biện đại học sĩ vào năm 1871, Văn Minh điện Đại học sĩ và Cần chánh điện Đại học sĩ vào năm 1878.
NIÊN BIỂU VĂN NGHỊ CÔNG PHỤ CHÁNH TRẦN-TIỄN THÀNH (1813-1883)
Ông khởi đầu sự nghiệp quân sự khi được phái đi dẹp loạn Đá Vách tại Quảng Ngãi rồi phòng vệ cửa Thuận an tại Thừa Thiên Huế khi thực dân Pháp bắt đầu xâm chiếm nước ta. Ông là người đã tìm ra đất để xây lăng vua Tự Đức và làm Đổng lý chỉ huy công trình này.
Thay lời nói đầu, tóm lược Niên biểu Văn Nghị Công
Về hoạt động ngoại giao, năm Tự Đức 17 (1864) sung Khâm sai toàn quyền phó sứ cùng với chánh sứ Phan Thanh Giản hội thương với Pháp để chuộc các tỉnh Nam Kỳ. Năm 1867 ông được cử làm Chánh sứ vào Saigon thương lượng cùng tướng De Lagrandière nhưng thất bại.
Niên biểu Văn nghị công gồm 6 tập nhằm ghi lại những nét chính trong cuộc đời và sự nghiệp của Phụ chánh đại thần Trần Tiễn Thành (1813-1883) và do người con trai thứ ba là Cụ Minh Xuyên Trần Tiễn Hối biên soạn vào năm 1894; bản dịch tiếng Việt do Vũ Bạch Ngô hoàn tất vào năm 1994 và bản điện tử vào năm 2001.
Năm Tự Đức thứ 36 nhận di chiếu cùng với Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường sung chức Phụ chính đại thần cho tự quân Dục Đức; nhưng hai ông Thuyết và Tường lấy cớ Dục Đức bị tiên đế chê không xứng đáng nên tôn Lãng quốc công Hồng Dật (em út vua Tự Đức) lên ngôi đặt niên hiệu Hiệp Hoà. Trong lúc ấy, thực dân Pháp đưa tàu chiến và binh lính vào cửa Thuận An bắt ép triều đình Huế phải ký Hoà ước chấp nhận sự bảo hộ của Pháp. Vua Hiệp Hoà và Phụ chính đại thần Trần Tiễn Thành thấy mình chưa đủ sức thắng Pháp, muốn hoà hoãn để tìm cách cải thiện về sau, hai ông Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường nắm giữ binh quyền trong tay lại muốn "chiến" để giữ nước, hai bên mâu thuẫn và cuối cùng những người "chủ chiến" đã truất và giết vua Hiệp Hoà, đưa Ưng Đăng lên ngôi lấy niên hiệu là Kiến Phước, đồng thời cho người ám sát Trần Tiễn Thành (30.10 Quý Mùi, 1883).
Ông vốn tên là Trần Thời Mẫn, được vua Tự Đức ban tên Tiễn Thành, đại thần triều Nguyễn, người làng Minh Hương, nay thuộc xã Hương Vinh (huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế), tổ tiên gốc người Phúc Kiến (Trung Quốc) đến lập nghiệp tại Thuận Hoá từ thế kỉ 17. Đỗ Tiến sĩ năm Minh Mạng 18 (1838), thời Thiệu Trị làm án sát sứ Thanh Hoá, thời Tự Đức làm thượng thư Bộ Công sung Cơ mật viện đại thần, thượng thư bộ Hộ, rồi thượng thư bộ Binh (1862), kiêm quản Khâm thiên giám và Tổng tài Quốc sử quán. Ông được thăng Hiệp 1