Occupatonal Safety, Health, and Environment
www.iirr.vn Lưu hành nội bộ
zika
VIRUS
Nguồn gốc và sự lây lan của một vi-rút bắt nguồn từ muỗi
Thư ngỏ Quý độc giả thân mến!
Chúng ta ngày càng quan tâm đến việc môi trường toàn cầu thay đổi ảnh hưởng đến con người như thế nào, song phần lớn sự chú ý lại dồn vào biến đổi khí hậu, ô nhiễm, các hiện tượng thời tiết cực đoan mà phớt lờ các bệnh truyền nhiễm. “Nếu không suy xét đến mối liên hệ này, các chính phủ có thể sẽ mãi mãi ở vào thế khắc phục khi sự đã rồi: trả giá đắt về con người và kinh tế để chữa trị các chứng bệnh mới, thay vì giải quyết các yếu tố có thể gây ra đợt bùng phát tiếp theo”. - bảy nhà nghiên cứu thuộc Tổ chức Nghiên cứu công nghiệp và khoa học khối Thịnh vượng chung đã trình bày trong bài viết hồi tháng 2/2020.
Từ tháng 7/2019, WHO công bố vi rút Zika đã lây truyền hơn 87 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới. Không chỉ gây bùng phát dịch bệnh virus Zika, muỗi còn là nguyên nhân lây lan hàng loạt căn bệnh nguy hiểm như sốt xuất huyết, sốt rét hay viêm não Nhật Bản. Bằng chứng khoa học đã giúp chúng ta hiểu rõ về lây truyền vi rút Zika. Song nhiệm vụ của mỗi quốc gia và từng cá thể đó là tiếp tục giám sát, phòng ngừa, ngăn chặn để đảm bảo dễ dàng phát hiện sớm nguy cơ tiềm ẩn vi rút Zika sẽ quay trở lại. Mà sâu xa hơn, chính là vấn đề đô thị và dịch bệnh. Đây cũng chính là lối tiếp cận mà WHO đã xác định bằng tên gọi của mình: “One health” - xem sức khỏe con người, động vật và môi trường là một khối có liên quan mật thiết. Đây cũng chính là mục tiêu truyền tải của ban biên tập chúng tôi tại cuốn tạp chí này.
Ths. NGUYỄN HOÀNG THANH VIỆN PHÓ VIỆN IIRR
CHỊU TRÁCH NHIỆM NỘI DUNG
HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP NGUYỄN HỒNG MINH NGUYỄN QUANG HUY TS. NGUYỄN DANH HẢI NGUYỄN HOÀNG THANH TS. NGUYỄN THỊ QUỲNH HOA TS. NGUYỄN THỊ ANH THƯ PHAN THỊ HOÀI TRANG NGUYỄN BÍCH SƠN
TỔNG BIÊN TẬP NGUYỄN TẤT HỒNG DƯƠNG
PHÓ TỔNG BIÊN TẬP
NGUYỄN HOÀNG THANH
BIÊN TẬP & THIẾT KẾ PHÒNG PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG
www.iirr.vn
www.facebook.com/iirr.vn
06 CÁC BỆNH LIÊN QUAN TỚI ĐÔ THỊ: NHỮNG BỆNH THƯỜNG GẶP, CÁC YẾU TỐ RỦI RO VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ CON ĐƯỜNG PHÍA TRƯỚC Ô nhiễm không khí là tác nhân môi trường phổ biến nhất dẫn đến bệnh tật. Vi sinh vật đột biến cũng được xem như một tác động môi trường quan trọng dẫn đến bệnh tật.
21 BỆNH SỐT ZIKA LÂY TRUYỀN TỪ THÁI LAN SANG NHẬT BẢN VÀ ĐƯỢC CHẨN ĐOÁN BẰNG PCR TRONG NƯỚC TIỂU Du khách bị điều tra vì có các triệu chứng sốt, đau đầu, phát ban và viêm kết mạc. RNA của virus Zika được phát hiện trong mẫu nước tiểu của du khách này bằng các xét nghiệm sinh học phân tử RT-PCR.
TĂNG MẬT ĐỘ ĐÔ THỊ CÓ THỂ TỐT CHO MÔI TRƯỜNG VÌ TÀI NGUYÊN ĐƯỢC CHIA SẺ DỄ DÀNG HƠN. NHƯNG MẦM BỆNH CŨNG VẬY. PHẢI LÀM SAO? Các khu vực đô thị đông đúc, thiếu hệ thống vệ sinh hiện đại và nguồn nước hợp vệ sinh đều tiềm ẩn nguy cơ dịch bệnh đe dọa tính mạng.
35
28
XÉT NGHIỆM NHIỄM VIRUS ZIKA Hướng dẫn tạm thời này của WHO dành cho nhân viên của các phòng xét nghiệm, làm xét nghiệm nhiễm virus Zika, những người làm lâm sàng và chuyên gia y tế cộng cộng trong lĩnh vực quản lý hoặc giám sát lâm sàng
GOING NET
MÔI TRƯỜNG QUỐC TẾ
CÁC BỆNH LIÊN QUAN TỚI ĐÔ THỊ: Những bệnh thường gặp, các yếu tố rủi ro về môi trường và con đường phía trước Bằng chứng cho thấy mối liên quan giữa đô thị với các chứng rối loạn dị ứng, các bệnh viêm nhiễm và rối loạn tâm thần. Ô nhiễm không khí là tác nhân môi trường phổ biến nhất dẫn đến bệnh tật.
Vi sinh vật đột biến cũng được xem như một tác động môi trường quan trọng dẫn đến bệnh tật. Các yếu tố rủi ro môi trường trong đô thị khác được xác định cũng như các cảnh báo chính và vấn đề khoảng cách giàu nghèo.
06
TOÀN CẦU
MỞ ĐẦU
Từ khi biết làm nông nghiệp, loài người đã sống tập trung, hình thành các cộng đồng có mật độ dân số cao. Tại những ‘’đô thị’’ này, sự pha trộn giữa môi trường sống, làm việc và thông thương là yếu tố xác định mức độ văn minh của cộng đồng. Mặc dù các thành phố từ lâu đã là trung tâm thương mại và chính trị nhưng tính chất và ảnh hưởng của chúng đã thay đổi đáng kể trong những thế kỷ qua, cụ thể là từ Cuộc cách mạng công nghiệp. Ngày nay, nhiều người sống tập trung ở các thành phố hơn, và xu hướng đô thị hóa này sẽ kéo dài xuyên suốt thế kỷ 21. Cư dân thành phố sống trong một môi trường nhân tạo rộng lớn, bị ngăn cách với thế giới tự nhiên và cách xa môi trường tiến hóa của tổ tiên. Điều quan trọng lúc này là phải hiểu tác động sức khỏe của việc di cư đến khu vực đô thị.
07
GOING NET
Hình 1. Có sự không đồng nhất lớn giữa các thành phố và ngay tại các thành phố theo thời gian và không gian. Người sống dọc theo đường Mulberry ở thành phố New York, Hoa Kỳ vào đầu những năm 1900 (a) so với Mulberry Street ngày nay (b) có trải nghiệm môi trường sống và sức khỏe khác nhau. Tương tự, người dân ở các khu vực giàu có của Cairo (c) phải đối mặt với vấn đề về sức khỏe khác với những người sống ở khu ổ chuột Cairo (d) hoặc ở thành phố New York (b)
Các thành phố có rất nhiều biến đổi về cả không gian và thời gian (Hình 1) và những vấn đề về sức khỏe mà chúng mang lại cũng vậy. Ở châu Âu vào giữa những năm 1300, khu vực đô thị là nơi nguy hiểm để sinh sống - Bạo lực, tội phạm và bệnh dịch đã gây ra nhiều thiệt hại cho dân cư đô thị. Ngày nay, nhiều thành phố đang phát triển và các khu ổ chuột ở các thành phố phát triển vẫn phải đối mặt với những vấn đề tương tự. Tại các quốc gia phát triển, quy định nhà ở, việc đảm bảo chất lượng không khí và nước cùng với hệ thống vệ sinh, hệ thống ống nước trong nhà và sưởi ấm không khói đã làm giảm bớt các nguy cơ đô thị trước kia.
08
Việc làm, thu nhập, chất lượng y tế và khả năng tiếp cận có xu hướng tốt hơn ở khu vực thành thị so với khu vực ngoài đô thị dẫn đến ‘’lợi thế về sức khỏe đô thị’’ của người dân thành phố ở các quốc gia phát triển (AIHW, 2017;
Eberhardt và cộng sự, 2001; Mainous và Kohrs Năm 1995; Morgan, 2002; WHO và Thủ đô, 2014).
Ví dụ, ở Úc, những người sống ở khu vực nông thôn có tuổi thọ thấp hơn, tỷ lệ mắc bệnh, thương tật và tự tử cao hơn và khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế kém hơn (AIHW, 2017).
TOÀN CẦU
Nguyên nhân của sự khác biệt y tế thành thị - nông thôn này có thể một phần là do các yếu tố về hành vi liên quan đến lối sống văn hóa địa phương (Hartley, 2004). Ví dụ, người Úc ở nông thôn có tỉ lệ hút thuốc lá cao hơn, ít tập thể dục hơn và uống nhiều rượu hơn so với người dân thành thị (AIHW, 2017). Nhưng khi cân nhắc các yếu tố nguy cơ về kinh tế xã hội và hành vi, một số bệnh lại xảy ra với tỷ lệ cao hơn ở các thành phố. Điều này cho thấy môi trường vật lý của các thành phố có thể thúc đẩy quá trình phát triển của một số bệnh tật và vấn đề sức khỏe mãn tính. Các tính chất của đô thị hóa (thay đổi mục đích sử dụng đất, tăng dân số và thay đổi hành vi xã hội) cũng được cho là nguyên nhân phát sinh bệnh (Jones và cộng sự, 2008; Weiss và McMichael, 2004; Woolhouse và Gowtage-Sequeria, 2005). Và mặc dù có những tiến bộ vượt trội về y tế công cộng, nhưng 1/4 số trẻ em tử vong trên toàn cầu vẫn do điều kiện môi trường không đảm bảo (WHO, 2018a). Môi trường vật lý của khu vực đô thị dễ bị biến đổi thông qua các chính sách và pháp luật hơn là hành vi cộng đồng. Vì vậy việc hiểu được tác động của môi trường đô thị đến sức khỏe có thể cải thiện đáng kể sức khỏe của cộng đồng. Mặc dù đã có một số nghiên cứu quan trọng cho thấy sự ảnh hưởng của đô thị hóa đến sức khỏe (Freudenberg
và cộng sự, 2006; Galea và cộng sự, 2005; Galea và V nhớov, 2005; Vlahov và cộng sự, 2007; Vlahov và Galea, 2003, 2002), tuy nhiên
chưa có nghiên cứu nào xác định rõ ràng các bệnh liên quan đến đô thị (UADs). Điều này có thể là do sự khác biệt đáng kể trong và giữa các thành phố (Hình 1), khiến việc xác định các UAD trở nên khó khăn.
Đã có hơn 1000 đô thị đồng ý với mục tiêu trở thành ‘’Thành phố khỏe mạnh’’ (WHO, 2018b). Tuy nhiên, một mục tiêu như vậy không thể đạt được nếu trước tiên chúng ta không xác định được các cách thức mà các thành phố có thể gây suy giảm sức khỏe.
09
GOING NET
Trong nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu bắt đầu với nỗ lực nhằm xác định các bệnh liên quan đến đô thị (UAD) , bắt đầu với các loại bệnh quan trọng trong thời đại của chúng ta. Chúng tôi tập trung vào các bệnh (a) gia tăng đồng thời với quá trình đô thị hóa, hoặc (b) có liên quan trực tiếp đến các thành phố theo một cách nào đó. Chúng tôi dựa vào chuyên môn trên các lĩnh vực y tế khác nhau để đánh giá bằng chứng về mối liên hệ giữa đô thị đối với các bệnh này và các cơ chế tác động tới các mối liên hệ đó. Chúng tôi đã phát hiện ra một số đặc điểm quan trọng của đô thị có liên quan đến bệnh tật, bao gồm một số nguyên do phổ biến như ô nhiễm không khí và nguyên do đột biến ít được biết đến (tức là sự đột biến của các vi sinh vật khi tiếp xúc với môi trường). Chúng tôi nhấn mạnh các thiếu sót nghiên cứu và đưa ra các phương án để khắc phục cho các thiếu sót này. Trong tài liệu bổ sung, chúng tôi cung cấp cái nhìn tổng quan và mô tả kỹ càng về từng bệnh, bao gồm các thông tin/ bằng chứng bổ sung về so sánh giữa thành thị và nông thôn cũng như phác thảo các yếu tố tiềm năng có thể ảnh hưởng tới mối tương quan với đô thị. Bài nghiên cứu này nhằm phát động một cuộc kiểm tra nghiêm ngặt về UAD và các nguyên do dẫn đến UAD nhằm dự đoán tốt hơn gánh nặng y tế toàn cầu, phát triển và quy hoạch chính sách và hệ thống y tế cũng như hướng dẫn thiết kế đô thị. Nhóm nghiên cứu: Emily J. Flies - School of Natural Sciences, College of Science and Engineering, University of Tasmania, Hobart, Australia Suzanne Mavoa - Melbourne School of Population and Global Health, University of Melbourne, Melbourne, Australia Graeme R. Zosky - Menzies Institute for Medical Research, College of Health and Medicine, University of Tasmania, Hobart, Australia Evangeline Mantzioris - School of Medicine, College of Health and Medicine, University of Tasmania, Hobart, Australia Craig Williams - School of Pharmacy and Medical Sciences & Alliance for Research in Exercise, Nutrition and Activity (ARENA), University of South Australia, Adelaide, Australia Rajaraman EriBarry W. Brook - School of Pharmacy and Medical Sciences, University of South Australia, Adelaide, Australia Jessie C. Buettel - School of Health Sciences, College of Health and Medicine, University of Tasmania, Hobart, Australia
10
TOÀN CẦU
CÁC BỆNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐÔ THỊ (UAD) LÀ NHỮNG BỆNH NÀO VÀ BỆNH NÀO ĐÃ ĐƯỢC KIỂM CHỨNG Hình 2. Các đặc điểm của môi trường đô thị và các bệnh có liên quan đến các đặc điểm đó. Chữ viết tắt được sử dụng là CVD: bệnh tim mạch; IBD: Bệnh viêm ruột; MS: đa xơ cứng
Ở đây, chúng tôi định nghĩa UAD là: bất kỳ căn bệnh nào có tỷ lệ lây nhiễm gia tăng do sự phát triển đô thị hoặc dự kiến sẽ gia tăng theo xu hướng đô thị hóa trong tương lai. Để tổng hợp, chúng tôi nghiên cứu các chứng rối loạn miễn dịch (ví dụ như dị ứng, hen suyễn và bệnh tự miễn), các bệnh không lây nhiễm liên quan đến lối sống (ví dụ như bệnh về tim mạch, béo phì, v.v.) và các bệnh truyền nhiễm (ví dụ như bệnh viêm đường hô hấp) hầu hết đều là các vấn nạn sức khỏe toàn cầu. Các nhóm bệnh đô thị và các yếu tố rủi ro được hiển thị trong hình 2.
11
GOING NET
Trong vài thập kỷ qua, những tiến bộ về y tế và vệ sinh đã làm giảm gánh nặng tử vong của các bệnh truyền nhiễm. Tuy nhiên, vào năm 2010, bệnh truyền nhiễm vẫn chiếm 20% tổng số ca tử vong trên toàn cầu (Lozano et al., 2012). Nhiễm trùng đường hô hấp dưới vẫn là một trong năm nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên
BỆNH TRUYỀN NHIỄM
12
toàn thế giới và là loại bệnh truyền nhiễm nghiêm trọng nhất toàn cầu (Lozano et al., 2012; WHO, 2018d).
Các bệnh truyền nhiễm toàn cầu nghiêm trọng khác là HIV/ AIDS (lây truyền qua đường tình dục), bệnh tiêu chảy, bệnh lao (lây truyền trực tiếp) và bệnh được truyền từ muỗi (ví dụ như sốt rét).
TOÀN CẦU
"
Toàn cầu hóa làm cho các thành phố không chỉ là nơi ươm mầm cho bùng phát mà còn là điểm trung chuyển cho các đại dịch khu vực hoặc toàn cầu (Alirolet al., 2011).
Do mật độ dân số cao hơn so với khu vực nông thôn, khu vực đô thị tạo ra điều kiện lý tưởng cho các bệnh lây nhiễm trực tiếp từ người sang người (ví dụ, cúm, sởi và lao). Nguy cơ này gia tăng là do xác suất truyền bệnh sẽ lớn hơn nếu truyền từ người mắc bệnh sang người khác. Mật độ dân số cao cũng dẫn tới tình trạng gia tăng khối lượng chất thải sinh hoạt và thương mại. Do đó, các hệ thống vệ sinh đóng vai trò cốt yếu trong việc ngăn chặn các bệnh truyền qua nước. Tuy nhiên, ở nhiều quốc gia đang phát triển và các thành phố có tốc độ phát triển nhanh, các hệ thống này vẫn còn thiếu sót.
Tuy nhiên, mặc dù có mối liên quan trực quan giữa các thành phố và bệnh truyền nhiễm, một phân tích định lượng với 24 bệnh truyền nhiễm phổ biến đã tìm thấy mối liên hệ tiêu cực
giữa tỉ lệ đô thị của một nước và phần lớn các bệnh truyền nhiễm này (Woodet al., 2017).
Trong phân tích của chúng tôi, chưa thể tìm ra mô hình rõ ràng cho sự liên quan giữa đô thị và bệnh viêm đường hô hấp, hoặc các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Bệnh do muỗi truyền có thể liên quan tới đô thị (ví dụ sốt xuất huyết) hoặc liên quan đến nông thôn (ví dụ: sốt rét) tùy thuộc vào hệ sinh thái truyền bệnh của mầm bệnh. Cũng như vậy, bệnh lây truyền qua đường tình dục (ví dụ: HIV), một bệnh liên quan lớn đến lối sống đô thị, lại có chỉ số tương quan yếu với khu vực đô thị một phần vì tiếp cận với dịch vụ y tế sẽ dễ dàng hơn ở khu vực đô thị (UNAIDS, 2006).
13
GOING NET
Hiểu được tác động của đô thị hóa đối với sức khỏe con người là một câu hỏi quan trọng nhưng phức tạp. Đầu tiên chúng ta phải thừa nhận có sự phân biệt rõ ràng giữa thành thị và nông thôn; tuy nhiên cách phân biệt dân số này không thể bao hàm mọi sự cách biệt liên quan tới sức khỏe về xã hội, văn hóa, kinh tế và thể chất giữa các khu vực địa lý.
CẢNH BÁO, THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP
14
Một số nghiên cứu sử dụng tỷ lệ đô thị hóa, tỷ lệ phần trăm đô thị hoặc chỉ số tích tụ để tìm kiếm mối quan hệ với các số liệu về bệnh nhưng không có nghiên cứu nào nắm bắt được sự phức tạp của các thành phố và cư dân đô thị. Ví dụ, nghèo đói là một trong các tác nhân chính ảnh hưởng đến sức khỏe và trong khi nghèo đói thường liên quan đến khu vực nông thôn, tại khu vực thành thị vẫn có nghèo đói xảy ra. Thật vậy, bất bình đẳng thu nhập thường xảy ra trong các thành phố, một yếu tố gây nhiễu có thể ảnh hưởng tới kết quả khi phân tích toàn bộ cư dân. Mặc dù việc bóc tách mối quan hệ giữa sự thay đổi về tỉ lệ nghèo đói/ thay đổi về kinh tế và đô thị hóa có thể khó thực hiện, chúng ta vẫn phải nỗ lực để thực hiện điều này trên góc độ sức khỏe.
TOÀN CẦU
Điều quan trọng không kém là phải thừa nhận sự không đồng nhất giữa các đô thị với nhau. Đầu tiên, cư dân đô thị ở các quốc gia phát triển so với đang phát triển phải đối mặt với những vấn đề sức khỏe rất khác nhau; bất kỳ nghiên cứu y tế đô thị nào cũng nên phân tích riêng các danh mục này dưới dạng các phân tách dữ liệu không gian cơ bản nhất (Pou et al., 2017). Hơn nữa, không có hai thành phố nào hoàn toàn giống nhau. Một nghiên cứu quốc tế về môi trường nhân tạo được đo lường khách quan cho thấy sự khác biệt gấp 38 lần về mật độ dân cư trung bình và chênh lệch 18 lần về mật độ công viên trung bình trên 15 thành phố ở 11 quốc gia (Adamset al., 2014). Chính vì sự không đồng nhất này mà chúng tôi đã tập trung vào các cơ chế môi trường làm cơ sở cho các mối liên hệ đến sức khỏe và xem xét các đặc điểm đó có thể thay đổi thế nào trong tương lai. Cuối cùng, chúng tôi đã nhìn ra được một khoảng trống lớn trong nghiên cứu này: chúng tôi không tìm thấy nghiên cứu định lượng hoặc khảo sát cụ thể nào chứng minh liên quan của đô thị tới bệnh tật. Chúng tôi đưa ra những vẫn đề này và đề xuất các giải pháp để lấp đầy lỗ hổng nghiên cứu này trong Bảng 3. Chúng tôi cũng nêu ra các ví dụ về các nghiên cứu đã giải quyết thành công mỗi vấn đề làm bằng chứng cho thấy những rào cản này có thể vượt qua.
15
GOING NET
Bảng 3: Những thách thức hiện tại để xác định bệnh liên quan đến đô thị và cơ sở của bệnh, với các giải pháp và ví dụ được đề xuất Thách thức trong việc xác định các bệnh và tác nhân liên quan đến đô thị Sự không đồng nhất trong mức độ phơi nhiễm của cư dân trong một thành phố
Sự không đồng nhất giữa các thành phố và các quốc gia trong trải nghiệm và lối sống của người dân, hiểu biết về bệnh cũng như các nỗ lực phát hiện Thiếu dữ liệu về sức khỏe, xã hội và môi trường ở các quốc gia đang phát triển và các khu vực nghèo khó của các thành phố
Thiếu các nghiên cứu theo chiều dọc để xác định xu hướng di chuyển của bệnh
Xác định cơ chế tiềm ẩn của các tổ hợp bệnh
16
Giải pháp Nghiên cứu khu vực nội đô, trong đó bao gồm thu thập dữ liệu sức khỏe cá nhân cũng như thông tin về các yếu tố môi trường sống, hành vi, kinh tế và tâm lý xã hội.
Xây dựng mối hợp tác với lãnh đạo cộng đồng và các cơ sở y tế sở tại để hiểu rõ hơn tình trạng sức khỏe và xã hội ở đó. Dùng ảnh vệ tinh và công cụ khác (ví dụ Google Earth), machine learning và thuật toán nhận dạng đối tượng để tạo dữ liệu không gian tỉ lệ nhỏ ở các vị trí không thể tiếp cận đến.
Tạo các nghiên cứu theo chiều dọc. Thu thập dữ liệu từ các bệnh viện và các nghiên cứu được công bố trên thế giới để xác định xu hướng và thay đổi địa lý và kinh tế trong các xu hướng đó. Thu hút các nhà khoa học xã hội trong việc cung cấp mẫu và dữ liệu
Nghiên cứu ghép cặp dịch tễ học sử dụng mẫu động vật để thu thập các thông tin thí nghiệm.
TOÀN CẦU
TỔNG KẾT Câu hỏi về xu hướng đô thị hóa hiện nay sẽ tác động tới sức khỏe toàn cầu như thế nào là một mối quan tâm cấp bách, tuy nhiên có rất ít nỗ lực nhằn xác định xu hướng trong lĩnh vực này. Dân số đô thị toàn cầu sẽ tăng xấp xỉ gấp đôi (từ 3,3 tỷ đến 6,3 tỷ) từ năm 2007-2050 (UNDESA, 2014). Đô thị cần phát triển nhanh chóng để hỗ trợ sự gia tăng dân số và 90% sự tăng trưởng đô thị vào năm 2050 dự kiến sẽ diễn ra ở các khu vực đang phát triển ở Châu Phi và Châu Á (UNDESA, 2014). Những người sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi môi trường đô thị không lành mạnh là những công dân nghèo nhất và dễ bị tổn thương nhất. Tuy nhiên, các thành phố có thể bảo vệ sức khỏe cho người dân bằng cách xác định UAD và các tác nhân của chúng, có tiềm năng to lớn làm giảm bất bình đẳng sức khỏe và gánh nặng y tế toàn cầu.
Bài viết này nhấn mạnh các UAD tiềm năng và một số yếu tố đô thị quan trọng, bao gồm một số yếu tố đã bị bỏ qua trong nghiên cứu trước (Prüss-üstün et al., 2003). Ô nhiễm không khí là một yếu tố rủi ro môi trường quan trọng và phổ biến ở khu vực thành thị. Tuy nhiên, vai trò của việc giảm tiếp xúc với đa dạng vi sinh vật, vitamin D và ánh sáng nhân tạo lúc đêm, và các yếu tố khác trong việc tác động tiêu cực đến sức khỏe cần phải được nghiên cứu thêm. Chúng tôi đề xuất nghiên cứu thêm về các cơ chế tạo ra sự chênh lệch về sức khỏe giữa nông thôn và thành thị, đặc biệt đối với các UAD tiềm năng và các yếu tố môi trường đô thị được xác định ở đây và đã đề xuất các cách thức để làm cho các nghiên cứu này
trở nên hiệu quả nhất (Bảng 3).
17
COVER STORY
LỊCH SỬ
CỦA
VIRUS VIRUS ZIKA ZIKA
Sự lây lan gia tăng của vi-rút Zika đi kèm với sự gia tăng số ca mắc tật đầu nhỏ và hội chứng Guillain-Barré. Phát hiện lần đầu tiên ở Uganda vào năm 1947 trên các cá thể khỉ, Zika sau đó được tìm thấy ở người vào năm 1952. Đợt bùng phát lớn đầu tiên do lây nhiễm Zika được ghi nhận tại Đảo Yap vào năm 2007. Hiện tại vẫn đang có một số quốc gia phải hứng chịu sự bùng phát vi-rút Zika.
18
TIÊU ĐIỂM NGUỒN GỐC VÀ SỰ LÂY LAN CỦA MỘT VIRUS BẮT NGUỒN TỪ MUỖI 1947: Các nhà khoa học �ến hành các giám sát định kỳ đối với bệnh sốt vàng trong rừng Zika ở Uganda đã phân lập được vi-rút Zika trong các mẫu vật từ một con khỉ nâu xám được nuôi nhốt.
1969-1983: Sự phân bố địa lý của Zika mở rộng đến vùng xích đạo châu Á, bao gồm Ấn Độ, Indonesia, Malaysia và Pakistan, những nơi phát hiện ra vi-rút Zika trên muỗi. Giống như ở châu Phi, tại các khu vực này đã xảy ra các trường hợp nhiễm bệnh ở người nhưng mật độ còn lẻ tẻ, không phát hiện bùng phát và việc nhiễm bệnh ở người tiếp tục được coi là hiếm gặp, với các triệu chứng nhẹ.
2007: Zika lây lan từ Châu Phi và Châu Á và gây ra đợt bùng phát lớn đầu tiên ở người trên đảo Yap thuộc Thái Bình Dương, thuộc Liên bang Micronesia. Trước sự kiện này, không có bất kì đợt bùng phát nào và chỉ có 14 trường hợp mắc bệnh ở người do vi-rút Zika được
1948: Vi-rút được tái tạo lại từ loài muỗi Aedes africanus, xuất hiện tại các nền cây trong rừng Zika. 1952: Các trường hợp nhiễm bệnh đầu tiên ở người được phát hiện ở Uganda và Cộng hòa Tanzania trong một nghiên cứu nhằm chứng minh sự hiện diện của các kháng thể trung hòa với vi-rút Zika nằm trong huyết thanh.
2013-2014: Vi-rút gây ra bùng phát ở bốn địa điểm khác nhau thuộc Thái Bình Dương: Polynesia thuộc Pháp, Đảo Phục Sinh, Quần đảo Cook và New Caledonia. Vụ bùng phát ở Polynesia thuộc Pháp, sự kiện đã dấy lên mối nghi ngờ về hàng ngàn ca nhiễm bệnh, được điều tra chặt chẽ. Kết quả điều tra được báo cáo cho WHO vào ngày 24 tháng 11 năm 2015 và ngày 27 tháng 1 năm 2016.
19
COVER STORY
Ngày 2 tháng 3 năm 2015: Brazil thông báo cho WHO về các báo cáo liên quan đến một căn bệnh đặc trưng bởi việc nổi phát ban trên da ở các tỉnh vùng đông bắc.
Từ tháng 2 năm 2015 đến 29 tháng 4 năm 2015: Gần 7000 trường hợp bị bệnh phát ban đã được báo cáo ở các địa phương này. Tất cả các trường hợp bệnh đều nhẹ, không có trường hợp tử vong nào được báo cáo. Zika không không dấy lên mối nghi ngờ nào ở giai đoạn này và không có xét nghiệm nào đối với Zika được thực hiện.
Ngày 1 tháng 2 năm 2016: WHO tuyên bố rằng mối liên quan gần đây của Zika với tật đầu nhỏ và các rối loạn thần kinh khác đã cấu thành một tình trạng khẩn cấp về Y tế công cộng trên phạm vi quốc tế.
20
TIÊU ĐIỂM
BỆNH SỐT ZIKA LÂY TRUYỀN TỪ
THÁI LAN SANG NHẬT BẢN VÀ ĐƯỢC CHẨN ĐOÁN BẰNG PCR TRONG NƯỚC TIỂU
Vào tháng 7 năm 2014, một du khách Nhật Bản trở về từ Thái Lan đã bị điều tra vì có các triệu chứng sốt, đau đầu, phát ban và viêm kết mạc. RNA của vi-rút Zika được phát hiện trong mẫu nước tiểu của du khách này bằng cách xét nghiệm sinh học phân tử (real-time RT-PCR). Các xét nghiệm huyết thanh cho thấy có phản ứng chéo của IgM kháng lại vi-rút sốt xuất huyết. Sốt Zika có thể bị chẩn đoán sai hoặc bị bỏ sót, và cần được xem xét ở những bệnh nhân có biểu hiện sốt cao và xuất hiện phát ban, đặc biệt là những người trở về từ Thái Lan. Bài nghiên cứu của Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh, Trung tâm quốc gia Y tế và Sức khỏe Toàn cầu, Tokyo, Nhật Bản và Khoa vi-rút học, Viện các bệnh truyền nhiễm quốc gia, Shinjuku-ku, Tokyo, Nhật Bản.
21
COVER STORY MÔ TẢ TRƯỜNG HỢP BỆNH Một người đàn ông ở độ tuổi 40 trước đó vẫn đang khỏe mạnh, đã trình báo với Trung tâm quốc gia Y tế và Sức khỏe Toàn cầu, tại Tokyo, Nhật Bản, vào ngày 4/8 với tiền sử 3 ngày bị sốt, đau đầu và phát ban sau khi trở về từ Thái Lan. Bệnh nhân này đi thưởng ngoạn ở Koh Samui, một hòn đảo ở Thái Lan, từ ngày 25 đến 31/7 năm 2014. Bệnh nhân không sử dụng thuốc chống côn trùng trong thời gian này. Triệu chứng sốt (tự khai báo) kèm theo đau đầu xuất hiện vào ngày 2/8, sau đó là ban sần lan khắp người và tứ chi. sốt
ZIKV
đau khớp viêm kết mạc
đau đầu
Sốt Zika là một căn bệnh do muỗi gây ra với căn nguyên là vi-rút Zika (ZIKV). Diễn biến lâm sàng của sốt Zika tương tự như sốt xuất huyết, với những biểu hiện như sốt, đau khớp, đau cơ, đau đầu và phát ban.
22
phát ban
Diễn biến lâm sàng tương tự như sốt xuất huyết
Phản ứng chéo với các kháng thể chống lại các �lavi vi-rút khác có thể dẫn đến chẩn đoán sai và việc phát hiện ZIKV trong máu hoặc nước tiểu bằng các xét nghiệm sinh học phân tử (PCR) rất đặc hiệu.
TIÊU ĐIỂM Ở lần trình báo đầu tiên, thân nhiệt của bệnh nhân là 37,2oC; khám thực tế cho thấy viêm kết mạc hai bên không mưng mủ, ban sần trên mặt, thân (Hình 1), và tứ chi, bao gồm cả lòng bàn tay và lòng bàn chân (Hình 2). Các thăm khám khác có kết quả bình thường. Các xét nghiệm cho thấy:
Mức protein phản ứng C tăng nhẹ 1,12mg/dl (giá trị tham chiếu <0,3 mg/dl) Số lượng bạch cầu bình thường là 4940/ll
Số lượng tiểu cầu bình thường là 184000/ll
Xét nghiệm chẩn đoán nhanh về vi rút sốt xuất huyết (DENV, Dengue Duo NS1 Ag þ Ab Combo; SD BIOLINE, Tiêu chuẩn chẩn đoán Inc., Hàn Quốc) có kết quả âm tính với kháng nguyên NS-1 và kháng thể IgM, IgG(abs) với DENV.
Chúng tôi nghi ngờ sốt Zika lâm sàng và đã gửi mẫu xét nghiệm máu của bệnh nhân đến Viện các bệnh truyền nhiễm quốc gia (NIID) tại Nhật Bản. Ở lần khám thứ hai, 3 ngày sau lần trình báo đầu tiên, triệu chứng sốt và đau đầu của bệnh nhân đã thuyên giảm nhưng phát ban và viêm kết mạc vẫn còn. Ở lần thăm khám thứ ba, 11 ngày sau khi trình báo, tất cả các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh nhân đã biến mất.
RNA ZIKV đã được phát hiện trong mẫu nước tiểu của bệnh nhân, được thu thập 7 ngày sau khi khởi phát triệu chứng bằng các xét nghiệm sinh học phân tử theo thời gian thực được thực hiện tại NIID, trái ngược với những phát hiện không rõ ràng thông qua việc kiểm tra các mẫu huyết thanh được thực hiện ở lần trình báo đầu tiên (2 ngày sau khi khởi phát triệu chứng).
23
COVER STORY
Các mẫu huyết thanh tiếp theo được thu thập vào ngày 7 và 13/8/2014, tức ngày thứ 5 và ngày thứ 11 sau khi khởi phát triệu chứng. Các mẫu huyết thanh thứ hai và thứ ba cho thấy sự gia tăng đáng kể về chỉ số Anti-ZIKV-IgM, chỉ số Anti-DENV IgM Abs, chỉ số Anti-DENV IgG Abs và cho ra kết quả âm tính đối với kháng nguyên Protein 1 phi cấu trúc DENV. Chỉ số Anti-ZIKV IgM Abs gia tăng hơn đáng kể so với chỉ số Anti-dengue IgM Abs (bảng 1)
Xét nghiệm kháng thể hoặc kháng nguyên Anti-ZIKV-IgM Anti-DENV-IgG Anti-DENV-IgM DENV NS1
24
Bảng 1: Kết quả xét nghiệm huyết thanh và dữ liệu về vi rút học của một trường hợp nhiễm Zika nhập khẩu từ Thái Lan vào Nhật Bản.
Số ngày sau khi khởi phát triệu chứng dựa theo việc thu thập mẫu huyết thanh (ngày) 2 5 11 Âm tính (1.77) Dương tính (11.4) Dương tính (10.9) 1.06 Dương tính Dương tính (1.47) (1.86) Âm tính (0.39) Dương tính Dương tính (1.23) (1.68) Âm tính (0.33) Âm tính (0.28) Âm tính (0.28)
TIÊU ĐIỂM
Bảng 2. Tổng quan về các trường hợp nhiễm sốt Zika nhập khẩu
Tác giả
Năm báo cáo
Độ tuổi
Giới tính
Nơi cư trú
Nơi lây bệnh
Nam
Italia
2015
Trung tuần 60 45
Nữ
Đức
2015
Ngoài 30
Nam
Italia
2015
Ngoài 30
Nữ
Italia
2014
Nữ
Canada
Nam
Đức
Salvador de Bahia, Brazil Borneo, Malaysia Polynesia, Pháp Polynesia, Pháp Phuket, Thái Lan Phuket, Krabi, Ko Jum, Ko Lanta, Thái Lan Polynesia, Pháp Polynesia, Pháp Tahiti
Zammarchi và các cộng sự Tappe D và các cộng sự Zammarchi L và các cộng sự Zammarchi L và các cộng sự Fonseca K và các cộng sự Tappe D và các cộng sự
2015
2014
Chưa xác định 50s
Kutsuna S và các cộng sự Kutsuna S và các cộng sự Wæhre T và các cộng sự Kwong JC và các cộng sự Trường hợp bệnh trong báo cáo này
2014
Ngoài 20
Nam
Nhật Bản
2014
Ngoài 30
Nam
Nhật Bản
2014
31
Nữ
Na Uy
2013
52
Nữ
Úc
40s
Nam
Nhật Bản
Jakarta, Indonesia Ko Samui, Thái Lan
25
COVER STORY ZIKV lần đầu tiên được phân lập vào năm 1947 từ loài khỉ vằn sống trong rừng Zika ở Uganda. ZIKV thuộc họ Flaviviridae và chi Flavachus, trong đó cũng bao gồm cả DENV, vi rút West Nile và vi rút sốt vàng da.
Các trường hợp nhiễm sốt Zika ở người được báo cáo tại các nước châu Phi (Uganda, Tanzania, Trung Phi, Sierra Leone và Ai Cập) cũng như các nước châu Á; Thái Lan, Ấn Độ, Malaysia, Philippines, Việt Nam và Indonesia. Trong những năm gần đây, dịch sốt Zika được báo cáo là đã xuất hiện ở đảo Yap ở Micronesia và vùng Polynesia thuộc Pháp.
Tại Nhật Bản, hai trường hợp nhiễm sốt Zika bắt nguồn từ Polynesia ở Pháp đã được báo cáo vào năm 2014. Sốt Zika được chẩn đoán ở 2 du khách, trở về từ Thái Lan và lần lượt di chuyển đến Đức và Canada. Du khách người Đức đã đến thăm Phuket, Krabi, Koh Jum và Koh Lanta, và đối với vị khách đến từ Canada là Phuket và Bangkok. Cho đến nay, 9 trường hợp nhiễm sốt Zika đã được báo cáo. Nhóm nghiên cứu đã tóm tắt tất cả các trường hợp nhiễm bệnh trong Bảng 2.
Các triệu chứng thường gặp nhất của sốt Zika là sốt, phát ban, mệt mỏi, viêm khớp, đau khớp và viêm kết mạc. Các dữ liệu trong phòng thí nghiệm về sốt Zika là rất hạn chế, nhưng một số trường hợp trước đó không cho thấy dấu hiệu giảm tiểu cầu, tương tự như ở bệnh nhân người Nhật nói trên (bệnh nhân này không có biểu hiện giảm bạch cầu). Các diễn biến lâm sàng của sốt Zika đều nhẹ và giới hạn, tuy nhiên đã ghi nhận có một trường hợp bệnh nhân xuất hiện hội chứng Guillain- Barre sau khi bị nhiễm cấp tính. Chẩn đoán được thực hiện bằng huyết thanh học, bằng việc phát hiện ra IgM hoặc trung hòa Abs chống lại ZIKV hay bằng cách phát hiện RNA ZIKV bằng PCR. Phản ứng chéo với IgM để chống lại các �lavi vi rút khác, chẳng hạn như vi rút sốt xuất huyết hoặc sốt vàng da đã được báo cáo trước đây, như đã thấy trong trường hợp bệnh nhân người Nhật.
26
TIÊU ĐIỂM
Trong trường hợp này, ZIKV được phát hiện bằng việc kiểm tra nước tiểu thông qua các xét nghiệm sinh học phân tử theo thời gian thực và không qua kiểm tra huyết thanh. Hiện tượng này cũng đã được bắt gặp ở một trong những trường hợp được ghi nhận trước đây. Gourinat và các cộng sự gần đây đã báo cáo về sự hữu ích của các mẫu nước tiểu trong việc phát hiện ZIKV. Theo Gourinat và cộng sự, các mẫu nước tiểu thậm chí sẽ cho ra kết quả dương tính hơn 10 ngày sau khi phát bệnh. Từ những phát hiện này, chúng ta biết được rằng ZIKV tồn tại trong nước tiểu lâu hơn trong máu, do vậy các mẫu nước tiểu sẽ hiệu quả hơn các mẫu huyết thanh để phát hiện ra ZIKV trong giai đoạn phục hồi.
KẾT LUẬN
Theo hiểu biết của chúng tôi, đây là báo cáo đầu tiên về trường hợp sốt Zika bị nhiễm bệnh ở Koh Samui, Thái Lan. Bệnh nhân đã được chẩn đoán bằng cách phát hiện ZIKV trong mẫu nước tiểu bằng PCR. Các đặc điểm lâm sàng tương tự và khả năng phản ứng chéo hạn chế của IgM nhằm chống lại các loại �lavi vi-rút khác, đặc biệt là DENV, có thể dẫn đến chẩn đoán sai. Khách du lịch có thể bị nhiễm ZIKV trong các chuyến đi ngắn ngày; trước đó, một du khách Úc đã được ghi nhận mắc sốt Zika sau khi trở về từ chuyến đi ngắn ngày đến Indonesia. Dựa trên các phát hiện này, các bác sĩ nên cân nhắc nguy cơ mắc sốt Zika khi thăm khám các bệnh nhân trở về từ Đông Nam Á với các triệu chứng giống như sốt xuất huyết và kết quả xét nghiệm huyết thanh bất thường, đặc biệt là kết quả âm tính đối với kháng nguyên Protein 1 phi cấu trúc trên các xét nghiệm sinh học phân tử theo thời gian thực. Xung đột lợi ích: Không có.
27
SAFETY TIPS
TĂNG MẬT ĐỘ ĐÔ THỊ CÓ THỂ TỐT CHO MÔI TRƯỜNG VÌ TÀI NGUYÊN ĐƯỢC CHIA SẺ DỄ DÀNG HƠN. NHƯNG MẦM BỆNH CŨNG VẬY. PHẢI LÀM SAO?
Các nhà quy hoạch và các nhà khoa học xã hội đã lập luận trong nhiều thập kỷ rằng mật độ dân số cao dẫn đến việc sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn, giảm tác động đến môi trường và nhìn chung là một hình thức phát triển bền vững hơn. Nhưng sự tập trung dân cư cũng có nghĩa là nguy cơ tiếp xúc với mầm bệnh và nguy cơ lây lan các bệnh truyền nhiễm sẽ cao hơn.
28
LỜI KHUYÊN AN TOÀN
“ Khoảng 4 tỷ người - 55% dân số toàn cầu - hiện đang sống ở các khu vực được coi là thành thị; Liên Hợp Quốc dự báo con số này sẽ tăng lên hơn 6 tỷ vào năm 2050. Phần lớn sự tăng trưởng này đang diễn ra ở các quốc gia như Ấn Độ, Trung Quốc và Nigeria, nơi cư dân nông thôn đang đổ xô đến các thành phố, đồng thời khu vực thành thị cũng chứng kiến sự gia tăng dân số nhanh chóng trong nội đô.
Quá trình đô thị hóa này được nhiều người ca ngợi là một sự phát triển tích cực.
”
CHẬT CHỘI VÀ KẾT NỐI
Gần góc đường Broadwick và Lexington trong khu Soho tại London, một điểm duy nhất trên mặt đất đã ảnh hưởng đến hơn 150 năm phát triển đô thị. Đó là vị trí đặt một máy bơm nước mà vào năm 1854, bác sĩ John Snow đã xác định là nguồn lây nhiễm dẫn đến sự bùng phát dịch tả trong khu Soho khiến hơn 600 người thiệt mạng.
Snow đã tìm ra mối liên hệ giữa các ca bệnh trong khu phố và việc sử dụng nước từ máy bơm. Phát hiện vào thời kỳ đầu của khoa học dữ liệu này được coi là một cột mốc quan trọng đối với ngành y tế công cộng. Đó là ví dụ kinh điển về mối liên hệ giữa bệnh tật và mật độ dân số - một mối liên kết ngày càng trở nên quan
trọng ngày nay, khi thế giới trải qua quá trình đô thị hóa mạnh mẽ.
Và những giếng nước bị ô nhiễm không còn là mối quan tâm duy nhất của chúng ta. Chúng ta cũng phải quan tâm đến những tòa nhà mọc san sát nhau; vấn đề thi công kém kèm theo mật độ xây dựng dày đặc; các khu nhà tự phát không được kiểm tra; cơ sở hạ tầng chưa đầy đủ; và sự thuận tiện của du lịch quốc tế có thể nhanh chóng mang các căn bệnh đe dọa đến tính mạng đến mọi châu lục và đại dương.
29
SAFETY TIPS
Quá trình đô thị hóa này được nhiều người ca ngợi là một sự phát triển tích cực: Các nhà quy hoạch và các nhà khoa học xã hội đã lập luận trong nhiều thập kỷ rằng mật độ dân số cao dẫn đến việc sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn, giảm tác động đến môi trường và nhìn chung là một hình thức phát triển bền vững hơn.
Nhưng sự tập trung dân cư cũng có nghĩa là nguy cơ tiếp xúc với mầm bệnh và nguy cơ lây lan các bệnh truyền nhiễm sẽ cao hơn.
Ví dụ, ở Brazil, sự bùng phát của virus Zika đang gây ra mối lo ngại lớn về sức khỏe cộng đồng trong bối cảnh Rio de Janeiro chuẩn bị tổ chức Thế vận hội vào tháng 8. Lây truyền từ muỗi sang người và giữa người với người qua chất dịch cơ thể, virus Zika đã được chứng minh là một vấn đề đô thị nguy hiểm, trong đó, mật độ dân số dày đặc chính là phương tiện lây lan Zika.
Và không chỉ những thành phố lớn mới dễ bị tổn thương. Sự bùng phát virus Ebola ở Tây Phi năm 2014 cho thấy, yếu tố quan trọng với bệnh truyền nhiễm là sự sẵn có của các phương thức đ i l ạ i , dù chỉ là từ làng này sang làng khác.
“Trước đây, khi xuất hiện ở một ngôi làng biệt lập, Ebola không lan rộng. Nhưng bây giờ những khu vực này rất rộng lớn và liên kết với nhau,” Emily Blodget, chuyên gia về bệnh truyền nhiễm tại Đại học Nam California, cho biết. “Do sự đô thị hóa ở những khu vực này, các đợt dịch bệnh lây lan trên diện rộng bắt đầu xuất hiện và số người bị ảnh hưởng cũng vì thế mà lớn hơn nhiều.”
30
Blodget cho rằng những rủi ro của quá trình đô thị hóa có liên quan mật thiết đến toàn cầu hóa, khiến một người không biết mình mang mầm bệnh Zika, Ebola hay các bệnh dịch có thể dễ dàng di chuyển bằng đường hàng không, đường bộ đến một thành phố đông đúc. Theo Blodget, sự bùng phát SARS ở Hồng Kông vào đầu những năm 2000 không chỉ do mật độ dân số mà còn do tỷ lệ người dân đi vào và ra khỏi thành phố gây nên.
“
Những rủi ro của đô thị hóa có liên quan chặt chẽ với. toàn cầu hóa
”
Kiểm soát sự lây lan của dịch bệnh thông qua du lịch toàn cầu nên là ưu tiên hàng đầu, theo một bài báo trên Tạp chí Địa điểm của Thomas Fisher,trưởng khoa Thiết kế của Đại học Min nesota. Fisher lập luận rằng các sân bay cần tiến hành phát hiện và phòng ngừa dịch bệnh – giống như tường lửa mà máy tính sử dụng để ngăn chặn virus. Một số sân bay đã tiến hành kiểm tra nhiệt độ cơ thể tại cổng của máy bay đến, với hy vọng phát hiện người có triệu chứng trước khi họ có thể vào di chuyển vào thành phố, nhằm mục đích kiểm tra và điều trị bệnh truyền nhiễm khi cần thiết. Tuy nhiên, những can thiệp này vẫn còn hạn chế.
LỜI KHUYÊN AN TOÀN CƠ SỞ HẠ TẦNG CƠ BẢN Một vấn đề nhức nhối hơn sự lây lan dịch bệnh thông qua du lịch ở các thành phố là tình trạng thiếu vệ sinh. Các khu dân sinh tự phát và khu ổ chuột ở các thành phố như Mumbai, Sao Paulo và Lagos thường thiếu hệ thống vệ sinh hoặc nước thải chính thức, và sự ô nhiễm nước uống gây ra sự lây lan các bệnh đường tiêu hóa từ salmonella, shigella và thậm chí cả vi khuẩn gây bệnh tả mối nguy hiểm cho sức khỏe cộng đồng được John Snow xác định vào thế kỷ 19 ở London.
Từ năm 1990 đến 2012, số lượng cư dân thành thị không được tiếp cận với các công trình vệ sinh như hệ thống nước thải và nước sạch đã tăng từ 541 triệu lên 756 triệu, theo báo cáo năm 2014 của Tổ chức Y tế Thế giới và UNICEF. Tình trạng này liên quan chủ yếu đến tình trạng sự gia tăng dân số vượt xa khả năng cung cấp cơ sở hạ tầng cơ bản.
Các khu vực đô thị đông đúc, thiếu hệ thống vệ sinh hiện đại và nguồn nước uống hợp vệ sinh đều tiềm ẩn nguy cơ dịch bệnh đe dọa tính mạng. Hình ảnh về nhà ở tại Lagos, Nigeria, bởi Hands at Work (Flickr / Creative Commons)
31
SAFETY TIPS Giảm nghèo toàn cầu là yếu tố then chốt. Fisher
“Sự đa dạng về chủng loại của dịch bệnh và phương thức lây truyền đồng nghĩa với việc ngay cả những thành phố được chuẩn bị tốt nhất với cơ sở hạ tầng tốt nhất vẫn có thể chứng kiến dịch bệnh bùng phát”. Fisher trích dẫn một báo cáo từ Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ ước tính tác hại kinh tế của một đại dịch có thể từ 71 tỷ đô la đến 166 tỷ đô la Mỹ. Những con số này vượt xa con số ước tính 16 tỷ USD mà Ngân hàng Thế giới đã cho vay trong ba thập kỷ qua để cải thiện các cơ sở tạm trú. Fisher lập luận rằng cần có thêm viện trợ đến những nơi nghèo khó để cải thiện điều kiện hiện nay và tránh những chi phí lớn có thể phát sinh nếu một đại dịch bùng phát. Cải thiện khả năng tiếp cận vệ sinh và nâng cấp cơ sở hạ tầng là cách đơn giản để giảm rủi ro sức khỏe. Tuy nhiên, việc xây dựng các hệ thống này ở các khu dân cư tự phát và không nằm trong quy hoạch hoặc kiểm soát của chính phủ đặt ra nhiều thách thức rõ ràng.
32
Các nhóm như Hiệp hội quảng bá các trung tâm tài nguyên khu vực đã đạt được tiến bộ tại các khu ổ chuột trong các thành phố ở Ấn Độ bằng cách xây dựng nhà vệ sinh do cộng đồng điều hành. Nhưng các công trình công cộng như thế này rất tốn kém và không thể ngăn chặn mọi dịch bệnh lây lan.
“Không phải mọi bệnh đều liên quan đến việc thiếu tiếp cận hệ thống vệ sinh”, Adriana Pacheco-Coral, chuyên gia về bệnh truyền nhiễm tại Đại học College London, cho biết. Theo chuyên gia này, với những dịch bệnh như Zika, “dịch bệnh có thể bắt nguồn ở một số khu vực nhất định với cộng đồng dân cư dễ bị tổn thương ở những thành phố rất phát triển và từ đó lan rộng ra”. Từ một khu vực của của thành phố đến một khu vực khác, nguy cơ mắc bệnh có thể rất khác nhau.
LỜI KHUYÊN AN TOÀN Dự án “Health from the Ground Up” của ARCHIVE Global nhằm mục đích giảm số lượng ký sinh trùng và các sinh vật gây bệnh khác ở Bangladesh bằng cách thay thế sàn đất bằng bê tông. Hình ảnh thuộc bản quyền của ARCHIVE Global.
“Điều này không thể thay thế thực hành vệ sinh tốt và lắp đặt hệ thống nước thải phù hợp, nhưng có ích và tương đối đơn giản”, Blodget viết.
PHÁT TRIỂN VÀ THIẾT KẾ Sự đa dạng về chủng loại của dịch bệnh và phương thức lây truyền đồng nghĩa với việc ngay cả những thành phố được chuẩn bị tốt nhất với cơ sở hạ tầng sạch sẽ nhất vẫn có thể chứng kiến dịch bệnh bùng phát. Blodget cho rằng các thành phố cần phát triển các hệ thống giám sát và ứng phó sức khỏe cộng đồng mạnh mẽ nếu muốn phục hồi trong tình huống dịch bệnh xảy ra. Điều này có thể là dựa vào các chuyên gia dịch tễ học để tiến hành theo dõi các đợt bùng phát bệnh hay sử dụng một chiến dịch truyền thông đơn giản để cảnh báo về các nguồn nước không an toàn.
Nhiều tổ chức và cá nhân khác đang tư duy về những vấn đề này từ cấp độ còn cơ bản hơn. Tổ chức phi lợi nhuận ARCHIVE Global đang sử dụng thiết kế kiến trúc để ngăn chặn sự lây lan của các bệnh truyền nhiễm. Nhận thấy rằng nhiều bệnh lây lan do điều kiện chật chội và thông gió kém, ARCHIVE Global đã làm việc với các khu vực dân nhập cư ở London, nơi có tỷ lệ mắc bệnh lao lây truyền qua không khí cao, để xác định các lỗ hổng thiết kế trong nhà và trường học có khả năng góp phần vào sự lây lan dịch lao. Một dự án khác ở Dhaka, Bangladesh, tập trung vào cải thiện sàn nhà bằng đất tại những túp lều, được phát hiện đóng vai trò quan trọng trong việc lây lan vi khuẩn và mầm bệnh, đặc biệt là ở trẻ nhỏ. Bằng cách thay thế sàn đất bằng sàn bê tông dễ lau chùi hơn, tổ chức này đang làm giảm nguy cơ lây nhiễm các bệnh dễ phòng tránh này.
33
SAFETY TIPS
Tuy nhiên, các chuyên gia đồng ý rằng mặc dù nguy cơ bùng phát dịch bệnh có thể gia tăng trong môi trường đô thị, các thành phố không nhất thiết phải là nơi sinh sản của mầm bệnh. Bằng cách khuyến khích phát triển cơ sở hạ tầng phù hợp, tạo điều kiện phát triển cơ sở hạ tầng và cơ chế phòng chống bệnh thay thế ở những khu dân cư tự phát và dễ bị tổn thương, và xây dựng một hệ thống y tế công cộng để theo dõi và ứng phó với dịch bệnh, các thành phố sẽ được chuẩn bị tốt hơn để ngăn ngừa bệnh tật gây ra cho cư dân và khả năng ứng phó khi dịch bệnh xảy ra.
Không có một giải pháp duy nhất nào để ngăn ngừa các bệnh truyền nhiễm có thể xuất hiện với nhiều hình thức khác nhau ở khu vực đô thị.
34
QUẢN LÝ RỦI RO
Hướng dẫn tạm thời này dành cho nhân viên của các phòng xét nghiệm làm xét nghiệm nhiễm virus Zika, những người làm lâm sàng và các chuyên gia y tế công cộng trong lĩnh vực quản lý hoặc giám sát lâm sàng.
XÉT NGHIỆM NHIỄM VIRUS ZIKA
35
RISK MANAGEMENT BỐI CẢNH Gần đây, sự gia tăng các trường hợp mắc dị tật đầu nhỏ và các rối loạn thần kinh khác có khả năng liên quan đến nhiễm virus Zika đã thúc đẩy nhu cầu xét nghiệm để phát hiện nhiễm Zika. Các nhóm được ưu tiên để xét nghiệm chẩn đoán là những người có triệu chứng và phụ nữ mang thai không có triệu chứng, có khả năng đã tiếp xúc với virus Zika. Tài liệu này cung cấp hướng dẫn về các chiến lược xét nghiệm hiện tại đối với nhiễm virus Zika. Tài liệu này sẽ được xem xét lại và cập nhật khi có thêm thông tin.
MẪU XÉT NGHIỆM
Virus Zika đã được phát hiện trong máu toàn phần (cả huyết thanh và huyết tương), nước tiểu, dịch não tủy, nước ối, tinh dịch và nước bọt.
Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy virus Zika tồn tại trong nước tiểu và tinh dịch trong thời gian dài hơn so với trong máu hoặc nước bọt. Mặc dù dữ liệu về thời gian tồn tại của virus trong nước bọt, dịch não tủy, tinh dịch và các sản phẩm thụ thai vẫn đang được thu thập, vì mục đích của tài liệu này, việc thu thập máu toàn phần/ huyết thanh và/hoặc nước tiểu nên được tiến hành trên bệnh nhân tham gia xét nghiệm.
01
02
03
Tuy nhiên, WHO khuyến khích thu thập các loại mẫu khác phục vụ xét nghiệm xác chẩn hoặc khi điều tra mối liên quan giữa nhiễm virus Zika và các trường hợp biến chứng thần kinh, dị tật đầu nhỏ và khả năng lây truyền qua đường tình dục.
36
QUẢN LÝ RỦI RO
Mẫu xét nghiệm axit nucleic (NAT): Máu toàn phần, huyết thanh và/hoặc nước tiểu được thu thập trong mỗi ống nghiệm, được lấy từ các bệnh nhân xuất hiện triệu chứng ≤ 7 ngày Huyết thanh học (phát hiện IgM): Máu toàn phần và huyết thanh được thu thập trong ống nghiệm, được lấy từ các bệnh nhân xuất hiện triệu chứng ≥ 7 ngày. Bất cứ nơi nào có thể, các mẫu huyết thanh ghép đôi nên được thu thập cách nhau ít nhất 2-3 tuần, lý tưởng nhất là với mẫu huyết thanh đầu tiên được thu thập trong 5 ngày đầu tiên của bệnh. Với mỗi mẫu được thu thập, ngoài thông tin bệnh nhân (tên đầy đủ, ngày sinh, địa chỉ, thời gian và ngày thu thập, v.v.), cũng cần thu thập các thông tin sau: Các triệu chứng, ngày khởi phát, thời gian phát bệnh của các triệu chứng, tiếp xúc với các trường hợp virus Zika đã biết (và loại tiếp xúc, ví dụ như cho con bú, qua bạn tình)
Lịch sử di chuyển (ngày, địa điểm, thời gian mỗi lần di chuyển)
Lịch sử tiêm chủng: đặc biệt liên quan đến việc tiêm vắc-xin �lavivirus bao gồm virus sốt vàng da, virus viêm não Nhật Bản và, nếu có thể, virus sốt xuất huyết.
37
RISK MANAGEMENT
Trong một đợt bùng phát, đặc biệt là ở các khu vực rộng, việc xét nghiệm mọi trường hợp nghi ngờ sẽ không hiệu quả về mặt chi phí. Các nhóm sau nên được ưu tiên để thu thập và xét nghiệm mẫu: ▼ bệnh nhân có quan hệ tình dục với một trường hợp đã được xác nhận hoặc có thể nhiễm bệnh;
▼ bệnh nhân có tiếp xúc với một người nghi ngờ mắc bệnh rối loạn thần kinh;
▼ phụ nữ mang thai có tiền sử di chuyển đến các khu vực có lây truyền virus Zika và/hoặc quan hệ tình dục với một trường hợp đã được xác nhận hoặc có thể nhiễm bệnh; ▼ phụ nữ mang thai từ các khu vực đang bị lây truyền virus Zika mà thai nhi đang nghi ngờ hoặc có dị tật não;
▼ trẻ sơ sinh mắc dị tật đầu nhỏ hoặc thần kinh được sinh ra ở những khu vực đang lây nhiễm virus Zika hoặc sinh ra từ người mẹ có lịch sử di chuyển đến khu vực bị ảnh hưởng của Zika trong thời kỳ mang thai;
▼ trẻ sơ sinh có mẹ được chẩn đoán nhiễm virus Zika, đặc biệt nếu trong thời kỳ cho con bú
▼ thai chết lưu hoặc sảy thai tự nhiên ở phụ nữ đã từng sống hoặc đi đến vùng bị ảnh hưởng của Zika trong thời gian mang thai.
38
QUẢN LÝ RỦI RO CHIẾN LƯỢC XÉT NGHIỆM Chiến lược xét nghiệm áp dụng cho các phòng xét nghiệm nên được xác định bởi các nguồn lực và quy trình làm việc có sẵn trong mỗi phòng xét nghiệm. Các phương pháp xét nghiệm sử dụng các chiến lược này sẽ khác nhau tùy thuộc vào mức độ phổ biến của virus được lưu hành trong khu vực nơi bệnh nhân bị phơi nhiễm. WHO khuyến nghị các chiến lược sau: ▼ NAT ở bệnh nhân xuất hiện triệu chứng <7 ngày.
▼ Huyết thanh học và/hoặc NAT ở những bệnh nhân xuất hiện triệu chứng ≥ 7 ngày.
Huyết thanh học là phương pháp được ưa dùng trong lấy bệnh phẩm từ bệnh nhân khởi phát triệu chứng > 7 ngày. Khi sử dụng NAT, các kết quả âm tính nên được diễn giải một cách thận trọng. Không loại trừ nhiễm trùng vì virus trong máu giảm nhanh 7 ngày sau khi xuất hiện triệu chứng và có thể không được phát hiện bằng xét nghiệm có mức độ đặc hiệu thấp hơn.
39
RISK MANAGEMENT
Phương cách xét nghiệm được đề xuất cho các trường hợp nghi ngờ nhiễm arbovirus được xác định trong vòng 7 ngày kể từ khi xuất hiện triệu chứng
Sự hiện diện của virus Zika có thể được xác nhận bằng cách sử dụng NAT như RT-PCR để phát hiện các mục tiêu trên bộ gen của virus dành riêng cho virus Zika. Các phòng xét nghiệm sử dụng xét nghiệm pan-�lavivirus kết hợp với giải trình tự gen hoặc các phương pháp phân tử thông thường khác như xét nghiệm ghép kênh để phát hiện �lavivirus, được yêu cầu đảm bảo trình tự mồi trong phòng xét nghiệm đã được cập nhật để phát hiện các dòng virus Zika gần đây. Bộ mồi và bộ thăm dò cho các xét nghiệm đặc hiệu với virus Zika đều đã được công bố. Virus Zika nên được xét nghiệm cùng với sốt xuất huyết và sốt chikungunya theo tuần tự hoặc song song, do việc đồng nhiễm giữa virus Zika và các arbovirus khác đã được ghi nhận và có thể cân nhắc tới dịch dich Flavivirus đang xảy ra.
CÁC PHƯƠNG CÁCH KIỂM TRA Thu thập máu và nước tiểu (Máu là mẫu đầu tiên của một cặp mẫu huyết thanh) RT-PCR cho xét nghiệm DENV, CHIK, ZIKV tuần tự hoặc song song Kết quả cho phản ứng ghép kênh ZIKV dương �nh, DENV âm �nh, CHIK âm �nh ZIKV âm �nh, DENV dương �nh, CHIK âm �nh ZIKV âm �nh, DENV âm �nh, CHIK dương �nh ZIKV dương �nh và/hoặc DENV dương �nh hoặc CHIK dương �nh
Nếu xét nghiệm tuần tự được thông qua, ưu tiên xét nghiệm trong bối cảnh dịch tễ học của phát tán �lavirus
Diễn giải Trường hợp nhiễm ZIKV được xác nhận Trường hợp nhiễm DENV được xác nhận Trường hợp nhiễm CHIK được xác nhận Đồng phát hiện và xác nhận trường hợp nhiễm ZIKV
Kết quả âm tính đối với bất kỳ xét nghiệm PCR nào không loại trừ nhiễm trùng
Bảng 1. Phương cách thử nghiệm được đề xuất cho các trường hợp nghi ngờ nhiễm arbovirus được xác định trong vòng 7 ngày kể từ khi xuất hiện triệu chứng
40
QUẢN LÝ RỦI RO Có thể thu thập máu (huyết thanh học và RT-PCR) và nước tiểu (chỉ RT-PCR) nếu hơn một tuần sau khi xuất hiện triệu chứng
(Nếu thu thập các mẫu huyết thanh ghép đôi, cho phép 2-3 tuần giữa các mẫu)
RT-PCR trên nước tiểu và máu cho virus ZIKV
PCR dương tính trường hợp mắc Zika được xác nhận
Kết quả
PCR âm tính
Trường hợp nhiễm
virus Zika không loại trừ
Các loại mẫu khác cho RT PCR: nước tiểu <30 ngày tinh dịch <60 ngày
Thử nghiệm IgM cho DENV, CHIK và ZIKV và các �lavirus khác trong đó có xảy ra sự tiếp xúc Diễn giải
ZIKV dương �nh, DENV âm �nh, Trường hợp nhiễm ZIKV có thể xảy ra CHIK âm �nh ZIKV âm �nh, DENV dương �nh, Trường hợp nhiễm DENV có thể xảy ra CHIK âm �nh ZIKV âm �nh, DENV âm �nh, CHIK Trường hợp nhiễm CHIK có thể xảy ra dương �nh ZIKV dương �nh và/hoặc DENV dương �nh hoặc CHIK dương �nh
Trường hợp đồng nhiễm có thể xảy ra với ZIKV + CHIK
ZIKV dương �nh, DENV dương �nh và / hoặc CHIK dương �nh
Nhiễm flavillin có thể xảy ra + nhiễm trùng CHIK co-
* Giải thích cuối cùng về kết quả nên được thực hiện kết hợp với trình bày lâm sàng
*Đối với các mẫu huyết thanh được ghép đôi, IgM tăng gấp 4 lần trong trường hợp không tăng hiệu giá kháng thể với các �lavirus khác là bằng chứng nữa về việc nhiễm virus Zika gần đây
Hình 2. Phương thức thử nghiệm được đề xuất cho các trường hợp nghi ngờ nhiễm arbovirus sau khi xuất hiện các triệu chứng hơn một tuần.
Xét nghiệm huyết thanh tìm virus Zika chỉ nên được thực hiện bởi các phòng xét nghiệm có kinh nghiệm trong việc thực hiện huyết thanh học �lavivirus. Các xét nghiệm huyết thanh học được khuyến nghị bao gồm xét nghiệm miễn dịch enzyme (EIA) và xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang (IFA) phát hiện kháng thể IgM bằng cách sử dụng thủy phân virus, nuôi cấy tế bào hoặc protein tái tổ hợp cũng như các xét nghiệm trung hòa như xét nghiệm trung hòa mảng bám (PRNT). Mặc dù PRNT thường mang lại độ đặc hiệu lớn nhất, các xét nghiệm huyết thanh học có thể gây ra phản ứng chéo, đặc biệt ở những bệnh nhân bị nhiễm hoặc có tiền sử tiêm chủng �lavivirus.
Phương cách xét nghiệm được đề xuất cho các trường hợp nghi nhiễm arbovirus hơn một tuần sau khi xuất hiện các triệu chứng
Chiến lược xét nghiệm cho bệnh nhân ≥ 7 ngày sau khi xuất hiện triệu chứng tập trung vào huyết thanh học IgM do có sẵn thuốc thử. Phát hiện IgM nên được thực hiện cho phụ nữ mang thai ở những khu vực lây truyền đặc hữu hoặc phụ nữ mang thai có thể đã tiếp xúc với virus Zika lây truyền qua đường tình dục. Nếu cần xét nghiệm thêm, việc sử dụng các xét nghiệm trung hòa so sánh có thể mang lại độ đặc hiệu cao hơn.
Nhìn chung, kết quả phản ứng đối với IgM của virus Zika khi không có IgM gây sốt xuất huyết hoặc các �lavivirus khác cho thấy sự phơi nhiễm gần đây với virus Zika. Đối với các phòng xét nghiệm thực hiện PRNT, việc trung hòa kháng thể tăng gấp 4 lần trong trường hợp không có sự gia tăng hiệu giá kháng thể với các �lavivirus khác là bằng chứng về việc nhiễm virus Zika gần đây. Hướng dẫn thêm về xét nghiệm huyết thanh sẽ được cung cấp khi có thêm thông tin.
41
RISK MANAGEMENT
Chẩn đoán in vitro cho virus Zika có thể được sử dụng tại hoặc gần điểm chăm sóc
Việc sử dụng chẩn đoán in vitro (IVDs) nhanh chóng và đơn giản để điều trị nhiễm virus Zika tại hoặc gần điểm chăm sóc nhận được sự quan tâm mạnh mẽ và là nhu cầu cấp thiết. Cần xem xét cẩn thận để đánh giá theo quy định về chất lượng, độ an toàn hoặc hiệu suất đối với điểm chăm sóc khi lựa chọn IVDs để sử dụng.
42
QUẢN LÝ RỦI RO XỬ LÝ VÀ LƯU TRỮ MẪU
AN TOÀN SINH HỌC
Khi sử dụng các xét nghiệm cho mục đích thương mại, mẫu phải được thu thập, vận chuyển và lưu trữ theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Trong tất cả các trường hợp khác, các mẫu thử nên được giữ lạnh ở 2-8ºC và được xét nghiệm trong vòng 48 giờ. Nếu quá 48 giờ trước khi xét nghiệm, huyết thanh nên được tách riêng và lưu trữ riêng. Tất cả các loại mẫu có thể được giữ đông lạnh ở -20°C trong tối đa 7 ngày. Để bảo quản lâu hơn 7 ngày, mẫu thử phải được đông lạnh ở -70°C. Nên tránh làm đông và tan mẫu nhiều lần. Nhiệt độ nên được theo dõi và ghi lại thường xuyên để xác định khả năng biến động. Tủ lạnh/tủ đông gia đình có chế độ làm đông lạnh không phù hợp để bảo quản mẫu đông lạnh.
Làm việc trong phòng xét nghiệm chẩn đoán, bao gồm phân tích phản ứng chuỗi polymerase (RT-PCR) và xét nghiệm huyết thanh học trên các mẫu bệnh phẩm từ những bệnh nhân nghi ngờ hoặc được xác nhận bị nhiễm virus Zika, nên được tiến hành trong điều kiện an toàn sinh học cấp 2 (BSL-2) như được mô tả trong Hướng dẫn an toàn sinh học của Phòng xét nghiệm WHO, tái bản lần 3. Bất kỳ xét nghiệm virus Zika nào cũng cần được thực hiện trong các phòng xét nghiệm được trang bị các thiết bị phù hợp và bởi các nhân viên được đào tạo về các quy trình kỹ thuật và an toàn có liên quan.
VẬN CHUYỂN MẪU BỆNH PHẨM
Các mẫu bệnh phẩm được xác định hoặc nghi ngờ có chứa virus Zika cần được bảo quản bằng đá khô trong quá trìnhvận chuyển giống như là các chất lây nhiễm loại B, UN3373. Cần tuân thủ các quy định quốc tế, như được mô tả trong Hướng dẫn của WHO về Quy định vận chuyển các chất truyền nhiễm 20152016.
43
RISK MANAGEMENT
CHỌN CHẨN ĐOÁN IN VITRO (IVDs) Phải xem xét thiết kế và hiệu suất của các sản phẩm chẩn đoán để đảm bảo rằng xét nghiệm là an toàn và hiệu quả. Cho đến nay, một số IVDs virus Zika có bán trên thị trường đã trải qua đánh giá theo quy định về chất lượng, an toàn hoặc hiệu suất.
Một số cơ sở đã phát triển các xét nghiệm nội bộ để xét nghiệm virus Zika. WHO khuyến cáo các phòng xét nghiệm muốn phát triển và thực hiện RT-PCR đặt hàng từ nhà cung cấp các bộ mồi/đầu dò đã được công bố có khả năng phát hiện tất cả các dòng virus Zika lưu hành và đảm bảo rằng xét nghiệm được xác nhận hợp lệ để sử dụng trong từng kiểu mẫu bệnh phẩm.
Tương tự đối với các xét nghiệm thương mại, các phòng xét nghiệm nên tuân theo hướng dẫn của nhà sản xuất về loại mẫu thử và nếu cần, xác nhận các xét nghiệm của họ đối với các loại mẫu thử và bao gồm các biện pháp kiểm soát quy trình (nội bộ) phù hợp cũng như kiểm soát chất lượng bên ngoài.
44
Để đáp ứng nhu cầu chất lượng IVDs đảm bảo đối với xét nghiệm virus Zika, WHO đã phát triển một quy trình đánh giá và liệt kê phương thức sử dụng (EUAL). Phương thức EUAL đánh giá xem lợi ích của việc sử dụng IVDs đối với virus Zika vượt xa các rủi ro có thể thấy trước trong bối cảnh hiện tại hay không. Danh mục của WHO cũng bắt buộc nhà sản xuất phải báo cáo các vấn đề về hiệu suất và chất lượng. Do chẩn đoán sai có thể mang lại nhiều hậu quả, WHO khuyến cáo mạnh mẽ rằng chỉ những IVDs đã trải qua đánh giá độc lập, toàn diện về chất lượng, an toàn và hiệu suất mới được sử dụng để chẩn đoán nhiễm virus Zika.
Tài liệu kiểm soát chất lượng có sẵn từ kho lưu trữ virus toàn cầu của Châu Âu (http: //global.eur Cinc-virus-archive.com/) và sẽ sớm có sẵn thông qua chương trình của WHO về các tham khảo chế phẩm sinh học quốc tế. Các văn phòng khu vực của WHO có thể hỗ trợ quá trình này.
QUẢN LÝ RỦI RO
45
PHỤ CHƯƠNG
“Xã hội” bí mật của virus Các nhà khoa học đang nghiên cứu cách thức virus “giao tiếp” và “hợp tác” với nhau. Giải mã cuộc đối thoại trong thế giới vi khuẩn có thể mang lại những lợi ích đáng kể cho sức khỏe con người. Minh họa của Karol Banach/ nature.
KHÁC VỚI NHỮNG GÌ CHÚNG TA TỪNG NGHĨ Nhà di truyền học Rotem Sorek nhận thấy những con vi khuẩn của ông đã bị nhiễm bệnh - đúng như ông kì vọng. Ông đã cố tình lây nhiễm chúng với một loại virus để kiểm tra xem liệu những con vi khuẩn ốm yếu chống chọi một mình hay tìm đồng minh. Nhưng khi ông cùng với nhóm nghiên cứu của mình tại Viện Khoa học Weizmann ở Rehovot, Israel nhìn vào các hũ thủy tinh, họ nhận thấy một điều hoàn toàn bất ngờ: những con vi khuẩn nằm im lìm, ngược lại virus cực kì náo nhiệt: chúng truyền tín hiệu cho nhau bằng một thứ ngôn ngữ phân tử chỉ chúng mới có thể hiểu. Chúng quyết định khi nào nên cùng nhau ẩn mình trong tế bào chủ, khi nào nhân rộng và bùng phát, để tìm kiếm nạn nhân mới.
46
ĐÓ LÀ MỘT KHÁM PHÁ TÌNH CỜ NHƯNG ĐÃ LÀM THAY ĐỔI CĂN BẢN NHỮNG GÌ CÁC NHÀ KHOA HỌC HIỂU VỀ CÁCH THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA VIRUS
PHỤ CHƯƠNG
Virus lây nhiễm cho vi khuẩn - những sinh vật giống như kẹo mút gai nhọn được gọi là thể thực khuẩn (bacteriophage, hoặc phage) có cơ chế giám sát khiến chúng xác định ở yên hay tấn công, tùy thuộc vào số lượng nạn nhân mới. Nhưng các nhà nghiên cứu vẫn luôn nghĩ rằng các quá trình này là thụ động; các thể thực khuẩn dường như chỉ ngồi lại và lắng nghe, chờ đợi tín hiệu của vi khuẩn đạt đến mức nguy cấp nhất trước khi hành động.
Sorek và các đồng nghiệp đã tìm thấy rằng, trái với những gì các nhà khoa học vẫn tin tưởng, các thể thực khuẩn không hề im lìm thụ động mà tích cực “thảo luận” về lựa chọn của chúng. Khi một thể thực khuẩn lây nhiễm vào tế bào, nó sẽ tiết ra một loại protein nhỏ - một peptide chỉ dài sáu axit amin - có tác dụng như một thông điệp gửi đến những người anh em của nó: tôi vừa hạ gục một nạn nhân mới. Khi các thể thực khuẩn lây nhiễm cho nhiều tế bào hơn, thông điệp trở nên lớn hơn, báo hiệu rằng các vật chủ chưa bị lây nhiễm đang trở nên khan hiếm. Các thể thực khuẩn sau đó tạm dừng quá trình ly giải - nói cách khác là sao chép và thoát ra khỏi vật chủ của chúng - thay vào đó ẩn trong trạng thái chậm chạp được gọi là lysogeny.
Các virus hóa ra không hề phụ thuộc vào tín hiệu vi khuẩn để đưa ra quyết định của chúng. Trái lại, chúng tự định đoạt số phận của mình. “Phát hiện này là một khái niệm to lớn, quan trọng và mang tính cách mạng trong virus học”, Cheng Cheng, một nhà vi trùng học cấu trúc tại Đại học Tứ Xuyên, Thành Đô, Trung Quốc, cho biết.
Sorek đặt tên cho chuỗi peptide virus này cái tên là “arbitrium”, dựa theo từ tiếng Latin có nghĩa là quyết định. Nó sử dụng một hệ thống khá giống với hệ thống thông tin liên lạc được vi khuẩn sử dụng cảm biến đại diện - để chia sẻ thông tin về mật độ tế bào và điều chỉnh lượng virus cho phù hợp. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên có người chứng minh được những con virus này có truyền tin dạng phân tử. Và nó phù hợp với một cái nhìn mới về virus - những tác nhân có tính xã hội phức tạp hơn nhiều những gì chúng ta vẫn nghĩ.
47
PHỤ CHƯƠNG
Các nhà virus học từ lâu đã nghiên cứu cách cô lập, tấn công các tế bào của từng virus một. Nhưng việc nhiều virus cùng hợp tác để lây nhiễm bệnh cho một vật chủ và phá vỡ hệ thống miễn dịch của nó đã trở nên ngày càng rõ ràng. Điều này có nghĩa là các thí nghiệm từ trước tới giờ đã đi sai hướng. "Điều này đã làm rung chuyển một trong những trụ cột của nghiên cứu virus học”, Sam Díaz-Muñoz, một nhà sinh vật học tiến hóa tại Đại học California, Davis nhận xét.
Hiểu được thứ ngôn ngữ đằng sau các tương tác virus này có thể cho phép thiết kế các phương pháp điều trị mới cho bệnh ung thư và bội nhiễm. Các khuynh hướng xã hội của virus thậm chí còn giúp giải thích cách chúng trốn tránh hệ thống miễn dịch vi khuẩn, còn được gọi là CRISPR. “Về mặt khái niệm, điều nay thực sự rất quan trọng”, Dioaz-Muñoz nói thêm.
NHÌN SÂU VÀO XÃ HỘI VIRUS
Các nhà khoa học lần đầu tiên phát hiện sự kết hợp của virus vào những năm 1940, khi các thí nghiệm riêng biệt của nhà sinh lý học Max Delbrück và nhà vi khuẩn học Alfred Hershey cho thấy hai virus có thể đồng thời xâm chiếm cùng một tế bào và hoán đổi gene. Nhưng theo Dale Kaiser, một nhà di truyền học phân tử tại Đại học Stanford ở California và cũng là người bảo trợ cho Delbrück, những quan sát ban đầu này chỉ đáng chú ý như một phương pháp thử nghiệm.
48
Cho đến tận năm 1999 mới có người nhận ra mối tương tác này của virus có ý nghĩa như thế nào. Năm đó, nhà sinh vật học tiến hóa Paul Turner, công tác tại Đại học Yale ở New Haven, Connecticut và Lin Chao, công tác tại Đại học California, San Diego, cho thấy các thể thực khuẩn đã tạo ra phiên bản "chiến lược ràng buộc lưỡng nan” (prisoner’s dilemma) của chính chúng, cùng hợp tác theo hoàn cảnh và hành động vì lợi ích của đôi bên. Nối tiếp sau đó là các thực nghiệm khác về tương tác virus, liên quan đến mầm bệnh gây ra các bệnh như viêm gan, bại liệt, sởi và cúm. Các tương tác này thường xuất hiện ở các chủng virus khác nhau, nhưng đều cùng một mục đích là để thúc đẩy cơ hội sinh sản của chúng. Nhưng cơ sở phân tử của những hợp tác đó - hay những phương thức giao tiếp phần lớn là khó nắm bắt. Và như Rafael Sanjuán, một nhà di truyền học tiến hóa tại Đại học Valencia ở Tây Ban Nha, đã chỉ ra: Tìm ra cách virus làm điều đó [tương tác] “như thế nào” là vô cùng quan trọng.
Đó là lý do tại sao phát hiện về "arbitrium" thực sự là một bước tiến lớn trong lĩnh vực này. Gần như ngay lập tức sau khi Sorek lần đầu tiên mô tả hiện tượng này, vào năm 2017, bốn nhóm độc lập bao gồm Cheng và một nhóm do nhà sinh vật học cấu trúc Alberto Marina tại Viện Y sinh học ở Tây Ban Nha - đã bắt tay vào nghiên cứu cơ sở phân tử làm như thế nào các peptide được tạo ra, nhận thấy và thúc đẩy hành động trên các thể thực khuẩn.
PHỤ CHƯƠNG Những chi tiết kỹ thuật đó đã giúp giải thích chính xác làm thế nào các peptide ngắn mà Sorek phát hiện ra có ảnh hưởng đến việc ra quyết định của virus. Tuy nhiên, đối với Marina, đây mới chỉ là điểm khởi đầu của câu chuyện: ông nghi ngờ rằng hệ thống liên lạc có thể phục vụ nhiều chức năng hơn. Sự nghi ngờ của Marina dựa trên một phát hiện trong một bài báo. Làm việc với Jose Penadés, một nhà vi trùng học tại Đại học Glasgow, Vương quốc Anh, Marina cho thấy thụ thể của arbitrium trong các thể thực khuẩn có thể giao tiếp không chỉ với các gene trong vi khuẩn giúp virus sinh sản mà còn với các đoạn DNA khác không liên quan. Điều đó có nghĩa là hoạt động của nó có thể không bị giới hạn trong quyết định chỉ là “đi” hay “ở” của virus. Các nhà nghiên cứu hiện đang khám phá khả năng ngôn ngữ peptide của thể thực khuẩn có làm thay đổi hoạt động của các gene chính trong nạn nhân của nó hay không. “Nếu điều đó là sự thật”, Marina nói, “bức tranh toàn cảnh sẽ lớn hơn và thú vị hơn rất nhiều.” Quá trình “rình mò” ở cấp độ phân tử này xảy ra tự nhiên trong các thể thực khuẩn lây nhiễm cho vi khuẩn gây ra bệnh tả, Vibrio cholerae. Nhưng trong phòng thí nghiệm của họ tại Đại học Princeton ở New Jersey, Bassler và Silpe đã thiết kế các thể thực khuẩn gián điệp có thể cảm nhận tín hiệu từ các vi khuẩn khác, bao gồm Escherichia coli và Salmonella typhimurium, và sau đó xóa sạch chúng. Các virus nà đã trở thành những sát thủ có thể lập trình, được tạo ra để tiêu diệt bất kỳ vi khuẩn nào - theo ý muốn và yêu cầu của người điều khiển.
Tự mở rộng dựa trên khám phá ban đầu của chính mình, Sorek đã tìm thấy các peptide arbitrium xuất hiện ở khắp mọi nơi. Nhóm của ông hiện đã tìm thấy ít nhất 15 loại thể thực khuẩn khác nhau, tất cả chúng đều có khả năng lây nhiễm cho vi khuẩn đất và sử dụng một số loại peptide ngắn để giao tiếp. Điều đáng chú ý là, Sorek nói, mỗi thể thực khuẩn dường như nói bằng một ngôn ngữ khác nhau và chỉ hiểu một ngôn ngữ riêng của nó. Do đó, việc trao đổi dường như đã phát triển chỉ để cho phép giao tiếp giữa những người thân. Thể thực khuẩn có thể chỉ giao tiếp với những cá thể cùng loài với chúng, nhưng chúng cũng có thể lắng nghe những ngôn ngữ khác. Nhà sinh vật học phân tử Bonnie Bassler và nghiên cứu sinh Justin Silpe của bà đã phát hiện ra rằng virus có thể sử dụng các hóa chất cảm nhận giao tiếp (quorum-sensing chemicals) do vi khuẩn tiết ra để xác định khi nào là lúc tốt nhất để bắt đầu nhân lên - và giết chết nạn nhân. Các thể thực khuẩn đang nghe lén, và chúng chiếm đoạt thông tin từ vật chủ cho mục đích riêng của chúng - trong trường hợp này, để giết chết vật chủ, Bassler giải thích.
49
PHỤ CHƯƠNG VÌ LỢI ÍCH LỚN HƠN Một số hợp tác lan truyền có biểu hiện gần như “nghĩa cử hi sinh cao đẹp”. Hai nhóm nghiên cứu độc lập đã báo cáo vào năm ngoái rằng một số thể thực khuẩn sẵn sàng hành động quên mình để vượt qua các biện pháp đối phó của vi khuẩn Pseudomonas.
Những ví dụ về giao tiếp và hợp tác giữa các thể thực khuẩn có lẽ chỉ là phần nổi của xã hội virus, Lanying Zeng, nhà sinh lý học tại Trung tâm Công nghệ Phage của Đại học Texas A & M ở College Station, cho biết.
Đây vẫn là một vùng đất chưa được khám phá. Điều tương tự cũng xảy ra đối với các loại virus lây nhiễm các loại tế bào khác - bao gồm cả tế bào động vật và người chúng đều sử dụng một số chiến thuật xã hội của riêng chúng.
50
Các nhóm nghiên cứu - một nhóm do nhà sinh vật học thể thực khuẩn Joe Bondy-Denomy tại Đại học California, San Francisco, dẫn đầu; nhóm còn lại do chuyên gia về hệ miễn dịch CRISPR Edze Westra và nhà virus học Stineke van Houte tại Đại học Exeter, Anh, dẫn dắt đã quan sát cách virus bắn phá vi khuẩn bằng protein chuyên dụng được thiết kế để phá vỡ hệ thống phòng thủ miễn dịch dựa trên hệ CRISPR của tế bào. Đợt virus đầu tiên tấn công các tế bào, chúng gần như tự sát nhưng cũng làm suy yếu vi khuẩn. Cuộc bắn phá ban đầu đã mở đường cho những virus khác chinh phục kẻ thù. “Những thể thực khuẩn đó phải có mặt và hi sinh, tạo ra các chất chống CRISPR trước khi một thể thực khuẩn khác có thể xuất hiện và tấn công thành công, Bondy-Denomy cho biết. Trong một nghiên cứu tiếp theo, Westra và nghiên cứu sinh Anne Chevallereau đã chứng minh làm thế nào các thể thực khuẩn thiếu các protein chống lại CRISPR có thể khai thác từ sự hợp tác với các virus khác. Đối với Westra, điều đó cho thấy những hậu quả sâu rộng tiềm tàng của các hành vi tương trợ giữa các virus. “Có rất nhiều đặc điểm mới nổi lên ở quy mô quần thể”, ông cho biết. “Điều quan trọng là chúng ta luôn phải chú ý đến hệ sinh thái của các thể thực khuẩn.”
PHỤ CHƯƠNG Hành động tập thể cũng khá phổ biến trong một số các virus gây bệnh khác. Ví dụ, trong bệnh bại liệt, nhiều chủng virus khác biệt về mặt di truyền có thể tụ lại với nhau để hoán đổi các sản phẩm gene và tăng cường khả năng tiêu diệt tế bào người của chúng. Và hai chủng cúm - một loại vượt trội khi xâm nhập tế bào, một loại khác chiếm ưu thế khi thoát tế bào - phát triển tốt khi được duy trì nuôi cấy trong tế bào cùng nhau hơn là so với khi tách rời nhau. Nhưng trong một môi trường thực tế, khi lấy mẫu bệnh phẩm từ những người bị cúm, họ nhận ra hai chủng virus không cùng tồn tại với nhau. Jesse Bloom tại Trung tâm nghiên cứu ung thư Fred Hutchinson ở Seattle, Washington, người đứng đầu nghiên cứu, cho rằng điều đó có liên quan đến một số đặc thù của cuộc sống virus cúm - quy mô dân số của nó dao động mạnh đến mức các hạt hợp tác khó có thể duy trì dài hạn. Đối với các virus không bi ảnh hưởng bởi các loại tắc nghẽn truyền dẫn như vậy, sự hợp tác nhiều khả năng có thể được duy trì trong thế giới thực.
Đó chính xác là những gì nhà hiển vi Nihal Altan-Bonnet tìm thấy khi cô nghiên cứu sự lây nhiễm rotavirus giữa những con chuột. Các hạt rotavirus có thể di chuyển cùng nhau giữa các tế bào trong các túi giống như mụn nước, chia sẻ tài nguyên và ẩn khỏi hệ thống miễn dịch của vật chủ. Altan-Bonnet và các đồng nghiệp của cô cũng đã chỉ ra rằng, virus dễ lây nhiễm đối với chuột khi chúng đi theo các cụm hợp tác này hơn là “đánh lẻ”.
Các virus hóa ra không hề phụ thuộc vào tín hiệu vi khuẩn để đưa ra quyết định của chúng. Trái lại, chúng tự định đoạt số phận của mình. “Phát hiện này là một khái niệm to lớn, quan trọng và mang tính cách mạng trong virus học” Cheng Cheng, một nhà vi trùng học cấu trúc tại Đại học Tứ Xuyên, Thành Đô, Trung Quốc, cho biết.
Nhiều loại virus gây bệnh khác - bao gồm cả các loại gây ra Zika, viêm gan, thủy đậu, norovirus và cảm lạnh thông thường - hiện cũng đã được phát hiện về việc cùng sử dụng mụn nước để di chuyển.
“Những con virus này rất lén lút”, Altan-Bonnet, người đứng đầu Phòng thí nghiệm Động lực học mầm bệnh tại Viện Tim, Phổi và Máu Quốc gia Hoa Kỳ tại Bethesda, Maryland, cho biết. “Chúng tôi phải nghĩ ra những chiến lược phá vỡ sự hợp tác và tạo nhóm của chúng.” Đó có lẽ là biện pháp đúng đắn, trừ khi sức mạnh hủy diệt của virus có thể được phát hiện đem lại lợi ích cho con người. Một số nhóm nghiên cứu đang thử nghiệm các thể thực khuẩn như một phương pháp điều trị nhiễm trùng do vi khuẩn - và hiểu biết về cách chúng giao tiếp với nhau có thể giúp tinh chỉnh các liệu pháp như vậy . Tuy các phương pháp này có lịch sử lâu dài trong y học, chúng chỉ mới bắt đầu được điều khiển để đạt được hiệu quả điều trị thời gian gần đây.
51
PHỤ CHƯƠNG
LỢI ÍCH TỪ CÁC THỂ THỰC KHUẨN
Virus (màu xanh lá cây) có thể lây nhiễm cho vi khuẩn này (màu cam) một cách tốt hơn khi chúng hợp tác với nhau thay vì “đánh lẻ”. Nguồn ảnh: AMI Images/Science Photo Library
Một ví dụ điển hình là việc các nhà nghiên cứu đã mô tả việc sử dụng lâm sàng thành công các thể thực khuẩn biến đổi gene để xử lý việc nhiễm vi khuẩn kháng thuốc. Đối với các bệnh nhiễm trùng như thế này, tất nhiên giải pháp lý tưởng là sử dụng virus để tiêu diệt hoàn toàn vi khuẩn. Nhưng trong điều kiện xảy ra việc mất cân bằng vi khuẩn, như mụn trứng cá, một số loại ung thư và bệnh viêm ruột, phương pháp tốt hơn là sử dụng một thể thực khuẩn có thể giúp tại tạo lại sự cân bằng mà không cần tấn công toàn diện.
“Đối với những ứng dụng tinh vi như vậy, việc biết chính xác cách thức virus giao tiếp với nhau có thể thực sự hữu ích trong việc giúp chúng tôi thiết kế các thể thực khuẩn có thể được sử dụng để điều trị bệnh”, Karen Maxwell, nhà sinh học thể thực khuẩn tại Đại học Toronto, Canada cho biết. Do đó, việc thâm nhập vào hệ thống arbitrium có thể giúp đem lại các phương pháp điều trị dễ kiểm
52
soát hơn hoặc thậm chí có thể đảo ngược. Học cách “nói chuyện” kiểu virus cũng có thể cung cấp một loại lợi ích trị liệu khác.”Đây có thể là một sự bổ sung cho bộ công cụ sinh học tổng hợp để giúp điều chỉnh biểu hiện gene vi khuẩn nhằm đạt được kết quả tốt nhất”, theo lời Christopher Alteri, nhà vi sinh học tại Đại học Michigan ở Dearborn. Sorek đã đưa các arbitrium peptide ra khỏi môi trường sống tự nhiên của chúng trong các thể thực khuẩn, đưa chúng vào các sinh vật khác, nơi chúng hoạt động như các công tắc làm tăng hoặc giảm hoạt động của gene. Trong một nghiên cứu đang thực hiện, ông và nghiên cứu sinh Zohar Erez đã đưa cấu trúc của arbitrium vào vi khuẩn Bacillus subtilis, nhằm điều khiển một số gene của nó theo ý muốn. Một ngày nào đó, các vi khuẩn được thiết kế có thể được sử dụng để phân phối thuốc với liều lượng chính xác và đến các địa điểm cụ thể.
PHỤ CHƯƠNG
Hơn nữa, Sorek lưu ý, nếu các hệ thống giống như arbitrium được bảo tồn trong virus ở người - các mầm bệnh như virus HIV và herpes simplex, giống như các thể thực khuẩn, dành phần lớn cuộc sống của chúng ẩn náu trong các tế bào - thì bất kỳ phân tử truyền thông nào cũng thúc đẩy sự ngừng hoạt động, hay trạng thái “ngủ đông” của chúng, ngay lập tức trở thành một loại thuốc.
Hai năm trước, Díaz-Muñoz, Sanjuán và nhà sinh vật học tiến hóa Stu West từ Đại học Oxford, Vương quốc Anh, đã đặt ra 19 thuật ngữ mới - đều liên quan tới xã hội virus học (sociovirology) - để cung cấp một nền tảng cho dòng nghiên cứu của họ. Hiệp hội Vi sinh học Hoa Kỳ sẽ tổ chức hội thảo đầu tiên dành riêng cho chủ đề này tại cuộc họp thường niên tại San Francisco. Trong xã hội virus học, có nhiều diễn biến tương đồng với sự chấp nhận từ từ các hành vi theo nhóm tương tự như giữa các vi khuẩn trong những năm qua: tận cho đến khi các nhà nghiên cứu xác định các hóa chất liên quan đến cảm biến đại biểu và đặt tên cho quá trình này, hầu hết các nhà vi trùng học mới chú ý đến hiện tượng đó. Và cũng giống như trong bất kì xã hội nào, thông điệp đang lan rộng với tốc độ đáng kể. □
TẠP CHÍ TIA SÁNG - Hạnh Duyên dịch Nguồn: https://www.nature.com/articlest/d41586-019-01880-6
Mỗi thể thực khuẩn dường như "nói" bằng một ngôn ngữ khác nhau và chỉ hiểu một ngôn ngữ riêng của nó. Do đó, việc trao đổi dường như đã phát triển chỉ để cho phép giao tiếp giữa những "người thân".
53
www.iirr.vn