Occupatonal Safety, Health, and Environment
www.iirr.vn Lưu hành nội bộ
Virus sốt xuất huyết kích thích GEN làm
muỗi ĐÓI HƠN
CÁC LOẠI BỆNH LÂY TRUYỀN DO ĐỘNG VẬT MỘT THÁCH THỨC CHO TƯƠNG LAI
Thư ngỏ Quý độc giả thân mến!
Quá trình đô thị hóa liên quan đến việc gia tăng sự di chuyển và định cư của người dân trong môi trường xung quanh đô thị. Tuy nhiên, sự “tam sao thất bản” về định nghĩa “đô thị” khiến chúng ta khó so sánh các quốc gia và các thành phố khác nhau về phương diện y tế công cộng cũng như gánh nặng và tác động của các bệnh truyền nhiễm. Đô thị hóa nhanh chóng và đôi khi không được kiểm soát có thể, trong một số trường hợp nhất định, dẫn đến những cuộc ”gặp gỡ” gần gũi hơn giữa con người với động vật hoang dã. Chính vì vậy, ban biên tập chúng tôi muốn chia sẻ những nghiên cứu chuyên sâu của các nhà khoa học thế giới để bạn đọc có thể trang bị thêm cho mình những kiến thức bổ ích, vì một mục tiêu chăm sóc sức khỏe cho mình và cộng đồng. Sự tồn tại của bốn chủng virus sốt xuất huyết đã khiến việc phát triển một loại vắc-xin hiệu quả trở nên khó khăn. Để được bảo vệ hoàn toàn, vắc-xin sốt xuất huyết phải bảo vệ chống lại cả bốn chủng và việc bảo vệ phải có tác dụng lâu dài. Đây là hai vấn đề đã đặt ra những thách thức lớn trong việc tìm kiếm vắc-xin sốt xuất huyết.
Nguyễn Hoàng Thanh VIỆN PHÓ VIỆN IIRR
CHỊU TRÁCH NHIỆM NỘI DUNG
HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP NGUYỄN HỒNG MINH NGUYỄN QUANG HUY TS. NGUYỄN DANH HẢI NGUYỄN HOÀNG THANH TS. NGUYỄN THỊ QUỲNH HOA TS. NGUYỄN THỊ ANH THƯ PHAN THỊ HOÀI TRANG NGUYỄN BÍCH SƠN
TỔNG BIÊN TẬP NGUYỄN TẤT HỒNG DƯƠNG
PHÓ TỔNG BIÊN TẬP
NGUYỄN HOÀNG THANH
BIÊN TẬP & THIẾT KẾ
PHÒNG PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG
www.iirr.vn
www.facebook.com/iirr.vn
06 24 29 52
BỆNH TRUYỀN NHIỄM NÔNG THÔN BIẾN THÀNH THỊ
Sự “tam sao thất bản” về định nghĩa “đô thị” khiến chúng ta khó so sánh các quốc gia và các thành phố khác nhau về phương diện y tế công cộng cũng như gánh nặng và tác động của các bệnh truyền nhiễm.
CÁC LOẠI BỆNH LÂY TRUYỀN DO ĐỘNG VẬT MỘT THÁCH THỨC CHO TƯƠNG LAI
Đô thị hóa nhanh chóng và đôi khi không được kiểm soát, có thể trong một số trường hợp dẫn đến những cuộc “gặp gỡ” gần gũi giữa con người và động vật hoang dã.
VIRUS SỐT XUẤT HUYẾT KÍCH THÍCH GEN LÀM MUỖI ĐÓI HƠN
DENV đã tạo ra một sự lây nhiễm lớn trong cơ quan khứu giác chính của muỗi, bộ phận râu, dẫn đến những thay đổi về thừa thãi các phiên mã của các gen tìm vật chủ quan trọng.
ĐỘT PHÁ: CHIẾN THẮNG VỚI VẮC-XIN SỐT XUẤT HUYẾT
Để được bảo vệ hoàn toàn, vắc xin sốt xuất huyết phải chống lại cả 4 chủng virus và việc bảo vệ phải có tác dụng lâu dài.
GOING NET
Xu hướng đô thị hóa ngày càng tăng trên khắp thế giới đã kéo theo việc một số bệnh truyền nhiễm thường xuất hiện ở vùng nông thôn, lây lan ở các khu vực thành thị.
BỆNH TRUYỀN NHIỄM NÔNG THÔN TRUYỀN THỐNG BIẾN THÀNH THỊ
06
TOÀN CẦU
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã công bố danh sách 17 bệnh nhiệt đới bị bỏ quên. Một số trong số chúng đã xuất hiện trong môi trường đô thị, các bác sỹ tại khu vực này cần phải nhận thức được về điều này. Nhiều bệnh trong danh sách có mặt ở các nước đang phát triển, các quốc gia đôi khi không thể tự giải quyết được chúng. Chính vì vậy, những quốc gia này cần sự giúp đỡ từ cộng đồng toàn cầu.
Nguồn dịch: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC6897397 1 Global Dengue and Aedes-transmitted diseases Consortium, International Vaccine Institute, Seoul, Korea 2 Faculty of Epidemiology and Population Health, London School of Hygiene and Tropical Medicine, London, United Kingdom 3 Department of public health epidemiology, Centre MURAZ, Bobo-Dioulasso, Burkina Faso, Africa 4 Department of Epidemiology, Biostatistics, and Occupational Health, McGill University, Montreal, Quebec, Canada 5 Action-Gouvernance-Integration-Renforcement (AGIR), Program Equité, Ouagadougou, Burkina Faso, Africa 6 Institut de Recherché en Sciences de la Santé, Ouagadougou, Burkina Faso, Africa 7 Department Of Zoology, University of Oxford, Oxford, United Kingdom 8 Institute for Research on Sustainable Development (IRD), UMI Résilience, Bondy, France 9 Centre National de Transfusion Sanguine, Ouagadougou, Burkina Faso, Africa 10 Institute for Research on Sustainable Development (IRD), CEPED, Université de Paris, ERL INSERM SAGESUD, Paris, France
07
GOING NET
Năm 2014, Liên Hợp Quốc ước tính rằng 54% dân số thế giới, tương đương 3,9 tỷ người, sống trong các trung tâm đô thị. Tăng trưởng kinh tế của các quốc gia gắn liền với việc đô thị hóa. Các quốc gia có thu nhập bình quân đầu người cao là những nước được đô thị hóa nhất, trong khi đó, các nước có thu nhập bình quân đầu người thấp thì việc đô thị hóa cũng ở mức thấp nhất. Sức mạnh tài chính và chính trị thường tập trung ở các thành phố, tạo ra các khả năng đặc biệt để ứng phó và phản ứng nhanh trong những trường hợp cần thiết.
Quá trình đô thị hóa liên quan đến việc gia tăng sự di chuyển và định cư của người dân trong môi trường xung quanh đô thị. Tuy nhiên, khái niệm “đô thị” lại không có một định nghĩa chung. Mỗi một quốc gia lại có những cách giải thích khác nhau và thông thường không có nước nào giống nước nào. Sự “tam sao thất bản” về định nghĩa “đô thị” có thể nằm ở các tiêu chí: sống ở thủ đô, các hoạt động kinh tế trong khu vực, quy mô dân số hay thậm chí mật độ (dân số). Việc thiếu một định nghĩa chung khiến chúng ta khó so sánh các quốc gia và các thành phố khác nhau về phương diện y tế công cộng cũng như gánh nặng và tác động của các bệnh truyền nhiễm.
08
TOÀN CẦU
Nhiều nghiên cứu được tiến hành chỉ ra những điểm khác nhau giữa thành thị và nông thôn nhưng lại không so sánh bối cảnh khác nhau của các đô thị. Do đó, chúng ta khó có được một cái nhìn tổng quan và hiểu rõ hơn về gánh nặng của các bệnh truyền nhiễm trong các môi trường cụ thể nêu trên. Trên thê giới, không có thành phố nào giống nhau hoàn toàn và tất nhiên, bệnh dịch địa phương và các thách thức y tế còn khác biệt hơn thế nữa. Các thách thức với thành phố này có thể hoàn toàn khác biệt đối với một nơi khác.
Nhiều quốc gia có thu nhập thấp hơn dự kiến sẽ có mức tăng trưởng dân số lớn ở khu vực thành thị, dẫn đến những thách thức đáng kể cho chính phủ và ngành y tế để theo kịp và phát triển các dịch vụ xã hội và chăm sóc sức khỏe khi các khu vực này phát triển.
Khoảng một nửa dân số thế giới hiện nay đang sống ở các đại đô thị. Hai lục địa có người sinh sống với tỷ lệ đô thị hóa thấp nhất là châu Á và châu Phi, với tỷ lệ tương ứng là 48% và 40% dân số sống ở các thành phố. Tỷ lệ này được kỳ vọng sẽ tăng đáng kể lên 64% (với châu Á) và 56% (với châu Phi), vào năm 2050. Trong thập kỷ vừa qua, châu Á là nơi có sự tăng trưởng dân cư đô thị cao nhất, mỗi tuần có thêm 0,88 triệu người di cư đến các đô thị. Châu Phi là lục địa đóng góp cao thứ hai với 0,23 triệu (người mỗi tuần). năng đặc biệt để ứng phó và phản ứng nhanh trong những trường hợp cần thiết.
09
GOING NET
Các trung tâm đô thị chính là nơi có thể khởi phát một đại dịch toàn cầu, rồi từ đó biến thành một cuộc khủng hoảng y tế toàn cầu. Việc quy hoạch thành phố một cách hợp lý chính là chìa khóa để nâng cao chỉ số sức khỏe và điều này tất nhiên phải nằm trong suy nghĩ của các cơ quan quản lý.
Sự trỗi dậy của các thành phố hiện đại mới cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro và thách thức về khía cạnh các bệnh truyền nhiễm mới nổi. Các yếu tố rủi ro trong môi trường đô thị có thể lấy ví dụ như: một ngôi nhà tồi tàn có thể là môi trường lý tưởng cho sự sinh sôi của các vật chủ trung gian truyền bệnh như côn trùng và động vật gặm nhấm. Điều này có liên quan đến nguồn cung nước sinh hoạt không phù hợp cũng như việc quản lý vệ sinh môi trường và chất thải. Môi trường luôn thay đổi của các thành phố đã khiến cho một số bệnh truyền nhiễm nhất định xuất hiện và tái xuất hiện. Các mầm bệnh thích nghi với môi trường đô thị từ các khu vực nông thôn có thể lây lan nhanh hơn và là gánh nặng lớn hơn cho các dịch vụ y tế. Bài viết này tập trung vào các nước đang phát triển và tác động tiềm tàng của chúng cũng như ảnh hưởng từ các dịch bệnh mới nổi lên cộng đồng.
10
TOÀN CẦU
Dân cư thành thị NHÓM DÂN CƯ KHÔNG ĐỒNG NHẤT VỚI CÁC ĐIỀU KIỆN SỐNG KHÁC NHAU
11
GOING NET
Thông thường, sống ở thành phố đồng nghĩa với việc bạn sẽ có nhiều lợi thế hơn so với sống ở vùng nông thôn, nhưng trong một vài trường hợp những lợi thế này cũng có thể là mối nguy hại cho sức khỏe. Tốc độ di cư nhanh chóng đến các thành phố có thể dẫn đến sự quá tải, chính điều này có thể tạo ra các khu ổ chuột hoặc thị trấn tồi tàn. Những điểm đặc trưng của khu ở chuột bao gồm nhà ở tồi tàn, thiếu nước sạch và các công trình vệ sinh tồi tệ. Việc thiếu thốn những tiện ích kể trên có thể là mối đe dọa với sức khỏe các cư dân và tạo điều kiện phát triển cho các căn bệnh truyền nhiễm. Vị trí của các khu ổ chuột thường nằm ngoài trung tâm thành phố, tại các địa điểm nguy hiểm hơn và những cư dân ở đây có thể cảm nhận sự thiếu hụt các cơ hội kinh tế và xã hội rõ ràng hơn so với các cư dân khác Cộng đồng và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe gặp những thách thức lớn trong việc cung cấp cho toàn bộ người dân các dịch vụ bình đẳng và đầy đủ. Các bên thu thập cần phải nhận thức được sự khác biệt trong các mối đe dọa đối với các bệnh truyền nhiễm, ở cả cấp địa phương và chính phủ.
Chẳng hạn, năm 2009, 96% dân số thành thị ở Cộng hòa Trung Phi sống trong các khu ổ chuột. Tại thủ đô Nairobi của Kenya, 60% dân số sống trong các khu ổ chuột và tỷ lệ tử vong ở trẻ em tại các khu vực này cao gấp 2,5 lần so với các khu vực khác của thành phố
12
TOÀN CẦU
Cơ sở hạ tầng tồi tàn trong khu ổ chuột có thể là một rào cản để cải thiện điều kiện vệ sinh, nhưng đồng thời việc cải thiện nguồn nước và các công trình vệ sinh có thể có tác động sâu sắc đến sức khỏe tổng thể của người dân khu vực này.
Hành vi tìm kiếm hỗ trợ y tế cũng được người dân thành phố chú trọng hơn, đặc biệt là ở khía cạnh tìm kiếm tư vấn y tế để chẩn đoán sớm và xác định hướng điều trị phù hợp. Thông tin về các bệnh truyền nhiễm và cách thức lây lan bệnh truyền nhiễm trong cộng đồng có thể giúp các cá nhân tự bảo vệ mình, nhưng kiến thức về các khu ổ chuột và bức tranh toàn cảnh về bệnh truyền nhiễm cũng rất quan trọng đối với các bác sĩ địa phương. Họ cần biết làm cách nào để chẩn đoán chính xác, ngay cả khi các công cụ chẩn đoán của họ có thể bị hạn chế. Giả thuyết đúng từ đầu trong những trường hợp này thậm chí còn quan trọng hơn.
13
GOING NET
QUY HOẠCH THÀNH PHỐ
Ngày nay, hơn một nửa dân số thế giới, gần 4 tỷ người, có đường ống dẫn nước máy tại nhà. Kể từ năm 1990, hơn 2 tỷ người đã được cải thiện nguồn nước uống và gần 2 tỷ người được cải thiện vệ sinh. Tuy nhiên, hơn 700 triệu người vẫn không được tiếp cận với nguồn nước uống an toàn và ở vùng hạ Sahara châu Phi, một nửa dân số thiếu các tiện ích như vậy. Trên toàn cầu, trong giai
14
Phần lớn các dự án cải thiện cơ sở hạ tầng về vệ sinh đều đã mang lại lợi ích cho các cộng đồng dân cư lớn, tuy nhiên, làn sóng di cư nhanh chóng đến các khu vực đô thị cho chúng ta thấy rằng rất nhiều công việc khó khăn vẫn còn đang chờ đợi ở phía trước.
đoạn từ năm 1990 đến 2012, tỷ lệ đại tiện ngoài trời đã giảm từ 24% xuống 14%. Tuy nhiên, 1 tỷ người trên thế giới đang thực hiện việc này. Trong 1 tỷ người kể trên, 90% sống ở khu vực nông thôn, nhưng số lượng dân cư đến cư các khu vực đô thị cũng tăng đáng kể. Từ năm 1990 đến 2012, nhóm dân cư đô thị thiếu vệ sinh thực tế đã tăng đáng kể từ 215 triệu lên 756 triệu, điều này có thể được giải thích bằng sự gia tăng dân số.
TOÀN CẦU
Thực hành vệ sinh tốt và điều kiện vệ sinh tốt đã làm giảm mức độ ô nhiễm. Tại thành phố Salvador của Brazil, với dân số 2,5 triệu người, việc cải thiện phạm vi hệ thống thoát nước từ 26 đến 80% hộ gia đình đã giúp giảm tỷ lệ các bệnh liên quan đến tiêu chảy xuống còn 22%. Các bệnh nhiệt đới bị bỏ quên có thể gây ra các vấn đề sức khỏe đáng kể ở các nước đang phát triển, và một số trong những bệnh này có đường lây truyền qua đường phân-miệng.
Cải thiện vệ sinh có thể góp phần cải thiện đáng kể cho sức khỏe cộng đồng. Tuy nhiên, ở nhiều quốc gia, người ta chỉ chú trọng việc điều trị bằng thuốc mà không cải thiện vệ sinh. Lý do có thể việc thực hiện các biện pháp cải thiện cơ sở hạ tầng cần thiết sẽ tốn kém hơn nhiều Tuy nhiên, thách thức thực sự nằm ở sự tăng trưởng không kiểm soát của các khu định cư ổ chuột.
15
GOING NET
Một vật chủ khác thích nghi với môi trường xung quanh thành phố là muỗi Aedes aegypti, yếu tố chủ chốt trong việc truyền nhiễm bệnh sốt xuất huyết. Sốt xuất huyết nằm trong danh sách các bệnh nhiệt đới bị bỏ quên của WHO và đang gia tăng trên toàn thế giới. Một số yếu tố quan trọng góp phần vào sự tăng vọt của căn bệnh này, chẳng hạn như đô thị hóa, toàn cầu hóa và thiếu kiểm soát muỗi. Aedes aegypti đẻ trứng trong các thùng chứa nước nhân tạo, đây là yếu tố chủ chốt trong chu kỳ truyền bệnh tại khu vực đô thị. Sự thích nghi của sốt xuất huyết thông qua vật chủ trung gian đã làm cho sốt xuất huyết trở thành bệnh truyền nhiễm đang gia tăng rõ rệt. Một mô hình để hiểu cơ chế này có thể giúp sử dụng hiệu quả hơn các hệ thống y tế ở các khu vực bị ảnh hưởng.
16
Số ca nhiễm bệnh đã tăng mạnh ở các vùng nhiệt đới trên thế giới trong 40 năm qua. Các nghiên cứu gần đây ước tính mỗi năm có khoảng 390 triệu trường hợp và khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là ở Ấn Độ, chiếm một phần ba số ca nhiễm mới.
Sốt xuất huyết đã trở thành một vấn đề toàn cầu và không còn giới hạn ở các nước đang phát triển.
TOÀN CẦU
Thái Lan là một quốc gia có tất cả bốn chủng của virus sốt xuất huyết và dịch sốt xuất huyết đã cho thấy khả năng lây lan từ vùng thủ đô Bangkok ra các khu vực nông thôn và các tỉnh khác.
Xu hướng đô thị hóa ngày càng tăng trên khắp thế giới đã kéo theo việc một số bệnh truyền nhiễm thường xuất hiện ở vùng nông thôn, lây lan ở các khu vực thành thị. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã công bố danh sách 17 bệnh nhiệt đới bị bỏ quên. Một số trong số chúng đã xuất hiện trong môi trường đô thị, các bác sỹ tại khu vực này cần phải nhận thức được về điều này.
Nhiều bệnh trong danh sách có mặt ở các nước đang phát triển, các quốc gia đôi khi không thể tự giải quyết được chúng. Chính vì vậy, những quốc gia này cần sự giúp đỡ từ cộng đồng toàn cầu.
17
GOING NET
Có rất nhiều yếu tố giúp một căn bệnh truyền qua vật chủ trung gian thích nghi được với các điều kiện của một môi trường đô thị. Ví dụ, virus West Nile (WNV) là một bệnh truyền nhiễm đã được phát hiện trong môi trường đô thị. Vật chủ trung gian của bệnh này chính là muỗi Culex Pipens, chúng đẻ trứng trong nguồn nước do con người tạo ra. Tuy nhiên, để vòng tuần hoàn truyền bệnh thành công, WNV cũng cần chim cổ đỏ (Turdus Migratorius ), loài chim này đẻ vài lứa mỗi mùa và chim con dễ nhiễm virus hơn chim trưởng thành. Hạt Dallas, Texas, đã trải qua một trận dịch nhiễm WNV vào năm 2012. Báo cáo giám sát cho thấy 25% các trường hợp tại Hoa Kỳ được tìm thấy ở Hạt Dallas. Nó cho thấy một bệnh truyền qua vật chủ trung gian có chu kỳ lây truyền thành công cần rất nhiều yếu tố khác nhau để ảnh hưởng đến con người.
18
TOÀN CẦU
Các bệnh truyền nhiễm mới nổi cũng có thể lây nhiễm một cách ổn định trong môi trường đô thị và việc giám sát chúng có thể giúp hạn chế các mối quan tâm lớn về sức khỏe cũng như chi phí cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. WHO có thể đóng một vai trò quan trọng trong cuộc chiến này thông qua việc kiểm soát và tuyên truyền kiến thức về dịch bệnh tốt hơn. Rất nhiều quốc gia đang phát triển không có tiềm lực phù hợp để đối phó với vấn đề này. Chính vì vậy, chúng ta cần coi đây là một vấn đề toàn cầu chứ không phải của riêng một quốc gia nào cả.
Nếu các vật chủ trung gian có thể thích ứng với môi trường đô thị và tài nguyên nhân tạo, thì những tác động tiềm ẩn đối với sức khỏe chính là mối quan tâm lớn nhất. Các chương trình kiểm soát và giám sát đầy đủ đều quan trọng, nhưng tại các thành phố và khu ổ chuột đang phát triển nhanh chóng, các biện pháp này rất khó thực hiện.
Vô số các bệnh nhiệt đới bị lãng quên là vấn đề lớn ở các nước đang phát triển, các quốc gia hiện đang trải qua tốc độ đô thị hóa nhanh hơn nhiều so với các nước phát triển. Lời kêu gọi giúp đỡ của WHO rất quan trọng và, ví dụ, sốt xuất huyết hiện đang trở thành một cuộc khủng hoảng toàn cầu. Sự trợ giúp an toàn và có mục tiêu sẽ trở thành yếu tố lớn cho vấn đề sức khỏe; sự trợ giúp đó có thể là một loại vắc-xin hiệu quả hoặc các chương trình kiểm soát vật chủ trung gian an toàn và dễ dàng.
19
GOING NET
CÁC THÀNH PHỐ HIỆN ĐẠI là chất xúc tác cho sự lây lan nhanh chóng của CÁC BỆNH TRUYỀN NHIỄM
20
TOÀN CẦU
Việc tập trung các nhóm dân số lớn trong một khu vực hạn chế có thể tạo ra các điều kiện hoàn hảo cho nhiều đại dịch khác nhau phát triển.
<>
Du lịch quốc tế đã kết nối thế giới trong thế kỷ trước, và chính điều này cũng tạo ra mối đe dọa tiềm tàng từ nhiều bệnh mới nổi. Lượng khách du lịch quốc tế đã tăng trưởng chóng mặt từ 25 triệu vào năm 1950 lên 1.087 triệu vào năm 2013.
<> Theo dự báo mới nhất của Tổ chức Du lịch Thế giới, lượng khách du lịch quốc tế sẽ tiếp tục tăng, và vào năm 2030, con số này dự kiến là 1,8 tỷ.
<> Với tốc độ tăng trưởng của du lịch hiện đại, các bệnh
truyền nhiễm rất dễ lây lan có thể là mối đe dọa tiềm tàng trong một môi trường hoàn toàn khác so với dịch bệnh ban đầu. Dân số đô thị và mật độ cư dân có tạo điều kiện cho một dịch bệnh mới xảy ra và tạo ra một thảm họa y tế công cộng, nếu không được kiểm soát nghiêm túc.
21
GOING NET
Thương mại và du lịch quốc tế có khả năng góp phần vào sự xuất hiện của đại dịch toàn cầu. SARS nổi lên như một mối đe dọa toàn cầu vào năm 2003. SARS được cho là bắt nguồn từ coronavirus giống như SARS (SCoV) của dơi và lây qua vật chủ là con người ở Trung Quốc do săn bắn và buôn bán dơi để lấy thức ăn. SARS từ đó lan rộng khắp thế giới, ví dụ như thông qua con đường du lịch quốc tế. Nó lây lan trong các tòa nhà các thành phố lớn và trong các bệnh viện thành phố với điều kiện y tế tốt. Nỗi sợ hãi của công chúng về du lịch dẫn đến thiệt hại kinh tế đáng kể, ảnh hưởng đến toàn bộ các quốc gia.
22
Ví dụ về SARS cho thấy thị trường thực phẩm ở miền nam Trung Quốc có thể là nguồn gốc của một cuộc khủng hoảng y tế trên toàn thế giới. Các tuyến du lịch đã kết nối các đô thị và các siêu đô thị toàn cầu, điều mà trước đây chưa từng có. Chính vì vậy, điều quan trọng là phải thực hiện các biện pháp phòng ngừa cần thiết trước khi dịch bệnh vượt khỏi tầm kiểm soát, và ở đây các tổ chức lớn như WHO, và các chính phủ, cũng đóng một vai trò quan trọng. Hành động sớm là vô cùng quan trọng, và các chương trình giám sát chức năng cần được thực hiện.
TOÀN CẦU
Bệnh sốt xuất huyết động vật truyền nhiễm là bệnh đặc hữu ở hầu hết các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, thường là những điểm du lịch nổi tiếng. Khách du lịch đến các quốc gia đặc hữu có thể góp phần vào sự lây lan của căn bệnh này. Gánh nặng từ căn bệnh này đang gia tăng, và ước tính là khi du khách trở về từ Đông Nam Á, Sốt xuất huyết hiện là nguyên nhân gây bệnh sốt thường xuyên hơn so với sốt rét.
Sốt xuất huyết hiện là một vấn đề sức khỏe tại các đô thị, đó là một trong những lý do chính giải thích tại sao sự gia tăng các ca nhiễm lại trở nên nghiêm trọng như vậy.
Không có bất cứ dấu hiệu nào cho thấy du lịch toàn cầu sẽ giảm và việc các siêu đô thị trên thế giới kết nối với nhau khiến cho việc giám sát toàn cầu trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là khi các bệnh truyền nhiễm xảy ra. Các biện pháp để ngăn chặn sự lây lan cần phải được thực hiện tại nơi khởi phát dịch bệnh, nhưng kiến thức về căn bệnh cần được thông tin cho cộng đồng quốc tế cũng các nhân viên y tế địa phương ở các nơi khác trên thế giới.
23
GOING NET
Ảnh hưởng của con người đến các hệ sinh thái tạo ra các giao điểm mà ở đó con người phải đối mặt với các căn bệnh mới có nguồn gốc từ động vật, và các căn bệnh này thể có tác động sâu sắc đến y tế khu vực cũng như thế giới. Xu hướng toàn cầu là đô thị hóa đẩy con người đến các hệ sinh thái chưa từng được biết đến trước đây. Trong số 335 bệnh truyền nhiễm mới nổi đã được công nhận từ năm 1940 đến 2004, hơn 60% là bệnh do động vật truyền nhiễm.
Sống tiếp xúc gần gũi với động vật được thuần hóa và săn lùng “thịt rừng” cũng có thể là yếu tố gây nguy cơ bệnh truyền nhiễm chuyển từ vật chủ động vật sang người. Việc phá rừng quá mức tạo ra sự tiếp xúc gần gũi hơn giữa người với dơi và thậm chí cả linh trưởng, cả hai loài này đều có khả năng là vật chủ cho virus “mới”.
24
CÁC LOẠI BỆNH LÂY TRUYỀN DO ĐỘNG VẬT
TOÀN CẦU
MỘT THÁCH THỨC CHO
Đô thị hóa nhanh chóng và đôi khi không được kiểm soát có thể, trong một số trường hợp nhất định, dẫn đến những cuộc ”gặp gỡ” gần gũi hơn giữa con người với động vật hoang dã.
TƯƠNG LAI Ngay cả khi không phải lúc nào dân cư thành thị đối mặt với môi trường hoang dã, nó vẫn có thể có ảnh hưởng đến sức khỏe ở khu vực đô thị. Xu hướng di chuyển đến khu vực đô thị đang đạt đỉnh. Đô thị là nơi đợt tiếp xúc với các hệ sinh thái mới xảy ra và các bệnh truyền nhiễm có thể được đưa vào các môi trường đô thị đang phát triển này. Sự tăng trưởng đôi khi không được kiểm soát của các thành phố đẩy người dân đến các hệ sinh thái hoang sơ khi mà các ngôi nhà được xây mới.
25
GOING NET
Các trung tâm đô thị mang lại cho cư dân nhiều khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế và xã hội hơn. Các yếu tố khác nhau, chẳng hạn như giáo dục, dịch vụ chăm sóc thiết yếu trực tiếp và khả năng đáp ứng nhanh chóng của các chính phủ đối với các mối đe dọa sức khỏe sắp tới, có thể đóng góp vào nâng cao các cơ hội tiếp cận này tại khu vực đô thị. Tuy nhiên, ở nhiều thành phố, người nghèo có thể gặp khó khăn trong việc tiếp cận việc chăm sóc sức khỏe đúng cách, do chi phí của các dịch vụ đó. Ở các khu vực nông thôn hơn, vấn đề thay vào đó có thể là khoảng cách đến phòng khám gần nhất, điều này có thể dẫn đến việc không điều trị kịp thời và hiệu quả. Sốt rét trong lịch sử đã và vẫn đang là một mối quan tâm lớn về mặt sức khỏe ở nhiều nơi trên thế giới. WHO ước tính, trong năm 2013, có 198 triệu trường hợp mắc sốt rét và 584 nghìn ca tử vong. Tỷ lệ tử vong cao nhất được ghi nhận là có liên quan chặt chẽ với các nước nghèo có tổng thu nhập quốc dân (GNI) trên đầu người thấp. Người ta ước tính rằng gần 25% tổng dân số châu Phi, tương đương 200 triệu người, hiện đang sống ở các khu vực đô thị nơi lây truyền bệnh sốt rét là điều hiển nhiên. Ở châu Phi, mỗi năm có từ 24,8-103,2 triệu cư dân đô thị nhiễm sốt rét lâm sàng.
26
TOÀN CẦU
Phạm vi tiêm chủng cũng có thể khác nhau đáng kể giữa các môi trường khác nhau, không chỉ giữa môi trường nông thôn và thành thị, mà còn giữa các khu đô thị, nông thôn và khu ổ chuột. Ở Changdigarh, một lãnh thổ liên minh của Ấn Độ, tiêm chủng đầy đủ cho trẻ em ở tuổi 2 là 30% ở các khu ổ chuột, 74% ở thành thị và 62,5% ở các vùng nông thôn. Tỷ lệ này cho thấy rằng có thể có nhiều lý do cho tình trạng tiêm chủng trong dân số ở các khu vực và quốc gia khác nhau trên thế giới. Tiêm chủng hiệu quả có thể là một biện pháp hiệu quả về chi phí ở các nước nghèo. Tỷ lệ tiêm chủng cao có thể ngăn chặn dịch bệnh ở các thành phố lớn và cứu nhiều mạng sống; tuy nhiên, tiêm chủng cần phải được cung cấp cho cả dân cư nông thôn và thành thị để đạt được lợi ích lớn nhất.
Kết luận
Các bệnh truyền nhiễm vẫn có tác động lớn đến sức khỏe toàn cầu, và đô thị hóa hiện đang làm thay đổi các đặc điểm của các bệnh này. Một số mầm bệnh có thể thích nghi với các điều kiện khác nhau và do đó tạo ra thách thức mới cho cả chính quyền địa phương và cộng đồng toàn cầu.
Quá trình đô thị hóa nhanh chóng cũng đã can thiệp vào các hệ sinh thái nguyên sơ. Những khu định cư mới này tạo ra sự tiếp xúc mới và gần hơn giữa người và động vật hoang dã, đây có thể là nguồn lây nhiễm các loại bệnh từ động vật. Các bệnh này có thể đã được biết từ trước hoặc mới xuất hiện, tạo ra sự chuyển đổi từ vật chủ động vật để gây bệnh ở người. Việc giám sát có tầm quan trọng hàng đầu trong việc theo dõi tầm ảnh hưởng của dịch bệnh và sẽ mang lại cho cả chính quyền địa phương và cộng đồng toàn cầu cơ hội phản ứng nhanh với các mối đe dọa sức khỏe cộng đồng.
27
COVER STORY
28
TIÊU ĐIỂM
Virus sốt xuất huyết
KÍCH THÍCH GEN LÀM MUỖI
ĐÓ I H Ơ N Tuyến nước bọt của muỗi Aedes aegypti cái tạo ra nhiều yếu tố miễn dịch, cũng như các phân tử điều hòa miễn dịch, giãn mạch và chống đông máu để tạo điều kiện cho việc hút máu.
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã xác định đặc điểm phản ứng của tuyến nước bọt ở muỗi A. aegypti đối với việc nhiễm DENV ở cả cấp độ biểu hiện gen và chức năng. Nhóm nghiên cứu phát hiện thấy rằng DENV gây ra biểu hiện của một số phiên mã gen mà các sản phẩm của chúng điều chỉnh sự nhân bản của vi rút trong tuyến nước bọt.
TÁC GIẢ
Lược dịch nghiên cứu của các nghiên cứu viên Trường Y tế Công cộng Johns Hopkins Bloomberg.
29
COVER STORY
dengue
30
Để đánh giá tác động của việc nhiễm DENV đối với chức năng và sinh lý của tuyến nước bọt, chúng tôi đã thực hiện một phân tích so sánh microarray trên toàn bộ gen giữa các phiên mã tuyến nước bọt A. aegypti chưa từng nhiễm DENV và các phiên mã đáp ứng với việc nhiễm DENV.
Sự lây nhiễm DENV dẫn đến việc điều chỉnh của 147 phiên mã đại diện cho nhiều lớp chức năng, bao gồm một số lớp cần thiết cho việc lây truyền virus, chẳng hạn như miễn dịch, hút máu và tìm kiếm vật chủ.
Gen trung gian RNAi vô hiệu hóa ba gen đáp ứng với việc nhiễm DENV - một cathepsin B, một cystatin giả định và một protein giả định chứa ankyrin lặp lại - đã điều chỉnh đáng kể sự mô phỏng DENV trong tuyến nước bọt.
Hơn nữa, việc vô hiệu hóa hai gen protein liên kết chất tạo mùi (OBPs) đáp ứng với việc nhiễm DENV dẫn đến sự thỏa hiệp chung khi hút máu từ một vật chủ bằng cách tăng thời gian bắt đầu thăm dò và thời gian thăm dò trước khi hút máu thành công.
TIÊU ĐIỂM
dengue vết cắn của muỗi DENV đã tạo ra một sự lây nhiễm lớn trong cơ quan khứu giác chính của muỗi, bộ phận râu, dẫn đến những thay đổi về thừa thãi các phiên mã của các gen tìm vật chủ quan trọng.
Điều bất ngờ là, virus cũng tạo ra các phiên mã của hai protein liên kết chất tạo mùi, mà chúng tôi chứng minh là rất quan trọng đối với hành vi tìm kiếm và thăm dò vật chủ của muỗi. Đây là nghiên cứu đầu tiên chứng minh rằng bên cạnh việc ảnh hưởng đến các quá trình tế bào điều chỉnh sự nhân bản của virus, DENV còn có khả năng thay đổi các quá trình hóa trị theo những cách có thể làm gia tăng sự lây truyền virus.
Virus sốt xuất huyết (DENV) lây truyền từ người sang người qua vết cắn của muỗi Aedes aegypti bị nhiễm bệnh. Vì virus được cấy trong nước bọt, nên tuyến nước bọt có nhiễm bệnh của muỗi là một yêu cầu thiết yếu để truyền bệnh. Ngoài ra, tuyến này còn tạo ra nhiều hợp chất hoạt tính sinh học tạo điều kiện cho việc hút máu. Mặc dù tuyến nước bọt có vai trò quan trọng trong lây truyền DENV, vẫn còn chưa có nhiều thông tin về sự tương tác giữa vật chủ và mầm bệnh, ở cấp độ phân tử, tại bộ phận này.
Tuy nhiên, nhiễm DENV không ảnh hưởng nhiều đến thời gian bắt đầu thăm dò hoặc thời gian thăm dò trong hệ thống lây nhiễm ở phòng thí nghiệm của chúng tôi.
Ở đây, lần đầu tiên chúng tôi cho thấy tuyến nước bọt của muỗi gắn kết các phản ứng để ức chế DENV, do đó điều chỉnh biểu hiện của các gen liên quan đến hóa chất điều chỉnh hành vi kiếm ăn (hút máu). Những tương tác qua lại này có thể có khả năng ảnh hưởng đến sự lây truyền DENV giữa người với người.
31
COVER STORY
Tuyến nước bọt của muỗi đóng vai trò quan trọng trong việc lây truyền DENV. Thứ nhất, tuyến nước bọt đã nhiễm bệnh là một phần thiết yếu của chu kỳ lây truyền. Thứ hai, tuyến nước bọt tạo ra nhiều phân tử chống đông máu, chống viêm và giãn mạch, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thăm dò và hút máu, cũng như các yếu tố miễn dịch làm giảm tải lượng vi sinh vật trong máu và mật hoa được hút vào. Cuối cùng, nước bọt của muỗi có thể làm giảm phản ứng miễn dịch của vật chủ động vật có xương sống đối với việc nhiễm arbovirus, dẫn đến tăng nồng độ virus trong máu và tăng nguy cơ lây truyền virus.
Mặc dù sự lây truyền virus theo chiều dọc đã được ghi nhận, nhưng muỗi chủ yếu nhiễm DENV bằng cách hút máu của người bị nhiễm bệnh. Đầu tiên DENV lây nhiễm và tái tạo trong biểu mô đoạn giữa ruột của muỗi. Sau đó, nó lây lan qua tán huyết để nhân rộng trong các cơ quan khác như mô mỡ và khí quản, cuối cùng đi vào tuyến nước bọt trong khoảng 10–14 ngày sau khi hút máu. Khi đã có trong nước bọt, DENV có thể được cấy vào vật chủ người khi muỗi hút máu, từ đó lây truyền bệnh.
PHƯƠNG pháp NGHIÊN CỨU
32
TIÊU ĐIỂM
Mặc dù có mức độ quan trọng như vậy trong lây truyền mầm bệnh, nhưng hiểu biết hiện nay về khả năng bảo vệ kháng virus trong tuyến nước bọt còn hạn chế và chủ yếu được thể hiện qua một nghiên cứu gần đây đã xác định một peptit giống cecropin với phản ứng kháng khuẩn và kháng virus được tạo ra khi tuyến này bị nhiễm DENV.
Muỗi tiếp xúc với nhiều loại vi khuẩn trong môi trường sống tự nhiên của chúng và có hệ miễn dịch bẩm sinh có khả năng tạo ra phản ứng mạnh chống lại thách thức của vi sinh vật. Ngoài sự can thiệp của RNA (RNAi), bộ chuyển đổi tín hiệu Toll và Janus kinase và chất kích hoạt các tuyến phiên mã (JAK-STAT) đã được phát hiện là những yếu tố đóng vai trò quan trọng trong việc phòng vệ của muỗi A. aegypti chống lại DENV. Tuy nhiên, cho đến nay, hầu hết các nghiên cứu về khả năng miễn dịch kháng virus của muỗi đã kiểm tra sự nhân bản của DENV ở đoạn ruột giữa (midgut), nhưng không kiểm tra sự sao chép của DENV trong các bộ phận sinh học liên quan khác như tuyến nước bọt. Ngoài ra, mặc dù đã được lưu trữ tư liệu rõ ràng về sự tham gia của các tuyến Toll và JAK-STAT trong khả năng miễn dịch của côn trùng, các cơ chế phân tử cụ thể mà qua đó các tuyến này hoạt động vẫn chưa được xác minh. Các mẫu phân tử liên quan đến mầm bệnh virus (PAMP) và các thụ thể nhận dạng mẫu côn trùng liên quan (PRR) vẫn chưa được phát hiện và chỉ xác định được một vài phân tử tác động kháng virus giả định.
33
COVER STORY
Các thí nghiệm này đã cho thấy các mô hình hấp dẫn về sự phong phú của nhiều phiên mã khác nhau đẫn tới ảnh hưởng lớn của việc nhiễm DENV lên nhiều chức năng của tuyến nước bọt, bao gồm cả những chức năng liên quan đến miễn dịch, tìm kiếm vật chủ và hút máu. Để xác nhận mức độ liên quan về chức năng của sự phong phú về phiên mã được điều chế DENV, chúng tôi đã sử dụng phương pháp làm vô hiệu quá gen qua trung gian RNAi để chỉ ra rằng ba phiên mã làm giàu tuyến nước bọt gây ra nhiễm DENV có thể điều chỉnh sự nhân bản DENV trong tuyến nước bọt, chứng thực cho phát hiện trước đó rằng cơ quan này gắn kết một phản ứng kháng virus.
34
Để hiểu rõ hơn về cách mà tuyến nước bọt của muỗi A. aegypti trải qua sự lây nhiễm DENV ở cấp độ bộ sao chép toàn cầu, chúng tôi đã sử dụng các phân tích dựa trên microarray toàn bộ gen để so sánh tuyến nước bọt chưa từng bị nhiễm DENV và tuyến nước bọt bị Ngoài ra, lần đầu tiên chúng tôi cho rằng việc vô hiệu hóa nhiễm DENV. hai phiên mã protein liên kết chất tạo mùi (OBPs) gây ra nhiễm DENV làm suy giảm khả năng tìm kiếm vật chủ và hút máu của muỗi, cho thấy rằng virus có khả năng thay đổi hành vi của muỗi thông qua sự quy định của gen hóa trị. Cuối cùng, chính từ những phát hiện này, chúng tôi đã mở rộng nghiên cứu của mình để chỉ ra rằng DENV có khả năng gây tác động rộng hơn đến quá trình hóa trị của muỗi bằng cách lây nhiễm vào cơ quan khứu giác chính của muỗi, đó là bộ phận râu.
TIÊU ĐIỂM
P�ên mã �yến nước bọt của muỗi A. æ��i
Để xác định phiên mã tuyến nước bọt của muỗi A. aegypti về mặt gen, phiên mã nào được làm giàu trong tuyến nước bọt của muỗi chưa bị nhiễm bệnh liên quan đến xác côn trùng, chúng tôi đã sử dụng phân tích microarray toàn bộ bộ gen để so sánh mức độ phong phú phiên mã trong tuyến nước bọt chưa bị nhiễm và các mẫu xác chưa bị nhiễm. Chúng tôi lập luận rằng phân tích này sẽ cung cấp thông tin về chức năng gen tiềm năng, vì các phiêm mã giàu tuyến nước bọt sẽ có nhiều khả năng thực hiện các chức năng cụ thể cho cơ quan này. Trong tổng số các phiên mã biểu hiện tuyến nước bọt, 2255 (13,2%) được làm giàu đáng kể trong tuyến nước bọt lien quan đến xác côn trùng, 2565 (15,0%) được làm giàu đáng kể trong xác liên quan đến tuyến nước bọt, trong khi 8722 (51,1%) có mức độ phong phú phiên mã tương tự nhau trong hai cơ quan của muỗi.
Các phiên mã của 3805 gen (22,3%) không thể phát hiện được hoặc không đáp ứng các tiêu chí về tín hiệu thành nhiễu (signal-to-noise criteria) của chúng tôi (Bảng 1).
Nghiên cứu trước đây của Ribeiro et al. (2007) đã phát hiện các phiên mã từ 835 gen được chú thích thông qua trình tự sắp xếp của tuyến nước bọt của A. aegypti trong thư viện thẻ biểu thức trình tự (EST). Nghiên cứu của chúng tôi đã phát hiện ra phần lớn (789/835) các phiên mã này, hỗ trợ tính chắc chắn và hợp lệ của phương pháp tiếp cận dựa trên microarray của chúng tôi.
35
COVER STORY
Bảng 1
24 phiên mã liên quan đến các chức năng tiêu hóa được làm giàu trong tuyến nước bọt. Trong số này có sáu alpha-amylase (ba trong số đó thuộc nhóm có độ phong phú cao AAEL009524, AAEL000392, AAEL006719) và một alpha-glycosidase, có nhiều khả năng đóng vai trò trong việc tiêu hóa mật hoa. Một số phiêm mã của enzym tiêu hóa protein, bao gồm 12 trypsin, một amidase, một
serine protease và một endopeptidase, đã được làm giàu trong tuyến nước bọt. Các enzym này trong nước bọt có thể được tiêu hóa cùng với máu và hỗ trợ quá trình tiêu hóa của nó. Ngoài ra, chúng có thể tham gia vào quá trình phân giải protein xảy ra ở vật chủ có xương sống trong khi hút máu, chẳng hạn như ngăn ngừa cục máu đông hoặc tiêu hóa các thành phần ma trận ngoài tế bào.
TIÊU HÓA ĐƯỜNG VÀ PROTEIN
36
TIÊU ĐIỂM
Các chức năng liên quan đến miễn dịch
148 phiên mã với các chức năng liên quan đến miễn dịch giả định (trong đó 14 phiên mã thuộc nhóm có mức độ phong phú cao) được làm giàu tuyến nước bọt và đại diện cho nhiều họ gen miễn dịch. Chúng bao gồm hai protein MD2, sáu protein liên quan đến �ibrinogen, tám peptit kháng khuẩn (AMP), 27 protease serine và một số gen liên quan đến Toll (ba Spaetzles và hai Tolls). Mặc dù chưa có nhiều thông tin về vai trò tiềm tàng của những gen này trong khả năng miễn dịch của tuyến nước bọt, nhưng sự phong phú của chúng trong cơ quan này cho thấy rằng tuyến nước bọt có khả năng tạo ra các phản ứng miễn dịch mạnh và đa dạng chống lại thách thức của mầm bệnh để đảm bảo sự vô trùng của máu và mật hoa được hút vào.
AMP có thể hoạt động chống lại vi khuẩn mà muỗi tiếp xúc trực tiếp trong quá trình kiếm ăn, ví dụ như trong nguồn chứa đường hoặc trên da động vật có xương sống. Một trong những phiên mã AMP làm giàu tuyến nước bọt (AAEL000598) mã hóa cecropin (AAEL000598) mà trước đây đã được phát hiện gây nhiễm DENV trong tuyến nước bọt và có hoạt tính kháng DENV và kháng khuẩn trong ống nghiệm. Đáng chú ý có một số lượng lớn các phiên mã serine protease làm giàu tuyến nước bọt; những điều này có thể liên quan đến sự hoạt hóa con đường miễn dịch thông qua việc kích hoạt các dòng serine protease , hoặc một số trong số này có thể đóng vai trò nuôi máu thông qua thủy phân protein vật chủ để ngăn ngừa đông máu hoặc viêm nhiễm.
37
COVER STORY
Việc hút máu kích hoạt các phản ứng của vật chủ có xương sống, ức chế sự lưu thông máu, kích hoạt khả năng phòng thủ của chất kháng khuẩn, hoặc gây sự chú ý của vật chủ đến con muỗi đang hút máu. Ví dụ, ATP và ADP được giải phóng từ các tế bào bị thương và các tiểu cầu được kích hoạt tại vị trí muỗi đốt sẽ kích thích sự kết tụ tiểu cầu và phân hủy tế bào mast, đồng thời adenosine kích hoạt các phản ứng viêm dẫn đến cảm giác ngứa và rát, làm tăng khả năng phát hiện ra muỗi.
HÚT MÁU Để chống lại những phản ứng này, nước bọt của muỗi chứa nhiều enzym thực hiện vai trò chống cầm máu và chống viêm. Các apyrase trong nước bọt thủy phân ATP và ADP thành AMP, trong khi adenosine deaminase (ADAs) thủy phân adenosine thành inosine. Ba apyrase (hai apyrase rất phong phúAAEL006347 và AAEL006333) và hai phiên mã ADA (một phiên mã phong phú - AAEL005672) đã được tìm thấy rất giàu trong tuyến nước bọt.
38
TIÊU ĐIỂM
Thrombin là một enzym quan trọng trong quá trình đông máu của động vật có xương sống. Hai phiên mã giả định chống thrombin (AAEL007420, AAEL006007) được làm giàu tuyến nước bọt và cũng thuộc loại phiên mã rất phong phú. AAEL006007 mã hóa chất ức chế serine protease kiểu Kazal đã được đặc trưng một phần và được phát hiện có hoạt tính chống đông máu và ức chế thrombin. Các phiên mã của họ gen D7 được tìm thấy nhiều trong muỗi sialotranscriptomes. Các thành viên họ protein D7 đã được gợi ý để liên kết và cô lập các
amin sinh học như serotonin, histamine, norepinephrine và epinephrine, được giải phóng tại vị trí bị tổn thương và đóng vai trò trong việc kết tập tiểu cầu, co mạch và kháng viêm. Bốn phiên mã của thành viên họ D7 (một AAEL006417 - thuộc loại rất phong phú) đã được tìm thấy là làm giàu trong tuyến nước bọt. Các protein D7 có liên quan đến các protein liên kết chất tạo mùi (OBPs), và có thể đã cùng được chọn từ họ này để loại bỏ các amin sinh học.
39
COVER STORY
CHỨC NĂNG CẢM BIẾN HÓA HỌC
62 phiên mã có chức năng cảm biến hóa học giả định được làm giàu ở tuyến nước bọt, trong khi chỉ có 10 phiên mã được làm giàu ở xác động vật, điều này cho thấy rằng tuyến nước bọt có thể có những vai trò khác thường trong việc truyền tín hiệu cám biến hóa học. Các phiên mã này được mã hóa, trong số các protein khác, ba protein liên kết pheromone của côn trùng giả định là serine/ threonine kinase, bảy protein liên kết tạo mùi (OBPs), tám thụ thể tạo mùi (GRs) và nhiều thụ thể tạo mùi (ORs). Phần lớn các phiên mã này thuộc loại có mức độ phong phú thấp, ngoại trừ AAEL006408 (mã hóa một protein giả định được giữ với vai trò dự đoán trong liên kết chất tạo mùi) và AAEL002587 (mã hóa OBP11), thuộc loại có mức độ phong phú cao.
40
OBP là các protein được tiêt ra, có kích thước nhỏ, tan trong nước, có nhiều trong bạch huyết của các giác quan của côn trùng như râu hay pan phụ hàm trên. Chúng chuyên dùng để liên kết với phối tử, và được cho là hoạt động như chất mang các phân tử chất tạo mùi kỵ nước bằng cách tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển chúng qua bạch huyết trong nước đến các tế bào thần kinh OR. Sự phong phú của các phiên mã này trong tuyến nước bọt là điều bất ngờ, nhưng các phiên mã OBP của tuyến nước bọt đã được thấy ở A. aegypti và A. gambiae, và điều thú vị là chúng được điều hòa phiên mã ở cơ quan này sau khi hút máu, cho thấy chúng có thực hiện một số chức năng liên quan đến hành vi này.
TIÊU ĐIỂM
Phiên mã tuyến nước bọt
của A. aegypti đáp ứng với việc nhiễm DENV
Vì sự nhân bản của DENV trong tuyến nước bọt là điều kiện tiên quyết để lây truyền virus, tiếp theo, chúng tôi thực hiện phân tích microarray để so sánh mức độ phong phú của phiên mã giữa các tuyến nước bọt nhiễm DENV và tuyến nước bọt chưa nhiễm ở 14 ngày sau khi hút máu để hiểu rõ hơn về cách cơ quan này phản ứng với việc nhiễm DENV. Việc nhiễm DENV kích hoạt sự gia tăng đáng kể 130 phiên mã tuyến nước bọt và làm cạn kiệt 17 phiên mã. DENV đã thay đổi sự phong phú của 38 phiên mã với các chức năng liên quan đến quá trình trao đổi chất, vận chuyển và phản ứng với căng thẳng. Phần lớn các phiên mã này (33 trong số 38; 87%) được làm giàu ở tuyến nước bọt bị nhiễm bệnh, có lẽ cho thấy sự thay đổi trạng thái trao đổi chất của tế bào để hỗ trợ sự nhân bản của virus.
Sáu phiên mã với các chức năng tế bào dự đoán đã được làm giàu khi nhiễm bệnh; điều này có thể phản ánh sự duy trì tính toàn vẹn trong cấu trúc của tuyến nước bọt bị nhiễm bệnh, vì thông tin về tế bào học đã được ghi nhận ở cơ quan này sau khi nhiễm arbovirus.
41
COVER STORY
P H I Ê N
Hai phiên mã tetraspanin cũng được điều chỉnh tối đa, mã hóa các protein xuyên màng có vai trò trong tương tác giữa tế bào với tế bào, sự kết dính, vận động và tăng sinh. Tetraspanins được phát hiện là được tạo ra khi có sự nhiễm DENV của Aedes albopictus trên tế bào C6/36, và được cho là tạo điều kiện cho virus lây lan từ tế bào này sang tế bào khác.
42
MÃ
Mười hai phiên mã với các chức năng liên quan đến miễn dịch được tạo ra do nhiễm DENV, và bao gồm hai thành viên họ gen MD2, giúp gắn mã cho các protein tiết ra có chứa lipid nhận dạng Niemann-Pick. Động vật có vú MD2 là đồng thụ thể cần thiết cho thụ thể giống Toll 4 (TLR4) liên kết với lipopolysaccharide (LPS), và vô hiệu hóa thành viên gia đình giống A. gambiae MD2 AgMDL1 làm tăng đáng kể mức độ nhiễm falciparum ở đoạn ruột giữa. Những dữ liệu này cho thấy vai trò tiềm năng của các thành viên trong họ như A. aegypti MD2 trong bảo vệ miễn dịch chống lại DENV.
TIÊU ĐIỂM
T U YẾN
NƯỚ C
Những phiên mã mã hóa transferrin và protein liên quan đến �ibrinogen cũng được điều chỉnh tối đa. Các transferrin liên kết với sắt trong mối quan hệ chặt chẽ và có vai trò trong quá trình chuyển hóa sắt, miễn dịch và phát triển. Chúng được gia tăng kiểm soát khi nhiễm ký sinh trùng hoặc vi khuẩn, đồng thời có thể cô lập sắt từ các mầm bệnh; ngoài ra, các đoạn phân giải protein từ các protein này cũng được cho là hoạt động như các peptit chống vi sinh vật hoặc chất cảm ứng với miễn dịch. Các protein liên quan đến �ibrinogen liên kết vi khuẩn và ký sinh trùng ở muỗi và có thể hoạt động như các thụ thể nhận dạng mẫu.
BỌT
Phiên mã của ba protein lặp lại giàu leucine (LRR) và một protein lặp lại chứa ankyrin được tạo ra do nhiễm DENV. Họ protein chứa LRR rộng hơn bao gồm Tolls, và các thành viên trong họ thường tham gia vào các tương tác protein-protein và đường dẫn truyền tín hiệu. Ankyrin lặp lại các tương tác protein-protein qua trung gian và có trong một số protein liên quan đến hệ miễn dịch, chẳng hạn như vùng ức chế IkB của yếu tố phiên mã giống NFkB Rel2 của đường miễn dịch IMD ở muỗi. Để xác định xem liệu các phản ứng nhiễm trùng phiên mã tuyến nước bọt mà chúng tôi quan sát có đặc hiệu với cơ quan này hay chúng cũng xảy ra ở các mô khác, chúng tôi tiếp tục xác định đặc điểm của hệ thống phiên mã xác động vật đáp ứng với việc nhiễm DENV ở 14 ngày sau khi hút máu. Sự lây nhiễm DENV được điều chỉnh đáng kể ở 61 phiên mã và 74 phiên mã được điều chỉnh xuống trong các cơ quan. Chỉ có 28 gen được điều hòa tương tự giữa tuyến nước bọt và phần xác khi bị nhiễm bệnh, cho thấy rằng các phản ứng phiên mã trong hai cơ quan này là khá khác biệt.
43
COVER STORY
Ả NH H ƯỞNG CỦA GEN O BP
Phiên mã của OBPs 10 và 22 (AAEL007603 và AAEL005772) cho thấy số lượng tăng cao trong tuyến nước bọt khi nhiễm DENV, và cũng được làm giàu lên ở tuyến chưa nhiễm bệnh. Phát hiện này thật bất ngờ và thú vị đối với chúng tôi, và chúng tôi đưa ra giả thuyết rằng các gen này có thể tham gia vào tín hiệu cảm biến hóa học trong quá trình tìm kiếm hoặc thăm dò vật chủ.
44
TIÊU ĐIỂM
LÀM HI ỆU H À N H Ú T
VÔ HÓA H V I MÁU
Sự vô hiệu hóa các gen OBP10 hoặc OBP22 dẫn đến giảm xu hướng thăm dò ở muỗi, điều này có ý nghĩa vệt mặt thống kê đối với muỗi đã vô hiệu hóa OBP22. Việc vô hiệu hóa một trong hai OBP được phát hiện là làm gia tăng đáng kể thời gian bắt đầu thăm dò so với muỗi được xử lý bằng GFP dsRNA. Thời gian phát hiện bệnh cũng được tăng lên ở những con muỗi không có gen OBP, mặc dù sự gia tăng này không mang ý nghĩa thống kê.
Vì chỉ những con muỗi đã thăm dò mới được xem xét để phân tích thời gian thăm dò, nên số lượng muỗi đã thăm dò trong các nhóm không có OBP thấp hơn có thể góp phần làm cho thông số này ít có ý nghĩa về thống kê. Tóm lại, các dữ liệu này chỉ ra rằng sự vô hiệu hóa gen của các OBP này làm giảm hiệu quả hút máu ở muỗi.
45
COVER STORY
TỔNG KẾT
Như đã được nêu trước đây, tuyến nước bọt chưa nhiễm bệnh đã được làm giàu với các phiên mã liên quan đến quá trình tiêu hóa máu và đường, và các tuyến đóng vai trò chống cầm máu và chống viêm trong quá trình hút máu.
46
Ngoài ra, tuyến này cũng được làm giàu bởi nhiều phiên mã với các chức năng liên quan đến miễn dịch, cho thấy rằng cơ quan này có khả năng tạo ra phản ứng miễn dịch chống lại cả mầm bệnh từ động vật có xương sống và vi khuẩn gặp phải trong quá trình hút máu. Một phát hiện bất ngờ là số lượng lớn các phiên mã có vai trò cảm biến hóa học giả định, nhiều trong số đó được tìm thấy gia tăng ở tuyến chưa nhiễm bệnh so với mô ở cơ thể, điều này cho thấy một chức năng chưa được chứng minh của các phân tử này trong nước bọt của muỗi. Mặc dù có nhiều ở râu và pan hàm trên, OBPs của muỗi không chỉ biểu hiện ở mô khứu giác. OBPs trước đây đã được phát hiện trong tuyến nước bọt, cũng như ở các cơ quan khác của cơ thể như vòi trứng, lồng ngực, đốt sống lưng, và thậm chí cả tinh dịch của A. aegypti.
TIÊU ĐIỂM
Quả thực, màn hình của Culex quinquefasciatus OBPs đã cho thấy chỉ có một số ít được biểu hiện phiên mã ở mô khứu giác. Ở A. gambiae, một số phiên mã OBP được gia tăng trong cơ thể của muỗi đực và muỗi cái so với mô khứu giác, mà không có sự biểu hiện phối hợp của các thụ thể cảm biến hóa học. Tổng hợp lại, các nghiên cứu này cho thấy nhiều vai trò liên kết phối tử đối với OBP ngoài hành vi khứu giác. Các OBP của côn trùng và protein cảm biến hóa học (CSP) đã được phân lập ở các bộ phận không phải tế bào cảm xạ có phức hợp với các phối tử nội sinh, cho thấy các vai trò tương tự như các OBP của động vật có xương sống, cung cấp pheromone cho môi trường trong nước tiểu hoặc nước bọt. Mối liên hệ mật thiết của tuyến nước bọt và vòi trứng làm tăng khả năng của các OBP và OR do tuyến nước bọt biểu hiện có thể hoạt động trong các vai trò liên quan đến tiết dịch ở vòi trứng trong quá trình hút máu và đường. Thật vậy, OBP và OR đã được phát hiện ở vòi của ruồi và muỗi, cũng như ở các mô khác, điều này cho thấy vai trò kép của các phân tử này trong khứu giác và vị giác.
Ngoài ra, mặc dù vòi chủ yếu là cơ quan vị giác, nhưng nó cũng phản ứng với các kích thích khứu giác và các tế bào thần kinh OR kéo dài từ vòi vào thùy anten của não, cho thấy vòi có thể tham gia vào các quá trình khứu giác quan trọng khi ở gần vật chủ, chẳng hạn như đỗ xuống, thăm dò và hút máu. Chúng tôi suy đoán rằng các phân tử cảm biến hóa học tiết ra trong nước bọt có thể bao phủ phần vòi và tạo điều kiện cho việc nếm thử, mặc dù vẫn chưa có bằng chứng chứng tỏ quá trình này.
Các thử nghiệm làm vô hiệu hóa qua trung gian RNA đã được thực hiện để xác định các gen có thể điều chỉnh sự sao chép DENV trong tuyến nước bọt như một phản ứng phòng vệ ở muỗi. Sự vô hiệu hóa gen cathepsin B làm giảm đáng kể hiệu giá DENV trong tuyến nước bọt, trong khi sự vô hiệu hóa một cystatin giả định làm tăng đáng kể hiệu giá DENV trong tuyến nước bọt.
47
COVER STORY
Có một giả thuyết khả thi cho quan sát của chúng tôi đó là quá trình tự hủy của các tế bào bị nhiễm bệnh tạo điều kiện cho sự lây lan DENVtừ tế bào này sang tế bào khác trong tuyến nước bọt. Có một khả năng riêng biệt nhưng có liên quan đó là các tế bào bị nhiễm tạo ra các tác nhân kích hoạt dsRNA của RNAi bị loại bỏ khỏi quần thể bằng quá trình tự hủy tế bào, do đó tạo điều kiện cho virus lây truyền.
Sự vô hiệu hóa gen mã hóa một protein giả định có chứa ankyrin lặp lại dẫn đến hiệu giá DENV của tuyến nước bọt tăng đáng kể. Ankyrin lặp lại các tương tác giữa protein qua trung gian và có trong các protein liên quan đến hệ miễn dịch như vùng ức chế IkB của Rel2, yếu tố phiên mã giống NFkB của đường truyền tín hiệu miễn dịch IMD ở muỗi. Protein này thiếu peptide tín hiệu dự đoán và có thể hoạt động nội bào để điều chỉnh tín hiệu miễn dịch.
48
TIÊU ĐIỂM
Nhiễm DENV gây ra các bản sao OBP10 và OBP22 trong tuyến nước bọt, một phát hiện khiến chúng tôi ngạc nhiên và tò mò. OBP tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình khứu giác tìm kiếm và thăm dò vật chủ, mà muỗi dựa vào đó để hút máu. Vì sự lây truyền DENV cũng dựa trên những quá trình tương tự, chúng tôi đã nghiên cứu khả năng những OBP này ảnh hưởng đến hành vi hút máu. Thật vậy, sự vô hiệu hóa các gen OBP này làm giảm tỷ lệ muỗi thăm dò trên chuột, đồng thời cũng làm tăng thời gian bắt đầu thăm dò và thăm dò, cho thấy hành vi hút máu kém hiệu quả hơn. Theo hiểu biết của chúng tôi, đây là quan sát đầu tiên về khả năng điều biến arbo virus đối với hành vi hút máu của muỗi thông qua các phân tử liên quan đến cảm biến hóa học. -
Chúng tôi không thể xác định một cách chắc chắn liệu gen OBP bị vô hiệu hóa trong tuyến nước bọt hoặc trong các cơ quan cảm biến hóa học có phải là nguyên nhân dẫn đến việc suy giảm hoạt động hút máu này hay không. Hiệu quả vô hiệu hóa OBP trong tuyến nước bọt cao hơn và nhất quán hơn nhiều so với ở râu và pan hàm trên, cho thấy rằng sự vô hiệu hóa của các tuyến nước bọt có thể là nguyên nhân dẫn đến ít nhất một phần của tình trạng suy giảm khả năng hút máu được quan sát. Việc vô hiệu hóa gen ở râu của A. aegypti hiệu quả hơn thông qua việc tiêm dsRNA vào lồng ngực, cũng như với hệ thống biểu hiện virus Sindbis phụ kép; các phương pháp này có thể giúp làm sáng tỏ vị trí hoạt động của các OBP này.
49
COVER STORY
Vì cả thời gian bắt đầu thăm dò (một cách thức đo sơ bộ hành vi tìm kiếm vật chủ, liên quan đến chức năng ăng-ten) và thời gian thăm dò (liên quan đến các protein nước bọt ức chế quá trình cầm máu và viêm) đều bị ảnh hưởng tiêu cực bởi sự vô hiệu hóa của gen, nên cả hai cơ quan đều có thể có liên quan. Khi xem xét vấn đề này, chúng tôi cung cấp bằng chứng cho thấy DENV lây nhiễm và nhân lên thành công ở râu và pan hàm trên của A. aegypti cái , đồng thời các phiên mã của một trong các OBP (OBP10) cũng tăng lên trong các cơ quan cảm biến hóa hoạc khi nhiễm DENV. Ngoài ra, sự phong phú phiên mã tăng lên của Aaeg\Orco, đồng thụ thể OR phổ quát cần thiết cho quá trình cảm biến hóa học thông qua trung gian OR, cũng được quan sát thấy trong bộ máy hóa trị. Ý nghĩa của điều này là không rõ ràng, nhưng có thể cho thấy sự gia tăng tổng thể về sự phong phú phức hợp OR/Orco và sự dẫn truyền tín hiệu liên quan đến cảm biến hóa học trong quá trình nhiễm DENV.
50
TIÊU ĐIỂM
DENV dễ dàng lây truyền vào não muỗi, hệ thần kinh, và, như đã trình bày ở đây, bộ cảm biến hóa học làm cho việc điều chỉnh các hành đó một cách hợp lý.
Vì các thí nghiệm hành vi nhạy cảm với nhiều biến số môi trường khó kiểm soát trong môi trường phòng thí nghiệm, nên điều này không loại trừ giả thuyết rằng DENV điều chỉnh hành vi hút máu của muỗi thông qua việc điều chỉnh các phiên mã cảm biến hóa học. Trên thực tế, muỗi phải có khả năng xác định vị trí vật chủ ở khoảng cách xa hơn và đặc điểm này không thể tái tạo một cách hiệu quả trong phòng thí nghiệm; Do đó, những khác biệt nhỏ trong hành vi hút máu có thể gây ra tác động lớn hơn đối với việc tìm kiếm vật chủ trong những điều kiện như vậy.
Phân tích phiên mã của chúng tôi cho thấy các vai trò mới và chưa được xác minh đối với nhiều gen trong chức năng của tuyến nước bọt và phản ứng với mầm bệnh. Ngoài ra, sự lây nhiễm DENV trong tuyến nước bọt không chỉ kiểm soát các gen điều chỉnh sự nhân lên của virus mà còn các gen có khả năng ảnh hưởng đến quá trình hút máu (và do đó lây truyền DENV) bằng cách điều chỉnh hành vi tìm kiếm hoặc thăm dò vật chủ của muỗi. Việc xác định thêm đặc điểm của các gen này sẽ mang lại một bức tranh rõ ràng hơn về các tương tác qua lại giữa vật chủ và mầm bệnh tại bộ phận còn chưa được nghiên cứu đầy đủ này.
51
RISK MANAGEMENT
ĐỘT PHÁ CHIẾN THẮNG VỚI VẮC-XIN SỐT XUẤT HUYẾT
Các nhà nghiên cứu của Trường Y tế Công cộng Johns Hopkins Bloomberg (JHSPH) công bố một loại vắc-xin chống lại căn bệnh lây nhiễm cho 400 triệu người mỗi năm. - Bài viết đăng trên: https://www.jhsph.edu/year-
52
look/2016/dengue-vaccine-victory/
QUẢN LÝ RỦI RO
Mỗi năm có gần 400 triệu người ở hơn 120 quốc gia nhiễm sốt xuất huyết. Việc nhiễm một chủng virus không đồng nghĩa với việc người bệnh sẽ có kháng thể lâu dài để bảo vệ bản thân khỏi các chủng khác và khi người bệnh nhiễm một chủng khác, căn bệnh có thể trở nên trầm trọng hơn.
Hầu hết các ca bệnh xuất hiện ít hoặc không có triệu chứng, nhưng trong số hai triệu người bị sốt xuất huyết hàng năm, có 25.000 người không qua khỏi.
Sự tồn tại của bốn chủng virus sốt xuất huyết đã khiến việc phát triển một loại vắc-xin hiệu quả trở nên khó khăn. Để được bảo vệ hoàn toàn, vắc-xin sốt xuất huyết phải bảo vệ chống lại cả bốn chủng và việc bảo vệ phải có tác dụng lâu dài. Đây là hai vấn đề đã đặt ra những thách thức lớn trong việc tìm kiếm vắc-xin sốt xuất huyết.
53
RISK MANAGEMENT
Vào tháng 3 năm 2016, một thử nghiệm lâm sàng nhỏ do giáo sư Anna P. Durbin - Tiến sĩ y học tại Trường Bloomberg - người đã có hơn 15 năm nghiên cứu, phát triển vắc-xin phòng sốt xuất huyết, đã dẫn đến bước đột phá thú vị trong việc tạo ra vắc-xin phòng bệnh sốt xuất huyết. Các nhà virus học hàng đầu đánh giá kết quả của cuộc thử nghiệm là “đáng kinh ngạc” và “một bước tiến vượt bậc”, họ cũng cho rằng nghiên cứu này là bước tiến lớn đầu tiên trong nhiều thập kỷ trong cuộc chiến chống lại sốt xuất huyết.
54
Việc phát triển vắc-xin phòng bệnh sốt xuất huyết có một lịch sử rất gian truân với nhiều lần gián đoạn. Ví dụ, trong một thử nghiệm đầy hứa hẹn ở Brazil, một loại vắc-xin ba liều đã tạo ra kháng thể để bảo vệ cơ thể trong một năm, tuy nhiên loại vắc-xin này đã thất bại vì hai năm sau khi tiêm, vắc-xin không còn tác dụng.
QUẢN LÝ RỦI RO
SỐT XUẤT HUYẾT
VẮC-XIN
55
RISK MANAGEMENT
“Sốt xuất huyết là một căn bệnh độc nhất vô nhị, nếu bạn không làm chuẩn xác, bạn có thể khiến mọi chuyện trở nên tồi tệ hơn” - Tiến sĩ Durbin
56
QUẢN LÝ RỦI RO
Khi nhóm của Tiến sĩ Durbin đang phát triển thử nghiệm lâm sàng để kiểm tra vắc-xin đơn liều do Viện Y tế Quốc gia Hoa kỳ (NIH) phát triển, được gọi là TV003, mối quan tâm chính của các nhà nghiên cứu là việc đo kháng thể đơn thuần có thể không phải là một chỉ số đáng tin cậy về khả năng phòng ngừa bệnh sốt xuất huyết của vắc-xin.
Vì vậy, để chắc chắn về khả năng bảo vệ của vắc-xin, các nhà nghiên cứu đã quyết định tìm kiếm bằng chứng về virus trong máu. TV003 đã cho thấy kết quả tốt trong việc ngăn ngừa virus sốt xuất huyết chủng 1, 3 và 4, nhưng phản ứng miễn dịch chống lại virus chủng 2 không mạnh bằng.
Để điều tra, các nhà nghiên cứu từ Trường Bloomberg và Đại học Vermont đã tiêm vắc-xin cho 24 người lớn, trong khi 24 người khác được tiêm giả dược. Sau khi 41 người tham gia còn lại được tiêm vắc-xin tiếp xúc với virus sốt xuất huyết 2 tháng sau đó, kết quả xét nghiệm máu của họ cho thấy không có bằng chứng nhiễm, trong khi tất cả những người dùng giả dược đều bị phát hiện nhiễm bệnh.
57
SAFETY TIPS
HƯỚNG DẪN XÉT NGHIỆM Trung tâm Phòng chống và Kiểm soát Bệnh Dịch (CDC) khuyến cáo xét nghiệm virus sốt xuất huyết Dengue dành cho tất cả những ai đang sống hoặc đã từng đi tới những vùng có ghi nhận sự xuất hiện của virus Dengue và gần đây có những biểu hiện, triệu chứng của bệnh sốt xuất huyết.
58
LỜI KHUYÊN AN TOÀN
+
+ +
+
Các biểu hiện và triệu chứng của bệnh sốt xuất huyết có thể bao gồm sốt, nhức đầu, phát ban, đau nhức cơ thể và có các biểu hiện chảy máu. Các triệu chứng này có thể ở mức độ nhẹ hoặc nặng. Sốt xuất huyết nặng cần được đưa vào các cơ sở y tế. Sốt xuất huyết đôi khi có thể xuất hiện với các dấu hiệu và triệu chứng của viêm màng não vô khuẩn hoặc viêm não.
Xét nghiệm virus sốt xuất huyết Dengue KHÔNG được khuyến nghị cho: o Bệnh nhân không có triệu chứng o Tầm soát trước khi mang thai Bệnh nhân có triệu chứng phù hợp với sốt xuất huyết có thể được làm cả xét nghiệm chẩn đoán phân tử và huyết thanh trong 7 ngày đầu tiên của bệnh. Sau 7 ngày đầu tiên của bệnh, chỉ làm các xét nghiệm chẩn đoán huyết thanh.
59
SAFETY TIPS
• 1-7 ngày đầu sau khi khởi phát • • • •
triệu chứng được gọi là giai đoạn cấp tính của sốt xuất huyết. Trong thời kỳ này, virus sốt xuất huyết thường có trong máu hoặc chất dịch có nguồn gốc từ máu như huyết thanh hoặc huyết tương. RNA virus sốt xuất huyết có thể được phát hiện bằng các xét nghiệm phân tử. Protein phi cấu trúc NS1 là protein virut sốt xuất huyết cũng có thể được phát hiện bằng một số xét nghiệm thông thường. Kết quả âm tính từ xét nghiệm phân tử hoặc NS1 chưa phải là kết luận cuối cùng. Đối với bệnh nhân có triệu chứng trong 1-7 ngày đầu tiên của bệnh, bất kỳ mẫu huyết thanh nào cũng phải được kiểm tra bằng xét nghiệm NAAT hoặc NS1 và xét nghiệm kháng thể IgM. Thực hiện cả xét nghiệm kháng thể phân tử và IgM (hoặc kháng thể NS1 và IgM) có thể phát hiện nhiều trường hợp hơn là chỉ thực hiện một xét nghiệm trong khoảng thời gian này và thường cho phép chẩn đoán với một mẫu duy nhất.
Giai đoạn cấp tính: 1-7 ngày đầu tiên sau khi khởi phát triệu chứng
60
• Khoảng thời gian sau 7 ngày kể từ •
• • •
khi khởi phát triệu chứng được gọi là giai đoạn hồi phục của sốt xuất huyết. Bệnh nhân có kết quả xét nghiệm NAAT hoặc NS1 âm tính và xét nghiệm kháng thể IgM âm tính trong 7 ngày đầu tiên của bệnh cần xét nghiệm mẫu thử nghiệm để xét nghiệm kháng thể IgM. Trong giai đoạn hồi phục, kháng thể IgM thường xuất hiện và có thể được phát hiện một cách đáng tin cậy bằng xét nghiệm kháng thể IgM. Kháng thể IgM chống lại virus sốt xuất huyết có thể được phát hiện trong 3 tháng hoặc lâu hơn sau khi bị nhiễm bệnh. Bệnh nhân có kháng thể IgM chống lại virus sốt xuất huyết được phát hiện trong mẫu huyết thanh của họ bằng xét nghiệm kháng thể IgM và: 1) có kết quả NAAT hoặc NS1 âm tính trong mẫu bệnh phẩm cấp tính, hoặc 2) không có mẫu giai đoạn cấp tính, được phân loại là có nhiễm virus sốt xuất huyết được cho là gần đây.
Giai đoạn hồi phục: >7 ngày sau khi khởi phát triệu chứng
YO U R C O M PA N Y
LỜI KHUYÊN AN TOÀN
CÂN NHẮC ĐẶC BIỆT Các khu vực xuất hiện đồng thời nhiều loại �lavivirus: Đối với những người sống hoặc đi đến khu vực đồng thời có vi rút sốt xuất, Zika và các �lavivirus khác, các bác sĩ sẽ yêu cầu các xét nghiệm thích hợp để phân biệt tốt nhất virus sốt xuất huyết với các �lavivirus khác và có thể tham khảo ý kiến phòng xét nghiệm y tế công cộng tiểu bang hoặc địa phương hoặc CDC để được hướng dẫn. Phụ nữ có thai: Nếu bệnh nhân đang mang thai, có triệu chứng và đang sống ở hoặc đã đi đến một khu vực có nguy cơ mắc Zika, xét nghiệm Zika bằng NAAT ngoài sốt xuất huyết.
Giải thích kết quả kiểm tra Nếu xét nghiệm NAAT hoặc NS1 dương tính với sốt xuất huyết, có thể xác nhận bệnh nhận hiện tại đang mắc sốt xuất huyết. Nếu kết quả NAAT âm tính và xét nghiệm kháng thể IgM dương tính, bệnh nhận có thể được cho là mắc sốt xuất huyết.
Phản ứng chéo: Phản ứng chéo là một hạn chế của xét nghiệm huyết thanh sốt xuất huyết. Các xét nghiệm huyết thanh để phát hiện các kháng thể chống lại các �lavivirus khác như viêm não Nhật Bản, viêm não St. Louis, Tây Sông Nile, sốt vàng da và virus Zika có thể phản ứng chéo với virus sốt xuất huyết. Chính vì thế, phải cân nhắc hạn chế này với những bệnh nhân sống hoặc đã đi đến các khu vực nơi các �lavivirus cũng tồn tại. Do đó, một bệnh nhân đã từng hoặc gần đây bị nhiễm �lavivirus có thể dương tính khi được xét nghiệm để phát hiện kháng thể IgM chống lại virus sốt xuất huyết. Để xác định chính xác hơn nguyên nhân nhiễm trùng ở bệnh nhân có kết quả IgM dương tính, mẫu bệnh phẩm IgM dương tính có thể được kiểm tra kháng thể trung hòa đặc hiệu bằng xét nghiệm trung hòa giảm mảng bám (PRNT) (chống lại bốn loại huyết thanh virus sốt xuất huyết và các �lavivirus khác, tuy nhiên, PRNT không phải lúc nào cũng phân biệt rõ ràng giữa các chủng �lavivirus cụ thể.
61
www.iirr.vn