Ấn phẩm số 05• Heo Một tạp chí của
Khảo sát mối đe dọa của độc tố nấm mốc Địa điểm và nguyên liệu bị nhiễm độc tố
Viêm sưng Cải thiện năng suất trên heo bằng cách giảm những viêm sưng cận lâm sàng
Chất phụ gia có nguồn gốc thực vật Tạo sự khác biệt trên năng suất heo nái
Lời tựa Nghệ thuật và khoa học của phân tích độc tố nấm mốc Độc tố nấm mốc tiếp tục chứng tỏ là một thách thức đối với sức khỏe và năng suất của vật nuôi. Trong trường hợp chăn nuôi heo, tầm quan trọng của chương trình quản lí rủi ro độc tố nấm mốc hiệu quả không thể bị đánh giá thấp. Khảo sát độc tố nấm mốc của BIOMIN cung cấp một cái nhìn sâu sắc về sự phân bố cũng như mức độ nhiễm của độc nấm mốc trong một số nguyên liệu chọn lọc và tất cả các vùng toàn cầu. Từ khi chương trình khảo sát bắt đầu năm 2004, hơn 25.000 mẫu đã được phân tích cho đến nay. Ngày nay, chương trình khảo sát độc tố nấm mốc của BIOMIN được coi như tiêu chuẩn cho phân tích độc tố nấm mốc toàn cầu bởi các nhà khoa học và công nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi. Chọn phương pháp phù hợp nhất để phân tích độc tố nấm mốc là điều cốt yếu. Phương pháp đúng để phân tích phải dựa trên mục đích của việc đánh giá và giải thích dữ liệu cuối cùng (ví dụ như HPLC thì bắt buộc thực hiện các yêu cầu về mặt pháp lý). Để định lượng sự hiện diện của những độc tố nấm mốc cụ thể trong một hỗn hợp biết trước, ELISA là một phương pháp nhanh, không tốn kém và phù hợp chỉ với những nguyên liệu thô đã được xác nhận. Để kiểm tra định lượng các độc tố duy nhất tại mức giới hạn phát hiện thấp, phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC) cung cấp những kết quả đáng tin cậy nhưng tốn nhiều thời gian. Tuy nhiên, do việc đồng nhiễm của nhiều độc tố nấm mốc, tác hại của thức ăn nhiễm độc không thể chỉ được xác định bởi các nồng độ của một hoặc hai độc tố nấm mốc. Một phương pháp mới, phương pháp sắc ký lỏng khối phổ nhạy cảm đã được phát triển đặc biệt cho sự xác định chính xác và đồng thời đa độc tố nấm mốc trong một loạt các mặt hàng thực phẩm và nông nghiệp, tất cả chỉ trong vòng 45 phút. Tầm soát đối với tất cả các độc tố nấm mốc quan trọng cung cấp một bức tranh tổng thể về các xu hướng trong vấn đề độc tố nấm mốc trên toàn thế giới. Cùng với sự phối hợp chặt chẽ với các chuyên gia từ Trường Đại học, Bộ môn Kỹ thuật Sinh học Nông nghiệp tại IFA Tulln, từ bây giờ BIOMIN cung cấp cho khách hàng cơ sở thường xuyên để phân tích định lượng độc tố nấm mốc. Hơn 380 độc tố nấm mốc, bao gồm nhiều loại độc tố giấu mặt, có thể được định lượng. Một bảng tóm tắt các số liệu mới nhất về sự xuất hiện của năm loại độc tố nấm độc hại được nghiên cứu nhiều nhất được trình bày ở trang 2. Chúng tôi hy vọng người đọc sẽ tìm thấy các thông tin hữu dụng.
Karin NÄHRER Giám đốc sản phẩm, Quản lí rủi ro từ độc tố nấm mốc
Khoa học & giải pháp
Nội dung
Name, title position
Khảo sát Độc tố nấm mốc của BIOMIN 2013 Những hiểu biết mới nhất theo từng vùng về tình trạng nhiễm độc tố nấm mốc trong thức ăn chăn nuôi.
2
Karin Nährer, DI & Paula Kovalsky, PhD
Viêm sưng: Sự đánh giá không đúng mức gây ra năng suất kém trên heo Chất chiết xuất có nguồn gốc từ thực vật có thể giúp chống lại các tác hại của viêm sưng trên năng suất vật nuôi như thế nào
5
Christine Hunger, PhD
Chất phụ gia thức ăn có nguồn gốc từ thực vật cho năng suất tốt trên heo nái Chất phụ gia thức ăn có nguồn gốc từ thực vật mang lại những lợi ích gì trên heo nái trong suốt giai đoạn mang thai và nuôi con ?
8
Thomas Weiland, PhD
Science & Solutions là tạp chí được xuất bản hàng tháng bởi BIOMIN Holding GmbH, phát hành miễn phí đến khách hàng và đối tác. Mỗi ấn phẩm của Science & Solutions trình bày các chủ đề về những nghiên cứu khoa học mới nhất trên dinh dưỡng và sức khỏe vật nuôi tập trung luân phiên vào gia cầm, heo hoặc thú nhai lại theo từng quý. ISSN: 2309-5954 Truy cập trang mạng http://magazine.biomin.net để xem phiên bản điện tử và thông tin chi tiết Để lấy bản in hoặc theo dõi Science & Solutions hàng tháng, vui lòng liên hệ với chúng tôi theo địa chỉ: magazine@biomin.net Biên tập: Daphne Tan Cộng tác viên: Christine Hunger, Paula Kovalsky, Karin Nährer, Thomas Weiland Marketing: Herbert Kneissl, Cristian Ilea Hình ảnh: Reinhold Gallbrunner, Michaela Hössinger Nghiên cứu: Franz Waxenecker, Ursula Hofstetter, Mickaël Rouault Nhà xuất bản: BIOMIN Holding GmbH Industriestrasse 21, 3130 Herzogenburg, Austria Tel: +43 2782 8030 www.biomin.net ©Bản quyền 2014, BIOMIN Holding GmbH Bản quyền được đăng kí. Nghiêm cấm in sao dưới bất kì hình thức nào với mục đích thương mại mà không có sự đồng ý bằng văn bản phù hợp với các qui định của Luật Bản Quyền, Thiết Kế và Sáng Chế năm 1998. Tất cả hình ảnh đều thuộc về tài sản của BIOMIN Holding GmbH hoặc được sử dụng dưới sự cho phép.
Một tạp chí của BIOMIN
1
Karin Nährer Paula Kovalsky Giám đốc sản phẩm Quản lí rủi ro từ độc tố nấm mốc
Khảo sát độc tố nấm mốc của BIOMIN Tóm tắt những mố
2
Khoa học & giải pháp
i đe dọa chính Độc tố nấm mốc là một nhóm lớn và phát triển được sản xuất bởi các loại nấm khác nhau. Các công cụ phân tích cho tới nay đã nhận diện hơn 1000 loại độc tố nấm mốc khác nhau. Aflatoxin, zearalenone, deoxynivalenol, fumonisin và ochratoxin A vẫn là những loại độc tố được nghiên cứu nhiều nhất và xuất hiện thường xuyên trên thế giới. Như một phần đánh giá hướng tới quản lý rủi ro độc tố nấm mốc, BIOMIN cung cấp một cái nhìn sâu sắc về sự xuất hiện của những độc tố nấm mốc quan trọng nhất trong các nguyên liệu chủ yếu.
Hình 1. Đồng nhiễm độc tố nấm mốc toàn cầu
ừ tháng 1 đến tháng 12 năm 2013, tổng cộng 4.218 mẫu đã được thu thập trên thế giới và phân tích sự hiện diện của độc tố nấm mốc. Hơn 16.300 phân tích đã được thực hiện đối với các độc tố nấm mốc quan trọng nhất với sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi. Những độc tố này là aflatoxins (Afla), zearalenone (ZEN), deoxynivalenol (DON), fumonisin (FUM) và ochratoxin A (OTA). Các mẫu
được phân tích bằng sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC) và ELISA. Chỉ nguyên liệu đơn được phân tích bằng ELISA.
T
Đồng nhiễm 19% 45% 36%
■ <Giới hạn xác định ■ 1 độc tố nấm mốc ■ Hơn 1 độc tố nấm mốc
Kết quả tổng quát Trong hơn 4.200 mẫu phân tích trên thế giới, Afla hiện diện 30%, ZEN 37%, DON 59%, FUM 55% và OTA 23% trong tổng số mẫu (Bảng 1). Phân bố nhiễm độc tố theo mức độ rủi ro Những độc tố nấm mốc trên đồng như DON, FUM
Bảng 1. Tổng quan kết quả khảo sát độc tố nấm trên thế giới (2012 và 2013) Kết quả toàn cầu
Afla 2012
Afla 2013
ZEN 2012
ZEN 2013
DON 2012
DON 2013
FUM 2012
FUM 2013
OTA 2012
OTA 2013
Số lần phân tích
2,636
2,839
3,320
3,470
3,712
3,931
2,570
2,699
2,230
2,459
Dương tính (%)
25
30
46
37
64
59
56
55
31
23
Hàm lượng trung bình (µg/kg)
34
33
251
133
1,088
770
1,350
1,421
5
10
6,323
1,563
9,854
5,324
30,200
29,267
42,120
26,828
170
595
Khô dầu phộng
Bắp
Bột mầm bắp
Bắp
Bắp
Lúa mạch
Bắp
DDGS
Bắp
Thức ăn hỗn hợp
Myanmar
Trung Quốc
Trung Quốc
Trung Quốc
Mĩ
Trung Quốc
Malaysia
Mĩ
Ấn Độ
Tây Ban Nha
Tối đa (µg/kg) Nguyên liệu phân tích Quốc gia
Một tạp chí của BIOMIN
3
Khảo sát độc tố nấm mốc của BIOMIN Tóm tắt những mối đe dọa chính
12% 39% 33% 76% 2%
Tây Âu
Afla ZEN DON FUM OTA
27% 23% 56% 49% 37%
29% 26% 66% 36% 28%
67% 26% 67% 78% 56%
Afla 0% ZEN 0% DON 10% FUM 92% OTA 3%
Afla ZEN DON FUM OTA
Bắc Phi
30% 19% 46% 78% 31%
Afla ZEN DON FUM OTA Đông Nam Á
Afla ZEN DON FUM OTA
Nam Á
55% 18% 50% 71% 46%
Afla ZEN DON FUM OTA
59% 26% 36% 57% 55%
Châu Đại Dương
Nam Mĩ
Afla ZEN DON FUM OTA
Afla 32% ZEN 34% DON 87% FUM 86%* OTA 40%
Trung Đông
Afla ZEN DON FUM OTA
Châu Phi
Afla 26% ZEN 9% DON 33% FUM 55% OTA 2%
Afla ZEN DON FUM OTA
Nam Phi
Nam Âu
Bắc Mĩ
Trung Âu
Bắc Âu
Hình 2. Tỉ lệ nhiễm độc tố nấm mốc ở các vùng địa lý khác nhau theo tỉ lệ phần trăm của mẫu dương tính (lớn hơn giới hạn phân tích).
Afla ZEN DON FUM OTA
14% 57% 79% 47% 15%
Afla ZEN DON FUM OTA
59% 49% 34% 65% 25%
4% 19% 24% 16% 13%
* Hàm lượng FUM cao được phát hiện trong các mẫu có nguồn gốc từ Vương Quốc Anh.
và ZEN là những loại hiện diện thường xuyên. Các mức độ rủi ro của các độc tố nấm mốc này đã được đánh giá theo tỷ lệ phần trăm của mẫu trong các phạm vi nhiễm khác nhau. Những kết quả quan trọng đã thu được qua cuộc khảo sát đặc biệt trong trường hợp của độc tố nấm trichothecene nhóm B, DON. Trong tất cả các mẫu khảo sát, 42,5% số mẫu cho thấy nhiễm DON hơn 200 µ/kg điều này gây nguy cơ ở mức trung bình cho heo. Trong
Kết quả chung • DON và FUM tìm thấy trong hơn một nửa mẫu khảo sát toàn cầu (Bảng 1). • Bắp được tìm thấy chứa nồng độ cao của Afla và ZEN, cùng với FUM trong DDGS bắp. • Trong nửa số mẫu khảo sát phát hiện chứa nhiều hơn một độc tố nấm mốc. Sự hiện diện của đa nhiễm độc tố nấm mốc là một thách thức do tác động cộng hưởng trên vật nuôi (Hình 1).
4
tất cả các mẫu thức ăn chăn nuôi, 12,5% số mẫu đã vượt quá giá trị hướng dẫn của Cộng đồng Châu Âu cho DON (900 µ/kg) trong thức ăn bổ sung và thức ăn hoàn chỉnh cho heo (EC, 2006). Mối quan ngại sâu sắc Từ kết quả khảo sát độc tố nấm mốc mà hơn 4.200 mẫu đã được kiểm tra trên toàn cầu, thật rõ ràng rằng độc tố nấm mốc là một chủ đề đáng quan tâm trong thức ăn chăn nuôi và sự hiện diện của đa độc tố nấm mốc tiếp tục là mối đe dọa. Giám sát thường xuyên và tiếp tục nghiên cứu về phòng chống và giảm nhẹ nhiễm độc tố nấm mốc là rất cần thiết. Bước đầu tiên hướng tới ngăn ngừa những ảnh hưởng bất lợi của những chất độc hại là áp dụng thực hành nông nghiệp và những điều kiện tồn trữ tốt. Một chương trình quản lý rủi ro độc tố nấm mốc hiệu quả cũng quan trọng để bảo vệ vật nuôi khỏi những tác động bất lợi của độc tố nấm mốc trên sức khỏe và thành tích
Khoa học & giải pháp
Christine Hunger Giám đốc sản phẩm, Chất chiết xuất có nguồn gốc thực vật
VIÊM SƯNG
Sự đánh giá không đúng mức gây ra năng suất kém trên heo Giải pháp cho lợi nhuận trong chăn nuôi nằm ở chỗ năng suất tối ưu. Để đạt được mức độ thành công về mặt di truyền, quá trình viêm sưng và ảnh hưởng của nó lên năng suất cần được kiểm soát.
Một tạp chí của BIOMIN
5
Viêm sưng
Sự đánh giá không đúng mức gây ra năng suất kém trên heo
Mục đích là làm giảm các quá trình viêm sưng cận lâm sàng để gia tăng tính khả dụng của năng lượng và các chất dinh dưỡng cho năng suất.
V
iêm sưng là một quá trình bẩm sinh xảy ra để đáp ứng với sự tổn hại vật lý hoặc hóa học trong cơ thể hoặc với sự xâm nhập của một tác nhân nhiễm trùng hay độc tố trong thức ăn. Một đáp ứng viêm sưng cận lâm sàng kéo dài ở động vật dẫn đến năng suất giảm liên tục. Quá trình viêm sưng làm giảm lượng thức ăn ăn vào (chán ăn), và năng lượng hướng vào các cơ chế phòng vệ tế bào thay vì được sử dụng cho sản xuất, ví dụ: sự phát triển dần lên của cơ bắp và sản xuất sữa. Ảnh hưởng của viêm sưng Một nghiên cứu độc lập được tiến hành để hiển thị hiệu ứng của một viêm sưng kích thích trên năng suất của heo con (Bảng 1). Heo con đã được thử thách với LPS (Lipopolysaccharides) bằng cách tiêm trong phúc mạc. Bảng 1. Tác động của viêm sưng lên các thông số về năng suất và chất chỉ thị máu đối với heo con sau cai sữa Nồng độ trong máu
Nồng độ trong máu LPS
Có LPS
IL-1ß (pg/mL)
32
114
PGE2 (pg/mL)
490
1285
Cortisol (ng/mL)
55
206
IGF-1 (ng/mL)
182
101
Tăng trọng hàng ngày (g/ngày)
604
525
Lượng ăn vào hàng ngày (g/ngày)
962
838
Chuyển hóa thức ăn
1.59
1.59
Năng suất (ngày 14 – 28)
Nguồn: Theo Liu và cộng sự, 2003
Các chỉ số máu được phân tích và cho thấy rằng mức cortisol được nâng lên khi chiến đấu với tác nhân kích thích viêm sưng LPS. Điều này biểu thị rằng một sự biến dưỡng dị hóa đang diễn ra để cung cấp cho cơ thể năng lượng chống lại các viêm nhiễm. Mức độ IGF-1 (yếu tố tăng trưởng giống In-
6
sulin 1), một yếu tố làm tăng sự phình trướng các tế bào cơ bắp, đã giảm. Mức độ giảm có nghĩa là một tiềm năng cho sự phát triển cơ bắp giảm. Các ảnh hưởng bất lợi về năng suất được phản ánh trong sự giảm lượng ăn vào, cũng như trong sự giảm trọng tới hơn 10%. Mối tương quan giữa các quá trình viêm sưng và năng suất kém thường được quan sát trong thực tế. Đặc biệt là suốt thời gian cai sữa hoặc thay đổi thức ăn. Giảm tiêu thụ thức ăn là dấu hiệu của các phản ứng viêm sưng ở ruột. Tóm lại, viêm sưng cận lâm sàng cơ bản ngăn chặn động vật đạt đến tiềm năng tăng trưởng tối đa của nó, vì vậy dẫn đến lợi nhuận thấp. Tầm quan trọng của việc chú ý đến các phản ứng viêm sưng được xác định bởi Niewold (2007), là người đã tuyên bố rằng: các chất kích thích tăng trưởng hiệu quả nên tập trung vào việc ức chế các đáp ứng viêm sưng đường ruột. Giảm quá trình viêm sưng Một trong các chất trung gian chính của quá trình viêm sưng là yếu tố phiên mã NF-kB (yếu tố hạt nhân kB), hiện diện trong hầu hết các tế bào của cơ thể. Dạng kích hoạt NF-kB dẫn đến sự gia tăng về biểu hiện gen tiền kích ứng viêm sưng. Nrf2 (yếu tố hạt nhân erythroid 2–yếu tố liên quan 2) là một yếu tố phiên mã chống oxy hoá tham gia vào các cơ chế tế bào trong hai cách khác nhau. Đầu tiên, con đường chống oxy hoá Nrf2 hoạt động như một phòng thủ chống lại các kiểu oxy phản ứng, và thứ hai là, nó làm giảm tính nhạy cảm của tế bào đối với các thuộc tính có hại của cytokine tiền kích ứng. Để tăng hiệu quả sản xuất động vật, hai hệ thống này nên được giữ gần cân bằng. Mục đích là làm giảm các quá trình viêm sưng cận lâm sàng để tăng tính khả dụng của năng lượng và chất dinh dưỡng cho năng suất. Bằng cách đo lường các gen mục tiêu của Nf-kB và hệ thống Nrf2, hiệu quả xử lý về tình trạng sức khỏe của động vật có thể được đo ở cấp độ tế bào.
Khoa học & giải pháp
Tại sao phải chiến đấu với sự viêm sưng cận lâm sàng trong đường ruột (GIT)? Giảm viêm sưng và các quá trình viêm sưng giúp cải thiện được năng suất của heo thông qua lượng ăn vào và hiệu quả chuyển hóa thức ăn cao hơn. Hơn nữa, năng lượng khẩu phần và các chất dinh dưỡng được sử dụng cho sự tăng trưởng nhiều hơn là cho cơ chế phòng vệ
Hình 1. Hiệu quả của Digestarom® lên chất đánh dấu viêm sưng và chất đánh dấu bảo vệ
1.2
* Khác biệt có ý nghĩa so với đối chứng dương (p<0.05)
1.0 0.8
Điều chỉnh lên của gen mục tiêu Nrf2
*
*
*
*
0.6
*
0.4
*
0.2 0.0
IL-8
Biểu hiện mRNA tương đối
Biểu hiện mRNA tương đối
Điều chỉnh xuống của gen mục tiêu NF-κB
3.0
* Khác biệt* có ý nghĩa so với đối chứng dương (p<0.05)
2.5 2.0
*
1.5 *
1.0 0.5 0.0
ICAM-1 MCP-1 Chất đánh dấu viêm sưng
CYP1A1 HO-1 UGT1A1 Chất đánh dấu bảo vệ ruột
■ Đối chứng âm (không viêm sưng) ■ Đối chứng dương (có viêm sưng) ■ Đối chứng dương + Digestarom®
Hiệu quả của chất chiết xuất thực vật Một thử nghiệm tế bào trong phòng thí nghiệm với các tế bào biểu mô ruột Caco-2, hiệu quả của chất phụ gia thức ăn nguồn gốc thực vật Digestarom® trên tác nhân kích thích viêm sưng đã được đo lường (Hình 1). Gen mục tiêu NF-kB Il-8 (Interleukin 8), ICAM-1 và MCP-1 đã được đo lường để đánh giá tình trạng viêm sưng. Chất phụ gia thức ăn Digestarom® làm giảm biểu hiện mRNA của NF-KB một cách có ý nghĩa so với đối chứng dương (1.0) và do đó cho thấy một sự giảm đáng kể ở chất trung gian tiền kích ứng viêm sưng NF-KB. Hiệu quả bảo vệ tế bào của Digestarom® trên tế bào biểu mô đường ruột cũng được đánh giá bằng cách đo gen mục tiêu Nrf2 CYP1A1, HO-1 và UGT1A1. Sự biểu hiện mRNA của các gen đánh dấu Nrf2 cho thấy một sự gia tăng đáng kể so với đối chứng (1.0). Các thuộc tính chống viêm của Digestarom® cũng được thể hiện trong một nghiên cứu trên cơ thể ở heo con. Các biểu hiện gen (mRNA) của NF-kB ở đường tiêu hóa (GIT) của heo con đã được đo, khi so sánh một nhóm đối chứng âm với một nhóm đối chứng dương (Avilamycin) và một nhóm Digestarom® (Bảng 2).
Một tạp chí của BIOMIN
■ Đối chứng ■ Đối chứng + Digestarom® Nguồn: Đại học Giessen, Đức, 2011 (Thử nghiệm số 314)
Bảng 2. Biểu hiện gen NF-lB trong đường ruột của heo con Phytogenic2
Mô
Avilamycin
Hồi tràng
-1.12*
-1.53*
Kết tràng
-0.59(*)
-0.53(*)
Hạch bạch huyết màng treo ruột
-1.06*
-1.83*Ɨ
Gan
-0.57*
-0.37
1 Các giá trị được biểu hiện gấp 2 lần so với nhóm đối chứng âm 2 Digestarom® P.E.P. * Tương phản tuyến tính các giá trị trung bình so với nhóm đối chứng âm (p<0.05) (*) Tương phản tuyến tính các giá trị trung bình so với nhóm đối chứng âm (p<0.1) Ɨ Tương phản tuyến tính các giá trị trung bình giữa nhóm phytogenic và avilamycin (p<0.05)
Nguồn: Kroismayr et al., 2008
So với đối chứng âm, yếu tố phiên mã tiền kích ứng NF-KB được điều chỉnh xuống ở mô tế bào ruột kết và bị giảm đáng kể bởi phytogenic ở ruột hồi, các hạch bạch huyết màng treo ruột và gan. Nhìn chung, các kết quả của việc ứng dụng Digestarom® trong phòng thí nghiệm và trên cơ thể đều cho thấy một sự điều chỉnh xuống các cytokine tiền kích ứng và một sự kích thích của các gen đánh dấu chống oxy hóa và bảo vệ tế bào. Các tài liệu tham khảo luôn sẵn sàng theo yêu cầu của bạn
7
Thomas Weiland Giám đốc Kĩ thuật Chất chiết xuất thực vật
Phụ gia thức ăn có nguồn gốc thực vật Photo: temmuz can arsiray
cho heo nái năng suất cao
Vô số các quá trình sống thiết yếu có thể bị ảnh hưởng bởi các chất phụ gia thức ăn có nguồn gốc thực vật (PFA). • Kích thích tiết nội dịch,một trong những tác dụng quan trọng nhất của PFA, cải thiện sự tiêu hóa và dinh dưỡng, đặc biệt là protein và hầu hết các axit amin • Điều chỉnh hệ vi sinh vật đường ruột vốn làm ổn định sức khỏe và chức năng ruột, do đó hỗ trợ cho hệ miễn dịch • Cung cấp những tác dụng tích cực lên chức năng gan và dạ dày, sự chuyển động của ruột và vô số các chức năng cơ thể khác • Làm giảm các tác dụng của chất gây stress bằng cách hạ thấp sự giải phóng protein viêm sưng và/hoặc nâng cao sự sản xuất prorein bảo vệ tế bào, vì vậy ảnh hưởng tích cực đến các quá trình biến dưỡng và tình trạng sức khỏe của vật nuôi • Chất phụ gia thức ăn có nguồn gốc thực vật phức hợp có sẵn các thuộc tính hương vị tương tự với hương vị truyền thống.
8
Sau một vài nhầm lẫn trước đây về cơ chế hoạt động chính xác của các chất phụ gia thức ăn có nguồn gốc thực vật, các nghiên cứu sau đó đã chứng minh được tác dụng tích cực của chúng không nằm trong phạm vi nghi ngờ. Vậy thì, lợi ích đối với heo nái là gì trong cả hai giai đoạn mang thai và cho con bú ?
T
rong thực tế, các nhà sản xuất thức ăn hoặc chăn nuôi tìm thấy chính mình phải đương đầu với một số lượng chưa từng thấy các sản phẩm với các tuyên bố về tính hiệu quả và thành phần khác nhau. Randolf Nott, một nhà tiên phong người Đức về chất phụ gia thức ăn có nguồn gốc thực vật phức hợp đã tung ra thế hệ đầu tiên của dòng sản phẩm vào năm 1989 từng nói: "Nghệ thuật tổ hợp phụ gia có nguồn gốc thực vật nằm trong việc tìm kiếm một sự kết hợp thích hợp các thành phần nguyên liệu phù hợp của thực vật”. "Có một giới hạn rất mỏng giữa một công
thức thành công và một hỗn hợp của các thành phần nhỏ khác nhau. Một sự kết hợp các vật liệu thực vật khác nhau, tối ưu hóa tác dụng cộng hưởng của các phần tử hoạt tính.” Những nguyên tắc này cung cấp cơ sở duy nhất để phát triển chất phụ gia thức ăn có nguồn gốc thực vật phức hợp (PFAs) phù hợp trong các hiệu ứng của chúng trong chuỗi các điều kiện sản xuất.
Thông qua con đường chất phụ gia thức ăn có nguồn gốc thực vật (PFAs) Khó có thể đánh giá một cách chắc chắn về tính hiệu quả của các hợp chất phụ gia có nguồn gốc thực vật lên chức năng ruột. Một khó khăn nữa là hầu hết các đặc tính đều được nghiên cứu trong phòng thí nghiệm do sự biến thiên tự nhiên về thành phần các chất biến dưỡng thứ cấp của thực vật, tùy vào nguồn gốc thực vật, quá trình chế biến và thành phần cấu tạo của thực vật đó. Rất nhiều sản phẩm khẳng định một cách thiếu bằng chứng về mặt thử nghiệm khoa học và thực tế, và mơ hồ trong tuyên bố của họ. Một ví dụ là, một loạt các sản phẩm PFA đều được tuyên bố là có thuộc tính kháng khuẩn. Nhưng lại không có sự phân biệt cơ chế hoạt động giữa thuốc diệt khuẩn (giết vi khuẩn) và thuốc kìm hãm vi khuẩn (ức chế sự tăng trưởng và sinh sản). Hoạt động của
Khoa học & giải pháp
Một số nghiên cứu cho thấy ảnh hưởng tích cực của PFA lên năng suất heo nái và ổ heo con khi chúng được sử dụng trong thức ăn nái nuôi con. Nái ăn nhiều hơn trong giai đoạn cho con bú và cho sữa nhiều hơn, chuyển hóa thức ăn hiệu quả hơn, giảm thiểu sự giảm trọng của nái sau khi cai sữa, và ổ heo con tăng trọng nhanh. Một nghiên cứu được tiến hành để tìm hiểu ảnh hưởng của việc sử dụng một PFA trong thời gian mang thai và cho con bú dựa trên các chỉ số sản xuất. Nghiên cứu được thực hiện trong một trại heo nái ở Đức có quy mô lớn với hai đàn nái riêng biệt, mỗi đàn có trung bình hơn 4.700 nái thuộc giống Đan Mạch. Cả hai đàn được cho ăn cùng một chương trình cho ăn với cùng một khẩu phần cơ bản. Một khái niệm cho ăn bốn giai đoạn được sử dụng, bao gồm: thức ăn cho nái nuôi con, giai đoạn nái được thụ tinh, nái giai đoạn tiền mang thai và nái mang thai. Thức ăn giai đoạn tiền mang thai được bổ sung phụ phẩm lên men bia, còn giai đoạn mang thai thì được bổ sung phụ phẩm lên men bia và phụ phẩm chưng cất rượu.
Một tạp chí của BIOMIN
1300 1200 1100 1000 900 800 700 1 2 3 4 5 6 7 8 Số lứa đẻ
600
Digestarom® Sow, một hỗn hợp các loại thảo mộc, chất gia vị và tinh dầu được áp dụng ở nồng độ 150g/tấn thức ăn (88% vật chất khô) trong tất cả các khẩu phần của đàn nái thử nghiệm. Nghiên cứu đã cho thấy rằng việc bổ sung khẩu phần với PFA đã cải thiện sinh sản của nái toàn diện. Các thông số về năng suất như tỉ lệ đẻ, chỉ số heo con và số heo con cai sữa có trọng lượng thích hợp đã được nâng cao ở tất cả các lứa. Trong chu kỳ sinh sản đầu tiên được áp dụng PFA, đàn nái thử nghiệm biểu hiện chỉ số heo con cao và ổn định hơn. Những khác biệt này là rõ ràng nhất trong chu kỳ sinh sản thứ 2 khi PFA được áp dụng (Hình 1). Tỉ lệ loại thải cao làm giảm thời gian trung bình sử dụng nái, do đó ảnh hưởng đến tuổi sinh sản, tỉ lệ thay thế và tình trạng kinh tế của đàn. Tuy nhiên, trong các vấn đề thì tỉ lệ loại thải do vấn đề sinh sản là: có một sự biểu lộ về sức khỏe và ổn định của nái. Một số ít hơn 30% nái trong đàn thử nghiệm bị loại thải vì các vấn đề sinh sản. Đặc biệt, PFA có ảnh hưởng tích cực đến những nái thuộc các lứa đầu. Tỉ lệ thay thế của đàn thử nghiệm 51,5%, giảm so với đàn đối chứng 54,9%. Các kết quả nghiên cứu này đã xác nhận tác động tích cực của chế độ ăn có bổ sung PFA Digestarom® Sow lên năng suất kĩ thuật của nái. Chất phụ gia thức ăn có nguồn gốc thực vật cũng ổn định được sức khỏe và khả năng sản xuất của những nái thuộc các lứa sau, do đó góp phần làm tuổi sinh sản kéo dài hơn, một chỉ tiêu năng suất thân thiện với vật nuôi.
18% 16% 14% 12% 10% 8% 6% 4% 2% 0%
1400 1300 1200 1100 1000 900 800
Chỉ số heo con
1400
700
1 2 3 4 5 6 7 8 Số lứa đẻ
600
Photos: Digitalpress-Fotolia, Picture-Factory-Fotolia
Năng suất và tình trạng sức khỏe
18% 16% 14% 12% 10% 8% 6% 4% 2% 0%
Khác biệt tương đối
Khi PFA được sử dụng lần đầu, có nhiều nhầm lẫn rằng liệu chúng có tác dụng thay thế kháng sinh hay không. Các nhà khoa học đã phân tích đến mức độ tế bào. Cuộc tranh luận đơn giản là vì nói chung người ta sử dụng thuật ngữ “kháng sinh” thay vì sử dụng thuật ngữ đúng “chất kích thích tăng trưởng bằng kháng sinh” (AGP). Ngày nay, người ta chấp nhận một cách phổ biến rằng PFA có thể thay thế AGP, chúng có một loạt các tác dụng tích cực rộng hơn nhiều so với AGP trên động vật. PFA phức hợp có thể giúp bảo vệ chính vật nuôi (thuộc tính phòng ngừa và ổn định toàn diện) và khai thác tốt hơn các chất dinh dưỡng khả dụng (nâng cao khả năng ăn vào và sự tiêu hóa). Việc sử dụng PFA cũng giúp cải thiện năng suất vật nuôi (sinh sản, tăng trưởng, sức khỏe) và đóng góp vào sự sản xuất tiết kiệm, thân thiện với môi trường và vật nuôi hơn.
Chu kỳ sinh sản thứ 2
Chu kỳ sinh sản thứ 1
Chỉ số heo con
Phụ gia thức ăn có nguồn gốc thực vật (PFA) – mục đích sử dụng ?
Hình 1. Chỉ số heo con của lứa đẻ khác nhau và mức độ khác biệt tương đối ở chu kỳ sinh sản lần 1 và 2 khi sử dụng PFA (lô đối chứng so với lô thử nghiệm PFA)
Khác biệt tương đối
các thuốc diệt khuẩn nói chung được công nhận ở các loại kháng sinh tổng hợp, chịu rủi ro của sự phát triển đề kháng. Còn tác dụng của thuốc kìm hãm vi khuẩn thì không phải chịu sự rủi ro này.
9
X I N RI
NAG EM
Dẫn đầu. Được chứng minh. Được cấp phép.
Mycofix® là phụ gia thức ăn duy nhất mà EU cấp phép đã được chứng minh có khả năng chống lại các độc tố nấm mốc. Thêm một bằng chứng nữa từ nền tảng Nghiên cứu & Phát triển vững chắc, và đã đưa BIOMIN trở thành nhà sáng tạo tiên phong quản lí rủi ro từ độc tố nấm mốc.
mycofix.biomin.net
Naturally ahead
X
E
M YC OF I
NT
TO
SK
A
M
Mycofix
®
MYCO
Phiên bản của Science & Solutions