Niên Biểu Văn Nghị Công Trần Tiễn Thành

Page 1

biện đại học sĩ vào năm 1871, Văn Minh điện Đại học sĩ và Cần chánh điện Đại học sĩ vào năm 1878.

NIÊN BIỂU VĂN NGHỊ CÔNG PHỤ CHÁNH TRẦN-TIỄN THÀNH (1813-1883)

Ông khởi đầu sự nghiệp quân sự khi được phái đi dẹp loạn Đá Vách tại Quảng Ngãi rồi phòng vệ cửa Thuận an tại Thừa Thiên Huế khi thực dân Pháp bắt đầu xâm chiếm nước ta. Ông là người đã tìm ra đất để xây lăng vua Tự Đức và làm Đổng lý chỉ huy công trình này.

Thay lời nói đầu, tóm lược Niên biểu Văn Nghị Công

Về hoạt động ngoại giao, năm Tự Đức 17 (1864) sung Khâm sai toàn quyền phó sứ cùng với chánh sứ Phan Thanh Giản hội thương với Pháp để chuộc các tỉnh Nam Kỳ. Năm 1867 ông được cử làm Chánh sứ vào Saigon thương lượng cùng tướng De Lagrandière nhưng thất bại.

Niên biểu Văn nghị công gồm 6 tập nhằm ghi lại những nét chính trong cuộc đời và sự nghiệp của Phụ chánh đại thần Trần Tiễn Thành (1813-1883) và do người con trai thứ ba là Cụ Minh Xuyên Trần Tiễn Hối biên soạn vào năm 1894; bản dịch tiếng Việt do Vũ Bạch Ngô hoàn tất vào năm 1994 và bản điện tử vào năm 2001.

Năm Tự Đức thứ 36 nhận di chiếu cùng với Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường sung chức Phụ chính đại thần cho tự quân Dục Đức; nhưng hai ông Thuyết và Tường lấy cớ Dục Đức bị tiên đế chê không xứng đáng nên tôn Lãng quốc công Hồng Dật (em út vua Tự Đức) lên ngôi đặt niên hiệu Hiệp Hoà. Trong lúc ấy, thực dân Pháp đưa tàu chiến và binh lính vào cửa Thuận An bắt ép triều đình Huế phải ký Hoà ước chấp nhận sự bảo hộ của Pháp. Vua Hiệp Hoà và Phụ chính đại thần Trần Tiễn Thành thấy mình chưa đủ sức thắng Pháp, muốn hoà hoãn để tìm cách cải thiện về sau, hai ông Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường nắm giữ binh quyền trong tay lại muốn "chiến" để giữ nước, hai bên mâu thuẫn và cuối cùng những người "chủ chiến" đã truất và giết vua Hiệp Hoà, đưa Ưng Đăng lên ngôi lấy niên hiệu là Kiến Phước, đồng thời cho người ám sát Trần Tiễn Thành (30.10 Quý Mùi, 1883).

Ông vốn tên là Trần Thời Mẫn, được vua Tự Đức ban tên Tiễn Thành, đại thần triều Nguyễn, người làng Minh Hương, nay thuộc xã Hương Vinh (huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế), tổ tiên gốc người Phúc Kiến (Trung Quốc) đến lập nghiệp tại Thuận Hoá từ thế kỉ 17. Đỗ Tiến sĩ năm Minh Mạng 18 (1838), thời Thiệu Trị làm án sát sứ Thanh Hoá, thời Tự Đức làm thượng thư Bộ Công sung Cơ mật viện đại thần, thượng thư bộ Hộ, rồi thượng thư bộ Binh (1862), kiêm quản Khâm thiên giám và Tổng tài Quốc sử quán. Ông được thăng Hiệp 1


Nhận xét về ông, trong Từ điển bách khoa toàn thư viết như sau:

13 tuổi, Ất Dậu (Minh Mạng thứ 6, 1825): . Tháng giêng: Cụ thân sinh được bổ nhiệm làm Tri phủ Tân Định (Gia Định-Sàigòn), công ở lại được bà cô (Trần thị Dũ) nuôi ăn học; sáu tháng sau thân sinh mất ở phủ lỵ.

Trần Tiễn Thành học rộng, giỏi thơ, làm quan suốt 45 năm trải qua nhiều lĩnh vực hành chính, văn hoá, ngoại giao, xây dựng, quân sự..., trong lĩnh vực nào ông cũng tỏ ra nghiêm cẩn. Ông cũng có những biểu hiện muốn duy tân đất nước qua việc tiếp đón Nguyễn trường Tộ nhiều lần, gả con gái Trần Thị Nhàn cho Nguyễn lộ Trạch. Cái chết của Trần Tiễn Thành là một bi kịch thời "Tứ nguyệt tam vương" của triều Nguyễn. •

23 tuổi, Ất Tỵ (MM 16, 1835): . Cưới bà Lương thị Thoại, con gái thượng thư bộ Lễ Lương tiến Tường, người làng Niêm Phò. 25 tuổi, Đinh Dậu (MM 18, 1837): . Thi Hương đỗ thứ 14, Hà công Quyền làm chủ khảo, Phan thanh Giản là phó khảo; năm sau (1838) thi Hội đỗ thứ 10, Trương đăng Quế là chủ khảo, Hà duy Phan là phó khảo; vào Điện thí đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ thứ 5, cuối năm được bổ Hàn lâm viện biên tu; . Sinh trưởng nữ Thị Khương.

Trong Đại Nam chính biên liệt truyện viết như sau: Ông tính vốn trung thực, làm quan thanh cần, được vua Tự Đức rất là quyến luyến...Tới khi tuổi già gặp lúc gian nan, bị chết vì nạn, người người phần nhiều đều mến tiếc.

27 tuổi, Kỷ Hợi (MM 20, 1839): . Sung Cơ mật viện (CMV) hành tầu.

Tóm lược :

28 tuổi, Canh Tý (MM 21, 1840): . Thăng chủ sự ty bộ Lễ nhưng sung CMV hành tầu.

Dưới đây xin tóm lược 6 tập Niên biểu như sau:

29 tuổi, Tân Sửu (Thiệu Trị nguyên niên, 1841): . Thăng viên ngoại bộ Lại nhưng vẫn sung CMV hành tẩu.

Quyển I: 22.11, Quý Dậu (Gia Long thứ 12, 1813): Công ra đời tại làng Minh Hương, con trưởng của ông Trần triều Dực và bà Lâm thị Châu; huý Dưỡng Độn, tự Thời Mẫn, hiệu Tốn Trai, ngự tứ danh Tiễn Thành do vua Tự Đức ban cho; bạn của thân sinh là ông Trương đăng Quế đến thăm nghe tiếng khóc thấy kỳ lạ, tiên đoán sẽ có sự nghiệp lớn.

30 tuổi, Nhâm Dần (TT 2, 1842): . Hộí giá vua ra Bắc, sứ nhà Thanh sang Hà Nội sắc phong; 2


. Tháng 5 đồng chủ khảo thi Hội. 40 tuổi, Nhâm Tý (TĐ 5, 1852): . Tháng giêng, Thực thụ thị lang bộ Công; . Tháng 7, vua ban tên Tiễn Thành,.với ý nghĩa hãy noi theo gương Tô hiến Thành đời nhà Lý để phò vua, giúp nước.

31 tuổi, Quý Mão (TT 3, 1843): . Thăng Thự Lang trung bộ Binh; . Tháng 10, giám khảo thi Hương Hà Nội.

41 tuổi, Quý Sửu (TĐ 6, 1853): . Tháng 2, sung chức duyệt quyển thi Điện; . Tháng 8, là 1 trong 12 được vua khen là “biết cảm kích, hăng hái, siêng năng, cần thận, gấp lo việc công”.

32 tuổi, Giáp Thìn (TT 4, 1844); . Thực thụ Lang trung bộ Binh; . Bà cô Trần thị Dũ qua đời, công xin về quê lo tang sự. 33 tuổi, Ất Tỵ (TT 5, 1845): . Thự Án sát Thanh Hóa.

43 tuổi, Ất Mão (TĐ 8, 1855): . Tháng 7, tán tương quân vụ đánh giặc thượng Đá Vách, Quảng Ngãi; . Cuối năm, sung biện NC sự vụ như cũ.

36 tuổi, Mậu Thân (Tự Đức nguyên niên, 1848): . Tháng 6, Thự Thái bộc tự khanh, Biện lý bộ Hộ; . Tháng 10, Khâm sai phó chủ khảo thi Hương Hà Nội.

44 tuổi, Bính Thìn (TĐ 9, 1856): . Thăng thự Tham tri bộ Binh vì có công dẹp loạn Đá Vách, Quảng Ngãi.

37 tuổi, Kỷ Dậu (TĐ 2, 1849): . Tháng 3, tri cống cử thi Hội; . Tháng 8, Thực thụ Thái bộc tự khanh.

Quyển II: 47 tuổi, Kỷ Tỵ (TĐ 12, 1859): . Tháng giêng, sung Tham biện CMV; cùng với Nguyễn Như Thăng xây đắp các thành lũy ở cửa Thuận An (sau khi tàu Pháp Le Catinat khiêu chiến tại Đà Nẵng trước đó); . Ba tháng sau khi quân Pháp chiếm Sài gòn, Pháp sai Nguyễn trường Tộ theo đoàn ngoại giao ra Huế giao công hàm về việc giảng hòa, lần đầu tiên công tiếp xúc với Nguyễn trường Tộ.

38 tuổi, Canh Tuất (TĐ 3, 1850): . Tháng 4, sinh trưởng tử Tiễn Đãn; . Tháng 7, Biện lý bộ Lại, kiêm quản Đại lý tự; . Tháng 8, làm đốc biện đóng thuyền Tường nhạn và thuyền vận tải đường biển, được thưởng. . Tháng 9, thăng Bố chánh Gia Định. 39 tuổi, Tân Hợi (TĐ 4, 1851): . Tháng 4, Thị lang bộ Công; sung biện Nội các (NC) sự vụ. 3


. Tháng 11, tâu nói về nguyên nhân quan lại tham nhũng, cần phải chọn người tài giỏi.

49 tuổi, Tân Dậu (TĐ 14, 1861): . Tháng giêng, ra lệnh dùng thuyền dân chở đá và cát, bí mật ngăn cửa biển để chống tàu Pháp; . Tháng 9, thượng thư bộ Công, chuyên quản đốc việc phòng thủ Thuận An.

52 tuổi, Giáp Tý (TĐ 17, 1864): . Tháng 2 thay mặt vua tế Nam giao. . Tháng 5, được cử làm Phó sứ cùng Phan thanh Giản, chánh sứ và Phan huy Vịnh, bồi sứ để thương thuyết với phái bộ Aubaret (Hà bá lý) đến Huế; .Tháng 9, Thừa lệnh vua, công chọn được vùng đất tốt tại Vạn Niên, xã Dương Xuân để xây Khiêm cung và được giao trọng trách Đổng lý đại thần điều khiển công trình xây cất; . Tháng 10. Hồng Bảo làm phản loạn dự tính giành ngôi vua và giết Phan Thanh Giản và công, nhưng thất bại nên bị tội chết.

50 tuổi, Nhâm Tuất (TĐ 15, 1862): . Tháng 5, tuy có nghị hòa, nhưng vẫn giữ việc phòng bị cửa Thuận An; . Tháng 6, thự Thượng thư bộ Hộ, kiêm quản Khâm thiên giám sự vụ, sung CMV đại thần, vẫn giữ việc phòng thủ Thuận An; . Tháng 8, triều đình bàn việc nên cử công hay Nguyễn tri Phương ra Bắc tổ chức việc dẹp loạn, rốt cuộc vua chọn Nguyễn tri Phương làm Quân soái Tây Bắc; . Tháng 9, công lãnh chức thượng thư bộ Binh thay Trương đăng Quế về hưu trí.

53 tuổi, Ất Sửu (TĐ 18, 1865): . Tháng 2, được Kim Khánh Liêm-Bình-Cần-Cán hạng nhì; . Tháng 4, cùng với Phan Thanh Giản, Phạm phú Thứ điều tra Ty cần tín mua hàng ức hiếp dân; . Tháng 5 nhuận, tấu xin vua cho mở khoa thi Võ tiến sĩ; . Tháng 7, phụng mệnh vua ra Hải An khuyến khích tướng soái, tam quân; trích gạo dự trữ nhà nước cứu đói tại Hải dương;

51 tuổi, Quý Hợi (TĐ 16, 1863): . Tháng 2, tham gia phái đoàn cùng với các đại thần Đoàn Thọ, Phan Thanh Giản, đón tiếp Bonard và Palanca đến Huế; . Tháng 3, thương thuyết với Pháp không có kết quả, bị giáng 4 cấp; . Tháng 5, thừa lệnh vua đưa tiễn tại cửa Thuận An phái bộ đi Pháp do Phan thanh Giản cầm đầu (xin chuộc lại 3 tỉnh miền Đông, nhưng thất bại); . Mùa hè, Phạm phú Thứ chuyển hộ đến công 3 văn bản của Nguyễn trường Tộ (NTT): Thiên hạ phân hợp đại thế luận, Tế cấp luận và Giáo môn luận;

Quyển III: 54 tuổi, Bính Dần, (TĐ 19, 1866): . Tháng 2, thăng Thự Hiệp biện đại học sĩ; . Tháng 8, cùng Đoàn Thọ, Nguyễn văn Phong truy xét vụ phản loạn Đoàn Trưng (giặc chày vôi); Nguyễn tri Phương 4


được triệu về Huế để giữ chức Thượng thư bộ Binh, kiêm Kinh kỳ hải phòng sứ để bảo vệ kinh thành Huế, công làm phó sứ và đổi về giữ bộ Công, sung Tổng tài Quốc sử quán; . Tháng 11, cùng với Nguyễn tri Phương, Vũ trọng Bình, Phạm phú Thứ dâng sớ tâu vua nên tiết kiệm, bớt đi chơi lãng phí .

. Tháng 7, được vua ban rượu ở cửa Ngọ Môn cùng các tướng lãnh trước khi họ về địa phương chuẩn bị chống giặc; . Tháng chạp trở lại làm Thượng thư bộ Binh thay Nguyễn tri Phương vì tuổi cao chỉ quản lý bộ Công. 57 tuổi, Kỷ Tỵ (TĐ 22, 1869);

55 tuổi, Đinh Mão (TĐ 20, 1867): . Tháng 2, vâng sung Khâm mạng nhiếp tế Nam giao; . Tháng 4, được khen thưởng vàng bạc vì tròn nhiệm vụ Đổng lý điều khiển việc xây Khiêm lăng gần hoàn tất; . Tháng 7, để giải quyết công việc ở các nơi xa triều đình được nhanh chóng, công đề nghị đặt chức quan Kinh lược ở Hà Nội và Bình Định.

. Tháng giêng, sinh con trai thứ ba là Tiễn Hối; . Tháng hai, dâng biểu xin cho Phan Đình Bình vể giúp việc tại bộ Binh của công; . Tháng 4, Đình thần đề nghị công đi Bắc Ninh giúp việc trị yên, vua không đồng ý, cử người khác; Công được thưởng một đồng kim tiền có chữ “Viết Trung” vì bộ Binh làm việc tường, nhanh chóng;

. Tháng 8, công cùng Đoàn Thọ, Nguyễn văn Phong dâng biểu xin vua khoan hồng cho Lê văn Sa, Nguyễn văn Chất đã có công lớn trong việc xây Khiêm Lăng nhưng đã bị phạt sau vụ phản loạn Đoàn Trưng.

. Tháng 7, công và thân mẫu trên 80 tuổi được vua ban thuốc men, lộc nhung, sâm. . Tháng 11, cùng Nguyễn tri Phương, Phan huy Vịnh, Phạm phú Thứ dâng biểu xin vua bớt đi săn bắn, làm nhọc binh sĩ.

. Tháng 12, được cử làm Khâm sai đại thần vào Gia Định thương thuyết với tướng De Lagrandière về một hoà ước mới; công dâng phiếu xin cho Nguyễn văn Tường, nguyên bang biện huyện Thành Hóa, Quảng trị, hành tẩu CMV và Nguyễn Khoa Luận đi cùng; cuộc thương thuyết thất bại, công bị giáng chức nhưng vẫn tiếp tục công việc.

58 tuổi, Canh Ngọ (TĐ 23, 1870): . Tháng 3, cùng Nguyễn tri Phương, Phạm phú Thứ đề nghị vua nên linh động trong nghi lễ cho sứ thần Y pha nho đến Huế;

56 tuổi, Mậu Thìn (TĐ 21, 1868); 59 tuổi, Tân Mùi (TĐ 24, 1871): . Thăng Thự Hiệp biện đại học sĩ;

. Tháng 4, xây thêm 3 vọng lâu làm đồi canh tại cửa Thuận An; 5


. Tháng 7, cùng Nguyễn tri Phương, Phạm phú Thứ, Lê bá Thận dâng phiến xin tha tội cho Hoàng kế Viêm đã tâu dối; . Tháng 8, đi cùng vua lên Khiêm cung, được ban bát quái cùng 4 kim tiền tía Nhật, Nguyệt, Tinh, Vân; . Tháng 10, NTT mất ở quê nhà nghệ An, được tin công vô cùng thương tiếc.

63 tuổi, Ất Hợi (TĐ 28, 1875): . Tết, đọc thơ vua ở điện Văn Minh; . Tháng giêng, được vua miễn lạy tạ vì già yếu; duyệt binh lớn công được sung làm “Xuất lệnh đại thần”; . Tháng 5, vua và Thái hậu xem các trận thao diễn thuỷ lục ở Thuận An, công được thưởng.

60 tuổi, Nhâm Thân (TĐ 25, 1872): . Đầu năm gả con gái Trần thị Nhàn cho ấm sinh Nguyễn lộ Trạch; . Tháng 4, bà thân mẫu họ Lâm thọ bệnh, công dâng sớ xin về thị dưỡng, vua cho phép được về nhà ban đêm, cử Thái y về chữa bệnh; . Tháng 8, thân mẫu mất, công xin nghỉ việc thọ tang 3 năm, chỉ được 3 tháng; . Tháng 11, sung lại các chức như cũ.

64 tuổi, Bính Tý (TĐ 29, 1876): . Nguyễn lộ Trạch và Thị Nhàn có ba người con đều mất sớm nên bất hòa, xa nhau; Công vẫn yêu mến NLT nồng hậu 65 tuổi, Đinh Sửu (TĐ 30, 1877): . NLT 25 tuổi, nhờ công dâng lên vua Thời vụ sách (thượng) trình bày chính sách cải cách và đề nghị thành lập tân quân hạm, tạo thế đứng bàn việc hòa giải với Pháp 66 tuổi, Mậu Dần (TĐ 31, 1878): . Tháng giêng, thực thụ Văn minh điện đại học sĩ; kính cáo nhà vua 50 tuổi tại đàn Nam giao

Quyển IV: 61 tuổi, Quý Dậu (TĐ 26, 1873): . Thực thụ Hiệp biện đại học sĩ, công dâng sớ xin từ, được chuẩn y; . Tháng 8, Pháp đưa 5 tàu đến Đồ sơn, công tâu cách thức đối phó; . Tháng 11, sung Kinh kỳ hải phòng sứ để bảo vệ kinh thành Huế.

67 tuổi, Kỷ Mão (TĐ 32, 1879): . Tháng 7, 3 đời trước của gia đình công được vua phong tặng chức tước; . Can việc đứng chung danh sách các người không nêu vụ án Bùi Viện, nên bị phạt; dâng sớ tâu xin giảm tội cho Thống chế Đinh Hội 72 tuổi can tội bất kính khi cho thuyền đến gần thuyền của vua.

62 tuổi, Giáp Tuất (TĐ 27, 1874): . Tháng 3, thực thụ Hiệp biện đại học sĩ, thăng Thự Văn minh điện đại học sĩ, thượng thư bộ Binh.

68 tuổi, Canh Thìn (TĐ 33, 1880): . Tháng 11, đưa ý kiến cho Hoàng kế Viêm thu phục Lưu vĩnh Phúc để giúp việc đánh giặc;

Quyển V: 6


. Khoa đạo Huỳnh Côn và Đặng trần Hanh dâng sớ đàn hạch công “đọc Di chiếu bỏ sót”, vua tha lỗi, tạm giáng 2 cấp lưu, được 1 tuần công dâng sớ cáo lão nhưng không được; .18/7, thất thủ Thuận An, công được gọi vào triều bàn việc giảng hòa; . Tháng 8, phụng nghinh linh cửu vua TĐ lên điện Hòa Khiêm, xong công việc công dâng sớ cáo bệnh, vua cho thôi việc ở bộ Binh và CMV, nhưng vẫn quản Khâm thiên giám, Quốc sứ quán, cho ở lại Sử quán để dễ điều trị; . Tháng 9, xin về trú tại chợ Dinh với vợ thứ Lê thị Như, cháu đích tôn Tiễn Mưu; . 30.10, hai ông Tường và Thuyết lại có âm mưu phế lập vua, sai người đệ bản thảo để công cùng ký, công khước từ; trưa vua Hiệp Hòa bị đổ thuốc độc chết; đêm đó công bị ám sát tại nhà.

. Tháng 12, xin nghỉ Tết 21 tháng chạp đến mồng 8 để cho binh lính nghỉ. 69 tuổi, Tân Tỵ (TĐ 34, 1881): . Tháng giêng, con cả là Tuệ Giản mất; vâng dụ của vua đổi công làm Quản lý Binh bộ sự vụ, Lê hữu Tá được cử làm Thự Binh bộ thượng thư.

Quyển VI: 70 tuổi, Nhâm Ngọ (TĐ 35, 1882): . Tháng 3, vua trách công sao không tiến cử những người giỏi khác nữa, như đã tiến cử Nguyễn văn Tường, Tôn thất Thuyết trước đây; . Tháng 11, nhân ngày công thọ 70 tuổi, vua sai đem một bức trướng tơ vàng có bài thơ do vua viết, 1 bộ nhất phẩm đại triều, 1 cây gậy linh thọ, các tặng phẩm quý khác đến nhà tuyên Dụ, kèm theo bài Mừng thọ 70 tuổi; . NLT lại dâng vua Thời vụ sách (hạ) gồm 5 khoản.

Kiến phước nguyên niên (1884): triều đình phái 300 lính 2 viên quản vệ, 3 viên suất đội, 1 chiếc thuyền lớn, 3 chiếc thuyển nhỏ hơn về làng Minh Hương hộ tống linh cửu đến phần mộ tại làng Nguyệt Biều. Hàm Nghi nguyên niên (1885), tháng 9, vua Đồng Khánh lên ngôi khai phục hàm Văn minh điện đại học sĩ.

71 tuổi, Quý Tỵ (TĐ 36, 1883): . Công tuổi cao, lại bị chứng hay đau bụng, được vua đặc ân cho đi xe vào tận cửa sân chầu; .16.6, vua TĐ băng hà, phụng di chiếu đưa Dục Đức lên ngôi, sung Phụ chính đại thần, hai ông nguyễn văn Tường và Tôn thất Thuyết đồng phụ chính; Ba ngày sau, hai ông phế Dục Đức, giam trong ngục và đưa Hiệp Hòa lên ngôi; . Vua mới chuẩn thực thụ Thái bảo Cần chánh điện đại học sĩ, công dâng sớ xin từ nhưng không được;

Minh Nguyện ghi chép (tháng 7/2011) *********

7


ở Thanh Hóa, tiếp đó người đến sớm nhất là cụ Thân trọng Huề. Lễ tang cử hành ở Vinh, sau đó rước linh cửu vô Huế. Cả nhà chúng tôi theo linh cửu về quê” (Trích Sống với tình thương, Hồi ký Trần thị Như Mân (bà Đào duy Anh), nhà xuất bản Thanh Niên 2007, tr. 11-12).

Giới thiệu tác giả: Tiểu sử Cụ Minh Xuyên Trần Tiễn Hối

Trong gia phả, Cụ được đánh giá: “thông minh, hoạt bát, kiến thức rộng, tánh giản dị, cần kiệm, không ưa văn sức. Ra hành chánh, thận trọng, có thể thống, lâm sự đối phó quả cảm và thích đáng. Người ta thường khen rằng: công có phong thể một bậc đại thần”. Về mặt văn hóa, bà Trần thị Như Mân còn cho biết (sđd, tr. 10): “Trong những lần xướng họa với các bạn văn xứ Nghệ, cha tôi thường được họ nể vì. Với tài học như rứa nên trong thời gian này cha tôi được triệu về kinh một lần làm chánh chủ khảo kỳ thi đình”. Tiếc thay một vị nhân tài như thế lại mất sớm, lúc mới 50 tuổi.

Cụ Minh Xuyên (1869-1919) thi đổ đầu Cử nhân (Giải nguyên) vào năm Thành Thái thứ 3 (1893), được bổ làm thư ký (hành tầu) cho phủ Phụ chánh; 6 tập Niên biểu Văn nghị công đã được viết trong thời gian này (1894). Đến năm Thành Thái thứ 7 (1897) được chuyển vào làm thư ký Cơ mật viện; Năm Thành Thái thứ 13, bổ làm Án sát tỉnh Bình Định, đến năm thứ 16 trở lại Huế làm Tham biện Nội các (Văn phòng Vua). Duy Tân năm thứ 2, tháng 7 lãnh chức Án sát tỉnh Thanh Hóa; Năm thứ 4, cải bổ Bố chánh tỉnh Quảng Bình; Tháng 9 năm thứ 9 lãnh chức Tuần phủ tỉnh Quảng Ngãi. Năm Khải Định thứ 2, thăng làm Tổng đốc tỉnh Nghệ An; Tháng 6 năm thứ 3 mông thăng thọ Hiệp tá Đại học sĩ.

Cụ có hai người vợ là bà Tôn nữ Xán, con quan Hình bộ Thượng thư Tôn thất Phan, hệ 7, sinh được ba trai, sáu gái; và bà Tôn nữ Thuyên, con quan thị lang Tôn thất Linh, hệ 7, sinh được hai con trai là ông Trần tiễn Hy, một danh y miền Trung và ông Trần tiễn Dương, một kỹ sư Hóa học nổi tiếng, tốt nghiệp tại Pháp.

Năm Khải Định thứ 4 (1919) tháng 6, Cụ qua đời bất ngờ tại Nghệ An. Bà Trần thị Như Mân, phu nhâncủa học giả Đào Duy Anh cho biết như sau: “Cha tôi bị mất đột ngột tại Vinh. Hồi đó tôi còn nhỏ nên không biết cha bị bệnh chi. Chỉ thấy chuyển bệnh từ đầu hôm, các thầy thuốc ta đều chịu, phải mời bác sĩ người Pháp nhưng đến nơi thì không kịp nữa. Đến sáng thì cha tắt thở. Mạ tôi cho người đánh điện ngay cho cậu Tôn thất Trạm

Trong số những người con gái, ngoài bà Trân thị Như Mân là một trong những bậc nữ lưu tham gia phong trào phụ nữ từ những năm 1930, còn có bà Trần thị Như Thiều là người đã phụ trách hướng dẫn bà Từ Cung: “Khi vua Bảo Đại lên ngôi, bà Từ Cung trở thành Hoàng thái hậu, nhưng vì xuất thân từ con nhà bình dân, nên bà không rành cách ăn ở trong nội phủ và ít được học hành. Vì rứa bà cho người đến gọi chị tôi vô trong nội dạy 8


cho bà học. Chị tôi vô nội, không những phải dạy cho bà Từ Cung học chữ Hán, học làm thơ, mà còn bày vẽ cho cả cách cư xử, ăn nói cho hợp với cung cách của một bà hoàng trong nội phủ” (sđd, tr. 12).

NIÊN BIỂU VĂN NGHỊ CÔNG TRẦN-TIỄN THÀNH (1813-1883)

Minh Nguyện (tháng 2/2009). ************************************** **

* NGUYÊN VĂN TIẾNG HÁN (1894) : MINH XUYÊN TRẦN -TIỄN HỐI * DỊCH VIỆT VÀ CHÚ THÍCH (1994) : VŨ BẠCH NGÔ * SỬA BẢN VI TÍNH (8/2001) : TRẦN – TIỄN TIẾN **************************************

QUYỂN I Quý Dậu năm Gia Long 12 (1813) Năm ấy ngài Thượng thư 1 dạy học ở làng cùng bà Đoan Nhân Thái Từ 3 hầu hạ thân phụ là ngài Thiêm Sự.

2

- Ông sinh vào giờ Canh thìn, ngày Ất dậu 12, tháng Giáp tí 11 tại biệt thự ở làng Minh Hương. Ngài Thiêm Sự hỏi ra biết là con trai thì mừng không kềm được, theo ngài Thượng thư vào ẳm Ông và đích thân săn sóc. Mới hơn hai mươi ngày, Ông bị bệnh nặng, ngài Thiêm Sự rất lo sợ, liền sức gia nhân bày biện hương án, ngững lên giữa trời khấn rằng: ... 4 là cháu trưởng của ... 5 , nguyền xin Thiên địa thần kỳ 6 giữ gìn cho được lớn khôn để nối dài thế hệ ... 5. Năm nay ... 5 tuổi quá sáu mươi là đủ rồi, xin lấy thân này thay cho nó. Ngày hôm sau, quả nhiên Ông đỡ. Đầy tháng, ngài Thiêm Sự ẳm Ông đến miếu xin tên. Bấy giờ bày hội Thang bỉnh 7 , ngài Thượng 9


thư mời bạn bè đến chung vui. Quan Tặng 8 Thái Sư Cần Chánh điện Đại học sĩ Tuy thạnh Quận công Trương đăng Quế cũng có mặt (bấy giờ ông Trương sung Các hành tẩu 9 , bạn của ngài Thượng thư). Ông Trương sai ẳm Ông lại để nghe thử tiếng khóc. Chợt thấy, ông Trương khen là kỳ lạ, gọi ngài Thượng thư bảo: Đứa bé này ngày sau sẽ xứng đáng với sự nghiệp lớn đây !

Ất hợi năm GL 14 (1815) Bính tí, năm GL 15 (1816) Đinh sửu năm GL 16 (1817) Mậu dần năm GL 17 (1818) Kỷ mão năm GL 18 (1819) Canh thìn năm Minh Mạng thứ 1 (1820) - Ông lên 8, quan Thượng thư đích thân dạy ông học. Tân tị năm Minh Mạng thứ 2 (1821) Ông lên 9 tuổi. - Tháng 2, ngài Thượng thư được bổ vào Hàn lâm viện Điển bạ, Lượng tín nam. Trước đó, Tặng 8 Thiếu bảo Hiệp biện Đại học sĩ là Trịnh Hoài Đức dâng sớ tiến cử rằng ngài rất có tiếng về văn học tại khoa trường nên có sự bổ nhiệm ấy. Tiếp đó ngài Thượng thư đi hộ giá cuộc Thánh giá Bắc tuần rồi sung chức Sứ tuyển 10 lưu lại Hà nội. Nhâm ngọ năm Minh Mạng thứ 3 (1822) Quý mùi năm Minh Mạng thứ 4 (1823) Giáp thân năm Minh Mạng thứ 5 (1824) Ông 12 tuổi - Tháng 4, ngài Thượng thư thăng chức Chủ sự Thanh lại bộ Lễ.

Sông Hương chảy qua làng Minh Hương, nay thuộc xã Hương Vinh, Thừa Thiên Huế

- Tháng 10, ngài Thượng thư thăng Tri phủ Tân bình, tước Lượng tín bá (phủ lị ở tỉnh Gia định). Bấy giờ gặp lúc rảnh rỗi, Ông chạy qua sân 11 , ngài Thượng thư gọi lại bảo: Cha 10 tuổi thì bà nội con mất. Ban ngày thì lo học, ban đêm thì canh năm đã phải dậy lo

Giáp tuất năm Gia Long 13 (1814) Ông lên 2 tuổi. - Ngày 13 -1, ngài Thiêm Sự mất. 10


cung phụng cơm cháo cùng sửa soạn đồ dùng vào chầu. Nay mày đã 11 - 12 tuổi mà chả làm một việc gì, chỉ biết chơi đùa như hồi 4 - 5 tuổi hay sao ?

quan vào hàng nhất phẩm, nào triều đình ban cho, nào thuộc quan biếu tặng, chưa hề thiếu thốn gì nhưng cái mặc, cái ăn vẫn tiện tặn, sơ sài như cũ, thực là vì có nỗi đau đớn rằng Ông Lớn chẳng được hưởng giàu sang, có nỗi thương cảm việc bà cô của ta siêng năng, nhọc nhằn dạy dỗ nuôi nấng mà được thế này, chứ không phải dám lấy trộm danh để che của vậy.

Ất dậu năm Minh Mạng thứ 6 (1825) Ông 13 tuổi. - Tháng giêng, quan Thượng thư đến phủ lị. Trước đó, quan Thượng thư soạn ra một chiếc áo dài thêu rồng, màu rượu mùi, may bằng đoạn sợi tám, khảm kim cương và ngọc hỏa lựu 12 , hai cái kim bang chỉ, vái Trinh Hiếu Nhụ nhân rồi khóc nói: “ Nay cháu gặp lúc đi xa, di vật của tổ phụ xin để lại cho Đoan nhân, sợ có khi lạc mất thì đắc tội nhiều. Xin cô giữ cho, đợi cháu lớn lên thì trao lại, ngõ hầu ghi nhớ cái đức của cha ông ”. Lại cởi chiếc phương y màu lục cho Ông, để Ông ở lại với Nhụ nhân, chăm lo học hành.

Bính tuất năm Minh Mạng thứ 7 (1826) Đinh hợi năm Minh Mạng thứ 8 (1827) Mậu tí năm Minh Mạng thứ 9 (1828) Kỷ sửu năm Minh Mạng thứ 10 (1829) Ông 17 tuổi . - Thượng thư bộ Hộ là Hiệp biện đại học sĩ Nguyễn Khoa Minh (ông Nguyễn là chồng của cô ruột Ông ) bảo Ông đến học chung với các công tử ở công thự. Thầy dạy là ... thấy Ông thông minh, đặt cho tên tự là THÌ 15 hiệu là Tốn Trai và gọi theo tên tự 16 .

Nhụ nhân Trinh Hiếu tính hiền từ, chuộng việc học, ở góa không có con. Nhà bà kinh doanh ở cả thành thị lẩn thôn quê, thu dưỡng cháu họ như nuôi con đẻ mà với Ông thì dồn hết lòng yêu thương, hằng ngày thường bảo ban Ông học. Bà nói: Tổ tiên ta nhiều đời tích đức, sau này tất hưng vượng. Bà xem tướng cháu trung hậu, nên tự lập cho nên thân, trách nhiệm kế thuật 13 là ở trên mình cháu, hãy cố gắng chớ hoang chơi. Ông nghe dạy bảo, càng cần cù học hành. Lại hàng ngày bà còn nêu gương ngài Thị độc học sĩ 14 nói năng hay ho, tính hạnh mềm mỏng, nhất nhất kể hết cho Ông nghe.

Canh dần năm Minh Mạng thứ 11 (1830) Tân mão năm Minh Mạng thứ 12 (1831) Nhâm thìn năm Minh Mạng thứ 13 (1832) Quí tị năm Minh Mạng thứ 14 (1833) Ông 21 tuổi - Vào trú học ở Quốc tử giám, chí rất miệt mài về đường cử nghiệp, văn chương ngày càng tiến. Bấy giờ ở Giám có Văn Trường (Nguyễn Cửu Trường người Thanh hóa, đỗ tiến sĩ khoa Mậu tuất, cùng tuổi Ông ) nổi tiếng làm phú nhanh nhẹn.

- Ngày 26 tháng 6, quan Thượng thư mất tại lỵ sở. Ông tính rất có hiếu, gặp ngày kỵ quan Thượng thư, Ông đều hết lòng thành kính, khóc lóc buồn bã lộ ra sắc mặt. Về già, Ông thường nói: Ông Lớn ngày trước đi làm quan, bấy giờ ta còn nhỏ, không thể theo hầu cơm nếm thuốc, lại không được dự vào việc đi Gia định rước linh cữu về, mọi việc ấy đều nhờ anh ta là Nguyên Phác lo thay, ta không bày tỏ được chút hiếu kính nào cả. Thật là đáng buồn. Thế cho nên ta làm

Giáp ngọ năm Minh Mạng thứ 15 (1834) 11


Ất mùi năm Minh Mạng thứ 16 (1835) Ông 23 tuổi.

Nguyễn Cửu Trường. Đệ tam giáp tiến sĩ có tám người, đỗ thứ nhất là Đinh Viết Thận 19 ở Nghệ an.

- Nhụ nhân Trinh Hiếu và Đoan nhân Thái từ đi hỏi Lương phu nhân cho Ông. Lương phu nhân là thứ trưởng nữ17 quan Hiệp biện Đại học sĩ Lương Tiến Tường, Thượng thư bộ Lễ. Mẹ họ Tô. Bấy giờ Ông ở với Nhụ nhân Trinh Hiếu, hằng ngày đi học, nhưng thăm viếng hầu hạ Nhụ nhân Thái từ không hề thiếu sót.

Sau khi truyền lô, vâng làm lễ bái mạng dâng biểu văn tạ ơn, tiếp đó là đến vườn Thư quang lãnh yến trâm 20, đến Ngự viên xem hoa, lãnh lọng, ngựa, dạo khắp các phố phía đông Kinh thành để xem hoa ( Việc đổi chế độ cấp ngàn hoa trâm 21, áo mũ cùng việc cấp lọng, ngựa, xem hoa đều bắt đầu từ khoa này) rồi vâng lãnh cờ biển vinh qui.

Bính thân năm Minh Mạng thứ 17 (1836)

-

Tháng 10, bổ làm Hàn lâm viện biên tu 22 .

Đinh dậu năm Minh Mạng thứ 18 (1837) - Tháng 7, Ông đỗ cử nhân khoa thi Hương. Hạng 14. Đỗ đầu là Lê Vĩnh Xuân ở Tuy phước. Đỗ thứ ba mươi là Tiết Văn Hanh người đồng hương. Chủ khảo là Tả tham tri bộ Lễ Hà công Quyền, phó là Biện lý bộ Lễ Phan Thanh Giản. Khoa ấy, nguyên đỗ cử nhân là 35 người, bộ Lễ phúc duyệt truất xuống Tú tài 3 người. Mậu tuất năm Minh Mạng thứ 19 (1838) Ông 26 tuổi. - Tháng 3, thi Hội trúng cách thứ 10. Thượng thư bộ Binh là Hiệp biện Đại học sĩ Trương Đăng Quế làm chủ khảo, Thượng thư bộ Công là Hà Duy Phan làm phó (khoa ấy giảm bớt chức Tri cống cử). Khoa ấy trúng cách 11 người, đỗ thứ nhất là Nguyễn Cửu Trường ở Thanh hóa. Đỗ Phó bảng 10 người, đỗ thứ nhất là Nguyễn Tường Vĩnh ở Quảng nam (người trúng cách thứ nhì là Dương Danh Thành bị truất vì tội khai giả 3 đời) . - Tháng tư nhuần, vào thi Điện, được sắc ban đỗ thứ 5 Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. Giám thị đại thần là Đô thống chưởng phủ 18 Phạm Hữu Tâm, Độc quyển là Hiệp biện Đại học sĩ Trương Đăng Quế, Thượng thư bộ Công Hà Duy Phan, nhận quyển kiêm duyệt quyển là Lang trung bộ Lại Nguyễn Văn Lý, Lang trung bộ Công Đỗ Quang. Đệ nhị Giáp tiến sĩ có hai người, đỗ thứ nhất là

Vua Minh Mạng Kỷ hợi năm Minh Mạng thứ 20 (1839) Ông 27 tuổi. 12


- Tháng giêng, vâng mệnh sung vào việc biên soạn và sửa chữa bộ Khâm định bội văn trích yếu tập vận. - Tháng tám, vâng mệnh sung làm Đốc biện việc khắc in bộ Tập vận . - Tháng 12, can việc để thiếu thợ, không khắc kịp, bị phạt bổng một tháng, ghi vào sách 23 . Vâng lấy chức cũ sung làm Hành tẩu viện Cơ mật. Canh tí năm Minh Mạng thứ 21 (1840) Ông 28 tuổi. - Tháng giêng, nhân tết Nguyên đán, vâng ân chiếu, nguyên bị phạt bổng 1 tháng, nay được tha miễn. - Tháng 4, phạm vào việc viết nháp lời chỉ, tra cứu không chu đáo, bị giáng hai cấp lưu 24 . Gặp tiết Ngũ tuần đại khánh của vua Minh Mạng, được thưởng sa màn cùng được khai phục một cấp. - Tháng 10, can việc sửa chữa sai lầm sách Tập vận, phần biên năm hai mươi bị giáng 1 cấp lưu .

Tranh vẽ bộ Lễ triều đình nhà Nguyễn.

- Tháng 12, thăng thụ 25 Chủ sự ty bộ Lễ, mang hai cấp giáng lưu, vẫn sung Hành tẩu Viện Cơ mật.

Tân sửu năm Thiệu Trị thứ 1 (1841) Ông 29 tuổi. - Tháng 5, gặp đại lễ Đăng quang, vâng tuân ân chiếu, nguyên giáng hai cấp lưu, được khai phục hết. - Tháng 7, vâng sung hộ giá đại lễ Ninh lăng được thưởng kỷ lục một lần. - Tháng 10, thăng Viên ngoại lang ty bộ Lại, vẫn sung chức Hành tẩu Viện Cơ mật. Nhâm dần năm Thiệu Trị thứ 2 (1842) Ông 30 tuổi . 13


bách niên công đức đẳng di mưu. (Vũ Bạch Ngô dịch : Chở che gốc rể, bao đời nhận phúc trâm anh; - Thờ phụng khói hương, trăm tuổi còn ơn mưu lược). Khi tuổi đã về chiều, ông sai con dòng thứ là Hoài Tĩnh phụng thờ hương hỏa, chẳng may ông này chết vào tuổi trung niên khiến cho thần chủ Nhụ nhân phải rước về thờ ở miếu riêng của nhà.

- Tháng giêng, vâng sung Bồi tự, được thưởng kỷ lục một lần. Vâng sung hộ giá Đại giá Bắc tuần, được thưởng tiền và quần áo. - Tháng 5, được sung làm Đồng khảo trường thi Hội ban văn 26 . - Tháng 6, vì can việc tra cứu không chu đáo công trạng của Vĩnh Tế 27 bị phạt bổng 2 tháng ghi vào sách.

- Tháng 8, can việc thuộc ty chép nhầm Phạm Văn Vinh làm Nguyễn Văn Vinh, bị phạt bổng 6 tháng.

Quý mão năm Thiệu Trị thứ 3 (1843) Ông 31 tuổi. - Tháng 3, gặp đại lễ Thăng phối, được thưởng bạc cùng những lần bị phạt bổng đều được tha hết. Vâng sung làm Chấp sự, được thưởng kỷ lục một lần.

Ất tị năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) Ông 33 tuổi. - Tháng 2, điều đi nhậm chức Án sát sứ Thanh hóa .

- Tháng 5, vì can tội lấy trộm thẻ bài đeo bị phạt bổng ba tháng ghi vào sách.

- Tháng 10, vì sửa sang xong thuyền bè ở tỉnh, được thưởng kỷ lục một lần. Nhờ tỉnh hạt duyệt tuyển lính vượt số lượng, được thưởng kỷ lục một lần.

- Tháng 7, thăng thự 25 Lang trung bộ Binh. - Tháng 10, sung giám khảo ban văn khoa thi Hương trường Hà nội.

Bính ngọ năm Thiệu Trị thứ 6 (1846) Ông 34 tuổi. - Tháng 11, can tội trễ nãi đường về, bị phạt bổng ba tháng ghi vào sách. Can việc để thuộc ty viết nhầm Tống công Hợp làm Phạm văn Hợp, bị phạt bổng 2 tháng ghi vào sách. Vâng tuân ân chiếu, các lần phạt bổng đều được tha miễn.

- Tháng 6, can việc xưởng tạm ở thuỷ đồn bị cháy, bị phạt bổng 6 tháng ghi vào sách. - Tháng 8, làm Đốc biện đóng xong thuyền Tường nhạn, được thưởng gia 1 cấp. Đóng xong thuyền vận tải đường biển, được thưởng kỷ lục 1 lần.

Giáp thìn năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) Ông 32 tuổi. - Tháng 3, vâng sung làm Chấp sự, được thưởng một chiếc ngân tiền cùng kỷ lục một lần. Sung làm Đồng khảo trường thi Hội ban văn 26 . Thực thụ Lang trung bộ Binh.

Đinh mùi năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) Ông 35 tuổi. - Tháng 10, gặp đại điển Đăng quang, được thưởng đồng quân công một cấp.

- Ngày 17, tháng 7, Nhụ nhân Trinh Hiếu mất, ông xin nghỉ để lo liệu việc ấy. Bấy giờ ông có làm câu đối thờ như sau: - Tí ấm hậu đồng căn, dịch thế trâm anh đa thọ phúc; - Huân cảo sùng biệt tự, 14


Mậu thân năm Tự Đức thứ 1 (1848) Ông 36 tuổi.

bộ Lễ là Phan Huy Vịnh làm Chánh sứ, Hàn lâm viện học sĩ là Lê Đức làm Bồi sứ).

- Tháng 3, viết nhầm đội trưởng Nguyễn Sĩ Án làm Nguyễn An, bị phạt bổng 6 tháng ghi vào sách.

- Tháng 10, quan Thượng thư ngày trước được truy tặng Phụng nghị Đại phu, Hàn lâm viện Thị độc, thụy Đoan Trực. Đoan nhân Thái từ ngày trước được phong Chánh ngũ phẩm Nghi nhân. Ông dâng biểu tạ ơn.

- Tháng 4, vâng tuân ân chiếu, được thưởng gia một cấp. - Tháng 6, vâng Dụ cho thăng thự công bộ sự vụ.

25

Thái bộc tự khanh, Biện lý

- Tháng 11, vâng chỉ ra Hà nội sửa soạn công việc đi sứ.

- Tháng 8, nhờ lựa và nộp xong các loại đá cho công trình Xương lăng ở Thanh hóa, được thưởng kỷ lục hai lần.

- Tháng 12, vì có lần sung việc chiêu đãi cùng chấp sự, được thưởng gia một cấp.

- Tháng 10, Khâm sai làm phó chủ khảo trường thi Hương ban văn 26 ở Hà nội, lấy đỗ cử nhân 28 người. Giải nguyên là Nguyễn Huy Du ở Thanh trì. - Tháng 12, can việc phê lặp chữ THỨ ở mặt quyển Đào Khắc Thường, bị phạt bổng 2 tháng ghi vào sách.

28

Canh tuất năm Tự Đức thứ 3 (1850) Ông 38 tuổi.

của Tú tài

- Tháng 2, vâng chỉ đình việc đi sứ, trở về Kinh giữ nguyên chức cũ. Trước đấy có tiếp được văn thư của nhà Thanh gửi đến nói vua Thanh nghĩ tình việc đi sứ đã vài lần chuẩn bị rồi đình hoãn, vậy hãy đợi lần tới, gặp kỳ tuế cống hãy sai khiến luôn một lần, thế nên có mệnh lệnh ấy.

- Tháng giêng, can việc phái người đi công cán phía Đông về, chuẩn bị không đầy đủ, bị phạt bổng năm tháng.

- Tháng 3, ông từ Hà nội về, vẫn giữ chức Biện lý bộ Hộ như cũ.

Kỷ dậu năm Tự Đức thứ 2 (1849) Ông 37 tuổi.

- Tháng 4, con là Hoài Vĩnh ra đời.

- Tháng 3, sung làm Tri cống cử trường thi Hội ban văn, lấy đỗ Hội nguyên Lê Đình Diên.

- Tháng 7, kính dâng Dụ chuẩn cho dùng nguyên hàm điều sang giữ chức Biện lý Lại bộ sự vụ. Vâng Dụ chuẩn cho kiêm quản ấn triện Đại Lý tự.

- Tháng 4, vì can việc viết trùng lặp trong việc bản nháp ân chiếu, bị phạt bổng một năm ghi vào sách. -Can việc thuộc ty không cứu xét chuyện phát lương cho lệ dịch cho các huyện của Thừa thiên, bị phạt bổng ba tháng.

- Tháng 8, nguyên vì trong 3 năm ở tỉnh Thanh hóa có thành tích xét án và thu thuế dư nhiều được nghị tự 29 thưởng gia một cấp, kỷ lục ba lần.

- Tháng 6, gặp đại lễ bang giao, vâng sung việc chiêu đãi cùng chấp sự .

- Tháng 9, kính vâng dụ chuẩn cho thăng thụ Bố chánh sứ tỉnh Gia định.

- Tháng 8, vâng Dụ chuẩn sung thực thụ Thái bộc tự khanh, làm Giáp Phó sứ sang Thanh đáp tạ lễ bang giao đã xong (quan Thị lang 15


Nhâm tí năm Tự Đức thứ 5 (1852) Ông 40 tuổi.

Tân hợi năm Tự Đức thứ 4 (1851) Ông 39 tuổi.

- Tháng 3, vâng sung làm Bồi tự, được thưởng kỷ lục một lần.

- Tháng 4, vâng dụ chuẩn cho điều sang chức Thị Tả thị lang bộ Công, sung biện Nội các sự vụ.

- Mồng 3 tháng 4, vâng viết thảo Dụ văn sức cho Quản Đô sát viện Hoàng Thu tâu các việc. Ông cùng Nguyễn Cửu Trường, Nguyễn Văn Phong đứng tên. Cạnh các khoản, vâng được châu khuyên, lại được châu phê : Khá.

30

- Tháng 5, vì giặc Thanh cướp bóc thương thuyền tỉnh Gia định, bị phạt bổng một năm ghi vào sách. - Tháng 6, can việc thuộc viên ở Các là Nguyễn Đăng Tuyển nhằm sót văn thư cháy sót 31 bị phạt bổng 3 tháng ghi vào sách. Vâng giữ việc phúc duyệt quyển thi trường 4 của chế khoa.

- Ngày 17 tháng 5, Nội các dâng phiến tâu: Quan ngự sử là Nguyễn Thái tâu : “Nay thấy nắng mưa sai với tiết thường, vâng xin oo 33 sai quan cầu đảo, xin cho sắp tới có gặp Khánh tiết, việc tấu nhạc ban yến xin tạm đình chỉ”. Các chuyện ấy bọn thần trộm xét thấy việc thiết triều thì nề nếp lễ nhạc đã thành bình thường, còn Khánh tiết ban yến là vâng Hoàng thượng ban ơn rộng rãi. Vả lại nay kính gặp Khánh tiết Thánh thọ, mọi nhà đều vui mừng vâng theo nề nếp lễ nghi long trọng mà Khoa đạo ấy lại có sớ nọ thì bọn thần ngu dốt cạn nghĩ chẳng dám bắt chước. Châu phê: Về khoản ấy, bộ Lễ chiếu theo sự thể khinh trọng mà châm chước tâu liệu, khỏi phải ấn định.

- Tháng 7, vì lúc ở Gia định có qua lại coi sóc làm thêm thuyền vận tải đường biển, được thưởng kỷ lục một lần. - Tháng 8, kính tuân ân chiếu tha miễn việc phạt bổng 3 tháng ghi vào sách. - Ngày 13 tháng 8 nhuần, cùng với bạn đồng các là Nguyễn Cửu Trường, Nguyễn Văn Phong, Nguyễn Xuân Thọ vâng Dụ làm một thiên đối sách theo bài thi văn sách Cát sĩ. - Ngày 22 tháng 8 nhuần, vâng ứng chế bắt chước bài Thu thanh phú của Âu Dương tử³² đề vào bức vẽ làm ruộng, dệt vải, mỗi bức một bài thất ngôn cổ phong phóng vận.

- Mồng 8 tháng 6, kính vâng Dụ, trong đó có khoản: ngày 20 tháng này, sách phong Hồng Kiện làm An phước Quận công, phái Thự Tả thị lang Bộ Công sung biện Nội các sự vụ là Trần ... vâng sung làm Khâm sứ, đến ngày ấy chiếu y theo nghi thức mà làm lễ tuyên phong.

- Tháng 11, vâng sung mang Dụ văn, vật dụng thưởng cho quan Thái tử Thái bảo Đô thống Võ lao hầu Tạ Quang Cự mừng thọ 80 tuổi.

- Tháng tám, gặp ngày Khánh tiết Vạn thọ, các lần bị phạt bổng, vâng ân chiếu được tha miễn.

- Tháng 12, can việc Các thuộc chép thơ ngự chế chưa đúng kiểu chữ mà không duyệt lại, bị phạt bổng một tháng. Can việc quên, sót hóa giá của Tuần ty khi còn ở bộ Hộ, bị phạt bổng một tháng ghi vào sách.

- Tháng 10, can việc viết nháp sắc thần không chu đáo, bị phạt bổng một tháng ghi vào sách. - Ngày 18 tháng 12, dâng phiến tâu : Hôm trước vâng sắc, trước đây bảo cho Các tra Tứ thư , trích cách ngôn ra biên rõ mười điều. Nay tra chữ BIỀN được 10 chữ, Bộ kiểm lại, chọn hai chữ nào có thể đặt tên thì viết ra dâng lên xem. Bọn thần tuân đem

- Con là Hoài Duệ ra đời.

16


kiểm rõ các chữ BIỀN, hiện được bốn chữ, kính xin kê hết để dâng lên, chờ vâng chọn lựa định đoạt để tuân hành. Lại lần này bọn thần tuân mệnh sức cho các thuộc viên Lê Bá Thận, Trần Đổ Tích, Lê Quang Huân vâng đem Tứ thư kiểm tra kỹ, chiếu theo loại mà biên ra, lại xin thêm phần Trời đất, Vua tôi, mỗi thứ một tắc, gồm thành 12 tắc. Nay xin lãnh bản gốc ra, lại do bọn thần lựa lại. Chép cho tinh tế trình lên. Châu phê : đặt tên là Tứ thư loại biên.

- Ngày 20, Nội các dâng phiến tâu : Lần này bọn thần tuân kiểm Tứ thư loại biên, chiếu loại biên tập trình lên. Kính vâng châu phê, trong đó khoản về nhân sự loại nên chia làm năm mối: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín để tiện kê tra, nếu dư câu không hợp đưa lộn vào thì nên châm chước thêm danh mục cũng được. Bọn thần tuân vâng kiểm tra lại, phân loại biên tập theo năm mối Nhân, Lễ, Nghĩa , Trí, Tín. Lại xin thêm Hiếu, Thành, Tu tỉnh, Ứng thù là 4 mục chiếu loại kê vào. Các câu thừa ra, hoặc nói về việc , hoặc nói về lẽ, hoặc gom toàn thể mà nói, hoặc chủ một việc mà phát, nếu phân loại đại khái sợ e lộn xộn - Lại như trong truyện: ham học gần bằng Trí, hăng làm gần bằng Nhân, biết xấu hổ gần bằng Dũng... Các câu Nhân là lòng của người, Nghĩa là đường của người trong sách Mạnh tử, nếu cứ theo câu mà phân tích thì khó khỏi chi li, xin cho gom vào một mục Đạo lý. Về thứ tự biên tập, xin đem mục Đạo lý kể trên chia ra 5 mối: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Tiếp theo là 4 mục: Hiếu, Thành, Tu tỉnh, Ứng thù đều y theo thứ tự của Tứ thư mà biên - Kính xin chấp thuận cho. - Ngày 29, Nội các dâng phiến tâu rằng: Vâng theo Châu phê, giao cho Nội các tra ngay Đường thi như : Cô nhạn nhập quần, xuất quần 34 , hai cách đó có từng dùng chưa, và lục ra số bài có dùng mỗi cách dâng lên. Bọn thần chiếu theo Đổ thi tập chú có nói : Nguyên dùng vần Ngư mà bắt đầu bằng cách mượn vần Ngu thì gọi là nhập quần. Nguyên dùng vần Thanh mà sau mượn vần Canh thì gọi là xuất quần. Hai cách đó, trong Đường thi chưa từng thấy nhiều, chỉ tra được một bài theo phép Cô nhạn nhập quần, một bài theo phép Cô nhạn xuất quần, vâng lệnh chép trình lên. Nay kính. Châu phê: Hãy tra cứu thêm. (Vâng tra ba bài theo cách Cô nhạn nhập quần)

Kỳ đài kinh thành Huế xưa

Quý sửu năm Tự Đức thứ 6 (1853) Ông 41 tuổi.

- Ngày 30, Nội các dâng phiến tâu: Tra ở Các, nguyên có giữ một bộ Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn triều Lê soạn, viết rõ việc quốc triều khai thác từ Quảng bình vào Nam, các mục hình thế núi sông cho đến pháp lệnh, thuế má, nhân tài, phong tục, đem

- Tháng giêng, vâng Dụ chuẩn cho thực thụ Tả thị Lang bộ Công, vẫn sung biện Các vụ. Vâng ân chiếu, tha hết các khoản phạt bổng. 17


tam danh 39 . Xong việc thi Đình, được ban yến cùng thưởng một chiếc trâm bạc chạm hoa, 2 tấm đoạn mịn.

so với sách quan Lang trung Nguyễn Điền dâng, nhất nhất đối tra mục lục, số quyển cùng sự trạng được ghi, đôi bên không sai khác gì nhau nhưng văn nghĩa có nhiều chỗ giản lược, nét chữ có nhiều sai sót. Chỉ có cuốn thế phả cùng cuốn Tạp lục có thêm hai trang Tựa, so với sách mà bọn thần vâng giữ thì vốn không có cái trang ấy. Bộ Phủ biên tạp lục giữ ở Các đã qua tay Sử quán nhận lãnh tra cứu lâu ngày, giấy chữ bị khuyết và rách nhiều. Nay viên quan nọ dâng bộ sách ấy, trong đó có một bản Thế phả có chép thứ tự các đời của liệt thánh, xin cho Các của thần được vâng cất giữ còn hai bản Tạp lục thì nên thu lại để giúp cho việc tra cứu sớ văn, một bản xin lưu giữ. - Tháng 2, vâng sung làm Bội tự, được thưởng kỷ lục một lần.

- Ngày mồng 8, Nội các dâng sớ tâu: Năm ngoái, phái viên đi phương Đông có mua 2 bộ sách Ngũ kinh và Tứ thư đại toàn, hiện do Quốc sử quán đem về cất. Bọn thần vâng thấy hai bộ sách ấy hàng ngày cần kê cứu hoặc các trường thi Hương thi Hội đều thường xin lãnh vì cần gấp, cùng năm trước Quốc tử giám với các quan Đốc học, Giáo thụ, Huấn đạo các tỉnh và các Nha môn đều xin ban ơn cấp cho mỗi nơi một bộ sách ấy. Vì để đã lâu ngày không thể không bị sâu mọt làm hư rách, mà sách ấy rất quan hệ cho giới học giả giảng dạy, mỗi nha Học chánh chỉ có một bộ, nghĩ cũng là quá ít. Nay bản nọ trước đây do phái viên mua ở Thanh chỉ có một bản in. Nay xin chi tiền và giấy tốt in 4 bộ chia giao cho Nội các cùng viện Tập hiền mỗi nơi 2 bộ vâng giữ cùng chi giấy sơn bối ấn loát 160 bộ. Khẩn xin ban ơn cho các giảng đường tôn học, quốc học 40 cho đến Đốc học, Giáo thụ, Huấn đạo ở các tỉnh và các nha môn mỗi nơi một bộ ngõ hầu dạy và học được rộng rãi.

- Ngày 21, Nội các dâng phiến nói: Tháng 9 năm Tự Đức thứ 3, Các của thần tra kiểm thơ Ngự chế, tập đầu hiện được 389 bài, đóng thành 6 cuốn, 185 trang, xin chiếu theo thời Minh Mạng, Thiệu Trị, để phân biệt tiếng mỗi thời, xin vâng khắc in ra lần này. Kính vâng Châu phê: “Ta dư lại bấy nhiêu trứ tác tình cờ, bất quá cũng chỉ là chuyện học cách đi, bắt chước cách nhíu mày 35 thế thôi, huống chớ số bài còn ít chưa đủ làm thành tập, đợi sau này sẽ hay”. Bọn thần xin tiếp tục, lại kiểm từ năm ấy đến nay nối thêm được 385 bài, đóng thành 6 cuốn 188 trang, họp cả trước sau thành 744 bài, số cuốn cọng thành 12 cuốn, số giấy cọng thành 272 trang. Ngữa thấy thiên chương36 , ngày càng dồi dào vẻ sáng chiếu dội, xin giúp cho lê táo sống lâu 37 , trang hoàng thành tập, để sớm làm tăng vẻ sáng cho nền văn giáo. Nếu như được cho phép, Các của thần sẽ lựa chọn thư thủ 38 kính viết một vài trang dâng lên , vẫn sức thợ Thanh là Cam Quang Hưng đã từng khắc năm trước cùng chọn vài ba tay thợ khéo chính ngạch khắc làm mẩu dâng lên, chờ vâng cho Quốc sử quán chọn ngày tốt để khởi công làm. Châu phê : Hãy đợi so lại cho nhiều rồi hãy truyền lo liệu.

Ngoài ra giới sĩ nhân dạy và học phần nhiều là mua các cuốn rút gọn ở Hà nội, quá ư giản lược, trong đó kẻ mua được kinh, truyện đại toàn thư không có mấy ai. Nay xin cho khi việc ấn loát nhà nước xong rồi, nếu thần dân có ai tình nguyện đem giấy đến in, xin cho phép nghe theo để họ in dùng, cho sách ấy truyền bá trong ngoài để cùng nhau dạy và học, ấy là nhờ 00 rất có lòng ban ơn lớn cho sĩ lâm vậy. Châu phê : Trẫm đã lưu ý rồi. Nếu bộ Uyên giám khắc xong cũng in cấp một thể, số còn lại thì bẩm lên. - Can việc viết nháp lời chỉ không chu đáo, bị phạt bổng hai tháng, ghi vào sách. - Mồng 9 tháng 5 vâng Dụ, trong đó có khoản nói: Lễ canh tịch là có xôi cúng tế và trọng nghề nông làm gốc mà làm trước thiên hạ. Năm nay trẫm sẽ thân hành cày tịch điền, phái cho Tả thị

- Tháng 4, sung chức Duyệt quyển kỳ thi Đình, lấy đỗ 13 người, đỗ đầu là Nguyễn Đức Đạt, tiến sĩ cập đệ Đệ nhất giáp, đệ 18


lang bộ Công, sung biện Nội các sự vụ là Trần ... lo việc dâng đủ roi cày. -Lễ canh tịch xong, được thưởng xấp sa.

Tử, Tập, không có ngoại truyện, tiểu thuyết. Các thư mục đến kỳ kê cứu đều thuộc loại hữu dụng.

- Ngày mồng 7 tháng 6, Nội các dâng sớ tâu: Vừa rồi, vâng giao một bản Tứ thư dành cho nữ giới, sắc cho hạ thần chiếu theo chính văn trong sách đó, lựa câu mà khuyên thêm, chú thích thêm, lựa câu mà chấm 41 , tất cả đều được dịch âm, dịch nghĩa tường tận, chọn lựa thư thủ mà viết và chú thích dâng lên vua xem. Bọn thần tuân vâng đem chính văn và chú thích sách ấy viết trước một chương đầu làm dạng bản dâng lên. Châu phê: Việc chú giải chỉ cần nghĩa cho thông thuận là được . Nếu chữ đâu giải đấy thì không khỏi sự gảy gọn bị đảo lộn đi khó đọc, cảm thấy vô vị 42 . Nay bọn thần lại lần nữa chiếu theo chính văn, theo Âm nghĩa mà chú thích, kính đem một thiên dâng lên xem hợp hay không, vâng chờ huấn thị để lo liệu. Lại như chú thích thì phải chú theo chính văn với xuất xứ, sự tích, ý nghĩa của nó, trong đó câu văn có dài ngắn không đều, nếu cứ thích rõ ràng thì không khỏi nạn chữ đâu giải đấy. Vả lại ý nghĩa chính văn cũng hay trùng lặp, lời chú của nó có nên hay không nên theo câu mà điểm thêm cho đỡ phải dịch rõ chờ chỉ thị. Đây là dạng bản một thiên dịch rõ, kính xin trình lên . Nay kính. Vâng được châu điểm, lại được vâng Châu phê: Sau phỏng theo đó mà chú dịch cho rõ ràng.

Bọn thần thiển nghĩ, Bí thư các là nơi cất giữ sách và tranh, số thư tịch hiện giữ, nhiều không quá 4-5 bộ, trong đó, một vài bộ đã bị nhậy làm rách, như thế, tưởng cũng chưa phải là đầy đủ. Như năm trước, bọn thần tuân mệnh khai đơn thanh toán, gởi mua mỗi hiệu phải đủ 3-4 bộ nhưng lần lượt các tỉnh đệ nạp, mỗi hiệu chỉ mới 2-3 bộ, chưa đủ số đã đưa. Nay nếu kiểm tra lại các hiệu sách thì thảy đều thuộc loại “nhà con, cửa lấp” 45 thế cũng khó mua cho nhiều được. Đám con buôn người Thanh ấy không khỏi vận tải quanh co, tỉ giá ngày càng thấp, nếu vâng lệnh gửi mua thì đám lái buôn người Thanh chưa chắc không mượn cớ này nọ để kéo dài. Còn thư tịch các bộ sách do các tỉnh đệ nạp ngữa xin ra ơn cho thu nhận hết để đủ tra cứu khi cần. Châu phê : Chuẩn y cho thu cất. - Ngày 29, tháng 6, Nội các dâng phiến tâu: Tháng 6, năm trước, vâng sắc chữa bộ Vận hải, đến hết năm nay, bọn thần đã vâng xin triển hạn, vậy theo các khoản phê bảo, bọn thần sức cho các viên Phân kiểm, Kiểm biên, hết lòng lo liệu, đều đã xong bản thảo, chuyển cho thư thủ viết kỹ, xin trích đem số đã viết xong là hai tiêu, 4 hào, 8 tề, 14 diêm, 4 vần, gồm 18 bản dâng lên. Lại xét thấy bộ sách ấy ước chừng trên dưới 5 vạn trang, thư thủ mỗi người viết được chừng 150 trang mỗi tháng. Nếu số thư thủ là 50 người thì cuối năm mới xong, nhưng thư thủ hiện nay chỉ có 18 người, biết rõ là cần người. Xin lựa thêm trong số thư thủ dự sát hạch hiện nay, chọn ai viết chữ tốt và chững chạc lựa lấy 32 người, hợp với 18 người đã phái để đạt số 50 người, theo sở ấy cấp cho lương ăn mà lo công việc. Còn những viên mục Kiểm biên trước đây nay tuy bản thảo đã thành, công viết kẻ nhiều người ít mà bản thảo hiện vừa kiểm duyệt, có giao viết lại tất phải theo từng ngày, dựa theo từng thư thủ viết được bao nhiêu phải gia tâm so lại để tránh sai ngoa . Về khoản cấp lương ăn, xin chiếu cấp như

- Ngày 22, Nội các dâng phiến tâu: Tháng trước, bộ Lễ đã lần lượt đệ nạp số sách các tỉnh Bình định và Quảng nam mua ở các hiệu sách là 224 bộ, trong đó sách quan chưa có 62 bộ, đã có 162 bộ, bọn thần đã kê vào phiến tâu lên. Châu phê: Thu cả sách chưa có 43 . Lại vâng Châu phê: Sách quan đã có, các Bộ kiểm lại sao cho thỏa đáng với nhu cầu, đến như sách có tì vết vẫn cho thu thêm để xem cuốn nào vô dụng thì giao lại cho họ. Bọn thần tuân lệnh, sức cho những người ở Bí thư các 44 kiểm tra lại rồi mới mua nộp lên. Trong các hiệu sách có 3-4 bộ sách cũ có cắt dán thêm vào, những chổ tì vết cũng không quan ngại lắm, còn lại các bộ hiện được tinh hảo vẫn xét thấy các sách ấy đều thuộc Kinh, Sử, 19


- Tháng 12, Nội các dâng phiến tâu: Kính vâng Châu phê, Các đã sức cho Trần Đổ Tích, Lê Quang Huân kiểm rõ 19 bài thơ cổ cùng thơ họ Tô, họ Lý và tiên 46 của danh nhân các đời trước, chú thích phê khuyên, điểm đều chép ra tinh tế để dâng gấp. Bọn thần đã ra sức cho hai viên ấy, tra rõ các tập được 19 bài thơ cổ cùng thơ Tô, Lý. Số đăng tuyển có: Chiêu minh văn tuyển (Lý Thiện chú, Diệp Thụ Phan bình điểm), Cổ thi qui (Đàm Nguyên Xuân, Chung Bá Kính bình điểm), Cổ thi trực giải (Diệp Hi Ngang giải), Cổ thi nguyên (Thẩm Đức Tiềm bình điểm), Thi pháp nhập môn (Du Nghệ bình điểm), Thi pháp độ châm (Từ Văn Bật giải), Cổ thi tiên (Văn Nhân Đạm, Trương Canh giải chú) . Những lời bình cũng thấy một hai câu tản mạn ở thi xúc. Nay xin cứ tiên 46 các nhà có lời bình mang ý khác lạ thì nhất nhất đem chép cả ra, nhưng vẫn lấy hoặc họ, hoặc tên các nhà ấy, chỉ dùng một chữ mà bao trùm. Các lời chú những bài tiên đã dẫn chứa điển cố cùng lời bình hơi giống nhau thì chỉ chú rõ cho bớt phiền nhũng. Nay việc chép tinh đã xong, trong số khuyên điểm 41 của các nhà thì hai nhà Đàm và Chung cùng bình, nghĩ xin đều dùng dấu son, Phan dùng dấu mực, Thẩm dùng dấu xanh, Du dùng dấu vàng để phân biệt nhau.

mức cũ. Còn hai bản thảo Tứ chi, Lục ma hoàn thành năm trước đã có phiến trình dâng. Tiếp đó, đã nghĩ định phần Phàm lệ để dâng tiếp. Dạng bản này đối chiếu với phần Phàm lệ hơi có chút sai khác, nay xin đem hai bản thảo ấy chép kỹ lại cho được phù hợp với nhau. Còn như việc sung phái những người của sở ấy thì trước đã từng vâng châu phê: Sau khi xong việc, người nào siêng, nhác, hưỡn, gấp thì thưởng phạt riêng. Vâng tuân, những viên Phân biên, Phân kiểm, Kiểm thư, Thư thủ ai siêng, nhác, xin đợi xong sách sẽ tuân mệnh thưởng phạt riêng. Nay có Thư thủ đã sung vào Thủ dịch là Trần Nhật Quýnh, các thư thủ Lê Văn Hóa, Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Công Thưởng trong một năm nay, ngày đêm phục dịch siêng năng, kiểm soát thư tịch cùng sao chép số nhiều, có chút khó nhọc. Chiếu mức cũ thì 4 người này mỗi người mỗi tháng được cấp 1 quan 5 tiền, nay xin chuẩn y cho 4 tên ấy tăng thêm lương tháng mỗi tên 5 tiền cho đủ số hai quan, để người nhanh nhẹn biết được sự khuyến khích, kẻ chậm lụt cũng biết hăng hái cố gắng để ra công viết cho nhanh nhẹn. - Tháng 7, được vua ban tên Tiễn Thành.

- Can việc khi ở Gia định đem mân tiền 47 kê vào khoản quyên miễn 48 , bị phạt bổng hai tháng ghi vào sách.

- Tháng 8, hai bộ Lại và Binh dâng Đại kế sách 3 năm. Vâng Dụ trong có khoản nói rằng Thị lang Nội các là Trần Tiễn... có khả năng cảm nhận, phấn đấu, siêng năng, thận trọng, gấp lo việc chung, thưởng gia một cấp.

Giáp dần năm Tự Đức thứ 7 (1854) Ông 42 tuổi.

- Can việc Trấn định quân công bị viết trái lệ mà không hạch ra được, bị phạt bổng 3 tháng ghi vào sách.

- Tháng giêng, Nội các kính nghĩ lời văn phong cáo dâng lên. Châu phê: Thể văn chiếu, chế, hoặc dùng cổ văn, hoặc dùng biền lệ, cần phân biệt Dùng văn cách như thế khá là hèn yếu, bọn ngươi phải lấy văn thể Hán mà giảng luyện cho tử tế ngõ hầu phục cổ .

- Tháng 10, can việc chép sót chữ mà không hạch ra được , bị phạt bổng 3 tháng ghi vào sách.

- Tháng 2, vâng sung làm Bồi tự, được thưởng kỷ lục một lần. Nội các kính thưa lên: Ngày tốt Đinh dậu, tháng 2 mùa Xuân Giáp dần, kính xin Hoàng đế thân hành tế Văn miếu.

- Tháng 11, được ban dầu bạc hà, dầu đinh hương, rượu thông trị bách bệnh, mỗi thứ một chén. Dụ rằng để khử hàn, giải thấp để tỏ ý thể tất. 20


- Tháng 3, tên lính ở ty Điển hộ Càn tín là Trần văn Cam lấy trộm tiền quan của ty này bị bắt. Bộ xét cho là phạm tội chém, chuẩn cho đi đày 5 năm. Nội các cho là số tiền ấy đã trích ra cấp phát chứ không phải còn tại kho, huống chi đã thu lại được rồi, xin giảm bớt chút ít: phạt đòn 100 gậy rồi cho về đội ngũ làm khổ sai. Châu phê: Bộ xét đã hợp, bọn ngươi đã dựa vào cái gì mà dám xét càn như thế ? - Tiếp đó dâng phiến xin chịu lỗi.

trở ngại. Chỉ có điều là hạng ấy không nhiều, có làm cũng hơi rộn, còn như cử nhân, giám sinh cho đến hạng phụ thuộc, mới bắt đầu nhận chức, phẩm trật khá thấp, là số khó làm sổ. Tuy họ mới xuất thân, có đủ ngạch tịch để có thể căn cứ nhưng họ tên trong thiên hạ trùng lặp nhau cũng không ít, nếu không ghi rõ quán chỉ họ thì lấy gì mà phân biệt ? Lúc mới đầu lập ra phép tắc ấy là để phòng chuyện dễ đối mạo, nghĩ cũng chặt chẽ rồi, từ đó đến nay tuân hành chưa sinh mối tệ nào khác. Nay nếu lo nghĩ đến tình trạng dễ nảy sai lầm mà muốn đổi cho rối thì khó giữ cho khỏi sinh tệ khác. Vậy về các khoản ấy nghĩ nên giữ như cũ cho thỏa đáng. Châu phê: Làm y lệ cũ.

- Ngày mồng 4 tháng 7 vâng thảo phiếu trung phong Diên Khánh công làm vương 49 , ban thụy Cung Chính cùng cho trưởng tôn được tập ấm tước hầu. Bản thảo bài Dụ trình lên, Ông cùng Võ Duy Ninh, Nguyễn Tư Giản đứng tên. Châu phê: Khá hợp với đại thể.

- Ngày 18, Nội các dâng phiến tâu: Nay vâng Châu phê: “Người không toàn tài tuy không dám đặt vào hạng ưu mà cho cùng một hạng bình, trong đó cũng có kẻ kia giỏi hơn người này cũng chẳng sao. Chiếu theo lệ đã làm của An giang: lấy hạng Bình làm hạng cao nhất để khỏi hỗn lạm. Các nha làm vậy quá câu nệ, e chưa xứng với ý trẫm cân nhắc tài năng mà dùng”. Bọn thần cung kính xem đi xem lại, ngữa thấy Hoàng thượng dốc chí tìm người tài. Cân nhắc xét soi phẩm cách dáng vẻ, muốn chỗ đã tinh càng thêm tinh, tuy vua nhà Hạ đã biết mà vua nhà Chu càng biết hơn, ngõ hầu không bị lỗi. Bọn thần vâng xét các tỉnh ở ngoài Kinh kỳ đã lần lượt dâng sách 23 lên, cùng một khoản Bình, ít thì 3-4 người, nhiều thì có khi trên dưới 40 người, trong đó không thể không có kẻ kia tốt hơn người này mà danh sách không phân biệt được, cứ đặt theo một lệ cùng hạng Bình, cân nhắc chưa chắc đúng cả, mới có như ý 00 phê bảo vậy.

- Tháng 10, được ân chiếu nguyên các khoản phạt bổng nay thu miễn hết. - Tháng 11, can tội vào chầu trể nãi, bị phạt bổng 1 tháng ghi sách. Can việc thuộc viên viết phiếu nhầm chữ húy, phạt bổng 3 tháng ghi vào sách. Ất mão năm Tự Đức thứ 8 (1855) Ông 43 tuổi. - Tháng 2, vâng sung Bồi tự, được thưởng kỷ lục một lần. - Ngày 10 tháng 3, dâng phiến tâu: Tháng trước, quan bộ Lại có dâng tập tự 50 , trong có khoản: Vâng cấp sắc văn xin khỏi phải nêu lại quán chỉ để bớt phiền toái. Bọn thần xét thấy các viên hậu bổ ở các tỉnh lâu nay được bổ Tri huyện thì trong sắc không thấy ghi quán chỉ, vì những người ấy khi phân phái chờ bổ, mỗi người đều có khai vào sách 23 rồi. Đến khi được vâng bổ làm Tri huyện một huyện nào, họ được xem là có phẩm vị hơi cao, há có tệ trá mạo được hay sao? Phàm những tiến sĩ, phó bảng là số đã ít mà thứ tự trên bản đã phân biệt rõ ràng lưu phẩm ở đấy rồi. Nếu y theo Bộ xin ban sắc văn giảm ghi phần quán chỉ nghĩ cũng không

Bọn thần trộm nghĩ tài năng phẩm hạnh hơn kém giữa số thuộc viên thì thượng ty các nơi ấy cũng biết rõ, nay cứ xin chuẩn y theo sự nhận hay không của họ. Bọn Các thần tuân vâng Châu phê kính chép giao cho hai bộ Lại và Binh tuân chép đưa cho các địa phương hiện đã đệ trình. Các nha ở Kinh, các tỉnh ở ngoài hãy giữ một lòng trung với việc công, sát hạch kỹ thêm, ứng với hạng 21


như bọn kia chỉ thấy quen việc cướp đoạt lại thêm không có Tù trưởng, quen thích làm càn, giả sử chúng dùng ơn mà kết hợp thì cũng khó mà phủ dụ, cứ như thế thì chúng cũng khó giữ vậy.

Bình được mấy viên, nhưng ai xuất sắc hơn đều nên cước chú trong sách để đệ lên. Các nha, các tỉnh nên chiếu theo lần sát hạch này, hai danh sách văn võ những viên hiện dự vào hạng Bình, có ai khá nhất hãy xét kỹ cho phân biệt rõ ràng. Lại tư cho hai bộ ấy biết, cứ theo các tập danh sách nọ mà cước chú cho minh bạch để dâng lên cho xem xét để rõ hết người tài, phân biệt mà dùng khiến cho ai nấy đều được xứng đáng. Châu phê: Khá.

Việc yên biên thùy chỉ có đánh và giữ. Bỏ hai chuyện đó thì đâu còn phương sách nào nữa? Đánh thì oai vang, chỉ được cái hiệu quả gần gủi, tạm thời. Giữ thì vỗ về mà ngăn ngừa, quả là ý đồ hay ho lâu dài. Cho nên nói rằng đánh dễ mà giữ khó là bởi cớ ấy. Nay muốn thành được kế sách lâu dài tất phải góp trí nên thành mới có thể được việc. Nay phái Nội các Lang thị là Trần Tiễn ... lấy chức đó sung làm Tán lý quân vụ, lập tức đi ngay, chóng đến quân thứ 52 hội đồng với Trần Tri, tuân y lời Du, tùy nghi lo liệu cho thỏa đáng, lập ngay công tích cho xứng sử xanh. Còn như Tổng thống Trần Tri, từ ngày tới quân thứ đến giờ đã hơn một tháng, sao lại không thấy thi thố gì, rũ tay áo điềm nhiên đứng xem đến nỗi lũ ác man còn dám nhiều lần lấp ló, tội bất lực ấy há cũng xấu hổ trong lòng, đáng đem quân điển mà thi hành kỷ luật, xử phạt cho nghiêm. Hãy rộng dung lỗi ấy, nay truyền chỉ thân sức để việc khiển trách trở thành hiệu quả. Vả lại lần này đại binh tập hợp đông đảo, uy thanh truyền xa mà chưa thể giáo hóa được hạng ngoan cố, chưa làm cho hồi tâm được kẻ hai lòng, há cứ dẫn đám đông đến chờ đấy mãi sao? Bọn khanh nên khích lệ tướng sĩ, phát triển mưu kế cho xong công lao một lần nhọc để chín lần nhàn, tất sẽ được thưởng, ai nấy hãy cố gắng lên.

- Ngày mồng 9 tháng 5, vâng Thượng Dụ trong có khoản: Năm nay Trẫm tự cày tịch điền, phái cho Tả thị lang bộ Công sung biện Nội các sự vụ Trần Tiễn... dâng cái cày. - Tháng 7, kính vâng Dụ nói: Mấy ngày qua, bọn Mọi hung ác Đá vách ở tỉnh Quảng ngãi tự tác không yên, nhiều lần cướp bóc dân biên cảnh. Lũ yêu ma đó chưa đáng để làm vấy nhơ ngọn giáo trời, nhưng dẹp hung bạo, đem yên vui cho người dân lành thì tất phải dùng võ. Hãy đến đấy, nổi giận một cơn để vững lòng ba quân ta. Đã phái Tổng đốc Nam Ngãi là Trần Tri sung làm Tổng thống quân vụ, Thự hữu tham tri bộ Lại là Võ Duy Ninh sung làm Tán lý quân vụ đem kình binh đi trước liệu cơ mà tiễu phủ 51 . Tiếp đó, Vũ Duy Ninh đau nặng, khẩn xin trả phẩm hàm về quê điều dưỡng. Xem bản tâu thấy tình cảnh và lời lẻ đều khẩn thiết, bất đắc dĩ phải chuẩn y lời xin vậy. Nhân nghĩ bọn ác man ấy lâu nay dựa rừng núi, cậy hiểm trở nấp như thỏ, luồn như chồn, biến hiện bất thường rình sơ hở để thủlợi. Binh đến thì trốn đi, binh đi thì quay lại. Xét về tài khéo, bất quá chỉ quen dùng mấy món nõ mạnh tên độc mà thôi chứ không hề có tài năng nào khác nữa, mà nõ mạnh bắn gấp há xa hơn được trăm bước, tên độc ngẫu nhiên có trúng cũng không thể sát thương nổi số đông, há sánh nổi hùng binh ta có đại bác, vũ dũng, tinh nhuệ? Không có chuyện đến mà không thắng, thế nên đánh chúng thật dễ vậy. Đến như việc núi khe hiểm trở, lam chướng khá thịnh, đồn lũy rộng rãi, lính tráng thưa thớt, thì khi có việc gấp, gọi vâng không được nhanh. Đến

- Cùng Tổng thống Trần Tri dâng sớ xin phái thêm 2.000 lính Kinh và phái Chưởng vệ Chu Phước Minh, chỉ huy sứ Đào Trí chung sức đánh vào hai sách Minh Long và Suối Trá (dân tộc Hrê). Xin phái Tả bảo cùng lính Bình Định, Chu Phước Minh sung Đề đốc, Đào Tứ sung Tham biện. Vâng Dụ: Tại Thứ 52 binh đã có bốn ngàn, như khéo dùng lo gì không hiệu quả? Nay hãy tăng binh thêm 1.000 để đánh diệt. Vả chăng, binh hợp lại tất mạnh, chia ra tất yếu, bọn ngươi cùng chọn thời cơ mà hành động, không được phái phát linh tinh, quay bên này mất bên kia nữa. 22


Vâng chỉ chuẩn cho binh Quảng ngãi Bình định ở Thứ, kẻ nào lâm trận mà rụt rè không tiến lên phía trước thì chém trước tâu sau.

- Can việc chép nhầm người chết là Đội trưởng Nguyễn Văn Hân làm Nguyễn Hân, bị phạt bổng 3 tháng ghi vào sách. Vì đánh diệt giặc Mọi, thu hồi dân trai tráng cùng khí giới, được thưởng kỷ lục 1 lần.

- Can việc khi ở Thứ để cho giặc Mọi lẻn đến, bị phạt bổng 6 tháng .

- Tháng 11, cùng Tổng thống Trần Tri dâng sớ tâu: Các giống Mọi Đá vách đã xin hàng. Xin cho số lính ở Kinh và ở các tỉnh lân cận được phái đi, nay cho triệt hồi về đội ngũ gốc. Can việc bọn Phạm Chân bị phát giao quân thứ để hiện thục lại thả cho về Bộ là không hợp, bị phạt bổng 6 tháng ghi vào sách. Vâng Chỉ trong có khoản nói: Các sách Mọi ở tỉnh Quảng ngãi, đã có nhiều sách thu phục rồi, vậy những người sung Tổng thống trở xuống hãy về Kinh, về tỉnh làm chức vụ mình.

- Tháng 8, vâng Dụ bảo quân Thứ Quảng ngãi: Tổng thống, Đề đốc, Tán lý, Tham biện trước tiên phải hiểu thị các đồn Mọi ấy, như có sách nào đem trả lại số người và súc vật đã cướp, cùng đưa kẻ đầu tên đến quan xuất thú, triều đình sẽ cho hối cãi. Nếu sách nào không chịu hồi đầu, tức khắc đem binh đến đánh, phá tan hang ổ, kẻ gây tội ác sẽ bị trừng phạt mà kẻ vô tội cũng bị hại lây. - Cùng Tổng thống Trần Tri dâng sớ tâu: Đã nhiều lần vâng hiển thị, trong số sách Mọi có nơi khá biết sợ sệt hối hận, khẩn nài xin cho lần hồi qui thuận. Còn các sách Minh long, Suối Trá, Nước chua, Nước Da thói cũ không chừa, hiện vừa hẹn kỳ kéo đến tiểu trừ. Vâng Chỉ dặn: Việc binh chỉ nghe nói vụng nhanh chứ chưa thấy nói khéo lâu. Bọn ngươi phải tìm cơ hội lo việc tiểu trừ. Sớm báo xong việc. Kính tuân ân chiếu tha miễn các lần phạt bổng .

- Tháng 12, từ Quảng ngãi về sung chức Biện Các vụ như cũ.

- Tháng 9, được lính thị vệ đem ban các món: quế dùng trong Nội cùng dược phẩm Tử Kim đính 53 . Được thị vệ vâng mệnh mang cấp một chiếc áo mùa đông. - Tháng 10, cùng Tổng thống Trần Tri dâng sớ tâu: Bọn ác man ra hàng đã nạp số hán tân 54 gồm 27 tên nam nữ, 30 con trâu. Số lính Kinh và lính bổ vụ các tỉnh đều triệt về. Lấy 1.000 dân lân cận lập làm 2 cơ nghĩa dũng, chia ban hợp với binh lính trú giữ. Số lính lệ đóng giữ các xóm ven cũng đều miễn đóng giữ nữa. Vâng Chỉ dặn: Hiện tại, số biền binh ở quân thứ nhiều người mắc bệnh, biền binh các tỉnh lân cận thuộc lớp phải đi từ đầu hay lúc trưng điều sau đó, đều về Quảng ngãi điều dưỡng. Số còn lại cứ giữ như cũ cho tiện. Vệ binh triều Nguyễn

23


vừa phái người dò xét nhưng quan Kinh lược cũng đã tư lại, tổng đốc An Hà là Cao Hữu Dực đã chỉnh lý theo lệ thường, cùng bàn bạc dự trù, nghĩ cũng đã chỉnh đốn biên cương để phòng bị trước khi xảy chuyện. Nay xin đem nguyên tờ tư ấy trình lên. Châu phê: Nên tư cho biên thần phải trấn tĩnh để xem cơ sự ra sao.

Bính thìn, năm Tự Đức thứ 9 (1856) Ông 44 tuổi. - Tháng giêng, được thưởng gia một cấp. Vâng Dụ nói: Năm trước, ác man ở Quảng ngãi không giữ yên tỉnh, đã sai bọn Trần Tri đốc suất quân binh chọn đường tiến tiễu. Tuy chưa được coi là xong việc nhưng chuyến đi ấy gay go, lam chướng khá gian lao, đã trù tính hay ho để sau đấy nên việc, cũng có chỗ đáng kể. Trong đó có Đề đốc Chu Phước Minh khá là đắc lực, nay chuẩn cho thăng Thự Thống chế. Còn đã sung Nguyên Tổng thống Trần Tri, Tán lý Trần Tiễn..., Tham biện Đào Tứ, mỗi người đều được thưởng gia một cấp để tỏ ý quí trọng.

- Tháng 7, hai bộ Lại và Binh dâng đại kế sách ba năm. Vâng Dụ có một khoản: Tham tri Trần Tiễn ... siêng năng thận trọng, gặp việc thì chu đáo, thưởng gia một cấp. -Can việc phân phối nhầm lẫn số suất đội hậu bổ cho các tỉnh, bị phạt bổng 3 tháng ghi vào sách.

- Tháng 2, vâng sung làm chấp sự lễ Đại tự 54b , được thưởng kỷ lục một lần. Thời hạn 3 năm khóa tích, sách văn ban bên bộ Lại thì cứ tính tại chức đủ ba năm mà không kể là chức gì, còn sách võ ban bên bộ Binh thì tính tại chức đủ ba năm mà phải nguyên một chức ấy. Nội các thấy qui định như thế không thống nhất nên xin giải quyết thu lệ của võ ban bên bộ Binh. - Tháng 3, vâng Dụ chuẩn cho thăng thự Tham tri bộ Binh, sung Kinh diên Nhật giảng quan 55 - Tháng 4, bộ Binh tâu: Việc tuần tiêu của biền binh, lâu nay các tỉnh tổ chức không thống nhất. Nay xin y theo lệ của tỉnh Quảng nam, cứ ba tháng đổi một lần để theo chung một luật cho được vĩnh viễn. Kính xin chuẩn y cho. -Can việc kiểm duyệt phiến phúc trình sai lầm bị phạt bổng 1 tháng ghi vào sách. -Can việc khi làm Các thuộc viết nháp lời chỉ lầm lẫn bị phạt bổng 1tháng ghi vào sách (một điều ở trên đều thuộc tháng 3) . -Can việc thuộc ty viết lời chỉ lầm lẩn không hạch ra được, bị phạt bổng 6 tháng ghi vào sách. -Bộ Binh tâu: Nay tiếp mật tư của quan Kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương các khoản về tình hình bọn mọi. Bộ thần vâng chiếu các khoản, phần nhiều do đồn đãi. Tại Gia định, hiện

Ngày 31-8-1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha dưới sự chỉ huy của trung tướng Rigault de Genouilly đã có mặt tại cửa Hàn (Đà Nẵng) chuẩn bị tấn công .

- Tháng 8, quân Tây dương gây sự ở vũng Sơn chà 56 cửa Đà nẵng tỉnh Quảng nam. Bộ Binh tâu xin tư sức cho tỉnh Quảng nam 24


phái nhiều biền binh ngày đêm tuần phòng, như tàu Tây có lẻn vào bờ biển thì chận hỏi ngay cho chúng biết ta có phòng bị. -Bộ Binh tâu: Càng ngày lính càng trốn thiếu nhiều mà lý do của tệ ấy thì có 6:

lý lẽ ấy mà trình bày cho gãy gọn và vâng theo 00 đã phê mà tùy nghi trả lời. Giả sử có khoản nào trục trặc không hại lắm thì phi báo về Bộ ngay để chờ ban chỉ dụ mới chu đáo thỏa đáng. Châu phê: Chuẩn y.

1/ Tổng lý giấu người giàu mà ép người nghèo.

- Mồng 3 tháng 12 vâng ứng chế bài Luận về sự hiếu danh và bài thơ thất ngôn luật Hà phòng, được chữ Hà, bài thơ ngũ ngôn luật Kinh diên tiến giảng.

2/ Tỉnh, phủ, huyện ít lưu tâm dò xét ngăn ngừa mà cứ dựa vào việc giải cấp của Tổng lý. 3/ Phái giải viên nhận hối lộ thả cho trốn hoặc cho lấy cớ ốm đau ở lại. 4/ Lính tráng du đảng, uống rượu, đánh bạc không có giới chức quản suất. Suất đội, Đội trưởng chứa dấu trong cơ mình. 5/ Quản suất bắt đi làm để lấy tiền, sai phái việc nặng nhọc. 6/ Lúc phải làm việc công trình, bắt phải mua vật hạng giá thấp, bọn lại dịch theo đó làm tệ thêm, tuy có cấp giá nhưng thế không thể không bắt lính đóng góp thêm, những người ở các Bộ, Ty quản suất bắt đi làm dịch vụ để lấy tiền, còn nhũng nhiễu nhiều cách khác nữa. Xin nêu rõ thể chế để cảnh cáo. Châu phê: giao cho cơ quan Đô sát của bộ Binh dò hỏi cho ra sự thực mà trừng trị để khuyến khích. - Tháng 9, bộ Binh tâu: Nay vâng Dụ giao ra cho bọn Trần Hoằng ở quân thứ Đà nẳng dò hỏi tình hình tàu Đa sách của Tây đã trình lên một tập. Bộ thần vâng xét thuyền ấy là của bọn họ kết đảng với nhau chứ không phải là thuyền của Chánh phó sứ, lại cũng không phải là thuyền đưa thư, thì với việc cầu hòa, bọn ấy không can dự gì. Bấy giờ Lê Liệu có nói: sắp tới có làm việc gì do thuyền Đa sách nói ra thì bất quá thuyền ấy giở hàng ở Bỉ đệ. Thuyền Đa sách với ta vốn không can thiệp, nghĩ cũng không cần chuyện trò làm gì. Chỉ khi nào thuyền ấy có nói việc gì thì nên lấy 25


ba năm, để họ ở lại thao diễn ở tỉnh. Hết hạn ấy xin tuân theo bàn định. Riêng Thanh Nghệ đều chiếu theo lệ mà làm. Châu phê: Chuẩn y, bàn định mà làm.

Đinh tị, năm Tự Đức thứ 10 (1857) Ông 45 tuổi. - Tháng 2, vâng sung chức Chấp sự lễ Đại tự, được thưởng kỷ lục một lần. Được ban một bộ Tịch ung canh ca tập.

- Con là Hoài Thanh ra đời. - Tháng 12, can việc thuộc ty sát hạch biền binh Tuyển phong lộn xộn, bị giáng hai cấp lưu.

- Tháng 5, can việc xét bổ suất đội Pháo thủ Thái Đông không làm nổi nhiệm vụ, bị phạt bổng 6 tháng. Tết Đoan dương, được ban yến và các món quà: quạt, khăn bịt đầu, trà, trái cây (vâng sắc dặn thành lệ từ đây trở đi) 57 . -Can việc nguyên lúc ở bộ Hộ không hạch ra việc Công tử Hồng Tự lãnh tiền gạo thêm bớt, bị phạt bổng 2 tháng ghi sách.

Mậu ngọ, năm Tự Đức thứ 11 (1858) Ông 46 tuổi. - Tháng giêng vâng Dụ chuẩn cho thực thụ Hữu Tham tri bộ Binh, vẫn sung Kinh trên nhật giảng quan 55. Bộ Binh tâu: Các thuyền tuần tiêu Nam Bắc cứ lệ tháng hai đi, tháng 7 triệt về, nhưng mấy năm nay vào tháng chạp, tháng giêng các thương thuyền nhiều lần bị giặc biển chận cướp, xin cho sau cuộc duyệt binh, đầu xuân thì phái đi tuần tiêu ngay để tảo thanh mặt biển.

- Ngày 16 tháng 5 nhuần, vâng họa nguyên vận thơ ngự chế 10 bài vịnh cửa Thuận an (Cửa Thuận an - Thành Trấn hải - Lầu ngắm biển - Hành cung - Lưỡng Kiêm lâu - Bãi hến - Chợ Thai dương Xóm chài - Rừng cau - Đồi cát) - Ngày 23, vâng họa 20 vần Thất ngôn cổ thi ngự chế: Lên Quan hải lâu thành Trấn hải đại duyệt châu sư.

- Tháng 2, vâng sung làm Chấp sự lễ Đại tự, được thưởng kỷ lục một lần.

- Tháng 12, can việc điều khiển sai lầm cơ lính nha ở Quảng ngãi, bị phạt bổng 1 tháng ghi vào sách.

- Tháng 3, can việc chọn bổ sai lầm Suất đội Lê Thanh Bỉnh, bị phạt bổng 1 tháng ghi vào sách.

- Tháng 8, can việc sung cử Lê Hữu Thanh, đổi Thự Viên ngoại lang lãnh Lang trung không hợp, bị phạt bổng 3 tháng ghi vào sách. -Can việc thuộc ty xét bổ Suất đội Hồ Vượng trùng lặp, bị phạt bổng 3 tháng ghi vào sách. Can việc hồi ở Các chọn bổ Các thuộc lộn xộn bị phạt bổng 9 tháng ghi vào sách.

- Tháng 4, can việc sót lọt khi trực phiên xin môn bài, bị phạt bổng 2 tháng ghi vào sách. - Tháng 7, binh thuyền nước Phú Lãng sa ủy nhiệm đến nghị hòa, vâng chuẩn cho Quân thứ Quảng nam là Tổng thống Nguyễn Tri Phương, Tham tán Phạm thế Hiển phụ trách giải quyết việc nghị hòa.

- Tháng 11, bộ Binh tâu: Năm trước đã bàn định về lệ lính ở tỉnh về thao diễn ở Kinh là cốt để thuộc đường, tập biết lao khổ, không phải chỉ để dễ trưng điều khi có việc. Vả lại còn để cho họ biết cái đạo nghĩa tôn thân. Việc ấy đã thành phép nước, không thể thay đổi một cách coi thường được. Duy có Bắc kỳ, gần đây lụt lội đáng nên châm chước cân nhắc. Việc Bắc kỳ về Kinh thao diễn xin cho hoãn

- Tháng 8, can việc thuộc ty chép nhầm sắc văn bị phạt bổng 3 tháng ghi vào sách. - Đề đốc thủy sư là Võ Phẩm tâu: Các tàu đồng phái đi đàn áp 58 ở Thuận an, Thuận hòa, nay tiết trời đến mùa bão lụt, xin cho tạm về sông Thanh phước đổ lại. Châu phê: 26


Hỏi gấp Nguyễn Như Thăng. Trần Tiễn... xem có hợp hay không rồi phúc trình. - Tiếp đó, cùng Thống chế Nguyễn Như Thăng phúc trình: Các tàu đồng ấy đều to và nặng, từ sông Thanh phước đến Thuận an, đường sông khá xa, trước đây đã từng chạy đến đàn áp, có lần phải mất đến 3-4 ngày mới có thể đến cửa. Nay muốn chạy về Thanh Phước đỗ tạm thì khi gặp việc cần trưng điều e chẳng khỏi trể nãi. Kính tra xét việc đó, thấy vũng biển chổ chùa Thai dương, lòng vũng rộng rãi, năm ngoái tàu đồng lớn đã từng đổ ở đấy rồi, gặp lúc có gió, lụt cũng chịu nổi, vẫn đỗ yên ổn. Về việc buông neo ba chiếc tàu đồng của Đại chu sư, Tĩnh hải, Định Hải hiện đã sức tập trung về dừng đỗ ở phần sông chổ chợ Thai dương, nghĩ nên giữ lại ở đấy như cũ để sung vào việc đàn áp 58 , đã hỏi các viên Chưởng vệ Thủy sư Hồ Trí, Vệ úy Trần Liệu, Hiệp quản Bùi Vân, Hoàng Biện, ý kiến đều như nhau. Còn như ba chiếc tàu đồng Thần giao, Tĩnh dưng, Thanh hải hiện đỗ tại Lộ châu, Hy du, Thuận hòa, những nơi ấy đường cảng không được rộng lắm mà từ Thanh phước đến đó đường sông khá gần, ba chiếc ấy nghĩ nên chạy về Thanh phước dừng tạm cũng ổn. Châu phê: Bộ hãy chiếu theo phiếu này. Lại vâng Châu phê: vẫn do bọn ngươi gia tâm xem xét giúp đỡ.

CHÚ THÍCH: 1. Tức là cụ thân chức thực thụ mà là công; Cụ qua đời khi Do đó, ở đoạn ta sẽ phủ”.

sinh. Ở đây chức Thượng thư không phải là chức truy tặng cụ thân sinh của Văn nghị đang giữ chức Tri phủ Tân bình - Gia định. gặp câu “ngài Thượng thư được thăng Tri

2. Đoan nhân : danh hiệu phong cho mệnh phụ hàm nhị phẩm (Nhất phẩm: Phu nhân - Nhị phẩm: Đoan nhân - Tam phẩm: Thục nhân - Tứ phẩm : Cung nhân - Ngũ phẩm: Nhụ nhân,v.v.). 3. Thái từ : nghĩa đen là “lớn hiền”, chỉ các bà vợ cả. 4. Tên lúc bé của Văn nghị công. Ong vốn tên là Thời Mẫn, sau được vua Tự Đức ban cho tên là Tiễn Thành (tháng 7 năm Tự Đức thứ 6, 1853), ngụ ý là nên noi gương theo ông Tô Hiến Thành đời nhà Lý để phò vua giúp nước. 5. Tên của cụ Thiêm Sự. 6. Thiên địa thần kỳ : chỉ 4 lực lượng : trời, đất, thần linh trên trời, thần linh dưới đất.

- Tháng 10, dâng phiến tâu: Lần này cái vệ biền binh sung vào việc đàn áp ở cửa Thuận an, xin quan bộ Công chuyển sức cho đốc công Vũ Khế rèn gấp 300 thanh kiếm đem phát cho số biền binh ấy lãnh dùng...

7. Hội thang bỉnh : Tục Trung quốc, sinh con được 3 ngày thì tổ chức bữa tiệc nhỏ để thông báo cho bạn bè, gọi là Thang bỉnh diên (Thang : nước sôi, bỉnh : bánh). Có thể dịch là tiệc trà bánh nhưng lại không đúng với thực chất của tiệc đầy tháng cho đích tôn nhà quan này.

- Tháng 11, can việc thuộc ty cải bổ suất đội trùng lặp, bị phạt bổng 3 tháng ghi vào sách. -Can việc chọn bổ Suất đội Túc vệ là Trần Tuyển không làm nổi chức vụ, bị phạt bổng 6 tháng ghi vào sách.

8. Xem chú thích 1 . 9. Các hành tẩu: hành tẩu ở Nội các. Hành tẩu là chức quan tập sự, thường phong cho người mới đổ thi Hương.

- Tháng 12, can việc thuộc ty chép tên Nguyễn Văn Sương sắc văn trùng lặp, bị phạt bổng 9 tháng ghi vào sách. 27


10. Sứ tuyển: được tuyển vào đoàn đi sứ sang Tàu (Sứ đoàn này bị đình, không lên đường)

20. Yến trâm : cây trâm để cài cho búi tóc được giữ chặt trong mão. Vật dụng đặc trưng của kẻ làm quan. 21. Ngàn hoa trâm : kim cài tóc làm bằng bạc có chạm trổ. 22. Hàn lâm viện biên tu : chức quan nhỏ, hàm chánh thất phẩm (ngang cấp thợ cả bên quân đội hoặc Hạ sĩ giải ngũ của lính tập thời Pháp !) . 23. Sách : sổ lý lịch của quan chức . 24. Giáng lưu : giáng cấp nhưng vẫn lưu lại chức cũ, khác với giáng điều là đi nhậm chức ngang với cấp còn lại sau khi giáng. 25. Thăng thụ : thăng hẳn, khác với thăng thự (tức chỉ phó hoặc quyền chứ chưa có chức thật). 26. Thi Hội ban văn : tức thi lấy Tiến sĩ chứ không phải lấy Tạo sĩ như ban võ (Tạo sĩ thời này gọi là Võ sĩ hoặc Võ tiến sĩ). 27. Vĩnh tế : tức kênh đào Vĩnh Tế, mang tên vợ của Thoại ngọc hầu (Ngọc hầu Nguyễn văn Thoại) có công đào kênh Vĩnh Tế vùng đồng bằng sông Cửu Long, nối liền Châu đốc với cửa biển Hà tiên ngày nay. Vĩnh Tế là tên người vợ chánh của Thoại ngọc hầu (Châu thị Vĩnh Tế). Vua Minh Mạng ban cho tên kênh Châu đốc Hà tiên là Vĩnh tế hà, núi Sam là Vĩnh tế sơn, làng ở chân núi ấy là Vĩnh tế thôn.

11. Chạy qua sân : nguyên văn XU ĐÌNH, lấy ý trong thiên quí thị, 16, sách Luận ngữ : Thường độc lập-Lý XU nhi quá ĐÌNH (Thường đứng một mình, Lý đi vội để băng qua sân). Nguyên học trò của Khổng tử là Trần Cang, hỏi Khổng Lý (tức Bá Ngư, con trai Khổng tử) “Anh có được nghe thêm gì khác không ? Bá Nghi kể rằng bố mình thường đứng một mình trước hiên, anh ta rảo bước qua sân thì có hai lần được gọi lại dặn học Kinh lễ và Kinh thi. Ra về, Trần Cang gật gù “ Hỏi 1 mà đạt được 3: học Thi, học Lễ, lại biết thánh nhân xu cách con họ”. Từ điển cố này sinh ra từ Thi Lễ. Chữ XU ĐÌNH ở đây ngụ ý khen người cha xứng vai nghiêm đường, cũng lạnh lùng với con như Khổng tử đối với Không Lý vậy. 12.

Ngọc hỏa lựu : tức hồng ngọc (ruby) .

13. Kế thuật : nối dõi (kế) và phát huy cái chí (thuật) của các đời trước . 14. Thị độc học sĩ : chỉ ông cố của Văn nghị công, được truy tặng Trung thuận đại phu, Hàn lâm viện Thị độc học sĩ. 15. THÌ : nguyên bản viết phần nữa chữ bên phải ( ) chừa trống bên trái, để tránh phạm húy tên của vua Tự Đức. 16. Gọi theo tên tự : nguyên văn “dĩ tự hành” nghĩa là chỉ dùng tên tự chứ không dùng tên thật trong xưng hô. 17. Thứ trưởng nữ : con gái lớn nhưng do vợ lẽ sinh. 18. Chức quan đứng đầu võ ban, tương đương Tổng tư lệnh ngày nay. 19. Đinh Viết Thận : ở đây chữ Viết được chép rất rõ, còn tác giả Thu dạ lữ hoài ngâm lâu nay thấy tên tác giả là Đinh Nhật Thận. Chữ (Nhật) của tên ông này phải chăng do chính chữ (Viết) nhầm ra? Hay cả hai cùng chỉ một người?

28. Mặt quyển : phần phải giữ sạch, mọi dấu vết trên đó đều bị ghép tội làm dấu (thiệp tích), giám khảo chỉ được phê ở lưng quyển. 29. Nghị tự : Công lao được Bộ đánh giá và đề nghị ban thưởng chứ không phải vua thưởng trực tiếp. 30. giặc tàu Ô.

28

Giặc Thanh : giặc biển người Thanh (Tàu). Đây chỉ


31. Cháy sót : nguyên văn “dư tẫn”. Nguyên vì lý do nào đó, một sô văn bản quan trọng của Nội các bị cháy, thuộc viện nhặt không hết số dư tẫn và sắp xếp không chỉnh nên bị tố cáo.

39.

Tức Thám hoa.

40. Tôn học, quốc học : nơi giảng dạy các ông hoàng bà chúa và quốc tử giám.

32. Âu Dương tử : tức Âu Dương Tu (tập tục nho gia phục ai thì thay tên người ấy bằng chữ Tử).

41. Khuyên, chấm : hai cách đánh giá câu văn của người xưa, dấu khuyên (vòng tròn) dành cho câu văn hay, dấu điểm(chấm) dành cho câu văn tạm được. Câu văn thật hay thì khuyên thật nhiều. Do đó có thành ngữ “Khen vung xích chó”. Trong trường hợp xét văn bản các quan trình tâu, nếu văn bản không quan trọng, vua phê : Biết rồi (Tri đạo hữu); nếu đáng chú ý, vua điểm dấu chấm lên câu văn gợi sự chú ý, nếu trình những việc đã được giải quyết tốt, vua làm dấu khuyên trên đó.

33. Những dấu 00 có cái ở trong câu văn, có cái nằm bên cạnh dòng chữ, vốn là những chữ phải dùng phép Đài , nhưng không rõ vì lẽ gì thư thủ đã lơ đễnh không đài, khi kiểm tra lại mới bổ sung bằng những dấu ấy. 34. Cô nhạn nhập quần, xuất quần : nhạn lẽ nhập bầy, nhạn lẽ rời bầy. Cách nói bóng bẩy để chỉ một thủ pháp văn học.

42. Vô vị : Không hợp lẽ, bất tiện cho việc dạy và học, đừng nhầm với sự không kích thích vị giác.

35. Học cách đi, bắt chước cách nhíu mày : nguyên văn Học bộ, hiệu tần - Học bộ, nói tắt thành ngữ Học bộ Hàm đan, chỉ việc xưa có người nghe đồn dân Hàm đan (Kinh đô Tần) có dáng đi thanh lịch bèn đến đấy học, rốt cuộc chẳng những không đi theo được dáng người Hàm đan mà còn không giống cách đi vốn có của mình nữa. Hiệu Tần : bắt chước cách nhíu mày : nàng Tây Thi nhíu mày càng đẹp thêm, nàng Đông Thi bắt chước thì cái xấu của mình càng rõ thêm. Cả hai đều là ngụ ngôn của Trang Tư (Theo chương Thiên Vận trong Nam Hoa kinh thì khi Đông Thi “hiệu tần”, người giàu đóng cửa sổ trong nhà, người nghèo bỏ cả vợ con trốn đi... ) .

43. Lời phê này hơi tối, người dịch hiểu vấn đề như sau: triều đình chỉ thị mua sách, các tỉnh mua theo chỉ thị được 162 bộ, mua ngoài thư mục 62 bộ. Số dôi ấy không trả lại mà mua luôn. 44. Bí thư các : tên gọi này lúc đầu chỉ chung bộ phận văn phòng, từ giữa đời Minh mệnh mới tách ra hai bộ phận : Nội các đảm nhiệm mọi việc văn phòng, Bí thư các chỉ còn giữ nhiệm vụ bảo tàng sách vơ, tư liệu. 45. Nhà con cửa lấp : nguyên văn “chuyên thất bồng lư” (nhà nhỏ, cửa mọc toàn cỏ bồng), ý nói nơi ít khách tới lui, chỉ tiệm sách tẹp nhẹp, ế khách.

36. Thiên chương : các nguồn sáng trên trời : mặt trời, mặt trăng, tinh tú.

46. Tiên : tên hai thể văn : a/ bình luận, giải thích ý cổ nhân. b/ tấu ký (dâng lên vua hoặc thân vương, hoàng tử) . 47. Mân tiền : loại tiền có mệnh giá rất lớn, ít lưu hành ngoài thị trường, mỗi đồng ăn một quan, tương đương 60 đồng tiền ăn 10 hay 120 đồng tiền ăn 5 hoặc 200 đồng tiền ăn 3. Mân tiền khi sứt mẻ không dùng được phải gửi về quốc khố.

37. Lê táo sống lâu : những giống cây có chất gỗ dẻo, khắc ván in không bị vênh, do đó khi trở thành bản in chúng được bảo quản lâu hơn ngoài thiên nhiên . 38. Thư thủ : người lo việc sao chép. Do đó có tên gọi là thư lại (chức quan nhỏ lo việc biên chép) .

48. 29

Quyên miễn : hủy bỏ đi.


49.

Diên Khánh công trở thành Diên khánh vương.

58.Đàn áp : Giữ vững tình hình yên tĩnh và trực chiến (nghĩa cổ) - một dạng hành quân dã ngoại. Do câu “bao la thiên địa, đàn áp sơn xuyên”.

50. Tập tự : các quan dâng lên vua để trình bày vấn đề gì đều gọi chung là tập tự (tập : xấp; tư: kê ra) .

***

51. Tiễu phủ (tiễu: đánh diệt; phủ:vỗ về): ý nói nhận xét tình hình tại chỗ mà đánh hay đàm. 52. Quân thứ : quân trú đóng ngoài đồn lũy. Theo Tả truyện, đóng 1 ngày gọi là xá, đóng 2 ngày gọi là tín, đóng quá tín gọi là thứ . 53.

Tử kim đính : loại thuốc bột thoa vết thương.

54.

Hán tân : dân trẻ, khoẻ.

54b. Đại tự : Lễ cúng lớn nhất hàng năm. Đối tượng gồm trời đất, thái miếu, xã tắc, tiên sư, Khổng tử. Lễ vật có : ngọc, lụa, sinh tuyền [tam sinh (trâu, dê, lợn) rặt màu chứ không lang] . 55.Nhật giảng quan : chưa tra cứu được nghĩa. Xin tạm suy luận : a/ Quan giảng về Lịch học b/ Quan giảng dạy ban ngày (?) nếu Kinh diên có chức... Dạ giảng quan ! Theo tập tục hàng năm vào hai tháng trọng xuân và trọng thu (tháng 2, tháng 8) vua quan tập trung giảng và nghe giảng. Đích thân vua giảng hoặc ngự luận. Phải là đại thần mới kiêm hàm giảng quan này. 56.Sơn chà hay Sơn Trà : địa danh chỉ bán đảo thành phố Đà Nẵng. Sử chữ Hán thường dịch ra thành Trà Sơn, tương tự Bản tân (Bến ván), Thạch tân (Bến đá). Theo dân gian thì cuộc khiêu khích này xảy ra ở Vũng Thùng : Tai nghe súng nổ cái đùng - Tàu Tây đã đến Vũng Thùng bậu ơi ! (tàu đậu Vũng Thùng thì súng nhắm vào đồn Nhất của Hải Vân) . 57.Chi tiết quan trọng : Ông Văn nghị được chọn làm “Khách” vĩnh viễn.

30


****************************************

NIÊN BIỂU VĂN NGHỊ CÔNG TRẦN-TIỄN THÀNH (1813-1883)

minh họa lịch sử xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp

**************************************

* NGUYÊN VĂN TIẾNG HÁN (1894) : MINH XUYÊN TRẦN -TIỄN HỐI * DỊCH VIỆT VÀ CHÚ THÍCH (1994) : VŨ BẠCH NGÔ * SỬA BẢN VI TÍNH (8/2001) : TRẦN – TIỄN TIẾN

**************************************

Quân Pháp tấn công và đổ bộ bán đảo Sơn Trà (1858)

31


giáp, về dân tình, việc biên giới đã vâng chịu trách nhiệm cao, có thêm sự phụ lực để gia tâm giải quyết thỏa đáng. Nay nếu phái binh ngừa chận khiến dũng khí của dân kết khoẻ lại, rất e dễ xảy ra bạo động, chuyển thành chưa tiện. Về hai tỉnh ấy, xin nên dừng việc phái binh. - Bộ Binh tâu: Vâng theo châu phê, tỉnh Quảng ngãi đã tập hợp số tĩnh man 59 nhiều đến 3-4 cơ mà ở tỉnh thóc gạo ít ỏi, Bình thuận, Bình định hiện trữ nhiều hơn, nên rút đưa bớt qua Bình định, Bình thuận mỗi nơi một cơ trú đóng, chọn Suất đội làm Quyền Hiệp quản vụ cho đủ mỗi cơ hai người, một là để lấy lương thực của tỉnh nuôi quân, hai là để tiện gần gũi, dễ trưng điều. Bọn thần tuân mệnh kính tra số tĩnh man của Quảng ngãi có 8 cơ biền binh, có hơn 3.400 tên, một ban lưu ngũ, hai ban nghĩ ngơi ở Quảng ngãi, biền binh tả vệ hơn 500, thủy vệ hơn 500 mà các cơ tĩnh man thì chiếu theo liên lạc dân cư mà bắt hết cha con anh em đều ở trong đó chứ không như tả vệ, thủy vệ, ba người trai chọn một.

Quân Pháp tấn công thành Gia Định 2/1859

Thần, Trần Tiễn ... trước đây sung vào việc mộ lính ở hai tỉnh ấy, từng thấy các cơ biền binh đó không đắc lực bằng tả vệ, thủy vệ. Bọn thần trộm nghĩ, nếu lấy hai cơ tĩnh man phái đi trú phòng Bình định, Bình thuận, rất sợ các tỉnh ấy gánh không nổi, lại không đắc lực mà hai cơ phái đi thì một vài tổng hoặc 3-4 tổng hóa ra lẻ loi trống trải càng e có trở ngại. Vẫn kiểm tra thấy tỉnh Bình định vốn có số biền binh hơn 2440, giữ kho hơn 200. Đã phái bớt 2 cơ đi Gia định gồm 1000 người, còn lại hơn 1700, cùng với đạo Phú yên hơn 800. Tỉnh Bình thuận vốn có các sắc biền binh hơn 1800 người, đã phái bớt qua Biên hòa 300, Gia định 500, còn lại 1000 là số quá ít.

QUYỂN II Kỷ mùi năm Tự đức thứ 12 (1859) Ông 47 tuổi.

- Tháng giêng, lính Tây đánh chiếm thành tỉnh Gia định. Can việc viết phiến làm lộ lời Dụ về việc Nguyễn Viết Thành được dự thưởng, bị phạt bổng ba tháng ghi vào sách. Vâng chỉ cho dùng chức cũ sung Tham biện Cơ mật sựư vụ. - Bộ Binh tâu: Kính vâng châu phê: Từ Long Tường vào Nam đều chọn hạt phái lính hương dũng Đoàn kết ngăn chận nghiêm ngặt thêm, đóng kín đường sông không để xảy ra việc lấn qua được. Bọn thần trộm nghĩ : tỉnh An giang là thượng du mà Hà tiên ở bên trái An giang đều khá xa Gia định, lại chính là địa đầu tiếp

Nay nghĩ nên chọn rút hai viên Quản vệ đắc lực mang biền binh tả vệ của Quảng ngãi vào Bình thuận đồn trú, nếu quân thứ Gia định có trưng điều thì cũng gần đường hơn. Phái sang Biên 32


cát 15 điểm vọng lâu, từ xã Thai dương hạ đến xã Lãnh thủy gồm 7 xã ấp, nghĩ nên đặt 7 điểm vọng lâu, mỗi chỗ đều bày một giàn lửa, do các xã, ấp, thôn, giáp, phường cắt nhau canh giữ, như thấy tàu Tây đi qua hải phận, ban ngày thì lấy 1,5 thước vải đỏ làm cờ mà phất, đêm lấy đuốc lửa mà huơ, cái vọng lâu kế đó cũng huơ theo. Nếu quân rợ ấy dám dùng tam bản ghé vào bờ biển để đổ bộ, tức thì đốt ngay giàn lửa, các giàn kế đó cũng đốt lên theo nhằm khiến cho quan binh trấn đóng ở hai cửa Thuận an và Tư hiền sớm phòng bị trước.

hòa 300 người của Bình thuận, phái đi Gia định 500 người của hữu vệ Quảng ngãi, 2 cơ gồm 1000 người của Bình định, 500 người của Bình thuận, 500 người của Khánh hòa, 350 người của kinh thú 60 một vệ 500 người của Trung bảo 61 cọng là 3650 người, còn lại số biền binh của Biên hòa và Gia định tưởng cũng đủ cung cấp cho việc đánh dẹp. Số 8 cơ tĩnh man xin chia làm hai ban tập trung mỗi ban một nữa số cơ, 4 cơ ấy được huấn luyện phòng giữ. Vẫn trích lấy một cơ 500 tên về tỉnh thay phiên cho Tả vệ đồn trú để chờ sai phái ổn tiện hơn. Còn như số lính ở Bình định còn lại nhiều, nghĩ nên để đấy sau này sử dụng tiếp. Bọn thần nghĩ cạn như thế, không dám ngậm thinh. Đúng hay không xin vâng chờ Dụ. Châu phê: Cũng hợp lý.

Lại các lũy Qui lai, Thuận hòa trở xuống như đã trình bày ở trước, xin nên dựng lũy đất theo từng đoạn. Thần vâng khám hai xã Hải trình, Hy du, bờ sông cách với mặt sông 70 trượng, dọc hai bên bờ nên đắp lũy đất mỗi bên một sở, mỗi sở dài 8 trượng, nền lũy cao 2 thước, rộng 1 trượng 5 thước, thân lũy cao 6 thước, mở 5 cửa súng đều quay ra lòng sông. Từ bên trong lũy bên phải của Qui lai đến lũy Hải trình dài hơn hai trăm ba mươi trượng, từ bên trong lũy tả của Thuận hòa đến lũy Hy du dài hơn 210 trượng, gần đây hai bên bờ ấy hiện có lúa non, xin chờ lần hồi sẽ khởi công.

- Tháng 2, vâng chỉ chuẩn y cho cùng Thống chế Hữu dực doanh Vũ Lâm là Nguyễn Như Thăng xây dựng các thành lũy ở Thuận an. Tạm đình việc giảng bài ở Kinh diên (vì càng ngày việc quân ở hai thứ Quảng nam, Định biên càng căng thẳng) . Đắp ba lũy đất ở Hy du, Lộ châu, Hải trình tại cửa Thuận an. Vâng đem đại bác đặt trên bè nổi bắn thử 62 . Vâng đặt súng đồng Chấn địa lôi ở các đồn Thuận an, thêm lính trấn giữ. Vâng chỉ cho Chưởng vệ Thủy sư Mai Viết đem 500 bảo binh đến trú đóng đồn Thanh Phước, luyện tập chiến trận thủy bộ, giao Nguyễn Như Thăng, Trần Tiễn ... lui tới chỉ bảo. Dâng phiến tâu: Số thuốc súng vốn để ở thành Trấn hải đã lâu năm nên đổi bằng thuốc mới, còn thuốc cũ có bao nhiêu xin giao cho số biền binh hiện vâng sai phái đem giã khô cho đúng phép và hợp thức đặng trữ.

Còn xứ Cổ cò của xã Thuận hòa, xứ ấy tiếp liên với đường cái quan, chọn ra gò đất trong rộng 15 trượng, ngoài rộng 10 trượng ba mặt có sông bao bọc quanh, nghĩ nên dựng một lũy đất dài 10 trượng, nền lũy cao 2 thước, rộng 2 trượng, thân lũy cao 6 thước, mở 7 cửa súng, một phần hướng ra cửa nơi thuyền bè phải qua, một phần quay ra xứ Cửa lấp xã Thai dương thượng, cách mặt sông hơn 280 trượng, nếu đặt súng Thảo nghịch trung tướng quân , sức đạn có thể bắn tới. Lại phía mặt trời lặn của xã Hải trình thuận tiện cho việc phòng bị, chỉ nên thêm phần cẩn thận mà thôi. Hiện tại số biền binh ở Thuận an đủ để phòng giữ, nay nếu phái thêm làm cho quân số nhiều hơn thì việc cư trú, ăn dùng chưa được tiện lắm.

- Dâng phiến tâu: Từ xã Hòa Duân ở cửa Thuận an chạy về Nam đến cửa Tư hiền gồm 17 xã, ấp, thôn. Từ Thai dương chạy ra Bắc đến cửa Việt an gồm 22 ấp, xã, giáp, thôn, phường đều có hải phận, thần đã khám qua, tùy đường xóm xa gần mà lượng đặt vọng lâu, giàn lửa, cốt khiến cho đây đó trông thấy nhau để báo động. Trừ ấp Lộc an ở ngoài cửa Tư hiền còn thì từ thôn Đông dương đến xã Hòa duân gồm có 16 xã, thôn, ấp, nghĩ nên đặt trên các cồn 33


Tra thấy xã Thanh phước ở vào quảng giữa mà xã ấy nguyên đã có một dãy nhà dài cho biền binh cư trú, lại có đất trống để huấn luyện biền binh, xin nên phái ra một viên thống chưởng đem một vệ biền binh 500 tên, đầy đủ khí giới cùng 10 chiếc lê thuyền 63 đi biển, sang trú đóng ở xã ấy trước, vẫn do viên thống chưởng nọ huấn tập trận trên bờ, trên nước cho được tinh thục, nếu Thuận an có chuyện phòng bị thì viên thống chưởng nọ sang trước ứng phó cho được nhanh chóng. Còn 3 lũy ở Qui lai, Thuận hòa, nguyên đã đặt 23 đại bác các hạng, đã phái 50 biền binh, 1 suất đội, 10 thần cơ bác thủ, 1 đội trưởng, chia phái cho mỗi lũy chỉ 20 tên, nay xin phái thêm hai suất đội, 100 biền binh, gồm cùng số nguyên phái một suất đội, 50 biền binh thành ba suất đội, 150 biền binh, chia ra mỗi lũy 1 suất đội, 50 biền binh. Xin phái thêm một suất đội thần cơ, 2 bác thủ đôi trưởng, 33 bác thủ, gồm với số nguyên phái cọng thành 1 suất đội, 3 đội trưởng, 43 bác thủ để sung mỗi cỗ hai tên theo đúng lệ, cùng xin phái ra một viên quản vệ để kiêm quản biền binh 3 lũy ấy huấn luyện đúng kỳ cho được am hiểu thông thạo.

mua sẵn tre tươi, tranh tươi 1.500 gốc dự trữ, kết mỗi bè trên dưới 100 cây chia đặt dọc hai bờ sông mỗi bên 5 bè, cái nọ dắt cái kia, gặp lúc thì đẩy ra, tưởng cũng chắn tạm được. Lại xin lãnh đá núi ở các đồi chuyển đến chia đặt ở bờ sông hai xã ấy, gặp lúc thì tùy tình thế mà ngăn chận cho được tiện tay, đầy đủ như đã nói ở trên. Các việc đắp lũy, đặt súng đại bác, sắm chế ngựa gỗ được chấp thuận thì xin phái đến một quản vệ, hai suất đội, 100 biền binh lo liệu. Đó là ý kiến ngu dốt nông cạn của thần, cúi chờ huấn thị để vâng đấy mà lo liệu. Châu phê: Trong phiến nên phái binh nào thì bộ Binh bàn định mà phúc đáp. - Dâng phiến tâu: Nay thần vâng khám các xã, thôn, ấp, phường, giáp ven biển, từ thôn Đông dương ở cửa Tư hiền cho đến xã kế sung, từ bờ biển vào trong sông đều xa xôi, từ xã Cử lại đến xã Hòa duân so với Đông dương đến kế sung khá thua kém nhưng đụn cát cao hơn, phía trong từ xã Thai dương hạ đến xã Lãnh thủy, từ bờ biển vào trong sông khá gần mà đụn cát cũng cao thấp không đều, dùng tam bản có thể vào được . Thần thiển nghĩ rằng giặc Tây rất hung hăng ranh mãnh, chỉ lấy thuyền bền súng tốt làm hơn thì khống ngự chúng, thế tất phải có sức súng bắn cho tới tàu chúng mà đồn bót lại ỷ dốc 64 nhau mới là đắc lực. Xem ở sách Hải quốc đồ chí đã chép thì những đài đặt súng ở ven biển chỉ đủ để làm cái cây làm đích vẩy gọi người ta đến đánh chứ không có tí ích lợi nào cho việc chống giữ. Lại nói: có cả núi ghe, có thành ngăn cách bờ biển, khi đại bác đến được thì thành cũng vứt đi. Lại cũng vì đại bác của chúng mãnh liệt, chúng bắn đến ta, ta bắn không đến chúng mà đạn nổ rất là lợi hại như vậy. Nhưng theo kinh nghiệm những lần tàu chúng đi qua hai cửa Thuận an và Tư hiền làm càn, bắn vào trong sông, viên đạn có đường kính 4-5 tấc, sức súng đã xa, viên đạn lại lớn thì cuốn đồ chí ấy không muốn đặt đại bác dọc biển thực đã am tường kỹ lưỡng bọn mọi ấy vậy. Thế cho nên bàn cách chống giữ chỉ qui vào một lời là không chi bằng giữ trong sông mà thôi.

Lại vâng khám đường sông từ Qui lai, Thuận hòa cho đến Cổ cò và mặt trước hai lũy Qui lai, Thuận hòa cách nhau 50 trượng, mặt sông rộng 61 trượng, đường cửa sông sâu hơn 10 thước, bên trong bờ từ xã Hy du đến xã Hải trình rộng 70 trượng, cửa sông sâu hơn 8 thước, không sâu cho lắm mà 2 lũy từ Thuận an đến Qui thuận đường sông khá xa đến khi phòng bị nghĩ cũng kịp việc. Xét nên chiếu lãnh về cho các vệ vâng giữ 50 thớt ngựa gỗ, chế thêm 20 thớt ngựa gỗ cao và dài, hai đầu đều có móc sắt, chia đặt ở bờ sông hai xã Hy du, Hải trình gặp lúc thì có sẵn mà phòng bị bằng cách từ các lũy đó, biền binh đem mấy thớt ngựa gỗ ấy ra, thứ nhỏ thì ném xuống chỗ cạn, thứ lớn thì ném xuống chỗ sâu cho được hai, ba lớp, lấy móc sắt móc chặt nhau cho các ngựa gỗ ấy cách mặt nước 1 thước hay 5 tấc cho mũi nhọn của gỗ so le răng chó, chế ngự được vững chắc cùng với 2 lũy Qui thuận đã nói trên thì 34


nghĩ cũng nên tùy tình thế mà bó hẹp lại cho dễ ngăn chận, xin để các quân liệu phái biền binh lên núi đốn lấy các loại tre nứa cây lá gai góc rậm rạp dài từ 3-4 thước đến 7-8 thước cho thật nhiều, tải đến sông ấy trồng xuống từng quãng hai bên sông làm chuôm. Cần làm cho được 3-4 quãng quanh co theo đường cảng khiến cho không thể đi nhanh, mỗi quãng dài một trượng, chừa cửa trống giữa lòng cảng chừng năm ba trượng cho tiện thuyền quan quân qua lại. Loại chuôm như thế rất dễ làm, trong mươi ngày có thể xong mà lòng cảng lại được quanh co thắt hẹp, lúc cần có thể ném ngựa gỗ xuống ngăn chận càng chắc.

Vả lại, đất nước ta đều là bờ biển, các cửa biển sâu rộng nên không thể không giữ. Nếu một dải cát trắng ngăn mặt biển, đắp lũy đặt súng, e có kém tiện lợi mà chỉ đắp 1-2 lũy, đặt súng 5-6 cỗ thì thế hơi cô đơn lại có mối lo chia nhỏ lực lượng. Đến như lũy cát xứ Cửa lấp của Thai dương, đo từ chân cát ngoài biển rộng vào đến mé nước trong sông dài 78 trượng, lũy cát ấy, hai bên tả hữu khá cao, ở giữa khá trũng, đồi cát nhô lên rạp xuống so với đụn cát hai bên thua kém trên dưới 5 thước. Đo từ đụn cát phía tả tới đụn cát phía hữu dài 205 trượng, lại đo từ đụn cát phía hữu đến thành Trấn hải dài 615 trượng, trước đây thần đã khám đi khám lại, suy đi tính lại, nếu bọn rợ kia vào bằng tam bản, lên bờ chỗ ấy thì từ đó chạy đến thành Trấn hải hơn 600 trượng, sức chân đã đuối, huống chi khoảng giữa cách dân cư xã Thai dương hạ đến hơn 120 trượng, giữa các vườn nhà còn có xen thêm nhiều đụn cát mấp mô khó đi cho nhanh, chỉ có hai đường là ngoài biển với dọc theo bờ trong sông, bọn rợ ấy có tinh ranh đến đâu há không sợ quân ta mai phục chận lối hay sao ?

- Dâng phiến tâu: Đại bác là thứ rất quan trọng trong việc dùng binh, nhưng họng súng cao hay thấp, xê sang trái sang phải không thể qua loa có lệ mà cần có tài bắn. Muốn bắn trúng, thiết tưởng không phải rành thuộc thì không làm được, mà muốn rành thuộc tất phải thường luyện tập: luyện tập tất phải bắn nhiều thì mới biết tài khéo được. Đó chính là cái nghề sinh trưởng của giặc Tây. Chúng cứ lần lượt bắn bừa đã nhiều lại nhanh đến nỗi không trúng đó cũng trúng đây chứ còn chẳng thể mỗi bắn mỗi trúng được. Huống chi ngày thường luyện tập chỉ có bắn bông 65 rất đỗi có khi mắt không thấy sức súng, tai không rành tiếng súng, há có thể nói là rành thuộc được sao? Nhìn kỹ ra, trong các loại súng, loại Chấn địa lôi rất là lợi hại mà việc chế liệu 66 đạn so ra khó hơn các loại súng khác, ít có người được luyện cho rành. Nay giặc Tây nuôi lòng ác bạo, mà nghe nói tàu của chúng lại bền chắc, trong tàu lại có ngăn, nếu đại bác bắn vào ngăn này thì ngăn kia vô can, có bắn trúng được kho thuốc thì mới cháy tan, bắn trúng buồng máy mới khó cho chạy. Cầu mong trúng như thế rất e quá khó, huống chi cỗ súng dài, lớn mới bắn được xa chỉ có đế súng nặng hơn, sau một phát lại phải đẩy tới mới bắn nữa được, mà một lần đẩy lôi quay trái quay phải cần đến nhiều sức người thật là chậm chạp.

Nếu như bọn rợ ấy khiêng tam bản vào trong sông để quấy rối mặt sau thành Trấn hải thì trong sông đã có binh thuyền chực sẵn mà bốn mặt hải thành đều có đại bác, Cáp châu ở bên trái cũng có thể bắn lên lòng sông, huống chi quân rợ ấy vốn lấy thuyền lớn làm tính mệnh mình, tam bản hạng nhỏ há dám rời xa, mà tam bản cần phải có đại bác thì mấy người khiêng mà đi nổi qua đoạn cát rộng hơn 70 trượng, không sợ ta bắn chận hay sao ? Nếu như vâng lệnh đắp lũy đặt súng rất e phí tổn nhọc người, lại vẫy cho chúng bắn đến. Trước đây đã kính xin khơi ngòi cát, đắp lũy cát để tiện nấp bắn khi xảy chuyện, việc ấy thần đã châm chước tùy theo địa thế mà tính đường phòng bị, thực không dám khinh suất chút nào vậy. Thần có chút ý kiến ngu dốt như thế, dám mạo muội trình bày ngay, cúi mong rõ thấu cho. Châu phê: Chuẩn y cho lời xin liệu ấy. - Dâng phiến tâu: Vừa rồi kính xin chế sắm ngựa gỗ để ngăn chận lòng sông hai xã Hải trình và Hy du, nay trộm thấy các lũy từ Qui lai, Thuận hòa đến xứ Cổ cò, đường sông hai bên khá cạn, 35


phạt mà ganh đua phấn đấu để am tường nghề ấy. Có được thật nhiều người thì lúc dùng mới mong có người đắc lực vậy.

Thần hay tính mãi, thấy muốn phá tàu chúng thì chỉ có Chấn địa lôi mới đắc lực, bởi vì Xung tiêu bác có đế nặng hơn, bắn xa cũng chỉ đến bốn năm trăm trượng, nếu bắn nhiều đạn ấy, may được một quả rơi vào tàu chúng, nổ tung toé ra bốn phía cũng đủ gây hại hơn đạn chiến rất xa. Chỉ có việc thao tác chế biện đạn Chấn địa lôi đã khó mà tống đạn vào súng cũng chẳng hề dễ. Nếu quá cứng thì đứt đường thuốc, nếu quá mềm thì xốp đạn, huống chi, lúc phóng ra phải có chuẩn mực xa gần khó mà nhắm đúng, nếu không phải là thường ngày quen bắn cho mắt tinh tay lẹ thì thật khó mong cho khỏi bắn suông. Trước đây đã vâng chuẩn cho quản cơ Lê Hòa chế tạo 100 viên đạn Chấn địa thật đã tuyệt vời 67 !

Lại vâng xét sự nhanh, chậm, gần, xa của sức súng cũng quan hệ với sự tinh thô của thuốc súng nữa. Xét ra hằng năm giã luyện thuốc súng hạng nhỏ 5 độ, hạng nhỏ 4 độ, hạng lớn 3 độ, lưu trữ một vài năm sức thuốc giảm bớt, không còn đạt nguyên độ đến nỗi mỗi lần bắn thử đều phần nhiều phải nhồi thêm rất hao phí, chỉ có giã luyện được tinh thì các thứ diêm tiêu lưu huỳnh tất phải sàng bỏ các thứ lẫn lộn, đãi bã đi, sau đó mới đạt tốc độ tinh, tuy một lần sàng đãi không phải là không bay hao quá lệ nhưng thuốc súng đã tinh thì lúc bắn ít phí mà sức bắn mạnh mẽ, lòng súng không mất công lau chùi, sức súng có thể mãnh liệt. Lấy cái nọ bù cái kia, tưởng không hao phí cho lắm. Các dược trường của thủy lục quân ở Kinh đô gần đây đã bắt đầu giả thuốc, nghĩ nên giao quan Đốc biện là Tôn thất Cúc quyền chưởng ấn triện dinh thần cơ, chuyển sức chỉ thị phương pháp giã luyện cho Cai đội Nguyễn Sung gia tâm chế biến giã luyện thật lực. Về thuốc súng, lệ cũ 5 độ thì giã cho được 7 độ, 4 độ thì phải cho được 6 độ, 3 độ thì phải cho được 5 độ, vẫn phải hội đồng các Khoa, Đạo, Bộ, Ty cùng chung mắt kiểm xem phải làm như thế nào để có được thuốc thật tinh, cứ theo thực tế mà thu nhận, nếu có sự phao phí hay xâm phạm hao hớt bị phát hiện, xin nên tăng mức trừng phạt để cho thuốc súng được tinh, bắn nhanh và lợi. Thần ngu dốt nông cạn, có ý kiến trên chưa biết đúng sai, cúi chờ xét định để Bộ của thần trích ra lo liệu. Châu phê: Nói khá hết lòng. Y theo lời xin, giao bộ Binh cân nhắc nghĩ lại cho minh bạch rồi bẩm lại để tiện ghi nhớ liệu biện.

Nay nghĩ nên để cho kẻ am tường Chấn địa lôi là Lê Hòa cùng với các viên Cai đội, Suất đội lãnh vỏ đạn ấy, nhét cát vào , miệng đạn thì chế bằng giấy pháo hoặc cách nào đó khiến cho bắn được đến độ thử nghiệm xem có khai phá không, rồi tra thuốc y như đạn thật, vẫn chọn những lính hộ vệ cảnh tất cùng những người sung vào lính thần cơ đại bác chừng 4-5 mươi người mắt còn khỏe mạnh dạy cho biết chuẩn độ phóng xa, lãnh thuốc đạn cùng đem đạn giả ấy và các loại súng Xung tiêu, Phá địch ra bờ cát nhắm chừng mà bắn mỗi người ba phát, rồi thu đạn đã bắn đem riêng về chế lại. Mỗi người cần bắn 5 lần, gồm 15 phát, cho được sành sõi. Hạn trong một tháng thì xin quan khảo hạch riêng mỗi người 3 phát. Người nào ba phát đúng y độ là ưu, 2 phát là bình, 1 phát là thứ. Các viên huấn luyện chiếu theo số học tập chia làm ba thành, như được dự vào 1 thành đều dâng phiến phúc trình, riêng vâng hậu thưởng để tỏ khuyến khích. Người nào chưa rành cùng huấn luyện chưa đạt một thành, xin hãy ghi lỗi 1 lần, tháng sau đó khảo hạch lại. Nếu người nào hai lần đều chưa rành thuộc xin nên phạt roi 50 khiến về đội cũ chọn lại người khác học tập. Các người huấn luyện hai lần đều kém thua một thành, xin phạt lương ba tháng. Như vậy thì người ngoài đều biết sự khuyến khích và trừng 36


- Tháng 3, kính vâng Dụ chuẩn y cho rời việc Cơ mật Binh bộ, chuyên trú tại cửa Thuận an để đối suất việc phòng bị. Can việc suất đội Võ Văn Thơ kết đạn lẩn châu, thuốc không tinh, hạch không chu đáo, bị phạt bổng ba tháng ghi vào sách. Dâng phiến trình: Tra số bộ binh, thủy binh sung đến đàn áp ở cửa biển này có mang theo 58 cỗ Quá sơn bác, trừ số chưa đặt ở các thuyền là 46 cỗ, hiện còn 12 cỗ và 5 khẩu Thần công. Nay xin thêm 3 cỗ Quá sơn bác, 10 khẩu Thần công để đủ số mỗi hạng 15 cỗ, khẩu. Châu phê: Từ nay cứ tính thêm như vậy cũng được. - Dâng phiến tâu: Kính xét cửa Thuận an là biên cương quan yếu của mặt biển mà đạn Chấn địa lôi là lợi khí rất cần thiết, xin lãnh 3 khẩu súng đồng Phá địch trung tướng quân trong đó một khẩu tâm kính 4 tấc 4 phân, nòng dài 1 thước 5 tấc 9 phân , hai khẩu tâm kính 4 tấc 4 phân, nòng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; hai khẩu Xung tiêu đồng bác, đạn tâm kính 3 tấc 5 phân, nòng dài 1 thước 4 tấc 3 phân gồm thành 5 khẩu cùng lãnh đạn Chấn địa lôi do Quản cơ Lê Hòa chế mỗi khẩu 5 viên gồm thành 25 viên, nếu thiếu thì chế thêm gấp, gửi về Cửa đặt, cùng xin phái cho 7 đội thần cơ tiền vệ, Thự cai đội Nguyễn Chơn cùng 4 người rành bắn Chấn địa lôi đến cửa ấy để nghiêm túc việc phòng giữ. Lại lũy Cáp châu vốn đã đặt 6 cỗ đại bác, nay hai bên tả hữu đắp nối thêm lũy cánh để phòng giữ đường sông cùng đắp thêm lũy mới ở Cổ cò, mở 7 cửa súng, hiện đã làm xong. Bờ sông hai xã Hy du và Hải trình đều mở mỗi nơi 5 cửa súng, hiện đang tiếp tục công việc. Nghĩ nên lãnh thêm số súng hiện đặt ở hai bên Tả hữu xưởng Tướng quân là 15 khẩu súng đồng Vũ uy, Thắng uy, nòng đều dài ba thước, tâm kính đều hai tấc hai phân, 7 khẩu súng đồng Oanh sơn, trong đó 4 khẩu tâm kính 2 tấc 6 phân, nòng dài 4 thước 7 tấc 5 phân, 2 khẩu nòng dài 3 thước 8 tấc 8 phân, trong đó 1 khẩu tâm kính 2 tấc 5 phân, nòng dài 3 thước 9 tấc 7 phân, 2 khẩu tâm kính 2 tấc 4 phân, nòng dài 3 thước 8 tấc 8 phân, năm khẩu súng đồng Bình ngụy đại tướng quân, tâm kính đều 2 tấc 6 phân, nòng đều dài

Bản đồ cửa Hàn (Đà Nẵng - Tourane 1859)

37


gia tâm trù liệu, mở lòng thành mà nhận việc để giúp nước mà thôi ...

3 thước 8 tấc 4 phân, cọng gồm 27 khẩu, xin phái biền binh, thần cơ với biền binh thủy sư do Đề đốc Võ Phẩm liệu đưa ghe thuyền lấy đem về đặt các lũy. Còn lũy Cổ cò, xin phái một suất đội, 50 biền binh, hai lũy Hy du, Hải trình xin phái cho mỗi nơi một suất đội, 25 biền binh, khí giới đầy đủ, đều do Thống chưởng thần cơ Tôn thất Cúc lựa phái 2 tên cho mỗi khẩu đại bác lần lượt đến trước để chọn chia trấn đóng. Còn 4 luỹ ở Qui thuận, Cổ cò vốn đã phái mỗi nơi 50 biền binh, xin cho số biền binh ấy ở mỗi luỹ lãnh 2 cỗ Quá sơn bác, 2 khẩu Thần công. Hai lũy Hy du, Hải trình xin phái mỗi nơi 25 biền binh, mỗi lũy xin lãnh Quá sơn, Thần công mỗi thứ 1 cỗ, thuốc đạn đầy đủ để diễn tập phỏng bị. Trước đây đã xin 2 vệ 4 đội Tả bảo, và Cai đội Tôn thất Thọ đến trước các luỹ Qui thuận quản đốc các bác thủ. Nay viên ấy đã bị đau chân không đi được, xét có Chánh đội trưởng Đội 3 của Trung vệ Tiền phong là suất đội Tôn Thất Tình cũng am tường nghề đại bác, trước vâng phê chuẩn ghi danh sai phái, xin phái viên ấy đi trước sang các lũy trên, quản đốc các bác thủ diễn tập cho người xướng xuất.

- Vâng mệnh sai thị vệ mang thuốc viên Tử kim đính 53 , Chính khí đạt nguyên 70 chia cấp cho chức viên và biền binh các đồn ở Thuận an. Tết Đoan dương, ban cho chức viên và biền binh trú phòng Thuận an quạt tre, bao gấm Cẩm hà có mức khác nhau. Gặp Ngũ tuần đại khánh của Hoàng thái hậu được thưởng thêm một cấp. -Can việc để thuộc ty cấp trùng sắc văn cho suất đội Nguyễn Viết Đàm, bị phạt bổng 9 tháng ghi vào sách. -Dâng phiến tâu xin chế tạo bè tre có giăng Thiết long 69 , xin lãnh 200 cây sắt tây 71 sức riêng thợ rèn uốn thành vòng sắt bó bè tre cho nhanh mà khỏi tốn tiền đúc. Châu phê: Vũ khố xem còn trữ bao nhiêu phúc đáp để chi phát. - Tháng 5 dâng phiến tâu: Lần này xin đưa một vệ biền binh 500 tên ra trú đóng các bảo của xã Thanh phước, kiểm tra số biền binh ấy đều không có các súng Thần công, Quá sơn, nghĩ nên chiếu lãnh mỗi loại 15 khẩu, có đủ đạn theo súng đem về diễn tập để phòng ngự. Tuân sắc miêu tả và vẽ bản đồ các đồn lũy Thuận an, Tư hiền, Hòa duân, Cồn sơn, Cáp châu, Qui lại, Thuận hòa, Hy du, Hải trình, Lộ châu cùng nói rõ các vị trí mới dựng, dựng đã cũ, các hạng súng bao nhiêu, đặt ở đâu, hạng súng gỗ, mỗi khẩu bao nhiêu thước tấc, dâng lên. -Vâng tuân ân chiếu tha miễn các khoản phạt bổng. Vâng được ân thưởng gia một cấp.

- Tháng 4 vâng Dụ rằng: Quân thứ Quảng nam có đồn lũy, hào, khanh kiên cố 10 phần, người Tây còn dám đánh chiếm, Thuận an thế hiểm không bằng Quảng nam, chỗ nương cậy chỉ nhờ đại bác. Tôn Thất Thường từng qua quân thứ, Thị vệ Nguyễn Quyên sai phái đã lâu, phương pháp lo liệu đã rành, nay sai phái bọn ấy đến cửa họp bàn lo liệu. Vả người Tây đổ bộ tất dùng thuyền tam bản chạy dọc theo bến cát 68 cửa khẩu, lũy Hòa xuân bên phải nên tăng sửa cho chắc, đặt súng hạng trung cho tiếp với vòng ngoài thiết long 69 bến cát cửa khẩu. Hai bên chận chỗ trọng yếu bắn chéo nhau chúng làm sao bay qua ? Bên ngoài các lũy nên đào hố cắm chông 3-4 lớp, trên lũy cũng vậy, mở nhiều cửa súng hoặc đắp bậc để dễ nấp bắn, lượng chừng mà xếp đặt, tuy binh Tây ngàn vạn người mà đến cũng không thể tới gần mới là ổn thỏa. Bọn ngươi Nguyễn Như Thăng, Trần Tiễn ... do Trẫm phái đi nên

- Tháng sáu, vâng mệnh bộ Hộ đi Thuận an khao quân cùng thưởng tiền gạo cho chức viên và biền binh có sai biệt. Cùng thống chế Nguyễn Như Thăng dâng phiến tâu: Nay vâng đắp thêm đồn vuông ở Thuận an đường, đặt 30 súng các loại, đồn vuông Hòa duân đặt 7 khẩu, Cáp châu nguyên mở 19 cửa súng còn 7 cửa chưa có súng đặt cùng Thuận an Hòa duân đều có đắp lũy cát bao quanh dài rộng, nghĩ nên lãnh thêm ở xưởng, ở kho 10 khẩu súng gang Oanh sơn, các loại súng đồng Đằng uy, Thắng uy, Phấn uy mỗi thứ 38


tiêu ngoài biển, cọc thứ nhất xa 700 trượng 74 , cọc hai xa 600 trượng. Xong, sức cho những người am tường súng lớn ở Cửa như Hiệp quản Tôn Thất Tụy, Tôn Thất Duyệt, Cai đội Thần cơ Thái Văn Thao, Nguyễn Chơn, Chánh đội trưởng Tôn Thất Quyền cùng bọn hộ vệ cảnh tất hội đồng vâng thi hành bắn thử, cỗ nào, mấy phát, sức súng đạt được xa gần chừng nào, kính xin ghi phiến dâng lên. Lại một cổ súng đồng thứ ba loại Bảo đại định công an dâng hòa chúng thượng tướng quân đặt bên tả trụ cờ thành Trấn hải, lần này bắn thử phát đầu, kiểm thấy phía ngoài miệng súng dẫn về phía thân khoảng 9 tấc, có một vết rạn rộng 7 tấc 6 phân dài 5 tấc, phía dưới bên phải miệng súng chất đồng hoen ra ngoài miệng súng 4 phân nên không dám bắn thử tiếp. Khẩu ấy xin nên chở về đặt lại ở xưởng Tướng quân xin đổi lãnh một cỗ súng đồng Thần oai vô địch đại tướng quân (xem phần phụ đính) đem đến đặt ở thành ấy để phòng bị.

10 khẩu gồm thành 30 khẩu, 10 khẩu súng đồng loại Võ công, 20 khẩu súng đồng loại thành công để chia đặt. Lại kiểm tra các hạng binh thuyền cùng bộ binh đàn áp 58 tại Cửa đã lãnh 109 súng đồng Quá sơn, 10 súng đồng Phi sơn, 20 súng sắt thần công, trong đó Quá sơn Phi sơn chia đặt trên 3 chiếc tàu đồng 21 khẩu, chia đặt ở Cự hải 4 chiếc hải đạo, 7 chiếc châu ô, 2 chiếc dẫn đỉnh, 2 chiếc lê thuyền gồm 80 khẩu, chỉ còn 18 khẩu Quá sơn, 20 khẩu thần công như thế khá ít, xin nên tăng thêm 32 khẩu Quá sơn, 30 khẩu thần công để đủ mỗi thứ 50 khẩu hầu sung việc diễn tập phòng ngự. Lại vâng cứu xét: hiện tại các sắc bộ binh đàn áp cùng đóng giữ có 775 người cùng số am tường đại bác và bác thủ, hộ vệ cảnh tất thần cơ 237 người, thủy sư 569 người, gồm 1581 người đã vâng chia phái đóng giữ các đồn lũy cùng chia giữ trên các hạng thuyền, chỉ còn 233 bộ binh đóng giữ ở nhà dài để sai phái khi đến lúc. Nay có đắp thêm đồn lũy phải có biền binh trú đóng ngăn giữ, nghĩ nên phái 300 bộ binh, 80 thần cơ bác thủ để đủ chia phái cho các chổ đồn lũy. Châu phê: Bọn ngươi nên thường đốc sức thêm biền binh phòng giữ, không được nghe ngóng tin đồn vu vơ mà lơi lỏng, cho xứng sự ủy thác.

- Tháng 8, ngài Thượng thư quá cố được tặng: Trung nghị đại phu Thái bộc tự khanh, thụy Ôn Tĩnh. Đoan nhân Thái từ quá cố được phong Tòng tam phẩm Thục nhân. Sau đó Ông dâng biểu tạ ơn.

- Cùng Thống chế Nguyễn Như Thăng dâng phiến tâu: Các chỗ Cáp châu, Cồn sơn, Hòa duân cách bức đường sông, như có đóng nhiều biền binh, thì ngày thường qua lại mua thức ăn kém thuận tiện, mà Cáp châu 72 , Cồn sơn tất phải vận tải nước ngọt để ăn nên bọn thần phải châm chước phân phối bớt lính ở các đồn lũy, ở các nơi đặt pháo, nếu có trông thấy tàu Tây thì phái các viên chức cai quản mang 2-3 đội sang gấp để ứng phó. Gần đây việc phòng giữ đều thu xếp như thế cả.

- Tháng 9, được thưởng bạc 10 lượng

75

.

- Tháng 11, ban rượu thuốc, sâm, quế cho quan quân đóng giữ các đồn ở Thuận an và Tư hiền. - Tháng 12, ban rượu thịt cho tướng sĩ các đồn Thuận an và Tư hiền. Ban áo quần ngự hàn có sai biệt cho tướng sĩ các đồn Thuận an và Tư hiền.

- Cùng Thống chế Nguyễn Như Thăng dâng phiến tâu: Lần này thành Trấn hải đặt 3 khẩu súng đồng Bảo đại đinh công an dân hòa chúng thượng tướng quân 73 , xin bắn thử mỗi khẩu 3 phát. Trong tháng này, bọn thần sẽ ra lệnh cho vệ phòng hải cắm cọc

Canh thân năm Tự Đức thứ 13 (1860) Ông 48 tuổi. - Tết Đoan dương, được ban các thứ: quạt ban trúc, tứ gấm Cẩm hà. 39


- Tháng 10, can việc tháng 2 năm 12, thuộc ty chép sắc văn sót lọt, sai lầm, bị phạt bổng 6 tháng ghi sách.

- Tháng 9, vâng dụ chuẩn cho thăng thụ Thượng thư bộ Công, vẫn chuyên sung Đốc phòng. - Con là Hoài Tĩnh ra đời.

- Tháng 12, được ban sâm, quế, rượu thuốc cùng quần áo rét. Tân dậu năm Tự Đức thứ 14 (1861) Ông 49 tuổi. - Tháng 2, vâng Sắc nói: Cửa Thuận an đồn lũy kiên cố, súng ống đầy đủ, chỉ có thiết long 69 chưa được kiên cố. Cửa biển ấy, một nơi ghe thuyền dự trữ đất đá, bến đậu gặp lúc cần thì như thế là chưa ổn. Đốc phòng Trần Tiễn ... trù nghĩ như thế nào, hãy tâu lên . Tiếp đó tâu lên: Cửa biển là cửa ngõ của Kinh sư mà bọn Tây thuyền bền súng tốt, há dám coi là chuyện dễ dàng, kế sách hiện nay chỉ có việc xin điều động thuyền binh thuyền dân lấy đá núi trăm đồi 76 chở đến trước để ở Cửa. Lúc cần sẽ điều các thuyền đến phía sau đồn lũy, chất đầy cát, đá, thừa lúc đêm tối, chạy qua Cửa ấy, phá thuyền chìm xuống, nghĩ cũng được việc. - Tháng 3, sách Lịch đại vịnh sử phú làm xong, được thưởng bạc và tiền. Trước đó, năm Tự đức thứ 8 lúc ở Các có chuẩn bị soạn, đến lúc này sách xong nên được thưởng. Theo vua đi thăm cửa Thuận an, xét thấy cửa biển được bồi cạn quanh co khuất khúc, ngày càng thêm hiểm yếu. -Vâng chuẩn cho sung làm Khâm mạng đến tế ở miếu Long vương. Trước đó vâng sắc bảo trai giới kiệt lòng thành đến miếu ấy cầu đảo. Bấy giờ mới tiến hành cho nên có lệnh ấy.

Lễ ký hiệp ước 1862

Nhâm tuất năm Tự Đức thứ 15 (1862) Ông 50 tuổi. - Tháng 2, dâng phiến tâu: Nay tiếp bản cung lục của bộ Công, quan Thủy sư là bọn Võ Phẩm xin đổi Chưởng vệ Nguyễn Chí sang đồn Thuận hòa vâng sung việc đàn áp 58 , đem Thống che Mai Viết sung thống quản ghe thuyền, chờ chở vật hạng xong sẽ về đợi chỉ như cũ.

- Tháng 7, vâng Chỉ chuẩn cho các doanh, vệ ở cửa Thuận an, nơi nào binh số nhiều thì đặt thêm mỗi vệ 2 quản viên để đủ sai phái, vẫn giao Đốc phòng Nguyễn Như Thăng, Trần Tiễn ... chọn cử . - Tháng 8, can việc lúc còn ở Các, thuộc ty vâng giữ văn thư để sâu nhậy cắn rách, thiếu, mất, bị phạt bổng 6 tháng ghi vào sách. Huấn luyện pháo thủ học tập phép bắn diễn tập khá tốt, được thưởng kỷ lục 1 lần.

Châu phê: Nên hay không, Trần Tiễn ... phúc đáp. Ông tâu: Vâng tuân, thần vâng xét việc phòng ngự 6 lũy Qui thuận không như cửa Thuận an mà sự quan yếu ở đấy chỉ Kinh sư mới đọ nổi. 40


Hải trình là nơi thuận tiện cho việc phòng giữ nghiêm ngặt, Thống chế Mai Viết từ khi vâng phái đến quản đốc từ Thanh phước đến Lộ Châu, súng, lũy, binh thuyền và biền binh đàn áp đã 3 năm, địa thế, binh tình đã am thuộc mà cũng từng sửa sang xây đắp đồn lũy, huấn luyện biền binh, xét thấy viên ấy là người dũng cảm năng nổ, nay nếu phái đổi sang nơi khác, tưởng cũng không có ai am thuộc hơn chỉ có ông ấy mới gánh vác được công việc quan hệ đến vợ con cả nước, từng trải về thủy sư, thần từng vì thế mà xin phái, thần cũng không yên tâm được là Mai Viết nên đổi hay nên giữ lại, xin chờ vâng xét định. Châu phê: Đừng đổi. - Tháng 4, được ban bạc nén. Bấy giờ Khâm mạng đại thần Trương Đăng Quế, Đoàn Thọ đến tuyên ủy 77 quan binh hai cửa Thuận an, Tư hiền, ban thưởng có sai biệt. Vâng đem tình hình Phú soái là Bô-Na điều khiển tàu Xuy mông đưa thư nghị hòa tâu lên, kính xin ra lệnh cho đình thần bàn định các điều ước. Từ Thuận an về triều, kính vâng diện sắc 78 hỏi về đồn lũy, tâu là đã đôn đốc binh lính làm được sáu phần mười. Vua sắc dụ: Nay vừa gặp nắng gắt, sớm chiều chỉ nên làm 6 khắc để đỡ nhọc lính. Bọn chúng kỹ nghệ 79 tinh xảo, qua lại bất thường, bọn ngươi ngăn ngừa chớ nên sơ hở chút nào cả.

Phan thanh Giản - Tháng 7, cùng Đại học sĩ Trương Đăng Quế tâu xin nhân trước lúc sứ Phú lãng sa đến (trong ước thư có nói các điều: hạn trong 1 năm Phú sứ phái sứ đến Kinh hỗ giao 80 lại có sai sứ thăm hỏi) hãy phát sứ đi thăm vua Pháp, đệ thư biện minh việc Phan thanh Giản, Lâm Duy Tiếp đã hứa vội 81 với Bô-Na về việc tranh chấp biên giới. Cử cả Đô thống thủy sư là Võ Phẩm sung làm Khâm sứ, Trần Đình Túc làm phó, Đỗ Đệ, Hồ Quang đều sung làm Bồi sứ. Châu phê: Mọi việc chỉ cần có được người mà thôi. Đã vì nước lo xa, phải chọn cho tinh tường. -Vâng sắc bảo đại thần Nguyễn Tri Phương đọc kỹ các Dụ, sớ để rõ tình trạng, có phương lược gì nên cùng các đại thần Đoàn Thọ, Trần Tiễn ... bàn kỹ tâu lên ... (bấy giờ ông Nguyễn từ Bình thuận về chầu) 82 .

- Tháng 5, vâng Sắc ban có khoản: Bảo cho đốc phòng Trần Tiễn ...tùy nghi xếp đặt phòng bị cửa Thuận an có việc rất quan trọng hãy tâu, chớ vì nghị hòa mà thiếu sót. - Tháng 6 vâng Dụ có khoản: Thượng thư bộ Công Trần Tiễn ... trước đã phái sang Qui lai, Thuận hòa cho đến cửa Thuận an, hiệp đồng đốc sức phòng bị. Nay việc ngăn giữ mặt biển giản tiện dần rồi, cho cải thụ Thượng thư bộ Hộ kiêm quản Khâm thiên giám sự, vẫn luân phiên đến sở Đốc phòng kiểm tra đốc sức thêm, nếu có tin báo quan trọng thì phải đến đấy ngay để hội đồng bàn bạc cho chu đáo thỏa đáng. -Vâng Dụ chuẩn cho dùng chức đang giữ sung Cơ mật viện đại thần, sung Nhật giảng quan của Kinh diên. 41


- Tháng 8, đình thần tuân cử đại thần Nguyễn Tri Phương sung làm Quân soái Tây bắc. Thái sư Trương Đăng Quế xin lấy Ông thay thế. Vua ban sắc gọi ông Nguyễn và Ông vào diện phúc 83 . Ông Nguyễn tâu: Làm tướng là ở chỗ chọn được người. Tính mệnh ba quân lệ thuộc vào họ. Thần vâng phái vào Nam Kỳ không được công trạng gì, lại không am hiểu tình thế Bắc kỳ. Ông tâu: Thế giặc ở Bắc kỳ rất khó đánh bắt mà địa thế cũng chưa am tường. Đại thần Nguyễn Tri Phương vốn được trọng vọng lại từng trải trận mạc, thần không bằng được, xin đều được xét định. Sắc ban: Quân cơ là việc lớn, không thể khác ý kiến. Tiếp đó ra lệnh cho Nguyễn Tri Phương sung làm Tây bắc Tổng thống quân vụ Đại thần.

quan trọng ngày càng nặng thêm. Ngoài ra các việc giấy tờ lặt vặt cũng lại không ít, thật là không dám tiếc thân, ngày đêm giải quyết vẫn không khỏi chồng chất đến mức nhầm lẫn. Các đại thần nên xem xét bàn định làm sao cho thỏa đáng may khỏi thêm tội lỗi. Khâm tuân: Bọn thần trộm thấy việc thiên hạ rất nhiều, một ngày cả vạn chuyện, huống chi nay bụi biên thùy chưa lặng, giấy tờ quân sự dồn dập mỗi việc mỗi phiền cho sự xem xét. Bọn thần nơm nớp lo sợ chẳng xiết kể, trừ những văn thư về chuyện nên làm hay giảm bớt thì hãy họp bàn xét trình lên, ngoài ra, xin theo quãng đời Gia Long các chương, số, văn bản đều do công đồng bàn bạc, có sự kiện quan trọng mới xin ý kiến xét định, còn việc nhỏ nhặt tầm thường đều đã qua công đồng bàn ổn thỏa, truyền thống thi hành, không phải mỗi việc mỗi tâu. Gặp việc mới mẻ, ngày không rỗi để lo thì chỉ nhắm đại cương mà lược bớt tiểu tiết như thế việc bớt đi nhiều mà đều vào đúng mối cả. Gần đây, vì việc phức tạp, điều lệ tăng nhiều, từ chất lượng mà nẩy ra hình thức, công việc càng thêm dày đặc, tiếp nối đã lâu, bớt đi càng khó, đấy cũng chỉ vì thời thế mà thôi. Thử tìm hiểu thời khoảng Minh Mạng, giấy tờ chữ nghĩa đều gọn ghẽ là được. Chỉ nói là phải kê tra cho hợp lệ nhưng cái gọi là lệ thì đều không có gì ràng buộc cả. Cho nên việc tuy nhiều mà giấy tờ gọn, còn kê tra luật lệ là việc của quan Hữu ty mà thôi. Bọn thần tài sức tầm thường, lo việc lại nhiều sơ sót, mỗi việc đều dâng lên làm nhọc công xem xét, kiểm tra, thật biết là mang tội quá nhiều, suy nghĩ mãi vẫn chưa biết làm sao mới phải.

- Đặt sứ quán Pháp tại phần đất của Thủy sư (nay là Phú văn lâu, Huế) ở bờ Nam sông Hương.

Nay nghĩ xin bắt chước lệ công đồng thời Gia Long, bên văn thì 6 bộ, mỗi bộ đều có một bộ trưởng ( như bộ nào chưa có Thượng thư thì lấy Tham tri, chưa có Tham tri thì lấy Thị lang) bên võ thì Đô thống, Thống chế, gặp việc thì công đồng bàn bạc, trừ những việc do Nội các trình lên nhưng vẫn do quan ở Các tuân lệ mà lo liệu, ngoài ra bất cứ việc gì đều do nha sở quan xét bàn trước rồi mới chuyển lên công đồng phúc duyệt. Việc gì trọng đại

Trương Đăng Quế

- Tháng 8 nhuần, cùng Trương Đăng Quế, Đoàn Thọ, Trần Văn Trung, Trương Văn Uyển tâu: Kính vâng Châu phê trong có khoản nói: Từ cả năm nay Trẫm vì lo mà thành bệnh mà nhiệm vụ 42


cùng việc chưa thành lệ thì mới tâu rõ lên xem xét định. Nếu đã có thành lệ cùng việc nhỏ nhặt đã duyệt xong thỏa hiệp cả rồi thì chỉ lược kê việc rồi dâng trình không cần dẫn lệ nhưng xin miễn dâng trọn tập để giảm bớt nạn giấy tờ phiền phức, nếu có sót lọt nhầm lẫn cho đến trái lệ mà nói là thỏa hiệp, xin do Nội các, Khoa đạo đang trực nhận lời tâu duyệt lại rồi đem nha sở quan cùng sổ viên chức đã dự công đồng xét duyệt trị tội xứng đáng. Nếu Nội các, Khoa đạo không kê hạch được, đến nỗi có nhầm sót, cũng nghị xử cho nghiêm công lệnh, đợi cho việc nhẹ bớt đi sẽ chiếu theo nếp cũ. Rất nguyện xin chỉ đem đại cương mà lướt qua tiểu tiết để dưỡng sức cho tinh thần mà vì gánh nặng xã tắc. Người xưa nói: bớt việc không bằng bớt lòng. Bọn thần khẩn khoản khôn xiết. Châu phê: Công đồng vốn là lệ cũng phải, chỉ việc tối quan trọng mới bàn bạc với đình thần, xét cho thỏa đáng phải không còn quan ngại mới được thi hành.

- Tháng 10, can việc viết nháp niêm yết không hợp về vụ tiểu phỉ ở An giang thắng lợi, bị phạt bổng 3 tháng ghi sách. - Tháng 11, can việc thuộc ty viết nháp tỉnh Bình thuận thúc lính còn thiếu, vâng chỉ nhầm lẩn, bị phạt bổng 1 tháng.

- Tháng 9, can việc thuộc ty đem các tập của tỉnh Hà nội mời khách mua, khi khách mua đến nộp giá, thấy trong tập ấy có chép nhằm chữ húy, không hạch ra được, bị phạt bổng 1 tháng. Vâng Dụ chuẩn đưa qua làm Thượng thư bộ Binh, còn hàm vẫn như cũ. Trước đó, Quản lý bộ Binh là Cần chánh điện đại học sĩ Trương đăng Quế xin về hưu, vua cho bớt nhiệm vụ ở Bộ nên có mệnh lệnh ấy.

Quý hợi năm Tự Đức thứ 16 (1863) Ông 51 tuổi. - Tháng giêng can việc đem vụ An giang đánh giặc biển thắng lợi niêm yết, cũng nhận lỗi bị phạt bổng 3 tháng ghi vào sách. Can việc thuộc ty đem việc đội trưởng Lê Đình Thi bổ suất đội trễ nãi bị phạt bổng 1 tháng. -Vâng mệnh đến đàn Nam giao bói điềm tốt .

Trương đăng Quế

43


- Tháng 2, vâng mệnh nhiếp tế đàn Nam giao. Can việc sát hạch tuyển lựa biền binh sai lầm, bị phạt bổng 3 tháng ghi vào sách. -Vâng mệnh cùng Trung quân Thự phủ sự Đoàn Thọ cùng nguyên Khâm phái Hiệp biện Phan Thanh Giản, Thượng thư Lâm Duy Tiếp, Tham tri Phạm Phú Thứ cùng sung việc chiêu đãi sứ hai nước Phú và Y thương thuyết việc trả 3 tỉnh. Bấy giờ sứ hai nước Phú lãng sa và Y pha Nho là bọn Phố Na, Pha Lăng Ca đến Kinh sư, ở tại Hương giang tân quán. Tâu xin góp tiền các quan trong triều và ngoài mua quà tặng hai sứ Phú - Y. Kính vâng chi Kho noa 84 .

suông, còn nếu công việc may mà thành tựu thì về sau sẽ ra sao? Xuân Bảng có lý !” . Ông tâu: mới thoạt đầu thông hiếu, không vuốt ve trước cái tâm người ta thì không có ngã nào đi lọt đến chỗ thương thuyết cả. Trên mới nghe theo lời bàn của ông. Tuân sắc tiễn sứ bộ đi Tây của Phan Thanh Giản đến cửa Thuận an.

- Tháng 3, cùng Đoàn Thọ dâng sớ xin chịu tội vì thương thuyết không được gì. Chuyển cho Pháp ty nghị án là làm trái qui định, bị tội trượng, ông bị tội giáng 4 cấp điều (Phan Thanh Giản, Lâm Duy Tiếp bị trảm giam hậu, Phạm Phú Thứ bị trượng, giáng một cấp lưu). Được gia ân cho giáng lưu (Phan cách lưu, Lâm đã qua đời, bị truy đoạt chức hàm) .

Phái bộ đi Tây của Phan Thanh Giản

- Tháng 4, kính dâng diện sắc: Hòa ước ra đời một cách bất đắc dĩ, việc gấp hiện nay không gì bằng tự trị nhưng chưa có kế sách tốt đẹp, e rằng tương lai còn khó hơn hiện nay, các khanh đến lúc ấy bó tay hay sao ? Ông tâu là hãy từ từ mà tính, nếu muốn nhanh e sinh ra lắm chuyện. Vâng sắc dặn: Phải nên chú tâm, không thể cầu an hời hợt năm tháng. Nếu trẫm lo nghĩ 10 phần thì chư thần nên lo nghĩ 100 phần mới mong chấn chỉnh được. -Can việc nghe nói Phạm Văn Trung ở Bình thuận ốm lâu mà không tâu, lo liệu trễ nãi, bị phạt bổng 9 tháng ghi vào sách.

- Tháng 6, vì hồi làm Đốc phòng cửa Thuận an, sát hạch binh tuyển phong kỹ càng, được thưởng kỷ lục 1 lần cùng tiền bổng 3 tháng. - Tháng 7, can việc thuộc ty có lần làm sai sắc văn, bị phạt bổng 2 tháng ghi vào sách. Can việc lo liệu công chuyện chậm nhiều, bị phạt bổng 1 năm ghi vào sách. - Tháng 11, vâng điện sắc: Lần này các người ứng cử 86 tỏ bày rất nhiều về dân tình, lại tệ. Các quan có ý kiến gì hãy điện trần, đừng giấu diếm. Ông tâu: Tệ nạn của bọn lại mục là điều không thể không có. Tỉnh, phủ, huyện mà xứng người thì lại tư, tổng lý không thể tác tệ được. Tiếp đó vâng Dụ cho các tỉnh xét phủ huyện có tốt hay không.

− Tháng 5, Khâm mạng Hiệp biện đại học sĩ Phan Thanh Giản, Tả Tham tri bộ Lại Phạm Phú Thứ, Án sát sứ Quảng nam Ngụy Khắc Đản đi Tây thông sứ để chuộc 3 tỉnh, triển hạn bồi tiền. Vâng xuất kho Thượng phương 85 đưa phẩm vật tốt, quí đặc biệt. Ngự sử Đặng Xuân Bảng dâng sớ xin giảm bớt, Tham tri Thân Văn Nhiếp cho rằng “ Nếu nói không đắt lời là lãng phí 44


người khác, có tài khiến cho kẻ ở xa kính trọng mới mong được việc. Châu phê: Hai khanh từ nan ư ? Thế thì ngày thường làm gì? Sẽ sai ai đây ? Đình thần đã duyệt, tức đã hợp với công luận mà phải làm cho được ! (Cùng ngày, người được chọn làm Chánh sứ là Phan Thanh Giản cũng dâng phiến từ, lại xin làm như nước Thanh - chọn phái Hoàng thân sung việc đi sứ - nhưng đều không được chuẩn y) . - Tháng 5, can việc thuộc ty viết nhầm Lê Đức bị phạt bổng, không hạch cho chính, bị phạt bổng 2 tháng ghi vào sách. Vâng sung làm Khâm sai Toàn quyền đại thần Giáp phó sứ, Hiệp biện đại học sĩ Phan Thanh Giản làm Chánh sứ, Thượng thư bộ Hình Phan Huy Vịnh sung Ất phó sứ cùng sứ thần toàn quyền Phú lãng sa Hà Bá Lý (bấy giờ sứ Phú đến Kinh định ước) họp bàn các khoản về buôn bán. Dụ cho phép làm việc theo tiện nghi 87 . Bấy giờ sứ Phú đến Kinh định ước. Khi lên đường, vâng ban thơ ngự chế khích lệ sứ giả cố gắng trong công cán như sau 88 :

Đoàn rước vua tế lễ Nam Giao

Giáp tí năm Tự Đức thứ 17 (1864) Ông 52 tuổi. - Tháng 2, vâng sung làm Chấp sự Lễ Đại tự, được thưởng kỷ lục 1 lần.

Lời xưa nói: Gốc của ba cái phải tôn thờ trong cuộc sống chính là đạo nghĩa thứ nhất 89 bền sáng vậy:

- Tháng 4, dâng phiến tâu: Nay nhân được đình thần tuân cử thần vâng sung làm Phó sứ, thần tự xét thân phận lại dám chọn việc được sao? Chỉ lo rằng phen này đi thương thuyết thực là việc tối trọng tối tối đại của quốc gia, mà thần không tài không đức, đặt vào địa vị hàng khanh tướng, việc thần gánh vác lâu nay chỉ là làm một việc nói năng biên chép, há lại cùng người nước ngoài đua tài biện bác được sao? Ngay như năm trước, thần vâng làm việc đi sứ, từng biện thuyết cùng sứ ấy, cái việc chỉ hẹn nợ một khoản nhỏ nhỏ mà chúng còn giở giọng khi dễ thì thần đã là kẻ bị chúng chán ghét, nay nếu lại sung làm Phó sứ thì việc bàn qua nói lại tất lại cứ vậy vậy mà thôi. Đến lúc ấy thì thần có chịu tội vạn phần cũng không đáng nói mà với việc lớn của nước nhà e có rất nhiều sai lầm trở ngại vậy. Thần dám xin mạo muội phơi bày, cúi chờ sai

Của tin khó thoải mái 90 Cởi giày ai xót hộ ? Rốt cuộc toàn dối gạt Tâm niệm thần phò hộ Dở hay nào dám chắc ? Hùm dữ nào ngại suối ? 92 Đối phương như biết đặng Tiếng thơm ai chẳng thích ? Ai chẳng trọng nghĩa khí ? Khe rãnh khá tràn ngập ? Hãy tiếc tài tế thế 94 45


Hiểu lòng nhau lặng lẽ Đường dài đi khó thay ! 91 Trổ tài biện bác hay. Ý riêng hãy vứt ngay Người xưa gánh nặng vai 91 Giữ lòng chẳng đơn sai Sấu điên ngán nhà ai ? 92 Nề chi chuyện vật nài ? 93 Chí lý người thua ngay. Ai chẳng quí lời hay ? Sắt đá lòng dễ lay ? Nên hư một chuyến này. Thân mật chuyện lâu dài.

Lời khéo người cũng nghe Nghĩa khí người e dè Giữ bền lòng sắt đá Mương khe há tràn cả? Thử thách chuyến đi này Chỉ tiếc bản lĩnh hay Không lời lòng cũng rõ Bấy lâu tình gắn bó. - Cùng toàn quyền Chánh phó sứ tâu: Việc đi sứ hôm nay chỉ có hai khoản là cắt đất và chuộc tiền. Xin tuân tính ra từng khoảng mà năn nỉ cho họ cảm động. Nếu họ không nghe, xin giữ mức giao ước cũ để ngày sau bàn lại. Còn các việc buôn bán, giảng đạo, xin nên châm chước nghe theo để tỏ hảo ý. Cùng toàn quyền chánh phó sứ tâu sau đó: Đã nhiều lần cùng Hà Ba Lý bàn hai khoản cắt đất và bồi tiền, các việc ấy có cân nhắc cả rồi. Đến khoản 17, đặt chức Lãnh sự ở Kinh đô, họ khăng khăng không chịu sửa đổi, các khoản còn lại cũng sửa đổi một vài mà thôi. Vâng mệnh mà làm chẳng được gì, thực cảm thấy mang bụi 95 - nay đình thần có kế gì hay, có thể rung lên mà họ chịu nghe thì xin chỉ bảo cho. Xin cử cho một vài vị có khả năng cáng đáng công việc cho có người mới có danh vọng lớn cho họ vâng nghe.

Đi sứ chuyện phải đành Cơm xoàng thay nghi thức Cỏ dai chờ gió giật Dẫu ngán đường gian nan Mặc kệ bước chân trần Cao đàm mà hùng biện Xét ra đâu thật chuyện? Chỉ biết dốc lòng riêng Tha thiết cầu ơn trên Người xưa oằn vai gánh Sắt cùn đâu dám tính Chỉ cốt tận lòng thành Mọi sự nhờ quý thần Hùm qua sông rồi vậy Sấu vào nhà cựa quẫy Chúng đã biết thế rồi Ta sợ gì đánh bồi Tiếng thơm mới đáng kể Lẽ ngay người cũng nể

Vua chuẩn cho đình nghị. Phan đại thần tâu : Sự thế như vậy thật khó mà nói, nghĩ ra cũng không có kế khác ba vị toàn quyền đại thần, địa vị, danh vọng tại triều đình không ai hơn, lại từng trải lo toan, xin nên đảm nhiệm công việc cho thủy chung. Cùng toàn quyền Chánh phó sứ tâu : quan Tổng đốc An Tĩnh là Hoàng Tá Viêm là người tài cán, gặp việc biện luận gãy gọn khiến người chịu nghe, xin cho vời về lo việc thương thuyết kiêm việc Thương xứ. Vâng không chuẩn y. Bấy giờ vâng duyệt mật tâu của Nghệ an : Người Tây đang truyền giáo, sĩ dân nhiều người không chịu việc xin triển hoãn thông thương. 46


- Tháng 6, vâng diện sắc : Toàn quyền Chánh phó sứ ba người bọn khanh nên biết là công luận không cho . Hãy kiệt lực thu xếp sao cho không thẹn, không lỗi. - Cùng Toàn quyền đại thần của Phú lãng sa là Cò Mãn Đăng (Commandant) Hà Ba Lý 96 bàn lập hòa ước gồm 26 điều khoản :

chuyển đệ như vậy nhưng mỗi bên vẫn giải quyết ổn thỏa theo lẽ phải. . Khoản thứ 5 : Người nước Nam nếu có mắc nợ người Lãng sa không chịu trả, quan Thương bạc truy hộ bắt trả sạch. Người Lãng sa mắc nợ người Nam cũng vậy. Nhưng đã truy cứu mà không bắt được hoặc đã chết hoặc không đủ sức bồi thường đều thôi.

. Khoản thứ 1 : Phú lãng sa đặt các quan lãnh sự tại 3 cửa biển Đại nam : Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên giải quyết việc buôn bán của thương nhân nước họ. Quan chuyên trách nha thương bạc với lãnh sự ấy qua lại giấy tờ đều dùng bằng hàng. Nếu sau này người nước Đại nam như có ai qua buôn bán ở nước Phú lãng sa cũng đặt quan lãnh sự ở cửa biển để lo liệu ổn thỏa.

. Khoản thứ 6 : Người Lãng sa ai có oán hiềm gì người Nam thì phải trình trước với quan Lãnh sự, người Nam oán hiềm người Lãng sa cũng trình trước với quan Thương bạc nhưng mỗi bên đều phải hạch rõ, điều đình. Lại còn người Lãng sa với người nước khác đánh nhau thì quan Lãnh sự phải báo cho quan Thương bạc phái nã giao quan Lãnh sự xử trị.

. Khoản thứ 2 : Người Lãng sa ở nước Nam, người nước Nam ở nước Lãng sa, quan địa phương mỗi nơi đều nên bảo hộ, không được đối xử thiên lệch với người nước khác. Thương nhân Lãng sa có mang thông hành y như khoản 13 của hòa ước mới, qua lại buôn bán không trở ngại. Ở ba cửa biển ấy, người Lãng sa đều được cư trú, không được cư trú ngoài ba cửa bể ấy. Nhưng ở mỗi cửa biển đều chọn riêng một khu, sau đó hai nước hợp đồng quy định việc cư trú. Người Lãng sa có qua lại dạo chơi tất chiếu theo giới hạn hai vạn thước Nam 74 chu vi cửa biển ấy, thuận tình mua bán, không được cưỡng bức và cũng nộp thuế theo lệ sở tại.

. Khoản thứ 7 : Người Lãng sa ở các khu bến tàu của nước Nam được trị bằng điều luật Lãng sa. Nếu có phạm tội mà không đủ sức bắt, quan Lãnh sự báo cho quan Thương bạc giúp sức, phái người bắt giao cho quan Lãnh sự xử trị. Nếu người Nam có phạm tội với Lãng sa, quan Thương bạc bắt xử trị theo điều luật nước Nam. . Khoản thứ 8 : Binh thuyền Lãng sa không ở đúng chỗ, quan Lãnh sự báo cho quan Thương bạc tương trợ, quan Thương bạc nên lấy binh uy khiến cho thuyền ấy tuân vâng điều quy định của quan Lãnh sự để phòng chuyện thủy thủ thuyền ấy tranh chấp với dân nội địa.

. Khoản thứ 3 : Người Lãng sa ở nước Nam đều được thuê mướn những người không quan hệ làm thông ngôn cùng các công việc thợ thuyền, phục dịch, chỉ cần thuận tình thuê mướn nhưng phải bẩm rõ với quan địa phương biết. Nếu có dối phạm luật lệ nước Nam, quan lãnh sự phải bắt giao cho quan Thương bạc xử trị .

. Khoản thứ 9 : Những thủy thủ của binh và thương thuyền Lãng sa bỏ trốn, quan Lãnh sự biết được báo cho quan Thương bạc truy nã giải giao cho quan Lãnh sự. Nếu có người Nam phục dịch trốn vào nơi ngụ của người Lãng sa hoặc trốn lên thuyền buôn, quan Thương bạc báo cho quan Lãnh sự bắt ngay giao cho quan Thương bạc, đôi bên không được che dấu.

. Khoản thứ 4 : Người Lãng sa có cáo tố ở quan Thương bạc việc gì thì đơn từ phải do quan lãnh sự chuyển đệ. Người nước Nam như có cáo tố ở quan lãnh sự cũng do quan Thương bạc 47


dở hàng xuống bị phạt 500 đ, số hàng dở xuống phải nộp hết cho quan .

. Khoản thứ 10 : Binh, thương thuyền Lãng sa hư hỏng vào các cửa biển nước Nam, quan địa phương thật lòng giúp giải quyết. Nếu thuyền Lãng sa bị mục nát cùng duyên cớ khác phải vào cửa gấp để tránh, bất cứ cửa biển nào đều phải tiếp đãi hữu nghị. Như không vào cửa được, phải dừng tại bờ biển, quan địa phương nghe biết phải cứu vớt ngay.

. Khoản thứ 16 : Thương nhân Lãng sa mỗi khi dở hàng, xuống hàng, trước đó phải khai rõ trình quan Lãnh sự. Quan Lãnh sự thông báo ngay cho quan Thương bạc cho phép dở hàng, xuống hàng đồng thời tra nghiệm các món thỏa đáng cho đến hóa giá, định thuế. Nếu ý của quan Thương bạc không hợp thì phải nghe theo sự định giá của quan Thương bạc, như thuyền buôn không chịu phát mãi cũng phải nộp thuế theo giá quan Thương bạc đã định. Nếu thuyền buôn thuận phát mãi thì đem toàn tiền giao về nộp thuế cho quan Thương bạc

. Khoản thứ 11 : Thuyền buôn Lãng sa ở mặt biển nước Nam, bị giặc cướp đánh, quan phụ cận nghe biết tức thì phải tập nã ngay, chiếu lệ trị tội. Thương nhân trên đất liền bị trộm cướp cũng chiếu lệ giải quyết như thế. . Khoản thứ 12 : Người Lãng sa chết tại nước Nam, người nước Nam chết tại Lãng sa thì gia tài giao cho thân thích người ấy, nếu không có thân thích thì phải giao về quan Lãnh sự nước họ.

. Khoản thứ 17 : Thuyền buôn Lãng sa qua lại ba cửa biển, việc vào cảng ra cảng đều có lệ thuế mới, không được thu quá nặng. Thuyền buôn không chở hàng thì miễn thuế hoàn toàn, như có mua hàng hoá thì chiếu theo lệ mà nộp thuế, nhưng cấm rõ không được cho phép thông thương ngoài ba cửa biển, các chỗ ven biển, ven sông, mua riêng bán riêng. Nếu kẻ nào phạm thì cả thuyền lẫn hàng hoá đều nộp quan, nhưng quan địa phương tra bắt kẻ phạm pháp ấy, trước khi chưa định nộp quan, nên nhanh chóng báo cho quan Lãnh sự Lãng sa ở gần đấy đã.

. Khoản thứ 13 : Thuyền Lãng sa chạy vào các cửa biển địa phương, có thể tự thuê người dẫn thủy đưa vào cửa biển, nộp thuế đúng lệ. Sau đó người dẫn thủy đưa ra cửa, không được ngăn trở. Người thuê dẫn thủy chiếu theo giá trả công cho hợp công bằng. . Khoản thứ 14 : Thương nhân người Lãng sa được tùy tiện thuê chở hàng hóa hay chở khách, giá cước do đôi bên thương lượng và đồng ý, không cần quan địa phương giải quyết.

. Khoản thứ 18 : Hàng hoá thuyền buôn bắt đầu thu thuế từ trên bờ, theo sự định giá nhưng không được quá lệ năm phần trăm. Khi có chở hàng hoá nước Nam xuất khẩu, thuế hàng hoá cũng theo lệ năm phần trăm

. Khoản thứ 15 : Thuyền Lãng sa vào cửa, trong vòng một ngày, phải đem ngay thuyền bài các thứ đưa đến quan Lãnh sự. Quan Lãnh sự ấy đem ngay tên thuyền, tên người cho đến số cân, mặt hàng đã chở, báo cho quan Thương bạc. Nếu chủ thuyền sau khi vào cửa trong vòng hai ngày không đem thuyền bài, hoá đơn trình quan Lãnh sự thì mỗi ngày trôi qua phạt 50 đ nhập cho quan Đại Nam. Số phạt không được quá 200 đ. Chờ quan lãnh sự thông báo cho quan Thương bạc phát ngay bài chiếu cho phép mở khoang. Nếu chủ thuyền chưa lãnh bài chiếu mà tự tiện mở khoang

. Khoản thứ 19 : Thuyền buôn Lãng sa như chịu nộp thuế hàng hoá xong thì hàng hoá của nước mình hay nước khác đều được phép mang vào. Hàng hoá nước Nam cũng có thể mang ra. Chương trình này phải chờ cuộc họp khác bàn định riêng. . Khoản thứ 20 : Thuyền buôn vào cửa, như tại cửa biển Đà Nẵng, nộp xong thuế thuyền, quan Thương bạc Đà Nẵng cấp phát 48


chấp chiếu. Nếu thuyền ấy chạy đến Quảng yên hoặc Ba Lạt thì đem ngay chấp chiếu ấy đưa xét không thu thuế thuyền nữa. Thuyền buôn Lãng sa vào ba cửa biển chỉ nộp thuế thuyền một lần. Như có sang hai nước Thanh, Xiêm rồi quay lại ba cửa biển ấy đều có bằng chiếu trình nghiệm thì mỗi sáu tháng nộp thuế thuyền một lần. Nếu trở về các nước khác và về Tây mà quay lại ba cửa biển ấy, mỗi lần đều theo lệ mà nộp thuế thuyền.

tuân. Quan nước Nam cũng nên giúp đỡ dân buôn ấy hoàn toàn không khác với một nước hậu ái nào. . Khoản thứ 25 : Các chương trình về sự tình các thuyền buôn bán lập theo cuộc thương nghị này, sau khi trao lẫn cho nhau rồi thì lấy 10 năm làm hạn để tuân hành. Được 9 năm 12 tháng như có một nước không muốn buôn bán làm ăn nữa thì có thể nói trước, đợi đến 10 năm 12 tháng mới bàn đình chỉ. Nếu đến hạn mà cả hai đều không nói đình chỉ thì có thể áp dụng luôn. Nếu ngoài hạn 10 năm mà năm nào muôn đình thì trước năm đó 12 tháng nói rõ đình chỉ. Hoặc có một nước muốn có ước nghị về chương trình buôn bán làm ăn phải đợi đủ 9 năm 12 tháng mới có thể nói trước đợi mãn một năm mới hội đồng sửa lại, sau đó muốn đình chỉ hoặc ước nghị đều chiếu lệ này mà giải quyết .

. Khoản thứ 21 : Thuyền Lãng sa như nộp xong thuế thuyền, thuế hàng hoá, quan Thương bạc cấp ngay cho họ Thực thu phiếu, đưa đến quan Lãnh sự nghiệm rõ, liền đem thuyền bài giao hoàn ngay, cho lịnh ra đi. Tiền nộp thuế phải là bạc ròng, mỗi đồng đủ 7 tiền 2 phân 97 , cứ chiếu theo như thế mà tính. . Khoản thứ 22 : Thương nhân Lãng sa thông thương cửa biển ấy, đã đem thuế hàng hóa nộp xong, chuyển ý muốn chở sang cửa biển thông thương kia mua bán, báo rõ quan Lãnh sự tư cho quan Thương bạc đem hàng kiểm nghiệm quả còn nguyên phong, cấp cho bài chiếu chú rõ hàng ấy từng đã thu thuế ở cửa biển Mỗ đợi thương nhân ấy đến cửa biển kia đem bài đưa quan lãnh sự chuyển đưa quan Thương bạc tra nghiệm miễn thuế

. Khoản thứ 26 : Chương trình về sự tình các thuyền buôn bán đã thương nghị toàn quyền đại thần của hai nước hội đồng bàn định, mỗi bên đều đóng dấu. - Tâu lên : Tính từ ngày đóng ấn, hạn trong sáu tháng thì đôi bên trao lẫn cho nhau tại Kinh đô nước Nam. Hoặc có thể xong sớm, hỗ giao trước sáu tháng cũng được. Sứ Phú lãng sa đã về. Cùng Phan thanh Giản, Phan huy Vịnh, Phạm phú Thứ, Ngụy khắc Đản dâng phiến tâu : Lần ấy sứ thần Phú lãng sa Hà Ba Lý đến Kinh, Phan thanh Giản, Trần Tiễn..., Phan huy Vịnh vâng phái bàn hòa ước về các khoản buôn bán, sứ ấy nhiều cố chấp, bọn thần vụng lợi, không thể tùy cơ biện luận buộc họ phải theo. Thần, Phạm phú Thứ, Ngụy Khắc Đản dự trách nhiệm nói bàn qua lại cũng không được gì mà về khoản hộ tiếp sứ ấy trong lúc làm việc họ có tỏ ra khinh suất cũng không răn đe ngăn trở được gì. Vâng mệnh làm việc mà không nên công trạng gì như thế thực là chịu nhục sứ mệnh, xin muôn phần cam chịu tội. Thành khẩn kính xin giao cho đình thần nghị xử cho nghiêm công luận.

. Khoản thứ 23 : Dân nước Nam bằng lòng xuất khẩu đi các xứ thuộc Lãng sa hoặc đất khác ngoài Lãng sa làm công, đều cho phép lập thỏa ước với người Lãng sa làm bằng để đến ba cửa biển ấy, xuống thuyền Lãng sa. Quan hai nước đều tra chiếu tình hình cho họ cùng định chương trình khiến kẻ thuê khỏi ép công để bảo toàn họ. Người Lãng sa như muốn làm công cho người nước Nam cũng vậy. . Khoản thứ 24 : Giá hàng hóa của hai nước phải bàn định trước để tiện nộp thuế, nhưng tùy thời giá, nếu có cao thấp thì thuế cũng có tăng giảm, tương lai có thể châm chước về thuế thì theo chương trình đã định, thương nhân Lãng sa phải chiếu theo đó mà 49


Châu phê : Giao cho đình thần, khoa đạo bàn xử cho phân biệt để làm sáng tỏ công luận. Tiếp đó, vâng phê : đồi hỗ giao xong xem có thỏa đáng hay không sẽ bàn luôn thể. Tuân sắc kiểm hết các kho thuốc súng, các xưởng đúc súng, các nhà ngục ở Kinh thành, đặt thêm lính phòng giữ .

sự thái bình cho đời này vậy. Bọn thần thấp thỏm tầm thường, bỗng được ơn trên nhìn đến, người ta ai cũng biết bụng mình, trung với việc chung thì ít, nghĩ đến lợi riêng thật nhiều, cẩu thả mong cái nhất thời mà chẳng ngó đến hậu hoạn, bên ngoài chưa vỗ về yên những cuộc nổi dậy 102 , đấy là mối lo lớn chưa biết làm thế nào cho xong. Lại còn mất mùa đói kém mấy năm liền, nay lại gặp trận lụt này, ấy là tội bọn thần lớn nhỏ cả. Nay những kẻ nhục nhã này được ban lời hỏi rõ, bọn thần lính quýnh chỉ có chờ trị tội mà thôi.

- Tháng 8, can việc thuộc ty viết nhầm trong phiếu xin bổ Hoàng chính Nghị làm suất đội, bộ phạt bổng 3 tháng. Cơ mật viện tâu : Vừa rồi được giao xét việc quan Thừa phủ là bọn Đặng Hạnh dâng phiếu xin xét đưa ra các lao ở trấn làm lính. Kính vâng phê chuẩn cho bọn thần tuân vâng xét kỹ. Lâu nay phát vãng sổ tĩnh man 59 , định man 98 đi làm lính ở hạt ấy thì bọn ác côn lũ lượt trốn về gây án, truy lũ tiểu nhân tập thói ác đã thành tính nhưng xét lỗi là do phần nhiều là vì không có sản nghiệp mà ra. Quan phủ xin xét đưa số ấy trong hạt cùng ở Trị, Bình ra giao cho Trấn Lao bảo 99 để khẩn 100 ruộng, ghép buộc thành đội ngũ cho được an cư lạc nghiệp mọi bề, nghĩ cũng là cách xử trí có phương pháp, có thể không lo ngại nữa.

Trộm thấy quốc triều ta đem đạo giáo hóa bốn bên, lập nhân dựng nghĩa, gây nền mở mối cai trị rộng khắp, ngăn ngừa ẩn khúc, không việc gì là không hoàn bị, biến thông theo thời mà châm chước cho tốt đẹp. Thế nên việc vui mừng dồn dập kéo đến ngày càng mới ra, tháng càng thịnh lên, thay đổi bất thuờng, việc nhỏ đã thế tuy biết có ảnh hưởng lớn, được, mất, lợi, hại cũng nghĩ đến lòng riêng cùng những tức bực của họ, họ cứ hùng hổ mà nói, trợn mắt mà làm, chẳng đếm xỉa gì kẻ gánh vác việc ấy không thể lường sức đo thời, biết tiến chứ không biết lùi, gặp việc thì làm chẳng thấy công mà họa hoạn khó đỡ nhưng nói vẫn giỏi, vì lập dị mà không giữ cho hòa bên trong, mỗi khi nước có đại sự thì phát ngôn đầy ngập triều đình mà nước... 103 đến cái nhỏ nhặt cũng giả bộ vì lợi nước nhưng thực ra là để làm ăn riêng, như mua ép vật hạng, gây khó khăn trong thương mại cho đến dâng lời nói mà giành ruộng đất của dân, đoạt vợ con người ta, cho đến bọn lại ty bất xứng, dựa phép nước để làm điều gian.

Chỉ còn khoản thuế ruộng, xét ra ở trung châu thì vỡ ruộng thành thục ba năm rồi mới thu thuế, nhưng ở Bảo ấy thuộc khu vực mọi bị xua đi làm nông, tình thế không như ở trung châu, nơi có nước tốt, đất bằng phẳng hơn. Tưởng nên khiến các viên chức ở bảo siêng lo giúp đỡ, khuyến khích, nhưng xin rộng nới về niên hạn để lôi kéo họ tới. Tên nào khẩn được chừng nào thì cho chúng được hưởng làm thế nghiệp 101 , đợi cư trú ngày càng đông thêm, nền tảng đã thành, sau đó mới khám theo thực chất mà dựa vào số lượng để thu cho bọn ấy được thư thái về tài sản và sinh kế, như thế hiệu quả thành công chắc sẽ lâu dài. Kính xin chuẩn y cho.

Phép nước càng dùng thì tệ càng sinh, trăm vết thủng, nghìn mụn lở không che hết được, vì thế việc ngày càng nhiều dân ngày càng cực, nỗi sầu khổ ứ lòng mà không thể kêu ca, dồn thành bệnh khó sống nổi, việc thịnh cường khó mà tìm lại được. Duy việc vui qua tội đáng trách 104 của bọn thần thật rất thống hận, dầu có vứt ra chợ 105 triều đình vẫn còn thừa trách quở. Các phương thuật làm cho nước mạnh, làm cho người ốm hóa lành nếu đã có từ lâu thì

- Tháng 9 vâng cho Kiêm chưởng Tập hiền viện, đình nhiệm vụ giảng quan. Cùng Phan Thanh Giản dâng sớ tâu: Vâng thấy Hoàng thượng từ khi lên ngôi đến nay, dốc hết tinh thần mưu đồ việc yên trị, siêng năng chính sự, yêu thương dân chúng, cầu người hiện, nhận lời tâu lấy lợi trừ hại, qui mô lớn hơn bao triều, tạo nên 50


tiếc gì mà chẳng thử cố gắng tiến lên phía trước ? Đến lúc gặp việc, há liệu xong được ư ? Mối tệ không phải chỉ có thế, há có thể nhặt nhạnh trình bày rằng cái này có thể thi hành, cái này có thể cố gắng được ư ? Trộm nghe : dừng sôi trào không gì bằng rút củi, muốn cứu tệ không gì bằng bớt việc, lập nền thịnh trị là nhờ ở ưa thực, đạt lẽ phải là ở chổ có được người xứng đáng. Chỉ mong Hoàng thượng nắm lấy cái đại cương làm cái cốt yếu, tuyển kẻ tài năng mà trao chức, tùy theo tài sức mà dùng, mọi việc chỉ cần cho nên. Bọn thần đều được giao làm chức thú 106 không lấy thói gắt gao, nhỏ mọn làm tài năng, tuyển bổ tất rộng rãi về tư cách mà lấy kẻ gánh nổi việc, xử phân phải nghiêm về dối trá khen chê mà cứu gỡ kẻ hớ hênh lầm lẫn tra hạch thì để tỏ sự cùng gìn giữ cùng ngăn ngừa nhưng chẳng nên quá tròng dắt bằng trừng trị, cảnh cáo. Với hạng người kiết đỗ táo cạnh 107 thì thưởng không vượt thời 108 mà bắt tội cho đáng tội. Bớt tiểu tiết mà giữ đại thể, lo việc lớn không tiếc hao phí nhỏ.

Khiêm Lăng vua Tự Đức

- Vâng chọn xong cuộc đất tốt Vạn niên ở phần núi xã Dương xuân thượng huyện Hương thủy, đặt tên chung là Khiêm cung. Vâng sung làm Đổng lý đại thần sở Dương xuân (Khiêm Lăng sau này). -Bộ Binh tâu : Những người thi đổ cử nhân võ ở trường thi An giang phải về Kinh thì đường sá xa xôi, xin cho từ nay trở đi, bọn ấy tuân lệ nghỉ một tháng, hết hạng đó sẽ nghe theo lệnh phân phái làm Hành tẩu ở ba tỉnh Vĩnh long, An, Hà để khỏi nhọc nhằn. Kính xin chuẩn y cho.

Co, duỗi, khoẻ, nhọc cho đúng thời cơ, đừng gượng quá sức, đừng tìm cái không nắm được, bất đắc dĩ mới gây nhọc cho người ta, không đừng được mới đành dấy việc, không đòi hỏi trong sớm chiều mà nhằm cái lâu dài. Như thế sẽ thấy khí điều 109 thời yên, vật dồi dào, mùa màng phong phú, dần dà mà dân ốm được sống lại, đất nước ngày càng đạt đến cường thịnh vậy. Bọn thần lo nghĩ ngày đêm chỉ có thế thôi, không có phép lạ nào khác cả.

- Tháng 10, tuân ân dụ nhân tết Vạn thọ, được khai phục hai cấp. - Tháng 12, công tử Hồng Bảo mưu việc bất pháp, bị chém. Kẻ đồng mưu chịu tội có sai biệt. Bấy giờ hòa ước mới ký xong, bên ngoài chưa rõ sự thế, dễ bàn bạc lộn xộn. Cho là việc ấy do các đại thần toàn quyền chứ không phải do ý trên. Bọn ấy họp bè đảng mưu giết Ông với Phan Thanh Giản, lại cùng nhau bừa dân cỏ đuôi chó 112 .

Châu phê : Ta nay bịnh hoạn ngày càng tăng, chỉ có bọn khanh là chỗ dựa cậy, nếu yêu ta thì hết lòng cứu cái tệ để rước lấy hòa 110 thì việc yên cho dân, lợi cho nước mới đạt được hiệu quả. Còn như ta thấy không phải thế thì là bỏ ta đấy 111 .

51


định ước. Trên cho rằng triều yết là việc quan trọng, không thể cho một cách dễ dãi nên sai đi từ khước. - Cùng Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ tâu : Từ khi ký hòa ước đến nay, bí mật chưa truyền bá cho bên ngoài nghe biết cho nên ở chốn nội cỏ không biết, động lòng nghi hoặc. Xin giao cho quan ba tỉnh Vĩnh long, An, Hà sao 12 điều cũ đưa ra niêm yết để hiểu thị sĩ dân khắp nơi được biết cho họ yên tâm làm ăn, còn các việc khác xin từ từ bàn sau. Châu phê : Chép ra cho các tỉnh tuân hành. - Can việc sai làng Lại bằng giã thuốc súng chậm trễ, bị phạt bổng 6 tháng. Dâng phiến tâu : Nay Bộ của thần trình việc đãi thuốc trễ nãi, vâng phê chuẩn thần được phạt bổng sáu tháng, Lê Bá Thận, Trần Bình, Đoàn Văn Bình đều được phạt 3 tháng. Thần cung kính xem, rất xúc cảm, rất sợ hải. Thật là độ lượng rất lớn, đức độ rất tột, muốn lấy đấy để đánh thức lòng lo lắng của thần, đánh thức sự ngu chậm của thần vậy. Vả chăng, tội lệ là thứ mà tình đời rất sợ, lòng thần cũng không khác thế, duy lần này thần đã nói là chờ khám nghiệm xong sẽ trình lên. Khám xong các viên ấy nói là sẽ trình ngay, chỉ có thần vốn ngu chậm, lo nghĩ hời hợt đến nỗi có chuyện trễ nãi. Các viên ấy đã được tha thứ từ lâu, nếu thần quả có giấu diếm thì những viên quan kia tất đã làm. Xin xét lỗi gốc có ý bao che, các viên ấy cho là thần trễ nãi bị phạt cũng chẳng dám nói gì, chỉ có điều là thần lạm ké chức vụ đầu Bộ, đấy đều là tội của thần gây lụy cho người khác, lòng rất hổ thẹn không yên. Ngữa xin ban ơn cho gộp 9 tháng phạt của ba viên kia thêm vào cho tội của thần, đó là lời tự đáy lòng, thần không dám có chút màu mè nào mới dám mật tâu, cúi mọp xin chờ xoi xét ban ơn cho. Châu phê : Đã là đồng sự, làm sao không có lỗi ? Vậy đặc biệt giảm bớt số lượng (các chữ Tam trong tam nguyệt ở phiến đều có Tấu son tô thành chữ Nhất) 113 .

Hình chụp tại Paris năm 1863 nhân dịp Phan thanh Giản cầm đầu sứ bộ sang Pháp để xin chuộc lại 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ;

Ất sửu năm Tự Đức thứ 18 (1865) Ông 53 tuổi. - Tháng giêng, Cơ mật viện xét mật tâu của tỉnh Nghệ an về khoản dân lương với dân cỏ đuôi chó chưa yên. Tâu rằng : Họ với ta nghi ngờ nhau, bọn thần trộm lấy làm lo. Xin quan tỉnh gia tâm vỗ về khiến cho đôi bên được yên lòng. Vâng xin chép ra giao tỉnh ấy biết mà lo liệu. -Cùng Phan Thanh Giản vâng sắc đến thăm phái đoàn Phú lãng sa, an ủi họ việc không được vào chầu. Bấy giờ tướng Pháp là Gia-lăng-di-y (Gentilly) phái người đi tàu thủy từ Ba lê (Paris) đến cửa Thuận an đưa thư xin triều yết cùng tâu việc 52


- Bắt đầu đánh thuế nha phiến. Được ban bộ sách : truyện Lý Bố, Lý Giáng, Bùi Độ.

sinh nhiều bất tiện. Xin tư cho quan ở đạo hãy triệt về. Kính xin chuẩn y cho.

- Tháng 2, Cơ mật viện tâu: Nay kính vâng Châu phê trong có khoản : Vĩnh Long, An Hà xa xôi cách trở, nay muốn phái người đem phẩm vật vào tặng giao hiếu, nhân dịp xem hư thực ra sao. Viện hãy trình ngay. Kính vâng, bọn thần cùng bàn, xét thấy người Phú Lãng sa đối với ta không phải là chỗ để biếu xén, nay đang muốn nắm các tỉnh biên giới để bắt can phạm 114 . Muốn cho đạo giáo được truyền thông là việc trong ý của họ. Dẫu có biếu bằng quà ngon tưởng cũng khó làm họ động lòng, huống chi phái người dò xét mãi chỉ khiến cho họ càng nghi. Phái viên Đặng Bá Bình từng nói : Viên tham biện của họ là Vi Ân bảo là Phái viên đến thăm thường thường thì ở đấy số người mộ nghĩa khá nhiều, ý của y thì không phải là ta không làm cái việc dụ ngầm. Nay phái viên chưa về, lại phái đến thêm e chúng đang nghi càng thêm nghi, mối xích mích một khi đã mở ra thì lại càng khó xử trí. Kính xin chuẩn y cho.

- Tháng 3, cùng Phan Thanh Giản phúc trình : Hoà ước qui định bồi tiền Tây 4 trăm vạn đồng, khấu thành bạc lạng là 288 vạn lạng chia làm 10 năm, mỗi năm hai lần 20 vạn đồng. Từ hai năm Tự Đức 15 và 16 đã giao được 79 vạn 4 ngàn 9 trăm 51 đồng, còn thiếu 5.419 đồng lẻ, thành lạng 3.635 lạng. Lại năm 17, có một kỳ 20 vạn đồng chưa giao, tiếp đó ban mệnh cho bộ Nội vụ dựa theo tiền Tây (bảy tiền hai phân) chế thành 1 đồng (một mặt khắc Tự Đức Thông Bảo, một mặt khắc 7 tiền 2 phân) đưa vào Gia định hỏi Phú soái nhận không, họ không nhận nên thôi. - Giặc biển đốt phá cướp bóc các xã An lộc, Thành công, Lãnh thủy ở cửa Thuận an, vâng phái 200 biền binh Tuyển phong đem đủ khí giới, đại bác đồn trú ở bờ biển cửa Thuận an. Giặc bể cướp ở Ấp An cư cửa biển Hải vân, phái 150 lính Tuyển phong, 12 lính Thần cơ đem đại bác trú đóng 2 cửa Hải vân và Chu mãi để phòng chận 117 . Tiếp đó, thấy giặc bể qua lại bất thường mà ven biển Thuận an lại quá rộng, việc phòng bị khó chu đáo nên triệt số tuyển phong trú đóng ở đấy về rồi phái 60 lính Thần cơ, 200 lính thủy, 200 bộ binh, tùy nghi đóng ở các xã đông dân, chia đoạn ra nấp chận, lại cấp khí giới cho Đoàn kết 118 trú giữ.

- Được ban một Kim khánh LIÊM - BÌNH - CẦN - CÁN hạng nhì, có tua. Kính Dụ rằng ban cho như thế để giữ lòng làm việc đều nhớ đến 4 chữ ấy, thân thể cốt sao xứng hợp, lại làm món gia bảo lâu dài để giáo huấn con cháu chớ quên đem hết lòng gánh vác việc trông cậy.

- Quan bộ Binh tâu : Giặc bể hiện đang tản ra hải phận Thanh nghệ, thế rất tàn bạo mà số thuyền quân thứ thuê của người Thanh hiện đậu ở Đồ sơn cũng không được việc gì, tưởng nên ưu tiên cho nơi cần gấp đã, xin khẩn ra lệnh cho quan ở Thứ căn cứ tình hình ấy mà bớt ra, phái nhanh đến hợp với số binh thuyền nguyên phái của tỉnh Thanh, chung sức đánh dẹp. Kính xin mật sai quan ở Thứ là Nguyễn Tri Phương biết để lo liệu.

- Vâng mệnh cùng các đại thần luân phiên cầu mưa ở đàn Ngọ môn. Bộ Binh tâu : Nay căn cứ vào bản tâu của quan ở đạo Quảng Trị rằng Tri huyện Thành hoá là Nguyễn Duy Tự 115 xin đem binh đi giải quyết việc ở Trấn Lao bảo, nhân tiện dò ba châu mọi ở Lao cùng các việc khác. Vả chăng xứ mọi đang vô sự nên giữ cho yên tỉnh mà trấn giữ, há nên gây một náo động một cách khinh suất ? Nay đem binh đến dò xét không chỉ làm nhọc cho binh lính chịu lam chướng vô ích mà thổ dân sáng kiến 116 dễ đưa đến Kinh nghi

- Tháng 4, can việc giặc bể vừa đến ấp An cư cửa biển Hải vân cướp bóc, bị phạt bổng sáu tháng ghi vào sách. Can việc Đinh 53


Đạo có con giấu nuôi ở nhà Phò mã Nguyễn Đình Tứ, không phát hiện được, bị giáng 1 cấp lưu.

thế của ta mà trấn áp dân man. Có điều là Pháp với ta sự thành thật tin nhau chưa có mà tù trưởng Man lại là kẻ được người Pháp giúp đỡ, nếu một mai có nhúc nhích gì thay đổi thì tin tức tuyên truyền ra dễ lấy lòng nghi cho người, lại làm cho bọn mọi chóng nảy lòng xấu, e chưa coi là ổn thỏa được.

- Bộ Binh tâu : Hai chiếc tàu đồng trong đội tuần phía nam thì chiếc Bình dương chưa ra biển 119 chỉ còn chiếc Thụy ngục, quay bên này thì mất bên kia. Còn tàu tuần phía bắc thì bốn chiếc Cự hải, Hải vân còn nằm lại cửa biển. Mặt biển Thuận an rộng, nếu mạo hiểm đi cầu may thì không bảo đảm mọi bề. Gần đây việc mất binh thuyền đều là bị giặc biển ném chậu lửa, thùng lửa 120 gây nên. Thực ra chỉ tại vì bác thủ không đắc lực, súng đại bác bắn không được xa. Vậy xin dựa vào sức chở của tàu tuần các tỉnh mà đặt thêm 3 - 4 cổ đại bác Oanh sơn, chọn kẻ trẻ, khoẻ từng rành trong việc diễn bắn đường biển 121 phái qua lại cửa biển diễn tập bắn đạn thật, một là để lính bác biết rõ sức súng, 1 là để binh thuyền rành quen tiếng súng tuần tập cửa biển. Nếu như giặc bể ở lâu trên biển, thế khó đừng được thì mới thì mới tư cho quan Chuyển vận sứ lấy tàu đồng cùng tàu tuần kết liên hộ tống đến cửa Thuận an như tàu tuần phía Nam đã làm. Còn như tàu tuần phía Bắc, chưa có tàu đồng thì nên chờ đã. Kính xin chuẩn y cho.

Xin hãy để cho quan tỉnh ở đây tỏ thêm lòng thân thiện, dần dần đem đất ấy dựng thành hào luỹ y như kiến thiết một thành tỉnh, phái lính sắp đặt muôn phần vững vàng nhưng chỉ tỏ cho có vẻ là để sửa rộng thành cũ, đừng phải gây ra tiếng tăm hình tích gì cả mà sinh ra điều nghi ngờ. Lấy đó làm chỗ phòng giữ, bình thường thì hình thế cũng đủ trông cậy, có thể ngăn hẳn sự dòm dỏ từ bên ngoài. Nếu sau này có dời về xây dựng thì nền tảng đã sẵn, có thể lo liệu được ngay, cũng không đến nỗi có chuyện trở ngại là việc chưa nhúc nhích mà tai tiếng đã bị nghe thấy rồi vậy. Kính xin chuẩn y. - Cùng đình thần tâu : Từ Hà tỉnh về phía Bắc, trong dân chúng chưa dùng tiền đồng, lòng người cũng chưa có thói quen ấy. Đã ba lần bốn lượt triều đình đã định chương trình, phép tắc mà người dân bé mọn vẫn bám lấy thói cũ. Ấy là do ngày thường, giới chức Tổng lý không nghiêm cùng quan lại gần dân không gia tâm mở lối mà ra thế. Xin hãy đem những điều cấm, sức ra cho Tổng lý, phủ, huyện hiếu thị cho dân trong hạt rằng từ việc chi phát lương hướng cho tới nộp thuế, các việc cầm cố bán mua trước phải lấy tiền đồng chiết khấu rồi mới đến tiền kẽm, khiến cho dân biết tiền đồng là quý, vui vẻ mà dùng. Nếu ở chợ quán mua bán mà còn có kẻ nâng giá hàng, không chịu mua bán thì Tổng lý phải nghiêm trách, giải quan trị. Hạn trong một năm là phải thông hành, không trở ngại nữa. Hãy đem điều đó hiếu thị cho dân biết. Hạt nào còn có trình tệ ấy nữa, bộ Hộ phải đem ra xử phạt. Như vậy thì lịch trình sẽ có hạn mà lệnh tất thi hành được, tiền tệ lưu thông Nam Bắc không còn khác nữa. Châu phê : Chuẩn y lời tâu. Làm đi !

- Giặc bể cướp đồn Tư hiền, vâng phái 100 biền binh Tuyển phong, 2 chiếc chiến thuyền đánh dẹp gấp. Cùng Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ đem lính Thị vệ xét xử ty Cẩn tín mua ép hàng hóa của dân, vâng giao cho hai bộ Hộ và Binh tra xét. Trước đó, Ty ấy tuân chỉ, lãnh nhiều tiền quan 122 chia đi đường thủy, đường bộ thu mua vật hạng. - Cùng đình thần tâu : Phủ hạt Ba xuyên của tỉnh Hà tiên cùng với Long xuyên, Kiên giang, địa thế kề nhau, ruộng đất phì nhiêu, lợi tức gạo muối đứng vào hàng đầu các tỉnh. Gần đây Cao man nhận là đất cũ cũng chỉ vì lợi mà tranh vậy. Nay Man trưởng tên Ân lại cùng Phú soái qua lại, chẳng khỏi dựa dẩm để đòi khôi phục đất cũ. Điều mà Thị lang Lê Đình Đức đã xin (dời tỉnh thành Hà tiên về dựng ở Sóc trăng của Ba xuyên) cũng là dựa vào hình 54


- Tháng 5, cùng các đại thần đến 3 cửa biển Chu mãi, Tư hiền, Cảnh dương cùng xem hình thế, tâu xin giữ nguyên như cũ. Đồn Miếu đôi ở Tư hiền cùng các vọng lâu ở bến biển, lúc hữu sự thì rút về phục chận ở lũy đài, còn bao nhiêu thì chia ra phòng giữ những chổ đáng nương cậy, còn đồn trên núi và hai đồn khác ở cửa biển thì xin đình việc tu bổ, xây dựng. Kính xin chuẩn y. Trước đó, kính vâng sắc dụ trong có một khoản : Ba cửa biển Chu mãi, Tư hiền, Cảnh dương cạn hẹp, ở đấy đã thất thủ một lần do phòng bị sơ sót vậy. Các đại thần Phan Thanh Giản, Đoàn Thọ, Trần Tiễn..., Nguyễn Hiên như thay nhau đến xem lại một lần, bàn nhau cho thoả đáng mới hợp lòng Trẫm.

thương nhân nước Thanh thì có ba điều lợi nên phải tâu lên. Tiếp đó lại tâu : Bên ngoài phép tắc còn không khỏi bỏ sót kẻ gian, nhưng có cấm thì kẻ gian có cái để sợ, chẳng hơn là không cấm hay sao ? Trước mắt, hiện nay mùa lúa mất mãi, giặc bể chưa yên, cái ăn của dân, cái dùng của lính đang rất khẩn thiết, nếu nghe lời xin thông thương của họ thì gạo sẽ rò rỉ ra ngoài, dân ta lấy gì mà dùng ? Huống chi giặc bể đang đói, thuyền buôn dựa đó mà kiếm lời to, bán lén cho chúng, chẳng khác gì mang lương thực trao cho kẻ cướp hay sao ? Kính xin chuẩn cho chép ra giao quan ở Thứ Hải an biết mà giải quyết. - Bộ Binh tâu : Nay kính vâng xét các đời trước ban cho những người đỗ thi võ, có tên gọi nào nghe sát và nhã có thể gọi được xứng nhất. Kính tuân vâng tra cứu Bắc triều trong khoảng Đường, Tống, Minh, Thanh có lập thi cử nhân võ hoặc các khoa thi hội thi Điện về võ thấy trong đó chỉ có đời Hiếu Tôn nhà Tấn là ban cho người đỗ đầu là Võ cử cập đệ, còn lại thì ban là Võ cử xuất thân, cho đến Thanh điển thì thấy có Nhất, Nhị, Tam giáp Võ tiến sĩ hậu tuyển thủ bị. Lại tra đời Lê cũ, khoảng các năm Vĩnh Khánh 123 đặt phép thi Bác cử, người đỗ được ba trường là Tạo Sĩ. Nay vâng xét rằng những người dự trúng giáp đệ kỳ phúc thí bên võ xin đổi tên là Võ tiến sĩ (lúc đầu bàn là Võ sĩ) để có phân biệt Xin ban chỉ cho làm như thế để sắp tới mở khoa Võ tiến sĩ.

- Cùng hai bộ Hộ và Công tâu : Các tỉnh, đạo chia nhau đóng thuyền tải, chỉ có vài ba tỉnh tiền gạo đầy đủ, ngoài ra đều không có được bao nhiêu, chổ thì xin thêm lính đi kiếm vật liệu, chổ thì xin nâng thêm giá cho mua, sai mua, chổ thì xin triển hạn đến tháng chạp hoặc tháng giêng sang năm, chẳng đâu giống đâu cả. Nghĩ nên tùy tiền gạo đầy vơi, giảm bớt 35 chiếc, còn lại phải đóng 40 chiếc, chia làm 3 đợt cho xong, nơi nào đóng được nhiều thì tiếp tục lo liệu, cốt cho xong nội trong năm nay. Vua chuẩn y. - Bộ Binh tâu : Kỳ này thuyền Thanh đậu tại các cửa biển xin được mua gạo cùng các thứ khác. Vâng chiếu theo giao kèo thuê mướn đã ghi rõ thời hạn hành trình, phái viên ấy làm thế nào mà để họ được sửa đổi kéo dài thành tốn kém nhiều, xin để quan ở Thứ là Nguyễn Tri Phương sức cho phái viên tùy cơ bàn bạc cho thỏa đáng cùng nghiêm trách những người bảo lãnh, khuyên các thuyền ấy mau ra sức đánh dẹp. Can việc chọn ngày tốt sửa chữa các tôn lăng, đốc suất lựa chọn không hợp, bị phạt bổng 3 tháng ghi vào sách.

- Cùng đình thần tâu : Đạo triệu hòa 124 gốc ở Chí thành nhưng phải chờ lâu mới rõ, không phải là muốn được trong sớm chiều . Chỉ có Hoàng thượng một lòng kính cẩn siêng năng mới đón được sự giúp đỡ huyền nhiệm. Bọn thần lớn nhỏ đang rửa tâm đổi trí, cung kính hợp sức làm một để thực lòng phụng sự lâu dài, mỗi mỗi công việc đều sửa trị hợp lòng dân để cho Hình với Thanh cảm nhau, vời nhau hầu mong sự đáp ứng của Tự nhiên. Đến như các phép cứu hoang 125 đều đã thi hành, những gì có thể đem ra chạy chữa cho dân đói đều không còn sót cách nào. Xin hãy sức cho các địa phương thừa hành thật lực : hoặc là kiếm việc làm cho dân

- Tháng 5 nhuần, cùng Phan Thanh Giản tuân duyệt sớ tâu của Thị lang Nguyễn Uy. Các cửa biển ở Hải dương, thương thuyển tấp nập mà cấm chỉ thuyền Thanh thì có ba điều hại, vẫy mời 55


nghèo, hoặc là lo phát chẩn. Những đường sông bị ứ lấp thì khơi ra có thể dẫn nước vào ruộng, khơi cho sâu có thể dựng xe nước để tưới, hoặc đắp đập đê để ngăn nước mặn để bảo vệ nhà nông khiến lũ lụt hay hạn hán không gây được tai họa. Đến mùa cày cấy thì xét kỹ nông dân, như không có giống má hoặc trâu bò, cày cuốc thì chi của kho giúp đỡ khiến khỏi mất thời vụ mà cái ăn của dân cũng thơ thới vậy. Kính xin cho chép gởi trong ngoài.

cho hợp với công việc, một mặt viết sớ đệ nhanh về tâu. Nếu chưa dám đệ lên, tất là còn đợi trù tính chín chắn thì cứ dựa sự thực về tâu ngay đợi chỉ. Đi về hạn trong một tháng để ta khỏi trông, có cần mang theo thuộc ty mấy người thì cho phép chọn xin tùy phái. Lại truyền chỉ cho bọn Nguyễn Tri Phương ai nấy hết sức trù liệu làm sao cho việc sớm xong, đừng để thiếu sót thua cả trước kia là được. Lại vâng Châu phê: sao ra rồi bái mạng đi ngay.

- Can việc đã cùng đình thần không xét cử Viên ngoại lang Lê Văn Duyên, bị giáng hai cấp lưu.

- Dâng phiến tâu : Nay xin chuẩn cho thần trước hết đến quân thứ Hải an công cán. Xin nội các soạn giao cho một ấn Khâm sai quan phòng để gặp lúc phải dùng. Lại thấy số bộ thuộc của thầy có Viên ngoại lang Phan Khắc Kiệm, Chánh bát phẩm Lê Chánh là người siêng năng cẩn thận, chữ viết đàng hoàng xin cho đi theo đường dịch trạm để đến làm việc. Kính xin chuẩn y cho. Lại vâng Châu phê : Cấp lộ phí cho quan Khâm sai 5 lạng bạc, Phan khắc Kiệm 3 lạng, Lê Chánh 2 lạng. Lại vâng Châu phê : Bọn Hoàng văn Tuyển bộ Binh cùng lo liệu công việc của Bộ, ngày đêm không rời. Việc ở giám 128 giao cho Phạm Phú Thứ quyền kiêm quản.

- Tháng 6, vâng Dụ : Việc quân ở Hải an đã lâu mà chưa kết thúc, trẫm đã thân chế sắc dụ khích lệ dốc sức, nay đặt phái Thượng thư bộ Binh sung Cơ mật viện đại thần kiêm quản Khâm thiên giám, Chưởng Tập hiền viện Trần Tiễn ..., cầm cờ tiết đem Dụ đến giữa ba quân tuyên bày cho long trọng sự thể mà nghiêm quân chính. Xưa Bùi Độ 126 tự xin đi vỗ về Hoài tây mà nhưng công rực rỡ, trẫm rất khen phục. Há nay không có người như thế ư ? Khanh là đại thần của nước, được chú trọng đã lâu, biết rành phép tắc, điều khiển Hạ quan 127 cơ nghi thông thạo, có lòng báo đáp, khẳng khái nguyện làm, hâm mộ hiền nhân, rất xứng ý trẫm, lần đi này cho phép tùy nghi. Kẻ tòng sự từ Đề đốc trở xuống, thấy đích xác ai có tài năng hay không, quan trọng thì tâu xin thưởng phạt, còn tầm thường lỗi nhẹ, nếu viên chức lớn thì răn trách, quản vệ trở xuống thì trừng trị. Có công nhỏ thì cho phép chi tiền bạc ở tỉnh mà thưởng, thể theo ý trẫm, đức trẫm mà tuyên cáo như thế nào cho tướng sĩ phấn khích thêm bội phần, 3 quân một lòng dũng cảm để việc diệt giặc sớm xong, khỏi phụ lòng trẫm đặc biệt trí ý.

- Tháng 7, ra Hải dương, thấy dân đói đến 8-9 ngàn người, có người chết đói. Thương lượng trích kho tỉnh 3.000 phường gạo giao phủ huyện phát chẩn. Một mặt phát, một mặt dâng sớ chịu tội. Vâng Chỉ cho là vì phải cứu gấp nên tha tội. Cho phép ra lệnh kẻ giàu có, các quan phủ, huyện, tổng, xã, lại, biền chia nuôi cùng cấp sang tỉnh khác vì tỉnh ấy đói lớn, khoản gạo 30.000 phương để phát chẩn. Quân thứ Hải ninh khôi phục được thành Hải ninh, cắm cờ đỏ báo tiệp 129 . -Can việc các Đề đốc Hoàng Thành, Tôn Thất Đính 130 ở quân thứ Hải an, vin cớ đau ốm, tự tiện bỏ về, không tuân quân pháp trở lại, bộ giáng 1 cấp lưu.

Lại cho phép xét kỹ quân tình, thế giặc, vì lẽ gì lâu nay chậm chạp, với nay làm thế nào để thắng nhanh, nếu xác định được mưu toan có thể vạn toàn thì một mặt mật bàn cùng Tổng thống Nguyễn Tri Phương, Tham tán Phạm chi Hương, tùy cơ lo liệu ổn thỏa

- Tháng 8, từ Hải an về, vâng đem hiện tình của quân thứ ấy tâu rõ từng việc. Lại tâu : Đường cảng ở Thanh nghệ trước đã nạo vét nhọc công và tốn tiền rất lớn, từ khi ngưng vận tải đường sông thì trong đó có đoạn lấp, xin tiến hành khơi dòng sâu như nhau cho 56


cả công lẫn tư đều lợi mãi mãi. Châu phê : Chuẩn y cho quan hai tỉnh ấy khám rồi khơi dòng.

- Tháng 10, đình thần vâng đem các cuộc đất lần lượt cùng chọn đại cát cuộc Vạn niên cơ. Châu phê : thưởng gia 1 cấp . Vâng tuân ân chiếu nhân Vạn thọ Khánh tiết, được khai phục hai cấp. Can việc cùng triều đình duyệt trễ nãi các khoản trình bày của Võ Trọng Bình, tổng đốc An Tĩnh, bị giáng 2 cấp lưu. - Vâng sung làm Độc quyển kỳ thi Nhã sĩ, một người đạt cập đệ Đệ tam danh 132 là Đặng văn Kiều, người Hà tĩnh. Bốn người Đệ nhị giáp Nhã sĩ : Nguyễn Phiên quê ở Hà Nội, Nguyễn Văn Trang quê Hải dương, Phạm Duy Đôn quê Quảng bình, Nguyễn Đức Bình quê Hà tĩnh. Vâng Dụ trong có khoản : Lần này các quan chấm thi phải khai duyệt lâu ngày, đều có chút nhọc nhỏ trong việc đọc quyển nên thưởng cho Thượng thư bộ Binh sung Cơ mật viện đại thần, Kiêm quản Khâm thiên giám, Tập hiền viện là Trần Tiễn ... 4 Mỹ kim tiền, 1 chiếc có tua. Giao cho Bộ chọn ngày để ban yến 1 bữa ở Bộ đường cùng ban thư để tỏ sự ưu đãi đặc cách.

- Tháng 9, Cơ mật viện bàn, tuân mệnh viết thư khước từ việc nước Y pha nho phái A Răng Đa đệ thư xin cho làm Lãnh sự Đà Nẵng. Cùng bộ Lại tuân xét lạc quyên các người làm việc thật thạo việc chữ, tính toán, soạn thảo giấy tờ, võ nghệ đáng bổ phẩm hàm văn, võ, lệ, dựa theo Bộ, Tỉnh, Doanh, Vệ trình lên 131 .

- Được ban 2 bài thơ ngự chế như sau :

134

Ôm mái chèo xui nhớ nước sông 135 Phẫu đầy luống thẹn mộng cho không Nghìn vàng xương ngựa mua nào tiếc ? Ngỗi cung tấp nập vạn anh hùng 137

136

∗ ∗ ∗

Mưa gió dầm dề ngại bước chân. Vỗ đùi 138 Hàn Phạm 139 tiếng ca ngâm Mười phần như quả năm phần được Trinh cán 141 lo chi chẳng có phần ? Vua Tự Đức và các quan đại thần (tranh của Bohin, collection Giraudon) 57

140


- Dâng phiến tâu : Nay Giám của thần tuân vâng lời phê trước đây dặn các việc : Hàng năm cứ đến kỳ là chiêm nghiệm, từ mồng một tháng giêng đến cuối tháng chạp đều tư cho quan Phủ trình lên các khoản ứng nghiệm hoặc không, xin kính vâng kê ra dâng lên. Giám của thần đã sức cho thuộc ty dựa theo kỳ mà chiêm nghiệm, đăng ký xong, đến năm sau gom các bản đã chiêm nghiệm, đã hơn 3-4 năm, không có khoản nào xác nghiệm cả. Thần trộm nghĩ rằng các sách đã chiêm của nước Thanh ở gần Bắc cực so với ta ở phương Nam phong thổ không đồng cho nên sách có câu : “ Năm phương đều có tính, nghìn dặm chẳng cùng vẻ”. Nếu đem những điều các sách đã chiêm mà chiêm lại thì có nhiều sai dời không nghiệm đúng được. Xin ngưng việc gom các bản chiêm nghiệm để khỏi vấy bụi 142 . Kính xin chuẩn y cho.

xuân từ mồng một tháng này đến cuối tháng, hiện đã làm được bao nhiêu sở, sở nào đã xong cùng sở nào công trình ước chừng được mấy phần mười, cùng vật liệu đã mua sắm, chưa sắm ra sao, kê ra trình lên. (Từ nay về sau đến cuối tháng đều làm theo lệ ấy) . - Tháng 11, cùng Phan Thanh Giản, Đoàn Thọ, Phan Huy Vịnh, Nguyễn Văn Phong duyệt xét các bản điều trần của Phạm Phú Thứ, Nguyễn Chánh, Lê Bá Thận theo từng khoản mà lần lượt trình lên. Châu phê : Cái nào nên chép ra thì lo chép, chớ để sót . - Cùng Phan Thanh Giản dâng phiến tâu : Tháng 12 năm trước, bộ Công của thần đã xin cho quan địa phương sức xuống các viên phủ huyện chiếu cứ các xã thôn trong hạt có các hộ buôn bán ở lâm phận, người nào muốn lập hộ bán gổ, đốn nộp cùng định hạn chở nộp thì thưởng bằng chức hàm, gia cấp thì trình lên. Kính vâng phê giao cho bọn thần duyệt rồi phúc trình.

- Cùng Đoàn Thọ tâu : Nay vâng Sắc trong có khoản nói : Nay hãy phái người có khả năng viết thư, trình bày thành thật tình thế, xin đem ba tỉnh Vĩnh long, An hà đổi 3 tỉnh Định Biên, Định tường thì đôi bên đều yên, như họ không nghe theo thì thêm một hạt Định tường, cốt lấy lại được Định Biên, tuy khó nói ra cái thế bất đắc dĩ ấy. Bọn thần trộm thấy một hạt Gia định đất hiểm yếu, lợi to lớn, bọn họ không chịu nhả ra đâu. Vạn nhất mà ta đắc lợi thì đất đai hình thế béo gầy, thuế má qua lại ta không được gì, chỉ nhận tiếng suông. Huống chi gần đây Phú soái cùng hai tỉnh Long giang sự tình có phần lủng củng 143 nói không ăn lời, chẳng khỏi cho rằng ba tỉnh của ta lân cận với Man có thể vì đấy mà xảy ra chuyện lôi thôi. Lại nữa, dân ba tỉnh Long An Hà kinh hải nhiều hơn một bậc, sợ không lấy gì làn vững lòng người, xin hãy từ từ mới làm việc ấy được. Châu phê : Tuy tính quẫn nhưng cũng nên liệu sao cho đúng tình thế.

Bọn thần đã vâng hỏi, xét nghĩ : Cây gỗ là thứ nhu cầu cần thiết mà lập hộ hòa mãi 144 cần có tình người thì mới thực có hiệu quả. Nay xét việc lập hộ làm gỗ mà qui định đến nộp bao nhiêu, hạn cho làm hai năm mới được cấp bằng thí sai là việc phiền phức khó khăn, chưa chắc lòng người vui vẻ tình nguyện. Huống chi Tổng lý thúc lính, trưng lương niên hạn đã đủ mà lệ không thưởng cấp gì, nay đem những điều ấy mà cam kết, bảo đảm với họ chuyện làm gỗ nếu họ được thưởng hậu có quá mức thì nghĩ cũng không thỏa đáng vậy. Nay nguyên Khâm phái 145 Nguyễn Lâm dâng tập xin thôi cấm khai thác thiết mộc, giao cho đình thần xét duyệt, vậy việc ấy xin giao cho đình thần xét nốt cho được thỏa đáng. Kính xin chuẩn y cho . -Can việc thuộc ty làm lý lịch võ biền sót không truy ra được, bị phạt bổng 9 tháng ghi vào sách. Can việc cứu xét Hoàng Văn Vĩnh đưa tên Thiệu đến trễ, bị phạt bổng 6 tháng ghi vào sách.

- Cùng đình thần tuân cử Hiệp biện đại học sĩ Phan Thanh Giản, Thượng thư bộ Hộ sung làm Kinh lược đại thần Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Cùng Đổng lý Trung quân Đoàn Thọ, Thượng thư Nguyễn Văn Phong cung vâng đem kết toán số thợ Dương 58


đánh thuế, đất ấy nằm vào khoảng giữa hai tỉnh An Hà, lại có sông Vĩnh tế 27 là ngạch cửa chận chắn đều là đất của ta, người Miên nhờ người Phú (Pháp) đòi lại. Đó là lời đòi trái ngược với sự liệu định của tỉnh Vĩnh long mà nước Phú chưa từng nói rõ, nếu ta nêu ra trước, e sẽ bị dòm dỏ cạn sâu hoặc có làm chuyện gì khác nữa. Lòng dạ quân Miên hãy cứ để yên chờ họ có nói gì đã, rồi hãy tùy cơ đối phó. Kính xin chuẩn y sao chép ra cho quan Kinh lược Phan Thanh Giản và quan tỉnh lo liệu.

CHÚ THÍCH : 59. Tĩnh man : mọi không nổi loạn, phân biệt với ác man. 60.Kinh thú : lính Kinh kỳ đồn thú ở địa phương. 61.Trung bảo : lính bảo vệ miền Trung. Cũng như Kinh thú, các lực lượng này nhằm phòng ngừa ý đồ ly khai của địa phương. 62. Có lẽ thí nghiệm này thất bại. Tuy phản ánh tính ngây thơ nhưng cũng tỏ được quyết tâm táo bạo nhằm đánh tàu Tây.

Kênh Vĩnh Tế nối liền Châu Đốc và Hà Tiên

63.Lê thuyền : thuyền thường không trang bị gì, tương tự kiểu gọi Lê dân (dân thường).

- Tháng 12, xong việc võ công quân thứ Hải an. Cùng Đoàn Thọ tâu : Nay vâng duyệt về thế giặc và tình hình biên giới của tổng đốc Vĩnh long Trương Văn Uyển và tổng đốc An Hà Phan Khắc Thận, bọn thần trộm nghĩ 3 tỉnh ấy lẽ loi mà Cao man đã bị Phú lãng sa bảo hộ vậy hãy chịu lép vế để họ yên lòng. Hãy ngăn chặn biên giới, như thấy có kẻ lấy danh nghĩa nào đó vào địa giới của ta thì bắt giao để dứt mối nghi ngờ của họ. Còn tên Bà Đồ là dân Miên mới qui thuận thì mặc kệ cho đi hay ở tùy ý và giục luôn thổ tù Tôn Mạnh hãy sớm trở về đất Miên mới có thể cắt đứt sự nghi ngờ mà đỡ lo 146 . Còn như Thất sơn, năm trước đã lập thôn,

64.Ỷ đốc : chữ quen dùng trong ngôn ngữ. Thực ra là ỷ giác, chổ phòng thư hổ tương như trâu rừng, dựa sừng nhau hoặc hai chiếc sừng dựa sức nhau. 65.Bắn bông : bắn cho có bắn chứ không cốt để trúng đích. Có lẽ đây là tiếng lóng của con nhà lính (tác giả dùng từ hoa bác). Trong nghề kéo sợi, người ta dùng cung bật mãi trong bông vải, mượn sức rung của dây cung làm cho bông tơi ra, dùng đấy làm con cúi mới kéo nên sợi được. Lẽ ra phải dùng chữ xạ nhứ, nhưng tác giả 59


cố ý tinh nghịch xài tiếng bồi, cũng như Nguyễn Công Trứ viết Tổ tôm tên chữ gọi Hà sào (hà : tôm, sào : tổ) nhưng thực ra tổ tôm tên chữ là tụ tam (bộ ba văn - vạn - sách kết thành một tụ) .

định số lượng cụ thể chính xác. Dịch như thế để giữ vẻ. 77. Tuyên ủy : nói lên lời vỗ về, nhân danh vua. 78. Diện sắc : vua hỏi trực tiếp.

66. Chế liệu : đại bác của ta lệ thuộc trình độ nạp đạn, do đó việc nạp đạn được gọi là chế biện, chất lượng và hiệu lực tùy người bác thủ.

79. Kỹ nghệ : nghĩa cổ, tương đương với nghĩa kỹ thuật ngày nay. 80. Hỗ giao : trao đổi lẫn nhau hòa ước mỗi bên đã ký.

67. Tuyệt vời : dịch ý mấy chữ “động chúc cơ nghi” (đúng cơ hội ... động phòng hoa chúc !) .

81. Hứa vội : nguyên văn “Khinh hứa”, chỉ hứa mà chưa cân nhắc kỹ và không đủ thẩm quyền.

68. Bến cát : dịch tạm từ sa chữ (dãi nước cạn có đáy cát nằm ven sông, biển) .

82. Về chầu : nguyên văn “quí cận”, tức về gặp riêng vua, khác với chầu là gặp chung theo lịch thị triều.

69. Thiết long : rồng sắt, chỉ số xích sắt thả ngầm để ngăn tàu địch.

83. Diện phúc : trình bẩm trực tiếp vua. 84. Kho noa : chữ noa cũng có nghĩa là kho, tức là dùng thừa một chữ. Rất có thể tác giả muốn xài chữ caisse noire (quỹ đen, quỹ riêng) nghe cho ngộ ?

70. Chính khí đạt nguyên : thuốc trị cảm cúm. 71. Sắt tây : nguyên văn Tây dương thạc thiết (sắt chín của Tây). 72. Cáp châu : tên này có vẻ không đúng với tên địa phương (tương tự trường hợp chú thích 56). Rất có thể tên chính thức là Bãi Hến, Bãi Sò hoặc Bãi Nghêu.

85. Thượng phương : viên quan chuyên làm đồ dùng hoặc chế thuốc quí dành riêng cho vua. Dần dà về sau, sản phẩm ối đọng quá khỏi chế nữa, chức quan nọ cũng dẹp luôn, hai chữ đó trở thành chỉ kho hàng ối của vua.

73. Bảo đại định công an dân hòa chúng thượng tướng quân : tên đặt cho một loại súng ngụ ý gửi gắm ước vọng : viên thượng tướng quân giữ nghiệp lớn, nên công đại định, yên dân chúng (không nổi loạn).

86. Ứng cử : chỉ người dự thi Hương. Họ được phép trình bày công khai quan niệm và nhận định của mình trong bài văn sách ở trường thi. Nếu hỏng họ được Tú tài, nếu đổ họ trúng Cử nhân. 87. Tiện nghi hành sự : nghĩa cổ, làm việc thế nào tiện cho lẽ chung, hợp với tình riêng (tiện ư công, nghi ư tư).

74. Trượng = 10 thước = 100 tấc = 1.000 phân = 3 m ,2 ; Dặm = 180 trượng = 576 m.

88. Dịch âm : Cổ vân : Sinh ư tam sự chi bản như nhất đại nghĩa cố chiêu nhiên,

75. Tỉ giá qui định dưới thời vua Minh mệnh : 1 lạng vàng = 5 lạng bạc.

Ủy chí nan đào dật, Đại đàn cơ tố xan. Kình thảo đãi phong tật,

76. Trăm đồi : nguyên văn bách đôi, có thể dịch trăm đống, trăm đồi, trăm gò. Trăm chỉ là cách nói chỉ toàn thể, chứ không xác 60


Cẩu đạn hành lộ nan. Thoát tỉ giao thùy tuất Cao đàm dữ hùng biện, Tất cánh quai kỳ thực. Hà như tuyệt tư ý. Chuyên niệm tư thần bật. Cổ nhân kiên trọng phụ Lợi độn cự tiên tất Duy dĩ thành khổn phu. Quỉ thần tự khả chất. Bạo hổ do độ hà, Cuồng ngạc diệt tỉ thất. Thẩn phù bĩ hữu tri. Hà hoạn hồ cưỡng phất Gia danh, nhân sở hiếu. Chí lý, nhân sở khuất. Thiện ngôn, nhân sở phục Nghĩa khí, nhân sở truật Thiết thạch chung bất di, Khê hác yên năng dật ? An nguy tại thử cử Khẳng tích kinh luân thuật Vô ngôn dĩ mặc hội, Niên lai cửu thân mật .

mong mỏi, đến chết mới thôi (nhiệm trọng nhi đạo viễn, chung thân bất quyện, tử nhi hậu dĩ - Giả Nghị) . 92. Hùm dữ, sấu điên : Ám chỉ thực dân Pháp và Y pha nho, tham lam, hung hãn. Khuyên sứ giả cảnh giác. 93. Đối phương... vật nài : thực dân biết thế yếu của ta, ta phải chấp nhận kiên trì (nói dai, nói dài, tránh khoan nhượng). 94. Tài tế thế : nguyên văn “Kinh luân”. Ngụ ý của vua Tự Đức : đây là dịp thi thố tài Kinh luân, nếu không thi thố thì tài ấy “chết” một cách đáng tiếc. 95. Mang bụi : nguyên văn “trần phụ”, ý nói ngượng ngùng như bị lấm láp khó coi (với quí đại thần toàn quyền, mão cao áo rộng, cách nói đó rất phong phú hình tượng !) 96. Cò mãn Đăng : phiên âm chức vụ Commandant (thiếu tá); Hà Bá Lý: tên Pháp là Aubaret. 97. 7 tiền 2 phân : đơn vị đo trọng lượng theo Tàu. 1 tiền = 10 phân = 3,75 gam. Trọng lượng đồng bạc hoa xoè bấy giờ 7 tiền 2 phân = 27 gam. 1 tiền tức 1 chỉ trong đơn vị cân vàng. 98. Định man : ở những nơi dân thiểu số nổi dậy, triều đình càn quét diệt xong ác man, phiến man, số đàn ông còn lại được coi là định man, bắt vào lính. Mặt khác, vì phòng xa, số mọi ở xa cách vùng nổi dậy cũng bắt luôn, đấy là tĩnh man.

89. Đạo nghĩa thứ nhất : chỉ vua tôi trong đạo Tam cương (Vua tôi - Cha con - Vợ chồng) .

99. Trấn Lao Bảo :tiền thân của địa danh Lao bảo. Dưới triều Nguyễn, tội nhân án nặng bị đưa về giam ở Kinh (Tôn Thọ Tường : Trải 72 trạm tới Kinh : án thi thế người khác), một số khác đưa đi an trí ở Trấn tức là đưa ra Trấn Lao. Ở đấy có đắp thành đất nhỏ, thấp (bảo) cắt lính canh giữ, do đó gọi là Trấn Lao bảo. Do việc quản thúc bằng bảo (thấp)

90. Của tin : nguyên văn ủy chí. Sai sứ giả đi giao thiệp tức là ủy nhiệm cho sứ giả ấy làm con tin (chí) và trong thực tế lịch sử, sứ giả thường bị giữ làm con tin khi cần. 91. Đường dài, gánh nặng : chỉ nhiệm vụ của kẻ sĩ, của người quân tử trong đời là : gánh nặng mà đường xa, trọn đời 61


nên không lập được nhiều sơ, thành ra lâu ngày giảm bớt chữ Trấn. Cứ thế thành quen.

105. Vứt ra chợ : nói bóng nghĩa chữ xử tử (xưa xử tử tội nhân thường thi hành ở chợ để răn đe, nên việc đó thường là “truyền cho chính pháp thị tào”) .

100. Khẩn :Vỡ ruộng. Chữ này không có trong nguyên văn nhưng lại có dấu xoá còn nhận ra được nguyên vẹn, chỉ có đều là chữ bị xoá viết là (bộ tâm) có nghĩa là thành thật (thành khẩn) trong khi đáng lẽ phải là bộ thổ (vỡ hoang) phải chăng vì viết nhầm nên xoá đi rồi để đấy chờ giấy khô (cho khỏi nhem) để chữa nhưng quên ?

106. Thú : chức đầu ngành (thái thú), hai cụ Phan và Trần đều đứng đầu bộ. 107. Kiết đỗ táo cạnh : Kiết : tố cáo điều kín đáo của người khác, đỗ : vu vơ, bộp chộp, không dựa cái gì cả, táo cạnh : hớp tớp tranh quyền the, bất chấp liêm sỉ, đạo lý.

101. Thế nghiệp : sản nghiệp đời đời, được phép lưu truyền cho con cháu.

108. Thưởng không vượt thời : thưởng những thứ không có giá trị lâu dài (rượu, vải v.v...) .

102. Nổi dậy : dịch lấy ý. Nguyên văn nói hợp cách hơn : hoàng trì xuẩn lộng (ngu xuẩn đùa nghịch bên bờ ao) .

109. Khí điều : vũ trụ không xáo trộn. Triết lý nho gia cho rằng trong đất có một khí bao trùm, nhờ khí ấy mà mọi sự ổn định, khí ấy mất điều hòa là mọi tai biến xảy ra.

103. Chổ này chừa trống hai chữ, vì hai khả năng : a/ có nghĩa xấu, nói ra xúc phạm, mang tính... trù ẻo. b/ người viết khó đọc, người chép bó tay, quên hỏi lại hoặc sợ đánh giá kém khả năng nên giả quên (Người dịch nghiêng về khả năng thứ nhất) .

110. Hòa : nho gia quan niệm “đạo” của vũ trụ là Thái hòa, đạt được Thái hòa thì “trời đất mới yên vị, vạn vật mới sinh sôi nẩy nở được” (trí trung hòa, thiên địa vị yên, vạn vật dục yên - Trung dung) .

104. Đáng tiếc : dịch tạm hai chữ tiết tiết, quá đỗi hàm súc : a/ không đáng gì b/ không gấp c/ đông, nhiều d/ tranh nhau ồn ào. Cả 4 nghĩa đều đắt. Hai vị đại thần này đi sứ ký một hiệp ước theo ý đồ của kẻ quá mạnh đến nổi lệnh vua là “ năn nỉ cho họ cảm động !”. Trong tình thế ấy, dầu không đạt kết quả vừa ý thì cũng là chuyện ngoài ý muốn, thế mà các khoa viên nhao nhao buộc tội đưa đến án trảm giam hậu, hay đánh bằng gậy. Đối với đại thần mà buộc tội đến thế, chỉ vì quan nhỏ ghét quan to, bọn tiểu nhân được thế ăn nói. Cần lưu ý là những việc cướp đất, cướp vợ, làm khó dễ thương mại v.v. dứt khoát là những chuyện có thật, hai cụ Phan và Trần không thèm hài hạch nhưng có sẵn để viện dẫn khi cần, chứ không dễ nói vu vơ với vua.

111. Nên lưu ý là lời phê này chỉ dùng chữ Ta (dư) chứ không hề dùng chữ Trẫm (ra điều tôn quí) mặc dù hai vị đại thần này phê phán khá nặng nề, bóc trần những thói nhỏ mọn của nhà vua. 112. Bừa cỏ đuôi chó : loại cỏ cao 6-7m, rất hại lúa, người ta trừ bằng cách bừa cả đám lúa, trừ được cỏ nhưng hại lây cho lúa không ít. Tác giả dùng hình tượng đó để chỉ việc tàn sát giáo dân (vừa mất dân, vừa lầm dân lương). 113. Dấu ngoặc đơn chổ này do người dịch thêm vào cho hợp văn cảnh (lẽ ra dòng chữ này phải viết nhỏ để cước chú nhưng có lẽ thư thủ lơ đễnh) . 62


114. Can phạm : có lẽ ám chỉ số lãnh tụ kháng chiến cùng nghĩa quân (?).

phát triển nên HÒA phải có yếu tố THÀNH. Chuỗi liên hệ đó như sau : Mừng, giận, buồn, vui... khi chưa phát ra thì là TRUNG, phát ra đều trúng nhịp (THÀNH) gọi là HÒA. TRUNG là gốc lớn của thiên hạ, HOÀ là chỗ đạt đạo của thiên hạ (Hỉ, nộ, ai, lạc chi vị phát vị chi TRUNG, phát nhi giai trúng vị chi HÒA - TRUNG dã giả thiên hạ , chi đại bản dã. HÒA dã giả thiên hạ chi đạt đạo dã ... Trung dung). Từ cơ sở lý luận đó hình thành hệ thống nhân quả : Cách vật → Trí tri → Thành ý → Chính tâm → Tu thân → Tề gia → Trị quốc → Bình thiên hạ (Đại học).

115. Nhân vật này có thể chỉ tên Nguyễn Duy, còn chữ tự có thể là do chữ đi cùng với chữ thỉnh. Tự thỉnh có nghĩa là tỏ lòng xin. Vậy phải tra ở các tư liệu khác mới xác định là Nguyễn Duy hay Nguyễn Duy Tự. 116. Sáng kiến : nghĩa cổ: việc hôm qua chưa từng thấy mà hôm nay bỗng lại thấy. 117. Chi tiết nhầm lẫn đáng ngạc nhiên : Hải vân không hề có cửa biển, Chu mãi chỉ là mũi đất. Hay là muốn nói Đà nẵng chăng? 118.

125.

Cứu hoang : cứu vãn nạn mất mùa .

126. Bùi Độ : nhân vật lịch sử Trung quốc, làm quan đời Đường Hiển Tông (866 - 821) được phong đến Tấn quốc công tiêu biểu cho người quân tử đạo Nho. Tính hăng hái, can đảm, cương trực, có nhiều quân công. Cuối đời, gặp lúc hoạn quan chuyên quyền, ông quay lưng với chính trường, ngao du xướng họa với Lưu Vũ Tích, Bạch Cư Dị .

Đoàn kết : lính hương dũng của mỗi làng.

119. Ý nói chưa đi biển lần nào nên không đảm bảo việc sử dụng. 120. Chậu lửa, thùng lửa : dùng chậu, thùng, chứa giẻ tẩm dầu, đặt vào quang, đốt lên ném ra làm vũ khí.

127. Hạ quan : chỉ bộ Binh. Theo thuyết Ngũ hành, mùa Hạ cũng như bộ Binh đều thuộc hành Hỏa.

121. Đường biển : chữ Hán là Hải trình, mà Hải trình lại cũng là tên làng gần cửa Thuận an, do đó ở đây có thể mang nghĩa : những kẻ đã từng diễn tập đạt yêu cầu ở bãi bắn Hải trình.

128.

Giám : Khâm thiên giám .

129. Cắm cờ đỏ : nguyên tác chỉ nói “chu kỳ báo tiệp”, cho phép hiểu : a/ cắm cờ đỏ trên mặt thành báo hiệu thắng lợi ; b/ cho trạm phu cầm cờ đỏ chạy về Kinh báo tin thắng lợi.

122. Tiền quan : tiền của nhà nước (dịch tiền công hay tiền kho đều dễ bị hiểu lầm). 123. Vĩnh khánh : thời gian từ thời Vĩnh tộ (Lê Thần Tông) đến Vạn khánh (Lê Huyền Tông) khoảng 1618 1720.

130. Tôn Thất Đính : cha của ông Tôn Thất Thuyết, về sau bị đày đi Haiti, chết trên tàu. 131. Đoạn văn này tối tăm, người dịch hiểu như sau : Thực chất đây là vụ bán chức lấy tiền bỏ kho (đặc biệt là

124. Triệu hòa : rất hòa. Một lối nói cho lạ, thay chữ Thái hòa của nho gia. Với họ, HÒA là chỗ đạt đạo của thiên hạ. Muốn có HÒA, phải có cái gốc là TRUNG. Muốn TRUNG 63


nhu cầu xây Vạn niên cơ !) để tránh chữ “bán”, cho đỡ ngượng nên nói quanh co ra như thế. 132.

Cập đệ Đệ tam danh : tương đương Thám hoa .

133.

Tương đương Tiến sĩ xuất thân.

134.

Dịch âm :

chúa công cần người hiền tài thì hãy bắt đầu từ Ngỗi này”. Rồi kể chuyện mua xương ngựa như trên. Vua nước Yên xảy cung, coi Quách Ngỗi như thầy. Quả nhiên nhân tài tấp nập đến, nổi tiếng có Nhạc Nghị, Trân Diễn, Kịch Tân. 138. Vỗ đùi : Theo truyện Phùng Đường ở sách Hán thư : Khi nghe Phùng giới thiệu Liêm Pha và Lý Mục, vua Triệu mừng rỡ, vỗ đùi reo lên : Ha ha ! Ta chỉ cần có được một người ấy thì há sợ lũ Hung nô hay sao ? 139. Hàn Phạm : Hàn Kỳ và Phạm Trọng Yêm, hai danh thần đời Tống Nhân Tông, học vấn uyên thâm, dày công chiến trận. 140. Tiếng ca ngâm : Theo sách Ngôn hành lục, dân gian nhắc tài Hàn Phạm bằng câu ca :

Mỗi hoài châu tập tế xuyên tư (ti) Doanh phẩu do tàm mộng lại trì Bất cẩn thiên kim cô tuấn cốt, Ngỗi cung nhất trúc chúng anh tùy. ∗ ∗ ∗ Phó lâm tuân vũ thượng đồn cao Hàn Phạm ca hi phủ bệ lao Bạt thập nhược năng chân đắc ngũ Khởi vô trinh cán tận phong tao.

Quân ta đã có cụ Hàn, Giặc Tây nghe tiếng, tim gan lạnh liền. Quân ta cụ Phạm kém chi ! Giặc Tây vỡ mật, cần gì ra tay ?

135.Nước sông : dựa ý Mạnh tử : Dân như nước, chở được thuyền mà cũng lật được thuyền (dân do thủy dã, năng tải chu việc năng phúc chu); thuyền ngụ ý ngôi vua. 136. Nghìn vàng xương ngựa : Chuyện ngụ ngôn của Chiến quốc sách : Xưa có nhà vua bỏ ra nghìn vàng mua thiên lý mã nhưng không có. Người canh cửa cam kết rồi lãnh vàng ra đi, mua về bộ xương ngựa hết 500 lạng. Vua sai chém, y giải thích: Đây là bộ xương của thiên lý mã thiên hạ biết vua quý cả xương của nó, kẻ có thiên lý mã sẽ tự đem đến bán. Xin đợi cho một năm, nếu không ai đến bán thì giết kẻ hèn này cũng không muộn. Ngay năm ấy người ta đem đến bán ba con. 137. Ngỗi cung : cung xây dành riêng cho Quách Ngỗi. Đời Chiến quốc vua nước Yên đang tìm hiền tài, Quách Ngỗi tự tiến cử mình : “Nếu

(Quân trung hữu nhất Hàn, Tây tặc văn chi tâm đảm hàn; Quân trung hữu nhất Phạm, Tây tặc văn chi Kinh phá đảm). Tây tặc ở đây là nước Tây Hạ hùng cứ vùng Nội mông và một phần tỉnh Cam túc trong giai đoạn 990-1227, 9 đời vua, khiến nhà Tống đối phó chật vật dai dẳng. Sau bị Mông Cổ diệt. 141.

64

Trinh dựng nước, giữ nước. Muốn xây hai cột ở hai đầu. Cột đó tên là cọc nhỏ hai bên. Cọc đó là cán. nện chặt, tháo trinh cán ra.

cán : chỉ người có tài tường, người xưa trồng trinh, tiếp theo là đóng Xong đổ đất vào trong,


142.

Vấy bụi : kiểu nói khiêm nhường: làm rầy tai vua.

143.

Lủng củng : nguyên văn ‘’trở ngữ’’ (răng khấp khểnh lòi xổ) .

144.

Hòa mãi : người mua đưa tiền trước, người bán giao hàng sau. Ở đây có nghĩa là ứng trước tiền cho thợ rừng.

145.

Khâm phái : nhiệm vụ giai đoạn, nhỏ hơn chức Khâm sai.

146.

Bà Đồ, Tôn Mạnh ( ?) có thể là lãnh tụ khởi nghĩa chống Pháp hồi ấy của Cao miên .

NIÊN BIỂU VĂN NGHỊ CÔNG TRẦN-TIỄN THÀNH (1813-1883) **************************************

***

* NGUYÊN VĂN TIẾNG HÁN (1894) : MINH XUYÊN TRẦN -TIỄN HỐI * DỊCH VÀ CHÚ THÍCH (1994) : VŨ BẠCH NGÔ * SỬA BẢN VI TÍNH (8/2001) : TRẦN – TIỄN TIẾN

**************************************

65


công cũng nên gần gủi sử sách thơ văn, chỉ phải cẩn thận, đừng vì cuốn sách mỏng mà tự lụy. Lại nói : Tính trẫm ít nói nhưng tinh thần lo nghĩ thì cũng như các bề tôi nên ai nấy đều lấy lòng của Trẫm làm lòng mình để cho trên dưới cùng hợp phép tắc, nên hòa khí. -Vâng kiểm lại sách Thiệu trị văn qui. Bấy giờ văn qui biên xong, vua sai Ông cùng Nguyễn Văn Phong, Vũ Phạm Khải, Trần Văn Hệ kiểm lại, đợi xong thì in, ban hành rồi đặt Văn qui sở. Vâng chữa cuốn Vận hải hợp biên. Sách làm xong. Giặc bể Hải an đã yên, cùng đình thần xin ăn mừng. Vua không chuẩn y. Can việc đưa nhầm Nguyễn Văn Đắc xét bổ không hợp, bị phạt bổng 2 tháng ghi vào sách. - Tháng 2, vâng Dụ có khoản : Thượng thư bộ Binh Trần Tiễn... , tri ngộ đã lâu, có hiểu biết khá, gặp lúc nhiều việc thì gắng gổ giữ gìn, lòng dạ trung thành đáng cậy. Tuy gần đây báo đáp chưa xứng, nhận sự ủy thác cùng làm việc quá ư thận trọng đến nỗi công việc dồn dập thì không khỏi trễ nãi mà gần đây Xu phủ 148 việc đâu vào đấy, sự tham gia giúp đỡ đều hợp lúc. Việc lính việc binh không đến nỗi sai sót giữ chức đã lâu, cũng nên đề bạt để thấy trách nhiệm được thành công, chuẩn cho thăng Thự Hiệp biện đại học sĩ, vẫn lãnh chức Thượng thư bộ Binh kiêm hàm như cũ. Ông dâng sớ khước từ, vua không chuẩn y.

Nhà Thủy tạ lăng vua Tự Đức

QUYỂN III Bính dần năm Tự đức thứ 19 (1866) Ông 54 tuổi. - Tháng giêng, quan binh thu phục được phố Bông phong ở Cao bằng, treo cờ đỏ mừng thắng trận. Vâng diện sắc : Cao bằng dễ thu phục mà khó giữ, có phương cách gì để giữ ? Ông tâu : Xin chọn thổ hào, thổ mục mới có thể nghỉ ngơi việc binh được. Vâng sắc : đợi mọi việc bình thường rồi, làm thế nào để khỏi mối lo về sau.

- Xiêm mục A La Hàm từ Hà tiên gửi thư đến. Cơ mật viện tâu : Thư ấy kể lể. còn nghi ta, tình ý chưa tin nhau. Xin phái người qua lại nhắc nhở cùng thuyền ấy như có đến buôn bán thì nới sự cấm đoán để tỏ ý không nghi nan gì. Xin cho chép ra, giao quan tỉnh Hà tiên thu xếp để giữ tình lân hiếu. - Bộ Binh tâu : Nguyên tri huyện bị cách là Nguyễn Đình Long theo cha là Nguyễn Đình Tân chiêu mộ thủ hạ được 500 tên, theo Thứ (Hải an) có công, xin miễn tội ( trước can án vụ Võ Tập nên bị cách) lượng tình dùng lại làm Đồng tri hoặc lãnh Huyện dụng 149 , lại gia ơn khai phục cho cha là Nguyễn Đình Tân chức Hồng lô tự khanh. - Vâng sung làm Chấp sự lễ Đại tự, được thưởng kỷ lục 1 lần.

- Được vời vào tiện điện 147 cho phép ngồi, ban trà, ra lịnh đọc hai bài thơ ngự chế . Diện Dụ rằng : Học giỏi thì làm quan, làm quan giỏi thì học, học không lúc nào ngớt vậy. Vả văn chương là việc lớn làm rạng rỡ cho nước. Là bề tôi của ta, những lúc rỗi việc 66


dài hơn sáu ngàn trượng 74 , quan tỉnh ấy đã trù xét kỹ càng, xin nên một lần cho vét lớn cốt sâu rộng từ phía bắc đường cảng cũ nguyên là cầu Tháp nễ cho đến đập Tây thông dài một đoạn hơn 1.500 trượng, số đất phải nạo lên hơn 6.040 đống 155 , so theo công đào sông ở Bắc kỳ thì phải cấp tiền cả thảy hơn chín vạn sáu ngàn sáu trăm quan nhưng tra ra thấy hạt ấy số hương dũng hiện ngạch có 8 cơ, số dũng đinh có hơn ba ngàn sáu trăm tên, xin cho sau tết Đoan dương, tập hợp lại sai làm việc nạo vét, cốt sao vào khoảng cuối tháng 7 thì xin xong hết các việc.

- Tháng 3, can việc không cử Tri phủ Nguyễn Khoa Học, bị giáng 1 cấp lưu. Bộ Lại vâng đem những lần can việc bị giáng gồm 6 cấp lưu, chiếu lệ trình lên. Châu phê : Cho giáng lưu. - Tháng 4, vâng chuẩn cho Cơ mật viện gửi thư Phú soái bàn lệ đánh thuế tàu buôn trên biển. Được vời vào tiện điện 147 cho ngồi, ban trà, ra lệnh đọc thơ ngự chế mừng báo tiệp. - Dụ rằng : Trẫm nghe đời Gia Long hội họp đều có hạn định số ngày cho nên mọi việc không đến nỗi dồn đống. Những năm Minh Mạng, Thiệu Trị mỗi ngày lâm triều hai lần hoặc thâm đêm một vài giờ. Các quan làm việc có đến cũng đều được mặc đồ thường. Gần đây, sức ta không được như thường, chưa chịu nỗi phiền toái. Là bề tôi của ta thì hẵng ráng sức những khi hồi chầu cùng những ngày ngẫu nhật 150 nên bàn định lịch trình để họp chung bàn xét cho mọi việc được xong xuôi.

Vì lần nạo vét này, công trình cảng ấy không nặng nề lắm, trong đó có một đoạn cảng sắt, lâu nay vốn là khó làm, năm trước thần đã có hỏi, Hoàng Kế Viêm từng nói là gia công khơi vét cũng được, nay lại xin làm, chắc đã khám kỹ là làm được, xin để cho tỉnh ấy đến giữa mùa hạ, vào kỳ nước cạn, chọn ngày tốt mà khởi công. Kính xin chuẩn y cho. Lại vâng Châu phê : Ở Nghệ mà dấy công vào giữa hạ thì phải đưa đến nhiều thuốc men, người săn sóc cùng định rõ giờ làm giờ nghỉ, chớ để phải đau ốm. Xong công trình phải tâu lên để phái người ra khám.

- Dâng phiến phúc trình : Mồng 5 tháng này, tiếp hai tấu văn của hai quan tỉnh Thanh hóa và Nghệ tỉnh Tôn Thất Dao, Hoàng Kế Viêm 151 sẽ trù xin khơi vét đường cảng, mỗi nơi một bản tâu cùng một bản đồ đã được bộ Công trình bày và đều vâng được. Châu phê : Tấu văn và bản đồ hai tỉnh, giao cho Trần Tiễn... xét xem có hợp hay không, đã có đến đấy rồi, tất phải biết rõ. Thần vâng tuân đem các bản tâu và bản đồ duyệt rõ. Xét ra đường cảng của 2 tỉnh ấy nếu được khơi sâu 1 loạt thì thật là công tư đều lợi. Nay vâng 1 lần khơi thêm thật sâu thì là kế hao phí nhất thời mà lợi được lâu dài. Hai đường cảng ấy quanh co xa xôi, thần lần ấy nhân việc công có đi qua, ở đấy có các đoạn gần kề đường cái quan thần từng khám qua, còn các chỗ xa xôi, thần cũng được nghe người ta nói đến.

- Tháng 5, can việc duyệt xét sơ lược biểu văn tỉnh Thanh hóa tâu việc thuyền cướp đến đánh cướp, bị phạt bổng 6 tháng ghi vào sách. - Phú soái mở trường Đấu xảo, gởi thư mời dân nước ta đến dự. Vâng sắc hỏi các đại thần : Ta cũng mở trường mời người Tây cùng đến phô tài, có thể có ích không ? Cơ mật viện tâu : Tục người Tây lấy khéo léo mà khoe khoang, lại có ý đến phương Đông ta. Nếu ta mời gọi các nước cùng đến sẽ có nhiều bất tiện. Kính vâng chuẩn y. Người Pháp là La Phong xin phép mở việc đóng tàu, lập kho cho vay bạc kiếm lời. Sắc cho Cơ mật viện khước từ.

Nay vâng đem bản tâu và bản đồ cùng so, lấy cái đã thấy với xem hỏi tại chỗ thẫm duyệt nhiều lần, thấy các đoạn xin nạo vét các đoạn đổi chỗ khơi, đặt sang hộ đình 152 làm đậu khẩu 153 . Hai quan tỉnh ấy đã khám kỹ, trù xin đều đã thoả hợp. Trừ tỉnh Thanh hoá đã khởi công từ mồng 2, ngoài ra còn cảng sắt của Nghệ tĩnh 154 thông

- Tháng 6, Cơ mật viện tâu : Nay kính vâng Châu phê trong có một khoản : Xem phần dịch thư của Tây so với thư chữ Hán khá 67


khác nhau. Đấy chính là việc rất khó. Phải làm sao cho ổn thoả tốt đẹp... Vâng tuân, bọn thần trộm đối chiếu thư Tây dịch ra chữ Hán, trước là dịch ra La tinh rồi đến dịch ra tiếng Lãng sa, lại dịch ra quốc âm ta rồi sau phiên âm thành chữ Hán, nhưng thể thức lập ngôn so với ta không giống, có chỗ nói nghe nặng hơn nhưng ý thì vẫn là một. Hiện nay, thành thạo chữ Tây, tiếng Tây không phải là đạo trưởng thì cũng là tín đồ. Xem ra có Nguyễn Hoằng (đạo đồ người huyện Hương Khê) biết khá chữ Hán lại khá hiểu tiếng Tây chữ Tây, xin sức cho về Kinh dịch thư Tây, và dạy những người theo học. Kính xin chuẩn y.

sinh linh. Bọn thần cùng có ý ngu như thế, xin trình lên chờ chỉ dụ. Lại bọn ngụy phạm ấy, nay đã tra cứu thì cũng là bọn của ngụy viện năm trước, dư đảng của hội Đông sơn, nảy ý lấy danh nghĩa giúp nghịch Đạo trừ “ dân cỏ đuôi chó” 112 . Nay trừ ác cho dứt rễ, việc bắt kẻ phạm tội thì đã câu nã nhiều ngày , tra cứu chẳng có chỉ ra đảng nào mà thăm dò 4 phía cũng chẳng có nơi nào tụ tập, không phải nhiều đồ đảng như vụ án Võ Tập năm trước. Duy án ấy dụ hợp biền binh, vì nghe nhầm nên đã được cho ân xá không hỏi tội, nghĩ cũng đã yên tâm nhưng vẫn phải đề phòng chuyện bất ngờ. Bọn thần không dám thờ ơ chút nào. Xin cho phép bọn thần được hết lòng tùy nghi phòng bị. Kính xin chuẩn y.

- Can việc Vũ Trọng Bình xin điều binh Hải an, không hạch kiểm để trình đổi, bị phạt bổng 6 tháng ghi vào sách. - Tháng 7, can việc chép nháp chậm trễ kế hoạch đối phó giặc Mèo ở Tuyên Quang, bị phạt bổng 6 tháng ghi vào sách. - Tháng 8, can việc dâng tờ sức bị hở niêm, bị giáng một cấp lưu. - Gian dân Đoàn Trưng cùng bè đảng xâm phạm cửa khuyết, chịu tội giết. Cùng Trung quân Đoàn Thọ, Thượng thư bộ Công Nguyễn Văn Phong, Thượng thư bộ Hộ Phạm Phú Thứ dâng phiến tâu : Nay vâng được giao ra một phiến của quan Tôn nhơn phủ là bọn Miên Định xin phê nêu các việc. Bọn thần tuân vâng bàn xét: Xét ra con của tên phản nghịch Đinh Đạo đáng bị tội chết vì lẽ ấy đặt ra từ lâu rồi, duy vâng theo đức hiếu sinh nên đã không nỡ kết tội ngay, nhưng bọn ấy đã không khắc phục để tự tĩnh mà muốn làm loạn, bọn cứng đầu ấy nhân tên nghịch Đạo kia năm trước từng được lạm hưởng ơn vua dự vào danh hiệu, nhiều lần mượn danh nghĩa đó mà làm bậy mới ra cớ sự, thật ngại cho việc xử trị. Nay các vị Công 156 ấy lại xin, nghĩ cũng can hệ xã tắc, kể ra Đinh Đạo nên được xử phân, khẩn xin do từ thần đoán 157 để dứt rễ loạn, để ngớt chuyện bọn tiểu nhân làm bậy để cứu mạng mạch

Đường dẫn vào lăng vua Tự Đức

- Cùng Trung quân Đoàn Thọ, Thượng thư Nguyễn văn Phong dâng phiến tâu : Biến cố nghịch Trưng ngày nọ làm kinh động cửa khuyết sân chầu, may nhờ oai phước của Hoàng thượng, đảng 68


nghịch tức thì bị bắt giết, nhanh chóng vô sự. Đang lúc cuộc khởi biến ấy xảy ra đột ngột, thợ thuyền lính tráng ở Dương xuân nhiều kẻ bị đảng nghịch phỉnh dụ, các quản suất có kẻ lại theo giặc. Vả chăng nguyên do nổi mưu gian không phải là cớ một sớm một chiều, bọn thần có gửi chân tay tai mắt đến đấy mà không thể đề phòng được khi việc chưa xảy ra, lại không phát hiện để đến nỗi biến họa xảy ra không lường trước, can qua động đến cửa khuyết, bọn thần đến nay còn thấy tim đập thân run, xét theo luật thì người xưa coi đấy là tội của đại thần không gì lớn bằng.

Gần đây cung điện mục nát nhiều, thuyền tàu thiếu nhiều, thợ thuyền ít ỏi, cây gỗ thiếu thốn, sở Công chính càng nên sửa chữa gấp, Trần Tiễn... trước đây từng tâu bày khá có lòng, vậy chuẩn cho đổi làm Thượng thư bộ Công, lại sung Tổng tài Quốc sử quán, kiêm hàm như cũ.

Huống chi, thần là Đoàn Thọ, thân làm chức trưởng của quân đội, chỉ huy quân cấm vệ, thần là Trần Tiễn... lạm giữ bộ Binh, dự vào Cơ mật viện, và thần là Nguyễn Văn Phong lại đều có trách nhiệm quản lý công trình mà biền binh có cuộc bội nghịch ấy lại không nghe biết, bọn thần càng biết là tội chất chồng như núi, gò, chẳng những thiếu sót trong chức trách mà lòng hổ thẹn lo sợ muôn phần không tự chủ được nên cùng xin chịu tội. Châu phê : Hãy cứ cố gắng, đợi có chỉ thị riêng. - Vâng chuẩn cho cùng tra án nghịch Trưng. Trước đó, Tôn nhân phủ và đình thần tâu : Án nghịch Trưng rất là quan trọng, gần đây, thần là Đoàn Thọ, Trần Tiễn... ngày đêm vào trực, nay xin mỗi ngày một viên thay đổi nhau tra hỏi như trước để cùng bàn xét cho nên có mệnh lệnh này.

Toàn cảnh lăng vua Tự Đức

- Tháng 9, can việc lúc ở bộ Binh duyệt xét trễ nãi việc điều trần của Vũ Khắc Bôn về phòng giữ mặt biển, bị phạt bổng 2 tháng ghi vào sách. -Can việc Đổng biện công sở Dương xuân là Thống chế Lê Văn Xa, Biện lý Nguyễn Văn Chất không tuần giữ tốt để đến nỗi quân sĩ bị đảng nghịch dụ lừa vào vụ án, bị giáng 5 cấp lưu.

- Can việc chọn bổ Nguyễn Đăng Chiêu không hợp, bị phạt bổng 2 tháng ghi vào sách. - Kính vâng Dụ trong có khoản : Võ hiển điện đại học sĩ sung Tổng thống quân thứ Hải an là Nguyễn Tri Phương gần đây đã triệu về, chuẩn cho dùng điện hàm lãnh Thượng thư bộ Binh sang Cơ mật viện đại thần sung Kinh kỳ hải phòng sứ, Trần Tiễn ... đổi làm Phó sứ cùng bàn lo chỉnh đốn trang bị làm mạnh biên cương mặt biển.

- Tháng 10, Cơ mật viện tâu : Các nước phương Tây đều có đặt Công luận đường, bất kể việc công hay tư đều in lên giấy truyền báo ra. Người Anh thì gọi đó là Tân văn, người Pháp thì gọi đó là Nhật báo. Nay sĩ dân 158 Nam Trung nhiều người ôm mối phẫn nộ, làm những việc cứng cỏi nhưng sứ thần Pháp lại dùng thiệp báo yên mà báo tin về nước họ để cầu được tiếng tốt cho 69


người nghe. Các người nghĩa khí ở các tỉnh Định Tường đem những việc làm gần đây của Phú soái không thuận hợp, lòng dân không chịu nổi gởi khắp cho các công luận đường Lạc mã 159 , Lãng sa, Y pha nho, Anh cát lợi cùng Quảng đông, Hương cảng khiến họ tuyên bố để tách lợi thế cánh trứng 160 hoặc khiến cho sứ Pháp sợ công luận mà dẹp bớt mưu toan. Kính vâng chuẩn y.

thợ của ta theo tàu học tập thì họ không chịu truyền nghề - Ngay như gần đây tàu Thuận tiệp hư hỏng lại phải thuê thợ Tây sửa chữa, họ đòi phí tổn nhiều đến 5 vạn đồng, Chưa đầy một năm, tiền thuê, tiền tu bổ đã nhiều như thế, chắc một vài năm sau phí tổn chẳng biết lên đến bao nhiêu ! Tất lại phải phái người đi Tây xin họ giúp đỡ, mua riêng của họ các món cơ xảo, thuê riêng của họ các loại thợ khéo, tuy là tự ta muốn học tập cho rộng cầu mau có công hiệu giàu mạnh thì chắc cũng tốn không chịu nổi, học không thành nổi, đến nước muốn ngừng cũng không khỏi, lại sinh mắc míu phải qua lại biện bạch điều đình rất sức mẻ quốc thể.

- Phú soái gửi thư đòi ký gấp hòa ước mới. Cơ mật viện tâu xin soạn thư biện thuyết và báo cho Phan Thanh Giản đến bàn lại rồi phúc trình về. - Bắc kỳ đã xong việc võ. Vâng ân chiếu cho việc giáng 12 cấp được đổi lại giáng 3 cấp lưu cùng các lần phạt bổng được miễn sạch.

Nếu cứ nín nhịn chịu thuê, hoang phí không lường xiết thì khi phải ứng biện những phí tổn quá gấp lại không biết lấy vào đâu. Vả lại gần đây Phú soái đòi ba tỉnh Long Giang Hà phải giao về quản hạt của họ. Thương bạc của ta đã có thư phúc đáp biện bạch, sĩ dân 6 tỉnh Nam kỳ lại đem tình hình Phú soái đăng nhật báo kể cho các nước, ý Phú soái như thế nào chưa biết mà việc phái người đi Tây thuê, mua, việc đã khó dừng. Hãy chờ phái viên đi Tây về, xét xem sự tình, như có thể chuộc được thì minh bạch sai phái viên mới khỏi bị người dòm dỏ.

- Tháng 11, cùng Nguyễn Tri Phương, Vũ Trọng Bình, Phạm Phú Thứ, dâng phiến tâu : Trước đây vâng Hoàng Thượng ngự chầu, cho vời bọn thần vào diện sắc, có khoản : Trẫm nghe các vị thân công 156 có nói: vài ba đại thần có lòng báo đáp, còn số đông thì cẩu thả qua ngày. Vả chăng trẫm có trách nhiệm tự chủ trương lấy, không quản lý răn đe xiết là lỗi ở trẫm, cũng không dám trách người khác. Các đại thần suy nghĩ chín chắn những việc trọng yếu hiện nay, có gì nên chấn chỉnh hãy tâu rõ.

Còn khoản hòa với Xiêm, xem ra đã mấy lần Hà Tiên tỏ ý thì đầu mục của họ lấy cớ Tây chịu với Tây không chịu mà đòi ta lên tiếng trước, họ sẽ trả lời chứ không nói thẳng với ta - Nếu ngay từ đầu tình ý đã không tin nhau thì chỉ phí lời. Về chuyện thương thuyết với Pháp để chuộc đất cùng việc thông hiếu với Xiêm xin hãy từ từ bàn luận. Rất mong Hoàng thượng cân nhắc, giảm bớt thật nhiều hao phí mà chuyên ý vào chấn chỉnh thực dụng chờ cho nề nếp vững vàng, tài lực thoải mái, ngữa nhờ trời giúp xoay chuyển gặp thời cơ thì thật là muôn phần may mắn. Nếu thời cơ chưa tiện mà người Tây còn chuộng hòa ước, người Xiêm qua lại tin cậy nhau dần, như vậy bàn chuyện chuộc đất cũ, thông hiếu với Xiêm, thuê thợ Tây để đủ dùng, nghĩ cũng là lẽ hợp với lẽ trước sau, hoãn gấp vậy.

Vâng tuân : Bọn thần trộm nghĩ : Binh là việc lớn của nước, của cải là nhu yếu của nước. Trước mắt thì binh thiếu nhiều mà thao luyện còn sơ sài, của dùng thiếu hụt mà thường phải chi nhiều. Kinh thành là nơi quan trọng tôn nghiêm xem ngắm đều nhằm vào đấy, mà trên thì miếu điện, dưới thì kho lẫm, sảnh, thự điều hư nát không đẹp mắt cho lắm. Đó là việc cần phải chấn chỉnh trước nhất và gấp nhất hiện nay. Hiện vừa mua hai chiếc tàu (Mẫn thỏa, Thuận tiệp) trị giá cả 100 vạn, người cầm lái, người coi máy mỗi tháng tốn cả bạc vạn, dầu, nhớt phải mua riêng, các chi phí vào đấy khá nhiều, nhưng 70


- Cùng Nguyễn Tri Phương, Vũ Trọng Bình, Nguyễn Văn Phong, Phan Huy Vịnh, Phạm Phú Thứ dâng phiến tâu : Vâng thấy gần đây việc làm ruộng trong ngoài đều trông mưa rất gắt mà địa phương cầu đảo còn chưa thấy ứng hiệu, chỉ có một lòng cảm ứng mới được. Ngữa xin Hoàng thượng cẩn thận tu tỉnh thêm, may được mưa ngọt sớm về, bọn thần khôn xiết nhón gót trông mong, mà cũng là nguyện vọng lớn của nông dân vậy. Bọn thần phò giúp việc cai trị, không xứng chức, đến nỗi xảy ra tai ương này, xin muôn phần cam chịu tội.

Gần đây việc binh đã xong, biên giới cũng đã tạm yên nhưng bệnh của dân chưa lành hẳn, tàn quân của phỉ chưa hết, mặt bể chưa êm, các bộ Hộ, Binh, Công còn nhiều khoản phải lo liệu, chung một lòng trù lo còn chưa sớm được chỉnh tề, huống chi là nhiệm vụ khác ! Bọn thần bất tài, thấy sự thế như vậy, rất lấy làm lo, ngữa mong Hoàng thượng chín chắn xét lo, quí chuộng sự tiết kiệm, tiết giảm việc ngự giá, lo cái dễ trước, lo cái khó sau, sửa chữa cái gần rồi dần dần đến cái xa, nhất nhất đều cho hợp thời thì thật là phước cho xã tắc, may mắn lớn cho thần dân thiên hạ vậy. Vâng Châu phê trong có một khoản thuộc lỗi từ trước, nêu lên đã không truy xiết nữa. Từ nay về sau, mọi việc được hay không, đều nên nói thẳng cho tiện việc nghe và thu nạp.

Kính vâng Châu phê : Giữa trẫm với tiên sinh 161 ứng như thế nào để thực là ứng ? Chỉ nói nhảm để chuốc lỗi chứ ích gì ? Sáo cũ lắm ! Muôn họ có lỗi là tại một mình ta ư ? Huống hồ tự thân nhiều lỗi, người không phải là gỗ đá há không tự biết ? Nếu không lượng tình lớn nhỏ của đạo Trung thứ 162 thì rặt một thói kiêu căng vênh váo như thế, khó mà chịu đựng nổi ! Không được nói đi nói lại nữa ! Ta chỉ cần sự thực do thật lòng mà thôi ! Bất kể là giống người ta hay không ! Biết không ? Kính lấy ! - Tháng 2 tế Nam Giao, vâng sung Khâm mạng nhiếp tế, được thưởng kỷ lục ba lần. -Can việc lúc còn ở bộ Binh, các quân đều không có sách giữ binh trượng, bị phạt bổng 3 tháng. Nhờ việc xảy ra trước dịp ân xá nên được miễn. -Can việc đổi gỗ làm không hợp lý bị giáng 2 cấp lưu. - Tháng 3 vâng dụ trong có khoản : Hôm trước, đình thần luân phiên cầu mưa, may có được mưa rộ khắp. Tuy là bổn phận phải làm nhưng cái tốt thật không thể không ghi nhận. Về trận mưa hiện có được này, quan Thự Hiệp biện đại học sĩ lãnh Thượng thư bộ Công là Trần Tiễn... được thưởng kỷ kục hai lần. Tiếp đó cùng đình thần dâng phiến khước từ. Không được chuẩn y.

Sân chầu vua

Đinh mão năm Tự Đức thứ 20 (1867) Ông được 55 tuổi . - Tháng giêng, can việc khi còn ở bộ Binh thuộc ty làm mất, sót văn thư cùng lo việc chậm, sai lầm gồm 6 khoản, bị phạt bổng 6 tháng, nhờ việc xảy ra trước dịp ân xá nên được miễn.

- Can việc hồi còn ở bộ Binh, thuộc ty là Trần Văn Huệ tiếp nhận tư văn, tiết lậu mà không trình để giải quyết, bị phạt bổng 9 tháng ghi vào sách. -Can việc hồi còn ở bộ Binh, lính thú Thanh 71


Nghệ có kẻ già 60, lính yếu và nhỏ không kiểm soát để loại ra, bị giáng 1 cấp lưu. Nhờ việc xảy ra trước lệnh ân xá nên được miễn. Can việc đề nghị bổ Nguyễn Bàng, Hồ Sư Đoan trùng lặp, bị phạt bổng 2 tháng. Nhờ việc xảy ra trước lệnh ân xá nên được miễn.

- Tháng 7 tâu : Bước đầu dựng nước của triều ta, Nam Bắc kỳ đều có đặt chức Tổng trấn, mọi việc thường đều tùy nghi giải quyết, chỉ việc lớn mới tâu lên cho nên nhanh chóng. Nay như Hà Nội, Bình Định, mỗi nơi nên đặt một viên Kinh lược, công việc của các tỉnh, đạo để cho nha được điều độ cho thích hợp, không cần câu nệ phép thường cho trễ nãi. Như thế Kinh sư càng thêm tôn quý vậy. Còn như cho rằng khó kiếm được người thì Tả kỳ có Phan Khắc Thận, Thân Văn Nhiếp, Hà nội có Đào Trí, Phạm Chi Hương đều là những viên chức tài cán, xin lượng định mà ném thẻ 165 . Kính vâng chuẩn y. Chuẩn cho Tổng đốc Hà Ninh là Đào Trí sung chức Thống đốc ba tỉnh Nam Định, Hải an, Hải Phòng, Chưởng Hữu quân Nguyễn Hiên sung chức Hải phòng sứ Bình Phú Thuận Khánh, đều vâng cho tiện nghi điều độ. -Can việc hồi còn ở bộ Binh trễ nãi việc sức cho các viên Hiệu phái 166 bị giáng 1 cấp lưu.

- Tháng 4, Cơ mật viện tâu : Ở Tuyên quang, giặc Mèo giả bộ qui thuận cốt để chiếm Suối Bốc cầm đầu mối loạn 163 đã 4, 5 năm nay cứ lấp ló như chuột đầu đàn 164 mà phía quan thì tiểu trừ hay vỗ về cũng chưa tính dứt khoát đến nỗi khá lâu rồi vẫn chưa được nghỉ vai. Nay theo hiện tình mà cân nhắc thì bè lũ Suối Bốc đã không còn nhiều mà gần đây đã khá yên tỉnh - Nay nếu đem đại binh đến đấy thì hơi và tiếng chúng đều nghe biết trước, sợ e kẻ đã yên tĩnh liền nghi ngờ trở lại mà tụ hợp giữ gìn, đường đi hiểm trở, chướng khí sâu dày, dùng sức không dễ, chỉ nên dùng người địa phương mà lo liệu thì chúng mới không nghi, mới mong được việc.

- Tháng 8, được ân dụ khai phục 2 cấp. Cùng Trung quân Đoàn Thọ, Thượng thư Nguyễn Văn Phong dâng phiến tâu : Trước đây vâng giá ngự đi Khiêm cung làm lễ mừng, ban ân huệ không có việc nào là không thấu đáo. Lại từ bọn thần lo liệu quản lý cho đến các viên chức lính tráng phục dịch đều chuẩn cho 2 bộ Lại, Binh ban chức, khen thưởng có sai khác, không có việc nhỏ nào mà không xét, không có nhọc nhằn nào mà không được thù lao, như thế tưởng đã không một người nào mà không được phủ trùm bằng ơn mưa móc.

Xin hãy để cho Đốc biện Nguyễn Bá Nghi đến Tuyên, làm hịch kêu gọi trước, lại mật sức cho bọn Hoàng Văn Long dẫn binh, chuẩn bị các chỗ đánh. Nếu chúng không chịu ra thú thì tập kích bất ngờ, binh của tỉnh tiếp ứng. Lại hiểu thị cho các động khác sống yên ổn mới khỏi lo chúng sợ hãi mà làm điều ương ngạnh. Kính xin chuẩn y. - Được ban thưởng vàng, bạc, tiền. Nguyên trước đó hai sở thợ mộc ở Dương xuân đã ít việc, vua chuẩn y cho giảm lính và thợ, nhưng vẫn thưởng cho Đổng lý là ông cùng Thượng thư Nguyễn Văn Phong, Thống chế Lê Sĩ.

Nay bọn thần tuân nghĩ rằng cung điện Vạn niên là nơi nghỉ ngơi của Hoàng thượng, thế thì sung làm việc nơi đó đều là chuyện con chạy theo cha, lễ phải nên vậy, nói đến công lao thì biết lấy đâu ra ? Duy công trình ấy thật là to lớn nhiều việc mà bọn thần chỉ có lui tới bàn bạc lo liệu, mọi việc thợ thuyền đều do nguyên Phó Đổng lý Lê Văn Sa (phái đến tháng 11 năm 17) và nguyên Tham biện Nguyễn Văn Chất (tháng 9 năm 17, phái đến khi khởi công). Đốc biện thì sớm phải đến trước lính, chiều thì phải về sau lính, đến nửa đêm vẫn còn phải kiểm, sức, trù xét, chưa dám yên giấc ngay được, tính ra đã ba năm nay trước sau như

- Tháng 6, vâng sắc sai Chánh phó sứ hải phòng luân phiên đến Thuận an đốc suất công việc. Can việc thuyền bồng lúc chạy lúc dừng không hợp cách, bị phạt bổng 3 tháng ghi vào sách. -Can việc không cử Trần Thiện Chánh, bị giáng 2 cấp lưu. Nhờ chuyện xảy ra trước lệnh ân xá nên được miễn.

72


một, siêng thì đã siêng như vậy, nhọc thì đã nhọc như vậy. Mãi đến ngày tháng 8 năm ngoái, công trình đã làm được 8, 9 phần rồi, tất cả mọi việc của sở ấy, cái thì bọn thần sức làm, cái thì do hai viên ấy trình rồi lo liệu. Hai viên ấy tuy thân ở sở nhưng việc nào việc ấy bọn thần đều có biết cả. Chẳng dè mấy cơ lính của bọn thần lén dự vào biến cố ấy, thực là lỗi do bọn thần nên đã xin chịu tội và nhờ ơn sáng suốt được tha, giảm nhẹ, cái may mắn ba đời của bọn thần thật đã dày lắm, huống chi còn được thưởng thêm nhiều lần, ơn thật là nhuần thấm.

trễ nãi việc bồi bổ cửa cung Bảo định bị phạt bổng 1 năm 6 tháng ghi vào sách. - Tháng 12, can việc hồi còn ở bộ Binh thuộc ty nhầm lẫn ghi Nguyễn Khắc Doãn vào sách Anh danh, không sức nghiêm nã được, bị phạt bổng 2 tháng. Nhờ việc xảy ra trước dịp ân xá nên được miễn. -Vâng chuẩn cho sung làm Khâm sai đại thần, đáp tàu vào Gia định cùng tướng Pháp thương thuyết việc biên giới (6 tỉnh Nam kỳ) bàn định hòa ước mới. Dâng phiến tâu xin cho : * Nguyễn Văn Tường, nguyên Bang biện huyện Thành hóa, sung chức Hành tẩu Cơ mật viện, Tùy biện chủ sự ty bộ Lại 168

Nay lại được mang ơn cho thăng cấp, ban thưởng nữa, bọn thần lo lại càng lo, như thế là bọn thần được ban ơn, vinh quang chồng chất, còn riêng hai viên đó chịu tội đã lâu, tự hỏi lòng mình thật là hổ thẹn không sao yên lòng được. Ngữa mong ra ơn ngoài lệ thường cho bọn thần : đình chỉ việc thăng thưởng cho bọn thần kỳ này, còn Lê Văn Xa, Nguyễn Văn Chất thì xin cho được rộng lượng dự khai phục để hai viên ấy có dịp sửa chữa mà bọn thần đỡ mối lo về nỗi hưởng phúc xong thì tai họa xảy đến 167 - Thực là hàm ơn không ghi xiết được. Những lời này của bọn thần phát xuất từ đáy lòng, mong được soi xét trên cao.

* Nguyễn Khoa Luận, Ty vụ ty bộ Binh

169

* Lê Chánh, Điển bạ hậu phái * Bát phẩm Lương Văn Tiến, Chánh cửu phẩm Nguyễn Trực, ty Hành nhân, Nguyễn Đức Hậu đều sung tùy phái. Kính vâng chuẩn y. - Đình thần dâng phiến xin cho Nội các kiểm giao cho quan Khâm sai khuôn dấu và lọng Khâm sai quan phòng để dùng làm việc cùng xét thưởng cho Tùy biện, Tùy phái cùng viên thông ngôn bằng bạc lạng, còn lộ phí cấp cho chức Khâm sai bao nhiêu thì còn chờ ân chỉ. Kính vâng chuẩn y. Lại vâng Châu phê : Trần Tiễn... được ban bạc 50 lạng để sung vào chi phí.

Châu phê : Không có sự nhọc công nào mà không được ghi nhận, tưởng thưởng . Nước có lệ thường không thể từ bỏ được : Lê Văn Xa, Nguyễn Văn Chất phạm thứ tội không phải thường, có nên vì công lao mà tha lầm lỗi không ? Nên tỏ lượng với họ như thế nào, giao cả cho ba bộ bàn tâu để làm sáng tỏ công luận. - Tháng 9, can việc để cho lính trễ nãi việc ở Tôn lăng, bị phạt bổng 3 tháng ghi vào sách.

- Khi giã từ trước bệ, được ban dụ rằng : Lần đi này không phải được toàn quyền, mọi việc không được chuyên quyết. Các khoản thỏa ước ra sao, biên rõ về bẩm lại. Vâng ban một bài ca Ngự chế để tiễn rằng : 170

- Tháng 10, vâng tuân ân dụ miễn cho các lần phạt bổng. Can việc giám đốc làm lại trụ cờ là Bùi Thể, nói năng không rõ ràng, bị phạt bổng 6 tháng ghi vào sách. Can việc hồi còn ở bộ Binh, thuộc ty làm nhầm lẫn về việc Hiệp quản Phạm Dụng giáng cấp, bị phạt bổng 6 tháng ghi vào sách. Can việc tuân kiểm các đền thờ cùng

Đông tàn mưa gió rét căm căm, Núi đá cheo leo lá rụng thầm. 73


Tùng bách ngang nhiên trơ trọi đứng Cành cong thân cứng trấn sơn lâm. Tuy rằng lá vẫn rụng trơ cành, Xuân đến mầm non lại nẩy xanh. Tạo hoá nghìn đời gieo sức sống Há xui vạn vật chịu buồn tênh ? Sự thế ngày nay nói xiết đâu ! Hiền khanh biện bác phải cao sâu. Không như Ngụy Giáng năm điều lợi Đâu để người Tây thỏa ước cầu?

171

Nước nhà chuộng sĩ mấy trăm năm 172 Nối tiếp hiền tài dậy tiếng tăm. Cửa khuyết thẹn gì thân Bách Lý ? 173 Nỡ nào mũ áo vấy hôi tanh ? 174 Ưu nhục nào ai tránh nghĩa cao ? 175 Trải cơn hoạn nạn mới anh hào. Duyên ưa cá nước muôn vàn khó 176 Cứu nạn hiền Khanh, gắng sức nao !

Quân lính thời Nhà Nguyễn, theo tranh vẽ của Pháp

Tháng chạp tiễn đưa rét mướt thay ! Xuân về, Khanh cũng lại về đây Mang theo xuân ấm tràn cung khuyết, Triều dã mừng vui bõ những ngày... 177

Mậu thìn năm Tự Đức thứ 21 (1868) Ông 56 tuổi . - Tháng giêng, từ Gia định về, vâng đem các khoản đã thương thuyết với Phú soái lần ấy kê biên trình tâu, lấy cớ việc thương thuyết biên giới không được gì, dâng sớ xin chịu tội. Vâng ân chiếu nhân Tứ tuần đại khánh và tết Nguyên đán, vốn bị giáng 4 cấp lưu, được khai phục ba cấp. - Tháng 2, vâng Dụ : Lần này, Thự hiệp biện đại học sĩ Trần Tiễn... lãnh Thượng thư bộ Công vâng phái đi Gia định họp với Phú soái, thương thuyết về cương giới tuy không toàn quyền chuyên quyết nhưng đã có mệnh sai đi ra tất cũng lo hết lòng làm 74


việc mới xứng ủy thác. Nếu bảo rằng việc khó, không làm nổi, như thế hóa ra là chỉ chọn việc thôi sao ? Huống chi, trẫm đã tha thiết dặn dò từ lâu, ưu đãi đến bậc nào, viên quan thuần hậu ấy cũng phải cảm động sâu sắc, phấn đấu hết lòng, cho nên khi đi rồi, trẫm ngày ngày mong ngóng, ý chắc là an ủi lòng trẫm.

cho các viên thư thủ chia nhau viết từ tháng ba năm ngoái đến nay, vừa đúng hạn 10 tháng. Trừ phần rút ra chữa lại, còn được 66 cuốn, ngoài ra có 357 cuốn, có cuốn thì sai lầm quá nhiều, có cuốn thì nét chữ láu tháu, bọn thần đã sức cho viết lại tất cả, hiện nay viết tinh lại đã gần xong, có điều bộ sách ấy quá lắm cuốn, phúc khảo một lần e chưa chu đáo tường tận, chưa dám tiến hành sửa chắc. Nay khẩn xin thêm hạn 2 tháng để khảo kỹ nhiều lần cho được tinh tường để khỏi sai lầm, vả lại còn phải viết tựa nữa, huống chi sách ấy lần này phúc kiểm duy chỉ có Hoàng thượng tuân giữ nên qui, xiển dương tới nơi tới chốn nền văn tự. Bọn thần cùng bàn bạc, nghĩ nên viết rõ bài Tựa đặt ở đầu sách cho người xem của muôn đời biết điều tác thuật của bậc thánh minh để ban ân huệ tột cùng cho sĩ lâm vậy. Về bài Tựa xin để cho bọn thần soạn, dâng trình chờ xét định. Kính vâng châu điểm.

Thế mà lần này về phục mệnh, chuyện cương giới chẳng được lấy một tấc, dừng lại chỗ bồi tiền, bỏ cái lớn mà lấy cái nhỏ, từng lấy đấy mà làm nhọc ư ? Xem lời lẽ đối đáp chưa hết lòng hết sức, xét về tình hình cũng chưa được ưng chịu của kẻ kia, chỉ thấy phô công việc của kẻ kia, đầy miệng trầm trồ không ngớt thì cái tâm ấy đã bị quấy nhiễu từ trước rồi chăng ? Chẳng là gì là việc đã chẳng cứu nổi ! Viên ấy cũng đã tự biết nên dâng sớ nhận tội. Đã là đại thần chống đỡ cho nước nhà, giải quyết những khó khăn lớn, cứu vãn những việc lớn há chỉ báo bổ chút chút như vậy là đủ lấp đầy trách nhiệm hay sao ? Cái chuôi cầm quốc gia, chỉ có thưởng với phạt, nếu có công không thưởng, có lỗi không phạt thì lấy gì làm chính sự ? Về Trần Tiễn... thì giáng ngay làm Tả tham tri Bộ của y, gia ơn cho vẫn giữ chức Thượng thư bộ ấy, phẩm hàm còn lại vẫn giữ nguyên như cũ để khích lệ cố gắng về sau. Ngoài ra nên biết cảm động mà phấn đấu làm hết khả năng mình có hiệu quả thực sự, bấy giờ nghĩ đến gia ơn chưa muộn, bằng không thì ơn khó có được lấy một vài đâu. Có thể không gắng được hay sao ?

- Tháng 3, dâng phiến tâu : Hôm trước, thần tuân mệnh đến cuộc đất đại cát Vạn vạn niên, cung kính kiểm phần chính cuộc cùng án, núi, bờ hồ, vâng đã san sửa, đắp, dựng, khơi trổ, ước đạt được 7 phần 10, chỉ còn phần long, hổ hai bên tả hữu chờ sẽ lo tiếp. Vâng xin rút người gìn giữ ở các vệ, có một quản vệ, 2 suất đội, 100 biền binh để nhận việc. Xét ra, việc giữ gìn của các vệ binh, lương tháng gồm có: tiền 5 mạch 178 , gạo một phương. Trong đó, như trừ hết số lính giản còn có gia đình quê quán gần gũi tiện lợi, còn như số lính mộ và lính giản quê ở Quảng Nam, Quảng Bình thì tình hình có nhiều khó khăn. Vậy số 100 biền binh cắt đặt ấy, liệu có nên hay không, ngữa mong ban ơn cho mỗi tháng được cấp thêm mỗi tên số tiền 5 mạch cho đủ một quan để được vui khi theo đuổi công việc. Việc xong thì ngưng ngay.

- Cùng Nguyễn Văn Phong, Trần Văn Hệ ở sở Văn qui tâu : Tháng 3 năm trước, bọn thần vâng đem trù liệu các khoản Văn qui dâng trình, vâng chỉ chuẩn y trong có khoản nói : Trừ quyển nào sai lầm quá nhiều mà nét chữ đã láu tháu quá thì rút ra chữa lại chữ tinh, ngoài ra, chiếu theo trang theo tờ, tính làm sửa đổi, côt trong 10 tháng thành sách. Bọn thần tuân vâng đem về ngôi nhà phía tây của Quốc sử quán, bắt đầu làm, vâng đem nguyên cả sách chia giao cho các viên khảo hiệu dựa theo phần mình mà kê khảo rõ ràng rồi chuyển cho bọn thần duyệt lại. Việc xong, lần lượt giao

- Vâng sắc : Kinh sư là gốc rễ của 4 phương, các Chánh phó sứ hải phòng nên lưu tâm như thế nào cho được vững mạnh, chớ

75


nên chểnh mảng. Vâng trình kết quả cuộc bắn tập các đại bác ở những đồn lũy Thuận an.

- Tháng 8, Vâng gặp Tứ tuần đại khánh tiết, được ban vàng, bạc, tiền, cùng các món.

- Dâng phiến tâu : Trộm thấy sinh mẫu của thần nay tuổi đã 84, việc ăn uống cùng hơi sức so với năm ngoái kém sút bội phần. Tuổi già bóng xế như đèn treo trước gió, thật là một mối lo ngầm. Nay gặp cơn bịnh nặng, ăn uống khó khăn, hơi sức suy yếu, tình mẹ con tha thiết khôn xiết lo sợ vậy. Vả lại, thần là kẻ quê mùa, đem cái ngu muội, vụng về mà lạm xen vào hàng công khanh, nhằm lúc biên cương hữu sự, đâu dám tiếc kiếp sống thừa, huống chi sau khi được khiển trách, giáng cấp, đang nơm nớp sợ sệt, cố gắng cho xứng đáng, cho nên mỗi lúc ngày đêm nghĩ tới nghĩa công, lòng riêng thật rất khó yên. Thế nhưng nhớ lại ơn cù lao lớn vô cùng, tình cảm của thần không sao cắt bỏ được. Ngữa mong ban ơn cho thần ở nhà năm ba ngày phụng dưỡng mẹ thần, thuốc thang cho mẹ thần, ngữa nhờ đức nhân thọ ban cho được sớm thuyên giảm, thần xin vâng chầu. Châu phê : Y cho lời xin. Ban ba nhánh lớn nguyên cành sâm Cao ly, 2 tấm quế Thanh. Phái thầy thuốc đến trị. Hãy sử dụng rộng rãi thuốc đã ban.

- Tháng 9, vâng Dụ trong có khoản : Cửa Thuận an rất là quan yếu, Chánh phó sứ hải phòng Nguyễn Tri Phương, Trần Tiễn... việc của Bộ bộn bề chưa thể thường xuyên đến cửa ấy được để đôn đốc việc phòng giữ. Nay chức Đốc phòng được đổi thành Phòng luyện, Chưởng vệ Nguyễn Hữu Thân sung làm Phó Phòng luyện cửa ấy, Biện lý bộ Hình là Phan Huy Khiêm sung làm Tham biện cửa ấy để bổ sung vào chức trách phòng thủ. - Vâng Dụ gia ơn cho khai phục Thượng thư bộ Công kiêm sung hàm như cũ, tiếp đó, dâng biểu văn tạ ơn. - Cùng Nguyễn Tri Phương, Vũ Trọng Bình, Phan Huy Vịnh, Nguyễn Văn Phong dâng phiến tâu: Nay vâng sắc ban sớm mai giá hạnh Thuận trực, chiều 13 về. Bọn thần trộm thấy những ngày qua, sự thế Nam kỳ đã như vậy, còn Bắc kỳ thì tin biên giới báo về hằng ngày mà số biền binh bên ngoài gần đây chịu sai phái nhọc nhằn đuối sức lắm thì số lính ấy tưởng nên tăng phần tiết dưỡng tối đa để sẵn khi dùng mà đề phòng sự bất an. Đây là lòng thành thật không giấu diếm của bọn thần không xứng đáng này, xin muôn vàn thể lượng cho. Nếu lại không được thế thì bọn thần muôn lần mọp ở cửa khuyết chờ trị tội vậy. Châu phê : Y theo lời xin. Chỉ vì sống nơi sâu thẳm nên buồn uất chẳng có chi để tiêu khiển. Các quan bộ Công, bộ Binh cùng dân chúng cũng có chỗ thể lượng như thế nào chứ !

- Tháng 4, tu bổ điện Càn thành xong, được thưởng kỷ lục hai lần. Ngày mồng 4, cùng Tôn thất Thệ tuân chỉ làm việc hiếu ở Đông lăng, cung kính kiểm tra các khoản giới cấm. Vâng phiến trình Tham thủ hộ sứ là Tôn Thất Thành, Hiệp quản Nguyễn Đắc Quang, Phan Văn Đồng tự tiện vắng mặt. Kính vâng phê : giao bộ Binh cứu xét ngay để xử. Vâng sung Lưu kinh đại thần trong thời gian giá hạnh Thuận trực. Vâng đặt thêm ba vọng lâu ở cửa Thuận an.

- Tháng 10, vì nhiều lần dự lo công cán nhọc nhằn ở bộ Binh, nên được thưởng gia 3 cấp. Vì khi ở bộ Công đã dự lo việc sửa chữa bày biện chỉnh tề, ổn thỏa cho điện Sùng ân, được thưởng kỷ lục hai lần.

- Tháng 4, nhuần, vâng giá hạnh Thuận an duyệt các đồn lũy. Được ban thưởng một cái Kim bang chỉ thủy tinh 179 . -Can việc đốc suất lơ là trong lúc tu bổ điện Quang minh, bị giáng 1 cấp lưu.

- Tháng 11, vì nhiều lần vâng sung sửa soạn cho lễ Tứ tuần đại khánh, được thưởng kỷ lục 2 lần.

- Tháng 7, Thự Trung quân đô thống Đoàn Thọ sung chức Bình Khấu tướng quân. Lúc ra đi, vâng mệnh ban rượu ở Ngọ môn. 76


- Tháng 12, vâng Dụ trong có khoản : Thượng thư bộ Công Trần Tiễn... trước đây ở Bộ Binh, công việc đã quen, nay điều bổ lại làm Thượng thư Bộ ấy, dư hàm y như cũ. (Bấy giờ bộ Binh nhiều việc, lãnh Thượng thư là Nguyễn Tri Phương tuổi già làm việc chậm nên ứ đọng. Ông đang quản lý bộ Công nên có mệnh ấy)

17 tháng này, vâng Châu phê dạy sức bọn thần gia tâm tìm lương y. Bọn thần kính xem, run sợ khôn xiết - Khoản ấy, vài ba năm nay từng đã có lần vâng mệnh phê bảo. Thái y viện cùng bọn thần dò tìm xét cử, có được một vài người có hiểu về y thuật nhưng chưa tinh về mạch lý nên không đảm nhiệm nỗi việc chầu hầu. Bọn thần lúc nào cũng bàn nhau dò tìm, cũng chưa có được người giỏi nhất nước, lúng túng 182 mãi tới hôm nay, muôn phần chịu lỗi. Nay xin để cho bộ Lễ thông sưc ra ngoài cho các quan địa phương lập tức hết lòng xét khắp trong hạt tìm những danh y tinh xác y mạch thông tỏ mạch lý, từng chữa trị có hiệu nghiệm, mỗi hạt cử một vài người, cấp tiền, theo dịch về Kinh hầu vâng xét dùng, có thể là hiểu biết rộng hơn mọi người, có chỗ dùng được chăng.

180

- Vì khi còn ở bộ Công đã đôn đốc làm kỳ đài xong xuôi thỏa đáng, được thưởng kỷ lục hai lần.

Thần là Trần Tiễn... và Phạm Phú Thứ trộm xét thấy có nguyên Viện phán ở viện Thái y là Trần Đường, trước đây ở Viện, y học cũng có phần khả quan, bọn thần có lần dùng thuốc do viên ấy điều trị. Thuốc nước, thuốc tễ của viên ấy chế rất có công hiệu. Gần đây viên ấy bị bệnh xin về, nghe tin đã khỏi. Nay xin bảo cho tỉnh Nghệ An đòi gấp Trần Đường, cấp tiền và sai dịch đưa về Viện, cùng Viện bàn rõ, may được trí tuệ chung bổ khuyết thêm. - Tháng hai, vâng sung Lưu kinh đại thần trong dịp giá hạnh Thuận trực. Dâng phiến tâu : Vừa qua, vâng diện sắc chuẩn cho nha Thương biện của bộ Binh cần người, Trần Tiễn... chọn kỹ viên nào có thể làm nổi việc Thương biện thì trình lên chờ bổ. Lại tiếp Thái giám Nguyễn Túc chuyển truyền cho lựa xét số ấn quan với thuộc viên, viên nào có thể làm nổi việc Thương biện thì tâu lên chờ bổ, đừng xét chọn ở các tỉnh, đạo bên ngoài mà một phen phái đổi lại sinh phồn hoãn 183 . Vâng tuân lời chiếu, thấy rằng nhân tài khó kiếm cũng khó biết, trừ khi thân quen với từng là đồng sự, còn thì chưa dễ xét tìm được. Thần quen biết, giao thiệp rất ít mà trong đó có người chưa từng là đồng sự, có người thì sự lịch duyệt còn cạn, thần nhiều lần hỏi cùng nhiều người, xét riêng một mình đều thấy là cần người.

Vua Tự Đức Kỷ tỵ năm Tự Đức thứ 22 (1869) Ông 57 tuổi. - Tháng giêng, ngày Đinh hợi, sinh con trai là Tiễn Hối. Vâng sung Lưu kinh đại thần trong khi giá hạnh Thuận trực ở Lợi nông 181 . Cùng Nguyễn Tri Phương, Phan Huy Vịnh, Nguyễn Văn Phong, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Chánh, dâng phiến tâu : Ngày 77


Bộ của thần việc nhiều và căng, thần cùng Biện lý Hoàng Hữu Xứng chỉ có hai người, như được cho tăng người thì mới có thể làm kịp việc. Thần chỉ biết có Thị lang Nội các là Phan Đình Bình, đã có học thức mà việc chính trị cũng am tường, Biện lý bộ Công là Nguyễn Hữu Lập, tuy am luyện có kém Phan Đình Bình nhưng tài lo liệu cũng nhanh nhẹn, đều thuộc hạng làm nổi Thương biện - Còn như thuộc viên tu soạn, lãnh chức Viên ngoại lang bộ Lại là Trần Văn Tuy từng đã làm Biện lý, việc Bộ cũng được khá rành, và chức Kiểm thảo lãnh Hàn lâm viện tu soạn là Trần Thiện Chánh, huyết khí tuy có chưa thuần nhưng cũng có học thức, đều thuộc hạng người hăng hái gánh vác nhiệm vụ. Đấy là ngu kiến của thần, xin dám cứ vào sự thật trình lên chờ xét, cắt cử.

Bọn thần xấu hổ nhục nhã, xúc động lo phiền thật sâu sắc, Hoàng thượng một mình ôm mối lo chiếu cố miền Nam, tội của bọn thần thật là lớn vậy. Tự thấy vì lòng ngu chưa hết, ngày đêm nào dám quên chuyện ấy được, chỉ phải lúc này đi lại khó khăn tính liệu công việc thường nhiều chếch mác. Lần này, việc đi Hạ châu đã phái các viên Nguyễn Văn Hựu, Trần Như Sơn, Lê Huy qua lại thăm dò. Đi Hương cảng cũng đã phái bọn Nguyễn Chánh, Trần Đình Túc, Đặng Huy Trứ thu nhặt tình hình nhưng tâm tính của chúng quỉ quyệt bí ẩn, lại nói năng văn tự không thông được nhau cũng là duyên cớ. Có khi đi mà không dò được tình hình, có khi không kín đáo mà bị chúng nghi trách. Nối tiếp đó có Phan Trung cũng thường xin làm bài hịch của nghĩa dân sáu tỉnh Gia định, kể hết thói ham muốn không biết chán của bọn rợ ấy, hành động bất nghĩa của chúng gởi cho Lý Mậu Thụy đưa đến báo quán người Anh để truyền ra nhưng những lần phái viên sang Hương cảng không nghe các nước khác có nói gì thì việc ấy cũng đã khó có bằng cớ.

Lại xét Trần Văn Tuy, Trần Thiện Chánh vốn do thần đề cử, họ đều phạm lỗi, tự thần há dám lại làm vấy bẩn. Duy xét hai người ấy không phải là kẻ không biết lỗi, biết hổ thẹn, như được dự vào để sửa chữa thì chắc cũng biết phấn đấu không làm kẻ vô dụng đến mức thần không dám tránh né. Thần tự hỏi lòng và tự thề thật lòng chẳng dám có chút ý riêng bè phái gì trong đó. Mặt trời trên cao ngữa xin chiếu rọi. Châu phê : Trừ Phan Đình Bình ra, số còn lại, bộ Lại cứu xét ngay, kê rõ sự trạng hiện có, nguyên can vào án gì, tâu lên đợi chỉ. Trần Văn Tuy có thân thuộc gì không 184 ? bộ Lại hãy trình bày cả lên.

Nay việc thương nghị mới về Nam Trung chưa thấy báo tin, tình trạng giặc cướp ở biên giới phía Bắc vừa cần đánh dẹp. Chỉ lo xử trí chuyện của ta thì cũng đã lộn xộn huống chi hiệp ước mới chưa thành thì cơ sự ra sao cũng chưa thể làm chuyện khác. Nếu chia phái người đi hai nơi ấy chỉ trích tình hình bọn rợ, thuê khắc in để tuyên bố, nghĩ cũng là việc Phan Trung đã làm, với các nước chẳng ăn thua gì mà bọn Lãng sa đang muốn ta gây xích mích để cái mưu chiếm ba tỉnh phía trong càng đắt, như thế chỉ bày thêm một phen cãi vã mà thôi. Chỉ có việc lượm lặt tin tức để biết tình hình bọn rợ, đấy mới thật là việc nên lo.

- Tháng 3, cùng Nguyễn Tri Phương, Phan Huy Vịnh, Phạm Phú Thứ dâng phiến tâu : Mồng 7 tháng này, vâng phê bảo chọn người khả năng, thuộc viên từng theo tàu Thanh đi hai nơi Hương cảng, Hạ châu xét tình hình của Tây, ngẫm soạn nhật trình báo những cái không phải mà họ đã gây ra, thuê khắc để truyền ra các nước hoặc xét được có cơ hội nào có thể mưu đồ thì về bàn tính cùng vâng huấn thị các việc khác. Bọn thần từng vâng xét, trộm thấy đất Nam kỳ từ khi bị Lãng sa xử ép, buông tính sói lang, dân tình không chịu nổi sự hiểm độc, ngày ngày trông được sống lại, chẳng sớm thì chiều vậy.

Sắp tới đây, Lê Huy sang Hạ châu, xin để cho Viện của thần dặn kín viên ấy đến các nước Anh Pháp ở Tây dương hỏi mua các báo chí đem về dịch cùng ngoài ra có tin gì lạ thì sao chép ra dâng lên, đợi Đặng Huy Trứ về, dặn kín viên ấy đem sự tình Tây dương ở Việt 185 lâu nay dâng phiến tường tận để vâng xem rõ ràng. Sau 78


này có ai được phái sang Cảng cũng chiếu như Lê Huy trên đây mà sức cho lo liệu, tìm hiểu tường tận để có thể làm cho bọn họ đáp ứng với ta tốt hơn. Đó là những gì bọn thần tuân vâng nghĩ cạn như thế để cúi chờ xét định.

- Tháng 5, can việc các thuộc viên chép sót sớ của Tuyên quang, bị phạt bổng 2 tháng ghi vào sách. Gặp tết Lục tuần đại khánh, được ban vàng, bạc, tiền cùng phẩm vật. Quan cố Thượng thư được gia tặng Gia Nghị đại phu, Thiêm sự phủ Thiêm sự, ban thự là Ôn Mục. Cố Đoan nhân Thái từ được phong Chánh Tam phẩm Thục nhân. Sau đó ông dâng biểu tạ ơn. - Tháng 6, can việc để thuộc viên chậm trễ việc biên nộp tổng kết cuối quí bị phạt bổng 3 tháng ghi vào sách. - Cùng Phạm Phú Thứ dâng phiến tâu : Nay vâng phê chuẩn về việc Nguyễn Tri Phương quì dài 187 trước cổng cung chính. Sức cho các Bộ giải quyết. - Bọn thần trộm thấy Nguyễn Tri Phương lần này tâu bày, vâng được phê là đại thần ấy già nua nói bừa, thật đã đau đớn sâu sắc. Bọn thần trộm nghĩ rằng đại thần ấy tuổi già lại hàng huân cựu sót lại chỉ duy có ông ấy. Kính vâng Hoàng thượng đã rõ từ lâu, thường có lòng chẳng nỡ tận đáy lòng. Nay liệu có nên hay không, đưa đến nhà Tả vu chờ xét. Châu phê : Cứ thực tình về đi. Tâu chờ chỉ để tỏ lòng thể niệm có sự cư xử khác biệt. Liền dám làm vấy bẩn, mọp chờ ân chỉ. Kính vâng Châu phê : Lần này quá bậy, không còn nghiêm túc như trước nữa ! Pháp độ của triều đình há không đau đớn ? Không được cùng nhau hy sinh cho cái riêng mà quên mất cái chung ! Muốn giữ cho còn cái pháp độ lớn, lại làm gần với phạm pháp đều là thế cả !

Đặng Huy Trứ

- Tháng tư, vâng diện sắc nói : Vừa qua tình hình đánh dẹp giặc Ngô 186 rất căng mà việc phòng giữ và tiểu trừ giặc núi lại là việc trọng yếu nổi bật của Bắc ky, nếu không có người trấn giữ vỗ về thì không khỏi bị thiếu sót đáng ngại, hãy để đình thần xét tâu. Đình thần xin để Ông sung làm Khâm sai đại thần đi Bắc ninh để trấn yên. Kính vâng sắc ban : Nay đã nhiều người rồi, giờ lại thêm nữa thì không phải là lo lâu dài. Còn như có ý quan tâm thì tán tự bằng mưu cơ ở nơi màn trướng cũng không thể ít.

- Tháng 7 vâng Dụ : Thượng thư bộ Binh sung Cơ mật viện đại thần Hải phòng phó sứ Kiêm quản Khâm thiên giám Trần Tiễn... cảm sâu ơn tri ngộ, hết lòng giúp rập ngày đêm không chút lơ là, râu tóc sớm bạc mà mẹ đẻ năm nay tuổi quá 80 còn được khang kiện, được thế chẳng phải là sự báo đáp cho kẻ dời Hiếu làm Trung đấy ư ! Nước có bề tôi tức là nhà có con. Xét mẹ y, lòng dạy con hằng ngày chắc cũng chẳng ngoài điều ấy.

- Được ban cho một Kim tiền VIẾT TRUNG hạng lớn có tua rũ. Vâng Dụ rằng đợi cho việc trở lại bình thường sẽ ưu thưởng và đề bạt. Bấy giờ 3 đạo quân cùng báo về một ngày, việc của Cơ mật viện rất nhiều, bộ Binh vâng chỉ nhanh và rõ như vậy để lo việc khen thưởng.

Năm nay vâng gặp khánh điển 188 ân huệ tỏ bày : đạo cư xử với người già, cách giúp sức người con hiếu thực không thể làm 79


mất được, thế cho nên ân hiếu cũng đã nhắm đến nhưng vì việc nhiều nên kẻ cao tuổi hơn phải được hậu đãi trước : biếu mẹ y một cặp nhung mê 189 , bốn nhánh sâm Cao ly, bảy xấp gấm, đoạn, sa, là, lăng 190 . Lại ban cho Trần Tiễn... 1 đôi lộc nhung, 10 nhánh sâm Cao ly, 2 tấm quế Thanh hạng nhất, 1 chén dầu lá sam 191 . Phái Hiệp lãnh thị vệ Nguyễn Đình Phổ cùng một viên Các thuộc hàng ngũ lục phẩm ngày 22 tháng này mang đến cho tại nhà, truyền chỉ chia cho, một là để làm món dưỡng già mà yên tâm đeo đuổi công việc, một là tăng sức khoẻ để thêm công lao. Mẹ y được miễn quỳ lạy và xu tạ 192 để hợp với ân huệ dành cho người già và tỏ ý thể tất cho bề tôi.

ai am tường về các nghề máy tàu thủy hay am tường chế máy xẻ ván, nấu đồng, đúc súng, bất kể là quốc tịch nào cũng đều sung mộ rộng rãi, vẫn do bộ Công hợp cùng Đốc công hạch khả năng mà chọn bổ, cấp lương tiền hàng tháng, miễn đi lính. Như có người nào tay nghề khá hơn thì chọn lên quan thưởng để khuyến khích. Vua chuẩn y. - Tháng 11, cùng Nguyễn Tri Phương, Phan Huy Vịnh, Phạm Phú Thứ, Bùi Thức Kiên dâng phiến tâu : Trộm nghe các thánh vương đời trước chưa từng không đi chơi để quan sát. Tuy nói rằng không sa đắm việc chơi bời, nói rằng không dám đi chơi nhảm thực là vì nhất cử nhất động đều quan hệ rất lớn đến cái Đức của vua vậy. Triều ta vào khoảng đời Minh mạng, Thiệu trị cũng có tiến hành việc đó nhưng không có gì là không giới hạn chừng mực.

- Cùng Phan Huy Vịnh, Phạm Phú Thứ tâu xin : Dùng đại thần Nguyễn Tri Phương sung chức Bắc kỳ Kinh lược đại sứ để bàn bạc đốc sức việc đánh dẹp khiến mọi người biết có sự thống nhiếp, không dám tị nạnh. Vua không chuẩn y.

Xe vua sắp ra đi thì trước đó đã Dụ bảo bằng lệnh đặc biệt cho bộ phận ở lại Kinh các việc phải làm. Lúc đi, lúc về đều có bắn súng lớn. Ban đêm dừng nghỉ ở biệt quán của Ly cung thì có nhà quan cư cạnh đấy để quan binh làm chỗ nghĩ ngơi, sự thể thật là nghiêm túc trang trọng, nhưng vài ba tháng mới giá hạnh một lần, đều ngụ ý giảng luyện võ nghệ, khích lệ siêng năng mà không hề quên lòng thương người yêu vật cho nên sớm đi mà chiều về ngay, có trễ chăng cũng không quá 2 ngày là hồi loan, không dám coi rẽ sự an ninh. Như thế là dụng tâm của các bậc thánh vương ngày xưa. Hoàng thượng năm đầu cầm chính quyền, lo lắng siêng năng, sợ sệt gắng gỏi, một dạ chẳng quản, thỉnh thoảng có quan sát phong tục, giảng luyện võ nghệ mà cả đến dạo chơi ruộng đồng cũng là lạnh lùng làm theo phép xưa thành nếp, không hề trái hay vượt.

- Bộ Binh xin đề cử bộ thuộc là Trương Đăng Để, Viên ngoại lang cùng Tú tài Trương Quang Đản tình nguyện đi Sơn bắc mộ lính dẹp giặc. Kính vâng chuẩn y. - Tháng 8, cùng đình thần tâu xin quyên tiền lương từ ấn quan trở lên, được một vạn quan để giúp quân nhu. Vua nghe theo một lần. Tuân sắc chở đạn và thuốc súng thần công, ống phun lửa ra Hà nội để cấp cho các quân. Tuân sức cấp và đưa voi chiến đi Sơn bắc chia cho hai đạo lính lệ 193 và lính doanh 194 . - Tháng 9, can việc văn bản mật của Cơ mật viện bị côn trùng ăn, phạt bổng 1 năm. - Tháng 10, can việc hạch chậm Tú tài Phan Văn Nghệ, bị phạt bổng 6 tháng ghi vào sách. Cùng đình thần tâu : Đạn là lợi khí của quân dụng, xin dò hỏi các địa phương có người biết nghề làm đạn, biết tính độ phóng thì cho họ vào bộ Binh thi kiểm tra lãnh thưởng. Lại xin giao cho sở Đốc công lập ra Công xảo cuộc,

Từ ngày biên cương hữu sự buồn uất khó thoải mái, phải mượn chuyện ấy để tự tiêu khiển. Chỉ gần đây, mỗi tháng đi ba bốn lần mà ngày giỗ ngày tết đều chẳng kể tới 195 thì về chữ Lễ có 80


chỗ đáng ngại. Đem cái tôn quí muôn xe 196 mà sớm chiều chạy theo loài có cánh ở đồng nội thì về thể thống có phần sứt mẻ, cung nhân, thị nữ chèo thuyền, cầm giầm ở nơi sông hồ thì trong ngoài cũng khó rõ. Vả lại, đi nhiều lần thì nhọc tốn càng nhiều mà dọc đường ốm đau, đó không phải là điều vui vẻ, thỏa nguyện cho dân buôn bán, làm ruộng sở tại. Vừa rồi, có sắc dụ bảo đi theo thì liền đi ngay gấp gáp như sao băng, thuyền bè không kịp sửa soạn cho đàng hoàng đẹp đẽ, khí giới lương thực không kịp lo đủ, loay hoay đuối sức, ban đêm phải dừng ở chổ vắng vẻ, đóng quân ở mé nước lâu kể đến ba, bốn, năm ngày, biền binh phải tuần phòng giữa gió mưa lạnh lẽo, ngày đêm xông pha lấy thế làm chuyện bình thường mà đòi họ phải khoẻ mạnh thì có nổi không ? Huống chi trăm ty nhiều việc, khi cần tra cứu đều ngại phải vất vả đi về không đủ thì giờ để bàn bạc cho thống nhất, phải chịu thế gác lại.

cháy hỏng, kẻ nghe tin không ai là không run sợ, đấy tuy là việc của con người do bất cẩn dẫn đến mà dẫu không phải huyền cơ cảnh cáo biến cố không phải từ chổ không dưng mà sinh ra, chẳng nên coi là tự nhiên vậy. Hoàng thượng thông minh duệ trí, bậc làm chúa đời trước chưa từng được vậy. Uyên nguyên của thánh học không ngoài hai điều kính cẩn và buông lỏng. Từ xưa bậc đế vương chưa từng có ai gặp gian nan lo lắng như thế mà thường vui chơi lại làm rạng rỡ nổi nghiệp lớn, đưa đến cảnh thái bình được. Nguyện mong Hoàng thượng xét mình, soi mình. Trên đây là lấy Nghiêu, Thuấn, Văn vương làm phép tắc cùng sự thành công gần đây của Liệt tổ và gương răn xa đời từ vết xa đổ của Hạ khang 198 Chu mục 199 vậy. Nếu ngẫu nhiên có đi chơi, nên hạn chế để giảm nhọc nhằn, bớt hao tốn, thương loài vật 200 , yên lòng người thì thiên hạ may lắm, xã tắc may lắm. Bọn thần xấu hổ xen vào hàng khanh, gặp lúc nhiều duyên cớ thế này, rất biết thi tố 201 tội không tránh được, nhưng nếu nín thinh không nói, sợ e vạn nhất có xảy ra trở ngại gì tất cái tội quan chức 202 không gì lớn hơn. Bi bô lòng thành không thể cầm được nên mạo muội mật tâu, mong chờ thấu rõ. Châu phê : Từng điều từng điều trong này đều là lỗi của Trẫm, thật đã muôn phần cam chịu. Sự thẳng thắn của các khanh đã sáng tỏ rõ ràng nhưng về thực lòng quan tâm nhau thì chưa vậy. Không dám màu mè chút nào, hứa thật như vậy, làm sao cho ổn thỏa kẻo có lỗi hoài, rầy rà hoài.

Xin Hoàng thượng siêng năng, cẩn thận cho nhiều mà chỗ hành tại đều là việc quân cơ khẩn yếu, một vài việc thôi mới dám theo xe dâng lên thì còn bao nhiêu việc khác không khỏi dồn ứ, buông lơi là phần nhiều. Về những tình hình ấy, Hoàng thượng đã rõ, không cần bọn thần phải làm bẩn đục vậy. Chỉ nghĩ rằng nước nhà nuôi binh tướng để dùng khi hữu sự, nay đang có nhiều việc rất đáng đau thương, lao khổ đã lắm, làm sao thu lòng mà đắc lực được ? 197 Năm trước bọn thần còn nghe trong quân sĩ có lời ta thán vụng trộm riêng tư, từ khi vâng lệnh sức hỏi, khiển trách đến nay thì không còn nghe được từ đâu về tình hình của chúng nữa, lòng riêng suy nghĩ rất là đáng lo. Vả xưa kia nghịch Trưng gây biến mà quân túc vệ thấy bóng đã theo ngay trước tiên, như thế nghiệm rõ rằng làm họ nhọc thì họ oán vậy. Lần đi ấy, may mà trời còn giúp, nước còn phúc nên đi chơi không hề gì mà nhân tình là rất đáng sợ như thế. Huống chi mệnh trời không thường mà điềm tốt xấu đều ứng nghiệm. Mới ngày gần đây ở hành cung Thuận an thuốc súng bùng cháy, lính và dân bị chết thiêu, thuyền và nhà bị

- Tháng 12, cùng Nguyễn Tri Phương, Phan Huy Vịnh, Phạm Phú Thứ, Bùi Thức Kiên dâng phiến tâu : Ngày 28 tháng trước, bọn thần vâng đem việc du hạnh xin hạn chế bớt, kính dâng phiến trình lên, được Châu phê các lẽ. Bọn thần tuân vâng, cung kính đọc, ngữa thấy Hoàng thượng cực kỳ đau khổ cho thời cuộc khó khăn, bất đắc dĩ mà mượn đấy để tiêu khiển nỗi niềm, mong để tiêu cơn buồn uất, hằng ngày trông chờ bọn thần báo đáp cho tròn trách nhiệm lớn. Lúc đầu vô tâm về việc làm nhọc cho người, làm đau cho vật để làm vui vậy. 81


Thần, Nguyễn Tri Phương gần đây ngẫu nhiên lâm bịnh, bọn thần trộm chờ để cùng bàn, không dám quên chút nào. Mồng tám tháng này lại vâng Châu phê đã nói : Hỏi mà không đáp thì cũng biết nói suông thôi ! Lại chỉ nhìn suông, không khứng ra sức báo đáp hay sao ? Thánh nhân nói thế nào ? 203

biết tình hình bọn mọi, há có chuyện úp mặt vào tường, ôm gốc cây 208 làm đắc sách ? Xét ra Hạ châu, Hương cảng là láng giềng tiếp giáp với ta, là nơi các nước Đông Tây tụ về mua bán, sự tình bên ngoài thường được truyền riêng nên ta đã từng phái thuyền sang đấy kiêm lo tìm biết. Nay tàu ấy hiện được giao cho chuyên trách dò xét, chưa tiện đi xa, xin nên nhân sẵn phương tiện ấy, phái người đi trước hai xứ nọ cùng Anh, Xiêm, Nhật bản đều là nơi Pháp qua lại, như gặp người nước ấy, tìm cơ dò hỏi kín đáo để cùng lo ngăn ngừa phòng bị rồi ghi kỹ về trình để mở rộng tầm hiểu biết về tình hình, không có gì là không giúp ích được.

Bọn thần cung kính xem, khôn xiết sợ sệt, tuân vâng nghĩ tới nghĩ lui, trộm cho là bề tôi thờ vua như con thờ cha, cha có chuyện bực, con sợ có khi vướng vào sự phi nghĩa mà sa đọa nền tảng đạo làm con. Kẻ làm tôi, dốc cái lòng thành cuồng nhiệt mù quáng là chỉ mong mặt trời mặt trăng thêm sáng, non núi thêm vững bền để nên được vẻ lớn của trời đất mà thôi. Khổng Tử nói : Xiêu mà không đỡ thì chung sức mà làm gì ! Lại nói : ở gần mà không can ngăn thì chỉ là cái thây ăn lộc !Bọn thần tầm thường, mang dày ơn nước, sờ lưỡi 204 hỏi lòng, đâu lại dám cô kiểu 205 muốn tỏ bộ thẳng thắn để nặng cho tội ác ?

Đến như việc chọn riêng một chỗ dành để tuần hạnh, khỏi phải chơi xa, khoản ấy năm trước đã được phê rõ, đại ý đều giống nhau. Bọn thần chỉ vì lý do nhọc và tốn, đi không ích lợi, nay xin hãy đi chơi ở các chỗ cũ, tùy lúc mà xem và xét. Nay vâng đem hết ý tứ ra bàn định, nghĩ cũng không hơn được các chốn cũ, duy mong Hoàng thượng suy cái lòng thân với người thân, nhân với dân, theo đấy mà yêu thương loài vật.Việc tuần du có hạng chế thì thần dân được phước nhiều vậy. Bọn thần dâng một phiến nhỏ nhặt, muôn phần biết là không có chỗ nào tránh tội, kính vâng phúc trình. Châu phê : Đã biết rồi. Chưa thấy thực hiệu quả, ai là kẻ ưu ái.

Nay đang lúc biên giới lộn xộn, việc nước ngày càng khó khăn, huống chi đất cũ Nam kỳ như chết đuối trên cạn, chưa thu phục được. Đây là lúc Hoàng thượng ngày đêm đau lòng mà bọn thần ngu ngốc có vỡ trán nát thây cũng không gỡ nỗi những gì nén ở đáy lòng, chỉ lo sửa trong dẹp ngoài là kế lớn để phục hưng, giữ chỗ vững chắc, phá chổ tỳ vết là điều cốt yếu của việc quân. Người Tây đưa lợn rắn 206 đến với sự vững chắc của kẻ đại địch mà ta nuôi dân dạy lính chưa đến một năm. Giặc Thanh 207 làm lộng, mặt Bắc đáng lo, môn thuốc cứu mạng có thể đem ra, đó là điều hòa nguyên khí để tính dần khôi phục. Trình tự ấy của cơ sự không cho phép làm rối vậy. Huống chi việc lập lại hòa ước mới còn đợi báo chí lên tiếng đã, nghĩ không nên hành động không đúng lúc mà làm trái cái thuật yên tạm của ta.

- Kính tuân ân chiếu đại khánh, được thưởng gia một cấp. Vâng ban một bài thơ ngũ ngôn ngự chế Thuật hoài. -Can việc khi còn ở bộ Công, tu bổ trê nãi các ụ súng trên thành, bị phạt bổng 6 tháng, nhờ việc xảy ra trước lúc có chiếu ban ơn nên được miễn.

Việc ấy bọn thần đã trộm nghĩ rằng người Tây đối xử giảo hoạt với các xứ lân cận của ta thì cán thuật đề phòng ta càng sâu sắc. Nay tuy chưa tiện hành động nhưng tính việc bọn mọi, phải 82


vâng cho : Thư báo phải mềm mỏng mà thẳng thắn khiến cho họ biết ta không thể nói mạnh được mà lý của họ cong. - Tháng 3, cùng Nguyễn Tri Phương, Phạm Phú Thứ tâu : Triều sính là lễ thường trong việc bang giao khiến người vâng mệnh cũng nghĩ rằng chầu vua là vinh dự. Triều đình đối với nước ngoài, có ai lấy lễ mà đến, nhân lễ ấy là thu lòng họ mà tôn quốc thể nữa. Huống chi hai nước Pháp với Y lúc cùng ta giao hòa đã theo lẽ đó, nghĩ không nên quá nén. Nếu điều họ tỏ bày nghe được thì nhận, nghe không được thì bác, khiến họ không thể lấy lời lẽ mà chấp trách thì việc giao thiệp của ta hậu ý không hiềm khích gì có thể nói mà tin cậy thân thiện đồn ra các nước vậy. Khi nước Y pha nho sai sứ đến Kinh báo xin nộp lễ vật và xin vào chầu vua, đệ quốc thư, trên lấy cớ là họ cứng cỏi, xin mãi cũng không cho vào chầu. Cùng Nguyễn Tri Phương, Phan Huy Vịnh, Phạm Phú Thứ dâng phiến tâu : Trộm thấy lần ấy xứ Y pha Nho đến Kinh xin tuân hòa ước, triều kiến cùng mật tỏ bày cách giúp đỡ của nước ấy. Năm trước, Hoàng thượng nghĩ tình họ xa xôi, lược bớt nghi thức, hỏi họ những điều trình bày rồi sớm bảo về.

Nhà bia trong lăng Tự Đức

Canh ngọ năm Tự Đức thứ 23 (1870) Ông được 58 tuổi.

Bọn thần thấy họ xin triều kiến nên trước đó một ngày đã dâng bản tâu mật, nghĩ quốc thể là trọng mà tin lời họ, xin chuẩn y cho họ yết kiến, lại vâng xét cấp vật hạng nữa. Đến khi sứ ấy mật tâu bày thì chỉ là chuyện không quan trọng, chẳng thiết thực lắm, thế mà bọn thần Phan Huy Vịnh, Phạm Phú Thứ nhiều lần vâng bàn họ cứ khất mãi, đòi có Toàn quyền mới chịu bàn bạc, nói hết lời chúng cũng không chịu giúp đỡ. Xin thưa rằng trước đó bọn thần là Nguyễn Tri Phương, Trần Tiễn… điều đình các khoản không xảy gì khác. Khi nghe đến việc tương trợ thì sinh ra lời rỗng tắc trách : Tội ấy không thể tránh, xin đem bọn thần giao cho quan Hữu ty nghị xử để làm rõ. Kính vâng châu phê : Sẽ có chỉ dụ riêng. Khâm thử.

- Tháng giêng, Phú soái đệ thư bàn hòa ước mới. Tổng đốc Bình Phú Thân Văn Nhiếp, Tổng đốc An Tĩnh Hoàng Tá Viêm đều xin trình bày lên báo cùng mở cuộc họp các nước khác để thêm bền cho hòa ước. Hoàng thượng đem việc ấy hỏi ông, ông nói : Ta vừa ra sức năn nỉ, không có ai xứng đáng chận nổi họ. Nếu lấy lời lẽ mà biện bác, không chỉ vô ích mà còn sinh khó khăn, xin hãy đợi nước ấy trả lời mới hợp cơ sự. Vả lại từ trước hòa ước từng có ba nước cùng nhau đóng ấn, nước ta gởi thư cho nước Y chưa từng hỏi chuyện, huống là các nước khác cùng một kiểu như thế. Vả lại xa xôi cách trở, thế khó họp nước, cũng chưa xét rõ các nước giao hòa có lệ ấy không. Xét nên chờ cho hoà ước do khâm sứ của ta cùng Phú soái thương lượng lo liệu đã. Kính vâng chuẩn y. Lại 83


Tân Mùi năm Tự Đức thứ 24 (1871). Ông được 59 tuổi.

- Can việc bộ thuộc biên giao trể nãi tờ trình cuối quý, bị phạt bổng 3 tháng ghi sách.

- Tháng 1, vâng dụ thăng Thự Hiệp biện Đại học sĩ, vẫn giữ chức Binh bộ Thượng thư, kiêm sung các hàm như cũ.

- Tháng 4, can việc chia ban trể nãi cho Biền binh tỉnh Bình thuận bị phạt bổng 1 tháng. - Can việc thương nghị với sứ Y (pha nho) bị cách lưu.

- Dâng phiến cáo bệnh đau thắt bụng, xin nghỉ mười ngày, ở lại công thự để chữa trị. Châu phê : Yêu vua, điều trước tiên phải lo giữ thân. Hãy cố gắng điều trị. Khâm thử.

- Tháng 5, kính vâng hộ giá Thuận an duyệt đồn lũy, thao diễn bắn đại bác, được thưởng 4 mỹ kim tiền, trong đó 1 đồng có tua. Can việc các đồn Thuận an chế đạn hỏng, bị giáng 2 cấp lưu.

- Vâng làm thơ ứng chế hợp chỉ dụ, được ban thưởng một thếp giấy hạng nhất, một hộp đựng bút, mười một thỏi mực Dĩnh đại, bình pha trà, bình đựng trà, nghiên đá Đoan khê mỗi thứ một món, 10 gói trái cây. - Can việc làm hỏng phiếu thăng trật của Hoàng Tố bị giáng một cấp lưu. - Tháng 3, vâng tuân ân dụ tết Nguyên đán tháng giêng, cho đổi các lần cách lưu, giáng lưu làm giáng 6 cấp lưu. - Tháng 4, tuân sắc trước đến kiểm sát các đồn lũy hải phòng, giang phòng đều kiên cố hoàn chỉnh, dâng phiến phúc trình. - Tháng 5, can thuộc ty nhầm lẫn việc đòi lính dõng ở Quảng yên, thủ hạ chi lương chận lại, bị phạt bổng 1 tháng. Dâng phiến phúc trình : Hôm qua thần tuân sắc hỏi thuyền nhân nước Hoa kỳ giao dương thư 208a của thuyền Đằng huy cùng các món của nước Ma li căn. Nay theo lời phúc bẩm của bọn Tôn Thất Duyệt, quan lo việc hải phòng, căn cứ theo lời quan Hành nhân chủ sự Hoàng Nghị khai rõ : Sớm hôm qua, họ đi đường sông ngang qua thuyền Đằng huy, có lên thuyền ấy, thấy người coi neo đem thư ấy mở xem, Hoàng Nghị hiện có dự xem lời lẽ trong thư cùng hỏi thăm, có bản dịch đính kèm. Lại theo lời Hoàng Nghị khai thì Ma li căn tiếng Đại Thanh gọi là nước Hoa Kỳ là 1 nước thuộc phương Tây, chữ viết và tiếng nói giống với Xích mao nên y am tường thông dịch. Nước ấy nằm về phương nào y cũng không rõ, đợi trời sáng sẽ hỏi tiếp rồi trình tiếp. Sớm hôm ấy liền phái chủ sự Hoàng

Phạm Phú Thứ

84


Nghị đến hỏi, chủ thuyền khai rằng nước ấy nằm ở phương bắc (ở mặt trên địa cầu), tiếng Thanh 1. tên là Bắc Á mỹ lý giá, 1 tên Hợp chúng, 1 tên Hoa Kỳ, 1 tên Tân thế giới.Tiếng Tây một tên là Ma li căn, một tên là A mê di canh, âm tuy không giống nhau nhưng đều là một nước. Tên gọi nước ấy rút trong các sách :

đấy 1 đại thần ra giải quyết mọi việc trừ tệ an dân, bọn thần có ý là nên nghe theo lời xin, chỉ có Nguyễn Tri Phương hiện đã suy yếu già nua, trước đây bị phê là không cho đi nên không dám nêu lại. Vũ Trọng Bình tuy có lịch duyệt nhưng lần ấy vì vụ thành Lãng thất thủ đã bị giả hàm. Đẩy vận lương hướng là việc khẩn, chưa tiện sung phái.

- Cao hậu mông cầu địa lý hợp chí.

Trần Tiễn... việc Bộ tuy nhiều và căng nhưng vâng mệnh sai phái thì phận làm tôi phải tuân. Xem ra bên quân đội có Lê Tuấn là người lịch duyệt siêng việc, lại là đại thần chốn Kinh đường vâng mệnh đi giải quyết công việc... Nay quân Thanh hữu đã sang chung lo việc tiểu trừ 209 ở Thứ, chức Tham tán, Tán lý cũng đã nhiều người, xin phái một người làm Kinh lược đại thần Khâm sai Bắc kỳ đến trước xét liệu tùy nghi điều độ để trấn tĩnh. Còn như tệ nạn quan lại, trước đã có Tuần vũ Hưng hóa Trần Đình Túc đã tâu việc Hộ đốc Sơn Tây Trần Bình làm việc không hợp lòng trông mong của mọi người, đã vâng Dụ khiển trách xử trí, còn những kẻ bị coi là tham quan ô lại làm khổ dân thì kể cũng có, bọn thần chỉ nghe đồn đãi chứ không có cáo trạng đích xác nên phải dè dặt, có khi phát xuất bởi lòng yêu ghét nên không dám tâu bừa.

- Địa lý vấn đáp. - Địa cầu thuyết lược. Các sách Địa cầu Tây phương cùng bản đồ địa cầu phần nhiều đều có ghi rõ các tên gọi ấy. Xin phúc trình các lời như trên. - Can việc Nguyễn Văn Chi tự tiện đi nghiên cứu trể nãi, bị giáng 4 cấp lưu. - Tháng 6, vâng giá hạnh Thuận an duyệt xem đồn lũy, vâng đưa ra bài văn ngự chế tế cửa biển Thuận an. Vâng Châu phê : Giao 2 sứ duyệt, như không hợp thì sửa. Ngày mồng 9 lập đàn ở mặt trước hải thành, hai sứ vận mũ áo lạy, đọc văn trước bài vị Nam Hải Long Vương và Phong bá Huệ phi, có tam sinh, mâm xôi, các vật phẩm tỉnh và đủ, nhạc tán cụ bị, Hữu ty phải lo sẵn. Hãy kính lấy !

- 19 tháng 7, cùng Nguyễn Tri Phương, Phạm Phú Thứ, Lê Bá Thận dâng phiến tâu : Nay vâng kính duyệt, có các quan Nội các, các tướng, bộ Lễ, luận bàn việc tâu dối của Thống đốc Hoàng Tá Viêm, kính xét vâng chỉ trong có khoản : Hoàng Tá Viêm, xét theo trên viết dối trá, luật kết tội đánh 100 gậy, đồ 3 năm, nhưng nghĩ đến viên ấy đang bận việc quân, hiện nay nên khiển trách, để về sau hãy tính, gia ơn cho mang tội đồ ghi vào án để lập công đền lỗi nhưng đợi cho đình thần đem các khoản tâu trước đây của Đô sát viện bàn xong cho khỏi trùng lặp. Bọn thần trộm nghĩ : Binh là việc lớn của nước, Tướng là Tư mệnh của quân, cho nên trao búa Đổng nhung tất để làm long trọng vai trò gửi gắm bên ngoài, thì chỉ ngọn cờ mao, người ta chỉ còn biết tuân theo lệnh của tướng mà thôi.

- Can việc đình nghị về tội trể nãi làm chủ thảo tập tân của Hoàng Tá Viêm, bị giáng 2 cấp lưu. Cùng Nguyễn Tri Phương, Hồ Oai, Lê Sĩ, Phạm Phú Thứ, Lê Bá Thận dâng phiến tâu trình : Nay vâng giao ra xét 1 tập tâu xin của Thống đốc Hoàng Tá Viêm, kính vâng Châu phê : giao cho các đại thần văn võ duyệt ngay trình lên. Bọn thần tuân vâng cùng bàn : Chiếu theo gần đây, Bắc Nam binh lửa liên miên, nghĩ rằng quan lại phải có người giỏi việc vổ về cho yên mới chu đáo đến đời sống người dân, nếu một khi mất người ấy thì dân không khỏi chịu cảnh khổ. Gần đây vì nước lụt vượt mức thường, dân tình càng chồng thêm lúng túng. Vật cùng thì biến là lẽ tất nhiên, việc cứu trợ trấn an chính là việc gấp. Nay viên Thống đốc ấy nghĩ xin phái ra 85


Nay viên Thống đốc ấy bị cho mang tội đồ để làm Đổng suất, nghĩ rằng triều đình nên co cái phép nước lại, duỗi cái ân huệ ra, viên Thống đốc ấy cũng đã ngữa biết chính sách cảnh cáo, dám có lòng nào. Có điều là tin đó truyền xuống cấp dưới, những Tham tá, thiên tỳ chẳng khỏi lờn nhác, gọi thưa không nhạy, mà làm việc chung với quân Thanh họ biết Thống đốc ấy mang tội đồ thì rất đáng ngại về mặt sự thể. Viên Thống đốc ấy như được thể lượng cho khiển trách để sau giải quyết thì xin nên đặc cách giáng chỉ, nêu rõ miễn mang tội đồ, may được nhờ ơn mà yên lòng báo đáp. Nếu lại không tỏ lòng ấy thì trị lại không muộn vậy. Bọn thần nghĩ thế, kính xin mạo muội trình bày xét định.

có chút ý nào dời đổi kết quả vậy. Nay vâng sự khiển trách nghiêm khắc, bọn thần muôn vàn xin chịu tội, còn viên Thống đốc nọ có nên tha hay không xin vâng chờ chỉ dụ sáng suốt. Xét việc dâng thư dối lừa, luật kết cho ghi vào án, vẫn miễn trị trăm gậy đồ ba năm cùng mang án đồ ấy để cho kẻ dưới nghe cho ổn thỏa. Kính vâng Châu phê: Sẽ có chỉ riêng. - Can việc thuyền lầu Tế thông theo hầu bị lậu nước, xét thấy không hợp, bị phạt bổng 6 tháng ghi vào sách.

- Cùng Nguyễn Tri Phương, Phạm Phú Thứ, Lê Bá Thận dâng phiến tâu trình : Hôm trước bọn thần dâng phiến khẩn xin việc Thống đốc Hoàng Tá Viêm mang tội đồ, vâng phê khiển trách. Bọn thần kính xem xong, sợ sệt khôn xiết, thấy Thống đốc ấy nói năng sai bậy, tội thật khó từ, duy nghĩ rằng viên ấy là Tư lệnh, liên quan đến sự nghe nhìn của ba quân mà dưới cái tên lại mang thêm tội đồ, rất e quân sĩ nghe thế mà nhác nhớn, đùa cợt, gọi vâng không linh, lính Thanh dòm ra thế lại cho là không đủ để khinh hay trọng thì thể thống, hiệu lệnh của viên Thống đốc ấy nghĩ cũng khó mong gì được việc. Vâng so với gần đây như Vũ Trọng Bình, Đặng Toán, Nguyễn Văn Tường từng can tội thất thủ, bị nghị ghép đến tội chết, đã vâng Dụ chỉ cho giải hàm, hoặc giáng chức, cách lưu. Lại như năm trước Nguyễn Tri Phương bị thất thủ đồn lớn ở Gia định, án xử trảm giam hậu, đã được Dụ cho giáng làm Tham tri rồi được khai phục Thượng thư, vẫn sung Đổng suất chứ không mang tội chết mà làm việc. Bọn thần lo lắng quá sức ngu xuẩn trộm cho là đáng ngại, dám liều làm bẩn, xin miễn tội đồ ấy, vẫn đợi trị nặng hơn.

Đường phố Hà nội xưa thời thuộc Pháp - Ngày 14 tháng 8 vâng đi theo giá hạnh Khiêm cung, được ban bát quái cùng 4 kim tiền tía Nhật, Nguyệt, Tinh, Vân có tua rũ. Vâng tuân ân chiếu nhân tết Vạn thọ, các lần giáng 13 cấp lưu được khai phục 2 cấp. Lại được ban y phục bằng thể đoạn, kính vâng lời Dụ mang các ý : để xứng có đức, giúp ta việc cai trị.

Thần cùng Lê Bá Thận lần ấy từng nêu rằng viên Thống đốc nọ tội đáng cách, cho hồi tịch nhưng vẫn xin đợi vâng xử trí, tiếp đó vâng chuẩn cho tội đồ, làm việc như cũ. Thần ngu ngốc cứ nghĩ mãi e có chút trở ngại nên bàn nhau dâng phiến xin, muôn phần chẳng dám 86


- Mồng 2 tháng 10, cùng Nguyễn Tri Phương, Hồ Oai dâng phiến tâu : Trộm thấy gần đây thế giặc ở Bắc kỳ căng thẳng hơn trước, ngữa thấy cữu trùng tiêu cán 210 xét về nghĩa ưu nhục 175 lòng bọn thần muôn phần không thể tự yên, khẩn xin phái một người trong bọn thần ra đấy trước, hợp đồng với Thống đốc để trông coi quân lính. Hai thần sẽ bàn bạc trù tính chia đi kiểm xét và đôn đốc may được chu đáo. Ấy là nguyện vọng tha thiết của bọn thần vậy. Kính vâng Châu phê : Các đã nói việc ấy. Hãy đợi có chỉ riêng.

1 tháng ghi vào sách. -Cùng Nguyễn Tri Phương dâng phiến tâu : Ngày 11 tháng này, vâng sắc Dụ trong đó có khoản : Nay đã là đầu năm, đến Tết rồi, các bậc bên Văn từ Thượng biện, Bang biện, bên Võ từ Lãnh binh, Đốc binh trở lên, phẩm hàm khá trọng, trước đã ra hạn gắt trong năm phải làm cho xong, nay hạn đã đến gần mà còn chưa xong. Bọn ấy miễn yến lạo để biết thẹn mà phấn đấu. - Bộ Hộ của thần đã tuân phiến Dụ, xin trình lên : Bọn thần vâng mệnh cùng bàn : Điều đáng lo nghĩ là biên giới phía bắc, các quan ở Thứ là bọn Hoàng Tá Viêm, vào dịp đổi năm cùng kính gặp các dịp khánh tiết, các Tết Đoan dương, Nguyên đán, có khi thì được ban yến lạo, có khi thì được cấp tiền bạc, áo trận, áo rét, thuốc men, vâng ơn ban thực đã quá ưu đãi thấm nhuần. Từ ngày ra quân đến nay, đã duyệt thêm hạn vẫn chưa xong việc. Gần đây cho giả hàm đã sắp hết hạn, lại còn hao tốn, ngày tháng làm cho gìa lính, hao lương một việc không thành. Lần này lại ra ơn nữa, tưởng nên không dám lạm được nhiều lần thật có như lời sắc vậy.

- Can việc khi còn ở bộ Công thảo chậm trễ văn bản khẩn điền, cấm rượu, bị phạt bổng 6 tháng ghi vào sách. -Can việc thuộc ty nháp phiếu trình tỉnh Bắc ninh để cho lính mất khí giới tra cứu không chu đáo, bị phạt bổng một tháng. - Tháng 11, cùng Nguyễn Tri Phương, Phạm Phú Thứ, Lê Bá Thận, Hoàng Văn Tuyển, Phan Đình Bình, Phạm Ý dâng phiến trình : Nay vâng cho Thượng thư, Tham tri các bộ bọn thần tuân bàn việc lo các khoản giỗ kỵ chính vị, phối vị của nhà Thái miếu. Bọn thần vâng tra sách Lễ ký thấy nói : Chiếu với giỏ bày cùng bàn là dựa thần vậy. Sớ nói rằng con người lúc sống thể thống khác nhau, cho nên bày đỗ thờ, trong sự tôn kính đã có ngụ cái ý phân biệt. Vả chăng, lễ dựa theo tình mà đặt nên, mà tình cũng lấy lễ làm tiết, ngữa thấy lúc đầu việc chuẩn định đã phối hợp giữa tình với Lễ rồi vậy. Vâng Châu phê : Sách Lễ sớ, Lễ chí đều nói nhằm đạt đến cái tốt lành. Chưa biết là Lễ căn cứ vào cái gì. Nhớ các thuyết của sách Gia lễ điều chú, Thông khảo chú luận cũng chỉ thế mà thôi, không thấy kinh điển khác. Chớ nhiều lời. Cứ theo mọi người.

Nhưng vâng xét ra các lần mà những viên ấy đã làm đều là việc chưa xong, lầm lỗi bấy lâu đều được tha thứ, tuy bị đồ, gậy, cách, giáng cũng được ghi lỗi rồi cho gắng sức báo đền. Nay đầu xuân yến lạo một lần cho tỳ tá trở lên, khoản chi phí nghĩ cũng chẳng là bao mà làm cho quản, suất, trở xuống đều hưởng ơn nhuần, giữa tướng với quân càng thêm gắn bó. Huống chi các doanh lính Thanh đã được đãi tiệc mà ở các trại quân ta, các quan ở Thứ lại không được dự. Cấp dưới nghe thế, trộm thấy cũng quan hệ đến sự thể. Cúi nghĩ : Yến lạo ban xuống, tuy là vật ăn uống nhưng gây cảm kích rất nhanh cho kẻ hèn mọn. Các viên quan phục vụ ở quân thứ biên giới phía bắc, văn từ Bang biện, Thương biện,võ từ Lãnh binh, Đốc binh trở lên, tết Nguyên đán xuân tới có nên xếp đặt cho dự một lần yến lạo hay không ? Châu phê : Sắc dụ đã rõ. Lời các khanh cũng đã biết rồi. Bộ chép ra giao cho đình thần phúc lại phải kịp trước Tết năm ngày.

- Cùng Tôn nhân và đình thần tuân Dụ tập hợp các công tử, xét kỹ các phiến, đợi lệnh tuyển chọn 211 . -Can việc thuộc ty đem nguyên thông phán bị cách là Nguyễn Tăng Huy cho theo hiệu phái ở tàu Mẫn thỏa không hợp, bị phạt bổng 9 tháng ghi vào sách. - Tháng 12, can việc lúc còn ở bộ Công kiểm phiếu các kho, trường mùa Hè, thủ sách ghi lặp mà không hạch ra được, bị phạt bổng 87


- Tuân vâng nghĩ thảo bài Văn tế trong lễ cúng tạ cửa biển trình lên : 212

Hoàng thượng đẹp ý Chấp sự khiêm cung Hương, vàng, lụa quý, Rất mực tôn sùng

Bể Nam sâu rộng Đứng đầu trăm sông Cát vàng một dải Chầu giữ hải môn

Thần như hiển linh Báo đức tha thiết Cho dải cát vàng Thêm hoài không khuyết.

Trời bày hiểm yếu Tuần giúp mọi đàng Trọng địa căn bản Chỗ dựa vững vàng

Vững mạnh phía biển, Yên vui bốn phương Cứu dân giúp nước Thành tích phi thường

Thành cao vòi vọi Giáp bãi trường sa Đồn xây lớp lớp Ngăn giữ sơn hà

Vâng được Châu điểm

214

41

- Bắc ninh động đất, tiếng vang như sấm. Vâng diện sắc : Một chuyện động đất, thư tịch có nói đến. Đất thuộc âm, là đạo bề tôi. Trước kia, vâng thánh dụ có nói : Nước ta ở phương Nam, có nhiều dương phong, chưa nghe chuyện lạ động đất. Nay có hiện tượng huyền diệu như thế , bọn khanh nên gắng sức đề phòng gấp bội để giúp trẫm kẻo không kịp.

Có lúc sóng gió Vỗ bờ cát bay Chỗ thấp hơi khuyết, Chỗ cao hơi bày Chín bệ thành tâm Hữu ty cẩn tắc 213 Chỉ muốn đắp bồi Cơ đồ vững chắc

-

Linh minh kết hợp Như tiếng như vang Sóng cuồng xô đẩy Thành tô cát vàng. Xô đi đẩy lại Bít thêm chặt dày Cơ mầu huyền diệu Sức thần ai hay ? 88

Được ban các tập thơ văn thánh chế của Minh Mạng, Thiệu Trị.


Việc miền Bắc như thế, làm sao cho xong đây? Sự thế tuy khó, cũng nên tính sớm mới được. Nên làm như thế nào? Hãy cùng các đại thần lưu tâm bàn kỹ tâu lên. Vâng tuân, bọn thần trộm xét thấy sự thế Bắc kỳ hiện nay, phía Bắc thì giặc Thanh207 đã dịu, lại có giặc biển ở Hải dương tràn vào, giặc Hán cũng ùa theo mưu xuẩn 215 . Ở Sơn, Hưng, Tuyên, Thái, giặc Thanh vẫn còn tràn lan, các đạo đem biền binh chia đường đánh dẹp đã lâu mà chưa thấy tâu công. Về giặc biển ở Hải dương thì đã mấy lần phát binh thuyền đã nhiều, lại có Phó tướng họ Lôi lần lượt đem tàu cùng đánh, nhưng ở Thứ quan tỉnh lại có thuê thuyền lớn Thanh dũng, giá bạc nặng quá không tiền trả nổi đang lúc dân đói tiền hụt. Chuyện lo không xong hiện nay là khó có thể buông nhà Thanh mà không để lại trở ngại như lời sắc đã nêu vậy. Quân thứ ở đấy, lâu nay quan tỉnh lo liệu toàn hao tốn suông, không xứng đáng chút nào với công việc nhận làm. Còn việc vâng xin phái người lo thay cho xong việc, chỉ thấy gần đây, theo Thống đốc Hoàng Tá Viêm, Thị sư Lê Tuấn tâu đã mộ 2000 dũng đinh cùng rút số thổ dân khoẻ mạnh, thiện xạ, ở dọc biên giới, trả lương tháng để sai phái, nếu lính Thanh triệt về thì xin dùng họ đi tiễu phạt. Nay tướng Phùng lại phúc thư rằng đã bẩm với bộ viện tỉnh Quảng tây chờ giải quyết mà hai Thống lĩnh phái đến là Lưu và Trần đem các doanh lính Thanh hiện đóng ở Thái rút về. Thống đốc ấy cũng đã hẹn ngày bàn bạc.

Quan phục của Tổng đốc Hà Nội Nguyễn Tri Phương do người Pháp lấy sau khi họ chiếm thành Hà Nội. Hiện vật của Bảo tàng Quân sự Pháp tại Les Invalides

Nhâm thân năm Tự Đức thứ 25 (1872) Ông 60 tuổi. - Tháng giêng, can việc thuộc ty làm lộ bản nháp, bị phạt bổng 2 tháng ghi vào sách. -Can việc hồi còn ở bộ Công, Quốc tử giám bị hư dột, sửa chữa chậm trể, bị phạt bổng 6 tháng ghi vào sách.

Còn giặc bể Hải dương thì quan quân thứ Hải an đã điều đình cùng Phó tướng Lôi thuê thuyền Dũng xương của Thanh đến sông Hàm hợp sức đánh dẹp, tuy giá tiền thuê cao gấp bội nhưng việc đang làm, không thể ngừng giữa chừng được. Lại theo tin báo gần đây thì trận đánh gần đây ở trú thứ Thanh lâm thắng lớn, thế giặc đang giảm sút bị tiêu hao dần, việc điều độ của quân thứ ấy có phần đắc lực. Bọn thần nghĩ rằng hiện còn giặc trên bộ, xin cho Thống đốc Hoàng Tá

- Tháng 2, gặp tế Đại tự, dự việc hổ tòng, được thưởng một chiếc kim tiền hạng lớn có tua rũ. Cùng Nguyễn tri Phương, Hồ Oai, Lê Sĩ, Nguyễn Chí, Phạm phú Thứ, Lê bá Thận, Nguyễn Bính, dâng phiến tâu: Ngày 19 tháng này, vâng Hoàng thượng ngự chầu, gọi Nguyễn tri Phương, Trần Tiễn … diện sắc có nói: 89


Viêm nên thương thuyết thế nào với hai Thống lĩnh Lưu và Trần cùng đốc sức binh tướng Thanh và ta cùng chia nhau đánh gục ngay, không để chúng tràn lan nữa.

- Tháng 3, vâng ân chiếu tết Nguyên đán, giáng 11 cấp lưu được khai phục 7 cấp. -Can việc thuộc ty là bát phẩm Nguyễn Toại lẻn vào Đông các tìm xét các hội phiếu 216 bị phạt bổng 9 tháng ghi vào sách. Can việc hồi còn ở bộ Công, để in tắc giấy tờ, bị phạt bổng 1 năm. Can việc dự duyệt đình nghị kém chu đáo bị phạt bổng 9 tháng ghi vào sách.

Còn giặc bể Hải dương thì vẫn do Thị sư Lê Tuấn bàn với Khâm phái Hoàng Tuấn Tích cùng Phó tướng Lôi nên làm sao chung sức tiễu trừ, trên cạn thì bộ Binh chia nhau đánh, dưới nước thì các đạo binh thuyền, dũng thuyền dốc sức đánh diệt cho sớm xong, đừng để dai dẳng thêm trở ngại. Vả xét thấy Hải dương, mặt trong thì đường sông như mắc cửi, bên ngoài cửa bể cũng nhiều, không có được sự chuẩn bị trước thì đánh chổ này lọt mất chổ kia, khó mà xong được. Nghĩ nên dò xét kỹ đường biển, cửa biển, chổ nào nước cạn, sông hẹp thì ngầm đặt bè biết đường vào ra lui tới của thuyền giặc, sau đó, ở dòng chính cùng ở các cửa biển sâu rộng, ta cho binh thuyền và tàu ngăn chận hoặc tấn công mới mong đắc lực. Xin giao quân thứ các nơi ấy tùy nghi lo liệu các việc trên , hạn trong một tháng phải xong.

- Cùng Nguyễn Tri Phương, Phạm Phú Thứ, Lê Bá Thận, Hồ Oai dâng phiếu phúc trình : Ngày 17 tháng này bọn thần vâng phiến đem các khoản trình mật của Tán lý Nguyễn Văn Tường để hội đồng xét duyệt. Xin trình bày khoản nói là trong quân không hòa thuận, cũng không phải là việc nhỏ, cạnh khoản đó có Châu phê dấu chấm khoản nói là đánh nhanh, mưu chậm, liên quan đến lợi hại chẳng nhỏ, trên khoản đó Châu phê : chỉ hai việc đã nói này, quả đã là khá ngỗ ngược thay ! Lại ở phía sau phiến vâng Châu phê : Chỉ thị giải quyết. Bọn thần tuân vâng hội đồng bàn xét rất kỹ : Trộm thấy rằng Bắc kỳ hữu sự đã 3-4 năm đến nay, nhiều lần vâng phái đại thần người thì làm Thống soái, người thì sung Tham tá, kể cũng chẳng nỡ sai khiến ra chốn biên thùy chịu đựng độc hại lâu ngày, mỗi người có tâm của mình, có sở kiến của mình, đừng mâu thuẩn, đừng sâm thương, mong được sớm xong việc, trên là để nhẹ nỗi nhọc của cửu trùng, dưới là để đỡ mất sức binh dân. Chẳng phải quan ở Thứ mỗi người 1 bụng hành động lủng củng 143 , việc sắp thành lại sinh khó ra. Nguyễn Văn Tường nổi tiếng là tài năng lão luyện, đến đâu cũng được người ta khen giỏi, đối với ai cũng tương đắc thì Hoàng Tá Viêm ở Bắc, Lê Tuấn ở Đông, Nguyễn Đình Thi ở Thái, Ông Ích Khiêm ở Hưng, tưởng đã thỏa ý hợp tình, có mưu bàn điều gì để giúp nhau mà không thể nói ra, không thể làm được, đến nỗi phải uất ức mấy lần tâu bày ?

Việc sau cùng là nên báo cho các quan tỉnh phải lo thoả đáng, nếu hết hạn mà chưa xong thì rõ là các quan tỉnh ấy bất lực. Lúc này nên phái Nguyễn Tri Phương hoặc Trần Tiễn... một người ra trước để lo liệu hoặc nên phái viên nào đó đi thay, xin vâng chờ chỉ. Vả lại, xét một đạo quân thứ Hải an, bao lần đã nguyên phái, tăng phái binh thuyền đã nhiều lại còn thuê thêm thuyền Dũng xương của Thanh, bộ Hộ đã tâu là mỗi tháng phải cấp tiền 3380 lạng 75 , sở phí lại gấp bội, nếu trong một tháng này mà liệu xong, triều đình cũng không bớt chi phí, nếu bọn họ dựa việc để ở bám mưu lợi, không chịu ra sức lo liệu, một tháng đã như vậy rồi tháng khác cũng vậy thì đem số bạc có hạn trong kho lấp cái lãng phí vô cùng thì lấy cái gì chịu cho nổi ? Xin hãy bảo quan Thị sư Lê Tuấn khéo khước từ rồi thương lượng với Phó tướng Lôi nghiêm sức, hiểu thị cái thuyền Dũng xương của họ ra sức đánh gấp trong một tháng phải trừ xong một loạt giặc bể ấy. Nếu quá hạn mà không xong thì ngừng thuê ngay, vẫn giao cho các quan ở Thứ ráng làm, không nên thuê thêm mà hao phí nhiều. Kính vâng Châu phê : Binh bộ chép làm lập tức.

Nếu nghe theo đó thì chẳng phải các quan ở Thứ không yên lòng mà người sắp hiệu vưu 217 để tệ càng lắm. Có thể là Hoàng Tá Viêm quá nghiêm, không bàn bạc với người tham tá chứ không thể nghĩ rằng ông ấy gặp việc mà sợ, mưu hay mà hóa thành không phục, 90


- Tháng 5, can việc thuộc ty là bát phẩm đội trưởng Ái Vựng sách bổ thụ không hợp, bị phạt bổng 9 tháng ghi vào sách. -Can việc dâng trể nãi phiến tâu vụ tỉnh Bình định trừ xong man phỉ, bị phạt bổng 9 tháng ghi vào sách.

không thuận hòa. Những cái đó là tai nạn của việc chiến đấu, ai ai cũng trái nết như thế thì chức trách kẻ làm tôi cùng công việc của đất nước do đâu mà thành? Nguyễn Văn Tường là người lòng sâu nghĩ xa, há mưu kế lại không theo kịp ? Vả viên ấy lâu nay đã thấy tận mắt, làm tận việc, nếu có đại lực lượng, đại kiến thức, tự liệu tất kham nổi thì cũng nên nói thẳng ra để vâng chờ cắt đặt mà dốc hết hoài bão, không nên lập lờ 218 khó định như thế mà bàn bạc về các đại thần thì thể thống, quốc pháp còn ra làm sao ? Tình lý hiện nay khá rõ : quân Thanh đã được lệnh kéo về, việc biên giới còn nhiều khó khăn cấp bách, nên vâng giao trách nhiệm cho Thống đốc Hoàng Tá Viêm, Tham tán Nguyễn Đình Thi cùng viên ấy xét kỹ, mưu tính chín chắn, hết sức làm việc khôi phục. Xin cho viên ấy tuân theo ý đã phê trước kia, cùng các quan ở Thứ hòa thuận, dốc sức làm cho sớm xong việc . Có kế sách gì để ngăn, diệt các toán giặc cướp ? Giặc ở Tuyên có nên để từ từ hãy tính không ? Có nên mộ chiến sĩ thật đắc lực không ? Mật sức ngay cho Thống đốc Hoàng Tá Viêm cũng theo như lâu nay cùng viên Tán lý Nguyễn Văn Tường, gặp việc thì bàn bạc xem chỗ nào không tin nhau, không thỏa mãn nhau, khác nhau không. Còn với các toán giặc cướp ở Hà dương có nên đánh gấp, mộ chiến sĩ thế nào cho lợi, cũng kín đáo tâu bày minh bạch để xét định. Như vậy mỗi người sẽ tự mình phấn đấu, tự mình cố gắng, một ý hòa thuận thật lòng mà việc biên cương có thể xong được vậy. Xin dám tâu lên để chờ xét định mà mật chép ra mà tuân làm. Kính vâng chuẩn y.

- Tháng 6, dâng phiến tâu : Trước đây mẹ thần bị ốm nặng, ngữa nhờ ân tứ thuốc quí Thượng phương, lại được chuẩn phái y chính Nguyễn Quý đến điều trị, thần cũng được cho ở nhà tĩnh dưỡng. Trong vòng 10 ngày, bệnh của mẹ thần giảm đến 6-7 phần. Thần thật cảm động khôn xiết. May mà mẹ thần năm nay tuổi đã 88, khí huyết rất suy dễ bị cảm nhiễm. Ngày mồng 5, sau giờ Tị, bệnh cũ mẹ thần tái phát, so với trước càng nặng hơn, nỗi lo sợ ngọn đèn trước gió hàng ngày canh cánh lòng thần. Ngữa mong ơn cho thần ở lại nhà 10 ngày điều dưỡng, ngày nào bệnh mẹ thần đỡ thì vâng đi làm ngay. Lại như gần đây mẹ thần đều vừa được vâng cho y chính Nguyễn Quý đến thăm mạch, bốc thuốc, ngữa xin ân chuẩn cho viên ấy ở lại 10 ngày điều hộ, may ra mẹ thần lại có thêm tuổi thừa, thực đều ngữa nhờ Hoàng thượng ban cho thêm, phước không kể xiết vậy. Lúc này nhiều việc mà thần nhiều ngày vì mẹ bệnh, phải bỏ bê công việc, thần rất biết tội, thần chỉ một tấm khổ tình, thật là vạn bất đắc dĩ, dám xin mạo muội nhỏ máu tâu bày, mọp xin chờ ân chỉ. Kính xin chuẩn y . - Tháng 7, can việc bộ Hộ vâng đem Võ bị thủ sách làm dự hoạch đề sai nhầm, bị phạt bổng 3 tháng ghi vào sách. Dâng phiến tâu : Trộm thấy mẹ thần tuổi cao bệnh nặng, nhiều lần được Hoàng thượng thương nghĩ ban thuốc cấp thầy, còn thần, được cho ở lại quê nhà điều dưỡng, thỉnh thoảng đi về lo việc công để được toại chút tình riêng ô bộ 219 . Ngữa nhờ lòng thể tất tột cùng, thần chỉ biết cảm động òa khóc chứ không biết nói sao.

- Tháng 4, Đoan nhân Thái từ bị ốm, dâng phiến tâu xin tạm về phụng dưỡng. - Vâng chỉ chuẩn cho ban ngày làm việc ban đêm về nhà hầu hạ, còn việc thuốc men giao cho con Cả lo thay. Nhiều lần vâng ban thuốc men và món ăn Thượng phương 85 . Có lúc quan Trung sứ nhận lệnh đến thăm hỏi cùng Thái y viện vâng mệnh về nhà chữa.

Vả lúc này biên đình đa sự , vì nghĩa và phận làm tôi, thần đâu dám nghĩ khác. Duy quê thần đến Bộ đi không đến nửa giờ, các việc của Bộ, hoặc đến bàn bạc, hoặc về xét duyệt, chỉ vì bệnh của mẹ thần 91


chợt đỡ chợt nguy, rời đi lòng có chổ không yên, còn cứ xin nghỉ mãi thì thật quấy rầy quá lắm 220 thật đã dư tội. Nay bệnh mẹ thần ngày càng nguy ngặt lòng thần thật rất bối rối. Ngữa xin ban ơn cho thần được nghỉ ở lại quê 10 ngày để tiện bề săn sóc. Ngày nào bệnh mẹ thần may được đỡ đôi chút, thần xin theo hầu ngay. Đây là lòng chí tình của thần, vạn bất đắc dĩ mạo muội tâu bày, mong chờ ân chỉ. Châu phê : Việc Bộ, bọn Tham tri bàn làm gấp. Không được ở lại lâu. 221

149. Đồng tri, Huyện dụng : chức làm phó cho Tri huyện. 150. Ngẫu nhật : ngày tình cờ. Căn cứ vào ý nghĩa, suy ra là ngày làm việc bất thường, không nhằm vào những ngày được qui định thiết triều. 151. Hoàng Kế Viêm : tên nhân vật này các chỗ khác trong sách viết là Hoàng Tá Viêm. 152. Sang hộ đình : chỗ dừng tàu thuyền chờ con nước . 153. Đậu khẩu : cửa cống ở đáy đập nước . 154. Cảng sắt : nguyên văn thiết cảng, người dịch đoán chữ Thiết là tên riêng. 155. Đống : nguyên văn Đôi, chỉ bất cứ gì nhô cao lên (đồi, gò, đống, ụ ) chứ không chỉ định chính xác, về số đo, không hiểu tại sao có con số cụ thể này (người dịch nghi là để chở một chuyến chở bùn) . 156. Các vị Công : chỉ anh em của vua, được phong tước ấy. 157. Thần đoán : vạt áo của vua, ngụ ý là vua tự xử lấy, không mượn tay quần thần . 158. Sĩ dân : người dân có học hoặc sĩ phu + dân chúng. Nguyên văn viết thổ dân, có lẽ do thư thủ chép nhầm, người dịch linh động chữa lại cho hợp lý. 159. Lạc mã : có lẽ là phiên âm buổi đầu tên Roma (La mã, Ý). 160. Lợi thế cánh trứng : nguyên văn ‘’noãn dực chi tư’’, ý nói vạch trần thủ đoạn bưng bít tin tức của thực dân sẽ phá hỏng âm mưu thôn tính của chúng như không cho cánh chim ủ trứng nữa, trứng sẽ ung thối không nẩy nở được. 161. Tiên sinh : ở đây có nghĩa là đạo sĩ, mà đạo sĩ thì ở nước ta không có. Khả năng ở đây là vua Tự Đức chỉ đám thầy phù thủy (cùng thờ Thái Thượng Lão Quân như đạo sĩ ở Trung Quốc) chuyên việc cầu đảo, yểm nhương (đừng nhầm với từ Tiên sinh thường dùng, vì danh từ ấy vua ít dùng, ở đây người đối thoại với vua lại là tập thể 6 người, có người tuổi chỉ sàn sàn vua Tự Đức !)

- Giờ Đinh mùi ngày rằm tháng 8, Đoan nhân Thái từ qua đời. Ông dâng sớ tâu xin nghỉ, lo việc tang chế. Châu phê : Bổn phận, trách nhiệm đều trông vào như thế, há nên bỏ trống lâu. Nay cho về quê vài ba tháng lo liệu việc ấy xong xuôi phải trở lại chức vụ ngay. Lại ban 500 quan tiền kẽm để lo liệu việc ấy. - Ngày 20 tháng 11, linh cữu Đoan nhân Thái từ an táng tại sườn đông núi ở phường trên xã Kim Long huyện Hương thủy . Việc ấy xong, tuân mệnh lại làm việc như cũ. - Can việc trình chậm vụ bắt phạm nhân trốn là Cao Viết Lăng, bị phạt bổng 6 tháng ghi vào sách. Can việc nguyên đồng cử thuộc ty Hoàng Đức Nghiễm quê vụng chẳng thông, bị phạt bổng 9 tháng ghi vào sách. - Tháng 12, can việc tổ chức trễ nãi đợt khoá tích 222 cho số thuộc viên bổng mãn 223 bị phạt bổng 9 tháng ghi vào sách. Can việc thuộc ty là thư lại họ Trương lấy trộm sách tịch bị phạt bổng 9 tháng ghi vào sách. CHÚ THÍCH: 147. Tiện điện : điện dành riêng cho vua nghỉ ngơi, không mặc triều phục, không tuân các nghi thức phiền toái, có không khí thân mật. 148. Xu phủ : tên gọi khác của Cơ mật viện . 92


162. Đạo trung thứ : chỉ lòng nhân. Khổng tử chủ trương trau dồi lòng nhân thì các đức tốt từ đó nảy sinh. Thế cho nên khi Tăng Tử hỏi thì Khổng Tử đáp : Ngô đạo nhất dĩ quán chi (đạo của ta chỉ một cái trùm cả). Môn đệ không hiểu hỏi Tăng Tử thì ông này liền giải: Phù tử chi đạo, Trung thứ nhi đồ hỗ (đạo của Thầy là Trung thứ mà thôi). Trung là sử sự thật lòng, Thứ là rộng lượng với người, cả hai là cốt tính của đức nhân. Ở đây vua Tự Đức muốn nói là nếu không vì lòng Nhân của mình coi sự xúc phạm ấy là chuyện lớn chứ không nhỏ thì tất không tha thứ nổi ! 163. Câu này cũng có thể dịch : giặc Mèo do Ngụy Thuận cầm đầu chiếm Suối Bốc... (nếu đích thực thủ lĩnh giặc Mèo tên Thuận thì cách hiểu này mới ổn) . 164. Lấp ló như chuột đầu đàn : nguyên văn ‘’Thủ thử quan vọng’’ (chuột đầu đàn quan sát trông chừng) miêu tả cảnh trước khi đàn chuột rời hang, chuột đầu đàn giấu mình trong hang, chỉ ló đầu ra xem chừng, tình hình không yên là thụt đầu vào ngay. 165. Ném thẻ : nguyên văn giản phóng, chỉ sự bổ nhiệm đặc biệt bằng một chỉ dụ riêng, trang trọng hơn. Hình như cách dùng cầu kỳ này còn ngụ ý chơi chữ nên người dịch cố tình theo sát nguyên văn. Vua Tự Đức rất nghiện thú tiêu khiển Đầu hồ của Trung quốc du nhập (theo lời kể của cụ Thân Trọng Huề). Cách chơi là đứng từ xa, ném thẻ cắm vào một chiếc bình (hồ) loe miệng. 166. Hiệu phái : một dạng “cải tạo lao động” của thời trước. Những văn quan phạm lỗi, chịu hình phạt “tòng quân hiệu lực”, bộ Binh phải cắt cử họ đến những điểm nóng, “tạo điều kiện” cho họ... hiệu lực với danh nghĩa hiệu phái. Sự chần chờ của cụ Trần biểu hiện một nhân cách tốt. 167. Hưởng phúc xong thì tai họa xảy đến : đây là kiểu nói khéo để xin khai phục cho hai viên quan xui xẻo nọ. Tuy nhiên, với vua thì ăn nói phải liệu sao cho có cơ sở. Đạo đức Kinh có câu : Họa hề phúc chi sở ỷ phục hề họa chi sở phục (họa là chổ

dựa của phước, phước là cái chổ nấp của họa). Chuyện ngụ ngôn Tái ông thất mã của Hoài nam tử đã minh họa chủ thuyết này. 168. Chi tiết này rất đáng thắc mắc : a/ Hồi tháng giêng, ông Tường đã ký tên chung trong tờ phiếu 6 người đòi vua tu tỉnh khiến vua Tự Đức đùng đùng nổi giận, lẽ nào thân phận một anh Ban biện quèn ở một huyện heo hút lại được phép to gan đến thế ? b/ Nếu cho rằng trong thân phận ấy, ông Tường vẫn gồng mình “chơi chung” với đám “đại đại thần” thì dễ gì vua Tự Đức chịu nổi việc cho ông Tường “tiếp cận” trong địa vị Hành tẩu Cơ mật viện ? Tóm lại, việc này phải xảy ra trước việc kia thì mới có khả năng là đúng! 169. Ty bộ Binh : một bộ phận của Cơ mật viện không trực thuộc bộ Binh. Ở viện có đủ Lục ty để theo dõi Lục bộ. 170. Dịch âm : Cùng Đông phong vũ hàn khí hào. Hủy mộc dao lạc sơn cốt cao. Độc hữu trùng bách ngật nhiên lập, Kiều chi kình cán phò lâm cao. Tuy vân hủy mộc tận dao lạc, Xuân chí manh nha phục phát tác. Tòng lai tạo vật sinh sinh ý, Vạn vật khởi giao chung tịch mịch (mạc) Như kim sự thế hưu phiền thuyết, Hiền khanh nỗ lực gia biện chiết. Tuy phi Ngụy Giáng đắc ngũ lợi Khẳng nhượng Phú công năng kháng tiết ? Quốc gia dưỡng sĩ tam bách niên, Thương thương hà đại bất sinh hiền ? Nhược tàm khuyết quốc nhật Bách Lý Nhẫn thị quan đái luân tinh chiên ? 93


Ưu nhục đại nghĩa tương yên tị ? Bất ngộ thác bàn phi lợi khí. Ngư thủy tương đắc thành tối nan ! Hiền khanh nỗ lực tảo tế sự.

177. Triều dã : trong triều ngoài nội . 178. Mạch : 1/10 quan = 60 đồng . 179. Kim bang chỉ : vật dụng bằng vàng, giúp cho ngón tay - ý nghĩa là thế nhưng chưa rõ chỉ vật gì. Trong tự điển, bang chỉ là cái để nong chân khi mang giày. Nghĩa ấy đưa vào đây không hợp vì có thủy tinh nữa. Do đó, người dịch suy rằng vật này không giúp ngón tay khi mang giày mà là khi chỉ huy. Vậy đấy là cây gậy chỉ huy làm bằng vàng có khảm thủy tinh để bắt ánh sáng. Năm Tự Đức 20, trước đấy một năm, Ông Ích Khiêm, trong chức Lạng Bằng quân thứ Tán lý cũng được ban vật ấy và sử ghi bằng cái tên hoa hoè: Khảm tinh quang pha lê kim ban chỉ - trong chức Kinh kỳ hải phòng phó sứ, cụ Trần hẳn cũng được ban một món đồ dùng này.

Tư phùng lạp khứ tống nghiêm hàn, Minh tế xuân hoàn khanh diệc hoàn Đái đắc xuân ôn hồi phụng khuyết, Triều đình hoan tích triệu dân hoan. 171. Ngụy Giáng 5 điều lợi : Ngụy Giáng làm quan Đại phu nước Tấn đời Xuân thu. Rợ Sơn nhung dâng da hổ báo để xin hòa. Ngụy Giáng tâu với Triệu công : giảng hòa với chúng thì ta đạt được 5 điều lợi. Bùi tai, Triệu công sai ông đi rồi kết được đồng minh với họ, nhờ đó rảnh tay phục hồi được nghiệp bá. 172. Mấy trăm năm : nguyên văn Tam bách niên, chỉ một con số vô hạn, ngụ ý lâu đời chứ không chứa nghĩa toán học nên không cần dịch đúng (Đặng Trần Côn : Thái bình tam bách niên thiên hạ) .

180. Dấu ngoặc đơn do người dịch thêm vào. Theo văn cảnh, đây là câu chú thích, lẽ ra phải viết chữ nhỏ bằng 1/4. Có khi thư thủ lỡ nhầm chăng ? 181. Thuận trực ở Lợi nông : nguyên văn Lợi nông Thuận trực, Thuận trực là cái đầm có nhiều vịt trời, vua Tự Đức khoái đi săn, còn Lợi nông là địa danh có tên nôm là Nong .

173. Bách lý : tức Bách lý Hề, tướng quốc tài giỏi của Tần mục Công đời Xuân thu. Nhờ ông, chỉ trong 7 năm Tần mục Công lập nên nghiệp bá để các đời sau bành trướng và thôn tính lập nên nhà Tần. Tuy nhiên, điểm nổi danh của ông là xuất thân hèn hạ nhất: chăn trâu.

182. Lúng túng : nguyên văn ‘’tuấn tuần’’ (đi mà không tới = giẫm chân tại chỗ) . 183. Phồn hoãn : nhiều mà rỗi, chỉ tình trạng viên quan mới chuyển ngành : việc thì nhiều nhưng lại chưa quen nên trông như rỗi việc.

174. Mũ áo vấy hôi tanh : chỉ việc đi sứ của Tô Vũ, bị rợ Hung nô đày lên Bắc hải chăn dê. Người đời Nguyễn cũng coi Tây là loại hôi tanh như cừu dê (Nguyễn Đình Chiểu : mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm...) .

184. Phải hiểu câu nói trống không này : Trần Văn Tuy có thân thuộc gì với Trần Tiễn Thành không ?

175. Ưu nhục : nhắc câu châm ngôn “ quân ưu thần nhục” .

185. Việt : chỉ các tỉnh Quảng tây, Quảng đông .

176. Duyên ưa cá nước : thành ngữ này vốn chỉ tình vợ chồng hòa hợp, nhưng ở đây dựa ý câu nói của Lưu Bị : “Cô chi đắc Khổng Minh do ngư chi đắc thủy” .

186. Giặc Ngô : chỉ đám giặc Tàu do 2 anh em họ Ngô là Ngô Côn và Ngô Kình cầm đầu, từng vây thành Bắc ninh . 94


187. Quỳ đài : quỳ hai gối chạm đất, khác với quỳ là chỉ chạm một gối, chân kia vẫn đạp đất.

dục, phóng túng (hơn 100 tuổi mới chịu trổ trời ?) đi chơi khắp thiên hạ, chết ở một hành cung (Chi cung) .

188.Khánh điển : Dịp Lục tuần đại khánh của Thái hậu Từ

200. Thương loài vật : ngầm chỉ trích thú đi săn của vua, vì đạo người quân tử là thân với người thân, nhân với mọi người, tiến tới yêu loài vật (thân thân nhi nhân nhân, nhân nhân nhi ái vật Mạnh Tử) .

Dũ. 189. Mê : nai sống ở vùng cát, dưới mắt có hai lổ nhỏ (để cát trôi ra theo nước mắt). Có lẽ đúng ra chỉ là lộc nhung nhưng gọi mê nhung cho ra cái điều đấy là của vua ban chăng ?

201. Thi tố : nói tắt thành ngữ thi vị tố xan, chữ trong Kinh thư mô tả vua Thái Khang : cái thây trên ngôi, lo ăn mà không lo việc.

190. 7 xấp : tên từng xấp khá rườm ra nên không thể dịch sát. 191. Sam : loại thông lá ngắn.

202. Quan chức : chức bị bệnh. Ý nói xử sự yếu ớt không xứng với chức vụ.

192. Xu tạ : chạy theo cám ơn (trường hợp này là lạy sau lưng sứ giả) .

203. Thánh nhân nói thế nào ? Ý vua Tự Đức chắc nhắc khéo câu nói của thánh nhân : vua lo thì tôi nhục, vua nhục thì tôi chết (Quân ưu thần nhục, quân nhục thần tử) .

193. Lính lệ : lúc đầu đây là sắc lính qui tụ những tội nhân bị đồ làm lính cùng thân nhân kẻ có tội đại hình. Về sau bổ sung cả lính thường và gọi là lính tập. Đừng nhầm với lính lệ ở chốn công đường (lệ dịch) .

204. Sờ lưỡi : điển tích thời Chiến quốc, Trương Nghi học xong nghề du thuyết, chưa kịp thi thố thì đã bị bắt, đánh tả tơi vì nghi ăn cắp ngọc. Vực về nhà, vợ than phiền, Trương bảo vợ sờ lưỡi mình xem có còn không. Ở đây ý nói sờ thấy lưỡi còn thì tự thấy còn phải nói điều lợi hại giúp cho vua sáng suốt.

194. Lính doanh : lính bảo vệ các sở chỉ huy. 195. Ám chỉ cuộc săn vịt trời ở đầm Thuận trực gặp mưa lũ phải kẹt lại tới hôm sau, lỡ mất ngày giỗ vua Thiệu trị. Lúc về vua vào lạy Thái hậu Từ Dũ và dâng roi chịu đòn (theo lời kể của Thân Trọng Huề trên báo Nam Phong) .

205. Cô kiểu : nêu lên điều không đúng mà bắt người ta phải theo càn.

196. Muôn xe : chỉ quốc gia có tầm cở .

206. Lợn rắn : nguyên văn ’’xà thổ’’, tượng trưng cho tham lam và độc ác.

197. Thu lòng : nói tắt thu phục lòng dân.

207. Giặc Thanh : giặc người Thanh, chỉ đám dư đảng của Thái bình Thiên quốc tràn qua miền Bắc, nhà Nguyễn và nhà Thanh hợp sức diệt chứ không phải kiểu quân Thanh xăm lăng nước ta đời vua Quang Trung.

198. Hạ khang : vua Thái Khang nhà Hạ (2188 - 2159 tr.CN) hoang chơi vô độ, bị Hậu Nghệ, vua nước chư hầu Hữu cùng đánh đuổi mất ngôi. 199. Chu Mục : Mục Vương (1001 - 946 tr. CN) ngoài 50 tuổi mới nối ngôi Chu Chiêu Vương, tại vị 55 năm. Về già sinh ra dâm

208. Ôm gốc cây : chỉ việc chờ thời một cách ngu ngốc mà không phán đoán khả năng của tình hình. Nói tắt thành ngữ “ôm 95


Hữu ty tẩu vọng Duy ký tăng bồi Vĩnh tư bảo chướng.

gốc cây chờ thỏ” (thủ châu đãi thố) trong chuyện ngụ ngôn : xưa có người bắt gặp chú thỏ va gốc cây chết, từ đấy cứ ngồi giữ chổ gốc cây chờ chú thỏ khác đến va. 208a. Dương thư : thư viết bằng tiếng Tây dương.

213. Hữu ty : danh từ gọi chung các quan lại (người nào cũng “có ty” có sở của mình).

209. Chỉ đạo quân Thanh triều do Phó tướng Tạ Kế Quí điều khiển sang hợp tiễu giặc Thanh.

214. Lưu ý thể văn Đường phú tứ tự (tổ tiên vè lô tô?) thuộc loại hiếm (nền văn nôm chỉ thấy mỗi bài phú Tài bàn). Cụ Trần cố tình chơi trội ngầm.

210. Tiêu cán : bận rộn, vất vả. Gọi tắt tiêu y cán thực (trời chưa sáng đã lo dậy mặc áo, mặt trời trở về chiều mới ăn cơm).

215. Giặc biển : ám chỉ Tạ Văn Phụng (mạo xưng Lê Duy Minh, tung hoành thời điểm này) ; Giặc Hán : chỉ giặc Tàu Ô.

211. Ám chỉ việc chọn con nuôi tiến hành năm Tự Đức 24 (1871).

216. Hội phiếu có 2 nghĩa : a/ biên bản các cuộc triều hội; b/ các kết quả thi Hội. Chưa rõ ở đây dùng nghĩa nào.

212. Nguyên văn tiếng Hán: Nam hải uông dương Vi bách xuyên tôn, Trường sa nhất đái, Củng hộ hải môn.

Huệ cập tư phương Tố dân hộ quốc Thanh tích di chương.

Linh cơ minh hợp Như hưởng ứng thanh Hồi bĩ cuồng lan Cố ngã sa thành

Hiển do thiên thiết, Thần thực tư chi, Bản căn trọng địa Thị bằng thị y

Vãng phục thôi di Chân giam mạc trắc Diệu tán huyền công Giai thần vi lực.

Ngật ngật hải thành Bằng lâm sa chử Đồn trúc tằng tằng Dĩ thủ dĩ ngự

Hoàng tình cảm duyệt Chấp sự kiền cung Kim hương chế bạch Bị cực tôn sùng

Khoảnh tuế phong ba Phách ngạn phi sa Đê giả vi khuyết Cao giả vi tà.

Duy thần hữu linh, Vi đức bất triệt Ty thử trường sa Hữu tăng vô khuyết

Cửu bệ tích thành

Ký tráng hải cương

217. Người sắp hiệu vưu : nguyên văn nhân tương hiệu vưu (người sắp bắt chước cái xấu tuy vẫn biết đấy là xấu) nhưng nếu đọc thành nhân tướng hiệu vưu thì lại có nghĩa là kẻ làm tướng bắt chước cái xấu ... nghe vẫn thích hợp. Nghĩa trên chỉ chung nền đạo lý, nghĩa dưới chỉ hoàn cảnh cụ thể của quân thứ Bắc kỳ. 218. Lập lờ : nguyên văn “phiếm phiếm ẩn ẩn” (nổi nổi chìm chìm, nổi sơ sơ, chìm sơ sơ) . 219. Ô bộ : quạ mớm mồi. Loài quạ được coi là “ hiếu cầm” vì khi quạ già không còn sức kiếm mồi thì quạ con kiếm về mớm cho mẹ. 220. Quấy rầy quá lắm. Nguyên văn “trần độc thậm yên”, nêu hình tượng quậy cho bụi mù trời. 221. Không được ở lại lâu : nguyên văn “vật đắc trì lưu”. Có 2 cách hiểu đều đạt: a/ Bọn Tham tri không được để việc Bộ chậm lại; b/ Cụ Trần không được ở lại lâu. Theo ngữ cảnh thì vua Tự Đức dùng nghĩa thứ nhất nhưng lại buộc cụ Trần hiểu nghĩa thứ hai. Cặp vua tôi tương đắc này rất thường “chơi “ nhau kiểu ấy. 96


222. Khoá tích: duyệt nâng bậc cho những viên quan hội đủ thành tích .

NIÊN BIỂU VĂN NGHỊ CÔNG TRẦN-TIỄN THÀNH (1813-1883)

223. Bổng mãn : lương đầy. Sau 3 năm giữ chức, được xét để thăng chức. ***

**************************************

* NGUYÊN VĂN TIẾNG HÁN (1894) : MINH XUYÊN TRẦN -TIỄN HỐI * DỊCH VÀ CHÚ THÍCH (1994) : VŨ BẠCH NGÔ * SỬA BẢN VI TÍNH (8/2001) : TRẦN – TIỄN TIẾN **************************************

Francis Garnier bị quân Cờ đen hợp tác với Hoàng kế Viêm giết chết tại Cầu Giấy

97


Gần đây bốn phương nhiều việc, tướng soái hết sức báo đáp ở biên thùy mà thần riêng được theo hầu gần gũi, mật vâng mưu kế, thực nhờ Hoàng thượng suy từ chữ Hiếu mà trị và thể tất cho quần thần, thương xót phần có mẹ già mà không để xót một ngày không phụng dưỡng vậy. Năm trước may gặp Đại khánh tiết, ban cho mẹ thần lụa tiền, mẹ thần từng dạy thần rằng : Ơn vua to lớn tột độ như thế, nay mẹ không dám có con vậy ! Năm ngoái mẹ thần bị ốm, vâng sắc cho Thái y điều trị thuốc men, nhiều lần được Trung sứ 225 thăm hỏi. Mỗi lúc thần hầu hạ thuốc thang, mẹ thần đều giục thần vào chầu, khóc nói: “Vua ban ơn riêng như vậy, con tuy có sinh làm chó ngựa cũng khó gọi là xứng với lòng thủy chung”. Lời mẹ dạy, thần không dám quên. Nay cái ngày thờ mẹ thần đã hết rồi, lòng thần chỉ còn biết có nước, có việc công mà thôi, còn việc nhà với việc tư há dám quan tâm chi khác. Từ nay trở đi, làm thế nào để khỏi hổ thẹn với đồng liêu để an ủi mẹ thần nơi chín suối thì những danh vị, những chức vụ mà thần đã nhận trước đây thật e sợ là không xứng đáng. Huống chi gần đây nhiều cớ tiêu cán 210 không yên.

QUYỂN IV Quý dậu năm Tự Đức thứ 26 (1873) Ông 61 tuổi. - Tháng giêng, vâng tuân ân dụ nguyên giáng 4 cấp lưu, được khai phục 3 cấp. Vâng dụ có khoản : Thự Hiệp biện đại học sĩ Trần Tiễn... trước đây nhân có việc, chưa được cùng thăng trật với đồng liêu. Nay cho thực thụ, các hàm y như cũ. Khanh thụ tri trước và lâu nhất, trỗi vượt mọi người, tiến đến bậc cao quí. Lại ban cho tên đẹp vì muốn cho cái tên Tư Nghĩa nên thật hơn để khiến vật, thịnh hợp không lo chứ không phải hậu đãi kẻ được biết. Nay đạo làm con của khanh đã cố gắng chu toàn rồi, đạo làm tôi lại đang lo nghĩ để toàn vẹn nữa, ngõ hầu với nước là tôi trung, với nhà là con hiếu. Mệnh vua, mệnh mẹ chẳng đã trọng ư ? Huống chi nay nước nhà chưa được đỡ lo, một chữ Thành là điều chí yếu của thánh hiền truyền thụ cũng chưa phải dễ. Tiễn là khanh đang gắng sức mà thêm gắng cho đến mức phải giúp được như thế nào vậy. Khanh vừa có học thức, cần gì phải đợi trẫm nói, may cho khỏi được sự hổ thẹn biết nhận nhầm 224 thì mới là hết sức tốt đẹp vậy. - Dâng phiến tâu : Ngày 17 tháng này vâng Dụ cho thần được thực thụ Hiệp biện đại học sĩ, các hàm vẫn giữ như cũ . Vâng huấn thị các lẽ, thần kính tiếp bản sao, cầm đọc đi đọc lại chưa từng không khỏi kinh sợ, lo nghĩ rồi lặng thầm rơi lệ vậy. Thần từ khi ngữa trông được cất nhắc đến mức việc được làm, kế được theo cầm bộ Binh và Cơ mật viện, tham gia tính đến hơn mươi năm , mọi việc đều vâng tuân đúng mức. Về phương lược, thần chẳng có chút sở trường nào để xứng địa vị cao, vâng được Hoàng thượng thương tình cho, giữ vẹn cho, không phải chỉ giữ cho khỏi chịu tội lớn mà lại còn được trọn đạo hiếu nữa.

Hoàng thượng cho phép thần sau 3 tháng trở lại nhiệm vụ, thần không dám vượt phép để theo tang chế cho nên kim cách vô tị 226 người xưa đã làm như thế, Hoàng thượng thực châm chước cho lẽ tòng quyền, thần cũng đỡ được mối hiềm việt phật 227 Nay chợt bỗng hưởng ân sủng mới, thần thực không biết lấy gì cởi được lời dị nghị chung 227 . Thần thưa thật lòng, không dám màu mè chút nào cả, ngữa nhờ mặt trời mặt trăng trên cao chiếu rọi đã lâu, khẩn xin thu hồi mệnh lệnh đã ban, cho thần vẫn dùng hàm thự, chỉ giữ một chức để đem hết khả năng kém cỏi ngựa bết dao nhụt mà cố gắng dong ruổi. Lòng thần như xô đẩy, lúng túng cả người, việc lo sợ về báo đáp thực sâu hơn nỗi lo nghĩ về cù lao đến ứa nước mắt chẳng biết nói sao, xiết bao run sợ đợi mệnh. Kính vâng Châu phê : Đấy là nếp thường, người ta đều thế mà khanh quá từ khước, trẫm cũng không cưỡng ép, hãy nghe theo để khanh phô hết khả năng báo đáp cho tỏ rạng lời dạy của mẹ hiền, 98


xứng với sự sử dụng của quốc gia, may ra việc biên cương sớm xong sẽ thưởng không muộn.

Tạo mệnh nghiệp hầu ai giống nổi ? Dễ thua khí số mãi hay sao ?

- Tháng 2, can việc giải quyết chậm hai sớ của Quảng nam và Khánh hòa bị phạt bổng 1 năm. Can việc nháp phiếu thưởng và đề bạt Cai tổng Đồng Văn Bôi không hợp bị phạt bổng 2 tháng ghi vào sách. -Kính vâng 4 bài thơ luật thất ngôn ngự chế dặn Cơ mật viện đại thần 229 :

Bài 4 :Khí số lất lây chửa thực tình Cõi lòng nào ngại chẳng cho yên ? Năm nhiều sự vật sao không hại 232 Nếp cũ vua tôi cứ giữ nguyên. Trung ái cốt sao cùng trọn vẹn Tầm thường đâu dễ đọ ngu, hiền ? Nghĩa tình hăm mấy năm trời ấy Sao được yên vui thỏa mọi bên.

Bài 1 : Ta chẳng chọn sinh phải lúc này. Học vấn khôn thi thố với ai Sức chẳng theo lòng, làm, nói khó Lý thường lụy thế, duỗi, co gay. Giữa trời sấm sét nghe càng hãi, Cả dãy nhà to đỡ một tay. Chẳng thiết bàng quan ai phỉ báng Chỉ cần tri kỷ hiểu là may.

- Tháng 4, cùng Phó sứ hải phòng là hậu quân Nguyễn Thịnh dâng phiến trình : Giờ Dậu ngày 15 tháng này, vâng sắc xét kỹ các đồn lũy, các hạng súng bắn thuyền cướp là của đồn nào ? Mấy khẩu ? Khẩu nào bắn bao nhiêu phát ? bao nhiêu đạn, thuốc ? Hãy trình lên ngay. Lại vâng sắc, các Tham biện Phòng luyện tra rõ lần này các thuyền tải bị giặc cướp đi như thế nào ? Các đồn lũy bắn là do ai truyền sức như thế nào ? Hãy trình lên.

Bài 2 : Bấy lâu lắm việc nhọc lo cùng Đôi ngọn bút lông khéo vẫy vùng. Yếu sức mai gầy nào sợ gió * Vững lòng tuyết trắng phủ thân tùng ** Ba điều đau ngứa sao xen nhỉ ? Hai sắc tóc nâu đã trộn chung *** Đáng tiếc Tử minh khôn gắng sức 230 Hoa sơn liệu có giấc say nồng ? 231

Vâng tuân, vâng xét thấy giờ Tỵ ngày hôm ấy vâng gía hạnh giang trình, bọn thần cùng Tham biện Phòng luyện Lê Hữu Dực, Tôn Thất Duyệt, Lại Hiệp Ngoạn theo hầu, tiếp đó vâng gía trở về, được chuẩn cho hai loại thuyền của Long sư với Thủy sư chèo đua, thần là Nguyễn Thịnh vâng lệnh cưỡi thuyền hành dinh ra ngoài sông đua đến chổ cắm tiêu thì đậu lại đó, thần là Trần Tiễn... về thuyền ăn. Lúc giờ Mùi, nghe có tiếng súng bắn ngoài biển, thần là Nguyễn Thịnh liền tới gần thuyền đua, vào lũy phải của bờ sông, lên lũy ấy đã thấy các viên điển bác, hộ cảnh 233 quản suất doanh Thần cơ cùng biền binh có mặt đầy đủ, một mặt ra sức sửa soạn các khẩu súng, một mặt chạy về nhờ tâu, giữa đường gặp thị vệ chuyển truyền vâng sắc cho chỉnh súng bắn tiếp. Vâng lệnh, thần là Nguyễn Thịnh liền chạy về lũy ấy, sức cho suất đội doanh thần cơ là Tôn Thất Hiền đốc sức biền binh bắn. Thần là Trần Tiễn... liền lên đồn lũy Bát

Bài 3 : Thềm son tối tối lại đầu hồ 165 Khu phủ bút nghiên chẳng lúc khô Cây cứng lẽ nên làm cột vững Chim khôn há cứ đậu riềm cao Việc đâu cố ý gây già cỗi ? Người lại vô tình cứ đẩy xô. 99


phương, gặp Lê Hữu Dực cùng đến, trông ra thấy ngang với cửa biển, phía ngoài khơi, thuyền tuần hay thuyền tải bắn với thuyền cướp, không phân biệt được, liền xuống lũy chạy về gởi lời tâu thì vâng giá ngự ở lầu Lưỡng Kiêm cho phép thần là Trần Tiễn... đến nhanh thành Trấn hải, thấy Tôn Thất Duyệt, Lại Hiệp Ngoạn ở đấy, Lê hữu Dực cũng đến theo. Bọn Lê hữu Dực, Tôn thất Duyệt, Lại hiệp Ngoạn khai rõ rằng :

dải cát ngầm phía ngoài cửa biển. Tình hình cấp bách, bọn họ lính quính bắn gấp hai phát cứu viện, may sao thuyền cướp ấy rút lui, chiếc thuyền tải kia vào cửa đỗ lại. Kế đó, thấy Tôn Thất Duyệt, Lại Hiệp Ngoạn lần lượt đến thành tuân sức bắn tiếp. Bọn họ bấy giờ vội gấp đối phó, xin cam chịu tội. Bấy giờ vâng giá hạnh ở gần mà ngoài biển có thuyền cướp bắn trộm, hai chiếc thuyền trực hầu cửa biển đang thánh thính ngoài cửa cùng các viên quản suất, Tấn thủ ở hai lũy Tả, Hữu của thành Trấn hải không bẩm ngay với bọn thần tâu lên, mà bọn đóng giữ trên thành như Tôn Thất Minh, Tôn Thất Tụy thấy thuyền giặc áp bắn quan thuyền quá gấp nên tự ý đem súng của lũy bắn, đều đáng có tội, cùng bọn thần sai sức không nghiêm đến nỗi xảy ra lầm lổi như thế, muôn phần xin giao cả cho bộ Hình nghị xử để công việc được nghiêm túc.

Bấy giờ Tôn Thất Duyệt đang ăn cơm ở chỗ đồn trú, Lê Hữu Dực, Lại Hiệp Ngoạn đang ứng trực ở nhà quan cư thì nghe tiếng súng ngoài khơi, thần là Tôn Thất Duyệt liền chạy ngay đến thành Trấn hải, đến ngoài cầu cổng thành đã nghe súng trên thành bắn, thần là Tôn Thất Duyệt hỏi ra thì là Phó quân cơ sung Trú phòng Tôn Thất Minh cùng suất đội Tôn Thất Tụy bắn, liền sức Hiệp quản Lê Trọng Hòa sang trình với Lê Hữu Dực, Lại Hiệp Ngoạn biết. Lại Hiệp Ngoạn một mặt nhờ Lê Hữu Dực báo gấp cho bọn thần xét liệu, còn Lại Hiệp Ngoạn sang ngay thành Trấn hải, tiếp thấy thị vệ chuyển truyền vâng sắc cho chỉnh súng bắn tiếp và cùng Tôn Thất Duyệt tuân lo.

Vâng Châu phê : Giao bộ Hình xử thật nặng, phải xong trong 3 ngày để răn. Kính vâng Dụ, trong có khoản : Lần ấy tuần hạnh Thuận an, duyệt xét việc hải phòng, nhận thấy giặc bể thừa sơ hở đánh cướp thuyền tải. Việc đốc suất đối phó bất lực của bọn can tội đã giao nghị xử rồi. Hai bộ Binh, Công cùng Thủy sư hải phòng đều đã thân sức là từ nay nên gia tâm liệu định cho hết chức trách để làm mạnh cho uy tín quốc gia.

Bấy giờ bọn thần đều có mặt ở thành lũy ấy, trông thấy hai chiếc quan thuyền, một chiếc đã bị giặc cướp giữ, một chiếc chạy ra phía đông. Bọn thần tưởng rằng chiếc chạy về phía đông ấy có thể là thấy không tiện vào cửa nên phải nhằm hướng đông định thoát thân. Tiếp đó, thấy viên Tấn thủ Hồ Văn Thông đến báo đây là 9 thuyền tải của Bình định từ Nam chạy ra gặp hai thuyền cướp từ phía đông chạy vào chận, đôi bên bắn nhau, hai thuyền tải ấy bị giặc bắt đi, nhờ chúng tôi trình lên như thế. Lại theo lời Tôn Thất Minh, Tôn Thất Tụy bẩm, thì bấy giờ nghe tiếng súng ngoài khơi, bọn họ liền lên thành Trấn hải thấy ngoài khơi, ngang với cửa biển hiện ra 2 chiếc quan thuyền nối nhau chạy nhanh bị 2 thuyền cướp chận ngay, đôi bên bắn nhau, họ liền sửa soạn súng trên thành chờ lệnh, vẫn sức viên quản thành ấy là Lê Trọng Hòa chạy bẩm bọn thần xét liệu. Vừa đến ngoài cầu cổng thành, bỗng thấy một chiếc thuyền cướp áp gần chiếc quan thuyền chỗ

- Can việc các đồn lũy hải phòng đặt súng không hợp, bị giáng hai cấp lưu. - Can việc dự đình nghị trễ nãi, bị giáng 1 cấp lưu. - Tháng 6, can việc thuộc ty để lộ bản chép việc nha Đê chính chận sông không kết quả, bị phạt bổng 6 tháng ghi vào sách. Can việc thuộc ty giải quyết trễ công văn của Lưu Vũ cùng Phùng Đề, bị phạt bổng 9 tháng ghi vào sách. - Tháng 6 nhuần, can việc họp xét không hợp vụ xâm khuy của tàu Đằng huy, bị giáng một cấp lưu.

100


- Tháng 8, cùng Phó sứ là Hậu quân Nguyễn Thịnh dâng phiến tâu : Tháng 6 năm nay, tuân vâng làm dày thêm, cải chế ba chiếc xe súng Phá địch, Kích viễn, Khoá hải. Việc xong, vâng giá hạnh duyệt xem bắn thử đều được ổn tĩnh, không nghiêng đổ như trước, như thế chắc đã chịu được việc đặt ở các đồn lũy. Thế nhưng chỉ mới thử có một lần, xin đợi thử lại, nếu quả được vững vàng mới xin chế tạo lại hàng loạt để sung cho công việc phòng bị.

hận không thôi, nên đã chọn ngày mồng 8 tháng này, cải táng thân phụ thần ở vùng núi xã Châu chử huyện Hương thủy để khỏi lo nước ngấm nữa. Đấy là điều vạn bất đắc dĩ mà con em thần đều vụng về khó ủy thác được. Nay ngữa xin ân chuẩn được nghỉ vài ba ngày để cải táng cho cố phụ thần, việc xong xin về hầu ngay. Kính vâng Châu phê : Việc đang nhiều, thực không thể nghe theo. Đành phải đồng ý cho được tận tình.

Duy xe ấy có nặng hơn kiểu xe cũ, nếu có khiêng dời chổ khác không khỏi khó hơn, xin cho bọn thần sức thợ chế thử một cỗ xe, so với xe mới chế này chừng bằng 2/3 rồi xin bắn thử, may mà dùng được thì xin so lại, cải chế để tiện dời đặt đúng lúc. Vâng tuân nay căn cứ Tham biện Phòng luyện Lê Hữu Dực trình, đã thân sức thợ lãnh vật liệu có chước giảm, chế thử một chiếc xe súng Phá địch đã xong, xin trình lên để xét rõ. Bọn thần bắn, thấy phép bắn ria có khó hơn 234 Viên huấn luyện ấy cùng các viên học tập đã bắn nhiều lần đều chưa được nên cần phải tập thêm. Bọn thần xin chọn ngày mồng 10 tháng này, thần là Nguyễn Thịnh đi cửa Thuận an bàn cùng các Tham biện Phòng luyện sức bảo Hiệp quản Bùi Văn Khả, Cai đội huấn luyện Võ Văn Chất cùng học. Các biền binh hộ cảnh 233 của súng thần cơ tập họp tại bãi cát phía ngoài, sau lưng góc hữu đồn Hòa Duân, y theo tiêu đóa 235 trước kia, đem một xe Phá địch mới chế có giảm bớt trọng lượng với súng Phá địch có làm dày thêm, các xe Phá địch , Kích viễn, Khóa hải cùng với súng dời đến đặt ở đấy, sức các người học tập bắn thử mỗi cỗ 3 phát đạn giả cọng thành 12 phát, tiện cho việc học tập phép bắn của họ để kiểm nghiệm xe vững vàng ra sao, xin trình lên liệu định. Kính vâng chuẩn y.

- Kính vâng ngự chế bài thơ luật 7 chữ : Việc nhiều, bảo Đại thần viện Cơ mật 236 Quân tử phải làm sét quét mây Đồng lòng giải quyết việc xong ngay. Văn chương chưa chắc đền ơn nước, Thao lược cần đem gỡ kiếp này. Tài sản Dương công đâu đã có ? 237 Giáp binh Phạm tử dễ ai tày ?139 Cơ trời may hợp lòng người nhỉ ? Tóc bạc cùng ôn chuyện lúc này. - Nhân tết Vạn thọ, vâng tuân nguyên giáng 5 cấp lưu, được khai phụ 3 cấp. Can việc thuộc ty xét và thân sức không đúng về vụ thuyền tải đụng cướp, bị phạt bổng 3 tháng ghi vào sách.

- Tháng 9, can việc thuộc ty tiếp nhận sớ, sách, văn bản trể nãi, bị phạt bổng 3 tháng ghi vào sách. Can việc lúc còn ở bộ Công chọn bổ Đại giám công phủ là bọn Dương Ất, chở trộm gỗ, ngói, không phát hiện được, bị giáng 1 cấp lưu. Can việc thương nghị không hợp vụ thuyền của Đồ phổ nghĩa xâm nhập tỉnh Hà nội bị giáng 1 cấp lưu. - Can việc cho đổi chức quản suất và phân phối nhiệm vụ cho các thuyền đồng ở biển Hà tĩnh không hợp lý, bị giáng 1 cấp lưu. Can việc bày cách giúp cho chiếc tàu con của Nguyễn Đức Hậu đang đậu ở cửa Trà úc được vào sông, bị phạt bổng 3 tháng.

- Dâng phiến tâu : Trộm thấy thân phụ quá cố của thần là Trần Bá... trước kia từ trần, thần còn nhỏ, mọi việc toàn nhờ người trong tộc lo giúp. Đến khi thần trưởng thành nhiều nhà phong thủy nói là mộ của cố phụ thần e bị nước ngấm. Thần nghĩ rằng an táng đã nhiều năm, không dám động đến. Năm nay vành mộ sụp lở, nhân tiện thăm thử để sửa sang, thấy quan quách bị nước ngấm mục nát, thần thật hối 101


- Cùng Phó sứ hải phòng là Võ Lữ dâng phiến tâu : Vâng xét nguyên Kiêm sung Phó sứ hải phòng là Nguyễn Thịnh, viên chức mẫn cán, chẳng may thiếu kiểm tra mà bị tội, ngữa mong hoàng ân chẳng nỡ bỏ mặc, cho được cách chức giao về quân thứ Tam tuyên để hiệu lực để mong kết quả về sau được hối cải, hiểu ơn dày là may lắm. Duy quân thứ Tam Tuyên gần đây phái đã nhiều người mà việc hải phòng của kinh kỳ rất là quan trọng, lại xét Nguyễn Thịnh trước từng có quản suất biền binh đàn áp 58 các đồn lũy mặt cửa biển đã 2-3 năm, từ ngày được phái Kiêm sung Phó sứ, mọi việc đều có lòng lo liệu tháo vát các đồn lũy, sông biển, cách thức phòng giữ đã am thuộc nhiều, ngữa xin ân chuẩn cho Nguyễn Thịnh được đổi phái thành “tòng hải phòng hiệu lực” để việc sử dụng hiệu quả hơn mà khi gặp việc cũng có người sai phái thích hợp vậy. Kính vâng chuẩn y.

Lấy sự thế hiện nay của ta, dùng sức thì e có chỗ chưa chịu nổi, lại để mối lo ngại xa xăm. Dùng lối mềm mỏng thì chúng quá giảo quyệt hiểm độc, ngày ngày sinh lo, kính vâng phê bảo thực đã rõ ràng. Mấy lần trước từng vâng phê chuẩn, tự ta phòng bị cho nghiêm, không chọc tức họ, không theo điều kiện họ đòi hỏi, thực là không thể làm cách nào khác thế được. Duy kẻ kia vốn ngang ngược không lường mà ta không sơ hở cho chúng dựa cớ, không có lời lẽ nào để chúng cố chấp, chắc chúng cũng chưa dám làm bậy, chỉ xét lời chúng có nói : quan lại Bắc kỳ không thật lòng hòa giải với chúng, nếu có mối lo nào chợt xảy đến, kẻ kia đã sức phái viên nó không dự vào, chúng không ra tay hành động trước mà có kẻ nhận sự ủy thác ngầm của chúng. Một bọn nào, một thuyền nào đó gây hấn, làm cho ta lắm chuyện để đòi ta bất đắc dĩ phải làm theo chúng, hoặc chúng ngồi xem thu lợi, thật là đáng lo. Nghĩ hãy làm thế nào cho trì hoãn để tính dần may khỏi rơi vào mẹo của chúng.

- Dâng phiến tâu : Gần đây vâng gửi ra một chiếc hộp có ngự phê, thần tuân vâng mở niêm, kính vâng Châu phê một tấm bài ngà, một thỏi châu 238 cùng mật sớ của Nguyễn Trọng Hợp một bản. Thỏi châu cùng mật sớ sẽ do Viện thần tuân mệnh phúc trình, duy vâng lời phê hỏi, thần trộm thấy người Pháp nuôi lòng rất giảo quyệt, chứa mưu kế quá sâu độc, đã bách ở hòa ước mới chưa xong, lại bách ở vụ Phổ bồi 239 rất quá quẫn nữa vậy. Họ cứ ngang nhiên cầu cho có được hòa ước để họ hưởng lợi, đó là cái lòng nôn nả của người Pháp vậy.

Hiện nay cùng các quan đình viện phúc trình, chờ vâng xét định tuân hành. Như thần học thức vụng cạn, từ lâu đã rất hổ thẹn đảm nhiệm gần đây lại mất chỗ cậy dựa, đau thương không xiết kể, lại thêm tuổi ngoài 60, khí lực suy nhược, không bằng phân nửa năm trước, mỗi lúc nghĩ đến đáp ơn còn chẳng mấy ngày. Huống gặp sự thế này, làm sao dám thương tiếc mà chẳng hết lòng hết sức được ư ! Lâu nay việc Tây, việc giặc cướp, thần ngày đêm chẳng thể quên nổi, có chút nào đáng lo cùng có chổ nào biết rõ thì cùng Viện bàn bạc tâu lên. Tuy đấy là những điều tầm thường vô bổ nhưng chỉ cầu cho tỏ cái nghĩa không giấu điều gì, không có được kế hay, mưu sâu để giải bớt tiêu cán 210 thật biết là mang tội đã sâu.

Đất Bắc kỳ của ta vật hóa nhiều, quặng vàng bạc cũng lắm, có đường sông thông vào nội địa Vân Nam, cũng là cái mà người Phú nhõ dãi từ lâu vậy. Nhưng ta nhân có việc, phái sứ đi giao thiệp rộng rãi mới trì hoãn được, mà ta lâu nay nhiều vấn đề, của hao sức mòn, bọn chúng dòm dõ đã rõ ràng. Gần đây thấy khắp các nhật báo Quảng đông cùng kết quả thám báo của Nguyễn Hoằng thì mưu tính của chúng đối với Bắc kỳ không phải chỉ mới một ngày. Lại nghe các thương gia người Thanh kể là người Anh xúm đến Vân nam khá nhiều, đạo diễn lắm trò khiến chúng nóng lòng lo sợ cho về sau nên quyết ý làm bậy như thế.

Vâng Châu phê rằng: Nước nhà chỉ còn trông cậy vào tài sức của số đông, làm như thế nào cho ổn thỏa được việc, mỗi người phải đem hết trí tuệ mà suy nghĩ, nói cho hết lòng thành, nếu có sinh ra mối lo nào là mang tội với nước rất lớn, mọi người đều khó chối từ mà khanh là thủ phạm vậy. 102


dùng bao nhiêu mà xin đoạn tiêu, xin cứ theo lệ 10 thành tiêu 1 242 , tư cho quan bộ Binh xét số đạn còn lại. Được như vậy thì người người đều tinh mà lúc dùng đến thì cũng được việc thực sự . Kính xin chuẩn y .

- Tháng 10, kính vâng cho đổi sung Hải phòng sứ. Dâng phiến tâu : Vâng chiếu thấy Thuận an là cửa ngõ của Kinh sư, hiện đặt súng khá nhiều ở các đồn lũy, người bắn đang cần nhiều mà xem ra có Phó vệ úy vệ Loan giá là Tôn Thất Phê, Chánh sứ Từ tế Hữu ty Tôn Thất Cơ vóc dáng tráng kiện, là người tháo vát, am tường súng đạn, trong đó Tôn Thất Phê có hơn, Tôn Thất Cơ sau một bậc. Nay xin đem Tôn Thất Phê cải sung làm Trú phòng cửa Thuận an, Tôn Thất Cơ đổi sung làm Huấn luyện ở Cửa cho có người đắc lực khi cần. Kính vâng chuẩn y. Lại vâng Châu phê : Nếu khuyết thì cử ngay các người đó.

Lại vâng Châu phê : Ngày giờ nào tập bắn phải tâu trước để đỡ sợ khi nghe 243 . - Dâng phiến tâu xin bố trí cho việc hải phòng 2 lớp rồng sắt, giang phòng 2 lớp róng gỗ . Rồng sắt nên làm lớn hơn, dài hơn để sung việc phòng bị. Lại xin cắm chông tre cho dày chung quanh thân lũy của các đồn lũy hải phòng. Về ứng chi vật hạng, cấp thợ bao nhiêu xin do bộ Công định, chuyển bảo các vệ cấp phát lãnh về để kịp làm .Kính vâng chuẩn y . Lại vâng Châu phê : Tuy rất tốn phí nhưng cũng không thể không lo gấp.

- Cùng Đô thống Nguyễn Chí, Phó sứ Võ Lữ dâng phiến tâu: Vâng xét cửa biển là nơi quan yếu, đã vâng đặt đắp đồn lũy phòng giữ sông biển, trí súng, đóng quân để chuẩn bị nghiêm túc, bọn thần trộm nghĩ : dùng binh cốt yếu là bắn súng các loại cho tinh. Trước đây bọn thần đã cùng các Tham biện phòng luyện nhiều lần vâng sức cho biền binh tập luyện, chỉ có thực hành mới được thực dụng, nhưng xem ra các viên Điển bác, Hộ cảnh ở các đồn lũy, các biền binh Thần cơ mỗi năm vâng giá hạnh vài ba lần mới vâng cho chi thuốc để bắn thật, hoặc mỗi người chỉ được bắn 3 phát, hoặc có người chưa được dự bắn cùng các vệ biền binh trú giữ mang theo Thần công, Quá sơn, Điểu thương, mỗi năm theo lệ rút lấy những người sáng mắt, nhanh tay sát hạch mỗi người cũng 3 phát mà lại có số mới điền thêm, số tiếp tục giải ngũ khá kém cõi hời hợt, nếu đều được luyện tập thường xuyên, việc bắn còn e chưa được tinh thay.

- Dâng phiến tâu : Nay tiếp một trang mật tư của Phó sứ hải phòng là bọn Võ Lữ. Vâng xét mọi việc trong lời tư thì thấy cũng là chuyện đã dự phòng trước đây, nay bắt đầu thấy, chỉ là sự dối lừa quá căng để lộ rõ dấu vết, phải đề phòng để đỡ lo. Chiến thuật chờ đợi phải nên như thế. Hiện phái viên của Pháp ở Hà nội gây hấn mà văn thư qua lại của Soái ấy chưa có mối khích nào đáng chấp. Xin từ nay trở đi, nếu có tàu Tây đến đậu ngoài biển, thuộc hải phận của cửa biển, nên để những Phó sứ ra hỏi trước rõ ràng những ý họ đến làm gì. Còn như vài ba chiếc tam bản vào cửa, nghĩ cũng không hại gì, hoặc cỡ 1 tàu nhỏ vào thì hoặc nói khéo cho họ đậu bên ngoài đợi trình lên, một mặt tâu ngay chờ cho phép.

Bọn thần đã bàn bạc cùng quan Phòng luyện Lê Hữu Dực, Tôn Thất Duyệt, Lãnh Chưởng vệ Nguyễn Đình Khoa, Tham biện Lại Hiệp Ngoạn, Châu Văn Khoa, nay xin cho trích phát số thuốc cũ hiện trữ ở các đồn lũy là 300 cân 240 trong số đó, giao 200 cân cho các biền binh Điển bác nhận lãnh, vẫn sức cho dựng đoá trường 241 chia ngày huấn luyện cho lính dự bắn đạn thật. Còn 100 cân giao cho trú binh các đồn lũy nhận lãnh cũng dựng đóa trường hoặc tập trận pháp, tập bắn Thần công, Quá sơn, Điểu thương. Căn cứ vào số thuốc cũ

Như họ cố ý đòi chạy vào thì cũng nói họ đậu ở hạ lưu chờ giải quyết, nhưng vẫn do những Phó sứ ấy ngày đêm đốc sức tuần tra cho nghiêm, cùng các thuyền ứng trực ở cửa biển các vọng lâu Nam, Bắc của cửa, các vọng lâu ở đổn lũy thành phải làm nhiệm vụ trông dò liên tục, như thấy thuyền họ chạy đến hải phận 2 xã Cự lại, Thành công thì cứ chiếu theo những chổ quan yếu của đồn lũy mỗi nơi, phải nạp thuốc đạn vào vài ba khẩu pháo, dự bị nghiêm chỉnh chờ sau khi 103


họ bỏ đi mấy ngày vô sự mới lấy thuốc đạn ra, hầu ngừa chuyện bất ngờ. Cần nhất là các viên Phó sứ nên báo cho tất cả phải trấn tĩnh, chớ để lộ chút động thanh động sắc gì khiến người ta dòm dỏ được. Việc này xin bàn cho nhất trí với quan Thương bạc. Kính vâng chuẩn y. Lại vâng Châu phê : Nên đem bản đã phê bảo hôm trước cùng tờ phiến này dâng lên, không nên tự tiện sao chép ra bản khác.

lợi, Thủy tú, Triều sơn, số nguyên phái ra trú giữ ở đấy như Điển bác, Quản suất, Huấn luyện, xin cứ giữ như cũ. Còn những nơi trọng yếu, xin phái các viên Tham biện Phòng luyện, Chưởng vệ chuyên sức, kiêm sức. Lại xin đem những người am tường về súng là Bùi Văn Khả, nguyên Cai đội sung Hiệp quản vệ Thần cơ trú phòng, lấy nguyên hàm cải sung làm Phó trú phòng để cùng với Trú phòng Tôn Thất Phê, Huấn luyện Tôn Thất Cơ chia phái cho các nơi trọng yếu để ở hẳn nơi ấy đốc sức luyện tập. Các Tham biện Phòng luyện, Chưởng vệ tuân chia viên nào chuyên sức hay kiêm sức nơi nào, nhưng trong lúc rảnh rỗi cũng nên luân phiên đổi nhau kiểm sức các nơi, phòng bị các chổ giản đơn cùng các chỗ quan yếu, cùng bàn bạc hội họp với Thự đô thống Nguyễn Chí, Phó sứ Võ Lữ, khi lâm sự thì chiếu theo phần mình mà chuyên sức: Võ Lữ thì chỉ huy chung, Nguyễn Chí thì qua lại kiêm đốc, còn phía nước của Cửa thì cũng nhiều, xin cho Nguyễn Đình Khoa chuyên chú, chuyên đốc, miễn là cứ 5 ngày gặp nhau một lần.

- Dâng phiến tâu: Xét thấy cửa Tư hiền khá xa cửa Thuận an, chỉ có một viên Quản đốc Lê Trọng Sâm, nay thấy có viên nguyên Tham biện trước can án (vì hồi còn ở huyện, gọi lính thiếu) bị giáng điều, hiện bổ làm ty vụ ở Trường tự ty bộ Lại là Nguyễn Văn Thi, cử nhân xuất thân, nay được đình thần chọn cử sang hải phòng, xin đem viên ấy làm Thượng biện các đồn cửa Tư hiền cùng với Lê Trọng Sâm đốc sức việc huấn luyện, phòng bị để có được nhiều người cùng lo việc. Kính vâng chuẩn y. Lại vâng Châu phê : Cửa ấy cũng nên phòng bị cẩn thận, tuy tàu nhỏ cũng chận để giử yên cho mặt sau Thuận an. Nên nghiêm sức điều đó.

Kính vâng chuẩn y. Lại vâng Châu phê : Cốt cho đồng tâm hiệp lực thì chí tất bền, ý kiến tất sáng suốt. Để xứng với sự ủy thác quan trọng, việc ràng buộc, hiệu lệnh cần phải nghiêm minh, vâng đúng. Người nào người nấy, nơi nào nơi nấy đều đắc lực thì mới là tốt.

- Dâng phiến tâu : Vâng Châu phê : Tại Cửa đã nhiều nhân viên, ngày thường thì ai chuyên trú đồn nào phải có chuyên trách. Ai không phòng bị kỹ thì hỏi tội ngay. Các Tham biện Phòng luyện cũng vậy, ngày thường, trừ lúc họp bàn, đi lại bên ngoài, còn thì cũng chia ra để mỗi người cùng hết lòng với nhiệm vụ. Vâng tuân, xét các đồn lũy hải phòng giang phòng 2 cửa Thuận an, Tư hiền cùng 2 lớp rồng sắt của hải phòng, hai lớp róng gỗ của giang phòng, nguyên chuyên trú đôn đốc người nào ở chổ nào, vâng theo cắt đặt lệ thường mà chia phái đã có chuyên viên. Duy các viên phòng luyện, Tham biện chưa có chuyên trách, nay xin vâng tuân phê bảo chiếu theo giản đơn hay quan yếu để mỗi người đều có dự định của mình.

- Dâng phiến tâu : Xét thấy 2 dải cát ngầm ở hai đầu đường Cảng nắm ngang trước mặt đồn Lộ châu, từ năm ngoái trở về trước chổ rộng 5 trượng 74 , chỉ sâu 6-7 thước, nay do nước lụt chảy ra khoét rộng đến 37 trượng, sâu cũng 11 thước, không còn bồi đầy như trước nữa, đến nỗi chổ gần lũy rộng chỉ 30 trượng mà cũng sâu 11 thước bùn lắng. Nay tuân đưa 1 thuyền đồng Điềm dương cùng 5 chiếc thuyền tuần tra đến đấy buông neo chờ việc rồi báo cho quan Thủy sư Nguyễn Chí điều nhiều binh thuyền, chở đá đổ vào thuyền đồng cho ăn mớn nước trên dưới 9 thước, thuyền tuần tra phải ăn mớn nước trên dưới 7 thước thì lúc nước ròng các thuyền ấy cũng ít di chuyển được.

Vâng nghĩ cửa Thuận an là nơi phòng bị trọng yếu, hai bên thành Trấn hải vừa lập các đồn Hòa duân, Trấn lãng, Cáp châu. Cửa biển có 2 lớp rồng sắt. Lộ châu thì có 2 đồn trước và sau. Thuận hy có 2 lớp róng gỗ. Phòng bị sơ sài hơn chỉ có các nơi Qui lai, Thuận hòa, Phổ 104


bọn thần thấp thỏi nông cạn không báo bổ được lượng cao sâu, từng cùng đình thần tâu lên, những ai có quan tâm đến những chuyện rầy rà há dám bưng bít mà chỉ ngại vì nhiều người nghe nên không dám hé lộ đấy thôi.

Những ngày sắp tới, có thể tạm buông neo dàn chữ nhất theo lòng cảng cho tiện các thuyền qua lại. Vạn nhất ngoài Cửa hữu sự thỉ dàn ngay hàng ngang, buông neo ngăn chận rồi dùng súng trên lũy bắn đến cho thuyền chìm thì có thể được việc. Mỗi thuyền để lại :

Xét ra người Pháp gần đây sở dĩ dòm ngó mưu lược của ta - ta vốn không phải mới tiếp sứ bộ trong một sớm - tất là dối lừa rằng Toàn quyền muốn sang Bắc kỳ, tất nói về bảo hộ, tình trạng tham lam giảo quyệt ấy khó mà bày tỏ được. Nay những thương ước của sứ thần chúng lờ đi mà không nhắc đến rồi lại đi Hà nội mở riêng cuộc điều đình khai thương, chưa chuyển tin về thì chúng đã chiếm thành trì. Xem ra thì ý ngầm của chúng không phải là không lấy cớ hòa ước chưa định xong thì đã xùy 245a ra mối việc. Sắp tới, đất Bắc thông thương, xin phái một viên đại thần khác ra giải quyết cho ổn thoả, có điều là sứ thần ngao du trên sông qua ngày 245b cũng đã nhiều rồi. Tuy nói là phải kiên trì với họ nhưng họ vị tất động lòng. Ngay bọn thần nhiều lần cố mềm mỏng điều đình, thế mà soái ấy nói :

- Thuyền đồng : một suất đội 15 lính . - Thuyền tuần : mỗi thuyền một đội trưởng, 10 lính canh giữ, cùng đem theo 3-4 chiếc tam bản khi vào việc, buông neo ngăn chận xong thì ai nấy đi vào bờ, đến lũy ra sức phòng bị. Còn số thuyền đồng hiện ở các đồn thủy binh, nguyên đã dự đặt các hạng pháo và thuốc đạn, thuyền tuần đều đã lên bờ đều không súng đạn, nay các thuyền chở sẵn đá chìm bít, các thuốc súng xin dời về hai lũy trước và sau của Lộ châu, cùng xin phái thuyền thường, ghe sông, tùy nghi chia đặt để sung vào việc phòng bị. Kính vâng chuẩn y. Lại vâng Châu phê : Khanh nên dặn bảo cốt sao đừng lộn xộn còn việc dựa tình hình mà tranh thắng lợi thì tùy nghi mà liệu : trên bờ cũng phải vững chắc, trên biển thì chớ bắn ra xa, phải nhớ thế luôn luôn.

Biên hòa có một vài chỗ, chờ đoạt xong sẽ dồn vào một khoản, cùng việc bồi tiền họ còn nói lửng lơ là tùy ở viên Toàn quyền sớm phái quyết định mới xong. Gửi thư giục nhưng thuyền binh được phái thì chẳng nói là sẽ tiếp tục đến, họp đảng nhau mà làm thói ương bướng. Vả việc thông thương là điều nằm trong ý họ mà chiếm đất giành thành là cách làm xằng, thói nham hiểm giảo quyệt chẳng họ còn có chỗ chưa thể biết được. Bọn thần cùng nhau nghĩ hết mọi đường rằng họ ở trong Nam, 3 tỉnh Long, Giang, Hà, từ lâu họ muốn có được một để khoe khoang với các nước vậy. Ta không khứng chịu như thế mà họ cứ lấy đó nói mãi, nói mà không được nghe theo thì mưu kế ngày càng thêm giảo hoạt : hăm dọa, vu vạ, lại tiếp tục dùng binh. Sự chịu lép của ta chưa vừa với tham muốn của họ, rất e nhân đó lòng hung tham càng thả thêm nọc độc 206 .

- Dâng phiến tâu : Đồn Phổ lợi nguyên trước đặt 10 khẩu đại bác, 2 suất đội kỳ võ thần cơ 40 biền binh, sắp vâng lệnh rút bớt. Nay xin đặt súng y như trước và phái binh trú giữ để nghiêm việc phòng bị. Kính vâng chuẩn y. - Cùng đình thần chung phiến tâu: Việc biên giới trong Nam ngày càng khác trước. Mười lăm năm nay, ta với người Pháp qua lại đều gọi là tin cậy, không lo họ lừa dối, chỉ có điều là người xa thì không tin được, từ xưa đã vậy rồi. Nay ta vừa chiều lụy xong mà kẻ kia thì ngày càng buông tuồng đòi hỏi quá lố, việc xử sự khi biến, lo lắng lúc gay thật khó nổi. Đã có lần vâng phê cho Viện bạc 244 của thần biết các việc. Ngữa thấy lòng vua nóng bỏng, quá xót xa nỗi khó khăn của thời thế, dù có cơ hội có thể thư bớt nỗi lo thì cũng không nhẹ nhõm trong lòng để xuống tay lựa chọn. Khốn nỗi 105


cho sứ ta gửi về, vẫn để sứ ấy một mặt gửi gấp cho quan binh Tây lui ra ở công quán phía ngoài thành, để ở đấy vài ba chiếc tàu, còn bao nhiêu phải lui ra biển chạy về để tiếp Hải dương, Hà nội báo kết quả, Thương bạc cùng sứ thần biết, chiếu dạng bản ấy cùng ký và đóng dấu lên đấy làm tin, do Thương bạc hứa với sứ thần Toàn quyền là sẽ gởi sắc văn đến cho Soái họ họp định bàn tạm. Về cuộc thương thuyết ở Hà nội, cũng do viên Khâm mạng mới ấy thương nghị tạm cho kịp việc. Tuy lần này làm thế, họ không thể không dòm dỏ chỗ nông sâu của ta nhưng thế và sức của ta là tùy ở đường sạch hay bẩn, lúc tỏ hay mờ, cũng là chuyện mà xưa kia hay sau này thường trải qua mà trước kia e khi ta đi Tây thả nổi mà không định ước. Nay thấy ta bàn bạc kết ước cùng họ khá hợp điều mà ý họ đang mong, không nghi gì nhau, nhưng đã là cách nảy ngoài mắc 247 giở những ngón phi lý, lại nhân đấy hồi tâm, không khỏi lại sinh ra vô số chuyện dối bậy nữa. Nếu không thế thì mỗi ngày một lắm, rất lo rằng việc định ước không thể không mở ra mà toàn cõi đất Bắc có khi bị mất, bấy giờ mưu tính càng khó thêm. Người xưa có nói :” việc biên cương thì một là của kẻ kia, một là của kẻ này chứ đâu có đo thời lượng sức mãi làm gì ! 248

Tem bưu chính thời Pháp thuộc

Vừa qua ở Hà tiên đổi lại phủ huyện, đổi lại môn bài các trạm, lòng tham của chúng sẽ không dừng lại ở mức đó. Nếu không nghe theo chủ ý dò xét kiếm chuyện của họ thì việc đi hay ở của An nghiệp chẳng lẽ không xem quy định của hòa ước ? Nếu không thì là họ làm trái hòa ước. Họ nghĩ cũng khó mà được việc sớm nhưng xét thư của họ thì đã lấy đấy làm điều đòi hỏi. Cân lường sự thế, nếu nhân đấy mà thành thì có khi có thể thư bớt nỗi nguy cấp ở Bắc kỳ được.

Hoàng thượng đã rõ thế từ lâu nên vâng lời phê bảo có nói : “ làm cũng bị tội, không làm cũng bị tội”, bọn thần vâng đọc, khôn xiết nức nở, tự xét mình tầm thường không được gì, chẳng gỡ được nỗi tiêu cán 210 , mang tội càng sâu nặng vậy. Có điều là vận hội ngày một đổi thay, thời cơ, tình thế ngày thêm gay khó, quyền biến theo thời nghĩ không thể không châm chước mà ứng phó để cầu vớt vát chút đỉnh, tiện cho mưu đồ về sau. Xin dám mạo muội mật tâu, mong đợi xét đoán.

Nay xin chuẩn y cho việc một thư Thương bạc gọi là thư mới đến xin ra mắt Soái ấy có việc khẩn, chắc là lời nói trần 246 không phải dối trá. Xin chuẩn cho sứ thần cùng họ định hòa ước về 3 khoản đã bàn trước đây. Trừ các điều cũ đã thỏa thuận cùng xét lại xem điều nào đáng giữ, đáng sửa thì sửa, làm thành văn bản giao

- Dâng phiến tâu : Xét năm trước, trên đường sông Qui thuận, trên thì có lũy Qui lai trung, dưới có hai lũy Hy du, Hải trình để phòng đuờng sông cùng trên dưới hai lớp róng gỗ mà hai lũy Hy, 106


Hải hợp cùng đồn sau cửa Lộ châu, lại phòng cửa đầm xã Diên trường cùng hai lũy Qui thuận, bờ sông đều có lũy dài, mở cửa pháo xiên về phía sông để chuẩn bị khi cần thì đặt súng bắn chéo. Vừa qua, nghe sức phải đắp lại thêm, nhưng xét Qui thuận, Lộ châu, trước sau 4 đồn lũy, số biền binh ở đấy đều sung vào việc tập luyện phòng bị, xin phái thêm 2 quản vệ, 4 suất đội, 200 biền binh đến các lũy ra sức đắp thêm, do các Phó sứ Tham biện Phòng luyện là Võ Lữ, phái ủy cho Cai đội Lê Thuận Lý đi trước, theo dấu cũ mà chỉ bảo, đốc sức. Tham biện Phòng luyện mỗi ngày luân phiên đến đôn đốc làm việc để năm ba ngày cho xong, còn cửa đầm Diên trường xin để các Phó sứ sang khám, chẻ tre, lấy đất lấp bớt, chỉ chừa một cửa nhỏ nước chảy để tiện bắn chụm. Kính vâng chuẩn y. Lại vâng Châu phê : Xong phải xin đặt súng cùng lính giữ ngay.

- Tháng 11, dâng phiến trình : Mồng 1 tháng này thần tuân lệnh truyền Lãnh Đề đốc Nguyễn Hanh mật bảo Phó vệ úy Võng thành là Lê Văn Bằng cùng 30 tên lính giả danh đi bắt hổ rồi đến xứ Năm khe trinh thám. Thần sai riêng viên Dịch thừa của trạm ở Kinh là Châu Viết Hòa cưỡi ngựa chia nhau đến xứ Năm khe và vùng núi An nông, tiếp tục dò la đến ngày mồng 2 Châu Viết Hòa cùng chiều mồng 7 chia cho Lê Văn Bằng về trước báo cho Đội trưởng Vệ Võng thành cùng khai là không có âm thanh, dấu vết gì. Chiều hôm ấy, Lê Văn Bằng về báo: Lần ấy đi thẳng tới Năm khe, theo đường núi đi khắp hai bên đầm bãi đến vùng núi đá Phù bài 249 cùng các vùng núi gần trạm Thừa lưu không thấy có vẻ gì khác.

107


Hôm trước nghe Văn minh Quận công Hồng Dật nói rằng Năm khe là nơi họp đảng, theo lời Phò mã Nguyễn Cửu Trản thuật lại thì lần ấy cả Thái giám Trần Đạt cùng nghe rõ ràng. Thần đã hỏi Hữu quân Lê Sĩ 250 đến nhà Phò mã hỏi nguyên ủy, cứ khai là nghe quận công ấy nói như thế chứ viên ấy không có nghe thấy chưa từng dám nói. Lại nghe ông ta nói ở An hòa có mấy tay hảo hán mưu riêng cùng nhau lén phá dân đi đạo, thần liền phái ngay người ngầm sang dò đích xác nhưng lặng tanh không thấy gì cả, trộm nghĩ dưới ổ trục xe 251 quả có người ấy việc ấy, hơi tiếng khó che cho hết, nay dựa vào đó mà phái người đi dò chuyện của Tử hư 252 có khi do kẻ hiếu sự tung ra, đều là tin đồn đãi thất thiệt đấy thôi. Kính vâng Châu phê : Tên nào biết rõ mà chưa giúp cho nó thú tội thì giam lâu càng khó rõ. Cần phải giúp nó ngay thì mới xử rõ được.

mà chúng được lợi lớn là lượng chừng chúng với ta kết nhau nương tựa như môi với răng, hai nước giữ cái tình hợp tác bề ngoài không thể bỏ nhau ngay được. Nay khiến cho kẻ kia bỏ lợi lớn mà tìm sự đền bù nhỏ thật e chưa chắc. Người Thanh bị Anh tàn ngược ngày càng chồng chất mà oán sâu, bấy giờ mới khiến Sùng công đi Tây cầu cứu với Công hội 254 giúp đỡ để cởi ách ấy trong tương lai. Sùng công đậu mãi ở các nước phương Tây đằng đẵng đến nay, kết được niềm vui mà rốt cuộc cũng chưa vào được Hội, xét ra là vì do người Anh nắm hội ấy. Nay ta chưa có được cái thế tiên dung 255 của Sùng công mà muốn làm cái kế của Lân Phạt 256 thật e chưa chắc. Ôi ! Lấy danh nghĩa nhường Tần mà đánh Tề để thêm đất, Tần không bị Sở ghét mà thế của Tề không lớn hơn Sở thì Sở đắc chí vậy ! Tách lìa người Kim mà đi cầu quân Nguyên ở xa chỉ làm cho quân Kim ở trong thêm thù hơn mà quân Nguyên lại làm cho Tống hao tốn hơn. Việc đã qua mà không soi gương được hay sao ? Việc trong thiên hạ là Thế, là Tình. Thế là Sức, Tình là Lợi vậy. Đối với Phổ chỉ là cái Tình mới đến mà Pháp thì đã ép bằng Sức cho nên nước xa mà lửa gần thì sông Giang sông Hán không dập kịp ánh sáng cỡ đom đóm 257 . Kẻ ta giao thiệp thì ở xa, mà kẻ ta thù thì ép đến, mối hại sẽ như thế nào? Huống chi trước kia Trần Hi Tăng 258 về chưa từng nói Vương Sưu dùng được người Phổ mà Ngô Hoằng là bọn lái buôn 259 . Bùi Viện có chí nhưng chưa thử thách, vả lại lấy được binh nước Tần đang mạnh cứu một nước Sở đã mất thì chỉ mỗi một mình Thân Tử mà thôi 260 . Được hay mất sau chuyện đó, cái Thế rất nhẹ mà nghĩ đến cái Tình lợi hại trước mắt của quốc gia vốn đã không bằng được nhau vậy. Vâng phê : đã rõ về cơ hội mà lo ngại về khó khăn của nó.

- Cùng Thượng thư Phạm Phú Thứ dâng sớ nói : Mồng 10 tháng này vâng giao 3 bản mật tâu của Nguyễn Tư Giản cùng lời phê dặn các việc, bọn thần tuân vâng bàn xét thấy trong đó đại lược là sự tham bạo của người Pháp khó mà làm láng giềng được. Muốn chế ngự được mũi nhọn hung ác đó thì phải có tay mạnh. Hiện nay, kẻ mạnh ở phương Tây là nước Pho. Viên ấy muốn có sắc ấn toàn quyền, cáo bệnh rồi cải trang cùng Ngô Hoằng, Bùi Viện sang Cảng, theo Vương Sưu để liên kết với Phổ, đến đô thành nước họ bắt chước Thân Bao Tư 253 khóc ở sân Tần để xin binh sang rửa nhục lớn. Lời nói ấy rất hùng tráng, chí khí rất lớn lao, xuất phát từ lòng trung trinh phẩn nộ chưa phải là trái chính sách, có điều là bọn thần trộm có chỗ nghi : các nước mạnh của phương Tây thì Nga, Anh, Pháp là chúa trùm, sở dĩ Phổ sánh vai được cùng đuổi kịp như ngày hôm nay là nhờ không tự đại, không làm cho người ta nghi vậy.

Bọn thần lui về suy nghĩ càng thấy cái khó của nó mà không thể không nghi được. Đành rằng ngọn lửa tham của người Pháp đang hừng hực thì ta cũng cụp tai nhai lưỡi để chịu tróc nhớt ư ? Bọn thần ngày đêm dốc cạn sức lo lắng ngu ngốc, trộm cho là

Ba thành ở phía Đông bị Pháp chiếm đã mười năm rồi, nếu một sớm kéo quân khôi phục lại, nếu trở bàn tay, người Pháp nhận tiền bồi thường kể còn 50 năm mà chưa thôi, ấy là ta cam chịu hòa 108


muốn chế ngự người Pháp thì nên như người Pho làm cho Pháp không sợ mà nên như người Thanh, kết giao với các nước Tây. Có thể sắp tới, hai miền Nam Bắc thế chúng ngày càng ép thì ta chưa thể mưu tính xa. Mưu mà không làm nỗi thì bị nhục. Nguyễn Văn Tường, Trần Đình Túc sớm muộn rồi sẽ báo tin về, nếu chúng y theo lời thư ta gởi thì tốt, nếu vạn nhất tướng họ sửa thư đó, có những điều cưỡng hành, yêu sách mới chịu giảng hòa, ta nói họ không nghe theo mà bỗng nỗi mối binh, e hại càng lớn. Xin hãy nín nhịn tỏ ý hòa : phía trong thì xin họ một vài người có khả năng quân sự dạy tập việc binh, mở cửa mời họ đến đặt lãnh sự để tập buôn bán khiến họ dứt khoát không nghi ta, ngoài thì cử nhiều sứ giả lấy danh nghĩa thăm viếng mà đi chơi, kết hòa hiếu với các nước láng giềng. Cầu Phổ không được thì giao thiệp với Anh, nếu họ đòi bến tàu, đòi có đảo để ở tạm ta đều cho ngay. Nếu Anh, Phổ mà đều tính chuyện vì ta thì binh ta đã tự mạnh, vũ khí càng thêm sắc, họ nguyện giúp càng đông, trong ngoài kết hợp chặt chẽ khiến ta có thể đưa người ra chận bớt quyền người Pháp vào lúc ấy được.

Can việc bộ Hình cứu xét Bùi Hi, Nguyễn Trạch can việc viết thư riêng, xin giao tra xét, bị phạt bổng 9 tháng ghi vào sách.

Quân Pháp tấn công thành Hà Nội

Thánh nhân nói : Rồng ngóc đầu lên thì rắn co mình lại, phải chìu theo đường đi sạch sẽ hay dơ dáy, không chịu được sự cầm chân ở Cối kê thì không phá nát được nước Ngô 261 , không nhịn được tước phong Thục Hán không diệt được Hạng 262 . Ta mười năm nay chưa duổi ra một sớm cũng chỉ vì chưa co được vậy. Người xưa bàn việc binh mà trễ nãi thì họa lớn, ngày nay dùng binh nhanh lại sợ họa lớn, cái thế tương phản như vậy 263 . Bọn thần ý kiến ngu cạn mong cho mau mà không chắc được hiệu nghiệm. Nỗi phẫn lên thì hối hận tất nhiều,chỉ thường giở điệu viển vông nghĩ đi nghĩ lại rất biết là mang tội quá nhiều, chỉ vì không dám bụm miệng làm thinh, dùng lời bụi vẩn nói lên, mọp vâng xét định.

Giáp tí năm Tự Đức thứ 27 (1874) Ông 62 tuổi - Tháng giêng, vâng giá hạnh Thuận an duyệt biền binh bắn diễn tập nhanh nhẹn, được thưởng gia 1 cấp. - Tháng 2, can việc thuộc ty thảo phiến cho tỉnh Nam định mộ binh trễ nãi, bị giáng 1 cấp lưu . Can việc thuộc ty nhận lo trể nãi sớ của lính Thị vệ khai xin tiêu hủy số nhung y hỏng rách, bị phạt bổng 2 tháng ghi vào sách. Can việc tháng chạp năm trước ghi lộn xộn số lính tình nguyện nhập võ học sinh, bị phạt bổng 1 tháng. - Tháng 3, quân binh ở Tuyên 264 đánh tan giặc Anh 265 ở An lập, báo tiệp. Cơ mật viện tâu : Hoàng Anh quấy nhiễu ở các hạt, quân thứ ở Tuyên có cả vạn lính dõng không phải là không đủ để

- Tháng 12, can việc Nguyễn Văn Diệu mạo vào sách Anh danh, không xét rút ra được, bị phạt bổng 2 tháng ghi vào sách. 109


nào được thấy cảnh thái bình, lúc nào thấy được kẻ nhọc nhằn phải nghỉ ngơi, phải nới sức để tiến bộ.

đánh vậy. Thế nhưng quan Thứ ở tỉnh Tam Tuyên trù xét thì muốn rút lính dõng ở hai tỉnh Cao lạng. Hà nội thì muốn mượn binh thuyền của người Pháp. Tỉnh Lạng thì muốn gọi Lưu Ngọc Thành, từ khước là đang triệt về. Tình hình giặc thì cứ bàn lan man như thế thì thật khó lường xa. Trộm nghĩ việc giữ yên biên giới chỉ có đánh dẹp hoặc vỗ về mà thôi. Một mặt để Nguyễn Uy gởi thư Lưu Ngọc Thành nói : Nước chúng tôi với Pháp kết giao hiếu mới có 10 năm mà soái ấy muốn đánh giúp không phải là không công phẫn, quý Tổng thống thủy chung 266 việc này, vội muốn triệt binh thì tình nghĩa nghìn trăm năm mới gọi là gì ? Một mặt để cho quan tỉnh Hà nội hỏi phái viên Pháp Lê Na đánh giúp để thông đường buôn bán xem họ đáp lại như thế nào rồi xét làm cho hợp. Kính vâng chuẩn y.

- Tháng 4, cùng Lê Bá Thận, Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Tư Giản, Phạm Phú Thứ tâu: Mồng 1 tháng này kính vâng Châu Dụ : việc nhiều thì lộc hậu, chức trọng thì trách nhiệm cao xưa có đường phong nay nên châm chước, lệ định rằng sung Cơ mật viện đại thần thì phạm lỗi việc công được giảm phạt mà bổng chưa thêm nghĩ cũng chưa xứng. Nhiếp thân đài 270 việc ít hơn mà còn được đặc biệt thêm bổng huống chi là việc của Viện ? Thân với người thân, hiền với người hiền cũng là một đạo thôi. Từ nay định cho cứ hễ sung Viện bạc, đại thần thì toàn năm mỗi người đều được thêm tiền bổng 300 quan 271 bắt đầu từ nay, giáng phạt miễn khấu, vĩnh viễn giữ lệ ấy. Bọn thần kính xem, nhìn nhau sợ, thẹn không biết nói gì. Trộm nghĩ, bọn thần không có khả năng, đang đợi chịu tội. Khu phủ làm việc có kẻ trước, người sau, kẻ lâu, người mới không đều mà tài cũng không xứng với ơn đãi ngộ, sự nhọc nhằn không che được lỗi lầm, nhất là đang lúc vô sự còn không dám mượn cớ việc nhiều để mạo nhận bổng lộc ân huệ huống chi nay, ngoài thì láng giềng mạnh xử ép, trong thì quân nuôi đã 5-6 năm mà chưa giải, dưới thì không lấy gì cứu gian nan, trên thì không lấy gì làm thư thái tiêu cán, bọn thần tự hỏi lòng, thật là chỉ sức nhỏ mà gánh nặng, dây ngắn mà múc sâu, quá nhờ ơn bao dung được khỏi tội là may, lại trộm hưởng thêm lộc để thêm lệ 272 .

- Can việc thuộc ty nhận xét trể nãi việc Phó vệ úy Tôn Thất Nghị gây việc nhũng tệ, bị phạt bổng 1 tháng. Vâng tuân ân dụ nhận tết nguyên đán, vốn bị phạt giáng 8 cấp lưu, được khai phục 5 cấp. - Kính vâng Dụ trong có khoản : Quyền giả Tham tri 267 bộ Lễ sung làm Phó sứ đi Tây 268 là Nguyễn Văn Tường mùa Đông năm trước đã giảng giải thu hồi 4 tỉnh, được thưởng chức Thượng thư bộ Hình sung Cơ mật viện đại thần, tấn phong Kỳ vĩ bá. Vả Nguyễn Văn Tường với Trẫm, tri ngộ tuy do từ huyện Thành hoá mới bắt đầu nghe tiếng nhưng phần nhiều là do Thự Hiệp biện Trần Tiễn... đề cử mới biết, nhân đó mà tiến dần. Nếu không biết cái lệ nghìn thu, suy ra tận gốc để thưởng mà thôi được ư ? Trần Tiễn... được chuẩn cho thực thụ lại tái thăng Thự Văn minh điện đại học sĩ 269 mọi hàm như cũ, gọi là tiến cử người hiền thì nhận thưởng trên vậy, xưa nay cùng nề nếp đó, quyết không được khước từ, huống chi năm gần đây Cơ mật việc nhiều, vài ba đại thần ngày đêm tựa sức nhau thật nhọc đuối. Ấy là Trẫm không có đức khiến cho quần thần không được nghỉ ngơi, ngày ngày trông mong lúc

Vả chiếu theo lệ định, những sai lầm việc chung bị phạt đều được chước giảm, như thế từ trước đến giờ chưa thêm bỗng mà đã được cho ở đấy rồi. Lại nay các quan trong ngoài xuống đến một mạng người lính, phận tuy có lớn nhỏ, chẳng ai không đem cực nhọc mà đeo đuổi công việc, còn chưa được bàn đến việc tăng bổng, bọn thần có công gì mà được hưởng riêng ? So với các ngài ở Thân đài, lệ trước nhận lương bổng ngoài cách, chẳng những lòng có chỗ không yên, e với nghĩa cũng chẳng nên lạm nhận. Mọp 110


trông lượng cao minh cúi xuống chiếu cho bọn thần ngu ngốc, đem khoản tiền bổng mới thêm cho bọn thần, được đình miễn, đợi ngày nào các quan viên văn thần có lệ thêm bổng, bọn thần nhất loạt nhận ban, không dám nhường suông nữa, ngõ hầu hợp nghĩa công lao trước bổng lộc sau, hoặc cũng nói được là thích hợp chút gì trong muôn một vậy.

trùng tiêu cán, bọn thần tội không thể từ, vâng chiếu nhiều lần đình nghị các sự kiện. Tôn nhân hoặc đình thần với bọn thần nhiều lần bàn kỹ nên chăng rồi mới khởi thảo. Thần Trần Tiễn... thật chẳng dám lấy thành kiến mà nhìn người, thần Phạm Phú Thứ, Nguyễn Tư Giản cùng Lê Bá Thận, ý kiến có chỗ không hợp cũng cân nhắc trước sau, không dám cẩu thả đồng ý, chỉ có điều là bọn thần trí thức ngắn cạn, tài năng yếu kém, không thể ngữa thấy chổ sâu xa đến nỗi sinh nhiều việc, để lại mối lo, chưa thấy chút gì có thể vớt vát được. Bọn thần ngày đêm lo sợ, càng thấy như rơi vào hang sâu. Trước đây tuân lo bàn về thương ước cùng thư Thương bạc, khoản nào khoản nấy đều bậy, như bị đoạt mất hồn phách quay về lo lắng, nhiều lần vâng bị khiển trách nghiêm khắc, tật điếc, đui mới được mở ra mà xót xa hối hận đã không kịp nữa.

Nay dám hợp lời kêu xin, mọp chờ minh chỉ. Kính vâng Châu phê : Đã biết rằng như thế không đủ làm tổn ích, chưa xứng với đạo mà lòng trẫm đối đãi với bề tôi. Có điều nước nhỏ, thuế ít nên đành phải tỏ ơn và lễ nhỏ như thế đấy thôi. Huống chi quyết định ấy là lệ mãi mãi, lượng theo cước mà nhận lộc chứ chẳng riêng gì các khanh mà! Lấy lý gì mà từ khước ? - Can việc cùng Viện bạc dâng phiến xin cho Nhã sĩ Đặng Văn Kiều về Nghệ hiếu dụ không được việc, bị giáng 2 cấp lưu.

Lại vâng nghiêm huấn sức hỏi, chỉ có cúi đầu hối lỗi mà thôi. Từ nay trở đi xin răn dặn nhau sửa chữa tội trước, vĩnh viễn thường không dám giẫm nhầm điều trái đạo để mắc lại tội, ngữa mong mặt trời trên cao, nói tự đáy lòng, không dám dấu diếm chút nào, bọn thần run sợ, rất đổi hớt hãi 274 liền dám mạo muội xin chịu tội. Kính vâng Châu phê : Chưa chắc chân thành nhưng cũng là có học. Người quân tử há nỡ dối trời mãi ư ! Khỏi cần gạn lại, sẽ có chỉ.

- Tháng 5, can việc thuộc ty ở Cơ mật viện vâng sắc có sai lầm, bị giáng 1 cấp lưu. - Tháng 6, can việc Cơ mật viện chậm lập phiếu tâu mật của Tổng đốc Nghệ an là Nguyễn Chánh, bị giáng 2 cấp lưu. - Vâng dụ các ý : mãi mãi giữ trung, cần, cứu gỡ kịp thời những khó khăn, không để Trẫm phải lo nghĩ mới là hết lòng với chức vụ. -Can việc cùng các đại thần cấp bằng, phát cho Nguyễn Đức Hậu, bị giáng 4 cấp lưu 273 . -Can việc cùng bộ thuộc là bọn Trần Khắc Nghị giấu, giảm số đào binh, bị giáng 1 cấp lưu.

- Tháng 9 can việc Sứ bộ đi Thanh trở ngại lâu chưa về, bị giáng 1 cấp lưu.

- Tháng 7, cùng Cơ mật viện đại thần là Thượng thư Nguyễn Tư Giản, Phạm Phú Thứ dâng phiến tâu: Nay vâng cho bọn thần quỳ dài ngoài cửa lớn của cung để quan Nội các đọc sức hỏi. Bọn thần vâng nghe, thật rất sợ hải, không chổ dung thân, vâng chạy vào nhà Tả vu, lại vâng đọc lời Châu dụ, lời lời nghiêm khắc hơn búa rìu, bọn thần nhìn nhau nhận rõ tội lổi, trộm lấy lẽ hơn 10 năm nay biện cương nhiều việc binh đuối của hao, ngữa phiền cửu

- Tháng 10, vâng Dụ có khoản : Hôm trước, ngẫu nhiên bị hàn thấp ốm nhẹ, Thái y viện nghĩ tiến phương thuốc, nay đã đỡ, yên. Đến dự có Hoàng tử Kiểm Trực, các viên Cơ mật. Trần Tiễn... được thưởng sa, đoạn, trừu, sô mỗi thứ 1 cây để khuyến khích. Vua ốm đã đỡ, vâng làm lễ mừng. Kính vâng Dụ ban một tấm ngân tiền Viết Trung, vâng ban các loại áo quần rét. -Can việc Bộ ty 111


mao chiếm lấy đặt tên là Hạ châu hoặc Tân gia (tức la Singapore ngày nay), hoặc gọi phố mới đều là một xứ cả, một là bị Hòa lan chiếm lấy đặt tên làm Giang lưu ba (tức là Indonesia ngày nay). Từ Hạ châu đến Giang lưu ba, đi thuyền buồm mất 8-9 ngày, đi tàu thủy 1-2 ngày mà thuyền bè tấp nập, hàng hóa buôn bán mạnh hơn ở Giang lưu ba.

chủ thủ lầu tàng thư, lấy trộm sách và sổ bộ, bị phạt bổng 6 tháng ghi vào sách. - Vâng Dụ có khoản : Hôm trước Trẫm mệnh giá đích thân duyệt tập trận ngựa, tập trận voi, tuy người, ngựa đông đảo, cũng có một vài vụ sợ sệt, quýnh quáng cũng là chuyện khó tránh khỏi, còn thì đều được nhuần thục, không trái kỷ luật mà một khi nghe sắc mệnh thì thao luyện cả tháng để chờ đợi, cũng đáng gọi là siêng năng. Trẫm há nở hà tiện việc trích thưởng mà không dùng nó khích lệ sĩ khí, an ủi lòng quân hay sao ? Kẻ lo việc điều khiển là Trần Tiễn... và kẻ lo việc luyện tập là Lê Sĩ, đều được thưởng kỷ lục 2 lần. Lại ban cho Trần Tiễn... một sợi đai ngự dụng dát vàng, nạm châu báu màu vàng, viền quanh bằng san hô và pha lê để nhung phục đầy đủ, rực vẻ oai nghi.

- Can việc bản tâu của đạo Quảng trị cùng việc đắp đê ở đường cảng Lộ châu cùng mua gỗ làm cừ, bị giáng 1 cấp lưu.

CHÚ THÍCH: 224.

- Tháng 12, Cơ mật viện tâu : Nay vâng Châu phê trong có khoản : Cuộc tiễu phỉ ở Tam Tuyên dùng đạo binh của Lưu Vĩnh Phúc làm lực lượng chính nhưng y lại khước từ để về giữ Bảo thắng. Bảo thắng là cửa ngỏ thông thương, nếu như người Pháp có phiền trách điều gì thì sao ? Bọn thần vâng xét Hoàng Tá Viêm lâu nay vâng mệnh điều độ cuộc tiễu phĩ đã nên cuộc rồi, cứ nghe theo mọi liệu tính của ông ấy. Vừa qua, Tá Viêm điều ba đạo sang Tuyên để tiễu quân Hoàng Anh. Gần đây tiếp tư văn thì đã tiến hành. Vĩnh phú cũng báo là đã đưa phu vận lương đến nơi. Như vậy là thế đã thành, người đã tập kết, chính là có thể gặp dịp rồi. Huống chi việc binh thường là thoắt chợt, có đến tận nơi mới rõ hết được, xin Dụ cho quan ở Thứ nói cho Vĩnh Phúc yên lòng cố sức diệt giặc, sớm dẹp bọn cướp Hoàng Anh cho xong việc biên giới mà hoàn thành trách nhiệm.

Biết, nhận : biết = sự tuyển bổ của vua thông qua guồng máy triều đình và thi cử; nhận = tiếp thu ơn vua, tức làm quan.

225.

Trung sứ : sứ giả làm nhiệm vụ riêng của cung đình .

226.

- Dâng phiến tâu : Kính vâng Châu phê, trong có khoản nói : Giang lưu ba, Tân gia ba không phải là Hạ Châu à ? Thuộc xứ nào vậy ? Trần khanh hãy trình lên. Thần tuân vâng xét tìm : Giang lưu ba, Tân gia ba, Hạ châu đều thuộc địa phận Đồ bà, một bị Xích

Kim cách vô tị : không tránh nhiệm vụ quân sự. Lấy ý Kinh Lễ: Tam niên chi tang, kim cách chi sự vô tị giả giả... (đang để tang cha mẹ, gặp lúc phải cầm khí giới (kim) mặc áo giáp (cách) thì không tránh...). Theo Lễ, có tang cha mẹ thì phải nghỉ chức quan, ngưng đi thi trong hạn 3 năm, bằng không khi bị Đô sát viện đàn hặc sẽ bị cách chức, truất tên. Cụ Trần là Thượng thư bộ Binh, lại được chính vua thăng chức nên việc vô tị được thuận lợi, khỏi mang tiếng điều gì.

227.

Việt phật : vượt qua sợi dây khiêng quan tài.

112


228.

229.

Thùy tự nghiệp hầu năng tạo mệnh Mạc qui khí số tư yêm yêm ?

Lời dị nghị chung: theo đạo hiếu, trong lúc để tang phải sống khổ hạnh, nhưng được thăng thì phải khao vọng mới được coi là nhận chức mới và làm thế sẽ bị dị nghị nên cụ Trần từ chối, vin lý do tai tiếng để khỏi mếch lòng vua. Dịch âm :

Kỳ tứ : Khí số yêm yêm vị tận thành, Nhất tâm hà hoạn bất năng bình? Đa niên sự vật ninh vô cổ. Lịch đại quân thần trách thủ thành. Trung cứ tất nhiên đồng nhất sự, Dungsàn hề túc xổ tam sinh ? Duy quan nhị thập dư niên nghị, An đắc vô ngu ủy lưỡng tình ?

Kỳ nhất :

Ngã sinh hà trạch thử hà thì, Sở học nan thi dữ thế nhân Lực bất tòng tâm ngôn cánh tác, Lý thường lụy thế khuất nan thân. Bán không tịch lịch Kinh văn sự, Đại hạ qui mô trọng trách thân. Mạc hướng bàng quan cầu giải báng, Duy đồng tri kỷ sách tinh thần

* Tác giả chú : Ta vốn ốm yếu, gần đây bị phong ngứa khắp người. ** Tác giả chú : chỉ cụ Trần vốn to béo, nhưng gần đây giảm, râu tóc bạc cả.

Kỳ nhị: Niên lai đa sự cọng ưu lao Lưỡng kiểu kinh doanh nhất thế hào Tùng cảnh hữu tâm do tuyết nhiễm Mai cù vì lực phạ phong tao. Thùy thư thống dưỡng phi tam nhĩ, Bất giác suy phiền dỗ nhị mao, Thán tức Tử minh nan tọa trí Hoa sơn hà nhật thụy phương lao.

*** Tác giả chú : Ta râu tóc đã chen bạc. 230. Tử minh : Tên gọi loài cây. Sách Dị uyển chép : Có người ở huyện Vĩnh Khang vào núi bắt được con rùa to, bắt trói chở về. Gặp trời tối phải ghé thuyền cột vào gốc dâu to. Nửa đêm, nghe tiếng cây dâu bảo rùa: - Nguyên tự nhọc quá nhỉ? Rùa đáp : Tử minh chớ lắm lời ! Họa sắp đến rồi đấy ! (Người dịch đoán là câu thơ trên có liên quan câu tục ngữ “ Cây muốn lặng mà gió chẳng dừng”, Tự Đức ngầm than thở về thời cuộc và tình cảnh mình).

Kỳ tam : Đan trì dạ dạ sá đầu tiêm Khu phủ thì thì bút nghiễn triêm. Ưng thị ngạnh nam đương đống cán Khởi như yến tước xử đường thiềm Sự phi hữu ý thôi nhân lão Nhân cách vô tình sử sự thiêm

231. Hoa sơn : tên núi thuộc tỉnh Giang tô, Trung quốc căn cứ địa của Lão giáo (Câu này có lẽ vua Tự Đức tỏ tâm sự với tri kỷ họ Trần, liệu cả hai có thoát khỏi chiếc cối nghiền của thời cuộc không ?)

113


232. Nguyên văn : Đa niên sự vật minh vô cổ (Nhiều năm sự vật sao khỏi có sâu cổ). Cổ là tên loài sâu rất độc dùng để luyện thuốc độc bằng cách : thả nhiều con vào chung một chén, chúng hung hãn đấu nhau, con còn lại cuối cùng cũng chết nốt vì nọc độc trong đám “nạn vật” kia phát tác. Nghiền xác con này làm chất kịch độc. Có lẽ ở đây vua Tự Đức lý luận : chuyện thực dân xâm lược là lẽ thường tình, đã sống nhiều năm tất phải công nhận qui luật đó, chỉ lo giữ đạo thành của mình là đủ. 233. sát, bảo vệ.

“Không ai biết đâu !”. Ông nói : Ông biết, tôi biết, trời biết, đất biết, sao bảo là không ai biết ? Từ đó người ta thường dùng hai chữ Tứ tri để gọi lương tâm. 237.

238. Phổ bồi : gọi tắt khoản bồi thường cho Đồ phổ nghĩa (Jean Dupuis) .

Điển bác, hộ cảnh : người bắn súng và người quan

Tiêu đoá : ụ đất đắp cao làm mục tiêu ngắm bắn .

236.

Dịch âm : Sự phồn, Thự Cơ mật viện đại thần.

239.

Cân= 600 gram = 16 lạng = 160 tiền.

240.

Đoá trường : trường bắn tập đại bác.

241. 10 thành tiêu 1 : 10 viên được phép vỡ một viên (đại bác cổ điển chỉ có khả năng sát thương bằng nguyên viên đạn, nếu vỡ thì vô hiệu. Viên đạn bằng gang, nếu nhồi thuốc quá nhiều sẽ bị vỡ).

234. Bắn ria : nguyên văn ‘’bính đạn’’ có nghĩa là bắn vãi trên một diện tích rộng bằng cách xêdịch mũi súng nhiều và nhanh, điều đó bất tiện cho kiểu xe mới vốn nhẹ hơn nên dễ xảy sự cố mất thăng bằng hơn xe cũ vốn đằm. Bắn ria khác nghĩa với bắn đạn ria ngày nay. 235.

Châu : son mực tàu.

242.

Đỡ sợ : đỡ sợ nhầm là bị tấn công.

243. Viện Bạc : Tên khác của Cơ mật viện cơ quan do cụ Trần chấp chưởng. 245a. Xùy : nguyên văn ‘’Tẩu’’ (dùng miệng làm ra tiếng để sai khiến chó) .

Văn lôi quân tử chính kinh doanh, Nhất nhị thần đồng sự diệc thành. Vị tất văn chương năng báo quốc. Tu tương huân lược giải hư sinh. Dương công thân hậu vô tài sản Phạm tử hung tung hữu giáp binh Nhân nguyện thiên cơ năng hạnh hợp. Bạch đầu tương đối thoại tiên tình.

245b. Ngao du trên sông qua ngày : nguyên văn ngao trường hà thượng, ý trong Nam hoa Kinh, chỉ sự thong dong tự tại không bị gò bó danh lợi, nhưng ở đây mượn để mô tả tình trạng bị vô hiệu hoá 246. Lời nói trần : nguyên văn ‘’tiễn ngôn’’. Ý nói viên Toàn quyền mới “chân ướt chân ráo” tới đây, chưa kịp nắm rõ ý đồ riêng tư và đen tối của bọn thực dân tại chỗ cũng như chưa rõ thực lực yếu hèn của triều đình, may ra việc xử sự của y còn giữ được thiên lương bản thiện chăng (!).

237. Dương công : tức Dương Chấn, người đời Đông Hán, học vấn và đạo đức được coi là Khổng tử của miền Quan tây (phía tây ải Hàm cốc, tức các tỉnh Cam túc, Thiểm tây), làm quan đến chức Thái úy (như thủ tướng ngày nay) rất liêm khiết nên nghèo mãn đời. Có lần kẻ đến hối lộ ông lúc nửa đêm, bảo ông

247. Cành nảy ngoài mắc : nguyên văn tiết ngoại sinh chi, chỉ sự gượng ép không thể có được. 114


248. Câu này cũng có thể cắt nghĩa : “Việc biên cương thì 1 nửa là của bên kia, 1 nửa là của bên này, chứ đo tài lượng sức chi mãi ?” 249. nay?

256. Lâu Phạt: chưa tra cứu được (điển tích trong Xuân Thu hoặc Đông Chu liệt quốc ?). 257. Ánh sáng cỡ đom đóm : ở đây phải hiểu là hậu quả đám cháy gây ra từ chút lửa nhỏ xíu (chế biến từ câu: nhất tinh chi hỏa năng thiêu vạn khoảnh chi sơn) .

Phù bài : Liệu có phải là địa danh Phú bài ngày

250. Lê Sĩ Thôi : nguyên câu văn : “Hữu quân Lê Sĩ Thôi lai cai Phò mã viên thần”, do chữ Hán không viết hoa nên có 2 cách hiểu: a/ Quan Hữu quân Lê Sĩ Thôi đến nhà viên Phò mã ấy; b/ Quan Hữu quân Lê Sĩ dẫn cụ Trần (người điều tra vụ việc) đến nhà Phò mã ấy. Chức Hữu quân không phải nhỏ nhưng tên Lê Sĩ Thôi không thấy nổi lên trong thời điểm này, do đó người dịch nghiêng về nghĩa b, nhưng lời văn lại buộc dịch theo nghĩa a.

258. Trần Hi Tăng : vốn tên là Trần Bích San, qua đời năm 26 tuổi ( trong câu đối khóc ông Trần, vua Tự Đức than: Bán chi bán văn chương cái thế (mới 1/2 của 1/2 đời người) ... ông nổi danh liên trúng Tam nguyên, vì thế vua Tự Đức cho tên là Hi Tăng, tác giả câu : ứng thí bất trạng nguyên, thú thê bất công chúa, sĩ hoạn bất tể tướng thị hư sinh dã (đi thi không đổ trạng, lấy vợ không được công chúa, làm quan không được tể tướng là sống vô vị).

251. Dưới ổ trục xe : nguyên văn “cốc liễn chi hạ”, dựa ý Sử ký Tư Mã Thiên “thị Hồ Việt khởi ư cốc hạ” (đấy là rợ Hồ rợ Việt nổi lên dưới ổ trục xe). Rợ Hồ ở phương bắc, rợ Việt ở phương nam, ngụ ý khắp nơi nổi lên. Điều này đúng với tình hình xã hội đời vua Tự Đức, nhưng ý của cụ Trần thì lại là “chả đáng gì mà quan tâm”.

259. Lái buôn : hàm ý không đáng tin cậy, vì nhà nho có câu “thương nhân đa trá” . 260. Thân tử : gọi Thân Bao Tư theo tinh thần tôn kính của Trung quốc. 261. Phá nước Ngô : Đời Xuân thu, Ngô thắng Việt, vua Việt là Câu Tiễn bị Ngô an trí ở Cối Kê. Nghe kế Phạm Lãi, Câu Tiễn nhẫn nhục đóng vai thần phục nên được cho về, nhờ đó khôi phục cơ đồ, trả thù đích đáng.

252. Tử Hư : tên nhân vật trong bài Tử Hư phú của Tư mã Tương Như đời Hán. Tử Hư có nghĩa là Ngài - Không - Thật, và ngài đó còn ngoại hiệu là Ô-Hữu-Tiên-sinh (tiên sinh không có) .

262. Diệt Hạng : Lưu Bang cùng Hạng Võ đánh nhà Tần, giao ước ai vào trước Hàm dương (Kinh đô Tần) thì làm vua. Lưu Bang nhờ Trương Lương đa mưu, Hàn Tín đa tài nên thắng cuộc Hạng Võ chậm bước vì phải đánh nhiều nên đến sau, tuy vậy thu góp được lực lượng lớn nên nuôt lời. Nghe kế Trương Lương, Lưu xin vào trấn Quan trung (sau này là Tây Thục của nhà Hán) xa tầm kiểm soát của Hạng Võ, nhờ vậy chuẩn bị tốt để về sau tranh hùng và cuối cùng diệt Hạng Võ. Câu Tiễn và Lưu Bang đều dùng chiến

253. Thân Bao Tư : quan Đại phu nước Sở đời Xuân thu. Sở bị Ngô thôn tính, ông sang Tần cầu cứu, đứng dựa tường cạnh sân chầu khóc 7 ngày đêm, cuối cùng Tần vương sai tướng cứu được Sở. Sở Chiêu vương về nước, đền ơn. Thân trốn đi, không nhận. 254. 255. tình.

Công hội : có lẽ chỉ giáo hội. Tiên dung : được giới thiệu, đề cao một cách nhiệt 115


lược “ở nhỏ ăn tiền”. CụTrần muốn đem áp dụng cho hoàn cảnh bấy giờ.

quan, như thế là tăng lương 100% ! Lương Hiệp biện của cụ Trần là 300 quan + áo Tết 60 quan = 360 quan nay được : Văn minh: 400 quan + áo Tết 70 quan + tăng 300 quan = 770 quan .

263. Thuyết Tình Thế và thuyết Co Duỗi của cụ Trần với cụ Phạm rất đáng chú ý về mặt logique.

272.

264. Tuyên : nguyên văn viết Quân, người dịch nghi nhầm từ chữ Tuyên nên chữa lại cho hợp nghĩa. 265.

Lệ : tội (ngày nay vẫn dùng từ tội lệ) .

273. Nguyễn Đức Hậu cũng như Nguyễn Hoằng ở Nghệ An là 2 người theo đạo Công giáo, giỏi ngoại ngữ và được sử dụng như tình báo kiêm đặc phái viên. Cụ Trần bị “dính đòn” vố này hơi nặng.

Giặc Anh : giặc Cờ vàng do Hoàng Sùng Anh cầm

đầu.

274. Hớt hãi : nguyên văn “vẫn việt chi chí” (té sấp té ngữa đến nơi đến chốn !!)

266. Thủy chung: ngụ ý rằng giặc Anh khởi thủy là của Tàu, Lưu ngọc Thành truy kích, giờ bỏ cuộc là không trọn thủy chung. 267. Quyền giả Tham tri: chức Tham tri thuộc Hàm Tòng nhị phẩm, dưới Thượng thư 1 bậc (Thượng thư hàm Chánh nhị phẩm). Vào thời điểm này, phẩm hàm của ông Tường còn thấp nên phải mang chức giả cho đúng tầm cỡ Phó sứ.

***

268. Đi Tây : đi điều đình với Tây tại Việt Nam , trên phần đất đã nhường cho Tây. 269. Con đường nhiêu khê của lần thăng này : Cụ Trần hiện là Thự Hiệp biện đại học sĩ, về phẩm là Tòng nhất phẩm nhưng cấp thì thấp hơn thực thụ Hiệp biện. Nay thăng 2 bước cùng một lần : Bước 1 : Thực thụ Hiệp biện để lên 1 cấp ; Bước 2 : Thăng Thự Văn minh ... lên một cấp nữa, về hàm thì lên Chánh nhất phẩm, thuộc vào Tứ trụ đầu triều . 270. Nhiếp thân đài : tên gọi Tôn nhân phủ. Quyền lợi ở đấy cũng khá, các chức Tả tôn khanh, Hữu tôn Khanh cũng hàm Chánh nhị phẩm, ngang với Thượng thư. 271. Cũng nên lường mức phấn khởi của vua Tự Đức nhân thu hồi 4 tỉnh miền Bắc : lương hàng năm của Thượng thư như ông Nguyễn Văn Tường là 250 quan thêm tiền may đồ Tết 50

********************** 116


NIÊN BIỂU VĂN NGHỊ CÔNG TRẦN-TIỄN THÀNH (1813-1883) **************************************

* NGUYÊN VĂN TIẾNG HÁN (1894) : MINH XUYÊN TRẦN -TIỄN HỐI * DỊCH VÀ CHÚ THÍCH (1994) : VŨ BẠCH NGÔ * SỬA BẢN VI TÍNH (8/2001) : TRẦN – TIỄN TIẾN

**************************************

Triều đình Huế- 1875

Ất hợi năm Tự Đức thứ 28 (1875) Ông 63 tuổi.

QUYỂN V

- Tháng giêng, trên ngự chầu, gọi lên cho ngồi, vâng mệnh truyền đọc thơ ngự chế nhân tết nguyên đán cùng một bài Quảng yên báo tiệp. Kính vâng Sắc bảo giao, ngụ ý cùng khích lệ nhau gắng sức. - Kính vâng Dụ: Sáng 29 tháng này duyệt binh, phái Thự Văn minh điện đại học sĩ, Lãnh Thượng thư bộ binh Trần Tiễn... sung làm xuất lệnh đại thần, đến ngày ấy nếu Trẫm trong mình chưa khoẻ, cùng phái đại thần ấy sung làm Khâm mạng duyệt binh đại thần lãnh sắc mệnh Long kỳ xuất lệnh duyệt kỹ việc, xong theo sự thực tâu lên để tập quen quân luật.

117


Bấy giờ ông mắc chứng đau bụng xin nghỉ, vừa hơi đỡ liền gượng vào bái tạ chầu hầu, được gọi vào diện sắc :- Khanh đã đỡ chưa ? Ông tâu:- Bệnh thần nay đã giảm nên lật đật vào bái tạ.

- Tháng 6, can việc tháng 8 năm 26, Bộ ty làm trễ các khoản giáng lưu của võ viên ở ngoài, bị phạt bổng 1 năm ghi vào sách. Can việc Hộ trưởng Tôn thất Tháp làm đạn 278 ria không cẩn thận, bị phạt bổng 3 tháng ghi sách.

Vâng Sắc nói : - Trẫm thường thể tất cho các quan, thấy khanh một lúc mà vái tạ đến hai lần nên lòng chưa yên, khuyên khanh hết lòng phụng sự để yên nước nhà, chuyện vặt trẫm không nỡ trách đâu. - Vâng tuân ân dụ nhân tết nguyên đán, nguyên giáng 10 cấp lưu được khai phục 6 cấp.

- Tháng 7, can việc giữ áo mão trên thuyền rồng làm sai khác các sắc, mục, bị phạt bổng 6 tháng ghi vào sách. Can trong đội Vũ lâm có một vệ binh lính quá nhỏ bé, bị phạt bổng 2 tháng ghi vào sách. Dâng phiến tâu: Trộm vì thần chỉ có một đứa em trai lúc sống nương tựa vào thần, nay đã từ trần trước thần. Nỗi đau đớn của chim tích linh 279 thật như cắt lòng. Hăm bảy tháng này chính là ngày an táng, tình cốt nhục rất nặng không thể đừng được. Ngữa xin cho thần được nghỉ làm việc tại Thự trong ngày mai 27 để được về chiếu cố cho em thần trong việc ấy. Xin dám mạo muội thưa bày, mọp chờ ân chỉ. Kính vâng Châu phê : Gần đây việc nhiều và gấp, khanh là đầu ban, nếu gặp việc khẩn phải đến ngay để bàn. Chớ trể nãi hỏng việc.

- Tháng 2, vâng sung làm Đại tự tán, được ban thích phúc. Can việc Khâm thiên giám không đoán trước được nguyệt thực, bị phạt bổng 6 tháng ghi vào sách. -Can việc tàu của Phú soái ở Gia định, vào cửa Thuận an, bị giáng 2 cấp lưu. - Can việc thư lại của Bộ ty là Ngô Văn Dật lục chậm công văn, bị giáng 1 cấp lưu. - Cung kính lập xong Chính phó Phả: Trước kia, Thế phả tộc Trần viết chung các chi trưởng và thứ. Năm trước, hồi tháng 10, Ông biên tập lại, chi trưởng làm Chính phả, các chi thứ làm Phó phả, theo gốc phân chia thứ tự các đời minh bạch. Đến lúc này biên xong, ông soạn thêm bài tựa, định lệ ba năm một lần hội biên, ra lịnh cho thư thủ viết tinh hơn 10 bản, chia giao cho tộc thuộc vâng giữ.

- Tháng 10, can việc thuộc viên của Viện Cơ mật biên chép sơ suất, bị giáng 1 cấp lưu. -Can việc các đồn lũy Thuận an bắn đại pháo điều khiển không nghiêm, binh lính bị đạn làm chết và bị thương, bị phạt bổng 1 tháng. -Can việc dự hội đồng xét duyệt biền binh Cẩm y, giải quyết trễ nãi các khoản, bị phạt bổng 1 năm ghi vào sách.

- Tháng 5, vâng Dụ trong có khoản : Lần này Trẫm đến cửa Thuận an, thân duyệt các trận thủy lục cùng biền binh bắn người gỗ đều được chỉnh tề nhanh nhẹn, Trẫm rất khen. Viên chuyên tập là Hữu quân Lê Sĩ cùng viên Lãnh Thượng thư bộ Binh 276 là Trần Tiễn… đều được thưởng kỷ lục 2 lần. -Can lấy nhầm bảng gỗ, treo cờ không hợp, không thân sức được, bị phạt bổng 9 tháng ghi vào sách. -Can việc quân thứ Tĩnh man đánh dẹp, hết khí giới, xin thêm, giải quyết chậm trễ bị phạt bổng 1 tháng. -Ngày 18, em là viên tử Tự Phát phủ quân 277 qua đời.

118


- Tháng 3, can việc xét bổ suất đội Tấn thủ trái lệ, không hợp bị phạt bổng 6 tháng ghi vào sách. -Can việc để việc Bộ dồn đọng, bị phạt bổng 6 tháng. - Tháng 4, can trình chậm tư văn, bị phạt bổng 9 tháng ghi vào sách. Can việc cùng Viện bạc dâng phiến đem phái viên của Phú soái đến bàn việc nhưng không tuân theo điều đã bàn, bị phạt bổng 1 năm. -Can giải quyết trễ việc bắt lính nhiều hơn danh sách, gây bất lợi đã lâu chưa xong, bị phạt bổng 6 tháng ghi vào sách. -Tháng 5, vâng giá đi chiêm bái, ngẫu nhiên gặp mưa gió, có dự xu bái, được thưởng một chiếc kim tiền nặng 2 tiền. Dâng phiến tâu : Vâng xét Bộ của thần công việc nhiều cần có người siêng năng am hiểu mới giải quyết nhanh được. Nay có Lê Hữu Tá được chuẩn bổ ngoại chức Thương biện khá đáp ứng nhu cầu, lại xét hiện có Thự hữu thị lang bộ Hộ, quyền Kiêm Phó đô Viện Đô sát là Lê Điều, vốn người mẫn cán, trước kia từng Thự thị lang Bộ thần, đã tập rành việc Bộ, ngữa xin ân chuẩn viên ấy chuyển bổ về Bộ thần một chức để có một tay giúp đỡ. Kính vâng Châu phê : Đã định rồi thì cũng cho như thế, chờ chuyển bổ. Sắp đến hãy cùng nhau gắng sức làm việc. -Can thảo chậm sớ tâu tỉnh Nghệ an cùng việc Hà tĩnh đổi đạo làm tỉnh, bị phạt bổng 3 tháng ghi vào sách.

Đường phố Huế 1875 Bính tý năm Tự Đức thứ 29 (1876) Ông 64 tuổi.

- Tháng 5 nhuần, vâng Dụ có khoản : Bộ Binh việc nhiều lại dồn đọng, nay đã tăng cho chức Thị lang biện lý, sung một viên nữa. Chức vụ đại thần không gần việc nhỏ, huống chi tuổi cao khí suy càng nên thể tất. Vậy Trần Tiễn... Lãnh Thượng thư bộ Binh, từ nay được phép trong mọi việc của Bộ, việc nào thuộc thuyên, trừ, hương, cách, về nhung vụ, binh chính, mọi việc quan trọng chưa có lệ định, lấy danh nghĩa để duyệt tâu, ngoài ra, các việc đã có điều lệ để tuân cùng những việc tư, bảo tầm thường thì đều để cho các viên Thị lang, Biện lý của Bộ ấy cùng bàn xét giải quyết, chẳng cần quấy rầy để được rảnh rỗi lo cho các việc đôn đốc, duyệt xét, đình nghị mới có

- Tháng giêng, can việc thuộc viên Lang trung của Bộ vắng mặt ở cuộc hội thẩm, bị phạt bổng 1 tháng. Can việc bẩm báo chậm số nhân viên đi theo Thứ, giữa đường bị bệnh quay về, tiền của quan không nộp lại, bị phạt bổng 6 tháng ghi vào sách. - Can việc thuộc viên ở Sử quán là Bùi Ngọc Chúc đủ hạn thăng trật mà dẫn lệ không hợp, bị phạt bổng 3 tháng. - Tháng 2, kính gặp lễ Đại tự, vâng sung hỗ tòng, được thưởng kỷ lục 1 lần.

119


thể dồn tinh thần mà tính sâu xa để có được những cố gắng lớn, đóng góp cho công cuộc thịnh trị. - Tháng 7, can việc thuyền Đằng huy mắc cạn, bị giáng 1 cấp lưu. Bộ Binh dâng sớ xin đem số biền binh, lính dõng chết trận và thất lạc, thuộc các tỉnh, phủ Thừa Thiên, Quảng trị, Quảng nam, Nam định, Hưng hóa, theo lệ cũ tặng tuất ấm nhiêu. Kính vâng chuẩn y. Lại vâng Châu phê : Loại ấy nghĩ cũng còn nhiều. Từ khi Đà Nẵng hữu sự đến nay, số mất tích không ai khai báo. Bộ hãy sức rộng rãi. Đừng để sót. - Tháng 8, can việc cùng Bộ xét tư cho Phan Võ Chí không đủ chứng tích, bị giáng 2 cấp lưu. Bộ Binh tâu : Nay đến kỳ nước Pháp giao tặng món quà hòa hiếu. Đã mở bụng súng điểu thương lau chùi sạch sẽ, xin đem bắn thử ở đoá trường cửa Thuận an. Kính vâng chuẩn y . -Can việc Nguyễn Xuân dùng nhầm ấn tín bị giáng 1 cấp lưu. Tuân vâng ân dụ nhân Vạn thọ khánh tiết nguyên giáng 7 cấp lưu, được khai phục 4 cấp. - Tháng 9, can việc Ty thuộc ở Nam định giải quyết sai lầm binh tịch của Đặng Phát phải bồi, bị giáng 1 cấp lưu. - Can việc tỉnh Quảng nam sai phái biền binh Nguyễn Thừa Duyệt làm Đốc tải ( có dự duyệt và cũng sai phái y như thế), bị phạt bổng 1 năm ghi vào sách. Can chậm xét lên cấp cho binh ở các phủ, bị giáng 1 cấp lưu. Can việc Lang trung của Bộ là Phạm Hữu Hóa vắng mặt lúc hội thẩm, bị phạt bổng 1 tháng.

Một cửa vào Kinh thành Huế Đinh sửu năm Tự Đức thứ 30 (1877) Ông 65 tuổi. - Tháng giêng, can việc Ty phong cáo của bộ chậm trễ cáo sức, bị phạt bổng 6 tháng ghi sách. - Tháng 2, tuân vâng ân chiếu dịp nguyên đán, giáng 5 cấp lưu đổi làm giáng 2 cấp lưu. Gặp lễ Đại tự, vâng giá ngự sung việc đưa đón, được thưởng kỷ lục một lần.

- Tháng 10, can việc hồi cuối hạ, móc sắt bị mất hai phần mười, bị phạt bổng 2 tháng ghi vào sách. Can chọn bổ Suất đội Trấn thủ không hợp, bị phạt bổng 6 tháng ghi vào sách.

- Tháng 3, can việc thuyền Lợi dụng bị hư nát không kiểm để rút ra, bị phạt giáng 1 cấp lưu.

- Tháng 12, can Cơ mật viện dâng phiến đem tờ trình các tỉnh cử chức Nam niết đi sứ phía Đông, giải quyết không hợp, bị giáng 1 cấp lưu. Can việc quản đốc Nguyễn Định miễn bái mạng, bị phạt bổng 9 tháng ghi vào sách.

- Tháng 4, dâng phiến tâu: Nay tiếp được bản sao của Nội các giao ra cho bộ Công từ phiến đem việc quan tỉnh Ninh bình xin 120


khơi xét đường sông, mặt phiến vâng Châu phê : Bộ các ngươi chỉ viết trên giấy, cũng chẳng xét kỹ bản đồ ! Chỉ mới vẽ dở chừng, không biết có quan trọng hay không ? Lại đã giao cho quản Khâm thiên giám cùng với Giám xét rõ cùng đem bản toàn đồ cũ xét tỉ mỉ xem có quan ngại hay không, trình ngay cả hai.

thiển không được truyền thụ hân chính, bấy lâu chỉ theo sách mà chiêm, khi ứng nghiệm, khi không ứng, thật là bất thường, đến nỗi không dám tự tin làm bẩn cho tai Hoàng thượng phải nghe. Kính vâng Châu phê : Trần khanh lưu tâm tìm ở ngoài cho được người chiêm tinh tường để dùng, không được làm yếu chức trách.

Thần vâng tuân kiểm lại, đem bản đồ núi khe giữa Quý huyện - do Cơ mật viện giữ - cùng bản đồ đường sông Ninh bình và sớ tập của Ninh bình, cùng với các giám thuộc của thần duyệt xét nhiều lần. Cứu xét ra thì đường sông ấy từ Vân giang chia rót ra ở địa phận xã Liên trì thuộc hạt Yên mô mà 1 chi Trinh nữ chảy giáp trang Chính đại tỉnh Thanh hóa, một chi sông Càn chảy từ Trinh nữ chuyển qua sông Hổ đến cửa Càn, một chi sông Mạc chảy từ ngã ba xã Nộn khê qua phía đông đổ vào sông Hoạch (Vạc?). Giang đạo các sông ấy đều ở Quý huyện do nước khách tạo dựng từ trước cho ngoại triều một bải Thanh long mà long mạch ở Quý huyện thì chân cát ăn xa hơn.

- Tuân duyệt sớ xin khai thác của bọn Vũ Trọng Bình, Tổng đốc Sơn tây trình lên : Mỏ ấy với long mạch của Quý huyện hoàn toàn phân biệt, không có liên quan gì đáng ngại cả. Xét nên nghe theo cho khai nộp thuế. Duy mỏ ấy từng đã vâng chuẩn nghiêm cấm chờ xét mà nay khám thấy có nhiều dấu vết bị lấy trộm, viên quan tỉnh là Vũ Trọng Bình nên được xử phân. Kính vâng chờ chỉ. Kính vâng Châu phê : Y theo đã xét, các viên quan tỉnh đều bị giáng 3 cấp để tỏ ý nghiêm trừng. - Vâng đem thơ ngự chế Việt sử tổng vịnh gộp làm 10 bộ tiến dâng. Can vụ hiệu phái Nguyễn Túc tự tiện về quê nhà, phạt bổng 1 năm ghi vào sách. Can việc chọn phái sai trễ việc thanh tra thị vệ, bị phạt bổng 9 tháng ghi vào sách.

Nay quan tỉnh ấy lá Đặng Trán xin khỏi vét mấy chổ, cũng chỉ là dựa mấy chổ cũ mà thông lại qua loa, nghĩ cũng không ngại gì, chỉ chỗ lấp thì khơi, chỗ hẹp thì nới, cốt cho nước đi trong đất đủ tưới tắm là được chứ không cần phải làm sâu rộng chi lắm. Quan tỉnh ở đây chỉ xin, chỗ thì nới rộng một trượng, sâu 1,5 thước, chỗ thì nới rộng 1 trượng, sâu 2 thước, chỗ thì nới rộng 7-8 thước, sâu 3 thước, chỗ thì nới 5 thước, sâu 2 thước 74 ... không đồng đều, sợ e mất đất nhiều quá. Nay xin : về các nhánh của sông ấy, chỗ nào đã sâu rộng thì cứ giữ nguyên cũ, còn ngoài ra, chỗ nào cạn hẹp cần nạo vét, xin giới hạn cho sâu 2,5 thước, rộng vẫn 2 trượng, không cần phải thêm sâu rộng để thỏa thích mà phải xét kỹ. Kính vâng Châu phê : Chép ra ngay.

- Tháng 5, cùng Phó sứ hải phòng là hậu quân Nguyễn Hanh tâu : Hôm trước chở về 6 khẩu đại bác mới tặng, vâng chuẩn cho Bạc thần sang thương lượng sứ Pháp sai người rành đến bắn diễn. Mồng 7 tháng này, tiếp quan Bạc ấy đến bàn với Sứ ấy thì hiện 3 người Tây ở đấy đều không biết bắn đại bác, không thể sai đi bắn diễn được. Đợi sau này thuyền An ty lạp đến sẽ phái người biết bắn diễn tập, bởi vì người Tây dương ai chuyên nghề nấy, biết cái này thì không biết cái kia chứ không phải ai ai cũng biết. Họ không dám tiếc v. v... Bọn thần bàn với Phòng luyện Tôn Thất Duyệt, vâng xét súng ấy dài lớn mà trong đạn lại có dấu hạt nổ, nạp bắn thì phải rất cẩn thận. Các bác thủ thần cơ đều thực là không rành việc, bắn diễn sợ chưa tiện, xin hãy tạm hoãn, chờ thuyền An ty lạp đến sẽ thương lượng cùng sứ ấy phái người diễn để được hiểu qua nghề họ rồi hãy vâng bắn thử.

- Tuân sắc đem Khâm thiên giám chiêm từ rằm đến 22 tháng này, giờ nào, ngày nào có mưa gió thì trình ngay. Lại tâu: Huyền tượng kỳ diệu tinh vi máy móc che lấp, bọn giám thần học thức thô 121


- Tháng 6, can việc nhân viên của Bộ sao chép sót báo cáo của Hiệp đốc Mã 279a ở quân thứ Thái nguyên, bị phạt bổng 6 tháng ghi vào sách. -Can việc điểm duyệt hương binh ở tỉnh Hưng yên không chỉ trích được sự lộn xộn, bị phạt bổng 2 tháng. -Vâng giá hạnh đến cửa Thuận an duyệt xem đồn lũy. Tuân sắc chọn rút các biền binh Điển pháo ở các đồn lũy bắn diễn tập đại bác, theo lệ họp lại ghi kết quả trình lên.

- Tháng 8, gặp Khánh tiết Vạn thọ, ân chiếu giáng 3 cấp lưu được cho đổi lại giáng 1 cấp lưu.

- Tháng 7, dâng phiến tâu : Kính vâng Châu phê : Trong lịch, lệ chỉ kê 120 năm, ý Trẫm muốn đem can chi từ Gia long năm đầu đến nay đều kê vào cho đến ngàn vạn năm cũng vậy để rõ chính thống cho đến con cháu về sau cũng vẫn lấy lệ thường 120 năm, không phải chú hời hợt, xem liệu có được hay không thì lấy năm nay bắt đầu tính mà làm.

- Tháng 11, can việc biên giao móc sắt từ 1-1 đến cuối tháng 6, thiếu hơn 2/10 bị phạt bổng 3 tháng ghi vào sách.

- Tháng 9, can việc ty thuộc là Nguyễn Khoa Sằn tiếp nhận công văn không trình lên, bị phạt bổng 1 năm ghi vào sách. - Can việc Sử quán khuyết nhiều, tuyển cử chậm trễ, bị giáng một cấp lưu.

Khâm thiên giám của thần vâng bàn xét thấy phần năm ghi ở sau cuốn lịch có hai trang, mỗi trang thì nửa trên chia làm hai khoản, khoản trên ghi từ 1 năm đến 60 năm, khoản dưới ghi từ 61 năm đến 120 năm. Nửa dưới của trang chia chú các điều nên hay kiêng của các nhà nghiên cứu, xưa nay cứ xoay vần như thế mà tính. Nay vâng kê vào từ Gia long năm đầu đến nay, xét theo đó thì Gia long năm đầu là Nhâm tuất, Tự đức 15 cũng là Nhâm tuất, xin từ Tự đức năm thứ 15 sấp lên, kê thêm Gia long năm đầu, năm thứ 2, về sau chiếu như thế tiếp nối, chỉ ghi năm làm 2 trang, chỉ còn cách để trống phía trên có thể kê thêm, mà giấy trống không bao nhiêu, e có chật hẹp. Như vâng đem phần dưới, nguyên ghi chú các điều nên làm, điều phải kiêng của các nhà dành riêng một trang, còn nguyên ghi năm 2 trang lưu làm phần ghi thêm cho mỗi năm từ chính thống đến ngàn vạn năm, có thể kéo dài theo đến vô cùng. Kính xin tuân chế hai kiểu dâng trình. Kính vâng chuẩn y. -Can việc tỉnh Sơn tây chọn đặt quản suất để tạm quản thủy binh, không hợp theo niêm yết, bị phạt bổng 9 tháng.

Tổng đốc Bắc Ninh Nguyễn trọng Hợp (?)

Mậu dần năm Tự Đức thứ 31 (1878) Ông 66 tuổi. - Tháng giêng, vâng Dụ có khoản : Nay nhằm năm mừng, đáng nên ra ơn phong vượt Thự Văn minh điện đại học sĩ Trần Tiễn... gần đây tuổi cao sức kém, làm việc không khỏi trễ đọng, chưa hợp với lòng người trông mong, nhưng một lòng trung ái, già mà hăng hái, quả có kiến thức rộng rãi, giải quyết được việc lớn, chuẩn y 122


sau không hở 285 . Ánh xuân đem lại màu vui 286 tô mới cho triều vũ ban hàng, vạc đỏ gợi lo to lớn cho miếu đường vật cũ. Đầu được nghe lời châu dụ ban đến cho kẻ tôi hèn thật chẳng phải nằm mơ cái sợ nổi lo quá phước 287 quay nhìn nhành dâu bóng xế, thêm sợ ơn nhiều. Thần chỉ biết mãi nguyện lòng son, quên màu tóc trắng. Tơ tằm chưa cạn, nguyền dệt nhỏ để không thừa. Răng ngựa vẫn còn, dốc hết thân gầy chẳng tiếc. Nghĩ đến ơn vua mang nặng, quá sức thưa lời, cùng với nước buồn vui, muốn cho mấy câu cho các thế hệ. Thần xúc động khôn xiết run sợ thiết tha. Kính vâng Châu phê : Có khí cốt. Chỉ có sơ suất đáng tiếc.

ngay cho thực thụ, các hàm giữ như cũ. Đây tuy là ban ơn trong dịp khánh lễ mà cũng là dựa theo người mà ngụ ý khuyến khích, việc gì phải đợi dịp Đại kế 280 mới làm vậy. - Dâng biểu tâu : Trộm nghĩ : Thần chỉ là một tên học trò quê mùa lạm ghi vào bảng vàng, xếp vào sổ tịch hơn 40 năm vâng nhờ cửu trùng đổi mới chính sự, tạm dùng sách lược quần thần mà cứu gỡ nhiều khó khăn. Thần từ lâu nắm giữ việc Binh, bước lần lên bậc vẻ vang, trong tham dự việc của Bộ, ngoài giải quyết việc hải phòng, lo cho tròn chức trách mà chưa nổi, toàn nhờ người mà nên việc, sắp đến tuổi treo xe 281 mà còn làm lấm ban Tư mã 282 . Ngữa nhờ ơn sâu không nỡ bỏ bê nên được cúc cung tận tụy, đường dài gắng gỏi ruổi giong, nghe lặp 283 chẳng nề, trước tiệc thường dung suy yếu. Mà thần thì bệnh tăng theo tuổi, sức trái với lòng. Trù tính sau màn, toàn nhờ chỉ giáo, phần tư 284 vào cáo, chẳng có mưu sâu. Cương giới biển Nam, hịch của thuyền chưa làm lặng sóng, biên cương mặt Bắc, khúc ca chiến sĩ chưa khải hoàn, hổ thẹn chất chồng, thật ôm chức càng không xứng, kẻ tầm thường mà may mắn vào tâu là nhờ dồn ngày tháng làm công lao, việc nặng lại nhiều, vượt thời gian mà khó nổi. Trì trệ động lay miệng lưỡi, tội thần như núi gò, giữ toàn qua bao khó khăn là nhờ lượng bao dung của ơn vua như trời đất, tự so may được tao phùng, đắp đền bổi hổi tấc lòng, dốc lo báo đền cho xứng khó thay dám tìm may mắn ngoài thân phận.

- Tháng 2, vâng sung làm Đại tự tán 275 được ban thịt phúc, được thưởng 4 chiếc ngân tiền Long vân hạng lớn và kỷ lục 2 lần. Can việc tiết đông chí năm trước, biền binh xếp hàng trễ thiếu xử phạt không phù hợp, bị phạt bổng 6 tháng ghi vào sách. Can việc thư lại Võ bị Nguyễn Văn Đề mạo soạn đơn và bằng, bị phạt bổng 9 tháng ghi vào sách. Vâng ân chiếu nhân tết Nguyên đán giáng 2 cấp lưu được khai phục tất cả. - Tháng 4, can việc Khâm thiên giám coi ngày rước thần chủ Thánh vị về Hiển lâm quyền tự không hợp, bị phạt bổng 3 tháng ghi vào sách. Dâng phiến phúc trình : Ngày mồng 6 tháng này tuân xét lập hồ và án phía trước cho cuộc đất Vạn niên đại cát, xin trình bày mọi lẽ.

Gặp ngày Khánh lễ, lại nhờ ơn sâu khuyến khích, lòng thần trung ái kích thích sức thần suy lão, trật Thự Văn minh dự lấy thực hàm không dám từ nan quấy quá, thật là thẹn sợ xiết bao, lòng tràn cảm xúc, miệng chẳng nên lời.

Kính vâng Châu điểm. Lại vâng Châu phê: Chưa rõ. Nên tâu rõ lại để biết. Vâng tuân, thần sức cho Giám thuộc tra về Địa lý, thấy có giá bút Tam thai 288 , có Tam thai chữ Phẩm, có Tam thai hình tán lọng, có Tam thai hình cái mão, có Tam thai Mạnh-TrọngQuí, hoăc có cái ở phía sau làm mâm, hoặc có cái ở phía trước làm án, cũng đều có cả.

Nay nhớ ơn Hoàng đế bệ hạ một lòng thương kẻ ra công, nghìn xưa nổi bật vượt hẳn, với người không cần tài đủ, ban ơn muốn thật chu toàn, đối xử với thần như với kẻ trung hiếu, trước

Nay bãi cát ấy làm án phía trước cho cuộc đất Đại cát, bên trên nhô lên Tam thai: Nhất thai khá cao, Nhị thai hơi thấp, Tam thai thấp. Thứ tự cao thấp đều đối ngang nhau. Phần chính cuộc thì là Tam thai 123


án Mạnh-Trọng-Qúi mà hai thai kia thì hợp với chính cuộc làm cấp thứ nhất tương ứng với bái đình ở trên (nguyên trước mặt chính cuộc có ba bậc bái đình). Vẫn kê cứu, thấy sách có nói: 3 sao 1 dạng, thứ tự cao thấp thẳng lại tên là Tam thai án Mạnh-Trọng-Qúi. Lại có nói: Triều án là phối hợp âm dương vậy, gần là án, xa là triều. An nên cho thấp, triều nên cho cao. Cao thì ngang mày, thấp thì đúng với tim. Nay bãi cát ấy thuộc cận án của cuộc Đại cát, đúng phép thì phải nên thấp, xin nên đến lúc liệu đắp thêm cho sao thai tròn trịa để được tương xứng. Kính vâng Châu phê : Đã am tường thì hai cuộc phải hợp phép mới được.

- Tháng 6, vâng nghĩ soạn liễn đối treo rạp lầu trong tết Ngũ tuần đại khánh, dâng lên : * Đi theo Tín, nghĩ theo Thuận, chuộng người Hiền để lấy cái tốt của Trời giúp; - Thận từ đầu, Hòa lúc giữa, Nên lúc cuối, mới mong nhuần thấm đến nhân dân. * Làm hài lòng người thân cho cởi mối lo âu, Đại Thuấn tuổi 50 mà được hâm mộ; - Làm theo đạo cho lâu để thành văn hóa, bậc vương giả tất phải nhàn sau người đời 289 .

- Cùng Phó sứ hải phòng là Nguyễn Hanh tâu: Vâng giá ngự đi duyệt xem 5 bãi cát trước thành Trấn hải. Sắc ban rằng nơi ấy khuyết lở nên lo liệu gấp, bàn định thế nào thì tâu xin cho làm. Vâng tuân, bọn thần trộm nghĩ : Sông biển xô dời bất thường, lý với thế là vậy cho nên khó mà tranh công cùng Tạo hóa nhưng cũng cần làm hết sức người mà giữ gìn cho đỡ lo ngại.

* Có đức lớn thì có được địa vị, có được lộc, có được tiếng tăm; - Năm điều phúc thì nhất là sống lâu, nhì là giàu, ba là vui khoẻ 290 . Kính vâng châu điểm. - Can việc xét xử không thích đáng vụ cháy ở cửa Đông Kinh thành, bị phạt bổng 9 tháng ghi vào sách. Can việc để bọn khách Đông thành người Thanh xông vào chỗ Nghi trượng, bị phạt bổng 3 tháng ghi vào sách.

Nay xin vâng tuân sắc ban, xét chỗ nào khuyết thì cắm gỗ làm cừ để giữ gìn chân cát, có điều là sóng biển thường vỗ mạnh và gấp, xét nên đào cho sâu những chổ cát khô phía chân ngoài của lũy bị sóng va đập rồi cắm đứng cừ gỗ, phía trong dùng tre tươi đan thành tấm áp vào cừ rồi dùng rơm và các thứ mềm lèn cho dày kín rồi tấp đất cát vào cho khỏi bị sóng xô rỉ ra. Nhưng xét ra ở Lộ châu chỉ có cây đá, không có các vật cần thiết khác, xin quan bộ Công tư cho phủ Thừa Thiên mua 2.000 cây tre, 300 gánh rơm, các binh sĩ sắm đủ gỗ cừ chừng 1.000 cây dài 5-6 thước 74 ngay trong 23 ngày đưa nộp gấp ở đấy. Nay xin cho quan ở Cửa đến trước rút số rồng sắt, bè tre đang trữ ra và làm tre cừ, tre tấm cho nhanh chóng mọi thứ, chờ phủ Thừa Thiên nộp xong tre xanh thì lo nốt rồng sắt, bè tre. Kính vâng Châu phê : Gọi nhiều lính các đồn hiệp sức làm gấp để xa giá về. Nguyễn Hanh cũng ở lại đôn đốc công việc, hết lòng xếp đặt cho được bền chắc, xong xuôi trình lên.

- Tháng 7, can việc lập bản nháp về tiêu thuyền bị phạt bổng 3 tháng ghi vào sách.

291

không hợp,

- Tháng 8, vâng mệnh đi đàn Nam giao làm lễ cáo thần về tết Ngũ tuần đại khánh. - Ngày chính lễ vạn thọ đại khánh: Vua ngự ở điện Cần chánh cho phép làm lễ thượng thọ, ban rượu, được vâng sung vào bưng chén (Hoàng tử Cả sung dâng rượu, Thái Thạnh công Hồng Phó sung bưng nậm). Lễ xong, vua thân rót ngự tửu ban cho Thái thạnh công và Ông, tỏ thái độ khoáng đạt trong việc ưu đãi người thân, quyến luyến người hiền.

124


- Vâng Ân chiếu thưởng gia 1 cấp. Can việc viên hộ thư lại cửa Quảng đức chép trễ bị phạt bổng 3 tháng, ghi vào sách.

440 trượng, so với các tỉnh bên là Hưng hóa, Thái nguyên, Quảng yên thì còn rộng hơn, hiện tại đã thêm công đắp mà lúc lâm sự phòng giữ không khỏi phí binh.

- Tháng 9, dâng phiến tâu : Nay tiếp phiến của quan bộ Công chép việc quan tỉnh Lạng sơn là Nguyễn Đình Nhuận dâng sớ xin sửa chữa thành tỉnh. Kính vâng Châu phê : Thành trì là quan trọng. Hình thế của thành đã xây không được tiện lợi rồi. Nay xem kỹ từ bao nhiêu bản đồ đều đã không nêu Cổ bầu là chỗ nào, cũng chẳng ghi chú cá nơi rừng núi, gần nước, cũng có thể nhận ra thành đất cũng có ích hay không, những chỗ vốn để leo lên, nay đã xa không, nhất nhất đều chưa tâu rõ mà đòi sửa chữa ? Cần phải thật nặng công xét cho chính xác để một lần nhọc mà được bền mãi thì mới vững cho việc biên phòng. Nay giao cho Trần Tiễn... duyệt lại xem đã ổn thỏa chưa, ra lệnh cho Bộ nêu rõ thêm rồi dâng lên chờ chuẩn y.

Nay xin để tỉnh ấy tính cắt thân thành chu vi phỏng chừng trên dưới 300 trượng. Thành hơi hẹp chỉ giảm bớt phí tổn và công làm, lại xa các núi, lại dễ chia giữ, nghĩ cũng càng tiện. Xin để quan tỉnh ấy chờ việc rảnh khám lại trình lên. Kính vâng Châu phê : Hoàng Tá Viêm chờ rảnh đến ngay tỉnh ấy xét kỹ so với phiến tâu, trù liệu xem lúc nào lo được, báo ngay chờ cho phép. Bộ hãy sao lại phiến này mà tuân duyệt. - Can việc chậm lập phiếu vụ án Văn Viết Khai, bị phạt bổng 1 năm. Can việc Quốc sử quán soạn chưa xong Đệ Tam kỷ, Thực lục, cùng các sách hiện làm, bị giáng 1 cấp lưu.

Thần tuân đem tập bản vẽ duyệt kỹ thấy có chú các khoản chưa được minh bạch nên đã tư ngay để xét lại và giao nguyên bản vẽ cho tỉnh ấy khám lại, nêu thêm. Mồng hai tháng trước mới tiếp tục được phúc trình. Chiếu xét thành tỉnh ấy, nguyên chu vi của móng dài đến 593 trượng 74 lại có thành núi đất chu vi 145 trượng, so với các thành tỉnh láng giềng thì có phần lớn hơn, lúc hữu sự thì coi cả hai khó chu đáo mà phía tây nam, chỗ thì ăn thông với núi, chỗ thì gần chân núi, những chỗ đất đá cao, có thể theo lối đó mà leo lên thành được. Phần móng cũ hình thế bất tiện, đáng nên dời chỗ.

- Tháng 11, can việc cùng làm chậm lâu các khoản tiền thưởng nhân lễ Đại tự, bị phạt bổng 6 tháng ghi sách. - Tháng 12, Cơ mật viện phúc trình: Từ nay, nếu thuyền Tây vào sông như bị chìm, vỡ thì quan của thuyền ấy cùng quan Thương bạc xin giúp đỡ rõ ràng. Quan sở tại phải đến giúp ngay. Nếu vì gió lụt, thế khó đến giúp, hoặc thuyền đã mỏng, vỡ, cứu cũng khó, cùng không xin cứu giúp thì thôi, không được trách móc để có hạn định. Các quan Tỉnh đem những điều này nói cho Lãnh sự ở đấy biết. Cho chép giao các tỉnh tuân đấy mà làm. Bấy giờ tàu buôn Sĩ điện của nước Pháp chìm úp ở giang phận tỉnh Hà nội, quan tỉnh phái người lo việc cứu giúp, nghe được chuyện đó, Cơ mật viện đại thần xét vì tàu ấy vào sông, ngang nghạnh không chịu nạp thuế, nên xin từ nay ngưng việc phái đi giúp như thế. Vâng cho chép ra tuân theo.

Nay quan tỉnh ấy xét xin cắt lấy hai mặt đông và bắc thành cũ sửa cho cao thêm, hai mặt tây và nam dời lùi vào trong dựng móng thì mấy chổ nguyên có thể leo lên trông cũng đã hơi xa. Hai bên lại xin đắp thêm lũy đất, trồng tre xanh để nghiêm phòng. Tuy mặt đất còn gần thành nhưng tính kỹ cũng đã tách ra ngoài thành, đắp thêm lũy cỏ tranh là đã có giới hạn ngăn chận chứ không như sườn núi trước kia liền với thành, dễ leo lên dòm ngó. Sự thế có lẽ không thể không làm như thế được. Duy có chân thành dài đến hơn 125


người Pháp mà thêm hơn trước để tỏ tình, cho khỏi dối lừa. Kính vâng chuẩn cho chép ra tuân đó mà làm. - Dâng phiến tâu: Vâng xét Bộ thần công việc nhiều và gấp, thần cùng Lê Điều, Tôn Thất Trường đều có kiêm trách. Hà Văn Quan cũng vâng dự sung tiếp sứ mà đến lúc sát hạch, kiểm duyệt theo hầu các việc ấy hơi thiếu người. Ngữa xin ân chuẩn cho một viên ấn quan để sung chức thú 292 . Lại vâng chiếu viên ngoại lang ở ty Kinh kỳ của Bộ thần là Nguyễn Huy Du, cử nhân xuất thân, nhiều lần theo làm việc cũng có chút công lao mọn, lại từng là ấn quan, am tường nhiều nơi trong ngoài, năm trước vì nhầm lẫn đã bị giáng bổ, đến nay hàm vẫn là Thừa biện, có phần biết sợ sệt, nay thần dám thưa lên chờ vâng ân cách. Kính vâng châu điểm. - Can việc chậm trễ gọi lính trốn thiếu, bị giáng hai cấp lưu.

Quân Pháp tấn công thành Lạng Sơn

- Tháng 3, can việc sai phái biền binh đốn gỗ thiết mộc không hợp, bị phạt bổng 1 năm ghi vào sách.

Kỷ mão năm Tự Đức thứ 32 (1879) Ông 67 tuổi.

- Tháng 3 nhuần, can việc thuộc viên Khâm thiên giám viết lịch sai, khắc in nhầm lẫn, bị phạt bổng 3 tháng ghi vào sách. Can việc lo trễ nãi các cuộc tuần sát, tuần la, bị phạt bổng 3 tháng ghi vào sách.

- Tháng giêng, Cơ mật viện Thương bạc tâu: Nay các tàu buôn nước Pháp đến, có nhiều tàu đem theo đại bác, không do quan Tấn thủ đệ nạp, chiếu theo hòa ước thế là có vi phạm. Xin thương thuyết với Lãnh sự Pháp cấm họ tự tiện vào.

- Tháng 4, can việc bắn súng diễn tập ở lũy phải cửa Thuận an, Nguyễn Đăng Tiến phụ bắn bị chết, bị phạt bổng 2 tháng ghi vào sách.

- Tháng 2, gặp lễ Đại tự, vâng giá ngự được dự sung đón rước, được thưởng kỷ lục một lần. Cơ mật viện tâu: Kỳ này quan thuyền của Anh cát lợi đến Hải dương, nha Thương chính đến thăm Lãnh sự Pháp bàn rằng tục Tây không đãi tiệc ấy. Tổng đốc Phạm Phú Thứ không nghe cứ đem phẩm vật tiếp đãi. Vả chiếu theo lệ, những lần thuyền Pháp qua lại, mỗi mỗi đều có tặng và khoản đãi, nay thuyền Anh tới thì lấy tục Tây không đãi để nói điều phân biệt, tình chưa rõ được, quan tỉnh không nghe, nghĩ cũng đã dò được chỗ rất kín, nhưng việc khoản đãi so với đãi người Pháp thì có hơi bạc. Nay xin sắp tới có thuyền Anh đến thì xin dựa lệ đãi

- Can việc thuyền tuần của Bình định đi Thanh hoá chở lãnh hàng, ra khơi bị cướp bắn và cướp, bị giáng 2 cấp lưu. - Tháng 5, vâng tuân Thất tuần đại khánh của Hoàng Thái hậu, ân chiếu nguyên giáng 3 cấp lưu đổi làm giáng 1 cấp lưu. - Tháng 6, cùng bộ Công xin tháng giêng năm tới đúc thêm 6 khẩu súng đồng Thần oai phục viễn đại tướng quân. Kính vâng chuẩn y. Tâu xin dựng thêm lũy lớn ở Hữu ngạn Lộ châu, chia đặt 126


Cúi mọp vì :- Nhà nhà mừng rỡ nơi nơi, ơn ban rộng khắp; Chúa thưởng chẳng riêng ai cả, giữ nếp vua tôi.

súng lớn. Kính vâng chuẩn y. Can việc dự xét quốc thư không chu đáo, bị phạt bổng 6 tháng. Can việc giải quyết chậm trễ công tội vụ án Vũ Duy Trinh, bị giáng 4 cấp lưu.

- Cỏ chi chói lọi, Hoa quì sáng lòng

- Tháng 7, ngài Thị độc được truy tặng Trung Thuận đại phu Hàn lâm viện Thị độc học sĩ.

293

Trộm nghĩ Thần : Một cửa thanh bần; - Dõi đời nho nghiệp. -

Thái từ họ Nguyễn Văn được truy tặng Chánh tứ phẩm Cung nhân.

Tằng tổ thần Trần Nguyên..., Tổ khảo thần Trần Sĩ...

- Đọc sách mà lòng nặng vì lời dạy người xưa;

Ngài Thiêm sự được tặng Gia nghị đại phu, Thiêm sự phủ Thiêm sự, thụy Ôn mục.

-Dạy con nhưng tính xa để thấm nhuần đời cháu.

Thái từ họ Cao được tặng Chánh Tam phẩm Thục nhân.

Cha thần là Trần Bá...

Ngài cố Thượng thư được gia tặng Tư thiện đại phu Lễ bộ Thượng thư, thụy Trang Ý.

- Từ thưở đình xu

11

; - Được mừng rộng tiến.

Năm Minh mệnh 5, được trao chức Tri phủ Tân Bình, chẳng may giữa đường sớm mất, nói ra rơi lệ.

Thái từ họ Lâm được gia tặng Chánh nhị phẩm Đoan nhân. - Dâng biểu tâu : Nay kính gặp năm mừng, rộng ban ơn đặc cách : Tằng tổ của thần là Trần Nguyên... được tặng Trung Thuận đại phu Hàn lâm viện Thị độc Học sĩ.

Thần : - May ghé đặng giáp khoa; - Sớm ghi vào sĩ bản.

Tằng tổ tỉ của thần họ Nguyễn Văn được tặng Chánh Tứ phẩm Cung nhân.

- Tháng ngày góp lại thâm niên; - Tư cách nêu thành phẩm trật.

Tổ khảo của thần là Trần Sĩ... được tặng Gia nghị đại phu Thiêm sự phủ Thiêm sự.

sâu.

- Rảo bước theo đường vinh hiển; - Nhiều phen nhờ đội ơn Tự Đức năm thứ 5, thân phụ thần lúc đầu được tặng Hàn lâm viện thị độc, thân mẫu thần được phong Chánh ngũ phẩm Nghi nhân, năm thứ 12, năm thứ 22, thân phụ thần nhiều lần được gia tặng Thái bộc tự Khanh, Thiêm sự phủ Thiêm sự, thân mẫu thần gia phong Tòng Tam phẩm, Chánh Tam phẩm Thục nhân.

Tổ tỉ của thần họ Cao được tặng Chánh Tam phẩm Thục nhân. Thân phụ thần là Trần Bá... được gia tặng Tư Thiện đại phu Lễ bộ Thượng thư. Mẹ thần họ Lâm được gia tặng Chánh Nhị phẩm Đoan nhân.

Thần : Báo đền chưa chút mảy may; - Cảm kích thật không bờ bến.

Cáo sắc viết lên giấy vàng đốt cho mỗi vị một đạo rồi lạy đăng nhận cáo ở nơi thờ trong nhà, hương thơm đưa lên, tột cùng cảm kích, Thần thật mừng thật vui, kính dâng biểu thưa bày cảm tạ : 127


- Như nay suy yếu, tuổi đã về chiều; - Buổi ấy lo toan, việc khu quan trọng 294

- Vạc ghi chí hướng, đền ngay ba kiếp chẳng nề; - Chén rượu nghĩ ngơi, chúc tụng muôn năm sống mãi.

- Tài nhẹ mà gánh quá nặng; - Trí kém mà việc lại nhiều.

- Tìm trung trong hiếu, ngõ hầu không bỏ chí tiền nhân; Với nước cùng vui, may được gởi lời cho mãi mãi.

Binh làm sao cho mạnh, của làm sao cho đủ, biên giới làm sao cho yên, biên thùy cũ làm sao thu lại, ngững lên cửu trùng còn phải lo âu; - Nhìn lại phận thần khó từ trách nhiệm.

Đó là ước nguyện của thần vậy 301 . Có trời chứng giám, lòng Thần khư khư vinh hạnh chẳng xiết, cảm kích tột độ. Kính xin dâng biểu bày lòng cảm tạ.

- Dựa chổ không đáng dựa, trộm lo thẹn gánh mình mang; - Làm việc đáng nên làm, muốn khỏi hổ cùng ngày tháng.

- Kính khắc xong Đệ tam kỷ Thực lục chính biên hoàn thành, được ban yến, cho các vật hạng. Can việc kê khai nhầm số võ viên, bị phạt bổng 3 tháng ghi vào sách. Can việc đứng chung danh sách các người không nêu vụ án Bùi Viện, bị giáng 2 cấp lưu.

- Nay mừng gặp Khánh lễ; Được nhờ tam đại ân phong. - Vầng nhật chói trời, soi thấu ân đai chín suối; - Hạt mưa trên lá, 295 xanh tươi cây cối bao đời.

- Dâng sớ tâu : Thống chế quyền Chưởng Trung quân Đinh Hội, võ cử xuất thân, vào lính khoảng 40 năm nay, đáng nói là công lao tận tụy, nay 72 tuổi, bị cách về, chẳng khác gì một người dân quèn, xét về tình cũng khá đau xót, kính xin chuẩn cho giáng Đinh Hội làm Phó Vệ Uy Cấm binh, do Bộ chọn bổ. Trước đó, giá hạnh Thuận trực, Đinh Hội sung vào đội tòng giá, can tội bất kính (thuyền của Hội tới gần thuyền ngự) bị kết án miễn chức.

- Suối vàng thảy được gội nhuần; - nhà cửa càng thêm rạng rỡ. - Đãi ngộ ơn sâu đến thế ! ; - Báo đền mới tính sao đây ? Nay mọp nhờ Hoàng đế bệ hạ: - Rộng dung kẻ dưới; mẫu mực từ trong. ; - Chữ

- Tháng 8, vâng tuân ân chiếu nhân tết Vạn thọ, nguyên giáng 7 cấp lưu được đổi làm giáng 3 cấp lưu.

; chồng chất ngợi khen hoa

- Tháng 9, can viết phiếu nháp tỉnh Nghệ an xin phái lính thú không hợp, bị phạt bổng 3 tháng ghi vào sách.

- Nếu chết mà còn đặng biết, xin như Phụ thị để trị Đổ Hồi ;- Hiềm vì tài chẳng xứng ơn, luống thẹn Trọng Cung, so cùng Trần Kỷ 300 .

- Tháng 10, can việc phái người tu bổ 6 Bộ trễ nãi, bị phạt bổng 1 năm ghi vào sách.

- Sáng ngời chữ Hiếu, trị đời gốc tự thân thân thọ chói chang, ơn rải trước từ quý quý 296 - Gần gủi danh giá quế hoè cổn . 298

297

200

299

- Tháng 11, can việc lập bản thảo cho trường thi võ, không hạch đúng, bị phạt bổng 6 tháng ghi vào sách.

Thần chỉ có : - Ghi ơn xương cốt; - Báo đáp hết lòng.

Canh thìn năm Tự Đức thứ 33 (1880) Ông 68 tuổi. 128


- Tháng giêng, kính tuân ân chiếu Tết Nguyên đán, nguyên giáng 3 cấp lưu, được đổi làm giáng 1 cấp lưu.

đã quá lắm ! Không trừ tuyệt thì không thôi. Cơ mật viện phải trình rất gấp cho đầy đủ thoả đáng.

- Tháng 2, tiến con gái thứ 13 vào cung, tấn phong Quý nhân. Năm ngoái đã vâng sắc dụ tuyển vào cung nhưng ông xin triển hoãn. Năm nay mới chọn ngày lành vâng tiến như thế. Vâng mệnh cho nữ quan, nữ tỳ đem võng lọng, nghi trượng, nhã nhạc đón vào cung. Bấy giờ tuổi vừa 14. Vâng mệnh sai trung sứ cùng nữ quan đem một thoi vàng mười nặng 10 lạng, 1 xấp gấm ngũ sắc thượng hạng, thêm 4 xấp gấm đoạn có kim tuyến. Ông xin khước từ không nhận.

Bọn thần vâng xét bàn: Căn cứ theo án nêu thì bọn Hồng Diêu, Hồng Hoài đều vì ỷ thế làm ngang, trong đó Hồng Diêu chỉ có hai khoản là mượn ép thuyền người ta và bắt dân canh giữ, Hồng Hoài thì cưỡng lấy của dân, định cưỡng quả phụ, hiếp đánh người nhà giàu 302 , người ta không chịu nỗi đến nước chọn nỗi khổ bỏ của lìa nhà. Một khoản đốt nhà, tuy chưa thú nhận nhưng sự việc hiện có thì sự buông thói làm ác, so ra còn quá Hồng Diêu nhiều. Nguyên án xét vì đồng khoa e chưa phân biệt. Tôn Thất Sở khai lần này tuy không án nặng nhưng xét kỹ ra, y nguyên là hộ vệ, say rượu bị đuổi rồi can tội đốt cướp đàn chay đã bị trượng đồ (bẻ gông thả về) mà nay lại vấp lổi trước, đích thị là ỷ thế tới cùng ! Hỏi ra ai ai cũng đều nói rằng can phạm ấy rất là hung hãn, gí lửa lên thịt bảo người ta không được đi báo, có lần tra bằng roi cũng chẳng chịu khai thật, nghĩ không thể so với hạng ngoan cố, tàn ác tầm thường. Hai công tử ấy có càn quấy như thế, cũng do tên can phạm ấy dạy mà nên vậy. Rồi đây loại lêu lổng như thế càng đông, thế mà không trừng trị, bọn khác sẽ bắt chước e rồi đưa đến nỗi lo án rìu 303 , nói thế không phải là có ý buộc tội.

- Tháng 7, Lãnh sự Phú xin mua gạo xuất khẩu. Cơ mật viện tâu rằng ruộng vụ hè của 4 tỉnh Thanh hóa, Hưng yên, Sơn tây, Bắc ninh hơi ít, lại bị mưa lụt hao hụt, đang lo không đủ cái ăn. Xin hãy cho chờ giá 4 tỉnh Ninh bình, Hà nội, Hải dương giảm bớt đã. Nay xin tạm chờ hai tháng cho trọn tình hữu nghị láng giềng. Vua chuẩn y. - Tháng 9, vâng diện sắc có khoản: Bộ Binh việc nhiều, Lãnh Thượng thư Trần Tiễn… năm nay già yếu, bệnh tật, sức chẳng chịu lòng, công việc không khỏi ứ đọng. Vả lại chức trách của đại thần là không phải lo đến việc nhỏ nhặt. Các việc quan trọng như điều độ quân cơ, cất nhắc chỉ huy, sai phái chinh phạt mới nên bẩm bạch để xin quyết định, còn lại các việc khác hãy giao cho Tham tri, Thị lang họp bàn giải quyết ổn thỏa, đừng để sai sót. Khâm thử.

Về án dọa nạt người ta lấy của, tra luật đã có một khoản ghi rõ: phàm bọn ác ôn bày việc lừa việc quan hay dân, hoặc bày niêm yết, hoặc dọa nạt lấy của thì tội lớn thực ở hành vi côn đồ. Chuyện xảy ra thì không phân biệt là từng lấy được hay không lấy được của, kẻ cầm đầu bị tội chém tức khắc, kẻ tòng phạm thì giảo giam hậu. Bọn Hồng Hoài, Tôn Thất Sở xin đổi lại theo họ mẹ của chúng (xin để Tôn nhơn tư xét theo thực mà đổi) rồi chiếu theo lệ xử côn đồ mà kết tội chém tức khắc để dứt rễ ác, làm sáng tỏ ý răn đe. Hồng Diêu thì xin cũng đổi theo họ mẹ rồi kết án giảo giam hậu, giao y cho ngục thất phủ Thừa Thiên, vĩnh viễn xiềng giam.

- Cơ mật viện phúc trình: Đêm 23 tháng này có thể tiếp nhận công văn do Nội các sao lục tờ trình của 2 phủ Tôn nhơn và Thừa thiên giao xét: Đám công tử Hồng Diêu phạm tội hống hách sách nhiễu. Quan Nội các cũng kèm phiếu trình riêng. Kính vâng Châu phê : Ỷ thế buông tuồng cướp dân, 129


Còn bên nguyên cùng các khoản được Nội các xét lại đều đã thỏa hợp, xin y theo cái lẽ nên ở sau phiến, cũng là đã châm chước tình cảnh mà xét lời xin . Kính vâng Châu phê : Y theo lời xét. Trừ ác cốt cho hết. Hình phạt vì vậy mà không nhỏ. Nên trị 1 để cảnh cáo 100, buộc tội để thôi buộc tội. Bộ Hình giải quyết lập tức !

- Tháng 12, bộ Binh tâu : Nay xét Tham tán Trương Quang Đản dâng sớ tâu Lưu Vĩnh Phúc nhiều phen làm việc gian lao chưa được xét thưởng nên xin tâu thay nếu không cho về làm ruộng thì xin chờ được ân chuẩn giả hạn để lo cái việc về thăm gia đình, săn sóc phần mộ.

- Dâng phiến tâu : Ngày 23 tháng này, vâng đem phiến tâu của quan Thứ ở Nghĩa Định là Nguyễn Đăng Ngoạn cùng xét sớ xin vâng phiếu phiến, 1 phiến có châu phê điểm, lại 1 phiếu Châu phê : Trần khanh từng đến nơi ấy, điều đã trình về tình hình bọn mọi có đúng thế hay không, lại có nên giải quyết như thế hay không ?

Vâng xét Lưu Vĩnh Phúc do Hoàng Tá Viêm thu dụng, điều khiển, tình ý hạp nhau đã lâu, xin cho Tá Viêm sang Thái để tiện gần gũi đốc suất việc bắt lính, nhân tiện đem ý chuộng đức của triều đình giảng rõ khiến Vĩnh Phúc cảm ngộ, yên tâm đánh giặc. Kính vâng chuẩn y.

Kính tuân, Thần vâng xét bọn mọi ấy hoảng hốt bất thường, thoát phục tùng, thoát phản bạn, tất nên dùng oai mà chấn chỉnh mới khiến chúng sợ hải chịu phục. Năm trước, Thần kiêm lãnh 304 quân thứ Tĩnh man 3-4 tháng, hơi biết tình hình bọn chúng, đại lược như sớ ấy trình bày. Năm gần đây, quan quá cố là Nguyễn Tấn đã giải quyết cũng bằng cách dùng uy lực của quân đội gây chấn động cho chúng kinh hồn, cũng đạt được chút yên ổn. Nay quan thứ ở đấy dâng sớ tâu bày các khoản tình hình bọn mọi thần cùng bàn với các đồng sự, nghĩ nên chiếu theo lệ đã làm năm trước để đỡ trể nãi hao phí. Kính vâng chuẩn y.

- Bộ Binh tâu : Tháng chạp này chính là lúc các lễ tết cần nhiều binh lính mà binh số hiện có ít, xin đình các công trình vào ngày 21 này. Ra giêng, ngày mồng 8 hãy hoạt động như cũ.

- Tháng 11, dâng phiến tâu: Nay xét theo bản tâu của các quan tỉnh Hà nội, tỉnh ấy có 27 tên đỗ võ cử đều vì nhà nghèo, người thân già, xin ở lại cho tỉnh sai phái, học tập chờ khoa. Vâng xét, võ cử tất thảy đều lưu lại võ giám 305 học tập. Lúc đầu đặt ra cho phép tắc để chận cái sẽ xảy ra, ngăn ngừa cái nhỏ nhặt, vốn đã có ý sâu. Xin để cho quan tỉnh ở đấy xét sự thực đích xác, dù có người thân già nua mà là con thứ trong nhà thì cho ở lại tỉnh, ngoài ra đều phải tuân lệ vào võ giám học tập chờ khoa để ổn định cái chí kẻ sĩ. Kính vâng chuẩn y. Nguyễn Văn Tường 130


Bọn thần thì chức trách làm cho cách trở, thật khó nhất nhất quan tâm chu đáo hết được nên vâng bàn chung, xét thấy có được viên Lãnh binh tỉnh Nghệ an là Ngô Đạt vốn người cần mẫn biết chữ, khá am tường phép bắn đại bác, năm trước từng đã phái đi đàn áp 58 ở Qui lai, Lộ châu có cả năm trời, cũng biết qua tình thế, được ra giữ chức ngoài đã lâu ngày. Ngữa xin ân chuẩn cho viên ấy thăng đổi làm Phòng luyện để có người cùng lo. Còn như Tôn Thất Duyệt, sẽ do bộ Binh xét và xin giáng chỉ. Ngoài ra, thần là Trần Tiễn... với Ngô Đạt lại là chỗ bà con cô cậu, ngày thường cũng có biết viên ấy cần mẫn, có thể nhận được sai phái nhưng phận không dám tránh vâng bàn. Vâng Châu phê : Sẽ có chỉ riêng.

Tân tị năm Tự Đức thứ 34 (1881) Ông 69 tuổi. - Mồng 4 tháng giêng, con cả là Tuệ Giản phủ quân 277 mất. Vâng Dụ cho Lãnh Binh bộ Thượng thư đổi làm Quản lý Binh bộ sự vụ, các hàm vẫn như cũ (Tham tri Lê Hữu Tá được chuẩn cho làm Thự Binh bộ Thượng thư). - Tháng 2, Cơ mật viện phúc trình : Nay vâng tuân duyệt bản mật tâu của Phan Liêm về việc mở mang buôn bán cùng chuyên chung vốn đi buôn, khai mỏ và các khoản học tập. Vâng xét viên ấy trình bày không phải là không có kiến thức, trong đó, khoản mở mang buôn bán thì có chỗ không tiện làm, còn các khoản khác xin để các tỉnh xét kỹ đợi có người tự nguyện thì các tỉnh phúc về hãy xét liệu. Kính vâng Châu phê : Lão thành lo việc nước từng có ai không xét chín chắn nhưng cũng phải tính làm sao cho có thể ngày càng tiến bộ, không tiến là lùi vậy, sự thế vốn thế, nói suông có ích gì ! - Can việc cùng Viện bạc, Nội các giữ chức không thận trọng, Dụ chuẩn cho giáng 2 cấp lưu. - Tháng 4, Kính dâng Dụ có khoản : Cửa Thuận an là cửa ngõ của Kinh sư, Chánh sứ Trần Tiễn... tuổi cao sức giảm, không tiện đi về kiểm tra đốc thúc được, nhưng nơi ấy không thể bỏ trống. Nay chuẩn cho Thượng thư bộ Lại là Nguyễn Chánh kiêm sung Kinh kỳ hải phòng Phó sứ để tiện qua lại kiểm tra đốc suất bàn bạc cho xứng thỏa.

Phạm Thận Duật

- Tháng 5, cùng Hải phòng Phó sứ dâng sớ tâu : Vâng xét cửa Thuận an là cửa ngõ của Kinh sư, việc xếp đặt huấn luyện rất là quan trọng. Phải có kẻ võ viên cho trẻ, siêng tinh mẫn thì mới xứng việc được. Phòng luyện Tôn Thất Duyệt tuổi cao (68 tuổi) sức yếu, tuy có qui miễn 306 , e không theo lòng.

- Tháng 7, Cơ mật viện tâu: Nay vâng tuân xét bàn thêm về 4 khoản mật tâu của Thượng thư bộ Hình Phạm Thận Duật về việc lập kho nơi hiểm trở, dùng tiếp viện nhanh kịp thời cơ. Vâng xét các tỉnh lúc đầu sắp xếp đều chọn nơi hình thế núi sông tiện lợi, nay việc hải phòng đã không thể cậy hẳn thì các sở sơn phòng xét 131


nên sớm sửa chữa. Xin sắc xuống các quan Tỉnh quản lĩnh các sở ấy chịu trách nhiệm chung với quan ở đạo sơn phòng doanh điền 307 , xét rõ quả có hình thể đáng cậy thì sửa chữa thành trì, kho lẫm vững chắc đầy đủ. Xin lấy Đốc vũ kiêm sơn phòng 308 ở Thanh, Ninh 309 , nên đặt thêm Tuần vũ Bố chánh, xin khỏi phải bàn.

- Tháng 10, dâng phiến tâu: Từ Hi Hải cho đến Phổ lợi, róng gỗ trên sông của hai nơi ấy lâu nay đã bị khuyết răng đi nhiều, mà Phổ lợi phía trước có Cáp châu, phía sau có đồn Phổ lợi, đường sông lại có Lộ châu, có róng gỗ đủ để phòng bị, xin triệt về để khỏi trôi mất mà uổng phí.

Việc giang phòng rất trọng yếu. Chất đá lấp sông thì trở ngại cho việc chuyên chở buôn bán, mà tạo sẵn thuyền cho nhiều thì để lâu tất bị hà 310 , bị nát , chở đá khối tất chúng sinh nghi, gây nên bất tiện, xin để nơi nào có đường sông thì các quan tỉnh thân đến khám với danh nghĩa sửa chữa đê điều. Nơi nào bồi cạn có thể lấp được thì nhất nhất ghi chép rõ trượng thước, đến lúc cần, do các quan tỉnh sở tại tùy cơ lo liệu nghĩ cũng kịp. Gần đây các tỉnh chở gạo đã xin đóng thuyền, nay xin nhân đấy đóng sẵn, một là để chở, một là để gặp lúc thì lấy dùng để tiện tiếp viện nhanh, khoản này khá hợp với việc. Xin cho các tỉnh mật ghi để biết mà làm.

- Tháng 11, dâng phiến tâu: Róng gỗ lớp trên ở Hi du xin cho Hải phòng sứ sai binh thuyền nhổ lên. Xong việc, xin bộ Công cho người đến khám rồi đem số còn dùng được cắm điền thêm cho số róng gỗ ở Lộ châu. Kính vâng chuẩn y. - Kính vâng Dụ: Nguyên Tổng đốc sung Hiệp đốc là Tôn Thất Thuyết nay bệnh đã đỡ, được điều làm Thượng thư bộ Binh, trên thì có quản lý Trần Khanh, lão thành luyện đạt, lấy vốn liếng mà làm cho có chất tốt đẹp, dưới thì có người tham tá để bàn bạc cho khỏi lệch lạc. Còn Thự Binh bộ Thượng thư Lê Hữu Tá điều làm Thự Công bộ Thượng thư để mọi người đều được xứng đáng thích hợp.

Binh mà có súng nhỏ, lớn có thể làm cho hăng hái mà ngăn ngừa được từ tầm xa. Kể ra không phải để cho hay hơn mà là muốn dùng cho khác thứ, e không phải là hoàn toàn tốt. Xin để các địa phương có đủ thì luôn kiểm tra, bất cứ món khí cụ nào dùng để ngăn chống cùng các môn võ nghệ mà quân ta luyện tập, nên sớm dốc sức lo luyện tốt thêm cho tinh, vững nhuần nhuyễn để phòng khi hoãn, lúc gấp, bất tất qui định cứng nhắc là chỉ dùng thuẫn, kiếm, thước gỗ làm gì. Kính vâng Châu phê có khoản : Sao hết ra giao cho Đốc vũ các tỉnh mật xét mà thực sự lo liệu.

- Tháng 12, vâng ban một tấm Kim khánh hạng nhì của Y pha nho gửi tặng. Bấy giờ Y pha nho hiến tặng 1 tấm Kim khánh hạng nhất. Lại gửi tặng đại thần 1 tấm hạng nhì.

CHÚ THÍCH:

- Tháng 8, kính vâng chỉ chuẩn cho các phủ tỉnh 311 của Kỳ trực chế tạo phao nổi bằng gỗ - theo kiểu do ông nghĩ ra - thả ở mặt sông để phòng bị. Trước đó, ông chế ra kiểu ấy tiến dâng, trên thấy quan trọng cho phòng bị nên khen nhận, sau đó ra lệnh cho bộ Công đưa kiểu mua làm, đến lúc ấy lại sai chia ra các nơi chế tạo chở nộp để phòng sẵn lúc dùng. 312

132

275.

Đại tự tán : giúp đỡ, tham mưu việc tổ chức và thực hiện lễ cúng lớn nhất trong năm của triều đình. Nhờ vai trò đó, được chia phần thịt cúng (phúc tộ) .

276.

Lãnh Thượng thư : hàm cũ của cụ Trần là Tòng nhất, nay thăng Thự Văn minh là Chánh


nhất, trong khi Thượng thư chỉ hàm Chánh nhị, do đó Lãnh Thượng thư . 277.

Phủ quân : tước danh dùng tặng cho người chết mà lúc sống không có chức tước gì.

278.

Đạn : nguyên văn “bia”, người viết ghi chép sai nên chữa lại cho hợp ngữ cảnh.

279.

Tích linh : tên loài chim thường đậu ở bờ nước hình nhỏ như chim én, bay theo hình sóng gợn, tượng trưng cho anh em theo điển Kinh thi “Tích linh chi nguyên, huynh đệ cấp nạn”.

286. Ánh xuân : dịch chữ Thanh dương (ánh trời màu xanh) theo thuyết ngũ hành của vũ trụ quan nho gia, màu xanh thuộc phương Đông (đông phương Thanh đế) phương do vua xanh cai quản, từ đấy nảy sinh danh từ Đông quân (Đông quân sao khéo bất tình - Cung oán). Phương Đông lại thuộc mùa xuân (Đông phong → gió xuân) mà mùa xuân lại muôn hoa đua nở nên Đông quân cũng là chúa muôn hoa (Muôn hồng nghìn tía đua tươi, Chúa xuân chỉ hái 1-2 bông gần; khoảnh làm chi bấy chúa xuân, Chơi hoa cho rữa nhị dần lại thôi - Cung oán) . Thế cho nên Ánh xuân ở đây vừa chỉ tháng giêng của dịp Ngũ tuần đại khánh, vừa chỉ đích danh hoàng đế. Ngoài ra, từ Thanh dương còn chỉ cung vua ở vào mùa Xuân.

279a. Hiệp đốc mã: có lẽ là Mã Tư Nhất .

287. Quá phước : nguyên văn phước quá, nói tắc của “phước quá họa lai” (phước đi qua nhà, thì họa xảy tới) của chủ thuyết âm dương. Dịch quá phước không sát nghĩa nhưng s át tinh thần âm dương ấy : vượt quá phước tất là đi vào “đường ngắm” của họa.

280. Đại kế : theo Chu Lễ, cứ ba năm thì dựa vào sách các quan, kết toán (kế) công tội một lần để thưởng phạt. Triều Nguyễn cũng áp dụng lệ Đại Kế này. 281.

288. Tam thai : cũng đọc là Tam đài, tên chòm sao 6 ngôi, chia ra Thượng thai, Trung thai và Hạ thai. Vận dụng vào khoa phong thủy, cuộc đất Tam thai tiêu biểu cho Tam công (Thái úy Tư đồ - Tư không) ngụ ý thịnh trị.

Treo xe : không dùng xe quan nữa. Ý nói hưu trí .

282. Tư mã : Chức quan đầu ngành về quân sự thời thượng cổ Trung quốc. Về sau tên gọi ấy dùng cho nhiều chức vụ khác nhau. 283. già nua.

289. Nhân sau người đời : nguyên văn ‘’thế hậu nhân’’, chứa hai nghĩa đều sâu sắc : a/ đời sau mới ca ngợi là nhân. Chỉ Đức nhân lớn tầm cỡ chiến lược chứ không hẹp cỡ chiến thuật ; b/ bậc vương giả phải làm cho mọi người được nhân, phiên mình sau cùng, theo kiểu bồ tát, lại “kiêm thiện thiên hạ” theo đạo quân tử .

Nghe lặp : thính lực suy, nghe 1 lần chưa rõ, ngụ ý

284. Phầu tư : loại bình phong kiểu lưới chắn ở nơi vua làm việc. Khi các quan vào điện bẩm, theo lệ phải đứng đấy suy nghĩ, lựa lời đã.

290. Chú ý cách chơi trội của cụ Trần : đối ý chứ không thèm đối lời, bất chấp cả luật. Đau nhất là “móc lò” nhà vua ở câu “Làm hài lòng người thân thì cởi mối lo âu” !

285. Không hở : nguyên văn vô gián. Không hở tức là gần khít với nhau, mà gần khít là nghĩa của chữ thân mật, thủ pháp của cụ Trần tài tình là thế đấy.

291. Tiêu thuyền : có hai nghĩa nghe cùng có lý : a/ thuyền đi tuần; b/ thuyền chở 100 người. Xem chừng dùng nghĩa thứ hai, bởi 133


lẽ thuyền tuần đâu cần phải vẽ và đâu đến nỗi bị phạt ? Mẫu thuyền tuần có sẵn nhan nhãn chứ đâu phải chưa hề có ? Vẽ mẫu làm gì !

dặn chôn người thiếp theo. Khoả lấy cớ lời nói trước là trong lúc sáng suốt, lời nói sau trong lúc tỉnh lúc mê, nên gả chồng cho người thiếp ấy. Về sau Khoả cầm quân ra trận, gặp tướng địch rất dũng mãnh là Đỗ Hồi, bị Hồi rượt nhưng chính Hồi lại ngã ngựa bị Khoả quay lại giết chết. Quân sĩ báo là thấy có ông già chạy lom khom trước chân ngựa Đỗ Hồi. Đêm đến, Khoả chiêm bao thấy ông già bảo : Tôi họ Phụ, cảm ơn ngài giữ mạng sống cho con gái tôi nên lúc ban ngày tôi kết cỏ để làm vướng chân ngựa tướng giặc đấy !

292. Ấn quan, chức thú : quan có ấn, chức đầu ngành. Cấp bậc ngày xưa từ lớn xuống nhỏ có : ấn quan, kiềm quan đều sử dụng khuôn dấu khắc bằng đồng, trừ ấn vua đúc bằng vàng và to nhất (hơn 8 kg). Dưới Kiềm là triện dành cho Chánh tổng, Lý trưởng, lúc đầu còn phân biệt bằng gỗ. Vì vậy, lý trưởng áp triện còn gọi nôm na là đóng mộc. Chức thú na ná tầm Trưởng phòng ngày nay.

300. Trọng Cung, Trần Kỷ : Trọng Cung là học trò bậc cao của Khổng Tử, được thầy đánh giá là có thể làm vua được (khả sử nam diện) Trần Kỷ cũng là người thời Chiến quốc, rất có tài, được triệu làm quan nhưng từ khước. Cả 2 đều vui đạo thanh bần. Cụ Trần muốn nói rằng người ta có tài mà hổng trổ, mình không tài mà trổ bậy !

293. Cỏ chi, hoa quì : cỏ chi quí hiếm, do đó còn tên là linh chi, tượng trưng cho vua. Hoa quì có đặc tính hướng dương, mặt trời cũng tượng trưng cho vua nên hoa quì tượng trưng bề tôi. 294. Khu : cũng đọc là Xu, tên gọi tắt Cơ mật viện . 295. Hạt mưa trên lá : mưa tượng trưng cho ơn vua (vũ lộ: hạt mưa móc; móc là nước hay hơi nước tụ góp thành hạt) lá tượng trưng cho thế hệ. Họ Trần làm quan đã nhiều đời.

301. Tất cả những câu không in đậm là câu phi biền ngẫu trong nguyên tác, khi sử dụng phải in cỡ kiểu khác.

296. Quý quý : quý kẻ đáng quý, ở đây chỉ việc ban ơn có lựa chọn xứng đáng chứ không phải bừa bãi kiểu hôn quân.

302. Người nhà giàu : nguyên văn phú gia nhân. Đã đánh người thì chuyện giàu nghèo đâu thành vấn đề ? Đời nào mà pháp luật qui ra lệ ấy ? Do đó người dịch đoán rằng Phú gia nhân có lẽ là “gia nhân của người Phú” (Phú lãng sa: Pháp) !

297. Quế hoè : nguyên văn cức hoè. Cức hoè là loại cây gai cứng, gỗ dẻo mà chắc (hình như tên gọi của ta là ngành ngạnh) tượng trưng cho kẻ có bản lĩnh vững. Tạm thay bằng cây quế để giữ chất cho văn dịch. Hoè là cây có hoa dùng làm dược phẩm, có gỗ tốt, tượng trưng cho tài năng.

303. Nỗi lo cán rìu : nguyên văn phủ kha chi hoạn. Ở đây có lẽ muốn nói chuyện cướp vợ hay gian dâm nhưng lời lẽ một đại thần, lại đang phúc trình lên vua, lời lẽ sao cho khỏi phạm tội bất kính, (hết làm quan như chơi !) do đó Trần phải nói bóng gió không đạt lắm - bằng ý câu Kinh Thi : phạt kha như hà? - Phỉ phủ bất khắc. Thú thê như hà ? - Phỉ môi bất đắc. (đốn cán rìu như thế nào ? - Không búa không làm được. Cướp vợ thế nào ?- Không ông mai không xong)

298. Hoa cổn : áo được thiết kế thật rực rỡ để vua dùng trong đại lễ, chẳng hạn khi đăng quang vua đội mũ miện, mặc áo cổn (hoa hậu được trao “vương miện” vì tinh thần ấy) . 299. Phụ thị, Đỗ Hồi: theo điễn tích : Đời Chiến quốc, Ngụy Thù dặn em là Ngụy Khoả rằng sau khi mình chết thì cho người thiếp yêu của Thù đi lấy chồng. Nhưng khi sắp chết Thù lại đổi ý, 134


304. Kiêm lãnh : nguyên văn thừa phạp (nhân lúc thiếu) từa tựa ý “không chó bắt mèo”... dịch chữ không nôỉ đành dịch ý. 305. Võ giám : quốc tử giám bên võ. 306. Qui miễn : gắng kiểu rùa, một cách nặng nề cực nhọc. Ỳ ạch nhưng chẳng đáng mấy. 307. Sơn phòng doanh điền : hình thức tổ chức vừa khai hoang vừa chiến đấu. Do đó xuất hiện danh từ đồn điền. Còn tư nhân khẩn hoang thuần kinh tế thì gọi là Nhàn điền. Ngày nay chỉ có các cụ đại lớn tuổi mới còn phân biệt nổi 2 danh từ ấy. 308. Đốc vũ : quan đầu tỉnh, Tổng đốc hay Tuần vũ. Tuần vũ còn gọi là Tuần phủ. Do đó Pháp đẻ ra ngạch Đốc phủ sứ.

***********************

309. Thanh Ninh : Thanh hoá, Ninh bình, 2 tỉnh có sông lớn, tàu thủy có thể vào được.

NIÊN BIỂU VĂN NGHỊ CÔNG TRẦN-TIỄN THÀNH (1813-1883)

310. Hà : con tôm. Nhưng ở đây tác giả lại dùng chỉ con hàu, thuộc họ sò ốc, thủ phạm phá hoại tàu thuyền, chứ tôm thì vô tội. 311. Phủ tỉnh : phủ Thừa thiên và các tỉnh.

**************************************

312. Kỳ trực : trực thuộc Kinh kỳ. Đời nhà Nguyễn, 1 số tỉnh ở gần Kinh kỳ chịu sự quản lý trực tiếp của triều đình trung ương như Quảng nam, Quảng ngãi (Hữu trực kỳ), Quảng trị, Quảng bình (Tả trực kỳ) .

* NGUYÊN VĂN TIẾNG HÁN (1894) : MINH XUYÊN TRẦN -TIỄN HỐI * DỊCH VÀ CHÚ THÍCH (1994) : VŨ BẠCH NGÔ * SỬA BẢN VI TÍNH (8/2001) : TRẦN – TIỄN TIẾN

***

**************************************

135


QUYỂN VI Nhâm ngọ năm Tự Đức thứ 35 (1882) Ông 70 tuổi . - Tháng giêng, tuân sắc phái Khâm thiên giám kính kiểm mặt sau Xương lăng trồng thêm tùng, xem có xanh tốt hay không để tâu lên. Từ nay trở đi, vâng phái kiểm tra mỗi tháng. Cùng Phó sứ hải phòng là Nguyễn Hanh, Nguyễn Chánh, xin rút phái viên và lính đi đồn mới Lộ châu làm tiếp lớp móng bằng đá ong cùng đắp thêm đất. Hạn trong tháng 3 phải hoàn chỉnh một loạt cho tiện phái lính đặt súng để việc phòng bị được nghiêm túc. - Tháng 2, cùng Phó sứ hải phòng tâu : Vâng xét đường sông Lộ châu là đường quan trọng hiểm vào sâu đất liền. Năm 27, vâng chuẩn để cho trống lòng sông 10 trượng, hai bên đều làm róng chắc, đắp đê nhiều lần đã dựng róng gỗ mà thân đê vật liệu nhiều mà nặng, đã 9 năm nay Bộ thần chuẩn bị chưa được đủ để làm nên đê ấy, chưa biết năm nào có thể dựng đắp được. Nay kiểm lại nguyên số cọc chắc, có hơn 3480 cây, bị gió và nước lụt làm gãy, mất, hiện chỉ còn lại hơn 800 cọc rất là thưa thớt. Nay xét nên để lại số róng gỗ hai bên tả hữu phía trái hạ lưu, trừ lòng sông chừa trống 10 trượng cùng hai bên tả hữu gần nước sâu trên dưới 1 thước,74 ngoài ra, hai bên nên làm rọ gỗ, đổ đầy đá núi, bày làm hai hàng chầu nhau kiểu răng chó để khi nước chảy, mực nước chỉ còn cao hơn rọ chừng 7-8 tấc 74 thì nước sẽ tràn qua đầu rọ, chắc thuyền nhỏ đã khó đi qua. Sức cho đo róng gỗ hai bên dài tổng cộng 96 trượng, cần có hơn 200 rọ gỗ. Tra ra, năm trước đường sông Qui thuận đã vâng cắm cọc bày rọ, tiếp đó dời qua cắm ở Lộ châu, số rọ đá trồi bên bờ đem về đặt lại.

Bản đồ Hà Nội năm 1873 do Phạm Đình Bách vẽ

Xin để bộ Công của thần phái nhân viên ra cùng cấp thợ chung sức với bọn Ngô Đạt là Phòng tham rút 200 biền binh, rút lấy số gỗ ở đồn Lộ châu hiện giữ đem bán hơn 200 cây, đoạn nào còn chắc, 136


thực sự dùng lại được, cùng chi ra số vật hạng trong kho, dùng gỗ chắc chế tạo rọ gỗ thêm số lượng chiếu khoản thả chìm cùng chở đá núi ở bờ sông chở đầy vào rọ cho chắc để phòng bị nghiêm chỉnh. Kính vâng chuẩn y. - Tháng 3, Cơ mật viện tâu: Trước đây, vâng chuẩn cho 2 tỉnh Hà Đông 313 bàn xin ủy cho một viên đại thần ra ngoài ấy cũng lo việc phòng giữ một nơi trọng yếu. Nay xin bên trong thì dự bị chỉnh đốn lính tráng, súng ống, bên ngoài thì bí mật kết liên với thân hào cùng đoàn ngũ hoá con em họ đến lúc cần thì trong ngoài giúp nhau có được nhiều cách lừa địch. Còn như các khoản xây dựng phòng ngự thì nên ngừng lại để khỏi bị nghi ngờ, mang lỗi. Kính vâng chuẩn cho chép ra ngay để biết mà làm. - Bộ Binh tâu: Vừa rồi trong công tác huấn luyện nhiều mặt, binh lính có ít, xin rút thêm số bộ binh 2.400 tên, đợi quan Giảng võ diễn tập ở ngoài quách Tây nam 314 để chuẩn bị cho việc phòng thủ. Kính vâng chuẩn y.

Hoàng Diệu

- Bộ Binh tâu: Nay vâng sắc có một khoản : Bộ Binh xét chính xác số võ biền quả thật khoẻ mạnh, được việc thì cho thăng chức. Nếu đủ thâm niên mà tầm thường, già yếu thì ngưng thăng. Vâng tuân, Bộ thần vâng xét, theo lệ các võ cử phần nhiều bổ ở ngoài, còn bổ cho chức vụ ở Kinh thì không có mấy, đưa đến cảnh quan ở Kinh ít có người cường tráng. Xin về sau những võ cử nào tài nghệ vững hơn thì rút bổ ở Kinh, làm suất đội ở các doanh để lo việc huấn luyện.

- Người Pháp đánh chiếm tỉnh thành Hà nội. Tổng đốc Hoàng Diệu tự vẫn.

-Vâng ngưng việc đắp lũy thêm binh ở cửa Thuận an phòng bị kỹ, sứ Pháp có lời bực bội trách cãi mà các quan ngoài Kinh lại nhiều người dâng thư lên đòi đánh. Thương bạc Cơ mật viện tâu : Vâng xét điều các quan nói, xét ra thời thế chưa phải là hợp với kế sách mà việc hải phòng hiện chưa vững mạnh, sửa chữa thêm cũng chưa chắc vững vàng xong xuôi được. Để cho người ta thấy việc sửa chữa đó luống chỉ gây thêm nghi ngờ, xin ngừng đắp lũy mới Thuận an mà triệt về Kinh tất cả số biền binh tăng phái để chuyên lo tập luyện. Nguyên số lính đó cũng do Hải phòng huấn luyện. Còn như các thứ rọ đá, bè nổi thì cứ tu bổ chỉnh tề để nuôi sức lính của ta mà 137


khiến cho chúng khó dò. Kính vâng chuẩn y. Tuân dụ cử Nguyễn Văn Thi làm Tham biện hải phòng Thuận an, Lê Đại lãnh chủ sự quyền sung Viên ngoại lang bộ Binh có thể làm nổi ấn quan. Kính vâng chuẩn y.

thứ gỗ tạp dễ nổi, không những không bền chắc mà còn bị nước mặn, hàu dễ ăn, một khi gặp sóng, gió lụt lội mà bị lay nhổ trôi mất, khiến số binh biền canh giữ nhiều lần phải chịu tội bồi thường thật khổ. Lại như gần đây chia phát các loại gỗ chắc để làm rọ, nay cũng giao phát gỗ tạp dễ nổi ấy để làm. Hễ không làm thì không lấy gì phòng bị, làm thì chẳng bao lâu lại hư phí, bọn thần trộm có nổi lo. Ngữa xin sắc cho Bộ ấy mua ngay thật gấp, thật nhiều gỗ chắc, phát ra để cắm, may được kiên cố. Kính vâng Châu phê: Bộ Công đích thân đến đấy kiểm tra lo liệu ngay.

- Lại vâng Châu phê: Kiếm người thờ vua là chức năng của đại thần vậy. Khanh trước đây chỉ đề cử hỏng một Trần Văn Tuy, sao quá lâu mới thấy có đề cử, cũng thật quá thận trọng, nhưng phải có tài lớn mới dùng nổi vào việc lớn xứng đáng, há như chỉ coi mặt, nhặt nhạnh thứ tầm thường hay sao ? Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Chánh, Tôn Thất Thuyết, những người khanh đã cử lâu nay đấy, ý lại còn thận trọng việc đề cử hay sao ? Trẫm bảo cả cho biết đấy !

- Dâng phiến tâu: Nay vâng chuẩn phái điều đọng biền binh đắp lũy mới, được thưởng một tháng lương gạo tiền, nhân đấy trộm nghĩ, xét thấy lâu nay biền binh làm việc thường hay đổi thay do đau ốm hoặc bỏ trốn, phải đưa binh khác đến lo giúp. Nếu nhất luật thưởng trước thì kẻ ốm kẻ trốn đã tiêu mất mà kẻ thay thế sau đó không được hưởng ơn.

- Cùng Phó sứ hải phòng dâng phiến trình : Nay tiếp được Nội các chép giao phiếu xin các việc của khoa đạo Trần Danh Trứ tuần tra cửa Thuận an. Kính vâng Châu phê : Giao cho Hải phòng xem có hợp hay không rồi trình lên. Bọn thần tuân vâng bàn xét:

Nay xin chiếu số tiền thưởng bao nhiêu trừ quản suất là chức không chuyển đổi nên được lãnh, ngoài ra từ đội trưởng trở xuống thì tiền thưởng do người đốc suất lãnh cả, đem đến công sở cất, chiếu theo từng việc mà ứng trực tiếp trong từng đợt 5 ngày hay 10 ngày một lần, mỗi lần 1, 2, 3, mạch 178 cho thích hợp để khuyến khích sự ganh đua, được hưởng nhuần gội cho nhanh việc, nhưng mỗi lần thưởng bao nhiêu thì để cho bọn thần kiêm lo đầy đủ. Kính vâng Châu phê : Sắp tới, các công trường có thưởng sẽ theo đó mà làm, nhưng Đổng lý, Quản chưởng tất phải thực lòng thương xót mới được gội nhuần đều khắp.

Về lũy mới Lộ châu, nguyên thần là Trần Tiễn... xét thấy chỗ móng cũ của bờ thành Trấn hải, từ đáy hào đến mặt tường là một loạt móng xiên, không có chỗ đặt bàn chân cho nên thấy thân thành cao, nghĩ cũng hiểm trở. Xin y cách ấy làm móng, chỉ ngặt là chỗ ấy lại là đất bồi phía dưới là bùn non còn chưa kết chặt, các Tham biện hải phòng ở quân thứ đắp chân lũy không biết móc bùn non ra, độn cát chắc vào cùng đóng sâu mấy hàng cừ gỗ bên ngoài chân để giữ. Chỉ vì gần đây mưa nhiều, nước ở hào chưa rút thấp cho nên chưa thể khởi công. Phải chờ cho nước cạn, vét bùn, độn cát, lo sao cho hợp. Lại như rọ đá vốn nặng, khó trôi dời, thấy rõ năm trước thả nhiều ở đường sông Qui thuận, Hi hải đã 5-6 năm, róng gỗ trôi mất, rọ đá vẫn như cũ, đã thấy như thế.

- Tháng 4, dâng phiến tâu: Ngày mồng 4 tháng này có tiếp Thái giám Hoàng Trạc giao một bản thư mật của Trương Đăng Đạo chuyển truyền, vâng sắc giao cho thần xét kỹ có nên để cho viên ấy đến khám hình thế các đồn lũy thì dâng phiến phúc đáp chờ chuẩn y.

Huống chi gần đây vâng lo làm những vòng đinh sắt xâu liền nhau cũng chắc chắn không lo ngại. Chỉ có róng gỗ, nhiều lần quan hải phòng đều xin những loại gỗ cứng ghép cho thật bền chắc chịu nổi nước xô. Đã nhiều lần bộ Công thu mua trâm, sến, bời lời, các

Thần vâng xét : Trương Đăng Đạo là con của cố lãnh binh Trương Đăng Tiến, nay y tâu bày rằng từng theo thân phụ y làm 138


việc nên biết qua hình thế đồn lũy, xin nên cho y đi kiểm xem có xét thấy gì xin bẩm minh bạch, sẽ do bọn hải phòng của thần dâng phiến phúc trình. Xin chờ chỉ dụ để vâng liệu. Kính vâng Châu điểm.

thì xin tiếp tục biên soạn mới được thỏa hợp. Kính vâng chuẩn y. Lại vâng Châu phê : Phải thật tinh mới khắc, tránh sai sót như Việt sử cũ.

- Tháng 5, kính vâng Dụ : Nay Trẫm vâng từ giá hạnh 315 nghỉ hè tại Thuận an, duyệt việc hải phòng, nhân đấy nghĩ đến các viên biền coi sóc đôn đốc việc phòng giữ cửa ấy cùng cửa Tư hiền đã siêng năng nhọc nhằn nên đã chuẩn cho bộ Binh tâu xét xem kỹ từ chánh phó sứ cho đến lính tráng cùng thợ thuyền ở các cục đều được thưởng một tháng tiền lương dùng tỏ lòng thông cảm 317 .

- Dâng phiến tâu: Quãng giữa hai đồn Phụ an, Vinh hòa của cửa Tư hiền xin đặt thêm 1 đồn, lại nhân hình thế cồn cát ở đó làm nền đặt súng để dự bị bắn khi gặp lúc. Lại có một chỗ khá rộng gần cửa biển, nên đặt thêm một lũy hình vành cung, đắp cả nền súng để lúc cần thì đặt súng phòng ngự để làm một thế ỷ dốc với đồn giữa. Làm như thế thì trong sông ngoài biển đều có thể phòng giữ mà cửa biển có chổ để gọi tiếp ứng. Kính vâng chuẩn y.

316

- Tháng 6, cùng Phó Tổng tài sử quán là Lê Hữu Tá dâng phiến tâu : Sứ quán bọn thần vâng soạn Đại Nam nhất thống chí, trong đó phủ Thừa của Kinh sư cùng 30 tỉnh, đóng thành 47 cuốn, hiện vâng xét viết, việc xong nghĩ nên viết tinh bản thảo trình dâng chờ vâng khắc in cho khỏi chậm trễ. Duy tra ra, quán bọn thần năm trước vâng đem bản thảo ấy dâng xem nhiều lượt, vâng phê phán chỉ bảo các việc. Bọn thần tuân vâng đem bản thảo ấy xem lại rất kỹ, không thể không nghĩ lại : trộm xét bản ấy các mục khá nhiều từng vâng kê tra chưa thật xác tỏ, cùng trong sách có ba tỉnh Quảng trị, Phú yên, Hà tỉnh, bản thảo dựa theo năm 18 về trước, lúc ấy ba tỉnh hiện lập làm đạo gồm cùng phủ Thừa, Bình định, Nghệ an làm một. Nay nhân ba tỉnh lập lại đã lâu ( năm 21 vâng cho lập lại) nếu vẫn đem bản thảo ấy khắc in thì phủ Thừa với 5 tỉnh ấy bày chung làm 3 mục, chưa được sáng sủa. Nay xin chia làm 6 để có biện biệt. Ngoài ra như các tỉnh Hà nội, Ninh bình, Sơn tây, Bắc ninh, trong đó các phủ huyện có chia, hợp, đều xin chữa lại theo sự thực.

Súng thần công triều Nguyễn

- Cùng Phó sứ hải phòng tâu: Vâng xét hình thế lũy mới Lộ châu, thần là Trần Tiễn... đã phúc trình minh bạch, ngữa mong tỏ tường, duy trộm thấy lũy cao hào sâu, binh gia cho là hiểm yếu, nhưng xét ra lũy ấy là phòng giữ mặt sông, làm cao thì bắn không đắc lực, thêm bậc chân thì thân lũy hóa thấp, người ta dễ leo lên. Kinh nghiệm năm ngoái ở đồn lớn Gia định, chúng bắc thang làm chân đồn leo lên hãm thành. Nay vâng xét qui cách của thành Trấn hải, nghĩ rằng thành có chân không hiểm trở bằng thành không chân, nhưng dưới nền đất bùn non còn nhiều, lần ấy làm móng lũy lại đắp chân sơ sài, huống chi lũy ấy cứ đến mùa mưa lụt thì sóng gió ngày đêm vây lũy vỗ đập mà lớp móng mới làm, vôi mật chưa kịp chắc chất đất chưa cứng, không khỏi bị sập lỡ ít nhiều.

Xét lại mục nhân vật trong bản thảo ấy, từ năm 18 về trước, số trung thần nghĩa sĩ bị sót lọt còn nhiều, cùng từ năm 18 đến nay cũng đã lâu ngày, trong đó có nhiều người đã quá cố mà người đáng viết thành truyện cũng có, nếu dựa bản thảo mà khắc in e không chu đáo thỏa đáng. Nay xin chiếu năm 18 về trước, nhân vật nào còn sót thì xin làm bô sung, còn từ năm 18 đến nay ai đã qua đời mà nên ghi vào 139


Nay bọn thần thiển nghĩ, lũy ấy ba mặt hiện đã xây móng xong, chỉ còn mặt sau chưa xong thì công trình đã được hơn nửa, lúc này nắng ráo, nước hào cạn rặt, nếu không kịp làm sớm e đến thu đông mưa lụt lại sập lỡ hao phí nhiều thêm. Gần đây số biền binh ở các đồn lũy đến hơn 2450 người, trừ các pháo thủ thần cơ ra, các sắc biền binh thủy bộ hơn 1900 người, chỉ có học tập phòng thủ chứ không việc gì cho lắm, xin nên rút phái 300, từ từ làm chân hào cùng mặt sau thân lũy cho kịp đặt pháo trong mùa tạnh ráo, còn lũy sau cùng kho thuốc đạn thì năm tới sẽ làm tiếp. Số biền binh lo việc thì cứ 10 ngày hay nửa tháng, chiếu theo công việc, cứ thấy biền binh hơi lộ vẻ mệt mỏi thì rút về học tập phòng bị, đổi 300 khác để đều nhọc hay khoẻ như nhau.

là người trầm mặc mà có lòng sâu kín, lại am tường tình thế Bắc kỳ hơn, lại nữa sung giữ chức Viện lâu ngày, nhiều lần cùng bàn bạc với bọn thần nhiều điều bổ ích về Cơ vụ, nên lưu viên ấy lại Viện để bàn bạc. Kính vâng Châu phê riêng. - Tháng 7 dâng phiến tâu: Ấn thư cuộc của Sử quán thần việc khắc in nhiều, không có một người lo đôc suất việc ấy thì viên kiểm hiệu cùng các viên bát, cửu phẩm đốc sức thợ khó nhanh chóng nay xin bắt chước y năm trước, cuộc ấy đặt chế độ Viên ngoại, đặt riêng một viên Biên tu, hằng ngày ở tại cuộc ấy làm Kiểm hiệu tra bản chính kiêm đốc sức các thợ cho không bỏ việc, thiếu mặt. Lại nữa, các quyển những bài phú nổi tiếng xét ra là phú tám vần sáo cũ, sĩ tử ít ai muốn in, nghĩ nên ngừng khắc cho đỡ phí. Lại một bộ Văn thể tứ trường, ván khắc hẹp so với các hiệu sách, có lúc mướn in trả tiền, xin giảm phân nửa so với các hiệu sách để sĩ tử vui lòng thuê in cho được rộng rãi việc truyền bá. Kính vâng chuẩn y. Lại vâng Châu phê : Biên tu đổi làm Kiểm tu.

Lại chân lũy ấy lát bằng đá núi cao 4 thước 74 nay xin nhắm từ chân lũy rộng ra lòng hào 5 thước đóng vài ba hàng cọc gỗ cao hơn 2 thước cho nước hào tràn qua được, phía trong cọc gỗ thì chồng đá núi rộng 2 thước, cao ngang với cọc, phía trong đá núi thì lấp bằng cát, bề rộng 3 thưóc, cọng là 5 thuớc để trộn với bùn non ở dưới lắng xuống bền chắc, cùng với hào ấy vốn đã xin mở rộng 2 trượng, nay xin mở rộng thêm 2 trượng nữa cọng thành 4 trượng để được hiểm trở hơn, lại có thể lấy đất bồi đắp mặt sau thân lũy cho gần. Kính vâng Châu phê : Kẻ phúc trình hẵn là rõ việc, Hãy quyết chắc. Chớ có làm thử.

-Tháng 8, cùng Phó sứ hải phòng dâng phiến tâu: Trước đây vâng tuân xét phòng đặt súng cùng xin trình các khoản, trong đó có xin đào hồ lớn, dời Quan hải lâu 318 , đặt thêm đường chuyển súng, đều được Châu phê dấu chấm. Đến như khoản làm phòng đặt súng, kính vâng Châu phê các lẽ. Lại vâng phê bảo về kiểu phòng.

- Cùng Nguyễn Văn Tường dâng phiến phúc trình: Mồng 2 tháng này, Phạm Thận Duật dâng phiến xin cho Tôn Thất Thuyết sung chức ở Viện. Vâng chỉ phê cho thần, Trần Tiễn..., Nguyễn Văn Tường xem việc đó thế nào.

Vâng tuân, bọn thần kính xét: Kiểu phòng thì lúc lâm sự tiến lùi đều được rộng rãi, vật liệu để làm phải ít và tiện lợi, mà phải có ụ ngăn cách cho khỏi bị tạc đạn đánh thông suốt. Bọn thần mới đầu nghĩ có ngu ngốc rằng ngón sở trường của bọn chúng chỉ dựa vào tàu vững chắc cùng súng lợi hại. Súng của chúng đã lớn lại bắn xa toàn tạc đạn, rơi phá nhiều, gây hại lớn. Nếu bọn chúng ở ngoài xa, dùng súng lớn lên tiếng trước thì đạn dược các súng, biền binh các lũy phải có phòng che giấu, nằm phục cho tim được trấn định, vạn nhất hữu sự thì các cổ súng đều đã sửa soạn đàng hoàng, chỉ để lại một bác thủ

Bọn thần cũng bàn kỹ, trộm thấy vừa qua việc của Cơ mật viện quá nhiều, Tôn Thất Thuyết là người Tôn phả, ưu ái càng mật thiết, hiện nắm bộ Binh lại kiêm Phòng luyện, vốn rành việc Cơ mật nếu được chuẩn cho viên ấy kiêm sung chức Viện, nhiều người cùng bàn với nhau may cũng giúp được nhau, còn như Phạm Thận Duật 140


nhiều khó khăn, Hoàng thượng lòng dạ ngỗn ngang khó nghĩ, tích chứa mối lo thành bệnh đã không phải một ngày vậy.

cùng một vài khán thủ, còn bao nhiêu đều ẩn trú ở phòng binh khỏi phải xúm nhiều người mà sinh những lo ngại khác. Nếu đến đúng tầm súng thì người người tất ló thân ra bắn. Nếu không may thì thôi, còn được may thì khỏi chết, phải lo bắn, há dám né tránh, bằng không thì tạc đạn lên tiếng trước ấy rơi xuống, hoặc bắn hàng ngang, hoặc bắn nhảy tới, một phòng bị thương, các phòng đều khiếp trước thì khi phải dùng, khó mà đắc lực. Kính vâng Châu phê : Nên xét kỹ, như thế nào đỡ được chút ít thì quyết định. Cốt là ở đó.

Nay khánh tiết đã quá ngũ tuần, tuy bẩm thọ như người xưa cũng gọi là đã suy phân nửa. Huống chi sau khi nhọc lâu ngày gần đây còn nhiều việc Cơ mật nữa, bọn thần cùng bàn nhau, từng lấy làm lo. Từ 2-3 tháng nay, vẻ tươi tắn yên ổn của bệ hạ chưa được như trước, phương thuốc của quan Thái y còn chậm thấy công hiệu. Bọn thần đã hỏi Viện ấy cùng kê cứu các phương thư 319 nghĩ cũng chỉ bổ hư chứ không có phép nào chữa nhanh được. Vả khí vận, sự thế ngày nay như vậy các nước cùng như thế cả, tựa như không phải đem sức riêng của nước mình mà sớm giải quyết được vận lớn ấy, cúi xin Hoàng thượng thư thái nỗi niềm, tĩnh tâm điều trị, hoặc 5-3 ngày hãy chầu một lần, hoặc nhân lúc tạnh trời mà tuần du để tiêu u uất. Nỗi lo của Hoàng thượng mà thư được thì thuốc quí mới tiến theo, tinh thần khoẻ lên ngày càng tăng hơn trước thì lời tung hô chúc mừng mới làm hân hoan bọn thần vậy. Đó là phúc của xã tắc, phúc của sinh linh, bọn thần rất trông mong vậy. Còn như bọn thần, lạm dự hàng danh vọng mà nửa mưu không có, để mối lo đến như thế, tội chẳng xiết nói, lòng cứ khư khư không ngớt. Kính vâng Châu phê : Quân thần tuy là nghĩa mà cũng là tình nếu hoàn toàn không có tình thì không phải là người, nhưng thời thế, tâm sự như vậy ai cũng biết, trẫm không phải gỗ đá, Tiên Phật, làm sao quên được nỗi niềm ? Cực lực mà lo còn e không xong, huống chi không để ý được ư ? Nếu không thể giải quyết thì chỉ còn nhớ lời Ôn công 320 đem việc nước nhờ thân bề tôi, buông mình cho thuốc men vậy. - Tháng 9, dâng phiến tâu: Tháng 6 năm nay, Phó sứ Nguyễn Hanh đem các sắc biền binh Thuận an mỗi tháng phái chừng 100 tên lên núi đốn cừ, cọc, cắt cỏ tranh, có xin trình mọi việc. Trên mặt phiến, kính vâng Châu phê : Chuyện ấy không thể không làm. Lâu nay làm như thế nào, Trần khanh đã thông thuộc, lại các tháng 9-10,

- Cùng Nguyễn Văn Tường, Phạm Thận Duật, Đoàn Văn Bình, Tôn Thất Thuyết dâng phiến tâu: Trộm thấy trị bệnh nên dựa vào thuốc men mà công sức điều trị cũng chiếm phân nửa. Từ khi lên ngôi đến nay, phải lo lắng bên trong, lo bên ngoài, thời sự có 141


làm sao phái đốn nổi ? Nên dự bị chứ ! Xét tâu đừng lạm thì các đồn sông cũng ở trong số ấy, sao lại chưa tâu rõ ?

mà sức không gắng nổi, hoặc thời chưa đủ không thể không cất công làm hoặc thế ngăn trở khó mà giải quyết, lừng khừng lúng túng 182 tháng năm, luống phục trách nhiệm được giao, thực do tài lực có phần thiếu khả năng chứ không phải dám làm ngơ 321 mà không lo vậy.

Vâng tuân, thần trộm xét các đồn lũy Thuận an đi đến núi khá xa, các thứ gỗ cừ, tranh núi cùng củi đóm là thứ phải cần đến, nếu không đốn để dự trử thì lúc cần không lấy gì mà dùng. Trong quân không vật gì là không lo sẵn. Năm trước thần vâng trú ở Cửa, số binh nhiều hơn, mỗi tháng thường có phái luân phiên, rút ở các đồn 1-2 trăm biền binh, thường ở lại trên núi đốn, lấy sau chuyển về chi dùng, có dư ra thì sức giao cho Cửa cất, chờ có chỗ nào cần thì lấy phát ngay.

Gần đây vâng thấy Hoàng thượng chứa chất lo âu nên sinh bệnh hoạn. Thái y điều trị chưa thấy công hiệu, bọn thần lo lắng sâu sắc, không biết làm gì. Nghĩ rằng những năm gần đây việc nhiều, cửu trùng nhọc nhằn dồn nén đã lâu, nếu không mở rộng nỗi lòng cho tinh thần cùng tình cảm được thoải mái như sách thuốc đã nói, chữa thuốc e chậm trễ.

Gần đây, các thành đồn thường có ngầm sai 1-2 trăm biền binh đốn củi đóm về dùng. Như có việc gì cần lo, cần dùng thì sai riêng xin phép riêng. Phái đi nhiều đến nỗi bê trễ việc tuần giữ. Nay Phó sứ Nguyễn Hanh xin rõ để có hạn chế bớt, nghĩ nên căn cứ hiện tình mà xét và giải quyết. Kính vâng Châu phê : Cứ làm. Đừng sinh bậy.

Lại đọc Hán thư, thấy vua Quang Vũ có hôm ăn cơm ở tị điện, bị ngất ở mái hiên, các quan khuyên vua đi chơi đến Chương Lăng ở lại đấy rồi bình phục, bởi vì bệnh ưu uất gặp gió thì thoải mái vậy. Vâng thấy Hoàng thượng hôm trước bị ngất, nay lại nhọc mệt, nghĩ cũng do ưu uất mà đến nỗi ấy cho nên bàn nhau xin nhân lúc rỗi đi dạo chơi. Chỉ vì muốn cho bệnh ngài ngự sớm đỡ mà không dè lời lẽ có hơi viển vông mà lại mạo muội lo lắng việc đại nghĩa. Nay vì Viện ấy chấp đàn 323 , xin vạn lần cam chịu gán tội. Còn như những việc vạch ra trong mấy ngày qua, bọn thần từ lâu đã suy nghĩ rất nhiều mà chưa đạt được mức cần thiết. Nay Viện ấy đã lấy đó mà nói, tất là có định kiến. Xin để Viện ấy dựa vào từng khoản mà trình bày rõ cho, xin vâng chờ thể trí 324 .

- Cùng Nguyễn Văn Tường, Phạm Thận Duật, Đoàn Văn Bình, Tôn Thất Thuyết dâng phiến tâu : Mồng 1 tháng này vâng giao ra Đô sát viện là bọn Lâm Hoằng phiến trình: Trước đây, hạ thần dâng phiến, trước là nói về khí vận, tiếp theo nói về tuần du, cuối cùng là nửa mưu cũng không có. Xin chờ vâng nghiêm trách. Bọn thần hợp lòng cùng lo ngại về những việc đã đảm đương mà vạch ra để trù tính tâu xin giải quyết mọi mặt. Bọn thần trộm thấy lúc nầy bốn phương nhiều lũy, chúa lo tôi nhục, tình nghĩa cùng bổn phận là vậy. Bọn thần tuy ngu ngốc cũng hơi biết nghĩa ấy, chưa từng dám ngơ quên việc củng cố nhân sự để vãn hồi khí hoá như lời dạy rất đúng xưa nay, cũng không phải không muốn nhón gót mà mến để báo ơn chúa mà làm hết chức năng kẻ bề tôi, chỉ vì kém tài kinh luân, gặp lúc này nhiều việc, múc sâu dây ngắn luống tự lo thầm, cho nên đối với công việc, có lúc thấy nên cử hành mà người khó lo liệu thực sự, có lúc thấy nên tự phấn chấn lên

Kính vâng Châu phê : Đã rõ từ lâu. Đợi gì phải nói ! - Tháng 10, dâng phiến tâu: Bộ Minh mệnh chính yếu kính vâng kiểm lại, trong đó có chỗ nên chữa thêm, gồm 12 điều. Đã vâng trích 2 điều phúc trình xong. Nay xin lại trích 3 điều, liệt kê dâng lên. Kính vâng chuẩn y. 325

142

- Kính được ban một áo lông ngự dụng, thêm bài thơ ngự chế :


Chẳng học lâm hiên cởi áo lông, 326 Vua tôi cùng thể, hãy vui chung. Tuổi già vốn thích dày mà ấm, Áo nhẹ chia nhau hoá trẻ trung.

Việc thành Hà nội lần này chưa chắc nước họ đã bàn bạc rộng rãi. Thử xem binh Thanh dồn đến ồ ạt, phái viên của họ đã rất nghi ngờ phòng bị mà binh thuyền nước họ không từng phái đến thêm lại còn triệt Lãnh sự về, đổi tướng khác sang để giở tính ngang ngược ít có. Xem cách làm ấy, chắc họ có cách xử sự khác vậy.

(Đó là áo da ngân thử 327 do đại thần nhà Thanh là Lý Hồng Chương tặng cho nên nói thế) 328

Ngay như Hạ viện đã bàn (báo cáo của Hải dương cũng thế), giám mục đã nói (Nguyễn Lập đã trình) thì là tướng họ mưu riêng, xem tình hình thì đích xác là vậy. Nhưng phái quân vào đất người không thể về tay không, hoặc là chúng đóng quân ở Bạch hạc để chiếm cả Bắc kỳ, hoặc chúng đòi vào triều tâu để đòi Bảo hộ, không có được một điều ấy để đòi bồi thường thì không thôi vậy. Việc ấy là do tướng họ quyết định. Nay việc còn chưa định xong mà nhất thời cùng đổi, chắc nước họ cũng có cách xử trí riêng mà ta chưa rõ. Đó là tình thế của họ.

- Tháng 11, Thương bạc Cơ mật viện tâu: Nay Trần Thúc Nhẫn vâng đem cuộc thương lượng với Đường Mã 328b phúc trình, giao cho bọn thần duyệt xét. Kính vâng Châu điểm. Lại vâng Châu phê các lẽ. Bọn thần vâng xét: Ít chẳng địch nhiều, yếu chẳng địch khoẻ, nếu gượng làm thì chuốc họa lớn, từ xưa đã nghiệm rõ như vậy. Ta với Pháp sức không ngang nhau thì nên tươi cười chờ cú đấm hiểm ác, không nên níu kéo nhau để nếm mùi ong chích. Duy lòng mọi chưa chán, tính dã man khó mà thuần hoá. Đã rơi vào thuật của chúng, rốt cuộc không có cái tốt đằng sau.

Còn ta với nước Tàu, tình hữu nghị xa thư 330 , thế liên hệ môi răng, chỉ có thể giữ cho nhau chứ không thể chia lìa nhau được. Việc đang chưa phát ra mà Đường Mã đã tới trước, tức mưu của họ không phải là không có dự tính. Gần đây nghe nói việc Hà nội thì tiếp tế quân lương, điều động binh sĩ không tiếc phí nhọc thì việc đứt quãng không phải là không sớm vậy. Tuy phong vực khác nhau, ai nấu thay được 331 mà ba ải đều khống chế 332 xe cộ xen nhau 333 , không giữ rào giậu thì biên giới làm sao vững được ? Đánh nhau nguy hiểm, ai cáng đáng nổi việc chỉ huy ? Mà Tổng lý các nha môn đều ở đấy 334 , có thể dùng miệng lưỡi mà thay cho xô xát. Nước Thanh đối với ta tình chân thực, có thể liệu được. Huống chi ta lời thẳng lẽ mạnh đáng làm cho công nghị lượng tình thì Thanh sợ gì mà không làm ? Chỉ vì giữa ta với Pháp, hòa ước còn đấy mà với Thanh thì văn thư qua lại sơ sài, việc chưa đề cập đến những qui ước trọng yếu.

Thử lấy tình thế của chúng mà nói : từ khi Nã phá Luân bị khốn ở Pho đến nay trong nước không có chúa, quốc trái chưa trả hết, lại thêm sau lưng kẻ thù biên giới vừa mạnh lên mà quay nhìn thì ham tỏ sức mạnh, lòng siêng tính chuyện nơi xa, đem ả nước để tính chuyện người ta, như chuyện cửa Đà Nẵng ở Quảng nam năm trước, liệu chừng nước ấy cũng chẳng đến nỗi thế, nhưng mà bôn chôn cầu lợi, lòng chưa chịu thôi nuốt sống ăn tươi 329 . Hoặc dụ dỗ bằng lời ngọt ngào, hoặc hăm dọa bằng uy vũ khiến ta dần dà vào tròng rồi chúng thong dong được việc. Đó là sự toan tính của lòng họ mà chưa xảy ra ngay vậy. Chỉ có các quan của họ nhiều lần thay nhau đến là đòi hỏi trả công, không đoái hoài gì những điều giao ước, bởi vì cũng liệu rằng ta cô thế không ai tiếp tay, không tranh nổi với chúng cho nên cứ nhắm mắt làm bừa không e dè gì.

Nếu Thanh lên tiếng trước thì ai đứng ra làm chủ cho họ ? Lý không thuận mà tình cũng chưa ổn. Cho nên Tổng đốc Vân nam có 143


hòa nhị, nếu thành thì lo rằng Tổng đốc Quảng Đông sẽ đòi điều ước thế nào ? Đường Mã đến chuyến này cũng chỉ lấy đấy mà nói thì tình nhà Thanh không phải bỏ ta mà cũng không thể thay ta lo liệu một mình được. Vả các nước phía đông của ta không thể tính cùng ai, mà ta bỏ Thanh ra e cũng khó tự lập. Tuy ngoại giao làm cho họ kỵ 335 mà theo trước kia thông sứ đã có ước giữ văn như cũ, họ cũng làm sao trách lỗi ra được ? Nếu lo rằng ta thông hiếu với nhà Thanh, họ có thể làm bậy, trộm e không phải thế. Bởi vì tuy họ không sợ thế lực của Thanh nhưng cũng sợ Thanh có lắm nơi giúp, lại còn có công nghị đấy nữa.

sứ đi Tây lý luận thì hai đàng cùng phái cũng có thể đỡ bị họ nghi ngờ cố chấp. Kính vâng Châu phê : Nên làm như thế nào ? Có được tình hình gì thì báo nhanh để tiên liệu. - Tuân sắc đến trước Xương lăng, cuộc đất rất tốt muôn muôn năm. Kiểm khám tạm giới hạn chu vi nên trồng tre xanh để được kín đáo. Nay dâng phiến phúc trình cùng vẽ bản đồ, cắm tiêu, cước chú dâng lên. Kính vâng Châu phê : Cũng được rõ ràng. Khanh nên chép ngay ra, theo đó mà lo liệu. Lúc nào tạnh trời, khoẻ người, thường nên đến đấy thình lình để kiểm tra cho xứng thỏa.

Xem việc Hà thành, khi binh Thanh vừa đến , họ từng cho là ta cầu viện nhưng cũng tự nín nhịn, bởi vì trước kia mỗi lần họ cắn càn đều vì cho là ta không đủ sức, lại không có ngoại viện vậy. Nếu nay việc quân Thanh kéo đến ấy, tuy chưa thấy có cử động gì nhưng họ cũng đã biết mối tương quan. Huống chi trước dọa bằng binh, sau đòi bằng việc thì là trò quen thuộc của họ. Như quả là bội ước, gây hấn thì sao họ trả thành soái, sứ lại đều đổi về thì chưa chắc là có tính chuyện khác mà làm càn vậy. Bọn thần bàn đi bàn lại: đến nay thương thuyết có Thanh làm giúp thì còn có thể duy trì, nếu trễ lâu mà Thanh với Tây thông hiểu với nhau, rút binh về thì chắc họ ép đòi lắm chuyện, không nghe thì không xong, nghe thì không chịu nổi, đến lúc ấy rất khó mà cứu vãn.

- Cung kính làm lễ đốt giấy vàng. - Ngày 22 nhằm thọ đản 70 tuổi. Ngày ấy, quan Khâm mạng là Tham biện Nội các Hồng Sâm đem theo lính thị vệ Nội các mang đệ thơ và tự ngự chế, một bức trướng bằng đoạn tơ 8 màu vàng có chữ vua viết, một chiếc áo bào tư linh dành cho đại triều, một cây gậy linh thọ, các thứ gấm, đoạn, sô, sa, vàng, bạc, tiền, chén, ngọc, bình vẽ, đồ gốm 339 đến nhà, tuyên đọc Dụ ban cho làm lễ thọ. Ngự chế ban bài tự cùng thơ mừng thọ 70 rằng : Cái quý của tuổi tác, thiên hạ vốn có từ lâu. Tuy rằng trăm tuổi là hạn kỳ nhưng từ trung cổ về trước, bẩm thụ 340 và tiết dưỡng 341 đã không theo kịp. Thời xưa, được đến hạn ấy liệu có mấy người ? Thế cho nên nói rằng “ Người sống được 70 xưa nay hiếm,” cũng biết thế là đủ quý rồi vậy. Tuy nhiên, ở đời được danh, được thọ lại có mấy người ? Trong 4 hạng dân, không kể giàu hay nghèo, kẻ được thọ thì danh không nghe nói đến, chung cuộc không khỏi nát cùng cây cỏ mà thôi. Tự mình không phải đường mây rực rỡ quan sang, ai cho được dự vào đấy ?

Nay nhân Đường Mã đến, ta hãy phái người đi trước (phái người hỏi kín mà không lộ dấu vết, dùng văn thư thì cũng khó rõ mà có cớ) gặp mặt Tổng đốc Quảng Đông bàn hỏi thật quả có lòng giúp đỡ thì hoặc mời phái viên đến trước hỏi rõ công chuyện như Mã quan đối với Triều tiên vậy 336 , tiện cho ta đỡ sợ, khỏi lộ dấu vết, hoặc xin phái người đến gặp tướng Lý 337 cầu xin xử trí, hoặc gửi thư đến Tăng 338 cho họ chiếu cố. Nhân tiện ta phái sứ sang trước cùng họ thương thuyết, như chịu đến gặp tướng Lý thì ta viết sẵn sớ văn mang theo nhờ Lý đệ đạt cho sự thể long trọng. Như chịu gởi thư cho Tăng thì ta chờ viên Soái mới đến, xét kỹ rồi hãy phái

Xét ở sách vở thì trong Ngũ kinh có các ông Mẫn, Đức, Bật, Lượng, 4 đời của họ Tất công, trong truyện thì có như Phạm Võ 144


tử 342 phò xuất sắc cho 5 vua thành Minh chủ. Đời Đường thì có Bùi Tấn công 126 , đời Tống thì có Văn Lộ công 343 đều làm quan đến 4 triều, danh tiếng vang tận nước ngoài, kẻ thì thân thế gắn liền với sự khinh trọng của thiên hạ ngót 30 năm, kẻ thì kiêm tướng tướng 344 hơn 50 năm. Phải lấy chữ toàn đức mà gọi những người ấy vậy. Thế cho nên kinh mới ghi, sử mới chép để đặc biệt biểu dương, tỏa sự răn bảo đến vô cực để khuyến khích người đời.

việc phòng bị, các đại thần đều tiến cử khanh (bấy giờ khanh vừa làm phó hạ khanh 351 ), khanh cũng khảng khái tự nhận, trẫm cũng dốc lòng tin cậy việc chuyên trách đó, cho nên cả trăm lần kinh lý đều ủy nhiệm một mình khanh 352 . Khanh đã đem hết tinh thần, dồn hết tư tưởng và việc tìm mưu vạch kế mọi mặt nghiêm phòng cả thủy lẫn lục, không lúc nào là không nhanh nhẹn chu đáo mà người ta không nói gì được. Khanh theo Đổng biện việc quân đã nhiều năm, bấy giờ chạy theo việc, đổ công sức, khổ lòng, nhọc trí, sớm chiều không ngớt việc để ăn ngủ, lại thêm nơi ấy cát nóng, biển lạnh sương gió mù mịt, trên nóng dưới ẩm, đêm cóng ngày nồng. Từ xa đến đấy xông xáo, há khỏi bệnh tật thì cũng tiều tụy, sức không chịu nổi, mà khanh thì lòng rộng thân lớn, dáng vẻ tươi tắn mới là kỳ ! Ngay kẻ quen biết khanh trước đó cũng phải nghi ngờ chuyện khanh, cũng là một điều lạ. Từ đó ngày càng to béo ra, khang kiện ra, đến nay tuy tuổi cao khí suy cũng chỉ giảm đi một vài phần mà tinh thần cử chỉ cũng còn sáng suốt ổn định như kẻ năm, sáu mươi thì khanh thọ khó mà lường nổi. Đấy gọi là sống trong lo âu hoạn nạn, làm đức là ngày vui, chẳng cũng rất đáng tin ư ! Lại cần gì phải phân tâm về cái tốt người khác để lấy làm khoái hoạt tạm thời làm chi ?

Ngay như gần đây có Thái sư Cần chánh điện đại học sĩ Tuy thạnh quận công Trương Văn Lương 345 , Thái bảo Đông các Đại học sĩ Võ Văn Đoan 346 , tuổi cao đức lớn, rất được người đời nghe danh, cũng thuộc hạng kế vậy. Ôi ! kẻ có đức tất có phước, kẻ có phước tất có thọ. Sự báo ứng của trời rất công bằng, xưa nay lại chọn gì ư ! Thế thì nay không có người ấy ư ? Văn minh điện Đại học sĩ Trần khanh hy vọng là như thế ! Khanh thi lễ 11 nối nhà, giáp khoa sớm đỗ, trong ngoài thạo việc, thờ đã ba triều. Kế đến hôm nay, có thể không gọi là tuổi cao đức lớn được ư ? Vả Trẫm cùng khanh vốn không biết nhau 347 . Trẫm mới lên ngôi, khanh còn chức nhỏ, thế mà một lần gặp nhau thì như quen biết từ lâu, rút ở đám đông đưa vào Bố các, đưa khanh trải khu phủ hai lần, cất nhắc vào khung, đỡ nâng từng bậc hơn 30 năm đến nay ngày một thân thêm. Mới biết cá nước gặp gỡ, keo sơn gắn bền không hẹn mà gặp. Đấy là một điều lạ.

Khanh vốn tên là Mẫn, nhưng vì chú Tùng Thiện nhiều lần nói cùng Trẫm: Tên chữ người đời nay, nhiều kẻ không tránh tên kẻ cướp đời xưa, vậy là không được. Ngay làm Các thần cũng vậy. (Bấy giờ khanh làm ở Các) huống là ở chức khác 353 . Khảo ở Tấn thư cũng phù hợp.

Quân thần tương đắc từ xưa vốn khó mà nay lại dễ đến thế, há Trẫm với khanh còn có lòng nào ! Chẳng qua đạo hợp, tình ưa, chung lo, cùng nhọc cho nên không dè rồng mây hổ gió 348 đều theo lòng mình mà tự hợp trái nghĩa giao thái 349 vậy. Khanh vóc dáng vốn thon gầy 350 , không hơn người lắm, nhân năm trước Đà Nẵng Gia Định có việc, lòng người hãi sợ, Thuận an là cửa ngõ trọng yếu của Kinh sư, khó kiếm được người lo 145


Cũng có thể phá khóc đem làm cười vì tiệc thọ của khanh, giúp cho một cái dãn má vậy ! Tùng Thiện vương Miên Thẩm

Tượng đài Tô hiến Thành tại huyện Đan Phượng, xã Hạ Mỗ, Hà Tây, nay thuộc Hà Nội Trẫm nhân đọc Việt sử, thấy đại thần Tô Hiến Thành đời Lý nhận cố mệnh phò ấu quân, nói ngọt, đút lót nhiều không thể làm dời đổi tiết tháo, lòng trung can không thể cướp đi được 354 nên rất khen nhân phẩm ấy bèn nảy ý lấy tên ấy (THÀNH) để đổi ban lại cho khanh là bởi muốn khuyên noi theo 355 con người trung nghĩa ấy, lúc đầu không có ý gì khác. Vả bấy giờ trẫm còn trai trẻ, khanh còn là quan nhỏ, há có thể nghĩ ngược lại là có chuyện ngày nay mà làm thế hay sao ? Thời gian hối hả, việc đời đắng cay, không dè ngày nay thực quả có vậy! Lại cũng là một điều rất kỳ lạ nữa ! Xưa nay, cái màgười ta không giải ra thì ngay khanh nghĩ cũng chưa rõ, không hại gì. Hôm nay nói rõ ra, cần gì phải kín đáo: Nay khanh già nua rồi, Trẫm cũng suy yếu rồi, chưa xét đến việc cố mệnh ai có ai không, giả sử có ý ấy mà không có cơ hội ấy thì luống cũng nói mơ mà thôi. Việc khó liệu phần nhiều là thế. Huống chi là việc đã qua ? Ngẫu nhiên ngâm câu thơ họ Đỗ 356 :

Ôi ! Địa vị, bổng lộc, tuổi thọ, danh tiếng là những cái ước muốn lớn của người ta cọng lại, mà không thể có được nhiều. Địa vị khanh đã cao, tuổi thọ cũng dài, nhà không túng thiếu, con cháu cũng đã thoả lòng 358 . Trẫm không biết lấy gì để trông mong. Khanh chỉ e phần danh chưa được xứng lắm để cho Trẫm phải xấu hổ vậy. Ôi ! vì rằng tuổi sức mỏi thì trể nãi dễ sinh, địa vị lớn trong lúc thời thế gay go thì báo đáp khó xứng. Trể nãi sinh ra thì sự phỉ báng do đó mà đến, báo đáp khó thì trách nhiệm còn chưa xong cho nên bị người chê trách , Trẫm rất nhục vậy. Cái thói lắm lời của người đời cũng khá đáng sợ, đấy là điều Trẫm không thể không thiết tha đòi hỏi nơi khanh mà không thể thôi được. Khanh đối với nhiều người, không phải đặc biệt nhận tình tri ngộ. Vả chăng như những bậc lão thành Trương Văn Lương, Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản cũng đều là những người

Sang năm gặp lại, ai còn khoẻ ? Say ngắm thù du cứ mãi cười 357 146


giỏi dắn, có thể đảm đương việc lớn. Chỉ người hiền mới biết người hiền có chung sở kiến, chắc cũng không đến nỗi sai lắm, thế mà sao họ gánh vác những việc khó khăn to tát ấy cũng chẳng khác với mọi người thì lòng họ sao nhỉ ? Khanh không nhớ lúc Trương Văn Lương về với điền viên, đình thần bày tiệc tiễn biệt, đứng lên vái tạ rồi cầm tay khanh khóc dặn ân cần. Lại còn khanh thường nói “Phan Thanh Giản giữ tiết khắc khổ”, nước mắt tuôn theo lời, nức nở động lòng người, sao lại thờ ơ ngày tháng, đến nay chưa hề tiến thêm tấc nào, lại thấy thêm lo, thế là lòng nào nhỉ ?

Đến đây đã cuối bài, giãi bày hết chân tình để vì dịp mừng thọ của khanh, há có phải là văn ư 364 ! Tỏ thêm một bài thơ luật để nêu lại ý vậy 365 : Tình sâu tri ngộ mấy mươi năm. Vẹn một niềm son chẳng gợn lòng Gặp lúc lên xe lo phải nghỉ, Đến hồi dựa nước 366 nợ chưa xong Tiệc bày hai chiếu chưa quên Phó 367 Đàn gảy bảy mươi Thuấn vẫn mong 368 Tuổi thọ càng cao càng để ý Thu về một mối mới yên lòng.

Nếu bảo “việc ấy không phải của mình, trách nhiệm đã có người gánh, mặc kệ với trời, nhọc lòng làm chi” thì quá sức không phải ! Người xưa có kẻ coi thiên hạ thuộc trách nhiệm của mình, có tiếng “vâng” nặng hơn ngàn vàng, thật không nỡ vì mất, còn, khó, dễ mà có chút đổi lòng, nản chí để phụ lòng tri kỷ 359 ở cõi mờ mờ ấy vậy.

- Dâng biểu tâu : Nay cúi được ban ngự chế, ngự bút bài tự và thơ trong dịp thần thọ 70 tuổi cùng áo gấm, chén ngọc, vàng, bạc, tiền, gấm, đoạn, sô, sa, gậy linh thọ, đồ gốm, các món quí. Lại cho thần nghỉ ngơi 5-6 ngày làm vui các tiệc. Thần lạy nhận ơn ban xong, mừng vui xúc động lẫn lộn. Kính vâng xin dâng biểu tâu bày lời cảm tạ:

Huống chi khanh đặc biệt đạt ơn tri ngộ rất sâu lại dày mà có thể dững dưng như thế hay sao ? Như vậy trách nhiệm của khanh đương nhiên không phải ít. Sự làm ngơ 321 cũng đã rõ vậy. Đọc bài luận về Quản Trọng của họ Tô, chết còn chưa tròn trách nhiệm, huống chi là già ? Chí của ngựa Ký già 360 sức cố gắng tang du 361 còn có thể đem tháng ngày để muốn, há coi rẻ khúc hiệu ca 362 để làm thứ bông vải đâu ? 363 Chỉ e ghét nhọc, thích khoẻ, không chịu gắng thêm mà thôi.

Trộm nghĩ, thần quê mùa hèn hạ, may gặp thời quang minh, một lần thì may đỗ, một tấc tài năng không có. Hơn bốn mươi năm thông tịch 369 chịu ơn tri ngộ khác với người thường, đứng vào hàng 360 đầu 370 , không đúng phận chen lên bậc vinh hiển, làm nhơ hạ thự; lại nhận điện hàm 371 , ngoài làm Đổng nhung việc hải phòng; trong thì làm việc Khu phủ mưu kế nào có gì đâu ? Cái mà thần làm được mọi người cũng đều làm được; Bắc Nam nhiều lo đến thế, tội mà người ta mắc phải thì thần cũng là mắc phải. Mỏi sức chịu người chỉ trích, chẳng trách chi ai; thương tình nhờ được ơn vua, già còn gắng gỏi. Hoa gấm đời đời nối dõi, cân đai rực rỡ cửa nhà; cho

Khanh thử nghĩ xem : thọ cho thân không bằng thọ cho danh, thọ cho danh không bằng thọ cho cả danh của người hiền, của thầy, của bạn, thọ cả cho danh của người hiền, của thầy, của bạn lại không bằng thọ cho danh của nước của dân, vĩnh viễn rũ dài không nát đến ức ngàn vạn đời vậy.

147


nên bản thân cùng với gia đình tắm nhuần ân sủng. Báo đáp theo cách tầm thường mong xứng dễ đâu ! Đến lúc treo xe phải lệ, chỉ mong cúi đầu trước bệ cáo từ; sẽ đem thời lớn mà nhường cho kẻ đến sau, đâu dám cố chiếm ân sủng mà làm phương hại cho đường tiến thủ của người hiền ?

cảm sâu sắc. Răn dạy mà khiến cho nên được hoàn toàn, nào có ngừng chỗ quá lễ nghi: Trung hậu dể khiến cho nên phần phúc lộc há có phải vì riêng ơn huệ ? Nay vì vâng gặp phúc vô biên của triều đại, ngày rạng rỡ không xa.

Nhưng vì : Vi Đỗ bên thành 372 vui lo chia định. Cõi Bắc còn chưa yên tĩnh; Cơ mật công vụ đang nhiều. Chưa dám tâu bày, vẫn thường lo nghĩ. Gọi là quan cao, vốn biết phải tinh vi dè dặt mà kẻ tài đầy 373 thì lầm lỗi đáng lo. Huống hồ : việc thật lớn mà khó; tâm đã mờ lại mệt. Chỉ lo dùng kẻ già nua, đem cái thọ mà thay gì được ?

Trời nghe dưới thấp, thần xiết bao cảm kích, run sợ tột cùng, kính dâng lời biểu cảm tạ. - Tháng 12, dâng phiến tâu : Năm nay, kể từ khi vào tiết Tiểu hàn đến giờ, thần bỗng bị ho, tiếng đớ bụng đau, đi lỵ, ăn ít, ngày nhẹ ngày nặng, chữa thuốc đã gần hai mươi ngày chưa thấy đỡ, nhiều lần được quan Hiệp biện Nguyễn Văn Tường cùng quan Ngự y Nguyễn Quí chẩn mạch đều nói mạch hơi trầm, nhanh, hoãn yếu, so với trước kém nhiều.

Xem ra cho kỹ, thời đang gặp tiết dương sinh, đồng liêu thăm hỏi ân cần; bạn cũ người thân cũng đến. Lại được nghỉ ngơi công vụ, chuyện trò an ủi tuổi già, nghĩ thân thế cũng gặp bề hạnh phúc.

Ngày nào may được nhẹ bớt, thần xin cố gắng vào chầu. Ngày nào hơi nặng thì khó mà đi nổi. Thần phải ở lại công thự để điều trị cứ không dám xin nghỉ hoài hoài. Rất sợ sệt có lời bụi bậm tâu lên.

Dựa quốc khánh để cùng vui, nghĩ đến thâm cung đang tiêu cán 210 chưa ngớt trong lòng thần thì làm sao vui được. Dẫu là Hoàng thượng thể tình thì sứ mình cũng đang hồi dồn dập. Lại rộng ơn ban long trọng, biết bao quà vừa lạ vừa nhiều. Ban cho thơ mà còn cho tự, ba chục hàng rực lẫn màu son. Ban cho áo làm phấn chấn lòng thần, năm màu đẹp toát lên vẻ rạng, so với món hàng giá nặng trăm bằng 374 , vàng ngọc quí báu câu văn gấm là. Đặt món đẹp trước thềm : gậy thọ thần tình, be sành tinh xảo. Tình, văn gồm đủ, chiếu chỉ tuôn ra. Ơn có chổ đáng nêu cao cần chi đợi tám mươi mới đủ lệ 366 ; việc còn nhiều phần chưa xong hết vẫn rộng cho năm biển để rảnh rang. Thể tất mà đãi ngộ ân cần, nhân đức mà nghĩa tình trọn vẹn.

Vả lại nay đang lúc việc gay go, thần rất lo nghĩ, một ngày không thể vào chầu là lòng thần không yên, còn giục các thuộc viên ở Viện đi dò hỏi, huống chi là vâng tĩnh dưỡng điều trị. Thần không phải là gỗ đá, có lòng dạ nào vì suy yếu lâu ngày mà chểnh mảng. Thật vì thần không may gặp bệnh hoạn ấy, sức chẳng theo lòng, vạn cam chịu tội. Xin dám mạo muội tâu bày, mặt trời mặt trăng trên cao xoi xét cho. Kính vâng châu điểm. Lại vâng Châu phê: Đã biết lâu rồi.

Thần mọp đọc một thiên thơ, tự khiển trách thần về việc lớn của nước nhà, khuyến khích thần bằng những gương sáng người xưa, căn dặn thần bằng mối lo bóng xế, giao thần lo cho xứng danh phận. Nghĩ chu đáo nên lời lẽ thiết tha, lo xa xôi nên tình

Quý mùi năm Tự Đức thứ 36 (1883) Ông 71 tuổi.

148


- Tháng giêng, dâng sớ tâu: Hiện nay, chứng bệnh của thần giảm được chút ít mà ăn uống kém sút, bắp thịt gầy mòn, đi đứng phần nhiều phải có người dìu đỡ, đã được quan Hiệp biện Nguyễn Văn Tường, quan Ngự y Nguyễn Quí cùng các thầy thuốc đều nói : chứng lỵ của người già khó khỏi nhanh được.

cho vàng cũng chảy lỏng, lời hủy báng chồng chất ê hề, thần trong cơn bệnh, lòng khôn xiết đau khổ. Vả lại, thần một đời trung thành chất phác, thủy chung không dời đổi, lòng thần, bệnh thần có đại thần Nguyễn Văn Tường biết rõ từ lâu. Bệnh thần hiện nay các thầy thuốc chẩn trị có đến hơn chục người, các quan thăm hỏi đều ngạc nhiên vì xanh xao gầy ốm mà thần, lòng tự hỏi lòng chỉ có một niềm không khác mà thôi.

Thần nguyên khí còn chưa bình phục, hơi mạch đang còn suy yếu, nếu gắng guợng xông xáo gặp cảm mạo thì khó giải, bệnh lại tăng lên lâu thêm mà thần lòng tự hỏi lòng thật chẳng chút dối trá mong nghĩ ngơi. Ngữa xin ân chuẩn cho thần nghỉ thêm mươi bữa, ở lại công thự điều trị, ngày nào đỡ thì vào chầu ngay. Kính vâng Châu phê : Vốn đã biết rõ. Không hại gì. Cứ yên tâm mới đỡ.

Nay thần nên ở lại công thự hay nên về nhà riêng ngoài thành điều trị cho lành để vào chầu, vâng chờ ban ơn cho phép. Nay dám trình bày cặn kẽ, ngữa xin mặt trời trên cao chiếu tỏ cho. Kính vâng Châu phê : Khanh ốm bịnh già, trẫm từng hỏi thăm. Chuyện thuốc men cũng không gì đáng ngại. Hãy yên tâm chữa chạy, đừng tự băn khoăn mà khó chữa. Lại vâng Châu phê : Hãy ở lại công thự chữa thêm, chờ cho đỡ hãy vào chầu, cũng nghe được việc của Viện, không cần phải về nghỉ ở ngoài, xa cách bất tiện.

- Dâng phiến tâu : Trộm nghĩ, bệnh thần tưởng chừng chỉ 10 ngày là đỡ, không dè bệnh chẳng thương người, kéo dài ngày tháng, nghỉ việc chữa thuốc đến vài ba đợt, lỗi đã khó từ nan. Gần đây có xen vài ba ngày tưởng chừng thuyên giảm, nhưng tiếp theo đó thì phát lại như cũ, tăng giảm bất thường, tưởng không phải mươi ngày đỡ nổi. Nếu lại theo lệ thường xin nghỉ thì tội quấy rầy càng to, mà công thự không phải là chỗ dưỡng bệnh, nằm lâu e để người ta nói. Nếu tạm về nhà riêng ngoài thành thì cách trở việc của Viện Cơ mật, không nghe lòng rất không yên, lúc ấy việc càng thêm khó. Nữa vâng cửu trùng tiêu cán, thân thần tuy ốm, lòng thường lo ngầm, một hơi thở mà còn vẫn không dám buông ra chốc lát.

- Tháng 2, người Pháp đánh chiếm thành Nam định. Bộ Binh tâu xin phái thêm 500 biền binh đến đóng thêm ở các đồn Lộ châu, Triều sơn. - Cơ mật viện tâu : Xin ra lệnh cho quan Kinh lược Nguyễn Chánh chọn nơi ở cho vững chắc, cùng bàn với Thống đốc Hoàng Tá Viêm lựa cách thu phục Nam định, nghiêm sức cho thân sĩ các phủ huyện đoàn kết dân làng phòng giữ khiến họ giữ chắc tỉnh thành không để chúng hạ, mới có thể dần dà tính kế.

Trộm nghĩ, thần chất vốn ngu cạn mà hầu hạ cận kề đã hơn ba muơi năm, ngữa trông Hoàng thượng đối với ngu thần chẳng khác cha hiền đối với con ngu, nói về ân tình đã khó kể rõ, nghĩ đến thân phận, làm sao thoái thác cho được. Khi thần còn trai trẻ, sống chết còn không dám đoái hoài, điều đó đã rõ từ lâu. Đến nay, ngoài tuổi cổ hi 375 , trí năng vẫn còn , dám đâu tiếc quãng sống thừa. Thần đã đến lệ về hưu, lại gặp lúc đang Cơ mật nhiều việc chưa dám vin đấy xin về thì sự mỉa mai luyến sạn 376 làm hại cho người hiền, nhân lúc suy yếu xin nghỉ thì bảo là thấy khó khăn giả bệnh, nhiều miệng làm

- Tháng 3, cùng các đại thần dâng phiến phúc trình: Nay vâng phê chuẩn phúc duyệt Trung quân Trương Văn Hùng, Tham tri Châu Đình Kế dâng phiến xin đặt đại bác ở Kinh thành và ở Trấn bình đài. Bọn thần tuân vâng họp bàn khám xét : Trộm thấy trên thành hiện đặt đại bác tất cả 415 cỗ, số lượng đã nhiều mà ở nữ tường 377 , ở những chổ trống lại có đặt những lổ hỗng bằng đá để lúc cần thì bắn các loại súng nhỏ như Thần công, Quá sơn, huống chi những 149


ta không báo, triều đình nhà Thanh cũng nên cứu giúp, cái nghĩa phải thế. Huống chi khoản ấy đã tâu, ta đến, họ cũng nên nhân đó mà báo đáp. Nay lại bỗng nhiên cự tuyệt ? Hoặc giả lúc mới ra mắt không thể không nói cho nghiêm để dò tình ý ta mà tiện cho dễ thương thuyết về sau. Hoặc là lúc đầu dựa vào sứ Pháp, nay sứ ấy bị gọi về nước, thấy có cơ khó khăn cho nên thoái thác như thế chăng ? Tình hình khó độ từ xa nhưng việc lại không cho dừng, xin tuân lời phê, viết thư gởi đến Tổng đốc họ Trương, nếu có gì trắc trở, Khâm sai ấy nên tuân ngay lời phê trước : nhờ Tổng lý hay Thân vương tìm cách kêu nài hết sức của Bao Tư, không để có kiểu nhìn Tần Việt. Phải nên làm như thế nào cho được việc, tất không thể về suông mà không phụ lòng. Kính vâng chuẩn y.

chỗ trống ấy tuy không đặt đại bác nhưng hai góc cổ bầu hai bên vẫn có thể giao xạ cũng chu đáo chứ không hở. Lúc đầu chia đặt như thế xem cũng đã mười phần ổn thoả. Nếu chỗ nào cũng đặt súng, cũng khoét cửa súng thì nứt vỡ, mà khi cần, khó chia rải biền binh. Nếu cần phải phòng bị thì các chỗ trọng yếu gần sông xin đánh chìm thuyền để lấp, phía ngoài quách chia binh để phòng bị, nghĩ không cần phải đặt đại bác trên thành cho nhiều làm gì. Về việc đặt thêm đại bác, xin nên đình chỉ, duy ở các cửa cùng các mặt vốn đã đặt đá hỗng còn ít, xin để cho lính thần cơ tính chỗ đặt thêm cho cân, bọn thần sẽ kiểm lại. Còn Trấn bình, về hướng đường sông Bao Vinh nguyên có đặt ba cỗ súng đồng lớn loại Thần oai có bánh xe, ba khẩu đại bác Thảo nghịch, số lượng còn ít. Nay xin đặt thêm ở chỗ ấy 6 cỗ đại bác, cọng thành 12 cỗ, trong đó có 3 cỗ Thảo nghịch. Số này có 2 cỗ hơi nhỏ, nay xin đổi loại Bình ngụy, trong đó có một cổ cũ, bánh xe và giàn e quá cao mà không được chắc chắn, nay xin đổi đặt lên thuyền để tiện vận dùng. Còn 6 cỗ mới đặt, xin mở miệng súng, bệ súng bằng đá tảng, xin cho hai bộ Binh và Công họp cùng Thống quản Thần cơ đốc sức lính và thợ lo gấp. Còn các chỗ cũ đặt súng của đài ấy, chỗ nào nóc ngoái còn kiên cố thì cứ để như cũ, lúc cần thì giở bỏ. Các chỗ khác đổ nát chưa kịp lợp lại cùng các cỗ mới đặt xin đổi dùng cỏ che phủ để lúc cần giở ra nhanh và tiện hơn. Kính vâng chuẩn y.

- Dâng phiến tâu : Cửa Tư hiền vừa qua việc phòng bị rất là quan trọng. Gặp khi hữu sự, phái người lo liệu không đủ. Duy cửa ấy cạn hẹp, lính phòng giữ phải hợp. Xin cho bộ thần phái 1 quản vệ, 2 suất đội, 100 biền binh, khí giới lương thực đầy đủ, cùng phái biền binh thủy sư đem 3 chiếc thuyền đến cửa ấy, do các viên Quản đốc, Thương biện phân phái sử dụng, chờ có lệnh mới vâng rút về. Kính vâng chuẩn y. - Tháng 4, Cơ mật viện tâu : Vâng xét Khâm phái vào Gia định là Nguyễn Lập dâng sớ xin dẹp giặc không được, rất trách các văn thần các lẽ. Vả chăng, xua binh hãm trận là võ thần, mà trù tính, điều độ là văn thần vậy. Đã đảm đương công việc thì trách nhiệm không trốn tránh được, há có thể nói quanh co khiến kẻ sợ sệt có cớ để nói xằng ư ? Kính vâng chỉ thị cho. Bộ Binh vâng đem việc quan quân ở Sơn thứ 379 tiễu trừ giặc Pháp, đánh tan ở Cầu giấy, Hà nội, báo lên tin thắng trận.

- Cùng Phó sứ hải phòng tâu xin đặt thêm súng đại bác ở hai đồn trước và sau của Lộ châu. Cơ mật viện tâu : Nay vâng giao ra trú ở Tân 378 là Khâm sai Phạm Thận Duật, sớ văn, tư văn đã vâng phê dặn các việc. Bọn thần đã bàn đi tính lại với nhau : sự chẳng gặp may, rất là lo ngại, nhưng việc của ta, ta phải lo.

- Tháng 6, Hoàng thượng ốm. Kính vâng di chiếu trong có khoản : Sau khi ta muôn tuổi thì lấy Thụy quốc công giữ mối lớn, lên ngôi Hoàng đế. Bọn Trần Tiễn..., Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết đối với trẫm, tuy tri ngộ có chút khác nhau kẻ lâu

Kính vâng phê dặn : Kế lớn xét không ngoài điều ấy. Chỉ về ta là phiên thuộc, giữ vững chức trách 1100 năm nay đã lâu, các nước trong thiên hạ cùng nghe. Nay bị kẻ khác xâm lăng bức bách, giả sử 150


người mới, nhưng lòng trung ái, siêng lo thì đều như một. Kẻ gần gũi, tham dự khá lâu những việc cơ yếu, thân nhận việc chỉ vẽ trao lo, nếu có rắc rối khó khăn cũng có thể giải quyết được, đó là Trần Tiễn... sung làm Phụ chánh đại thần, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết sung làm Đồng Phụ chánh đại thần.

Về khoản mũ áo, từ trước đến giờ đồ ngự dụng đều theo lối giản dị, tiết kiệm, điều đó thần dân đều thấy cả. Nếu sau đây, đai mão mà bớt lại thì không phải chỉ không yên về mặt tình, lễ mà quần thần mười phần không dám. Các khoản còn lại đều được mười phần chu đáo. Kính vâng mật phúc đem cả nguyên tráp cất vào dâng lên.

Bọn khanh nên chính sắc mà đứng giữa triều, chính thân mà điều khiển thuộc cấp, mọi việc đều chung lòng lo liệu cho ổn thoả, trên để giúp những cái chưa đủ sức của Tự quân, dưới để chấn chỉnh cái còn lệch lạc của các Ty, làm cho nước nhà yên vững như Thái sơn, bàn thạch, ấy là không phụ lòng ủy thác vậy.

Kính vâng Châu phê : Giao Viện giữ. Đến lúc ấy tuân theo mà làm, còn việc xin bớt mấy chữ ấy, cạnh khoản đó, vâng Châu phê : Sửa không được. Cũng khiến cho kẻ khác biết cái đáng răn. Còn chổ “muôn phần không yên lòng nổi” thì cạnh khoản đó có Châu phê : Vẫn theo ý trẫm. Còn chỗ “ không yên về mặt tình, lễ”, cạnh khoản đó Châu phê : Vẫn theo ý trẫm. Không được trái.

- Cùng Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết dâng phiến tâu: Nay vâng giao ra một tráp lớn ngự phê, trong để tráp nhỏ mỗi người một cái, bọn thần tuân vâng mở ra, trong để một di chiếu phó thác mối việc lớn. Di chúc có 2 tờ, 4 trang, vâng phê các khoản.

- Ngày 16, Hoàng thượng băng. Hoàng trưởng tử thụ mệnh, vào điện Hoàng phúc cư tang. - Ngày 18, bọn Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết mưu chuyện phế lập, bèn lấy những lỗi của Tự quân làm cớ xin phế để lập vua khác. Kính vâng thánh chỉ của Bác huệ Khang Thọ Thái Thái Hoàng thái hậu Từ Dũ trong có một khoản : Tiên đế băn khoăn chỉ lo chuyện đó, chưa hoàn thành được chí nguyện ấy thì thống hận làm sao hết được. Lập di chiếu là điều bất đắc dĩ vậy. Thế mà không lo kính sợ giữ mình mà làm càn tự ý buông thả 381 , phế đi vốn là nên vậy.

Bọn thần tuân vâng giở xem, lệ tuôn khôn xiết. Trộm thấy câu “ đang lúc nhiều khó khăn, nước có vua lớn là phước cho xã tắc vậy” . Kính vâng di chiếu: “ Sau khi muôn tuổi, lấy Hoàng tử ... nối đại thống” Ngữa vâng đoán định rất hợp với đường lối lâu dài. Duy trong chiếu có nói : “ có tính hơi hiếu dâm, chưa chắc gánh nổi việc lớn.” Ý ấy xin chờ dạy kín để cảnh tỉnh cho cố gắng để tự tuân theo. Trong chiếu xin bớt những chữ đó để được ổn thoả tự nhiên.

Phương chi hiện nay, trong đáng lo, ngoài đáng sợ, người nhỏ thực không đương nổi, phải tìm người cho trưởng thành mà lão thân là đàn bà già cả, nào có biết gì, phần nhiều nhờ ở Tôn nhơn, các Phụ chánh đại thần và đình thần hiệp đồng bàn chọn trong các hoàng đệ ai khá thì lập, ta không hề nghe theo.

Trong di chúc có một khoản về miếu hiệu : vả lúc này nhằm vận hội của hạ di, các nước đều vậy, duy lần này sự thế ngang nhau. Kính vâng xử trí quyền biến, tuy không thể không tổn thất cũng chẳng đến nổi lay động.

Tiếp đó, vâng chuẩn cho hoàng đệ là Lạng quốc công nối đại thống.

Gần đây ngày đêm nhọc nhằn, đến nay đã thấy có manh mối công sức ấy đã sắp xong. Vạn nhất có đến thế thì sau đó nếu tuân theo lời phê mà làm thì không chỉ có bọn thần muôn phần không yên lòng nổi mà thần dân trong thiên hạ cũng khó tuân vâng vậy. 380 151


Ta đã một lần chịu lép, không dám tranh cường mà họ cũng chưa từng thương kẻ yếu. Tuy vấn đề thông thương Vân nam vốn là ước muốn của họ nhưng chuyện mượn đường chưa chắc thực lòng hoàn toàn. Đấy là một vài bọn ham công chứ vốn không phải do nước họ bàn tính mà ta thì vì cứ khiếp nhược không dám làm gì, cứ xăm xăm trong thế không thể làm. May vâng di thư của Tiên đế, nước Thanh thấy rõ đại nghĩa nên Lý thừa tướng đã bàn về lương thảo, đưa quân sang hưởng ứng khiến họ không thể nuốt ngay được, nhưng hiện nay thế thành cưỡi hổ, tên đã lên cung, nếu không xới tung hang ổ thì chúng rảnh tay tính chuyện, không phải chỉ đa đoan mà cốt yếu buộc Lý tướng ngại việc điều đình mà cửa Thuận an bị chúng uy hiếp hòa bình, ta cũng khó tranh phần thắng. Xin nên ban Dụ nghiêm sức quan Thứ chia binh tiến đánh khiến chúng nhọc nhằn phòng giữ, không rãnh rang được, để chờ triều Thanh xử trí.

Tôn Thất Thuyết - Cùng Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết dâng phiến tâu: Ngày 16 tháng này, vâng Đại hành hoàng đế 382 long ngự thượng tân 383 , di chiếu lấy Hoàng tử Đoan quốc công kế thừa đại thống, bọn thần làm Phụ chính. Nay vâng chuẩn đổi quyết định cho Lạng quốc công nối ngôi. Lạng quốc công tuổi tác đã vững vàng học hỏi ngày càng thành tựu, từng sung việc phủ, thể thức chính trị đã am tường. Bọn thần trước đây vâng mệnh phụ chính, khẩn xin thu hồi, mọp chờ ý chỉ. Kính vâng Châu phê : Không chuẩn y .

Kính vâng Châu phê : Trí chung đã định, thành công là ở sự quả quyết. Hãy làm theo. - Tháng 7, vì việc phụ đạo không kết quả nên nhận lỗi. Xin giao triều nghị. Thương bạc Cơ mật viện tâu: Nay vâng giao một báo cáo gấp của Tuần vũ Lạng sơn là Lã Xuân Oai 384 , bọn thần vâng xét báo cáo ấy, khoản đãi và tặng biếu viên bố chính họ Từ cùng sao các lời bút thoại, đều dựa tình thế mà liệu báo, vẫn theo các khoản bàn xét với viên bố chính ấy thì mọi việc đã cắt đặt xong, viên Tuần vũ ấy đã mật báo với Thống đốc đại thần cùng quan thứ đất Bắc biết. Xin cho hai quan ở Thứ đều dự bị nghiêm chỉnh để chờ, vẫn mật bàn công bố chính họ Từ, hè nhau giết sạch quân thù đã hoàn thành việc lớn. Chỉ e con sói lọt lưới chẳng khỏi cắn càn. Nếu chúng thua, bết máu chạy trốn ra biển thì phải hết sức chuẩn bị, gặp bàn trước với Đề đốc Ngô Toàn Mỹ đem thủy quân đuổi gắt và phòng quân ở các cửa bể của ta được phép đem hết sức tiếp ứng để thu toàn cuộc. Đó là các ý rất cốt yếu, phải nói khéo như thế nào thì phúc trình trước để liệu. Còn như quan Bố chính họ Từ ngày nào

- Lễ tấn quang xong, kính vâng Dụ chuẩn cho thăng thụ Thái bảo Cần chánh điện đại học sĩ, các hàm khác y cũ. Được ban một chiếc khánh ngọc có tua rũ. - Cơ mật viện tâu: Phái binh Pháp từ sau vụ Cầu giấy không ra đánh lần nào nữa. Quân ta đắc thắng mà không thừa thế, để chúng lui về đồn hơn mươi ngày mà không tiến. Đấy đều do quan ở Thứ để cho địch nghỉ, đánh mất cơ hội rất là quá đỗi. Xin nghiêm sức cho ở Thứ chia đường tiến công khiến chúng không dám mưu tính chuyện khác mới được. Kính vâng chuẩn y. - Cơ mật viện tâu : Ta với nước Pháp mạnh yếu khác nhau cho nên lúc đầu là 3 tỉnh, tiếp theo là 6 tỉnh Nam kỳ đã làm vật sở hữu của họ. Vừa rồi ở Bắc kỳ họ chiếm lấy 4 tỉnh, sau đó trả lại. Nay lại lấy Nam hà có hòa ước minh bạch để căn cứ mà họ dám đùa cợt như thế thì sự hòa ấy không đủ tin cậy được nữa vậy. 152


đến hãy do quan tỉnh ấy hậu đãi. Có nói việc gì thì phải báo về ngay để rõ. Kính vâng châu phê: Chép gấp ngay.

phiên thuộc của thiên triều, việc cứu tai biến, giúp hoạn nạn là việc nghĩa phải làm. Ta phát sứ là có văn bản của Thiên triều gửi đến, có thể dựa vào việc trù bị lương thảo, phát binh gần đây, từng bàn về chiến cuộc thì hoặc đánh hoặc hòa, thiên triều cũng nên góp sức điều đình, việc không ngừng lại giữa chừng mà chịu các nước cười là quấy. Đối với Bắc kỳ, phiá ta thế đã thành, người đã tập họp thì nên ra sức đánh để chia thế giặc. Kinh sư là nơi gốc rễ, nên nghiêm giữ để phòng chuyện không hay, mà đánh giặc ở Bắc tức là để giữ Thuận an, thế ấy không phải không thông nhau mà là dựa vào nhau vậy. Khâm sai ở Tân 378 không phải chỉ có thể thông báo tin xa mà cũng là để duy trì nghĩa lớn. Giả sử Thiên triều không chịu ngó ngàng gì thì ta cũng nên khống tố với nước lớn, huống chi đã có gửi văn bản đến không phải là vô cớ, thì các quan khâm sai tưởng nên ở lại lâu dài, hằng ngày đem tình hình khổ sở tố lên, đến chỗ bất đắc dĩ thì xin vâng Thánh phê rồi thân đến nha môn Tổng lý hoặc Cung thân vương cực lực kêu nài xin được cứu giúp, há vì đường xa, lâu ngày mà làm cớ thoái thác. Tóm lại, đánh giặc ấy để giữ cửa Thuận cùng ở lại Thiên tân để đòi cứu viện, đấy là việc mà ta tất phải lo, nghĩ không phải vì lời người ta mà chịu lép. Đến như tướng Lý điều đình thế nào, tình hình giặc biến động ra sao, chờ có cơ hội đến sẽ rõ mới có thể tùy nghi đối phó được. Nay xin tri cho các viên Khâm sai đều nên ở lại Tân, lấy thực tình bày tỏ khiến tướng Lý ngại vì thể diện mà không cẩu thả nữa, cùng Khâm phaí trú ở Đông 386 là Nguyễn Phiên, ngay Trương Cung Bảo 387 thực đã về Đông, vị Cung Bảo ấy cũng có lòng cùng Khâm phái ấy, cũng nên khẩn cầu được ra mắt, đem việc thực lên, như có việc khẩn yếu cầu xin cứu viện.

Quân Pháp đánh lấy thành Trấn hải cửa Thuận an.

- Lại tâu: Nay vâng giao ra 1 tờ tâu, 3 tờ trình của các Khâm sai là bọn Phạm thận Duật, Nguyễn Thuật đều kể là có bẩm và nói chuyện với Lý Trung đường 385 cùng các việc thuộc tình hình gần đây. Bọn thần bàn với nhau, trộm xét: Việc thì biến đổi vô thương, đã mưu thì phải nhất định. Người Pháp vô cớ vi phạm hòa ước, đánh thành trì của ta, gây chiến là từ phía họ, ta không thể không ứng phó thì việc ra quân của ta không phải là không có danh nghĩa. Ta là

Đợi ngày nào rảnh việc thì nên triệu các Khâm sai về mà có thể vâng chỉ không gấp gáp hoang mang. Còn như báo ở Kinh nói tướng 153


Lý chuyện trò cùng sứ Mã chuẩn y.

388

, các việc ấy cũng hợp. Kính vâng

chỉ vì nay trong nước nhiều việc, giao thiệp đang nhiều, nếu như tiếng ấy bị nghe, không chỉ có kẻ không muốn đến với ta có được cớ để tạ từ mà nước láng giềng khinh khi không lấy gì để trọng thì việc nước làm sao cứu vãn ? Đoạn ấy như có rút bớt đi hay không thì ngài ấy quyết không dám làm. Bọn thần bấy giờ nói rằng đoạn ấy đã vâng xin ngắt bớt nhưng không được chuẩn cho, nay không dám thêm bớt. Ngài ấy bảo rằng mong nên nghĩ lại như thế nào, rất có e ngại cho việc nước.

- Dâng phiến tâu: Hai chân đau nhức, đi lại khó chịu, khẩn xin miễn vào chầu, ở lại công thự làm việc. Kính vâng chuẩn y. - Can việc khoa đạo Huỳnh Côn, Đặng Trần Hanh vạch tội ngắt bớt lời đọc di chiếu, kính vâng giao cho đình thần bàn chung. Bọn Huỳnh Côn dâng phiến trong đó có nêu khoản: Hôm trước, ở nhà Tả vu điện Cần Chánh, theo lời Đồng Phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết nêu rõ, vâng lời di chiếu tiên đế răn nguyên Tự quân có một đoạn về nguyên Tự quân, khi sao lục đã cắt bớt, đại thần Trần Tiễn... tuyên đọc cũng sót bớt đoạn ấy không đúng. Trộm xét đại thần dự việc cố mệnh chính là nên ngữa vâng thánh ý thì các người nghe việc chung mơí thấy. Nếu trước khi đi lại có xin bớt mà không được, nay lại bớt mà không đọc, ngu ý cho là việc ngắt bớt di chiếu về chỗ nguyên Tự quân, chưa chắc là không do đại thần ấy làm kẻ dẫn đầu, xin giao nghị xử cho nghiêm túc kỷ cương.

Qua ngày 19, Nguyễn Văn Tường vì ốm xin nghỉ, còn thần thì vì già yếu, nhiều lần xin khước từ, Tôn Thất Thuyết vì có thần đứng đầu, lại không chịu đọc mà lễ tuyên đọc tới gấp, thần bất đắc dĩ vâng tuyên đọc. Duy bấy giờ tình đau buồn như cắt, lại thêm sau cơn bệnh tai điếc mắt mờ tâm thần hoảng hốt, có nhầm sót hay không cũng không kịp biết. Nay quan Khoa đạo có lời hài tội ấy, tâu xin muôn phần chịu tội. - Đình thần tuân bàn: Việc ngắt đọc di chiếu, xin dựa theo điều luật về viết chế thư sai sót, kết tội đánh bằng gậy rồi cách chức. Kính vâng Châu phê : Xưa thời thế thái bình, chính sự giản dị mà còn phải dùng người cũ, huống nay thời thế khó khăn, việc nước phức tạp, há để đại thần 4 triều lầm lỗi mà không dung được sao ? Trần Tiễn... hãy giáng 2 cấp lưu, đủ để răn đe nhưng vì xảy ra trước dịp ân xá nên được miễn.

- Dâng sớ tâu: Ngày 14 tháng trước, vâng Tiên đế triệu thần là Trần Tiễn... và Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết vào chầu, vâng giao ra một tráp di chiếu. Bọn thần vâng ra phòng giám kính đọc, vâng chiếu có ghi một đoạn: tính hơi hiếu dâm, cũng rất không tốt, e không gánh nổi việc lớn. Theo Nguyễn Văn Tường bảo rằng : Di chiếu là để vâng truyền ngôi lớn mà đoạn ấy e chưa thoả đáng, tự nhiên, nên tâu xin ngắt bớt. Tôn Thất Thuyết với thần cũng cho là thế, đã cùng dâng phiến xin, kính vâng không chuẩn y.

- Dâng sớ vì bệnh già xin giải việc Cơ mật viện, về nhà điều trị. Kính vâng Châu phê : Sẽ có chỉ riêng. - Quân Pháp đem binh thuyền đánh lấy thành Trấn hải cửa Thuận an.

Đến ngày 18, Đoan quốc công triệu ba người bọn thần vào điện Quang minh thương lượng rằng : Ở vào địa vị đứng đầu thiên hạ tất có cái đức đứng đầu thiên hạ, vâng di chiếu một đoạn “tự tính hơi hiếu dâm” , vì Tiên đế lo xa, răn kỹ cho nên nói điều đó tha thiết, ngài ấy nguyện vâng viết vào đai áo 389 không dám lơ là chút nào,

- Vâng sắc tuyên triệu bàn việc giảng hòa. Vâng sắc trong có khoản: Khâm giao Cần chánh điện đại học sĩ Trần Tiễn... đến nhà đạo Kim Long hiểu dụ, tha thiết giao trách nhiệm cho các giám

154


- Mặt trời có màu xanh, dâng sớ xin Trên trách cung 391 , sửa sang chính sự cùng ban sắc xuống đình thần xét cho chín chắn xem có điều gì chưa hợp thì tâu ngay để xét, ngõ hầu chuyển lại ý trời. Lại lấy cớ mình làm việc Phụ chính không giúp đỡ được gì, xin thu mệnh phụ chính. Vâng Châu phê : Nên thể theo tình hình đất nước cùng với niềm riêng mà chia phần lo, chung ý giúp. Đừng vin cớ mà tránh né.

mục, linh mục ấy hết lòng giúp đỡ lo liệu, cốt sao họ cảm ngộ để sớm được việc.

- Thương bạc Cơ mật viện tâu: Nay giao ra 1 tập tâu của các viên Khâm sai Phạm Thận Duật, Nguyễn Thuật. Bọn thần vâng chiếu tâu bày : Chiếu theo tập tâu thì việc trù xét cùng điều đình ra sao, quan Thanh chưa xét mà Khâm sai ấy đã xin về. Đến việc được báo tin ở Cảng là thuyền Pháp nổ súng ở Thuận an cùng quốc thư đệ đến nói chuyện với tướng Lý. Khâm sai ấy hiện ở lại Tân lặng lẽ chờ. Vả ta đánh với Pháp không xong, giữ thì không bền mà hòa cũng chẳng đủ trông cậy. Chỉ vì lúc đầu Phan Thanh Giản, Lâm Duy Tiếp định ước không cho giao thông với các nước nên nguyên đã rơi vào tròng của chúng không được như Xiêm còn có công nghị, cho nên phải trái không có chổ biện bạch, hôm nay lấy tỉnh này, ngày mai lấy tỉnh khác, một mình chúng ngang ngược không e dè gì, cuối cùng tất bị chúng thôn tính hết mới thôi. Tiên đế đã nhiều năm tiêu cán, cầu mở cửa ngõ mà chưa có cơ hội. Năm ngoái, phái bộ chúng đến gây rối ở Bắc kỳ, gặp lúc phái bộ nhà Thanh là Đường Đình Canh, Mã Phụ Bôn đến Kinh thăm dò, tiếp đến tướng Lý gởi công hàm đến khuyên nên cử một đại thần thông minh siêng năng sang Tân hỏi han mọi chuyện.

Thành Thuận an thất thủ theo tranh vẽ của Pháp

- Tháng 8, vâng đưa tử cung Khiêm điện 382 .

390

Đại Hành hoàng đế về Hoà

Vả chăng Bắc kỳ của ta cũng liền với đất nhà Thanh không chỉ bằng cửa ải cho nên thư của tướng Lý có câu: “Bộ lạc vẽ mình, ba ải chặn; Trăm lo vướng vít, dạ vua tôi”, thì họ mà tiếp viện ta là để giữ chổ rào giậu. Ta là nước lệ thuộc, theo nghĩa không thể không trình báo, huống chi Thanh hiện đang có các công sứ Tây phương đông đủ

- Dâng phiến tâu: Thần thường mắc chứng đau bụng chữa thuốc không khỏi. Xin cho nghỉ tại công thự 5-3 ngày, điều trị cho đỡ sẽ xin vào chầu ngay. Kính vâng chuẩn y.

155


ở đấy, ta có thể nhân đó xin nhà Thanh để ta gặp các nước, giảng giải cho đến khi có lại hoà bình, cũng có nước Thanh dự vào mới có thể mượn cớ mà dằng co, không bị thôn tính chứ vốn không phải mượn sức nhà Thanh để đánh Pháp. Đấy là vâng theo mối lo lắng sâu sắc của Tiên đế vậy. Xem ra chủ ý của Thanh tuy đưa quân binh, lương thảo đến, bề ngoài như phô trương mà kỳ thực thì muốn nhờ các nước để điều đình.

- Tháng 9, dâng sớ tâu: Gần đây tiếp tư sức của bộ Lễ và bộ Công đặt giới hạn cấm ở Khiêm lăng, liền phái người đến họp bàn giải quyết các việc và đã phái người đến trước lo liệu. Nay Viên ngoại lang bộ Công là Nguyễn Thúc Trực trình rằng giới hạn ấy chiếu theo các Tôn lăng thì quá rộng rãi, phần mộ của người ta hơi nhiều ngôi nằm trong giới hạn, thần vâng xét theo năm trước đây xây Khiêm lăng, bấy giờ thần lạm sung làm Đổng lý nhân thiếu người, kính vâng lời thánh huấn: “ sau khi trẫm muôn tuổi, muốn xây như lăng Thiên thụ, đừng làm huyền cung mà phí và nhọc”. Đến khi làm bờ thành, vâng theo tôn lăng mà xây.

Nay xem điều Khâm sai ấy dò kỹ cùng báo chí Anh gọi việc tăng quân này là để cùng các nước Anh Nga bày cuộc giải quyết. Toàn quyền Anh cũng báo là triều đình Anh rất chú tâm nghĩ đến. Lý Trung đường lại bảo điều ước thật quá đáng, đang nghĩ cách cứu vãn tình trạng ấy, nước Thanh không buông xuôi. Nghĩ nên báo cho quan Khâm sai tận tình cầu xin thì cũng có phần giúp đỡ, chỉ vì càng ngày việc đưa công văn càng rất kho, e có lọt tin tức ra, gây điều lo ngại. Xin chờ quan Khâm sai sao lục tiếp các khoản hoà ước trình với tướng Lý, bàn xét như thế nào tất có báo tin về cùng khoản nộp cống, ngày nay tình thế đổi khác, đều nên chờ có phúc trình thì mới dựa đấy mà tính liệu được. Kính vâng chuẩn y.

Lại vâng tờ thánh huấn, mọi phần mộ ở mặt trước của thành ngoài đã chuẩn cho quan Phủ Thừa Thiên chi cấp tiền và vải, cải táng để dời đi. Còn ba mặt phiá sau và hai bên tả hữu thì sức mua tre xanh trồng quanh những phần mộ ở phía ngoài hàng tre đó thì khỏi phải dời. Thế rồi mua tre xanh trồng quanh. Nay lăng đã làm y theo phép đã chuẩn cho. Trụ cấm ở mặt trước của thành ngoài xin chiếu theo nội cung của lăng, vẫn theo phần mộ đã dời xong, đặt đá theo từng đoạn, phía sau và hai bên Tả hữu xin cho cách bên ngoài tre xanh một trượng 74 chia đoạn đặt đá móng để khỏi làm phiền việc dời mộ phía ngoài hàng rào tre. Kính vâng Châu phê: Lòng thánh đế đã thấm nhuần đến cả xương khô như thế, đâu dám trái ý. Nên thể theo như cũ mà làm mới thoả đáng.

- Dâng phiến tâu : Gần đây vào thu đã sâu, khí ẩm tăng nhiều, tay trái, chân trái của thần đau nhức, chứng cũ tái phát, cử động đi đứng khó chịu nhiều phần. Hai chân thần đau nhức vốn là chứng cũ, năm qua đã đau 2 lần, hoặc qua một tháng, hoặc qua hơn tháng điều trị mới hơi thuyên giảm, vốn không phải mươi ngày mà đỡ được cho nên không dám tâu phiền mãi. Kính xin ân chuẩn cho thần được ở nhà điều trị, ngày nào bệnh đỡ, xin vâng vào chầu. Kính vâng Châu phê : Sẽ có chỉ riêng.

- Dâng phiến vì bệnh cũ lại phát, xin về nhà điều trị. Kính vâng chuẩn y. - Dời về ở nhà Trại ấp trên cao Đông (nay là chợ Dinh- Gia hội, Huế). Ấp này ở ngoài cửa Đông kinh thành. Năm trước, ông có làm một toà lầu ngói ở đấy.

- Dâng phiến vì bệnh tình, xin giải bớt việc Cơ mật và việc bộ Binh, chỉ sung quản Khâm giám, Sử quán. Lại xin dời về trú ở Sử quán để tiện điều trị. Kính vâng chuẩn y.

- Giờ Tí ngày 1 tháng 11, Ông qua đời: Trước đó, từ sau cuộc phế lập, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết tự tiện nắm hết binh quyền. Mọi người đều biết hai

- Dời về ở dãy hiên dài bên trái Quốc sử quán. 156


người đó gian ác nhưng sợ thế lực không dám nói ra. Tham tri bộ Lại là Tôn Thất Hồng Phì và Tham biện Nội các Tôn Thất Hồng Sâm cùng mật dâng phiến xin giết quyền thần Nguyễn Văn Tường. Trong phiến có nói rằng việc ấy đã có trình cho ông biết cốt để Hoàng thượng nghe theo. Phiến ấy được lưu, việc lộ ra, Văn Tường và Thuyết lại mưu việc phế lập.

can tội khi đọc di chiếu tự ý bỏ bớt, bọn thần đã xét, xin kết tội đánh 100 gậy rồi cách chức. Kính vâng phê chuẩn trong đó có khoản: Trần Tiễn... hãy cho giáng hai cấp lưu đủ để răn đe nhưng thuộc việc trước dịp ân xá nên cho miễn. Vả chăng việc đọc di chiếu là long trọng biết chừng nào ! Viên ấy bỏ bớt thì tội tình khá nặng, nếu vẫn tuân theo sự phê chuẩn trước đây e thành lỗi quá nhẹ, nên xét châm chước cho xứng đáng. Với viên ấy, xin đổi giáng làm Thượng thư bộ Binh cấp tuất theo hàm mới điều cho được trọn cả ơn vua lẫn phép nước.

Sáng 30-10 Văn Tường và Thuyết sai viên Tham tri Mỗ 392 đem bản thảo phiến tâu đến nhà trình duyệt, đòi ông phải nghe theo. Ông phê : “Phế lập là việc lớn, há có thể làm vài lần ? Mỗ đã bãi chức về nhà, không dám dự xét”, rồi ném trả. Giờ ngọ, ông ra lệnh cho các người cháu ở chung, hết thảy phải về lại nhà ở làng. Chiều lại, bọn Văn Tường và Thuyết phế Hoàng thượng vào Dục Đức đường, giết bằng thuốc độc 393 rồi lập Hoàng tử thứ ba. Đến canh ba đêm đó, lại sai mươi tên thủ hạ đến nhà ông gọi cửa, la lên rằng có việc quan rất gấp, nên mở cửa để trình bẩm. Ông xuống lầu, sai gia nhân mở cổng, thấy một người đi trước, tay bưng tráp son đựng phiến, theo sau có mấy người đi thẳng vào đến dưới lầu hành hung.

Giáp thân năm Kiến phước thứ nhất (1884) - Tháng 2, được phái 2 viên quản vệ, 3 viên suất đội, 100 biền binh thủy bộ, một chiếc thuyền bồng đại bản làm hộ dẫn, 4 thuyền thường hộ tống, rước linh cửu về an táng ở mé đông núi thuộc phường Nguyệt Biều, huyện Hương trà. Trước đó, những lúc rãnh việc công, ông thường đem theo một vài nhà phong thủy lên núi chọn đất dự bị làm mộ để ngày sau con cháu khỏi phải lo. Bấy giờ tìm được nhiều chỗ, duy có cuộc đất ấy, phía đông nhìn về mộ phần cụ Thượng thư, thân phụ của ông, phía Tây quay sang 2 mộ: bà cô là Nhụ nhân và ông nội là quan Thiêm sự. Lúc còn sống ông thường dặn dò như vậy, có mua một mảnh vườn và 2 mẫu 8 sào ruộng tư ở đấy. Đến bấy giờ mời thầy xem lại cuộc đất ấy đúng là tốt.

Bấy giờ lính trực hầu mới chạy về nhà báo rõ, cả nhà sợ hãi liền cùng lên phố bẩm huyện Hương trà, phủ Thừa Thiên đến khám lập biên bản. Xong việc, rước về nhà làm lễ nhập liệm. Sau đó, Phủ Thừa Thiên cho là bị cướp giết, xin chờ tra cứu tầm nã. - Tháng 12, vâng chỉ chuẩn cho truy giáng làm Thượng thư bộ Binh, thụy Trang khác, chiếu theo điều hàm 394 , cấp tiền tuất 700 quan. Bấy giờ bọn Văn Tường và Thuyết tâu: Nay tin cậy Nội các cung lục phiến của bộ Lại đem việc Thái bảo Cần chánh điện đại học sĩ Trần Tiễn... đã qua đời, lệ nên cấp tiền tuất, xin để bọn thần xét đặng phúc trình các việc. Vâng tra cứu tháng 6 năm nay, viên ấy

157


-

Đức giấu mãi cũng có lúc huy hoàng, cho nề nếp triều đình vững ngọn cờ di hiến. Lúc sống vốn hòa hợp với cân đai võng lọng, tên tuổi được nhắc nhở đề cao, đó chính là Nguyên Văn minh điện đại học sĩ, đã bị giáng làm Thượng thư bộ Binh, cố Trần Tiễn...

- Sớm đỗ cao khoa; - Trải leo hiển trật. - Dồi dào ân sủng, xứng cho Tiên hoàng đế ban tên; - Mẫu mực nếp quan, chẳng phụ Tuy thạnh công 345 tiến cử. - Dáng dấp Gác vàng 396 còn đó, gội ơn mưa móc ba triều; Dòng châu hồ vạc 397 chưa khô, chịu nỗi gió sương một tối 398 - Nguy nghi khó xử

399

; - phế lập lòng nào.

400

- Trương Xưởng nghe lời Diên Niên, e để sử xanh mai mỉa; Hề Tề nhờ lòng Tuân Tức 401 , làm cho rạng nghĩa Xuân Thu.

Miếu thờ Phụ chánh đại thần Trần Tiễn Thành tại làng Minh Hương, Thừa Thiên Huế (xem thêm phần phụ đính)

Ất dậu năm Đồng khánh thứ nhất (1885)

- Nỡ để hồn trung; - Mãi ghi sổ tội ? Khá truy phục nguyên hàm Văn minh

395

điện đại học sĩ

- Tháng 9, kính vâng chỉ truy phục phong cho Đặc tiến Vinh lộc đại phu Văn minh điện đại học sĩ, thụy Văn nghị, chiếu lệ cấp tuất.

-Để ghi mệnh cũ; - Làm rạng ánh xưa. Ngõ hầu :

Phụng thiên thừa vận, Hoàng đế

- Vinh dự ngát hương; - Cảm sâu hàm kết

ban chế rằng :

- Thần phách về cùng Cơ Vĩ

Trẫm nghĩ : -

403

402

; Anh linh phảng phất đâu

đây

Bàn cho lâu tất tới hồi ổn định, để thị phi sáng tỏ, sự ấy chính là lẽ thường;

- Ước ao linh khí mạnh mẽ sơn hà; - Bắt chước cổ nhân đời sau báo đáp. Kính thay! 158


sung Cơ mật viện đại thần, sung Quốc sử quán Tổng tài Kiêm Quản Khâm thiên giám sự vụ, Kinh kỳ hải phòng sứ là cố thần Trần Tiễn... trải nhiều năm phục vụ chính sự ghi được nhiều thành tích, được Dực Tông Anh Hoàng đế rất chú trọng, lại rất thủy chung thì theo lệ đã đạt đến bậc Đại phu, theo đạo nghĩa Xuân thu thì cũng không giáng chức hay từ chức được.

Bấy giờ Cần chánh điện đại học sĩ Nguyễn Hữu Độ, Văn minh điện đại học sĩ Phan Đình Bình tâu : Vâng xét cố thần Trần Tiễn... phò tá triều trước rất lớn, không có tội lỗi gì, lúc ấy đảng nghịch có hành động càn rỡ ấy, đã không minh oan được cho Người, huống chi chết rồi không bàn đến nữa? Luật có điều ghi rõ mà viện lấy chuyện đã qua, gọi là đại thần ấy ngắt bớt lời chỉ, giáng làm Thượng thư, điều nào điều ấy đều là oan uổng, vốn nên tra xét ra cho sáng tỏ triệt để, hầu làm rõ ràng phép nước. Nhưng vì việc đã chìm lấp, nhân chứng mơ hồ mà hiện nay việc nhiều, chưa tiện cứu xét. Vậy nay buổi đầu nền quốc chính, ân cách rộng ban, xin gia ân truy phục nguyên hàm, chiếu lệ cấp tuất cho đại thần ấy. Kính vâng chuẩn y.

Lần này Trần Tiễn Mưu lấy tư cách đích tôn xin thừa ấm, bộ Lại dâng phiếu xét theo lệ không công trạng nên trao cho hàm Biên tu (kém 2 trật) thấy có hơi kém. Cố đại thần Trần Tiễn... xin xét theo lệ có công, nên tập ấm cho đích tôn Trần Tiễn Mưu đang giữ chức Thừa biện bộ Lại, hàm Biên tu, được xét gia một trật bổ thụ Tu soạn. Kính vâng chuẩn y.

CHÚ THÍCH: 313. Hà đông : Hà nội + Hà đông. 314. Quách : thành nhỏ, vây bên ngoài thành chính . 315. Vâng từ giá hạnh : nguyên văn ‘’phụng từ giá hạnh’’, nghĩa khá mập mờ: a/ hầu mẹ đẻ ( nếu thế, phải nói phụng Hoàng Thái hậu mới hợp lý) ; b/ vâng lệnh mẹ mà đi (nói thế hoá ra quá sợ phê phán, chả ra thứ gì !)

Quảng cáo du lịch Đông dương thuộc Pháp

316. nghỉ hè : nguyên văn ‘’hạ tĩnh’’ (tìm cái lạnh trong mùa

Canh dần năm Thành Thái 2 (1890)

hạ) .

- Tháng 2 , Phủ Phụ chính thân thần là Tuy lý quận vương Miên Trinh, Hoài đức công Miên Lâm, đại thần Nguyễn Trọng Hợp, Bùi Ân Niên, Trương Quang Đản tâu : Vâng xét nguyên Phụ chính đại thần Văn minh điện đại học sĩ, Quản lý Binh Bộ sự vụ,

317. Lẽ ra Dụ này phải được nhắc đến trước, rồi mới có phiến tâu về việc sử dụng khoản thưởng này (được nhắc trước tháng 4) .

159


318. Quan hải lâu : vọng lâu quan sát mặt biển, sử dụng cho nhu cầu quân sự chứ không phải để tiêu khiển.

327. Ngân thử : loài chuột sống ở vùng núi Cát lâm Trung quốc, lông trắng, mịn ngắn. Da dùng làm áo lông cao cấp, thường gọi là áo lông chồn.

319. Phương thư : đây chỉ sách thuốc có kê rõ từng thang, tên vị và cân lượng.

328. Lý hồng Chương lúc trẻ vốn là thủ lãnh nổi danh của đạo quân Hương dũng, về sau là nhà ngoại giao danh tiếng của nhà Thanh, là người thu xếp nhiều hòa ước: Mã quan, Bắc kinh, Thiên tân .

320. Ôn công : Tư mã Quang, nhà cai trị lừng danh đời Tống ở Trung quốc . 321. Làm ngơ : nguyên văn ‘’dụy chi’’. Ngôn ngữ văn học chưa thấy tiếng tương đương. Ngôn ngữ dân gian có tiếng ní. Dụy có nghĩa là kẻ trên giao việc mà kẻ dưới không làm, để mặt cho người trên phải vất vả làm lấy.

328b. Đường Mã : tên hai viên cầm đầu phái bộ nhà Thanh đến Kinh đô ta nắm tình hình là Đường Đình Canh và Mã Phục Bôn - Do bị ràng buộc bởi hòa ước ký với Pháp (ngoại giao phải qua người Pháp) nên triều đình cử Trần Thúc Nhẫn tiếp xúc bán chính thức.

322. Tị điện : điện dành cho vua ở riêng, không gò bó nghi thức (cũng như tiện điện) .

329. Nuốt sống ăn tươi: nguyên văn ‘’hổ thị kình thôn’’ (nhìn như hổ, nuốt như cá voi) .

323. Chấp đàn : nắm lấy mà đàn hặc. Cũng có nghĩa hặc tội một cách cố chấp. Lâm Hoằng lúc này tuổi đã trên 70 dễ sinh tính khắc nghiệt nên đàn hặc vụ này hơi quá đáng. Rất có thể vì vậy mà ông Thuyết căm, sau này khi Pháp nổ súng ở Thuận an, ông Thuyết lấy tư cách Thượng thư bộ Binh “cử” ông Lâm đi điều đình để có cơ mà trị. Rốt cuộc ông Lâm kẹt, chết ở Thuận an (xem Lô giang ký sự)

330. Xa thư : xe và sách, ý nói có nền văn hoá chung, kiểu xe như nhau, chữ sách như nhau (xa đồng quĩ, thư đồng văn - Mạnh tử) . 331. Phong vực : Khu vực được phong. Trước đời Tần, người có công được phong tước (phong hầu) và cắt đất ban cho (kiến địa) khiến cho các nơi e dè nhau, ai nấy có phong tục, tập quán, văn hoá riêng, người nơi này không biết nấu món ăn “đặc sản” của nơi kia.

324. Thể trí : chọn đặt, ý nói lẫy: chọn bất cứ hình phạt nào, đặt vào bất cứ tội gì. 325. Dịch âm : Khởi hiệu Lâm hiên tự giải cầu Quân thần nhất thể bản đồng hưu Cố tri lão giả y ưng hậu, Phân dữ khinh ôn liệt tráng do.

332. Ba ải : thời gian này, Bắc kỳ có 3 lực lượng ghìm nhau: Ta, Tây, Tàu. 333. Xe cộ ken nhau: tục xưa, đại quân dừng lại thì quây xe chung quanh, do đó ở thời điểm này Bắc kỳ có đến 3 loại xe (nghĩa bóng) chen nhau.

326. Lâm hiên : cũng gọi là bình đài, có nghĩa như khán đài ngày nay. Theo chỉ dẫn của Trương Lương, khi phong Hàn Tín làm đại tướng, Hán vương lập đàn (Lâm hiên) còn cởi áo đang mặc khoác cho Hàn Tín, tỏ ý ân cần. 160


334. Ở đấy : theo văn cảnh, “đấy” có lẽ chỉ nước Tàu, nơi đang có cái thế “công nghị” mà vua quan Tự Đức mong được thu xếp chứ không có chủ trương đánh.

344. Tướng tướng: chỉ xuất sắc cả văn lẫn võ: về triều thì làm tể tướng, thừa tướng, ra biên thùy thì làm đại tướng. 345. Trương Văn Lương : tức cụ Trương Đăng Quế .

335. Pháp vốn khống chế ta về ngoại giao, ngay từ hoà ước đầu tiên.

346. Võ Văn Đoan : tức cụ Võ Xuân Chuẩn, đã dâng sớ xin khai phục cho Lê văn Duyệt, Nguyễn văn Thành, Lê Chất. Đồng thời là nhạc phụ của vua Tự Đức .

336. Mã quan : địa danh của Nhật, nơi ấy Lý hồng Chương ký hòa ước với Nhật, giải quyết một số quan hệ với Triều tiên. Triều đình vua Tự Đức mong kiểu “bổn cũ soạn lại” đó, Tàu với Tây điều giải 1 số vấn đề liên quan tới ta, ngon thì ta hưởng, dở thì liệu sau. Mong thế một phần vì tin tài ngoại giao của Lý hồng Chương, một phần vì ở Trung quốc đã có nhiều báo chí, dễ vận động và cũng làm Tây gờm bớt.

347. Biết : dùng theo nghĩa qui ước: vua “biết” bề tôi khi trực tiếp qua thi cử. 348. Rồng mây hổ gió : Rồng sống đáy vực, có mây mới nương theo để bay lên trời. Hổ gặp gió thì cú phóng mới nhẹ và xa. Vua tôi tương đắc ví như hai giống đó gặp hội phong vân. 349. Giao thái : tốt gặp tốt (vua sáng gặp tôi hiền) lấy ý Kinh Dịch “thiên địa giao thái”.

337. Tướng Lý : tức Lý hồng Chương, Văn Hoa điện đại học sĩ (Tướng đây dùng như Tể tướng mặc dù bấy giờ không còn chức đó nhưng vai trò của Lý như vậy)

350. Thon gầy : nguyên văn ‘’thanh cù’’. Cũng chính vua Tự Đức, trước đó trong bài 2 của một loạt thơ ngự chế 4 - bài dặn Cơ mật viện đại thần (quyển 4)- cũng ghi chú “Trần Tiễn Thành vốn to béo” (Trần Tiễn Thành tố phì tráng)!

338. Tăng : tức Tăng quốc Phiên, giỏi nhiều mặt, đệ nhất công thần đời Đồng Trị nhà Thanh, đánh tan Thái bình thiên quốc. 339. Đồ gốm : loại gốm cao cấp, chẳng hạn bình trà Thế đức, Mạnh thần v.v... dùng pha tra ngon hơn đồ sành sứ .

351. Phó hạ khanh : chỉ chức Thự (phó) Hiệp biện đại học sĩ (hạ khanh) .

340. Bẩm thụ : sức khoẻ mỗi người có được khi mới sinh ra .

352. Mỗi khi vua Tự Đức đi đâu đều bố trí cụ Trần làm nhiệm vụ Lưu Kinh đại thần- đại diện vua khi vua đi vắng (thực ra chỉ khi đi gần Kinh đô thôi, chứ Bắc tuần thì cụ Trần phải hộ giá) . Qua đó biết vua tin tưởng cụ Trần dường nào.

341. Tiết dưỡng : bớt và nuôi, chỉ sức khoẻ có được do phép dưỡng sinh có chừng mực. 342. Phạm vũ Tử : tức Phạm Nịnh, người đời Tấn . 343. Văn Lộ công: tức Văn Ngạn Bác, làm quan hơn 50 năm, sống 92 tuổi, được phong Lộ quốc công. Ông sống vào thế kỷ 1112, có lập ra hội Lạc dương Kỳ Anh, có lẽ là hội người già đầu tiên.

353. Nội các chỉ làm công việc văn thư, không có thực quyền, không “nguy hiểm”, ở đấy có là “ông Mẫn thật” cũng chẳng sao ! nhưng ở bộ khác (bộ Binh chẳng hạn) nếu có người mang tên tướng cướp thì “hại tim’’ lắm lắm !

161


354. Tô Hiến Thành: Vua Lý Anh Tông sắp chết, chọn Tô Hiến Thành làm Phụ Chính phò Long Trát mới lên 2 tuổi. Trước đó, ngôi Thái tử là của Long Xưởng nhưng Long Xưởng phạm tội bị truất làm dân, Long Trát lên thay. Anh Tông chết, Thái hậu và Hoàng hậu (bà nội và mẹ Long Xưởng) đút lót Tô lập lại Long Xưởng nhưng họ Tô từ khước.

bãi rộng. “Nhật lạc tang du” là thành ngữ chỉ tuổi già. Vua Tự Đức lệ thuộc câu văn biền ngẫu nên nói tắt. Cách nói tang du chi hiệu ở đây ngụ nghĩa như câu “le chant de cygne” trong tiếng Pháp. 362. Hiệu ca: Bài ca làm tăng sức cố gắng (hiệu), chẳng hạn như các câu hò chèo thuyền, hò kéo gỗ, hò giả gạo của ta.

355. Noi theo : chữ Tiễn (dấu ngã) trong tên cụ Trần có nghĩa là noi theo, nương theo. Còn chữ tiển (dấu hỏi) lại có nghĩa là đi chân trần, chưa “kịp” mang giày (Xem Hán Việt Từ điển của Đào duy Anh) – (Nguyên Định ghi chú).

363. Bông vải : nguyên văn niên hoa (bông bông) cả vế câu “khí miên hoa vi tai” có nghĩa là đem bông vải làm đồ dùng (khí) tức là dệt vải. Nghĩa ấy lạc lõng với văn cảnh. Lại cũng có nghĩa đem bông vải làm vũ khí tức làm thuốc súng. Trung quốc biết sử dụng cellulose làm thuốc súng, có điều là phương pháp thô sơ: chọn loại bông thật nở (tức loại bỏ loại tận thu trong quả chưa nở) đánh cho thiệt tơi, băm ngắn sợi rồi nén lại, làm thuốc tống. Tên chính thức gọi là miên hoa hoả dược (để phân biệt với hoả dược chế bằng diêm tiêu, lưu huỳnh, than nhẹ). Tên thông dụng ở ta gọi là bùi nhùi. Tóm lại “khí miên hoa” ngụ ý là thí mạng.

356. Họ Đỗ : chỉ Đỗ Phủ : Minh niên thử hội tri thùy kiện? Túy bả thù du tử tế khan (Cầm lá thù du say ngắm mãi Sang năm gặp lại, khoẻ là ai?). 357. Thù du : tên loài cây, là dùng làm thuốc. Theo sách Phong thổ ký, vào Tết Trùng dương (mồng 9 tháng 9 Âm lịch) cũng gọi là Tết Trùng cửu, tao nhân mặc khách rủ nhau lên núi uống rượu cúc, gọi là Đăng cao hội hay Thù du hội.

364. Văn : định nghĩa cơ bản là “văn tự tốt đẹp viết ra thành bài” nhưng oái oăm là nhà nho quan niệm lời nói tốt đẹp (xảo ngôn) lại phản ánh tâm địa bất nhân (xảo ngôn, lệnh sắc, tiền hĩ nhân - Luận ngữ). Nói cho khéo, làm sắc cho đẹp, ít có lòng nhân. Vua Tự Đức chối dài vì sợ bị coi là bất nhân chứ không phải sợ bị mang tiếng kém khiêm tốn. Do đó có câu “chí thân vô văn” hoặc hệ luận thành “vô văn chí thân”. Bảo rằng văn của mình không phải là văn thì mới tỏ sự chí thân vậy.

358. Chi tiết này có giá trị so với người không con như vua Tự Đức, chứ thật ra, cụ Trần buồn nhiều hơn vui. 359. Tri kỷ : đây chỉ cụ Trương Đăng Quế. 360. Chí ngựa ký già : ngựa ký, loài ngựa trông lừ đừ nhưng có sức phi nghìn dặm 1 ngày, già rồi nằm mọp góc chuồng nhưng vẫn nghĩ đến đường dài. Đây lấy ý ở bài nhạc phủ về Tào Tháo : ngựa ký già mọp chuồng, chí ở nghìn dặm (lão ký phục lịch, chí tại thiên lý) .

365. Dịch âm : Tam thập dư niên tri ngộ thâm, Thủy chung vĩnh thỉ nhất đan tâm Thừa xa hoàn cố huyền xa lệ Trượng quốc vưu ân baó quốc đam. Nhị thiện diên khai hoài Phó đỉnh Thất tuần hoá cấp tán ngu cầm Thọ tư dữ thí cô lưu ý

361. Tang du: tên hai loài cây giữ nắng chiều nhiều nhất. Cây du cao khoảng 25m, cây tang (dâu) tuy chỉ cao vài mét nhưng ở 162


Thường hứa toàn thu tục tụng âm.

376. Luyến sạn : quyến luyến chuồng, dịch là tham quyền cố vị nghe dễ hiểu hơn nhưng lại đổi hai chữ Hán thành 4 chữ mà lại không nói được cái ý ngầm của cụ Trần: công việc như ngựa, bị hành hạ như ngựa.

366. Dựa nước : chỉ tuổi 70. Ý Kinh Lễ : 50 tuổi dựa nhà, 60 tuổi dựa làng, 70 tuổi dựa nước, 80 tuổi dựa triều đình. 367. Phó : chỉ Phó duyệt, tướng quốc danh tiếng đời nhà Ân.

377. Nữ tường : lớp thành nhỏ, xây trên phần thành chính.

368. Thuấn : tức Ngu Thuấn, vua Trung quốc thời tiền sử, tương truyền thọ 110 tuổi.

378. Tân : có lẽ là Thiên tân bên Trung quốc . 379. Sơn thứ : có lẽ là quân thứ ở Sơn tây.

369. Thông tịch : bắt đầu đăng ký vào danh tịch các quan.

380. Một bí mật chưa rõ đã được vén màn chưa? Vua Tự Đức có một đề xuất thế nào đó về miếu hiệu (ngụ ý khiêu khích Tây hay chăng?), các viên Phụ chính không nhất trí rồi ỉm luôn, đặt ra hiệu Dực tông Anh hoàng đế.

370. 360 đầu : hư số tượng trưng cho toàn bộ 1 số đông. Chẳng hạn người Tàu hay nói 360 màu vải, 360 quán ăn v.v... ước số thập phân của nó là 36 : 36 chước, 36 phố phường v.v... chỉ 1 đa số vừa phải.

381. Tự buông thả : ngoài “tiếng ác” mà vua Tự Đức nêu lên trong di chiếu, hai ông Tường và Thuyết moi thêm mấy lỗi để gây thuyết phục và Thái hậu Từ Dũ ám chỉ ở đây. Đó là có tang mà mặc áo đẹp, ăn ngon, v.v...

371. Điện hàm : hàm chánh nhất phẩm, cao nhất trong quan giai triều Nguyễn, đặt ra từ đời Minh mệnh, cũng gọi là Tứ tru triều đình : Cần chánh điện, Văn minh điện, Võ hiển điện, Đông các điện.

382. Đại hành hoàng đế : thuật ngữ gọi vua vừa mới qua đời.

372. Vi Đổ: hai vọng tộc đời Đường, có nhiều người làm quan. Nội ngoại cụ Trần cũng vậy.

383. Long ngự thượng tân : thuật ngữ thay chữ băng hà.

373. Tài đầy : dịch tạm danh từ khí mãn. Khí ở đây có nghĩa là dùng được việc. Đúng là cụ Trần ở vào diện đó. Cùng một lúc gánh cả bộ Binh, Cơ mật viện, Khâm thiên giám, Kinh diên, Quốc sử quán, hải phòng. Lời dạy của thánh nhân : đa ngôn đa quá, đa sự đa bại, cụ Trần đều vướng cả, mà Đô sát viện hớ tí là hặc, hay nhà vua hớ tí là phạt, giáng (tổng cọng số tháng bị cúp bổng của cụ Trần trong gần 44 năm làm quan, lên tới xấp xỉ ... 70 năm !) .

384. Nguyên văn : Lạng vũ thần Lã xuân Oai mã tư nhất, dịch thành : một báo cáo gấp của Tuần vũ Lạng sơn Lã xuân Oai, nhưng do tục không viết hoa của chữ Hán, câu trên cũng hiểu được là Tuần vũ Lạng sơn Lã xuân Oai, Mã Tư Nhất... 385. Lý Trung đường : chỉ Lý Hồng Chương. Trung đường chỉ chức Tể tướng thời nhà Đường. Thời Trung hoa Dân quốc, chức Quốc vụ khanh cũng được gọi bằng tên ấy. Ở đây vua tôi Tự Đức sính dùng lạ tai.

374. Giá nặng trăm bằng : Giá rất đắt. Đời thượng cổ, người Trung quốc dùng vỏ ốc làm vật trung gian trong mậu dịch. Năm vỏ ốc tính làm một bằng .

386. Đông : gọi tắt Quảng đông. 387. Cung bảo : chức Thái tử Thiếu bảo.

375. Cổ hi : tuổi 70 . 163


‘‘Đương khi bán dạ tam canh,

388. Sứ Mã : rất có thể là 2 viên sứ Đường Mã đã nhắc ở phần trước .

Ông Hầu ra thành, binh mã đáo gia.

389. Viết vào đai áo : ngụ ý ngày nào cũng nhớ ghi.

Đến nơi đèn đuốc sáng lòa,

390. Tử cung : Chỉ quan tài ; quan taì dành cho vua thì phải gọi tôn kính là “cung điện bằng gỗ cây tử” - cây tử ít dùng xẻ gỗ vì không rắn chắc gì, mượn cớ ít dùng để phân biệt là quí.

Gọi ơi quan lão, người ra thọ đầu ! Than rằng đương lúc đêm thâu, Quan lão thượng lầu mắc phải huy đao.

391. Trách cung : tự trình bày lỗi của mình . 392. Mỗ : Kiểu giấu tên trong chữ Hán. Tương đương chữ X trong chữ quốc ngữ. Cũng được dùng khi tự xưng.

Nhộn nhàng chẳng biết ai nào,

393. Theo Chính biên thì vụ này diễn ra ở trại lính Phòng thành.

« Ông ơi, Ông hỡi, Ông hời !

Dâu con than khóc lao xao kêu trời : Miệng đà kêu trời khó thở khó than.

394. Điều hàm : phẩm hàm mời bị giáng điều, tức Thượng thư bộ Binh, chánh nhị phẩm. Còn hàm khi chưa ngắt bớt di chiếu là Cần chánh điện đại học sĩ, chánh nhất phẩm có cấp cao tột đỉnh so với các đại học sĩ khác .

Khi không mắc phải tai oan, Đã vô tòng tra cứu, kẻ gian sờ sờ. Sự tình đã rối như tơ,

395. Hai chữ Hàm Nghi bị bỏ, thay bằng hai chữ Đồng Khánh có hơi nguệch ngoạc.

Trang hình ngồi đó, xin nhờ hai ông (Phủ Doãn, Phủ Thừa) » Cậu Hai đã bẩm hai ông :

396. Gác vàng : dịch chữ Hoàng các (gác màu vàng) chỉ chỗ làm việc của quan Thừa tướng, ám chỉ chức Cần chánh của cụ Trần.

« Hỡi người cứu nghị với tình làm sao. Cha tôi tể tướng trong trào,

397. Đỉnh hồ : chỉ vua chết. Theo truyền thuyết Trung quốc, vua Hoàng đế đúc đỉnh ở chân núi Kinh, đào đất nặn khuôn, nơi đào sau xói lở thành hồ. Do đó gọi là Đỉnh hồ. Đúc đỉnh xong vua Hoàng đế cưỡi rồng bay lên Tiên, nên Đỉnh hồ cũng chỉ là vua đã qui tiên.

Xin người cứu nghị làm sao những là. Đương khi giờ tý canh ba, Đèn đuốc sáng lòa, binh mã lao xao. Đến nơi đấm cừa lại vào,

398. Một tối : Chỉ chuyện giờ Tí 1.11. Quí mùi lúc cụ Trần bị ám sát. Sự việc này được thuật lại trong « Vè thất thủ kinh đô » (câu 281 đến 324) như sau :

Tôi ngờ ăn cướp lao xao canh chầy. Tôi tưởng là đạo với Tây, 164


Thấy quan nhiều của tới vây cướp đồ.

399. Nguy nghi : điều nghi ngờ nguy hiểm, chỉ việc cắt bớt di chiếu.

Chẳng hay họ hỏi quan lớn đi mô

400. Trương Xưởng : làm chức Kinh triệu doãn đời Hán Tuyên đế, kinh đô được an ninh, chợ không có trộm cắp, có điều nổi tiếng chiều vợ là Diên Niên, thường kẻ lông mày cho vợ, tai tiếng đồn dậy Kinh kỳ đến cả tai vua. Vua hỏi thì Trương đáp : “ Thần nghe chuyện khuê phòng, chổ vợ chồng có lắm vụ còn ghê hơn cả chuyện kẻ lông mày nữa kia !”. Vua thương tài, không khiển trách nhưng cũng không cất nhắc thêm.

Mời ngài ra phụng dụ, đặng họ vô kịp chừ ! Chẳng hay mắc phải binh cơ, Trang hình ngồi đó, xin nhờ hai ông ». Quan Thừa nghe nói hãi hùng, « Tôi phân qua với cậu thuỷ chung sự tình.

401. Hề Tề, Tuân Tức : đời Xuân Thu, Tuân Tức nhận cố mệnh của Tấn Hiến Công, lập công tử Hề Tề. Lý Khắc và Phí Trinh Phủ ám sát Hề Tế, Tuân Tức toan đập đầu chết theo. Ly Cơ, mẹ Hề Tề can ngăn, khuyên lập Trác tử (em cùng mẹ với Hề Tề), Tuân Tức nghe theo. Lý và Phí giết tiếp Trác tử, Tuân Tức chống lại bị giết nốt.

Cậu lui về bẩm quan Thượng bộ Hình Đặng tôi sắm sửa đáo dinh thăm Ngài. Một là mắc phải đoạt tài Hai là oán hận chi ai nhưng là ! Xin cậu chớ khóc đừng than,

402. Hàm kết : ngậm (vành) kết (cỏ). Điển tích chỉ sự đền ơn của Dương Tôn Bảo và Ngụy Khoả.

Cậu về mai táng, sự hoàn lại hay.

403. Cơ Vĩ : tên 2 ngôi sao. Tương truyền người chết cưỡi các sao ấy bay về trời. Do đó gọi chết là Kỵ Cơ.

Ai mà trở dạ chém tay, Tội với trời đất có ngày sa cơ.

404. Chú thích tổng quát, không tiện đặt vào đâu: Hầu hết chữ THUYỀN trong sách này, trừ lê thuyền là thuyền thường bằng gỗ (của lê dân- dân thường), còn các chữ khác, tùy trường hợp mà hiểu là thuyền gỗ hoặc là tàu (hỏa thuyền).

Hiếu trung cậu phải thân hòa, Anh hùng mắc nạn mới ra anh hùng. Bao giờ cho nịnh mang gông, Gian sàm nịnh tấu, anh hùng mắc tai.

**

Cậu đừng than ngắn thở dài, Cậu con quan lớn như cậu Hai bên nhà’’.

165


Vài hình ảnh bổ túc :

Quan chức triều đình Huế đón chào quan chức Pháp đến Huế hòa đàm

Đền thờ Tô hiến Thành (1102-1179) tại huyện Đan Phượng Hà Tây-Hà Nội (website: www.hoto.vn )

Cửa Ngọ Môn kinh thành Huế

166


Điện Thái Hòa nơi nhà vua thiết triều

Mô hình hoàng thành Huế xưa với những pháo đài sừng sững ngay trên thành (-Ngự Lãm Viên do Nguyễn thanh Tùng thiết lập-) Ðiạ chỉ 502-504 đường Hoàng Hữu Nam, phường Long Bình, Quận 9, Saigon. Những đường nét chạm trổ tinh tế, những đường cong uốn lượn nhẹ nhàng thanh thoát của Ngọ Môn, điện Thái Hòa, Thái Miếu, Hưng Miếu, cung Diên Thọ, cung Trường Sanh, phủ Nội Vụ, vườn Hạ Cơ… trong Ngự Lãm Viên khiến bạn như có cảm giác một kinh thành Huế cổ kính đang sừng sững ngay trước mặt. Thêm vào đó, dòng Sông Hương thơ mộng uốn quanh qua Kinh thành, qua Hoàng thành và Tử cấm thành càng làm tăng thêm vẻ đẹp tự nhiên của một kinh đô phong kiến thu nhỏ độc đáo này:

Nha Thương Bạc, nơi tiếp các sứ thần Pháp

167


Kỳ đài, cửa Ngọ Môn, điện Thái hòa Đàn Nam giao, nơi vua Tế Trời

"Thần Oai Vô địch Thượng tướng quân": 1 trong 9 Trang cuối bản hiệp ước Patenôtre 1884 đặt Việt

khẩu súng thần công trưng bày tại Kinh thành Huế.

Nam dưới sự bảo hộ của Pháp

** 168


Phụ đính:

1. Mộ phần Phụ chánh Đại thần Trần tiễn Thành

Sau khi cải táng (2004)

2. Bài văn tế Phụ chánh đại thần Trần tiễn Thành hàng năm do giải nguyên Lâm Mậu viết Tế Văn Minh điện miếu : Mộ tại Nguyệt Biều, Hương Trà, Thừa Thiên

Niên hiệu... cảm cáo vu : Hoàng triều Mậu Tuất khoa Tiến sĩ cáo thọ đặc tấn Vinh lộc đại phu Văn Minh điện Đại học sĩ Trần tướng công thần vị tiền viết : Thực trù tụng đức Đỗ hà tư công Cổ nhơn bất hủ Lưu trạch cô cùng 169


Cung duy

Còn ghi nhớ mãi

Tiên công thần giáng

Ân đức vô cùng.

Nhạc tung quỳnh lâm giáp đê

Kính nghĩ :

Hoàng các thanh phong

Tiên công là vị thần giáng hạ

Tam triều kỳ thạc

Bậc giáp khoa cao ngất chốn quỳnh lâm

Hưu hưu hữu dung, thanh danh sách sử

Thung dung chốn gác vàng

Chánh khí dương cùng

Công lớn ba triều

Hương hiền kiến miếu

Khí độ bao dung

Quốc điển vinh phong

Danh vang sử sách

Kỷ niệm sinh nhật

Chính khí tràn đầy

Thường niên lễ long

Lập miếu kính thờ

Thượng kỳ giám cách Lạc dự dân đồng.

Triều đình vinh phong

Cẩn cáo.

Kỷ niệm sinh nhật Lễ trọng thường năm

Dịch nghĩa :

Cầu mong soi xét Chung vui với dân. Kính cáo.

Bài tế ở Văn Minh điện

(Vĩnh Cao dịch Việt)

Niên hiệu... Kính cáo trước thần vị của Văn Minh điện Đại học sĩ cáo thụ đặc tiến Vinh Lộc Đại phu, tiến sĩ khoa Mậu Tuất của Hoàng triều, rằng :

3. Các câu đối bên trong và bên ngoài Miếu thờ Ngài Văn Minh Trần tướng công

Dựng gây cơ nghiệp Công đức lớn lao 170


Bên trong :

niên, hựu hứa thập tứ mẫu tam niên cọng ngân, vi tải thổ thoan. Thiệt duy.

Bính hưu tướng nghiệp tam triều sử

Tướng công chỉ công đức cư đa kỉnh thơ vu từ dĩ kỹ niệm vân. Duy Tân niên bát nguyệt cốc đán.

Hách trạc linh thanh vạn cổ từ. Dịch : Sử ba triều sự nghiệp hiến hách Miếu nghìn năm linh hiển lớn lao.

Dịch : Bản xã dựng xây chùa miếu vũ trải ba trăm năm nay, từ xưa chưa có ruộng hương hỏa, kịp đến khi Văn Minh điện Đaịhọc sĩ Trần tướng công, đậu tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1838) đời Minh Mạng, làm đến chức Thượng thư hai bộ Công và Binh, quyên tiền lương mua các sở đất ruộng 42 mẫu cúng làm hương hỏa, đã hơn 40 năm. Năm nay nhờ tiền cho mướn đất ruộng hương hỏa ấy (cho mướn 20 mẫu 2 năm, lại cho mướn tiếp theo 12 mẫu 3 năm), để trùng tu chùa miếu, công việc đã hoàn tất, thực nhờ ở công đức của Tướng công rất nhiều, nên khắc chép mấy lời này để làm kỷ niệm. Năm Duy Tân thứ sáu (1912), ngày lành tháng 8.

Bên ngoài : Vu sơn đại danh, đức tại cố hương, công tại quốc Nhạc hà chính khí, sinh vi tướng quốc, tử vi thần. Dịch : Đại danh vượt núi, non nước ghi công, quê cũ tạo đức Chính khí tràn sông,sinh tiền là tướng, quá vãng hành thần. (Vĩnh Cao dịch Việt)

(GS Trần kinh Hòa, t/c Đại học 7/1961, tr.111)

4. Mộc bài ghi công đức thờ trong Miếu Văn Minh Trần tướng công ****

Bổn xã trạch ấp đinh kiến tự vũ cơ tam bách niên vu tư tùng tiền vị hữu hương hỏa điền thổ đãi ngã. Văn Minh điện Đại học sĩ Trần tướng công đăng Minh Mạng Mậu tuất khoa tiến sĩ lịch Công Binh nhị bộ Thượng thư quyên bổng mãi điền thổ các sở cộng tứ thập nhị mẫu giao cúng vi hương hỏa hương nhu thùy tứ thập dư niên hỷ. Kim niên trùng tu tự hứa tá hương hỏa điền thổ nhị thập mẫu, tam 171


NIÊN BIỂU VĂN NGHỊ CÔNG PHỤ CHÁNH TRẦN-TIỄN THÀNH (1813-1883)

****************************** ** Cụ Minh-Xuyên Trần-Tiễn Hối biên soạn năm 1894. ** DỊCH VIỆT VÀ CHÚ THÍCH (1994) : VŨ-BẠCH NGÔ . ** Minh-Nguyện Trần-Tiễn Tiến hiệu đính bản tiếng Việt tháng 8/2001, bổ túc tháng 7/2011; Liên lạc: ttrantien@gmail.com .

****************************** MỤC LỤC

* Hình ảnh được trích lại từ các trang nhà: 1. http://diepdoan.violet.vn/ 2. http://belleindochine.free.fr/ 3. http://vi.wikipedia.org

Bản tóm lược ………………….. tr. 1 - 7 Tiểu sử tác giả Trần Tiễn Hối… tr. 8 - 9 Quyển I : 1813 – 1859 ………… tr. 9 - 30 Quyển II: 1859- 1866 ………. tr. 31 - 65 Quyển III: 1866-1873 ………. tr. 65 - 97 Quyển IV: 1873- 1875 .………. tr. 97 - 117 Quyển V: 1875-1882 ………. tr. 117 - 134 Quyển VI: 1882-1883 ………. tr. 135 – 164 Vài hình ảnh bổ túc …………… tr. 165 - 169 Phụ đính ……………………… tr. 170 – 172.

****************************************

000O000

172


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.