Van co - THU TU

Page 1

THU TỨ - VĂN CỔ CHU TRUNG VŨ DẠ - Bạch Cư Dị ................................................................... 3 DẠ VŨ - Bạch Cư Dị ............................................................................................ 5 LÂM GIANG TỐNG HẠ CHIÊM - Bạch Cư Dị ................................................ 6 THÍNH BIÊN HỒNG - Bạch Cư Dị ..................................................................... 9 THU GIANG TỐNG KHÁCH - Bạch Cư Dị..................................................... 11 THU TRÙNG - Bạch Cư Dị ............................................................................... 14 TRÌ BẠN - Bạch Cư Dị ...................................................................................... 15 TRÌ THƯỢNG - Bạch Cư Dị.............................................................................. 16 TỲ BÀ HÀNH - Bạch Cư Dị .............................................................................. 17 VẤN LƯU THẬP CỬU - Bạch Cư Dị ............................................................... 29 CHINH PHỤ NGÂM KHÚC – Đoàn Thị Điểm ................................................ 31 BẠC TẦN HOÀI - Đỗ Mục............................................................................... 59 THANH MINH - Đỗ Mục .................................................................................. 61 ĐĂNG CAO - Đỗ Phủ ........................................................................................ 62 KHÁCH CHÍ - Đỗ Phủ ....................................................................................... 65 KHƯƠNG THÔN - Đỗ Phủ ............................................................................... 68 PHỤC SẦU - Đỗ Phủ.......................................................................................... 72 THẠCH HÀO LẠI - Đỗ Phủ .............................................................................. 74 THU HỨNG – Đỗ Phủ ....................................................................................... 80 TUYỆT CÚ - Đỗ Phủ.......................................................................................... 83 VŨ HẦU MIẾU - Đỗ Phủ .................................................................................. 85 HỒI HƯƠNG NGẪU THƯ - Hạ Tri Chương .................................................... 86 DỊCH THỦY – Tống Biệt................................................................................... 88 GIANG TUYẾT - Liễu Tông Nguyên .............................................................. 90 KHÁN SƠN KÝ THÂN CỐ - Liễu Tông Nguyên............................................. 93 ẨM TỬU KHÁN MẪU ĐƠN - Lưu Vũ Tích .................................................... 94 1


XUÂN HIỂU - Mạnh Hạo Nhiên ...................................................................... 97 ĐỘC TỌA KÍNH ĐÌNH SƠN - Lý Bạch ......................................................... 100 HOÀNG HẠC LÂU TỐNG MẠNH HẠO NHIÊN CHI QUẢNG LĂNG – Lý Bạch................................................................................................................... 101 LỤC THỦY KHÚC - Lý Bạch ......................................................................... 103 Ô DẠ ĐỀ - Lý Bạch .......................................................................................... 105 TĨNH DẠ TƯ - Lý Bạch ................................................................................... 107 TÔ ĐÀI LÃM CỔ - Lý Bạch............................................................................ 109 TƯƠNG TIẾN TỬU – Lý Bạch ....................................................................... 112 ỨC ĐÔNG SƠN - Lý Bạch .............................................................................. 121 VIỆT TRUNG LÃM CỔ - Lý Bạch ................................................................. 122 XUÂN NHẬT TÚY KHỞI NGÔN CHÍ - Lý Bạch ......................................... 124 ĐỘ HÁN GIANG - Lý Tần .............................................................................. 128 DẠ VŨ KÝ BẮC - Lý Thương Ẩn................................................................... 130 LƯU BIỆT VƯƠNG DUY - Mạnh Hạo Nhiên ............................................... 131 CỐ HÀNH CUNG - Nguyên Chẩn................................................................... 133 TẶNG THIẾU NIÊN - Ôn Đình Quân ............................................................. 134 SƠN PHÒNG XUÂN SỰ - Sầm Tham ............................................................ 135 HOÀNG HẠC LÂU - Thôi Hiệu ...................................................................... 137 ĐỀ TÂY LÂM BÍCH - Tô Đông Pha ............................................................... 143 ĐĂNG U CHÂU ĐÀI CA - Trần Tử Ngang .................................................... 144 HOÀI THƯỢNG BIỆT CỐ NHÂN - Trịnh Cốc.............................................. 146 ĐÀO HOA KHÊ - Trương Húc ........................................................................ 148 PHONG KIỀU DẠ BẠC - Trương Kế ............................................................. 149 NAM HÀNH BIỆT ĐỆ - Vi Thừa Khánh ........................................................ 151 ĐẰNG VƯƠNG CÁC - Vương Bột ................................................................. 153 LƯƠNG CHÂU TỪ - Vương Chi Hoán .......................................................... 156 TẠP THI - Vương Duy ..................................................................................... 159 TRÚC LÝ QUÁN - Vương Duy....................................................................... 160 LƯƠNG CHÂU TỪ - Vương Hàn ................................................................... 163 2


VỌNG PHU THẠCH - Vương Kiến ................................................................ 166 VỌNG TRƯỜNG DỤNG - Vương Xương Linh ............................................. 168 Tái hạ khúc - Vương Xương Linh .................................................................... 170

CHU TRUNG VŨ DẠ - Bạch Cư Dị Mười mấy thế kỷ sau Bạch Cư Dị, ở nước ta cũng có "thi sĩ" nằm thuyền đêm mưa làm thơ: "Ấm trà sớm uống trên mặt sông, điếu thuốc lào hút trên mui thuyền, hương vị khác hẳn (...) Kế đến bữa rượu sớm dọn ở đằng sau khoang lái, ăn đến đâu, vứt xương thịt xương cá xuống ngay dòng nước chảy lùi (...) (Ăn xong) nằm phơi mình trên mui thuyền, nép dưới bóng lá buồm (...) hưởng cái gió sông (...) Nhá nhem tối (...) Trời nổi cơn giông rồi mưa. Mưa lộp độp, mưa rào rào, gõ mãi vào mui nan cật, mỗi giọt gieo nặng là mỗi tiếng đánh thức nhiều chuyện (...) của những ngày qua (...) Đêm nằm thuyền nghe mưa trên sông (...) tôi đã tưởng nhớ đến Xuân Phương (...) người bạn (gái) ấy cũng thèm đi lắm. Sao lúc này (...) lại chẳng cùng tôi nằm chung một lòng thuyền, để cùng nghe mưa của cả một chiếc thuyền bồng (...) Chao ôi! Đêm tối như đêm giao thừa. Vẫn lại mưa rả rích. Mưa trên sông. Mưa xuống mái bồng. Mưa trong lòng, - "chuyện cũ... ới... ư hừ... ơ... ơi..."."(1) Nguyễn Tuân đấy. Nguyễn đang ngà ngà giữa một cơn... đi. Tứ của bài thơ văn xuôi trên nếu diễn thành thơ luật thì chẳng hạn: Vẫn thuốc vẫn trà, mà lại khác Người dùng thịt cá, sóng ăn xương! Bữa rượu chiều xong, mưa cũng tới Nằm nghe lộp độp, nhớ Xuân Phương! Nhưng hãy trở lại với tân quan Tư mã Giang Châu.

3


Đêm tối, gió rét, mưa to, sóng lớn, thân "khách" bệnh, mà lòng "khách" lại càng bệnh. "Chuyện mới... ới... ư hừ... ơ... ơi..."! Nguyên văn Chu trung vũ dạ Giang vân ám du du Giang phong lãnh tu tu Dạ vũ trích thuyền bối Dạ lãng đả thuyền đầu Thuyền trung hữu bệnh khách Tả giáng hướng Giang Châu. Dịch nghĩa Trong thuyền đêm mưa Trên sông mây che kín khắp Gió sông lạnh căm căm Mưa đêm gieo xuống mui thuyền Sóng đêm đánh vào mũi thuyền Trong thuyền có người khách đang bị bệnh (Là một ông quan) bị giáng chức đang trên đường đi Giang Châu. Dịch ra thơ cổ phong (như nguyên tác) Khương Hữu Dụng: Mây sông tối mù mù Gió sông thổi vù vù! Mưa đêm mui thuyền xối Sóng đêm mũi thuyền xô 4


Trong thuyền có khách ốm Giáng chức đến Giang Châu. Dịch ra thơ lục bát Tản Đà: Mây sông kéo tới đùn đùn, Gió sông thổi lạnh ghê hồn khách sông. Mưa đêm rỏ xuống mui bồng, Sóng đêm dồn vỗ long bong mũi thuyền. Trong thuyền có bác ốm rên, Giáng quan thẳng lối ra miền Giang Châu. Thu Tứ: Trên sông mây kéo đen rầm Lại thêm gió rét căm căm thổi về Sóng đêm ì oạp mũi ghe Mưa đêm lộp độp càng tê tái lòng Co ro dưới chiếc mui bồng Một ông quan giáng long đong ốm khừ. ____________ Xem bài Chiếc Va-li Mới trong tập Tùy bút.

DẠ VŨ - Bạch Cư Dị Cái ông quan từng nằm trên sông nghe mưa đêm gieo xuống mui thuyền, đêm nay ngồi trong nhà nghe mưa đêm gõ tàu lá chuối. Cảnh không sóng gió, nhưng người nghe vẫn thấy buồn ơi. Nguyên văn Tảo cùng đề phục yết Tàn đăng diệt hựu minh 5


Cách song tri dạ vũ Ba tiêu tiên hữu thanh. Dịch nghĩa: Dế kêu sớm rồi lại im bặt Ðèn lụi đi rồi lại sáng Cách cửa sổ mà biết có mưa đêm Nhờ nghe tiếng nước rơi trên tàu lá chuối. Dịch thơ: Re re gáy mãi được đâu Liu riu muốn tắt châm dầu lại lên Bên đèn ngồi lắng mưa đêm Tiếng trên tàu chuối buồn tênh canh dài. Bản dịch thơ khác: Dế giun rên mỏi lại ngừng Ðèn tàn muốn tắt lại bừng sáng ra Cách song đêm biết mưa sa Tiếng nghe lộp độp chăng là tàu tiêu. (Tản Đà) _______ Tên bài nghĩa là "Mưa đêm".

LÂM GIANG TỐNG HẠ CHIÊM - Bạch Cư Dị Bảy mươi bây giờ chưa tới tuổi thọ trung bình, nhưng mười mấy thế kỷ trước là "xưa nay hiếm".(1) Bạn của Bạch Cư Dị sống tới tuổi hiếm mà vẫn không nhà cửa, vẫn trôi nổi nay đây mai đó. Thì có thế khăn mới ướt, chứ chính Bạch Cư Dị chắc cũng già như bạn, "tuổi già hạt lệ như sương", nếu chuyện không đáng xúc động lắm thì "hơi đâu chuốc lấy hai hàng chứa chan".(2) Bài thơ này câu cuối rất gợi: 6


"Bạch đầu lãng lý bạch đầu nhân"... Sóng sông hay chính sóng đời! Nguyên văn Lâm giang tống Hạ Chiêm Bi quân lão biệt lệ triêm cân Thất thập vô gia vạn lý thân Sầu kiến chu hành phong hựu khởi Bạch đầu lãng lý bạch đầu nhân. Dịch nghĩa Ra bờ sông tiễn bác Hạ Chiêm Thương bác già mà còn chịu cảnh chia lìa, nước mắt chảy ướt khăn Đã bảy mươi mà vẫn không nhà, sống trôi nổi nay đây mai đó Buồn thấy thuyền vừa rời bến gió lại nổi lên Giữa những con sóng bạc đầu có một người đầu bạc. Dịch ra thơ Đường luật Tản Đà: Muôn dặm thương anh, lệ biệt sầu Bảy mươi tuổi tác, cửa nhà đâu! Buồn trông trận gió theo thuyền nổi, Sóng bạc đầu quanh khách bạc đầu. Cao Nguyên Minh: Đẫm lệ thương anh tuổi đã già 7


Chiếc thân vạn dặm kiếp không nhà Buồn nhìn gió nổi thuyền xa bến Đầu bạc giữa trùng sóng bạc xa. Chi Điền: Đưa tiễn thương ông lệ thấm bâu, Bảy mươi! ngàn dặm biết về đâu?!... Gió xao thuyền lẻ thêm thương cảm, Sóng bạc vây quanh khách bạc đầu... Dịch ra thơ lục bát Anh Nguyên: Bạn già, tiễn lệ ướt khăn, Bảy mươi, vạn dặm, một thân, không nhà. Lặng nhìn gió nổi, thuyền xa, Trên đầu sóng bạc, bạn ta bạc đầu... Chi Điền: Đưa anh muôn dặm lệ tràn, Bảy mươi tuổi tác lang thang không nhà! Buồn trông gió cuốn thuyền xa, Bạc đầu ngọn sóng chan hòa mái sương... Thu Tứ: Xót người trắng tóc chưa yên, Bẩy mươi còn vẫn lênh đênh sông hồ. Sào vừa rút gió đã xô, Dập dồn sóng bạc ngất ngơ thân già...(3) _____________ (1) "Thất thập cổ lai hy". 8


(2) Xem bài Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến. Bài Ngày Xuân Răn Con Cháu của Nguyễn Khuyến: "Xuân về ngày loạn còn lơ láo / Người gặp khi cùng cũng ngất ngơ".

THÍNH BIÊN HỒNG - Bạch Cư Dị Biên mai là một loại sò có "còi" rất ngon ngọt, thính là... thính, "thính biên hồng" phải chăng một đặc sản biển cao cấp? Còn "tái hồng quần" phải chăng món tái quần đỏ?! Hóa ra "hồng" đây là con ngỗng trời: "Một tiếng trên không, ngỗng nước nào?"(1) Hồng hay cặp kè với "nhạn": "Thấy chim hồng nhạn bay đi..."(2) Nhạn cũng là ngỗng trời.(3) Hồng, nhạn đều là ngỗng (trời), nhưng thay bằng "ngỗng" thì "tan hoang tinh thể" câu hát trên.(4) Cũng tan hoang luôn câu thơ Hàn Mặc Tử: "Trước sân anh thơ thẩn Đăm đăm trông ngỗng về..."!(5) Khi nào ngỗng khi nào hồng, cả một cân nhắc thơ... Còn cớ sao Bạch Cư Dị hỏi Chiêu Quân và Tô Vũ có nghe ngỗng kêu chăng? Chẳng qua ngỗng trời là loài chim thiên di. Hàng năm nó "di" từ bắc xuống nam để tránh rét. Chim bay thoải mái, còn người đẹp đi làm vợ chúa Hung Nô với ông quan đi sứ bị chúa Hung Nô bắt ở lại chăn dê thì muốn bay lắm mà đâu có được. Hai lòng nhớ quê quằn quại nghe ngỗng kêu, ngẩng lên thấy, ước ao mình cũng có cánh! Nguyên văn

9


Thính biên hồng Kinh phong xuy khởi tái hồng quần Bán nhập bình sa, bán nhập vân Vị vấn Chiêu Quân nguyệt hạ thính Hà như Tô Vũ tuyết trung văn? Dịch nghĩa Nghe ngỗng trời ở biên giới Gió to thổi làm bầy ngỗng trời đậu trên ải vùng bay Nửa bầy bay xuống bãi cát, nửa bầy bay lên mây Chiêu Quân nằm dưới trăng có lắng tai chăng? Và Tô Vũ giữa tuyết có nghe chăng? Dịch ra thơ lục bát Tản Đà: Đàn hồng rợn gió ngoài biên, Nửa sa cát bể, nửa lên mây trời. Chiêu Quân, Tô Vũ nghe chơi, Dưới trăng, trong tuyết đôi nơi thế nào? Anh Nguyên: Ngoài biên gió nổi, hồng bay, Nửa sa bãi cát, nửa mây lẫn vào. Chiêu Quân nghe tiếng, nghĩ sao? Và nơi biển tuyết, thế nào chàng Tô?... Thu Tứ: Gió lồng nhạn ải vùng bay Lên mây xuống cát gọi bầy thảm thê 10


Dưới trăng ai đó có nghe Núi băng ai có chợt tê tái lòng. ____________ (1) Trong bài Thu Vịnh của Nguyễn Khuyến. (2) Hình như trong lời một bài ca Huế? (3) Theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh. Để ý "nhạn" trong tiếng Việt chỉ một loài chim khác: "thuộc bộ sẻ, đuôi dài chẻ đôi, mỏ ngắn, thường làm tổ trên hang đá" (theo Từ điển tiếng Việt, Văn Tân chủ biên, nxb. Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1967). (4) "Tan hoang tinh thể" là chữ của Bùi Giáng, trong Đi vào cõi thơ (1969). (5) Nguyên văn: "Đăm đăm trông nhạn về" (bài Tình Quê).

THU GIANG TỐNG KHÁCH - Bạch Cư Dị Thơ Đường hay chứa cảnh chia tay, nhiều bài thậm chí "trương" chữ "tống" chữ "biệt" ngay trong tên bài. Tống hay biệt, nếu được nên chọn mùa. Xuân xanh: không hợp. Hạ vàng: cũng không hợp. Đông xám xịt đúng hướng... màu, nhưng mà quá. Lên đường lúc nào đó trong mùa thu, khi: "Non xa khởi sự nhạt sương mờ... Đã nghe rét mướt luồn trong gió... Đã vắng người sang những chuyến đò... Mây vẩn từng không, chim bay đi. Khí trời u uất hận chia ly"(1) là... ấn tượng nhất. "Thu giang tống..." Giang, giang... Quen lắm. Đi nào chỉ bằng thuyền, nhưng dường như xuống thuyền là cách đi dễ "nên thơ" nhất. Anh em, bạn bè, thái tử với tráng sĩ v.v., muốn có bài thơ kỷ niệm, chia tay nhớ kéo nhau ra bờ sông!

11


Nguyên văn Thu giang tống khách Thu hồng thứ đệ quá Ai viên triêu tịch văn Thị nhật cô chu khách Thử địa diệc ly quần Mông mông nhuận y vũ Mạc mạc mạo phàm vân Bất túy Tầm Dương tửu Yên ba sầu sát nhân. Dịch nghĩa Sông thu tiễn khách Mùa thu ngỗng trời lần lượt bay qua Sáng chiều vượn buồn kêu than Ngày ấy khách lên thuyền lẻ Đất này cũng chốn người xa bạn bầy Mưa mờ mờ thấm ướt áo Mây u ám (bay thấp như) chạm buồm (2) Không say rượu Tầm Dương Khói sóng sẽ làm buồn chết mất. Dịch ra thơ cổ phong (như nguyên tác) Ngô Văn Phú: Thu về, hồng sải cánh, Sớm tối vượn nỉ non. Ngày nao, con thuyền lẻ, 12


Cũng chốn đây chia lìa. Mưa dầm dề ướt áo, Mây man mác theo buồm. Rượu Tầm Dương uống mãi, Khói sóng lút sầu thương. Dịch ra thơ lục bát Tản Đà: Nhạn thu lần lượt bay qua, Thảm thương tiếng vượn hôm đà lại mai. Ngày nay một chiếc thuyền ai, Nước non này cũng chia phôi cách đàn. Mưa đầm vạt áo như chan, Buồm đi, man mác mây ngàn đón ngang. Chẳng say chén rượu Tầm Dương, Khỏi sao sóng, khói sầu thương chết người. Thu Tứ: Trời thu lớp lớp nhạn bay Khóc ai hôm sớm vượn gầy kêu than Sông kia ngày ấy lìa đàn Thân đơn thuyền lẻ muôn vàn bến đây Mưa ướt áo mưa cứ bay Mây sa buồm khuất càng day dứt lòng Không say túy lúy không xong Kìa kìa sóng khói chực xông giết người! _______ (1) Trong bài Đây Mùa Thu Tới của Xuân Diệu. Sông ở đâu mà có mây bay thấp tận gần mặt sông? 13


THU TRÙNG - Bạch Cư Dị Ở chân tường dưới cửa sổ, chắc là một con dế, "thiết thiết" là như rích rích? Còn kêu "yêu yêu" trong cỏ rối ngoài kia thì không biết là cái con gì... "Thiên" to vô cùng, "trùng" bé tí teo. Thu đến, to và bé cùng nhau xui "gái nhớ chồng son"... Nguyên văn Thiết thiết ảm song hạ Yêu yêu thâm thảo lý Thu thiên tư phụ tâm Vũ dạ sầu nhân nhĩ. Dịch nghĩa Nỉ non dưới cửa sổ tối Rỉ ran trong cỏ rậm Trời thu, vợ nhớ chồng Ðêm mưa, người nghe buồn bã. Dịch thơ Kề song "rích rích" ran ran Xa trong cỏ rối miên man rỉ rền... Sinh ly ai khéo xui nên Trời thu thêm nỗi mưa đêm, nhớ chồng! Bản dịch thơ khác Tiếng đâu dưới vách kêu ran Lại trong đám cỏ nghe càng nỉ non Trời thu, gái nhớ chồng son! Mưa dầm đêm vắng, ai buồn lắng tai. (Tản Đà) 14


_______ Tên bài nghĩa là "Côn trùng mùa thu".

TRÌ BẠN - Bạch Cư Dị Cành lá quá rậm rạp che mất trăng, quá thưa thớt thì trăng lồ lộ. Cắt sao cho vừa vặn trăng lấp ló đó thì cắt! Nguyên văn Kết cấu trì tây lang Sơ lý trì đông thụ Thử ý nhân bất tri Dục vi đãi nguyệt xứ. Dịch nghĩa Xây thêm chái nhà ở bờ tây của ao Cây cối ở bờ đông chỉ cắt sửa chút ít Thế là ý gì người ta không biết Là muốn dùng chái mới làm chỗ chờ trăng đó. Dịch thơ: Mé tây cho cất thêm nhà Mé đông cây cối rườm rà dọn sơ Ý này ai biết hay chưa Hiên tây chính chỗ ngồi chờ trăng lên! Bản dịch thơ khác: Ao này tây dựng nhà ngang Ðông thì cây lá gọn gàng để thưa Ai ơi, biết ý này chưa 15


Sẵn sàng dọn chỗ để chờ trăng lên. (Trần Trọng Kim) ________ Tên bài nghĩa là "Bờ ao".

TRÌ THƯỢNG - Bạch Cư Dị "Oa" là con gái đẹp. Ngẫu nhiên vần với hoa. Oa trộm hoa, như dường không phải trộm! Nguyên văn Tiểu oa sanh tiểu đĩnh Thâu thái bạch liên hồi Bất giải tàng tung tích Phù bình nhất đạo khai. Dịch nghĩa Cô bé xinh bơi chiếc thuyền nhỏ Qua hái trộm sen trắng rồi quay về Không biết xóa dấu vết việc làm của mình Ðể lại một luồng mở giữa đám bèo. Dịch thơ Bé con ngồi chiếc thúng con Thó bông sen trắng lon xon chèo về Ngây thơ nào biết giấu che Thúng xô bèo giạt đây kia rành rành! Bản dịch thơ khác 16


Người xinh bơi chiếc thúng xinh Bông sen trắng nõn trắng tinh thó về Hớ hênh dấu vết không che Trên ao để một luồng chia mặt bèo. (Tản Đà) Một cô chống chiếc thuyền con Hoa sen hái trộm, lon xon chạy về Ngây thơ, dấu tích chẳng dè Bèo non mở sẵn lối đi rành rành. (Trần Trọng Kim) Gái nhỏ bơi thuyền nhỏ Hái sen trắng trở theo Biết gì che dấu vết Mở lối giữa ao bèo. (Lê Nguyễn Lưu) _______ Tên bài nghĩa là "Trên ao".

TỲ BÀ HÀNH - Bạch Cư Dị Cái ông quan ban đêm cưỡi ngựa qua rừng phong xuống bãi lau tiễn bạn hẳn chính là ông năm trước cũng ban đêm đã nằm thuyền nghe mưa trên đường xuống Giang Châu.(1) Năm trước quan than bệnh, mà năm nay quan vẫn than bệnh, chắc là bệnh buồn do bị giáng chức đấy thôi. Bệnh ấy chỉ có cách được thăng chức trở về Tràng An mới khỏi. Còn cái ông ngồi dưới thuyền chờ hẳn cũng là một ông quan, chắc không mắc bệnh buồn nặng bằng bạn vì khi nghe đàn không khóc nhiều bằng. Thời ấy bên Tàu bạn bè tiễn nhau cẩn thận lắm. Tiễn gần, tiễn xa, càng thân càng xa. Phải có rượu, nếu được thì có cả nhạc. "Bác thông cảm vậy, ở đây chẳng tìm đâu ra ai biết đàn biết hát". Thì vừa hay... Quá hay. Nếu không tình cờ lọt đúng tai hai ông quan đang khát nhạc, chắc đêm ấy người danh kỹ thất thế chỉ đàn vu vơ chốc lát rồi thôi. Nhờ được mời khẩn khoản, lại có không khí tiệc tùng thích hợp, người ấy mới cao hứng mà biểu diễn tài năng một lượt để đời. Ngẫu nhiên, ngoài tâm sự của chính 17


người đàn, cả tâm sự của một người nghe cũng được đàn lên! Nhờ thế mới ra đời một bài thơ từ một tiếng đàn. Nguyên văn Tầm Dương giang đầu dạ tống khách Phong diệp địch hoa thu sắt sắt Chủ nhân há mã khách tại thuyền Cử tửu dục ẩm vô quản huyền Túy bất thành hoan thảm tương biệt Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt Hốt văn thủy thượng tỳ bà thanh Chủ nhân vong quy khách bất phát Tầm thanh ám vấn đàn giả thùy? Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì Di thuyền tương cận yêu tương kiến Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến Thiên hô vạn hoán thủy xuất lai Do bão tỳ bà bán già diện Chuyển trục tỳ bà tam lưỡng thanh Vị thành khúc điệu tiên hữu tình Huyền huyền yểm ức thanh thanh tứ Tự tố bình sinh bất đắc chí Ðê mi tín thủ tục tục đàn Thuyết tận tâm trung vô hạn sự Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu Sơ vi Nghê Thường hậu Lục Yêu Ðại huyền tao tao như cấp vũ Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ Tao tao thiết thiết thác tạp đàn Ðại châu tiểu châu lạc ngọc bàn 18


Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt U yết tuyền lưu thủy há than Thủy tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt Ngưng tuyệt bất thông thanh tạm yết Biệt hữu u tình ám hận sinh Thử thời vô thanh thắng hữu thanh Ngân bình sạ phá thủy tương bỉnh Thiết kỵ đột xuất đao thương minh Khúc chung trừu bát đương tâm hoạch Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch Ðông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung Tự ngôn: "Bản thị kinh thành nữ Gia tại Hà Mô lăng hạ trú Thập tam học đắc tỳ bà thành Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ Khúc bãi thường giao thiện tài phục Trang thành mỗi bị Thu nương đố Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu Nhất khúc hồng tiêu bất tri số Ðiền đầu ngân bề kích tiết túy Huyết sắc la quần phiên tửu ố Kim niên hoan tiếu phục minh niên Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ Ðệ tẩu tòng quân ai di tử Mộ khứ triêu lai nhan sắc cố Môn tiền lãnh lạc xa mã hy Lão đại giá tác thương nhân phụ Thương nhân trọng lợi khinh biệt ly 19


Tiền nguyệt Phù Lương mãi trà khứ Khứ lai giang khẩu thủ không thuyền Nhiễu thuyền nguyệt minh giang thủy hàn Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự Mộng đề trang lệ hồng lan can" Ngã văn tỳ bà dĩ thán tức Hựu văn thử ngữ trùng tức tức "Ðồng thị thiên nhai luân lạc nhân Tương phùng hà tất tằng tương thức Ngã tòng khứ niên từ đế kinh Trích cư ngọa bệnh Tầm Dương thành Tầm Dương địa tịch vô âm nhạc Chung tuế bất văn ty trúc thanh Trú cận Bồn giang địa đê thấp Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh Kỳ gian đán mộ văn hà vật Ðỗ quyên đề huyết viên ai minh Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh Khởi vô sơn ca dữ thôn địch Ẩu á trào triết nan vi thinh Kim dạ văn quân tỳ bà ngữ Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh Mạc từ cánh tọa đàn nhất khúc Vị quân phiên tác Tỳ bà hành" Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập Khước tọa xúc huyền huyền chuyển cấp Thê thê bất tự hướng tiền thanh Mãn tọa trùng văn giai yểm khấp Tựu trung khấp hạ thùy tối đa Giang Châu tư mã thanh sam thấp! 20


Dịch nghĩa Bến Tầm Dương, ban đêm tiễn khách Lá phong, hoa lau, hơi thu se sắt Chủ nhân xuống ngựa, khách đợi dưới thuyền Cùng nâng chén muốn uống mà tịnh không tiếng sáo đàn Nên uống say mà không vui, cuộc chia tay buồn thảm Giây phút ly biệt, ánh trăng dầm mặt sông mênh mang Chợt nghe tiếng đàn tỳ bà văng vẳng trên mặt nước Chủ nhân quên về, khách cũng quên chuyện rời bến Cùng lên tìm hỏi xem người đàn là ai Tiếng tỳ bà bặt, người đàn muốn nói mà còn ngần ngại Bèn cho dời thuyền đến gần, xin được gặp mặt Rót thêm rượu, thắp lại đèn, mở lại tiệc Mời mãi người đàn mới bước ra Tay còn ôm đàn che bớt nửa mặt Dời trục, đàn dạo mấy tiếng Chưa thành khúc điệu gì cả, mà nghe đã có tình Rồi từng dây ấm ức, từng tiếng trăn trở Như kể lể những chuyện không được như ý trong đời Mặt cúi, tay gẩy liên tục Nói ra hết những điều chất chứa trong lòng Nắn nhẹ, vuốt chậm, xóa đi rồi lại khêu lên Bắt đầu khúc Nghê Thường, tiếp đến khúc Lục Yêu Tiếng dây lớn rạt rào như mưa sầm sập tới Tiếng dây nhỏ tỉ tê như lời nói chuyện riêng Giọng lớn, nhỏ chen lẫn vào nhau Như bao nhiêu hạt châu lớn bé đang rơi xuống mâm ngọc Như chim oanh học nói ríu rít thao thao trong khóm hoa Như dòng suối ngập ngừng (?), đổ nước xuống ghềnh 21


Nước suối bỗng lạnh đông, dây đàn bỗng thôi rung Dây thôi rung, tiếng đàn tạm im Nhưng tình sâu hận kín lại hiện ra Lúc im tiếng này lại nhiều tình tứ hơn khi có tiếng Thình lình, như bình bạc vỡ, nước tuôn tung tóe Như quân thiết kỵ ở đâu xông ra, đao thương xoang xoảng Ðàn hết khúc, rút cái gẩy lên, phẩy mạnh xuống giữa mặt đàn Bốn dây vang lên một tiếng như xé lụa Hai bên thuyền mảng lặng phắc Chỉ thấy trăng thu trắng ngời giữa lòng sông Người đàn thẫn thờ cài cái gẩy vào dây đàn Xốc sửa áo quần, khép nép đứng dậy Kể lể: "Em vốn là con gái chốn kinh thành Nhà ở dưới gò Hà Mô Mười ba tuổi đã học thành thạo đàn tỳ bà Tên đứng vào hàng đầu trong phường hát Thường mỗi lần biểu diễn, những tay tài giỏi đều phải phục Mà mỗi khi trang điểm xong, ả Thu thường phải phát ghen Bọn thiếu niên ở Ngũ Lăng tranh nhau tặng thưởng Mỗi khúc đàn được tặng không biết bao nhiêu tấm lụa hồng Hoa vàng lược bạc đem gõ nhịp gẫy tan Chiếc quần lụa đỏ hoen ố những vết rượu rơi Cuộc vui kéo dài từ năm này qua năm khác Trăng thu gió xuân, lúc nào cũng thong dong Bỗng đâu người em phải đi lính, dì lại mất Chiều qua sớm lại, nhan sắc tàn phai Trước cửa vắng người thưa xe Tuổi đã lớn, đành nhận lời làm vợ một khách buôn Chồng ham lợi, coi thường biệt ly Tháng trước đã đi Phù Lương mua chè Mình em qua lại nơi cửa sông để trông giữ chiếc thuyền vắng 22


Quanh thuyền trăng sáng, sông nước lạnh lùng Ðêm khuya nằm chợt mơ lại tuổi xuân Mộng rồi khóc, lệ ướt mặt, đỏ hoe mắt" Ta nghe tiếng đàn đã muốn than thở Giờ biết chuyện người đàn càng thấy ngậm ngùi: "Ta với nàng cùng cảnh bên trời lận đận Gặp nhau đây, cứ gì phải sẵn quen nhau Ta năm ngoái từ giã kinh đô Bị đày, nằm bệnh ở cái thành Tầm Dương này Ðất Tầm Dương hẻo lánh, làm gì có âm nhạc Suốt năm ta không được nghe tiếng sáo, đàn Nhà ở gần sông Bồn, đất ẩm thấp Quanh nhà chỉ có lau úa, tre rài Ở đó sớm tối nghe những thứ tiếng gì? Nào tiếng cuốc khắc khoải, nào giọng vượn nỉ non Những lúc trước sông xuân hoa sớm, đêm thu trăng tròn Thường chỉ một mình nâng chén, dốc chén Há chẳng có điệu ca xứ núi, tiếng sáo đồng quê Ngặt sao đều lô lô líu líu khó nghe Tối nay được thưởng thức tiếng tỳ của nàng Chẳng khác nhạc tiên, làm tai như bừng mở Xin đừng cáo lui, mà hãy ngồi lại đàn thêm khúc nữa Ta sẽ vì nàng cố chuyển thành một bài thơ tên Tỳ Bà Hành" Cảm lời ta, người ấy đứng lặng hồi lâu Rồi ngồi xuống, lên dây đàn cách gấp gáp Lần này tiếng đàn buồn bã khác hẳn lần trước Khiến ai nấy đều che mặt mà rơi nước mắt Trong đám, ai rơi nhiều lệ nhất? Quan tư mã Giang Châu áo xanh ướt đẫm! Dịch thơ 23


Ðêm thu bến nước tiễn nhau Rừng phong hiu hắt bãi lau bơ sờ Người xuống ngựa kẻ dừng đò Chung nâng muốn cạn ngại trơ trường đình Biệt ly vắng tiếng phách sênh Đìu hiu trăng dãi mông mênh sóng sầu Rẽ ràng chợt bắt buông mau Kẻ đi người ở trông nhau ngỡ ngàng Tỳ bà! tiếng ấy đâu sang? Tay tiên ai gẩy nên vàng tơ rung... Thuyền dời tìm đến vui chung Ðèn khêu rượu rót mặt mừng chờ hoa Vị lời mời mọc thiết tha Cao bưng kín nửa đàn ra bước hờ Dây so mấy tiếng lưa thưa Tứ cầm chưa giãi tình tơ đã bày Nhạc đâu, đời chính là đây Từng cung tấm tức, từng dây nghẹn ngào Nhập thần vẫy khúc chiêm bao Nhất sinh tâm sự tuôn trào đầy không Nhặt, khoan, bắt bắt, buông buông Lục Yêu tiếp đến Nghê Thường liền tay Khi to rào rạt mưa bay Lại khi lất phất lay phay mưa lòng Nhỏ, to chen gẩy vào trong Hạt châu lớn bé mâm bồng đua rơi Lúc oanh lo líu chẳng ngơi Lúc khe nước hóa bọt sôi cuối ghềnh Rét đâu đông đứt dây mành Tơ đang rung bỗng chỉ tằm trơ trơ 24


Ðàn im, hận khác vẻ đi Không đàn, tình tứ hơn khi có đàn! Bỗng như bình bạc vỡ tan Bỗng như xung sát qua can trận tiền Khúc chung, tay phất mặt đàn Bốn dây một tiếng lụa vang xé trời Ðông tây thuyền mảng rụng rời Ðêm thu còn chỉ trăng ngời giữa sông! Gẩy cài thờ thẫn cáo xong Chỉnh trang khép nép cởi lòng mấy câu: "Đế đô xa cách đã lâu Vốn xưa thị tứ hồng lâu cũng gần Tuổi mười ba học đã thuần Tỳ bà đệ nhất danh cầm một phương Đàn lên tài tử đều kiêng Điểm trang xong, mặt chị em trĩu hờn Bốc rời công tử đòi cơn Lụa tung kín đất kim ngân lóa trời Quỳnh tương rót rót vơi vơi Hồn xiêu dáng ngả ngớn rơi ố hồng Mai gió mát, tối trăng trong Xuân đi ai ngỡ xuân không trở về Dì, em bỗng chốc chia lìa Nhớ thương hôm sớm lụy bề dung nhan Héo hoa ai kẻ ngó ngàng Trăm năm kiếm chút bạn đàng cho xong Chồng tham buôn bán tây đông Vợ đang lòng để bên sông dật dờ Thuyền đơn bóng lẻ chơ vơ Nước trôi trăng dõi gối trơ lạnh lùng Trở trăn mơ lại tuổi xuân 25


Lệ trong mộng ứa rơi lăn má đời" Tiếng tỳ nghe đã than ôi Giờ thêm chuyện kể rã rời lòng ai: "Cùng thân đất khách lạc loài Dẫu chưa quen biết cũng coi cựu tình Ta từng quan chốn đế kinh Sa cơ phải giáng náu mình Tầm Dương Một thân nằm bệnh viễn phương Ðàn hay sáo ngọt vấn vương thôi đành Nhà ta lau úa mọc quanh Tre gầy mấy bụi chẳng xanh chẳng vàng Sớm chiều rặt tiếng kêu than Lúc quyên khắc khoải khi mang lạc bầy Xuân hoa thu nguyệt hằng khi Chén nâng chén cạn cũng thì mình thôi Hát ca kể cũng có người Lô lô líu líu vắng thời lại hơn Hữu duyên kỳ ngộ diệu âm Nhiệt tình danh kỹ cảm ân muôn vàn Ban rồi liệu nữa lại ban? Vì ai xin viết nên trang Tỳ Bà" Muốn rời, chạnh cảm lòng ta Trục xoay dây đọ nghe ra cấp kỳ Tơ rung khéo não nuột chi Khắp quanh chiếu tiệc lệ thi ứa giàn Đau lòng nhất, một ông quan Áo xanh hứng lụy chan chan, ướt đầm! Bản dịch thơ khác Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách 26


Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu Người xuống ngựa, khách dừng chèo Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ti Say những luống ngại khi chia rẽ Nước mênh mông đượm vẻ gương trong Ðàn ai nghe vẳng bên sông Chủ khuây khỏa lại, khách dùng dằng xuôi Tìm tiếng sẽ hỏi ai đàn tá? Dừng dây tơ nấn ná làm thinh Dời thuyền ghé lại thăm tình Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui Mời mọc mãi, thấy người bỡ ngỡ Tay ôm đàn che nửa mặt hoa Vặn đàn mấy tiếng dạo qua Dẫu chưa nên khúc, tình đà thoảng hay Nghe não nuột mấy dây buồn bực Dường than niềm tấm tức bấy lâu Mày chau tay gẩy khúc sầu Dãi bầy hết nỗi trước sau muôn vàn Ngón buông, bắt khoan khoan dìu dặt Trước Nghê Thường sau thoắt Lục Yêu Dây to nhường đổ mưa rào Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy Mâm ngọc đâu bỗng nẩy hạt châu Trong hoa oanh ríu rít nhau Nước tuôn róc rách, chảy mau xuống ghềnh Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ Ôm sầu, mang giận ngẩn ngơ Tiếng tơ lặng ngắt, bây giờ càng hay 27


Bình hạc vỡ tuôn đầy dòng nước Ngựa sắt giong, xô xát tiếng đao Cung đàn trọn khúc thanh tao Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt Một vầng trăng trong vắt lòng sông Ngậm ngùi đàn bát xếp xong Áo xiêm khép nép hầu mong giãi lời Rằng: "Xưa vốn là người Kẻ Chợ Cồn Hà Mô trú ở lân la Học đàn từ thuở mười ba Giáo phường đệ nhất chỉ đà chép tên Gã Thiện Tài sợ phen dừng khúc Ả Thu Nương ghen lúc điểm tô Ngũ Lăng, chàng trẻ ganh đua Biết bao the thắm chuốc mua tiếng đàn Vành lược bạc gẫy tan dịp gõ Bức quần hồng hoen ố rượu rơi Năm năm lần lữa vui cười Mải trăng hoa chẳng đoái hoài xuân thu Buồn em trảy, lại lo dì thác Sầu hôm mai đổi khác hình dong Cửa ngoài xe ngựa vắng không Thân già mới kết duyên cùng khách thương Khách trọng lợi khinh đường ly cách Mải buôn chè sớm tếch nguồn khơi Thuyền không, đậu bến mặc ai Quanh thuyền trăng dãi, nước trôi lạnh lùng Ðêm khuya, sực nhớ vòng tuổi trẻ Chợt mơ màng dòng lệ đỏ hoen" Nghe đàn ta đã chạnh buồn 28


Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy lời: "Cùng một lứa bên trời lận đận Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau Từ xa kinh khuyết bấy lâu Tầm Dương đất trích gối sầu hôm mai Chốn cùng tịch lấy ai vui thích Tai chẳng nghe đàn địch cả năm Sông Bồn gần chốn cát lầm Lau vàng, trúc võ, âm thầm, quanh hiên Tiếng chi đó nghe liền sớm tối Cuốc kêu sầu, vượn hót véo von Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn Lần lần tay chuốc chén son ngập ngừng Há chẳng có ca rừng, địch nội Giọng líu lo, buồn nỗi khó nghe Tỳ bà nghe dạo canh khuya Dường như tiên nhạc gần kề bên tai Hãy ngồi lại gẩy chơi khúc nữa Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca" Ðứng lâu dường cảm lời ta Lại ngồi lựa phím đàn đà kíp dây Nghe não nuột khác tay đàn trước Khắp tiệc hoa sướt mướt lệ rơi Lệ ai chan chứa hơn người? Giang Châu Tư Mã đượm mùi áo xanh. (Phan Huy Vịnh) _______ Xem bài "Chu trung vũ dạ" của BCD.

VẤN LƯU THẬP CỬU - Bạch Cư Dị Tuyết sắp rơi, có rượu, có lò lửa, có bạn. Không chén, vẫn uống được quá đi chứ. "Hỏi" gì nhỉ, tưởng chỉ cần bưng, dốc, nốc, khà thôi. 29


Nguyên văn Lục Nghị tân phôi tửu Hồng nê tiểu hỏa lô Vãn lai thiên dục tuyết Năng ẩm nhất bôi vô. Dịch nghĩa Có rượu Lục Nghị chưa lọc mới Có bếp đất nung màu đỏ nhỏ Chiều xuống trời muốn tuyết Không chén uống cũng được chứ sao. Dịch thơ Rượu ngon đã sẵn một vò Bếp hồng đã sắp một lò con con Chiều rồi, tuyết sắp nổi cơn Uống đi, chẳng chén thì đừng, có sao. Bản dịch thơ khác Rượu ngon mới cất một vò Ðất nung màu đỏ hỏa lò sẵn kia Tối ngày tuyết xuống bất kỳ Uống chơi đã vậy, chén thì có đâu. (Trần Trọng Kim) Rượu lục nghị nấu vừa xong Hoả lò bằng đất đỏ nung hâm rồi 30


Chiều nay mưa tuyết muốn rơi Mời ông uống một chén chơi chẳng là. (Bùi Khánh Đản) Rượu nguyên tăm lục sủi Lò nhỏ đất hồng pha Chiều xuống trời rơi tuyết Nên chăng một chén khà? (Lê Nguyễn Lưu) Rượu mới sủi tăm xanh Hâm trên lò đất đỏ Trời chiều tuyết sắp đổ Làm một chén không anh? (Nguyễn Minh)

CHINH PHỤ NGÂM KHÚC – Đoàn Thị Điểm - Thuở trời đất nổi cơn gió bụi - Bịn rịn buổi tiễn đưa - Người ở nhà lo nghĩ về người đi xa - Than đôi lứa chia lìa - Trách chinh phu lỡ hẹn - Kể chuyện nhà: nuôi mẹ, dạy con - Kể lể nỗi niềm nhớ nhung - Khi mơ khi tỉnh dõi tìm dấu chàng - Tiếc nhớ quẩn quanh - Lo già, nguyện muôn kiếp bên chàng - Mơ chinh phu khải hoàn - Mơ lúc gặp lại chinh phu Trong lời nhận xét chung về Cung oán chúng tôi có nhắc nhiều đến Chinh phụ.(1) Những chuyện đã nói ở đây xin được miễn nhắc lại, để ta có thể bàn ngay chuyện mới. 31


Có lẽ dễ tưởng rằng nỗi lòng người vợ có chồng chinh chiến xa xôi là một nội dung văn chương phổ thông khắp nơi trên mặt đất, nhưng thực ra không phải vậy! Người da trắng thời La-mã viễn chinh tưng bừng, rồi trong năm sáu trăm năm nay lại viễn chinh tưng bừng. Bao nhiêu Tây chồng vượt đại dương đi đánh... thế giới, mỗi lần đi vừa xa vừa lâu, Tây lại rất chịu khó viết tiểu thuyết, thế mà văn học Tây không có tác phẩm lớn nào về nỗi mong mỏi chồng của bao nhiêu Tây vợ! Viễn chinh mà không vượt biển thì đến nay vẫn chưa ai phá nổi thành tích của người Mông Cổ. Không nghe nói văn học Mông Cổ có kiệt tác như Chinh phụ. Rồi người Tàu tuy không đi đánh thật xa như Tây hay Mông Cổ nhưng những cuộc nam chinh của họ cũng đáng kể lắm, Tàu viết lách càng chịu khó hơn Tây, thế mà thật đông đảo văn thi nhân cũng chỉ để lại một số bài thơ ngắn chứ không người nào viết ra được thứ gì như Chinh phụ... Vào thời Đặng Trần Côn ở Bắc Hà nhiều giặc giã, hẳn ông đã lấy cảm hứng từ những lần chúa Trịnh sai tướng mang quân đi đánh dẹp. "Chàng" đi không xa không lâu tí nào, thế mà lòng "thiếp" cảm sâu sắc đến nỗi có văn nhân mượn đem viết thành tác phẩm kích thích được văn nhân khác làm nên kiệt tác để đời. A, ở đây hoàn cảnh bé cảm xúc lớn mới là hay, chứ hay hớm gì chuyện xảy ra ngược lại! Và hễ có cảm xúc lớn rồi, ta cứ việc vay "đồ Tàu" mà dựng lên một cái "khung" thật hoành tráng cho xứng, chứ ngại gì! Dân tộc Việt Nam không chỉ trường thi mà còn trường ca về nỗi lòng chinh phụ: Hòn Vọng Phu của Lê Thương đấy. Lời ca mới vĩ đại sao, và hiển nhiên tương ứng với cảm xúc trong lòng người chứ không liên quan gì đến thực tế sử địa. Tuy Chinh phụ phác họa một hình ảnh lứa đôi quý tộc, nhưng cái tâm sự của "thiếp" cơ bản vượt giai cấp, đại khái cũng chính là nỗi niềm của vợ lính quèn. Cuối cùng, vì khúc ngâm diễn một tâm sự chứ không phải kể một câu chuyện, khi đọc ta chớ sốt ruột chờ diễn biến. Và vì tình cảm nhớ nhung thì nhớ rồi lại nhớ, nên khi gặp chỗ lặp lại ta cũng chớ phàn nàn... Hay nhất cho ta người đọc, là cố tận cảm những lời hết sức gợi cảm trong bản dịch thơ tuyệt tác của Đoàn Thị Điểm hay Phan Huy Ích. Cũng như đã làm đối với Cung oán ngâm khúc, chúng tôi lấy cảm nhận riêng mà tạm chia CHINH PHỤ NGÂM KHÚCthành 12 đoạn như sau: Thuở trời đất nổi cơn gió bụi Hễ "cơn gió bụi nổi", thì có người phải ra đi. Mà ra đi thì 32


"Xưa nay chinh chiến mấy ai về".(2) Nhưng Đặng Trần Côn không thơ tràng thiên về người "chinh chiến", mà về kẻ ở lại nhà chờ người ấy. "Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên"... Truân chuyên nghĩa là khó nhọc, vất vả. Ô hay, chồng của "khách" mới..., chứ "khách" có đi đâu, có làm gì đâu, mà... Truân chuyên không phải một lối. Muốn biết tại sao "má hồng" cũng vất vả vì "gió bụi", xin "xem hồi sau sẽ rõ"! ---Thuở trời đất nổi cơn gió bụi (1) Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên Xanh kia thăm thẳm tầng trên Vì ai gây dựng cho nên nỗi này. Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt (5) Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây Chín tầng gươm báu trao tay Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh. Nước thanh bình ba trăm năm cũ (9) Áo nhung trao quan vũ từ đây Sứ trời sớm giục đường mây Phép công là trọng niềm tây sá nào.

33


Bịn rịn buổi tiễn đưa Ai đọc lại đoạn Chinh phụ này mà nẩy ý tìm hiểu những tên người, tên đất bên Tàu ấy, xin đừng! Vì Hoài Thanh đã làm việc đó rồi và cho hay "tất cả đều chỉ có giá trị tượng trưng, có khi lấy ở đời Hán, lại có khi lấy ở đời Ðường, nhiều khi chẳng có quan hệ gì với nhau, thậm chí mâu thuẫn với nhau nữa"!(3) Ta chỉ cần biết "chàng" chinh chiến xa xôi lắm. Và chính "thiếp" thì cũng chỉ cần biết có thế thôi. Chinh phu ra đi oai hùng: "Chí làm trai dặm nghìn da ngựa Gieo Thái sơn nhẹ tựa hồng mao Giã nhà đeo bức chiến bào Thét roi cầu Vị ào ào gió thu". Rồi đoàn quân đi trong một không gian mênh mông, mây núi chập chùng, cũng rất hùng! Nhưng người hùng cảnh hùng không làm quên được việc đi mà không biết ngày về, thực ra không biết có ngày về hay không. Tự nhiên, buổi tiễn đưa hết sức bịn rịn. Bịn rịn không lâu hóa "ngẩn ngơ": "Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng Hàng cờ bay trông bóng phất phơ Dấu chàng theo lớp mây đưa Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà". Chinh phụ ngẩn người một lúc, rồi cũng cất bước:

34


"Chàng thì đi cõi xa mưa gió Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn". Người đi kẻ về, chốc chốc: "Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu Ngàn dâu xanh ngắt một mầu Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai"! ---Đường giong ruổi lưng đeo cung tiễn (13) Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa Bóng cờ tiếng trống xa xa Sầu lên ngọn ải oán ra cửa phòng. Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt (17) Xếp bút nghiên theo việc đao cung Thành liền mong tiến bệ rồng Thước gươm đã quyết chẳng dong giặc trời. Chí làm trai dặm nghìn da ngựa (21) Gieo Thái sơn nhẹ tựa hồng mao Giã nhà đeo bức chiến bào Thét roi cầu Vị ào ào gió thu. Ngòi đầu cầu nước trong như lọc (25) Đường bên cầu cỏ mọc còn non Đưa chàng lòng dặc dặc buồn Bộ khôn bằng ngựa thủy khôn bằng thuyền. 35


Nước trong chảy lòng phiền chẳng rửa (29) Cỏ xanh thơm dạ nhớ khó quên Nhủ rồi nhủ lại cầm tay Bước đi một bước giây giây lại dừng. Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi (33) Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên san Múa gươm rượu tiễn chưa tàn Chỉ ngang ngọn dáo vào ngàn hang beo. Săn Lâu Lan rằng theo Giới Tử (37) Tới Man Khê bàn sự Phục Ba Áo chàng đỏ tựa ráng pha Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in. Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống (41) Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay Hà Lương chia rẽ đường này Bên đường trông lá cờ bay ngùi ngùi. Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu (45) Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương Quân đưa chàng ruổi lên đường Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng. Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng (49) Hàng cờ bay trông bóng phất phơ Dấu chàng theo lớp mây đưa Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà.

36


Chàng thì đi cõi xa mưa gió (53) Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn Đoái trông theo đã cách ngăn Tuôn mầu mây biếc trải ngần núi xanh. Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại (57) Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng. Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy (61) Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu Ngàn dâu xanh ngắt một mầu Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai. Người ở nhà lo nghĩ về người đi xa Đưa "chàng" đi rồi, "thiếp" về nhà, bắt đầu lo. Trước tiên là lo "chàng" vất vả: "Chàng từ khi vào nơi gió cát", hẳn lúc thì vượt "nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu", lúc thì "đứt thôi lại nối thấp đà lại cao", trèo dốc mệt... không được nghỉ, và hẳn có lúc lại gặp "dòng nước sâu" đến nỗi "ngựa (cũng) nản chân bon"... Nhưng "những người chinh chiến", lo nhất cho họ là lo về tính mệnh. Cứ mỗi cơn binh lửa, là lại thêm biết bao nhiêu nấm mồ hoang: "Non Kỳ mộ chỉ trăng treo Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò. Hồn tử sĩ gió ù ù thổi 37


Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi"... "Chàng" ơi, "chàng" ơi! ---Chàng từ khi vào nơi gió cát (65) Đêm trăng này nghỉ mát phương nao Xưa nay chiến địa nhường bao Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu. Hơi gió lạnh người rầu mặt dạn (69) Dòng nước sâu ngựa nản chân bon Ôm yên gối chống đã chồn Nằm vùng cát trắng ngủ cồn rêu xanh. Nay Hán xuống Bạch thành đóng lại (73) Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua Hình khe thế núi gần xa Đứt thôi lại nối thấp đà lại cao. Sương đầu núi buổi chiều như giội (77) Nước lòng khe nẻo suối còn sâu Não người áo giáp bấy lâu Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây. Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ (81) Mặt chinh phu ai vẽ cho nên Tưởng chàng rong ruổi mấy niên Chẳng nơi Hãn hải thì miền Tiêu quan.

38


Đã trắc trở đòi ngàn xà hổ (85) Lại lạnh lùng những chỗ sương phong Lên cao trông thức mây lồng Lòng nào là chẳng động lòng bi thương. Chàng từ sang đông nam khơi nẻo (89) Biết nay chàng tiến thảo nơi đâu Những người chinh chiến bấy lâu Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây. Nức hơi mạnh ơn dày từ trước (93) Trải chốn nghèo tuổi được bao nhiêu Non Kỳ mộ chỉ trăng treo Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò. Hồn tử sĩ gió ù ù thổi (97) Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi Chinh phu tử sĩ mấy người Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn. Dấu binh lửa nước non như cũ (101) Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương Phận trai già ruổi chiến trường Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về. Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ (105) Ba thước gươm một cỗ nhung yên Xông pha gió bãi trăng ngàn Tên treo đầu ngựa giáo lan mặt thành. Than đôi lứa chia lìa 39


Bịn rịn lúc tiễn đưa, lo lắng khi về đến nhà, bây giờ mới bắt đầu than thở về nông nỗi "đôi lứa" hãy còn "thiếu niên" mà không được "vui vầy cá nước", mà phải "cách vời"... Đã có duyên vợ chồng, lại người "trong cánh cửa" kẻ "ngoài chân mây", "nỗi lòng biết ngỏ cùng ai", nên "thôi sớm thôi hôm những sầu"... ---Áng công danh trăm đường rộn rã (109) Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai Thiếp trong cánh cửa chàng ngoài chân mây. Trong cửa này đã đành phận thiếp (113) Ngoài mây kia há kiếp chàng vay Những mong cá nước vui vầy Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời. Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ (117) Chàng há từng học lũ vương tôn Cớ sao cách trở nước non Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu. Chàng phong lưu đương chừng niên thiếu (121) Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên Nỡ nào đôi lứa thiếu niên Quan sơn để cách hàn huyên cho đành. Trách chinh phu lỡ hẹn 40


Đoạn trước chinh phụ "than", đoạn này chuyển sang "trách". Cái trách đây có chỗ lạ: "Hẹn cùng ta Lũng Tây nham ấy", "Hẹn nơi nao Hán Dương cầu nọ"... Thế nghĩa là chồng ra trận rồi vợ chạy tứ tung để đợi gặp chồng? Chẳng những xưa kia phụ nữ Tàu không được tự do như thế, mà ngay bây giờ bất cứ ở đâu cái việc "hẹn" này cũng là hiếm. "Bù lạ", chinh phụ có lúc thốt lên những lời thật gợi cảm: "Nay đào đã quyến gió đông Phù dung lại đã bên sông bơ xờ", "Ngập ngừng gió thổi chéo bào Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông"... ---Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu (125) Hỏi ngày về ước nẻo oanh ca Nay quyên đã giục oanh già Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo. Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió (129) Hỏi ngày về chỉ độ đào bông Nay đào đã quyến gió đông Phù dung lại đã bên sông bơ xờ. Hẹn cùng ta Lũng Tây nham ấy (133) Sớm đã trông nào thấy hơi tăm Ngập ngừng lá rụng cành trâm 41


Buổi hôm nghe dậy tiếng cầm xôn xao. Hẹn nơi nao Hán Dương cầu nọ (137) Chiều lại tìm nào có tiêu hao Ngập ngừng gió thổi chéo bào Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông. Tin thường lại người không thấy lại (141) Hoa dương tàn đã trải rêu xanh Rêu xanh mấy lớp xung quanh Sân đi một bước trăm tình ngẩn ngơ. Thư thường tới người chưa thấy tới (145) Bức rèm thưa lần dãi bóng dương Bóng dương mấy buổi xuyên ngang Lời sao mười hẹn chín thường đơn sai. Kể chuyện nhà: nuôi mẹ, dạy con Đoạn này chinh phụ kể... công: nào nuôi mẹ già, nào nuôi và dạy con thơ. Kể tí gọi là thôi, kẹp vào giữa "xót" và "nhớ" chinh phu. "Mẹ già phơ phất mái sương", "Con thơ măng sữa...", "... buồn khi tựa cửa", "... chờ bữa mớm cơm", nghe như ca dao... ---Thử tính lại diễn khơi ngày ấy (149) Tiền sen này đã nẩy là ba Xót người lần lữa ải xa Xót người nương chốn Hoàng hoa dặm dài. 42


Tình gia thất nào ai chẳng có (153) Kìa lão thân khuê phụ nhớ thương Mẹ già phơ phất mái sương Con thơ măng sữa vả đương phù trì. Lòng lão thân buồn khi tựa cửa (157) Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân. Nay một thân nuôi già dạy trẻ (161) Nỗi quan hoài mang mể biết bao Nhớ chàng trải mấy sương sao Xuân từng đổi mới đông nào có dư. Kể lể nỗi niềm nhớ nhung Cái đoạn này dài đến non một phần tư tác phẩm. Nó dài là phải, vì nó diễn "nỗi nhớ nhung đau đáu", tức cái cảm xúc chính trong lòng người chinh phụ. "Lòng thiếp riêng bi thiết (...) nói chẳng nên lời", nhưng may đã có thi sĩ đặt mình vào chỗ "thiếp" mà cảm miên man, viết nên lời lời gợi cảm... Vợ nhớ chồng xa lúc nào chẳng nhớ, nhưng có lẽ dễ "chạnh" hơn về ban đêm, nhất những đêm có trăng, hoa, gió: "Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên Lá màn lay ngọn gió xuyên Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm. 43


Hoa giãi nguyệt nguyệt in một tấm Nguyệt lồng hoa hoa thắm từng bông Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu"... Trong lòng người vốn chỉ có những thứ trừu tượng, nhưng lúc này những thứ ấy "nặng" và "đầy" đến nỗi bỗng hóa như vật chất: "Sầu ôm nặng hãy chồng làm gối Muộn ôm đầy hãy thổi làm cơm"!!! Và chính vật chất bên ngoài cũng trở nên rất khác lạ: "Sương như búa bổ mòn gốc liễu Tuyết nhường cưa xẻ héo cành ngô"!! Lạ và lạ đến đâu, thì người vợ "lẻ loi một bề" cũng không làm gì được ngoài để cho "lệ (...) nhỏ đôi". Đêm đêm, một mình một bóng, đau đáu, đôi đôi, hết đôi này lại nhỏ tiếp đôi khác... ---Kể năm đã ba tư cách diễn (165) Mối sầu thêm nghìn vạn ngổn ngang Ước gì gần gũi tấc gang Giãi niềm cay đắng để chàng tỏ hay. Thoa cung Hán thuở ngày xuất giá (169) Gương lầu Tần dấu đã soi chung Cậy ai mà gửi tới cùng 44


Để chàng thấu hết tấm lòng tương tư. Nhẫn đeo tay mọi khi ngắm nghía (173) Ngọc cài đầu thuở bé vui chơi Cậy ai mà gửi tới nơi Để chàng trân trọng dấu người tương thân. Trải mấy xuân tin đi tin lại (177) Tới xuân này tin hãy vắng không Thấy nhàn luống tưởng thư phong Nghe hơi sương sắm áo bông sẵn sàng. Gió tây nổi không đường hồng tiện (181) Xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa Màn mưa trướng tuyết xông pha Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài. Đề chữ gấm phong thôi lại mở (185) Gieo bói tiền tin dở còn ngờ Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai. Há như ai hồn say bóng lẫn (189) Bỗng thơ thơ thẩn thẩn như không Trâm cài xiêm dắt thẹn thùng Lệch vừng tóc rối lỏng vòng lưng eo. Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước (193) Ngoài rèm thưa rủ thác đòi phen Ngoài rèm thước chẳng mách tin Trong rèm dường đã có đèn biết chăng. 45


Đèn có biết nhường bằng chẳng biết (197) Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi Buồn rầu nói chẳng nên lời Hoa đèn kia với bóng người khá thương. Gà eo óc gáy sương năm trống (201) Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên Khắc trời đằng đẵng bấy niên Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa. Hương gượng đốt hồn đà mê mải (205) Gương gượng soi lệ lại chứa chan Sắt cầm gượng gảy ngón đàn Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng. Lòng này gửi gió đông có tiện (209) Nghìn vàng xin gửi đến non Yên Non Yên dù chẳng tới miền Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời. Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu (213) Nỗi nhớ nhung đau đáu nào xong Cảnh buồn người thiết tha lòng Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun. Sương như búa bổ mòn gốc liễu (217) Tuyết nhường cưa xẻ héo cành ngô Giọt sương phủ bụi chim gù Sâu tường kêu vẳng chuông chùa nện khơi.

46


Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc (221) Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên Lá màn lay ngọn gió xuyên Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm. Hoa giãi nguyệt nguyệt in một tấm (225) Nguyệt lồng hoa hoa thắm từng bông Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu. Đâu xiết kể trăm sầu nghìn não (229) Từ nữ công phụ xảo đều nguôi Biếng cầm kim biếng đưa thoi Oanh đôi thẹn dệt bướm đôi ngại thùa. Mặt biếng tô miệng càng biếng nói (233) Sớm lại chiều dòi dõi nương song Nương song luống ngẩn ngơ lòng Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai. Biếng trang điểm lòng người sầu tủi (237) Xót nỗi chàng ngoài cõi trùng quan Khác gì ả Chức chị Hằng Bến Ngân sùi sụt cung trăng chốc mòng. Sầu ôm nặng hãy chồng làm gối (241) Muộn ôm đầy hãy thổi làm cơm Mượn hoa mượn rượu giải buồn Sầu làm rượu nhạt muộn làm hoa ôi. Gõ sênh ngọc mấy hồi không tiếng (245) 47


Ôm đàn tranh mấy phím rời tay Xót người hành dịch bấy nay Dặng xa thêm mỏi trắp đầy lại vơi. Ca quyên ghẹo làm rơi nước mắt (249) Trống tiều khua như đốt buồng gan Võ vàng đổi khác dung nhan Khuê ly mới biết tân toan dường này. Nếm chua cay tấm lòng mới tỏ (253) Chua cay này há có vì ai Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề. Khi mơ khi tỉnh dõi tìm dấu chàng Có thế chứ. Đây không như một đoạn trước trong đó chinh phụ thân xông pha đi tìm gặp chinh phu. Đây thân vẫn ở nhà, trên giường, chỉ có hồn bay khắp nơi... Hồn mà tìm nhất định phải thấy, thiếp chàng gặp nhau vui "muôn vàn", nhưng qua "giờ mộng xuân" rồi thì: "Khi mơ những tiếc khi tàn Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng (như) không". Hồn thiếp bay lên cao có lúc thấy cảnh gợi ghê: "Khói mù nghi ngút ngàn khơi Con chim bạt gió lạc loài kêu thương". "Kêu thương" nào chỉ "con chim"! 48


Ờ, mà lẽ nào chỉ có người ở nhà mới đêm đêm... cất cánh, hẳn "chàng" cũng... "Yêu nhau nhớ dáng tưởng hình Chiêm bao anh có một mình chăng anh?"(4) ---Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng (257) Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn Duy còn hồn mộng được gần Đêm đêm thường đến Giang Tân tìm người. Tìm chàng thuở Dương Đài lối cũ (261) Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa Xum vầy mấy lúc tình cờ Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân. Giận thiếp thân lại không bằng mộng (265) Được gần chàng bến Lũng thành Quan Khi mơ những tiếc khi tàn Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không. Vui có một tấm lòng chẳng dứt (269) Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi Lòng theo nhưng chửa thấy người Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe. Trông bến nam bãi che mặt nước (273) Cỏ biếc um dâu mướt màu xanh Nhà thôn mấy xóm chông chênh 49


Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm. Trông đường bắc đôi chòm quán khách (277) Rườm rà cây xanh ngắt núi non Lúa thành thoi thóp bên cồn Nghe thôi ngọc địch véo von bên lầu. Non đông thấy lá hầu chất đống (281) Trĩ xập xòe mai cũng bẻ bai Khói mù nghi ngút ngàn khơi Con chim bạt gió lạc loài kêu thương. Lũng Tây chảy nước dường uốn khúc (285) Nhạn liệng không sóng giục thuyền câu Ngàn thông chen chúc khóm lau Cách ghềnh thấp thoáng người đâu đi về. Trông bốn bể chân trời mặt đất (289) Lên xuống lầu thấm thoắt đòi phen Lớp mây ngừng mắt ngại nhìn Biết đâu chinh chiến là miền Ngọc Quan. Gậy rút đất dễ khôn học chước (293) Khăn gieo cầu nào được thấy tiên Lòng này hóa đá cũng nên E không lệ ngọc mà lên trông lầu. Tiếc nhớ quẩn quanh Đoạn này nhớ mang màu tiếc:

50


"Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong". Chinh phụ khe khẽ tiếc, rồi khe khẽ hỏi: "Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng"? rồi khe khẽ "ví": "Lòng chàng ví cũng bằng như thế"... Bao nhiêu bước thẫn thờ qua lại trên sân. Bao nhiêu đêm với chỉ trăng bên gối, thiếp đi, để "bừng mắt" thấy "sương gội cành khô". "Lạnh lùng thay (...) Gió mây hiu hắt trên đầu tường vôi"... Phải chi, phải không, chàng ơi. ---Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu (297) Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong Chẳng hay muôn dặm ruổi giong Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng. Lòng chàng ví cũng bằng như thế (301) Lòng thiếp nào dám nghĩ gần xa Hướng dương lòng thiếp như hoa Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương.

51


Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái (305) Hoa để vàng bởi tại bóng dương Hoa vàng hoa rụng quanh tường Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần. Chồi lan nọ trước sân đã hái (309) Ngọn tần kia bên bãi đưa hương Sửa xiêm dạo bước tiền đường Ngửa trông xem vẻ thiên chương thẫn thờ. Bóng Ngân hán khi mờ khi tỏ (313) Độ Khuê triền buổi có buổi không Thức mây đòi lúc nhạt nồng Chuôi sao Bắc Đẩu thôi đông lại đoài. Mặt trăng tỏ thường soi bên gối (317) Bừng mắt trông sương gội cành khô Lạnh lùng thay bấy nhiêu thu Gió mây hiu hắt trên đầu tường vôi. Lo già, nguyện muôn kiếp bên chàng Đây cũng đoạn quan trọng. Vì xa nhau lâu thì người phụ nữ lo gì hơn lo già: "Thoi đưa ngày tháng ruổi mau Người đời thấm thoắt qua mầu xuân xanh", "Gái tơ mấy chốc hóa ra nạ dòng"... Lo dẫn đến thương:

52


"Thương một kẻ phòng không luống giữ". Kẻ đáng thương ấy ngày ngày "(...) dạo hài lối cũ rêu in (...) Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì". "Thời tốt" cứ theo nhau "lỡ hết" phen này đến phen kia, "e đến khi đầu bạc" mất! Bạc đầu tất nhiên không chỉ mình "thiếp", nên "Thiếp rầu thiếp lại rầu chàng chẳng quên". "Rầu" mất màu tóc nhiều quá, có khi đâm lẩn thẩn, đòi thắng cả thời gian: "Thiếp xin chàng chớ bạc đầu Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung"! Nói hăng vậy, chứ thực ra cũng đã trù liệu đến thất bại hoàn toàn rồi. Nếu kiếp này "trời (...) để nhỡ nhàng", thiếp chàng cứ "đấy đây" mãi, thì "Thiếp xin về kiếp sau này Như chim liền cánh như cây liền cành". Tội quá, cho "liền" liền đi, trời ơi! ---Một năm một nhạt màu son phấn (321) Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi 53


Xưa sao hình ảnh chẳng rời Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương. Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ (325) Thiếp dạo hài lối cũ rêu in Gió xuân ngày một vắng tin Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì. Xẩy nhớ khi cành Diêu đóa Ngụy (329) Trước gió xuân vàng tía sánh nhau Nọ thì ả Chức chàng Ngâu Tới trăng thu lại bắc cầu sang sông. Thương một kẻ phòng không luống giữ (333) Thời tiết lành lầm lỡ đòi nau Thoi đưa ngày tháng ruổi mau Người đời thấm thoắt qua mầu xuân xanh. Xuân thu để giận quanh ở dạ (337) Hợp ly đành buồn quá khi vui Oán sầu nhiều nỗi tơi bời Vóc bồ liễu dễ ép nài chiều xuân. Kìa Văn Quân mỹ miều thuở trước (341) E đến khi đầu bạc mà thương Mặt hoa nọ gã Phan lang Sợ khi mái tóc điểm sương cũng ngừng Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở (345) Tiếc quang âm lần lữa gieo qua Nghĩ mệnh bạc tiếc niên hoa 54


Gái tơ mấy chốc hóa ra nạ dòng. Gác nguyệt nọ mơ mòng vẻ mặt (349) Lầu hoa kia phảng phất mùi hương Trách trời sao để nhỡ nhàng Thiếp rầu thiếp lại rầu chàng chẳng quên. Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội (353) Cũng dập dìu chẳng vội phân trương Chẳng xem chim yến trên rường Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau. Kìa loài sâu hai đầu cùng sánh (357) Nọ loài chim chắp cánh cùng bay Liễu sen là thức cỏ cây Đôi hoa cũng sánh đôi dây cũng liền. Ấy loài vật tình duyên còn thế (361) Sao kiếp người nỡ để đấy đây Thiếp xin về kiếp sau này Như chim liền cánh như cây liền cành. Đành muôn kiếp chữ tình đã vậy (365) Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau Thiếp xin chàng chớ bạc đầu Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung. Xin làm bóng theo cùng chàng vậy (369) Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên Chàng nương vừng nguyệt phỉ nguyền Mọi bề trung hiếu thiếp xin vẹn tròn. 55


Mơ chinh phu khải hoàn Ấy là chinh phụ mơ chinh phu khải hoàn. "Phân vinh thiếp cũng đượm chung hương trời". Xứng đáng lắm. Đoạn này chán! ---Lòng hứa quốc tựa son ngăn ngắt (373) Sức tý dân dường sắt trơ trơ Máu Thuyền Vu quắc Nhục Chi Ấy thì bữa uống ấy thì buổi ăn. Mũi đồng bác đôi lần hăm hở (377) Đã lòng trời gìn giữ người trung Hộ chàng trăm trận nên công Buông tên ải bắc treo cung non đoài. Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải (381) Tiếng khải ca trở lại thần kinh Đỉnh non kia đá đề danh Triều thiên vào trước cung đình dâng công. Nước Ngân Hán việt đồng rửa sạch (385) Khúc Nhạc Từ réo rắt lừng khen Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền 56


Tên ghi gác Khói tượng truyền đài Lân. Nền huân tướng đai cân rạng vẻ (389) Chữ đồng hưu bia để nghìn đông Ơn trên ấm tử thê phong Phân vinh thiếp cũng đượm chung hương trời. Mơ lúc gặp lại chinh phu Ca khúc khải hoàn xong, chinh phụ chinh phu ca tiếp bài tái ngộ. Chao ơi mùi. "Thiếp" "vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng", rồi đem "khăn lệ" và "thơ sầu" ra khoe. "Chàng" nâng niu vuốt ve từng tấm... nước mắt khô, rồi cứ đọc một câu sầu "chàng ơi" lại "đổi" bằng một câu vui "nàng ơi", đổi đến đâu "khà" đến đấy cho đến khi "mọi lời" đã... uống sạch, nhả sạch! Cái màn đọc-đổi-khà còn được diễn đi diễn lại "đòi phen", mà "thiếp" không chỉ có ngồi nghe với "sẽ rót vơi lần lần từng chén" cho chàng đâu, mà còn tự mình "sẽ ca lần ren rén từng thiên" và hễ "liên ngâm" xong thì cũng cạn chén (tuy chắc không "khà") để gọi là "đối ẩm"... Có như thế thì may ra mới "bõ lúc xa sầu cách nhớ" được chứ! Nhưng than ôi, tất cả mới chỉ là mơ ước. Bao giờ "khách má hồng" mới dứt "truân chuyên", hỡi "thăm thẳm xanh kia"? ---Thiếp chẳng dại như người Tô phụ (393) Chàng hẳn không như lũ Lạc Dương Khi về đeo quả ấn vàng Trên khung cửi dám rẫy ruồng làm cao. 57


Xin vì chàng xếp bào cởi giáp (397) Xin vì chàng giũ lớp phong sương Vì chàng tay chúc chén vàng Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng. Mở khăn lệ chàng trông từng tấm (401) Đọc thơ sầu chàng thấm từng câu Câu vui đổi lấy câu sầu Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời. Sẽ rót vơi lần lần từng chén (405) Sẽ ca lần ren rén từng thiên Liên ngâm đối ẩm đòi phen Cùng chàng lại kết mối duyên đến già. Cho bõ lúc xa sầu cách nhớ (409) Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình Ngâm nga mong mỏi chữ tình Nhường này âu hẳn tài lành trượng phu. _______________ (1) Xem bài Nguyễn Gia Thiều. (2) "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi", câu chót bài Lương Châu Từ của Vương Hàn đời Đường, bản dịch Trần Quang Trân. (3) "... Theo đoạn tiễn đưa thì hình như người chinh phu quê ở Hàm Dương và đi đánh dẹp ở Tiêu Tương nghĩa là đi từ bắc xuống nam. Người chinh phụ cũng có nói: "Chàng từ sang đông nam khơi nẻo". Nhưng "trống Trường Thành" là ở phương bắc và sau này người chinh phụ gửi nhớ thương cũng lại hướng về non Yên ở phương bắc. Hai lần người thiếu phụ nhắc đến ngày chồng hẹn lúc ra đi nhưng lần thứ nhất là "nẻo quyên ca" tức là mùa hè, lần thứ hai lại là "độ đào

58


bông" tức là mùa xuân; thế thì là mùa hè hay mùa xuân?", Tuyển tập Hoài Thanh, tập II, nxb. Văn Học, VN, 1982, tr. 51. Bài Chiêm Bao Thỉnh Thoảng Em Về của Huy Cận: "Yêu nhau nhớ dáng tưởng hình / Chiêm bao em có một mình chăng em?".

BẠC TẦN HOÀI - Đỗ Mục Trần Hậu Chủ (582-589) làm vua không lo việc nước mà lo quấn gái, hát hỏng, rượu chè. Tất nhiên nước mất gấp! Hậu đình hoa có thể xem là những khúc ca làm mất nước. Những khúc ấy có truyền từ trong cung ra ngoài, nên mới ban đêm bên kia sông con hát vô tư "xướng" khiến bên này sông chạnh lòng... Đỗ Mục "bạc Tần Hoài", cảm khái, rồi tưởng tượng mà làm thơ? Vì khi ông sinh ra (năm 803) thì sự kiện lịch sử nói trên đã thành chuyện đời xưa rồi cơ mà. Nguyên văn Bạc Tần Hoài Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia Thương nữ bất tri vong quốc hận Cách giang do xướng Hậu đình hoa. Dịch nghĩa Bến Tần Hoài Khói lồng sông lạnh, ánh trăng lồng bãi cát Đêm đậu thuyền ở bến Tần Hoài, gần quán rượu Con hát không biết hờn mất nước Bên kia sông còn hát khúc Hậu đình hoa. 59


Dịch ra thơ Đường luật Khương Hữu Dụng: Nước lồng khói tỏa, cát trăng pha, Thuyền đỗ sông Hoài cạnh tửu gia. Con hát biết chi hờn mất nước, Cách sông còn hát Hậu đình hoa. Mai Lộc: Khói lồng sông lạnh, cát trăng pha, Đêm bến Tần Hoài, quán chẳng xa. Ca nữ nào hay sầu mất nước, Bên sông say hát Hậu Đình Hoa. Dịch ra thơ song thất lục bát Trần Trọng Kim: Khói lồng nước, bóng trăng lồng cát, Bến Tần Hoài, thuyền sát tửu gia. Gái ca đâu nghĩ nước nhà, Cách sông vẫn hát khúc hoa Hậu đình. Dịch ra thơ lục bát Thu Tứ: Chập chờn sông khói bờ trăng Tối nay thuyền đỗ bến Tần tìm say Kìa ai nước mất mặc ai Kéo co khách mới vẫn bài ca xưa.

60


THANH MINH - Đỗ Mục "Thanh Minh trong tiết tháng ba". Bên ta "rét tháng ba, bà già chết cóng", đâu đó bên Tàu mưa lay phay lất phất mà không biết có rét chăng. Dù ngoài thế nào, "hồn muốn đứt" thì trong rét lắm. Hạnh thôn gấp ghé, làm ngay một bát hôi hổi, mới may ra... sống. Nguyên văn Thanh Minh thời tiết vũ phân phân Lộ thượng hành nhân dục đoạn hồn Tá vấn tửu gia hà xứ hữu Mục đồng dao chỉ Hạnh Hoa thôn. Dịch nghĩa Tiết Thanh Minh trời mưa lất phất Người đi trên đường thấy buồn tan nát cả lòng Ướm hỏi xem quán rượu ở đâu Trẻ chăn trâu chỉ về hướng thôn Hạnh Hoa. Dịch thơ Thanh Minh mưa nhỏ lay phay Dặm dài bóng lẻ mưa bay tận lòng Rét này chẳng rượu không xong Hạnh thôn trẻ trỏ đi vòng lối kia. Bản dịch thơ khác Thanh minh lất phất mưa phùn Khách đi đường thấm nỗi buồn xót xa 61


Hỏi thăm quán rượu đâu à? Mục đồng chỉ lối Hạnh Hoa thôn ngoài. (Tương Như) Thanh minh thời tiết mưa phùn Khách đi đường thấy lòng buồn nao nao Hỏi xem quán rượu nơi nào Trẻ chăn trâu chỉ lối vào Hạnh Hoa. (Trương Việt Linh) Thanh minh lất phất tiết mưa phùn Đường thẳm người đi chĩu nỗi buồn Ướm hỏi nơi đây đâu quán rượu Trẻ trâu xa chỉ Hạnh Hoa thôn. (Trần Đông Phong)

ĐĂNG CAO - Đỗ Phủ Bến nước trong, bờ cát trắng, chim bay về tới tấp, vui! Nhưng gió hú, vượn than, lá rụng bời bời, sông cuồn cuộn chảy, thì buồn. Vui bé buồn lớn... Đi đâu mà thui thủi "lên cao" ngồi cạn hết chén đục này đến chén đục nọ, cái thân tâm chẳng an lạc chút nào kia ơi? Nguyên văn Đăng cao Phong cấp thiên cao viên khiếu ai Chử thanh sa bạch điểu phi hồi Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ Bất tận trường giang cổn cổn lai Vạn lý bi thu thường tác khách Bách niên đa bệnh độc đăng đài Gian nan khổ hận phồn sương mấn Lạo đảo tân đình trọc tửu bôi. 62


Dịch nghĩa Lên cao Gió lộng trời cao, vượn kêu buồn bã Bến nước trong, cát trắng, chim bay về đậu Mênh mông lá rụng bời bời Sông dài ngút mắt cuồn cuộn chảy Nơi xa xôi buồn thu vì thường ở quê người Suốt đời lắm bệnh, một mình lên đài ngắm cảnh Gian nan khổ hận làm tóc mai nhiều sợi trắng Vất vả mới ngừng được chén rượu đục. Dịch ra thơ Đường luật Tản Đà: Gió mạnh, trời cao, vượn rúc sầu Bến trong, cát trắng, lượn đàn âu Lào rào lá rụng, cây ai đếm Cuồn cuộn sông dài, nước đến đâu Muôn dặm quê người thu não cảnh Một thân già yếu bước lên lầu Khó khăn ngao ngán bao là nỗi Rượu uống không ngon chóng bạc đầu. Nam Trân: Gió gấp trời cao vượn nỉ non Bến trong cát trắng, lượn chim cồn Rào rào lá trút rừng cây thẳm Cuồn cuộn sông về sóng nước tuôn Thu quạnh nghìn khơi lòng khách não 63


Ðài cao trăm bệnh chiếc thân mòn Gian nan khổ hận đầu thêm bạc Quặt quẹo đành kiêng chén giải buồn. Khương Hữu Dụng: Gió mạnh trời cao vượn hú dài Bến trong cát trắng lượn chim giời Mênh mang lá rụng rào rào đổ Hun hút sông dài cuộn cuộn trôi Muôn dặm buồn thu thường lẻ khách Một thân già bệnh bước lên đài Gian nan khổ hận đầu phau bạc Ma bệnh theo hành rượu tạm ngơi. Bùi Khánh Đản: Tiếng vượn kêu thương, gió lộng trời Chim bay, cát trắng, bãi xanh phơi Bạt ngàn cây gãy tơi bời rụng Dằng dặc sông dài cuộn cuộn trôi Muôn dặm sầu thu thêm não khách Một thân đa bệnh bước lên đài Buồn phiền vất vả phai màu tóc Chén rượu vừa ngưng, lảo đảo rồi. Dịch ra thơ lục bát Trần Trọng Kim: Trời cao, gió mạnh, vượn kêu Bãi quang, cát trắng, chim chiều bay quanh Miên man lá rụng điêu linh Nước sông cuồn cuộn, mông mênh chảy dào 64


Khách xa, thu tới thêm sầu Tuổi già lắm bệnh, lên cao một mình Gian nan tóc bạc khôn đành Nỗi mình vất vả, hãy đình chén vui. Thu Tứ: Trời cao gió hú, vượn than Dòng trong bãi vắng chim đàn về chơi Mênh mông rừng lá đua rơi Dập dồn sông biết nước trôi phương nào... Buồn thu, đất khách mãi sao? Long đong sớm nhuộm nên mầu tóc sương Thân tàn cũng cố đăng sơn Chén này thôi nhé, sầu nguyên vẹn sầu!

KHÁCH CHÍ - Đỗ Phủ Đọc Khách Chí, làm sao khỏi nhớ Bạn Đến Chơi Nhà: "Chẳng mấy khi nay bác tới nhà, Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa. Ao sâu nước cả, khôn mò cá, Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà. Cải đã tàn cây, cà chửa nụ, Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa. Đầu trò tiếp khách, trầu không có, Bác đến chơi đây, ta với ta!". Nguyễn Khuyến Việt hóa thơ Đường đến nơi đến chốn! Bài thơ này lại có cả cái nét hóm hỉnh "Yên Đổ" quen thuộc, trong khi thơ Đường vốn không có giọng đùa.

65


Trong Khách Chí có chữ "gia bần". Nếu tác giả khác, rất dễ nghĩ chẳng qua nói khiêm theo lệ thường, nhưng trường hợp Đỗ Phủ thì đó là sự thực trăm phần trăm. Một bữa rượu sơ sài đôi ba người ở một nơi thôn ổ mênh mông nước lụt mười mấy thế kỷ xưa bên Tàu, mà nay như còn hiển hiện trước mắt... Nguyên văn Khách chí Xá nam xá bắc giai xuân thủy Đãn kiến quần âu nhật nhật lai Hoa kính bất tằng duyên khách tảo Bồng môn kim thỉ vị quân khai Bàn sôn thị viễn vô kiêm vị Tôn tửu gia bần chỉ cựu phôi Khẳng dữ lân ông tương đối ẩm Cách li hô thủ tận dư bôi. Dịch nghĩa Khách đến Quanh nhà phía nào cũng thấy nước (lụt) mùa xuân Ngày nào cũng thấy những bầy chim ở nước đến đậu Lối vào có trồng hoa vắng khách nên không quét Cổng bằng cỏ bồng hôm nay mới mở ra đón bác Mâm cơm sơ sài ít món vì chợ xa Gọi là rượu ngon thì nhà nghèo chỉ có rượu tự nấu để cũng đã lâu Bác cho được mời ông hàng xóm cùng uống Chỉ cách bờ rào tre, hô là ông ấy qua cạn chén ngay. Dịch ra thơ Đường luật 66


Cao Nguyên Minh: Mênh mông nam bắc nước dâng đầy, Chỉ thấy bầy chim đến mỗi ngày. Vắng khách nên đường hoa biếng quét, Vì anh mới mở cửa bồng đây. Chợ xa mâm bát không gì nhắm, Rượu cũ nhà nghèo hãy tạm say. Lối xóm xin mời ông đối ẩm, Bên rào cùng cạn mấy chung này. Dịch ra thơ lục bát Trần Trọng Kim: Quanh nhà nam bắc lụt to, Hôm hôm chỉ thấy đàn cò lại chơi. Lối hoa chẳng quét vì ai, Cửa bồng nay mới đón ngài mở ra. Xuềnh xoàng mâm chén, chợ xa, Có vò rượu cũ của nhà nấu thôi. Nếu cho tiếp rượu cùng vui, Gọi ông hàng xóm sang ngồi chén luôn. Thu Tứ: Bốn bề nước trắng lụt to, Trông ra thường chỉ thấy cò về chơi. Ngõ vào khách vắng quét lười, Cổng tre nay mới mở mời bác qua. Bữa xoàng ngặt nỗi chợ xa, Rượu ngon gọi chút men nhà nấu thôi. Bác cho lối xóm cùng ngồi, 67


Đông tay nâng chén, thêm vui tiệc này!

KHƯƠNG THÔN - Đỗ Phủ Bài Lại Về của Tố Hữu viết về ngày giải phóng thủ đô có câu: "... Trông nhau mà tưởng như còn trong mơ!". Cái tình huống "tưởng" này thực ra chẳng hiếm tí nào, nhất là sau những cơn binh lửa lớn. Nhưng đối với người đã đinh ninh chẳng bao giờ còn gặp lại người mà rồi lại được thấy người sờ sờ trước mặt, quá là phép lạ! Vợ con Đỗ Phủ (vì đây chính ông) mừng mừng tủi tủi, sụt sụt sùi sùi, rồi hàng xóm ngắm cảnh đoàn viên bất ngờ cảm động cũng sụt sụt sùi sùi. Nước mắt giữa sân, nước mắt đầu tường, làng Khương khéo lụt đêm nay! Nguyên văn Khương thôn Tranh vanh xích vân tây Nhật cước há bình địa Sài môn điểu tước táo Qui khách thiên lý chí Thê noa quái ngã tại Kinh định hoàn thức lệ Thế loạn tao phiêu đãng Sinh hoàn ngẫu nhiên toại Lân nhân mãn tường đầu Cảm thán diệc hư hi Dạ lan cánh bỉnh chúc Tương đối như mộng mị. Dịch nghĩa 68


Làng Khương Phía tây lưng trời có mây đỏ Mặt trời đã xuống tận đất Ngoài cổng chim kêu ríu rít Người từ ngàn dặm về đến nơi Vợ con sửng sốt, không ngờ còn sống Hết bàng hoàng, mới biết đang khóc Ðời loạn, bị trôi giạt Ðược sống trở về là chuyện tình cờ Hàng xóm chen chúc đầu tường Ai cũng xúc động sụt sùi Ðêm khuya lại cầm đuốc soi mặt nhau Nhìn nhau mà tưởng như trong mộng. Dịch ra thơ cổ phong như nguyên tác Trúc Khê: Mây đỏ ngất ngàn tây Tia nắng chỉ xuống đất Cửa sài chim kêu ran Khách xa về lật đật Vợ con lạ ta còn Mừng rú ứa nước mắt Ðời loạn trôi giạt đi Bỗng chốc trông thấy mặt Hàng xóm nghển đầu tường Than thở tiếng thưa nhặt Ðêm khuya quanh dưới đèn Nhìn nhau mộng hay thật?

69


Trần Trọng San: Mây đỏ ngất bên tây Mặt trời bước xuống đất Cổng nghèo, chim xao xác Ngàn dặm khách về đây Vợ con đều sửng sốt Rồi gạt lệ trào tuôn Ðời loạn, mình lưu lạc Sống về, thực thỏa lòng Ðầy tường người xóm cũ Cảm động cùng thương ai Ðêm khuya, đèn vẫn thắp Trông nhau, ngỡ mộng rồ. Dịch ra thơ song thất lục bát Nguyễn Minh: Nơi trời tây lững lờ mây đỏ Nắng xuyên mây chiếu tỏ đất bằng Cổng cây chim chóc lăng xăng Kẻ đi muôn dặm về thăm nhà mình Vợ con đều thất kinh vì lạ Rồi mới lau giọt lệ tương phùng Loạn ly nên mới phiêu bồng Trở về còn sống là trong tình cờ Hàng xóm đến mặn mà thăm hỏi Ai cũng đều thương cảm ngậm ngùi Đêm về đèn đã thắp rồi Vợ chồng đối diện tưởng nơi mộng lành. Dịch ra thơ lục bát 70


Trần Trọng Kim: Mé tây mây đỏ bầng bầng, Vầng hồng ngả tới đất bằng buông chân. Cửa sài chim chóc kêu rân, Dặm nghìn, khách đã trở chân lại nhà. Vợ con đâu tưởng còn ta, Hết cơn kinh ngạc, khóc òa lệ rơi. Loạn ly phải lúc chia phôi, Sống về, may được thỏa nơi tấc lòng. Đầy tường hàng xóm đứng trông, Thở than dường cũng não nùng xót thương. Đêm khuya đốt ngọn đèn suông, Nhìn nhau mà tưởng như đương mơ màng. Ngô Tất Tố: Mái tây mây đỏ cao dần, Đất bằng thông thống đường chân mặt trời. Tiếng chim xáo xác cửa sài, Dặm nghìn, khách đã tới nơi quê nhà. Vợ con đâu tưởng còn ta, Tan cơn ngơ ngác, lau qua giọt hồng. Loạn ly gặp bước bềnh bồng, Sống về, may lại còn trông có rày! Tường bên hàng xóm đứng đầy, Thở than cũng muốn dãi bày tình thương. Đèn xanh chong suốt đêm trường, Nhìn nhau còn tưởng mơ màng thấy nhau. Thu Tứ: Xa trông mây rực phương đoài, 71


Đồng quê le lói một đôi nắng tàn. Cổng vào gi sẻ kêu ran, Mau mau, có khách dặm ngàn tới đây! Nhà ra, miệng há mặt ngây, Qua cơn sửng sốt, lệ đầy chan chan. Đinh ninh hồn đã suối vàng, Ngờ đâu còn có hân hoan phút này! Ngẩn ngơ ngẫu nhĩ sum vầy, Chen nhau chòm xóm cũng lây sụt sùi... Mặt kề mặt, lạ chưa nguôi, Canh khuya còn hạ đuốc soi tận tường!

PHỤC SẦU - Đỗ Phủ Chinh chiến liên miên, nên buồn rồi lại buồn. Lần trước về còn gặp người quen, chứ lần này nếu được về thăm vườn cũ, e chỉ gặp toàn bỡ ngỡ… Nguyên văn Vạn quốc thượng nhung mã Cố viên kim nhược hà Tích qui tương thức thiểu Tảo dĩ chiến trường đa. Dịch nghĩa Các nước đang say đánh nhau Vườn cũ không biết nay ra sao Lần trước về đã thấy thưa người quen Vì đa số phải tòng quân lâu rồi. 72


Dịch thơ Bốn phương khói lửa mịt mờ Quê nhà chẳng biết bây giờ ra sao Xưa về đã chẳng còn bao Người quen, chinh chiến hớt hao lâu rồi… Bản dịch thơ khác Binh nhung muôn nước nôn nao Quê hương biết đã ra sao đó rồi Xưa về quen biết mấy ai Hay đâu sớm đã hóa nơi chiến trường. (Trần Trọng Kim) Khắp nước còn binh lửa, Ra sao giờ cố hương? Xưa về bè bạn vắng, Đây sớm thành chiến trường. (Tế Hanh) Muôn nước ham chinh chiến Vườn quê biết thế nào ? Xưa về thưa bạn hữu Nay sớm rộn binh đao. (Lê Nguyễn Lưu) Bốn phương còn ngự giặc Đau đáu cảnh quê nhà Trước về thưa thớt bạn Chiến địa lắm người ra. (Nguyễn Bích Ngô) Vạn nước lo phòng giặc, Vườn xưa giờ ra sao? 73


Xưa về quen biết ít, Nhiều kẻ bận binh đao. (Phan Ngọc) Nơi nơi lo phòng giặc, Quê cũ nay ra sao? Trước về, người quen vắng, Chiến trường đi từ lâu. (Phạm Doanh) _________ Tên bài nghĩa là "Lại buồn".

THẠCH HÀO LẠI - Đỗ Phủ Loạn An Sử chỉ dài có tám năm (từ năm 755 đến năm 763) nhưng gây tổn thất hết sức lớn lao. Nhân dân Tàu bị quân phiến loạn (người Hồ) và quân nước ngoài do triều đình nhờ vào giúp đánh phiến loạn (người Hồi Hột) đua nhau cướp giết dã man. Ngay chính quân triều đình cũng có lúc ra tay cướp của dân! Rồi lại còn thiệt hại gián tiếp do hoạt động kinh tế bị ngưng trệ, kinh khủng không kém... Đỗ Phủ cuộc đời long đong, sống rất gần dân, lại sống qua một thời đại loạn, nên tai nghe mắt thấy không biết bao nhiêu cảnh khổ. Có lẽ người khách ngủ đêm ở thôn Thạch Hào, tình cờ nghe chuyện bà già giả góa tình nguyện đi lao dịch, chính là ông... Nguyên văn Thạch Hào lại Mộ đầu Thạch Hào thôn Hữu lại dạ tróc nhân Lão ông du tường tẩu Lão phụ xuất khan môn Lại hô nhất hà nộ Phụ đề nhất hà khổ Thính phụ tiền trí từ: 74


"Tam nam Nghiệp Thành thú Nhất nam phụ thư chí Nhị nam tân chiến tử Tồn giả thả thâu sinh Tử giả trường dĩ hỹ Thất trung cánh vô nhân Duy hữu nhũ hạ tôn Hữu tôn mẫu vị khứ Xuất nhập vô hoàn quần Lão ẩu lực tuy suy Thỉnh tòng lại dạ quy Cấp ứng Hà Dương dịch Do đắc bị thần xuy" Dạ cửu ngữ thanh tuyệt Như văn khốc u yết Thiên minh đăng tiền đồ Ðộc dữ lão ông biệt. Dịch nghĩa Chuyện viên lại ở thôn Thạch Hào Buổi chiều đến thôn Thạch Hào Ðêm có viên lại đến bắt người Ông già chủ nhà trèo tường trốn Bà già vợ ông bước ra xem ai ở cổng Viên lại quát tháo rất dữ dằn Bà già kêu khóc rất thảm thiết Nghe bà kể lể, van lơn: "Có ba con trai, đều đi lính ở Nghiệp Thành Một đứa viết thư về kể: 75


Hai đứa kia vừa chết trận rồi! Đứa sống mạng bấp bênh Ðứa chết thế là thôi! Trong nhà giờ hết sạch người Chỉ có đứa cháu còn ấp vú mẹ Vì bận con nhỏ mà mẹ cháu nó chưa đi giúp việc quân được Nó ra vào không có được manh quần lành lặn Giá (1) này sức tuy đã kém Xin theo ông đi ngay đêm nay Ði gấp để giúp việc quân ở Hà Dương May còn kịp phụ nấu bữa sáng" Ðêm khuya bà lão đã thôi nói Nhưng nghe như khóc nghẹn ngào Trời sáng ta lên đường Chỉ cùng ông lão chia tay. Dịch ra thơ cổ phong (như nguyên tác) Phạm Lê Duyên và Tương Như: Chiều trú Thạch Hào thôn, Ðêm có lại bắt người. Ông lão vượt tường trốn, Bà lão ra cửa coi. Lại quát tháo, ghê thật! Bà kêu khổ, thương ôi! Thoạt nghe bà lão thưa: "Ba con đi lính trấn, Một đứa gửi tin về: Hai đứa vừa chết trận, Ðứa sống sống qua ngày. Ðứa chết đành thiệt phận. 76


Trong nhà chẳng có ai, Chỉ đứa cháu bú mẹ. Bận con, nó chưa đi, Tấm quần không lành lẽ. Mụ đây tuy già yếu, Xin theo bác đi ngay, Về Hà Dương nhận việc, Kịp thổi bữa sáng mai". Ðêm khuya đã dứt lời, Như nghẹn ngào ảo não. Sáng từ biệt lên đường, Chỉ còn độc ông lão. Khương Hữu Dụng: Chiều ghé xóm Thạch Hào, Quan bắt người nửa đêm. Ông già vượt tường trốn, Bà già ra cửa nhìn. Viên lại quát đà dữ! Bà già van đà khổ! Van rằng: "Có ba trai Thành Nghiệp đều đi thú. Một đứa gửi thư nhắn, Hai đứa vừa chết trận. Đứa chết đành thôi rồi, Đứa còn đâu chắc chắn! Trong nhà không còn ai, Có cháu đang bú thôi. Mẹ cháu chưa rời cháu, Ra vào quần tả tơi. Tuy sức yếu già đây, 77


Xin theo ngài đêm nay, Đến Hà Dương còn kịp, Thổi cơm hầu buổi mai". Đêm khuya lời đã tắt, Dường nghe khóc ấm ức. Sáng ra chào lên đường, Chỉ cùng ông lão biệt. Dịch ra thơ lục bát Ngô Tất Tố: Chiều hôm tới xóm Thạch Hào, Đương đêm có lính lao xao bắt người. Vượt tường ông lão trốn rồi, Cửa ngoài mụ vợ một hai mời chào. Lính gầm mới dữ làm sao! Mụ kêu như tỏ biết bao khổ tình. Lắng nghe lời mụ rành rành: "Ba con đóng ở Nghiệp Thành cả ba, Một con mới nhắn về nhà, Rằng: hai con đã làm ma chiến trường! Kẻ còn vất vưởng đau thương, Nói chi kẻ dưới suối vàng thêm đau! Trong nhà nào có ai đâu? Có thằng cháu nhỏ dưới bầu sữa hoi. Cháu còn mẹ nó chăn nuôi, Ra vào quần áo tả tơi có gì? Thân già gân sức dù suy, Cũng xin theo lính cùng về đêm nay, Hà Dương tới đó sau này, Cơm canh hầu bữa sớm ngày, còn trôi". 78


Đêm khuya tiếng nói im rồi, Vẫn nghe nức nở tiếng người khóc thương. Sáng mai khách bước lên đường, Chỉ cùng ông lão bẽ bàng chia tay. Thu Tứ: Chiều hôm ghé nghỉ thôn Hào, Nửa đêm nghe tiếng lại rao bắt người. Ngõ sau ông lão thoát rồi, Run run bà lão ra mời quan nha. Một bên lại hét vỡ nhà, Một bên tóc bạc cẩm ca nằn nì. Lắng nghe bà kể thế này: "Rằng con ba đứa ra đi cả rồi. Một con mới kịp nhắn lời: Hai anh nó đã về nơi suối vàng! Ðứa còn mạng chỉ treo chuông, Ðứa thôi tức tưởi muôn vàn xót xa! Ðàn ông hết sạch cả nhà, Chỉ còn cháu bé oa oa suốt ngày. Thương con, mẹ nó chưa đi, Làm ăn vất vả kể chi thân mình. Giá này còn chút sức gân, Xin theo ông giúp việc quân tức thì. Hà Dương gấp trẩy đêm nay, Tinh mơ đến sẽ thổi ngay cơm hầu." Lời già tiếng bặt đã lâu, Vách khuya còn dội mấy câu nghẹn ngào. Sáng ra tìm chủ để chào, Gặp ông mất vợ ra vào ngẩn ngơ... ____________ 79


Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh dịch "ẩu" là bà giá (tức bà góa). Bà già xưng góa cho lại khỏi hỏi đến chồng.

THU HỨNG – Đỗ Phủ Bài thơ tám câu, sáu câu ngoại sự, hai câu tâm sự. Mắt trông, tai nghe, chạnh lòng, "nên thơ"... "Cô chu nhất hệ cố viên tâm"... Người bơ vơ đất khách, mà chính cái con thuyền của người nó đang cũng bơ vơ! Từ nơi "vườn xưa" nào, người và thuyền cưỡi nhau chở nhau trôi dạt đến đây, để chiều thu này cùng nhau... rét. Thuyền với Đỗ Phủ, cái "hệ" không phải thường đâu. Nhà thơ có lúc phải sống trên thuyền, và cuối cùng đã chết trên thuyền. Thuyền với người "nát" đã mười mấy thế kỷ rồi. Nhưng cái tâm sự chiều thu của "người thuyền" thì vẫn còn làm nẩy ra thơ. Nguyên văn Thu hứng Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm Vu Sơn Vu Giáp khí tiêu sâm Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng Tái thượng phong vân tiếp địa âm Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ Cô chu nhất hệ cố viên tâm Hàn y xứ xứ thôi đao xích Bạch Đế thành cao cấp mộ châm. Dịch nghĩa (1) Cảm hứng mùa thu Sương móc làm cho rừng phong tiêu điều Núi Vu, khe Vu hơi thu hiu hắt Mặt sông in trời, sóng như nhảy tận lưng trời 80


Trên cửa ải mây giãng sát mặt đất Bụi cúc nở hoa bấy nay đã hai lần làm rơi nước mắt (2) Lòng nhớ quê chỉ còn biết buộc vào chiếc thuyền lẻ loi này Ở đây ai nấy đều đang lo cắt may áo rét Trên thành Bạch Đế cao, tiếng chày giặt áo về chiều nghe hối hả.(3) Dịch ra thơ Đường luật Nguyễn Công Trứ: Lác đác rừng phong hạt móc sa, Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa. Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm, Mặt đất mây đùn cửa ải xa. Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ, Con thuyền buộc chặt mối tình nhà. Lạnh lùng giục kẻ tay đao thước, Thành Bạch, chầy vang bóng ác tà. Ngô Tất Tố: Vàng úa rừng phong, hạt móc bay, Non Vu hiu hắt phủ hơi may. Dòng sông cuồn cuộn, trời tung sóng, Ngọn ải mờ mờ, đất rợp mây. Lệ tủi: sợ coi chòm cúc nở, Lòng quê: mong buộc chiếc thuyền đầy. Giục ai kéo thước lo đồ lạnh, Đập vải trời hôm rộn tiếng chày. Khương Hữu Dụng: Móc trắng rừng phong vẻ úa gầy, Vu Sơn, Vu Giáp khí thu dày. 81


Lòng sông sóng tận lưng trời nhảy, Đầu ải mây sà mặt đất bay. Lệ cũ nở hai mùa cúc đó, Lòng quê buộc một chiếc thuyền đây. Nơi nơi áo lạnh địi dao thước, Bạch Đế thành hôm rộn tiếng chày. Bùi Khánh Đản: Sương đọng rừng phong héo hắt cây Vu Sơn, Vu Giáp, khí mù bay Trên sông sóng cuộn, trời liền nước Ngoài ải hơi đùn, đất giáp mây Một chiếc thuyền đơn tình cũ buộc Hai phen cúc nở lệ xưa đầy Nơi nơi áo lạnh tìm dao thước Bạch Đế chiều hôm rộn tiếng chày. Dịch ra thơ lục bát Trần Trọng Kim: Rừng phong xơ xác sương bay, Vu sơn Vu giáp hơi may lạnh lùng. Ngất trời sóng dội lòng sông, Mịt mù mặt đất, mây lồng ải xa. Con thuyền buộc mối tình nhà, Hai lần cúc nở, lệ sa hai hàng. Áo đông may cắt rộn ràng, Tiếng chày đập vải, hôm vang Bạch thành. Thu Tứ: Rừng phong quạnh quẽ sương rơi 82


Non xa dáng cũng buốt hơi thu rồi Lòng sông sóng nhảy lưng trời Ải xa mặt đất bời bời mây giãng Vàng hoa thôi lại ướt khăn Thuyền côi nhớ bến bâng khuâng vô vàn Rét lên thước, kéo rộn ràng (4) Thành cao chầy nện âm vang bóng chiều. _____________ (1) Tham khảo: - Thơ Đường, nxb. Vãn Học, VN, 1987 - Đường thi trích dịch, Đỗ Bằng Đoàn dịch nghĩa và chú giải, Bùi Khánh Đản dịch thơ, nxb. Vãn Học, VN, 2006. (2) "Tùng cúc" nghĩa là bụi hay khóm cúc. Chúng tôi thiển nghĩ có lẽ đó không phải là bụi cúc trồng ở vườn xưa, mà là một bụi cúc chở theo trên thuyền đã hai năm, cứ mỗi lần nở lại làm chủ thuyền nhớ nhà rơi lệ. (3) Người Tàu xưa giặt áo, giặt vải bằng cách đặt lên một tảng đá rồi dùng chày mà nện. Khi rét về, cần áo ấm, có thể giặt áo cũ hoặc giặt vải để cắt may áo mới. "Đao xích" nghĩa là kéo và thước may, theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh. Vậy "đao" đây là "tiễn đao", tức là cái kéo.

TUYỆT CÚ - Đỗ Phủ Đây là một bài thơ "vô nhân sự" khá hiếm hoi của Đỗ Phủ. Không có ai thiếu thốn, khổ sở, phiền muộn gì cả. Thực ra là "vô nhân", vì không có ai cả! Chỉ có chim ríu rít và rối rít giữa liễu xanh, cò bay thẳng cánh giữa trời xanh, tuyết nghìn năm không tan và thuyền Ngô từ mãi hạ lưu Trường Giang ngược lên đậu ở một cái bến đâu đó trong đất Thục... Lâu lâu quên đời quên người cho khỏe. Rồi được "nhớ" lại ngay đấy mà. Nguyên văn Tuyệt cú 83


Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liễu Nhất hàng bạch lộ hướng thanh thiên Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết Môn bạc Ðông Ngô vạn lý thuyền. Dịch nghĩa Bài thơ bốn câu Hai con oanh vàng hót trong rặng liễu biếc Một hàng cò trắng bay vút lên trời xanh Trung khung cửa sổ có cảnh tuyết nghìn năm phủ trên núi Tây Lĩnh Ngoài cửa có thuyền Ðông Ngô từ xa muôn dặm đến đậu. Dịch ra thơ Đường luật Tản Đà: Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc, Một hàng cò trắng vút trời xanh. Nghìn năm tuyết núi song in sắc, Muôn dặm thuyền Ngô cửa rập rình. Dịch ra thơ lục bát Tương Như: Liễu xanh hót cặp oanh vàng, Trời lam trắng điểm một hàng cò bay. Song lồng mái tuyết non Tây, Thuyền Ngô muôn dặm đỗ ngay cửa ngoài. Dịch ra thơ song thất lục bát 84


Trần Trọng Kim: Cành thúy liễu hoàng oanh hót gió, Một đàn cò bay trổ lên không. Mé tây núi tuyết dòm song, Thuyền Ngô muôn dặm cửa đông đậu đầy. Thu Tứ: Bờ liễu biếc chim chuyền ríu rít, Trời xanh cao chênh chếch cò bay. Nghìn năm tuyết cũ in đây, Muôn xa thuyền tới đỗ đầy ngoài kia.

VŨ HẦU MIẾU - Đỗ Phủ Khi Lưu Bị chết, Khổng Minh thề sẽ hết lòng giúp con Lưu Bị thống nhất Trung Quốc. Việc chưa làm xong thì Khổng Minh đã qua đời. Năm thế kỷ rồi mà khi Đỗ Phủ ghé thăm, nơi miếu hoang núi vắng như còn vang lời thừa tướng xin vua cho xuất quân... Nguyên văn Di miếu đan thanh lạc Không sơn thảo mộc trường Do văn từ Hậu Chủ Bất phục ngọa Nam Dương. Dịch nghĩa Ngôi miếu cũ màu tô xanh đỏ đã phai Núi non vắng vẻ, cây cỏ mọc um tùm Như còn nghe đâu đây lời xin Hậu Chúa (cho xuất quân đánh Ngụy) Ðâu còn ngày trở về (hưởng nhàn) ở Nam Dương. 85


Dịch thơ Miếu ai khói lạnh hương tàn Quạnh hiu cây cỏ tràn lan bốn bề Tử sinh lỡ một lời thề Lều tranh thôi có còn về nữa đâu... Bản dịch thơ khác Ngôi đền cũ nhạt màu xanh đỏ Núi quạnh hiu còn đó cỏ cây Biểu từ lời vẳng bên tai Không còn trở lại nằm dài Nam Dương. (Trần Trọng Kim)

HỒI HƯƠNG NGẪU THƯ - Hạ Tri Chương Đừng hỏi làm gì sao lúc nhỏ lại đi, sao bây giờ mới về. Hoàn cảnh biết bao nhiêu hoàn cảnh. Chỉ thử hình dung một cụ lạ hoắc bỗng nhiên xuất hiện ở đầu làng. Trẻ làng lạ cụ, mà có thể cụ cũng đang bỡ ngỡ cái chỗ vốn xưa thật quen. "Ngước mắt trông lên trời cũng lạ, làng ai đây chứ phải làng tôi"!(1) Chính nó đấy cụ ơi, sau bao nhiêu nước chảy qua cầu. Thôi, "giọng quê" đã về thì cứ chống gậy đi tìm khắp nơi đi, rồi sẽ gặp lại nhiều ít quê mà... Nguyên văn Hồi hương ngẫu thư Thiếu tiểu ly gia lão đại hồi Hương âm vô cải mấn mao tồi Nhi đồng tương kiến bất tương thức Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai. 86


Dịch nghĩa Về quê tình cờ ngồi viết Xa quê từ lúc còn bé, già mới trở về Giọng nói không thay đổi, chỉ tóc tai xơ xác Trẻ con thấy không biết là người làng Cười hỏi khách từ đâu đến. Dịch ra thơ Ðường luật Bùi Khánh Đản: Hồi hương, nhớ thủa trẻ ra đi Tóc rụng, nghe còn đúng tiếng quê Gặp mặt trẻ con cười chẳng biết Hỏi ta mới ở xứ nào về. Hải Đà: Còn trẻ ra đi, lão mới về Tóc thưa cằn cỗi, tiếng còn quê Trẻ con trông thấy mà không biết Cười hỏi "Khách từ mô đến tê?". Dịch ra thơ lục bát Trần Trọng Kim: Bé đi, già mới về nhà, Tiếng quê vẫn thế, tóc đà rụng thưa. Trẻ con trông thấy hững hờ, Cười ồ, hỏi khách lại từ phương nao. 87


Phạm Sỹ Vỹ: Khi đi trẻ, lúc về già, Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao. Trẻ con nhìn lạ không chào, Hỏi rằng: khách ở chốn nào lại chơi? Lại Quảng Nam: Đi khá trẻ, về khá già! Giọng quê nào đổi, bạc đà hơn râm. Trẻ con bu lại hà rầm, Rằng: "Ông mô đến, hay lầm chỗ ni?". Thu Tứ: Bé đi, lụ khụ mới về Người còn, tóc mất, giọng quê đậm đà Trẻ làng trông ngỡ khách xa Vỗ tay xúm hỏi ông nhà mãi đâu. _______________ Bài Trở Về Quê Cũ của Nguyễn Bính: "Ngước mắt trông lên trời cũng lạ / Nhà ai đây chứ phải nhà tôi".

DỊCH THỦY – Tống Biệt Trong lịch sử nước Tàu, ấy là một cái thời cực kỳ sôi động. Giữa bao nhiêu anh hùng hào kiệt "nghìn xưa", rồi "nghìn sau" sẽ nhớ nhất một "bạo chúa" và một "tráng sĩ". Tần Thủy Hoàng hành động tàn bạo kinh khủng, nhưng đồng thời cũng có công hết sức lớn đối với dân tộc Trung Hoa. Vì đã thống nhất được đất nước, chẳng những về chính trị mà còn cả về văn hóa, xã hội, kinh tế, tạo nền tảng cho sự thịnh vượng tột bực sau này. Thống nhất phương bắc xong, "hắn" còn đưa quân xuống phương nam đánh chiếm không biết bao nhiêu đất của anh em Việt 88


tộc ta! "Trung Hoa vĩ đại" là chỉ mới từ Tần. Người Tàu quen hãnh diện về đời Hán đời Đường, nhưng thử hỏi không có Tần sao có Hán có Đường! Tần chực diệt Yên. Đôi bên binh lực chênh lệch quá, Yên liệu không chống nổi, nẩy ý cho người sang Tần... Chuyện mới nghe đã sợ! Nhưng có một "tráng sĩ" không sợ... Người ra đi không đổi được lịch sử mảy may, nhưng chuyến sang sông ấy lại thành một nguồn cảm hứng lâu bền cho sáng tác văn nghệ khắp Á Đông.(1) Cái tên Kinh Kha trở nên cơ hồ đồng nghĩa với "tráng sĩ", như Tần Thủy Hoàng đồng nghĩa với "bạo chúa". Gần 900 năm sau "biến cố", thi sĩ Lạc Tân Vương đời Đường sáng tác "Dịch thủy tống biệt". Bài thơ lưu truyền rộng rãi, ở ta đã nhiều người dịch. Sau đây xin chép lại bản dịch của Tản Đà, Trần Trọng Kim, và xin góp thêm một bản. Nguyên văn Dịch Thủy Tống Biệt Thử địa biệt Yên Đan Tráng sĩ phát xung quan Tích thời nhân dĩ một Kim nhật thủy do hàn. Dịch nghĩa Chia Tay Ở Bờ Sông Dịch Đây là nơi (Kinh Kha) từ biệt thái tử Đan của nước Yên Tráng sĩ (đã tức giận Tần Thủy Hoàng đến nỗi) tóc dựng đụng mũ Người thời xưa đã khuất rồi Nước sông ngày nay vẫn còn lạnh.(2) Dịch thơ

89


Tản Đà: Đất này biệt chú Yên Đan, Tóc anh tráng sĩ tức gan dựng đầu. Người xưa nay đã đi đâu, Lạnh lùng sông nước cơn sầu chưa tan. Trần Trọng Kim: Đất này từ biệt Yên Đan, Tóc đầu đứng ngược, máu hờn nóng sôi. Người xưa khuất bóng đi rồi, Ngày nay còn thấy nước trôi lạnh lùng. Thu Tứ: Tử sinh quyết đã một lời Gươm giơ tóc dựng đội trời sang sông Người đi khuất nẻo bụi hồng Hờn xưa còn lạnh mênh mông nước này! ____________ (1) Trong thời hiện đại, ở ta Vũ Hoàng Chương vừa thơ vừa kịch về "kẻ sang Tần", còn bên Tàu Trương Nghệ Mưu đạo diễn phim Anh Hùng. Nói nước lạnh là nhắc câu hát của Kinh Kha khi ra đi: "Phong tiêu tiêu hề, Dịch thủy hàn / Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục hoàn", nghĩa là "Gió hiu hắt thổi, sông Dịch lạnh / Tráng sĩ một đi, không trở về". Trong Hạn mạn du ký (1921), Nguyễn Bá Trác viết "Bắc Kinh (...) thủ đô Trung Quốc (...) cổ là nước Yên". Nếu đây chính là nước Yên thời Tần, thì sông Dịch bây giờ hẳn khác xưa lắm lắm...

GIANG TUYẾT - Liễu Tông Nguyên Một bài "thơ tranh" điển hình!(1) "Họa sĩ" vẽ chấm phá, rất ít tốn mực, mà gợi.

90


Con sông nào đây tuy lạnh nhưng mặt nước vẫn chưa đóng băng nên ông chài mới ngồi thuyền. Chứ lạnh nữa, băng đóng từ bờ bên này sang tận bờ bên kia, thì ông sẽ ngồi trên ghế con bên một cái lỗ đục giữa sông...(2) Cái cảnh "tuyết băng vô tận xứ"(3) người Việt Nam hầu hết chưa từng mắt thấy nhưng vẫn dễ dàng hình dung, không ít người hình dung sống động tới nỗi cảm được thứ thi vị đìu hiu trong thơ Giang Tuyết, rồi trong số đó lại có những người cao hứng diễn luôn cảm xúc chia xẻ thành thơ Tuyết Sông! Nguyên văn Giang tuyết Thiên sơn điểu phi tuyệt Vạn kinh nhân tung diệt Cô chu thôi lạp ông Ðộc điếu hàn giang tuyết. Dịch nghĩa Cảnh tuyết trên sông Núi non trùng điệp không một bóng chim Ðường nhiều ngả không một bóng người Một ông già áo tơi nón lá ngồi trên một chiếc thuyền lẻ Một mình câu cá giữa tuyết trên sông lạnh. Dịch ra thơ Đường luật Tương Như: Nghìn non, bóng chim tắt, Muôn nẻo, dấu người không. Thuyền đơn, ông tơi nón, 91


Một mình câu tuyết sông. Viên Thu: Ngàn non chim biệt hết, Trăm nẻo thấy người đâu. Thuyền nhỏ già tơi nón, Bên sông tuyết lạnh câu. Dịch ra thơ lục bát Trần Trọng Kim: Nghìn non chim hết vẫy vùng, Vắng tanh muôn nẻo tuyệt không dấu người. Áo tơi, nón lá, ông chài, Con thuyền giữa tuyết ngồi hoài buông câu. Tản Đà: Nghìn non mất bóng chim bay, Muôn con đường tắt dấu giày tuyệt không. Kìa ai câu tuyết bên sông, Áo tơi, nón lá, một ông thuyền chài. Anh Nguyên: Nghìn non, vắng bóng chim rồi, Đường đi vạn nẻo, bóng người cũng không. Thuyền con, tơi, nón, một ông, Một mình câu cá trên sông tuyết đầy!... Thu Tứ: Chim bay về núi tuyệt mù Người đi tám nẻo cũng lâu khuất rồi 92


Một thuyền con một áo tơi Một ông chài lẻ một trời giá băng! _____________ (1) Xem bài Thơ Nhạc, Thơ Tranh của TT. (2) Chúng tôi có thời gian sống ở bang Minnesota nước Mỹ, nhớ mùa đông khi mặt nước sông hồ đóng băng, người đi câu đục lỗ xuyên băng, dựng một túp lều che lên, vào đó ngồi câu... (3) Tên một thi phẩm của Bùi Giáng.

KHÁN SƠN KÝ THÂN CỐ - Liễu Tông Nguyên Trông đỉnh núi nhọn, tưởng mũi gươm đang chực "cắt" cho tan nát cái dạ "thu sầu cố hương" cùa mình. Đa cảm dữ. Chưa hết. Còn muốn có phép thần thông như Tôn Hành Giả, nhân ra um sùm mình, mỗi mình bay đậu lên mỗi đỉnh núi mà ngóng quê! Có "thượng nhân" cùng đứng đó, sao không can, lại để kẻ "đồng khán sơn" bi lụy thê thảm vậy? Dù sao, xưa thảm đã nên thơ, ai giờ đang nhớ "hương" muốn chết, có đem ngâm cho đỡ nhớ thì ngâm. (Bài thơ nhan đề hơi dài, để tiện đăng trên Mạng chúng tôi tạm rút ngắn nhan đề lại như trên.) Nguyên văn Dữ Hạo Sơ thượng nhân đồng khán sơn ký Kinh Hoa thân cố Hải bạn tiêm sơn tự kiếm mang Thu lai xứ xứ cát sầu trường Nhược vi hóa đắc thân thiên ức Tán tác phong đầu vọng cố hương. Dịch nghĩa

93


Cùng đại sư Hạo Sơ ngắm núi, viết gửi về họ hàng bà con và bạn bè cũ ở Kinh Hoa (1) Ở bờ biển núi nhọn như những mũi gươm Thu đến cắt vào lòng buồn của mọi người Nếu thân này biến được thành nghìn ức Thì mỗi thân sẽ đứng trên mỗi đầu núi mà ngóng về quê cũ. Dịch ra thơ Đường luật Tương Như: Ven biển đầu non tựa mũi gươm, Ðến thu đều cắt dạ sầu thương. Thân này ví phỏng thành muôn ức, Ðứng vạn đầu non ngóng cố hương. Dịch ra thơ lục bát Thu Tứ: Bể xanh núi mọc rừng gươm, Như chờ thu tới sầu thương cắt lòng. Thân đơn hóa được trăm nghìn, Mỗi đầu non mỗi đắm nhìn trời xa... _________ "Thượng nhân" là tiếng tôn xưng các vị cao tăng.

ẨM TỬU KHÁN MẪU ĐƠN - Lưu Vũ Tích Đọc tâm sự người sợ hoa trồng mở... miệng, chợt nhớ loại hoa biết nói hẳn hoi. Ở Á Đông trước kia, chồng già vợ trẻ là thường, thậm chí "... là tiên"! Nguyễn Công Trứ "mái tuyết đã phau phau" vẫn tỉnh bơ cưới "kẻ đào thơ còn mảnh mảnh". Động phòng hoa chúc, cô dâu hỏi tuổi, "cụ" rể láu lỉnh đáp "năm mươi năm trước anh mới hai ba"! 94


Dương Khuê chả biết "lãng du" phương nào mất "mười lăm năm", để khi về thấy bé Hồng bé Tuyết "đã tới kỳ tơ liễu". Tóc trắng bèn cứ "đi lại", "ngây ngây, dại dại" với "má hồng" như thường! Trở lại mẫu đơn. "Vua hoa", thì cũng phải ngậm miệng mà nở tử tế cho cụ già xem, nghe chưa? Cái "sắc" này lành, ta tha hồ vừa xem vừa "tửu" tới bến cụ ạ. Nguyên văn Ẩm tửu khán mẫu đơn Kim nhật hoa tiền ẩm Cam tâm túy sổ bôi Ðãn sầu hoa hữu ngữ Bất vị lão nhân khai. Dịch nghĩa Uống rượu ngắm hoa mẫu đơn Hôm nay uống rượu trước hoa Lòng vui nên quá chén Chỉ e hoa lên tiếng bảo Không nở cho người già. Dịch ra thơ Đường luật Khương Hữu Dụng: Nay nhấp chén bên hoa Cố say lấy một và 95


Chỉ e hoa biết nói: Đâu nở cho người già. Nguyễn Lãm Thắng: Hôm nay uống bên hoa Chén vui cũng dăm ba Ngại rằng hoa sẽ nói: Không nở cho người già. Dịch ra thơ lục bát Trần Trọng Kim: Hôm nay uống rượu trước hoa, Uống chơi vài chén để mà gượng vui. Chỉ e hoa biết nói cười, Nở ra, đâu có vì người già nua. Ngô Tất Tố: Ngày nay uống rượu trước hoa, Có say mấy chén cũng là khó coi. Chỉ e hoa biết mỉm cười: "Nở ra đâu có vì người tuổi cao!" Đỗ Anh Thơ và Tương Như: Hôm nay uống rượu ngắm hoa, Cạn đôi ba chén gọi là mua vui. Chỉ e hoa nói nên lời: "Em không phải nở cho người già nua". Thu Tứ: Trông hoa bỗng thấy thèm say 96


Ngoảnh hô thằng nhỏ kíp bày mâm ra Cạn chung, lại mất hứng "khà" Ngại hoa mắng vốn: anh già còn ham!

XUÂN HIỂU - Mạnh Hạo Nhiên Đêm xuân xưa ấy chẳng biết bao nhiêu hoa rụng. Chỉ biết mãi mười mấy thế kỷ sau, thơ vẫn còn lai rai nở vì thơ. Một cái tứ đơn giản mà "nên thơ"! Nguyên văn Xuân hiểu Xuân miên bất giác hiểu Xứ xứ văn đề điểu Dạ lai phong vũ thanh Hoa lạc tri đa thiểu. Dịch nghĩa Sáng xuân Giấc xuân ngủ ngon không biết trời đã sáng Nghe chim hót vang khắp bốn phía Ðêm qua có tiếng mưa gió Không biết hoa rụng nhiều ít. Dịch ra thơ Đường luật Tương Như: Giấc xuân, sáng chẳng biết Khắp nơi chim ríu rít Ðêm nghe tiếng gió mưa 97


Hoa rụng nhiều hay ít? Kiều Văn: Đang giấc xuân chợt sáng Chốn chốn rộn chim ca Trong mưa gió đêm qua Biết bao nhiêu hoa rụng? Thu Tứ: Ngủ ngon điếc gà gáy Phải chim kêu mới dậy Đêm qua mưa gió nhỉ Hoa rụng nhiều ít đây? Dịch ra thơ song thất lục bát Thu Tứ: Giấc xuân say chẳng ngờ canh hết, Chợt bên tai ríu rít chim ca. Giật mình đêm có mưa sa, Vườn nhà cây rụng ít hoa hay nhiều?... Dịch ra thơ lục bát Trần Trọng Kim: Giấc xuân trời sáng không hay, Chim kêu ríu rít từng bầy khắp nơi. Ðêm qua mưa gió tơi bời, Biết rằng hoa cũng có rơi ít nhiều. Ngô Tất Tố: 98


Giấc xuân không biết sáng trời, Tiếng chim nghe đã mái ngoài đua kêu. Đêm qua mưa gió dập dìu, Làm cho hoa rụng ít nhiều sao đây? Khương Hữu Dụng: Giấc xuân không biết sáng trời, Tiếng chim bên gối khắp nơi vọng về. Đêm qua mưa gió não nề, Một vài hay đã bộn bề hoa rơi?... Nguyễn Lãm Thắng: Giấc xuân đâu biết đêm tàn, Tỉnh ra, khắp chốn đã tràn tiếng chim. Trải qua mưa gió một đêm, Hay chăng hoa rụng bên thềm là bao? Xuân Như: Giấc xuân bừng tỉnh ngỡ ngàng, Quanh nghe ríu rít rộn ràng chim ca. Đêm qua tiếng gió mưa sa, Giật mình không biết rụng hoa ít nhiều? Đàm Thanh: Mơ màng một giấc đêm xuân, Tỉnh ra chim hót xa gần líu lo. Đêm qua nghe tiếng gió mưa, Chẳng hay hoa rụng nhặt thưa thế nào? Thu Tứ: Ðêm xuân ngủ mãi còn ham, 99


Tỉnh nghe chim hót ríu ran khắp trời. Khi hôm mưa gió tơi bời, Vườn nhà hoa hẳn rụng rơi ít nhiều...

ĐỘC TỌA KÍNH ĐÌNH SƠN - Lý Bạch Tự tin nhỉ. Sao nhà thơ biết núi không chán ngắm mình. Mà trước tiên sao biết núi có biết có một hạt bụi đang “độc tọa” trên núi. Ờ, mà cũng có khi chốc nữa Kính Đình sẽ buồn bã trông theo khi hạt bụi ấy độc hành xuống núi… Nguyên văn Độc tọa Kính Đình sơn Chúng điểu cao phi tận Cô vân độc khứ nhàn Tương khan lưỡng bất yếm Chỉ hữu Kính Ðình sơn. Dịch nghĩa Ngồi một mình trên núi Kính Đình Chim bay cao mất hút cả rồi Ðám mây lẻ kia cũng đang thong thả trôi đi Ở đây ngắm nhau mà không chán nhau Chỉ có quả núi Kính Ðình. Dịch ra thơ Đường luật Phạm Lê Duyên: Chim bầy vút bay hết Mây lẻ đi một mình Nhìn nhau không thấy chán 100


Chỉ có núi Kính Ðình. Dịch ra thơ lục bát Trần Trọng Kim: Bầy chim một loạt cao bay Lưng trời thơ thẩn đám mây một mình Trông nhau có vẻ hữu tình Họa chăng có núi Kính Ðình với ta. Thu Tứ: Chim bầy bay đã ngút ngàn Mây côi cũng thích lang thang một mình Trông nhau may có chút tình Riêng ta với bác Kính Ðình đây thôi!

HOÀNG HẠC LÂU TỐNG MẠNH HẠO NHIÊN CHI QUẢNG LĂNG – Lý Bạch Lý Bạch lên lầu Hạc trước sau bao lần nhỉ? Có lần lên toan thơ vịnh cảnh, thấy thơ Thôi Hiệu trên vách, bèn thôi. Có lần lên để tiễn Mạnh Hạo Nhiên lên đường... Bạn Mạnh xuống thuyền. Bạn Lý đứng trông theo. Chân trời, nơi thường thấy đất, Lý lại thấy nước, nước đang cuồn cuộn chảy vào trời! Nguyên văn Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu Yên hoa tam nguyệt hạ Dương Châu Cô phàm viễn ảnh bích không tận Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu. 101


Dịch nghĩa Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng (1) Bạn cũ rời lầu Hoàng Hạc để đi về phía đông (2) Xuôi xuống Dương Châu vào tháng ba giữa mùa hoa khói (?) Bóng cánh buồm lẻ loi xa tít lẫn vào không gian xanh biếc Chỉ thấy sông Dương Tử chảy sát bên trời. Dịch ra thơ Ðường luật Khương Hữu Dụng: Hoàng Hạc lầu xưa bạn cũ rời Dương Châu hoa khói tháng ba xuôi Buồm đơn bóng hút vào xanh biếc Chỉ thấy Trường Giang chảy cuối trời Dịch ra thơ lục bát Trần Trọng Kim: Phía tây bạn biệt Hạc lâu, Tháng ba trẩy xuống Dương Châu thuận dòng Cánh buồm bóng hút màu không, Trông xa trắng xóa nước sông bên trời. Ngô Tất Tố: Bạn từ lầu Hạc lên đường, Giữa mùa hoa khói, châu Dương xuôi dòng. Bóng buồm đã khuất bầu không, Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời.

102


Thu Tứ: Từ lầu bác bước xuống sông Nước xuôi buồm thuận thẳng dòng nhanh sao Xa trông chẳng thấy thuyền nào Thấy sông cuồn cuộn trôi vào trời xanh. ____________ (1) Quảng Lăng thuộc Dương Châu. (2) Chúng tôi dịch thế này vì Quảng Lăng nằm ở phía đông của lầu Hoàng Hạc. Ngay cả nếu ta không biết vị trí tương đối của điểm khởi hành và điểm đến, thì cái chi tiết thuyền “xuôi xuống” cũng đủ cho ta kết luận rằng Mạnh Hạo Nhiên đã đi từ tây sang đông, vì sông Dương Tử chảy từ tây sang đông.

LỤC THỦY KHÚC - Lý Bạch Còn thấy nước xanh mà trăng đã sáng, trăng lên sớm nhỉ. Cái thứ "bạch tần" gì đó, thi sĩ hái về để ăn hay để làm thuốc? Kìa, có bông sen đang thẹn thò ấp úng... "Buồn chết được"? Hoa không biết nói làm nhớ hoa biết nói, có phải không? Nguyên văn Lục thủy khúc Lục thủy minh thu nguyệt Nam hồ thái bạch tần Hà hoa kiều dục ngữ Sầu sát đãng chu nhân. Dịch nghĩa Bài hát làm ở chỗ nước xanh Nước xanh, trăng thu sáng Hái bèo trắng (1) ở hồ Nam Có đóa sen như muốn cất tiếng mà còn ngượng 103


Người chơi thuyền đang vô tư tự nhiên thấy buồn. Dịch ra thơ Đường luật Mai Lộc: Nước xanh thu lạnh nguyệt trong ngần Trắng xóa hồ Nam những đóa tần Hớn hở sen hồ như thỏ thẻ Khách thuyền ngơ ngẩn nỗi sầu dâng. Dịch ra thơ bốn chữ Thu Tứ: Thu trăng hồ chơi Vui tay bèo hái Sn như muốn nói... Người ơi! Người ơi! Dịch ra thơ lục bát Trần Trọng Kim: Nước trong rọi bóng trăng thu, Bạch tần hoa nọ, Nam hồ hái chơi. Hoa sen dường muốn nói cười, Chơi thuyền khách lại ngậm ngùi tình riêng. Nguyễn Minh: Nước trong in bóng trăng thu, Hái rau tần trắng ở khu Nam hồ. Hoa sen dường muốn chuyện trò, Khách chèo nghe luống thẫn thờ hồn bay. 104


Thu Tứ: Trăng thu vằng vặc soi hồ, Thuyền con một lá hững hờ trôi trôi. Chợt sen như sắp nói cười, Chợt lòng du tử một trời nhớ thương! __________ Trong Đường thi, Trần Trọng Kim chú thích bạch tần là "rau tần".

Ô DẠ ĐỀ - Lý Bạch "Gái Tần Xuyên"... Tần Xuyên thuộc kinh đô Trường An, mà Trường An thì ở chân cao nguyên Hoàng Thổ. Hẳn vì thế mà những người làm tuyển Thơ Đường mới dịch "hoàng vân" là "bụi mù như mây vàng".(1) Lời đoán rất có lý nhưng muốn biết đúng hay sai, phải hỏi... Lý Bạch. Có cầu hồn "thi tiên" lên, nhân thể nên hỏi luôn nghĩa của "cách song ngữ". Vì cũng tuyển trên dịch là "nghe tiếng nói ngoài song", trong khi Nguyễn Quảng Tuân trong một tuyển thơ Đường khác lại dịch là "(cô gái) rủ rỉ như nói chuyện với quạ"!(2) Dĩ nhiên đôi nét lờ mờ chẳng ảnh hưởng gì đến giá trị bức tranh "quạ kêu gái khóc" Lý Bạch vẽ cách đây mười mấy thế kỷ... Nguyên văn Ô dạ đề Hoàng vân thành biên ô dục thê Qui phi á á chi thượng đề Cơ trung chức cẩm Tần Xuyên nữ Bích sa như yên cách song ngữ Đình thoa trướng nhiên tư viễn nhân Độc túc cô phòng lệ như vũ. Dịch nghĩa 105


Quạ kêu đêm Bụi mù như mây vàng bên thành, quạ tìm chỗ đậu Bay về kêu "quạ quạ" trên cành Trong khung cửi cô gái Tần Xuyên ngồi dệt gấm Sau cửa sổ có rèm sa xanh biếc như khói, cô như nói chuyện với quạ Ngừng thoi, bùi ngùi nhớ người xa Nghĩ mình phòng không gối chiếc, nước mắt trào rơi như mưa. Dịch ra thơ lục bát Tản Đà: Mây vàng tiếng quạ bên thành, Nó bay tìm ngủ trên cành nó kêu. Tần Xuyên cô gái buồng thêu, Song sa khói tỏa như khêu chuyện ngoài. Dừng thoi buồn bã nhớ ai, Phòng không gối chiếc giọt dài tuôn mưa. Thu Tứ: Bụi vàng dì gió tung mây Trời chiều cái quạ lây quây tìm cành Nhà ai biếc khói tơ mành Gái trong khung cửi buồn tình nói mơ Tưởng người, thoi để ngẩn ngơ Chạnh mình bóng lẻ, như mưa lệ tràn...(3) _____________ (1)Thơ Đường, bộ 2 tập, nxb. Văn Học, Hà Nội, 1987. (2)Thơ Đường - Tản Đà dịch, Nguyễn Quảng Tuân biên soạn, nxb. Trẻ, TP HCM, 1989. 106


Bài hát nói Hỏi Gió của Tản Đà mở đầu bằng mấy câu: "Cát đâu ai bốc tung trời? Sóng sông ai vỗ, cây đồi ai rung? Phải rằng dì gió hay không?".

TĨNH DẠ TƯ - Lý Bạch Chữ "sàng tiền" trong bài thơ này không hiểu tại sao nhiều người dịch là đầu giường. Đầu giường chữ Hán là "sàng đầu".(1) Thay "tiền" bằng "đầu" không phạm luật thơ nào cả, nên thiết tưởng nếu Lý Bạch muốn nói "đầu giường trăng sáng soi" thì hẳn ông đã viết "sàng đầu minh nguyệt quang"... "Sàng tiền" nghĩa là trước giường.(2) Ánh trăng rọi qua cửa thành một vùng trăng trắng trước giường, nhà thơ có lẽ vừa tỉnh dậy, còn mơ màng, nên ngỡ là sương... Ngỡ thoáng thôi, rồi biết là ánh trăng, rồi ngồi dậy ngẩng đầu nhìn trăng, rồi cúi đầu nhìn vào... lòng mình! Nguyên văn Tĩnh dạ tư Sàng tiền minh nguyệt quang Nghi thị địa thượng sương Cử đầu vọng minh nguyệt Đê đầu tư cố hương. Dịch nghĩa Trăn trở trong đêm vắng Trước giường trăng sáng soi Ngỡ sương phủ mặt đất Ngẩng đầu nhìn trăng sáng Cúi đầu nhớ quê xưa. Dịch ra thơ Đường luật 107


Tương Như: Đầu giường ánh trăng rọi, Ngỡ mặt đất phủ sương. Ngẩng đầu nhìn trăng sáng, Cúi đầu nhớ cố hương. Trần Vấn Lệ: Tưởng sương trên đất, hóa ra trăng! Ngước mắt khôn ngăn giọt lệ thầm Cúi mặt, hỡi ơi lòng dạ nát Quê nhà biền biệt biết bao năm! Dịch ra thơ lục bát Trần Trọng Kim: Đầu giường chợt thấy bóng trăng, Mập mờ trên đất, ngỡ rằng sương sa. Ngửng đầu trông vẻ gương nga, Cúi đầu luống những nhớ nhà băn khoăn. Thu Tứ: Bản 1: Trước giường bàng bạc màu trăng, Mơ màng lại ngỡ sương giăng la đà. Ngửng đầu: trăng sáng trời xa, Cúi đầu, chạnh nhớ cảnh nhà, quê xưa. Bản 2: Trước giường bay một vùng trăng, Dở mê những tưởng sương giăng giữa nhà! Ngửng trông vằng vặc trời xa, 108


Cúi nghe niềm nhớ chực òa trong tim... ___________ (1) Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh: "sàng đầu kim tận, tráng sĩ vô nhan" ("đầu giường hết tiền, tráng sĩ cũng khó mở mặt"). HVTĐ: "sàng tiền bồ phục" ("trước giường bò xóm róm").

TÔ ĐÀI LÃM CỔ - Lý Bạch Nếu xây thời vua Ngô Phù Sai, thì "Tô đài" "cổ" khoảng mười hai thế kỷ khi Lý Bạch đến "lãm". Một vạn bốn nghìn bốn trăm lần "nguyệt" đã soi bóng trên "Tây Giang"! Liễu tơ, xuân tươi, thiếu nữ phơi phới, cất tiếng véo von... Trăng vằng vặc trên trời, trăng lung linh dưới nước, giữa hoang cũ một ông tiên thơ tha thẩn, gieo vần ngậm ngùi... Mười ba thế kỷ nữa đã trôi qua. Cái chỗ Phù Sai hí Tây Thi nay có còn viên gạch nào không nhỉ. Nguyên văn Tô đài lãm cổ Cựu uyển hoang đài dương liễu tân Lăng ca thanh xướng bất thăng xuân Chỉ kim duy hữu Tây Giang nguyệt Tằng chiếu Ngô vương cung lý nhân. Dịch nghĩa Xem dấu xưa nơi đài Cô Tô Vườn cũ, đài hoang, liễu mới đâm chồi Khúc hát hái ấu hát lên trong trẻo cũng không nói xiết tình xuân Nay chỉ còn có độc vầng trăng trên sông Tây Giang (1) Xưa từng soi người đẹp trong cung vua Ngô. 109


Dịch ra thơ Đường luật Tùng Vân: Ðài hoang, vườn cũ, liễu còn tơ, Dìu dặt lăng ca giọng gió đưa. Nay chỉ Tây Giang vừng nguyệt tỏ, Từng soi người ngọc điện vua Ngô. Chi Điền: Vườn cũ, lầu hoang, dương liễu xanh, Lăng ca ai hát, khách buồn tênh! Tây Giang còn đó vầng trăng bạc, Từng chiếu Tô Đài bóng mỹ nhân! Bùi Khánh Đản: Lầu hoang, vườn cũ, liễu xanh tươi, Vẳng khúc Lăng ca tiếng ngậm ngùi. Còn lại Tây Giang vầng nguyệt tỏ, Từng soi người đẹp ở Tô Đài! Lê Nguyễn Lưu: Vườn cũ đài hoang liễu thướt tha, Xuân tươi dìu dặt khúc Lăng ca. Tây Giang qua đấy vầng trăng bạc, Từng chiếu cung Ngô gái Việt xưa. Thu Tứ: Vườn hoang lầu vắng liễu cứ tơ Đâu đây văng vẳng khúc xuân mơ Nhìn quanh thấy chỉ trăng đùa sóng 110


Ngày ấy Tây Thi mãi đến giờ... Dịch ra thơ tuyệt cú Thu Tứ: Liễu xanh xanh lối cũ Xuân dìu dặt đài hoang Người cung xưa đâu tá Lẻ loi bóng trăng vàng. Dịch ra thơ sáu chữ Thu Tứ: Vườn cũ xanh càng cây mới Nghe này: xuân lại về đây Lộng lẫy cung vàng dáng ngọc Trơ còn bóng nguyệt sông Tây. Dịch ra thơ song thất lục bát Nguyễn Minh: Dương liễu xanh, đài hoang, vườn cũ Giọng Lăng Ca cổ vũ dáng xuân Tây Giang còn ánh trăng ngân Từng soi người đẹp cung tần Ngô vương. Thu Tứ: Véo von nhỉ, xuân ca ai hát Mặc lầu hoang, tha thướt liễu tươi Lòng sông một bóng trăng chơi Thiên hương thuở ấy giờ nơi trời nào... 111


Dịch ra thơ lục bát Trần Trọng San: Liễu tươi vườn cũ đài hoang, Ca lăng vang tiếng, vẻ xuân thắm trời. Chỉ còn bóng nguyệt sông tây, Đã từng soi chiếu lên người cung Ngô. Thu Tứ: Vườn xưa, liễu mới đâm chồi, Vang vang câu hát đón trời vào xuân.(2) Một thời, còn lại ông giăng, Cung Ngô từng vượt tường ngăn ghé nhòm! __________ (1) Cô Tô nay thuộc thành phố Tô Châu tỉnh Giang Tô, trong khi con sông Tây Giang nổi tiếng lại ở miền nam Trung Quốc, cách nhau rất xa. Vậy Tây Giang trong bài thơ này hẳn là một con sông khác. Thanh Tâm Tuyền có câu thơ "Vang vang trời vào xuân".

TƯƠNG TIẾN TỬU – Lý Bạch Tết hết lâu rồi mà vẫn rượu chè ư?(1) Ấy, chỉ mới ngày Tết hết chứ ngày xuân đâu đã hết. Với lại, đây là "rượu thơ" chứ có phải rượu thực đâu, mà sợ "say sưa nghĩ cũng hư đời".(2) Nói vậy chứ thơ đọc nhiều quá, có khi cũng say đấy. Thử đọc cả năm bản dịch bài Tương Tiến Tửu sau đây một hơi xem. Được cái, đọc thơ dù có say chắc cũng không đến nỗi nào. À, hẳn có người lấy làm lạ: Nhà Thơ Rượu Ta dịch nhiều thơ Tàu, sao lại không dịch cái bài rất nổi tiếng này của Nhà Thơ Rượu Tàu nhỉ?(3) Ai biết. Họa chăng núi Tản sông Đà... 112


Nguyên văn Tương Tiến Tửu Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai Bôn lưu đáo hải bất phục hồi Hựu bất kiến cao đường minh kính bi bạch phát Triêu như thanh ti mộ như tuyết Nhân sinh đắc ý tu tận hoan Mạc sử kim tôn không đối nguyệt Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng Thiên kim tán tận hoàn phục lai Phanh dương tể ngưu thả vi lạc Hội tu nhất ẩm tam bách bôi Sầm phu tử, Đan Khâu sinh Tương tiến tửu Bôi mạc đình Dữ quân ca nhất khúc Thỉnh quân vị ngã trắc nhĩ thinh Chung cổ soạn ngọc bất túc quí Đãn nguyện trường túy bất nguyện tinh Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh Trần Vương tích thời yến Bình Lạc Đẩu tửu thập thiên tứ hoan hước Chủ nhân hà vi ngôn thiểu tiền Kính tu cô thủ đối quân chước Ngũ hoa mã Thiên kim cừu Hô nhi tương xuất hoán mỹ tửu Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu.

113


Dịch nghĩa (4) Sắp Mời Rượu Bạn chẳng thấy sao: nước sông Hoàng Hà từ trên trời rơi xuống Chảy băng băng ra bể không bao giờ trở lại Lại chẳng thấy sao: gương sáng trong nhà cao soi bật nỗi buồn tóc trắng Mới khi sáng còn xanh như tơ, chiều đã như tuyết Con người ta sống mà được đắc ý thì nên hết sức vui Đừng để chén vàng cạn dưới ánh trăng Trời sinh ta có tài ắt sẽ có chỗ dùng Ngàn vàng tiêu hết rồi lại có Mổ bò nấu dê để làm tiệc vui Gặp nhau nên uống một lần ba trăm chén Hỡi thầy giáo Sầm, hỡi học trò Đan Khâu Rượu sắp mời rồi Chớ ngừng chén Vì các bạn, ta hát một bài Tất cả hãy vì ta mà nghiêng tai nghe Dù cỗ bàn thịnh soạn có chuông trống cũng chưa đáng quý Ta chỉ muốn say hoài, không muốn tỉnh Thánh hiền xưa nay đều bặt tiếng Chỉ có kẻ uống rượu được lưu danh Ngày trước Trần Vương yến tiệc ở cung Bình Lạc Rượu vạn đồng một đấu uống vui thoải mái Chủ nhân cớ sao nói ít tiền Nên mau mua lấy để ta chuốc chén với các bạn ta Đây ngựa năm màu Đây áo cừu quý ngàn vàng Bảo trẻ con đi đổi lấy rượu ngon Ta hãy cùng nhau phá cho tan nỗi buồn muôn thuở. 114


Dịch ra song thất lục bát Trần Trọng Kim: Anh chẳng thấy Hoàng Hà nước nọ, Tự trên trời chảy đổ ra khơi. Ra khơi thôi thế là thôi, Về nguồn trở lại có đời nào đâu. Anh chẳng thấy nhà cao gương sáng, Những buồn tênh vì mảng tóc thưa. Sớm còn xanh mượt như tơ, Tối đà như tuyết bạc phơ bời bời. Khi đắc ý cứ chơi cho phỉ, Dưới vầng trăng đừng để chén không. Có thân âu hẳn có dùng, Ngàn vàng tiêu hết lại hòng kiếm ra. Trâu dê mổ, tiệc hoa trần thiết, Ba trăm chung cạn hết một lần. Sầm phu tử, Đan Khâu quân, Rượu kèo xin chớ ngại ngần uống ngay. Hát một khúc vì ai an ủy, Lắng tai nghe ý vị khôn cùng. Quí gì soạn ngọc cổ chung, Muốn say say mãi tỉnh không thú gì. Bao hiền thánh xưa kia lặng lẽ, Chỉ anh say tiếng để đời đời. 115


Trần vương Bình Lạc mua vui, Mười ngàn đấu rượu chơi bời thỏa thuê. Chủ ông hỡi, chớ chê tiền ít, Mua rượu về chén tít cùng ta. Cừu thiên kim, ngựa ngũ hoa, Đem đi đổi rượu, khề khà uống chơi. Sầu đâu dằng dặc muôn đời. Ngô Tất Tố: Con sông Hoàng lưng trời tuôn nước, Xuống biển rồi, có ngược lên đâu! Nhà cao, gương xót mái đầu, Sớm còn tơ biếc, tối hầu tuyết pha. Vui cho đẫy, khi ta đắc ý Dưới vầng trăng, đừng để chén không. Sinh ra, trời có chỗ dùng, Nghìn vàng tiêu hết, lại trông thấy về. Chén đi đã, trâu dê cứ giết, Ba trăm ly, phải hết một lần. Khâu, Sầm hai bác bạn thân, Rượu kèo xin chớ ngại ngùng ngừng thôi! Ta vì bác, hát chơi một khúc! Bác vì ta, hãy chúc bên tai: "Ngọc, tiền, chuông, trống mặc ai, Tỉnh chi? Chỉ muốn cho dài cuộc say.

116


Bao hiền thánh đến nay đã rõ? Phường rượu ta tên họ rành rành: Trần Vương bữa tiệc quán Bình, Mười nghìn đấu rượu thỏa tình đùa vui". Chủ nhân chớ ngậm ngùi tiền ít, Mua rượu ta chén tít cùng nhau. Áo cừu, ngựa gấm, để đâu? Gọi con đem đổi vài bầu rượu ngon. Uống cho muôn thuở tan buồn! Tchya: Há chẳng thấy trên trời sa xuống, Nước Hoàng Hà cuồn cuộn tung xuôi. Một đi đi mãi ra khơi, Có bao giờ lại phản hồi nữa đâu. Lại chẳng thấy trên lầu gương tỏ, Mái tóc càng soi rõ mầu sương. Sáng như tơ chửa nhuộm vàng, Chiều đà như tuyết nghĩ thương thân già. Cho nên gặp lúc ta đắc ý, Phải chơi cho phỉ chí con người. Chén vàng chớ để cho vơi, Đáy không nhìn bóng trăng soi bẽ bàng. Sinh ta có tài năng chí khí, Ắt trời không bỏ phí không dùng. Ngàn vàng không cũng là không, 117


Tiêu đi lại có mất xong lại về. Thì hãy mổ trâu dê mà khoái, Tụ cho đông uống mãi cho say. Rót ba trăm chén rượu đầy, Một lần tu cạn một hơi mới đành. Nào Sầm tử Đan sinh đâu tá, Chớ ngừng tay rót nữa đừng thôi. Vì mình ta hát khúc chơi, Vì ta mình hãy lắng lời mà nghe. Dẫu soạn ngọc chẳng gì đáng quý, Chỉ cầu cho túy lý mà thôi. Thánh hiền chết cũng lấp vùi, Còn tên để lại họa người say sưa. Yến Bình Lạc ngày xưa vui thú, Trần Vương mời rượu hũ thập niên. Chủ nhân hãy uống chớ phiền, Cớ sao than nỗi không tiền với ta. Này đây ngựa năm hoa một cỗ, Này ngàn vàng cả bộ áo lông. Trẻ đâu: Đổi lấy rượu nồng, Cùng người cùng giải sầu đong vạn đời. Dịch ra hát nói Khuyết danh: Biết chăng ai: 118


Sông Hoàng Hà ngọn nước tại lưng trời tuôn đến bể khôn vời lại được. Biết chăng nữa: Đài gương mái tóc bạc sớm như tơ mà tối đã như sương. Nhân sinh đắc ý nên càng, Khôn nỡ để chén vàng trơ với nguyệt. Tài hữu dụng lẽ trời âu hẳn quyết, Nghìn vàng kia khi hết lại còn. Lúc vui chơi nào nhắm mùi ngon, Ba trăm chén cũng dồn một cuộc. Cụ Sầm rủ cụ Đan khuyên chuốc, Rượu nâng lên chớ được dừng tay. Vì ngươi hát một khúc này, Xin ngươi sẽ lắng tai nghe lấy. Tiệc chung cổ ngọc vàng là mấy, Hãy nên say say mãi tỉnh chi mà. Thánh hiền xưa cũng vắng xa, Chỉ có rượu với người say là vẫn để (?). Tiệc Bình Lạc xưa kia cũng thế, Muời nghìn chung mặc thích vui cười. Tiền chủ nhân bao quản vắn dài, Cũng mua nữa cùng ngươi khuyên rót. Ngựa hoa tốt mà áo cừu cũng tốt, Gọi đồng ra đổi lấy rượu ngon. 119


Cùng ngươi giải vạn kiếp buồn. Dịch ra lục bát Thu Tứ: Kìa trông nước rớt lưng trời Băng băng ra bể chẳng đời nào ngưng Kìa trông tóc trắng trong gương Sáng tơ xanh đã chiều sương tuyết rồi Gặp khi đắc ý nên vui Rượu ngon chớ để chung vơi lúc nào Tài cao ắt được ngôi cao Ngàn vàng dốc túi sẽ vào lại ngay Bò dê bắt mổ liền tay Ba trăm chén cạn mừng ngày gặp nhau Bớ bác Sầm, hỡi anh Khâu Rượu mời sắp rót, hãy mau lại bàn Tiệc vui, nên hát lừng vang Dẫu hay dẫu dở bạn vàng vẫn nghe Vui này cỗ quý sao bì Say đi say nữa, tỉnh chi bây giờ Xưa nay thánh vốn ế trơ Chỉ anh nát rượu được thờ trên ngai! Học Trần Vương, cấm có sai Đem men cực phẩm đãi ngay cả làng Chủ kia, chớ ngại thiếu tiền Kíp mua cho đủ để riêng ta dùng Đây đây áo, ngựa đắt hung Dắt đi, đem cả, cố lùng rượu ngon Anh em, bát chén sẵn sàng 120


Đêm nay ta phá cho tan Thành Sầu! ______________ (1) Bài này viết ngày 13 tháng Giêng năm Nhâm Thìn (2012). Nhưng bản dịch Tương Tiến Tửu ra thơ lục bát thì đã hoàn tất từ nhiều năm trước. (2) Trong bài Lại Say của Tản Đà. (3) Nhà Thơ Rượu Ta: Tản Đà. Nhà Thơ Rượu Tàu: Lý Bạch. Tham khảo: Đường thi của Trần Trọng Kim và Thơ Đường (nxb. Văn Học, VN, 1987).

ỨC ĐÔNG SƠN - Lý Bạch Mây trắng tan, như người họp rồi tan. Trăng sáng rụng đâu mất, như cảnh sum vầy đầm ấm... rụng đâu mất. Nhớ quá, Đông Sơn! Nguyên văn Ức Đông Sơn Bất hướng Ðông Sơn cửu Tường vi kỷ độ hoa Bạch vân hoàn tự tán Minh nguyệt lạc thùy gia. Dịch nghĩa Nhớ Ðông Sơn Lâu không trở về Ðông Sơn Không biết bụi tường vi đã nở hoa mấy lần Mây trắng lại tan rồi Không biết trăng sáng đã rơi xuống nhà ai.

121


Dịch ra thơ lục bát Trần Trọng Kim: Ðông Sơn xa cách bao xuân, Tường vi đã trải mấy lần nở hoa. Mây kia bạc xóa tan ra, Vầng trăng khuất sáng, bóng sa nhà nào. Ngô Tất Tố: Non Đông xa cách bao xuân! Cây tường vi đã mấy lần nở hoa? Mây xưa hẳn vẫn bay xa? Trăng xưa biết rụng xuống nhà ai nao? Anh Nguyên: Đông Sơn chẳng đến đã lâu, Tường vi mấy độ khoe mầu sắc, hương? Những làn mây trắng còn vương? Nhà ai trăng sáng đầy vườn đêm nay?!... Thu Tứ: Đêm trăng ngồi nhớ nơi xa, Vườn xưa đã mấy mùa hoa thưa người... Kìa mây trắng lại tan rồi, Kìa trăng vằng vặc đã rơi phương nào...

VIỆT TRUNG LÃM CỔ - Lý Bạch Việt vương Câu Tiễn từng xưng bá ở Trung Nguyên. Một nước của người Việt tộc từng áp đảo được tất cả các nước Hoa tộc! Ngô cũng là nước của người Việt tộc. Nếu có dịp thăm đất Việt hay đất Ngô xưa, tưởng người Việt Nam cũng nên lấy làm cảm khái trước di tích của họ hàng mình. Nhưng 122


không biết thời Lý Bạch (khoảng 12 thế kỷ sau Câu Tiễn) có còn chút dấu vết gì chăng, chứ hẳn bây giờ thì ở chỗ ấy đến chim đa đa cũng đã bay vào quá khứ từ lâu lắm rồi! Nguyên văn Việt vương Câu Tiễn phá Ngô quy Chiến sĩ hoàn gia tận cẩm y Cung nữ như hoa mãn xuân điện Chí kim duy hữu chá cô phi. Dịch nghĩa Vua Việt Câu Tiễn thắng Ngô, khải hoàn Chiến sĩ về nhà người nào cũng mặc áo gấm Trong điện xuân đầy cung nữ đẹp như hoa Nay chỉ thấy chim đa đa bay. Dịch thơ Nào đâu hoa kết đèn giăng Nào đâu áo mũ xênh xang chật đường Nào đâu cung gái nõn nường Ðâu nào đâu thấy, rặt phường... "chá cô"! Bản dịch thơ khác Việt Câu Tiễn đánh Ngô về Quan quân khắp mặt cẩm y lại nhà Ðền xuân cung nữ như hoa Ðến nay chỉ thấy đa đa bay cùng. (Trần Trọng Kim) Phá Ngô vua Việt khải hoàn 123


Chinh phu áo gấm vẻ vang về nhà Điện xuân cung nữ như hoa Giờ đây chỉ có bầy gà rừng bay. (Trần Trọng San) _______ Tên bài nghĩa là "Xem dấu cũ ở nước Việt (xưa)".

XUÂN NHẬT TÚY KHỞI NGÔN CHÍ - Lý Bạch Đời là mộng. Ai lại hì hục đi xây kia dựng nọ trong mộng! Chỉ có mỗi một việc đáng làm là... lai rai ba sợi, đợi tỉnh mộng. Bắt đầu là ba, nhưng rồi thành ba chục, để sau đó người trong mộng lớn không thể làm gì khác hơn là... gục ngay tại chỗ, tự dìu mình vào mộng nhỏ. "Mộng bình thường" có lẽ độ dăm ba tiếng đồng hồ gì đó thì líu lo gọi dậy. Nhìn ra sân, thấy chim học nói trong hoa, thấy gió phất phơ cành lá... Ô kìa, "bây giờ tháng mấy rồi hỡi... Trời?" (Mấy cũng chỉ là trong mộng, hỏi làm gì!) (1) Cảnh vui vẻ thế, nghĩ thế nào mà muốn than thở?! Dù sao, sầu đã nhóm thì bầu lại phải nghiêng. Tối rồi, trăng lên đi chứ. Hát chơi bài nhé. Véo von đã đời một lúc, quên bẵng vừa lúc nãy buồn gì! Ngày xuân một người say quắc cần câu, ngủ khò khò, thức dậy "nói chí", nghe ngộ ghê. Nguyên văn Xuân nhật túy khởi ngôn chí Xử thế nhược đại mộng Hồ vi lao kỳ sinh Sở dĩ chung nhật túy Ðồi nhiên ngọa tiền doanh Giác lai miện đình tiền Nhất điểu hoa gian minh Tá vấn thử hà nhật Xuân phong ngữ lưu oanh 124


Cảm chi dục thán tức Ðối chi hoàn tự khuynh Hạo ca đãi minh nguyệt Khúc tận dĩ vong tình. Dịch nghĩa Ngày xuân say tỉnh dậy nói chí mình Ðời như giấc mộng lớn Vậy vất vả đời mình để làm gì Bởi thế ta suốt ngày say rượu Say nằm lăn quay bên cột nhà phía trước Tỉnh dậy nhìn ra sân Thấy một con chim đang hót trong khóm hoa Ướm hỏi hôm nay là ngày gì Mà chim oanh bay chuyền học nói trong gió xuân Ðộng lòng, muốn than thở Ðối cảnh, lại tự nghiêng bầu rót thêm rượu Cất tiếng hát vang chờ trăng sáng Hát xong, đã quên mất nỗi băn khoăn lúc nãy. Dịch ra thơ ngũ ngôn cổ (như nguyên tác) Hải Đà: Cuộc đời như giấc mộng Làm chi thêm cực mà Suốt ngày say bí tỉ Ngủ lăn trước hiên nhà Thức dậy nhìn sân trước Chim hót vui đời hoa 125


Ngày nào hôm nay nhỉ Gió xuân vờn oanh ca Nhìn cảnh mà ngao ngán Thấy rượu đành rót ra Nghêu ngao chờ trăng sáng Hát xong quên sầu ta. Dịch ra thơ thất ngôn cổ Bùi Khánh Đản: Đã biết kiếp người là mộng lớn Sao còn lận đận mãi chưa thôi Suốt ngày nghiêng ngả ta say khướt Mê mệt nằm lăn ngủ cửa ngoài Tỉnh giấc trông ra sân phía trước Thấy con chim hót giữa hoa tươi Hỏi nay tháng mấy ngày nào nhỉ Canh đón xuân sang ríu rít hoài Ngẫm chuyện xưa nay khơi mối cảm Rượu ngon lại rót tự mình mời Nghêu ngao hát mãi chờ trăng sáng Dứt khúc đà quên hết cả rồi. Dịch ra thơ lục bát Trần Trọng Kim: Ở đời tựa giấc chiêm bao, Làm chi mà phải lao đao nhọc mình. Suốt ngày mượn chén khuây tình, Say rồi nghiêng ngửa bên mành hàng ba. Tỉnh ra trông mé trước nhà, 126


Một con chim hót trong hoa ngọt ngào. Hỏi xem ngày ấy ngày nào, Chim oanh ríu rít đón chào gió đông. Thở than cảm xúc nỗi lòng, Chuốc thêm ít chén say cùng cảnh vui. Hát ngao chờ bóng trăng soi, Ca vừa dứt khúc đã nguôi mối tình. Tản Đà: Ở đời như giấc chiêm bao, Cái thân còn đó, lao đao làm gì? Cho nên suốt buổi say lì, Nằm lăn trước cột, biết gì có ta. Tỉnh thôi đưa mắt sân nhà, Một con chim hót bên hoa ngọt ngào. Hỏi xem: nay đó ngày nào? Ngày xuân gió mát, vui chào tiếng oanh. Ngậm ngùi cám cảnh sinh tình, Nghiêng bầu, mình lại với mình làm vui. Hát ran, chờ tấm trăng soi, Thoạt xong câu hát thời rồi đã quên. Ngô Tất Tố: Ở đời như giấc chiêm bao, Làm chi mà phải lao đao cho đời? Vậy nên say suốt hôm mai, Bên cây cột trước, nằm dài khểnh chân. Tỉnh rồi, chợt ngó trước sân, Tiếng chim đâu đã nghe gần trong hoa. Ngày chi? Thử hỏi cho ra, Gió xuân đương giục oanh già véo von. 127


Cảm thương, lòng những bồn chồn, Ðoái trông cảnh vật, dốc luôn chén quỳnh. Hát ngao chờ bóng trăng thanh, Lời ca vừa hết, mối tình đã quên. Thu Tứ: Ðời xem như giấc mộng dài Nên lòng quyết chẳng miệt mài làm chi Rượu ngon cứ nốc tì tì Nốc say hiên trước ngủ khì một hơi Dã men ngồi dậy ngó chơi Con chim hót nhảy loi choi trên cành Ngày chi, ướm hỏi cao xanh Gió xuân hây hẩy, cái oanh rộn ràng Ðộng lòng, những muốn thở than Tình ơi, buồn lại dốc ngang lưng bầu Chờ trăng, ca lớn mấy câu Tiếng ca vừa dứt, cơn sầu cũng tiêu. ____________ Bài thơ Ngậm Ngùi của Huy Cận có câu: "Ngủ đi em, mộng bình thường". Ca khúc Bây Giờ Tháng Mấy của Từ Công Phụng có câu: "Bây giờ tháng mấy rồi hỡi em?".

ĐỘ HÁN GIANG - Lý Tần Người ở xa về thấy người quê không dám hỏi, mà người quê nếu có nhận ra người ở xa về có khi cũng không dám vẫy, chào. Chào, rồi nhỡ bị hỏi, rồi mình phải kể tin xấu cho người ta nghe, thôi, ngại lắm. Ai bao năm mới về "Lĩnh nội", qua "Hán giang" xong cứ cắm cúi thẳng cửa nhà nhé, khắc biết. Nguyên văn

128


Độ Hán giang Lĩnh ngoại âm thư tuyệt Kinh đông phục lập xuân Cận hương tình cánh khiếp Bất cảm vấn lai nhân. Dịch nghĩa Qua sông Hán Ở đất ngoài Ngũ Lĩnh xa xôi, không nhận được tin nhà Đông qua, xuân lại đến Về gần tới quê, lòng rất sợ hãi Không dám hỏi thăm người qua lại (vì e tin chẳng lành). Dịch ra thơ Đường luật Trần Trọng Kim: Lĩnh ngoại thư từ vắng, Qua đông lại lập xuân. Gần làng lòng sợ hãi, Không dám hỏi lai nhân. Lê Nguyễn Lưu: Ngũ Lĩnh tin nhà vắng, Đông tàn lại đến xuân. Gần quê lòng những ngại, Không dám hỏi người thân. Dịch ra thơ lục bát Thu Tứ: 129


Xuân nay mới được trở về, Xa non cách núi tin quê biết gì. Gần làng bay cả hồn đi, Người qua muốn hỏi, ngại nghi những điều...

DẠ VŨ KÝ BẮC - Lý Thương Ẩn Mưa đêm ngồi viết thư... Thư cho ai? Hình dung "tây song" là cửa sổ phòng văn, "tiễn chúc" là cắt sửa bấc đèn trước khi thắp lên, "quân" là một người bạn tâm giao... Chuyện mưa đêm trên núi có bao giờ kể? Thơ hẹn kể mấy câu còn lất phất bay... Nguyên văn Dạ vũ ký bắc Quân vấn quy kỳ vị hữu kỳ Ba Sơn dạ vũ trướng thu trì Hà đương cộng tiễn tây song chúc Khước thoại Ba Sơn dạ vũ thì. Dịch nghĩa Mưa đêm thư về bắc Bạn hỏi ngày về, chưa có ngày về Mưa đêm núi Ba làm tràn ao thu Bao giờ cùng cắt bấc đèn nơi cửa sổ phía tây Sẽ kể chuyện thời mưa đêm núi Ba. Dịch ra thơ lục bát Tương Như: 130


Ngày về khó hẹn cho nhau, Ba Sơn mưa tối hồ thu nước đầy. Bao giờ chung bóng song tây, Còn bao nhiêu chuyện núi này mưa đêm! Trần Trọng San: Ngày về chưa biết bao giờ, Ba Sơn mưa tối, ao thu dâng đầy. Bao giờ khêu nến song tây, Cùng nhau kể chuyện mưa bay đêm nào... Thu Tứ: Về ư, chửa có ngày về, Mưa đêm xứ núi tràn trề ao thu. Bao giờ chong nến cùng nhau, Chuyện mưa kể suốt canh thâu mới vừa...

LƯU BIỆT VƯƠNG DUY - Mạnh Hạo Nhiên Người vẫn muốn đi tìm hái cỏ thơm. Người hình như hết muốn rồi. Chao ơi, buồn. Nguyên văn Tịch tịch cánh hà đãi Triêu triêu không tự qui Dục tầm phương thảo khứ Tích dữ cố nhân vi Ðương lộ thùy tương giả Tri âm thế sở hy Chỉ ưng thủ tịch mịch Hoàn yểm cố viên phi. 131


Dịch nghĩa Đêm đêm tự hỏi rút cuộc đang chờ gì đây Sớm sớm ra đi không được việc gì cả, lại trở vể Muốn đi tìm cỏ thơm Tiếc mình và người cũ bây giờ trái ngược nhau Người đang có chức quyền ai chia sẻ với mình Hiểu nhau ở đời vẫn ít Chỉ nên giữ im lặng Trở về đóng cửa vườn cũ. Dịch thơ Đêm đêm tự hỏi đợi chi Mỗi tinh mơ mỗi lại đi để về! Cỏ thơm tìm muốn chỉn e Cố nhân lòng đã thôi nghe mặn mà Say đời gỡ mấy cho ra Tri âm sau trước vẫn là hiếm thôi Nỗi riêng khôn tiện dài lời Đôi vần để lại, bác vui, tôi về. Bản dịch thơ khác Quạnh hiu thôi có đợi gì Những là sớm sớm đi về luống công Muốn đi tìm cỏ thơm nồng Tiếc vì bạn cũ đồng lòng lại không Những người đương lộ ai dung Tri âm mấy kẻ ở trong đời này Chỉ nên im lặng qua ngày 132


Trở về vườn cũ, cửa cài ở yên. (Trần Trọng Kim) _______ Tên bài nghĩa là "Để lại mấy câu chia tay Vương Duy".

CỐ HÀNH CUNG - Nguyên Chẩn Ngoài hoa nở giữa điêu tàn. Trong một bà già chốc chốc lại nhắc chuyện hồi mình còn trẻ. Tương phản buồn. Nguyên văn Liêu lạc cố hành cung Cung hoa tịch mịch hồng Bạch đầu cung nữ tại Nhàn tọa thuyết Huyền tông. Dịch nghĩa Hành cung cũ nay tiêu điều hoang vắng Hoa trong cung lặng lẽ nở Có người cung nữ bạc đầu Ngồi rồi, kể chuyện vua Huyền tông. Dịch thơ Cố cung nhạt tía phai vàng Đìu hiu nở giữa điêu tàn, hồng hoa! Năm xưa sót một lão bà Đêm ngày ngồi nhắc "giá xa" tiền triều...(1) Bản dịch thơ khác: Hành cung cũ, cảnh tiêu điều Hoa kia vẫn nở đìu hiu cạnh lầu 133


Cung nhân một mụ bạc đầu Ngồi rồi, kể chuyện khi hầu Huyền tôn. (Trần Trọng Kim) _______ "Giá xa" đảo đùa xa giá là tiếng hay dùng để chỉ vua.

TẶNG THIẾU NIÊN - Ôn Đình Quân Đất khách bỗng dưng gặp quê, vui ơi là vui. Nhưng một người làm nhớ mọi người. Chỉ một lát, vui lắng, hờn bắt đầu dâng cao. Kìa chiếc lá rơi đang bập bềnh trên sóng, rồi nó về đâu... Rượu! Say, nửa đêm hát một bài chia tay với phố, với người đồng hương trẻ, để tiếp tục sự nghiệp... trôi. Nguyên văn Giang hải tương phùng khách hận đa Thu phong diệp há Ðộng Ðình ba Tửu hàm dạ biệt Hoài Âm thị Nguyệt chiếu cao lâu nhất khúc ca. Dịch nghĩa Gặp nhau trên đường lưu lạc, hờn đất khách bao xiết kể Gió thu làm lá rơi xuống sóng hồ Ðộng Ðình Rượu say, ban đêm từ giã phố Hoài Âm Trăng soi lầu cao, cùng hát lên một khúc chia tay. Dịch thơ Gặp quê đất khách, vui, hờn! Kìa trông chiếc lá dập dờn hồ thu... Say rồi, giã phố ban khuya 134


Lầu trăng, ta hát "tay chia" một bài! Bản dịch thơ khác Quê người buồn nỗi gặp nhau đây Sóng rợn hồ thu lá gió bay Ðêm biệt Hoài Âm khi cạn chén Lầu cao, nguyệt rạng, khúc chia tay. (Khuyết danh) Trời bể gặp nhau buồn nỗi khách Động Đình sóng gợn lá thu già Hoài Âm say khước đêm từ biệt Trăng rọi lầu cao một khúc ca. (Trương Việt Linh)

SƠN PHÒNG XUÂN SỰ - Sầm Tham Tưởng tượng cả một cái cơ ngơi không bóng người, chiều tà, quạ kêu quang quác, mà trước sân hoa lại nở tưng bừng! Hoa tươi hơn hớn như làm ủ rũ thêm cảnh điêu tàn! Đọc quạ "lượn" trong thơ, không khỏi nhớ én "liệng" trong thơ. Kim Trọng đi xa lo việc nhà, lo xong trở về: "Vội sang vườn Thúy dò la, Nhìn xem phong cảnh nay đà khác xưa. Đầy đường cỏ mọc, lau thưa, Song trăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời. Trước sau nào thấy bóng người, Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông. Xập xè én liệng lầu không, Cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày. Cuối tường gai góc mọc đầy, 135


Đi về, này những lối này năm xưa. Chung quanh lặng ngắt như tờ, Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?" Hỏi hoa thì hoa "cười", hỏi én thì én "xập xè", hỏi chỗ cuối tường thì tường giương gai góc, thê thảm chàng Kim! Chuyện "vườn Thúy" viết ra trong thế kỷ 17, còn Sầm Tham lên núi thăm vườn Lương trong thế kỷ 8. Cách gần nghìn năm, mà lòng người xúc động giống nhau nhỉ. Biết đâu Sầm Tham cũng vì ai đó, chẳng qua thơ Đường cô đọng, không kể dài như tiểu thuyết Thanh... Nguyên văn Sơn phòng xuân sự Lương viên nhật mộ loạn phi nha Cực mục tiêu điều tam lưỡng gia Ðình thụ bất tri nhân khứ tận Xuân lai hoàn phát cựu thì hoa. Dịch nghĩa Cảnh xuân nơi nhà trên núi Vườn nhà họ Lương chiều tối quạ bay hỗn loạn Đứng đây trông tít đằng xa mới thấy đôi ba nóc nhà xơ xác Cây trong sân (nhà họ Lương) không biết người đã đi hết Xuân về lại nở hoa y như thời nhà còn người ở. Dịch ra thơ Đường luật Tản Đà: 136


Trời tối vườn Lương quạ lượn lờ Nhà đâu vút mắt, nóc lưa thưa. Cây xuân chẳng biết người đi hết, Xuân đến hoa còn nở giống xưa. Ngô Tất Tố: Trời tối, vườn Lương quạ dập dìu, Nhà xa mấy nóc, cảnh đìu hiu. Cây sân chẳng biết người đi hết, Xuân tới, hoa xưa vẫn nở đều. Dịch ra thơ lục bát Trần Trọng Kim: Vườn Lương chiều tối quạ bay, Nẻo xa trông thấy một vài nhà hoang. Cây sân nào biết tang thương, Xuân về lại nở như thường hoa xưa. Thu Tứ: Vườn hoang quạ náo trời chiều Xa trông lác đác đìu hiu mấy nhà Cây vườn nào biết người xa Xuân nay lại nở mùa hoa xuân nào.

HOÀNG HẠC LÂU - Thôi Hiệu Ai đó cưỡi chim bay mất, để lại lầu gợi hứng thơ. Thôi Hiệu lên lầu, ít lâu sau cũng "bay" mất, để lại thơ. Thơ Thôi Hiệu thì không bay đi đâu cả, mà "đậu" mãi trong Đường thi để liên miên gợi hứng dịch thơ!

137


Hoàng Hạc Lâu có lẽ là bài thơ Đường được nhiều người Việt dịch nhất. Sau đây là một số bản dịch từ lâu phổ biến, thêm đôi bản nữa mới ra đời trong thế kỷ 21. Nguyên văn Hoàng Hạc lâu Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản Bạch vân thiên tải không du du Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ Phương thảo thê thê Anh Vũ châu Nhật mộ hương quan hà xứ thị Yên ba giang thượng sử nhân sầu. Dịch nghĩa Lầu Hoàng Hạc Người xưa cưỡi hạc vàng bay đi rồi Đất này nay chỉ còn trơ tòa lầu Hoàng Hạc Hạc vàng một bay không trở lại Mây trắng ngàn năm vẫn thong thả lửng lơ bay Sông tạnh nom rõ hàng cây trên đất Hán Dương Cỏ thơm xanh tốt trên bãi Anh Vũ Chiều xuống, quê nhà không biết ở phương nào Khói sóng trên sông khiến lòng buồn bã. Dịch ra thơ Đường luật Ngô Tất Tố: 138


Người xưa cưỡi hạc đã lên mây, Lầu hạc còn suông với chốn này. Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn, Ngàn năm mây bạc vẩn vơ bay. Vàng gieo bên Hán, ngàn cây hửng, Xanh ngắt châu Anh, lớp cỏ dày. Trời tối quê nhà đâu tá nhỉ? Đầy sông khói sóng gợi niềm tây! Khương Hữu Dụng: Ai cưỡi hạc vàng đi mất hút, Trơ lầu Hoàng Hạc chốn này thôi! Hạc vàng một đã đi đi biệt, Mây trắng ngàn nãm bay chơi vơi. Sông tạnh Hán Dương cây sáng ửng, Cỏ thơm Anh Vũ bãi xanh ngời. Hoàng hôn về đó, quê đâu tá? Khói sóng trên sông não dạ người. Vũ Hoàng Chương: Xưa hạc vàng bay vút bóng người, Nay lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi. Vàng tung cánh hạc đi đi mãi, Trắng một màu mây vạn vạn đời. Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu, Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi. Gần xa, chiều xuống, đâu quê quán? Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi! Lam Giang: Người tiên cưỡi hạc khuất bao giờ, 139


Lầu hạc nơi này dấu vẫn trơ. Hạc cất cánh vàng bay một nước, Mây dãng màn bạc lượn nghìn thu. Hán Dương cây rạng sông quanh khúc, Anh Vũ cồn tươi cỏ ngập bờ. Đâu chốn quê hương trời sẩm tối, Khói vờn sóng nước gợi sầu mơ. Nguyễn Quảng Tuân: Người xưa cưỡi hạc đã bay xa, Hoàng Hạc lầu không vẫn chốn này. Mây trắng ngàn năm lơ lửng mãi, Hạc vàng một tếch khuất trùng ngay. Hàn Dương sông tạnh cây phô sắc, Anh Vũ cồn xa cỏ mọc dày. Chiều muộn quê nhà đâu khuất bóng? Trên sông khói sóng gợi buồn thay. Thanh Tâm Tuyền: Người xưa rong chim hạc đi khuất, Đất cũ để trơ lầu vắng không. Hoàng hạc thuở biệt rồi tuyệt dạng, Mây nghìn kiếp trắng mải bông lông. Tạnh quang cây bến lung linh nắng, Xanh ngát cỏ đồng thiêm thiếp hoang. Xế muộn làng quê nơi nào nhỉ? Mặt sông khói quyện buồn lạ lùng. Đặng Tiến: Hạc vàng người trước cưỡi đi rồi, Lầu trống còn tên Hoàng Hạc thôi. 140


Một thuở hạc vàng không trở lại, Nghìn năm mây trắng vẫn đang trôi. Hán Dương cây đứng soi sông sáng, Anh Vũ cỏ non biếc bãi bồi. Chiều tối quê hương nhìn chẳng thấy, Trên sông khói sóng dạ bồi hồi. Dịch ra thơ lục bát Trần Trọng Kim: Người đi cưỡi hạc từ xưa, Đất này Hoàng Hạc còn lưu một lầu. Hạc vàng đi mất đã lâu, Ngàn năm mây trắng một màu mênh mông. Hán Dương cây bóng lòng sông, Bãi kia Anh Vũ cỏ trông xanh rì. Chiều hôm lai láng lòng quê, Khói bay sóng vỗ ủ ê nỗi sầu. Tản Đà: Hạc vàng ai cưỡi đi đâu? Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ! Hạc vàng đi mất từ xưa, Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay. Hán Dương sông tạnh cây bày, Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non. Quê hương khuất bóng hoàng hôn, Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai? Hải Đà: Người xưa theo cánh hạc vàng, 141


Vút bay thãm thẳm, bẽ bàng lầu thơ. Thoắt đi cánh hạc xa mờ, Mênh mang mây trắng thẫn thờ luyến thương. Cây xanh vờn bãi Hán Dương, Cỏ thơm Anh Vũ lộng hương bốn bề. Chiều buông phủ lạnh bóng quê, Chập chùng khói sóng thảm thê khách sầu. Thu Tứ: Bản 1: Người xưa cưỡi hạc đi rồi, Lầu xưa còn đứng chơi vơi một tòa. Hạc bay đành mãi mãi xa, Nghìn năm mây vẫn trắng lòa tầng không. Mưa ngừng, nom rõ bãi sông: "Ngàn cây thắp nến", bồng bồng cỏ tươi.(1) Quê phương nào hở, chiều ơi? Mịt mờ sông khói chi người ngẩn ngơ. Bản 2: Hạc vàng vút tự bao giờ, Lầu Hoàng Hạc để đứng trơ bến này.(2) Hạc đi, về chẳng hẹn ngày, Nghìn năm mây trắng mơ bay khắp trời. Mưa ngừng, rõ cảnh xinh tươi: Bờ cây chen lá, bãi bồi cỏ lan. Chiều buông, sông khói mơ màng, Lòng ai chợt thắt, bàng hoàng: quê đâu? ___________ (1) "Ngàn cây thắp nến": lời ca khúc Nắng Thủy Tinh của Trịnh Công Sơn.

142


Lý Bạch có bài thơ "Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quản Lăng", tức lầu Hoàng Hạc ở gần một cái bến.

ĐỀ TÂY LÂM BÍCH - Tô Đông Pha Khi đến thăm chùa Tây Lâm ở gần núi Lư, Tô Đông Pha có đề thơ lên vách: Hoành khán thành lĩnh trắc thành phong Viễn cận cao đê các bất đồng Bất thức Lư sơn chân diện mục Chỉ duyên thân tại thử sơn trung. Nghĩa là: Nhìn ngang thành dẫy, nhìn nghiêng thành chỏm Do đứng xa, gần, cao, thấp, mà mỗi nhìn mỗi khác Không biết mặt mũi thật của núi Lư nó thế nào Ấy bởi người nhìn đang đứng ngay trong núi ấy. Tạm diễn ca: Nghiêng hòn ngang rặng, một thôi! Nhỏ to cao thấp, tùy nơi đứng nhìn. Núi mong chi thấy chân hình, Khi ta còn mãi giam mình giữa non... * Thực ra "thân tại thử sơn trung" thì chỉ thấy đất và đá và cỏ và cây..., chứ không thấy núi, nói chi mặt mũi thật của núi. "Cái lớn quá không thấy được".(1) Phải xuống núi, đi đủ xa cho núi nhỏ đủ lại, thì mới bắt đầu thấy. Nhưng khi ấy thấy không phải một, mà vô số mặt mũi. Cứ mỗi chỗ đứng trông, lại thấy một mặt mũi khác của cái được trông! Tất cả đều "chân". Và tất cả đều cục bộ. Vấn đề không phải "chân diện mục", mà toàn diện mục. 143


* Chịu khó đi, để đứng thật nhiều nơi mà trông, là thấy "toàn" chứ gì? Có vô số "quan điểm", đi để đứng cho khắp mà thấy cho đủ các mặt của núi, cần vô lượng thời gian! Hơn nữa, vẫn hoàn toàn vô ích. Bởi óc người không thể tổng hợp hình ảnh. Nói chi vô số, nói chỉ hai thôi. Nói chi núi, nói kiến thôi. Bắt một con kiến, ngắm nghía lưng nó, rồi lật ngửa, ngắm nghía bụng nó. Ta thấy lưng rồi bụng, bụng rồi lưng, chứ ta không thể thấy lưng bụng cùng một lúc. Nếu chụp ảnh, để hai cái ảnh ngay bên cạnh nhau, ta vẫn không thấy con kiến cùng lúc vừa lưng vừa bụng! * Kiến không phải lưng Kiến không phải bụng Thấy cả lưng bụng Mới như nó là! __________ Đạo đức kinh: "Đại âm hy thanh, đại tượng vô hình" (Tiếng lớn quá không nghe thấy được, hình lớn quá không trông thấy được).

ĐĂNG U CHÂU ĐÀI CA - Trần Tử Ngang Đã bé tí teo giữa đất trời, lại ngắn ơi là ngắn trong chiều thứ tư... Cứ khóc thoải mái đi, hỡi hạt bụi phù du. Nguyên văn Đăng U Châu đài ca Tiền bất kiến cổ nhân Hậu bất kiến lai giả Niệm thiên địa chi du du 144


Ðộc sảng nhiên nhi thế hạ. Dịch nghĩa Lên tháp canh trên thành U Châu mà hát Phía trước không thấy người đi trước Phía sau không thấy người đi sau Nghĩ trời đất mênh mông quá Một mình chợt buồn mà rơi nước mắt. Dịch thơ Trần Trọng Kim: Trước chẳng thấy người xưa Sau chẳng thấy ai cả Ngẫm trời đất rộng mênh mông Lòng đau xót, lệ tầm tã. Tương Như: Ngưòi trước chẳng thấy ai Người sau thì chưa thấy Gẫm trời đất thật vô cùng Riêng lòng đau mà lệ chảy. Thu Tứ: Người xưa thì đã tuyệt mù Người sau càng chẳng biết đâu chốc mòng Trời thăm thẳm đất mênh mông Ngẫm thân côi cút đôi dòng lệ tuôn.

145


HOÀI THƯỢNG BIỆT CỐ NHÂN - Trịnh Cốc Chia tay bạn trên sông Hoài, mà lại thấy dương liễu ra hoa trên sông Dương Tử? Sông Hoài có chảy vào sông Dương Tử, vậy chắc "ly đình" tọa lạc nơi ngã ba sông? Sông Tiêu sông Tương thuộc Hồ Nam, còn đất Tần nay là vùng Thiểm Tây, tức một người đi xuống phía nam, còn người kia đi lên phía bắc... À, cái hoa dương liễu đây nó ra thế nào nhỉ? Văn chương Tàu xưa đầy liễu... lá, liễu cành, nhưng dường như rất hiếm khi thấy liễu hoa. Văn chương ta xưa như Kiều, Hoa Tiên cũng có liễu và cũng là lá cành; rồi trong thơ Mới của Thế Lữ, Xuân Diệu cũng chỉ thấy cành và lá liễu... Liễu Hồ Gươm đã bao nhiêu người chụp ảnh, sao không nhớ có thấy ai chụp lúc cây ra hoa? Lên Liên mạng, thử bấm tìm "hoa liễu", trước thấy... bệnh kín, sau mới thấy ảnh những chùm... sâu róm màu đỏ, "dương hoa" thì ra thế... Ngẫu nhiên, lúc cây bắt đầu có "sâu" là lúc mùa xuân sắp... chết. Sẵn buồn biệt ly, thêm buồn vì thứ hoa nở cuối mùa, đôi bạn ngồi thẫn thờ bên nhau không biết bao lâu thì gió sốt ruột, bắt đầu thổi sáo, thổi đi rồi thổi lại, giục: "Có đi đâu th ì đi đi chứ"... Nguyên văn Hoài thượng biệt cố nhân Dương Tử giang đầu dương liễu xuân Dương hoa sầu sát độ giang nhân Sổ thanh phong địch ly đình vãn Quân hướng Tiêu Tương ngã hướng Tần. Dịch nghĩa Chia tay bạn trên sông Hoài Ở bến sông Dương Tử, rặng dương liễu đượm sắc xuân Hoa liễu nở làm khách qua sông buồn muốn chết (vì nở vào cuối xuân) Nhiều lần gió vi vu thổi qua nơi đôi bạn sắp chia tay, báo muộn rồi 146


Anh xuôi về cõi Tiêu Tương, tôi ngược đất Tần. Dịch ra thơ Đường luật Bùi Khánh Đản: Đầu sông Dương Tử liễu dương tươi Qua bến, hoa dương xót dạ người Bóng xế ly đ ình phong địch vẳng Kẻ Tần, người Sở, ngán đôi nơi. Hải Đà: Dương Tử sông dài liễu thắm xuân Hoa dương ủ rũ khách bần thần Ly đình sáo gió chiều vi vút Bạn hướng Tiêu Tương, tớ hướng Tần. Dịch ra thơ lục bát Trần Trọng Kim: Liễu mùa xuân, bến sông Giang, Qua sông ai thấy hoa dương, ngậm ngùi. Gió đưa điệu sáo muộn rồi, Anh sang bến Sở, ta lui cõi Tần. Ngô Tất Tố: Sông Dương dương liễu đua tươi, Hoa dương buồn chết dạ người sang sông. Đình hôm tiếng sáo não nùng, Anh đi bến Sở, tôi trông đường Tần. Thu Tứ: 147


Trường Giang liễu rủ xanh bờ Liễu hoa, xuân tận, thẫn thờ khách qua Vi vu gió giục lìa xa Muộn rồi, nam bắc đôi ta đôi đường!

ĐÀO HOA KHÊ - Trương Húc Hoa đào còn, suối còn, động cũng còn, duy có tiên nữ thì đâu mất! "Nước chảy, huê trôi (...) Cửa động, đầu non, đường lối cũ Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi".(1) Nguyên văn Đào hoa khê Ẩn ẩn phi kiều cách dã yên Thạch cơ tây bạn vấn ngư thuyền Ðào hoa tận nhật tùy lưu thủy Ðộng tại thanh khê hà xứ biên. Dịch nghĩa Suối hoa đào Cầu treo thấp thoáng đằng sau những đám khói đồng Nơi bờ phía tây của ghềnh đá hỏi thuyền chài: Hoa đào suốt ngày trôi theo dòng nước Chẳng hay động ở mé nào của dòng suối trong? Dịch thơ 148


Khương Hữu Dụng: Thấp thoáng cầu treo cách khói đồng Bờ tây ghềnh đá hỏi ngư ông Hoa đào trôi mãi theo dòng nước Ðộng ở bên nào mé suối trong? Thu Tứ: Cầu treo xa khuất khói đồng Bờ tây ghềnh đá hỏi ông thuyền chài Đào hoa theo suối trôi hoài Chẳng hay động ấy mé ngoài mé trong? _________ Trong bài thơ Tống Biệt của Tản Đà.

PHONG KIỀU DẠ BẠC - Trương Kế Đây chắc chắn là một, có lẽ chính là "số một", trong những bài thơ Đường nổi tiếng nhất ở Việt Nam. Trong Đường thi, Trần Trọng Kim nhận xét: "(Phong Kiều Dạ Bạc) hay ở âm điệu, ít khi làm được như thế". Xem lại, tất cả những bài (và những câu) thơ Đường mà chúng ta ưa nhất đều có đặc điểm "hay ở âm điệu", là thứ đặc điểm "ít khi" thấy trong cái tập hợp thơ lừng danh của người Tàu! "Êm tai" là sở trường của thơ Việt.(1) Ta thiên về thứ thơ giàu chất nhạc, nên thỉnh thoảng gặp được bài "như thế" ở đâu, liền mừng rỡ, vui vẻ trầm trồ, ngâm nga. Bài thơ du dương của Trương Kế, về tứ có chi tiết hơi lạ. Nguyễn Quảng Tuân nêu: "Người ta cho rằng nửa đêm không làm gì có tiếng chuông chùa" và giải thích: "nguyệt lạc (...) là cảnh lúc về sáng rồi. Tác giả đi nằm lúc nửa đêm song cứ mơ màng (...) khi chợt tỉnh (...) bị ảo tưởng thời gian nên cho là mới có nửa đêm"(2)... Bất kể đêm xưa chùa Hàn San thỉnh chuông vào giờ nào, tiếng chuông ấy đã ngân nga thật lâu trong thơ! 149


Nguyên văn Phong Kiều dạ bạc Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên Giang phong ngư hỏa đối sầu miên Cô Tô thành ngoại Hàn San tự Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền. Dịch nghĩa Bến đêm Phong Kiều Trăng lặn, quạ kêu, sương đầy trời Một bên là cây bờ sông và đèn câu, một bên là giấc ngủ buồn Từ chùa Hàn San bên ngoài thành Cô Tô Nửa đêm tiếng chuông vọng đến thuyền khách. Dịch ra thơ Đường luật Hải Đà: Tiếng quạ kêu sương bóng nguyệt mờ Cầu Phong đốm lửa giấc sầu mơ Hàn Sơn khuất bãi Cô Tô vắng Đêm điểm hồi chuông khách sững sờ... Thu Tứ: Trăng xế, quạ kêu, sương kín trời Đèn lu, cây tối, ngủ buồn ơi "Nửa đêm" chuông đánh, chùa đâu lạ Tỉnh giấc ai ơi, sắp sáng rồi! 150


Dịch ra thơ lục bát Trần Trọng Kim: Quạ kêu, trăng lặn, sương rơi, Lửa chài, cây bãi, đối người nằm co. Con thuyền đậu bến Cô Tô, Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn. Tản Đà: Trăng tà, tiếng quạ kêu sương, Lửa chài, cây bến sầu vương giấc hồ. Thuyền ai đậu bến Cô Tô, Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San. Thu Tứ: Quạ kêu trăng xế trời sương, Đèn lu cây tối, chập chờn tỉnh mê. Nửa đêm thức giấc nằm nghe, Chùa đâu chuông đánh xa đưa tận thuyền. ____________ (1) Xem bài Thơ Nhạc, Thơ Tranh của TT. NQT, Thơ Đường - Tản Đà dịch, nxb. Trẻ, TPHCM, 1989, tr. 96-98.

NAM HÀNH BIỆT ĐỆ - Vi Thừa Khánh Đây là một bài "chia tay bờ sông" nổi tiếng trong nhiều bài chia tay bờ sông nổi tiếng trong thơ Đường. "Viễn khách" là người ở xa tới chứ không phải người sắp đi xa. Thế là thế nào? Chỉ có hai anh em đang tiễn nhau, viễn khách nào?! Hẳn người anh tưởng tượng vài hôm nữa mình sẽ làm viễn khách (ở nơi bị đi đày) mà cảm thấy buồn nhớ quê khi chưa xa quê... 151


Hoa hình như ít rụng ồn ào như trái. Thường lả tả rơi từng cánh "nhất vô thanh"... Sông có lúc chảy thế, hoa vẫn rơi thế, ai có thấy như chia xẻ lòng ai thì tốt cho ai. Nguyên văn Nam hành biệt đệ Ðạm đạm trường giang thủy Du du viễn khách tình Lạc hoa tương dữ hận Ðáo địa nhất vô thanh. Dịch nghĩa Chia tay em để xuôi nam Nước sông dài trôi lờ đờ Tâm sự người đi xa man mác Hoa rụng như chia xẻ nỗi hờn Chạm đất không một tiếng động. Dịch ra thơ Đường luật Khương Hữu Dụng: Lờ đờ dòng nước chảy Lai láng dạ người đi Hoa rụng như cùng hận Lìa cành không tiếng chi! Dịch ra thơ lục bát 152


Trần Trọng Kim: Êm đềm mặt nước Trường Giang Khách xa luống những ngổn ngang mối tình Hoa rơi dường cũng bất bình Tả tơi xuống đất lặng thinh bùi ngùi. Tương Như: Sông dài nước chảy lênh đênh, Dặm nghìn đất khách mối tình mênh mông. Hoa kia chia mối hận lòng, Lúc rơi tới đất, tuyệt không tiếng gì. Thu Tứ: Êm êm mặt nước sông dài Nhớ nhung man mác lòng người xa quê Hoa rơi thấm cảnh tan lìa Lả bay đáp sẽ như chia cơn sầu.

ĐẰNG VƯƠNG CÁC - Vương Bột Các là gác. Gác có thể rất khiêm tốn, có thể là "gác tía". ĐẰNG VƯƠNG CÁC là cái gác tía của một ông con vua. Trông chốn ở cũ nghĩ đến chủ nhân là đề tài hay gặp trong thơ Đường, thường thì chốn nào đó đã điêu tàn, hóa di tích, nhưng cũng có khi quang cảnh ngược lại. Khi Vương Bột đến thăm, Đằng Vương các vừa được trùng tu: cột chạm bóng bẩy, rèm châu lung linh và chắc trong buổi chiêu đãi tưng bừng của Diêm Công cũng không hề thiếu rất nhiều gái trẻ đẹp múa hát... Thanh sắc phục dựng huy hoàng có tác dụng lạ với văn nhân đa cảm: chuông đồng khánh ngọc đang rộn bên tai lại khiến người ấy nghe được tiếng của những ngày vui qua đã lâu rồi... Bài thơ "Đằng Vương các" nằm ở cuối bài tự "ĐẰNG VƯƠNG CÁC". Trong bài tự có câu này hay được trầm trồ: 153


"Lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thủy cộng tràng thiên nhất sắc", ai đó đã dịch thành: "Cái cò bay với ráng sa Sông thu cùng với trời xa một màu".(1) Từ Đằng Vương đi đến Vương Bột đến, chỉ hai mươi năm. Từ bấy tới nay, một nghiøn mấy trăm năm! Chiều chiều ráng vẫn sa, cò vẫn bay, sông Cám Giang đến mùa thu vẫn xanh như trời... Người lên gác tía hỏi con vua bây giờ ở đâu, bây giờ ở đâu?... Nguyên văn ĐẰNG VƯƠNG CÁC Đằng Vương cao các lâm giang chử, Bội ngọc minh loan bãi ca vũ. Họa đống triêu phi nam phố vân, Châu liêm mộ quyển tây sơn vũ. Nhàn vân đàm ảnh nhật du du, Vật hoán tinh di kỷ độ thu. Các trung đế tử kim hà tại? Hạm ngoại trường giang không tự lưu. Dịch nghĩa Gác Đằng Vương Gác Đằng Vương còn đứng cao ngất bên bãi sông Nhưng thôi rồi những buổi múa hát vang tiếng chuông tiếng ngọc Sớm mây từ bến phía nam bay về vờn quanh cột chạm Chiều cuốn rèm châu, thấy mưa trên núi phía tây 154


Ngày ngày mây lờ lững trôi in bóng xuống đầm Vật đổi sao dời, đến nay đã mấy thu? Người "con vua" trong gác nay đâu rồi? Ngoài hiên, sông dài vẫn miên man chảy. Dịch ra thơ Đường luật Tương Như: Gác Đằng cao ngất bãi sông thu, Ngọc múa vàng reo nay thấy đâu? Nam phố mây mai quanh nóc vẽ, Tây sơn mưa tối, cuốn rèm châu. Đầm nước mây vờn ngày tháng trôi, Mấy phen vật đổi với sao dời. Đằng Vương thuở trước giờ đâu tá? Sông lớn ngoài hiên luống chảy hoài. Dịch ra thơ lục bát Trần Trọng San: Bên sông đây gác Đằng Vương, Múa ca đã hết, ngọc vàng nào ai. Cột rồng Nam phố mây bay, Rèm châu mưa cuốn ngàn Tây sớm chiều. In đầm, mây vẩn vơ trôi, Tang thương vật đổi, sao dời mấy thâu? Đằng vương trong gác giờ đâu? Trường Giang nước vẫn chảy mau mé ngoài. Thu Tứ: Gác ca còn đứng giữa đời 155


Mà người ca múa đã dời vào... mơ Sớm mây về tụ mái xưa Chiều rèm châu cuốn: núi mưa đen rầm Mây trôi lững thững qua đầm Sao dời vật đổi, mấy lần thu sang? Đằng Vương, ới hỡi Đằng Vương! Ngoài kia sông vắng miên man chảy hoài. ____________ Người dịch là Tản Đà?

LƯƠNG CHÂU TỪ - Vương Chi Hoán Thơ Đường có hai bài Lương Châu Từ. Bài thứ nhất của Vương Hàn ("Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi..."). Bài thứ hai là đây, còn có tên là Xuất Tái. Quận Lương Châu thuộc tỉnh Cam Túc, xưa kia là vùng sa mạc biên cương hẻo lánh. Ngọc Môn Quan là một cái cửa ải ở Lương Châu, nằm trên Con Đường Tơ Lụa. Gọi Cửa Ngọc vì đó là nơi ngọc từ phương Tây nhập vào Trung Quốc. Khương là tiếng chỉ chung các sắc dân du mục sinh sống ở miền tây nước Tàu. "Oán dương liễu" là hờn chia tay, vì "người xưa đưa khách đến bến đò hoặc cầu, thường bẻ nhánh liễu (chiết liễu) để tặng biệt".(1) Hai câu đầu bài thơ vẽ cảnh to đến nỗi cả một tòa thành cũng bất quá "mảnh". Hai câu sau chứa tâm sự của một hạt bụi: Buồn lắm sáo ơi, qua khỏi đây là hết xuân rồi! Nguyên văn Lương Châu từ Hoàng Hà viễn thướng bạch vân gian Nhất phiến cô thành vạn nhận san Khương địch hà tu oán dương liễu Xuân phong bất độ Ngọc Môn Quan.

156


Dịch nghĩa Bài từ Lương Châu (2) Xa xa sông Hoàng Hà như lên tận khoảng mây trắng Một tòa thành lẻ loi trên núi cao muôn trượng Sáo Khương thổi chi khúc nhạc hờn chia tay Gió xuân nào có thổi qua ải Ngọc Môn. Dịch ra thơ Đường luật Lê Nguyễn Lưu: Mây trắng mù xa ngọn nước dồn, Cô thành ngàn trượng núi chon von. Sáo Khương thôi chớ hờn dương liễu, Theo gió xuân về tới Ngọc Môn! Thu Tứ: Sông dài xa nhảy lên trắng mây, Thành côi một mảnh bám non đây. Hiu quạnh não nùng thêm sáo thổi, Hỏi có buồn đâu sánh chốn này. Dịch ra thơ song thất lục bát Nguyễn Minh: Sông Hoàng Hà cuối trời mây trắng, Một cổ thành hoang vắng trên non. Sáo Khương dương liễu oán hờn, Gió xuân có tới Ngọc Môn đâu nào.

157


Thu Tứ: Kia sông chảy tận trời mây trắng, Nọ thành côi một mảnh sườn non. Tới đây dạ đã héo hon, Nghe hơi sáo rợ thân còn hồn bay!(3) Dịch ra thơ lục bát Tương Như: Sông vàng, mây trắng liền nhau, Thành côi một mảnh, núi cao tiếp trời. Thổi chi "Chiết liễu", sáo ơi, Gió xuân đâu lọt ra ngoài Ngọc Môn! Bàn Thành Lãng Tử: Hoàng Hà xa thẳm ngàn mây, Thành xưa lẻ bóng, non tây muôn trùng. Cất chi tiếng sáo não nùng, Gió xuân nào thổi qua vùng Ngọc Môn. Thu Tứ: Sông vàng chảy mãi lên mây! Non cao một mảnh thành xây bao giờ... Chân đi sắp tới chơ vơ, Sáo buồn nghe thổi thẫn thờ càng thêm... __________ (1) Theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh. (2) Đây là thơ Đường luật, không hiểu tại sao tác giả đặt tên bài như thế. Chúng tôi dùng chữ "rợ" vì người Tàu xưa có lối hay miệt thị các dân tộc phi Hoa. Đây không, nhưng trong thơ Đường có những bài chứa chữ "man" chữ "di". 158


TẠP THI - Vương Duy Nghe có người cùng quê ra, tìm gặp để hỏi thăm về một... cái cây. Hẳn không phải bởi quý cây hơn quý cha mẹ vợ con anh em, mà bởi người ấy không phải người quen thân, chắc không rõ chuyện nhà mình... Cây hàn mai nhiệt mai gì đấy ai ở ngoài đường nhìn vào cũng thấy? Nhưng có thể người kia không để ý, không nhìn. Tin nhà không, mà tin... cây nhà có thể cũng không. Hỏi có một câu bé tí, lộ cả một nỗi nhớ nhà hơi bị to! Nguyên văn Tạp thi Quân tự cố hương lai Ưng tri cố hương sự Lai nhật ỷ song tiền Hàn mai trước hoa vị. Dịch nghĩa Thơ tạp Bác từ quê ra Hẳn biết việc quê Ngày bác đi, (bên nhà em, chỗ phía) trước cái cửa sổ có giăng màn the Gốc hàn mai đã bắt đầu nở hoa chưa? Dịch ra thơ Đường luật Tương Như : Bác ở quê nhà ra; Việc quê nhà hẳn rõ. 159


Ngày đi, trước song the; Mai nở hay chưa nở? Hải Đà: Từ quê anh mới ra Chắc hẳn biết chuyện nhà Hôm đi bên song cửa Có thấy mai nở hoa? Dịch ra thơ lục bát Trần Trọng Kim: Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa? Thu Tứ: Nghe tin bác ở quê ra Em sang hỏi chút chuyện nhà xem sao Nhà em mé cổng bước vào Gốc mai nay đã nụ nào hay chưa?

TRÚC LÝ QUÁN - Vương Duy Gần năm trăm năm trước đó, đã có bảy ông kéo vô ngồi.(1) "Thất hiền" nghe nói "dô" nhiều, đàn hát dữ, nhưng không thấy để lại thơ thẩn gì về "hoạt động" trong "trúc lâm". Vương Duy cũng vô rừng trúc, một mình, hình như không rượu, "độc tọa" rồi "độc diễn" tưng bừng, rồi làm luôn một bài "độc thi"... Đêm "thâm lâm" xưa chỉ trăng sáng biết. Bây giờ "nhân nhân" đều biết.

160


Nguyên văn Trúc lý quán Ðộc tọa u hoàng lý Ðàn cầm phục trường khiếu Thâm lâm nhân bất tri Minh nguyệt lai tương chiếu. Dịch nghĩa Nhà trong rừng tre (2) Một mình ngồi trong rừng tre thanh vắng Ðánh đàn rồi huýt gió Rừng sâu không ai biết Chỉ có trăng sáng đến soi nhau. Dịch ra thơ Đường luật Tương Như: Một mình trong lùm tre Dạo đàn lại huýt gió Rừng thẳm chẳng ai hay Rọi nhau có trăng tỏ. Trần Trọng San: Một mình trong khóm trúc Gảy đàn rồi hát chơi Rừng sâu không kẻ biết Trăng sáng chiếu lên người.

161


Thu Tứ: Trúc lâm độc nhất hiền! Ngồi gẩy, huýt liên miên Xó rừng chân nào tới Trăng rọi tiểu thần tiên. Dịch ra thơ lục bát Trần Trọng Kim: Một mình giữa đám rừng tre, Ðánh đàn cao hứng hát nghe một bài. Rừng sâu nào có ai hay, Bóng trăng đâu đến chiếu ngay vào mình. Khương Hữu Dụng: Riêng ngồi trong lũy tre xanh Tay đàn miệng huýt một mình mình vui Rừng sâu ai biết là ai Chỉ vầng trăng sáng đến soi bên mình. Nguyễn Lãm Thắng: Trong lùm trúc vắng một mình Dạo đàn, huýt sáo gửi tình vào đêm Rừng sâu ai biết mà tìm Chỉ vầng trăng sáng êm đềm rọi nhau. Nguyễn Tâm Hàn: Một mình bên khóm trúc vàng Bâng khuâng dạo phiếm tình tang giải sầu Giữa rừng nào có ai đâu Chỉ ta và Nguyệt tâm đầu canh khuya. 162


Thu Tứ: Rừng tre thanh vắng ngồi chơi Gẩy đàn tình tính chán rồi lại ca Nơi đây ai biết đâu mà Chỉ ông trăng sáng ngân nga với mình. ____ (1) Tức "Trúc lâm thất hiền" đầu đời Tấn. Có chữ "quán" nghĩa là nhà đạo sĩ ở; có chữ "quán" nghĩa là nhà ở nói chung. Căn cứ vào bản Hán văn trong Đường thi của Trần Trọng Kim thì đây là chữ quán thứ hai.

LƯƠNG CHÂU TỪ - Vương Hàn Chỉ mới nghe trống thúc quân, giờ mới nghe đàn tì bà thúc! Lên đường chưa kịp uống, vậy quắc cần câu là sau khi đã tới nơi sẽ là chiến trường, thấy còn sớm, nên nhậu một chầu? Rượu ngon chén quý, người uống một ông tướng?Tướng say thì "ngọa trướng" cho kín đáo, chớ gục tại chỗ coi chừng "(ba) quân" nó "tiếu" rần trời! "Tướng phong" như vầy, chà, sợ ai nấy hơi khó "hồi" đa... Dù sao, cái hình ảnh chinh nhân lăn quay không phải bởi tay địch đã vào và vĩnh viễn ở lại trong thơ. (Thực ra xưa nay đi nói chung thường cũng nhiều người về chớ đâu tới nỗi hiếm.Cái cớ nêu ra để... lăn đây, e không mấy vững.) Nguyên văn Lương Châu từ Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu 163


Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi. Dịch nghĩa Bài từ làm ở Lương Châu Rượu nho ngon đựng trong thứ chén ban đêm phát sáng Muốn uống thì đã nghe tiếng tỳ bà trên lưng ngựa thúc giục Có say nằm nơi sa trường (1) bạn cũng đừng cười Vì xưa nay ra trận đâu được bao nhiêu người về. Dịch ra thơ Đường luật Trần Quang Trân: Bồ đào rượu ngát chén lưu ly, Toan nhắp, tỳ bà đã giục đi. Say khướt sa trường anh chớ mỉa, Xưa nay chinh chiến mấy ai về? Khương Hữu Dụng: Rượu đào chưa cạn chén lưu ly Toan uống lên yên giục tiếng tỳ Say mẹp sa trường xin chớ giễu Xưa nay ra trận mấy ai về. Thu Tứ: Rượu ngon chén quý mới kề môi Chửa nghiêng, đàn gẩy: kíp đi thôi Túy lúy nằm say, cười chi chứ Quỷ Môn bước đã tới nơi rồi!(2)

164


Dịch ra thơ lục bát Trần Trọng Kim: Rượu nho kèo chén lưu ly, Uống thì trên ngựa tiếng tì giục sôi. Say nằm bãi cát chớ cười, Xưa nay chinh chiến mấy ai đã về. Thu Tứ: Bản 1: Rượu ngon chén quý vừa nâng Kề môi chửa nhắp đã ngân tiếng tỳ Nốc say nằm bãi ngủ khì Ai cười chi kẻ một đi không về... Bản 2 (thời hiện đại, người uống là cấp chỉ huy): Mác-ten rót cốc pha-lê Cụng chưa kịp uống, "... lên xe", lính mời Dô! Dô! Cấm đứa nào cười Mai giao chiến biết còn đời hay không!... Bản 3 (thời hiện đại, người uống là chiến sĩ): Gò Đen còn nửa bi-đông Mở chưa kịp uống, "Tập trung!" vang trời Biết đâu mai sớm xong đời Tối nay xài hết, miễn cười, anh em! ___________ (1) "Sa trường" có hai nghĩa: bãi cát và chiến trường, ở đây không biết nghĩa nào. Thơ xưa (không nhớ tên bài) có câu: "Quỷ Môn quan! Quỷ Môn quan! Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn!", nghĩa là: "(...) Mười người ra đi, chỉ một người trở 165


về!". Nguyễn Du cũng có bài thơ chữ Hán nhan đề "Quỷ Môn quan", đề vịnh một chỗ núi non hiểm trở thuộc tỉnh Lạng Sơn.

VỌNG PHU THẠCH - Vương Kiến Trần Trọng Kim cho biết bên Tàu có hai hòn "Đá Ngóng Chồng"; trong bài thơ Vương Kiến là hòn ở Bắc Sơn gần thành Vũ Xương trên bờ sông Dương Tử. Chỉ hai thôi sao? Nước ta nhỏ hơn nước Tàu nhiều mà có ít nhất năm. Ngoài "Nàng Tô Thị" nổi tiếng ở Đồng Đăng (Lạng Sơn), còn có những nàng trên đỉnh núi Bà (Bình Định), đỉnh núi M'drak (Đắk Lắk), đỉnh núi Nhồi (Thanh Hóa) và bên bờ khe Giai (Nghệ An). "Nàng Khe Giai" cũng đã vào ca dao: Ngước mắt nhìn sang Ðá vọng phu ôm con trán ướt Mắt đăm đăm nhìn nước sông Giai...(1) Ngoài ra, ở Việt Nam còn có một "Hòn Vọng Phu" không đứng trên đỉnh núi hay bờ sông nào, mà sừng sững trong nhạc Lê Thương: Bao nhiêu năm bồng con đứng đợi chồng về (...) Người mong chồng còn đứng muôn năm... Nguyên văn Vọng phu thạch Vọng phu xứ Giang du du Hóa vi thạch Bất hồi đầu Sơn đầu nhật nhật phong hòa vũ Hành nhân qui lai thạch ưng ngữ. 166


Dịch nghĩa Đá ngóng chồng Đây là chỗ đứng ngóng chồng Kìa sông mênh mang Ai hóa đá Không ngoái đầu Đỉnh núi ngày ngày gió quyện mưa Người đi về đến, đá mới mở miệng. Dịch ra thơ cổ phong như nguyên tác Trần Trọng Kim: Chỗ vọng phu, Sông chảy mau. Hóa ra đá, Không ngoảnh đầu. Ngày ngày đỉnh núi mưa cùng khói, Người đi có về, đá mới nói. Nguyễn Bích Ngô: Chỗ mong chồng, Ở bên sông. Hóa ra đá, Không ngoảnh trông. Ðỉnh núi gió mưa ngày tắm gội, Chồng đá có về đá mới nói. Dịch ra thơ lục bát

167


Thu Tứ: Bản 1: Mênh mang sông nước đầu non, Ðợi chồng người đứng hóa hòn đá trơ. Trải bao năm tháng gió mưa, Thân mòn, dạ đá vẫn mơ "lại" người!(2) Bản 2: Mênh mang sông nước người xa, Trơ trơ đầu núi ai ra đón chồng. Gió mưa mưa gió mặc lòng, Ai chưa về đến ai còn đứng đây... ________ (1) Nguồn: trang vi.wikipedia.org. (2) Như bánh chưng lại gạo!

VỌNG TRƯỜNG DỤNG - Vương Xương Linh "Ngư, tiều, canh, mục", trong thơ Đường ngư hay gặp nhất. Tại sao? Gần như toàn "ngư ông". "Ông" để nhấn mạnh tuổi tác, không phải "phủ" có thể là thanh niên. Bắt cá nhiều cách. Hợp với "ông" nhất là cách "thùy luân", tức buông dây. Bến sông chiều, một người tóc trắng ngồi buông dây bất động như một cái tượng gắn ở đấy từ không biết đời nào! Nguyên văn Vọng Trường Dụng Kai môn vọng Trường Dụng Bạc mộ kiến ngư giả 168


Tá vấn bạch đầu ông Thùy luân kỷ thế giã. Dịch nghĩa Trông về Trường Dụng Mở cửa trông về Trường Dụng Chiều hôm dưới bến có người câu cá Thử hỏi ông già tóc trắng ấy Buông dây nay đã mấy đời rồi? Dịch ra thơ Đường luật Trần Trọng Kim: Mở cửa trông Trường Dụng, Chiều hôm thấy chài cá. Hỏi thử ông bạc đầu, Buông câu mấy đời tá? Khương Hữu Dụng: Mở cửa trông Trường Dụng, Chiều hôm thấy lão chài. Nhắn hỏi ông đầu bạc: Buông câu đã mấy đời? Dịch ra thơ lục bát Thu Tứ: Chiều tà xô cửa ngắm sông Bên bờ thấy có một ông thuyền chài 169


Hỡi ông tóc bạc râu phai Cần ông buông đã dư vài kiếp chưa?

Tái hạ khúc - Vương Xương Linh Hoàng hôn cuối thu, một người một ngựa bên bờ một con sông nước lạnh buốt. Gió ù ù, rét như cắt tận xương. Nơi đây từng xẩy ra chiến sự cực kỳ ác liệt. Trong nắng le lói sắp tắt, người đứng chợt như trông thấy cờ bay phấp phới, hàng hàng lớp lớp chiến sĩ cầm gươm giáo xông lên... Có ai đâu! Chỉ xương trắng la liệt ngổn ngang giữa những bụi cỏ bồng. Nguyên văn Tái hạ khúc Ẩm mã độ thu thủy Thủy hàn phong tự đao Bình sa nhật vị một Ảm ảm kiến Lâm Thao Tích nhật Trường Thành chiến Hàm ngôn ý khí cao Hoàng trần túc kim cổ Bạch cốt loạn bồng hao. Dịch nghĩa Khúc hát làm dưới ải Cho ngựa uống nước ở bến sông mùa thu Nước lạnh buốt, gió rét như dao cắt Nắng chưa tắt hẳn trên bãi cát phẳng Mờ mờ còn thấy Lâm Thao 170


Ngày trước đánh nhau ở Trường Thành Ai cũng nói tinh thần quân lính rất cao Nơi đây xưa nay vẫn hay là chiến trường (1) Xương trắng còn ngổn ngang giữa cỏ bồng, cỏ hao. Dịch ra thơ cổ phong như nguyên tác Nguyễn Bích Ngô: Nước thu ngựa lội uống Nước buốt, gió như dao Bóng tà trên bãi cát Thấp thoáng thấy Lâm Thao Trận Trường Thành ngày trước Đều khoe ý khí cao Bụi vàng đủ kim cổ Xương tàn trắng cói lau. Dịch ra thơ song thất lục bát Trần Trọng Kim: Cho ngựa uống nước thu ở bến, Nước lạnh lùng, gió bén như dao. Mặt bằng bãi cát, bóng chiều, Nẻo xa trông thấy Lâm Thao mập mờ. Trận Trường Thành phất cờ ngày nọ, Ý khí cao, đâu có nhường ai. Bụi hoàng trần, đủ xưa nay, Xương khô lẫn với cỏ cây đã nhiều. Dịch ra thơ lục bát

171


Thu Tứ: Nước thu ngựa uống tê răng, Ù ù gió thổi, một sông rét đầy! Kìa như phấp phới cờ bay, Kìa như gươm dáo quanh đây hàng hàng! Một thời chiến sĩ già gan, Một thời xương trắng ngổn ngang bụi bờ... __________ "Hoàng trần" có nghĩa bóng là chiến trường. Câu này chúng tôi dịch nghĩa như vậy chẳng biết có ổn hay không. Nguồn http://chimvie3.free.fr/tacgia/thutu.htm Xin cám ơn tác giả THU TỨ TL chỉ edit lại cho dễ đọc, tìm kiếm. (mang tính cá nhân)

172


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.