Tạp chí Life Balance | No.11 | OSHE Magazine - Xét nghiệm phân tử virus sốt xuất huyết

Page 1

Occupatonal Safety, Health, and Environment

SỨC KHỎE CỘNG ĐỒNG VÀ NHÀ Ở Mối quan hệ lâu dài

www.iirr.vn Lưu hành nội bộ

Xét nghiệm phân tử virus sốt xuất huyết

TRIỆT SẢN MUỖI mở ra cơ hội mới để kiểm soát các căn bệnh

SỐT CHIKUNGUNYA - SỐT XUẤT HUYẾT VÀ ZIKA


Thư ngỏ

Quý độc giả thân mến!

Là một trong những bệnh gây truyền nhiễm ở mức độ cấp tính, có thể tạo thành dịch virus Dengue, sốt xuất huyết khởi điểm do con người bị đốt bởi muỗi vằn. Hầu hết những vùng nhiệt đới khí hậu là môi trường lý tưởng để phát sinh bệnh nhanh nhất. Hằng năm, Việt Nam thường có mùa nóng vào tháng 7 đến tháng 10 là thời gian nguy cơ bùng dịch lớn nhất. Sự tồn tại của bốn chủng virus sốt xuất huyết đã khiến việc phát triển một loại vắc-xin hiệu quả trở nên khó khăn. Để được bảo vệ hoàn toàn, vắc-xin sốt xuất huyết phải bảo vệ chống lại cả bốn chủng và việc bảo vệ phải có tác dụng lâu dài. Đây là hai vấn đề đã đặt ra những thách thức lớn trong việc tìm kiếm vắc-xin sốt xuất huyết. Ngoài các dấu hiệu lâm sàng của bệnh, các xét nghiệm, phương pháp sinh học phân tử phát hiện bệnh chính xác và sớm nhất. Chính vì vậy, ban biên tập chúng tôi muốn chia sẻ những nghiên cứu chuyên sâu của các nhà khoa học thế giới để bạn đọc có thể trang bị thêm cho mình những kiến thức bổ ích, vì một mục tiêu chăm sóc sức khỏe cho mình và cộng đồng.

Nguyễn Hoàng Thanh VIỆN PHÓ VIỆN IIRR


CHỊU TRÁCH NHIỆM NỘI DUNG

HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP

TỔNG BIÊN TẬP NGUYỄN TẤT HỒNG DƯƠNG

PHÓ TỔNG BIÊN TẬP NGUYỄN HOÀNG THANH

BIÊN TẬP & THIẾT KẾ

PHÒNG PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG

www.iirr.vn

www.facebook.com/iirr.vn

NGUYỄN HỒNG MINH NGUYỄN QUANG HUY TS. NGUYỄN DANH HẢI NGUYỄN HOÀNG THANH TS. NGUYỄN THỊ QUỲNH HOA TS. NGUYỄN THỊ ANH THƯ PHAN THỊ HOÀI TRANG NGUYỄN BÍCH SƠN


06 28 44 60


CHĂN NUÔI GIA SÚC Ở ĐÔ THỊ VÀ DỊCH SỐT XUẤT HUYẾT Ở THÀNH THỊ VÀ VEN ĐÔ HÀ NỘI, VIỆT NAM

Nghiên cứu cắt ngang đánh giá nhận thức về bệnh sốt xuất huyết và điều tra sự hiện diện của các vật chủ trung gian bị ảnh hưởng như thế nào?

SỨC KHỎE CỘNG ĐỒNG VÀ NHÀ Ở: Mối quan hệ lâu dài

Có nhiều bằng chứng nhà ở của những người lao động sống trong những khu ổ chuột, kết hợp với các yếu tố bất lợi khác, làm phát sinh nhiều bệnh tật.

NGÔI NHÀ KHỎE MẠNH

Sự xuất hiện của bệnh hen suyễn như một vấn đề sưc khỏe cộng đồng đã làm mới sự quan tâm cải thiện chất lượng môi trường trong nhà.

TRIỆT SẢN MUỖI MỞ RA CƠ HỘI MỚI KIỂM SOÁT CÁC BỆNH SỐT CHIKUNGUAYA SỐT XUẤT HUYẾT - ZIKA

Có nhiều bằng chứng nhà ở của những người lao động sống trong những khu ổ chuột, kết hợp với các yếu tố bất lợi khác, làm phát sinh nhiều bệnh tật.

HEALTHY HOMES -


COVER STORY

06


TIÊU ĐIỂM

CHĂN NUÔI GIA SÚC và

DỊCH SỐT XUẤT HUYẾT

Hà Nội, Việt Nam Chăn nuôi ở đô thị cung cấp nguồn thực phẩm và thu nhập quan trọng, nhưng cũng có thể làm tăng nguy cơ lây truyền dịch bệnh. Các vật chủ trung gian như muỗi, có thể gia tăng và do đó gây ra sự lây truyền mạnh mẽ các bệnh truyền nhiễm, chẳng hạn như sốt xuất huyết; vốn được coi là bệnh do virus lây truyền qua muỗi nghiêm trọng nhất trên toàn cầu. Nghiên cứu cắt ngang này đánh giá nhận thức về bệnh sốt xuất huyết và điều tra sự hiện diện của các vật chủ trung gian bị ảnh hưởng như thế nào bởi việc nuôi gia súc trong các hộ gia đình thành thị ở thành phố Hà Nội, Việt Nam.

07


COVER STORY

Vietnam

Sốt xuất huyết được xếp hạng là bệnh virus do muỗi truyền nghiêm trọng nhất trên thế giới vào năm 2012. Sốt xuất huyết ban đầu được báo cáo tại Việt Nam vào năm 1959 và từ đó trở thành một đại dịch trên toàn quốc.

08


TIÊU ĐIỂM

o Tổng cộng, 3899 con muỗi đã được thu thập

và xác định, trong đó 52 (1,33%) là loài Aedes. Có một sự khác biệt đáng kể giữa hai huyện đã được ghi nhận, nhiều hộ gia đình ở Hà Đông có muỗi Aedes spp. (p = 0,02) và tỷ lệ mắc sốt xuất huyết cao hơn (p = 0,001).

o Không có mối liên quan đáng kể nào giữa

chăn nuôi và sự hiện diện của muỗi Aedes spp. (p=0,955), hoặc giữa chăn nuôi và tỷ lệ mắc sốt xuất huyết (p=0,08).

o Tóm lại, nghiên cứu này không tìm thấy bất

kỳ dấu hiệu nào cho thấy các hộ nuôi gia súc có nguy cơ nhiễm virut sốt xuất huyết cao hơn ở Hà Nội trong mùa thấp điểm của sốt xuất huyết, nhưng chỉ rõ tính cấp thiết của việc cung cấp thêm thông tin cho người dân thành thị, đặc biệt là về bảo vệ cá nhân.

Hanoi, Từ tháng 2 đến tháng 3 năm 2018, trong mùa thấp điểm xuất huyết nhất ở Hà Nội, đã có 140 hộ đã được phỏng vấn, trong đó 69 hộ có chăn nuôi. Một xu hướng chung đã được quan sát thấy; Những người sống ở huyện Đan Phương, một huyện ven đô, có kiến thức và thực hành tốt hơn về bệnh sốt xuất huyết so với quận Hà Đông.

09


COVER STORY

Năm 2010, Việt Nam có số ca mắc sốt xuất huyết lũy tích cao nhất ở khu vực Tây Thái Bình Dương (14.469 ca mắc bệnh / 100.000 dân).

Trong năm 2016, 34% tổng dân số sống ở các khu vực thành thị, con số này tăng lên mỗi năm.

Một số đợt bùng phát sốt xuất huyết đã được báo cáo tại Việt Nam trong những năm qua và các đợt dịch lớn xảy ra theo chu kỳ khoảng mười năm một lần (1987, 1998, 2009, 2017). Đợt dịch năm 2009 tại Hà Nội ghi nhận 16.263 ca mắc sốt xuất huyết, với tỷ lệ 121 ca/ 100.000 người, cao gấp 6,7 lần so với cùng kỳ năm 2008. Dịch sốt xuất huyết mới nhất ở Hà Nội xảy ra vào năm 2017 với 37.651 ca mắc và 7 trường hợp tử vong.

10

Thủ đô Hà Nội là thành phố đông dân thứ hai với dân số trung bình 7,3 triệu người. Nơi đây có quần thể gia súc cao với 22,3 nghìn con trâu, 129,5 nghìn gia súc (bò thị và bò sữa), 1,6 triệu con lợn và 24,4 triệu gia cầm theo dữ liệu từ Tổng cục Thống kê Việt Nam. Đô thị hóa và chăn nuôi thâm canh có mối quan hệ mật thiết. Chăn nuôi cung cấp nguồn thực phẩm quan trọng cho thành phố, cũng như thu nhập cho nông dân. Do nhiều người và động vật sống gần nhau, các vật chủ trung gian như muỗi có thể gia tăng về số lượng và do đó làm tăng khả năng lây truyền các bệnh truyền nhiễm như sốt xuất huyết, viêm não Nhật Bản (JE) và sốt rét.


TIÊU ĐIỂM

Việc chăn nuôi gia súc có thể gia tăng nơi sinh sản cho muỗi do vệ sinh không đúng cách, sự gia tăng lượng nước sử dụng và tạo ra nhiều cơ hội cho muỗi hút máu người. Việc chăn nuôi gia súc có thể ảnh hưởng đến số lượng vật chủ trung gian gần với con người, và do đó có giả thuyết cho rằng một số lượng lớn vật nuôi và con người tiếp xúc gần gũi với nhau có thể làm tăng nguy cơ lây truyền virus sốt xuất huyết, đặc biệt là nếu việc chăn nuôi có liên quan đến môi trường sống của bọ gậy và gây gia tăng số lượng muỗi. Do đó, mục đích của nghiên cứu này là điều tra sự hiện diện của vật chủ trung gian virus sốt xuất huyết (Aedes aegypti và Ae. Albopictus) trong mùa thấp điểm, và điều này bị ảnh hưởng như thế nào bởi sự chăn nuôi gia súc trong môi trường đô thị ở Hà Nội, Việt Nam, cũng như hiểu rõ hơn nhận thức của cộng đồng về bệnh sốt xuất huyết.

11


COVER STORY

Hình 1. Mật độ vật nuôi (gia súc và gia cầm) tại các huyện của thành phố Hà Nội (dân số / km2). Dữ liệu được lấy từ năm 2017 từ Cục Thú y Hà Nội. A. Mật độ gia súc B. Mật độ gia cầm C. Mật số lợn D. Mật độ người.

PHƯƠNG PHÁP Nghiên cứu cắt ngang đã được thực hiện ở hai quận ở Hà Nội, Việt Nam, từ tháng 2 đến tháng 3 năm 2018, đây là mùa có tỷ lệ sốt xuất huyết thấp nhất ở Hà Nội. Hai địa phương là quận Hà Đông và huyện Đan Phượng được lựa chọn dựa trên dữ liệu dân số chăn nuôi từ Chi cục thú y Hà Nội năm 2017. Hà Đông nằm ở trung tâm của Hà Nội với mật độ chăn nuôi thấp và dân số cao (6037,3 người/km2), trong khi Đan Phượng là khu vực ven đô với mật độ dân số chăn nuôi cao hơn (Hình 1 và 2) và mật độ dân số thấp hơn (1996,1 người/km2).

12


TIÊU ĐIỂM

KÍCH THƯỚC

&

HÌNH MẪU HỘ GIA ĐÌNH ĐƯỢC CHỌN

Hình 2. Bản đồ hiển thị 12 điểm GPS được chọn ngẫu nhiên cho hai quận Đan Phượng và Hà Đông.

Để tính toán kích cỡ mẫu theo yêu cầu, 10% hộ gia đình sẽ được cho là có vật chủ trung gian gây sốt xuất huyết dựa trên các kết quả trước đây của chúng tôi. Với độ chính xác dự đoán là 5 và mức tin cậy là 95%, kích cỡ mẫu được tính trong 139 hộ gia đình. Cỡ mẫu này cũng đủ để phát hiện sự chênh lệch 20% với khả năng 80% giữa các hộ gia đình không chăn nuôi và có chăn nuôi. Ở mỗi quận/huyện nói trên, 70 hộ gia đình đã được phỏng vấn và số hộ

chăn nuôi và không chăn nuôi là giống nhau được xác định thông qua việc lựa chọn các điểm GPS ngẫu nhiên và sự giúp đỡ của bác sĩ thú y địa phương. Trong nghiên cứu này, một hộ gia đình có gia súc được xác định là có ít nhất một loài vật nuôi lớn, ví dụ: gia súc hoặc lợn, hoặc ít nhất 10 động vật nhỏ, ví dụ: gà hoặc vịt.

13


COVER STORY

THU THẬP - NHẬN DẠNG MUỖI VÀ BỌ GẬY

Các hộ gia đình được hỏi ý kiến trước khi đồng ý việc thu thập muỗi bằng máy hút muỗi backpack aspirator. Máy hút muỗi được sử dụng trong 5 phút ± 30 giây trong và ngoài mỗi hộ gia đình. Muỗi được thu thập gần với vật nuôi trong các hộ nuôi gia súc, trong khi ở các hộ gia đình không có gia súc, việc thu thập ngoài trời được thực hiện xung quanh vườn. Không thể thu thập muỗi trong tất cả các hộ gia đình và trường hợp này được xử lý như những dữ liệu bị thiếu.

Trong mỗi hộ gia đình, chúng tôi tìm kiếm các thùng chứa nước mở và bọ gậythu lượm bọ gậy nếu có. Bọ gậy được thu thập bằng bộ công cụ thu thập bọ gậy và theo các phương pháp chuẩn của Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương (NIHE), Việt Nam.

14

Đối với các thùng chứa sâu hơn, một lưới tay được hạ xuống trong nước qua lưu

thông sau 5 lượt. Các thùng chứa nông được quan sát bằng mắt thường và nếu phát hiện thấy bọ gậy thì chúng sẽ được thu thập bằng pipet.

Những con muỗi được đếm và xác định thuộc cùng một chi với Aedes, cụ thể là Aedes aegypti và Ae. bạch tạng. Bọ gậy được xác định là thuộc chi (Anophele, Culex hoặc Aedes) thông qua kính hiển vi ánh sáng theo theo quy trình chuẩn tại NIHE.

Hồi quy logistic đa biến được thực hiện để đánh giá mối liên quan giữa nguy cơ của bệnh sốt xuất huyết trong gia đình với các biến độc lập khác như: chăn nuôi trong gia đình; kiến thức về sốt xuất huyết, tổng hợp của tất cả các triệu chứng và nơi sinh sản của muỗi được xác định chính xác; và khu vực huyện.


TIÊU ĐIỂM

Bảng 1. Đặc điểm nhân khẩu học của các hộ gia đình ở huyện Đan Phượng và quận Hà Đông

Bảng 2. Các hộ chăn nuôi ở huyện Đan Phượng và quận Hà Đông Phần lớn tất cả các động vật được nuôi nhốt ngoài trời tại cả hai quận/huyện, nhưng một số hộ gia đình thả rông động vật. Không có hộ nào nuôi nhốt động vật trong nhà hoặc một phần trong nhà.

15


COVER STORY

THÔNG TIN CHĂN NUÔI

ĐAN PHƯỢNG

HÀ ĐÔNG 33 hộ

36 hộ

449 con lợn TB 23,6 con/hộ

2881 con lợn TB 120 con/hộ

3464 con gà TB 157,5 con/hộ

1086 con gà TB 40,2 con/hộ

80,6% 23,3 + 3,2%

Tài liệu, internet...

44,2%

Cán bộ y tế

Loa phường

TV

55.0%

Không có sự khác biệt đáng kể giữa hai quận/huyện và cả hai đều khẳng định internet và các tài liệu truyền thông là một nguồn thông tin quan trọng

16

Hầu hết các hộ gia đình (95,7%) đã có kiến thức về nơi sinh sản của muỗi. Nước tù đọng (89,5%) và bể chứa nước (70,7%) là nơi sinh sản của muỗi được nhắc đến nhiều nhất ở cả hai quận/huyện.

NGUỒN THÔNG TIN VỀ SỐT XUẤT HUYẾT Liên quan đến việc lây truyền virus sốt xuất huyết, 126 hộ gia đình (90%) cho biết họ biết virus sốt xuất huyết lây truyền như thế nào và hầu hết tất cả những người này (98,89%) đã trả lời đúng. Tuy nhiên, một hộ gia đình (1,11%) ở Đan Phượng cho biết, sốt xuất huyết lây truyền qua ăn uống. Trong số 14 hộ gia đình (10%) không biết bệnh sốt xuất huyết lây lan như thế nào, có 7 hộ gia đình ở Hà Đông và 7 hộ còn lại ở Đan Phượng,


TIÊU ĐIỂM

NHẬN THỨC VỀ SỐT XUẤT HUYẾT Khi những người được hỏi được yêu cầu xếp hạng tình trạng sốt xuất huyết ở xã/phường, quận/huyện, Hà Nội, Việt Nam và thế giới, có thể nhận thấy một xu hướng rõ ràng đã được nhận thấy ở 2 quận/huyện. Những người được hỏi sống ở Đan Phượng đã xếp loại sốt xuất huyết là một vấn đề trung bình hoặc nghiêm trọng so với những người được hỏi sống ở Hà Đông. Những người được hỏi sống ở Hà Đông thường coi sốt xuất huyết là một vấn đề nhỏ hoặc không biết liệu sốt xuất huyết có phải là một vấn đề thực sự hay không. Một xu hướng khác được quan sát thấy ở những người được hỏi ở cả hai quận/huyện là nhiều người thường có một số ước tính nhất định về việc liệu sốt xuất huyết có phải là vấn đề thực sự ở xã/phường và/hoặc quận/huyện của họ hay không. Tuy nhiên, khi được hỏi liệu sốt xuất huyết có phải là vấn đề trên thế giới hay không, một nửa số người được hỏi không biết (Hình 4).

Hình 4. Vấn đề sốt xuất huyết được phân loại bởi người được hỏi ở Đan Phượng và Hà Đông. A. Xếp loại vấn đề sốt xuất huyết ở địa phương. B. Xếp loại vấn đề sốt xuất huyết trên thế giới.

17


COVER STORY

Hình 5. Số hộ gia đình tự bảo vệ mình khỏi muỗi ở Hà Đông và Đan Phượng.

Hình 6. Số hộ gia đình có ít nhất một người được chẩn đoán mắc bệnh sốt xuất huyết trong các khoảng thời gian khác nhau trong năm.

18


TIÊU ĐIỂM

Bảng 3. Số lượng muỗi và bọ gậy thu thập được ở huyện Đan Phượng và Hà Đông.

THU THẬP

MUỖI

BỌ GẬY

Tổng số 3899 con muỗi được thu thập ở địa phương, trong đó chỉ có 52 con thuộc loài Aedes, hoặc Ae. aegypti hoặc Ae. albopictus (Bảng 3). Muỗi Aedes được thu thập tại ba hộ gia đình ở Đan Phượng và 11 hộ gia đình ở Hà Đông. Tất cả muỗi Aedes thu thập ở Đan Phượng là Ae. Bạch tạng nhưng chỉ có hai trong số những con muỗi Aedes ở Hà Đông là Ae. bạch tạng. Trong số 3899 con muỗi được thu thập, 2684 (68,84%) muỗi đã được thu thập trong các hộ nuôi gia súc và 1215 (31,2%) muỗi được thu thập trong các hộ gia đình không chăn nuôi.

Ở hai địa phương, 285 bọ gậy đã được thu thập, trong đó 52 bọ gậy thuộc chi Aedes và 37 thuộc Aedes spp. được thu thập ở Hà Đông. Có 233 bọ gậy Culex spp. và không có bọ gậy Anophele spp. (Bảng 3).

Tuy nhiên, không có mối liên quan đáng kể nào giữa việc chăn nuôi và sự hiện diện của Aedes spp. trong các hộ gia đình (p = 0,955) (Bảng 4). Tương tự, không có mối liên hệ nào được phát hiện khi chăn nuôi được chia thành chăn nuôi lợn, chăn nuôi gia cầm và nuôi động vật nhai lại.

19


COVER STORY

Việc chăn nuôi có thể ảnh hưởng đến số lượng vật chủ trung gian gần gũi với con người thông qua việc tạo ra các địa điểm sinh sản mới cho muỗi.

Nghiên cứu này không tìm thấy mối liên hệ giữa việc chăn nuôi gia súc và sốt xuất huyết, hay mối liên hệ giữa việc chăn nuôi gia súc và sự hiện diện của vật chủ trung gian truyền bệnh sốt xuất huyết Aedes spp. Khi phỏng vấn các hộ gia đình ở hai quận/huyện Hà Nội, Đan Phượng và Hà Đông, xu hướng chung cho thấy; người dân Đan Phượng có kiến thức, thái độ và thực hành sốt xuất huyết tốt hơn so với người dân ở Hà Đông.

20

Chúng tôi cũng quan sát thấy rằng cán bộ y tế (p = 0,03) và loa phát thanh (p <0,001) được coi là nguồn truyền thông quan trọng hơn đáng kể về bệnh sốt xuất huyết ở Đan Phượng, đây có thể là một lý do giải thích cho việc nhận thức về bệnh sốt xuất huyết tốt hơn ở đây. Do đó, điều quan trọng là phải nâng cao nhận thức và tăng cường nỗ lực trong các chiến dịch phòng chống sốt xuất huyết ở Hà Đông và các quận trung tâm khác. Trong các phân tích đa biến, nhận thức cao hơn có liên quan đến nguy cơ mắc bệnh sốt xuất huyết cao hơn trong hộ gia đình, nhưng phân tích này không bao gồm nguyên nhân gây bệnh, và do đó, việc từng mắc bệnh sốt xuất huyết trong hộ gia đình cũng góp phần nâng cao kiến thức.


TIÊU ĐIỂM

Ngoài ra, những người được hỏi ở Hà Đông báo cáo số ca mắc sốt xuất huyết nhiều hơn so với Đan Phượng, điều này có thể là do những người được hỏi ở Đan Phượng có kiến thức tốt hơn về bệnh sốt xuất huyết và do đó thực hành kiểm soát muỗi tốt hơn. Những kết quả này có thể bị sai lệch bởi sự khác biệt giữa những người được phỏng vấn ở hai quận/huyện. Tuy nhiên, các câu hỏi về nhân khẩu học của chúng tôi không phát hiện ra khác biệt đáng kể nào, mặc dù người dân vùng ven đô Đan Phượng có trình độ học vấn cao hơn người dân ở Hà Đông một chút. Một lý giải khác cho số ca mắc sốt xuất huyết cao hơn ở Hà Đông có thể là do mật độ dân số ở đây cao

hơn nhiều (6037,3 người/km2), so với mật độ dân số 1996,1 người/km2 ở Đan Phượng. Vì con người là vật chủ khuếch tán chính của vi rút sốt xuất huyết, do đó mật độ dân số cao hơn sẽ tạo điều kiện cho vi rút sốt xuất huyết lây truyền, dẫn đến khả năng nhiễm bệnh cao hơn. Kết quả từ nghiên cứu này phù hợp với ý kiến chung cho rằng những người sống ở khu vực thành thị có nhiều nguy cơ mắc bệnh sốt xuất huyết hơn.

Tuy nhiên, một nghiên cứu khác trước đây được thực hiện tại Việt Nam bởi Schmidt và cộng sự kết luận rằng những người sống ở khu vực nông thôn cũng có nguy cơ cao bị nhiễm vi rút sốt xuất huyết do thường xuyên sử dụng các dụng cụ chứa nước và không sử dụng nước máy, do đó, khu vực nông thôn có thể góp phần lây lan bệnh sốt xuất huyết như ở các khu vực thành thị. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tìm thấy ít muỗi Aedes spp ở khu vực ven đô, nhưng người dân ở đây cũng có nhiều kiến thức tốt hơn và biện pháp tự bảo vệ hơn.

21


COVER STORY

“ 22

Vì con người là vật chủ khuếch tán chính của virus sốt xuất huyết, do đó mật độ dân số cao hơn sẽ tạo điều kiện cho virus sốt xuất huyết lây truyền, dẫn đến khả năng nhiễm bệnh cao hơn.


TIÊU ĐIỂM

Bệnh sốt xuất huyết có thể xảy ra theo cụm, với nhiều trường hợp nhiễm bệnh có thể xảy ra xung quanh một trường hợp bệnh đầu tiên. Tuy nhiên, một nghiên cứu khác không nhận thấy tác động này đối với bệnh sốt xuất huyết có biểu hiện lâm sàng, mặc dù những người ở gần người mắc sốt xuất huyết có nhiều khả năng có IgM với vi rút này. Nghiên cứu tương tự cũng không tìm thấy sự khác biệt về tỷ lệ lây nhiễm đối với muỗi sống gần các ca bệnh. Gần như không có nhiều ấn phẩm tiếng Anh cung cấp kiến thức về sốt xuất huyết và các nghiên cứu về thái độ và thực hành phòng bệnh ở Việt Nam, cũng như các nghiên cứu về cách thức chăn nuôi gia súc trong môi trường đô thị và ảnh hưởng của nó đến vật chủ trung gian truyền bệnh. Tuy nhiên, một nghiên cứu về các hộ gia đình được thực hiện ở tỉnh Bình Thuận (miền nam Việt Nam) cho kết quả tương tự như nghiên cứu này; những người trả lời sống ở các khu vực có tỷ lệ mắc bệnh thấp có kiến thức tốt hơn về bệnh sốt xuất huyết và thực hành phòng bệnh tốt hơn. Họ cũng thấy rằng TV là nguồn thông tin quan trọng nhất về bệnh sốt xuất huyết, tương tự như trong nghiên cứu này. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng chỉ ra rằng các tài liệu truyền thông được coi là có ít tầm ảnh hưởng, điều này phù hợp với một phân tích tổng hợp gần đây cho thấy rằng các can thiệp bằng cách phân phối tài liệu truyền thông bằng văn bản ít ảnh hưởng đến kiến thức và thực hành của người dân.

23


COVER STORY

Trong nghiên cứu này, mặc dù các phân tích đa biến chỉ ra rằng các hộ gia đình có chăn nuôi ít có nguy cơ mắc bệnh sốt xuất huyết hơn. Người, động vật và vật trung gian chia sẻ môi trường và tương tác chặt chẽ với nhau. Mối quan hệ gần gũi này thúc đẩy việc lây truyền một số bệnh truyền nhiễm. Do đó, có thể có mối liên quan giữa việc nuôi nhốt gia súc trong môi trường đô thị và các bệnh do muỗi truyền khác, ví dụ, JE. Một nghiên cứu được thực hiện ở miền Nam Việt Nam đã điều tra sự xuất hiện của muỗi JE liên quan đến việc nuôi lợn trong môi trường đô thị. Nhiều vật chủ trung gian JE được tìm thấy trong môi trường đô thị khi nuôi lợn. Các kết quả từ nghiên cứu đó chỉ ra rằng có mối liên hệ giữa việc nuôi nhốt gia súc ở đô thị và việc gia tăng nguy cơ nhiễm bệnh do muỗi.

24

Người, ộng vật và vật trung gian chia sẻ môi trường và tương tác chặt chẽ với nhau.


TIÊU ĐIỂM

Cả muỗi trưởng thành và bọ gậy ều ược thu thập trong chuyến thăm thực ịa của chúng tôi. Nói chung, có ít muỗi Aedes spp ược thu thập hơn so với các loài muỗi khác ở cả huyện Đan Phượng và quận Hà Đông. Đối với một số hộ gia ình, chúng tôi không thu thập ược muỗi Aedes spp., tuy nhiên lại tìm thấy bọ gậy Aedes. Điều này có thể cho thấy rằng phương pháp sử dụng ể bắt muỗi hiện nay là không tối ưu.

Một yếu tố quan trọng khác cần được xem xét khi sử dụng máy hút muỗi Backpack aspirator làm phương pháp thu gom là khác nhau về thời gian thu gom muỗi giữa các hộ gia đình. Các loài muỗi khác nhau hoạt động vào các thời điểm cụ thể trong ngày, và muỗi Aedes spp. đặc biệt hoạt động mạnh vào buổi sáng và / hoặc lúc chạng vạng mặc dù chúng cũng đốt vào ban ngày. Trong quá trình điều tra thực địa, phần lớn các hộ được thăm vào ban ngày, tuy nhiên, thời gian giữa các hộ là khác nhau. Trong một nghiên cứu của Ndenga et al., số lượng muỗi Aedes aegypti được thu thập vào buổi chiều nhiều hơn đáng kể so với buổi sáng. Việc sử dụng máy hút muỗi blackpack aspirator cho phép nhắm vào những con muỗi đang nghỉ ngơi, tuy nhiên, vấn đề này được cho là chỉ đóng một vai trò nhỏ trong nghiên cứu.

25


COVER STORY

Số lượng muỗi Aedes spp. thấp có thể được giải thích bởi thời điểm khi nghiên cứu được tiến hành trong năm. Nghiên cứu thực địa được tiến hành trong tháng 3, tháng có tỷ lệ muỗi và nhiễm vi rút sốt xuất huyết thấp ở Hà Nội. Tỷ lệ mắc bệnh sốt xuất huyết theo mùa ở Việt Nam và cao điểm ở Hà Nội xảy ra trong khoảng thời gian từ tháng 6 đến tháng 11 (mùa mưa). Sau đó, số ca mắc bệnh giảm đột ngột, tiếp theo là tăng chậm vào tháng 6 . Kết quả từ nghiên cứu này cũng khẳng định rằng phần lớn các ca nhiễm vi rút sốt xuất huyết xảy ra vào mùa mưa, vì hầu hết các trường hợp trong nghiên cứu này (70%) đã được chẩn đoán trong khoảng thời gian từ tháng 6 đến tháng 8.

26

Tuy nhiên, nghiên cứu này cho thấy rõ ràng vật chủ trung gian muỗi Aedes có mặt trong mùa thấp điểm của dịch ở cả giai đoạn bọ gậy và trưởng thành chỉ ra rằng quá trình sinh sản của muỗi diễn ra liên tục, do đó không thể chủ quan với rủi ro nhiễm bệnh. Điều này có thể góp phần vào hiểu biết cần thiết của chúng ta về sinh thái học của vật chủ trung gian, do hiện vẫn còn nghi ngờ về mối liên hệ giữa các tập hợp vật chủ trung gian và nguy cơ đối với người. Điều thú vị là, nghiên cứu này vẫn có thể tìm thấy mối liên hệ giữa các hộ gia đình từng có thành viên bị sốt xuất huyết có nhiều khả năng có muỗi Aedes hơn các hộ gia đình khác, mặc dù các trường hợp bệnh đã xảy ra vào những thời điểm khác. Tuy nhiên, việc không thu gom muỗi trong mùa cao điểm sốt xuất huyết vẫn ảnh hưởng đến kết quả so sánh giữa các khu vực và không thể thực hiện phân tích mức độ loài do số lượng muỗi thu được ít. Do đó, nhiều nghiên cứu quy mô lớn hơn trong các mùa khác nhau cần được tiến hành.


TIÊU ĐIỂM

Ấu trùng Ae. aegypti giảm khoảng 90% sau một năm và được loại bỏ ở 2/3 xã vào cuối nghiên cứu, sau ba năm kể từ khi bắt đầu.

Việt Nam đang bị ảnh hưởng nặng nề bởi bệnh sốt xuất huyết và nền tảng để kiểm soát sốt xuất huyết là kiểm soát vật chủ trung gian truyền bệnh do các phương pháp điều trị và phòng ngừa khác còn thiếu. Do đó, nhu cầu đối với các phương pháp mới để kiểm soát bệnh sốt xuất huyết ngày càng tăng. Đã có một số ý tưởng về kiểm soát sốt xuất huyết được đề xuất ở Việt Nam nhằm giải quyết vấn đề này. Một ví dụ là việc sử dụng Mesocyclops (ăn bọ gậy) trong các thùng chứa nước lớn để giảm quần thể bọ gậy muỗi Aedes đã được sử dụng trong các chương trình cộng đồng ở một số tỉnh thành của Việt Nam. Trong một nghiên cứu của Nam và cộng sự, Bọ gậy Ae. aegypti giảm khoảng 90% sau một năm và được loại bỏ ở hai trong số ba xã vào cuối nghiên cứu, sau ba năm kể từ khi bắt đầu. Tương tự, tỷ lệ mắc sốt xuất huyết cũng giảm ở các xã tham gia nghiên cứu mặc dù số lượngđáng kế các trường hợp sốt xuất huyết đã được báo cáo ở các huyện xung quanh. Nguồn dịch: https://doi.org/10.1371/journal.pntd.0007774 - Pubilc 26/11/2019

27


RISK MANAGEMENT

SỨC KHỎE CỘNG ĐỒNG & NHÀ Ở

Mối quan hệ lâu dài

28


QUẢN LÝ RỦI RO

Ba mươi năm trước, chúng ta chuyển trọng tâm từ môi trường vật chất sang cá nhân. Ngày nay, chúng ta phải chuyển từ cá nhân trở lại môi trường, nhưng theo nghĩa rộng hơn là toàn bộ môi trường kinh tế và xã hội nơi cá nhân đó sống và di chuyển. - C. E. A. Winslow (chủ tịch của APHA, biên tập viên của Tạp chí, đồng thời là chủ tịch của Ủy ban Vệ sinh và Sức khỏe Cộng đồng)

Khái niệm nhà ở là một vấn đề sức khỏe cộng đồng không phải là mới. Vào giữa thế kỷ XIX, nhà nghiên cứu bệnh học Rudolf Virchow đã khuyên các nhà lãnh đạo thành phố rằng nhà ở đông đúc, được bảo trì kém có liên quan đến tỷ lệ lây truyền bệnh truyền nhiễm cao hơn. Ăng-ghen, trong nghiên cứu của mình về tầng lớp lao động ở Anh, đã lưu ý rằng “có nhiều bằng chứng nhà ở

của những người lao động sống trong khu ổ chuột, kết hợp với các yếu tố bất lợi khác, làm phát sinh nhiều bệnh tật”. “Loại bỏ các khu ổ chuột” và cải thiện chất lượng nhà ở cũng

như vệ sinh là các yếu tố quan trọng trong các chiến dịch kiểm soát bệnh sốt phát ban, bệnh lao và các bệnh truyền nhiễm khác vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.

29


RISK MANAGEMENT

Mối quan tâm đến nhà ở như yếu tố quyết định sức khỏe đã thay đổi nhằm đáp ứng với sự bùng phát bệnh truyền nhiễm liên quan đến nhà ở! Ví dụ, dịch tả ở thành phố New York vào những năm 1830), bất ổn xã hội và xung đột giai cấp, sự quan tâm của các nhà công nghiệp đến việc duy trì lực lượng lao động khỏe mạnh hơn, và suy thoái kinh tế đẫn đến khủng hoảng về số lượng và chất lượng nhà ở.

Do đó, sự quan tâm đến nhà ở và sức khỏe đã tăng lên vào đầu thế kỷ XIX do những lo ngại về các bệnh truyền nhiễm. Cuối thế kỷ XIX, phong trào cải cách vệ sinh được thúc đẩy bởi công nghiệp hóa đô thị và xung đột giai cấp ngày càng tăng. Đại khủng hoảng và bất ổn xã hội trong những năm 1930 đã mang lại sự chú ý về sức khỏe cộng đồng đối với nhà

30

ở. Trong giai đoạn sau Thế chiến II, việc thiếu nhà ở giá rẻ, trở nên trầm trọng hơn do các cựu chiến binh hồi hương cũng như sự di cư từ vùng nông thôn miền Nam, làm gia tăng vấn đề nhà ở. Trong những năm 1960 đến 1980, các nhà hoạt động đã giải quyết sự phân biệt chủng tộc trong vấn đề nhà ở, phong trào đòi hỏi dân quyền dẫn đến luật cấm phân biệt đối xử trong chính sách nhà ở, và phơi nhiễm chì trong nhà trở thành mối lo ngại lớn đối với sức khỏe cộng đồng. Mặc dù lịch sử toàn diện về sự tham gia của y tế công cộng với vấn đề nhà ở nằm ngoài phạm vi của bài viết này, tiếp theo chúng tôi cung cấp một số ví dụ minh họa.


QUẢN LÝ RỦI RO

Đ

ầu những năm 1800, mối quan hệ giữa điều kiện nhà ở và sức khỏe đã được công nhận giữa những nhà y tế công cộng ở Hoa Kỳ và Châu Âu dẫn đến sự phát triển của phong trào cải cách vệ sinh. Công nghiệp hóa làm dân số đô thị tăng trưởng nhanh không phù hợp với sự gia tăng đủ số lượng nhà ở. Với mong muốn tận dụng nhu cầu về nhà ở, các nhà xây dựng đã xây dựng nhà ở kém chất lượng hơn trong các khu vực chật chội của thành phố. Vào năm 1844, Ăng-ghen đã nhận định, “nói một cách ngắn gọn, chúng ta phải thú nhận rằng chỗ ở của người lao động ở Manchester [Anh quốc] không sạch sẽ, không tiện lợi và do đó họ không thể có cuộc sống gia đình thoải mái”.

Đặc điểm chung của nhà ở cho người lao động trong suốt thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX là không đủ ánh sáng và không khí, ít nhà vệ sinh và phòng tắm, và quá đông đúc. Ở thành phố New York, các cửa sổ trong nhiều phòng chung cư mở ra một giếng trời thay vì trực tiếp với không khí trong lành và hành lang lúc nào cũng “tối đen như mực”. Một số báo cáo cho thấy toàn bộ các gia đình sống trong các phòng đơn và có đến 30 người sống trong một căn phòng đơn của các nhà trọ. Những tình trạng này được Edwin Chadwick ở Anh và John Griscom và Jacob Riis ở thành phố New York ký họa lại.

31


RISK MANAGEMENT

Nhằm ứng phó với tình hình này, chính phủ đã thiết lập cơ sở cho hành động y tế công cộng ở cấp địa phương và quốc gia đồng thời thiết lập rõ ràng mối liên kết giữa y tế công cộng và nhà ở. Tại Hoa Kỳ, phong trào cải cách vệ sinh được thực hiện bởi các ban y tế và trong một số trường hợp bởi các hiệp hội y tế tự nguyện bao gồm các bác sĩ, quan chức nhà nước và các công dân trí thức khác. Họ giáo dục công chúng về vệ sinh, vận động cải cách chính sách và tìm cách loại bỏ những nơi ở đông đúc người, thông gió kém và bẩn thỉu, nguồn cung cấp nước không sạch, hệ thống thoát nước không phù hợp và thực phẩm không lành mạnh. Ở thành phố New York,

32


QUẢN LÝ RỦI RO

Y tế cộng đồng ở cấp địa phương

- quốc gia Y tế cộng đồng -

nhà ở

báo cáo của Hội đồng Vệ sinh về điều kiện vệ sinh môi trường của thành phố dẫn đến luật sức khỏe và nhà ở đầu tiên trong cả nước (Đạo luật Y tế Thành phố New York năm 1866 và Luật Nhà ở New York năm 1867). Nhiều báo cáo sau đó, cũng như luật pháp yêu cầu cửa sổ phải mở ra ngoài không khí thay cho giếng trời, các “công trình phụ” phải được lắp đặt riêng biệt cho mỗi căn hộ, lối thoát hiểm phải hoạt động tốt, hành lang phải được chiếu sáng đầy đủ, kết nối hệ thống nước thải thích hợp phải được lắp đặt và rác thải phải được khử bỏ thường xuyên. Những cải cách này đã mang lại thành công trong việc kiểm soát dịch bệnh truyền nhiễm.

33


RISK MANAGEMENT

Việc công nhận sơn có chứa chì là mối nguy hại cho sức khỏe là một chương quan trọng khác trong lịch sử liên quan đến sức khỏe cộng đồng trong nhà ở. Ngay từ năm 1914, hậu quả về sức khỏe của việc tiếp xúc với chì đã được thảo luận trong tài liệu y khoa. Vào giữa những năm 1920, có bằng chứng mạnh mẽ cho thấy nhiễm độc chì ở những người tiếp xúc và đặc biệt có hại cho trẻ em. Vào đầu những năm 1930, Sở Y tế Baltimore đã đáp ứng với mối đe dọa này bằng cách giáo dục cho các công dân. Sở Y tế Baltimore cũng tiếp tục thực hiện một chiến dịch tích cực trong suốt thế kỷ XX, cung cấp các xét

nghiệm chẩn đoán nhiễm độc chì miễn phí, kiểm tra nhà cửa, yêu cầu chủ nhà phải loại bỏ chì và bắt buộc phải dán nhãn cảnh báo cho sơn có chì. Thật không may, mãi cho đến những năm 1940 và đầu những năm 1950, các sở y tế liên bang và địa phương khác mới bắt đầu cảnh báo các cư dân của họ về sự nguy hiểm của sơn chì; sự chậm trễ này một phần là do các hành động cản trở của Hiệp hội các Ngành công nghiệp Chì. Dần dần, các lệnh cấm ở cấp địa phương được thực hiện trên khắp Hoa Kỳ. Cuối cùng, Ủy ban An toàn Sản phẩm Tiêu dùng đã cấm sử dụng tất cả sơn chì sau năm 1978.

việc công nhận sơn chứa chì là một mối nguy hại cho sức khỏe là một chương quan trọng khác trong lịch sử liên quan đến sức khỏe cộng đồng trong nhà ở

34


QUẢN LÝ RỦI RO

Ba mươi năm trước, chúng ta chuyển trọng tâm từ môi trường vật chất sang cá nhân. Ngày nay, chúng ta phải chuyển từ cá nhân trở lại môi trường, nhưng theo nghĩa rộng hơn là toàn bộ môi trường kinh tế và xã hội nơi cá nhân đó sống và di chuyển.

Hiệp hội Y tế Công cộng Hoa Kỳ (APHA) bắt đầu tham gia vào các vấn đề nhà ở vào năm 1937 với việc thành lập Ủy ban Vệ sinh Nhà ở. Năm 1941, C. E. A. Winslow (chủ tịch của APHA, biên tập viên của Tạp chí, đồng thời là chủ tịch của Ủy ban Vệ sinh và Sức khỏe Cộng đồng) đã tiếp thêm sinh lực cho cam kết của APHA.

35


RISK MANAGEMENT

Do đó, , C. E. A. Winslow đã lãnh đạo Ủy ban Vệ sinh và Sức khỏe Cộng đồng trong một cuộc kiểm tra các thành phần của nhà ở lành mạnh về các nhu cầu về thể chất, sinh lý và tâm lý. Ủy ban đã chuẩn bị một báo cáo gọi là Nguyên tắc cơ bản của Nhà ở lành mạnh và xây dựng một quy trình đánh giá để đánh giá nhà ở hiện tại theo định lượng khách quan. Công cụ đánh giá này được sử dụng ở nhiều thành phố của Mỹ để kiểm tra quỹ nhà ở và được đưa vào quy hoạch đô thị theo khuyến nghị của Sở Y tế Công cộng Hoa Kỳ. APHA đã định kỳ cập nhật các hướng dẫn về nhà ở lành mạnh. Phiên bản cuối cùng được xuất bản vào năm 1986. Năm 1999 và 2000, APHA đưa ra các tuyên bố chính sách liên quan đến vai trò của y tế công cộng trong các quy tắc thiết kế, xây dựng và sử dụng các tòa nhà.

36


QUẢN LÝ RỦI RO

37


RISK MANAGEMENT

ĐƯA YẾU TỐ

SỨC KHỎE

VÀO VẤN ĐỀ

NHÀ Ở

38


QUẢN LÝ RỦI RO

Các nỗ lực y tế công cộng hiện nay để cải thiện điều kiện nhà ở bao gồm việc tiếp tục các hoạt động lịch sử này cũng như đưa ra các chiến lược mới dựa trên các vấn đề mới nổi như chất lượng môi trường trong nhà. Sau đây, chúng tôi sẽ mô tả một số hoạt động của cơ quan Y tế Công cộng tại Seattle và Quận King (PHSKC) và các cơ quan tương tự tại các thành phố lớn của Mỹ.

Ngày nay, y tế công cộng ang làm thế nào với vấn ề này?

39


RISK MANAGEMENT

CÁC NGUYÊN TẮC, QUY TẮC và

Thực thi

40


QUẢN LÝ RỦI RO

Việc phát triển và thực thi hầu hết bộ quy tắc về nhà ở là trách nhiệm sở xây dựng và nhà ở. Ngành y tế giống như hầu hết những ban ngành khác, ban hành và thực thi bộ quy tắc về nhà ở giải quyết một số mối quan tâm nhất định (ví dụ: hệ thống ống nước, vệ sinh, sử dụng nhà ở). Bộ quy tắc của mỗi địa phương dựa trên bộ quy tắc thống nhất liên bang đặt ra các tiêu chuẩn tối thiểu cho việc xây dựng nhà ở mới, an toàn cháy nổ, hệ thống ống nước và hệ thống cơ khí. Tuy nhiên, bộ quy tắc này chỉ được coi là một tập hợp con của các điều kiện ảnh hưởng đến chất lượng nhà ở. Những quy tắc này gần như không giải quyết việc bảo trì hoặc khắc phục tình trạng không đạt chuẩn tại các tòa nhà hiện có.

41


RISK MANAGEMENT

Nhiều khu vực pháp lý đã ban hành các bộ luật về sức khỏe và phiền toái chung cho phép cơ quan sức khỏe cộng đồng can thiệp vào các tình huống đe dọa đến sức khỏe ngay lập tức.

Nhiều khu vực pháp lý đã ban hành các bộ luật về sức khỏe và phiền toái chung cho phép cơ quan sức khỏe cộng đồng can thiệp vào các tình huống đe dọa đến sức khỏe ngay lập tức, mặc dù các quy tắc này được áp dụng không thường xuyên cho các điều kiện nhà ở không đạt tiêu chuẩn. Một hạn chế lớn về tính hữu ích của bộ quy tắc là khó khăn trong việc thực hiện chúng. Các nguồn lực để kiểm tra và thực thi được trải rộng trên nhiều cơ quan và các cơ quan này thiếu nhân viên phù hợp cũng như không nỗ lực phối hợp với nhau. Một hạn chế khác là môi trường chính trị hiện tại, trong đó ủng hộ các giải pháp dựa trên thị trường và hành động pháp lý cá nhân thay vì quy định và thực thi khu vực công.

42

Năm 2000, các thành viên của Ủy ban Nhà ở và Sức khỏe Chung của APHA đã gặp gỡ các quan chức của Hội đồng Quy chuẩn quốc tế và Tổ chức Quốc tế NFPA (trước đây là Hiệp hội Phòng cháy chữa cháy Quốc gia) để nhấn mạnh sự cần thiết có sự tham gia hơn nữa của các chuyên gia y tế công cộng trong việc phát triển các tiêu chuẩn và bộ quy tắc xây dựng liên bang. Do đó, APHA hiện được đại diện trong một số ủy ban quốc tế quan trọng của NFPA.


QUẢN LÝ RỦI RO

cấp độ địa phương, các hướng dẫn gần đây tập trung vào ô nhiễm nấm mốc trong nhà. Sở Y tế thành phố New York đã ban hành Hướng dẫn đánh giá và khắc phục nấm mốc trong môi trường trong nhà. Cơ quan lập pháp California đã thông qua Đạo luật bảo vệ khỏi nấm mốc độc hại vào năm 2001, yêu cầu thiết lập các tiêu chuẩn về mức độ phơi nhiễm nấm mốc và yêu cầu tiết lộ tình trạng ô nhiễm nấm mốc trong các giao dịch bất động sản. Một số khu vực pháp lý đang sử dụng các quy tắc y tế chung hơn để giải quyết tình trạng ô nhiễm nấm mốc đáng kể.

43


RISK MANAGEMENT

“ HEALTHY HOMES Ngôi nhà khỏe mạnh

44


QUẢN LÝ RỦI RO

Dự án Ngôi nhà Khỏe mạnh của Hạt Seattle, King (The Seattle–King County Healthy Homes) huy động các nhân viên y tế cộng đồng sử dụng bảng kiểm môi trường tại nhà để đánh giá mức độ phơi nhiễm, kiến thức và hành động liên quan đến tác nhân gây hen suyễn trong nhà và các mối nguy hại hóa học trong nhà.

45


RISK MANAGEMENT

Sự xuất hiện của bệnh hen suyễn như một vấn đề sức khỏe cộng đồng chính đã làm mới sự quan tâm cải thiện chất lượng môi trường trong nhà cũng như lồng ghép các nỗ lực mới này vào các công việc đang được tiến hành để giải quyết các mối nguy hại với sức khỏe trong nhà khác như ngộ độc chì và chấn thương. Bộ phận của chúng tôi và nhiều khu vực pháp lý y tế địa phương khác (ví dụ: Boston, Cambridge, Cleveland, Detroit, New York, Philadelphia, San Diego, San Francisco) đã phát triển các sáng kiến “Healthy Homes” (Ngôi nhà khỏe mạnh) như giải pháp cho các vấn đề nói trên. Các dự án này cung cấp giáo dục và nguồn lực để hỗ trợ các thành viên trong gia đình thực hiện các hành động nhằm cải thiện chất lượng và an toàn cho môi trường gia đình của họ.

46


QUẢN LÝ RỦI RO

Phạm vi của dự án đang được mở rộng để bao gồm các mối nguy hại về thương tích và các dự án của Ngôi nhà khỏe mạnh tại các khu vực có tỷ lệ phơi nhiễm chì cao hơn cũng tích hợp đánh giá và loại bỏ chì.

Bảng kiểm hướng dẫn xây dựng kế hoạch hành động môi trường tại nhà cụ thể tạo ra trên máy tính cho từng hộ gia đình. Nhân viên y tế cộng đồng sẽ ghé thăm hộ gia đình 5 lần trong vòng 1 năm. Trong các lần ghé thăm, nhân viên sẽ làm việc với khách hàng để thực hiện kế hoạch hành động bằng cách cung cấp giáo dục kiến thức và hỗ trợ xã hội, khuyến khích thay đổi thói quen (ví dụ: vệ sinh gia đình, sử dụng thuốc lá), cung cấp nguyên vật liệu và thiết bị để giảm phơi nhiễm (ví dụ: ga trải giường, máy hút bụi, thảm chùi chân, bộ dụng cụ vệ sinh, vật tư quản lý dịch hại tích hợp), giúp sửa chữa những thiếu sót nhỏ (ví dụ, các lỗ nhỏ giúp vật nuôi ra vào nhà), hỗ trợ người thuê làm việc với chủ nhà hoặc di dời nếu cần và cung cấp tư vấn và chuyên gửi các mối quan tâm khác của hộ gia đình.

47


RISK MANAGEMENT

Ngoài các nhân viên y tế cộng đồng, các nhân viên y tế công cộng khác cũng thúc đẩy các nguyên tắc Ngôi nhà lành mạnh. Ví dụ, Dự án Nguy hiểm Sức khỏe tại Nhà của PHSKC đã tập huấn cho các điều dưỡng y tế cộng đồng để tiến hành đánh giá và giáo dục môi trường tại nhà để giải quyết các nguy cơ té ngã, các vấn đề an toàn cho trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ và chất lượng không khí trong nhà.

48

Nguồn lực hạn chế đã thu hẹp phạm vi của hầu hết các dự án Ngôi nhà mạnh khỏe trong việc giáo dục các thành viên trong gia đình, yêu cầu họ thực hiện các hành động cá nhân và hỗ trợ họ thực hiện các sửa chữa nhỏ. Tuy nhiên, việc khắc phục các vấn đề nghiêm trọng về cấu trúc thường đóng vai trò quan trọng trong việc giảm các nguồn phơi nhiễm. Ví dụ, chúng tôi đã phát hiện thấy các vấn đề về cấu trúc nhà là nguyên nhân dẫn đến tình trạng thấm dột tại hơn 20%

số nhà thu nhập thấp trong dự án Ngôi nhà mạnh khỏe của chúng tôi. Việc khắc phục thường không được hoàn thành do thiếu sự quan tâm của chủ nhà hoặc các nguồn lực để thực hiện các cải tiến (ví dụ: lắp đặt hệ thống thông gió, loại bỏ thảm hoặc tấm tường bị hư hỏng, thay thế cửa sổ).


QUẢN LÝ RỦI RO

Một số dự án Ngôi nhà mạnh khỏe, với sự hỗ trợ của Sở Phát triển Nhà và Đô thị (HUD), các chương trình cho vay mua nhà liên bang, trợ cấp năng lượng và các nguồn khác, đang đánh giá lợi ích của các biện pháp can thiệp khắc phục cơ cấu mạnh mẽ hơn. Ví dụ, với sự hỗ trợ của HUD, PHSKC đang làm lại 70 căn nhà với chi phí trung bình là 8.000 đô la mỗi căn trong 3 năm.

Ví dụ về các hoạt động khắc phục bao gồm loại bỏ và thay thế vật liệu bị hư hỏng do nước hoặc nấm mốc, lắp đặt hệ thống vận hành thông gió, khí thải toàn nhà, sửa chữa rò rỉ đường ống nước và loại bỏ thảm. Chúng tôi đã xem xét các vấn đề của người thuê nhà trong việc phát triển dự án này. Chủ sở hữu đồng ý rằng tiền thuê sẽ không tăng do việc khắc phục này và người thuê sẽ được đảm bảo quyền duy trì trong ít nhất 24 tháng sau khi khắc phục, trừ khi họ vi phạm các điều khoản của hợp đồng thuê ban đầu. Boston và Cleveland đang hoàn thành các dự án tương tự.

49


RISK MANAGEMENT

ĐÁNH GIÁ CỘNG ĐỒNG

Một rào cản để phát triển chính sách nhà ở hiệu quả là thiếu thông tin về chất lượng nhà ở ở cấp cộng đồng.

50


QUẢN LÝ RỦI RO

Mặc dù Khảo sát Nhà ở Hoa Kỳ của Cục Điều tra Dân số Hoa Kỳ thu thập dữ liệu chất lượng nhà ở cho các khu vực đô thị lớn hơn theo định kỳ 6 năm/lần ở các khu vực nhỏ hơn dữ liệu cho hầu hết các đô thị và khu vực lân cận lại không có sẵn. Một vài sở nhà ở thành phố thu thập dữ liệu địa phương bổ sung (ví dụ: Sở Bảo tồn và Phát triển Nhà ở Thành phố New York).

Dự án Ngôi nhà Khỏe mạnh Boston làm việc với một tập đoàn phát triển cộng đồng để sắp xếp các khoản tài trợ cho chủ sở hữu nhà thu nhập thấp để khắc phục các điều kiện có ảnh hưởng xấu đến sức khỏe.

Chúng tôi không biết y tế địa phương nào của Mỹ có thẩm quyền thu thập và phân tích một cách có hệ thống dữ liệu địa phương liên quan đến nhà ở và sức khỏe, mặc dù đã có vài thông tin trước đây. Y tế địa phương cấp quận của Anh có liên quan nhiều hơn đến đánh giá nhà ở. Hơn một nửa các báo cáo y tế hàng năm của họ có thảo luận về các vấn đề nhà ở. Thành phố Glasgow đã tiến hành một cuộc khảo sát toàn diện về các điều kiện nhà ở vào giữa những năm 1980. Khảo sát này đã chỉ ra tỷ lệ đáng để các ngôi nhà ẩm mốc, xuống cấp cấu trúc bên ngoài, và hệ thống sưởi ấm không đầy đủ.

51


RISK MANAGEMENT

Thông thường, các cơ quan y tế công cộng không xây dựng, duy trì hoặc sở hữu nhà ở; cũng không thiết kế phát triển nhà ở hoặc cấp giấy phép xây dựng. Để thúc đẩy nhà ở lành mạnh, cần có sự hợp tác với các đơn vị khác có liên quan trực tiếp hơn đến lĩnh vực nhà ở. Dự án Ngôi nhà Khỏe mạnh của chúng tôi làm việc với cơ quan nhà ở công cộng địa phương để tăng cường nhận thức về tác động của các điều kiện nhà ở đối với bệnh hen suyễn. Cơ quan quản lý nhà ở đã đưa các khách hàng của dự án lên đầu danh sách chờ và cung cấp nhà ở đáp ứng các tiêu chí của dự án. Đối với các khách hàng đang sống trong các đơn vị nhà ở công cộng, cơ quan đã ngay lập tức sửa chữa các điều kiện không lành mạnh, ưu tiên diệt trừ gián và chuyển người thuê sang một khu vực phù hợp hơn (ví dụ, một chỗ ở ở tầng hai có độ ẩm thấp hơn) nếu cần thiết. Dự án cũng giới thiệu cho khách hàng các chương trình thời tiết địa phương có nguồn lực để cải thiện hệ thống thông gió và hiệu quả năng lượng.

P Ợ

H

52

T

C Á


QUẢN LÝ RỦI RO

GIÁO DỤC VÀ NHẬN THỨC CỘNG ĐỒNG

Các cơ quan y tế công cộng cung cấp thông tin cho công chúng về các cách thức để làm cho ngôi nhà khỏe mạnh và an toàn hơn bằng cách tham gia vào việc phân phối máy dò khói, cung cấp các nguồn tài liệu giáo dục được in ấn và trên các trang web về chất lượng môi trường trong nhà, đồng thời hỗ trợ loại bỏ chất thải nguy hại và chất độc khỏi nhà.

53


RISK MANAGEMENT

Nhân viên y tế công cộng hỗ trợ các cá nhân và cộng đồng tìm kiếm nhà ở tốt hơn. Ví dụ, khi nhân viên y tế công cộng hỗ trợ những người tham gia Ngôi nhà khỏe mạnh yêu cầu chủ nhà sửa chữa, các yêu cầu của người thuê thường được giải quyết thỏa đáng hơn so với khi người thuê tự mình đàm phán với chủ nhà.

54

VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH

Những người ủng hộ sức khỏe cộng đồng có thể đưa ra bằng chứng chứng minh rằng cư dân sống trong ngôi nhà không đạt tiêu chuẩn, khi chuyển đến môi trường sống được cải thiện sẽ có kết quả tốt hơn về sức khỏe. Người cao tuổi có thu nhập thấp chuyển từ các căn hộ xuống cấp, phòng đơn, đầy gián trong căn hộ với nhà bếp và phòng tắm không đầy đủ sang một tòa nhà chung cư mới, được thiết kế tốt với một trung tâm cao cấp có tỷ lệ tử vong thấp hơn và cải thiện tình trạng sức khỏe sau 8 năm so với nhóm chứng là những người đủ điều kiện sống trong tòa nhà mới nhưng không chuyển đi. Các gia đình có thu nhập thấp chuyển từ nhà ở không đạt tiêu chuẩn sang nhà ở công cộng mới xây dựng ít đi khám bệnh ngoại trú hơn so với nhóm tương tự không di chuyển. Một nghiên cứu nhỏ của Đan Mạch cho thấy chức năng phổi, triệu chứng và việc sử dụng thuốc được cải thiện ở những bệnh nhân hen suyễn, dị ứng bụi nhà di chuyển đến nhà có hệ thống thông khí hiệu quả so với những người khác không di chuyển. Tuy nhiên, một đánh giá gần đây về ảnh hưởng sức khỏe của các can thiệp về nhà ở cho thấy, do những hạn chế về phương pháp của các nghiên cứu không cho phép xác định bản chất và quy mô của việc cải thiện sức khỏe, ngay cả khi hầu hết các nghiên cứu đều cho thấy lợi ích của can thiệp về nhà ở.


QUẢN LÝ RỦI RO

Việc tinh chỉnh các quy tắc nhà ở để phản ánh kiến thức hiện tại về nhà ở lành mạnh là rất cần thiết. Tăng cường bộ quy tắc đồng bộ cấp quốc gia hoặc các hướng dẫn nhằm giải quyết các yếu tố ảnh hương đến sức khỏe như độ thông thoáng, độ ẩm, thảm trải sàn, nấm mốc, nguy cơ chấn thương, tiếp xúc với các chất độc hại, độ riêng tư, tiếng ồn, ánh sáng và các yếu tố khác áp dụng cho cả nhà ở mới và nhà ở hiện tại sẽ là tài sản quý giá cho các cơ quan y tế công cộng địa phương đang tìm cách nâng cấp bộ quy tắc nhà ở cấp địa phương. Như đã nói ở trên, Ủy ban Y tế và Nhà ở chung của APHA đã tạo ra một “chỗ đứng” trong các tiêu chuẩn quốc gia và phát triển bộ quy tắc. Những nỗ lực liên tục và mở rộng của ủy ban sẽ giúp đưa các chuyên viên y tế công cộng vào những nỗ lực quốc gia như vậy. Nó cũng có thể hữu ích cho các tổ chức quốc gia, hội đồng chuyên gia và các sở y tế địa phương để phát triển các hướng dẫn (chứ không phải bộ quy tắc).

TẠO DỰNG BỘ QUY TẮC ĐỂ NHÀ Ở LÀNH MẠNH HƠN

55


56

KẾ HOẠCH TIẾP THEO

RISK MANAGEMENT


QUẢN LÝ RỦI RO

Nhân viên y tế cộng đồng tiếp tục xây dựng truyền thống gắn bó lâu dài với các vấn đề nhà ở và sức khỏe. Nhiều nỗ lực mà chúng tôi đã mô tả đang mang lại lợi ích, mặc dù hầu hết đều ở qui mô nhỏ so với nhu cầu. Mở rộng năng lực là một ưu tiên quan trọng và phục thuộc vào việc đảm bảo đầy đủ các nguồn lực. Chúng tôi kết luận bằng cách đề xuất việc mở rộng năng lực này trông như thế nào và có thể đạt được những gì?

DUY TRÌ VÀ MỞ RỘNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH NGÔI NHÀ KHỎE MẠNH Bằng chứng chỉ ra rằng các chương trình Ngôi nhà khỏe mạnh mang lại lợi ích sức khỏe có thể đo lường được. Các chương trình này phổ biến với công chúng và năng lực hiện tại của dự án không thể đáp ứng nhu cầu của mọi người. Các lựa chọn cho việc mở rộng bao gồm tăng cường nhân sự chương trình và kết hợp các hoạt động Ngôi nhà mạnh khỏe vào nhiệm vụ thường xuyên của các cán bộ phụ trách kiểm tra nhà ở (ví dụ: y tá y tế công cộng, chuyên gia sức khỏe môi trường và nhân viên y tế cộng đồng). Vận động các công ty bảo hiểm y tế thanh toán cho các hoạt động này (trong bối cảnh đánh giá và giáo dục sức khỏe cho bệnh nhân hen suyễn) có thể giúp tài trợ cho việc mở rộng này.

57


RISK MANAGEMENT

HỢP TÁC VÀ LẬP KẾ HOẠCH LIÊN NGÀNH

58

1

2

Tại cuộc họp của Quỹ tưởng niệm Milbank về nhà ở và y tế năm 1950, một người tham gia đã lưu ý rằng, việc đan xen các bộ phận [thành phố] địa phương khác nhau trong nỗ lực giải quyết vấn đề quan tâm lẫn nhau [nhà ở] là một bước tiến dài và quan trọng quản trị công cộng. Điều này vẫn đúng trong năm 2002.

Một cơ quan y tế công cộng duy nhất không thể đạt được mục tiêu đảm bảo quyền tiếp cận nhà ở lành mạnh và xây dựng các khu dân cư lành mạnh. Ví dụ, việc sửa đổi bộ quy tắc nhà ở và xây dựng hướng dẫn đã thảo luận ở trên sẽ cần sự hợp tác với các cơ quan chính phủ khác trong việc điều chỉnh việc xây dựng nhà ở, người thuê nhà, các nhóm vận động nhà ở cộng đồng, tổ chức nhà ở phi lợi nhuận, tập đoàn phát triển cộng đồng, nhà thầu xây dựng, chủ nhà, kiến trúc sư, và các nhà quy hoạch đô thị.


QUẢN LÝ RỦI RO

3

Nhân viên y tế công cộng nên đi đầu trong việc ủng hộ các chính sách nhà ở đảm bảo quyền được tiếp cận vào các đơn vị nhà ở lành mạnh, giá cả phải chăng và loại bỏ hoặc khắc phục khu vực nhà ở không lành mạnh. Burridge và Ormandy lưu ý:

Giải pháp sâu sắc hơn nằm trong lĩnh vực chính trị, đặt ra nhu cầu cấp thiết đối với việc xây dựng một chính sách nhà ở công cộng từ góc độ đảm bảo sức khỏe cộng đồng và duy trì quỹ nhà ở lành mạnh cấp quốc gia.

Các đấu trường lĩnh vực khác để vận động chính sách bao gồm hỗ trợ cho những người có thu nhập thấp, mở rộng bảo hiểm y tế cho các vật dụng giúp căn nhà khỏe mạnh hơn (ví dụ, bọc giường kiểm soát dị ứng, vỏ tản nhiệt, lưới chống côn trùng, đánh giá nhà) và đưa ra trợ cấp dưới dạng chứng từ cho thuê để sử dụng trong thị trường nhà ở tư nhân.

59


RISK MANAGEMENT

Các yếu tố chính trị cũng ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng các vấn đề nhà ở.

Nhà ở không đạt tiêu chuẩn là một vấn đề công lý môi trường.

Sự phân bổ nhà ở không đạt chuẩn, thiếu sự công bằng về kinh tế xã hội phản ánh sự chênh lệch cơ bản về thu nhập, tài sản và quyền lực. Người thuê nhà thường bất lực trong việc cải thiện điều kiện nhà ở trong bối cảnh tỷ lệ căn hộ trống thấp, chi phí thuê nhà cao, luật bảo vệ người thuê yếu và các hiệp hội địa chủ có ảnh hưởng chính trị thường thấy ở các thành phố của Mỹ. Tài sản y tế công cộng có thể giúp khắc phục sự mất cân bằng quyền lực này. Tuy nhiên, những trường hợp này cũng hạn chế các chuyên viên y tế công cộng, nhiều người trong số họ không muốn đối kháng trực tiếp với các thế lực chính trị quyền lực tại địa phương cũng như các quan chức ủng hộ họ. Sự thiếu hụt các nhóm vận động cộng đồng có tổ chức có thể cân bằng hiệu quả ảnh hưởng từ người cho thuê nhà tạo ra nhiều rào cản hơn nữa đối với các chiến dịch y tế cộng đồng. Môi trường chính trị hiện tại không ủng hộ cách tiếp cận chủ động, theo quy định để giải quyết các vấn đề nhà ở. Để vượt qua cách tiếp cận dựa trên tư vấn, khuyến khích, các quan chức y tế công cộng cần phải can đảm liên minh với các tổ chức cộng đồng và các quan chức được bầu tại địa phương ủng hộ các hoạt động của họ.

60


QUẢN LÝ RỦI RO

Thời đại của nhà ở không phù hợp cũng như sự phân rã của vấn đề xã hội và sức khỏe chính này đòi hỏi sự quan tâm đến sức khỏe cộng đồng. Sự mở rộng đã bắt đầu từ gần 50 năm trước với “cuộc di cư da trắng” từ khu vực thành thị cũng bắt đầu có những ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và có thể sẽ dẫn đến sự quan tâm về sức khỏe cộng đồng đối với nhà ở, môi trường nhà ở và sức khỏe. Những vấn đề này, cùng với sự quan tâm ngày càng tăng đối với sự quan tâm trở lại của sức khỏe cộng đồng đối với việc giải quyết các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến sức khỏe, đang hội tụ để biến nhà ở là vấn đề ưu tiên cho sức khỏe cộng đồng.

Chúng ta đã học hỏi được nhiều điều trong thập kỷ qua về cách làm cho các ngôi nhà lành mạnh hơn. Y tế công cộng có một lịch sử lâu dài về việc thúc đẩy nhà ở lành mạnh. Trong những năm gần đây, chúng ta dường như ít quan tâm hơn về vấn đề này. Đã đến lúc chúng ta xây dựng nền tảng này và chia sẻ để đảm bảo rằng mọi người đều có một ngôi nhà an toàn và khỏe mạnh.

Nguồn dịch: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC1447157/

61


RISK MANAGEMENT

TRIỆT SẢN MUỖI

mở ra cơ hội mới để kiểm soát các căn bệnh

SỐT CHIKUNGUNYA - SỐT XUẤT HUYẾT VÀ ZIKA Một kỹ thuật triệt sản muỗi đực bằng bức xạ sẽ sớm được thử nghiệm như một phần trong nỗ lực y tế toàn cầu nhằm kiểm soát các bệnh như sốt chikungunya, sốt xuất huyết và Zika.

62


QUẢN LÝ RỦI RO

Kỹ thuật triệt sản côn trùng (Sterile Insect Technique, SIT) là một hình thức kiểm soát sinh sản côn trùng. Quá trình này bao gồm nuôi một lượng lớn muỗi đực đã được triệt sản trong các cơ sở chuyên dụng sau đó thả chúng ra để giao phối với con cái trong tự nhiên. Vì chúng không thể sinh con nên số lượng quần thể muỗi sẽ giảm dần theo thời gian.

B

A

Chương trình Đặc biệt về Nghiên cứu và Đào tạo về các bệnh nhiệt đới (TDR) và Cơ quan Năng lượng nguyên tử Quốc tế (IAEA), hợp tác với Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc (FAO), và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã soạn thảo tài liệu hướng dẫn dành cho các quốc gia bày tỏ sự quan tâm đến việc thử nghiệm SIT đối với muỗi Aedes.

Bác sĩ Soumya Swaminathan, nhà khoa học của (WHO), nhận định: “Một nửa dân số thế giới hiện nay đang có nguy cơ bị sốt xuất huyết. Bất chấp những nỗ lực tốt nhất của chúng ta, các sáng kiến hiện nay nhằm kiểm soát căn bệnh này vẫn chưa hiệu quả. Chúng ta vẫn đang rất cần những cách tiếp cận mới và SIT rất hứa hẹn và thú vị.”

63


RISK MANAGEMENT

Một nửa thế giới đối mặt với nguy cơ sốt xuất huyết !

Trong vài thập niên gần đây, tỷ lệ mắc sốt xuất huyết đã tăng đáng kể do những thay đổi về môi trường, đô thị hóa, giao thông và du lịch không được kiểm soát, thiếu các công cụ cũng như ứng dụng của các công cụ kiểm soát các véc-tơ truyền bệnh.

DENGUE Sốt xuất huyết hiện đang bùng phát ở một số quốc gia, đáng chú ý là ở tiểu lục địa Ấn Độ. Bangladesh đang đối mặt với bùng phát sốt xuất huyết tồi tệ nhất kể từ khi dịch bệnh được ghi nhận lần đầu tiên vào năm 2000. Quốc gia Nam Á này đã chứng kiến số ca mắc tăng lên hơn 92.000 người kể từ tháng 1 năm 2019, với số ca nhập viện hàng ngày đạt đỉnh hơn 1.500 bệnh nhân sốt xuất huyết mới mỗi ngày trong vài tuần gần đây và là một trong những quốc gia bày tỏ sự quan tâm đến Kỹ thuật triệt sản côn trùng (SIT).

Các bệnh truyền nhiễm do muỗi như sốt rét, sốt xuất huyết, Zika, chikungunya và sốt vàng da chiếm khoảng 17% trong số tất cả các bệnh truyền nhiễm trên toàn cầu, cướp đi hơn 700.000 sinh mạng mỗi năm và gây ra nỗi đau khổ cho nhiều người khác. Năm 2015, sự bùng phát của virus Zika ở Brazil có liên quan đến gia tăng số lượng trẻ sơ sinh được sinh ra với dị tật đầu nhỏ (microcephaly).

64


QUẢN LÝ RỦI RO

KỸ THUẬT MỚI

đã chứng minh hiệu quả trong việc chống lại

CÔN TRÙNG GÂY HẠI

cho hoa màu và vật nuôi

Kỹ thuật triệt sản côn trùng được phát triển lần đầu bởi Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ và đã được sử dụng thành công với mục đích tiêu diệt các loài côn trùng gây hại cho cây trồng và vật nuôi, như ruồi giấm Địa Trung Hải và Ruồi giun vít. Kỹ thuật này hiện đang được sử dụng toàn cầu trong lĩnh vực nông nghiệp ở cả 6 châu lục.

Hướng dẫn sử dụng kỹ thuật SIT nhằm kiểm soát các bệnh truyền nhiễm ở người khuyến nghị áp dụng phương pháp này theo từng giai đoạn cho phép có thời gian để kiểm tra hiệu quả của việc triệt sản côn trùng. Các chỉ số dịch tễ theo dõi tác động phương pháp này đối với việc truyền bệnh. Hướng dẫn cũng đưa ra được các khuyến nghị với việc triệt sản muỗi hàng loạt, sự tham gia của chính phủ và cộng đồng, đo lường tác động của kỹ thuật SIT và đánh giá chi phí hiệu quả

65


66

DENGUE

Nỗ lực hợp tác này bao gồm các kế hoạch hỗ trợ ba nhóm nghiên cứu đa quốc gia gồm các viện nghiên cứu, các cơ quan kiểm soát véc-tơ truyền bệnh và các bên liên quan y tế công cộng để thử nghiệm Kỹ thuật triệt sản muỗi Aedes. Ông Jérémy Bouyer, nhà côn trùng y học tại bộ phận Kỹ thuật hạt nhân trong Thực phẩm và Nông nghiệp của FAO/IAEA cho biết: “Trong 60 năm qua, việc áp dụng Kỹ thuật triệt sản côn trùng vào lĩnh vực nông nghiệp đã cho thấy đây là một phương pháp an toàn và hiệu quả. Chúng tôi rất vui mừng được hợp tác với TDR và WHO để mang công nghệ này áp dụng vào lĩnh vực y tế với mục đích chống lại các căn bệnh truyền nhiễm ở người.”

DENGUE

Bà Florence Fouque, nhà khoa học thuộc TDR, cho biết: “Các quốc gia bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi dịch bệnh sốt xuất huyết và virus Zika đã thể hiện sự quan tâm thực sự tới việc thử nghiệm công nghệ này, vì có thể ngăn chặn muỗi đang phát triển kháng thuốc diệt côn trùng vốn gây hại cho môi trường”.

DENGUE

RISK MANAGEMENT


DENGUE DENGUE

LỜI KHUYÊN AN TOÀN

Xét nghiệm phân tử virus sốt xuất huyết

Đối với những người có triệu chứng nhiễm virus sốt xuất huyết, RNA của virus thường có thể được phát hiện bằng các xét nghiệm phân tử trong vòng 1-7 ngày đầu tiên của quá trình nhiễm bệnh. Xét nghiệm khuếch đại axit nucleic (NAAT) NAAT là một thuật ngữ chung chỉ các xét nghiệm phân tử được sử dụng để phát hiện gen của virus. Xét nghiệm NAAT là phương pháp chẩn đoán được ưa chuộng, vì có thể cung cấp bằng chứng khẳng định nhiễm bệnh. Các loại mẫu Huyết thanh Huyết tương Máu toàn phần Dịch não tủy * Các mẫu huyết thanh là loại mẫu được công nhận rộng rãi nhất. Độ nhạy tương đối của huyết thanh, huyết tương và máu toàn phần chưa được ghi chép đầy đủ. Virus sốt xuất huyết đôi khi được phát hiện trong dịch não tủy. Tính khả dụng (CDC, thương mại) Bộ dụng cụ chẩn đoán thương mại và NAAT xét nghiệm nghiệm lâm sàng, bao gồm cả xét nghiệm CDC DENV-1-4 multiplex, đã có mặt ở Hoa Kỳ và trên toàn thế giới, có sẵn cho các phòng xét nghiệm y tế công cộng được chứng nhận qui định Cải tiến Phòng xét nghiệm lâm sàng (CLIA). CDC cung cấp thuốc thử và hướng dẫn cho các phòng xét nghiệm y tế cộng cộng. CDC cũng có thể cung cấp xét nghiệm khẳng định nếu các phòng thí nghiệm y tế công cộng yêu cầu.

Xét nghiệm nên được sử dụng như thế nào và vào thời điểm nào trong thời gian nhiễm bệnh? Đối với những bệnh nhân có triệu chứng trong 1-7 ngày đầu của bệnh, bất kỳ mẫu huyết thanh nào cũng nên được xét nghiệm bằng NAAT và xét nghiệm tìm kháng thể IgM vì cả hai loại xét nghiệm đều có thể được thực hiện bằng huyết thanh. Thực hiện cả hai loại xét nghiệm có thể giúp phát hiện nhiều trường hợp mắc bệnh hơn là chỉ thực hiện một loại. Sau ngày thứ 7 của bệnh, một vài trường hợp có thể được phát hiện bằng NAAT. Giải thích kết quả Kết quả NAAT dương tính khẳng định nhiễm virus sốt xuất huyết. Kết quả NAAT âm tính không loại trừ khả năng nhiễm bệnh. Những người có kết quả âm tính với NAAT nên được kiểm tra kháng thể IgM chống lại virus sốt xuất huyết để xác định khả năng phơi nhiễm với bệnh sốt xuất huyết gần đây. Nếu cả kết quả kháng thể NAAT và IgM trong giai đoạn cấp tính của bệnh đều âm tính thì nên lấy huyết thanh giai đoạn lại sức để xét nghiệm tìm kháng thể IgM. Trường hợp xét nghiệm IgM không xác định: Nếu bệnh nhân nghi ngờ nhiễm virus sốt xuất huyết có mẫu xét nghiệm giai đoạn cấp tính kết quả âm tính (ví dụ: NAAT và / hoặc kháng thể IgM) và bệnh nhân không có mẫu giai đoạn đã lại sức, thì chẩn đoán của bệnh nhân là không được xác định.

67


www.iirr.vn


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.