Occupa�onal Safety, Health, and Environment
www.iirr.vn Lưu hành nội bộ
NHÀ Ở
& SỨC KHỎE
Quý độc giả thân mến! Chất lượng nhà ở có ý nghĩa rất lớn đối với sức khỏe con người. Ước tính dân số đô thị trên thế giới sẽ tăng gấp đôi vào năm 2050 và cùng với đó là nhu cầu về nhà ở tăng cao, đặc biệt tại khu vực đô thị và các thành phố lớn.
tam
Lỗ Hồng Tâm
Cải thiện điều kiện nhà ở có thể cứu sống, giảm thiểu bệnh tật, tăng chất lượng cuộc sống, giảm nghèo và giảm thiểu biến đổi khí hậu. Đảm bảo mọi người được sống trong những nơi ở lành mạnh và an toàn có ý nghĩa quan trọng đối với chính quyền các quốc gia, khu vực và từng địa phương. Trong số Tạp chí lần này và tiếp theo nữa, Ban biên tập hân hạnh giới thiệu tới Quý độc giả “Hướng dẫn của WHO về Sức khỏe và Nhà ở”. Với Hướng dẫn này, WHO đưa ra các khuyến nghị dựa trên bằng chứng về các điều kiện cũng như các biện pháp can thiệp nhằm thúc đầy phát triển nhà ở lành mạnh. Đồng thời tạo điều kiện cho các nhà lãnh đạo của mỗi quốc gia, khu vực và từng địa phương trong việc thực hiện các cân nhắc, chính sách về sức khỏe và an toàn để củng cố các quy định về nhà ở. Trân trọng!
CHỊU TRÁCH NHIỆM NỘI DUNG
HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP Nguyễn Hồng Minh Nguyễn Quang Huy
TỔNG BIÊN TẬP Nguyễn Tất Hồng Dương
TS. Nguyễn Danh Hải Nguyễn Hoàng Thanh TS. Nguyễn Thị Quỳnh Hoa TS. Nguyễn Thị Anh Thư
PHÓ TỔNG BIÊN TẬP Lỗ Hồng Tâm
BIÊN TẬP & THIẾT KẾ Phòng Phát triển cộng đồng
www.iirr.vn www.facebook.com/iirr.vn
Phan Thị Hoài Trang
08 CÁC RỦI RO SỨC KHỎE LIÊN QUAN ĐẾN NHÀ Ở
16 NHÀ Ở CHẬT CHỘI VÀ SỨC KHỎE
34 NHÀ Ở NHIỆT ĐỘ THẤP VÀ SỨC KHỎE
54 NHÀ Ở NHIỆT ĐỘ CAO VÀ SỨC KHỎE
Nhà ở sẽ ngày càng trở nên quan trọng đối với sức khỏe do thay đổi nhân khẩu học và khí hậu. Các mô hình thời tiết thay đổi liên quan đến biến đổi khí hậu cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của nhà ở trong việc bảo vệ khỏi các hiện tượng thời tiết lạnh, nóng và khắc nghiệt.
Sự đông đúc được coi là gây căng thẳng cho sức khỏe và hạnh phúc ở các nền văn hóa và khía cạnh khác nhau của cuộc sống ở các quốc gia có thu nhập thấp, trung bình và cao.
Nhiệt độ trong nhà lạnh thường là hệ quả của nhiệt độ ngoài trời, các vấn đề về cấu trúc, bao gồm thiếu lớp cách nhiệt và kín gió, thiếu hệ thống sưởi.
Nhiệt độ trong nhà và ngoài trời có mối tương quan được đánh giá là trung bình đến cao. Các hệ quả gây hại cho sức khỏe, bao gồm tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân cũng như tim mạch và tỉ lệ nhập viện cấp cứu cao hơn.
TOÀN CẦU
NHÀ Ở
06
SỨC KHỎE
VÀ
Nhà ở lành mạnh là nơi ở hỗ trợ một trạng thái hoàn chỉnh về thể chất, tinh thần và xã hội. Nhà ở lành mạnh mang lại cảm giác thân thuộc, an toàn và riêng tư.
Nhà ở lành mạnh cũng đề cập đến cấu trúc vật lý của ngôi nhà và mức độ mà nó mang lại sức khỏe thể chất, bao gồm cả việc cấu trúc ổn định, bằng cách tạo điều kiện nhiệt độ thoải mái, vệ sinh và chiếu sáng đầy đủ, đủ không gian, nhiên liệu an toàn hoặc kết nối với điện, và bảo vệ khỏi các chất ô nhiễm, nguy cơ thương tích, nấm mốc và động vật gây hại.
Nhà ở có lành mạnh hay không cũng phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài, cộng đồng địa phương, nơi cho phép các tương tác xã hội hỗ trợ sức khỏe và hạnh phúc.
Cuối cùng, nhà ở lành mạnh phụ thuộc vào môi trường nhà ở trực tiếp và rộng hơn là cung cấp khả năng tiếp cận các dịch vụ, không gian xanh và các lựa chọn giao thông công cộng và năng động, cũng như bảo vệ khỏi chất thải, ô nhiễm và các tác động của thiên tai, dù là tự nhiên hay do con người.
07
TOÀN CẦU
CÁC RỦI RO SỨC KHỎE
liên quan đến
NHÀ Ở
hơi nhiễm và rủi ro sức khỏe trong môi trường nhà ở là cực kỳ quan trọng vì mọi người dành nhiều thời gian ở đó. Ở các quốc gia có thu nhập cao, khoảng 70% thời gian mọi người ở trong nhà của họ. Ở một số nơi, bao gồm cả những nơi tỷ lệ thất nghiệp cao hơn và những nơi có nhiều người làm việc hơn trong các ngành công nghiệp trong nhà, tỷ lệ này thậm chí còn cao hơn. Trẻ em, người già và những người bị khuyết tật hoặc bệnh mãn tính có khả năng dành phần lớn thời gian ở nhà, và do đó, đối mặt với các rủi ro sức khỏe liên quan đến nhà ở cao hơn. Trẻ em cũng có nhiều nguy cơ bị tác hại từ một số chất độc có trong một số nhà ở, chẳng hạn như sơn có chì.
08
Nhà ở sẽ ngày càng trở nên quan trọng đối với sức khỏe do thay đổi nhân khẩu học và khí hậu. Số người trên 60 tuổi là những người dành phần lớn thời gian ở nhà sẽ tăng gấp đôi vào năm 2050. Các mô hình thời tiết thay đổi liên quan đến biến đổi khí hậu cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của nhà ở trong việc bảo vệ khỏi các hiện tượng thời tiết lạnh, nóng và khắc nghiệt.
Nhà ở tồi tàn có thể khiến mọi người gặp nhiều rủi ro về sức khỏe. Ví dụ, nhà ở thiếu kết cấu, do xây dựng hoặc bảo trì kém, có thể làm tăng khả năng trượt hoặc ngã, làm tăng nguy cơ bị thương. Khả năng tiếp cận nhà ở kém có thể khiến người khuyết tật và người già có nguy cơ bị thương, căng thẳng và bị cô lập. Nhà ở không an toàn, đôi khi do các vấn đề về khả năng chi trả hoặc an ninh yếu kém của thời kỳ sở hữu, sẽ gây căng thẳng. Nhà ở không có sưởi ấm có thể góp phần dẫn đến hệ hô hấp và tim mạch kém, trong khi nhiệt độ trong nhà cao có thể làm tăng tỷ lệ tử vong do tim mạch. Ô nhiễm không khí trong nhà gây hại cho sức khỏe đường hô hấp và có thể gây ra các phản ứng dị ứng và kích thích, chẳng hạn như hen suyễn. Nhà ở đông đúc làm tăng nguy cơ tiếp xúc với bệnh truyền nhiễm và căng thẳng. Công trình cấp nước sạch và vệ sinh không đầy đủ ảnh hưởng đến vệ sinh an toàn thực phẩm và vệ sinh cá nhân. Thiết kế đô thị không khuyến khích hoạt động thể chất góp phần gây béo phì và các bệnh liên quan, chẳng hạn như bệnh tiểu đường, sức khỏe tâm thần và tim mạch kém. Vật liệu xây dựng hoặc thực hành xây dựng không an toàn, hoặc xây nhà ở những vị trí không an toàn, có thể khiến con người gặp nhiều rủi ro, chẳng hạn như thương tích do tòa nhà sụp đổ.
09
TOÀN CẦU
10
Tình trạng nhà ở nghèo nàn phổ biến Một số lượng lớn người dân sống trong điều kiện nhà ở tồi tàn. Ví dụ 6% hộ gia đình ở Mỹ Latinh và Caribe (so với 0,4% ở Liên minh châu Âu) có nhiều hơn ba người trong một phòng. Khoảng 9% dân số toàn cầu không được tiếp cận với nguồn nước uống được cải thiện (không bị ô nhiễm). Gần một nửa số người sử dụng nguồn nước uống kém chất lượng hoặc bị ô nhiễm sống ở vùng cận Sahara, châu Phi, trong khi 1/5 sống ở Nam Á. Ngoài ra, 41% dân số thế giới nấu ăn và sưởi ấm nhà ở bằng lửa mở và bếp đơn giản đốt nhiên liệu rắn. Điều này dẫn đến không khí trong nhà bị ô nhiễm và không đủ thông gió.
11
TOÀN CẦU
Nhiều ngôi nhà trên khắp thế giới có các vấn đề về cấu trúc, khoảng 15% dân số châu Âu sống trong những ngôi nhà có mái dột, tường, sàn hoặc nền móng ẩm thấp hoặc mục nát ở khung cửa sổ, sàn nhà và các yếu tố cấu trúc khác. Gần 20% báo cáo rằng nhà ở của họ không bảo vệ họ khỏi nhiệt độ quá cao trong mùa hè, trong khi 13% báo cáo rằng nhà ở của họ không được ấm áp thoải mái vào mùa đông. Tại Vương quốc Anh, 72% người trưởng thành có vấn đề về vận động cho biết rằng lối vào nhà ở của họ không được tiếp cận đúng cách. Tại Hoa Kỳ, 5,2% nguồn cung nhà ở được phân loại là không đủ, gặp các vấn đề thể chất nghiêm trọng hoặc trung bình như thiếu hệ thống sưởi, hệ thống ống nước hoặc bảo trì.
12
13
TOÀN CẦU
“
Tình trạng sức khỏe liên quan đến nhà ở là một gánh nặng sức khỏe quan trọng. Một số nguyên nhân là do tiếp cận nguồn nước kém và chất lượng môi trường trong nhà kém.
”
Nước sạch, vệ sinh và vệ sinh môi trường là nguyên
829.000 ca tử vong do bệnh tiêu chảy trên toàn thế giới vào năm 2016 chiếm 1,9%
nhân gây ra
gánh nặng bệnh tật toàn cầu được tính bằng số năm sống được điều chỉnh theo khuyết tật (DALYs).
3,8 triệu
ca tử vong trên Năm 2016 ước tính toàn cầu là do ô nhiễm không khí hộ gia đình do sử dụng nhiên liệu rắn để nấu ăn, hầu hết đều xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Khoảng
15% trường hợp mắc bệnh hen suyễn ở trẻ em
mới ở Châu Âu có thể là do ẩm ướt trong nhà, chiếm hơn 69.000 có thể tránh được DALY và 103 trường hợp tử vong có thể tránh được hàng năm.
Gánh nặng bệnh tật liên quan đến nhà ở
14
ở cũng góp “ Nhà phần vào gánh
nặng bệnh tật do con người tiếp xúc với các chất nguy hiểm hoặc các mối nguy hại, hoặc các bệnh truyền nhiễm.
”
Gần 110.000 người chết hàng năm ở châu Âu do chấn thương ở nhà hoặc trong các hoạt động giải trí, và 32 triệu người khác phải nhập viện vì những chấn thương như vậy. Ở Châu Âu, ước tính rằng 7.500 ca tử vong và 200.000 DALY là do thiếu bộ phận bảo vệ cửa sổ và thiết bị phát hiện khói. Khoảng 10% số ca nhập viện mỗi năm ở New Zealand là do sự đông đúc của các hộ gia đình. Năm 2012, Ấn Độ ghi nhận hơn 2.600 người chết và 850 người bị thương do hơn 2.700 tòa nhà bị sập. Ở Kyrgyzstan, tình trạng đông đúc hộ gia đình gây ra 18,13 trường hợp tử vong trên 100.000 người do bệnh lao (TB) mỗi năm. Phơi nhiễm với chì ước tính đã gây ra 853.000 ca tử vong trong năm 2013. Trong khi tất cả mọi người đều có thể phải chịu những rủi ro liên quan đến nhà ở không lành mạnh, những người có thu nhập thấp và các nhóm dễ bị tổn thương có nhiều khả năng sống trong những ngôi nhà không phù hợp hoặc không an toàn, hoặc bị từ chối hoàn toàn về nhà ở.
15
TIÊU ĐIỂM
NHÀ Ở GIA ĐÌNH chật chội
16
ự đông đúc trong hộ gia đình là tình trạng số lượng người ở vượt quá sức chứa của không gian ở hiện có, cho dù được tính là phòng ở, phòng ngủ hay diện tích sàn, dẫn đến các kết quả bất lợi về sức khỏe thể chất và tinh thần. Sự đông đúc là kết quả của tình trạng không phù hợp giữa chỗ ở và hộ gia đình, mức độ đông đúc liên quan đến quy mô và thiết kế của ngôi nhà, bao gồm quy mô của các phòng, và loại phòng, quy mô và nhu cầu của hộ gia đình, bao gồm bất kỳ khách đến thăm dài hạn nào. Một hộ gia đình “đông đúc” không chỉ phụ thuộc vào số người cùng ở mà còn phụ thuộc vào độ tuổi, mối quan hệ và giới tính của những người chung sống. Ví dụ, một ngôi nhà có thể được coi là đông đúc nếu hai người lớn ở chung phòng ngủ, nhưng không đông đúc nếu những người lớn đó đang có quan hệ tình cảm. Sự đông đúc liên quan đến điều kiện của nơi ở cũng như không gian có được: mọi người có thể tập trung vào các phòng cụ thể trong nhà của họ để tránh lạnh/nóng để tiết kiệm điện và các chi phí khác.
17
TIÊU ĐIỂM
hưởng của sự đông đúc có thể được định “ Ảnh nghĩa một cách rộng rãi là những nguy cơ liên
quan đến việc không đủ không gian trong ngôi nhà để sinh hoạt, ngủ nghỉ và sinh hoạt gia đình.
18
”
Sự đông đúc được coi là gây căng thẳng cho sức khỏe và hạnh phúc ở các nền văn hóa và khía cạnh khác nhau của cuộc sống ở các quốc gia có thu nhập thấp, trung bình và cao. Một số nghiên cứu đã báo cáo mối liên hệ trực tiếp giữa sự đông đúc và các kết quả sức khỏe bất lợi, chẳng hạn như bệnh truyền nhiễm và các vấn đề sức khỏe tâm thần. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu đã cho thấy liên quan giữa sự đông đúc với trình độ học vấn. Trên toàn thế giới, đông đúc thường là dấu hiệu của nghèo đói và thiếu thốn xã hội và được Liên hợp quốc xác định là một trong năm tình trạng thiếu thốn cho thấy một khu định cư không chính thức nên được coi là một khu ổ chuột. Các hộ gia đình đông đúc cũng thường phải chịu rủi ro về nhà ở ví dụ, những hạn chế về thu nhập buộc mọi người phải sống trong những ngôi nhà không đủ không gian cho nhu cầu của họ cũng có thể có nghĩa là những hộ gia đình đó phải vật lộn để có được nhà ở đang sửa chữa tốt hoặc để sưởi ấm cho ngôi nhà vừa đủ. Ngoài ra, sự đông đúc làm tăng khả năng tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ liên quan đến thương tích tại nhà, căng thẳng xã hội và tiếp xúc với khói thuốc thụ động.
19
TIÊU ĐIỂM
Mức độ chắc chắn của các bằng chứng liên quan giữa nhà ở chật chội với bệnh lao và các bệnh truyền nhiễm đường hô hấp khác được đánh giá là cao. Mức độ chắc chắn của các bằng chứng liên quan đến bệnh viêm dạ dày ruột và tiêu chảy, các bệnh truyền nhiễm khác và sức khỏe tâm thần được đánh giá ở mức trung bình đến cao. Độ chắc chắn của các bằng chứng liên quan đến rối loạn giấc ngủ được đánh giá là thấp.
20
Tóm tắt bằng chứng
Phần này tóm tắt các bằng chứng từ đánh giá có hệ thống về mối liên quan giữa đông đúc và các bệnh truyền nhiễm (bao gồm lao, viêm dạ dày và các bệnh tiêu chảy), sức khỏe tinh thần (bao gồm cả căng thẳng) và rối loạn giấc ngủ. Các định nghĩa và thước đo về sự đông đúc trong các nghiên cứu bao gồm rất đa dạng và chẳng hạn, dựa trên số người trên một phòng, số phòng trên mỗi ngôi nhà, diện tích không gian sống trên mỗi người, hoặc sống trong một hoặc nhiều phòng.
21
TIÊU ĐIỂM
Các bệnh truyền nhiễm liên quan đến nhà ở chật chội Khi giải thích các kết quả sau đây, cần xem xét mối quan hệ giữa đông đúc và các bệnh truyền nhiễm phụ thuộc vào tỷ lệ lưu hành cơ bản của bệnh trong bối cảnh cụ thể.
22
Phần lớn các nghiên cứu về mối liên quan giữa đông đúc và các bệnh truyền nhiễm liên quan đến bệnh lao. Thông qua 21 nghiên cứu, các chuyên gia đã xác định được rằng sự đông đúc có liên quan đến bệnh lao. Những nghiên cứu này nhất quán trong việc chỉ ra rằng đông đúc có liên quan đến tăng nguy cơ mắc bệnh lao, mặc dù mối liên quan tích cực không có ý nghĩa thống kê trong một số ít các nghiên cứu. Các chuyên gia đã tiến hành 4 nghiên cứu khảo sát ảnh hưởng của các mức độ đông đúc khác nhau đến tỷ lệ mắc bệnh lao. Trong các nghiên cứu này, số lượng người trong mỗi phòng ngày càng tăng được phân tích liên quan đến tỷ lệ mắc bệnh lao. Một trong số những nghiên cứu này cho thấy sự gia tăng đáng kể cho 02 đến 04 người/phòng so với 01 người/phòng nhưng không lớn hơn 04 người/phòng, trong khi ba nghiên cứu khác không cho thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa sự gia tăng đông đúc và tỷ lệ mắc bệnh lao (lớn hơn một rưỡi, lớn hơn hai, một đến ba, ba đến năm người trong một phòng). Trong hai nghiên cứu đã đánh giá mối quan hệ phản ứng phơi nhiễm đối với sự đông đúc và bệnh lao, một nghiên cứu tìm thấy mối quan hệ nhất
quán, nhưng nghiên cứu kia thì không. 15 nghiên cứu khác sử dụng ngưỡng cho sự đông đúc, so sánh giữa những hộ gia đình đông đúc với những hộ gia đình không đông đúc. Mặc dù sự đông đúc không được tìm thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê trong bốn nghiên cứu, nhưng sự đông đúc có liên quan đáng kể với bệnh lao trong mỗi nghiên cứu trong số 11 nghiên cứu khác. Mức độ chắc chắn của bằng chứng cho thấy việc giảm đông người sẽ giảm nguy cơ mắc bệnh lao được đánh giá là cao.
B) T ( ao l h n Bệ
23
TIÊU ĐIỂM
Bệnh đường hô hấp (trừ bệnh lao) Tổng quan hệ thống đã ghi nhận 30 nghiên cứu báo cáo về kết cục do các bệnh truyền nhiễm đường hô hấp khác ngoài bệnh lao. Chủ đề bao gồm lần nhập viện và bệnh tật liên quan đến cúm, bệnh viêm phổi, bệnh hô hấp cấp tính; và virus hợp bào hô hấp.
Trong phần lớn các nghiên cứu về các bệnh hô hấp không do lao, nguy cơ mắc các bệnh này có liên quan đến sự đông đúc. Tính chắc chắn của bằng chứng cho thấy việc giảm đông người sẽ làm giảm nguy cơ mắc bệnh hô hấp không do lao được đánh giá là từ trung bình đến cao, tùy thuộc vào từng bệnh.
Tiêu chảy và viêm dạ dày 13 nghiên cứu đã xác định rằng sự đông đúc có liên quan đến tiêu chảy hoặc các bệnh đường tiêu hóa hoặc ký sinh trùng, cho thấy rằng sự đông đúc xuất hiện có liên quan đến bệnh viêm dạ dày ruột và tiêu chảy. Trong số các nghiên cứu đó, 4 nghiên cứu đã xem xét tác động của các mức độ đông đúc khác nhau mà 2 trong số các nghiên cứu cho thấy mức độ đông đúc cao hơn (nhiều hơn 03 hoặc 04 người mỗi phòng) có liên quan đến nhiều trường hợp tiêu chảy hơn đáng kể so với mức độ thấp hơn (ít hơn 02 hoặc 04 người mỗi phòng). Trong 2 nghiên cứu, mức độ đông đúc không ảnh hưởng đáng kể đến số trường hợp tiêu chảy, nhưng trong một trong những nghiên cứu này, tất cả mức độ đông đúc đều có liên quan đến kết quả thay thế là tăng nhiễm ký sinh trùng đường ruột. Tính chắc chắn của bằng chứng cho thấy việc giảm đông đúc sẽ giảm nguy cơ mắc bệnh viêm dạ dày ruột và tiêu chảy được đánh giá là cao.
24
Các bệnh truyền nhiễm khác 25 nghiên cứu đánh giá mối liên quan giữa đông đúc và các bệnh truyền nhiễm khác như sốt thấp khớp và bệnh tim; sốt thương hàn; bệnh não mô cầu; nhiễm trùng mắt và da cổ họng; sốt xuất huyết; nhiễm vi khuẩn HP; tụ cầu vàng kháng methicillin; ký sinh trùng Toxoplasma; herpestvirus; nhiễm trùng sơ sinh; nhiễm trùng đường ruột không nhạy cảm do dùng nhiều thuốc; và các yếu tố nguy cơ đối với nưới sạch vệ sinh môi trường. Kết quả cho thấy nhìn chung, nguy cơ mắc các bệnh truyền nhiễm liên quan đến sự đông đúc. Tính chắc chắn của bằng chứng cho thấy việc giảm đông đúc sẽ làm giảm nguy cơ mắc các bệnh truyền nhiễm khác được đánh giá là từ trung bình đến thấp, tùy thuộc vào từng bệnh.
25
TIÊU ĐIỂM
Rối loạn sức khỏe liên quan tới nhà ở chật chội
Sức khỏe tinh thần bao gồm cả căng thẳng Trong số 13 nghiên cứu riêng biệt trong danh mục này (một trong số đó đánh giá hai kết quả sức khỏe tâm thần khác nhau), tám nghiên cứu đã báo cáo ít nhất một mối liên quan đáng kể giữa sự đông đúc trong gia đình và kết quả sức khỏe tâm thần. Một nghiên cứu thuần tập tiền cứu, một nghiên cứu thuần tập hồi cứu và năm nghiên cứu cắt ngang đều báo cáo rằng những người sống trong một hộ gia đình đông đúc có nhiều khả năng báo cáo vấn đề sức khỏe tâm thần hơn những người không sống trong điều kiện nhà ở đông đúc. Những lo ngại về sức khỏe tâm thần này bao gồm: tâm lý đau khổ, lạm dụng rượu, cảm thấy chán nản và cảm thấy không hài lòng về sức khỏe của một người. Một nghiên cứu cắt ngang còn cho thấy rằng sự đông đúc có liên quan đến tỷ lệ người khuyết tật tâm thần thấp hơn.
26
4 nghiên cứu cắt ngang không thể phát hiện bất kỳ mối quan hệ nào giữa sự đông đúc và kết quả sức khỏe tâm thần như chứng tăng động giảm chú ý và các triệu chứng cảm xúc, đau khổ tâm lý, ý định tự tử và lòng tự trọng, hoặc lạm dụng ma túy. Hơn nữa, một nghiên cứu thuần tập hồi cứu được thực hiện ở Israel đã báo cáo rằng không có mối liên quan giữa sự đông đúc trong thời kỳ sơ sinh và sự phát triển của bệnh tâm thần phân liệt trong cuộc sống sau này và một nghiên cứu thuần tập được thực hiện ở Hoa Kỳ không tìm thấy mối liên hệ giữa tình trạng quá đông đúc và phản ứng của hệ thần kinh tự chủ hoặc ngoại cảnh các vấn đề về hành vi. Mức độ chắc chắn của các bằng chứng liên quan đến việc tập trung đông người với các tác động xấu đến sức khỏe tâm thần, bao gồm cả căng thẳng, được đánh giá ở mức trung bình đến thấp.
27
TIÊU ĐIỂM
Rối loạn giấc ngủ
2 nghiên cứu cắt ngang gần đây và một nghiên cứu sinh thái học đã điều tra mối liên quan giữa sự đông đúc và rối loạn giấc ngủ. Một nghiên cứu cắt ngang cho thấy buồn ngủ ban ngày quá mức với nhiều hơn một người mỗi phòng nhưng nghiên cứu khác kết luận rằng sống trong một hộ gia đình đông đúc (nhiều hơn một người mỗi phòng) không liên quan đáng kể đến hầu hết các vấn đề rối loạn giấc ngủ nhưng đã tìm thấy mối quan hệ đáng kể giữa sự đông đúc và thời gian ngủ trong một số phân tích. Nghiên cứu sinh thái học đã tìm thấy mối quan hệ tích cực đáng kể giữa tỷ lệ phần trăm đám đông ở cấp độ lân cận (nhiều hơn một người trên một phòng) và chỉ số ngưng thở - giảm thở.
28
Tính chắc chắn của bằng chứng rằng giảm sự đông đúc sẽ làm giảm tỷ lệ rối loạn giấc ngủ được đánh giá là thấp đến rất thấp. Tóm lại, đánh giá có hệ thống đã tìm thấy bằng chứng chắc chắn cao rằng sự đông đúc có liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc bệnh lao và tiêu chảy. Có bằng chứng chắc chắn từ trung bình đến cao cho mối quan hệ tích cực giữa đông đúc và các bệnh truyền nhiễm đường hô hấp khác. Tính chắc chắn của bằng chứng cho thấy sự đông đúc có liên quan đến nguy cơ cao mắc các bệnh truyền nhiễm khác và sức khỏe tâm thần kém là từ trung bình đến thấp; và rất thấp cho mối liên hệ giữa sự đông đúc và rối loạn giấc ngủ.
29
TIÊU ĐIỂM
Một số khuyến nghị giải quyết vấn đề nhà ở chật chội Giảm sự đông đúc có ý nghĩa đối với các chính quyền quốc gia và địa phương, thường cần xây dựng và tân trang nhà ở, trợ cấp nhà ở xã hội hoặc nhà ở công cộng, nhà cho thuê tư nhân, thực hiện các chính sách thuế và quy hoạch khuyến khích xây dựng nhà ở giá rẻ và làm việc với các nhà lãnh đạo cộng đồng ở các khu vực phi chính thức khu định cư. Đảm bảo nhà ở không chỉ sẵn có mà còn phù hợp và giá cả phải chăng, là điều cốt yếu để giảm bớt sự đông đúc. Nếu việc giảm bớt sự đông đúc dẫn đến việc mọi người di chuyển đến một địa điểm khác, điều đó có thể gây ra những tác động bất lợi bằng cách xóa họ khỏi mạng lưới xã hội, hỗ trợ chăm sóc trẻ em và các cơ hội làm việc hoặc giáo dục, ảnh hưởng đến sức khỏe và cơ hội kiếm tiền. Nếu nhà ở mới nằm trong các khu phát triển có mật độ thấp hoặc thưa thớt, nó có thể làm giảm hoạt động thể chất. Nếu nhà ở mới không đủ khả năng chi trả, mọi người có thể gặp khó khăn trong việc chi trả cho các nhu cầu thiết yếu khác bao gồm thực phẩm, năng lượng và chăm sóc sức khỏe. Do đó, một cách tiếp cận chính sách tổng hợp, trong đó việc giảm thiểu sự đông đúc được hỗ trợ bằng cách sử dụng lại thích hợp có tính đến những cân nhắc về các tác động không mong muốn có thể xảy ra, là điều cơ bản đối với công bằng. Việc giảm bớt sự đông đúc sẽ có hiệu quả nhất nếu được kết hợp với các chính sách hỗ trợ việc làm và cải thiện thu nhập hộ gia đình để tăng khả năng chi trả cho những ngôi nhà có đủ diện tích. Một hệ thống phúc lợi xã hội hỗ trợ hơn nữa đảm bảo rằng mất việc làm hoặc cú sốc thu nhập khác không dẫn đến việc chuyển đến một ngôi nhà không đủ diện tích để giảm chi phí.
30
Khi xây dựng các chính sách để giảm bớt sự đông đúc, các nhà hoạch định chính sách và cố vấn kỹ thuật cũng cần xem xét mức độ phù hợp của các biện pháp tập trung đông người đối với các nhóm dân cư khác nhau. Tùy thuộc vào bối cảnh văn hóa, nhận thức của người dân về một ngôi nhà quá đông đúc có thể khác nhau và các tiêu chuẩn khác nhau để xác định không gian nhà ở thích hợp có thể được áp dụng. Bảng 1 cung cấp tổng quan về các biện pháp đông đúc khác nhau có thể được áp dụng để đánh giá mức độ phổ biến và mức độ đông đúc ở các cơ sở khác nhau.
31
TIÊU ĐIỂM
Bảng 1. Các biện pháp đông đúc khác nhau
UN-Habitat Sẽ xảy ra hiện tượng quá tải nếu có nhiều hơn ba người trong một phòng. Chỉ số đông đúc ở Mỹ Một không gian được coi là đông đúc nếu có nhiều hơn một người trong một phòng; sự đông đúc nghiêm trọng xảy ra nếu có hơn 1,5 người trong một phòng (không bao gồm phòng tắm, ban công, hiên nhà, tiền sảnh, lối đi và nửa phòng) Viện thống kê và điều tra quốc gia Argentina Mức độ quá tải đại diện cho thương số giữa tổng số người trong nhà và tổng số phòng hoặc số lượng phòng giống nhau. Các hộ gia đình có tình trạng quá tải nghiêm trọng được coi là những hộ có hơn ba người một phòng (không bao gồm nhà bếp và phòng tắm). Tiêu chuẩn lưu trú quốc gia Canada Tình trạng quá tải xảy ra nếu yêu cầu thêm phòng ngủ để đảm bảo rằng mỗi người sau đây đều có phòng ngủ riêng: • cặp vợ chồng người lớn sống thử • cha mẹ đơn độc • thành viên gia đình không có người đi kèm từ 18 tuổi trở lên • trẻ em dưới 18 tuổi cùng giới tính • Việc có thêm mỗi bé trai hoặc bé gái trong gia đình (trừ khi có hai trẻ em khác giới tính dưới 5 tuổi, trong trường hợp đó các em có thể ở chung phòng ngủ).
32
Phòng ngủ tiêu chuẩn kiểu Anh Tình trạng quá tải xảy ra nếu yêu cầu thêm phòng ngủ để đảm bảo rằng mỗi người sau đây đều có phòng ngủ riêng: • cặp vợ chồng người lớn sống thử • người trên 21 tuổi • cặp trẻ em cùng giới tính từ 10–20 tuổi • hai trẻ em dưới 10 tuổi • hai trẻ em trong đó một trẻ từ 10–20 tuổi và một trẻ dưới 10 tuổi • bất kỳ người nào khác dưới 21 tuổi không thuộc một trong các loại trên Chỉ số của Châu Âu (Eurostat) Quá tải xảy ra nếu hộ gia đình không có đủ số lượng phòng tối thiểu bằng: • một phòng cho hộ gia đình • một phòng cho mỗi cặp vợ chồng trong hộ gia đình • một phòng cho mỗi người từ 18 tuổi trở lên • một phòng cho mỗi cặp người cùng giới tính từ 12–17 tuổi • một phòng cho mỗi người từ 12–17 tuổi và không nằm trong loại trước đó • một phòng cho mỗi cặp trẻ em dưới 12 tuổi.
33
TIÊU ĐIỂM
NHÀ Ở LANH
và cách nhiệt
34
hông khí lạnh sẽ gây viêm phổi và ức chế tuần hoàn, làm tăng nguy cơ mắc các bệnh về hô hấp, chẳng hạn như các cơn hen suyễn hoặc các triệu chứng, làm trầm trọng thêm bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD) và nhiễm trùng. Lạnh cũng gây ra co mạch, gây căng thẳng cho hệ tuần hoàn có thể dẫn đến các tác động lên tim mạch, bao gồm bệnh tim thiếu máu cục bộ, bệnh mạch vành, đột quỵ, xuất huyết dưới nhện và tử vong. Hầu hết các bằng chứng về tác động của lạnh đối với sức khỏe đến từ các nghiên cứu liên quan giữa nhiệt độ ngoài trời với sức khỏe. Ví dụ, các đợt lạnh có liên quan đến việc gia tăng tỷ lệ tử vong và mắc bệnh hô hấp và tim mạch, và tỷ lệ tử vong và mắc bệnh ở các nước có khí hậu lạnh và ôn đới vào mùa đông cao hơn so với mùa hè.
35
TIÊU ĐIỂM
Bằng chứng là nhiệt độ trong nhà lạnh gây ra những hậu quả bất lợi cho sức khỏe đang ngày càng gia tăng. Nhiệt độ trong nhà lạnh thường là hệ quả của nhiệt độ ngoài trời, các vấn đề về cấu trúc, bao gồm thiếu lớp cách nhiệt và kín gió, thiếu hệ thống sưởi. Như đã trình bày ở trên, nhiệt độ trong nhà lạnh có liên quan đến việc tăng huyết áp, các triệu chứng hen suyễn và sức khỏe tâm thần kém. Nhà lạnh góp phần làm tăng tỷ lệ tử vong và bệnh tật trong mùa đông. Phần lớn gánh nặng sức khỏe có thể do cả bệnh hô hấp và tim mạch, đặc biệt là đối với người lớn tuổi. Ở trẻ em, gánh nặng sức khỏe mùa đông phần lớn là do bệnh lý đường hô hấp. Số ca tử vong do nhà ở quá lạnh vào mùa đông được ước tính là 38.200 người/năm (12,8/100.000) ở 11 quốc gia châu Âu được chọn.
36
Tỷ lệ tử vong trong mùa đông cao hơn ở các quốc gia có khí hậu ôn hòa hơn so với những quốc gia có điều kiện mùa đông khắc nghiệt hơn, một phần bởi vì các quốc gia có mùa đông ôn hòa thường có những ngôi nhà được đặc trưng bởi hiệu suất nhiệt trong nhà kém, khó sưởi ấm hơn những ngôi nhà cách nhiệt tốt ở những vùng khí hậu khắc nghiệt hơn. Trong các ngôi nhà được cách nhiệt làm giảm sự mất nhiệt do dẫn truyền qua tường, trần và sàn của tòa nhà. Cách nhiệt được trang bị thêm, hay còn được gọi là “phong hóa” cũng làm giảm sự mất nhiệt đối lưu bằng cách ngăn chặn sự rò rỉ không khí không mong muốn qua lớp vỏ của tòa nhà. Việc trang bị thêm vật liệu cách nhiệt, chống thời tiết và sưởi ấm có thể giúp giảm thiểu ảnh hưởng của nhà ở lạnh đối với sức khỏe. Các yếu tố kinh tế xã hội đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định xem một nơi ở có đủ ấm hay không. Hạn chế về thu nhập buộc mọi người phải sống trong những ngôi nhà cũ hơn, nhiều khả năng được xây dựng kém và thiếu cách nhiệt. Những thiếu sót này, cùng với việc thiếu khả năng chi trả về năng lượng, có thể gây khó khăn cho những người có thu nhập thấp trong việc sưởi ấm đầy đủ cho ngôi nhà của họ. Ví dụ, một nghiên cứu được thực hiện ở Nam Phi cho thấy rằng các kiểu nhà ở không chính thức dễ bị tổn thương hơn so với các kiểu nhà khác do nhiệt độ không ổn định trong nhà, điều này ảnh hưởng đến sự thoải mái về nhiệt. Để đánh giá bằng chứng về việc giảm thiểu rủi ro sức khỏe liên quan đến nhiệt độ lạnh trong nhà và ảnh hưởng của nhà cách nhiệt, hai cuộc đánh giá có hệ thống đã được thực hiện.
37
TIÊU ĐIỂM
38
Bệnh đường hô hấp liên quan tới nhà ở lạnh Trong số 4 nghiên cứu được xác định trong tổng quan hệ thống, 3 nghiên cứu phát hiện ra rằng nhiệt độ trong nhà lạnh hơn làm tăng tỷ lệ mắc bệnh đường hô hấp. Một nghiên cứu cắt ngang ở người lớn mắc COPD cho thấy tình trạng sức khỏe tốt hơn khi nhiệt độ trong nhà ở mức 21°C nhiều giờ hơn. Xu hướng phản ứng với liều lượng đã được quan sát trong số ngày có nhiệt độ phòng ngủ từ 18°C trở lên trong ít nhất 9 giờ. Những tác động lớn nhất được quan sát thấy ở người lớn hút thuốc so với người không hút thuốc. Tương tự, mô hình dựa trên kết quả của một thử nghiệm ngẫu nhiên liên quan đến trẻ em mắc bệnh hen suyễn cho thấy rằng cứ tăng 1°C nhiệt độ phòng xuống dưới ngưỡng 9°C, có liên quan đến một sự gia tăng nhỏ nhưng đáng kể trong chức năng phổi.
Tiếp xúc với phòng ngủ được chứng minh là có mối liên hệ chặt chẽ hơn với chức năng phổi của trẻ bị hen so với tiếp xúc trong phòng khách. Ngoài ra, một nghiên cứu thuần tập, bao gồm cả người lớn mắc COPD, từ Trung Quốc đã báo cáo các vấn đề về hô hấp giảm với nhiệt độ trong nhà ở mức 18,2°C bất kể độ ẩm trong nhà thấp, trung bình hay cao. Ngược lại, một nghiên cứu bệnh chứng ở trẻ em có và không bị nhiễm trùng đường hô hấp trên cho thấy không có mối liên quan nhất quán với nhiệt độ trong nhà. Các bằng chứng chắc chắn cho thấy việc sưởi ấm một ngôi nhà lạnh (nhiệt độ trong nhà tối thiểu là 18°C) sẽ làm giảm nguy cơ tử vong về đường hô hấp và tỷ lệ mắc bệnh được đánh giá là vừa phải.
39
TIÊU ĐIỂM
Bệnh tim mạch và huyết áp liên quan tới nhà ở lạnh
40
Trong số 6 nghiên cứu bao gồm đánh giá mối liên quan giữa nhiệt độ trong nhà và huyết áp, tất cả đều cho thấy nhiệt độ thấp hơn có liên quan đến huyết áp cao hơn, bao gồm 2 thử nghiệm ngẫu nhiên ở Nhật Bản cho thấy huyết áp cao hơn ở những người sống trong nhà lạnh hơn. Một nghiên cứu thuần tập ở Nhật Bản đối với người lớn trên 60 tuổi cho thấy nhiệt độ trong nhà giảm 1°C có liên quan đáng kể đến việc tăng huyết áp vào các thời điểm khác nhau trong ngày, ngay cả khi đã kiểm soát được các yếu tố gây nhiễu tiềm ẩn. Có mối liên hệ chặt chẽ giữa nhiệt độ trong nhà hơn là nhiệt độ ngoài trời với huyết áp lưu động, điều này cho thấy có thể ngăn ngừa tử vong do tim mạch trong mùa đông bằng cách cải thiện môi trường nhiệt của nhà ở. 2 nghiên cứu thuần tập từ Scotland cho thấy những người ở trong nhà được sưởi ấm dưới 18°C có nguy cơ cao huyết áp hơn. Nguy cơ này tăng lên nếu nhiệt độ dưới 16°C (OR 4,92).
Tương tự, một nghiên cứu thuần tập ở Vương quốc Anh cho thấy huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương giảm 0,5 mmHg trên mỗi lần tăng 1°C ở nhiệt độ phòng. Tổng quan cũng xác định 5 nghiên cứu về nhiệt độ và huyết áp được thực hiện trong điều kiện phòng thí nghiệm. Các nghiên cứu cho thấy mối quan hệ giữa sự nóng lên và giảm huyết áp, nhưng vì đây là bằng chứng gián tiếp cho mối quan hệ giữa huyết áp và nhiệt độ trong nhà, các nghiên cứu đã không được sử dụng để xây dựng các khuyến nghị. Sự chắc chắn của bằng chứng cho thấy việc sưởi ấm một ngôi nhà lạnh (đến nhiệt độ trong nhà tối thiểu là 18°C) sẽ làm giảm nguy cơ tử vong do tim mạch và tỷ lệ mắc bệnh được đánh giá là trung bình.
41
TIÊU ĐIỂM
Cách nhiệt và phong hóa nhà ở liên quan tới sức khỏe Trong số 11 nghiên cứu được xác định trong tổng quan hệ thống, 7 nghiên cứu đã tìm thấy một số mối liên hệ giữa lợi ích của việc sống trong một ngôi nhà cách nhiệt và sức khỏe được cải thiện. Ví dụ, một thử nghiệm ngẫu nhiên theo cụm ở New Zealand về hiệu quả của việc cách nhiệt các ngôi nhà hiện có, nơi ít nhất một người trong hộ gia đình có các triệu chứng hô hấp mãn tính đã phát hiện ra rằng cách nhiệt có liên quan đến việc giảm tỷ lệ sức khỏe tâm thần kém, thở khò khè tự báo cáo trước đây 3 tháng, cảm lạnh hoặc cúm mùa đông, và có đờm vào buổi sáng ở người lớn. Trong khi sức khỏe tâm thần được cải thiện trong một thử nghiệm có đối chứng từ Hoa Kỳ, nghiên cứu không tìm thấy bất kỳ sự khác biệt nào về tình trạng sức khỏe chung giữa
42
những người nhận lớp cách nhiệt và lớp phủ bên ngoài mới với những người trong nhóm đối chứng. Một nghiên cứu bán thực nghiệm từ Vương quốc Anh không tìm thấy sự khác biệt giữa trẻ bị hen và trẻ khỏe mạnh đối với các hệ thống cửa kính khác nhau. Một nghiên cứu bán thực nghiệm khác ở New Zealand cho thấy tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân thấp hơn đáng kể ở những người có tiền sử bệnh tim mạch nếu họ sống trong một ngôi nhà cách nhiệt thay vì một ngôi nhà không cách nhiệt và thấp hơn không đáng kể ở những người có tiền sử bệnh hô hấp. Tương tự, một thử nghiệm có đối chứng từ Vương quốc Anh đã không phát hiện ra bất kỳ ảnh hưởng nào của lớp cách nhiệt bên ngoài đối với các triệu chứng hô hấp nói chung, bệnh hen suyễn, sức khỏe thể chất hoặc tâm thần hoặc sức khỏe chủ quan.
43
TIÊU ĐIỂM
Một nghiên cứu cắt ngang từ Vương quốc Anh đã điều tra tác động của các loại vật liệu cách nhiệt khác nhau đối với một loạt các kết quả sức khỏe. Nghiên cứu đã xác định những tác động tích cực của cách nhiệt gác xép và tường bên ngoài đối với hệ hô hấp, tinh thần và sức khỏe tổng quát; nhưng đã tìm thấy tác động tiêu cực đến những kết quả này với lớp cách nhiệt tường khoang.
44
Một nghiên cứu ở New Zealand trên 45.000 hộ gia đình, với các đối chứng phù hợp, cho thấy không có mối quan hệ nào giữa việc sống trong một ngôi nhà cách nhiệt và tỷ lệ nhập viện. Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong ở người lớn từ 65 tuổi trở lên đã từng nhập viện vì bệnh tuần hoàn thấp hơn ở những người sống trong những ngôi nhà cách nhiệt tốt. Một nghiên cứu từ Scotland, xem xét môi trường trong nhà và kết quả sức khỏe như những người tham gia báo cáo, phát hiện ra rằng tỷ lệ ho thấp hơn đáng kể ở những ngôi nhà có cửa sổ lắp kính hai lớp nhưng không có mối liên hệ nhất quán giữa thở khò khè và ho và cách nhiệt.
Một nghiên cứu từ Greenland, về các hộ gia đình có trẻ em từ 3 đến 5 và 8 tuổi đã từng đi khám bệnh viêm tai giữa cấp tính trước đây, không tìm thấy mối liên hệ giữa các đợt viêm tai giữa cấp và cách nhiệt kém tự báo cáo, được định nghĩa là “báo cáo dự thảo cùng các tầng và qua các cửa ra vào và cửa sổ”. Một nghiên cứu thuần tập lịch sử được thực hiện ở Vương quốc Anh báo cáo rằng kính hai lớp cải thiện tình trạng sức khỏe hộ gia đình lên 4,8% nhưng không phát hiện ra những ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống hoặc các biện pháp hạnh phúc khác. Một nghiên cứu bệnh chứng từ Đan Mạch, nơi có nguy cơ sai lệch cao, cho thấy kích ứng mắt và khô họng (liên quan đến sức khỏe hô hấp) giảm nhẹ khi thay cửa sổ, nhưng kết quả không có ý nghĩa thống kê. Mức độ chắc chắn của bằng chứng cho thấy việc sống trong những ngôi nhà cách nhiệt có liên quan đến cải thiện kết quả sức khỏe được đánh giá ở mức độ vừa phải.
45
TIÊU ĐIỂM Trong khí hậu lạnh, một môi trường nhiệt trong nhà lành mạnh có thể đạt được thông qua sự kết hợp giữa cách nhiệt và cung cấp nhiệt. Xây dựng một ngôi nhà thông gió và cách nhiệt thích hợp về mặt kỹ thuật cao hơn và tốn kém hơn so với xây một ngôi nhà không cách nhiệt, nhưng có khả năng dẫn đến sức khỏe và các lợi ích khác, với một số bằng chứng cho thấy tỷ lệ chi phí - lợi ích có thể cao tới sáu.
Các khuyến nghị với nhà ở bị lạnh 46
Ở cấp độ vĩ mô, việc nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng của các ngôi nhà được cho là dẫn đến tiết kiệm chi phí và ở một số quốc gia, đồng lợi ích rõ ràng của việc trang bị thêm vật liệu cách nhiệt đối với sức khỏe và hiệu quả năng lượng có nghĩa là những trang bị thêm này đã được chính phủ trợ cấp. Ví dụ, người ta ước tính rằng việc cải thiện sức khỏe của người cư trú bằng cách cải thiện nhà ở ở Vương quốc Anh, bao gồm thông qua việc tăng độ ấm trong phòng ngủ, sẽ tiết kiệm cho các dịch vụ y tế Vương quốc Anh 1,4 tỷ bảng Anh trong năm đầu tiên chỉ tính riêng chi phí điều trị. Một chương trình trợ cấp cách nhiệt ở New Zealand cho thấy chi phí nằm viện giảm do ít tái nhập viện hơn, ít chuyển viện hơn và thời gian nằm viện ngắn hơn, mặc dù tỷ lệ nhập viện không thay đổi. Ở Cape Town, việc trang bị thêm 2.300 ngôi nhà có hệ thống sưởi nước bằng năng lượng mặt trời và cách nhiệt trên mái
nhà như một phần của dự án nhà ở thu nhập thấp Kuyasa mang lại nhiều lợi ích cho việc giảm thiểu khí hậu, sức khỏe hô hấp, giảm nghèo và phát triển kinh tế. Bên cạnh việc tạo ra 2,82 tấn tín chỉ carbon cho mỗi ngôi nhà hàng năm và giảm chi phí sưởi ấm, việc cải thiện cách nhiệt đã dẫn đến “sự suy giảm đáng kể về bệnh phế quản và các bệnh liên quan ở người dân, đặc biệt là trong mùa đông”. Nói rộng hơn, các biện pháp tiết kiệm năng lượng góp phần tiết kiệm công bằng cách giảm gánh nặng cho cơ sở hạ tầng năng lượng và khí hậu. Cách nhiệt cũng có thể giúp điều hòa các tình huống nắng nóng khắc nghiệt. Tuy nhiên, hiệu quả chi phí sẽ khác nhau đáng kể đối với các vùng khí hậu khác nhau và phụ thuộc vào chất lượng nhà ở, loại vật liệu cách nhiệt, mức độ cách nhiệt trước đó và phương tiện sưởi ấm và thông gió của quỹ nhà ở.
47
TIÊU ĐIỂM
Ở cấp độ cá nhân, có sự cân bằng rõ ràng giữa chi phí đầu tư (lắp đặt hoặc trang bị thêm vật liệu cách nhiệt và sưởi ấm) và chi phí vận hành (trả tiền năng lượng). Trong khi những người có thu nhập thấp có khả năng được hưởng lợi nhiều nhất từ các chương trình hiệu quả nhiệt công cộng vì họ có nhiều khả năng sống trong các ngôi nhà lạnh hơn, họ cũng sẽ ít có khả năng chi trả để lắp đặt vật liệu cách nhiệt nếu chi phí cần thiết được bảo hiểm bởi cư dân hoặc chủ sở hữu nhà. Do đó, điều cần thiết là phải đảm bảo rằng những người có thu nhập thấp có thể đủ khả năng sống trong các tòa nhà cải tiến, có khả năng thông qua việc cung cấp hỗ trợ công về chi phí nhà ở; nếu không những cải tiến về cách nhiệt có thể làm tăng sự bất bình đẳng.
48
Các công cụ chính để các nhà hoạch định chính sách cải thiện điều kiện nhiệt ở cấp quốc gia là: cải thiện các tiêu chuẩn xây dựng và yêu cầu cách nhiệt và sưởi ấm hiệu quả trong nhà ở, bao gồm việc lắp đặt các tấm pin mặt trời, thực hiện trợ cấp và ưu đãi thuế để khuyến khích lắp đặt vật liệu cách nhiệt và sưởi ấm hiệu quả; các biện pháp khuyến khích khả năng chi trả về năng lượng thông qua trợ cấp hoặc thay thế chi phí năng lượng truyền thống; và việc xây dựng nhà ở thay thế mà nhà ở bị hư hỏng đến mức không thể cải tạo theo tiêu chuẩn đảm bảo nhiệt độ thích hợp.
Để tránh những tác hại không mong muốn của việc lắp đặt vật liệu cách nhiệt, cần phải cẩn thận để đảm bảo rằng các biện pháp cải thiện độ ấm cho nhà ở cũng cung cấp đủ thông gió. Quá trình phong hóa làm giảm sự thất thoát nhiệt do rò rỉ không khí qua tường và trần nhà, nhưng nó cũng có thể làm giảm sự trao đổi không khí cần thiết của tòa nhà. Các hoạt động gia đình, bao gồm nấu ăn và giặt giũ, cũng như quá trình trao đổi chất của con người, tạo ra hơi nước. Nếu không có hệ thống thông gió đầy đủ, dù là tự nhiên hay máy móc, hơi ẩm sẽ tích tụ bên trong tòa nhà. Luồng không khí không đủ làm tăng độ ẩm trong nhà, dẫn đến sự gia tăng độ ẩm và sự phát triển của nấm mốc và vi khuẩn. Da ẩm hoặc nấm mốc có liên quan đến một loạt các tác động xấu đến sức khỏe, bao gồm hen suyễn, nhiễm trùng đường hô hấp và các triệu chứng, khó thở, viêm phổi quá mẫn và viêm phế nang dị ứng.
49
TIÊU ĐIỂM Điều quan trọng là bất kỳ can thiệp nào để tăng nhiệt độ trong nhà phải đạt được thông qua các giải pháp bền vững và hiệu quả về năng lượng. Việc lắp đặt vật liệu cách nhiệt và hệ thống sưởi hiệu quả có thể góp phần giảm lượng khí thải carbon bằng cách cho phép mọi người sưởi ấm ngôi nhà của họ hiệu quả hơn. Điều này làm giảm ô nhiễm không khí và gián tiếp có lợi cho sức khỏe thông qua việc giảm tỷ lệ tử vong và bệnh tật liên quan đến ô nhiễm không khí ngoài trời. Các biện pháp này cũng làm giảm gánh nặng cho cơ sở hạ tầng năng lượng và hỗ trợ giảm thiểu biến đổi khí hậu. Việc thực hiện cũng cần xem xét tầm quan trọng của việc sử dụng các vật liệu cách nhiệt an toàn, không chứa các chất độc hại như amiăng và isocyanate, đồng thời có khả năng chống cháy và sự phát triển của vi sinh vật. Cũng có thể cần phải cải thiện việc bảo vệ sức khỏe và an toàn lao động cũng như đào tạo cho những người tham gia lắp đặt và bảo trì vật liệu cách nhiệt để đảm bảo rằng sức khỏe của người lao động không bị tổn hại và can thiệp sẽ đạt hiệu quả tối ưu (247). Việc ủy quyền cho các nhà thiết kế trang bị thêm tòa nhà và phê duyệt, kiểm tra công việc thực tế là cần thiết để đảm bảo kết quả lành mạnh và tiết kiệm năng lượng.
50
51
TIÊU ĐIỂM
NHÀ Ở
nhiệt độ cao
52
hiệt độ cao và sự thay đổi nhiệt độ gây hại cho sức khỏe. Phản ứng của con người với nhiệt phụ thuộc vào khả năng tự làm mát của cơ thể. Một cơ chế làm mát quan trọng chính là mồ hôi và sự bay hơi từ da, do đó ảnh hưởng sức khỏe của nhiệt độ cao cũng phụ thuộc vào độ ẩm tương đối (hay chính xác hơn là nhiệt độ điểm sương của không khí), vì độ ẩm không khí cao có thể làm giảm và cuối cùng ngăn cản sự bay hơi thực. Nhiệt độ ngoài trời cao có liên quan đến sự khó chịu về nhiệt độ và các hệ quả gây hại cho sức khỏe, bao gồm tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân cũng như tim mạch và tỉ lệ nhập viện cấp cứu cao hơn, được chỉ ra trong một loạt các thiết kế nghiên cứu và trên các khu vực địa lý. Trẻ em, người già và những người bị tâm thần, tim mạch và các bệnh phổi có phản ứng sinh lý yếu hơn với nhiệt, và dễ bị tác động xấu của nhiệt độ cao đến sức khỏe.
53
TIÊU ĐIỂM
Sự quan tâm đến sức khỏe cộng đồng dưới sự ảnh hưởng của nắng nóng đã tăng lên trong thời gian gần đây, một phần là do biến đổi khí hậu, tần suất và thời gian gia tăng của các đợt nắng nóng trên khắp các châu lục. Ví dụ, đợt nắng nóng tháng 5 năm 2010 ở Ahmedabad, Ấn Độ, có liên quan đến tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân vượt quá đáng kể: đã xảy ra 4.462 ca tử vong do mọi nguyên nhân, nghĩa là ước tính tăng 43,1% so với cùng kì với 3.118 ca tử vong. Người ta ước tính thêm rằng hơn 70.000 người ở 16 quốc gia trên khắp Châu Âu đã chết vào tháng 8 năm 2003 do một đợt nắng nóng lớn. Trên khắp châu Phi, tần suất (phạm vi không gian) của các đợt nắng nóng cực đoan đã tăng lên 24,5 lần quan sát được mỗi năm (60,1% diện tích đất liền) từ năm 2006 đến 2015, so với 12,3 lần mỗi năm (37,3% diện tích đất liền) trong giai đoạn từ năm 1981 đến năm 2005. Những người sống ở vùng khí hậu ôn đới có nhiều khả năng bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ cao; ngưỡng nhiệt độ mà các trường hợp tử vong do nắng nóng bắt đầu tăng trong đợt nắng nóng thấp hơn ở các thành phố có khí hậu mát mẻ hơn. Việc tiếp xúc với các đợt nắng nóng đầu mùa có tác động lớn hơn đến tỷ lệ tử vong, vì công chúng chưa có cơ hội thích nghi với nhiệt độ cao hơn.
54
Tầm quan trọng của việc thích nghi (tức là thích ứng sinh lý với việc tiếp xúc với nhiệt độ quá cao) được nhấn mạnh trong hướng dẫn của WHO Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) đối với các hệ thống cảnh báo sóng nhiệt, nhưng việc thích nghi hoàn toàn với một môi trường nhiệt không quen thuộc có thể mất vài năm. Thích ứng lâu dài dẫn đến nhiệt độ cơ thể tăng thấp hơn và nhịp tim tăng thấp hơn ở một mức tải nhiệt nhất định. Ngoài ra, trong khi mọi người có thể thích nghi với nhiệt độ bình thường, họ có thể không thích nghi với nhiệt độ thay đổi. Nhiệt độ không ổn định gây hại cho hệ thống tim mạch và hệ miễn dịch, và có liên quan đến việc gia tăng tỷ lệ tử vong.
Các nghiên cứu đã chỉ ra mối liên quan giữa nhiệt độ cao trong nhà và những ảnh hưởng xấu đến sức khỏe. Bên ngoài những khu vực thường sử dụng điều hòa nhiệt độ, nhiệt độ cao trong nhà có liên quan đến nhiệt độ ngoài trời. Trong một nghiên cứu chéo với trường hợp được thực hiện ở ba thành phố Mỹ Latinh, nhiệt độ cùng ngày và ngày hôm trước có liên quan chặt chẽ đến nguy cơ tử vong, với tính nhạy cảm tăng theo tuổi. Do đó, các nghiên cứu về tỷ lệ mắc bệnh và tử vong trong khoảng thời gian nhiệt độ ngoài trời cao cũng có thể được sử dụng để cung cấp bằng chứng gián tiếp về tác hại lên sức khỏe của nhiệt độ cao trong nhà ở những vùng như vậy. Ví dụ, trong đợt nắng nóng năm 2003 ở Pháp, số người chết tại nhà cao hơn đáng kể so với những năm không có hiện tượng nắng nóng khắc nghiệt. Tại Nhật Bản, một nghiên cứu cho thấy say nắng thường xảy ra ở nhà vào mùa hè; người cao tuổi bị say nắng tại nhà với tần suất nhiều hơn so với những bệnh nhân ở các nhóm tuổi khác. Tóm lại, do mọi người dành phần lớn thời gian ở trong nhà và khi không có điều hòa nhiệt độ, họ sẽ phải đối mặt với nguy cơ tăng nhiệt độ cao trong nhà trong thời gian nhiệt độ ngoài trời cao, việc bảo vệ chống lại nhiệt độ ngoài trời là một đặc điểm chính của một ngôi nhà tốt cho sức khỏe.
55
TIÊU ĐIỂM Điều hòa không khí, vật liệu cách nhiệt, một số vật liệu xây dựng, độ dày của tường, che chắn khỏi ánh nắng trực tiếp, thông gió tự nhiên (đặc biệt là vào ban đêm) và tăng cường chuyển động của không khí (quạt) để làm mát nhiệt độ trong nhà có thể giúp bảo vệ con người chống lại nhiệt và các bệnh liên quan đến nhiệt. Tuy nhiên, một số lượng lớn người dân ở các nước đang phát triển cũng như các nhóm thu nhập thấp ở các nước phát triển không được tiếp cận với các điều kiện nhà ở như vậy. Do đó, các nhóm xã hội có điều kiện kinh tế thấp có nguy cơ tử vong do nắng nóng cao hơn. Ví dụ, nghiên cứu được thực hiện ở São Paulo, Brazil cho thấy những người có trình độ học vấn thấp hơn dễ bị tử vong do nắng nóng hơn.
Điều hòa không khí cũng có thể củng cố sự bất bình đẳng về sức khỏe bằng cách làm trầm trọng thêm tiếng ồn và nhiệt đô thị, ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe của những người khác, đặc biệt là những người không đủ tiền mua máy điều hòa không khí. Điều hòa không khí góp phần vào sự thay đổi khí hậu, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, do tiêu thụ nhiều năng lượng và sử dụng khí nhà kính mạnh làm chất làm mát. Để thiết lập hướng dẫn rõ ràng về việc giảm thiểu nguy cơ sức khỏe liên quan đến nhiệt độ cao trong nhà, việc nghiên cứu các bằng chứng một cách có hệ thống đã được thực hiện.
56
Nhiệt độ ngoài trời và bệnh tật
Để trợ giúp cho các cuộc thảo luận trong GDG, các phân tích cũng được thực hiện về ảnh hưởng của nhiệt độ ngoài trời, trong đó các nghiên cứu về mối liên hệ giữa nhiệt độ cao và tỷ lệ mắc bệnh cho thấy mối quan hệ nhiệt độ - ảnh hưởng là phi tuyến tính. Ví dụ, mối liên hệ giữa nhiệt độ trung bình hàng ngày và các ước tính nguy cơ tương đối cho việc nhập viện vì bệnh thận là hình chữ U (nhập viện xảy ra ở cả phạm vi nhiệt độ thấp hơn và cao hơn) hoặc hình chữ J (nhập viện xảy ra ở phạm vi nhiệt độ cao hơn). Nhiệt độ khoảng 25°C có nguy cơ nhập viện thấp nhất đối với bệnh thận và nhiệt độ cao làm tăng nguy cơ nhập viện hơn nhiệt độ thấp. Mặc dù sóng nhiệt có liên quan đáng kể đến tăng nguy cơ nhập viện do vấn đề tim mạch, nhưng phân tích tổng hợp gần đây cho thấy không có mối tương quan rõ ràng nào giữa việc tăng nhiệt độ môi trường và tỷ lệ mắc bệnh tim mạch. Tính chắc chắn của bằng chứng này liên kết giữa nhiệt độ ngoài trời cao với tỷ lệ mắc bệnh gia tăng được đánh giá là thấp đến trung bình và, mặc dù gián tiếp, nó được sử dụng cùng với bằng chứng về mối quan hệ giữa nhiệt độ ngoài trời và trong nhà để hỗ trợ cho khuyến nghị về nhiệt độ trong nhà.
57
TIÊU ĐIỂM
Nhiệt độ cao và tỷ lệ tử vong Nhiệt độ trong nhà cao và tỷ lệ tử vong
58
Không có nghiên cứu đủ điều kiện nào đánh giá ảnh hưởng của nhiệt độ trong nhà cao đối với tỷ lệ tử vong.
Nhiệt độ ngoài trời cao và tỷ lệ tử vong Các đánh giá và phân tích tổng hợp cung cấp bằng chứng mạnh mẽ về mối liên quan giữa nhiệt độ ngoài trời cao và tỷ lệ tử vong. Có một mối quan hệ nhiệt độ-ảnh hưởng tỉ lệ tử vong phi tuyến tính, với các đường cong hình chữ U hoặc J cho mối quan hệ nhiệt độ-tử vong cho các loại tử vong do mọi nguyên nhân; Đường cong hình chữ J cho tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch; Các đường cong hình chữ J cho tỷ lệ tử vong không do ngẫu nhiên, tim-hô hấp và tim mạch là tác động tích lũy của phạm vi nhiệt độ ban ngày; và hình chữ U cho tỷ lệ tử vong do hô hấp, với sự tăng đơn âm mạnh ở khoảng nhiệt độ ban ngày xấp xỉ 16°C.
phần trăm thứ 80–90 ở các vùng ôn đới, tương đương với 19°C ở Stockholm, Thụy Điển và 30°C ở Bangkok, Thái Lan. Mức độ chắc chắn của các bằng chứng liên quan đến nhiệt độ ngoài trời cao với tỷ lệ tử vong được đánh giá là cao, và mặc dù gián tiếp, nó được sử dụng cùng với bằng chứng về mối quan hệ giữa nhiệt độ ngoài trời và trong nhà để hỗ trợ cho khuyến nghị về nhiệt độ trong nhà.
Đường cong phản ứng phơi nhiễm giúp xác định nhiệt độ rủi ro tối thiểu mà trên đó tỷ lệ tử vong tăng lên khi nhiệt độ tăng. Nhiệt độ rủi ro tối thiểu kéo dài đến 31°C đối với các thành phố khác nhau ở các nước thu nhập thấp và trung bình. Nhiệt độ trung bình là 29,4°C ở các thành phố Địa Trung Hải, và 23,3°C ở các thành phố phía bắc lục địa. Nhiệt độ ngoài trời tối ưu cho sức khỏe thay đổi đáng kể giữa các quần thể, tùy thuộc vào khí hậu và đặc điểm kinh tế xã hội. Nguy cơ tử vong do nhiệt độ cao và thấp thay đổi từ khoảng phần trăm thứ 60 của phạm vi nhiệt độ theo vị trí cụ thể ở các khu vực nhiệt đới đến
59
TIÊU ĐIỂM
32 nghiên cứu đã được xác định chỉ ra mối quan hệ giữa nhiệt độ trong nhà và ngoài trời. Những điều này cho thấy mối tương quan thuận chiều trong phạm vi nhiệt độ cao hơn (>20°C). Độ dốc của đường hồi quy tuyến tính giữa nhiệt độ ngoài trời và trong nhà trong phạm vi nhiệt độ ấm/nóng (>20°C) thay đổi tùy thuộc vào một số yếu tố bao gồm điều hòa không khí, thông gió, cách nhiệt, hướng tòa nhà, tình trạng kinh tế xã hội và hành vi của người cư trú.
Mối quan hệ giữa nhiệt độ ngoài trời và trong nhà
60
Hầu hết các nghiên cứu được thực hiện ở các vùng khí hậu ôn hòa. Các nghiên cứu chỉ ra rằng độ dốc của đường cong tương quan giữa nhiệt độ trong nhà và ngoài trời ở vùng khí hậu này thường không dốc, có thể do ảnh hưởng của điều hòa không khí trong một số ngôi nhà và thói quen đóng cửa sổ thay vì mở chúng để thông gió. Các thành phố cụ thể có các đường cong tương quan duy nhất. Một số nghiên cứu có thể dự đoán nhiệt độ trong nhà tốt hơn so với nhiệt độ ngoài trời bằng cách kết hợp các yếu tố môi trường khác vào một hồi quy đa biến. Những yếu tố này bao gồm các đảo nhiệt đô thị ảnh hưởng đến môi trường ngay lập tức, bức xạ mặt trời hoặc đặc điểm nhà ở. Mối quan hệ giữa nhiệt độ trong nhà và ngoài trời phụ thuộc vào tình trạng kinh tế xã hội của những người tham gia với nhiệt độ trong nhà của nơi ở của người dân có thu nhập thấp liên quan chặt chẽ hơn với nhiệt độ ngoài trời vì họ không bị ảnh hưởng bởi việc sử dụng máy điều hòa không khí. Nhiệt độ trong nhà và ngoài trời cũng tương quan chặt chẽ hơn khi những người cư ngụ mở cửa sổ để thông gió.
Ngày càng ít nghiên cứu được thực hiện ở các vùng cận nhiệt đới, nhưng những nghiên cứu này cũng cho thấy mối quan hệ giữa nhiệt độ trong nhà và ngoài trời. Ở các nước thu nhập thấp, nơi hiếm khi có điều hòa nhiệt độ, nhiệt độ trong nhà liên quan trực tiếp đến nhiệt độ ngoài trời. Mối quan hệ trở nên yếu hơn khi xa đường xích đạo. Không có mối quan hệ nào giữa nhiệt độ trong nhà và ngoài trời ở các quốc gia nơi máy điều hòa không khí được phổ biến rộng rãi ở khắp mọi nơi, chẳng hạn như Oman. Một nghiên cứu cho thấy nhiệt độ trong nhà có thể cao hơn nhiệt độ ngoài trời do các hoạt động nấu nướng và hệ thống thông gió không đủ. Sự chắc chắn của bằng chứng cho thấy nhiệt độ trong nhà và ngoài trời có mối tương quan được đánh giá là trung bình đến cao và bằng chứng gián tiếp này được sử dụng cùng với bằng chứng về mối quan hệ giữa nhiệt độ cao ngoài trời và các kết quả có hại cho sức khỏe để hỗ trợ cho khuyến nghị liên quan đến nhiệt độ trong nhà.
61
TIÊU ĐIỂM
Khuyến nghị cải thiện nhà ở nhiệt độ cao Cách nhiệt, vị trí nhà ở, vật liệu xây dựng và hướng nhà, mái che cửa sổ, không gian xanh và hệ thống thông gió (bao gồm cả việc sử dụng không khí mát hơn vào ban đêm) và điều hòa không khí có thể giúp giảm nhiệt độ cao trong nhà. Cải thiện hệ thống thông gió và điều hòa không khí đã giúp giảm nguy cơ tử vong do nắng nóng tương đối ở Hoa Kỳ, Nhật Bản và Tây Ban Nha trong hai thập kỷ qua.
62
Tuy nhiên, điều hòa không khí không phải lúc nào cũng khả thi vì chi phí thực hiện và vận hành. Việc tăng cường sự phụ thuộc vào điều hòa không khí cơ học có một nhược điểm là làm tăng chi phí, tiêu thụ năng lượng và phát thải carbon. Hơn nữa, việc bảo trì điều hòa không khí không tốt có thể gây ra các vấn đề về sức khỏe, do nấm mốc, thiếu hệ thống thoát nước ngưng tụ và lưu thông các chất ô nhiễm trong không khí. Do đó, các biện pháp giảm thiểu thụ động hoặc hệ thống thông gió cơ học chạy miễn phí hoặc chi phí thấp, chẳng hạn như hệ thống chạy bằng công nghệ năng lượng mặt trời, thường được ưu tiên hơn. Hướng dẫn của Tổ chức Y tế Thế giới về các biện pháp thông gió tự nhiên trong các cơ sở chăm sóc sức khỏe cũng có thể liên quan đến nhà ở.
Các quốc gia thành viên có thể hỗ trợ các biện pháp làm mát nhà ở thông qua các quy định về yêu cầu tối thiểu đối với các biện pháp thông gió, cách nhiệt và điều hòa không khí thông qua trợ cấp để hỗ trợ các biện pháp đó, và thông qua các quy tắc xây dựng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tối đa hóa tiện nghi nhiệt; và thông qua các quy tắc quy hoạch thừa nhận tầm quan trọng của thiết kế đô thị, chẳng hạn như rừng đô thị, che nắng, quản lý gió và mái xanh, trong việc giữ cho các thành phố mát mẻ.
Các cơ quan y tế công cộng nên phát triển và kích hoạt các hệ thống cảnh báo sóng nhiệt, như quy định trong hướng dẫn của WHO - WMO, và nên chuẩn bị cho các hiện tượng nắng nóng khắc nghiệt. Ngoài ra, các chiến dịch nâng cao nhận thức cộng đồng có thể tăng cường hiểu biết về tác hại của việc tiếp xúc với nhiệt. Điều này bao gồm việc khuyến khích mọi người tham gia vào các hoạt động làm mát tại nhà, chẳng hạn như tắm vòi hoa sen và uống đủ nước, để chống lại những tác động tiêu cực đến sức khỏe của nhiệt độ trong nhà.
63