Ki-tô giáo: Kế hoạch Cải đạo Á châu 1. KITÔ GIÁO - KẾ HOẠCH CẢI ĐẠO Á CHÂU - Trần Chung Ngọc 2. NHÂN ĐỌC BÀI:“ÐỐI THOẠI TRONG VIỄN TƯỢNG ĐA PHỨC TÔN GIÁO” của Gm Nguyễn Thái Hợp - Trần Chung Ngọc
)()()(
KITÔ GIÁO - KẾ HOẠCH CẢI ĐẠO Á CHÂU Trần Chung Ngọc Lời giới thiệu:
Qua những thống kê về số linh mục, mục sư và tín đồ Ca Tô cũng như Tin Lành tại hai châu Âu Mỹ bỏ đạo, số tín đồ đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật, số tiền thu vào của các giáo hội Ki Tô giảm sút, số nhà thờ được rao bán và được biến đổi thành kho chứa hàng, hộp đêm, phòng ngủ cho thuê v.v..., số trường học Ca Tô phải đóng cửa vì không có đủ sĩ số, và trước những vấn nạn của Ki Tô Giáo như linh mục và mục sư loạn dâm, nghiện rượu, đồng giống luyến ái, tỉ số bị bệnh AIDS gấp 4 lần dân thường ..., hiện tượng suy thoái của Ki Tô Giáo nói chung, Ca Tô Giáo Rô Ma nói riêng, ở trong các phương trời Âu Mỹ, là một hiện tượng đã rõ rệt. Sự suy thoái của Ki Tô Giáo là điều tất nhiên phải xảy ra vì nhiều lý do. Những thời đại Lý Trí, Khai Sáng, Phân Tích v.v... đã đưa con người ra khỏi vòng đen tối và man rợ trí thức (Intellectual darkness and barbarism) của Ki Tô Giáo, một tôn giáo đồng hành với súng ống của các thế lực thực dân Âu Châu với chính sách diệt chủng dân da mầu của Tin Lành ở Mỹ châu và Phi châu, một tôn giáo với 200 triệu nạn nhân trên bờ vai của Ca Tô Giáo Rô Ma. Ngày nay, bó củi để thiêu sống người và gươm giáo để chém giết người đã bị tước khỏi những bàn tay đẫm máu của Ki Tô Giáo nên Ki Tô Giáo không còn khả năng dùng bạo lực để cưỡng bách con người vào đạo cũng như tàn sát người ngoại đạo như trong quá khứ. Sự tiến hóa trí thức của nhân loại đã đưa đến sự phá sản của nền Thần học Ki Tô Giáo, phản ánh qua những tác phẩm nghiên cứu về lịch sử, về những luận cứ thần học ngụy biện mà ngày
nay đã không còn giá trị v.v... Điều này thể hiện rõ trong các tác phẩm của chính những bậc trí thức trong các giáo hội Ki Tô Giáo, điển hình là của các nhà thần học Hans Kueng, Uta Ranke-Heinemann, các giám mục, linh mục như Peter de Rosa, Malachi Martin, John P. Meier, Leonardo Boff, Joseph McCabe, James Kavanaugh, John Dominic Crossan v.v..., các giám mục, mục sư Tin Lành như John Shelby Spong, Ernie Bringas, Ruben Alves, các học giả KiTô như Karen Armstrong, Joseph L. Daleiden, các bậc trí thức như Robert G. Ingersoll, Bertrand Russell ..., các khoa học gia như Carl Sagan, Stephen Hawking, Paul Davies ... Mặt khác, trí tuệ của người dân thường, trừ những người sống trong những ốc đảo của Ki Tô Giáo, đã mở mang, đời sống vật chất của con người đã cải tiến, cho nên Ki Tô giáo không còn đất dụng võ. Cái hồ nước ngu dốt và nghèo khổ mà trong đó con cá Ki Tô đã bơi lội vẫy vùng trong nhiều thế kỷ ở Tây phương nay đã cạn, cho nên Ki Tô Giáo phải đi tìm một hồ nước khác để có thể sống còn. Và Ki Tô Giáo nghĩ rằng, Á Châu chính là cái hồ nước ngu dốt và nghèo khổ đó để Ki Tô Giáo có thể bơi lội trong thiên niên kỷ thứ ba của thường lịch. Từ niềm hoang tưởng này, Ki Tô Giáo đã sáng chế ra cái gọi là “Thần Học Ki Tô Giáo Theo Cung Cách Á Châu”, khoác bộ áo Á Châu để cải đạo Á Châu. Nhưng dù cho có khoác bộ áo Á Châu với những chiêu bài như “Giê-su là người Á Châu”, “hội nhập văn hóa Á Châu” v.v... , Ki Tô Giáo cũng không thể che đậy được cái ruột thần học Tây phương đã mọt rỗng qua nhiều thế kỷ. Chứng minh sự kiện này chính là nội dung của tác phẩm mà quý độc giả đang cầm trên tay của cư sĩ Trần Chung Ngọc.
Ban biên tập. ***
PHẦN MỘT: VÀI NHẬN ĐỊNH TỔNG QUÁT •NHẬN ĐỊNH VỀ TƯ CÁCH ĐẠO ĐỨC CỦA JOHN PAUL II VÀ BẢN CHẤT NHỮNG NHÀ TRUYỀN GIÁO CA-TÔ VÀ TIN LÀNH •NHẬN ĐỊNH VỀ SỰ THỨC TỈNH CỦA TÂY PHƯƠNG ĐƯA ĐẾN SỰ SUY THOÁI CỦA KI TÔ GIÁO •NHẬN ĐỊNH VỀ ĐOẠN ĐẦU TRONG BẢN “TÔNG HUẤN GIÁO HỘI TẠI CHÂU Á“ (ECCLESIA IN ASIA) CỦA GH JOHN PAUL II
PHẦN HAI: THẦN HỌC KI TÔ GIÁO THEO CUNG CÁCH CHÂU Á & NHỮNG THỦ ĐOẠN CẢI ĐẠO Á CHÂU VÀI LỜI KẾT
PHẦN MỘT VÀI NHẬN ĐỊNH TỔNG QUÁT 1. NHẬN ĐỊNH VỀ TƯ CÁCH ĐẠO ĐỨC CỦA JOHN PAUL II VÀ BẢN CHẤT NHỮNG NHÀ TRUYỀN GIÁO CA-TÔ VÀ TIN LÀNH TRONG KHI THAM GIA MỘT CUỘC HỌP ĐA TÔN GIÁO, GIÁO HOÀNG (JPII) NÓI ĐẾN ĐỐI THOẠI, SỰ HIỂU BIẾT, VÀ SỰ ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO. NGÀY HÔM SAU, ÔNG TA NÓI NGƯỢC TRỞ LẠI, NHẤN MẠNH KI TÔ GIÁO LÀ TÔN GIÁO CHÂN THẬT DUY NHẤT, VÀ KÊU GỌI TÍN ĐỒ ĐI CẢI ĐẠO Á CHÂU. ĐÂY LÀ THÁI ĐỘ ĐẠO ĐỨC GIẢ VÀ LỪA DỐI CỐ Ý TỆ MẠT NHẤT. (While attending an inter-faith meeting, the Pope talked about dialogue, understanding, and solidarity between religions. The next day he reverted back to his insistence on Christianity as the only true religion, and gave a call to convert Asia. This is hypocrisy and duplicity at its worst. - MAC KHER (WWW.NYCNY.COM )
Theo bản tin BBC ngày 6 tháng 11, 1999, trong cuộc viếng thăm Ấn Độ, giáo hoàng John Paul II đã kêu gọi các Chính Quyền Á Châu hãy bảo đảm tự do tôn giáo (Pope John Paul II has called on Asian Governments to guarantee religious freedom). Theo giáo hoàng John Paul II thì cái thứ “Tự do tôn giáo” mà ông ta hiểu và đòi hỏi là “tự do cải đạo theo Ca-tô Giáo Rô-ma” chứ không thể ngược lại, hay nói cách khác, hãy để cho những giám mục, linh mục trong đạo quân thứ 5 của ông tại các quốc gia Á Châu, hoặc những giám mục, linh mục được ông phái tới, được tự do tuyên truyền cải đạo qua những thủ đoạn phi tôn giáo trong những quốc gia này, chứ không ai có quyền cướp đi tín đồ của ông. Tại sao? Vì John Paul II cho rằng tất cả mọi người trên thế
gian đều cần đến cái ơn “cứu rỗi” của một người Do Thái có một tiểu sử bất minh, đã bị đóng đinh trên một cái giá gỗ hình chữ thập, chết và táng xác cách đây gần 2000 năm, mà một số người Do Thái tin là vị cứu tinh của dân tộc họ, và sau này nền thần học Ki Tô Giáo đã đôn lên làm
Chúa của nhân loại. Giáo hoàng John Paul II cũng cho rằng chỉ có Ca Tô Giáo Rô-ma là có thẩm quyền mang sự “cứu rỗi” tưởng tượng đó cho nhân loại, một thẩm quyền tự ban, và kéo mọi người vào đức tin Ca-Tô với bất cứ thủ đoạn nào là một nhiệm vụ thiêng liêng của tín đồ Ca-Tô giáo, vì đó là làm theo ý Chúa, thực ra là ý của giáo hội, vì có ai biết được ý Chúa ra sao đâu. Chúng ta chắc chưa ai quên, vào năm 1996, trước sự kiện mỗi ngày tại Nam Mỹ và Phi Châu có tới 8000 tín đồ Ca-Tô Giáo Rô-Ma bỏ đạo để theo Tin Lành, giáo hoàng John Paul II đã mất bình tĩnh, và để lộ đạo đức tôn giáo chân thật của người chủ chăn Ca-Tô, người mà các tín đồ Ca-Tô vẫn thường gọi là “đức thánh cha” (Holy Father), “đại diện của Chúa Ki Tô trên trần” (Vicar of Christ), khi ông gọi những nhà truyền giáo Tin Lành ở những nơi đây là “những con chó sói đói mồi... gây bất hòa và chia rẽ trong những cộng đồng của chúng ta.” (Newsweek, Feb. 12, 1996: John Paul II denounces them (the Protestant missionaries) as ravenous wolves...causing discord and division in our communities.). Nhưng chỉ vài năm sau, như tự tát vào chính mặt mình, ông ta đã thúc giục những giám mục của ông ta phải tăng gia nỗ lực đi cải đạo các tín đồ tôn giáo khác ở Á Châu. (BBC, Ibid.: The Pope called on the bishops to step up evangelisation (in Asia)). Chúng ta hãy đặt một câu hỏi: bản chất của những giám mục này có khác chi những nhà truyền giáo Tin Lành ở Nam Mỹ và Phi Châu mà ông ta đã gọi là “những con chó sói đói mồi gây bất hòa và chia rẽ”? Nếu những nhà truyền giáo Tin Lành đi cải đạo các tín đồ
Ca-Tô, theo giáo hoàng John Paul II, là những con “Chó sói (Tin Lành) đói mồi”, thì những nhà truyền giáo Ca-Tô hay Tin Lành ở Á Châu hay đi đến Á Châu để cải đạo dân Á Châu, “gây bất hòa và chia rẽ” trong những cộng đồng phi-KiTô là gì? Có lẽ giáo hoàng không hề nghĩ đến câu hỏi này mà người ngoại đạo có thể đặt ra. Đối với người phi Ki-Tô thì những thừa sai Ca Tô và Tin Lành hoàn toàn không có gì khác biệt, vì họ có cùng một bản chất và cùng một mục đích: đi cướp tín đồ, gây bất hòa và chia rẽ trong những cộng đồng phi Ki-Tô. Kinh nghiệm Việt Nam đã chứng tỏ quá trình truyền đạo Ca Tô vào đất nước thân yêu của chúng ta, vốn vẫn sống trong tinh thần Tam Giáo Đồng Nguyên, hòa hợp và thuần nhất, đã gây ra những cảnh bất hòa, chia rẽ trong gia đình những kẻ tân tòng, và gây ra cảnh chia rẽ, Lương Giáo tàn sát lẫn nhau trong xã hội Việt Nam. Và gần đây, chiến lược truyền đạo Tin Lành trong một vài miền cao nguyên Việt Nam hay tại Hà Nội cũng đã gây ra những cảnh chia rẽ, xáo trộn trong xã hội. Hai loại người
Theo sự hiểu biết của tôi về những nhà truyền giáo Ki Tô, tôi phân họ ra làm hai loại người. a). Loại người đi truyền giáo thứ nhất là những người cuồng tín, đần độn (fanatic, stupid) theo nghĩa trong thời đại tiến bộ trí thức của nhân loại ngày nay mà vẫn còn tin vào những điều huyễn hoặc vô căn cứ, không thể kiểm chứng được ở trong Thánh Kinh Ki Tô giáo, coi chúng đích thực là những lời mặc khải của một vị Thần của người Do Thái khi xưa, không thể sai lầm, và do đó, không chấp nhận, loại bỏ bất cứ sự kiện nào trái ngược với Thánh Kinh. Phần lớn những nhà truyền giáo thuộc loại này là Tin Lành. Họ được nhồi sọ để tuyệt đối tin vào sự không thể sai lầm của Thánh Kinh Ki Tô Giáo, được huấn luyện kỹ để mang những đoạn vụn vặt trong Thánh Kinh ra giảng một cách méo mó, lệch lạc, ngoài toàn bộ vấn đề (out of context) trong khi kiến thức tổng quát của họ về Thánh Kinh, về lịch sử Ki Tô Giáo, và về những tiến bộ trí thức của nhân loại ngày nay thường rất hạn hẹp. Ngay cả những ngôi sao Tin Lành trên TV như Jerry Falwell, Pat Robertson, và Franklin Graham, con của Billy Graham cũng thuộc loại cuồng tín, ngu đần tôn giáo. [Ngu đần tôn giáo ở đây chỉ có nghĩa là, về vấn đề tôn giáo, vẫn còn bám vào những tín lý đã lỗi thời, không theo kịp sự tiến bộ trí thức của con người về vấn đề tôn giáo, và nhắm mắt bác bỏ mọi sự kiện trái nghịch với niềm tin của mình. Mục sư Tin Lành Ernie Bringas gọi những đầu óc ngu đần này là những đầu óc có một khuyết tật (an
astrolabe mind), một loại đầu óc trong đó có một khoảng cách kiến thức về tôn giáo, và khoảng cách này đã đưa những người có đầu óc như vậy về trình độ của thế kỷ 17.] Điều này chúng ta có thể thấy rõ qua sự kiện sau đây. Sau vụ hai máy bay lao vào Trung Tâm Giao Thương Quốc Tế (World Trade Center) ngày 11 tháng 9, 2001, những nhà truyền giáo trên đã lên tiếng tấn công Hồi Giáo là một ngụy tôn giáo (false religion) và tuyên bố rằng Allah là một “ngụy Thiên Chúa” (false God). Sự ngu đần của những nhà truyền giáo nổi danh trên là ở chỗ họ không biết rằng Allah chính là Thiên Chúa của Ki Tô Giáo. Tiếng Ả Rập Allah là Thiên Chúa cũng như tiếng Pháp Dieu là Thiên Chúa, tiếng Đức Gott là Thiên Chúa. Theo Kinh Qur’an và giáo lý của Muhammad về sau thì Allah chính là Thiên Chúa mà người Do Thái và các tín đồ Ki Tô, Hồi Giáo cùng thờ phụng, và Thiên Chúa chung của ba tôn giáo Do Thái, Ki Tô, Hồi Giáo đã nói với nhân loại qua nhiều nhà tiên tri và ngôn sứ như Noah, Abraham, Moses, David, John the Baptist, Jesus, Muhammad. Tên của Jesus được nhắc đến 93 lần trong Kinh Qur’an của Hồi Giáo. Sự cuồng tín và ngu đần tôn giáo của những nhà truyền giáo Tin Lành Việt Nam cũng có thể thấy rõ khi chúng ta vào trang nhà mucsu.net của Tin Lành Việt Nam ở Mỹ và đọc những bài viết trong đó, những bài truyền đạo và giảng đạo rất ấu trĩ, phản ánh những trình độ hiểu biết về tôn giáo rất thấp kém và đi ngược thời gian, với hi vọng viển vông là có thể thuyết phục được con người ngày nay trở thành những “tôi tớ hèn mọn” siêng năng hầu việc một người Do Thái mà họ gọi là Chúa nhưng thực chất chỉ là một anh thợ mộc Do Thái tầm thường như nhiều chuyên gia về Ki Tô Giáo đã chứng minh, dựa trên những công cuộc nghiên cứu nghiêm chỉnh về cổ sử [Xin đọc cuốn Chúa Giê-su Là Ai ? Giảng Dạy Những Gì? của Trần Chung Ngọc, Giao Điểm xuất bản, 2002]. Những nhà truyền giáo Tin Lành hầu như không biết gì về các tôn giáo và truyền thống văn hóa địa phương, những nơi mà họ được phép đến truyền đạo, hoặc có biết chăng chỉ là những điều xuyên tạc trong chương trình đào tạo họ. Họ tin rằng cuốn Thánh Kinh của Ki Tô Giáo có thể giải đáp được mọi vấn đề, và coi tất cả những gì phi Ki-Tô hay những tôn giáo phi Ki-Tô đều thấp kém, là sản phẩm của Satan. Tiêu đề chính của những người truyền đạo Tin Lành này là hãy tin thì sẽ được tất cả, hay đức tin biện minh cho tất cả (justification by
faith). Cho nên, đối với Tin Lành, nếu thực tế sai với Thánh Kinh thì phải loại bỏ thực tế, nếu khoa học mà phù hợp với Thánh Kinh thì đó là khoa học tốt (Good science), nếu khoa học mà không phù hợp với Thánh Kinh thì đó là khoa học xấu (Bad science). Bởi vậy, cho tới ngày nay mà những tín đồ tân tòng Tin Lành như “Tiến sĩ” Lê Anh Huy ở Mỹ, Khuất Minh ở Việt Nam v.v... vẫn còn cố gắng bác bỏ thuyết Tiến Hóa bằng những lý luận rất ấu trĩ trong khi từ Giáo Hoàng Ca Tô cho tới các nhà thần học trong Ki Tô Giáo đều đã phải chấp nhận thuyết Tiến Hóa trước những bằng chứng tràn ngập trong nhiều bộ môn khoa học. Tin Lành cũng tuyệt đối tin rằng con người sinh ra trong tội lỗi (born in sin) và do bản chất đó, con người không thể làm gì tốt (by nature, incapable of doing good), phải bị đày đọa vĩnh viễn (To be a sinner is to be destined to eternal damnation), và cách duy nhất để được cứu rỗi là phải tin vào quyền năng của Giê-su, tuy rằng ngày nay, trước sự tiến bộ của nhân loại, tin vào quyền năng “cứu rỗi” của Giê-su đã trở thành một điều mê tín vô nghĩa, chỉ còn sót lại trong đám tín đồ thấp kém. Thật vậy, nhân loại không sinh ra trong tội lỗi, không cần đến sự “cứu rỗi” của Giê-su, như chính giám mục Tin Lành John Shelby Spong đã khẳng định trong cuốn Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Thay Đổi Không Thì Chết (Why Christianity Must Change or Die) như sau: "Nhân loại chúng ta không sống trong tội lỗi. Chúng ta không sinh ra trong tội lỗi. Chúng ta không cần phải rửa sạch cái tì vết tội tổ tông trong phép rửa. Chúng ta không phải là những tạo vật sa ngã, sẽ mất đi sự cứu rỗi nếu chúng ta không được rửa. Do đó, một đấng Cứu thế có nhiệm vụ khôi phục tình trạng tiền sa ngã của chúng ta chỉ là một sự mê tín trước-thời-Darwin và một sự vô nghĩa sau-thời-Darwin." Do đó những tín đồ Tin Lành thường là những người, về vấn đề tôn giáo, không bao giờ cần dùng đến lý trí, đến khả năng phán đoán của con người, hay nói cách khác là tự chấp nhận từ bỏ thân phận làm người để trở thành những tôi tớ hèn mọn của Chúa, siêng năng hầu việc Chúa, như họ thường tự nhận, với một ảo vọng là sẽ được Chúa “cứu rỗi” (sic), lẽ dĩ nhiên là sau khi chết, cho họ sống một cuộc sống đời đời bên Chúa trên một thiên đường (mù).
Bản chất của Tin Lành không khác gì Ca Tô vì cả hai đều cùng có một quan điểm về nhân loại học (anthropology). Các tín đồ của hai tôn giáo này khác nhau ở một điểm: Tín đồ Ca Tô là nô lệ của chế độ giáo hoàng, còn tín đồ Tin Lành là nô lệ của cái mà họ gọi là Thánh Kinh. Mục sư Tin Lành Ruben Alves đã giải thích điều này trong cuốn Protestantism and Repression, trang 43, như sau: “Điểm quan trọng nhất là, về phương diện lịch sử và thần học,
Tin Lành – đặc biệt là khi bắt đầu sự cải cách giáo hội của Luther – trước hết chỉ là sự sửa đổi của ý hệ Ca Tô, trong đó sự trình bày những vấn nạn của Ca Tô Giáo được giữ nguyên, nhưng được diễn giải khác đi.” b). Loại người đi truyền giáo thứ hai là loại bất lương trí thức (intellectually dishonest), nghĩa là những người đã biết rõ sự thật về những huyền thoại trong Ki Tô Giáo, về những ngụy tạo thần học trong giáo hội, nhưng vì những quyền lợi vật chất và tinh thần trên đám tín đồ thấp kém, và vì nằm trong những mưu đồ thế tục, chính trị đế quốc, nên vẫn tiếp tục đưa ra thủ đoạn giữ độc quyền diễn giải Thánh Kinh một cách lắt léo như sẽ được chứng minh qua sự phân tích một đoạn trong bản “Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu” của giáo hoàng John Paul II trong mục 3, hoặc tiếp tục đưa ra những luận điệu thần học lừa dối đã lỗi thời, thí dụ như “Chúa Giê-su sinh ra từ một trinh nữ”, “Giêsu chịu chết để chuộc cái tội tổ tông cho nhân loại”, “Giê-su sống lại và bay lên trời ngồi bên phải Chúa Cha”, “Giê-su có khả năng cứu rỗi những người tin ông, nghĩa là đến ngày phán xét, sẽ làm cho xác chết sống lại nhập với linh hồn và được sống đời đời bên ông ở trên thiên đường” v..v.. những tín lý, tín điều đã bị giới trí thức trên thế giới, ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki-Tô, dứt khoát bác bỏ vì chúng thuộc loại huyền thoại của người Do Thái cách đây đã trên dưới 2000 năm, để mê hoặc những đầu óc thấp kém, cả tin, đang sống trong những hoàn cảnh khó khăn vật chất v.v... ở trong những quốc gia kém phát triển về kinh tế, để lùa họ vào trong tín ngưỡng Ki-Tô, tín ngưỡng đang suy thoái ở trong các quốc gia văn minh tiến bộ. Phần lớn những nhà truyền giáo thuộc loại này là Ca-Tô. Vài sự kiện sau đây sẽ chứng tỏ nhận định trên không phải là vô căn cứ. b.1. Năm 1981, tòa thánh Vatican đã mời một số chuyên gia đến để cố vấn cho tòa thánh về vũ trụ học. Cuối cuộc hội thảo, các chuyên gia được giáo hoàng John Paul II tiếp kiến. Ông ta nói với các
khoa học gia là cứ tự nhiên nghiên cứu sự tiến hóa của vũ trụ sau sự nổ lớn (big bang), nhưng không nên tìm hiểu về chính lúc nổ vì đó là lúc sáng tạo, do đó là tác phẩm của Thượng đế. (Stephen Hawking, A Brief History of Time, p. 116). Giáo hoàng, và lẽ dĩ nhiên giáo hội, đã thừa nhận là vũ trụ này sinh ra từ một sự nổ lớn, theo như thuyết “Big Bang” trong khoa học. Điều này đã dứt khoát chôn vùi thuyết sáng tạo trong thánh kinh, dù giáo hoàng đã vớt vát bằng một câu hoàn toàn vô nghĩa: “Big Bang là lúc sáng tạo, do đó là tác phẩm của Thượng đế”. Vô nghĩa vì giáo hoàng không hề có một chút kiến thức nào về khoa học nên đã nói bừa là ngay lúc Big Bang là “lúc sáng tạo” của Thượng đế. Vì Big Bang chẳng qua chỉ là sự nổ bùng của một dị điểm (singularity) vô cùng nóng, vô cùng đặc, nguồn gốc của vũ trụ ngày nay. Nóng bao nhiêu, và đặc như thế nào? Các khoa học gia đã tính ra được là sau khi nổ khoảng một phần ngàn giây đồng hồ (1/1000 sec) thì nhiệt độ của Big Bang vào khoảng “một ngàn tỷ độ” (1012 độ) và tỉ trọng của khối cầu lửa khi đó vào khoảng 100,000 tỷ gram (1014 g) cho 1 phân khối. Để có một khái niệm về nhiệt độ và tỉ trọng của Big Bang chúng ta nên biết là nhiệt độ của mặt trời chỉ vào khoảng 6,000 độ, và tỉ trọng của nước chỉ là 1 gram cho một phân khối. Với nhiệt độ của Big Bang như vậy thì Thượng đế nào tạo ra Big Bang cũng phải tự mình bị thiêu hủy ngay tức khắc, còn đâu nữa để mà sau này đi dạo trong vườn địa đàng nói chuyện với Adam, hay hiện ra trước ông tổ Do Thái Abraham của những người đi đạo Việt Nam. Giáo hoàng nói vớt vát như vậy là chỉ để lừa dối đám con chiên thấp kém đầu óc vốn mù mịt, chứ còn người ngoài, ai nghe câu trên cũng phải bưng miệng cười. Chúng ta cũng nên biết, năm 1981, thuyết Big Bang chưa được hoàn chỉnh, mà tòa thánh đã công nhận thuyết Big Bang rồi. Phải đến năm 1992, khi phi thuyền COBE (COsmicBacground Explorer) dò ra được những vân (ripples) trong bức xạ nền (background radiation) của vũ trụ, thuyết Big Bang mới được công nhận là hoàn chỉnh và rốt ráo. Khi công nhận thuyết Big Bang thì Tòa Thánh cũng đã công nhận là thuyết Sáng Tạo trong Cựu Ước chỉ là một huyền thoại cổ xưa của dân Do Thái, không có một giá trị nào đối
với những dân tộc khác.
Big Bang
b.2. Năm 1992, giáo hoàng đã công khai nhìn nhận là giáo hội đã sai lầm trong vụ án Galileo Galilei. 359 năm về trước, Giáo hội bắt Galilei phải sửa lại kết quả nghiên cứu khoa học của ông ta (rằng trái đất quay xung quanh mặt trời) cho đúng với những lời “mạc khải không thể sai lầm trong Thánh Kinh” (nghĩa là trái đất đứng yên và mặt trời quay xung quanh trái đất), rồi giam ông ta tại gia cho đến khi chết. Sự nhìn nhận sai lầm của Tòa Thánh trong vụ Galilei cho thấy thánh kinh sai và kéo theo vấn đề: nếu thánh kinh đã sai về vũ trụ học thì có gì bảo đảm là thánh kinh không sai về nhiều điều khác nữa. Ngày nay, các chuyên gia nghiên cứu thánh kinh đều đồng thuận ở điểm là thánh kinh có rất nhiều sai lầm cả về thần học lẫn khoa học. Do đó, thánh kinh không phải là những lời “mạc khải” không thể sai lầm của một Thượng đế toàn năng toàn trí, như lời giáo hội vẫn thường dạy cho những tín đồ bảo sao nghe vậy. Thực tế cũng cho thấy rằng, trí tuệ của con người ngày nay đã vượt xa trí tuệ của bậc “toàn năng, toàn trí” trong Thánh Kinh Ca-Tô rất nhiều. Ấy thế mà người ta vẫn đi thờ phụng một “đấng” mà trí tuệ kém cỏi hơn người đời rất nhiều. Thật là kỳ lạ.
Galileo Galilei
b.3. Năm 1996, giáo hoàng đã đặt chắc thẩm quyền giáo lý của Ca-Tô giáo sau quan điểm là “thân xác con người có thể không phải là một sự sáng tạo tức thời của Thượng đế, mà là kết quả của một quá trình tiến hóa dần dần”. Ngài nói: “những kiến thức mới nhất dẫn đến việc phải chấp nhận thuyết tiến hóa hơn là một giả thuyết”. Chấp nhận thuyết tiến hóa, chấp nhận con người không phải là do Thượng đế tạo ra tức thời mà chính là kết quả của một quá trình tiến hóa dần dần và lâu dài, giáo hoàng đã phá tan huyền thoại về Adam và Eve là tổ tông loài
người do Thượng đế tạo dựng từ đất sét, và kéo theo không làm gì có chuyện Adam và Eve sa ngã tạo thành tội tổ tông. Do đó, vai trò “chuộc tội” và “cứu rỗi” của Giê-su chỉ là những luận điệu thần học lừa dối của giới giáo sĩ Ki Tô Giáo khi xưa, được tiếp tục đưa ra không ngoài mục đích khai thác lòng mê tín của một số người, huyễn hoặc và khuyến dụ họ tin vào những điều không thực. b.4. Tháng 7 năm 1999, trước những khám phá xác tín nhất của khoa vũ trụ học, và trước những hiểu biết của con người ngày nay về cấu trúc của trái đất, Giáo Hoàng đã bắt buộc phải tuyên bố: "thiên đường không phải là một nơi trừu tượng mà cũng chẳng phải là một nơi cụ thể ở trên các tầng mây” (Heaven is neither an abstraction nor a physical place in the clouds), và “Hỏa ngục không phải là sự trừng phạt áp đặt từ bên ngoài bởi Thượng đế, mà là trạng thái hậu quả của những thái độ và hành động mà con người đã làm trong đời này” (Hell is not a punishment imposed externally by God, but the condition resulting from attitudes and actions which people adopt in this life). Như vậy là Giáo Hoàng đã bác bỏ phần giáo lý quan trọng nhất của giáo hội Ca-Tô: Trong cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng, trang 76, Giáo hoàng đã trích dẫn một câu trong Tân ước, John 3: 16,“Thiên Chúa quá thương yêu thế gian đến nỗi ban con duy nhất của Ngài, để những ai tin vào Người sẽ không bị luận phạt, nhưng được sống đời đời”, làm luận điểm trả lời câu hỏi “Tại sao nhân loại cần phải cứu rỗi?” . Không có thiên đường trên các tầng mây, không có hỏa ngục nơi lòng đất, vậy ý nghĩa của cuộc sống đời đời bên cạnh Chúa, và bị luận phạt, đầy đọa vĩnh viễn nơi hỏa ngục, đã trở thành những điều thậm vô nghĩa, thuộc loại mê tín hoang đường. Tôi tin rằng tuyệt đại đa số tín đồ Ca-Tô không hề biết đến những thay đổi trong nội bộ giáo hội về căn bản tín ngưỡng Ca-Tô mà giáo hoàng đã thú nhận như trên vì họ vẫn bị giam chặt trong sách lược của giáo hội là duy trì và khai thác tối đa sự mê tín và giữ cho tín đồ “càng biết ít càng tốt”. Như vậy có phải họ thật là tội nghiệp và đáng thương không? Điều đáng buồn là trong khi phần lớn thế giới đã biết đến những lời thú nhận của Giáo hoàng John Paul II như trên, những lời thú nhận hàm ý nền thần học Ca-Tô Giáo tạo thành căn bản tín ngưỡng CaTô đã không còn một giá trị thực sự nào trong thế giới văn minh tiến bộ ngày nay, thì các tín đồ Ca-Tô vẫn còn sống trong bóng tối của sự ngu dốt tôn giáo, theo nghĩa không được biết đến những sự thật ngay chính trong giáo hội của mình, khoan kể đến sự tiến bộ trí thức của nhân loại về vấn đề tôn giáo.
Và điều đáng nói là một mặt giáo hội vẫn cố gắng ngăn chận sự phổ biến những diễn biến như trên trong quần chúng giáo dân, một mặt vẫn đưa ra những tín lý đã lỗi thời mà chính giáo hội đã công khai bác bỏ để bắt tín đồ phải tin, và nhất là phải tin vào vai trò trung gian tự phong của giáo hội, định chế duy nhất có thể đem lại sự “cứu rỗi” cho giáo dân, và ngày nay lại còn toan tính mang những điều mê tín đã lỗi thời, ngụy trang sau mỹ danh “Thần học theo cung cách Châu Á” để mê hoặc người dân Á Châu, nhằm cải đạo họ. Tôi cho như vậy là không được lương thiện, vì giáo hội vẫn đưa ra những giáo lý mà chính giáo hội không còn tin để lừa dối và mê hoặc đầu óc tín đồ. Để làm gì, nếu không phải là để duy trì những quyền lợi thế tục? Và những thuộc hạ của giáo hoàng, giới giám mục và linh mục, tuân theo sách lược đi cải đạo Á Châu trong khi đã biết rõ là những chuyện “chuộc tội” hay “cứu rỗi” của Giê-su chỉ là những huyền thoại của dân Do Thái cổ xưa, phải chăng bản chất chỉ là những nô lệ thiếu lương thiện trí thức của Vatican? Sự thiếu lương thiện của tòa thánh thực ra cũng chẳng có gì là mới lạ mà có thể coi như là truyền thống của Vatican. Trong cuốn Tội Lỗi Của Các Giáo Hoàng: Cấu Trúc Của Sự Lừa Dối (Papal Sin: Structures of Deceit) sử gia Ca Tô Garry Wills đã dùng tới 230 trang qua 15 chương để viết về hai đề tài:Bất Lương Trong Sự Bóp Méo Lịch Sử (Historical Dishonesty) và Bất Lương Trong Vấn Đề Truyền Bá Giáo Lý (Doctrinal Dishonesty). Lẽ dĩ nhiên, Ca-Tô và Tin Lành đều có những nhà truyền giáo thuộc cả hai loại trên. Điều này sẽ được chứng minh trong phần phân tích về sách lược truyền đạo của Ki Tô Giáo nói chung ở Á Châu. Trong cuộc viếng thăm Ấn Độ vào tháng 11 năm 1999, giáo hoàng John Paul II cũng còn ban hành một văn kiện gọi là “Tông Huấn Giáo Hội Tại Châu Á” (Ecclesia in Asia), từ đây về sau được gọi ngắn là“Tông Huấn”. Nội dung bản “Tông Huấn” này là chỉ đạo đường hướng cho một sách lược xâm lăng văn hóa, tôn giáo, và truyền thống Á Châu, đã được hoạch định từ Công Đồng Vatican II, 1962-65, và nhất là dựa trên một niềm hoang tưởng của chính giáo hoàng. Ông phát biểu: “Dân Á Châu cần tới Giê-su Ki Tô và Tin Mừng của người. Á Châu đang khát nước, một loại nước để sống mà chỉ có Giê-su mới có thể cho họ” (The people of Asia need Jesus Christ and his gospel. Asia is thirsting for the living water that Jesus alone can give).
Đây chính là một điều hoang tưởng vì ở trong thế giới Âu Mỹ, cái nôi của Ki Tô Giáo nói chung, cái mà Ki Tô Giáo gọi là Tin Mừng của Giê-su đã đang rơi vào những cặp tai không còn muốn nghe, và các tôn giáo Á Châu, nhất là Phật Giáo, càng ngày càng được các dân tộc Âu Mỹ biết đến vì đã nhận ra chân giá trị của Phật Giáo, những giá trị nhân bản vượt xa giá trị thần học của Ki Tô Giáo. Vậy Á Châu đâu có cần đến cái đồ phế thải của Âu Mỹ? Phế thải vì những lời thú nhận của giáo hoàng về nguồn gốc vũ trụ, về thuyết tiến hóa, về thiên đường và hỏa ngục v..v.. ở trên đã đương nhiên bác bỏ thuyết sáng tạo, huyền thoại con người sa ngã nên cần đến sự chuộc tội và cứu rỗi của Giê-su, cuộc sống đời đời trên thiên đường v.v... Vậy thì Á Châu cần đến Giêsu để làm gì, và Tin Mừng của Giê-su là tin mừng như thế nào? Tin mừng đối với ai? Chắc chắn không phải là đối với những người như David Voas, giáo sư đại học, tác giả cuốn sách nổi tiếng: Cuốn Thánh Kinh Mang Tin Dữ: Cuốn Tân Ước (The Bad News Bible: The New Testament). Phải chăng cái mà giáo hoàng cho là tin mừng chẳng qua chỉ là những luận điệu lừa dối và hứa hẹn không tưởng mà nền thần học của giáo hội đưa ra để khuyến dụ đám người đầu óc thấp kém? Trong một bài diễn văn tại Maribor, Slovenia, ngày 19 tháng 5 năm 1996, giáo hoàng John Paul II đã kêu gọi các quốc gia phải bảo tồn nền văn hóa dân tộc, nguyên văn như sau: "Các quốc gia phải gìn giữ nền văn hóa của họ như là một biểu thị của phẩm cách quốc gia" (Countries must preserve their culture as an expression of national dignity). Nhưng tới năm 1999 ông ta lại thúc giục thuộc hạ đủ các cấp của ông phải tăng gia nỗ lực cải đạo Á Châu, một hình thức xâm lăng văn hóa, vì nền văn hóa nhân bản, định cư, hòa bình của Á Châu hoàn toàn đối ngược với nền văn hóa qui thần, hiếu chiến và khát máu của Ki Tô Giáo như lịch sử thế giới đã chứng minh. Ở đây, có ai mà không nhận ra bộ mặt đạo đức giả của vị chủ chăn Ca Tô? “Những con chó sói đói mồi”? Để biện minh cho sách lược xâm lăng văn hóa và tôn giáo của mình, Giáo hoàng còn nói: “Cải đạo là một nhân quyền”(The Pope said that religious conversion is a human right). Vậy tại sao ông lại phỉ báng những nhà truyền đạo Tin Lành ở Nam Mỹ và Phi Châu là “những con chó sói đói mồi”? Vậy nhân quyền, theo quan niệm của ông là như thế nào? Con người chỉ có quyền cải đạo vào Ca Tô Giáo Rô Ma chứ không có quyền cải đạo vào những tôn giáo khác? Nhưng thực ra ông ta đã nhập nhằng quyền tự do cải đạo của con người với những thủ đoạn
bất chính mà những nhà truyền giáo Ki Tô dùng để đi cải đạo tín đồ của những đạo khác. Hai điều này hoàn toàn khác nhau. Đúng vậy, con người, khi tìm hiểu về tôn giáo, muốn tin theo đạo nào thì đó là một nhân quyền. Nhưng sách lược của một tổ chức quốc tế, dù là một tổ chức tôn giáo như Ca-Tô hay Tin Lành, dùng những thủ đoạn không chính đáng, lừa dối, phi tôn giáo để cải đạo người khác thì đó không phải là nhân quyền, nghĩa là quyền của con người, mà đó chỉ là một hình thức xâm lăng tôn giáo và văn hóa của một định chế có tổ chức (organized institution), ngụy trang đàng sau bộ mặt tôn giáo. Thật là rõ ràng, chiêu bài Nhân Quyền hay Tự Do Tôn Giáo của Giáo hoàng chỉ để thực hiện âm mưu cải đạo người khác vì chính bản chất của cấu trúc Ca Tô Giáo Rô Ma là không tôn trọng Nhân Quyền và không chấp nhận Tự Do Tôn Giáo. Cho nên, không một nước nào có ý thức quốc gia dân tộc lại có thể chấp nhận sự xâm lăng văn hóa và tôn giáo của Ca Tô Giáo ngụy trang đàng sau bộ mặt Nhân Quyền và Tự Do Tôn Giáo. Do đó, thật là dễ hiểu khi chúng ta thấy các nước trong khối Hồi Giáo, Do Thái, Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Thái Lan, Việt Nam v..v.. đều không chấp nhận sách lược truyền đạo với tính cách xâm lăng văn hóa của Ki Tô Giáo. Trước những ngôn từ không có đạo đức tôn giáo, và những hành động mâu thuẫn, lời nói không đi đôi với việc làm của giáo hoàng John Paul II, chúng ta thấy vị tự nhận là đại diện của Chúa Ki Tô trên trần (Vicar of Christ) rõ ràng là một con người xảo quyệt và đạo đức giả chưa từng thấy. Theo rõi những hành động của giáo hoàng chúng ta thấy bộ mặt đạo đức giả của ông ta đã phần nào đánh lừa được thế giới, và với nhiều phương tiện truyền thông trong tay, giáo hội Ca Tô đã phần nào thành công trong việc đánh bóng giáo hoàng của họ. Đi đến đâu, giáo hoàng cũng ngỏ lời xin lỗi, làm ra vẻ thành thực thống hối về cái lịch sử tàn bạo của giáo hội, cũng cổ súy đối thoại tôn giáo, làm ra vẻ tôn trọng các nền văn hóa và tôn giáo khác, và luôn luôn đề cao hòa bình. Và gần đây, tháng 4, 2003, trong dịp mà người Ki Tô Giáo gọi là Lễ Phục Sinh, giáo hoàng đã lên tiếng trước 60000 tín đồ ở Vatican, sau vụ Mỹ dùng vũ lực tấn công Iraq bất kể sự phản đối của Hội Đồng An Ninh Liên Hiệp Quốc: “Xin Thiên Chúa giúp để tránh một cuộc xung đột bi thảm giữa các nền văn hóa và tôn giáo.” (Chicago Tribune, Monday April 21, 2003, p. 4: The 82-year-old pontiff asked God’s help in avoiding a “tragic clash” between cultures and religions.). Ông ta thừa biết rằng Thiên Chúa của ông ta chưa bao giờ can thiệp vào bất cứ chuyện gì của thế gian vì lịch sử nhân loại đã chứng tỏ như vậy. Nhưng đàng sau cái bộ mặt thánh thiện để trình diễn trước công chúng và báo
chí này là những hành động trái ngược hẳn lại như chúng ta đã biết: dùng ngôn từ thiếu văn minh để gọi các nhà truyền giáo Tin Lành, tung ra tài liệu “Dominus Jesus” để khẳng định cái mà ông ta dùng để kéo những người không có đầu óc vào đức tin Ca Tô: sự “cứu rỗi” duy nhất của Giê-su qua trung gian Ca Tô Giáo Rô Ma, và bản “Tông Huấn Giáo Hội Tại Châu Á” (Ecclesia in Asia); Link: http://tgpsaigon.net/baiviettintuc/20090607/1389 mà nội dung tất cả những bản văn này hoàn toàn có tác dụng gây va chạm, chia rẽ và thù nghịch giữa các nền văn hóa và tôn giáo. Như vậy có phải là đạo đức giả hay không? Người nào không đồng ý, xin lên tiếng. Trong phần sau, tôi sẽ vạch trần sự lắt léo của giáo hoàng khi phê bình đoạn đầu trong bản “Tông Huấn..” của ông. Cho nên chúng ta cũng không lấy gì làm lạ khi thấy giới trí thức Âu Mỹ đã đưa ra những lời nhận định không mấy tốt đẹp về ông, dù ông là vị chủ chăn của gần 1 tỷ tín đồ trên khắp thế giới, và ngay cả nhiều tín đồ của ông cũng coi thường ông, không coi những tông huấn của ông ra gì. Mac Kher đã phê bình đạo đức tôn giáo của giáo hoàng như sau: “Trong khi tham gia một cuộc họp đa tôn giáo, Giáo hoàng nói đến đối thoại, sự hiểu biết, và sự đoàn kết giữa các tôn giáo. Ngày hôm sau, ông ta quay trở lại nhấn mạnh Ki Tô Giáo là tôn giáo chân thật duy nhất, và kêu gọi tín đồ đi cải đạo Á Châu. Đây là sự đạo đức giả và lừa dối cố ý tệ mạt nhất.” Và trước đây, khi được hỏi ý kiến về vị thế cao cả của Giáo Hoàng John Paul II trong lãnh vực chính trị quốc tế và ảnh hưởng những ý kiến của Ngài đối với các tín đồ (What is your opinion of Pope John Paul II's high standing in the world's political affairs, and effect his opinions make on his followers?) , Tiến Sĩ Madalyn O'Hair, chủ tịch hội những người Mỹ không tin có Thiên Chúa, đã trả lời như sau: "Những phương tiện truyền thông trong các xứ Ca-Tô đều phụ thuộc Giáo Hoàng và dựng ông lên như là một lãnh tụ danh tiếng của thế giới. Ông ta là một con người Trung Cổ, chống lại tiến bộ và tự do, một con người nguy hiểm. Nên lên án ông trước tòa án thế giới về những tội ác chống lại nhân loại vì những thái độ độc đoán đối với giới phụ nữ trong mọi quốc gia. Ông ta đã tái áp đặt chế độ kiểm duyệt, tái lập văn phòng có tính chất xử dị giáo, kêu gọi phụ nữ sinh sản nhiều và lệ thuộc phái nam, tố cáo khoa học và giáo dục, và không có nỗ lực nào ngăn chặn sự phát triển vũ khí hạt nhân. Đây là một con người hoàn toàn đáng khinh bỉ và lịch sử sẽ phán xét ông ta như vậy.
Ảnh hưởng những ý kiến của ông trên tín đồ có thể thấy rõ trong nước Mỹ, nơi đây giới phụ nữ CaTô dùng thuốc ngừa thai nhiều hơn là những phụ nữ Tin Lành. Giới phụ nữ trong giáo hội của ông ta coi thường ông ta trên những vấn đề như kiểm soát sinh sản và mang thai. Trong triều đại của ông số người chọn nghề linh mục ít hơn bao giờ hết, và số phụ nữ vào nghề nữ tu cũng ít hơn. Giáo hội Ca Tô Rô Ma cho rằng có nhiều tín đồ đông thứ nhì trên thế giới... Vì số tín đồ đông đảo như vậy nên thế giới biết tới ông ta chứ không phải là vì trình độ trí thức hay nhân cách của ông ta." Nhận định của Tiến sĩ Madalyn O'hair không xa với thực tế là bao. Một người ở địa vị giáo hoàng mà có nhân cách thì không bao giờ phê bình các nhà truyền giáo Tin Lành ở Nam Mỹ và Phi Châu là "những con chó sói đói mồi", không bao giờ nói một đàng làm một nẻo. Một người theo kịp được đà tiến bộ trí thức của nhân loại thì không bao giờ lại tái khẳng định (reassert) tín điều Maria luôn luôn còn trinh, trước cũng như sau khi sinh ra Giê-su (virgin before and after the birth of Jesus), và trước những bằng chứng tràn ngập của các học giả cũng như của linh mục John Meier đưa ra là Giê-su có ít ra là 4 người em trai và 2 người em gái do Maria sinh ra, lại ngụy biện rằng những danh từ như em trai (brothers) và em gái (sisters) của Giê-su trong Phúc Âm là những danh từ có ý nghĩa lỏng lẻo (loose meanings). Một người có trình độ trí thức thì không bao giờ viết cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng để xuyên tạc với mục đích hạ thấp các tôn giáo khác. Do đó, đối với các tín đồ Ca-Tô, họ muốn tôn vinh giáo hoàng của họ ra sao thì tôn vinh, muốn tung hô ca tụng giáo hoàng của họ ra sao thì tung hô ca tụng, nhưng đối với những người ngoại đạo thì tư cách vô đạo đức tôn giáo, đạo đức giả, vô nhân cách v.v... của ông ta không đáng để cho ai phải kính trọng. Một người thường mà không có đạo đức thì người đời đã không kính trọng rồi, huống chi là người chủ chăn của một tôn giáo lớn mà lại không có đạo đức tôn giáo, đạo đức giả, xảo quyệt, lời nói không đi đôi với việc làm v.v... thì lại càng đáng khinh bỉ hơn nữa, khoan nói đến chuyện kính trọng và tôn vinh. Tiến sĩ Madalyn O’Hair đã nhận định rất đúng: “Đây là một con người hoàn toàn đáng khinh bỉ và lịch sử sẽ phán xét ông ta như vậy” và “Vì có số tín đồ đông đảo nên thế giới biết tới ông ta chứ không phải là vì trình độ trí thức hay nhân cách của ông ta." Có dấu hiệu là một thiểu thiểu số tín đồ Ca-tô Việt Nam cũng không chịu thua sự tiến bộ trí thức trên thế giới. Giáo dân Trương Tiến Đạt đã viết sách lên án John Paul II là Ngụy Giáo Hoàng. Hội Ki Tô
Học của một số giáo dân ở Houston cũng lên tiếng phê bình giáo hoàng và giáo hội. Đông Dương Thời Báo của giáo dân Nguyễn Hữu Tạo ở Houston cũng đã vạch ra những tín lý đã lỗi thời của Ca-Tô Giáo Rôma. Và nhất là nhà trí thức đạo gốc Charlie Nguyễn, alias Nguyễn Chấn, đã xuất bản hai cuốn sách thuộc loại động trời có tên là “Công Giáo: Huyền Thoại Và Tội Ác” và “Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm”, cùng viết một số bài, đưa ra những sự thật về Ca Tô Giáo Rô Ma mà giáo hội không bao giờ muốn cho tín đồ biết đến. Trước lệnh truyền của Giáo hoàng John Paul II cho các thuộc hạ phải tăng gia nỗ lực cải đạo Á Châu, Mac Kher đã phê bình và vạch trần âm mưu bành trướng Ca-Tô Giáo sang Á Châu của John Paul II như sau, trong www.nycny.com : Sự du nhập của Ki Tô Giáo vào Âu Châu, Mỹ Châu, Úc Châu, và phần lớn Phi Châu và vùng Thái Bình Dương đã đưa tới sự hủy diệt một cách có hệ thống, toàn bộ những tôn giáo và nền văn hóa đa thần có trước thời đại KiTô. Thật vậy, cuốn thánh kinh, với sự hỗ trợ của súng ống, đã dùng để trao đổi lấy đất đai của các thổ dân địa phương. Phát ra từ giáo hoàng, chức sắc cao nhất của Ca Tô Giáo, lời kêu gọi cải đạo này là một lời Tuyên Chiến chống nền văn hóa Á Đông, các tôn giáo Á Đông, và xã hội Á Đông nói chung, Ấn Độ Giáo nói riêng. Sách lược cải đạo quần chúng vào Ki Tô Giáo mưu toan phá hủy linh hồn của Á Châu, cấy ghép vào đó một triết lý mà Á Châu không cần đến. Á Châu không cần đến bất cứ một bài học nào về tôn giáo và lòng mộ đạo từ bất cứ ai. Để đối phó với sách lược xâm lăng văn hóa và tôn giáo Á Châu của Vatican, đại cương cũng là sách lược của những nhà truyền giáo Tin Lành, chúng ta cần biết rõ Vatican sẽ dùng những thủ đoạn nào để thực hiện âm mưu đen tối của mình. Trước khi đưa ra những nhận định về sách lược cải đạo Á Châu của Vatican, có lẽ chúng ta cũng nên tìm hiểu những nguyên nhân đã khiến cho Ca-tô Giáo Rô-ma phải toan tính tăng gia nỗ lực “đội đá vá trời” để cải đạo Á Châu. Hai nguyên nhân
Có hai nguyên nhân chính. Thứ nhất, sự tiến bộ trí thức và đời sống vật chất tương đối thoải mái đã khiến cho con người Tây phương thức tỉnh, không còn mê đắm trong những ước vọng hão huyền vào những điều hoang đường, mê tín, đã không còn hợp thời của Ki Tô
Giáo. Ảnh hưởng của Ki Tô Giáo trên con người Tây phương đang dần dần suy thoái, cho nên Ki Tô Giáo phải tìm kiếm những miền đất mầu mỡ khác, lợi dụng những hoàn cảnh kinh tế và xã hội đặc biệt ở những nơi đây, hi vọng con người sẽ có thể dễ bị khuyến dụ vào Ki Tô Giáo bằng những hứa hẹn chỉ có trên mặt văn tự. Thứ nhì, Tây phương càng ngày càng biết nhiều đến những giá trị nhân bản của các tôn giáo Đông phương. Điều này đã khiến cho Ki Tô Giáo lo sợ và do đó tìm cách đối phó với những tôn giáo này ở ngay trong nội địa Á Châu qua những sách lược xuyên tạc bôi đen, hạ thấp các tôn giáo Á Châu, đồng thời tô hồng quảng cáo cho Ki Tô Giáo, dùng bả vật chất kiếm thêm tín đồ để làm hậu thuẫn cho những mưu đồ chính trị. Vậy trước hết chúng ta hãy lược duyệt về Sự Thức Tỉnh Của Tây Phương Đưa Đến Sự Suy Thoái Của Ki Tô Giáo, sau đó chúng ta sẽ tìm hiểu sách lược Cải Đạo Á Châu xuyên qua bản Tông Huấn của Vatican.
Link: http://giaodiemonline.com/sach_detail.php?sachid=81
2. NHẬN ĐỊNH VỀ SỰ THỨC TỈNH CỦA TÂY PHƯƠNG ĐƯA ĐẾN SỰ SUY THOÁI CỦA KI TÔ GIÁO ÂU CHÂU, TRONG NHIỀU THẾ KỶ LÀ CÁI NÔI CỦA CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN GIÁO KI TÔ ĐI KHẮP NƠI, NAY CHÍNH NÓ LẠI TRỞ THÀNH NƠI CẦN PHẢI ĐƯỢC TRUYỀN GIÁO. MỘT SỐ NGƯỜI NÓI RẰNG ĐÂY LÀ MỘT LỤC ĐỊA “HẬU-KITÔ”.
(Europe, for centuries the craddle of Christian Mission, had itself become a mission field… Some say it is a “post-Christian” continent.) JULIAN PETTIFER & RICHARD BRADLEY
TRONG MỘT HỘI NGHỊ ĐẶC BIỆT VÀO NĂM 1999, CÁC GIÁM MỤC ÂU CHÂU TUYÊN BỐ RẰNG CÁC DÂN TỘC TRONG TOÀN LỤC ĐỊA ÂU CHÂU ĐẢ QUYẾT ĐỊNH SỐNG “NHƯ LÀ THIÊN CHÚA KHÔNG HỀ HIỆN HỮU.”
(At a special synod in 1999, the bishops of Europe declared that the peoples of the entire continent had decided to live “as though God did not exist”.) JOHN CORNWELL
Tình trạng suy thoái của Ki Tô Giáo nói chung, Ca-Tô Giáo Rô-ma nói riêng, ở phương trời Âu Mỹ là một tình trạng đã rõ rệt, không ai có thể phủ nhận. Một vài tài liệu với vài con số thống kê sau đây có thể cho chúng ta thấy rõ hiện tượng này. Trong cuốn Những Nhà Đi Truyền Giáo (Missionaries) của Julian Pettifer và Richard Bradley, cuốn sách dựa trên một chương trình TV 6 kỳ của đài BBC, nội dung nghiên cứu về lịch sử truyền giáo của Ki Tô Giáo nói chung trên thế giới, chúng ta có thể đọc được vài sự kiện như sau: Trang 242: Âu châu đã trở thành “một mối bối rối, lúng túng cho Ki Tô Giáo”, một lục địa mà nhà thần học Đức Kierkegaard đã gọi là lục địa của những “người ngoại giáo đã được rửa tội”. Nói ngắn gọn, Âu châu, trong nhiều thế kỷ là cái nôi của chương trình truyền giáo Ki Tô đi khắp nơi, nay chính nó lại đã trở thành nơi cần phải được truyền giáo. Một số người nói rằng đây là một lục địa “hậu-Ki-Tô”. Theo Floyd McClung (một nhà truyền giáo Ki Tô) thì: Người ta e rằng nếu Âu châu cứ tiếp tục quay lưng lại Thượng đế thì sẽ có ngày Thượng đế sẽ quay lưng lại Âu Châu. Những nhà truyền giáo ngày nay tin rằng Âu Châu hiện ở trong nguy cơ bị lún sâu trong làn sóng thủy triều của chủ nghĩa thế tục. Họ cực lực phủ nhận đó là định mệnh tối hậu không thể tránh được của các quốc gia theo Ki Tô Giáo. Trang 244: Ở Anh Quốc: Tình trạng vô Thượng đế ở Anh được coi như là một sự truyền nhiễm trong giới lao động ở đô thị. Tuy rằng
có những biệt lệ đáng kể, giới trung lưu vẫn còn là những người, nếu không phải là sợ Thượng đế thì ít nhất cũng là những kẻ tiếp tục đi lễ nhà thờ... Hình ảnh này đã hoàn toàn thay đổi. Sự truyền nhiễm đã tràn vào giới trung lưu sống ở ngoại thành, và ngay cả mạch sống của giáo hội, những giáo xứ ở miền quê, cũng đã bị nhiễm độc. Trong cuộc kiểm tra về ngày chủ nhật năm 1851, vào khoảng 40% dân chúng đi lễ nhà thờ. Một thế kỷ sau, 1951, số người đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật vào khoảng gần 10%. Các nhà thống kê tranh cãi nhau về số tín đồ Ki Tô thuần thành ở Anh thấp như thế nào. Một số người cho rằng số người thường xuyên đi lễ nhà thờ chỉ là 4%. Tới năm 1986, 1/5 số 2870 nhà thờ Tin Lành ở Luân Đôn chỉ có cộng đồng tín đồ dưới 25 tín đồ; ¾ có dưới 100 tín đồ. Nhà thờ trên khắp nước Anh bị bỏ hoang vắng. Đặc biệt là ở Luân Đôn, sự biến cải nhà thờ thành một cơ sở khác là một dịch vụ kiếm lời lớn. Những đèn nhấp nháy để nhảy Disco soi sáng những khung cửa kính màu của một nhà thờ chính ở Luân Đôn, nhà thờ này đuọc đặt tên lại là Hộp Đêm Ánh Sáng; ở Barnsbury, Bromley-by-Bow, Ealing và Highgate, những nhà phát triển địa ốc đã biến những nhà thờ từ thời Victoria thành những căn nhà ở cho thuê; ở Wales, giáo phái Trưởng Lão Tin Lành (Presbyterian) biến cải 300 nhà thờ thành những nhà ở cho những cặp vợ chồng trẻ đang trong cảnh khó khăn để mua được một căn nhà đầu tiên. Ở nhiều nơi khác, nhà thờ được dùng làm kho bán hạ giá bàn ghế tủ giường thảm, và làm tiệm ăn. Tuy nhiên sự quan tâm về tình trạng suy sụp tâm linh ở Anh chẳng có nghĩa lý gì khi so sánh với Pháp. Theo nhà truyền giáo (Tin Lành) Mỹ David Barnes, mặc dù Pháp có một nền văn hóa phong phú, dân Pháp cũng “không biết đến Thượng đế như là những thổ dân thiếu văn minh ở trong những lục địa tối tăm nhất trên thế giới.” Trong số 54 triệu dân, chỉ có 0.22% theo Tin Lành. Tuy rằng 94% dân chúng được rửa tội theo Ca-Tô giáo, chỉ có 2% là thường đi lễ nhà nhờ ngày chủ nhật. Dù rằng Pháp chịu ảnh huỏng rất lớn của Ca-Tô giáo, Hội Truyền Giáo Đến Các Nơi Chưa Biết Đến Phúc Âm tuyên bố Pháp là miền đất phải được truyền giáo. Ở Mỹ, tình trạng Ki Tô Giáo nói chung, Ca-Tô Giáo Rô-ma nói riêng, cũng không sáng sủa gì hơn. Đức tin Ca-tô càng ngày càng suy giảm, linh mục và giáo dân bỏ đạo hàng loạt, các “bí tích” trở thành mất ý nghĩa, do đó giáo dân không chịu đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật. Trong nhà thờ ngày chủ nhật chúng ta thấy phần lớn là những bộ mặt già nua và những giáo dân Mít, Mễ, và gốc Phi Châu. 60% tín đồ của hệ phái Tin Lành lớn nhất United Methodist trên 50 tuổi. Một số
nhà thờ, Ca-tô cũng như Tin Lành, được rao bán để người mua muốn sử dụng làm gì thì làm, có nhiều trường hợp nhà thờ nay biến thành chùa. Nhiều trường học Ca-tô ở các địa phương đóng cửa vì không có học trò và không đủ tài chánh để tiếp tục hoạt động. Nhưng các giáo xứ vẫn có tiền bồi thường, thường là lên đến hàng triệu đô-la, cho các nạn nhân của các linh mục can tội loạn dâm. Năm 1990, linh mục David Rice dòng Đô-Mi-Nic xuất bản cuốn Lời Nguyện Tan Vỡ: Linh Mục Bỏ Đạo (Shattered Vows: Priests Who Leave), đưa ra kết quả nghiên cứu của ông sau khi đi khắp nơi tổng cộng 38 ngàn dặm (khoảng 60 ngàn cây số) để phỏng vấn và tìm hiểu đời sống của các linh mục bỏ đạo: Một trăm ngàn ( 100000 ) linh mục Ca-tô Rô-ma đã bỏ đạo trong 20 năm qua – cứ mỗi 2 giờ đồng hồ lại có hơn một linh mục ra đi. Hầu như phân nửa số linh mục Mỹ sẽ bỏ đạo – thường là để lập gia đình – chưa tới 25 năm sau khi được tấn phong. Vatican không nói tới cuộc di dân này, nhưng đó chính là cuộc khủng khoảng nghiêm trọng nhất mà giáo hội phải đối diện, kể từ khi có cuộc Cải Cách tin Lành. John Cornwell, một tín đồ Ca Tô và cũng là một chuyên gia về Ca Tô Giáo và Vatican, tác giả 2 cuốn sách nổi tiếng về Vatican: A Thief in the Night và Hitler’s Pope, đã viết thêm một tác phẩm về Ca Tô giáo nhan đề Từ Bỏ Đức Tin: Giáo Hoàng, Giáo Dân, và Số Phận của Ca Tô Giáo (Breaking Faith: The Pope, The People, and The Fate of Catholicism), xuất bản năm 2001, trong đó chương đầu viết về Một Thời Đại Đen Tối của Ca Tô Giáo (A Catholic Dark Age). Trong chương này, tác giả John Cornwell đưa ra tình trạng suy thoái trầm trọng của Ca Tô giáo ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Anh, Mỹ, và Pháp. Số tín đồ mang con đi làm lễ rửa tội giảm sút, vì ngày nay người ta nhận thức được rằng chẳng làm gì có tội ở đâu mà phải đi rửa; đám cưới tổ chức không cần đến linh mục, vì hôn phối có thể hợp thức hóa ngoài nhà thờ và bí tích hôn phối đã mất hết ý nghĩa; giới trẻ không buồn đến nhà thờ, vì chẳng thấy gì hấp dẫn trong những lời giảng đi ngược thời gian của các linh mục; số từ bỏ đức tin gia tăng, vì người ta không còn chịu chấp nhận
một đức tin mù quáng; từ 1958 đến nay, số vào nghề linh mục giảm đi 2/3 v..v.. Tình trạng ở Châu Âu, trước đây là cái nôi của Ca Tô giáo, thật là thê thảm. Ở Tây Âu (Western Europe), từ 30 đến 50% các giáo xứ không có linh mục. Ở Ý, 90% theo Ca Tô giáo nhưng chỉ có 25% đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật, giảm 10% kể từ đầu thập niên 1980, số người vào học trường Dòng giảm một nửa. Ở Ái Nhĩ Lan (Ireland), xứ Ca Tô, số người cảm thấy mình được ơn kêu gọi tụt xuống từ 750 năm 1970 còn 91 năm 1999, số linh mục được tấn phong từ 259 xuống 43 trong cùng thời gian. Trong một hội nghị đặc biệt vào năm 1999, các giám mục Âu Châu tuyên bố rằng các dân tộc trong toàn lục địa Âu Châu đã quyết định sống “như là Thiên Chúa không hề hiện hữu” (At a special synod in 1999, the bishops of Europe declared that the peoples of the entire continent had decided to live “as though God did not exist”.) Ở Nam Mỹ, tình trạng cũng không khá hơn. 7000 tín đồ mới có một linh mục. Chỉ có 15% giáo dân đi xem lễ ngày chủ nhật. Theo một hội nghị quốc gia của các giám mục Ba Tây thì mỗi năm có khoảng sáu trăm ngàn tín đồ bỏ đạo (according to the National Conference of Brazilian Bishops, some 600000 Catholics leave the Church each year.) Âu Châu và nhiều nơi khác trên thế giới đã trở thành “vô thần”. Đây là một hiện tượng bất khả đảo ngược vì nó phù hợp với sự tiến bộ trí thức của nhân loại nằm trong luật Tiến Hóa của vũ trụ. Tình trạng Ki Tô Giáo suy thoái ở Âu Châu là một nghịch lý, vì Ki Tô Giáo vẫn tự nhận là một tôn giáo văn minh tiến bộ nhất, và những xã hội Âu Mỹ hiển nhiên là những xã hội văn minh tiến bộ nhất. Nghịch lý này cho chúng ta thấy rõ thực chất của Ki Tô Giáo nói chung, Ca-Tô giáo nói riêng. Nghịch lý trên cũng đưa ra một sự thật: luận điệu của các thừa sai Ca-Tô khi đến nước ta vào những thế kỷ 1719, nói là để văn minh hóa những dân tộc mọi rợ, điều mà các tín đồ CaTô Việt Nam, kể cả những người được gọi là trí thức, vẫn tin là như vậy cho đến ngày nay (Xin đọc Kinh Nhựt Khóa của Công Giáo: “Ông thánh Phan-xi-cô Xa-vi-e là lịnh rao truyền tiếng đức Chúa Thánh Thần cho những dân mọi rợ.”, hoặc cuốn “2000 Năm Một Thuở: Chứng Từ Của Một Số Người Công Giáo” do nhóm Tin Nhà ở Pháp mời gọi một số trí thức Ca Tô viết và xuất bản năm 2000, tác giả Nguyễn Tiến Cảnh, viết ở trang 44: "Ai cũng biết hàng giáo sĩ công giáo là lớp người đi tiên phong về văn hóa, mang văn minh tiến bộ đến các nơi tăm tối lạc hậu"), thật ra chỉ là những luận điệu huênh hoang cuồng tín, mang sự hoang đường mê tín đến đầu độc đám dân chúng cùng đinh đần độn ở Việt Nam, nơi đây các tôn giáo Á Đông
thực sự đã vượt xa Ki Tô Giáo về mọi phương diện, điều mà ngày nay thế giới Tây phương đang phải chấp nhận. Thời gian qua, với sự tiến bộ trí thức không ngừng của nhân loại, ngày nay bộ mặt thật của Ki Tô Giáo đã bị phơi bầy, và chính ở trong những cái nôi của Ki Tô Giáo ở phương trời Âu Mỹ, Ki Tô Giáo đang tuột dốc theo luật đào thải của con người văn minh tiến bộ. Hiện tượng giải trừ Ki Tô Giáo (de-Christianization)
Tại sao trong những xã hội Âu Mỹ lại xảy ra hiện tượng giải trừ Ki Tô Giáo (de-Christianization) và người dân lại đang từ từ bỏ Ki Tô Giáo? Chẳng có gì là khó hiểu, vì như là một qui luật thế gian, sự tiến bộ trí thức của con người và đời sống vật chất thoải mái trong những xã hội này tất nhiên phải đưa đến tình trạng suy thoái của Ki Tô Giáo. Thật vậy, nữ học giả Ca-tô Joane H. Meehl, người mà sau khi đã thấy rõ chủ đích và những việc làm của giáo hội Ca Tô từ thế kỷ 4 tới nay, đã viết trong cuốn "Người Tín Đồ Ca Tô Tỉnh Ngộ" (The Recovering Catholic), trg. 288, như sau: "Đạo Ca-Tô chỉ thịnh hành và phát triển trong đám người nghèo và ngu dốt. Nó chỉ bị khắc phục bằng giáo dục (mở mang dân trí) và đời sống kinh tế thoải mái" (Catholicism thrives and grows among the poor and ignorant. It is overcome by education and economic well-being). Trừ lớp tín đồ thấp kém trong Ca-Tô Giáo Rô-ma vẫn tin rằng mình ở trong một “hội thánh”, “tông truyền”, “thiên khải”, “duy nhất”, “thánh thiện” v.v..., những thuộc tính tự nhận của giáo hội, thế giới Âu Mỹ tiến bộ ngày nay đã nhận ra bộ mặt thật của Ca-Tô Giáo Rôma. Tài liệu về bộ mặt thật này, kết quả nghiên cứu của các chuyên gia về tôn giáo ở trong cũng như ở ngoài giáo hội, hiện nay có đầy dãy trong các thư viện và tiệm sách lớn và trên Internet. Giáo hội đã mất đi quyền lực ngăn chận những tác phẩm này như khi xưa giáo hội đã làm. Dân trí mở mang, sự thật được phơi bày, và giới chăn chiên trong giáo hội chỉ còn có cách khuyên các con chiên không nên đọc những tác phẩm mà họ quy kết là “chống Ca-Tô” tuy rằng những tác phẩm này chỉ đưa ra những sự thật lịch sử về Ca-Tô Giáo Rô-ma, những sự thật mà giới chăn chiên không bao giờ muốn cho các con chiên của mình biết đến.
Nhưng tiến hóa là một định luật thiên nhiên, cho nên không có cách nào giáo hội có thể ngăn cản được những bước tiến trí thức của nhân loại. Do đó sự tiến bộ trí thức của nhân loại tất nhiên sẽ phải đưa đến sự suy thoái của Ki Tô Giáo nói chung, Ca Tô Giáo Rô Ma nói riêng, bởi vì căn bản tín ngưỡng Ki Tô Giáo đã không còn chỗ đứng trước những công cuộc khảo cứu trí thức về cuốn Thánh Kinh Ki Tô Giáo, về nhân vật Giê-su, về các tín điều hay huyền thoại trong Ki Tô Giáo, và trước những thành quả của khoa học ngày nay về nguồn gốc con người và vũ trụ. Sau đây chúng ta hãy duyệt qua vài tài liệu về sự thức tỉnh của thế giới Tây phương về chính tôn giáo truyền thống của Tây phương, nghĩa là Ki Tô Giáo. Nghiên cứu kỹ vấn đề, chúng ta thấy thật ra sự thức tỉnh của Tây phương không phải trong thời đại này mới xảy ra mà đã bắt nguồn từ sự tiến bộ trí thức của con người ít ra là từ cuộc Cách Mạng Khoa Học (The Scientific Revolution) vào đầu thế kỷ 17, từ Thời Đại Lý Trí (The Age of Reason) vào thế kỷ 18, Thời Đại Khai Sáng (The Age of Enlightenment) vào thế kỷ 19, vàThời Đại Phân Tích (The Age of Analysis) vào thế kỷ 20. Những thời đại này đã kéo con người Tây phương ra khỏi Thời Đại Của Đức Tin (The Age of Faith), một thời đại mà sự thống trị của Ca-Tô Giáo Rô-ma đã đưa Âu Châu vào 1000 tăm tối được biết dưới tên Thời Đại Trung Cổ (The Middle Ages) hay Thời Đại Hắc Ám (The Dark Ages), hay Thời Đại Của Sự Man Rợ Và Đen Tối Trí Thức (The ages of barbarism and intellectual darkness). Những thời đại bắt nguồn từ sự tiến bộ trí thức của con người đã từ từ văn minh hóa Ca-Tô Giáo Rô-ma, hay nói đúng hơn, theo John E. Remsburg, đã tước khỏi những bàn tay đẫm máu của Ca-Tô Giáo Rôma những bó củi để thiêu sống người và những thanh gươm để giết người. Mặt khác, sau khi Martin Luther ly khai với giáo hội Ca-Tô vào đầu thế kỷ 16, không công nhận chế độ giáo hoàng, để lập ra hệ phái KiTô Phản Đối (Protestantism) mà chúng ta thường biết dưới cưỡng từ Tin Lành, thì Thánh Kinh bắt đầu được dịch ra những tiếng địa phương, và cũng bắt đầu từ đó, những công cuộc nghiên cứu Thánh Kinh và về nhân vật Giê-su trong Thánh Kinh phát triển. Kết quả của những công cuộc nghiên cứu này là người ta khám phá ra rằng, Thánh Kinh không phải là những lời mạc khải của Thiên Chúa như giáo hội thường dạy cho các tín đồ, mà chứa rất nhiều sai lầm, mâu thuẫn, về thần học cũng như khoa học. Ngoài ra, những công cuộc khảo cứu này cũng đưa ra hình ảnh của một Giê-su lịch sử khác hẳn với vai trò thần linh có khả năng cứu rỗi mà giáo hội Ca-Tô đã tạo dựng lên. Và cũng từ đây, những tín lý, tín điều, cũng như những cái mà giáo hội Ca-Tô gọi là "bí tích" đã không còn chỗ đứng trong những xã hội Tây phương, ít ra là trong giới thức giả hiểu biết, ở trong cũng như ở ngoài giáo hội. Sau đây chúng ta
sẽ duyệt qua vài tài liệu điển hình, kết quả của những công cuộc nghiên cứu về Thánh Kinh cũng như về nhân vật Giê-su. Russell Shorto, người đã tổng duyệt những công cuộc nghiên cứu về Giê-su trong 200 năm nay, đã viết như sau trong cuốn Sự Thực Trong Phúc Âm (Gospel Truth): Điều quan trọng nhất là, tác động của quan điểm khoa học ngày nay đã khiến cho các học giả, ngay cả những người được giáo hội Ca-Tô bảo thủ cho phép nghiên cứu, cũng phải đồng ý là phần lớn những điều chúng ta biết về Giê-su chỉ là huyền thoại... Các học giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay – rằng Giê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng (tự cho mình là Con Thiên Chúa và tin rằng Nước Trời sắp đến. TCN) – họ đã dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục sư. Nhưng những vị này vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó, những người còn sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường. Giáo hội Ca-Tô Rô-ma rất hãnh diện về tôn giáo của mình vì có nhiều tín đồ nhất. Lẽ dĩ nhiên, đây cũng là tôn giáo trên thế gian có nhiều tín đồ bình thường vẫn còn sống trong bóng tối nhiều nhất. Sự thành công và sức mạnh của Giáo hội Ca-Tô hoàn vũ là ở điểm này. Đó là sự thành công của một tổ chức tạo sức mạnh trên lớp người không bao giờ cần đến cái khả năng quý báu nhất của con người là lý trí, kiến thức, và óc suy luận. Nhưng đối với giới thức giả Tây phương ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki Tô thì vấn đề có khác. Trong cuốn"Theo Đúng Như Trong Sách: Những Thảm Họa Trong Quá Khứ Và Hiện Tại Của Quyền Lực Thánh Kinh" (Going By the Book: Past and Present Tragedies of Biblical Authority), Mục sư Ernie Bringas, tốt nghiệp môn thần học tại đại học United Theological Seminary ở Dayton, Ohio, nhận định rằng: Với sự tái khám phá phương pháp khoa học trong thế kỷ 16 ở Âu Châu và sự tiến triển tiếp theo của thời đại Khai sáng trong thế kỷ 18, một sự phân tích Thánh Kinh một cách thuần lý hơn là điều không
thể tránh được. Trong một thế giới đang trở thành hướng theo tinh thần khoa học, những mô tả về Chúa đi trên sóng, về ma quỷ, thiên thần, những câu chuyện về sự sống lại của Chúa, và nhiều hiện tượng khác, càng ngày càng khó có thể chấp nhận như là những sự thực lịch sử. Trong những năm 1835-1836, cuốn "Khảo Sát Cặn Kẽ Về Đời Sống của Giê-su" (The Life of Jesus Critically Examined) của D. F. Strauss đã quy một số chuyện trong Tân Ước là "huyền thoại" và định nghĩa những câu chuyện phi lịch sử như trên là sự biểu thị của một chuỗi những ý tưởng tôn giáo. Ngày nay, kết quả những cuộc nghiên cứu phân tích tiếp tục hỗ trợ và xác nhận sự khẳng định này. Đa số các học giả coi những chuyện trong Tân Ước và bảy tín lý giáo hội đưa ra sau đây đều là huyền thoại: 1. Đức Mẹ đồng trinh 2. Hiện thân của Chúa (Thượng đế hiện thân thành người, nghĩa là, Thượng đế là Giê su.) 3. Nhiệm vụ cứu rỗi của Chúa 4. Sự sống lại của Chúa. 5. Sự thăng thiên của Chúa (Thân xác Chúa bay lên trời 40 ngày sau khi sống lại) 6. Chúa trở lại trần (để làm sống lại những người chết cho ngày phán xét cuối cùng) 7. Ngày phán xét cuối cùng (Chúa Cha phán xét luận tội mọi người trong ngày Giê su trở lại trần thế) Chúng ta nên để ý là trên đây Mục sư Ernie Bringas chỉ trình bày quan điểm của giới trí thức học giả về Ki Tô Giáo. Điều này không áp dụng cho số tín đồ đông đảo, Ca-Tô cũng như Tin Lành, còn sống trong bóng tối. Điều này cũng đã chứng tỏ rằng nền tảng tín ngưỡng của Ki Tô Giáo nói chung đã không còn hấp dẫn trong thế giới Tây phương, thế giới của khoa học, của suy lý. Chúng ta cũng nên biết rằng, bảy tín lý mà Mục sư Ernie Bringas nêu lên ở trên là dựa vào, theo các giáo hội Ki Tô, những lời mạc khải không thể sai lầm trong Thánh Kinh, hoặc do giáo hội Ca-Tô đưa ra. Do đó, chúng ta có thể suy ra rằng, không có cái gì gọi là mạc khải ở trong Thánh Kinh, những chuyện trong Thánh Kinh hầu hết thuộc loại huyền thoại, bắt nguồn từ lịch sử và ước vọng của dân Do
Thái cổ xưa, và những tín lý mà giáo hội Ca-Tô đưa ra bắt tín đồ phải tin chẳng qua chỉ là học thuật Ca-Tô nhằm mục đích nô lệ hóa đầu óc tín đồ cùng tạo quyền lực cho giới giáo sĩ. Thật vậy, niềm tin cốt tủy của Ki Tô Giáo về huyền thoại con người sa ngã (ăn trái cấm), bị Thượng đế phạt, cho nên cần đến sự cứu chuộc của Giê-su, người con trai duy nhất của Thiên Chúa (God's only son) được phái xuống trần để hi sinh (sic) chết giả vờ trên cái giá hình chữ thập từ chiều thứ Sáu đến sáng sớm Chủ Nhật, chuộc tội cho nhân loại (Thiên Chúa toàn năng toàn trí không có cách nào khác hay sao? TCN), nay đã trở thành chuyện khiến cho người có đầu óc bưng miệng cười, thuộc loại mê tín và vô nghĩa như Giám Mục John Shelby Spong đã nhận định ở trên:“một đấng cứu thế có nhiệm vụ khôi phục tình trạng tiền sa ngã của chúng ta chỉ là một sự mê tín trước-thờiDarwin và một sự vô nghĩa sau-thời-Darwin." (A savior who restores us to our prefallen status is therefore pre-Darwinian superstition and post-Darwinian nonsense.) Nếu những huyền thoại về Chúa Con (Giê-su) nay đã không còn chỗ đứng trong giới hiểu biết thì vai trò của Chúa Cha (God) ra sao? Trong cuốn Những Phê Bình về Thiên Chúa (Critiques of God), biên tập bởi Peter A. Angeles, trong đó có 16 tác giả phê bình về mọi lý luận thần học của Ki Tô Giáo, trang xiii, chúng ta có thể đọc đoạn sau đây: Những niềm tin vào những đấng siêu nhiên đã biến khỏi nền văn hóa của chúng ta. Bất cứ sự sùng tín đại cương nào về Thiên Chúa cũng đang trở thành mờ nhạt trong nền văn hóa của chúng ta. Thiên Chúa đã mất đi trụ xứ trong không gian như là một nước trên Thiên đàng. Ông ta cũng mất đi chỗ đứng trong vũ trụ như là đấng đã sáng tạo ra nó từ hư vô. Không phải là Thiên Chúa bị đẩy ra một vùng xa lắc xa lơ. Không phải vì ông ta trở thành một trừu tượng vô thân thể (phi Nam phi Nữ). Mà vì chúng ta nhận thức ra rằng chẳng làm gì có Thiên Chúa để mà nói tới. Trên đây chỉ là vài quan niệm điển hình về tín ngưỡng Ki Tô Giáo trong thế giới Tây phương ngày nay. Chúng ta còn biết, trong Catô giáo Rô Ma, ngoài những niềm tin bắt nguồn từ Thánh Kinh mà giáo hội bắt buộc các tín đồ phải tin, các tín đồ còn bắt buộc phải tin những điều "giáo hội dạy rằng...", những điều được đặt ra mà không hề có trong Thánh Kinh với mục đích tạo quyền lực trên đám tín đồ thấp kém. Thật vậy, chúng ta có thể đọc câu sau đây trong cuốn Giáo Lý Của Giáo Hoàng (The Pope's Catechism) của J. Sheatsley, trang 80:
Tín đồ Ca-Tô phải tin tất cả những gì Thiên Chúa đã mạc khải và tất cả những gì Giáo hội Ca-Tô dạy, bất kể là những điều đó có hay không có trong Thánh Kinh. Vì Truyền Thống Ca-Tô (nghĩa là những gì giáo hội dạy) và Thánh Kinh đều do Thiên Chúa mạc khải. Phải tin mà không được quyền thắc mắc? Tại sao giáo hội lại dạy tín đồ phải tin như vậy mà không được quyền thắc mắc? Vì theo "lý luận" thần học của giáo hội thì: "Chúa Cha không do tạo sinh, Chúa Con không do tạo sinh, Thánh Ma (còn được gọi là Chúa Thánh Thần. TCN) không do tạo sinh. Chúa Cha không thể hiểu được, Chúa Con không thể hiểu được, Thánh Ma không thể hiểu được." Phê bình lời dạy trên của giáo hội, cuối thế kỷ 19, Robert G. Ingersoll đã châm biếm: "Và đó là tất cả lý lẽ mà chúng ta biết quá nhiều về Chúa Cha, Chúa Con, và Thánh Ma." (And that is the reason we know so much about The Father, The Son, and The Holy Ghost) hàm ý tất cả những điều giáo hội dạy về Chúa Cha, Chúa Con, và Thánh Ma hoàn toàn mâu thuẫn với chính những khẳng định của giáo hội, và thực chất chỉ là những luận điệu lừa dối của giáo hội. Bởi vì, nếu Chúa Ba Ngôi không thể hiểu được, thì bằng cách nào mà giáo hội dạy tín đồ là ý Chúa thế này, ý Chúa thế nọ? Phải chăng chỉ có giới chăn chiên mới hiểu ý Chúa? Làm sao mà mấy ông giám mục Việt Nam lại can ngăn tín đồ không được nói động đến mấy ông linh mục vô đạo đức, làm bậy, với luận điệu “Các con đừng có nói hành các cha mà mang tội với Chúa” hàm ý là Chúa không muốn cho tín đồ nói động đến các linh mục vì “cha cũng như Chúa”? Nhưng ở Mỹ thì con chiên không những “nói hành các cha” mà còn đưa các “cha” ra tòa để cho các “cha” vào ngồi tù vì can tội cưỡng dâm trẻ phụ tế và nữ tín đồ. Chắc chắn là họ không sợ cái luận điệu “mang tội với Chúa” của hàng giám mục Việt Nam lừa bịp đám con chiên ngu dốt. Tại sao giáo hội Ca-Tô tại Việt Nam còn có những ông giám mục đe dọa con chiên bằng những luận điệu “ngu dân dễ trị” rất hoang đường như trên? Ngày nay, giới trí thức Tây phương đánh giá những điều "Giáo hội dạy rằng..." ra sao? Giáo hội dạy tín đồ tin nhiều thứ lắm, nhưng điển hình là tin vào sự ứng nghiệm của những lễ tiết giáo hội bày đặt ra nhưng không thể giải thích được mà giáo hội gọi là "bí tích", tín điều "Giáo hoàng bất khả ngộ" nghĩa là giáo hoàng không thể sai lầm khi tuyên bố về đạo đức và giáo lý, và quyền của giáo hoàng và các giới chức cao cấp trong giáo hội "tuyệt thông" hay là "Dứt phép thông
công" tín đồ, nghĩa là không cho phép tín đồ hưởng các "bí tích" của giáo hội, một trong những "bí tích" này là được ăn...bánh thánh và uống... rượu thánh, nghĩa là ăn thịt và uống máu Chúa Giê-su để hiệp thông với Chúa Giê-su. Trong cuốn Đức Tin Công Giáo, chương III, tôi đã luận về 7 "bí tích" của Ca-Tô Giáo Rô-ma. Phần này cũng đã được đưa lên trang nhà Giao Điểm www.giaodiemonline.com . Chúng ta hãy thử xét quyền "tuyệt thông" của giáo hội. Đối với những tín đồ thấp kém, nhẹ dạ, cả tin, "tuyệt thông" hay "dứt phép thông công" là một vũ khí hù dọa hữu hiệu, vì họ đã được nhồi vào đầu từ khi con nhỏ là muốn hiệp thông với Chúa thì phải đi qua các trung gian như Linh mục, Giám mục, Giáo hoàng hay "Tòa Thánh". Nhưng đối với giới trí thức, ngay cả trong giáo hội, thì đó chỉ là một biện pháp hù dọa đáng khinh, vì nó vô giá trị, vô nghĩa, lỗi thời, và nhất là dựa vào một quyền lực tự phong, không có một căn bản nào có thể thuyết phục được những người có đầu óc. Thật vậy, trong cuốn Thượng đế Chưa Chết: Từ Sự Sợ Hãi Tôn Giáo Đến Sự Tự Do Tâm Linh (God Lives: From Religious Fear To Spiritual Freedom), Linh Mục James Kavanaugh đã vạch rõ cho chúng ta thấy bản chất và ý nghĩa của "tuyệt thông" như sau, trang 39-40: Tôi thấy khó mà có thể tin được là trong thời đại kỹ thuật không gian này mà một đoàn thể tôn giáo (Ca-Tô giáo Rô-ma. TCN) lại có thể quá lỗi thời để tin rằng một hình phạt thuộc loại huyền thoại như vậy vẫn còn có ý nghĩa gì đối với con người. ...Tuyệt thông, trong nhiều thế kỷ, đã là vai trò của giới quyền lực đóng vai Thượng đế . Đó là sự chối bỏ sự tự do suy tư của con người một cách vô nhân đạo và phi-Ki-tô. Nhưng nhất là, nó đã là nỗ lực điên cuồng của một quyền lực, vì quá lo sợ mất đi quyền lực của mình, nên phải kiểm soát tín đồ thay vì hướng dẫn họ đi tới một tình yêu thương tự do và trưởng thành. Tuyệt thông toan tính biến sự thực chứng tôn giáo thành một trại huấn luyện quân sự trong đó sĩ quan phụ trách nhào nặn lên những người máy trung thành bằng cách làm chúng ngạt thở bởi giam hãm và sỉ nhục. Có thể những phương pháp này có nghĩa trong việc huấn luyện con người để chiến đấu ngoài mặt trận. Những phương pháp này thực là trẻ con và bất lương khi xử lý với sự liên hệ của con người đối với Thượng đế; nhưng thật không thể tin được là chúng vẫn còn tồn tại.
Bàn về các "bí tích" trong Ki Tô Giáo, Tin Lành có 2, Ca-Tô có 7, trong cuốn Thoát Ly Khỏi Thiên Chúa: Lấy Lại Khả Năng Tìm Hiểu (Freedom From God: Restoring The Sense of Wonder, Almador Pub., 2001), Mục sư Harry Willson viết, trang 55: "Trong đầu óc của rất nhiều người biết suy tư, lương thiện và có thiện chí, Ki Tô Giáo đã trở thành không còn thích hợp, vì nó đòi hỏi con người dự phần quá nhiều vào những điều vô nghĩa." [tức là những bí tích] và đưa ra nhận định, trang 59: "Bất cứ khi nào, một người nào đó tự nhận mình là đại diện của Thiên Chúa trên trái đất, hay "đại diện của Chúa Ki Tô trên trái đất" (điều mà các giáo hoàng vẫn tự nhận. TCN), hay bất cứ điều nào như vậy, là hắn ta đòi hỏi thế giới phải tin vào điều vô nghĩa. Thật là kinh hoàng khi vẫn có nhiều triệu người tin như vậy." Harry Willson viết cuốn sách trên để khuyến khích tín đồ hãy theo gương ông, cất cái gánh nặng Thiên Chúa ra khỏi vai họ (Get God off your back). Ông coi đó là một sự giải phóng: Hãy nghĩ về hình ảnh Thượng đế đi vào một hố đen của thập niên 60 với "Thượng đế đã chết". Đừng kể đến phái bảo thủ Ki Tô vì trong đó không có sự suy tư. Đây là một cuốn sách đi vào qua cái hố đen ấy và đi ra ngoài đầu kia - đến sự giải phóng. Sự thách đố này là để cho những con người biết đọc và thích suy nghĩ, và còn có thể có khả năng thắc mắc, tìm hiểu. Không khí trong lành đó thật là kỳ diệu. Các bạn cũng có thể được tự do. Các bạn có thể bác bỏ cái quyền năng (của Thượng đế) đó, và gỡ bỏ những ngón tay đang bóp nghẹt yết hầu của các bạn. Để cho các bạn có thể thở! Lịch sử tàn bạo của Ki Tô Giáo Sự thức tỉnh của Tây phương không chỉ thuần túy là vì những giá trị tín ngưỡng Tây phương nay đã sụp đổ mà còn vì một khía cạnh khác không kém phần quan trọng. Đó là cái lịch sử tàn bạo của Ki Tô Giáo và vấn đề đạo đức trong giới lãnh đạo Ki Tô Giáo. Ngày nay, các học giả ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki Tô đã khám phá ra rằng lịch sử và đạo đức Ki Tô Giáo còn cái mặt đen tối, và nếu đặt lên cán cân thì mặt này sẽ nặng trĩu trên cán cân. Thật vậy, chính giáo hoàng John Paul II của Ca Tô Giáo Rô Ma đã đưa ra những lời thú nhận như sau:
Năm 1994: Trong một mật thư gửi cho các hồng y, về sau bị lộ ra cho báo chí Ý, giáo hoàng John Paul II đặt câu hỏi:"Làm sao mà chúng ta có thể tiếp tục yên lặng trước nhiều hình thức bạo tàn mà giáo hội đã phạm phải nhân danh đức tin - chiến tranh tôn giáo, những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo và những hình thức vi phạm nhân quyền khác?" (Chicago Tribune, June 5, 1995: In a 1994 confidential letter to cardinals which was later leaked to the Italian Press, Pope John Paul II asked: "How can one remain silent about the many forms of violence perpetrated in the name of faith - wars of religion, tribunals of the Inquisition and other forms of violations of the rights of persons?") Năm 1995: Giáo hoàng John Paul II thúc giục Giáo Hội Ca Tô Rô Ma hãy nắm lấy cơ hội "đặc biệt thuận lợi" của một thiên niên kỷ mới để ghi nhận "cái mặt đen tối của lịch sử giáo hội (Catô)" (Ibid.,: Pope John Paul II had urged the Roman Catholic Church to seize the "particularly propitious" occasion of the new millennium to recognize "the dark side of its history"). Năm 2000: Tại thánh đường Phê-rô, Vatican, ngày 12 tháng 3, Giáo Hoàng cùng một số hồng y, tổng giám mục đã chính thức xưng thú 7 núi tội ác của giáo hội Ca-tô Rô-ma đối với nhân loại và xin được tha thứ. Cái mặt đen tối của lịch sử Ca-Tô Giáo Rô-ma là như thế nào? Đề tài này không thuộc nội dung bài viết về sách lược cải đạo Á Châu của Vatican. Tuy nhiên, chúng ta cũng nên biết cái mặt đen tối này một cách đại cương qua những tác phẩm nghiên cứu sau đây: Năm 1988: Peter de Rosa, một linh mục dòng Tên (a Jesuit), giáo sư về Siêu Hình Học và Đạo Đức tại trường Dòng Westminster, khoa trưởng khoa Thần học tại đại học Corpus Christi ở Luân Đôn (Professor of Metaphysics and Ethics at Westminster Seminary and Dean of Theology at Corpus Christi College in London) xuất bản cuốn Những Đại Diện của Chúa Ki-Tô: Cái Mặt Đen Tối Của Những Triều Chính Giáo Hoàng (Vicars of Christ: The Dark Side of the Papacy) trong đó tác giả vạch trần sự đồi bại và những tội ác đã ngự trị trong nhiều triều chính giáo hoàng như đồi bại, ngụy tạo tài liệu, loạn dâm, giết người, theo đuổi chính sách diệt chủng v..v.. (corruption, document-forgery, sex scandal, murder, genocide). Tác giả đã mở toang những cánh cửa kính màu (thường là mẫu mực trong các nhà thờ ở Tây phương, nhất là Thánh đường Phê-rô ở Vatican. TCN) và để lộ ra những giáo điều của Giáo hội thường là "...hình thành bởi những ham muốn
đồi bại, độc tài và cuồng tín của những giáo hoàng (Peter de Rosa opens the stained glass window and reveals that the Church's teachings were too often "..shaped by the whims of corrupt, despotic and fanatical popes"). Cuốn sách đã được nhiều tín đồ Ca-tô đánh giá cao vì tính chất lương thiện và nghiêm túc của nó (The book was appreciated for its honesty and seriousness by many Catholics). Năm 1995: Helen Ellerbe cho ra đời cuốn "Cái Mặt Đen Tối Của Lịch Sử Ki Tô Giáo" (The Dark Side of Christian History). Chúng ta có thể đọc những lời tóm tắt sau đây nơi trang bìa sau: "Trong khoảng thời gian gần 2000 năm, giáo hội Ki-Tô đã đàn áp và bạo hành nhiều triệu người trong toan tính kiểm soát và ngăn chận vấn đề tâm linh của con người. Cuốn Cái Mặt Đen Tối Của Lịch Sử Ki Tô Giáo phanh phui với chi tiết tỉ mỉ những thảm họa, đau khổ và bất công mà giáo hội đã giáng lên nhân loại. Tác phẩm vạch trần sự thật này là một đòi hỏi hấp dẫn và nồng nhiệt cho nhân phẩm và sự tự do trong vấn đề tâm linh" Năm 1999: Douglas Lockhart xuất bản tác phẩm Cái Mặt Đen Tối Của Thiên Chúa (The Dark Side of God) với lời giới thiệu như sau: "Giáo hội Ki-tô (Ca-tô) tự nhận là thừa hưởng trực tiếp từ Giê-su quyền năng tinh thần như được viết trong Phúc Âm. Nhưng thực ra có phải là một sự chuyển giao quyền lực một cách êm ả từ Giê-su cho Phê-rô và từ Phê-rô cho Giáo hội hay không? Hay đó chỉ là một chiến dịch tuyên truyền, ngụy tạo, và lừa dối lâu dài đã che đậy bản chất thực sự của các biến cố. Cuốn sách mới, có tác dụng làm cho chúng ta suy nghĩ, về nguồn gốc Ki Tô Giáo, đưa ra một họa đồ về sự theo đuổi quyền lực không ngừng của Giáo hội , từ lúc đầu cho đến ngày nay. Trong sự phân tích hấp dẫn và thường gây ngỡ ngàng về niềm tin trong Ki Tô Giáo, cuốn sách này khảo sát từ đâu mà Giê-su, người xứ Nazareth, đã được thổi phồng lên quá mức hoàn toàn xa với thực tế thường ngày." Về vấn đề đạo đức tôn giáo thì chúng ta đã thấy đạo đức của người chủ chăn Ca-Tô, giáo hoàng John Paul II, là như thế nào. Cánh tay phải của ông, Hồng Y Ratzinger (sau này trở thành GH Benedict XVI), cầm đầu Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin, đã lên tiếng phê bình Phật Giáo một cách vô giáo dục như sau “Buddhism is a sort of autoeroticism”. Còn giới hồng y, tổng giám mục, giám mục, linh mục
thì ô hô, một số không nhỏ chỉ còn nước lấy mo che mặt vì những xìcăng-đan trên khắp thế giới: Sau đây là vài chuyện điển hình: Có lẽ chúng ta chưa quên rằng, mới tháng 3 năm ngoái, 2001, báo chí thế giới đã phanh phui ra những vụ "Cha cũng như Chúa" cưỡng hiếp một số "sơ" trong 27 quốc gia kể cả ở Mỹ, Ý, Ái Nhĩ Lan, Ấn Độ, Phi Luật Tân, Ba Tây v..v.. và cưỡng bách họ vào các nhà thương Ca Tô để phá thai khi họ mang thai. Tòa Thánh đã phải lên tiếng thú nhận có vấn đề ô nhục này nhưng vẫn lừa dối quần chúng với luận điệu: "Chuyện chỉ xảy ra trong một vùng địa dư mà thôi". Tờ Orange County Register ngày 31 tháng 3, 2001 có bài của Chris Hedoes thuộc New York Times trong đó có vài chi tiết như sau: Ở Malawi, trong một giáo xứ có tới 29 "sơ" bị các ông linh mục làm cho mang thai. Khi bà sơ bề trên than phiền với ông Tổng Giám Mục thì bà ta và các "sơ" mang bầu bị đổi đi nơi khác. (..In Malawi, where 29 sisters in a single congregation "became pregnant by priests in the diocese". When the sisters' superior general complained to the archbishop, she and the sisters were replaced.); "..linh mục khuyên các "sơ" nên uống thuốc ngừa thai, nói dối họ là để đề phòng sự truyền nhiễm của bệnh AIDS" (..priest "recommending that sisters take a contraceptive, misleading them that the pill will prevent transmission of HIV). Chúng ta cũng nên nhớ rằng, giáo hoàng John Paul II vẫn tuyệt đối cấm tín đồ không được dùng thuốc ngừa thai. Nhưng chúng ta cũng lại biết rằng Vatican có cổ phần trong một công ty chế tạo thuốc ngừa thai, phải chăng chỉ để riêng cho các "sơ" dùng theo sự khuyên bảo của linh mục bề trên. Và gần đây là vấn đề tai tiếng sôi nổi thế giới của giáo hội Catô, một vấn đề đã kéo dài liên tục ngày này sang ngày khác suốt từ tháng 1, 2002 cho đến ngày nay: vấn đề loạn dâm của một số không nhỏ các vị "lãnh đạo tinh thần" con chiên, từ hồng y trở xuống, và những biện pháp che dấu của giáo hội. Vấn đề loạn dâm trong giới hàng giáo phẩm Ca-tô đã nổ ra ở Boston vào đầu năm 2002, nhưng không phải đến bây giờ, 2002, mới nổ ra. Nó đã bị phanh phui từ trên dưới 20 năm nay ở Mỹ, và nhiều cuốn sách viết về vấn đề này đã được xuất bản. Chúng ta có thể kể tên vài cuốn điển hình: Betrayal of Trust: Clergy Abuse of Children của Annie Laurie Gaylor, 1988; Unholy Orders: Tragedy at Mount Cashel của Michael Harris, 1990; Lead Us Not To Temptation: Catholic
Priests and the Sexual Abuse of Children của Jason Berry, 1992; A Gospel of Shame: Children, Sexual Abuse, and the Catholic Church của Elinor Burkett & Frank Bruni, 1993; Sex, Priests, and Power: An Anatomy of a Crisis của A.W. Richard Sipe, 1995; và Pedophiles and Priests: Anatomy of a Contemporary Crisis của Philip Jenkins, 1996, ngoài những bài viết về vấn đề này trên các Nhật Báo hay Tuần Báo, và tin tức trên TV. Đây là một vấn đề ô nhục rất nghiêm trọng đã xảy ra trong cái gọi là "hội Thánh" và đã làm giảm uy tín của Giáo hội và niềm tin của tín đồ không ít, và nhất là, đã dìm Giê-su xuống bùn đen. Tại sao? Vì trong nhiều trường hợp, các linh mục, giám mục đã mang Chúa ra làm bung xung để thỏa mãn dục tính của mình như dọa nạn nhân nếu không chiều ý “Cha cũng như Chúa” thì sẽ bị Chúa đầy hỏa ngục, hoặc “Chúa muốn như vậy để “Cha cũng như Chúa” biết được sự đời” v.v... Giám mục ở Việt Nam cũng răn đe con chiên: “Đừng nói hành các cha mà mang tội với Chúa”. Đó là thực chất Chúa Giê-su, một ông ngoáo ộp của hàng chăn chiên để hù doạ những kẻ vô não. Vấn đề ô nhục này đã đưa đến việc hồng y Bernard Law ở Boston phải từ chức. Hồng y Law và một số giám mục ở Boston còn bị truy tố ra tòa về tội trong nhiều năm đã bao che các linh mục loạn dâm theo như chính tài liệu trong hồ sơ của giáo hội mới bị phanh phui đã chứng tỏ. Tờ Newsweek số ngày 6 tháng 1, 2003 thông tin: giáo dân ngày nay đã tổ chức để cất lên tiếng nói của giáo dân, không còn chấp nhận kiểu mẫu cổ xưa: “đóng tiền, cầu nguyện, và tuân phục” của giáo hội nữa. (Voice of the faithful: they will no longer accept the old model of “pay, pray and obey” of the church.) Lẽ dĩ nhiên, giới tín đồ thấp kém thường rất ít đọc sách báo và những người trong hàng giáo phẩm của "hội Thánh" dù có biết cũng chẳng bao giờ nói ra cho nên đa số vẫn mù tịt và tin tưởng rằng "hội Thánh" của họ đích thực là một "hội Thánh", và các hồng y, giám mục, linh mục, những người giữ vai trò của Chúa trên trần, tất nhiên phải là những người đạo đức nhất trần gian, đáng kính phục nhất, như ông Đỗ Mạnh Tri đã trơ trẽn ca tụng một cách vô liêm sỉ trong cuốn “2000 Năm Một Thuở...”, trang 176: "Nói gì thì nói, trên bình diện luân lý, trong lịch sử giáo hội chưa có thời nào giáo sĩ, tu sĩ và giáo phẩm đáng kính phục như ngày nay."
Về giới nữ tu sĩ Ca-Tô, các “sơ”, hình ảnh cũng không mấy sáng sủa vì một số xì-căng-đan xảy ra trên thế giới liên hệ đến một số cơ sở “từ thiện” và nữ tu viện đã vang dội trên thế giới. Một số xì-căngđan điển hình nói lên đạo đức tôn giáo của một số nữ tu Ca Tô sẽ được trình bày trong Phần II. Chúng ta thấy rằng, từ những công cuộc nghiên cứu mới nhất về Thánh Kinh, về nhân vật Giê-su, về Ki Tô Giáo nói chung, và nhất là từ những sự tiến bộ của khoa học, giới thức giả Tây phương đã thức tỉnh và nhận ra rằng, từ thế hệ này qua thế hệ khác, trải qua 2000 năm lịch sử, từ khi Giê-su sinh ra đời, con người Tây phương đã bị lùa vào một đức tin thuộc loại mù quáng, không cần biết, không cần hiểu. Hơn nữa, khoan kể đến cái mặt đen tối của Ki Tô Giáo nói chung, trước những cảnh chiến tranh triền miên, thiên tai, bệnh tật, cảnh khổ, cảnh chết đói ở những nước kém mở mang ở Phi Châu, bất cứ người nào còn có đầu óc suy tư đều không còn có thể chấp nhận luận điệu thần học về một Thiên Chúa toàn năng, toàn trí, và những thuộc tính của Thiên Chúa như : "Thiên Chúa quá thương yêu thế gian...", "Giê-su yêu tất cả mọi người", "Giê-su đến để mang một tin vui, tin vui tình thương, tin vui tự do..." v.v... Chỉ có những đầu óc trong đó có một khuyết tật hay một điểm mù tôn giáo mới có thể còn tin như vậy. Tuy rằng thế lực xoay sở trong hậu trường (lobbying power) của Ki Tô Giáo vẫn còn rất mạnh nhưng chúng ta có thể nói, những xã hội Âu Mỹ ngày nay là những xã hội thế tục (secular societies). Trong những xã hội này, Thượng đế (God) chỉ đóng một vai trò truyền thống bên ngoài, được những chính trị gia và những nhà lãnh đạo Ki Tô Giáo sử dụng buôn bán trên con đường truy cầu quyền lực thế tục cũng như tiền tài vật chất. Diễn văn của các chính trị gia Mỹ ra tranh cử không thể thiếu câu kết “God Bless America”. Những nhà truyền giáo trên TV đã kiếm được nhiều triệu Mỹ kim và sống một cuộc đời xa hoa, vô đạo đức tôn giáo, vì đây là một dịch vụ hái ra tiền do sự khai thác trình độ thấp kém và lòng mê tín của con người. Tất nhiên, khi đã mất niềm tin, về nền tảng tín ngưỡng cũng như về thực chất hành trì của các giáo hội Ki Tô, con người Tây phương cần phải đi tìm một cái gì khác để bù đắp vào nhu cầu tâm linh của mình. Tất cả những tôn giáo độc thần khác như Hồi Giáo, Do Thái Giáo, bản chất đều như nhau, không thể thỏa mãn nhu cầu tâm linh thích hợp với thời đại này của người Tây phương. Do đó, Tây phương đã phải đi tìm sự uyên thâm về tư tưởng ở Đông phương. Đông phương có Phật Giáo, Lão Giáo, Khổng Giáo, và Ấn Độ Giáo. Ấn Độ Giáo thờ nhiều thần, không thích hợp với người Tây phương. Khổng giáo là những triết lý về xã hội và có những điều nay không còn hợp thời. Lão
giáo thì thoát tục, xa lìa trần thế. Chỉ còn có Phật Giáo, vừa là một tôn giáo nhân chủ và nhân bản, vừa là một hệ thống triết lý thực dụng chẳng bao giờ lỗi thời, vừa có tinh thần khoa học, cho nên có thể nói là thích hợp với con người Tây phương nhất. Một cuốn sách xuất bản mới đây nhất của Vicky MacKenzies đã chứng minh sự kiện này. Cuốn sách có tên là Tại Sao Lại Là Phật Giáo? Người Tây Phương Đi Tìm Kiếm Sự Uyên Thâm Của Trí Tuệ (Why Buddhism? Westerners In Search Of Wisdom), nxb Thonsons, Anh quốc, và đề năm xuất bản là 2003. Sự phát triển của Phật Giáo trong thế giới Tây phương có nhiều nguyên nhân, nhưng tất cả có thể thu về một mối. Đó là: nhân loại đã nằm trong một quá trình tiến hóa liên tục, một quá trình thiên nhiên trong vũ trụ, không một thế lực nào có thể ngăn chận được. Sự tiến hóa về mọi mặt của con người, nhất là về mặt trí tuệ, tất nhiên đưa đến sự thoái hóa của những quan niệm, lý thuyết và cả những niềm tin tôn giáo đã lỗi thời trong xã hội loài người. Do đó, chúng ta có thể nói rằng, ở Âu Mỹ, sự phát triển của Phật Giáo, một tôn giáo Đông phương đã ra đời trước tôn giáo Tây phương hơn 500 năm, thì đi song song với sự suy thoái của tôn giáo Tây phương. Chúng ta nên hiểu rằng, sự suy thoái của tôn giáo Tây phương tuyệt đối không phải vì sự "xâm lấn" (sic) của Phật Giáo để cướp đi tín đồ của các tôn giáo Tây phương, vì lịch sử Phật Giáo trải dài hơn 2500 năm nay đã chứng tỏ rằng, Phật Giáo chưa bao giờ làm đổ một giọt máu hay cưỡng bách bất cứ ai trong quá trình truyền đạo. Sự suy thoái của tôn giáo Tây phương là điều tất nhiên phải xảy ra khi mà người Tây phương, trước những bằng chứng bất khả phủ bác trong khoa học về nguồn gốc vũ trụ và loài người (thuyết Big Bang và thuyết Tiến Hóa), đã thức tỉnh, ít ra là trong giới trí thức hiểu biết, để nhận ra sự thực về tôn giáo truyền thống của mình, và cùng lúc nhận ra được chân giá trị của Phật Giáo. Đây là một điểm rất đặc biệt mà chúng ta cần ghi nhận, vì nếu Phật Giáo không có chân giá trị thì không thể nào đi vào thế giới Tây phương, nơi đây sự tiến bộ trí thức đã tạo nên truyền thống đặt nặng tinh thần khoa học, thực dụng, lôgic, và quyền được thắc mắc, nghi ngờ và chất vấn, một truyền thống không xa lạ gì với Phật Giáo. Nhưng đây cũng là một mối lo chính của Ki Tô Giáo. Cũng vì vậy mà Ca-Tô giáo cũng như Tin Lành đều tung ra sách lược phá ngầm
Phật Giáo bằng những thủ đoạn vô đạo đức tôn giáo, thiếu lương thiện trí thức v.v... như chúng ta sẽ bàn đến trong phần sau. 3. NHẬN ĐỊNH VỀ ĐOẠN ĐẦU TRONG BẢN “TÔNG HUẤN GIÁO HỘI TẠI CHÂU Á“ CỦA GH JOHN PAUL II BẢN TÔNG HUẤN LÀ MỘT LỜI TUYÊN CHIẾN CHỐNG NỀN VĂN HÓA Á ĐÔNG, CÁC TÔN GIÁO Á ĐÔNG, VÀ XÃ HỘI Á ĐÔNG NÓI CHUNG, ẤN ĐỘ GIÁO NÓI RIÊNG.
(“Ecclesia in Asia” is a Declaration of War against Asian culture, Asian religions, and Asian society in general, and Hinduism in particular.) MAC KHER (WWW.NYCNY.COM) Lâu lâu, Tòa Thánh lại tung ra một bản “Tông Huấn” của giáo hoàng, với danh nghĩa là người thừa kế Phê-rô, một tông đồ của Chúa Giê-su khi xưa mà giáo hội phịa ra chuyện Chúa đã trao cho nhiệm vụ thành lập giáo hội Ca Tô, để dạy dỗ các tín đồ có đầu mà không có óc, về một vấn đề nào đó. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi tín đồ đều thuộc loại vô não. Cho nên, trong lịch sử Ca Tô Giáo Rô Ma, đã có nhiều trường hợp mà tín đồ không những coi “Tông Huấn” này hay “Tông Huấn” nọ của Tòa Thánh như không có, mà còn lên tiếng phê bình chỉ trích. Bản “Tông Huấn Giáo Hội Tại Châu Á” (Ecclesia in Asia) mà Vatican tung ra trong dịp Giáo hoàng John Paul II đến Ấn Độ vào tháng 11 năm 1999 có nội dung chỉ đạo cho các giám mục Ca Tô ở Á Châu phải tăng gia nỗ lực cải đạo Á Châu trong thiên niên kỷ thứ ba của Tây phương. Nỗ lực cải đạo Á Châu này dựa trên một nền thần học mới có tên là “Thần học theo cung cách Á Châu”, nội dung của nền thần học này chỉ là những mánh mưu, thủ đoạn ăn cắp những cái hay của các nền văn hóa và tôn giáo Á Đông, xào xáo lại, thay đổi và diễn giải xuyên tạc để biến chúng thành của Ki Tô Giáo như sẽ được chứng minh trong một phần sau. Thần học Ki Tô Giáo, bất kể là nó mang cái nhãn hiệu nào, cũng chỉ là môn học về Thiên Chúa của Ki Tô Giáo, một môn học đã quá lỗi thời, ngày nay không còn có thể thuyết phục được ai. Thật vậy, Giáo sư David Voas, đại học New Mexico, Hoa Kỳ, tác giả cuốn sách khảo cứu Tân Ước nổi tiếng: Cuốn Thánh Kinh Mang Tin Dữ: Cuốn Tân Ước, đã viết trong phần dẫn nhập như sau:
Thật là đáng xấu hổ... Thần học - chấp nhận như là môn học về Thiên Chúa - bị coi là không có chủ đề nào, hoặc ít nhất là không có chủ đề nào chúng ta có thể nghiên cứu. Đó là ngành học duy nhất với những chuyên gia thực sự không biết mình đang nói cái gì... Những tư tưởng gia Ki Tô ngày nay có nhiệm vụ phải chứng tỏ rằng Thánh Kinh có ý nghĩa, nhất quán, và có đạo đức. Điều này thật là khó khăn. Đọc kỹ bản “Tông Huấn..” chúng ta thấy rõ đúng là tác giả thực sự không biết mình đang nói cái gì. Trước khi đi vào phần nhận định một đoạn nhỏ tiêu biểu trong bản “Tông Huấn..”, tưởng chúng ta cũng nên biết thực chất nền thần học Ki Tô Giáo là như thế nào. H. L. Mencken (1880-1956), một Văn hào Mỹ, đã viết: "Thần học: một nỗ lực để giải thích cái không thể biết được bằng cách đặt sự giải thích vào những cái không đáng biết" (Theology: an effort to explain the unknowable by putting it into terms of the not worth knowing.) Và Alfred North Whitehead (1861-1947), một nhà Toán học và Triết gia Mỹ cũng đưa ra nhận định: Tôi coi nền thần học Ki Tô Giáo như là một trong những tai họa lớn của nhân loại. (I consider Christian theology to be one of the great disasters of the human race). Và cũng vì vậy mà John E. Remsburg đã viết trong cuốn False Claims (Những Điều Nhận Vơ Sai Sự Thực của Giáo hội Công Giáo. TCN): Trong những giới thông minh ở Âu châu và Mỹ châu, nền Thần học Ki Tô trên thực tế đã chết. (Among the intelligent classes of Europe and America, Christian theology is practically dead.) Remsburg đã đưa ra một nhận định rất đúng: không phải là Thiên Chúa của Ki Tô Giáo đã chết, theo như quan niệm của Nietzche, mà là chính nền thần học Ki Tô Giáo đã chết. Bởi vì làm gì có Thiên Chúa để mà chết. Cái chết đi chính là nền thần học Ki Tô Giáo đã tạo nên một vị thần hay Thiên Chúa của Ki Tô Giáo, và nền thần học này ngày nay đã không còn chỗ đứng trong sự tiến bộ trí thức của nhân loại, dù nó mang nhãn hiệu Phi Châu hay Á Châu. Thế mà, ngày nay Giáo hội Công Giáo La Mã còn tung ra chiến dịch cải đạo Á Châu. Phải chăng giáo hội tin rằng dân Á Châu
ngu muội, không có ai đủ thông minh để nhận ra mánh mưu của giáo hội, nên ai ai cũng sẽ nhắm mắt nuốt trọn cái gọi là “Thần học theo cung cách Á Châu”, một nền thần học gian dối, hạ đẳng, xảo quyệt nhất trong các loại thần học? Khi xưa, ở vị thế Thần quyền chỉ huy thế quyền, giáo hội đã thi hành một sách lược cải đạo ở khắp nơi trên thế giới bằng cường quyền, bạo lực, và cưỡng ép. Thật vậy, học giả Ca-Tô Joseph L. Daleiden, sau khi nghiên cứu về lịch sử Ki Tô Giáo đã viết trong cuốn Sự Mê Tín Sau Cùng (The Final Superstition), trang 169, như sau: “Nói tóm lại, những bằng chứng tràn ngập cho thấy sự truyền
bá Ki Tô Giáo trong cả hai thế giới cổ (châu Âu) và Tân thế giới (châu Mỹ) phần lớn dựa vào sự cưỡng bách bạo hành và đàn áp. Xuyên suốt lịch sử, từ những cuộc tiêu diệt những người lạc đạo ngay từ thuở đầu, cho tới những cuộc thánh chiến, những tòa án xử dị giáo, sự trấn áp những nền văn hóa khác khắp hoàn cầu, Ki Tô Giáo đã chứng tỏ những tiêu chuẩn có tính cách hủy diệt và chống nhân loại của tôn giáo này.” Những vết nhơ không bao giờ có thể rửa sạch Đây là những vết nhơ không bao giờ có thể rửa sạch trên khuôn mặt của giáo hội. Nhưng ngày nay, giáo hội đã mất đi thế quyền, và thần quyền đã không còn một giá trị nào ngoài khối tín đồ thấp kém, mê tín, cả tin, giáo hội không còn có thể áp dụng sách lược “cường quyền bạo lực thắng công lý” được nữa. Đúng như John E. Remsburg đã nhận định trong cuốn Những Lời Nhận Vơ (Của giáo hội Ca Tô) False Claims, trang 24: “Hình như tôi nghe người Ki Tô biện hộ cho giáo hội nói:
“Nhưng bây giờ giáo hội không còn giết nữa”. Đúng vậy, một con hổ sắp chết càng ngày càng bớt dữ đi. Ngày nay giáo hội không còn giết nữa vì không còn quyền lực để mà giết. Bó củi (để thiêu sống người) và thanh gươm (để giết người) đã bị tước khỏi những bàn tay đẫm máu của giáo hội, và ngày nay giáo hội chỉ còn dùng được hai vũ khí, thù hận và vu khống.” Suốt trong chiều dài lịch sử, giáo hội Ca Tô Rô Ma đã nổi tiếng về xảo thuật ngụy tạo tài liệu, sửa đổi Thánh Kinh, nói ngang nói ngược, nói ngược nói xuôi v.v... để kéo con người vào đạo. Cái gọi là “Thần học theo cung cách Á Châu” cũng không ra ngoài lệ, có đầy đủ những sắc thái trên. Và do đó, bản “Tông huấn..” của Giáo hoàng John
Paul II là một văn kiện ngụy biện, dối trá, gian xảo, nhằm mục đích đẩy mạnh nỗ lực cải đạo Á Châu của Ca-tô giáo Rô-ma bất kể thủ đoạn. Theo Mac Kher (www.nycny.com ) thì bản “Tông Huấn..” “là một lời Tuyên Chiến chống nền văn hóa Á Đông, các tôn giáo Á Đông, và xã hội Á Đông nói chung, Ấn Độ Giáo nói riêng.” Điều đáng nói là, để chống nền văn hóa nhân bản Á Đông, các tôn giáo trí tuệ của Á Đông, và các xã hội phi Ki-Tô ở Á Đông, bản “Tông Huấn..” của giáo hoàng John Paul II đã phải vận dụng tối đa xảo thuật diễn giải méo mó Kinh Thánh cùng viện dẫn rất nhiều điều trong Thánh Kinh, coi đó là những chân lý, trong khi đối với thức giả ngày nay thì những điều được viện dẫn thực ra chỉ là những điều mê tín vụn vặt (out of context) cổ xưa còn sót lại và không còn một giá trị nào trong thế giới khoa học, tiến bộ trí thức của nhân loại. Chứng minh? Trong bài nhận định về bản “Tông Huấn” (Link: http://giaodiemonline.com/2009/07/tonghuan.htm ), tác giả Ngô Triệu Lịch đã đưa ra những nhận định sâu sắc, rất chính xác, và khá chi tiết về bản “Tông Huấn..” cho nên tôi sẽ không đi vào nhiều chi tiết trong đó. Ở đây, tôi chỉ muốn chứng minh những nhận định tổng quát như trên của tôi về bản “Tông Huấn..” qua sự phân tích đoạn đầu tiên trong bản “Tông Huấn..”, mục “Kế Hoạch Kỳ Diệu Của Thiên Chúa Tại Á Châu”: 1. Giáo Hội tại Á Châu phải ca ngợi "Thiên Chúa cứu độ" (Tv 68,20) vì đã quyết định khởi sự kế hoạch cứu độ của mình trên mảnh đất Á Châu, thông qua những người nam người nữ của lục địa này. Thật vậy, chính tại Á Châu, ngay từ đầu Thiên Chúa đã mặc khải và thực hiện ý định cứu độ của Ngài. Ngài hướng dẫn các tổ phụ (x. St 12) và kêu gọi Môsê đưa dân Ngài đến chỗ tự do (x. Xh 3,10). Ngài ngỏ lời với dân được chọn ấy thông qua nhiều ngôn sứ, thủ lãnh, vua chúa và những phụ nữ can đảm trong đức tin. Và "khi thời gian đã mãn" (Gl 4, 4), Ngài sai Con duy nhất của mình xuống, là Đức Giêsu Kitô Cứu thế, mang hình hài của người Á Châu ! Sung sướng trước sự tốt lành của các dân tộc và các nền văn hoá trên lục địa này, hãnh diện về sức sống tôn giáo tại châu lục này, đồng thời ý thức về hồng ân đức tin có một không hai mà mình đã tiếp nhận vì ích lợi của mọi người, Giáo Hội tại Á Châu không thể ngừng xướng lên : "Cảm tạ Chúa đi, vì Chúa nhân lành, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương" (Tv 118, 1).
Sau đây chúng ta sẽ đi vào từng điểm một trong đoạn trên. Trước hết tôi xin quý độc giả hãy kiên nhẫn, vì phê bình đoạn văn ngắn ngủi trên, tôi lại phải viết khá dài, nếu không, tôi không thể vạch rõ thủ đoạn xử dụng Thánh Kinh một cách không được quang minh chính đại cho lắm của Giáo hoàng trong bản “Tông Huấn..”. Trước hết, thực ra thì “Kế Hoạch Kỳ Diệu Của Thiên Chúa Tại Á Châu” là như thế nào? Chúng ta hãy đọc câu mở đầu: “Giáo Hội tại Á Châu phải ca ngợi "Thiên Chúa cứu độ" (Tv 68,20) vì đã quyết định khởi sự kế hoạch cứu độ của mình trên mảnh đất Á Châu, thông qua những người nam người nữ của lục địa này.” (Ecclesia in Asia: The Church in Asia sings the praises of the "God of salvation" (Ps 68:20) for choosing to initiate his saving plan on Asian soil, through men and women of that continent.) Bản “Tông Huấn..” viết như vậy, nhưng sự thực lịch sử thì sao? Không ai có thể phủ nhận sự kỳ diệu nhất của kế hoạch Thiên Chúa tại Á Châu là Á Châu không hề biết đến Thiên Chúa trong mấy ngàn năm nay. Hiện nay ở Á Châu chỉ có chưa tới 3% biết tới Thiên Chúa và những thế hệ đầu tiên của số người này thuộc giới cùng đinh nghèo khổ, ít học trong xã hội. Họ là nạn nhân của những cuộc chinh phục thuộc địa của Âu Châu, dựa vào sức mạnh của súng ống, kỹ thuật hàng hải, và bả vật chất chứ không phải dựa vào “Tin Mừng” (sic) của Thiên Chúa. Trong số những nạn nhân bất hạnh đáng kể nhất chúng ta phải kể Phi Luật Tân, bị Tây Ban Nha chiếm, đổi luôn tên nước và cưỡng bức cả nước phải theo Ca Tô Giáo Rô Ma. Hiện nay hơn 60% dân Phi sống dưới mức nghèo khổ (Over 60% live under the poverty line). Thứ đến là Việt Nam, tuy bị Pháp đô hộ gần 100 năm và Công Giáo La Mã chiếm ưu thế tuyệt đối, nhưng số giáo dân luôn luôn chỉ quanh quẩn ở mức 7% dân số, phần lớn sống trong những ốc đảo Công Giáo ngu dốt (Từ của Linh Mục Trần Tam Tĩnh trong cuốn Thập Giá và Lưỡi Gươm). Những ốc đảo này nguyên thủy là những vùng dân đánh cá nghèo nàn như Bùi Chu, Phát Diệm v..v... Trái lại, Trung Quốc, một nước với trên 1 tỷ 3 dân, tuy đã có thời bị Tây phương xâm chiếm một phần nhỏ, nhưng ngày nay cũng chỉ chưa tới 4 phần ngàn theo Ki Tô Giáo. Nhật Bản với khoảng trên dưới 130 triệu dân cũng chỉ có chưa tới 1% theo Ki Tô Giáo. Thái Lan cũng vậy, tuy Công Giáo La Mã đã tung ra những đòn phá ngầm Phật Giáo từ thập niên 1970, 80, nay cũng chỉ chưa tới 1% theo Ki Tô Giáo trên một dân số trên 60 triệu. Kế hoạch cứu độ kỳ diệu của Thiên Chúa khởi sự ở Á Châu, cho dân Á Châu, nhưng kế hoạch đó lại không thể phát triển
được ở Á Châu trong suốt 2000 năm qua. Nghịch lý này được giải thích cho giáo dân có đầu mà không có óc: đó là sự mầu nhiệm trong kế hoạch của Thiên Chúa. Thật vậy, trong bản “Tông Huấn..”, mục 2, có viết:“Quả là một mầu nhiệm khi Đấng Cứu Thế sinh ra tại Á Châu lại vẫn cứ vô danh đối với các dân tộc trên lục địa này cho tới ngày hôm nay.” Và ngày nay, Vatican muốn tước bỏ sự mầu nhiệm trên của “Đấng Cứu Thế” của Ca Tô Giáo Rô Ma bằng cách hô hào các giám mục địa phương phải gia tăng nỗ lực cải đạo Á Châu, với hi vọng làm cho Đấng Cứu Thế từ “vô danh” trở thành “hữu danh”, hiện nguyên hình là một bung xung của một tổ chức thế tục mượn danh Chúa để mưu cầu những quyền lợi thế tục. Sự mầu nhiệm của Chúa không chỉ có ở Á Châu mà hiện hữu ngay trong cái nôi của Ki Tô Giáo. Như chúng ta đã biết, trong những nôi của Ki Tô Giáo nói chung, đặc biệt là của Ca Tô Giáo Rô Ma, Ki Tô Giáo đang suy thoái không có cơ cứu vãn. Sự mầu nhiệm này không được giáo hoàng nói tới. Sự tiến bộ trí thức của con người đã mở mắt Tây Phương, kéo họ ra khỏi thời đại man rợ và đen tối trí thức (the ages of barbarism and intellectual darkness), thời đại mà Ca Tô Giáo Rô Ma độc chiếm thần quyền và thế quyền ở Tây phương. Và ngày nay, Tây phương đang sống như là không có Thiên Chúa như hội đồng giám mục đã ghi nhận ở trên. Trong thiên niên kỷ thứ ba của Tây phương này, người dân Á Đông, về vấn đề tâm linh vốn đã vượt xa Tây phương từ ngàn xưa, cho nên đã từ khước “Tin Mừng” của Thiên Chúa trong bao thế kỷ nay, ngay cả khi dưới áp lực của thực dân và đoàn quạ đen đồng hành với thực dân, chẳng lẽ nay lại tự nguyện tụt hậu đến độ phải hồ hởi chấp nhận đồ phế thải tâm linh của Âu Châu, và đi giật lùi trở lại thời đại man rợ và đen tối trí thức của thời Trung Cổ hay sao? Không thể nào có chuyện đó, vì thật ra, cái gọi là “kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa” chỉ là kế hoạch xâm lăng văn hóa và tôn giáo Á Châu của giáo hội Ca Tô Rô Ma hoàn vũ chứ làm gì có Thiên Chúa để mà đặt kế hoạch, và ai có thể biết được kế hoạch của Thiên Chúa ra sao nếu thực sự có một thực thể không ai thấy, không ai biết, không ai hiểu, mang nhãn hiệu Thiên Chúa? Tất cả chỉ là mượn danh Thiên Chúa để lừa dối đám dân đầu óc yếu kém mà thôi. Chúng ta hãy bỏ qua sự kiện là cái mà Ki Tô Giáo gọi là Thiên Chúa thực ra chỉ là một vị thần của dân Do Thái khi xưa, và sự hiện hữu của Thiên Chúa đó hiện nay là một dấu chấm hỏi lớn. Chúng ta cũng bỏ
qua sự kiện là Á Châu là một tên địa dư (geographical name) chứ không phải là một lục địa mà trên đó chỉ có một sắc dân thuần nhất. Trên lục địa này có nhiều sắc dân khác nhau, với những màu da, truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán khác nhau, tiếng nói khác nhau v.v...không liên hệ gì tới nhau, cho nên Thiên Chúa của một đám dân du mục Do Thái nhỏ bé khi xưa, nếu có, tuyệt đối không phải là Thiên Chúa của những sắc dân khác như Hi Lạp, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, A Phú Hãn, Saudi Arabia, Iran, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan,Việt Nam v..v.. Mặt khác, trong phần nhận định sơ khởi, tôi đã đưa ra những tài liệu của giáo hoàng chính thức công nhận thuyết Big Bang về nguồn gốc vũ trụ, công nhận thuyết tiến hóa, bác bỏ sự hiện hữu của thiên đường và hỏa ngục, do đó đã chính thức bác bỏ những huyền thoại sáng tạo, tội tổ tông, cứu rỗi, luận phạt v..v.. cho nên cụm từ “Thiên Chúa cứu độ (sic)” đã trở thành hoàn toàn vô nghĩa. Ở đây, tôi sẽ không đi vào chi tiết những huyền thoại trên mà ngày nay đã trở thành lỗi thời, thuộc loại mê tín, mà tôi chỉ muốn vạch ra xảo thuật diễn giải và trích dẫn Thánh Kinh (Tv 68,20) một cách lắt léo, gian xảo, ngoài toàn bộ vấn đề (out of context) của giáo hoàng, phản ánh một sự bất lương trí thức cố hữu của Ki Tô Giáo từ ngày đầu. Tiểu xảo của các nhà truyền giáo Ki Tô là trích dẫn vụn vặt Thánh Kinh, rồi diễn giải lệch lạc chúng với mục đích lừa dối quần chúng thấp kém. Sách lược này đã có hiệu quả và thành công trong quá khứ, khi mà giáo dân không được phép đọc Thánh Kinh và giới giáo sĩ giữ độc quyền rao giảng Thánh Kinh. Nhưng ngày nay, nhân loại đã tiến bộ nhiều, và đòn phép diễn giải Thánh Kinh một cách tùy tiện đã luôn luôn bị vạch trần, không còn có thể lừa dối được ai nữa. Thật vậy, cũng như Matthew trong Tân Ước đã tách riêng Isaiah 7, 14 để “chứng minh láo” là sự sinh ra của Giê-su phù hợp với lời “tiên tri“ (sic) trong Cựu Ước, Giáo hoàng đã tách riêng Tv 68, 20 để “chứng minh láo” về cái gọi là “kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa trên đất Á Châu”, cho rằng cách đây 3000 năm, trong thời đại của David, Thiên Chúa của Do Thái thật sự đã biết đến toàn thể Á Châu, một chuyện hoang đường không thể nào phù hợp với những sự kiện lịch sử và nội dung Thánh Kinh. “Chứng minh láo” vì như Thomas Paine đã nhận định rất đúng về các Thánh Vịnh (hay Thi Thiên) trong cuốn Thời Đại Lý Trí (The Age of Reason) như sau: “Phần lớn những thánh vịnh liên hệ đến những hoàn cảnh địa phương của dân Do Thái trong thời buổi chúng được viết, chớ chẳng dính líu gì đến chúng ta.” (The greater part of the Psalms relates to certain local circumstances of the Jewish nation at the time they were written, with which we have nothing
to do). Nhận định này, chúng ta sẽ thấy rõ hơn trong phần phân tích sau đây. Các Thánh Vịnh, hay Thi Thiên (Psalms) Trước hết, chúng ta cần hiểu rõ bản chất của các Thánh Vịnh, hay Thi Thiên (Psalms) mà Ki Tô Giáo thường cho David là tác giả. Ki Tô Giáo tôn David là thánh, thực ra David chỉ là một tên tướng cướp, một bạo chúa, hoang dâm vô độ, vô đạo đức và cuồng sát (Xin đọc bài “Thánh David Là Ai?” trong phần Phụ Lục, cuốn “Chúa Giê-su Là Ai? Giảng Dạy Những Gì?” của Trần Chung Ngọc, Giao Điểm xuất bản, tháng 4, 2002). Và “Thánh vịnh” là một tập hợp 150 bài thơ dài ngắn khác nhau mà nội dung là những lời rên rỉ, ca thán, vò đầu bứt tai, của những kẻ loạn thần kinh, bài nào cũng buồn chán như bài nào (Xin đọc The Happy Heretic của Judith Hayes, p. 131: Psalms: This is one long, whining, grousing, hand-wringing, neurotic harangue. There are 150 chapters, each as depressing as the next.) Nếu Thánh Vịnh có đôi chút giá trị thì đó là giá trị văn chương trong thời đại cách đây 3000 năm chứ tuyệt đối không thể có những giá trị tâm linh cho những dân tộc phi – Do Thái, nhất là trong thời đại tiến bộ trí thức ngày nay. Thánh Vịnh 68 có đầu đề là “Sự Vinh Quang của Thiên Chúa về lòng tốt của Ngài đối với Israel” (Holy Bible, The New King JamesVersion, p. 501: The Glory of God in His Goodness to Israel), do đó chỉ liên hệ đến dân Israel (Do Thái), không liên quan gì đến bất cứ dân tộc nào khác ngoài Israel. Kinh Thánh: Cựu Ước và Tân Ước tiếng Việt (The Holy Bible in Vietnamese), American Bible Society, New York, 1998, cũng vậy, viết đầu đề của Tv 68 là: “Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của Si-na-i (Do Thái) và của nơi thánh.” không liên hệ gì đến bất cứ dân tộc nào khác. Chúng ta hãy đọc Thánh Vịnh 68, 20 và đọc tiếp theo Thánh Vịnh 68, 21-23 thì sẽ thấy rõ sự xảo quyệt của giáo hoàng trong việc trích dẫn Thánh Kinh như thế nào, cùng lúc sẽ thấy rõ bản chất của Thiên Chúa mà Giáo hội tại Á Châu phải ca ngợi, theo lệnh của giáo hoàng trong bản “Tông Huấn..”, Thánh Kinh tiếng Việt, trang 543: 20. Đức Chúa trời (của chúng tôi) là Đức Chúa trời giải cứu chúng tôi, Ấy là nhờ Chúa Giê-Hô-Va mà loài người được tránh khỏi sự chết. 21. Nhưng Đức Chúa trời sẽ đạp nát đầu kẻ thù nghịch Ngài, Đỉnh tóc của kẻ cứ phạm sự gian ác. 22. Chúa đã phán rằng: Từ Basan Ta sẽ dẫn dân ta về, đem chúng nó lên khỏi biển sâu: 23. Để người
dầm chân mình trong huyết, Và lưỡi chó ngươi cũng được phần trong kẻ thù nghịch ngươi Đây là một bài thơ của David viết cho “thầy soạn nhạc” để ca tụng Đức Chúa Trời của Isarel. Rõ ràng là “Đức Chúa Trời” này chỉ là một vị Thần của dân Do Thái mà David tin là chính vị Thần này đã giúp David để chiến thắng quân thù. Đọc toàn thể Thánh Vịnh 68, từ 1 đến 35, chúng ta thấy đây là một bài ca ca tụng Thần Giê-hô-va, thần của dân Do Thái, đã giúp ông ta chiến thắng quân thù. Thật vậy, Tv 68, 20 mở đầu bằng câu “Đức Chúa trời (của chúng tôi) là Đức Chúa Trời giải cứu chúng tôi” (Our God is the God of salvation). Chúng tôi ở đây là ai? Rõ ràng chỉ là người Do Thái, và Thiên Chúa chỉ là Thiên Chúa của người Do Thái, tuyệt đối không phải là Thiên Chúa của loài người. Cho nên, chữ “salvation” trong Tv 68, 20 chỉ có nghĩa là “cứu giúp” hay “giải cứu” như Kinh Thánh tiếng Việt đã viết, chứ không có nghĩa tôn giáo là “cứu rỗi linh hồn” hay “cứu rỗi linh hồn khỏi tội qua một Đấng Cứu Rỗi" (Salvation from sin through a Savior) của nền thần học Ki Tô Giáo sau này, và tuyệt đối không có nghĩa là “cứu độ”, một danh từ đặc thù của Phật Giáo với ý nghĩa khác hẳn sự “cứu rỗi” của Ki Tô Giáo. Dịch “salvation” trong Ki Tô Giáo là “cứu độ” là một sách lược lấy những tư tưởng, từ ngữ trong các tôn giáo Á Đông làm tư tưởng, từ ngữ của Ki Tô Giáo để xâm nhập các xã hội Á Đông trong việc truyền đạo. Và lấy một câu trong Thánh Vịnh 68 ra, một câu chỉ liên hệ đến dân Do Thái, rồi diễn giải “Thiên Chúa giải cứu dân Do Thái” là “Thiên Chúa cứu độ” cho toàn thể Á Châu là một thủ đoạn lừa dối bất lương trí thức, nhằm đạt một mục đích thế tục: quyền lực tinh thần cũng như quyền lợi vật chất của giới giáo sĩ trên đám tín đồ kém hiểu biết, cả tin. Điều này sẽ được chứng minh
rõ ràng hơn trong một phần sau. Chúng ta hãy bỏ qua sự kiện là bản Kinh Thánh tiếng Việt đã hiểu sai và dịch sai Tv 68, 20-23 như trên. Vì nếu hiểu đúng và dịch đúng thì chữ “them” trong Tv 68, 22 không phải là “dân ta” mà là những kẻ thù của Giê-hô-va. Ngoài ra “escapes from death” là những người Do Thái thoát chết trong cuộc chiến với kẻ thù chứ tuyệt đối không có nghĩa “loài người được tránh khỏi sự chết”. Lịch sử của Do
Thái cách đây khoảng 3000 năm tuyệt đối không dính dáng gì đến “loài người” vì chính Thần của Do Thái trong Cựu Ước, alias Giê-hô-va, alias “Thiên Chúa cứu độ” của giáo hoàng John Paul II, cũng không biết là quả đất tròn, như đã viết rõ trong Thánh Kinh. Kẻ thù của Giê-hô-va là ai? Cũng là kẻ thù của David vì Giêhô-va đã chọn David, về phe David, và đã giúp David chiến thắng kẻ thù nhiều lần, cũng như đã giúp David chiến thắng trong huyền thoại “cậu bé David đánh bại người khổng lồ Goliath”. Vì vậy, theo sự hoang tưởng của David, thần mới nói ( The Lord said): dù chúng có lên núi, xuống biển, thần cũng kéo chúng về để cho dân Do Thái dẫm chân nghiền nát chúng trong máu (your foot may crush them in blood) và chó của dân Do Thái cũng có phần thưởng là được liếm máu chúng (And the tongues of your dogs may have the portion from your enemies.). Đúng là một hoang tưởng của David vì theo Ca-Tô Giáo thì không ai thấy được Thiên Chúa (invisible), không ai biết được Thiên Chúa (unknowable), không ai hiểu được Thiên Chúa (incomprehensible). Vấn đề là, một vị thần của dân Do Thái khát máu và dã man như vậy mà nay được giáo hoàng dạy các giáo hội Á Châu phải “ca ngợi "Thiên Chúa cứu độ"(sic) (Tv 68,20) vì đã quyết định khởi sự kế hoạch cứu độ của mình trên mảnh đất Á Châu, thông qua những người nam người nữ của lục địa này.” Có thể nào có một luận điệu thần học nào gian dối, lắt léo, sai sự thật hơn là suy diễn “Thiên Chúa giải cứu” dân Do Thái cách đây 3000 năm thành “Thiên Chúa cứu độ” cho toàn thể Á Châu không? Thế mà nó nằm ngay trong câu đầu của bản “Tông Huấn..” của “Đức Thánh Cha” và bản “Tông Huấn..” này được Phêrô ĐXT – Antôn NNS chuyển ngữ và giới thiệu như sau: “Đây là Tông Huấn, trong đó, Đức Thánh Cha đúc kết và chuẩn nhận những suy tư sâu sắc, những nhận định đúng đắn và những phương hướng hành động của Thượng Hội Đồng Giám Mục bàn về Á Châu.” Sâu sắc và đúng đắn ở chỗ nào? Chẳng trách là đã có vị linh mục ở Saigon than thái độ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam là “Tòa Thánh có đánh rắm cũng khen thơm”. Thật là tội nghiệp. Chúng ta hãy đọc tiếp bản “Tông Huấn..”: “Thật vậy, chính tại Á Châu, ngay từ đầu Thiên Chúa đã mặc khải và thực hiện ý định cứu độ của Ngài. Ngài hướng dẫn các tổ phụ (x. St 12) và kêu gọi Môsê đưa dân Ngài đến chỗ tự do (x. Xh 3,10). Ngài ngỏ lời với dân được chọn ấy thông qua nhiều ngôn sứ, thủ lãnh, vua chúa và những phụ nữ can đảm trong đức tin.”
Chúng ta hãy khoan bàn đến những chuyện hoang đường về Moses trong Cựu Ước và đặt một câu hỏi: “Chuyện Thiên Chúa của dân Do Thái “hướng dẫn các tổ phụ Do Thái và kêu gọi Môsê đưa dân của Thiên Chúa (dân Do Thái) đến chỗ tự do” thì có dính dáng gì đến toàn thể Á Châu, một lục địa rộng lớn mà chính Thiên Chúa cũng không biết hết? Dân Do Thái bị Ai Cập bắt làm nô lệ và sau đó được tự do nhờ “kế hoạch cứu độ” (sic) của Thiên Chúa đối với dân của Ngài, dân Do Thái. Vậy mắc mớ gì đến các dân tộc khác trong lục địa Á Châu? Khi Đức Quốc Xã áp dụng chính sách diệt chủng, giết 6 triệu người Do Thái, thì sao không ai thấy “kế hoạch cứu độ” của Thiên Chúa đối với dân của Ngài (dân Do Thái)? Nhưng sự kiện Thiên Chúa giúp dân Do Thái thoát khỏi cảnh nô lệ, nếu chúng ta có thể tin được huyền thoại này vì ngày nay các học giả đã bác bỏ hoàn toàn điều mê tín cổ xưa này của dân Do Thái, thì việc đó cũng không thể diễn giải là thuộc kế hoạch cứu độ (sic) của Thiên Chúa. Vì kế hoạch “cứu rỗi” của Thiên Chúa là để cho những người tin Chúa chứ không phải là sự thoát khỏi cảnh nô lệ, khoan kể là chính Thiên Chúa cũng đã cổ súy việc mua bán nô lệ trong Thánh Kinh như chúng ta sẽ chứng minh về sau. Thật vậy, Việt Nam bị Tàu đô hộ tất cả là cả ngàn năm, nhưng đã nhiều lần đánh đuổi quân xâm lăng, lấy lại tự do, chủ quyền cho đất nước. Đó là nhờ các ông Vua vô thần hay các ông Vua Phật Giáo như trong thời đại Lý Trần, đâu có cần đến “kế hoạch cứu độ” (sic) của Thiên Chúa của dân Do Thái, làm ra vài phép lạ để cho Tàu hoảng sợ và trả độc lập tự do cho Việt Nam? Gần đây, Việt Nam bị Pháp đô hộ gần 100 năm. Nhưng sau cùng Tây cũng bị đánh đuổi về Tây, đó là nhờ công của ai, nếu không phải là của Cộng Sản Vô Thần? Việt Nam đâu có cần đến Thiên Chúa của Do Thái trổ tài làm phép lạ để trừng phạt thực dân Pháp, giúp Việt Nam thu hồi chủ quyền? Dân Do Thái có thể biết ơn Thiên Chúa của họ vì tin rằng chính Thiên Chúa đó đã cứu dân tộc họ ra khỏi vòng nô lệ như được kể trong huyền thoại về Moses trong Thánh Kinh. Nhưng người Việt Nam chúng ta thì đương nhiên là phải nhớ ơn tổ tiên, ông cha chúng ta, và ngay cả Cộng Sản vô thần (Voltaire đã từng nói: “Vô thần là thói xấu của một số ít người thông minh” (Atheism is the vice of a few intelligent people)) đã có công đánh đuổi xâm lăng, giành lại quyền tự chủ, độc lập cho nước nhà. Thời đại Lý Trần thì không hề có ai biết đến Thiên Chúa, và thời cận đại thì Thiên Chúa đã dẫn dân Bùi Chu, Phát Diệm di cư vào Nam. Thiên Chúa và Đức Mẹ đi trước, giáo dân đi theo sau, và đến năm 1975 thì Thiên Chúa lại theo Mỹ về Mỹ, có cứu giúp gì được dân Việt đâu? “Kế hoạch cứu độ”
Vậy “kế hoạch cứu độ” của Thiên Chúa đối với dân Việt Nam là kế hoạch nào, khoan nói đến chuyện là cho toàn thể Á Châu. Tất cả những huyền thoại về Thiên Chúa của dân Do Thái đều xảy ra ở Trung Đông, quanh vùng Jerusalem. Vậy tôi đề nghị Vatican hãy mang “kế hoạch cứu độ” của Thiên Chúa đến các nước lân cận Jerusalem như A Phú Hãn, Iran, Saudi Arabia, Ai Cập, Pakistan v..v.. trước, có thành công rồi hãy tính đến chuyện mang “kế hoạch cứu độ” của Thiên Chúa đến các nơi xa hơn như Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Việt Nam v.v... Chưa làm được như vậy thì tại sao chúng ta lại có thể nuốt nổi chuyện tầm phào là Thiên Chúa của dân Do Thái ở Á Châu giúp cho dân Do Thái được tự do là thực hiện kế hoạch cứu độ (sic) cho toàn thể Á Châu? Rõ ràng đây chỉ là một luận điệu bịp bợm bất kể đến sự lương thiện trí thức của con người. Để cho vấn đề được rõ ràng hơn nữa, chúng ta cần trở lại lịch sử Do Thái. Trong giai đoạn mà tất cả các bé trai sơ sinh Do Thái đều bị ném xuống sông, vào khoảng thế kỷ 13 Trước Thường Lịch (TTL), thì Môsê (Moses) sinh ra đời. Môsê là ai? Thánh Kinh viết rõ, Môsê là sản phẩm của một cuộc loạn luân: Cha của Môsê lấy cô ruột của mình và sinh ra Aaron và Moses (Exodus 6: 20: Amram lấy Jochebed, cô ruột của mình, làm vợ, và bà sinh ra Aaron và Moses (Now Amram took for himself Jochebed, his father's sister, as wife, and she bore him Aaron and Moses)). Mẹ của Moses không nỡ giết con nên để Moses vào một cái giỏ và đặt giỏ trôi trên sông. Moses được một công chúa Ai Cập vớt và nuôi nấng cho đến khi Moses khôn lớn, rồi nhận Moses làm con nuôi. Thánh Kinh (Exodus 2-14) kể rằng, Moses bỗng nhiên biết mình là người Do Thái và cảm thấy đau lòng khi thấy dân Do Thái bị người Ai Cập hành hạ. Và một hôm, khi thấy một người lính canh Ai Cập đánh đập dân Do Thái, Moses bèn giết người lính canh rồi khi bị Vua Ai Cập ra lệnh truy lùng, trốn sang xứ Madian. Ở đây. Moses lấy vợ, sinh con. Dân Do Thái, dân được Thần Giavê (Giê-hô-va) chọn làm dân cưng của Ngài, vì bị làm việc cực nhọc và bị đối xử như nô lệ, ta thán và khóc than với Thần. Thần nghe tiếng kêu than của họ, nhớ lại (Ngài quên khuấy đi mất rồi, vì đã trải qua 6, 700 năm) lời Ngài đã hứa với Abraham, Isaac, và Jacob. Do đó, một hôm, Thiên sứ của Thần hiện ra trước Moses trên núi Horeb, nơi Thần cư ngụ. (Dân Do Thái tin rằng dân tộc họ ở đâu thì Thần Ki Tô ở đó để che trở, bao bọc, giúp đỡ họ. Vì vậy, khi lang thang trên sa mạc, họ làm một chiếc tàu lớn để cho Thần Gia-vê ngồi trong đó, và khi Vua Solomon đóng đô ở Jerusalem
thì dựng lên một đền thờ để Thần Gia-vê cư ngụ trong đó). Thế rồi Thần (Thánh kinh chỉ viết Thiên sứ của Thần hiện ra chứ không phải đích thân Thần hiện ra (And the Angel of the Lord appeared to him...) gọi Moses và sai Moses trở về Ai Cập để thuyết phục Vua Ai cập Pharaoh thả dân của Ngài trở về xứ. Vua Ai Cập không chịu vì chính Thần Giavê đã làm cho lòng Vua chai cứng (Exodus 7: 3: Nhưng Ta sẽ khiến cho lòng Pharaoh trở nên chai cứng, và Ta sẽ đưa ra gấp bội những dấu hiệu và phép lạ của Ta trong nước Ai cập.(And I will harden Pharaoh's heart, and multiply My signs and My wonders in the the land of Egypt) Thật là chuyện lẩm cẩm nhất trong những chuyện lẩm cẩm. Theo “lý luận” của ông Đỗ Mạnh Tri trong cuốn “Ngón Tay và Mặt Trăng” thì sự kiện Ai Cập bắt dân Do Thái làm nô lệ và hành hạ dân Do Thái chính là ý định của Thiên Chúa dùng Vua Ai Cập để giáo dục dân Do Thái. Giáo dục xong rồi, Ngài chỉ việc khẩy cái móng tay là dân Do Thái ào ào chạy ra khỏi xứ Ai Cập, như dân Bùi Chu, Phát Diệm lên tầu Mỹ chạy theo Đức mẹ bồng Chúa Giê-su vào Nam năm 1954. Nhưng không, Ngài lại sai Moses trở về Ai Cập làm thuyết khách, rồi lại làm cho lòng Pharaoh chai cứng, không chịu thả dân Do Thái, nghĩa là biết trước Moses thất bại trong nhiệm vụ của mình, rồi bấy giờ Ngài mới làm nhiều phép lạ trên đất Ai Cập để ép Vua Ai Cập phải thả dân Ngài đi. Những phép lạ Thần mượn tay Moses tạo ra là những phép lạ nào? Đó chẳng phải là phép lạ mà là những tai họa mà thời đó người ta coi như là của Thần giáng xuống đầu dân Ai Cập. Đặc biệt là sau mỗi lần tai họa được giáng xuống, Thần lại làm cho lòng Vua Ai Cập chai cứng, không chịu để cho dân Do Thái rời khỏi xứ, kết quả là Ngài phải giáng tới 10 tai họa xuống dân Ai Cập, gây ra bao cảnh khổ, chết chóc, rồi bấy giờ Ngài mới làm cho lòng Vua Ai Cập bớt chai cứng, chịu thả cho dân Do Thái ra đi. Ấy thế mà nhiều người vẫn còn tin rằng "Thiên Chúa" là bậc "nhân từ" nhất hạng. Nhưng những tai họa mà Thần giáng xuống đầu dân Ai Cập là những tai họa gì? Hầu hết chẳng qua chỉ là những thiên tai hoặc những hiện tượng thiên nhiên như: nước sông Nile đỏ ngầu như máu, nhiều ếch nhái, bọ rận chấy, ruồi muỗi, bệnh dịch làm súc vật chết, ghẻ lở, mưa đá, châu chấu, hoặc phản khoa học như tối tăm trên toàn đất Ai Cập trong 3 ngày nhưng lại có ánh sáng trong những nơi cư ngụ của dân Do Thái, và vô cùng tàn nhẫn và độc ác như: tất cả những đứa con đầu lòng của dân Ai Cập, từ Vua cho tới thứ dân, và những con vật sinh ra đầu tiên trong xứ Ai Cập, đều chết hết. Sau 10 tai họa trên, Vua Ai cập mới sợ và để cho dân Do Thái ra đi.
Chuyện vô lý và lẩm cẩm như vậy mà vẫn có nhiều người tin, cũng như tin chuyện Thần tạo ra những cảnh khổ ở Calcutta rồi mới mượn bàn tay của bà Teresa chứng tỏ lòng nhân từ của Thần. Ấy thế mà ngày nay giáo hoàng John Paul II của Ca-Tô Giáo Rô-ma còn mang chuyện lẩm cẩm này ra để quảng cáo “kế hoạch cứu độ” của Thiên Chúa của dân Do Thái cho toàn thể Á Châu trong sách lược xâm lăng văn hóa và tôn giáo Á Châu. Ngày nay, nhiều người, từ những bậc trí thức cho tới những dân thường trong những xã hội văn minh tiến bộ đã đặt câu hỏi: "Một vị Thần độc ác như vậy, có đáng để chúng ta tôn thờ hay không? Chúng ta nên nhớ, theo thuyết Ba Ngôi của giáo hội Ca Tô Rô Ma, thì vị Thần độc ác táng tận lương tâm này, Chúa Cha, và Giê-su, Chúa Con, cùng Chúa Thánh Thần chỉ là một. Chúng ta có nên mong ước được sống đời đời bên cạnh vị Thần hung ác này không, vị Thần mà chúng ta biết chắc rằng có tính đồng bóng, thưởng phạt bất công, hỉ nộ vô chừng, và nhất là không hề có thiện tâm, nếu chúng ta tin tất cả những lời trong Thánh Kinh đều là những lời "mặc khải" không thể sai lầm của Thần." Xin để cho những cán bộ truyền giáo cùng những nhà trí thức Ca Tô cũng như Tin Lành Việt Nam trả lời câu hỏi này với sự thành thực nhất trong lương tâm của họ. Trong giáo hội Ca Tô hoàn vũ đã có nhiều người trong hàng giáo phẩm như Giám mục, Linh Mục và nhiều tín đồ đã trả lời câu hỏi này một cách dứt khoát, bằng hành động chứ không phải bằng lời nói: từ bỏ giáo hội và viết sách để lại cho hậu thế những suy tư lương thiện và thành thực nhất của họ về chính tôn giáo của họ. Thực chất của sự từ bỏ này bắt nguồn từ sự nhận thức được rằng, Thần Giavê không đáng để cho con người tiến bộ ngày nay kính trọng, đừng nói là thờ phụng, do đó tiến tới quyết định dứt khoát khước từ ân sủng "được thấy nhan Thánh Chúa" sau khi chết, một thứ bánh vẽ ở trên trời. Bản chất của “Thiên Chúa cứu độ” Bản chất của “Thiên Chúa cứu độ” của giáo hoàng John Paul II là như thế nào? Chúng ta có thể thấy rõ hơn nữa khi chúng ta phân tích câu tiếp theo của giáo hoàng trong bản “Tông Huấn..”: "khi thời gian đã mãn" (Gl 4, 4), Ngài sai Con duy nhất của mình xuống, là Đức Giêsu Kitô Cứu thế, mang hình hài của người Á Châu ! Sung sướng trước sự tốt lành của các dân tộc và các nền văn hoá trên lục địa này, hãnh diện về sức sống tôn giáo tại châu lục này, đồng thời ý thức về hồng ân đức tin có một không hai mà mình đã tiếp nhận vì ích lợi của mọi người,
Giáo Hội tại Á Châu không thể ngừng xướng lên : "Cảm tạ Chúa đi, vì Chúa nhân lành, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương" (Tv 118, 1) Ở đây, chúng ta lại thấy “xảo thuật” trích dẫn Thánh Kinh một cách lạc lõng của Giáo hoàng John Paul II trong mưu đồ cải đạo Á Châu. Thật vậy, giáo hoàng viết: "khi thời gian đã mãn" (Gl 4, 4), Ngài sai Con duy nhất của mình xuống, là Đức Giêsu Kitô Cứu thế, mang hình hài của người Á Châu”. Chúng ta cần đặt câu hỏi: “"khi thời gian đã mãn" (Gl 4, 4)” là khi nào, có phải là cách đây khoảng gần 2000 năm, khi Giê-su mới sinh ra đời không? Và Giê-su có phải là đấng “cứu thế” hay không, “cứu thế” như thế nào? Cứu thế theo nghĩa cứu chuộc cái tội tổ tông hoang đường trong nền thần học Ki Tô Giáo, hay cứu thế theo nghĩa đã rửa sạch tội lỗi của nhân loại, làm cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn, hay cứu thế là khuyên dân Do Thái hãy mau mau sám hối tội lỗi vì ngày tận thế đã gần kề? Tất cả những loại “cứu thế” trên nay đã không còn chỗ đứng trong thế giới nữa. Đọc Tân Ước, chúng ta phải hiểu rằng, đây là câu Paul viết cho dân Galati, và "khi thời gian đã mãn" là Paul muốn nói đến niềm hoang tưởng của Giê-su, tin rằng ngày tận thế đã gần kề, Giê-su tự nhận là Con Thiên Chúa xuống trần để khuyên dân Do Thái hãy mau mau sám hối để được Thiên Chúa tha tội và có thể về nước trời cùng Thiên Chúa. Trong thời đó, Paul, cũng như tất cả nhưng người tin vào lời tiên tri nhảm nhí về ngày tận thế của Giê-su, đều tin là ngày tận thế đã gần kề (thời gian đã mãn), chứ tuyệt đối không có liên hệ gì đến việc Giê-su sinh ra, dù mang hình hài Á Châu, hay Ma-rốc, hay Congo v..v.. Hơn nữa, kiến thức nhân loại ngày nay đã chứng tỏ sự phi lý của điều mà giáo hoàng John Paul II trích dẫn trong Tân Ước và diễn giải láo ở trên. Chứng minh? Tuổi của trái đất mà chúng ta đang sống trên đó ít ra cũng là bốn tỷ rưỡi năm. Theo giáo sư Trịnh Xuân Thuận ở đại học Virginia, một chuyên gia về ngành vật lý học các thiên thể (astrophysics), thì những đại diện đầu tiên của con ngưởi hiện đại đã dẫm chân trên trái đất từ 2 triệu năm trước (Trịnh Xuân Thuận, The Birth of The Universe, p. 120: "..about 2 million years ago the first representatives of Homo Sapiens trod the earth"). Mới đây, các nhà khảo cổ đã kiếm ra ở xứ Cộng Hòa Phi Châu Chad một chiếc sọ, nhiều mảnh xương hàm và răng đã hóa thạch, có tuổi là 7 triệu năm, của một tổ tiên xa của con người hiện đại (Chicago Tribune, July 11, 2002: Archeologists have found a fossilized skull, jaw fragments and several teeth belonging to a 7
million-year-old ancester of modern humans..). Một lần nữa, thuyết Tiến Hóa của Darwin đã được kiểm chứng. Đối với khoa học gia White ở đại học Berkeley thì con người tiến hóa như thế nào nay đang trở nên rõ ràng hơn (To Berkeley's White, the picture of how humans evolved is becoming clearer) và White nói: "Darwin đã tiên đoán sự tiến hóa này, và đó chính là những điều chúng tôi tiếp tục kiếm ra" (Darwin predicted that, and it's what we keep finding). Đây là những sự kiện khoa học trong khoa khảo cổ, và vô số sự kiện trong nhiều ngành khoa học khác, đã kiểm chứng và chứng minh sự xác tín vào thuyết Tiến Hóa, những sự kiện bất khả phủ bác, những sự kiện mà vị tự nhận là đại diện của đấng Ki-tô trên trần (Vicar of Christ), nghĩa là giáo hoàng của Ca-tô giáo Rô-ma, Gioan PhaoLô II, cũng đã phải chính thức công nhận. Dẹp bỏ vai trò "cứu thế" của Giê-su Những khám phá của khoa học hiện đại như trên đã dứt khoát dẹp bỏ vai trò "cứu thế" của Giê-su. Thật đúng vậy, như chúng ta đã biết, vai trò “cứu thế” của Giê-su trước đây đã được giáo hoàng John Paul II “giải thích” (sic) trong cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng, trang 76, để trả lời câu hỏi "Tại sao nhân loại cần cứu rỗi?", qua “nghệ thuật” trích dẫn một câu trong Phúc Âm John, John 3:16: “Thiên Chúa quá thương yêu thế gian đến nỗi ban Con duy nhất của Ngài, để những ai tin vào Người sẽ không bị luận phạt, nhưng được sống đời đời.” và nay lại lập lại trong mục 5 của bản “Tông Huấn”. Chúng ta thấy ngay rằng, cách giải thích trên thật là hoang đường và phi lý. Hoang đường và phi lý vì rõ ràng là câu trên chỉ có thể áp dụng cho những người sinh sau Giêsu. Nhưng trước khi Giêsu sinh ra cả nhiều triệu năm thì trên thế gian này đã có biết bao nhiêu người sống rồi, và hiển nhiên họ đâu có biết tới Giêsu. Vậy họ có bị luận phạt hay không? Vì theo giáo lý Gia Tô, đến ngày tận thế, Chúa sẽ giáng trần để thưởng phạt nhân loại, làm cho người chết sống lại, kẻ nào tin Giêsu thì được lên Thiên đường, kẻ nào không tin Giêsu thì sẽ bị đày vĩnh viễn xuống hỏa ngục. John 3, 18 đã viết rõ: “Ai tin Con Thiên Chúa sẽ không bị luận phạt, ai không tin đã bị luận phạt rồi, vì không tin nhận Con Một của Thiên Chúa”. Trong số những kẻ không tin Giêsu này gồm cả nhân loại trước thời Giêsu và trong đó tất nhiên có cả gia hệ của Giêsu gồm không biết là bao nhiêu đời. Một giáo lý thuộc loại mê tín dị đoan, phi lôgic, phi nhân đạo, phản khoa học v... v.. như vậy mà vẫn có nhiều người tin thì chúng ta phải hiểu rằng họ thuộc những thành phần nào trong cộng đồng thế giới. Trước thế kỷ 16, dân Việt Nam không biết Giêsu là ai. Từ thế kỷ 16, những người dân Việt Nam đầu tiên biết tới Giêsu thuộc thành phần
cùng đinh của xã hội, như nhiều tài liệu lịch sử đã chứng tỏ. Tín đồ CaTô Việt Nam hẳn rất lấy làm sung sướng được lên Thiên đường thấy nhan thánh Chúa, sống đời đời bên Chúa, trong khi ông bà tổ tiên nhiều đời của họ bị đày địa ngục. Cái đạo gì mà đưa ra một giáo lý ác ôn như vậy, và những người bị mê hoặc bởi cái giáo lý ác ôn này có bao giờ nghĩ đến đồng bào ruột thịt, ông bà tổ tiên của họ không? Nhưng điều đáng nói là câu Giáo hoàng viết như trên vào năm 1994 và lập lại trong bản “Tông Huấn” vào tháng 11 năm 1999, đã chứng tỏ cái tâm địa lắt léo của vị chủ chăn Ca Tô, vì trước đó có mấy tháng, tháng 7, 1999, chính ông đã phủ nhận sự hiện hữu của Thiên đường và Hỏa ngục, chứng tỏ cái mà ông gọi là "luận phạt" hay "sống đời đời" chỉ là những điều Giáo hội bày đặt ra để hù dọa và khuyến dụ những người có đầu óc yếu kém. Đây chính là thực chất bịp bợm, lừa dối của nền Thần học Ki Tô Giáo mà ngày nay, trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại cùng với những khám phá của khoa học, đã trở thành, theo như nhận định của Giám Mục Spong, những sự vô nghĩa trong thời hậu-Darwin. Tuy nhiên, Ki Tô Giáo nói chung, Ca-Tô Giáo Rô-Ma nói riêng, không bao giờ muốn cho tín đồ của mình biết những sự thực này, sợ tín đồ mất đi niềm tin và kéo theo hậu quả Giáo hội mất đi nguồn lợi và quyền lực về vật chất cũng như về tinh thần. Nhưng tiến hóa là một định luật tự nhiên của con người, không có một quyền lực nào, thế tục cũng như tôn giáo, có thể ngăn chặn nổi. Bởi vậy trong những xã hội Âu Mỹ tân tiến ngày nay, những công cuộc nghiên cứu về lịch sử nhân loại cũng như tôn giáo càng ngày càng vạch ra những sự thực không ai có thể chối cãi, và người dân trong những xã hội này càng ngày càng hiểu biết hơn, do đó đã xảy ra tình trạng bỏ đạo, thiếu hụt linh mục đến mức độ trầm trọng. Đây là những sự kiện xã hội trong thế giới mà chính Tòa Thánh Vatican và các lãnh tụ Chính Thống Giáo, Tin Lành đều công nhận. Lại nữa, đọc Tân ước, chúng ta biết rằng, phẩm Galatians trong Tân ước là Thư Của Tông Đồ Paul (Phao Lồ) Viết Cho Dân Galati (The Epistle of Paul the Apostle to the Galatians), một đám dân ở Tiểu Á, vùng Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay. Thánh Kinh tiếng Việt dịch đầu đề này là “Thơ của Phao-Lô Gởi Cho Người Ga-La-Ti”. Chúng ta hãy đặt một câu hỏi: Thư của Paul viết cho người Galati thì có liên quan gì đến toàn thể Á Châu? Phải chăng Paul là đại diện của toàn thể Á Châu và dân Galati là đại diện cho tất cả các sắc dân ở Á Châu? Mặt khác, chúng ta cũng đã biết, dù Đức Giêsu KiTô mang hình hài của người nào, người mặt thô da ngăm ngăm đen, môi dày, tóc quăn như hình của đài BBC mới tái tạo gần đây, hay người Congo, hay người da trắng như trong các
hình tượng mà chúng ta thường thấy, thì ông ta cũng không phải là đấng Cứu Thế. Khi giáo hội cấm tín đồ đọc Thánh Kinh Khi xưa, khi mà giáo hội cấm tín đồ đọc Thánh Kinh với những biện pháp tịch thu tài sản hay xử tử hình những kẻ nào vi phạm lệnh cấm này, thì có thể giáo dân không còn cách nào khác là phải tin theo những lời giảng dạy thậm vô lý của Giáo hội. Nhưng ngày nay, con người được tự do đọc Thánh Kinh và tự do dùng đến khả năng suy tư của mình, thì những luận điệu bịp bợm, trích dẫn vụn vặt ngoài toàn bộ vấn đề và diễn giải lệch lạc không còn có thể lừa dối được ai. Có vẻ như giáo hoàng quên đi sự kiện là ngày nay con người đã tiến bộ văn minh hơn nhiều, không còn như thời của Giê-su, và nhất là giáo hội Ca Tô đã mất đi quyền lực thế tục để có thể cưỡng bách những người ngoại đạo phải tin theo những điều thậm phi lý mà giáo hội đưa ra. Thật ra thì Phao-Lô không phải là tông đồ của Giê-su. Ông ta không biết Giê-su là ai ngoài những lời đồn đại sau khi Giê-su đã chết trên thập giá. Ông ta chỉ “thấy” Giê-su, trên con đường ông ta đi tới Damascus, trong một ảo giác (vision) sau khi Giê-su đã chết. Ngày nay chuyện Giê-su sống lại đã bị bác bỏ hoàn toàn cho nên ảo giác của Phao-Lô không có bất cứ một giá trị nào, cũng như bất cứ ảo giác nào khác mà con người “thấy” Giê-su hoặc bà Mary hiện ra bất cứ ở đâu. Cũng như trên, vì trích dẫn câu Gal 4,4 riêng biệt nên câu này trở thành lạc lõng và giáo hoàng đã dựa vào sự lạc lõng này để truyền đạo. Đọc tiếp Gal 4,5 chúng ta mới thấy được Phao-Lô muốn viết gì. Gal 4, 4-5 như sau: Nhưng khi kỳ hạn đã mãn, Đức Chúa Trời bèn sai con mình, sinh ra từ một người đàn bà, sinh ra dưới luật pháp, để chuộc tội những người ở dưới luật pháp, để cho chúng ta có thể được nhận làm con Ngài. (Gal 4, 4-5: But when the fullness of the time had come, God sent forth His Son, born of a woman, born under the law, to redeem those who were under the law, that we might receive the adoption as sons) Thật là rõ ràng, Phao Lô đã viết Giê-su sinh ra từ một người đàn bà (woman), không phải từ một nữ trinh (virgin), và sinh ra dưới luật pháp của Do Thái, nghĩa là luật pháp của Thần Gia-vê “mặc khải” cho Môsê trước đó. Giê-su được Chúa Cha sai xuống chỉ để chuộc tội cho những người đang sống dưới luật pháp của Chúa Cha, nghĩa là dân Do Thái.
Vì vậy trong Tân Ước chúng ta thấy nhiều lần Giê-su đã khẳng định là chỉ cứu giúp dân Do Thái mà thôi, như sẽ được chứng minh trong phần sau. Trích dẫn lạc lõng một câu trong Tân Ước rồi dựa vào đó để mà diễn giải về một “kế hoạch cứu độ” hoang đường cho toàn thể Á Châu, tôi cho đây là một thủ đoạn bất lương trí thức. Đây không phải là vấn đề tự do tín ngưỡng, vấn đề đức tin, mà là vấn đề ngụy biện một cách gian xảo với mục đích lừa dối, lạc dẫn quần chúng. Điều này chúng ta còn có thể thấy rõ ràng hơn nữa trong phần cuối của đoạn tôi trích dẫn ở trên: “Sung sướng trước sự tốt lành của các dân tộc và các nền văn
hoá trên lục địa này, hãnh diện về sức sống tôn giáo tại châu lục này, đồng thời ý thức về hồng ân đức tin có một không hai mà mình đã tiếp nhận vì ích lợi của mọi người, Giáo Hội tại Á Châu không thể ngừng xướng lên : "Cảm tạ Chúa đi, vì Chúa nhân lành, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương" (Tv 118, 1).” Đọc toàn thể Thánh Vịnh 118, chúng ta thấy đây chỉ là những lời ca tụng Thần Gia-vê của David, vua của Israel, vì David tin rằng Thần đã về phe ông ta và giúp ông ta chiến thắng, chứ chẳng có liên hệ gì tới “kế hoạch cứu độ” Á Châu của Thần Gia–vê, dù rằng chúng ta có vứt bỏ khả năng suy tư của con người để trở thành những con cừu non, tin rằng Thần Gia-vê của người Do Thái có một “kế hoạch cứu độ” Á Châu. Thật vậy, nếu chúng ta đọc tiếp Thánh Vịnh 118, 2-4: “Bây giờ hãy để cho Israel nói rằng: Sự nhân từ Ngài còn đến đời đời; Bây giờ hãy để cho dân của Araon (dân Do Thái) nói rằng: Sự nhân từ Ngài còn đến đời đời; Bây giờ hãy để cho những người sợ Chúa nói rằng: Sự nhân từ Ngài còn đến đời đời.” Điều rõ ràng là David đã ca tụng Thần Gia-vê của ông ta một cách lố bịch và kêu gọi dân Israel của ông, những người luôn luôn sợ Thần Gia-vê trừng phạt vì họ được giới giáo sĩ Do Thái dạy rằng: “Những bất hạnh xảy ra cho dân Do Thái là do Chúa trừng phạt vì đã không theo luật Chúa”, hãy theo ông, ngay trong thời đại của ông (now), ca tụng Thần Gia-vê để được Thần ban cho ân huệ. Tại sao lại là lố bịch? Vì chỉ mấy câu sau, ông ta đã tuyên bố là Chúa về phe ông thì không ai có thể làm gì ông và ông sẽ nhân danh Chúa mà hủy diệt mọi quốc gia bao vây ông (Psalms 118, 9- 10: “Chúa về phe tôi, Tôi sẽ không sợ hãi, con người có thể làm gì được tôi? Tất cả các nước bao vây tôi, nhưng nhân danh Chúa (nghĩa là với sự giúp đỡ của Chúa) tôi sẽ hủy diệt tất cả “ (The Lord is on my side; I will not fear. What can man do to me? All nations surrounded me, But in the name of the Lord I will destroy them). Chúa giúp David để tiêu diệt các quốc gia bao vây ông, nghĩa là những quốc gia không tin Chúa nên là kẻ
thù của Chúa. Vậy thì Chúa nhân từ ở chỗ nào, và nhân từ với ai? Và những câu ca tụng Thần Giavê một cách lố bịch từ một đầu óc bệnh hoạn của David cách đây trên 3000 năm thì liên hệ gì đến các quốc gia khác mà Giáo hoàng phải dạy họ bắt chước David và dân Do Thái “không thể ngừng xướng lên “"Cảm tạ Chúa đi, vì Chúa nhân lành, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương" (Tv 118, 1).” Trải qua bao thế kỷ, sự lắt léo của giáo hội Ca Tô trong việc xử dụng láo Thánh Kinh để truyền đạo vẫn không thay đổi. Phải chăng vì vậy mà Leo Tolstoy (1828-1910), văn hào Nga, đã phát biểu: “Tôi tin chắc rằng giáo lý của giáo hội (Ca-Tô) là một sự nói láo xảo quyệt và xấu xa theo lý thuyết, và là sự pha trộn của sự mê tín thô thiển nhất và trò ma thuật về phương diện thực hành” (I am convinced that the teaching of the church is in theory a crafty and evil lie, and in practice a concoction of gross superstition and witchcraft.) Nhận định của Leo Tolstoy quả là vẫn còn chính xác khi chúng ta đọc kỹ bản “Tông Huấn..” của giáo hoàng John Paul II. Về những Phúc Âm trong Tân Ước, George H. Smith đã viết trong cuốn Vô Thần: Bản Án Chống Ki Tô Giáo (Atheism: The Case Against Christianity) như sau, trang 209: “Qua thời gian và luôn luôn, những đoạn trong Cựu Ước bị xuyên tạc, diễn giải sai lạc và được trích dẫn ngoài toàn bộ vấn đề để dựng lên những lời tiên tri về Giê-su” (Time and again, Old Testament passages are distorted, misinterpreted and quoted out of context in the attempt to manufacture prophesies for Jesus). Và ngày nay, sau gần 2000 năm, giáo hoàng Ca Tô John Paul II cũng không có sáng kiến nào thông minh hơn, lại chỉ có thể sử dụng thủ đoạn gian dối của những tác giả viết Phúc Âm, trích dẫn Thánh Kinh ngoài toàn bộ vấn đề, diễn giải lệch lạc để dựng lên cái gọi là “kế hoạch cứu độ” của Thiên Chúa cho Á Châu. Thật không có gì đáng khinh hơn trong thời đại tiến bộ trí thức ngày nay. Đáng khinh vì ông ta đã lấy một câu của David ca tụng Thiên Chúa của David, coi đó như là một chân lý, và muốn người đời cũng phải ca tụng Thiên Chúa như David, bỏ qua tất cả những đoạn khác nói về Thiên Chúa trong Thánh Kinh hoàn toàn mâu thuẫn với lời ca tụng Thần Gia-vê, hay Thiên Chúa của John Paul II, như trên.
Thật vậy, thực ra thì Thiên Chúa của John Paul II nhân lành như thế nào, và tình thương ngàn đời của Thiên Chúa ra sao? Thánh Kinh đã viết rất rõ. Chúng ta hãy chịu khó đọc kỹ Thánh Kinh thì sẽ thấy ngay. Nhưng trước hết là vài nhận định về “Thiên Chúa nhân lành, muôn ngàn đời vẫn trọn tình thương “ mà giáo hoàng John Paul II dạy các giáo hội Á Châu phải “không ngừng xướng lên..”. Trước hết là nhận định của James A. Haught trong cuốn 2000 Years of Disbelief: Qua luận lý, chúng ta có thể thấy quan niệm của giáo hội về một Thiên Chúa ở trên trời với lòng thương yêu nhất mực không đứng vững. Nếu có một đấng thần linh sáng tạo ra muôn loài thì ông ta đã làm ra ung thư vú cho phái nữ, bệnh hoại huyết cho trẻ con, bệnh cùi, bệnh AIDS, bệnh mất trí nhớ (Alzheimer), và hội chứng Down (khuyết tật tinh thần). Ông ta ra lệnh cho những con cáo cắn xé nát những con thỏ ra từng mảnh, những con báo giết những hươu nai. Không có một con người nào độc ác đến độ hoạch định những sự khủng khiếp như vậy. Nếu một đấng siêu nhiên làm như vậy, ông ta là một con quỷ, không phải là một người cha nhất mực nhân từ. Và theo Tổng Thống Hoa Kỳ Thomas Jefferson thì Chúa là “một nhân vật có cá tính cực kỳ độc ác, đầy hận thù, đồng bóng và bất công” (In the words of Thomas Jefferson, God is “a being of terrific character – cruel, vindictive, capricious and unjust”. Thomas Jefferson nhận định đúng hay sai? Sau đây chỉ là tóm tắt vài sự kiện trong Thánh Kinh chứng tỏ nhận định của Thomas Jefferson không hề sai sự thực. Trong Amos 3, 6, nhà tiên tri Amos đặt câu hỏi: “Nếu tai họa xảy ra trong một thị trấn, chẳng phải là Chúa đã gây ra hay sao?” (If there is calamity in a city, will not the Lord have done it?) và nhà tiên tri Jeremiah đồng ý, Ca Thương (Lamentations) 3, 38: “Há chẳng phải từ miệng Đấng Tối Cao (Chúa) ra tai họa và an lành?” (Is it not from the mouth of the Most High that woe and well-being proceed?). Và trong Isaiah 45, 6-7, chính Chúa đã khẳng định: “Ta là Chúa, và không có Chúa nào khác...Ta làm ra hòa bình và tạo ra tai họa; Ta, là Chúa, đã tạo ra tất cả những điều đó” (I am the Lord, and there is no other...I make peace and create calamity; I, the Lord, do all these things.) Kết luận: Chúa chính là tác giả của những tai họa, và như vậy không thể nào là một “Chúa nhân lành, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.”
Những chuyện độc ác Trong Cựu Ước, chúng ta thấy đầy dãy những chuyện độc ác mà tác giả chính là “Thiên Chúa cứu độ” của John Paul II. Lẽ dĩ nhiên, trong khuôn khổ bài viết này, tôi không thể liệt kê tất cả những chuyện độc ác, vô đạo đức của Thiên Chúa như được viết trong Thánh Kinh. Ở đây tôi chỉ đưa ra một số nhỏ những việc Chúa làm và chỉ dẫn quý độc giả có thể đọc ở đâu trong Thánh Kinh để có thể kiểm chứng những sự kiện này. Thiên Chúa đòi hỏi và chấp nhận giết người để tế Thiên Chúa (Leviticus 27; Judges 11; 2 Samuel 21). Thiên Chúa giết đứa con đầu lòng trong mọi gia đình Ai Cập (Exodus 12) -
Thiên Chúa chấp nhận nô lệ (Exodus 21; Leviticus 25)
-
Thiên Chúa chấp nhận việc bán con gái làm nô lệ (Exodus
21) Thiên Chúa ra lệnh giết các phù thủy và những kẻ lạc đạo (Exodus 22) Thiên Chúa xử chết những người vi phạm ngày lễ Sabbath (không nghỉ làm việc ngày thứ Bảy) (Exodus 31) Thiên Chúa giết 70000 người trong một dịch hạch do chính Chúa tạo ra (2 Samuel 24) Thiên Chúa cho 2 con gấu cắn nát 42 đứa trẻ vì chúng chế riễu nhà tiên tri Elisha (2 Kings 2) Thiên Chúa tạo ra hồng thủy giết chết mọi người và mọi sinh vật, chỉ chừa lại gia đình tên say rượu Noah và giống vật mỗi thứ một cặp, vì Chúa thấy loài người, do chính Chúa “sáng tạo” ra, tội lỗi (Genesis 6) [Con người tội lỗi nhưng Chúa lại giết cả mọi sinh vật chính Chúa “sáng tạo” ra] Thiên Chúa ra lệnh giết vợ con, anh em nếu họ theo tôn giáo khác (Deuteronomy 13) Thiên Chúa xử chết những đứa trẻ nào không cắt miếng da đầu dương vật (Genesis 17)
Vài trích dẫn trong số rất nhiều điều tương tự từ Thánh Kinh ở trên cũng đủ để cho chúng ta thấy là “Thiên Chúa cứu độ” của giáo hoàng John Paul II độc ác như thế nào, và lời răn dạy của giáo hoàng cho các giáo hội Á Châu phải "Cảm tạ Chúa đi, vì Chúa nhân lành, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương" có ý nghĩa gì, và nếu các giáo hội Á Châu tuân theo lời dạy của Giáo hoàng thì bản chất của họ có khác chi những nô lệ không có đầu óc. Hẳn chúng ta có người còn nhớ là Thomas Paine, sau khi đọc cuốn Thánh Kinh, đã viết trong cuốn Thời Đại Lý Trí như sau: “Bất cứ khi nào mà chúng ta đọc những chuyện tục tĩu, những chuyện trụy lạc dâm dục, những chuyện tra tấn giết người độc ác, những chuyện thù hận bất tận, những chuyện chứa quá nửa cuốn Thánh Kinh, thì đúng hơn chúng ta phải coi đó là những lời của một con ác quỷ chứ không phải là lời của Thiên Chúa. Đây là một lịch sử của sự độc ác, đã được dùng để bạo hành nhân loại và làm cho con người đồi bại; và, về phần tôi, tôi thành thực ghê tởm nó như là tôi ghê tởm mọi sự độc ác.” Sau cùng, cái thuộc tính “nhân lành, muôn ngàn đời vẫn trọn tình thương” của Thiên Chúa mà John Paul II dạy các giáo hội Á Châu nô lệ của ông là phải gia tăng nỗ lực mang đi rao bán ở Á Châu không thể phù hợp với những thực tế trong vũ trụ. Sự hiện diện của những sự xấu ác trên thế giới từ trước tới nay vẫn là một cái gai đâm vào cạnh sườn của nền Thần học Ki Tô Giáo mà các nhà Thần học vĩ đại nhất của Ki Tô Giáo cũng không có cách nào nhổ nó ra được. Những bất hạnh, đau khổ vật chất và tinh thần xảy ra cho loài người đã đương nhiên bác bỏ thuộc tính “nhân lành, muôn đời trọn tình thương” của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa được quan niệm là một bậc toàn năng, nghĩa là làm gì cũng được, và toàn trí, nghĩa là cái gì cũng biết, quá khứ cũng như vị lai. Những người máy (robot)
Các nhà thần học Ki Tô Giáo đã một thời cố gắng biện hộ cho Thiên Chúa của họ qua thuyết “Tự do ý chí” (free will) mà họ giảng là Thiên Chúa không muốn cho con người là những người máy (robot) mà là những con người có tự do trong ý chí hành động của mình. Do đó, những điều xấu ác của con người gây ra không phải là lỗi của Thiên Chúa mà chỉ là lỗi của con người không biết xử dụng đúng quyền “tự do ý chí” mà Thiên Chúa ban cho loài người. Lý luận này đã hoàn toàn bị bác bỏ vì những hiện tượng xấu ác không chỉ xảy ra trong xã hội loài người, mà còn xảy ra trong xã hội loài vật, và trong thiên nhiên. Những bất hạnh xảy ra cho con người không thuần chỉ là tác phẩm của con
người mà còn là những hành động của chính Thiên Chúa mà các hãng bảo hiểm không chịu bảo hiểm vì coi đó là những hành động của Thiên Chúa (Acts of God). Chúng ta hãy tự hỏi: Thiên Chúa là bậc toàn năng, do đó có thể chọn lựa trong vô số phương pháp “sáng tạo” để tạo ra một vũ trụ tốt đẹp, hay một thế giới loài người tốt đẹp, vậy tại sao Thiên Chúa lại “sáng tạo” ra thế giới của chúng ta đầy những cảnh khổ đau mà chúng ta thấy thường ngày. Chúng ta không thể nào không thắc mắc: a). Thiên Chúa “sáng tạo” ra ra rắn, rết, bọ cạp, các thú dữ cắn giết lẫn nhau, những con khổng long nay đã không còn trên trái đất, những cảnh cá lớn nuốt cá bé trong thế giới loài vật để làm gì? b). Thiên Chúa “sáng tạo” ra những con ròi bọ, vi trùng, siêu vi trùng, vi trùng sinh ra bệnh AIDS và đủ các thứ bệnh khác như cùi hủi, ung thư v..v.. để làm gì, giúp ích gì cho loài người mà Thiên Chúa tạo ra theo như hình ảnh của chính Thiên Chúa? c). Thiên Chúa “sáng tạo” ra những cảnh thiên tai như: động đất, núi lửa, sóng thần, bão lụt, hạn hán, nạn đói, bệnh dịch v..v.., với kết quả là gây ra bao nhiêu bất hạnh và tai họa cho loài người để làm gì? d). Và sau cùng, tại sao Thiên Chúa lại để cho xảy ra những cảnh như một đứa bé vừa sinh ra đời, thật sự vô tội, đã trở thành ngay một quái thai, mất chân, mất tay, mắt mù, đầu óc trì trệ, và bị đủ mọi thứ khuyết tật? Kết luận? Cái thế giới mà chúng ta sống trong đó không thể nào là sự sáng tạo của một Thiên Chúa “nhân lành, muôn ngàn đời vẫn trọn tình thương”, và hiển nhiên một Thiên Chúa như vậy chỉ có trong văn tự truyền đạo của giáo hội Ca Tô chứ thực ra không làm gì có Thiên Chúa, và dù chúng ta có tin một cách không cần biết, không cần hiểu theo như quan niệm của ông Đỗ Mạnh Tri trong cuốn Ngón Tay Và Mặt Trăng đi chăng nữa thì Thiên Chúa của Ki Tô Giáo đã thực sự bất lực, và do đó không thể giúp ích gì cho nhân loại. Thật vậy, những thiên tai không chỉ xảy ra trên những miền đất không ai biết đến Thiên Chúa mà còn xảy ra ở khắp nơi trên thế giới, trong những quốc gia hầu hết tin ở Thiên Chúa. Những sự kiện lịch sử sau đây có thể dùng để bác bỏ quan niệm về một Thiên Chúa “nhân lành, muôn ngàn đời vẫn trọn tình thương” của Ki Tô Giáo. Giữa thế kỷ 6 (540), bệnh dịch hạch (bubonic plague) phát ra ở Byzantine mà một tài liệu lịch sử ghi rằng đã làm chết hại gần 100 triệu người.
Trong thế kỷ 14, Âu Châu có thể nói là hầu như toàn tòng Ca Tô Giáo Rô Ma. Nhưng bệnh dịch hạch đã phát ra (1348-1350) và giết hại gần nửa dân số Âu Châu, toàn là những người tin Thiên Chúa. Trong thế kỷ 18, ở Bồ Đào Nha, một quốc gia toàn tòng Ca Tô Giáo Rô Ma, có một trận động đất làm chết hại 40000 người ở tỉnh Lisbon. Về sự kiện này, Voltaire đã đặt câu hỏi: “Phải chăng trong trận động đất này Thiên Chúa đã đích thân chọn để giết đi 40000 người dân Bồ Đào Nha ít đạo đức nhất?” (Did God in this earthquake select the 40000 least virtuous of the Portuguese citizens?). Rồi đệ nhất thế chiến, đệ nhị thế chiến, các quốc gia Âu Châu bị tàn phá, chẳng ai thấy mặt “Thiên Chúa nhân lành, ngàn đời vẫn trọn tình thương” ở đâu. Những sự kiện lịch sử trên và hàng trăm hàng ngàn những thiên tai, bệnh tật khác mà con người phải thường xuyên đối phó và khắc phục đã chứng tỏ rằng cái bánh vẽ “Thiên Chúa nhân lành, muôn ngàn đời vẫn trọn tình thương” trong “kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa” không còn có một giá trị nào, hay còn đủ hấp dẫn để có thể khuyến dụ con người Á Châu cải đạo. Vậy mà Giáo hoàng John Paul II vẫn còn không hề biết ngượng, ra lệnh cho các giáo hội Á Châu: Hãy cảm tạ Chúa đi, Vì Chúa nhân lành, Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Qua sự phân tích một đoạn ngắn ở đầu bản “Tông Huấn..”, chúng ta cũng đã có thể thấy rõ thực chất bản “Tông Huấn..” của Giáo hoàng John Paul II là như thế nào. Tôi không nghĩ rằng một người ở địa vị và có trình độ học thức như ông ta lại không biết đến những công cuộc nghiên cứu về Thánh Kinh ngày nay để mà hiểu rằng Thánh Kinh Ki Tô Giáo chẳng qua chỉ là một tác phẩm liên hệ đến lịch sử và niềm tin của dân Do Thái khi xưa, tuyệt đối không làm gì có “kế hoạch cứu độ” của Thiên Chúa cho bất cứ quốc gia nào ngoài Do Thái, khoan nói đến chuyện cho toàn thể Á Châu, trong đó. “Kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa ở Á Châu” không có cách
nào có thể thành công ở Á Châu được. Tại sao? Vì một lẽ rất đơn giản: Ki Tô Giáo, Ca Tô cũng như Tin Lành, đều đã và đang dùng những thủ đoạn không chính đáng, vô đạo đức, để thực hiện “kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa ở Á Châu”, nói đúng hơn là “Kế hoạch xâm lăng văn hóa và
tôn giáo Á Châu” của Ki Tô Giáo, và vì trí tuệ con người nay đã mở mang, không còn có thể dễ dàng lừa dối như trước nữa. Đây chính là những chủ đề mà tôi muốn bàn tới trong Phần II về nền “Thần Học Ki Tô Giáo Theo Cung Cách Châu Á” và những “Thủ Đoạn Cải Đạo Á Châu của Ca Tô và Tin Lành.” *
*
PHẦN HAI THẦN HỌC KI TÔ GIÁO THEO CUNG CÁCH CHÂU Á & NHỮNG THỦ ĐOẠN CẢI ĐẠO Á CHÂU
SỰ KIỆN VẪN LÀ MỌI HOẠT ĐỘNG TRUYỀN GIÁO, ĐƯỢC HỖ TRỢ BỞI QUYỀN LỰC KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ CỦA CÁC NƯỚC THỰC DÂN, VẪN CÒN TƯƠNG ĐỐI KHÔNG THÀNH CÔNG. BẤT CỨ Ở NƠI NÀO MÀ CÓ MỘT TRUYỀN THỐNG TÔN GIÁO MẠNH, THUẦN NHẤT THÍ DỤ NHƯ LÀ Ở ẤN ĐỘ, TRUNG QUỐC, NHẬT BẢN, SỰ XÂM NHẬP CỦA KI TÔ GIÁO CHỈ Ở MỨC TỐI THIỂU.. ẤN ĐỘ GIÁO VẪN LÀ TÔN GIÁO CHỦ LỰC CỦA TIỀM LỤC ĐỊA Á CHÂU, VÀ PHẬT GIÁO VẪN NGỰ TRỊ TRUNG QUỐC VÀ ĐÔNG NAM Á CHO ĐẾN NGÀY NAY. KI TÔ GIÁO CHẲNG CÓ MẤY THÀNH CÔNG TRONG VIỆC TRUYỀN GIÁO Ở CÁC NƠI NÀY MẶC DÙ ĐÃ CÓ NHỮNG NỖ LỰC LỚN LAO... CÁC DỮ KIỆN (VỀ HOẠT ĐỘNG TRUYỀN GIÁO) ĐÃ CHỨNG TỎ RẤT RÕ LÀ MỤC TIÊU CẢI ĐẠO THẾ GIỚI VÀO ĐỨC TIN KI TÔ CỦA KI TÔ GIÁO ĐÃ LÀ MỘT SỰ THẤT BẠI RẤT ĐÁNG KỂ Ở KHẮP MỌI NƠI...THẬT RA, NGÀY NAY TỈ LỆ SỐ TÍN ĐỒ KI TÔ TRÊN THẾ GIỚI CÒN ÍT HƠN LÀ Ở THỜI ĐẦU CỦA LỊCH SỬ KI TÔ GIÁO.
BISHOP JOHN SHELBY SPONG, A New Christianity For A New World, 2001, pp. 176-77.
Trong Phần I, chúng ta đã biết, nền thần học Ki Tô Giáo, bất kể với nhãn hiệu gì, ngày nay đã không còn chỗ đứng trong những xã hội văn minh tân tiến. Bởi vì, trước những khám phá khoa học mà không ai có thể phủ bác về nguồn gốc vũ trụ, về thuyết Tiến Hóa v.v..., một Thiên Chúa “sáng tạo” ra vũ trụ và con người cách đây khoảng 6000 năm như được viết trong Thánh Kinh đã trở thành một chuyện tiếu lâm, chỉ còn sót lại trong những đầu óc chưa được mở mang đúng mức. Vai trò “cứu thế” của Giê-su, như Giám Mục Spong đã nhận định, chỉ là sự mê tín tiền - Darwin và sự vô nghĩa hậu – Darwin.
Nước Mỹ, một quốc gia có thể nói là văn minh tiến bộ nhất thế giới, ít ra là về vấn đề kỹ thuật và vật chất, trong đó có khoảng 85% người dân theo Ki Tô Giáo (Tin Lành 60%, Ca Tô 25%) nhưng thực ra chính quyền Mỹ là một chính quyền thế tục (secular government). Những tác phẩm nghiên cứu nghiêm chỉnh về Ki Tô Giáo của giới trí thức ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki Tô, thuộc loại “chống Ki-Tô” đối với những tín đồ Ki Tô cuồng tín không có đầu óc, được phát hành và phổ biến rộng rãi. Các trường học không được phép dạy “thuyết sáng tạo” của Ki Tô Giáo, trong khi thuyết Tiến Hóa là một chủ đề không thể thiếu trong chương trình học của mọi trường học, từ Trung học đến Đại học.. Chúng ta cũng đã biết, tình trạng suy thoái của Ki Tô Giáo ở thế giới Tây phương và nhiều nơi khác trên thế giới nói chung đã rõ rệt. Ki Tô Giáo, thay vì gia tăng nỗ lực để đảo ngược tình trạng suy thoái ở Tây phương để cho người dân lấy lại niềm tin vào Thiên Chúa của Ki Tô Giáo, lại toan tính mang đồ Tây phương đang dần dần từ bỏ để nhập cảng sang Á Châu với tất cả những thủ đoạn không chính đáng với mục đích cải đạo Á Châu dựa trên một môn thần học mới mang mỹ danh “Thần học Ki Tô Giáo theo cung cách Châu Á”. Tuy trong thực tế Ca Tô Giáo Rô Ma và Tin Lành vẫn còn chống đối nhau, thù ghét nhau, nhưng về phương diện truyền đạo sang Á Châu, cả hai giáo phái Ki Tô này đều hợp sức cùng nhau sử dụng vũ khí “Thần học Ki Tô Giáo theo cung cách Châu Á”, phối hợp với những chiêu bài chính trị như Dân Chủ, Đa Nguyên, Nhân Quyền, Tự Do Tôn Giáo v..v..để cải đạo Á Châu. Bản “Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu” của Giáo Hoàng John Paul II tung ra cuối năm 1999 và cuốn “Thần Học Ki Tô Giáo Theo Cung Cách Châu Á”, một tuyển tập gồm các bài viết của Mục sư Tống Tuyền Thịnh (Choan Seng Song), người Đài Loan, được một số nhân viên trong Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo T.P. HCM tuyển dịch và ấn hành vào tháng 8 – 1991, về bản chất không khác gì nhau, vì cùng nhắm một mục đích: cải đạo Á Châu qua những thủ đoạn có thể nói là bất chính và bất lương trí thức (intellectually dishonest) như sẽ được chứng minh trong một phần sau. Trong Phần I, tôi đã phê bình đoạn mở đầu trong bản “Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu” và vạch ra những thủ đoạn trích dẫn Thánh Kinh Ki Tô Giáo một cách xảo quyệt, bất lương trí thức, ngoài toàn bộ vấn đề, của Giáo Hoàng John Paul II để đưa ra những luận điệu bịp bợm về một chương trình cứu độ của Thiên Chúa tại Á Châu mà thực chất chỉ là âm mưu xâm lăng văn hóa và tôn giáo Á Châu. Một câu
hỏi được đặt ra là: Tại sao trong thời buổi này mà giáo hoàng còn sử dụng những thủ đoạn lắt léo để lừa dối tín đồ và quần chúng? Tiến Sĩ Madalyn O'hair đã đưa ra nhận định sau đây khi được hỏi về uy tín của giáo hoàng John Paul II trên thế giới: "Những phương tiện truyền thông trong các xứ Ca-Tô đều phụ thuộc Giáo Hoàng và dựng ông lên như là một lãnh tụ danh tiếng của thế giới. Ông ta là một con người Trung Cổ, chống lại tiến bộ và tự do, một con người nguy hiểm... Đây là một con người hoàn toàn đáng khinh bỉ và lịch sử sẽ phán xét ông ta như vậy. Cái đầu óc Trung Cổ của John Paul II không nhìn thấy sự tiến bộ của nhân loại nên vẫn tiếp tục theo một sách lược bịp bợm lừa dối của tòa Thánh trước đây để giữ tín đồ trong vòng ngu si như Linh mục Maurice Weitlauff đã nhận định. Trong cuốnTôn Giáo Đối Chiếu, Tập III, tác giả Trần Văn Kha đã đưa ra một tài liệu của Linh mục Maurice Weitlauff trong đó ông ta nhắc đến một văn kiện của các Hồng Y đưa ra sách lược (Thư viện Paris, tờ 1089, tập II 641-650 – ref.fonds latin số 12558) mà nội dung là phương pháp giữ tín đồ trong vòng ngu si như sau, trang 1130-31: “Chỉ nên cho phép đọc sách Phúc Âm càng ít càng tốt, nhất là
bằng tiếng hiện đại (nghĩa là các tiếng địa phương) và ở trong những nước ở dưới quyền Ngài (giáo hoàng Jules II). Chỉ một số rất ít (trong Phúc Âm) thường đọc trong lễ Mi-sa là đủ và phải cấm bất cứ ai muốn đọc nhiều hơn. Chừng nào mà dân chúng thỏa mãn với cái ít ỏi đó, quyền lợi của Ngài sẽ thịnh vượng, nhưng, từ khi mà họ muốn đọc nhiều hơn thì quyền lợi của Ngài bắt đầu sa sút. Đây (cuốn Thánh Kinh) là một quyển sách, hơn bất cứ cuốn sách nào, sẽ gây ra cho chúng ta những sự nổi loạn, những cơn bão tố có thể làm cho chúng ta tan tành sự nghiệp. Thật ra bất cứ ai xem xét kỹ lưỡng những lời dạy trong Kinh Thánh và so sánh chúng với những gì đang xảy ra trong giáo hội của chúng ta, sẽ nhận ra ngay những mâu thuẫn, sẽ thấy những lời giảng dạy của chúng ta thường đi ra ngoài Kinh Thánh và nhiều khi còn ngược lại. Nếu dân chúng biết đến điều này, họ sẽ thách thức chúng ta cho tới khi mọi điều phải được tiết lộ, như vậy, chúng ta sẽ trở nên đối tượng của sự chế giễu và sự thù hận phổ quát. Vậy thì cần phải tích cực tước đoạt Kinh Thánh khỏi tay của dân chúng mà không gây ra sự hỗn loạn”
Sau khi trích dẫn văn kiện trên, Linh mục Maurice Weitlauff than: “Một sự bất lương như thế không thể nào tưởng tượng được. Tôi như chết đứng.” (Une telle duplicité est inconcevable. J’en suis toute renversée) Giữ độc quyền trích dẫn Thánh Kinh Điều hiển nhiên là ngày nay, giáo hoàng John Paul II vẫn tưởng rằng giáo dân không ai được phép đọc Thánh Kinh, vẫn cho rằng tòa Thánh giữ độc quyền trích dẫn Thánh Kinh để giam giữ tín đồ trong vòng ngu si, cho nên vẫn tiếp tục trích dẫn lạc lõng và diễn giải lệch lạc những đoạn trong Thánh Kinh để hô hào các giám mục Á Châu phải theo đó mà tăng gia nỗ lực cải đạo Á Châu như tôi đã phân tích đoạn đầu trong bản Tông Huấn của ngài. Nhưng ngài đã lầm, vì thế giới ngày nay không phải là Âu Châu trong thời Trung Cổ. Nếu tín đồ của ngài không đọc Thánh Kinh thì không thiếu gì người ngoại đạo, và ngay cả những bậc trí thức có lương tâm trong giáo hội, đã đọc kỹ Thánh Kinh và đã vạch ra, không những sự bất lương của giáo hội Ca Tô trong việc uốn nắn và giam giữ đầu óc giáo dân mà còn cả những sai lầm chứa đầy trong Thánh Kinh. Điều quái gở là một số thuộc hạ Việt Nam của Ngài cũng theo cùng một sách lược bất lương trí thức như Ngài như chúng ta thấy rõ trong những tác phẩm như Chứng Nhân Hi Vọng của Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, 2000 Năm Một Thuở: Chứng Từ của Một Số Người Công Giáo, Tin Nhà Paris xuất bản, hay trong các báo như Hiệp Nhất, Diễn Đàn Giáo Dân v..v... trong đó chứa toàn là những trích dẫn vụn vặt, lạc lõng từ Thánh Kinh. Khi cuốn Thần Học Ki Tô Giáo Theo Cung Cách Châu Á của Mục sư Tống Tuyền Thịnh ra đời thì Tỳ Kheo Thích Nhật Từ ở Việt Nam đã thuyết trình một bài Phê Bình cuốn sách này trong cuộc hội thảo “Thần Học Ki Tô Giáo Theo Cung Cách Châu Á” do Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo T.P. HCM tổ chức. Bài thuyết trình này đã được in thành sách ở Việt Nam và được phổ biến trên một số trang nhà Phật Giáo. Trong bài thuyết trình, Tỳ Kheo Thích Nhật Từ đã vạch ra những sai lầm của Mục sư Tống Tuyền Thịnh qua những thủ đoạn xuyên tạc lịch sử, xuyên tạc và hạ thấp giáo lý Phật Giáo để tô hồng quảng cáo cho cái gọi là “quyền năng cứu chuộc” của Thiên Chúa mà chúng ta đã biết đó chỉ là một sự mê tín tiền – Darwin và sự vô nghĩa hậu – Darwin. Điều đáng để ý là Ca Tô Giáo Việt Nam đã lấy một tác phẩm thần học của một Mục sư Tin Lành làm đề tài hội thảo với mục đích rao bán “quyền năng cứu chuộc” của Thiên Chúa. Đây là một chuyện hiếm
có, vì từ xưa tới nay, Ca Tô Giáo luôn luôn khẳng định Giáo hội Ca Tô là phương tiện cứu rỗi duy nhất, không có sự cứu rỗi ở ngoài giáo hội Ca Tô (No salvation outside the (Catholic) Church). Điều này cho thấy Ca Tô và Tin Lành cùng có chung một sách lược cải đạo Á Châu dựa trên cái gọi là “Thần học Ki Tô Giáo theo cung cách Á Châu.” Thật ra, không phải là cuối thế kỷ 20 Ki Tô Giáo mới đưa ra sách lược cải đạo Á Châu. Sách lược này đã được hoạch định từ sau Công Đồng Vatican II (1962-1965) của Ca Tô Giáo Rô Ma với những huấn thị rõ ràng trong những bản văn mật của Tòa Thánh gửi cho các giám mục địa phương ở Á Châu. Và Tin Lành cũng dựa theo sách lược này để đi cải đạo thế giới. Những miền đất xâm lăng văn hóa và tôn giáo của Ki Tô Giáo trong những thập niên 1970-80 là ở Ấn Độ và Thái Lan, lợi dụng tinh thần khoan nhượng tôn giáo của hai quốc gia này. Từ cuối thế kỷ 20, mục tiêu hàng đầu của Ca Tô Giáo Rô Ma là Việt Nam, nấp sau những chiêu bài chỉ có trên mặt văn tự như nhân quyền, dân chủ, tự do tôn giáo v.v..., lợi dụng tình trạng xã hội kinh tế ở Việt Nam, sự khoan nhượng của chính quyền Việt Nam, và nhất là ở đó họ đã có sẵn một đạo quân thứ năm cuồng tín, chưa mở mang trí óc như những tín đồ Tây phương, nên vẫn cam phận làm tôi tớ cho Vatican, quên mình trong vâng phục, thi hành mọi mệnh lệnh của Vatican, do đó sẵn sàng phản bội quốc gia như trong quá khứ, để đánh đổi lấy một chỗ trên thiên đường mà thực chất chỉ là một hoang đường như chính giáo hoàng John Paul II đã thú nhận trước thế giới. Sách lược cải đạo Á Châu Sau đây chúng ta sẽ đi vào một số chi tiết trong sách lược cải đạo Á Châu của Ki Tô Giáo. a). Ở Ấn Độ, hơn 400 năm nay Ki Tô Giáo đã vô cùng tích cực trong vấn đề truyền đạo với hi vọng Ki Tô hóa Ấn Độ nhưng dân chúng Ấn, tuy nghèo khó và trước những hứa hẹn về vật chất của Ki Tô Giáo, vẫn từ chối tôn giáo này. Số người theo Ki Tô Giáo nói chung chưa lên tới 1% tuy chính quyền Ấn đã rất dễ dãi để cho những nhà truyền giáo tự do truyền đạo. Sự dùng vật chất để ép những người ngoại đạo đang ở trong những hoàn cảnh khó khăn về vật chất theo đạo lộ liễu đến mức một Ủy Ban Điều Tra Những Hoạt Động của Các Giáo Sĩ Thừa Sai tại Ấn Độ đã phải đưa ra những khuyến cáo sau đây, trong cuốn "Tín ngưỡng của người khác" ("The Faith of Other Men", trg. 107) của Giáo Sư Wilfred
Cantwell Smith, một nhà Thần học KiTô nổi tiếng, Giáo sư môn Tôn Giáo Thế giới và Giám đốc trung tâm nghiên cứu tôn giáo thế giới tại đại học Harvard: "Nên yêu cầu những thừa sai mà mục đích chính là dụ người vào đạo phải rút lui. Số lượng lớn các nhà truyền giáo ngoại quốc không được hoan nghênh và cần phải kiểm soát. (Đề nghị chính quyền Việt Nam hãy cấm mọi người ngoại quốc vào Việt Nam để truyền đạo. Khi nhập cảnh, những người ngoại quốc, kể cả những người Việt Nam mang quốc tịch khác phải khai báo mục đích đến Việt Nam (điều khoản này có trong mọi tờ khai trước khi vào bất cứ một quốc gia nào), nếu gian dối vi phạm sẽ bị truy tố trước pháp luật). Sự dùng các dịch vụ y tế hay chuyên môn như là phương tiện trực tiếp để dụ người vào đạo phải cấm bởi luật pháp. Mọi toan tính dùng vũ lực hay lừa gạt gian dối, hay đe dọa bằng những cách bất chính hay giúp đỡ tài chính hay mọi sự trợ giúp khác, hoặc bởi những phương tiện hay hứa hẹn lừa gạt gian dối, hoặc bằng sự giúp đỡ tinh thần và vật chất, hoặc lợi dụng sự thiếu kinh nghiệm hay lòng tự tin của bất cứ người nào, hoặc bằng cách khai thác nhu cầu, sự yếu kém về tinh thân (tâm thần) hay nhẹ dạ của bất cứ người nào, hoặc, đại cương là mọi toan tính hay nỗ lực (dù thành công hay không), trực tiếp hay gián tiếp thâm nhập vào ý thức tôn giáo của con người (dù đã trưởng thành hay còn vị thành niên) thuộc tín ngưỡng khác, với mục đích thay đổi ý thức tôn giáo hay tín ngưỡng của họ, để cho hợp với lý tưởng và niềm tin của phe đi dụ người ta vào đạo, phải tuyệt đối cấm." (Được biết hiện nay ở Việt Nam, Ca Tô Giáo Rô Ma cũng như Tin Lành đều dùng các phương tiện giúp đỡ vật chất mô tả như trên để dụ người vào đạo. Những thủ đoạn truyền đạo này phải tuyệt đối cấm bởi luật pháp. Người bị dụ vào đạo có thể truy tố trước pháp luật người đi dụ về những hành động vi luật này) Tại sao người ta lại phải khuyến cáo như vậy nếu các công vụ truyền giáo của Ki Tô giáo chỉ thuần túy là truyền giáo? Chúng ta cũng nên để ý rằng, hiện nay, ở Ấn Độ đang có phong trào bài Ki Tô Giáo rất mạnh. Báo Los Angeles Times ngày 12 tháng 11, 1998, đăng một bài tường thuật dài của ký giả Dexter Filkins về những hành động bài Ki Tô Giáo, nhiều khi dùng đến bạo lực, ở Ấn Độ. Một lãnh tụ của phong trào bài Ki Tô Giáo, ông B. L. Sharma, tuyên bố: "Chúng tôi đã phải làm nô lệ cả ngàn năm, và nay chúng tôi đã sáng mắt rồi. Tôi đòi hỏi chính phủ Ấn Độ phải đuổi cổ những kẻ đang dụ dân Ấn cải đạo, và phá hại văn hóa, ngôn ngữ và y phục của chúng tôi." (We
were slaves for 1000 years and now we have opened our eyes. I demand that the government of India throw out these people who are out to convert Hindus and ruin our culture, language and attire.) Tại sao lại xảy ra phong trào bài Ki Tô Giáo mạnh mẽ ở Ấn Độ? Vì cả Tin Lành lẫn Ca Tô Giáo đều vẫn tiếp tục, một mặt dùng phương tiện truyền thông, những thủ đoạn phi tôn giáo như bài bác Ấn Độ giáo để hạ thấp Ấn Độ Giáo, một mặt lợi dụng sự nghèo khổ của đám dân thấp kém trong xã hội, dùng bả vật chất để truyền đạo, và nhất là xử dụng vũ khí hữu hiệu nhất của Ca Tô Giáo: bình phong “từ thiện” đi kèm với phương tiện truyền thông để tô hồng quảng cáo cho Ca Tô Giáo trong khi thực chất của việc từ thiện là để thu nhặt tín đồ và khai thác lòng nhân từ của quần chúng để vơ vét tiền bạc cho Vatican, và trong một số trường hợp, nhiều hành động ác ôn đã được ngụy trang đàng sau bình phong “từ thiện”. Trường hợp điển hình là việc thành lập dòng “Thừa sai bác ái” (sic) của bà Teresa mà cái tên của nó đã nói lên thực chất sử dụng “bác ái” làm một vũ khí truyền đạo. Qua phương tiện truyền thông với những hình ảnh làm mủi lòng quần chúng, bà Teresa đã được thổi phồng lên như một thánh nhân, thực hiện chủ trương bác ái của giáo hội. Kết quả là tiền vào như nước nhưng chỉ có một phần nhỏ được chi dùng cho các hoạt động mang danh “từ thiện”. Những người đóng góp tin tưởng rằng tiền của mình đóng góp sẽ được dùng trong những công tác từ thiện vị tha của giáo hội. Nhưng sự thật đằng sau tổ chức “Thừa sai bác ái” để làm công việc “từ thiện” này ra sao, và thực chất con người của bà Teresa ra sao, ngày nay chúng ta đã biết rõ. Trong thế giới ngày nay, khó ai có thể che dấu được những việc mờ ám, nhất là khi người đó là một nhân vật nổi tiếng như bà Teresa. Muốn cho người khác không biết thì đừng có làm. Bà Teresa không ý thức được chân lý này nên kết quả là người ta đã phanh phui ra những chuyện động trời sau bức màn “Thừa sai bác ái” của bà Teresa. Trong bài Đâu Là Sự Thật, đã được đăng trên báo Giao Điểm và đưa lên trang nhà giaodiem.com hay giaodiem.net, tôi đã đưa ra một số tài liệu vạch trần thực chất con người của bà Teresa. Ở đây tôi sẽ không nhắc lại chi tiết nữa, chỉ tóm tắt những điểm chính.
Theo Christopher Hitchens thì: "Mẹ Teresa là một kẻ "mị dân" chống phá thai và là kẻ "phục vụ cho những quyền lực thế gian.", thân thiện với hạng người không tin cậy được như tên lừa đảo Charles Keating ở Ngân Hàng Tiết Kiệm và Tín Dụng, mà nhân danh hắn Mẹ đã viết cho ông Tòa Lance Ito trong vụ xử hắn năm 1992. Trong một bức thư trả lời với đầy đủ lý lẽ , ông Phó Biện Lý của Tòa giải thích cho Mẹ Teresa biết bằng cách nào mà Keating đã ăn cắp món tiền mà hắn đã biếu cho Mẹ, và đề nghị Mẹ hoàn trả lại số tiền đó cho các "sở hữu chủ với đầy đủ pháp lý"; Mẹ đã không hề hồi âm.” Theo một học giả chuyên gia viết tiểu sử, Anne Sebba, người đã sang tận Calcutta và nhiều nơi khác để quan sát những "cơ sở từ thiện" của bà Teresa và tìm hiểu sự thực về những "công cuộc từ thiện" của bà Teresa thì: * Về tiểu sử, bà Teresa không có gì đặc biệt, chúng ta thấy cùng một niềm tin tôn giáo đã hướng dẫn bà trong mọi việc. * Công việc từ thiện của bà Teresa không bắt nguồn từ chính lòng từ thiện mà động cơ thúc đẩy chính là để làm sáng danh Chúa và để truyền đạo. Ngay cái tên của dòng "Thừa Sai Bác Ái" cũng đã nói lên rõ ràng mục đích truyền đạo của các thừa sai trong những thế kỷ qua. Bà Teresa biết rõ về lịch sử truyền đạo ở Ấn Độ và toan tính KiTô hóa quốc gia này trong 400 năm qua. Bà Teresa đã khẳng định rằng công việc bà làm là để phục vụ Chúa, không phải phục vụ con người, phục vụ Chúa bằng cách kiếm thêm nhiều tín đồ cho Chúa mà những sự đau khổ, bất hạnh của con người là những cơ hội để bà làm "việc thiện", chứng tỏ "lòng nhân từ" của Bà. Bà không phải là cứu tinh của nhân loại, những việc bà làm chỉ có tính cách tượng trưng bề ngoài. Sau khi bà Teresa chết thì có một số “sơ” trước đây đã cộng tác với bà trong tổ chức "Thừa sai bác ái" đã tiết lộ nhiều chi tiết thuộc loại động trời. Thí dụ, sơ Susan Shields đã viết trong tờ Free Inquiry, số mùa đông 1998, tiết lộ rằng: Một phần nhiệm vụ của sơ là giúp trong việc giữ sổ sách về số tiền, lên đến nhiều triệu đô la, do những người có từ tâm đóng góp để bà Teresa làm việc "từ thiện" vì tin ở những lời tuyên truyền quảng cáo của dòng tu "Thừa sai bác ái", nhưng hầu hết những số tiền đó lại để trong nhiều ngân hàng khác nhau mà không dùng gì đến, trong khi các
sơ hàng ngày phải đi ăn mày (beg) thức ăn của các thương gia địa phương, vì bà Teresa chủ trương "nghèo khổ" là một đức tính. Ngày nào xin không đủ thì các em mồ côi hoặc các bệnh nhân dưới sự "săn sóc" của hội "thừa sai bác ái" phải ăn đói. Đó là từ thiện hay sao? Với hàng triệu đô la nằm ì trong các ngân hàng mà bà Teresa vẫn thường xuyên kêu gọi đóng góp thêm cho công cuộc từ thiện của bà, thật là hoàn toàn vô nghĩa. (Judith Hayes trong The Happy Heretic, p. 66-67) Tác giả Judith Hayes còn phê phán: Tôi chưa từng nghe thấy một người nào có lòng bác ái mà nghĩ rằng sự đau khổ của con người là một điều tốt. [Bà Teresa quan niệm như vậy vì đó là ý Chúa] Bác ái là đức tính tối thiểu của một người mà chúng ta cho là xứng đáng được phong Thánh. Nếu những điều Morphew viết là đúng thì chúng ta phải đặt bà Teresa đâu đó giữa sự tàn ác và ngu đần, mà hay thay, trong tự điển từ Thánh (Saint) nằm giữa 2 từ Tàn Ác (Sadistic) và Ngu Đần (Stupid). (Tác giả đã chơi chữ ở đây: If all of that is true, it places Teresa somewhere between "sadistic" and "stupid" which, interestingly, is where "saint" appears in the dictionary) Thực ra thì những hành động vô nhân tính của bà Teresa được phanh phui ở trên cũng không lấy gì làm khó hiểu vì chúng hầu như là một mẫu mực chung cho những người cuồng tín, làm việc “từ thiện” với mục đích đi kiếm linh hồn cho Chúa để Chúa cho một chỗ trên thiên đường (mù) của Giáo hội, chứ không bắt nguồn từ tâm từ thương người. Thật vậy, nếu bà Teresa đã gian dối và nhẫn tâm như được mô tả trong các tài liệu dẫn chứng ở trong bài Đâu Là Sự Thật [Xin đọc trong Giao Điểm, giaodiemonline.com hay giaodiemonline.info] thì thuộc hạ của bà cũng chẳng khá hơn chút nào. Bản tin BBC ngày 18 tháng 9 năm 2000 có đầu đề “Các Nữ Tu Của Mẹ Teresa Bị Kết Tội Hành Hạ Trẻ Em” (Mother Teresa Nuns accused of torture), viết bởi Subir Bhaumik ở Calcutta, cho biết giám đốc những thừa sai bác ái (Nữ tu Nirmala, người thay thế Teresa) đã phải ra hầu tòa sau khi cơ sở từ thiện “Thừa Sai Bác Ái” và một “nữ tu” bị kết tội là hành hạ một em bé lên 7 tuổi. Giám đốc tổ chức (thừa sai bác ái), Nữ tu Nirmala, được tòa cho phép đóng tiền thế chân là 5000 Rupees. (The head of the Missionaries of Charity, founded by Mother Teresa, has surrendered to a Calcutta court after the Charity and one of its nun were accused of torturing a 7-year-old girl. The organization leader, Sister Nirmala, was granted bail on a surety of 5000
Rupees). Bản tin BBC ngày 21 tháng 9 năm 2000 với đầu đề “Các Nữ Tu Của Mẹ Teresa Hành Hạ Trẻ Em” (Mother Teresa Nuns Tortured Children) cho biết cơ sở bác ái do Mẹ Teresa thành lập ở Calcutta nay đã thú nhận là một nữ tu của tổ chức đã hành hạ 4 trẻ em(The Charity set up by the late Mother Teresa in the Indian city of Calcutta has now admitted that one of its nuns was guilty of torturing four children). Hành hạ như thế nào? Theo đơn kiện của Karivan Mondal, nữ tu Francesco đã trừng phạt con gái của ông, vì quá nghèo nên đã nhờ cơ sở “bác ái” (sic) của bà Teresa nuôi, bằng hình phạt đốt bỏng tay của con gái ông. Chúng ta cũng không nên quên vụ kiện gần đây ở Québec, Canada, đòi bồi thường hơn một tỷ đô la (a 1.2 billion lawsuit) cho các nạn nhân của các "nữ tu" trong một viện mồ côi, các "sơ" mặc áo xám, (gray nuns), những người đã hành hạ trẻ em trong viện cho đến chết, và cố ý làm tật nguyền một số em, thí dụ như chọc thủng màng tai của chúng để lấy thêm trợ cấp của chính phủ, $2.50 cho mỗi em bị tật nguyền thay vì $0.75 mỗi ngày cho các em lành lặn, do chương trình TV Prime Time của đài ABC đưa lên; và chuyện trong một viện mồ côi khác, các "sơ" dội nước sôi lên các em để trừng phạt tội vì đói quá nên ăn cắp thức ăn các "sơ" dùng để nuôi thỏ, do chương trình 60 Minutes của đài CBS đưa lên. Cả thế giới cũng đã biết chuyện giáo hội Ca Tô Anh đã mở lòng “bác ái” nhận nuôi nhiều trăm trẻ em mồ côi hoặc sinh ngoại hôn, nói dối vớc các bà mẹ là sẽ nuôi nấng các em tử tế và xây dựng tương lai cho các em, nhưng thực ra là đưa các em vị thành niên sang Uc, bóc lột sức lao động chân tay của các em để xây chủng viện . Vụ này cũng bị báo chí và chương trình 60 Minutes của đài CBS đưa ra ánh sáng, và các nạn nhân của chương trình “bác ái” dã man, vô nhân đạo này đang kiện giáo hội và đòi trang trải mọi phí tổn để một số em, nay đã trưởng thành, có thể đoàn tụ với người mẹ đã xa cách lâu ngày. Và gần đây nhất, theo bản tin BBC ngày 8 tháng 11 năm 2002 thì nhà đạo diễn Ca Tô Peter Mullan, dựa trên các nhân chứng và các tài liệu chính xác (based on true events), đã hoàn thành một cuốn phim nhan đề “Các Nữ Tu Của Tu Viện Magdalene” (The Magdalene Sisters) trong đó ông đưa lên màn ảnh những cảnh các nữ tu bóc lột sức lao động và hành hạ hàng ngàn các em bé gái chưa đến tuổi trưởng thành trong các nữ tu viện Ca Tô ở Ai Nhĩ Lan. (In the film, Peter Mullan, himself a Catholic, tackled the thorny subject of young girls taken to convents and made to work in the laundries, while subject to abuse by nuns). Có nhiều em phải làm việc trong xưởng giặt, 6 tháng không thấy ánh mặt trời. Cuốn phim đã được trao giải thưởng Sư Tử
Vàng về phim hay nhất trong cuộc tuyển chọn phim ở Venice. (Scottish director Peter Mullan has won the Golden Lion Best Film Award at the Venice film festival for The Magdalene Sisters, a box office success in Ireland.) Tuy Vatican đã lên tiếng phản đối là cuốn phim có mục đích “chống Ca-Tô” nhưng tín đồ Ca Tô Ai Nhĩ Lan vẫn đổ xô đi xem cuốn phim này. Ký giả Miriam Donohoe của tờ Irish Times phát biểu: “Tôi cảm thấy rất giận vì trong nhiều thập niên, nhiều ngàn em bé gái đã phải qua tay những “sơ” quá độc ác như vậy và đối xử với các em tệ như vậy” (I feel very angry that thousands of young Irish girls over several decades had gone through the hands of nuns who were so cruel and who treated them so badly.) Công tác “từ thiện” và “bác ái” Trên đây chỉ là vài chuyện điển hình về bộ mặt thật của cái mà giáo hội Ca Tô Rô Ma quảng cáo tô hồng triệt để cho giáo hội: công tác “từ thiện” và “bác ái” của giáo hội. Đây là ngón nghề thông thạo nhất của giáo hội Ca Tô Rô Ma, cũng như Giáo hội đã thành công cấy vào đầu các tín đồ hình ảnh một giáo hội thánh thiện, tông truyền, duy nhất v..v.. trong khi thực ra lịch sử của giáo hội là một lịch sử thô bạo, đẫm máu, chứa đầy những chuyện ô nhục nhất thế gian: thánh chiến; tòa hình án xử dị giáo; săn lùng và thiêu sống phù thủy; chủ trương diệt chủng Do Thái; không ít giáo hoàng ác độc, tàn bạo, vô luân; không ít linh mục loạn dâm: hiếp dâm nữ tu Ca Tô, trẻ em phụ tế, nữ tín đồ v..v... và không ít nữ tu đang tâm bạo hành trẻ em cũng như dự phần trong chính sách diệt chủng ở Rwanda? Lẽ dĩ nhiên chúng ta không thể dựa vào những trường hợp cá biệt nêu trên để mà tổng quát hóa vấn đề đạo đức trong Ca Tô Giáo Rô Ma. Nhưng chúng ta không thể không đặt ra câu hỏi: Tại sao một tôn giáo thường tự nhận là do Thiên Chúa mạc khải, do Chúa Giê-su thành lập, thánh thiện, tông truyền, duy nhất v..v.. lại có một lịch sử đen tối như vậy và lại có thể đào tạo ra một số linh mục, nữ tu ác ôn như vậy trong khi những chuyện ô nhục này không hề xảy ra trong các tôn giáo mà Ki Tô Giáo gọi là “thấp kém”? Câu trả lời nằm trong câu hỏi đối với những người không cần đến kiến thức của các học giả mà chỉ cần có một đầu óc còn đôi chút suy nghĩ để có thể nhận ra bản chất chân thật của Ca Tô Giáo là như thế nào. Nói tóm lại, nếu chúng ta theo rõi những vụ kiện các cơ sở từ thiện, viện mồ côi của Ca Tô Giáo ở Canada, Mỹ, Ireland, và Úc Châu v..v.. thì chúng ta sẽ không lấy gì làm lạ trước những hành động "bác ái" của bà Teresa ở Calcutta và của một số sơ trong các tu viện, viện mồ côi.
Những cơ quan này được tạo ra chỉ để vơ vét tiền bạc và kiếm thêm tín đồ chứ không có ngĩa “từ thiện” thuần túy. Thật vậy, B. S. Rajneesh, tác giả cuốn Linh Mục và Chính Trị Gia: Những Mafia của Linh Hồn (Priests & Politicians: The Mafia of the Soul), đã viết như sau, trang 25: Nếu con người nghèo đói, họ có thể dễ bị dụ vào Ki Tô Giáo, đặc biệt là Ca Tô Giáo. Những trường học, nhà thương, và viện mồ côi của họ chẳng qua cũng chỉ là những xưởng để dụ người ta trở thành tín đồ Ca Tô Rajneesh đã không nhắc đến sự kiện là với những sự trợ cấp của chính phủ và sự đóng góp của những người có từ tâm, nhiều cơ sở "từ thiện" đã là những nguồn kinh tài cho giáo hội, vơ vét tiền bạc trên sự đau khổ của các trẻ em mồ côi và những người xấu số. “Sơ” Lê Thị Tríu ở Phi Luật Tân cũng đã hốt được 2 triệu đô-la để thành lập “làng Việt Nam ma” ở Phi Luật Tân. Tưởng chúng ta cũng nên biết thêm một sự kiện về những tổ chức "từ thiện" của Vatican. Sách vở, báo chí và TV Âu Mỹ đã phanh phui ra vụ Vatican dùng những cơ quan từ thiện như Caritas International, Red Cross và một số tu viện làm những đường giây gọi là "Giây chuột" (Ratlines) với những dịch vụ như cấp căn cước giả, thông hành giả, tài chánh v..v.. cho nhiều tội phạm chiến tranh Đức Quốc xã ẩn náu trong các tu viện chờ cơ hội chuồn sang Nam Mỹ, phần lớn là sang Á Căn Đình (Argentina). Nói tóm lại, những công cuộc “từ thiện” của Ki Tô Giáo, Ca Tô Giáo cũng như Tin Lành, chỉ là những sơn phết màu mè che dấu những âm mưu đen tối đàng sau. Tuy vậy, những lớp sơn phết này cũng đánh lừa được nhiều người, kể cả những chính quyền phi Ki-Tô không biết rõ bản chất “từ thiện” của Ki Tô Giáo, chỉ nhìn thấy mặt ngoài thường xuyên được Ki Tô Giáo thổi phồng mà không để ý đến những mánh mưu gây tác hại cho quốc gia dân tộc về sau. b). Ở Thái Lan, Ca Tô Giáo Rô Ma còn hung hăng hơn nữa trong sách lược truyền đạo. Lợi dụng tinh thần khoan dung tôn giáo của dân Thái, giáo hội Ca Tô ở Thái, tuy chỉ chiếm chưa tới 1% dân số, đã có những hành động xâm nhập chống phá Phật Giáo và phổ biến những tài liệu có tính cách hạ thấp dân Thái và Phật Giáo. Để độc giả có một ý niệm về bản chất cuồng tín của các nhà truyền giáo Ki Tô ngay trong thời đại này, tôi xin trích dẫn một đoạn trong cuốn Missionaries, trg. 186, nói về phương cách truyền giáo của Ca Tô Giáo ở Thái Lan:
"Ở Á Châu, không có mấy nước mà các thừa sai cảm thấy hoàn toàn tin tưởng là công vụ truyền giáo của họ sẽ không bị gián đoạn trong tương lai. Ngay cả dân Thái cũng nhạy cảm đối với vấn đề thừa sai nếu sự truyền giáo không khéo xử, thái độ khoan dung của dân Thái có thể thay đổi. Hiện nay, trong một nước mà 97 phần trăm theo Phật Giáo, 2 phần trăm theo Hồi Giáo, số người theo Ki Tô Giáo hiển nhiên rất ít. Sulak Siravaksa là một trí thức Phật Giáo theo học các trường Ki Tô. Tuy nhiên, ông ta rất lấy làm khó chịu trước những tài liệu truyền giáo mô tả Thái Lan là "địa hạt của Satan"; rằng "99% dân Thái bị câu thúc bởi ma quỉ"; lên án Phật Giáo là "thờ hình tượng" và là "một tôn giáo yếm thế một cách vô vọng."; và chấp chặt là "không có sự mặc khải của Ki Tô thì không hiệp thông được với Thượng đế." Như Sulak đã vạch rõ, đó là ngôn ngữ hàng ngày của một số tài liệu truyền giáo, những tài liệu này đã xúc phạm nặng nề đến những Phật tử Thái Lan." Vì chính sách truyền đạo cuồng tín cố hữu như trên tại Thái Lan mà Phật Giáo Thái đã phải chính thức gửi kháng thư cho John Paul II, phàn nàn về những việc làm sai trái của Gia Tô Giáo ở Thái Lan. Những tài liệu trong cuốn "Âm Mưu Của Ca Tô Chống Phá Phật Giáo” (The Catholic Plot Against Buddhism, Printed by Siva Phorn Limited Partnership, Bangkok, Thailand, 1986) cho chúng ta thấy rõ, qua những huấn thị mật của Vatican, sách lược cải đạo Á Châu bất kể thủ đoạn đã được hoạch định từ ngay sau Công Đồng Vatican II. Sự chống phá của Ca Tô Giáo lên tới mức độ mà người dân Thái bắt buộc phải có phản ứng. Ngày 10 tháng 5, 1984, và sau đó, ngày 12 tháng 9, 1984, Hiệp Hội Bảo Vệ Đạo Pháp Thái Lan cũng như nhiều hội đoàn Phật Giáo khác đã gửi cho Giáo hoàng John Paul II những kháng thư nhân dịp ông tới Thái Lan. Sau khi phàn nàn về việc Giáo hội Ca Tô Rô Ma tại Thái Lan xâm nhập Phật Giáo với nhiều hành động sai trái, theo chỉ thị của Vatican, có bằng cớ dẫn chứng (The Roman Catholic Church in Thailand has intruded Buddhism with many injust actions as shown in the attached Protesting Memorandum), Hiệp Hội yêu cầu John Paul II ra lệnh cho các tín đồ Ca Tô hãy chấm dứt xuyên tạc và phá Phật Giáo (To stop the Catholics here in Thailand from distorting and subverting Buddhism). Những phản ứng của người dân Thái Lan đối với giáo hoàng John Paul II như nước đổ đầu vịt, vì truyền thống của Vatican là ù lì, coi những phản ứng này như không có, và cứ tiếp tục thi hành sách lược cải đạo bất lương và bất chính của mình. Vài tài liệu sau đây có thể chứng minh được điều trên.
Sau đây là phần Dẫn Nhập trong cuốn "Âm Mưu Của Ca Tô Chống Phá Phật Giáo” (The Catholic Plot Against Buddhism, Printed by Siva Phorn Limited Partnership, Bangkok, Thailand, 1986). Đây là một bản văn khá quan trọng với nhiều chi tiết có thể giúp chúng ta thấy rõ vấn đề hơn và do đó tìm ra một đường hướng thích hợp để đối phó với kế hoạch xâm lăng văn hóa và tôn giáo tại Á Châu: “Những tín đồ Ca Tô Rô Ma đến Thái Lan trong triều đại của
Đại Đế Narai vào khoảng 300 năm trước. Ngày nay có khoảng hơn 100,000 tín đồ Ca-Tô (vào khoảng 2 phần ngàn của một dân số trên dưới 50 triệu. TCN), một con số rất nhỏ đối với giáo hội. Trong quá khứ những người Ki Tô Giáo tin rằng những tôn giáo khác với Ki Tô Giáo, như Phật Giáo chẳng hạn, đều là tội lỗi, là giáo lý của Ác Thần và Satan. Do đó, Giáo hội đã phái những linh mục Ca Tô để dạy dỗ những kẻ ngoại giáo, giới thiệu Thượng đế cho họ, và cải đạo họ. Những người này bị dẫn dụ vào Ki Tô Giáo bằng cách tấn công Phật Giáo và các tôn giáo khác là xấu xa và sai lầm trong giáo lý. Phương pháp cải đạo này gọi là “truyền giáo”. Khoảng một thập niên trước đây, người Ca Tô thay đổi chiến thuật. Các linh mục Ca Tô không tấn công Phật Giáo nữa. Cả hai giới, linh mục và tín đồ, đều trở nên thân thiện và cùng với các Phật tử phục vụ xã hội. Họ đã điều chỉnh để sống thích nghi với nền văn hóa Thái và bắt chước những lễ tiết Phật Giáo. Phương pháp Thiền của Phật Giáo đã được nghiên cứu và thay đổi làm Thiền của Ki Tô Giáo. Nhiều cuốn sách mới được viết ra để giảng giải Ki Tô Giáo bằng những thuật ngữ Phật Giáo, khai thác và bóp méo giáo lý Phật Giáo. Đó là những hiện tượng mới lạ đáng để ý. Những sự thay đổi trong thái độ và thực hành mới của những người Ca Tô là kết quả của Công Đồng Vatican II, họp từ 11/10/1962 đến 8/12/1965. Công Đồng Vatican II đã được sửa soạn từ năm 1959. Công đồng diễn tiến nghiêm trọng và liên tục trong ba năm trên. Giám mục khắp nơi trên thế giới và nhiều nhân viên lãnh đạo khác, tất cả vào khoảng 4000 người, được động viên để tổng hợp những quan niệm mới và điều chỉnh những phương pháp tuyên truyền cho phù hợp với những thay đổi trong thế giới hiện đại. Nhiệm vụ của các giám mục được nhấn mạnh, nghĩa là, ngoài những công việc trong giáo xứ của mình, họ còn phải theo đúng chính sách của giáo hội mẹ (Vatican) như Công Đồng Vatican II đã quyết định. Mọi quyết định của Công Đồng phải được áp dụng nghiêm chỉnh và phải thực thi bởi mọi giáo hội Ca
Tô khắp hoàn cầu trong những thập niên tới cho đến khi Công Đồng Vatican tới được triệu tập. (Công Đồng Vatican thứ nhất được tổ chức trên 100 năm trước, từ tháng 12, 1869 tới tháng 7, 1870, có hơn 7 tháng và số tham dự viên chỉ vào khoảng 1000). Một chủ đề quan trọng của Công Đồng Vatican II là xét và hoạch định chính sách tiếp cận mới với mọi tôn giáo phi Ki-Tô, quyết định của chính sách này là Bản Tuyên Ngôn Về Những Giao Hệ Của Giáo Hội Đối Với Những Tôn Giáo Phi Ki-Tô. Trong bản Tuyên Ngôn của CĐ Vatican II, một loại giao hệ mới đối với các tôn giáo khác, gọi là “Đối Thoại”, đã được thiết lập. Một hậu quả khác là, Giáo Hoàng, người đứng đầu giáo hội, đã lập ra “Bộ Ngoại Giáo Sự Vụ” chịu trách nhiệm về đối thoại. Sau đó Bộ này đã phát hành những “Bản Tin”, một ấn phẩm mật để liên lạc với các giám mục và giới chức cao cấp đang hoạt động trong các quốc gia khác nhau. Bản Tin chứa đựng những tin tức từ Vatican liên quan đến các tôn giáo khác và các tín đồ của họ. Những ý tưởng và cách thực hành sự đối thoại được ban bố, cùng những hiểu biết về các tôn giáo khác để dùng làm căn bản cho sự đối thoại, gồm những bản phúc trình về tình hình tôn giáo ở các địa phương, nơi các linh mục hành nghề. Bản Tin được dùng làm diễn đàn trao đổi những kinh nghiệm của các linh mục hoạt động trong những quốc gia khác nhau. Bản Tuyên Ngôn của CĐ Vatican II cùng với những giải thích và khuyến cáo trong Bản Tin, những quan niệm mới và cách tiếp cận mới những tôn giáo phi Ki-Tô chứng tỏ rằng, thay vì coi các tôn giáo khác như một mớ những sai lầm và là hoa trái của tội lỗi như trong quá khứ, thái độ mới là chấp nhận những cái hay cái đẹp trong các tôn giáo khác, coi tất cả những thứ đó đến từ Thiên Chúa. Chỉ có Ki Tô Giáo, tôn giáo của Thiên Chúa, là đầy đủ. Các tôn giáo khác là sự pha trộn của tốt và xấu, sự thực và sai lầm, nhưng chúng có thể được dùng như là một phương tiện để cho chúng trở thành hoàn hảo trong Ki Tô Giáo. Do đó, sự chân thật trong các tôn giáo khác có thể là khởi điểm để làm cho những người ngoại đạo trở thành tín đồ Ki Tô Giáo... Đối thoại phải được hiểu như là coi nhau như bình đẳng, và không toan tính cải đạo người khác vào tôn giáo của mình. Tuy nhiên, sau khi xét kỹ những ấn phẩm mật của Bộ Ngoại Giáo Sự Vụ, sự đối thoại này thật đáng nghi ngờ. Nhiều bằng chứng chứng tỏ rằng trong sự đối thoại (của Vatican), sự hợp tác, cùng chung sức, hiểu biết lẫn nhau và thỏa hiệp không phải là những mục tiêu thật. Đó chỉ là những phương tiện hoặc chiến thuật để đạt những mục tiêu khác. Vatican có hai cơ quan, mỗi cơ quan có những trách nhiệm khác nhau. Một cơ quan là Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin có nhiệm vụ “Truyền Giáo” và
cơ quan kia là Bộ Ngoại Giáo Sự Vụ có nhiệm vụ “Đối Thoại”. Hiển nhiên là đối thoại không thay thế cho truyền giáo mà bổ túc cho truyền giáo. Đối thoại là phương tiện dọn đường cho truyền giáo, nó đi trước truyền giáo. Trong trường hợp có thể truyền giáo được ngay, phương pháp truyền giáo được dùng. Nhưng, nếu tình hình chưa sẵn sàng cho phép truyền giáo, đối thoại được sử dụng. Quý vị nào muốn biết về sự thật này thì hãy đọc kỹ những tài liệu đã có. Đối với những vị nào không có cơ hội đọc hết những tài liệu, những điểm quan trọng được trích dẫn sau đây sẽ giúp quý vị rất nhiều để làm sáng tỏ những mục đích thật sự của những hoạt động Ca-Tô. Hầu hết những tài liệu trích dẫn ở đây được viết bởi những giới cao cấp của Bộ Ngoại Giáo Sự Vụ, nghĩa là, Bộ Trưởng, Tổng Thư Ký và Phó Tổng Thư Ký. Do đó, chúng phải được coi như là chính sách chính thức và kế hoạch hành động của Giáo hội Ca-Tô. Vatican, tổng hành dinh của giáo hội Ca Tô, là một quốc gia độc lập, có chính phủ. Giáo hội Ca-Tô tại Thái Lan là thuộc hạ của Vatican. Muốn hiểu mọi điều liên quan đến Giáo hội Ca-Tô tại Thái Lan, chúng ta cần hiểu về mạng lưới hoạt động của Vatican. Đối thoại được đề xướng bởi những người Ca-Tô và họ là những người diễn xuất màn đối thoại, Phật tử là đối tượng của những hành động này và bị lừa dối để bị kéo vào cùng diễn xuất trong màn đối thoại. Chính là những người Ca Tô đã thay đổi những cách tiếp cận của họ trong khi tự bao giờ các Phật tử vẫn luôn luôn thân thiện. Lẽ dĩ nhiên là những diễn xuất viên Ca Tô phải sửa soạn trước với những ý tưởng, kế hoạch và nhân sự cho cuộc đối thoại. Trong trường hợp như vậy, Phật tử trở thành đối tượng của đối thoại. Nếu những mục đích bất lương, che dấu, đi kèm với đối thoại, chắc chắn Phật tử sẽ trở thành những nạn nhân. Một sắc thái quan trọng của đối thoại là sự hiểu biết lẫn nhau. Là những người khởi xướng, những người Ca-Tô đã nghiên cứu kỹ về Phật Giáo để sẵn sàng cho cuộc đối thoại. Họ biết về Phật Giáo rất rõ trước khi đối thoại. Trái lại, tuy các Phật tử đã nhận được sự thân thiện từ người Ca Tô và “liên tôn” với những người Ca Tô, có vẻ như họ không biết gì nhiều về người Ca Tô và những mục đích thật sự của chúng. Do đó, Phật tử cần phải tìm hiểu để có thể có được một sự hiểu biết lẫn nhau. Nếu thấy rằng trong cuộc đối thoại người Ca Tô có những động cơ kín đáo, chúng ta, các Phật tử, phải khuyến cáo họ hãy lương thiện, thẳng thắn và thành thật đối với chúng ta. Ít nhất, khi liên kết với ai, chúng ta nên biết người đó là ai, họ nhìn chúng ta ra sao, họ nghĩ về chúng ta như thế nào và họ muốn gì ở
chúng ta, để chúng ta có thể xử sự một cách khôn ngoan...Lao đầu vào một cuộc đối thoại mà không biết gì và thiếu hiểu biết, cái mà chúng ta được không thấm vào đâu so với cái mà chúng ta mất trong tương lai xa. Tất cả những tài liệu cho Giáo hội Ca Tô, từ Vatican cũng như tại Thái Lan, đều đưa đến kết luận là, đối thoại chỉ là một chiến thuật để thực hiện những kế hoạch của Giáo hội Ca-Tô để đồng hóa Phật Giáo vào Ki Tô Giáo. Âm mưu này có thực hiện được hay không còn tùy thuộc ở các Phật tử có ý thức được hay không những động cơ trong mối giao hệ với người Ca Tô và biết xử sự như thê nào trong mối giao hệ này. Điều này tùy thuộc ở nhận định của người Phật tử. Ở đây, chỉ có một số trích dẫn từ những tài liệu của Giáo hội Ca Tô được đưa ra cho độc giả tham khảo. Mục đích của cuốn sách này là khuyến cáo các Phật tử và thức tỉnh họ trước tình trạng hiện nay để , trước hết, họ có thể có những thái độ thích đáng trong cương vị của người đi tiếp cận hay người được tiếp cận. Thứ đến, nguy cơ sẽ đến với Phật Giáo nếu các Phật tử coi thường, không cập nhật, yếu và lơi là. Không bỏ buông, Phật Giáo không thể bị ai làm hại. Mọi nguy cơ, dù hiển lộ hay che dấu, cần phải được sử dụng làm động cơ thúc đẩy người Phật tử tự mình cải tiến trong việc tu học và hành trì ngõ hầu họ có thể tin ở Phật Pháp và hoạt động với lương tri để giúp mọi người có hạnh phúc. Cũng nên ghi là hiện nay, những giáo hội Tin Lành cũng đã thường sử dụng những chiến thuật và kỹ thuật tương tự của “Đối Thoại”. Qua tài liệu trên của Phật Giáo Thái Lan, chúng ta có thể rút ra những kinh nghiệm gì? Đối với người Việt Nam, chúng ta cần phải ý thức được rằng chiêu bài “đối thoại” hay “liên tôn” của Ca Tô Giáo Rô Ma chỉ là những bình phong chiêu dụ những người Phật tử nhẹ dạ, ngây thơ, kém hiểu biết, hám danh, lao đầu vào cái bẫy của Ca Tô Giáo Rô Ma mà không biết đến những âm mưu của họ trong chính sách xâm lăng văn hóa và tôn giáo Á Châu, cũng như không biết rằng mục đích chính của Ca Tô Giáo Rô Ma không phải là “đối thoại” hay “liên tôn” mà chỉ là những chiến thuật giai đoạn nhằm mục đích đồng hóa Phật Giáo vào Ki Tô Giáo. Cũng may, số Phật tử này không nhiều, không có uy tín trong quần chúng, thực chất chỉ là những con nội trùng kém đạo đức trong Phật Giáo, nên ảnh hưởng hay kết quả những cuộc hợp tác “đối thoại” hay “liên tôn” của họ với Ca Tô Giáo có thể nói là không đáng kể, không cần phải quan tâm. Tuy vậy, Phật tử cũng không nên vì thế mà
lơi là, không chịu tìm hiểu kỹ các vấn đề, áp dụng hạnh từ bi một cách thiếu sáng suốt, và để mặc cho Ca Tô Giáo tự tung tự tác trong sách lược cải đạo Á Châu. Thường thường chúng ta thấy một số chức sắc Ca Tô khởi xướng tiếp cận với một số lãnh đạo Phật Giáo chứ không có chuyện ngược lại. Mọi tiếp cận đều đi kèm với một mưu toan nào đó để có lợi cho giáo hội chứ không phải là thật lòng muốn đối thoại. Ví dụ có ông linh mục đến Thầy Mãn Giác và xin Thầy khuyên Trần Chung Ngọc không nên viết những bài “chống Công giáo” (sic), tưởng rằng Hòa Thượng cũng giống như Linh mục, và Phật tử cũng giống như giáo dân. Nguyễn Văn Trung cũng làm nhiều chuyến Mỹ du và Pháp du để tiếp xúc với một số cư sĩ Phật Giáo để tìm hiểu nội bộ Phật Giáo và tuyên truyền cho Ca Tô giáo, tiếp xúc với chị Nguyễn Mạnh Quang, người Công giáo, để làm áp lực với anh Nguyễn Mạnh Quang đừng viết thêm những tác phẩm “chống Công Giáo”, nhưng mưu toan này bị thất bại hoàn toàn vì chị Quang là người rất sáng suốt nên nghe nói đã cho ông Nguyễn Văn Trung một bài học vỡ lòng về sự lương thiện trí thức, tôn trọng sự thật, và ý nghĩa thực sự của cuộc đối thoại tôn giáo… Vạch trần âm mưu dùng “đối thoại” để truyền giáo và cải đạo Chúng ta cần phải vạch trần âm mưu dùng “đối thoại” để truyền giáo và cải đạo của Ki Tô Giáo cho quần chúng biết rõ, báo động nguy cơ xâm lăng của Ca Tô Giáo, và nhất là buộc những người Ca Tô phải lương thiện, thẳng thắn và thành thật đối với chúng ta qua những hành động cụ thể chứ không chỉ có trên đầu môi chót lưỡi hay trên mặt văn tự. Ví dụ, người Ca Tô ngày nay nói rằng họ có tinh thần dân tộc, hội nhập văn hóa dân tộc. Vậy hành động cụ thể của họ phải là từ bỏ tinh thần nô lệ Vatican, từ bỏ lệ thuộc Vatican về hành chánh cũng như về vấn đề tâm linh, vì thực chất Vatican là một ngoại bang, và tinh thần dân tộc Việt Nam là không bao giờ chịu nô lệ ngoại bang, và văn hóa Việt Nam thì không bao giờ có thể tương hợp với văn hóa Ca Tô. Trong một phần sau tôi sẽ bàn nhiều hơn về những vấn đề này. Bài Dẫn Nhập trong cuốn Âm Mưu Của Ca Tô Chống Phá Phật Giáo ở trên ghi là có những tài liệu trích dẫn từ những ấn phẩm mật của Vatican. Hiển nhiên ở đây tôi không thể nào kê ra hết những tài liệu trích dẫn đó mà chỉ có thể đưa ra một số trích dẫn điển hình để chúng ta thấy rõ sách lược truyền đạo của Vatican. Trong cuốn Âm Mưu Của Công Giáo Chống Phá Phật Giáo, những tài liệu trích dẫn
phần lớn là từ những Bản Tin (Bulletin) của Bộ Ngoại Giáo Sự Vụ, và được đánh số ví dụ như (1: 4-5) có nghĩa là từ Bản Tin Số 1, trang 4-5. Trước hết là một huấn thị từ Tổng Thư Ký Bộ Ngoại Giáo Sự Vụ P. Humbertclaude: Vì tất cả những việc của chúng ta phải được thi hành với sự thỏa thuận của các giám mục xứ và qua họ, một phương tiện tiếp xúc với họ (Bản Tin) là điều cần thiết. Đây là những nét đại cương: chúng sẽ được cải tiến cùng với kinh nghiệm và cùng với những đề nghị mà Bộ trông đợi từ nhiều người đọc Bản Tin của Bộ. (1: 3) Thật là rất quan trọng cho lợi ích chung cũng như cho tương lai của Bản Tin, mọi người phải ý thức được rằng đây là một ấn phẩm mật dành riêng cho các giám mục xứ và cho những cá nhân mà các giám mục hay Bộ đã chỉ định trong nhiệm vụ đối thoại. Nếu khi nào mà các giám mục xứ tin rằng cần phải in lại toàn phần hay một phần của bài nào hay văn kiện liên lạc nào họ có thể làm như vậy mà không được nêu xuất xứ. Vì đây là một ấn phẩm mật, không được thông báo cho báo chí.(1: 4-5) Đoạn (1: 3) chứng tỏ Vatican đã chỉ đạo đường hướng hoạt động của các giám mục địa phương và đường hướng này sẽ được thay đổi tùy theo tình hình địa phương qua hồi ứng của các giám mục địa phương. Đọc tiếp những tài liệu trích dẫn từ những Bản Tin mật của Vatican chúng ta thấy rõ Vatican đã chỉ thị cho các giám mục địa phương và mọi tín đồ Ca Tô phải nghiên cứu kỹ tình hình Phật Giáo và dân tình địa phương để từ đó Vatican sẽ hoạch định những kế hoạch xâm lăng văn hóa và tôn giáo thích ứng. Vậy thực chất các giáo hội địa phương chỉ là những ổ gián điệp nằm vùng trong các quốc gia phục vụ cho Vatican, một ngoại bang. Điều này chúng ta có thể thấy rõ ngay trong đoạn (1: 4-5) ở trên: Tại sao một Bản Tin liên lạc với các giám mục địa phương của Ca Tô Giáo, một “tôn giáo” tự coi là thiên khải, tông truyền v..v.. có nhiệm vụ mang “Tin Mừng” đến cho nhân loại, lại phải là một ấn phẩm mật mà các giám mục địa phương phải tuân hành mà không được tiết lộ xuất xứ, và phải dấu báo chí, nếu trong đó không có những kế hoạch truyền đạo bất chính mà Vatican không muốn cho các tôn giáo khác biết? Câu trả lời thật là rõ ràng: “Tin Mừng” của Ca Tô Giáo phải được rao truyền qua những phương tiện, thủ đoạn lắt léo, bất chính và “cấm ngoại thủy không ai được biết”. “Nói có sách, mách có chứng”, tôi không có nói vu vơ. Phần phân tích một số tài liệu mật của Vatican về sách lược cải đạo Á Châu sẽ chứng minh điều này. Trước hết là một nhận định tổng quát.
Những huấn thị viết trong các Bản Tin là một loạt những khẳng định vô trách nhiệm, kiêu căng vô lối, hỗn hào, láo xược, đối với các tôn giáo phi Ki-Tô, kèm theo những tiểu xảo hạ cấp để truyền đạo. Chúng ta hãy xét đoạn sau đây trong Bản Tin (Bulletin) số 7, trang 12: Một chiến thuật trong cuộc bút chiến là mô tả qua loa những sự phong phú (trong các tôn giáo phi Ki-Tô) nhưng sự công nhận những sự phong phú đó không được để cho những người ngoại đạo được hưởng. Do đó chúng ta phải công nhận giá trị theo nghĩa hòa nhập, vì tư tưởng Ki Tô Giáo là trên hết. Trích dẫn từ những người ngoại đạo phải được chọn dựa theo Thánh Kinh: những biểu tượng (của người ngoại đạo) phải được sửa đổi để đưa vào đó khuôn mặt của Giê-su; và sau cùng làm cho những lời lẽ của ngoại đạo sẽ mang ý nghĩa khác hẳn. Những tôn giáo ngoại đạo không có gì là quan trọng cho chính chúng, mà chỉ là cho những ốc đảo chân lý nhỏ bé có chứa trong chúng.. Xét về toàn thể, những tôn giáo và triết lý ngoại đạo chỉ là một đống những sai lầm. Chúng là kết quả của tội lỗi con người và sau cùng là của quỷ. Nhưng trong sự tối tăm đó cũng còn có lập lòe chút ánh sáng. Chính trong cái ánh sáng đó chúng ta phải khám phá ra thiện chí từ những người ngoại đạo và đoan chắc chân lý của Ki Tô Giáo, vì những mảnh chân lý đó đến từ đức Ki Tô. Những lời huênh hoang kiêu căng vô lối, và những lời hỗn hào, láo xược, xuyên tạc, mạ lỵ các tôn giáo phi-KiTô như trên, chỉ để tuyên truyền nhồi sọ cho đám tín đồ ngu dốt chứ đối với thế giới Tây phương và nhất là đối với giới trí thức hiểu biết, chính Ca Tô Giáo mới là một đống những sai lầm: sai lầm từ Thánh Kinh cho tới các tín lý Ca Tô, sai lầm từ nền Thần học Ki Tô Giáo cho đến những giáo lý của giáo hội Ca Tô, sai lầm từ đạo đức của các giáo hoàng xuống tới các linh mục v..v... Điều này chúng ta có thể chứng minh rất dễ dàng. Thật vậy, chân lý của Ki Tô Giáo là gì, nếu không phải là những niềm tin vào một Giê-su đã chết đi ba ngày rồi sống lại, bay lên trời, và quyền năng “cứu rỗi” của Giê-su trong ngày phán xét cuối cùng? Nhưng những niềm tin như trên ngày nay đã trở thành những điều mê tín của một thiểu số trên thế giới vẫn còn sống trong bóng tối của sự đần độn tâm linh, không theo kịp sự tiến bộ trí thức của nhân loại, do đó không biết rằng những niềm tin này đã bị đa số trên thế giới, kể cả các giới trí thức trong các giáo hội Ki Tô Giáo, vứt bỏ, vì chúng không còn một giá trị nào trước những bằng chứng trong khoa học về vũ trụ, về nguồn gốc con người, về sự bất khả hiện hữu của thiên đường và hỏa ngục v..v.. mà không ai ở trong cũng như ở ngoài Ki Tô Giáo có thể bác bỏ được.
Nhưng vấn đề ở đây không phải là những luận điệu thiếu văn hóa của Vatican như trên mà là thủ đoạn mượn, nói nôm na là ăn cắp, những điều hay trong các tôn giáo phi Ki Tô rồi biến đổi chúng thành của Ki Tô Giáo, một thủ đoạn không mấy lương thiện. Mặt khác, cùng trong Bản Tin số 7, trong một đoạn sau, trước tình hình tôn giáo hiện nay của thế giới, sự thay đổi trong sách lược truyền đạo được hoạch định như sau (7:15): Giáo hội không còn sống trong thời của những tổ phụ lập giáo. Trong những ngày đó giáo hội sống trong sự nở rộ trẻ trung; giáo hội công khai chứng tỏ những hứa hẹn của tương lai và sẵn sàng nhanh chóng chinh phục thế giới. Tình hình ngày nay đã khác. Những tôn giáo phi-KiTô góp chung lại thì có nhiều tín đồ hơn. Đối với tuyệt đại đa số các tôn giáo đó, có vẻ như giáo hội không còn là một sức mạnh trong tương lai. Đó là tại sao chúng ta phải từ bỏ ý tưởng tấn công trực diệnvà thay thế bằng đối thoại, và tìm ra những giá trị nội tại và những điều quý báu của mỗi giáo lý... Thay vì nghĩ về các tôn giáo khác như là một đống những sai lầm trong đó cũng có rải rác vài chân lý, chúng ta hãy nhìn trong các tôn giáo đó những công cụ đã giúp hàng triệu người tìm thấy Thiên Chúa và ngày nay vẫn còn tìm như vậy. Nếu chúng ta hiểu biết rõ hơn về phần vụ của những tôn giáo dân gian trong lịch sử tôn giáo thế giới thì điều này sẽ giúp chúng ta rất nhiều. Từ đó, nhiệm vụ truyền giáo đang được phát triển trong tầm nhìn rộng rãi hơn. Nó không còn là cải đạo cá nhân mà là, nói cho đúng ra, cải biến chính những nền văn hóa tôn giáo khác. Huấn thị cho các giám mục địa phương ở trên đã nói lên mục đích truyền đạo hay cải đạo Á Châu của Vatican là biến cải những nền văn hóa phi Ki Tô chứ không phải chỉ cải đạo cá nhân. Đây chính là sách lược xâm lăng văn hóa và tôn giáo Á Châu của Vatican. Đối với Việt Nam, đây là một hiểm họa có thực nếu Vatican có thể thực hiện được mưu đồ của mình. Cho nên, người Việt Nam chúng ta, nếu còn lòng yêu nước, yêu quê hương, còn tinh thần dân tộc thì bổn phận của mọi công dân là phải ý thức được hiểm họa này và phải ra sức ngăn chận âm mưu cải đạo Á Châu của Vatican. Để cho vấn đề rõ ràng hơn và cũng để cho người dân biết rõ hơn về kế hoạch xâm lược văn hóa và tôn giáo Á Châu của Vatican, sau đây tôi sẽ đi thêm vào một số chi tiết trong sách lược cải đạo Á Châu của Ca Tô Giáo Rô Ma và Tin Lành.
Thủ đoạn rất quen thuộc của Ca Tô và Tin Lành trong sách lược cải đạo Á Châu gồm hai mặt: tấn công và chống đỡ. Trong mặt tấn công, họ dựa trên cái gọi là “Thần học Ki Tô Giáo theo cung cách Á Châu”, lấy một số giáo lý của Phật giáo, xào xáo, thay đổi làm thành giáo điều của Ki Tô Giáo, đồng thời tung ra những bản văn xuyên tạc, hạ thấp Phật Giáo, mạ lỵ tăng đoàn, cố tình gây phản ứng trong Phật Giáo. Khi Phật Giáo phản ứng để phản bác thì họ giữ im lặng, lợi dụng bản tính hiền hòa và khoan nhượng tôn giáo của người dân Á Châu, đưa ra mặt chống đỡ, tạo trong quần chúng một ý tưởng là chính Phật Giáo là phe khởi xướng cuộc tranh chấp tôn giáo, gây chia rẽ, làm mất tình hòa hợp đoàn kết quốc gia. Ngoài ra, họ còn mua chuộc, hối lộ các chính quyền địa phương để ngăn chận sự phổ biến những tài liệu phản kháng, vạch trần âm mưu của họ, trong quần chúng. Thủ đoạn này đã thành công phần nào ở Thái Lan và ở Việt Nam. Người dân ít hiểu biết và ngay cả chính quyền cũng rất dễ bị lừa dối bởi thủ đoạn này, không nhận thức được bộ mặt thật của Ki Tô Giáo. Những mánh mưu và luận điệu tuyên truyền lừa bịp của họ không thể kể hết và phân tích trong phạm vi bài viết này. Ở đây tôi chỉ xin trích dẫn một tài liệu của Thái Lan để từ đó chúng ta có thể suy ra những kinh nghiệm cho Việt Nam, rồi tôi sẽ phân tích vài điểm cốt yếu nhất trong luận điệu tuyên truyền lừa bịp của Ca Tô và Tin Lành. Năm 1984, tuy chưa tới 1% dân Thái theo Ki Tô Giáo nhưng chính quyền Thái đã cho phép Giáo hoàng John Paul II đến Thái Lan viếng thăm tín đồ của ông. Sau Công Đồng Vatican II, Ca Tô Giáo Rô Ma mở chiến dịch truyền đạo ở Thái với nhiều thủ đoạn bất lương và bất chính. Trước tình hình như vậy, nhiều tổ chức Phật Giáo ở Thái Lan đã ra tuyên ngôn kèm theo bằng chứng, và viết thư phản đối gửi đến các chức sắc Ca Tô trong giáo hội Ca Tô tại Thái. Nhưng giáo hội Ca Tô tại đây ù lì, không có một biện pháp sửa sai nào. Cho nên, nhân dịp giáo hoàng sắp viếng thăm Thái Lan, nhiều tổ chức Phật giáo cũng như dân sự Thái Lan đã viết những bức thư ngỏ gửi giáo hoàng, trình bày và phản đối những hành động sai trái của Ca Tô giáo tại Thái Lan. Điển hình là Tỳ Kheo Sathienpong Wannapok đã viết một bức thư ngỏ gửi John Paul II. Đọc kỹ bức thư, và nếu chúng ta hiểu về lịch sử và bản chất của Ca Tô Giáo Rô Ma, thì đây vừa là một cái tát vào mặt Giáo hoàng, vừa là một bài học về đạo đức tôn giáo cho giáo hoàng, tuy lời văn khiêm tốn và nhẹ nhàng. Nguyên văn bức thư như sau:
THƯ NGỎ GỬI GIÁO HOÀNG JOHN PAUL II Ngày 10 tháng 5, 1984 Bangkok, Thái Lan Thưa Ngài, Đất nước này mà Ngài sẽ đến, quỳ xuống và hôn nó, là đất nước Phật Giáo, một đất nước mà nền độc lập của nó đã được những tổ tiên người Thái bảo vệ với mạng sống của mình, một đất nước chưa từng bị lấy làm thuộc địa. Ngay cả trong thời đại mà những thế lực thực dân Tây phương toan tính chiếm nó làm thuộc địa, quần chúng đã đoàn kết xung quanh Vua của họ và đã có thể bảo toàn được sự tự do của đất nước và Thái Lan đã không trở thành thuộc địa của những giống người hiếu chiến tự nhận là văn minh. Đất nước này là đất nước của hòa bình và an sinh. Dưới ảnh hưởng của giáo lý Phật Giáo, đất nước này chưa từng biết đến một cuộc “chiến tranh tôn giáo” nào dưới bất cứ hình thức nào, chưa từng làm đổ một giọt máu để bảo toàn quốc giáo. Điều này không thể có với các tôn giáo khác. Đức Phật đã truyền bá giáo lý của Người bằng những phương tiện hòa bình. Người dạy các đệ tử phải dùng thiện để thắng ác, thể hiện lòng từ bi đối với những người đang đau khổ trên thế giới và chỉ cho họ con đường chân thật để diệt khổ. Mọi đệ tử của Phật, với lòng từ bi và không mong ước một ân thưởng nào, đều vững tin là nhiệm vụ của mình là mang ánh sáng đến cho con người, dạy họ con đường thoát khổ và đạt chân hạnh phúc, nghĩa là Niết Bàn. Ra lệnh của các tôn giáo khác cho các nhà truyền giáo tiến lên và cải đạo các quốc gia vào đức tin của mình chưa bao giờ là động cơ thúc đẩy các nhà truyền giáo Phật Giáo. Chúng tôi, các Phật tử, vững tin là Phật Giáo thật thanh khiết. Phật giáo có đầy những lý lẽ thách đố những người có đầu óc. Phật giáo không cần đến tuyên truyền hay lùa bất cứ ai vào niềm tin của Phật giáo để tăng thêm số tín đồ như là một tôn giáo nào đó thường thèm khát tín đồ. Vì những lý do này, người dân Thái mà đất nước này là của họ đã bảo đảm tự do cho mọi tôn giáo và sự thuyết giảng giáo lý của tôn
giáo. Sự tự do lớn lao này đã có từ triều đại của Đại Đế Narai, khi mà các thừa sai đầu tiên đến Thái trong sự bao che của triều đình. Khi Giê-su Ki Tô dạy các đệ tử “Nếu ai tát các con má này thì hãy đưa nốt má kia ra”, ông ta đã cổ vũ sự sử dụng phương tiện hòa bình. Lẽ dĩ nhiên điều này phải được áp dụng trong sự truyền bá đạo của Ngài. Thật là đáng tiếc, ở đây, những tín đồ của Giê-su Ki-Tô, bằng những hành vi bất xứng, đã luôn luôn phản bội lời dạy tuyệt tác trên. Họ đã xảo quyệt nhận vơ những niềm tin, cách hành đạo, và lễ tiết của Phật Giáo là những niềm tin và hành đạo của Ki Tô Giáo. Họ đã cố ý và trắng trợn xuyên tạc những nguyên lý của Phật Pháp và chê bai Tam Bảo bằng cách nhận vơ là Tứ Diệu Đế và Lý Duyên Khởi của Đức Phật là được Thiên Chúa của họ mạc khải cho, do đó Đức Phật chỉ là một nhà tiên tri hay nô lệ của Thiên Chúa, được huấn thị để sửa soạn những người dân Á Đông vào Ki Tô Giáo hay sửa soạn con đường để cho con người theo Giê-su. Tôi không nghĩ là hành động vô đạo đức này lại bắt nguồn từ chính sách Đối Thoại và Truyền Giáo của Công Đồng Vatican II vì nó không được thân thiện cho sự sống chung hòa bình giữa các tôn giáo. Tôi hiểu rằng Ngài không biết đến cũng như không muốn tình trạng này xảy ra. Cùng sống với nhau như là bạn hay để có hòa bình thực sự trên thế giới, cần phải có sự lương thiện và thành thực hỗ tương, chứ không phải là đạo đức giả. Đất nước hòa bình này không muốn bất cứ ai, bất kể họ là người nào, miệng thì nói hòa bình nhưng những hành động thì lại làm nhơ bẩn dấu vết của nụ hôn trên đó.
* * * Phân tích tài liệu trên chúng ta có thể biết được vài điều về lịch sử và rút kinh nghiệm cho Việt Nam. Trước hết, Thái Lan bảo toàn được độc lập và tự do của đất nước là vì người dân đã đoàn kết xung quanh Vua của họ và đã thành công trong việc chống lại mưu toan thuộc địa hóa Thái Lan của các thế lực thực dân hiếu chiến Tây phương.
Trông người lại nghĩ đến ta, trong bài Thiên Hạ Đại Thế Luận, tên tay sai đắc lực của Pháp là Nguyễn Trường Tộ đã xuyên tạc lịch sử, hù dọa vua quan ta bằng lời tâng bốc các nước phương Tây sai sự thực lịch sử “Ngày nay các nước phương Tây đã bao chiếm suốt từ Tây Nam cho đến Đông Bắc, toàn lãnh thổ ...Xiêm La (Thái Lan)... Cao Ly (Hàn quốc), Nhật Bản, Trung Quốc....”, và những tài liệu lịch sử ngày nay đã chứng tỏ một sự kiện bất khả phủ bác là “Không có sự tiếp tay và phản bội của giáo dân Việt Nam thì nước Pháp không thể chiếm được Việt Nam làm thuộc địa.”. Thật vậy, chính giám mục Puginier đã nói rõ hơn ai hết vai trò phản quốc của giáo dân Việt Nam như sau, được trích dẫn trong cuốn Catholicisme et Sociétes Asiatiquescủa Alain Forrest và Yoshiharu Tsuboi: "Giám Mục Puginier viết rằng: "Không có các thừa sai và giáo dân Ki Tô Giáo thì người Pháp cũng giống như những con cua đã bị bẻ gẫy hết càng. Thí dụ như vậy, tuy tầm thường mộc mạc nhưng không kém phần chính xác và mạnh mẽ. Thật vậy, không có các thừa sai và giáo dân Ki Tô Giáo, người Pháp sẽ bị bao vây bởi toàn là kẻ thù; họ sẽ không thể tin cậy vào một ai; họ sẽ chỉ nhận được những tin tức tình báo sai lầm, cung cấp với ác ý để phá hoại tình thế của họ; họ sẽ bị đẩy vào tình trạng không thể hoạt động được gì và sẽ phải hứng chịu những thảm họa thực sự một cách nhanh chóng. Địa vị của họ ở đây sẽ không giữ nổi được nữa, và họ sẽ bị buộc phải rời khỏi xứ, nơi đây quyền lợi và ngay cả sự hiện diện của họ sẽ bị nguy hại." Đây là một vết nhơ không bao giờ có thể rửa sạch trên khuôn mặt của giáo hội Ca Tô hoàn vũ nói chung, giáo hội Ca Tô Việt Nam nói riêng. Vì lời thú nhận của giám mục Puginier ở trên đã vạch trần vai trò gián điệp thực dân của các thừa sai Tây phương và vai trò phản quốc của giáo dân Việt Nam trên đất nước Việt Nam. [Độc giả có thể đọc thêm nhiều chi tiết về sự hỗ trợ quân xâm lăng Pháp của giáo dân Việt Nam trong những cuốn Đạo Thiên Chúa Và Chủ Nghĩa Thực Dân Tại Việt Nam của Cao Huy Thuần; Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp ở Việt Nam (1858-1897) của Nguyễn Xuân Thọ; Thập Giá Và Lưỡi Gươm của Linh Mục Trần Tam Tĩnh; The Vietnam Response To French Intervention: 1862-1874 của Mark W. McLeod; Vietnam’s Will To Live của Helen Lamb; Catholic Imperialism Against The Asiatic Continent của Avro Manhattan;French Catholic Missionaries And The Politics Of Imperialism In Vietnam, 1874-1914 của Patrick J. N. Tuck; AnnamTonkin 1885-1896 của Charles Fourniaux v..v..].
Cũng như lịch sử đen tối của Ca Tô Giáo Rô Ma vẫn muôn đời tồn tại trong lịch sử loài người dù gần đây giáo hoàng đã công khai xưng thú 7 núi tội lỗi của giáo hội, lịch sử ô nhục của giáo dân Việt Nam tiếp tay với thực dân Pháp để đưa đất nước vào vòng thuộc địa của Pháp cũng sẽ muôn đời tồn tại trong lịch sử Việt Nam, bất kể là giáo hội Ca Tô Việt Nam có xưng tội với với nhân dân Việt Nam hay không. Nếu giáo hoàng John XXIII đã thú nhận dấu ấn của Cain đã in đậm trên trán của giáo hội sau vụ Hitler, một tín đồ Ca Tô, giết 6 triệu người Do Thái, thì chúng ta có thể nói dấu ấn của Cain cũng đã in trên trán của giáo hội Ca Tô Việt Nam mà không sợ sai lầm. Thứ đến, qua vài đoạn văn ngắn ngủi mô tả đức tính hòa bình và khoan nhượng của Phật Giáo, Tỳ kheo Sathienpong Wannapok đã chứng tỏ là những sắc thái này đối ngược với lịch sử đẫm máu và ô nhục của Ca Tô Giáo trong sách lược truyền đạo. Tuy Ngài không viết thẳng ra nhưng một độc giả có đôi chút kiến thức về lịch sử tàn bạo của Ca Tô Giáo Rô Ma đều hiểu Ngài muốn viết gì qua lối hành văn đối chiếu, nêu lên những trái ngược giữa hai tôn giáo. Trong thư ngỏ gửi giáo hoàng mà Ngài viết “Phật Giáo chưa hề làm đổ một giọt máu để truyền đạo” hay “Phật Giáo không hề có một cuộc chiến tranh tôn giáo nào” hay “Phật giáo không cần phải tuyên truyền hay lùa thêm tín đồ vào Phật giáo” v..v.. thì chúng ta phải hiểu là Ngài muốn nhắc lại cho Giáo hoàng là “đạo của ông đã làm đổ rất nhiều máu trong khi truyền đạo”, “đạo của ông đã gây ra nhiều cuộc chiến tranh tôn giáo” , và “đạo của ông chỉ muốn kiếm thêm tín đồ bằng tuyên truyền và những thủ đoạn bất chính” v..v.. Nhắc để làm gì? Để chứng tỏ là bản chất của đạo Ca Tô là như vậy, ông không thể che dấu được ai trong thời đại này, và với lòng từ bi của một Tỳ Kheo thì đó là với hi vọng có thể khai sáng, chuyển hóa tâm tư của giáo hoàng để cho Giáo hoàng có thể trở thành lương thiện hơn trong sách lược truyền đạo của Vatican. Câu cuối cùng trong thư ngỏ nói thẳng là nụ hôn của giáo hoàng trên đất Thái chỉ làm nhơ bẩn đất nước Thái ra mà thôi. Trong thư ngỏ, Tỳ kheo Sathienpong Wannapok chỉ nhắc sơ vài luận điệu thần học ma giáo của Ca Tô Giáo với mục đích xuyên tạc và hạ thấp Phật Giáo. Trong bài Nhận Định Bản Tông Huấn ở trên, tác giả Ngô Triệu Lịch đã phân tích kỹ những luận điệu ma giáo đó. Ở đây, tôi chỉ phân tích đoạn văn trong thư ngỏ:
Họ đã cố ý và trắng trợn xuyên tạc những nguyên lý của Phật Pháp và chê bai Tam Bảo bằng cách nhận vơ là Tứ Diệu Đế và Lý Duyên Khởi của Đức Phật là được Thiên Chúa của họ mạc khải cho, do đó Đức Phật chỉ là một nhà tiên tri hay nô lệ của Thiên Chúa, được huấn thị để sửa soạn những người dân Á Đông vào Ki Tô Giáo hay sửa soạn con đường để cho con người theo Giê-su. Luận điệu “Đức Phật chỉ là một tiên tri (Ca Tô giáo dùng từ “Ngôn sứ”) được Thiên Chúa mạc khải v..v..” chỉ có thể lừa bịp được những đầu óc kém hiểu biết. Đối với giới trí thức có đôi chút hiểu biết về Ki Tô Giáo và Phật Giáo thì đó là một luận điệu hoang đường, lố bịch và ấu trĩ chưa từng thấy. Chứng minh? Thứ nhất, một trong 10 danh hiệu của Đức Phật là “Thiên Nhân Sư”, nghĩa là bậc Thầy của Thiên Chúa và con người. Trong xã hội loài người có cả trăm Thiên Chúa khác nhau. Thiên Chúa của Ki Tô Giáo chỉ là một trong số hàng trăm Thiên Chúa này. [Xin đọc The History of God của Karen Armstrong; A World Full of Gods của Keith Hopkins; In God We Trust: But Which One? của Judith Hayes; Mythology’s Last Gods: Yahweh and Jesus của William Harwood; The Dark Side of God của Douglas Lockhart v..v..] Nếu Đức Phật đã được tôn là bậc Thầy của các Thiên Chúa thì không thể nào lại là “ngôn sứ” của một Thiên Chúa, Thiên Chúa của Ki Tô Giáo. Ắt hẳn sẽ có người cho rằng sự tôn vinh Đức Phật như trên là của các Phật tử ca tụng giáo chủ của mình, cũng như tín đồ của các tôn giáo khác tôn vinh giáo chủ của họ, chứ không phải là sự thật. Không hẳn vậy. Vì chúng ta có thể thấy rõ vấn đề khi chúng ta đọc những lời Phật dạy trong ba tạng Kinh Luật Luận của Phật Giáo và những lời của Thiên Chúa Ki Tô Giáo trong Cựu Ước. Chúng ta thấy gì? Suốt trong ba tạng Kinh Luật Luận của Phật Giáo chúng ta chỉ thấy những giáo lý, từ dễ hiểu cho tới cao siêu, với mục đích hướng dẫn con người hướng thiện và hướng thượng để đạt tới giải thoát cho chính mình. Chúng ta không hề thấy một lời nói ác độc, một chuyện dâm ô, loạn luân, hay một chuyện giết người tàn bạo nào. Trái lại trong Cựu Ước, theo niềm tin Ki Tô Giáo thì đó là những lời mạc khải của Thiên Chúa Ki Tô Giáo, quá nửa là những chuyện giết người tàn bạo, ác độc, trả thù, dâm ô, loạn luân nhiều khi thủ phạm lại chính là Thiên Chúa của Ki Tô Giáo. Vậy bằng cách nào mà một Thiên Chúa tàn bạo, ác độc, khát máu, vô đạo đức như được mô tả trong Cựu
Ước lại có thể mạc khải cho một bậc từ bi như Đức Phật mà giáo lý của Người, chúng ta đã biết, hoàn toàn trái ngược với những lời mạc khải của Thiên Chúa trong Thánh Kinh? Cho nên, danh hiệu “Thiên Nhân Sư” của Đức Phật hoàn toàn đúng, vì bậc Thầy như Đức Phật là bậc đạo đức cao cả, trí tuệ thông suốt, để cho chúng sinh lấy đó làm tấm gương soi vào để noi theo. Còn Thiên Chúa của Ki Tô giáo chỉ là đối tượng của một đức tin không cần biết không cần hiểu, cho nên bản chất không khác gì thần hà bá, thần cây đa, thần bình vôi v..v.. Nhưng chúng ta nên hiểu rằng, bậc Thầy dạy giáo lý, đạo đức v..v.. là một chuyện, mà chúng sinh, gồm có Thiên Chúa và con người, có theo được những lời dạy của Đức Phật hay không lại là chuyện khác. Tất cả đều tùy thuộc căn trí và duyên của Thiên Chúa cũng như của con người. Đối với những nhà truyền giáo nói lên luận điệu thần học ma giáo để hạ thấp Đức Phật như trên, chúng ta chỉ cần đặt trước mặt họ cuốn Thánh Kinh của Ki Tô Giáo và bất cứ cuốn Kinh Phật nào rồi bảo họ hãy giải thích sự trái ngược về luân lý và đạo đức chứa trong hai cuốn sách trên, và hãy so sánh tư cách, trí tuệ của Đức Phật với tư cách và trí tuệ của Thiên Chúa trong Thánh Kinh. Mặt khác, chúng ta không nên quên, cuối thế kỷ 19, Robert G. Ingersoll, Ingersoll The Magnificent (Lewis, p. 110) đã đưa ra nhận định sau đây về Ki Tô Giáo và Thiên Chúa của họ: "Nếu Ki Tô Giáo chỉ ngu đần và phản khoa học, nếu Thượng Đế của Ki Tô Giáo chỉ dốt nát và có lòng tốt, nếu Ki Tô Giáo hứa hẹn cho các tín đồ một sự hỉ lạc vĩnh hằng, và nếu các tín đồ thực hành hạnh tha thứ mà Ki Tô giáo răn dạy, thì tôi là người chẳng đụng gì đến tín ngưỡng của họ. Nhưng Ki Tô Giáo còn có một mặt khác. Tôn giáo này không chỉ ngu đần mà còn lắt léo, không chỉ phản khoa học mà còn vô nhân tính. Thượng đế của tôn giáo này không chỉ dốt nát mà còn vô cùng ác độc. Tôn giáo này không chỉ hứa hẹn cho tín đồ một phần thưởng vĩnh hằng mà còn khẳng định rằng hầu hết mọi người (không phải là tín đồ. TCN) đều bị giam cầm trong những tòa hình ngục của Thượng đế và sẽ bị vĩnh viễn đau đớn. Đó là sự man rợ của Ki Tô Giáo." Vậy chúng ta hãy tự hỏi, một Thiên Chúa như vậy có thể nào lại là đấng “mạc khải” cho Đức Phật, một vĩ nhân của nhân loại mà tư cách và đạo đức đã được cả thế giới tôn sùng, khoan nói đến chuyện
vượt xa Thiên Chúa cũng như Giê-su trong Thánh Kinh, và một tôn giáo như Ki Tô Giáo có đáng để cho chúng ta chui đầu vào làm nô lệ cho một đám người gian manh, vô cùng bất lương trong sách lược truyền đạo? Thứ nhì, mọi luận điệu thần học của Ca Tô Giáo dùng để truyền đạo đều dựa trên một giả định (assumption) là Thiên Chúa của Ki Tô Giáo hiện hữu. Họ đưa ra lý luận là “Nếu không ai chứng minh được Thiên Chúa của họ không hiện hữu tất nhiên Thiên Chúa của họ phải hiện hữu”. Lý luận này ngớ ngẩn vì việc chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa là việc của những người tin rằng có Thiên Chúa. Tôi không tin có Thiên Chúa thì việc gì tôi phải chứng minh là không có Thiên Chúa. Nếu ông muốn tôi tin là có Thiên Chúa thì hãy chứng minh cho tôi là Thiên Chúa thực sự hiện hữu. Điều này chưa có một nhà thần học nào hay một chức sắc Ki Tô Giáo nào làm được và họ chỉ có thể dạy những người trong óc thiếu neuron là hãy cứ tin vào những điều không đáng tin. Trong một phần trên, tôi đã đưa ra vài tài liệu cập nhật nhất của giới trí thức Tây phương về nền thần học Ki Tô Giáo: đó là một nền thần học không có chủ đề, những nhà thần học không biết là mình nói cái gì, và John Remsburg đã cho rằng “Đối với giới trí thức, nền thần học Ki Tô Giáo trên thực tế đã chết”. Thật vậy, tất cả những luận cứ thần học của Ki Tô Giáo để biện minh cho sự hiện hữu của một Thiên Chúa sáng tạo như được viết trong Thánh Kinh ngày nay đã bị phủ bác dứt khoát. Chúng ta có thể kể những luận cứ thần học về Bản Thể (Ontological argument) của Anselm, Thomas Aquinas, René Descartes; về vũ trụ (Cosmological argument) của Thomas Aquinas; về Cứu Cánh (Teleological argument hay Design argument) của William Paley; về đạo đức (Moral argument) của Hastings Rashdall v..v.. Tất cả những luận cứ thần học trên đã không còn chỗ đứng trong giới trí thức Tây phương và sự hiện hữu của một Thiên Chúa của Ki Tô Giáo chỉ còn sót lại trong những đầu óc không đội trời chung với khoa học, triết lý, và lý trí. Kết luận, luận cứ thần học của Ca Tô Giáo trong mưu toan hạ thấp Đức Phật xuống hàng ngôn sứ của Thiên Chúa là một luận cứ lố bịch, lừa bịp những kẻ ngu dốt, có thể xếp vào loại những luận cứ ma giáo của Ca Tô Giáo, không có một căn bản thuyết phục nào. Thứ ba, nói rằng giáo lý của Đức Phật là để sửa soạn cho dân Á Châu tiếp nhận vai trò cứu rỗi của Giê-su, đấng cứu thế, là nói càn,
nói ẩu, thuộc loại “cưỡng từ, đoạt lý”. Vì đạo Phật là đạo của trí tuệ. Kinh Phật thuyết cho người dân Kalama đã bác bỏ dứt khoát mọi sự tin nhảm nhí, tin bướng tin càn, tin mà không hiểu, tin mà không thể chứng nghiệm vào chính bản thân ngay khi còn sống. Trái lại, đạo Giêsu là đạo của đức tin, tin mà không cần biết không cần hiểu, như ông trí thức Ca Tô Đỗ Mạnh Tri đã khẳng định trong cuốn Ngón Tay và Mặt Trăng. Đạo Giê-su là đạo dựa trên một tín lý ác ôn, vô nghĩa và hoang đường: “Ai tin Giê-su thì sẽ được Giê su cứu rỗi, lẽ dĩ nhiên sau khi chết, cho lên thiên đường (mù), còn ai không tin sẽ bị đày hỏa ngục (ma) vĩnh viễn”. Vậy theo lý luận thần học của Ki Tô Giáo, Đức Phật sửa soạn cho dân Á Châu đi giật lùi, đi từ lý trí xuống phi lý trí, đi từ tự tu tự chứng xuống hàng tin bướng tin càn hay sao? Điều này không thể có được và người con Phật không bao giờ chấp nhận chiều hướng tụt hậu, làm mất phẩm giá con người, đi giật lùi này. Thật ra, những luận điệu thần học ma giáo ở trên chỉ là sản phẩm diễn giải lắt léo của những đầu óc bệnh hoạn, cuồng tín, hạ căn chứ không hề có xuất xứ từ Thánh Kinh. Không ai có thể tìm thấy trong Thánh Kinh bất cứ một chi tiết nào nói về sự mạc khải của Thiên Chúa, nếu thực sự có một Thiên Chúa, cho Đức Phật. Nhưng vấn đề ở đây là những luận điệu thần học lắt léo ma giáo đó chỉ có thể lừa bịp được đám dân ít học chứ chúng vô dụng đối với những người có đôi chút hiểu biết. Mặt khác, nếu chúng ta nghiên cứu kỹ về Ki Tô Giáo thì chúng ta sẽ thấy không có gì là của Ki Tô Giáo cả, tất cả chỉ là vay mượn, bắt chước, xào xáo những niềm tin hay giáo lý đã có trong dân gian làm của riêng cho Ki Tô Giáo. Chúng ta hãy đọc tài liệu sau đây của Linh Mục Kirati Boonchua, giáo sư triết tại đại học Chulalongkorn, Thái Lan: Niềm Hãnh Diện Của Ki Tô Giáo: Sao Chép Và Mô Phỏng “Cho đến bây giờ (1985), không ai thật sự biết đúng ngày sinh và ngày chết của Giê-su. Tất cả chỉ là đoán mò. [Ngô Triệu Lịch đã gọi nền thần học Ki Tô Giáo là nền thần học đoán mò]. Ngày sinh vào 25 tháng 12 là lấy của người La Mã. Người La mã ăn mừng ngày sinh của Thần Mặt Trời vào ngày 25 tháng 12. [Thật ra, dây không phải là ngày lễ riêng của dân La Mã mà là ngày mà nhiều nơi trong dân gian cổ xưa ăn mừng ngày bắt đầu lại dài ra sau một mùa Đông mà họ thấy ngày cứ ngắn dần và lo sợ không còn ánh sáng mặt trời nữa]. Ki Tô Giáo không có cái gì là của mình cả. Ki Tô Giáo chỉ có thể sao chép và mô
phỏng các tôn giáo khác. Điều này có đáng xấu hổ không? Tại sao Ki Tô Giáo lại phải xấu hổ?.. Hơn nữa, Giê-su cũng không có một hệ thống giáo lý của chính mình. Giê-su mô phỏng những điều trong Cựu Ước. Giê-su không thiết lập một hệ thống triết lý, nghệ thuật và ngôn ngữ chính thức cho Ki Tô Giáo. Do đó, Ki Tô Giáo không hề có một hệ thống triết lý, nghệ thuật và ngôn ngữ chính thức của Ki Tô Giáo để có thể phô trương trước các tôn giáo khác. Chưa bao giờ có được một cái gì thực sự là của chính mình, đó là điều duy nhất mà Ki Tô Giáo có thể phô trương. Chúng ta, những tín đồ Ca Tô, hân hoan chấp nhận là triết lý, nghệ thuật và ngôn ngữ chính thức của chúng ta ngày nay đều là sao chép và mô phỏng từ ngôn ngữ và văn hóa của những miền đất mà Ki Tô Giáo nảy nở trong đó. Chúng ta, những tín đồ Ca Tô, là những chuyên gia về kỹ thuật xảo trá...” Linh mục Kirati Boonchua nói thật hay nói chơi? Chúng ta hãy đọc đoạn sau đây trong Bản Tin số 10 (Bulletin No 10, pp. 25-27) của Vatican: “Trong những xứ Phật Giáo, để khoác bộ áo văn hóa bản
địa, giáo hội có thể và phải lấy những điều hay trong truyền thống Phật giáo và biến đổi chúng, cho chúng một ý nghĩa của Ki Tô Giáo để có thể áp dụng chúng vào đời sống của những tín đồ của KiTô.” Lấy cái hay của người khác để dùng cho mình là điều ai cũng nên làm. Nhưng dùng kỹ xảo biến đổi nó đi và nhận là của mình thì đó là trò ăn cắp ma giáo, bất lương trí thức, và chỉ có một tôn giáo như Ca Tô Giáo mới có thể làm như vậy trong suốt chiều dài lịch sử của tôn giáo này. Một thí dụ điển hình của trò ma giáo này nằm trong Bản Tin số 10 trên: “Toàn thể Phật Giáo đặt căn bản trên Tứ Diệu Đế: Khổ,
Nguồn gốc của Khổ, Diệt Khổ và Thoát Khổ (Khổ,Tập, Diệt, Đạo). Tại sao sự truyền bá Phúc âm của Ki-Tô không thể cũng được thâu tóm trong bốn chân lý trên? Sự khổ chân thật của con người là tội. Giê-su đến để giải thoát con người khỏi khổ –tội. “ Chúng ta thấy ngay thủ đoạn xảo trá và bất lương của Ca Tô Giáo Rô Ma trong đoạn trên: xuyên tạc ý nghĩa của Tứ Diệu Đế, nghĩa là bốn chân lý chân thật của Phật Giáo, và biến đổi chúng thành ra hai điều mê tín hoang đường cho người Ca Tô. Bốn chân lý cao thượng của
Phật Giáo có tính phổ quát mà mọi người chúng ta có thể chiêm nghiệm hàng ngày. Trong bài đầu, Tỳ Kheo Thích Nhật Từ, Tiến sĩ Phật học, đã vạch trần sự xuyên tạc của Mục sư Tống Tuyền Thịnh về ý nghĩa của “Khổ” trong Phật Giáo. Quan niệm về “Khổ” trong Phật Giáo không dính dáng gì đến cái gọi là “Tội” của Ki Tô Giáo, nhất lại là cái tội tổ tông hoang đường của Ki Tô Giáo mà một Giê-su hoang đường đã chuộc tội một cách hoang đường, trèo lên cây thập giá để cho người ta đóng đinh. Còn nếu tội là tội thế gian như giáo hoàng loạn luân, linh mục hiếp dâm, nữ tu hành hạ trẻ em v..v.. trong lịch sử Ca Tô Giáo thì nếu Giê-su đến để giải thoát, nếu một người chết cách đây đã 2000 năm thực sự có thể giải thoát những tội đó cho những người sống, cho tín đồ những tội đó thì ai muốn tin cứ việc tin. Riêng tôi, tôi không thể chấp nhận cái luận điệu quái gở, vô đạo đức đó. Với những sách lược và thủ đoạn ma giáo nằm trong những Bản Tin của Vatican mà tôi đã trích dẫn một phần nhỏ ở trên, nay chúng ta đã hiểu tại sao những Bản Tin của Vatican lại được lệnh phải giữ “mật, không được nêu xuất xứ, và không được phổ biến cho báo chí.” * VÀI LỜI KẾT Ngày nay, Ki Tô Giáo, dựa vào thế lực của các cường quốc Âu Mỹ, và nấp sau những chiêu bài như “đối thọai”, “hòa hợp tôn giáo”, “tự do dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do tôn giáo” để thúc đẩy chương trình bành trướng cải đạo Á Châu, một lục địa đông dân và tài nguyên phong phú. Không còn mấy giá trị đối với giới trí thức hiểu biết, mất dần ảnh hưởng trong những quốc gia văn minh tiến bộ, Ki Tô Giáo phải tìm đất sống ở những nơi tình trạng xã hội chưa ổn định, dân trí còn kém mở mang, và dân chúng còn nghèo khó, còn chịu nhiều bất công xã hội. Á Châu là miếng mồi ngon nhất, thích hợp nhất, từ đó nền “Thần học Ki Tô Giáo theo cung cách Á Châu” đã được đề xướng để thực hiện âm mưu xâm lăng văn hóa và tôn giáo Á Châu của Ki Tô Giáo. Âm mưu này có thành tựu hay không, tất cả tùy thuộc chính sách giáo dục và tôn giáo của các chính quyền địa phương ở Á Châu.
Qua sự phân tích những chủ đề trong cuốn sách này, chúng ta đã biết rõ thực chất của cái gọi là “Thần học Ki Tô Giáo theo cung cách Á Châu” là như thế nào. Đó chẳng qua chỉ là một tập hợp những thủ đoạn truyền đạo xảo quyệt, bất chính, bất lương trí thức của những tổ chức thế tục mang danh tôn giáo. Cho nên chúng ta không lấy gì làm lạ trước những phản ứng của Á Châu để đối phó với sách lược Cải Đạo Á Châu của Ki Tô Giáo. Chúng ta đã biết ít nhiều về phản ứng của dân Thái Lan và Ấn Độ. Chúng ta cũng đã biết, Trung Quốc, Đài Loan, Sri Lanka, và Việt Nam đã từ chối, không chấp thuận lời xin của giáo hoàng John Paul II tới viếng thăm tín đồ trong các quốc gia này mà ai cũng biết mục đích là khuyến khích sự cuồng tín của các tín đồ, ngầm xúi họ gây loạn và xáo trộn trong những xã hội này qua lời dạy “đừng sợ”. Xin quý độc giả hãy tìm đọc cuốn Tôn Giáo Đối Chiếu, Tập III, của Trần Văn Kha, mới xuất bản tháng 2, 2003, trong đó có bài phỏng vấn Bác Sĩ David Frawley, một cựu tín đồ Ca Tô, để biết về quan điểm rất chính xác của ông về thực chất sách lược cải đạo Á Châu của Ca Tô Giáo là như thế nào. Vấn đề của chúng ta ngày nay là phải xét xem giáo hội Ca Tô có thể làm được những gì với sách lược Cải Đạo Á Châu trong tương lai, và sách lược này có ảnh hưởng gì đến đất nước Việt Nam. Sách lược của giáo hội Ca-Tô cũng như Tin Lành, chúng ta đã rõ, do đó chúng ta cần có những biện pháp đối phó. Tại sao lại phải đối phó? Bởi vì KiTô giáo chưa hề thay đổi trong sách lược truyền đạo, và sách lược này luôn luôn xúc phạm đến các tôn giáo và các nền văn hóa truyền thống địa phương, như chúng ta đã thấy trong những phần phân tích ở trên. Ki Tô giáo không thể chấp nhận ý tưởng hòa hợp tôn giáo theo quan niệm đa tôn giáo bình đẳng trên thế giới. Đây là một thái độ nguy hiểm, phương hại đến nền hòa bình thế giới. Sau đây chúng ta hãy đi thẳng vào vấn đề. Một thủ đoạn trong sách lược Cải Đạo Á Châu, như chúng ta đã biết, là dùng chiêu bài “đối thoại” và “tự do tôn giáo”, “hòa hợp tôn giáo” mà thực chất chỉ là những bình phong che đậy những âm mưu đen tối đàng sau. Ngay từ Công Đồng Vatican II,Giám Mục Emile de Smedt, phát ngôn viên của ủy ban soạn về đề mục tự do tôn giáo, đã đưa ra khuyến cáo về chính sách “đối thoại”, “tự do tôn giáo”, “hòa hợp tôn giáo” chỉ có trên mặt văn tự của Vatican trước Công đồng linh mục ngày 19 tháng 11 năm 1963 như sau:
"Nhiều người phi-Ca-Tô đã nuôi sự thù ghét đối với giáo hội, hay ít ra cũng nghi ngờ đó là một loại chủ thuyết Machiavelli (nghĩa là chỉ cần đạt được mục đích bất kể đạo đức. TCN), vì đối với họ chúng ta có vẻ như là khi ở thế thiểu số trong quốc gia nào thì chúng ta đòi hỏi phải được tự do tôn giáo nhưng cùng lúc lại từ chối hay tước bỏ cùng sự tự do tôn giáo đó của họ nếu chúng ta ở thế đa số. Tại sao lại nói đến đối thoại với các người Ki-Tô khác, với người Do Thái, với tất cả những người phi-Ki-Tô (non-Christians) khi thực ra về lý thuyết cũng như thực hành, giáo hội Ca Tô Rô Ma không tôn trọng tự do của những người phi-Ca-Tô. Bất cứ kế hoạch hòa hợp tôn giáo nào của giáo hội Ca Tô cũng sẽ hoàn toàn vô hiệu quả và hoàn toàn vô nghĩa trừ phi giáo hội tuyên bố rõ ràng và với thẩm quyền rằng giáo hội sẽ tôn trọng sự tự do của các tín ngưỡng khác, dù rằng giáo hội có quyền hành hay cơ hội có thể làm khác, và rằng giáo hội phải dựa trên căn bản tự do tôn giáo, lên án sự bất khoan dung, bách hại và kỳ thị ." Tuy nhiên, trong mấy chục năm qua, Vatican vẫn theo đuổi chính sách xâm lăng văn hóa và tôn giáo trên toàn thế giới, đặc biệt là ở Á Châu và Phi Châu, qua những thủ đoạn không được lương thiện như đã được trình bày trong các phần trên. Nhưng tà không bao giờ có thể thắng được chánh, cho nên dù với tiền rừng bạc bể, với những đám tín đồ bản địa cuồng tín, với những phương tiện truyền thông rồi rào, tất cả những kế hoạch Cải Đạo Á Châu của Vatican cũng sẽ vô hiệu quả và trở thành hoàn toàn vô nghĩa, như giám mục Emile de Smedt đã báo động ở trên. Tuy những kế hoạch Cải Đạo Á Châu của Ca Tô Giáo không có mấy hi vọng thành tựu, nhưng chúng ta không thể lơ là, coi thường những thủ đoạn của Giáo hội Ca Tô. Chúng ta không thể áp dụng hạnh từ bi một cách sai lầm theo nghĩa chỉ biết tụng Kinh niệm Phật, ngồi hít vào thở ra, tìm sự an lạc cho riêng mình, và để mặc cho Ca Tô Giáo tự do hoành hành, nô lệ hóa đầu óc người dân Việt, kéo người dân Việt xuống hàng súc vật (con chiên). Tinh thần Đại Thừa, Phật Giáo nhập thế ngày nay không cho phép chúng ta có thái độ như vậy khi chúng ta còn có nhiệm vụ đối với quốc gia dân tộc, nhiệm vụ bảo vệ nền văn hóa và tôn giáo dân tộc, nghĩa là Phật Giáo. Tôn giáo dân tộc nên hiểu là tôn giáo của tuyệt đại đa số người dân trong một quốc gia chứ không phải là tôn giáo duy nhất được chính thức công nhận trong quốc gia đó. Thí dụ, Ki Tô Giáo được coi là tôn giáo dân tộc của Mỹ tuy chỉ có khoảng 80% người Mỹ theo Ki Tô Giáo, trong đó có 25% là Ca
Tô. Tuy vậy trên khắp nước Mỹ chúng ta thấy đầy dẫy những khẩu hiệu như “In God We Trust” hay “God Bless America” v..v.. Do đó, ở Việt Nam, phổ biến những biểu tượng của Phật Giáo như Hoa Sen, Cờ Phật Giáo, Chuyển Pháp Luân v..v.. đều không có gì là trái với lẽ thông thường và không có nghĩa Phật Giáo là tôn giáo duy nhất ở Việt Nam. Từ là cho vui, và Bi là cứu khổ. Khai sáng trí tuệ người dân, chuyển hóa để cho họ thấm nhuần giáo lý nhân bản, thiết thực, hòa bình, vị tha, vô thường, vô ngã v..v.. của Phật Giáo là mang niềm vui đến cho họ. Cứu họ ra khỏi vô minh, mê tín dị đoan, xiềng xích trí tuệ, tinh thần nô lệ ngoại nhân v..v.., đó chính là cứu khổ. Vì không hiểu ý nghĩa thực sự của từ bi nên những người Ca Tô thường lên án những ai viết ra những sự thực về Ca Tô Giáo là không áp dụng hạnh từ bi của Phật Giáo. Họ muốn rằng họ được quyền xuyên tạc Phật Giáo, mạ lỵ Tăng đoàn, và khi ở vị thế cầm quyền, được tự do giết người ngoại đạo, cưỡng bức cải đạo họ như dưới thời Ngô Đình Diệm. Ngược lại, họ muốn chúng ta phải áp dụng hạnh từ bi của Phật Giáo theo nghĩa họ muốn, nghĩa là không được viết ra những sự thật lịch sử hay những mánh mưu xâm lăng văn hóa và tôn giáo của Ca Tô Giáo. Họ muốn khi họ tát vào má này của chúng ta thì chúng ta phải đưa má kia ra cho họ tát tiếp, áp dụng lời dạy của Giê-su, một lời dạy mà thực chất là nuôi dưỡng sự bất công, và chính họ chưa bao giờ áp dụng. Sự nguy hại thật sự của kế hoạch Cải Đạo Á Châu của Ca Tô và Tin Lành là, do cái căn bản tự cho là một tôn giáo thiên khải và chỉ được thờ một Thần Ki Tô, và tin vào sự hứa hẹn của các nhà truyền đạo về một sự "cứu rỗi" của Giê-su, sách lược cải đạo có tính cách mê hoặc này cộng với sách lược hạ thấp, mạ lỵ các tôn giáo và nền văn hóa khác như vừa nêu ở trên, sẽ tạo nên một lớp người bản xứ vô não trở thành cuồng tín, tình nguyện làm nô lệ cho ngoại bang, sẵn sàng phản bội quốc gia để đổi lấy một cái bánh vẽ trên trời sau khi chết, do đó không tránh khỏi đưa đến những cảnh xáo trộn trong xã hội, bất hòa trong những khối tín ngưỡng khác nhau trong những quốc gia yêu chuộng hòa bình, đang sống hòa hợp trong tình tương thân tương ái giữa những đồng bào ruột thịt. Những điều này đã xảy ra ở Việt Nam từ khi các thừa sai Ca Tô đầu tiên xâm nhập Việt Nam để truyền đạo và tiếp tục xảy ra trong vài vùng cao nguyên, đã và đang xảy ra ở Ấn Độ, Thái Lan, ở Đông Timor, Nam Dương v..v... Là một người “ngọn Mỹ, gốc Việt”, tôi quan tâm đến Việt Nam, và sau đây là những nhận định của tôi về sách lược Cải Đạo Á Châu của Vatican trên đất nước Việt Nam.
Dựa trên những sự kiện lịch sử trong quá khứ xa và gần, chúng ta có thể phần nào tiên đoán được sự thành công hay thất bại của sách lược xâm lăng văn hóa và tôn giáo của Vatican tại Á Châu nói chung, Việt Nam nói riêng. Tôi tin rằng sách lược cải đạo của Ca-Tô Giáo tại Việt Nam sẽ thất bại bởi những lý do sau đây. 1). Trở lại lịch sử, Ca Tô Giáo xâm nhập vào Việt Nam từ 1533, và 140 năm sau, tới đầu thập niên 1670, các thừa sai Ca Tô mới khuyến dụ được khoảng 60000 người theo đạo, tuyệt đại đa số thuộc thành phần thấp kém nhất trong xã hội Việt Nam (Xin đọc Catholicism et Sociétés Asiatiques của Yoshiharu Tsuboi), không có khả năng phân biệt chánh tà, chân giả cho nên rất dễ bị lùa vào trong vòng mê tín của Ca Tô Giáo. Sau đó, các thừa sai Pháp thuyết phục thực dân Pháp đánh chiếm Việt Nam, mở đầu cuộc xâm chiếm bằng cuộc tấn công vào Đà Nẵng năm 1858. Sau khi tích cực giúp quân xâm lăng Pháp để đưa Việt Nam vào vòng đô hộ, Ca-Tô Giáo ở Việt Nam dựa vào thế lực thực dân để truyền đạo, làm mưa làm gió trên đất nước Việt Nam. Nhưng dù ở thế thượng phong, dưới cái dù của thực dân trong gần 100 năm, cộng với 9 năm miền Nam dưới chế độ độc tài, gia đình trị, Ca Tô trị của Ngô Đình Diệm, số tín đồ Ca-Tô trên tỷ lệ dân số luôn luôn chỉ ở mức 7 phần trăm hay ít hơn. Điều này chứng tỏ nền văn hóa Việt Nam không tương hợp với nền văn hóa Ki Tô. Vậy ngày nay, tất cả lợi thế về quyền lực thế tục của Ca-Tô Giáo đã không còn, ngoại trừ sức mạnh hữu danh vô thực hào nhoáng bên ngoài, Ca-Tô Giáo có cách nào để cải đạo người dân Việt Nam? Liệu chính quyền hiện nay có để cho họ tự do xâm nhập ào ạt vào Việt Nam để truyền đạo sau những chiêu bài đạo đức giả có tính cách lưỡng chuẩn (double standard) như nhân quyền và tự do tín ngưỡng một chiều hay không? Chúng ta cần phân biệt rõ ràng quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do xâm nhập một quốc gia để truyền đạo. Hai quyền này hoàn toàn khác nhau. 2). Thời buổi này, không còn mấy người có đầu óc còn tin ở những chuyện hoang đường như “tội tổ tông”, “Chúa tình nguyện leo lên thập giá để chuộc tội cho nhân loại”, “Đức Mẹ đồng trinh”, “Giê-su chết ba ngày rồi sống lại và bay lên trời”, quyền phép “cứu rỗi” của Giêsu v..v.., kể cả một số giám mục, linh mục trong giáo hội. Khoa học với những bằng chứng bất khả phủ bác trong vũ trụ học, di truyền học, sinh học, sinh hóa học, cổ sinh vật học v..v.. cộng với thuyết tiến hóa đã bác bỏ toàn bộ nền thần học Ki Tô Giáo. Đặc biệt là trong thời đại thông tin điện tử này, không ai có thể dấu ai được điều gì, và con người có thể kiểm chứng những tài liệu nghiên cứu chính xác bất cứ lúc nào và bất
cứ ở đâu. Làm sao giáo hội Ca Tô có thể thuyết phục được quần chúng bằng những lý thuyết mơ hồ không có một căn bản xác thực nào. Làm sao sao Ca Tô Giáo có thể thuyết phục con người bằng những thuyết sáng tạo, cứu rỗi, thiên đường, hỏa ngục trong khi chính giáo hoàng của họ đã chính thức phủ bác những thuyết này khi ông ta đã chính thức công nhận trước quần chúng thuyết Big Bang về nguồn gốc vũ trụ, thuyết tiến hóa về nguồn gốc nhân loại, và phủ nhận sự hiện hữu của thiên đường và hỏa ngục. Trí tuệ người dân Việt Nam đâu còn ở mức trí tuệ của những nông dân hay dân chài ở những vùng hẻo lánh trong thế kỷ 18, 19? Liệu chính quyền Việt Nam và người dân Việt Nam có để cho những nhà truyền giáo Ca Tô tiếp tục lừa dối người dân bằng những chuyện hoang đường cổ xưa nay đã không còn một giá trị nào trong thế giới văn minh tiến bộ ngày nay? Chúng ta có đủ tài liệu và thông tin để chất vấn, bẻ ngược lại mọi luận điệu thần học giả dối của Ca Tô Giáo. 3). Dù sách lược Cải Đạo Á Châu mang nhãn hiệu “Thần học Ki Tô Giáo theo cung cách Châu Á” nhưng bản chất “thần giáo” của Ki Tô Giáo không thể thay đổi. Do đó nền văn hóa KiTô không tránh khỏi vấp phải nền văn hóa Phật giáo đã bám rễ ăn sâu và đồng hóa với nền văn hóa truyền thống của dân Việt Nam, vốn là một nền văn hóa nhân bản và nhân chủ. Sự tích dân tộc Việt Nam là Con Rồng Cháu Tiên của Mẹ Âu Cơ và Cha Lạc Long Quân và tục thờ cúng tổ tiên, ông bà cha mẹ đã qua đời, chứng tỏ người Việt Nam từ ngàn xưa đã bác bỏ quan niệm thần linh sinh ra con người. Còn gì nhân bản hơn là người tôn thờ người, và người thờ nhân tính. Đạo sống này của dân Việt Nam có trước cả khi Đức Phật, Lão Tử, Khổng tử hay Giê-su sinh ra đời. Và Phật Giáo đã đóng góp vào nền văn hóa đặc thù này bằng cách đưa vào chủ trương tôn trọng nhân phẩm của con người, tự tu tự chứng, mình làm chủ chính mình. Do đó, nền văn hóa nhân bản và nhân chủ của Việt Nam chính là thành trì chống nền văn hóa Kitô qui phục thần hữu hiệu nhất. Tưởng chúng ta cũng nên biết, Tây phương ngày nay cũng đã nhận ra giá trị đích thực của một nền văn hóa nhân bản và nhân chủ. Ngay gần đây, tháng 4, 2003, hội những người Mỹ theo chủ nghĩa nhân bản và nhân chủ (Humanists) đã phổ biến một bản Cương Lĩnh số 3 khẳng định “bác bỏ ý tưởng là có một Thiên Chúa cần phải “cứu” nhân loại” (rejecting the idea that there is a God who needs to "save" humanity), “chỉ có đạo đức con người mới quyết định tương lai của thế giới” (human’s ethical behavior alone will dictate the future of the world), “Trách nhiệm về đời sống của chúng ta và cái thế giới mà chúng ta sống trong đó là thế giới của chúng ta và chỉ của chúng ta mà thôi” (The responsibility for our lives and the kind of world in
which we live is ours and ours alone). Ký tên trên bản Cương Lĩnh (Manifesto) này là 19 nhân vật đã được trao tặng giải Nobel, và 57 nhà trí thức có tên tuổi khác trong đó có tiểu thuyết gia Kurt Vonnegut và nhà đạo diễn Oliver Stone. Năm 1973, hội này cũng ra tuyên ngôn cho rằng “sự tin vào một Thiên Chúa đáp ứng những lời cầu nguyện “không chứng minh được và lỗi thời” và một niềm tin như vậy cho chúng ta “những hi vọng hão huyền về một thiên đường trong đời sau”” (belief in a prayer-answering God “unproved and outmoded”, such a belief offers “false hopes of heaven hereafter”.) Hội này tin rằng con người được kêu gọi để sống đạo đức mà không cần phải có sự trợ giúp siêu nhiên của một thần, của các nam thần hay nữ thần nào, hay của một lực huyền bí không có tình người nào. (Humanists believe that people are called to ethical living “without supernatural assistance from a god, gods or godesses or an impersonal mystical force.) Nền văn hóa Phật Giáo cao hơn nền văn hóa Ki Tô rất nhiều, điều này không ai có thể phủ nhận, trừ phi chúng ta đánh đồng sai lầm nền văn hóa Ki Tô với những tiến bộ về khoa học, kỹ thuật của xã hội của Tây phương, những tiến bộ mà Ki-Tô giáo nói chung, Ca-Tô giáo nói riêng, đã tích cực ngăn chặn (đốt sách vở, đốt luôn cả khoa học gia, cấm tín đồ đọc sách v..v..) nhưng không nổi, cho nên ngày nay đã nhận vơ làm “nền văn hóa Ki Tô Giáo”. Ngày nay, Tây phương đã nhận ra chân giá trị của Phật Giáo, và Phật Giáo phát triển rất tự nhiên trong những xã hội Tây phương mà không hề có ý định cải đạo người khác hoặc kiếm thêm tín đồ. Đụng phải cái thành trì Phật Giáo ở Á Đông, Ki Tô Giáo không có cách nào thắng được Phật Giáo vì từ giáo lý cho đến thực hành, từ bản chất của mỗi tôn giáo cho đến những phúc lợi mà mỗi tôn giáo đã mang đến cho nhân loại, từ đạo đức tôn giáo cho tới trí tuệ của những vị lãnh đạo tinh thần trong mỗi tôn giáo v..v.., Ki Tô Giáo đều không thể so sánh với Phật Giáo được. 4). Bản chất của Giáo hội Ca-Tô Việt Nam chỉ là một mớ tín đồ hạng hai. Ca-Tô giáo vào Việt Nam từ 1533 nhưng 400 năm sau (1933) mới có một giám mục đầu tiên (Nguyễn Bá Tòng). Nhưng tệ hơn cả là Giáo hội này hoàn toàn lệ thuộc Vatican bất kể là những quyết định của Vatican xâm phạm đến chủ quyền dân tộc và xúc phạm đến nền văn hóa của Việt Nam tới đâu. Lịch sử cho thấy quyền lợi của Vatican luôn luôn đối nghịch với quyền lợi của Việt Nam. Chừng nào mà tinh thần nô lệ này còn tồn tại, thì chừng đó người dân Việt Nam vẫn còn phải lưu tâm đề phòng lịch sử tái diễn. Tinh thần nô lệ này hoàn toàn trái ngược với tinh thần yêu nước, yêu độc lập của người dân
Việt Nam, đã được chứng minh qua bao cuộc đánh đuổi quân ngoại xâm. Với sách lược Cải Đạo Á Châu qua những thủ đoạn bất chính, liệu Ca Tô Giáo có tin rằng những người ngoại đạo ở Việt Nam sẽ để yên cho Giáo hội muốn tuyên truyền lừa dối đồng bào của họ ra sao cũng được? Hay tin rằng người dân Việt Nam đã quên đi vai trò của giáo hội Ca-Tô Rô-Ma tại Việt Nam trong việc đưa nước Việt Nam vào vòng nô lệ của Pháp? 5). “Thần học” là một bộ môn chưa bao giờ có và không thể nào có trên đất Á Châu. Á Châu có rất nhiều thần: thần ác, thần thiện, thần cây đa, thần bình vôi, thần hoàng làng (thường là những nhân vật có công với đất nước được sắc phong của nhà vua), thần hà bá v..v.. Nhưng Á Châu không có môn học nào gọi là thần học. Cho nên “thần học Ki Tô Giáo”, bất kể là mang nhãn hiệu nào, Á Châu hay Phi Châu, của phái nữ hay giải phóng, đen hay đỏ, hay cả dâm ô (Xin đọc Theological pornography của Mary Hunt) đều không có tác dụng trên đầu óc người Á Đông. “Thần học Ki Tô Giáo” chỉ có thể hợp những người có đầu óc yếu kém, không thể tự mình bước đi trên đường đời, cho nên lúc nào cũng phải dựa vào một cặp nạng thần học, một cặp nạng đã mọt rỗng đến tận cốt lõi. “Thần học Ki Tô Giáo theo cung cách Châu Á” cũng không ra ngoài lệ vì bản chất nó chỉ là “thần học” và được xây dựng trên những luận cứ xảo quyệt, gian dối hạ đẳng như đã được chứng minh trong các phần phân tích ở trên. Trên đây chỉ là vài lý do chính mà tôi nghĩ sách lược Cải Đạo Á Châu sẽ không thể nào thành tựu ở Á Châu nói chung, Việt Nam nói riêng. Giáo hoàng đặt kế hoạch trồng cây Ca-Tô Giáo vào những miền đất ở Á Châu trong thiên niên kỷ thứ ba, theo thường lịch. Điều hiển nhiên là đất Á Châu không thích hợp với cây Ca-Tô. Trồng vào đó, cây tuy không đến nỗi chết héo queo như cây sung bị Chúa Giêsu nguyền rủa, không bao giờ có thể ra trái được nữa, nhưng có lẽ cũng chỉ sống một cách èo ẹt, không có nhiều sinh khí. “Kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa cứu độ Á Châu” trong 2000 năm qua vẫn tiếp tục kỳ diệu như cũ, nghĩa là Á Châu vẫn tiếp tục từ chối không muốn biết đến Thiên Chúa. Lịch sử không đi giật lùi. Không ai có thể đi ngược lại đà tiến hóa của con người. Người dân Việt Nam không lẽ lại tệ hại đến mức phải đi hốt những thứ làm ô nhiễm đầu óc con người mà Âu Châu và Mỹ Châu đang đào thải dần dần, và coi đó là những của báu trên trần gian. Tôi thực tình không tin như vậy.
Tuy nhiên chúng ta cũng cần phải đề cao cảnh giác về hiểm họa Ki Tô Giáo. Hiểm họa Ki Tô Giáo ở trên thế giới là một hiểm họa có thực. Lịch sử đã chứng tỏ như vậy. Chúng ta không nên bị mê hoặc bởi luận điệu: "Tôn giáo nào cũng tốt như nhau cả, đều dạy con người làm lành, tránh ác." Bản chất của Ca-Tô Giáo và Tin Lành là lợi dụng sự cuồng tín của tín đồ, tạo thành một lực lượng xã hội, để khi có cơ hội và quyền thế thì sẽ khuynh loát chính quyền, đàn áp và áp bức tín đồ của các tôn giáo khác. Bản chất cuồng tín này, nếu ở vị thế nắm quyền hành thì sự tác hại của nó đối với khối dân chúng không đồng tín ngưỡng không biết lên tới mức độ nào. Kinh nghiệm lịch sử ở những nơi mà Ca-Tô giáo là chủ lực tinh thần trong thời Trung Cổ, và trong thời cận đại ở Tây Ban Nha dưới quyền của nhà độc tài Ca-Tô Franco, ở Croatia dưới quyền của tên Ca-Tô Ante Palevic và những linh mục khát máu, và ở Nam Việt Nam dưới chế độ Ca-Tô Ngô Đình Diệm là một tấm gương cảnh tỉnh những người còn mơ mộng là "tôn giáo nào cũng tốt cả". Ngày nay, không ai còn coi Ki Tô Giáo là một lực lượng tôn giáo thuần túy mà trái lại chỉ là những định chế coi nặng vấn đề quyền lợi chính trị và kinh tế. Ngày nay, không một người nào có đầu óc còn nghĩ đến những biện pháp cấm đạo và bách hại những người đi đạo như khi xưa nữa. Vậy biện pháp nào thích hợp nhất để bảo vệ và gìn giữ nền văn hóa truyền thống của Việt Nam? Tôi cho rằng, để tránh cái hiểm họa Ca-Tô và Tin Lành, cái hiểm họa đã được chứng tỏ trong 2000 năm lịch sử của Ki Tô Giáo, đặc biệt là Ca-Tô giáo , ở Việt Nam, ngoài việc cương quyết ngăn chận sự xâm nhập của các thừa sai truyền đạo vào trong đất nước, con đường hữu hiệu nhất là con đường mở mang dân trí. Qua con đường này, người dân sẽ biết rõ về bản chất và những sự thực về Ki Tô Giáo nói chung, Ca-Tô Giáo nói riêng, và từ đó sẽ đỡ bị mê hoặc bởi những lời truyền đạo giả dối, che đậy thực chất mê tín, hoang đường, phi lý của Ki Tô Giáo. Theo nữ học giả Ca-Tô Joane H. Meehl, "Đạo Ca-Tô chỉ thịnh hành và phát triển trong đám người nghèo và ngu dốt” chỉ có sự mở mang dân trí và đời sống thoải mái kinh tế mới có thể loại trừ ảnh hưởng của Ca Tô Giáo. Điều này đã xảy ra trong những nước văn minh tiến bộ Âu Mỹ trong đó đời sống vật chất của con người tương đối cao, và những tác phẩm nghiên cứu nghiêm chỉnh về tôn giáo, bất kể tôn giáo đó là tôn giáo nào, và bất kể chủ đề nghiên cứu là chủ đề nào, của những người có uy tín trong giới trí thức như lãnh tụ tôn giáo, học giả, chuyên gia, giáo sư đại học v..v.. được phổ biến rộng rãi trong quần chúng. Hi vọng với đà tiến triển về kinh tế hiện nay ở Việt Nam, với nhiều tác phẩm
nghiên cứu về tôn giáo được nhà nước sáng suốt cho phép phổ biến, Việt Nam có thể giảm bớt hiểm họa Ki Tô trên đất nước. Tôi thành thực ước mong chính quyền Việt Nam hãy lưu tâm đến hiểm họa Ki Tô Giáo trên đất nước và đưa ra một chính sách tôn giáo hợp lý, không thiên vị. Đừng bao giờ để rơi vào những cạm bẫy “đoàn kết tôn giáo” hay “đoàn kết quốc gia” mà ngăn chận chính sách mở mang dân trí. Dân trí mở mang không bao giờ có thể là nguồn gốc của sự chia rẽ hay gây hận thù. Sự hòa hợp giữa những khối dân có tín ngưỡng khác nhau trong những quốc gia tân tiến Âu Mỹ, nơi đây các tác phẩm nghiên cứu về tôn giáo được phổ biến rộng rãi, là một bằng chứng rõ rệt nhất về lợi ích của việc mở mang dân trí để cho người dân biết rõ sự thật về tôn giáo trong xã hội. Thật vậy, khoảng 85% dân Mỹ theo Ki Tô Giáo trong đó có khoảng 25% theo Ca Tô Giáo Rô Ma, hơn 90% dân Pháp rửa tội theo Ca Tô Giáo v..v.. nhưng những tác phẩm nghiên cứu về Ki Tô Giáo: những sự thực về lịch sử những tội ác của Ca-Tô Giáo, về tổ chức độc tài của Giáo hội, về những thần quyền tự phong của giới lãnh đạo Ca-Tô, cùng những tín điều hoang đường phi lô-gic, phi lý trí, phản khoa học, huyền hoặc, lỗi thời v..v.. của Ca-Tô Giáo nói riêng, Ki Tô Giáo nói chung, về con người lịch sử Giê-su, về những sai lầm trong Thánh Kinh v..v.. đều được tự do phổ biến mà các chính quyền Mỹ, Pháp không sợ làm mất sự “đoàn kết tôn giáo” hay “đoàn kết dân tộc” trên đất nước của họ, thì thử hỏi tại sao Việt Nam chỉ có 7% dân chúng theo Ca Tô Giáo mà chính quyền lại sợ rằng những tác phẩm nghiên cứu nghiêm chỉnh với đầy đủ tài liệu về tôn giáo lại có thể ảnh hưởng đến sự đoàn kết tôn giáo hay đoàn kết dân tộc trên đất nước? Ngăn chận sự mở mang dân trí trong thời buổi này là có tội với dân tộc, với lịch sử. Việt Nam cần phải ý thức được sự nguy hại của chiêu bài nhập nhằng tự do tôn giáo với tự do truyền đạo để có thể tìm cách đối phó, đưa ra những biện pháp ngăn chận thích nghi, hợp lý. Những biện pháp ngăn chận này phải nằm trong quốc sách và phải được cương quyết thi hành. Tôi tin rằng đa số người dân Việt Nam sẽ ủng hộ những biện pháp bảo vệ nền văn hóa truyền thống Việt Nam này vì chúng ta ý thức rõ ràng rằng không có một chế độ nô lệ nào độc hại bằng nô lệ văn hóa. Sách lược truyền giáo của Ca-Tô Giáo là một sách lược chủ trương xóa bỏ mọi nền văn hóa phi Ki-Tô, dùng bạo lực thắng công lý, dùng gian xảo, dối trá để lừa dối dân gian, dùng bả vật chất và mê tín dị đoan để chiêu dụ và giữ tín đồ, dùng những phép lạ ngụy tạo để huyễn
hoặc làm mê mẩn đầu óc tín đồ v..v.. Lịch sử thế giới đã ghi rõ điều này, và kinh nghiệm cay đắng của Việt Nam đối diện với sự xâm nhập của Ca-Tô Giáo còn ghi rõ trong sử sách. Ở đây, sách lược truyền giáo của đạo Ca-Tô đã đưa tới những cảnh bất hòa trong những gia đình nào có người bỏ tôn giáo truyền thống của gia đình, của dân tộc, để tin theo những lời dụ dỗ huyền hoặc của Ca- Tô Giáo, từ bỏ không còn tôn trọng những lễ tiết truyền thống trong gia đình. Ca-Tô Giáo cũng đưa tới những cảnh Lương Giáo nghi kỵ, thù nghịch, tàn sát lẫn nhau như lịch sử đã chứng tỏ. Gần đây, Ca-Tô giáo còn đưa ra sách lược nham hiểm: dùng bọn người trí thức nô lệ mất gốc, đưa ra những tác phẩm xuyên tạc lịch sử, văn hóa Việt Nam, nhất là lịch sử và văn hóa Phật Giáo, hoặc đánh đồng khập khiễng vài nét văn hóa Việt Nam hoặc Phật Giáo với nền văn hóa Ki Tô, ngụy trang đằng sau những chiêu bài đầu môi chót lưỡi như “Thần học Ki Tô Giáo theo cung cách Á Châu”, hoặc “quay về với truyền thống dân tộc, hội nhập văn hóa dân tộc”, trong khi bản chất độc tôn cuồng tín về “Chúa KiTô là đấng trung gian duy nhất”, nô lệ Vatican vẫn không thay đổi. Chính quyền và người dân Việt Nam cần nghiên cứu kỹ để biết rõ những âm mưu lũng đoạn quốc gia Việt Nam, và nhất là thái độ “không đội trời chung” của Ca-Tô Giáo đối với Cộng Sản, để biết đường mà tránh đi trên con đường đưa tới sự tự hủy diệt. Thế lực của Ca Tô Giáo hoàn vũ ngày nay chỉ là một lớp sơn phết bên ngoài, thực lực càng ngày càng yếu, không còn nắm quyền sinh sát như ngày trước, cho nên muốn gì giáo hội chỉ còn biết cầu nguyện. Người Việt Nam chúng ta thường tự hào với 4000 năm văn hiến. Thật ra, nền văn hóa nhân bản (lấy con người làm gốc), nhân chủ (con người tự quyết định số phận mình) và định cư (không lang thang nay đây mai đó) của dân tộc Việt Nam, một nền văn hóa đối ngược với loại văn hóa thần linh, du mục của dân Do Thái, còn lâu hơn là 4000 năm. Nền văn hóa này, được biết trong giới khoa học và khảo cổ là nền văn hóa Hòa Bình (Bắc Việt Nam). Tiến sĩ Wilhel G. Solheim II, giáo sư nhân chủng học ở trường đại học Hawaii đã viết: “Tôi không ngạc nhiên nếu thời kỳ văn hóa Hòa Bình (Bắc Việt Nam) bắt đầu khoảng 15000 (mười lăm ngàn) năm trước Tây Lịch. Trên một mảnh sành khoảng 6 cm vuông, chúng tôi đã thấy dấu vết vỏ một hạt thóc oriza savita. Dùng carbon 14 định tuổi những đồ vật bị vùi ở lớp đất trên lớp đất vùi mảnh sành, chúng tôi biết là mảnh sành - và hạt lúa - đã có niên đại muộn là 3500 trước Tây Lịch” (Wilhelm G. Solheim II, New Light On A Forgotten Past, National Geographic, Vol. 139, No. 3, March 1971). Như vậy, tính đến thế kỷ 16, khi Ca-Tô giáo bắt đầu du nhập Việt Nam, thì Việt Nam đã có một lịch sử và một nền văn hóa không hề biết đến Chúa Cha cũng như Chúa Con trong ít nhất là 5000 năm.
Trong 5000 năm này, tổ tiên chúng ta đã tốn bao xương máu, mồ hôi, nước mắt để xây dựng nước và giữ nước, bảo vệ nền văn hóa truyền thống của dân tộc. Bổn phận của mọi người Việt chúng ta là phải tiếp nối truyền thống anh dũng của ông cha, không thể đi ngược lại trào lưu tiến hóa của nhân loại, không thể để cho một ý thức hệ hoang đường, vô tổ quốc, vô gia đình, có nhiều sắc thái đế quốc như ý hệ Ca Tô xâm lấn với mục đích biến đổi, đưa nền văn hóa và tôn giáo dân tộc của chúng ta xuống hạng hạ căn qui thần, “quên mình trong vâng phục” mấy tên mũi lõ mắt xanh vô đạo đức ngồi ở Rô Ma nghĩ kế hoạch tước đoạt trí tuệ và khả năng suy tư của người dân Việt Nam. Chúng ta không nên quên rằng, ông cha chúng ta trước đây đã qui kết Ca Tô Giáo Rô Ma là một tà đạo. Nhận định chính xác này thật là đáng phục ở thời điểm mà các công cuộc nghiên cứu về Ca Tô Giáo chưa phát triển. Tà là không ngay thẳng, không chính trực, gian dối. Ngày nay, qua những tác phẩm nghiên cứu về Ca Tô Giáo, càng ngày chúng ta càng thấy lộ ra bản chất tà giáo của tôn giáo này. Thật vậy? Thứ nhất, tôn giáo này đã được xây dựng trên những tà thuyết mà ngày nay Tây phương đã không còn chấp nhận, ít ra là trong giới trí thức hiểu biết. Như trên chúng ta đã biết, Mục sư Ernie Bringas đã đưa ra nhận định: “Đa số các học giả coi những chuyện trong Tân Ước và bảy tín lý giáo hội đưa ra sau đây đều là huyền thoại” và Giám mục John Shelby Spong đã khẳng định: “..một đấng cứu thế (Giê-su) có nhiệm vụ khôi phục tình trạng tiền sa ngã của chúng ta chỉ là một sự mê tín trước-thời-Darwin và một sự vô nghĩa sau-thời-Darwin." (A savior who restores us to our prefallen status is therefore pre-Darwinian superstition and post-Darwinian nonsense.), và nhà thần học nổi danh, Uta Ranke-Heinemann, người phụ nữ đầu tiên chiếm được ngôi vị giáo sư thần học của Ca Tô Giáo, đã qui kết những chuyện trong Tân Ước như “Giê-su sinh ra từ một nữ trinh”, “các phép lạ Giê-su làm”, “Giê-su sống lại”, “Ngôi mộ trống”, “Giê-su thăng thiên”, “những chuyện trong Sứ Vụ Các Tông Đồ (Acts)”, “Phê-rô ở Rô-ma” v..v.. đều là những chuyện trẻ con, cần phải dẹp bỏ [Xin đọc cuốn Putting Away Childish Things của Giáo sư thần học Uta RankeHeinemann) Thứ nhì, chỉ có một tà giáo mới có thể gây ra 7 núi tội lỗi mà giáo hoàng đã phải xưng thú trước thế giới. Thứ ba, sách lược cải đạo Á Châu, như được phân tích trong các phần trên, đã chứng minh rằng đó chỉ là những thủ đoạn bất chính để thực hiện mưu đồ xâm lăng văn hóa và tôn giáo Á Đông. Tuy nhiên, không ai cấm con người tiếp tục tin vào những tà thuyết hay những điều không có thực, như tin là có thần bình vôi, có Chúa sống lại, có chú Cuội ngồi gốc cây đa trên cung Hằng, hay như trẻ con để răng sữa dưới gối, treo bít tất ở lò sưởi để nhận quà của ông già
Noel v..v.. Nhưng tà thuyết luôn luôn vẫn chỉ là tà thuyết, điều không có thực luôn luôn cũng chỉ là lông rùa, sừng thỏ, bất kể là có bao nhiêu người vẫn còn tiếp tục tin vào tà thuyết hay những điều không có thực. Con người căn trí bất đồng, không ai có thể bắt buộc những tín đồ Ki Tô Giáo trong những ốc đảo ở Nam Mỹ, Phi Châu, Phi Luật Tân, Việt Nam, và ngay cả trên đất Mỹ, phải có cùng trình độ trí óc mở mang như đa số trên thế giới ngày nay. Dù vậy, tôi không thể không có vài lời tâm huyết cùng các tín đồ Ki Tô Việt Nam, Ca Tô cũng như Tin Lành. Tôi không coi các bạn là kẻ thù. Đời tôi không có ai là kẻ thù. Nhưng lương tâm tôi không cho phép tôi nói lên những lời đãi bôi để tạo sự đoàn kết tôn giáo hay đoàn kết dân tộc. Tôi hoàn toàn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của các bạn nhưng điều này không có nghĩa là tôi không được phép, hay không nên, nói ra những sự thực về tôn giáo của các bạn. Đây là một bổn phận đối với mọi người còn nghĩ đến quốc gia dân tộc. Qua những phần phân tích ở trên, tôi tin rằng mọi người Việt Nam yêu nước đều ý thức được bổn phận phải vạch trần âm mưu bất chính của Vatican trong sách lược Cải Đạo Á Châu và từ đó, có bổn phận phải tập trung nỗ lực để ngăn chận mọi thủ đoạn truyền đạo bất chính của Ki Tô Giáo trên đất nước.. Tôi hi vọng các bạn có thể sáng suốt nhận ra rằng, từ xưa đến nay các bạn đã bị lừa vào một niềm tin không đáng. Có đáng hay không khi các bạn vẫn tiếp tục bám víu vào một hi vọng hão huyền: sự “cứu rỗi” của một người Do Thái tên là Giê-su mà chính Giáo Hoàng hay một số giám mục, linh mục, mục sư, những người lãnh đạo tinh thần các bạn, đã bác bỏ. Giáo Hoàng của các bạn đã phủ nhận thuyết sáng tạo, phủ nhận “tội tổ tông”, phủ nhận sự hiện hữu của thiên đường và hỏa ngục, Giám mục Spong đã coi vai trò “cứu thế” của Giê-su như là một sự vô nghĩa hậu – Darwin, Mục sư Ernie Bringas đã gọi sự “cứu rỗi” của Giê-su là một cái bánh vẽ trên trời,, và giáo sư thần học Uta RankeHeinemann đã coi tất cả những điều các bạn tin là những chuyện trẻ con, cần phải dẹp bỏ. Vậy tại sao các bạn còn cứ tự giam mình trong những giáo hội mà lịch sử đen tối của chúng đã rõ rệt. Các bạn có cho rằng, các bạn chỉ cần đến một đức tin là đủ, là các bạn ở trong một “hội Thánh”, còn những chuyện ô nhục giáo hội làm trong suốt mười mấy thế kỷ, hay những luận điệu lừa bịp của giáo hội để kéo các bạn vào một đức tin không thực, hoàn toàn không có ảnh hưởng gì đến các bạn? Nếu các bạn không dứt bỏ được, ít nhất là gánh nặng Vatican, trên vai thì các bạn sẽ kẹt lắm. Bất kể là các bạn tin thế nào, dùng luận cứ gì, những sự thực lịch sử của giáo hội Ca Tô Rô Ma sẽ gắn liền với đời sống tâm linh của các bạn mà các bạn không có cách nào có thể tách rời nó ra khỏi đời sống tâm linh của các bạn. Với phương tiện truyền
thông đại chúng ngày nay, với số người Việt sống ở nước ngoài, và cả ở trong nước, không có cách nào các bạn có thể ngăn chận được những thông tin xác thực về Ki Tô Giáo. Hi vọng các bạn sẽ có một chọn lựa sáng suốt. Trong cuốn A New Christianity For A New World, xuất bản năm 2001, Giám mục John Shelby Spong có liệt kê những tín điều căn bản sau đây của Ki Tô Giáo: - Thánh Kinh là những lời mạc khải của Thiên Chúa. - Tư cách thần thánh của Giê-su vì sinh ra từ một nữ trinh. - Cái chết của Giê-su là để chuộc tội cho nhân loại, và máu của Giê-su là năng lực cứu rỗi (saving power of his blood) - Thân xác Giê-su sống lại. Ngôi mộ trống là một sự thật cũng như những chuyện Giê-su hiện ra sau khi chết. - Ngày trở lại của Giê-su để phán xét nhân loại. và đưa ra lời khẳng định sau đây: Ngày nay tôi thấy những tín lý căn bản này mà chúng ta thường hiểu theo truyền thống, không những là ngây ngô, mà còn có thể dứt khoát loại bỏ. Trong thế hệ của chúng ta, không một tín lý nào ở trên được các học giả Ki Tô danh tiếng xác nhận. (Today I find each of these fundamentals, as traditionally understood, to be not only naive, but eminently rejectable. Nor would any of them be supported in our generation by reputable Christian scholars.) Hi vọng bài viết này có thể đóng góp một phần nhỏ trong nhiệm vụ bảo vệ nền văn hóa và tôn giáo dân tộc của Việt Nam, đất nước thân yêu của chúng ta, và nhất là giúp các bạn Ki Tô nhìn ra được vấn nạn Ki Tô trên đất Việt. Trần Chung Ngọc
)()()(
NHÂN ĐỌC BÀI: “ÐỐI THOẠI TRONG VIỄN TƯỢNG ĐA PHỨC TÔN GIÁO” Của Gm Nguyễn Thái Hợp Trần Chung Ngọc Vừa đi chơi xa hai tuần lễ tham quan “Chính Thống Giáo” ở Nga về thì tôi nhận được thư “đặt hàng” viết bài. Số là, tôi được trang nhà giaodiemonline chuyển cho thư của một người như sau: Từ: Anh Tran <tranducanh86@gmail.com> Chủ đề: Kinh gui Ban bien tap & ong Tran Chung Ngoc Đến: giaodiemonline@yahoo.com Ngày: Thứ Năm, 1 tháng 9, 2011, 12:46 Trong thư ông Anh trích dẫn một đoạn viết về Phật Giáo trong bài “Đối Thoại Trong Viễn Tượng Đa Phức Tôn Giáo” của Gm Nguyễn Thái Hợp và viết: Tôi không am tường nhiều về lịch sử Phật giáo. Vậy kính xin quý vị có thể trả lời cho tôi, rằng liệu có những sự việc đó không trong lịch sử Phật giáo & nếu có thì cần cắt nghĩa nó như thế nào để những ai đọc nó sẽ không bị hiểu nhầm về Phật giáo. Kính xin quý vị có thể viết một bài về đề tài này & có những luận chứng bác bẻ ý kiến của bài viết này.
Tôi có cảm tưởng đây là Lm Trần Đức Anh, người đã dịch Sứ Điệp Hòa Bình của Gh Benedict XVI trước đây vì đoạn văn trên có vẻ như là một thách đố cho Giao Điểm và cho riêng cá nhân tôi. Vì vậy tôi đành phải bỏ thì giờ để đọc bài “Đối Thoại Trong Viễn Tượng Đa Phức Tôn Giáo” của Gm Nguyễn Thái Hợp. Bài “Đối Thoại Trong Viễn Tượng Đa Phức Tôn Giáo” của Gm Nguyễn Thái Hợp không lạ đối với tôi, nội dung cũng giống như của một số tác giả trí thức Ca-tô khác: khoa trương trên đầu môi chót lưỡi những lời hoa mỹ đạo đức giả, gài vào vài đoạn xuyên tạc Phật Giáo, xuyên tạc lịch sử, và tiếp tục mê sảng với những điều mê tín của Ca-tô Rô-ma Giáo thuộc thế kỷ 17. Nếu tình cờ tôi đọc được bài này thì tôi sẽ không mất thì giờ phê bình. Nhưng thể theo lời yêu cầu của ông Trần Đức Anh, và cũng để “giải hoặc”, bất đắc dĩ tôi đành phải bỏ thì giờ để viết một bài nhận định bài “Đối Thoại Trong Viễn Tượng Đa Phức Tôn Giáo” của Gm Nguyễn Thái Hợp. Nhưng tôi cần phải kính cáo trước cùng độc giả là, bài viết này không phải là chỉ để đối thoại với Gm Nguyễn Thái Hợp, cũng không phải chỉ là để phê bình bài của Gm Nguyễn Thái Hợp, mà tôi sẽ mở rộng các chủ đề để chúng ta và những người Ca-tô có thể biết rõ hơn về Ca-tô Rô-ma Giáo cùng thực chất những bậc lãnh đạo trí thức trong Ca-tô Giáo như Gm Nguyễn Thái Hợp. Do đó, có lẽ bài sẽ dài hơn thường lệ, mong độc giả thông cảm. Trước hết, tôi có thể trả lời ngay ông Anh là: Đối với những người có đôi chút hiểu biết về Phật Giáo thì không ai có thể “hiểu nhầm” về Phật Giáo qua những điều mà Gm Nguyễn Thái Hợp viết về Phật Giáo trong bài “Đối Thoại Trong Viễn Tượng Đa Phức Tôn Giáo”. Tại sao?
Bởi vì Gm Nguyễn Thái Hợp đưa ra một loạt những điều vu vơ, không rõ ràng, không ghi rõ xuất xứ theo tiêu chuẩn trong lãnh vực học thuật, cho nên độc giả khó có thể kiểm chứng. Đây hầu như là mẫu mực “thảo luận” của một số trí thức Ca-tô. Ông ta cũng, hoặc là không hiểu rõ lịch sử, hoặc là cố ý xuyên tạc, gán cho Phật Giáo những gì không phải của Phật Giáo. Và nhất là, dù những gì Gm Nguyễn Thái Hợp viết là có thật thì chúng cũng chẳng liên quan gì đến “Lịch sử Phật Giáo”. Tôi sẽ phân tích chi tiết hơn trong phần tôi phê bình bài của Gm Nguyễn Thái Hợp sau đây.
* Bài của Gm Nguyễn Thái Hợp có 6 đề mục: 1) Ý Nghĩa Của Đối Thoại; 2) Lòng Bao Dung; 3) Thái Độ Bất Bao Dung; 4) Từ bao dung đến tự do tôn giáo; 5) Đối Thoại Và Giữ Vững Căn Tính; và 6) Thách Đố Của Đối Thoại Liên Tôn. Tôi sẽ đi vào từng đề mục trên. Như trên đã nói, bài này dài hơn thường lệ, cho nên tôi sẽ chia làm hai phần. Phần I phê bình và mở rộng ba đề mục đầu, và Phần II phê bình và mở rộng ba đề mục cuối.
PHẦN I 1. Về đề mục 1: Ý Nghĩa Của Đối Thoại , Gm Nguyễn Thái Hợp viết: Trong thế giới hôm nay, điều kiện tiên quyết của một cuộc đối thoại đích thực là phải chấp nhận đa nguyên, đa văn hóa và trân trọng những khác biệt căn bản giữa người với ta. Người khác tự bản chất không những không thể đồng hóa với ta, mà thực sự khác ta rõ rệt. Chính nơi sự khác biệt này ta tìm thấy căn tính và đặc thù của họ, làm cho họ là họ, chứ không phải là ta hay một ai khác.
Đây là những nhận định tương đối đúng về căn bản “đối thoại” nhưng có phải là Gm Hợp viết về chủ trương, chính sách “đối thoại” của Giáo hội Ca-tô Rô-ma không, hay đó chỉ là những lời hoa mỹ trên đầu môi chót lưỡi? Vậy trước hết chúng ta hãy tìm hiểu thực chất chính sách “đối thoại” của Ca-tô Rô-ma Giáo qua vài tài liệu để xem Gm Nguyễn Thái Hợp viết thật hay viết chơi. Trong bài, Gm Hợp có viết nhiều đến Công Đồng Vatican II và một số văn kiện của Vatican về đối thoại với những tôn giáo phi-Ca-tô và phi-KiTô và về “tự do tôn giáo”. Nhưng chúng ta sẽ thấy, tất cả chỉ có trên mặt giấy tờ.. Thât vậy, “Tài liệu Vatican II với những Ghi Chú, Bình Luận của những giới chức có thẩm quyền Ca-tô, Tin Lành và Chính Thống Giáo” [The Documents of Vatican II: With Notes and Comments by Catholic, Protestant and Orthodox Authorities), Walter M. Abbot, S.J., làm Chủ Biên (General Editor) viết như sau, trang 336: Trong nhiều thập niên, mỗi năm vào tháng Giêng, Ca-tô Rô-ma Giáo đã để ra 8 ngày để cầu nguyện cho sự thống nhất Giáo hội. Cho đến năm 1959, ý tưởng chính trong những ngày đó, từ 18 đến 25 thàng Giêng, là hi vọng tín đồ Tin Lành sẽ “trở lại” Giáo hội chân thật duy nhất (nghĩa là Ca-tô Rôma Giáo) và hệ phái Chính Thống sẽ dẹp tiệm. Cũng trong những thập niên này, những tín đồ Tin lành đã ngày càng tham gia vào cái về sau được gọi là “Phong trào hợp tác tôn giáo”. Sự phát triển và hình thành Công Đồng Giáo Hội Toàn Cầu, sự gia tăng trong việc tập hợp các giáo hội Tin Lành địa phương trên hoàn cầu, sự kết hợp của các giáo hội, tất cả những hoạt động trên biểu thị một đường hướng thống nhất. Giáo hội Ca-tô Rô-ma vẫn đứng ở ngoài xa. Ở Âu châu có những trung tâm điều nghiên Ca-tô quan sát, canh chừng những sự phát triển này, nhưng đại cương thì giáo hội
chỉ canh chừng và cầu nguyện, chứ không tham gia cuộc đối thoại hay cầu nguyện của các giáo hội Tin Lành. Thế rồi Giáo hoàng John XXIII lên ngôi và ngày 25 tháng 7 năm 1959, ngài loan báo ý định triệu tập một công đồng hợp tác tôn giáo.
Vậy, căn bản tham gia đối thoại của Ca-tô Rô-ma Giáo để đi đến hợp tác tôn giáo là hi vọng thống nhất các hệ phái Ki-tô cùng thờ một Chúa: Ca-tô, Tin Lành, và Chính Thống, thống nhất dưới quyền của Ca-tô Rô-ma Giáo. Thật vậy, “Bản đề nghị sắc lệnh hòa giải hòa hợp tôn giáo” (The conciliar decree on ecumenism) của Ca-tô Giáo gồm có 5 chương, 3 chương đầu nói về nguyên tắc và cách thức thực hành hòa hợp tôn giáo và những quan hệ với các giáo hội Tin Lành và Chính thống. Chương thứ tư nói về quan hệ với người Do Thái, và chương thứ 5 về “tự do tôn giáo” (There were five chapters. The first three covered principles and practices of ecumenism and relations with Protestant and Orthodox Churches. The fourth chapter was on the relations with the Jews; the fifth was on religious freedom). Trong chương thứ tư nói về quan hệ với người Do Thái, Hồng y Bea đã mở rộng để thêm vào đó một bàn Tuyên Ngôn về quan hệ của Giáo hội đối với các tôn giáo phi-Ki Tô (Declaration on the relationship of the Church to Non-Christian religions). Nhưng ngay trong bản tuyên ngôn này, Giáo hội Ca-tô vẫn khẳng định là Gót (God) đã tạo dựng ra giống người và Giáo hội tuyên bố và phải tuyên bố mãi mãi là đấng Ki Tô là “con đường, là sự thật, là sự sống”, và con người chỉ có thể có một đời sống tôn giáo đầy đủ nhất trong Chúa Ki Tô… Trước sự hiểu biết của con người ngày nay và những thú nhận của chính Giáo hội thì những lời tuyên bố trên chỉ là những điều mê tín của Ca-tô Giáo thời xưa, nay đã không còn giá trị. Tuy nhiên, đến ngày nay mà Giáo hội và các thuộc hạ của Giáo hội vẫn tiếp tục loan báo những điều mê tín này để duy trì quyền lực vật chất và tâm linh trên đám tín đồ thấp kém. Đây chính là bản chất bất lương trí thức và đạo đức giả của một số những bậc lãnh đạo Ca-tô Giáo gồm từ Giáo Hoàng xuống đến hàng Linh mục. Tôi sẽ chứng minh điều này trong một phần sau. Độc tôn tôn giáo Cho tới ngày nay, một khi Giáo hội vẫn chấp chặt hoang tưởng độc tôn tôn giáo của mình, và con người chỉ có thể có một đời sống tôn giáo đầy đủ nhất trong Chúa Ki Tô [Dominus Jesus], thì mọi lời hoa mỹ về đối thoại tôn giáo để đi đến sự thông cảm, hòa giải và hợp tác tôn giáo thực chất chỉ có trên đầu môi chót lưỡi. Đầu môi chót lưỡi đã mở nhưng tâm thức vẫn còn khép kín trong cái mà Tiến sĩ Barnado gọi là “Bóng tối dày đặc của ý thức hệ La Mã” (In the thick dakness of Romanism) thì mọi đối thoại chỉ mất thì giờ vô ích. Chúng ta sẽ thấy, không phải chỉ ở thập niên 1960 mà cho tới ngày nay cái tâm thức đó vẫn còn thể hiện trong một số văn kiện mới nhất của Vatican, bất kể là Âu Châu ngày nay, trước là cái nôi của Ki Tô Giáo, nay đã trở thành một lục địa không còn cần đến Thiên Chúa mà cũng chẳng cần đến sự “cứu rỗi” của Chúa Ki-tô nữa. Thật vậy, Hội Đồng Giám Mục Âu Châu họp năm 1999 đã phải tuyên bố là “Âu Châu ngày nay sống như là không hề biết đến Thiên Chúa”, và Giáo hoàng Benedict XVI cũng đã hơn một lần phải lên tiếng than phiền là “Âu Châu ngày nay sống như là không biết đến Thiên Chúa mà cũng chẳng cần đến sự cứu rỗi của Giê-su nữa”. Những thú nhận này chứng tỏ là trước sự tiến bộ tri thức của con người, những điều hoang đường về Chúa Ki-tô chỉ còn có tác dụng nuôi dưỡng sự mê tín trong đám tín đồ thấp kém, chứ đối với thế giới bên ngoài, và ngay trong Ki Tô Giáo, theo Mục sư Ernie Bringas, thì Chúa Ki-tô chỉ là một cái bánh vẽ trên trời: “A-Pie-In-The-Sky”. Mục sư Ernie Bringas còn cho những người Ki Tô mà
ngày nay còn tin vào cái bánh vẽ trên trời trên là những người có đầu óc cũ kỹ (an astrolabe mind), có niềm tin tôn giáo thuộc thế kỷ 17, nghĩa là đã lỗi thời.
Sự suy thoái của Ki Tô Giáo trên toàn thế giới ngày nay, trừ một số ốc đảo nhỏ nhoi trong thế giới thứ ba và ở Á Châu, không phải là do sự đánh phá Ki Tô Giáo từ bên ngoài, hay từ CS, mà là trước những thông tin được phổ biến rộng rãi trong quần chúng, các tín đồ Ki Tô Giáo trong các nước tân tiến Tây phương đã hiểu biết hơn nhiều về bản chất thực sự của Ki Tô Giáo. Tây phương ngày nay cũng đã nhận ra giá trị đích thực của một nền văn hóa nhân bản và nhân chủ. Tháng 4, 2003, hội những người Mỹ theo chủ nghĩa nhân bản và nhân chủ (Humanists) đã phổ biến một bản Cương Lĩnh số 3 khẳng định “bác bỏ ý tưởng là có một Thiên Chúa cần phải “cứu” nhân loại” (rejecting the idea that there is a God who needs to "save" humanity), “chỉ có đạo đức con người mới quyết định tương lai của thế giới” (human’s ethical behavior alone will dictate the future of the world), “Trách nhiệm về đời sống của chúng ta và cái thế giới mà chúng ta sống trong đó là thế giới của chúng ta và chỉ của chúng ta mà thôi” (The responsibility for our lives and the kind of world in which we live is ours and ours alone). Ký tên trên bản Cương Lĩnh (Manifesto) này là 19 nhân vật đã được trao tặng giải Nobel, và 57 nhà trí thức có tên tuổi khác trong đó có tiểu thuyết gia Kurt Vonnegut và nhà đạo diễn Oliver Stone. Năm 1973, hội này cũng ra tuyên ngôn cho rằng “sự tin vào một Gót đáp ứng những lời cầu nguyện “không chứng minh được và lỗi thời” và một niềm tin như vậy cho chúng ta “những hi vọng hão huyền về một thiên đường trong đời sau”” (belief in a prayer-answering God “unproved and outmoded”, such a belief offers “false hopes of heaven hereafter”.) Đúng là một hi vọng hão huyển vì chính Giáo hoàng John Paul II đã bác bỏ sự hiện hữu của một thiên đường trên các tầng mây. Hội này tin rằng con người được kêu gọi để sống đạo đức mà không cần phải có sự trợ giúp siêu nhiên của một “gót”, của các “gót” nam hay “gót” nữ thần nào, hay của một lực huyền bí không có tình người nào. (Humanists believe that people are called to ethical living “without supernatural assistance from a god, gods or godesses or an impersonal mystical force.) Đọc lịch sử Ca-tô Rô-ma giáo, chúng ta thấy trong suốt 16 thế kỷ, từ thế kỷ 4, tôn giáo này chưa bao gờ hòa hợp với bất cứ tôn giáo nào khác, kể cả các tôn giáo cùng thờ một Chúa. Khi ở vị thế có quyền lực thế gian thì tôn giáo này đã làm đủ mọi cách, dùng mọi quyền lực và sách lược tàn bạo để bành trướng tôn giáo bằng sắt máu. Đi đến địa phương nào, tôn giáo này cũng tự quảng cáo sự mê tín và ngu dốt của mình về vũ trụ, nhân sinh, là cao quý, là thiên khải, là khai phóng nhất, đi kèm với sự phỉ báng các tôn giáo và truyền thống văn hóa địa phương, như trường hợp của Alexandre de Rhodes trong Phép giảng tám ngày để thay thế vào đó nền văn hóa hẹp hòi hạ đẳng của Ca-tô Giáo. Điều này đã được chứng minh bởi những lời xin lỗi của Giáo hoàng John Paul II trong hơn 100 chuyến công du đến thế giới thứ ba, và những lời xưng thú cùng thế giới 7 núi tội ác của Ca-tô Giáo đối với nhân loại, tại Vatican ngày 12 tháng 3 năm 2000, và nhất là, ngày nay Giáo hội đã phải chính thức quy phục công nhận những thành quả của khoa học về nguồn gốc vũ trụ và nguồn gốc con người... Chẳng vậy mà Tiến sĩ Madalyn O’Hair, chủ tịch hội những người không tin Chúa ở Mỹ đã nhận định khá chính xác như sau:
“Điều răn đầu tiên của Thiên Chúa các người là “không được thờ thần nào khác”. Những tín đồ Ki-tô Giáo không thể sống với những ý tưởng khác. Họ bắt buộc phải đi cải đạo mọi người vào những hệ thống tín ngưỡng của họ. Bất cứ một người nào còn ở ngoài tín ngưỡng này cũng là một sự đe dọa đối với những người ở trong hệ thống tín ngưỡng vì người đó, ở ngoài hệ thống, cũng minh họa là Thiên Chúa của các người đã thất bại để kéo ít nhất là một người vào với ông ta. Do đó, ông ta không phải là một đấng toàn năng, toàn trí, cái gì cũng thấy, cái gì cũng biết, cái gì cũng hiểu, nhất mực nhân từ. Nếu ông ta thực là như vậy, ông ta đã có thể kéo mọi người đến với ông ta. [Ngày nay, không phải chỉ có một, mà trên 4 tỷ người ở ngoài hệ thống tín ngưỡng của Ki-tô Giáo. Điều này chứng tỏ sự thất bại to lớn ngoài sức tưởng tượng của Thiên Chúa và là một sự kiện không ai có thể phủ bác, khoan nói đến chuyện càng ngày càng có nhiều người bỏ Thiên Chúa. TCN] Những người bị mắc trong cái bẫy [của Ki-tô Giáo] không thể nào hiểu nổi là nhiều người khác lại không có những hệ thống tín ngưỡng như vậy và không sống trong các lồng tâm linh [như những con chim bị nhốt trong lồng]. Điều mà các người toan tính làm là, theo định nghĩa, kéo chúng tôi vào sự điên rồ của các người. Sự suy nghĩ của các người bị thắt nghẽn đến độ các người không thể nào hiểu nổi thế nào là một “đầu óc tự do”, nghĩa là, một đầu óc không bị buộc chặt bởi xiềng xích tôn giáo.”
Tiến sĩ Madalyn O’Hair nhận định không sai nếu chúng ta đọc một số văn kiện của Giáo hội Ca-tô Rô-ma và ngay cả một vài đoạn trong bài của Gm Nguyễn Thái Hợp. Chúng ta sẽ thấy rõ là “đối thoại” chỉ là một chiêu bài của Ca-tô Rô-ma Giáo, mục đích “đối thoại” của họ chỉ là mánh mưu để kéo chúng ta vào sự điên rồ của họ. Tôi cũng sẽ chứng minh điều này trong một phần sau. Còn nữa, Avro Manhattan viết trong cuốn "The Vatican's Holocaust", xuất bản năm 1986, như sau: Link: http://www.srpska-mreza.com/library/facts/manhattan-vatican.html "Giáo hội Ca Tô đột nhiên tham gia hợp tác tôn giáo là một sách lược cổ điển để làm cho người ta quên đi cái bản chất bất khoan dung vẫn tồn tại trong giáo hội. Chúng ta phải nhớ rằng nếu các tòa án xử dị giáo đã được bãi bỏ từ giữa thế kỷ trước thì cái Văn Phòng Thánh, nguồn cảm hứng và công cụ của các tòa hình án mới chỉ được "dẹp bỏ" mới vài năm naỵ Thực ra, Văn phòng này còn đang hoạt động dưới một cái tên hoa mỹ ở giữa những bức tường kín đáo trong Vatican. Một trong những nhiệm vụ chính của văn phòng này là làm sao cho cái lò sát sinh ở Croatia và cái chế độ Ca tô độc tài ở Việt Nam được quên đi, và trở thành một mẩu ghi chú của lịch sử xa xôi. Sách lược này đã thành công một phần...Không như những trại tập trung kinh khủng của Hitler và Stalin, các trại tập trung ở Croatia và cảnh Phật tử tự thiêu ở Việt Nam, một hình thức phản đối sự can thiệp khủng bố tôn giáo của Vatican, đã trở thành những cấm kỵ trong diễn đàn truyền thông thế giới. (Bây giờ chúng ta đã hiểu tại sao ở ngoại quốc có cả một chiến dịch phục hồi tinh thần Ngô Đình Diệm cũng như xuyên tạc và bôi nhọ các cuộc tự thiêu của Phật Giáo chống sự kỳ thị tôn giáo của Diệm) Những đoan quyết căn bản của Ca Tô chưa bao giờ thay đổi tí nào. Cho đến nay cũng như tự bao giờ, sự chấp chặt của Giáo hội Ca Tô trên tính chất duy nhất của giáo hội vẫn còn chắc như đá hoa cương. Cũng chính vì những chấp chặt này mà đã xảy ra tòa án xử dị giáo, Croatia và chế độ độc tài Ca Tô ở Việt Nam.
Nếu quá khứ là một dấu hiệu về những việc xảy ra trong tương lai thì, khi nắm được cơ hội và ở trong một bối cảnh chính trị thích nghi, những tòa án xử dị giáo mới, những Croatia mới và Việt Nam mới sẽ lại được tạo ra hoài hoài. Khi nào, ở đâu và như thế nào, chỉ có tương lai mới trả lời được."
Trong cuốn "Thư Gửi cho một cựu linh mục” (Letters to an Ex-Priest), linh mục Emmet McLoughlin viết như sau: "Chủ nhân của sự chuyên chế tư tưởng con người" trong nhiều thế kỷ (Giáo Hội Ca Tô) nay đã khoác cái áo huynh đệ hợp tác tôn giáo, được bảo vệ bởi cái khẩu hiệu "khoan dung" để quyến rũ những nhà cầm quyền cao cấp.."
Về bản Tuyên Ngôn thì Tu sĩ Do Thái David Polish cho rằng: "bản tuyên ngôn của Công Đồng Vatican có vẻ kênh kiệu và thiếu tinh thần hòa giải.” Ông ta cho đó là "một thông cáo đơn phương của một phe tin tưởng rằng có thể chỉnh trang bộ mặt theo ý mình về một sự sai lầm không được thú nhận Và, trong Công Đồng Vatican II, Giám Mục Emile de Smedt, phát ngôn viên của ủy ban soạn về đề mục tự do tôn giáo, đã đưa ra khuyến cáo về chính sách “đối thoại”, “tự do tôn giáo”, “hòa hợp tôn giáo” chỉ có trên mặt văn tự của Vatican trước Công đồng linh mục ngày 19 tháng 11 năm 1963 như sau: "Nhiều người phi-Ca-Tô đã nuôi sự thù ghét đối với giáo hội, hay ít ra cũng nghi ngờ đó là một loại chủ thuyết Machiavelli (nghĩa là chỉ cần đạt được mục đích bất kể đạo đức. TCN), vì đối với họ chúng ta có vẻ như là khi ở thế thiểu số trong quốc gia nào thì chúng ta đòi hỏi phải được tự do tôn giáo nhưng cùng lúc lại từ chối hay tước bỏ cùng sự tự do tôn giáo đó của họ nếu chúng ta ở thế đa số. Tại sao lại nói đến đối thoại với những người Ki-Tô khác, với người Do Thái, với tất cả những người phi-Ki-Tô (non-Christians) khi thực ra về lý thuyết cũng như thực hành, giáo hội Ca Tô Rô Ma không tôn trọng tự do của những người phi-Ca-Tô. Bất cứ kế hoạch hòa hợp tôn giáo nào của giáo hội Ca Tô cũng sẽ hoàn toàn vô hiệu quả và hoàn toàn vô nghĩa trừ phi giáo hội tuyên bố rõ ràng và với thẩm quyền rằng giáo hội sẽ tôn trọng sự tự do của các tín ngưỡng khác, dù rằng giáo hội có quyền hành hay cơ hội có thể làm khác, và rằng giáo hội phải dựa trên căn bản tự do tôn giáo, lên án sự bất khoan dung, bách hại và kỳ thị ."
Đầu môi chót lưỡi Đây chính là bản chất của Ca-tô Giáo Rô-ma trong sách lược “đối thoại tôn giáo” và sách lược này chưa hề thay đổi. Với bản chất này, khi người Ca-tô nói về “đối thoại” hay “hợp tác tôn giáo” hay “hòa hợp tôn giáo” thì thật ra chỉ trên đầu môi chót lưỡi, mục đích sâu thẳm đàng sau là truyền bá cái mà họ gọi là “phúc âm” trong khi thực chất “phúc âm” chỉ là điều nhảm nhí nhất trong Tân Ước, John 3: 16 và John 3: 18: “Ai tin Giê-su thì sẽ được cứu rỗi, ai không tin thì sẽ bị luận phạt, đày hỏa ngục.”. Nhảm nhí vì Giê-su mới sinh ra cách đây 2000 năm trong khi nhân loại đã có mặt trên trái đất ít ra là vài trăm ngàn năm nếu không muốn nói đến cả triệu năm, trải qua bao nhiêu là thế hệ mà không ai biết đến Giê-su, trong những thế hệ này tất nhiên có cả các thế hệ ông bà, tổ tiên của những người Ca-tô Việt Nam, những thế hệ không hề biết đến Giê-su là ai để mà tin, do đó bị luận phạt đày xuống hỏa ngục, và lẽ dĩ nhiên, không được ăn cái bánh vẽ trên trời. Nói tóm lại, “phúc âm” chỉ là mánh mưu thần học của Ki Tô Giáo để mê hoặc lòng người.
Người Ca-tô không hề biết đối thoại là gì. Thật vậy, trong cuốn "Một Linh Mục Hiện Đại Nhìn Vào Cái Giáo Hội Đã Lỗi Thời Của Mình" (A Modern Priest Looks At His Outdated Church), Linh Mục James Kavanaugh đã viết nguyên một chương, chương 3, về đề tài thế nào là "Con Người Ca-tô" (The Man Who is a Catholic). Có lẽ không ai biết rõ giáo hội cũng như con chiên của mình bằng một người đã hành nghề Linh Mục lâu năm như Linh Mục James Kavanaugh. Sau đây là vài nét về con người Ca-tô của Linh mục James Kavanaugh:
Người Ca-tô giáo nhìn thế giới qua một hệ thống ngăn cấm họ là chính họ... Hắn được dạy phải đọc những gì, suy tư làm sao, và coi ai là bạn. Tôi quan sát người Ca-tô đến xem lễ và thương hại cho cách đào tạo đã vặn vẹo đầu óc của hắn và làm méo mó ý thức về tôn giáo của hắn. Hắn tới vì hắn được các bậc lãnh đạo tôn giáo bảo tới, những người cũng ngoan ngoãn và vô danh như hắn. Hắn đọc những lời kinh cầu nguyện gói ghém trong những câu giả tạo và làm những cử chỉ (quỳ gối làm dấu thánh giá. TCN) hoàn toàn xa lạ với lối sống hiện đại của hắn. Hắn sống trong thời đại của máy bay phản lực và bom nguyên tử, và cầu nguyện trong thế giới ma thuật của thời Trung Cổ… Hắn có những quan điểm về hòa bình của thế giới, về cải tiến ngân sách, những suy tư về ngăn ngừa phạm pháp, về sự lành mạnh tâm thần, và về vấn đề giao thông trong những vùng có thị trấn lớn. Nhưng về tôn giáo hắn là một người máy chỉ biết đọc lại những câu trả lời mà người ta đã dạy hắn. Hắn chấp nhận mọi quyết định của giới linh mục mà không phản đối, hâm lại những chân lý mà hắn đã học trong những trường đạo, và ủng hộ cái giáo hội đã tước đoạt đi đầu óc của hắn. Người Catô, nam hay nữ, đã mất đi sự tiếp cận với đời sống. Hắn sợ phải đọc những sách mà người khác đọc, sợ coi những phim truyện phản ánh đời sống hiện đại... Giáo hội, giống như là những bậc cha mẹ sợ hãi và giận dữ, vơ vào phần mình mọi công trạng trong việc giúp đỡ mà giáo hội có thể cống hiến cho con người. Kết quả là những người Catô bị đối xử như những đứa trẻ và chúng tiếp tục cư xử như những đứa trẻ... Hắn không có quyền sống theo lương tâm của mình, hoặc quyền chọn lựa những nguyên lý có thể giúp đỡ hắn. Hắn là một đứa trẻ, một tín đồ Ca-tô, nhờ vả người khác chọn lựa thay cho hắn. Do đó, người Ca-tô không thể biết ý nghĩa thực của sự đối thoại, chỉ biết đưa ra những luận cứ để chống đỡ cái lập trường mà hắn đã thừa hưởng từ khi còn nhỏ... Người Catô là một dịch vụ trả lời có tổ chức mà nhiệm vụ đầu tiên của hắn là bảo vệ giáo hội của hắn...
Cho nên, chúng ta đã hiểu tại sao rất khó mà có thể đối thoại với người Ki-tô Giáo, nhất là người Ca-tô Việt Nam. Có nhiều lý do và dấu hiệu chứng tỏ như vậy, sự khó khăn không phải từ phía các tôn giáo khác mà từ phía Ki-tô Giáo. Sau đây, tôi xin đưa ra một số lý do chính: -
-
Ca-tô Giáo là một tín giáo, đặt căn bản trên đức tin, nhất là khi đức tin này đã được cấy vào đầu tín đồ từ khi còn nhỏ. Cho nên một cuộc đối thoại trí thức, dựa trên lý trí và hiểu biết thông thường (common sense) thường không có tác dụng gì trong vấn đề đưa ra những thông tin thời đại chân thật nhưng không hợp với niềm tin của người Ca-tô. Riêng đối với người Ca-tô Việt Nam, vì được đào tạo theo sách lược “ngu dân dễ trị” của Catô Giáo Rô Ma, cộng với lịch sử phụ thuộc ngoại bang, nhất là trong thời thực dân Pháp và còn tiếp tục phụ thuộc cho tới ngày nay v.v... cho nên khó mà có thể thoát ra sự lệ thuộc hoàn toàn vào Vatican, vào các “bề trên”, và nền thần học Ca-tô Giáo. Đối thoại, đối với họ, là tuyệt đối theo đúng sách lược “đối thoại” của Vatican. Sách lược đối thoại của Vatican
-
-
-
-
không ngoài mục đích truyền đạo và xâm lăng tôn giáo và văn hóa, đưa tất cả vào dưới giáo quyền và văn hóa Ca-tô. Do đó, chừng nào mà tinh thần lệ thuộc này còn tồn tại, thì chừng đó người dân Việt Nam vẫn còn phải lưu tâm đề phòng lịch sử tái diễn, và đối thoại tôn giáo sẽ không có nhiều tác dụng, khoan nói đến chuyện “đối thoại” với hi vọng họ sẽ trở về với dân tộc. Đối với người Tin Lành thì đối thoại còn khó hơn, vì bản chất của Tin Lành là u mê cuồng tín, tin tất cả vào Kinh Thánh, cho đó là những lời mạc khải của Thiên Chúa nên không thể sai lầm. Phần lớn tín đồ Tin Lành thiếu trình độ tôn giáo, đúng như nhận định của Robert G. Ingersoll: quần chúng [Tin Lành] thì mê tín và các mục sư thì ngu muội (stupid). [Xin đọc bài Hiểm Họa Tin Lành, Bài III, trên trang nhà Giao Điểm, tháng 12, 2004]. Cũng vì vậy mà ngày nay họ còn cố công ra sức chống đối Thuyết Tiến Hóa và tiếp tục tin vào Thuyết Sáng Tạo và những giáo lý đã quá lỗi thời của Ki-tô Giáo như: tội tổ tông, con người sinh ra trong tội lỗi, sự chuộc tội và cứu rỗi của Giê-su v..v... Người Ki-tô Giáo Việt Nam không hiểu đối thoại tôn giáo là gì. Đối với họ, đối thoại tôn giáo là có bổn phận phải mang những điều họ tin, phần nhiều là tin mà không cần biết, không cần hiểu, mù quáng tin bướng tin càn, áp đặt trên các tôn giáo khác. Đọc những bài viết về tôn giáo của một số giám mục, linh mục Việt Nam và các mục sư Tin Lành Việt Nam cùng các trí thức Ca-tô và Tin Lành, chúng ta thấy rõ trình độ thiếu sót của họ về ngay chính tôn giáo của họ, khoan nói đến những hiểu biết về tôn giáo nói chung, về kiến thức tổng quát, và nhất là, họ có cùng một sự thiếu sót trầm trọng một đức tính: sự lương thiện trí thức trong tinh thần đối thoại. Trong đối thoại tôn giáo, những tín đồ Ki-tô Giáo luôn luôn mang Kinh Thánh hoặc những lời “thánh phán” ra làm khuôn vàng thước ngọc trong mọi luận cứ, bất kể là những lời đó hoàn toàn sai lầm về thần học và khoa học, và họ cũng không hiểu rằng, đối với giới học giả trí thức ngày nay, Kinh Thánh chỉ là một sản phẩm của những điều mê tín trong thời bán khai (a product of primitive superstitions) và các thánh trong Ca-tô giáo, phần lớn thuộc loại trí tuệ kém cỏi, mê tín và cuồng tín. Khi không đủ lý lẽ để đối thoại thì những tín đồ Ki-tô Giáo Việt Nam, hoặc giữ yên lặng, hoặc chụp mũ cọng sản, hoặc thốt ra những lời thiếu giáo dục để mạ lỵ cá nhân đối phương mà không đưa ra bất cứ một luận cứ nào để phản bác. Người Ki-tô Giáo không thật tâm đối thoại tuy rằng ngoài miệng họ luôn luôn nói đến chủ trương đối thoại để đi đến sự hòa hợp tôn giáo. Những văn bản xuyên tạc, lệch lạc, hạ thấp Phật Giáo và các truyền thống dân tộc v..v.. nhằm mục đích tấn công Phật Giáo một cách ti tiện, xảo trá và đại quy mô, điển hình là nội dung đề mục 3 trong bài của Gm Nguyễn Thái Hợp, cùng lúc xóa bỏ nền văn hóa dân tộc, của Ca-tô cũng như Tin Lành là một bằng chứng rõ ràng nhất về sách lược “đối thoại” của Ki-tô Giáo. Đúng như Hoàng Vũ đã nhận định trong bài Đả Thông Để Cảm Thông trên trang nhà Giao Điểm, tháng 12, 2004: “Nội dung nhiều bài viết rất tiêu cực, để đạt được mục tiêu “truyền đạo”, đề cao Kitô giáo, các vị đã không ngần ngại dùng thủ đoạn bôi đen, xuyên tạc, hạ thấp các “tôn giáo bạn” một cách thô bỉ.”
Nói tóm lại, tất cả những gì Gm Nguyễn Thái Hợp viết trong đề mục “Ý Nghĩa Của Đối Thoại” chỉ là những lời khoa trương hoa mỹ làm ra vẻ Ca-tô Rô-ma Giáo thiết tha đến “một cuộc đối thoại đích thực là phải chấp nhận đa nguyên, đa văn hóa và trân trọng những khác biệt căn bản giữa người với ta. Chúng ta sẽ thấy, chủ trương của Giáo hội và một số tư tưởng trong bài của Gm Nguyễn Thái Hợp trái ngược hẳn với điều ông ta viết ở trên.
2) Trong Đề Mục 2 về “Lòng Bao Dung”, Gm Nguyễn Thái Hợp viết, trước hết là một đoạn ông ta xảo biện cho một nghịch lý về Thiên Chúa của ông ta, nghĩa là một Thiên Chúa toàn năng toàn trí mà lại cho phép con người làm những việc dữ và những việc dữ thuộc thiên nhiên lại xảy ra trên thế gian [Trong tiếng Anh, người ta thường dùng hai từ đối nghịch nhau là “good” và “evil”. Good là tốt, hay “thiện”, Gm Hợp dịch “evil” là những sự “dữ”, nhưng chúng ta nên hiểu từ này theo nghĩa rộng, bao gồm mọi sự xấu, ác, hiện tượng thiên nhiên, hay bất cứ điều gì đưa đến những tác hại về vật chất cũng như tinh thần cho các sinh vật trong đó có con người. TCN]: Ngay từ thế kỷ XIII, thánh Thomas đã cho rằng chính Thiên Chúa cũng không muốn cưỡng chế con người trong việc hành thiện. Có một số trường hợp, xem ra Ngài còn cho phép xảy ra một số sự dữ bởi vì việc triệt tiêu những sự dữ này có thể huỷ hoại những điều thiện lớn hơn và gây nên những sự dữ trầm trọng hơn. Từ cái nhìn hiện thực đó thánh tiến sĩ kết luận: Bởi vậy, trong việc trị nước, nhà cầm quyền có thể khoan dung đối với một vài sự xấu, vì sợ rằng nếu làm ngược lại, một số điều thiện sẽ không được thực hiện hoặc e rằng sẽ xẩy ra điều xấu lớn hơn .
Cái căn bệnh cố hữu của những người Ca-tô là luôn luôn trích dẫn những lời của Thánh nọ, thánh kia, và trong Thánh kinh, làm như đó là những chân lý không thể sai lầm. Thánh Thomas, cũng như tất cả mọi người trên thế gian, chẳng có ai biết Gót là cái gì, vì Gót, theo Ca-tô Giáo, là đấng “vô hình, không ai biết được, không ai hiểu được” (invisible, unknowable, incomprehensible) cho nên mỗi người tin Gót đều tưởng tượng Gót theo ý mình, và nền thần học của Ki Tô Giáo về Gót chỉ là nền thần học đoán mò. Giáo hội Ca-tô cũng còn nhấn mạnh là cả 3 ngôi Gót đều không thể hiểu được: “Gót Cha không thể hiểu được, Gót Con không thể hiểu được, Gót Ma không thể hiểu được” (The Father incomprehensible, the Son incomprehensible, the Holy Ghost incomprehensible). Đó là tất cả những gì chúng ta cần hiểu về “Ba Ngôi Gót”. Vậy thì khi chúng ta nghe người ta, bất kể là ai, dù là Giáo hoàng hay các Giám mục, Linh mục, nói về một cái gì không ai thấy, không ai biết để mà mô tả, và không ai hiểu được, thì chúng ta phải hiểu đó chỉ là những lời đoán mò mà thôi? Và từ những lời đoán mò đó mà chúng ta tin vào một cái gì đó vô hình (invisible), không thể mô tả được (ineffable), và không ai hiểu được (incomprehensible) thì phải chăng đó là mù lòa tin bướng tin càn? Ai không đồng ý xin mời lên tiếng. Ở đây, Thomas Aquinas thực ra chỉ đưa ra một xảo biện để vớt vát lại mặt mũi của Gót (God) mà ông ta tin, không biết rằng luận điệu này hoàn toàn mâu thuẫn với thuộc tính “toàn năng” của Gót mà người Ca-tô tin. Cũng như luận cứ về “nguyên nhân đầu tiên”, cả 4 luận cứ khác mà Thomas đưa ra để chứng minh sự hiện hữu của Gót nay đã bị các học giả bác bỏ vì mâu thuẫn nội tại của những luận cứ đó. Không phải là ngày nay, mà cách đây khoảng 23 thế kỷ, triết gia Epicurus đã đặt vấn đề như sau, và cho tới ngày nay vẫn chưa có ai giải đáp nổi: "Hoặc Gót muốn hủy bỏ những sự “dữ”, và không thể Hoặc Gót có thể hủy bỏ nhưng không muốn Hoặc Gót không thể, và không muốn Nếu Gót muốn, nhưng không thể làm được, Gót bất lực. (nghĩa là không Toàn Năng) Nếu Gót có thể, nhưng không muốn, Gót thật là xấu xa. (nghĩa là không nhân từ) Nếu Gót không thể và cũng không muốn, Gót vừa bất lực vừa xấu xa.
Nhưng nếu (như họ nói) Gót có thể hủy bỏ những sự “dữ” Và Gót thật sự muốn như vậy Tại sao trên cõi đời này lại có những sự “dữ”? Và ngày nay, Linh mục dòng Tên G.H. Joyce cũng đã đặt vấn đề trong cuốn Principles of Natural Theology như sau: Sự hiện hữu của những sự “dữ” trong thế giới muôn đời cũng vẫn là vấn nạn lớn nhất trong những vấn nạn mà đầu óc con người gặp phải khi suy tư về Gót và sự liên hệ của ông ta đối với thế giới. Nếu thật sự là ông ta “toàn thiện” và “toàn năng”, làm sao lại có những sự “dữ” ở chỗ nào trên cái thế giới mà ông ta đã tạo ra? Khi nào thì những sự “dữ” tới? Tại sao chúng có mặt ở đây? Nếu ông ta “toàn thiện”, tại sao ông ta để cho chúng xảy ra? Nếu “toàn năng” tại sao ông ta không giải thoát chúng ta khỏi những sự “dữ”? Trong cấp vật chất cũng như tinh thần, có vẻ như sự sáng tạo đã thất bại trầm trọng khiến chúng ta khó có thể hiểu được là làm sao mà tất cả là từ Gót mà ra?
Sự hiện hữu của những sự “dữ” trên thế giới sáng tạo bởi một Gót toàn năng toàn trí là một cái gai đâm vào tim óc những nhà thần học Ki Tô Giáo và cho tới nay chưa có ai giải quyết nổi cái nghịch lý này. Gm Nguyễn Thái Hợp đã sử dụng một luận cứ rất ngớ ngẩn để bào chữa cho Gót của ông ta. Ông ta viết: Có một số trường hợp, xem ra Ngài còn cho phép xảy ra một số sự dữ, vì việc triệt tiêu những sự dữ này có thể huỷ hoại những điều thiện lớn hơn và gây nên những sự dữ trầm trọng hơn. Lẽ dĩ nhiên ông ta chỉ viết vu vơ như vậy mà không hề giải thích những điều ông ta viết, thí dụ như Gót cho phép xảy ra sự dữ trong những trường hợp nào, và tại sao triệt tiêu sự dữ lại có thể hủy hoại những điều thiện lớn hơn, và những điều thiện đó là như thế nào.. . Vậy chúng ta hãy tìm hiểu “một số trường hợp” của Gm Hợp là bao nhiêu và như thế nào. Trước hết chúng ta cần phải hiểu là, theo niềm tin của những người Ca-tô, Gót là đấng toàn năng, nghĩa là có thể làm bất cứ điều gì mà ông ta (he)/bà ta (she)/nó (it) muốn, đã sáng tạo ra vũ trụ và muôn loài. Vậy thì Gót để cho những sự “dữ” như sau với mục đích gì, và nếu triệt tiêu những sự dữ này những điều thiện lớn hơn nào sẽ bị huỷ hoại ?? Trước hết, trên trái đất có những sa mạc nóng như thiêu đốt, những miền băng giá lạnh buốt, những rừng rú đầy ác thú và chướng khí, những vùng sình lầy đầy cá sấu v..v.. mà không có ai có thể sống một cách tự nhiên, thoải mái trong các vùng đó. Rồi thì có những con ác thú, rắn rết, bọ cạp, ruồi muỗi, và hàng triệu loại sâu bọ khác nhau. Mục đích sáng tạo ra một thế giới như vậy để làm gì, hiển nhiên không phải là để giúp con người mà là hại con người. Thứ đến, thiên tai đầy rẫy: cháy rừng, núi lửa, động đất, bão tố, cuồng phong, sóng thần, hạn hán, lụt lội, nạn đói v..v.. Rồi thì biết bao chứng bệnh hiểm nghèo điển hình là bệnh hủi, ung thư, AIDS v..v.. và sau cùng, có những đứa bé sinh ra là quái thai, mù, điếc, bị những khuyết tật, dị tật bẩm sinh v..v.. Tất cả những sự “dữ” như trên đã tàn phá không ít đời sống của con người, tác phẩm ưng ý nhất của Gót. Trên đây chỉ là những sự “dữ” về vật chất mà Gót đã “sáng tạo” ra để phục vụ con người, vì Ngài đã “quá thương yêu thế gian”, theo như niềm tin của những người có đầu mà không có óc. Bây giờ, chúng ta hãy xét đến những sự “dữ” thuộc lãnh vực tinh thần, tâm linh của loài người. Vì con người được tạo ra theo hình ảnh của Gót và giống như Gót cho nên chúng ta thấy trong loài người tất cả những “đức tính” của Gót như: ích kỷ, tham, sân, si, ganh ghét, ghen tuông, hèn
nhát, độc ác, lừa bịp, xảo quyệt. Sau khi phải dùng đến phương tiện đất sét để tạo nên Adam theo hình ảnh mình và giống như mình, Gót xoa tay tự khen “very good”. Nhưng “very good” như thế nào? Tác phẩm đầu tay của Gót là Adam và Eve. Ngay thế hệ đầu, Cain và Abel đều là con của Adam và Eve, nhưng vì sự bất công, thiên vị của Gót [Gót thích phần thịt mỡ có nhiều chất béo và cholesterol của Abel dâng, và chê phần rau trái của Cain], Cain bất mãn nên đã rủ em ra đồng và giết ngay người em ruột của mình, sau đó loạn luân với mẹ Eve để sinh con đẻ cái. Cain chính là hình ảnh của Gót, giống như Gót, như mục đích tạo ra loài người của Gót. Vậy thì một Gót như vậy thì có giá trị gì đối với loài người, và cái vũ trụ muôn loài mà Gót “sáng tạo” ra tốt đẹp ở cái chỗ nào? Ai bảo tốt đẹp ở chỗ nào? Xin lên tiếng. Ngoài ra, Kinh Thánh viết rõ: Gót là Gót của chiến tranh, nên con người đã tạo ra không biết bao nhiêu là cuộc chiến tranh với tất cả những hành động độc ác, khủng khiếp đi kèm với chiến tranh. Thử nghĩ xem, con người, tác phẩm ưng ý nhất của Gót theo niềm tin của những tôi tớ của Gót, có hơn gì loài vật không? Đã đành rằng con người là dạng tiến hóa cao nhất trong các sinh vật, có lý trí, có óc phân biệt phải trái, nhưng con người đã làm những gì cho đồng loại? Loài vật cắn xé nhau, mạnh hiếp yếu, cá lớn nuốt cá bé, nhưng chúng chưa hề tra tấn đồng loại, chưa hề phát minh ra những dụng cụ tra tấn vô cùng khủng khiếp như của Ki-tô Giáo trong thời Trung Cổ để tra tấn những người mà họ cho là lạc đạo, chưa từng phát minh ra bom nguyên tử để với một quả bom có thể làm chết cả trăm ngàn người. Cái ác của con người thật không có gì sánh nổi. Mà phần lớn những phát minh này là từ những con cái Chúa, từ những xã hội văn minh tiến bộ tự nhận là dân Chúa. Những cuộc tàn sát hàng loạt trong Kinh Thánh Trong Kinh Thánh có vô số trường hợp Gót đã hoặc đích thân ra tay, hoặc ra lệnh thực thi những cuộc tàn sát hàng loạt (mass destruction). Quý độc giả nên tin rằng, tôi có thể liệt kê ít nhất là năm trăm (500) hành động tương tự của Gót Cha (Jehovah) và Gót Con (Giê-su) trong Kinh Thánh, chưa kể đến những hành động khủng khiếp mà hai God này sẽ làm trong ngày tận thế [Xin đọc sách “Khải Huyền” trong Tân Ước]. Gary DeVaney đã đưa ra một cuộc xử án trong 4 ngày để kết án Gót giết người vô tội trong hơn 170 trường hợp viết trong Thánh Kinh. Một câu hỏi được đặt ra là: Gót là bậc toàn năng, toàn trí v.v..., vậy Ngài có cả triệu phương cách khác nhau để tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn để chúng ta sống trên đó. Tại sao Ngài lại chọn để tạo ra một thế giới vô nhân tính (thiên tai), tàn nhẫn (bệnh tật), độc hại (chiến tranh), đầy những sự “dữ” v..v..? Có phải rằng thực tế đã chứng minh rằng không thể nào có một Gót toàn năng hay toàn trí? Và nếu có một Gót đã tạo ra một thế giới như vậy thì chúng ta cần phải lên án, không thể kính trọng, đừng nói đến thờ phụng. Người Ki-tô Giáo tin rằng Gót của họ là bậc toàn năng, nhưng nhiều học giả đã chứng tỏ Gót của Ki-tô Giáo có ba sắc thái đặc thù trong thế giới của chúng ta ngày nay: Thứ nhất là “không công bằng” (unfair). Nhìn ra thế giới chúng ta đang sống trên đó, chúng ta thấy tất cả những sự bất công trên thế gian, không chỉ bất công với người ngoại đạo mà còn bất công với chính những tín đồ Ki-tô Giáo ở khắp nơi trên thế giới, sự bất công của Gót, nếu có một Gót toàn năng, thật là quá rõ rệt. Thứ nhì, Gót thường xuyên ẩn náu, không bao giờ dám lộ mặt ra (hidden). Thứ ba, Gót thường xuyên nín khe, không bao giờ thốt ra lời nào (silent).
[Mother Teresa: Chẳng ai dám nói là Mẹ Teresa không phải là người tin Chúa và bà ta chưa từng cầu nguyện Chúa, nhưng cuối cuộc đời cũng phải ngậm ngùi mà than một cách cay đắng: Đối với tôi, sự yên lặng (của Chúa) và sự trống rỗng (trong tâm hồn của tôi) thật là quá lớn lao đến nỗi tôi tìm (Chúa) nhưng không thấy, lắng tai nghe Chúa, nhưng chẳng nghe thấy gì” (As for me, the silence and the emptiness is so great that I look and do not see, listen and do not hear.)] Vậy thì Gm Nguyễn Thái Hợp, hoặc có nhà thần học Ki-tô nào, chuyên nghiệp cũng như mới tập sự, có thể giảng cho tôi hiểu có cái gì đáng giá trong những sản phẩm sáng tạo của một “Gót quá thương yêu thế gian..” như trên, những thứ đó có ích gì cho nhân loại? và những “điều thiện lớn hơn” nào của Gm Nguyễn Thái Hợp có thể đặt lên cán cân đối với những sự “dữ” trên thế gian mà Gót của ông Gm cho phép xảy ra. Gm Nguyễn Thái Hợp viện dẫn tư tưởng của Thomas chẳng qua chỉ để mê hoặc đám tín đồ không có đầu óc chứ hoàn toàn không có bất cứ một giá trị thuyết phục nào trong lãnh vực học thuật. Những người Ki Tô Giáo, trước khi nói đến Gót, thì cần phải cho người nghe biết Gót là cái gì, nếu không thì chỉ là đoán mò theo sự tưởng tượng của mình. Chẳng vậy mà Tiến sĩ Madalyn O’Hair, chủ tịch hội những người không tin Gót ở Mỹ, có đưa ra một nhận định: “Thật ra, đây là những gì mà người Ki-tô Giáo làm: chẳng thờ phụng cái gì cả. Một vật không ai nhìn thấy, không ai biết, không ai nghe thấy, không đáp ứng được gì (những lời cầu nguyện) mà các người gọi là Gót và cầu nguyện hàng ngày mà không hề có một đáp ứng nào. Chẳng có cái gì cả nhưng các người thờ phụng cái đó. Chẳng có gì nghe được các người – nhưng các người vẫn nói lên những tiếng nói truyền thông với cái đó. Chẳng có gì đáp ứng – nhưng các người vẫn nghe thấy một thông điệp nào đó trong hư không. Chẳng có gì đã từng xảy ra – nhưng các người vẫn lý luận rằng có một cái gì đó xảy ra ở đâu đó, có thể ở trong trái tim của con người. Đây là một canh bạc kỳ dị mà các người chơi.”
Đây là những sự thật khá đau lòng đối với người Ki-tô Giáo, nhưng ít người có can đảm thú nhận như Mẹ Teresa. Thật ra thì luận cứ của Gm Nguyễn Thái Hợp không có gì là lạ, bởi vì nó là một trong những luận điệu rất quen thuộc trong Ki Tô Giáo để biện minh cho Gót của họ, dù dưới những luận cứ khác nhau, nhưng cùng nói lên một ý tưởng quái gở: Gót cho phép xảy ra sự “dữ” để các điều thiện tốt hơn có thể thực hiện. Thật vậy, trước hết là “Thánh cha” John Paul II, trước những sự đau khổ về vật chất và tinh thần của con chiên nghèo khổ ở Nam Mỹ, đã khuyên các con chiên đó là “kế hoạch kỳ diệu” (wondrous plan) của Gót để thử thách lòng tin và khuyên các con chiên hãy giữ vững đức tin thì Gót sẽ đền bù như chuyện Job trong Thánh Kinh.. Kết quả nghiên cứu trong nhiều năm của tác giả Thứ đến là “Thánh mẹ” Teresa ở Calcutta. Anne Sebba được viết thành cuốn "Mother Teresa: Beyond The Image" (Mẹ Teresa: Ngoài Cái Hình Ảnh Được Tạo Nên"), Doubleday, New york, 1997, trong đó tác giả đã dùng hơn nửa cuốn sách dày gần 300 trang để viết về một số những sự thực về cái gọi là "công cuộc từ thiện" của bà Teresa mà chính tác giả đã đích thân đến tận nơi quan sát, tìm hiểu cùng qua nhiều cuộc phỏng
vấn những nhân vật có thẩm quyền như bác sĩ, nữ tu, những người đứng đầu các cơ quan từ thiện, những nhân viên thiện nguyện và cả những cựu nữ tu trong dòng "Thừa Sai Bác Ái" (Missionaries of Charity) của bà Teresa (I am full of questions and have put as many as I can to people qualified to answer them including doctors, nuns, heads of charities, volunteers and former Missionaries of Charity). Sau đây là vài điểm chính mà Anne Sebba đã khám phá ra: Công việc từ thiện của bà Teresa không bắt nguồn từ chính lòng từ thiện mà động cơ thúc đẩy chính là để làm sáng danh Chúa và để truyền đạo. Ngay cái tên của dòng "Thừa Sai Bác Ái" cũng đã nói lên rõ ràng mục đích truyền đạo của các thừa sai trong những thế kỷ qua. Bà Teresa biết rõ về lịch sử truyền đạo ở Ấn Độ và toan tính KiTô hóa quốc gia này trong 400 năm qua. Bà Teresa đã khẳng định rằng công việc bà làm là để phục vụ Chúa, không phải phục vụ con người, phục vụ Chúa bằng cách kiếm thêm nhiều tín đồ cho Chúa mà những sự đau khổ, bất hạnh của con người là những cơ hội để bà làm "việc thiện", chứng tỏ "lòng từ bi" của Bà. Bà không phải là cứu tinh của nhân loại, những việc bà làm chỉ có tính cách tượng trưng bề ngoài.
“Thánh mẹ” Teresa Trong cái niềm tin của Bà Teresa, bà cố ý lờ đi chuyện những đau khổ, bất hạnh của con người cũng là do Chúa tạo ra. Cũng như GH John Paul II đã tuyên bố: Mẹ Teresa là quà của Gót cho những người nghèo khổ (gift of God for the poor) nhưng Ngài không hề nói tới những người nghèo khổ là quà của Gót cho ai? Chắc là cho Bà Teresa để Bà có cơ hội làm việc thiện vinh danh Chúa. Một mặt Chúa tạo ra những đau khổ, những sự “dữ”, một mặt khác Chúa nhờ bà Teresa, qua dòng "Thừa sai bác ái", quảng bá lòng thương của Chúa qua những việc từ thiện chỉ có tính cách tượng trưng. Ấy thế mà vẫn có nhiều người ca tụng lòng yêu thương của Chúa đối với nhân loại, và lòng "bác ái" của bà Teresa. Theo luận điệu của Gm Nguyễn Thái Hợp thì có thể những việc làm từ thiện có tính cách tượng trưng của bà Teresa là những điều thiện lớn hơn so với những sự dữ như bệnh tật, ung thư, nghèo đói v…v… mà Gót cho phép xảy ra. Ai có thể tiêu hóa được luận điệu này, xin mời lên tiếng. Nhưng thật ra thì những việc thiện lớn hơn của bà Teresa là như thế nào?
Để hiểu rõ hơn con người của bà Teresa, sau đây là một số chi tiết trong cuốn The Missionary Position của Christopher Hitchens. Chúng ta hãy duyệt qua một số tư tưởng, quan niệm vĩ đại của Thánh Teresa. Trong khi ngồi trên hàng triệu đô-la dấu kín trong các ngân hàng, tiền của thiên hạ góp hiến để cho Bà làm việc thiện, bà Teresa bày tỏ quan niệm như sau: "Tôi nghĩ rằng thật là quá đẹp cho những người nghèo chấp nhận số phận của họ.. thế giới đang được phục vụ nhiều bởi sự đau khổ của những người nghèo" (Hitchens, p.11: Mother Teresa said: I think it is very beautiful for the poor to accept their lot...the world is being much helped by the suffering of the poor people). Tôi nghĩ đây là một quan niệm thần học tệ hại cần phải lên án trong một thế giới mà tất cả nỗ lực tập trung vào việc giảm nghèo, nâng cao đời sống của người dân. Đây là quan niệm, đúng hơn là sách lược ru ngủ của các thừa sai, tuyên dương sự nghèo khổ bảo đó là ý của Chúa. Tài liệu sau đây của Judith Hays trong cuốn “The Happy Heretic” sẽ cho chúng ta thấy rõ vấn đề. Thật là lạ lùng, không có ai vạch trần những hoạt động đáng nghi ngờ của bà Teresa sớm hơn. Mà chúng ta ai cũng biết chuyện các linh mục hiếp dâm các trẻ em trai, có phải không - vậy tại sao mà những chuyện về bà Teresa để quá lâu mới bị phanh phui? Câu trả lời thật là đơn giản, Giáo hội Ca Tô Rô Ma có những quyền lực hăm dọa thật đáng sợ. Cho đến khi tác phẩm mở mắt con người của Christopher Hitchen xuất bản năm 1995, cuốn The Missionary Position, tôi không hề biết gì về những hoạt động trong những "nhà thương" của bà Teresa. Cũng như mọi người khác, tôi nghĩ rằng bà ta là một Thánh sống. Tôi đã lầm. Bất kể động cơ hành động của người đàn bà ở Calcutta kia (Teresa) là như thế nào, tôi đã thấy quá đủ những sự đau khổ trong những người đã phải khủng khiếp trùn lại với tư tưởng của bà Teresa: đau khổ là một điều tốt. Đau khổ không bao giờ là một điều tốt. Nhất là ngày nay, khi chúng ta có khả năng làm giảm đi khá nhiều sự đau đớn, hình ảnh tâm thần của những người bất hạnh bị vào một "nhà thương" của bà Teresa thật là đáng buồn và đáng giận.
(It is surprising that no one came forward sooner to talk about Teresa's questionable practices. But then that's everyone said about priests raping little boys, isn't it - what took so long for the stories come out? Of course the answer is simple. The Roman Catholic Church has awesome, itimidating powers. Until the publication of Christopher Hitchen's eye-opening 1995 book, The Missionary Position, I had no idea what was going on in Teresa's "clinics". Like everyone else, I thought she was literally a saint. I was wrong. Whatever the motives of the woman from Calcutta, I have seen enough human suffering in loved ones to recoil in horror at the thought of terminal, tormented people being told that their suffering is a good thing. Suffering is never a good thing. Especially today, when we have the ability to alleviate so much pain, the mental image of those unfortunates who ended up in a Teresa "clinic" is saddening and angering.) Tác giả Judith Hayes còn phê phán: Tôi chưa từng nghe thấy một người nào có lòng từ bi mà nghĩ rằng sự đau khổ của con người là một điều tốt. Từ bi là đức tính tối thiểu của một người mà chúng ta cho là xứng đáng được phong Thánh. Nếu những gì về bà Teresa là đúng thì chúng ta phải đặt bà Teresa đâu đó giữa sự tàn ác và ngu đần, mà hay thay, trong tự điển từ Thánh (Saint) nằm giữa 2 từ Tàn Ác (Sadistic) và Ngu Đần (Stupid). Tác giả đã chơi chữ ở đây: (If all of that is true, it places Teresa somewhere between "sadistic" and "stupid" which, interestingly, is where "saint" appears in the dictionary) "Nhân danh Gót" bà Teresa đã thu được hàng triệu đô la rồi vội vàng dấu kín nó đi như một con sóc để dành thức ăn cho mùa Đông. "Nhân danh Gót ", bà ta cũng cải đạo nhiều người trước khi họ tắt
hơi... Tôi tự hỏi, trong cái tầm nhìn thô thiển của bà ta, có phải là bất cứ bà làm điều gì cho Gót là để cho bà được điểm cao (như các em hướng đạo sinh đi bán bánh kẹo, ai bán được nhiều thì được đoàn trưởng gắn huy chương khen thưởng. TCN) trong đời sau. Có lẽ đối với bà ta thế giới này không hề có một ý nghĩa nào, chẳng qua chỉ là cái mê hồn trận thách đố của Gót để quyết định xem ai chiếm được mẩu tốt nhất trên thiên đường. Nếu thật là như vậy thì chúng ta có thể giải thích, vì không có gì khác có thể giải thích được, tại sao bà ta có thể nhẫn tâm ngồi trên nhiều triệu đô la như vậy trong khi trẻ con, ngay cả ở nơi bà hoạt động ở Ấn Độ, đang chết đói. Điều này chống lại mọi giải thích hợp lý, và tôi thách đố bất cứ ai, từ Morphew cho đến chính giáo hoàng, có thể giải thích được sự kiện đó.
Đó là thực chất những công việc "từ thiện" của Mẹ Teresa, người mà các tín đồ Ca Tô được nhồi vào trong đầu óc hình ảnh của một Thánh nhân. Ngày nay, đã có thêm nhiều tài liệu về bà Teresa do chính những người trước đây cộng tác với bà, như các sơ (soeur, sister), viết ra. Họ không phải là người ngoài mà là chứng nhân trong cái gọi là dòng tu "Thừa sai bác ái" của bà Teresa. Hình ảnh của bà Teresa mà họ đưa ra không thánh thiện như giáo hội đã cấy vào đầu óc các tín đồ mà thực ra là : đạo đức giả, lừa bịp, gian dối, tàn nhẫn, cuồng tín, lạc hậu, và nhất là, lợi dụng lòng thương người của quần chúng để vơ vét tiền bạc v..v... Chúng ta thấy, trong giáo hội Ca-tô Rô-ma, những khuôn mặt thánh thiện nhất đối với các con chiên, từ các Giáo hoàng John Paul II và Benedict XVI cho đến bà Teresa và những Giám mục như Nguyễn Thái Hợp đều là những con người đạo đức giả, luôn luôn nói lên những điều đạo đức, bác ái nhưng thực chất các hành động lại trái hẳn với những lời nói. Quý độc giả muốn biết thêm nhiều chi tiết về con người và bộ mặt thực của “đức thánh cha” John Paul II và của “thánh mẹ” Teresa, xin mời đọc những bài sau đây: http://sachhiem.net/TCNtg/TCN66_1.php [về John Paul II] http://sachhiem.net/TCNtg/TCN66_2.php [về Teresa] Về “đức thánh cha” Benedict XVI thì tin mới nhất trên tờ Chicago Tribune ngày 14-9-2011 cho biết: Những Nạn Nhân Tình Dục Yêu Cầu Tòa Án Điều Tra Vatican: Amsterdam – Những nạn nhân của sự lạm dụng tình dục của giới linh mục muốn Tòa Án Xử Tội Phạm Thế Giới điều tra Giáo hoàng Benedict XVI và ba viên chức ở Vatican, lên án họ đã để cho nạn hiếp dâm và cưỡng bách tình dục trẻ em xảy ra (Theo lý luận của thánh Thomas mà Gm Nguyễn Thái Hợp đưa ra thì nếu Gót đã cho phép sự dữ xảy ra thì Giáo hoàng, đại diện của Gót trên trần, cũng có thể cho phép sự dữ xảy ra để cho sự thiện lớn hơn xảy ra là mang tiền của giáo dân đóng góp ra bồi thường. TCN) Hội thuộc Trung Tâm tranh đấu cho Những Quyền thuộc Hiến Pháp và Mạng Lưới Những Người Còn Sống, Nạn Nhân Tình Dục Của các Linh Mục, cho là những viên chức ở Vatican đã phạm những tội ác chống nhân loại. Chưa thấy Vatican bình luận về tin này.
Khoan dung? Sau đây là Gm Nguyễn Thái Hợp viết về “khoan dung”:
Trước hết, khoan dung không có nghĩa từ bỏ các xác tín cá nhân, để trở thành thứ người ba phải. Khoan dung đích thực đòi hỏi phải có lập trường và xác tín riêng, nhưng không áp đặt nó và chấp nhận để người khác cũng có những xác tín riêng của họ. Nói cách khác, chỉ thực sự có thái độ khoan dung, khi dám sống và chết với xác tín của mình, nhưng đồng thời biết tôn trọng xác tín của người khác và tạo cơ hội để họ được sống chết với xác tín của riêng họ.
Có lẽ Giám mục Nguyễn Thái Hợp viết về sự khoan dung trong tôn giáo chứ không phải là khoan dung theo nghĩa thông thường trong xã hội. Nhưng ông Gm này đặt sai vấn đề, bởi vì chính những lập trường và xác tín riêng về tôn giáo đã khiến cho con người trở thành “bất khoan dung” như lịch sử Ca-tô Rô-ma Giáo đã chứng minh. Ca-tô Rô-ma Giáo giết người “dị giáo” và “lạc đạo” cũng vì xác tín riêng. Người Hồi Giáo ôm bom đi giết người cũng là vì xác tín riêng, sống chết với xác tín của mình. Ngoài Ca-tô Giáo và Hồi Giáo, chẳng có tôn giáo nào dạy con người phải dám sống và chết với xác tín riêng của mình, vì đó là phản ảnh của một thái độ cuồng tín tôn giáo, thiếu hiểu biết cho nên mới mù quáng dám sống chết cho những điều mê tín đã lỗi thời mà thế giới đã loại bỏ.. Vả chăng ngày nay, không có mấy xã hội bạo hành người khác vì lý do tôn giáo nên chẳng việc gì phải có thái độ cực đoan cuồng tín sống chết với lập trường và xác tín riêng của mình. Nhưng cái hại của sự xác tín riêng mà không hiểu biết, vẫn tin vào những điều lừa dối của Giáo hội, những điều mê tín mà chính Giáo hội đã bác bỏ mà mình bị che dấu không được biết đến, thì sự xác tín đó trở thành cuồng tín, và sống chết với xác tín đó chỉ là sự ngu xuẩn vô trí. Trong Ca-tô Giáo “xác tín” thật ra chỉ là “tin vào một xác chết” mà Giáo hội đã mê hoặc tín đồ là cái xác chết đó đã sống lại. Ai muốn tin như vậy thì cứ việc tin, đó là quyền tự do tín ngưỡng của họ. Nhưng đối với đa số người dân trên thế giới thì “chừng nào mà cái xác chết đã sống lại đó mà chưa xuất hiện để cho mọi người thấy là nó đã thực sự sống lại thì xác chết đó vẫn chỉ là một xác chết, không hơn không kém”. Điều lạ là sự tác hại của sự xác tín của Ki Tô Giáo vẫn còn xảy ra ngày nay ở một số địa phương nghèo đói, chậm tiến, thí dụ như tin mới nhất sau đây ở Kenya, Phi Châu. Tin từ BBC và ABC cho biết ở một làng Phi Châu, người Ki-tô, không biết là Ca-tô hay Tin Lành vì chỉ nói là “Christians”, đã đánh đập và thiêu sống 4 phụ nữ và 1 nam nhân vì nghi họ là phù thủy. Đây chính là sự xác tín tôn giáo của một số Ki Tô hữu ở Kenya. Trong Thánh Kinh, Gót của Ki Tô Giáo dạy không được để cho các phù thủy sống sót (Exodus 22:18). Cũng vì sự xác tín này mà khi xưa, Giáo hội Ca-tô Rô-ma đã thiêu sống không biết bao nhiêu người mà họ kết tội là phù thủy sau những cuộc tra tấn khủng khiếp mà nạn nhân không thể nào không thú nhận cái tội của mình không hề có. Chúng ta hãy đọc đoạn châm biếm trên: http://www.abovetopsecret.com/forum/thread721076/pg1 Tín đồ Ki-tô thiêu sống người ở Kenya vì nghi họ là phù thủy: Cái tốt đẹp nhất của tôn giáo (Ki Tô Giáo) lại xuất hiện. Năm người ở trong làng Kisii Nyamataro ở Kenya bị thiêu sống vì bị nghi là phù thủy. Có nghĩa là – Họ không nhận Giê-su là Gót của họ. Năm người, nam và nữ, bị đánh đập rồi thiêu sống trong khi dân làng, gồm có các Linh mục đứng xem cảnh ngoạn mục này. Tôn giáo (Ki Tô Giáo) luôn luôn mang lại những sự tốt đẹp nhất cho con người.
Quý độc giả có thể xem cảnh đánh đập và thiêu sống phù thủy này trong video trên trang nhà sau đây: http://www.wisdia.com/articles/shocking_video_five_suspected_witches_burnt_to_death_in_ken ya.aspx 3) Sau đây là đoạn văn của Gm Nguyễn Thái Hợp viết về Phật Giáo dưới đề mục 3: Thái Độ Bất Khoan Dung. Đây là đoạn văn mà ông Trần Đức Anh “sợ” (! ) người đọc hiểu nhầm về Phật Giáo. Thật ra thì chỉ có những người ít hiểu biết về Phật Giáo mới có thể hiểu nhầm, chứ còn chỉ cần biết chút ít về lịch sử Phật Giáo thì không thể nào hiểu nhầm được. Gm Nguyễn Thái Hợp viết: Phật giáo thường được coi là tôn giáo từ bi và khoan dung nhất. Xét theo bản chất giáo lý cũng như cách thức truyền bá Phật pháp, Phật giáo không chấp nhận sự kỳ thị và cưỡng chế, mà lấy hòa đồng làm cứu cánh, do đó dễ tạo mối quan hệ cộng hưởng với các tôn giáo khác. Tuy nhiên trong giai đoạn hưng thịnh ở thời Lý Trần, Phật giáo một vài lần đã rơi vào cám dỗ đóng vai trò chủ thể trong hội nhập văn hóa. Cũng có trường hợp muốn cưỡng chế các tôn giáo khác, chẳng hạn Trần Nhân Tông từng đi các nơi kêu gọi phá bỏ dâm từ[2]. [ [2] Xem Ðại Việt sử ký toàn thư, bản dịch của Cao Huy Giu, tập II, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1972. ] Trong lịch sử cũng không thiếu cảnh các tăng sĩ xách thiền trượng đánh bể đầu, nát xác môn sinh của các giáo phái đối lập! Nếu như chưa thể kiểm chứng được câu chuyện các tăng sĩ Thiếu Lâm tự đi hành hiệp giang hồ, thì ở Nhật chuyện Phật giáo vũ trang là một thực tại lịch sử. Thật vậy, trong thời trung cổ, tại Nhật Bản, tăng sĩ chia thành nhiều phe phái, võ trang đầy đủ y hệt như các vị samourai. Ðạo tăng binh của các chùa lớn có thể lên tới một hay nhiều trung đoàn, bởi thế họ tung quân đánh nhau, chùa này đánh chùa kia, và dĩ nhiên vị shogun địa phương nào không khéo hòa giải với chùa, cũng bị đạo tăng binh này đánh cho thất điên bát đảo (…). Những tài liệu tôi được đọc về hiện tượng tăng binh này không thấy nói tới chuyện sau khi khai sát giới thì các vị tăng binh có khai sắc giới không. Nhưng tôi phỏng đoán là có, bởi vì (…) nam nhi xứ Nhật, samourai hay không, rất tàn bạo với phụ nữ. Thắng, chiếm được thành địch, là mang phụ nữ ra biểu diễn một đường hải tặc vịnh Xiêm la liền (…). Hiện tượng tăng binh này chỉ chấm dứt khi một chùa nọ mạnh đến độ mang quân về uy hiếp thủ đô Kyoto, mưu sự nghiệp bá vương. Các lãnh chúa phàm tục khác phải đi một đường bát quốc liên quân mới dẹp yên dần dần các đạo tăng binh này[3]. [ [3] Thế Uyên, Nghĩ trong mùa xuân, Xuân Thu, California, 1992, tr.76-77. ]
Chủ đề bài viết của Gm Nguyễn Thái Hợp là: “Đối Thoại Trong Viễn Tượng Đa Phức Tôn Giáo”, vậy đoạn trên có thích hợp không, có lạc đề không và viết ra với mục đích gì? Nhưng vấn đề ở đây là kiến thức của Gm Nguyễn Thái Hợp về Phật Giáo, về lịch sử thế giới, không thể gọi là kiến thức, mà chỉ là lượm lặt tạp nham hoặc bịa đặt theo mục đích xuyên tạc Phật Giáo của mình. Chứng minh? Xuyên tạc Phật Giáo Trước hết, tôi đã đọc về Phật Hoàng Trần Nhân Tông trong “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư”, Dịch theo bản khắc Chính Tòa thứ 18 (1697), Tập II, Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội – 1993, từ trang 44 đến trang 70, không thấy chỗ nào viết về Vua Trần Nhân Tông từng đi các nơi kêu gọi phá bỏ dâm từ như Gm Nguyễn Thái Hợp viết ở trên. Một vị Vua như Trần Nhân Tông,
trị vì 14 năm, nhường ngôi 5 năm, và xuất gia 8 năm thì không làm gì có chuyện “cưỡng chế các tôn giáo khác”. Hơn nữa, Nguyễn Thái Hợp viết ẩu: “dâm từ” không phải là tôn giáo, có lẽ ông Nguyễn Thái Hợp nghĩ đến những “dâm từ” trong cuốn Thánh Kinh của Ki Tô Giáo, thí dụ như chuyện Sarah, vợ của Abraham, ông tổ các đạo Chúa, hay chuyện Tamar ngủ với bố chồng, Amon hiếp em gái, hai con gái Lot ngủ với cha, David giết thuộc hạ để cướp vợ, Basheba, hay những bài ca ướt át của Solomon v.v… ! Nhưng thời đó, Việt Nam đâu có biết đến cuốn Thánh Kinh là cái gì. Nguyễn Thái Hợp cũng viết bừa, không hiểu cấu trúc xã hội trong thế kỷ 13. Trong thế kỷ 13, một vị Vua không có đi khắp nơi để kêu gọi phá bỏ dâm từ. Nếu muốn, chỉ cần ra lệnh và quần thần phải thi hành. Do đó, Nguyễn Thái Hợp viết mà không hiểu mình viết cái gì. Nhưng có thật là Gm Nguyễn Thái Hợp viết mà không hiểu mình viết cái gì không, hay là ông ta cố ý viết như vậy? . Trong thời Trần, “Thiên hạ Lý Trần Bán Vi Tăng”, Việt Nam có Tam Giáo. Đào Duy Anh viết trong “Việt Nam Văn Hóa Sử Cương”, trang 269: “Ở đời Lý vào nhà Trần triều đình lại đặt khoa thi Tam Giáo (Nho, Phật, Lão), xem thế đủ biết không những Nho học và Phật học thịnh hành, mà Lão học cũng không bị bài xích. Ở hai đời ấy, người ta đương chịu ảnh hưởng của tư tưởng “Tam Giáo Đồng Nguyên””…Tư tưởng ấy đã ảnh hưởng đến học giới nước ta, cho nên ở đời Lý Trần nước ta cũng tôn trọng cả ba Nho, Phật, Lão. Ta có thể gọi đời ấy là thời đại “Tam Giáo Đồng Tôn” vậy.’
Vậy trong thời Trần làm gì có chuyện Phật Giáo cưỡng chế các tôn giáo khác, mà theo Gm Nguyễn Thái Hợp, “dâm từ” là một tôn giáo bị cưỡng chế??. Tôi hi vọng những người Ca-tô như Gm Nguyễn Thái Hợp, khi viết về lịch sử Việt Nam thì hãy nghiên cứu kỹ càng hơn, không nên viết ra những điều mà thực chất chỉ chứng tỏ sự hiểu biết nghèo nàn hoặc mánh mưu đen tối của mình. Phải chăng như Hoàng Vũ đã nhận định ở trên, để tô hồng cho tôn giáo của quý vị, quý vị “đã không ngần ngại dùng thủ đoạn bôi đen, xuyên tạc, hạ thấp các “tôn giáo bạn” một cách thô bỉ.”
Tăng Binh và Shogun, Samurai Đoạn tiếp theo của Nguyễn Thái Hợp về các Tăng Binh và Shogun, Samurai, không hiểu lấy từ tài liệu nào, không thấy ghi xuất xứ rõ ràng. Tôi có cảm tưởng là ông Nguyễn Thái Hợp đã lấy những chuyện trong cuốn Thánh Kinh của Ki Tô Giáo và lịch sử Ca-tô Rô-ma Giáo như tàn bạo,
hiếp dâm, kỳ thị phái nữ, những đoàn thập tự quân ô hợp, những phe phái Ki Tô Giáo chém giết nhau v…v… rồi diễn giải thành Tăng binh, samurai v… v… để chụp lên đầu Phật Giáo qua đoạn văn trên mà chẳng có ai có thể tin nổi.. Muốn trích dẫn tài liệu thì phải trích dẫn từ những tác phẩm nghiên cứu lịch sử chứ trích dẫn từ một cuốn tiểu thuyết của nhà văn Thế Uyên mà chẳng có mấy người biết đến thì thật là hoàn toàn vô giá trị. Bát quốc liên quân là nói về 8 nước xâm chiếm Trung Quốc chia Thượng Hải làm nhiều tô giới không phải là 8 nước của các lãnh chúa Nhật Bản để dẹp các Tăng binh, mà Tăng binh nào, ở Chùa nào, tất cả đều vu vơ, mù mờ, không rõ ràng. Đây hầu như là tiêu chuẩn dựng đứng của các trí thức Ca-tô, chỉ nói lấy được, không cần đưa ra bằng chứng để chứng minh. Khoan kể là đoạn văn trên của Nguyễn Thái Hợp hoàn toàn vô căn cứ, bịa đặt, không hề có trong lịch sử, nhưng ngay cả cái hiểu của Nguyễn Thái Hợp về Shogun hay Samurai cũng sai lầm. Samurai là những chiến binh (warriors), không phải là tăng binh, xuất thân từ những gia đình quyền quý Nhật Bản, phục vụ trong những đoàn quân tuyển mộ bởi các lãnh chúa địa phương (local lords). Họ chiến đấu trong những cuộc nội chiến ở Nhật trong thế kỷ 12. Năm 1603, những shogun Tokugawa tái lập hòa bình và các Samurai trở thành các viên chức cai trị trong chính quyền. Samurai lập lời thề trung thành với các đồng chí và Lãnh Chúa mình theo. Họ theo tiêu chỉ của các chiến binh (Bushido = The way of the warriors). Họ tôn trọng tinh thần dũng cảm, kỷ luật, danh dự, hi sinh v..v… Một số theo lý thuyết của Thiền Phật Giáo (Zen Buddhism) để định tâm, chú tâm, và tự khép mình vào kỷ luật (self-awareness and selfdiscipline). Nhưng họ tuyệt đối không phải là “tăng binh” và không liên quan gì đến lịch sử Phật Giáo. Nói về lịch sử Phật Giáo thì phải nói đến Đức Phật, giáo lý Phật Giáo, và lịch sử truyền đạo của Phật Giáo. Khoan nói đến Đức Phật mà ngày nay cả thế giới đều ngưỡng mộ, Phật Giáo có Thiên Kinh Vạn Quyển về Giáo lý nhưng chúng ta không thể tìm thấy trong đó một lời dạy ác độc nào, hay khuyến khích chiến tranh, khuyến khích con người tàn bạo vì tín ngưỡng, giết người không đồng ý kiến. Và lịch sử truyền giáo của Phật Giáo trong hơn 2500 năm nay chưa hề làm đổ một giọt máu để kéo con người vào Phật Giáo. Như vậy, dù có một số tệ đoan xảy ra trong cộng đồng Phật Giáo bởi những cá nhân đạo đức thấp kém thì chúng ta cũng không thể quy kết đó là Phật Giáo. Nhưng Giám mục Nguyễn Thái Hợp, nói về những trung đoàn Tăng binh, không biết có thật hay không, vì một trung đoàn thường là có 5 Tiểu đoàn, mỗi Tiểu đoàn gồm có từ 700 đến 800 người, vậy một trung đoàn ít ra cũng là vài ngàn người, và các Samurai, cho đó là của Phật Giáo, cũng như một số người cuồng tín trên Internet, với chủ tâm xuyên tạc hạ thấp Phật Giáo nên đã chụp những gì không phải của Phật Giáo như đốt vàng mã, bùa ngải, lên đồng, xem bói xem tướng v…v… lên đầu Phật Giáo. Những mánh mưu này không thể lừa được ai bởi vì ngày nay người dân đã biết quá rõ về những thủ đoạn xuyên tạc, chụp mũ của Ca-tô Rôma Giáo ở Việt Nam. Gm Nguyễn Thái Hợp viết: Thật vậy, trong thời trung cổ, tại Nhật Bản, tăng sĩ chia thành nhiều phe phái, võ trang đầy đủ y hệt như các vị samurai. Ông chỉ viết vu vơ, không đưa ra một tài liệu dẫn chứng nào, có thật là Tăng sĩ, Tăng sĩ nào, ở Chùa nào, bao nhiêu, theo Tông phái Phật Giáo nào, chia thành nhiều phe phái vũ trang như Samurai không, nhiều là bao nhiêu, chém giết nhau thế nào, bao nhiêu người chết? Nhưng vấn đề là, những gì Gm Nguyễn Thái Hợp viết
ở trên, nếu có, thì cũng không thuộc “Thái độ bất bao dung” mà thuộc về vấn đề tranh chấp thế quyền. Muốn viết về thái độ bất bao dung trong thời Trung Cổ với đầy đủ tài liệu thì không đâu bằng lịch sử Ca-tô Rô-ma Giáo. Trong thời Trung Cổ 1000 năm, Giáo hội Ca-tô Rô-ma đã nhân danh Gót của họ đưa Âu Châu vào những thời đại gọi là “Thời đại đen tối” (The dark ages) hoặc “Thời đại của sự man rợ và đen tối trí thức” (The age of barbarism and intellectual darkness). Trong những thời đại này, những hàn động bất bao dung của Giáo hội Ca-tô bắt nguồn từ xác tín tôn giáo không đâu sánh bằng qua những cuộc thập tự chinh được gọi là “thánh chiến”, những tòa hình án xử dị giáo, những cuộc săn lùng phù thủy, tra tấn trong những ngụ tù tối tăm rồi mang đi thiêu sống v..v…, số người vô tội, không dưới trăm triệu người gồm cả nam, phụ, lão, ấu, chết dưới tay Giáo hội. Những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo Link:http://www.adishakti.org/_/peter_de_rosa_vicars_of_christ_the_dark_side_of_the_papacy. htm Sau đây là vài nét về các tòa hình án của Ca-tô Rô-ma Giáo do Tổng Giám Mục Peter de Rosa viết trong cuốn “Vicars of Christ, The Dark Side Of The Papacy”, Crown Publishers, Inc., New York, 1988, trg.162-166, nói về cuốn “Sổ Đen”, còn được biết là “Cuốn sổ của thần chết”, cuốn sách chỉ đạo của “Tòa Thánh” cho những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo: Tòa hình án trong thời Trung Cổ có thể làm bất cứ điều gì . Những phán quan của tòa hình án [ những Linh Mục] thuộc dòng tu Đa Minh, được giáo hoàng bổ nhiệm, không ở dưới quyền bất cứ một ai ngoài Thượng Đế và giáo hoàng. Họ đứng ngoài vòng xét xử của các giám mục và luật dân sự. Trong những quốc gia thuộc quyền giáo hoàng họ chính là luật lệ, vừa đóng vai công tố viên vừa đóng vai quan toà xử án. Nguyên lý chỉ đạo của họ là : Thà giết oan 100 người vô tội còn hơn là để cho một kẻ dị giáo được tự do." Và, theo cuốn Sổ Đen, một đứa con phải phản bội cha mẹ, một bà mẹ phải phản bội đứa con. Không làm như vậy là một " tội lỗi đối với Toà Án Thánh" và đáng bị tuyệt thông, nghĩa là, không được hưởng các bí tích và, nếu không có tu chính án, không được lên thiên đàng.
Chúng ta thấy, “con cái phải tố cáo cha mẹ, cha mẹ phải tố cáo con, thà giết oan 100 người còn hơn là để cho một kẻ dị giáo được tự do, và dùng các hình cụ khủng khiếp nhất trong lịch sử để tra tấn các nạn nhân, nhiều khi đến chết, để cưỡng bách họ phải thú tội dù họ không có tội v..v..” chính là “đặc sản” của Ca-tô Rô-ma Giáo trong thời Trung Cổ, đưa đến số nạn nhân bị chết vì tra tấn, vì thiêu sống v..v.. lên tới khoảng 10 triệu người. Đây mới thực sự là thái độ bất bao dung đã đưa đến những hành động bất bao dung tôn giáo khủng khiếp nhất trong nhân loại. Ai phủ nhận những sự kiện lịch sử này, xin lên tiếng. Xin nhớ, Ca-tô Rô-ma Giáo là một tôn giáo tự nhận là thiên khải, thánh thiện, duy nhất, không như những thế lực đối nghịch thế tục, nếu có, xung đột nhau vì những tranh chấp trong xã hội. Sự bất khoan dung của Giáo hội Ca-tô và sự bất khoan dung trong những xã hội thế tục khác nhau nhiều lắm, không thể biện minh là vua chúa ngày xưa cũng bất bao dung, cũng ác, vậy Giáo hội bất khoan dung hay ác thì có khác gì đâu. Nhưng rõ ràng là Gm Nguyễn Thái Hợp không hề biết đến lịch sử tàn bạo, bất khoan dung của chính Giáo hội Ca-tô Rô-ma, hay dù có biết, vì nhân
danh là một Giám mục thì phải biết, nhưng theo đúng sách lược “ngu dân dễ trị” của Giáo hội, che dấu kỹ những sự thật về Giáo hội trước đám tín đồ thấp kém, và lại đi moi móc những chuyện ruồi bu, nhiều khi chỉ là bịa đặt, trong những xã hội và tôn giáo khác. Để làm gì, chắc ai cũng hiểu. Tôi hi vọng phần phân tích ở trên có thể là câu trả lời cho thắc mắc của ông (Lm?) Trần Đức Anh và hi vọng ông không hiểu nhầm về Phật Giáo. Tôi cũng muốn nói rõ cùng ông Trần Đức Anh là, tất cả những gì Gm Nguyễn Thái Hợp viết về Phật Giáo đều không liên quan gì đến Phật Giáo. Và như vậy, những gì Gm Nguyễn Thái Hợp viết, bất kể với mục đích gì, đều không liên hệ đến “lịch sử Phật Giáo”. Vì Gm Nguyễn Thái Hợp bàn về thái độ bất bao dung không hề có mà ông ta cho là của Phật Giáo, để cho công bằng, có lẽ chúng ta cũng cần xét thêm về “Thái độ bất bao dung” trong Ki Tô Giáo. Về vấn đề này có một sự khác biệt quan trọng giữa Phật Giáo và Ca-tô Rô-ma Giáo nói riêng, Ki Tô Giáo nói chung. Về Phật Giáo, Đức Phật cũng như Giáo lý Phật Giáo không dạy con người có những hành động bất khoan dung. Ông không thể kiếm ra bất cứ ở đâu một lời nói của Đức Phật hay một đoạn kinh văn Phật Giáo nào dạy con người phải vũ trang chém giết nhau cả. Trường hợp Charlie Nguyễn Trái lại, vì chính sách nhồi sọ của các bề trên mà Giáo dân Việt Nam trở thành những người bất khoan dung nhất. Trường hợp điển hình là nhà trí thức Ca-tô Đạo gốc Charlie Nguyễn (Bùi Văn Chấn). Khi ông ta, với sự lương thiện trí thức, đưa ra những sự thật về Ca-tô Rô-ma Giáo thì ông ta bị cả gia đình ruồng bỏ, phải sống lang thang vô gia cư. Vợ con ông phá hủy máy điện toán và sách vở tài liệu của ông. Đối với chồng, cha, mà người Ca-tô Việt Nam mà còn như vậy, huống chi là đối với người ngoài. Charlie Nguyễn viết về lý do ông bỏ đạo: Như các bạn đã biết, tôi sinh ra và lớn lên trong môi trường đậm đặc của Công Giáo LaMã, vốn mang nặng tính chất du mục Babylon và hoàn toàn xa rời văn hóa dân tộc. Có lẽ các bạn cũng nhận thấy rất nhiều người Công giáo trí thức, họ hiểu biết nhiều nhưng tại sao họ vẫn không thoát ra khỏi cái ngục tù tư tưởng của họ? Đó là vì họ đã mắc tròng, tức bị mắc kẹt trong cái thòng lọng của đạo Công Giáo (The Catholic Loop). Cái tròng nặng nhất là cái tròng tình cảm gia đình. Không ai muốn ra mặt công khai chống lại cái tôn giáo lâu đời của gia tộc và gia đình mình, nhất là cái tôn giáo đó lại là thứ tôn giáo cuồng tín như Công giáo LaMã. Nhiều cha mẹ sẵn sàng từ con hoặc vợ bỏ chồng, chứ không bao giờ chấp nhận bỏ đạo, vì vậy mọi người Công giáo tỉnh ngộ vẫn cứ phải im lặng làm hòa cho yên cửa yên nhà. Nhiều người lại cho rằng chống lại đạo của cha mẹ ông bà mình là bất hiếu nên họ đã không dám thoát ra khỏi cái tròng của đạo. Bài viết “Củ Khoai Lùi Bếp Tro” tôi đính kèm theo đây nói lên cái hoàn cảnh ấy. Chính cái tinh thần dân tộc còn sót lại trong tôi đã giúp tôi thoát khỏi cái tròng Công giáo của văn hóa du mục Babylon để trở về với văn hóa dân tộc Việt Nam.
Charlie Nguyễn viết không sai, chúng ta cũng biết, Giáo hội Ca-tô đã từng có chính sách theo đuổi những linh mục bỏ đạo, vu khống, nhục mạ, không cho việc làm v..v… để cho họ phải “trở lại đạo”, và các con chiên cũng áp dụng chính sách này đối với những người trong gia đình hay thân thuộc bỏ đạo. Trong cuốn "Tội Ác Và Vô Luân Trong Giáo Hội Ca-Tô” (Crime & Immorality In The Catholic Church), linh mục Emmet McLoughlin đã viết về nhiều trường hợp Giáo hội theo đuổi để trả thù các linh mục bỏ đạo và các bậc cha mẹ, bạn bè đối xử tồi tệ, hắt hủi những người bỏ đạo; Trang 145: “The Catholic spreads the most devastating rumors about
former priests. They are either drunken sots, gravely ill as a curse of God, divorced by their wives or back in a distant monastery to do penance for their sins”; Trang 149: “Then began the usual emotional pressure from his family: “Go back to God” – “Leave that sinful woman – “Give up the child” – “What does it profit a man”. Trang 269: Letter to an ex-priest: “We were brought up strictly in the Church and attended only parochial schools, but at the age of fifteen years I knew it was wrong for me to do the things I did not believe, so I left the Church. Well, you know also that I could no longer remain at home. My family never wrote to me and never came to see me. I got very lonely. I went back once, my parents would not allow me to visit with my younger sisters and brothers. They told me I was a bad influence on them, so I never went back.” Đó là cái thòng lọng Ca-tô mà Charlie Nguyễn nói đến và chính sách nhồi sọ con chiên của Giáo hội đã thành công để biến họ thành những người vô nhân tính. Lòng bao dung của giáo hội và của gia đình đối với người bỏ đạo ở đâu? thưa ông Gm Nguyễn Thái Hợp. Những hành động ác ôn tàn bạo trong Thánh Kinh Mặt khác, tất cả những hành động ác ôn tàn bạo của các Giáo hội Ki-tô, đặc biệt là Giáo hội Ca-tô Rô-ma, tràn ngập trong lịch sử nhân loại đều bắt nguồn từ những lời dạy của Gót Cha cũng như Gót Con trong cuốn Thánh Kinh. Có thể các ông không tin. Sau đây là vài trích dẫn từ cuốn gọi là Thánh Kinh. Trước hết là vài lời của Gót Cha: Xuất Hành 20: 5 và Phục Truyền 5:9: Ta, Thiên Chúa của các ngươi, là một Thiên Chúa ghen tuông đố kỵ, sẽ trừng phạt tới ba bốn thế hệ sau của những kẻ nào ghét Ta (nghĩa là những người đi thờ phụng Thần khác hay hình ảnh khác) Isaiah 14: 21: Hãy sẵn sàng để giết những đứa con vì tội của cha chúng. 27: Thiên Chúa sẽ giáng cho ngươi ghẻ chốc của xứ Ai Cập, trĩ lậu, ghẻ ngứa và lác, mà ngươi không thể chữa lành.. 53: Ngươi sẽ ăn hoa quả của thân thể mình, tức là ăn thịt con trai và con gái mình, mà Thiên Chúa ban cho ngươi. Micah 5:14: Ta sẽ báo thù những nước không nghe theo ta, trong cơn thịnh nộ và căm tức của ta. Leviticus 26:28-29: Ta sẽ nổi giận, phạt tội các ngươi nặng gấp 7 lần. Và các người sẽ ăn thịt con trai và con gái các ngươi. [And ye shall eat the flesh of your sons, and the flesh of your daughters shall ye eat.] Deutoronomy 13:15: Các ngươi phải dùng kiếm tận diệt tất cả dân chúng trong thành (vì họ đi thờ thần khác), phá hủy hoàn toàn tất cả những gì trong đó, và cả mọi súc vật trong đó. 1 Samuel 15: 2-3: Ta sẽ trừng phạt dân Amalek và phá hủy tất cả những gì chúng có và giết hết không chừa ai: đàn ông, đàn bà, con trẻ, con nít mới sinh, bò, cừu, lạc đà và lừa của chúng. Phục truyền 13: 6-10: Nếu anh em ngươi, con trai hay con gái ngươi, vợ ngươi hay bạn ngươi, khuyến dụ ngươi đi thờ các thần khác, thần của các nước lân bang hay xa xôi.., thì ngươi phải giết nó đi, trước hết là đích thân tay ngươi phải ném đá để cho nó chết, rồi sau mới đến tay
của dân chúng. [Nếu luật này cũng được áp dụng đối với các tôn giáo khác thì mọi nhà truyền giáo Ki Tô, từ Alexandre de Rhodes cho tới Puginier v..v…, và các nhà truyền đạo Tin Lành trên thế giới đều phải bị ném đá cho chết đi. Nhưng may mắn thay cho mấy người, chẳng có đạo nào ở Á Đông lại ác ôn như đạo Thiên Chúa] Sau đây là vài lời điển hình của Gót Con, Giê-su: Matthew 10: 34-36, đã viết rõ, Giê-su khẳng định: Đừng tưởng rằng Ta xuống trần để mang lại hòa bình trên trái đất. Ta không xuống đây để mang lại hòa bình mà là gươm giáo. Vì Ta xuống đây để làm cho con chống lại cha, con gái chống lại mẹ, con dâu chống lại mẹ chồng, và kẻ thù của con người ở ngay trong nhà hắn.
Và Luke 12: 51-53 cũng xác định lại khẳng định của Giê-su như sau: Đừng tưởng Ta đến để đem hòa bình cho thế giới. Không, Ta đến để chia loài người làm hai. Từ đây, một nhà có năm người sẽ chia rẽ chống đối nhau: hai chống ba, và ba chống hai. Mâu thuẫn sẽ diễn ra giữa con trai với cha, con gái với mẹ, con dâu với mẹ chồng.
Luke 19:27 : Hãy mang những kẻ thù của Ta ra đây, những người không muốn Ta ngự trị trên họ, và giết chúng ngay trước mặt Ta. [Ca-tô giáo đã theo sát lời dạy này, tàn sát những người mà giáo hội cho là “lạc đạo” và không tin Chúa] John 15: 6: Nếu người nào không ở lại với ta [nghĩa là rời bỏ ta, ngày nay là bỏ Đạo], nó sẽ bị cắt bỏ như một cành cây rồi khô héo; và người ta sẽ gom chúng lại, ném vào lửa, và chúng bị thiêu đốt. ["If a man abide not in me, he is cast forth as a branch, and is withered; and men gather them, and cast them into the fire, and they are burned."] (Lời dạy này của Chúa là kim chỉ nam cho Giáo hội Ca-tô Rô-ma để cho Giáo hội đi săn lùng, tra tấn và thiêu sống các phù thủy, và cả khoa học gia như Bruno.) Sau đây chúng ta hãy đọc tiếp một đoạn xuyên tạc lịch sử của Gm Nguyễn Thái Hợp: Ở Việt Nam chẳng hạn, từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV, các nhà Nho và các quan lại theo Khổng giáo đã không kiên trì đấu tranh bất khoan nhượng để loại trừ Phật giáo khỏi vai trò lãnh đạo? Nhìn kỹ sẽ thấy rằng thái độ của nhà Nho đời Trần đối với Phật giáo có một cái gì tương tự với thái độ của nhà Nho triều Nguyễn đối với Công giáo. Chính thái độ bất bao dung của lớp sĩ phu của sân Trình cửa Khổng đã gây nên không biết bao nhiêu tang tóc kinh hoàng cho người Công giáo.
Tam Giáo Đồng Nguyên Ở đây chúng ta lại thấy Gm Nguyễn Thái Hợp viết ra những điều vô căn cứ và sai với lịch sử. Đọc lịch sử Phật Giáo, ai cũng biết là trong thời Lý Trần, lý tưởng Tam Giáo Đồng Nguyên rất được tôn trọng. Chỉ tới cuối nhà Trần, thế kỷ XIV chứ không phải từ thế kỷ X, chúng ta mới thấy có chuyện bài xích Phật Giáo. Chúng ta có thể đọc trên link: http://htx.dongtak.net/spip.php?article182:
Sau khi thay nhà Lý, triều Trần tiếp tục truyền thống sùng tín đạo Phật và đồng thời phát huy lý thuyết Nho giáo như là một hệ triết lý chính trị cần thiết để cai trị đất nước. Phật giáo vẫn là một tôn giáo có thế lực nhất trong tất cả các loại tôn giáo thời ấy và có ảnh hưởng sâu đậm trong mọi tầng lớp cũng như mọi lãnh vực… Ta có thể nói, dưới ảnh hưởng của các vị vua Phật tử nhà Trần và các nhà thiền sư thời ấy, Phật giáo đã đạt đến mức phát triển huy hoàng của một tôn giáo, nếu không muốn nói rằng Phật giáo đã trở thành như quốc giáo vậy. Nhưng đến cuối đời Trần, Phật giáo bị lạm dụng và bị biến tạp với nhiều yếu tố mê tín, dị đoan trong dân gian. Đồng thời, số tăng sĩ giả danh tăng lên, nhiều tệ nạn xảy ra. Các vua Trần Hiển Tông và Trần Thuận Tông phải mở các kỳ thi sát hạch kiến thức Phật học cùng họ, để bắt các tăng sĩ thất học phải hoàn tục. Trong khi ấy thì giới nho sĩ lại được đào tạo theo trường lớp, tham chính qua đường thi cử gian nan, bắt đầu tấn công những tệ nạn trong giới Phật giáo. Điển hình là Trương Hán Siêu, chủ trương bài xích mê tín dị đoan. Thấy các chùa tháp mọc lên khắp nơi, ông viết bài ký châm biếm: ’Trong thiên hạ ba phần, chùa chiếm ở một phần, bỏ rứt luân thường, hao tổn của báu, ngây ngây mà chơi, ngẩn ngẩn mà theo..." Như thế, vào cuối đời Trần, Phật giáo không những tự bản thân bị suy yếu đi mà còn bị Nho giáo tấn công để chiếm địa vị ưu thế trong xã hội.
Đây là lịch sử, Phật Giáo không phủ nhận những sự kiện lịch sử này. Nhưng tuyệt đối không có chuyện thuộc loại hoang tưởng của ông Gm Nguyễn Thái Hợp là “thái độ của nhà Nho đời Trần đối với Phật giáo có một cái gì tương tự với thái độ của nhà Nho triều Nguyễn đối với Công giáo.” Thật vậy, khi xưa một số nhà nho bài xích Phật Giáo là vì số tăng sĩ giả danh tăng lên, nhiều tệ nạn xảy ra trong Phật Giáo. Điển hình là Trương Hán Siêu, ông là người có học vấn sâu rộng, giàu lòng yêu nước, được 4 đời vua nhà Trần tôn quý như bậc thầy. Thời trẻ, ông bài xích (phản đối) Phật , nhưng vua không trách, còn bổ ông làm quản tự cho một ngôi chùa lớn. Về cuối đời, ông lại là người sùng đạo Phật và những sáng tác của ông cũng chịu ảnh hưởng tư tưởng này. Tại sao vậy? Vì nếu chỉ nhìn cái bề ngoài của Phật Giáo mà không hiểu sâu xa về Phật Giáo thì không những nhà nho mà ngay cả những Phật tử hiểu biết cũng phải bài xích những tệ đoan trong Phật Giáo. Vấn đề là những tệ đoan đó xảy ra trong Phật Giáo nhưng thực ra là trong xã hội, vì Kinh điển Phật Giáo không có nơi nào dạy về những tệ đoan như vậy. Ảnh hưởng của xã hội trên người dân nói chung đã sinh ra những tệ đoan xã hội. Thời xưa cũng vậy và thời nay cũng vậy. Nhưng không ai có thể ngớ ngẩn đến độ so sánh chuyện nhà Nho thời Trần đối với Phật Giáo với nhà Nho triều Nguyễn đối với Ca-tô Giáo như Gm Nguyễn Thái Hợp. Điều này thật là hiển nhiên vì nhà Nho thời Trần chống Phật Giáo về mặt tư tuởng và ảnh hưởng trên xã hội chứ chưa hề giết một ông Sư hay Phật tử nào. Họ đều biết Phật Giáo là một lực lượng yêu nước và đã đóng góp rất nhiều cho đất nước, đặc biệt là trong những triều đại nhà Trần như lịch sử đã ghi rõ: Đế quốc Nguyên Mông bành trướng thế lực, diệt được nhà Tống, phát động hai lần xâm lược Đại Việt từ 1284 đến 1288. Nhưng vua Trần Nhân Tông cùng các kiệt tướng Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư, Trần Bình Trọng, Phạm Ngũ Lão, Trần Quốc Toản... đã oanh liệt đánh bại đội quân được mệnh danh bách chiến bách thắng này.
Trái lại, tập thể Ca-tô Rô-ma Giáo ở Việt Nam dưới các triều Nguyễn là một tập thể phi dân tộc, phản quốc, đã làm tay sai cho thực dân Pháp, đã giữ một vai trò then chốt quyết định trong việc đưa Việt Nam vào vòng nô lệ của thực dân Pháp. Những tác hại mà Ca-tô
Rô-ma Giáo mang đến Việt Nam thì nhiều không sao kể xiết. Do đó, không chỉ các nhà Nho dưới triều Nguyễn mà cả dân tộc Việt Nam đối với Ca-tô Rô-ma Giáo như lịch sử đã ghi, không phải là vì những điều huyễn hoặc trong Ca-tô Giáo như những khái niệm ơn Chúa, bí tích, Thiên Chúa nhập thể đều xa lạ với tư tưởng Khổng giáo như ông Gm viết, mà là vì vai trò phi dân tộc, phản bội dân tộc của tập thể Ca-tô Giáo ở Việt Nam. Nếu Gm Nguyễn Thái Hợp không biết đến hoặc không dám nhắc đến những vai trò này thì sau đây là vài sự kiện lịch sử về Ca-tô Giáo ở Việt Nam dưới các triều Nguyễn. Chủ trương xóa bỏ mọi nền văn hóa phi Ki-Tô Lịch sử đã chứng minh: Sách lược truyền giáo của Ca-tô Rô-ma Giáo là một sách lược chủ trương xóa bỏ mọi nền văn hóa phi Ki-Tô, dùng bạo lực thắng công lý, dùng gian xảo, dối trá để lừa dối dân gian, dùng bả vật chất và mê tín dị đoan để chiêu dụ và giữ tín đồ, dùng những phép lạ ngụy tạo để huyễn hoặc làm mê mẩn đầu óc tín đồ v..v.. Một sắc thái đặc biệt nhất của Ca-tô Rô-ma Giáo là, bất cứ tôn giáo này truyền tới đâu là ở đó xảy ra những cảnh hỗn loạn, thù nghịch, chia rẽ v…v… trong gia đình, trong xã hội, thực hiện đúng lời của Chúa Giê-su trong Thánh Kinh, Matthew 10: 34-36: “Chúa Ki Tô Mang Đến Sự Chia Rẽ”: Lịch sử thế giới đã ghi rõ điều này, và kinh nghiệm cay đắng của Việt Nam đối diện với sự xâm nhập của Ca-tô Rô-ma Giáo còn ghi rõ trong sử sách. Ở đây, sách lược truyền giáo của đạo Ca-tô đã đưa tới những cảnh bất hòa trong những gia đình nào có người bỏ tôn giáo truyền thống của gia đình, của dân tộc, để tin theo những lời dụ dỗ huyền hoặc của Ca-tô Rô-ma Giáo, từ bỏ không còn tôn trọng những lễ tiết truyền thống trong gia đình. Ca-tô Rô-ma Giáo cũng đưa tới những cảnh Lương Giáo nghi kỵ, thù nghịch, tàn sát lẫn nhau như lịch sử đã chứng tỏ. Chính Linh mục Lương Kim Định cũng phải thú nhận trong cuốn Cẩm Nang Triết Việt, trang 57: “Sự truyền đạo Thiên Chúa vào Việt Nam…đưa đến sự chia khối dân tộc đang thống nhất thành hai phe Lương Giáo làm cho sự liên lạc giữa đôi bên trở nên nhức nhối đầy e dè nghi kỵ. Đấy là một tai nạn lịch sử mà thời gian tuy có làm giảm đi, nhưng xem ra không sao xóa sạch được”
Lương-giáo Sự phân biệt lương-giáo của ông cha chúng ta là có ý nghĩa sâu sắc. Vì “lương” có nghĩa là tốt, lành, lương thiện, còn “giáo” chỉ các giáo dân, những người không “lương”. Linh Mục Lương Kim Định đã thú nhận một ảnh hưởng tác hại của Ca-tô Giáo trên khối dân tộc Việt Nam: gây chia rẽ. Tìm hiểu những nguyên nhân làm cho khối dân tộc đang thống nhất thành hai phe Lương Giáo, chúng ta có thể nêu lên vài điều. Những nguyên nhân này không bao giờ được các nhà viết sử thực dân hay tay sai Ca-tô Giáo bản địa nhắc tới. Những nguyên nhân này là gì, hiện nay tài liệu có khá đầy đủ, tôi có thể tóm tắt những nguyên nhân đó trong ba điều sau đây: i). Các giáo sĩ thừa sai Ca-tô Giáo khi tới Việt Nam truyền đạo đã không giữ đúng vai trò truyền giáo thuần túy của mình. Họ có những thái độ ngạo mạn, khinh rẻ chính quyền địa phương vì tự cho là văn minh tiến bộ trong khi bản chất của họ, ít ra là về phương diện tâm linh, luân lý, và đạo đức, thật là hẹp hòi và chậm tiến. Họ đã trắng trợn can thiệp vào chính trị nội bộ của Việt Nam và trong nhiều trường hợp đã xúi dục nội loạn và gây nên sự chia rẽ, bất hòa, xáo trộn trong xã hội Việt Nam. Với tâm cảnh cuồng tín, tổng hợp của ngu dốt và huênh hoang, cộng với sự kiêu căng lố bịch, cho rằng đạo của mình là đạo "thiên khải" chân thật duy nhất, họ đã dùng
những phương pháp truyền đạo gian xảo, xuyên tạc sự thật để mạ lỵ, xâm phạm tới toàn bộ tín ngưỡng, đạo đức, và cấu trúc văn hóa truyền thống của xã hội Việt Nam. Điển hình là tên thừa sai Alexandre de Rhodes, dựa trên sự ngu dốt và mê tín của chính mình, đã viết cuốn “Phép Giảng Tám Ngày” để truyền bá những điều mê tín hoang đường của Ca-tô Giáo, và trong đó hắn đã xuyên tạc mạ lỵ Đức Phật, Đức Khổng Tử và Lão Tử. Sau đây là vài đoạn cho thấy sự dối trá gian manh xảo quyệt của Alexandre de Rhodes, phóng đại những điều mê tín hoang đường quá lố để lừa bịp giáo dân. Rhodes viết trong cuốn “Hành Trình Và Truyền Giáo”, Hồng Nhuệ dịch: Trang 74: Với thánh giá Chúa, với nước phép, giáo dân tốt lành đã thông thường đuổi ma quỉ, chữa các thứ bệnh tật. Chỉ cho uống 4,5 giọt nước thánh mà chữa được người mù và cho 2 người chết sống lại. Họ ra đi, cắm thánh giá ở đầu, ở giữa và cuối xóm. Họ đến thăm bệnh nhân, đọc kinh và cho bệnh nhân uống vài giọt nước phép. Không đầy 5 ngày đã chữa khỏi 272 người. Trang 77: Họ rất quí trọng nước phép, cứ 5,6 ngày họ lại đến lấy.. Họ cho bệnh nhân uống với những thành quả lạ lùng. Mỗi chủ nhật, tôi buộc lòng phải làm phép với 5 vại lớn, để thỏa mãn lòng sốt sắng của họ.
Nước phép hay nước thánh là nước thường đã được ông linh mục bi bô đọc vài câu tiếng LaTinh để biến nó thành nước phép hay nước thánh. Rhodes đã thông thạo môn thần học bịp bợm dân ngu, nhưng chính ông ta cũng lại ngu không thể tả được mới viết lên được những đoạn trên. Chỉ với 4,5 giọt nước phép là có thể chữa được người mù, người chết sống lại, và chữa khỏi mọi bệnh tật. Nhưng mỗi chủ nhật ông ta phải phù phép biến 5 vại nước lớn thành nước thánh hay nước phép để thỏa mãn nhu cầu của giáo dân. Một vại lớn có bao nhiêu lít nước? Một lít nước có bao nhiêu giọt nước. Nếu tính ra thì 5 vại nước phép đó có thể chữa cho cả nước Pháp của ông ta khỏi mù, vì trong thế kỷ 17, cả nước Pháp đang mù vì là toàn tòng Ca-Tô Giáo. Nhưng ngày nay, chẳng cần đến nước phép hay nước thánh (holy water) gì đó mà Pháp cũng đã ra khỏi cảnh mù rồi. Giáo dân Việt Nam dùng loại nước phép đó đã mù lại càng mù thêm vì cái đạo lý Thiên-La Đắc-Lộ bịp bợm hoang đường quá lố lăng chẳng có ai có thể tin được.. Hồng Nhuệ chắc tin nên mới dịch cuốn sách này để cho chúng ta thưởng thức. Xin mời ông lên tiếng nhận xét về mấy đoạn trên của Rhodes. ii). Các giáo sĩ thừa sai Ca-tô Giáo đã giữ những vai trò then chốt trong việc thực hiện âm mưu phá hủy nền văn hóa cổ truyền Việt Nam, vận động chính quyền Pháp xâm lược Việt Nam, tích cực đóng góp cho việc xâm lược Việt Nam, và đào tạo một đạo quân thứ 5 bản địa, biến những kẻ tân tòng đần độn trong tầng lớp cặn bã của xã hội Việt Nam thành một đám nô lệ cho Vatican, coi thường luật lệ quốc gia và không ngần ngại phản bội quê hương. iii). Một số không nhỏ giáo dân Việt Nam đã hợp tác, tiếp tay với thực dân Pháp, đem nước ta vào vòng nô lệ Pháp để được hưởng những quyền lợi đặc biệt tôn giáo của một thiểu số cam phận làm thân trâu ngựa, phục tùng tuyệt đối các giáo sĩ ngoại quốc, bất kể đến sự đau thương của cả một dân tộc bị nô lệ ngoại bang. Đó là những gì mà các thừa sai Ca-tô Rô-ma Giáo đã mang đến cho dân tộc Việt Nam với kết quả là, sau khi chế độ thực dân cáo chung, là để lại cho dân tộc Việt Nam một di sản nghi kỵ nhức nhối giữa đại khối dân tộc và khoảng 5-7% dân số theo Ca-tô Ca-tô Giáo, trải dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu, từ Công trường Phê-rô đến Bolsa ở Little Saigon, một di sản nhức
nhối, nghi kỵ trong đại khối dân tộc, không biết tới bao giờ mới xóa sạch được, như linh mục Kim Dịnh đã nhận định. Sau đây là phần chứng minh 3 nhận định nêu trên qua các tài liệu. Chúng ta đã biết sách lược truyền đạo thiếu văn hóa và bịp bợm của giáo sĩ Alexandre de Rhodes, chúng ta đã biết việc dính vào chính trị nội bộ của Việt Nam cùng việc tuyển mộ, chỉ huy một đoàn quân lính đánh thuê để giúp Nguyễn Ánh của Giám mục Bá Đa Lộc, và chúng ta cũng đã biết những hoạt động gián điệp của các Giám mục Gauthier, Retord, Huc, Pellerin, Puginier v..v.. Những tài liệu sau đây sẽ cho chúng ta thấy rõ thực chất những hoạt động "truyền giáo" của các thừa sai Ca-tô Rô-ma Giáo ngoại quốc, tâm cảnh và hoạt động tiếp tay cho giặc của những giáo dân Việt Nam, và từ đó chúng ta có thể suy ra những nguyên nhân cấm đạo hay bách hại giáo dân. Tay sai cho quân Pháp Những tín đồ Ca-tô Giáo Việt Nam hợp tác và làm tay sai cho quân xâm lăng Pháp, ngay từ ngày đầu cho tới ngày cuối, nay đã là những sự kiện lịch sử không ai có thể phủ nhận. Một trí thức trong nước, ông Trần Xuân An, đã viết: “..trong suốt cả 131 năm chiến tranh, nước ta bị ngoại xâm và phải chống ngoại xâm (1858 – 1885 – 1930 – 1945 – 1954 – 1975 – 1979), không còn nghi ngờ gì nữa, Thiên Chúa giáo là một lực lượng phản quốc từ đầu đến cuối.” Ông An viết không sai, chúng ta hãy đọc vài đoạn viết về vai trò của Ca-tô Rô-ma Giáo trong giai đoạn đầu của cuộc xâm lược của Pháp, trong cuốn The Vietnamese Response to French Intervention: 1862-1874 của Giáo sư sử học Mark L. McLeod, trg. 45-47, dựa trên những tài liệu từ văn khố Pháp: "Vai trò của những tín đồ Ca-tô Rô-ma Giáo trong cuộc xâm lược của liên quân Pháp - Tây Ban Nha là gì? ..Sự thực là, theo những tài liệu lưu trữ trong văn khố Pháp thì, ngay từ tháng 9, 1858, nhiều toán tín đồ Ca-tô Rô-ma Giáo Việt Nam đã tới liên lạc với những đoàn quân chiến đấu của Tây phương. Rigauld de Genouilly (tướng chỉ huy liên quân Pháp - Tây Ban Nha ở Đà Nẵng; TCN) đã họp họ lại thành hai chi đội và huấn luyện họ trong một doanh trại ở Tiên Trà. Một trong hai chi đội trên chiến đấu sát cánh với quân Pháp - Tây Ban Nha ở Đà Nẵng, còn chi đội kia di chuyển xuống miền Nam, dự phần chiếa đấu trong cuộc xâm lược "lục tỉnh" và họ đã dự trận Kỳ Hòa. Sau trận Kỳ Hòa, những lính chiến đấu Ca-tô Rô-ma Giáo Việt Nam đã phục vụ những người Tây phương ở Đà Nẵng tiếp tục phục vụ người Pháp, làm lính chiến, thông ngôn, cu-li và thám báo, trong những vùng chiếm được ở miền Nam. Vì những dịch vụ này, họ được Đô Dốc Toàn Quyền de la Grandière ban thưởng cho một số đất quanh vùng Sài-gòn. Trong cuộc xâm lược của liên quân Pháp - Tây Ban Nha từ 1858 đến 1862, những biện pháp cấm đạo của Vua Tự Đức càng ngày càng khắc nghiệt và dễ hiểu. Đó chính là vì Triều đình Huế tin rằng những tín đồ Ca-tô Rô-ma Giáo Việt Nam đã hỗ trợ những đoàn quân xâm lăng. Những đạo Dụ trong thời chiến này thường nhằm mục đích ngăn cản những tín đồ Ca-tô Rô-ma Giáo Việt Nam liên lạc với những lực lượng Pháp - Tây Ban Nha. Thí dụ, một đạo Dụ ban hành vào tháng 5, 1859, nêu rõ rằng, khi nghe tin thành Saigon thất thủ, những tín đồ Ca-tô Rô-ma Giáo Việt Nam ở miền Nam đã lợi dụng tình thế để khủng bố người "lương" hay "tốt" (nghĩa là, người phi- Công Giáo) và đi làm "tay sai và mật thám cho Tây Dương "
Đọc lại lịch sử Việt Nam trong giai đoạn Francis Garnier chiếm thành Hà Nội và các tỉnh
lân cận như Phủ Lý, Nam Định, Hải Dương v..v.. chúng ta sẽ thấy sự thực về vai trò cộng tác, tiếp tay, hỗ trợ của giáo dân Ca Tô Việt Nam cho những đoàn quân xâm lăng ngoại quốc như thế nào. Mark L. McLeod, Ibid., trg. 114-122: "Bản chất và mức độ hỗ trợ những đoàn quân viễn chinh Pháp của những tín đồ Ca-tô Rô-ma
Giáo là như thế nào? Những thư từ liên lạc và phúc trình của Balny và Harmand, được Garnier phái đi chinh phục nhiều tỉnh lỵ và những điểm trọng yếu trong miền đồng bằng, cho chúng ta thấy một kiểu hỗ trợ đáng kể của những tín đồ Ca-tô bao gồm - nhưng không chỉ giới hạn ở - những nhiệm vụ hành chánh và quân sự. ... Để giúp chúng ta hiểu rõ hơn, chúng ta hãy xét tới những hành động của Balny tại Phủ Lý và Hải Dương và của Harmand ở Nam Định, và nhấn mạnh đến sự liên hệ giữa Bộ Truyền Giáo Ca-tô và các lực lượng quân sự Pháp. Sự phân tích những hành động này cho thấy, trong những cuộc tấn công vào những cứ điểm của chính quyền Việt Nam, quân đội Pháp đã nhận được một mức độ hỗ trợ rất đáng kể từ những thừa sai và những tín đồ Ca-tô Việt Nam. Hơn nữa, những phương pháp mà các sĩ quan Pháp và những cộng tác viên Ca-tô Việt Nam dùng tuyệt đối không thể coi là có đạo đức cao theo những tiêu chuẩn đương thời của ngay chính họ, vì những phái bộ truyền giáo Ca-tô đã dùng sức lao động (của tín đồ Ca-tô bản xứ; TCN), tài nguyên, và tin tức tình báo, đổi lấy hậu thuẫn của Pháp để thực hiện sự tàn sát liên miên người "lương", mạo phạm những công trình xây dựng của Phật Giáo, thiêu hủy những làng mạc phi-Ca Tô, và cướp bóc những thành phố của nhà Vua. Sự cộng tác với chủ nghĩa đế quốc Pháp của những tín đồ Ca-tô Việt Nam thường không được các sử gia nhận biết đầy đủ, nhưng đó chính là một yếu tố đáng kể góp phần thắng lợi cho Pháp ở Bắc Kỳ."
Trên đây là tài liệu nghiên cứu từ văn khố Pháp của Giáo sư sử học Mark L. McLeod. Hiện nay, có rất nhiều tài liệu, rất nhiều chi tiết về sự cộng tác với thực dân Pháp của những tín đồ Ca-tô Việt Nam. Tuy nhiên, sau đây tôi chỉ xin trích dẫn hai tài liệu của chính những bậc lãnh đạo trong Ca-tô Giáo, một Việt và một Pháp. Tại sao trung tâm kháng chiến Ba Đình của Đinh Công Tráng bị thất thủ? Tài liệu sau đây là của Linh Mục Trần Tam Tĩnh viết trong cuốn Thập Giá và Lưỡi Gươm:
Link:http://giaodiemonline.com/2010/01/thapgia3.htm "Cho tới khi chết ngày 25 tháng 4/1892, giám mục Puginier đã hoạt động không ngưng nghỉ ngày nào để củng cố địa vị của nước Pháp tại xứ ông đã nhận là quốc gia mới. Người ta còn giữ được mấy chục bản ghi chú và những tin tức tình báo có mang chữ ký của ông trong những Văn Khố của Bộ Thuộc Địa. Một phần nhờ vào các tin tức tình báo của giám mục mà quân Pháp có thể
dẹp tan quân đội kháng chiến của Việt Nam. Trung tâm kháng chiến khốc liệt nhất là ở Ba Đình, Thanh Hóa, dưới sự chỉ huy của Đinh Công Tráng. Đó là một làng được tăng cường bởi một vòng đai lũy tre, những ụ kháng chiến, những hầm trú ẩn, và một hệ thống hầm giao thông được xếp đặt một cách tinh vi. Để "bình định" làng này, quân đội Pháp đã kéo tới 2,250 binh sĩ với 25 khẩu đại bác, 4 tàu chiến dưới sự chỉ huy của đại tá Metzinger. Cuộc tấn công của Pháp ngày 18 tháng 12/1886 bị đẩy lui. Quân Pháp bao vây để tìm kiếm một chiến thuật mới. Sung sướng thay cho họ, một sĩ quan trẻ, đại úy Joffre (sau này trở thành thống chế nổi tiếng của Pháp trong đệ nhất Thế Chiến), đã nghĩ đến việc cầu sự trợ giúp của Trần Lục, cha xứ Phát Diệm và là Phó Tướng đặc trách bình định các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tịnh. Trần Lục, được giám mục Puginier ban phước lành, và mang 5000 giáo dân Ca-tô đến giúp quân Pháp. Và Ba Đình bị thất thủ."
Chúng ta đã thấy, tập thể Ca-tô Việt Nam đã giữ một vai trò tay sai quyết định để đưa nước nhà vào vòng nô lệ Pháp. Điều này, chúng ta có thể thấy rõ ràng trong một văn kiện có tính cách khẳng định sau đây của chính Giám mục Puginier, được trích dẫn trong cuốn Catholicisme et Sociétes Asiatiques của Alain Forrest và Yoshiharu Tsuboi: "Giám Mục Puginier viết rằng: "Không có các thừa sai và giáo dân Ki Tô Giáo thì người Pháp cũng giống như những con cua đã bị bẻ gẫy hết càng. Thí dụ như vậy, tuy tầm thường mộc mạc nhưng không kém phần chính xác và mạnh mẽ. Thật vậy, không có các thừa sai và giáo dân Ki Tô Giáo [xin hiểu là Ca-tô Giáo], người Pháp sẽ bị bao vây bởi toàn là kẻ thù; họ sẽ không thể tin cậy vào một ai; họ sẽ chỉ nhận được những tin tức tình báo sai lầm, cung cấp với ác ý để phá hoại tình thế của họ; họ sẽ bị đẩy vào tình trạng không thể hoạt động được gì và sẽ phải hứng chịu những thảm họa thực sự một cách nhanh chóng. Địa vị của họ ở đây sẽ không giữ nổi được nữa, và họ sẽ bị buộc phải rời khỏi xứ, nơi đây quyền lợi và ngay cả sự hiện diện của họ sẽ bị nguy hại."
Từ những tài liệu dẫn chứng ở trên, chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa là, nếu không có những hành động nội ứng, tiếp tay với một mức độ đáng kể của tín đồ Ca-tô Giáo Việt Nam thì chưa chắc Pháp đã lập nổi nền đô hộ ở Việt Nam trong gần 100 năm. Thế mà ngày nay còn có một số trí thức Ca-tô Giáo vẫn tiếp tục ngụy biện là việc bài đạo dưới triều Nguyễn là do “những khái niệm ơn Chúa, bí tích, Thiên Chúa nhập thể” xa lạ với tư tưởng Khổng giáo” của các nhà Nho như Gm Nguyễn Thái Hợp viết, và cố cãi là Ca-tô Giáo Việt Nam không có hợp tác với thực dân Pháp, không phản bội quê hương v..v.. Họ cố tình lờ đi những tài liệu của các nhà nghiên cứu sử học người ngoại quốc và của chính những người trong Ca-tô Giáo như Giám Mục Puginier, Linh mục Trần Tam Tĩnh, và Linh mục Lương Kim Định, và cố nêu cao sự đóng góp của Ca-tô Giáo cho Việt Nam, điển hình là vai trò của tên thừa sai gián điệp Alexandre de Rhodes trong việc sáng tạo ra chữ Quốc Ngữ, mà không biết đến âm mưu của tập đoàn thừa sai Ca-tô Giáo, nghĩ ra loại Quốc Ngữ này để xóa bỏ nền văn hóa cổ truyền Việt Nam, nhưng ông cha chúng ta đã sáng suốt sử dụng ngay để mở mang dân trí, kêu gọi lòng yêu nước và kết quả là đã đánh đuổi được thực dân Pháp.. Đến đây, Gm Nguyễn Thái Hợp hẳn phải biết là nguyên nhân từ đâu mà các triều Nguyễn và nhân dân Việt Nam lại bài đạo. Nếu ông chịu khó đọc lịch sử thì ông phải biết rằng người Việt Nam đã rất hiền hòa, nhẹ tay đối với người Ca-tô Việt Nam, không như Nhật Bản. Nhật Bản ra tay tận diệt các thừa sai và các tín đồ Ca-Tô phản bội quốc gia, đóng đinh họ trên cậy thập giá nhưng ngược đầu xuống đất ở bờ biển để khi nước thủy triều dâng lên thì họ bị chết ngộp. Với những biện pháp quyết liệt và tàn nhẫn đối với Ca-Tô Giáo nói riêng và Ki Tô Giáo nói chung, Nhật Bản đã giữ nước khỏi bị cái họa Ki Tô Giáo trong suốt hơn 200 năm, trong thời gian này
trên đất Nhật không hề có bóng dáng của ngay cả một linh mục thừa sai và con chiên bản địa, đỡ hẳn mối lo âu về một số tín đồ Ca Tô sẵn sàng theo lệnh các thừa sai Tây phương phản quốc, cho tới khi Đô Đốc Perry của Mỹ dùng 10 tàu chiến tấn công và uy hiếp Nhật phải mở cửa giao thương và cho truyền đạo lại vào năm 1854. Bởi vậy, viết về lịch sử Việt Nam, trong cuốn Câu Chuyện Việt Nam (The Story of Vietnam, trg. 28,) Hal Dareff đã viết lên hoàn cảnh khác biệt giữa Nhật Bản và Việt Nam trong thế kỷ 19 như sau: "Đóng cửa biên giới, họ (triều đình Gia Long. TCN) sẽ tránh được sự xâm nhập của người ngoại quốc với những lối sống xa lạ của họ. Bất hạnh thay, trong nước đã có những người ngoại quốc rồi Các giáo sĩ thừa sai." (By sealing off their borders, they would keep out the foreigner and his alien ways. Unfortunately, there were already foreigners in Vietnam - The Missionaries.)
“Họa Âm” hay Phúc Âm? Như vậy, rõ rảng là các giáo sĩ thừa sai đã mang đến Việt Nam “Họa Âm” chứ không phải là Phúc Âm. Từ những Họa Âm này mà các tín đồ Ca-Tô Việt Nam đã trở thành những người bất khoan dung đối ngay với cả những người trong gia đình, và trên bình diện quốc gia, trở thành những người phản quốc, hỗ trợ, giúp cho sự xâm lăng của thực dân Pháp thành công, như giám mục Puginier đã thú nhận. Đến đây xin chấm dứt Phần I. Xin đón đọc Phần II, phê bình ba đề mục cuối trong bài ““Đối Thoại Trong Viễn Tượng Đa Phức Tôn Giáo” của Gm Nguyễn Thái Hợp.
PHẦN II Xin xem phần I: http://giaodiemonline.info/noidung_detail.php?newsid=5985 Tóm lược: Những gì Gm Nguyễn Thái Hợp viết không ngoài khoa trương trên đầu môi chót lưỡi những lời hoa mỹ đạo đức giả, gài vào vài đoạn xuyên tạc Phật Giáo, xuyên tạc lịch sử, và tiếp tục mê sảng với những điều mê tín của Ca-tô Rô-ma Giáo thuộc thế kỷ 17. Trong Phần I tôi đã chứng minh Gm Nguyễn Thái Hợp xuyên tạc Phật Giáo và xuyên tạc lịch sử như thế nào. Trong Phần II này tôi sẽ chứng minh là Gm Nguyễn Thái Hợp vẫn tiếp tục mê sảng viết lên những điều mê tín của Ca-tô Rô-ma Giáo thuộc thế kỷ 17 mà ngày nay cả thế giới và ngay cả Tòa Thánh cũng đã bác bỏ. Người ta bảo tín đồ Ca-tô Việt Nam thuộc loại kém hiểu biết và cuồng tín nhất thế giới, quả thật không sai. Trong Phần này chúng ta sẽ thấy rõ là: Sách lược đối thoại của Vatican mà các thuộc hạ địa phương đưa lên như một chiêu bài hòa hợp chỉ là truyền đạo và xâm lăng tôn giáo và văn hóa, đưa tất cả vào dưới giáo quyền và văn hóa Ca-tô, hay nói cách khác, kéo chúng ta vào sự mê tín điên rồ của họ,. Chúng ta cũng sẽ thấy, để đạt mục đích trên, những người Ca-tô luôn luôn dùng Thánh Kinh, hoặc những tài liệu của Vatican tung ra, những tài liệu để mê hoặc
đầu óc thấp kém của các tín đồ, làm như đó là những chân lý không thể sai lầm và áp đặt chúng trên mọi tôn giáo, mọi nền văn hóa khác nhau.
* Ba đề mục cuối trong bài của Gm Nguyễn Thái Hợp là: “Từ Bao Dung Đến Tự Do Tôn Giáo”; “Đối Thoại Và Giữ Vững Căn Tính”; “Thách đố của đối thoại liên tôn”. Đề mục 5: “Đối Thoại Và Giữ Vững Căn Tính” không có gì đáng nói vì chủ trương giữ vững căn tính hay đức tin trong đối thoại là thừa, đó là điều hiển nhiên trong tinh thần đối thoại nếu chúng ta hiểu thế nào là “đối thoại”. Trong đề mục 6: “Thách đố của đối thoại liên tôn”, Gm Nguyễn Thái Hợp chỉ nhắc lại một số điều trong đề mục 4, đại khái là nhấn mạnh “nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng trong đối thoại liên tôn” nghĩa là nhiệm vụ truyền đạo và xâm lăng tôn giáo và văn hóa. Vì vậy tôi sẽ không phê bình hai đề mục cuối, 5 và 6, và sẽ chỉ tập trung vào đề mục 4: “Từ Bao Dung Đến Tự Do Tôn Giáo”, vì có thể nói là tất cả ý đồ của Gm Nguyễn Thái Hợp nằm trong đó. Cho nên phần trích dẫn trong đề mục 4, để cho sự phê bình đầy đủ, sẽ dài, mong độc giả thông cảm. 4. Trong đề mục 4: Từ bao dung đến tự do tôn giáo, Gm Nguyễn Thái Hợp viết những lời mê sảng rất trịch thượng của Ca-tô Rô-ma Giáo mà chúng ta thường thấy trong những văn kiện của Vatican tung ra một cách huênh hoang, trơ trẽn. Đây là đoạn nói rõ hơn gì hết quan niệm về đối thoại, thật ra chỉ là quan niệm mê tín của thời bán khai về cái gọi là “Thánh Linh” của Ca-tô Rôma Giáo: Trên bình diện cứu độ, thái độ khoan dung và đối thoại còn mang một ý nghĩa thâm sâu hơn: đây là tiến trình đồng hành kiếm tìm chân lý, với hy vọng hiểu được đôi chút cuộc đối thoại nhiệm mầu yêu thương giữa Ðấng Tối Cao với con người suốt dọc lịch sử nhân loại [sic]. Công đồng Vatican II khẳng định chương trình cứu độ phổ quát của Thiên Chúa [7] và mời gọi các tín hữu cố gắng khám phá hạt giống Ngôi Lời mà Thánh Linh không những đã gieo vào tâm hồn con người mà còn nơi lễ nghi và văn hóa của các dân tộc [8]. … Chủ đích của đối thoại là tiến đến điểm đồng quy, vượt lên trên những sự khác biệt (hoàn toàn sai). Dù sao, người kitô hữu cần ý thức về chân lý của đức tin. Ðây không phải là một thứ chân lý thuộc loại siêu hình, mà là ân sủng Thiên Chúa ban cho nhân loại qua Ðức Kitô. Chính nhờ Ðức Kitô mà chúng ta biết rõ phẩm giá của con người [thật vậy sao] cũng như biết đánh giá tác động của Chân lý và Thánh Linh hiện diện nơi các Tôn giáo khác. [sic] … Tiếp nối và khai triển đường hướng của Vatican II, đức Gioan Phaolô II đề cao hoạt động của Thánh linh nơi các tôn giáo.[sic] Thánh linh dun dủi, thanh tẩy và cứu vớt không những từng cá nhân mà cả những nền văn hóa và các tôn giáo nữa [viết nhảm]: Thánh linh trao ban cho mọi người, theo một cách thế mà chỉ duy Thiên Chúa biết được, [vậy thì ông nói lảm nhảm gì ở đây] khả năng được tham dự vào mầu nhiệm Phục sinh (…). Sự hiện diện và tác động của Thánh linh không chỉ liên hệ đến mỗi cá nhân, mà còn liên hệ đến xã hội và lịch sử, các dân tộc, các nền văn hóa, các tôn giáo (sic). Chính Thánh linh đã gieo mầm Ngôi Lời, tiềm ẩn nơi các lễ nghi và văn hóa, và làm cho nó triển nở trong Ðức Kitô [10]. Mục đích của đối thọai liên tôn là cùng nhau khám phá và làm triển nở những yếu tố chân lý và ân sủng do sự hiện diện tiềm ẩn của Thiên Chúa nơi mọi tôn giáo [11]. Ðức Gioan Phaolô II coi đây như một bước chuẩn bị để thực hiện chương trình cứu độ phổ quát của Thiên Chúa, một bước đi trong tình huynh đệ, qua đó chúng ta cùng dẫn dắt nhau tiến về một mục tiêu siêu việt mà Ngài chuẩn bị cho chúng ta [12].
Chính trong viễn tượng cứu độ đó, ngỏ lời với các thành viên của Hội Ðồng Giáo hoàng về Ðối thoại Liên tôn, đức Gioan Phaolô II quả quyết: Việc đối thoại liên tôn, trên một mức độ sâu xa hơn, luôn luôn là cuộc đối thoại cứu độ, bởi vì chủ tâm của nó là khám phá, làm sáng tỏ và hiểu rõ hơn cuộc đối thoại vĩnh cửu mà Thiên Chúa vẫn tiếp tục thực hiện với nhân loại [13]. Tài liệu Làm việc của Thượng Hội đồng Giám mục Á châu nhìn nhận hoạt động mạnh mẽ và đa dạng của Thánh linh nơi các tôn giáo và văn hóa Á châu. Có thể coi các tôn giáo truyền thống tại lục địa mênh mông này như những con đường Thiên Chúa dùng để dẫn đưa đại đa số các dân tộc Á châu tới đến với Ngài và đây cũng là cách thế Ngài dùng để gặp gỡ họ [14]. Tông thư Giáo hội tại Á châu tiếp tục đề cao vai trò của Thánh linh trong lịch sử cứu độ và trong lòng các tôn giáo Á châu: Các Nghị phụ của Thượng Hội đồng đề cập đến hành động đa dạng và đổi thay của Thánh linh. Ngài liên tục gieo những mầm chân lý giữa các dân tộc, tôn giáo, văn hóa và triết học. Ðiều này có nghĩa là các tôn giáo, văn hóa và triết học nói trên có khả năng giúp dân chúng, cá nhân cũng như tập thể, tránh điều dữ và phục vụ sự sống, cũng như tất cả những gì là thiện hảo… Chính Thánh linh nâng đỡ dân chúng để họ tìm cách hiểu và chấp nhận nhau. Do đó Thượng Hội đồng có lý khi quan niệm Thần khí của Chúa như tác giả đầu tiên của cuộc đối thoại giữa Hội thánh với tất cả các dân tộc, văn hóa và tôn giáo [15]. Link: http://www.lamhong.org/d%E1%BB%91i-
tho%E1%BA%A1i-trong-vi%E1%BB%85n-t%C6%B0%E1%BB%A3ng-daph%E1%BB%A9c-ton-giao/2011/08/ Cả một đoạn dài trên, Gm Nguyễn Thái Hợp không làm gì hơn là nhắc lại những lời huênh hoang trịch thượng của Ca-tô Giáo trong những văn kiện như “Dominus Jesus” của HY Ratzinger, “Tông Huấn Á Châu” của John Paul II, và “Sứ Điệp Hòa Bình” của Benedict XVI trước đây. Chúng ta hãy nhắc sơ lại những văn kiện này. Ngày 5 tháng 9, 2000, HY Ratzinger, với sự chấp thuận của John Paul II, đã tung ra bản tuyên ngôn “Dominus Jesus” trong đó có hai điểm trịch thượng đối với mọi tôn giáo khác như sau, ngụ ý phủ nhận các tôn giáo khác: 1. “.. như là một phương tiện đưa đến sự giải thoát, những tôn giáo phi-KiTô thiếu sót một cách trầm trọng” (..non-Christian religions are gravely deficient as a means of salvation) 2. “Giáo hội Ca-tô Rô-ma là phương tiện duy nhất đem đến sự giải thoát cho toàn thể nhân loại” (The Roman Catholic Church is the only instrument for the salvation of all humanity)
Hans Küng , link: http://en.wikipedia.org/wiki/Hans_K%C3%BCng Cũng vì vậy mà Giáo sư Thần học Ca-tô nổi tiếng trên hoàn cầu, đồng thời là bạn học của Ratzinger tại Tübingen, Hans Küng, đã đưa ra một nhận định về bản tuyên ngôn “Dominus Jesus” là “một sự pha trộn của tính chất lạc hậu thời Trung Cổ và Tâm Lý Bệnh Hoạn về Những Ảo Tưởng Hão Huyền về Quyền Lực hay Toàn Năng của Vatican” (A mixture of medieval backwardness and Vatican megalomania). [Megalomania = A psycho-pathological condition in which fantasies of wealth, power or omnipotence predominate]. Đối với bản “Tông Huấn Á Châu” mà trong đó Giáo hoàng John Paul II thúc giục các thuộc hạ ở địa phương phải gia tăng nỗ lực cải đạo Á Châu thì Mac Kher đã phê bình và vạch trần âm mưu bành trướng Ca-Tô Giáo sang Á Châu của John Paul II như sau, trong www.nycny.com : Sự du nhập của Ki Tô Giáo vào Âu Châu, Mỹ Châu, Úc Châu, và phần lớn Phi Châu và vùng Thái Bình Dương đã đưa tới sự hủy diệt một cách có hệ thống, toàn bộ những tôn giáo và nền văn hóa đa thần có trước thời đại KiTô. Thật vậy, cuốn thánh kinh, với sự hỗ trợ của súng ống, đã dùng để trao đổi lấy đất đai của các thổ dân địa phương. Phát ra từ giáo hoàng, chức sắc cao nhất của Ca Tô Giáo, lời kêu gọi cải đạo này là một lời Tuyên Chiến chống nền văn hóa Á Đông, các tôn giáo Á Đông, và xã hội Á Đông nói chung, Ấn Độ Giáo nói riêng. Sách lược cải đạo quần chúng vào Ki Tô Giáo mưu toan phá hủy linh hồn của Á Châu, cấy ghép vào đó một triết lý mà Á Châu không cần đến. Á Châu không cần đến bất cứ một bài học nào về tôn giáo và lòng mộ đạo từ bất cứ ai.
Và Mac Kher cũng còn phê bình đạo đức tôn giáo của John Paul II như sau: “Trong khi tham gia một cuộc họp đa tôn giáo, Giáo hoàng nói đến đối thoại, sự hiểu biết, và sự đoàn kết giữa các tôn giáo. Ngày hôm sau, ông ta quay trở lại nhấn mạnh Ki Tô Giáo là tôn giáo chân thật duy nhất, và kêu gọi tín đồ đi cải đạo Á Châu. Đây là sự đạo đức giả và lừa dối cố ý tệ mạt nhất.
Phê bình “Sứ điệp Hòa Bình” của Benedict XVI, Gã Học Trò đã đưa ra một nhận xét rất đúng:
Mới đọc qua “Sứ Điệp” người ta tưởng Giáo Hoàng tích cực đóng góp ý kiến, tư tưởng cho nền hòa bình trên thế giới nhân ngày hòa bình thế giới 1/1/2011. Nhưng xem kỹ lại, thì khác hẳn đi: Giáo Hoàng chỉ nói đến phần ngọn mà không hề đề cập đến vấn đề gốc, tức là đề cập đến “Sự tự do tôn giáo” trong khi chính tôn giáo của ông đã “o ép, bắt buộc, nhốt tín đồ vào trong chuồng” với những hình thức kiên cố; và cũng chính giáo hội của ông lừa đảo tín đồ bằng những giáo lý không nằm trong Kinh Thánh mà bao giờ cũng “vin” vào Kinh Thánh để đầu độc trí tuệ, tư tưởng, đức tin của giáo dân bằng những luận điệu tuyên giáo hoang tưởng của thần học mà giáo hội đã nghiên cứu, chuẩn bị kỷ lưỡng cho một “mưu đồ vĩ đại”!
Mưu đồ vĩ đại này là đi kiếm ăn ở những miền đất mà trên thực tế đã từ chối sự đầu độc trí tuệ của Ca-Tô Rô-ma Giáo. Nhưng vì sự thiếu hiểu biết và cuồng tín tôn giáo, người Ca-tô vẫn năng nổ dùng mọi thủ đoạn để mở mang nước Chúa ở những nơi dân trí thấp nhất và đời sống kinh tế khó khắn nhất. Và trong bài “Đối Thoại…” Gm Nguyễn Thái Hợp vẫn mê sảng quảng cáo cho quyền năng của một con Ma Thánh (Holy Ghost) mà ngày nay được đổi tên thành Thánh Linh, trong khi thực sự ông ta chẳng biết Thánh Linh là cái gì như tôi sẽ chứng minh trong một đoạn sau. Nghiên cứu về cái gọi là “Thánh Linh” chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều thú vị, tôi sẽ trình bày vấn đề này trong một phần sau. Trước khi bàn đến chuyện ma quỷ, tôi muốn nói đến sự nhập nhằng của Gm Nguyễn Thái Hợp khi dùng từ “cứu độ” để nói về quan niệm về “cứu rỗi” của Ca-tô Giáo. Điều này không lạ vì nó nằm trong “kế hoạch cải đạo Á Châu” với thủ đoạn đặc thù trong truyền thống ăn cắp của Ca-tô Rô-ma Giáo, lấy cái hay của các tôn giáo khác, xào xáo lại làm của mình. Vì vậy người ta đã gọi đạo Ca-tô là “đạo chích” [Phan Bội Châu: Thiên Hồ, Đế Hồ]. Tôi không có nói chơi mà sẽ chứng minh điều này qua một số tài liệu. Trước hết, chúng ta hãy đọc một tài liệu của Linh Mục Kirati Boonchua, giáo sư triết tại đại học Chulalongkorn, Thái Lan: Niềm Hãnh Diện Của Ki Tô Giáo: Sao Chép Và Mô Phỏng “Cho đến nay, không ai thật sự biết đúng ngày sinh và ngày chết của Giê-su. Tất cả chỉ là đoán mò. [Ngô Triệu Lịch đã gọi nền thần học Ki Tô Giáo là nền thần học đoán mò]. Ngày sinh vào 25 tháng 12 là lấy của người La Mã. Người La mã ăn mừng ngày sinh của Thần Mặt Trời vào ngày 25 tháng 12. [Thật ra, dây không phải là ngày lễ riêng của dân La Mã mà là ngày mà nhiều nơi trong dân gian cổ xưa ăn mừng ngày bắt đầu lại dài ra sau một mùa Đông mà họ thấy ngày cứ ngắn dần và lo sợ không còn ánh sáng mặt trời nữa]. Ki Tô Giáo không có cái gì là của mình cả. Ki Tô Giáo chỉ có thể sao chép và mô phỏng các tôn giáo khác. Điều này có đáng xấu hổ không? Tại sao Ki Tô Giáo lại phải xấu hổ?... Hơn nữa, Giê-su cũng không có một hệ thống giáo lý của chính mình. Giê-su mô phỏng những điều trong Cựu Ước. Giê-su không thiết lập một hệ thống triết lý, nghệ thuật và ngôn ngữ chính thức cho Ki Tô Giáo. Do đó, Ki Tô Giáo không hề có một hệ thống triết lý, nghệ thuật và ngôn ngữ chính thức của Ki Tô Giáo để có thể phô trương trước các tôn giáo khác. Chưa bao giờ có được một cái gì thực sự là của chính mình, đó là điều duy nhất mà Ki Tô Giáo có thể phô trương. Chúng ta, những tín đồ Ca Tô, hân hoan chấp nhận là triết lý, nghệ thuật và ngôn ngữ chính thức của chúng ta ngày nay
đều là sao chép và mô phỏng từ ngôn ngữ và văn hóa của những miền đất mà Ki Tô Giáo nảy nở trong đó. Chúng ta, những tín đồ Ca Tô, là những chuyên gia về kỹ thuật xảo trá...”; Link: http://giaodiemonline.com/2009/07/caidao3.htm
Thứ đến, trong cuốn Âm Mưu Của Công Giáo Chống Phá Phật Giáo (The Catholic Plot Against Buddhism, Printed by Siva Phorn Limited Partnership, Bangkok, Thailand, 1986), có những tài liệu của Vatican trích dẫn phần lớn từ những Bản Tin (Bulletin) của Bộ Ngoại Giáo Sự Vụ, và được đánh số ví dụ như (1: 4-5) có nghĩa là từ Bản Tin Số 1, trang 4-5. Đây là những ấn phẩm mật hoạch định kế hoạch và âm mưu cải đạo Á Châu. Xem thêm: http://giaodiemonline.com/2009/07/tonghuan.htm Kế hoạch và âm mưu cải đạo Á Châu: Những chỉ thị mật Trước hết là một huấn thị từ Tổng Thư Ký Bộ Ngoại Giáo Sự Vụ P. Humbertclaude: Vì tất cả những việc của chúng ta phải được thi hành với sự thỏa thuận của các giám mục xứ và qua họ, một phương tiện tiếp xúc với họ (qua các Bản Tin) là điều cần thiết. Đây là những nét đại cương: chúng sẽ được cải tiến cùng với kinh nghiệm và cùng với những đề nghị mà Bộ trông đợi từ nhiều người đọc Bản Tin của Bộ. (1: 3) Thật là rất quan trọng cho lợi ích chung cũng như cho tương lai của Bản Tin, mọi người phải ý thức được rằng đây là một ấn phẩm mật dành riêng cho các giám mục xứ và cho những cá nhân mà các giám mục hay Bộ đã chỉ định trong nhiệm vụ đối thoại. Nếu khi nào mà các giám mục xứ tin rằng cần phải in lại toàn phần hay một phần của bài nào hay văn kiện liên lạc nào họ có thể làm như vậy mà không được nêu xuất xứ. Vì đây là một ấn phẩm mật, không được thông báo cho báo chí. (1: 4-5)
Đoạn (1: 3) chứng tỏ Vatican đã chỉ đạo đường hướng hoạt động mật cho các giám mục địa phương và đường hướng này sẽ được thay đổi tùy theo tình hình địa phương qua hồi ứng của các giám mục địa phương. Đọc tiếp những tài liệu trích dẫn từ những Bản Tin mật của Vatican chúng ta thấy rõ Vatican đã chỉ thị cho các giám mục địa phương và mọi tín đồ Ca Tô phải nghiên cứu kỹ tình hình Phật Giáo và dân tình địa phương để từ đó Vatican sẽ hoạch định những kế hoạch xâm lăng văn hóa và tôn giáo thích ứng. Vậy thực chất các giáo hội địa phương chỉ là những tay sai, những ổ gián điệp nằm vùng trong các quốc gia phục vụ cho Vatican, một ngoại bang. Điều này chúng ta có thể thấy rõ ngay trong đoạn (1: 4-5) ở trên: Tại sao một Bản Tin liên lạc với các giám mục địa phương của Ca Tô Giáo, một “tôn giáo” tự coi là thiên khải, tông truyền v..v.. có nhiệm vụ mang “Tin Mừng” đến cho nhân loại, lại phải là một ấn phẩm mật mà các giám mục địa phương phải tuân hành mà không được tiết lộ xuất xứ, và phải dấu báo chí, nếu trong đó không có những kế hoạch truyền đạo bất chính mà Vatican không muốn cho các tôn giáo khác biết? Câu trả lời thật là rõ ràng: “Tin Mừng”, thật ra chỉ là “Tin Nhảm” theo Giáo sư David Voas trong cuốn “The Bad News Bible: The New Testament”, của Ca Tô Giáo phải được rao truyền qua những phương tiện, thủ đoạn lắt léo, bất chính và “cấm ngoại thủy không ai được biết”. “Nói có sách, mách có chứng”, tôi không có nói vu vơ. Phần phân tích một số tài liệu mật của Vatican về sách lược cải đạo Á Châu sẽ chứng minh điều này. Trước hết là một nhận định tổng quát.
Những huấn thị viết trong các Bản Tin là một loạt những khẳng định vô trách nhiệm, kiêu căng vô lối, hỗn hào, láo xược, đối với các tôn giáo phi Ki-Tô, kèm theo những tiểu xảo hạ cấp để truyền đạo. Chúng ta hãy xét đoạn sau đây trong Bản Tin (Bulletin) số 7, trang 12: Một chiến thuật trong cuộc bút chiến là mô tả qua loa những sự phong phú (trong các tôn giáo phi Ki-Tô) nhưng sự công nhận những sự phong phú đó không được để cho những người ngoại đạo được hưởng. Do đó chúng ta phải công nhận giá trị theo nghĩa hòa nhập, vì tư tưởng Ki Tô Giáo là trên hết. Trích dẫn từ những người ngoại đạo phải được chọn dựa theo Thánh Kinh: những biểu tượng (của người ngoại đạo) phải được sửa đổi để đưa vào đó khuôn mặt của Giê-su; và sau cùng làm cho những lời lẽ của ngoại đạo sẽ mang ý nghĩa khác hẳn. Những tôn giáo ngoại đạo không có gì là quan trọng cho chính chúng, mà chỉ là cho những ốc đảo chân lý nhỏ bé có chứa trong chúng... Xét về toàn thể, những tôn giáo và triết lý ngoại đạo chỉ là một đống những sai lầm. Chúng là kết quả của tội lỗi con người và sau cùng là của quỷ. Nhưng trong sự tối tăm đó cũng còn có lập lòe chút ánh sáng. Chính trong cái ánh sáng đó chúng ta phải khám phá ra thiện chí từ những người ngoại đạo và đoan chắc chân lý của Ki Tô Giáo, vì những mảnh chân lý đó đến từ đức Ki Tô.
Chúng ta thấy rõ, sách lược và thủ đoạn truyền đạo của Ca-tô Rô-ma Giáo bẩn thỉu như thế nào. Những lời huênh hoang kiêu căng vô lối, ngu đần, và những lời hỗn hào, láo xược, xuyên tạc, mạ lỵ các tôn giáo phi-KiTô như trên, chỉ để tuyên truyền nhồi sọ cho đám tín đồ ngu dốt chứ đối với thế giới Tây phương và nhất là đối với giới trí thức hiểu biết, chính Ca Tô Giáo mới là một đống những sai lầm: sai lầm từ Thánh Kinh cho tới các tín lý Ca Tô, sai lầm từ nền Thần học Ki Tô Giáo cho đến những giáo lý của giáo hội Ca Tô, sai lầm từ đạo đức của các giáo hoàng xuống tới các linh mục v..v... Điều này chúng ta có thể chứng minh rất dễ dàng qua lịch sử các Giáo hoàng, qua những tội ác mà giới chăn chiên phạm trong dân gian. Huyền thoại Chết đi ba ngày rồi sống lại Thật vậy, chân lý của Ki Tô Giáo là gì, nếu không phải là những niềm tin vào một Giê-su đã chết đi ba ngày rồi sống lại, bay lên trời, và quyền năng “cứu rỗi” của Giê-su trong ngày phán xét cuối cùng? Nhưng những niềm tin như trên ngày nay đã trở thành những điều mê tín của một thiểu số trên thế giới vẫn còn sống trong bóng tối của sự đần độn tâm linh, không theo kịp sự tiến bộ trí thức của nhân loại, do đó những kẻ ngu đạo và nghiện đạo không biết rằng những niềm tin này đã bị đa số trên thế giới, kể cả các giới trí thức trong các giáo hội Ki Tô Giáo, và chính tòa thánh Vatican vứt bỏ, vì chúng không còn một giá trị nào trước những bằng chứng trong khoa học về vũ trụ, về nguồn gốc con người, về sự bất khả hiện hữu của thiên đường và hỏa ngục v.v... mà không ai ở trong cũng như ở ngoài Ki Tô Giáo có thể bác bỏ được. Nhưng vấn đề ở đây không phải là những luận điệu thiếu văn hóa của Vatican như trên mà là thủ đoạn mượn, nói nôm na là ăn cắp, những điều hay trong các tôn giáo phi Ki Tô rồi biến đổi chúng thành của Ki Tô Giáo, một thủ đoạn không mấy lương thiện. Mặt khác, cùng trong Bản Tin số 7, trong một đoạn sau, trước tình hình tôn giáo hiện nay của thế giới, sự thay đổi trong sách lược truyền đạo được hoạch định như sau (7:15): Giáo hội không còn sống trong thời của những tổ phụ lập giáo. Trong những ngày đó giáo hội sống trong sự nở rộ trẻ trung; giáo hội công khai chứng tỏ những hứa hẹn của tương lai và sẵn sàng nhanh chóng chinh phục thế giới. Tình hình ngày nay đã khác. Những tôn giáo phi-KiTô góp chung lại thì
có nhiều tín đồ hơn. Đối với tuyệt đại đa số các tôn giáo đó, có vẻ như giáo hội không còn là một sức mạnh trong tương lai. Đó là tại sao chúng ta phải từ bỏ ý tưởng tấn công trực diện và thay thế bằng đối thoại, và tìm ra những giá trị nội tại và những điều quý báu của mỗi giáo lý... Thay vì nghĩ về các tôn giáo khác như là một đống những sai lầm trong đó cũng có rải rác vài chân lý, chúng ta hãy nhìn trong các tôn giáo đó những công cụ đã giúp hàng triệu người tìm thấy Thiên Chúa và ngày nay vẫn còn tìm như vậy. Nếu chúng ta hiểu biết rõ hơn về phần vụ của những tôn giáo dân gian trong lịch sử tôn giáo thế giới thì điều này sẽ giúp chúng ta rất nhiều. Từ đó, nhiệm vụ truyền giáo đang được phát triển trong tầm nhìn rộng rãi hơn. Nó không còn là cải đạo cá nhân mà là, nói cho đúng ra, cải biến chính những nền văn hóa tôn giáo khác.
Huấn thị cho các giám mục địa phương ở trên đã nói lên mục đích truyền đạo hay cải đạo Á Châu của Vatican là biến cải những nền văn hóa phi Ki Tô chứ không phải chỉ cải đạo cá nhân. Đây chính là sách lược xâm lăng văn hóa và tôn giáo Á Châu của Vatican. Và chúng ta thấy rõ, bài “Đối Thoại…” của Gm Nguyễn Thái Hợp không nằm ngoài sách lược này. Đối với Việt Nam, đây là một hiểm họa có thực nếu Vatican có thể thực hiện được mưu đồ của mình. Cho nên, người Việt Nam chúng ta, nếu còn lòng yêu nước, yêu quê hương, còn tinh thần dân tộc thì bổn phận của mọi công dân là phải ý thức được hiểm họa này và phải ra sức ngăn chận âm mưu đen tối xâm lăng văn hóa và tôn giáo Á Châu của Vatican nấp sau chiêu bài “Đối Thoại”. Để cho vấn đề rõ ràng hơn và cũng để cho người dân biết rõ hơn về kế hoạch xâm lược văn hóa và tôn giáo Á Châu của Vatican, sau đây tôi sẽ đi thêm vào một số chi tiết trong sách lược cải đạo Á Châu của Ca Tô Giáo Rô Ma và Tin Lành. Ngày nay, trước sự suy thoái trầm trọng không phương cứu vãn của Ki Tô Giáo ở phương trời Âu, Mỹ, Ca-tô Giáo và Tin Lành, dựa trên thế lực của các cường quốc Tây phương, nấp sau chiêu bài “tự do tín ngưỡng”, đều có nỗ lực mở mang nước Chúa ở những nơi dân trí chưa mở mang đúng mức. Sách lược cải đạo: tấn công và chống đỡ. Thủ đoạn rất quen thuộc của Ca Tô và Tin Lành trong sách lược cải đạo Á Châu gồm hai mặt: tấn công và chống đỡ. Trong mặt tấn công, họ dựa trên cái gọi là “Thần học Ki Tô Giáo theo cung cách Á Châu”, lấy một số giáo lý của Phật giáo, xào xáo, thay đổi làm thành giáo điều của Ki Tô Giáo, đồng thời tung ra những bản văn xuyên tạc, hạ thấp Phật Giáo, mạ lỵ tăng đoàn, cố tình gây phản ứng trong Phật Giáo. Gm Nguyễn Thái Hợp không làm gì hơn khi ông ta xuyên tạc Phật Giáo với những điều bịa đặt về Tăng binh và về Vua Trần Nhân Tông cưỡng chế các tôn giáo khác v.v… Các bài viết gần đây của Tú Gàn, alias Lữ Giang cũng nằm trong sách lược này. Khi Phật Giáo phản ứng để phản bác thì họ giữ im lặng, lợi dụng bản tính hiền hòa và khoan nhượng tôn giáo của người dân Á Châu, đưa ra mặt chống đỡ, tạo trong quần chúng một ý tưởng là chính Phật Giáo là phe khởi xướng cuộc tranh chấp tôn giáo, gây chia rẽ, làm mất tình hòa hợp đoàn kết quốc gia. Vì vậy, người Ca-tô luôn luôn lớn tiếng lên án những người viết ra những sự thật về Ca-tô Rô-ma Giáo là “chống Công giáo”, là “gây chia rẽ tôn giáo”, “làm mất tình đoàn kết” v… v… Ngoài ra, họ còn mua chuộc, hối lộ các chính quyền địa phương để ngăn chận sự phổ biến trong quần chúng những tài liệu phản kháng, vạch trần âm mưu của họ, vạch trần những sự thật về Ki Tô Giáo. Thủ đoạn này
đã thành công phần nào ở Thái Lan và ở Việt Nam. Người dân ít hiểu biết và ngay cả chính quyền cũng rất dễ bị lừa dối bởi thủ đoạn này, không nhận thức được bộ mặt thật của Ki Tô Giáo. Những mánh mưu và luận điệu tuyên truyền lừa bịp của họ không thể kể hết và phân tích trong phạm vi bài viết này. Ở đây tôi chỉ xin trích dẫn một tài liệu của Thái Lan đưa ra để từ đó chúng ta có thể suy ra những kinh nghiệm cho Việt Nam. Về thủ đoạn ăn cắp những điều hay trong Phật Giáo, chúng ta hãy đọc đoạn sau đây trong Bản Tin số 10 (Bulletin No 10, pp. 25-27) của Vatican: “Trong những xứ Phật Giáo, để khoác bộ áo văn hóa bản địa, giáo hội có thể và phải lấy những điều hay trong truyền thống Phật giáo và biến đổi chúng, cho chúng một ý nghĩa của Ki Tô Giáo để có thể áp dụng chúng vào đời sống của những tín đồ của Ki-Tô.”
Lấy cái hay của người khác để dùng cho mình là điều ai cũng nên làm. Nhưng dùng kỹ xảo biến đổi nó đi và nhận là của mình thì đó là trò ăn cắp ma giáo, bất lương trí thức, và chỉ có một tôn giáo như Ca Tô Giáo mới có thể làm như vậy trong suốt chiều dài lịch sử của tôn giáo này. Một thí dụ điển hình của trò ma giáo này nằm trong Bản Tin số 10 trên: “Toàn thể Phật Giáo đặt căn bản trên Tứ Diệu Đế: Khổ, Nguồn gốc của Khổ, Diệt Khổ và Thoát Khổ. Tại sao sự truyền bá Phúc âm của Ki-Tô không thể cũng được thâu tóm trong bốn chân lý trên? Sự buồn phiền chân thật của con người là tội lỗi. Giê-su đến để giải thoát con người khỏi sự buồn phiền – tội lỗi. “
Chúng ta thấy ngay thủ đoạn xảo trá, hạ tiện và bất lương của Ca Tô Giáo Rô Ma trong đoạn trên: xuyên tạc ý nghĩa của Tứ Diệu Đế, nghĩa là bốn chân lý chân thật của Phật Giáo, và biến đổi chúng thành ra hai điều mê tín hoang đường cho người Ca Tô. Bốn chân lý cao thượng của Phật Giáo có tính phổ quát mà mọi người chúng ta có thể chiêm nghiệm hàng ngày. Tỳ Kheo Thích Nhật Từ, Tiến sĩ Phật học, đã vạch trần sự xuyên tạc của Mục sư Tống Tuyền Thịnh về ý nghĩa của “Khổ” trong Phật Giáo. Quan niệm về “Khổ” trong Phật Giáo không dính dáng gì đến cái gọi là “Tội” của Ki Tô Giáo, nhất lại là cái tội tổ tông hoang đường của Ki Tô Giáo mà một Giê-su hoang đường đã chuộc tội một cách hoang đường, tự trèo lên cây thập giá để cho người ta đóng đinh. Còn nếu tội là tội thế gian như giáo hoàng loạn luân, linh mục hiếp dâm, nữ tu hành hạ trẻ em v..v.. trong lịch sử Ca Tô Giáo thì nếu Giê-su, một người Do Thái đã chết cách đây đã 2000 năm thực sự có thể giải thoát những tội đó cho những người sống, cho tín đồ phạm những tội đó, thì ai muốn tin cứ việc tin. Riêng tôi, tôi không thể chấp nhận cái luận điệu quái gở, vô đạo đức và vô giá trị đó. Với những sách lược và thủ đoạn ma giáo nằm trong những Bản Tin của Vatican mà tôi đã trích dẫn một phần nhỏ ở trên, nay chúng ta đã hiểu tại sao những Bản Tin của Vatican lại được lệnh phải giữ “mật, không được nêu xuất xứ, và không được phổ biến cho báo chí.” Chúng ta nên nhớ, Ca-tô Rô-ma Giáo là một tôn giáo “thiên khải”, “tông truyền”, “duy nhất”, “thánh thiện” v…v… chứ không phải là một băng đảng giống như Mafia! Đến đây hẳn chúng ta không lấy làm lạ khi thấy Gm Nguyễn Thái Hợp và một số trí thức Catô nhập nhằng từ “cứu độ” để nói về ơn “cứu rỗi” trong Ca-tô Rô-ma Giáo.
Trước hết, trong Ca-tô Rô-ma Giáo không có “cứu độ” mà chỉ có “cứu rỗi”. Thật vậy, trong cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng của John Paul II, bản dịch với sự đóng góp của Tiến sĩ Trần Mỹ Duyệt, cựu thẩm phán Nguyễn Cần (lại là Lữ Giang!), Kỹ sư Trần Văn Trí, Giáo sư Trần Văn Nhượng, trang 76, có Chương với chủ đề “Tại Sao Nhân Loại Cần Được Cứu Rỗi?” và Giáo hoàng đã giảng, ngoài viện ra câu nhảm nhí John 3: 16 trong Tân Ước, còn quảng cáo cho “ơn cứu rỗi” của Giê-su: “Thiên Chúa đã không sai Con Ngài xuống thế gian để luận phạt [vậy câu John 3: 18 trong Tân ước vứt đi đâu?], nhưng để nhờ ngài mà thế gian được cứu rỗi.” “Cứu rỗi” khác với “Cứu độ” Chúng ta hãy tìm hiểu “cứu rỗi” khác với “cứu độ” như thế nào. “Độ” là dìu dắt, cứu giúp, qua sông. Trong Phật Giáo, khi nói đến “Phật độ” thì có nghĩa là những giáo lý của Đức Phật có tác dụng dìu dắt, mở mang trí tuệ con người để con người tự mình qua sông, nghĩa là qua bờ bên kia, bờ bên này là mê, bờ bên kia là ngộ, là giải thoát khỏi vòng luân hồi. Còn “cứu rỗi” trong Ca-tô Giáo là nghĩa của chữ “salvation”. Tự điển Anh-Việt dịch Salvation là: Cứu vớt linh hồn một người khỏi tội lỗi và các hậu quả của nó; sự cứu rỗi linh hồn; Còn theo Tự điển The American Heritage Dictionary thì nghĩa thần học của “salvation” là “Sự giải thoát phần hồn của con người khỏi năng lực hay sự trừng phạt của tội; cứu chuộc (Salvation: Theo., The delivrance of man of his soul from the power or penalty of original sin; redemption). Nhưng trong cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng giáo hoàng John Paul II đã lếu láo chụp lên đầu Phật Giáo quan niệm “cứu rỗi” của Ca-tô giáo, bản tiếng Việt, trang 105: Giáo lý của Phật Giáo về ơn cứu độ (Phật Giáo làm gì có giáo lý về ơn cứu độ, Phật tử tự mình tu tập để đi đến giải thoát, đâu có trông cậy vào một ơn nào-TCN) tạo thành tâm điểm, hay đúng hơn, là điểm duy nhất trong hệ thống này. Tuy nhiên, cả truyền thống Phật Giáo lẫn những phương pháp khởi nguồn từ đó, đưa ra một nền “thần học cứu rỗi” hầu như độc hữu tiêu cực. (Bản tiếng Anh: The Buddhist doctrine of Salvation constitutes the central point, or rather the only point, of this system. Nevertheless, both the Buddhist tradition and the methods deriving from it have an almost exclusively negative soteriology.) Chúng ta nên để ý là John Paul II đã cố ý dùng một số danh từ có ý nghĩa đặc thù trong Ca-tô Giáo, những danh từ rất xa lạ có nghĩa khác hẳn trong Phật Giáo, để viết về Phật Giáo, thí dụ như “Salvation = cứu rỗi”, mấy con chiên dịch là “cứu độ”, và (Soteriology = Một ngành trong môn thần học nói về giáo lý cứu rỗi qua Chúa Ki Tô (The branch of theology concerned with the doctrine of salvation through Christ), hoặc theo định nghĩa chính thức của Ca-tô Giáo trong cuốn Catholic Word Book do Catholic Information Service, Knights of Columbus ở New Haven, Connecticut xuất bản: ngành thần học về nhiệm vụ và công việc của Chúa Ki-tô như là Đấng chuộc tội (The division of theology which treats of the mission and work of Christ as Redeemer). Những cái thứ thần học này làm gì có trong Phật Giáo. Có thể xem bài viết khác của Gm Nguyễn Thái Hợp về đề tài này: http://www.lamhong.org/d%E1%BB%A9c-giesu-kito-va-cac-cond%C6%B0%E1%BB%9Dng-c%E1%BB%A9u-d%E1%BB%99-khac/2011/09/ (Đức Giêsu Kitô và các con đường cứu độ khác )
Để cho vấn đề được rõ ràng hơn, chúng ta cần phải biết người Ki-Tô-Giáo [Ca-tô và Tin lành] tin tưởng vào cái gì khi theo đạo Giê-su (Jesuism). Chẳng cần phải nói ai cũng biết là họ tin
tưởng vào ơn “cứu rỗi” của con một người thợ mộc Do Thái, người mà họ cho là Chúa, Giê-su . Nhưng thực ra “cứu rỗi” là gì? Nền Thần học Ki Tô Giáo có thể soi sáng cho chúng ta về vấn đề này. Theo http://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%A9u_r%E1%BB%97i thì: Trong thần học, sự cứu rỗi là một ý niệm trừu tượng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Cơ Đốc giáo định nghĩa cứu rỗi là giải cứu khỏi sự câu thúc của tội lỗi và sự đoán phạt để có thể nhận lãnh sự sống đời đời của Thiên Chúa…
Vậy thực chất của ơn “cứu rỗi” là như thế nào và các tín đồ Ki Tô Giáo phải tin như thế nào mới có hi vọng được cứu rỗi. Chúng ta hãy đọc vài câu nói lên đức tin và hi vọng căn bản của người Ki Tô Giáo trong Kinh Tin Kính của các Tông đồ [Apostle’s Creed) : Tôi tin kính Đức Chúa Giêsu KiTô là con một Đức Chúa Cha cũng là Chúa chúng tôi… chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đanh trên cây thánh giá, chết và táng xác, xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại… ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết. Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại… Tôi tin hằng sống vậy. Đó là căn bản đức tin và niềm hi vọng trong Ki Tô Giáo. Với đức tin này người Ki Tô Giáo hi vọng ở những gì? Vì tin rằng Chúa Giê-su “ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết” và tin rằng “xác loài người ngày sau sống lại”, người Ca-tô Việt Nam rất hi vọng được Chúa Giê-su, đến ngày phán xét, hóa phép làm cho thân xác của họ, bất kể chết từ bao giờ, chết trên giường bệnh, già, bình thường, hay chết tan xác ngoài mặt trận, sống lại, hợp với linh hồn của họ mà sau khi chết đã được giữ [ai giữ?] trong một kho chứa của Chúa, và rồi, cả hai phần hồn và phần xác, được Chúa cho lên thiên đường để hằng sống, đời đời hầu hạ việc Chúa. Phải nói là “hầu hạ việc Chúa” vì trên thế gian này, người Ki Tô giáo Việt Nam thường tự nhận là tôi tớ, tỳ nữ hầu hạ việc Chúa, (đúng ra là hầu hạ các linh mục, mục sư!) thì sau khi chết, đến ngày phán xét, lên thiên đường tiếp tục đời đời hầu hạ việc Chúa cũng phải thôi. Bây giờ chúng ta hãy sang đến chuyện “Thánh Linh” của Gm Nguyễn Thái Hợp. Trong dề mục 4 ở trên, Gm viết nhiều về Thánh Linh. Sau đây tôi xin trích dẫn lại vài điều Gm viết về Thánh Linh Thánh Linh không những đã gieo vào tâm hồn con người mà còn nơi lễ nghi và văn hóa của các dân tộc [8]. Thánh Linh hiện diện nơi các Tôn giáo khác. … Tiếp nối và khai triển đường hướng của Vatican II, đức Gioan Phaolô II đề cao hoạt động của Thánh linh nơi các tôn giáo. Thánh linh dun dủi, thanh tẩy và cứu vớt không những từng cá nhân mà cả những nền văn hóa và các tôn giáo nữa: Thánh linh trao ban cho mọi người, theo một cách thế mà chỉ duy Thiên Chúa biết được, khả năng được tham dự vào mầu nhiệm Phục sinh (…). Sự hiện diện và tác động của Thánh linh không chỉ liên hệ đến mỗi cá nhân, mà còn liên hệ đến xã hội và lịch sử, các dân tộc, các nền văn hóa, các tôn giáo (…).
Mục đích của đối thọai liên tôn là cùng nhau khám phá và làm triển nở những yếu tố chân lý và ân sủng do sự hiện diện tiềm ẩn của Thiên Chúa nơi mọi tôn giáo Tài liệu Làm việc của Thượng Hội đồng Giám mục Á châu nhìn nhận hoạt động mạnh mẽ và đa dạng của Thánh linh nơi các tôn giáo và văn hóa Á châu. Tông thư Giáo hội tại Á châu tiếp tục đề cao vai trò của Thánh linh trong lịch sử cứu độ và trong lòng các tôn giáo Á châu: Các Nghị phụ của Thượng Hội đồng đề cập đến hành động đa dạng và đổi thay của Thánh linh.
Tôi có thể bảo đảm với quý độc giả là Gm Nguyễn Thái Hợp viết về những điều mê tín trong thế kỷ 17 như trên cho vui mà thôi vì chắc chắn là ông ta chỉ tin những lời ông học được từ nền thần học Ca-tô chứ không hiểu Thánh Linh là gì, và lẽ dĩ nhiên không biết Thánh Linh là gì. Tất cả những điều ông ta viết về Thánh Linh đều không có bất cứ một bằng chứng nào có thể chứng minh đó là đúng. Trước khi nói bất cứ điều gì về Thánh Linh thì phải nói rõ Thánh Linh là gì, nếu không chỉ là đoán mò. Thứ đến, ông Gm chỉ viết khơi khơi như trên mà không nói rõ là những “hoạt động mạnh mẽ và đa dạng” của Thánh Linh là như thế nào trên các nền văn hóa, các tôn giáo khác mà trong đó không ai biết đến Thánh Linh. Nhưng đó là niềm tin của ông Gm, và ông ta có quyền tin như vậy. Nhưng có điều mà Gm Nguyễn Thái Hợp không đủ trình độ để biết, vì ông ta chỉ tin, là nếu ông ta đọc những giáo lý về Thánh Linh và vai trò của Thánh Linh trong những “bí tích” của Ca-tô Rô-ma Giáo, thì ông ta phải thấy ngay là Thánh Linh chỉ là một sản phẩm lừa bịp những đầu óc thấp kém, bởi vì những giáo lý đó hoàn toàn mâu thuẫn và vô tác dụng trong vai trò của Thánh Linh. Holy Ghost- Ma Thánh, alias Thánh Linh hay Chúa Thánh Thần Ngày nay, trong lãnh vực học thuật, không có cái gì, kể cả các niềm tin tôn giáo, được miễn nhiễm trước những phân tích phán xét của con người. Vậy sau đây tôi sẽ đi vào phần nghiên cứu về một con “Ma Thánh” (Holy Ghost), alias Thánh Linh hay Chúa Thánh Thần, một Gót trong thuyết “Ba Ngôi Gót” của Ca-tô Rô-ma Giáo.. Trong Ca-tô Rô-ma Giáo có thuyết thần học về “Ba Ngôi Gót”. Sách Giáo Lý Công Giáo (Katholischer Katechismus) do Hoài Chiên và Nguyễn Khắc Xuyên dịch sang tiếng Việt giảng, trang 102: “Nhưng ba ngôi chỉ là một Chúa…Chúa duy nhất mà có ba ngôi như vậy, ta gọi là Ba Ngôi chí thánh… Chân lý [sic] về một Chúa mà có Ba Ngôi là mầu nhiệm cao cả nhất của Đức Tin ta..” Cái gọi là mầu nhiệm cao cả nhất của đức tin Công giáo là Chúa làm cho mẹ của mình mang thai đẻ ra chính mình. Theo thuyết này, thì cha của Giê-su cũng là Giê-su, mà Giê-su cũng là Con Ma Thánh [Holy Ghost] đã làm cho mẹ của mình là bà Mary mang thai rồi đẻ ra chính mình. Có thể là “một Chúa mà có Ba Ngôi là mầu nhiệm cao cả nhất của Đức Tin Ca-tô” đối với những tín đồ Ca-tô Việt Nam, nhưng đối với tôi thì thuyết “Ba Ngôi Thiên Chúa” chỉ là một sản phẩm thần học thuộc loại “điên rồ toán học” (mathematical insanity) của Ca-tô Rô-ma Giáo. Nhưng không phải chỉ có mình tôi là nghĩ như vậy. Thú vị thay, chúng ta hãy đọc vài phân tích về thuyết “Chúa Ba Ngôi”. Trước hết là một phân tích toán học của Robert G. Ingersoll về “Chúa Ba Ngôi”:
Đấng Ki-tô, theo đức tin, là ngôi thứ hai trong “Ba ngôi Gót”, Chúa Cha là ngôi thứ nhất, và con Ma Thánh là ngôi thứ ba. Mỗi nhân vật trong ba ngôi đó đều là Gót. Đấng Ki-tô là chính Cha của mình và là cái hồn Ma của Mình. Con Ma Thánh không phải là Cha hay Con, mà là cả hai. Người Con được sinh ra bởi Cha, nhưng hiện hữu trước khi được sinh ra – trước cũng giống như sau... Như vậy, người ta tuyên bố rằng Cha là Gót và Con là Gót, và con Ma Thánh cũng là Gót, và ba Gót đó làm thành một Gót. Theo bảng cửu chương trên trời, một là ba, và ba lần một là một, và theo phép tính trừ trên thiên đường thì nếu chúng ta lấy hai ra khỏi ba, chúng ta còn lại ba. Phép tính cộng cũng kỳ dị, nếu ta cộng hai vào một chúng ta chỉ có một. Không có gì đã từng, không có gì sau này, có thể ngu ngốc và vô nghĩa một cách hoàn hảo hơn là thuyết “Ba Ngôi Gót”
Robert Green Ingersoll
, Link: http://en.wikipedia.org/wiki/Robert_G._Ingersoll
Chúng ta hãy đọc thêm một phân http://markhumphrys.com/christianity.html
tích
về
thuyết
“Chúa
Ba
Ngôi”:
Ta sẽ sáng tạo ra đàn ông và đàn bà với tội tổ tông. Rồi Ta sẽ làm cho một người đàn bà mang thai với Ta là con của bà ta, để Ta có thể sinh ra đời. Khi còn sống, Ta sẽ tự tử như là một sự hi sinh cho chính Ta. Để cứu các người khỏi tội lỗi mà Ta lên án các người. Giê-su là một con người khả ái. Ông ta không nói với chúng ta điều gì mới mẻ về phương diện trí thức. Ông ta không nói với chúng ta điều gì mới mẻ về khoa học, y học hay lịch sử. Nhưng đạo đức của ông ta thật hứa hẹn. Và Ông ta chưa từng giết một người nào. Sự sát hại ông ta là một sự lăng nhục, và là một tội ác kinh khủng. Nhưng nó chẳng đạt được điều gì. Nó chỉ là một vụ giết người. Những toan tính của Ki Tô Giáo để tìm thấy một ý nghĩa nào đó trong cái chết của ông ta đã đưa Ki Tô Giáo đến những câu chuyện lố bịch như là hình ảnh trên đây [Độc giả có thể click vào chữ màu xanh trong phần tiếng Anh để thấy hình ảnh]. Có bao nhiêu tín đồ Ki-tô tin như vậy? Niềm tin [của người Ki Tô] là, một thây ma Do Thái cũng chính là Cha của mình, có thể làm cho họ sống đời đời nếu họ ăn thịt ông ta một cách tượng trưng và nói với ông ta bằng cách ngoại cảm là chấp nhận ông ta là chủ của mình, để ông ta có thể cất bỏ cái tâm xấu ác trong linh hồn của họ, cái tâm thường có trong nhân loại, vì một người đàn bà làm ra từ một cái xương sườn bị thuyết phục bởi một con rắn biết nói tiếng người để ăn một trái cây trên một cái cây ma quái….
Và thêm vài nhận định khác về thuyết “Chúa Ba Ngôi”: Sir Francis Bacon (1561-1626), Khoa học gia và triết gia Anh: Người tin thuyết Ba Ngôi Gót tin rằng một trinh nữ chính là mẹ của một đứa con đã tạo ra bà ta. (The trinitarian believes a virgin to be the mother of a son who is her maker.)
Ethan Allen (1738-1789), Nhà cách mạng Mỹ: * Giáo lý Ba Ngôi Gót là vô căn cứ, và có khuynh hướng đưa đến mê tín và thờ hình tượng (The doctrine of the Trinity is destitute of foundation, and tend manifestly to superstition and idolatry.) Đức Mẹ đồng trinh?
Gm Nguyễn Thái Hợp viết về những “hoạt động mạnh mẽ và đa dạng của Thánh linh nơi các tôn giáo và văn hóa Á châu” nhưng chúng ta không hề thấy những hoạt động đó đã thể hiện ở đâu và như thế nào. Câu chuyện đầu tiên và đặc biệt nhất về ngôi ba Thiên Chúa: Thánh Ma, mà chúng ta đọc trong Tân Ước là cái con ma này, không biết có sắc tố (X,Y) hay không, [nhưng một người lính La Mã tên là Panthera thì chắc chắn có: Xin đọc Reynolds Price, một học giả chuyên gia về Thánh Kinh (biblical scholar), viết về Giê-su ở Nazareth: Xưa và Nay (Jesus of Nazareth: Then and Now) trên tờ “Time” ngày 6 tháng 12, 1999], đã xâm phạm tiết hạnh của một người con gái tên là Mary, đã có chồng là Joseph nhưng hai người chưa kịp làm nhiệm vụ vợ chồng với nhau, và làm cho Mary mang thai, rồi đẻ ra một đứa con trai là Giê-su.
[Một chút về khoa học cho vui: cặp sắc tố (Chromosome) quyết định giống của đàn bà là 2 sắc tố X (X,X), và của đàn ông là 1 X và 1 Y (X,Y). Trong quá trình truyền giống, nếu sắc tố X của đàn ông kết hợp với sắc tố X của người đàn bà thì đứa trẻ sinh ra sẽ là con gái. Còn nếu sắc tố Y của người đàn ông kết hợp với sắc tố X của người đàn bà thì đứa trẻ sinh ra sẽ là con trai. Do đó, một mình Mary, nếu thực sự thụ thai mà không do giao hợp với đàn ông và không có tinh khí của đàn ông thì không thể nào sinh ra con trai được. Giáo sư Thần Học Ca-Tô Uta RankeHeinemann cũng viết như sau: Chúng ta phải xét đến điều sau đây: Trong trường hợp một trinh nữ thụ thai thì tế bào đầu tiên của cơ thể Giê-su phải là một tế bào của phái nữ. Và nếu bằng một phép lạ nào đó mà cái tế bào này phân chia ra mà không cần đến sự tham dự của người đàn ông, và tiếp tục phân chia để hình thành một con người, thì cái sự thụ thai đồng trinh này, khi sinh đứa bé ra, bắt buộc phải là một đứa bé gái. Dưới đây là bức hình tôi chụp trong bảo tàng
viện lớn nhất ở St. Petersburg, Russia. Hình Joseph, Maria và hài nhi Giê-su. Nhìn vào bộ mặt đau khổ của Joseph, vợ thì đẹp như vậy, mà con thì lại không phải là con của mình, tôi cảm thấy tội nghiệp cho Joseph. Có điều an ủi cho ông ta là ông ta được Giáo hội Ca-tô Rô-ma phong cho ông là Thánh. Kể ra đó cũng là một sự đền bù xứng đáng.
Giả thử chúng ta tin vào phép lạ là Thánh Ma có thể làm cho bà Mary mang thai và đẻ ra Giêsu. Như vậy thì Thánh Ma vừa là cha, vừa là chồng, và vừa là con của Mary. Đây là mầu nhiệm cao cả nhất của “đức tin Ca-tô giáo”. Mầu nhiệm cao cả này là chuyện viết trong Tân Ước, phối hợp với thuyết “Ba Ngôi Chỉ Là Một Chúa” trong sách “Giáo Lý Công Giáo” của Hoài Chiên và Nguyễn Khắc Xuyên. Chuyện về con Ma Thánh trong Ca-tô giáo nó dài dài như chuyện nhân dân tự vệ. Ca-tô giáo Mít viết khá nhiều về con Ma Thánh này mà họ gọi là Thánh Linh hay Chúa Thánh Thần. Nhưng càng đọc chúng ta càng thấy những chuyện thuộc về Thánh Linh thuộc loại những chuyện ma quỷ nhảm nhí, trong đó Thánh Linh phải đã học được phép phân thân của con khỉ Tề Thiên Đại Thánh khi theo Đường Tăng đi thỉnh Kinh Phật nơi Thiên Trúc. Tôi không có nói bậy, nếu chúng ta đọc kỹ những gì người Ca-tô giáo Việt Nam viết về con Ma Thánh của họ với một đầu óc không cần thông minh cho lắm, chỉ cần chút ít “common sense” là đủ. Chứng minh? Bí tích “rửa tội”
Trước hết là về cái mà Ca-tô Giáo gọi là bí tích “rửa tội”. Chúng ta biết rằng mọi người Ca-tô giáo, hầu hết là từ khi chưa biết gì ngoài việc bú, ị, tè và khóc, đã được bố mẹ vác đến nhà thờ để cho ông linh mục rửa cái “tội tổ tông” không hề có của nó, vì “tội tổ tông” chỉ là một huyền thoại của người Do Thái trong thời bán khai mà ngày nay từ giáo hoàng trở xuống, chẳng còn ai tin nữa, trừ đám giáo dân bị nhốt trong một ngục tù tâm linh của giáo hội... Chúng ta hãy đọc vài điều trong nghi thức rửa tội để thấy chúng thuộc loại mê tín và hoang đường như thế nào. Sách Giáo Lý Công Giáo (Katholischer Katechismus), bản dịch của Hoài Chiên và Nguyễn Khắc Xuyên, nhà in Zieleks, Texas, xuất bản năm 1991, viết: Từ khi có tội tổ tông thì quỷ Sa tăng, có quyền khuấy khuất nhân loại. Bởi vậy, linh mục thổi ba lần trên mặt đứa nhỏ và truyền cho Sa Tăng phải rút lui, nhường chỗ cho Chúa Thánh Thần. Chúng ta thấy đây đúng là một trò ma thuật của giáo hội bày đặt ra, dựa trên một điều mê tín về “tội tổ tông” thuộc thời bán khai của Do Thái. Tại sao ông linh mục lại phải thổi ba lần trên mặt đứa nhỏ, hay là lần đầu tiên thổi Chúa Cha, lần thứ hai thổi Chúa Con, và lần thứ ba thổi Chúa Thánh Thần?? Nhưng “Ba ngôi chỉ là một Chúa” thì thổi một lần cũng đủ, đâu cần đến ba? Nhỡ ông linh mục có bệnh “thối mồm” thì sao, có phải là làm tội cho đứa nhỏ không? Nhưng vấn đề là, ở trên thế giới này, hiển nhiên là có nhiều đứa con nít được mang đến nhà thờ để rửa tội trong cùng một lúc và ở các địa phương khác nhau trong một quốc gia, và có thể ở các quốc gia khác nhau trên thế giới. Vậy cùng một lúc, nhiều ông linh mục hay giám mục ở các nơi khác nhau, gọi Chúa Thánh Thần phải đến thì Chúa Thánh Thần chọn nơi nào để mà ngự vào người đứa con nít? Nhưng cái trò bịp bợm ở đây là các ông Linh mục có quyền sai Chúa Thánh Thần tới đâu thì Chúa Thánh Thần phải tới đó trong khi các ông vẫn tự nhận là “tôi tớ hầu việc Chúa”. Tôi tớ mà sai được chủ thì chủ có còn là Chúa hay không? Không những thế, vì tự nhận láo lếu là những “Chúa thứ hai” (Alter Christus) nên các linh mục cũng bắt chước Chúa thứ nhất, đuổi quỷ ra khỏi thân thể con nít, nếu trong người chúng thực sự có quỷ. Khi xưa, để tôn vinh Giê-su, những người viết Tân ước quảng cáo phép lạ đuổi quỷ của Chúa ra khỏi người bị bệnh động kinh
(epilepsy) nhưng không ngờ làm lòi cái dốt của Chúa. Vì bệnh động kinh là do cơ thể con người thiếu chất “glutamic acid” chứ chẳng phải là vì quỷ ám nên làm phép đuổi quỷ. Bí tích rửa tội thực là vô giá trị đối với đứa bé vì đứa bé chưa đủ khôn lớn để biết người ta đã làm những gì trên cái thân thể bé nhỏ của mình. Cũng vì vậy mà ngày nay, hàng trăm ngàn tín đồ Ki Tô Giáo ở Anh đã mở chiến dịch “vô hiệu hóa bí tích rửa tội” [Xin đọc: http://www.sachhiem.net/TCNts/TCNts039.php ], chiến dịch này cùng chiến dịch dán những tấm bích chương “No God” trên các xe “bus” công cộng đang lan ra khắp Âu Châu, và trong tương lai, xa hay gần chưa biết, rất có thể cũng lan về Việt Nam vì không lẽ người Ki Tô Giáo Việt Nam cứ ở mãi trong tình trạng u mê, mê tín đã lỗi thời hay sao? Thật vậy, bí tích “rửa tội” là điều mê tín nhất trong những điều mê tín: thứ nhất, tội ở đâu mà rửa; thứ nhì, tin rằng Sa Tăng, cũng là một tạo vật của Chúa Cha, có thật và là nguồn gốc của những sự xấu ác, có quyền khuấy khuất nhân loại, và có sẵn trong mọi người từ khi sơ sinh. Đây cũng là tín điều man rợ nhất và xúc phạm nhất đối với những người không theo đạo Ca-tô. Tín điều này, chỉ có thể có trong đầu óc của những tín đồ Ca-tô, cho rằng: bất cứ đứa trẻ nào sinh ra cũng đều bị Sa Tăng ngự trị trong người, nếu không đuổi Satan ra khỏi thân thể đứa bé bằng những nghi thức "rửa tội" hoang đường, phản khoa học, phi lý trí, đầy tính ma thuật bịp bợm thì Satan sẽ còn ở lại với đứa trẻ suốt đời. Lịch sử đã chứng minh rằng, không thiếu gì người Ca-tô, những người đã chịu lễ rửa tội, nghĩa là đã có Thánh Linh ngự trong người, từ Giáo hoàng trở xuống cho tới các linh mục, giáo dân, tệ hại, phi luân, vô đạo đức và ác độc hơn những người ngoại đạo. Lịch sử Giáo hội Ca-tô cùng những phanh phui gần đây về các sự phá sản tâm linh và đạo đức của giới chăn chiên, kể cả các nữ tu, đã chứng tỏ như vậy. Điều cực kỳ mê tín hoang đường là, theo lệnh của ông linh mục, khi rửa tội thì Sa Tăng phải rút lui, nhường chỗ cho Chúa Thánh Thần. Cũng theo lệnh của ông linh mục, bất kể đang ở đâu, Bến Hải hay Cà Mâu, Chúa Thánh Thần của ông ta cũng phải tới để vào ngự trong người đứa nhỏ.. Vậy mà người ta vẫn có thể tin được thì phải hiểu đầu óc của các bậc cha mẹ mang con đi rửa tội thuộc loại nào. Nhưng đây chỉ là trò bịp của ông Linh mục đối với những tín đồ thấp kém, tin tất cả những gì giáo hội dạy mà không tự mình đọc Thánh Kinh. Thánh Kinh đã viết rõ là Chúa Giê-su đã chiến thắng Satan, vậy Satan còn ở đâu nữa mà đuổi. Thật vậy, Colossians 2: 15: Thượng đế đã tước hết uy quyền thống trị của Satan, công khai phô bày cho mọi người biết Chúa Cứu Thế đã chiến thắng nó tại cây thập tự; và John 12: 31: Đã đến lúc thế gian bị xét xử, và Satan, kẻ thống trị thế gian bị trục xuất. Vậy, Chúa đã chiến thắng Satan từ 2000 năm trước rồi. Nó chỉ có ở trong người thánh Phê-rô (Peter) như Giê-su đã gọi đích danh Phê-rô như sau: Matthew 16: 23: “Chúa quay lại và nói với Phê-rô: “Hãy đi ra đàng sau ta, Satan, ngươi là một sự xúc phạm đối với ta” (But he turned and said to Peter, “Get behind me, Satan! You are an offence to Me..”) chứ không thể ở trong những đứa bé sơ sinh. Để tự tạo quyền lực đuổi ma đuổi quỷ cho giới chăn chiên, giáo hội lại phục hồi quyền lực của Satan, cho nó cái quyền khuấy khuất thiên hạ, nhét nó vào trong những đứa trẻ chưa biết gì, và dạy rằng linh mục có khả năng đuổi Satan ra khỏi đứa bé trong cái bí tích gọi là rửa tội. Thật là một sự lừa bịp trắng trợn đối với giới hiểu biết, và đối với một số trí thức ngày nay thì bí tích “rửa tội” là một tội ác đối với nhân loại. Nghi thức trừ quỷ
Sách Giáo Lý Công Giáo lại viết, sau khi ông linh mục làm vài trò quỷ thuật vớ vẩn, thí dụ như sờ vào đầu đứa nhỏ, để đầu nó mở ra đón nhận Chúa Giê-su từ tay ông linh mục nhét vào: Linh mục lại truyền cho Satăng lần nữa, phải ra khỏi đứa nhỏ. Ngài vẽ dấu thánh giá trên trán, bởi vì dấu đó là ấn tích của Chúa Ki Tô, đoạn truyền cho Satăng không bao giờ được làm mất dấu ấn tích đó. Trong nghi thức trừ quỷ lần đầu, Linh mục đã ra lệnh cho Sa Tăng phải rút lui nhường chỗ cho Chúa Thánh Thần. Một là Sa Tăng coi thường lệnh của Linh mục chẳng có uy lực gì, hai là Chúa Thánh Thần đã biến thành Sa Tăng trong thân thể đứa trẻ nên Linh mục lại phải đuổi Sa Tăng ra khỏi đứa trẻ lần nữa. Điều thứ hai này có thể đúng hơn vì khi lớn lên, đứa trẻ vẫn có thể làm ác, dù rằng mọi hành động, suy nghĩ của đứa trẻ sau này đều được Chúa Thánh Thần hướng dẫn cũng như Chúa Thánh Thần luôn luôn nằm trong giáo hội để soi sáng cho giáo hội. Khó mà có thể đổ tội cho Sa Tăng được nữa. Mặt khác, đứa trẻ chưa biết nghe. Linh mục nói gì nó có hiểu gì đâu, nhiều khi đang nói thì nó ị đùn, tè dầm, hay khóc oe oe. Mà thật ra thì làm gì có Satan trong người đứa bé? Thật tội nghiệp cho một đứa bé ngây thơ trong trắng, hồn nhiên, vô tội, bị cái niềm tin quái gở làm ô nhiễm nó ngay từ lúc sơ sinh. Nếu có Satan thì Satan cũng không ở trong đứa bé. Theo một nghĩa nào đó, chính Satan nằm trong linh mục, người đã đầu độc đám tín đồ thấp kém bằng những điều hoang đường của thời bán khai, cưỡng nhét Satan vào đứa bé để có cớ mà đuổi Satan ra, một quyền lực giả dối tự tạo để ngự trị trên đầu óc của đám tín đồ. Mặt khác, Giê-su bị đóng đinh trên giá gỗ hình chữ thập cùng với hai tên ăn trộm ở hai bên. Vậy khi ông linh mục vẽ hình chữ thập trên trán đứa nhỏ thì có gì bảo đảm là hình chữ thập đó đúng như là hình cái giá gỗ mà Giê-su bị đóng đinh trên đó, hay lại là hình cái giá gỗ mà hai tên ăn trộm cùng hàng ngàn người trước đó đã bị đóng đinh trên đó. Cái mà người Ca-tô gọi là “thánh giá” chẳng qua chỉ là biểu tượng của một hình phạt tra tấn dã man nhất trong kim cồ chứ chẳng phải là tượng trưng cho sự cứu rỗi. Một học giả nghiên cứu cổ sử Do Thái đã viết “Cây thập ác là biểu tượng của một cách hành hình man rợ, không phải là biểu tượng của cứu rỗi” [The cross is a symbol of barbarous torture, not salvation], và không phải Giê-su là người duy nhất bị đóng đinh trên cây thập giá, mà trước và sau Giê-su cũng có cả ngàn người bị hành quyết cùng một cách dã man như vậy theo luật của La Mã trong thời bán khai.. Sách Giáo Lý Công Giáo lại viết tiếp: LM lại còn truyền cho quỷ lần nữa phải dứt bỏ đứa nhỏ; để tâm hồn em bé trở nên Đền thờ Chúa hằng sống ngự. Thế này là thế nào? Quỷ vẫn còn ở trong đứa nhỏ? Nhưng đã hai lần Linh Mục truyền nó phải rút lui nhường chỗ cho Chúa Thánh Thần rồi cơ mà. Hai lần trước thất bại, có gì bảo đảm là lần này ông thành công? Hay là vì có “ba ngôi thiên chúa” nên ông linh mục mỗi lần đã gọi một thiên chúa chỉ có trong trong chính cái đầu mà không có óc của ông ta để đuổi một con quỷ mà ông đã nhét vào đứa bé ngây thơ chưa biết gì, không có sức phản kháng, để ông tự tung tự tác muốn làm gì thì làm, trước sự ngu ngơ của bậc cha mẹ. Nhưng hai lần đầu ông thất bại nên lần thứ ba ông không sai Chúa Thánh Thần nữa mà sai chính Chúa hằng sống, alias Giê-su, vào ngự trong tâm hồn của đứa trẻ. Chẳng trách khi lớn lên nhiều đứa rất ngu, cứ cắm đầu mù lòa tin bướng tin càn, làm con chiên ngu dại cho những kẻ buôn thần bán thánh dẫn giắt. Nhưng điều lạ
là cả hai dịch giả, Hoài Chiên và Tiến sĩ Thần học Nguyễn Khắc Xuyên, đều không thấy những sự mâu thuẫn rất phi lý trong nghi thức rửa tội này. Có vẻ như tín đồ Ca-tô Việt Nam, bất cứ ở trình độ nào, đầu óc cũng bị điều kiện hóa để cứ nhắm mắt lập lại những gì được dạy mà không bao giờ nhận ra những điều phi lý có tính cách lừa dối trong nghi thức thực hành các bí tích. Gm Nguyễn Thái Hợp hẳn phải biết rõ về nghi thức “rửa tội” này, vậy tại sao ông ta còn cứ viết lăng nhăng về Thánh Linh? Sách Giáo Lý Công Giáo còn khẳng định, trang 153: "Khi chịu phép rửa tội rồi, ta được Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần tới ngự trong tâm hồn. Người giáo hữu trở nên đền thờ Chúa ngự." Vậy là bây giờ trong người đứa bé có cả ba ngôi Thiên Chúa trường kỳ nằm vùng trong nó cho đến khi nó lớn khôn. Nhưng như vậy thì ai chịu trách nhiệm về những hành động xấu xa, ác độc, vô luân v..v.. của một số giáo hoàng, giám mục, linh mục và vô số con chiên sau khi tất cả những người này đã rửa tội và được Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần ngự trong tâm hồn? Đổ tội cho Sa Tăng chăng? Nhưng như vậy thì rõ ràng là cả ba Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần họp lại cũng không chống nổi Sa Tăng, vậy bày đặt ra chuyện "toàn năng" với "cứu rỗi", với "ban cho đời sống đời đời" v...v... làm gì? Có phải chỉ là để lừa dối những kẻ nhẹ dạ, cả tin, không có đầu óc suy luận hay không? Vấn đề nan giải Trước bản văn mô tả nghi thức rửa tội trong sách Giáo Lý Công Giáo của Việt Nam mà tôi vừa bình luận ở trên, các tín đồ Ca-Tô Việt Nam ngày nay đứng trước một vấn đề nan giải, vì họ chỉ có thể chấp nhận một trong hai điều sau đây, chứ không thể chấp nhận cùng lúc cả hai. Hai điều này có tính cách loại trừ hỗ tương (mutual exclusive), có điều này thì không thể có điều kia. Một là tin vào hiệu năng của bí tích rửa tội qua quyền phép ảo thuật của linh mục hay giám mục mô tả trong nghi thức rửa tội. Vậy thì tất cả những tội lỗi của Ca-Tô Giáo đối với nhân loại là tội của Chúa Ba Ngôi, vì sau khi rửa tội, Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần đã thay SaTăng tới ngự trong tâm hồn của các tín hữu Ca-Tô. Người giáo hữu đã trở nên đền thờ nơi Chúa ngự. Những hành động của các tín đồ Ca Tô, do đó, đều không phải là do Sa Tăng có quyền khuấy khuất, vì Sa Tăng đâu có còn trong người nữa, mà chính là do sự hướng dẫn tâm linh của Thánh Linh. Vả chăng, giáo hội thường dạy các con chiên: Giáo hoàng là do sự mạc khải linh ứng của Thánh Linh cho các hồng y trong việc tuyển lựa giáo hoàng, giáo hoàng được Thánh linh chỉ đạo, không thể sai lầm về đức tin hay đạo đức, và giáo hội là nhiệm thể của Chúa Ki Tô cho nên không thể sai lầm. Nhưng nay giáo hoàng đã chính thức xưng thú 7 núi tội lỗi mà giáo hội đã phạm đối với nhân loại và xin được tha thứ. Và chúng ta cũng đã biết đạo đức của một số Giáo hoàng trong lịch sử giáo hội là như thế nào. Vậy, đúng ra điều này phải được giải thích là chính Chúa Thánh Thần ngự trong các giáo hoàng, trong các tín đồ Ca-Tô, trong giáo hội, đã là nguồn gốc của mọi tội lỗi mà giáo hội cũng như những cá nhân trong giáo hội gây ra. Hai là tin rằng tất cả những tội lỗi của giáo hội Ca- Tô đối với nhân loại không phải do Chúa chủ mưu, mà chính là do Sa Tăng khuấy khuất. Điều này đưa đến sự vô hiệu của bí tích rửa tội. Quyền năng đuổi bỏ Sa Tăng của linh mục là quyền giả tạo, vì đã năm lần bảy lượt đuổi Sa Tăng ra khỏi đứa trẻ để nhường chỗ cho Chúa Thánh Thần mà sau cùng Chúa Thánh Thần vẫn bị đánh
bạt ra khỏi người đứa trẻ. Nói tóm lại, dù trong lễ rửa tội, linh mục đã làm đủ mọi cách, sử dụng mọi quyền phép Chúa ban cho, theo như những lời "giáo hội dạy rằng" mà thực chất là để ngự trị đám tín đồ thấp kém, tội tổ tông vẫn không rửa được, Chúa vẫn thua Sa Tăng, đứa trẻ khi lớn lên vẫn không đủ sức chống nổi Sa Tăng, tâm hồn người đã rửa tội vẫn không có Chúa ngự. Những ân sủng mà linh mục thay Chúa ban cho người chịu phép rửa tội chỉ là những bánh vẽ ở trên trời, và lẽ dĩ nhiên, chẳng làm gì có sự sống đời đời, cứu cánh chung cùng của "bí tích" rửa tội, như các ông linh mục thường hứa hẹn khi làm lễ. Cũng vì nhận rõ được tính chất hoang đường và lỗi thời của "bí tích rửa tội", của vai trò "chuộc tội" và "cứu rỗi" của Giê-su, mà trong cuốn Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Thay Đổi Không Thì Chết, Giám mục John Shelby Spong đã dành riêng chương 6 để viết về đề tài Giê-su Như Là Đấng Cứu Thế: Một Hình Ảnh Cần Phải Dẹp Bỏ (Jesus as Rescuer: An Image That Has To Go). Trong chương này, Giám Mục Spong viết như sau: "Nhân loại chúng ta không sống trong tội lỗi. Chúng ta không sinh ra trong tội lỗi. Chúng ta không cần phải rửa sạch cái tì vết tội tổ tông trong lễ rửa tội. Chúng ta không phải là những tạo vật sa ngã, mất đi sự cứu rỗi nếu chúng ta không rửa tội. Do đó, một đấng cứu thế có nhiệm vụ khôi phục tình trạng tiền sa ngã của chúng ta chỉ là một sự mê tín trước thời -Darwin và một sự vô nghĩa sau thời Darwin."
Link:http://www.adishakti.org/_/why_christianity_must_change_or_die_review.htm
“Tội tổ tông”? Trước những tài liệu nêu trên, các tín đồ Ca-tô Việt Nam cảm thấy thế nào mà vẫn tiếp tục mang con của mình đi rửa cái “tội tổ tông” mà nó không hề có. Không hề có vì chính Giáo hoàng John Paul II và Benedict XVI đã khẳng định là chẳng làm gì có cái gọi là “tội tổ tông” để mà rửa, như tôi sẽ chứng minh trong Đoạn Kết. Tại sao các ông linh mục vẫn tiếp tục lừa dối tín đồ, duy trì những điều mê tín đã không còn chỗ đứng trong thế giới văn minh hiện đại. Có phải là các tín đồ Ca-tô Việt Nam thật là đáng tội nghiệp không? Biết bao giờ, phải, biết bao giờ họ mới có thể nhận ra được rằng mình đã bị lừa dối bởi những lời nói láo vĩ đại, đã bị lùa vào trong một cơ chế chỉ có tác dụng làm tê liệt đầu óc con người, biến con người thành những con chiên, để cho những kẻ chăn chiên vô đạo đức dẫn giắt vào sự tăm tối của thời bán khai trong “đức vâng lời”. Thật vậy, điều rõ ràng là các giáo dân không biết rằng mình đã bị các ông linh mục hay giám mục bịp, cho nên đã mang con đi rửa tội. Vì dù đã ba lần ông linh mục đuổi quỷ ở trong người đứa bé để nhường chỗ cho Chúa Thánh Thần, và dù sách Giáo Lý Công Giáo cũng khẳng định
là: "Khi chịu phép rửa tội rồi, ta được Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần tới ngự trong tâm hồn. Người giáo hữu trở nên đền thờ Chúa ngự." nhưng cũng chẳng làm gì có Chúa Thánh Thần hay bất cứ Chúa nào ngự trong người đứa bé. Tại sao? Vì chính sách Giáo Lý Công Giáo đã chứng minh cho chúng ta biết là giáo hội đã dẫn tín đồ từ màn bịp này sang màn bịp khác. Màn bịp tiếp theo là khi lớn lên độ mười mấy tuổi, đứa trẻ lại phải qua nghi thức “bí tích thêm sức”. Sách Giáo Lý Công Giáo viết về bí tích hay nhiệm tích thêm sức, trang 180-183, viện dẫn một đoạn trong Thánh Kinh: Khi hay tin dân xứ Samari đã đón nhận lời Chúa, thì các tông đồ ở Gia Liêm liền phái Phê-rô và Gioan tới. Các vị này liền xuống xứ Samari và cầu xin cho họ được đón nhận Chúa Thánh Thần. Bởi vì Chúa Thánh Thần chưa ngự xuống trong lòng một người nào cả; họ chỉ mới chịu phép rửa tội nhân danh Chúa Giêsu mà thôi. Khi ấy Phêrô và Gioan đặt tay lên đầu họ, thì họ liền được đón nhận Chúa Thánh Thần (Tông đồ Công vụ 8, 14-17)
Rồi mô tả nghi thức làm phép thêm sức như sau:
Lúc bắt đầu cử hành nghi thức, Đức Giám Mục bưóc lên bàn thờ, đoạn quay mặt ra phía các kẻ chịu phép đang quỳ trước bàn thờ. Ngài giơ hai tay trên đầu họ để cầu xin Chúa Thánh Thần ngự xuống tâm hồn họ… Khi chịu phép thêm sức, Chúa Kitô ban Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy trong tâm hồn ta.
“Làm phép” hay chuyện phù thủy? Những chuyện “làm phép này” có khác gì những chuyện phù thủy làm không? Ấy thế mà trong lịch sử giáo hội Ca-Tô, giáo hội đã săn lùng, bắt bớ, tra tấn và thiêu sống hàng trăm ngàn người mà giáo hội gọi là phù thủy, những người bị vu cho là làm những phép lạ không thuộc loại phép lạ của giáo hội. Nhưng mà tại sao các tín đồ có thể tin được những chuyện phi lý huyền hoặc như là “làm phép” trong Ca-Tô giáo? Thật ra, chẳng có gì là khó hiểu. Nghệ thuật lừa dối của giáo hội rất tinh vi. Mới đầu, từ khi mới sinh ra đời, tín đồ đã được các ông linh mục, với sự phụ giúp của các bậc cha mẹ kém hiểu biết, nhồi vào đầu óc cái mặc cảm mang tội tổ tông và hứa hẹn một sự cứu rỗi của Chúa Ki-Tô qua nghi thức “rửa tội”. Bản chất của sự cứu rỗi này chỉ là một cái “bánh vẽ trên trời”, theo như nhận định của mục sư Ernie Bringas, nhưng lại rất hấp dẫn đối với những người đầu óc yếu kém, cần đến một cặp nạng để giúp cho mình lê lết trên cuộc đời. Một khi ăn phải cái bả “cứu rỗi” rồi thì tín đồ không còn có thể suy nghĩ gì khác, tất cả đều phải nghe theo mọi giải thích của giáo hội, bất kể những giải thích này phi lý đến đâu, nếu muốn được lên thiên đường cùng Chúa. Cho nên, khi “giáo hội dạy rằng”, Chúa hoặc “đức thánh cha” đã ban cái quyền “làm phép” cho các giám mục, linh mục trong mọi nghi thức thực hành các nhiệm tích, thì tín đồ chỉ có việc nghe theo và bắt buộc phải tin. Không tin thì bị giáo hội khai trừ ra ngoài “hội thánh”, nghĩa là giáo hội đã cấm Chúa, không cho phép Chúa được cứu rỗi những người này. Những điều phi lý có tính cách mê tín, trịch thượng, cướp quyền Chúa này vẫn còn nhiều triệu người trên thế giới tin. Tuy nhiên cũng đã có cả triệu người gồm đủ các giới trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma, từ hồng y trở xuống, không còn tin nữa, và họ đã hoặc bỏ đạo, hoặc viết sách vạch trần những sự lừa dối trong nền thần học Ki Tô Giáo. Tuyệt đại đa số những cuốn sách thuộc loại này là do những tác giả và giới lãnh đạo trong Ki-Tô giáo viết chứ không phải do những người “ngoại đạo” viết. Nhiệm tích Thêm Sức
Bây giờ chúng ta hãy trở lại nhiệm tích Thêm Sức. Tôi xin nhắc để chúng ta cùng nhớ rằng, trong nhiệm tích “Rửa Tội”, vị linh mục làm lễ đã năm lần bảy lượt làm phép đuổi Sa-Tăng ra khỏi đứa con nít, nhường chỗ cho đức Chúa Thánh Thần ngự vào, và sách Giáo Lý Công Giáo cũng khẳng định là: "Khi chịu phép rửa tội rồi, ta được Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần tới ngự trong tâm hồn. Người giáo hữu trở nên đền thờ Chúa ngự." Nhưng đoạn mà sách Giáo Lý Công Giáo trích dẫn từ Thánh Kinh ở trên lại cho chúng ta biết vì lý do nào mà tín đồ phải chịu làm lễ Thêm Sức: “Bởi vì Chúa Thánh Thần chưa ngự xuống trong lòng một người nào cả; họ chỉ mới chịu phép rửa tội nhân danh Chúa Giêsu mà thôi.” Điều này chứng tỏ là trong lễ rửa tội, Chúa Thánh Thần chưa tới ngự trong tín đồ. Kết luận? Những chuyện làm phép của giới linh mục trong lễ rửa tội là do giáo hội bày đặt ra để lừa dối đám tín đồ với mục đích chính là tạo những quyền lực thần thánh giả tưởng cho giới chăn chiên. Còn nữa, đoạn mô tả nghi thức làm lễ Thêm Sức viết: Ngài (đức Giám Mục) giơ hai tay trên đầu họ để cầu xin Chúa Thánh Thần ngự xuống tâm hồn họ. Như vậy là trong tâm hồn của đứa trẻ đã rửa tội không hề có Chúa Thánh Thần nên đến khi mười lăm, mười sáu tuổi, lúc làm lễ Thêm Sức, nó mới được đức Giám Mục cầu xin (nghĩa là sai khiến) đức Chúa Thánh Thần xuống ngự trong tâm hồn nó. Vậy, lễ Rửa Tội hoàn toàn vô ích, và những điều giáo hội dạy về lễ rửa tội là không thực. Nếu lễ Rửa Tội đã là vô ích, thì có gì bảo đảm là lễ Thêm Sức có ích, và có gì bảo đảm là Chúa Thánh Thần chịu nghe theo lời sai khiến của ông giám mục xuống ngự trong tâm hồn đứa trẻ? Không có gì bảo đảm cả, trái lại, đó cũng chỉ là một luận điệu thần học lừa dối những đầu óc thấp kém, vì chúng ta cũng đã biết trong nghi thức truyền chức linh mục, khi mà đứa trẻ, sau khi chịu lễ rửa tội, rồi lễ thêm sức, lớn lên muốn làm linh mục, thì lại có cảnh “đức giám mục im lặng đặt tay trên đầu mỗi người sắp được phong làm linh mục và cầu xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trên họ.” Điều này chứng tỏ một cách rõ ràng là trong lễ rửa tội và lễ thêm sức, Chúa Thánh Thần không hề nghe lời sai khiến của ông Giám mục xuống ngự trong những đứa con nít và những đứa trẻ đến tuổi dậy thì. Chúng ta đã biết là sau khi rửa tội, không làm gì có Chúa Thánh Thần vào ngự trong người đứa nhỏ. Đến tuổi dậy thì, đứa trẻ lại được ông linh mục sai Chúa Thánh Thần tới thêm sức cho đứa nhỏ. Và chắc các tín đồ đều tin rằng trong người nay đã có Chúa Thánh Thần vào ngự. Có thật như vậy không? Không phải đâu là không phải đâu. Vì khi lớn lên, nếu đứa nhỏ thấy khả năng mình chỉ có thể vào nghề linh mục thì mới sống được trên đám dân thấp kém ở dưới, nên đi vào trường Dòng học nghề làm linh mục, một nghề sống trên sự dối trá. Và chúng ta hãy đọc nghi thức phong chức linh mục của Công Giáo. Nghi thức phong chức linh mục
Sách Giáo Lý Công Giáo (Katholischer Katechismus) viết về nghi thức Truyền Chức Linh Mục như sau, trang 231: “Khi phong chức linh mục, đức giám mục im lặng đặt tay trên đầu mỗi vị phụ tế và cầu xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trên họ. Các vị linh mục dự lễ cùng đặt tay trên đầu họ như vậy. Bấy giờ đức giám mục mới hát kinh tiền tụng để phong chức linh mục. Giám mục lại cho các vị đeo khăn vai quàng qua ngực và mặc áo lễ để chỉ dấu hiệu linh mục. Đoạn xức dầu thánh vào hai bàn tay và trao chén thánh đựng rượu nước, như dấu chỉ từ nay các vị có thể dâng thánh lễ. Đoạn giám mục cử hành thánh lễ cùng với các vị tân linh mục. Sau cùng, giám mục còn đặt tay lần nữa trên đầu các vị tân linh mục mà đọc rằng: “Hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần, chúng con tha tội cho ai thì họ được tha, cầm giữ ai thì họ bị cầm giữ”. Điều này chứng tỏ một cách rõ ràng là trong lễ rửa tội và lễ thêm sức, Chúa Thánh Thần không hề nghe lời sai khiến của ông Giám mục xuống ngự trong những đứa con nít và những đứa trẻ đến tuổi dậy thì. Giả thử chúng ta tin vào cái chuyện hoang đường là có Chúa Thánh Thần thật và Người xuống ngự trong những tín đồ thật, thi hành lệnh “cầu xin” của các ông giám mục hay linh mục, trong những lễ tiết như rửa tội, thêm sức, và truyền chức linh mục, thì những điều tôi vừa phân tích ở trên đã chứng tỏ rằng sau mỗi lễ tiết, Chúa Thánh Thần lại bỏ các tín đồ đi chơi chỗ khác, thăm người tình cũ là Mary chẳng hạn, và dù bất cứ ở đâu cũng phải túc trực 24/24 để bất cứ giờ nào, ở đâu, mỗi khi được mấy ông giám mục, linh mục, bất cứ ở đâu, giờ nào, gọi thì cũng phải tới ngay. Tới vài phút rồi lại bỏ về với bà vợ 7 con còn nguyên trinh của mình. Cuối cùng, trong người tín đồ cũng chẳng bao giờ có Chúa Thánh Thần ngự cả. Đây là điều hiển nhiên nhất. Ai không đồng ý xin mời lên tiếng chứng minh rằng trong người các giáo hoàng ác ôn, linh mục loạn dâm, đích thực là có Chúa Thánh Thần hay Thánh Linh. Qua sự phân tích những bí tích rửa tội, thêm sức và truyền chức linh mục ở trên, chúng ta đã thấy tất cả những sự lừa dối của giáo hội trong sách lược ngu dân, mê hoặc tín đồ bằng những nghi lễ hoang đường, phi lý, phi lô-gic, phản khoa học, mâu thuẫn v..v.. mà họ gọi là “bí tích” hay “nhiệm tích”, những điều mê tín hoang đường mà con người trong đời sống hiện đại, với những kiến thức của nhân loại ngày nay, không thể nào chấp nhận được.
Tất cả các bí tích của Ca-tô Giáo đều có mặt Thánh Linh hay Chúa Thánh Thần trong đó. Thánh Linh đã biến thành công cụ của các giám mục, linh mục v..v.., vì các ông này muốn sai Thánh Linh đi đâu là Thánh Linh phải đi đó. Trong lễ rửa tội, linh mục sai Thánh Linh xuống ngự trong đứa bé còn đang khóc oe oe, nhưng rồi Thánh Linh lại bỏ đứa bé đi đâu mất cho đến khi 13, 14 tuổi, Thánh Linh lại được các ông linh mục gọi về để thêm sức cho nó, rồi khi nó lớn lên, nếu muốn làm linh mục, thì trong lễ truyền chức linh mục, giám mục lại phải sai Thánh Linh xuống ngự lại trong người nó. Vậy rõ ràng là Thánh Linh chỉ là một sản phẩm thần học để lừa dối các đầu óc yếu kém, không đủ khả năng để nhận ra tất cả những sự vô lý và mâu thuẫn trong vai trò của Thánh Linh. Đặc biệt hơn nữa, giáo hội tuyên bố rằng, trong ngày hạ trần hay hiện Thánh Linh xuống, nghĩa là 50 ngày sau ngày Chủ Nhật mà Giê-su sống lại, Thánh Linh đã hiện xuống ngự và ở lỳ trong giáo hội cho tới ngày nay. Chẳng vậy mà sách Giáo Lý Công Giáo viết, trang 95: Đức Chúa Thánh Thần hằng ở cùng Giáo hội và hoạt động trong đó. Người (Chúa Thánh Thần là Người?) soi sáng cho Giáo hội khỏi xa chân lý. Người thánh hóa Giáo hội bằng đổ ơn xuống tràn đầy.
Vậy các “tiến sĩ Thần học” trong giáo hội giải thích làm sao về cái lịch sử chứa 7 núi tội ác của giáo hội mà giáo hoàng cùng “tòa thánh” đã phải xưng thú cùng thế giới, trong đó có các tội ác của tập thể Ca-tô, của nhiều cá nhân giáo hoàng, hồng y, tổng giám mục, giám mục, linh mục, cho tới con chiên? Giải thích làm sao về hàng ngàn “Chúa thứ hai” (Linh mục) can tội loạn dâm và một số đang ngồi tù? Giải thích làm sao sự kiện là có hàng ngàn linh mục, hàng triệu giáo dân, tất cả đều có Thánh Linh, hay hơn nữa, có cả 3 Gót ở trong người, nhưng đã bỏ đạo. Có cách nào giải thích ngoài điều chấp nhận những tội ác này là do chính hoạt động của Chúa Thánh Thần đổ ơn xuống tràn đầy để tục hóa giáo hội? Nếu không chấp nhận điều này thì phải chấp nhận là chẳng làm gì có Thánh Linh “hằng ở cùng giáo hội” và “soi sáng cho giáo hội” hay “thánh hóa giáo hội”. Tất cả những luận điệu thần học về Thánh Linh mà giáo hội đưa ra chỉ là sản phẩm của một số người rất thế tục với mưu đồ thống trị đầu óc con người đằng sau cái chiêu bài thần thánh, khai thác sự yếu kém tâm linh của quần chúng thông thường. Vậy mà ngày nay, Gm Nguyễn Thái Học còn viết khoa trương về Thánh Linh theo những luận điệu bịp bợm của nền thần học Ca-tô Giáo. Ông Gm lộng ngôn viết rằng Thánh Linh hiện diện nơi các Tôn giáo khác…, đức Gioan Phaolô II đề cao hoạt động của Thánh linh nơi các tôn giáo. Một câu hỏi được đặt ra là các tôn giáo khác, nhất là những tôn giáo của trí tuệ như Phật Giáo, có cần đến một con Ma quái gở, một sản phẩm thần học bịp bợm vô giá trị mang tên Thánh Linh này hay không? Và những hoạt động của Thánh Linh nơi các tôn giáo khác là những hoạt động như thế nào. John Paul II thì chết rồi. Gm Nguyễn Thái Hợp còn sống, vậy hãy trả lời câu hỏi này. Có lẽ vì Thánh Linh có tràn đầy trong người Gm Nguyễn Thái Hợp, nên ông ta mới được Thánh Linh soi sáng để có được trình độ để viết lên bài “Đối Thoại Trong Viễn Tượng Đa Phức Tôn Giáo”. Mừng cho ông. Để chấm dứt phần phê bình, tôi muốn nhắc đến một nhận định của Leo Tolstoy (1828-1910), văn hào Nga, một nhận định tổng quát về những giáo lý mê hoặc của Ca-tô Rô-ma Giáo mà chúng ta vừa thấy một phần qua sự phân tích về vai trò Thánh Linh trong những cái gọi là “bí tích” hay “nhiệm tích” của Ca-tô Rô-ma Giáo:
“Tôi tin chắc rằng giáo lý của Giáo hội Ca-Tô là một sự nói láo xảo quyệt và xấu xa theo lý thuyết, và về phương diện thực hành là một sự pha trộn của sự mê tín thô thiển và trò ma thuật” (I am convinced that the teaching of the Catholic Church is in theory a crafty and evil lie, and in practice a concoction of gross superstition and witchcraft.)
VÀI LỜI KẾT Ngày nay, Ki Tô Giáo, dựa vào thế lực của các cường quốc Âu Mỹ, và nấp sau những chiêu bài như “đối thọai”, “hòa hợp tôn giáo”, “tự do dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do tôn giáo” để thúc đẩy chương trình bành trướng cải đạo Á Châu, một lục địa đông dân và tài nguyên phong phú. Không còn mấy giá trị đối với giới trí thức hiểu biết, và ít còn ảnh hưởng trong những quốc gia văn minh tiến bộ Âu, Mỹ, Ki Tô Giáo phải tìm đất sống ở những nơi tình trạng xã hội chưa ổn định, dân trí còn kém mở mang, và dân chúng còn nghèo khó, còn chịu nhiều bất công xã hội. Á Châu là miếng mồi ngon nhất, thích hợp nhất, từ đó nền “Thần học Ki Tô Giáo theo cung cách Á Châu” và những thủ đoạn lưu manh đã được đề xướng để thực hiện âm mưu xâm lăng văn hóa và tôn giáo Á Châu của Ki Tô Giáo. Âm mưu này có thành tựu hay không, tất cả tùy thuộc chính sách giáo dục và tôn giáo của các chính quyền địa phương ở Á Châu, có tích cực bảo vệ nền văn hóa và tôn giáo nhân bản của mình không.. Thực chất của cái gọi là “Thần học Ki Tô Giáo theo cung cách Á Châu” của Mục sư Tống Tuyền Thịnh, hay “Tông Huấn Á Châu” của John Paul II chẳng qua chỉ là một tập hợp những thủ đoạn truyền đạo xảo quyệt, bất chính, bất lương trí thức của những tổ chức thế tục mang danh tôn giáo. Cho nên chúng ta không lấy gì làm lạ trước những bài viết mà nội dung nằm trong mánh mưu này. Hai lớp người Đọc những bài viết về tôn giáo của các trí thức Ca-tô cũng như Tin Lành, giáo dân cũng như các giám mục, linh mục hay mục sư, tôi nhận thấy họ thuộc hai lớp người như sau: a). Lớp người thứ nhất là những người đã bị mê hoặc bởi một cái bánh vẽ trên trời, đã bị cấy vào đầu óc một đức tin không cần biết, không cần hiểu, cho nên trong thời đại tiến bộ trí thức của nhân loại ngày nay mà vẫn còn tin vào những điều huyễn hoặc vô căn cứ, không thể kiểm chứng được ở trong Thánh Kinh Ki Tô giáo, coi chúng đích thực là những lời mạc khải của một vị Thần của người Do Thái khi xưa, không thể sai lầm, và do đó, không chấp nhận, loại bỏ bất cứ sự kiện nào trái ngược với Thánh Kinh. Vì vậy, họ không quan tâm đến chuyện tự mình tìm hiểu Thánh Kinh, họ chỉ biết đến một số điều vụn vặt trong Thánh Kinh được giảng một cách méo mó, lệch lạc, ngoài toàn bộ vấn đề (out of context) qua nghệ thuật xảo biện của các bề trên về những đoạn trong Thánh Kinh có thể gây thắc mắc trong đầu óc họ. Họ cảm thấy những kiến thức về tôn giáo như vậy là đầy đủ, do đó sự hiểu biết của họ về những tiến bộ trí thức của nhân loại ngày nay và ngay cả những diễn biến, thay đổi trong chính Giáo hội của họ thường rất hạn hẹp. b). Lớp người thứ hai thuộc loại bất lương trí thức (intellectually dishonest), nghĩa là những người đã biết rõ sự thật về những huyền thoại, sai lầm trong Ki Tô Giáo, về những ngụy tạo thần học trong giáo hội, nhưng vì những quyền lợi vật chất và tinh thần trên đám tín đồ thấp kém, và
vì nằm trong những mưu đồ thế tục, chính trị đế quốc, nên vẫn tiếp tục đưa ra thủ đoạn giữ độc quyền diễn giải Thánh Kinh một cách lắt léo như tôi đã chứng minh qua sự phân tích một đoạn trong bản “Tông Huấn Á Châu” của giáo hoàng John Paul II trước đây, hoặc tiếp tục đưa ra những luận điệu thần học lừa dối đã lỗi thời, thí dụ như “Chúa Giê-su sinh ra từ một trinh nữ”, “Giê-su chịu chết để chuộc cái tội tổ tông cho nhân loại”, “Giê-su sống lại và bay lên trời ngồi bên phải Chúa Cha”, “Giê-su có khả năng cứu rỗi những người tin ông, nghĩa là đến ngày phán xét, sẽ làm cho xác chết sống lại nhập với linh hồn và được sống đời đời bên ông ở trên thiên đường” v..v.. những tín lý, tín điều đã bị giới trí thức trên thế giới, ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki-Tô, dứt khoát bác bỏ vì chúng thuộc loại huyền thoại của người Do Thái cách đây đã trên dưới 2000 năm, để mê hoặc những đầu óc thấp kém, cả tin, đang sống trong những hoàn cảnh khó khăn vật chất v..v.. ở trong những quốc gia kém phát triển về kinh tế, để lùa họ vào trong tín ngưỡng Ki-Tô, tín ngưỡng đang suy thoái ở trong các quốc gia văn minh tiến bộ. Phần lớn những người thuộc loại này là những bậc lãnh đạo trong Ca-Tô Rô-ma Giáo, từ giáo hoàng trở xuống. Vài sự kiện sau đây sẽ chứng tỏ nhận định trên không phải là vô căn cứ. Sách Giáo Lý Công Giáo, trang 102, viết: Đức Chúa Cha tạo dựng ta, Chú Giê-su cứu chuộc ta, Chúa Thánh Thần thánh hóa ta. Những điều này, trước những khám phá của khoa học và trước lịch sử của chính Giáo hội Ca-tô Rô-ma, đã không còn bất cứ một giá trị nào. Chứng minh? 2. Năm 1981, tòa thánh Vatican đã mời một số chuyên gia đến để cố vấn cho tòa thánh về vũ trụ học. Cuối cuộc hội thảo, các chuyên gia được giáo hoàng John Paul II tiếp kiến. Ông ta nói với các khoa học gia là cứ tự nhiên nghiên cứu sự tiến hóa của vũ trụ sau sự nổ lớn (big bang), nhưng không nên tìm hiểu về chính lúc nổ vì đó là lúc sáng tạo, do đó là tác phẩm của Gót. (Stephen Hawking, A Brief History of Time, p. 116: He told us that it was all right to study the evolution of the universe after the big bang, but we should not inquire into the big bang itself because that was the moment of Creation and therefore the work of God). Giáo hoàng, và lẽ dĩ nhiên giáo hội, đã thừa nhận là vũ trụ này sinh ra từ một sự nổ lớn, theo như thuyết “Big Bang” trong khoa học. Gần đây Giáo Hoàng Benedict XVI cũng tuyên bố là đàng sau Big Bang có bàn tay của Gót. Tin từ Tổng Hành Dinh Ca-tô Rô-ma Giáo, Vatican, Thứ Năm, Jan 6, 2011, cho biết: http://www.dailymail.co.uk/news/article-1345005/Pope-Benedict-Epiphany-speech-GodBig-Bang.html Giáo hoàng Benedict nói: Gót (God) tạo ra Big Bang, không phải khoa học. Giáo hoàng Benedict nói, đầu óc, ý nghĩ của Gót là ở đàng sau những lý thuyết khoa học phức tạp như là Big Bang, và các con chiên Ki Tô nên bác bỏ ý tưởng là vũ trụ hình thành một cách ngẫu nhiên. Những thú nhận này thực sự đã dứt khoát chôn vùi thuyết sáng tạo trong Thánh kinh, trong đó Gót đã sáng tạo ra vũ trụ và muôn loài trong 6 ngày, cách đây khoảng 6000 năm. Tuy giáo hoàng John Paul II đã vớt vát bằng một câu hoàn toàn vô nghĩa: “Big Bang là lúc sáng tạo, do đó là tác phẩm của Gót”, và giáo hoàng Benedict XVI đã mê sảng tuyên
bố là có bàn tay của Gót đàng sau Big Bang, nhưng đối với giới hiểu biết thì trước những lời xảo biện vô nghĩa trên họ chỉ cười.. Vô nghĩa vì giáo hoàng không hề có một chút kiến thức nào về khoa học nên mới nói bừa như vậy. Vì Big Bang chẳng qua chỉ là sự nổ bùng của một dị điểm (singularity) vô cùng nóng, vô cùng đặc, nguồn gốc của vũ trụ ngày nay, và cách đây đã khoảng 13.7 năm. Nóng bao nhiêu, và đặc như thế nào? Các khoa học gia đã tính ra được là sau khi nổ khoảng một phần ngàn giây đồng hồ (1/1000 s) thì nhiệt độ của Big Bang vào khoảng “một ngàn tỷ độ” (1012 độ) và tỉ trọng của khối cầu lửa khi đó vào khoảng 100000 tỷ gram (1014 g) cho 1 phân khối. Để có một khái niệm về nhiệt độ và tỉ trọng của Big Bang chúng ta nên biết là nhiệt độ của mặt trời chỉ vào khoảng 6000 độ, và tỉ trọng của nước chỉ là 1 gram cho một phân khối. Với nhiệt độ của Big Bang như vậy thì Gót nào tạo ra Big Bang cũng phải tự mình bị thiêu hủy ngay tức khắc, còn đâu nữa để mà sau này đi dạo trong vườn địa đàng nói chuyện với Adam, hay hiện ra trước ông tổ Do Thái Abraham của những người đi đạo Việt Nam. Các Giáo hoàng nói vớt vát như vậy là chỉ để lừa dối đám con chiên thấp kém đầu óc vốn mù mịt, chứ còn người ngoài, ai nghe câu trên cũng phải bưng miệng cười. Chúng ta cũng nên biết, năm 1981, thuyết Big Bang chưa được hoàn chỉnh, mà tòa thánh đã công nhận thuyết Big Bang rồi. Phải đến năm 1992, khi phi thuyền COBE (COsmic Bacground Explorer) dò ra được những vân (ripples) trong bức xạ nền (background radiation) của vũ trụ, thuyết Big Bang mới được công nhận là hoàn chỉnh và rốt ráo. Khi công nhận thuyết Big Bang thì Tòa Thánh cũng đã công nhận là thuyết Sáng Tạo trong Cựu Ước chỉ là một huyền thoại cổ xưa của dân Do Thái, không có một giá trị nào đối với những dân tộc khác. Link: http://en.wikipedia.org/wiki/The_Big_Bang_Theory
Galileo Galilei 2. Năm 1992, giáo hoàng đã công khai nhìn nhận là giáo hội đã sai lầm trong vụ án Galileo Galilei. 359 năm về trước, Giáo hội bắt Galilei phải sửa lại kết quả nghiên cứu khoa học của ông ta (rằng trái đất quay xung quanh mặt trời) cho đúng với những lời “mạc khải không thể sai lầm trong Thánh Kinh” (nghĩa là trái đất đứng yên và mặt trời quay xung quanh trái đất), rồi giam ông ta tại gia cho đến khi chết. Sự nhìn nhận sai lầm của Tòa Thánh trong vụ Galilei cho thấy Thánh kinh sai và kéo theo vấn đề: nếu thánh kinh đã sai về vũ trụ học thì có gì bảo đảm là thánh kinh không sai về nhiều điều khác
nữa. Ngày nay, các chuyên gia nghiên cứu thánh kinh đều đồng thuận ở điểm là thánh kinh có rất nhiều sai lầm cả về thần học lẫn khoa học. Do đó, thánh kinh không phải là những lời “mạc khải” không thể sai lầm của một Thượng đế toàn năng toàn trí, như lời giáo hội vẫn thường dạy cho những tín đồ bảo sao nghe vậy. Thực tế cũng cho thấy rằng, trí tuệ của con người ngày nay đã vượt xa trí tuệ của bậc “toàn năng, toàn trí” trong Thánh Kinh Ca-Tô rất nhiều. Ấy thế mà người ta vẫn đi thờ phụng một “đấng” mà trí tuệ kém cỏi hơn người đời rất nhiều. Thật là kỳ lạ. 3. Năm 1996, giáo hoàng đã đặt chắc thẩm quyền giáo lý của Ca-Tô giáo sau quan điểm là “thân xác con người có thể không phải là một sự sáng tạo tức thời của Gót, mà là kết quả của một quá trình tiến hóa dần dần”. Ngài nói: “những kiến thức mới nhất dẫn đến việc phải chấp nhận thuyết tiến hóa hơn là một giả thuyết”. (Pope John Paul II has put the teaching authority of the Roman Catholic Church firmly behind the view that “the human body may not have been the immediate creation of God, but is the product of a gradual process of evolution.. The pope said that “fresh knowledge leads to recognition of the theory of evolution as more than just a hypothesis”). Chấp nhận thuyết tiến hóa, chấp nhận con người không phải là do Gót tạo ra tức thời mà chính là kết quả của một quá trình tiến hóa dần dần và lâu dài, giáo hoàng đã phá tan huyền thoại về Adam và Eve là tổ tông loài người do Thượng đế tạo dựng từ đất sét, và kéo theo không làm gì có chuyện Adam và Eve sa ngã tạo thành tội tổ tông. Do đó, vai trò “chuộc tội” và “cứu rỗi” của Giê-su chỉ là những luận điệu thần học lừa dối của giới giáo sĩ Ki Tô Giáo khi xưa, được tiếp tục đưa ra không ngoài mục đích khai thác lòng mê tín của một số người, huyễn hoặc và khuyến dụ họ tin vào những điều không thực. 4. Tháng 7 năm 1999, trước những khám phá xác tín nhất của khoa vũ trụ học, và trước những hiểu biết của con người ngày nay về cấu trúc của trái đất, Giáo Hoàng đã bắt buộc phải tuyên bố: "thiên đường không phải là một nơi trừu tượng mà cũng chẳng phải là một nơi cụ thể ở trên các tầng mây” (Heaven is neither an abstraction nor a physical place in the clouds), và “Hỏa ngục không phải là sự trừng phạt áp đặt từ bên ngoài bởi Thượng đế, mà là trạng thái hậu quả của những thái độ và hành động mà con người đã làm trong đời này” (Hell is not a punishment imposed externally by God, but the condition resulting from attitudes and actions which people adopt in this life). Như vậy là Giáo Hoàng đã bác bỏ phần giáo lý quan trọng nhất của giáo hội Ca-Tô về “Tin Mừng Phúc Âm”: Trong cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng, trang 76, Giáo hoàng đã trích dẫn một câu trong Tân ước, John 3: 16, “Thiên Chúa quá thương yêu thế gian đến nỗi ban con duy nhất của Ngài, để những ai tin vào Người sẽ không bị luận phạt, nhưng được sống đời đời.”, làm luận điểm trả lời câu hỏi “Tại sao nhân loại cần phải cứu rỗi?” Nay, không có thiên đường trên các tầng mây, không có hỏa ngục nơi lòng đất, vậy ý nghĩa của cuộc sống đời đời bên cạnh Chúa, và bị luận phạt, đầy đọa vĩnh viễn nơi hỏa ngục, đã trở thành những điều thậm vô nghĩa, thuộc loại mê tín hoang đường. Tôi tin rằng tuyệt đại đa số tín đồ Ca-Tô không hề biết đến những thay đổi trong nội bộ giáo hội về căn bản tín ngưỡng Ca-Tô mà giáo hoàng đã thú nhận như trên vì họ vẫn bị giam chặt trong sách lược của giáo hội: duy trì và khai thác tối đa sự mê tín và giữ cho tín đồ “càng biết ít càng tốt”. Như vậy có phải họ thật là tội nghiệp và đáng thương không?
Điều đáng buồn là, trong khi phần lớn thế giới đã biết đến những lời thú nhận của Giáo hoàng John Paul II như trên, những lời thú nhận hàm ý nền thần học Ca-Tô Giáo tạo thành căn bản tín ngưỡng Ca-Tô đã không còn một giá trị thực sự nào trong thế giới văn minh tiến bộ ngày nay, thì các tín đồ Ca-Tô vẫn còn sống trong bóng tối của sự ngu dốt tôn giáo, theo nghĩa không được biết đến những sự thật ngay chính trong giáo hội của mình, khoan kể đến sự tiến bộ trí thức của nhân loại về vấn đề tôn giáo. Và điều đáng khinh là một mặt giáo hội vẫn cố gắng ngăn chận sự phổ biến những diễn biến như trên trong quần chúng giáo dân, một mặt vẫn đưa ra những tín lý đã lỗi thời mà chính giáo hội đã công khai bác bỏ để bắt tín đồ phải tin, và nhất là phải tin vào vai trò trung gian tự phong của giáo hội, định chế duy nhất có thể đem lại sự “cứu rỗi” cho giáo dân, và ngày nay lại còn toan tính mang những điều mê tín đã lỗi thời, ngụy trang sau mỹ danh “Thần học theo cung cách Châu Á” để mê hoặc người dân Á Châu, nhằm cải đạo họ. Tôi cho như vậy là không được lương thiện, vì giáo hội vẫn đưa ra những giáo lý mà chính giáo hội không còn tin để lừa dối và mê hoặc đầu óc tín đồ. Để làm gì, nếu không phải là để duy trì những quyền lợi thế tục? Và những thuộc hạ của giáo hoàng, giới giám mục và linh mục, tuân theo sách lược đi cải đạo Á Châu trong khi đã biết rõ là những chuyện “chuộc tội” hay “cứu rỗi” của Giê-su chỉ là những huyền thoại của dân Do Thái cổ xưa, phải chăng bản chất chỉ là những nô lệ thiếu lương thiện trí thức của Vatican? Sự thiếu lương thiện của tòa thánh thực ra cũng chẳng có gì là mới lạ mà có thể coi như là truyền thống của Vatican. Trong cuốn Tội Lỗi Của Các Giáo Hoàng: Cấu Trúc Của Sự Lừa Dối (Papal Sin: Structures of
Deceit);Link:http://www.truthcannotbesilent.org/Journal.asp?JID=167&TID=3 sử gia Ca Tô Garry Wills đã dùng tới 230 trang qua 15 chương để viết về hai đề tài: Bất Lương Trong Sự Bóp Méo Lịch Sử (Historical Dishonesty) và Bất Lương Trong Vấn Đề Truyền Bá Giáo Lý (Doctrinal Dishonesty). Gm Nguyễn Thái Hợp, trong đề mục 4 ở trên, viết nhiều về Thánh Linh. Nếu ông ta đã đọc giáo lý Ca-tô về Thánh Linh, và đọc về lịch sử các Giáo hoàng cùng lịch sử Ca-tô Rô-ma Giáo thì ông ta không nên viết bất cứ điều gì về Thánh Linh, vì rõ ràng là vai trò Thánh Linh trong Ca-tô Rô-ma Giáo chỉ là một sản phẩm thần học rất hoang đường không thể tin được. Nhưng một Gm Ca-tô mà lại không biết về giáo lý Ca-tô về Thánh Linh, về lịch sử Ca-tô Giáo và lịch sử các Giáo hoàng thì thật là chuyện không tưởng. Do đó chúng ta không có cách nghĩ nào khác là Gm Nguyễn Thái Hợp thuộc lớp người thứ hai ở trên.
Trần Chung Ngọc Tháng 9/2011 Xem thêm: Phần I: http://giaodiemonline.info/noidung_detail.php?newsid=5985 http://giaodiemonline.com/2009/07/tonghuan.htm
(NHẬN “TÔNG HUẤN GIÁO HỘI TẠI CHÂU Á” (Ecclesia In Asia) )
http://giaodiemonline.com/2009/07/caidao3.htm (KITÔ
ĐỊNH
VỀ
VĂN
KIỆN
GIÁO - KẾ HOẠCH CẢI ĐẠO Á CHÂU )