Apartmen Chuyên đề: Đảm bảo an toàn cho hệ thống cung cấp và phân phối nước sinh hoạt (Phần 9)
Nguy cơ truyền bệnh từ con người Quy trình vệ sinh và khử trùng Hệ thống quản lý dành cho cộng đồng hẹp
CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA TRONG XÂY DỰNG VÀ SỬA CHỮA 18
Lưu hành nội bộ
nt Kính chào Quý độc giả thân mến ! Chúng tôi rất vui mừng khi được gặp lại Quý độc giả ở số tạp chí này. Ở số này, chúng tôi sẽ gửi đến Quý độc giả những thông tin bổ ích về quá trình thi công và sửa chữa hệ thống đường ống nước. An toàn vệ sinh của hệ thống đường ống nước được sửa chữa hoặc xây mới phụ thuộc vào quy trình làm việc và làm sạch. Phương án làm sạch bằng cách khử trùng không phải là hoàn hảo vì một số mầm bệnh sẽ có thể kháng lại hóa chất. Do đó việc khử trùng bằng hóa chất đúng cách và kết hợp với các cách thức làm sạch phù hợp là hết sức quan trọng. Đặc biệt, đối với các hệ thống nhỏ được quản lý bởi cộng đồng hẹp, thì việc hướng dẫn và đào tạo người quản lý vận hành cũng là hết sức cần thiết. Với góc nhìn tổng quát về các vấn đề trên, hy vọng tạp chí sẽ tiếp tục nhận được sự quan tâm ủng hộ của Quý vị. Xin cảm ơn!
Le Tien Trung Phó Tổng biên tập
Chịu trách nhiệm nội dung
Hội đồng biên tập Nguyễn Danh Hải Nguyễn Hồng Minh Nguyễn Hoàng Thanh Nguyễn Quang Huy Hoàng Minh Nguyễn Lưu Hồng Hải Nguyễn Cảnh Toàn Lê Tiến Trung Nguyễn Văn Thiệp Trương Minh Thắng Cam Văn Chương Đỗ Trung Hiếu Cao Tiến Trung Tổng biên tập Nguyễn Tất Hồng Dương Phó Tổng biên tập Lê Tiến Trung Biên tập & Thiết kế Phòng phát triển Cộng động Website www.iirr.vn facebook.com/iirr.com
06 CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA TRONG XÂY DỰNG VÀ SỬA CHỮA Để đảm bảo vệ sinh nguồn cấp nước, các quy trình phải được phát triển dựa trên hoàn cảnh của từng địa phương và tiêu chuẩn các quốc gia.
13 NGUY CƠ TRUYỀN BỆNH TỪ CON NGƯỜI Những người mang mầm bệnh có thể truyền nhiễm qua nước không được phép tiếp xúc với hệ thống phân phối nước sạch.
38 14 QUY TRÌNH VỆ SINH & KHỬ TRÙNG Quy trình vệ sinh và khử trùng điển hình Phương pháp xác định liều lượng clo sử dụng Những vấn đề trong thực tế Hiệu quả của hướng dẫn khử trùng hiện trường
34 ĐÁNH GIÁ RỦI RO & GIÁM SÁT Đối với việc sửa chữa, các nguy cơ này cần được cân bằng với thực tế liên quan đến việc gián đoạn cung cấp.
HỆ THỐNG QUẢN LÝ DÀNH CHO CỘNG ĐỒNG HẸP Trong những cộng đồng hẹp, việc kiểm tra y tế đối với nhân viên làm việc trên đường ống thường không khả thi.
CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA TRONG THI CÔNG VÀ SỬA CHỮA
Các công trình kỹ thuật trên hệ thống phân phối nước đều có nguy cơ gây ô nhiễm lan rộng đối với nguồn cung cấp nước. Điều này này phụ thuộc vào các yếu tố như mức độ ô nhiễm tại công trình, quá trình sửa chữa, phương pháp xây dựng, khả năng có những nguy cơ ô nhiễm bởi van và quan trọng nhất là sự đảm bảo vệ sinh cá nhân của nhân viên cũng như các hoạt động thực tiễn và vật liệu được sử dụng trong công việc.
Các hoạt động sau đây có nguy cơ gây ra ô bởi nhiễm vi sinh vật gây bệnh: Xây dựng hệ thống đường ống mới hoặc tháo bỏ hệ thống đường ống hiện có; Cải tạo đường ống sử dụng công nghệ lót trong với vật liệu có cấu trúc hay phi cấu trúc chẳng hạn như poly -etylen hoặc lớp phun xịt; Sửa chữa cấp kỳ hay có kế hoạch mà có liên quan đến việc mất áp suất hoặc vỡi đường ống;
͂
Kết nối lại đường ống nước chính sau khi nó không được đưa vào sử dụng trong một khoảng thời gian;
Apartment
Hoạt động sửa chữa cấp kỳ mang lại những rủi ro lớn nhất - định vị van, làm việc với người sử dụng và lưu thông, sự hiện diện của các hạ tầng liền kề và nhu cầu khôi phục nguồn cung thiết yếu đều tạo ra khó khăn khi yếu tố địa điểm và thời gian đều không có kế hoạch.
Việc giảm thiểu rủi ro phát sinh từ cả công việc sửa chữa cấp kỳ và có kế hoạch phụ thuộc vào: Các giao thức được ghi chép lại; Áp dụng các biện pháp phòng ngừa chung; Sử dụng các tiêu chí sức khỏe để lựa chọn nhân sự; Thực hiện các quy trình hiệu quả để làm sạch và khử trùng; Đánh giá rủi ro và theo dõi hiệu quả của cả công tác kỹ thuật cấp kỳ và được lên kế hoạch.
Apartment 07
ể đảm bảo vệ sinh nguồn cấp nước, các quy trình phải được phát triển dựa trên hoàn cảnh của từng địa phương kết hợp với các tiêu chuẩn áp dụng quốc gia và quá trình đào tạo và hướng dẫn nhân viên nhà máy nước. Các tiêu chuẩn áp dụng quốc gia cũng cần được xem xét thường xuyên dựa theo năng lực của địa phương và sự phát triển của công nghệ quốc tế.
08 Apartment
Ở phần này, bài viết tập trung đánh giá hiệu quả của các phương pháp làm sạch và khử trùng đường ống truyền thống sau khi xây dựng, bảo trì, sửa chữa khẩn cấp. Bài viết dưới đây cung cấp một ví dụ về sự bùng phát dịch bệnh liên quan đến đường ống nước bị vỡ.
Một đợt bùng phát vàng da liên quan đến việc đường ống nước bị vỡ. Vào tháng 1 năm 1990, các y bác sĩ tại Bệnh viện Rairangpur ở Orisa, Ấn Độ nhận thấy số lượng bệnh nhân nhập viện do chứng vàng da tăng mạnh. Một cuộc khảo sát cộng đồng đã được thực hiện để xác định các trường hợp tiếp theo. Cuộc khảo sát được thực hiện với khoảng một phần năm dân số và đã xác định được 127 trường hợp nhiễm bệnh vào tháng 12 hoặc tháng 1, với ước tính quy mô bùng phát là 635 trường hợp trong đó có 1 trường hợp tử vong. Các xét nghiệm huyết thanh đều âm tính với cả viêm gan A và B, các chuyên gia đều cho rằng có thể là do viêm gan E.
Thành phố Rairangpur có 15 phường, trong đó 9 phường có nguồn cung cấp nước riêng và 6 phường còn lại phải sử dụng máy bơm tay và giếng đào. Thành phố không có hệ thống thoát nước và hệ thống xử lý chất thải sinh hoạt còn rất hạn chế, cụ thể là người dân phải đại tiện lộ thiên. Sự phân bố các trường hợp nhiễm bệnh vàng da có mối liên quan chặt chẽ với nguồn nước, những người sử dụng nguồn nước cấp qua đường ống có nguy cơ bị vàng da cao gấp 9 lần so với những người sử dụng nước từ giếng đào. Khi điều tra, người ta phát hiện ra rằng một đường ống đã bị vỡ vào ngày 1 tháng 12, mặc dù đã được sửa chữa kịp thời.
Ví dụ này đã nhấn mạnh rõ tầm quan trọng của điều kiện vệ sinh xung quanh đường ống nước đang được sửa chữa và bảo trì.
Nguồn: Bora và cộng sự (1993).
Apartment 09
Hướng dẫn liên quan đến vệ sinh trong các công việc thực tiễn thường gồm lời khuyên chung về các biện pháp phòng ngừa. Các lời khuyên này thường được lấy từ hai bộ hướng dẫn (Water UK, 1998; AWWA, 1999).
CÁC PHÒNG NGỪA BIỆN PHÁP Khi tiến hành xử lý đường ống cùng các khớp nối phải đảm bảo rằng chúng được bảo vệ khỏi sự nhiễm bẩn bằng cách cất giữ trên mặt đất, bịt các đầu ống và ống lót, và giữ các khớp nối trong bọc cho đến thời điểm sử dụng. Đảm bảo rằng các đầu cuối ống trong rãnh được bít và không bị rỉ nước khi không sử dụng hoặc khi có nguy cơ rãnh bị ngập. Đào rãnh sâu hơn cao độ của ống để làm rãnh chứa nước và giữ nó khô ráo nhất có thể nhằm ngăn nước xâm nhập vào đường ống.
10 Apartment
Đảm bảo rằng các vật liệu làm nút bịt kín, chất bôi trơn phải sạch và được chứng nhận là thích hợp để tiếp xúc với nguồn nước sinh hoạt. Bảo vệ các rãnh và địa điểm kỹ thuật không được giám sát khỏi những kẻ phá hoại và động vật. Bất kì phần nào của hệ thống phân phối nước không được sử dụng trong một thời gian dài hãy coi như phần đó có nguy cơ gây nhiễm bẩn. Cần áp dụng quy trình xả, khử trùng và lấy mẫu vi sinh vật như khi lắp đặt mới.
Nếu một phần của hệ thống bị bỏ, cần đảm bảo rằng tất cả van ở giáp ranh với của nó với phần còn lại đều phải được đóng lại, đánh giấu hoặc đậy nắp. Tạo các ranh giới để giảm thiểu những đoạn nước chết trong hệ thống và đảm bảo rằng vị trí của phần bị loại bỏ được ghi lại để làm tư liệu về sau.
Theo tình hình thực tế, nếu phương tiện với mục đích thông thường hoặc chuyên dụng được sử dụng cho các nhiệm vụ xây dựng và sửa chữa nguồn cấp nước, không sử dụng những phương tiện này cho các nhiệm vụ khác nơi mà sự ô nhiễm có thể lan rộng (ví dụ: công trình thoát nước).
Khi lên kế hoạch cải tạo và lắp đặt mới công trình, đảm bảo rằng trong kế hoạch phải có van, điểm bơm và xả nhằm tạo điều kiện làm sạch và khử trùng hiệu quả.
Đánh dấu rõ các thiết bị và vật liệu được sử dụng tiếp xúc với nguồn cung cấp nước và bảo vệ chúng khỏi bị ô nhiễm trực tiếp với nước thải hoặc bùn thải.
Apartment 11
Truyện ngắn về con cáo Vài tháng sau khi chuyển đến một khu nhà ở mới, cư dân bắt đầu phàn nàn về các nhúm lông và hạt lạ xuất hiện trong nguồn nước máy. Khu nhà được cấp nước thông qua một đường ống chính có đường kính 15 cm mà được dẫn vào một đường ống chạy quanh khu nhà. Đường kính của đường ống chạy quanh này giảm xuống còn 10 cm. Nguyên nhân của các hạt hay lông này là từ một con cáo đã chết. Con cáo đã trèo vào trong hệ thống trong khi thi công và khi đường ống được nạp đã bị tắc lại ở đoạn hẹp dần. Vì khu nhà được cấp nước bởi một hệ thống tuần hoàn, nước chảy tới vòi người sử dụng không bị gián đoạn. Khi xác con cáo phân hủy, nó bắt đầu rã ra từng mảnh và những miếng thịt rữa nhỏ xuất hiện ở vòi nước của người sử dụng. Phân tích vi sinh cho thấy đường ống bị ô nhiễm nặng với coliforms và Escherichia coli, do đó cư dân phải sơ tán cho tới khi hệ thống được làm sạch hoàn toàn. Ví dụ này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo rằng các đường ống luôn được đậy nắp mọi lúc khi chúng không được trực tiếp giám sát. Nguồn: Khuyết danh.
12 Apartment
NGUY CƠ TRUYỀN BỆNH TỪ CON NGƯỜI Những người mang mầm bệnh có thể truyền nhiễm qua nước không được phép tiếp xúc với hệ thống phân phối nước sạch. Hoàn cảnh và môi trường địa phương sẽ xác định bệnh nào là mối nguy lớn nhất và cách tốt nhất để sử dụng và giám sát nhân sự để giảm thiểu rủi ro này. Tuy nhiên, một số hướng dẫn nhất định liên quan đến việc thực hành triệt để được áp dụng rộng rãi như: Hoạt động cấp nước có nguy cơ ô nhiễm phải được xác định và đặt tên rõ ràng. Ví dụ, ở Anh, các hoạt động như vậy được gọi là các hoạt động “bị hạn chế” . Nhân viên và nhà thầu tham gia vào các hoạt động hạn chế phải được đào tạo về ý nghĩa của việc vệ sinh trong công việc và các biện pháp vệ sinh cơ bản. Việc này nên bao gồm các triệu chứng chi tiết mà bệnh tiềm ẩn lây lan qua nước. Tất cả nhân viên và nhà thầu được khuyến khích để báo cáo về các triệu chứng và điềy này không ảnh hưởng đến tiền đồ của họ. Người sử dụng lao động nên bố trí đầy đủ nhà vệ sinh và thiết bị lọc rửa để duy trì vệ sinh cá nhân. Chất thải cần được xử lý mà không gây rủi ro cho nguồn cấp nước hoặc môi trường bên ngoài. Cán bộ y tế nên xem xét định kỳ sự phù hợp của các cá nhân đối với các hoạt động bị hạn chế. Điều này có thể liên quan đến việc sử dụng bản câu hỏi.
Apartment 13
QUY TRÌNH Các chất lắng đọng trong đường ống có thể bảo vệ mầm bệnh khỏi chất khử trùng và làm chúng không bị phát hiện trong quá trình lấy mẫu vi sinh.
14 Apartment
rước khi những đường ống mới, sau sửa chữa, cải tạo hay sửa đổi được đưa vào sử dụng, chúng cần được làm sạch, khử trùng và lấy mẫu để đảm bảo không bị nhiễm bẩn. Mỗi giai đoạn đều rất quan trọng, nhưng sự kháng của các tế bào trứng Cryptosporidium đối với các chất khử trùng nồng độ cao như clo (WRc, 1988) đã nhấn mạnh việc loại bỏ tất cả các chất rắn từ bên trong ống và khớp nối trước khi kết nối lại. Hơn nữa, các chất lắng đọng trong đường ống có thể bảo vệ mầm bệnh khỏi chất khử trùng và làm chúng không bị phát hiện trong quá trình lấy mẫu vi sinh tiếp theo.
Một đường ống sẽ có vẻ thể đáp ứng các tiêu chuẩn nhưng các chất lắng có thể bị tác động và làm bẩn nước phân phối. Phương pháp khử trùng hóa học kể cả ở liều lượng tương đối cao không bao giờ được coi là một khâu chung để đảm bảo các điều kiện vệ sinh trong hệ thống phân phối mới hoặc sau sửa chữa; vì thế loại bỏ toàn bộ cặn lắng bằng phương pháp vật lý được coi là khâu kiểm soát quan trọng. Một số nhà cung cấp nước công nhận điều này bằng cách yêu cầu tất cả các đường ống mới phải có các điểm vào/ra đầu thông ống (thường là bọt Polyurethane) để tạo điều kiện cho việc bảo trì trong tương lai và thông các đường ống mới trước khi xả nước và khử trùng. Apartment 15
Việc các chất lắng đọng được hình thành trong khi sửa chữa nảy sinh ra các vấn đề trong việc đánh giá xem sự ô nhiễm đã xảy ra hay do việc làm sạch thiếu hiệu quả. Tuy nhiên, vật chất ít kết dính hơn so với cặn lắng hiện hữu và việc xả và thông ống mạnh sẽ có hiệu quả nếu được kiểm soát tốt.
16 Apartment
Quy trình vệ sinh và khử trùng điển hình
ướng dẫn liên quan đến các quy trình làm sạch và khử trùng là một phần quan trọng của các kế hoạch đảm bào an toàn nguồn nước. Hướng dẫn thường phân biệt giữa thực hành cho các công trình lắp mới và công trình sửa chữa. Hai bảng dưới đây liệt kê lời khuyên có trong hai bộ hướng dẫn có sẵn (Water UK, 1998 và WAA, 1988; AWWA, 1999); chúng được đưa ra ở đây để minh họa.
Apartment 17
Các hoạt động được đề xuất khi lắp đặt đường ống mới và chèn lớp lót Các hoạt động được đề xuất (1)
Các hoạt động được đề xuất (2)
1 Loại bỏ các vật chất xuất hiện bằng việc xả nước hoặc cách khác (như thông ống).
1 Xả nước đường ống cho tới khi sạch.
1 Khử trùng ở nồng độ clo tự do ban đầu 25mg/1 trong vòng 24 giờ. Cùng dung dịch clo:
2 Khử trùng với nồng độ clo 20mg/l trong vòng 16 tiếng hoặc tương đương.
Đạt được số dư 10 mg/l nếu bơm khử trùng liên tục. Liều 100 mg/l clo tự do trong 3 giờ nếu khử trùng từng đợt
3 Xả nước đến khi nồng độ clo tương đương với đường ống.
3 Xả sạch dung dịch khử trùng.
4 Nạp lại nước vào đường ống chính trong vòng 24h tới. 4 Lấy hai bộ mẫu liên tiếp (cách nhau ít nhất 24 giờ) dọc theo đường ống để phân tích vi khuẩn.
5 Lấy các mẫu để phân tích vi sinh.
5 Đưa vào sử dụng nếu không phát hiện coliforms.
6 Đưa vào sử dụng nếu không phát hiện coliforms và nếu các hàm lượng chính có thể chấp nhận được và không có mùi (tiêu chí tối thiểu).
Nguồn: (1), AWWA (1999); (2), Water UK (1998) & WAA (1988).
18 Apartment
Các hoạt động được đề xuất khi sửa chữa đường ống nước chính Các hoạt động được đề xuất (1)
Các hoạt động được đề xuất (2) Sửa chữa trực tiếp đường ống mà không phải cắt mở và làm mất áp (ví dụ: dùng kẹp) 1 Khử trùng khu vực sửa chữa với 1000mg/l dung dịch clo. 2 Đưa vào hoạt động trở lại.
Sửa chữa toàn bộ hoặc một phần các đường ống khi đã tháo hết nước.
Sửa chữa trên đường ống bị cắt mở
1 Khử trùng khu vực cắt và các khớp nối bằng 10000mg/l dung dịch hypochlorite.
1 Khử trùng khu vực cắt mở và các khớp nối với 1000 mg/l dung dịch clo.
2 Xả nước cho đến khi không còn chất khử màu. Nếu có thể, hãy xả về phía ống sửa từ cả hai hướng.
2 Xả đường ống.
Apartment 19
Các hoạt động được đề xuất khi sửa chữa đường ống nước chính Các hoạt động được đề xuất (1)
Các hoạt động được đề xuất (2)
3 Nếu có thể, tách biệt các phần đường ống với các kết nối hạ tầng, và khử trùng bằng clo đối với đường ống mới (liều có thể tăng lên 300 mg/l trong 15 phút), sau đó xả để loại bỏ clo và màu lạ.
3 Nếu có khả năng xảy ra ô nhiễm trong đường ống từ việc sửa chữa lân cận, nạp đường ống với dung dịch clo (nồng độ 20 mg/l trong 2h hoặc 50 mg/l trong 30p) rồi xả sạch.
4 Thu thập mẫu vi khuẩn gây ô nhiễm để theo dõi được tính hiệu quả của hoạt động. Tiếp tục cho đến khi 2 mẫu liên tiếp âm tính.
4 Thu thập các mẫu vi khuẩn gây ô nhiễm.
5 Lắp đường ống trở lại.
5 Đưa vào hoạt động trở lại trừ khi nguy cơ ô nhiễm bên trong đường ống đến từ ống thoát nước hay một nguồn có nguy cơ cao. Nếu vậy cần thông qua việc làm sạch trước bằng văn bản (từ chuyên gia hay tương tự) Nguồn: (1), AWWA (1999); (2), Water UK (1998) & WAA (1988).
20 Apartment
Trong trường hợp đường ống đang được cải tạo bằng phương pháp phun lót (hoặc tương tự), hướng dẫn thường tương tự sự sửa chữa có nguy cơ nhiễm bẩn bên trong. Tuy nhiên, ta có thể cần phải xả và kiểm tra thêm để tránh mức độ ô nhiễm không thể chấp nhận từ việc rò rỉ chất ô nhiễm hóa học
Apartment 21
Phương pháp
xác định liều lượng clo sử dụng Clo dạng khí không phải là một lựa chọn để khử trùng ngoài thực địa vì rủi ro về an toàn của nhân viên, nhà thầu và cộng đồng. Canxi Hypoclorit (ở dạng hạt hoặc viên nén) và dung dịch Natri Hypoclorit là những hóa chất thường được chọn trong trường hợp này.
22 Apartment
ột lượng Canxi Hypoclorit có thể lắng đọng từ từ trong đường ống qua quá trình xây dựng hoặc sửa chữa. Các khuyến nghị về khối lượng, sự phân bố không gian và tốc độ làm đầy tối đa cho nước cấp vào là chức năng của bán kính trong đường ống.Hướng dẫn AWWA năm 1999 quy định cụ thể việc này. Mục tiêu là đạt được liều lượng clo ban đầu là 25 mg/l và lượng clo dư có thể phát hiện được sau 24 giờ. Một số tiêu chuẩn cấm việc sử dụng Canxi Hypoclorit, ví dụ với đoạn ngắn hoặc sửa chữa cấp kỳ đường ống bị vỡ. Những hạn định quan trọng là
Cần giữ đường ống sạch sẽ và khô ráo ở một công trình mới để ngăn ngừa sự tan rã sớm. Sự hiện diện của Hypoclorit rắn sẽ ngăn cản bất kỳ quá trình xả nước sơ bộ nào. Xu hướng của quá trình hòa tan để cô đặc dung dịch Hypoclorit đậm đặc ở đáy ống.
Apartment 23
Dung dịch Natri Hypoclorit có thể được chuẩn bị ở dạng đậm đặc và sau đó được định lượng theo tỷ lệ đổ vào đường ống, hoặc định lượng ở dạng lô nếu có bể chứa, các dung dịch này có tính ăn mòn và cần được xử lý thận trọng. Sau đó đổ dung dịch cho đến khi đường ống đầy, hoặc có thể đổ từ từ để chảy từ ống ra bãi thải. Tiêu chuẩn Hiệp hội Công trình Nước Hoa Kỳ (AWWA, 1999), cung cấp hướng dẫn chi tiết, đề cập đến “phương pháp đổ theo đợt” và “phương pháp đổ liên tục” như mô tả theo thứ tự ở trên. Phương pháp đổ theo đợt tạo ra khối lượng nước clo ít hơn để xử lý và sử dụng ít hóa chất hơn, phương pháp đổ liên tục có thể đem lại một nồng độ clo đồng nhất dọc theo chiều dài của đường ống. Nồng độ khuyến nghị và thời gian phản ứng được tóm tắt như ở bảng trên.Thông tin chi tiết thực tế về việc điều chế dung dịch clo, thông số dung dịch clo, mức độ tàn phá của dư lượng clo trong nước thải và khối lượng nước xả đều có sẵn (vd: AWWA, 1999.
24 Apartment
Apartment 25
Những vấn đề trong thực tế Các công trình lắp đặt mới và cải tạo sửa đổi nên tránh xuất hiện nhiều vấn đề vì ta có thời gian để lên kế hoạch cẩn thận và thông báo tới người dùng. Ngoài ra, phần bên trong của đường ống mới hoặc đã được làm lại có bề mặt láng, không bị đóng cặn và rỉ sét sẽ tạo điều kiện cho quá trình làm sạch đường ống và giảm lượng clo tiêu thụ trong giai đoạn khử trùng. Tuy nhiên, một số lớp lót có thể cần clo để làm sạch và khó đạt được lượng dư clo tiêu chuẩn. Điều này đã được quan sát trong các cuộc điều tra về lớp lót vữa xi măng (Rayner, Olliffe & Kings, 1993).
26 Apartment
Phần lớn các vấn đề xảy ra khi sửa chữa cấp kỳ. Khả năng nhanh chóng xác định vị trí van, khóa vòi và điểm xả phụ thuộc vào sự hiểu biết về địa phương hoặc hồ sơ lưu trữ. Người sử dụng có thể cần được cảnh báo và di chuyển ra khỏi các tòa nhà liên quan. Việc tìm kiếm điểm bơm và xả thuận tiện có thể cần đến việc cô lập một đoạn dài đường ống, đặc biệt là ở vùng nông thôn. Hơn nữa, hệ thống đường ống hiện hữu có thể chứa cặn lắng và rỉ sét mà hấp thụ chất khử trùng. Những vấn đề thực tế này đã dẫn đến việc đánh giá lại hiệu quả của các phương pháp làm sạch và khử trùng truyền thống trong những năm gần đây như được nêu rõ trong phần sau.
Apartment 27
Hiệu quả của hướng dẫn
khử trùng hiện trường Liều lượng bình thường của clo có thể ảnh hưởng đến quần thể vi khuẩn trên bề mặt và do đó cần cung cấp một số biện pháp bảo vệ trong trường hợp mầm bệnh xâm nhập vào đường ống trong quá trình xây dựng và sửa chữa.
28 Apartment
Một giàn ống ngầm và các thử nghiệm tại hiện trường đã được sử dụng để xác định hiệu quả của các phương pháp khử trùng và làm sạch khác nhau được sử dụng ở Anh (WRc, 1994). Trong một loạt các thí nghiệm, lần đầu tiên người ta nghiên cứu sự phân tán của clo trong các đường ống có đường kính nhỏ (<150 mm). Các kết quả đã chứng minh sự phân tán kém và không đồng đều của chất khử trùng xảy ra khi đưa chất khử trùng dạng rắn hoặc hòa tan vào một đầu ống và sau đó được phân tán bởi nước của đường ống. Việc dùng viên nén canxi hypoclorit giãn cách theo nhà sản xuất khuyến cáo đã làm giảm sự không đồng đều trong việc phân phối, nhưng không đạt được định lượng ở một số vị trí. Như dự kiến, sử dụng dung dịch natri hypoclorit bằng cách cho vào nước được dùng để nạp vào đường ống là hiệu quả nhất. Apartment 29
Trong cùng một cuộc điều tra, ảnh hưởng của các hỗn hợp clo với nồng độ và thời gian tiếp xúc khác nhau (có và không thông ống trước) đã được xác định. Phương pháp xác định khác thường ở chỗ, màng sinh học trên một diện tích tiêu chuẩn trong thành ống đã được lấy mẫu và định lượng vi khuẩn bằng phương pháp đếm đĩa dị dưỡng. Các cuộc điều tra khác thì dựa vào việc lấy mẫu nước. Các thí nghiệm sử dụng ống được đào lên hoặc được đúc tại chỗ mà đã bị rỉ sét đóng thành khối và chứa các màng sinh học. Có rất nhiều kết quả vì sự đa dạng về kích thước của các cụm vi khuẩn trên bề mặt đường ống. 30 Apartment
Tuy nhiên, sự tiêu thụ clo được phát hiện là do các chất cặn lắng sẵn có hơn là do chất cặn lắng được đưa vào trong đường ống ở điều kiện này. Liều lượng và thời gian tiếp xúc thông thường làm giảm số lượng vi khuẩn nói chung trên bề mặt xuống 65–98%, mặc dù việc thông ống trước đó dường như không mang lại nhiều ích lợi trong trường hợp như vậy. Những kết quả chỉ ra rằng liều lượng clo bình thường có thể ảnh hưởng đến quần thể vi khuẩn trên bề mặt nhờ đó đem lại một vài biện pháp phòng chống trong trường hợp mầm bệnh xâm nhập vào đường ống trong quá trình xây dựng và sửa chữa (mặc dù không có tác dụng với các loại virus và noãn bào nguyên sinh). Kết quả cũng chỉ ra lợi ích của các hoạt động bảo trì định kỳ nhằm giữ cho hệ thống không bị đóng cặn và màng sinh học.
Các cuộc điều tra tương tự đã được thực hiện để xác định hiệu suất của các phương pháp khử trùng và làm sạch khác nhau được sử dụng ở Hoa Kỳ (AWWARF, 1998). Các cuộc điều tra này đã đo lường số lượng vi khuẩn trong nước được xả qua các giàn ống có chứa đường ống mới và đường ống cũ đã qua sử dụng. Trong một số trường hợp, người ta sử dụng nước xả từ vùng lân cận của các điểm vỡ ống, mục đích là để xác định số lượng vi khuẩn xuất hiện trên bề mặt đường ống và nghiên cứu động học khử trùng trong nước. Kết quả như sau:
Apartment 31
Không có mẫu nước đường ống nào được thử nghiệm cho thấy có tổng số coliform có hoặc vi khuẩn kháng axit có thể nhận thấy nhưng tất cả các đường ống (kể cả nguồn mới) đều có số lượng vi khuẩn dị dưỡng cao. Số lượng vi khuẩn dị dưỡng trong đường ống đã qua sử dụng có thể thay đổi, nhưng có thể so sánh với các mức độ trong đường ống mới. Đường ống đã qua sử dụng bị đóng cặn rỉ sét trong thành ống có số lượng lớn hơn so với ống đã qua sử dụng có thành ống trơn. 32 Apartment
Tất cả các đường ống (bao gồm cả những đường ống mới) đều có nhu cầu cần sử dụng clo đáng kể. Trong mọi trường hợp, bất kể vật liệu, đường kính hoặc độ tuổi của ống, sử dụng lượng dư clo ban đầu là 25 mg/l và thời gian tiếp xúc là 24 giờ dẫn đến việc vi khuẩn dị dưỡng bị bất hoạt 4-log. Điều này tất nhiên, được áp dụng cho các sinh vật tuôn ra trong quá trình xả nước, không phải những sinh vật còn lại trên bề mặt đường ống.
Kết quả nghiên cứu của Tổ chức Nghiên cứu Hiệp hội Công trình Nước Hoa Kỳ (AWWARF) đã xác nhận rằng các quy trình được khuyến nghị là một cách tiếp cận vừa phải để chỉ ra việc khử trùng thông thường và vi sinh vật dị dưỡng. Tuy nhiên, các tác giả đã chỉ ra rằng các mầm bệnh kháng thuốc khử trùng như Giardia và Cryptosporidium đã không được nghiên cứu theo cách tương tự và đây là một yêu cầu nghiên cứu cần được chú trọng.
Apartment 33
ĐÁNH GIÁ RỦI RO & uyết định về thời điểm vận hành một đường ống dẫn nước mới được xây dựng hoặc sửa chữa phụ thuộc vào nguy cơ ô nhiễm, nguy cơ làm sạch và khử trùng sẽ không hiệu quả và an ninh bổ sung có thể dựa trên các kết quả thoản mãn từ quá trình lấy mẫu vi sinh vật. Đối với việc sửa chữa, các nguy cơ này cần được cân bằng với thực tế liên quan đến việc gián đoạn cung cấp. 34 Apartment
Khi tiến hành các công trình xây dựng mới hoặc cải tạo và sửa chữa theo kế hoạch, các chuyên gia khuyên nên có sắp xếp thời gian để làm theo tất cả các quy trình được khuyến nghị để xử lý vật liệu, đào, làm sạch và khử trùng. Trong những trường hợp như vậy, rủi ro đã ở mức thấp và sự an toàn được cung cấp bằng cách lấy mẫu đều đặn dọc theo chiều dài của ống và bằng cách thử nghiệm các sinh vật coliform. Tiêu chuẩn AWWA khuyến nghị rằng nên lấy hai bộ mẫu liên tiếp, được lấy cách nhau ít nhất 24 giờ, trước khi vận hành lại (AWWA, 1999). Các hướng dẫn của UK khuyến nghị rằng đường ống mới cần được nạp nước trong 24 giờ, lấy mẫu ở các điểm thích hợp và phân tích dư lượng clo, coliform, độ đục, mùi vị và hình thức (Water UK, 1998). Các đường ống không vượt qua được các thử nghiệm trên sẽ cần được kiểm tra và xả lại (hoặc làm sạch lại bằng cách khác chẳng hạn như dùng đầu thông ống), tái khử clo và lấy mẫu cho đến khi kết quả có thể chấp nhận được trước khi đưa vào sử dụng lại.
Apartment 35
iệc sửa chữa cấp kỳ tạo ra những khó khăn rõ ràng so với việc được lên kế hoạch. Các nhà cung cấp nước phải đối mặt với việc cân bằng rủi ro ô nhiễm với những rủi ro về ô nhiễm nước với những rủi ro về điều kiện vệ sinh xảy ra khi không có nguồn cấp nước chính. Bảng các hoạt động ở trang 19-20 đã tóm tắt những khuyến nghị trong hai bộ quy chuẩn quốc gia. 36 Apartment
Yêu cầu quan trọng là việc áp dụng trong thực tiễn và tính thông tin. Nếu sự cố vỡ đường ống gây mất áp suất và xảy ra ở gần cống bị rò rỉ hay vùng đất bị ô nhiễm, thì cần hết sức thận trọng trước khi đưa vào hoạt động trở lại; một khu vực lớn hơn có thể cần được làm sạch. Trong những trường hợp như vậy, quyết định nên được đưa ra bởi một nhân viên có trình độ phù hợp của nhà cung cấp nước.
Việc lấy mẫu vi khuẩn sau khi sửa chữa cấp kỳ có thể không có tác dụng trong việc quyết định đưa đường ống bị ảnh hưởng hoạt động trở lại vì sự chậm trể trong việc có kết quả vi sinh. Tuy nhiên, những mẫu thử này vẫn quan trọng. Chúng cung cấp dữ liệu cơ sở trong trường hợp có vấn đề phát sinh sau này; chúng cũng cung cấp những bản ghi về tính hiệu quả trong cách làm việc của tổ chức; chúng thật sử có thể chỉ ra sự khác biệt về hiệu suất của các đội sửa chữa khác nhau. Những dữ liêu này cần được xem xét thường xuyên để xác định những mặt có thể cải thiện.
Apartment 37
HỆ THỐNG QUẢN LÝ DÀNH CHO CỘNG ĐỒNG HẸP uân thủ các quy trình làm việc hợp vệ sinh trong quá trình xây dựng các công trình đường ống do cộng đồng quản lý là hết sức quan trọng; Ngoài ra, nguồn cung cấp phải được khử trùng đúng cách trước khi vận hành. Đào tạo về thực hành vệ sinh tốt cho công việc sửa chữa là cần thiết cho người vận hành và quản lý các nguồn cung cấp. 38 Apartment
Apartment 39
Người điều hành và quản lý hệ thống cần hiểu rõ về vị trí đặt hệ thống phân phối và sơ đồ hệ thống thể hiện vị trí đường ống liên quan đến các điểm mốc dễ nhận biết. Điều này đặc biệt quan trọng trong các hệ thống cũ, nơi có thể đã xảy ra những thay đổi về người điều hành hệ thống hoặc ban quản lý. Có thể cần một cơ quan bên ngoài (chẳng hạn như cơ quan giám sát) để đảm bảo các kiến thức này được duy trì thông qua các lần kiểm tra định kỳ. Việc đào tạo người điều hành hệ thống nên bao gồm các công việc vệ sinh thực tiễn và tài liệu hướng dẫn nên được cung cấp cho người điều hành như một tài liệu tham khảo. Tài liệu này phải đơn giản và cuốn hút, và nên sử dụng hình ảnh một cách tối đa (ngay cả trong các cộng đồng biết chữ).
40 Apartment
Cần cung cấp hướng dẫn đơn giản cho cộng đồng về việc giữ vệ sinh trong khi thực hiện các công việc trên đường ống, dựa vào các công việc thực tiễn đã nêu ở trên. Những điều này có thể cần sửa đổi để loại bỏ những điều rõ ràng không thể áp dụng được (ví dụ: sử dụng xe chuyên dụng) và bao gồm hướng dẫn bổ sung phù hợp. Trong những cộng đồng hẹp, việc kiểm tra y tế đối với nhân viên làm việc trên đường ống thường không khả thi. Do đó, cần phải nhấn mạnh với những người điều hành và quản lý hệ thống rằng những người hiện đang bị tiêu chảy hoặc mới bị tiêu chảy không nên làm công việc liên quan đến hệ thống phân phối.
Apartment 41
Sự bùng phát
dịch bệnh giadia các công trình trên nguồn nước.
Một đợt bùng phát bệnh giardia đã ảnh hưởng đến cư dân Bristol, Anh trong mùa hè năm 1985. Có 108 trường hợp đã được xác nhận nhiễm bệnh sau khi xét nghiệm. Hầu hết các trường hợp đều cư trú trong một khu vực được cấp nước bởi một hồ chứa duy nhất và phát bệnh trong hai tuần giữa tháng Bảy. Các cuộc điều tra dịch tễ học cho thấy mối liên hệ rất chặt chẽ giữa dịch bệnh và việc sử dụng nước máy không đun sôi ở khu vực bị ảnh hưởng trong tuần đầu tiên của tháng Bảy. Dữ liệu từ các mẫu nước lấy từ hồ chứa và các vòi phân phối của các trường hợp nhiễm bệnh cho thấy rằng sự ô nhiễm xảy ra sau khi nước đã rời khỏi hồ chứa.
42 Apartment
Mặc dù nguyên nhân chính xác của sự cố không được xác định, nhưng đợt dịch xảy ra trùng hợp với quá trình làm việc trên đường ống có liên quan. Đường ống đã được mở vào hai dịp riêng biệt trong vài giờ, có ý kiến cho rằng điều này đã cho phép nước bẩn xâm nhập vào hoặc đã cho phép dòng chảy ngược vào đường ống trong quá trình giảm áp suất. Đợt bùng phát này cho thấy những nguy hiểm liên quan đến các công việc trên hệ thống phân phối. Các rủi ro tiềm ẩn đối với sức khỏe cộng đồng cần được xem xét trước khi tiến hành bất kỳ hoạt động nào trên hệ thống phân phối. Nguồn: Jephcott, Begg & Baker (1986)
Apartment 43
www.iirr.vn