Tạp chí Life Balance | No.14 | OSHE Magazine - Sàng lọc vi khuẩn bạch hầu

Page 1

Occupatonal Safety, Health, and Environment

www.iirr.vn Lưu hành nội bộ

SÀNG LỌC VI KHUẨN BẠCH HẦU ở bệnh nhân nhiễm trùng đường hô hấp

Miễn dịch bệnh bạch hầu, uốn ván ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ Có những loại vắc-xin phòng bệnh bạch hầu - uốn ván - ho gà nào?


Thư ngỏ

Date 00/00/0000

Quý độc giả thân mến!

Như các số tạp chí trước, chúng tôi muốn những số tạp chí tiếp theo sẽ là cuốn cẩm nang sức khỏe cho mọi người cũng như có thể là tài liệu nghiên cứu cho những người quan tâm đến lĩnh vực y tế cộng đồng. Và lần này, chúng tôi sẽ đưa đến Quý vị những nội dung tiếp theo về chủ đề bệnh bạch hầu và những tác động của bệnh đến cơ thể con người. Vacccin bạch hầu được phát triển vào năm 1923. Nó nằm trong Danh sách các loại thuốc thiết yếu của Tổ chức Y tế Thế giới, là loại thuốc hiệu quả và an toàn nhất cần có trong hệ thồng y tế thế giới. Các đối tượng tiêm vắc-xin bạch hầu cần được ưu tiên bao gồm: trẻ em và phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Phụ nữ mang thai sức đề kháng giảm nên khá nhạy cảm với bệnh và khi đó nguy hiểm cho thai nhi. Vì vậy, việc tiêm ngừa là cần thiết để bảo vệ cho cả mẹ và bé. Với tình hình xuất hiện bệnh bạch hầu rải rác ở nhiều tỉnh thành như hiện nay, những người không nắm rõ về lịch sử tiêm chủng hoặc có lịch sử tiêm chủng không đầy đủ sẽ rất cần đến các cơ sở tiêm chủng để được tư vấn tiêm phòng vắc-xin bạch hầu càng sớm càng tốt.

Nguyễn Hoàng Thanh VIỆN PHÓ VIỆN IIRR TRƯỞNG BAN BIÊN TẬP


HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP

TRƯỞNG BAN BIÊN TẬP NGUYỄN HOÀNG THANH

BIÊN TẬP

LÊ THỊ THANH HIẾU ĐỖ THỊ HẰNG NGUYỄN NGỌC HÀ NGUYỄN TUẤN KHÔI

THIẾT KẾ

ĐẶNG NGỌC ANH

NGUYỄN HOÀI THU

www.iirr.vn

www.facebook.com/iirr.vn

NGUYỄN HỒNG MINH NGUYỄN QUANG HUY TS. NGUYỄN DANH HẢI NGUYỄN HOÀNG THANH TS. NGUYỄN THỊ QUỲNH HOA TS. NGUYỄN THỊ ANH THƯ PHAN THỊ HOÀI TRANG NGUYỄN BÍCH SƠN


S ÀN G LỌC CO RYNE BAC TERIUM DI PHTHERIA VÀ CORYN EBAC T E RI UM U LCE R AN Ở BỆ NH N HÂ N NHI Ễ M T R ÙNG ĐƯỜNG HÔ H ẤP: N GHI Ê N CỨU THỰC HIỆN Ở NHIỀU N Ư Ớ C C H ÂU ÂU

06

Bệnh bạch hầu có thể trở nên nặng hoặc gây tử vong ở những người chưa được tiêm chủng. Ngay cả khi được điều trị phù hợp, tỷ lệ tử vong của người nhiễm bệnh vẫn nằm ở mức 5-10%.

22

BẠCH HẦU ĐƯỜ N G HÔ HẤP G ÂY T Ử VONG Ở MỘT DU KHÁCH HOA KỲ TỚI HAIT I, PEN N S YLVAN IA,2 00 3


Việc chủng ngừa bệnh bạch hầu và uốn ván cần được tiến hành thường xuyên và bắt buộc trước khi bước vào tuổi đến trường

32

MIỄN DỊ C H VỚI BỆN H B ẠCH HẦU & UỐN VÁN Ở PHỤ NỮ TR O NG ĐỘ TU Ổ I SINH ĐẺ

42

CÓ N H Ữ N G LOẠI VẮC -XIN PHÒNG BỆN H B ẠCH H ẦU, UỐN VÁN , H O GÀ N ÀO?

Vắc-xin kết hợp chứa 2 hoặc nhiều vắc-xin trong một mũi tiêm nhằm giảm số lượng mũi tiêm.


GOING NET

SÀNG LỌC

CORYNEBACTERIUM diphtheriae và Corynebacterium ulcerans ở bệnh nhân nhiễm trùng đường hô hấp từ 2007 - 2008: Nghiên cứu thực hiện ở nhiều nước châu Âu

ệnh bạch hầu hiện nay hiếm gặp ở hầu hết các nước châu Âu, nhưng khi có ca bệnh phát sinh, tỷ lệ tử vong do bạch hầu tại châu lục này lại khá cao (5–10%). Do một số quốc gia tiếp tục sàng lọc định kỳ các sinh vật gây bệnh bạch hầu, mức độ lưu hành của chúng giữa các nhóm dân cư châu Âu khác nhau phần lớn vẫn chưa được biết đến.

06


TOÀN CẦU

giai đoạn 2007-2008, mười quốc gia châu Âu “ Trong mỗi nước đã sàng lọc 968 đến 8551 mẫu dịch ngoáy họng từ bệnh nhân nhiễm trùng đường hô hấp.

Sáu chủng vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae gây độc đã được xác định: 02 từ những bệnh nhân có triệu chứng ở Latvia (quốc gia có tỷ lệ mắc bệnh bạch hầu được báo cáo cao nhất trong Liên minh châu Âu) và 04 từ Litva (hai trường hợp, hai người mang mầm bệnh); trường hợp bệnh bạch hầu được báo cáo cuối cùng ở Litva là vào năm 2002. Tỷ lệ người mang các sinh vật không gây độc tố dao động từ 0 (Bulgaria, Phần Lan, Hy Lạp, Ireland, Ý) đến 4,0 trên 1000 dân (95% CI 2,0–7,1) ở Thổ Nhĩ Kỳ. Tổng cộng 28 chủng không gây độc đã được xác định trong quá trình nghiên cứu (26 C.diphtheriae, 01 Corynebacterium ulcerans, 01 Corynebacterium pseudo tuberculosis). Chủng C.ulcerans không gây độc tố được phân lập từ Vương quốc Anh, quốc gia có tỷ lệ trường hợp nhiễm C.ulcerans được báo cáo cao nhất. Trong số 11 ribotype được phát hiện, Cluj thấy thường xuyên nhất ở các phân lập không có độc tố và, trong số các phân lập không có độc tố, bản sao của bệnh dịch lớn, Sankt-Petersburg, vẫn đang lưu hành. Việc phân lập C.diphtheriae sinh độc tố và C.diphtheriae không sinh độc tố và C.ulcerans trong nhóm được tiêm chủng cao nhấn mạnh sự cần thiết phải duy trì giám sát vi sinh, giám định xét nghiệm và nhận thức về những sinh vật này trong các chuyên gia y tế công cộng, nhà vi sinh vật và bác sĩ lâm sàng.

07


GOING NET

Ở khu vực châu Âu, bệnh bạch hầu hiếm khi bị nghi ngờ ở những bệnh nhân có biểu hiện nhiễm trùng đường hô hấp trên do sự thành công của các chương trình tiêm chủng rộng rãi. Bệnh do các loài Corynebacterium sinh độc tố: Corynebacterium diphtheriae, Corynebacterium ulcerans, hoặc rất hiếm gặp là Corynebacterium pseudotuber culosis.

08


TOÀN CẦU

những người được tiêm chủng hoặc đã được tiêm chủng một phần, bệnh bạch hầu có thể biểu hiện đơn giản như một cơn đau họng mà không có giả mạc kinh điển; về mặt lâm sàng, bệnh có thể không được nghi ngờ, hoặc có thể bị nhầm lẫn với các bệnh lý khác phổ biến hơn như viêm họng nặng do liên cầu khuẩn. Hầu hết các phòng xét nghiệm ở Châu Âu không còn thường xuyên sàng lọc mẫu ngoáy họng để tìm vi khuẩn corynebacteria, dẫn đến việc mất năng lực phòng xét nghiệm trong lĩnh vực này. Do đó, thường khó phân biệt giữa các hệ thống giám sát báo cáo số lượng thấp vì thực sự có rất ít trường hợp và hệ thống giám sát có độ nhạy thấp.

Vào những năm 1990, một đợt bùng phát mạnh mẽ của bệnh bạch hầu đã xảy ra ở các quốc gia mới độc lập của Liên Xô cũ. Nhiều yếu tố được coi là đã góp phần vào dịch bệnh: giảm tỷ lệ bao phủ tiêm chủng, chống chỉ định tiêm chủng, tăng độ mẫn cảm của người lớn, sự di chuyển dân số quy mô lớn và thiếu nguồn cung cấp đầy đủ để phòng ngừa và điều trị ở hầu hết các nước bị ảnh hưởng.

09


GOING NET

C H I Ế N T I Ê M

C H Ủ N G

L Ư Ợ C

C Ấ P

T Ố C

Các chiến lược tiêm chủng cấp tốc đã giúp kiểm soát sự bùng phát trở lại ở hầu hết các khu vực.

10


TOÀN CẦU

Tuy nhiên, trong số các quốc gia tham gia nghiên cứu này, số ca mắc bệnh tương đối cao (trung bình 28 ca có triệu chứng mỗi năm trong giai đoạn từ 2002 đến 2006) vẫn đang được báo cáo ở Latvia, chủ yếu từ thủ đô Riga. Không có trường hợp mắc bệnh bạch hầu nào được báo cáo cho Mạng lưới Giám sát Bệnh Bạch hầu (DIPNET; http://www.dipnet.org) từ Bulgaria, Estonia, Phần Lan, Hy Lạp, Ireland và Thổ Nhĩ Kỳ trong 5 năm trước nghiên cứu này (2002–2006). Một trường hợp C.ulcerans gây độc tố đã được báo cáo ở Ý vào năm 2002 và năm trường hợp phân lập C.diphtheriae được báo cáo ở Litva vào năm 2002, nhưng không có trường hợp nào sau đó. Vương quốc Anh đã báo cáo từ một đến tám chủng phân lập độc tố (bao gồm nhiễm trùng đường hô hấp/da và mắc bệnh không có triệu chứng) của C.diphtheriae và/hoặc C.ulcerans mỗi năm từ năm 2002 - 2006.

11


GOING NET

Tỷ lệ mắc bệnh ở những nhóm dân số được tiêm chủng cao được cho là sẽ thấp; một mối liên hệ thống kê chặt chẽ đã được chứng minh giữa việc nhiễm vi khuẩn corynebacteria và mức độ không bảo vệ của kháng thể kháng độc tố.

Các nghiên cứu ở châu Âu được thực hiện trong thập kỳ qua đã ghi nhận tỷ lệ mắc bệnh là 0,5/1000 dân

12


TOÀN CẦU

Các nghiên cứu ở châu Âu được thực hiện trong thập kỷ qua đã ghi nhận tỷ lệ mắc bệnh là 0,5/1000 dân (đối với C.diphtheriae có độc tố trong các que ngoáy họng thường xuyên của trẻ em Hy Lạp), và 0,7/1000 dân (đối với C.diphtheriae không gây độc ở người Ý) bị viêm họng). Một nghiên cứu tại Latvia đã tiến hành sàng lọc 38.157 mẫu ngoáy họng từ cả người khỏe mạnh và không khỏe mạnh từ năm 2002 đến năm 2006 và tạo ra 140 chủng C.diphtheriae; 86% là các chủng có độc tố, gây ra tỷ lệ nhiễm C.diphtheriae ở Latvia (cả sinh vật sinh độc và không sinh độc tố) là 3,7/1000 dân. Trong số các quốc gia tham gia nghiên cứu này, chỉ có các bác sĩ lâm sàng ở Latvia thường yêu cầu sàng lọc vi khuẩn corynebacteria khi nộp mẫu ngoáy họng.

Ở Anh, việc sàng lọc vi khuẩn corynebacteria định kỳ chỉ được thực hiện bởi một số phòng xét nghiệm được chọn; ở các quốc gia tham gia còn lại, việc sàng lọc sẽ chỉ được thực hiện để điều tra một trường hợp nghi ngờ, mặc dù một số quốc gia (Litva, Ireland) đã tăng cường thực hành sàng lọc sau khi nghiên cứu này được thực hiện. Việc mở rộng thành viên của Liên minh châu Âu đã dẫn đến sự di cư đáng kể của người dân Đông Âu đến sống và làm việc ở nhiều vùng của Tây Âu. Nghiên cứu hiện tại cố gắng xác định tỉ lệ hiện hành của vi khuẩn corynebacteria gây độc tố tiềm ẩn trong các quần thể châu Âu khác nhau để giúp giải thích bất kỳ thay đổi nào ở tương lai về dịch tễ học của những bệnh nhiễm trùng này ở châu Âu.

13


GOING NET

TƯ LIỆU & PHƯƠNG PHÁP Thông tin về các triệu chứng, lịch sử tiêm chủng, lịch sử đi lại và quản lý ca bệnh và các cuộc tiếp xúc đã được thu thập thông qua bảng câu hỏi theo dõi ca bệnh với từng bệnh nhân xác định có chủng gây độc tố. Những bệnh nhân được phân lập từ một chủng không sinh độc tố đã không được theo dõi trong nghiên cứu này.

Tên nước

Số lượng phòng xét nghiệm

Các khu vực được phục vụ bởi các phòng xét nghiệm tham gia

Bulgaria

4

Vùng Sofia

Estonia

11

Cả nước

Phần Lan 1

Vùng Helsinki

Hy Lạp

16

Mười phòng xét nghiệm từ khu vực Greater Athens, các phòng xét nghiệm khác từ miền Trung và miền Bắc Hy Lạp, Thessalia và Crete

Ý

3

Rome, Perugia và Palermo

Ireland

3

Dublin North, Dublin South West và một phần của Cork

Latvia

2

Cả nước

Litva

13

Kaunas, Panevezys, Alytus, Vilnius, Siauliai, Marijampole và các quận Klaipeda

Thổ Nhĩ Kỳ

12

Adana, Ankara, Diyarbakir, Erzurum, Izmir, Istanbul, Samsun và các tỉnh Sanliurfa

Vương quốc Anh

12

Trung và Nam Manchester, Nam và Tây Bristol, Cambridge, Tây Suffolk, Leicestershire, Southampton, Đông Birmingham, Newcastle, Đông Bắc Derbyshire và một phần của Nam Yorkshire, Mid Essex, Tây Norfolk và Fenland, Bedfordshire

14

10 quốc gia đã tham gia vào nghiên cứu sàng lọc này, đại diện cho các nước:


TOÀN CẦU

Từ tháng 12/2007 đến tháng 6/2008, các phòng xét nghiệm tham gia ở mỗi quốc gia đã xử lý mẫu ngoáy họng thường xuyên của các bệnh nhân nhiễm trùng đường hô hấp trên để tìm vi khuẩn corynebacteria sinh độc, bất kể chỉ định

o

Baltic (Estonia, Latvia, Litva)

o

Bắc Âu (Phần Lan)

o

Tây Âu (Ireland, Anh)

o

Nam Âu (Ý, Hy Lạp)

o

Đông Âu (Bulgaria, Thổ Nhĩ Kỳ).

lâm sàng nào khác. Khoảng thời gian sàng lọc chính xác cho mỗi phòng xét nghiệm riêng lẻ khác nhau trong khoảng từ 1–5 tháng. Số lượng phòng xét nghiệm tham gia ở mỗi quốc gia dao động từ 1(ở Phần Lan) đến 16 (ở Hy Lạp) (Bảng 1).

15


GOING NET

PHÂN TÍCH THỐNG KÊ Cỡ mẫu tối thiểu là 2700 que ngoáy gạc cho mỗi quốc gia để ước tính, với độ chính xác hợp lý, tỷ lệ phổ biến tương tự như trước đây đã thấy ở Latvia (mô tả ở trên) là 3,7/1000 dân (độ dài khoảng tin cậy 95% là <5 trên mỗi 1000).

16

Khoảng tin cậy chính xác 95% CIs cho tỷ lệ mắc bệnh đã được tính toán và tác động của quốc gia, tuổi và giới tính được điều tra trong các phân tích đơn biến bằng cách sử dụng thử nghiệm chính xác của Fisher và, trong các phân tích đa biến, bằng hồi quy logistic, sử dụng phần mềm STATA, phiên bản 8.0 (Stata Corp., College Station, TX, USA).


TOÀN CẦU

PHÂN TÍCH XÉT NGHIỆM

01

02

03

Tất cả các nước tham gia đều xử lý mẫu ngoáy họng tìm vi khuẩn corynebacteria có khả năng sinh độc tố theo quy trình tiêu chuẩn của quốc gia mình và hướng dẫn của WHO. Hầu hết các quốc gia đều thực hiện sàng lọc ban đầu bằng cách sử dụng Hoyle’s tellurite ở phòng xét nghiệm cấp địa phương và các chủng ngờ đã được gửi đến trung tâm tham khảo của quốc gia để khẳng định thêm về nhận dạng và độc tố. Vào cuối giai đoạn sàng lọc, tất cả các chủng C.diphtheriae, C.ulcerans và C.pseudotuberculosis được xác định trong quá trình nghiên cứu đã được gửi đến Khoa Nhiễm trùng Hệ thống & Hô hấp HPA ở London, Vương quốc Anh, để xác nhận và đánh máy phân tử (ribotyping)

17


GOING NET

Tỷ lệ nhiễm C.diphtheriae gây độc tố không khác biệt đáng kể theo quốc gia, độ tuổi hoặc giới tính.

Các chủng C.diphtheriae gây độc tố được phân lập ở Latvia và Litva, cho tỷ lệ nhiễm lần lượt là 0,8/1000 (95% CI 0,1–2,9) và 0,7/1000 (95% CI 0,1–2,4). Tỷ lệ nhiễm các chủng độc tố là 0 ở tất cả các quốc gia khác, mặc dù khoảng tin cậy trên 95% dao động từ 0,4/1000 ở Anh đến 3,8/1000 ở Ý. Ước tính tỷ lệ nhiễm C.diphtheriae không gây độc tố nằm trong khoảng từ 0/1000 (Bulgaria, Phần Lan, Hy Lạp, Ý, Ireland) đến 4,0/1000 ở Thổ Nhĩ Kỳ (95% CI 2,0–7,1).

18PAGE 03

Trong phân tích đa biến (bao gồm tất cả các quốc gia), tỷ lệ nhiễm C.diphtheriae không gây độc tố khác nhau giữa các quốc gia (p <0,001), giới tính (p 0,03) và độ tuổi (p 0,03); tuy nhiên, sau khi loại trừ Thổ Nhĩ Kỳ, quốc gia có bảy nam và hai nữ từ 5-14 tuổi mang C.diphtheriae, không có sự khác biệt theo giới tính (p 0,14) nhưng vẫn có sự khác biệt giữa các quốc gia (p <0,001) và có một số bằng chứng, mặc dù không có ý nghĩa, có sự khác biệt theo độ tuổi (p 0,05), với tỷ lệ cao nhất ở nhóm tuổi 15–44.


TOÀN CẦU

Các trường hơp mang độc tố Cả hai trường hợp người Latvia đều là trẻ em 14 tuổi bị viêm họng; một (CaseLV2) kèm theo sốt. CaseLV1 đã hoàn thành tiêm phòng bệnh bạch hầu sơ cấp, trong khi CaseLV2 chỉ tiêm hai liều (tương ứng vào năm 2002 và 2003). Ở Latvia, tiêm vắc xin phòng bệnh bạch hầu cơ bản được lên lịch khi trẻ ở 3, 4 và 6 tháng tuổi, và tiêm nhắc lại khi trẻ 18 tháng, 7 tuổi và 14 tuổi. Các trường hợp không liên quan nhau và không có tiền sử đi lại hoặc các yếu tố nguy cơ đã biết được xác định. Cả hai bệnh nhân đều được dùng kháng sinh nhưng không dùng thuốc kháng độc tố bạch hầu do diễn biến lâm sàng nhẹ, mặc dù Latvia vẫn còn thuốc dự trữ. Những người tiếp xúc gần đối với cả hai trường hợp (hai đối với CaseLV1, 37 đối với CaseLV2) đều âm tính với C. diphtheriae.

Cả hai trường hợp ở Litva đều biểu hiện bệnh bạch hầu hô hấp cổ điển có giả mạc; không có tiền sử du lịch, cũng không có liên quan với bất kỳ trường hợp có kết quả khẳng định nào khác. Trường hợp tử vong là một phụ nữ 61 tuổi không được tiêm phòng (CaseLT1), sống trong điều kiện chật chội với chế độ dinh dưỡng không đầy đủ. Bệnh nhân có biểu hiện đau họng, có giả mạc và sốt, sưng và phù nề cổ, và xuất huyết dưới niêm mạc hoặc chấm xuất huyết trên da; bệnh nhân cũng bị viêm tuyến giáp tự miễn và xơ vữa động mạch chủ mức độ bốn. Những người mang mầm bệnh đã được dùng thuốc kháng sinh (erythromycin) và vắc-xin ngừa bệnh bạch hầu. Không trường hợp nào được tiêm thuốc kháng độc tố bạch hầu; Litva hiện không có dự trữ thuốc kháng độc tố bạch hầu vì gặp khó khăn trong việc mua sắm.

19


GOING NET

ĐẶC ĐIỂM VI SINH CỦA CÁC CHỦNG PHÂN LẬP

20


TOÀN CẦU

Đặc điểm vi sinh của các chủng phân lập: Tất cả các phân lập có độc tố đều là biotype gravis; một chủng Latvia không có sẵn để xác định ribotype và chủng khác (CaseLV2) là Sankt-Petersburg; cả bốn chủng Litva cũng là Sankt-Petersburg. Việc tạo mẫu và phân loại ribotype cũng được thực hiện trên các dòng phân lập không có độc tố: 12 trong số 26 loài C. diphtheriae là biotype var gravis, mười trong số 26 là var mitis, và hai trong số 26 là var belfanti (hai loài không có sẵn để mô tả thêm). Trong số 86 ribotype đã được xác định và xác nhận trước đây từ hơn 25 quốc gia, Cluj đã được phát hiện ở Latvia và Thổ Nhĩ Kỳ, Buzau ở Anh, Moskva ở Litva, Romania ở Estonia, Litva và Lyon ở Thổ Nhĩ Kỳ. Một kiểu ribotype mới cũng được xác định ở Thổ Nhĩ Kỳ, giống với Constantine nhất. Phân lập C.ulcerans không gây độc được phát hiện ở Anh là ribotype U4 (một danh pháp khác với C.diphtheriae ribotyping). Chủng C.pseudotuber tuberculosis phân lập từ Latvia không trải qua quá trình ribotyping. Các phân lập không sinh độc tố cũng được kiểm tra nhằm phát hiện sự hiện diện của gen độc tố bạch hầu; hai chủng được phân lập từ Litva (ribotype: Moskva) dương tính với gen độc tố, tất cả những chủng khác đều âm tính. Hai chủng này được chỉ định là chủng mang gen độc tố không sinh độc tố (NTTBs); gen hiện diện nhưng độc tố không được biểu hiện và do đó âm tính khi được kiểm tra trong xét nghiệm kiểu hình Elek.

Nguồn: https://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1198743X14632675

21


GOING NET

Bạch hầu ường hô hấp gây tử vong ở

MỘT DU KHÁCH HOA KỲ TỚI Pennsylvania, 2003

Bệnh bạch hầu đường hô hấp có thể trở nên nặng hoặc gây tử vong ở những người chưa được tiêm chủng. Ngay cả khi được điều trị thích hợp, tỷ lệ tử vong của người nhiễm bệnh vẫn nằm ở mức 5-10%.

22


TOÀN CẦU

HAITI

Trong hơn 50 năm, việc tiêm chủng vắc-xin ngừa bệnh bạch hầu đã được khuyến cáo cho cả trẻ em và người lớn ở Hoa Kỳ. Những người không được chủng ngừa hoặc tiêm chủng không đầy đủ có thể mắc bệnh bạch hầu khi đi đến các vùng bệnh lưu hành, khiến họ và những người tiếp xúc gần với mình có nguy cơ bị bệnh nặng. Báo cáo này mô tả trường hợp tử vong do bệnh bạnh hầu đường hô hấp là một cư dân bang Pennssylvania, Hoa Kỳ chưa được tiêm phòng đi du lịch đến Haiti, một quốc gia nơi bệnh bạch hầu lưu hành. Vụ việc này cho thấy mọi khách du lịch quốc tế cần phải được tiêm phòng tất cả các loại vắc-xin được khuyến cáo, bao gồm các mũi vắc-xin cơ bản chứa độc tố bạch hầu.

Báo cáo được thực hiện bởi: P Lurie, MD, Div of Infectious Disease Epidemiology; H Stafford, P Tran, MEd, Div of Immunizations; C Teacher, MSN, R Ankeny, M Barron, MSN, J Bart, DO, Bur of Community Health Systems, Pennsylvania Dept of Health. K Bisgard, DVM, T Tiwari, MD, T Murphy, MD, J Moran, MD, Epidemiology and Surveillance Div, National Immunization Program; P Cassiday, MS, Div of Bacterial and Mycotic Diseases, National Center for Infectious Diseases, CDC.

23


GOING NET

THÁNG 10, 2003 Bang Pennsylvania

Vào tháng 10/2003, Sở y tế Pennsylvania cùng với Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh CDC đã được thông báo về một trường hợp nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu đường hô hấp là một người đàn ông khỏe mạnh, 63 tuổi, và chưa từng được tiêm phòng bệnh bạch hầu. Bệnh nhân và bảy người đàn ông khác đến từ các bang New York, Pennsylvania và Tây Virginia đã trở về Mỹ sau chuyến đi kéo dài một tuần đến vùng nông thôn Haiti giúp người dân địa phương xây dựng một nhà thờ. Một ngày trước khi rời Haiti, bệnh nhân bị đau họng. Hai ngày sau khi trở về bang Pennsylvania, ông đã đến khám tại một phòng cấp cứu địa phương và phàn nàn về các triệu chứng như đau họng dai dẳng và khó nuốt. Xét nghiệm nhanh kháng nguyên liên cầu nhóm A và xét nghiệm tìm ngưng kết heterophile đều âm tính; ông được kê đơn uống amoxicillin và clavulanate potassium.

24


TOÀN CẦU

Ngày thứ 4 sau khi xuất hiện triệu chứng bệnh nhân trở lại phòng cấp cứu với các biểu hiện như ớn lạnh, vã mồ hôi, bồn chồn, khó nuốt và khó thở, buồn nôn và nôn. Thăm khám, bệnh nhân không sốt, thở khò khè và cổ bị sưng. Nghe phổi có tiếng khò khè khi thở ra và giảm dần ở đáy phổi trái. Chỉ số động mạch 88% trong điều kiện không khí trong phòng. Phim X-quang cổ và ngực cho thấy sưng mô mềm đĩa đệm, nắp thanh quản giãn, và đáy phổi trái có mờ. Chẩn đoán ban đầu là viêm nắp thanh quản cấp tính có tắc nghẽn đường thở và diễn tiết suy hô hấp. bệnh nhân được đưa vào khoa Hồi sức tích cực; trong quá trình đặt nội khí quản, nội soi thanh quản được thực hiện cho thấy dịch tiết màu vàng trên amidan, thành sau và vòm miệng mềm, và các nếp gấp trước họng bị tróc. Trong 4 ngày tiếp theo, bệnh nhân được điều trị bằng azithromycin, ceftriaxone, nafcillin và steroid, nhưng bệnh nhân bị hạ huyết áp và sốt ( 3 8 , 3 °C). Tụ cầu vàng nhạy cảm với methicillin được phân lập trong đờm. Kết quả nuôi cấy mẫu ngoáy họng âm tính với vi khuẩn bạch hầu.

25


GOING NET

1

Ngày thứ tám, bệnh nhân được chuyển đến cơ sở chăm sóc cấp III. X quang phổi cho thấy thâm nhiễm ở 2 bên đáy phổi. Quan sát thấy dịch tiết màu trắng giống như nhiễm trùng C.diphtheriae trong khi mở khí quản. Màng giả mạc bao phủ các cấu trúc trên thanh quản, bao gồm nắp thanh quản, van tim và xoang piriform, vùng hậu môn và lỗ vào thanh môn. Nhuộm gram dịch tiết thanh quản thấy các que gram dương, cầu khuẩn gram dương và nấm men. Bệnh nhân tiếp tục được dùng nhiều loại thuốc kháng sinh, bao gồm penicillin, vancomycin và gentamicin; thuốc kháng độc tố bạch hầu (DAT) được sử dụng vào ngày thứ chín. Hai ngày sau, một mẫu màng giả mạc có kết quả nuôi cấy âm tính nhưng dương tính với gen độc tố C.diphtheriae bằng phản ứng chuỗi polymerase (PCR) được thực hiện tại CDC. Sau 17 ngày phát bệnh, bệnh nhân bị biến chứng tim và tử vong.

26

Dựa trên chuyến du lịch quốc gia bệnh bạch hầu chứng bệnh và kết quả P y tế xác nhận việc bện nhiễm bệnh bạch hầu đ


TOÀN CẦU

3 Tiến hành điều tra những người tiếp xúc gần với bệnh nhân ở các bang New York, Pennsylvania và Tây Virginia.

2

của bệnh nhân đến một u lưu hành, với các triệu PCR dương tính, cơ quan nh nhân tử vong là do đường hô hấp.

Người tiếp xúc gần được định nghĩa là những người đã tiếp xúc với dịch tiết đường hô hấp của bệnh nhân hoặc sống cùng nhà với bệnh nhân. Những người này bao gồm vợ của bệnh nhân, những người cung cấp dịch vụ y tế, những người bạn đi du lịch Haiti và hai người khác cùng phòng với bệnh nhân vào ngày bệnh thứ hai. Bệnh phẩm được lấy để phân lập vi khuẩn C.diphtheriae và xét nghiệm PCR; tất cả kết quả nuôi cấy và PCR đều âm tính. Những người tiếp xúc gần với bệnh nhân đều được dùng kháng sinh dự phòng và tiêm vắc-xin chứa độc tố bạch hầu nếu họ chưa được tiêm nhắc lại trong vòng 5 năm trước đó.

27


GOING NET

Bệnh bạch hầu do các chủng vi khuẩn C.diphtheriae có độc tố gây ra và một vài trường hợp do vi khuẩn C.ulcerans. Kể từ khi chương trình tiêm chủng phổ cập bắt đầu vào những năm 1940, bệnh bạch hầu đã không còn phổ biến ở Hoa Kỳ. Năm 2001, tỷ lệ bao phủ tiêm chủng ở trẻ 19-35 tháng tuổi được tiêm >3 liều vắc xin chứa độc tố bạch hầu là xấp xỉ 95%. Tuy nhiên, ở người lớn, tỷ lệ tiêm nhắc lại sau mười năm thấp. Xét nghiệm các mẫu huyết thanh từ những người tham gia Cuộc khảo sát Kiểm tra Sức khỏe và dinh dưỡng Quốc gia lầm thứ ba (1988 - 1994) cho thấy rằng tỷ lệ cư dân Hoa Kỳ có mức bảo vệ (>0,1 IU/ml) kháng thể bạch hầu giảm dần theo tuổi, từ 91% ở độ tuổi 6-11 xuống khoảng 30% ở độ tuổi 60-69.

28

Trong giai đoạn 1980-2001, CDC ghi nhận có tổng cộng có 53 trường hợp nghi nhiễm hoặc được xác nhận nhiễm bạch hầu; báo cáo gần đây nhất của bang Pennsylvania được thực hiện vào năm 1992. Trong những năm gần đây, ở Mỹ, người ta cũng ghi nhận một số trường hợp nhiễm bệnh, các bệnh nhân chủ yếu là người lớn. Năm 1996, vi khuẩn C.diphtheriae gây độc tố được phân lập từ các cư dân của cộng đồng người da đỏ ở Mỹ, và vi khuẩn C.ulcerans gây độc tố được phân lập từ một cư dân 54 tuổi đến từ bang Indiana bị bệnh bạch hầu đường hô hấp. Năm 1999, một cư dân 75 tuổi ở tiểu bang Washington tử vong do một căn bệnh với các triệu chứng lâm sàng phù hợp với bệnh bạch hầu đường hô hấp; vi khuẩn gây độc tố C.ulcerans được phân lập từ mẫu ngoáy họng của người này.


NGƯỜI BIÊN TẬP

TOÀN CẦU

GHI CHÚ CỦA

29


GOING NET

Những bệnh nhân gần đây trở về từ những vùng có dịch bệnh hoặc những người tiếp xúc gần với những người mới trở về từ những vùng đó bị viêm màng mũi, họng hoặc viêm thanh quản tắc nghẽn cần được phân loại nghi ngờ nhiễm bạch hầu. DAT, có sẵn từ CDC†, nên được dùng ngay khi bệnh nhân nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu, mà không cần đợi kết quả khẳng định của phòng xét nghiệm. Thuốc kháng sinh được dùng cho những bệnh Những du khách bị nhiễm bệnh bạch hầu nhân nghi ngờ mắc bệnh quay trở lại Hoa Kỳ trong thời gian ủ bệnh bạch hầu để diệt trừ vi hoặc không được điều trị có thể truyền vi khuẩn C.diphtheriae. Do khi khuẩn C.diphtheriae cho những người tiếp nhiễm bệnh bạch hầu có thể xúc gần với họ. Dự phòng bằng kháng không tạo ra miễn dịch chủ sinh được khuyến cáo cho những người động, bệnh nhân nên được tiếp xúc gần sau khi đã được lấy mẫu tiêm vắc-xin bạch hầu trong bệnh phẩm dịch mũi và họng để nuôi cấy. giai đoạn phục hồi. Những người tiếp xúc là trẻ vị thành niên và người lớn chưa được tiêm một liều vắc-xin bạch hầu trong 5 năm trước đó nên được chủng ngừa. Trẻ em nên được chủng ngừa vắc-xin bạch hầu, uốn ván và ho gà ở các độ tuổi từ 2 tháng, 4 tháng, 6 tháng, 12-18 tháng và 4-6 tuổi.

30


TOÀN CẦU

Tốt nhất nên tiêm một liều nhắc lại vắc xin uốn ván và bạch hầu (Td) ở lứa tuổi 11-12 tuổi (hoặc 13-18 tuổi); và việc bảo vệ nên được duy trì bằng cách tiêm nhắc lại vắc-xin bạch hầu thường xuyên sau mỗi 10 năm.

Ngoài việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa bệnh tật cụ thể khi đi du lịch, tất cả khách du lịch quốc tế, bất kể tuổi tác hay nơi ở, phải đảm bảo rằng được chủng ngừa tất cả các loại vắc-xin được khuyến nghị, bao gồm cả một loạt liều cơ bản (tức là >3 liều) của thuốc chủng ngừa bạch hầu - chứa vắc-xin bao gồm một liều trong vòng 10 năm trước đó. Để biết thêm thông tin bổ sung về các loại vắc-xin được khuyến nghị cho khách du lịch, cư dân có thể tham khảo dữ liệu của các sở y tế hoặc CDC.

Nguồn: https://www.cdc.gov/mmwr/preview/mmwrhtml/mm5253a3.htm

31


GOING NET

Miễn dịch với bệnh bạch hầu và uốn ván

ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ hiện đang sinh sống

tại khu vực nội thành

Nghiên cứu này nhằm mục đích xác định khả năng miễn dịch đối với bệnh bạch hầu và uốn ván ở 232 phụ nữ khu ổ chuột mới sinh nở gần đây. Tỷ lệ phụ nữ dễ mắc bệnh dễ tăng theo độ tuổi, trong đó tỷ lệ dễ mắc bệnh bạch hầu và uốn ván lần lượt là 33% và 25% với phụ nữ trên 30 tuổi. 32


TOÀN CẦU

Giới thiệu Uốn ván và bạch hầu đều là những bệnh không phổ biến ở Mỹ. Tuy nhiên, cả hai căn bệnh đều có liên quan đến tỷ lệ mắc bệnh và gây tử vong cao và có thể phòng ngừa bằng việc tiêm chủng. Việc chủng ngừa bệnh bạch hầu và uốn ván cần được tiến hành thường xuyên và bắt buộc trước khi bước vào tuổi đến trường. Điều tra dựa trên phỏng vấn các hộ gia đình cho thấy 95% trẻ em đi học được tiêm ba liều vắc-xin bạch hầu - uốn ván - ho gà (DTP) trở lên. Người trưởng thành đã hoàn thành tiêm chủng cơ bản vắc-xin uốn ván và bạch hầu được khuyến cáo tiêm nhắc lại sau mỗi 10 năm. Tuy nhiên, trong giai đoạn từ năm 1977–1982, 56% trường hợp mắc bệnh bạch hầu và 89% trường hợp uốn ván xảy ra ở người lớn đã cho thấy một thực tế rằng nhiều người trưởng thành lại không có đủ lượng kháng độc tố bạch hầu trong cơ thể. Các khảo sát huyết thanh học cho thấy ở người trưởng thành, nồng độ kháng độc tố uốn ván và bạch hầu bị thiếu hụt từ 20% đến 80%. Tỷ lệ này ở nữ giới cao hơn nam giới, đặc biệt là ở nhóm người trung niên và cao tuổi.

33


GOING NET

Rất ít dữ liệu sẵn có gần đây về tình trạng miễn dịch của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đến từ các khu vực KT-XH thấp. Trong một nghiên cứu về đáp ứng miễn dịch ở trẻ sinh non và đủ tháng đối với vắc xin tổng hợp DTP do Ủy ban phối hợp Điều tra Lâm sàng của Viện Y tế Johns Hopkins phê duyệt, chúng tôi đã lấy mẫu từ những phụ nữ đưa con đến khám tại một trong hai phòng khám nhi trong khu ổ chuột. Như là một phần của nghiên cứu này, các tác giả đã xác định khả năng miễn dịch đối với bệnh bạch hầu và uốn ván của nhóm phụ nữ vừa mới sinh nở gần đây.

34

Tác giả: BERYL A. KOBLIN, PHD, VÀ TIMOTHY R. TOWNSEND, MD Lược dịch từ nguồn https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC1349708/pdf/amjph00235-0097.pdf


PHƯƠNG

TOÀN CẦU

ÁP PH

Các chuyên gia đã thu thập mẫu huyết thanh của các bà mẹ có con nhỏ đến khám tại một trong hai phòng khám ngoại trú nhi, nơi thăm khám chủ yếu cho những người tham gia chương trình bảo hiểm y tế dành cho người nghèo Medicaid, tại bệnh viện Johns Hopkins từ tháng 8/1984 đến tháng 6/1986. Mẹ của tất cả trẻ sinh non thiếu tháng được sinh ra trong thời gian nghiên cứu và mẹ của trẻ sinh đủ tháng được chọn ngẫu nhiên vào ngày khám tiếp theo đã được mời tham gia. Nếu bà mẹ được chọn không có mặt tại phòng khám hoặc từ chối tham gia, thì một bà mẹ khác sẽ được chọn ngẫu nhiên từ danh sách hẹn khám. Phiếu đồng ý tham gia nghiên cứu và mẫu máu tĩnh mạch được thu thập từ tất cả các bà mẹ tham gia nghiên cứu. Mỗi phụ nữ sẽ được phỏng vấn và thu thập thông tin về tuổi, chủng tộc và học vấn. Mức độ kháng độc tố bạch hầu và uốn ván được xác định bằng xét nghiệm ngưng kết máu gián tiếp thích ứng với kỹ thuật microtiter. Để so sánh với các nghiên cứu trước đây, mức kháng độc tố ≥ 0,01 đơn vị/ml được coi là có tác dụng bảo vệ. Mối quan hệ giữa tuổi và tỷ lệ phần trăm phụ nữ dễ bị mắc bệnh được phân tích bằng cách sử dụng Chi-square test.

35


GOING NET

Kết quả 157 bà mẹ của trẻ sinh non thiếu tháng và 273 bà mẹ của trẻ sinh đủ tháng đủ điều kiện tham gia nghiên cứu; 99 bà mẹ (63,1%) có con sinh non và 133 bà mẹ (48,7%) có con đủ tháng được kiểm tra.

Số lượng phụ nữ tham gia nghiên cứu bao gồm 232 người trong độ tuổi từ 13-46 (tuổi trung bình là 23 tuổi). Có 32% số phụ nữ dưới 20 tuổi. Gần như tất cả những phụ nữ tham gia là người da đen (95%); 117 người (50%) đã ít nhất hoàn thành chương trình giáo dục trung học phổ thông. 43 phụ nữ (18,5%) có nồng độ kháng độc tố bạch hầu dưới mức bảo vệ (Bảng 1). Tỷ lệ phụ nữ dễ mắc bệnh bạch hầu ngày càng tăng theo tuổi. Không có sự khác biệt về tỷ lệ phụ nữ không được bảo vệ theo trình độ học vấn. 10 phụ nữ (4,3%) có nồng độ kháng độc tố uốn ván dưới 0,01 đơn vị/ml, do đó họ được coi là không được bảo vệ (Bảng 1). Tỷ lệ phụ nữ có chỉ số dưới mức bảo vệ một lần nữa lại tăng lên theo tuổi, không có phụ nữ dưới 20 tuổi không được bảo vệ, so với 25% ở nhóm phụ nữ trên 30 tuổi. Một lần nữa, không có sự khác biệt về tỷ lệ phụ nữ không được bảo vệ theo trình độ học vấn. Ở mọi lứa tuổi, tỷ lệ phụ nữ dễ mắc bệnh bạch hầu cao hơn bệnh uốn ván.

36


TOÀN CẦU BẢNG 1 - Số lượng và tỷ lệ phụ nữ sinh đẻ dễ bị nhiễm* bạch hầu và uốn ván tính theo tuổi Bạch hầu*

Uốn ván*

Độ tuổi

N

N (%)

N (%)

< 16

25

2 (8.0)

0 (0.0)

64

12 (18.8)

1 (1.6)

34

10 (29.4)

232

43 (18.5)

17-19 20-22 23-25 26-30 > 30 Tổng số

49 36 24

6 (12.2)

0 (0.0)

5 (13.9)

0 (0.0) 3 (8.8)

8 (33.3)

9 (25.0)

10 (4.3)

*Dễ bị nhiễm bệnh ≤0,01 đơn vị/ml kháng độc tố. X2 test với xu hướng bạch hầu = 7.88; p = 0.005

X2 test với xu hướng uốn ván = 20.18; p < 0.0001

Các cuộc khảo sát được thực hiện ở các nhóm phụ nữ khác trong 20 năm qua cho thấy tỷ lệ phụ nữ dễ bị nhiễm bệnh cao hơn so với nghiên cứu hiện tại. Tuy nhiên, các nghiên cứu này cũng đã báo cáo sự gia tăng tỷ lệ mắc bệnh theo độ tuổi. Sau nghiên cứu, Millian và cộng sự cho biết: 25% phụ nữ từ 20-29 tuổi và 37% phụ nữ 30-39 tuổi có nồng độ kháng độc tố uốn ván thấp (<0,01 đơn vị/ml). 15% phụ nữ từ 15-19 tuổi, 19% phụ nữ 20-29 tuổi và 24% phụ nữ 30-39 tuổi có nồng độ kháng độc tố bạch hầu <0,02 đơn vị/ml.

N Ậ U ẾT L

K

37


GOING NET

Những người tham gia nghiên cứu này được lựa chọn từ một nhóm phụ nữ tự lựa chọn có con nhỏ đến khám tại các phòng khám ngoại trú, phục vụ chủ yếu cho chương trình Medicaid (bảo hiểm y tế dành cho người nghèo), ở một thành phố lớn. Tuy nhiên, họ là nhóm dân số có nguy cơ nhiễm bệnh cao do ít sử dụng dịch vụ chăm sóc y tế và không được chăm sóc liên tục. Dữ liệu bổ sung về lịch sử chủng ngừa sẽ giúp mô tả thêm đặc điểm của nhóm này.

Nghiên cứu này cho thấy, tỷ lệ phụ nữ dễ mắc bệnh bạch hầu ở tất cả các nhóm tuổi cao hơn so với tỷ lệ mắc uốn ván. Một trong những lý do cho vấn đề này có thể là những người này chỉ tiêm phòng uốn ván như một phương pháp điều trị dự phòng vết thương sau chấn thương thay vì tiêm vắc-xin phối hợp bạch hầu-uốn ván.

38

Một lý do khác được đưa ra là do giải độc tố bạch hầu ít kháng nguyên hơn giải độc tố uốn ván và do đó thời gian bảo vệ huyết thanh sau khi chủng ngừa có thể ít hơn so với thời gian quan sát được đối với giải độc tố uốn ván.


TOÀN CẦU

Chỉ số bảo vệ ở mức 0,01 đơn vị/ml được chọn trong nghiên cứu này để có thể so sánh với các nghiên cứu khác. Tuy nhiên, mức độ bảo vệ của vắc-xin phòng bệnh bạch hầu ít được xác định rõ hơn đối với bệnh uốn ván. Các đợt bùng phát xảy ra trong các cộng đồng đã thực hiện việc chủng ngừa mở rộng thì việc chủng ngừa giải độc tố bạch hầu có thể được áp dụng để làm nhẹ bệnh hơn là ngăn chặn sự xuất hiện của bệnh.

Khả năng dễ nhiễm bệnh bạch hầu ở các nhóm tuổi lớn hơn có thể là kết quả của việc ít tiếp xúc với bệnh bạch hầu trong quá khứ, không hoàn thành các mũi tiêm cơ bản khi còn bé hoặc tiêm nhắc lại không đầy đủ từ khi còn nhỏ.

Vì khả năng miễn dịch đối với bệnh uốn ván hoàn toàn phụ thuộc vào việc tiêm chủng, phụ nữ ở các nhóm tuổi lớn hơn đã không hoàn thành các mũi tiêm cơ bản của họ, hoặc không được tiêm nhắc lại gần đây.

39


COVER STORY

Ở Maryland, yêu cầu tiêm chủng trước khi nhập học bắt đầu có hiệu lực vào năm 1973 đối với trẻ em từ mẫu giáo đến lớp sáu. Do đó, những phụ nữ sinh sau năm 1962, những người dưới 23 tuổi tại thời điểm giữa của nghiên cứu, sẽ là những người có nhiều khả năng được tiêm chủng nhất trong chương trình này.

40


TIÊU ĐIỂM

Hai lĩnh vực chính nhận được sự quan tâm có thể rút ra từ những dữ liệu nêu trên là: Khi những phụ nữ này già đi, họ sẽ góp phần tăng tỷ lệ vào dân số già vốn đã dễ mắc bệnh. Thứ hai, việc bảo vệ trẻ sơ sinh chống lại bệnh bạch hầu và uốn ván trong những tháng đầu đời phụ thuộc vào việc người mẹ truyền đủ lượng kháng độc cho thai nhi trong thời kỳ mang thai.

Do các kháng thể bạch hầu và uốn ván dễ dàng đi qua nhau thai trong thời kỳ mang thai, việc tiêm nhắc lại thường xuyên đối với phụ nữ sẽ giúp bảo vệ con của họ trong những tháng đầu đời. Tất cả những phụ nữ đồng ý tham gia nghiên cứu này đã nhập viện để sinh vài tháng trước khi mẫu máu được lấy. Thời điểm ngay sau khi sinh nhập viện cho đến khi sau sinh và trước khi xuất viện là cơ hội tốt được khuyến nghị để tiêm phòng vắc-xin và giải độc tố cho người lớn. Chủng ngừa khi đến khám tại các phòng khám tiền sản khoa hoặc nhi khoa cũng là một giải pháp.

tiêm chủng 41


RISK MANAGEMENT

Có những loại vắc-xin phòng bệnh bạch hầu, uốn ván và ho gà nào?

42


QUẢN LÝ RỦI RO

Vắc-xin kết hợp chứa 2 hoặc nhiều vắc-xin trong một mũi tiêm nhằm giảm số lượng mũi tiêm. Chín loại vắc xin trong số này cũng giúp bảo vệ chống lại bệnh ho gà. Một số loại vắc-xin cũng bao gồm bảo vệ chống lại các bệnh khác, bao gồm bại liệt, Haemophilus influenzae tuýp b (Hib) và viêm gan B.

43


RISK MANAGEMENT

VACCINE

DT và Td - DTaP - Tdap

Các chữ cái viết hoa trong các chữ viết tắt này có nghĩa là vắc xin có đủ liều lượng của phần vắc-xin đó. Chữ “d” và “p” trong Td và Tdap có nghĩa là những loại vắc xin này sử dụng liều lượng nhỏ hơn đối với bệnh bạch hầu và ho gà. Chữ “a” trong DTaP và Tdap là viết tắt của “acellular”, có nghĩa là thành phần ho gà chỉ chứa một phần vi khuẩn thay vì toàn bộ vi khuẩn.

DT (generic) và Td (Tenivac và generic) chống lại bệnh bạch hầu và uốn ván.

44

DTaP (Daptacel, Infanrix, Kinrix, Pediarix, Pentacel, Quadracel, và Vaxelis) chống lại bệnh bạch hầu, uốn ván và ho gà.


QUẢN LÝ RỦI RO

DT và Td

Tdap (Adacel và Boostrix) chống lại bệnh uốn ván, bạch hầu và ho gà.

DT Generic: Tiêm 5 mũi cho trẻ sơ sinh và trẻ em từ 6 tuần đến 6 tuổi. Chỉ sử dụng vắc-xin này cho những trẻ không nên tiêm vắc xin ho gà.

Td Generic: Tiêm nhắc lại 10 năm một lần cho trẻ từ 7 tuổi trở lên. Cũng có thể tiêm vắc xin này như một phần của loạt 3 mũi tiêm cho những người từ 7 tuổi trở lên mà trước đó chưa tiêm vắc xin uốn ván và bạch hầu hoặc có thể sử dụng vắc-xin này để hoàn thành các mũi vắc xin phòng bệnh uốn ván và bạch hầu ở người từ 7 tuổi trở lên.

Tenivac: Tiêm nhắc lại 10 năm một lần cho người từ 7 tuổi trở lên. Có thể tiêm vắc-xin này như một phần của loạt 3 mũi tiêm cho những người từ 7 tuổi trở lên mà trước đó chưa tiêm bất kỳ vắc xin uốn ván và bạch hầu hoặc có thể sử dụng vắc-xin này để hoàn thành loạt vắc-xin phòng bệnh uốn ván và bạch hầu ở người từ 7 tuổi trở lên.

45


RISK MANAGEMENT

Adacel: Tiêm một mũi đơn cho trẻ sơ sinh và thiếu niên, cũng như người lớn cần tiêm. Tiêm một mũi cho thai phụ trong mỗi lần mang thai. Tiêm vắc-xin này như một phần của loạt 3 mũi tiêm cho những người từ 7 tuổi trở lên chưa tiêm bất kỳ vắc xin uốn ván, bạch hầu và ho gà nào trước đó. Có thể sử dụng vắc-xin này để hoàn thành loạt vắc-xin phòng bệnh uốn ván, bạch hầu và ho gà ở người từ 7 tuổi trở lên. Vắc xin này có thể thay cho vắc-xin Td tiêm nhắc lại 10 năm một lần cho những người từ 7 tuổi trở lên.

TDaP

46

Boostrix: Các bác sĩ tiêm một mũi duy nhất cho thiếu niên và thanh thiếu niên, cũng như người lớn cần tiêm. Các bác sĩ tiêm một mũi cho thai phụ trong mỗi lần mang thai. Các bác sĩ cũng tiêm vắc-xin này như một phần của loạt 3 mũi tiêm cho những người từ 7 tuổi trở lên chưa tiêm bất kỳ vắc xin uốn ván, bạch hầu và ho gà nào trước đó. Có thể sử dụng vắc-xin này để hoàn thành loạt vắc-xin phòng bệnh uốn ván, bạch hầu và ho gà ở người từ 7 tuổi trở lên. Có thể sử dụng vắc-xin này thay cho vắc xin Td 10 năm một lần như một mũi tiêm nhắc lại cho những người từ 7 tuổi trở lên.


QUẢN LÝ RỦI RO

DTaP Daptacel: Sử dụng vắc-xin này cho tất cả 5 mũi trong loạt vắc-xin DTaP ở trẻ sơ sinh và trẻ em từ 6 tuần đến 6 tuổi. Infanrix: Sử dụng vắc-xin này cho tất cả 5 mũi trong loạt vắc-xin DTaP ở trẻ sơ sinh và trẻ em từ 6 tuần đến 6 tuổi. Kinrix: Sử dụng vắc-xin này trong mũi thứ 5 của loạt vắc-xin DTaP cho trẻ em từ 4 đến 6 tuổi. Kinrix cũng bảo vệ chống lại bệnh bại liệt. Pediarix: Sử dụng vắc xin này cho 3 mũi đầu tiên trong loạt vắc-xin DTaP ở trẻ sơ sinh và trẻ em từ 6 tuần đến 4 tuổi. Pediarix cũng bảo vệ chống lại bệnh bại liệt và viêm gan B.

Pentacel: Sử dụng vắc-xin này cho 4 mũi đầu tiên trong loạt vắc xin DTaP ở trẻ sơ sinh và trẻ em từ 6 tuần đến 4 tuổi. Pentacel cũng bảo vệ chống lại bệnh bại liệt và bệnh xâm lấn do vi khuẩn Haemophilus influenzae tuýp b gây ra. Quadracel: Sử dụng vắc-xin này trong mũi thứ năm của loạt vắc-xin DTaP ở trẻ em từ 4 đến 6 tuổi. Quadracel cũng bảo vệ chống lại bệnh bại liệt. Vaxelis: Sử dụng vắc-xin này cho 3 mũi đầu tiên trong loạt vắc-xin DTaP cho trẻ sơ sinh và trẻ em từ 6 tuần đến dưới 1 tuổi. Vaxelis cũng bảo vệ chống lại bệnh bại liệt, viêm gan B và bệnh xâm lấn do vi khuẩn Haemophilus influenzae tuýp b gây ra. Nhà sản xuất cho biết rằng vắc xin Vaxelis sẽ không có sẵn tại Hoa Kỳ trước năm 2021.

47


RISK MANAGEMENT

Nhìn chung, vắc xin bạch hầu, uốn ván và ho gà có tác dụng tốt, nhưng không thể ngăn ngừa tất cả các trường hợp mắc các bệnh hiểm nghèo này.

Các loại vắc-xin này tốt như thế nào? 48


QUẢN LÝ RỦI RO

Các loại vắc-xin giúp bảo vệ chống lại bệnh bạch hầu, uốn ván và ho gà khác nhau ở mức độ hiệu quả của chúng đối với từng bệnh. Các thành phần giải độc tố bạch hầu và uốn ván của các vắc xin này có tác dụng tốt đối với những người được tiêm những mũi cơ bản. (là ba liều cho người từ 7 tuổi trở lên và bốn liều cho trẻ em dưới 7 tuổi). Vắc xin giúp bảo vệ: Gần như tất cả mọi người (95/100) chống lại bệnh bạch hầu trong khoảng 10 năm. Hầu hết tất cả mọi người chống lại bệnh uốn ván trong khoảng 10 năm. Các nghiên cứu cho thấy thành phần ho gà hoạt động tốt như thế nào đối với trẻ em dùng đủ 5 liều, DTaP hoàn toàn bảo vệ: Gần như tất cả trẻ em (98/100) trong năm sau liều cuối cùng. Khoảng 7/10 trẻ em 5 năm sau khi tiêm liều DTaP cuối cùng.

Các nghiên cứu cho thấy thành phần ho gà hoạt động tốt như thế nào, Tdap hoàn toàn bảo vệ: Khoảng 7/10 người trong năm đầu tiên sau khi tiêm. Khoảng 3 hoặc 4/10 người sau 4 năm kể từ khi tiêm. Các nghiên cứu cho thấy thành phần ho gà hoạt động tốt như thế nào khi phụ nữ tiêm Tdap trong thời kỳ mang thai, vắc xin bảo vệ: Hơn 3/4 trẻ dưới 2 tháng tuổi tránh khỏi bị ho gà. Khoảng 9/10 trẻ sơ sinh tránh khỏi bị nhiễm ho gà nặngtới múc phải điều trị tại bệnh viện.

49


VẮC-XIN VỚI ệnh bạch hầu đã từng là nguyên nhân chính gây ra bệnh tật và tử vong ở trẻ em. Hoa Kỳ ghi nhận 206.000 trường hợp mắc bệnh bạch hầu vào năm 1921, dẫn đến 15.520 trường hợp tử vong. Bắt đầu từ những năm 1920, tỷ lệ mắc bệnh bạch hầu giảm nhanh chóng ở Hoa Kỳ và các quốc gia khác bắt đầu tiêm chủng rộng rãi. Kể từ năm 2010, 3 trường hợp mắc bệnh bạch hầu ở Hoa Kỳ đã được báo cáo cho CDC. Tuy nhiên, căn bệnh này vẫn tiếp tục gây ảnh hưởng trên toàn cầu.

50

BỆNH

BẠCH

HẦU

RISK MANAGEMENT

Năm 2018, các quốc gia đã báo cáo hơn 16.600 trường hợp cho Tổ chức Y tế Thế giới, nhưng nhiều trường hợp có thể không được báo cáo. Các nghiên cứu ước tính rằng vắc-xin chứa độc tố bạch hầu bảo vệ gần như tất cả mọi người (95/100) trong khoảng 10 năm. Khả năng bảo vệ giảm dần theo thời gian, vì vậy người lớn cần tiêm nhắc lại vắc xin Td hoặc Tdap 10 năm một lần để được bảo vệ.


QUẢN LÝ RỦI RO

Các nghiên cứu ước tính rằng vắc-xin chứa giải độc tố uốn ván bảo vệ cơ bản cho tất cả mọi người trong khoảng 10 năm. Khả năng bảo vệ giảm dần theo thời gian, vì vậy người lớn cần tiêm nhắc lại vắc-xin Td hoặc Tdap 10 năm một lần để được bảo vệ.

VẮC XIN VỚI BỆNH UỐN VÁN

Hoa Kỳ đã đưa vắc-xin chứa giải độc tố uốn ván đầu tiên vào lịch tiêm chủng định kỳ ở trẻ em vào cuối những năm 1940. Vào thời điểm đó, các bang báo cáo từ 500 - 600 trường hợp mỗi năm. Các ca nhiễm uốn ván giảm dần sau khuyến cáo tiêm chủng. Ngày nay, bệnh uốn ván không còn phổ biến ở Hoa Kỳ, với trung bình 30 trường hợp được báo cáo mỗi năm. Gần như tất cả các trường hợp mắc bệnh uốn ván hiện nay đều ở những người chưa bao giờ tiêm vắc-xin uốn ván hoặc không tiêm đủ liều vắc-xin uốn ván hoặc người lớn không tiêm nhắc lại sau 10 năm.

51


RISK MANAGEMENT

VẮC-XIN VỚI BỆNH HO GÀ Vắc-xin ho gà trở nên phổ biến rộng rãi vào những năm 1940. Trước đó, khoảng 200.000 trẻ em mắc bệnh và khoảng 9.000 trẻ em tử vong vì ho gà mỗi năm ở Hoa Kỳ. Sau khi có vắc-xin, số ca ho gà đạt mức thấp nhất mọi thời đại vào những năm 1970. Kể từ đó, đã có sự gia tăng chậm nhưng ổn định các trường hợp ho gà được báo cáo.

52


QUẢN LÝ RỦI RO

Cụm từ hữu ích

Có một số lý do có thể góp phần vào sự gia tăng này: Nâng cao nhận thức Cải thiện các xét nghiệm chẩn đoán Báo cáo tốt hơn Sự lây lan (lưu thông) của vi khuẩn nhiều hơn Giảm khả năng miễn dịch (khi một loại vắc-xin không cung cấp sự bảo vệ lâu dài) từ các loại vắc-xin hiện tại Các vi khuẩn gây bệnh ho gà cũng luôn thay đổi ở mức độ di truyền. Nghiên cứu đang được tiến hành để xác định xem có bất kỳ thay đổi nào có ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng hay không. Tuy nhiên, các nghiên cứu mới nhất cho thấy rằng vắc-xin ho gà vẫn tiếp tục có hiệu quả bất chấp những thay đổi gen gần đây.

Vắc-xin vô bào: Vắc xin được sản xuất bằng cách sử dụng một phần của vi khuẩn hoặc sinh vật Vắc-xin toàn tế bào: Vắc xin được sản xuất bằng cách sử dụng toàn bộ vi khuẩn hoặc sinh vật dưới dạng đã được làm yếu.

53


RISK MANAGEMENT

54


QUẢN LÝ RỦI RO

So với vắc-xin mà Hoa Kỳ đã sử dụng trước đây (được gọi là DTP), DTaP không bảo vệ chống lại bệnh ho gà được lâu. Vào những năm 1990, Hoa Kỳ đã chuyển từ vắc-xin ho gà toàn tế bào sang tiêm vắc xin ho gà vô bào cho trẻ sơ sinh và trẻ em. Vắc-xin ho gà dạng vô bào có ít tác dụng phụ hơn, nhưng không có tác dụng bảo vệ lâu dài. Nói chung, DTaP có hiệu quả đối với 8 hoặc 9/10 trẻ được tiêm phòng. Những trẻ tiêm đủ 5 mũi DTaP đúng lịch thì hiệu quả rất cao. Vắc-xin này bảo vệ gần như tất cả trẻ em (98/100) trong vòng một năm sau mũi tiêm cuối cùng. Khoảng 7 trong số 10 trẻ em được bảo vệ hoàn toàn trong 5 năm sau khi tiêm mũi DTaP lần cuối. 3/10 trẻ còn lại được bảo vệ một phần và ít có nguy cơ bị bệnh nặng nếu mắc bệnh ho gà. Tdap bảo vệ được khoảng 7/10 người trong năm đầu sau khi tiêm phòng. Hiệu quả giảm dần trong mỗi năm tiếp theo. Vắc-xin này bảo vệ hoàn toàn khoảng 3 hoặc 4/10 người 4 năm sau khi tiêm Tdap. Một đánh giá của CDC cho thấy tiêm chủng Tdap trong ba tháng cuối của thai kỳ ngăn ngừa hơn 3/4 trường hợp mắc bệnh ho gà ở trẻ dưới 2 tháng tuổi. Đối với trẻ sơ sinh mắc bệnh ho gà, cứ 10 trẻ thì có 9 trẻ được bảo vệ khỏi nhiễm bệnh đến mức cần được điều trị tại bệnh viện nếu mẹ được tiêm Tdap trong thai kỳ.

55


RISK MANAGEMENT Hầu hết những người tiêm vắc-xin giúp bảo vệ chống lại bệnh bạch hầu, uốn ván và ho gà không gặp bất kỳ vấn đề nghiêm trọng nào. Với bất kỳ loại thuốc nào, kể cả vắc-xin, đều có khả năng xảy ra tác dụng phụ. Những biểu hiện này thường nhẹ và tự khỏi trong vài ngày, nhưng có thể xảy ra các phản ứng nghiêm trọng.

DTaP DT

Phản ứng khi tiêm: Phản ứng khi tiêm: o Đỏ o Sưng tấy o Đau hoặc nhạy cảm o Sốt o Ăn mất ngon o Nôn mửa

o Đỏ o Sưng tấy o Đau/nhạy cảm o Sốt o Khó chịu (cáu kỉnh) o Ăn mất ngon o Nôn mửa Các phản ứng khi tiêm và sốt xảy ra thường xuyên hơn sau liều thứ tư và thứ năm của loạt DTaP so với sau các liều trước đó. Đôi khi toàn bộ cánh tay hoặc chân được tiêm bị sưng sau liều thứ tư hoặc thứ năm. Nếu điều này xảy ra, vết sưng kéo dài từ 1 đến 7 ngày.

Td Phản ứng khi tiêm: o o o o o o

56

Đau đớn Đỏ Sưng tấy Sốt Đau đầu Mệt mỏi

Phản ứng khi tiêm: o Đau đớn o Đỏ o Sưng tấy o Sốt o Đau đầu o Mệt mỏi o Buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy hoặc đau bụng o Ớn lạnh o Đau nhức cơ thể hoặc đau khớp o Phát ban, sưng hạch Tdap


QUẢN LÝ RỦI RO

ụ h p g n ụ d c á t ? ì g Các à l p ặ g ể h t có

57


RISK MANAGEMENT

Các vấn đề có thể xảy ra sau khi tiêm bất kỳ loại vắc xin nào 58


QUẢN LÝ RỦI RO

ôi khi mọi người bị ngất xỉu sau một thủ thuật y tế, bao gồm cả tiêm chủng. Ngồi hoặc nằm trong khoảng 15 phút sau khi tiêm vắc-xin có thể giúp ngăn ngừa ngất xỉu và chấn thương do ngã. Hãy để nhân viên y tế của bạn biết nếu bạn hoặc con bạn: o Chóng mặt o Có sự thay đổi thị lực o Bị ù tai Một số người bị đau dữ dội ở vai và khó cử động cánh tay khi tiêm. Điều này rất hiếm khi xảy ra.

01

02

Bất kỳ loại thuốc nào cũng có thể gây ra các phản ứng dị ứng nghiêm trọng. Những phản ứng như vậy từ vắc-xin là rất hiếm, ước tính khoảng 1 trong một triệu liều.

Những loại phản ứng này sẽ xảy ra trong vòng vài phút đến vài giờ sau khi tiêm chủng.

03 Như với bất kỳ loại thuốc nào, vắc-xin có khả năng gây thương tích nghiêm trọng hoặc tử vong. Để biết thêm thông tin về các tác dụng phụ có thể xảy ra do tiêm chủng, hãy truy cập trang web của CDC (CDC’s Possible Side effects from Vaccines webpage)

59


www.iirr.vn


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.