Tạp chí pháp luật IIRR | IIRR Legal Review | No.14 – Điều khoản miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng

Page 1

ĐIỀU KHOẢN MIỄN TRỪ TRÁCH NHIỆM TRONG HỢP ĐỒNG

NO.14 | IIRR |

LEGAL REVIEW

KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA

CỦA MIỄN TRỪ TRÁCH NHIỆM

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT

CÁC QUỐC GIAVỀ MIỄN TRỪ

TRÁCH NHIỆMTRONG HỢP ĐỒNG

CÁC TRƯỜNG HỢP ĐƯỢC MIỄN TRỪ

TRÁCH NHIỆM TRONG HỢP ĐỒNG

MỤC LỤC

1. Khái niệm và ý nghĩa của miễn trừ trách nhiệm

1.1. Khái niệm miễn trừ trách nhiệm

1.2. Ý nghĩa của miễn trừ trách nhiệm

2. Phân loại điều khoản miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng

3. Các trường hợp được miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng

3.1. Miễn trách trừ trách nhiệm trong hợp đồng do sự kiện bất khả kháng

3.2. Miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng khi thiệt hại xảy ra là hoàn toàn do lỗi của bên bị vi phạm

3.3. Miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng khi có thỏa thuận của các bên chủ thể trong hợp đồng

4. Quy định của pháp luật các quốc gia về miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng

4.1. Đạo luật về Điều khoản Hợp đồng Bất công năm 1977

4.2. Quy định về Điều khoản Bất công trong Hợp đồng Tiêu dùng năm 1999

Tổng kết

Danh mục tài liệu tham khảo

Khái niệm & Ý nghĩa của

MIỄN TRỪ TRÁCH NHIỆM

MIỄN TRỪ TRÁCH NHIỆM

01
LEGAL REVIEW 06
LEGAL REVIEW 07

1.1. Khái niệm miễn trừ trách nhiệm

Miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng là việc người có quyền trong hợp đồng cho phép chủ thể vi phạm nghĩa vụ gây thiệt hại mà không bị áp dụng một phần hoặc toàn bộ các chế tài nhằm khôi phục tình trạng ban đầu về tài sản và nhân thân cho chủ thể vi phạm. Hiểu một cách đơn giản, chủ thể vi phạm đáng lẽ phải gánh chịu toàn bộ và đầy đủ trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên vi phạm. Tuy nhiên, vì thiệt hại xảy ra trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định mà bên vi phạm nghĩa vụ được miễn trừ toàn bộ hoặc một phần trách nhiệm bồi thường thiệt hại đó.

LEGAL REVIEW 08

Đây là một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng của pháp luật các quốc gia, không chỉ bảo đảm quyền lợi của các bên giao kết hợp đồng, bảo đảm sự tự nguyện thoả thuận của các bên mà còn là yếu tố hạn chế việc một bên lợi dụng quy định về miễn trừ trách nhiệm để trốn trách trách nhiệm.

LEGAL REVIEW 09

1.2. Ý nghĩa của miễn trừ trách nhiệm

Việc quy định các trường hợp miễn trừ trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm quyền lợi cho các bên khi tham gia quan hệ hợp đồng, đặc biệt trong thương mại. Trước hết, quy định này thể hiện sự tôn trọng ý chí tự nguyện của các bên khi các bên tự thoả thuận về việc miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng.

Bên cạnh đó, việc miễn trừ trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng còn góp phần bảo vệ công bằng và lợi ích cho bên chủ thể bị vi phạm trong trường hợp vì những nguyên nhân khách quan mà dẫn đến vi phạm nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng. Đồng thời, góp phần điều tiết lợi ích, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hợp đồng.

LEGAL REVIEW 10

Cụ thể, đối với trường hợp miễn trách nhiệm do các bên có thoả thuận, có thể thấy pháp luật Việt Nam nói riêng và pháp luật thế giới nói chung đã tôn trọng quyền tự do thoả thuận của các bên trong quan hệ hợp đồng, nếu nó không trái với quy định của pháp luật. Việc thoả thuận này mặc dù không lường trước được hết các trường hợp nhưng phần nào cũng giúp các bên tự giác tuân thủ hợp đồng mà không cần phải áp dụng tới chế tài. Quy định miễn trừ trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng đã cho thấy mức độ bao quát các trường hợp và thể hiện sự minh bạch, chính xác, công bằng của pháp luật. Trong trường hợp miễn trừ trách nhiệm do hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia đã trao cho các chủ thể quyền được đối xử công bằng, cả hai bên đều phải có trách nhiệm thực hiện đúng nghĩa vụ của mình trong hợp đồng một cách đầy đủ, thiện chí. Còn đối với trường hợp cuối cùng - miễn trừ trách nhiệm nếu hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng, cho thấy tính khách quan, bao quá của pháp luật trong việc đưa ra các chế tài về nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thương mại.

LEGAL REVIEW 11
02 LEGAL REVIEW 12

Phân loại điều khoản

MIỄN TRỪ TRÁCH NHIỆM

MIỄN TRỪ TRÁCH NHIỆM

trong Hợp đồng

Điều khoản miễn trừ trong hợp đồng là điều khoản tìm cách loại trừ hoặc hạn chế trách nhiệm pháp lý của một bên đối với bên còn lại. Trong một khoảng thời gian, những điều khoản về miễn trừ trách nhiệm đã được sử dụng theo cách không công bằng, trong đó người ở vị thế yếu hơn có rất ít tiếng nói trong quá trình đàm phán, xây dựng hợp đồng. Do đó, các tòa án đã hạn chế việc các bên thương thảo điều khoản về miễn trừ trách nhiệm thông qua án lệ.

Có hai loại điều khoản miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng, cụ thể như sau:

● Thứ nhất là điều khoản miễn trừ một phần trách nhiệm pháp lý: điều khoản quy định một phần giới hạn trách nhiệm pháp lý của một bên trong hợp đồng;

● Thứ hai là điều khoản miễn trừ hoàn toàn trách nhiệm pháp lý: khi một bên loại trừ mọi trách nhiệm pháp lý trong hợp đồng.

LEGAL REVIEW 13

Án lệ Glynn v Margetson (1893)

Glynn v Margetson là một vụ kiện pháp lý quan trọng ở Anh trong lĩnh vực cung cấp hàng hoá vận tải biển và quyền của người mua hàng, thiết lập Nguyên tắc mục đích chính (Main Purpose Rule) - Nhấn mạnh vai trò của việc đọc và hiểu nội dung hợp đồng, đồng thời xác định rõ quyền và trách nhiệm của hai bên trong việc chịu trách nhiệm về mất mát hàng hoá trong quá trình vận chuyển.

LEGAL REVIEW 14

Tình huống:

Con tàu tên Zena, được thuê để chở lô cam Seville dễ hỏng từ Málaga (một tỉnh nằm ở bờ biển phía nam của Tây Ban Nha) đến một nhà máy sản xuất mứt cam ở Liverpool. Hợp đồng quy định rằng thuyền trưởng “có quyền tự do đến bất kỳ cảng nào theo bất kỳ thứ tự nào”. Mặc dù người vận chuyển có nhiệm vụ “tiến hành điều hàng hợp lý” và không đi chệch hướng đã thỏa thuận, nhưng con tàu đã đi vào các cảng khác ở Tây Ban Nha và Bắc Phi trước khi hướng đến Liverpool. Sự sai lệch trong hướng đi đã gây ra sự chậm trễ trong việc giao hàng, trong thời gian đó cả hàng hóa và thị trường cam đều xấu đi. Chủ hàng khởi kiện.

LEGAL REVIEW 15

Kết quả

Thượng viện (House of Lords) cho rằng “điều khoản tự do” trên thực tế là một điều khoản miễn trừ nhằm hạn chế trách nhiệm pháp lý của người vận chuyển đối với tổn thất do đi chệch hướng không chính đáng. Tòa án tiếp tục thiết lập Nguyên tắc mục đích chính với điều kiện không có quy tắc miễn trừ nào có thể cắt giảm mục đích chính của hợp đồng. Theo đó, người chuyên chở không được phép bảo vệ theo điều khoản tự do và do đó phải chịu trách nhiệm về tổn thất.

LEGAL REVIEW 16

Bá tước Herschell, Chủ tịch Luật sư Chính phủ đã tuyên bố: “Khi các từ chung chung được sử dụng ở dạng in rõ ràng nhằm mục đích áp dụng cho một hợp đồng cụ thể,... tôi nghĩ bạn có lý khi xem xét đối tượng chính và ý định của hợp đồng và cũng như việc giới hạn các từ chung được sử dụng, có quan điểm về đối tượng và mục đích đó.” Mặc dù không thể dựa vào điều khoản tự do để bỏ qua cho vi phạm lớn, nhưng theo đó, các điều khoản miễn trừ có thể được phép miễn trừ cho các vi phạm nghĩa vụ ngoại vi hoặc nghĩa vụ nhỏ.

LEGAL REVIEW 17
LEGAL REVIEW 18
Án lệ Curtis v Chemical Cleaning and Dyeing Co (1951)

Tình huống:

Nguyên đơn, Curtis, đã mang chiếc váy cưới của mình đến dịch vụ giặt là chuyên nghiệp của bị đơn - Công ty Hóa chất Làm sạch và Nhuộm (Chemical Cleaning and Dyeing), để làm sạch. Khi mua dịch vụ của họ, bị cáo đã yêu cầu nguyên đơn ký vào một biểu mẫu và cô ấy đã hỏi nhân viên dịch vụ về hậu quả của việc ký tên. Người nhân viên trả lời rằng mẫu đơn chỉ bao gồm một điều khoản loại trừ trách nhiệm pháp lý đối với bất kỳ thiệt hại nào mà họ có thể gây ra cho các loại hạt cườm cùng sequin trên quần áo, tuy nhiên trên thực tế, điều khoản loại trừ trách nhiệm liên quan đến tất cả thiệt hại có thể xảy ra với quần áo trong khi được làm sạch. Khi nguyên đơn quay lại lấy chiếc váy, nó đã bị hư hỏng nên cô đưa ra yêu cầu bồi thường thiệt hại. Đáp lại, các bị cáo cho rằng cô không có căn cứ để yêu cầu bồi thường do điều khoản loại trừ trách nhiệm pháp lý. Liệu điều khoản loại trừ trách nhiệm pháp lý có ràng buộc người khiếu nại hay không vì nhân viên dịch vụ đã trình bày sai hậu quả của điều khoản đó.

LEGAL REVIEW 19
LEGAL REVIEW 20

Kết quả:

Tòa án cấp phúc thẩm cho nguyên đơn thấy rằng mặc

dù một bên thường bị ràng buộc bởi tất cả các nội dung của hợp đồng bằng văn bản đã ký, ngay cả khi họ không đọc hợp đồng một cách chính xác, nhưng một điều khoản không được coi là có hiệu lực pháp

luật khi bên soạn thảo trình bày sai ảnh hưởng của một

điều khoản đối với bên kia. Vì vậy, điều khoản miễn trừ trách nhiệm không được đưa vào hợp đồng một cách

hợp lý và nguyên đơn được đền bù thiệt hại.

Bước cuối cùng mà tòa án thực hiện là đặt câu hỏi: Có luật nào ảnh hưởng đến điều khoản này không? Pháp luật liên quan là Đạo luật về Điều khoản Hợp đồng Bất công năm 1977 (The Unfair Contract Terms Act 1977) và Quy định về Điều khoản Bất công trong Hợp đồng Tiêu dùng năm 1999 (The Unfair Terms in Consumer Contract Regulations 1999). Luật này đã thay đổi hoàn toàn ý tưởng về quyền tự do ký kết hợp đồng và đã mang lại sự bảo vệ rất cần thiết cho người tiêu dùng.

LEGAL REVIEW 21

Các trường hợp ĐƯỢC MIỄN TRỪ

TRÁCH NHIỆM trong Hợp đồng

03 LEGAL REVIEW 22
LEGAL REVIEW 23

3.1.

Miễn trừ trách

nhiệm

trong hợp đồng do sự kiện bất khả kháng

Theo quy định tại khoản 1 Điều 156 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù

đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”.

LEGAL REVIEW 24
LEGAL REVIEW 25

Như vậy, để được miễn trách nhiệm dân sự trong hợp đồng do sự kiện bất khả kháng cần có những điều kiện đó là:

Một, sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan, không thể dự liệu trước được và nằm ngoài ý chí của các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng. Đó có thể là các hiện tượng do thiên nhiên gây ra (thiên tai), cũng có thể là các hiện tượng xã hội như chiến tranh, bạo loạn, đảo chính, đình công, cấm vận, thay đổi chính sách chính phủ… Ngoài ra, trong thực tiễn, các bên tham gia giao kết hợp đồng còn có thể đưa ra những sự kiện khác là những sự kiện bất khả kháng làm căn cứ để miễn trách nhiệm dân sự (hoặc kéo dài thời hạn thực hiện hợp đồng) như: thiếu nguyên liệu, mất điện, lỗi mạng vi tính, bên cung cấp chậm trễ giao hàng… Những sự kiện này, về mặt lý luận thì không được coi là sự kiện bất khả kháng nếu các bên không có thỏa thuận; trong trường hợp các bên có thỏa thuận thì pháp luật ghi nhận và tôn trọng các thỏa thuận đó.

LEGAL REVIEW 26

Hai, sự kiện bất khả kháng phải xảy ra sau khi các bên giao kết hợp đồng;

Ba, sự kiện bất khả kháng và hành vi vi phạm hợp đồng phải có mối quan hệ nhân quả. Trong đó, sự kiện bất khả kháng là nguyên nhân, còn hành vi vi phạm là kết quả. Bên vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng phải chứng minh được sự kiện bất khả kháng là nguyên nhân trực tiếp của việc vi phạm hợp đồng. Nếu không chứng minh được thì bên vi phạm nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm dân sự.

Các bên trong quan hệ hợp đồng đã dùng hết khả năng để khắc phục hậu quả nhưng không thể khắc phục được. Quy định này nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của bên có nghĩa vụ trong việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.

LEGAL REVIEW 27

Tại khoản 3 Điều 351 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định một trường hợp được miễn trừ trách nhiệm dân sự là “bên có nghĩa vụ chứng minh được nghĩa vụ không thực hiện được là hoàn toàn do lỗi của bên có quyền” . Việc lỗi hoàn toàn do bên có quyền cũng đồng nghĩa với bên có nghĩa vụ không có lỗi. Do đó, việc bên có nghĩa vụ chứng minh lỗi hoàn toàn thuộc về bên có quyền chỉ là một biện pháp nhằm chứng minh bên có nghĩa vụ không có lỗi. Vì vậy, bất kể lỗi hoàn toàn do bên có quyền hay do người thứ ba hoặc không bên nào có lỗi thì bên có nghĩa vụ cũng không phải chịu trách nhiệm dân sự.

3.2.
Miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng khi thiệt hại xảy ra là hoàn toàn do lỗi
LEGAL REVIEW 28
của bên bị vi phạm
LEGAL REVIEW 29

nhiệm

đồng

Pháp luật quy định thỏa thuận của các bên trong hợp đồng cũng là căn cứ để miễn trừ trách nhiệm của bên vi phạm nghĩa vụ. Tuy nhiên, để đảm bảo sự tôn trọng của các bên trong hợp đồng, vừa hạn chế được việc bên có lợi thế hơn trong giao kết hợp đồng lợi dụng căn cứ này để trốn tránh trách nhiệm thì cần phải đánh giá tính hợp lý của thỏa thuận đó.

3.3.
LEGAL REVIEW 30
Miễn trừ trách
trong hợp
khi có thỏa thuận của các bên chủ thể trong hợp đồng

Do đó, một thỏa thuận về căn cứ miễn trừ trách nhiệm trong hợp

đồng chỉ có giá trị pháp lý nếu như hành vi vi phạm hợp đồng không phải do lỗi cố ý. Bởi, nếu hành vi vi phạm là do lỗi cố ý thì sự vi phạm đó được coi là một vi phạm nặng và điều khoản về miễn

trừ trách nhiệm theo thỏa thuận trong hợp đồng sẽ bị vô hiệu.

Điều này cũng phù hợp với pháp luật một số nước trên thế giới, ví

dụ như: án lệ Pháp cho phép các bên trong quan hệ hợp đồng có những thỏa thuận về miễn trừ trách nhiệm, trừ trường hợp bên giao kết phạm lỗi cố ý hoặc vô ý nghiêm trọng thì thỏa thuận đó không có giá trị pháp lý.

LEGAL REVIEW 31

Quy định của pháp luật các quốc gia về

MIỄN TRỪ TRÁCH NHIỆM

trong Hợp đồng

04
LEGAL REVIEW 32
LEGAL REVIEW 33

4.1. Đạo luật về Điều khoản

Hợp đồng Bất công năm 1977

Đây là một dấu mốc quan trọng về sự công bằng cho người tiêu dùng và có tác dụng giảm bớt các nguyên tắc hình thành của tòa án khi mỗi vụ việc khác nhau được đưa ra trước tòa. Đạo luật này phần lớn được xây dựng dựa trên các nguyên tắc đã được thiết lập và quy định luật rõ ràng, ít có khả năng không chắc chắn hơn, ít nhất là miễn trừ trách nhiệm đối với trường hợp tử vong hoặc thương tích cá nhân có liên quan. Vì hầu hết các điều khoản trong Đạo luật về các điều khoản hợp đồng không công bằng năm 1977 áp dụng cho các giao dịch của người tiêu dùng hơn là các thỏa thuận giữa các doanh nghiệp, hai khái niệm quan trọng là:

Trách nhiệm kinh doanh là “các nghĩa vụ phát sinh (a) từ những việc đã thực hiện hoặc sẽ được thực hiện trong quá trình kinh doanh... hoặc (b) từ việc chiếm giữ cơ sở được sử dụng cho mục đích kinh doanh của người chiếm giữ”.

LEGAL REVIEW 34

Phần 12 về người tiêu dùng định nghĩa người tiêu dùng

như sau: Một bên trong hợp đồng “giao dịch với tư cách là người tiêu dùng” trong mối quan hệ với một bên khác nếu:

(a) anh ta không lập hợp đồng trong quá trình kinh doanh

cũng như không tự cho mình là làm như vậy, và

(b) bên kia thực hiện hợp đồng trong quá trình kinh doanh; Và

(c) ... hàng hóa được chuyển giao theo hoặc để thực hiện hợp đồng thuộc loại thường được cung cấp cho mục đích sử dụng hoặc tiêu dùng cá nhân. Hầu hết các điều khoản cũng được áp dụng khi một bên hành động theo các điều khoản tiêu chuẩn của bên kia. Rõ ràng là theo Đạo luật về các điều khoản hợp đồng không công bằng năm 1977, một người bình thường trong kinh doanh, hoặc thậm chí một công ty, trong một số trường hợp, có thể đóng vai trò là người tiêu dùng.

LEGAL REVIEW 35

Các điều khoản chính trong Đạo luật về các điều khoản hợp đồng không công bằng năm 1977 đã có ảnh hưởng đáng kể đến các điều khoản miễn trừ trong hợp đồng tiêu dùng. Hiện tại có rất ít cơ hội để khai thác người tiêu dùng theo cách này và khi các điều khoản miễn trừ trong các hợp đồng này được cho phép, thì điều đó sẽ chỉ xảy ra khi tòa án thấy chúng hợp lý.

LEGAL REVIEW 36

Các quy định chính là:

● Điều khoản hợp đồng hiện không thể loại trừ hoặc hạn chế trách nhiệm pháp lý đối với trường hợp tử vong hoặc thương tích cá nhân do sơ suấtphần 2(1).

● Điều khoản hợp đồng chỉ có thể loại trừ hoặc hạn chế trách nhiệm pháp lý khác do sơ suất nếu việc làm như vậy là hợp lý - phần 2(2).

● Một điều khoản nữa là trong hợp đồng tiêu dùng hoặc khi giao dịch theo các điều khoản kinh doanh tiêu chuẩn của một bên, điều khoản hợp đồng không thể loại trừ hoặc hạn chế trách nhiệm pháp lý đối với việc không thực hiện hoặc đối với việc thực hiện khác biệt đáng kể so với những gì đã thỏa thuận, trừ khi điều đó là hợp lý để làm như vậy - phần 3.

LEGAL REVIEW 37

Luật quy định khá rõ ràng về việc miễn trách nhiệm đối với trường hợp tử vong hoặc thương tích cá nhân trong hợp đồng tiêu dùng - điều này không được phép. Tuy nhiên, khi cố gắng loại trừ hoặc giới hạn trách nhiệm pháp lý khác, tòa án phải quyết định xem điều này có hợp lý hay không. Tính hợp lý được hiểu là công bằng trong hoàn cảnh mà các bên đã biết vào thời điểm đó, và từ trường hợp trong Án lệ Stewart Gill v Horatio Myer Ltd (1992), có tính đến các nguồn lực sẵn có để đáp ứng trách nhiệm pháp lý và khả năng bảo hiểm.

LEGAL REVIEW 38

Các yếu tố khác mà tòa án có thể tính đến bao gồm: khả năng thương lượng của các bên và liệu có sẵn một nguồn thay thế nào không, bất kỳ động cơ nào để đồng ý với điều khoản, ví dụ, một mức giá ưu đãi, giao dịch tùy chỉnh và các giao dịch trước đó, độ khó của công việc, liệu hàng hóa có được điều chỉnh theo đơn đặt hàng của khách hàng hay không. Trường hợp sau đây cho thấy các tình huống mà việc miễn trừ được cho là không hợp lý.

LEGAL REVIEW 39

Án lệ George Mitchell v Finney Lock Seeds (1983)

Tình huống:

Nguyên đơn (George Mitchell) và Bị đơn (Finney Lock Seeds Ltd) đã ký một thỏa thuận trong đó Bị đơn sẽ cung cấp cho Nguyên đơn 30lb hạt giống bắp cải vụ đông Hà Lan. Hóa đơn cho hạt giống, được coi là một phần của hợp đồng, quy định rằng trách nhiệm pháp lý của bị đơn chỉ giới hạn trong việc thay thế hạt giống hoặc cây trồng đã bán, nếu chúng bị phát hiện là bị lỗi. Tuy nhiên, điều khoản đã loại trừ trách nhiệm pháp lý đối với tổn thất hoặc thiệt hại, bao gồm cả tổn thất hoặc thiệt hại do hậu quả phát sinh từ hạt giống đang được sử dụng. Nguyên đơn đã gieo hạt giống trên 63 mẫu đất của mình. Những hạt giống đã thất bại, tạo ra một loại cây quá nhỏ và con người không thể ăn được. Kết quả là tổn thất của Nguyên đơn lên tới 60.000 bảng

Anh cộng với tiền lãi.

LEGAL REVIEW 40

Các vấn đề trong trường hợp này là hai vấn đề, cụ thể là liệu điều khoản loại trừ có thể mở rộng cho các hạt giống mà Nguyên đơn sử dụng hay không, lưu ý rằng chúng không phù hợp để thực hiện công việc mà chúng được bán để làm và thứ hai, liệu có mở rộng hiệu lực của điều khoản loại trừ hay không theo cách này sẽ hợp lý theo phần 2(2) của Đạo luật về các điều khoản hợp đồng không công bằng năm 1977.

LEGAL REVIEW 41

Quyết

định/Kết

quả: Người ta cho rằng việc loại trừ đã mở rộng đối với các hạt giống được bán và sử dụng bởi người yêu cầu bồi thường, cùng việc yêu cầu bồi thường khác sẽ tra tấn ngôn ngữ của hợp đồng. Tuy nhiên, người ta cũng nhận thấy rằng trên thực tế, đây là một điều khoản không công bằng có thể bị hủy bỏ theo Đạo luật về các điều khoản hợp đồng không công bằng năm 1977. Tòa án đồng tình với quan điểm bất đồng của Bá tước Denning - Thẩm phán Tòa án Cấp cao Hoàng gia tại Tòa phúc thẩm (theo phán quyết cuối cùng của Lordship), rằng Đạo luật hiện đã giải phóng các tòa án khỏi cần phải bóp méo các từ của hợp đồng theo cách này để đạt được công lý.

LEGAL REVIEW 42

Trong hợp đồng cung cấp hạt giống bắp cải, một điều khoản giới hạn trách nhiệm của nhà cung cấp đối với giá mua khoảng 200 bảng

Anh. Khi vụ bắp cải thất bát, điều khoản này

được coi là không hợp lý, vì thiệt hại phải chịu là hơn 60.000 bảng Anh. Tòa án đã xem xét các điểm sau: Việc nhà cung cấp thừa nhận rằng các khoản thanh toán ngoài quy định đôi khi được thực hiện trong những trường hợp như vậy (điều này được coi là sự thừa nhận rằng điều khoản này là không hợp lý); Mức độ tổn thất; Sự bất cẩn của nhà cung cấp; Sự sẵn có của bảo hiểm cho nhà cung cấp đối với những khiếu nại như vậy.

LEGAL REVIEW 43

Án lệ O’Brien v MGN Ltd (2001)

Một bạn đọc báo cầm trên tay số trúng trên thẻ cào. Tuy nhiên, do lỗi in ấn nên trong dịp đó, một số lượng lớn bạn đọc khác có cùng mã số trúng thưởng. Người yêu cầu bồi thường đã không đọc các điều khoản, trong một ấn bản khác của tờ báo, trong đó có tuyên bố rằng trong tình huống như vậy, tiền thắng cược sẽ được chia sẻ, không được trả đầy đủ cho mỗi người chiến thắng.

LEGAL REVIEW 44

Mặc dù nguyên đơn chưa thực sự nhìn thấy thuật ngữ này, nhưng người ta cho rằng đã có cơ hội hợp lý để làm như vậy. Do đó, nó đã thu hút sự chú ý của độc giả một cách hợp lý và thật vô lý khi mong đợi những khoản tiền thắng cược như vậy. Tòa án cũng tính đến thực tế là nguyên đơn không phải làm gì nhiều để “kiếm” tiền thắng cược. Do đó, Mirror Group không chịu trách nhiệm pháp lý đối với các khoản thanh toán lớn.

LEGAL REVIEW 45

Các quy định này đã được thông qua theo Chỉ thị Châu Âu về Điều khoản Không công bằng trong Hợp đồng Người tiêu dùng. Chỉ thị phần lớn được đưa vào luật pháp Anh bởi Điều khoản không công bằng trong Quy định hợp đồng người tiêu dùng năm 1994 và được cập nhật vào năm 1999. Loại điều khoản được điều chỉnh bởi các quy định này rộng hơn so với điều khoản được điều chỉnh bởi Đạo luật điều khoản hợp đồng không lành mạnh năm

1977, trong đó các quy định áp dụng cho điều khoản không công bằng nói chung, không chỉ các điều khoản miễn trừ.

1999

LEGAL REVIEW 46
4.2. Quy định về Điều khoản Bất công trong Hợp đồng Tiêu dùng năm

Ví dụ về loại điều khoản dự kiến được liệt kê trong Phụ lục 3 của Quy

định, và bao gồm: các điều khoản loại trừ trách nhiệm đối với trường hợp tử vong hoặc thương tích cá nhân (như trước đây), các điều khoản ràng buộc người tiêu dùng khi họ không có cơ hội khám phá các điều khoản trước hợp đồng, điều khoản cho phép người bán thay

đổi hợp đồng mà không có lý do chính đáng, các điều khoản loại trừ

một cách bất hợp lý các quyền hợp pháp của người tiêu dùng.

LEGAL REVIEW 47

Các quy định không áp dụng nguyên tắc công bằng cho các điều khoản cốt lõi (trung tâm) của hợp đồng, miễn là chúng được diễn đạt bằng “ngôn ngữ dễ hiểu”. Điều này phù hợp với ý kiến cho rằng tòa án chỉ yêu cầu xem xét là đủ chứ không phải là thỏa. Vì vậy, miễn là các bên biết và hiểu những gì họ đã đồng ý (và họ có khả năng hiểu các vấn đề cốt lõi, trọng tâm), tòa án sẽ không can thiệp vào sự công bằng về mặt giá trị thực tế. Tuy nhiên, có thể khó quyết định chính xác đâu là yếu tố “cốt lõi” của hợp đồng. Khi chúng được biết, nhiệm vụ của tòa án sẽ là đảm bảo rằng tất cả các điều khoản khác đều vượt qua bài kiểm tra về tính công bằng theo quy định.

LEGAL REVIEW 48

Những sửa đổi gần đây nhất đối với Quy định vào năm 1999 và 2001 trao cho “các cơ quan đủ tiêu chuẩn”tức là những người không phải là Văn phòng Thương mại Công bằng, chẳng hạn như Hiệp hội Người tiêu dùng và các cơ quan có thẩm quyền về trọng lượng và đo lường - quyền nộp đơn lên tòa án và ngăn chặn việc sử dụng một thuật ngữ không công bằng. Điều này sẽ giúp giảm tải các điều khoản không công bằng trong việc kiểm soát chính sách - miễn là bản thân các quyền giám sát theo cách này được kiểm soát đúng cách.

LEGAL REVIEW 49

Người tiêu dùng được định nghĩa theo một cách hơi khác theo Quy định, là “bất kỳ thể nhân nào hành động vì các mục đích nằm ngoài thương mại, kinh doanh hoặc nghề nghiệp của anh ta”. Điều này có thể loại trừ một người hành động một phần trong bối cảnh rộng lớn của hoạt động kinh doanh của anh ta khỏi vai trò là người tiêu dùng, như trong trường hợp Công ty TNHH Môi giới Hải quan R&B v United Dominions Trust Ltd. Tuy nhiên, người bán có một định nghĩa rộng, là “bất kỳ người nào bán hoặc cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ và người liên hệ đang hành động vì các mục đích liên quan đến hoạt động kinh doanh của mình”.

LEGAL REVIEW 50

Điều khoản không công bằng trong hợp đồng người tiêu dùng sẽ không ràng buộc và ‘không công bằng’ được nêu trong Quy định 5(1) là bất kỳ điều khoản nào trái với yêu cầu về thiện chí gây ra sự mất cân bằng đáng kể về quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng gây bất lợi cho người tiêu dùng”. Đây là một bộ luật rõ ràng mang hương vị châu Âu, vì trước đây luật pháp Anh không công nhận ý tưởng về ‘thiện chí’ ở bất kỳ mức độ nào. Loại yếu tố mà tòa án hướng tới theo Phụ lục 2 để xem xét khi đánh giá thiện chí không phải là xa lạ, chẳng hạn như: sức mạnh thương lượng của các bên, bất kỳ sự xúi giục nào đối với hợp đồng, yêu cầu đặc biệt của khách hàng, liệu nhà cung cấp có hành động công bằng hay không.

LEGAL REVIEW 51

Có thể thấy rằng những điều này tương tự như những điều khoản được áp dụng theo Đạo luật về các điều khoản hợp đồng không công bằng năm 1977. Trong Quy định cũng nêu rõ rằng người bán hoặc nhà cung cấp nên diễn đạt các điều khoản bằng “ngôn ngữ dễ hiểu” và khi có sự mơ hồ, việc giải thích nên được ưu tiên. người tiêu dùng. Vì vậy, không nên cho phép một điều khoản không công bằng, bằng chữ in rất nhỏ, bị chôn vùi giữa các điều khoản khác hoặc bằng ngôn ngữ mà người tiêu dùng không dễ hiểu, cho dù đó là điều khoản miễn trừ hay bất kỳ điều khoản nào khác dẫn đến sự không công bằng đối với người tiêu dùng.

LEGAL REVIEW 52

Điều này có thể có tác động nghiêm trọng đến bất kỳ điều khoản cam kết danh dự nào vẫn đang được sử dụng trong các hợp đồng tiêu dùng, chẳng hạn như trên phiếu giảm giá của các đội bóng đá, nếu có khiếu nại phát sinh. Ngoài các điều khoản cụ thể, Tổng Giám đốc Thương mại Công bằng đã được giao vai trò giám sát các điều khoản hợp đồng không công bằng bằng cách nhận khiếu nại, yêu cầu lệnh cấm sử dụng các điều khoản không công bằng cụ thể và công bố thông tin chung về Quy định.

LEGAL REVIEW 53
LEGAL REVIEW 54

Hậu quả của cả thông luật và các hạn chế theo luật

định đối với các điều khoản không công bằng là đã xâm nhập vào quyền tự do ký kết hợp đồng, nhưng cũng dẫn đến quyền tự do lợi dụng những người khác đang chịu áp lực và những người có thể thiếu khả năng thương lượng. Tất nhiên, việc đưa điều này đến

mức cực đoan sẽ mang tính gia trưởng, nhưng một mức độ bảo vệ hợp lý chắc chắn không hơn gì một xã hội phát triển mong đợi từ luật hợp đồng hiện đại.

LEGAL REVIEW 55
LEGAL REVIEW 56

TỔNG KẾT

1. Khái niệm và ý nghĩa của miễn trừ trách nhiệm Khái niệm miễn trừ trách nhiệm Ý nghĩa của miễn trừ trách nhiệm

2. Phân loại điều khoản miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng

Án lệ Glynn v Margetson (1893)

Án lệ Curtis v Curtis v Chemical Cleaning and Dyeing Co (1951)

3. Các trường hợp được miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng

Miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng do sự kiện bất khả kháng

Miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng khi thiệt hại xảy ra là hoàn toàn do lỗi của bên bị vi phạm Miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng khi có thỏa thuận của các bên chủ thể trong hợp đồng

4. Quy định của pháp luật các quốc gia về miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng

The Unfair Contract Terms Act 1977 (Đạo luật về các điều khoản không công bằng trong Hợp đồng năm 1977)

Án lệ George Mitchell v Finney Lock Seeds (1983)

The Unfair Terms in Consumer Contract Regulations 1999 (Các điều khoản không công bằng trong Quy định hợp đồng tiêu dùng 1999)

LEGAL REVIEW 57
LEGAL REVIEW 58

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1 E Von Hippel - International & Comparative Law Quarterly (1967), The Control of Exemption Clauses a Comparative Study. 2 D Tallon - The American Journal of Comparative Law (1992), Damages, exemption clauses, and penalties. 3 T Naude, G Lubbe - South African Law Journal (2005), Exemption clauses - a rethink occasioned, Afrox Healthcare Bpk v Strydom. 4 S Cohen, M Costa - Professional Accountant (2007), Exemption clauses. 5 Mary Charman - Willian Publishing (2007), Contract Law. 6 PN Stoop - SA Mercantile Law Journal (2008), The current status of the enforceability of contractual exemption clauses for the exclusion of liability in the South African law of contract.
LEGAL REVIEW 59
7 CJ Buchholz, R Sanzenbacher, S Schule - Human gene therapy (2012), The European Hospital Exemption Clause-New Option for Gene Therapy?
LEGAL REVIEW LEGAL REVIEW www.iirr.vn

Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.