau thương (Kính tặng hương hồn cha Dominici) Mỗi người dân mang một vết thương. Thư của cha ElizaldeThành SJ viết ngày thứ hai, 03.03.2003 lúc 23giờ03 Các bạn thân mến, Sáng sớm hôm nay tôi được tin đêm qua, lúc 12.30, cha Dominici bình an về với Chúa. Qua thăm ngài ngay, tôi gặp em gái cha, với hai cháu, kể cho tôi biết những giây phút cuối cùng của ngài. Thực sự ngài ngủ yên trong Chúa. Phòng ngủ của cha biến thanh nhà nguyện nho nhỏ. Ngồi cạnh bên cha tôi cầu nguyện cho ngài và cầu nguyện cho tất cả anh em thương mến ngài. Ngài nằm trên giường, mặc áo linh mục khi dâng Thánh Lễ, Hai tay cầm chuỗi lần hạt, cạnh bên là nến Phục Sinh và hai cây xanh. Bây giờ ngài đang chứng kiến Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Đức Giê su và Chúa Thánh Thần. Ngài đang chứng kiến điều lạ lùng, là minh giống Chúa Kito thực sự. Ôi!, điềm lạ lùng và đáng Ngợi Khen Thiên Chúa! Sáng thứ tư, lúc 10 giờ, Đức Cha Antonelli, học cùng lớp với cha, sẽ chủ lễ an táng, và chúng ta sẽ đồng tế. Bây giờ ngài cầu bầu cho tất cả anh chị em. Thân ái Cha Thành 118


Chúa Giêsu sống lại hiện ra với Phêrô „Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon“ (Lc 24, 34b)

„Chúa trỗi dậy thật rồi, và hiện ra với ông Simon“, Thánh Luca diễn tả như vậy, nhưng hiện ra như thế nào thì Thánh Luca không đề cập đến. Có lẽ kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa là một kinh nghiệm rất thiêng liêng, rất riêng nên ông Simon đã giữ riêng cho mình? Vâng, nhưng kết quả của sự gặp gỡ Đấng Phục Sinh thì quá rõ ràng, hiển nhiên. Một Simon yếu hèn sợ sệt đã chối Thầy ba lần, không thức nổi với Thầy một giờ trong lúc Thầy cầu nguyện ở vườn cây dầu. Một Simon ủ dột vì mất hết lý tưởng, nay đã được tiếp sức đầy nghị lực để trở nên một Simon cứng cáp, rắn chắc như đá và đầy nhiệt huyết tin yêu. Tôi cũng muốn cùng với ông Simon nhìn lại kỷ niệm này. „Khi từ mộ trở về, các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy“(Lc 24,9) „Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẩn nên chẳng tin. Dầu vậy, ông Simon Phêrô cũng đứng lên chạy ra mộ. Nhưng khi cúi nhìn, ông thấy chỉ còn khăn liệm thôi. Ông trở về nhà, rất đỗi ngạc nhiên về sự việc đã xẩy ra“ (Lc 24,11-12) Mặc dù Simon Phêrô cho rằng mấy bà đưa tin vớ vẩn, nhưng Phêrô cũng bán tín bán nghi và tò mò nên ông chạy thật nhanh ra mộ Thầy. Ông đã rất đỗi ngạc nhiên „khi cúi nhìn, ông thấy chỉ còn những khăn liệm thôi“. Trên đường trở về, bước chân 119


ông thật nặng nề, ông lê từng bước một trong bàng hoàng, hoảng hốt.Tâm hồn ông ngổn ngang trăm mối tơ vò… ông tự dằn vặt, day dứt, đau khổ, buồn rầu. Ông vò đầu, bứt tai…Tại sao lại thế này…??? Tại sao??? Tại sao??? Ai lấy mất xác Thầy??? Thầy ơi… Thầy ơi!!! Ông muốn khóc mà khóc không nổi. Ông lững thững cúi đầu lê bước, trong lòng luyến tiếc những ngày bên Thầy… cảm thấy thương Thầy dạt dào và sự ân hận ồ ạt tràn về dày vò tâm can. Ông nhớ lại cái đêm đánh cá trên bờ hồ Ghênêxaret, ông và các bạn chài vất vả cả đêm mà không được gì, khi ông miễn cưỡng vâng lời Thầy mà thả lưới; kết quả là cá đầy muốn rách lưới, phải nhờ các bạn chài khác kéo lên và chất hai thuyền đầy cá, chính ông đã đến phủ phục dưới chân Thầy mà nói: „Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi“ (Lc5,8b). Cũng chính lúc ấy là lúc ông và ba bạn chài đã nhất quyết „bỏ mọi sự mà theo Thầy“. Thế mà…ông cúi đầu ngậm ngùi lầm lũi bước… Ông tự trách mình về sự „không thức được với Thầy đến một giờ“ khi Thầy bảo hãy tỉnh thức và cầu nguyện ở vườn cây dầu, ông đã chối Thầy ba lần khi Thầy bị bắt, bị lên án, chịu khổ nạn, rồi những khi Thầy chịu sỉ nhục, bị đánh đòn, vác cây gỗ lên đồi Golgotha, vừa mệt nhọc,vừa đói khát, vừa bị quân lính đánh đập, ngã xuống té lên mấy lần mà mình và các bạn theo Thầy đã ba năm nay, chẳng đứa nào dám chường mặt ra mà chia sẻ một chút khổ đau với Thầy, mạnh đứa nào đứa nấy trốn thật kỹ… rồi khi Thầy chịu đóng đinh trên cây thập tự, ngay cả mình và các bạn cũng không đứa nào có mặt, ông lại trách cái thằng Giuda Iscariot đã bán Thầy ba mươi đồng bạc để bây giờ xảy ra tình trạng „xảy đàn tan nghé“ chẳng ra làm sao cả. Ông lại trách tất cả các bạn chỉ biết theo Thầy vì muốn tham vọng có chút địa vị, chút danh vọng mà bây giờ ra nông nỗi này… ờ nhưng mà cũng may còn có anh Simon ở bên Thầy lúc Thầy thở hơi cuối cùng, và có cả các bà nữa…..Mình đúng là mặt dày, nhát sợ thua cả các bà, vậy mà mình và các bạn còn chê các bà là vớ vẩn…Thật mình chẳng xứng đáng tí nào là bậc „nam nhi chi chí“…. 120


Đang miên man suy nghĩ tẩn mẩn tự trách mình và trách các bạn mình, thì một bàn tay đặt lên vai, có tiếng gọi: - Phêrô! Ông giật mình quay lại. Khuôn mặt Thầy sáng láng mỉm cười hiền từ, ánh mắt dạt dào yêu thương nhìn ông trìu mến. Ông từ từ quỳ xuống miệng thưa: „Lạy Thầy…“. Chúa Giêsu đưa tay nâng ông đứng lên, nhìn một lần nữa vào mắt ông với ánh nhìn tin tưởng, bao dung. Bốn mắt nhìn nhau, hiểu nhau và yêu nhau đến tận xương tủy. Niềm vui trong ông òa vỡ. Tất cả những dày vò, ân hận trong lòng biến mất, chỉ còn tình yêu Thầy đang dâng tràn, đầy ăm ắp trong lòng, “Thầy… Thầy ơi, con yêu Thầy… con yêu Thầy. Thầy biết, con yêu mến Thầy!”. Ông nắm tay Thầy Giêsu thật chặt, lỗ đinh trên tay Thầy cọ sát vào tay ông khiến trái tim ông rúng động, lòng ông thổn thức nhưng tâm hồn sung sướng, hân hoan, hạnh phúc tràn ngập cả châu thân. Hai Thầy trò cùng đi trên đường về, không ai nói với ai lời nào mà hiểu nhau, thông cảm nhau, tin tưởng nhau và yêu thương nhau như chưa bao giờ được yêu. Từ đó Phêrô có đầy tràn nghị lực, đầy tin yêu, đầy sức sống mãnh liệt để làm „kẻ lưới người“ mà Thầy đã trao phó. Ông hăng hái „vâng Lời Thầy con thả lưới“. Vâng, đúng vậy, chỉ có „Vâng Lời Thầy“ thì mọi việc Thầy sẽ lo liệu. Phêrô luôn gìn giữ kỷ niệm thiêng liêng này như báu vật duy nhất trong đời. Ông nâng niu dấu ấn đẹp này với tất cả niềm yêu thương, kính trọng Thầy ngập tràn trái tim, tràn ngập tâm hồn. Trên con đường vâng phục rao truyền Lời Thầy cho đến ngày được chịu phúc tử đạo, mỗi khi gặp khó khăn, những lúc chán nản, những giờ cô đơn, Phêrô liền sống lại kỷ niệm quý báu này mà lấy lại nghị lực, xác tín mạnh mẽ „để chỉ chú ý một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước (Pl 3,13) mà làm tròn trách nhiệm Thầy trao phó. Phêro tự nhắc nhở mình, luôn ghi nhớ lời Thầy nói với chính mình trong Phòng Tiệc Ly: “Simon, Simon ơi, kìa Satan đã xin được sàng anh em như sàng gạo, nhưng Thầy đã cầu cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc22,31-32) 121


HÃY ĐẾN MÀ XEM! „Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: „Đây là Chiên Thiên Chúa. Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu. Đức Giê su quay lại thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: „Các anh tìm gì thế?“ Họ đáp: „Thưa Rapbi (nghĩa là thưa Thầy) Thầy Ở đâu?. Người bảo họ: „Đế mà xem“. Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc ấy vào khoảng giờ thứ mười. Ông Anrê, anh ông Simon Phêro là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước hết, ông gặp em mình là ông Simon và nói: „Chúng tôi đã gặp Đấng Mesia (nghĩa là Đấng Kitô“. Rồi ông dẫn em mình đén gặp Đức Giêsu. Đức Giesu nhìn ông Simon và nói: „Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kepha (tức là Phêrô)“.(Gioan 1,35- 41)

Hai môn đệ của Gioan-Tiền-Hô, họ mang trong lòng một khao khát muốn đi tìm một chân lý thắm thiết hơn, sâu xa hơn mà Gioan không thể đem lại cho họ. (Gioan, kẻ đã tự cho mình không đáng cởi giây giầy cho Thầy Giêsu, đã có con mắt tinh đời, nhận thấy sâu tận bên trong tâm hồn hai môn đệ mình nỗi khao khát đó, muốn môn đệ của mình đến với chân lý mà mình không thỏa mãn được nên đã giới thiệu họ với Thầy mình). Khi vừa thấy Thầy mình đi ngang qua, Gioan liền chỉ Đức Giêsu và giới thiệu: „Đây là Chiên Thiên Chúa“, hai chàng trai này liền đi theo Thầy Giêsu. 122


Thấy hai môn đệ của Gioan đi theo mình, Chúa Giêsu đã mở lời trước hỏi hai anh: „các anh tìm gì?“ Câu hỏi này như đáp ứng đúng vào nỗi khát khao sâu xa trong lòng của hai người. Câu trả lời của hai người là một câu hỏi: „Thưa Thầy, Thầy ở đâu?“ cho thấy rằng, các anh muốn biết nhiều hơn nữa về Chúa Giêsu, về chính con người của Chúa Giêsu, về đời sống và hoạt động của Người. Chúa Giêsu đáp lại: „Hãy đến mà xem“. Hai anh đã đến, đã xem và đã ở lại với Người“ Kết quả của lần đầu gặp Chúa là gì với anh bạn trẻ này? Một trong hai bạn trẻ này là Anrê đã trở về giới thiệu cho người em của mình là Simon rằng: „Chúng tôi đã gặp được Đấng Messia“, và đưa Simon đến gặp Đức Giêsu. Việc làm đó chính là hoa trái, là kết quả của cuộc gặp gỡ, gặp Chúa là được biến đổi và muốn đưa nhiều anh em mình đến với Chúa, và giới thiệu Chúa cho anh em. Bổn phận Kitô hữu, chúng ta sẽ thực hiện như thế nào để giới thiệu Thầy Giêsu cho người khác? „Chúng ta phải có một tâm hồn tĩnh lặng để nghe Phúc Âm, đọc Phúc Âm, suy niệm Phúc Âm và thực hành Phúc Âm, chính là sự nuôi dưỡng tinh thần đặc biệt của chúng ta, làm cho chúng ta có đủ sức gặp gỡ Đức Kitô hằng sống” (lời DTC Francisco). Khi đó chúng ta mới có thể giới thiệu Thầy Giêsu của mình cho người khác. Đó chính là bổn phận của chúng ta, bổn phận mà Kitô hữu nào tới tuổi trưởng thành cũng không được miễn trừ, từ khi được nhận lãnh sứ mệnh ngôn sứ, tư tế, vương đế trong ngày nhận phép Thánh tẩy. Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho tín hữu chúng con tâm hồn trong sáng, đủ nghị lực để chúng con được thúc đẩy mời gọi những người chung quanh mình „hãy đến mà xem“ Ngài thiện hảo dường bao! Amen. 123


Chúa nhỏ bé… “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”(Ga 3,30)

Tôi được một linh mục dạy giáo lý mỗi tuần 1 giờ vào chiều thứ tư trong tuần. Bố tôi thương đứa con gái ngỗ nghịch nhất nhà, tánh tình thẳng thắn và ngang tàng giống con trai, nên bố tôi cho phép tôi học giáo lý công giáo để “tòng phu”. Học được bao nhiêu giờ tôi cũng không nhớ, học những gì tôi cũng không biết có lưu lại trong tâm hồn tôi được bao nhiêu, chỉ biết khi cha tuyên bố cho phép được làm phép Thánh tẩy là tôi thở phào nhẹ nhõm. Thế là tôi trở thành một “tân tòng Chúa”, từ ngày “tân tòng phu”. 124


Trong đời sống hôn nhân, mỗi Chúa Nhật vợ chồng tôi đều diện đẹp đến nhà thờ chánh tòa dự Thánh Lễ mà không khi nào vào ngồi ở hàng ghế trong nhà thờ, ông chồng tôi chỉ muốn đứng ở ngưỡng cửa nhà thờ và khi rước lễ xong là chàng kéo tôi ra khỏi nhà thờ, khi chúng tôi không rước lễ thì, trong lúc người ta đi lên Cung Thánh, chúng tôi đi ra ngoài, leo lên chiếc xe Honda hai bánh chạy một mạch ra phố, lân la hết hàng phở, hang bún, đến hàng cà-phê, hàng chè, hàng bánh, hang trái cây … rồi làm một tour dạo phố, khi trời trong xanh nắng đẹp chúng tôi cưỡi Honda chạy quanh bờ hồ Xuân Hương ngắm cảnh rừng thông xanh mướt, khi thì vào ngắm hoa ở vườn Bích Câu, rồi mới tà tà về nhà. Bà mẹ đỡ đầu của tôi chắc để ý theo dõi chúng tôi trong Thánh Lễ, một hôm bà đón chúng tôi ở sân nhà thờ nhắc nhở, khi nào cha ban phép lành xong các con hãy ra về nhé. Ôi, quê xệ!!! Trước và sau khi nhận phép Thánh Tẩy tôi thấy mình chả có gì khác. Chúa ở trong tôi chả thấy đâu cả, chắc Chúa ngủ yên và ngủ say trên thuyền hôn nhân của chúng tôi. Tôi sống đạo như thế kéo dài chả biết là bao lâu, chỉ có hình thức bên ngoài vào ngày Chúa Nhật thôi, còn bên trong thì rỗng tuếch rỗng toác, chẳng có tí nào là sự hiện diện của Chúa. Lần lượt những đứa con ra đời, đứa nào chồng tôi cũng tìm bạn của anh đỡ đầu cho con trong ngày Lễ Thánh Tẩy, và rồi đời sống đức tin cũng vẫn vậy, dù rằng suốt thời gian mang bầu và khi sanh các cháu, tôi thỉnh thoảng lần chuỗi 50 Kinh Kính Mừng, mà không hề biết suy gẫm về sự thương, sự vui, sự mừng ra sao cả. Tôi cũng chẳng có chút cảm nghiệm gì về Chúa, về Đức Mẹ. Các con tôi bắt đầu đến trường rồi tuổi teen, tôi thấy mình phải có trách nhiệm dạy con biết về Chúa, mà mình có biết gì về 125


Chúa đâu, hỏi chồng, hỏi vài người đạo gốc, đạo dòng mà cũng không ai đáp ứng rõ ràng cho tôi hiểu về Chúa ra sao. Thôi thì cứ giao các con cho các cha ở nhà thờ. Đi dự lễ ngày Chúa Nhật tôi nghe các bài đọc, thấy cao siêu, xa vời quá, chả hiểu gì và nghe giảng tôi cũng chả nhận được chi. Tôi hỏi cha trong tòa giải tội cũng không được giải thích thỏa đáng. Bao nhiêu thắc mắc về Chúa trong đầu vẫn cứ nhiều lúc lẩn vẩn nổi cộm lên. Tôi thắc mắc và hỏi nhiều câu mọi người cho là vớ vẩn nên không giải thích được. Biến cố tháng 4.1975 đến, chồng tôi phải đi tù cải tạo, một mình nuôi 4 đứa con trong khốn khó, vì chồng là “ngụy quân” nên bị đuổi khỏi sở, không công ăn việc làm, không biết buôn bán, tôi lăn lưng ra đi làm đủ mọi nghề bằng tay chân. Ở cuối bờ hồ Xuân Hương, gần nhà tôi có một biệt thự, (trước kia là biệt thự “Trang Hai”), nay chắc là của ông “cán bộ nhớn” nào đó đang sửa, tôi xin được việc phụ hồ để kiếm gạo nuôi con và để khỏi phải bị đuổi đi kinh tế mới. Có cô hàng xóm ngày xưa, gần nhà ba mẹ tôi thấy tôi khổ quá, vì mỗi khi cô đi ngang hiện trường nhìn thấy tôi ăn mặc xốc xếch, khệ nệ bưng những ki xi măng, bê những cục gạch nặng nề mà mặt thì chảy xệ buồn hiu, có khi tay xúc hồ, tay quệt nước mắt nên cô thương tình bèn rủ đi buôn bán may ra khá hơn chăng. Tuy sống khổ cực, thiếu thốn mọi bề mà Chúa Nhật nào mẹ con tôi cũng ăn mặc tươm tất nhất có thể, đi dự Thánh Lễ. (mẹ con tôi chỉ mỗi người có một bộ đồ tươm tất nhất để dành cho ngày Chúa Nhật). Lúc này chắc Chúa ở trong tôi dường như thức dậy mỗi Chúa Nhật rồi Chúa lại thiếp đi và ngủ say. Bây giờ suy niệm câu Kinh Thánh “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga. 3,30) tôi mới thấy Chúa ở trong tôi 126


có một xí, bé tẹo tèo teo!!! Mỗi sáng hai con trai lớn, đứa 11 tuổi, đứa 12 lo dậy sớm để đi giúp lễ 5 giờ 30 sáng. “Đồ tế nhuyễn, của riêng tây” đã ra hết chợ trời để có gạo cho con ăn nên các cháu không biết giờ, có hôm chúng đến nhà thờ chắc khoảng 3 hay 4 giờ sáng, chưa mở cửa, hai đứa co ro ôm nhau ngoài góc cửa nhà thờ, ngủ quên trong gió lạnh Dalat cho đến khi ông từ đến mở cửa nhà thờ. Tội nghiệp mẹ con tôi quá!!! Chắc Chúa cùng ngủ với các con tôi. Tạ ơn Chúa! Không biết Chúa to hay bé bao nhiêu trong lòng các con tôi? Từ ngày ra hải ngoại, được sống trong đất nước tự do, lần đầu tiên tôi rủ nhà tôi đi tĩnh tâm do linh mục đồng hương tổ chức, vì từ khi gia nhập đạo Chúa, tôi chưa hề biết tĩnh tâm ra sao. Từ chiều thứ bẩy bắt đầu đến nhà tĩnh tâm tôi được gặp gỡ nhiều đồng hương thật vui. Giới thiệu nhau rồi chúng tôi ăn chiều, sau đó Thánh Lễ rồi đi ngủ. Lần đầu quen nhau nên chả ai ngủ nghê gì cả. Suốt đêm cứ rì rầm đủ thứ chuyện về quê nhà, về vượt thoát…v.v… Ngày Chúa Nhật, sau kinh sáng, chúng tôi được cha cho mọi người chia sẻ về đời sống đức tin. Thôi thì các bà, các ông lại tha hồ kể lể đủ thứ chuyện bên quê nhà, chuyện cha xứ, chuyện xứ đạo, chuyện sống đạo v.v... Ăn trưa xong, chúng tôi dự Thánh Lễ rồi chầu Thánh Thể và kết thúc. Đi tĩnh tâm về tôi cũng vui lắm, thấy thú vị vì quen một số đồng hương, được chia sẻ đủ thứ chuyện, được chầu Thánh Thể (mà hồi giờ tôi chưa hề biết)… rồi năm nào vị LM cũng lập lại cuộc tĩnh tâm như thế. Tôi thấy mình chẳng học được gì nhiều về Chúa cả. Những thắc mắc trong tâm hồn lại ngồn ngộn trở về mà chẳng biết hỏi ai, chẳng có một sách báo hay thông tin nào về đạo mà đọc cả. 127


Năm 1989 tôi được mời dự Đại Hội Sinh Viên Công Giáo Âu Châu, tổ chức ở Strassbourg, Pháp Quốc. Dịp này tôi được một linh mục giới thiệu đi dự một khóa tĩnh tâm theo phương pháp linh thao của Thánh Inhazio-Loyola. Trong 3 ngày linh thao tại Brüssels, tôi mới biết thế nào là Ơn Cứu Độ, và hiểu sơ sơ về Lịch Sử Cứu Độ. Tôi được Chúa dạy tập thể thao cho linh hồn tôi, qua cha giảng phòng bằng những giờ thinh lặng để lắng nghe tiếng Chúa, nỗ lực khi cầu nguyện với đoạn Phúc Âm mà cha giảng phòng vừa hướng dẫn. Tiếng Chúa thật mảnh, thật thanh, thật nhẹ, thật khẽ nên càng lắng đọng tâm hồn bao nhiêu, ta nghe được tiếng Chúa rõ bấy nhiêu.Trong thinh lặng tôi đã gặp được Chúa Giêsu, tôi yêu thích và quý trọng nhất khi Chúa chạm đến trái tim “ngổn ngang trăm mối” của tôi thật dịu dàng mà thắm thiết, thật sâu thẳm mà ngọt ngào biết bao!!! Những giọt nước mắt biết ơn, cảm động, sung sướng tuôn tràn, ngập đầy hạnh phúc trong tôi. Lần đầu tiên tôi biết Chúa Giêsu, là con Thiên Chúa xuống thế làm người, là Đấng Kitô chịu chết trên cây thập tự để chuộc tội cho thiên hạ và cho chính cá nhân tôi. Lần đầu tiên tôi biết đến Lời Chúa, Kinh Thánh, Tin Mừng là gì, Giáo Hội là ai??? Các Thánh là ai??? và quan trọng nhất tôi là ai? Là ai mà Chúa thương yêu vậy? Là ai mà Chúa chịu chết cho tôi? Bây giờ Chúa ở trong tôi thật sự thức dậy rồi. Chúa thức dậy và làm những điều kỳ diệu, mở trí khôn cho tôi hiểu Ngài, mở trái tim cho tôi biết yêu Ngài. Tôi nhớ đoạn Tin Mừng “Trong khi Đức Giêsu đang ở đằng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức người dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao? Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! câm đi!”. Gió liền tắt và 128


biển lặng như tờ” (Mc 4, 38-39.) Tâm hồn tôi bây giờ đã có Chúa ngự “ở đằng lái” để hướng dẫn tôi đi trên con đường của Thầy: “Ta là đường.là sự thật và là sự sống”. (Ga 14,6) Từ đó mỗi ngày tôi để cho Chúa dắt tôi đi với Lời Chúa, những lúc này tôi được sống giây phút lặng thinh êm ả bên Chúa, tôi hiểu Chúa và yêu Chúa. Tôi cố gắng mỗi năm đều đi dự tĩnh tâm linh thao để có những ngày nghỉ ngơi tĩnh lặng bên Chúa, được sống trọn vẹn với Ngài, được Chúa yêu thương an ủi, xoa dịu những vết thương, những nỗi đau trong đời sống thường ngày, và tôi được hiểu Ngài, yêu Ngài dồi dào hơn. Tôi biết Chúa ở trong tôi đang lớn lên…và lớn chừng nào thì tôi không biết. Theo thiển ý của tôi, thước để đo xem Chúa lớn bao nhiêu trong linh hồn chúng ta là mỗi ngày tôi sống với Chúa trong lòng mình bao nhiêu phút? Chỉ có một người đã yêu Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực, chính là Thánh Phaolô, khi Thánh nhân thốt lên: “Tôi sống không phải tôi sống mà là Chúa sống trong tôi” Thiên Chúa đã gieo vào lòng tôi hạt giống Giêsu từ bao nhiêu năm nay, thế mà tôi không biết chăm bón cho hạt giống nẩy mần lớn lên, mà đã để cho thế gian trong tôi đè chết ngạt hạt giống ấy, mặc dầu nhiều lúc hạt giống cũng đã nứt mần, muốn ngoi lên, nhưng bóng tối dầy đặc của thất tình (hỷ, nộ, ái, ố, ai, ô, dục), của tham sân si trong con người mỏng dòn của tôi đã ngăn chặn không cho Hạt Giống Giêsu lớn lên. Lạy Chúa Giêsu, xin mở lòng, mở trí cho cá nhân con và cho những tín hữu biết yêu Chúa trên hết mọi sự. Xin cho chúng con biết noi gương và sống như Thánh Phaolô. Amen. 129


Đức Giêsu kêu gọi môn đệ. „Một hôm, Đức Giê su đang đứng ở bờ hồ Ghên-nê-xa-reth, dân chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe Lời Thiên Chúa. Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. Đức Giêsu xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simon, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông. Giảng xong, Người bảo ông Simon: „chèo ra chỗ nước sâu mà bắt cá“. Ông Simon đáp: „Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới. Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên 130


được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm. Thấy vậy, ông Simon Phê rô sấp mình dưới chân Đức Giê su và nói: „Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!“. Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Simon và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc . Cả hai người con ông Dê-bê-đê là Giaôbê và Gioan, bạn chài với ông Simon, cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ, Đức Giêsu bảo ông Simon: „Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta“. Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người“. (Lc 5, 1-11)

Buổi sáng trên bờ hồ Ghên-nê-xa-reth, mặt trời chưa ló dạng là lúc các ghe chài lưới vừa từ ngoài khơi trở về. Những thuyền chở đầy cá, người ta đang lựa cá lớn riêng, cá nhỏ riêng để bán, còn những con cá hư hoặc xứt đầu mẻ đuôi cùng rong rêu, rác rưởi thì được vất ra ngoài. Vì thế dân chúng đang tụ họp rất đông, kẻ mua, người bán… ồn ào…cùng với tiếng la của những con chim biển đang lượn lờ trên đầu họ, có con lao mạnh và nhanh xuống để tranh cướp cá, miếng mồi ngon trong rổ cá, mà không phải vất vả lao xuống mặt nước mò tìm. Thật là một khung cảnh sống động của buổi bình minh trên bờ biển hồ. Nhưng khi có vài người ngẩng nhìn lên, họ thấy Chúa Giêsu đứng ở bờ hồ và một số người đang ở đấy với Chúa, họ vội vàng cùng nhau thanh toán việc mua bán, nhanh chân chen lấn đám đông đang vây quanh để đến gần Chúa. Chúa Giêsu nãy giờ ngắm nhìn dân chúng tập trung mua bán trên bờ, thấy đám đông xô lấn nhau để đến gần mình, Ngài đã để ý thấy có 2 chiếc thuyền không có cá để bán, họ chỉ có vài mẻ cả đủ để đem về làm quà cho bà xã và chòm xóm mà thôi. Chúa Giêsu liền tiến đến hai thuyền đó, „Ngài xuống thuyền của ông Simon và xin ông chèo ra xa bờ một chút…“, đủ để khi Người giảng dạy thì dân chúng trên bờ có thể nghe được. „Giảng xong, Người bảo ông Simon: „Chèo ra chỗ nước sâu 131


mà thả lưới bắt cá“. Ông Simon đáp: „Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới“ (Lc 5,4-5) Vừa nghe Đức Giêsu giảng cho đám đông dân chúng nghe hay quá, thuyết phục quá, ai cũng khen ngợi, đắc ý, cá nhân ông cũng kính phục nên Simon miễn cưỡng vâng lời mà trong lòng chả hy vọng gì … (sao Thầy bảo mình thả lưới ban ngày lại còn bảo đến chỗ nước sâu!? Mình là dân chài đã bao nhiêu năm kinh nghiệm có khi nào thả lưới ban ngày và chỗ nước sâu mà có cá?) Nhưng Simon đã không ngờ vì ông bắt được nhiều cá „đến nỗi hầu như rách cả lưới. Ông phải nhờ các bạn chài chiếc thuyền kia đến giúp“, kết quả: „hai thuyền đầy cá đến gần chìm“ . Các ông Giacôbê và Gioan, con ông Dê-đê-bê thấy thế cũng rất kinh ngạc. Ông Simon Phêrô đến trước Ngài, quỳ xuống: „Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con, vì con là kẻ có tội “. Chúa nói; „Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta“. Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người“. Chúa Giêsu mượn chiếc thuyền của Simon Phêro để Ngài rao giảng là Ngài đã cố ý chọn Simon làm người lái chiếc thuyền Giáo Hôi. „Giảng xong, Người mới bảo các ông thả lưới bắt cá“. Chúa Giêsu muốn nói ai đón nhận Lời Chúa mới được Chúa giao sứ mạng. Simon vâng lời thực hành việc trái với những kinh nghiệm lâu năm của ông, nhờ vậy Simon và mấy bạn chài của ông được mở mắt tâm hồn, nhận ra rằng hành trình theo Thầy không phải là con đường thuần lý trí và bản năng nhưng chính là con đường vâng phục, lắng nghe và đón nhận, vì thế họ thật dễ dàng

„bỏ mọi sự mà theo Thầy“ cách dứt khoát, xác tín cách vững vàng, chả cần từ giã gia đình một lời, chả nuối tiếc một sự gì. 132


Nhìn lại cá nhân mình, con có dám dứt khoát bỏ mọi sự mà theo Thầy không? Thầy đã gọi con từ ngày con được nhận phép Thánh Tẩy. Thầy đồng hành và gìn giữ con từng ngày trong cuộc sống mà con ngu muội để cho mọi sự thế gian che lấp Ơn Thánh của Thầy trong con, mãi cho đến bây giờ được Thầy mở mắt đức tin cho con mới nhận biết. Con cám ơn Thầy. Thầy ơi, con theo Thầy trong trách nhiệm của một người vợ, người mẹ, người bà nơi thế gian này. (con hiểu rằng ơn gọi của con là được biến đổi thường xuyên hơn để trở nên cận kề với Thầy Giêsu) Con không thể bỏ mọi sự giống như 4 tông đồ theo Thầy, vì mọi sự là gia đình con, là thế giới xung quanh con, tất cả hỗ trợ, nâng đỡ và yêu thương cho đời sống của con, để con chu toàn ơn gọi của con trong yêu thương mà Thầy đã giao phó. Theo Thầy là con sẽ mãi mãi „Vâng Lời Thầy“ con sẽ „đừng sợ“ chi cả vì lúc nào con cũng ở với Thầy, tin yêu Thầy, trông cậy, phó thác vào Thầy, cho dù „con là kẻ có tội“, con là kẻ yếu đuối, bất toàn với thất tình lục dục trong con người mỏng dòn của con. Song con sẽ luôn đồng hành với Ơn Phù Trợ của Thầy để con từ bỏ chính cái tôi của con, từ bỏ những thói hư tật xấu, những tham sân si trong cái tôi của con để theo Thầy „ai theo Ta thì hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo “ (Mc 8, 34) dù thập giá con vác sẽ té lên, ngã xuống, dù cuộc đời con có vấn nạn, có đau thương con cũng xin trông cậy vào Thầy, năn nỉ xin Thầy cùng vác với con.. Lạy Thầy Giêsu yêu quý, con yêu Thầy, theo Thầy con sẵn sàng sống đẹp lòng Thầy ở thế gian này, để ngày về với Thầy, con sẽ được Thầy hân hoan tươi cười ôm con trong vòng tay âu yếm của Thầy. Amen. 133


134


40 NĂM LINH MỤC (1966 – 2006)

CHA ÉLIZALDÉ PHẠM CÔNG THÀNH Trên ngọn đồi thông xanh mượt mà, trong căn nhà khang trang xứ Basque thành Navarre miền Bắc Tây Ban Nha, cậu bé Julian Elizalde bước ra khỏi lòng mẹ, chào đời ngày 7.3.1937. Lớn lên trong một gia đình đạo đức, bé Julian sống rất vui vẻ, hạnh phúc êm đềm bên cha mẹ cùng với bảy anh chị em. Năm 10 tuổi Julian được cha mẹ cho vào tiểu chủng viện, cậu cảm thấy không chút hài lòng sống trong nội trú vì cậu không muốn xa gia đình. Có một lần cậu đã tìm cách trốn khỏi chủng viện, nhưng „mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên“, cậu đành ca bài „xin vâng“. Năm 1956 Julian vào Nhà Tập Dòng Tên thuộc Tỉnh Dòng Léon. Thầy Julian cao lớn, chăm chỉ, hiền hòa, đẹp trai, thông minh dĩnh ngộ, đàn giỏi hát hay, say mê âm nhạc. Năm 1961 nhà dòng gởi sang Việt Nam tu học. Đến đất nước miền nhiệt 135


đới này, thầy Julian như cá gặp nước, thầy rất thích khí hậu ấm áp quanh năm, nhất là sống giữa dân tộc Việt Nam hiền hòa, cần mẫn, chăm chỉ, hay cười, hay đùa, thích làm thơ, âm ngữ Việt Nam lại du dương như một cung đàn, phù hợp với tâm tính thầy. Thầy Julian vui sướng chọn cho mình tên Việt Nam „Phạm Công Thành“. Ngày 29 tháng 4 năm 1966 thầy Julian Elizaldé Phạm Công Thành, đã cùng với thầy Gomez (Tây Ban Nha) và 12 thầy Việt Nam được Đức cha Giuse Phạm Văn Thiên, Giám Mục Bình Dương, truyền chức linh mục tại Vương Cung Thánh Đường Sàigon. Sau khi nhậm chức linh mục, cha Elizalde Phạm Công Thành vâng lệnh bề trên nhận bài sai đến Huế phục vụ tại trung tâm Xavier trong vòng 2 tháng dưới sự hướng dẫn khôn ngoan và thánh Thiện của cha bề trên Jacques De Leffe, đã cho cha Thành nhiều lời khuyên bảo và khuyến khích thật quý báu. Hai tháng sau cha và cha Gomez lại trở về Baguio, Phi Luật Tân học năm cuối thần học. Tháng 6. 1967 bề trên Jaques de leffe sai cha đến Huế làm cha giáo tại trường trung học Tín Đức với cha bề trên Armand de Pelsemäker. Cha giáo Elizalde hiền hòa, vui tính, đàn giỏi hát hay mà rất khiêm nhường và chân tình nên được mọi người trân qúy và tất cả học trò kính yêu. Trong biến cố Mậu Thân 1968 tại cố đô Huế, cha Thành và cha bề trên là cha Armand de Pelsemäker bị Việt cộng bắt giam một tuần lễ. Nơi này, trong những ngày đó, người dân vô tội bị Việt cộng sát hại dã man và chôn sống trên cả ngàn người dân vô tội, gây tang tóc đau thương cho toàn dân trên quê hương Việt Nam. Một tháng sau cha được cử đi Tây Ban Nha để theo học tâm lý và làm nhà tập năm thứ ba.Trở về quê hưong tham dự khóa học kéo dài 2 năm, cha thường về thăm lại căn nhà xưa trên ngọn đồi thân yêu mà suốt tuổi thơ ấu đã tung tăng đùa dỡn với bạn bè, thăm cha mẹ và anh chị em. 136


Sau khóa học, tháng 10.1970 về lại Việt Nam nhận trách nhiệm làm giám đốc thư viện Trung Tâm Đắc Lộ, và dạy học tại trường trung học Minh Đức, Sàigòn. Tại đây cha đã tổ chức sinh hoạt thanh niên, hướng dẫn các khóa tĩnh tâm theo phương pháp linh thao, khơi dậy lửa thương yêu mãnh liệt của Chúa Giêsu trong khối thanh niên sinh viên công giáo. Nhờ những hạt giống tốt được cha gieo và dưỡng từ thời sơ khởi ấy đã hun đúc và cung cấp những tinh hoa đức tin vững vàng cho ngày hôm nay tại trong nước cũng như hải ngoại. Vào ngày Lễ Thánh I-Nhã 31.7.1972, cha đã khấn trọng, dịp cha Bề Trên Cả của Dòng Tên, Pedro Arrupe thăm viếng Sàigòn (Hòn Ngọc Viễn Đông). Năm 1975 Việt cộng chiếm cứ miền Nam, tự do tôn giáo không có, các sinh hoạt thanh niên bị cấm ngặt, nhưng nhờ Chúa soi sáng, cha đã tổ chức các khóa tĩnh tâm linh thao chui ở nhà dòng St. Paul, các tham dự viên từng người rải rác bằng xe đạp đến địa điểm tĩnh tâm một cách thư thả, công an Việt cộng không hề phát hiện được, vì lần nào cha cũng cảnh giác thật kỹ càng. Tháng 7.1976 nhà cầm quyền trục xuất cha ra khỏi Việt Nam, cha đến Hoa Kỳ giúp xứ tại Denver, Colorado. Nơi đây cha tụ họp được năm sinh viên trước kia, khi còn ở Việt Nam đã sinh hoạt với cha để tâm sự và cầu nguyện. Tháng 7.1977 cha hướng dẫn khóa tĩnh tâm linh thao đầu tiên tại Sedalia Retreat House, Denver,Colorado. Làm cha xứ ở Denver nhưng lòng cha luôn ao ước phục vụ Cộng đồng Việt Nam, nhất là luôn nghĩ đến đoàn chiên đang tỵ nạn tại các nước Đông Nam Á. Sau khi tìm được một linh mục thay thế, cha xin bề trên qua phục vụ tại Phi Luật Tân, làm hiệu trưởng trường trung học của Dòng Tên ở Manila, song cha luôn tìm đến trại tỵ nạn để tổ chức cấm phòng, và có cơ hội an ủi, xoa 137


dịu những vết thương cho nhiều người không phân biệt lương giáo. Năm 1981 theo lời yêu cầu liên lỉ và lòng kiên nhẫn bền chí của anh chị Tạ Đắc Cường, cùng nhu cầu phát triển của cộng đồng người Việt ở Mỹ mỗi ngày càng thêm đông, nên cha Bề Trên Cả của Dòng Tên lại sai cha về Hoa Kỳ làm tuyên úy cho nhóm Tĩnh Tâm Hải Ngoại, mà ngày nay trở thành Phong Trào Đồng Hành (CLC). Cũng từ năm 1981 cha đã đi giảng linh thao tại Bắc Mỹ, Canada, Hawai, Japan v.v… Năm 1991 cha về Roma làm trợ úy cho Phong Trào CLC Thế Giới, thời gian này cha đi khắp trên thế giới, hết Châu Mỹ La Tinh, lại Châu Âu, Châu Á, Châu Mỹ, Châu Úc, Canada… Sau hai nhiệm kỳ cha được sai làm linh hướng cho đại học Dòng Tên Bellarmino tại Rôma. Năm 1995 chúng tôi mời cha qua Đức giảng linh thao. Ngay trong điện thoại cha đã nói với lời lẽ thật khiêm nhường, dễ thương:“Cha rất mừng có diễm phúc được chị mời qua Đức hướng dẫn các bạn đến gặp Chúa. Sở dĩ cha nói và giảng tiếng Việt, vì với tư cách linh mục thì cha là một linh mục Việt Nam. Vì thế cha cảm ơn con mời cha đến giảng tĩnh tâm cho anh chị em, và cha nghĩ đây là một diễm phúc mà Chúa muốn cha nhận lời“. Gia đình chúng tôi hãnh diện đón tiếp cha cũng như đón tiếp cha Dominici Đỗ Minh Trí, đặc biệt cả hai cha rất thích món ăn Việt Nam, nhất là phở và chả giò, riêng cha Thành lại thích ăn cay, vì thế trong bữa ăn nào chúng tôi cũng để sẵn một dĩa ớt đỏ tươi. Thời gian dài sau các khóa tĩnh tâm linh thao, chúng tôi đều nhận được những chia sẻ qua điện thoại hoặc những khi gặp gỡ các tham dự viên. Ai ai cũng hỏi thăm cha và nhắc nhớ về những giai thoại, những thí dụ dí dỏm mà cha dùng giảng trong 138


khóa. Có chị nói với tôi: „Cha Thành thật tuyệt vời, cha dùng chữ Vịệt Nam hay hơn mình luôn. Em nhớ cha nói: khi đầu óc mà nghĩ linh tinh thì hành động lung tung lúng túng“. Nhóm chúng tôi sau một khóa linh thao được cha hướng dẫn nên tránh những vấp phạm của tội lỗi, cha thí dụ về „cái ổ gà“ làm anh chị thích thú quá, cứ mỗi lần họp nhóm là luôn đem “cái ổ gà“ ra áp dụng vào những lỗi lầm phạm đi phạm lại, mà quên mất lời cha là phải tránh „cái ổ gà“. Một bác lớn tuổi mỗi lần gặp tôi đều hỏi thăm sức khoẻ cha và luôn luôn nhắc đến bài giảng „anh Của“ hoặc „bác sĩ tê liệt“ v.v… Có em chia sẻ: „mình đọc Kinh Thánh thì có dụ ngôn một con hoang đàng, mà khi cha giảng thì hai con hoang đàng hay quá và ý nghĩa quá!“. Một tham dự viên trẻ: „khi cha giảng về những con chiên đi tìm đồng cỏ non xanh mà ăn chứ không chịu ăn cỏ già (khô) thì cha phát biểu bao tử con chiên này „đài các“, sao mà cha dùng chữ hay quá!“. Tôi còn nhớ năm 1996 trong khóa linh thao mùa chay tại nhà Concordia, nhóm I-Nhã tại Đức Quốc được ra đời dưới sự chứng kiến của cha, nhóm sống thật khoẻ, thật mạnh, đầy thương yêu, cứ mỗi hai tháng chúng tôi gặp nhau để cùng nâng đỡ nhau sống đức tin và chia sẻ Lời Chúa. Đến nay nhóm I-Nhã đã lên10 tuổi lại đang èo uột. Hy vọng qua cơn èo uột nhóm sẽ trở nên mạnh mẽ hơn. Hôm nay, ngày kỷ niệm mừng 40 năm sống đời tận hiến của cha, chúng con được diễm phúc đón cha trong khóa tĩnh tâm này. Xin dâng lời tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho Giáo hội Việt Nam chúng con một món quà vô giá, chính là cha Julian Elizalde Phạm Công Thành. Xin Thiên Chúa luôn gìn giữ cha, ban cho cha dồi dào sức khoẻ và đầy ơn khôn ngoan của Chúa. Tạ ơn Chúa, cám ơn cha. 139


Gợi nhớ kỷ niệm hành hương (viết cho HH2010 và cám ơn Ông Ngoại) Tạ ơn Chúa và cám ơn Ông Ngoại (cha Elizalde Thành) vào phút chót đã cho con được tham dự hành hương (HH) thêm một lần nữa „theo vết chân Thánh Inhã“. Đây là món quà quý báu, con cảm nhận hạnh phúc mình được hưởng một cách êm ả và trầm lắng. „Theo vết chân Thánh Inhã“ là theo vết chân của Thánh tổ Dòng Chúa Giêsu, vết chân đầy tình người trong tình yêu Thầy Giêsu. Lần này con cảm nghiệm được sâu xa hơn tình yêu của Thánh Inhã dành cho Thiên Chúa và Chúa Giêsu, con một yêu dấu của Ngài. Dấu chân của Thánh Inhã đã diễn tả rất nhiều về nhân đức của Ngài, về sự từ bỏ chính mình của Ngài, về sự kiên nhẫn tìm ra một phương pháp thao luyên linh hồn cho tha nhân, về sự nghiệp kết tụ những anh em đồng chí hướng để đi rao giang Tin Mừng của Chúa Giêsu cho đến tận cùng trái đất. Những 140


cảm nghiệm này giúp con biết quý trọng hơn những di tích Thánh của Giáo Hội. Giúp cho con nhìn rõ hơn tận gốc tâm hồn mình để điều chỉnh những lệch lạc của tâm hồn mà đi đúng đường Chúa muốn, cho trái tim của con hạnh phúc biết rộn rã hơn vì đang được yêu và đang yêu (như Thánh Inhã đã đang yêu và đã đang được yêu Thầy Giêsu của mình cách nay 500 năm). Phương Lan từ USA đến phi trường Barcelona trước vài giờ đã chờ hai mẹ con Tiết ở đây. Thật hạnh phúc được gặp lại cô bé dễ thương, năm ngoái bịnh ốm yếu, năm nay Phương Lan trông khỏe mạnh, tươi trẻ và xinh đẹp lắm. Khi taxi đưa về đến nhà Dòng, cả ba leo lên tòa nhà thật to, thật đẹp mầu hồng đỏ, kiến trúc cổ kính nằm sừng sững trên ngọn đồi. với sân cỏ xanh mướt được điểm tô bằng những cây dừa kiểng cao ngất cùng những cây hoa (không biết tên) cũng đồ sộ không kém nở hoa chi chít mầu hồng thắm, nổi bật trên nền mầu xanh lục cứng cỏi, già cỗi của hàng cây tùng bên cạnh. Tuyệt vời, đẹp quá!!! Nhìn thì đúng địa chỉ rồi nhưng đây chỉ là trường học của Nhà Dòng. Ôi chu choa! Trường học gì mà đồ sộ, sừng sững, trông sang và đẹp quá. Bên cánh phải của trường học mới là nơi đoàn HH cư ngụ. Lần này được ở trong Nhà Dòng thật đẹp, có sân trong khuôn viên nhà để đi dạo hoặc cầu nguyện với tượng Chúa Giêsu, hang đá Đức Mẹ giữa vườn hoa muôn màu thật nghệ thuật. Phòng ốc khang trang, cảnh đẹp, lại tọa lạc trong khu vực của giới thượng lưu nên an ninh rất bảo đảm. Các Sơ phục vụ chu đáo ân cần ở phòng tiếp tân, phòng ăn. Ăn uống đầy đủ và ngon hơn nơi chúng ta ở năm ngoái. Thấy nhớ và thương anh chị em HH 2010 quá xá, vì nơi ở „hồi nẳm“ đi qua bao cánh rừng cây xanh với những con đường ngoằn ngoèo quanh co rất đẹp mà tài xế taxi tìm mãi mới thấy nhà. Hi hi… he he… bao nhiêu là kỷ niệm vui quá là vui!!! 141


Đến Montserrat và Manresa cũng được ở ngay trong Nhà Dòng. Dạo một vòng chung quanh nhà Tiết cảm thấy từ trong nhà, ngoài sân, chỗ nào cũng có nơi gợi cho mình ý muốn dừng lại để cầu nguyện hay nói lời cám ơn Chúa, cám ơn người phục vụ, cám ơn người tổ chức… Phòng đôi dành cho vợ chồng, độc thân tại chỗ cũng hai người một phòng hai giường, có người trúng số độc đắc thi được một mình một phòng, đầy đủ tiện nghi, sang lắm.Tiện nghi, ăn ngon và sung sướng, gợi nhớ nhiều và thương nhiều nhóm HH 2010 chúng mình. Ăn được một bữa “chạy ba quãng đồng” vì nhà nghỉ bên này đồi, đối diện nhà ăn bên kia đồi, chạy qua chạy về, leo dốc xuống đèo vui hết sức, biết bao kỷ niệm dễ thương ngập trời. Nhớ và thương cha Quý 84 tuổi, thương chị Phượng trên chiếc xe lăn, hết anh Sơn lại đến các cô và các anh đẩy xe phụ. Thương Phương Lan ốm bịnh mà lúc nào cũng cố gắng. Thương chị Thái Hà ăn uống không quen thức ăn ở Âu Châu, mà lại đau lưng đau cổ, đi lên dốc, xuống dốc nhiều lại làm khổ cái lưng. Thương “Ông Ngoại” tổ chức lần đầu nên mọi dự tính đều không được như ý của Ông Ngoại, (nhưng Ông Ngoại ơi, cám ơn Ông Ngoại nhiều lắm vì rất được như ý của đàn con cái). Ông Ngoại hiền từ, nhân ái lúc nào cũng muốn giữ sức khỏe cho đàn con cháu yêu thương của Ông Ngoại đi hành hương đều được ăn ngon và ngủ ấm (mà lại được rẻ nữa) tại các Nhà Dòng (ông Ngoại quen biết) ở quê hương của Ông Ngoại mà vì lần đầu tiên tổ chức nên những nơi đó đã được các tổ chức khác book hết rồi. Thương Ông Ngoại quá chừng chừng Ông Ngoại ơi!!! Năm nay tại Monserrat có một người trong đoàn được “anh em của làng ngón tay dài” (lange Finger: Ngón tay dài: nghề ăn cắp) thăm viếng (chiếc ví xinh đẹp không cánh mà bay) khi cả đoàn say mê chụp hình chung nơi sân thượng của một Restaurant, 142


phong cảnh tuyệt vời bên giàn hoa giấy mầu tím hồng dưới bầu trời trong xanh, không khí ấm áp nơi Thánh Inhã dâng gươm cho Đức Mẹ, gợi nhớ năm 2010 trong đoàn HH cũng có nhiều người được anh chị em của làng này thăm hỏi (nhưng hình như chỉ xảy ra ở Barcelona và Madrid thôi). Những kỷ niệm nhớ đời trong cuộc hành hương vì “người hành hương thì biết mình đi đâu và chấp nhận những rủi ro xảy đến như là một hồng ân” Trên xe bus từ Manresa đi Lourdes bầu trời thật đẹp cao xanh, trong vắt, gió mơn man tươi mát, khí hậu khoảng 26 độ bách phân nên ấm áp tuyệt vời, hai bên đường cây cối đang nẩy lộc non xanh, đồng cỏ xanh non, chập chùng trải rộng mênh mông … đó đây vài ba con bò nâu đen nhẩn nha gặm cỏ, thỉnh thoảng thấy đàn heo con đen đen xinh xinh chạy theo heo mẹ trong những luống rau xanh, thật dễ thương và gợi cảm làm sao!!! Làm gợi nhớ đến thành phố quê hương của cha Gomez (cha Ngô Minh), thành phố SEGOVIA với món heo sữa quay trên lửa dùng với rượu đỏ Tây Ban Nha mà chị Thanh Trang London đưa vào thơ ca thật tuyệt vời !!! “Nhớ con heo sữa thật ngon, Nhớ con heo sữa da dòn thịt thơm. Nhớ xâu xúc-xích treo cao Hương bay nực mũi, muốn nhào dzô xơi Hành Hương lại nhớ hành hương (hành lá) Thấy con heo sữa lại thương dạ dày Hết “đai-ét” lại ăn chay Miệng mồm rỏ dãi, kiểu này lên cân “Phút hồi tâm” cứ tần ngần Thấy toàn xúc-xích, rau cần, rượu vang Trông hình liên tưởng tội mang Điều răn lỗi phạm, cả làng chia nhau Bà con không biết ra sao Thú thật nhà cháu cồn cào tương tư Muốn gởi lên net lá thư Complain thợ chụp “Lão Trư” da vàng Nước da bóng loáng mỡ màng 143


Lại còn khoe bụng giữa làng cha Minh Segovia hiền xinh Cừu non, lợn béo… đậm tình Hành Hương”

Xa xa đàn cừu hàng trăm con đang nằm ngơi nghỉ dưới bóng mát của những hàng cây cổ thụ cao ngất gợi nhớ đàn cừu đồ sộ trên con đường đi vào quê hương cha Gomez thật đẹp với những con chó và vài con dê chăn cừu, cả đàn di chuyển thật là trật tự theo sau người chăn cừu trông hiền lành hết sức, khiến cả xe ngừng lại để chiêm ngưỡng và chụp hình, nối tiếp những rặng núi xanh xanh xa mút mắt đến tận chân trời một mầu xanh da trời trong vắt, không một gợn mây, tạo thành một bức tranh đủ mọi màu xanh tuyệt mỹ, khiến lòng người cảm thấy yêu đời, yêu người, yêu vạn vật. Cảnh vật này khiến tôi nhớ Dalat thân yêu quá, nơi tôi được nuôi dưỡng bằng mầu xanh của bầu trời, của hồ nước, của những rừng thông xanh bạt ngàn và của đồi núi cỏ cây từ khi lọt lòng mẹ. Dalat được mệnh danh là Thành Phố Xanh mà một người Dalat đã diễn tả: “khó kiếm được thành phố nào xanh như Dalat của tôi, ngay không khí cũng xanh như da trời cây cỏ. Đâu chỉ đồi thông biết san sẻ mầu xanh cho ngọn gió, Giọt nắng vàng cũng nhuộm xanh mặt nước Hồ Xuân Hương”

Một niềm vui phơi phới tràn ngập tâm hồn. Thầm tạ ơn và ngợi khen Thiên Chúa đã tạo nên những cảnh sắc thiên nhiên tuyệt vời cho con cái của Người được hưởng dùng. Năm 2010, trên con đường này chúng mình được ngắm cảnh tuyết rơi tuyệt vời, (mà Phương Lan thích thú lần đầu tiên được ngắm tuyết rơi đã tả bông tuyết như những cánh hoa đào trắng được các Thiên Thần rải xuống từ trời cao) được hưởng không khí lạnh lạnh của mùa đông, được đón nhận những giọt mưa Hồng Ân bên chân Đức Mẹ Lộ Đức trong khi dự Thánh Lễ đêm 144


và Thánh Lễ sáng tinh sương. Thương mến cả nhà ai cũng bị cảm lạnh vì không ai dự trù mang đủ áo ấm, nhất là các chị ở nơi ấm áp quanh năm Việt Nam, thương nhất cha Nghĩa được những “ngón tay dài” hỏi thăm kỹ quá nên càng thiếu quần áo ấm nhiều hơn mọi người. Thương chị Thái Hà vừa đau lưng vừa đau khổ, ý quên, đau cổ, vừa bị lạnh thấu xương sườn xương sống, thiếu ngủ mà lại không ăn được món gì ở xứ lạ cả. Thương Thùy Anh vì thương Thái Hà quá nên cũng đau như Thái Hà. Càng nghĩ đến anh chị em trong đoàn HH 2010 thì tình thương lại càng dâng trào và từng khuôn mặt thân thương càng hiện rõ trong tâm tưởng. Năm nay cha Nghĩa cũng được hãng máy bay ưu ái đặc biệt lưu giữ hành lý của cha ở các phi trường hơi lâu nên cha cũng là người luôn luôn thiếu “đồ tế nhuyễn của riêng tây” để dùng. Hi hi … he he… he, số của cha Nghĩa là số bác ái bất đăc dĩ, phải không cha. Nhớ đến Andorra, thành phố nho nhỏ xinh xinh, có cà-phê ngon, bánh mì kẹp trứng cũng ngon, cũng nho nhỏ xinh xinh. (Đây là phần ăn sáng của dân Tây Ban Nha mà Tiết bé cái lầm nên cứ nghĩ là phần ăn trưa, hi hi…) vì dân TBN ăn sáng lúc 10giờ đến 12giờ trưa mà. Nơi này mọi người được tự do đi ăn trưa nên ai ai cũng túa đi thăm phố phường, có người đi tìm mua rượu vì rượu ở đây không bị đóng thuế, có người vào siêu thị, có người đi ngắm phố phường để “thăm dân cho biết sự tình”… Tiết và “ông xã xệ” không dám đi xa vì (lươi huyền) và sợ mỏi chân nên đến một tiệm cà-phê gần điểm hẹn ăn trưa bằng phần ăn sáng của họ. Nơi đây mọi người cũng đã có một kỷ niệm thật tuyệt vời với trời mưa tầm tã đi tìm và đã gặp được chiên lạc. Từ kỷ niệm này tình thương yêu của cả nhà thêm đậm đà và hình ảnh Ông Ngoại đứng dưới trời mưa ngóng chờ, lo lắng cho chiên lạc phản ảnh nổi bật Tình Yêu của Cha Nhân Lành đối với con cái mà Thánh Sử Luca đã diễn tả về “Người cha nhân hậu”.

145


Hành trình của đoàn Hành Hương năm nay không đến hai địa điểm này, nên mọi người không được thưởng thức món heo sữa quay và món cừu non nướng trên lửa nhâm nhi với rượu đỏ Tây Ban Nha ngon hết biết, ngon tuyệt vời, tuyệt cú mèo!!! Đến lâu đài Xavier ở Navarra, lâu đài của gia đình Thánh Phanxico Xavier. Một lâu đài thật to lớn, kiên cố. Trong nhà nguyện của lâu đài có tượng Chúa Giêsu mỉm cười trên thập giá, đây là bức tượng tạc theo nghệ thuật Gothic. Càng nhìn ngắm lâu càng thấy nụ cười và gương mặt Chúa thật đẹp, thật ý nghĩa với sự hy sinh của Ngài, miệng Chúa nhoẻn nụ cười bình an và hài lòng ẩn trong nét mặt đau đớn còn hằn vài giọt mồ hôi. Năm ngoái đến đây Tiết đã rất hạnh phúc và sung sướng, vì hằng ao ước từ lâu được đến thăm lâu đài, nơi sinh sống của vị Thánh mà Tiết hằng yêu mến, kính trọng và ngưỡng mộ nên đã tìm đến kính viếng xác của Ngài ở GOA, Ấn Độ, cách đây khoảng 5 hay 6 năm rồi. Tiết yêu quý nhất là nhà nguyện trên lầu có Thánh Thể Chúa hiện diện 24/24. Nơi đây, 2010 lần nào Tiết bước chân vào cũng thấy Chi Lan hiện diện ở đó rồi, nơi này gia đình Tiết được Chúa Giêsu Thánh Thể yêu thương tặng cho món quà quý nhất trên đời. Để đền đáp Tình Yêu Ngài, con xin cố gắng gìn giữ tình yêu Chúa trong con mỗi ngày một đậm đà hơn và mỗi ngày mỗi thanh luyện tâm hồn trở nên hoàn thiện hơn, để sống đẹp lòng Ngài hơn. Xin Chúa luôn ở với con. Vừa tới nơi là Tiết đến ngay phòng này để viếng Thánh Thể Ngài, Tạ Ơn Ngài và dâng lên Ngài tất cả các cha, các anh chị em trong hai đoàn Hành Hương 2010, 2011. Nói chung là đi đến nơi nào Tiết cũng nhớ đến bao nhiêu kỷ niệm của bà con cả nhà mình. Đến Loyola. Đây là lâu đài của gia đình Thánh I-nhã. Ngài chào đời tại đây năm 1491. Lâu đài này còn đồ sộ hơn lâu đài Fransisco Xavier, được xây vào thế kỷ XIV do ông cố của I-nhã, 146


Beltran Ibanhes de Loyola. Lâu đài này được xây thêm phần trên do ông nội Juan Perez de Loyola, của I-nhã xây năm 1460. Lần này đoàn hành hương được ở trong Nhà Dòng, có đường đi thông qua nhà thờ mà không phải đi vòng ra ngoài khi trời mưa. Thật tuyệt. Nhớ chị Tuyết và Thầy Sáu Cường đọc Sách Thánh nơi Phòng Thánh Inhã dưỡng thương, nhìn chị vừa đọc vừa rưng rưng lệ, vì chị đang nhớ lại một kỷ niệm của gia đình chị ở nơi Thánh này. Thật cảm động biết bao!. Tại Loyola này nhiều kỷ niệm đang tràn về trong ký ức, với căn nhà trọ trên đồi cỏ xanh mướt có cái tên rất ngộ nghĩnh dễ thương “KUKUHERRI” có mấy pho tượng đồng lớn nhỏ đủ kiểu rải rác trong sân và trên terrase mà sáng sớm mọi người túa ra đây múa tay múa chân để tập những đường quyền cho thân thể cường tráng và đôi chân dẻo dai mà tiếp tục lên đường, nơi đây Tiết học được vài đường quyền của cô em Thương dễ thương, Canada. Cô em này chắc là gái Bình Định nên múa quyền dẻo ơi là dẻo, vung tay vung chân tả xung hữu đột trông thật ngoạn mục, hi hi…he he … Lúc vừa đến nhà này, mọi người đem hành lý vào phòng tiếp tân ai cũng được chiêm ngưỡng nhà thờ Loyola ở xa xa dưới thung lũng, qua khung tường rộng lớn bằng kính. Ai cũng dơ máy hình cố lấy vài tấm hình ngọn tháp mầu hồng có Thánh Giá ngự trên cao của nhà thờ Thánh Tổ Dòng Tên nổi bật trên những ngôi nhà san sát nhau, mái ngói đủ mầu nâu, đen, đỏ chen lẫn trong những hàng cây xanh. Dưới thung lũng bên cánh trái “Kukuherri” một số nhà dân lưa thưa rải rác cách nhau bằng những cánh đồng cỏ xanh mượt mà, dân ở đây sống bằng nghề chăn nuôi nên quanh đây lô nhô những đàn cừu nho nhỏ ung dung gặm cỏ trong vòng rào. Chiều chiều nhìn những làn khói trắng vươn cao lả lướt theo làn gió nhẹ từ những căn nhà nơi chân đồi, đem theo mùi khói thơm 147


thơm của thức ăn lan tỏa lẫn mùi khét khét của cỏ cây, của lá khô. Khung cảnh thật êm ả thanh bình, thơ mộng gợi nhớ quê hương, quê nhà quá chừng. Chả là thuở ấu thơ Tiết sống ở nhà quê, quanh năm làm bạn với gà vịt heo bò rau cỏ bông hoa nên cứ mỗi chiều chiều người giúp việc quét lá rụng ngoài sân gom lại đốt, làn khói trắng vươn lên quyện lẫn mùi rơm rạ, mùi lá khô, lá tươi tạo thành một mùi quê hương thật đặc biệt. Nơi này cả nhà có nhiều kỷ niệm nhất là trong phòng ngủ. Đám phụ nữ chúng mình chiếm bao nhiêu cái giường tầng và vui vẻ đùa dỡn trêu chọc nhau vì chưa bao giờ được sống tập thể với nhau trong tình thương yêu đậm đà như thế này. Một số chị chạy qua phòng quý ông để làm giường cho các đức ông chồng bị các anh chọc ghẹo thật là dễ thương… thương chị Phương Dung xách đồ nghề đi từ gường này qua giường khác cạo gió cho các chị, vui ơi là vui!!! Thương Kiều Trang và Lệ Huyền vật lộn với việc chia phòng, vì phòng riêng thì không còn, phòng đôi hay phòng bốn giường thì ít, chỉ còn phòng 10 giường và phòng 20 giường. Ôi! bao nhiêu kỷ niệm vui và dễ thương biết bao! Cả nhà mình còn được nhiều phen đi dạo dọc bờ sông để đến lâu đài của gia đình Thánh Tổ Inhã và nhà thương thí của những người cùng khổ mà Thánh Inhã đã đến đây sống, để chia sẻ nỗi khốn khổ với họ, chứ không chịu sống sung sướng trong lâu đài đồ sộ của gia đình. Trên đường đi bộ dưới hai hàng cây xanh bên bờ sông thật đẹp, không khí thơm tho trong lành, gió mát mơn man những khóm hoa bên vệ đường… sắc hoa còn lung linh những giọt sương mai, hương hoa thơm thoang thoảng vương vương theo làn gió, mọi người vừa đi vừa thăm hỏi nhau vừa tâm sự, vừa trao đổi cuộc sống đời thường, cuộc sống đức tin với nhau thật thân tình… Đám đi bộ này vượt mặt đám đi trước, đám này chẳng chịu thua lại ra sức nhanh chân rảo bước xem ai là người đến trước, ha ha… vui hết biết há cả nhà!!! Vừa 148


đi vừa chọc ghẹo nhau vừa chăm sóc cho nhau, chia nhau miếng bánh viên kẹo nho nhỏ mà chứa chan bao tình thương mến. Nơi đây còn gợi lên bao kỷ niệm khi mọi người đi tìm Restaurant để ăn trưa. Có lúc kéo vô cả hai ba chục người khiến chủ tiệm và khách ăn ở trong tiệm ngạc nhiên một cách thích thú. Có người thấy đông quá phải chờ lâu khi đặt thức ăn nên bỏ đi tìm tiệm ăn khác, cha Nghĩa và các anh chị Bỉ Quốc và Việt Nam thì vào tiêm ăn Á Châu vì mọi người nhớ cơm, nhớ gạo quê hương. Sau ăn trưa cả đoàn lại kéo nhau tản bộ về Kukuherri. Nhớ đến chị Mai Đức có đôi giầy tốt quá nên mới đi bộ có một ngày mà bị gãy mất cái gót giầy, hi hi… vì Chúa biết chi Mai đem theo bốn năm đôi giầy lựng mà… he he…). Vui quá phải không cả nhà?! Riêng cha Quý, chị Phước với chị Phượng (đi xe lăn) được bác tài taxi rước về tận Kukuherri. Hai ngày lưu lại nơi này ai cũng có rất nhiều kỷ niệm trên những con đường dọc theo bờ sông phải không, cả nhà thương mến. Nhớ nhất cha Gomez với bao nhiêu lời mắng yêu chúng ta trên những đoạn đường đi bộ này, khi đi qua đường mà vài anh chị em băng đại qua bị cha la cho là kém văn hóa, thế mà anh chị em lại cười hi hí… ha há với nhau… và cha cũng chẳng giận chút nào, chỉ hơi hờn hờn tí thôi!?. Khi đi thăm những kiến trúc cổ kính của nhà thờ, có nhiếu bức tượng thật lạ, tò mò hỏi cha thì cha trả lời cách huề vốn thật là chân tình và vui lắm: ”À, đó là một người đạo đức ạ”. Cha Gomez ơi, chúng con kính mến và thương quý cha lắm. Vẫn luôn nhớ đến cha và các cha hành hương trong kinh nguyện hằng ngày. Khi đến chặng cuối là Madrid, phục các bác tài xế xe bus của Tây ban Nha, xe thì lớn vừa sát cái cổng mà “anh tài” nào cũng lái xe qua ngọt sớt và khi ra khỏi Nhà Dòng thì phải “de lui” mà “anh tài” nào cũng không để xe bus hay chiếc cổng bị xây xát chút nào, thật đúng là “anh tài”. Nhớ đến Hưng-Kim Anh, cặp 149


uyên ương “anh tài” thật đẹp đôi, thật dễ thương, thật chân tình, năng nổ mà dịu dàng vui tươi giúp mọi người “sống giây phút hiện tại cho tràn đầy yêu thương” suốt cuộc hành trình. Nhớ cha Quý khoan thai, nhẫn naị, dịu dàng với nụ cười duyên dáng đầy tình thương ban phép lành cho đoàn hành hương mỗi khi xe bus bắt đầu lăn bánh lên đường trong sáng sớm tinh mơ. Lần này đến Nhà Dòng Misioneras Cruzadas de la Iglesia, Madrid được bác Kiểm gái đứng sẵn ở cửa chào đón mọi người, thật là dễ thương và cảm động. Bác vẫn vui tươi, trẻ trung với nụ cười tươi phúc hậu nở trên môi. Đêm chia tay nơi đây gợi nhớ đến Minh Châu, cô bé nhỏ nhất và xinh nhất, duyên dáng nhất đại diện cả nhà nói lời cám ơn thật chân tình đến các cha và ban tổ chức với những giọt nước mắt nghẹn ngào làm mềm lòng mọi người, thật dễ thương, nhớ đến từng gương mặt mọi người khi cùng nắm tay nhau hát Shalom mà nước mắt đoanh tròng, vì cảm động, vì chan chứa tình thương, vì biết ơn nhau và vì sắp xa cách nhau… biết bao giờ gặp lại. Sau cùng là nhớ đến những người ở lại đi viếng Đức Mẹ ở Fatima, sẽ ra về sau (Tiết và một số người không đi Fatima nên đi về trước) nhờ núi lửa ỏ Island mà những người này được một phen hú vía ??? hi hi…và sung sướng trong nước mắt??? nhờ đó được cảm nghiệm sâu xa hơn tình thương yêu của Thầy Giêsu, được ở lại ngao du Madrid “đất ấm tình nồng”?! được dịp tận hưởng niềm âu lo lẫn vui buồn với anh em “làng ngón tay dài” … hi hi… thêm vài ngày nữa. Và chắc chắn nhờ đó mà tình yêu thương trong anh chị em cả nhà mình mặn nồng hơn, và kéo dài mãi mãi, phải không ạ? Vài hàng tâm sự với cả nhà nhé. Chúc cả nhà luôn an vui trong Tình Yêu của Thầy Chí Thánh. Rất quý mến cả nhà./-

150


Một tay nắm Chúa, một tay nắm anh em. Cuối tháng 7.2011 tôi đi dự một khóa Tĩnh Huấn Cursillo – khóa 29 nữ – tại Trung Tâm Công Giáo Việt Nam, Paris. Đối với tôi ba ngày này là ba ngày Hồng Ân Chúa đã ban cho, tôi được học hỏi nhiều, nghe nhiều những bài Huấn Đức của các Linh Mục và các Thầy Sáu Vĩnh Viễn về Kinh Thánh, về Tín Lý. Cùng những kinh nghiệm giữ đạo, sống đạo, hành đạo của các chị trợ tá qua các Rollo hướng dẫn. Xin Tạ Ơn Chúa, cám ơn ban tổ chức, cám ơn tất cả nhiệt tình của các anh chị trợ tá âm thầm phục vụ khóa, cám ơn những Balanca của Phong Trào đã trang bị cho 39 chị em khóa sinh chúng tôi đầy đủ hành trang để dấn bước trên con đường đến gần Chúa, gần anh em tha nhân. Trong khóa tôi được nghe nhiều lần câu „Một tay nắm Chúa, một tay nắm anh em“. Câu nói thật dễ thương, xúc tích và trần đầy ý nghĩa của Phong Trào qua môi miệng của các anh chị em đi trợ tá, qua các Rollo của các Cursillistas luôn luôn nhắc nhở. Chính câu nói này cứ vấn vương trong đầu tôi mãi, suy nghĩ và ưu tư hoài!!! 151


Không biết các anh chị đã thực hiện như thế nào về tôn chỉ này của Phong Trào Cursillo? Các anh chị ấy tay nắm Chúa như thế nào và tay nắm anh em ra sao?! Hy vọng các anh chị chia sẻ những kinh nghiệm của mình cho chúng tôi, những người mới chập chững bước chân vào ngưỡng cửa phong trào, còn bỡ ngỡ với những điều mới lạ, chúng tôi cần được các anh chị đi trước dắt dìu. Các anh chị hẳn đã nhận được tràn đầy Ơn Chúa Thánh Thần “Nhờ sức mạnh Thần Khí ngự xuống trên con, bấy giờ con sẽ là chứng nhân của Thầy“ (Cv 1.8). Tôi cảm nhận được điều chắc chắn là các anh chị có lòng yêu Chúa thật dồi dào, mãnh liệt, các anh chị là những tông đồ đắc lực của Chúa Kitô vì qua cách thức các anh chị phục vụ thật là vui tươi, nồng nhiệt, kiên nhẫn, dịu dàng, tràn đầy tình yêu thương. Tôi không biết có bao nhiêu anh chị làm trợ tá cho khóa, những anh chị làm việc âm thầm trong nhà bếp, dọn dẹp trong nhà vệ sinh, tập kịch, tập hát v.v… các chị còn liên lỉ chầu Mình Thánh để cầu nguyện cho chúng tôi, nhưng điều chắc chắn là đông hơn khóa sinh chúng tôi. Nhất là khi nhìn thấy gương nhân đức phục vụ của hai chị trưởng, phó khóa. Cá nhân tôi xin bái phục. Anh chị em Cursillistas đã thực sự làm vinh danh Thiên Chúa. “Điều mà Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy“ (Ga 15,8) Câu phương châm “Một tay nắm lấy Chúa, một tay nắm lấy anh em“, đánh động tôi thật nhiều. Cá nhân tôi cảm nhận, áp dụng được điều này rất là khó khăn. Theo thiển ý của tôi, câu nói này quy nạp cả ba phần: đối thần tức là với Chúa, đối nhân tức đối với tha nhân, anh chị em, đối kỷ tức là đối với chính mình. Đối thần: Mình phải làm sao đến được gần Chúa, để tay mình nắm được tay Ngài. Hay để Ngài nắm tay mình? Một tay nắm Chúa, nghe thì thấy dễ quá, dễ thương quá, nhưng nắm như thế nào? Nắm vào đâu? Chúa có dơ tay ra cho mình nắm tay Ngài 152


không? Mình có xứng đáng được nắm tay Chúa không? Nếu có, thì vào lúc nào? Nếu khi mình dơ tay ra muốn nắm tay Chúa mà Chúa phán: “Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến“ (Lc.13,25) hoặc „Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính“ (Lc.13, 27). Tôi tự nghĩ: Có phải nắm Chúa là nắm lấy Lời Chúa không? Với khóa chỉ có ba ngày ngắn ngủi học hỏi thì sự hiểu biết của mình đong được bao nhiêu Lời Chúa mà nắm? Giả dụ khi nắm được tay Chúa rồi, trong khi chính lòng mình chưa vững niềm tin, chưa biết trông cậy phó thác, lòng mến còn hững hờ, kèm theo bao nhiêu chuyện đời phải lo, bao nhiêu cám dỗ của thất tình lục dục trong con người trần tục mỏng dòn, yếu đuối của mình vì „tinh thần thì hăng hái nhưng thể xác lại yếu đuối“ (Mc. 14,38). Đang nắm tay Chúa mà những mời gọi của tiền tài, danh vọng, sĩ diện, tham lam tiếng khen, tham lam vật chất với biết bao nhiêu cám dỗ quyến rũ ở đời thường khiến mình rời bỏ cái nắm tay của mình khỏi tay Chúa hồi nào không biết, không hay và cứ thế xa Chúa lúc nào không hay, không biết. Khoảng cách đó kéo dài bao lâu cũng không biết, không hay luôn?! vì „những điều thiện tôi muốn tôi lại không làm, những điều ác tôi không muốn tôi lại làm“(Rm 7,19). Do đó tôi phải biết Chúa, để kính yêu Ngài hơn, biết tình yêu bao la của Ngài dành cho tôi như là một Hồng Ân mà tôi phải đáp đền, Tôi phải tin, cậy, mến Ngài liên lỉ. Biết phó thác theo sự dắt dìu của Ngài qua Lời Ngài. Nhờ Ngài tôi sẽ tránh xa những tội lỗi lôi kéo, tôi phải luôn tỉnh thức không để thần dữ, ma quỷ điều khiển. Từ đó tôi mới có thể xứng đáng được Ngài cho nắm tay. Đối nhân: Đối với tha nhân (nắm lấy tay anh chị em), điều này thực sự đối với tôi thấy khó hơn nhiều! Theo tôi hiểu, tôn chỉ của Phong Trào là nắm tay các anh em chưa biết Chúa để đem 153


họ về với Chúa, hoặc cách khác, đem Chúa đến cho họ. Và nắm cả tay những anh em nghèo khó, đau khổ, hoạn nạn, tù đày, bị ức hiếp, bị bách hại v.v… không những chỉ về phần thể xác mà cả về phần quan trọng hơn là tâm linh. Làm sao đây??? Thực sự khi mình đưa tay ra để nắm tay anh em, ngay cả những anh em con một Cha Trên Trời mà khi mình đưa tay ra nắm tay họ, chưa chắc họ đã tin tưởng mình mà đưa tay ra cho mình nắm.!? Huống chi họ là những anh em khác đức tin với chúng ta, những khác biệt, những ích kỷ, những bảo thủ, những chủ quan, những tự kiêu của con người là những rào cản mà thần dữ đã dầy công xây dựng để ngăn cách con người với con người lại gần nhau! Vậy làm sao ta nắm được tay Chúa và nắm được tay anh em? Đối kỷ: với chính mình. Tôi nghĩ điều kiện ắt có và đủ để ta đưa hai tay ra, một tay nắm Chúa, một tay nắm anh em một cách chắc chắn trong tin tưởng và tự do là sống điều răn quan trọng nhất: „Yêu Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn và yêu anh em như Chúa yêu“. Vậy ta tự hỏi ta đã yêu đủ chưa? Có hết lòng, hết sức, hết trí khôn chưa? Có dám từ bỏ mọi sự chính mình để yêu Chúa và yêu mọi người chưa? Yêu Chúa thì tự mình mỗi ngày phải thanh luyện linh hồn mình để mỗi lúc gần Chúa hơn, mỗi ngày nên giống Chúa hơn. Yêu Chúa là phải để cho Thần Khí Chúa biến đổi tâm hồn mình. Sự biến đổi để trở thành một Kitô hữu đích thực không phải là chuyện dễ dàng, và cũng không phải chỉ biến đổi một lần là đủ, mà phải cố gắng không ngừng suốt cả cuộc đời. Linh hồn mình thanh sạch thì lúc bấy giờ Chúa mới có chỗ ngự „Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, bởi họ sẽ được thấy Thiên Chúa“ (Mt 5,8).Tâm hồn trong sạch là lương tâm ngay thẳng, không gian dối, không mập mờ, không làm tôi hai chủ. Muốn được vậy thì ta phải luôn đến với Ngài „không có Ngài chúng ta chẳng làm được gì“. 154


Đến với Ngài là đến với Lời. Lời Chúa phải được thấm nhuần vào tâm hồn. Phải luôn cầu nguyện xin Ơn Hỗ Trợ, Ơn Phù Trì để dễ dàng từ bỏ cái tôi, cái tự ái của tôi, những tham vọng của cải thế gian v.v và v.v…Ta phải nỗ lực tìm tòi học hỏi qua Kinh Thánh, vì „Kinh Thánh là ngọn đèn cho ta bước, là ánh sáng soi đường chúng ta đi“ (Tv 1158,105), qua giáo lý của Giáo Hôi, qua gương nhân đức của các Thánh, qua Lời dạy của Đức Mẹ và siêng năng đi dự tĩnh tâm để tìm Ý Chúa mà đem ra thực hành. Phải học hiểu biết, yêu mến và tuân phục Chúa Giêsu “Phàm ai đặt hy vọng nơi Đức Kitô thì làm cho mình nên thanh sạch như Ngài là Đấng Thanh Sạch“ (1Ga 3,3). Phải phấn đấu để Chúa Thánh Thần biến đổi cho đức tin mà mình lãnh nhận từ Bí Tích Rửa Tội và Bí Tích Thêm Sức được tiến triển sâu xa. „Anh em hãy sống xứng đáng với ơn kêu gọi mà Chúa đã ban cho anh em. Hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại. Hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hòa và gắn bó với nhau“ (Ep.4,2-3). Muốn thực hành những điều trên ta phải năng cầu nguyện. Khi biết yêu Ngài tha thiết và sống đúng Lời Ngài dạy thì có thể lúc bấy giờ mình đưa tay ra nắm tay Chúa hẳn Chúa không từ chối; và đối với anh em luôn thuận hòa, khiêm nhường và gắn bó với nhau thì mình đưa tay ra xin nắm tay anh em, chắc chắn anh em cũng không lắc đầu. Xin Chúa giúp con nhìn nhận những yếu đuối, những bất toàn của con để con biết vươn lên trong hoán cải liên tục hầu thực hiện được lý tưởng mà Phong Trào mời gọi. Lạy Chúa, xin dạy con biết tìm Ý Chúa trong cầu nguyện, cho con biết yêu Chúa mỗi ngày một hơn, biết tôi luyện linh hồn để con có một trái tim trong sạch, một tâm hồn đổi mới, biết thực thi Ý Chúa trong hành động và cảm nhận Chúa mãi mãi là nguồn Hạnh Phúc thật của con. Amen. 155


Họ hết rượu rồi „Trong tiệc cưới tại Cana miền Galilê. Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời. Khi thấy thiếu rượu, Mẹ Maria thân mẫu Đức Giêsu nói với Người: “Họ hết rượu rồi“. Đức Giêsu đáp:“Thưa Bà, chuyện đó can dự gì đến Bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến“. Mẹ Maria nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo“. Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái, mỗi chum chứa được khoảng 80 hoặc 100 lít nước. Đức Giêsu bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi! “Và họ đổ đầy tới miệng chum“ (Ga 2, 3-7). 156


Đang ngồi dự tiệc với bà con trong làng, Đức Mẹ Maria vẫn để ý đến mọi chuyện diễn ra trong tiệc cưới. Khi thấy gia chủ hết rượu, Đức Mẹ liền can thiệp bằng cách yêu cầu con mình giúp đỡ họ. Không ai biết rõ con mình bằng mẹ, cũng không ai biết rõ mẹ mình bằng con. Đức Mẹ biết chắc là khi Mẹ lên tiếng thì thế nào con mình cũng đáp ứng và thế là Mẹ lên tiếng với Chúa Giêsu, con mình „họ hết rượu rồi“. Đức Giêsu đáp „Thưa Bà, chuyện đó can dự gì đến Bà và tôi“ (Nếu người nghe với một tính cách nghiêm nghị thì thấy câu trả lời sao mà chướng tai) nhưng khi đọc đoạn Kinh Thánh này tôi lại nhận ra Đức Giêsu có một tâm hồn tinh tế, sâu sắc và vui vẻ. Ngài đùa với Mẹ mình thật là dí dỏm, hóm hỉnh trong khi Ngài còn đang vui vẻ cùng với các bạn trong tiệc cưới. Chúa Giêsu vui cười đến với những gia nhân đang lo phần tiếp rượu cho khách nói: „Các anh đổ đầy nước vào chum đi“. Họ đã được Đức Mẹ dặn dò „Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo“. Thế là các gia nhân phấn khởi nhanh nhẹn cùng nhau hợp lực múc nước đổ đầy sáu chum đá, mỗi chum chứa khoảng 80 đến 100 lít. Tất cả sáu chum nước đã đầy tới miệng chum. Chúa Giêsu nói với họ: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc“. Ông quản tiệc nếm thử thì thấy rượu ngon quá, ông quản tiệc không biết phép lạ do Chúa Giêsu đã làm, nhưng gia nhân đã múc nước thì biết. Ông gọi tân lang lại và nói: „Ai ai cũng thết rượu ngon trước và khi khách đã ngà ngà say mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ“. Cuộc sống hôn nhân của chúng tôi đã biết bao nhiêu lần hết rượu, gia đình lục đục vì đời sống khó khăn, đồng lương công 157


chức giới hạn, bất đồng ý kiến, cãi vã với nhau, khi đau ốm, lúc nhiều việc bất như ý xảy ra rất khó khăn, không đủ can đảm để đối diện với vấn đề v.v…và v.v… chúng tôi đều kêu cầu đến Đức Mẹ. Mẹ Maria cũng dạy chúng tôi „Người bảo gì, các con hãy làm theo“.. Chúng tôi hiểu rằng muốn có được cuộc sống hạnh phúc trong gia đình thì luôn luôn phải thực hành đúng Lời Chúa dạy: „Các anh đổ đầy nước vào chum đi“, nghĩa là phải sống tròn ầy Lời Chúa „lúc vui vẻ cũng như khi buồn sầu, lúc khỏe mạnh cũng như khi đau ốm (lời hứa trong Thánh Lễ Hôn Phối). Chúa ơi! Suốt bao nhiêu năm sống đời sống hôn nhân, chúng con luôn luôn cố gắng kín nước để đổ cho đầy cái chum hạnh phúc gia đình mà vẫn chưa được. Điều kiện ắt có và đủ để Chúa biến đổi nước thành rượu ngon là phải đổ đầy chum, phải sống cho đầy Lời Chúa. Chúng con sống trong thời kỳ chiến tranh, chồng con là một quân nhân thường vắng nhà. Công việc lo cho sáu cái chum của gia đình chỉ một mình con quán xuyến - nào chum làm cha và làm mẹ - nào chum kinh tế gia đình – nào chum giáo dục con cái – nào chum bổn phận dâu con – nào chum thù tạc bên ngoài (quan hôn tang tế) – nào chum chăm sóc đức tin. Suốt mấy chục năm trời mà không cái chum nào đổ được đầy nước. Vì thế cuộc sống gia đình luôn luôn đầy sự lo lắng, sợ hãi, thiếu bình an, thiếu bảo đảm, thiếu sự ấm cúng của một mái gia đình. Biến cố tháng 4/1975 xảy đến, tất cả những cái chum con đang cố gắng kín cho đầy nước đã vỡ tan tành. Chồng đi tù cải tạo vì tội là sĩ quan „ngụy“ (?). Con mất việc làm cũng vì lý do công chức „ngụy“. Các con cái con vẫn được đến trường mà thiếu thốn mọi bề, vì một mình mẹ không lo đủ cái ăn cái mặc hằng ngày cho các con. Từ đó mẹ con bữa đói bữa no, nỗi sợ hãi, nỗi cô đơn, nỗi tuyệt vọng luôn luôn hiện diện. Cuộc sống buồn 158


thảm vô vọng, không một tia sáng cho ngày mai. „Các anh đổ đầy nước vào chum đi“. Chúa ơi, bây giờ thì con còn có chum nào nữa đâu để đổ đầy nước. Còn sức nào, hy vọng nào để đổ đầy nước? Tuy vậy thời gian này mẹ con con cũng vẫn tin tưởng, phó thác và trông chờ phép lạ Chúa đến cứu chúng con. Năm 1980 chồng con ra tù, anh và hai con lớn, lên ghe vượt biển tìm tự do. Tạ ơn Chúa, thật may mắn Chúa cho tàu Cap Anamur cứu vớt trên biển Đông, nên đã tìm được sự sống trong cái chết, sau mấy ngày lênh đênh trên biển cả, khi cơn bão cấp bảy sắp chụp đến. Năm 1983 Chúa lại cho gia đình chúng con được đoàn tụ. Trải qua thời gian thật kinh hoàng, sống khó khăn, khốn khổ dưới sự cay nghiệt của nhà cầm quyền Việt Cộng. Bây giờ Chúa cho gia đình chúng con cuộc sống ổn định nơi xứ tự do.Tạ ơn Chúa, cám ơn người dân Đức Quốc đã giang rộng vòng tay nhân ái, quảng đại cứu vớt nuôi dưỡng chúng con. Để tạ ơn Thiên Chúa đã thương yêu, gìn giữ, lo liệu cho chúng con thoát bao nguy hiểm, bây giờ lại được đoàn tụ, chúng con „xin vâng“ lời Mẹ Maria dạy: „Người bảo gì, các con hãy làm như vậy“. Chúng con biết chúng con phải cố gắng kín nước đầy chum thì hạnh phúc của chúng con mới được Chúa chúc phúc. Tạ ơn Chúa, nhờ hồng ân Ngài luôn giúp đỡ, phù trì mà hơn 30 năm rồi chúng con mới „đổ đầy nước vào chum“ như Lời Chúa dạy, song cũng còn những chum đổ hoài chưa đầy vì con người mỏng dòn, yếu đuối, ươn hèn, lười biếng của chúng con, xin Chúa giúp chúng con mỗi ngày mỗi biết sống gắn bó với Lời Chúa hơn. Tạ ơn Đức Mẹ, Tạ ơn Chúa và Ngợi Khen Ngài.

159


Ly cà-phê muối ngọt ngào Khoảng hai, ba chục năm nay, sau thời gian dài định cư ở xứ người, chúng tôi, những cựu học sinh và thầy cô giáo trường Nữ Trung Học Bùi Thị Xuân Dalat sống rải rác ở khắp nơi: Mỹ Châu, Âu Châu, Úc Châu, Canada thường tổ chức những ngày họp mặt để nối lại tình thân thương thời cắp sách. Năm 2006 chúng tôi tổ chức họp mặt tại Montreal, Canada. Một kỷ niệm thật vui không bao giờ quên được trong lần gặp gỡ này. Vừa đến Montreal, chúng tôi (tôi và ông xã xệ ở Đức Quốc) được thầy Hoàn ra đón tại phi trường đưa về nhà. Thật vui mừng và cảm động biết bao nhiêu sau khoảng hơn 30 năm chúng tôi mới được gặp nhau. 160


Buổi sáng hôm đó…Tôi và Túy Đa (ở Quebec) rủ nhau dậy sớm để giúp Ngọc Hảo sửa soạn bữa ăn sáng. Khi hai đứa vào bếp đã thấy Thầy Hoàn, (thầy dạy toán, lý hóa của chúng tôi, nay là phu quân của Ngọc Hảo), anh Hành chồng Túy Đa, ông xã xệ Sao của tôi ngồi đó uống cà phê từ lúc nào rồi, còn Ngọc Hảo solo một mình bận rộn hâm bánh bao và lo chuẩn bị các thức cho nồi bún bò. Túy Đa nhanh nhẩu đến cạnh Hảo lăng xăng lít xít phụ chủ nhà „o bế“ nồi nước lèo vừa bắt đầu lăn tăn sủi bọt. Túy Đa dành con dao trên tay Hảo, thái thịt, miệng bi bô đủ thứ chuyện. Tôi còn đang ngơ ngác chưa biết làm gì. Thầy Hoàn hỏi: - Tiết uống cà phê? - Dạ vâng, thầy để em tự pha được mà. Nhưng liền sau câu hỏi Thầy Hoàn đã đứng lên lấy ly pha cà phê cho tôi và nói: - Để tôi pha cà phê cho cô học trò từ Âu Châu đến. Hạnh phúc quá sức khi được thầy giáo của mình phục vụ mình một ly cà phê ân tình biết bao! Tôi ngồi nhâm nhi cà phê ngắm hai cô bạn lăng xăng bên bếp… chờ chị trưởng lớp Cẩm Vân (ở San Jose) xuất hiện mà chưa thấy. Cẩm Vân, Ngọc Hảo, Túy Đa và tôi là bốn con khỉ cùng lớp từ đệ thất đến đê nhất, lớn nhỏ hơn nhau vài ba tháng tuổi, trong ngôi trường Nữ Trung Học Bùi Thị Xuân thân yêu, ngói đỏ, tường hồng, nằm trên ngọn đồi bên bờ hồ Xuân Hương Dalat, Bên cạnh trường tôi là Giáo Hoàng Học Viện Công Giáo. Thỉnh thoảng chúng tôi, một lũ con gái „sau quỷ ma“ chui qua rào vào Học Viện ăn cắp hoa và chọc ghẹo mấy thầy, mấy cha đang học ở đó. Trước khi đến nhà Thầy Hoàn, Túy Đa điện thoại xin thầy cô cứ 161


cho lũ khỉ chúng em ăn chuối là đủ rồi. Vậy mà khi đến đây, ngoài đĩa chuối đầy vun vàng lườm, Ngọc Hảo lo cho chúng tôi không thiếu một món gì, những món đặc sản của quê hương như chả lụa, chả cá, giò bì, giò bò v.v… đều tự tay Ngọc Hảo làm lấy chứ không đặt ở tiệm hay mua ở chợ Á Châu. Ngồi chờ ăn bún bò mà lòng còn nhớ đến hương vị của tô Mì Quảng ngày hôm qua, khi được đón từ phi trường về. Cô Phương Thu cũng đã dậy, vừa thấy cô, tôi vội kéo ghế mời cô ngồi. - Chào cô buổi sáng – Good Morning cô! - Chào Tiết, chào tất cả mọi người. - Cô, cô… mời cô ngồi xuống đây, bên cạnh em nè, hôm nay trông cô đẹp quá, đêm qua cô ngủ được không? Tụi em quậy quá chắc cô không ngủ được? Em pha cà phê nóng, cô uống để tỉnh người cô nhé, được phục vụ cô em vui sướng lắm, mấy con khỉ kia chẳng biết thương cô chút nào cả. Trong khi đó hai tiếng phản đối nổi lên cùng lúc: - Ừ hứ…con khỉ xứ Đức, ai dạy bảo mày thế, chỉ được nịnh cô là giỏi. Cô Phương Thu cười vui vẻ: - Vâng, Tiết cho cô một ly, bên Đức em thường uống cà phê sáng lắm phải không?. - Vâng ạ Tôi đứng lên lấy ly muổng, bình thủy đựng nước sôi đã có sẵn, chỉ còn tìm lọ đường là xong chuyện, công việc thật nhẹ nhàng, đơn giản, làm xong là có cơ hội được ngồi gần cô tỉ tê tâm sự thỏa thích, trong khi hai đứa bạn lăng xăng lo nồi bún chưa xong 162


- nhất tôi rồi, còn ai hơn!. Bây giờ mới thấy chị trưởng lớp của chúng tôi xuất hiện, nàng vui vẻ chào mọi người rồi kéo ghế ngồi đối diện ghế của tôi, nhìn mọi người và mỉm miệng xinh xinh cười tình… Tìm mãi lọ đường vẫn chưa biết để đâu, chẳng lẽ cho cô uống cà phê đắng, tôi loay hoay lục lọi trong ngăn tủ nhỏ đựng gia vị, nhưng chưa thấy, may sao nhìn lên kệ trên thấy nhiều ve lọ xen kẽ rất đẹp, sắp xếp thứ tự, từng đôi một trông rất xinh và tình tứ, trong ấy có nhiều lọ đựng đường,??? Tôi vói tay lấy ngay một trong hai lọ đường đã thấy trước mắt. vội mang cà phê, đường đến bên cạnh cô ngồi, lịch thiệp mời: - Mời cô dùng cà phê nóng cho ấm - mấy muổng đường hở cô? - Cho cô hai muổng, cô hảo ngọt Tiết ạ. Cô vui vẻ khoe với mọi người: Các anh thấy tôi hạnh phúc chưa? đến ngày nay vẫn còn được học trò yêu thương, phục vụ tận tình, cảm động và sung sướng lắm các anh ạ“. Cô kể tiếp: „Năm 2001 lúc về tham dự họp mặt ở Houston, lũ học trò bên ấy còn ôm cả cánh tay tôi vừa rửa vừa lau, cho tôi một ngỡ ngàng, vui sướng và hãnh diện với nghề của mình. Ôi! Trên đời này chả còn hạnh phúc nào hơn. Cô cũng không quên khen mấy con khỉ đang bận rộn với món bún bò nóng hổi còn nằm trên bếp: - Bao nhiêu năm gặp lại, thấy các em ai cũng giỏi giang ra, ngày xưa khi còn cắp sách đến trường, cô chắc chả đứa nào biết nấu nướng là gì phải không? - Vâng ạ, ở trường thì Thầy Cô dạy chữ nghĩa, lễ giáo, khi ra đời lập gia đình thì chồng con họ dạy chúng em biết nấu nướng đó, thưa cô. Túy Đa nhanh nhẩu trả lời. 163


- Lúc đó tao biết nấu rồi các con khỉ ạ! - Biết rồi sáng nào mầy chả nướng đi nướng lại cho chín rục mới ra khỏi giường. - Cái đó thì chả chỉ riêng mình tao, cả bọn mầy nữa chứ. mấy con khỉ - lười cả lũ. Câu chuyện còn đang ròn rã giữa mấy con khỉ, Tiết đã cho hai muổng đường đầy vào ly khuấy đều: - Xin mời cô. Cô bưng ly cà phê nhắp một ngụm. Mặt cô nhăn lại, và nói. -Tiết ơi! Sao cô thấy cà phê là lạ. Tiết và mọi người nhìn cô. Tuy nhận thấy có sự lạ, vẫn chưa tin vào vị giác của mình, cô lại bưng ly cà phê lên nhắp một lần nữa, cười to và nói: - Thôi chết tôi rồi, lũ học trò nầy cho tôi uống cà phê muối, trời ạ! Ngọc Hảo,Túy Đa lo lắng, mở to mắt nhìn tôi và cô Phương Thu, trong khi chị trưởng lớp Cẩm Vân trừng mắt nhìn tôi, đang xanh mặt. Thầy Hoàn, anh Hành, anh Sao nhìn tôi cười ái ngại. Thì ra chị Ngọc Hảo nhà ta trang trí hai lọ muối đường giống nhau, chỉ khác chữ ghi chú ở ngoài mỗi hũ, nhưng vì hấp tấp tôi không để ý, thành đã mời cô giáo mình bằng một ly cà phê muối, ngọt tình thầy trò hạnh ngộ sau hơn ba mươi năm xa cách. Thật là một kỷ niệm đẹp đáng nhớ đời của tôi. Tôi vội vã đứng lên ôm cô và xin lỗi ngay - Em xin lỗi cô, để em pha ly khác đền cô. Cô cười thông cảm: - Ừ, em cho cô ly khác, nhưng nhớ chỉ với đường thôi đó nhé!!! 164


„Con có yêu mến Thầy không?“ „Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giê su hỏi ông Simon Phero: „Này anh Simon, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy hơn các anh em này không? Ông đáp: „Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy“. Đức Giê su nói với ông: „Hãy chăm sóc chiên con của Thầy“. Người lại hỏi: „Này anh Simon, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?“ Ông đáp: Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy“.Người nói: „Hãy chăn dắt chiên của Thầy“. Người hỏi lần thứ ba: „Này anh Simon, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?“Ông Phero buồn vì Người hỏi tới ba lần: „Anh có yêu mến Thầy không?“ Ông đáp: „Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy“. Đức Giê su bảo: „Hãy chăm sóc chiên của Thầy“. (Ga 21,15-17) 165


(Nhìn hiện tượng xảy ra trong năm 2013, Giám Mục Địa Phận Limburg Dr, Franz-Peter Tebartz-van Elst và một số tư tế của Chúa hiện nay đang làm ô nhiễm môi trường Công Giáo, gây chia rẽ dân Chúa trong các cộng đồng, chúng ta tự hỏi: các ngài đang phục vụ cho quyền lực nào?) ***

Chắc chắn trước khi bước lên Cung Thánh để lãnh nhận thiên chức tư tế của Chúa, qua việc xức dầu của vị Giám Mục sở tại, các thầy sáu này cũng được Chúa Giêsu hỏi các vị ấy nhiều lần trong những giờ thinh lặng cầu nguyện, chiêm niệm với Ngài để nhận định và quyết định ơn gọi của mình: „Con có yêu mến Thầy không?“. Và chắc chắn lúc bấy giờ các ngài cũng thưa: „Dạ có, con yêu mến Thầy“, „Dạ có, Thầy biết con yêu mến Thầy“. Có lẽ quý vị linh mục cũng nhiều lần xác quyết như thế với chính mình và với Thầy Giêsu trong những năm đầu đời khi mới nhậm chức. Nhưng rồi qua thời gian dần dần tình yêu dành cho Thầy Giêsu đã mờ dần và có thể biến mất (nếu vị nào không biết nuôi dưỡng tình yêu Thầy mình trong tâm hồn) nên họ không còn phục vụ Ngài qua giáo dân của Ngài nữa. Linh mục phải có một sức mạnh tinh thần để chuyển nhượng tình yêu Thánh Thể Chúa đến các tín hữu khi các ngài dâng Thánh Lễ. „Điều này có nghĩa là vị tư tế hành lễ mang trên vai dân được ủy thác cho mình và mang tên của họ được khắc ghi trong tim“ (Lời DTC Francisco) Lòng sốt sắng và sự khiêm tốn của linh mục khi cử hành Thánh Lễ khiến giáo dân và những người hiện diện dễ dàng thông hiệp với Chúa hơn. Nhờ vậy, giúp giáo dân ý thức hơn về sự nhiệm mầu của Thánh Thể. Nhiều lúc tôi tự hỏi: „Các Ngài có yêu mến Thầy Giêsu mãi mãi không? Có đặt Thầy làm chủ thiên chức tư tế của mình không? Có đặt trái tim của Chúa Giêsu trong trọng tâm phục vụ hay không? Có để Chúa Thánh Thần dẫn dắt trong tinh thần phục vụ hay không?“ 166


Trái tim Thiên Chúa không có dáng dấp của ghen ghét đố kỵ, không có nghi ngờ, không có bất mãn, không có báo thù. Trái tim Chúa đầy ắp yêu thương và tha thứ, Ngài chỉ có ban phát yêu thương cho loài người và Ngài ước mong nhận lãnh yêu thương từ họ. Các vị tư tế nào để trái tim mình hòa nhập, tan biến trong trái tim Chúa Kitô thì các Ngài mới xứng đáng là tư tế tốt lành của Chúa. Điều tiên quyết là các vị tư tế này thiếu cầu nguyện chiêm niệm. Mà Chúa Giêsu đòi hỏi các ngài phải cầu nguyện liên lỉ. „phải cầu nguyện luôn, không được nản chí“ (Lc 18,1). Lối cầu nguyện chiêm niệm với Thánh Kinh giúp ta gắn bó với Thiên Chúa, giúp ta thuộc trọn về Chúa, chính nhờ cầu nguyện chiêm niệm mà các vị tư tế mới tìm được ơn khôn ngoan và sức can đảm nơi Chúa thì các ngài sẽ trở nên xác tín trong lời rao giảng, cách cư xử sẽ mềm dẻo chứ không cứng ngắc, sẽ tỏ thiện chí và tình thương với mọi người, mọi việc chứ không tấn công, không lên án, không mưu đồ. Một vị tư tế phải là một con người công chính, (công minh và chính trực) mang hình ảnh yêu thương của Thiên Chúa, thể hiện một tâm hồn tỏa sáng nồng nhiệt sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, tỏa sáng tinh thần Giêsu trên gương mặt nhân từ, trên cử chỉ, trong hành động đằm thắm, nhân ái. Từng lời nói ra, từng lời khuyên nhủ, từng kế hoạch hoạt động đều được phát xuất từ một trái tim hiểu biết sâu sắc và yêu thương Thiên Chúa cách dồi dào thắm thiết và thâm sâu.. Quý vị tư tế có trái tim của Chúa, đã thuộc trọn về Chúa thì sẽ dễ dàng xa tránh những cơn cám dỗ của thế gian. Cám dỗ về thể hiện mình, cám dỗ về quyền lực: Nhiều vị chủ chăn thích lối sống kẻ cả, thi hành công tác mục vụ như một công tác của bề trên. Mình là chủ nhân ông, những cộng tác viên chỉ là người bề dưới, là người giúp việc, là những nô bộc để sai 167


vặt. Tất cả phải ngoan ngoãn làm việc dưới quyền của mình, lệnh phát ra là phải thi hành, ai không thi hành thì bị coi là chống Chúa hay lạc đạo. Vì thế họ xây tòa giám mục nguy nga, hưởng thụ vật chất, thâm lạm công quỹ là tiền thuế của dân Chúa, thậm chí còn lập các tòa án buộc tội giáo dân khi vị tư tế không ưa người đó. Đường lối phục vụ của Chúa Giêsu là đường lối lãnh đạo phục vụ mang tinh thần chú trọng đến con người hơn là chú trọng công việc, phục vụ hỗ tương với nhau, trong đó tất cả mọi người đều được tôn trọng và liên đới chịu trách nhiệm với nhau trong tư do và yêu thương. Cùng phục vụ Chúa trong tinh thần tương thân tương ái, khiêm nhường, không phân biệt chức vụ, không phân biệt giàu nghèo, trí thức hay ít học, không chấp nhận đố kỵ nhau. Những tư tế này họ đã tự họ tách mình ra khỏi cộng đoàn của họ, vì họ còn đang phải đối phó với các nhu cầu nhục dục của mình được thỏa mãn, khi đã như vậy rồi, tự họ mang mặc cảm với giáo dân nhưng luôn luôn họ tìm cách che dấu. Cuộc sống tâm linh của họ đã có vết đen, tâm linh họ tách xa Chúa, họ sống cuộc sống đức tin cách máy móc và hình thức. Họ không có can đảm xưng thú tội lỗi, và xin ơn tha thứ. Lúc này trái tim của họ không còn nối kết với sự hiện diện của Chúa Giêsu nữa nên khi rao truyền Lời Chúa, họ thiếu xác tín và trong lời nói không có lửa Giêsu. Một số vị tư tế tưởng rằng mình càng lớn tuổi, càng có kinh nghiệm để lãnh đạo kẻ khác, nhưng thực ra tất cả những cái đó chỉ là ảo tưởng vì các ngài không thèm nghe những lời phê bình của giáo dân, vì luôn luôn tin rằng mình đã được đào tạo rồi thì giáo dân làm sao mà hơn mình được mà đòi phê phán. Quyền lực là trên tất cả. Từ những kiêu ngạo này khiến các ngài xa rời tâm hồn mình với Chúa Kitô, xa rời giáo dân. Mà tư tế của Chúa thì phải luôn luôn nên một với Chúa Kitô. 168


„Thầy là người chăn chiên tốt lành, Thầy biết chiên của Thầy và chiên của Thầy biết Thầy“ họ không cần biết đến chiên của họ ra sao, sống thế nào!?. Họ cũng không cần biết chiên của họ có biết họ hay không? Bất cần! Các vị tư tế này tự cho mình làm Chúa chứ không yêu mến Chúa, điều khiển giáo dân chứ không yêu mến giáo dân. Với các vị này tình yêu Giêsu đã bị biến chất rồi, nên bây giờ Thầy Giêsu có hỏi „Con có yêu mến Thầy không?“ Hãy chăn dắt đàn chiên của Thầy? “ Các vị này thay vì trả lời câu hỏi của Thầy như ngày nhậm chức tư tế, họ sẽ hỏi lại Thấy rằng: „Vậy chúng con có được ngồi bên hữu hoặc bên tả của Thầy trong Vương Quốc của Thầy không?“ (Mt.20,21). Quý vị tư tế, các Ngài đang phục vụ cho quyền lực nào đây??? Khi nhìn về các vị mục tử tốt lành của Thiên Chúa trong cộng đồng dân Chúa trên thế giới, chúng ta cũng rất lạc quan vì nhận thấy rất nhiều mục tử chân chính, công chính của Giáo Hội. Những vị tư tế đang truyền giáo nơi những làng mạc xa xôi, những vùng rừng núi cao nguyên hay trong những bộ lạc kém văn minh ở Phi Châu, cả bao nhiêu tháng năm sống miệt mài làm mục vụ với người bản xứ, không hề nhìn thấy ánh sáng của bóng đèn điện, ăn bốc và sống thiếu thốn mọi bề chỉ vì các ngài yêu Chúa tha thiết trong những con người còn thiếu ánh sáng của nền văn minh nhân loại. Nhìn những vị mục tử này chúng ta xin dâng lời tạ ơn Chúa vì hiện đang còn rất nhiều mục tử nhân lành muốn đem Tin Mừng cho đến tận cùng trái đất. Những mục tử sống ở những nước văn minh Âu Mỹ, được sống trong các dinh thự tiện nghi, được ưu đãi của Giáo Hội và giáo dân rất nhiều, có lương tiền, có xe riêng, có thừa mứa vật chất mà họ vẫn giữ được nếp sống khó nghèo, rất kỷ luật với bản thân và luôn chăm chỉ cầu nguyện chiêm niệm với Chúa Giêsu, 169


xa tránh mọi cám dỗ của thế gian. Luôn coi Thầy Giêsu là mục tiêu của đời sống tu trì, trái tim của các vị này đã gắn liền với trái tim của Thầy Giêsu, Thầy chính là đường, là tình yêu và là sự sống trong đời sống của họ. Biết xử dụng của cải thế gian chỉ là phương tiện để làm cứu cánh đưa tha nhân và cá nhân họ về với Thiên Chúa. Những linh mục sống nhiệm nhặt trong các nhà dòng kín để âm thầm cầu nguyện cho Giáo Hội, cho dân Chúa. Những tư tế trong các đan viện cũng sống rất nhiệm nhặt, rất khó nghèo và kỷ luật nghiêm ngặt và luôn chăm lo lao đông, chăm lo cầu nguyện. Chiêm niệm của các ngài như những cây rừng âm thầm nhả dưỡng khí để nuôi Giào Hội và giáo dân. Thật là đẹp biết bao!!! Nhất là nhìn thấy Đức Giáo Hoàng đương nhiệm Francisco của chúng ta với một đời sống thể hiện tình yêu thương bao la của Thiên Chúa với những người nghèo, người bất hạnh, người tật nguyền, người bịnh, người tù, tình yêu đó tuôn tràn ra trên thế giới đến tận cùng trái đất. Đức Thánh Cha Francisco chính là người mục tử nhân lành, thực sự mang mùi thơm của Chiên Thiên Chúa tỏa lan khắp mặt đất trong thế giới ngày nay. Đời sống của Ngài chính là khí cụ Lòng Từ Bi Nhân Hậu của Thiên Chúa đang tưới gội lên muôn người, muôn vật trên trái đất, đang làm cho hòa bình và công chính được nở hoa. Quý vị tư tế này đang phục vụ Một Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa độc nhất. Quý vị đang chiếu toả Ánh Sáng của Đức Giêsu Kitô, để xóa tan bóng tối của sự dữ đang lan tràn trong thế giới ngày nay. Tạ Ơn Chúa, Vinh Danh và Ngợi Khen Ngài vẫn luôn gieo mầm hy vọng cho nhân loại. Amen.

170


Người phụ nữ ngoại tình „Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. Lúc đó các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Đức Giêsu một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa, rồi nói với Người : “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-Sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?“. Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người. Nhưng Đức Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi 171


mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ: „Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi“. Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, và người phụ nữ thì đứng ở giữa. Người ngẩng lên và nói: „Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?“ Người đàn bà đáp: “Thưa ông, không có ai cả“. Đức Giêsu nói: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa!“. (Ga 8, 2-11) Khi đám Kinh Sư và Pha-Ri-Sêu dẫn người phụ nữ đến trước mặt Chúa Giêsu. Đám dân chúng tò mò đi theo vây quanh Chúa Giêsu và người phụ nữ phạm tội, người nào trên tay cũng lăm lăm một hoặc hai cục đá, có cục bằng nắm tay, có cục lớn hơn, có cục bằng cả bàn tay xòe ra. Họ chỉ chờ Chúa Giêsu nói một lời đồng ý với Luật Mô-Sê là những cục đá sắc nhọn kia sẽ bay tới tấp vào người phụ nữ khốn khổ khốn nạn đang thẹn thùng cúi gục mặt nhìn xuống đất, quần áo xốc xếch, mái tóc rối bời che phủ hết khuôn mặt, đứng giữa đám đông. Chúa Giêsu đã có kinh nghiệm về sự hận thù, sự nổi giận của đám Kinh Sư và Pha-Ri-Sêu này khi Ngài tranh luận với họ về lời chứng của Ngài liên quan đến bản thân Ngài, “Họ liền lượm đá để ném Người, nhưng Đức Giêsu lánh đi và ra khỏi Đền Thờ“ (Ga 8,59) nên Ngài thương cảm cho người đàn bà tội lỗi đứng đó. Ngài nhìn đám đông ồ ạt, hỗn độn, ồn ào, tức giận vì thế Ngài không nói gì, chỉ lẳng lặng điềm đạm khoan thai ngồi xuống đất và lấy ngón tay mà viết trên đất. Đức Giêsu viết gì? Không ai biết. Vẻ điềm đạm của Ngài có một mãnh lực khiến sự tức giận sùng sục của đám đông từ từ hạ xuống. Tôi nghĩ biết đâu có thể 172


Chúa Giêsu đã viết: “Thế còn người đàn ông cùng phạm tội với người phụ nữ này đâu rồi?“. Vì họ hỏi mãi nên Người ngẩng lên bảo họ: „Ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi (Ga 8,7)“. Lời nói đầy uy quyền của Chúa Giêsu đánh thẳng vào tim óc của từng con người đầy tội lỗi mà vẫn tưởng mình tốt lành, vẫn hiu hiu tự đắc cho là mình đạo đức, mình là Kinh Sư hướng dẫn bao nhiêu giáo dân, mình là những tín hữu giữ lề luật nghiêm nhặt cơ mà (Pha-Ri-Sêu). Tôi là một người trong đám đông, tôi chính là người bỏ hai cục đá trên tay xuống đất trước tiên và là người thứ nhất rời khỏi vòng tròn đám đông này. Lời nói của Chúa Giêsu khiến tôi giật mình, vội nhìn lại tâm hồn mình, thấy mình tội lỗi hơn ai cả, bản thân chỉ là kẻ hèn mọn, xấu xa, tôi cũng đã có lần phạm tội như người phụ nữ này, sao tôi không tự ném đá tôi mà tôi lại lăm lăm trong tay hai cục đá to để sẵn sàng ném vào người phụ nữ chân yếu tay mềm kia? Bao nhiêu tội lỗi, nào tham lam của cải, ưa chuộng vật chất, máy móc hiện đại, quần áo sang trọng, lúc nào cũng tích trữ mua thêm cái này, cái khác trong khi bao nhiêu người cần sự giúp đỡ của mình. Các em bé mồ côi thiếu ăn thiếu mặc, những người cùi trong các trại phong thiếu thuốc men, quần áo và cần chăm sóc an ủi biết bao. Có một cái nhà để ở rồi mà vẫn còn cứ thu thu góp góp mua thêm nhà để cho thuê lấy thêm lợi nhuận và để phô trương. Tôi chỉ giao thiệp với những ai giàu có, nhiều bằng cấp, có địa vị, mới đáng cho tôi qụy lụy, kính trọng, trong khi thấy ai nghèo khó, quê mùa ít học thì tôi khinh khi không thèm nhìn đến. Thế thì đâu là bác ái theo Lời Chúa dạy. Xét mình theo 10 Điều Răn Đức Chúa Trời và 6 Điều Răn Hội Thánh thì tội lỗi của tôi chồng chất vô vàn. Tội nào cũng là tội phạm đến Danh của Chúa chớ có phải chi tội ngoại tình mới bị ném đá 173


đâu. Người phụ nữ phạm tội này nhiều khi vì hoàn cảnh ngang trái hay nghịch cảnh bị ép buộc, bị hiếp dâm v.v… thế mà chỉ người phụ nữ mới bị lên án? Còn người „nam nhi“ cùng phạm tội thì sao? Sao luật của Do Thái thời đó và luật của Việt Nam giống nhau ở điểm thiên vị, trọng nam khinh nữ như thế ư !? Một lúc sau, tất cả các Kinh Sư, các người Pha-ri-sêu và đám đông hiếu kỳ vây quanh bỏ đi hết „chỉ còn lại một mình Đức Giêsu và người phụ nữ, người phụ nữ đứng ở giữa“ (Ga.8,9b), vâng, người phụ nữ phạm tội đang đứng giữa những cục đá mà đám đông đã để lại dưới chân họ. „Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?“. „-Thưa ông, không ai cả“. „-Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa!“ (Ga 8,11). Tạ ơn Chúa, qua đoạn Phúc Âm này Chúa cho con nhận ra, khi mọi người phán đoán, lên án mình thế nào thì sau cùng chỉ còn mình với Chúa. Chỉ còn mình với tội lỗi mình gây ra thì mình phải có trách nhiệm với chính mình, với mọi người chung quanh mình, với chính Chúa mà thôi. Nếu mình cứ sống theo thói đời thì mình sẽ đi nghịch lại với mình, vì mình hay hùa theo đám đông và sống trong dư luận. Như thế tự mình sẽ đánh mất chính mình. Chúa tha tội và khuyên „đừng phạm tội nữa“, nhưng mà mình vẫn yếu đuối, vẫn có thể phạm tội hoài. „Lạy Chúa, xin dạy con biết dừng lại khi con có ý muốn xét đoán một ai. Xin dạy con biết nhìn lại mình dưới ánh sáng của Thánh Thần Chúa để con biết tránh xa tội lỗi. Xin giúp con can đảm vượt thắng chính mình để con biết sống bác ái, xứng đáng làm chứng nhân cho Chúa ở thế gian này. Amen.

174


Tinh Thần Phục Vụ Mỗi Kitô hữu đều được mời gọi trở nên chứng nhân của Tin Mừng. Đây không chỉ là bổn phận mà còn là nghĩa vụ rất cần thiết để mở mang Nước Chúa. Chúng ta có sứ mệnh „hãy rao giảng lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện“ để đưa Chúa Giêsu hiện diện với con người thời đại này bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào. Chúng ta hãy noi gương phục vụ của Chúa Giêsu Kitô, hãy năng cầu nguyện để gặp gỡ Ngài, yêu Ngài và học cùng Ngài, Ngài sẽ thánh hóa tâm hồn chúng ta hầu công việc phục vụ của chúng ta 175


đem lại niềm vui và hạnh phúc đích thực cho chính mình và cho mọi người. Muốn phục vụ thiết thực chúng ta cần có tinh thần từ bỏ chính cái tôi của mình, phải ý thức và luôn tỉnh thức đủ, để làm sinh lợi những „nén bạc“ Chúa ban cho mình. Chúng ta cần có tinh thần trách nhiệm, tinh thần tổ chức và tinh thần liên đới chặt chẽ với nhau. Tinh thần trách nhiệm: Trong khi cùng phục vụ, có những sự việc ngoài trách nhiệm của ta nhưng đòi buộc ta phải hy sinh, dấn thân phục vụ vì chúng ta cùng là anh chị em, con Một Cha Chung Trên Trời. Tinh thần trách nhiệm đòi hỏi ta định giá trị mọi việc theo con mắt của Chúa chứ không theo nhận xét của người đời (người ta thường nhìn bề ngoài để đánh giá, ưa thích thành quả lớn lao). Nhiều khi chúng ta phục vụ gặp khó khăn mà thành quả thì rất nhỏ nhoi, dưới mắt người đời thì chẳng ra gì, coi như thất bại, chúng ta vẫn vui vẻ chấp nhận và tạ ơn Ngài. Chúng ta không sợ người đời chê cười, đó là biểu hiệu tấm lòng nhân hậu, chịu đựng, khiêm nhu, đẹp lòng Chúa. Chúng ta xác quyết, chúng ta phục vụ chính Chúa, mọi ý nghĩa và công việc của chúng ta làm để cho „Danh Cha được cả sáng, Nước Cha được trị đến“, tất cả đều phục vụ trong chương trình cứu độ của Chúa Giêsu Kitô. Tinh thần tổ chức:Trong tổ chức phải luôn quan tâm đến mục đích hơn là chỉ tiêu đạt tới. (Chúa Giêsu bỏ đàn 99 con để đi tìm 1 con chiên lạc) phải chú trọng đến con người hơn là công việc. Tinh thần tổ chức đòi hỏi chúng ta xác tín từ trong tâm hồn: chuẩn bị tư tưởng, đường hướng và phong cách làm việc. Sau đó phải sắp xếp công việc cá nhân và tập thể cho hài hòa, chặt chẽ (không được tùy tiện ngẫu hứng làm theo cảm tính của mình, hoặc có quyết định và hành động bất ngờ của riêng mình, sẽ gây ra những va chạm và xung đột đáng tiếc). 176


Trong các buổi hội họp bàn thảo để chuẩn bị công việc, mọi người nên thẳng thắn trình bày tất cả những lợi điểm và những bất lợi điểm để đi đến một thỏa hiệp chín chắn, đúng đắn để cùng nhau thi hành. (Nên nói thẳng tất cả những suy nghĩ của cá nhân mình, không sợ mích lòng nhau vì trong tinh thần trách nhiệm, chúng ta đều tôn trọng nhau, chấp nhận nhau như họ là…hơn nữa ta đã thương yêu nhau và cùng chung một lý tưởng), vì ai cũng mong muốn công việc phục vụ được thành công tốt đẹp theo Ý Chúa, đem lại ích lợi cho những người mà chúng ta phục vụ họ. Tinh thần liên đới: cũng đòi hỏi chúng ta phải ràng buộc nhau không những bên ngoài mà thôi, mà phải từ cả bên trong, tìm hiểu hoàn cảnh của nhau để thông cảm nhau, liên đới với nhau cách dễ dàng hơn, cùng đồng cam cộng khổ trong yêu thương. Tinh thần liên đới phục vụ phải hài hòa, nhân ái và rõ ràng. Mỗi người phụ trách một việc để khỏi dẫm chân lên nhau, tôn trọng nhau, song sẵn sàng nâng đỡ nhau trong khi cùng liên đới phục vụ, vì chúng ta cùng chung nghĩa vụ và trách nhiệm với nhau. Mỗi người đều tự hỏi, tôi phải làm gì để nên hữu ích cho nhau, và nhờ phục vụ mà cá nhân chúng ta được thanh tẩy, được thánh hóa hầu đem lại niềm vui cho chính mình và cho mọi người. Phục vụ là để được đáp trả tình thương yêu của Thiên Chúa. Khi dấn thân phục vụ trong tự do và yêu thương dưới tác động của Chúa Thánh Thần, thì cuộc sống sẽ tràn trề niềm vui, đức tin của chúng ta sẽ triển nở dồi dào và sung mãn hơn. Nếu công việc phục vụ mà gây ra bất hòa, bất an, bất bình, hay làm tổn thương nhau, gây chia rẽ trong anh chị em thì đó là sự phục vụ không đẹp lòng Chúa, là phục vụ bất chính.

177


Chết „Con ơi, nếu có của, hãy làm cho đời con được tốt đẹp và tiến dâng lễ vật lên Đức Chúa sao cho xứng đáng. Hãy nhớ rằng, cái chết không trì hoãn đâu và ngày hẹn của âm phủ, con nào có biết“ (Hc 14,11-12)

Tôi không nhớ nhà văn hay nhà tu đức nào nói „Cái chết của người già ở trước mặt, cái chết của tuổi trẻ ở sau lưng“ câu nói này nhắc nhở con người ta nên biết: người già thì biết mình đang chờ cái chết, còn với tất cả mọi người bất cứ ở tuổi nào „cái chết có thể đến không trì hoãn và ngày hẹn của âm phủ đến lúc nào“ không ai biết được ngoài Thiên Chúa. 178


Đã bao nhiêu lần tôi kề cận cái chết vì tai nạn, thế mà Chúa vẫn cho sống đến bây giờ, trải qua 70 năm dài trên thế gian. Hồi nhỏ lúc tôi còn mài đũng quần ở bậc trung học, chứng kiến cảnh tang chế trong đại gia đình khi ông nội tôi qua đời, tôi cũng rất sợ, nhìn xác chết nằm cứng đơ, lạnh lẽo, tôi không dám lại gần quan tài và khi nhìn mẹ tôi và các con dâu của cụ trong y phục tang chế, tóc xõa dài, nằm lăn trên mặt đất từ cửa nhà, dưới quan tài để đưa người chết ra khỏi cánh cổng nhà, tôi còn hoảng sợ hơn. Khi bà nội tôi qua đời, tôi đã ngồi ở giảng đường, tôi bớt sợ hơn một chút, có lẽ vì tôi trưởng thành hơn, hiểu biết về lẽ sống ở đời hơn. Tôi thấy sinh bệnh lão tử là thường tình, có sinh thì có tử, mỗi ngày sống là mỗi ngày đi dần đến cái chết, nên tôi cũng không suy nghĩ gì về sự chết. Theo dòng đời, cuộc sống của tôi cũng bình thường như những người con gái khác, rời trường học, đi làm, lập gia đình, có con cái, chồng là quân nhân nên thường vắng nhà. Cuộc sống vẫn bình lặng trôi, một mình tôi vừa đi làm, vừa cung cúc tận tụy muôi con. Trong đời sống hằng ngày cũng đầy đủ vui buồn sướng khổ, có nhiều chuyện xảy ra trong gia đình,họ hàng, những va chạm đắng lòng, cay mắt, nhức tim, song vì bổn phận làm dâu, làm vợ, làm mẹ 4 đứa con nhỏ, tôi không có thì giờ để suy tư và chẳng bao giờ nghĩ đến cái chết, mặc dầu chồng là quân nhân. Đại gia đình tôi có 2 nguòi anh họ, 1 em họ và anh rể chết trân mạc, thật bàng hoàng, thật đau lòng vì chiến tranh tương tàn giữa cùng một dân tộc kẻ bắc người nam, những lúc ấy tôi đau đớn, buồn thương cho thân phận những người trai thời chiến và oán giận chiến tranh lắm vì đại gia đình thường xuyên bao trùm không khí đau thương, nghẹn ngào, sầu khổ, buồn bã. Tháng 9. 2012 mẹ tôi qua đời ở VN, thọ 95 tuổi, tôi cảm thấy 179


vui và mừng cho bà vì bà được toại nguyện như lời bà cầu nguyện hằng ngày: „Chúa ơi, nếu con đau ốm, xin Chúa cho con chịu đau đớn ngắn ngày để khỏi làm khổ con cháu và xin cho con được chết lành“. Mẹ tôi đã được toại nguyện. Từ khi bà trở bịnh cho đến khi đưa vào bệnh viện và qua đời chỉ trong vòng khoảng 20 ngày. Khi về đến VN đứng trước quan tài mẹ, lòng tôi êm ả bình an ngắm nhìn khuôn mặt mẹ, người chết mà đẹp như thiên thần, (nhà quàn không trang điểm) tôi thầm cám ơn và ngợi khen Thiên Chúa. „Mẹ ơi, con về thăm mẹ lần cuối đây và tiễn mẹ đi thăm bố chúng con và về hưởng hạnh phúc bên Chúa nha. Mẹ đẹp quá, mẹ bình an quá, tạ ơn Chúa“ Tôi nói những lời ấy và đứng lặng bên quan tài thật lâu, rồi tôi mới lần lượt ôm chào người thân trong gia đình. Mọi người trong gia đình rất ngạc nhiên tại sao tôi từ xa xôi, cách nửa vòng trái đất về, nhìn xác mẹ mà không nhỏ một giọt nước mắt nào. Hôm sau, mãi đến khi đưa quan tài rời khỏi nhà, tôi nói vài lời giã từ mẹ kính yêu, lúc bấy giờ tôi mới bật khóc. Từ ngày Chúa cho tôi được gặp gỡ Đức Kitô, Ngài chạm đến trái tim tôi thật nhẹ nhàng mà thắm thiết qua một khóa tĩnh tâm theo phương pháp Linh Thao của Thánh I-nhã, tôi mới biết Chúa là ai để biết mình là ai? Tôi được đổi mới, trở thành một người yêu đời hơn, sống vui vẻ hơn, bớt buồn, bớt giận hơn, biết nhẫn nhịn với tất cả mọi người, cả với những người dưới mình, biết bỏ ngoài tai những lời dèm pha, chế diễu hay vu khống. „Gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình, gặp gỡ Đức Kitô đón nhận ơn tái sinh…. Gặp gỡ Đức Kitô, chân thành mình gặp mình…“ (lời bài hát). Từ đó, hằng ngày cầu nguyện, học hỏi và cảm nghiệm Thiên Chúa qua Thánh Kinh, tôi thấy Chúa yêu tôi vô vàn và tôi cũng yêu Chúa mỗi ngày mỗi thắm thiết hơn. Theo lịch Phụng Vụ của Giáo Hội thì đến tháng 11 hằng năm là tháng cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời, giúp giáo dân biết suy 180


niệm sự chết là đi đến sự sống đời sau với Chúa, nên khi nghĩ đến sự chết tôi cảm thấy bình an chứ không sợ sệt. Tôi yêu cuộc đời, thấy cuộc sống có Chúa hiện diện, đồng hành với mình đầy ý nghĩa và nhiều niềm vui sâu xa tận đáy lòng, tôi sung sướng, hãnh diện được làm con của Chúa và được phục vụ Ngài trong yêu thương và tự do. Tôi yêu sự sống đời này và cũng yêu sự sống đời sau nên tôi hay nghĩ đến sự chết, tôi thấy mình rất bình thản, bình tâm, vui vẻ, sẵn sàng đón nhận nó, „tôi ước ao được ra đi để ở với Đức Kitô“ (Pl 1,21b) vì chết là ra khỏi đời này, đi về nhà Chúa. „đi về nhà Chúa… thân tâm con hoan lạc Chúa ơi… „(lời bài hát). Đi về nhà Chúa là „đi về nhà hội ngộ của tất cả nhân sinh“ (Jb 31,23b). Mặc dầu ao ước được như vậy nhưng Chúa định thế nào tôi cũng „xin vâng“. Chúa cho sống già hơn với những giới hạn và sự yếu đuối của tuổi già cộng với bệnh hoạn, tôi cũng vui vẻ „xin vâng“. Khi không còn tự mình lo mọi việc cá nhân cho mình thì xin Chúa cho tôi sống trong viện dưỡng lão. Nguyện xin Chúa luôn ở với tôi để nâng đỡ an ủi, ban cho tôi có đủ nghị lực để tôi cố gắng sống chịu đựng nhẫn nhục những lúc yếu đuối, cho tôi biết ghi ơn những người săn sóc mình khi những đớn đau thể xác một cách bình an. Mong „ơn Cha luôn đủ cho con“ vì chỉ có Chúa là nguồn an ủi duy nhất đời đời mà. „Trước khi chết, hãy làm ơn cho thân hữu, và rộng rãi với họ theo khả năng của con“ (Hc 14,14) „Hãy cho và nhận, hãy làm cho tâm hồn mình khuây khỏa vì trong âm phủ con tìm đâu ra khoái lạc“ (Hc 14,16) Để theo Thầy, lâu nay tôi đã tập từ bỏ cái tôi của mình. Từ bỏ cái tôi của mình thật khó lắm, song với ơn Chúa tôi cũng thực hành được, mỗi ngày một chút. Từ bỏ cái ăn, cái mặc, cái tham, cái ganh, cái ghét, cái tranh hơn thua, cái khoe khoang, cái kiêu căng, cái giận hờn v.v… và v.v… chịu đưng mọi sự khó nhiều hơn, nhường nhịn nhiều hơn, biết tha thứ 181


nhiều hơn, biết cho đi nhiều hơn. Tôi ước ao được chết, vì chết bây giờ, ở tuổi này, được về với Chúa thì hạnh phúc biết bao. Để chuẩn bị cho sự chết tôi tập buông xả mọi thứ… mỗi ngày một chút, cho đi… cho đi… để khi Chúa gọi thì con sẵn sàng „xin vâng“ cách vui vẻ và nhẹ nhàng, mặc dầu, trước mặt Chúa tôi vẫn còn đầy thiếu sót, nhiều vấp phạm, còn vương nhiều tội lỗi. Nhưng chắc chắn Chúa sẽ lấy Lòng Thương Xót mà xót thương tôi, lấy Tình Yêu Thương của Ngài mà tha thứ và ôm ấp đứa con bất toàn này trong tay Ngài. „Từ xa Đức Chúa đã hiện ra với tôi: „Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương“ (Jer 31, 3) Ngài sẽ cho tôi được mau mau rời khỏi luyện ngục, một nơi mà Thiên Chúa ưu đãi cho chúng ta, sau khi lìa khỏi cõi đời này, được ở đấy để „make-up“ cho linh hồn trở nên đẹp đẽ, tinh tuyền, trong trắng, hoàn hảo mà trình diện trước mặt Ngài. Có người hỏi tôi: - Chuẩn bị chết thì chuẩn bị gì? chuẩn bị mua hòm? mua đất? chôn cất ra sao? Cha nào làm lễ an táng? Bài đọc nào? Ai đọc? Để lại gì cho con cái? v.v… Tôi chỉ mỉm cười và trả lời: - “Đó không phải cách chuẩn bị cái chết của tôi, tôi chỉ xin Chúa giúp tôi chuẩn bị phần tâm linh, tập từ bỏ cái tôi của mình đi, để linh hồn của mình mỗi ngày mỗi được gội rửa sạch sẽ hơn để trở nên đẹp đẽ hơn mà trình diện trước Thánh Nhan Thầy yêu dấu”. Bình thường con người ta sống khổ sở quá, bị bách hại, bị dồn vào chỗ không lối thoát đi đến tuyệt vọng thì thường tìm đến cái chết. Trường hợp ông Giop, tiên tri Elia và ôngTobit, là những người công chính, cùng cô Xara trong Kinh Thánh Cựu Ước cũng lâm vào cảnh khốn cùng nhưng họ không tự tìm đến cái chết mà họ xin Chúa cho họ được chết. Thật là những gương

182


nhân đức, vâng phục và kính trọng quyền năng của Đức Chúa. Ông Tobit là người công chính, ông sống rất quảng đại và bác ái “tôi đã từng ăn ở theo sự thật và lẽ ngay suốt ngày đời tôi. Tôi rộng tay bố thí cho anh em và đồng bào tôi, những người cùng đi đày với tôi qua xứ Ninivê, ở xứ Atsua” (Tb 1,3). Khi trở về quê, một hôm ông đang ngủ thì bị phân của một con chim dính vào mắt nên ông bị mù. Mọi người cười nhạo, nhục mạ, chế riễu ông, cho rằng ông sống tốt lành mà sao Chúa của ông lại để cho ông phải khổ sở, phải bị mù nên ông sống trong buồn phiền, đau khổ. Người vợ đầu ấp tay gối của ông cũng dày vò, mỉa mai, nhiếc móc ông nên ông không chịu đựng nổi, ông lâm vào tuyệt vọng xin được Chúa cho ông chết đi: “Lạy Chúa, xin truyền lệnh cho con được giải thoát khỏi số kiếp gian khổ này. Xin để con ra đi vào cõi đời đời. Lạy Chúa, xin đừng ngoảnh mặt không nhìn con. Quả thật, đối với con, thà chết còn hơn suốt đời phải nhìn thấy bao nhiêu gian khổ và phải nghe những lời nhục mạ” (Tb 3,6b). Ông được Thiên Chúa đoái thương và sai Thiên Sứ Raphael đến chữa lành cho ông. Tôi đang sống vui vẻ hạnh phúc với chồng, với các con, các cháu dễ thương, tôi thương yêu mọi người và mọi người thương yêu tôi, tôi thương yêu, quý trọng gia đình này. Tôi yêu những con người và những đất nước tự do, đầy nhân ái đã cưu mang gia đình tôi và đồng bào chúng tôi trong cơn hồng thủy tị nạn CS. Tôi yêu thương thế giới chung quanh tôi, những cảnh thiên nhiên hùng vĩ, lạ lùng, tuyệt mỹ mà Thiên Chúa đã tạo dựng. Tôi quý trọng tất cả những tác phẩm nghệ thuật do con người sáng tác ra, tôi trân quý những con người tài năng, giỏi giang, những con người hiếu thảo, những con người thủy chung, tôi trân trọng và an vui với những tình bạn thắm thiết mà tôi nhận được, tôi yêu thế giới mà tôi đang được hưởng không khí tự do trong trật tự của Thiên Chúa. 183


Tôi yêu Giáo Hội và quý trọng những tu sĩ, những tín hữu đã góp công xây dựng Nước Chúa ở trần gian này, tôi cũng thương yêu những người nghèo khó, những người bị ức hiếp, chèn ép nhất là những dân tộc thiểu số sống trong rừng sâu. Tôi thương xót và đau buồn cho những người dân sống trong các quốc gia đang có chiến tranh. Tôi yêu quê hương VN đang quằn quại đưới ách độc tài Cộng Sản. Tóm lại tôi yêu tất cả loài người và thế giới hiện hữu bao la trên trái đất mà tôi đang hít thở hằng ngày. Nhưng tôi ao ước được chết là đi về với Chúa, về nhà Chúa. (Như em bé sống trong bụng mẹ và sinh ra thế gian này. Con người ta sống ở thế gian này, sinh vào lòng Thượng Đế). Tất cả mọi sự trên đời sẽ qua đi, chỉ có tình thương mến mới có thể biến những cái hữu hạn trở nên điều kỳ diệu. Khi viết những dòng này tôi muốn gởi gấm đến người thân trong gia đình, (cách riêng). Và mọi người (cách chung) rằng sống ở thế gian này ai cũng bị lệ thuộc bởi những giới hạn của trần gian. Đây chỉ là cuộc sống tạm, đừng để đời mình bén rễ sâu, nặng nề bằng những tham vọng, tham danh, tham tiền tài vật chất mà quên đi sự sống siêu nhiên Thiên Chúa ban cho loài người để sống thăng hoa, hạnh phúc ở trần gian này, để làm cho đời sống này đẹp đẽ, an hòa, nhân ái hơn lên. Cái chết không có gì đáng sợ hãi, chết là đi về nhà Chúa thì ta vui mừng được sống với Chúa đời đời. Hạnh phúc biết bao! Về với Ngài chúng ta được sống trong tình yêu thương thắm thiết của Ngài. Xin mượn 4 câu thơ (không biết tên tác giả) gởi đến mọi người: “Trần thế chỉ là chỗ tạm nương Cũng như quán trọ chốn ven đường Mỗi người là khách dừng chân tạm Rồi sẽ ra về chốn viễn phương” 184


Nội Dung 07 - Lời ngỏ 08 - Nhớ về Dalat 18 - Cầu nguyện 22 - Kể chuyện một chuyến đi 33 - Lễ vật giao hòa 39 - Mứt mận Dalat 45 - Thăm làng thượng Pằng tiêng 55 - Pằng tiêng, Thung lũng Tình yêu 59 - Giờ bên Thầy 63 - Chuyến đi U 81 - Cầu nguyện cho Linh mục 86 - Kỷ niệm thời thơ ấu. 99 - Một thoáng suy tư 103 - Suy tôn thánh giá 106 - Tưởng nhớ cha Dominici+ những giai thoại… 119 - Chúa Giêsu sống lại hiện ra với Phêrô 122 - Hãy đến mà xem 124 - Chúa nhỏ bé 130 - Đức Giêsu kêu gọi 4 môn đê 134 - 40 năm linh mục Cha Elizalde Phạm Công Thành 140 - Gợi nhớ kỷ niệm hành hương 151 - Một tay nắm Chúa, một tay nắm anh em 156 - Họ hết rượu rồi 160 - Ly cà phê muối „ngọt ngào“ 165 - Con có yêu mến Thầy không? 171 - Người phụ nữ ngoại tình 175 - Tinh thần phục vụ 178 - Chết 183 - Nội Dung 185



Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.