Chuyên đề: Chính phủ lên kế hoạch cho đại dịch
GÓC NHÌN TỔNG QUAN VỀ
NHỮNG HÀNH ĐỘNG CẦN THIẾT ĐỂ CHUẨN BỊ SẴN SÀNG ỨNG PHÓ
CÁC MỐI ĐE DỌA ĐẠI DỊCH
THỰC THI CHIẾN LƯỢC
Thư ngỏ Quý độc giả thân mến! Cúm là bệnh do vi-rút cấp tính đường hô hấp gây ra trên người và động vật, có thể để lại nhiều biến chứng nguy hiểm, thậm chí gây tử vong nhanh nếu không điều trị kịp thời. Cúm có khả năng lây truyền khủng khiếp, được xếp vào một trong những căn bệnh đáng sợ nhất thế giới khi bùng phát thành dịch. Lịch sử đã ghi nhận nhiều đại dịch cúm cướp đi mạng sống của hàng triệu người. Các đại dịch cúm có thể gây ra các ảnh hưởng lớn đối với nền kinh tế và đời sống an sinh xã hội, do vậy, việc lập kế hoạch nhằm ứng phó với các đại dịch cúm là một việc làm cần thiết để ngăn chặn và giảm thiểu các hậu quả. Trong ấn phẩm lần này, đội ngũ biên tập hân hạnh đem tới cho Quý độc giả những cái nhìn tổng quan về một cơ chế ứng phó đầy đủ cũng như những cơ chế để đưa những kế hoạch đó vào thực tế. Xin trân trọng cảm ơn!
NGUYỄN HOÀNG THANH VIỆN PHÓ VIỆN IIRR TRƯỞNG BAN BIÊN TẬP
HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP NGUYỄN HỒNG MINH NGUYỄN QUANG HUY TS. NGUYỄN DANH HẢI NGUYỄN HOÀNG THANH TS. NGUYỄN THỊ QUỲNH HOA TS. NGUYỄN THỊ ANH THƯ PHAN THỊ HOÀI TRANG NGUYỄN BÍCH SƠN
TRƯỞNG BAN BIÊN TẬP NGUYỄN HOÀNG THANH
BIÊN TẬP LÊ THỊ THANH HIẾU ĐỖ THỊ HẰNG NGUYỄN NGỌC HÀ NGUYỄN TUẤN KHÔI NGUYỄN HẢI NINH
THIẾT KẾ ĐẶNG NGỌC ANH
www.iirr.vn
www.facebook.com/iirr.vn
06 MỐI ĐE DỌA ĐẠI DỊCH Vi-rút cúm đã đe dọa sức khỏe của động vật cũng như con người trong nhiều thế kỷ. Sự đa dạng và xu hướng đột biến của chúng đã cản trở những nỗ lực của chúng ta để phát triển một vắc-xin phổ thông hay thuốc chống vi-rút hiệu quả.
16
CHIẾN LƯỢC QUỐC GIA Bởi vì vi-rút cúm sẽ đối đầu với một cơ chế miễn dịch chưa được chuẩn bị đầy đủ, do vậy tác động của đại dịch có thể lan rộng và rất nghiêm trọng, Do vậy, cần phải có một cơ chế ứng phó quốc gia đầy đủ.
24
63
BỆNH CÚM DẪN ĐẾN KHOẢNG 36.000 CA TỬ VONG VÀ 226.000 CA NHẬP VIỆN MỖI NĂM. 06
Mối đe dọa đến từ
ĐẠI DỊCH
07
i-rút cúm đã đe dọa sức khỏe của động vật cũng như con người trong nhiều thế kỷ. Sự đa dạng và xu hướng đột biến của chúng đã cản trở những nỗ lực của chúng ta để phát triển một vắc-xin phổ thông hay thuốc chống vi-rút hiệu quả cao. Hệ quả là, mặc cho nỗ lực của các chương trình tiêm chủng hàng năm và công nghệ y tế hiện đại, bệnh cúm vẫn dẫn đến khoảng 36.000 ca tử vong và 226.000 ca nhập viện mỗi năm.
08
Tỉ lệ TỬ VONG từ 0,2% đến 2% đối với những người mắc bệnh
Một đại dịch xảy ra khi một chủng vi-rút cúm mới xuất hiện có khả năng lây nhiễm và lây truyền giữa người với người. Bởi vì con người có rất ít khả năng miễn dịch với một chủng vi-rút mới, một dịch bệnh trên toàn thế giới hoặc đại dịch có thể xảy ra. Trong ba đại dịch cúm ở người xảy ra vào thế kỷ 20, mỗi căn bệnh lây lan ra khoảng 30% dân số thế giới và có tỉ lệ tử vong từ 0,2% đến 2% đối với những người mắc bệnh.
09
ác cá thể động vật được cho là ổ dịch gây ra các vi-rút cúm mới. Các nhà khoa học tin rằng chim và các giống cùng loài đóng vai trò gây ra ba đại dịch vừa qua. Mối lo ngại hiện nay về đại dịch phát sinh từ sự bùng phát chưa từng thấy của bệnh cúm H5N1 ở các loài chim. Năm 1997, vi-rút cúm H5N1 xuất hiện ở gia cầm tại Hồng Kông và làm 18 người mắc bệnh, trong đó có 6 người tử vong. Kể từ đó, vi-rút đã lây lan trên khắp các quần thể chim ở Châu Á, Châu Âu, Châu Phi và 10
dẫn đến những cái chết, những ca nhiễm bệnh và tiêu hủy của hơn 200 triệu con chim. Ngoài ra, vi-rút đã cho thấy khả năng lây nhiễm trên nhiều loài, bao gồm các loài chim di cư, lợn, mèo và cả con người. Cho đến nay, vi-rút được biết đến là đã lây nhiễm cho hơn 200 người ở Đông bán cầu và dẫn đến cái chết của hơn một nửa số người được biết là bị nhiễm bệnh.
Tỷ lệ tử vong này một phần là do các vi-rút cúm H5 trước đây chưa được công bố ở người, vì vậy dân số không có khả năng miễn dịch nền với các vi-rút này. Không thể dự đoán liệu vi-rút H5N1 có dẫn đến đại dịch hay không, nhưng lịch sử cho thấy ngay cả khi không xảy ra, một loại vi-rút cúm khác sẽ xuất hiện vào một lúc nào đó trong tương lai và đe dọa một dân số không được bảo vệ.
11
ặc dù đại dịch sẽ dẫn đến một số thiệt hại đáng kể có thể đong đếm bằng bệnh tật và tỉ lệ tử vong của con người, nhưng tác động của đại dịch sẽ vượt xa khỏi ranh giới các bệnh viện, bệnh xá và văn phòng bác sĩ. Do vi-rút cúm không phân biệt các khoảng cách địa lý, tuổi tác, chủng tộc hoặc giới tính, tác
12
động của đại dịch sẽ lan rộng, loại bỏ các nguồn nhân công ra khỏi nơi làm việc trong nhiều tuần do bệnh tật của bản thân, của các người thân trong gia đình hoặc do các khuyến cáo được đưa ra từ các tổ chức y tế cộng đồng về việc hạn chế tiếp xúc lẫn nhau.
“ TẠO RA SỰ PHÂN NHÁNH ĐÁNG KỂ CHO NỀN KINH TẾ, AN NINH QUỐC GIA ”
Sự vắng mặt trên nhiều lĩnh vực sẽ đe dọa hoạt động của các cơ sở hạ tầng quan trọng, sự giao thương hàng hóa cũng như dịch vụ và hoạt động của các tổ chức như trường học và đại học. Điều này tạo ra sự phân nhánh đáng kể cho nền kinh tế, an ninh quốc gia và hoạt động cơ bản của xã hội.
13
Những hậu quả về mặt kinh tế gây ra bởi một đại dịch sẽ là
RẤT ĐÁNG KỂ.
Những hậu quả về mặt kinh tế gây ra bởi một đại dịch sẽ là rất đáng kể. Văn phòng Ngân sách Quốc hội đã ước tính rằng một đại dịch trên quy mô của đợt bùng phát năm 1918 có thể làm mất 5% tổng doanh thu sản phẩm trong nước hoặc mất khoảng 600 tỷ đô la thu nhập quốc dân. Những hiệu ứng này sẽ xảy ra thông qua hai hình thức chính.
14
Một số hành động sẽ được thực hiện bởi chính phủ. Một số khác sẽ được thực hiện bởi các nhà lãnh đạo các tổ chức và người sử dụng lao động, trong khi những hành động còn lại sẽ là kết quả của các phản ứng cá nhân đơn lẻ với mong muốn không bị nhiễm bệnh. Những phản ứng kể trên sẽ phản ánh các nhận thức và nỗi sợ hãi của công chúng. Chuẩn bị sẵn sàng cho một đại dịch đòi hỏi phải thiết lập cơ sở hạ tầng và năng lực, một quá trình có thể mất nhiều năm. Vì lý do này, các bước quan trọng phải được thực hiện ngay bây giờ. Chiến lược khẳng định Chính phủ sẽ sử dụng tất cả nguồn lực quốc gia để giải quyết mối đe dọa đến từ đại dịch. Chính phủ sẽ hợp tác đầy đủ với các đối tác quốc tế để ngăn chặn đại dịch tiềm tàng ở bất cứ nơi nào mà dịch bệnh được ghi nhận là đang truyền nhiễm và lây lan một cách nhanh chóng giữa người với người, và sẽ nỗ lực để trì hoãn việc virus lây lan.
Nếu những nỗ lực này thất bại, ứng phó hiệu quả với đại dịch chưa kiểm soát được ở trong nước sẽ cần có sự tham gia đầy đủ của tất cả các cấp chính quyền và mọi thành phần trong xã hội. Kế hoạch thực hiện cho Chiến lược cho thấy rõ rằng mọi phân khúc xã hội phải chuẩn bị sẵn sàng cho đại dịch và sẽ là một phần của chuỗi phản ứng. Kế hoạch chỉ ra thêm rằng Chính phủ phải cung cấp các tiêu chí rõ ràng và các công cụ quyết định để thông báo cho Nhà nước, địa phương và khu vực tư nhân chuẩn bị kế hoạch để sẵn sàng đối phó, và các cơ quan phải được chuẩn bị để bổ sung và sẵn sàng hỗ trợ các nỗ lực của Nhà nước và địa phương khi cần thiết và khả thi.
15
Chiến lược quốc gia về đại dịch cúm
16
17
ác đại dịch đại diện cho một mối đe dọa độc nhất đối với sức khỏe và hạnh phúc của loài người và các hoạt động của xã hội. Là sản phẩm của một hệ sinh thái phức tạp, thời gian của chúng không thể dự đoán được và sự xuất hiện của chúng cũng không thể được kiểm soát. Bởi vì vi-rút cúm mới sẽ đối đầu với một cơ chế miễn dịch chưa được chuẩn bị đầy đủ, tác động của chúng có thể lan rộng và rất nghiêm trọng, đe dọa hoạt động của tất cả các thành phần trong xã hội. Việc thừa nhận các tác động tiềm tàng này đã khiến các chính phủ trên toàn thế giới đẩy nhanh các nỗ lực lập kế hoạch để chiến đấu và chuẩn bị cho một đại dịch. Nó cũng khiến chính phủ và các tổ chức y tế quốc tế trên toàn cầu kêu gọi tính minh bạch trong báo cáo về các trường hợp dịch cúm, hợp tác khoa học để định hình vi-rút và phát triển vắc-xin hiệu quả, phối hợp các kế hoạch quốc tế để ngăn chặn, làm chậm hoặc hạn chế sự lây lan của vi-rút sau khi nó xuất hiện.
18
19
Để đối phó với mối đe dọa này, Chính phủ đã công bố Chiến lược quốc gia về dịch cúm. Chiến lược này cung cấp một cái nhìn tổng quan cấp cao về cách tiếp cận mà Chính phủ sẽ thực hiện để chuẩn bị và ứng phó với đại dịch.
20
Chiến lược chứa 3 yếu tố cốt lõi: (1) Chuẩn bị sẵn sàng và thông điệp;
(2) Giám sát dịch tễ và phát hiện; (3) Phản ứng và ngăn chặn.
Mỗi yếu tố đều sẽ mô tả các nỗ lực trong nước và quốc tế, các nỗ lực liên quan đến sức khỏe của động vật và con người song hành với các nỗ lực sẽ được thực hiện ở tất cả các cấp chính quyền và trong cộng đồng để chuẩn bị và ứng phó với đại dịch.
21
sản xuất và quản lý vắc-xin trước khi đại dịch tiến vào lãnh thổ hiến lược cũng mô tả cách thức mà Chính phủ sẽ hỗ trợ các quá trình chuẩn bị trong nước và quốc tế ở các khu vực bị ảnh hưởng bởi dịch cúm gia cầm, bao gồm thiết lập năng lực sản xuất vắc-xin và thuốc chống vi-rút; các cơ chế để đảm bảo các thông điệp được truyền đi kịp thời cho công chúng, cho dù là từ các đơn vị trực thuộc địa phương hoặc hoặc chính 22
thiết lập các hệ thống cảnh báo sớm cho phép chúng ta kích hoạt các cơ chế phản ứng cũng như sản xuất và quản lý vắc-xin trước khi đại dịch tiến vào lãnh thổ nước ta; và phối hợp nhằm ứng phó trong nước và quốc tế để hạn chế sự lây lan của bệnh tật và giảm thiểu các ca nhiễm bệnh cũng như tử vong.
Chiến lược cũng chỉ rõ ra rằng Chính phủ sẽ sử dụng tất cả các nguồn lực quốc gia để giải quyết mối đe dọa đại dịch. Tuy nhiên, nếu những nỗ lực ngăn chặn sự bùng phát của vi-rút thất bại, các nguồn lực của Chính sẽ không đủ để ngăn chặn sự lây lan của một đại dịch trên toàn quốc và sẽ để lại tác động đến cộng đồng, các nơi làm việc, gia đình và cá nhân. Một cơ chế ứng phó hiệu quả sẽ đòi hỏi sự tham gia đầy đủ của tất cả các cấp chính quyền và mọi thành phần trong xã hội.
23
24
Thực thi chiến lược Quốc gia Mặc dù Chiến lược cung cấp một bộ khung quan trọng để Chính phủ lập kế hoạch cho đại dịch cúm, nhưng nó sẽ phải được chuyển thành các hành động cụ thể và gắn chặt với tư tưởng của các doanh nghiệp .
25
Kế hoạch này hỗ trợ Chỉ thị 8 của Tổng thống An ninh Nội địa (HSPD-8) bằng cách xác định các hành động chuẩn bị và ứng phó phối hợp để chống lại đại dịch cúm. Tất cả các hành động trong Kế hoạch này đều nhấn mạnh đến sự phối hợp giữa các đơn vị trực thuộc Nhà nước và địa phương. Mục đích của HSPD-8 là thành lập “các chính sách tăng cường sự chuẩn bị để ngăn chặn và đối phó với các cuộc đe dọa tấn công khủng bố trong nước, các thảm họa lớn, và các trường hợp khẩn cấp khác bằng cách yêu cầu các mục tiêu chuẩn bị cho tất cả các mối nguy hiểm trong nước, thiết lập các cơ chế để cải thiện việc cung cấp hỗ trợ chuẩn bị cho địa phương, và phác thảo các hành động để tăng cường khả năng sẵn sàng của các đơn vị.”
26
Mặc dù Chiến lược cung cấp một bộ khung quan trọng để Chính phủ lập kế hoạch cho đại dịch cúm, nhưng nó sẽ phải được chuyển thành các hành động cụ thể và gắn chặt với tư tưởng của các doanh nghiệp. Kế hoạch cũng đề xuất rằng các bộ và cơ quan nên thực hiện các bước cụ thể, phối hợp để đạt được các mục tiêu của Chiến lược và vạch ra những kỳ vọng của các bên liên quan không trực thuộc ở nước ngoài. Lập kế hoạch chung và tích hợp trên tất cả các cấp chính quyền và khu vực tư nhân là điều cần thiết để đảm bảo rằng các nguồn lực và thể chế quốc gia sẵn có có thể tạo ra các kế hoạch chi tiết và các hành động phản ứng bổ sung, tương thích và trên cơ sở phối hợp.
Bởi vì điều cần thiết cho tất cả các tổ chức là phải phát triển các kế hoạch liên quan đến đại dịch của riêng họ, Kế hoạch này cung cấp hướng dẫn cho các đơn vị không trực thuộc liên bang về việc phát triển các kế hoạch thể chế của họ, bao gồm các đơn vị bang, địa phương, các bộ tộc, doanh nghiệp, trường học và trường đại học hay các tổ chức phi chính phủ (NGO).Nó cũng cung cấp hướng dẫn cho các cá nhân và gia đình về những cách mà họ có thể chuẩn bị cho đại dịch. Các tài nguyên bổ sung để hỗ trợ cho việv lập kế hoạch này đều có sẵn tại www.pandemiaflu.gov.
Các cơ quan liên bang dự kiến sẽ bổ sung thêm Kế hoạch này với hướng dẫn về việc lập kế hoạch đại dịch cho các bên liên quan. Cuối cùng, Kế hoạch này mô tả một loạt các hành động mà Chính phủ sẽ thực hiện khi một loại vi-rút cúm có khả năng gây đại dịch được xác định trong cộng đồng ở bất cứ đâu trên thế giới, chúng ta cũng cần ý thức được rằng trong khi chúng ta đang dành những nguồn lực quan trọng để cảnh báo sớm và ngăn chặn ở nước ngoài.
27
Kế hoạch được chia thành các chương đề cập đến các quan điểm chính: bảo vệ sức khỏe con người, bảo vệ sức khỏe động vật, các cân nhắc quốc tế, giao thông và biên giới, các cân nhắc về an ninh và thể chế. Các phần bao gồm các mục sau:
1
Tường thuật về phạm vi của các thách thức và các cân nhắc chính, tiếp theo là các lý do cơ bản trong cách tiếp cận của Chính phủ;
2
Vai trò và trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, địa phương và khu vực tư nhân, các cá nhân và gia đình;
3
Một bộ toàn diện hơn 300 hành động dành cho các cơ quan và tổ chức để giải quyết mối đe dọa đại dịch, mỗi hành động sẽ đi kèm với các cơ quan lãnh đạo và hỗ trợ, các biện pháp đo lường kết quả và thời gian hành động.
4
Xác định rõ ràng những kì vọng của các bên không trực thuộc chính phủ.
Một phụ lục ở cuối Kế hoạch này sẽ cung cấp một mô tả ngắn gọn về các cơ quan pháp lý có liên quan trong mỗi phần, cũng như cách thức Chính phủ sẽ thực hiện Kế hoạch. 28
Mặc dù Kế hoạch này đề xuất rằng các bộ phận và các cơ quan nên thực hiện một loạt các hành động để hỗ trợ cho Chiến lược, nhưng nó không mô tả chi tiết về cách các bộ phận sẽ thực hiện các mục tiêu này. Các kế hoạch về đại dịch của các bộ ngành sẽ cung cấp các chi tiết đó và sẽ giải quyết các cân nhắc bổ sung được đưa ra trong bối cảnh đại dịch, bao gồm: bảo vệ sức khỏe cho người lao động, bảo trì các chức năng và dịch vụ thiết yếu, và cách thức mà các đơn vị và cơ quan sẽ phát đi các thông điệp về việc lập kế hoạch và ứng phó với đại dịch cho các bên liên quan. Hướng dẫn cụ thể về việc phát triển kế hoạch của các ban ngành được đề cập trong Chương 9 và Phụ lục A.
Các đề xuất trong Kế hoạch này được xây dựng dựa trên một loạt các hành động lịch sử và toàn diện được Chính phủ thực hiện để giải quyết mối đe dọa đại dịch. Các hành động này bao gồm việc phát triển một loại vắc-xin đầy hứa hẹn dành cho con người nhằm chống lại vi-rút cúm gia cầm H5N1, đệ trình một yêu cầu ngân sách $ 7.1 tỷ để hỗ trợ công tác phòng chống đại dịch, thiết lập Quan hệ đối tác quốc tế về cúm gia cầm và đại dịch cúm, và cuộc tập trận cấp Nội các đầu tiên để đánh giá phản ứng của Chính phủ đối với mối đe dọa xảy ra trong tự nhiên.
29
NHỮNG YẾU TỐ CẦN THIẾT ĐỂ CHUẨN BỊ SỰ SẴN SÀNG CHO
ĐẠI DỊCH
30
31
1. Coi sự chuẩn bị sẵn sàng cho đại dịch dịch như là một vấn đề an ninh Quốc gia
Một sự cân bằng phức tạp luôn tồn tại giữa con người và thế giới vi sinh vật. Chúng ta buộc phải để tâm tới khi sự cân bằng này bị phá vỡ, nhưng thuốc kháng vi trùng và các liệu pháp y tế thường cho phép chúng ta khôi phục trạng thái ổn định mà chúng ta đã quen, hạn chế tác động của bệnh truyền nhiễm đến một cá nhân hoặc cộng đồng. Bởi vì hệ thống y tế và sức khỏe cộng đồng của chúng ta được trang bị tốt để đối phó với những thách thức thường gặp do các vi khuẩn xung quanh gây ra, tác động của các bệnh truyền nhiễm và các chính sách cũng như quy trình hướng dẫn hành động vẫn chủ yếu nằm trong tầm nhìn đã đề ra.
32
Mối đe dọa đến từ đại dịch lại là một câu chuyện hoàn toàn khác. Trong trường hợp xảy ra đại dịch, với khả năng lây lan của vi-rút cúm, sự nhạy cảm của phần đông dân số thế giới đối với các loại vi-rút chưa lưu hành trước đó và sự di chuyển qua lại của con người có nghĩa là mọi nơi trên thế giới và mọi thành phần của xã hội đều có khả năng nhiễm bệnh. Điều này sẽ tạo ra sự phân nhánh không chỉ cho sức khỏe và hạnh phúc của dân chúng, mà còn cho an ninh quốc gia và nền kinh tế cũng như các hoạt động của xã hội. Một khi tiền đề cơ bản này được nhận ra, phạm vi và quy mô của các biện pháp cần thiết để chuẩn bị cho đại dịch sẽ trở nên rõ ràng.
33
34
2. Thúc đẩy các kết nối Một trong những lỗ hổng lớn nhất của chúng ta đang là sự thiếu kết nối giữa các cộng đồng chịu trách nhiệm cho các công tác chuẩn bị cho đại dịch. Điều này đang áp dụng cho những sự phối hợp nỗ lực giữa các quốc gia, giữa cộng đồng y tế và phi y tế, giữa ngành y tế công cộng và cộng đồng các chuyên gia y tế, và giữa cộng đồng sức khỏe động vật và con người.
35
3. Ngành y tế công cộng và cộng đồng các chuyên gia y tế: Cộng đồng y tế công cộng có trách nhiệm đối với các nỗ lực tăng cường sức khỏe và phòng chống dịch bệnh trên toàn cộng đồng, và cộng đồng các chuyên gia y tế chủ yếu tập trung vào các hành động ở cấp độ cá nhân. Giao tiếp và phối hợp không đầy đủ giữa các cộng đồng này sẽ dẫn đến sự dễ bị tổn thương trong sự chuẩn bị của chúng ta đối với dịch cúm. Trong bối cảnh của một đại dịch, cộng đồng các chuyên gia y tế phải có nhận thức về các phân tích dịch tễ học đang diễn ra và 36
các can thiệp toàn cộng đồng đang được các nhà lãnh đạo y tế công cộng khuyến nghị, và cộng đồng y tế công cộng phải có nhận thức về các tình huống liên quan đến sự tiến triển của bệnh, và điều đó chỉ có thể đến từ sự kết nối với các khoa cấp cứu và các cơ sở chăm sóc cấp tính khác nơi bệnh nhân bị cúm đang điều trị. Thời kỳ đại dịch cho ta một cơ hội để thiết lập và kiểm tra các mối quan hệ này.
4. Cộng đồng quốc tế Sự thật là vi-rút không phân biệt biên giới, do đó các hành động của một quốc gia sẽ có sự tác động đến phần còn lại của toàn cầu, do đó chúng ta nên làm việc để sắp xếp các nỗ lực phòng chống đại dịch và các nỗ lực ứng phó giữa các quốc gia. Cộng đồng quốc tế cần tuân thủ các tiêu chuẩn và qui định cho trước về báo cáo bệnh tật, hợp tác khoa học, các biện pháp y tế công cộng để hạn chế lây lan dịch bệnh và một loạt các biện pháp liên quan hỗ trợ các mục tiêu cảnh báo sớm và phản ứng nhanh.
Việc các quốc gia áp dụng sớm các Quy định về Sức khỏe Quốc tế thể hiện một bước quan trọng theo hướng đi này, cũng như sự cam kết của các quốc gia đối với các nguyên tắc của Quan hệ đối tác quốc tế về cúm gia cầm và đại dịch cúm. Cộng đồng quốc tế phải xây dựng dựa trên các thỏa thuận này để thiết lập các chính sách, giao thức và quy trình quốc gia phối hợp để đảm bảo rằng chúng ta có phản ứng nhất quán giữa các quốc gia khi xuất hiện vi-rút gây đại dịch.
37
5. Các cộng đồng y tế và phi y tế Bởi vì tác động của đại dịch sẽ lan ra trên phạm vi toàn xã hội, điều cần thiết là tất cả các tổ chức phải chuẩn bị cho những gì thường sẽ được để lại cho các cộng đồng y tế. Điều này đòi hỏi một sự thay đổi trong suy nghĩ đối với hầu hết các tổ chức chính phủ và phi chính phủ, đặc biệt là các doanh nghiệp, những nơi có thể không quen với việc lập kế hoạch xung quanh các cân nhắc về sức khỏe. Mặc dù các tổ chức này có trách nhiệm lên kế hoạch thay cho các nhân viên, khách hàng, sinh viên và các bên liên quan khác, nhưng các cộng đồng y tế và sức khỏe phải cung cấp hướng dẫn về cách thức thực hiện kế hoạch này. Điều này chỉ có thể được thực hiện thông qua việc thiết lập mối quan hệ giữa cộng đồng y tế và các cơ quan trên toàn chính phủ và các tổ chức trên toàn cộng đồng.
38
6. Cộng đồng nghiên cứu về sức khỏe động vật và con người Động vật là một mầm mống tiềm tàng cho các mầm bệnh mới của con người. Trong lúc vi-rút cúm đã chứng minh điều này qua nhiều thế kỷ, chúng ta cũng đã học được bài học này từ HIV và SARS. Chúng ta phải giải quyết các rào cản giữa các cộng đồng sức khỏe động vật và con người đang tồn tại ở tất cả các cấp chính quyền, giữa các tổ chức phi chính phủ, trong các học viện và trong cộng đồng. Những rào cản này đã cản trở các nỗ lực chuẩn bị và ứng phó quốc tế đối với đại dịch diễn ra ở loài chim và ứng phó quốc tế đối với đại dịch diễn ra ở loài chim đã trì hoãn việc chúng ta nhận ra các mối đe dọa đối với sức khỏe con người và cuối cùng đã góp phần vào rủi ro chung của một loại vi-rút cúm có thể chung sống với vật chủ là con người. Mặc dù sự hợp tác đang được cải thiện giữa các lĩnh vực này ở trong nước, chúng ta phải khuyến khích điều tương tự giữa các bộ nông nghiệp và y tế ở các quốc gia khác và của các tổ chức đa phương đại diện cho các cộng đồng này. 39
7. Truyền đạt thông điệp về rủi ro và trách nhiệm Sự không chắc chắn trong bối cảnh đại dịch sẽ dẫn đến nhiều kết quả mà chúng ta lo ngại, bao gồm sự hoảng loạn trong cộng đồng, những hành động không thể đoán trước đơn phương của chính phủ, sự bất ổn trên thị trường , và có thể là những tác động tàn khốc lên nền kinh tế. Nhu cầu về thông tin kịp thời, chính xác, đáng tin cậy và nhất quán được điều chỉnh cho các nhóm đối tượng cụ thể không thể bị xem nhẹ. Điều này đòi hỏi phải có sự phối hợp thông điệp của người phát ngôn trên khắp các cấp chính phủ, ở cấp địa phương cũng như các đối tác quốc tế. Điều đó cũng yêu cầu chỉ định và đào tạo một đội ngũ phát ngôn viên trong các tổ chức có liên quan, tăng cường khả năng cung cấp hướng dẫn trong điều kiện thông tin chưa đầy đủ và một tư duy rằng hướng dẫn này có thể sẽ phải thay đổi khi có thêm thông tin. Một khả năng như vậy nên được phát triển trước khi xảy ra đại dịch, cũng như các thông điệp chính mà chúng ta biết sẽ phải truyền đi khi có sự xuất hiện của vi-rút gây đại dịch.
40
Hiểu được tầm quan trọng của việc cung cấp các hướng dẫn rõ ràng trong đại dịch, điều quan trọng không kém là truyền đạt những kỳ vọng và trách nhiệm của tất cả các bên liên quan trước khi đại dịch bắt đầu. Sự lây lan xảy ra trên cơ sở cá nhân và sự bùng phát của một bệnh truyền nhiễm đại diện cho sự tổng kết của vô số các hành động mang tính cá nhân. Các hành động được thực hiện ở cấp độ cá nhân cũng quan trọng tương đương với các hành động của tất cả các tổ chức, bất kể quy mô Nhu cầu cần có sự tham gia của cá nhân và tổ chức vào việc lập kế hoạch ứng phó với đại dịch được khuếch trương lên bởi thực tế là các cấp chính phủ, có năng lực hạn chế để tác động lên sự lây lan của dịch bệnh ở cấp độ cộng đồng.
Hơn nữa, chúng ta có thể dự đoán rằng Chính phủ sẽ không đủ khả năng để tăng cường sức khỏe và các nhu cầu cơ sở hạ tầng khác của các cộng đồng cụ thể khi toàn bộ Quốc gia đang bị quá tải. Trên thực tế này, yêu cầu tự cung tự cấp tại địa phương phải được truyền đạt tới các quốc gia, cộng đồng, tổ chức, doanh nghiệp thương mại và thậm chí các cá nhân trước khi đại dịch bắt đầu.
41
8. Hỗ trợ các tổ chức đa phương Đại dịch là mối đe dọa toàn cầu có khả năng tác động đến mọi quốc gia. Bất kì một sự bùng phát nào đều sẽ đe dọa tất cả các quốc gia, vậy nên điều cực kỳ quan trọng là cộng đồng quốc tế phải phối hợp các hành động chuẩn bị và ứng phó. Không đâu rõ ràng hơn những nỗ lực lập kế hoạch ngăn chặn của chúng ta. Điều này đòi hỏi các tiêu chuẩn quốc tế về giám sát, tính minh bạch, chia sẻ mẫu thử và hành động phối hợp nhanh chóng khi nhận ra một ổ dịch tiềm tàng. Nó cũng đòi hỏi sự hiện diện của các bộ phân xử đáng tin cậy và độc lập về thông tin khoa học và dịch tễ học khi có thể.
42
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đại diện cho chuỗi các hoạt động chuẩn bị và ứng phó quốc tế. WHO được hỗ trợ bởi các tổ chức đa phương và song phương khác, nhưng trong bối cảnh đại dịch, chúng ta sẽ dựa vào đó để trở thành một điều phối viên đáng tin cậy và thường trực cho các phản ứng quốc tế. Với vai trò quan trọng của WHO, điều cần thiết là cộng đồng quốc tế cần hỗ trợ các nỗ lực của họ với các nguồn lực và nhân sự, đồng thời mở rộng các kế hoạch nhằm tăng cường năng lực khẩn cấp khi xảy ra các mối nghi ngờ hoặc có xác nhận về sự xuất hiện của virus gây đại dịch. Khi chúng ta hành động để hỗ trợ các nỗ lực của WHO, chúng ta cũng phải chú ý đến sự cần thiết phải mở rộng và tăng cường phối hợp các nỗ lực y tế quốc tế liên quan đến động vật. Do gần như chắc chắn rằng đại dịch tiếp theo vẫn sẽ khởi nguồn từ động vật, điều tối quan trọng là các tổ chức đa phương chịu trách nhiệm về sức khỏe động vật, đặc biệt là Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO), phải sẵn sàng hỗ trợ các quốc gia đang bị đe dọa bởi sự bùng phát của cúm gia cầm. 43
9. Hợp nhất để chuẩn bị cho các mối đe dọa tự nhiên và có chủ đích
44
Mặc dù các bối cảnh ban đầu dẫn đến sự bùng phát các bệnh truyền nhiễm theo cách có chủ ý hoặc tự nhiên là rất khác nhau, các hành động cần thiết để chuẩn bị, đưa ra cảnh báo sớm và phản ứng lại gần như tương tự. Chúng ta nên làm cho các nguyên tắc này trở nên rõ ràng trong kế hoạch về sự bùng phát của chúng ta và đảm bảo, trong chừng mực có thể, rằng các cơ chế mà chúng ta đưa ra sẽ hỗ trợ lẫn nhau.
Điều này có ý nghĩa rõ ràng đối với cách thức Chính phủ chỉ đạo các nguồn tài nguyên sinh học của mình, nhưng nó cũng đặt trách nhiệm lên cộng đồng y tế công cộng để đảm bảo rằng cơ sở hạ tầng được thiết lập ở cấp Nhà nước và địa phương để hỗ trợ các ưu tiên y tế công cộng truyền thống được cấu thành để đáp ứng các yêu cầu sinh học.
45
10. Thúc đẩy các sự chuẩn bị cho ĐẠI DỊCH
Chính phủ đã thực hiện một loạt các hành động mang tính lịch sử, trong nước và quốc tế, để giải quyết mối đe dọa từ đại dịch
46
Chiến lược quốc gia về đại dịch cúm đưa ra định hướng chiến lược cho tất cả các tổ chức và cơ quan, nói rõ những kỳ vọng của các bên liên quan không trực thuộc trong việc chuẩn bị, giám sát và ứng phó với đại dịch. Nó cũng vạch ra một chiến lược để thiết lập sản xuất vắc-xin, thuốc chống vi-rút và khả năng dự trữ để bảo vệ dân số cũng như hạn chế sự lây lan của vi-rút trong nước, điều trị cho những người bị bệnh. Chiến lược được hỗ trợ bởi Kế hoạch này và các kế hoạch phòng chống dịch bệnh cụ thể của cơ quan và tổ chức. Yêu cầu ngân sách khẩn cấp $ 7.1 tỷ để hỗ trợ các hoạt động trong nhiều năm đã được đệ trình lên Quốc hội để hỗ trợ các mục tiêu của Chiến lược. Một khoản tiền trị giá 3,8 tỷ đô là được chi ra để hỗ trợ các yêu cầu ngân sách trong năm đầu tiên của sáng kiến. Trong khi phần lớn các khoản tài trợ được dành cho việc chuẩn bị trong nước và thiết lập kho dự trữ cũng năng lực sản xuất.
47
Các chương trình chính sẽ được hỗ trợ bởi quỹ tính cho đến nay: - Mở rộng năng lực sản xuất vắc-xin trong nước để cung cấp số lượng lớn các biện pháp đối phó y tế khẩn cấp hơn so với bây giờ sẽ trở nên khả thi. Mục tiêu chính, tùy thuộc vào nguồn cung trong tương lai và khả năng đáp ứng của ngành công nghiệp vắc-xin, là để các nhà sản xuất trong nước có thể sản xuất đủ vắc-xin cho toàn bộ dân số trong vòng 6 tháng kể từ khi công nhận vi-rút cúm ở người có khả năng gây đại dịch. Mục tiêu hỗ trợ là phát triển và duy trì một kho dự trữ vắc-xin thường trực để bảo vệ 20 triệu công dân chống lại các vi-rút cúm đang lưu hành (hiện tại là vi-rút H5N1) có thể trở thành vi-rút có khả năng gây đại dịch ở người. - Sẽ cho phép mở rộng kho dự trữ thuốc kháng vi-rút để điều trị cho nhiều công dân Hoa Kỳ hơn so với kho dự trữ hiện tại. Mục tiêu chính, tùy thuộc vào nguồn cung trong tương lai và năng lực sản xuất toàn cầu, là có đủ thuốc để điều trị cho công dân, hoặc 25% dân số trong bối cảnh đại dịch cúm cộng với 6 triệu khóa đào tạo được hướng dẫn để ngăn chặn bùng phát ngay từ giai đoạn đầu.
48
- Mở rộng khả năng giám sát trong nước và quốc tế ở người và động vật, để đưa ra cảnh báo sớm về đại dịch và sự xuất hiện của nó trên lãnh thổ đất nước chúng ta, và nhắm vào các can thiệp y tế công cộng trong đại dịch.
- Đầu tư vào việc phát triển các chiến lược truyền thông về rủi ro, để đảm bảo rằng các thông điệp luôn nhất quán, đáng tin cậy đang được cung cấp cho công chúng bởi tất cả các cơ quan chức năng trước và trong thời gian diễn ra đại dịch.
- Đầu tư vào các tổ chức đa phương trên cơ sở song phương để mở rộng năng lực khoa học, y tế công cộng, giám sát và ứng phó tại các quốc gia hiện đang bị ảnh hưởng bởi dịch cúm H5N1.
49
11. Tăng cường các sự chuẩn bị trong nước
50
Hơn 6 tỷ đô la đã được đầu tư vào sự chuẩn bị y tế và y tế công cộng của địa phương kể từ năm 2002 cho các hoạt động hỗ trợ trực tiếp cho việc chuẩn bị đại dịch. Sự phát triển các kế hoạch phòng chống đại dịch của các quốc gia là một yêu cầu của Trung tâm Hợp tác phòng chống và kiểm soát dịch bệnh và Cơ quan quản lý tài nguyên và dịch vụ y tế Bệnh viện chuẩn bị kể từ năm 2004. Giám sát bệnh theo thời gian thực trong cộng đồng đang được thiết lập bởi Chương trình kết nối lâm sàng thời gian thực BioSense, nhằm cung cấp nhận thức về các tình trạng theo thời gian thực cho các quan chức y tế công cộng tại các cộng đồng trên cả nước trong bối cảnh của một đại dịch và tạo điều kiện cho các mục tiêu can thiệp y tế công cộng. Mười thành phố đã được chọn để bắt đầu chương trình, với mục tiêu tạo ra 31 cộng đồng BioWatch vào cuối năm 2006.
Bộ An ninh Nội địa (DHS) đã thành lập Hệ thống tích hợp giám sát sinh học quốc gia để thu thập, tích hợp và phân tích thông tin tất cả các nguồn thông tin trong nước và quốc tế. Hệ thống này sẽ tích hợp hệ thống giám sát bệnh tật của con người, nông nghiệp, thực phẩm và môi trường. Một cuộc tập trận ở cấp độ nội các của Chính phủ đối phó với đại dịch được tổ chức vào tháng 12 năm 2005 để xác định và giải quyết các lỗ hổng trong các khả năng phối hợp. Cuộc tập trận này là lần đầu tiên thử nghiệm phản ứng của Chính phủ đối với bất kỳ sự kiện tự nhiên hoặc có chủ ý nào và nêu bật các vấn đề chính sách quan trọng hiện đang được giải quyết và giải quyết. Cuộc tập trận sẽ đặt ra nền tảng cho các đánh giá liên tục về sự chuẩn bị của Chính phủ cho một đại dịch.
51
Chương trình phòng chống dịch cúm của Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh (HHS) hướng dẫn về sự chuẩn bị cho các địa phương đã được phát hành. Nó cung cấp hướng dẫn toàn diện cho các cộng đồng, các đơn vị bệnh viện, nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe và cá nhân về các hành động mà họ nên thực hiện để chuẩn bị cho đại dịch. 52
Một cuộc họp cấp Quốc gia của HHS đã được tổ chức để cung cấp hướng dẫn về việc phát triển các kế hoạch phòng ngừa và ứng phó với đại dịch tại địa phương. Hơn 60 hội nghị thượng đỉnh địa phương về việc chuẩn bị cho đại dịch sẽ được hoàn thành trong nửa đầu năm 2006.
Các quy định về cách ly được đề xuất đã được công bố để lấy ý kiến công chúng, bao gồm các cơ chế và quy trình báo cáo nâng cao để tiến hành điều tra dịch tễ học, và vi-rút cúm có khả năng gây đại dịch đã được thêm vào danh sách các bệnh có thể được cách ly.
Một giao ước đã được HHS và DHS thông qua để đảm bảo phối hợp các hoạt động sàng lọc biên giới và chia sẻ thông tin để theo dõi các mối liên lạc, trong khi dịch bệnh đang lây lan và hướng dẫn vận hành các chỉ dẫn cụ thể về H5N1.
12. Phát triển, sản xuất, dự trữ vắc-xin và thuốc chống vi-rút
Vắc-xin phòng chống vi-rút cúm gia cầm H5N1 đã được phát triển kết hợp với các nhà sản xuất và đang được HHS thử nghiệm. Vắc-xin sẽ được dự trữ để cung cấp ngay lập tức phòng bệnh H5N1 trong giai đoạn trước đại dịch, song song với một loại vắc-xin mới phù hợp với loại vi-rút cụ thể xuất hiện sau khi đại dịch bắt đầu.
54
Các khoản đầu tư đã được thực hiện để thúc đẩy công nghệ nuôi cấy tế bào để sản xuất vắc-xin cúm.
Hơn 4 triệu khóa điều trị bằng thuốc kháng vi-rút được tổ chức tại Kho dự trữ quốc gia chiến lược (SNS), với kế hoạch mở rộng lên 50 triệu khóa trong SNS và 31 triệu khóa khác trong kho dự trữ của Nhà nước, việc mua sắm sẽ được Chính phủ trợ cấp.
Các thủ tục bổ sung để bảo vệ trách nhiệm toàn diện cho các nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà hoạch định chương trình phòng chống dịch bệnh và đại dịch, người kê đơn, điều hành và phân phối các biện pháp đối phó, cán bộ, đại lý và nhân viên của mỗi đơn vị này và chương trình bồi thường đã được đưa ra và thông qua vào năm 2005, do đó loại bỏ một trở ngại lớn cho việc thành lập một cơ sở sản xuất vắc-xin trong nước, đồng thời đảm bảo rằng những người bị tổn hại bởi vắc-xin sẽ được bồi thường.
55
13. Tăng cường hợp tác quốc tế, năng lực và sự chuẩn bị
Quan hệ đối tác quốc tế về cúm gia cầm và đại dịch cúm được đưa ra vào ngày 14 tháng 9 năm 2005, để đảm bảo tính minh bạch, hợp tác khoa học, báo cáo nhanh các trường hợp, phối hợp các nhà tài trợ và một loạt các hành động khác để hỗ trợ công cuộc
56
chuẩn bị và ứng phó toàn cầu. Quan hệ đối tác sẽ tăng cường hợp tác giữa các quốc gia tham gia và các tổ chức quốc tế bao gồm WHO, FAO và Tổ chức Thú y thế giới để phát triển năng lực toàn cầu cầu nhằm giải quyết các đại dịch bất thường.
Hiệp hội đã đồng ý tại cuộc họp vào tháng 10 năm 2005 để nâng cao vấn đề liên quan đến dịch cúm trên các chương trình nghị sự quốc gia, phối hợp các nỗ lực giữa các nhà tài trợ và các quốc gia bị ảnh hưởng, huy động và tận dụng các nguồn lực trên toàn cầu, và tăng tính minh bạch trong việc báo cáo và giám sát dịch bệnh.
Chính phủ làm việc trên cơ sở song phương để hỗ trợ các nỗ lực của địa phương, quốc gia và khu vực để xây dựng năng lực, tăng cường báo cáo, đảm bảo hợp tác khoa học và tăng cường các sự chuẩn bị tổng thể. Các quốc gia cũng đồng ý tạo ra một khu vực không lây nhiễm kiểu mẫu ở Indonesia để phát triển và xây dựng các biện pháp tốt nhất để ngăn ngừa lây nhiễm một loại virus gây bệnh ở cả động vật và người.
Trung tâm can thiệp các dịch bệnh mới nổi đặt tại Singapore, do Singapore và Hoa Kỳ phối hợp tổ chức, đang tiến hành đào tạo về cúm gia cầm ở Đông Nam Á và phát triển mô hình cho Dự án về cúm gia cầm nói chung. Hợp tác với Trung Quốc để tăng cường phát triển vắc-xin, giám sát dịch bệnh và ứng phó nhanh chóng cùng với việc lập kế hoạch phòng chống dịch bệnh thông qua sáng kiến chung về Cúm gia cầm.
57
Hoạt động thông qua các khuôn khổ đa phương hiện có để thúc đẩy các mục tiêu của Đối tác.
58
WHO: Chính phủ cần hỗ trợ WHO trong việc xây
dựng một cơ chế đáp ứng và ngăn chặn để Hội đồng Y tế Thế giới xem xét và thông qua. Ngoài ra, cần viện trợ cho các nỗ lực khác của WHO trong việc cải thiện khả năng phát hiện và phản ứng của các quốc gia và đảm bảo rằng tất cả các hành động đều phù hợp với Quy định Sức khỏe Quốc tế.
APEC: Tại Hội nghị thượng đỉnh Hợp tác kinh tế
châu Á Thái Bình Dương (APEC), sáng kiến của APEC đã được hỗ trợ để chuẩn bị và giảm thiểu tác động của các đại dịch cúm, đồng thời tăng cường ứng phó và chuẩn bị trong khu vực, bao gồm việc kiểm tra đánh giá các khả năng quản lý thảm họa khu vực, thực hiện các thông tin liên lạc khu vực và tổ chức Hội nghị chuyên đề về các bệnh truyền nhiễm đang lên ở Bắc Kinh.
GHSAG: Bộ trưởng Y tế từ Canada, Pháp, Đức, Ý,
Nhật Bản, Mexico, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ sẽ hợp tác trong Nhóm Hành động An ninh Y tế Toàn cầu (GHSAG) để tinh chỉnh các kế hoạch phòng chống dịch cúm quốc gia, hỗ trợ phát triển các phác đồ của WHO để ngăn chặn sớm dịch cúm và phối hợp xây dựng năng lực ở các nước đang phát triển.
G-8: Chính phủ đang khuyến khích G-8 hỗ trợ xây
dựng kế hoạch và gói thông tin về cúm gia cầm cho các quốc gia bị ảnh hưởng sử dụng trong trường hợp bùng phát, để đồng ý triển khai các kho dự trữ thuốc chống vi-rút của WHO và tuân thủ sớm để các quy định y tế quốc tế sửa đổi của WHO. Các chính phủ cũng nên tham gia với các khu vực tư nhân, bao gồm các nhóm kinh doanh như Hội đồng tư vấn kinh doanh APEC, Hội đồng Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), và các tổ chức phi chính phủ, để thảo luận về vai trò mà các khu vực tư nhân có thể đóng góp để chuẩn bị và ứng phó với đại dịch. 59
CÁC KẾ HOẠCH GIẢ ĐỊNH
Đại dịch là không thể lường trước được, mặc dù lịch sử đã cung cấp các điểm mấu chốt hữu ích, nhưng không có cách nào để chúng ta nắm bắt được hết các đặc điểm của vi-rút gây đại dịch trước khi nó xuất hiện. Tuy nhiên, chúng ta phải đưa ra các giả định để tạo điều kiện cho các nỗ lực lập kế hoạch.
Những nỗ lực lập kế hoạch giả định như sau:
60
1.
Khả năng mẫn cảm với các vi-rút cúm đại dịch sẽ là phổ biến.
2.
Khả năng lây nhiễm từ người sang người sẽ báo hiệu cho một đại dịch sắp xảy ra.
3.
Tỷ lệ tấn công lâm sàng sẽ là 30% trong toàn bộ dân số trong thời gian đại dịch. Tỷ lệ mắc bệnh sẽ là cao nhất ở trẻ em trong độ tuổi đến trường (khoảng 40%) và giảm dần theo tuổi. Trong số những người trưởng thành đang làm việc, trung bình 20% sẽ bị bệnh khi bùng phát cộng đồng.
4.
Một số người sẽ nhiễm bệnh mà không phát triển bất kì một triệu chứng lâm sàng nào. Các cá nhân không có triệu chứng hoặc các triệu chứng ở mức độ nhẹ vẫn có thể lây bệnh sang những người khác và sẽ phát triển khả năng miễn dịch cho các lần tiếp theo.
5. Mặc dù số lượng bệnh nhân cần đến sự chăm sóc y tế sẽ không thể dự đoán được một cách chắc chắn, nhưng trong các đại dịch trước đó, khoảng một nửa số người mắc bệnh cần được chăm sóc. Với nguồn cung sẵn có của thuốc kháng vi-rút có hiệu quả để điều trị, tỷ lệ này có thể sẽ còn cao hơn trong đại dịch tiếp theo.
6. Tỷ lệ các ca bệnh nặng, số ca nhập viện và tử vong sẽ phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của vi-rút gây bệnh và khác nhau tùy theo mức độ nghiêm trọng giữa các tình huống có thể xảy ra. Các nhóm có nguy cơ lây nhiễm và tỷ lệ tử vong cao khó có thể dự đoán được một cách chắc chắn nhưng có khả năng sẽ bao gồm trẻ sơ sinh, người già, phụ nữ mang thai và những người mắc bệnh mãn tính hoặc gặp các vấn đề liên quan đến hệ miễn dịch.
7. Tỷ lệ vắng mặt tại các cơ sở sẽ phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của đại dịch. Trong một đại dịch nghiêm trọng, sự vắng mặt do bệnh tật, do nhu cầu chăm sóc các thành viên gia đình bị bệnh và nỗi sợ lây nhiễm có thể lên tới 40% trong những tuần cao điểm bùng phát cộng đồng, với tỷ lệ vắng mặt thấp hơn trong những tuần trước và sau khi đạt đỉnh. Một số biện pháp y tế công cộng (đóng cửa trường học, cách ly các đối tượng đã tiếp xúc với các cá nhân bị nhiễm bệnh) cũng có khả năng làm tăng tỷ lệ vắng mặt.
61
8.
Thời gian ủ bệnh điển hình (khoảng thời gian giữa nhiễm bệnh và khởi phát triệu chứng) đối với bệnh cúm là khoảng 2 ngày.
9.
Những người bị bệnh có thể bị nhiễm vi-rút và có thể lây lan bệnh từ nửa ngày đến một ngày trước khi khởi phát triệu chứng. Khả năng lây nhiễm sẽ là lớn nhất trong 2 ngày đầu tiên bị bệnh. Trẻ em sẽ đóng vai trò chính trong việc lây nhiễm vì tỷ lệ nhiễm bệnh ở trẻ cao hơn, trẻ cũng có thể nhiễm virus trong một thời gian dài và hệ miễn dịch của trẻ em cũng chưa được trang bị hoàn toàn đầy đủ
10.
Trung bình một người nhiễm bệnh sẽ truyền bệnh cho khoảng 2 người khác.
11. Dịch bệnh sẽ kéo dài từ 6-8 tuần trong các cộng đồng bị ảnh hưởng. 12.
62
Nhiều đợt sóng (trong đó các đợt bùng phát cộng đồng xảy ra trên cả nước) có khả năng xảy ra với mỗi đợt kéo dài từ 2 đến 3 tháng. Trong lịch sử, những đợt sóng dịch lớn nhất đã xảy ra vào mùa thu và mùa đông, nhưng tính thời vụ của đại dịch làm cho điều này không thể dự đoán được một cách chắc chắn.
Ngưng nghỈ hưu Làm ngườI hùng
Nhà khoa học đã tạo ra công nghệ tối quan trọng của khẩu trang chuyên dụng N95 đã nghỉ hưu được hơn hai năm khi đại dịch COVID-19 đã và đang gieo rắc kinh hoàng toàn cầu. Nhưng ông lập tức trở lại làm việc mà không hề nề hà, vì biết các nhân viên y tế đang cần mình.
T
rước đại dịch, tiến sĩ Peter Tsai, nhà khoa học vật liệu nay đã 68 tuổi, không phải là cái tên ai cũng biết, dù các phát minh, công trình của ông không xa lạ. Tsai chính là cha đẻ của màng lọc tĩnh điện bộ phận quan trọng nhất của chiếc khẩu trang N95, giúp ông nhận bằng sáng chế 25 năm trước. Tsai đã phát minh ra “bí quyết” để N95 lọc được ít nhất 95% khói bụi và vi khuẩn trong không khí. Loại khẩu trang này đã trở thành một mặt hàng quan trọng. và khan hiếm giữa đại dịch. Theo trang web của Đại học Tennessee (Mỹ), Tsai cũng có các công trình nghiên cứu quan trọng trong
lĩnh vực vải không dệt. Đầu tiên là kỹ thuật “melt blowing” tạo ra loại vải không dệt với kích thước sợi siêu mảnh, chỉ khoảng 1% sợi tóc, nhờ vậy có thể giữ lại các hạt siêu nhỏ, nhưng vẫn cho phép lưu thông không khí. Năm 1992, ông dẫn đầu một nhóm nghiên cứu tại ĐH Tennessee để phát triển công nghệ tĩnh điện tích. Thật trùng hợp khi ông đặt tên công nghệ này là “corona” (nghĩa là hào quang), và Tsai đã dí dỏm đùa rằng “công nghệ tĩnh điện corona đang chống lại chủng virus corona” thông qua khẩu trang N95.
Peter Tsai ngay lập tức quay lại các bản vẽ và dựng hẳn một phòng thí nghiệm dã chiến trong nhà, bắt đầu làm việc gần 20 giờ mỗi ngày. “Tôi đã cảm thấy rất áp lực trong thời gian đầu” - ông chia sẻ trên Knox News. Ông lần lượt thử nghiệm mọi cách khử trùng khẩu trang N95 mà ông có thể nghĩ đến: luộc, hấp, nướng và phơi nắng. Vừa phải đảm bảo giữ nguyên chất lượng khẩu trang, ông còn cố gắng chỉ sử dụng những thiết bị gia dụng, như chiếc lò nướng mượn hàng xóm!
Tsai về hưu từ năm 2018, hiện sống cùng gia đình ở thành phố Knoxville (bang Tennessee) nhỏ bé. Khi virus corona hoành hành ở nước Mỹ, ông phải liên tục trả lời các cuộc gọi từ các phòng thí nghiệm, công ty và nhân viên y tế, bất kể ngày đêm.
Để kiểm tra và đánh giá toàn diện các vấn đề kỹ thuật, Tsai tìm đến những nhà khoa học khác và các phòng thí nghiệm trang bị chuyên nghiệp hơn. Kết quả nghiên cứu “nhanh như chớp” của ông hiện đã được Viện Sức khỏe quốc gia Mỹ thẩm định. Ông cũng công bố kết quả trên một số trang y khoa uy tín.
Tsai giúp đời bằng một phát minh hữu ích từ cách đây 1/4 thế kỷ, vì sao người ta cần ông, một cụ hưu trí gần thất thập quay trở lại? Câu trả lời là để giúp ngành y tế trong và ngoài nước Mỹ giải quyết hai vấn đề: làm sao để sản xuất khẩu trang N95 thật nhanh và thật nhiều trong bối cảnh thiếu hụt trầm trọng, và làm cách nào để tái sử dụng chúng, do khẩu trang N95 vốn chỉ dùng một lần như khẩu trang y tế.
Điểm sáng trong các thử nghiệm của ông là chỉ cần làm nóng khẩu trang N95 trong khoảng 60 phút ở 70 độ C để khử trùng hiệu quả. Như vậy, nhà nhà có thể treo chúng trong… lò nướng. Nhưng lưu ý, bạn sẽ cần một chiếc lò riêng cho mục đích này để không ảnh hưởng đến thực phẩm.
TẠM NGƯNG NGHỈ HƯU
VÔ VỤ LỢI
Hoàn thành nhiệm vụ đầu tiên, tiến sĩ Tsai tiếp tục hỗ trợ một số đơn vị của Mỹ mở rộng quy mô sản xuất khẩu trang N95, trong đó có Phòng thí nghiệm quốc gia Oak Ridge. Họ nhờ ông giúp chuyển đổi cơ sở vật chất của phòng thí nghiệm để phù hợp với quy trình sản xuất. Merlin Theodore, một quản lý của Oak Ridge, nói với tờ USA Today: “Trung bình việc này có thể mất hàng tháng đến hàng năm trời. Nhưng chúng tôi đã không phải làm thế, vì ông ấy đã thực hiện tất cả các thử nghiệm”. “ Trung bình việc này có thể mất hàng tháng đến hàng năm trời. Nhưng chúng tôi đã không phải làm thế, vì tiến sĩ Tsai đã tiến hành thực hiện tất cả các thử nghiệm”
Trong vòng một tuần, việc chuyển đổi đã xong. Đến nay, chỉ trong một giờ, cơ sở của Theodore có khả năng sản xuất lượng màng lọc đủ để làm ra 9.000 cái khẩu trang. Oak Ridge đang chuyển giao cách làm của Tsai cho những đơn vị khác để “giải tỏa cơn khát” N95. Theodore cho biết Tsai liên tục từ chối nhận thù lao. Ông tình nguyện làm việc và không quan tâm đến tiền bạc. “Nếu tôi có cơ hội giúp đỡ cộng đồng, đó sẽ là một kỷ niệm đẹp cho suốt quãng đời còn lại” The Washington Post dẫn lời nhà khoa học. Thứ duy nhất Tsai “mất” khi tạm ngưng chuyện hưu trí an nhàn để quay lại làm người hùng trong cuộc chiến chống virus corona chính là… 4,5kg cân nặng. Trên Knox News, Tsai tiếp tục nói đùa: “Một số người bảo tôi nên nhận giải thưởng Nobel… nhưng cái xứng đáng với tôi là một giải thưởng No Belly (không mỡ bụng)”. (Theo Tuổi trẻ cuối tuần)
“Tsai liên tục từ chối nhận thù lao. Ông tình nguyện làm việc và không quan tâm đến tiền bạc.”