APARTMENT | No.22 - Nguyên tắc cung cấp nước đảm bảo an toàn (Phần 1)

Page 1

Biên tập bởi

Chuyên đề: Nguyên tắc cung cấp nước đảm bảo an toàn (Phần 1)

ĐẢM BẢO AN TOÀN NƯỚC TRONG HỆ THỐNG SẢN XUẤT VÀ PHÂN PHỐI Nguy cơ ô nhiễm do kết nối chéo

NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA VIỆC CUNG CÂP NƯỚC UỐNG AN TOÀN Chất lượng và bảo vệ nguồn nước Xử lý nước Rủi ro về vi khuẩn: bệnh truyền nhiễm qua đường nước

NGUY CƠ TRONG VIỆC CUNG CẤP NƯỚC UỐNG VÀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI LƯU HÀNH NỘI BỘ


t Kính chào Quý độc giả! Với chuyên mục "Nguyên tắc cung cấp nước đảm bảo an toàn" này chúng tôi sẽ tập trung vào các yếu ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng cụ thể là các quy trình liên quan đến thiết kế, lắp đặt và bảo trì hệ thống đường ống dẫn nước một cách hiệu quả. Chuyên mục này sẽ giúp các nhà quản lý, nhà cung cấp và kỹ thuật viên đường ống nước có được cái nhìn tổng quát và hoạt động hiệu quả hơn trong việc mang đến nước sạch chất lượng và liên tục với chi phí hợp lý nhằm đảm bảo sức khỏe và phúc lợi của người dân. Ở số đầu tiên này chúng tôi sẽ đề cập đến các nguyên tắc cơ bản trong việc cung cấp nước sạch cũng như các rủi ro có thể gặp phải đối với nguồn nước và việc xử lý nước thải.

Bien

Do Cong Bien Phó Tổng biên tập

Xin chân thành cảm ơn!


Chịu trách nhiệm nội dung

Hội đồng biên tập Nguyễn Danh Hải Nguyễn Hồng Minh Nguyễn Hoàng Thanh Nguyễn Quang Huy Hoàng Minh Nguyễn Lưu Hồng Hải Nguyễn Cảnh Toàn Lê Tiến Trung Nguyễn Văn Thiệp Trương Minh Thắng Cam Văn Chương Đỗ Trung Hiếu Cao Tiến Trung Tổng biên tập Nguyễn Tất Hồng Dương Phó Tổng biên tập Đỗ Công Biên Biên tập & Thiết kế Phòng phát triển Cộng động Website www.iirr.vn facebook.com/iirr.com


08 06 06

Những vấn đề chung về đường ống nước sạch

08 Đảm bảo an toàn nước trong hệ thống sản xuất và phân phối 10 Loại bỏ chất thải lỏng 16 Nguy cơ ô nhiễm do kết nối chéo

21

21 Kiểm tra định kỳ

22

Nguyên tắc cơ bản của cung cấp nước uống an toàn

28 Chất lượng và an toàn nước 30 Nguồn cung cấp nước uống công cộng 32 Chất lượng và bảo vệ nguồn nước 34 Xử lý nước 36 Phân phối nước

22


40

Nguy cơ trong việc cung cấp nước uống và quản lý chất thải

42 Rủi ro vi khuẩn: bệnh truyền nhiễm qua đường nước 44 Vi sinh vật trong nước 46 Những vi sinh vật nào là quan trọng? 48 Ước tính mức độ chất lượng nước và ô nhiễm nước thải 50 Sự phát triển của vi sinh vật trong hệ thống ống nước: sinh vật dị dưỡng, Legionella và Pseudomonas

40

Sinh vật dị dưỡng Legionella Pseudomonas aeruginosa

46

56 Rủi ro hóa chất 66 Các rủi ro khác Nước nóng và đóng cặn Thiệt hại cho các tòa nhà và đất đai Sự ăn mòn Sự đóng cặn

66


VỀ

06 Apartment

ĐƯỜNG ỐNG


NƯỚC

SẠCH

Apartment 07


ĐẢM BẢO AN TOÀN NƯỚC trong HỆ THỐNG SẢN XUẤT và PHÂN PHỐI hiến lược chính để đảm bảo chất lượng vi sinh và tính chất hóa học của nước là kế hoạch an toàn nguồn nước (WSP). Trong đó kết hợp nhiều “rào cản" được thiết lập để giảm thiểu sự lan truyền của vi sinh vật và chất gây ô nhiễm đến nguồn nước thô đến vòi của người sử dụng (nói rõ ở số sau).

08 Apartment

Một phần của WSP liên quan đến việc thường xuyên áp dụng xét nghiệm để theo dõi sự hiện diện của một số vi khuẩn và hóa chất nhất định cũng như để xác nhận hiệu suất của hệ thống thông qua sự vắng mặt của chúng tại thời điểm có người sử dụng nước (xem phần 3.1). Loạt “rào cản” chính gồm:


• • • • • •

Lớp bảo vệ nguồn nước khỏi chất thải (phân) và ô nhiễm khác; Trữ và lắng để loại bỏ một số vi sinh vật và vật chất hạt; Keo tụ, tạo bông và lắng cặn để loại bỏ các hạt keo và vi sinh vật; Lọc để loại bỏ thêm vi sinh vật và vật chất hạt; Khử trùng để khử hoạt tính của các mầm bệnh còn sót lại; Biện pháp ngăn ngừa tái nhiễm bẩn sau xử lý và trong quá trình phân phối.

Việc thực hiện WSP và các “rào cản” là trách nhiệm của các Cơ quan quản lý nước, nhưng các tổ chức y tế công cộng và bác sĩ cộng đồng đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát nhằm xác định các đợt bùng phát mà có thể báo hiệu khuyết điểm của WSP hoặc hậu quả do một trong các “rào cản” bị phá vỡ.

Apartment 09


LOẠI BỎ CHẤT THẢI LỎNG 10 Apartment

iệc cung cấp liên tục đủ lượng nước an toàn để uống và loại bỏ nhanh chóng, an toàn các chất thải và nước thải sinh hoạt là những yếu tố quan trọng đối với sức khỏe. Chất thải và nước thải sinh hoạt từ các tòa nhà và nhà ở được đưa qua hệ thống cống rãnh được gọi là nước cống, nước thải hoặc chất thải lỏng. Hệ thống ống dẫn nước thải và các công

trình tương tự để xử lý nước thải được gọi là hệ thống thoát nước thải. Trong nhiều trường hợp, hệ thống thoát nước được quản lý bởi một Bộ ngành vệ sinh hoặc chính quyền cộng đồng chứ không phải đơn vị cung cấp nước sinh hoạt. Cơ quan cung cấp dịch vụ quản lý nước thải thường chi trả cho các hoạt động của mình bằng cách thu phí từ khách hàng.


Chất thải lỏng được thu gom thông qua một mạng lưới cống rãnh tạo thành giới hạn trách nhiệm của cơ quan quản lý. Chủ sở hữu các công trình liên quan có trách nhiệm thu gom chất thải trong tòa nhà mà chúng được tạo ra và chuyển chúng đến hệ thống thoát nước công cộng. Tình huống 1 được trích từ báo cáo cuối cùng của Amoy Gardens được công bố vào tháng 7 năm 2003 bởi một cuộc điều tra do Bộ Y tế Canada và WHO (WHO 2003) tiến hành. Apartment 11


TÌNH HUỐNG 1: SARS TẠI

HỒNG KÔNG

moy Gardens là khu dân cư xây dựng bởi tư nhân cung cấp không gian sống cho khoảng 20.000 cư dân Hồng Kông. Vào khoảng ngày 20 tháng 3 năm 2003, một nhóm các trường hợp Hội chứng hô hấp cấp tính nghiêm trọng (SARS) bất thường được phát

hiện tại Khu nhà E của khu dân cư với các căn hộ số 7 và 8 bị ảnh hưởng hầu hết. Điều tra dịch tễ ban đầu và số lượng ca bệnh cao bất thường ảnh hưởng đến hai căn hộ này đã thúc đẩy giả thuyết rằng các yếu tố môi trường có thể liên quan đến việc lây truyền tác nhân truyền nhiễm.

HỒNG KÔNG, TRUNG QUỐC

12 Apartment


Các khu vực điều tra tập trung vào hệ thống ống nước và thông gió. Có khả năng xảy ra sự tương tác giữa hệ thống ống nước và hệ thống thông gió làm thúc đẩy sự lây lan tác nhân truyền nhiễm. Để ngăn dòng chảy tự do từ hệ thống ống nước vào trong nhà, các bộ tách nước được lắp đặt để đảm bảo giữ nước thải.

Amoy Gardens có tất cả các tính năng hệ thống ống nước cần thiết cho việc giữ nước như vậy. Việc giữ nước sẽ được duy trì, với điều kiện là hệ thống đường ống dẫn nước được vận hành theo thiết kế từ trước, với tất cả các bộ tách nước được bịt kín bằng nút đệm hoặc bằng nút khí cứng.

Tuy nhiên, nếu đặt bộ tách nước mà không có nước và không có nút bịt, điều này sẽ tạo ra một lối đi thông thoáng cho nước thải, dưới dạng khí gas và sol khí/giọt, xâm nhập vào nơi cư trú.

Apartment 13


Sự phân bố mạnh của vật chất lây nhiễm theo chiều dọc là chắc chắn trong căn hộ số 7 và đặc biệt là ở căn hộ số 8 dẫn đến giả thuyết rằng những người cư ngụ không được bảo vệ có thể đã bị nhiễm bệnh do những giọt ô nhiễm hút ra từ đường ống thải mà một người bệnh sống ở khu vực trên hoặc bên dưới, người đã thải ra vật chất lây nhiễm. Việc chuyển các hạt từ hệ thống ống nước đến người ở đã được thử nghiệm và chứng minh là có thể. Các bộ tách nước thoát nước sàn ở nhiều căn hộ dường như

14 Apartment

không được mồi nước thường xuyên nên đã mất chức năng bịt kín. Do đó, sol khí và các giọt nhỏ được tạo ra trong hệ thống ống nước có thể đi vào phòng tắm qua hệ thống thoát nước sàn không được bịt kín. Thử nghiệm bên trong căn hộ cho thấy quạt phòng tắm đã tạo ra chân không bên trong phòng tắm khi cửa chính và cửa sổ đóng. Trường hợp này rất có thể xảy ra nếu người ở sử dụng nhà vệ sinh hoặc đi tắm. Do đó, vật chất lây nhiễm có thể được hút vào phòng tắm từ hệ thống nước thải và tiếp xúc với người ở trong phòng.


Cuộc điều tra môi trường đã chứng minh rằng sự tích tụ của các biến cố khác nhau tổng lại có thể là trung gian của dịch bệnh trong Khu nhà E của Khu dân cư Amoy Gardens. Việc xả chất lây nhiễm từ một số bệnh nhân vào hệ thống cống rãnh có thể đã vượt quá khối lượng tới hạn cần thiết để tạo ra các sol khí/giọt nguy hiểm trong hệ thống nước thải. Hệ thống thoát nước sàn mở kết hợp với quạt hút quá mạnh của phòng tắm khi đó có thể đã hút vật chất lây nhiễm vào các chỗ kín và bằng cách này, người ta tiếp xúc với các sol khí/ giọt truyền nhiễm hoặc các bề mặt bị ô nhiễm qua quá trình lắng đọng giọt. Nguồn: Phỏng theo WHO 2003.

Apartment 15


Nguy cơ ô nhiễm do kết nối chéo Thực tế, bên trong nhiều công trình có hai hệ thống ống dẫn riêng biệt, một dẫn nước uống và còn lại là nước thải. Các đường ống này, bên trong và bên ngoài tòa nhà, cùng với bản thân các phụ kiện, là hệ thống ống nước của khu nhà. Hai hệ thống đường ống đi qua lòng đất để đến tòa nhà và chúng đến gần nhau tại các thiết bị phụ và thiết bị vệ sinh như bồn vệ sinh, bồn rửa hoặc bồn tắm. Sự gần nhau của các hệ thống cung cấp nước uống và hệ thống xử lý chất thải có nghĩa là có nguy cơ chất thải lỏng có thể xâm nhập vào hệ thống cung cấp nước uống. Giảm thiểu rủi ro này là một trong những mục tiêu hàng đầu của hệ thống đường ống dẫn nước được thiết kế tốt và xây dựng phù hợp.

16 Apartment


ác công nghệ và quy trình kỹ thuật về hệ thống ống nước hiệu quả đảm bảo rằng khi được áp dụng đúng cách sẽ không có những kết nối chéo giữa nguồn cung cấp nước uống và hệ thống thoát nước thải. Rủi ro của kết nối chéo thường lớn hơn ở các công trình công cộng, công nghiệp và thương mại, nơi phải quản lý hệ thống nước kép, máy bơm tuần hoàn, chất thải độc hại và các yếu tố khác.

goài ra còn có những rủi ro trong các tòa nhà nhiều tầng, nơi sử dụng máy bơm tăng áp để tăng áp suất ống chính, và trong các hệ thống đặc biệt được sử dụng trong bệnh viện và trong phẫu thuật nha khoa và thú y. Tuy nhiên, ngay cả các tòa nhà tiêu chuẩn dành cho một gia đình sinh hoạt cũng có nguy cơ về sức khỏe cho cả người ở và hàng xóm nếu hệ thống ống nước bị lỗi được lắp đặt hoặc nếu hệ thống ống nước không được bảo trì.

Apartment 17


Các tác động xấu của kết nối chéo có thể không chỉ giới hạn ở công trình liên quan, nhưng có thể được chuyển đến hệ thống ống cung cấp chính mà hệ thống ống nước được kết nối. Trong những trường hợp này, sức khỏe của cả một cộng đồng có thể bị đe dọa. Nguy cơ ô nhiễm đường ống chính là lớn nhất khi áp suất nguồn dao động hoặc dịch vụ bị gián đoạn. Một số nguồn cung cấp

18 Apartment

nước thường xuyên bị gián đoạn do nhầm tưởng rằng điều này sẽ làm giảm sự tiêu thụ. Việc cố ý làm gián đoạn nguồn cung cấp được coi là một hành vi nguy hiểm, cần phải tránh bằng mọi giá bởi cơ quan quản lý nước. Tuy nhiên, ngay cả trong một nguồn cung cấp nước uống công cộng được quản lý tốt, các trường hợp sẽ phát sinh khi ống chính phải được ngắt để vệ sinh bảo trì hoặc sửa

chữa, gây ra áp suất thấp hơn hoặc âm trong các dịch vụ kết nối với chúng. Sự sụt giảm áp suất cũng có thể xảy ra trong một hệ thống có kích thước nhỏ hơn khi lượng nước lớn được sử dụng để chữa cháy trong hệ thống nước. Nguy cơ ô nhiễm đường ống chính do giảm áp là rất nghiêm trọng và dịch bệnh bùng phát ở nhiều nơi trên thế giới được bắt đầu từ nguồn đây.


Sự ra đời của công nghệ cho phép tích hợp phun phân bón hoặc hóa chất vào hệ thống tưới tiêu hoặc tưới nước dự trữ tạo ra một nguy cơ ô nhiễm khác ở cả thành thị và nông thôn. Biện pháp ngăn ngừa dòng chảy ngược, gây ra bởi áp suất ngược hoặc dẫn qua xi-phông ngược, cùng với việc tránh tất cả các kết nối chéo, là điều cần thiết để bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng.

Apartment 19


20 Apartment


Kiểm tra định kỳ iệc giảm thiểu rủi ro cũng phụ thuộc vào việc bảo trì thiết bị. Trong trường hợp hệ thống lớn hoặc phức tạp, hoặc công trình công cộng hay liên quan đến việc xử lý thực phẩm để bán, cơ quan y tế (hoặc cơ quan khác) có thể yêu cầu kiểm tra định kỳ và tái kiểm tra như một điều kiện để phê duyệt. Chủ sở hữu của bất kỳ hệ thống ống nước nào, bất kể quy mô hoặc mục đích của nó, phải có nghĩa vụ xác định và sửa chữa kịp thời bất kỳ lỗi nào có thể phát sinh, bất kể nguyên nhân của nó là gì. Một đặc điểm thiết yếu của các chiến lược giảm thiểu rủi ro là chúng thường xuyên được theo dõi và duy trì. Là một phần trong trách nhiệm bảo vệ sức khỏe và an toàn cộng đồng, cơ quan có thẩm quyền phải đảm bảo rằng các hệ thống ống nước được duy trì tốt và liên tục theo tiêu chuẩn được yêu cầu trong quy trình kỹ thuật về hệ thống ống nước (xem chương 7). Để đảm bảo tính tuân thủ và duy trì quy trình kỹ thuật thông qua việc kiểm tra định kỳ các hệ thống lắp đặt là rất tốn kém, vì vậy cần phải đặt ra các ưu tiên thích hợp.

Đối với các hệ thống có khả năng gây ra rủi ro nghiêm trọng cho sức khỏe cộng đồng (chẳng hạn như cơ sở nơi chế biến thức ăn hoặc đồ uống, khách sạn, nhà trọ và công trình công nghiệp), điều kiện để được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt là hệ thống ống nước phải được tái kiểm tra theo các khoảng thời gian cụ thể (chẳng hạn như hai năm một lần) và các cuộc kiểm tra đó phải có sự chứng kiến của thanh tra giám sát. Thanh tra cũng nên hài lòng rằng không có kết nối chéo hoặc vi phạm quy tắc nào khác xảy ra kể từ lần kiểm tra và thử nghiệm trước. Công việc được hoàn thành trên hệ thống tự chứng nhận cũng có thể bị cơ quan có thẩm quyền đánh giá định kỳ và khả năng “tự chứng nhận” trong tương lai có thể bị rút lại nếu có bất kỳ vấn đề nào phát sinh từ cuộc kiểm tra.

Apartment 21


NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA VIỆC

CUNG CẤP NƯỚC UỐNG AN TOÀN hu cầu sử dụng nước ngọt trên toàn thế giới đã tăng gấp 10 lần từ năm 1900 đến năm 2000. Nước ngọt được sử dụng cho các mục đích sinh hoạt, giải trí, tưới tiêu, hỗ trợ chăn nuôi và nghiên cứu. Nước được sử dụng nhiều nhất trong tưới tiêu thường chiếm hơn 60% và trong công nghiệp chiếm 25% nữa.

22 Apartment


ác tầng chứa nước đang bị cạn kiệt nhanh chóng và các mối đe dọa do ô nhiễm đang ngày càng tăng. Có ba phương pháp chính để tăng lượng nước ngọt cung cấp ở những nơi cần thiết: tái sử dụng cho nhiều mục đích; khử mặn nước biển, nước lợ (mặn) trên bề mặt và nước ngầm; bảo toàn nước (tránh sử dụng lãng phí và thất thoát nước do rò rỉ). Từng điều trên đang dần trở nên thiết yếu để đáp ứng nhu cầu đang ngày càng gia tăng trong một số hoàn cảnh.

Apartment 23


Lượng Nước

24 Apartment

Người ta ước tính rằng mức sử dụng 20 lít nước uống trên đầu người mỗi ngày thể hiện lượng nước tối thiểu cần thiết để uống, chuẩn bị thực phẩm và vệ sinh cá nhân cơ bản; mức 50 lít bình quân đầu người mỗi ngày cho phép thêm việc giặt giũ cơ bản và tắm rửa ngoài các mục đích nói trên; mức vượt quá 100 lít trên đầu người mỗi ngày là mức tiếp cận tối ưu và sẽ đảm bảo tất cả các nhu cầu sử dụng trước đó và thêm một mức đáng kể độ thoải mái và hạnh phúc (Howard & Bartram 2003).


Nếu mất hơn 30 phút đi bộ để lấy nước và quay trở lại, mức tiêu thụ có thể sẽ ít hơn yêu cầu cơ bản và nhu cầu vệ sinh có thể sẽ không được đáp ứng đủ. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là ngay cả khi đạt được nguồn cung cấp tối

ưu, nếu nguồn cung cấp không liên tục, sẽ phát sinh những rủi ro đối với sức khỏe xảy ra do nguồn cung cấp nước uống ở trong tình trạng bị tổn hại, cũng như can thiệp vào chức năng của hệ thống vệ sinh bằng nước.

Apartment 25


Bảng dưới đây cho thấy chỉ một phần nhỏ nhu cầu nước hàng ngày là cần thiết cho quá trình hydrat hóa và được sử dụng như nước uống. Khí hậu và hoạt động thể chất, cũng như các nhân tố riêng, ảnh hưởng đến nhu cầu hydrat hóa hàng ngày.

KHỐI LƯỢNG TIÊU BIỂU CỦA NƯỚC NẠP VÀO (TỪ THỰC PHẨM VÀ NƯỚC) YÊU CẦU ÐỂ HYDRAT HÓA

Lượng chất lỏng hàng ngày cần thiết để hydrat hóa (lít) Kiểu người

Điều kiện

trung bình

Lao động chân tay/

Mang thai

Nhiệt độ cao

Cho con bú

Nữ trưởng thành

2.2

4.5

4.8

5.5

Nam trưởng thành

2.9

4.5

NA

NA

Trẻ em

1.0

4.5

NA

NA

NA: Không áp dụng Nguồn: Howard & Bartram 2003

26 Apartment


Apartment 27


Ít nhất 1,8 triệu người chết hàng năm vì các bệnh tiêu chảy, bao gồm cả bệnh tả; 90% là trẻ em dưới 5 tuổi, chủ yếu ở các nước đang phát triển. WHO ước tính rằng 88% ca bệnh tiêu chảy là do nguồn cung cấp nước uống không đảm bảo và không đủ vệ sinh.

28 Apartment


ác nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc cải thiện nguồn cấp nước uống làm giảm tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy từ 6% đến 25% và điều kiện vệ sinh được cải thiện làm giảm tỷ lệ này đến 32% và điều kiện vệ sinh được cải thiện làm giảm tỷ lệ này đến 32%. Các biện pháp can thiệp về vệ sinh, gồm giáo dục kiến thức và rửa tay, có thể giảm tới 45% số ca tiêu chảy.

rong trường hợp không có nguồn cung cấp nước uống đảm bảo, cần sử dụng phương pháp xử lý tại gia chẳng hạn như khử trùng bằng clo với vài giọt thuốc tẩy tại điểm sử dụng, điều này có thể làm giảm tình trạng tiêu chảy đến 39% (xem phần 2.3.2 và 17.2) ( WHO / UNICEF 2005).

Apartment 29


NGUỒN CUNG CẤP

NƯỚC UỐNG CÔNG CỘNG

Một hệ thống cung cấp nước uống bao gồm ba yếu tố chính: nguồn cấp nước, hệ thống xử lý và hệ thống phân phối cho người sử dụng. Ô nhiễm có thể xảy ra ở bất kỳ phân đoạn nào trong số đó và việc ngăn ngừa và giảm thiểu ô nhiễm là vai trò

30 Apartment

thiết yếu của nhà cung cấp nước, cũng như đảm bảo rằng nước liên tục được phân phối đến điểm tiêu thụ đủ an toàn để sử dụng và có thể chấp nhận được về mặt hình thức. Mỗi phần tử trong hệ thống đều có các lỗ hổng cần quản lý.


Cách bảo vệ tốt nhất là phương pháp tiếp cận nhiều lớp chắn, dựa trên một loạt các lớp chắn từ việc bảo vệ nước nguồn đến nhiều quy trình xử lý và tính toàn vẹn của hệ thống phân phối để đảm bảo rằng các chất gây ô nhiễm có hại tiềm ẩn được loại bỏ với đủ độ tin cậy trước khi đến vòi của người sử dụng.

Việc ngăn ngừa, giảm thiểu và loại bỏ các nguy cơ ô nhiễm là trách nhiệm chính của các nhà cung cấp nước và các cơ quan quản lý trong vai trò giám sát của họ. Người dân tiêu thụ cũng có trách nhiệm bảo vệ sự an toàn của nước trong nhà của họ bằng cách đảm bảo tính toàn vẹn của hệ thống đường ống của họ, tiến hành sửa chữa nhanh chóng

khi cần thiết, lưu trữ và sử dụng nước đúng cách để bảo đảm chất lượng và tính an toàn của nước. Trong trường hợp sử dụng nước không được phân phối công khai, hoặc khi nguồn cung cấp công cộng không đáng tin cậy hoặc không an toàn, người dùng cũng có thể thực hiện các biện pháp để đảm bảo rằng nước đủ an toàn để uống.

Apartment 31


CHẤT LƯỢNG NGUỒN NƯỚC VÀ BIỆN PHÁP BẢO VỆ

Nguồn nước ngầm và nước mặt có nguy cơ bị ô nhiễm từ cả vi khuẩn và hóa chất. Sự ô nhiễm hóa chất đôi khi xảy ra từ yếu tố tự nhiên (ví dụ như dư thừa florua và asen). Do đó, nhà cung cấp nước trước hết phải hiểu thành phần của nước nguồn và các nguồn ô nhiễm tiềm ẩn có thể gặp phải mà có tính đến các yếu tố theo mùa.

Nguồn nước mặt không được bảo vệ có thể bị ô nhiễm các trực tiếp bởi chất thải, cũng như các dòng chảy mặt có khả năng bị ô nhiễm bởi chất thải vệ sinh của con người hoặc động vật, chất thải nông nghiệp hoặc hóa chất (ví dụ như thuốc trừ sâu chảy tràn và dầu ô tô từ đường phố).

32 Apartment


Việc giặt giũ và phóng uế ở các dòng suối sẽ là nguyên nhân chính gây ô nhiễm dòng chảy. Nước ngầm thường được bảo vệ tự nhiên bởi lớp đất phủ; tuy nhiên, một số địa chất xốp sẽ dễ bị ô nhiễm từ chất thải bề mặt, cũng như từ các bể tự hoại và bể phốt. Các giếng không được bảo vệ và có thiết kế không tốt cũng như việc bơm nước từ giếng đào lộ thiên có thể làm tăng nguy cơ ô nhiễm.

Apartment 33


XỬ LÝ NƯỚC

Quy trình xử lý nước cần được xây dựng để loại bỏ hoặc vô hiệu hóa các vi trùng (vi khuẩn, vi rút, động vật nguyên sinh), hóa học (vô cơ, hữu cơ) và cảm quan (vị, mùi, màu, độ đục không mong muốn). Các công nghệ lọc và khử trùng cơ bản nhất thường thiết yếu và đủ để xử lý nước nguồn bề mặt; thông thường quá trình khử trùng là đủ để đảm bảo cho nhiều tầng nước ngầm nếu chúng không bị ô nhiễm từ các hoạt động trên bề mặt.

Hồ chứa nướ

Bể nước sạch

Một số sinh vật (ví dụ như động vật nguyên sinh Cryptosporidium) đặc biệt có khả năng chống lại sự khử trùng, vì vậy việc bảo vệ nguồn (ví dụ: tránh dòng chảy từ hoạt động sản xuất sữa) và lọc hiệu quả là cần thiết ở những nơi chúng có thể có mặt.

Florua

Bể nước dịch vụ

34 Apartment

Am


Do đó, việc lựa chọn, thiết kế và vận hành công nghệ phù hợp là điều cần thiết để đảm bảo xử lý thành công nguồn nước cụ thể đang được sử dụng. Các quy trình khử trùng bằng hóa chất tạo ra một số sản phẩm phụ mà cần lo ngại ít nhất là về mặt lý thuyết trong một số tình huống. Tuy nhiên, lợi ích của việc khử trùng vượt xa những mối quan tâm đó và chúng không nên là cái cớ để làm ảnh hưởng đến việc kiểm soát thiết yếu các mầm bệnh vi sinh mà là tác nhân gây ra lượng lớn ca nhiễm bệnh và tử vong nếu chúng không được quản lý bởi nhà cung cấp nước.

Quá trình keo tụ và kết bông

Nhà máy xử lý nước

ớc

moniac

Làm sạch bằng than hoạt tính sinh học

Clo

Khử trùng

Vôi

Màng lọc

Lắng cặn

Loại bỏ các hạt lớn

Sử dụng nước trong sinh hoạt và công nghiệp

Apartment 35


PHÂN PHỐI NƯỚC

Mục tiêu đặt ra là cung cấp nước máy an toàn đến vòi của tất cả người sử dụng. Có những cách tiếp cận khác được sử dụng nếu cần thiết, bao gồm đường ống đứng trung tâm, giếng được bảo vệ và nước đóng chai công cộng. Hệ thống phân phối bị rò rỉ làm tăng khả năng khiến cả nước sạch vận chuyển từ nguồn hoặc công trình xử lý sẽ bị ô nhiễm trước khi đến vòi người sử dụng.

Một lượng clo dư tự do hoặc chất khử trùng cloramin nhất định sẽ làm giảm nguy cơ tái ô nhiễm trong hệ thống phân phối. Các dòng nước bị ô nhiễm trong quá trình phân phối là nguồn gốc chủ yếu của các mầm bệnh trong đường nước và do đó gây bệnh qua đường nước.

36 Apartment

Hệ thống phân phối phải được thiết kế, quản lý và bảo trì để có mức rò rỉ tối thiểu và liên tục chịu áp suất đường ống bên trong lớn hơn áp suất thủy tĩnh bên ngoài. Điều này sẽ đảm bảo cung cấp nước với giảm thất thoát do rò rỉ và giảm thiểu sự phát triển dư thừa của vi sinh vật gây bệnh.


Nghiên cứu Tình huống 2, từ một bài báo trên Guardian Weekly, đưa ra một ví dụ về các vấn đề cung cấp nước uống và xử lý nước thải mà các thành phố đang phát triển trên thế giới phải đối mặt. Ngoài các yếu tố đã nêu, ô nhiễm nước còn xảy ra trong hệ thống phân phối do mạng lưới đường ống đã cũ và việc cung cấp không liên tục.

Apartment 37


TÌNH HUỐNG 2: CUNG CẤP NƯỚC UỐNG VÀ XỬ LÝ CHẤT THẢI Ở

DHAKA

Dhaka được xây dựng trên một vùng đồng bằng được bồi đắp và bị lấp đầy bởi rác và chất thải sinh hoạt. Khi sông Buri Ganga xảy ra lũ lụt, nhiều khu vực bị ngập trong nước thải và chất thải công nghiệp. Năm 2002, dân số của Dhaka là 10 triệu người, trong khi 30 năm trước đó là

250.000 người. Một phần tư người dân Dhaka sống trong những khu ổ chuột tồi tàn nhất, nhưng họ không thể được cấp nước một cách hợp pháp từ nguồn cung cấp nước uống của thành phố. Họ được hỗ trợ bởi các tổ chức phi chính phủ như Wateraid và Tearfund.

DHAKA, BANGLADESH

38 Apartment


Thành phố cần 1,6 tỷ lít nước mỗi ngày để cung cấp cho các nhu cầu cơ bản nhưng thực tế chỉ có 1,26 tỷ lít được cung cấp. Gần như tất cả nước (97%) đến từ các nguồn sâu dưới lòng đất và mực nước ngầm đang bị hạ thấp nhanh chóng nên nguồn này không thể duy trì được. Hệ thống nước thải có công suất

danh nghĩa 120.000 m3/ngày nhưng đường ống thoát nước thải chính đã ngừng hoạt động. Có rất nhiều kết nối bất hợp pháp với hệ thống thoát nước thải, chúng thải ra chất thải công nghiệp có kim loại nặng. Điều này có nghĩa là nước thải không thể được sử dụng để làm phân bón hoặc nuôi trồng thủy sản.

Bệnh lây truyền qua đường nước rất phổ biến và hàng chục nghìn trẻ em ở Dhaka chết vì nguyên nhân này mỗi năm. Phần lớn các bệnh lây truyền qua đường nước do ô nhiễm xảy ra ở cấp hộ gia đình (~ 70%) do nước được chứa trong các bể chứa trên mái nhà rất dễ bị ô nhiễm. Nguồn: Guardian Weekly (John Vidal, 11–17 April 2002).

Apartment 39


NGUY CƠ TRONG VIỆC CUNG CẤP NƯỚC UỐNG &

QUẢN LÝ CHẤT THẢI

40 Apartment


Apartment 41


Rủi ro vi khuẩn:

Bệnh truyền nhiễm qua đường nước

ừ quan điểm Sức khỏe cộng đồng, việc cung cấp nước uống đảm bảo an toàn là rất quan trọng cho đời sống hàng ngày. Không may là chính nguồn nước duy trì sự sống cũng có thể mang các chất ô nhiễm nguy hiểm dưới dạng vi khuẩn, vi rút và động vật nguyên sinh.

42 Apartment


Chúng bao gồm các vi khuẩn có độc như Escherichia coli và Campylobacter, vi rút như Norovirus và Hepatitis E (viêm gan E), và các động vật nguyên sinh như Giardia và Cryptosporidium. Nguy cơ nhiễm trùng, bệnh tật và gánh nặng sức khỏe cộng đồng được xác định bởi mức độ nghiêm trọng của căn bệnh do mầm bệnh gây ra, mức độ phơi nhiễm, khả năng lây nhiễm của chúng, điều kiện thể chất và độ nhạy của người dân bị nhiễm bệnh.

Apartment 43


VI SINH VẬT TRONG NƯỚC

Các khối nước tự nhiên như sông hồ và mạch nước ngầm thường chứa các chất dinh dưỡng; một số vi sinh vật (vi khuẩn, vi rút, v.v...) đã phát triển để tận dụng lợi thế của môi trường này. May mắn thay, hầu hết các vi sinh vật này không gây bệnh cho người, tức là chúng không có khả năng gây bệnh. Ngoài các vi sinh vật sống nhờ chất dinh dưỡng trong nước, vẫn còn nhiều vi sinh vật khác từ dòng nước chảy ra từ đất ở vùng lân cận. Nhưng cần nhắc lại, phần lớn các vi sinh vật từ đất không có hại.

44 Apartment

Tuy vậy, thường thì nước thải sẽ được xả ra các vùng nước này mà không được xử lý thích hợp. Nhiều vi sinh vật trong nước thải là mối đe dọa thực sự đối với sức khỏe. Chất thải từ động vật hoang dã và sinh hoạt cũng có thể gây nguy hiểm. Các nguồn lây và con đường phơi nhiễm khác cũng có thể chiếm một phần đáng kể; ngoài việc nuốt phải, hít phải các giọt sol khí và tiếp xúc với nước bị ô nhiễm cũng có thể là nguồn lây nhiễm (WHO 2004a).


Con người có thể bị nhiễm các mầm bệnh này khi uống nước bị ô nhiễm hoặc ăn động vật có vỏ chưa nấu chín có chứa các sinh vật có hại mà chúng hấp thụ từ nước bị ô nhiễm. Thực phẩm được tưới tiêu bằng nước thải chưa qua xử lý, bón phân không qua xử lý hoặc chế biến bằng nước bị ô nhiễm cũng là một nguồn nguy cơ gián tiếp. Các vi sinh vật có thể

thấm qua một số loại đất trong một khoảng thời gian dài cho đến khi chúng đến vùng nước mặt hoặc nước ngầm. Bể tự hoại bị rò rỉ và nhà tiêu không phù hợp có thể làm ô nhiễm các nguồn nước uống gần đó. Một số loại đất chẳng hạn như sa thạch có hiệu quả trong việc lọc vi sinh vật, nhưng đất kém mịn hơn và nứt nẻ có thể cho phép vận chuyển các sinh vật gây bệnh trong khoảng cách xa và sâu..

Một nguyên nhân nữa gây ô nhiễm nước uống là do trữ nước không đúng cách trong các bể chứa và bồn chứa gia đình cũng như trong các vật chứa nhỏ hơn. Đây là nguồn gây bệnh phổ biến trong nước uống ở các nước đang phát triển.

Apartment 45


Những vi sinh vật nào là quan trọng ?

Các vi sinh vật gây bệnh từ chất thải của con người và động vật được tìm thấy trong nước bị nhiễm bẩn gồm có vi khuẩn, vi rút và động vật nguyên sinh. Nhiều bệnh do chúng gây ra có thể dẫn đến tử vong. Một số vi khuẩn gây bệnh chủ yếu qua đường nước bao gồm vài loại thuộc chi salmonellae như vi khuẩn thương hàn, trực khuẩn Vibrio cholerae, Shigella spp. E. coli gây bệnh và xuất huyết ruột, và Yersinia enterocolitica.

46 Apartment


Một số vi rút gây bệnh đáng chú ý trong nước bao gồm vi rút viêm gan A và vi rút viêm gan E, Norovirus, Sapovirus và Rotavirus. Các động vật nguyên sinh gây bệnh đáng chú ý trong nước bao gồm Giardia gutis, Entamoeba histolytica (nguyên nhân gây bệnh amip), và Cryptosporidium parvum. Một số loài giun sán gây bệnh khi tiếp xúc với nước bao gồm Dracunculus medinensis và Schistosoma.

Apartment 47


ƯỚC TÍNH MỨC ĐỘ CHẤT LƯỢNG NƯỚC VÀ Ô NHIỄM NƯỚC THẢI

Hướng dẫn của WHO về Chất lượng Nước uống tập trung vào vi khuẩn E. coli (được ưu tiên) và vi khuẩn coliform chịu nhiệt, hiện diện với số lượng lớn trong ruột của động vật máu nóng, là những chỉ số tốt nhất để đánh giá chất lượng vệ sinh của nguồn cấp nước. Tuy nhiên, chỉ mình những chỉ số này không hẳn đã đủ để biểu thị cho vi rút và động vật nguyên sinh. E. coli tương đối dễ bị khử, nhưng vi rút và động vật nguyên sinh thường kháng clo và (đặc biệt là) cloramin.

48 Apartment


E. coli do dễ bị khử nên thường được các chuyên gia về hệ thống ống nước và y tế công cộng coi như một dấu hiệu cho thấy nước mới bị nhiễm chất thải của người hoặc động vật. Phân tích bằng phương pháp nuôi cấy có thể cần 24 đến 48 giờ cho mỗi lần kiểm tra. E. coli thường chỉ tồn tại trong nước vài ngày. Do đó, đo mức E. coli trong điều kiện tiêu chuẩn là một cách để ước tính mức độ ô nhiễm gần

đây do phân của người hoặc động vật. Các thước đo tổng số coliform được sử dụng ở một số quốc gia như một chỉ số duy trì tình trạng vệ sinh của nước uống. Tuy nhiên, chúng không phải là chỉ số trực tiếp đo tình trạng ô nhiễm, đặc biệt là ở các nước nhiệt đới, nơi có nhiều vi khuẩn không có tác động đáng kể nào đến vệ sinh xuất hiện trong hầu hết các nguồn cấp nước chưa được xử lý.

Apartment 49


SỰ PHÁT TRIỂN CỦA VI SINH VẬT TRONG HỆ THỐNG ỐNG NƯỚC:

SINH VẬT DỊ DƯỠNG LEGIONELLA VÀ PSEUDOMONAS

Sinh vật dị dưỡng Các vi sinh vật phát triển trong hệ thống phân phối nước uống, đặc biệt là trong trường hợp không có dư lượng chất khử trùng. Hầu hết trong số này là sinh vật dị dưỡng cần nguồn cacbon bên ngoài và chúng phát triển trong nước, trên các hạt và trên các bề mặt tiếp xúc với nước như màng sinh học và cả trên thực phẩm.

Chúng cũng có thể bao gồm một phổ rộng các vi sinh vật gây bệnh mang tính cơ hội như Aeromonas, Flavobacterium, Serratia, Pseudomonas và Klebsiella, nhưng không có bằng chứng nào trong cộng đồng về mối liên quan của bất kỳ sinh vật nào trong số những sinh vật này với bệnh nhiễm trùng đường tiêu hóa do uống nước uống (WHO 2004a); có thể có lo ngại với một số người bị suy giảm miễn dịch nghiêm trọng và môi trường bệnh viện (Bartram và cộng sự 2003).

Chúng được tìm thấy ở tất cả các vùng nước đã loại bỏ dư lượng chất khử trùng, bao gồm cả nước đóng chai, và trên các bộ lọc carbon cũng như các thiết bị và bề mặt xử lý khác. Hầu hết các sinh vật dị dưỡng không gây hại cho người khỏe mạnh, nhưng chúng có thể gây phiền toái bằng cách tạo ra vị và mùi hoặc làm đổi màu nguồn nước.

50 Apartment


Các yếu tố quyết định chính đến sự phát triển của dị vật là thiếu dư lượng chất khử trùng, nhiệt độ ấm, các chất dinh dưỡng gồm carbon hữu cơ và nước tù đọng.

Chúng được đo bằng phương pháp Đếm vi sinh dị dưỡng (HPC) để phát hiện một khoảng rộng các loại sinh vật bao gồm nhiều vi khuẩn và nấm. Số lượng đếm được lớn cho thấy nhiều khả năng có màng sinh học, tình trạng vệ sinh không tốt của hệ thống và sự hiện hữu của các chất dinh dưỡng. Trong trường hợp không có các chỉ thị vệ sinh có ý nghĩa (ví dụ như E. coli), bản thân các sinh vật HPC không phải là dấu hiệu của sự ô nhiễm do phân.

Apartment 51


Legionella egionella là một trong những trường hợp ngoại lệ đối với các sinh vật phát triển vô hại trong nước phân phối và chúng không được đo bằng các xét nghiệm HPC. Legionella có thể phát triển với số lượng đáng kể trong vùng nước ấm, máy nước nóng, bồn tắm nước nóng, đường nước nóng và vòi sen, và có thể trong hệ thống đường ống dẫn nước của các tòa nhà lớn và trong tháp giải nhiệt cho bộ trao đổi nhiệt của máy điều hòa không khí.

52 Apartment


Cần có các biện pháp phòng ngừa đặc biệt để ngăn ngừa và kiểm soát Legionella trong các bệnh viện và cơ sở chăm sóc sức khỏe, vì các vòi phun từ nhà tắm, spa và hệ thống làm mát là một con đường lây nhiễm và những công trình đó chứa số lượng có nguy cơ cao. Legionella phát triển tốt trong nước ở nhiệt độ trong khoảng 25°C đến 50°C.

Quy trình kiểm soát phòng ngừa và khắc phục hậu quả là rất cần thiết, đặc biệt là ở các bệnh viện và cơ sở chăm sóc sức khỏe (Surman- Lee 2006). Hướng dẫn của WHO về Chất lượng Nước uống chỉ ra rằng nhiệt độ nước nên được duy trì ngoài phạm vi 25–50°C, để tránh Legionella sinh sôi nảy nở (WHO 2004a); tuy nhiên, nhiệt độ nước nóng trên 50° C cũng có thể gây ra nguy cơ bỏng cho trẻ nhỏ và người già.

Apartment 53


Pseudomonas Aeruginosa

54 Apartment


i sinh vật Pseudomonas aeruginosa cũng phát triển trong hệ thống đường ống dẫn nước, hệ thống phân phối và trên các thiết bị trong các điều kiện nêu trên. Chúng có thể gây ra một loạt các bệnh nhiễm trùng nhưng hiếm khi gây bệnh nghiêm trọng cho những người khỏe mạnh. Chúng là một vấn đề nghiêm trọng trong môi trường bệnh viện, nơi sinh vật có thể cư trú tại các vị trí bị tổn thương như vết bỏng và cắt do phẫu thuật, đường hô hấp của những người nhạy cảm, vết thương vật lý của mắt, và chúng gây nhiễm trùng da trong bồn tắm nước nóng và spa. Làm sạch kính áp tròng bằng dung dịch bị nhiễm bẩn có thể gây ra một loại viêm giác mạc. Việc uống nước không phải là nguồn lây nhiễm đáng kể (WHO 2004a).

Apartment 55


RỦI RO HÓA CHẤT

Kể từ cuối thế kỷ 19, trọng tâm chính về sức khỏe đối với việc cung cấp nước uống đã được đặt vào các nguy cơ về vi sinh vật. Ô nhiễm do vi sinh vật vẫn là nguy cơ đáng kể nhất, dễ xảy ra nhất và có thể quản lý trên quy mô lớn liên quan đến nước uống khi không được quản lý đúng cách. Sự nhiễm bẩn về mặt hóa học của nước uống có thể do tự nhiên hoặc liên quan đến con người đối với nước mặt hoặc nước ngầm, hoặc sự nhiễm bẩn xảy ra trong quá trình xử lý nước (sản phẩm phụ do khử trùng), hoặc do nước được phân phối qua đường ống chính hay đường ống trong hộ gia đình (rỉ sét).

56 Apartment

Số lượng các chất ô nhiễm hóa học có khả năng gây hại (nếu đủ nồng độ) được xác định trong nước uống với một lượng nhỏ đang tăng nhanh trong hai mươi năm qua do sự phát triển của các phương pháp phân tích có khả năng phát hiện mức độ theo phần tỷ và phần nghìn tỷ. Những hóa chất này thường có ở nồng độ cực thấp khi được phát hiện.


Nước chỉ là một nguồn và thường không phải là nguồn tiếp xúc chủ yếu nhất với hầu hết các hóa chất này, ngoại trừ các sản phẩm phụ do khử trùng. Một vài trong số những chất gây ô nhiễm này đã được chứng minh là có thể gây ra những ảnh hưởng xấu cho con người khi hấp thụ phải qua nguồn nước có độ ô nhiễm cao.

Apartment 57


Một số chất phổ biến hơn được phát hiện, với phương thức xuất hiện và ảnh hưởng đến sức khỏe trong một số điều kiện tiếp xúc là: asen (tự nhiên; gây ung thư), florua (tự nhiên; răng bị nhiễm flour và biến dạng xương), chì (mòn rỉ ống chì; ảnh hưởng thần kinh), thuốc trừ sâu (sử dụng trong nông nghiệp và đổ tràn; nhiều ảnh hưởng), nitrat và nitrit (nông nghiệp và nước thải; tử vong ở trẻ sơ sinh), rađơn (địa chất tự nhiên đến không khí trong nhà và một số mạch nước ngầm; gây ung thư), sulfat (tự nhiên; gây tiêu chảy tạm thời cho người không cư trú). Asen, florua và nitrat/nitrit có lẽ là những ví dụ chủ yếu nhất đã cho thấy những ảnh hưởng sức khỏe có thể được giải thích từ việc sử dụng nước bị ô nhiễm.

58 Apartment


Một số nhóm, bao gồm cả trẻ nhỏ và người bị suy giảm miễn dịch, có thể có nguy cơ bị ảnh hưởng khi tiếp xúc với một số hóa chất trong môi trường cao hơn mức trung bình so với dân số chung. Ví dụ như ảnh hưởng của nhôm đối với bệnh nhân đang lọc máu khi sử dụng nước không được xử lý thích hợp khi lọc máu; ảnh hưởng của nhiễm độc chì đối với phụ nữ có thai và trẻ sơ sinh, thường là do tiếp xúc với bụi sơn chì; và ảnh hưởng của asen đối với những người suy dinh dưỡng.

Apartment 59


Asen phân bố rộng rãi với số lượng nhỏ ở các vùng biển trên thế giới. Tuy nhiên, ba mươi năm trước ở Bangladesh, hàng triệu giếng nông đã được khoan để giảm thiểu nguy cơ mắc các bệnh đường tiêu hóa do nước mặt bị ô nhiễm nặng. Thật không may, nước ngầm từ nhiều giếng nông này đã bị nhiễm asen và chúng không được xét nghiệm trước 60 Apartment

khi đưa vào sử dụng. Người ta ước tính rằng hơn 40 triệu người ở Bangladesh đang có rủi ro phơi nhiễm với asen trong nước. Giá trị theo hướng dẫn của WHO đối với asen là 10 phần tỷ; tuy nhiên, một số quốc gia sử dụng tỉ lệ 50 phần tỷ như một mục tiêu tạm thời do mức độ khó khăn và chi phí loại bỏ asen khỏi nước uống.


lorua là một thành phần tự nhiên trong nước khác đã gây ra những vấn đề nghiêm trọng khi hiện hữu với hàm lượng quá lớn . Ở các giá trị khuyến nghị, nó có lợi ích trong việc giảm sâu răng (giá trị chỉ định là 1,5 miligam trên lít, nhưng các cơ quan quản lý quốc gia

cũng nên tính đến điều kiện khí hậu, lượng florua từ các nguồn khác và tổng lượng nước tiêu thụ). Ở mức tiêu thụ cao hơn một chút, florua có thể gây ra sự đổi màu của men răng và ở mức độ cao hơn nữa (lớn hơn khoảng 14 miligam mỗi ngày) sẽ xảy vấn đề nghiêm trọng đối với xương.

Apartment 61


Nitrat và nitrit có hàm lượng vượt quá mức sẽ dẫn đến nguy cơ đặc biệt với trẻ sơ sinh, gây ra chứng thiếu máu mà có thể dẫn đến bệnh tật và tử vong dù phơi nhiễm ngắn. Chỉ định của WHO là 50 miligam trên lít đối với nitrat và 3 miligam trên lít đối với nitrit, trong trường hợp hai chất này đồng thời có mặt trong nước uống thì nồng

độ phần trăm (C%) của mỗi chất so với giới hạn tối đa (GHTĐ) của chúng không được lớn hơn 1 (WHO 2004a). Nitrat và nitrit thường có trong nước bị ô nhiểm bởi nước cống, nước thải bể tự hoại hoặc dòng chảy từ hoạt động nông nghiệp. Tiếp xúc kết hợp nitrat hoặc nitrit và các vi sinh vật gây bệnh đường tiêu hóa dường như gây ra nguy cơ cao nhất về chứng Methemoglobin máu.

Các nghiên cứu dịch tễ học về các chất gây ô nhiễm môi trường thường được thúc đẩy bởi những lo ngại phát sinh từ các đợt phơi nhiễm hoặc bằng chứng về phơi nhiễm mãn tính. Tuy nhiên, những nỗ lực tìm hiểu về dịch tễ học ô nhiễm hóa chất trong nước uống cho thấy một số vấn đề phức tạp khiến các nghiên cứu như vậy khó thực hiện. Những vấn đề này bao gồm:

62 Apartment


• Trong thực tế nước uống hiếm khi là nguồn phơi nhiễm chính, ngoại trừ • • • •

asen và florua trong một số trường hợp; Sự thay đổi lớn về lượng ô nhiễm từ các nguồn nước không phải nước uống; Khó đo nồng độ trong khẩu phần ăn; Khó khăn trong việc xác định chính xác thời gian và mức độ tiếp xúc của con người; Tác động tương đối của các yếu tố khác ngoài hóa chất có thể góp phần gây ra các nguy cơ sức khỏe tương tự.

Apartment 63


Việc đánh giá không tốt các rủi ro tương đối đôi khi khiến các quan chức năng khó đưa ra các quyết định về sức khỏe cộng đồng một cách chính xác. Họ nên dựa vào các cơ quan y tế cấp Quốc gia và Quốc tế được công nhận từ đó tận dụng các thông tin cơ sở vững chắc như “Hướng dẫn của WHO về Chất lượng Nước uống” như một hướng dẫn cho những vấn đề này (WHO 2004a).

64 Apartment


Nước uống được lấy từ môi trường mà thay đổi liên tục khi cộng đồng phát triển. Do đó, điều quan trọng là ngày càng cần có nhận thức thường xuyên về việc phát triển các nguồn ô nhiễm tiềm ẩn bởi công nghiệp, xử lý chất thải, các hoạt động nông nghiệp, hoặc những thay đổi trong mô hình đô thị hóa. Các cơ quan y tế, chuyên gia dịch tễ học môi

trường, chuyên gia độc chất học, nhà hóa học, kỹ sư và chuyên gia phân tích phơi nhiễm cần phải trao đổi thông tin và cộng tác hiệu quả để giúp các nhà quản lý rủi ro xác định rủi ro môi trường nào là có thật, nhằm đưa ra các tiêu chuẩn hợp lý và thực tế, đồng thời giúp các nhà hoạch định chính sách tạo ra chính sách môi trường và quyết định quản lý nước tốt nhất.

Hướng dẫn của WHO về Chất lượng nước uống cung cấp hướng dẫn đầy đủ và cập nhật cho những người ra quyết định bằng cách đưa ra các khuyến nghị đồng thuận do các chuyên gia quốc tế thuộc tất cả các ngành liên quan phát triển.

Apartment 65


CÁC RỦI RO KHÁC

Nước nóng và đóng cặn

ỏng do vòi nước nóng có thể gây thương tích nặng cho trẻ nhỏ và người già. Hầu như tất cả các trường hợp bỏng nước nóng ở trẻ em đều xảy ra trong phòng tắm. Nhiệt độ trung bình của hệ thống nước nóng ở Úc là 65°C. Nước ở nhiệt độ này có thể gây bỏng nặng cho trẻ trong vòng chưa đầy nửa giây. Ở nhiều nước công nghiệp, nhiệt độ nước nóng trung bình là 60°C, sẽ gây bỏng nặng trong khoảng 5 giây.

66 Apartment

Mặc dù cha mẹ có thể giúp giảm thiểu rủi ro bằng cách kiểm tra nhiệt độ nước tắm và giám sát trẻ, nhưng câu trả lời rõ ràng là giảm thiểu rủi ro bằng cách giảm nhiệt độ của nước trong hệ thống nước nóng xuống dưới 55°C (nhưng không dưới 50°C, nếu không sẽ làm tăng nguy cơ xuất hiện Legionella), tùy thuộc vào các thông số kỹ thuật của hệ thống đã được cài đặt. Một giải pháp thay thế là lắp đặt các van trộn được kiểm soát nhiệt trên các vòi của bồn tắm


Các chiến lược khác để ngăn ngừa tai nạn ở trẻ em là lắp đặt vòi nước nóng có khả năng ngăn trẻ em sử dụng với chuyển động đẩy và xoay (tương tự như ở nắp chai thuốc) hoặc sử dụng nắp đậy vòi nước ngăn trẻ em. Nắp đậy vòi chỉ phù hợp với một số loại vòi nhất định.

Bất cứ khi nào thực hiện qua đêm bất kỳ công việc bảo trì hay công việc theo lịch đã có, các thủ tục phải được thực hiện để đảm bảo rằng cư dân được thông báo và nhận thức được những nguy hiểm. Đã có những trường hợp khi khử trùng (tạm thời tăng nhiệt độ của hệ thống nước nóng lên trên mức bình thường) trong nhà có người cao tuổi đã gây ra hậu quả về người. Viện Kỹ thuật Hệ thống ống nước và Hệ thống sưởi tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland khuyến nghị nhiệt độ đầu ra tối đa như sau: vòi xịt vệ sinh 38°C; vòi hoa sen 41°C; chậu rửa mặt 41°C; bồn tắm 44°C; và bồn tắm có giám sát 46°C (xem phần 3.1.4 và 14.3.1) (IPHE 2005).

Apartment 67


Một số thợ ống nước đã lập luận rằng việc giảm nhiệt độ nước không phải là một vấn đề đơn giản. Các tổn thất tiềm ẩn sau đây phải được tính đến: Việc lưu trữ lượng lớn nước nóng ở nhiệt độ thấp hơn so với lượng nhỏ nước nóng ở nhiệt độ cao hơn sẽ tốn nhiều chi phí hơn. Nước có thể không đủ nóng cho các mục đích khác, chẳng hạn như rửa bát đĩa trong nhà bếp. Lưu trữ nước ấm có thể dẫn đến nguy cơ vi khuẩn phát triển (Legionella, Mycobacterium avium và Pseudomonas aeruginosa). Giải pháp lý tưởng là duy trì một bể chứa nước tương đối nóng, nhưng phải đảm bảo rằng nước ở nhiệt độ cao không thể tiếp cận với vòi sen hoặc vòi tắm. Điều này có thể được thực hiện với một van trộn kiểm soát nhiệt đọ ở bồn tắm hoặc vòi hoa sen.

Tổn hại cho các tòa nhà và đất đai

òng chảy có thể tạo ra một lực đáng kể và trong một số trường hợp, lực này có thể gây thiệt hại cho các tòa nhà và đất đai. Thợ sửa ống nước nên biết về những thiệt hại tiềm ẩn đối với các kết cấu xây dựng có thể do búa nước gây ra. Lắp đặt van chống búa nước và xả áp sẽ làm giảm nguy cơ này. Thiệt Thiệt hại cho nền móng và các kết cấu khác có thể do việc không kiểm soát được các dòng nước chảy hay dòng nước cống.

D 68 Apartment


Apartment 69


Sự ăn mòn

ất cả nước đều có tính ăn mòn trong một số trường hợp, nhưng ăn mòn quá mức là một vấn đề nghiêm trọng tiềm ẩn về sức khỏe và kinh tế. Nó có thể dẫn đến hư hỏng kết cấu và suy giảm chất lượng hóa học và vi sinh, bao gồm cả việc vượt quá các giá trị chỉ định đối với chì, đồng và sắt. Ăn mòn là sự hòa tan một phần của bất kỳ vật liệu nào (đặc biệt là kim loại) trong

70 Apartment

hệ thống ống nước. Nó có thể được gây ra bởi các yếu tố về chất lượng nước ảnh hưởng lẫn nhau bao gồm độ pH, độ kiềm thừa hoặc thiếu, nhiệt độ và hoạt động của điện tích. Các hoạt động khắc phục đôi khi rất phức tạp và có thể liên quan đến việc kiểm soát canxi, cacbonat và natri bicacbonat, oxy hòa tan và đặc biệt là duy trì độ pH thích hợp, thường nằm trong khoảng từ 7 đến 8,5 để giảm thiểu sự ăn mòn.


Sự đóng cặn

ước có chứa quá nhiều bicacbonat, cacbonat hoặc sắt có xu hướng lắng đọng khoáng chất trên bề mặt đường ống. Các khoáng chất này ở thể rắn và khó bị loại bỏ nếu không sử dụng phương pháp làm sạch cơ học gây tốn kém. Sự lắng đọng khoáng chất này làm giảm thể tích của đường ống

và do đó làm giảm công suất dòng chảy; đôi khi điều này dẫn đến việc xảy ra tắc nghẽn toàn bộ. Ngoài ra, bề mặt không phẳng này có thể trở thành nơi chứa màng sinh học chứa vi sinh vật, che chắn giúp chúng tránh khỏi tiếp xúc với chất khử trùng. Điều này có thể gây ra yêu cầu về chất khử trùng vượt quá mức.

Apartment 71


www.iirr.vn


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.