TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
50 NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN (1966 - 2016)
Hà Nội, tháng 11 năm 2016
T
Lời mở đầu
rường Đại học Xây dựng được thành lập năm 1966 theo Quyết định số 144/CP ngày 8 tháng 8 năm 1966 của Hội đồng Chính phủ, trên cơ sở Khoa Xây dựng, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.
Ra đời trong hoàn cảnh chiến tranh, trường phải rời Thủ đô Hà Nội đi sơ tán nhiều nơi trên các tỉnh Hà Bắc, Vĩnh Phú... Cán bộ và sinh viên của trường đã dũng cảm đương đầu với mọi khó khăn, gian khổ, chiến thắng thiên tai, địch họa, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học... góp phần cùng quân dân cả nước bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trải qua 50 năm, Trường Đại học Xây dựng đã phát triển và lớn mạnh không ngừng và trở thành một trường đại học đa ngành, đào tạo từ đại học đến tiến sĩ, một trung tâm nghiên cứu và triển khai ứng dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ hàng đầu trong lĩnh vực xây dựng. Biết bao thế hệ thầy trò nối tiếp nhau góp công sức xây dựng trường, làm cho trường ngày càng có vị thế cao trong xã hội. Với những thành tích đạt được, Trường Đại học Xây dựng đã vinh dự được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Hồ Chí Minh; Huân chương Độc lập; Huân chương Lao động; Huân chương Chiến công... Nhân kỷ niệm 50 năm thành lập trường, 60 năm đào tạo, ngày 8/8/2016, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam đã ký quyết định số 1629/QĐ-CTN, tặng thưởng Huân Chương Độc lập hạng Nhất lần thứ hai cho Trường ĐHXD đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong công tác, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Nhà trường rất tự hào và biết ơn các thế hệ đi trước đã viết nên những trang sử vẻ vang, làm nên những thành tích lớn lao được Đảng, Nhà nước và nhân dân ghi nhận. Để phát huy truyền thống vẻ vang của nhà trường, trong dịp kỷ niệm 35 năm thành lập trường (năm 2001) Nhà trường đã biên soạn cuốn sách về quá trình hình thành và phát triển của Trường Đại học Xây dựng. Năm 2006 cuốn sách đã được bổ sung tái bản lần thứ nhất. Năm 2011, cuốn sách đã được bổ sung tái bản lần thứ hai. Năm 2016, nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập và 60 năm đào tạo, cuốn sách tiếp tục được chỉnh sửa, bổ sung tái bản lần thứ 3 mang tên “Trường Đại học Xây dựng 50 năm hình thành và phát triển”. Quá trình phát triển của trường được chia thành 3 thời kỳ: v 1956 - 1966: Thời kỳ Khoa Xây dựng thuộc Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, tiền thân của Trường Đại học Xây dựng; v 1966 - 1983: Thời kỳ thành lập trường và sơ tán ở các địa điểm xa Hà Nội; v 1983 - 2016: Thời kỳ ổn định và phát triển. Cuốn sách này như một món quà mang nhiều ý nghĩa nhân dịp kỷ niệm thành lập trường, là công sức của tập thể các đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính quyền và Đoàn thể trong trường qua các thời kỳ, của nhiều thầy cô giáo, cán bộ nhà trường đã nghỉ hưu và đang công tác ở trong và ngoài trường. Tuy làm việc rất thận trọng, nhưng do hoàn cảnh đặc biệt của trường bị thiên tai, địch họa, phải sơ tán nhiều nơi, người còn, người mất, các tài liệu lưu giữ không còn đầy đủ, do đó thiếu sót là điều khó tránh khỏi. Mong nhận được sự góp ý để tiến tới biên soạn cuốn Lịch sử Trường Đại học Xây dựng đầy đủ hơn trong thời gian tới.
TM. ĐẢNG ỦY VÀ BAN GIÁM HIỆU BÍ THƯ ĐẢNG ỦY - HIỆU TRƯỞNG
PGS.TS Phạm Duy Hòa
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
60 NĂM ĐÀO TẠO - 50 NĂM THÀNH LẬP (1956-1966 - 2016)
THÀNH TÍCH ĐƯỢC GHI NHẬN 60 năm đào tạo, 50 năm thành lập và phát triển, mỗi bước đi của Trường Đại học Xây dựng đều gắn liền với sự phát triển của ngành, của Thủ đô Hà Nội và của đất nước. Qua chặng đường nửa thế kỷ đầy gian khó, Trường Đại học Xây dựng đã tự khẳng định mình, đứng vững trong mọi hoàn cảnh khó khăn và không ngừng phấn đấu vươn lên xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và của nhân dân. Sự nỗ lực của các thế hệ cán bộ và sinh viên Trường Đại học Xây dựng đã được Đảng, Nhà nước ghi nhận, biểu dương và khen tặng nhiều phần thưởng cao quý. Khen thưởng cho Nhà trường: Huân chương Huân chương Hồ Chí Minh
4
Năm phong tặng 2006
Huân chương Độc lập hạng Nhất
2001 (lần thứ nhất)
Huân chương Độc lập hạng Nhất
2016 (lần thứ hai)
Huân chương Độc lập hạng Nhì
1996
Huân chương Độc lập hạng Ba
1991
Huân chương Lao động hạng Nhất
1986
Huân chương Lao động hạng Nhì
1983
Huân chương Lao động hạng Ba
1978
Huân chương Chiến công hạng Ba
1973
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
Năm 2016
Năm 2006
Năm 2001
Năm 1996
Năm 1991
Năm 1986
Năm 1983
Năm 1978
Năm 1973
v Đảng bộ trường được Thành ủy Hà Nội 4 lần tặng cờ “Đảng bộ vững mạnh” tiêu biểu. v Công Đoàn trường được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhì, hạng Ba. v Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trường được Trung ương Đoàn và Thành Đoàn Hà Nội tặng
nhiều bằng khen “Đoàn trường xuất sắc”.
Khen thưởng cho các tập thể và cá nhân: v v v v v v v
Bộ môn Đường ô tô và Đường thành phố được phong tặng “Đơn vị Anh hùng”. 57 Huân chương Lao động hạng Nhất, Nhì, Ba cho các tập thể và cá nhân. 500 Huân chương Kháng chiến cho cá nhân. 2 Huân chương Chiến công hạng Ba cho tập thể. 664 Huy chương, Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp giáo dục” cho cá nhân. 9 Nhà giáo được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân. 75 Nhà giáo được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Ưu tú. 5
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG QUA CÁC THỜI KỲ
Từ 1966 đến 1977 NGND. NGUYỄN SANH DẠN
Từ 1977 đến 1982 GS.TS ĐỖ QUỐC SAM
Từ 1982 đến 1990 GS.TSKH. NGND PHẠM NGỌC ĐĂNG
Từ 1990 đến 1994 GS.TSKH. NGND NGUYỄN VĂN CHỌN
Từ 1994 đến 1999 GS.TSKH. NGƯT NGUYỄN NHƯ KHẢI
Từ 1999 đến 2004 PGS.TS. NGƯT NGUYỄN LÊ NINH
Từ 2004 đến 2009 PGS.TS. NGƯT NGUYỄN VĂN HÙNG
Từ 2009 đến 2014 TS LÊ VĂN THÀNH
Từ 2014 đến nay PGS.TS. NGƯT PHẠM DUY HÒA
6
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
BÍ THƯ ĐẢNG ỦY TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG QUA CÁC THỜI KỲ
Từ 1966 đến 1969 Đồng chí TRẦN ĐỨC TRÂN
Từ 1969 đến 1976 Đồng chí HÀ TRÌNH
Từ 1976 đến 1979 Đồng chí NGUYỄN XUÂN ĐẶNG
Từ 1979 đến 1984 Đồng chí NGUYỄN XUÂN TRỌNG
Từ 1984 đến 1999 Đồng chí NGUYỄN TẤN QUÝ
Từ 1999 đến 2010 Đồng chí ỨNG QUỐC DŨNG
Từ 2010 đến 2014 Đồng chí LÊ VĂN THÀNH
Từ 2014 đến nay Đồng chí PHẠM DUY HÒA 7
KHOA XÂY DỰNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI TIỀN THÂN CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG (1956 - 1966)
9
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
I. NHỮNG NGÀY ĐẦU THÀNH LẬP KHOA Tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về tái lập hòa bình ở Đông Dương được ký kết, đất nước ta bước vào một trang sử mới, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và bắt đầu thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (CNXH). Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi phải phát triển nhanh chóng giáo dục và đào tạo, trong đó có đào tạo trình độ đại học. Ngày 6 tháng 3 năm 1956, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội (ĐHBK) - Trường đại học kỹ thuật đầu tiên của nước ta được thành lập gồm 10 khoa, trong đó có Khoa Xây dựng.
nơi khác về bao gồm cả cán bộ được đào tạo ở trong nước và ở nước ngoài; mời giáo sư của các trường đại học ở Liên Xô giúp đỡ trường và các bộ môn trong việc xây dựng mục tiêu, chương trình đào tạo, viết giáo trình, bồi dưỡng phương pháp giảng dạy, xây dựng các phòng thí nghiệm và quy trình thực tập, làm đồ án môn học, đồ án tốt nghiệp... Với những chủ trương lớn về chuyên môn cùng với sự nỗ lực xây dựng các tổ chức Đảng và các đoàn thể chính trị, nhà trường đã từng bước ổn định các mặt hoạt động, bảo đảm nhiệm vụ đào tạo kỹ sư theo đường lối của Đảng và yêu cầu xây dựng đất nước. Những khó khăn của Trường ĐHBK cũng là những khó khăn của Khoa Xây dựng lúc đó. Khi mới thành lập, Khoa Xây dựng chỉ có 8 cán bộ chủ chốt là các thầy giáo: Lê Tâm, Nguyễn Sanh Dạn, Nguyễn Văn Hường, Vũ Văn Tảo, Lê Đỗ Chương, Lê Thạc Cán, Nguyễn Văn Cung và đồng chí Nguyễn Đơn Giản.
I Thầy giáo Lê Tâm Trường ĐHBK lúc đó còn có nhiều khó khăn: Cơ sở vật chất thiếu thốn, chỉ có khu nhà Đông Dương học xá và một số nhà cấp 4; trang thiết bị thí nghiệm, điều kiện thực tập môn học chưa có; giáo trình, tài liệu, thư viện nghèo nàn, cán bộ giảng dạy (CBGD) ít và chưa có kinh nghiệm. Trong hoàn cảnh như vậy, chủ trương của Đảng ủy và Ban Giám hiệu (BGH) Trường ĐHBK là nhanh chóng xây dựng cơ sở vật chất và phát triển đội ngũ CBGD. Nhà trường tìm nguồn cán bộ có trình độ từ các 10
Chủ nhiệm khoa đầu tiên là thầy giáo Lê Tâm, Kỹ sư Cầu đường từ Pháp về nước năm 1946; Phó Chủ nhiệm khoa là thầy giáo Nguyễn Sanh Dạn, Kỹ sư Công chính từ Bộ Quốc phòng về. Địa điểm làm việc của khoa là một phần nhà D trong khu Đông Dương học xá. Tuy ban đầu có nhiều khó khăn, nhưng chỉ sau 6 tháng kể từ ngày thành lập, đến tháng 9/1956, Khóa 1 Khoa Xây dựng với 200 trong tổng số 1095 sinh viên toàn trường đã nhập học. Ban đầu Khoa Xây dựng đào tạo 3 ngành: Cầu Đường, Xây dựng Dân dụng và Công nghiệp, Thủy lợi - Cảng. Riêng ngành Kiến trúc ngay từ Khóa 1 đã có chủ trương tuyển sinh, nhưng do khó khăn về đội ngũ CBGD và cơ sở vật chất nên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
sau năm học thứ nhất số sinh viên này đã nhập vào ngành Xây dựng Dân dụng và Công nghiệp.
II. NHANH CHÓNG ỔN ĐỊNH KHOA VÀ TỪNG BƯỚC TRIỂN KHAI CÁC HOẠT ĐỘNG 1. Nhiệm vụ, mục tiêu và chương trình đào tạo Trong bối cảnh chung của đất nước, điều kiện của trường và khoa, nhiệm vụ và mục tiêu đào tạo của Khoa Xây dựng lúc đầu được xác định là đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật bậc đại học có phẩm chất chính trị và chuyên môn giỏi cho lĩnh vực xây dựng cơ bản. Từ những năm 60, với đội ngũ CBGD đã được tăng cường và trưởng thành, ngoài công tác đào tạo, công tác nghiên cứu khoa học phục vụ sản xuất và chiến đấu cũng được xem là nhiệm vụ quan trọng của khoa. Chương trình đào tạo lúc đầu dựa chủ yếu vào chương trình đào tạo đại học của Liên Xô và sự giúp đỡ của các chuyên gia như Giáo sư Triphonop, Matxlop, các Phó Giáo sư Denhinxop, Luxop, Metnhicop của trường Đại học Xây dựng Matxcova và Trường Đại học Đường bộ Matxcova, ngoài ra, khoa còn tham khảo các chương trình đào tạo kỹ sư của Trung Quốc và Pháp, nhờ đó đến năm 1962 chương trình đào tạo các ngành đã tương đối hoàn chỉnh. 2. Xây dựng đội ngũ cán bộ giảng dạy Trường và khoa đều xác định việc phát triển nhanh đội ngũ CBGD cả về số lượng lẫn chất lượng là nhiệm vụ quan trọng, có tính chất quyết định trước mắt và lâu dài cho công tác đào tạo cũng như NCKH. Theo chủ trương đó, khoa đã tuyển chọn CBGD dựa vào các nguồn sau: Sinh viên tốt nghiệp
các trường đại học trong nước, chủ yếu là Đại học Sư phạm Hà Nội; sinh viên Khóa 1, 2, 3 của trường tốt nghiệp loại giỏi; sinh viên tốt nghiệp các ngành Xây dựng công trình từ Liên Xô và Trung Quốc về; sinh viên giỏi học hết năm thứ 2 (Khóa 4) được một số bộ môn tuyển chọn bồi dưỡng chuyên sâu để giảng dạy các môn khoa học cơ bản. Ngoài ra, khoa còn mời cán bộ ở các cơ quan ngoài trường về tham gia giảng dạy như các Kiến trúc sư Hoàng Như Tiếp, Nguyễn Cao Luyện, Ngô Huy Quỳnh, Hoàng Linh, Kỹ sư Phạm Đình Biều, Bùi Văn Các, Nguyễn Như Quỹ; Họa sĩ Nguyễn Thị Kim,... Để nâng cao chất lượng đội ngũ CBGD, khoa đề ra mục tiêu phải sớm có CBGD trình độ phó tiến sỹ chủ trì các môn khoa học cơ sở và các môn khoa học chuyên ngành. Thực hiện chủ trương này, khoa đã gửi nhiều CBGD đi nước ngoài làm nghiên cứu sinh. Trong số 25 sinh viên Khóa 1 chuyển tiếp đi học tại Liên Xô, sau khi tốt nghiệp trường đã đề nghị nước bạn cho một số được ở lại tiếp tục làm nghiên cứu sinh. 3. Xây dựng bộ môn Để hoàn thành nhiệm vụ đào tạo và NCKH, việc xây dựng và phát triển bộ môn là vấn đề then chốt, do vậy khoa rất coi trọng công tác này. Từ hai bộ môn được thành lập ban đầu là Bộ môn Hình học họa hình do thầy giáo Nguyễn Sanh Dạn chủ trì và Bộ môn Đo đạc công trình do thầy giáo Tôn Thất Phùng chủ trì, đến năm 1957 thành lập thêm 3 bộ môn là Bộ môn Vật liệu xây dựng do thầy giáo Lê Đỗ Chương chủ trì; Bộ môn Sức bền vật liệu do thầy giáo Bùi Trọng Lựu chủ trì và Bộ môn Thủy lực - Thủy văn do thầy giáo Vũ Văn Tảo chủ trì. Năm 1958, thành lập thêm 3 bộ môn mới: Bộ môn Công trình gồm các tổ Cầu, 11
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Đường, Thép, Bê tông do thầy giáo Đỗ Quốc Sam chủ trì; Bộ môn Kiến trúc do thầy giáo Nguyễn Sanh Dạn chủ trì và Bộ môn Cơ học kết cấu do thầy giáo Nguyễn Văn Hường chủ trì. Năm 1959, do yêu cầu của sự nghiệp đào tạo và sự lớn mạnh của đội ngũ cán bộ, các tổ của Bộ môn Công trình đã tách ra thành 4 bộ môn độc lập: Bộ môn Thép Gỗ, Bộ môn Đường ô tô, Bộ môn Cầu - Hầm và Bộ môn Bê tông do thầy giáo Đỗ Quốc Sam, Đặng Hữu, Lê Văn Thưởng và Phạm Sỹ Liêm chủ trì. Cũng trong năm 1959, trường quyết định thành lập thêm Bộ môn Thủy lợi
do thầy giáo Nguyễn Văn Cung chủ trì. Từ năm 1960 đến giữa năm 1966, thành lập thêm 2 bộ môn là Bộ môn Thi công xây dựng do thầy giáo Lê Văn Kiểm chủ trì và Bộ môn Cảng - Đường thủy do thầy giáo Dương Quang Thành chủ trì. Năm 1962, tách Bộ môn Thủy lực - Thủy văn thành hai bộ môn là Bộ môn Thủy lực do thầy giáo Vũ Văn Tảo chủ trì và Bộ môn Thủy văn do thầy giáo Lê Thạc Cán chủ trì. Do mới thành lập, CBGD còn thiếu nên các bộ môn thường phải đảm nhận nhiều nhóm môn học khác nhau, mỗi CBGD phải dạy nhiều môn học.
I Nhà “D” Đông Dương học xá - Nơi làm việc của Khoa Xây dựng ĐHBK Hà Nội (1956)
12
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
I Sinh viên Khóa 1 Khoa Xây dựng (1956 - 1959)
Sinh viên Khóa 1 lớp Kiến trúc chụp ảnh với thầy Nguyễn Sanh Dạn (hàng đầu thứ 2 bên trái) và thầy Đỗ Quốc Sam (hàng thứ 2 bên trái) 13
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
I Sinh viên Khóa 1 khoa Xây dựng lao động xây dựng Sân vận động ĐHBK Hà Nội (1957)
I Chuyên gia Liên xô và các thầy giáo Khoa Xây dựng trên công trường xây dựng Trường ĐHBK (1962)
14
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
I Lễ Phát động thi đua Khoa Xây dựng (1956 - 1959)
I Lớp sinh viên Cầu đường Khóa 1 - Khoa Xây dựng (1956 - 1959) 15
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
I Lớp sinh viên Thủy lợi 61 Khoa Xây dựng (1961)
Tổ 25 - Ngành Xây dựng Dân dụng & Công nghiệp - Khóa 1 chụp ảnh chung với các thầy Nguyễn Sanh Dạn, Đỗ Quốc Sam và Lê Tiến Bình trước cổng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội năm 1959 16
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
4. Biên soạn, biên dịch giáo trình và các tài liệu Biên soạn, biên dịch các tài liệu, giáo trình khoa học cơ bản, kỹ thuật cơ sở và chuyên ngành là công việc rất khó khăn vì đội ngũ và trình độ CBGD còn rất hạn chế. Để kịp thời phục vụ công tác đào tạo, CBGD trong khoa đã dựa chủ yếu vào các giáo trình đại học của Liên Xô, dịch và biên soạn lại cho phù hợp với yêu cầu của Việt Nam. Ngoài ra, khoa còn sử dụng các giáo trình và tài liệu của Trung Quốc và Pháp. Để làm được điều đó, trước hết phải xây dựng một hệ thống thuật ngữ khoa học kỹ thuật xây dựng mà từ trước đến nay chưa có trong tiếng Việt. Việc xây dựng hệ thống thuật ngữ này, đòi hỏi sự hiểu biết sâu rộng về từ ngữ Việt, Hán, Pháp, Nga. Vì vậy lãnh đạo trường, khoa và các CBGD đã vượt qua nhiều khó khăn để sớm hoàn thành hệ thống các thuật ngữ tiếng Việt. Những tập sách về hệ thống thuật ngữ lần lượt được xuất bản, nội dung bảo đảm tính chính xác, khoa học, hiện đại và dân tộc. Hệ thống thuật ngữ đã bao quát được các môn Hình học họa hình, Vẽ kỹ thuật, Vật liệu xây dựng, Sức bền vật liệu, Đo đạc công trình, Cơ học kết cấu, Cơ học đất, Thủy lực, Thủy văn, Nền móng, Kết cấu bê tông cốt thép, Kết cấu thép gỗ, Vật lý kiến trúc, Cầu hầm, Đường ôtô, Thủy công, Thủy điện, Cảng Đường thủy, Kiến trúc dân dụng, Kiến trúc công nghiệp, Qui hoạch đô thị, Thông gió, Cấp thoát nước. Cho tới nay, hầu như toàn bộ hệ thống thuật ngữ khoa học kỹ thuật xây dựng này vẫn tồn tại và thông dụng trong xã hội. Dựa trên thành quả đó, đến đầu năm 1963, khoa đã hoàn thành biên soạn 25 giáo trình môn học, trong đó có 14 giáo trình môn học kỹ thuật cơ sở, 11 giáo trình môn học kỹ thuật chuyên ngành và một số lượng khá lớn các tài liệu tham khảo.
Đóng góp nhiều nhất trong việc biên soạn các giáo trình này là các thầy giáo Lê Tâm, Nguyễn Sanh Dạn, Lê Đỗ Chương, Bùi Trọng Lựu, Bùi Tâm Trung, Nguyễn Văn Hường, Vũ Văn Tảo, Nguyễn Văn Cung, Đỗ Quốc Sam, Đặng Hữu, Lê Văn Thưởng, Nguyễn Xuân Đặng, Lê Thạc Cán, Dương Quang Thành, Phạm Sĩ Liêm, Lều Thọ Trình, Lê Tiến Bình, Lê Văn Kiểm, Đinh Xuân Bảng, Nguyễn Y Tô... 5. Xây dựng phòng thí nghiệm Để bảo đảm chất lượng đào tạo, ngay từ năm 1957, khoa đã chủ trương xây dựng các phòng thí nghiệm (PTN) môn học. Được nhà trường quan tâm và sự giúp đỡ tận tình của các chuyên gia Liên Xô, đến năm 1962, khoa đã xây dựng được một số PTN như PTN Vật liệu xây dựng do thầy giáo Lê Đỗ Chương chủ trì; PTN Thủy lực do thầy giáo Vũ Văn Tảo chủ trì; PTN Cơ học đất do thầy giáo Nguyễn Văn Quỳ chủ trì; PTN Sức bền vật liệu và Phòng Máy trắc địa do thầy giáo Bùi Trọng Lựu chủ trì. Năm 1963, nhờ có viện trợ của Liên Xô, cơ sở vật chất kỹ thuật của Trường ĐHBK đã khá khang trang và tương đối hoàn chỉnh. Khu giảng đường mới với hàng chục dãy nhà 3, 4 tầng, đáp ứng đủ điều kiện giảng dạy, học tập và NCKH. Khoa Xây dựng cũng được thêm 3 phòng thí nghiệm hiện đại do Liên Xô viện trợ là PTN Công trình, PTN Vật liệu xây dựng và PTN Thủy lực - Thủy công. Các PTN đã có trước đây như: Sức bền vật liệu, Vật liệu xây dựng, Cơ học đất... cũng được bổ sung thêm các thiết bị và tiếp tục hoạt động trong khu trường mới. Ngoài các phòng thí nghiệm trên, khoa còn thành lập Phòng Thiết kế và Xây dựng, Xưởng Mộc cho sinh viên thực tập. 6. Công tác tuyển sinh và đào tạo Từ 1956 - 1966, khoa đã tuyển 10 khóa sinh viên từ Khóa 1 đến Khóa 10. Khoa đã 17
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
đào tạo hoàn chỉnh 6 khóa với gần 1000 kỹ sư và tiếp tục đào tạo Khóa 7, 8, 9, 10 với hơn 900 sinh viên cho 8 ngành: Cầu - hầm, Đường ô tô, Thủy lợi, Cảng - Đường thủy, Xây dựng dân dụng và công nghiệp, Đô thị, Thông gió và Cấp thoát nước. Theo phương châm giáo dục đào tạo của Đảng và Nhà nước trong nhà trường xã hội chủ nghĩa phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của đất nước, quá trình tuyển sinh và đào tạo trong thời kỳ này của khoa được thực hiện theo sự chỉ đạo chung của trường là không quá cầu toàn, chủ động, linh hoạt và sáng tạo trong cả nội dung, hình thức và phương pháp thực hiện. Từ Khóa 1 đến Khóa 9, khoa tổ chức tuyển sinh ở Hà Nội; Khóa 10 tuyển sinh tại các địa phương. Thời gian đào tạo các khóa lúc đầu là 4 năm, từ Khóa 7 trở đi là 5 năm. Riêng Khóa 1, do sự đòi hỏi cấp thiết của công cuộc xây dựng đất nước nên thời gian học chỉ có 3 năm rưỡi. Năm học 1962 - 1963, do số lượng cán bộ và bộ đội vào học nhiều hơn, trình độ kiến thức không đồng đều nên khoa đã mở lớp “Xây dựng công nông 62”, chọn các CBGD có kinh nghiệm để bồi dưỡng thêm cho sinh viên các kiến thức cơ bản ở hai năm đầu, năm thứ 3 các sinh viên đó trở lại học cùng lớp cũ. Nhờ vậy sau khi tốt nghiệp, số kỹ sư thuộc khối này đều nắm vững kiến thức chuyên môn và phát huy tốt trong thực tiễn. Do yêu cầu của sản xuất và chiến đấu, có thời kỳ khoa đã mạnh dạn đưa sinh viên năm cuối đi thực tế theo hình thức vừa học vừa làm và làm đồ án tốt nghiệp tại các địa phương. Khi giặc Mỹ leo thang đánh phá ác liệt miền Bắc, khoa đã tổ chức huấn luyện quân sự về công binh và pháo binh cho sinh viên Khóa 7 ngành Cầu - Đường và Xây dựng dân dụng và công nghiệp. Hàng 18
ngày các lớp này vừa học vừa tập luyện, vừa tham gia trực chiến phòng không sẵn sàng bắn trả máy bay địch oanh tạc. Nhiều người trong số sinh viên này sau khi tốt nghiệp đã tình nguyện nhập ngũ, vào Nam chiến đấu. Tiêu biểu là Anh hùng Liệt sỹ Bùi Ngọc Dương, nguyên là sinh viên Khóa 7 Ngành Cầu - Đường đã chiến đấu kiên cường, dũng cảm và hy sinh đầu năm 1968 tại mặt trận Đường 9 - Khe Sanh. Bùi Ngọc Dương đã trở thành tấm gương sáng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho các thế hệ sinh viên và thanh niên noi theo. 7. Văn phòng khoa và công tác phục vụ Để giúp việc cho Ban Chủ nhiệm (BCN) khoa, Văn phòng khoa thường xuyên có hai cán bộ thường trực: Phụ trách trợ lý tổ chức khoa thời kỳ 1956 - 1961 là đồng chí Nguyễn Đơn Giản và từ năm 1962 đến năm 1966 là đồng chí Nguyễn Ngọc Tế. Thư ký Văn phòng khoa, thời kỳ đầu là đồng chí Nguyễn Thị Chanh; năm 1962 1963 là đồng chí Trịnh Phương Hân và từ năm 1964 đến năm 1966 là đồng chí Ngô Minh Phỏng. Trong thời kỳ này, công tác phục vụ ăn, ở, sinh hoạt cho cán bộ công nhân viên (CBCNV) do trường đảm nhận, phần ký túc xá và nhà bếp của sinh viên được phân cấp cho khoa quản lý. Từ đầu những năm 60, khi có ký túc xá và nhà ăn khang trang thì nền nếp ăn ở, sinh hoạt của sinh viên Khoa Xây dựng đã có những chuyển biến tích cực. Tổ phục vụ nhà ăn sinh viên của khoa đã được công nhận đăng ký trở thành tổ Lao động XHCN. Năm 1964, Mỹ bắt đầu đánh phá miền Bắc, đầu năm 1965 một bộ phận sinh viên của khoa phải sơ tán tạm thời về Yên Sở (ngoại thành Hà Nội). Cuối năm 1965
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
đầu năm 1966, chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ ngày càng lan rộng và ác liệt, khoa phải đưa sinh viên đi sơ tán ở Việt Yên - Hà Bắc (Khóa 6, 7) và Lạng Sơn (Khóa 8, 9, 10). Từ đây, khoa hoàn toàn đảm nhận tổ chức mọi việc ăn, ở, sinh hoạt, học tập, giảng dạy của cán bộ và sinh viên. 8. Công tác xây dựng Đảng Công tác xây dựng Đảng được coi là nhiệm vụ trọng tâm, có tính quyết định đến việc hoàn thành nhiệm vụ đào tạo và NCKH của khoa. Do vậy, năm 1956, ngay sau khi thành lập Khoa Xây dựng, Chi bộ CBGD của khoa đã được thành lập gồm 6 đảng viên do đồng chí Nguyễn Văn Hường làm Bí thư. Các chi bộ sinh viên được tổ chức theo từng khóa, mỗi khóa 1 chi bộ. Chi bộ sinh viên Khóa 1 gồm 5 đảng viên do đồng chí Lê Vạn làm Bí thư. Từ năm 1959, thực hiện Nghị quyết của Đảng ủy trường, Chi bộ sinh viên đã hợp nhất với Chi bộ CBGD của Khoa Xây dựng thành một chi bộ do đồng chí Nguyễn Xuân Trọng - Đảng ủy viên trường làm Bí thư. Đồng chí Bí thư chi bộ cùng với hai thầy giáo Lê Tâm và Nguyễn Sanh Dạn hợp thành Ban Lãnh đạo Khoa Xây dựng, có trách nhiệm lãnh đạo toàn diện mọi mặt hoạt động của khoa. Hình thức này duy trì cho đến tháng 2/1962 thì kết thúc, vì khoa đã có thêm đồng chí phó chủ nhiệm chuyên trách công tác chính trị tư tưởng và công tác sinh viên. Đầu năm 1960, chi bộ CBCNV đầu tiên của khoa được thành lập gồm 4 đảng viên, do đồng chí Nguyễn Ngọc Tế làm Bí thư. Đến tháng 9/1960, Đảng ủy trường quyết định thành lập Liên chi Đảng bộ Khoa Xây dựng gồm 5 chi bộ: 1 chi bộ CBGD và CBCNV và 4 chi bộ sinh viên. Đồng chí Nguyễn Xuân Trọng làm Bí thư Liên chi ủy đầu tiên của khoa. Liên chi ủy và Ban Chủ nhiệm khoa đã tập trung chỉ đạo hướng vào những nhiệm
vụ cơ bản sau: - Xây dựng khoa ngày càng phát triển vững mạnh; đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật về xây dựng cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển cả hiện tại và sau này khi đất nước thống nhất; từng bước đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, gắn nhà trường với phục vụ sản xuất, chiến đấu, góp phần khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế; hỗ trợ đào tạo nâng cao trình độ kỹ thuật xây dựng cho cán bộ các cơ quan trung ương và địa phương; thường xuyên giáo dục đạo đức, nếp sống con người mới XHCN; đối với CBGD và CBCNV, giáo dục tinh thần “Vì sinh viên thân yêu”; đối với sinh viên giáo dục ý thức học tập, rèn luyện tốt để trở thành người cán bộ có đức có tài, ý thức “Tôn sư trọng đạo”. - Phấn đấu sớm có đội ngũ CBGD đủ về số lượng và từng bước có cán bộ đầu đàn cho các ngành, các bộ môn; nhanh chóng xây dựng và hoàn chỉnh một số PTN chủ yếu, tích cực dịch và biên soạn các giáo trình, tài liệu cơ bản. - Xây dựng Liên chi Đảng bộ thành Liên chi Đảng bộ 4 tốt, chú trọng đẩy mạnh công tác phát triển Đảng trong khối CBGD, sinh viên và trong đội ngũ cán bộ chủ chốt; tạo mọi điều kiện cho Công đoàn, Đoàn Thanh niên và Hội Sinh viên hoạt động sôi nổi, lành mạnh, có hiệu quả; xây dựng các tổ, đội lao động XHCN và đẩy mạnh phong trào thi đua 2 tốt (dạy tốt và học tốt). Trước mắt cần tích cực tham gia cải tạo khu trường cũ và xây dựng khu trường mới. Thực hiện những nhiệm vụ trên, dưới sự chỉ đạo của Liên chi ủy và Ban Chủ nhiệm khoa, Khoa Xây dựng không những sớm đi vào ổn định mà còn phát triển nhanh, trở thành một trong những khoa tiên tiến xuất sắc của Trường ĐHBK. 19
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
9. Công tác đoàn thể Ngay sau khi tuyển sinh từng khoá, các chi Đoàn Thanh niên Lao động (TNLĐ) được tổ chức theo đơn vị lớp, khối CBGD có chi đoàn riêng. Từ 1956 đến 1959, các sinh viên Khoa Xây dựng đã giữ trách nhiệm Đoàn và Hội của Trường ĐHBK như Phạm Văn Trình, Đỗ Thị Hồng Phấn là Bí thư ĐTN trường, Nguyễn Công Mẫn là Chủ tịch Hội Sinh viên ĐHBK. Đến năm 1959 do số lượng đoàn viên và chi đoàn phát triển nhanh, Đoàn trường quyết định thành lập Liên chi đoàn Khoa Xây dựng và đồng chí Bạch Xuân Ba là Bí thư liên chi đoàn đầu tiên. Năm 1959, Công đoàn khoa và các tổ công đoàn bộ môn được thành lập. Thầy giáo Vũ Văn Úy là Thư ký đầu tiên của công đoàn khoa. Từ khi thành lập, công đoàn khoa đã đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức, động viên, khuyến khích CBCNV hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; giáo dục lý tưởng XHCN cho đoàn viên và góp phần thúc đẩy các phong trào thi đua yêu nước do trường và khoa phát động. Năm 1956, thành lập Hội Sinh viên, toàn khoa lúc đó là một chi hội, mỗi lớp là một phân hội. Tổ chức Hội Sinh viên trong trường ngày càng phát triển. Năm 1962, Khoa Xây dựng thành lập Chi hội sinh viên và đồng chí Lê Hồng Phúc là Chi hội Trưởng đầu tiên. Cùng với Liên chi Đoàn Thanh niên, Chi hội sinh viên đã góp phần quan trọng vào việc tập hợp sinh viên, đẩy mạnh các phong trào thi đua học tốt, trau dồi đạo đức cách mạng, tham gia công tác xã hội, văn nghệ, thể thao, vui chơi lành mạnh trong khoa và trường. Chi hội sinh viên Khoa Xây dựng là một chi hội mạnh, có nhiều hoạt động sáng tạo, phong phú, được Hội Sinh viên trường tặng nhiều giấy khen. 20
III. ĐẨY MẠNH PHONG TRÀO THI ĐUA YÊU NƯỚC, GẮN ĐÀO TẠO, NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VỚI THỰC TIỄN SẢN XUẤT VÀ CHIẾN ĐẤU 1. Phong trào thi đua xây dựng tổ Lao động Xã hội Chủ nghĩa trong cán bộ công nhân viên và phong trào học tốt trong sinh viên Hưởng ứng cuộc vận động thi đua yêu nước, xây dựng CNXH do Nhà nước phát động, phong trào thi đua yêu nước của khoa thực hiện cuộc vận động “Xây dựng nhà trường XHCN” mà nội dung chủ yếu là dạy tốt, học tốt, rèn luyện tốt, gắn nhiệm vụ đào tạo, NCKH trong nhà trường với đời sống xã hội và phong trào “Vì sinh viên thân yêu phục vụ” diễn ra rất sôi nổi trong toàn thể CBCNV và sinh viên. Trong khối CBGD, nổi bật là phong trào thi đua dạy tốt và đăng ký phấn đấu trở thành “Tổ Lao động Xã hội chủ nghĩa”. Năm 1960, tổ Công trình được đăng ký tổ Lao động XHCN và là một trong 2 tổ đầu tiên của Trường ĐHBK được Hội đồng Chính phủ công nhận tổ Lao động XHCN. Thầy giáo Nguyễn Văn Tuyên - Tổ trưởng tổ LĐXHCN - được bầu là Chiến sỹ thi đua. Thầy giáo Đặng Hữu và thầy giáo Nguyễn Xuân Đặng là 2 Chiến sỹ thi đua của Khoa Xây dựng được đi dự Đại hội thi đua cấp thành phố. Thầy giáo Nguyễn Xuân Đặng được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba trong đợt này. Từ năm 1961 đến năm 1965, các bộ môn khác lần lượt được đăng ký phấn đấu trở thành tổ LĐXHCN: Thủy lợi, Kiến trúc, Qui hoạch đô thị, Cơ học kết cấu, Cầu, Đường, Sức bền vật liệu, Bê tông - Thép gỗ. Trong số đó nhiều bộ môn được công nhận là tổ LĐXHCN cấp thành phố. Trong khối CBCNV có phong trào thi đua
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
“Vì sinh viên thân yêu phục vụ” điển hình là tổ “Bếp 61”. Quản lý nhà ăn của khoa gồm 21 cán bộ, đa số là nữ có con nhỏ, do đồng chí Nguyễn Công Thích phụ trách, hàng ngày phải phục vụ 1300 sinh viên. Tuy khối lượng công việc rất lớn nhưng tổ đã đoàn kết giúp nhau vượt qua mọi khó khăn, lao động cần mẫn, sáng tạo, nhiệt tình và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Tổ “Bếp 61” được Hội đồng Chính phủ công nhận là tổ LĐXHCN đầu tiên trong khối phục vụ và nhà ăn Khoa Xây dựng cũng được thành phố Hà Nội công nhận là nhà ăn “5 tốt”. Khi Đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc, cán bộ sinh viên trong khoa càng gắn bó với nhau nhiều hơn, phong trào thi đua ngày càng sôi động với những nội dung mới, khi thế mới: “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”, “Thanh niên 3 sẵn sàng”, “Phụ nữ 3 đảm đang”, “Tiếng hát át tiếng bom”... Cuối năm 1964, Hội đồng Thi đua thành phố Hà Nội đã tổ chức hội nghị Hiệu trưởng các trường đại học trong thành phố để phát động phong trào phấn đấu xây dựng các khoa LĐXHCN. Khoa Xây dựng được vinh dự báo cáo điển hình và sau đó Hội đồng Thi đua thành phố Hà Nội đã công nhận Khoa Xây dựng cùng với Khoa Toán Trường Đại học Sư phạm Hà Nội là 2 khoa đầu tiên của ngành Đại học đăng ký phấn đấu trở thành khoa LĐXHCN. Trường ĐHBK có vinh dự nhiều lần được đón Bác Hồ đến thăm. Ngày 2 tháng 3 năm 1963, Bác Hồ cùng vua Lào tới thăm trường đúng lúc Khoa Xây dựng đang tổ chức cho sinh viên Khóa 4 Ngành Xây dựng dân dụng và công nghiệp bảo vệ tốt nghiệp. Bác Hồ cùng các vị quan khách đã vào thăm phòng bảo vệ tốt nghiệp, lúc đó sinh viên Nguyễn Văn Chọn (sau này là Hiệu trưởng Trường Đại học Xây dựng) và sinh viên Chu Thị Kim Phượng cùng bảo vệ tốt nghiệp với đề tài
“Thiết kế Cung Văn hóa lao động Thủ đô Hà Nội” với phương án công trình 12 tầng. Trong cuộc trò chuyện thân mật, cởi mở, Bác đã nói nhiều đến vai trò của người làm nghề xây dựng. Bác nhắc nhở và động viên thầy trò trong khoa phải phấn đấu vượt qua khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình... Sự giản dị, gần gũi và những lời dạy bảo ân cần của Bác Hồ như tiếp thêm sức mạnh cho phong trào thi đua của khoa. Nhờ vậy, phong trào thi đua của khoa đã sôi động lại càng sôi động hơn: thầy thi đua, trò thi đua, tất cả mọi người đều thi đua - một khí thế hào hứng, phấn khởi dấy lên trong toàn khoa. Sự kiện đó đã trở thành một kỷ niệm sâu sắc, một nếp sống đẹp của khoa được duy trì và phát huy mãi về sau này. 2. Phong trào thi đua gắn nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học với sản xuất và chiến đấu “Giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với xã hội” là nội dung chủ yếu của phương châm giáo dục của Đảng ta. Thực hiện phương châm đó, Khoa Xây dựng không chỉ chú trọng nâng cao chất lượng bài giảng trên lớp mà còn kết hợp đưa sinh viên đi thực tập và thí nghiệm ở các xưởng sản xuất, các công trình xây dựng như: Tổ chức cho cán bộ sinh viên tham gia các hoạt động LĐSX trên Công trường Đại thủy nông Bắc - Hưng - Hải năm 1958; đo đạc vẽ bản đồ khu Giáp Bát (Hà Nội); tham gia xây dựng khu Gang thép Thái Nguyên từ năm 1959 - 1961; sửa chữa cầu sông Thương (Bắc Giang) năm 1960; quy hoạch thủy nông huyện Thanh Trì năm 1964. Trong quá trình xây dựng Trường ĐHBK do Liên Xô viện trợ, cán bộ Khoa Xây dựng tham gia ở những khâu chủ chốt: Thầy 21
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
giáo Nguyễn Sanh Dạn, Trưởng Ban Kiến thiết, thầy giáo Trần Trung Ý Phó Ban Kiến thiết, thầy giáo Lê Đỗ Chương chỉ huy phó công trường, các thầy giáo Lê Kiều và Ngô Văn Quỳ phụ trách thi công. Nhà C9 ĐHBK là hạng mục công trình bổ sung vào quy hoạch xây dựng trường do thầy giáo Nguyễn Đức Thiềm và thầy giáo Đoàn Định Kiến thiết kế. Tất cả các nhà ký túc xá sinh viên ĐHBK (A1, A2, A3, B1 đến B9) đều do các thầy giáo Trương Thao, Nguyễn Đức Thiềm, Đoàn Định Kiến thiết kế. Cùng làm việc với các chuyên gia Liên Xô, cán bộ Khoa Xây dựng đã đóng góp nhiều giải pháp kỹ thuật có hiệu quả trên công trường. Năm 1964, Đế quốc Mỹ dùng không quân mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, Khoa Xây dựng phải đi sơ tán đến các bản Na-Pò, Nà Dài, Khâu Khiêu thuộc huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn. Tuy sơ tán rất gian truân và vất vả, nhưng với tinh thần tự lực, tự cường, vượt khó khăn, khoa đã tổ chức nhiều đoàn cán bộ cùng với sinh viên đi đến các xí nghiệp, công trường, nhà máy ở nhiều tỉnh trên miền Bắc, kết hợp vừa học vừa phục vụ quốc phòng, giao thông vận tải, phục vụ sản xuất, đặc biệt là công nghiệp địa phương. Cùng với nhiệm vụ đào tạo, nhiệm vụ NCKH cũng từng bước được đẩy mạnh, định hướng NCKH trong giai đoạn này là nâng cao chất lượng đào tạo, phục vụ sản xuất, chiến đấu, kết hợp yêu cầu trước mắt với phát triển lâu dài. Với tinh thần đó, khoa đã thực hiện thành công các đề tài sau đây: Nghiên cứu thiết kế hồ chứa nước Hà Trung dung tích 7 triệu m3; nghiên cứu cầu treo, cầu dây phục vụ giao thông và quốc phòng; nghiên cứu nền móng chịu tải lớn; nghiên cứu hàn khẩu đê bị phá hoại do chiến tranh; nghiên cứu cảng dã chiến; nghiên cứu xây dựng các đường hầm và vi khí hậu hầm; thiết kế xây dựng xí nghiệp thủy tinh dân 22
dụng có công suất 200 T/năm và 300 T/năm; nghiên cứu thiết kế xưởng xi măng lò đứng 5000 T/năm; nghiên cứu thiết kế trạm thủy điện nhỏ 60KW; tham gia nghiên cứu thiết kế cầu Phủ Lỗ, cầu BTCT ứng lực trước đầu tiên ở nước ta; nghiên cứu xây dựng các điểm cơ khí nông thôn; nghiên cứu vữa bê tông cát mịn, mặt đường gia cố vôi... ngoài ra, phòng thiết kế của khoa đã thiết kế nhiều công trình được đưa vào xây dựng như nhà kho Thư viện Quốc gia, Nhà máy Đúc Mai Động, Nhà máy Cơ khí Trần Hưng Đạo, Trường ĐH Y Hà Nội, Trường Múa Trung ương, Trường Kịch Trung ương...
IV. CHUẨN BỊ THÀNH LẬP TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG 1. Sự trưởng thành của Khoa Xây dựng Năm 1956, khi thành lập, Khoa Xây dựng chỉ có trên 10 CBGD và CBCNV, chưa có kinh nghiệm giảng dạy và quản lý đào tạo đại học, chưa có tài liệu và giáo trình cần thiết cho giảng dạy. Nhưng chỉ trong vòng 10 năm, đến hè năm 1966, Khoa Xây dựng đã có 178 CBGD, trong đó có 16 PTS. Đội ngũ CBGD của khoa lúc này tương đối hoàn chỉnh về ngành nghề và khá vững vàng về chuyên môn. Khoa đã dịch và biên soạn được gần 50 giáo trình và tài liệu tham khảo, đã xây dựng được 7 PTN môn học, trong đó có những PTN hiện đại như PTN Công trình, PTN Thủy lực, PTN Vật liệu xây dựng. Khoa đã đào tạo hoàn chỉnh 6 khóa với gần 1000 kỹ sư cung cấp cho đất nước và tiếp tục đào tạo hơn 900 SV (của các khóa 7, 8, 9, 10). Từ chỗ chỉ có 1 chi bộ cán bộ với 6 đảng viên, 1 chi bộ sinh viên với 11 đảng viên, 3 chi Đoàn Thanh niên, đến năm 1966 khoa đã có 1 liên chi Đảng bộ với trên 50 đảng viên, một liên chi Đoàn Thanh niên, một chi hội Sinh viên, một công đoàn khoa với nhiều tổ công đoàn. Bộ máy quản lý khoa đã tích lũy
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
được nhiều kinh nghiệm trong công tác tổ chức, quản lý và đào tạo bậc đại học. Do sự phấn đấu và trưởng thành nhanh chóng, Khoa Xây dựng đã nhận được nhiều phần thưởng xứng đáng của các cấp chính quyền và đoàn thể. Nhiều năm, Khoa Xây dựng được công nhận là khoa tiên tiến xuất sắc, 11 đơn vị trong khoa được công nhận đăng ký trở thành tổ LĐXHCN, trong đó nhiều bộ môn, tổ công tác được công nhận là tổ LĐXHCN cấp Thành phố. Tổ “Bếp 61” được Hội đồng Chính phủ công nhận tổ LĐXHCN cấp toàn quốc. Toàn khoa có 12 chiến sỹ thi đua, 34 cán bộ dạy tốt, có 11 trên 19 lớp sinh viên được công nhận là lớp tiên tiến, 108 sinh viên dạt danh hiệu ưu tú xuất sắc. Chi bộ CBGD được Trung ương Đảng tuyên dương là một trong những chi bộ 4 tốt xuất sắc nhất của toàn miền Bắc. Cả 2 công đoàn bộ phận (Công đoàn CBGD và Công đoàn CBCNV) đều được công nhận là công đoàn 4 tốt, trong đó công đoàn CBGD được Tổng Công đoàn Việt Nam và Liên hiệp Công đoàn thành phố Hà Nội khen. Liên chi Đoàn Thanh niên của khoa được Đoàn trường xếp loại liên chi đoàn mạnh nhất trong toàn trường. Chi đoàn CBGD Khoa Xây dựng là một trong những chi đoàn được TW Đoàn tặng cờ Nguyễn Văn Trỗi đầu tiên trong toàn ngành Đại học. 2. Yêu cầu mới của đất nước Bước vào đầu những năm 60, công cuộc cải tạo XHCN ở miền Bắc về cơ bản đã hoàn thành. Cách mạng miền Nam phát triển sang bước ngoặt mới mở đầu bằng phong trào “Đồng khởi”, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ra đời. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, Cách mạng miền Nam đã giành được nhiều thắng lợi rất to lớn, đẩy chính quyền Sài Gòn và Đế quốc Mỹ vào tình thế nguy ngập. Mong cứu vãn tình thế, Đế quốc
Mỹ đã dồn dập đổ quân vào miền Nam và dùng không quân đánh phá miền Bắc, với ý đồ ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhận định: “Sự điên cuồng của Đế quốc Mỹ tuy có gây ra cho ta những tổn thất hết sức nặng nề về người và của, nhưng chúng ta nhất định thắng lợi hoàn toàn”. Trong bối cảnh như vậy, nhiệm vụ trước mắt ở miền Bắc là phải đánh bại chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ, nhanh chóng khôi phục các cơ sở bị đánh phá, tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, đảm bảo thông suốt những tuyến đường cũ, mở thêm nhiều tuyến đường mới để chi viện cho miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Về lâu dài, phải mở ra các cơ sở đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế và quản lý xã hội đồng bộ, trong đó ngành Xây dựng có vinh dự và trách nhiệm lớn lao là thực hiện lời căn dặn của Bác Hồ “Đến ngày thắng lợi xây dựng lại đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Khoa Xây dựng sau 10 năm phấn đấu và trưởng thành đã có những tiềm lực và khả năng đáp ứng đủ các điều kiện cần thiết để tách khỏi Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, thành lập Trường Đại học Xây dựng. 3. Những bước chuẩn bị thành lập Trường Đại học Xây dựng Tháng 3/1966, Trường ĐHBK ra quyết định thành lập Ban Trù bị thành lập Trường Đại học Xây dựng gồm các đồng chí: v Trần Đức Trân - Ủy viên Thường vụ
Đảng ủy trường, Trưởng ban;
v Nguyễn Sanh Dạn - Chủ nhiệm
Khoa Xây dựng, Phó Trưởng ban;
v Năm ủy viên: Lê Vạn, Trần Văn Ngọc,
Nguyễn Ngọc Tế, Nguyễn Phụng Võ, Nguyễn Liêm. 23
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Ban Trù bị có nhiệm vụ giúp trường soạn thảo các văn bản trình Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp và Nhà nước cho phép thành lập Trường Đại học Xây dựng. Cụ thể gồm các văn bản chính: 1 - Tờ trình xin thành lập Trường Đại học Xây dựng, trong đó trình bày rõ chức năng, nhiệm vụ và mục tiêu của Trường ĐHXD, dự kiến ban lãnh đạo trường. 2 - Tờ trình về sơ đồ tổ chức hệ thống đào tạo. 3 - Tờ trình về sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý. Ban Trù bị thay mặt Trường ĐHBK làm việc với Bộ chủ quản và các cơ quan Nhà nước, giải trình những vấn đề cần thiết trong quá trình xét duyệt. Các đồng chí Trần Đức Trân, Nguyễn Sanh Dạn và Lê Vạn là những người đầu tiên họp bàn xác định địa điểm của trường. Sau đó, Ban Trù bị được bổ sung thêm các đồng chí Đỗ Quốc Sam, Võ Văn Bích để thành lập Ban Lãnh đạo lâm thời, tìm địa điểm sơ tán cho trường. Các đồng chí Phạm Sỹ Liêm, Huỳnh Xuân Đình, Hoàng Huy Thắng và Nguyễn Liêm được giao nhiệm vụ phối hợp với Ban Lãnh đạo lâm thời triển khai các hoạt động cần thiết. Sau nhiều lần cân nhắc, Ban Lãnh đạo lâm thời chọn 2 huyện Quế Võ và Gia Lương thuộc tỉnh Hà Bắc làm nơi sơ tán của trường và chọn thôn Quế Ổ (thuộc xã Chi Lăng, huyện Quế Võ) là nơi làm việc của Ban Giám hiệu và các phòng, ban. 4. Quyết định của Chính phủ thành lập Trường Đại học Xây dựng Ngày 8/8/1966, Chính phủ ra Quyết định số 144/CP thành lập Trường Đại học Xây dựng: Thực hiện Quyết định của Hội đồng Chính phủ về việc thành lập Trường Đại học Xây dựng, Bộ ĐH và THCN đã bổ 24
nhiệm đồng chí Nguyễn Sanh Dạn giữ chức quyền Hiệu trưởng, phụ trách chung kiêm phụ trách chuyên môn; đồng chí Trần Đức Trân, Phó Hiệu trưởng, phụ trách công tác chính trị. * * * Trong 10 năm, từ tháng 3/1956 đến tháng 8/1966, Khoa Xây dựng Trường ĐH Bách khoa Hà Nội đã liên tục phấn đấu và trưởng thành. Mười năm ấy không dài đối với một khoa trong một trường đại học nhưng khoa đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm, tiềm lực và những điều kiện cần thiết cho việc ra đời Trường Đại học Xây dựng. Sự trưởng thành của Khoa Xây dựng, đặc biệt là sự trưởng thành của đội ngũ CBGD là kết quả của sự lãnh đạo, chỉ đạo và quan tâm to lớn của Đảng ủy, BGH Trường ĐHBK, của Bộ ĐH và THCN. Mặt khác, các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể trong khoa đã có sự chỉ đạo sâu sát và nhạy bén. Cán bộ lãnh đạo của khoa đã rất tâm huyết, có tầm nhìn chiến lược và quyết tâm cao trong việc xây dựng đội ngũ. Mỗi người, mỗi đơn vị thường xuyên chăm lo khối đoàn kết nội bộ, với ý thức tự lực, dám nghĩ, dám làm, luôn có niềm tin và khát vọng lớn vào tương lai sự nghiệp đào tạo... Chính những nhân tố đó đã tạo tiềm lực cho đội ngũ cán bộ sau này đủ sức vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, đưa Trường Đại học Xây dựng vững bước đi lên trong thời kỳ sôi động và hào hùng của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
I Quyết định của Chính phủ thành lập Trường Đại học Xây dựng 25
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
26
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG THỜI KỲ SƠ TÁN (1966 - 1983)
27
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
T
hất bại trong “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam, Đế quốc Mỹ mở rộng cuộc chiến thành “Chiến tranh cục bộ”, đưa 50 vạn lính Mỹ và chư hầu vào miền Nam Việt Nam. Đồng thời Mỹ phát động cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân ra miền Bắc nhằm ngăn cản sự chi viện sức người, sức của của miền Bắc cho miền Nam. Cuộc chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ đã tàn phá nặng nề các cơ sở hạ tầng, các công trình xây dựng trên toàn miền Bắc. Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế của miền Bắc buộc phải chuyển hướng, từ tập trung chuyển sang phân tán, từ thời bình chuyển sang thời chiến, để giảm sự thiệt hại đến mức thấp nhất. Trường Đại học Xây dựng được thành lập trong bối cảnh lịch sử đó. Ban Trù bị thành lập trường đã triển khai ngay việc tìm địa điểm sơ tán. Từ năm 1966 đến 1983, Trường Đại học Xây dựng đã di chuyển địa điểm nhiều lần từ Hà Nội sơ tán về Hà Bắc, phân tán dọc bên bờ sông Đuống thuộc hai huyện Quế Võ và Gia Lương. Đến năm 1970, kết thúc giai đoạn phân tán, trường di chuyển tập trung về Hương Canh (huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phú), một bộ phận nhỏ còn ở lại khu Chèm (xã Tiền Phong huyện Mê Linh - tỉnh Vĩnh Phú). Sau khi Hiệp định Pa-ri về lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết (27/1/1973), Nhà trường đã nhiều lần bàn phương án, đề nghị cấp trên cho Trường Đại học Xây dựng chuyển về Hà Nội. Từ đó, Đảng ủy trường đã tập trung chỉ đạo tìm mọi khả năng để có thể di chuyển trường từ Hương Canh và Chèm về Hà Nội. Sau đại thắng Mùa Xuân năm 1975, cả nước bước vào thời kỳ khôi phục, xây dựng và phát triển đất nước. Nhiệm vụ hàn gắn những vết thương chiến tranh được đặt ra cấp bách, trước hết là khôi phục cơ sở hạ tầng. Đây cũng là một trong các yêu cầu 28
quan trọng và trực tiếp đối với Trường Đại học Xây dựng trong nhiệm vụ đào tạo đội ngũ kỹ sư, kiến trúc sư cho công cuộc khôi phục và phát triển đất nước.
I. CƠ CẤU TỔ CHỨC BỘ MÁY HOẠT ĐỘNG CỦA NHÀ TRƯỜNG 1. Cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền Lãnh đạo nhà trường và các đoàn thể khi mới thành lập trường Ban Giám hiệu gồm hai đồng chí: Nguyễn Sanh Dạn - Quyền Hiệu trưởng và Trần Đức Trân - Bí thư Đảng ủy (lâm thời) kiêm Phó Hiệu trưởng phụ trách công tác tổ chức, chính trị và đời sống. v Thư ký Công đoàn trường đầu tiên là
đồng chí Hoàng Chương.
v Bí thư Đoàn Thanh niên trường đầu tiên là
đồng chí Trần Văn Ngọc.
Lãnh đạo chính quyền từ 1966 đến 1983 Hiệu trưởng do các thầy giáo sau đây đảm nhiệm v Từ năm 1966 đến năm 1977:
thầy giáo Nguyễn Sanh Dạn
v Từ năm 1977 đến năm 1982:
thầy giáo Đỗ Quốc Sam
v Từ năm 1982 đến năm 1990:
thầy giáo Phạm Ngọc Đăng
Các phòng, ban, khoa và bộ môn Các phòng, ban: Khi mới thành lập trường có các phòng ban sau: v Tổ chức - Quân sự, Tuyên giáo, Giáo vụ,
Nghiên cứu khoa học, Hành chính Quản trị, Tài vụ - Thiết bị, Y tế.
v Phòng Tài vụ - Thiết bị được thành lập
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
tháng 8/1966, đến tháng 2/1967 được tách ra thành 2 phòng: Tài vụ và Thiết bị.
Biên, Phó Chủ nhiệm Khoa Cầu đường làm Chủ nhiệm Khoa Kinh tế - Tại chức.
v Phòng Hành chính - Quản trị được thành
Năm 1967, lớp Kiến trúc của Bộ Kiến trúc (nay là Bộ Xây dựng) sáp nhập về Khoa Kiến trúc - Đô thị của Trường Đại học Xây dựng. Cuối năm 1969, lớp này được tách ra chuyển về Trường Đại học Kiến trúc thuộc Bộ Kiến trúc quản lý.
lập tháng 8/1966 sau đó tách ra thành 2 phòng, rồi sáp nhập lại, đến năm 1980 lại tách ra thành 2 phòng: Hành chính và Quản trị.
v Phòng Tuyên giáo: Thành lập tháng 8/1966,
tháng 2/1967 được đổi tên là Phòng Giáo dục Chính trị, năm 1974 tiếp tục được đổi tên thành Phòng Tuyên huấn.
v Phòng Thiết kế thành lập tháng 6/1969,
tháng 7/1970 Bộ ĐH&THCN ra quyết định thành lập Phòng Khảo sát và Thiết kế. Các khoa và bộ môn:
Khi mới thành lập trường có các khoa sau: v Khoa Xây dựng - Chủ nhiệm khoa là
thầy giáo Đỗ Quốc Sam
v Khoa Cầu đường - Chủ nhiệm khoa là
thầy giáo Đặng Hữu
v Khoa Thủy lợi - Cảng - Chủ nhiệm khoa là
thầy giáo Vũ Văn Tảo
v Khoa Tại chức - Chủ nhiệm khoa là
thầy giáo Lê Vạn
v Khoa Cơ bản - Chủ nhiệm khoa là
thầy giáo Nguyễn Văn Hường.
Tháng 9 năm 1967, trường thực hiện việc sắp xếp lại tổ chức các bộ môn và khoa: Tách Bộ môn Kiến trúc trong khoa Xây dựng để thành lập Khoa Kiến trúc - Đô thị; tách Bộ môn Máy xây dựng trong Khoa Thủy lợi - Cảng để thành lập Khoa Cơ khí xây dựng gồm 3 bộ môn: Máy xây dựng, Điện kỹ thuật, Nhiệt kỹ thuật và điều động thầy giáo Đặng Quốc Sơn, Phó Chủ nhiệm Khoa Thủy lợi - Cảng làm quyền Chủ nhiệm Khoa Cơ khí xây dựng; nhập ngành Kinh tế vào Khoa Tại chức để thành lập Khoa Kinh tế - Tại chức và điều động thầy giáo Nguyễn
Năm 1972, tách Bộ môn Vật liệu xây dựng trong Khoa Xây dựng để thành lập Khoa Vật liệu xây dựng, do thầy giáo Lê Đỗ Chương làm Chủ nhiệm khoa, năm 1974 chuyển Bộ môn Thông gió - Cấp nhiệt và Bộ môn Cấp thoát nước từ Khoa Xây dựng về Khoa Vật liệu xây dựng và đổi tên thành Khoa Vật liệu xây dựng và Kỹ thuật vệ sinh. Năm 1980, giải thể Khoa Cơ bản. Một số bộ môn thuộc khoa được chuyển về các khoa chuyên ngành, còn lại hai bộ môn Toán và Ngoại ngữ trực thuộc BGH. Tháng 12/1966, thành lập Phòng Quân sự và Thể dục thể thao. Tháng 12/1982 thành lập Khoa Quân sự. Như vậy, đến năm 1976, từ 5 khoa và 32 bộ môn ban đầu, Trường Đại học Xây dựng đã có 9 khoa và 43 bộ môn. Theo cơ cấu tổ chức thì các bộ môn chuyên ngành đều trực thuộc các khoa chuyên ngành quản lý; riêng các bộ môn Toán, Mác - Lênin, Quân sự và các xưởng Cơ, Mộc, Hàn trực thuộc Ban Giám hiệu. 2. Công tác xây dựng Đảng Liên chi Đảng bộ Khoa Xây dựng được hình thành từ khi còn là Khoa Xây dựng thuộc ĐHBK Hà Nội, nên ngay sau khi thành lập, Trường Đại học Xây dựng đã có một Đảng bộ để tiếp tục lãnh đạo toàn diện các mặt hoạt động của nhà trường. Thành ủy Hà Nội đã chỉ định một số đồng chí vào Đảng ủy lâm thời: Đồng chí Trần Đức 29
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Trân làm Bí thư, các đồng chí Lê Vạn, Nguyễn Công Chi là ủy viên. Đảng ủy lâm thời đã đề cử đồng chí Hoàng Chương là Thư ký Công đoàn trường, đồng chí Trần Văn Ngọc là Bí thư Đoàn Thanh niên trường. Để bộ máy Đảng hoạt động kịp thời, Đảng ủy lâm thời đã đề nghị Ban Giám hiệu rút một số đồng chí đảng viên sinh viên là cán bộ đi học, lên làm công tác Đảng (đồng chí Hoàng Trọng Tế...). Ngày 3 tháng 2 năm 1967 Đại hội đại biểu Đảng bộ Trường Đại học Xây dựng lần thứ Nhất đã được tiến hành tại thôn Quế Ổ, xã Chi Lăng, huyện Quế Võ, tỉnh Hà Bắc (nay là tỉnh Bắc Ninh). Đại hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 13 đồng chí, đồng chí Trần Đức Trân được bầu làm Bí thư Đảng ủy. Từ năm 1966 đến 1983, Bí thư Đảng ủy trường lần lượt do các đồng chí sau đây đảm nhiệm: v Từ năm 1966 đến 1969:
đồng chí Trần Đức Trân
v Từ năm 1969 đến 1976:
đồng chí Hà Trình
v Từ năm 1976 đến 1979:
đồng chí Nguyễn Xuân Đặng
v Từ năm 1979 đến 1984:
đồng chí Nguyễn Xuân Trọng Đồng chí Hà Trình là Ủy viên BCH Đảng bộ thành phố Hà Nội nhiệm kỳ 1973 - 1976. Đồng chí Nguyễn Xuân Đặng là Ủy viên BCH Đảng bộ thành phố Hà Nội nhiệm kỳ 1976 - 1979. Toàn Đảng bộ được tổ chức thành 5 liên chi Đảng: Liên chi Khoa Xây dựng, Liên chi Khoa Thủy lợi - Cảng, Liên chi Khoa Cầu - Đường, Liên chi Khoa Tại chức, Liên chi khối Hiệu bộ. Đến năm 1969 có 7 liên chi Đảng gồm: Hiệu bộ, Khoa Xây dựng, Khoa Cầu đường, Khoa Thủy lợi - Cảng - Máy xây dựng, Khoa Kinh tế - Tại chức, Khoa Kiến trúc - Đô thị và Khoa Cơ bản. Toàn bộ các khoa đều có chi bộ CBCNV
30
trực tiếp lãnh đạo toàn diện các hoạt động của khối CBCNV. Trong điều kiện trường, khoa sơ tán, phân tán ở nhiều địa điểm khác nhau, sự lãnh đạo toàn diện của Đảng vẫn được đảm bảo, các mặt hoạt động của nhà trường vẫn được duy trì và từng bước phát triển. Nhiệm vụ hàng đầu của Đảng bộ trường là phải làm tốt công tác dân vận, giáo dục cho CBCNV và sinh viên thấm nhuần phương châm “Đi dân nhớ, ở dân thương”; chú ý giáo dục tinh thần khắc phục khó khăn, đoàn kết nội bộ, tự lực cánh sinh để tạo dựng cơ sở vật chất tối thiểu cần thiết cho công tác giảng dạy, học tập, NCKH phục vụ sản xuất và chiến đấu; phải thấm nhuần tư tưởng chuyển mọi hoạt động của nhà trường sang nếp sống thời chiến. Cuộc chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ còn ác liệt và kéo dài nên việc tự vệ, phòng tránh đảm bảo an toàn cho người và cơ sở vật chất là công việc thường xuyên của mỗi cán bộ đảng viên và sinh viên. Trường ở xa Hà Nội nên việc cung ứng lương thực thực phẩm và những nhu yếu phẩm cho hàng nghìn người là một khó khăn rất lớn. Đảng ủy đã tập trung chỉ đạo các phòng, ban chức năng cung ứng kịp thời và đầy đủ những tiêu chuẩn mà Nhà nước đã qui định cho CBCNV và sinh viên đồng thời cố gắng xin thêm nhu yếu phẩm ở các tỉnh mà trường có quan hệ công tác. Bên cạnh việc chăm lo đời sống vật chất, Đảng ủy còn quan tâm đến đời sống tinh thần. Phong trào văn nghệ thể thao phát triển rộng khắp, các đội tuyển bóng đá, bóng chuyền, bóng rổ, bóng bàn, kịch nói, ca nhạc của trường đã đi thi đấu, hội diễn, biểu diễn ở nhiều tỉnh thành gây tiếng vang lớn và giành được nhiều huy chương, giải thưởng. Các tuyển tập thơ, bài hát do thầy giáo, cán bộ và sinh viên trong trường sáng tác đã được xuất bản, thu thanh; các buổi chiếu phim, báo cáo thời sự được duy trì đều đặn. Nhờ vậy đã tạo được không khí phấn khởi trong cán bộ và sinh viên Nhà trường.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
Một năm sau khi thành lập, Trường Đại học Xây dựng được tăng cường cán bộ gồm nhiều sỹ quan quân đội chuyển sang. Các sỹ quan được Bộ trưởng Bộ ĐH&THCN bổ nhiệm làm phó chủ nhiệm ở hầu hết các khoa và một số phòng, ban. Đến năm 1969, so với khi mới thành lập, qui mô nhà trường đã phát triển khá lớn, sinh viên chính qui và tại chức đã tăng gấp 3 lần, CBGD tăng 2,5 lần và CBCNV tăng 5 lần. 3. Công tác đoàn thể Công tác Đoàn Thanh niên Đại hội lần thứ nhất Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam Trường Đại học Xây dựng đã bầu BCH nhiệm kỳ đầu tiên và đồng chí Trần Văn Ngọc được bầu làm Bí thư ĐTN trường. Từ năm 1966 đến 1983, Bí thư ĐTN trường do các đồng chí sau đây đảm nhiệm: v Từ năm 1966 đến 1968:
đồng chí Trần Văn Ngọc
v Từ năm 1968 đến 1975:
đồng chí Đỗ Hữu Nghĩa
v Từ năm 1975 đến 1979:
đồng chí Vũ Liêm Chính
v Từ năm 1979 đến 1980:
đồng chí Nguyễn Tiến Đoàn
v Từ năm 1980 đến 1983:
đồng chí Nguyễn Quang Đạo Ngay từ khi mới thành lập trường, Đoàn Thanh niên đã phát huy vai trò xung kích trong mọi mặt hoạt động giảng dạy, học tập, NCKH, văn nghệ, thể dục thể thao, đồng thời là lực lượng nòng cốt trong các hoạt động khác của nhà trường. Các phong trào Đoàn Thanh niên trường luôn luôn được Thành đoàn Hà Nội đánh giá cao: phong trào xuống đường đảm bảo giao thông; phong trào nhập ngũ bảo vệ Tổ
quốc; chi viện cho chiến trường miền Nam; phong trào lao động XHCN - Cải tạo sông Tô Lịch; phong trào làm phòng tuyến bảo vệ Thủ đô (Tam Đảo) và phong trào phấn đấu trở thành tập thể học sinh XHCN. Công tác Công đoàn Đảng ủy luôn coi trọng công tác Công đoàn. Ngay từ Nghị quyết ĐH Đảng bộ trường lần thứ nhất (tháng 2 - 1967) đã xác định: Công đoàn là một tổ chức tập hợp, động viên, phát huy mạnh mẽ trí tuệ tập thể và khả năng tiềm tàng của CBCNV góp sức xây dựng nhà trường. Trên thực tế, Công đoàn trường đã làm tốt công tác động viên, khuyến khích CBCNV hoàn thành tốt công tác giảng dạy, NCKH phục vụ sản xuất và chiến đấu trong điều kiện sơ tán gặp rất nhiều khó khăn. Lúc mới thành lập trường, Công đoàn cấp trên chỉ định đồng chí Hoàng Chương là Thư ký Công đoàn. Từ năm 1966 đến 1983, Thư ký Công đoàn trường do các đồng chí sau đây đảm nhiệm: v Từ năm 1966 đến 1968:
đồng chí Hoàng Chương
v Từ năm 1968 đến 1970:
đồng chí Nguyễn Xuân Trọng
v Từ năm 1970 đến 1971:
đồng chí Nguyễn Văn Hường
v Từ năm 1971 đến 1975:
đồng chí Trần Văn Ngọc
v Từ năm 1975 đến 1979:
đồng chí Vũ Văn Tuấn
v Từ năm 1979 đến 1983:
đồng chí Nguyễn Văn Bảo Công đoàn trường đã chỉ đạo và triển khai tốt các phong trào thi đua: “Ba cải tiến - hiệu suất cao, chất lượng tốt, tiết kiệm nhiều”, phong trào phụ nữ “ba đảm đang” 31
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
và “gia đình năm tốt”, phong trào xây dựng Công đoàn “bốn tốt” và phong trào thi đua đạt các danh hiệu: “Tập thể lao động XHCN”, chiến sỹ thi đua, lao động tiên tiến... Các phong trào thi đua này đã được duy trì liên tục và đạt hiệu quả cao trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giảng dạy, NCKH, xây dựng cơ sở vật chất, chăm lo tốt đời sống. Với những thành tích đó, Công đoàn trường nhiều năm đạt danh hiệu “Công đoàn tiên tiến xuất sắc”.
II. CÔNG TÁC ĐÀO TẠO 1. Đào tạo đại học a. Mục tiêu đào tạo Ngay khi thành lập trường, mục tiêu đào tạo đã được Đại hội Đảng bộ lần thứ nhất (2/1967) xác định: Sinh viên ĐHXD phải đạt được các tiêu chuẩn: 1 - Có phẩm chất chính trị tốt; 2 - Có trình độ khoa học kỹ thuật và nghiệp vụ giỏi, biết vận dụng sáng tạo kiến thức chuyên môn đã học; 3 - Có sức khỏe tốt để lao động đạt hiệu suất cao; 4 - Có một số hiểu biết về văn học nghệ thuật và đời sống xã hội để xây dựng cho mình một cuộc sống phong phú nhiều mặt. Mục tiêu đào tạo cụ thể của từng ngành được xác định trên cơ sở mục tiêu đào tạo chung và đặc điểm của ngành nghề. Lúc này có 8 ngành học: Xây dựng dân dụng và công nghiệp, Cầu đường, Thủy lợi, Cảng đường thủy, Kiến trúc đô thị, Vật liệu xây dựng, Kinh tế xây dựng, Máy xây dựng. b. Cơ cấu và các loại hình đào tạo Các loại hình đào tạo đại học được hình thành từ yêu cầu của thực tiễn, gắn với nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu, cho nên 32
ngay từ khi thành lập trường đã có các loại hình đào tạo như sau: Dài hạn tập trung, Tại chức, Chuyên tu, Luân huấn (Bồi dưỡng thời gian ngắn), Bồi dưỡng chuyên đề. Ngoài ra còn có các lớp dự bị đại học. Đào tạo dài hạn tập trung Từ Khóa 10 đến Khóa 14 học sinh tốt nghiệp cấp III do địa phương tuyển chọn vào trường. Trường chỉ tiến hành kiểm tra trình độ văn hóa cho phù hợp với ngành học được đào tạo. Việc kiểm tra này dần dần được nâng cao về yêu cầu chất lượng văn hóa. Từ năm 1970, theo chủ trương của Bộ ĐH&THCN các trường tham gia tuyển sinh tại các tỉnh. Địa bàn thi tuyển do Bộ phân công, các trường làm nhiệm vụ coi thi tuyển sinh cho tất cả các khối trường đại học (khối A, B, C). Riêng ngành Kiến trúc của trường từ Khóa 10 tiến hành thi chọn trong số sinh viên đã nhập trường, năm 1983 mới bắt đầu tổ chức thi tuyển riêng (khóa đầu tiên thi tại cơ sở của trường ở Phúc Xá). Theo hình thức thi tuyển này, hằng năm vào mùa thi tuyển, trường phải huy động một lực lượng khá lớn thầy cô giáo, CBCNV thực hiện công tác này. Trong tờ trình xin thành lập trường ngày 14/3/1966, hàng năm trường xin kế hoạch tuyển sinh từ 1000 - 1200 SV các hệ. Trong đó: 600 - 700 cho hệ dài hạn tập trung; 200 cho hệ chuyên tu tập trung; 150 cho hệ tại chức. Thực tế khóa đầu tiên (Khóa 11) năm học 1966 - 1967, trường đã tuyển 970 sinh viên, trong đó có 600 cho hệ dài hạn tập trung, 100 cho hệ chuyên tu tập trung, 150 cho hệ tại chức và 120 dự bị đại học. Năm 1973, trường nhận 1 lớp bồi dưỡng các kỹ sư đã tốt nghiệp Ngành Hóa của ĐHBK về đào tạo bằng 2 Ngành Xây dựng. Riêng Khóa 14 trường đã mở thêm Ngành Kỹ sư công trình, đào tạo kỹ sư có khả năng thiết kế, nghiên cứu công trình nói chung.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
Vào những năm 1968 - 1969, cuộc chiến tranh bằng không quân của Đế quốc Mỹ ra miền Bắc ngày càng ác liệt, sản xuất gặp nhiều khó khăn, nhu cầu về cán bộ kỹ thuật xây dựng của xã hội giảm, do đó quy mô tuyển sinh của trường thu hẹp lại chỉ còn vài trăm sinh viên. Hòa bình lập lại, chiến tranh chống Mỹ kết thúc, quy mô tuyển sinh của trường được mở rộng, năm cao nhất là hơn 1200 sinh viên. Trên 7000 kỹ sư, kiến trúc sư do Trường Đại học Xây dựng đào tạo trong giai đoạn này đã thực sự là một lực lượng cán bộ KHKT có năng lực, tỏa đi khắp mọi miền Tổ quốc đáp ứng kịp thời yêu cầu khôi phục và phát triển đất nước sau chiến tranh. Nhiều cán bộ đã được giao những trọng trách quan trọng trong Ngành Xây dựng. Đào tạo Tại chức Nhà trường đã xây dựng được chương trình đào tạo bám sát những yêu cầu thực tiễn sản xuất, chiến đấu và đời sống của nhân dân. Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, hệ đào tạo tại chức càng có nhu cầu phát triển mạnh mẽ. Các ngành đào tạo được tăng thêm, quy mô, số lượng, địa bàn được mở rộng ở hầu hết các tỉnh miền Bắc và vươn tới Tây Nguyên, Thuận Hải. Trong giai đoạn 1966 đến 1983 đã có 1913 kỹ sư tại chức tốt nghiệp. Đội ngũ cán bộ KHKT được đào tạo theo hình thức tại chức của Trường Đại học Xây dựng đã phát huy tác dụng tốt trong các lĩnh vực công tác được các địa phương, đơn vị đánh giá cao. Đào tạo Chuyên tu Hệ đào tạo chuyên tu được thực hiện ngay từ khi thành lập trường (1966), đến năm 1988 thì kết thúc (khóa cuối cùng tốt
nghiệp vào năm 1991). Đây là hệ đào tạo theo chương trình 3 năm nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn với đối tượng đào tạo là các cán bộ kỹ thuật đã kinh qua công tác, có bằng Trung cấp ngành Xây dựng. Qua 25 năm đào tạo hệ chuyên tu đã có 1392 kỹ sư tốt nghiệp chuyên ngành Kinh tế Xây dựng, Xây dựng dân dụng và công nghiệp, Cầu đường, Thủy lợi. Hình thức đào tạo này đã đáp ứng kịp thời và có hiệu quả chủ trương của Đảng về công tác cán bộ cho ngành Xây dựng. Có lập trường tư tưởng vững, có kinh nghiệm về quản lý, nay được trang bị kiến thức chuyên môn, đội ngũ này đã nhanh chóng phát huy vai trò của mình trong nhiệm vụ xây dựng đất nước sau chiến tranh. Đào tạo Luân huấn Đây là hình thức đào tạo ngắn hạn cho các cán bộ đang công tác ở các địa phương và các ngành khác nhau. Nhà trường đã mở được 3 khóa từ khi còn sơ tán ở Quế Võ (Hà Bắc). Về sau, hình thức này được áp dụng rất phong phú, đa dạng, thích hợp với yêu cầu sản xuất, với từng đối tượng khác nhau, như lớp bồi dưỡng 3 tháng (200 tiết) cho cán bộ Văn phòng Phủ Thủ tướng, cho thành phố Hà Nội, tỉnh Hà Nam Ninh, Tổng cục Xây dựng kinh tế Bộ Quốc phòng; hoặc mở những lớp chuyên đề 100 tiết cho thành phố Hải Phòng, tỉnh Cao Bằng... Nhà trường đã gắn đào tạo với phục vụ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chi viện cho miền Nam. Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, nhiều cán bộ, giảng viên và sinh viên Trường Đại học Xây dựng đã lên đường nhập ngũ. Khóa 11 là khóa đầu tiên của Trường Đại học Xây dựng. Ba tháng sau khi nhập trường (12/1966), đã có 46 sinh viên Khóa 11 lên đường nhập ngũ chi viện cho chiến trường. Tiếp đó trong những năm 1970 - 1972 một số lượng không nhỏ sinh viên các Khóa 33
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
12, 13, 14 và CBGD, CBCNV của trường lại tiếp tục lên đường nhập ngũ. Có những đợt nhập ngũ, sinh viên của trường đủ để thành lập riêng một tiểu đoàn. Vào bất cứ chiến trường nào, dù vô cùng ác liệt như Đường 9 - Khe Sanh, Quảng Trị, mặt trận Tây Nguyên, Nam Bộ.... những cán bộ, sinh viên Đại học Xây dựng cũng đã hết mình đóng góp trí tuệ, sức lực, tuổi thanh xuân và cả máu xương của mình cùng quân dân cả nước làm nên chiến thắng. Nhiều cán bộ và sinh viên đã anh dũng hi sinh, trong đó có những người được lưu danh sử sách như Anh hùng liệt sỹ Bùi Ngọc Dương, liệt sỹ Lê Văn Huỳnh...nhưng cũng rất nhiều người chưa hoặc mới biết như trường hợp các sinh viên ĐHXD hy sinh năm 1973 trong trận chiến tại ấp Đá Biên, Long An... Thực hiện Chỉ thị 222 - TTg của Thủ tướng Chính phủ về chủ trương vừa học tập vừa phục vụ sản xuất và chiến đấu, Đảng ủy, Ban Giám hiệu đã tổ chức 25 đoàn với trên 1000 CBGD và sinh viên đi tham gia đảm bảo giao thông, tạo nên một phong trào “Xuống đường” sôi động, ghi dấu ấn sâu sắc trong giới sinh viên của thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Tháng 5 - 1968 toàn bộ thầy trò Khoa Cầu đường “Xuống đường”, với 455 sinh viên (K10, 11, 12), 41 cán bộ và thầy giáo, chia thành 5 đội đến 5 địa điểm: Cầu Long Biên, cầu Phú Lương, đường Yên Lập, đường Văn Giang, khu Chợ Bến. Từ tháng 7 đến tháng 10 - 1972, sinh viên và thầy giáo của trường ĐHXD lại “Xuống đường bảo đảm giao thông”. Trường thành lập một tiểu đoàn gồm 422 sinh viên và CBGD do thầy Đặng Hữu là Tiểu đoàn trưởng, thầy Lê Văn Thưởng làm Tiểu đoàn phó, thầy Nguyễn Đình Điện làm Chính trị viên. Tiểu đoàn gồm 2 đại đội: Một đại đội bảo đảm giao thông ở cầu Thị Cầu (Hà Bắc) gồm 130 sinh viên Khóa 12, 13, 14 Cầu hầm và 12 CBGD các Bộ môn Cầu hầm, Cơ kết 34
cấu và Sức bền vật liệu do thầy Nguyễn Tiến Oanh làm Đại đội trưởng, thầy Thục làm Chính trị viên. Một đại đội bảo đảm giao thông ở đường 1B Lạng Sơn gồm 250 sinh viên Khóa 12, 13, 14 Đường bộ, 30 CBGD các Bộ môn Đường, Cơ kết cấu, Thông gió và các chị nuôi (cấp dưỡng) do thầy Trần Đình Bửu làm Đại đội trưởng và thầy Trần Luân Ngô làm Chính trị viên. Đại đội 1B có 2 trung đội do thầy Nguyễn Xuân Vinh và thầy Nguyễn Mạnh Dũng làm Trung đội trưởng, thầy Nguyễn Vinh Môn và thầy Nguyễn Văn Hiển làm Chính trị viên. Tổng kết các đợt “Xuống đường”, trường đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba. Khoa Cầu đường được thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Ba. Hai đoàn cán bộ và sinh viên đảm bảo giao thông trên công trường cầu Thị Cầu và trên tuyến đường 1B Lạng Sơn đều được Nhà nước thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba. Sau hiệp định Paris năm 1973, đông đảo sinh viên tốt nghiệp từ trường Đại học Xây dựng - nhiều nhất trong số đó là sinh viên từ khoa Cầu đường, được biệt phái vào Trường Sơn tham gia xây dựng các công trình giao thông phục vụ chiến đấu. Nhiều giảng viên của trường trong giai đoạn này được điều động làm chuyên gia, cán bộ kỹ thuật trên các công trình cầu đường ở khu vực Quảng Trị và đường Trường Sơn mà điển hình là thầy Lê Đình Tâm, thầy Phạm Văn Thái (Bộ môn Cầu) tham gia xây dựng cầu Đắkrông. Tháng 2 năm 1975, theo quyết định của Ủy ban Thống nhất, Bộ Đại học và THCN đã thành lập Đoàn công tác gồm các chuyên gia của các ngành vào Tây Nguyên, Trường Đại học Xây dựng đã cử 3 thầy giáo tham gia là thầy Trần Đình Bửu (Cầu đường), thầy Lê Phu (Thủy lợi) và thầy Nguyễn Phụng Võ (Kiến trúc).
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
Năm học 1977 - 1978, trường đã tổ chức nhiều đoàn sinh viên tăng cường cho các công trường và các viện thiết kế, trong đó có đoàn hơn 20 sinh viên Khóa 18 Khoa Xây dựng cùng các thầy hướng dẫn vào Thành phố Hồ Chí Minh vừa làm vừa học 1 năm tại Viện Quy hoạch và Thiết kế tổng hợp. Các sinh viên này đã tham gia thiết kế nhiều công trình xây dựng ở Nam Bộ và đã dùng kết quả đó để bảo vệ tốt nghiệp. Sau này một số thành viên của đoàn trở thành cán bộ quản lý và kỹ thuật tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trong cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc (tháng 2-1979), cán bộ và sinh viên của trường lại rầm rộ tổ chức thành một trung đoàn tham gia hàng vạn ngày công xây dựng phòng tuyến Tam Đảo và phòng tuyến Bắc Xuân Hòa. Các thầy giáo Dương Học Hải, Nguyễn Xuân Vinh, Nguyễn Thanh Quang cùng sinh viên K19 khoa Cầu Đường đã thực hiện nhiệm vụ khảo sát thiết kế tuyến đường vành đai phía Bắc (đường 279 hay còn gọi là tuyến N2). Cũng trong thời gian này, khoa Cầu đường chủ trì thiết kế xây dựng đường trục xuyên đảo Cát Bà làm phòng tuyến với sự tham gia của thầy Nguyễn Quang Đạo, Nguyễn Hào Hoa và sinh viên K20. 2. Đào tạo Sau đại học Ý tưởng về mở lớp đào tạo “Sau đại học” có từ rất sớm. Khi chiến tranh chống Mỹ đang ở giai đoạn ác liệt nhất, trường lại vừa bị Đế quốc Mỹ ném bom huỷ diệt, Đại hội Đảng bộ trường lần thứ 4 (tháng 12/1972) đã xác định cần phải nghiên cứu mở lớp đào tạo sau đại học. Khởi đầu của cấp đào tạo này là hình thức bổ túc kỹ sư. Khóa đầu tiên - Khóa 1 (1974 - 1976) có 20 học viên (8 HV ngành Đường, 12 HV ngành Cầu Hầm), khóa 2 (1976 - 1978) có 19 học viên (8 HV ngành Đường, 11 HV ngành Cầu Hầm), khóa sau đó có 45 học viên (35 HV ngành
Xây dựng Dân dụng và Công nghiệp, 10 HV ngành Đường). Nhiệm vụ này do Phòng Nghiên cứu khoa học quản lý. Năm 1977, trường được Nhà nước giao nhiệm vụ đào tạo NCS trong nước (QĐ số 97/TTg ngày 11/3/1977). Các phó tiến sỹ bảo vệ trong nước đầu tiên của Việt Nam là các thầy giáo của Trường Đại học Xây dựng: Hồ Anh Tuấn, Phạm Khắc Hùng, Dương Học Hải, Nguyễn Như Khải và Vũ Công Ngữ (năm 1978) và thầy Hoàng Văn Quý (năm 1979). Đây là những phó tiến sỹ khoa học kỹ thuật đầu tiên được đào tạo trong nước nên đã được Chính phủ tổ chức trọng thể lễ trao bằng tại Nhà hát lớn thành phố Hà Nội và Phó Thủ tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp trao bằng. Đến năm 1982 đã có 13 người bảo vệ thành công luận án phó tiến sỹ trong đó có 11 người của Trường Đại học Xây dựng, 1 người của Đại học Bách khoa TP Hồ Chí Minh, 1 của Viện Kỹ thuật Giao thông - Bộ Giao thông Vận tải.
III. CÔNG TÁC NCKH PHỤC VỤ SẢN XUẤT VÀ CHIẾN ĐẤU Nhiệm vụ nghiên cứu khoa học trong thời kỳ này nhằm 2 mục tiêu, gắn liền với 2 nhiệm vụ chiến lược: Phục vụ chiến đấu chống Mỹ, giải phóng miền Nam và xây dựng XHCN ở miền Bắc, chú trọng phục vụ sản xuất tại nơi sơ tán. Những năm 1966 - 1971, trường sơ tán trong các vùng nông thôn bên bờ sông Đuống thuộc các huyện Quế Võ, Gia Lương (Hà Bắc), các đề tài NCKH tập trung vào những nhiệm vụ bảo đảm giao thông thời chiến, phục vụ sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn. Những năm 1971 - 1983, toàn trường tập trung chủ yếu ở Hương Canh - Vĩnh Phú, công tác NCKH dần dần đi vào những mảng đề tài lớn hơn không những đáp ứng 35
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
yêu cầu trước mắt mà còn hướng tới tương lai. Đội ngũ cán bộ khoa học lúc đó mặc dù còn non trẻ, nhưng giàu tâm huyết, không ngại gian khó hy sinh. 1. Các đề tài phục vụ chiến đấu Nổi bật lên trong công tác NCKH phục vụ chiến đấu là các đề tài về bảo đảm giao thông, khắc phục hậu quả chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ. Phong trào “Xuống đường” của thầy và trò Khoa Cầu Đường là một điển hình trong các hoạt động đó. Thầy và trò lấy mặt cầu, mặt đường làm giảng đường, vừa học tập vừa phục vụ sản xuất và chiến đấu, giữ vững huyết mạch giao thông trên nhiều tuyến đường và công trình giao thông quan trọng bị địch đánh phá như Quốc lộ 1B từ Thái Nguyên đến Lạng Sơn; Quốc lộ 1 đoạn đi qua Lạng Giang, Hiệp Hòa; đoạn tuyến Quốc lộ 18 khu vực Tân Lập; các công trình cầu Long Biên, Đuống, Ninh Bình, Đò Lèn, Lai Vu, Phú Lương; tuyến đường sắt Hà Nội Hải Phòng v.v.. Các đề tài phục vụ chiến đấu như các loại cầu phao, cầu cáp treo, phối hợp với Cục Công binh, cầu cáp treo được ứng dụng ở Nhổn, sông Đáy, Long Biên... cầu hai dây căng trước được ứng dụng ở Tân Bài (Mộc Châu). Phương pháp ngụy trang, nghi trang bảo vệ được ứng dụng ở Hàm Rồng... Tên tuổi gắn liền với các công trình trên là các thầy giáo Nguyễn Văn Hường, Lều Thọ Trình, Đỗ Quốc Sam, Võ Văn Thảo, Nguyễn Trâm, Lê Văn Thưởng, Lê Đình Tâm, Nguyễn Như Khải, Nguyễn Tiến Oanh... Một trong những đề tài có giá trị khoa học cao là nghiên cứu về cầu dây cáp của thầy giáo Nguyễn Văn Hường, một nhà khoa học trẻ, tài năng đã gắn bó với đường Trường Sơn đầy gian nan và nguy hiểm. Tháng 12-1965, thầy giáo Nguyễn Văn Hường từ Mát- xcơ-va trở về nước đã được GS. Tạ Quang Bửu - Bộ trưởng Bộ Đại học - THCN và Thiếu tướng Phan Trọng 36
Tuệ - Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải giao nhiệm vụ chủ trì thiết kế và chỉ đạo thi công cầu dây cáp cho xe cơ giới vượt sông trên đường Trường Sơn. Một nhóm các nhà khoa học đã nghiên cứu và bí mật làm thử nghiệm các loại cầu dây cáp trên sông Nhuệ (ngoại thành Hà Nội) và sau đó lên đường vào tuyến lửa trực tiếp chỉ đạo thi công tại chỗ. Những năm chống Mỹ, thầy giáo Nguyễn Văn Hường cùng các thầy giáo Lều Thọ Trình, Đỗ Quốc Sam... đã nhiều lần tham gia cải tiến thiết kế nhiều loại cầu dây vượt suối sâu, sông rộng, có những khúc rộng tới 200m, đã cho thông xe hàng chục vạn lần chiếc đảm bảo an toàn. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã trực tiếp gặp gỡ, chúc mừng sự thành công của đề tài quan trọng này. Sau ngày miền Nam giải phóng, thầy giáo Nguyễn Văn Hường đã thông báo một số kết quả nghiên cứu của mình về Lý thuyết ổn định trên dây đàn hồi tại Hội nghị Cơ học Quốc tế ở Vac-xa-va (Ba Lan). Kết hợp với Bộ Quốc phòng, các cán bộ Trường Đại học Xây dựng còn thiết kế và chỉ đạo thi công cầu Đăkrông, là chiếc cầu dây văng đầu tiên ở nước ta; nghiên cứu làm đường vượt qua bãi lầy ở A-Lưới đường Trường Sơn; nghiên cứu và sản xuất tấm lót sân bay dã chiến; nghiên cứu đề tài bê tông đá hộc để xây hầm trong núi cho pháo bờ biển và hầm chống bom xuyên. Các đề tài bảo đảm giao thông đường thủy được các thầy giáo Bộ môn Cảng Đường thủy thực hiện như đề tài Cảng dã chiến tạo bến cập nhanh chóng và hiệu quả bằng các vật liệu đơn giản, dễ kiếm (thanh ray hỏng, đá hộc...). Ngoài ra, một số đề tài về chỉnh trị sông cũng góp phần tích cực vào việc bảo đảm giao thông thời chiến. Những đề tài khoa học đặc thù khác đã được nghiên cứu ứng dụng trong thời kỳ chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ như: Nhà máy và bệnh viện trong hang núi của thầy giáo
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
Trương Tùng, Hoàng Huy Thắng; hàn khẩu đê khi đê bị ném bom phá hoại trong mùa lũ của thầy giáo Trịnh Trọng Hàn chủ trì đã được tiến hành thực nghiệm tại Hưng Yên, Hà Tây, Vĩnh Phú; Nghiên cứu chế tạo “Diều phòng không” để chống máy bay tầm thấp của Đế quốc Mỹ hoạt động ở các vùng đồng bằng ven biển do thầy giáo Phan Ngọc Châu chủ trì đã được ứng dụng ở vùng Vĩnh Linh, Thái Bình, Hà Nam và đã có tác dụng hạn chế được hoạt động của máy bay tầm thấp. Đã có 1 máy bay ném bom của giặc Mỹ bị vướng vào diều phòng không rơi xuống khu vực Ninh Bình. Ngoài ra còn có những đoàn sinh viên, thầy giáo tham gia thiết kế, thi công hệ thống đường ống dẫn xăng dầu vào miền Nam phục vụ chiến trường. Các đề tài phục vụ đào tạo Với phương châm dạy tốt, học tốt, chống dạy chay, coi trọng thực hành, rất nhiều bộ môn duy trì các bài thí nghiệm bằng cách đi thực tập ở hiện trường. Đặc biệt, một số bộ môn, khoa đã sáng tạo ra các bộ thí nghiệm di động thích hợp với thời chiến, có thể “xách tay” để đi phục vụ tại các địa điểm khác nhau, trong đó có thể kể đến: Bộ thí nghiệm thủy lực xách tay phục vụ sinh viên thực tập môn học tại nơi sơ tán của thầy Nguyễn Tài (Bộ môn Thủy lực); Sten (bộ thiết bị thí nghiệm thủy điện) do thầy giáo Đỗ Văn Chiêu (Bộ môn Thủy điện) chủ trì. Các đề tài phục vụ sản xuất Trường sơ tán về các địa phương nông thôn, thầy và trò đã phải đối mặt ngay với những vấn đề bức xúc của địa phương: ngập úng thường xuyên ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, nhân dân nghèo đói, đường xá lầy lội. Cán bộ giảng dạy Khoa Thủy lợi - Cảng đã nhanh chóng đi sâu vào nghiên cứu hệ thống công trình tiêu úng với trạm bơm “cột nước thấp” và hệ thống kênh mương thủy lợi.
Điển hình trong việc nghiên cứu này là thầy giáo Nguyễn Học Trí (Bộ môn Thủy lực) đã nghiên cứu thành công “bơm cột nước thấp” thích hợp với thực tế thiếu thốn vật tư, thiết bị, trình độ tay nghề thấp của cơ khí địa phương. Năm 1967, Trạm bơm Cầu Đào (Nhân Thắng, Gia Lương) đã được xây dựng. Đây là sản phẩm kết hợp giữa địa phương và nhà trường: Vỏ bơm xây bằng gạch đã hoạt động tốt đạt lưu lượng khoảng 1000m3/giờ với cột nước trên 1m, phục vụ kịp thời cho việc chống úng của xã Nhân Thắng. Năm 1967, Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Bộ trưởng Bộ Thủy lợi Hà Kế Tấn, Thứ trưởng Bộ ĐH&THCN Hoàng Xuân Tuỳ đã về thăm trạm bơm, khen ngợi các tác giả của trạm bơm. Sau đó hàng chục trạm bơm cột nước thấp đã được xây dựng ở Hà Bắc, Nam Hà... theo thiết kế của thầy giáo Nguyễn Học Trí. Các đề tài về trạm thủy điện nhỏ như: Thiết kế, chế tạo và lắp đặt tuốc bin nhỏ ở vùng Yên Thế; Thiết kế trạm thủy điện nhỏ dã chiến ở Nghệ An; Nghiên cứu tuốc bin Capxum, tuốc bin Banxi... phục vụ phát triển nông thôn, phục vụ chiến trường miền Nam đã được các thầy giáo Bộ môn Thủy công và Thủy điện - Khoa Thủy lợi - Cảng nghiên cứu và áp dụng có hiệu quả. Hai đề tài Nghiên cứu gạch không nung và Vì kèo thép tròn để xây dựng nhà, trường học do các thầy giáo Khoa Vật liệu và khoa Xây dựng thực hiện đã được ứng dụng ngay vào việc xây dựng các lớp học, phòng thí nghiệm của trường ở Hương Canh (1971 - 1983). Trong lĩnh vực xây dựng nhà, nổi bật có đề tài nghiên cứu xây dựng nhà lắp ghép tấm lớn, đáp ứng nhu cầu giải quyết nhà ở cho các khu dân cư ở Hà Nội. Nhóm nghiên cứu đề tài trên bao gồm các thầy giáo Phạm Sỹ Liêm (chủ trì), Trương Tùng, Hoàng Như Tầng, Đặng Đình Nguyệt (cán bộ kỹ thuật) cùng với nhóm cán bộ kỹ thuật của Sở Xây 37
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
dựng do Kỹ sư Nguyễn Thế Tú phụ trách. Sản phẩm đầu tiên của đề tài nghiên cứu là ngôi nhà lắp ghép 3 căn hộ 2 tầng được xây dựng vào năm 1970 tại khu tập thể của trường trong khuôn viên của phường Bách khoa. Đặc điểm của kết cấu lắp ghép là các tấm tường bê tông xỉ 40 x 60cm (diềm BTCT, dầm sàn và tấm mái là BTCT dạng có 5 sườn như tấm tường để giảm nhẹ trọng lượng). Kết quả nghiên cứu này đã được đánh giá cao, thu hút nhiều khách tham quan như: Đoàn của Ủy ban nhân dân và Thành ủy Hà Nội (do Bí thư Thành ủy Nguyễn Lam dẫn đầu), đoàn của Bộ Xây dựng, Ủy ban KTCB Nhà nước (do Phó Chủ nhiệm Ủy ban Bùi Văn Các dẫn đầu) và đặc biệt là đoàn của Tổng Bí thư Lê Duẩn, Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Với kết quả nghiên cứu, xây dựng nhà lắp ghép trên, các khu nhà lắp ghép tấm lớn đã được nhân rộng với quy mô lớn hơn, kết cấu có nhiều cải tiến ở các khu tập thể Văn Chương, Trương Định, Vĩnh Hồ... của Thủ đô Hà Nội. Đồng thời với đề tài nhà lắp ghép tấm lớn, nhiều đề tài phục vụ công trình xây dựng cũng được triển khai như nghiên cứu sử dụng vật liệu địa phương để sản xuất vật liệu xây dựng (gạch Laterit không nung bằng đất đồi, bê tông cát đen); xà gồ và tấm lợp xi măng lưới thép, sàn nhà bằng tấm xỉ nhẹ cách nhiệt, bê tông Asfalt, xi măng xỉ than, đất gia cố vôi làm mặt đường, cầu bê tông bán lắp ghép, định mức xây dựng cơ bản. Các cán bộ của trường còn tham gia các phương án kiến trúc Lăng Bác, Bảo tàng Hồ Chí Minh, nhà văn hóa huyện, nút giao thông cầu Thăng Long... Thầy giáo Nguyễn Xuân Đặng đã dẫn đầu đoàn tham gia lập luận chứng KTKT cho Nhà máy Thủy điện Hòa Bình trên sông Đà, nghiên cứu lập quy hoạch các công trình thủy lợi - thủy điện trên sông Lôgâm; thầy giáo Dương Quang Thành đã dẫn đầu đoàn tham gia quy hoạch nhà máy lọc dầu. Ngoài 38
ra cán bộ của trường còn tham gia nghiên cứu các phương án cầu Thăng Long bắc qua sông Hồng, các phương án khôi phục cầu đường sắt Bắc - Nam; nghiên cứu quy hoạch cấp huyện; nghiên cứu vận dụng những kiến trúc hiện đại dùng trong tương lai như kết cấu bản, vỏ, kết cấu mái nhà và nhà cao tầng, thang máy, kết cấu mái dầm nhịp lớn. Những đề tài có tính lý thuyết sâu cùng với việc ứng dụng máy tính điện tử trong nghiên cứu cũng đã được triển khai, trong đó người đầu tiên hoạt động tích cực trong lĩnh vực máy tính điện tử (thế hệ máy dùng bìa đục lỗ) là thầy giáo Trần Bình (Khoa Cầu đường). 2. Các đề tài đáp ứng nhiệm vụ khôi phục và xây dựng đất nước Sau khi thống nhất đất nước, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 37 về Đường lối chiến lược các hoạt động khoa học kỹ thuật của cả nước: “Mỗi trường đại học phải là một cơ sở giảng dạy, đồng thời là một cơ sở nghiên cứu khoa học”. Bám sát chủ trương của Đảng, Đại hội Đảng bộ trường lần thứ VI đã đề ra nhiệm vụ đi sâu nghiên cứu một số đề tài mũi nhọn của ngành phục vụ đất nước. Trong tình hình đó 4 hướng mũi nhọn đã được chọn là: Nghiên cứu VLXD thay thế, áp dụng vật liệu mới; Nghiên cứu kết cấu công trình mới; Nghiên cứu phương pháp tính toán, sử dụng các thiết bị xây dựng; Nghiên cứu quy hoạch xây dựng. Hướng hoạt động NCKH cũng được xác định là mở rộng diện phục vụ nhu cầu các địa phương phía Nam. Trong thực tế, hoạt động NCKH và phục vụ LĐXS đã hình thành được một số mũi nhọn khoa học của trường là: Tự động hóa và tối ưu hóa trong thiết kế kết cấu xây dựng;
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
Sử dụng vật liệu địa phương, vật liệu mới trong xây dựng; Thiết kế và xây dựng các công trình vượt sông bằng kết cấu mới; Xây dựng nền đường và mặt đường trong điều kiện khí hậu Việt Nam; Nghiên cứu thiết kế xây dựng công trình trên thềm lục địa; Xây dựng các công trình trên nền đất yếu; Nghiên cứu và phát triển khoa học về kiến trúc và xây dựng nhiệt đới; Tổ chức quản lý xây dựng cơ bản. Hoạt động NCKH đã bám sát thực tế, chú trọng cả 3 lĩnh vực: Nghiên cứu đào tạo, nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học đã được ứng dụng trong thực tế, phục vụ có hiệu quả trên các lĩnh vực: Quy hoạch và Xây dựng thành phố; giao thông vận tải đường bộ, đường sông; sản xuất các chủng loại VLXD; cải tạo điều kiện sản xuất ở các nhà máy, xí nghiệp; xây dựng cấp huyện, phát triển nông thôn và phục vụ quốc phòng. Những công trình NCKH tiêu biểu Nhiều công trình NCKH của trường đã được ứng dụng vào sản xuất, trong đó có các công trình được cấp bằng lao động sáng tạo; được thưởng huy chương trong các cuộc triển lãm kỹ thuật như: Thiết kế thi công cầu Đắkrông; quy hoạch đồng bằng sông Cửu Long; khảo sát công trình lọc dầu; nghiên cứu xác định chỉ tiêu, định mức trong XDCB... Trong những năm tiếp theo, hoạt động NCKH đã phát triển mạnh mẽ, bám sát các địa phương và cở sở sản xuất. Nhiều đề tài NCKH lần lượt được hình thành: Đề tài sử dụng cọc nhồi trong xây dựng; chống xói chân trụ cầu (ứng dụng vào cầu Việt Trì, cầu Chương Dương); sử dụng khí sinh học để
phát điện; chế tạo máy lưu tốc kế hiện số, máy xuyên tĩnh, máy ép gạch không nung, bơm trục nghiêng, bơm cột nước thấp, bơm cột nước cao; nghiên cứu mái nhà nhiệt đới; nhà ở đơn vị cân bằng sinh thái chống ô nhiễm môi trường; kỹ thuật thi công đường hầm và thi công đập thủy điện Hòa Bình; nghiên cứu cấu kiện nhỏ bê tông ứng lực trước... Ngoài ra, trong giai đoạn này hàng trăm công trình văn hoá, nhà ở, trường học, xí nghiệp do Trường Đại học Xây dựng thiết kế đã được xây dựng ở Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phú... Đặc biệt đối với Hà Nội, Trường ĐHXD đã hợp tác với Sở Nhà đất, Sở GTVT, Sở Thủy lợi, Sở Công an, Viện Quy hoạch, Viện Kỹ thuật xây dựng, Viện Kinh tế xây dựng để giải quyết các vấn đề do yêu cầu thực tế sản xuất đề ra. Nói tóm lại, hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học của nhà trường rất đa dạng, bám sát các yêu cầu của xã hội và nhiệm vụ phát triển kinh tế, bảo vệ Tổ quốc.
IV. CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI Trong những năm 1966 - 1975, thời kỳ trường đi sơ tán, các mối quan hệ hợp tác về đào tạo và NCKH được triển khai chủ yếu với các địa phương tại vùng sơ tán, các đơn vị chuyên ngành xây dựng. Các mối quan hệ hợp tác này được tiến hành hoàn toàn với tinh thần xã hội chủ nghĩa, đạt hiệu quả rất lớn. Hầu như tất cả các tỉnh trên miền Bắc, các Bộ, các ngành có chuyên môn liên quan đều có các đoàn công tác của thầy trò Trường Đại học Xây dựng. Có một số đoàn ban đầu là biệt phái, sau đó trở thành cán bộ lâu dài của địa phương, của đơn vị đó. Trường đã được đón tiếp nhiều đoàn cán bộ lãnh đạo Đảng và Nhà nước như đoàn của Thủ tướng Phạm Văn Đồng (1967), của Phó Thủ tướng Đỗ Mười (1972)... về thăm và làm việc tại nơi sơ tán để tận mắt chứng kiến các hoạt động dạy và học của trường. 39
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Đoàn của Giáo sư Laurent Schwarz, nhà toán học nổi tiếng của Cộng hòa Pháp, Chủ tịch Hội Toán học thế giới, sau khi đi thăm lớp học ở Khoa Thủy lợi - Cảng về nước đã viết trên một tờ báo của Pháp: “Tôi đến một lớp học ẩn trong một ngôi nhà bao quanh là tường đất, với những dẫy bàn ghế bằng tre. Một thầy giáo trẻ đang giảng cho sinh viên về phương trình Euler, phương trình vi phân đạo hàm riêng cho dòng chảy đều trong kênh hở. Thật tuyệt vời !”. Đầu năm 1969, một đoàn gồm các giáo sư của Trường Đại học Xây dựng Matxcơva (MISI) do Phó Trưởng khoa Silinski dẫn đầu đến thăm trường và ký kết các văn bản ghi nhớ về trao đổi học thuật, hợp tác NCKH, về hỗ trợ tài liệu và phương tiện giảng dạy, nhận NCS, thực tập sinh. Đoàn đại biểu CHDCND Triều Tiên đã đến thăm Phòng Thí nghiệm Tổng hợp ở Cầu Đào và trao đổi những vấn đề về học thuật. Đoàn đại biểu Cuba đã đến thăm trường ở Hương Canh (Vĩnh Phú) để tìm hiểu và trao đổi hợp tác. Năm 1970, trường cử 2 thầy giáo Đỗ Quốc Sam và Trần Bình sang dự hội nghị khoa học tại Weimar. Khi về nước thầy Trần Bình đã mang về nhiều tài liệu sử dụng máy tính điện tử trong xây dựng, nhờ vậy đã thành lập Bộ môn Máy tính năm 1970. Đến tháng 5-1979, Hiệu trưởng Đỗ Quốc Sam và Bí thư Đảng ủy Nguyễn Xuân Trọng đã đi dự Lễ Kỷ niệm ngày thành lập Trường Đại học Kiến trúc Weimar và thăm Trường Đại học Xây dựng vừa học vừa làm Coocbut của CHDC Đức.
V. XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ 1. Xây dựng đội ngũ cán bộ giảng dạy Phát triển đội ngũ Khi thành lập trường, đã có một đội ngũ cán bộ giảng dạy tương đối hoàn chỉnh về 40
ngành nghề và vững về chuyên môn, một tài sản vô cùng quý giá do Khoa Xây dựng của Trường ĐHBK để lại. Tuy nhiên điều đó vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác đào tạo và NCKH trong giai đoạn mới. Một vấn đề cấp bách được đặt ra cho lãnh đạo nhà trường là phải tạo nguồn bổ sung. Nguồn bổ sung chủ yếu lúc này là sinh viên tốt nghiệp các khóa 7, 8 của trường cùng một số sinh viên tốt nghiệp ở Liên Xô, các nước Đông Âu, Cuba, Trung Quốc về nước. Sau một năm, đến 1967 trường đã có 286 CBGD. Ngoài ra, trường còn chủ trương tuyển chọn một số sinh viên Khóa 11 học hết năm thứ nhất, đưa đi đào tạo tại Trường Đại học Tổng hợp, Trường Chính trị của Bộ để đào tạo giáo viên Toán, Lý, Hóa và Lý luận Mác - Lênin. Trường Đại học Xây dựng là nơi có Bộ môn Hình học Họa hình và Bộ môn Sức bền vật liệu mạnh. Vì vậy, Bộ ĐH và THCN đã giao cho trường mở 2 lớp đào tạo giáo viên để bổ sung cho trường và các trường đại học kỹ thuật khác. Lớp Sức bền vật liệu có 30 sinh viên, lớp Hình học Họa hình có 27 sinh viên. Các cán bộ giảng dạy trẻ này đã bổ sung và hỗ trợ rất nhiều cho các bộ môn thuộc các trường bạn, nhất là sau ngày thống nhất đất nước. Cùng với việc tiếp tục nhận một số sinh viên tốt nghiệp ở nước ngoài về bổ sung cho các bộ môn, trường còn cử nhiều CBGD đi đào tạo trình độ trên đại học ở các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Đến năm 1970, trường đã có 384 CBGD đạt yêu cầu về trình độ và tương đối đồng bộ về chuyên ngành, đảm bảo thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị được giao. Năm 1976, đội ngũ trên đã phát triển lên 500, trong đó có hơn 100 người có trình độ phó tiến sĩ và tương đương. Tháng 11-1980, Bộ Đại học và THCN quyết định sáp nhập Trường Đại học Xây dựng vừa học vừa làm vào trường Đại học Xây dựng. Được thành lập năm 1971,
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
Trường Đại học Xây dựng vừa học vừa làm có trụ sở tại Phường Phúc Xá (Quận Ba Đình) và Phường Đồng Tâm (Quận Hai Bà Trưng), Hiệu trưởng của trường là thầy Lưu Quang Trí, nguyên là CBGD trường ĐHXD. Khóa tuyển sinh đầu tiên tương đương với khóa 16 của trường ĐHXD (năm 1971). Trước khi sáp nhập trường đã tuyển sinh được 9 khóa và đào tạo gần 1000 kỹ sư Xây dựng Dân dụng và Công nghiệp. Với việc trường Đại học Xây dựng vừa học vừa làm sáp nhập, đội ngũ cán bộ của trường ĐHXD được bổ sung thêm hơn 200 CBGD và cán bộ hành chính, trong đó có thầy Nguyễn Văn Hùng sau này là Hiệu trưởng nhiệm kỳ 2004 - 2009. Sau khi miền Nam được giải phóng, trường ĐHXD được Bộ ĐH&THCN giao nhiệm vụ chi viện CBGD cho một số trường đại học phía Nam. Thực hiện nhiệm vụ này, năm 1976 hơn 60 cán bộ trong đó có 14 phó tiến sỹ và năm 1977 có 17 cán bộ được điều đi tăng cường cho các tỉnh miền Nam. Cũng trong thời kỳ này, 48 cán bộ của trường cũng được điều đi tăng cường cho các trường phía Bắc. Do vậy đến năm 1983 trường chỉ còn 450 CBGD. Nâng cao trình độ chuyên môn Xây dựng đội ngũ CBGD có trình độ là điều kiện quyết định chất lượng đào tạo và NCKH. Do đó, ngay sau khi thành lập trường, trong hoàn cảnh sơ tán thiếu thốn, khó khăn chồng chất, nhà trường vẫn cử nhiều CBGD đi thực tập sinh, NCS ở nước ngoài một cách đều đặn. Song song với việc trên, nhà trường còn tăng cường bồi dưỡng cán bộ thông qua nhiều hình thức khác nhau như mở các lớp bồi dưỡng chính trị, nguyên lý phương châm giáo dục của Đảng, mở các lớp chuyên đề bổ túc kỹ sư..., phát động phong trào thi đua phấn đấu trở thành “Tổ lao động XHCN”; tiến hành tổ chức “Hội nghị dạy tốt”.
Mặt khác, trình độ chuyên môn của đội ngũ CBGD còn được nâng cao thông qua việc tham gia các đề tài NCKH và thực hiện các hợp đồng lao động sản xuất. Đội ngũ CBGD của trường đã đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ đào tạo và NCKH, nhưng còn phải tiếp tục bồi dưỡng lớp trẻ kế cận để thực hiện những nhiệm vụ của sự nghiệp đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật cho công cuộc xây dựng đất nước. Năm 1980, lần đầu tiên Nhà nước chính thức tiến hành phong học hàm, 19 thầy giáo của Trường Đại học Xây dựng được phong đợt đầu tiên. Đó là các Giáo sư và Phó giáo sư: Nguyễn Văn Hường, Đỗ Quốc Sam, Đặng Hữu, Nguyễn Xuân Đặng, Lê Văn Thưởng, Lều Thọ Trình, Nguyễn Đình Điện, Nguyễn Trâm, Trần Ngọc Chấn, Lê Thạc Cán, Nguyễn Văn Đạt, Hà Huy Cương, Vũ Văn Tảo, Hoàng Văn Tân, Trương Quang Thao, Võ Văn Thảo, Nguyễn Xuân Trường, Nguyễn Văn Tuyên, và Nguyễn Văn Yên. Nhiều cán bộ của Trường Đại học Xây dựng đã được Nhà nước giao những nhiệm vụ lãnh đạo và quản lý quan trọng. Ở cấp Nhà nước: Giáo sư Đỗ Quốc Sam được cử làm Chủ nhiệm UBXDCB Nhà nước (1982) sau này tiếp tục là UV TW Đảng, Chủ nhiệm UBKH Nhà nước, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Giáo sư Nguyễn Văn Hường đại biểu Quốc hội khóa 4, sau được cử làm Phó Chủ nhiệm Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng (Văn phòng 10 HĐBT); Giáo sư Đặng Hữu được cử làm Thứ trưởng Bộ ĐH&THCN, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước, sau đó là UV TW Đảng, Bộ trưởng Bộ Khoa học công nghệ và Môi trường, Trưởng Ban Khoa giáo Trung ương; GS Phạm Ngọc Đăng được cử làm Tổng thư ký Hội đồng Học hàm Nhà nước; PTS Phạm Sỹ Liêm được cử làm Thứ trưởng Bộ Xây dựng. 41
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Ở cấp Thành phố: PTS Lê Ất Hợi là Chủ tịch UBNDTP Hà Nội; PGS. PTS Trương Tùng và PTS Phạm Sỹ Liêm là Phó Chủ tịch UBNDTP Hà Nội; Ở cấp Bộ: nhiều thầy giáo và cán bộ của trường được cử giữ chức Vụ trưởng, Vụ phó, Cục trưởng: Phạm Duy Bình, Vũ Văn Tảo, Lê Thạc Cán, Trần Trung Ý, Nguyễn Công Chi, Nguyễn Bắc Việt, Nguyễn Xuân Đặng, Lê Văn Thưởng... Ở các địa phương: Một số thầy giáo đã được cử làm Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng các trường đại học, trung cấp như: các thầy giáo Hà Trình, Trương Minh Vệ, Huỳnh Xuân Đình, Phan Tấn Hài, Hồ Minh Quế, Bùi Văn Duyên... 2. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công nhân viên Khi thành lập trường, ngoài 900 sinh viên của các khóa trước từ ĐHBK chuyển sang, trường tuyển 970 sinh viên Khóa 11. Trong khi đó, đội ngũ CBCNV chỉ có hơn 50 người nên gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện một khối lượng công việc rất lớn. Trong hoàn cảnh đó, nhà trường đã thực hiện tốt công tác dân vận, dựa vào nhân dân địa phương để giảm bớt khó khăn về ăn ở cho CBCNV và sinh viên.. Mặt khác, nhà trường đã nhanh chóng phát triển đội ngũ CBCNV của trường. Nguồn cán bộ bổ sung chủ yếu là các sinh viên tốt nghiệp Khóa 7, 8... cùng một số sĩ quan quân đội, cán bộ, đội viên TNXP và công nhân nhà máy phân đạm Hà Bắc chuyển về trường. Đến cuối năm 1967, bộ máy quản lý hành chính của trường đã tương đối đủ người, bước đầu thực hiện tốt nhiệm vụ được phân công. Ngoài việc bổ sung đội ngũ, nhà trường còn quan tâm đến việc nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, chính trị, thường xuyên chăm lo bồi dưỡng nghiệp vụ cho CBCNV như mở các lớp bổ túc văn hóa, mở 42
lớp chính trị sơ cấp, trung cấp, cử một số CBCNV đi học chuyên môn (nấu ăn, y bác sỹ phòng bệnh, truyền thanh, đánh máy chữ..) lựa chọn một số CBCNV đi học đại học tại chức tại trường để có đủ trình độ phục vụ công tác quản lý.
VI. XÂY DỰNG CƠ SỞ VẬT CHẤT PHỤC VỤ CHO ĐÀO TẠO, NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 1. Xác định địa điểm cho các đơn vị của trường ở nơi sơ tán Khi có quyết định thành lập trường, trong bối cảnh của cuộc chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ ở miền Bắc đang diễn ra rất ác liệt, tư tưởng chị đạo của Ban Trù bị thành lập trường về địa điểm sơ tán của trường là gần Hà Nội, cách xa khu công nghiệp và đường quốc lộ, nhưng phải đi lại thuận tiện. Sau khi cân nhắc, Ban Trù bị thành lập trường quyết định chọn 2 địa điểm sơ tán của trường là huyện Gia Lương và huyện Quế Võ (tỉnh Hà Bắc cũ nay là tỉnh Bắc Ninh) và phân chia nơi tập kết cho các đơn vị như sau: Tại huyện Quế Võ có các đơn vị: - Hiệu bộ (gồm: BGH, Đảng ủy và các phòng ban) ở thôn Quế Ổ. - Khoa Cầu Đường ở Bồng Lai, Trúc Ổ. - Khoa Kiến trúc đô thị ở Mai Thôn. - Khoa Cơ bản ở Đô Đàn. Tại huyện Gia Lương có các đơn vị: - Khoa Xây dựng ở Tiểu Than. - Khoa Thủy lợi - Cảng ở Cầu Đào. - Khoa Máy xây dựng ở Ngõ Cương. - Khoa Tại chức - Kinh tế xây dựng ở Huề Đông. Tại Hà Nội (khu A), trường chỉ để lại một bộ phận thường trực.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
I Thôn Quế Ổ - Nơi Trường ĐHXD sơ tán (1966 - 1970)
I Hương Canh - Nơi Trường ĐHXD sơ tán (1970 - 1983)
43
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
I Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến thăm Trường ĐHXD năm 1967
I Đại hội Mừng công năm học 1967 - 1968 44
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
I Đại hội Mừng công năm học 1967 - 1968
I Làm đồ án tốt nghiệp trong lớp học phòng không (1967) 45
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
I Phó Thủ tướng Đỗ Mười đến thăm Xưởng Vật liệu (1972)
I Đoàn đại biểu Trường ĐHXD Matxcơva (MISI) thăm trường nơi sơ tán (1968)
46
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
I Giáo sư Liên Xô với Bộ môn Kiến trúc
I Giáo sư Liên Xô thăm Phòng Thí nghiệm Sức bền vật liệu
47
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
2. Xây dựng trường ở nơi sơ tán Gia Lương, Quế Võ và tìm địa điểm mới Với phương châm “Tự lực cánh sinh và dựa vào dân”, toàn trường đã nhanh chóng xây dựng các lớp học, nhà ăn, nhà ở cho các khoa bằng vật liệu tranh tre, tường đất nửa chìm nửa nổi để phục vụ cho gần 1500 sinh viên các khóa 8, 9, 10 của Khoa Xây dựng thuộc ĐHBK chuyển về và cho trên 3700 sinh viên hệ tập trung (trong đó có 975 sinh viên hệ tại chức và 50 NCS-TTS). Bằng sự nỗ lực vượt bậc của cán bộ và sinh viên toàn trường cùng với sự giúp đỡ hết lòng của nhân dân địa phương nơi sơ tán, chỉ trong một thời gian ngắn, đến cuối năm 1966, trường đã tự xây dựng một “cơ ngơi” tạm ổn định để giảng dạy, học tập và đón khóa mới (K11). Riêng khu Hiệu bộ đóng tại thôn Quế Ổ (Quế Võ) đã xây dựng được: Khu văn phòng Ban Giám hiệu, Đảng ủy, Đoàn Thanh niên, Công đoàn; khu trạm xá bao gồm phòng khám, phòng điều trị, bếp ăn; nhà trẻ, nhà ăn tập thể, nhà ăn Hiệu bộ; khu làm việc của Phòng Thiết kế và các phòng, ban của trường; hội trường 300 chỗ, có thể biểu diễn văn nghệ, hội họp lớn. Đại hội Đảng bộ Trường ĐHXD lần thứ Nhất (2/1967) đã đánh giá: “Cán bộ, CNV và sinh viên đã nêu cao tinh thần làm chủ tập thể, tinh thần tự lực cánh sinh, lao động dũng cảm và đầy sáng tạo nên đã vượt qua nhiều khó khăn, hoàn thành tốt công tác xây dựng trường sở... đảm bảo cho việc giảng dạy học tập và hoạt động bình thường trong tình hình mới”. Tiếp tục mở rộng địa bàn trường Sau Tết Mậu Thân (1968), cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã chuyển sang giai đoạn mới, Bộ ĐH&THCN đã chỉ thị cho trường tìm địa điểm tập trung, khắc phục tình trạng phân tán tránh ảnh hưởng đến 48
công tác đào tạo. Trong thời gian này, Bộ Chính trị có chủ trương mở rộng Hà Nội về phía Phúc Yên - Xuân Hòa (thuộc tỉnh Vĩnh Phú, nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc). Bộ ĐH&THCN và Bộ Kiến trúc đã thỏa thuận để 7 trường đại học quan trọng nhưng chưa có cơ sở vật chất đáng kể ở Hà Nội sẽ nằm tại Xuân Hòa thành phố vệ tinh của Thủ đô. Biết được định hướng này của Bộ, đầu năm 1969 một tổ công tác do thầy giáo Phạm Ngọc Đăng phụ trách, một lần nữa lại đi tìm nơi tập trung trường và xin được địa điểm tạm thời tại xã Tiền Phong, thuộc huyện Mê Linh, cách Chèm 5km. Do diện tích đất hẹp không đủ điều kiện để tập kết toàn bộ trường tại địa điểm này, nên sau khi nghiên cứu bản đồ và đi thực địa, Đảng ủy và BGH đã quyết định chọn Hương Canh thuộc huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phú. Địa điểm này có những ưu điểm gần khu Hà Nội mở rộng (Xuân Hòa - Phúc Yên), gần tuyến giao thông đường bộ, đường sắt và chỉ cách trung tâm Hà Nội 50km. Cuối cùng, địa điểm Hương Canh đã được Bộ ĐH&THCN đồng ý và tỉnh Vĩnh Phú ủng hộ. Để đáp ứng yêu cầu về vật liệu xây dựng trường mới, nhà trường đã thành lập công trường khai thác tre, nứa tại vùng Long Hồ, Thác Bà ở Yên Bái, do đồng chí Nguyễn Ngọc Tế làm Trưởng ban chỉ huy và một số cán bộ giúp việc. Lực lượng khai thác vật liệu là sinh viên, cán bộ và giáo viên lần lượt lên công trường lao động. Do vậy nhà trường đã có nguồn vật liệu đáp ứng kịp thời cho việc xây dựng cơ sở mới. Hè 1969, tại khu C (Tiền Phong, Mê Linh, Vĩnh Phú) trường đã tuyển 700 sinh viên Khóa 14. Khóa sinh viên này đã học tập 2 năm đầu tại đây do Khoa Cơ bản quản lý, sau đó chuyển về các khoa chuyên ngành tại Hương Canh.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
3. Trường Đại học Xây dựng tập trung về Hương Canh
1 triệu viên) nhờ đó nhà trường đã có trên 2 vạn m2 nhà tranh tre và 1,1 vạn m2 nhà ngói.
Đầu năm 1970, trường đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ sở ở Hương Canh và bắt đầu chuyển dần các cơ sở từ Gia Lương, Quế Võ về địa điểm mới. Đến cuối năm 1971 khu Quế Ổ và Cầu Đào chỉ còn lại một bộ phận nhỏ của Hiệu bộ và Khoa Thủy lợi - Cảng.
Trong hai năm 1971 - 1972 đã xảy ra liên tiếp hai vụ thiên tai và địch họa gây nhiều tổn thất và khó khăn cho Trường Đại học Xây dựng. Đó là:
Năm 1971, việc xây dựng khu Hương Canh được coi là công tác đột xuất và trọng tâm của nhà trường. Thực hiện chủ trương này, một mặt thầy trò lại tiếp tục lên Yên Bái, Tuyên Quang khai thác vật liệu, mặt khác mở công trường sản xuất VLXD. Nhờ vậy mà hàng vạn m2 nhà tranh tre và bán kiên cố đã được xây dựng đảm bảo đủ chỗ ăn, ở, học tập, làm việc và sinh hoạt cho gần 5000 sinh viên, cán bộ và con em gia đình cán bộ. Đến cuối năm 1971, trường đã chuẩn bị đủ cơ sở vật chất tối thiểu (bằng tranh tre là chính) để tập trung dần cả trường về Hương Canh. Đến cuối năm 1976, tại Hương Canh đã có 4000 sinh viên, gần 1000 cán bộ công nhân viên và gia đình (200 gia đình cán bộ), thêm vào đó 1000 sinh viên Khoa Xây dựng từ Chèm do yêu cầu quản lý cũng tập trung lên Hương Canh. Việc lo đủ các nhu cầu về ăn, ở, học tập và làm việc cho gần 6000 người là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn, phức tạp. Hơn thế nữa, trường tuy đã ở Hương Canh nhưng tất cả nhu cầu về ăn ở và học tập, nghiên cứu phải vận chuyển từ Hà Nội lên trong khi quy mô tuyển sinh ngày càng tăng. Vì thế, chỉ có thể phát động tinh thần tự lực cánh sinh, cùng nhau lao động sáng tạo, mọi người đều chung vai gánh vác mới có thể vượt qua được giai đoạn khó khăn này. Kết quả đến năm 1976, trường tự sản xuất được nửa triệu viên gạch, xây mới 3000m2 nhà cấp 4 và 2 giếng khoan. Năm 1977 số gạch sản xuất đã tăng gấp đôi (hơn
- Vỡ đê năm 1971 ở Hà Bắc Năm 1971, lũ lớn trên sông Hồng, sông Đuống đã gây ra thảm họa vỡ đê Cống Thôn và kênh Vàng. Ở Gia Lương có 3 khoa bị ngập nặng là Khoa Xây dựng, Khoa Thủy lợi và Khoa Cơ khí xây dựng. Các khoa đã chủ động cùng nhân dân địa phương chống lũ, đồng thời cử người vượt lũ về Hà Nội xin cứu viện. Sau một số ngày đêm trong vùng ngập nước, Bộ đã hỗ trợ trường đưa được thuyền đến đón một số cán bộ và sinh viên về Hà Nội tạm trú, cán bộ và sinh viên lại cùng nhân dân 3 thôn Tiểu Than, Cầu Đào, Huề Đông khắc phục hậu quả, chuyển tài sản, sách thư viện về Hương Canh. Trận lũ tuy lớn nhưng nhờ khâu chuẩn bị chu đáo, ứng phó kịp thời nên đã không xảy ra hậu quả đáng kể đối với trường. Ngoài một số sách thư viện bị hỏng nát, hầu hết tài sản, thiết bị thí nghiệm đã được bảo quản tốt. Nhiều tấm gương tiêu biểu tham gia chống lũ của các thầy cô giáo và sinh viên đã được tuyên dương. - Mỹ ném bom Trường Đại học Xây dựng Đầu năm 1972, toàn trường đã tập trung về Hương Canh (trừ Khoa Tại chức vẫn ở Chèm, xã Tiền Phong, huyện Mê Linh). Việc học tập, giảng dạy, làm việc đã bước đầu đi vào ổn định. Nhưng lúc này đang thời kỳ Mỹ ném bom đánh phá miền Bắc ác liệt. Cả miền Bắc tập trung sức người, sức của chi viện cho miền Nam và đánh trả cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ. Một lần nữa trường lại đưa sinh viên “xuống đường” tham gia đảm bảo giao thông trên tuyến đường 1B (Đồng Đăng - Thái Nguyên). Ở trường chỉ 49
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
còn lại các phòng ban chức năng làm việc và một số ít sinh viên không thể tham gia cùng đoàn được.
với quyết tâm không để gián đoạn nhiệm vụ giảng dạy và học tập trong bất cứ tình huống nào.
Việc Mỹ đánh phá trở lại miền Bắc, Nhà trường đã thông báo và triển khai đào hệ thống giao thông hào liên hoàn dài gần 4 km quanh trường, củng cố lại hầm trú ẩn tại các khu nhà ở, lớp học. Ban Giám hiệu phân công trực chỉ huy, có chòi quan sát báo động. Lúc 10h30’ sáng Chủ nhật ngày 10/9/1972, nhiều tốp máy bay địch xuất hiện, chòi quan sát đánh kẻng báo động, mọi người đã kịp xuống hầm trú ẩn. Tuy nhiên, do các mục tiêu đánh phá địch đã chuẩn bị trước, chúng dùng bom đánh chặn 3 con đường vào trường và các cơ sở xây bằng gạch ngói, khu tranh tre nứa lá và dọc các giao thông hào chúng dùng bom cháy, bắn rocket... Vì thế nhiều nhà cửa, cơ sở vật chất bị phá hủy, 61 cán bộ và sinh viên đã hy sinh.
Đầu năm 1973, Hiệp định Paris được ký kết, trường lại một lần nữa tập trung về Hương Canh. Bộ ĐH&THCN có Chỉ thị: “Trường cần xin vốn và vật tư để xây dựng tạm cho một thời gian nhất định ở địa điểm tạm thời hiện nay của trường bằng tranh, tre hoặc một tầng lắp ghép tùy theo khả năng của trường”. Theo sự chỉ đạo của Bộ, trường đã xin được cấp vốn xây dựng nhưng trước mắt để có thể đón sinh viên Khóa 18 và Khoa Cầu đường còn ở nơi sơ tán (Hệ Dưỡng gần bến đò Chèm) về Hương Canh, Nhà trường đã khẩn trương dựng các nhà bằng tranh tre nứa lá; huy động 3500 ngày công lao động để san lấp hố bom, đào bom nổ chậm, thu dọn nhà cửa đổ nát, sửa chữa đường đi lại, đào rãnh thoát nước..., khôi phục và xây mới 13.000m2 nhà bán kiên cố, 23.000m2 nhà tranh tre gồm lớp học, phòng thí nghiệm, xưởng và phòng làm việc của Hiệu bộ. Ngoài ra, trường còn tiến hành xây dựng các nhà ăn tập trung với quy mô từ 500 đến 700 người; xây dựng hệ thống điện với trạm điện 320KVA, xây dựng 2 trạm giếng khoan và hệ thống cấp nước cho toàn trường. Song song với những việc trên, nhà trường còn tích cực chuẩn bị kế hoạch xây dựng khu tập kết của trường với những công trình kiên cố khi tình hình cho phép (Nghị quyết Đại hội Đảng bộ trường lần thứ IV - tháng 12/1972).
Ngay sau khi máy bay Mỹ đánh phá, lãnh đạo nhà trường đã triển khai việc giải quyết cứu nạn, cấp cứu, tìm kiếm người mất tích, chôn cất người tử vong. Trường Đại học Kỹ thuật Quân sự, cơ quan huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phú đã kịp thời đến ứng cứu. Các cơ quan tỉnh Vĩnh Phú đã tạo mọi điều kiện cần thiết giúp đỡ trường. Sự chỉ đạo cụ thể và quyết đoán của lãnh đạo nhà trường và tinh thần khẩn trương tích cực của CBCNV có mặt tại Hương Canh đã giải quyết hậu quả một cách nhanh chóng và chu đáo. Trường đã xin phép địa phương cho lập một nghĩa trang riêng tại vùng đồi Hương Canh để chôn cất 61 cán bộ công nhân viên, sinh viên hy sinh ngày 10/9/1972. Sau trận đánh phá của máy bay Mỹ, toàn trường đã tạm thời rút khỏi khu tập trung Hương Canh, phân tán nhỏ về các thôn xã của hai huyện Mê Linh và Yên Lạc. Thầy và trò lại dựng lớp học, nhà ăn, đào hầm... 50
Bằng sự cố gắng nỗ lực của toàn thể cán bộ và sinh viên, đến cuối năm 1973, nhà trường đã sửa chữa được gần 10.000m2 nhà ở, lớp học, xây dựng mới thêm được 800m2 nhà lá và nhà cấp 4, hai hệ thống điện và một hệ thống bơm nước (Báo cáo Đại hội Đảng bộ trường lần thứ V - tháng 4/1974). Cùng thời gian này, nhờ sự chuẩn bị tốt về cơ sở vật chất, nhà trường đã cơ bản hoàn
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
thành việc tập trung gần 3000 cán bộ, sinh viên và gia đình cán bộ về lại Hương Canh. Riêng Khoa Tại chức chuyển về tiếp quản khu Chèm (khu C) để quản lý sinh viên tại chức và dự bị đại học. Cuộc sống, sinh hoạt văn hóa tinh thần Từ Hà Nội tới ga Hương Canh khoảng 50km, vào đến trường thêm 1,5km nữa. Cuối tuần nhiều sinh viên, thầy cô giáo lại cùng tất tả ra tầu về xuôi và tối Chủ nhật lại ngược tàu Hà Nội - Lào Cai để về trường kịp có mặt cho buổi làm việc đầu tuần. Có thầy cô giáo hàng tuần vẫn đạp xe gần 50km qua tuyến đường Chèm để về Hà Nội. Trên diện tích khoảng 50 ha này, các công trình tuy chủ yếu là nhà cấp 4 mái ngói hoặc lá cọ, vách đất đơn sơ nhưng được bố trí khá đầy đủ các hạng mục của một trường đại học với khu Hiệu bộ, giảng đường, phòng thí nghiệm, y tế, nhà ăn, sân thể thao, sân khấu ngoài trời và khu vực các khoa được quy hoạch rất hợp lý. Từ ngoài Gò Héo vào là khu Xưởng Cơ, Khoa Cơ bản, Khoa Cầu đường, Khoa Kinh tế, Khoa Thủy lợi, Khoa Kiến trúc và Khoa Xây dựng; đi thẳng bên trái là sân khấu nổi, bên phải là sân vận động; ở quả đồi trước mặt là 2 khoa Máy xây dựng và Vật liệu xây dựng và Kỹ thuật vệ sinh. Đan xen giữa các quả đồi dưới bóng cây bạch đàn, lá reo vi vu và các thung lũng lúa, nương sắn tạo nên không khí yên lành của miền đất trung du. Trong hoàn cảnh khó khăn chung của đất nước, có giai đoạn cả thầy và trò phải ăn bo bo (mỳ hạt), bánh bột mỳ luộc thay cơm. Nhà trường đã vận động thầy và trò cùng tăng gia sản xuất, trồng sắn tại xã Hương Sơn (năm 1981) để cải thiện đời sống. Vượt lên trên cái đói, cái rét là tình yêu cuộc sống, là tình cảm gắn bó thầy trò. Thầy cô giáo nhớ tên tất cả các trò trong lớp, trong khoa, chia sẻ khó khăn với học trò như
những người thân. Những kiến thức của các thầy cô trở về từ Liên Xô, Trung Quốc, các nước Đông Âu, Cu Ba... như những hạt giống quý gieo niềm tin, khát vọng cho sinh viên về đất nước Việt Nam tươi đẹp trong tương lai. Chương trình học tập rất nặng, thi cử nghiêm túc. Sinh viên còn nhớ mãi những ngày cùng nhau thắp đèn dầu học thâu đêm. Trong khó khăn, vất vả lại càng toát lên tính sôi nổi, nhiệt tình, yêu đời của sinh viên xây dựng. Các buổi chiều cả trường nhộn nhịp hoạt động thể thao bóng đá, bóng chuyền. Buổi tối không bao giờ vắng những lời ca tiếng hát trên thảm cỏ sân trường. Bạn bè chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, cùng quây quần quanh nồi mỳ, sắn luộc, cùng say sưa hát với cây đàn ghi-ta trong những đêm trăng. Các cán bộ Đoàn Thanh niên, Phòng Tuyên huấn hăng say hoạt động. Sẽ còn nhớ mãi các buổi chiếu phim tại Sân khấu nổi với thuyết minh của cán bộ nhà trường, các đêm hội diễn văn nghệ, vở kịch “Con cáo và chùm nho” (Aesop) rất hấp dẫn...với sự tham gia của các thầy cô giáo và sinh viên. Các bài hát về Trường Đại học Xây dựng, về vùng đất Hương Canh do các thầy Trương Hùng Cường, Hoàng Phúc Thắng, Nghiêm Quang Hà sáng tác với giọng hát truyền cảm của Vũ Anh Dũng sinh viên K22 Vật liệu đã đóng góp không nhỏ vào việc hun đúc tình yêu mái trường, động viên tinh thần vượt lên mọi gian khó của thầy và trò. Nhà trường cũng nhận được nhiều tình cảm của người dân địa phương xung quanh, cùng đùm bọc, giúp đỡ cán bộ, sinh viên. Những gia đình như bà Bủ, ông Ban, ông Hía, bà Tiệp..., nhân dân xóm Gò Héo, xã Quất Lưu, cán bộ nhà ga Hương Canh, xí nghiệp xì dầu Hương Canh đã giúp đỡ 51
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
nhà trường và để lại nhiều dấu ấn tình cảm trong sinh viên và cán bộ. Mười năm ở Hương Canh là dấu ấn không thể phai mờ, mãi mãi là ký ức đẹp
về tình thầy trò, tình bạn và tình yêu cuộc sống. Mỗi khi có cơ hội là “chất” Hương Canh lại lan toả, bay cao với một thế hệ sinh viên, cán bộ đã gắn bó với nơi này.
“Trời cao trong xanh, Miền quê trung du Bạch đàn reo vi vu, Đưa hương gió mùa thu. Chốn đây mái trường, Thân thương dịu hiền, Như một tình yêu tha thiết”.
Anh hùng Liệt sỹ Bùi Ngọc Dương sinh viên Khóa 7 ngành Cầu đường
52
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
Liệt sỹ Lê Văn Huỳnh Sinh viên K13 khoa Cầu đường
Bức thư “Gửi tới mai sau” của Liệt sỹ Lê Văn Huỳnh - Sinh viên K13 khoa Cầu đường được lưu giữ trong Bảo tàng Thành cổ Quảng Trị
53
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Công trình nghiên cứu và ứng dụng cầu cáp 2 dây cho ôtô vượt sông, suối trên tuyến vận tải chiến lược 559 do thầy giáo Nguyễn Văn Hường cùng một số nhà khoa học của các trường Đại học, các kỹ sư thuộc Bộ Quốc phòng và Bộ Giao thông Vận tải thực hiện
I Thủ tướng Phạm Văn Đồng và thầy giáo Nguyễn Văn Hường
54
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
I Lên đường đánh Mỹ (Hương Canh 5/1972)
I Giặc Mỹ ném bom Trường ĐHXD (10/9/1972) 55
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
I Nhanh chóng ổn định đảm bảo công tác đào tạo không bị gián đoạn
I Đào tạo sỹ quan dự bị
56
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
I Lễ ra quân “Xuống đường” đảm bảo giao thông (1972)
I Cán bộ, sinh viên Khoa Cầu đường “Xuống đường” tham gia khôi phục cầu đường bị giặc Mỹ ném bom phá hoại
57
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
I Trường ĐHXD nhận lẵng hoa của bác Tôn Đức Thắng (1974)
I Nghiệm thu đề tài NCKH phục vụ quân đội của các thầy giáo Khoa Xây dựng (1973)
58
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
I Xưởng sản xuất gạch đất đồi không nung
I Nhà trẻ tại Hương Canh (1971)
59
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
I Giao lưu bóng chuyền tại sân Khoa Thủy lợi - Cảng (1976)
I Chuẩn bị bảo vệ đồ án (Lớp Kiến trúc - K14 năm 1973)
60
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
I Lễ Khai giảng năm học 1978 - 1979 tại sân khấu nổi Hương Canh
I Lớp 17 Cảng - Tập thể học sinh Xã hội chủ nghĩa 2 năm liền (1975 - 1976, 1976 - 1977)
61
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
I Bảo vệ đồ án tốt nghiệp K18 Cầu đường tại Binh đoàn 12 (1978)
I Sân khấu nổi Hương Canh
62
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
4. Di chuyển trường về Hà Nội Việc trường phải rời khỏi Hà Nội đi sơ tán ngay khi mới được thành lập là việc làm cấp thiết nhằm bảo toàn lực lượng để cùng với quân dân cả nước tiến hành cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Song, ở nơi sơ tán, các hoạt động dạy và học, NCKH, đối ngoại cũng như đời sống của cán bộ và sinh viên gặp rất nhiều khó khăn. Hơn nữa, các PTN quan trọng của trường như: PTN Công trình, Cơ học đất, Vật liệu xây dựng và Thủy lực còn nằm lại Hà Nội, trong khuôn viên Trường ĐHBK. Các nhu yếu phẩm tối thiểu và cần thiết hàng ngày của cán bộ và sinh viên chủ yếu là do Hà Nội cung cấp. Nhiều gia đình CBCNV nhất là CBGD đang sinh sống ở Hà Nội, gắn bó với Hà Nội không chỉ đời sống vật chất mà còn cả đời sống văn hóa, tinh thần, nhu cầu học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ, mọi mặt đảm bảo cho sự phát triển trong tương lai. Vì vậy, khi chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ kết thúc, miền Nam được giải phóng, nếu trường vẫn ở Hương Canh thì vị thế của trường đối với xã hội, điều kiện phát triển đào tạo, NCKH, giao lưu hợp tác trong và ngoài nước sẽ bị hạn chế. Tương lai phát triển của trường sẽ rất khó khăn. Nhu cầu di chuyển trường về Hà Nội trở nên rất bức bách và cần thiết. Đảng ủy trường đã sớm nhận thức được vấn đề này nên trong phiên họp Đảng ủy ngày 25/02/1973 - sau khi Hiệp định Paris được ký kết đã bàn đến việc tìm địa điểm chính thức ở Hà Nội để xây dựng trường. Trong công văn số 208 ngày 8/5/1973 gửi Bộ ĐH&THCN, lãnh đạo trường đã nói rõ nguyện vọng thiết tha và ý chí quyết tâm cao của toàn thể cán bộ, đảng viên và quần chúng trong trường về vấn đề này, đồng thời đề nghị nếu trong nội thành khó khăn, trường sẽ chọn địa điểm ở phía hữu ngạn sông Hồng là Từ Liêm, Thanh Trì hoặc ở phía tả ngạn là Gia Lâm, Đông Anh.
Ngày 27/10/1975, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 426/TTg cho phép Trường Đại học Xây dựng di chuyển từ Hương Canh về Hà Nội. Quá trình di chuyển và xác định địa điểm của trường tại Thủ đô Hà Nội thực chất là một quá trình tìm các vùng đất để đặt chân tạm thời, sau đó mới tìm và xác định địa điểm chính thức lâu dài, tiến tới đề nghị Nhà nước phê duyệt luận chứng kinh tế - kỹ thuật. Đó là sự vận động rất tích cực, sáng tạo, từng bước khẳng định vị thế của Trường Đại học Xây dựng tại Thủ đô. Ban đầu, địa điểm được xác định ở vùng ven nội thành Hà Nội (Công văn 625-VP4 của Phó Thủ tướng Huỳnh Tấn Phát ký ngày 16/02/1979). Tháng 9/1979, trong Thông báo của Bộ Xây dựng về quy hoạch thì địa điểm Trường Đại học Xây dựng có thể nằm ở khu vực Mai Dịch - Từ Liêm, phía trước Đại học Sư phạm I. Tháng 1/1980, UBHC thành phố Hà Nội thông báo hướng dẫn chuẩn bị xây dựng Trường Đại học Xây dựng tại xã Cổ Nhuế - Thụy Phương, huyện Từ Liêm. Tháng 4/1980, Bộ ĐH&THCN ký Quyết định phê duyệt nhiệm vụ thiết kế Trường Đại học Xây dựng trên diện tích 2 ha tại cánh đồng xã Cổ Nhuế để đảm bảo một phần yêu cầu của công tác đào tạo và phục vụ đời sống cho khoảng 2500 sinh viên. Tháng 11/1980, Bộ ĐH&THCN ra Quyết định sáp nhập Trường Đại học Xây dựng Vừa học Vừa làm với 200 CB và 700 SV vào Trường ĐHXD. Tháng 6/1981, UBND thành phố Hà Nội đã có công văn số 2840/X/UB chuyển giao khu vực Đồng Tâm của Trường Đại học Xây dựng Vừa học Vừa làm cho Trường Đại học Xây dựng. Năm 1981, chúng ta đã khởi công xây dựng cơ sở trường tại Cổ Nhuế. Trong 2 năm 1981 - 1982, trường đã xây dựng được 3740m2 nhà, sản xuất 1150 triệu viên gạch chỉ, 2.5 vạn viên gạch lát. Cuối 1982, toàn bộ Khóa 24 và 25, phần lớn Khoa Tại chức và 63
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Khoa Kiến trúc đã được di chuyển về Hà Nội. Cuối 1983, về cơ bản Trường Đại học Xây dựng đã chuyển hết về các địa điểm tại khu Cổ Nhuế, bãi Phúc Xá, khu Đồng Tâm thuộc Hà Nội. Năm học 1983-1984, trường tuyển sinh Khóa 28 - khóa đầu tiên tuyển sinh tại Hà Nội, sau 17 lần tuyển sinh ở các vùng sơ tán thuộc tỉnh Hà Bắc và Vĩnh Phú. Ngày 17/4/1986, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười đã ký Quyết định số 100/CT phê duyệt Luận chứng kinh tế kỹ thuật Trường Đại học Xây dựng với tổng diện tích xây dựng 2ha trên vùng đất 9 ha của phường Đồng Tâm. Công trình Trường ĐHXD do trường tự thiết kế và cùng với Bộ Xây dựng tổ chức thi công.
Như vậy sau 10 năm (1976-1986) phấn đấu gian khổ, bền bỉ, năng động và sáng tạo, chúng ta đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị được giao, chính thức chuyển từ nơi sơ tán về Thủ đô Hà Nội, bước vào một giai đoạn lịch sử mới trong quá trình phát triển. Nhìn lại quá trình xây dựng trường trong giai đoạn từ năm 1966 đến năm 1983, một giai đoạn với nhiều thử thách lớn lao, hy sinh, mất mát, khó khăn phức tạp nhưng thành công hết sức vẻ vang... chúng ta có thể rút ra những nét lớn như sau: - Sự lãnh đạo vững vàng của Đảng ủy và BGH: Tập thể lãnh đạo nhà trường tâm huyết với sự nghiệp giáo dục - đào tạo, biết
I Thầy Nguyễn Sanh Dạn (phải) và thầy Phạm Ngọc Đăng (trái) bàn phương án di chuyển Trường ĐHXD về Hà Nội 64
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
động viên và tập trung mọi năng lực trí tuệ của cán bộ và sinh viên toàn trường là nhân tố quan trọng để trường ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước một cách chủ động và sáng tạo. - Nhà trường đã kế thừa và phát huy được truyền thống của Khoa Xây dựng trước đây, luôn luôn gìn giữ đoàn kết nội bộ, đồng cam cộng khổ, dũng cảm kiên cường vượt qua thiên tai địch họa, khó khăn thử thách, từng bước xây dựng và phát triển nhà trường. Khi mới thành lập, trường đã phải đi sơ tán, nhưng với tinh thần tự lực cánh sinh, lao động miệt mài, say mê, sáng tạo, biết dựa vào dân, nên dù ở phân tán nhiều nơi, di chuyển nhiều lần nhưng ở đâu cũng vẫn tạo dựng được điều kiện cần thiết đảm bảo các hoạt động không bị gián đoạn trong bất kỳ tình huống nào để hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.
- Nhà trường đã chú ý xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất và năng lực, giỏi về chuyên môn, vững về chính trị, tâm huyết với sự nghiệp đào tạo, luôn rèn luyện trong thực tiễn sản xuất và chiến đấu, đồng cam cộng khổ, đồng tâm nhất trí. Sự thành công trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ đã trở thành nhân tố quyết định cho sự phát triển của trường trong giai đoạn đầy khó khăn gian khổ của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Cùng với sự phát triển của trường, đội ngũ cán bộ ngày càng trưởng thành, nhiều người được vinh dự nhận những nhiệm vụ ở các vị trí cao hơn trong các cơ quan Nhà nước, ở Trung ương và địa phương. Những kỹ sư, kiến trúc sư do trường đào tạo đã phát huy được vai trò của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhiều người trong số họ trở thành lãnh đạo chủ chốt trong nhiều cơ quan quản lý các cấp, các viện nghiên cứu, trường học, đơn vị thi công...
65
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG THỜI KỲ ỔN ĐỊNH VÀ PHÁT TRIỂN (1983 - 2016)
67
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
N
hững năm 80 có nhiều biến động phức tạp trên trường quốc tế. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu đã gây chấn động và ảnh hưởng lớn đến tình hình kinh tế - chính trị - xã hội nước ta, đất nước nằm trong khủng khoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, đời sống nhân dân, đặc biệt là CBCNV Nhà nước vô cùng khó khăn.
v Từ năm 1994 đến 1999:
Năm 1983, Trường Đại học Xây dựng đã chuyển từ Hương Canh về Hà Nội nhưng vẫn còn phân tán ở 4 khu vực: Cổ Nhuế, Phúc Xá, Bách Khoa và Đồng Tâm. Mặc dù đã về Hà Nội, nhưng đời sống của cán bộ và sinh viên còn gặp rất nhiều khó khăn. Thực trạng trên đã tác động không nhỏ đến tư tưởng của cán bộ và sinh viên.
thầy giáo Lê Văn Thành
Từ 1990, đất nước dần dần thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội và bắt đầu có chuyển biến tốt. Sự nghiệp đổi mới với những định hướng lớn trong chiến lược con người mà Đảng đề ra đã làm chuyển biến sâu sắc toàn ngành. Sự đổi mới trong giáo dục đào tạo trở thành yếu tố quyết định của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Sau thời kỳ sơ tán, Trường Đại học Xây dựng tập trung về phường Đồng Tâm, Quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, bắt đầu giai đoạn phát triển mới.
I. CƠ CẤU TỔ CHỨC BỘ MÁY HOẠT ĐỘNG CỦA NHÀ TRƯỜNG 1. Các nhiệm kỳ Hiệu trưởng từ 1983 đến 2016 Từ năm 1983 đến năm 2016, Hiệu trưởng nhà trường do các thầy giáo sau đây đảm nhiệm: v Từ năm 1982 đến 1990:
thầy giáo Phạm Ngọc Đăng
v Từ năm 1990 đến 1994:
thầy giáo Nguyễn Văn Chọn
68
thầy giáo Nguyễn Như Khải
v Từ năm 1999 đến 2004:
thầy giáo Nguyễn Lê Ninh
v Từ năm 2004 đến 2009:
thầy giáo Nguyễn Văn Hùng
v Từ năm 2009 đến 2014: v Từ năm 2014 đến nay:
thầy giáo Phạm Duy Hòa Năm 1990, lần đầu tiên Bộ Giáo dục và Đào tạo có chủ trương cho cán bộ các trường đại học bầu Hiệu trưởng. Ngày 5/10/1990 cử tri là CBVC của trường đã tham gia bầu Hiệu trưởng nhiệm kỳ 1990 - 1994 tại giảng đường G3. Đây vừa là cuộc sinh hoạt chính trị quan trọng vừa là ngày hội tưng bừng của cán bộ và sinh viên Trường Đại học Xây dựng. Thầy giáo Nguyễn Văn Chọn được bầu làm Hiệu trưởng. Các nhiệm kỳ sau, Bộ đều chỉ đạo việc lấy phiếu tín nhiệm của CBVC của trường làm căn cứ để bổ nhiệm Hiệu trưởng nhiệm kỳ 4 năm. Tháng 12/2003 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định ban hành Quy chế nhiệm kỳ Hiệu trưởng 5 năm. Hiệu trưởng của Trường hiện nay là PGS. TS Phạm Duy Hòa, do Bộ trưởng Bộ GD&ĐT bổ nhiệm theo Quyết định số 5837/QĐBGDĐT ngày 12/12/2014. Từ nhiệm kỳ Hiệu trưởng 2009 - 2014 Nhà trường đã quyết định thành lập Ban tư vấn phát triển trường gồm một số nhà giáo nguyên là lãnh đạo Trường và các giáo sư, phó giáo sư của Trường đã nghỉ hưu, các chuyên gia có uy tín của các Bộ, ngành để tư vấn cho lãnh đạo Nhà trường về chiến lược và chính sách phát triển Trường. Trưởng Ban tư vấn là PGS. TS Nguyễn Lê Ninh. Nhiệm kỳ Hiệu trưởng 2014 - 2019 thực hiện Điều lệ trường đại học ban hành kèm
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
theo Quyết định số 70/2014/QĐ-CP ngày 10/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ, Trường đã thành lập Hội đồng tư vấn theo Quyết định số 216/QĐ-ĐHXD ngày 17/02/2016. Hội đồng tư vấn do PGS. TS Nguyễn Lê Ninh làm Chủ tịch và có 50 thành viên. 2. Tổ chức bộ máy quản lý Sau khi chuyển từ Hương Canh về Hà Nội, cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động của nhà trường được sắp xếp lại cho phù hợp với tình hình mới. Đó cũng là nội dung Chương trình 3 của chủ trương đổi mới giáo dục và đào tạo của ngành. Giai đoạn từ 1983 đến 2003: Từ 1983 đến 2003 là thời kỳ tổ chức lại bộ máy quản lý của trường để đáp ứng mục tiêu mở rộng quy mô đào tạo, đa dạng các loại hình đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Một số phòng ban như Thư viện, Tài vụ, Hành chính, Quản trị, Công tác Chính trị, Ban Quản lý ký túc xá... đã được điều chỉnh về tổ chức và chức năng. Năm 1983, nhập 3 bộ môn: Thủy công, Thủy điện, Thủy lợi thành Bộ môn Xây dựng Thủy điện. Tháng 7/1985 thành lập Xí nghiệp Thiết kế Xây dựng và Thực nghiệm. Tháng 3/1987, Bộ ĐH&THCN đã ra quyết định thành lập Khoa Đào tạo và Bồi dưỡng Sau đại học (gọi tắt là Khoa Sau đại học). Và cũng năm 1987, Trường Đại học Xây dựng thử nghiệm mở lớp cao học thí điểm đầu tiên cho ngành Xây dựng Công trình thềm lục địa, sau đó là ngành Xây dựng DD&CN. Từ 2 lớp cao học thí điểm này, Bộ GD&ĐT đã ra Quyết định số 2815/QĐ-SĐH ngày 4/11/1991, chính thức giao nhiệm vụ cho Trường Đại học Xây dựng tổ chức đào tạo
trình độ thạc sỹ và tiến sỹ của Nhà nước. Tháng 3/1988 thành lập Bộ môn Xây dựng Công trình thềm lục địa thuộc Khoa Công trình thủy. Trên cơ sở của bộ môn này, ngày 11/6/1994 Bộ GD&ĐT đã ký Quyết định số 1570/GD&ĐT thành lập Viện Đào tạo, Nghiên cứu và Ứng dụng kỹ thuật xây dựng Công trình biển (gọi tắt là Viện Xây dựng Công trình biển) là một đơn vị của trường. Tháng 3/1989 tách Khoa Vật liệu xây dựng - Kỹ thuật vệ sinh thành 2 khoa: Vật liệu XD và Kỹ thuật Môi trường. Tháng 4/1995 chuyển Khoa Tại chức của trường thành Trung tâm Đào tạo thường xuyên (QĐ số 1392/GD&ĐT ngày 19/1/1995 của Bộ GD&ĐT). Tháng 1/2001 thành lập Khoa Công nghệ thông tin. Tháng 6/2001 thành lập 2 bộ môn: Kỹ thuật hệ thống và Công nghệ phần mềm, trên cơ sở Bộ môn Tin học. Tháng 3/2002 đổi tên một số bộ môn: Bộ môn Đường ôtô và Đường thành phố thành Bộ môn Đường ôtô - Đường đô thị; Bộ môn Thí nghiệm công trình thành Bộ môn Thí nghiệm và Kiểm định công trình; Bộ môn Xây dựng Thủy điện thành Bộ môn Xây dựng Thủy lợi - Thủy điện. Đến cuối năm 2003, bộ máy quản lý của trường gồm có 11 khoa, trung tâm đào tạo thường xuyên, 15 phòng ban chức năng, 41 bộ môn và phòng thí nghiệm trực thuộc khoa. Nhà trường đã triển khai ban hành các văn bản quy định nhiệm vụ và trách nhiệm của các đơn vị trong trường, về cơ bản bộ máy đã đáp ứng mục tiêu mở rộng quy mô đào tạo, đa dạng các loại hình đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Giai đoạn từ 2003 đến nay: Từ năm 2003, bên cạnh mục tiêu mở 69
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
rộng quy mô đào tạo, đa dạng các loại hình và nâng cao chất lượng đào tạo, trước tình hình mới, để đáp ứng tiến trình Hội nhập quốc tế và xu hướng tự chủ đại học, bộ máy tổ chức của Nhà trường đã có một số thay đổi và phát triển. Tháng 6/2004, nhập Ban Quản lý Ký túc xá vào Phòng Công tác sinh viên, ghép 2 phòng Hành chính tổng hợp và Công tác chính trị thành phòng Hành chính tổng hợp - Công tác chính trị. Tháng 11/2004 trên cơ sở Bộ môn Mác Lê nin thành lập Khoa Mác Lênin gồm 2 bộ môn ghép: Bộ môn Chủ nghĩa xã hội khoa học, Lịch sử Đảng CSVN và Tư tưởng Hồ Chí Minh; Bộ môn Triết học và Kinh tế chính trị. Tháng 11/2004 thành lập Bộ môn Công nghệ và Quản lý môi trường thuộc Khoa Kỹ thuật Môi trường. Tháng 1/2005 thành lập Bộ môn Tin học XD và Bộ môn Toán ứng dụng thuộc Khoa Công nghệ Thông tin. Tháng 3/2005 thành lập Bộ môn Lý thuyết và Lịch sử Kiến trúc. Đổi tên Khoa Kiến trúc thành Khoa Kiến trúc và Quy hoạch; đổi tên Xưởng Cơ thành Phòng Nghiên cứu thực nghiệm cơ khí. Tháng 9/2005 đổi tên Phòng Đối ngoại thành Phòng Hợp tác Quốc tế. Tháng 6/2006 thành lập Phòng Thanh tra. Tháng 6/2007 thành lập Bộ môn Cơ giới hóa Xây dựng. Năm 2008, thành lập Viện Khoa học và Kỹ thuật môi trường (sáp nhập Khoa Kỹ thuật môi trường và Trung tâm Kỹ thuật môi trường đô thị và khu công nghiệp); thành lập Bộ môn Kỹ thuật máy tính; đổi tên Khoa Kinh tế xây dựng thành Khoa Kinh tế và Quản lý xây dựng, Bộ môn Cầu - Hầm thành Bộ môn Cầu và Công trình ngầm, Bộ môn 70
Công nghệ và Tổ chức xây dựng thành Bộ môn Công nghệ và Quản lý xây dựng. Tháng 12/2008, tách bộ phận Công tác chính trị từ phòng HCTH - CTCT về phòng Công tác sinh viên, đổi tên 2 phòng này thành Phòng Hành chính tổng hợp và Phòng Công tác chính trị và Quản lý sinh viên. Năm 2009 thành lập mới Bộ môn Kiến trúc cảnh quan và Bộ môn Quy hoạch hạ tầng đô thị, đều thuộc Khoa Kiến trúc và Quy hoạch; thành lập Phòng Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục. Đổi tên Bộ môn Nhiệt kỹ thuật thành Bộ môn Năng lượng và môi trường. Năm 2010 tách tổ tiếng Pháp từ Bộ môn Ngoại ngữ về Ban Đào tạo Kỹ sư Chất lượng cao. Tháng 5/2011 thành lập mới Bộ môn Kinh tế và Quản lý bất động sản, Bộ môn Quản lý dự án và Pháp luật, đều thuộc Khoa Kinh tế và Quản lý xây dựng. Tháng 9 năm 2013 tách chức năng đào tạo từ Viện Công trình biển để thành lập Khoa Xây dựng công trình biển và dầu khí. Tháng 10 năm 2013 tách chức năng đào tạo từ Viện Khoa học kỹ thuật môi trường để thành lập Khoa Kỹ thuật môi trường. Tháng 10 năm 2013 thành lập Phòng Thanh tra - Khảo thí và Đảm bảo chất lượng giáo dục trên cơ sở gộp Phòng Thanh tra và Phòng khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục. Tháng 2 năm 2014 đổi tên bộ môn Vật lý kiến trúc thành bộ môn Kiến trúc môi trường. Theo quy định của Luật Giáo dục đại học năm 2012, Điều lệ trường đại học ban hành kèm theo quyết định số 70/2014/ QĐ-TTg ngày 10/12/2014, Trường đã tiến hành thành lập Hội đồng trường. Hội đồng trường ĐHXD đã được thành lập theo Quyết
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
định số 2862/QĐ-BGDĐT ngày 06/8/2015. PGS.TS Trần Văn Tấn được bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng trường. Tháng 8 năm 2015 thành lập Phòng Quản lý đầu tư để thực hiện chức năng quản lý hoạt động đầu tư của Trường. Tháng 9 năm 2015 thành lập Phòng Thông tin và Truyền thông. Tháng 9 năm 2015 thành lập Phòng Thanh tra - Pháp chế trên cơ sở tách bộ phận Thanh tra từ phòng Thanh tra, Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục. Tháng 10 năm 2015 thành lập Bộ môn Tiếng Pháp trực thuộc Ban Đào tạo Kỹ sư chất lượng cao trên cơ sở Tổ Tiếng Pháp. Tháng 10 năm 2015 tách Bộ môn Ngoại ngữ ra khỏi Khoa Đào tạo Sau đại học thành bộ môn trực thuộc Ban Giám hiệu và đổi tên thành Bộ môn Tiếng Anh. Tháng 10 năm 2015 kiện toàn Phòng Thanh tra, khảo thí và Đảm bảo chất lượng giáo dục, đổi tên thành Phòng Khảo thí và Đảm bảo chất lượng giáo dục. Tháng 10 năm 2015 thành lập Bộ môn Nội thất trực thuộc Khoa Kiến trúc và Quy hoạch. Tháng 5 năm 2016 thành lập Khoa Đào tạo quốc tế. Tháng 10 năm 2016, đổi tên bộ môn Kiến trúc công nghiệp thành bộ môn Kiến trúc công nghệ. Đến nay, cơ cấu bộ máy của Trường Đại học Xây dựng có: Hội đồng trường; Ban Giám hiệu; Hội đồng Khoa học và đào tạo; 12 khoa đào tạo, 4 đơn vị quản lý đào tạo đặc thù; Thư viện; 55 bộ môn; 18 phòng thí nghiệm và xưởng thực hành; 15 phòng, ban chức năng; 01 Trung tâm hợp tác đào tạo và tư vấn quốc tế, 13 viện nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao công nghệ
3. Thành lập các trung tâm khoa học - công nghệ Thực hiện Nghị định số 35/CP ngày 9/2/1981 của Chính phủ về việc ứng dụng KHCN vào thực tế, Nhà trường đã đề nghị và được Bộ GD&ĐT ra quyết định thành lập Xí nghiệp Thiết kế xây dựng thực nghiệm và các trung tâm KHCN như: Trung tâm Môi trường đô thị và khu công nghiệp; Trung tâm Kỹ thuật Nền móng - Công trình: Trung tâm Kiến trúc và Quy hoạch; Trung tâm Công trình thủy; Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật xây dựng; Trung tâm Vật liệu xây dựng nhiệt đới, Trung tâm tin học xây dựng, Trung tâm Cơ Điện xây dựng, Trung tâm nghiên cứu đầu tư xây dựng, Trung tâm kỹ thuật Công trình biển. Hoạt động của xí nghiệp và các trung tâm KHCN gắn liền với hoạt động chuyên môn của các khoa đã góp phần tích cực vào việc đưa tiến bộ KHCN vào sản xuất, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đồng thời gắn liền nhà trường với thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Tháng 5/1993, trường đã chuyển giao Xí nghiệp Thiết kế và Xây dựng thực nghiệm về Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tháng 8/1995, thành lập Văn phòng Tư vấn xây dựng, hoạt động theo chứng chỉ hành nghề do Bộ Xây dựng cấp. Tháng 11/2001, theo đề nghị của trường, Bộ GD&ĐT ra quyết định thành lập doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Trường Đại học Xây dựng, lấy tên là Công ty Tư vấn ĐHXD, hoạt động theo Quyết định số 68/1998/QĐ-TTg ngày 27/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ. Năm 2013, Bộ GD&ĐT ra quyết định chuyển đổi Công ty Tư vấn ĐHXD thành Công ty TNHH Tư vấn ĐHXD, là doanh nghiệp KHCN hoạt động dưới dạng công ty TNHH hai thành viên trở lên, trong 71
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
đó thành viên Nhà nước (đại diện là Trường Đại học Xây dựng) góp 51% tổng số vốn. Tháng 5/2005, thành lập Trung tâm Nghiên cứu Tư vấn kỹ thuật an toàn giao thông thuộc Khoa Xây dựng Cầu đường. Tháng 6/2006, thành lập Trung tâm Hợp tác đào tạo & Tư vấn quốc tế. Năm 2008, thành lập Viện Cảng - Kỹ thuật Hàng hải; Viện Quy hoạch và Kiến trúc đô thị.
định 115/2005/NĐ-CP. Tính đến nay (9/2016) Trường Đại học Xây dựng có 13 tổ chức khoa học và công nghệ: v Viện Khoa học và Kỹ thuật Môi trường v Viện Xây dựng Công trình biển v Viện Kỹ thuật Công trình Xây dựng v Viện Địa kỹ thuật và Công trình v Viện Quy hoạch và Kỹ thuật Giao thông
Vận tải
Năm 2010, Trường Đại học xây dựng tham gia thành lập Công ty cổ phần đầu tư và phát triển công nghệ (NUCETECH).
v Viện Quy hoạch và Kiến trúc đô thị
Năm 2016, thành lập Viện Công nghệ cao Việt Nhật.
v Viện Khoa học và Công nghệ Công trình thủy
Thực hiện quá trình chuyển đổi hoạt động của các tổ chức khoa học công nghệ công lập theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo quy định của Nghị định 115/2005/NĐ-CP ngày 05/9/2005, trong các năm 2013, 2014, nhà trường đã hoàn thành thủ tục chuyển đổi các Trung tâm khoa học công nghệ trong trường thành các viện khoa học công nghệ hoạt động theo Nghị
v Viện Vật liệu Xây dựng Nhiệt đới v Viện Cảng - Kỹ thuật Hàng hải v Viện Khoa học và Công nghệ Cơ điện
Xây dựng
v Viện Quản lý Đầu tư Xây dựng v Viện Tin học Xây dựng v Viện Công nghệ cao Việt Nhật
I Phó Thủ tướng Võ Nguyên Giáp trao tặng Huân chương Lao động hạng Hai cho Trường ĐHXD (1983) 72
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
Chủ nhiệm Ủy ban Xây dựng cơ bản Nhà nước - Đỗ Quốc Sam (Nguyên Hiệu trưởng Trường ĐHXD) chúc mừng Trường ĐHXD nhận Huân chương Lao động hạng Hai (1983)
I Bộ môn Đường ô tô và Đường thành phố đón nhận danh hiệu “Đơn vị Anh hùng lao động” (1985)
73
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
I Lễ đón nhận Huân chương Hồ Chí Minh (2006)
I Phó Thủ tướng Đỗ Mười đến dự Hội nghị Khoa học Công nghệ Trường ĐHXD lần thứ 7 (1984)
74
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
I Bức thư tay của Phó Thủ tướng Võ Nguyên Giáp gửi cho Trường ĐHXD (1984) 75
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
II. CÔNG TÁC ĐÀO TẠO
Bên cạnh đào tạo bậc đại học, từ năm 1987, trường được giao nhiệm vụ đào tạo thạc sỹ (năm 1977 đã được giao nhiệm vụ đào tạo tiến sỹ, khi đó gọi là phó tiến sỹ). Trong khoảng thời gian 1999-2000 trường có tuyển sinh 2 khóa đào tạo cao đẳng do khoa Công trình thủy quản lý (năm học 1999 - 2000: 200 SV; năm học 2000 - 2001: 57 SV), sau đó, nhà trường không đào tạo hệ cao đẳng nữa.
có những ngành mới mở hoặc đổi tên đáp ứng nhu cầu của xã hội và phát triển kinh tế đất nước. Ví dụ: Ngành Tin học xây dựng (mở năm 1990); ngành Xây dựng công trình thềm lục địa sau này được đổi tên là Xây dựng Công trình biển - Dầu khí (mở năm 1990 - đổi tên năm 1995); từ năm 2001 đến nay, nhà trường mở thêm một số ngành/ chuyên ngành mới như: Công nghệ và quản lý môi trường; Hệ thống kỹ thuật trong công trình; Cơ giới hóa xây dựng; Cơ sở hạ tầng giao thông; Kỹ thuật đô thị; Kinh tế và Quản lý bất động sản; Kỹ thuật Trắc địa - Bản đồ; Nội thất.
Hiện nay trường đang đào tạo bậc đại học và bậc sau đại học.
Bậc đào tạo Sau đại học, bao gồm hai trình độ thạc sỹ và tiến sỹ.
Đào tạo đại học hiện có 24 ngành/ chuyên ngành: Kiến trúc (Kiến trúc; Nội thất); Quy hoạch vùng và đô thị; Kỹ thuật công trình xây dựng (Xây dựng Dân dụng và Công nghiệp; Hệ thống kỹ thuật trong công trình; Xây dựng Cảng - Đường thủy; Xây dựng Thủy lợi - Thủy điện; Tin học xây dựng); Kỹ thuật xây dựng công trình giao thông (Xây dựng Cầu đường); Cấp thoát nước; Công nghệ Kỹ thuật môi trường (Công nghệ và Quản lý môi trường); Kỹ thuật Công trình biển (Xây dựng Công trình biển - Dầu khí; Xây dựng công trình ven biển); Công nghệ Kỹ thuật vật liệu xây dựng; Công nghệ thông tin; Kỹ thuật cơ khí (Máy xây dựng; Cơ giới hóa xây dựng); Kỹ thuật Trắc địa - Bản đồ (Kỹ thuật Trắc địa Xây dựng Địa chính); Kinh tế xây dựng; Quản lý xây dựng (Kinh tế và Quản lý đô thị, Kinh tế và Quản lý bất động sản); Các ngành thuộc Dự án PFIEV: Cơ sở hạ tầng giao thông; Kỹ thuật đô thị; Kỹ thuật công trình thủy.
Đào tạo Thạc sỹ gồm 17 ngành/ chuyên ngành: Kiến trúc; Xây dựng công trình dân dụng và công nghiệp; Kỹ thuật xây dựng công trình giao thông (Xây dựng cầu, hầm; Xây dựng đường ôtô và đường thành phố); Quản lý Xây dựng (Kinh tế xây dựng; Quản lý Dự án Xây dựng; Quản lý Đô thị); Kỹ thuật cơ sở hạ tầng; Kỹ thuật môi trường; Địa kỹ thuật xây dựng; Kỹ thuật xây dựng công trình ngầm; Kỹ thuật cơ khí; Toán ứng dụng; Kỹ thuật vật liệu; Kỹ thuật xây dựng công trình thủy (Cảng đường thủy; Thủy lợi thủy điện); Kỹ thuật công trình Biển.
1. Các bậc đào tạo và ngành đào tạo của trường
Đào tạo đại học bao gồm các hệ chính quy, bằng 2, liên thông, cử tuyển và vừa làm vừa học. Trong số các ngành đào tạo nêu trên 76
Đào tạo Tiến sỹ gồm 19 ngành/ chuyên ngành: Kiến trúc; Quy hoạch vùng và đô thị; Xây dựng công trình dân dụng và công nghiệp; Kỹ thuật xây dựng công trình giao thông (Xây dựng cầu, hầm; Xây dựng đường ôtô và đường thành phố); Quản lý xây dựng; Kỹ thuật cơ sở hạ tầng; Kỹ thuật Môi trường (Môi trường chất thải rắn; Môi trường nước và nước thải; Công nghệ môi trường khí); Cơ kỹ thuật; Địa kỹ thuật xây dựng; Kỹ thuật cơ khí (Kỹ thuật máy nâng, máy vận chuyển liên tục; Kỹ thuật máy và thiết bị xây dựng); Kỹ thuật
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
vật liệu; Kỹ thuật xây dựng công trình ngầm; Kỹ thuật xây dựng công trình thủy (Cảng đường thủy; Thủy lợi thủy điện); Kỹ thuật xây dựng công trình biển. 2. Đào tạo đại học
a. Quy mô các loại hình đào tạo Hệ chính quy: Trong lịch sử phát triển trường, năm 1983 là năm có số lượng tuyển sinh thấp nhất (175 sinh viên). Điều đó cũng đã phản ánh một cách khách quan những khó khăn về kinh tế - xã hội của nước ta trong thời kỳ này, cũng như những khó khăn nhà trường phải đương đầu trong thời kỳ chuyển từ nơi sơ tán về Hà Nội. Những năm tiếp theo, quy mô tuyển sinh ổn định và được nâng dần lên, cao nhất vào năm 2009 là 3463, ổn định khoảng 2800 (2009 - 2013); sau đó tiếp tục tăng lên 3300 từ năm 2014. Công tác tuyển sinh trong mấy năm gần đây gặp nhiều khó khăn, do nhiều yếu tố khách quan như khủng hoảng kinh tế và những khó khăn của thị trường bất động sản gây tác động tâm lý xã hội với lĩnh vực xây dựng, thêm vào đó, cạnh tranh trong đào tạo ngày càng tăng khi có hàng loạt cơ sở đào tạo mới được thành lập... Nhà trường luôn chủ trương phát triển quy mô nhưng phải phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất và đội ngũ CBGD để đảm bảo chất lượng đào tạo. Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường, vấn đề quy mô và chất lượng đào tạo luôn luôn được đặt ra và trở thành một vấn đề được quan tâm hàng đầu bởi nó liên quan trực tiếp đến ý nghĩa sống còn, vị thế của nhà trường trong tương lai. Sau nhiều lần tham khảo ý kiến của các cán bộ trong trường và trên cơ sở định hướng chiến lược phát triển dài hạn của trường, Đảng ủy - Ban Giám hiệu đã xin phép Bộ GD&ĐT nâng chỉ tiêu tuyển sinh đại học
hàng năm: Từ năm 2001 đến năm 2006 bình quân tuyển sinh 2400 SV/năm, từ năm 2007 đến năm 2008 bình quân tuyển sinh 3200 SV/năm, từ năm 2009 - 2013 ổn định tuyển sinh ở mức 2800 SV/năm. Từ năm 2014, chỉ tiêu tuyển sinh tăng thành 3300 SV/năm. Bên cạnh đó, nhà trường tham gia và thúc đẩy các chương trình, dự án đào tạo quốc tế. Năm 1995, mở lớp Xây dựng Dân dụng và Công nghiệp Pháp ngữ (XF) do Tổ chức đại học Pháp ngữ (AUF) tài trợ. Các lớp này đào tạo kỹ sư ngành Xây dựng dân dụng và công nghiệp theo chương trình của nhà trường nhưng từ năm thứ ba các môn cơ sở ngành và chuyên môn được giảng dạy bằng tiếng Pháp do các CBGD của trường đảm nhiệm, có sự tham gia của các giáo sư nước ngoài. Bắt đầu đào tạo từ K39, hàng năm nhà trường chọn từ 40 - 50 sinh viên trong số trúng tuyển vào ngành Xây dựng dân dụng và công nghiệp để tổ chức thành một lớp riêng. Sau hơn 20 năm đào tạo, Chuyên ngành Xây dựng Dân dụng và Công nghiệp Pháp ngữ luôn được AUF đánh giá đứng đầu khu vực Châu Á - Thái Bình Dương với hơn 800 sinh viên đã tốt nghiệp và hơn 300 sinh viên tiếp tục đi du học tại nước ngoài. Trong số đó nhiều người được nhận học bổng sau đại học tại Pháp và các nước nói tiếng pháp. Đến nay đã có 90 người nhận bằng Tiến sỹ, hơn 200 người đã hoàn thành và đang theo học Thạc sỹ tại nước ngoài. Từ sự thành công của chuyên ngành Xây dựng Dân dụng và Công nghiệp Pháp ngữ, AUF tiếp tục giúp đỡ thành lập ngành Kiến trúc Pháp ngữ (9/2011). Năm 1999, trường tham gia Dự án Đào tạo kỹ sư chất lượng cao tại Việt Nam (PFIEV) của hai Chính phủ Việt Nam và Pháp. Dự án này về phía Việt Nam có 4 trường đại học tham gia (Xây dựng, Bách khoa Hà Nội, Bách khoa Đà Nẵng, Bách khoa TP Hồ Chí Minh) 77
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
và về phía Pháp có 9 trường đại học là đối tác. Chương trình và nội dung đào tạo do các trường đại học Việt Nam và Pháp cùng phối hợp xây dựng theo mô hình đại học Pháp; trang thiết bị, giáo trình, tài liệu... do Pháp tài trợ. Một số môn học cơ sở ngành và chuyên ngành được giảng dạy bằng tiếng Pháp và tiếng Anh do các CBGD của trường đảm nhiệm; các giáo sư Pháp tham gia Hội đồng chấm đồ án tốt nghiệp. Hàng năm một số CBGD được sang Pháp thực tập giảng dạy. Bắt đầu đào tạo từ khóa 44, mỗi năm nhà trường chọn 1 lớp 45 sinh viên, từ khóa 47 mỗi khóa chọn 90 sinh viên đạt kết quả cao trong kỳ thi tuyển sinh vào trường. Sau các học kỳ chung, sinh viên dự thi và được phân thành 3 ngành: Cơ sở hạ tầng giao thông, Kỹ thuật đô thị và Kỹ thuật Công trình thủy. Bằng Kỹ sư Chất lượng cao PFIEV được Trường Đại học Xây dựng và các trường đối tác của Pháp cùng cấp. Ủy ban cấp bằng kỹ sư của chính phủ Pháp (CTI) và Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam công nhận văn bằng của PFIEV tương đương trình độ thạc sỹ. Sinh viên của chương trình PFIEV sau khi tốt nghiệp học thêm 6 tín chỉ và làm luận văn để nhận bằng thạc sỹ của Trường Đại học Xây dựng. Văn bằng của PFIEV cũng đã được công nhận trên toàn châu Âu và Bắc Mỹ. Đến nay đã có 13 khóa với 700 sinh viên tốt nghiệp. Số lượng sinh viên CLC sau khi tốt nghiệp đã và đang đi du học là 186 người, trong đó 49 người đã đạt học vị tiến sỹ, 127 thạc sỹ. Kỹ sư các ngành thuộc chương trình đào tạo chất lượng cao ra trường được các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất đánh giá cao vì có nền tảng kiến thức khoa học cơ bản vững vàng, kiến thức chuyên môn rộng và thành thạo ngoại ngữ. Từ năm 2010, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu của người học Trường Đại học Xây dựng đã lần lượt mở các lớp Xây dựng Dân dụng và Công nghiệp Anh ngữ, 78
Kiến trúc Anh ngữ (năm 2010); Cầu đường Anh ngữ, Cấp thoát nước Anh ngữ (năm 2012) và Kinh tế xây dựng Anh ngữ (năm 2015). Sinh viên được học tăng cường tiếng Anh liên tục từ năm thứ nhất đến năm thứ 5, một số môn học chuyên ngành được giảng dạy bằng tiếng Anh với đội ngũ giáo viên có trình độ cao về chuyên môn và ngoại ngữ. Hệ Vừa làm Vừa học (Tại chức): Công tác đào tạo tại chức đã được tiến hành từ khi Trường Đại học Xây dựng còn là một khoa của Trường ĐH Bách khoa Hà Nội và được tiếp nối ngay từ khi thành lập trường. Quán triệt đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ, Trường Đại học Xây dựng đã ưu tiên mở các lớp đạo tạo gắn liền với nhu cầu sử dụng cán bộ của các bộ, ngành, các địa phương và quân đội. Trong thời kỳ chiến tranh, số lượng tuyển sinh hàng năm từ 100 đến 200 người. Sau khi đất nước thống nhất, nhu cầu ngày càng tăng lên từ 200 đến 300 người. Năm 1984, trường tiếp nhận thêm 300 sinh viên của Trường Đại học Tại chức Hà Nội sáp nhập vào. Đặc điểm nổi bật ở thời kỳ này là đào tạo theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung và hoàn toàn bao cấp nên phân bổ ngành nghề tương đối đồng đều. Những người đi học đều phải có thành tích đáng kể và có thâm niên công tác nhất định. Họ yên tâm đi học vì không lo ảnh hưởng đến việc làm, cương vị công tác và thu nhập. Tháng 12/1986, trường đã mở hội nghị tổng kết 25 năm đào tạo tại chức. Hội nghị đánh giá đào tạo tại chức 25 năm qua theo đúng phương châm là vừa củng cố, vừa mở rộng quy mô có trọng điểm, đồng thời giữ vững và nâng cao được chất lượng đào tạo. Từ năm 1987 trở về trước, quy mô đào tạo tại chức của trường tương đối ổn định. Sang năm 1988, nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế quản lý mới, do vậy số người
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
đi học tại chức giảm. Từ năm 1988 đến năm 1991, mỗi năm chỉ còn gần 100 người đăng ký dự thi vào học. Từ năm 1992 nền kinh tế nước ta bắt đầu khôi phục và phát triển, nhu cầu đào tạo nhân lực có trình độ đại học ngày càng tăng. Do vậy, quy mô tuyển sinh vào hệ đào tạo tại chức cũng tăng theo. Tính đến tháng 8/2016 đã có 19.424 sinh viên tốt nghiệp hệ Vừa làm Vừa học ra trường. Hiện trung tâm Đào tạo thường xuyên đang quản lý đào tạo 53 lớp tại 21 cơ sở hợp tác đào tạo thuộc 12 tỉnh thành trong cả nước. Do nhu cầu xã hội cũng như cơ hội học đại học hệ chính quy đang rất thuận lợi nên số lượng người học hệ Vừa làm Vừa học ngày càng giảm, nhà trường chủ trương chỉ mở một số ngành/chuyên ngành đào tạo như: Xây dựng Dân dụng và Công nghiệp; Xây dựng Cầu đường; Kinh tế xây dựng; Cấp thoát nước. Hệ đào tạo cử tuyển (gọi tắt là KV): Đối tượng đào tạo là con em các dân tộc ít người ở vùng sâu, vùng xa, hải đảo... do các địa phương cử đi học, không phải qua thi tuyển quốc gia. Hàng năm, nhà trường được Bộ GD&ĐT giao chỉ tiêu đào tạo khoảng 30 sinh viên. Tính đến 2016, nhà trường đã và đang đào tạo được 29 khóa (từ KV0 đến KV28) với tổng số 704 sinh viên đã tốt nghiệp ra trường. Thời gian đào tạo hệ cử tuyển là 4,5 năm, trong đó có nửa năm ôn tập các môn văn hóa trước khi chính thức học chương trình đại học để cấp bằng kỹ sư. Do yêu cầu cán bộ của các địa phương, nhà trường chỉ đào tạo các ngành Xây dựng Dân dụng và Công nghiệp, Kinh tế xây dựng và Xây dựng Cầu đường. Hàng năm, một trong 3 khoa có ngành đào tạo trên được giao quản lý sinh viên khóa mới và tổ chức đào tạo theo ngành của mình. Từ năm 1997, để ổn định đào tạo, nhà trường giao việc
quản lý đào tạo của hệ này cho Khoa Xây dựng Công trình thủy và mở Ngành Xây dựng công trình. Hệ đào tạo mở rộng: Thực hiện chủ trương của Bộ GD&ĐT, từ năm 1989 đến năm 1992 nhà trường mở hệ đào tạo mở rộng cho các ngành Xây dựng Dân dụng và Công nghiệp, Xây dựng công trình, Kiến trúc và Kinh tế xây dựng. Lúc đầu hệ đào tạo mở rộng có chương trình và nội dung đào tạo riêng, nhưng sau đó các sinh viên của hệ này được xếp theo học cùng chương trình và thời gian đào tạo như hệ chính quy, khi tốt nghiệp được cấp bằng kỹ sư mở rộng. Năm học 1996 - 1997 là năm cuối cùng của hệ này. Ngoài số sinh viên được đào tạo tại trường, nhà trường còn liên kết với Trường Đại học Tại chức Hải Phòng đào tạo 2 khóa hệ mở rộng với gần 100 sinh viên ngành Xây dựng Dân dụng và Công nghiệp (Khóa 1: 74 người và khóa 2: 60 người) do Trung tâm Đào tạo thường xuyên của trường phối hợp với Khoa Xây dựng quản lý. Hệ bằng 2: Từ thực tiễn nhu cầu của xã hội về cán bộ khoa học kỹ thuật ngành Xây dựng Dân dụng và Công nghiệp ngày càng tăng, năm 1995, Trường Đại học Xây dựng đã thí điểm loại hình đào tạo mới: Đào tạo để cấp bằng đại học thứ 2. Tham gia chương trình đào tạo là 2 năm, người đã tốt nghiệp đại học nhận được bằng đại học thứ 2: Kỹ sư Xây dựng ngành Dân dụng và Công nghiệp. Lớp đầu tiên, khóa 1 hệ bằng 2 tuyển sinh 47 người, Trường giao cho Khoa Xây dựng DD&CN tổ chức quản lý. Loại hình này thực hiện được 6 năm đến năm 2001 thì Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo chính thức ký Quyết định số 22/2001/QĐ- BGD&ĐT về quy định đào tạo để cấp bằng tốt nghiệp đại học thứ hai.
79
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Ban đầu, các học viên được tuyển là những kỹ sư các ngành: Cầu đường, Công trình thủy, Công trình biển...tốt nghiệp từ Trường Đại học Xây dựng. Những năm sau này, mở rộng hơn đầu vào, nhà trường quy định tuyển sinh bằng 2 với các đối tượng đã có bằng tốt nghiệp đại học khối A, khối A1. Đến năm 2015, nhà trường đã tuyển sinh 21 khóa với 4189 người theo học. Đào tạo liên thông: Mô hình đào tạo liên thông được thực hiện từ học kỳ 2 năm học 2005-2006: Năm 2005, trường đã tuyển sinh năm đầu tiên được 76 sinh viên ngành Công nghệ kỹ thuật xây dựng; năm 2006, tuyển được 110 sinh viên; năm 2007, tuyển được 93 sinh viên; năm 2008, tuyển được 131 sinh viên; năm 2009, tuyển được 116 sinh viên và năm 2010 tuyển được 181 sinh viên. Năm 2011, loại hình đào tạo này được mở rộng thêm các ngành Cầu đường, Kinh tế và Quản lý xây dựng, Môi trường nước, Vật liệu xây dựng và tuyển được 309 sinh viên, năm 2012 tuyển được 257 sinh viên. Những năm gần đây, cơ hội học đại học nhiều lên, số sinh viên học cao đẳng ít hơn nên số lượng tuyển sinh đào tạo liên thông có xu hướng giảm đi.
b. Thực hiện đổi mới để nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo Trong bối cảnh nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cũng như các trường đại học khác, Trường Đại học Xây dựng phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, đặc biệt trong việc tìm ra giải pháp để mở rộng quy mô đồng thời với việc nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả đào tạo trong điều kiện nguồn lực còn hạn hẹp. Hơn 30 năm kể từ năm 1985, nhà trường đã tập trung mọi cố gắng, khắc phục khó khăn để thực hiện đổi mới đào tạo. 80
- Đổi mới mục tiêu, chương trình và nội dung đào tạo Trên cơ sở quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng về vai trò của sự nghiệp giáo dục - đào tạo, nhà trường đã xác định rõ mục tiêu, chương trình và nội dung đào tạo phải thể hiện rõ chủ trương đào tạo theo diện rộng, đưa vào giảng dạy những điều mà xã hội cần nhằm đào tạo ra những kỹ sư có kiến thức rộng và vững chắc để thích nghi với thị trường lao động luôn biến động, vừa có khả năng chuyển đổi nghề nghiệp dễ dàng, vừa thuận lợi khi cần vươn lên các trình độ học vấn cao hơn. Sau hai lần thực hiện vào năm 1992 và năm 1994, nhà trường đã cơ bản hoàn thành được việc đổi mới mục tiêu, chương trình và nội dung đào tạo của tất cả 12 ngành đào tạo trong trường. Đặc biệt, dựa trên cơ sở của việc mô-đun hóa các kiến thức học tập theo đơn vị học trình và học phần, những sự đổi mới trên đã cho phép thiết kế lại mô hình đào tạo, loại bỏ việc tách riêng các ngành hẹp ngay từ năm thứ nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho việc liên thông giữa các ngành trong và ngoài trường. Thành tích này của trường đã được Bộ GD&ĐT xếp trường vào loại A năm học 1993 - 1994. Để công tác đào tạo đáp ứng tốt hơn nữa yêu cầu của xã hội, năm 2000 nhà trường quyết định xuất quỹ tự có số tiền 350 triệu đồng thực hiện dự án đổi mới lần thứ 3 mục tiêu, chương trình và nội dung đào tạo của tất cả các ngành, đồng thời nghiên cứu mở thêm một số ngành đào tạo mới. Kết quả từ năm học 2001 - 2002 số ngành đào tạo trong trường đã nâng lên 20 ngành (hiện nay là 24 ngành/chuyên ngành), trong đó lần đầu tiên nhà trường bắt đầu bước sang một lĩnh vực đào tạo mới là Công nghệ thông tin, ngoài lĩnh vực xây dựng truyền thống. Năm 2015, nhận thấy nhu cầu xã hội về việc làm, sự cạnh tranh thị trường lao động
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
giữa các nước trong khu vực cũng như sự cần thiết phải đổi mới chương trình nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng lộ trình tự chủ đại học. Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà trường đã quyết định triển khai xây dựng chương trình đào tạo mới theo hướng tiếp cận CDIO. Theo định hướng đó, song song với chương trình đào tạo hiện có, nhà trường xây dựng chương trình đào tạo mới đáp ứng các tiêu chí mới trong đó chú trọng yêu cầu hội nhập Asean và quốc tế. - Đổi mới quy trình đào tạo: Từ năm 1988 tới nay, nhà trường đã hai lần thay đổi quy trình đào tạo: Lần thứ nhất vào năm 1988 phân chia quá trình đào tạo thành 2 giai đoạn với thời gian đào tạo giai đoạn I là 2 năm (4 học kỳ) và giai đoạn II là 3 năm (6 học kỳ). Giữa 2 giai đoạn tổ chức kỳ thi tuyển có tính quốc gia. Nhà trường đã thực hiện chủ trương liên thông giữa các trường, cho phép một số lượng hạn chế sinh viên ngoài trường được thi chuyển giai đoạn (dưới 10% số sinh viên của trường). Nhưng thực tế chưa có năm nào số sinh viên ngoài trường vượt quy định trên (năm cao nhất có gần 70 sinh viên dự thi và tỷ lệ vào học khá thấp, do thi không đỗ hoặc không thỏa mãn nguyện vọng ngành nghề). Lần hai vào năm học 1995 - 1996, nhà trường đổi mới quy trình đào tạo rút ngắn giai đoạn I xuống còn 3 học kỳ. Việc thực hiện quy trình mới bắt đầu từ khóa 40 nhưng nội dung giảng dạy phải sang khóa 41 mới thực hiện hoàn toàn theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Song song với việc đổi mới quy trình đào tạo là việc điều chỉnh liên tục chương trình học tập giai đoạn I kết hợp với việc thay đổi mô hình đào tạo để hòa nhập vào hệ thống chương trình chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc liên thông giữa các ngành
trong trường và các trường khác, phát huy hiệu quả của quy trình đào tạo mới. Cùng với quy trình đào tạo, ba năm từ 1999 đến 2001 (Khóa 44, 45 và 46) nhà trường thực hiện tuyển sinh theo 13 ngành từ năm thứ nhất. Nhưng bốn khóa tiếp theo (từ khóa 47 đến khóa 50) lại áp dụng thi chuyển giai đoạn để phân ngành. Việc tuyển sinh theo ngành được thảo luận nhiều lần ở các hội nghị Đảng ủy và Tổng kết năm học hàng năm. Từ năm 2006 nhà trường thực hiện tuyển sinh theo ngành dựa vào đăng ký nguyện vọng của thí sinh trước khi thi. Khi nhập trường những thí sinh không trúng nguyện vọng 1 sẽ được đăng ký lại nguyện vọng. Từ năm học 2015-2016, theo yêu cầu đổi mới công tác tuyển sinh của Bộ GD&ĐT, Nhà trường áp dụng phương thức xét tuyển theo kết quả kỳ thi THPT quốc gia. Thí sinh được đăng ký nguyện vọng ngành học trước khi xét tuyển vào trường. - Đổi mới phương thức quản lý đào tạo Trường Đại học Xây dựng là một trong hai trường đầu tiên (cùng với Trường Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh) thực hiện thí điểm phương thức quản lý đào tạo theo học chế tín chỉ từ năm 1995. Đây là một phương thức quản lý đào tạo tiên tiến, dành nhiều thuận lợi và cơ hội cho sinh viên. Trong phương thức này, chương trình đào tạo được cấu trúc theo các mô-đun đa dạng, từng sinh viên có thể chọn chương trình học riêng phù hợp với khả năng và điều kiện của mình. Sinh viên phát huy tính độc lập trong học tập, nghiên cứu. Những năm đầu, phương thức quản lý này áp dụng cho nhóm 5 ngành kỹ thuật công trình. Đến năm 2000, trừ ngành Kiến trúc, tất cả các ngành còn lại thực hiện đào tạo tín chỉ và đến năm 2002, phương thức quản lý đào tạo theo học chế tín chỉ 81
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
áp dụng cho toàn trường với phương châm thực hiện từng bước đi đôi với đánh giá, rút kinh nghiệm. Riêng hệ Vừa làm vừa học và các ngành đào tạo theo chương trình chất lượng cao (PFIEV) do tính đặc thù nên vẫn đào tạo theo phương thức niên chế. Tháng 3/2005, trường đã tổ chức Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện quản lý đào tạo theo học chế tín chỉ. Đến nay, sau hơn 20 năm áp dụng, nhà trường đã thu được nhiều kinh nghiệm quý báu và khá ổn định trong tổ chức thực hiện phương thức quản lý đào tạo theo học chế tín chỉ. Kinh nghiệm của Trường Đại học Xây dựng đã hỗ trợ cho các trường bạn và đóng góp vào quá trình đổi mới phương thức quản lý đào tạo của Bộ GD&ĐT. - Đổi mới phương thức dạy và học: Trên cơ sở quán triệt mục tiêu đào tạo ra những con người lao động tự chủ, năng động sáng tạo có khả năng giải quyết những vấn đề đang đặt ra trong cuộc sống, từ năm 1995 nhà trường đã bắt đầu có chủ trương đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng tăng tính chủ động của sinh viên và sử dụng các phương tiện kỹ thuật mới để hỗ trợ giảng dạy. Nhà trường đã động viên CBGD tích cực viết giáo trình, tài liệu học tập cho sinh viên. Riêng năm học 1995 - 1996 đã viết xong được 42 đầu sách, tăng 25 đầu sách so với năm học trước đó. Năm học 2005 - 2006, để lập thành tích thiết thực chào mừng kỷ niệm 40 năm thành lập trường, đã có 36 đầu sách được xuất bản với 122 đơn vị học trình chủ yếu của CBGD các khoa: Cơ khí Xây dựng, Công nghệ thông tin (Toán), Kiến trúc và Cầu đường. Các sách xuất bản đã nhập Thư viện trường 12.033 cuốn. Đến nay đã có thêm 195 đầu sách và giáo trình được xuất bản và nhập Thư viện trường hàng ngàn cuốn. Chất lượng giáo trình của nhà trường được các trường đại học bạn cùng khối ngành đánh giá cao. 82
Bằng việc đổi mới phương thức dạy và học, nhà trường đã thực hiện việc rút ngắn thời gian lên lớp hàng tuần từ 36 tiết xuống còn 30 tiết nhưng đảm bảo không cắt giảm nội dung đào tạo. Nhìn chung, chất lượng các kỹ sư, kiến trúc sư do trường đào tạo được xã hội đánh giá tốt. Các đơn vị sử dụng lao động đều cho rằng chất lượng đào tạo của trường về cơ bản đáp ứng được yêu cầu của thực tế sản xuất và đời sống, là địa chỉ đào tạo tin cậy của xã hội. 3. Đào tạo Sau đại học Thấy rõ tầm quan trọng của công tác đào tạo sau đại học, từ năm 1987, trường đã thành lập Khoa Đào tạo sau đại học tách khỏi Phòng Nghiên cứu khoa học. Từ đó công tác đào tạo sau đại học đã được phát triển mạnh mẽ, góp phần khẳng định uy tín của Trường Đại học Xây dựng. Tiếp theo sự thành công của các lớp bổ túc kỹ sư, năm 1987 Trường Đại học Xây dựng đã mở lớp đào tạo trình độ thạc sỹ thí điểm đầu tiên chuyên ngành Xây dựng công trình biển gồm 27 học viên (khóa 1987 - 1989), năm 1989 mở lớp thạc sỹ thí điểm thứ hai chuyên ngành Xây dựng Dân dụng và Công nghiệp gồm 7 học viên (khóa 1989 - 1992) tại Hải Phòng. Kinh nghiệm từ 2 lớp thạc sỹ thí điểm này đã góp phần không nhỏ vào chủ trương mở đào tạo thạc sỹ một bậc học mới của Nhà nước trong quyết định số 55/HĐBT ngày 9/3/1991. Ngay sau khi mở bậc đào tạo trình độ thạc sỹ ở nước ta, Trường Đại học Xây dựng đã đăng ký nhận nhiệm vụ đào tạo cao học và được Bộ Giáo dục và Đào tạo chấp thuận giao đào tạo cao học 13 ngành, đến tháng 8/2016 đào tạo 17 ngành/chuyên ngành. Địa bàn đào tạo thạc sỹ chủ yếu ở Hà Nội, và để đáp ứng nhu cầu của người học Trường Đại học Xây dựng còn mở một số lớp liên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
kết ở ĐH Hàng Hải - Hải Phòng (1992,1996, 2010, 2011), Đại học Sư phạm Vinh (1997, 1999), Đại học Kỹ thuật Đà Nẵng (1994, 2000), ĐH Đà Nẵng (2008, 2009, 2010, 2011), ĐH Bà Rịa Vũng tàu (2007, 2009) và từ năm 2009 ngoài việc tiếp tục củng cố các địa bàn đã có trường còn liên kết với một số trường đại học như: Đại học Cần Thơ (từ năm 2012), ĐH Lạc Hồng - Biên Hòa Đồng Nai (2011), ĐH Tây Nguyên (2012, 2013), ĐH Xây dựng Miền trung (từ 2014), ĐH Hà Tĩnh (từ 2013); ĐH Quảng Bình (từ 2016); ĐH Tây Bắc - Sơn La (từ 2015). Tính đến 7/2016 Trường Đại học Xây dựng đã đào tạo được 5216 thạc sỹ, đặc biệt trong những năm gần đây nhu cầu học thạc sỹ tăng nhanh, từ năm 2009 đến nay có 3614 Thạc sỹ tốt nghiệp. Các luận văn thạc sỹ hầu hết được thực hiện đạt chất lượng và có những đóng góp về mặt khoa học và phục vụ sản xuất. Đào tạo Tiến sỹ Từ năm 1977, Trường Đại học Xây dựng được giao nhiệm vụ đào tạo Tiến sỹ (trước năm 2000 gọi là Phó tiến sỹ) theo Quyết định số 97/TTg ngày 11/03/1977 của Thủ tướng Chính phủ. Số đã bảo vệ thành công Luận án Tiến sỹ từ đó đến nay là 173 NCS. Các Luận án Tiến sỹ đều có những đóng góp mới và nhiều kiến nghị được áp dụng. Các Tiến sỹ tốt nghiệp của trường đều phát huy tốt vai trò của mình trong công tác sau này. NCS Say Khong Saynasine đến từ CHDCND Lào là người nước ngoài đầu tiên bảo vệ thành công Luận án Tiến sỹ thuộc chuyên ngành Kinh tế Xây dựng vào tháng 6/2001. Từ năm 2003, Trường Đại học Xây dựng được Bộ giao thêm nhiệm vụ tổ chức tuyển sinh cao học và NCS đi học nước ngoài. Đào tạo liên tục Tháng 6 năm 2005, Bộ Xây dựng đã ra
Quyết định công nhận Trường Đại học Xây dựng là cơ sở có đủ khả năng và điều kiện bồi dưỡng nghiệp vụ giám sát thi công xây dựng công trình của 4 lĩnh vực: Công trình dân dụng và công nghiệp, Giao thông, Thủy lợi, Hạ tầng kỹ thuật. Từ tháng 6/2005, triển khai Quyết định trên đồng thời cán bộ của trường đã chủ động xây dựng các chương trình đào tạo ngắn hạn hấp dẫn và có tính hệ thống trên các lĩnh vực: Thiết kế, thi công, quản lý khai thác các công trình xây dựng; Quản lý dự án; Tư vấn, giám sát thi công và Đấu thầu xây dựng; Môi giới, định giá, quản lý điều hành sàn giao dịch bất động sản, Quản lý nhà chung cư... đáp ứng nhu cầu bức thiết của số đông cán bộ kỹ thuật của các sở xây dựng, các tổng công ty, công ty. Cũng trong khoảng thời gian này, trên cả nước có 7 đơn vị cùng đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ giám sát thi công xây dựng công trình nhưng Trường Đại học Xây dựng là cơ sở được người học đánh giá cao, nhất là về chương trình đào tạo. Tính đến nay, Trường Đại học Xây dựng đã đào tạo trên 270 lớp học với hơn 23.000 người tham dự.
III. XÂY DỰNG CƠ SỞ VẬT CHẤT Tự lực cánh sinh xây dựng trường là một nét truyền thống của Trường Đại học Xây dựng. Trong thời kỳ sơ tán, dù di chuyển đến đâu, cán bộ và sinh viên toàn trường cũng nhanh chóng xây dựng các lớp học, nhà ở, nhà ăn, nhà thí nghiệm, hội trường... bằng vật liệu tranh tre, nứa lá. Chính cơ sở vật chất đó đã đảm bảo cho công tác đào tạo - NCKH của trường không bị gián đoạn trong bất kỳ tình huống khó khăn nào. Những năm 1980 - 1983, để đảm bảo cho việc chuyển trường từ Hương Canh về Hà Nội, trường đã tranh thủ mọi nguồn lực, tổ chức và động viên toàn thể cán bộ sinh 83
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
viên tự sản xuất hàng triệu viên gạch chỉ, gạch lát, đóng góp hàng vạn ngày công xây hàng vạn m2 nhà làm việc, nhà ở, nhà ăn, lớp học, nhà thí nghiệm... tại 4 khu vực: Cổ Nhuế, Phúc Xá, Bách Khoa và Đồng Tâm. Cơ sở vật chất đó đảm bảo cho trường đủ điều kiện cần thiết để triển khai các hoạt động đào tạo và NCKH trong gần 10 năm. Năm 1991, lần đầu tiên kể từ ngày thành lập, trường đã quy tụ về một địa điểm tại phường Đồng Tâm, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Tại đây, trường đã phấn đấu từng bước xây dựng được trên 47.900m2 những công trình vĩnh cửu phục vụ cho đào tạo - NCKH; gồm: - 18 phòng thí nghiệm, trong đó có 5 phòng thí nghiệm chuyên đề, 1 xưởng cơ khí, 1 Trung tâm Tin học phục vụ cho công tác đào tạo. - Thư viện có trên 177.000 cuốn sách (trong đó có trên 37.000 cuốn sách ngoại văn), 71 loại tạp chí tiếng Việt, trên 118.000 cuốn giáo trình. Trong 5 năm (2006 - 2011) Thư viện đã nhập 114 đầu sách của 57 CBGD của trường. - Các công trình nhà làm việc A1- 6 tầng (5750m2) và Trung tâm Kỹ thuật Môi trường - 3 tầng (1200m2). Khu giảng đường gồm 2 nhà học lớn H1 - 6 tầng (9600m2), H2 - 5 tầng (6000m2) và 1 Nhà học cấp 4 thuộc khu thí nghiệm 1 tầng (10 phòng). Thư viện 5 tầng (6000m2), Nhà thí nghiệm 10 tầng (11500m2), Hội trường G3 với diện tích sàn 3010m2 có sức chứa 950 chỗ, 1 phòng hội họp 200 chỗ kết hợp phòng truyền thống. - Cụm các công trình trong khu vực sinh viên có tổng diện tích trên 7.000m2 gồm: Nhà thi đấu TDTT (1200m2); Nhà ăn sinh viên 2 tầng (600m2) và Ký túc xá sinh viên với 2 đơn nguyên 4 tầng (5340m2) có 170 phòng ở khép kín, có thể nhận được 1500 sinh viên nội trú. 84
Năm 2010, nhà trường đã đầu tư, cải tạo nâng cấp nhà làm việc A1, các nhà học H1, H2, chỉnh trang khuôn viên, sân trường tạo diện mạo mới đồng thời đáp ứng ngày càng tốt hơn điều kiện làm việc của cán bộ, học tập của sinh viên. Các công trình đó đã tạo nên quang cảnh khang trang, hiện đại, là niềm mong ước và tự hào của các thế hệ cán bộ và sinh viên Trường Đại học Xây dựng. Năm 2014, nhà trường chủ động xin đất và đã được cấp 22,3 ha để xây dựng cơ sở đào tạo thực nghiệm tại khu đô thị đại học Nam Cao, tỉnh Hà Nam theo đề án được Bộ Giáo dục - Đào tạo phê duyệt bằng nguồn kinh phí của trường (hơn 100 tỷ đồng). Dự án đầu tư xây dựng cơ sở Hà Nam đã cơ bản hoàn thành giai đoạn I là đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật để chuyển sang giai đoạn II tập trung đầu tư xây dựng các công trình: nhà thí nghiệm, nhà học thực hành, xưởng sản xuất thử nghiệm, ký túc xá và luyện tập thể dục thể thao cho sinh viên... Dự án hoàn thành sẽ tạo điều kiện để Trường thực hiện cải tiến mạnh mẽ chương trình đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đào tạo kỹ sư có trình độ chuyên môn cao và kỹ năng nghề nghiệp đạt trình độ của khu vực Đông Nam Á. Đội ngũ kỹ sư, học viên được đào tạo sẽ đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động ngành xây dựng, góp phần thực hiện nhiệm vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Năm 2015, Trường Đại học Xây dựng được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt dự án cải tạo nâng cấp thư viện thành thư viện điện tử và dự án đầu tư xây dựng nhà H3 tại 55 đường Giải phóng với qui mô 13000m2 sàn. Dự án cải tạo, nâng cấp thư viện khánh thành vào tháng 9/2016 - trở thành một trong những thư viện hiện đại nhất trong các trường đại học của Việt Nam. Công trình nhà H3 được khởi công vào tháng 9/2016 trên khuôn viên của Trung tâm Kỹ thuật Môi
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
trường, dự kiến hoàn thành vào năm 2018. Sau khi hoàn thành dự án này, cơ sở vật chất của Trường tại Trụ sở chính sẽ được cải thiện đáng kể đáp ứng yêu cầu phục vụ đào tạo và NCKH, góp phần xây dựng hình ảnh Nhà trường khang trang, hiện đại xứng đáng với bề dày, qui mô, tầm vóc của Trường đào tạo đại học hàng đầu trong lĩnh vực Xây dựng..
IV. XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ 1. Xây dựng đội ngũ cán bộ Đội ngũ cán bộ Trường Đại học Xây dựng luôn được đánh giá là vững vàng về chính trị, giỏi về chuyên môn. Tháng 11/1986, trong Đại hội Đảng bộ trường lần thứ XII, Bộ trưởng Nguyễn Đình Tứ đã nhận xét: “Hiện tại, đội ngũ Đại học Xây dựng vẫn còn rất mạnh, đây là vốn quý nhưng chưa phát huy hết tiềm lực”... Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước với những cơ hội và thách thức mới, đòi hỏi Trường Đại học Xây dựng phải luôn chuẩn bị, xây dựng đội ngũ vững mạnh để không ngững phát triển. Giai đoạn từ khi trường chuyển từ Hương Canh về Hà Nội đến đầu thập kỷ 90, đất nước rơi vào giai đoạn khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, lạm phát tăng nhanh, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là CBCNV hưởng lương Nhà nước. Trong bối cảnh đó, nhiều cán bộ nhà trường phải tìm cách bươn chải, tìm việc làm thêm để tăng thu nhập cho gia đình. Sức cuốn hút của nó đã làm cho không ít cán bộ tập trung nhiều thời gian và tâm sức vào các hoạt động kinh tế, không còn tâm huyết với nghề dạy học. Bên cạnh đó, các bộ môn chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ, xem nhẹ việc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ CBGD trẻ kế cận. Thời kỳ này, theo chủ trưng của Nhà nước, Trường đã cử 87 cán bộ sang làm chuyên gia giảng
dạy ở 9 nước châu Phi. Tình hình đó tạo ra một sự hụt hẫng cán bộ rất lớn, làm yếu đội ngũ cán bộ nhà trường. Các nhiệm kỳ Hiệu trưởng đều tìm cách khắc phục nhưng kết quả đạt được chưa cao. Năm 1984, trường Đại học tại chức Hà Nội (thành lập năm 1971, có trụ sở tại Phường Đồng Tâm, Quận Hai Bà Trưng - Hiệu trưởng là thầy Lê Vạn, nguyên CBGD trường ĐHXD) giải thể và sáp nhập các bộ phận vào các trường đại học khác. Khoảng 15 CBGD của ngành Xây dựng đã chuyển về trường ĐHXD, trong đó có thầy Nguyễn Lê Ninh sau này là Hiệu trưởng nhiệm kỳ 1999 - 2004. Vào những năm đầu thập kỷ 90, nhu cầu đào tạo của các ngành lại không đồng đều, một số ngành không phát triển được vì có rất ít người muốn theo học. Trái lại, một số bộ môn khối lượng giảng dạy lớn, cán bộ không còn thời gian để tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và tham gia công tác NCKH. Trước tình hình đó, Nhà trường đã chủ trương tiến hành nhiều đợt rà soát biên chế giảng dạy của các bộ môn, lập kế hoạch tuyển dụng cán bộ mới và xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ trên 2 hướng là chú trọng bồi dưỡng, bổ sung và nâng cao trình độ cho các cán bộ đã có thâm niên trên 10 năm giảng dạy; tuyển dụng CBGD mới, lựa chọn sinh viên tốt nghiệp loại giỏi và cử đi đào tạo tiếp ở bậc học cao hơn. Với chiến lược này, từ năm 1995 tình hình đã có chuyển biến. Hầu như tất cả các bộ môn và phòng thí nghiệm đã tạo điều kiện thuận lợi để các thầy cô giáo tham gia các lớp, các khóa bổ sung và nâng cao kiến thức, đặc biệt là đào tạo cao học và NCS tại trường. Sau 20 năm kiên trì xây dựng đội ngũ, kết quả đạt được khá tốt. Năm 1994, toàn trường có 479 CBGD, trong đó có 115 Tiến sỹ, PTS (24%), 358 đại 85
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
học (74,7%), 315 người có thâm niên giảng dạy từ 10 đến 20 năm (65,7%), nhưng thạc sỹ chỉ có 3 người.
Đại học Xây dựng đã được Nhà nước phong hàm 52 Giáo sư và 125 Phó giáo sư (trong đó có 1 đạt chuẩn GS).
Năm 2001, có 527 CBGD, trong đó có 10 TSKH, 140 Tiến sỹ, 139 Thạc sỹ. Số CBGD có trình độ SĐH chiếm 54,8%;
Trong những năm gần đây Nhà trường rất quan tâm đến việc bồi dưỡng, khuyến khích các thầy, cô giáo phấn đấu đạt tiêu chuẩn và được bổ nhiệm chức danh Giáo sư, Phó giáo sư. Năm 2012 có 1 nhà giáo được bổ nhiệm chức danh Giáo sư, 3 nhà giáo được bổ nhiệm chức danh Phó giáo sư. Năm 2013 có 1 nhà giáo được bổ nhiệm chức danh Giáo sư và 8 nhà giáo được bổ nhiệm chức danh Phó giáo sư. Năm 2015 có 12 nhà giáo được bổ nhiệm chức danh Phó giáo sư.
Năm 2006, có 631 CBGD, trong đó có 5 TSKH, 141 Tiến sỹ, 273 Thạc sỹ. Số CBGD có trình độ SĐH chiếm 66,4%; Đến 31/7/2011 toàn trường có 996 viên chức, trong đó CBGD: 651 người, cán bộ công tác tại các phòng, ban, khoa, viện: 249 người. Cơ cấu đội ngũ CBGD ở thời điểm đó là: 3 GS, 1 đạt chuẩn GS, 62 PGS, 173 GVC. Về học vị: 2 TSKH, 150 TS, 394 ThS. Thời kỳ đó Nhà trường đã thực hiện chính sách ký hợp đồng lao động với cán bộ giảng dạy có học hàm, học vị, có kinh nghiệm của trường đã nghỉ hưu. Đã có 20 GS, 24 PGS và 42 GVC ký hợp đồng với Trường. Trường Đại học Xây dựng tự hào là một trong những trường đầu tiên thực hiện đào tạo TS trong nước và cũng là trường thí điểm đào tạo thạc sĩ đầu tiên của ngành. Năm 1997, đã có 72 CBGD tham gia hướng dẫn NCS. Năm 2000 có 165 CBGD của 33 bộ môn trong trường tham gia giảng dạy sau đại học. Nhà trường cũng đã mời gần 100 cán bộ khoa học của 37 bộ môn, viện và các trường đại học khác tham gia đào tạo sau đại học. Số cán bộ của Trường được cử đi làm chuyên gia giảng dạy ở châu Phi, ngoài nhiệm vụ giảng dạy, các thầy đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm và nâng cao thêm trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Sau khi trở về tiếp tục giảng dạy, các kinh nghiệm quý đó đã được trao đổi và thực nghiệm trong bộ môn, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của trường. Từ năm 1980 đến 2011, cán bộ Trường 86
Cho đến nay đã có 9 nhà giáo gồm Nguyễn Sanh Dạn, Lều Thọ Trình, Nguyễn Văn Chọn, Phạm Ngọc Đăng, Nguyễn Đăng Hạc, Trần Hiếu Nhuệ, Nguyễn Mậu Bành, Nguyễn Xuân Trục và Lâm Quang Cường được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân, 75 nhà giáo được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú. Hiện nay, toàn trường có 945 viên chức. Số cán bộ giảng dạy là 680 người, cán bộ hướng dẫn thí nghiệm, thực hành là 39 người, viên chức hành chính là 226 người. Cơ cấu cán bộ giảng dạy theo chức danh nghề nghiệp gồm có 69 giảng viên cao cấp; 54 Giảng viên chính và 538 giảng viên, theo học hàm có 4 GS và 71 PGS, theo học vị có 2 TSKH, 190 TS và 446 ThS. Tỷ lệ cán bộ giảng dạy có trình độ trên đại học là 93.8%. Ngoài ra Trường còn ký hợp đồng với hàng trăm giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ của Trường đã nghỉ hưu còn đủ sức khỏe tham gia đóng góp xây dựng trường. 2. Bồi dưỡng cán bộ trẻ Trường Đại học Xây dựng luôn được đánh giá là có đội ngũ cán bộ mạnh, nhưng qua nhiều năm, nhiều thầy giáo tuổi đã cao, chỉ tính từ năm 2001 đến 2005 đã có
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
223 cán bộ nghỉ hưu, trong đó có 137 giảng viên, trong số 137 giảng viên về nghỉ hưu có 18 GS, 17 PGS và 92 GVC; từ năm 2006 đến 7/2011 đã có 153 cán bộ nghỉ hưu, trong đó có 116 CBGD, trong số CBGD này có 6 GS, 16 PGS và 100 GVC; từ năm 2012 đến nay có 99 cán bộ, giảng viên nghỉ hưu, trong đó có 2 GS, 14 PGS, 2 TS và 35 GVC. Các thầy giáo nghỉ hưu đều là những thầy giáo có thâm niên giảng dạy lâu năm, là những cán bộ khoa học đầu đàn ở các bộ môn. Trước tình hình đó, Nhà trường đã có chủ trương bổ sung đội ngũ theo 2 hướng: bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ đã có thâm niên giảng dạy và tuyển dụng cán bộ trẻ. Trong 15 năm, từ 1990 đến 2005, nhà trường đã tuyển mới được 537 cán bộ trẻ, trong đó có 403 người là cán bộ giảng dạy (75%). Đó là các sinh viên tốt nghiệp loại khá, giỏi được đưa về các bộ môn chuyên ngành, trong đó có 65% được tiếp tục đào tạo cao học trong trường hoặc được gửi đi đào tạo ở Úc, Nhật, Pháp, Thái Lan, Mỹ,... Trong 5 năm (2006 - 2011), trung bình mỗi năm nhà trường tuyển thêm khoảng 60 người, trong đó CBGD khoảng 40 người. Từ năm 2012 đến nay nhà trường tiếp tục tăng cường tuyển dụng cán bộ giảng dạy và tạo điều kiện cho hàng trăm cán bộ giảng dạy trẻ liên tục được đi đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ trong và ngoài nước, tham gia các hội thảo khoa học trong nước và quốc tế, trao đổi giảng viên với các trường đại học lớn trên thế giới. Nhờ có chính sách đó mà hiện nay nhiều vị trí quản lý quan trọng của trường do cán bộ trẻ đảm nhận và phát huy rất tốt năng lực quản lý cũng như chuyên môn. Chính những thế hệ CBGD trẻ đó sẽ viết tiếp những trang sử vẻ vang của Trường Đại học Xây dựng, mà các thế hệ đi trước đã vượt qua bao khó khăn gian khổ, phấn đấu cả cuộc đời cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo gây dựng nên.
V. HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ PHỤC VỤ SẢN XUẤT Hoạt động KHCN và phục vụ sản xuất của Trường Đại học Xây dựng dù trong hoàn cảnh khó khăn đến mấy vẫn được duy trì thành nền nếp, bám sát thực tiễn sản xuất và đời sống xã hội. Trong thư gửi Hội nghị Khoa học trường ĐHXD lần thứ VII, tháng 11/1984, Phó Thủ tướng Võ Nguyên Giáp đã đánh giá: “Thời gian qua, theo phương châm kết hợp lý luận với thực tiễn, khoa học với sản xuất, Trường Đại học Xây dựng đã không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, đạt được nhiều thành tựu về nghiên cứu và giảng dạy khoa học kỹ thuật, đưa được nhiều tiến bộ khoa học và kỹ thuật vào sản xuất và đời sống xã hội...” . Giai đoạn từ năm 1983 đến nay là thời kỳ đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, tốc độ xây dựng tăng nhanh, các đô thị mới với các công trình công cộng, hạ tầng kỹ thuật hiện đại hình thành nhanh chóng. Nhiều công nghệ mới của quốc tế về xây dựng được chuyển giao, áp dụng vào Việt Nam. Điều này đặt ra thách thức mới cho nhà trường trong hoạt động khoa học công nghệ để bắt kịp với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và nhu cầu phát triển của ngành xây dựng thời kỳ đổi mới. Hoạt động KHCN và phục vụ sản xuất theo sự phát triển của đất nước có thể chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn 1983 - 2000, 2001 - 2010 và 2011 - 2016. 1. Giai đoạn từ năm 1983 đến năm 2000 Về Hà Nội, nhà trường có nhiều thuận lợi hơn để thiết lập các mối quan hệ với các trường bạn, các cơ quan trung ương, địa phương và giao lưu quốc tế. Mặc dù còn rất nhiều khó khăn do cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm đang trong quá trình xây dựng, các thầy cô giáo đã nhanh chóng tham gia vào các hoạt động KHCN của đất nước và thành phố Hà Nội. 87
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Ngay từ năm 1984, Trường Đại học Xây dựng đã có đề tài tham gia Hội nghị “Tuổi trẻ sáng tạo khoa học” lần thứ nhất của các trường đại học toàn quốc, tham gia Hội chợ triển lãm kinh tế - kỹ thuật tại Việt Nam và Liên Xô.
Nghiên cứu lý thuyết: Các nghiên cứu lý thuyết đã được chú trọng để đáp ứng kịp thời cho công tác đổi mới giáo trình giảng dạy. Các đề tài tiêu biểu như: “Nghiên cứu bản đồ địa hình kỹ thuật số”; “Ứng dụng công nghệ GIS trong quy hoạch xây dựng đô thị” của Khoa Cầu đường; “Tính toán không gian Lobasepxki”; “Biểu mẫu không gian Ơcơlit và Eliptic”; đưa môn “Vẽ máy” vào giảng dạy... của Bộ môn Hình họa; “Tính toán các công trình chịu tải trọng động đất”; “Tự động hóa phân tích kết cấu trên máy tính điện tử”; “Phương pháp xác định tải trọng của gió lên công trình”; “Phương pháp số giải bài toán bản và vỏ mỏng chịu tải trọng phức tạp”; “Nghiên cứu trạng thái ứng suất biến dạng”; “Dao động và ổn định bản 3 lớp”... của các bộ môn thuộc Khoa Xây dựng; Lý thuyết về “Độ biến động nhỏ nhất của dòng dẫn” của Bộ môn Cảng - Đường thủy, đổi mới phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin... Các nhiệm vụ thuộc chương trình cấp Nhà nước về khoa học cơ bản đã được các cán bộ có nhiều kinh nghiệm NCKH tham gia thực hiện và đã được nghiệm thu loại tốt như các đề tài: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH” của thầy Nguyễn Văn Chọn; “Động lực các quá trình dị thể” (đề tài thuộc chương trình khoa học cơ bản 1994-1996) của thầy Nguyễn Minh Tuyển; “Nghiên cứu sự tương tác của dòng chảy với công trình trong điều kiện biên phức tạp” (đề tài 1998 - 2000) của thầy Trịnh Trọng Hàn; “Sức cản thủy lực vật rắn đàn hồi” của thầy Nguyễn Tài; “Một số vấn đề cơ học cuả bệnh 88
học công trình” của thầy Nguyễn Văn Phó; “Quy luật tương tác của dòng chảy với công trình” của thầy Nguyễn Xuân Đặng... Công nghệ thông tin tuy mới phát triển ở Việt Nam nhưng cũng đã được các thầy cô giáo nhanh chóng nghiên cứu tiếp cận. Cuối năm 2000, Nhà trường đã thực hiện nối mạng internet cho một số bộ môn, đã mở trang web và thành lập Khoa Công nghệ thông tin để tuyển sinh đào tạo kỹ sư công nghệ phần mềm vào năm 2001.
Nghiên cứu ứng dụng: Từ 1986 đất nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng XHCN, đây vừa là động lực và vừa là cơ hội để các hoạt động nghiên cứu ứng dụng của nhà trường được phát triển. Các đề tài trải khắp trên các lĩnh vực như môi trường, xử lý nền móng, khoan cọc nhồi, bảo tồn kiến trúc cổ, vật liệu xây dựng mới, xây dựng các tiêu chuẩn mới... Tiêu biểu là: - Các “Nghiên cứu về môi trường ở Hà Nội, Hải Phòng, Việt Trì” (thuộc chương trình KH 1991-1995) và tiếp theo là chương trình KH 1996 - 2000, tiếp tục nghiên cứu, dự báo diễn biến môi trường do tác động của phát triển đô thị và công nghiệp đến năm 2010, 2020 ở Hà Nội, Việt Trì, Thái Nguyên và Hà Bắc do thầy Phạm Ngọc Đăng chủ trì... - Đề tài “Nghiên cứu thiết kế và công nghệ thi công cầu dây” do thầy Lê Đình Tâm, Bộ môn Cầu - Hầm chủ trì. Các đề tài thiết kế và xây dựng một số nút giao thông trọng điểm ở Hà Nội như nút giao thông cầu Thăng Long, Mai Động, Cửa Nam của các thầy giáo Bộ môn Đường ôtô và đường thành phố. - Các đề tài nghiên cứu về giải pháp kỹ thuật và công nghệ nâng cấp và nâng cao hoạt động của hệ thống thủy lợi và thủy nông ở các vùng nông nghiệp của các thầy
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
giáo Bộ môn Xây dựng thủy điện. - Đề tài “Nghiên cứu và ứng dụng cọc nhồi, cọc ép tĩnh” do thầy Vũ Công Ngữ và Lê Đức Thắng chủ trì, có một ý nghĩa thực tiễn và kinh tế lớn vì đã được ứng dụng để cải tạo, xây mới, xây chen trong các đô thị, nhất là ở Hà Nội, nơi mà mặt bằng thi công chật hẹp nằm giữa các công trình hiện có. - Khoa Cầu Đường triển khai nghiên cứu móng cọc ép tĩnh ở những nơi xây chen như chợ Đồng Xuân, Khách sạn Hòa Bình, Viện Điện tử tin học; Thiết kế các nút giao thông của thành phố Hà Nội; Thử tải các cầu bê tông nhịp lớn. - Nhóm các đề tài nghiên cứu xây dựng các tiêu chuẩn Việt Nam của ngành Xây dựng như: Tiêu chuẩn TCVN (TCVN 223377 đến 2241-77) về bản vẽ xây dựng; Tiêu chuẩn TCVN-5574-91 Thiết kế kết cấu bê tông cốt thép; Tiêu chuẩn TCVN 55-76-91; Thiết kế kết cấu gạch đá; Tiêu chuẩn 14TCN 84-91 về công trình bảo vệ bờ sông, Tiêu chuẩn ngành về đê biển và công trình bảo vệ bờ biển. Các thầy giáo giàu kinh nghiệm ở các bộ môn tham gia nhiều hội đồng cấp Nhà nước đánh giá luận án tiến sỹ, hội đồng thẩm định thiết kế, thẩm định dự án, nghiệm thu Nhà nước các công trình lớn trên nhiều địa bàn của cả nước. Các hoạt động đó đã quảng bá được uy tín của đội ngũ các nhà khoa học đầu đàn, nâng cao vị thế khoa học của nhà trường. Do bám sát thực tiễn, hàng loạt đề tài đã được đánh giá xuất sắc trong lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng như các đề tài: “Xây dựng phương pháp luận chứng KHKT khi nhập khẩu công nghệ cho ngành xây dựng” của thầy Nguyễn Văn Chọn; “Nghiên cứu chiến lược và giải pháp công nghệ phòng chống lũ ở Việt Nam” của thầy Trịnh Trọng Hàn; “Nghiên cứu khí hậu Việt Nam trong thiết kế xây dựng tấm bê tông mặt đường ôtô”
của thầy Dương Học Hải; “Nghiên cứu các yếu tố công trình thủy lợi cột nước cao” của thầy Nguyễn Xuân Đặng; “Tính toán kết cấu cột thép và móng cột áp dụng cho đường dây 500KV Bắc Nam” của các thầy giáo Khoa Cầu đường; “Các phương án đánh giá kinh tế xây dựng nhà ở” của thầy Nguyễn Huy Thanh; “Hoàn thiện phương pháp lập chiến lược và lý thuyết marketing trong xây dựng” do thầy Nguyễn Đăng Hạc và một số cộng sự tiến hành... Để phục vụ công tác xây dựng có các đề tài nghiên cứu ứng dụng như “Nghiên cứu chế tạo và sản xuất các cấu kiện bê tông lắp ghép đúc sẵn phục vụ cải tạo và xây dựng nhà ở thấp tầng”; “Nghiên cứu sản xuất tấm cách âm, cách nhiệt”; “Nghiên cứu ổn định và nâng cao chất lượng xi măng lò đứng”; “Nghiên cứu sử dụng tro xỉ nhiệt điện Phả Lại”; “Nghiên cứu chế độ thủy lực hạ lưu thủy điện Thác Bà”... Trong các đề tài nghiên cứu khoa học, một số kết quả đã được triển khai áp dụng thực tiễn thành công như: “Chế tạo máy đo lưu tốc nhỏ CM-RTT 85”; “Chế tạo máy xuyên tĩnh 32 - 80 và chế tạo máy ép cọc”; “Chế tạo thiết bị phun bitum”; “Chế tạo thiết bị tạo hình làm chặt bê tông bằng công nghệ va rung”; “Chế tạo thiết bị đo nhiệt độ, độ ẩm trong lò nung” ... Một số công trình đạt Huy chương Vàng trong các Hội chợ Triển lãm kinh tế kỹ thuật Việt Nam, một số công trình khác được Bộ đánh giá đạt mức “xuất sắc” cho triển khai thành dự án sản xuất thử nghiệm và được chế tạo, ứng dụng ở nhiều địa phương đạt hiệu quả kinh tế cao. Từ 1983 đến 2000 cán bộ, giáo viên nhà trường đã chủ trì và tham gia thực hiện 73 đề tài và chương trình cấp nhà Nhà nước, 197 đề tài cấp Bộ và thành phố, trên 1000 đề tài NCKH cấp trường; 3 đề tài được cấp bằng sáng chế, 2 đề tài được Huy chương Vàng trong các triển lãm KHKT toàn quốc, 1 Huy chương Đồng tại triển lãm KHKT ở Liên 89
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Xô, 49 đề tài được Tổng Liên đoàn LĐVN cấp Bằng Lao động sáng tạo. Tại Hội nghị Tổng kết 5 năm công tác KH - CN của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trường Đại học Xây dựng được Bộ trưởng tặng Bằng khen vì đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ khoa học công nghệ giai đoạn 1995 - 2000.
Nghiên cứu phục vụ sản xuất: Xí nghiệp Thiết kế và Xây dựng thực nghiệm được thành lập vào tháng 7/1985 do thầy giáo Trương Tử Thành làm giám đốc. Trong thời gian 9 năm hoạt động, đây thực sự là cái nôi để phát triển của hoạt động dịch vụ sản xuất của nhà trường. Với sự tổ chức đồng bộ về đội ngũ Kiến trúc, Kết cấu, Kỹ thuật công trình, nhiều công trình thiết kế đã được thực hiện, chuyển tải những kiến thức của các giáo viên vào thực tiễn, là đóng góp trực tiếp của nhà trường với thực tiễn sản xuất của Thủ đô và đất nước. Tháng 6/1994 thành lập Viện Công trình biển do GS.TS Phạm Khắc Hùng là Viện trưởng. Đây là Viện đầu tiên và duy nhất trong cả nước cho đến nay đào tạo chuyên ngành Xây dựng Công trình biển (ngoài khơi). Viện đã có nhiều đề tài nghiên cứu ứng dụng và tham gia thiết kế các công trình trên biển, đảo, phục vụ sản xuất, đặc biệt cho ngành Dầu khí và các công trình an ninh quốc phòng. Sự hình thành của Trung tâm Môi trường Đô thị và Khu công nghiệp ngày 12/6/1989 do GS.TSKH Phạm Ngọc Đăng làm Giám đốc với các hoạt động tích cực của nó đã khẳng định việc đi đầu trong nghiên cứu bảo vệ môi trường của Trường ĐHXD. Văn phòng Tư vấn thiết kế do thầy Ngô Thế Phong làm Giám đốc, được thành lập năm 1990, và TT Nghiên cứu và Thiết kế các dự án kiến trúc quy hoạch XD do thầy Ngô Thế Thi làm giám đốc, được thành lập năm 90
1995, là các địa chỉ thu hút nhiều thầy cô giáo tham gia hoạt động dịch vụ sản xuất. Thông qua các hợp đồng kinh tế trên mọi miền của đất nước đã khẳng định thêm thương hiệu của nhà trường, của các thầy giáo Trường ĐHXD. Từ thực tế hoạt động NCKH, nhiều thầy giáo đã phát triển tham gia thành lập các công ty xây dựng như Công ty Delta (thầy Trần Nhật Thành), công ty Thành Nam (Thầy Đào Ngọc Thanh, thầy Trần Văn Năm), trở thành những công ty xây dựng, tư vấn và đầu tư lớn có uy tín. Nhà trường đã đổi mới mô hình quản lý phục vụ hoạt động sản xuất bằng việc hình thành các trung tâm KH - CN gắn liền với các khoa chuyên ngành của trường, đạt được nhiều kết quả tốt. Từ năm 1988 đến năm 1991 lần lượt 11 trung tâm KH - CN được thành lập và đã huy động được đông đảo các thầy cô giáo hoạt động sản xuất theo đúng chuyên môn của mình. Các sản phẩm dịch vụ tư vấn thiết kế, kiểm định chất lượng của nhà trường có hàm lượng khoa học cao nên các thầy cô giáo nhanh chóng tiếp cận được thị trường, tham gia vào nhiều công trình lớn của đất nước. 2. Hoạt động NCKH giai đoạn 2001-2010 Cùng với sự phát triển của đất nước, đây là giai đoạn ngành xây dựng có sự phát triển đột phá về xây dựng nhà cao tầng, hạ tầng đô thị, sự phát triển của các đô thị, khu đô thị mới... với nhiều thành công cũng như thách thức mới về công nghệ, môi trường, vấn đề biến đổi khí hậu, xu thế tiết kiệm năng lượng, xây dựng công trình xanh... đòi hỏi sự nỗ lực để tiếp cận nghiên cứu rất cao của các nhà khoa học, các trường đại học. Các hoạt động KH CN của Trường Đại học Xây dựng đã được phát triển cả về chiều rộng, chiều sâu và đã tham gia toàn diện vào các lĩnh vực khoa
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
học công nghệ và phục vụ sản xuất trên địa bàn toàn quốc. Nhà trường đã thực hiện một số đề tài trọng điểm cấp Nhà nước có ý nghĩa: Đề tài KC 09.16 “Nghiên cứu thiết kế, thi công các loại công trình biển thích hợp điều kiện Việt Nam và các giải pháp phòng tránh khắc phục sự cố công trình” do GS.TS Phạm Khắc Hùng chủ trì. Đề tài “Đánh giá diễn biến hiện trạng môi trường các khu vực trọng điểm vùng tam giác phía Bắc và phía Nam” do GS.TSKH Phạm Ngọc Đăng chủ trì. Đề tài theo Nghị định thư của Chính phủ hợp tác với Hungary do GS.TSKH Nguyễn Mạnh Thu chủ trì đã đưa ra được những vấn đề đặc biệt về kỹ thuật có liên quan trong thiết kế nhà ở cao tầng, ảnh hưởng của nhà cao tầng đối với không gian đô thị. Đề tài độc lập cấp Nhà nước: “Nghiên cứu ứng dụng màng lọc nano trong công nghệ xử lý nước biển áp lực thấp thành nước sinh hoạt cho các vùng ven biển và hải đảo”, mã số ĐTĐL.2010T/31 do PGS.TS Trần Đức Hạ thực hiện. Nhiệm vụ hợp tác nghiên cứu theo Nghị định thư ký với nước ngoài: “Nghiên cứu các giải pháp thu gom và xử lý chất thải tổng hợp theo mô hình bán tập trung cho các đô thị Việt Nam. Nghiên cứu điển hình ở thành phố Hà Nội”. kết hợp nghiên cứu với CHLB Đức do PGS. TS Nguyễn Việt Anh chủ trì. Các thầy giáo khoa Cầu đường đã làm chủ biên và chủ nhiệm nhiều đề tài xây dựng các tiêu chuẩn ngành, tiêu chuẩn Việt Nam như: 22TCN273-01, 22TCN274-01, TCVN4054:2005, TCVN5729:2012, TCVN8862:2011, TCVN8863:2011, TCVN8819:2011, TCVN8809:2011, TCVN9843:2013... Trường được Bộ GD&ĐT giao nhiều đề tài trọng điểm cấp Bộ. Phần lớn đây là các đề tài xuất phát từ các yêu cầu thực tế và kết
quả đã đóng góp thiết thực với sự nghiệp phát triển ngành giáo dục và phát triển kinh tế xã hội như: “Chương trình đào tạo kỹ sư ngành Công nghệ thông tin”; đề tài “Những cơ sở để quy hoạch và thiết kế kiến trúc nhà cao tầng ở Việt Nam”; đề tài “Xây dựng bộ chương trình tính kết cấu công trình”; đề tài “Nghiên cứu thiết kế và chế tạo thiết bị công nghệ thi công đúc hẫng dầm cầu dây văng bê tông cốt thép”. Đề tài “Thiết kế hệ thống thu gom vận chuyển rác trong nhà cao tầng” hiện đang được áp dụng và chế tạo hàng loạt phục vụ cho các công trình xây dựng nhà cao tầng. Đề tài “Nghiên cứu công nghệ lò đốt và xử lý khói thải phù hợp điều kiện Việt Nam để đốt chất thải rắn nguy hại của công nghiệp” góp phần làm trong sạch và cải thiện tình trạng môi trường đang ô nhiễm. Dự án “Hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất các chi tiết nút của kết cấu không gian” được cấp 1 bằng sáng chế và 2 giải pháp hữu ích. Đề tài “Công trình trọng lực bê tông trên nền san hô” đem lại hiệu quả lớn giúp cho việc gia cố các công trình quan trọng trên biển sử dụng thép móng cọc trên nền san hô, giữ ổn định công trình trong điều kiện sóng bão; Dự án “Hoàn thiện công nghệ sấy và SX thử thiết bị sấy sử dụng năng lượng mặt trời” được hoàn thành để áp dụng đại trà cho các cơ sở chế biến nông, hải sản góp phần xóa đói giảm nghèo cho nông, ngư dân... Các đề tài đã đáp ứng được các yêu cầu của thực tiễn, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và đẩy mạnh chuyển giao công nghệ. Có những đề tài đã được cấp bằng sáng chế như đề tài của thầy Nguyễn Việt Anh: “Nghiên cứu phát triển công nghệ và xử lý nước thải tại chỗ theo kiểu mô đun phù hợp với điều kiện Việt Nam”. Đề tài “Nghiên cứu thiết kế và chế tạo thiết bị công nghệ thi công tháp cầu dây văng bê tông cốt thép” do TS. Phạm Duy Hòa làm chủ trì đã được giải nhất Quỹ hỗ trợ sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC). Có những đề tài đã vượt nhiều 91
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
khó khăn trong quá trình thực hiện như đề tài: “Nghiên cứu xây dựng các công trình biển trọng lực bê tông để đỡ các đèn biển ở ven và trên các đảo bán chìm thuộc Trường Sa” do thầy Đinh Quang Cường chủ trì. Trong 10 năm từ 2001 - 2010, Trường Đại học Xây dựng đã có 31 đề tài cấp Nhà nước, 257 đề tài cấp Bộ và tương đương, 2 dự án sản xuất thử nghiệm, 768 đề tài cấp trường. Đã có 2 đề tài do giảng viên của trường chủ trì được cấp bằng sở hữu trí tuệ, bằng sáng chế và giải pháp hữu ích, 1 đề tài được giải nhất VIFOTEC. Báo cáo Hội nghị KHCN lần thứ 14 với 8 bộ thuộc các chuyên ngành. Hội nghị KHCN lần thứ 15 tổ chức vào ngày 09/11/2006, có 153 báo cáo trình bầy tại 14 tiểu ban. Tháng 11/2001, Công ty Tư vấn ĐHXD được thành lập do ThS. Nguyễn Văn Khánh làm Giám đốc, đây là doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Trường Đại học Xây dựng. Công ty Tư vấn ĐHXD đã thu hút được sự tham gia của đông đảo các giảng viên, kỹ sư, kiến trúc sư và đã nhanh chóng trở thành doanh nghiệp tư vấn thiết kế mạnh, có uy tín. Công ty đã trở thành doanh nghiệp lớn về tư vấn trong lĩnh vực xây dựng tại miền Bắc, thu hút hàng trăm cán bộ giáo viên của nhà trường tham gia Hoạt động dịch vụ sản xuất của các cơ sở KHCN trong nhà trường đã đi vào cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Các viện Địa kỹ thuật, Công trình biển, Kiến trúc và Quy hoạch đã đạt nhiều kết quả tốt trong hoạt động kinh doanh phục vụ sản xuất. Viện KH&KT Môi trường đã tham gia thực hiện nhiệm vụ KH&CN phục vụ QLNN về bảo vệ môi trường, trong đó có nhiệm vụ “Hoạt động của trang điện tử về thông tin giáo dục bảo vệ môi trường”, được thực hiện từ năm 2002 đến năm 2012. Trang web này luôn luôn được cập nhật nhiều thông tin bổ ích và thiết thực trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. 92
Tháng 11/2010, Trường ĐHXD tham gia thành lập Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển công nghệ Đại học Xây dựng (NUCETECH), đây là bước đổi mới nhằm phát triển các hoạt động chuyển giao công nghệ vào thực tiễn. Nhà trường đã mở rộng quan hệ hợp tác KHCN và dịch vụ tư vấn với nhiều địa phương, các cơ quan, các cơ sở sản xuất, các tổng công ty trên địa bàn toàn quốc, thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo khoa học trong nước và quốc tế. Nhà trường đã thực hiện các nghiên cứu và chuyển giao công nghệ cho các đơn vị sản xuất kinh doanh như Tập đoàn Dầu khí VN Petro (Năm 2010), Tổng công ty Vigracera (năm 2010). Thực hiện theo nhiệm vụ NCKH của các địa phương như Hà Nam, Bắc Giang... Nhiều biên bản ghi nhớ về hợp tác giữa nhà trường với các đơn vị khác đã được thực hiện. Trường ĐHXD cũng tích cực tham gia hoạt động NCKH cùng với các bộ, ngành khác như với Bộ Xây dựng, Bộ giao thông vận tải, Bộ NN & PT nông thôn, Sở KHCN môi trường Hà Nội. Các đề tài được hoàn thành tốt đã khẳng định uy tín khoa học của các cán bộ và uy tín chung của nhà trường. Trường Đại học Xây dựng được Bộ trưởng Bộ GD&ĐT tặng Bằng khen vì đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ khoa học công nghệ giai đoạn 2006-2010. Các ấn phẩm: Tháng 2/2007, Bộ Văn hóa Thông tin cấp giấy phép xuất bản Tạp chí Khoa học Công nghệ xây dựng cho trường ĐHXD. Đây là tạp chí khoa học chuyên ngành nhằm công bố những công trình nghiên cứu, giới thiệu và phổ biến kiến thức khoa học trong lĩnh vực khoa học công nghệ xây dựng. Tháng 9/2007 đã xuất bản số đầu tiên, đến tháng 7/2011 đã xuất bản 9 số với 160 bài của gần 200 tác giả là cán bộ của trường.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
3. Hoạt động NCKH, CGCN giai đoạn 2011 - 2016 Mục tiêu hoạt động NCKH, CGCN trong giai đoạn 2011-2016 và tiếp theo là nâng cao hiệu quả hoạt động KHCN, gắn kết NCKH với việc giải quyết các vấn đề thực tiễn, phấn đấu tăng nguồn thu từ các hoạt động KHCN trong tổng nguồn thu của trường, xây dựng Nhà trường thành một trung tâm NCKH và CGCN hiện đại, có chất lượng cao. Trong giai đoạn này, nhà trường đã lựa chọn một số hướng NCKH chủ đạo và tập trung đội ngũ cán bộ NCKH để nghiên cứu thành những hướng NCKH đặc thù của nhà trường, đồng thời có nhiều giải pháp tổ chức lại các hoạt động KHCN nhằm phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở KHCN, tạo điều kiện cho các cơ sở này phát triển. Do vậy, mặc dù việc đề tuyển chọn các đề tài rất khó khăn trong điều kiện ngân sách hạn chế nhưng tổng thể kinh phí hoạt động KH&CN của Nhà trường vẫn tăng do huy động được nhiều nguồn kinh phí khác nhau. Ngoài nguồn vốn từ Bộ Giáo dục và Đào tạo, trường đã chủ động đề xuất các đề tài, dự án từ Bộ KH&CN, Quỹ KH&CN quốc gia (Nafosted), Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ Tài nguyên & Môi trường, Sở KH&CN Hà Nội và các địa phương khác (tỉnh Quảng Ninh, thành phố Cần Thơ,...), các doanh nghiệp trong và ngoài nước (Viglacera, Tập đoàn thép SE của Nhật Bản,...). Một số đề tài tiêu biểu: - Chương trình nghiên cứu KHCN cấp Bộ Giáo dục và Đào tạo “Thiết kế và thi công nhà siêu cao tầng ở Việt nam”, do GS. TS Phan Quang Minh làm chủ nhiệm chương trình gồm 11 đề tài khoa học, được đặt ra nhằm giải quyết các yêu cầu cấp bách của các nhà
xây dựng trong nước là nhanh chóng nắm bắt kỹ thuật và công nghệ trong thiết kế và thi công nhà siêu cao tầng, qua đó bước đầu có thể làm việc độc lập hoặc phối hợp với các chuyên gia nước ngoài để có thể đưa ra các giải pháp kỹ thuật đảm bảo tính an toàn, kinh tế, phù hợp với điều kiện sử dụng ở Việt Nam. - Đề tài NCKH ”Nghiên cứu, thiết kế và chế tạo máy đúc bó vỉa bê tông tự hành” của Sở KHCN Hà Nội, do TS. Lưu Đức Thạch làm chủ nhiệm, đã hoàn thành xuất sắc kết quả nghiên cứu và đã được Sở KHCN Hà Nội cho thực hiện dự án sản xuất thử. - Các dự án tăng cường năng lực cho Phòng thí nghiệm và Kiểm định Công trình (hoàn thành năm 2013) và Phòng thí nghiệm đường bộ (hoàn thành năm 2016) với các trang thiết bị hiện đại đã được sử dụng hiệu quả trong nghiên cứu khoa học và đào tạo, góp phần giải quyết một số vấn đề thực tiễn đặt ra. - Viện Khoa học kỹ thuật môi trường đã hoàn thành hai đề tài cấp Nhà nước: “Nghiên cứu phát triển công nghệ thân thiện môi trường trong xử lý rác thải sinh hoạt bằng phương pháp chôn lấp áp dụng với quy mô nhỏ phù hợp với điều kiện Việt Nam” thuộc “Chương trình NCKH và công nghệ phục vụ phòng tránh thiên tai bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên” và đề tài: “Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm giảm thiểu phát thải khí CO2 trong lĩnh vực sản xuất gạch ngói, gốm sứ” thuộc “Chương trình KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước, mã số KHCN-BĐKH/11-15 “Khoa học và công nghệ phục vụ Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu”. - Viện Xây dựng Công trình biển đang thực hiện đề tài: “Nghiên cứu tính toán, xây dựng quy trình thiết kế cơ sở cho giàn khoan tự nâng 400ft” thuộc “Dự án KHCN cấp Nhà 93
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
nước “Nghiên cứu thiết thiết kế cơ sở, chi tiết, công nghệ chế tạo, tích hợp giàn khoan tự nâng ở độ sâu 400 ft phù hợp với điều kiện Việt Nam và nghiên cứu phát triển, hoán cải giàn khoan dầu khí di động phục vụ phát triển kinh tế biển, an ninh quốc phòng” và đề tài “Nghiên cứu chống ăn mòn và xây dựng quy phạm, tiêu chuẩn thiết kế; xây dựng quy trình khảo sát, duy tu bảo dưỡng các công trình quốc phòng tại vùng DKI và Trường Sa” thuộc Dự án KHCN cấp Nhà nước: “Điều tra cơ bản, nghiên cứu xây dựng cơ sở quan trắc và công nghệ xử lý các yếu tố tự nhiên tác động lên công trình ở các vùng biển phục vụ các nhiệm vụ kinh tế kỹ thuật và tăng cường quốc phòng - an ninh trên biển và thềm lục địa Việt Nam” Giai đoạn này trường đã thực hiện 14 đề tài cấp Nhà nước, 2 chương trình KHCN cấp Bộ, 2 dự án tăng cường năng lực NCKH, 136 đề tài cấp Bộ và tương đương, 724 đề tài cấp trường (trong đó có 166 đề tài cấp trường trọng điểm). Các đề tài đã đáp ứng được các yêu cầu của thực tiễn, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và đẩy mạnh chuyển giao công nghệ. Nhà trường thường xuyên phối hợp với các bộ, ngành, hội nghề nghiệp tổ chức các buổi hội thảo khoa học trong nước và quốc tế. Hội nghị KHCN lần thứ 16 tổ chức vào tháng 11/2011, có 193 báo cáo trình bày tại 15 tiểu ban. Tổ chức thành công các Hội thảo khoa học “Triển khai đưa nội dung An toàn và vệ sinh lao động vào giảng dạy trong các trường Đại học” (10/2013) và nhiều Hội nghị và hội thảo quốc tế như USMCA 2013, SBE 2013, WEDC 2014, AIAC 2015. Bên cạnh đó, chủ động, tích cực tham gia hoạt động NCKH cùng với các bộ, ngành khác như với Bộ Khoa học Công nghệ, Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông vận tải, Bộ NN & PT nông thôn, Sở KHCN và môi trường Hà Nội, các đề tài được hoàn thành tốt đã khẳng định uy tín 94
khoa học của các cán bộ và uy tín chung của nhà trường. Sau khi chuyển đổi các viện, trung tâm thành các viện hoạt động theo Nghị định 115/2005/NĐ-CP ngày 5/9/2005 của Thủ tướng Chính phủ quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ công lập, hoạt động dịch vụ sản xuất của các viện trong nhà trường đã có nhiều chuyển biến tích cực cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Viện Địa kỹ thuật công trình, Viện Xây dựng Công trình Biển, Viện Quy hoạch và Kiến trúc đô thị, Viện Kỹ thuật Công trình Xây dựng là những viện đã đạt nhiều kết quả tốt trong hoạt động NCKH, CGCN và sản xuất. Năm 2013, Công ty Tư vấn ĐHXD được chuyển đổi thành Công ty TNHH Tư vấn ĐHXD. Công ty tiếp tục là đơn vị đầu đàn, doanh thu các năm đều đạt trên 160 tỷ/ năm. Công ty đã trở thành doanh nghiệp lớn về tư vấn trong lĩnh vực xây dựng trên cả nước, thu hút hàng trăm cán bộ giảng viên của nhà trường tham gia. Các ấn phẩm: Do nhu cầu công bố những công trình nghiên cứu, giới thiệu và phổ biến kiến thức khoa học trong lĩnh vực khoa học công nghệ xây dựng ngày càng tăng, đông thời Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng đã được khẳng định được uy tín nên tháng 6/2016, Bộ Thông tin và Truyền thông cho phép xuất bản 6 số/năm trong đó có 1 số bằng tiếng Anh. Cho đến 9/2016, Tạp chí đã xuất bản được 29 số với 425 bài của gần 500 tác giả là giảng viên của trường. Ban Biên tập đã thay đổi hình thức tạp chí, các bài báo khoa học và nhiều bài thông tin KHCN có chất lượng. Tạp chí được Hội đồng CDGSNN đánh giá có chất lượng và là một trong những tạp chí trong nước được tính điểm công trình cao nhất. Nhà trường có nhiều chính sách khuyến
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
khích cán bộ giảng viên trong trường đăng bài báo trên các tạp chí quốc tế. Trong 20112016, đã có 243 bài báo đăng trên các tạp chí quốc tế uy tín, trong đó có 56 bài báo trên các tạp chí SCI, SCIE,... và 184 bài báo ở các hội nghị, hội thảo khoa học quốc tế. Từ năm 2011 trang web của Phòng KHCN đã được nâng cấp về nội dung, hình thức với nhiều nội dung phong phú về mọi mặt hoạt động KHCN của nhà trường. Nhà trường cũng đã cung cấp tài khoản sử dụng các nguồn cơ sở dữ liệu của các nhà xuất bản lớn trên thế giới như Springer, Elsevier,... giúp cho các giảng viên tiếp cận với các tài liệu và công nghệ mới. Điểm nổi bật trong giai đoạn này là sự tham gia tích cực của các cán bộ trẻ trong hoạt động NCKH và gắn kết nghiên cứu với việc giải quyết các vấn đề thực tiễn. Các giảng viên trẻ được đào tạo bài bản không những đủ khả năng chủ trì các đề tài, chương trình KHCN trong nước mà còn rất vững vàng khi tham gia các Hội nghị khoa học, dự án NCKH quốc tế. Nhiều người trong số đó được giới chuyên môn trong nước và quốc tế đánh giá cao, như trường hợp thầy giáo Hoàng Thúc Hào (khoa Kiến trúc và Quy hoạch) liên tục đạt được các giải thưởng kiến trúc lớn trong nước và quốc tế: Giải Vàng Kiến trúc xanh Việt Nam; Giải thưởng Kiến trúc xanh Châu Á Green Leadership Award; Giải thưởng Kiến trúc Arcasia ; Giải thưởng Green Good Design; Giải thưởng kiến trúc quốc tế IAA ..., cô giáo Đàm Thị Lan (Khoa Kỹ thuật Môi trường) được trao giải thưởng Khoa học Kỹ thuật Thanh niên - Quả Cầu vàng năm 2013. 4. Nghiên cứu khoa học, thi Olympic và Đồ án tốt nghiệp xuất sắc của sinh viên Tham gia NCKH là một hoạt động truyền thống của sinh viên ĐHXD. Từ những ngày còn sơ tán ở Hà Bắc và Vĩnh Phú, các đề tài
NCKH của sinh viên đã bám sát thực tế sản xuất và chiến đấu. Khi trường về Hà Nội, dưới sự hướng dẫn của các thầy cô giáo, phong trào NCKH của sinh viên tiếp tục được đẩy mạnh với quy mô lớn hơn với sự tham gia đông đảo của sinh viên, có sự phối hợp tốt giữa phòng KHCN, Đoàn Thanh niên và các khoa, phòng ban. Trong 15 năm từ 1991 đến 2006 đã có 1776 đề tài NCKH, trong đó có 177 đề tài đạt giải A, 693 đạt giải B, 631 đạt giải C. Các đề tài xuất sắc hàng năm được gửi dự thi cấp Bộ, trong 112 đề tài gửi dự thi có 2 đề tài đạt giải Nhất, 15 giải Nhì, 19 giải Ba và 42 giải Khuyến khích. Từ năm 2006 đến 2011 có 535 đề tài NCKH, trong đó có 493 đề tài đạt giải cấp trường (81 giải A, 240 giải B và 172 giải C); trường gửi 55 đề tài gửi dự thi cấp Bộ (chưa tính đến kết quả của 2011) và đạt tổng số 53 giải (giải Nhì: 7, giải Ba: 12 và giải Khuyến khích: 34). Từ năm 2011 đến 2016 có 666 đề tài NCKH, trong đó có 526 đề tài đạt giải cấp trường (71 giải A, 175 giải B và 280 giải C); trường gửi 23 đề tài gửi dự thi cấp Bộ (do năm 2015 Bộ không tổ chức và chưa tính đến kết quả của 2016) và đạt tổng số 17 giải (giải Nhì: 2, giải Ba: 7 và giải Khuyến khích: 8). Thi Olympic, nhất là Olympic các môn cơ học luôn là thế mạnh truyền thống của sinh viên Trường Đại học Xây dựng. Hằng năm, kết quả thi Sinh viên giỏi ở trường là cơ sở để thành lập các đội tuyển dự thi Olympic quốc gia. Từ năm 1990, Trường Đại học Xây dựng bắt đầu đăng ký tham gia phong trào này. Được sự hỗ trợ của Nhà trường, đặc biệt các thầy cô giáo có nhiều kinh nghiệm luôn nhiệt tình hướng dẫn nên sau một vài năm tham dự các đội Olympic đã đạt kết quả cao và khẳng định 95
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
được vị trí của một trong những trường mạnh trong phong trào thi Olympic. Tính từ năm 1995 đến nay có 1675 sinh viên dự thi, đạt 74 giải Nhất, 249 giải Nhì, 453 giải Ba và 347 giải Khuyến khích; Các đội tuyển đã 110 lần đạt giải đồng đội với 40 giải Nhất, 43 giải Nhì và 27 giải Ba. Bên cạnh các môn thi truyền thống, những năm gần đây các đội tuyển Vật lý, Toán, Hóa học tuy mới tham gia nhưng đã đạt được thành tích tốt và được Ban tổ chức đánh giá cao. Từ năm 1988, Tổng hội Xây dựng Việt Nam, Hội Kiến trúc sư Việt Nam, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Bộ Xây dựng phối hợp tổ chức Thi đồ án tốt nghiệp xuất sắc (giải Loa Thành), Trường Đại học Xây dựng đã tham gia tích cực và là một trong những gương mặt tiêu biểu, nhiều năm là đơn vị dẫn đầu. Tính từ khi có giải Loa Thành đến nay, các đồ án tốt nghiệp của trường gửi đi dự thi đạt 39 giải nhất, 103 giải nhì, 106 giải ba và 67 giải Hội đồng (chưa có giải năm 2016). Phong trào Nghiên cứu khoa học, thi Olympic và Đồ án tốt nghiệp xuất sắc thực sự là nơi tôi luyện, trưởng thành của nhiều sinh viên giỏi. Hầu hết các sinh viên được giữ lại trường làm giảng viên trong những năm qua đều là những người đạt giải cao trong các hoạt động này.
VI. CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI Giai đoạn 1983 - 2016 chứng kiến bước chuyển biến lớn trong định hướng và nội dung triển khai hoạt động công tác đối ngoại. Biến động chính trị tại các nước XHCN đã ảnh hưởng lớn đến mối quan hệ truyền thống của nhà trường với một số trường đại học trên thế giới. Tuy nhiên, chính trong điều kiện khó khăn đó, nhiều quan hệ mới được thiết lập và triển khai hiệu quả nhằm thích ứng hoàn cảnh mới. Trong giai đoạn 96
này, công tác đối ngoại là sự kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại trong nước với các Bộ, Ban, Ngành, cơ quan, doanh nghiệp và đối ngoại quốc tế. 1. Công tác đối ngoại trong nước Mối quan hệ với các cơ quan trong nước được xây dựng chủ yếu thông qua hoạt động đào tạo, NCKH và LĐSX. Đào tạo đại học, nhất là đào tạo tại chức và đào tạo SĐH đã giúp nhà trường thiết lập được các mối quan hệ với các trường ĐH trong cùng khối kỹ thuật, các tổng công ty, các sở GD&ĐT, sở Xây dựng, sở Giao thông công chính, sở KHCN&MT, ... của các tỉnh thành, các viện nghiên cứu. Đặc biệt đối với Thủ đô Hà Nội, năm 2005, 2006 Trường Đại học Xây dựng đã tăng cường các hoạt động NCKH, LĐSX của cán bộ và của cả sinh viên, đóng góp thiết thực cho sự phát triển của Hà Nội. Tháng 11/2005, Trường tổ chức thành công Hội nghị chuyên đề: Trường Đại học Xây dựng với Thủ đô Hà Nội. Hướng đối ngoại trong nước ngày càng được coi trọng và mở rộng. Những năm gần đây, nhiều thỏa thuận hợp tác được ký kết với các Bộ, Ban, Ngành, các tổng công ty lớn như: Bộ Giao thông Vận tải, Các đơn vị của Bộ Xây dựng, Tổng Công ty đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam (VEC), Tổng công ty Viglacera, Tập đoàn Coteccons, Hòa Bình... Rất nhiều hoạt động thực tiễn được triển khai như hợp tác nghiên cứu, tiếp nhận sinh viên thực tập, thực hiện dự án, hỗ trợ đầu ta cho sinh viên góp phần thúc đẩy chất lượng giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học nhà trường theo hướng đổi mới hiệu quả, toàn diện. Nhà trường luôn chú trọng phát triển mạng lưới kết nối cựu sinh viên Trường tại các địa phương nhằm phát huy truyền thống và kết nối các thế hệ kỹ sư Xây dựng. Năm 1986, kỷ niệm 20 năm thành lập,
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
Trường đã cử đoàn cán bộ do Hiệu trưởng Phạm Ngọc Đăng dẫn đầu tổ chức gặp mặt các cựu sinh viên và mở hội ngành trên công trường xây dựng Nhà máy Thủy điện Hòa Bình, một công trình thế kỷ của đất nước đã thu hút hàng vạn công nhân và trên 800 kỹ sư, trong đó có 600 kỹ sư được đào tạo tại Trường Đại học Xây dựng. Trong những Lễ kỷ niệm thành lập trường tiếp theo, Trường đều cử các đoàn đại biểu đi họp mặt các cựu sinh viên ở Thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, Lạng Sơn, Nghệ An... Năm 2016, hướng tới lễ kỷ niệm 50 năm thành lập trường, Nhà trường xây dựng cổng thông tin điện tử của cựu sinh viên và thành lập Hội cựu sinh viên Trường Đại học Xây dựng với các Chi Hội tại các địa phương. 2. Đối ngoại quốc tế Trong hoạt động hợp tác với đối tác Quốc tế, nhà trường luôn giữ mối quan hệ với các đối tác truyền thống thuộc khối XHCN, nhưng do biến động chính trị ở châu Âu, mối quan hệ với các trường đại học trên bị gián đoạn. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, chủ trương đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ quốc tế của Đảng đã mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ quốc tế của nhà trường. Trường đã liên tục duy trì và phát triển mối quan hệ hợp tác với gần 80 trường đại học và các tổ chức từ hơn 40 quốc gia trên khắp thế giới ở Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Úc, Châu Phi như Pháp, Bỉ, Anh, Hà Lan, Đức, Ý, Mỹ, Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan... Nhiều dự án hợp tác với nước ngoài đã được nhà trường triển khai như: Hợp tác với tổ chức Đại học Pháp ngữ AUF mở ngành Xây dựng dân dụng và công nghiệp Pháp ngữ (XF) - năm 1995, ngành Kiến trúc Pháp ngữ (KDF) - năm 2011; Dự án với CH Pháp
về đào tạo kỹ sư chất lượng cao (PFIEV) năm 1999; dự án với Trường Đại học Laval (Canada) về cải thiện môi trường trong khu phố cũ; dự án với Trường Đại học Delft (Hà Lan) về cải tạo nâng cấp phòng thí nghiệm và đào tạo CBGD; dự án với Thụy Sỹ về đào tạo và nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ môi trường ở miền Bắc Việt Nam, dự án với Trường Đại học Tokyo (Nhật Bản) về nghiên cứu khu phố cũ và đào tạo NCS; Dự án S.I.P của Văn phòng thủ tướng Nhật về kiểm định bảo trì công trình xây dựng. Trong giai đoạn này, trường đã tổ chức trên 30 Hội thảo Quốc tế lớn thu hút được sự tham gia của đông đảo chuyên gia uy tín trên thế giới. Nhiều hội thảo quốc tế lớn đã được tổ chức tại trường như hội thảo CIB- Mỹ (2010), SBEAnh (2013), USMCA- Nhật (2013), Workshop quốc tế với sinh viên kiến trúc Italia, Nhật Bản, Singapore (2014), Hội thảo “Cung cấp nước và các dịch vụ vệ sinh bền vững cho con người trong một thế giới luôn biên đổiWEDC” (2015), Workshop thiết kế kiến trúc quốc tế AIAC 2015. ĐHXD đã trở thành một địa chỉ uy tín và quen thuộc để tổ chức và triển khai các dự án và sự kiện khoa học, đào tạo Quốc tế tại Việt Nam và trong khu vực. Tháng 5 năm 1999 trên cơ sở của Ban Quan hệ quốc tế, nhà trường thành lập Phòng Đối ngoại và đến tháng 6/2006 đổi tên thành Phòng Hợp tác quốc tế. Công tác đối ngoại ngày càng được coi trọng và mở rộng, đáp ứng được các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị và nâng cao vị thế của nhà trường. Trong những năm gần đây, hợp tác quốc tế trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học phát triển nhanh chóng, nhà trường đã thành lập Khoa Đào tạo Quốc tế (2016) và Viện Công nghệ cao Việt - Nhật (2015) nhằm đáp ứng và nâng cao chất lượng cho các hoạt động này. Nhiều chương trình liên kết với các trường đại học có uy tín trên thế giới trong tổ chức đào tạo đại học, sau đại học 97
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
được thiết lập như: chương trình liên kết đào tạo thạc sĩ Việt - Bỉ Ngành Quản lý công nghiệp từ năm 2010, liên kết đào tạo thạc sĩ ngành xây dựng và quản lý dự án với trường Đại học quốc gia Đài Loan NTU từ năm 2008. Liên kết dự bị đại học với Trường Đại học Xây dựng Weimar, trường Nordhausen (Đức) từ năm 2008, với các đối tác Ý (2014). Chương trình liên kết đào tạo thạc sỹ ngành Xây dựng với Đại học Saitama Nhật Bản (2015). Các chương trình hợp tác này đều đang được triển khai rất thành công. Trong giai đoạn 2011- 2015, mỗi năm nhà trường có khoảng 40 giảng viên tham gia các chương trình đào tạo ngắn hạn, đào tạo cao học, nghiên cứu sinh và dự hội thảo khoa học tại nước ngoài, khoảng 80 sinh viên tham gia các chương trình trao đổi sinh viên và được nhận học bổng tại Nhật Bản, Pháp, Thái Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Canada... Đặc biệt trường đã thành công khi tham gia vào nhiều chương trình Erasmus+ của Hội đồng Châu Âu mở ra nhiều cơ hội trao đổi, đào tạo giảng viên, sinh viên với các đại học uy tín của liên minh Châu Âu. Ngoài ra, hoạt động HTQT luôn chú trọng duy trì và phát huy các đối tác trọng tâm như JICA, DAAD, AUF hay các tập đoàn như JFE, Shimizu, Lotte, Freyssinate... Với mục tiêu của trường từ nay đến năm 2020 là đáp ứng tốt nhất yêu cầu ngày càng cao của xã hội về đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ tiên tiến, định hướng của nhà trường trong hợp tác quốc tế là tiếp tục duy trì các mối quan hệ đã được thiết lập với các trường đại học và các tổ chức quốc tế, thiết lập mới các chương trình hợp tác liên kết đào tạo quốc tế. Định hướng liên kết phát triển công nghệ với các tập đoàn quốc tế và trong nước hướng đến phát triển nghiên cứu và chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao uy tín và hình ảnh của trường trong môi trường giáo dục quốc tế. 98
VII. XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CÁC TỔ CHỨC ĐOÀN THỂ 1. Công tác Đảng
Cơ cấu tổ chức Từ năm 1983, khi trường chuyển về Hà Nội, Đảng bộ Đại học Xây dựng trực thuộc Quận ủy Hai Bà Trưng, mọi hoạt động của Đảng bộ chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Quận ủy. Đến năm 1987, Đảng bộ Đại học Xây dựng trực thuộc Thành ủy Hà Nội. Cơ quan Đảng cấp trên lãnh đạo trực tiếp là Ban cán sự Đảng Đại học và Cao đẳng thuộc Thành ủy Hà Nội. Từ 2008 đến nay Đảng bộ trường trực thuộc Đảng bộ khối các trường Đại học, Cao đẳng Hà Nội. Hoạt động của Đảng bộ còn chịu sự lãnh đạo của Ban Cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc thực hiện các chủ trương của ngành. Khi chuyển từ Hương Canh về Hà Nội, Đảng bộ vẫn duy trì cơ cấu Đảng bộ 3 cấp, có 6 Đảng bộ bộ phận của các khoa. Năm 1983 toàn Đảng bộ có 6 Đảng bộ bộ phận, tổng số đảng viên là 526, sinh hoạt trong 43 chi bộ (27 ở các khoa, 16 ở các phòng ban). Đến năm 1986, theo chủ trương của Thành ủy không còn Đảng bộ bộ phận, các chi bộ trực thuộc Đảng bộ trường. Đặc điểm về cơ cấu đảng viên của Đảng bộ nhà trường trong thời kỳ này là đảng viên trong sinh viên ngày càng ít đi. Khi trường còn ở Hương Canh, trong số trên 1000 sinh viên tham gia quân đội sau chiến tranh trở về trường tiếp tục học tập, có rất nhiều sinh viên đã là đảng viên. Có năm, đảng viên là sinh viên chiếm đến 50% đảng viên toàn Đảng bộ, nên đã thành lập trên 30 chi bộ sinh viên. Khi trường về Hà Nội, thành lập 1 Đảng bộ bộ phận gồm 8 chi bộ sinh viên của các khoa, từ năm 1991 đến nay chỉ thành lập 1 chi bộ sinh viên.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
Chi bộ Đảng trong khối cán bộ được thành lập theo đơn vị công tác (khoa, phòng, ban). Vào thời điểm năm 1996 có 7 bộ môn chưa có đảng viên, Đảng bộ đã phấn đấu đến năm 1998 tất cả 42 bộ môn đều đã có đảng viên. Năm 2006 có 46 bộ môn có đảng viên trong tổng số 48 bộ môn toàn trường. Năm 2011 trường có 54 bộ môn, sinh hoạt đảng được phân theo các chi bộ. Năm 1983 toàn Đảng bộ có 6 Đảng bộ bộ phận, tổng số đảng viên là 526, sinh hoạt trong 43 chi bộ (27 ở các khoa, 16 ở các phòng ban). Năm 2001, tổng số đảng viên của Đảng bộ là 391, sinh hoạt trong 29 chi bộ (13 chi bộ CBGD, 15 chi bộ phòng ban, 1 chi bộ sinh viên). Năm 2006, tổng số đảng viên trong toàn Đảng bộ là 447, sinh hoạt trong 27 chi bộ (14 chi bộ CBGD, 12 chi bộ phòng ban, 1 chi bộ sinh viên). Năm 2011 có 28 chi bộ (1 chi bộ sinh viên, 14 chi bộ là các khoa, viện và 13 chi bộ phòng, ban) với tổng số đảng viên là 430. Năm 2016 có 26 chi bộ (1 chi bộ sinh viên, 1 chi bộ Công ty TNHH tư vấn ĐHXD 14 chi bộ là các khoa, bộ môn trực thuộc trường và 10 chi bộ phòng, ban, trung tâm.) với tổng số đảng viên là 546. Từ năm 1983 - 2016, Đảng Bộ nhà trường đã tổ chức 12 lần Đại hội Đảng bộ (Đại hội lần thứ X đến Đại hội lần thứ XXI). Đại hội lần thứ XXI được tổ chức vào tháng 6/2015 với nhiệm kỳ 5 năm. Trong các nhiệm kỳ trên Bí thư Đảng ủy trường là các đồng chí:
Đồng chí Ứng Quốc Dũng v Từ năm 2010 đến 2014:
Đồng chí Lê Văn Thành
v Từ năm 2014 đến nay:
Đồng chí Phạm Duy Hòa Trong các nhiệm kỳ lãnh đạo, Đảng bộ đều thống nhất thực hiện quy định Bí thư Đảng ủy là một đồng chí trong BGH. Quy định trên được duy trì gần như một nguyên tắc, điều đó đảm bảo tính tập trung, dân chủ và phù hợp với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Ban Giám hiệu đối với các hoạt động của nhà trường. Từ năm 2010, theo chủ trương chung về việc nhất thể vị trí Hiệu trưởng và Bí thư Đảng ủy, tại Đại hội Đảng bộ lần thứ XX, đồng chí Hiệu trưởng Lê Văn Thành đã được bầu làm Bí thư Đảng ủy trường nhiệm kỳ 2010-2015. Tại Đại hội lần thứ XXI, bầu ra BCH gồm 15 đồng chí. Hội nghị lần thứ nhất đã bầu 05 đồng chí vào Ban thường vụ gồm: Phạm Duy Hòa, Phạm Xuân Anh, Phạm Quang Dũng, Trần Văn Tấn, Nguyễn Đình Thi; bầu 01 Bí thư và 01 Phó Bí thư. Đồng chí Phạm Duy Hòa được bầu giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy, đồng chí Phạm Xuân Anh được bầu giữ chức vụ Phó Bí thư Đảng ủy.
Những hoạt động chủ yếu trong công tác xây dựng Đảng
v Từ năm 1984 đến 1999:
50 năm hình thành và phát triển của Trường Đại học Xây dựng, cũng là quá trình khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng bộ với toàn bộ hoạt động của Nhà trường. Những thành tựu của Trường Đại học Xây dựng đã đạt được là do nhiều yếu tố, nhưng yếu tố có tính chất quyết định chính là sự vững mạnh của Đảng bộ nhà trường.
v Từ năm 1999 đến 2010:
Năm 1991, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã chủ trương đổi mới và chỉnh đốn
v Từ năm 1979 đến 1984:
Đồng chí Nguyễn Xuân Trọng Đồng chí Nguyễn Tấn Quý
99
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Đảng. Thực hiện Nghị quyết TƯ3 về đổi mới chỉnh đốn Đảng, Thành ủy Hà Nội đã ban hành Chương trình 14. Chương trình này được triển khai bằng đợt vận động lớn trong toàn Đảng bộ Hà Nội và Đảng bộ ĐHXD là một trong những Đảng bộ vững mạnh nhiều năm liên tục, đã được chọn làm thí điểm các bước tiến hành của chương trình. Năm 1992, Đảng bộ ĐHXD đã nghiên cứu và xây dựng một số các quy định và quy trình như: Quy định về chức năng của chi bộ Đảng trong nhà trường; Quy trình sinh hoạt chi bộ; Quy trình công tác phát triển Đảng..., từ đó đã góp phần giúp Thành ủy Hà Nội ban hành các văn bản chính thức nhằm thể chế hóa công tác xây dựng Đảng trong các Đảng bộ nhà trường. Đảng bộ ĐHXD được chọn báo cáo điển hình về xây dựng Đảng bộ vững mạnh tại Hội nghị tổng kết của Thành ủy Hà Nội năm 1996. Đồng thời là Đảng bộ duy nhất của các trường đại học và cao đẳng phía Bắc tham dự và báo cáo điển hình tại hội nghị sơ kết, rút kinh nghiệm xây dựng Tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh do Ban Tổ chức Trung ương triệu tập tại Đồ Sơn (Hải phòng) tháng 3/1997 và báo cáo điển hình tại Hội nghị Tổng kết về công tác an ninh chính trị tại Sở Công an Hà Nội năm 1998. Từ 1990 đến 2016, Đảng bộ ĐHXD đã kết nạp 609 đảng viên mới trong đó có trên 200 đảng viên là sinh viên. Từ năm 1983 đến năm 2007 Đảng bộ trường trực thuộc Thành ủy Hà Nội, liên tục được công nhận là Đảng bộ “Trong sạch vững mạnh”. Từ năm 2008 đến nay, tiếp nối và phát huy truyền thống, Đảng bộ trường liên tục được tặng Giấy khen tổ chức cơ sở đảng “Trong sạch, vững mạnh tiêu biểu”. Năm 2014 và 2015 được Thành ủy Hà Nội tặng Bằng khen đã có thành tích hoàn thành 100
xuất sắc công tác, nhiệm vụ của Đảng bộ khối các Trường Đại học, Cao đẳng Hà Nội. 2. Đoàn Thanh niên và Hội Sinh viên Từ năm 1983 đến năm 2016, Bí thư Đoàn Thanh niên trường do các đồng chí sau đây đảm nhiệm: v Từ năm 1983 đến 1985:
Đồng chí Ứng Quốc Dũng
v Từ năm 1985 đến 1987:
Đồng chí Trần Kim Chi
v Từ năm 1987 đến 1989:
Đồng chí Bạch Đình Thiên
v Từ năm 1889 đến 1991:
Đồng chí Lưu Đức Thạch
v Từ năm 1991 đến 1994:
Đồng chí Trần Mạnh Dũng
v Từ năm 1994 đến 1999:
Đồng chí Phạm Văn Du
v Từ năm 1999 đến 2001:
Đồng chí Nguyễn Việt Anh
v Từ năm 2001 đến 2004:
Đồng chí Phạm Quốc Tuấn
v Từ năm 2004 đến 2006:
Đồng chí Ngô Thanh Long
v Từ năm 2006 đến 2008:
Đồng chí Nguyễn Quốc Cường
v Từ năm 2008 đến 5/2011:
Đồng chí Ngô Đình Sáng
v Từ tháng 5/2011 đến 2012:
Đồng chí Bùi Phú Doanh
v Từ năm 2012 đến 2014:
Đồng chí Phạm Tiến Tới
v Từ năm 2014 đến 3/2016:
Đồng chí Nguyễn Tường Lâm
v Từ tháng 3/2016 đến nay:
Đồng chí Nguyễn Văn Sĩ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
Tổ chức Đoàn Thanh niên và Hội Sinh viên đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng ủy nhà trường. Nhiều đồng chí Bí thư Đoàn Thanh niên trường được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ. Chế độ làm việc giữa Thường vụ Đoàn Thanh niên với Thường vụ Đảng ủy được duy trì đều đặn. Điều đó tạo điều kiện cho Đảng ủy có các thông tin và biện pháp để kịp thời chỉ đạo các hoạt động của Đoàn Thanh niên. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đóng vai trò nòng cốt trong phong trào sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học là một nét mới của giai đoạn này. Khi mới về Hà Nội, năm 1984 Đoàn Thanh niên trường đã có đề tài tham gia Hội nghị tuổi trẻ sáng tạo khoa học các trường đại học toàn quốc lần thứ nhất. Năm 1985 các đồng chí Huỳnh Bá Kỹ Thuật và Nguyễn Mạnh Thủy là cán bộ giảng dạy trẻ Khoa Công trình thủy đã có công trình đạt Huy chương Vàng tại Hội chợ Triển lãm kinh tế - kỹ thuật Việt Nam. Hiện nay Đoàn TNCS Hồ Chí Minh có 11 Liên chi đoàn, 12 Chi Đoàn cán bộ và hơn 300 Chi Đoàn sinh viên. Nhiều hoạt động thiết thực đã được tổ chức và duy trì hàng năm như Hội nghị Khoa học sinh viên, các hoạt động thi Sinh viên giỏi, thi Olympic, thi đồ án tốt nghiệp xuất sắc ngành Xây dựng (giải Loa Thành); Bí thư chi đoàn giỏi, Sinh viên 5 tốt; Các giải thể thao truyền thống... Công tác bồi dưỡng, rèn luyện đoàn viên ưu tú giới thiệu cho tổ chức Đảng cộng sản Việt Nam cũng được chú trọng với số lượng hàng trăm sinh viên ưu tú được học lớp Bồi dưỡng nhận thức về Đảng và nhiều đoàn viên ưu tú được kết nạp vào Đảng trong mỗi năm. Các hoạt động xã hội, tình nguyện chung sức cùng cộng đồng cũng được phát động, phối hợp với Hội sinh viên tổ chức triển khai đến toàn thể các Đoàn viên - Sinh viên với hàng vạn lượt tình nguyện tham gia như: Chiến dịch mùa hè thanh niên tình
nguyện; Hiến máu nhân đạo; Giao thông xanh; Vệ sinh môi trường; Phát huy tinh thần “Tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách”; Hỗ trợ công tác thiết kế, tư vấn phương án xây dựng công trình nhà ở xã hội “Nhà bán trú dân nuôi” dành tặng cho đoàn viên, học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, con em gia đình chính sách dân tộc, miền núi, hộ nghèo tại các địa phương... Ngoài các hoạt động của Nhà trường, Đoàn thanh niên còn tích cực tham gia các cuộc thi, các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao do TW Đoàn, Thành đoàn Hà Nội, các Bộ, Ngành phát động tổ chức và đã dành dược nhiều giải thưởng cao. Cùng với tổ chức Đoàn thanh niên, tổ chức Hội sinh viên là một trong hai tổ chức chính trị quan trọng của sinh viên. Đầu những năm 80, tổ chức Hội Sinh viên được thành lập theo mô hình mỗi khóa sinh viên là một chi hội. Từ năm 2005, Đảng ủy chủ trương tổ chức mỗi khoa là một chi hội. Từ đó đến nay, Hội Sinh viên ĐHXD đã được củng cố, cùng với tổ chức Đoàn Thanh niên, hoạt động ngày càng hiệu quả. Những năm gần đây, Hội sinh viên trường đã tích cực tham gia nhiều hoạt động lớn như: “Tôi yêu tổ quốc tôi”, phối hợp thực hiện Cầu truyền hình “Lá cờ độc lập”; kỷ niệm 70 năm Ngày Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9; Liên hoan tiếng hát sinh viên toàn quốc; Tuổi 20 hát; các chương trình SV, CKX, Duyên dáng xây dựng, Trao đổi sách Free book, tổ chức cuộc thi sáng tác logo “Sinh viên với biển đảo Tổ quốc”, Ý tưởng sáng tạo sinh viên,... Ngày truyền thống học sinh, sinh viên (9/1) hàng năm thực sự là ngày hội lớn của sinh viên với một chuỗi các sự kiện do Hội sinh viên tổ chức. Với tinh thần xung kích, sức trẻ, sáng tạo Hội sinh viên đã vận động được đông đảo sinh viên tham gia nhiều hoạt động do Trung ương Hội và của Hội sinh viên thành phố tổ chức. 101
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Một số thành tích tiêu biểu của Đoàn thanh niên Trường Đại học Xây dựng trong những năm gần đây: 1995,1996: Bằng khen của Bộ GD&ĐT tặng đơn vị đạt thành tích xuất sắc trong phong trào NCKH sinh viên 1996: Trung ương Đoàn tặng bức trướng “Tuổi trẻ trường ĐHXD 30 năm cống hiến và trưởng thành” 2000: Bằng khen của Trung ương Đoàn tặng đơn vị có thành tích xuất sắc trong hoạt động phong trào thanh niên tình nguyện 1996 - 2000 2000: Bằng khen của UBND thành phố Hà Nội tặng đơn vị có nhiều thành tích trong phong trào “Thanh niên tình nguyện sáng tạo”
quan trọng để tổ chức Đoàn - Hội, đoàn viên - sinh viên ôn lại truyền thống vẻ vang của Đoàn, của Hội, đồng thời tự mình nâng cao nhận thức và hành động, góp sức xây dựng Đoàn - Hội vững mạnh. 3. Công tác Công đoàn Từ năm 1983 đến nay tổ chức 13 lần Đại hội Công đoàn, từ Đại hội XI (1983) đến Đại hội XXIII (2012). Chủ tịch Công đoàn trường do các đồng chí sau đây đảm nhiệm: v Từ năm 1983 đến 1987:
Đồng chí Trần Văn Huyền
v Từ năm 1987 đến 1988:
Đồng chí Đỗ Hữu Nghĩa
v Từ năm 1988 đến 1989:
Đồng chí Lương Phương Hậu
1990-2000: Liên tục 11 năm liền đạt danh hiệu Đoàn trường xuất sắc, được Trung ương Đoàn tặng bằng khen
v Từ năm 1989 đến 1991:
2011: Các bằng khen của Thành đoàn Hà Nội tặng Câu lạc bộ TCM; tặng Hội sinh viên trường; tặng Đội SVTN hoạt động xã hội trường; tặng BCH Đoàn trường đã có thành tích trong công tác Đoàn và phong trào thanh niên khối đại học, cao đẳng năm học 2010-2011
Đồng chí Phùng Văn Lự
Bằng khen của Trung ương Đoàn tặng đơn vị đã có thành tích xuất sắc nhiệm kỳ 2009-2012; 2012-2014 và năm học 20142015 2015: Bằng khen của Trung ương Hội chữ thập đỏ Việt Nam tặng đơn vị có thành tích xuất sắc trong công tác hiến máu tình nguyện và vận động hiến máu tình nguyện 2015: Bằng khen của Thành đoàn Hà Nội tặng đơn vị có thành tích xuất sắc trong chương trình “Tiếp sức mùa thi” Kỷ niệm 60 năm đào tạo, 50 năm thành lập Trường Đại học Xây dựng là một dịp 102
Đồng chí Trần Đình Bửu
v Từ năm 1991 đến 1996: v Từ năm 1996 đến 2002:
Đồng chí Phan Văn Cúc
v Từ năm 2002 đến 2004:
Đồng chí Nguyễn Văn Phượng
v Từ năm 2004 đến 2006:
Đồng chí Nguyễn Bình Hà
v Từ năm 2006 đến 2009:
Đồng chí Trương Quốc Thành
v Từ năm 2009 đến 2012:
Đồng chí Vũ Hồng Dư
v Từ năm 2012 đến 2015:
Đồng chí Vũ Anh Dũng
v Từ năm 2015 đến nay:
Đồng chí Hồ Ngọc Khoa Các nhiệm kỳ, Đảng ủy đều cử một Đảng ủy viên phụ trách công tác công đoàn (các đồng chí Đỗ Hữu Nghĩa, Phùng Văn
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
Lự, Trương Quốc Thành, Vũ Hồng Dư, Hồ Ngọc Khoa được bầu vào BCH Đảng bộ). Cán bộ công đoàn các cấp hàng năm đều được tham gia tập huấn nghiệp vụ và trao đổi kinh nghiệm công tác. Từ Khóa 13 (1987 - 1989) với tinh thần đổi mới của Đại hội Đảng VI, phong trào xây dựng tổ chức Công đoàn có nhiều nét nổi bật. Nhiều cán bộ đã trưởng thành từ phong trào Công đoàn. Đồng hành cùng với nhà trường trong suốt quá trình phát triển. Trong từng giai đoạn khác nhau, với chức năng và nhiệm vụ của mình, hình thức và nội dung hoạt động của Công đoàn rất sáng tạo, luôn bám sát nhiệm vụ chính trị của nhà trường. Công đoàn trường đã tổ chức, phát động những phong trào thi đua, những cuộc hội thảo tập trung vào các chủ đề: “Viết giáo trình giỏi”, “Giáo viên chủ nhiệm giỏi”, “Đổi mới phương pháp giảng dạy”, “Kỷ cương, tình thương, trách nhiệm”, “Dân chủ trong nhà trường”, được sự hưởng ứng của toàn thể CBVC, tạo nên phong trào thi đua sôi nổi, mang lại kết quả tốt đẹp về mặt vật chất và tinh thần, đóng góp cho công việc chung của nhà trường. Năm 1985 - 1986, Công đoàn Trường Đại học Xây dựng là một trong những công đoàn vững mạnh đầu tiên trong khối các Trường đại học. Năm 1987, Công đoàn Trường cũng là đơn vị đầu tiên có sáng kiến lập quỹ “Học bổng cho sinh viên nghèo”; đề xuất và xây dựng bảng điểm đánh giá công đoàn vững mạnh, đề xuất việc tổ chức “đối thoại” đầu tiên giữa Ban Giám hiệu với CBVC. Năm 1988 bắt đầu hình thành mối quan hệ hợp tác giữa Công đoàn Đại học Xây dựng, Công đoàn Đại học Bách Khoa Hà Nội, Công đoàn Đại học Kinh tế Quốc dân và Công đoàn Đại học Tổng hợp Hà Nội. Mô hình này được phát triển cho đến ngày hôm nay là Cụm Công đoàn 5 trường đại học: Đại
học Xây dựng, Đại học BK Hà Nội, Đại học KT Quốc dân, Đại học KH Tự nhiên và Đại học KH Xã hội & Nhân văn. Sự hợp tác giữa công đoàn 5 trường luôn hướng đến những vấn đề cơ bản, cần thiết, liên quan đến công tác công đoàn trong trường đại học, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của giáo dục đại học và Công đoàn ngành Giáo dục Việt Nam. Từ năm 2010, nhà trường bước vào giai đoạn phát triển mới, thực hiện chiến lược phát triển tới năm 2020 và tầm nhìn tới năm 2030. Hoạt động Công đoàn trường có những đổi mới và có chiều sâu hơn, vị thế của tổ chức công đoàn ngày càng được khẳng định. Xuyên suốt quá trình phát triển, yếu tố quyết định đến thành công của hoạt động Công đoàn là sự quan tâm, lãnh đạo sát sao của Đảng ủy và sự phối hợp của Ban Giám hiệu. Các nhiệm kỳ, Đảng ủy đều cử 1 Đảng ủy viên phụ trách công tác công đoàn, nhiều đồng chí chủ tịch Công đoàn (Đỗ Hữu Nghĩa, Phùng Văn Lự, Trương Quốc Thành, Vũ Hồng Dư, Hồ Ngọc Khoa) được bầu vào BCH Đảng bộ trường. Những thành quả đạt được của Công đoàn Trường Đại học Xây dựng được Đảng, Nhà nước và Công đoàn cấp trên đánh giá cao, trân trọng nghi nhận và khen thưởng những danh hiệu cao quý: - Huân chương Lao động hạng Ba năm 1997. - Huân chương Lao động hạng Nhì năm 2005. - Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tặng Cờ thi đua công đoàn xuất sắc năm 1988 và năm 1991; Bằng khen công đoàn cơ sở xuất sắc trong xây dựng tổ chức, giảng dạy, nghiên cứu khoa học và công tác đoàn thể năm 1986, 1988, 1996, 2001, 2012, 2013 và 2015; Bằng Lao động sáng tạo cho 12 103
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
công đoàn viên năm 1990, cho 2 công đoàn viên năm 2015.
đạo của Ban Thường vụ Thành hội Hà Nội, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình..
- Liên đoàn Lao động Hà Nội tặng Cờ Công đoàn cơ sở xuất sắc 1988 - 1993, 1993 - 1998; Cờ “Đơn vị hoạt động Công đoàn xuất sắc” năm 1999; Bằng khen về thành tích xuất sắc trong xây dựng tổ chức, giảng dạy, nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ và công tác đoàn thể năm 1986, 1995, 1997, 1998, 2000, 2001, 2003, 2004.
Từ những ngày đầu thành lập với 32 hội viên nòng cốt do GS.TSKH.NGND Nguyễn Văn Chọn làm Chủ tịch, Hội đã phát triển thành một tổ chức chính trị - xã hội trong Nhà trường với 69 thành viên (năm 2012). Trong đó 54 đồng chí là Đảng viên, 5 nữ CCB, 11 đồng chí là thương binh từ hạng 1 đến hạng 4/4, 34 đồng chí đã và đang là Cán bộ quản lý các cấp của Nhà trường, 11 đồng chí là PGS và 14 đồng chí có học vị Tiến sỹ.
- Công đoàn Giáo dục Việt Nam tặng Cờ thi đua công đoàn cơ sở xuất sắc năm 1998, 1990, 2011; Bằng khen về thành tích xuất sắc trong công tác và các hoạt động đoàn thể năm 1990, 1998, 2002 và liên tục 12 năm từ 2005 đến nay. Nhiều Công đoàn các Khoa, Viện, Phòng ban và các công đoàn viên Trường Đại học Xây dựng được tặng Cờ thi đua, Bằng khen và các phần thưởng cao quý khác của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Công đoàn các cấp. 4. Hội Cựu chiến binh Trải qua 17 năm kể từ ngày thành lập (năm 1999) đến nay, Hội Cựu chiến binh Trường ĐHXD đã có 4 nhiệm kỳ công tác. Chủ tịch Hội do các đồng chí sau đây đảm nhiệm : v Từ năm 1999 đến 2001:
Đồng chí Nguyễn Văn Chọn
v Từ năm 2001 đến 2007:
Đồng chí Nguyễn Kim Bảng
v Từ năm 2007 đến 2014:
Đồng chí Hoàng Văn Tần
v Từ năm 2014 đến nay:
Đồng chí Phan Văn Thảo Là tổ chức chính trị - xã hội trong nhà trường, Hội Cựu chiến binh dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng ủy nhà trường và sự chỉ
104
Các đồng chí CCB Trường Đại học Xây dựng đã và đang phát huy bản chất truyền thống của những quân nhân đã phục vụ trong quân đội, phẩm chất của Anh bộ đội Cụ Hồ luôn thực hiện tốt nghĩa vụ công dân, trước hết là làm tròn trách nhiệm của mình trên cương vị và nhiệm vụ được giao phó. Cùng với tổ chức Công đoàn và Đoàn Thanh niên quan tâm giáo dục các thế hệ sinh viên của trường biết kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước của cha anh để làm tròn nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những tấm gương tiêu biểu về sự hy sinh của Anh hùng Liệt sỹ Bùi Ngọc Dương (Khóa 7 - Cầu đường); Liệt sỹ Lê Xuân Huỳnh (Khóa 13 - Cầu hầm) v.v. luôn là bài học sinh động và nhiều cảm xúc đối với thế hệ trẻ trong Trường Đại học Xây dựng. Công tác đền ơn đáp nghĩa, tri ân đồng đội luôn được các Hội viên CCB hưởng ứng và tham gia rất nhiệt thành. Hội CCB Trường Đại học Xây dựng nhiều năm được Hội CCB Thành phố Hà Nội công nhận là “đơn vị cơ sở trong sạch vững mạnh”. Năm 2008, 2009, 2011, 2012, 2013 được tặng Bằng khen của Hội CCB Thành phố Hà Nội. Năm 2010 với thành tích xuất sắc, Hội đã được tặng bằng khen của TW Hội CCB Việt Nam.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
5. Hội Cựu giáo chức Hội Cựu giáo chức được thành lập ngày 16/6/2006, GS.TS Trần Đình Bửu được bầu là Chủ tịch Hội đầu tiên và tiếp tục đảm nhận cương vị này cho đến nay. Từ 03 chi hội ban đầu đã phát triển nhanh chóng lên 17 chi hội vào năm 2011 và 20 chi hội vào năm 2016 với sự tham gia của 552 hội viên (chiếm 92% cựu giáo chức). Ban Chấp hành Hội CGC trường và các chi hội luôn quan tâm đến đời sống tinh thần và vật chất cho hội viên như: Giải quyết tồn đọng về xét hưởng phụ cấp thâm niên giảng dạy, xét tặng kỷ niệm chương Hội Cựu giáo chức, thăm hỏi hội viên ốm đau, mừng thọ hội viên cao tuổi; hằng năm tổ chức cho toàn thể hội viên tham quan các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh... tích cực tham gia các hoạt động tri ân, đền ơn đáp nghĩa đặc biệt trong việc tuyên truyền vận động xây dựng Đài tưởng niệm Liệt sỹ Trung đoàn 207 tại ấp Đá Biên, Long An năm 2016. Bên cạnh việc chăm lo phát triển tổ chức, Hội đã tổ chức được nhiều hội thảo, hội nghị chuyên đề như đóng góp ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; tham gia biên soạn tập sách “Thành tựu Giáo dục - Đào tạo Việt Nam 70 năm (1945-2015)” do Trung ương Hội CGC VN chủ trì; các văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng.... Nhiều giáo sư, phó giáo sư, giảng viên cao cấp, giảng viên vẫn tích cực tham gia công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học. 40 hội viên là các nhà khoa học, nguyên cán bộ lãnh đạo, quản lý được nhà trường mời vào Ban Tư vấn Phát triển trường - năm 2016 là Hội đồng Tư vấn Trường Đại học Xây dựng. Qua 10 năm kể từ ngày thành lập, Hội Cựu giáo chức trường đã 2 lần được Trung ương Hội tặng cờ thi đua, 03 chi
hội và 07 cá nhân được Trung ương Hội tặng bằng khen. *
*
*
Nhìn lại giai đoạn phát triển của Nhà trường trong hơn 30 năm qua kể từ ngày rời Hương Canh, Vĩnh Phú trở về Thủ đô Hà Nội đến nay là chặng đường mà các thế hệ cán bộ viên chức và sinh viên nhà trường đã dành toàn bộ tâm, trí, lực để tạo dựng, vun đắp, xây dựng và phát triển đội ngũ và cơ sở vật chất đưa Trường Đại học Xây dựng lên ngang tầm với các trường đại học lớn của đất nước, đủ sức thực hiện sứ mạng “ Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, NCKH và chuyển giao công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực Xây dựng đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế”.
LỜI KẾT Năm 2016, năm kỷ niệm 60 năm đào tạo và 50 năm thành lập Trường là một dấu mốc quan trọng để Trường Đại học Xây dựng bước vào thời kỳ mới - thực hiện Chiến lược phát triển giai đoạn 2010 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Qua chặng đường nửa thế kỷ đầy gian khó, Trường Đại học Xây dựng đã tự khẳng định mình, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và của nhân dân. Bom đạn chiến tranh, lụt lội, hạn hán..., cũng chưa bao giờ làm gián đoạn một khóa kiến trúc sư, kỹ sư xây dựng tốt nghiệp ra trường. Chúng ta đã tồn tại và tiếp tục phát triển trong khó khăn, vất vả của cuộc sống thường ngày và lớn mạnh trong trong những cơ hội và thách thức mới. Kết thúc những trang viết ngắn gọn về chặng đường đầy biến động trong nửa thế kỷ qua, Trường Đại học Xây dựng đang hướng tới những trang sử vẻ vang mới trong thế đi lên của đất nước. 105
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
I Nghiên cứu thiết kế chế tạo máy ép gạch không nung
Nghiên cứu thiết kế và sản xuất các cấu kiện nhỏ ứng dụng cho các công trình ở Hà Nội - Phòng Thí nghiệm công trình 106
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
I Ứng dụng móng cọc nhồi vào thực tế xây dựng
I Đào tạo học sinh nước ngoài - Sinh viên Lào kỷ niệm Quốc khánh 107
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
I Lễ đón nhận Huân chương Độc Lập (1991) 108
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
I Trường Đại học Xây dựng - tháng 11 năm 1991 (Ảnh chụp trong Lễ kỷ niệm 35 năm thành lập trường)
I Ban nhạc Bức Tường
109
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
I Lãnh đạo Trường ĐHXD qua các thời kỳ (1996)
I Đồng chí Nguyễn Đình Tứ - Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban Khoa giáo Trung ương đến thăm Trường ĐHXD (1996)
110
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
I Phó Thủ tướng Phan Văn Khải về thăm Trường ĐHXD (1997)
I Công đoàn Trường ĐHXD nhận Huân chương Lao động hạng Ba (1997)
111
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
I Bộ trưởng Bộ Giáo dục & Đào tạo Nguyễn Minh Hiển làm việc với trường (1998)
I Lễ khánh thành cổng Trường ĐHXD (1/2000)
112
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
I Lễ báo công của sinh viên Trường ĐHXD trước Lăng Bác Hồ (2000)
I Đại hội Đảng bộ giữa nhiệm kỳ XVIII (9/2000)
113
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
I Lễ cắt băng khánh thành nhà Thư viện (4/2001)
I Chiến dịch Mùa hè xanh tình nguyện (2004)
114
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
I Các thế hệ thầy trò thăm Văn miếu Quốc Tử Giám (2006)
I Đội văn nghệ Trường ĐHXD đạt giải Nhất Liên hoan tiếng hát giáo viên toàn quốc (2006) 115
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
I Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Thiện Nhân đến thăm và làm việc với trường (2009)
I Lễ công bố Quyết định Bổ nhiệm Hiệu trưởng Trường ĐHXD nhiệm kỳ 2009 - 2014
116
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
I Hội nghị đóng góp ý kiến cho Dự thảo chiến lược phát triển trường giai đoạn 2010 - 2020 và tầm nhìn đến 2030
I Lễ công bố Quyết định thành lập quỹ học bổng mang tên GS. Đỗ Quốc Sam (2010)
117
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
I Ban Chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ 2010 - 2015 ra mắt Đại hội (2010)
Trung ương Hội cựu giáo chức Việt Nam trao cờ “Đơn vị xuất sắc toàn diện” cho Hội Cựu giáo chức Trường ĐHXD - Nhiệm kỳ 2006 - 2011 (2011) 118
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
I Lễ kỷ niệm 55 năm đào tạo, 45 năm thành lập Trường ĐHXD (2011)
I Hội nghị Tổng kết Công tác đào tạo giai đoạn 2006 - 2011 (2011)
119
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Bộ trưởng Bộ Xây dựng - Trịnh Đình Dũng trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhất cho nhà giáo Nguyễn Xuân Trọng - Nguyên Bí thư Đảng ủy, Nguyên Phó Hiệu trưởng (2012)
I Lễ công bố Quyết định bổ nhiệm Hiệu trưởng Trường ĐHXD nhiệm kỳ 2014 - 2019
120
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
I Lễ công bố Quyết định bổ nhiệm Phó Hiệu trưởng Trường ĐHXD nhiệm kỳ 2014 - 2019
I Trao Quyết định bổ nhiệm, bổ nhiệm lại Trưởng các khoa nhiệm kỳ 2014 - 2019
121
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
I Trao Quyết định bổ nhiệm, bổ nhiệm lại Trưởng các phòng, ban nhiệm kỳ 2014 - 2019
I Trao Quyết định bổ nhiệm, bổ nhiệm lại Trưởng các bộ môn nhiệm kỳ 2014 - 2019
122
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
I Ban chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ 2015 - 2020 ra mắt Đại hội
I Lễ công bố quyết định thành lập Hội đồng và Bổ nhiệm Chủ tịch hội đồng trường nhiệm kỳ 2014 - 2019
123
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
I Đại hội đại biểu Công đoàn Trường ĐHXD lần thứ XXIII, nhiệm kỳ 2012 - 2014
I Đại hội Đại biểu Hội sinh viên Trường Đại học Xây dựng (2015)
124
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
I Hội nghị Tổng kết các hoạt động của sinh viên năm học 2015 - 2016
I Lễ trao tặng sách Cựu chiến binh Trường ĐHXD - Truyền thống và lịch sử vẻ vang (2013)
125
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
I Trường ĐHXD tặng hoa chúc mừng đồng chí Trịnh Đình Dũng - Tân Phó Thủ tướng Chính phủ
I Lễ khởi công xây dựng cơ sở đào tạo thực nghiệm tại Hà Nam (2015)
126
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
I Lễ ra mắt trang thông tin điện tử Trường ĐHXD (2015)
I Lễ khánh thành dự án Nâng cấp và Cải tạo Thư viện Trường ĐHXD (2016)
127
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
I Lễ khởi công xây dựng giảng đường H3, Trường ĐHXD (2016)
I Ban Giám hiệu chụp ảnh lưu niệm cùng các tân Phó giáo sư tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám
128
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
KTS Hoàng Thúc Hào - Khoa Kiến trúc & Quy hoạch nhận giải Nhất tại Liên hoan kiến trúc thế giới (WAF) 2015
I Giảng viên Đàm Thị Lan - Khoa Kỹ thuật Môi trường nhận giải thưởng “Quả cầu vàng” 2013 129
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
I Đoàn đại biểu Đại sứ quán Pháp đến thăm và làm việc với Trường ĐHXD (2015)
I Hội đồng hoàn thiện Chương trình đào tạo kỹ sư CLC (PFIEV) họp tại Trường ĐHXD - 2014
130
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
I Lễ ký thỏa thuận về hỗ trợ Chuyên ngành Pháp ngữ kiến trúc giữa AUF và Trường ĐHXD
I Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác giữa Trường ĐHXD và Trường Đại học Khoa học ứng dụng Wisma, CHLB Đức (2016)
131
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
I Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác giữa Trường ĐHXD và Bộ Giao thông Vận tải (2015)
I Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác giữa Trường ĐHXD và Báo Xây dựng - Bộ Xây dựng (2016) 132
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
I Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác giữa Trường ĐHXD và Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam (2016)
I Đội văn nghệ Trường ĐHXD đạt giải Nhì Liên hoan tiếng hát giáo viên toàn quốc lần thứ IV, năm 2016
133
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
I Đội văn nghệ sinh viên Trường ĐHXD đạt giải Nhất Hội thi Tiếng hát sinh viên toàn quốc lần thứ XIV (2016)
I Đội tuyển bóng đá sinh viên Trường ĐHXD đoạt cúp Vô địch Giải bóng đá VUG 2016
134
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
Đài tưởng niệm Liệt sỹ Trung đoàn 207, tại ấp Đá Biên, Thạnh Hóa, Long An (10/2016)
I Lễ Khánh thành Đài tưởng niệm Liệt sỹ Trung đoàn 207 135
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
PHỤ LỤC DANH SÁCH CÁN BỘ CHỦ CHỐT ĐẦU TIÊN VỀ THÀNH LẬP KHOA XÂY DỰNG (THÁNG 3-1956) STT
HỌ VÀ TÊN
NĂM VỀ KHOA XD
1
Lê Tâm
1956
2
Nguyễn Sanh Dạn
1956
3
Vũ Văn Tảo
1956
4
Nguyễn Văn Hường
1956
5
Nguyễn Văn Cung
1956
6
Lê Thạc Cán
1956
7
Lê Đỗ Chương
1956
8
Nguyễn Đơn Giản
1956
CÁC ĐỒNG CHÍ LÃNH ĐẠO ĐẦU TIÊN VÀ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CÁC ĐOÀN THỂ CỦA KHOA XÂY DỰNG Chủ nhiệm Khoa
Lê Tâm
Phó chủ nhiệm Khoa
Nguyễn Sanh Dạn
Bí thư chi bộ CB Khoa (6 đảng viên)
Nguyễn Văn Hường
Bí thư chi bộ SV Khoa (5 đảng viên)
Lê Vạn
Thư ký Công đoàn (CBGD) Khoa
Vũ Văn Úy
Bí thư Liên chi đoàn Khoa
Bạch Xuân Ba
Chi hội Trưởng Chi Hội Sinh viên
Lê Hồng Phú
DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ NHẤT - THÁNG 2 NĂM 1967 1
Trần Đức Trân
8
Nguyễn Biên
2
Trần Văn Hải
9
Vũ Văn Tảo
3
Trần Văn Ngọc
10
Vũ Đình Tiến
4
Nguyễn Xuân Trọng
11
Nguyễn Công Chi
5
Nguyễn Sanh Dạn
12
Lê Xuân Khoa
6
Đỗ Quốc Sam
13
Nguyễn Đăng Hương
7
Lê Vạn
136
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
DANH SÁCH SINH VIÊN KHÓA I KHOA XÂY DỰNG ĐHBK (1956-1959) Ở LẠI TRƯỜNG ĐHXD LÀM CBGD 1
Phan Ngọc Châu
18
Hoàng Văn Quý
2
Nguyễn Trọng Chuyền
19
Hoàng Văn Tân
3
Đỗ Bá Chương
20
Phạm Sỹ Tú
4
Nguyễn Đình Cống
21
Mai Đình Tuân
5
Trần Cao Đại
22
Hoàng Huy Thắng
6
Phạm Ngọc Đăng
23
Lê Đức Thắng
7
Phạm Khắc Hùng
24
Nguyễn Đức Thiềm
8
Nguyễn Thế Hưng
25
Nguyễn Trâm
9
Lê Kiều
26
Nguyễn Học Trí
10
Đoàn Định Kiến
27
Nguyễn Trí Trọng
11
Nguyễn Đăng Khoa
28
Nguyễn Xuân Trường
12
Đoàn Như Kim
29
Nguyễn Văn Tuấn
13
Lê Ngọc Lân
30
Hồ Anh Tuấn
14
Nguyễn Văn Nhuận
31
Đỗ Thúc Tuấn
15
Nguyễn Nhượng
32
Nguyễn Tường
16
Nguyễn Tiến Oanh
33
Lê Vạn
17
Ngô Thế Phong
DANH SÁCH SINH VIÊN KHÓA I GỬI ĐI LIÊN XÔ ĐÀO TẠO TIẾP 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13
Trần Bình Trần Đình Bửu Hà Huy Cương Trần Ngọc Chấn Hoàng Đình Chuân Nguyễn Bá Dũng Nguyễn Văn Đạt Huỳnh Xuân Đình Ngô Văn Định Lê Ất Hợi Nguyễn Như Khải Phan Hoàng Mạnh Phan Duy Pháp
14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25
Lê Đình Phiên Lê Bá Phong Lê Phu Phạm Phụ Võ Văn Thảo Ngô Văn Quỳ Trương Tùng Nguyễn Khánh Tường Bùi Vạn Trân Đặng Văn Út Nguyễn Phụng Võ Nguyễn Văn Yên
137
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
XÂY DỰNG -----*-----
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ----------o0o-----------
TỜ TRÌNH VỀ VIỆC MỞ TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG CƠ BẢN THUỘC BỘ ĐẠI HỌC VÀ TRUNG HỌC CHUYÊN NGHIỆP I. LÝ DO CẦN MỞ TRƯỜNG Từ trước đến nay việc đào tạo kỹ sư cho ngành xây dựng kiến trúc do Khoa Xây dựng của Trường Đại học Bách khoa đảm nhiệm. 1. Vì chỉ tiêu tuyển sinh của Trường ĐHBK có hạn và trường dành một số lượng lớn cho các ngành chủ yếu của CN và quốc phòng như Cơ khí, Điện lực, Vô tuyến điện v.v... cho nên chỉ tiêu tuyển sinh dành cho ngành Xây dựng năm 1965 chỉ có 170 ban ngày, và trong những năm tới nếu cứ để y nguyên tình trạng này thì không có khả năng tăng được bao nhiêu. Trong khi đó nhu cầu về cán bộ có trình độ đại học cho ngành Xây dựng Kiến trúc để làm công tác thiết kế, thi công, nghiên cứu khoa học, giảng dạy và quản lý v.v.. sẽ ngày càng tăng lên gấp bội. Mặt khác, cũng vì chỉ tiêu tuyển sinh có hạn và nằm trong phạm vi chật hẹp của một khoa của Trường ĐHBK, nên tuy trong nước đã có khả năng đào tạo được kỹ sư thuộc hầu hết các ngành về XD kiến trúc, nhưng việc đào tạo cho ngành này chưa tiến hành được theo một hệ thống chuyên nghiệp hoàn chỉnh theo hướng mà Chỉ thị 88/TTg tháng 8/1989 đã đề ra. 2. Trong hệ thống các trường đại học về XD cơ bản ở nước ta đang thiếu một trường đại học Xây dựng cơ bản để phát triển một cách toàn diện khoa học kỹ thuật xây dựng cơ bản, có tác dụng như Trường ĐHBK trong khu vực công nghiệp và đại học nông nghiệp trong khu vực nông nghiệp. Loại trường này là loại trường đại học có tính chất đa khoa rộng rãi, gồm một số chuyên nghiệp chính của các ngành Thủy lợi, Cảng, Cầu đường, XD Kiến trúc có liên quan với nhau, đào tạo kỹ sư công trình có trình độ khoa học kỹ thuật tương đối vững, có thể tiếp thu nhanh chóng kỹ thuật mới và khi cần thì chuyển ngành cũng dễ dàng . Ở các nước bạn như Liên Xô, Trung Quốc, Tiệp, Hung-ga-ri, v.v...đều có cả. Các trường này cũng tồn tại bên cạnh các trường có tính chất chuyên khoa như Thủy lợi, Giao thông, Đường sắt... II. KẾ HOẠCH TUYỂN SINH Vì những lý do trên, đề nghị cho thành lập Trường Đại học Công trình xây dựng cơ bản, để khắc phục sự mất cân đối giữa số lượng đào tạo cán bộ trình độ ĐH cho 3 ngành lớn của khu vực xây dựng cơ bản: Thủy lợi, Giao thông, Xây dựng kiến trúc. a/ Đối tượng tuyển sinh: là các đối tượng do Nhà nước đã quy định cho các lớp ban ngày chính quy, ban ngày chuyên tu và các lớp tại chức của các trường đại học. b/ Chỉ tiêu tuyển sinh: Trong các năm đầu mới thành lập, với khả năng cơ sở vật chất và cán bộ sẵn có Trường ĐHCT có thể tuyển sinh khoảng 600 - 700 ban ngày và 200 - 250 tại chức. Đến năm 1970, cố gắng đạt chỉ tiêu thường xuyên của trường là khoảng 1000 ban ngày và 400 tại chức. 138
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
PHÂN PHỐI CHỈ TIÊU TUYỂN SINH CHO CÁC NGÀNH LỚN TRONG TRƯỜNG NGÀNH LỚN
1966
1970
Ban ngày
Tại chức
Ban ngày
Tại chức
Xây dựng
250
100
475
175
Kiến trúc
50
-
75
-
Thủy lợi - Cảng
125
75
175
100
Cầu đường - Sân bay
125
50
175
75
Cơ khí XD
50
-
100
-
Phân phối cho các chuyên nghiệp như sau: CHUYÊN NGHIỆP
1966
1970
Ban ngày
Tại chức
Ban ngày
Tại chức
1
Thiết kế công trình DDCN và ĐT
50
25
100
50
2
Xây dựng DDCN
100
75
200
100
3
Xây dựng quản lý ĐT và NT
25
-
50
-
4
Cấp thoát nước
25
-
50
-
5
Thông hơi - Vật lý kiến trúc
25
-
25
-
6
Vật liệu xây dựng
25
-
50
-
7
Kiến trúc sư DD và CN
35
-
50
-
8
Kiến trúc sư quy hoạch đô thị
15
-
25
-
9
Thiết kế thủy lợi và thủy điện
50
25
50
25
10
XD thủy lợi và thủy điện
25
25
25
50
11
Cảng và đường thủy
50
25
75
25
12
Cầu và Hầm
50
25
50
25
13
Cầu đường bộ
50
25
100
50
14
Sân bay
25
-
25
-
15
Cơ khí xây dựng
50
-
100
-
600
225
1000
400
CỘNG
825
1400
Chú ý: 1. Các ngành kể trên nói chung đều đã có trong nước (Khoa Xây dựng và lớp kiến trúc sư), riêng hai ngành Vật liệu XD và Sân bay là hai ngành mới, cần phải có sự chuẩn bị tích cực. 2. Hai ngành số 2 và số 10 trước đây gọi là Kỹ sư kinh tế XD và Kỹ sư kinh tế thủy lợi 139
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
III. TỔ CHỨC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG TRÌNH Toàn trường trước mắt chia ra 5 khoa: Xây dựng, Kiến trúc, Thủy lợi cảng, Cầu đường, Cơ khí. Về sau, tùy tình hình và nhu cầu, Khoa XD có thể tách ra thành 3 khoa: Khoa XD và Đô thị, Khoa Kỹ thuật vệ sinh và Khoa Vật liệu XD. Danh sách các bộ môn: a/ Các bộ môn trực thuộc 1. Bộ môn Mác - Lênin 2. Bộ môn Ngoại ngữ 3. Bộ môn Thể thao thể dục 4. Bộ môn Toán cao cấp và Máy tính 5. Bộ môn Vật lý đại cương 6. Bộ môn Hóa đại cương, phân tích và hóa lý 7. Bộ môn Cơ lý thuyết 8. Bộ môn Cơ học kết cấu và Thí nghiệm công trình 9. Bộ môn Sức bền vật liệu 10. Bộ môn Kinh tế và Quản lý xây dựng cơ bản b/ Khoa Cơ khí xây dựng 11. Bộ môn Điện 12. Bộ môn Máy XD và bốc dỡ 13. Bộ môn Máy thủy lực c/ Khoa Xây dựng 14. Bộ môn Công trình bê tông gạch đá 15. Bộ môn Công trình thép gỗ 16. Bộ môn Thông hơi cấp nhiệt 17. Bộ môn Vật lý kiến trúc 18. Bộ môn Xây dựng và Quản lý đô thị 19. Bộ môn Cấp thoát nước 20. Bộ môn Vật liệu xây dựng 21. Bộ môn Thi công và An toàn lao động d/ Khoa Thủy lợi - Cảng 22. Bộ môn Thủy lực Thủy văn 23. Bộ môn Cơ đất nền móng 24. Bộ môn Thủy lợi 25. Bộ môn Cảng đường thủy đ/ Khoa Cầu - Đường 26. Bộ môn Trắc lượng 27. Bộ môn Cầu hầm 140
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
28. Bộ môn Đường ôtô và sân bay e/ Khoa Kiến trúc 29. Bộ môn Hình học họa hình - Vẽ kỹ thuật và vẽ Mỹ thuật 30. Bộ môn Lịch sử kiến trúc và Nguyên lý thiết kế 31. Bộ môn Kiến trúc dân dụng và công nghiệp 32. Bộ môn Quy hoạch đô thị Tổ chức quản lý chính quyền Trường ĐHCT sẽ trực thuộc Bộ Đại học và Trung học Chuyên nghiệp và có sự chỉ đạo về chuyên môn của UB Kiến thiết cơ bản Nhà nước, Bộ Kiến trúc, Bộ Thủy lợi, Bộ Giao thông. Bộ máy quản lý trường sẽ gồm Ban Giám hiệu, các ban chủ nhiệm khoa và các phụ trách các phòng. Ban Giám hiệu sẽ gồm: 1 hiệu trưởng, 3 hiệu phó (1 phụ trách học tập và nghiên cứu khoa học, 1 phụ trách quản trị sinh hoạt, 1 phụ trách chính trị). Mỗi khoa có 1 chủ nhiệm khoa và 1 hay 2 phó chủ nhiệm. Các phòng giúp việc Hiệu trưởng gồm có: 1. Phòng Tổ chức cán bộ 2. Phòng Chính trị - Tuyên giáo 3. Phòng Giáo vụ 4. Phòng Nghiên cứu khoa học và lao động sản xuất 5. Phòng Thiết bị tài sản 6. Phòng Hành chính và Tài vụ 7. Phòng Y tế (có bệnh xá) 8. Ban quản trị khu tập thể 9. Xưởng cơ khí và trạm máy XD 10. Xưởng mộc 11. Xưởng kết cấu thép và hàn IV. BIỆN PHÁP THÀNH LẬP TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG TRÌNH 1. Trường ĐH Công trình sẽ thành lập trên cơ sở Khoa XD Trường ĐHBK và lớp Kiến trúc sư của Bộ Kiến trúc. Lớp Kiến trúc sư sẽ sáp nhập toàn bộ vào trường ĐHCT. Về khoa XD, thì khi tách ra khỏi ĐHBK, sẽ để lại cho ĐHBK bộ phận của các bộ môn Sức bền vật liệu, Thủy lực, Cơ đất, Kiến trúc công trình để phục vụ cho trường và giúp xây trường Mỏ công nghiệp nhẹ và các phân hiệu của ĐHBK. 2. Địa điểm của Trường ĐH Công trình sẽ đặt ở Hà Nội vì là một trường xây dựng cơ bản có tính chất bách khoa. Có thể có 3 phương án: Phương án 1: là Trường ĐH công trình sẽ đặt cạnh Trường ĐHBK dọc Đường Đại Cồ Việt. Phương án này sẽ cho phép tận dụng được cơ sở hiện có của Phòng Thí nghiệm Thủy lực và Thủy công (C6), trạm bơm và sân mô hình của Bách khoa (các cơ sở này có thể tách khỏi 141
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Bách khoa và giao cho ĐHCT ngay ở bên cạnh), tiết kiệm được cho Nhà nước hơn 400.000đ. Nhưng nhược điểm là địa thế hẹp. Phương án 2: là trường ĐH Công trình sẽ đặt ở khu đất nằm giữa ĐHBK và Đại học Kinh tế - Kế hoạch. Ưu điểm của phương án này là ĐH Công trình có thể tận dụng được một số cơ sở tạm thời của ĐHBK (khu sư phạm cũ) và địa thế tương đối rộng rãi, có hướng phát triển ra phía đường Nam Bộ. Nhưng không tận dụng được Phòng Thí nghiệm Thủy lợi. Phương án 3: là ĐH Công trình sẽ đặt ở khu đất khác trong phạm vi Hà Nội, do Bộ Đại học và Nhà nước chỉ định. 3. Cơ sở phòng thí nghiệm: Về các phòng thí nghiệm thì Trường ĐHBK có khả năng tách 1 phần của Phòng Thí nghiệm Sức bền vật liệu và toàn bộ các phòng thí nghiệm khác của Khoa Xây dựng như: Vật lý kiến trúc, Vật liệu XD... Các phòng thí nghiệm khác sẽ xin Nhà nước trang bị dần sau. 4. Thư viện: Trường ĐHBK cũng có khả năng tách ra cho Trường ĐH Công trình đại bộ phận các sách và tài liệu báo chí thuộc hệ thống xây dựng cơ bản, số sách báo này với thư viện hiện có của lớp kiến trúc sư có thể tương đối đủ để thành lập thư viện ĐH Công trình. 5. Cán bộ: Ngoài số cán bộ của Khoa Xây dựng sẽ sáp nhập và Trường ĐH Công trình, Trường ĐHBK có khả năng tách ra cho Trường ĐH Công trình một số cán bộ giảng dạy và nhân viên thí nghiệm công nhân của các bộ môn: Mác-Lênin, Nga văn, Thể dục, Toán, Lý, Cơ lý thuyết, Hóa, Vẽ và Hình họa, Trắc lượng, Điện, Nguyên lý máy và chi tiết máy, Máy xây dựng, Kinh tế xây dựng, Địa chất công trình để làm nòng cốt cho các bộ môn tương ứng của ĐHCT. Ngoài ra ĐHBK cũng có thể phái sang trường này một số cán bộ công nhân viên hành chính quản trị để làm nòng cốt cho các phòng, ban của ĐHCT. 6. Trường ĐHCT sẽ tìm và xây dựng một địa điểm sơ tán cho khoảng 1400-1600 người, đủ chứa hai khóa sinh viên và cán bộ công nhân viên. Khóa 11 tuyển sinh xong sẽ đưa ngay về đó học và những phòng thí nghiệm Lý và Hóa, phòng vẽ đơn giản. Khóa 9 và 10 tạm thời cứ học tại khu C của Bách khoa hiện nay. Đến tháng 1/1967 khi khóa 7 tốt nghiệp ra trường hết, sẽ đưa khóa 9 về cùng với khóa 8 ở nhờ Trường ĐHBK cho đến khi tốt nghiệp. Còn Khóa 10 thì chuyển về khu sơ tán của ĐH Công trình, giao địa điểm H3 hiện nay cho ĐHBK. V. KHÓ KHĂN, THUẬN LỢI VÀ ĐỀ NGHỊ Tách Khoa Xây dựng ra khỏi Trường ĐHBK, gộp với lớp Kiến trúc sư của Bộ Kiến trúc để thành lập Trường ĐH Công trình sẽ có nhiều thuận lợi, cũng có những khó khăn. Thuận lợi: 1 - Khoa Xây dựng nhờ sự bồi dưỡng tích cực của Trường ĐHBK qua 10 năm có truyền thống phấn đấu và thi đua, có sự lãnh đạo về chính trị và chuyên môn khá vững, có thể làm nòng cốt cho Trường ĐH Công trình tương lai.
142
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
2 - Có kinh nghiệm tích lũy từ 10 năm nay về giảng dạy, nghiên cứu khoa học và mọi mặt công tác khác của một cơ sở đào tạo kỹ sư, lớp kiến trúc sư cũng đã có kinh nghiệm 5 năm đào tạo kiến trúc sư trong nước. 3 - Các bộ môn của Khoa Xây dựng đã hình thành từ lâu, song trong các bộ môn đã có một tập thể cán bộ giảng dạy tương đối vững, hầu hết các bộ môn đều đã có cốt cán khoa học, với cơ sở cán bộ giảng dạy của 2 đơn vị trước mắt có thể tuyển sinh được khoảng 600 ban ngày mà không gặp khó khăn lớn lắm 4 - Các cơ sở vật chất tối thiểu như phòng thí nghiệm, thư viện... cũng đã có sẵn. Khó khăn: 1 - Việc tách các phòng thí nghiệm từ Trường ĐHBK ra đòi hỏi thời gian, vốn đầu tư khá lớn, cho nên cần nghiên cứu tìm ra biện pháp tiện lợi và tiết kiệm nhất. 2 - Vì Bách khoa phải một lúc đẻ ra nhiều trường và phân hiệu, nên số cán bộ giảng dạy các bộ môn cơ sở tách ra cho Trường ĐH Công trình sẽ không có thể đảm bảo nhu cầu trước mắt, cần phải có biện pháp bổ sung và bồi dưỡng kịp thời. Đề nghị: 1 - Đề nghị cử ra Ban phụ trách thành lập Trường ĐH Công trình để lo về địa điểm, tổ chức, biên chế, tài chính... 2 - Bổ sung cán bộ lãnh đạo, cán bộ tổ chức, cán bộ công nhân viên cho các phòng, các khoa. 3 - Đề nghị Nhà nước và Bộ Đại học phân phối cho một số cán bộ đại học vừa mới tốt nghiệp trong nước (Bách khoa, Tổng hợp, Sư phạm) và ngoài nước để bổ sung cho các bộ môn nhất là bộ môn cơ sở. Đặc biệt đề nghị chú ý phân phối cho một số Kiến trúc sư, Kỹ sư cảng, Cấp thoát nước, Vật liệu xây dựng, Thông gió, Máy xây dựng ở nước ngoài về. 4 - Cử cho một số Kỹ sư mới tốt nghiệp sang bồi dưỡng cấp tốc ở Trung Quốc để dạy chuyên môn cho các ngành Sân bay, Hầm, Vật liệu xây dựng. VI. KẾT LUẬN Việc thành lập Trường ĐH Công trình là một đòi hỏi của một công cuộc đào tạo cán bộ kỹ sư trong nước cho các ngành xây dựng cơ bản và sẽ có lợi cho nhiều việc phát triển nhanh chóng khoa học kỹ thuật xây dựng cơ bản ở miền Bắc nước ta. Tuy có một số khó khăn, nhưng thuận lợi thì không ít, nếu giải quyết được tốt các khó khăn thì trường sẽ nhanh chóng đi vào ổn định, có thể nhanh chóng góp phần đánh giặc Mỹ xâm lược và chuẩn bị chu đáo cho lực lượng để xây dựng kinh tế nước nhà.
Hà Nội, ngày 14 tháng 3 năm 1966
143
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
144
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
145
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ NHẤT - THÁNG 2 NĂM 1967 1. Trần Đức Trân 2. Trần Văn Hải 3. Trần Văn Ngọc 4. Nguyễn Xuân Trọng 5. Nguyễn Sanh Dạn 6. Đỗ Quốc Sam 7. Lê Vạn 8. Nguyễn Biên 9. Vũ Văn Tảo 10. Vũ Đình Tiến 11. Nguyễn Công Chi 12. Lê Xuân Khoa 13. Nguyễn Đăng Hương
146
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
LÃNH ĐẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG QUA CÁC THỜI KỲ Phó Hiệu trưởng Nhiệm kỳ
Hiệu trưởng Họ và tên Trần Đức Trân
1966 - 1977
Nguyễn Sanh Dạn
Hà Trình Nguyễn Văn Hường Nguyễn Xuân Đặng Nguyễn Xuân Đặng Lê Văn Thưởng
1977 - 1982
1982 - 1990
Đỗ Quốc Sam
Phạm Ngọc Đăng
1990 - 1994
Nguyễn Văn Chọn
1994 - 1999
Nguyễn Như Khải
1999 - 2004
Nguyễn Lê Ninh
2004 - 2009
Nguyễn Văn Hùng
2009 - 2014
Lê Văn Thành
Giai đoạn 1966 - 1969 1969 - 1976 1976 - 1977 1977 - 1978
Nguyễn Xuân Trọng
1979 - 1982
Vũ Văn Tuấn Phạm Ngọc Đăng Nguyễn Xuân Trọng Vũ Văn Tuấn Nguyễn Văn Chọn Nguyễn Tấn Quý Nguyễn Mạnh Yên Đỗ Hữu Nghĩa Nguyễn Xuân Liên Nguyễn Tấn Quý Đỗ Hữu Nghĩa Nguyễn Như Khải Nguyễn Tấn Quý Nguyễn Lê Ninh Vũ Liêm Chính Ứng Quốc Dũng Đào Văn Toại Nguyễn Mạnh Thu Lê Văn Thành Ứng Quốc Dũng Nguyễn Minh Hùng Trần Văn Tâm Phạm Duy Hòa
1981- 1982
Phạm Quang Dũng
1982 - 1983 1982 - 1987 1983 - 1990 1985 - 1990 1987 - 1990 1990 - 1992 1990 - 1994
1994 - 1999
1999 - 2004
2004 - 2009 2009 - 2014
Phạm Hùng Cường Phan Quang Minh 2014 - 2019
Phạm Duy Hòa
Phạm Quang Dũng
2014 - 2019
Phạm Xuân Anh 147
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
TỪ NĂM 1966 ĐẾN NĂM 2016 CÁC THẦY GIÁO SAU ĐÂY LẦN LƯỢT GIỮ CHỨC VỤ CHỦ NHIỆM KHOA I
KHOA XÂY DỰNG DD&CN
II
KHOA CẦU ĐƯỜNG
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
Đỗ Quốc Sam Nguyễn Văn Đạt Ngô Văn Quỳ Nguyễn Mạnh Yên Ngô Thế Phong Đoàn Định Kiến Nguyễn Đình Cống Lê Ngọc Hồng Nguyễn Quang Viên Phan Quang Minh Nguyễn Ngọc Linh
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Đặng Hữu Lê Văn Thưởng Phan Duy Pháp Nguyễn Xuân Trục Nguyễn Như Khải Dương Học Hải Nguyễn Minh Hùng Nguyễn Quang Đạo Nguyễn Phi Lân Hoàng Tùng
III
KHOA XD CÔNG TRÌNH THỦY
IV
KHOA KIẾN TRÚC & QUY HOẠCH
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Vũ Văn Tảo Nguyễn Xuân Đặng Trần Minh Quang Hồ Ngọc Luyện Nguyễn Tài Phạm Hồng Nhật Lê Trần Chương Hoàng Văn Tần Vũ Hữu Hải Bùi Việt Đông
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
Hoàng Huy Thắng Nguyễn Nghi Phạm Ngọc Đăng Trương Quang Thao Ngô Thế Thi Phùng Thiện Thuật Nguyễn Mạnh Thu Trần Văn Khơm Nguyễn Văn Đỉnh Nguyễn Nam Phạm Hùng Cường
V
KHOA KT&QL XÂY DỰNG
VI
KHOA CƠ KHÍ XÂY DỰNG
1 2 3 4 5 6 7 8 9
Hoàng Chương Nguyễn Mậu Bành Nguyễn Văn Chọn Bùi Văn Yêm Nguyễn Đăng Hạc Đinh Văn Khiên Trần Văn Ất Trần Văn Tấn Nguyễn Liên Hương
1 2 3 4 5 6 7 8 9
Đặng Quốc Sơn Phạm Ngọc Diêm Đặng Thế Hiển Vũ Liêm Chính Nguyễn Văn Hùng Trương Quốc Thành Phạm Quang Dũng Nguyễn Kiếm Anh Lưu Đức Thạch
148
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
VII
KHOA VẬT LIỆU XÂY DỰNG
VIII
KHOA CƠ BẢN (1966 - 1983)
1 2 3
Nguyễn Văn Hường Nguyễn Văn Quỳ Nguyễn Đình Điện
IX
VIỆN XD CÔNG TRÌNH BIỂN VÀ DẦU KHÍ
1 2 3 4
Phạm Khắc Hùng Phan Ý Thuận Đinh Quang Cường Mai Hồng Quân
1 2 3 4 5 6 7
Lê Đỗ Chương Nguyễn Tấn Quý Trần Ngọc Chấn Bùi Văn Bội Vũ Minh Đức Phạm Hữu Hanh Hoàng Vĩnh Long
X
VIỆN KH&KT MÔI TRƯỜNG
XI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO THƯỜNG XUYÊN (KHOA TẠI CHỨC)
1 2 3 4
Trần Ngọc Chấn Ứng Quốc Dũng Nguyễn Duy Động Trần Thị Việt Nga
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Lê Vạn Nguyễn Biên Dương Quang Thành Đỗ Hữu Nghĩa Nguyễn Huy Thanh Lý Trần Cường Bùi Quang Trường Nguyễn Minh Hùng Trần Văn Mùi Nguyễn Bảo Việt
XIV
KHOA GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG
XII 1 2 3 4 XIII 1 2 XV 1 2 3
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC Nguyễn Trâm Lâm Quang Cường Lê Xuân Huỳnh Nguyễn Bình Hà KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ (MÁC - LÊNIN) Lê Kim Châu Nguyễn Thị Thu Hương KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN Doãn Tam Hoè Vũ Trường Sơn Nguyễn Anh Bình
1 2 3 4 5 6 7
Nguyễn Bắc Việt Nguyễn Thanh Liêm Đoàn Anh Thư Nguyễn Văn Hóa Nguyễn Duy Sửu Nguyễn Phi Cảnh Trần Ngọc Sáng
149
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
TỪ NĂM 1966 ĐẾN NĂM 2016 CÁC ĐỒNG CHÍ SAU ĐÂY LẦN LƯỢT GIỮ CHỨC TRƯỞNG PHÒNG, BAN I
PHÒNG TỔ CHỨC
II
PHÒNG TUYÊN HUẤN - CTCT
1 2 3 4 5 6
Lê Vạn Nguyễn Văn Long Phan Xuân Mỹ Đặng Kim Giang Hoàng Tuấn Long Nguyễn Kim Bảng
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Nguyễn Văn Giàu Trần Vân Hải Lê Phước Nữa Trần Hữu Kha Trần Tuấn Ngọc Nguyễn Hữu An Nguyễn Đình Lương Lê Hồng Quân Nguyễn Văn Đỉnh Trần Văn Tấn
III
PHÒNG GIÁO VỤ - ĐÀO TẠO
IV
PHÒNG KHCN
1 2 3 4 5 6 7 8 9
Nguyễn Đăng Hương Nguyễn Văn Quỳ Nguyễn Khải Hồ Ngọc Luyện Đào Văn Toại Nguyễn Văn Hùng Nguyễn Văn Mợi Phạm Xuân Anh Nguyễn Đình Thi
1 2 3 4 5 6 7 8 9
Phạm Sỹ Liêm Phạm Ngọc Đăng Nguyễn Văn Tuyên Nguyễn Trọng Chuyền Trịnh Trọng Hàn Phùng Văn Lự Doãn Tam Hòe Trần Văn Tuấn Trần Văn Liên
V
PHÒNG TÀI VỤ (TV - THIẾT BỊ)
VI
PHÒNG HÀNH CHÍNH, HCTH
1 2 3 4 5 6 7
Nguyễn Công Chi Nguyễn Văn Ninh Nguyễn Văn Hạng Võ Văn Bích Lê Hiệp Trịnh Kim Súy Nguyễn Văn Bảo
1 2 3 4 5
Nguyễn Văn Đại Nguyễn Thị Mỹ Hảo Nguyễn Lô Nguyễn Kim Bảng Phạm Văn Du
VIII 1 2 3 4
150
BAN QUẢN LÝ KÝ TÚC XÁ Trần Văn Sơn Hoàng Văn Mùi Trần Quang Xứng Nguyễn Huy Tu
VII 1 2 3 4 5
PHÒNG TTTL - THƯ VIỆN Nguyễn Kim Luyện Lê Thị Tuấn Nguyễn Đình Lương Hồ Ngọc Hùng Hồ Quốc Khánh
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
IX
PHÒNG CTCT & QLSV
X
PHÒNG THIẾT KẾ
1 2 3
Đinh Văn Nghiệp Nguyễn Mạnh Hoằng Bùi Quang Trung
1 2 3
Hoàng Huy Thắng Phạm Ngọc Đăng Trương Tử Thành
XI
BAN KIẾN THIẾT, BAN QLDA
1 2 3 4 5 6 7 8 9
Nguyễn Xuân Trọng Nguyễn Ngọc Tế Trần Xuân Dục Lê Văn Tin (Phó Trưởng ban) Nguyễn Duy Ngụ (Phó Trưởng ban) Lê Đức Thành (PhóTrưởng ban) Lê Đức Thắng (Phó Trưởng ban) Nguyễn Văn Hải (Phó Trưởng phòng) Nguyễn Tuấn Anh (Phó Trưởng phòng)
10 XIII 1 2 3 4 5 6 7 XV 1 2 3 4
PHÒNG Y TẾ Nguyễn Văn Đương Phạm An Ninh Nguyễn Thị Mai Lan Ngô Lệ Anh Đỗ Thị Hồng Lê Đỗ Thị Hải Nguyễn Thị Hải Hiền PHÒNG ĐỐI NGOẠI, HTQT Nguyễn Thị Kim Thái Võ Quốc Bảo Đỗ Hữu Thành Nguyễn Hoàng Giang
XVII PHÒNG THANH TRA 1 2 XIX 1
Nguyễn Anh Mỹ Nguyễn Duy Thái
XII
PHÒNG QUẢN TRỊ THIẾT BỊ
1 2 3 4 5 6 7 8
Nguyễn Ngọc Tế Trần Văn Ngọc Bùi Văn Luyến Lê Hồng Quân Lê Hồng Thái Trần Tựu Nhật Lê Văn Tin Phạm Quang Đạo
XIV
PHÒNG BẢO VỆ
1 2 3 4 5
Đinh Kế Tiếp Nguyễn Văn Tý Phạm Văn Tản Trần Hữu Nguyên Phạm Văn Dũng
XVI 1 2 XVIII 1 2
BAN ĐÀO TẠO CLC Mai Văn Được Bùi Hùng Cường PHÒNG KHẢO THÍ VÀ ĐẢM BẢO CLGD Nguyễn Văn Bình Phạm Tuấn Hùng
PHÒNG THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG Đỗ Duy Đỉnh 151
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
DANH SÁCH NHÀ GIÁO NHÂN DÂN, NHÀ GIÁO ƯU TÚ TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG I. Nhà giáo Nhân dân: STT
Họ và tên
Năm sinh
Năm phong tặng
1
Thầy giáo Nguyễn Sanh Dạn
1914
1990
2
GS.TS Lều Thọ Trình
1935
1997
3
GS.TSKH Nguyễn Văn Chọn
1935
1998
4
GS.TSKH Phạm Ngọc Đăng
1937
2002
5
GS.TS Nguyễn Đăng Hạc
1943
2006
6
GS.TS Trần Hiếu Nhuệ
1940
2006
7
GS.TSKH Nguyễn Mậu Bành
1937
2008
8
GS.TSKH Nguyễn Xuân Trục
1935
2010
9
GS.TSKH Lâm Quang Cường
1939
2010
Năm sinh
Năm phong tặng 1988
Ghi chú
II. Nhà Giáo Ưu tú: STT
Họ và tên
1
GS.TSKH Nguyễn Trâm
1935
2
GS.TS Ngô Thế Phong
1939
3
GS.TS Vũ Công Ngữ
1936
4
GS.TSKH Nguyễn Tài
1936
5
GS.TSKH Nguyễn Như Khải
1939
6
GS.TS Nguyễn Đình Điện
1935
7
GS.TS Trần Ngọc Chấn
1937
8
PGS.TS Đoàn Như Kim
1937
9
GS.TS Nguyễn Xuân Đặng
1930
10
GS.TS Lê Văn Thưởng
1932
11
GS.TS Dương Học Hải
1934
12
GS.TS Đoàn Định Kiến
1938
13
GS.TS Nguyễn Đình Cống
1937
14
PGS.TS Võ Văn Thảo
1937
152
1990
1992
Ghi chú
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
STT
Họ và tên
Năm sinh
15
GS.TS Nguyễn Tấn Quý
1938
16
PGS.TS Hồ Ngọc Luyện
1935
17
GS.TS Phạm Huyễn
1937
18
PGS. Nguyễn Văn Long
1929
19
PGS.TS Nguyễn Văn Bảo
1931
20
GS.TS Phạm Khắc Hùng
1939
21
PGS.TS Nguyễn Khải
1931
22
GS.TS Nguyễn Mạnh Yên
1938
23
GS.TS Đỗ Bá Chương
1935
24
PGS.TS Đặng Thái Hoàng
1939
25
PGS. Lê Đức Lai
1942
26
PGS.TS Hoàng Phủ Lan
1937
27
GS.TS Lê Đình Tâm
1938
28
PGS.TS Nguyễn Khánh Tường
1936
29
PGS.TS Nguyễn Tường
1935
30
GVC. Nguyễn Tiến Oanh
1937
31
PGS.TS Hoàng Văn Quý
1935
32
GVC. Nguyễn Quang Cự
1940
33
GS.TS Trần Đình Bửu
1933
34
GS.TSKH Trịnh Trọng Hàn
1936
35
GVC. Lê Vân Long
1938
36
GS.TS Nguyễn Văn Phó
1937
37
GS.TSKH Ngô Thế Thi
1939
38
GS.TS Nguyễn Đức Thiềm
1938
39
TS. Phạm Quang Cự
1942
40
GS.TS Lương Phương Hậu
1940
41
PGS.TS Lê Ngọc Hồng
1945
42
PGS.TS Nguyễn Huy Thanh
1941
43
GS.TSKH Nguyễn Minh Tuyển
1940
44
GS.TS Trần Hữu Uyển
1938
45
PGS.TS Nguyễn Lê Ninh
1947
Năm phong tặng
Ghi chú
1994
1997
1998
2000
153
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
STT
Họ và tên
Năm sinh
Năm phong tặng
46
PGS.TS Phạm Đức Nguyên
1940
47
PGS.TS Đào Văn Toại
1944
48
GS.TSKH Phùng Văn Lự
1942
49
PGS.TS Nguyễn Văn Hảo
1946
50
PGS.TS Phan Duy Pháp
1939
51
PGS.TS Doãn Tam Hòe
1943
52
GS.TSKH Nguyễn Mạnh Thu
1945
53
PGS.TS Bùi Văn Bội
1941
54
PGS.TS Bùi Văn Yêm
1940
55
GS.TS Vũ Đình Phụng
1941
56
GS.TS Phạm Văn Hội
1947
57
PGS.TS Phạm Hồng Nhật
1939
58
PGS.TS Nguyễn Văn Hùng
1949
59
PGS. Tăng Văn Đoàn
1940
60
PGS.TS Nguyễn Quang Viên
1950
61
PGS.TS Vũ Minh Đức
1950
62
PGS.TS Lê Đình Phiên
1934
63
PGS.TS Vũ Như Cầu
1936
64
PGS.TS Đinh Đăng Quang
1952
65
PGS.TS Phạm Duy Hoà
1962
66
PGS.TS Vũ Liêm Chính
1946
67
GVC. Đỗ Hữu Nghĩa
1937
68
GS.TS Phan Quang Minh
1960
2012
69
PGS.TS Lê Ngọc Thạch
1952
2012
70
PGS.TS Phạm Quang Dũng
1960
2012
71
PGS.TS Trần Văn Tấn
1960
2014
72
PGS.TS Vũ Hữu Hải
1955
2014
73
PGS.TS Trần Đức Hạ
1953
2014
74
PGS.TS Bùi Sỹ Lý
1951
2014
75
PGS.TS Lê Bá Huế
1952
2014
154
2002
2006
2008
2010
Ghi chú
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
DANH SÁCH GIÁO SƯ TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG STT
Họ và tên
Năm sinh
Đơn vị công tác
1
Đặng Hữu
1930 Khoa Cầu đường
2
Đỗ Quốc Sam
1929
3
Nguyễn Văn Hường
1929
4
Hà Huy Cương
Khoa Cầu đường
5
Nguyễn Văn Đạt
Khoa Xây dựng DD&CN
6
Hoàng Văn Tân
7
Nguyễn Trâm
8
Nguyễn Xuân Trường 1931 Khoa Công trình thủy
9
Nguyễn Văn Tuyên
1935
Khoa Xây dựng DD&CN
Năm phong chức danh
Chuyển CT(*) 1980
Chuyển CT Chuyển CT
Chuyển CT, năm phong PGS: 29/4/1980
Khoa Cầu đường
28/5/1984
Khoa Xây dựng DD&CN
10 Nguyễn Văn Bào
Ghi chú
Khoa Công trình thủy
11 Lê Thạc Cán
1931
12 Nguyễn Xuân Đặng
1930 Khoa Công trình thủy
13 Vũ Văn Tảo
1930
14 Lê Văn Thưởng
1932
15 Nguyễn Xuân Trục
1935 Khoa Cầu đường
16 Trần Đình Bửu
1933
17 Phạm Ngọc Đăng
1937 Khoa Kiến trúc & Quy hoạch
18 Nguyễn Văn Chọn
1935 Khoa Kinh tế & QLXD
19 Dương Học Hải
1934 Khoa Cầu đường
20 Phạm Huyễn
1937 Khoa Xây dựng
21 Nguyễn Như Khải
1939
22 Vũ Công Ngữ
1936
23 Ngô Thế Phong
1939 Khoa Xây dựng DD&CN
24 Nguyễn Tài
1936 Khoa Công trình thủy
25 Lều Thọ Trình
1935 Khoa Xây dựng DD&CN
26 Trịnh Trọng Hàn
1936 Khoa Công trình thủy
27 Nguyễn Minh Tuyển
1940 Khoa Vật liệu Xây dựng
28 Ngô Thế Thi
1939 Khoa Kiến trúc & Quy hoạch
Chuyển CT 1984
Khoa Cầu đường
Chuyển CT
1991
(*) Chuyển công tác 155
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
STT
Họ và tên
Năm sinh
Đơn vị công tác
Năm phong chức danh
29 Trần Ngọc Chấn
1937 Khoa KT Môi trường
30 Nguyễn Đình Cống
1937 Khoa Xây dựng DD&CN
31 Phạm Khắc Hùng
1939 Khoa XD CT Biển & Dầu khí
32 Đoàn Định Kiến
1938 Khoa Xây dựng DD&CN
33 Nguyễn Đình Điện
1935 Khoa Kiến trúc & Quy hoạch
34 Nguyễn Văn Phó
1937
35 Nguyễn Mạnh Yên
1938
36 Trần Hiếu Nhuệ
1940 Khoa Môi trường
37 Nguyễn Tấn Quý
1938 Khoa Vật liệu Xây dựng
38 Đỗ Bá Chương
1935 Khoa Cầu đường
39 Lương Phương Hậu
1940 Khoa Công trình thủy
40 Lê Đình Tâm
1938 Khoa Cầu đường
41 Nguyễn Đức Thiềm
1938
42 Phùng Văn Lự
1942 Khoa Vật liệu Xây dựng
43 Trần Hữu Uyển
1938 Khoa KT Môi trường
44 Nguyễn Huy Thanh
1941
45 Nguyễn Mậu Bành
1937 Khoa Kinh tế & QLXD
46 Nguyễn Đăng Hạc
1943
47 Lâm Quang Cường
1939 Khoa Kiến trúc & Quy hoạch
48 Nguyễn Mạnh Thu
1945 Khoa Kiến trúc & Quy hoạch
49 Lê Xuân Huỳnh
1949 Khoa Xây dựng DD&CN
50 Vũ Đình Phụng
1941 Khoa Cầu đường
51 Phan Quang Minh
1960
52 Phạm Văn Hội
1947
53 Phạm Đình Việt
1946 Khóa Kiến trúc & Quy hoạch
2012
54 Nguyễn Thị Kim Thái
1954 Khoa KT Môi trường
2013
55 Nguyễn Ngọc Huệ
1955 Khoa Công trình thủy
2015
56 Trần Văn Tuấn
1955 Khoa Cơ khí Xây dựng
2016
156
Ghi chú
1992
Khoa Xây dựng DD&CN
1996
Khoa Kiến trúc & Quy hoạch
Khoa Xây dựng DD&CN
2002
2005 2011
Thỉnh giảng
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
DANH SÁCH PHÓ GIÁO SƯ TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG STT
Họ và tên
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32
Trương Quang Thao Võ Văn Thảo Trương Tùng Trần Văn Hãn Trần Bình Hồ Trọng Huề Nguyễn Bá Dũng Ngô Văn Định Nguyễn Khải Hoàng Phủ Lan Nguyễn Kim Luyện Hồ Ngọc Luyện Phan Duy Pháp Ngô Văn Quỳ Lê Đức Thắng Hoàng Huy Thắng Bùi Vạn Trân Trần Trung Ý Nguyễn Văn Long Nguyễn Xuân Liên Nguyễn Hữu An Bùi Văn Bội Đoàn Như Kim Nguyễn Trọng Chuyền Vũ Như Cầu Phạm Văn Giáp Vũ Uyển Dĩnh Doãn Tam Hòe Nguyễn Tường Nguyễn Khánh Tường Lê Đình Phiên Đặng Thế Hiển
Năm sinh
Đơn vị công tác
1934 Khoa Kiến trúc & Quy hoạch 1937 Khoa Xây dựng DD&CN Khoa Kiến trúc & Quy hoạch Bộ môn Toán Khoa Cầu đường Khoa Cơ khí Xây dựng Khoa Xây dựng DD&CN 1931 1937 1934 1935 1939 1937 1937
Khoa Cầu đường Khoa Vật liệu Xây dựng Khoa Kiến trúc & Quy hoạch Khoa Công trình thủy Khoa Cầu đường Khoa Xây dựng DD&CN Khoa Cầu đường
Năm phong chức danh 1980
Chuyển CT Chuyển CT Chuyển CT Chuyển CT Chuyển CT
1984
Chuyển CT Chuyển CT Chuyển CT
Khoa Kiến trúc & Quy hoạch
1942 1942 1941 1937 1935 1936 1941 1944 1943 1935 1936 1934 1946
Khoa Kinh tế & QLXD Bộ môn Mác-Lênin Khoa Xây dựng DD&CN Khoa Công trình thủy Khoa Vật liệu XD Khoa Kiến trúc & Quy hoạch
Ghi chú
1988
Khoa Xây dựng DD&CN Khoa Công trình thủy Khoa XD CT Biển & Dầu khí Bộ môn Toán Bộ môn Toán
1991
Khoa Công trình thủy Khoa Cơ khí Xây dựng 157
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
STT
Họ và tên
Năm sinh
Đơn vị công tác
33 Nguyễn Văn Bảo
1931 Khoa Công trình thủy
34 Nguyễn Ngọc Bích
1947 Khoa Cầu đường
35 Hoàng Đình Dũng
1940 Khoa Công trình thủy
36 Trần Đức Dục
1936 Khoa Kinh tế & QLXD
37 Đặng Thái Hoàng
1939 Khoa Kiến trúc & Quy hoạch
38 Lê Kiều
1936 Khoa Xây dựng DD&CN
39 Lê Đức Lai
1942 Khoa Kiến trúc & Quy hoạch
40 Lê Văn Mai
1937 Khoa Xây dựng DD&CN
41 Phạm Hồng Nhật
1939 Khoa Công trình thủy
42 Phùng Thiện Thuật
1940 Khoa Kiến trúc & Quy hoạch
43 Nguyễn Xuân Vinh
1942 Khoa Cầu đường
44 Bùi Văn Yêm
1940 Khoa Kinh tế & QLXD
45 Tăng Văn Đoàn
1940 Khoa KT Môi trường
46 Vũ Viết Đào
1937 Bộ môn Toán
47 Tôn Thất Đại
1937 Khoa Kiến trúc & Quy hoạch
48 Vũ Liêm Chính
1946 Khoa Cơ khí Xây dựng
49 Trần Đức Chính
1949
50 Phan Văn Cúc
1943 Khoa Xây dựng DD&CN
51 Đinh Thế Hanh
1941
52 Đào Văn Toại
1944
53 Phạm Văn Chuyên
1943
54 Đỗ Xuân Đinh
1947
55 Trần Văn Tuấn
1955
56 Phạm Đức Nguyên
1940 Khoa Kiến trúc & Quy hoạch
57 Nguyễn Lê Ninh
1947
58 Lê Ngọc Hồng
1945
59 Lê Trần Chương
1945 Khoa Công trình thủy
60 Nguyễn Văn Hảo
1946 Bộ môn Mác-Lênin
158
Năm phong chức danh
1992
Khoa Cầu đường Khoa Cơ khí Xây dựng
Khoa Xây dựng DD&CN
1996
Ghi chú
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
STT 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97
Họ và tên Lê Ngọc Thạch Nguyễn Đình Lương Phan Ý Thuận Đặng Văn Cứ Lý Trần Cường Nguyễn Hồng Đức Trần Đức Hạ Nguyễn Minh Hùng Hoàng Như Tầng Bạch Đình Thiên Nguyễn Quang Viên Lê Ngọc Chấn Tô Văn Tấn Đinh Đăng Quang Nguyễn Văn Đỉnh Nguyễn Duy Động Nguyễn Đình Thám Huỳnh Bá Kỹ Thuật Phạm Quang Dũng Ứng Quốc Dũng Trịnh Quốc Thắng Nguyễn Văn Dũng Nguyễn Phi Lân Bùi Quang Trường Nguyễn Bá Toại Đỗ Văn Đệ Vũ Minh Đức Lê Bá Huế Doãn Minh Khôi Lê Văn Nãi Hoàng Nghĩa Tý Nguyễn Văn Tín Nguyễn Việt Anh Nguyễn Quang Đạo Trương Văn Ngà Nguyễn Hùng Sơn Lê Thị Hiền Thảo
Năm sinh 1952 1948 1948 1949 1952 1949 1953 1953 1943 1954 1950 1953 1950 1952 1953 1954 1947 1951 1960 1949 1949 1951 1955 1953 1943 1958 1950 1952 1954 1947 1949 1950 1968 1951 1946 1965 1950
Đơn vị công tác Khoa Xây dựng DD&CN Khoa Công trình thủy Khoa XD CT Biển & Dầu khí Khoa Kiến trúc & Quy hoạch Khoa Xây dựng DD&CN Khoa Cầu đường Khoa KT Môi trường Khoa Cầu đường Khoa Xây dựng DD&CN Khoa Vật liệu Xây dựng
Năm phong chức danh
Ghi chú
2002
Khoa Xây dựng DD&CN Khoa Kinh tế & QLXD Khoa Kiến trúc & Quy hoạch Khoa KT Môi trường Khoa Xây dựng DD&CN Khoa Công trình thủy Khoa Cơ khí Xây dựng Khoa KT Môi trường Khoa Xây dựng DD&CN Khoa Cầu đường Khoa Xây dựng DD&CN Khoa KT Môi trường Khoa Công trình thủy Khoa Vật liệu Xây dựng Khoa Xây dựng DD&CN Khoa Kiến trúc & Quy hoạch Khoa KT Môi trường Khoa CNTT
2002
2003
2004
Khoa KT Môi trường Khoa Cầu đường Khoa Vật liệu Xây dựng Khoa Cầu đường Khoa KT Môi trường
2005
159
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
STT
Họ và tên
Năm sinh
Đơn vị công tác
98 Nguyễn Thượng Bằng
1957 Khoa Công trình thủy
99 Đinh Quang Cường
1957 Khoa XD CT Biển & Dầu khí
100 Nguyễn Văn Đỉnh
1951 Khoa Kiến trúc & Quy hoạch
101
Nguyễn Thị Quỳnh Hương
1954 Khoa KT Môi trường
102 Nguyễn Văn Hùng
1949 Khoa Xây dựng DD&CN
103 Vũ Công Hoè
1946
104 Bùi Sỹ Lý
1951
105 Nguyễn Nam
1956 Khoa Kiến trúc & Quy hoạch
106 Nguyễn Văn Nghiễm
1947 Khoa CNTT
107 Hoàng Văn Tần
1950 Khoa Công trình thủy
108 Trần Văn Liên
1961 Khoa Xây dựng DD&CN
109 Phạm Duy Hoà
1962 Khoa Cầu đường
110 Lê Hồng Thái
1953 Khoa Kinh tế & QLXD
111 Vũ Hữu Hải
1955
112 Đỗ Hữu Thành
1953
113 Phạm Hùng Cường
1963 Khoa Kiến trúc & Quy hoạch
114 Phạm Hữu Hanh
1954
115 Nguyễn Mạnh Phát
1955
116 Đàm Thu Trang
1965 Khoa Kiến trúc & Quy hoạch
117 Trương Quốc Thành
1952 Khoa Cơ khí Xây dựng
118 Lều Thọ Bách
1969 Khoa KT Môi trường
119 Vũ Đình Đấu
1955 Khoa Vật liệu Xây dựng
120 Lê Nguyên Minh
1948 Khoa KT Môi trường
121 Vũ Văn Thặng
1955 Khoa Cầu đường
122 Trần Ngọc Tính
1955 Khoa Vật liệu Xây dựng
123 Trần Minh Tú
1962 Khoa Xây dựng DD&CN
124 Nguyễn Bình Hà
1964 Khoa Cầu đường
125 Phạm Thúy Loan
1974 Khoa Kiến trúc & Quy hoạch
126 Nguyễn Như Quý
1953 Khoa Vật liệu Xây dựng
160
Năm phong chức danh
2006
Khoa KT Môi trường
Khoa Công trình thủy
2007
Khoa Vật liệu Xây dựng
2010
2011
2012
Ghi chú
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
STT
Họ và tên
Năm sinh
Đơn vị công tác
127 Hồ Ngọc Hùng
1954 Khoa Kiến trúc & Quy hoạch
128 Nguyễn Đình Thi
1970 Khoa Kiến trúc & Quy hoạch
129 Phạm Quang Hưng
1974 Khoa Xây dựng DD&CN
130 Hoàng Tùng
1976 Khoa Cầu đường
131 Trần Văn Tấn
1960 Khoa Kinh tế & QLXD
132 Phạm Xuân Anh
1972 Khoa Kinh tế & QLXD
133 Bùi Phú Doanh
1977 Khoa Cầu đường
134 Vũ Hoài Nam
1974 Khoa Cầu đường
135 Đinh Văn Thuật
1971 Khoa Cầu đường
136 Nguyễn Hùng Phong
1973 Khoa Xây dựng DD&CN
137 Bùi Hùng Cường
1976 Khoa Xây dựng DD&CN
Nguyễn Thị 138 Thanh Mai
1973 Khoa Kiến trúc & Quy hoạch
139 Trần Thị Việt Nga
1974 Khoa KT Môi trường
140 Nguyễn Thiệu Xuân
1954 Khoa Cơ khí Xây dựng
141 Nguyễn Quốc Hòa
1954 Khoa XD CTB& DK
142 Nguyễn Trung Hiếu
1976 Khoa Xây dựng DD&CN
143 Hồ Ngọc Khoa
1967 Khoa Xây dựng DD&CN
144 Nguyến Thế Quân
1974 Khoa Kinh tế & QLXD
145 Nguyễn Văn Tuấn
1977 Khoa Vật liệu Xây dựng
146 Nguyễn Bảo Việt
1975 Khoa Xây dựng DD&CN
147 Phạm Hoàng Anh
1975 Khoa Xây dựng DD&CN
148 Phạm Hiền Hậu
1974 Khoa XD CT Biển & Dầu khí
149 Nguyễn Văn Bảo
1958 Khoa Kinh tế & QLXD
150 Lê Việt Dũng
1979 Khoa Xây dựng DD&CN
151 Nguyễn Hoàng Giang
1980 Khoa Xây dựng DD&CN
152 Phạm Thanh Tùng
1978 Khoa Xây dựng DD&CN
Năm phong chức danh
Ghi chú
2013
2014
2015
2016
161
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
BIỂU ĐỒ CÁC LOẠI HÌNH ĐÀO TẠO TỪ 1956 ĐẾN 2016
162
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
THỐNG KÊ SỐ LƯỢNG TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG (TỪ 1961 ĐẾN 2016) Chính quy Năm
Chính Bằng Liên quy 2 thông
Liên kết
Mở Chuyên Cử Song Trường rộng tu tuyển bằng VLVH
VL Cao Tổng VH đẳng cộng
1961
206
206
1962
129
129
1963
194
194
1964
311
311
1965
309
309
1966
542
542
1967
612
118
38
768
1969
268
164
32
464
1970
146
127
77
350
1971
417
4
31
452
1972
187
163
65
415
1973
503
75
44
622
574
4
61
639
1976
395
42
65
502
1977
246
52
65
66
429
1978
532
94
90
45
761
1979
425
124
61
50
660
1980
527
105
46
20
698
1981
623
185
83
70
961
1982
613
118
46
168
945
1983
646
64
32
202
944
1984
437
92
54
316
899
1985
408
35
35
152
630
1986
296
1
34
192
523
1987
238
1
24
164
427
1968
1974 1975
163
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Chính quy Năm
Chính Bằng Liên quy 2 thông
Liên kết
Mở Chuyên Cử Song Trường rộng tu tuyển bằng VLVH
VL Cao Tổng VH đẳng cộng
1989
180
19
12
182
393
1990
178
33
51
168
430
1991
195
24
11
205
435
1992
323
3
40
18
109
493
1993
290
6
16
1
165
462
1994
464
31
17
0
512
1995
438
123
19
131
711
1996
435
1
148
5
83
672
1997
636
1
85
10
10
742
1998
600
34
86
36
455
1211
1999
891
22
16
19
31
517
1496
2000
981
25
0
7
31
639
1683
2001
1301
32
27
5
24
447
11
1847
2002
987
31
0
6
19
470
0
1513
2003
859
47
19
1
10
758
7
1701
2004
1146
51
47
1
19
487
2
1753
2005
1179
52
8
20
450
6
1715
2006
1615
61
0
22
543
2241
2007
1686
86
2
29
960
2765
2008
1759
62
64
26
30
1083
3024
2009
1715
122
105
2
16
737
2697
2010
2039
93
84
1
35
1240
3492
2011
2663
113
193
65
50
1017
4101
2012
2321
99
30
38
38
1623
4149
2013
3090
154
289
48
33
1187
4819
2014
3182
130
268
17
31
1231
4859
2015
2646
153
91
6
2
49
1168
4115
2016*
2324
96
79
6
37
467
3009
704 18495 26
71175
Cộng 46100 1465
1203
322
(*) Số liệu tính đến tháng 9/2016 164
2
18
28
871
521
1440
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
THỐNG KÊ SỐ LƯỢNG TỐT NGHIỆP SAU ĐẠI HỌC (TỪ 1978 ĐẾN 2016)
Tiến sỹ
Năm
Thạc sỹ
Tiến sỹ
1978
5
1979 1981 1982 1983 1984 1985 1986 1987 1988 1989 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999
1 6 1 2 3 2 2 3 6 2 2 10 3 5 6 14
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 Cộng
73 97 67 148 171 196 185 170 206 238 336 357 244 720 472 880 415 5222
4 16 9 9 6 8 4 4 2 2 6 3 10
Năm
Thạc sỹ
28 100 42 40 37
3 8 1 173
5
165
NĂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Mục lục
166
3
Lời mở đầu
4
Trường Đại học Xây dựng 60 năm đào tạo - 50 năm thành lập (1966 - 2016)
6
Hiệu trưởng Trường Đại học Xây dựng qua các thời kỳ
7
Bí thư Đảng ủy Trường Đại học Xây dựng qua các thời kỳ
9
Khoa Xây dựng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội tiền thân của Trường Đại học Xây dựng (1956-1966)
10
I. Những ngày đầu thành lập Khoa
11
II. Nhanh chóng ổn định khoa và từng bước triển khai các hoạt động
20
III. Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, gắn đào tạo, nghiên cứu khoa học với thực tiễn sản xuất và chiến đấu
22
IV. Chuẩn bị thành lập Trường Đại học Xây dựng
27
Trường Đại học Xây dựng thời kỳ sơ tán (1966 - 1983)
28
I. Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động của nhà trường
32
II. Công tác đào tạo
35
III. Công tác nckh phục vụ sản xuất và chiến đấu
39
IV. Công tác đối ngoại
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
40
V. Xây dựng đội ngũ
44
VI. Xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho đào tạo, nghiên cứu khoa học
67
Trường Đại học Xây dựng thời kỳ ổn định và phát triển (1983-2016)
68
I. Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động của nhà trường
76
II. Công tác đào tạo
83
III. Xây dựng cơ sở vật chất
85
IV. Xây dựng đội ngũ
87
V. Hoạt động khoa học công nghệ và phục vụ sản xuất
96
VI. Công tác đối ngoại
98
VII. Xây dựng Đảng và các tổ chức Đoàn thể
105
Lời kết
136
Phụ lục
167
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
60 NĂM ĐÀO TẠO - 50 NĂM THÀNH LẬP (1956 - 1966 - 2016)
Chịu trách nhiệm xuất bản PGS.TS. NGƯT Phạm Duy Hòa - Bí thư Đảng ủy, Hiệu trưởng Tổng hợp nội dung, biên tập và trình bày TS. Đỗ Duy Đỉnh - Trưởng phòng Thông tin và Truyền thông ThS. Phạm Thị Mỹ Lan - Phó Trưởng phòng Thông tin và Truyền thông Trần Ngọc Trang Ninh - Chuyên viên phòng Thông tin và Truyền thông Trần Văn Quang - Chuyên viên phòng Thông tin và Truyền thông Thiết kế Nguyễn Thanh Hải
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG Địa chỉ: 55 Giải Phóng - Hai Bà Trưng - Hà Nội Điện thoại: (84-4) 38 696 397 / Fax: (84-4) 38 691 684 Email: dhxaydung@nuce.edu.vn / Website: nuce.edu.vn