4 minute read

Abstract | Tóm tắt | Résumé

Next Article
References

References

Abstract

Over the past three decades, the Mekong Delta has been subject to significant geophysical and environmental changes. In this context, the land is subsiding by an average ~1 cm/year, with local maximums of up to ~6 cm/year. The tides are rising at a rate close to ~2 cm/year, and salinity has increased by approximately 0.2–0.5 PSU/year. Rapid elevation loss is strongly linked to groundwater extraction, while rising tides and increased saline water intrusion are linked to rapid erosion of riverbeds, at rates of ~10–15 cm/year, in response to anthropogenic sediment starvation caused by downstream sand mining and upstream impoundments. We show that hydropower dams, sand mining and groundwater extraction pose the greatest threats in the coming three decades, while climate change will probably dominate the threats in the second half of the century. If the rate of groundwater extraction remains at present-day levels, the average cumulative subsidence – combined with sea level rise – could cause large parts of the delta to fall below sea level in coming decades. Meanwhile, in line with existing trends, anthropogenic riverbed level incision could increase the extension of land impacted by saline water intrusions by 10–30% in 2050. The window of opportunity for mitigation and adaptation is closing fast. We propose a number of policy recommendations that include 1 ] Restricting sand mining and groundwater exploitation; 2 ] Transformation of farming practices, 3 ] Active diplomacy towards a joint regime of trans-boundary river resource management; and 4 ] Reinstating natural flooding and advocating sedimentation to counterbalance subsidence.

Tóm tắt

Trong 3 thập kỷ qua, Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã trải qua những thay đổi đáng kể về mặt địa vật lý và môi trường. Trong đó, mặt đất bị sụt lún trung bình khoảng ~1 cm/năm, và cao nhất là ~6 cm/năm. Mực nước thủy triều gia tăng với tốc độ ~2 cm/năm, và xâm nhập mặn gia tăng sấp xỉ 0.2–0.5 PSU/năm. Sự hạ thấp độ cao này liên quan chặt chẽ đến quá trình khai thác nước ngầm, trong khi quá trình gia tăng mực nước biển và xâm nhập mặn liên quan đến mức độ xâm thực lòng sông với tỉ lệ ~10–15 cm/năm, do thiếu hụt trầm tích từ khai thác cát và các hoạt động phát triển vùng thượng lưu. Chúng ta đã thấy phát triển thủy điện, khai thác cát, nước ngầm đang có những ảnh hưởng lớn nhất trong những thập kỷ tiếp theo cùng với tác động từ quá trình biến đổi khí hậu sẽ tiếp tục mạnh mẽ hơn trong nữa cuối của thế kỷ này. Nếu tiếp tục khai thác nước ngầm với tỉ lệ như hiện nay kết hợp với tác động cộng hưởng của mực nước biển dâng sẽ khiến một phần lớn ĐBSCL sẽ nằm dưới mực nước biển trong những thập kỷ tới. Ngoài ra, cùng với tác động nhân sinh gây thay đổi địa hình lòng sông, sẽ làm gia tăng xâm nhập mặn khoảng 10–30% vào năm 2050. Cửa sổ cơ hội để giảm thiểu và thích nghi sẽ đóng lại nhanh chóng nếu không có những hành động kịp thời. Chúng tôi, đề xuất một số gợi ý chính sách bao gồm: 1 ] Hạn chế

khai thác cát và khai thác nước ngầm; 2 ] Chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp phù hợp; 3 ] Tích cực ngoại giao trong quản lý nước liên quốc gia; và 4 ] Cần xem xét lại về vai trò của lũ và trầm tích trong việc cân bằng sụt lún ở ĐBSCL.

Résumé

Au cours des trois dernières décennies, le delta du Mékong a connu d’importants changements géophysiques et environnementaux. Le taux de subsidence est de ~1 cm/an en moyenne, avec des maximums locaux allant jusqu’à ~6 cm/an. L’amplitude des marées augmente à un rythme de près de ~2 cm/an, et la salinité s’accroit d’environ 0,2–0,5 PSU/ an. La perte rapide d’altitude est fortement liée à l’extraction des eaux souterraines, tandis que l’intensification des marées et l’augmentation des intrusions salines sont liées à l’érosion rapide des lits des rivières, à des taux de ~10–15 cm/an, en raison de l’appauvrissement sédimentaire causé par les retenues en amont et les extractions de sable. Nous montrons que les barrages hydroélectriques, l’extraction de sable et l’extraction des eaux souterraines constituent les plus grandes menaces dans les trois prochaines décennies, tandis que le changement climatique dominera probablement les menaces dans la seconde moitié du siècle. Si le taux d’extraction des eaux souterraines reste au niveau actuel, la subsidence cumulée moyenne — combinée à l’élévation du niveau de la mer — pourrait amener de grandes parties du delta sous le niveau de la mer dans les prochaines décennies. Parallèlement, conformément aux tendances actuelles, l’érosion anthropique du lit des rivières pourrait accroître de 10 à 30% l’étendue des terres touchées par les intrusions salines en 2050. La fenêtre d’opportunité pour l’atténuation et l’adaptation se referme rapidement. Nous proposons un certain nombre de recommandations politiques qui comprennent 1 ] la restriction de l’extraction du sable et des eaux souterraines, 2 ] la transformation des pratiques agricoles, 3 ] une diplomatie active vers un régime commun de gestion des ressources fluviales transfrontalières et 4 ] le rétablissement des inondations naturelles et la promotion de la sédimentation pour contrebalancer la subsidence.

This article is from: