7 minute read

II. Trang phục bá quan

Next Article
4. Tiện phục

4. Tiện phục

PHỤ KHảO

CảI CÁCH Y PHỤC ĐÀNG TRONG NĂM 1744 SỰ RA ĐỜI VÀ QUÁ TRÌNH PHỔ CẬP CỦA ÁO DÀI NĂM THÂN

Advertisement

Kể từ năm 1545, sau khi xin vào trấn thủ vùng Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng cùng con cháu ông không ngừng mở mang bờ cõi, phát triển Đàng Trong, từng bước độc lập với chính quyền Đàng Ngoài của chúa Trịnh. Đến đời thứ 8, Hiểu Quốc công Nguyễn Phúc Khoát tự xưng vương, thực thi các sắc lệnh thay đổi triều nghi phẩm phục trong cung đình và quần áo trong dân gian, nhằm xóa bỏ “thói tục hủ lậu” của Đàng Ngoài, biến Đàng Trong trở thành một nước có văn hiến áo mũ rực rỡ. Sự kiện cải cách trang phục thời Vũ vương là một cuộc cải cách quan trọng, có ảnh hưởng sâu rộng tới trang phục cũng như phong tục

Kim ấn truyền quốc của nhà Nguyễn. của người Việt Đàng Trong cũng như “Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn người Việt triều Nguyễn về sau. chi bảo” (Kim ngọc bảo tỷ). Lê Quý Đôn cho biết: “Năm thứ 5 niên hiệu Cảnh Hưng (1744), Hiểu Quốc công nhân lời sấm truyền của người Nghệ An rằng tám đời quay về trung đô, liền nghĩ từ thời Đoan Quốc công đến mình đã vừa đúng tám đời, bèn xưng vương, sai lấy thể chế áo mũ trong sách Tam tài đồ hội làm mô thức, lệnh cho các quan võ từ chưởng dinh đến cai đội, quan văn từ quản bộ đến chiêm hậu, huấn đạo đều tuân theo kiểu dáng màu sắc quy định, áo đều dùng đoạn màu, người sang dùng Mãng bào có thêu hoa văn sóng nước, mũ trang sức bằng vàng bạc. Lại lệnh cho trai gái hai xứ (Thuận Hóa, Quảng Nam) đổi dùng quần áo Bắc quốc để tỏ sự thay đổi.

Đến phụ nữ đều mặc áo ngắn hẹp tay giống áo nam giới thì Bắc quốc

không như vậy. Hơn ba mươi năm, người ta đều quen, quên cả tục cũ.”(1) Đại Việt sử ký tục biên chép: “Lại nhân có người truyền đọc câu sấm rằng tám đời quay về trung đô, chúa bèn đổi phong tục, đổi y phục, hạ lệnh cho quan dân hai xứ Thuận Quảng đều ăn mặc theo thể chế nhà Minh, để cả nước cùng đổi mới. Duy niên hiệu vẫn theo Cảnh Hưng, chưa đặt niên hiệu riêng.”(2) Trịnh Hoài Đức cho biết: “Năm Mậu Ngọ, Thế Tông Hiếu Võ Hoàng Đế nguyên niên, cải định sắc phục, quan phục của văn Ghi chép về cải cách y phục thời chúa Nguyễn Phúc Khoát trong võ bá quan tham chước các đời Hán Đường sách Gia Định thành thông chí đến chế độ Đại Minh và kiểu dáng của chế (Tr.369) của Trịnh Hoài Đức. độ mới (chỉ nhà Thanh) như trang phục của các phẩm quan dựa theo hội điển ban hành ngày nay, văn chất đã đủ đầy.

Trang phục nhà cửa đồ dùng trong dân gian đại để như thể chế Đại

Minh, xóa hết thói tục hủ lậu của Bắc Hà, trở thành một nước áo mũ văn hiến!”(3) Theo Bùi Dương Lịch, “Chúa Nguyễn nhiều đời được thừa hưởng thái bình, đến đời Hiếu Vũ vương thời cường thịnh, dùng y phục Bắc triều, lại học cả kiểu cách ca múa của Bắc triều nữa.”(4) Đại Nam thực lục chép: “Chúa cho rằng lời sấm có nói tám đời trở lại trung đô, bèn đổi y phục, thay phong tục, cùng dân đổi mới; châm chước chế độ các đời, định Triều phục văn võ, văn từ quản bộ đến chiêm hậu, huấn đạo; võ từ chưởng dinh đến cai đội, mũ sức vàng bạc, áo dùng Mãng bào hoặc gấm đoạn theo cấp bậc. Thế là văn vật một phen đổi mới.” (5)

1. (Việt) Phủ biên tạp lục. Nguyên văn: 景興五年甲子,曉國公因乂安人傳言,讖云:八世還中都。 以自端國公至已適當八代,乃稱王,號取《三才圖繪》中冠服体製爲体式,令武自掌營至該隊,文 自管部至占候、訓導各依彩樣,衣皆用綵緞。貴者用蟒袍水波,其帽飾以金銀。又令二處男女改用 北國衣裳帶裙,以示変易。至使婦女皆窄袖短衣如男裝,則北國所無也。三十餘年,人皆慣習,忘 其本俗 2. (Việt) Đại Việt sử ký tục biên. Tr.201. 3. (Việt) Gia Định thành thông chí. Tr.369. Nguyên văn: 世宗孝武皇帝戊午元年,改定色服,其文武 官服,參酌漢唐歷代至大明製度及新制式樣,如今官製品服會典頒行者,文質兼備,其士庶服舍器 用,略如大明體制,盡除北河陋習,為衣冠文獻之邦矣 4. (Việt) Lê quý dật sử. Tr.27. 5. (Việt) Đại Nam thực lục. Tập I. Tr.153.

Giáo sĩ Jean Koffler, người Tiệp ở Đàng Trong từ năm 1740 đến năm 1755, trong Lịch sử xứ Đàng Trong cho biết: “Chúa bắt bỏ lối quần áo thô

bỉ của người Đàng Ngoài mà châm chước theo lối quần áo của người

Tàu.”(1)

Đặc biệt, Dã sử lược biên Đại Việt quốc Nguyễn triều thực lục ghi nhận: “Chúa cho rằng lời sấm cổ có nói tám đời quay lại trung đô, tính từ thời Thái Tổ đến nay vừa đúng con số ấy, bèn thay y phục, đổi phong tục, cùng dân đổi mới, bắt đầu hạ

lệnh cho nam nữ sĩ thứ trong nước, đều mặc áo nhu bào, mặc quần, vấn khăn, tục gọi quần chân áo chít bắt đầu từ đây. Trang phục nhà cửa đồ dùng hơi giống thể chế Minh Thanh, thay đổi hết thói cũ hủ lậu của Bắc Hà, thay đổi quan phục tham khảo

chế độ của các triều đại Trung Quốc, chế ra phẩm phục Thường triều, Đại triều, lấy làm mô thức, ban hành trong nước, văn chất đủ vẻ, trở thành nước áo mũ văn vật vậy!”(2)

Phụ nữ thời Nguyễn năm 1918 mặc áo năm thân. (Ảnh: Albert Kahn). Tại cung đình, trong khi các quan nhà Lê xõa tóc, đi đất vào chầu vua (phân biệt với người Minh) thì từ cải cách năm 1744 về sau, quan nhà Nguyễn đều búi tóc, thắt Võng cân, đi hia theo quy chế của nhà Minh (phân biệt với quan nhà Lê và người Thanh). 1. Người Giao Chỉ trong Tam tài đồ hội (Thế kỷ XV); 2. Người dân Việt trong Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ (Thế kỷ XIV); 3. Lính cầm nghi trượng (Thế kỷ XVIII); 4. Người Đàng Ngoài trong Boxer Codex (Thế kỷ XVI); 5. Lính Đàng Trong (Thế kỷ XIX); 6. Lính đội thời Nguyễn trong Hoàng phái sắc phục tự thiên tử chí tôn thất (Thế kỷ XIX); 7. Đĩ đánh bồng trong Kỹ thuật của người An Nam (Thế kỷ XX); 8. Quan nhà Lê vào chầu vua vẽ bởi Samuel Baron (Thế kỷ XVII).

Nhà văn Lỗ Tấn, Trung Quốc mặc áo trường quái. Tổng hợp các ghi chép trên có thể thấy, cải cách năm 1744 là một cuộc cải cách lớn về y phục cung đình và dân gian diễn ra trên toàn cõi Đàng Trong. Nguồn tham khảo chính để đặt định y phục là các sách Hội điển ghi chép điển chương

1. Dẫn theo Đào Duy Anh. Việt Nam văn hóa sử cương. Quan hải tùng thư. 1938. Tr.121. 2. (Việt) Dã sử lược biên Đại Việt quốc Nguyễn triều thực lục - Q.8. Tr.3. Nguyên văn: 上以古讖有云:八 世还中都,遡自太祖至此,正值其數。乃改衣服易風俗,與民更。始下令國内士庶男女並著襦袍, 穿裳,纏巾俗号裙蹎襖折始此。衣服廬舍器用略如明清体製,尽革北河舊俗習,改定官服參酌中國歷代 制度乃製常朝、大朝諸品服,示為式,頒行囯中,文質兼備,蔚然為衣冠文物之邦矣 chế độ của các triều đại Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh, đặc biệt là Tam tài đồ hội của Vương Kỳ thời Minh. Năm 1744 cũng là thời điểm đánh dấu sự xuất hiện của quần chân áo chít, bộ trang phục ban đầu áp dụng tại hai vùng Thuận Hóa, Quảng Nam, về sau được phổ biến rộng rãi trong toàn quốc, từng bước trở thành quốc phục của triều Nguyễn. Như vậy, “lời tương truyền Chánh Lộc Khê Hầu (Đào Duy Từ) trong khi bày mưu định kế chống cự với họ Trịnh, đã khuyên chúa Hy Tông bắt dân thay đổi tập tục cho khác hẳn dân Bắc, như bỏ nón thượng, đội nón chóp, bỏ quần màu đen mặc quần màu nâu, đàn bà bỏ áo bốn thân bày yếm mà mặc áo năm thân gài khuy, bỏ tóc bao mà búi tó, bỏ váy để mặc quần”(1) , mà Phan Khoang ghi lại trong Việt sử: xứ Đàng Trong 1558-1777 đã nhầm lẫn thời điểm diễn ra cuộc cải cách y phục trọng đại này. Tuy nhiên, nếu chỉ trong một thời gian ngắn người dân Thuận Hóa, Quảng Nam đều đã mặc quen quên cả tục cũ, thì phụ nữ Bắc Hà nói chung, tầng lớp dân nghèo nói riêng, đã phải mất rất nhiều thời gian mới có thể quen được với dạng trang phục mới này. Thậm chí sau khi đã mặc áo dài năm thân, đàn bà Bắc Kỳ theo thói quen mặc áo tứ thân, giao lĩnh trước đây, thường không cài khuy ở cổ áo, để lộ cổ yếm mặc lót trong. Chính sự bảo thủ với trang phục cố cựu là nguyên nhân chính dẫn đến những sắc lệnh cấm đoán y phục gắt gao dưới triều vua Minh Mạng, mà câu ca dao “Tháng Tám có chiếu vua ra/ Cấm quần không

1. Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558-1777. Tr.615.

This article is from: