THU TỨ TOÀN TẬP Nhìn và Thấy.............................................................................................................................. 2 Một cách hiểu Đức ..................................................................................................................... 6 Văn hóa và số lượng từ .............................................................................................................. 9 Trời Đông, trời Tây .................................................................................................................. 12 Nhìn sao nói vậy ...................................................................................................................... 17 Chữ viết và nghĩ ngợi............................................................................................................... 22 Giới hạn của khoa học ............................................................................................................. 23 Tổng quan về nghệ thuật .......................................................................................................... 26 Nghĩ về lịch sử (1) ................................................................................................................... 31 Nghĩ về lịch sử (2) ................................................................................................................... 35 Nghĩ về lịch sử (3) ................................................................................................................... 38 Nghĩ về lịch sử (4) ................................................................................................................... 41 Nghĩ về lịch sử (5) ................................................................................................................... 43 Nghĩ về lịch sử (6) ................................................................................................................... 44 Nghĩ về lịch sử (7) ................................................................................................................... 46 Nghĩ về con người (1) .............................................................................................................. 47 Nghĩ về con người (2) .............................................................................................................. 48 Tết, nhớ Tết .............................................................................................................................. 48 Nguyễn Hiến Lê - Tưởng vọng Bắc......................................................................................... 52 Chinh phụ ngâm khúc .............................................................................................................. 69 Huy Cận - Tuyển 1 ................................................................................................................... 90 Nguyễn Khuyến ..................................................................................................................... 104 Nguyễn Công Trứ .................................................................................................................. 119 Huy Cận - Cảm xúc không gian ............................................................................................. 137 Nguyễn Gia Thiều .................................................................................................................. 144 Sự ngóng trông bất tận ........................................................................................................... 161 Trịnh Công Sơn - Ca từ.......................................................................................................... 163 Hàn Mặc Tử - Lãng mạn siêu hình ........................................................................................ 176 Bà Huyện Thanh Quan........................................................................................................... 186
1
Nhìn và Thấy 1. Nhìn, thì thấy. Nhưng ngửi, nếm, nghe, sờ, cũng đều thấy cả. 2. Tạm gọi cái ta thấy, bất kể bằng giác quan nào, hay tổng hợp những giác quan nào, là hình ảnh. 3. Do giác quan của ta có giới hạn, mà ta không thể thấy bất cứ cái gì như nó là. 4. Giác quan của mỗi loài mỗi khác, nhưng trong từng loài thì giác quan giống nhau: nhìn quả xoài, toàn thể nhân loại thấy một hình ảnh, toàn thể loài dơi thấy một hình ảnh khác. THẤY VÀ CẢM 5. Hình ảnh có thể gây ấn tượng, có thể không. 6. Ấn tượng là cảm giác của tâm hồn: hình ảnh một quả xoài có thể gây cảm giác thèm, hình ảnh một ruộng lúa có thể gây cảm giác quen thuộc, hình ảnh một người nghèo có thể gây cảm giác thương hại.(1) 7. Mỗi con người một tâm hồn, do đó một ấn tượng riêng về cùng một hình ảnh. 8. Có thể mỗi nhóm lớn của nhân loại là một tập hợp những tâm hồn tương đối giống nhau. CẢM VÀ BIẾT 9. Ấn tượng có thể là cảm giác thắc mắc. 10. Thắc mắc sinh nghĩ ngợi. 11. Nghĩ ngợi là hoạt động của cái mà ta quen gọi là trí óc. 12. Nghĩ có thể dẫn đến giải đáp, tạm gọi là biết.(2) 13. Do trí óc có giới hạn, tầm biết cũng giới hạn. 14. Do trí óc của mỗi người mỗi khác, mà có vô số tầm biết. TƯỞNG TƯỢNG 15. Ngoài nghĩ ngợi, trí óc còn có một hoạt động khác, là tưởng tượng. 2
16. Hoặc ta nghe người khác kể, đọc người khác viết, rồi ta tưởng tượng. 17. Hoặc ta dưng không tưởng tượng. 18. Bất kể có xuất phát từ người khác hay không, cái ta tưởng tượng ra sau đó bèn trở nên đối tượng cho tâm hồn và trí óc ta. 19. Nghĩa là tâm hồn và trí óc không chỉ làm việc với những hình ảnh do giác quan cung cấp, mà còn làm việc với những cái mà trí óc tưởng tượng ra. TRỰC GIÁC VÀ SUY LUẬN 20. Nghĩ có hai loại, là trực giác và suy luận. 21. Trực giác là thứ nghĩ không giảng được, cả với chính người nghĩ. Suy luận là thứ nghĩ có thể giảng được. 22. Mỗi con người có một tỉ lệ trực giác / suy luận khác nhau. 23. Có thể mỗi nhóm lớn của nhân loại là một tập hợp những tỉ lệ trực giác / suy luận tương đối giống nhau. CẢM TÍNH VÀ LÝ TÍNH 24. Có người có rất nhiều đủ loại ấn tượng, nhưng rất ít ấn tượng thắc mắc. Tạm gọi như thế là người nặng cảm tính. 25. Có người có rất ít ấn tượng nói chung, nhưng lại phong phú ấn tượng thắc mắc. Tạm gọi như thế là người nặng lý tính. 26. Có phải hễ nặng cảm tính thì khi thắc mắc sẽ dựa nhiều vào trực giác để giải đáp hay không? 27. Có phải hễ nặng lý tính thì khi thắc mắc sẽ dựa nhiều vào suy luận để giải đáp hay không? 28. Có thể mỗi nhóm lớn của nhân loại là một tập hợp những tỉ lệ cảm / lý tương đối giống nhau. SỰ THẬT: TIẾP THU VÀ SÁNG TẠO 29. Tiếp thu là hiểu cái nghĩ của người khác. 3
30. Sáng tạo là tự mình đi đến một cái biết nào đó. 31. Lương tri là cái giúp ta nghĩ trong giới hạn “phải chăng”. 32. Khi tiếp thu, lương tri giúp ta đánh giá mức độ phải chăng trong cái nghĩ của người khác. 33. Khi sáng tạo, lương tri giúp chính ta tránh những ý nghĩ quá viển vông. 34. Sáng tạo có thể xuất phát từ bên ngoài, tức từ một cảm giác thắc mắc. Thắc mắc có thể mang dạng lý thuyết: Thế là thế nào? hoặc dạng thực tế: Có thể nghĩ ra cách gì / cái gì để làm việc ấy chăng? Có thể dùng cách ấy / cái ấy vào việc gì chăng? 35. Sáng tạo cũng có thể xuất phát từ bên trong. Chẳng hạn trường hợp toán học thuần túy. 36. Có phải khi sáng tạo xuất phát từ bên trong, thì lương tri không có vai trò? CÁI ÐẸP: CẢM XÚC VÀ SÁNG TẠO 37. Hình ảnh có thể gây ấn tượng đẹp/xấu. 38. Ðẹp không định nghĩa được, nhưng rõ ràng có người nhạy cảm với nó, có người không. 39. Nhạy cảm với cái đẹp nói nôm na là biết đẹp. 40. Biết đẹp là do ở tâm hồn. 41. Làm ra cái đẹp chỉ cần tâm hồn. 42. Cũng như cái nghĩ có thể bắt đầu từ trong chính trí óc, quá trình sáng tạo nghệ thuật cũng có thể bắt đầu từ trong chính tâm hồn, từ một tâm trạng tự phát. THIÊN BẨM VÀ KINH NGHIỆM 43. Giác quan, tâm hồn, trí óc đều do trời sinh, do đó không thể cải tiến, chỉ có thể vận dụng. 44. Kinh nghiệm không ảnh hưởng đến ghi nhận của giác quan: ta có nhìn xoài đến lần thứ một nghìn thì hình ảnh xoài cũng không hề khác. 4
45. Kinh nghiệm có ảnh hưởng đến cảm giác của tâm hồn: lần thứ nhất thấy xoài, do chưa ăn bao giờ, ta không có ấn tượng gì cả; lần thứ hai thấy, sau khi đã ăn thử, ta có thể thèm. Cũng thế, cùng bức tranh ấy, mười năm trước ta thấy đẹp, nay ta có thể thấy không đẹp. 46. Kinh nghiệm có ảnh hưởng đến hoạt động của trí óc. HỮU HÌNH VÀ SIÊU HÌNH 47. Hữu hình là thấy được bằng giác quan hoặc bằng dụng cụ.(3) 48. Màu đỏ hữu hình vì mắt ta thấy được. Màu hồng ngoại cũng hữu hình vì dụng cụ của ta phát hiện được. 49. Thế giới hữu hình luôn luôn mở rộng. 50. Siêu hình là không thấy được, bất chấp dụng cụ. 51. Dù đã thấy bao nhiêu, ta cũng không biết được còn bao nhiêu cái chưa thấy. 52. Hữu hình có thể gây ấn tượng. Siêu hình cũng có thể gây ấn tượng: ta không thấy ma, nhưng vẫn sợ ma, thắc mắc về ma. CỤ THỂ VÀ TRỪU TƯỢNG 53. Cụ thể liên hệ với giác quan. Cụ thể là hữu hình. 54. Trừu tượng liên hệ với tâm hồn, với trí óc. 55. Mọi ấn tượng, mọi tâm trạng đều trừu tượng. 56. Mọi khái niệm, mọi suy nghĩ đều trừu tượng. 57. Trừu tượng khác siêu hình ở chỗ trừu tượng ở trong ta, còn siêu hình ở ngoài ta. 58. Cảm giác vui, buồn, khái niệm khoa học rõ ràng ở trong ta. Nhưng ma quỷ, chẳng hạn, thực ra là ở trong ta (do ta tưởng tượng ra), hay ở ngoài ta (có thực, duy ta không thấy)? 59. Có thể nói vì mọi người đều “tự nhiên” có ý niệm về ma quỷ mà ma quỷ là có thực, hay không? 5
ÐỐI TƯỢNG VÀ CÁCH TIẾP CẬN 60. Có ba loại đối tượng: loại hữu hình, loại siêu hình, loại trừu tượng. 61. Có hai cách tiếp cận chính. 62. Cách thứ nhất chỉ vận dụng tâm hồn. Cách này dẫn đến nghệ thuật. Ví dụ: tranh cảnh vật (đối tượng hữu hình), tranh trừu tượng (đối tượng trừu tượng), nhạc thờ (đối tượng siêu hình). 63. Cách tiếp cận thứ hai chỉ vận dụng trí óc. Cách này dẫn đến triết, toán, khoa học. Ví dụ: triết vũ trụ (đối tượng siêu hình), triết nhân sinh (đối tượng trừu tượng), định lý toán học (đối tượng trừu tượng), nguyên lý khoa học (đối tượng hữu hình). 64. Có khi thoạt tiên ta chỉ tiếp cận bằng trí óc, sau đó tiếp cận bằng cả trí óc lẫn tâm hồn. Ví dụ: thơ chứa nghĩ ngợi.
(Thu Tứ, Tìm tòi và suy nghĩ, nxb. Của Tin, Mỹ, 2005)
______________ (1) Từ “cảm giác” trong tiếng Tàu có nghĩa là “cảm biết do ngũ quan”, nhưng trong tiếng Việt nó có nghĩa rộng hơn, bao gồm cả cái cảm của tâm hồn. Từ “tâm hồn” thường liên hệ với tinh thần, nhưng dường như ta cũng dùng nó trong những trường hợp không liên hệ với tinh thần. Chẳng hạn ta vẫn nói: “Chị ấy có tâm hồn thực tế”. Thậm chí ta còn nói: “Anh ấy quả có tâm hồn ăn uống”! (2) Thấy, có cái thấy bằng mắt, có cái thấy bằng mũi, bằng tai, bằng da, bằng lưỡi. Biết, cũng có cái biết bao quát, cái biết cục bộ. Vậy trí óc cũng chia thành “mắt”, “mũi”, “tai” v.v.?! Dường như ngay tâm hồn cũng chia... (3) Những cái có thực nhưng chỉ thấy được bằng dụng cụ, ta quen gọi là vô hình. Ở đây định nghĩa “hữu hình” gồm cả những cái ấy. Tức xem dụng cụ như giác quan mới hoặc giác quan nối dài. Một cách hiểu Đức Lão Tử bảo: “Đạo sinh, Đức dưỡng”. Có Ðức nuôi, hẳn không sợ chết. Con cầy ở Tây được quý, không bị biến thành bảy món khi còn tơ, nhưng cũng chỉ mười mấy năm là... từ trần. Ðức ở đâu? Mặt Trời huy hoàng chói lọi khoảng mười mấy tỉ năm rồi cũng tắt. Ðức ở đâu? Rõ ràng mọi vật lớn bé đều có tuổi thọ giới 6
hạn, hoặc ngắn hoặc dài. Toan trách Đức. Ngẫm lại, thấy nên tự trách mình hiểu quá hẹp chữ “nuôi”. Nuôi đâu có nhất thiết là nuôi sống. Thử hiểu Ðức là cái sức đẩy nội tại đằng sau mỗi vòng sinh diệt. Ðức khiến Ðạo sinh vạn vật, rồi Ðức đẩy từng vật theo hướng ly căn, khiến vật mỗi lúc mỗi thêm xa Ðạo. Nhưng đến lúc nào đó, Ðức sẽ bắt đầu đẩy vật theo hướng ngược lại để vật qui căn, về Ðạo. Phải như vậy, chứ không thì tại sao vật nào rồi cũng về?! Hiểu thế thì Đức nuôi đây là nuôi sự vận động chu kỳ. Ðức cụ thể là gì? Ở mỗi vật, Ðức biểu hiện mỗi khác. Nếu xem cả loài người là một “vật”, Đức có thể là cái khuynh hướng luôn luôn tìm cách cải thiện điều kiện vật chất. Chưa tới mức nào đó thì cải thiện vật chất giúp loài người sinh tồn tốt hơn. Vượt quá mức đó, cải thiện giúp loài người mau trở về Đạo. Nhân loại bây giờ có thể chết dữ dội trong một cơn mưa bom nguyên tử. Hoặc chết hỗn loạn khi môi trường đại biến do hoạt động kỹ nghệ. Hoặc chết êm ái khi trở nên đồng tính hàng loạt (vì như vậy thì đâu còn là người như ta biết nữa)… Sự ngóng trông bất tận (2005) Từ Ðấng Tối Cao... Người Tây phương vốn tin có một Thượng Ðế vĩnh cửu, toàn năng. Niềm tin ấy khiến họ có xu hướng hành trình. Làm chiên Chúa là hành trình lên nước Chúa. Ði mất một đời người, nên trong khi đi cũng cần chút đỉnh tiện nghi. Ðế quốc La-mã sụp đổ (năm 410) kéo sụp theo hầu hết những thành quả vật chất đã xây dựng được, làm cuộc sống ở Âu châu trở lại man rợ. Nhân dân bắt đầu sốt ruột. Ðành lên trời sướng, nhưng liệu trước khi lên có phải khổ thế này chăng? Sau hàng nghìn năm chịu đựng, trăn trở, rốt cục vỡ ra cuộc cải cách Tin Lành (năm 1520). Cải cách xong, Thiên Ðàng tuy vẫn ở trên trời nhưng những cố gắng cải thiện điều kiện vật chất dưới đất cũng được xem là có giá trị “cứu rỗi”. 7
Khoảng cuối thế kỷ 16, khoa học ra đời. Khoa học giúp liên tục khám phá các luật tự nhiên, nhờ đó điều kiện vật chất bắt đầu cải thiện nhanh chưa từng thấy. Vật chất càng cải thiện, con người càng lưu luyến trần gian. Hạnh phúc tạm bợ bắt đầu trở thành ám ảnh, bắt đầu che khuất Thiên Ðàng... Nhưng cho đến tận cuối thế kỷ 19, người Tây phương nói chung vẫn còn giữ được trọn niềm tin nơi Ðấng Tối Cao. Và chưa xẩy ra sự chia rẽ đáng kể nào giữa đông đảo nhân dân và thiểu số các nhà khoa học. Dầu là nhà bác học lừng lẫy bậc nhất, thì điển hình vẫn tin Chúa.
Ðến Luật Tối Hậu và Thiên Ðàng Hạ Giới Bước qua thế kỷ 20, một thứ giáo lý mở rộng mau chóng thay thế nội dung nguyên thủy của truyền thống Do-thái - Ki-tô. Albert Einstein có lần tâm sự: “Nếu có điều gì có thể gọi được là tôn giáo ở tôi, thì đấy là sự vô cùng ngưỡng mộ cái cấu trúc (kỳ diệu) của vũ trụ mà khoa học đang khám phá...”(1) Lần khác, hồi đáp chất vấn của một chức sắc quan trọng trong Do-thái giáo, Einstein viết rõ hơn: “Tôi tin vào Thượng Ðế (...) (như) là đấng tự biểu hiện qua cái vũ trụ hài hòa trật tự này, chứ không tin vào thứ Thượng Ðế quan tâm đến số phận và hành động của loài người.”(2) Tức đối với Einstein, Thượng Ðế là luật tự nhiên cao nhất, chứ không phải là Người. Bây giờ ở Tây phương, các nhà khoa học tin Luật Tối Hậu chứ không tin Chúa. Còn quảng đại quần chúng tuy vẫn xưng chiên, nhưng thực ra không mấy quan tâm đến cõi Vĩnh Phúc nữa mà tập trung hầu hết chú ý vào cái Thiên Ðàng Hạ Giới mỗi ngày mỗi thêm tiện nghi nhờ liên tục ứng dụng những khám phá của khoa học. Trước sau vẫn là sự ngóng trông bất tận Nước Chúa dĩ nhiên xa, vì chết may ra mới lên tới được. Luật Tối Hậu cũng không hề gần, vì chẳng biết mấy tỉ thế hệ khoa học gia nữa mới sờ được nó. Mà hễ chưa biết Luật, thì Thiên Ðàng Hạ Giới vẫn chưa hoàn 8
hảo, vẫn còn thiếu, còn chờ, còn ngóng những cái máy “không thể tối tân hơn”. Xưa ngóng Chúa nay ngóng Luật ngóng Máy, nhưng vẫn cùng là một sự ngóng trông bất tận! Người Tây phương quen ngóng nên chẳng thấy sao cả, nhưng có người ở phương khác không quen, lấy làm ngẫm nghĩ, rồi thấy trong thái độ sống kia “có điều gì bi thảm”.(3) Vũ trụ, sao không xem nó như hoa thơm bướm đẹp mà miên man ngửi nó ngắm nó? Sao cứ phải xem nó là một bí mật cần vận hết sức óc giải cho ra, nhỉ?(4)
9-2004 (In trong Tìm tòi và suy nghĩ, 2005) _____________ (1) Michio Kaku, Einstein”s Cosmos, Norton, Mỹ, 2004, tr. 128-129. (2) Ronald W. Clark, Einstein: The Life and Times, Harper-Collins, Mỹ, 1999, tr. 502. (3) Xem bài Hy Vọng Là Trở Lực của Thích Nhất Hạnh, đăng trên trang gocnhin.net. (4) Khoa học giúp tăng tuổi thọ của nhân loại ư? Chớ cả tin. Nó là con dao hai lưỡi đấy. Có thể lúc nào đó nó sẽ cắt ta chết tươi. Cũng có thể nó đang cắt từ từ mà ta chưa biết! Văn hóa và số lượng từ Ôn lại cách chia từ mới Văn hóa mới làm tăng số từ Văn hóa mới làm giảm số từ * Ôn lại cách chia từ mới Về việc chia từ tiếng Việt, chúng tôi đã đề xuất cách chia mới như sau: (1) - Từ cụ tượng vô cảm gọi tên "cái" mà ngũ quan cảm được. Ví dụ: chim, bay, trời, cao, xanh; đưa, nhận, vắng, đông; quàng, ôm, hôn. Nhiều từ trong loại này, nhất là những từ "nguyên thủy", có lẽ vốn chứa cảm giác: tổ tiên ta có lẽ đã cảm giác sao đó khi đặt ra từ "bay", chẳng hạn. Tuy nhiên, ở đây cảm giác nếu có thì cũng đã trở nên quá mơ hồ, nên coi như không có. Càng về sau, từ cụ tượng vô cảm nói chung càng chỉ có nghĩa theo qui ước: cái vật mới ấy gọi nó là máy xát, 9
thế thôi. Dĩ nhiên những từ gốc tiếng nước ngoài, như bộ đàm, vi-rút, thì không thể chứa một chút cảm giác nào! - Từ cụ tượng hữu cảm gợi trạng thái của cái mà ngũ quan cảm được. Trạng thái của bất cứ cái gì cũng đều chẳng qua là cảm giác hay cảm xúc của chính ta về nó! Ví dụ cảm giác: ánh ỏi, bì bõm, chan chát, dập dềnh, đành đạch, eng éc, ề à, gập ghềnh, hùng hục, inh ỏi, khập khiễng, lả lay, mon men, ngào ngạt, nhấp nhô, òng ọc, phấp phới, quàng quạc, róc rách, sùng sục, tí tách, ủn ỉn, vi vu, xoang xoảng, yên ắng. Ví dụ cảm xúc: êm đềm (phong cảnh), nao nao ("dòng nước uốn quanh"), dàu dàu ("ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh"), sè sè ("nấm đất bên đàng"), yên ả. Tuy cảm xúc thì trừu tượng, nhưng vì đây được qui thành trạng thái của cái ta nhìn, nên hóa cụ tượng! - Từ trừu tượng khái niệm gọi tên hay gợi sản phẩm của trí óc. Ví dụ: từ "chim, bay, trời, cao, xanh", trí óc rút ra khái niệm sinh vật, chuyển động, không gian, vị trí, màu sắc; từ "đưa, nhận", rút ra khái niệm mua bán, từ "vắng, đông" rút ra ế ẩm, đắt hàng; từ "quàng, ôm, hôn" rút ra khái niệm thân, thương, yêu. Từ trừu tượng khái niệm như vậy gồm ít nhất ba nhóm: khái niệm tư duy, khái niệm sinh hoạt, khái niệm tình cảm. Để ý, rất thường, cùng một từ mà khi này là cụ tượng vô cảm, khi khác lại là trừu tượng khái niệm: trong "nhận gói lòng (lợn)", thì nhận và lòng là "cụ", nhưng trong "nhận tấm lòng" thì cả hai lại là "trừu"! - Từ trừu tượng cảm xúc gợi cảm xúc hay tâm trạng. Ví dụ: áy náy, băn khoăn, bần thần, bâng khuâng, bẽ bàng, bịn rịn, bồi hồi, bồn chồn, bủn rủn, bứt rứt, canh cánh, chống chếnh, dằn vặt, đau đáu, e ấp, hằn học, hụt hẫng, hững hờ, khao khát, lâng lâng, mê mẩn, ngại ngùng, ngẩn ngơ, ngỡ ngàng, phơi phới, rạo rực, se sắt, thẫn thờ, thổn thức, trăn trở, xao xuyến, xốn xang. Cùng một từ trừu tượng, có khi là khái niệm, có khi là cảm xúc: chẳng hạn, cùng "yêu", nhưng trong "trai gái yêu nhau" nó gợi một khái niệm, còn trong "anh yêu em" nó lại gợi một cảm xúc. Khi đưa ra những ví dụ trên, chúng tôi cố ý chọn gần toàn những từ Việt bản địa. Trong quá trình tiếp xúc lâu dài với người Tàu, chúng ta đã nhập vào và Việt hóa đi rất nhiều từ Tàu, làm giàu thêm cho tiếng ta. Văn hóa mới làm tăng số từ Ảnh hưởng của văn hóa vật chất mới Văn hóa vật chất mới là công nghệ. Công nghệ tiến bộ vừa làm tăng số vật nhân tạo vừa làm tăng số vật hay hiện tượng tự nhiên mà ta quan sát được. Hễ có, hay thấy, cái mới, loài người liền 10
đặt ra từ mới để chỉ nó và chỉ những đặc điểm, những lối hoạt động, vận hành độc đáo của nó. Do công nghệ đang tiến bộ rất nhanh, số lượng từ cụ thể vô cảm cũng đang tăng lên rất nhanh. Hầu hết những từ cụ thể vô cảm mới trong tiếng Việt là từ dịch hay phiên âm tiếng Tây phương. Có khi ta dịch từ Tàu mà người Tàu đặt ra để dịch tiếng Tây. Nhiều khi, ta nhập từ Tàu luôn không dịch! Ví dụ: "bàn phím" dịch keyboard, "vi-rút" phiên âm virus, "xe hơi" dịch khí xa, "vi tính" nhập thẳng từ của Tàu. Cái mới cũng làm nẩy sinh từ cụ thể hữu cảm chứa cảm giác. Những từ này điển hình do người Việt Nam tự cảm giác mà đặt ra. Ví dụ: nghe xe lửa chạy, ta đặt ra từ "xình xịch". Ảnh hưởng của văn hóa tinh thần mới Văn hóa tinh thần bây giờ chủ yếu là khoa học và cách tổ chức xã hội (gồm cả chính trị và kinh tế). Khoa học tiến bộ nhanh và cách tổ chức xã hội thay đổi cũng nhanh làm nẩy sinh ra nhiều khái niệm. Số lượng từ trừu tượng khái niệm do đó cũng tăng lên với tốc độ đáng kể. Những từ mới trong tiếng Việt hầu hết là do dịch tiếng Tây phương, điển hình nhập "bản dịch" của người Tàu. Ví dụ: gia tốc, động lượng, xung lượng, năng lượng, đạo hàm, nguyên hàm, tư bản, vô sản, cộng sản, dân chủ, dân quyền, nhân quyền, đối tác, liên doanh, mậu dịch, tài trợ, đầu tư, bảo hiểm, cổ phiếu, chứng khoán. Cần nêu rõ, số lượng tăng nhanh đây trước tiên là nhóm từ trừu tượng khái niệm tư duy, sau đó đến nhóm từ trừu tượng khái niệm sinh hoạt, chứ nhóm từ trừu tượng khái niệm tình cảm thì không tăng. Văn hóa mới làm giảm số từ Đã khá lâu, số lượng từ cụ tượng hữu cảm chứa cảm xúc và số lượng từ trừu tượng cảm xúc coi như không tăng. Có hai nguyên nhân: Thứ nhất, trước kia đời sống người Việt Nam gần tự nhiên, đơn giản và thay đổi chậm. Tâm hồn ta đã được thường xuyên tiếp xúc mật thiết với những cái gợi cảm và đã có đủ thời gian để thấm thía mọi cái, mọi chuyện, nhờ đó mà nẩy được nhiều cảm xúc. Bây giờ đời sống xa tự nhiên, phức tạp và thay đổi nhanh 11
quá. Tâm hồn ta vừa không thường được gặp những cái gợi cảm vừa không có đủ thời gian để thực "thấm" bất cứ cái gì, chuyện gì, làm sao sinh cảm xúc phong phú được! Thứ hai, trước kia ta luôn vận dụng tâm hồn để cảm thụ thực tại. Cảm thụ nhiều thì ra được nhiều cảm xúc. Bây giờ ta y như người Tây phương, cũng ngày đêm bóp trán, nặn óc, cố gắng khái niệm hóa thực tại. Nghĩ nhiều thì ra nhiều khái niệm, chứ ra làm sao được cảm xúc! Sực nhớ: cả loại từ cụ tượng hữu cảm chứa cảm giác cũng đang ì ra về số lượng. Tất nhiên. Các cụ ta trước kia nghe, ngắm, ngửi, sờ ra trò nên sinh đủ thứ cảm giác. Ta bây giờ, phần do cái mới xuất hiện ào ào liên tục và thay đổi nhanh như chong chóng, phần do chính mình bận nghĩ quá, chỉ có vừa đủ thì giờ để đặt cho chúng những cái tên! Như đã nêu trong phần trước, từ trừu tượng khái niệm tình cảm cũng coi như đã thôi sinh sôi nẩy nở. Thì cái óc bây giờ có mấy khi nghĩ về tình cảm nữa đâu mà khái niệm tình cảm đòi sinh! Chẳng những không sinh thêm, "từ cảm" đang âm thầm lọt dần ra ngoài kho từ vựng tiếng Việt phổ thông. Rủi mất tích luôn, may thì được "bảo tàng" trong "đại từ điển"... (In trong sách Tìm tòi và suy nghĩ (2005). Viết lại năm 2014.) _________ (1) - Xin xem thêm bài Tương Lai Từ Vựng Tiếng Việt về cách chia này.
Trời Đông, trời Tây Con người ta khắp nơi vẫn có cái lối hễ động xẩy ra chuyện gì quanh mình là ngoác miệng kêu réo tận cao xa. Ta “Trời ơi!”, Tây thì chẳng hạn “Oh my God!”. Cùng ở tít trên ấy, nhưng Trời Đông, Trời Tây chẳng hề giống nhau đâu. * Ở phương Ðông, phận Trời khi cao khi thấp. Nói chung, ta thường tỏ ý kính trọng Trời, trông mong sự giúp đỡ: “Xin Trời 12
chứng giám cho lòng con...”, “Cầu Trời phù hộ cho chúng con...”, “Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày...” v.v. Khi được hả dạ, ta mau mắn ca ngợi: “Trời có mắt”. Tuy nhiên, lòng kính trọng ấy khá tương đối, vì “Nhất vợ nhì Trời”. Thậm chí nó dễ dàng tạm nhường chỗ cho lòng bất kính. Hễ có điều hồ nghi, bất kể điều gì, ta vô tư “Bắc thang lên hỏi ông Trời, những tiền cho gái có đòi được không?” Gặp chuyện trái ý, hoặc ta chê vắn tắt: “Trời không có mắt”, hoặc ta phàn nàn: “Trời sao Trời ở chẳng công, người ba bốn vợ người không vợ nào”, hoặc ta oán trách: “Trời sinh ra kiếp hay chơi, sao Trời lại ghép vào nơi không tiền”. Nếu phẫn uất cực điểm, ta có thể vác ghế ra giữa sân, ngồi réo đích danh giặc Trời già (lão tặc Thiên) ra mà mắng mỏ om sòm. Kẻ bạo mồm còn lớn tiếng đòi ăn gan Trời mới chịu nguôi! Cả giới trí thức cũng không hề kiêng chỉ trích Trời. Giữa tiếng khóc cũ của Thúy Kiều và tiếng khóc mới của Nguyễn Du, biết bao là “nhời nhỏ to” về những “thói” ngộ nghĩnh của “Trời xanh”: nào ghen tài kẻ nọ ghen sắc kẻ kia, nào phũ phàng, nào lừa lọc, nào nỡ lòng (hại), nào làm cực, nào xoay vần như chong chóng v.v. Trong tiêu phòng lạnh lẽo, người cung phi số đen của Nguyễn Gia Thiều lúc thắc mắc: “Tay tạo hóa cớ sao mà độc?”, lúc chán nản: “Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán”, lúc buông xuôi: “Thử xem con tạo gieo mình nơi nao”. Nơi “buồng cũ chiếu chăn”, người chinh phụ vò võ của Ðặng Trần Côn chất vấn “Xanh kia”: “Vì ai gây dựng cho nên nỗi này”, xong phàn nàn: “Trách Trời sao để nhỡ nhàng”. Công chúa Ngọc Hân khi “ai tư vãn”, cũng vẫn y một điệp khúc: “Cõi thọ sao hẹp bấy hóa công?”, “Ngán thay, máy tạo bất bằng!”. Ðể ý giới trí thức khi bất bằng có thể hạ tuổi của Trời: trẻ tạo, hóa nhi! Ta ăn nói với Trời lúc trọng vọng lúc xem nhẹ, lúc thậm chí sỗ sàng. Ta cư xử với Trời cũng thủy chung bất nhất: lúc cung kính thờ ông Thiên, lúc để họ hàng vác thiết bảng “đại náo thiên cung”, đuổi Ngọc Hoàng chạy có cờ, bắt phải phong ngang chức! Tản Ðà “tình riêng trăm ngẩn mười ngơ”, lấy giấy viết thơ hỏi xin làm rể Trời. Tú Xương, “lúc túng toan lên bán cả Trời” (không rõ có định mời Thiên Lôi chăng?)! Ngay những nho sĩ không ngông tí nào khi quan hệ với “khuôn xanh” tuy thường nhận thua, vậy mà thỉnh thoảng cũng dám đòi thắng: “Nhân định thắng thiên”. * Ăn nói hồ đồ, hành động hỗn độn, cả nói và làm đôi khi hỗn láo. Thử tìm hiểu xem tại sao người Ðông phương dám thế với Trời. Ở Trung Quốc, theo Kinh Dịch, Trời Ðất “giao cảm” mà sinh ra vạn vật.(1) Vạn vật có loài người, vậy tất cả đều là con Trời (tuy về sau xẩy ra chuyện có những đứa con tự xưng chỉ nó mới là “thiên tử”). Ở Nhật, ông bà Trời (vốn là anh em) 13
Izanagi và Izanami giao cảm mà sinh ra vô số đảo lớn đảo bé và vô số thần lớn thần bé. Hẳn toàn dân Nhật cũng đều dòng dõi nhà Trời vì đến đảo còn từ bụng Trời chui ra, nói chi con người!(2) Ở Hàn, con Trời (Hwanin) là Hwanung xuống trần, hóa phép thành người. Hwanung giúp một con gấu cái biến thành một người đàn bà, xong giao cảm với người ấy mà đẻ ra Tan-gun. Tan-gun làm vua, năm -2333 đặt tên nước là Triều Tiên, đóng đô ở Bình Nhưỡng, rồi trị vì suốt 1500 năm!(3) Ở Ấn-độ, theo Ấn giáo vũ trụ chỉ là kết quả của lila, một thứ trò chơi ngộ nghĩnh trong ấy thánh thần biến hóa ra vạn vật rồi biến trở lại thành thánh thần rồi hóa trở lại thành vạn vật, cứ thế liên miên không dứt.(4) Ba mươi triệu vị thần chung quy đều là hiện thân của linh hồn vũ trụ (Brahman), mà một tỉ linh hồn nhỏ (Atman) đang cư ngụ trong thân xác của một tỉ người Ấn cũng vẫn chỉ là một với linh hồn vũ trụ. Người Việt Nam là con Rồng cháu Tiên, tức cũng gốc gác tận… thiên đình. Nói gì người, ở ta đến con cóc còn gọi Trời bằng cháu! À, thì ra vì có quan hệ máu mủ, thậm chí “là một” với Trời, mà ta dám lộng ngôn lộng hành. * Do có họ với người, Trời Đông không hề toàn năng, toàn hảo. Làm thợ (hóa công) lắm khi vụng về: “Mà cô mệnh bạc, thợ trời cũng thua”.(5) Tay nghề chưa cứng, nghề chưa lành, nặn một số phận còn lúng túng mà lại thích vung múa to tát, “làm” trận nọ “gây” cuộc kia ảnh hưởng đến bao nhiêu nhân mạng: “Trời làm một trận lăng nhăng, ông hóa ra thằng, thằng hóa ra ông”, “Tạo hóa gây chi cuộc hí trường, khiến người qua đó chạnh lòng thương”, “Trải qua một cuộc bể dâu, những điều trông thấy mà đau đớn lòng” v.v. Thợ Trời vụng về khiến lời Nguyễn tiếng Kiều inh ỏi trần gian! Được cái Trời dễ mủi lòng, nên lắm người nhờ được Trời thương mà tai qua nạn khỏi, ăn nên làm ra. Lòng Trời đã mềm, lại rộng: nghe lời rao bán lếu láo của Tú Xương chỉ “cười thằng bé nó hay chơi”, mà xem đến tâm sự táo bạo của “Tản Ðà tiểu tử” cũng chỉ “bượch” cười cho kẻ “dám suồng sã đưa thơ”. Nhưng vì cùng giống với người, Trời cũng khi mưa khi nắng, khi sốt sắng khi dửng dưng, xem vạn vật như chó rơm.(6) * Ở phương Tây, Trời khác lắm. Cổ thư Hi-lạp chép về tín ngưỡng thời xưa ở vùng Bắc Ðịa Trung Hải: “Có một loài người, có một loài thần...”.(7) Vậy từ sớm, bên Tây phương đã nẩy ý niệm phân biệt hẳn thần với người. Thần là thần, thần không phải là người tu hành 14
đắc đạo. Loài thần cư ngụ trên đỉnh Olympus; Zeus là thủ lĩnh. Có điều này cũng ngộ: tuy hoàn toàn khác giống nhưng các thần Hi-lạp ban đầu có “giao cảm” với người, làm sinh ra một loài lai, nửa thần nửa người! Nhiều trăm năm sau, khi các vua La-mã rút cuộc chịu theo đạo Ki-tô, nơi thần điện Tây phương các thần trong tín ngưỡng Hi - La truyền thống biến mất hết, nhường chỗ cho Thượng Đế của Do-thái giáo. Đấng Tối Cao vĩnh cửu, toàn hảo, toàn năng. Đấng Tối Cao làm ra vạn vật. Tuyệt đối không thể xẩy ra chuyện đi lại, giao cảm linh tinh. Trời Tây không có dây mơ rễ má gì với người. * Trời và Trời ra đời như thế nào nhỉ? Có thể nghĩ ở phương Đông cũng như bên phương Tây, môi trường tự nhiên và diễn biến văn hóa khiến trong dân gian dần dần nẩy sinh một tâm thức đặc thù về những vấn đề siêu hình. Tâm thức dân gian chỉ mơ hồ thôi. Nhưng đến một lúc nào đó, nó bỗng đọng lại thành triết rõ ràng trong lời các thánh nhân. Ở phương Đông, những truyền thuyết kỳ dị về quan hệ máu mủ giữa Trời và người rồi đọng lại thành triết nhất thể: “Tất cả là một”. Ở phương Tây, những truyền thuyết cũng kỳ dị không kém về sự phân biệt nguyên thủy giữa thần linh và loài người rồi đọng lại thành triết nhị nguyên: Thượng Đế làm ra vạn vật. * Mỗi môi trường tự nhiên và diễn biến văn hóa chỉ sinh được đúng một triết lý. Phía Tây, cùng sống quanh quẩn trong ngoài cái nôi của văn minh Tây phương, vậy mà tín đồ Do-thái giáo, Ki-tô giáo và Hồi giáo lắm lúc mâu thuẫn trầm trọng, xung đột chí tử. Về giáo lý, đạo này đạo nọ đạo kia cách nhau hàng mấy chục trời chăng? Không phải đâu. Cơ bản, những kẻ thề không đội... trời chung với nhau ấy chỉ bất đồng về chỗ Sứ giả, chứ vẫn thờ chính xác y một Thượng Ðế! Phía Ðông, tình hình thoạt nhìn khó hiểu. Ở Trung Quốc có thánh Lão và thánh Khổng, cùng xứ sở, vậy mà thánh này dạy “vô vi”, thánh kia bảo “vi quân tử”! Trong khi giữa Trung Quốc và Ấn-độ đường sá xa xôi cách trở mà Phật với Lão lại “nhất trí” rằng vạn vật nhất thể, vạn sự vô thường! Về nghịch lý Lão - Khổng, chìa khóa mở bí mật nằm trong mấy chữ “cùng xứ 15
sở” vừa tạm dùng trên. Không hẳn là cùng đâu. Lão sinh ở Hoa Nam, Khổng sinh ở Hoa Bắc. Ngay trong cái khung thời gian hai “Tử” chào đời, hai Hoa cũng chỉ mới là một về chính trị, chứ về văn hóa chắc chắn vẫn gần nguyên hai. Nói gì thời trước đó, thời ở mỗi nơi cư dân đang phát triển một tâm thức hoàn toàn riêng. Dân phương Nam khác dân phương Bắc. Do đó triết Nam khác triết Bắc (thực ra chỉ triết Nam mới có nội dung siêu hình, chứ triết Bắc thì coi như thuần túy nhân sinh mà thôi). Về chuyện Phật, Lão “thiên lý năng tương ngộ”, theo một số nhà nghiên cứu, người Dravidian ở Ấn-độ và người Việt tộc ở Hoa Nam vốn cùng là giống Cổ Mã Lai. Dân cùng giống, triết cùng dòng, đâu có gì lạ.(8) * Đầu thế kỷ 21. Cả Trời Đông lẫn Trời Tây coi như chết rồi! Chỉ còn lại những tàn tích của hai truyền thống văn hóa tâm linh. Chuyện gì đã xẩy ra vậy? Khoa học đấy. Sau chỉ có mấy thế kỷ, khoa học đã giành được vị trí độc tôn trong văn hóa tinh thần của cả nhân loại. Không ai còn thắc mắc siêu hình gì nữa. Trời ư? Đó chỉ là cái luật tự nhiên cao nhất mà nếu cứ tiếp tục nghiên cứu bằng phương pháp khoa học, ta sẽ có ngày khám phá được. Trước kia bay bằng trí tưởng tượng, ta đã thấy Trời. Bây giờ bay thật trong phi thuyền, ta lại chỉ thấy luật! Cái con khỉ tưởng nó bằng Trời khi “cân đẩu vân” cũng đắc ý lắm. Coi chừng thuyền vũ trụ đang bay tới năm cái cột chống trời giả! Coi chừng bay chưa tới thì thuyền đã nổ tung hay người trong thuyền đã hóa quái vật hóa máy móc mất rồi! Viết năm 2004, sửa năm 2015 In lần đầu trong Tìm tòi và suy nghĩ (2005) In lần thứ hai trong Cảm nghĩ miên man (2015) ________ (1) Nguyễn Hiến Lê, Kinh Dịch: đạo của người quân tử, nxb. Văn Nghệ, Mỹ, 1991. (2) Merriam-Webster’s Collegiate Encyclopedia, Mỹ, 2000. (3) M. Breen, The Koreans, nxb. Thomas Dunne Books, Mỹ, 2004. (4) Fritjof Capra, The Tao of Physics, nxb. Flamingo, Mỹ, 1982. (5) Bài “Tế Chiêu Quân” của Nễ Xuyên. (6) Ðạo đức kinh. (7) Charles Freeman, Egypt, Greece and Rome: Civilizations of the Ancient 16
Mediterranean, nxb. Oxford University Press, 2004. (8) Xem bài “Ấn Á, Ấn Âu” của TT. Nhìn sao nói vậy Tinh tế màu hữu cảm Màu và nghệ thuật Màu và bản sắc văn hóa Màu là sóng, là số Màu là da bò Bây giờ, ở đây Mai kia, ở một nơi nào Màu và chọn lựa sinh tồn
TINH TẾ MÀU HỮU CẢM Màu hữu cảm cực kỳ tinh tế.(1) Hãy xem vài ví dụ. Khái Hưng: “bát canh cà chua nước đỏ lờ lờ”. Nguyễn Tuân: “phản nịnh mặt trắng mốc có vệt đỏ nhờ nhờ”. Chinh Phụ: “Cỏ biếc um, dâu mướt màu xanh”. Vũ Bằng: “những ngọn rau muống chẻ nhỏ xanh muôn muốt”. Nguyễn Tuân: “tóc xanh mượt như một làn rêu giữa làn suối trong”. Lờ lờ với nhờ nhờ là hai. Mướt với muốt với mượt là ba. Không thể trao qua đổi lại gì cả. Cũng thế: xanh nhạt và xanh nhợt cùng chỉ màu xanh không đậm, nhưng chỉ các ông tây ông tàu (nói tiếng Việt) mới dùng lẫn lộn. Rắc rối ở chỗ xanh nhạt không hữu cảm: “tường phòng bệnh quét vôi xanh nhạt”; trong khi xanh nhợt lại không phải là từ chỉ màu thuần túy nữa, mà cho thấy một ấn tượng nơi người nhìn: “người bệnh nom xanh nhợt”. Ðổi chỗ nhợt với nhạt là lộ tung tích ngay! Lạ hơn nữa, nói người bệnh nom xanh nhạt là nói tiếng Việt gốc tây gốc tàu, mà nói người bệnh nom xanh lợt dường như cũng vẫn không ổn. Trường hợp này, chỉ nhợt mới đích thị... con Rồng cháu Tiên! MÀU VÀ NGHỆ THUẬT 17
Nghệ thuật truyền thống của người Việt Nam nặng tính tượng trưng. Với ta, làm nghệ thuật là tìm cách chuyển đạt nội dung mà không phải mô tả dài dòng. Tùy “kích thước” của tác phẩm, để thành công ta sẽ cần đến nhiều hay ít những “nghệ thuật trong nghệ thuật”. Thử nghĩ về chèo, về hát bộ. Ðể chuyển nội dung tích truyện đến khán giả, mỗi vở chèo hay tuồng hát dùng nhiều loại động tác khác nhau. Ðặc sắc bậc nhất trong chèo là động tác xoay cổ tay (2), còn trong hát bộ là “cưỡi ngựa”. Một cử động nhỏ, kín đáo, mà biểu lộ được ý tình, một cách xê dịch không cố gò theo hiện thực, mà gợi được hiện thực: cử động ấy hay cách xê dịch ấy trước tiên tự nó là nghệ thuật, rồi nó đóng góp vào thành công của nghệ thuật. Giờ xét đến những bạc phơ, đỏ hỏn, xanh rờn v.v. Những từ chỉ màu ấy gợi lên được hình ảnh sống động - hình ảnh, chứ không phải chỉ màu sắc - mà không thông qua chi tiết rườm rà, không dùng đến ráp nối lủng củng. Thử tưởng tượng thay bạc phơ bằng “bạc một cách thế kia thế nọ”, thay xanh rờn bằng “xanh và thế này và thế này”! Từ mà cô đọng, hàm súc như bạc phơ, đỏ hỏn, xanh rờn v.v., đáng xem là nghệ thuật chứ. Nghệ thuật nhỏ giúp làm nên nghệ thuật lớn: “Nàng thì dặm khách xa xăm, Bạc phau cầu giá đen rầm ngàn mây”. Nếu tiếng Việt không có “bạc phau” với “đen rầm”, Nguyễn Du biết thơ thẩn sao đây?! (Tất nhiên từ chỉ màu chỉ là một trong rất nhiều loại từ hữu cảm của tiếng ta. Nhờ Việt ngữ hết sức phong phú các loại từ hữu cảm, nếu dùng để chuyển đạt nội dung thiên về cảm tính, nó có nhiều hy vọng chiếm ngôi Tiếng Ðẹp. Ngược lại, ngôn ngữ mà giàu từ khái niệm như các ngôn ngữ Tây phương thì khi dùng để lý luận sẽ dễ rõ ràng, khúc chiết, tức dễ đoạt giải... Công cụ Tiên tiến!) MÀU VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA Trên mặt đất, ngoài người Việt Nam có dân tộc nào khác cũng “trông trời, trông đất, trông mây” rồi cảm miên man, dạt dào, rồi sáng tác luôn đủ thứ màu sắc ăm ắp cảm như thế chăng? 18
Ở người Việt, cái “khung cửa sổ của linh hồn” thích thu vào thêm lắm thông tin “lạ”. Cái con người mặc nâu nhũn nhặn mà nhìn xuống đất thấy tơ, chuối vàng giãy nảy, nhìn lên thấy trời xanh thăm thẳm, xanh mênh mông, xanh thao thiết..., cái con người ấy rõ ràng là chủ tể của một thế giới cảm phong phú, tế nhị lạ kỳ. Chúng ta có thói quen ăn nói “màu mè”. Dễ thường màu mè nhất thế giới. Chỗ đặc biệt ấy liên hệ thế nào với bản sắc văn hóa Việt Nam? Ðể dễ hiểu mình, hãy thử so với người. Màu là sóng, là số Trong một cuốn khảo luận về lịch sử của cái đĩa màu họa sĩ, Victoria Finlay mở đầu bằng mấy dòng khá “mơ màng”: “Màu sắc đâu có thực (...) chỉ là cách cơ thể chúng ta diễn dịch những rung động nào đấy đấy mà (...) Mọi thứ trong vũ trụ này chẳng qua chỉ là rung động...”(3) Chính xác, thì màu sắc mà mắt ta thấy được chẳng qua là những ba động điện từ với độ dài sóng từ 0.00038 đến 0.00075mm. Tất nhiên người Tây phương trước thời đại khoa học chẳng biết sóng điện từ là cái quái gì. Nhưng có lẽ tổ tiên của Maxwell, Einstein, Heisenberg, Bohr v.v. đã sớm quen nhìn màu sắc, cũng như nhìn bất cứ thứ gì khác, theo cách riêng. Là tách rời nó ra khỏi chỗ tự nhiên của nó mà săm soi, ngắm nghía, phân tích rạch ròi. Bên Âu châu cũng có, chẳng hạn,... lá cây. Dân Anh thấy green trên lá. Ít lâu, họ táy máy bóc green ra khỏi lá, biến nó thành một khái niệm. Khái niệm green. Khoa học chào đời, tiến bộ, dần dà green chuyển ra sóng điện từ 0.00049-0.00057mm. Khoa học tiếp tục tiến bộ, ai biết rồi mai kia các khoa học gia sẽ vỡ lẽ rằng sóng điện từ thực ra bản chất là gì v.v. Dù sao, sau khi bị bóc ra khỏi lá, thì green chỉ còn lại sắc độ. Người Tây phương phân biệt sắc độ tinh vi đúng mức. Trong tập Hướng dẫn đầy đủ về phép dùng màu cho các họa sĩ (4), Simon Jennings cho in thật trung thực mấy chục trang pa-lét chứa 400 màu mẫu (chọn ra từ khoảng 1500 màu mẫu do các hãng chế tạo sơn cung cấp). Cơ man sắc độ vàng, xanh, tím, đỏ v.v. Dĩ nhiên tiếng Anh làm gì có từ gọi đích danh từng xanh nọ đỏ kia. Một green nào đấy, rốt cục là một ký hiệu, chẳng hạn PG124! Màu là da bò Màu, cứ để nguyên trên lá, trên cây, trên... trời mà ngắm lại phong phú lối khác. Chỉ khi còn ở chỗ tự nhiên của nó, màu mới có thể sinh động, tương giao, chứa 19
cảm tưởng, chở tâm trạng, mang phong cách. Vì khi ấy nó là một phương diện của một vật nhất định nào đấy. Vật có thể bé xíu như con kiến, có thể nhơ nhỡ như con bò, có thể lớn như cả bầu trời. Màu chưa tách ra khỏi vật là màu “sống”, tiềm tàng đủ thứ khả năng. Màu tách ra rồi, khái niệm hóa, là màu “chết”, chỉ còn việc phân loại, phân tích, rồi đem... chôn (vào sách). Thử nghĩ về bộ da của con bò. Da chưa phải là tất cả bò. Nhưng khi da còn bao kín bò đang nhai cỏ, còn được máu huyết bò nuôi dưỡng, thì đó hiển nhiên là một thứ da khác thứ da đã lột, nằm lù lù cạnh một đống thịt bò đỏ hỏn. Không biết từ đời nào, người Việt chúng ta quen nhìn màu, cũng như nhìn bất cứ đặc điểm nào khác của bất cứ vật gì, theo cách nhìn thứ da “bò đang nhai cỏ”. E có kẻ gắt: “Gớm, lạ gì những bạc phơ, trắng toát, xanh lè, đỏ hỏn, vàng chóe... Bỏ ít thì giờ “nghiên cứu” thì sẽ biết ngay cụ thể ý nghĩa là thế nào, gồm mấy yếu tố, thành phần. Viết hẳn cách cấu tạo từ ra thành công thức cũng chẳng khó khăn...”. Quả thực da có lớp trong lớp ngoài có chất sừng chất mỡ có mạch máu vi ti, có cách cấu tạo nhất định. Nhưng có thực cứ phanh phui xong tất cả những “bí mật” ấy, phơi chúng ra ánh sáng, là nắm chắc được “ý nghĩa” của da? Xanh nọ trắng kia trong tiếng Việt là kết quả của một cách NHÌN TOÀN THỂ. Khi nhìn một vật, mắt ta thấy "trọn gói" vật ấy, chứ không chỉ thấy màu. Dưới mắt ta, màu - cũng như mọi đặc điểm khác - chỉ hiện hữu trong một quan hệ hữu cơ với vật. Bây giờ, ở đây Nói chuyện màu sắc, dễ nghĩ đến hoa. Hoa mai, hoa lan, hoa hòe, chẳng hạn. Ta ngắm hoa như ta đọc thơ (bài thơ nhỏ của tạo hóa). Mắt ta vuốt ve màu hoa như miệng ta cao hứng ngâm đi ngâm lại lời thơ. (Màu là một thứ lời của hoa thơ. Mất màu là mất thơ.) Ðối cảnh ta sinh tình. Ta ngắm hoa, rồi ta làm thơ (bài thơ nhỏ của ta). Thơ “cánh hoa mai trắng mươn mướt”, thơ “bông hoa lan trắng nuột”, thơ “hoa hòe nở vàng ối”, chẳng hạn. Tự nhiên vốn bao giờ cũng là toàn thể. Ta ngắm tự nhiên cách toàn thể, rồi ta bật tiếng nói toàn thể. Nói toàn thể thì lời gắn bó, liền lạc như chính tự nhiên. 20
Ðối diện trò chơi của Trẻ Tạo, ta phản ứng nghệ thuật: trước thưởng thức cái đẹp, sau sáng tạo cái đẹp. Ta quan niệm hạnh phúc là ngay bây giờ, ở đây, là ngắm hoa mai, hoa lan, hoa hòe trên bàn, trước sân, ngoài ngõ. Ta quen ngồi yên một chỗ, an nhiên, tự tại. Mai kia, ở một nơi nào Họ ngắm hoa như họ đọc đề toán. Mắt họ soi mói “hiện tượng màu” như óc họ nghiền ngẫm ý đề. (Màu là một thứ ý của hoa - đề toán. Tách màu cũng như rút ý, rút xong có thể bỏ đề, tách màu xong có thể vất hoa.) Ðối cảnh, họ không sinh tình, họ sinh... lý thuyết. Nhằm giải mã “bí mật của lan”, họ lồng lộn chui vào từng tế bào, từng phân tử, từng nguyên tử, từng thứ hạt mỗi lúc một bé hơn, cho đến lúc “hoa mắt”, không còn thấy gì nữa ngoài chi chít những “tiến trình vận động”. Họ nhìn tự nhiên như muốn chẻ ra vô số mảnh, nên lời nói của họ là một cấu trúc nhân tạo do nhiều bộ phận ráp lại. Ðối diện máy móc của Già Tạo, họ phản ứng khoa học: trước kỳ công tháo rời hết ra, xong hì hục ráp trở lại, xong loay hoay chế tạo cái (máy) khác. Họ đâu phải chỉ cố chui biến vào lan, họ còn cùng lúc đòi nhảy vọt ra xa tít tắp. “Ði dăm bước” là mắt đã mất lan rồi. Nhưng không sao, vì với họ, hạnh phúc luôn còn ẩn ở một nơi nào chưa ai từng đặt chân đến. Họ quen nhảy nhót, háo hức, bồn chồn. MÀU VÀ CHỌN LỰA SINH TỒN Một đằng đủng đỉnh xem hoa, làm thơ. Một đằng chạy như ma đuổi đi tìm “chân lý”. Ai thích đứng thì đứng, ai ưa chạy thì chạy chăng? Lịch sử dạy rằng kẻ chạy liên tục bành trướng theo đủ mọi hướng, lấn người đứng đến không còn miếng đất cắm dùi. “Dọc đường gió bụi”(5), “hành giả” chế ra đủ thứ “máy” kinh khủng, dư sức hóa kiếp trong nửa sát na tất cả hoa và tất cả những kẻ thưởng hoa. Ðể sống, “thiền giả” phải chạy theo. 21
Chuyện màu, trông vậy, đâu phải là chuyện màu mè. 4 - 2004 (In trong Tìm tòi và suy nghĩ, nxb. Của Tin, Mỹ, 2005) _______________________ (1) Xem bài Có Màu Và Màu của TT. (2) Vũ Khắc Khoan, Tìm hiểu sân khấu chèo, nxb. Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1974, tr. 128: “cổ tay xoay tròn (...) một thứ ngôn ngữ sân khấu đặc biệt”. (3) Victoria Finlay, A Natural History of the Palette, nxb. Ballatine Books, Mỹ, 2003. (4) Simon Jennings, Artist”s Color Manual - The Complete Guide to Working with Colors, Chronicle Books, Mỹ, 2003. (5) Tên một truyện ngắn của Khái Hưng. Chữ viết và nghĩ ngợi Có chữ viết, viết được xuống những điều mình nghĩ, tiện cho mình tự nghĩ đi nghĩ lại, cũng tiện cho người khác nghĩ đi nghĩ lại về cái nghĩ của mình, như thế nhất định giúp loài người nghĩ ngợi mỗi ngày thêm sâu sắc? Chữ viết có giúp ta nghĩ được sâu hơn hay không, chuyện ấy tùy cái cách ta nghĩ. Tư tưởng phương Ðông đã phát triển đến hoàn chỉnh không cần chữ viết. Khi chữ viết thực sự phổ biến, thì triết Ấn, Phật, Lão, Trang đã ổn định rồi. Từ bấy đến nay, với lợi thế có chữ viết, chưa một người nào nghĩ được điều gì vượt cái nghĩ của các thánh nhân! Hằng hà sa số chữ đã viết ra, mà nhân loại phương Ðông không hề trở nên minh triết hơn được một chút nào! Tại sao? Thiết nghĩ là do triết Ðông vận dụng trực giác. Trực giác là nghĩ mà không vẽ ra thành đường. Trước không có đường, thì sau không thể nối dài đường! Mà cố nối dài là vô nghĩa, bởi làm gì có cái thực tại nào đằng sau Thực tại Cuối cùng! Làm gì có Niết-bàn sau Niết-bàn! Ðã đến rồi, còn muốn đi đâu nữa! Ở phương Tây, con người quen vận dụng suy luận. Suy luận là cách nghĩ có thể vẽ ra thành đường. Người trước vẽ được một đoạn, người sau vẽ tiếp. Vẽ đường, còn gì tốt hơn chữ viết! Cho nên sau khi có chữ viết, nhân loại phương Tây mỗi lúc mỗi đi xa hơn trên con đường mà khả năng suy luận của họ vẽ ra. Bảo rằng cái nghĩ của họ thêm sâu sắc thì đúng, nhưng chưa chắc nó sẽ dẫn được họ đến một kết luận tối hậu nào cả. Cứ “bon bon” khám phá hết luật tự 22
nhiên này đến luật tự nhiên khác, chế tạo hết máy móc tối tân nọ đến máy móc tối tân kia, là chắc chắn sẽ có ngày gặp Chúa sao?! (Trong Tìm tòi và suy nghĩ (2005)) Giới hạn của khoa học Nền tảng và phương pháp Giá trị trong văn hóa vật chất Giá trị trong văn hóa tinh thần Ảo tưởng về khả năng Thuyết tiến hóa: một ví dụ tốt Sai, đúng: tùy ở tầm NỀN TẢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1.Khoa học xây dựng trên niềm tin rằng cái mà mọi người đều thấy là thực. 2.Thấy không phải chỉ bằng giác quan mà cả bằng dụng cụ. Dụng cụ có thể xem là giác quan nối dài hoặc giác quan mới. 3.Phương pháp khoa học là đi từ hiện tượng đến khái niệm đến định luật. 4.Ví dụ: quan sát làm nẩy khái niệm lực (F), khái niệm khối lượng (m) và khái niệm gia tốc (a). Sau đó Newton tìm ra định luật “F bằng m nhân a”. 5.Dụng cụ cho khoa học một tầm thấy. Ðịnh luật cho khoa học một tầm biết. 6.Có khi đã thấy rồi mà chưa biết, tức chưa tìm ra định luật. 7.Có khi đã biết rồi mà chưa thấy, tức chưa chế được dụng cụ đủ tối tân để thấy hiện tượng mà định luật bảo rằng có.(1) 8.Khoa học tiến bộ bằng cách liên tục khảo sát tự nhiên. GIÁ TRỊ TRONG VĂN HÓA VẬT CHẤT 9.Khoa học là một cách hiểu tự nhiên hết sức cụ thể. 10.Các định luật khoa học cho ta biết một số đặc tính của tự nhiên. 11.Bất cứ cái gì, hễ biết được một số đặc tính là có thể dùng được. 23
12.Càng biết nhiều đặc tính, càng dùng được vào nhiều việc. 13.Do đó, tiến bộ khoa học cải thiện đời sống vật chất. GIÁ TRỊ TRONG VĂN HÓA TINH THẦN 14.Khoa học nhằm khám phá trọn "bộ luật" của tự nhiên, nhằm "giải mã" toàn thể thực tại. 15.Luật chỉ cho biết đặc tính. Toàn thể đâu phải là tổng số các đặc tính! 16.Ví tự nhiên với voi. Ví khoa học với người mù. Người mù sờ voi, nghe voi, nếm voi, ngửi voi, biết đủ thứ đặc tính của voi, cưỡi được voi, rốt cuộc vẫn không thấy voi! 17.Tự nhiên dĩ nhiên phức tạp hơn voi không biết bao nhiêu. Người mù sờ, nghe, nếm, ngửi được mây bay trên trời không? 18.Cho nên khoa học chỉ có thể dẫn đến những cái biết cục bộ về một phần rất nhỏ của thực tại. ẢO TƯỞNG VỀ KHẢ NĂNG 19.Những cái biết cục bộ tỉ mỉ rất dễ gây ảo tưởng. 20.Tức gây khuynh hướng "ngoại suy cực độ": dùng luật tìm thấy trong một tầm rất nhỏ để giải thích hiện tượng nằm xa hẳn ngoài tầm ấy. 21.Ngoại suy cực độ giống từ một đường thẳng suy ra một hình khối!
THUYẾT TIẾN HÓA: MỘT VÍ DỤ TỐT 22.Thuyết đại khái như sau: Do cách kết hợp gien, con không giống hệt cha mẹ, anh em không giống hệt nhau. Khi sinh môi biến đổi, có thể có những đứa con, do một chỗ khác ngẫu nhiên nào đấy, ngẫu nhiên sinh tồn tốt hơn anh em. Con của những đứa con ấy lại có thể có những đứa ngẫu nhiên được di truyền cái đặc điểm mới. Ðặc điểm mới mỗi thế hệ mỗi nổi bật. Dần dà, cháu chắt trở nên khác hẳn tổ tiên, thành một loài riêng biệt. 24
23.Ví dụ nổi tiếng: Giữa vô số hươu, đến một lúc nào đấy, ngẫu nhiên có một con cổ hơi dài. Cổ dài ngẫu nhiên là một ưu thế trong loại rừng mà loài hươu ấy đang sinh sống. Sau một thời gian, xuất hiện loài hươu cao cổ. 24.Ví dụ trên rất dễ tin. Nhìn xung quanh, thấy vô số ví dụ khác cũng rất dễ tin. Ngựa bé thành ngựa lớn, voi to thành voi nhỏ, chó rừng hóa chó nhà, cá gì đấy ngoài tự nhiên hóa cá vàng trong bể v.v. Ðáng chú ý nhất là khỉ hóa người. 25.Về quá trình tiến hóa, khoa học lúc đầu dùng quan sát thô sơ, rồi lần lần, do chính khoa học tiến bộ, dùng những thứ bằng chứng mỗi lúc một tinh vi hơn để chứng minh liên hệ giữa hai dạng trong từng bước thay đổi. 26.Trong những tầm thay đổi nào đấy, hiện nay khoa học coi như đã xác nhận được giá trị của thuyết tiến hóa. 27.Rắc rối ở chỗ thuyết tiến hóa không khiêm tốn. Nó chỉ chứng minh được giá trị trong những tầm thay đổi rất bé, mà nó tự khẳng định giá trị của nó đến vô biên. Nó chỉ chứng minh được hươu cao cổ vốn là hươu ngắn cổ, mà nó bảo chim vốn là khủng long. Nó còn dám bảo tất cả sinh vật xuất phát từ một thứ xúp hữu cơ, vốn trước đấy là vô cơ! 28.Thử nghĩ về loài chim. Ðể bay được như chim, cần một thiết kế khác hẳn thiết kế của khủng long. 29.Thử hỏi: cớ gì một con khủng long quái thai, ngẫu nhiên có hai chân trước hơi dị dạngỳ, lại sinh tồn tốt hơn những con khủng long khác? 30.Rõ ràng từ thiết kế khủng long mà "hóa" từ từ thành thiết kế chim thì những dạng chuyển tiếp không có ưu thế gì cả trong việc tranh sống. Tức cái quá trình "hóa" ấy không diễn ra được. 31.Những người tin vào thuyết tiến hóa có thấy chỗ trục trặc vừa nói. Họ cố giải quyết vấn đề bằng cách bổ sung ý niệm tiến hóa "đột ngột". 32.Thuyết tiến hóa cải tiến bảo cứ mỗi lần sinh môi thay đổi nhanh hơn bình thường thì quá trình tiến hóa của sinh vật cũng nhanh lên theo. 33.Chẳng hạn khi chỗ ở của khủng long thay đổi gấp rút thế nào đấy làm cho nếu có cánh để bay thì tiện, khủng long bèn ngẫu nhiên sinh quái thai có hẳn đôi cánh (tất nhiên là cánh tương đối thô sơ để còn chỗ mà tiến hóa)! 34.Giữa thiết kế không cánh với thiết kế có cánh bay được (dù thô sơ đến đâu) là cả một trời khác biệt, không thể nào có chuyện ngẫu nhiên! 25
35.Khủng long không hóa chim được thì chim ở đâu ra? Khoa học đã chứng minh muôn loài không phải xuất hiện một lượt mà có loài trước loài sau... 36.Không phải hễ xuất hiện sau thì nhất thiết là "con" của loài xuất hiện trước. Không phải vì thấy chim "trẻ" hơn khủng long mà có thể kết luận chim là con của khủng long. 37.Thế là thế nào? 38.Là... chẳng hạn đến lúc nào đấy, "Trời" thấy địa cầu cần có loài chim, thì Trời "nặn" một ít chim thô sơ, thả xuống, vậy thôi. Trong thiết kế chim căn bản, cũng như trong mọi thiết kế sinh vật căn bản khác, "Trời" ban cho cái đặc điểm là thế hệ sau sẽ khác thế hệ trước một chút. Như thể tạo một yếu tố bất ngờ để "trò chơi" trở nên thú vị! Như thể để các nhà khoa học sau này có cái mà khám phá! Khám ra cái nhỏ xíu, rồi tưởng đã phá được cái lớn vô cùng! SAI, ÐÚNG: TÙY Ở TẦM 39.Tại sao thuyết tiến hóa sai mà ứng dụng thành công? Tại sao sai mà đứng vững? 40.Nó sai vì nó tuyên bố giải thích được bí mật muôn loài. Nó ứng dụng thành công vì mọi ứng dụng đều nằm trong tầm thay đổi bé nhỏ mà nó chọn làm cơ sở. Còn đứng vững? Ðã bảo trong tầm "cơ sở" của nó, thì nó đúng chứ có sai đâu mà đứng không vững! 41.Vật lý cổ điển cũng thế. Chỉ khi đem luật Newton đi giải thích thế giới hạ nguyên tử hay những hiện tượng liên hệ vật di chuyển nhanh gần bằng ánh sáng, ta mới thấy nó sai be bét. Chứ trong cái thế giới hiển hiện quanh ta, nó ứng dụng rất tốt, đầy sức thuyết phục. 42.Ðúng trong giới hạn, là "số phận" của mọi luật. Ðiều rắc rối là, cho đến khi phải đem ứng dụng xa ngoài giới hạn của nó, thì luật nào cũng tưởng nó đã gặp... Trời! (Thu Tứ, Tìm tòi và suy nghĩ, nxb. Của Tin, Mỹ, 2005) _______________________ (1) Chẳng hạn một số tiên đoán căn cứ vào thuyết tương đối tổng quát mãi về sau mới có dụng cụ để xác nhận. Tổng quan về nghệ thuật 26
Quá trình sáng tạo Ðánh giá sáng tạo Một cách hình dung nghệ phẩm Vai trò của xác Sức mạnh của hồn Biết đẹp và biết làm ra cái đẹp Phê bình Làm mới Thời gian, nghệ phẩm, nghệ sĩ... QUÁ TRÌNH SÁNG TẠO 1.Nghệ phẩm xuất phát từ một ấn tượng, một tâm trạng, hoặc một suy nghĩ. 2.Tức nghệ phẩm xuất phát từ tâm hồn, trí óc, chứ không từ giác quan. Nhìn cái gì đó, thấy một hình ảnh, mà chưa cảm thấy thế nào cả về hình ảnh ấy, mà đã vẽ, thì kết quả chỉ là ký họa, chứ chưa phải là hội họa. 3.Ấn tượng, tâm trạng, suy nghĩ vào thời điểm xuất phát có thể gọi là nội dung của một nghệ phẩm chưa có! 4.Tức giống như tình trạng có hồn mà chưa có xác. 5.Cái hồn không xác dĩ nhiên lúc đầu ngụ ngay bên trong nghệ sĩ. 6.Làm nghệ thuật là tạo một xác riêng cho cái hồn ấy. 7.Xác và hồn ảnh hưởng qua lại nên hồn không bất biến mà thay đổi liên tục trong quá trình tạo xác. 8.Do đó, nội dung của nghệ phẩm hoàn tất có thể khác xa nội dung khi chưa có nghệ phẩm. 9.Hễ ngừng sáng tạo, buông xác ra, thì nghệ sĩ không còn ảnh hưởng gì đến hồn của nghệ phẩm nữa. 10.Nghệ phẩm hoàn tất là một vật như tất cả vật khác, đợi được ngắm để gây một ấn tượng nào đó nơi người ngắm. ÐÁNH GIÁ SÁNG TẠO 11.Thế nào là làm nghệ thuật thành công? Tức thế nào là một nghệ phẩm giá 27
trị? 12.Nghệ phẩm có xác và hồn. Nghệ phẩm giá trị đẹp cả xác lẫn hồn. 13.Tại sao cần hồn đẹp? Mà thế nào là hồn đẹp? Hồn có thấy được đâu mà bảo đẹp hay xấu? 14.Hồn của nghệ phẩm giống mùi của hoa.(1) Không thấy được, nhưng ngửi được. 15.Cái đẹp của hồn cũng khó định nghĩa như cái thơm của mùi. Chỉ có thể ví dụ. Chẳng hạn cảm khái trước đời dâu bể là đẹp, ganh tỵ là xấu. 16.Hồn của nghệ phẩm cũng giống cái duyên của người đẹp. Duyên không lồ lộ như sắc, nhưng vẫn cảm được. MỘT CÁCH HÌNH DUNG NGHỆ PHẨM 17.So nghệ phẩm giá trị với người vừa đẹp vừa duyên, với hoa sắc hương trọn vẹn, thì dễ hiểu. Nhưng chưa bao quát. 18.Ðể được bao quát, thử hình dung thế này: xác nghệ phẩm là một con đường, mà hồn nghệ phẩm là một mùi hương. 19.Mùi có thể ngửi thấy suốt dọc đường, chỗ nào cũng có. Trường hợp "đường thơm" (2) như thế, muốn ngửi mùi chỉ có cách đi. Loại đường ấy không bỏ được. Ví dụ: một bài thơ. 20.Mùi cũng có thể gói kín trong một chiếc túi treo ở cuối đường. Ði hết đường, lấy được túi, là xong. Nếu chỉ thích mùi, không cần đi lại con đường ấy nữa. Ví dụ: một cuốn tiểu thuyết. 21.Nếu nghệ phẩm thuộc loại có túi mùi treo ở cuối đường, mà túi ấy lại chứa thứ hương suy nghĩ, thì làm sao phân biệt được nghệ phẩm với tác phẩm học thuật? 22.Thường có thể phân biệt bằng chính mùi hương. Suy nghĩ trong nghệ phẩm có tính cách triết lý; suy nghĩ trong tác phẩm học thuật thường có tính cách thực dụng. Cùng là mùi, nhưng có mùi hoa, có mùi... thuốc! 23.Cách phân biệt chắc chắn là để ý con đường. Trường hợp nghệ phẩm: đường quanh co, người đi không thấy ngay túi. Trường hợp tác phẩm học thuật: đường thẳng tắp, túi treo ngay trước mặt. 28
24.Muốn thấy cái đẹp của con đường thì chỉ có cách đi! VAI TRÒ CỦA XÁC 25.Có hồn rồi, nghệ sĩ phải chọn một cái xác để trút hồn vào. 26.Trường hợp hồn là do cái gì đó thì tiện nhất là chọn luôn cái ấy làm xác. 27.Trường hợp hồn tự phát thì chọn lựa xác mở rộng. Tôi tự dưng cảm thấy thế nào đấy, hay tôi tự dưng có ý nghĩ gì đấy, thì nên trút hồn vào đâu? 28.Nói chung, dường như nên chọn loại xác mà ta quen thuộc. Càng quen thuộc càng tốt. 29.Tưởng tượng Xuân Diệu đang ở Hà Nội bỗng thấy "buồn, không hiểu vì sao", xong dùng hình ảnh mùa thu Paris (mà nhà thơ chưa mắt thấy) để diễn tâm trạng của mình! Hay Nhất Linh đang chợt băn khoăn về ý nghĩa của cuộc sống, xong dùng một cảnh thoáng thấy ở Pháp để cố tả nỗi băn khoăn ấy! 30.Biết rằng không phải "trời nhẹ lên cao" làm Xuân Diệu buồn, nhưng dùng trời quen thuộc ấy vẫn hơn. Biết rằng đám dân quê đứng đợi đò không hẳn là cớ khiến Nhất Linh ray rứt về cuộc sống, nhưng mượn đám ấy vẫn hơn. SỨC MẠNH CỦA HỒN 31.Ða số nghệ sĩ lớn sáng tạo rực rỡ khi còn rất trẻ, chưa dựng nên thứ lý thuyết nào cả, thậm chí chưa biết mấy, hiểu mấy về lý thuyết đã có trong ngành. Khi họ biết hơn, hiểu hơn, thì lại không sáng tạo xuất sắc được nữa. 32.Như thế có lẽ là vì nghệ phẩm giá trị đòi hỏi nội dung mạnh mẽ. Có một thứ hồn nào đó thôi thúc ta làm xác cho nó thì ta mới hăng hái làm. Bắt tay vào làm, tự nhiên biết cách. 33.Khi lòng đã rỗng thứ hồn mạnh mẽ rồi, hay hồn đã yếu đi rồi, thì đâu thiết làm nữa. Ðã thế, biết đủ thứ cách chưa chắc là hay, vì ta có thể do đấy mà bớt sáng tạo khi làm. 34.Nghệ sĩ "hoa nở muộn" là do khi đã lớn tuổi mới có hồn mạnh "nhập" vào, hay hồn sẵn có mới trở nên mạnh. 35.Nghệ sĩ sáng tạo bền là nhờ bị một số hồn mạnh nào đấy "ám" mãi. 29
BIẾT ÐẸP VÀ BIẾT LÀM RA CÁI ÐẸP 36.Là hai năng khiếu khác nhau. 37.Giỏi biết đẹp mà không giỏi làm ra cái đẹp: biết mình vẽ xấu. 38.Giỏi làm ra cái đẹp mà không giỏi biết đẹp: vẽ đẹp, tưởng xấu. 39.Giỏi cả hai: biết mình vẽ đẹp. 40.Kém cả hai: vẽ xấu, tưởng đẹp. PHÊ BÌNH 41.Biết đẹp là đòi hỏi căn bản. 42.Ðòi hỏi căn bản khác là không sợ dư luận. Cần tự mình đánh giá, không nên vò đầu bóp trán cố giải thích tại sao nó đẹp, trong khi nó xấu! 43.Ðòi hỏi nữa là có công tâm. Thấy đẹp thì bảo đẹp, dù không thích. 44.Nghệ phẩm không phải do trí óc. Cho nên không giảng được tại sao nó đẹp. LÀM MỚI 45.Ðẹp, lại mới, dĩ nhiên càng quý. 46.Không phải cứ mới là đẹp. Muôn nghìn cái mới may ra có một cái mới đẹp. Cũng như trong vô số bé gái sinh mỗi ngày, sẽ được mấy tuyệt sắc giai nhân! 47.Nên cố làm mới, như nên cố đẻ. Vì có thế thì mới có hy vọng sẽ có cái mới đẹp, sẽ có tân Tây Thi. 48.Xưa kẻ bất tài núp sau khuôn sáo, che mình bằng cái cũ. Nay hắn khoác áo "mới". THỜI GIAN, NGHỆ PHẨM, NGHỆ SĨ... 49.Nói chung, vì chính con người thay đổi, cả xác đẹp lẫn hồn đẹp đều không vượt được thời gian. 50.Vì giá trị của nghệ phẩm không vượt được thời gian nên danh tiếng của nghệ sĩ, xứng đáng hay không, càng lâu càng vững chắc. Vì sẽ không còn ai đánh giá 30
được nghệ phẩm nữa. (Ngoài ra, đa số ngại đụng đến các vị đã lên bàn thờ!) 51.Cùng một nghệ sĩ, thứ tự xuất hiện của một nghệ phẩm có thể ảnh hưởng đến cái tiếng của nó. Thường, nghệ phẩm đầu tiên làm nghệ sĩ nổi tiếng sẽ được nhớ đến nhiều nhất, dù về sau nghệ sĩ ấy có những sáng tạo xuất sắc hơn.
(Thu Tứ, Tìm tòi và suy nghĩ, nxb. Của Tin, Mỹ, 2005) _______________________ (1) Chế Lan Viên có câu thơ: "Xe ý với hương, xe sắc với lời" (trong bài Thơ Bình Phương - Đời Lập Phương). (2) Huy Cận có bài thơ Ði Giữa Đường Thơm.
Nghĩ về lịch sử (1) Ba nguyên tắc, một hệ quả... Lấn được thì lấn Chống được thì chống Bắt chước nước giàu Chống rồi bắt chước Thực tế lấn, chống Nước cũng gần như người! Ví dụ, ví dụ Thế giới rất nhiều nước. Nước nọ nước kia ăn ở với nhau theo những nguyên tắc căn bản nào? Ðây không phải nói về hiệp ước, thỏa ước, công ước, hiệp định, luật quốc tế v.v. Tất cả những cái ấy đều không căn bản, đều chỉ là kết quả của những cuộc tranh chấp. Ðây nói về những nguyên tắc xuất phát trực tiếp từ bản năng sinh tồn. Hình như chỉ có ba. Lấn được thì lấn Lấn có thể nhằm chiếm hẳn đất của người khác, có thể chỉ nhằm giành quyền lợi. 31
Không phải chỉ đất hẹp nước nghèo mới đi lấn đất giành của. Ðất đã rộng rồi, của đã nhiều rồi, vẫn cứ muốn lấn để rộng thêm, giàu thêm! Muốn thêm đất thêm của, nhưng rồi có lấn hay không thì tùy vào cảm tưởng của mình về tương quan lực lượng giữa mình và đối tượng. Có cảm thấy có thể thắng được thì mới lấn. Chống được thì chống Hễ bị lấn, ngay lập tức sẽ nẩy sinh phản ứng muốn chống lấn, để giữ đất hay quyền lợi của mình. Không phải chỉ đất hẹp nước nghèo mới thiết tha chống lấn để giữ lấy chút đất chút của. Ðất rộng nước giàu cũng thiết tha chống lấn y như thế, vì không chấp nhận mất chút đất chút của nào! Không muốn mất đất mất của, nhưng rồi có thực sự chống lấn hay không thì tùy vào cảm tưởng về tương quan lực lượng giữa mình và phía xâm lăng. Có cảm thấy có thể thắng được thì mới chống. Bắt chước nước giàu Khi bị lấn, ngay lập tức mình sẽ muốn chống lấn, và nếu sau khi ước lượng thấy có thể chống thành công, mình sẽ chống. Trong khi chống, ngoài những thứ được xem là cần thiết cho chiến thắng, mình sẽ không bắt chước bất cứ thứ gì của kẻ xâm lược. Nhưng nếu một nước hoặc chưa từng đụng chạm, hoặc không còn đụng chạm, hoặc có và vẫn đang đụng chạm mà mình nhắm không chống nổi, mà nước ấy lại giàu hơn hẳn mình, thì mình sẽ có khuynh hướng muốn bắt chước tất cả các thứ của nước ấy, bất kể thuộc văn hóa vật chất hay văn hóa tinh thần. Họ có thể thực ra chỉ hơn mình về vật chất, nhưng tình trạng thua kém về vật chất làm cho mình mất tinh thần, thấy về tinh thần mình cũng thua kém họ luôn, mình bèn ruồng bỏ cái văn hóa tinh thần của mình mà rước cái văn hóa tinh thần của họ về, nguyên con! Chống rồi bắt chước! Hai nguyên tắc Chống Ðược Thì Chống và Bắt Chước Nước Giàu có thể dẫn đến hệ quả ngộ nghĩnh: Nước này chống cự kịch liệt khi bị nước kia xâm lăng, nhưng sau khi chống cự 32
thành công, đuổi được giặc ra khỏi bờ cõi, liền bắt đầu bắt chước tất cả mọi thứ của giặc một cách hết sức... nô lệ! Thực tế lấn, chống Lấn và chống lấn mang nhiều hình thức, tối hậu là chiến tranh vũ trang. Ðể ý rằng cái quyết định lấn hay chống lấn là căn cứ vào tin tình báo. Trong khi kết quả của xung đột sẽ tùy thuộc vào thực lực! Yếu mà tưởng mạnh, sẽ bị tổn thất, thiệt hại vô ích. Mạnh mà tưởng yếu, sẽ để mất nước mất của khi không đáng mất, hoặc bỏ lỡ cơ hội chiếm đất, cướp của. Sức lấn hay sức chống không đơn giản là quân số, vũ khí, chiến lược, chiến thuật v.v., mà còn là tâm lý của binh sĩ và của toàn dân, cũng như mức độ tham gia của các đồng minh... Sức lấn hay sức chống không “tĩnh” mà “động”. Bên ta có thể lúc đầu yếu mà về sau mạnh. Một trận thắng lớn giòn giã có thể khiến lòng quân dân đang chán nản, muốn bỏ cuộc, bỗng trở nên đầy hy vọng, sẵn sàng quyết chiến, làm sức chống của ta tăng hẳn lên. Một nước mạnh nào đó sau khi đắn đo quyết định đứng hẳn về phía ta, tiến hành thiết thực giúp đỡ ta, cũng là lý do khiến ta có thể bỗng nhiên hóa nặng hơn địch trên bàn cân sức! Bất kể lấn hay chống lấn, cần liên tục biết chính xác sức mình. Và sức người. Nước cũng gần như người! Xem lại, gần như tất cả những điều vừa nói trên đây về hành vi của các quốc gia, nếu đem nói về hành vi của những cộng đồng người nhỏ hơn thì cũng hoàn toàn đúng. Thậm chí, nếu đem nói về hành vi của từng cá nhân cũng vẫn hoàn toàn đúng... Có lẽ nên nhìn hiện tượng theo hướng ngược lại, hướng từ nhỏ đến lớn. Tuy một quốc gia gồm vô số cá nhân, nhưng một quốc gia thì cũng hành xử gần y hệt như một cá nhân mà thôi! Gọi nước này nước nọ là “anh” này “anh” nọ, đích đáng lắm! Một người là anh, mà một trăm triệu người hợp lại, một tỉ người hợp lại, cũng là “anh” (hoặc “thằng”!). Nhưng tại sao lại “gần như”? Quốc gia khác với cá nhân ở chỗ nào? Khác ở cái nguyên tắc thứ ba: Bắt Chước Nước Giàu. 33
Trường hợp nước với nước, do mỗi nước một nền văn hóa, sự bắt chước nhau chỉ có thể căn cứ vào cái ám ảnh căn bản nhất của loài người là điều kiện vật chất. Nước nghèo sẽ bắt chước nước giàu, tự nguyện đồng hóa mình với nước giàu. Trường hợp người với người trong cùng một nước, cái tiêu chuẩn cho sự bắt chước nhau nó tùy thuộc vào đặc tính của văn hóa nước. Nếu văn hóa nước thượng tôn tiền, thì người nghèo Bắt Chước Người Giàu. Nếu văn hóa nước thượng tôn sự nổi tiếng, thì người vô danh Bắt Chước Người Nổi Tiếng. Còn nếu, chẳng hạn, văn hóa nước quý người “hiền”, thì người chưa “hiền” Bắt Chước Người Hiền... Hiển nhiên, khi một nước nghèo do bắt chước một nước giàu đã mất đi cái văn hóa tinh thần riêng của mình, thì người trong nước ấy sẽ bắt chước nhau theo cái tiêu chuẩn trong văn hóa tinh thần của nước giàu kia! Chẳng hạn, số đông vốn trước kia Bắt Chước Người Hiền nay xoay qua Bắt Chước Người Giàu, Người Nổi Tiếng. Ngẫu nhiên, những lối kia kiểu nọ của Người Giàu, Người Nổi Tiếng hình như thu hút số đông hơn phong cách Người Hiền không biết bao nhiêu, mà việc bắt chước nói chung lại dễ dàng lắm. Do đó, số đông đang hết sức nhanh chóng giã từ Khổng tử để hello... Michael Jackson, đang hỏa tốc quên sạch toàn bộ nền nếp nghìn năm của những người mẹ Việt Nam, người chị Việt Nam, để học tập những thói ăn ở của các siêu sao siêu mẫu Tây phương! Ví dụ, ví dụ Ðọc lời trên, rồi ngắm nghía bản đồ chính trị thế giới, rất dễ sinh hoang mang vì không thấy ứng nghiệm. Ấy một phần bởi hành động lấn có thể mang những dạng "hòa bình", thoạt nhìn không nhận ra, một phần nữa bởi trong văn hóa của một dân tộc có thể có những “thành trì” đặc biệt kiên cố, lâu mất hơn hẳn đa số các đặc tính khác. Ngoài ra, lại còn hiện tượng ảnh hưởng lớn bất thường của một cá nhân hay một đảng phái... Hãy ví dụ. Bắc Triều Tiên nghèo, không bị Mỹ lấn, tại sao không bắt chước Mỹ? Thứ nhất, BTT có bị lấn ác liệt: Mỹ kêu gọi và áp lực rất nhiều nước không buôn bán với BTT, tức tiến hành chiến tranh kinh tế khiến BTT rất khốn đốn. Thứ hai, dù nhân dân BTT có cảm thấy không chống nổi chiến tranh kinh tế của Mỹ và thấy Mỹ giàu quá mà muốn bắt chước Mỹ, thì lãnh đạo BTT hiện tại cũng không 34
cho. In-đô-nê-xi-a nghèo hơn Mỹ, không bị Mỹ lấn, tại sao đa số dân không bỏ đạo Hồi theo đạo Chúa? Vì tôn giáo sống lâu. Nếu Mỹ tiếp tục giàu hơn hẳn In-đônê-xi-a thêm hai trăm năm nữa, có thể ở In-đô-nê-xi-a đạo Chúa sẽ lên đạo Hồi sẽ xuống đáng kể. Nhưng giàu ai nói là bền! Một trăm năm nữa thôi, biết đâu chỉ năm chục, nước Mỹ có thể đã hết thịnh vượng. Việt Nam nghèo hơn Mỹ, hiện không bị Mỹ lấn, tại sao người Việt Nam ăn uống vẫn khác người Mỹ? Vì văn hóa ẩm thực rất bền. Nhưng ngay cả nó vẫn mất được nếu đủ thời gian. Nếu độ chênh vật chất lớn lao giữa Việt Nam và Mỹ kéo dài thêm hai trăm năm nữa, không ai dám chắc rằng con Rồng cháu Tiên sẽ không ăn uống y hệt như con cháu... chú Sam! Nhưng như đã nói, có thể chỉ độ mười mấy nhiệm kỳ tổng thống nữa, Hiệp Chúng Quốc đã thôi “nứt đố đổ vách”... Nghĩ về lịch sử (2) Mất còn Mất độc lập, có thể còn văn hóa Cái gì quyết định sự mất còn của văn hóa? Văn hóa còn, mới mong có ngày độc lập trở lại Cộng đồng định cư nào cũng gồm một số người sống với nhau trên một vùng đất. Nếu những cư dân ấy sống theo một nền nếp riêng, tức có một nền văn hóa riêng, thì họ là một dân tộc. Một dân tộc có thể bị mất quyền cai trị trên vùng đất mà mình đang sống, tức mất độc lập. Chuyện gì xảy ra sau khi một dân tộc mất độc lập? Mất độc lập, có thể còn văn hóa Ai cũng biết nước Tàu từng mất vào tay người Mông Cổ. Nhưng văn hóa Tàu không mất. Rốt cuộc, chính văn hóa Mông Cổ mới mất! Về chuyện này, trước giờ vẫn có một lối giải thích phổ thông. Rằng sở dĩ xảy ra như thế là do văn hóa Tàu cao đã đồng hóa được văn hóa Mông Cổ thấp. Văn hóa cao không nhất thiết thắng văn hóa thấp đâu! Nếu cao thắng thấp, tại sao văn hóa Tàu không đồng hóa được văn hóa Việt sau 35
hơn một nghìn năm đô hộ Cổ Việt? (Ðây giả sử vào thời điểm người Tàu chiếm nước ta, tuy tổ tiên ta không hề “mọi rợ” như kẻ xâm lược vu khống, văn hóa ta bấy giờ nói chung thấp hơn văn hóa Tàu.) Nếu cao thắng thấp, tại sao văn hóa Chàm không đồng hóa được văn hóa Tây Nguyên (vốn thấp hơn văn hóa Chàm) khi người Chàm lên ở Tây Nguyên?(1) Rõ ràng chênh lệch cao thấp không tự một mình nó quyết định được kết quả mất còn khi hai nền văn hóa giao lưu. Nó thực ra chỉ là một trong mấy yếu tố quyết định kết quả. Cái gì quyết định sự mất còn của văn hóa? Khi một dân tộc mất độc lập, ngoại nhân đến cai trị sẽ mang vào văn hóa riêng của hắn. Văn hóa ngoại lai và văn hóa bản địa giao lưu, sau một thời gian sẽ ra đời một văn hóa lai. Văn hóa lai ấy giống văn hóa gốc nào hơn, tùy thuộc vào ba yếu tố. Yếu tố thứ nhất là tỉ lệ dân số: bên nào đông dân hơn thì dễ lưu truyền văn hóa của mình hơn. Yếu tố thứ hai là tương quan thế lực chính trị: văn hóa ngoại lai của kẻ cai trị dĩ nhiên sẽ được hắn cố áp đặt lên dân bản địa bị trị. Ðồng thời, một số dân bị trị sẽ tự ý học tập văn hóa ngoại lai để mong được kẻ cai trị tuyển dụng. Yếu tố thứ ba là độ chênh văn hóa: Văn hóa vật chất cao (kỹ thuật tiến bộ) là một ưu thế đặc biệt quan trọng trong việc phổ biến văn hóa tinh thần. Như đã nhiều lần trình bày, nhân loại có cái lối “thua vật chất, mất tinh thần, bỏ tinh thần”, nghĩa là hễ cứ thua ai về vật chất thì khiếp, thì chẳng những chỉ bắt chước văn hóa vật chất của người mà còn bỏ luôn văn hóa tinh thần của mình để theo văn hóa tinh thần của người! Mặt khác, khi một đất nước bị chiếm, ác cảm tự nhiên của người dân mất nước đối với kẻ xâm lược sẽ khiến cái diễn biến Thua-Mất-Bỏ vừa nói không diễn ra ở mức độ bình thường. Trở lại với mấy ví dụ đã đưa ra. Ở Trung Nguyên, sở dĩ văn hóa Tàu còn, văn hóa Mông Cổ mất, ấy bởi người Tàu vừa hết sức đông đảo vừa có văn hóa cao. Người Mông Cổ chắc chắn đã cố áp đặt văn hóa Mông Cổ, nhưng đành chịu thất bại. Ở Cổ Việt, sở dĩ văn hóa Việt còn, văn hóa Tàu mất, ấy bởi người Việt có dân số áp đảo.(2) Tổ tiên ta đông hơn hẳn, khiến kẻ xâm lược kia tuy “đè đầu cưỡi cổ” và có văn hóa cao hơn rốt cuộc không đồng hóa được dân bản địa. 36
Ở Tây Nguyên, sở dĩ văn hóa Chàm mất, văn hóa Tây Nguyên còn, ấy bởi dân số Chàm trên ấy không là bao nhiêu so với dân số các dân tộc “thiểu số”! Thế thượng phong chính trị của người Chàm và trình độ ưu việt của văn hóa Chàm không giữ nổi văn hóa Chàm. Thực ra sau khi giao lưu hoàn tất, thì trên cái đất nào đó sẽ không còn văn hóa A và văn hóa B riêng biệt nữa, mà chỉ có một cái văn hóa lai. Nếu “đứa con” giống A hơn hẳn giống B, ta gọi nó là A. Nếu “đứa con” giống B hơn hẳn giống A, ta gọi nó là B. Văn hóa Tàu sau đời Nguyên là một văn hóa lai rất giống văn hóa Tàu trước đời Nguyên, nên vẫn gọi là văn hóa Tàu. Văn hóa Việt sau thời Bắc thuộc là một văn hóa lai rất khác văn hóa Tàu, từ đó suy ra nó rất giống văn hóa Việt trước Bắc thuộc, nên vẫn gọi là văn hóa Việt. Văn hóa Tây Nguyên sau thời nước Nam Bàn là một văn hóa lai rất giống văn hóa Tây Nguyên trước khi có nước Nam Bàn, nên vẫn gọi là văn hóa Tây Nguyên. “Còn” đây là theo cái nghĩa tương đối như thế. Văn hóa còn, mới mong có ngày độc lập trở lại Sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc, trên đất cũ của tổ tiên ta đã hình thành một văn hóa mới có chứa khá nhiều nét của văn hóa Tàu. Nhưng cái văn hóa lai ấy cơ bản vẫn là văn hóa Việt. Nó ý thức nó khác văn hóa Tàu và luôn hậm hực tìm cách lấy lại địa vị số một trên vùng đất vốn thuộc về nó. Vào cuối thời Bắc thuộc, người Việt vẫn thấy mình khác người Tàu và do đó vẫn quyết tâm “đuổi Ngô về Tàu”. Dân có quyết tâm, nên khi cơ hội lịch sử đến, thì người tài giỏi Ngô Quyền bèn... Bạch Ðằng giang! Về chuyện cũ giữa người Việt và người Tàu, bài học lịch sử cho họ là muốn giữ mãi thuộc địa thì phải cấp tốc đưa đông đảo dân đến ở thuộc địa, cấp tốc biến thuộc địa thành chính quốc. Phần ta, con cháu bây giờ nên nhớ ơn tổ tiên xưa kia đã chịu khó đẻ, duy trì được một tỉ lệ dân số áp đảo đối với kẻ cướp nước. 37
Và ta cũng nên noi gương tổ tiên mà chịu khó sinh sôi thêm (trong giới hạn khả năng nuôi được) để phòng xa... ___________________ (1) Ðào Duy Anh, Ðất nước Việt Nam qua các đời, nxb. Thuận Hóa (VN) tái bản 1994, tr. 234: “Những người Chiêm ở phía Tây Nguyên mà trước kia Lê Thánh Tông đã cắt ra làm nước Nam Bàn, thì sau khi căn cứ của họ là nước Chiêm Thành ở miền Phan Rang, Bình Thuận đã mất, họ cũng dần dần chịu ảnh hưởng của phương thức sinh hoạt lạc hậu của những bộ lạc nguyên thủy ở miền ấy”. (2) Do những lẽ nào đó dân Tàu đã không ồ ạt kéo xuống định cư. Người Tàu ở đất ta gồm chủ yếu là quan lại và quân viễn chinh và thương nhân, tổng cộng thành một con số tương đối nhỏ. Nghĩ về lịch sử (3) Ước với định với luật Bản chất, phân loại Tác giả, mục đích Ai tuân, ai không Khi nào sửa, ai sửa Những cái vỏ bọc! Quan hệ giữa các nước được chính thức hóa bằng những hòa ước, điều ước, hiệp ước, thỏa ước, minh ước, công ước, hiệp định, nghị định thư v.v. và các thứ luật quốc tế. Bản chất, phân loại Như đã có lần nhận xét (1), nội dung của những văn kiện nói trên cơ bản là kết quả của những cuộc tranh giành đất đai, quyền lợi, ảnh hưởng giữa các nước trên thế giới. Tất cả đều thuộc một trong hai loại: - Loại thứ nhất hết sức cổ xưa, vì ra đời cùng lúc với chiến tranh, ra đời để chuẩn bị cho, hay để kết thúc chiến tranh. Số minh ước, hòa ước, hiệp ước v.v. nhiều có lẽ còn hơn cả số những cuộc chiến tranh! Từ cuối thế kỷ 19 tới nay: hòa ước Paternote, hiệp ước Versailles, hiệp ước Munich, hiệp định Potsdam, hiệp định Genève, minh ước Bắc Ðại Tây Dương, minh ước Vác-xô-vi v.v. - Lọai thứ hai rất mới, vì ra đời sau khi kỹ thuật tiến bộ giúp nhân loại nơi nơi bắt đầu tiếp xúc được với nhau cách tương đối dễ dàng. Loại này không xuất 38
phát từ những cuộc chiến tranh cụ thể, mà là kết quả của những giằng co giữa các đại cường nhằm trật tự hóa và tái văn hóa toàn thể thế giới theo ý riêng của mình. Ví dụ: những thỏa ước tài chính, thương mại, viễn thông, vận tải, những luật hải phận, hàng hải, hàng không, không gian, những hiệp ước về vũ khí nguyên tử, hóa học, sinh học, về hợp tác cảnh sát, về quyền tài phán, những công ước nhân đạo, luật nhân quyền (đặc sản Tây phương “cưỡng mãi” ầm ĩ nhất!) và gần đây hơn cả, còn đang ráo riết tranh chấp, những ước thúc nhằm bảo vệ sinh môi. Tác giả, mục đích Cái văn kiện quốc tế bé nhất thì cũng có hai chữ ký! Các chữ ký luôn cùng kích thước. Nhưng chỉ “bằng chữ ký”, chứ thường không có chuyện “bằng lòng” đâu.(2) Vì thường giữa những “ký nhân” có kẻ mạnh người yếu. Yếu tuy cầm bút ký, nhưng ký chưa xong đã muốn vất bút cầm cái tờ giấy ấy lên mà xé, mà rồi vẫn phải ký! Cớ làm sao yếu lại ghét nó thế? Vì nó do mạnh viết ra rồi bắt yếu ký. Kẻ mạnh viết “giấy”. Hắn viết có khi để chính thức hóa và cụ thể hóa những kết quả của hành động xâm phạm sở hữu người yếu của hắn. Hắn viết lại có khi để đặt ra những luật kia nọ, hoặc nhằm đảm bảo cái thế thượng phong tuyệt đối của hắn, hoặc nhằm áp đặt văn hóa của hắn lên người khác, hoặc nhằm cả hai. Ai tuân, ai không Người yếu dĩ nhiên phải tôn trọng hiệp ước, tuân thủ luật. Kẻ mạnh, tuy chính hắn tác giả những nội dung rất thuận lợi cho hắn, nhưng việc đời bất trắc, thỉnh thoảng tôn tuân lại bất lợi! Trong trường hợp đó, hắn sẽ ngang nhiên bất tôn bất tuân. Một đám nước “lớn” xúm nhau lập ra cái “Liên hiệp quốc”. LHQ được thiết kế 39
để các lớn chính thức làm lớn với cả trái đất. Khổ, có đến năm lớn. Xẩy việc gì, đồng lòng cả, tốt, ta cùng vác cờ LHQ mà động binh cho “hợp pháp”. Còn nếu có bất đồng, không vác được cờ xanh đi theo, thì lớn nào đó vẫn cứ tụ tập anh em bè bạn lên đường đấm đá như thường, không thèm đếm xỉa tới thứ “pháp” do chính hắn đã hò hét đốc thúc xây nên! Kẻ mạnh có khi, để tránh gặp phản đối dù yếu ớt, viết ra một thứ luật nội dung không thiên vị bên nào. Nhưng rồi hắn bắt người yếu phải tuyệt đối tuân theo luật, trong khi chính hắn thì... bơ! Cái đám nước đã có cả đống bom nguyên tử xúm nhau làm hiệp ước cấm những nước chưa có quả nào không được làm bom. Nên nhớ theo hiệp ước Nuclear Non-Proliferation bọn có bom phải giải tán kho bom của mình. Nhưng bao nhiêu năm nay chỉ thấy bọn ấy nhao nhao đòi... bom những nước chưa có mà bị nghi là đang lén chế, chứ chưa ai thấy chủ bom nào đưa ra kế hoạch cụ thể về việc tự giải giới nguyên tử. Dại gì, ăn trên ngồi trước, đè đầu cưỡi cổ thiên hạ, nhờ có bấy nhiêu! Khi nào sửa, ai sửa Không ai đi sửa luật có lợi cho mình. Ngày đêm ra rả “Dân chủ! Bình đẳng!”. Miệng hô khẩu hiệu tới đâu, tay nắm chân giơ sẵn sàng đấm đá tơi bời để bắt cả thiên hạ theo tới đó. Nhưng chớ ai mơ có ngày “Ngũ Bá” trong Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc sẽ tự ý sửa luật để bãi bỏ những đặc quyền tuyệt đối, nói chi cắt giảm nhiệm kỳ dài vô tận của mình! Nước nước dứt khoát phải thực sự dân chủ, bình đẳng, nhưng riêng cái nước to nhất này – “nước Liên hiệp” - thì miễn, thì được tiếp tục độc tài bá trị, bất bình đẳng cho đến muôn năm! Hễ sửa luật, bao giờ người ta cũng sửa nhằm có lợi cho mình. Sửa, hay tối hậu là bỏ. Nhưng ai sửa, bỏ? Có thể chính những nước mạnh nguyên thủy nay vẫn còn mạnh muốn táy máy làm lại luật vì thấy khi làm lần đầu đã sơ sót khiến luật không đủ hiệu quả cho những mục đích của họ. Có thể những nước trước kia yếu, bị ép chấp nhận những nội dung bất lợi cho mình nay mạnh lên đủ, muốn thay những hiệp ước, hiệp định, luật lệ một chiều kia bằng những hiệp ước, hiệp định, luật lệ thiên vị theo chiều ngược lại! Những cái vỏ bọc! Khi kêu gọi tôn tuân ước kia định này luật nọ, người ta luôn luôn nhân danh hòa bình, nhân danh những giá trị “phổ quát” và gần đây nhất, nhân danh môi 40
trường. Nếu hòa bình nghĩa là đất nước nào đó tiếp tục bị ngoại nhân cai trị, hoặc tiếp tục bị hà hiếp, lấn lướt, xâm phạm, thì hòa bình chẳng có chút giá trị gì đối với đất nước ấy! Những giá trị “phổ quát” thực ra chỉ là quan điểm, ý kiến riêng của một số "đại cường". Việc áp đặt những giá trị ấy có ý nghĩa xâm phạm tới nền độc lập của các quốc gia khác. Còn môi trường, tuy việc bảo vệ nó có lợi lâu dài cho mọi người nhưng những biện pháp cụ thể đề nghị lại thường cản trở phát triển kinh tế ở những nước nghèo. Ngay nước kia giàu bậc nhất mà do thấy dự luật môi trường sẽ ảnh hưởng bất lợi ít nhiều cho kinh tế mình cũng liền tẩy chay! Nhân loại có đạt được một số “ước-định-luật” mà nội dung cơ bản là vô tư, không thiên vị bất cứ nước nào. Nhưng rất nhiều văn kiện quốc tế thực ra chỉ là những vỏ bọc văn hóa cho Luật Rừng Xanh, Luật Mạnh Hiếp Yếu, Luật Cá Lớn Nuốt Cá Bé!(3) Do bản chất “rừng rú” của chúng, rất nhiều ước với định với luật quốc tế ký xong là chỉ đợi ngày bị đưa ra bãi rác khổng lồ của lịch sử! (TB: Chúng tôi viết bài này, cũng như nhiều bài khác, là để trình bày nhận thức của mình về bản chất của các diễn biến lịch sử, chứ không nhằm mục đích cổ vũ chiến tranh. Ngược lại, chúng tôi cổ vũ tinh thần Bất Ðồng Nhi Hòa của văn hóa Á Ðông xưa. Theo tinh thần này, dù bất đồng ý kiến vẫn giữ hòa khí. Ta sống lối ta chọn và ta để yên cho người khác sống lối họ chọn. Ta không cố tận diệt mọi bất đồng nhằm “duy ngã độc tôn”!) ________________ (1) Xem Nghĩ Về Lịch Sử (1). (2) “Bằng mặt, không bằng lòng”. (3) Ngay cái công ước đối xử nhân đạo với tù binh cũng mang sẵn trong nó tính mạnh hiếp yếu. Vì nó chỉ hiệu lực giữa những nước có ký tên vào công ước. Nước Việt Nam thời Pháp thuộc làm gì có tư cách ký! Cho nên quân đội Pháp tự do đối xử vô nhân đạo với tù binh kháng chiến Việt Nam. Nghĩ xem: đã đi cướp nước người ta, lại được “quyền” tha hồ tra tấn khi người ta chống cự, ước với ước do mình viết ra sao mà tiện lợi cho mình đến thế! Nghĩ về lịch sử (4) 41
Giàu mạnh Người ta hay nói đất nước nào đó giàu mạnh. Giàu mạnh là giàu và mạnh, là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Giàu nói về mức sống của dân, còn mạnh nói về sức đánh của quân. Có nước vừa giàu vừa mạnh, như Mỹ từ sau Thế chiến Thứ hai. Có nước chỉ giàu chứ không mạnh, như Tàu trong thế kỷ 19. Có nước không giàu mà mạnh, như Liên Xô hồi cuối thế kỷ 20. Có nước vừa không giàu vừa không mạnh, như đa số các nước vào bất cứ lúc nào! Tuy khác nhau, nhưng giàu và mạnh hoán chuyển và tương tác rất cụ thể. Hoán chuyển Nước giàu có thể trở nên mạnh. Bằng cách bỏ tiền ra nuôi một quân đội đông đảo và mua hoặc chế vũ khí tối tân. Giữa mua với chế thì chế hay hơn, vì không phải tùy thuộc vào nước khác. Nhưng chỉ những nước giàu nhờ công nghệ phát triển như Ðức, Nhật, mới có thể tự chế vũ khí tối tân. Chứ nước giàu nhờ tài nguyên như Ả-rập Xê-út, chẳng hạn, thì chỉ có cách đi mua. Nước mạnh có thể trở nên giàu, bằng cách đi ăn cướp của nước yếu! Tương tác Hễ giàu thì cần mạnh để giữ của. Nước giàu mà yếu có thể không bị cướp nhờ các nước mạnh gờm nhau nên không nước nào dám ra tay cướp. Nhưng coi chừng: bọn mạnh có thể xé ta ra thành nhiều mảnh mà chia nhau! Tức chuyện đã xảy ra cho nước Tàu hồi thế kỷ 19: do giàu mà yếu, Tàu đã bị các cường quốc Tây phương xé và chia. Nước giàu mà yếu có thể không bị cướp nhờ liên minh với nước mạnh. Như Nhật (không có vũ khí nguyên tử) nhờ liên minh với Mỹ (rất nhiều vũ khí nguyên tử) mà Tàu (có vũ khí nguyên tử nhưng không nhiều) không dám cướp. Nhưng dựa vào liên minh có chỗ dở là đồng minh có thể không giữ lời. Ba mươi năm nữa, có thể Tàu sẽ mạnh lên và Mỹ sẽ yếu xuống tới mức khi Tàu đánh Nhật, Mỹ sẽ không dám can thiệp. Hễ mạnh mà không giàu thì không mạnh bền. 42
Mạnh là nhờ có quân đội đông đảo trang bị vũ khí tối tân. Muốn mạnh, phải tốn nhiều tiền. Làm sao lại có nước mạnh mà không giàu? Chuyện xảy ra là, nước ấy đã “gồng” mình, hy sinh tất cả để xây dựng sức mạnh quân sự. Rắc rối: nhịn ăn nhịn mặc mãi để mạnh, coi chừng có ngày... ngã bệnh, chẳng những không mạnh được nữa mà có khi còn... chết luôn! Ví dụ gần đây nhất là Liên Xô. Vậy tốt nhất là giàu tới đâu mạnh tới đó. Ðây chính là sách lược của Tàu trong mấy chục năm qua. Kinh tế Tàu lên tới đâu, quốc phòng Tàu lên tới đó, để giúp Tây phương khỏi bị cám dỗ bởi ý tưởng lại dùng sức mạnh để thống trị Tàu như trước kia. Dĩ nhiên, cứ đà phát triển này, đến ngày nào đó chính Tàu sẽ bị cám dỗ bởi ý tưởng dùng sức mạnh để thống trị các nước khác! Nghĩ về lịch sử (5) Bom và rào chắn Chất lượng vũ khí đã nhiều lần quyết định kẻ thắng người thua, thậm chí kẻ còn người mất, trong lịch sử nhân loại. Sự kiện người Hoa Hạ có vũ khí bằng sắt sớm hơn người Việt tộc chắc đã giúp việc bành trướng về phía đông và nhất là về phía nam của Hoa dễ dàng hơn. Huyền thoại chiếc nỏ thần của An Dương Vương chắc cũng chứa ít nhiều sự thực về tầm quan trọng của một loại vũ khí đặc biệt lợi hại. Và dĩ nhiên, súng nhỏ súng lớn và đạn pháo nổ của các nước Âu châu đã giúp họ chinh phục cả thế giới cách dễ như không. Gần đây nhất, bom nguyên tử đã giúp Mỹ ép Nhật phải đầu hàng sớm. Sau đó, một cách gián tiếp, bom đã giúp Mỹ thắng Liên Xô: do cả hai bên đều có khả năng tận diệt nhau, chiến tranh lạnh không biến thành nóng được mà thành một cuộc chạy đua vũ trang ngoài sức chịu đựng của kinh tế Liên Xô...(1) Bom tất nhiên không giúp riêng Mỹ. Lực lượng nguyên tử tương đối rất bé nhỏ của Tàu thế mà đủ làm cho Mỹ và Liên Xô phải e dè, không dám ăn hiếp Tàu quá đáng (Mỹ, Liên Xô đều thừa sức tận diệt Tàu, nhưng cũng sẽ bị Tàu gây tổn thất đáng kể). Mỹ lấy làm hết sức khó chịu về việc bị vài chục chiếc hỏa tiễn Ðông Phong khá thô sơ cản trở hành động bá quyền của mình. Vừa may kỹ thuật quân sự Mỹ tiến bộ đến mức chế được thứ tên lửa bắn tên lửa đủ độ tin cậy, Mỹ bèn tiến hành dựng hàng rào chắn tên lửa. Miệng nói để bắn 43
hạ tên lửa (chưa có!) của Bắc Hàn, Ba-tư v.v., nhưng mắt nhắm chủ yếu vào Ðông Phong, với lòng ao ước rồi sẽ cải tiến được rào chắn tới mức vô hiệu hóa một phần đáng kể lực lượng tên lửa ghê gớm của Nga. Bề mặt rất gạt gẫm, phải nhìn xuyên thấu. Chế tên lửa chủ công mà ít như Tàu là để thủ chứ không phải để công. Trong khi đã có vô số tên lửa chủ công mà lại chế thêm tên lửa bắn tên lửa như Mỹ, thì cái việc chế ấy nội dung của nó là công chứ không phải thủ! Người ta chỉ chế một ít để “treo giá”(2), để đỡ bị mình ăn hiếp. Nay mình chực giật cái giá ấy xuống, mình muốn mình có khả năng tận diệt người ta với tổn thất không đáng kể cho mình (do vài chiếc Ðông Phong tình cờ lọt rào)! Dĩ nhiên đời không đẹp như mơ. Mỹ xây rào chắn tên lửa thì đối thủ của Mỹ sẽ chế thêm tên lửa, và tới lúc nào đó cũng sẽ bắt đầy xây rào chắn. Lại chạy đua vũ trang. Bom với tên lửa với rào chắn đều cực kỳ đắt. Chạy đua vũ trang thực chất là đấu sức về kinh tế. Lần trước Mỹ đại thắng Liên Xô là kinh tế tư bản đại thắng kinh tế cộng sản. Lần này đấu với thứ kinh tế nửa nạc nửa mỡ của Tàu, đến năm 2011 xem ra tư bản có bề nao núng! Lại còn Nga không hề có ý để cho Mỹ chực bắn rụng hết bao nhiêu Sa-tăng của mình!(3) Ðè đầu cưỡi cổ thiên hạ mệt thế, sao không thôi đi nhỉ. Sao không bằng lòng làm một trong vài cái cực (oai chán rồi), mà cứ khăng khăng đòi bá chủ hoàn cầu? __________________ (1) Nói bom đây là nói cả đầu đạn nguyên tử. Mỹ có thể thả bom xuống và bắn tên lửa chở đầu đạn nguyên tử vào lãnh thổ Nga, Tàu. Nga đánh Mỹ thì bắn tên lửa là chính, gồm tên lửa liên lục địa phóng từ dưới đất và tên lửa hành trình tầm xa phóng từ máy bay. Tàu đánh Mỹ hiện nay chỉ có thể bằng tên lửa liên lục địa. (2) Xem bài Treo Giá Mạng Nước của TT. (3) Tức tên lửa R-36M (tức SS-18 cải tiến).
Nghĩ về lịch sử (6) Chia rẽ thì... Ðũa từng chiếc dễ bẻ Gấu ó thì mất ăn Ðông, Tây bây giờ 44
Đũa từng chiếc dễ bẻ Nếu một số nước yếu đang bị một nước mạnh tấn công mà không đoàn kết lại để cùng chống giặc dữ, thì rốt cuộc tất cả sẽ bị thôn tính. Thiếu đoàn kết là một lý do khiến các nước Bách Việt (1) ở Hoa Nam xưa kia lần lượt bị mất vào tay người Tàu. ASEAN hiện nay cơ bản chính là một liên hiệp các nước Bách Việt còn lại. Nếu ASEAN không đoàn kết chống Tàu, thì từng nước sẽ gục cho đến nước cuối cùng, khi ấy xong đời cái nòi Bách Việt! Xưa kia Tàu không ngại có cường quốc nào giúp Bách Việt, nên tiến hành xâm lăng quân sự ngay. Bây giờ Mỹ, Nga, Ấn có thể can thiệp, nên chắc cuộc nam tiến mới của Tàu sẽ diễn ra thành hai giai đoạn. Trong một khoảng thời gian rất dài, người Tàu sẽ tìm đủ cách thâm nhập, lũng đoạn kinh tế và bành trướng văn hóa ở Ðông Nam Á, làm suy yếu quyết tâm chống Tàu của các dân tộc Bách Việt. Ðến lúc nào đó, thấy “mồi” đã đủ mềm và ước lượng khả năng can thiệp của các cường quốc khác trước một nước Tàu đã trở nên rất hùng mạnh là không đáng kể, họ mới bắt đầu dùng áp lực quân sự bắt từng thành viên của ASEAN nhập vào Trung Quốc... Gấu ó thì mất ăn Nếu một số nước mạnh đang ăn hiếp ngon lành một số nước yếu mà bỗng mâu thuẫn trầm trọng với nhau, thì tất cả có thể rốt cuộc sẽ mất ăn! Hồi thế kỷ 19, nhờ vũ khí tối tân, các nước Âu châu và Nhật đã đè đầu cưỡi cổ Việt Nam và Tàu cách hết sức dễ dàng. Qua đầu thế kỷ 20, giữa “liệt cường” bắt đầu nẩy sinh mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, dẫn tới Thế chiến I, rồi Thế chiến II. Hễ cường quốc xung đột to với nhau thì do họ quá bận bịu, ách đô hộ ở các thuộc địa tự nhiên phải lỏng đi ít nhiều. Quan trọng hơn nữa, thì quân kháng chiến nơi đất bị chiếm có thể cầu được ngoại viện từ một cường quốc nào đó. Chỉ nước mạnh mới có vũ khí tối tân, bình thường đời nào họ chịu cho ta, nhưng để hại một nước mạnh đối thủ thì họ sẽ rất sẵn lòng! Mâu thuẫn to nhất giữa các nước mạnh trong thế kỷ 20 là mâu thuẫn giữa tư bản và cộng sản. Phần lớn nhờ mâu thuẫn ấy mà quân kháng chiến ở Tàu mới có vũ khí tối tân để đánh bại quân Nhật, và hoàn toàn nhờ mâu thuẫn ấy mà quân kháng chiến ở Việt Nam mới có vũ khí tối tân để đánh bại quân Pháp. Chắc chắn bất cứ dân tộc nào dù anh hùng đến đâu chăng nữa mà không có liên thanh và đại bác thì cũng không thể nào đánh bại được kẻ xâm lược có liên thanh và đại bác. Ðông, Tây bây giờ 45
Vẫn lủng củng nội bộ trầm trọng. Ở Ðông, lủng củng lớn nhất hiện nay là giữa Tàu và Nhật. Do việc Nhật định thôn tính Tàu hồi đầu thế kỷ 20 và việc Nhật sau Ðệ nhị Thế chiến phát triển quan hệ kinh tế và quân sự với Mỹ. Lủng củng này chắc chỉ có thể chấm dứt khi ba điều kiện sau đây hội đủ: (a) Nhật cũng vũ trang nguyên tử, do đó bớt sợ Tàu; (b) Tàu có sức mạnh quân sự ngang ngửa với Mỹ, khiến Nhật có thể theo Tàu mà không ngại là theo kẻ yếu; (c) Tàu trở thành đối tác kinh tế quan trọng nhất của Nhật. Ở Tây, lủng củng lớn nhất hiện nay là giữa Mỹ và Nga. Do mâu thuẫn chính trị: tuy Nga không phải là cộng sản như Liên Xô nhưng hình như người Nga nói chung thiên về một nhà nước mạnh chứ không ưa dân chủ kiểu Mỹ. Cũng do Nga có tâm lý không chịu làm đàn em của Mỹ. Lủng củng giữa Mỹ và Nga từ lâu rất có lợi cho Tàu. Trong Chiến tranh Lạnh, lúc đầu Tàu nhờ thân Liên Xô mà Mỹ không dám đánh, về sau nhờ chia rẽ với Liên Xô mà Mỹ không những không nghĩ đến chuyện đánh lại còn cố ý làm thân để gây khó khăn cho Liên Xô. Chưa thấy được vết nứt to trong nội bộ phương Tây này sẽ tự xóa như thế nào. Chỉ biết ngày nó không còn, ngày Mỹ và Nga đoàn kết, sẽ là ngày Tàu bắt đầu mất ăn mất ngủ! ________________ (1) Từ Bách Việt vốn chỉ riêng những nhóm Việt tộc ở Giang Nam và Lĩnh Nam (xem Ðào Duy Anh, “Cái tên Bách Việt”, trang gocnhin.net), ở đây chúng tôi dùng với nghĩa rộng hơn, bao gồm tất cả các nhóm Việt tộc kể cả chi Âu. Bách Việt đây tương đương với “Mã Lai” của Bình Nguyên Lộc. Nghĩ về lịch sử (7) Mạnh sướng thật! Bố Anh đánh người để bắt cho bán thuốc độc Con Mỹ đánh người bán thuốc độc Làm kẻ mạnh sướng thật! Bố Anh đánh người để bắt cho bán thuốc độc Năm 1838 tổng đốc Lưỡng Quảng Lâm Tắc Từ được vua Tàu phong làm Khâm sai đại thần đặc trách điều tra xử lý vụ người Anh ngang nhiên tiếp tục đem thuốc phiện vào bán, bất chấp lệnh cấm ban hành từ năm 1830. Năm 1839 tại Quảng Châu, sau khi các thương nhân Anh vẫn nhất định bất tuân lệnh, Lâm cho tịch thu và đem đốt hơn hai vạn hòm thuốc phiện. 46
Năm 1840 Anh đánh Tàu, gây Chiến tranh Nha phiến I. Tàu thua to, phải ký điều ước Giang Ninh nhượng Hồng Kông cho Anh và mở thêm năm cửa biển cho người Anh vào tự do buôn bán, kể cả bán thuốc phiện. Con Mỹ đánh người bán thuốc độc Năm 1989 Mỹ đánh Panama, lấy cớ Panama đã đưa ma túy vào Mỹ. Dĩ nhiên Panama thua to. Quân Mỹ bắt người lãnh đạo Panama đem về Mỹ xử theo luật Mỹ. Làm kẻ mạnh sướng thật! Anh mạnh hơn Tàu nên Tàu phải cho Anh bán thuốc đầu độc dân Tàu. Mỹ mạnh hơn Panama nên Panama không được bán thuốc đầu độc dân Mỹ. Sống ở đời, làm kẻ mạnh sướng thật!
Nghĩ về con người (1) Thành công và tài Con người ta có lối thấy người khác thành công thì nói “Gặp may!”. Nói vậy thường không đúng đâu. Trúng số không kể, hễ thành công là phải có tài nữa. Nhưng thành công và tài có khi tương ứng, có khi không. Họa sĩ A nổi tiếng danh họa vì vẽ đẹp, đó là tiếng và tài tương ứng. Họa sĩ B cũng nổi tiếng danh họa nhưng không phải vì vẽ đẹp mà vì có tài tạo tiếng, đó là tiếng và tài không tương ứng. Trong ví dụ họa sĩ B, sự chệch choạc giữa tiếng và tài dẫn đến kết quả là lịch sử hội họa có một danh họa vẽ xấu (dĩ nhiên sự thực ấy chỉ một số ít người biết thưởng thức tranh mới biết, chứ đối với đa số chỉ căn cứ vào tiếng thì hễ là danh họa tất vẽ đẹp). Chệch choạc tiếng-tài có thể dẫn đến hiểu lầm lớn lao hơn nhiều. Không phải chỉ cá nhân mới có tài hay không, mà cả một cộng đồng cũng có tài hay không. 47
Năm rất cũ nào đó, tộc X tiêu diệt tộc Y. Kẻ mất dĩ nhiên không nói năng, viết lách gì được. Người còn tha hồ khoe. X khoe mình ưu việt, hơn Y về mọi mặt, trong khi thực ra có thể chỉ hơn ở cái tài đánh nhau. X có thể đã cướp văn hóa của Y mà xưng là của mình. Sự thực lịch sử ra sao, bây giờ ai biết. Nói chung thành công là tài cộng may. Nhưng tài gì, lắm khi khó biết. Nghĩ về con người (2) Cười thật, cười giả Cười vốn là do thấy cái gì đó đáng cười. Cười vốn vô tư. Dần dần nẩy thêm thứ cười hữu ý. Cười hữu ý hoặc để tăng vẻ đẹp, hoặc để gây cảm tình, hoặc để giảm căng, hoặc để gây căng v.v. Có thể gọi cười vô tư là cười thật, cười hữu ý là cười giả. Kẻ đi lừa hiếm khi cười thật trong lúc đang “làm việc”. Vì đầu óc không rảnh rang để thấy được cái đáng cười, có thấy cũng không bụng dạ đâu mà cười. Hơn nữa, dù có thấy và có muốn cười, thì “công việc” có thể bắt hắn phải nín cười. Cứ càng hay đi lừa, càng hiếm khi được cười thật. Mặt khác, công việc lừa gạt có thứ lại cần bề ngoài vui vẻ, thân thiện. Trường hợp đó, kẻ đi lừa sẽ cười giả. Công việc càng lu bù, nụ cười giả càng hiếm khi được tắt. Muốn mà không được cười. Không muốn mà phải cười. Thì ai bảo!
Tết, nhớ Tết Sắp Tết nữa rồi sao. Mới đây chứ mấy, cái ngày và đêm cuối năm Ngọ 2014. Sáng ba mươi dậy sớm, lót dạ rồi đi, đi bộ quanh Hồ, đến đền Bà Kiệu gần giáp vòng thì nghỉ chân thăm tượng Cảm tử quân, xong đi suốt phố Hàng Đào lên chợ Đồng Xuân, dừng thăm bức phù điêu nhân dân Thủ đô đánh giặc mùa đông 1946. Đi tiếp đến vườn hoa Hàng Đậu, lại dừng để thăm tượng Cảm tử quân thứ hai. Đi nữa, trên lề đường Phan Đình Phùng rộng thênh thang, dưới vòm xanh cao của hai hàng sấu cổ thụ giao cành, đến trước Cửa Bắc thành Hà Nội. Cái chỗ tường thành nơi có hai vết đạn đại bác giặc bắn hồi năm 1882, có ai để ý không, chỗ ấy trông rất giống một cái mặt người khoét sâu vào trong gạch, kìa ngoài hai hốc mắt đen ngòm còn có cả mũi, môi! Ngắm “mặt giặc” một lúc rồi 48
bước đến trạm gác, ngỏ lời muốn lên tham quan đền. A, thoáng và Tết quá, với đào mai cúc huệ v.v. khoe tươi trong lẫn ngoài điện thờ. Cả hơn tiếng đồng hồ, khắp mặt thành khá rộng, mang nhân dạng chỉ có đúng hai cái tượng ngồi sừng sững trong điện và một người sống hết đứng lại đi, ra ra vào vào. Đền vắng như chùa Bà Đanh, nhưng lòng người ấy vui đầy... Đêm ba mươi, “Em ơi, Hà Nội đèn”. Đèn giăng trông cũng vui mắt. Chân vui theo mắt, bước ngẫu hứng đến gần phố Tràng Tiền thì mắt bỗng hết vui, chân bỗng thôi muốn bước. Bởi ánh sáng trên đầu bây giờ chuyển sang trắng, xanh dương và đỏ. Màu tam tài ngay giữa tim nước trong cái đêm thiêng liêng nhất của một năm! Vào dịp lễ, màu sắc trang hoàng có ý nghĩa văn hóa sâu xa, thay ngũ sắc truyền thống bằng tam tài là thay làm sao!!! Ới tiên tổ ông bà ơi, anh hùng liệt sĩ ơi!... Thôi, ngồi mà ôn thêm “những điều trông thấy” trong cái cuộc bể dâu của bể dâu này thì có “mà đau đớn lòng” đến đứt mất ruột. Hãy ôn vài “điều” trước bể dâu đi, cho lòng được vui. Ai chung lòng dạ, xin mời cùng ôn. Pháo đẹp, pháo thơm “Người ta đi mua giấy bản trắng (…) quét phẩm màu đào cả hai mặt để quấn pháo. Giấy làm ngòi pháo, thứ giấy dó phải thửa riêng có sợi dai và đanh mặt, cháy chậm, nhà làm pháo đi kén giấy làm ngòi pháo ở vùng Bưởi. Công phu nhất là thuốc pháo (...) Hàng thúng bột than hạt quả xoan, hạt quả găng và hồng hoàng đỏ, trộn lại phơi khô để luyện thuốc (…) Chẳng nghe ai nói ở đâu có người bị què gãy, bị chết vì làm pháo (...) Năm mới, pháo nổ giòn, xác pháo màu hồng điều hây hây rơi xuống như những cánh hoa đào bích, trẻ con ùa ra sân chạy nhảy ngây ngất trong khói pháo. Người ta đi trong khói pháo thơm ngan ngát”.(1) Thật, nhiều lúc nhớ pháo buồn muốn khóc. Cả một cái phong tục đẹp tai đẹp mắt đẹp mũi và vui “ngây ngất” từng tồn tại trong suốt không biết bao nhiêu đời đã đi đời rồi! Cái nét tưởng không bao giờ có thể thiếu trên khuôn mặt Tết đã bị xóa vĩnh viễn rồi! Pháo nguy hiểm ư? Chẳng là gì cả so với bao nhiêu mối nguy khác. Pháo hoang phí ư? Càng chẳng là gì cả so với bao nhiêu hoang phí khác. Nên nhớ chơi pháo chỉ mấy ngày, trong khi chơi những thứ khác thì quanh năm suốt tháng. À, cái thuốc pháo ngày xưa hay nhỉ. Nhưng pháo hiện đại như bên Hồng Kông đốt thấy cũng thơm. Gói bánh chưng “Thế mà đã 25 tháng chạp (…) gạo nếp đã ngâm kỹ, vo sạch, xóc muối (…) trắng ngần tựa thúng bông mới bật (…) đậu xanh đã đồ kỹ, xát sạch vỏ, giã tơi (…) Nhân bánh (là) mỡ và thịt (…) bóp với muối, hạt tiêu (…) Bác Vuông (…) xúc một bát gạo, gạt trên miệng bát rồi đổ rào rào lên tờ lá dong. Bác vốc luôn một vốc đậu đổ lên trên gạo, san đều ra, rồi mới đặt mấy miếng nhân (…) vào. Xong đâu đấy, bác lại phủ lên trên một vốc đậu rồi trên đậu một miệng bát gạo. 49
Bác cầm ngọn và cuống tờ lá rộng khổ ở giữa xô đi xô lại để cho gạo lọt cả vào trong rồi bẻ khập xuống (…) “Còn việc buộc lạt (…) Phải đánh cho ra góc. Phải ghì cho thật chặt. Lạt phải chẻ cho thật to bản như thế này này. Nếu được lạt cật thì càng tốt…”. Bác gói bánh khéo thật (…) vuông vắn, chặt chẽ, lắc mạnh không nghe thấy gạo rào rào bên trong. Một chiều buộc hai chiếc lạt trắng phau, còn chiều kia buộc một cái. Ba chiếc lạt kẻ trên nền lá dong xanh tươi thành những ô vuông rất đều đặn, thoáng trông tưởng chừng như nước vôi kẻ thẳng tắp”.(2) Trong “nêu cao, pháo đỏ, bánh chưng xanh” thì nay chỉ bánh chưng là còn ở đời. Cái lối nó “ở” có khác xưa, vì bây giờ người ta chủ yếu đi mua chứ ít ai tự nấu. Mua thì không được hưởng cái vui nấu, bù lại bánh của nhà nghề thường ngon hơn. Này, to gần bằng viên gạch Bát Tràng là kích thước chuẩn, nhưng cái bánh chưng bé bằng bàn tay trông xinh ơi. Cúng mứt, không cúng cơm “Trong ba ngày tết, buổi chiều thường cúng mứt, không cúng cơm. Mứt bí, mứt hạt sen, mứt lạc, mứt dứa, mứt quất, mứt gừng, mứt phật thủ, bánh phồng Vẽ, bánh huê Cầu và sấy. Bánh phồng Vẽ là thứ bánh bằng bột nếp do làng Vẽ (…) làm, áo đường trắng, to bằng quả trứng gà, ăn giòn tan và như biến đi trong miệng, để lại một hương vị rất thanh. Bánh huê Cầu là thứ bánh cũng làm bằng bột nếp, vuông gần bằng ba ngón tay, màu vàng, xanh và đỏ, bỏ vào chảo mỡ đang sôi, bánh nở cong rất đẹp. Bánh huê Cầu do làng Xuân Cầu làm (…) Nhiều nhà sáng mồng một mới đem rán bánh (…) Sấy là thịt lợn nạc đập bẹt như chiếc bánh đa nhỏ, ướp nước mắm ngào với đường và riềng rồi đem sấy khô, dùng để nhắm rượu thì ngon tuyệt”.(3) Bánh mà như quả trứng gà, mà nở như cái “huê”! Cúng mứt có “sấy”, thế thì xem sấy là “mứt thịt” hay sao? Cứ theo cách làm, đấy là… khô lợn. Có khô nai, khô bò, sao không có khô lợn. Đã công phu làm sấy, phải thửa cho được thứ nước trắng của làng Vân nhỉ. Làm chè lam “Sáng ngày mồng hai Tết, bà tôi đánh thức các cô tôi, mẹ tôi dậy từ tờ mờ đất. Người rang gạo nếp cái thành bỏng, người rây bột, người rang vừng đem ra xát vỏ (…) Anh em tôi (…) cũng dậy xem mọi người làm bánh (…) không khí làm việc (…) cố nằm gan cũng không được. Chao ôi, mùi vừng rang, gạo nếp rang cứ bay quanh sực nức khắp nhà (…) Tôi ngồi xem mẹ xay gạo nếp rang (…) Mẹ tôi chỉ tay vào bà (…) như bảo: Bà cấm đấy! Bất ngờ bà trông thấy (…) nhìn tôi không nói gì, tay bà sục xuống dưới cái vỉ buồm đậy bỏng nếp, vốc cho tôi một nắm (…) mắng yêu: “Con giai cứ quanh quẩn xó bếp!”. Tôi sung sướng ngồi xem mọi người làm việc. Nước đường (gồm nước, kẹo nha, nước gừng) cô tôi đun, thỉnh thoảng bà lại lấy đầu đũa nhúng vào nồi. Lấy một giọt, nhỏ vào bát nước lã nguội. Lần cuối cùng giọt đường trong bát nước tròn xoe như viên bi nhỏ. Bà vớt viên đường ra đưa cho tôi, bảo cắn thử. Tôi cắn viên đường, nghe 50
tiếng vỡ giòn tan trong mồm. Bà sai cô tôi đổ bột gạo nếp xay vào nồi nước đường, tiếp tục đun và đảo cho đều. Một lát sau, chè lam được đổ ra mấy cái mâm đồng đã rắc vừng lót dưới lòng mâm, cùng với bột nhỏ mịn rây ra. Sau đó, dàn mỏng chè cho đều trên mâm, rồi lấy chai, lấy con lăn bằng gỗ rắc bột, rắc vừng vào, cán cho chè mỏng đều và kết vào nhau thành một bánh. Cuối cùng để chè nguội, lấy thước đặt vào, dùng dao cắt thành từng thỏi hình chữ nhật, to hơn con tam cúc. Cắt được miếng nào đều đem tẩm bột làm áo để những miếng chè không dính được vào với nhau nữa”.(4) Ngày mồng hai Tết mà phải “dậy từ tờ mờ đất” để làm việc! Việc khác thì mất Tết như chơi, nhưng việc này chắc chắn không sao cả. Trước tiên đối với “tôi”, là người phụ trách những công tác “ngồi xem”, “nuốt nước bọt”, “ăn trước Thành Hoàng” nắm bỏng, “cắn thử” viên bi đường, và hẳn rút cuộc là nhai thử thanh chè lam đầu tiên... Thứ quà ngọt ấy có cái tên lạ. “Chè”, có thứ đựng trong chén mà uống, lại có thứ để trên đĩa mà cầm lên ăn. Vừa uống “chè” vừa ăn “chè”, Tết thật! Nhớ hương bánh thuẫn “Bánh thuẫn (…) là thứ bánh quen thuộc ở quê tôi mỗi khi Tết về. Nhớ ngày nhỏ, mỗi lần mẹ chuẩn bị làm bánh, cả nhà lại háo hức như chờ đợi một sự kiện quan trọng lắm (…) Ba đã hì hụi vót một thanh tre, một đầu chẻ làm tư. Ba cầm thanh tre bằng hai tay, cho đầu bị chẻ vào chậu bột đã trộn rồi lăn mạnh (…) Đánh bột rất vất vả, có khi mất vài tiếng đồng hồ (…) Hồi ấy, cả xóm chỉ có một khuôn bánh duy nhất, cứ nhà này làm xong lại đưa cho nhà khác (…) Mẹ (…) bỏ khuôn lên bếp than (…) Bánh chỉ nướng trên than đỏ vừa, nên mẹ cứ lấy cơi khều cho những hòn than cháy bớt. Chị em tôi luôn ngồi chực sẵn ở góc bếp để giành nhau chạy đon đả mỗi khi mẹ sai đi lấy chiếc đũa, lấy cái bát. Mẹ lấy một cọng chuối đập dập rồi nhúng vào bát dầu và tra dầu vào khuôn bánh. Sau đó (…) đổ bột vào khuôn (…) đậy vung rồi gắp than bỏ lên trên vung cho nóng. Chỉ trong phút chốc, bột dậy lên, mùi thơm tỏa ra cả chái bếp. Chiếc bánh nở bung tựa như một bông mai vàng đẹp đẽ (…) Bánh được đặt trang trọng lên bàn thờ (…) và được bày trong mâm bánh mứt để mời khách (…) Bây giờ, chẳng còn nhà nào làm bánh thuẫn”.(5) “Quê tôi” có phải Bình Định? Hình như Bình Định là nơi bánh thuẫn ra đời... Bánh thuẫn trông khá giống bánh ngọt Tây phương, nhưng hương vị rất khác. Vì làm bằng bột củ mì hay bột củ bình tinh chứ không phải bằng bột lúa mì. Và vì bánh thuẫn làm với trứng mà thôi chứ không hề có bơ. Cái kết hợp bột củ với trứng thuần túy nó có nét đậm đà riêng không chịu nhường bất cứ thứ bánh nào đâu. “Mỗi lần mẹ làm bánh xong, lại cảm giác Tết đã về chạm ngõ (...) Dần dà, Tết về, bánh thuẫn chẳng còn thấy ở quê tôi. Thứ bánh ngon lành đã bị lãng quên (…) ở lại cùng bao kỷ niệm của những mùa Tết xưa”. Chợt nhớ pháo. Pháo từng nổ ran khắp nước suốt bao nhiêu thế hệ, thế mà cũng đã “ở lại” rồi. Tết miệt vườn 51
“Khoảng giữa tháng Chạp dứt lá cho mai, gốc mai cành nhánh trơ trụi... Gió se se ngọn dừa, nắng tươi như mật loãng... Tiếng trống lân sập sận... Tết đã áp sát một bên... Bánh thuẫn nướng trong nồi cát… Bánh tét treo thành sào cạnh bồ lúa... Mứt dừa, đủ thứ bánh mứt khác, nội trợ thi đua... Người chở trái cây ra chợ bán… Người ra sông giặt giũ, tiếng đập chiếu trên mặt nước sông âm âm… Thời gian chạy bứt lên, lao muốn đứt hơi theo nó... Vết thâm quầng đáng yêu trên mi mắt các bà các cô... Cuối cùng việc nhà cũng hết… Trong mệt mỏi ngọt ngào, phụ nữ mang đèn dầu ra bờ sông tắm, về căn nhà như mới, chăn gối sạch sẽ, trẻ con thơm tho, ngả lưng thư giãn trang nghiêm… Bỗng bước chân thời gian như đang sầm sập qua xóm vắng… Bánh phồng nướng lên bàn thờ… Giao thừa!... Có cái gì đang dừng lại trong mỗi con người, bịn rịn ngậm ngùi, rưng rưng… Đêm đen sóng sánh, cây vườn trầm mặc... Mồng một... Trẻ con lăng xăng với quần áo đẹp... Thanh niên diện bảnh chộn rộn đường quê... Người đứng tuổi “dô” để ra những câu chúc nhau cháy đượm... Mồng hai... Múa lân, cả xóm được một ngày cười... Lân, địa được tới tấp mời “dô” để bước tròng trành hơn... Mồng ba... Cúng tân niên bằng gà giò, cúng xong coi giò, treo giò lên khoe... Học trò xôn xao đi mừng tuổi thầy cô... Hết Tết... Rã rượi ngọt ngào như cô dâu sau tuần trăng mật”.(6) Như trên không hẳn là trích lược như những trường hợp khác, vì một số (ít) câu không còn đúng nguyên văn và thứ tự các câu cũng có bị xáo trộn (chút đỉnh). Việc xảy ra là chúng tôi đọc, thấy “Tết miệt vườn” ngộ ghê, mà lời kể nhiều chỗ lại có thi vị, bèn nẩy sáng kiến thử cố “rút” từ trong bài ký ra một bài thơ! Tháng 11-2015 ________ (1) Tô Hoài, Chuyện cũ Hà Nội, nxb. Hà Nội, 2000. (2) Nguyễn Đình Lạp, Ngoại ô, nxb. Hàn Thuyên, 1941. (3) Vũ Ngọc Phan, Những năm tháng ấy, nxb. Văn Học, 1987. (4) Thanh Hào, Sông Hồng và làng bãi, nxb. Phụ Nữ, 2009. (5) Diệu Ái, “Tết về, nhớ hương bánh thuẫn”, trang dantri.com.vn. (6) Dạ Ngân, “Tết miệt vườn”, trang chimviet.free.fr.
Nguyễn Hiến Lê - Tưởng vọng Bắc Ngoại ô Hà Nội Một mùa hè Ngã ba Bạch Hạc Cây gạo Tản mạn hoa Tết Cái nhạc cũ của ta 52
Nhà ở ngõ Phất Lộc Nhà khá giả ở nông thôn Hoa đào năm trước Nhắc Nguyễn Hiến Lê, có lẽ ít người nghĩ đến một nhà văn (theo nghĩa hẹp thường dùng của từ “nhà văn”). Cũng có lẽ không nhiều người nghĩ đến một người Việt miền Bắc. Nhưng Nguyễn Hiến Lê chính sinh trưởng ở Bắc và có viết “văn”, kể cả truyện. Cái quãng thời gian mười năm đại khái từ khi ta lên mười nó điển hình gây ấn tượng hết sức mạnh mẽ nơi tâm trí ta. Mà Nguyễn Hiến Lê rời đất Bắc năm đã 22 tuổi, vậy ông hồi ức đậm đà là phải. Miền Bắc rất nhiều cảnh đẹp và hùng vĩ. Nguyễn Hiến Lê chỉ mới thấy Hà Nội và đôi chỗ gần Hà Nội, nhưng cũng đã không làm sao quên được những cảm giác thú vị tuyệt vời. Ông mê cảnh, và ông ngắm cảnh mà miên man nhớ lịch sử dân tộc. Nhờ lớn lên trong một đại gia đình có những người hy sinh vì nghĩa cả, Nguyễn Hiến Lê hay nghĩ tới nước. Cái nhìn mọi thứ xung quanh mình cách tha thiết, hãnh diện và trân trọng của ông khác hẳn cái nhìn hững hờ của một du khách ngoại quốc. Cái nhìn ấy khiến chúng ta – người Việt Nam – cũng tự nhiên trân trọng những dòng chữ ông viết kể về những cái đã mắt thấy và lòng thấy. Văn Nguyễn Hiến Lê trong sáng, diễn ý hiệu quả, nhưng không có vẻ đẹp đặc biệt. Ông viết như thế rồi ông nhận định về văn người khác cũng lấy việc diễn ý làm chính chứ không quan tâm đến mỹ thuật của lời. Nghệ thuật viết văn đối với Nguyễn Hiến Lê cơ bản chỉ là nghệ thuật diễn ý. Dựa trên quan niệm ấy mà so sánh văn Việt với văn Tây thì thiệt thòi cho văn Việt, so sánh văn Nguyễn Tuân với văn tác gia khác thì thiệt cho văn Nguyễn Tuân. Sau đây là một số đoạn ký có thể coi như lời tưởng vọng đầy thành kính thương yêu của một người Việt Nam hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, nơi đồng thời cũng là đất tổ của mọi người Việt Nam. Ngoại ô Hà Nội Đối với một người Việt biết lịch sử Việt, làm gì có nơi nào trên mặt quả đất này gây được nhiều rung động bằng Hà Nội. Cái “ngoại ô Hà Nội có nhiều cảnh thiên nhiên đẹp” của Nguyễn Hiến Lê chưa kịp xuất hiện cho thực rõ ràng trong văn chương Việt Nam như ông ao ước thì 53
đã coi như đi khuất vào lịch sử rồi! =Sau vườn Bách Thảo là làng Ngọc Hà, chuyên cung cấp hoa cho thành phố: đào, mai, cúc, thược dược, lan, hồng, huệ, sói, nhài... Thiếu nữ làng này nửa quê nửa tỉnh, tình tứ, thùy mị mà lanh lợi (...) Tiến vô chút nữa tới chùa Một Cột, một kiến trúc nhỏ nhưng độc đáo, như một bông sen nổi giữa hồ (...) Hồ Tây, từ đền Quan Thánh tới chùa Trấn Quốc xưa trồng sen, mùa hè hương thơm ngào ngạt; còn hồ Trúc Bạch thì nước trong, cạn, tắm rất mát (...) Tôi nhớ những buổi chiều hè cùng với bạn ngồi trên đường Cổ Ngư (nay là đường Thanh Niên) nhìn mặt hồ nhấp nhô, loang loáng ánh nắng, có đàn chim bay về phía núi Tản xanh thẳm ở chân trời (...) Cuối đường là làng Yên Phụ ở chân đê sông Nhị. Chỗ này cũng trồng nhiều hoa như Ngọc Hà, nhưng có phần thú hơn vì nằm ngay trên bờ hồ (...) Chung quanh hồ, phía bên Nghi Tàm cũng như phía bên Thụy Khê, có biết bao miếu cổ, chùa cổ, nhiều ngôi xây cất từ đời Lý, cách nay tám chín thế kỷ, hễ bước vào là lòng tôi rung động nhè nhẹ một cách tuyệt thú (...) Tôi nhớ những ngày đi tảo mộ cùng với họ hàng phố hàng Đường. Tiết Thanh Minh ngoài Bắc đã hết lạnh nhưng cũng chưa nóng. Bảy giờ sáng chúng tôi lên xe điện ở bờ hồ Hoàn Kiếm. Xe đông người đi tảo mộ, gia đình nào cũng có một bà già và vài thiếu nữ mang những cái quả sơn son đựng nhang, rượu, hoa quả, xôi, thịt (...) Chúng tôi vào làng Hạ Đình, đi thăm năm sáu ngôi mộ trên một cánh đồng trồng hoa màu ở đầu làng (...) Đầu tháng ba, không khí trong sáng, hoa ít hơn nhưng lá xanh hơn, chim ríu rít trên những cành gạo đỏ rực. Lác đác trên cánh đồng có những đám năm ba người, tà áo đủ màu phất phơ trên đám cà hay cải xanh; khói hương tỏa nhẹ trong làn gió. Gặp nhau người ta nhìn nhau mỉm cười hoặc hỏi nhau vài câu lịch sự. Thăm xong các ngôi mộ rồi, chúng tôi tìm một gốc gạo, gốc đa ở giữa đồng hoặc trong một sân đình, ngả đồ cúng ra ăn rồi mới vào nhà bà con nghỉ (...) Vì hai cảnh đó (chùa Láng và đền Voi Phục) ở gần nhau, nên lần nào tôi cũng bỏ trọn một buổi, từ hai giờ chiều đến tối, để thăm cả hai nơi một lượt. Tôi thường đi một mình để hưởng cái thú cô liêu, hoài cổ (...) Thường tôi đi xe điện lên đền Voi Phục trước, ngồi dưới gốc chòi mòi nghe 54
chim ríu rít trên cành, rồi vào sân đền, ngồi trên một bệ cao nhìn hồ nước, hưởng hương sói, hương lan, hương hồng, sau cùng ra vườn nhãn ở sau đền, mua một bó, ăn ngay dưới gốc cây. Từ vườn tôi (ra một con đê) để lại chùa Láng. Đê này cao hơn mặt ruộng khoảng hai thước, trải nhựa, rợp bóng cây, ít xe, vừa tản bộ vừa nhìn phong cảnh rất thú. Lâu lâu lại gặp một quán bên đường, bán trà tươi và chuối, bánh gai, bánh nhợm. Đến chùa Láng thì ánh tà dương đã xiên qua những cụm lá thông, chiếu xuống con đường lát gạch, bóng lá chỗ thưa chỗ đậm. Cảnh chùa Láng u nhã mà cổ kính. Thơ thẩn ở đây một lát, tôi trở ra đê đi ngang qua làng Hạ Yên Quyết (tục gọi là Cót) (...) để tới làng Bưởi. Mùa thu, chiều thường có một làn sương nhẹ như tấm màn lụa phơn phớt xanh lam phủ lên đồng ruộng, lũy tre, cổng xóm ở hai bên đê, cảnh vật mờ mờ, buồn dìu dịu, thật nên thơ. Ngoại ô Hà Nội có nhiều cảnh thiên nhiên đẹp, nhiều di tích lịch sử (...) tiếc trong thơ văn của người mình chưa có bài nào tả (...) (Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, nxb. Văn Học, VN, 1992) Một mùa hè Nghỉ hè như ông Nguyễn Hiến Lê nghỉ năm ấy thật là đáng nghỉ: đi chơi lang thang khắp ngoại ô Hà Nội, về quê mình Sơn Tây ngày ngày ngắm núi Tản Viên, rồi lên quê bạn Phú Thọ cùng nhau trèo núi viếng đền Hùng. Ông lên núi Hùng chỉ vài năm sau Nguyễn Thái Học và Nguyễn Thị Giang, tức vào đầu thập kỷ 1930. Khoảng sáu mươi năm sau chúng tôi có dịp thăm đất Bắc mùa xuân, được nhắc câu “Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ Tổ...”, nên “mồng mười tháng ba” cũng tìm về Phú Thọ để trèo dốc, thì thấy quả như ông tả: “bỗng qua một khúc quẹo, ngọn núi Hùng âm u hiện lên sừng sững trước mặt, cao và thanh tú hơn các ngọn chung quanh (...) cứ mỗi bước, núi càng dâng cao lên trên nền trời xanh thật uy nghi”... =Nghỉ hè năm đó, tôi ở lại Hà Nội nửa tháng rồi mới về quê ở Phương Khê. Trong nửa tháng đó tôi đi lang thang thăm hết các cảnh đền chùa ở chung quanh Hà Nội: chùa Một Cột, chùa Liên Phái, đền Hai Bà; các cảnh chợ quê 55
như chợ Bưởi, chợ Hà Ðông; các cảnh vườn như vườn hoa ở Ngọc Hà, vườn ổi ở Lủ, vườn cải ở Quang. Hai cảnh tôi thích nhất là cảnh chùa Láng u nhã, cổ kính, “đệ nhất tùng lâm của cố đô”, thờ Từ Ðạo Hạnh tương truyền là tiền thân của Lí Thần Tông và xây cất từ năm 1164, xưa chắc là một rừng thông, nay chỉ còn hai hàng thông già từ cổng đưa vào, và cảnh đền Voi Phục với hàng chòi mòi ở bên bờ lạch, hồ nước ở giữa sân và vườn nhãn ở sau chùa. Vì hai cảnh đó chỉ cách nhau ít cây số, nên lần nào tôi cũng bỏ trọn một buổi, từ hai giờ chiều tới tối để thăm cả hai nơi một lượt. Hít hương sói, hương ngâu, hương lan, hương huệ ở đền Voi Phục, rồi ra vườn nhãn, mua một bó chừng dăm chục trái, ngồi ngay dưới gốc cây mà ăn, tôi thấy thú tuyệt. Khi nào gặp mùa cốm, vào đầu thu thì tôi lựa một ngày quang đãng, dậy thật sớm, đón mua một vài vốc cốm Vòng xanh như ngọc thạch, gói trong một lá sen thơm ngát và mát lạnh, rồi lên xe điện về làng Mọc Thượng Ðình, kiếm một sân đình hay một chỗ trên bờ sông Tô Lịch, mở gói cốm ra ăn. Ăn cốm Vòng ở xa thành thị như vậy, xa mùi xăng, xa tiếng xe cộ, tôi mới hưởng hết được hương vị của thôn quê, của cây lúa Việt Nam (...) Về Sơn Tây (...) cảnh tôi thích nhất là (...) núi Tản Viên, chỉ cách làng tôi khoảng nửa ngày đường về phía tây nam nên trông rõ mồn một, thấy cả những vạch trắng tức dãy nhà nghỉ mát ở lưng núi. Núi cũng có tên là Ba Vì, vì có ba ngọn cao, nhọn, đều nhau; ngọn thứ ba ở bên phải khuyết một mảnh, tương truyền là sau một lần sụp núi đời Lê mạt, báo hiệu một thời vận suy của dân tộc. Thật đáng tiếc, nếu không thì có lẽ không núi nào vừa thanh tú, vừa hùng vĩ, uy nghi như núi đó. Tháng sáu âm lịch, trời thường trong mà cơ hồ không lúc nào không có một đám mây trắng vắt ngang qua, làm nổi bật màu xanh lam đậm của núi trên nền trời thanh thiên và trên cánh đồng màu lá mạ. Thỉnh thoảng một đàn cò vỗ cánh bay qua đầu tôi, tiến về phía núi và tôi ao ước được như chúng. Khi ánh tà dương đã tắt hẳn, núi đổi ra màu tím đen thì ở lưng chừng núi hiện lên những đám lửa hồng chập chờn, nhấp nháy do người Mọi đốt rừng để làm rẫy, mà tôi tưởng đâu như một dạ hội của quần tiên; những lúc đó núi có vẻ huyền bí và thu hút tôi một cách lạ lùng (...) Cứ dăm ba bữa lại đi chợ Mơ, chợ Vân, cách ba bốn cây số để mua một chùm dâu da ngọt, vài chiếc bánh đa, uống một bát chè tươi trong một cái quán dưới gốc muỗm, nhất là để cùng với các thôn nữ ngồi trong một chiếc thuyền thúng tròng trành qua một dòng nước trong veo điểm những bông súng vàng và tím. Như vậy là hết một tháng hè, tôi thấy khỏe khoắn ra cả về thể chất lẫn tinh thần (...) 56
Năm đó, đúng hẹn, tôi lên thăm anh Bảng ở Phú Thọ. Gói hai bộ quần áo vào một tờ giấy báo, thế là lên đường. Ði ngược lên bến đò Vân Xa để qua Việt Trì. Tháng sáu âm lịch, đương mùa nước đổ, chỗ ngã ba Bạch Hạc này - một nơi nổi danh trong lịch sử - rộng mênh mông, có tới hai ba cây số. Chiếc thuyền thúng phải đi ngược dòng một khúc rồi mới qua sông. Cây gạo cổ thụ và nhà cửa ở Việt Trì hiện rõ lần lần. Tôi lên bờ mà còn tiếc khúc sông sao không rộng thêm nữa để được ngồi thuyền lâu hơn nữa mà ngắm cảnh (...) Hai hôm sau chúng tôi đi chơi núi Hùng. Khởi hành từ sáng sớm, mang theo thức ăn. Ra khỏi làng một quãng thì tới một con đường tỉnh trải đá, rất vắng mà rất sạch. Ði cả cây số chỉ gặp một hai bóng người, tuyệt nhiên không thấy một chiếc xe. Cơ hồ con đường chỉ để dùng trong mấy ngày giỗ Tổ. Hai bên là rừng và đồi chè. Có những gốc thị cao quả chín vàng cành và nhiều giếng nước xây bằng đá ở sát bên đường. Xa xa gặp một ngọn đồi trồng dứa với căn nhà lá của chủ trại. Thật tĩnh mịch, mát mẻ. Nhờ cảnh thay đổi nên không thấy đường dài. Tôi đã bắt đầu mệt thì bỗng qua một khúc quẹo, ngọn núi Hùng âm u hiện lên sừng sững trước mặt, cao và thanh tú hơn các ngọn chung quanh. Tôi hồi hộp như nghẹt thở. Ðường dốc, tôi vừa bước vừa ngửng lên nhìn tam quan, và cứ mỗi bước, núi càng dâng cao lên trên nền trời xanh thật uy nghi. Núi có tên là Nghĩa Lĩnh, thuộc thôn Cổ Tích, phủ Lâm Thao, dân trong miền thường gọi là núi Ðền. Có khoảng 300 bực đưa lên đỉnh. Ở chân núi có đền Hạ cũng gọi là đền Giếng (vì trước đền có mạch nước tụ lại thành giếng) thờ hai bà công chúa Tiên Dung và Ngọc Dung, con vua Hùng. Chúng tôi leo lên tới tam quan của đền Trung ở lưng chừng núi. Trước đền có một tấm bia lớn nét còn rõ, nhắc lại lịch sử các vua Hùng. Ðúng như anh Bảng nói, ở đây chỉ nghe thấy tiếng khỉ và tiếng bìm bịp mà tiếng bìm bịp khắc khoải lạ thường, gợi ta nhớ biết bao cuộc hưng vong của dân tộc. Mới mấy năm trước, Nguyễn Thái Học và Nguyễn Thị Giang cũng leo những bực này để lên đền thề đồng sinh đồng tử trước bàn thờ Tổ. Nghỉ ở đấy một lát, chúng tôi lại leo một đỗi nữa lên tới đền Thượng trên đỉnh, thờ mười tám đức Hùng Vương, phía trước có bức hoành phi lớn khắc bốn chữ tôi nhớ mại mại là “Việt Nam triệu tổ”, nét rất hùng kính. Ðền nhỏ thôi, có học giả bảo xây từ đời Lí, trùng tu năm 1914 và có lẽ năm nào cũng quét vôi lại để làm giỗ Tổ, nên không có vẻ cổ. Rất tiếc hôm đó ông từ đi vắng, cửa đền khóa kín, chúng tôi không được vào thăm (...) Phía sau đền có một cái tháp, không có vẻ cổ kính, gọi là lăng Tổ, chắc chỉ là 57
tượng trưng. Tuy biết vậy mà lòng tôi cũng cảm xúc dào dạt, khi thăm lăng và đứng nhìn qua cành lá thấy loang loáng ở xa xa dòng nước Ngã ba Bạch Hạc. Cái khu rộng mấy chục cây số này gợi cho chúng ta biết bao cố sự, biết đâu đào sâu chẳng kiếm được rất nhiều cổ tích. Anh Bảng (...) cho tôi biết (...) Dân ở đây không ăn Tết mùng 3 tháng 3 (tết Hàn thực) mà ăn tết mùng 10 tháng 3. Ngày đó nhà nào cũng đón ông bà ông vải về để đi chầu Tổ (...) (Trong truyện dài Con đường thiên lý viết năm 1972, nxb. Văn Nghệ (Mỹ) in năm 1988?) Ngã ba Bạch Hạc Sông Hồng và sông Đà cơ bản chảy song song theo hướng tây bắc - đông nam. Sông Đà khúc chót đổi hướng, chảy từ nam lên bắc, đổ vào sông Hồng. Nơi Hồng gặp Đà là ngã ba Trung Hà. Sông Hồng tiếp tục chảy khoảng mười cây số nữa thì gặp sông Lô. Nơi Hồng gặp Lô là ngã ba Bạch Hạc. Ngã ba Bạch Hạc mùa lũ rộng mênh mông chắc do cù lao giữa sông chìm mất nhiều hơn là do tràn bờ? “Cây gạo cổ thụ (...) cùng với nhà cửa ở Việt Trì nhô lên lần lần”. Nhớ Sơn Nam cũng có lần viết: “Sông Cửu Long, mùa nước nổi (...) sông rộng, mặt nước như nổi vồng lên, rặng dừa bên kia bị khuất gốc chỉ thấy ngọn”.(1) “Tản Đà” tiêu biểu cho Hà Tây. “Tản Hồng” tiêu biểu cho Bắc bộ, cho cả nước Việt Nam (vì Bắc bộ là đất gốc của dân tộc Việt Nam). =Một cảnh nữa (cảnh trên là núi Ba Vì) tôi cũng lưu luyến là cảnh sông Hồng ở bến đò Vân Sa qua Việt Trì. Phải qua sông vào mùa nước lũ – tháng 6 tháng 7 âm lịch – mới thấy được sự bát ngát, hùng vĩ của núi sông. Mùa đó, chỗ ngã ba Bạch Hạc này – một nơi danh tiếng trong lịch sử - mênh mông có tới ba cây số. Nước chảy băng băng và ta liên tưởng tới câu “Đại giang đông khứ” của Tô Đông Pha. Chiếc thuyền thúng bập bồng trên sóng, không khác chi một cánh bèo. Phải ngược dòng một khúc xa rồi mới qua sông, có khi mất hai giờ mới tới bờ bên kia. Cây gạo cổ thụ, trơ trọi, gốc lớn không biết mấy ôm, cùng với nhà cửa ở Việt Trì nhô lên lần lần. Cảnh ở đây sao hợp với cảnh trước Phượng Hoàng đài ở Kim Lăng thế: “Tam Sơn bán lạc thanh thiên ngoại, Nhị thủy trung phân Bạch Lộ châu.” (Lý Bạch) “Ba non rớt nửa ngoài trời biếc, 58
Hai nước chia đôi bãi Lộ bồi.” Cũng hai dòng nước: dòng sông Đà nước trong veo và dòng sông Hồng cuồn cuộn nước đỏ như son; cũng một bãi cò trắng (bạch lộ), tức bãi Vân Sa chạy lên tới Chiểu Dương, nơi có một vườn vải danh tiếng nằm sát bờ sông; còn núi thì phía tây nam có ba ngọn núi Tản, phía bắc có ngọn núi Hùng. Kim Lăng là cố đô của Trung Hoa, thì đây, trên bờ con sông Hồng có làng Cổ Đô (không rõ là kinh đô thời nào), lại có huyện Bạch Hạc, xưa là đất Phong Châu, nơi Hùng Vương đóng đô. Nỗi hoài cổ của ta bát ngát như dòng sông. Sông Hồng và núi Tản thật hùng vĩ xứng nhau, mà lại ở gần nhau như vậy thì đây chính là đất thiêng của dân tộc; tổ tiên ta lựa nơi đây làm nơi phát tích, dòng giống tất trường cửu và uy hùng như sông núi. (Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, nxb. Văn Học, VN, 1992) Cây gạo Cây gạo thường thấy ở giữa đồng, hoặc đầu làng, cuối làng, chứ hiếm khi thấy hẳn bên trong làng. Lại có câu “thần cây đa, ma cây gạo”. À, gạo hình như cũng hay đứng ngay bên bãi tha ma... Tại sao thế nhỉ? =Gạo là một loại cây đặc biệt của đồng quê Bắc, cũng như cây sao đặc biệt của miền Nam. Không nên lầm nó với cây gạo của miền Qui Nhơn, cùng tên mà khác loài. Nó y hệt cây gòn nhưng lớn hơn nhiều, thân có thể tới vài ôm, nhiều gai hơn gòn, cao tới hai chục thước, hoa như hoa gòn, nhưng đỏ như hoa vông và lớn bằng một chén ăn cơm. Khoảng đầu xuân, lá rụng hết, cành đầy nụ trông như những trái ổi đen; độ một tháng sau hoa nở chi chít đỏ ối cả cây, ở xa như một khối lửa lớn in lên nền trời xanh. Nhụy hoa có một thứ nhựa hơi ngọt, nên chim bay lại từng đàn, ríu ra ríu rít trên cành. Khi có một rặng gạo đất bên đường cũng đỏ vì đầy hoa rụng. Giữa mùa hè, quả gạo nứt vỏ và gặp cơn gió, bông túa ra, bay như tuyết, rất đẹp mắt. Trước năm 1920, miền quê tôi, hầu hết làng nào cũng trồng một cây gạo ở vệ đê, ngay đầu dốc đưa vào xóm. Cây gạo đó đánh dấu ranh giới của làng. Phụ nữ đi chợ thường đợi nhau dưới gốc gạo để cùng đi, ở chợ về cũng ngồi nghỉ tại đó nói chuyện với nhau một lát. Ở gần đó thường có một cái quán hay điếm canh. Những ai ly hương trở về, xa xa trông thấy gốc gạo của làng mình, lòng cũng hồi hộp như người miền Nam trông thấy ngọn sao ở đình làng. Tôi không hiểu tại sao cây gạo có một địa vị quan trọng như vậy mà ít ai nhắc tới nó trong thơ văn. Tôi chỉ gặp nó bốn năm lần trong thơ của Cao Bá Quát và 59
trong thơ mới thời tiền chiến, mỗi lần chỉ trong một câu. Gạo trồng ở vệ đê có một điểm bất lợi là khi nó già, những rễ lớn của nó mục đi, thành những hang cho chuột hay cua, hại cho sự vững chãi của đê, cho nên nhà nước bắt đốn hết, làng quê và con đê mất đi một vẻ đẹp. Cây gạo ở đầu dốc đưa xuống trường Yên Phụ vì ở xa chân đê nên không bị đốn. Nó đánh dấu trường tôi, và hồi nhỏ chúng tôi thường tìm cách bẻ những nụ của nó để lấy dao chạm thành đầu người và lượm những hoa rụng để đá cầu. (Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, nxb. Văn Học, VN, 1992) Tản mạn hoa Tết Củ thủy tiên hình như đến nay vẫn phải nhập từ Trung Quốc. Còn chính nghệ thuật gọt thủy tiên chắc cũng gốc Tàu. Không phải gốc thì hơn. Ai sành thử so sánh nghệ thuật Việt với nghệ thuật Tàu cho bà con nghe chơi. Nguyễn Hiến Lê bảo hương thủy tiên “thanh quý”, hương huệ với hương sen “thanh cao”. “Quý” trần gian, “cao” thoát tục. Ông muốn bảo thủy tiên thơm ấm hơn huệ, sen chăng? =Cái vui nhất của người (thân phụ NHL) có lẽ là chơi hoa. Năm nào, gần tết người cũng ham mê gọt thủy tiên và săn sóc (ngắt lá) hai gốc đào (...) Thủy tiên thì năm nào cha tôi cũng mua một giỏ con của tiệm Hoa kiều phố hàng Buồm, đem về gọt, ba mươi tết lựa lấy hai giò đơn đẹp nhất và nở kịp tết để bày trong hai cái cốc thủy tinh (...) Giò thủy tiên đặt trong những cốc đó thật vừa khít, mà nhìn qua vách cốc thấy rõ những rễ trắng muốt (...) Người Pháp cũng có thủy tiên mà họ gọi là narcisse, nhưng tôi ngờ rằng thủy tiên của họ không giống của mình và chắc chắn là họ không có nghệ thuật gọt thủy tiên như mình, không quý nó bằng mình. Thủy tiên quý cả về sắc lẫn hương. Lá xanh, rễ trắng muốt, hoa thì như một cái chén vàng đặt giữa cái đĩa bạc. Hương nó thật là thanh quý (hương huệ và sen thì thanh cao). Nó thật xứng với danh: tiên trên nước. Cụ Phan Sào Nam vịnh nó trong bài hát nói mà dưới đây tôi trích tám câu đầu: “Sơn bất tại cao, hữu tiên tắc danh Tiên trên non mà hiếm có đã đành Chân thị thủy trung tiên càng hiếm hiếm 60
Muôn tía nghìn hồng thây tục phẩm Năm hồ bốn biển nhớ tiền sanh Nét điểm trang con tạo khéo đa tình Nhụy kìa vàng, hoa kìa bạc, lá kìa xanh Trên mặt nước long lanh trời với bóng...”. Một người bạn kể cho tôi nghe ở Sapa (...) có những ngọn đồi toàn đào, đầu xuân, ở xa nhìn như những mâm hồng kế tiếp nhau trên cả cây số; cánh đào hồng nhạt rụng xuống mặt cỏ xanh, bay lả tả trên dòng suối, đẹp như cảnh tiên (...) Vào Nam, tết nào tôi cũng nhớ đào và tôi viết tập Hoa đào năm trước chính là để cho vơi lòng nhớ đó. Ở Sài Gòn, từ mươi năm trở lại đây, gần tết, đường Nguyễn Huệ thường bày bán ít cành đào chở máy bay vào; có năm bạn bè cho tôi một cành hoa đơn phơn phớt hồng, nhưng tôi không thích lắm (...) Hoa đào mà đày vô miền nắng cháy này thì lam lũ, đáng thương như thiếu nữ đài các, mơn mởn mà phải tát nước hay nhổ mạ dưới nắng hè. Ở đâu chỉ nên chơi hoa ở đó, miền Nam có mai vàng, tuy không đẹp bằng đào, nhưng rực rỡ, có vẻ phú quý, lại có ám hương thoang thoảng lúc ban mai, mà gốc mai vàng thịnh khai nổi bật trong vườn lá xanh, coi thật hòa nhã. (Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, nxb. Văn Học, VN, 1992) Cái nhạc cũ của ta Mới thì lạ, chứ chắc gì đẹp. Khốn, dẫu thực không đẹp nhưng của “cường” thì vẫn cứ thấy đẹp! Thời Nguyễn Hiến Lê viết tựa cho sách Toan Ánh, quê còn khá to và “cũ” nên người Việt mới có thể về nguồn. Bây giờ, năm 2012, quê vừa bé hẳn đi vừa mới gần như phố, “nguồn” đâu nữa mà về. Dân ca đã ra khỏi lòng dân. Mà “sự xâm nhập ồn ào, man rợ” thì... khỏi nói. =Sau Hiệp định Genève, khi ảnh hưởng của Mỹ bắt đầu lan tràn vào Việt Nam, trong khoảng mười năm đầu một số người hăng hái tiếp thu văn hóa Mỹ vì nó lạ đối với chúng ta, một số khác nhiệt liệt giới thiệu những trào lưu tư tưởng mới của Pháp. Dĩ nhiên công việc đó nên làm, nhưng chúng ta đã say với cái mới, cái lạ của người mà cơ hồ như quên cái cũ, cái đẹp của mình. 61
Vài năm nay, có một trào lưu ngược lại; chúng ta đã thấy mặt trái của phương Tây: có một lực lượng phi thường chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại mà họ không ổn định nổi chính xã hội của họ, lại chỉ gây thêm vô số xáo trộn trên thế giới, ở Đông Á, Tây Á, Phi Châu, Nam Mỹ. Nên một số học giả phương Tây đương muốn tìm hiểu sâu hơn văn minh của phương Đông; ở nước ta thì một số nhà văn đã trở lại nghiên cứu văn hóa cổ truyền của mình (...) chưa biết công trình của các nhà đó có dẫn tới một đường lối nào dung hòa mới với cũ không, tạo nên một nhân sinh quan mới, một nếp sống mới nào không, nhưng nội một điều quốc dân, nhất là thanh niên, đã hoan nghênh công việc của họ, cũng đủ cho ta mừng rồi: có tìm hiểu kỹ dĩ vãng của mình thì mới quý nó được, có quý nó thì mới tìm được hướng đi cho tương lai; không một dân tộc nào đoạn tuyệt hẳn với dĩ vãng mà cường thịnh được. Lịch sử là một sự liên tục: tương lai ở trong hiện tại, mà hiện tại ở trong dĩ vãng. Tôi mong mà cũng tin rằng "sự suy đồi của văn hóa vì đụng chạm với những sản phẩm ngoại lai lúc này" - lời của ông Toan Ánh - chỉ là một thứ lở lói ngoài da phát sinh trong các thành thị, còn đại đa số dân chúng ở thôn quê, ở các quận, các tỉnh nhỏ vẫn còn giữ được nếp sống cũ. Tôi có thể dẫn chứng được vì đã mục kích nhiều gương hy sinh nhẫn nại tiết tháo. Trước sự xâm nhập ồn ào, “man rợ” của các loại nhạc jazz, twist, be-bop mấy năm gần đây, ông Toan Ánh âm thầm thu thập tài liệu về “cầm ca Việt Nam” để chúng ta thấy tính cách nghiêm trang mà hòa nhã, vui mà không loạn của ca nhạc cổ, nhất là cái tinh thần “cộng lạc” giữa giai cấp sĩ phu và bình dân thời xưa ra sao. Tôi yêu quý các cụ Nguyễn Du và Phan Bội Châu quá khi các cụ đêm đêm đi hát dặm với các thôn nữ, và tôi thích cái tục hát quan họ ở Bắc Ninh làm sao. Thời đó trí thức và bình dân đâu có cách biệt như ngày nay, mà không có cách biệt thì làm gì có đấu tranh giai cấp (...) Đọc tác phẩm của ông tôi bâng khuâng nhớ lại một lúc vui thanh thoát trong đời tôi mà nhờ dân ca tôi đã được hưởng. Cách đây non bốn mươi năm, cũng vào một đêm Trung thu như đêm nay, nhưng ở làng Thịnh Hào cách Hà Nội dăm sáu cây số. Anh em chúng tôi ba bốn người đương chuyện trò trong một khu vườn bỗng có tiếng hát văng vẳng đưa lại, và chẳng ai bảo ai, mọi người đều im bặt. Tiếng hợp ca mỗi lúc mỗi gần và chúng tôi nghe rõ là điệu Ru hời: “Tay tiên là tiên chuốc chén ơi ới đào là rượu đào, Đổ đi là đi thời tiếc, ơi ới vào, uống vào, uống vào thời say. Ru là ru ru hỡi, ơi ới hỡi là ru hời...”. Giọng ca tới những tiếng chén, tiếc, bay vút lên cao, rồi chìm hẳn xuống ở những tiếng (rượu) đào, (uống) vào; sau cùng tan lẫn trong cảnh bao la của đồng ruộng. Đúng lúc đó nhìn qua bờ ao, chúng tôi thấy một đoàn thợ gặt, cả 62
trai và gái khoảng mười mấy người đi hàng hai dưới ánh trăng vằng vặc trên con đê (tức đường Quần Ngựa). Tiếng hát ngừng một chút rồi lại cất lên, tôi nhổm nhổm muốn chạy theo họ, nhưng rồi lại ngồi xuống, vì băng qua được cánh đồng chiêm tới chân đê thì họ đã đi xa mất rồi. Tôi lắng tai nghe tới khi dư âm tắt hẳn, mà tiếc ngơ tiếc ngẩn! Suốt đời tôi, chưa có lần nào giọng ca làm cho mê như lần đó: nó du dương, uyển chuyển, bát ngát, tôi biết dùng tiếng gì để tả bây giờ? Ca nhạc Tây phương không sao gợi cho tôi được cảm xúc thần tiên đó. Ca nhạc của mình (...) có những nét riêng, cái thần riêng thâm thiết với ta, như là tiếng gọi của tổ tiên, của dân tộc. Ông Toan Ánh đã có công gợi cho ta nhớ lại cái hồn của đất nước đó trong cuốn Cầm ca Việt Nam này (...) (Trong lời tựa của Nguyễn Hiến Lê viết cho sách CCVN, nxb. Lá Bối, Sài Gòn, 1970) Nhà ở ngõ Phất Lộc Nhà ở phố khác hẳn nhà ở quê. Ở đây những cái sân thật quý. Đó là nơi da người được tiếp xúc thẳng với ánh nắng. À, nhưng nếu sân có một giàn hoa thì nắng sẽ là nắng lọc, xanh xanh... Để biết thêm về nhà cổ ở phố cổ Hà Nội, xin đọc cả Vũ Ngọc Phan và Nguyễn Đình Toàn.(2) =Nằm sau lưng phố bờ sông, đầu trông ra cột đồng hồ ở bờ sông Nhị, đuôi trở ra phố hàng Mắm, ngõ Phất Lộc rất hẹp, ngang độ hai thước, dài non hai trăm thước, lát đá gồ ghề và chỉ có một dãy nhà nhìn ra phía sau lưng một dãy nhà mới hơn, cao hơn, ở sát ngay trước mặt. Nhà nào cũng thấp hơn mặt đường khoảng một thước – vì đường được đắp sau – và từ đường phải xuống ba bốn bực gạch mới vào phòng ngoài. Thời xưa có vài nhà bằng lá nhưng từ hồi tôi lớn lên thì nhà nào cũng bằng gạch. Đa số hẹp, chỉ độ hai ba thước, mà sâu có chỗ tới trên ba chục thước, như nhà tôi. Đi ngoài đường nhìn vào, thường thấy một căn hun hút, thấp, kê một án thư với hai tràng kỷ hai bên, và một ông già ngồi với chiếc điếu thuốc lào mà xe điếu là một cần trúc uốn cong. Trước năm 1930, thỉnh thoảng còn thấy thấp thoáng một thiếu nữ mảnh khảnh, da trắng xanh, ăn mặc theo lối cổ, tóc để đuôi gà, từ phía trong đi ra nhà ngoài rồi lại trở vào ngay. Những nhà đó thuộc loại khá phong lưu. Nhà nào cũng có sân nhỏ ở trong, trồng cây cảnh. Tường hai bên xây thành từng bực đi xuống như cầu thang. Tôi nhớ như chỉ có mỗi một nhà là có tường thấp phía trước, từ trong nhô lên một ngọn cây đào hay lựu, khế, và khách qua đường không thể không ngừng bước trước cánh cổng đóng kín mà tưởng tượng 63
vẻ yêu kiều, thướt tha của một hai thiếu nữ chơi với một em nhỏ ở phía trong. Ngõ có một ngôi đền kiến trúc sơ sài, cửa gỗ luôn luôn đóng, trên cửa là một mái nhỏ với một bầu rượu lớn ở giữa. Tôi chỉ vô đền đó một hai lần khi còn nhỏ, thấy sân khá rộng nhưng rất vắng, vắng cả bóng ông từ. Ông lủi thủi như một bóng ma, cơ hồ không bao giờ ra khỏi đền. Tôi không biết đền thờ ai mà quanh năm không có người đến lễ. Lạnh lẽo và buồn, nên bọn nhỏ chúng tôi chỉ ghé mắt nhìn vào chỗ thờ phụng tối om rồi chạy ra liền. Hai căn nhà số 2 và số 4 ở đầu ngõ do cụ ngoại chúng tôi cất trong đời Tự Đức có thể tiêu biểu cho những ngôi nhà cổ vào hạng tương đối phong lưu ở Hà Nội. Mái ngói, tường gạch, rui, cột, xà đều bằng danh mộc, năm sáu chục năm không mọt. Ngôi nhà số 2 chiều ngang ba thước, chiều sâu ba mươi hai thước, ngoài đường bước vào là một căn bếp thấp hơn mặt đường ba bốn tấc; qua khỏi bếp, xuống ba bốn bực nữa, tới nhà trong thông thống từ trước tới sau, không ngăn thành từng phòng; có một sân nhỏ mỗi chiều chừng hai thước cho nhà khỏi tối; tiến vô sâu nữa, gặp một sân dài bốn thước và choán hết chiều ngang của nhà, sân đó có một bể con chứa nước. Gần cuối nhà (C) là một khúc quẹo qua bên trái (thuộc về nhà số 4) rộng hai thước rưỡi, sâu mười thước, gồm hai phòng 2,5 x 3 thước, cách nhau một cái sân dài 4 thước. Có hai căn gác xép, thang gỗ gần như dựng đứng, phải khom lưng dò từng bước mới lên được; gác thấp, phải cúi đầu mà đi. Ở (A) là một cửa nhỏ thông ra nhà thờ. Nhà số 2 cha chúng tôi được thừa hưởng, còn nhà số 4 rất rộng, ngang tới mười thước, sâu hai mươi sáu thước là phần hương hỏa, có nhà thờ, các cụ ngoại tôi để lại cho một người cháu họ, vì các cụ không có con trai, chỉ có hai bà con gái mà bà nội chúng tôi là cả. Phía trong cùng nhà số 4 là nhà thờ tối om om, nhìn ra một cái sân lát gạch. Trước sân là một bể con có núi non bộ, hai bên (B) là bệ trồng cây dạ hợp và mẫu đơn (trong Nam gọi là bông trang), rồi tới một bể nước rộng, sâu, có miệng một con cá bằng mảnh sứ phun nước mưa hứng ở các mái ngói xuống. Hai bên sân là phòng. Vậy kiến trúc ngôi nhà đó như chữ U. Nhà ngoài là sân, bếp, chỗ tắm giặt, cầu tiêu, tất cả chiếm trọn chiều ngang mười thước, và sâu khoảng bốn, năm thước. Nửa ngoài cùng chia thành từng căn cho thuê; hồi tôi nhỏ, những căn đó bằng lá, gỗ; khoảng 1927-1928, người ăn hương hỏa bán đi một phần để xây gạch, phần còn lại để cho thuê (...) 64
Nhìn bản đồ chúng ta thấy hai ngôi nhà thông với nhau bằng cửa A đó thật là ngoắt ngoéo như một mê thất, không tiện cho người thường ở mà rất tiện cho các nhà làm cách mạng. Trong cuốn Đông Kinh nghĩa thục, tôi đã nói các bác tôi dùng căn nhà số 2 làm chỗ tiếp các đồng chí – với đôi khi vài nhà cách mạng Trung Hoa – và giấu các đồ quốc cấm: sách, báo, truyền đơn, súng lục. Mật thám của Pháp tới xét thì mới còn mò từng bước ở nhà ngoài, các cụ ở nhà trong đã kịp trốn hoặc chuyển đồ qua nhà số 4 bằng cửa A rồi khóa trái cửa đó lại; từ nhà số 4 có thể leo tường qua nhà bên cạnh được. Nhưng trong thời các cụ hoạt động (1906-1910), mật thám không đến xét lần nào cả. Tôi nghe nói cuối năm 1946, đầu năm 1947, các nhà ở ngõ Phất Lộc đều đục tường thông với nhau để tự vệ quân dễ dàng lưu thông mà chống Pháp, sau cùng rút lui về phía cầu Long Biên, vượt sông Nhị, qua bên Gia Lâm. (Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, nxb. Văn Học, VN, 1992) Nhà khá giả ở nông thôn Thiết nghĩ ngôi nhà sau đây có hai chỗ không tiêu biểu: - Thứ nhất, thường thì “sân trước, vườn sau”, nhà ở giữa, đây vườn rồi sân rồi mới đến nhà. - Thứ hai, thường thì các gian gần vuông, đây “mỗi gian rộng hai thước, sâu năm thước”. Ngoài ra, hình như thường hai gian bên có cửa sổ trông ra vườn phía sau, nhưng vì nhà này không có vườn sau nên không có cửa sổ. Có phải vì đây là “nhà thờ”, cần xây cho thâm nghiêm, nên hơi khác điển hình chăng? =Nhà thờ của chi chúng tôi do cụ tổ bốn đời của tôi cất trong khoảng 1840-50, có thể tiêu biểu cho những ngôi nhà gọi là phong lưu ở nông thôn Bắc Việt thời tiền chiến, nên tôi cũng ghi lại dưới đây vài nét. Cũng vẫn là kiểu nhà ba gian hai chái rất phổ thông, chỉ khác mái ngói, tường gạch dày mười phân. Ba gian ở giữa thông với nhau, không có vách ngăn, mỗi gian rộng hai thước, sâu năm thước. Gian giữa đặt bàn thờ, hai gian bên kê giường, án thư, với bốn chiếc ghế dựa, và một cái hòm (rương) lớn, cao để chứa những đồ vật hơi có giá. Hai chái hai bên, một chái là phòng của đàn bà, một chái dùng làm kho chứa thực phẩm, hai chái đó có vách gỗ ngăn cách với ba gian giữa. Không có cửa sổ. 65
Phía ngoài hiên rộng khoảng thước rưỡi kê được hai bộ phản, một ở giữa làm chỗ dạy học và tiếp khách, một ở bên trái làm chỗ ăn; bên phải dựng một bồ lúa. Một dãy cửa gỗ ngăn cách hiên với các gian, chái. Hai bên nhà, cách đầu nhà độ vài thước là hai căn nhà lá nhỏ, một ở bên trái làm bếp, cối giã gạo đặt ở bên hông bếp, một làm nhà khách. Hiên nhìn ra một sân gạch rộng hai ba thước để phơi lúa. Có hai bể nước, một ở trước nhà khách, một ở hông bên trái nhà. Cầu tiêu (nhà xí) ở bên phải, cách xa nhà và nhà khách, sát hàng rào tre. Nhà chúng tôi không nuôi trâu bò, lợn, nên không có chuồng cho các loài đó. Chung quanh sân đất và vườn có hàng rào tre. Vườn trồng cà hay cải, với một bụi chuối, một gốc chanh, một cây ổi, vài cây na (mãng cầu ta), một gốc đào, một gốc lựu, và vài chậu cảnh. Một cái thú của tôi hồi nhỏ là ngày Tết, châm ngòi một chiếc pháo Điện Quang toàn hồng rồi tung lên cao cho nó nổ trên không trung và xác đỏ thắm của nó mỏng như lụa, lả tả rơi xuống vườn cải lá xanh hoa vàng bên gốc đào thịnh khai phơn phớt hồng. Cả nhà lẫn vườn rộng non hai sào (mỗi sào là 360 thước vuông). (Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, nxb. Văn Học, VN, 1992) Hoa đào năm trước Thử đọc xem: “... ở sau một bức tường thấp (...) ló lên một tàng đào lớn, thịnh khai, đỏ thắm. Xe vừa chạy tới thì một cánh cửa gỗ ở nách bức tường đó từ từ hé mở, một thiếu nữ trạc mười sáu mười bảy bước ra: vành khăn nhung bao làn tóc đen nhánh làm nổi nước da trắng mịn, hồng hào; áo the điều, quần lãnh Bưởi. Tôi có cảm giác trời xuân bỗng nhiên bừng sáng. Xe vẫn chạy chậm chậm, và tôi quay lại nhìn cho tới khi khuất bóng, lòng hồi hộp mà bâng khuâng. Bâng khuâng không phải chỉ riêng vì người mà vì toàn cảnh. Ánh xuân trong dịu, đường phố thanh tĩnh, màu câu đối dán bên cửa với màu áo trên mình thiếu nữ, nét mực Tàu với vành khăn nhung, nhất là màu hoa đào kia với nước da nọ, tất cả cùng hiện lên một lúc, hòa hợp với nhau một cách ngẫu nhiên mà tuyệt diệu.” Có phải chỉ nghe Nguyễn Hiến Lê kể lại mà ta cũng thấy... tuyệt diệu! “Hoa đào năm trước” hiện ra bất quá trong chừng vài mươi giây, nhưng “dư hưởng bất tuyệt”. Cái chuyện “phù du, mà lại thọ”, Thôi Hộ bên Tàu biết, Alfred de Vigny bên Tây biết, Xuân Diệu ở Việt Nam cũng biết: 66
“Mãi mãi là trong những phút giây”!(3) =Hồi đó tôi học năm thứ ba hay thứ tư trường Bưởi (sau đổi tên là Chu Văn An), ăn tết ở Phương Khê xong, trở về Hà Nội. Chiếc xe đò Mĩ Lâm từ Trung Hà xuống, đậu ở bến gần chợ Sơn Tây một hồi lâu rồi mới lại khởi hành, chạy một vòng chậm chậm trong thành phố để đón thêm khách. Trời lạnh, dân chúng còn ăn Tết, các cửa ngõ còn nửa khép nửa mở, vỉa hè còn vắng người và rải rác xác pháo. Xe quẹo vào một con đường nhỏ nhưng sạch sẽ, trong một khu công chức, và ở sau một bức tường thấp, tôi thấy ló lên một tàng đào lớn, thịnh khai, đỏ thắm. Xe vừa chạy tới thì một cánh cửa gỗ ở nách bức tường đó từ từ hé mở, một thiếu nữ trạc mười sáu mười bảy bước ra: vành khăn nhung bao làn tóc đen nhánh làm nổi nước da trắng mịn, hồng hào; áo the điều, quần lãnh Bưởi. Tôi có cảm giác trời xuân bỗng nhiên bừng sáng. Xe vẫn chạy chậm chậm, và tôi quay lại nhìn cho tới khi khuất bóng, lòng hồi hộp mà bâng khuâng. Bâng khuâng không phải chỉ riêng vì người mà vì toàn cảnh. Ánh xuân trong dịu, đường phố thanh tĩnh, màu câu đối dán bên cửa với màu áo trên mình thiếu nữ, nét mực Tàu với vành khăn nhung, nhất là màu hoa đào kia với nước da nọ, tất cả cùng hiện lên một lúc, hòa hợp với nhau một cách ngẫu nhiên mà tuyệt diệu. Chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh xuân đẹp như vậy. Chiếc xe đã ra khỏi thành phố, bon bon trên con đường Sơn Tây - Hà Nội, tôi ngâm thầm bài “Ðề tích sở kiến xứ”: “Khứ niên kim nhật thử môn trung Nhân diện đào hoa tương ánh hồng”. Và tôi có cảm tưởng ngông ngông rằng thi sĩ như đã tặng riêng tôi bài đó, vì hiểu thơ thì ai cũng có thể hiểu được, mà muốn cảm xúc mãnh liệt thì phải thấy cái cảnh tả trong thơ, có cái tâm sự của người làm thơ. Cả một trời xuân và một tình xuân bàng bạc trong bốn câu của Thôi Hộ. Từ đó, mặc dầu biết rằng cũng sẽ thất vọng như Thôi Hộ thôi, “Nhân diện bất tri hà xứ khứ, Ðào hoa y cựu tiếu đông phong”(4) mà Tết nào, đi ngang qua tỉnh lị Sơn Tây, tôi cũng để ý tìm lại cảnh hoa đào 67
năm trước. Cảnh cũ, người cũ đã không sao cùng gặp lại được, thì thử kiếm cảnh khác, miễn là cũng đủ đào hoa nhân diện? Ở Hà Nội việc đó rất dễ. Từ hai mươi lăm tháng chạp, suốt phố Hàng Ðường tới cửa chợ Ðồng Xuân như một rừng đào, cái cảnh “hoa chi tự kiểm, kiểm như hoa”(5). Ðâu phải là hiếm, mà sao tôi vẫn không tìm lại được cảm giác cũ. Tôi nghĩ có lẽ tại đường phố náo nhiệt, mà hoa không còn trên gốc, thiếu vẻ thiên nhiên chăng? Có lần tôi lên tận làng Yên Phụ, thơ thẩn cả buổi trong các ngõ hẹp, lát gạch bên bờ Hồ Tây. Nơi đây còn vài ngôi đình chùa cổ, trong tiếng gió tiếng sóng như văng vẳng giọng ngâm thơ của Hồ Xuân Hương. Nhà nào cũng có vườn, tuy không rộng nhưng cũng trồng đủ giống hoa như làng Ngọc Hà, nhiều nhất là đào, đỏ ối mỗi khi xuân sang. Các thiếu nữ nửa quê nửa tỉnh, vừa tỉa cành vừa niềm nở chào khách, miệng tươi như hoa, nhưng lòng tôi chỉ vui vui chứ không xúc động; vẫn không phải cảnh sắc năm xưa. Thế thì thiếu cái gì đây? Tôi nghĩ không ra. Kế đó, tôi vô Nam và năm nào Tết đến cũng ngắm hoàng mai mà bâng khuâng nhớ đào (...) Rồi một hôm cách đây mười tám năm, vào đầu mùa mưa, đi ngang qua vườn một ẩn sĩ, thấy đẹp, tôi ghé vào thăm. Vườn nằm trên bờ một con kinh, ở vòng ngoài thành phố Long Xuyên, nổi tiếng vì có nhiều loại hồng quí từ Pháp gởi về. Tôi vào tới giữa sân thì một thiếu nữ tươi cười bước ra chắp tay: “Thưa thầy”. Thiếu nữ vẻ thanh tú, ngừng lại bên một bụi hồng leo màu phơn phớt đỏ. Ánh nắng ban mai chiếu vào chùm hoa và phản ánh làm cho má thiếu nữ cũng ưng ửng. Tôi còn đương cố nhận mặt thì thiếu nữ đã nhắc giùm. Tôi hỏi thăm mấy câu rồi trầm ngâm dạo vườn một lát. Vườn trồng cả chục loài hoa, nhiều nhất là hồng, và hồng có cả chục giống; sương mai lấp lánh mà hương thơm ngào ngạt. Thật thú vị, khi không cố ý tìm thì ngẫu nhiên gần như gặp lại cảnh cũ. Trong vài giây, lòng tôi lại xúc động như hồi trẻ ở Sơn Tây. Xúc động nhẹ thôi: trời hôm đó dịu nhưng không phải là trời xuân ngoài Bắc, mà hồng cũng không thể sánh với đào được. Có lẽ còn tại cái tuổi, cái tâm trạng của tôi nữa chăng? Nhưng cũng là một phút đẹp trong đời, và ở vườn hồng ra, tôi lại ngâm thầm bài thơ của Thôi Hộ, nhớ lại tuổi xuân, cảm xúc triền miên, dịu dịu. 68
Hôm sau vào lớp học, thiếu nữ cùng với các bạn, đứng dậy chào tôi, nhưng lạ quá, tôi gần như không nhận ra nữa: cũng chỉ như mọi nữ sinh khác, lễ phép, nhu mì, thế thôi; như bé lại vài tuổi, còn cái duyên hôm trước thì đã biến đâu mất. Tôi bước lên bục mà phân vân tự hỏi tại sao. Tại không khí trong lớp học chăng? Hay tại thiếu bụi hồng dưới ánh dịu ban mai bên bờ nước? A, giá đừng gặp lại!(...) Phải, cái buổi sáng ở Sơn Tây kia (...) chỉ ngẫu nhiên xuất hiện một lần trong một đời người (...) Vì phải có một sự giao hội kì diệu mà hữu tình của biết bao cái ngẫu nhiên (...) thì mới gây cho ta được một cảm giác hoàn toàn thỏa mãn về tinh thần, một cảm giác phơi phới nửa hư nửa thực, đột ngột mà bâng khuâng. Ta thấy lòng ta nở ra, ngũ quan mẫn tuệ, tinh thần thanh thoát như chơi vơi. Một đời người hưởng được vài ba phút mà dư hưởng bất tuyệt đó, tôi tưởng đã là phước lớn. Nó quí ở chỗ không bao giờ tái hiện và rất ngắn ngủi. Ðừng kiếm lại nó, vô ích, mà cũng đừng mong cho nó kéo dài: nếu chiếc xe Mĩ Lâm sáng xuân đó (...) vì một lẽ gì ngừng lại, thì cái mĩ cảm của tôi tất phải giảm mà dư hưởng tất không bền (...) Cái tuyệt mĩ bao giờ cũng phù du, mà lại thọ nhất. (Sài Gòn, Xuân Tân Hợi) (Trong Để tôi đọc lại, nxb. Văn Học, VN, 2001) _____________ (1) Một mảnh tình riêng (hồi ký), nxb. Văn Nghệ TPHCM, VN, 2000, tr. 100. (2) “Nhà ở phố cổ” (VNP) và “Hà Nội... sân” (NĐT), đăng trên trang gocnhin.net. (3) Trong bài Mãi Mãi của Xuân Diệu. (4) Bài này đã có nhiều người dịch, nhưng tôi chưa gặp bản nào như ý, cho nên không muốn chép lại. Chỉ có hai câu của Nguyễn Du là xứng với hai câu cuối trong nguyên tác: “Trước sau nào thấy bóng người / Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông”. Ai có tài dịch thêm hai câu đầu cũng thành lục bát, để ghép lại cho đủ bài thì thú lắm. (5) Thơ của một nữ sĩ đời Thanh: “Cành hoa tựa má, má như hoa”.
Chinh phụ ngâm khúc - Thuở trời đất nổi cơn gió bụi - Bịn rịn buổi tiễn đưa - Người ở nhà lo nghĩ về người đi xa - Than đôi lứa chia lìa - Trách chinh phu lỡ hẹn - Kể chuyện nhà: nuôi mẹ, dạy con 69
- Kể lể nỗi niềm nhớ nhung - Khi mơ khi tỉnh dõi tìm dấu chàng - Tiếc nhớ quẩn quanh - Lo già, nguyện muôn kiếp bên chàng - Mơ chinh phu khải hoàn - Mơ lúc gặp lại chinh phu Trong lời nhận xét chung về Cung oán chúng tôi có nhắc nhiều đến Chinh phụ.(1) Những chuyện đã nói ở đây xin được miễn nhắc lại, để ta có thể bàn ngay chuyện mới. Có lẽ dễ tưởng rằng nỗi lòng người vợ có chồng chinh chiến xa xôi là một nội dung văn chương phổ thông khắp nơi trên mặt đất, nhưng thực ra không phải vậy! Người da trắng thời La-mã viễn chinh tưng bừng, rồi trong năm sáu trăm năm nay lại viễn chinh tưng bừng. Bao nhiêu Tây chồng vượt đại dương đi đánh... thế giới, mỗi lần đi vừa xa vừa lâu, Tây lại rất chịu khó viết tiểu thuyết, thế mà văn học Tây không có tác phẩm lớn nào về nỗi mong mỏi chồng của bao nhiêu Tây vợ! Viễn chinh mà không vượt biển thì đến nay vẫn chưa ai phá nổi thành tích của người Mông Cổ. Không nghe nói văn học Mông Cổ có kiệt tác như Chinh phụ. Rồi người Tàu tuy không đi đánh thật xa như Tây hay Mông Cổ nhưng những cuộc nam chinh của họ cũng đáng kể lắm, Tàu viết lách càng chịu khó hơn Tây, thế mà thật đông đảo văn thi nhân cũng chỉ để lại một số bài thơ ngắn chứ không người nào viết ra được thứ gì như Chinh phụ... Vào thời Đặng Trần Côn ở Bắc Hà nhiều giặc giã, hẳn ông đã lấy cảm hứng từ những lần chúa Trịnh sai tướng mang quân đi đánh dẹp. “Chàng” đi không xa không lâu tí nào, thế mà lòng “thiếp” cảm sâu sắc đến nỗi có văn nhân mượn đem viết thành tác phẩm kích thích được văn nhân khác làm nên kiệt tác để đời. A, ở đây hoàn cảnh bé cảm xúc lớn mới là hay, chứ hay hớm gì chuyện xảy ra ngược lại! Và hễ có cảm xúc lớn rồi, ta cứ việc vay “đồ Tàu” mà dựng lên một cái “khung” thật hoành tráng cho xứng, chứ ngại gì! Dân tộc Việt Nam không chỉ trường thi mà còn trường ca về nỗi lòng chinh phụ: Hòn Vọng Phu của Lê Thương đấy. Lời ca mới vĩ đại sao, và hiển nhiên tương ứng với cảm xúc trong lòng người chứ không liên quan gì đến thực tế sử địa. Tuy Chinh phụ phác họa một hình ảnh lứa đôi quý tộc, nhưng cái tâm sự của “thiếp” cơ bản vượt giai cấp, đại khái cũng chính là nỗi niềm của vợ lính quèn. Cuối cùng, vì khúc ngâm diễn một tâm sự chứ không phải kể một câu chuyện, khi đọc ta chớ sốt ruột chờ diễn biến. Và vì tình cảm nhớ nhung thì nhớ rồi lại 70
nhớ, nên khi gặp chỗ lặp lại ta cũng chớ phàn nàn... Hay nhất cho ta người đọc, là cố tận cảm những lời hết sức gợi cảm trong bản dịch thơ tuyệt tác của Đoàn Thị Điểm hay Phan Huy Ích. Cũng như đã làm đối với Cung oán ngâm khúc, chúng tôi lấy cảm nhận riêng mà tạm chia Chinh phụ ngâm khúc thành 12 đoạn như sau: Thuở trời đất nổi cơn gió bụi Hễ “cơn gió bụi nổi”, thì có người phải ra đi. Mà ra đi thì “Xưa nay chinh chiến mấy ai về”.(2) Nhưng Đặng Trần Côn không thơ tràng thiên về người “chinh chiến”, mà về kẻ ở lại nhà chờ người ấy. “Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên”... Truân chuyên nghĩa là khó nhọc, vất vả. Ô hay, chồng của “khách” mới..., chứ “khách” có đi đâu, có làm gì đâu, mà... Truân chuyên không phải một lối. Muốn biết tại sao “má hồng” cũng vất vả vì “gió bụi”, xin “xem hồi sau sẽ rõ”! =Thuở trời đất nổi cơn gió bụi (1) Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên Xanh kia thăm thẳm tầng trên Vì ai gây dựng cho nên nỗi này. Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt (5) Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây Chín tầng gươm báu trao tay Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh. Nước thanh bình ba trăm năm cũ (9) Áo nhung trao quan vũ từ đây Sứ trời sớm giục đường mây Phép công là trọng niềm tây sá nào. Bịn rịn buổi tiễn đưa 71
Ai đọc lại đoạn Chinh phụ này mà nẩy ý tìm hiểu những tên người, tên đất bên Tàu ấy, xin đừng! Vì Hoài Thanh đã làm việc đó rồi và cho hay “tất cả đều chỉ có giá trị tượng trưng, có khi lấy ở đời Hán, lại có khi lấy ở đời Ðường, nhiều khi chẳng có quan hệ gì với nhau, thậm chí mâu thuẫn với nhau nữa”!(3) Ta chỉ cần biết “chàng” chinh chiến xa xôi lắm. Và chính “thiếp” thì cũng chỉ cần biết có thế thôi. Chinh phu ra đi oai hùng: “Chí làm trai dặm nghìn da ngựa Gieo Thái sơn nhẹ tựa hồng mao Giã nhà đeo bức chiến bào Thét roi cầu Vị ào ào gió thu”. Rồi đoàn quân đi trong một không gian mênh mông, mây núi chập chùng, cũng rất hùng! Nhưng người hùng cảnh hùng không làm quên được việc đi mà không biết ngày về, thực ra không biết có ngày về hay không. Tự nhiên, buổi tiễn đưa hết sức bịn rịn. Bịn rịn không lâu hóa “ngẩn ngơ”: “Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng Hàng cờ bay trông bóng phất phơ Dấu chàng theo lớp mây đưa Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà”. Chinh phụ ngẩn người một lúc, rồi cũng cất bước: “Chàng thì đi cõi xa mưa gió Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn”. Người đi kẻ về, chốc chốc: “Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu Ngàn dâu xanh ngắt một mầu Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”! =72
Ðường giong ruổi lưng đeo cung tiễn (13) Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa Bóng cờ tiếng trống xa xa Sầu lên ngọn ải oán ra cửa phòng. Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt (17) Xếp bút nghiên theo việc đao cung Thành liền mong tiến bệ rồng Thước gươm đã quyết chẳng dong giặc trời. Chí làm trai dặm nghìn da ngựa (21) Gieo Thái sơn nhẹ tựa hồng mao Giã nhà đeo bức chiến bào Thét roi cầu Vị ào ào gió thu. Ngòi đầu cầu nước trong như lọc (25) Ðường bên cầu cỏ mọc còn non Ðưa chàng lòng dặc dặc buồn Bộ khôn bằng ngựa thủy khôn bằng thuyền. Nước trong chảy lòng phiền chẳng rửa (29) Cỏ xanh thơm dạ nhớ khó quên Nhủ rồi nhủ lại cầm tay Bước đi một bước giây giây lại dừng. Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi (33) Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên san Múa gươm rượu tiễn chưa tàn Chỉ ngang ngọn dáo vào ngàn hang beo. Săn Lâu Lan rằng theo Giới Tử (37) Tới Man Khê bàn sự Phục Ba Áo chàng đỏ tựa ráng pha Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in. Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống (41) Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay Hà Lương chia rẽ đường này Bên đường trông lá cờ bay ngùi ngùi. Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu (45) Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương Quân đưa chàng ruổi lên đường 73
Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng. Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng (49) Hàng cờ bay trông bóng phất phơ Dấu chàng theo lớp mây đưa Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà. Chàng thì đi cõi xa mưa gió (53) Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn Ðoái trông theo đã cách ngăn Tuôn mầu mây biếc trải ngần núi xanh. Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại (57) Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng. Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy (61) Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu Ngàn dâu xanh ngắt một mầu Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai. Người ở nhà lo nghĩ về người đi xa Đưa “chàng” đi rồi, “thiếp” về nhà, bắt đầu lo. Trước tiên là lo “chàng” vất vả: “Chàng từ khi vào nơi gió cát”, hẳn lúc thì vượt “nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu”, lúc thì “đứt thôi lại nối thấp đà lại cao”, trèo dốc mệt... không được nghỉ, và hẳn có lúc lại gặp “dòng nước sâu” đến nỗi “ngựa (cũng) nản chân bon”... Nhưng “những người chinh chiến”, lo nhất cho họ là lo về tính mệnh. Cứ mỗi cơn binh lửa, là lại thêm biết bao nhiêu nấm mồ hoang: “Non Kỳ mộ chỉ trăng treo Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò. Hồn tử sĩ gió ù ù thổi Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi”... “Chàng” ơi, “chàng” ơi! =74
Chàng từ khi vào nơi gió cát (65) Ðêm trăng này nghỉ mát phương nao Xưa nay chiến địa nhường bao Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu. Hơi gió lạnh người rầu mặt dạn (69) Dòng nước sâu ngựa nản chân bon Ôm yên gối chống đã chồn Nằm vùng cát trắng ngủ cồn rêu xanh. Nay Hán xuống Bạch thành đóng lại (73) Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua Hình khe thế núi gần xa Ðứt thôi lại nối thấp đà lại cao. Sương đầu núi buổi chiều như giội (77) Nước lòng khe nẻo suối còn sâu Não người áo giáp bấy lâu Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây. Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ (81) Mặt chinh phu ai vẽ cho nên Tưởng chàng rong ruổi mấy niên Chẳng nơi Hãn hải thì miền Tiêu quan. Ðã trắc trở đòi ngàn xà hổ (85) Lại lạnh lùng những chỗ sương phong Lên cao trông thức mây lồng Lòng nào là chẳng động lòng bi thương. Chàng từ sang đông nam khơi nẻo (89) Biết nay chàng tiến thảo nơi đâu Những người chinh chiến bấy lâu Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây. Nức hơi mạnh ơn dày từ trước (93) Trải chốn nghèo tuổi được bao nhiêu Non Kỳ mộ chỉ trăng treo Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò. Hồn tử sĩ gió ù ù thổi (97) Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi 75
Chinh phu tử sĩ mấy người Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn. Dấu binh lửa nước non như cũ (101) Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương Phận trai già ruổi chiến trường Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về. Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ (105) Ba thước gươm một cỗ nhung yên Xông pha gió bãi trăng ngàn Tên treo đầu ngựa giáo lan mặt thành. Than đôi lứa chia lìa Bịn rịn lúc tiễn đưa, lo lắng khi về đến nhà, bây giờ mới bắt đầu than thở về nông nỗi “đôi lứa” hãy còn “thiếu niên” mà không được “vui vầy cá nước”, mà phải “cách vời”... Đã có duyên vợ chồng, lại người “trong cánh cửa” kẻ “ngoài chân mây”, “nỗi lòng biết ngỏ cùng ai”, nên “thôi sớm thôi hôm những sầu”... =Áng công danh trăm đường rộn rã (109) Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai Thiếp trong cánh cửa chàng ngoài chân mây. Trong cửa này đã đành phận thiếp (113) Ngoài mây kia há kiếp chàng vay Những mong cá nước vui vầy Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời. Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ (117) Chàng há từng học lũ vương tôn Cớ sao cách trở nước non Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu. Chàng phong lưu đương chừng niên thiếu (121) Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên Nỡ nào đôi lứa thiếu niên Quan sơn để cách hàn huyên cho đành. 76
Trách chinh phu lỡ hẹn Đoạn trước chinh phụ “than”, đoạn này chuyển sang “trách”. Cái trách đây có chỗ lạ: “Hẹn cùng ta Lũng Tây nham ấy”, “Hẹn nơi nao Hán Dương cầu nọ”... Thế nghĩa là chồng ra trận rồi vợ chạy tứ tung để đợi gặp chồng? Chẳng những xưa kia phụ nữ Tàu không được tự do như thế, mà ngay bây giờ bất cứ ở đâu cái việc “hẹn” này cũng là hiếm. “Bù lạ”, chinh phụ có lúc thốt lên những lời thật gợi cảm: “Nay đào đã quyến gió đông Phù dung lại đã bên sông bơ xờ”, “Ngập ngừng gió thổi chéo bào Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông”... =Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu (125) Hỏi ngày về ước nẻo oanh ca Nay quyên đã giục oanh già Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo. Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió (129) Hỏi ngày về chỉ độ đào bông Nay đào đã quyến gió đông Phù dung lại đã bên sông bơ xờ. Hẹn cùng ta Lũng Tây nham ấy (133) Sớm đã trông nào thấy hơi tăm Ngập ngừng lá rụng cành trâm Buổi hôm nghe dậy tiếng cầm xôn xao. Hẹn nơi nao Hán Dương cầu nọ (137) Chiều lại tìm nào có tiêu hao Ngập ngừng gió thổi chéo bào Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông. Tin thường lại người không thấy lại (141) Hoa dương tàn đã trải rêu xanh Rêu xanh mấy lớp xung quanh 77
Sân đi một bước trăm tình ngẩn ngơ. Thư thường tới người chưa thấy tới (145) Bức rèm thưa lần dãi bóng dương Bóng dương mấy buổi xuyên ngang Lời sao mười hẹn chín thường đơn sai. Kể chuyện nhà: nuôi mẹ, dạy con Đoạn này chinh phụ kể... công: nào nuôi mẹ già, nào nuôi và dạy con thơ. Kể tí gọi là thôi, kẹp vào giữa “xót” và “nhớ” chinh phu. “Mẹ già phơ phất mái sương”, “Con thơ măng sữa...”, “... buồn khi tựa cửa”, “... chờ bữa mớm cơm”, nghe như ca dao... =Thử tính lại diễn khơi ngày ấy (149) Tiền sen này đã nẩy là ba Xót người lần lữa ải xa Xót người nương chốn Hoàng hoa dặm dài. Tình gia thất nào ai chẳng có (153) Kìa lão thân khuê phụ nhớ thương Mẹ già phơ phất mái sương Con thơ măng sữa vả đương phù trì. Lòng lão thân buồn khi tựa cửa (157) Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân. Nay một thân nuôi già dạy trẻ (161) Nỗi quan hoài mang mể biết bao Nhớ chàng trải mấy sương sao Xuân từng đổi mới đông nào có dư. Kể lể nỗi niềm nhớ nhung Cái đoạn này dài đến non một phần tư tác phẩm. Nó dài là phải, vì nó diễn “nỗi nhớ nhung đau đáu”, tức cái cảm xúc chính trong lòng người chinh phụ. “Lòng thiếp riêng bi thiết (...) nói chẳng nên lời”, nhưng may đã có thi sĩ đặt 78
mình vào chỗ “thiếp” mà cảm miên man, viết nên lời lời gợi cảm... Vợ nhớ chồng xa lúc nào chẳng nhớ, nhưng có lẽ dễ “chạnh” hơn về ban đêm, nhất những đêm có trăng, hoa, gió: “Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên Lá màn lay ngọn gió xuyên Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm. Hoa giãi nguyệt nguyệt in một tấm Nguyệt lồng hoa hoa thắm từng bông Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu”... Trong lòng người vốn chỉ có những thứ trừu tượng, nhưng lúc này những thứ ấy “nặng” và “đầy” đến nỗi bỗng hóa như vật chất: “Sầu ôm nặng hãy chồng làm gối Muộn ôm đầy hãy thổi làm cơm”!!! Và chính vật chất bên ngoài cũng trở nên rất khác lạ: “Sương như búa bổ mòn gốc liễu Tuyết nhường cưa xẻ héo cành ngô”!! Lạ và lạ đến đâu, thì người vợ “lẻ loi một bề” cũng không làm gì được ngoài để cho “lệ (...) nhỏ đôi”. Đêm đêm, một mình một bóng, đau đáu, đôi đôi, hết đôi này lại nhỏ tiếp đôi khác... =Kể năm đã ba tư cách diễn (165) Mối sầu thêm nghìn vạn ngổn ngang Ước gì gần gũi tấc gang Giãi niềm cay đắng để chàng tỏ hay. Thoa cung Hán thuở ngày xuất giá (169) Gương lầu Tần dấu đã soi chung Cậy ai mà gửi tới cùng Ðể chàng thấu hết tấm lòng tương tư. Nhẫn đeo tay mọi khi ngắm nghía (173) 79
Ngọc cài đầu thuở bé vui chơi Cậy ai mà gửi tới nơi Ðể chàng trân trọng dấu người tương thân. Trải mấy xuân tin đi tin lại (177) Tới xuân này tin hãy vắng không Thấy nhàn luống tưởng thư phong Nghe hơi sương sắm áo bông sẵn sàng. Gió tây nổi không đường hồng tiện (181) Xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa Màn mưa trướng tuyết xông pha Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài. Ðề chữ gấm phong thôi lại mở (185) Gieo bói tiền tin dở còn ngờ Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai. Há như ai hồn say bóng lẫn (189) Bỗng thơ thơ thẩn thẩn như không Trâm cài xiêm dắt thẹn thùng Lệch vừng tóc rối lỏng vòng lưng eo. Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước (193) Ngoài rèm thưa rủ thác đòi phen Ngoài rèm thước chẳng mách tin Trong rèm dường đã có đèn biết chăng. Ðèn có biết nhường bằng chẳng biết (197) Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi Buồn rầu nói chẳng nên lời Hoa đèn kia với bóng người khá thương. Gà eo óc gáy sương năm trống (201) Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên Khắc trời đằng đẵng bấy niên Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa. Hương gượng đốt hồn đà mê mải (205) Gương gượng soi lệ lại chứa chan Sắt cầm gượng gảy ngón đàn Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng. 80
Lòng này gửi gió đông có tiện (209) Nghìn vàng xin gửi đến non Yên Non Yên dù chẳng tới miền Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời. Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu (213) Nỗi nhớ nhung đau đáu nào xong Cảnh buồn người thiết tha lòng Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun. Sương như búa bổ mòn gốc liễu (217) Tuyết nhường cưa xẻ héo cành ngô Giọt sương phủ bụi chim gù Sâu tường kêu vẳng chuông chùa nện khơi. Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc (221) Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên Lá màn lay ngọn gió xuyên Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm. Hoa giãi nguyệt nguyệt in một tấm (225) Nguyệt lồng hoa hoa thắm từng bông Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu. Ðâu xiết kể trăm sầu nghìn não (229) Từ nữ công phụ xảo đều nguôi Biếng cầm kim biếng đưa thoi Oanh đôi thẹn dệt bướm đôi ngại thùa. Mặt biếng tô miệng càng biếng nói (233) Sớm lại chiều dòi dõi nương song Nương song luống ngẩn ngơ lòng Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai. Biếng trang điểm lòng người sầu tủi (237) Xót nỗi chàng ngoài cõi trùng quan Khác gì ả Chức chị Hằng Bến Ngân sùi sụt cung trăng chốc mòng. Sầu ôm nặng hãy chồng làm gối (241) Muộn ôm đầy hãy thổi làm cơm 81
Mượn hoa mượn rượu giải buồn Sầu làm rượu nhạt muộn làm hoa ôi. Gõ sênh ngọc mấy hồi không tiếng (245) Ôm đàn tranh mấy phím rời tay Xót người hành dịch bấy nay Dặng xa thêm mỏi trắp đầy lại vơi. Ca quyên ghẹo làm rơi nước mắt (249) Trống tiều khua như đốt buồng gan Võ vàng đổi khác dung nhan Khuê ly mới biết tân toan dường này. Nếm chua cay tấm lòng mới tỏ (253) Chua cay này há có vì ai Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề. Khi mơ khi tỉnh dõi tìm dấu chàng Có thế chứ. Đây không như một đoạn trước trong đó chinh phụ thân xông pha đi tìm gặp chinh phu. Đây thân vẫn ở nhà, trên giường, chỉ có hồn bay khắp nơi... Hồn mà tìm nhất định phải thấy, thiếp chàng gặp nhau vui “muôn vàn”, nhưng qua “giờ mộng xuân” rồi thì: “Khi mơ những tiếc khi tàn Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng (như) không”. Hồn thiếp bay lên cao có lúc thấy cảnh gợi ghê: “Khói mù nghi ngút ngàn khơi Con chim bạt gió lạc loài kêu thương”. “Kêu thương” nào chỉ “con chim”! Ờ, mà lẽ nào chỉ có người ở nhà mới đêm đêm... cất cánh, hẳn “chàng” cũng... “Yêu nhau nhớ dáng tưởng hình Chiêm bao anh có một mình chăng anh?”(4) =82
Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng (257) Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn Duy còn hồn mộng được gần Ðêm đêm thường đến Giang Tân tìm người. Tìm chàng thuở Dương Ðài lối cũ (261) Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa Xum vầy mấy lúc tình cờ Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân. Giận thiếp thân lại không bằng mộng (265) Ðược gần chàng bến Lũng thành Quan Khi mơ những tiếc khi tàn Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không. Vui có một tấm lòng chẳng dứt (269) Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi Lòng theo nhưng chửa thấy người Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe. Trông bến nam bãi che mặt nước (273) Cỏ biếc um dâu mướt màu xanh Nhà thôn mấy xóm chông chênh Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm. Trông đường bắc đôi chòm quán khách (277) Rườm rà cây xanh ngắt núi non Lúa thành thoi thóp bên cồn Nghe thôi ngọc địch véo von bên lầu. Non đông thấy lá hầu chất đống (281) Trĩ xập xòe mai cũng bẻ bai Khói mù nghi ngút ngàn khơi Con chim bạt gió lạc loài kêu thương. Lũng Tây chảy nước dường uốn khúc (285) Nhạn liệng không sóng giục thuyền câu Ngàn thông chen chúc khóm lau Cách ghềnh thấp thoáng người đâu đi về. Trông bốn bể chân trời mặt đất (289) Lên xuống lầu thấm thoắt đòi phen Lớp mây ngừng mắt ngại nhìn 83
Biết đâu chinh chiến là miền Ngọc Quan. Gậy rút đất dễ khôn học chước (293) Khăn gieo cầu nào được thấy tiên Lòng này hóa đá cũng nên E không lệ ngọc mà lên trông lầu. Tiếc nhớ quẩn quanh Đoạn này nhớ mang màu tiếc: “Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong”. Chinh phụ khe khẽ tiếc, rồi khe khẽ hỏi: “Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng”? rồi khe khẽ “ví”: “Lòng chàng ví cũng bằng như thế”... Bao nhiêu bước thẫn thờ qua lại trên sân. Bao nhiêu đêm với chỉ trăng bên gối, thiếp đi, để “bừng mắt” thấy “sương gội cành khô”. “Lạnh lùng thay (...) Gió mây hiu hắt trên đầu tường vôi”... Phải chi, phải không, chàng ơi. =Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu (297) Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong Chẳng hay muôn dặm ruổi giong Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng. Lòng chàng ví cũng bằng như thế (301) Lòng thiếp nào dám nghĩ gần xa Hướng dương lòng thiếp như hoa Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương. Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái (305) Hoa để vàng bởi tại bóng dương 84
Hoa vàng hoa rụng quanh tường Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần. Chồi lan nọ trước sân đã hái (309) Ngọn tần kia bên bãi đưa hương Sửa xiêm dạo bước tiền đường Ngửa trông xem vẻ thiên chương thẫn thờ. Bóng Ngân hán khi mờ khi tỏ (313) Ðộ Khuê triền buổi có buổi không Thức mây đòi lúc nhạt nồng Chuôi sao Bắc Ðẩu thôi đông lại đoài. Mặt trăng tỏ thường soi bên gối (317) Bừng mắt trông sương gội cành khô Lạnh lùng thay bấy nhiêu thu Gió mây hiu hắt trên đầu tường vôi. Lo già, nguyện muôn kiếp bên chàng Đây cũng đoạn quan trọng. Vì xa nhau lâu thì người phụ nữ lo gì hơn lo già: “Thoi đưa ngày tháng ruổi mau Người đời thấm thoắt qua mầu xuân xanh”, “Gái tơ mấy chốc hóa ra nạ dòng”... Lo dẫn đến thương: “Thương một kẻ phòng không luống giữ”. Kẻ đáng thương ấy ngày ngày “(...) dạo hài lối cũ rêu in (...) Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì”. “Thời tốt” cứ theo nhau “lỡ hết” phen này đến phen kia, “e đến khi đầu bạc” mất! Bạc đầu tất nhiên không chỉ mình “thiếp”, nên “Thiếp rầu thiếp lại rầu chàng chẳng quên”. 85
“Rầu” mất màu tóc nhiều quá, có khi đâm lẩn thẩn, đòi thắng cả thời gian: “Thiếp xin chàng chớ bạc đầu Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung”! Nói hăng vậy, chứ thực ra cũng đã trù liệu đến thất bại hoàn toàn rồi. Nếu kiếp này “trời (...) để nhỡ nhàng”, thiếp chàng cứ “đấy đây” mãi, thì “Thiếp xin về kiếp sau này Như chim liền cánh như cây liền cành”. Tội quá, cho “liền” liền đi, trời ơi! =Một năm một nhạt màu son phấn (321) Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi Xưa sao hình ảnh chẳng rời Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương. Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ (325) Thiếp dạo hài lối cũ rêu in Gió xuân ngày một vắng tin Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì. Xẩy nhớ khi cành Diêu đóa Ngụy (329) Trước gió xuân vàng tía sánh nhau Nọ thì ả Chức chàng Ngâu Tới trăng thu lại bắc cầu sang sông. Thương một kẻ phòng không luống giữ (333) Thời tiết lành lầm lỡ đòi nau Thoi đưa ngày tháng ruổi mau Người đời thấm thoắt qua mầu xuân xanh. Xuân thu để giận quanh ở dạ (337) Hợp ly đành buồn quá khi vui Oán sầu nhiều nỗi tơi bời Vóc bồ liễu dễ ép nài chiều xuân. Kìa Văn Quân mỹ miều thuở trước (341) E đến khi đầu bạc mà thương Mặt hoa nọ gã Phan lang 86
Sợ khi mái tóc điểm sương cũng ngừng Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở (345) Tiếc quang âm lần lữa gieo qua Nghĩ mệnh bạc tiếc niên hoa Gái tơ mấy chốc hóa ra nạ dòng. Gác nguyệt nọ mơ mòng vẻ mặt (349) Lầu hoa kia phảng phất mùi hương Trách trời sao để nhỡ nhàng Thiếp rầu thiếp lại rầu chàng chẳng quên. Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội (353) Cũng dập dìu chẳng vội phân trương Chẳng xem chim yến trên rường Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau. Kìa loài sâu hai đầu cùng sánh (357) Nọ loài chim chắp cánh cùng bay Liễu sen là thức cỏ cây Ðôi hoa cũng sánh đôi dây cũng liền. Ấy loài vật tình duyên còn thế (361) Sao kiếp người nỡ để đấy đây Thiếp xin về kiếp sau này Như chim liền cánh như cây liền cành. Ðành muôn kiếp chữ tình đã vậy (365) Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau Thiếp xin chàng chớ bạc đầu Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung. Xin làm bóng theo cùng chàng vậy (369) Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên Chàng nương vừng nguyệt phỉ nguyền Mọi bề trung hiếu thiếp xin vẹn tròn. Mơ chinh phu khải hoàn Ấy là chinh phụ mơ chinh phu khải hoàn. “Phân vinh thiếp cũng đượm chung hương trời”. 87
Xứng đáng lắm. Đoạn này chán! =Lòng hứa quốc tựa son ngăn ngắt (373) Sức tý dân dường sắt trơ trơ Máu Thuyền Vu quắc Nhục Chi Ấy thì bữa uống ấy thì buổi ăn. Mũi đồng bác đôi lần hăm hở (377) Ðã lòng trời gìn giữ người trung Hộ chàng trăm trận nên công Buông tên ải bắc treo cung non đoài. Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải (381) Tiếng khải ca trở lại thần kinh Ðỉnh non kia đá đề danh Triều thiên vào trước cung đình dâng công. Nước Ngân Hán việt đồng rửa sạch (385) Khúc Nhạc Từ réo rắt lừng khen Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền Tên ghi gác Khói tượng truyền đài Lân. Nền huân tướng đai cân rạng vẻ (389) Chữ đồng hưu bia để nghìn đông Ơn trên ấm tử thê phong Phân vinh thiếp cũng đượm chung hương trời. Mơ lúc gặp lại chinh phu Ca khúc khải hoàn xong, chinh phụ chinh phu ca tiếp bài tái ngộ. Chao ơi mùi. “Thiếp” “vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng”, rồi đem “khăn lệ” và “thơ sầu” ra khoe. “Chàng” nâng niu vuốt ve từng tấm... nước mắt khô, rồi cứ đọc một câu sầu “chàng ơi” lại “đổi” bằng một câu vui “nàng ơi”, đổi đến đâu “khà” đến đấy cho đến khi “mọi lời” đã... uống sạch, nhả sạch! Cái màn đọc-đổi-khà còn được diễn đi diễn lại “đòi phen”, mà “thiếp” không chỉ có ngồi nghe với “sẽ rót vơi lần lần từng chén” cho chàng đâu, mà còn tự mình “sẽ ca lần ren rén từng thiên” và hễ “liên ngâm” xong thì cũng cạn chén 88
(tuy chắc không “khà”) để gọi là “đối ẩm”... Có như thế thì may ra mới “bõ lúc xa sầu cách nhớ” được chứ! Nhưng than ôi, tất cả mới chỉ là mơ ước. Bao giờ “khách má hồng” mới dứt “truân chuyên”, hỡi “thăm thẳm xanh kia”? =Thiếp chẳng dại như người Tô phụ (393) Chàng hẳn không như lũ Lạc Dương Khi về đeo quả ấn vàng Trên khung cửi dám rẫy ruồng làm cao. Xin vì chàng xếp bào cởi giáp (397) Xin vì chàng giũ lớp phong sương Vì chàng tay chúc chén vàng Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng. Mở khăn lệ chàng trông từng tấm (401) Ðọc thơ sầu chàng thấm từng câu Câu vui đổi lấy câu sầu Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời. Sẽ rót vơi lần lần từng chén (405) Sẽ ca lần ren rén từng thiên Liên ngâm đối ẩm đòi phen Cùng chàng lại kết mối duyên đến già. Cho bõ lúc xa sầu cách nhớ (409) Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình Ngâm nga mong mỏi chữ tình Nhường này âu hẳn tài lành trượng phu. _______________ (1) Xem bài Nguyễn Gia Thiều. (2) “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”, câu chót bài Lương Châu Từ của Vương Hàn đời Đường, bản dịch Trần Quang Trân. (3) “... Theo đoạn tiễn đưa thì hình như người chinh phu quê ở Hàm Dương và đi đánh dẹp ở Tiêu Tương nghĩa là đi từ bắc xuống nam. Người chinh phụ cũng có nói: “Chàng từ sang đông nam khơi nẻo”. Nhưng “trống Trường Thành” là ở phương bắc và sau này người chinh phụ gửi nhớ thương cũng lại hướng về non Yên ở phương bắc. Hai lần người thiếu phụ nhắc đến ngày chồng hẹn lúc ra đi nhưng lần thứ nhất là “nẻo quyên ca” tức là mùa hè, lần thứ hai lại là “độ 89
đào bông” tức là mùa xuân; thế thì là mùa hè hay mùa xuân?”, Tuyển tập Hoài Thanh, tập II, nxb. Văn Học, VN, 1982, tr. 51. (4) Bài Chiêm Bao Thỉnh Thoảng Em Về của Huy Cận: “Yêu nhau nhớ dáng tưởng hình / Chiêm bao em có một mình chăng em?”.
Huy Cận - Tuyển 1 Lửa thiêng (1940) - Buồn đêm mưa - Thu rừng - Tràng giang - Đi giữa đường thơm - Thuyền đi - Áo trắng - Ngậm ngùi Thơ sau Cách mạng tháng Tám - Trời sao trên biển - Sớm mai gà gáy - Anh viết bài thơ - Người đẹp đến giờ hấp hối - Chiều thu quê hương - Yêu đời - Bãi biển cuối hè - Giờ trưa - Chiêm bao thỉnh thoảng em về - Gà gáy Ba Vì - Mưa xuân trên biển - Một ngày lên Huy Cận bảo “đặc sản” trong thơ Xuân Diệu là “bài ca sự sống”. Còn “đặc sản” trong thơ ông thì ai cũng biết là “bài ca vũ trụ”. Dễ tưởng hai “bài” khác hẳn nhau, nhưng không phải vậy. Vì “vũ trụ” của Huy Cận không phải cái vũ trụ máy móc trơ trơ của khoa học, mà là “cơ thể lớn”, sống động y như hằng hà sa số “cơ thể nhỏ”. Tức thực ra Huy Cận cũng ca sự sống, cho đến 1940 (in Lửa thiêng) chuyên ca sầu, sau đó bắt đầu “sống đúng” nên khởi sự ca vui.(1) Cùng say mê sự sống, nhưng Xuân Diệu tập trung vào cái biểu hiện gọi là “tình yêu”, trong khi Huy Cận chú ý đến nhiều hiện tượng tự nhiên đa dạng với ưu 90
tiên dành cho tầm kích thước từ lớn đến khổng lồ. Đằng chỉ ngắm “em”, đằng lại ngắm sao ngắm biển ngắm trời ngắm sáng ngắm trưa v.v. Hai đằng chia xẻ với nhau ước ao hòa nhịp với cái mình ngắm: hoặc nhịp lòng “em”, hoặc “nhịp tuần hoàn trong vũ trụ”... Về vũ trụ ca của Huy Cận, chúng tôi đã có bài nhận định riêng.(2) Ngoài “đặc sản”, Huy Cận có một số thi phẩm nội dung khác cũng rất giá trị. Chúng tôi chia tất cả thơ hay của thi sĩ thành mấy tuyển. Sau đây là tuyển 1. (Ngoài các tuyển này, xin các bạn yêu thơ đừng quên những bài thơ “không chính thức” trong “Nhật ký yêu”!) Buồn đêm mưa Cùng cái đêm mưa nào đó, biết bao nhiêu người nằm nghe, ngoài Huy Cận. Nếu mỗi người làm một bài thơ, chắc chắn ta có biết bao nhiêu bài thơ khác nhau. Ấy bởi nghệ phẩm chứa hồn nghệ sĩ, mà mỗi nghệ sĩ mỗi hồn riêng biệt. Nhưng cũng chắc chắn, đêm ấy đã không có nhiều thơ quá đâu. Vì không phải ai cũng bị cái cơn mưa "dìu dịu rơi rơi" kia nó xui lấy nó làm vỏ mà trút hồn vào. Cái gì là vỏ thích hợp cho hồn mình, là chuyện mỗi nghệ sĩ tự quyết định. =Ðêm mưa làm nhớ không gian, Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la... Tai nương nước giọt mái nhà Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn. Nghe đi rời rạc trong hồn Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi... Rơi rơi... dìu dịu rơi rơi... Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ... Tương tư hướng lạc, phương mờ... Trở nghiêng gối mộng, hững hờ nằm nghe Gió về, lòng rộng không che, 91
Hơi may hiu hắt bốn bề tâm tư... Thu rừng Thu trong ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến là thu quê. Thu trong Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư, trong Thu Rừng của Huy Cận là thu rừng. Thu quê buồn ít, thu rừng buồn nhiều, hẳn một phần vì nỗi... lá. Quê ở miền xuôi, ít cây rụng lá. Rừng trên mạn ngược, nhiều cây rụng lá hơn. Lá rụng, “chim đi”, cành trơ trụi nên nghe lạnh, rồi người thấy “cây hiu quạnh” lòng cũng đâm “quạnh hiu”, thế là “sầu thu lên vút, song song”! =Bỗng dưng buồn bã không gian, Mây bay lũng thấp giăng màn âm u. Nai cao gót lẫn trong mù Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về. Sắc trời trôi nhạt dưới khe, Chim đi, lá rụng, cành nghe lạnh lùng. Sầu thu lên vút, song song Với cây hiu quạnh, với lòng quạnh hiu. Non xanh ngây cả buồn chiều, Nhân gian e cũng tiêu điều dưới kia... Tràng giang Sông, mấy ai đò một chuyến từ “đầu” tới “cuối”. Trời, chỉ lấy mắt nhìn từ “chân” này tới “chân” kia đã thấy mỏi, nói gì đi. Ấy thế mà những bèo cứ “hàng nối hàng” dạt mải miết, những mây cứ đám nối đám trôi mải miết... Dưới “tràng giang” chỉ thuyền với... củi, thỉnh thoảng “cồn nhỏ (...) đìu hiu”. Trên bờ chỉ... bờ với bãi, lâu lâu một “bến cô liêu”, mãi mãi “không cầu”. Tiếng sinh hoạt nhân gian nghe mơ hồ xa vẳng, cánh chim in trên “lớp lớp mây cao” trông sao nhỏ thế. Cảnh đã buồn, “nắng xuống, trời lên” lại là lúc buồn, khéo chọn ngồi đò đúng nơi đúng lúc, trách sao “sầu chót vót”! Sầu thường làm nhớ. Nhớ nhất cái gì ngược hẳn với “cái” ở đây. Cho nên 92
“không khói hoàng hôn cũng”... =Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, Con thuyền xuôi mái nước song song. Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả; Củi một cành khô lạc mấy dòng. Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu, Ðâu tiếng làng xa vãn chợ chiều. Nắng xuống, trời lên sầu chót vót; Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng; Mênh mông không một chuyến đò ngang. Không cầu gợi chút niềm thân mật, Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ; bóng chiều sa. Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Đi giữa đường thơm Huy Cận nặng về cảm xúc không gian, nhưng đôi khi ông cũng bước lạc sang chiều thứ tư. Bài thơ nổi tiếng sau đây loáng thoáng một thứ rung động thời gian. Ði giữa đường thơm, hay đi giữa thời thơm! =Ðường trong làng: hoa dại với mùi rơm... Người cùng tôi đi dạo giữa đường thơm Lòng giắt sẵn ít hương hoa tưởng tượng Ðất thêu nắng, bóng tre rồi bóng phượng Lần lượt buông màn nhẹ vướng chân lâu Lên bề cao hay đi xuống bề sâu? Không biết nữa. Có chút gì làm ngợp Trông không khí... hương với màu hòa hợp... 93
Một buổi trưa không biết ở thời nào Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca da, Có cu gáy, có bướm vàng nữa chứ Mà đôi lứa đứng bên vườn tình tự Buổi trưa này xưa kia ta đã đi Phải cùng chăng? lòng nhớ rõ làm chi! Chân bên chân, hồn bên hồn, yên lặng Người cùng tôi đi giữa đường rải nắng Trí vô tư cho da thở hương tình Người khẽ nắm tay, tôi khẽ nghiêng mình Như sắp nói, nhưng mà không; Khóm trúc Vừa động lá, ta nhận vào một lúc Cả không gian hồn hậu rất thơm tho Gió hương đưa mùi, dìu dịu phất phơ... Trong cảnh lặng, vẫn đưa mùi gió thoảng... Trí bâng quơ nghĩ thoáng nhưng buồn nhiều: “Chân hết đường thì lòng cũng hết yêu” Chân đang bước bỗng e dè đứng lại Ở giữa đường làng, mùi rơm, hoa dại... Thuyền đi Bài thơ sau đây, có người bàn: “Lời thơ đi phiêu phiêu, tuyệt nhiên không thấy dấu vết một chút kỹ thuật nào còn vướng sót. Tưởng như không còn một chút cố gắng tìm lời lựa ý gì hết cả (...) Nguồn thơ ngập tràn dâng lên nhẹ nhẹ...”.(3) Bùi Giáng đấy. Mưa nguồn mê mệt Lửa thiêng. Bàn như trên là lòng mê “ngập tràn” chỉ mới bắt đầu “dâng lên nhẹ nhẹ”. Nếu cứ tiếp tục đọc một người “đi vào cõi thơ” một người, chẳng bao lâu ta sẽ bị chết đuối trong mênh mông biển lời ca ngợi! =Trăng lên trong lúc đang chiều Gió về trong lúc ngọn triều mới lên Thuyền đi, sông nước ưu phiền Buồm treo ráng đỏ giong miền viễn khơi Sang đêm thuyền đã xa vời Người ra cửa biển, nghe hơi lạnh buồn Canh khuya tạnh vắng bên cồn 94
Trăng phơi đầu bãi, nước dồn mênh mang Thuyền người đi một tuần trăng Sầu ta theo nước, tràng giang lững lờ Tiễn đưa dôi nuối đợi chờ Trông nhau bữa ấy; bây giờ nhớ nhau. Áo trắng Trắng mây biếc núi hồng sen Thêm hương dồn tỏa mỗi em bước gần Dáng tiên, lòng suối trong ngần Đào nguyên ngay giữa gian trần là đây! =Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong Hôm xưa em đến, mắt như lòng Nở bừng ánh sáng, Em đi đến Gót ngọc dồn hương, bước tỏa hồng Em đẹp bàn tay ngón ngón thon Em duyên đôi má nắng hoe tròn Em lùa gió biếc vào trong tóc Thổi lại phòng anh cả núi non Em nói, anh nghe tiếng lẫn lời Hồn em anh thở ở trong hơi Nắng thơ dệt sáng trên tà áo Lá nhỏ mừng vui phất cửa ngoài Ðôi lứa thần tiên suốt một ngày Em ban hạnh phúc chứa đầy tay Dịu dàng áo trắng trong như suối Tỏa phất đôi hồn cánh mộng bay. Ngậm ngùi “Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm”.(4) Chịu “nặng” đã quen rồi, thêm một “trái sầu rụng rơi” nữa cũng không làm “chiếc linh hồn nhỏ”(5) khuỵu xuống đâu! 95
Xuân Diệu đọc Lửa thiêng rồi bảo là “một bản ngậm ngùi dài”. Trong ngậm ngùi dài có ngậm ngùi ngắn, là đây. =Nắng chia nửa bãi; chiều rồi... Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu. Sợi buồn con nhện giăng mau; Em ơi! hãy ngủ... anh hầu quạt đây. Lòng anh mở với quạt này; Trăm con chim mộng về bay đầu giường. Ngủ đi em, mộng bình thường! Ru em sẵn tiếng thùy dương mấy bờ... Cây dài bóng xế ngẩn ngơ... - Hồn em đã chín mấy mùa thương đau? Tay anh em hãy tựa đầu; Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi... Trời sao trên biển Huy Cận say sưa cảm xúc không gian mà ít khi nhắc đến thời gian, nhưng trong bài thơ dưới đây có “vô biên” “nói chuyện thì thào” với “vĩnh viễn”, có cả “nôi trời đất”, “võng Ngân Hà”, lẫn “những hạt thời gian như cát tơi”... Nghe được cát thời gian “ran trong đá bờ xưa cũ”, cái con người nằm ngủ trên bờ biển đêm nào, người ấy thực có một tâm hồn kỳ lạ. =Trời sao trên biển, biển nhân sao Ngủ trên bờ, đời nhân chiêm bao Sóng nhẹ hay là hơi vĩnh viễn Cùng vô biên nói chuyện thì thào Bố ngủ bên con, biển với sông Sông tuôn nguồn trẻ, biển nuôi dòng Bố con nằm giữa nôi trời đất Một dải Ngân Hà đưa võng chung Biển gối bờ êm, biển nghỉ ngơi Mênh mông yên ngủ những chân trời Nghe ran trong đá bờ xưa cũ Những hạt thời gian như cát tơi. (20-8-1963) 96
Sớm mai gà gáy “Nghe sao ấm áp tựa nghe đời”... Gà gáy ngoài đời nghe ấm ran. Gà gáy trong thơ nghe lại càng ấm ran. Gà rạo rực, bất quá kêu ò ó o... o...! Nhà thơ rạo rực, kêu đủ lối. Sau đây là lối bảy chữ, bốn câu. =Tiếng gà gáy ơi! gà gáy ơi! Nghe sao ấm áp tựa nghe đời. Tuổi thơ gà gáy ran đầu bếp, Trâu dậy trong ràn, em cựa nôi. Cha dậy đi cày trau kịp vụ, Hút vang điếu thuốc khói mù bay. Nhút cà, cơm ủ trong bồ trấu, Chút cá kho tương mẹ vội bày. Gà gáy nhà ta, gáy láng giềng, Ta nghe thuộc mỗi tiếng gà quen - Cha ơi con chửa nghe gà chú! - Nó cũng như mày hay ngủ quên. Hàng cau mở ngọn đón ngày vào, Xóm nhỏ nép bên triền núi cao. Gà lại gáy dồn thêm đợt nữa, Nắng lên xòe quạt đỏ như mào. Gà gáy ơi! tiếng gà gáy ơi! Nghe sao rạo rực buổi mai đời! Thương cha lủi thủi không còn nữa, Chẳng sống bây giờ thôn xóm vui. (1962) Anh viết bài thơ Đâu phải sao nào cũng có đôi Trời khuya lấp lánh lẻ loi thôi Sao đơn trông xuống hồn hai bóng 97
Chúc cặp nhân kia mãi chẳng rời. =Anh viết bài thơ giữa ánh khuya Cỏ cây yên ngủ. Gió xa về. Anh nhìn em ngủ hiu hiu nhẹ Như bóng vườn trưa xanh tiếng ve. Biển lặng em nằm trong gió êm Anh là bóng thức của hồn em. Ngoài kia sao cũng từng đôi sáng, Từng cặp nhân vàng trong trái đêm. Bát ngát lòng anh giữa trái đời Hai ta đôi hạt giữa nghìn đôi Gió khuya nào biết xuân, hè nữa? Em mộng điều chi, miệng thoảng cười. Người đẹp đến giờ hấp hối Từ Không hóa Có như bước vào thời gian. Vì Không lúc nào cũng thế, trong khi Có luôn thay đổi. Dù thay đổi lạ lùng thế nào, rút cuộc Có sẽ hóa Không. Có, như trái cây. Non rồi chín rồi nẫu. Đừng nhìn chi cái trái nẫu sắp rụng... ra ngoài thời gian. “Cái có thật” là trái chín tới ngon lành, “của anh rồi”, “xưa kia”, nhớ nhé! =Người đẹp đến giờ hấp hối Quay mặt vào tường không muốn ai xem Nhan sắc đã bị xói mòn, lở lói Hết cõi ngày rồi, sắp cõi đêm. Nhìn làm chi nỗi điêu tàn cơ thể Thân đổ xiêu dưới nanh vuốt thời gian! Cái có thật là hoa mùa hương nhị Cái thanh xuân của da thịt trần gian. Hỡi anh yêu! đừng nhìn em chi nữa! Mặt em nay là mặt nạ đó thôi Mà Thần Chết áp vào như mặt nhựa! 98
Em xưa kia, em ấy của anh rồi... Thời tươi trẻ nằm nghiêng vì giận tủi Nay ra đi, cái nghiêng ấy hờn ai? Hờn Tạo Hóa đã bày chi bóng tối! Sao tâm linh phải mang phận hình hài? (Ðêm 12-12-1992) Chiều thu quê hương “Chiều thu quê hương” màu sắc dịu dàng, “đằm thắm”. Chiều lại có “phát thanh” nữa đấy, sóng là “nắng tơ”, “tiếng chiều vàng rợi”, có bắt nghe thì bắt! Tâm hồn “tôi” là “đài thu”, cũng là “đài phát”. Có ai bây giờ đọc thơ nghe “tiếng tôi” không? Chiều thu phát sóng tơ vàng Cau vườn bắt tiếng đôi hàng ngẩn ngơ Thơ tôi người đọc bây giờ Có nghe vàng rợi tiếng xưa chăng nào? =Chiều thu trong, lá trúc vờn đẹp quá Lá mía xanh nhung quạt vào mái rạ Tiếng lao xao như ai ngả nón chào Hoa mướp cuối mùa vàng rực như sao Giếng trong lẻo, trời xanh in thăm thẳm Chiều thu quê hương sao mà đằm thắm! Tôi bước giữa vườn, bạn với hàng cau Hút nắng tơ vàng như những đài cao Đứng lồng lộng, thu tiếng chiều vàng rợi Vồng khoai lang xoè lá ra nằm sưởi Cùng với mẹ gà xoè cánh ấp con Ở trước sân nhà, mấy đống gạch son Hố vôi trắng nằm đợi ngày xây dựng... Yêu đời “Chàng Huy Cận khi xưa”(6) đâu có “yêu đời” thế nhỉ. Thì do “xưa” “chàng” chưa “sống đúng trong xã hội”, nên “cảm thấy cô đơn trong vũ trụ bao la”, bị “choáng ngợp, run chân”.(7) Có ai rét run lẩy bẩy mà “yêu đời biết mấy cho bưa” đâu. 99
Sau khi “anh” sống lại cho “đúng”, đời trở nên “đẹp quá đi em”, đẹp đến nỗi “chết xuống, anh nằm khôn yên”, đã dưới huyệt rồi mà cứ hễ nghe “tiếng gà (...) giục bình minh” là lại muốn cục cựa! Sực nhớ Huy Cận có người bạn chí thân cũng yêu đời ghê lắm. Người này thì yêu từ “xưa” chứ không phải về sau mới yêu. Xuân “ca sự sống” khác Huy thế nào, xin được để hồi sau... bàn tán. =Em ơi, dẫu sống trăm năm Ðến khi chết xuống, anh nằm khôn yên Bởi đời đẹp quá đi em! Yêu rồi, yêu mãi, yêu thêm chẳng thừa. Yêu đời biết mấy cho bưa! Cả khi cay đắng đời chưa hết tình... Tiếng gà lại giục bình minh Ðã yêu cuộc sống, nằm thinh được nào! Giản đơn chiếc áo mặc vào Cởi ra còn nhớ, huống bao năm trường Yêu đời trong máu trong xương Lòng anh hạt muối đại dương bồi hồi Quê anh cà nhút mặn mòi Sinh anh muối mặn yêu đời đó em... Bãi biển cuối hè Nào phải chỉ trời đất dửng dưng với người. Người hầu hết cũng dửng dưng với trời đất chứ mấy ai “cảm xúc không gian” rồi “vũ trụ ca” liên miên suốt đời... “Mấy” chứ hình như là chỉ đúng một thôi! =Bãi biển cuối hè dần vắng lặng Vô tâm biển vẫn đẹp tưng bừng Mai đây ta vắng, đời không vắng Vũ trụ điềm nhiên đẹp dửng dưng Sóng trắng bờm phi hí gió mai Mây bay tới tấp ngợp chân trời 100
Phải chăng vũ trụ thừa dư sức Thỉnh thoảng chồm lên như trẻ chơi. Giờ trưa “Giờ trưa (...) gà cục tác (...) chim ríu ra ríu rít (...) lúa đẻ nhành (...) cả trời đất (...) rạo rực (...) trùm ôm (...) thai nghén”, khiến Huy Cận cũng rạo rực cảm xúc, thai nghén, rồi... đẻ ra một bài thơ! =Ðây là giờ trưa. Những con gà cục tác Nắng âm âm, không khí nở nang nhiều. Cả vũ trụ như đang giờ ấp ủ. Những hàng cọ xòe lá ra mà thở, Những cây dừa chải lại mái tóc xanh Chim ríu ra ríu rít ở trên cành, Con chuồn chuồn cũng tìm tia nắng đậu. Nhện nhân được cái giờ trưa tạnh ráo Giăng lưới phơi cành táo qua cành cam. Lúa đẻ nhành. Sự sống rất yên tâm Mọc từng chút, không gì ngăn cản được. Cả trời đất giữa lòng trưa rạo rực Ðang trùm ôm, đang thai nghén điều chi. Trên đồng bằng: một niềm vui sống rất tinh vi... (1967) (8) Chiêm bao thỉnh thoảng em về Ngủ thế mà hay. Vì ngủ có chiêm bao. Mà chiêm bao thì có thể gặp người xa sông cách núi. Gặp người ấy trong chiêm bao, khỏi “ngợ ngàng”, vì dù bao nhiêu thời gian đã trôi qua, thì “má xuân trời cũ” vẫn nguyên “đọng màu ráng xưa” chứ chẳng già đi tí gì! Anh mộng thấy em, rồi anh hỏi: “Yêu nhau nhớ dáng tưởng hình, Chiêm bao em có một mình chăng em?”, rồi anh nhắn: “Biệt ly gì mộng! nhớ tìm thăm nhau”... =Chiêm bao thỉnh thoảng em về, 101
Mắt còn tỏa mộng cuồng mê thuở đầu. Gặp nhau không ngợ ngàng nhau, Má xuân trời cũ đọng màu ráng xưa. Chiêm bao yêu muộn nhớ thừa Là nơi họp mặt ngày đưa tiễn rồi. Thân dù sông núi xa xôi, Giấc mơ qua lại lứa đôi tự tình. Yêu nhau nhớ dáng tưởng hình, Chiêm bao em có một mình chăng em? Ðời buồn lạnh gối đêm đêm, Biệt ly gì mộng! nhớ tìm thăm nhau. Gà gáy trên cánh đồng Ba Vì được mùa Núi Tản là con gà? Sao không. Sóng biển là bờm ngựa được (9), thậm chí dải Ngân Hà là võng được (10), thì núi có gáy “rộn vang đồng” cũng đâu có gì lạ. Gà gáy trong thơ Huy Cận mấy lần, lần nào cũng thật gợi cảm. Ò ó o... thơ! =Gà gáy đầu thôn, gáy giữa thôn, Mưa tinh sương mát tận tâm hồn. Đêm qua tắt gió cây không ngủ, Mưa sớm hàng cây đứng ngủ ngon. Gà gáy trong mưa tiếng vẫn trong, Giọng kim giọng thổ rộn vang đồng. Được mùa giống mới, gà no bữa, Tiếng gáy tròn như lúa nặng bông. Núi Tản như con gà cổ đại Khổng lồ, mào đỏ thắp bình minh. Mênh mông gọi nắng cho mùa chín, Từ buổi Sơn Tinh thắng Thủy Tinh. (1972) Mưa xuân trên biển “Lưa thưa” chắc cũng kha khá, nên “thuyền đậu thuyền đi” mới “hạ kín mui”. Khá nên “tươi tốt cả cây buồm”! Chân trời hình như không sáng, mà sao lại ấm? Có phải cái ấm quanh đây, từ “em bé thuyền ai ra giỡn nước”, từ “cơm giữa ngày mưa gạo trắng thơm”, nó lan ra xa đến tận chân trời? 102
=Mưa xuân trên biển, thuyền yên chỗ Tôm cá chắc đầy phiên chợ mai Sắm tết thuyền về dăm khóm đỗ Ðảo xa thâm thẩm vệt mưa dài. Thuyền đậu thuyền đi hạ kín mui Lưa thưa mưa biển ấm chân trời Chiếc tàu chở đá về bến Cảng Khói lẩn màu mây tưởng đảo khơi. Em bé thuyền ai ra giỡn nước Mưa xuân tươi tốt cả cây buồm Biển bằng không có dòng xuôi ngược Cơm giữa ngày mưa gạo trắng thơm. (Hồng Gai, 2-1959) Một ngày lên Chắc có người bảo: trong vũ trụ bao la ngày đêm chẳng qua một hiện tượng hết sức cục bộ, vô nghĩa, nhân loại lên được mặt trăng rồi mà đâu đó còn ra đời thứ thơ lạc hậu. A, “lặn lội” bay lên tận... nhà thằng Cuội rồi đứng trơ mắt ếch, chẳng nẩy nổi cảm xúc gì hay ho đáng đem ra làm thơ, mà vênh nhỉ. Thì cứ hì hục chế “thuyền” mà “phi” nữa đi. Hết trăng rồi tới sao, “Đại Thánh” chịu khó sẽ có ngày được đứng tè ở năm cây cột “cùng trời”... Người chỉ suy luận và suy luận thì thế đấy. Còn kẻ biết cảm thì chả cần cưỡi “thuyền” bay đi đâu cả, chỉ cần chứng kiến một chút “vô nghĩa” là đã có thể thấy bao nhiêu nghĩa của toàn thể cái thực tại này rồi. Huy Cận làm đến mấy bài “thơ bình minh” thật hay, mà hình như không làm một bài “hoàng hôn” nào cả. Chiều tối, có khi trời đất như một lão già đòi... bất tử, sức đã kiệt vẫn xòe “quạt”, ấp mây, làm “ráng”. Nhưng lão có ráng lắm thì rút cuộc quạt với ráng rực rỡ cũng vẫn bị hút vào bên trong “vỏ trứng”. Những phút giây “một ngày xuống” cũng kỳ diệu lắm... Kỳ diệu “lên”, kỳ diệu “xuống”, nhưng thiết tưởng kỳ diệu nhất là: Quẩn quanh đêm trứng ngày gà Mầu trời khi loãng, đậm là mầu sao Im lìm, động cựa, xôn xao Đen thui, chói lọi: một, nào phải hai! 103
=Đêm trắng dần... Những ngôi sao cũng lần lượt hòa tan Làm thành rạng đông như màu lơ thoảng nhẹ Nghĩ trời đất đôi khi như đứa trẻ Cũng có những bước đi men, chập chững dễ thương. Trước khi chói chang với cả vừng dương, Có cái dụi mắt của những nhú mầm ánh sáng. Rồi như gà con mổ dàn vỏ trắng Những tia sáng từ đâu xé vỏ trời đêm Và một ngày mới tinh khôi, mượt óng bừng lên. Cây còn ngái ngủ chỉ rập rình đôi lá, Ruộng vừa gặt xong còn thơm cuống rạ, Đất nằm thở mênh mông. Sương buông ngang như áo tơ mỏng phập phồng Trên ngực trẻ bồi hồi sự sống... Một ngày lên. Đất trời lại rộng. Gió lại mở đường thêm cho bước người đi... (11) ____________ (1) Bài Xuân Hành làm năm 1942, chẳng hạn, là vũ trụ ca tưng bừng. (2) Bài Huy Cận – Cảm Xúc Không Gian. (3) Ði vào cõi thơ, nxb. Ca Dao, SG, 1969. (4) Xem bài Mai Sau của HC. (5) Xem bài Ê Chề của HC. (6) Xem bài Mai Sau. (7) Xem bài Huy Cận – Cảm Xúc Không Gian của TT. (8) Bài thơ này hình như còn vài câu nữa. (9) Xem bài Bãi Biển Cuối Hè của HC. (10) Xem bài Trời Sao Trên Biển của HC. (11) Bài này thấy trong Thế giới thơ Huy Cận (1987) của Xuân Diệu. Không biết là trọn bài hay trích. Không biết tên. Tên đây là tạm đặt.
Nguyễn Khuyến Khóc Dương Khuê Thu vịnh Trở về vườn cũ Thu điếu Bài di chúc Bạn đến chơi nhà 104
Đống ông Cuội Hội Tây Tự trào Anh giả điếc Thu ẩm Lụt hỏi thăm bạn Hoài cổ Một thoáng Xuân Hương! Đĩ cầu Nôm Hình như nhắc việc học hành thi cử của Nguyễn Khuyến, người ta hay nhớ cái danh Tam Nguyên mà ít nhớ rằng ông cũng lao đao trường ốc có hạng. Nguyễn Khuyến thi Hương rớt liên tiếp bốn khoa (1852, 1855, 1858, 1861), đến nỗi phải “nghĩ”: “Nghĩ tôi lại gớm cái mình tôi, Tuổi đã ba mươi kém một thôi... ... Bốn khoa hương thí không đâu cả, Một mảnh vườn hoang bán sạch rồi.” Mãi năm 1864 ông mới đỗ cử nhân. Tuy đỗ đầu thi Hương, nhưng vào thi Hội ông lại trượt liên tiếp ba khoa, đến năm 1871 mới đỗ thi Hội, thi Ðình (lại đỗ đầu). Thi gần hai mươi năm mới xong “khoa”. Còn “hoạn”, tiếng rằng làm quan từ năm 1871 đến 1884, nhưng trong khoảng ấy Nguyễn Khuyến đã về quê cư tang mẹ mất 3 năm, mà khi tại chức thì hết hai phần ba thời gian làm học quan và sử quan chứ không phải làm quan cai trị.(*) Ðời sống dĩ nhiên ảnh hưởng đến văn chương. Nguyễn Khuyến đỗ tuy muộn nhưng vẫn sớm hơn Nguyễn Công Trứ và khi xuất chính ông lại tương đối ít gặp cảnh bon chen, hẳn một phần do đó thơ ông ít bài than đời hơn thơ Nguyễn Công Trứ. Hai Nguyễn tâm sự riêng khác, mà tâm sự về chuyện nước non cũng khác. Nguyễn Công Trứ làm quan vào thời đất nước còn hoàn toàn độc lập, nên phấn khởi, hào hứng. Trong khi Nguyễn Khuyến làm quan khi giặc Pháp đã bắt đầu tiến hành chiến tranh xâm lược, nên ông vừa căm tức giặc hà hiếp vừa chán nản trước sự bất lực của triều đình ta. Rồi sau khi nước mất, thì ông vừa hận giặc cướp tài nguyên bóc lột sức dân vừa “đau đớn lòng” trước “những điều trông thấy” sau “cuộc bể dâu”... Với những người yêu nước, chuyện nước non tất nhiên ảnh hưởng đến thái độ 105
hưởng thụ đời sống. Nguyễn Công Trứ “chơi” hết sức vô tư, trong khi Nguyễn Khuyến lòng dạ nào mà “thùng thùng đôi tiếng trống”... Quốc sự canh cánh, nên trông thấy các con mình vui vẻ quá, cụ Tam Nguyên trách: “Sao con đàn hát vẫn say sưa?” (bài Ngày Xuân Dặn Các Con). Từ Nguyễn Khuyến về sau, người yêu nước có người vẫn chơi... cật lực đấy, như Tú Xương, như Tản Ðà, nhưng lòng họ không thực là vui vẻ đâu. Nguyễn Khuyến ít chơi nên trong thơ ông ít thấy cái chơi. Mặt khác, sau khi cáo quan trở lại Vườn Bùi, ông đã sống giữa quê hàng một phần tư thế kỷ nữa mới mất, nên trong thơ ông rất hay thấy quê. Thơ nôm trong mùa cổ điển, một tài thơ lớn bỗng về quê, ấy như thể sự xếp đặt của hồn nước để cái nơi sống chính của bao nhiêu thế hệ người Việt nó được vinh danh đích đáng trong thơ Việt! Thử nghĩ: về nội dung, nếu không có những bài thơ quê của Nguyễn Khuyến, thì văn học chữ nôm sẽ thiếu sót đến chừng nào! Ngoài chứa hình ảnh quê, thơ Nguyễn Khuyến còn đậm đà màu sắc dân tộc ở khuynh hướng “Xuân Hương” lồ lộ trong một số bài làm từ trước khi Tam Nguyên trở về Yên Ðổ. Ðầy một bụng chữ Tàu mà vẫn không mảy may nguôi lòng Việt là đặc điểm nổi bật của một nho ta. Nhưng thực ra, nó cũng là đặc điểm của hầu hết nho ta. Khóc Dương Khuê Bài Khóc Dương Khuê kết hợp một cái hay gặp với một cái ít gặp nơi thơ Nguyễn Khuyến. Cái hay gặp là chuyện làm thơ chữ Hán rồi tự dịch ra chữ nôm. Cái ít gặp là thể ngâm, tức song thất lục bát. Không biết người Tàu như có đọc đến bài “Vãn đồng niên Vân Ðình tiến sĩ Dương thượng thư” thì thấy thế nào, chứ người Việt nghe cụ Nghè Nguyễn ngâm nga khóc cụ Nghè Dương, tưởng có ai mà không buột miệng trầm trồ khúc ngâm hay đáo để! === Bác Dương thôi đã thôi rồi, Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta. Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước, Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau. Kính yêu từ trước đến sau, 106
Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời. Cũng có lúc chơi nơi dặm khách, Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo. Có khi từng gác cheo leo, Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang. Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp, Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân. Có khi bàn soạn câu văn, Biết bao đông bích, điển phần trước sau. Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn, Phận đẩu thăng chẳng dám than trời. Bác già, tôi cũng già rồi, Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là! Muốn đi lại tuổi già thêm nhác, Trước ba năm gặp bác một lần. Cầm tay hỏi hết xa gần, Mừng rằng bác hãy tinh thần, chưa can. Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác, Tôi lại đau trước bác mấy ngày. Làm sao bác vội về ngay, Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời. Ai chẳng biết chán đời là phải, Sao vội vàng đã mải lên tiên. Rượu ngon không có bạn hiền, Không mua không phải không tiền không mua. Câu thơ nghĩ đắn đo không viết, Viết đưa ai, ai biết mà đưa. Giường kia treo những hững hờ, Ðàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn. Bác chẳng ở, dẫu van chẳng ở, Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương. Tuổi già hạt lệ như sương, Hơi đâu chuốc lấy hai hàng chứa chan. Thu vịnh 107
Bài thơ thu này của Nguyễn Khuyến có đôi chỗ khó hiểu, may có Xuân Diệu đã tìm hiểu và giảng cho chúng ta. Trời xanh ngắt là ban ngày, sao lại có trăng? Theo XD, đó là vì NK tổng hợp đêm ngày để khái quát cảnh thu. Cần trúc sao lại lơ phơ? Vì đó không phải cần câu, mà là “cây tre (...) còn non, ít lá, thanh mảnh (...) như cái cần câu”.(1) Vẫn theo XD, trong ba bài thơ thu nổi tiếng của NK, bài Thu Vịnh “mang cái hồn của cảnh vật mùa thu hơn cả, cái thanh, cái trong, cái nhẹ, cái cao (...) Cái hồn (...) của cảnh thu (...) nằm ở trong bầu trời, ở trên trời (...) Trời thu rất xanh rất cao tỏa xuống cả cảnh vật”. Tại sao Nguyễn Khuyến thẹn với Ðào Tiềm? Vì khi ấy ông chưa thôi làm quan, hay vì ông đã trót làm quan lâu hơn Ðào Tiềm? ===Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. Nước biếc trông như tầng khói phủ, Song thưa để mặc bóng trăng vào. Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái, Một tiếng trên không ngỗng nước nào? Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Ðào. Trở về vườn cũ Ðời làm quan của Nguyễn Khuyến tương đối ngắn: từ 1871 đến 1884, có 14 năm. Vậy khoảng thời gian bốn mươi năm trong bài thơ dưới đây không phải tính từ lúc ông xuất chính.(2) “Trở về vườn cũ” diễn nôm “Bùi viên cựu trạch ca”. Cả bài thơ dịch lẫn bài thơ nguyên tác đều do Nguyễn Khuyến. Tam Nguyên Yên Ðổ nổi tiếng ưa làm thơ chữ Hán rồi dịch qua tiếng Việt (có lần nào ông làm ngược lại?). Ông yêu tiếng Việt, cái ấy hiển nhiên. Còn những bài thơ chữ Hán, ông làm là để khỏi quên vốn liếng của một sĩ tử từng ba lần “đè đầu” thiên hạ đó chăng? “Ngươi” tiếc chẳng gặp Lỗ hầu, thế là “ngươi” chê đương kim thánh thượng! ===108
Vườn Bùi chốn cũ! Bốn mươi năm, lụ khụ lại về đây. Trông ngoài sân đua nở mấy chồi cây, Thú khâu hác lâm tuyền âu cũng thế! Bành Trạch cầm xoang ngâm trước ghế, Ôn công rượu nhạt chuốc chiều xuân. Ngọn gió xuân ngảnh lại lệ đầm khăn, Tính thương hải tang điền qua mấy lớp. Ngươi chớ giận Lỗ hầu chẳng gặp, Như lơ phơ tóc trắng lại làm chi? Muốn về sao chẳng về đi!(3) Thu điếu Thơ nôm, ngay cả thơ nôm hay nhất, cũng không nhất thiết chứa những “hình ảnh nôm”. Trong Cung oán, trong Chinh phụ, trong Kiều, đều không thấy quê hương Việt Nam đâu cả. Trong khi hồi thế kỷ 15, khi thơ nôm còn mới đầu mùa, trong thơ Nguyễn Trãi đã xuất hiện những rau muống, mồng tơi, dọc mùng v.v. Sở dĩ Quốc âm thi tập chứa rau muống, chắc chắn ấy bởi tác giả nó đã sống rất gần rau muống, khi về Côn Sơn. Cũng thế, chắc chắn nhờ Nguyễn Khuyến cáo quan trở lại Vườn Bùi, mà thi ca cổ điển ta mới bỗng có một loạt bài chứa đầy những hình ảnh quen thuộc quanh ta. Thơ nôm chín rộ, Nguyễn Khuyến về ở quê, đó là một trùng hợp tuyệt vời chứ không phải một sự bắt buộc phải xẩy ra đâu! ===Ao thu lạnh lẽo nước trong veo, Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Sóng biếc theo làn hơi gợn tí, Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo. Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt, Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Tựa gối, buông cần lâu chẳng được, Cá đâu đớp động dưới chân bèo. 109
Bài di chúc Bài thơ sau đây Nguyễn Khuyến “dịch” từ thơ chữ Hán của mình. Cái lối làm thơ chữ Hán rồi tự diễn nôm ấy đã có lần bàn rồi.(4) Ðọc “di chúc” thấy hay, bỗng nhớ một lời khen viết đã lâu lắm. Hồi tiền chiến, Thùy Thiên bảo: “Văn ông Yên Ðổ dẫu hay cũng chỉ có cái giọng kiêu”(5). Cụ Tam Nguyên có kiêu không, kiêu những chuyện gì, đọc kỹ lời dặn con ắt sẽ rõ. Nhưng tưởng văn ấy dẫu có kiêu thì cũng vẫn hay! ===Kém hai tuổi xuân đầy chín chục, Số thầy sinh phải lúc dương cùng.(6) Ðức thầy đã mỏng mòng mong, Tuổi thầy lại thọ hơn ông cụ thầy. Học chẳng có rằng hay chi cả, Cưỡi đầu người kể đã ba phen. Tuổi thầy tuổi của gia tiên, Cho nên thầy được hưởng niên lâu ngày. Ấy thuở trước ông mày cũng đỗ, Hóa bây giờ cho bố làm nên. Ơn vua chửa chút báo đền, Cúi trông thẹn đất, ngửa lên thẹn trời. Sống không để tiếng đời ta thán, Chết lại về quê quán hương thôn. Mới hay trăm sự vuông tròn, Sống lâu đã trải, chết chôn chờ gì. Ðồ khâm liệm chớ nề xấu tốt, Kín chân tay đầu gót thì thôi. Cỗ đừng to lắm con ơi, Hễ ai chạy lại, khuyên mời người ăn. Tế đừng có viết văn mà đọc, Trướng đối đừng gấm vóc làm chi. Minh tinh con cũng bỏ đi, Mời quan đề chủ, con thì không nên. 110
Môn sinh chớ bỏ tiền đặt giấy, Bạn của thầy cũng vậy mà thôi. Khách quen chớ viết thiếp mời, Ai đưa lễ phúng con thời chớ thu. Chẳng qua nợ để cho người sống, Chết đi rồi còn ngóng vào đâu. Lại mang cái tiếng to đầu, Khi nay bày biện, khi sau chê bàn. Cờ biển của vua ban ngày trước, Lúc đưa thầy, con rước đầu tiên. Lại thuê một lũ thợ kèn, Vừa đi vừa thổi, mỗi bên dăm thằng. Việc tống táng lăng nhăng qua quít, Cúng cho thầy một ít rượu hoa. Ðề vào mấy chữ trong bia, Rằng: “Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu”. Bạn đến chơi nhà Bài Bạn Ðến... của Nguyễn Khuyến làm ta nhớ bài Khách Chí của Ðỗ Phủ: “Quanh nhà nam bắc lụt to, Hôm hôm chỉ thấy đàn cò lại chơi. Lối hoa chẳng quét vì ai, Cửa bồng nay mới đón ngài mở ra. Xuềnh xoàng mâm chén, chợ xa, Có vò rượu cũ của nhà nấu thôi. Nếu cho tiếp rượu cùng vui, Gọi ông hàng xóm sang ngồi chén luôn.” (Trần Trọng Kim dịch) Hai bài đều hay, nhưng thơ Nguyễn hóm hỉnh, còn thơ Ðỗ thì không. ===Chẳng mấy khi nay bác tới nhà, Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa. Ao sâu nước cả, khôn mò cá, Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà. Cải đã tàn cây, cà chửa nụ, 111
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa. Ðầu trò tiếp khách, trầu không có, Bác đến chơi đây, ta với ta! Đống ông Cuội Cái câu số mười! Nhà nho “cưỡi đầu người kể đã ba phen”(7), nhà nho đã thồn đầy bụng mình bao nhiêu lời thánh, bao nhiêu chữ hiền, lại đi thơ thẩn bằng thứ lời không “thánh” chút nào, thứ chữ không “hiền” chút nào vậy sao? Vậy thì sao? Nguyễn Khuyến tam nguyên bất quá là Nguyễn Khuyến vỏ. Còn cái ông Nguyễn Khuyến ruột, ông ấy vẫn là một người Việt Nam chính cống. Xưa kia nếu thực là người Việt, không ai kiêng kỵ thứ lời ấy, chữ ấy đâu. Ðối với chuyện trai gái ăn nằm, các cụ nho ta vốn vẫn giữ cái nhìn cởi mở, hồn nhiên, chứ không có cái lối nghiêm nghiêm trang trang, quay mặt nhắm mắt như các nho Tàu đâu.(8) Nho bên Tàu làm vô số thơ mà đố ai tìm được một bài có “âm hộ” hay “dương vật”. Nho bên ta làm ít thơ hơn mà “buội” hiện ra không phải chỉ một lần này. Người Việt vốn ít lý luận lôi thôi, nhưng về riêng cái chuyện trai trai gái gái, tổ tiên ta có để lại lời: “Ai dám bảo chữ dâm là bậy Không có dâm sao có nẩy ra hiền”. ===Ðầu đường ngang có một chỗ lội Có miếu ông Cuội cao vòi vọi Ðàn bà đến đó vén quần lên Chỗ thời đến háng, chỗ đến gối Ông Cuội ngồi trông mỉm miệng cười “Cái gì trông trắng như con cúi?” Vội vàng khép nép đứng liền thưa “Trót dại hở hang xin xá tội!” Ông rằng: “Mày cũng chẳng tội gì, Chỉ tội làm ông cứng con buội Muốn tốt mày về bảo làng mày: 112
Ra đây ông cho giống ông Cuội.” Cho nên làng ấy sinh ra người Sinh ra rặt những thằng nói dối. Hội Tây Hội Thăng Bình là hội mừng ngày Cách Mạng Pháp 14-7. Hội ấy dĩ nhiên mới ra đời sau ngày nước Việt Nam bỗng có... mẹ (!!!). Ngày kỷ niệm quan trọng ở nước mẹ, dân nước con cũng được tha hồ vui chơi. Dân, ở đâu cũng thế, đa số biết gì vinh nhục. Dân càng “vui thế bao nhiêu” thì cha mẹ dân như Nguyễn Khuyến càng thấy “nhục bấy nhiêu”. “Bà quan tênh nghếch” hẳn là phu nhân của một quan “Ðại Pháp”, vì chỉ các bà “đầm xòe” mới có lối ngồi “tênh nghếch”... ===Kìa hội Thăng Bình tiếng pháo reo Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo Bà quan tênh nghếch xem bơi trải Thằng bé lom khom nghé hát chèo Cậy sức cây đu nhiều chị nhún Tham tiền cột mỡ lắm anh leo Khen ai khéo vẽ trò vui thế Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu. Tự trào “Bia xanh”, “bảng vàng”, “cưỡi đầu người kể đã ba phen”(9), sang để đâu cho hết! “Cờ đang dở cuộc, không còn nước, Bạc chửa thâu canh, đã chạy làng.” Ý của hai cái câu này, có phải Nguyễn Khuyến đầu tiên đưa ra không nhỉ? Dù sao, sau NK thỉnh thoảng ta lại gặp nó ở chỗ nọ chỗ kia... === Ta cũng chẳng giàu, cũng chẳng sang, Chẳng gầy chẳng béo, chỉ làng nhàng. Cờ đang dở cuộc, không còn nước, 113
Bạc chửa thâu canh, đã chạy làng. Mở miệng nói ra gàn bát sách, Mềm môi chén mãi tít cung thang. Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ! Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng! Anh giả điếc Dùng tục ngữ trong thơ, tại sao không? Thơ chuộng súc tích, mà tục ngữ thì rất súc tích. Hơn nữa, cái câu tục ngữ rất Việt ấy nó lại giúp “chữa” bớt sự có mặt của hai câu tiếng Tàu trong bài thơ tiếng Việt. “Anh giả điếc” tất nhiên không phải lười biếng như trâu. Chẳng qua trong buổi nước nhà mất độc lập, làm việc nhiều khi là làm những việc không ra gì, nên anh mới “khéo ngơ ngơ ngác ngác” để khỏi vấy tay... ===Trong thiên hạ có anh giả điếc, Khéo ngơ ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây! Chẳng ai ngờ “sáng tai họ, điếc tai cày”, Lối điếc ấy sau này em muốn học. Tọa trung đàm tiếu, nhân như mộc, Dạ lý phan viên, nhĩ tự hầu.(10) Khi vườn sau, khi ao trước, khi điếu thuốc, khi miếng trầu; Khi chè sen năm bảy chén, khi Kiều lẩy một đôi câu. Tỉnh một chốc, lâu lâu rồi lại điếc Ðiếc như thế ai không muốn điếc! Ðiếc như anh dễ bắt chước ru mà Hỏi anh, anh cứ ậm à! Thu ẩm Thu, ẩm đêm tốt, ẩm ngày cũng tốt. “Bán dạ tam bôi tửu", rồi “bán nhật tam bôi tửu”. “Thu đêm chưa thỏa lại thu ngày”, cho nên mới trời “xanh ngắt” tiếp “đêm sâu”... Rượu hay không bằng hay rượu. Nhưng có thực là “lão” rượu không hay? “Say nhè”, sao đóm lập lòe cũng thấy, khói phất phơ cũng thấy, bóng trăng loe dưới 114
ao cũng thấy?! Chữ hay (nên đỗ đầu ba lần), rượu hay (nên rượu mà vẫn tỉnh), thơ hay (ai cũng biết). Ối, cụ Tam Nguyên Ba Hay! ===Năm gian nhà cỏ thấp le te, Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe. Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, Làn ao lóng lánh bóng trăng loe. Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt? Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe. Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy, Ðộ năm ba chén đã say nhè. Lụt hỏi thăm bạn “Bác Châu Cầu” là Bùi Văn Quế ở Hà Nam, đỗ cử nhân cùng khoa với Nguyễn Khuyến, làm quan đến tuần phủ, khi về nghỉ hưu lại kinh doanh nuôi lợn và nấu rượu. Ðành “sĩ kiêm bách nghệ”, tức sĩ làm nghề gì cũng được, mà làm giàu cách chân chính thì Khổng tử không hề bài bác, nhưng liệu sống ở đời có phải tích cực đến thế này không? Lụt lội “bác” phờ râu lo lợn lo nếp, còn “em” được thể nước trắng đồng, đưa luôn “chiếc lá” lên đồng mà “thung thăng”... “Nên chăng nghĩ lại kẻo nhầm”(11), “bác” ơi. ===Ai lên nhắn hỏi bác Châu Cầu, Lụt lội năm nay bác ở đâu? Mấy ổ lợn con, rày lớn bé? Vài gian nếp cái, ngập nông sâu? Phận thua suy tính, càng thêm thiệt, Tuổi cả chơi bời, họa sống lâu. Em cũng chẳng no, mà chẳng đói: Thung thăng chiếc lá, rượu lưng bầu. 115
Hoài cổ Dĩ nhiên thực là “nghĩ chuyện đời nay cũng nực... khóc”. Nguyễn Khuyến ức giặc Pháp bắt người Việt “khoét rỗng ruột gan” đất Việt cho chúng tha hồ chở về làm giàu nước chúng đó. “Mây trắng về đâu...” nhắc “Bạch vân vô tận thì”. Bạn của Vương Duy khi “qui ngọa Nam Sơn” cũng “bất đắc ý”...(12) === Nghĩ chuyện đời xưa cũng nực cười, Sự đời đến thế, thế thời thôi! Rừng xanh núi đỏ hơn ngàn dặm, Nước độc ma thiêng mấy vạn người. Khoét rỗng ruột gan trời đất cả, Phá tung phên giậu hạ di rồi. Thôi thôi đến thế thời thôi nhỉ, Mây trắng về đâu nước chảy xuôi. Một thoáng Xuân Hương! “Trông mặt mà bắt hình dong” coi chừng sai bét. Nhưng trường hợp Nguyễn Khuyến chắc bất cứ ai ngắm nghía bức chân dung phổ biến (13), ngắm đôi mắt như đang mỉm cười rất hóm hỉnh ấy, cũng đoán người trong ảnh có tính thích khôi hài, và đoán như thế là đúng phóc. Ðại trí thức, quan lớn, mà thơ “bỡn cô tiểu ngủ ngày” v.v. tỉnh bơ. Hoan hô nhà nho dân tộc! === Ôm tiu, gối mõ ngáy khò khò, Gió lọt phòng thiền mát mẻ cô. Then cửa từ bi gài lỏng cánh, Nén hương tế độ đốt đầy lò. Cá khe lắng kệ, đầu hi hóp, Chim núi nghe kinh, cổ gật gù. Nhắn bảo chúng sinh như muốn độ, Sẽ quì, sẽ niệm, sẽ “nam mô!” (Bỡn Cô Tiểu Ngủ Ngày) 116
Trai sao chẳng biết tính con cò Mày hở hang chi nó mổ cho Ðã cậy dày mu không khép kín Cho nên dài mỏ chực ăn to Thôi về bãi bể cho êm ái Ðể mặc bên sông nó gật gù Cò trắng dẫu khôn đành gác mỏ Trai già chờ lúc lại phơi mu. (Cò Mổ Trai) Con tạo ghen chi gái má hồng, Mà đem nước đến vỗ tầm vông. Gió lùa cửa cống bèo man mác, Trăng xỏ buồng trai bóng phập phồng. Những sợ anh kình rình dưới rốn, Lại lo chú chuối lẩn bên hông. Quản chi điểm phấn trang hồng nữa, Chỉ biết nơi sâu với chốn nông. (Gái Góa Than Lụt) Thu vén giang sơn một cắp tròn, Nghìn thu sương tuyết vẫn không mòn. Biết chăng chỉ có ông Hà bá, Mỉm mép cười thầm với nước non. (Gái Rửa Bờ Sông) Đĩ cầu Nôm Tục truyền “con đĩ cầu Nôm” là cô Tư Hồng.(14) “Đĩ mà có tàn, có tán, có hương án, có bàn độc”, trách sao cụ Tam Nguyên chẳng cao hứng “khá khen”. Bụng đầy chữ nho, nhưng cụ xổ nôm thì “con đĩ” nào cũng chỉ có nước bưng tai! ===Thiên hạ bao giờ cho hết đĩ Trời sinh ra cũng để mà chơi Dễ mấy khi làm đĩ gặp thời Chơi thủng trống, long dùi âu mới thích Ðĩ bao tử càng chơi càng lịch Tha hồ cho khúc khích chị em cười Người ba đấng của ba loài 117
Nếu những như ai thì đĩ mốc Ðĩ mà có tàn, có tán, có hương án, có bàn độc (15) Khá khen thay làm đĩ có tông (16) Khắp giang hồ chẳng chốn nào không Suốt Nam, Bắc, Tây, Ðông đều biết tiếng Ðĩ mười phương chơi cho đủ chín Còn một phương để nhịn lấy chồng Chém cha cái kiếp đào hồng (17) Bạn với kẻ anh hùng cho đứng số Vợ bợm, chồng quan, danh phận đó, Mai sau ngày giỗ có văn nôm Cha đời con đĩ cầu Nôm. ________________ (*) Theo Nguyễn Khuyến - tác phẩm, Hội Văn học Nghệ thuật Hà Nam Ninh, nxb. Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1984. (1) Xuân Diệu, Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, nxb. Văn Học, VN, 1987. (2) Nguyễn Khuyến - tác phẩm: “Theo gia phả chi thứ họ Nguyễn, năm 1843, ông thân sinh Nguyễn Khuyến mới đưa vợ con từ quê ngoại Hoàng Xá về xứ Vườn Bùi (thuộc làng Vị Hạ) ở ngôi từ đường do dân và học trò ở quê làm cho. Kể từ đó cho đến khi Nguyễn Khuyến cáo quan về (1884), nhà ông ở đấy đã bốn mươi năm có lẻ...” (“Xứ” ở dưới làng, có phải xứ là xóm?) (3) Vườn Bùi: ở làng Vị Hạ, xã Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Khâu, hác, lâm, tuyền: gò, vũng, rừng, suối: cảnh ẩn dật. Bành Trạch: nơi Ðào Tiềm (TQ, đời Tấn) làm quan: chỉ Ðào Tiềm. Xoang: điệu hát. Cầm xoang: đàn hát. Ôn công: Tư Mã Quang (TQ, đời Bắc Tống), khi về ở ẩn ưa uống rượu giải sầu. Lỗ hầu: Lỗ Bình công, người Mạnh Tử muốn gặp để giúp mà không gặp được. (4) Xem lời bàn bài Trở Về Vườn Cũ. (5) Tạp chí Tri Tân (1941-1945), nxb. Hội Nhà Văn, VN, 1999, tr. 520. (6) Nguyễn Khuyến thọ 75 tuổi. Xưa kia ta hay nói tăng tuổi thọ? Dương cùng, tức dương cửu, chỉ vận hạn rủi ro. (7) Xem Bài Di Chúc của Nguyễn Khuyến. (8) Xem bài Có Thần Và Thần và bài Oai Như Gái Việt của TT. (9) Xem bài Bài Di Chúc. (10) Ngồi giữa chỗ người cười nói thì ngây như gỗ / Ban đêm leo tường lại nhanh như khỉ. (11) Câu chót trong bài thơ hát nói Ðời Ðáng Chán của Tản Ðà. (12) Xem bài Tống Biệt của Vương Duy. (13) Bức chân dung trong đó Nguyễn Khuyến tay cầm chén rượu. (14) Theo Nguyễn Khuyến - tác phẩm: “Tên thật là Trần Thị Lan quê (...) Hà 118
Nam Ninh (...) bỏ nhà ra Hải Phòng (...) lấy một khách buôn giàu là chú Hồng. Tên này chết (...) lấy tên cố đạo phá giới là Croibier Hugust (...) (hình như do Hugust đóng quan tư mà) dân gọi ghép thị là cô Tư Hồng. Nhờ uy thế chồng, Tư Hồng được thầu phá nốt những mảng tường thành Hà Nội lấy gạch xây nhà cho thuê (...) trở nên giàu có. Nhân Trung kỳ có lụt, Tư Hồng buôn gạo chở lậu thuế vào bán, bị bắt, liền nói dối là đem phát chẩn. Do đó thị không những không bị tội, mà còn được thực dân đề nghị triều Nguyễn phong cho thị hàm “Tứ phẩm cung nhân”, và cho cả bố thị hàm “Hàn lâm thị độc”. Tư Hồng về làng ăn khao linh đình, có người mừng đôi câu đối: “Một đạo sắc phong hàm cụ lớn / Trăm năm danh giá của bà to””. (15) Phương ngôn có câu “Ðĩ tàn đĩ tán, có hương án thờ vua”, chỉ bọn đĩ điếm nhiều thế lực. (16) Có nòi. (17) Kiếp trăng hoa.
Nguyễn Công Trứ TỔNG QUAN CON NGƯỜI, TÁC PHẨM - Từ “Chém cha” đến “Ð... mẹ” - Một thân, ba bốn nợ - Trả nợ, mở đường TUYỂN THƠ VĂN - Hàn nho phong vị phú - Nợ phong lưu - Cầm kỳ thi tửu 2 - Chơi xuân kẻo hết xuân đi - Duyên gặp gỡ - Vịnh chữ tình - Thú thanh nhàn - Tự thuật 1 - Ðời người thấm thoắt - Chí khí anh hùng - Vịnh đồng tiền - Thích chí ngao du - Chữ nhàn - Thoát vòng danh lợi - Tuổi già cưới vợ hầu - Kiếp sau xin chớ... 119
TỔNG QUAN CON NGƯỜI, TÁC PHẨM Từ “Chém cha” đến “Ð... mẹ” Cuộc đời Nguyễn Công Trứ lúc đầu “khó” đến nỗi ông phải ra tay “chém cha cái khó”. Ông chém bằng chữ nghĩa, thành một bài phú độc đáo. Phú dài nên chỉ một, còn thơ ngắn nên trong thời bạch diện thư sinh Nguyễn Công Trứ “hàn nho phong vị thi” đều đều... “Bạn” lâu năm với khó, tất nhiên thấm lẽ đời. Ðã vậy, sau khi thi đậu ra làm việc nước, Nguyễn Công Trứ lại “lên quan xuống lính” liên miên, có lần xuống tận... lính thú. Những lúc ông thất thế, lẽ đời thừa dịp thấm sâu thêm, khiến ông rốt cục trở thành một người hiểu đời kỹ ít ai bằng. Dạ chất chứa, ông không nén mà cho thoát ra thành cả một chùm “nhân tình thế thái thi”. Khác với lời than nghèo khi xưa dù sao còn “thanh”, Nguyễn Công Trứ trong hoạn hải ba đào có lúc không ngại văng hẳn “tục”: “Ð... mẹ nhân tình đã biết rồi Lạt như nước ốc bạc như vôi”! (Thế kỷ 19 mà đã như thế kỷ 21 nhỉ. Không biết phải ngược về bao xa thì mới gặp được thứ nhân tình ít “lạt, bạc” hơn?) Một thân, ba bốn nợ “Ðã biết rồi” như ông, chắc đa số trở nên bi quan, yếm thế. Nhưng Nguyễn Công Trứ thì không. Ðời thế nào ông chém văng cho xứng, xong tiếp tục vui vẻ sống với đời. Ðược thế, ấy bởi ông quan niệm là mình mắc “nợ”. Không phải một nợ, mà ít nhất hai, có lẽ ba, thậm chí bốn! Trước tiên, ai cũng biết, là cái nợ công danh hay nợ tang bồng hay nợ nam nhi hay nợ bút nghiên hay nợ cầm thư. Ðại khái, đã trót sinh ra làm đàn ông con trai thông minh tài giỏi hơn người thì “phải có danh gì với núi sông”, tức làm nên sự nghiệp đáng kể. Thứ hai, là “nợ phong lưu”. Nợ này không phải ai muốn mắc thì mắc, mà chỉ những bậc “tài tình” (như ông) mới “vướng”. Nợ phong lưu ngược hẳn với nợ công danh, vì một đằng là nợ làm, một đằng là nợ... chơi. Nợ phong lưu cũng chính là nợ nhàn và gồm cơ bản bốn món: “Cầm kỳ thi tửu, đường ăn chơi mỗi vẻ mỗi hay”. 120
Thứ ba, là nợ văn chương. Tuy “thi” nằm trong nợ phong lưu, nhưng thiết tưởng trường hợp Nguyễn Công Trứ nó có vị trí đặc biệt, đáng được ra đứng riêng. Vì cầm, kỳ, tửu không nghe nói ông xuất chúng, trong khi ông làm thơ thì khỏi nói. Sau cùng, là nợ... giăng hoa, nợ “chữ tình”. A, đây cũng là thứ nợ hay chọn mặt. Nó ưa “trói buộc kẻ hào hoa”, người “tài tử”, “trai anh hùng”, chứ không phải bạ ai nó cũng sinh sự. Gặp Nguyễn Công Trứ, nó ra tay lia lịa khiến ông phải thích chí tự ca rằng “anh hùng hà xứ bất giang sơn”! Nợ tùm lum, đầy đầu đầy cổ, “như chúa Chổm”, nhưng Nguyễn Công Trứ lại không chịu trả lối lần lượt, hết nợ này xong đến nợ khác. Ðể cho chắc ăn (!), ông trả tất cả cùng một lúc! Tưởng tượng một người vừa xôi kinh nấu sử, vừa thơ phú văn chương, vừa đi hát cô đầu, vừa rượu tì tì, vừa cờ liên miên, vừa làm gì đó “ngoài đồng” khiến “thuyền quyên ứ hự”! Người đó rốt cuộc rồi cũng thi đậu, ra làm quan, để vừa cai trị dân hay đánh giặc hay khẩn hoang, vừa tiếp tục cầm kỳ thi tửu... sắc, đến năm 73 tuổi còn cưới hầu non! Trả nợ, mở đường Nguyễn Công Trứ sống lâu, đến 80 tuổi, và sống khỏe lâu, đến ít nhất 73, nên nợ nào ông cũng trang trải sòng phẳng. Về nợ văn chương, ông trả bằng 1 bài phú, 52 bài thơ Ðường luật, 63 bài hát nói, 21 đôi câu đối và 2 bản tuồng. Thơ Ðường luật và thơ hát nói nhiều xấp xỉ. Thế là Nguyễn Công Trứ hát nói nhiều lắm, nhiều hơn hẳn cả người trước lẫn người sau ông. Thực ra, nhắc người trước cho phải phép chứ hát nói như một thể thơ đa dụng thì Nguyễn Công Trứ chính là ông tổ, có ai trước ông đâu mà so với sánh? Ông mở ra cả một con đường văn chương rực rỡ dài hơn một thế kỷ, đến khi nó tuyệt lộ người ta trông lại thấy ông vẫn “to” nhất. Và “cao” vào bậc nhất. Nguyễn Công Trứ làm thơ Ðường luật cũng hay lắm. Lúc nào ông “luật” lúc nào ông “hát”? Nói chung, than nghèo vịnh đời thì luật, còn nhắc nợ nọ nợ kia thì hát. “Trầm” luật, “bổng” hát. Cùng một con người, khi trầm khi bổng, trầm nên thơ hay, bổng càng nên thơ hay... Sau đây ta hãy thưởng thức lại một số tác phẩm. TUYỂN THƠ VĂN Hàn nho phong vị phú Nho nghèo không hiếm chút nào. Nho nghèo có tài văn chương thơ phú cũng không thực hiếm: ngoài Nguyễn Công Trứ, còn có Tú Xương, Tản Ðà v.v. 121
Trong số “hàn nho” giỏi văn thơ, chắc chắn NCT hay kể lể, than thở nhất: nào “Phận anh nghèo”, “Vịnh cảnh nghèo”, “Than cảnh nghèo”, “Tết nhà nghèo”, “Vui cảnh nghèo” v.v. Sợ thơ vắn tắt, không nói hết được “phong vị” của “cái khó”, ông còn làm hẳn một bài phú để tả cho... kỹ. Bài “phú nghèo”, mà chữ nghĩa mới giàu sao! Khác Tú Xương và Tản Ðà nghèo đến chết, NCT rồi có lúc “ngất ngưởng”. Từng khó ơi là khó như ông, cái lúc “dễ” nó thấm thía nói sao cho xiết. Chém cha cái khó, chém cha cái khó, Khôn khéo mấy ai, xấu xa một nó. Lục cực bày hàng sáu, rành rành kinh huấn chẳng sai, Vạn tội lấy làm đầu, ấy ấy ngạn ngôn hẳn có. Kìa ai: bốn vách tường mo, ba gian nhà cỏ, Đầu kèo mọt tạc vẽ sao, trước cửa nhện giăng màn gió. Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng, Ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ. Đầu giường tre, mối dũi quanh co, Góc tường đất, trùn lên lố nhố. Bóng nắng giọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô, Hạt mưa xoi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó . Trong cũi, lợn nằm gặm máng, đói chẳng buồn kêu, Đầu giàn, chuột lóc khua niêu, buồn thôi lại bỏ. Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no, Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ. Ấm trà góp, lá bàng lá gối, pha mùi chát chát chua chua, Miếng trầu têm, vỏ mận vỏ dà, buồn miệng nhai nhai nhổ nhổ. Áo vải thô nặng trịch, lạnh làm mền, nực làm gối, bốn mùa thay đổi bấy nhiêu, Khăn lau giắt đỏ lòm, giải làm chiếu, vận làm quần, một bộ ăn chơi quá thú. Đỡ mồ hôi: võng lác, quạt mo, Chống hơi đất: dép da, guốc gỗ. Miếng ăn sẵn, cà non mướp luộc, ngon khéo là ngon, Đồ chơi nhiều quạt, sậy điếu tre, của đâu những của. Đồ chuyên trà, ấm đất sứt vòi, Cuộc uống rượu, be sành chắp cổ. Đồ cổ khí, bức tranh treo trên vách, khói bay lem luốc, mầu thủy mạc mờ mờ, Của tiểu đồng, pho sách gác đầu giàn, gián nhấm lăm nhăm, dấu thổ châu đo đỏ. Cỗ bài lá ba đời cửa tướng, hàng văn hàng sách lờ mờ, Bàn cờ săng, bảy kiếp nhà ma, chữ nhật chữ điền xiêu xó. Lộc nhĩ điền, lúa chất đầy rương, 122
Phương tịch cốc, khoai vừa một rỏ. Tiêu dụng lấy chi mà phao phóng, thường giữ ba cọc ba đồng, Mùa màng dành để có bao nhiêu, chừng độ một triêng một bó, Mỏng lưng, xem cũng không giầu, Nhiều miệng, lấy chi cho đủ. Đến bữa, chưa sẵn bữa, con trẻ khóc dường ong, Qua kỳ, lại hẹn kỳ, nhà nợ kêu như ó. Thuốc men rắp bòn chài gỡ bữa, song nghĩ câu “ý dã”, thế nào cho đáng giá lương y, Thầy bà mong dối trá kiếm ăn, lại nghĩ chữ “dũng như”, phép chi được nối danh pháp chủ. Quẻ dã hạc, toan nhờ lộc thánh, trút muối bỏ bể, ta chẳng bõ bèn, Huyệt chân long, toan bán đất trời, ngôi mả táng cha, tìm còn chửa chộ. Buôn bán, rắp theo nghề đỏ, song lạ mặt, chúng hòng rước gánh, mập mờ nên hàng chẳng có lời, Bạc cờ, toan gỡ cơn đen, chưa sẵn lưng, làng lại giành nơi, hỏi gạn mãi dạm không ra thổ. Gấp khúc lươn, nên ít kẻ yêu vì, Gương mắt ếch, biết vào đâu mượn mõ. Đến lúc niên chung nguyệt quý, lấy chi tiêu đồng nợ đồng công? Gặp khi chân sẩy đường cùng, nên phải tới cửa này cửa nọ. Thân thỉ to to nhỏ nhỏ, ta đã mỏi cẳng ngồi trì, Dần dà nọ nọ kia kia, nó những vuốt râu làm bộ. Thầy tớ sợ men tìm đến cửa, ngảnh mặt cúi đầu, Chị em e vất lấm vào lưng, chìa môi nhọn mỏ. Láng giềng ít kẻ tới nhà, Thân thích chẳng ai nhìn họ. Mất việc, toan dở nghề “cơ tắc”, tủi con nhà mà hổ mặt anh em, Túng đường, mong quyết chí “cùng tư”, e phép nước chưa nên gan sừng sỏ. Cùng con cháu, thuở nói năng chuyện cũ, dường ngâm câu “lạc đạo vong bần”, Gặp anh em, khi bàn bạc sự đời, lại đọc chữ “vi nhân bất phú”. Tất do thiên, âu phận ấy là thường, Hữu kỳ đức, ắt trời kia chẳng phụ. Tiếc tài cả, phải phận ngưu bản trúc, dấu xưa ông Phó ông Hề, Cần nghiệp nho, khi tạc bích tụ huỳnh, thuở trước chàng Khuông chàng Võ. Nơi thành hạ, gieo cần câu cá, kìa kìa người quốc sĩ Hoài Âm, Chốn lý trung, xách thớt chia phần, nọ nọ đấng mưu thần Dương Võ. Khó ai bằng Mãi Thần, Mông Chính, cũng có khi ngựa cưỡi dù che, Giàu ai bằng Vương Khải, Thạch Sùng, cũng có hội tường xiêu ngói đổ. Mới biết: khó bởi tại trời, giàu là có số. Dầu ai ruộng sâu trâu nái, đụn lúa kho tiền, cũng bất quá thủ tài chi lỗ.(T1) Nợ phong lưu 123
“Chơi là lãi”. Nhưng chơi thì tốn. Tốn mà không sẵn, thì phải vay. Tức vay để lấy lãi! Vay trả “nợ phong lưu” không nhất thiết là vay tiền bạc của ai. Nguyễn Công Trứ hẳn chủ yếu vay vào cái vốn thời gian của chính ông. Nghĩa là ông vừa làm vừa chơi chứ không “ky ky cóp cóp” làm. Cớ sao NCT bị lãi “ám”? Chắc do ông sớm thấm cái nghịch ngợm oái ăm của “tay chú thợ trời”. Biết chú ấy hay dở trò, hễ có được tí “mặt” là ông chơi, sợ nhỡ “ra hề” không kịp chơi... “Suy mới biết ở đời ai cũng hớ”, mà đâu phải ai cũng! Suy mới biết ở đời ai cũng hớ, Vì tài tình nên vướng nợ phong lưu. Kho trời chung tiêu phí thấm vào đâu, Chơi là lãi dẫu chưa giầu nhưng chẳng kiết. Giả giả vay vay lâu cũng hết, Ky ky cóp cóp chắc hơn ai. Chỉ chịu thua tay chú thợ trời, Khéo tỉ mỉ nặn ra người làm múa rối. Nào nhục nào vinh nào hiển hối, Mặt ra hề thay đổi mấy mươi phen. Chẳng gì hơn rượu thánh thơ tiên, Trời đất ghét ghen chi với hắn. Thế sự phù vân hà túc vấn, Thiên kim táng tận hoàn phục lai. Hay chơi trời cũng chiều người.(T2) Cầm kỳ thi tửu 2 “Thơ hát nói”, cái tên mới ngộ. Vừa thơ, vừa hát, vừa nói! Tên ngộ mà hay. Hay vì quả nhiên khi đọc bài thơ hát nói ta có cảm tưởng mình đang nói, “nói lối”!(1) Nói lối thì “rắn rỏi mạnh mẽ”, như: “Thú xuất trần tiên vẫn là ta 124
Sánh Hoàng Thạch, Xích Tùng, ờ cũng đáng!” Rắn, mạnh, là một Nguyễn Công Trứ. Lịch lãm, đài các là một Nguyễn Công Trứ nữa. “Tài tình dễ mấy xưa nay!”! Cầm kỳ thi tửu, Ðường ăn chơi mỗi vẻ mỗi hay. Ðàn năm cung réo rắt tính tình đây, Cờ đôi nước rập rình xe ngựa đó. Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ, Rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà. Thú xuất trần tiên vẫn là ta, Sánh Hoàng Thạch, Xích Tùng, ờ cũng đáng! Thơ rằng: Cầm tứ tiêu nhiên, kỳ tứ sảng, Thi hoài lạc hỹ, tửu hoài nồng. Một chữ nhàn giá lại đáng muôn chung, Người ở thế dẫu trăm năm là mấy! Sách có chữ “Nhân sinh thích chí”, Ðem ngàn vàng chác lấy cuộc chơi. Chơi cho lịch mới là chơi, Chơi cho đài các cho người biết tay. Tài tình dễ mấy xưa nay!(T3) Chơi xuân kẻo hết xuân đi Ai biết tuổi ca dao. Nhưng chắc cái câu: “Chơi xuân kẻo hết xuân đi Cái già xồng xộc nó thì tới nơi” đã ra đời trước khi Nguyễn Công Trứ hát nói như sau đây. Chắc cụ Nguyễn “chịu” nó quá nên dùng luôn một nửa làm tên bài thơ của mình... “Lãi” mỗi người lấy một cách. Những cách “lắm công phu” của Uy Viễn tướng công, có phải cứ ai muốn bắt chước là bắt chước được đâu. Gẫm cho kỹ đến bất nhân là tạo vật, 125
Ðã sinh người lại hạn lấy năm. Kể chi thằng lên bảy đứa lên năm, Dẫu ba vạn sáu nghìn ngày là mấy chốc! Lại mang lấy lợi danh vinh nhục, Cuộc đời kia lắm lúc bi hoan. E đến khi hoa rữa trăng tàn, Xuân một khắc dễ nghìn vàng đổi chác! Tế suy vật lý tu hành lạc, An dụng phù danh bạn thử thân. Song bất nhân mà lại chí nhân, Hạn lấy tuổi để mà chơi lấy. Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi đấy, Nếu không chơi thiệt ấy ai bù! Nghề chơi cũng lắm công phu.(T4) Duyên gặp gỡ Ông nói vậy, chứ cứ lấy ngay ông mà xét thì “tướng giỏi” gặp “vua sáng” có phải chuyện dễ đâu. Mà gặp chăng nữa, vua cũng hay nghi nghi ngờ ngờ khiến tướng phải lên voi xuống chó vô cùng mệt mỏi. Còn tài tử với giai nhân, chuyện “tế ngộ” cũng khó lắm vì giai nhân thường có lối đòi đến “thiên kim” khiến tài tử thiếu “tài” đành ôm hận. Gặp “liễu hoa”, sợ đợi “duyên chỉ thắm (...) dần dần đưa lại” thì lâu, “chúa xuân” nhân dịp “giữa đồng” bèn tự ý “xe” cho thật “gần”: “Giang sơn một gánh giữa đồng Thuyền quyên ứ hự, anh hùng nhớ chăng”! “Anh hùng hà xứ bất giang sơn”, xứ nào đây, nào đây... Nhớ rồi, nhớ chứ, một trong bao nhiêu cái “duyên gặp gỡ” của tôi ơi! Minh quân lương tướng tao phùng dị, Tài tử giai nhân tế ngộ nan. Trai anh hùng gặp gái thuyền quyên, Trong nhất kiến tiền duyên như đã. Tỳ bà hữu hạnh phùng Tư mã, Quân tử đa tình cánh khả lân. 126
Nọ mấy người tài tử giai nhân, Duyên chỉ thắm bỗng dần dần đưa lại. Dầu nghìn dặm băng sơn quế hải, Ðã tình duyên xe lại cũng nên gần. Liễu hoa vừa gặp chúa xuân, Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn. Anh hùng hà xứ bất giang sơn!(T5) Vịnh chữ tình Nhà nho tối ngày tụng “nam nữ thụ thụ bất thân” mà cũng “chi chi với tình” sao? Ấy, nho Tàu chính cống còn tình túi bụi dưới “Mái tây”, nữa là nho ta! Văn hóa truyền thống của ta vốn thoải mái về quan hệ nam nữ hơn Nho giáo nhiều.(2) Nhà nho Việt sống ở làng Việt, lúc nào xôi kinh để đi thi thì xôi, còn hễ hết xôi, buông kinh bước ra ngoài thì tha hồ mắc vào lưới tình của cô hàng xóm, cô cấy lúa, cô tát nước, cô hàng nước, cô bán chiếu, cô dệt vải v.v. Dĩ nhiên nhà nho chưa làm quan thì có dễ quan hệ lăng nhăng hơn nhà nho đã làm quan. Hơn bốn mươi tuổi Nguyễn Công Trứ mới xuất chính, hẳn nhờ thế mà cuộc đời tình ái của ông vô số kỷ niệm... Cái tình là cái chi chi Dầu chi chi cũng chi chi với tình Ða tình là dở Ðã mắc vào đố gỡ cho ra Khéo quấy người một cái tinh ma Trói buộc kẻ hào hoa biết mấy! Ðã gọi người nằm thiên cổ dậy Lại đưa hồn lúc ngũ canh đi Nực cười thay lúc phân kỳ Trong chẳng nói biết bao nhiêu biệt lệ Tình huống ấy dẫu bút thần khôn vẽ Càng tài tình càng ngốc càng si Cái tình là cái chi chi. 127
Thú thanh nhàn “... thùng thùng đôi tiếng trống”... Ơ, cái trống chầu bé tí teo chứ có phải trống cái trống trận đâu mà kêu to thế?!(3) Ờ, có lẽ tiếng trống bé nó hóa to nhờ “cơn đắc ý” đang nổi như bão trong lòng người. “Nhân sinh quý thích chí”(4). Nay cứ hãy “thùng thùng” lấy lãi (5), còn “một mai” có “bẻ quế thiềm cung”, “đánh (được) miếng đỉnh chung” nào chăng, hậu tính! Nhàn trung thụy giác tam can nhật Vắt chân ngồi bạn với khách cầm ca Cuộc tỉnh say bầu rượu chén trà Cơn đắc ý thùng thùng đôi tiếng trống Bạch tuyết thanh cao, oanh yến lộng Quân thiều hưởng triệt, cổ chung minh Này tiếng đàn tinh tính tính tình tinh Thú vui thú ném ngang vành tráng sĩ Cõi nhân sinh thích chí Lúc thái bình hà nhật bất xuân phong Của trần hoàn không có có không Kho vô tận không không rồi lại có Chữ tài ấy ăn chơi, ở đủ! Xôi kinh rồi đánh miếng đỉnh chung Một mai bẻ quế thiềm cung Trăng đưa đàn nguyệt, sấm rầm trống lôi Trăm năm đài các lạ đời!(T7) Tự thuật 1 Nguyễn Công Trứ có lúc “thế này” nhưng rồi có lúc “thế khác”, nhất về cuối đời ở hẳn trong cái thế khác. Ông may hơn chán vạn quân tử, anh hùng. Chưa chán ru mà quấy mãi đây Nợ nần dan díu mấy lâu nay 128
Mang danh tài sắc cho nên nợ Quen thói phong lưu hóa phải vay Quân tử lúc cùng thêm thẹn mặt Anh hùng khi gấp cũng khoanh tay Còn trời còn đất còn non nước Có lẽ ta đâu mãi thế này? Đời người thấm thoắt Trong chưa đến ba vạn sáu nghìn ngày, Nguyễn Công Trứ đã sắm lắm vai: khi nhà nho “chém cha cái khó”, khi nhà quan “nên tay ngất ngưởng”, chưa kể nhà thơ, nhà rượu, nhà cờ, nhà cô đầu, nhà “tuổi già lấy vợ hầu (trẻ ơi là trẻ)”!... Con tạo mà cho thêm “đất”, biết ông còn “chơi” đến những trò gì. Nhân sinh ba vạn sáu nghìn thôi, Vạn sáu tiêu nhăng đã hết rồi! Nhắn con tạo hóa xoay thời lại, Ðể khách tang bồng rộng đất chơi! Chí khí anh hùng “Ðường mây rộng thênh thênh cử bộ”, nhớ lúc đường đất chật bổ sấp bổ ngửa. “Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ”, nhớ lúc làm chưa nên, đâu đấy chưa ai chịu tỏ. “Nợ tang bồng trang trắng...”, nhớ lúc còn nợ như chúa chổm! Ðọc thơ “vỗ tay reo” của Nguyễn Công Trứ, chạnh nhớ thơ “ngán đời” của Cao Bá Quát. Ðời sao, thơ vậy. Thế mới đủ “mùi” cho khách đọc thơ... Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc, Nợ tang bồng vay trả trả vay. Chí làm trai nam bắc đông tây, Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể Nhân sinh thế thượng thùy vô nghệ, Lưu đắc đan tâm chiếu hãn thanh. Ðã chắc rằng ai nhục ai vinh, Mấy kẻ biết anh hùng thời vị ngộ. Cũng có lúc mây tuôn sóng vỗ, Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong. Chí những toan xẻ núi lấp sông, Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ. 129
Ðường mây rộng thênh thênh cử bộ, Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo. Thảnh thơi thơ túi rượu bầu!(T10) Vịnh đồng tiền Vào thời Nguyễn Công Trứ mà đồng tiền cũng to nhỉ. Tất nhiên to sao bằng bây giờ, khi con người ta hình như không còn biết đến bất cứ thứ giá trị nào khác. Ðọc thơ tiền, thú nhất câu “Dốc đáy túi, mặt Nguyễn lang ngơ ngác”! Hôi tanh chẳng thú vị gì, Thế mà ai cũng kẻ vì người yêu. Tạo vật bất thị vô để sự Bòn chài ra một thứ quấy chơi! Ðủ vuông, tròn, tượng đất, tượng trời, Khẳm họa phúc, yên nguy, tử hoạt. Chốn kim môn, nơi tử thất, Mặc phao tuồng, không kẻ phòng nhàn. Ðương om sòm, chớp giật sấm ran, Nghe xóc xách, lại gió hòa mưa ngọt. Kẻ tài bộ đã vào phường vận đạt, Không ngươi, cũng nát với cỏ cây. Người yêm yêm đành một phận trầm mai, Có gã, lại trở ra sừng gạc. Dốc đáy túi, mặt Nguyễn lang ngơ ngác, Trổng đầu giường, gan tráng sĩ bàu nhàu. Ðể đoàn ấm á càu ràu, khiến lũ tài danh vơ vẩn. Khả quái tầm thường a đổ vật, Khước giao đáo để đại thần linh. Ðương đồ, ai chẳng chuộng gia huynh, Thù thế, kể lấy làm đệ nhất. Tiếng xỏng xảnh đầy trong trời đất, Thần cũng thông huống nữa là ai. 130
Long đồ nghĩ cũng nực cười!(T11) Thích chí ngao du “Người có biết ta hay thì chớ, Chẳng biết ta, ta vẫn là ta.” Hai câu thơ nói lên được nhiều quá. Ngang tàng xót xa, “là ta” đó, ai ơi. Ngâm cùng trăng gió vài câu kiểng, Tính với giang sơn mấy chuyện đời. Thú gì hơn nữa, thú ăn chơi? Chi giàu có sang hèn là phận cả. Ðủ lếu láo với người thiên hạ. Tính đã quen đài các mấy lâu. Ðàn một cung, cờ một cuộc, thơ một túi, rượu một bầu Khi đắc chí ngao du, ờ cũng phải! Thơ rằng: Ðạo thông thiên địa hữu hình ngoại, Tứ nhập phong vân biến thái trung. Hỏi giang sơn mấy mặt anh hùng? Tri ngã giả, bất tri ngã giả. Người có biết ta hay thì chớ, Chẳng biết ta, ta vẫn là ta. Linh khâm bảo hợp thái hòa, Sạch không trần lụy ấy là thần tiên. Ngang tàng lạc ngã tính thiên.(T12) Chữ nhàn Bài thơ này khiến ta nhớ vài văn thi nhân Việt Nam trước và sau Nguyễn Công Trứ. Câu “Thoắt sinh ra thì đà khóc chóe” nhắc “Ðã mang tiếng khóc bưng đầu mà ra” của tiền nhân Nguyễn Gia Thiều. Cái khổ áp chót nhắc “Trăm năm thơ túi rượu vò, nghìn năm thi sĩ tửu đồ là ai” của hậu sinh Nguyễn Khắc Hiếu. Rồi cái câu chót của khổ ấy lại được kẻ sinh sau nữa là Nguyễn Tuân chọn đặt ở đầu thiên truyện đắc ý của mình là Chùa Ðàn. 131
“Ai hay hát mà ai hay nghe hát”... “Ngàn muôn năm” sau, Nguyễn kia Nguyễn nọ, ai, ai?! Thị tại môn tiền náo, Nguyệt lai môn hạ nhàn. So lao tâm lao lực cũng một đàn. Người nhân thế muốn nhàn sao được! Nên phải giữ lấy nhàn làm chước Dẫu trời cho, có tiếc, cũng xin nài. Cuộc nhân sinh chừng bảy tám chín mười mươi, Mười lăm trẻ, năm mươi già không kể. Thoắt sinh ra thì đà khóc choé, Trần có vui, sao chẳng cười khì? Khi hỉ nộ, khi ai lạc, khi ái ố, lúc sầu bi, Chứa chi lắm một bầu nhân dục! Tri túc tiện túc, đãi túc hà thì túc, Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà thì nhàn? Cầm kỳ thi tửu với giang san, Dễ mấy kẻ xuất trần xuất thế? Ngã kim nhật tại tọa chi địa, Cổ chi nhân tằng tiên ngã tọa chi. Ngàn muôn năm âu cũng thế ni, Ai hay hát mà ai hay nghe hát. Sông Xích Bích buông thuyền năm Nhâm Tuất, Ðể ông Tô riêng một thú thanh tao. Chữ nhàn là chữ làm sao?(T13) Thoát vòng danh lợi Khi “hát nói” bài này, Nguyễn Công Trứ “trót bước chân vào đám phồn hoa” hẳn không phải mới một lần. Vào, ra, vào, ra... Lên, xuống, lên, xuống... Có lần xuống đến mức suýt mất chỗ đội nón! “Sực nghĩ lại giật mình bao xiết kể”, “thân” hỡi “thân” ơi. 132
Chen chúc lợi danh đà chán ngắt, Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao! Ðám phồn hoa trót bước chân vào, Sực nghĩ lại giật mình bao kể xiết! Quá giả, vãng nhi bất thuyết, Cái hình hài làm thiệt cái thân chi! Cuộc đời thử gẫm mà suy, Bạn tùng cúc xưa kia là cố cựu. Hẹn với lợi danh ba chén rượu, Vui cùng phong nguyệt một bầu thơ. Cuộc cổ kim so sánh tựa bàn cờ, Riêng vui thú giang sơn phong nguyệt. Mặc xa mã thị thành không dám biết, Thú yên hà trời đất để riêng ta, Nào ai ai biết chăng là!(T14) Tuổi già cưới vợ hầu “Năm mươi năm trước xuân chừng hai ba”! Xuân, hạ, thu qua tuốt rồi, giờ đã 73 tuổi... đông, “mái tuyết đã phau phau”, mà đi cưới “kẻ đào thơ (...) mảnh mảnh”. Cô dâu trẻ đến nỗi còn... run! Thì sao chớ. “Cụ” rể là Nguyễn Công Trứ, nào phải... Việt kiều. Già, nhưng “còn dẻo còn dai”, xin tân nhân chớ ngại! Trẻ tạo hóa ngẩn ngơ lắm việc, Già nguyệt ông cắc cớ trêu nhau! Kìa những người mái tuyết đã phau phau, Run rẩy kẻ đào thơ còn mảnh mảnh. Trong trướng gấm ngọn đèn hoa nhấp nhánh, Nhất tọa lê hoa áp hải đường. Từ đây đà tạc đá ghi vàng, Bởi đâu trước lựa tơ chắp chỉ. Tân nhân dục vấn lang niên kỷ, Ngũ thập niên tiền nhị thập tam. 133
Tình đã chung, lứa cũng phải vam, Suốt kim cổ lấy làm vận sự. Trong trần thế duyên duyên nợ nợ, Duyên cũng đành mà nợ cũng đành. Xưa nay mấy kẻ đa tình, Lão Trần là một với mình là hai! Càng già càng dẻo càng dai!(T15) Kiếp sau xin chớ... (6) Bài lục bát sau đây thật lạc lõng giữa đám đông thơ hát nói và thơ Ðường luật của Nguyễn Công Trứ. Có thực ông là tác giả nó chăng? Mặt khác, cái tâm trạng vui khóc, buồn cười của một người rất trải đời, tâm trạng ấy mà đem gán cho ông thì hợp quá. Giả sử Nguyễn Công Trứ trứ tác “sáu câu” này, tưởng không nên vin vào đó mà bắt ông kiếp sau phải làm cây thông! Vì ông chán đấy, rồi yêu đời đấy. Kiếp sau, kiếp sau nữa, ông còn làm người để tiếp tục “hành lạc” kiếm “lãi”, tiếp tục “chơi cho đài các cho người biết tay”! Ngồi buồn mà trách ông xanh Khi vui muốn khóc buồn tênh lại cười Kiếp sau xin chớ làm người Làm cây thông đứng giữa trời mà reo Giữa trời vách đá cheo leo Ai mà chịu rét thì trèo với thông. ________________ (1) Xem Một Kỳ Công Tổng Hợp của Phạm Thế Ngũ, trang gocnhin.net. (2) Xem các bài Có Thần Và Thần (TT), Oai Như Gái Việt (TT), Quan Họ Và Nho Giáo (Vũ Ngọc Phan), trang gocnhin.net. (3) Cao 15 phân, đường kính 15 phân. Xem bài Hát Ả Đào của Nguyễn Xuân Khoát. (4) Câu đầu trong bài hát nói Nhân Sinh Thích Chí nổi tiếng không biết do ai làm. (5) “Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi đấy”, trong bài Chơi Xuân Kẻo Hết Xuân Ði của NCT. (6) Bài thơ này không có tên. Tên đây là tạm đặt. ________________ Ngoại trừ T2, tất cả chú thích thơ sau đây đều theo sách Thơ văn Nguyễn Công 134
Trứ, nxb. Văn Học, VN, 1983: (T1) Lục cực: sáu điều khổ cực: chết non, ốm đau, lo lắng, nghèo đói, hèn yếu, tật cấu. Kinh huấn: điều dạy trong sách. Vạn tội: do câu tục ngữ Hán: vạn tội bất như bần: vạn tội chẳng gì bằng tội nghèo. Mọt tạc vẽ sao: mọt đục thành từng vết như sao. Trùn: giun. Lóc: nhảy lên, leo lên: “Cá lóc lên bờ nằm chờ nước đến” (ca dao). Người quân tử ăn...: do câu chữ Hán: quân tử thực vô cầu bão, ý nói: người quân tử chăm lo đạo lý, không lấy chuyện ăn ngon mặc đẹp làm điều. Cửa thường bỏ ngỏ: do câu chữ Hán: thái bình chi thế, ngoại hộ bất bế, ý nói: đời no ấm, cửa ngoài không cần đóng (không có trộm cướp). Lá gối: tiếng địa phương, lá vối. Ðồ cổ khí: đồ xưa, đồ lâu đời để lại. Thủy mặc: vẽ bằng mực nho. Thổ châu: đất son ngày xưa dùng thay mực đỏ để chấm câu. Ba đời cửa tướng: thành ngữ, ý nói: lâu đời (ở cửa tướng suốt ba đời). Bảy kiếp nhà ma: thành ngữ, cũng có nghĩa là rất lâu (làm ma đến bảy kiếp). Chữ nhật chữ điền: đường kẻ trên bàn cờ thành những ô hình vuông, hình chữ nhật. Lộc nhĩ điền: hoa lợi ruộng đất (nhĩ điền: ruộng của anh). Tịch cốc: nhịn cơm, ý nói: khi nhịn cơm thì ăn khoai. Triêng: tiếng địa phương, nghĩa là gánh. Mỏng lưng: ít vốn. Ý dã: sách thuốc có câu: y giả, ý dã, làm thuốc là lấy ý mà đoán bệnh. Thầy bà: thầy đồng, bà cốt. Dũng như: các thầy cúng thường niệm câu chú: cấp cấp như tuân lệnh, chắc là “cấp như” mà chép sai. Pháp chủ: thầy phù thủy cao tay. Dã hạc: tên sách nói về bói toán. Huyệt chân long: huyệt rồng, ngôi đất có rồng chầu, phát đế vương (danh từ các thầy địa lý thường dùng). Chộ: tiếng địa phương, nghĩa là thấy. Nghề đỏ: nghề buôn bán phát tài. Rước gánh: đi đón gánh giùm cho những người đi chợ xa về; ở đây có nghĩa bị cướp, mất gánh. Sẵn lưng: sẵn vốn. Thổ: tiếng địa phương, nghĩa là nơi. Dạm không ra thổ: tìm không được chỗ cho vay. Gấp khúc lươn: như lươn cuộn khúc, ý nói gặp khó. “Anh hùng mà gấp khúc lươn, khi cuộn thì ngắn khi vươn thì dài” (ca dao). Mượn mõ: vay mượn. Niên chung nguyệt quý: năm cùng tháng tận, tức là ngày tết. Thân thỉ: năn nỉ, van nài. Ngồi trì: ngồi dai, không chịu về. Cơ tắc: sơ đắc đạo, đói thì... ăn trộm. Cùng tư: do chữ tiểu nhân cùng tư lạm: kẻ tiểu nhân cùng thì làm bậy. Lạc đạo vong bần: vui đạo quên nghèo. Vi nhân bất phú: làm điều nhân thì không giàu. Tất do thiên: lấy ở câu: phú quý tất do thiên mệnh: giàu sang là do mệnh trời. Hữu kỳ đức: lấy ở câu: hữu kỳ đức tất hữu kỳ phận: có đức ắt có phần. Phận ngưu bản trúc: chăn trâu, đắp đất. Ông Phó: Phó Duyệt, người đời Thương, lúc nghèo phải đi gánh đất làm thuê, sau làm tướng giúp vua Bàn Canh sửa sang việc nước. Ông Hề: Bách Lý Hề, người đời Chiến Quốc, lúc nghèo đi ở chăn trâu, sau làm tướng giúp Tần Công làm nên nghiệp bá. Tạc bích, tụ huỳnh: xoi vách, nhặt đom đóm. Chàng Khuông: Khuông Hành đời Hán, nhà nghèo ham học, không có đèn, phải xoi vách cho ánh sáng nhà bên cạnh chiếu sang mà đọc sách. Chàng Võ: Võ tử, tức Xa Dận, người đời Tấn, nhà nghèo không có đèn, phải bắt đom đóm bỏ vào túi cho có ánh sáng mà học. Quốc sĩ: người giỏi của một nước. Quốc sĩ Hoài Âm: chỉ Hàn Tín, người đất Hoài Âm, lúc nghèo khổ thường câu cá ở dưới thành đem ra bán ở chợ, không đủ nuôi thân, phải xin cơm ăn, bị người ngoài chợ làm 135
nhục mà vẫn chịu nhịn, về sau làm đại tướng giúp Bái công (Lưu Bang) dựng cơ nghiệp nhà Hán. Mưu thần Dương Võ: chỉ Trần Bình, người đất Dương Võ, lúc nghèo làm mõ chia phần làng, về sau làm mưu thần cho Bái công, đồng thời với Hàn Tín. Mãi Thần: Chu Mãi Thần, người đời Hán, nhà nghèo mà ham học, về sau làm nên giàu sang. Mông Chính: Lã Mông Chính, người đời Tống, cũng thế. Vương Khải, Thạch Sùng: hai người giàu có, về sau nhà tan cửa nát, tục truyền Thạch Sùng chết hóa thành con mối cứ nghiến răng vì tiếc của. Thủ tài chi lỗ: đứa mọi giữ của. (T2) Chuyện đời mây nổi hỏi làm gì, nghìn vàng hết sạch rồi lại có. (T3) Phẩm đề: bình phẩm, “phẩm đề xin một vài lời thêm hoa” (Kiều). Câu nguyệt lộ: cây thơ tả trăng và sương. Chung: chén uống rượu. Tiêu sái: phóng khoáng, thanh cao. Cuộc yên hà: cuộc sống thanh nhàn ở chỗ sông núi. Tứ đàn thanh tao, nước cờ sáng suốt, câu thơ thích thú, chén rượu nồng. Chung: cái thùng đựng lương, giá muôn chung là rất giá trị. Ðài các: lịch sự, phong lưu. (T4) Tế suy vật lý tu hành lạc, an dụng phù danh bạn thử thân: Xét cho kỹ thì ở đời cũng nên vui chơi, sao nỡ để công danh bó buộc thân mình. “Vật lý” là lẽ của sự vật, lẽ đời. (T5) C. 1, 2: Vua giỏi và tướng tài gặp nhau dễ, trai tài và gái sắc gặp nhau khó. C. 5,6: Người gẩy đàn tỳ bà may mắn mới gặp ông Tư mã Giang Châu (xem bài Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị). Quân tử là người đa tình nên lòng thương xót càng sâu sắc. Băng sơn quế hải: những chỗ xa xôi. Châu Trần: tên một thôn ở Trung Quốc ngày trước ở đó có hai họ Châu, Trần đời đời làm thông gia với nhau, thường dùng để chỉ việc kết hôn xứng đôi đẹp lứa: “Thực là tài tử giai nhân, Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn” (Kiều). Anh hùng hà xứ bất giang sơn: đối với người anh hùng ở đâu cũng là giang sơn. (T7) C. 1: Lúc nhàn ngủ dậy mặt trời đã lên cao ba con sào. C. 5, 6: Hát hay, đàn ngọt (thơ bạch tuyết giọng cao như oanh yến liệng), nhạc quân thiều tiếng vang như trống chiêng kêu. Hà nhật bất xuân phong: ngày nào mà không mát như có gió xuân. Xôi kinh rồi đánh miếng đỉnh chung: chăm học (xôi kinh nấu sử) rồi hưởng phú quý. “Bẻ quế thiềm cung”: thi đỗ, “thiềm cung” là cung trăng, “Những mong bẻ quế nên danh, mà đền công dưỡng sinh thành hai thân” (Phạm Tải Ngọc Hoa). Mặt trăng là đàn, tiếng sấm là trống. (T10) C. 5, 6: Người ở trên đời ai không có nghề, cốt được tấm lòng son lưu truyền sử xanh. (T11) Hôi tanh: chỉ đồng tiền có mùi tanh đồng. Tạo vật bất thị vô để sự: tạo vật vốn không phải không làm được việc gì (nói mỉa). Bòn chài: thu nhặt từng li từng tí, ở đây nghĩa là tìm ra được. Ðủ vuông, tròn...: tả đồng tiền hình tròn, có một lỗ vuông ở giữa. Tượng là tượng trưng; hình tròn tượng trưng trời, hình vuông tượng trưng đất. Khẳm họa phúc, yên nguy, tử hoạt: khẳm là đủ; tử hoạt là chết và sống; cả câu ý nói: đồng tiền có một sức mạnh ghê gớm, định đoạt vận mệnh con người. Kim môn, tử thất: cửa vàng, nhà tía, ý nói nơi quyền quý sang trọng. Mặc phao tuồng...: phao tuồng là lộng hành, phòng nhàn là cấm đoán, ý nói đồng tiền có thể ra vào tự do (ở những nơi quyền quý). 136
Yêm yêm: suy yếu, rã rời. Trầm mai: chìm mất, chìm nghỉm. Sừng gạc: có sừng có gạc, ý nói mạnh mẽ, có thể chống lại kẻ thù. Dốc đáy túi...: Lấy tích Nguyễn Phu đời Tấn đi đến một đô thị lớn mà trong túi chỉ có một đồng tiền nên bẽn lẽn, ngơ ngác. Trổng đầu giường...: Ðầu giường tiền hết, tráng sĩ mất vẻ vui tươi (do câu chữ Hán: Sàng đầu kim tận, tráng sĩ vô nhan). Ðoàn ấm á: bọn người thay chủ đến nợ đòi tiền. Khả quái tầm thường a đổ vật: lạ thay cho cái vật tầm thường ấy, lấy tích Vương Di Phủ đời Tấn khinh tiền, không bao giờ nói đến tiếng “tiền”: một hôm, ông ngủ, người nhà chất tiền quanh giường ông nằm để thử xem lúc thức dậy, ông có phải nói đến tiền hay không. Quả nhiên, lúc dậy, ông hết sức ngạc nhiên, nhưng chỉ bảo người nhà sao không cất “cái vật tầm thường” ấy đi, chứ không nói đến tiếng “tiền”. Khước giao đáo để đại thần linh: nhưng sao lại thiêng liêng đến thế. Ðương đồ: đang trên đường đi, tức là đang sống. Gia huynh: anh, cũng như tiếng “ngươi” tiếng “gã” ở trên, đều chỉ đồng tiền. Thù thế: tiếp đãi với người đời. Thần cũng thông: lấy tích Trương Diên Thưởng đời Ðường xử án: người bị tội hối lộ ông bốn vạn quan tiền, ông không nhận, sau hối lộ mười vạn quan, ông bảo nha thuộc thôi không tra án nữa, người ta hỏi, ông đáp: “Tiền đến mười vạn, thần cũng phải thông”. Long đồ: tức Bao Chứng (cũng gọi là Bao Công) người đời Tống làm chức Long đồ các học sĩ, xét án sáng suốt công minh, nhưng có lúc cũng muốn lấy tiền cho yên chuyện. (T12) Kiểng: Cảnh. “Câu kiểng” là câu thơ vịnh cảnh. C. 7, 8: hai câu thơ của Trình Tử, nghĩa là “Ðạo thông ra ngoài các vật có hình trong trời đất, tứ vui nào khắp những trạng thái thay đổi của gió mây”. “Tri ngã giả, bất tri ngã giả: Kẻ biết ta hay kẻ không biết ta. “Linh khâm bảo hợp thái hòa”: Trong lòng luôn luôn giữ được thư thái. “Ngang tàng lạc ngã tính thiên”: Không kiềm chế cái tính tự nhiên của ta. (T13) C. 1, 2: Chợ trước cửa thì ồn ào, trăng soi trước cửa thì thanh nhàn. Bầu nhân dục: lòng dục vọng của con người. C. 13, 14: Biết đủ thì đủ, đợi đủ khi nào cho đủ. Biết nhàn thì nhàn, đợi nhàn bao giờ cho nhàn. C. 17, 18: Chỗ ta ngồi ngày nay, người xưa đã ngồi trước ta rồi. C. 21, 22: Tô là Tô Ðông Pha, tác giả hai bài phú Tiền Xích Bích và Hậu Xích Bích tả tâm tình của nhà thơ khi bị biếm. (T14) C. 5: Những việc đã qua không cần nói nữa. (T15) C. 5, 6: Hoa lê ngồi áp đóa hải đường, hoa lê trắng chỉ người chồng tóc bạc, đóa hải đường chỉ người vợ trẻ. C. 7, 8: Người vợ mới muốn hỏi ông chồng bao nhiêu tuổi, trước đây 50 năm thì 23 tuổi (tức bây giờ 73). Vam: ăn khớp (tiếng địa phương). Lão Trần tức Trần Tu, đời Lê 73 tuổi đỗ tiến sĩ, vua gả cho vị công chúa 17 tuổi.
Huy Cận - Cảm xúc không gian Mênh mông... rét thế 137
Cảm nghe từ ngày thơ bé Mênh mông dần dần thôi rét Nhờ nhà thơ dần dần “sống đúng” Nguyễn Du bảo: “Có tài mà cậy chi tài...”. Huy Cận là một ngoại lệ của thuyết tài mệnh tương đố. Vì rõ ràng ông có tài, thế mà không nghe ai nói ông gặp cái “tai” nào đáng kể trong đời. Trên hoạn lộ, mới 26 tuổi ông đã làm bộ trưởng rồi sau đó lúc nào cũng quyền cao chức trọng chứ không hề bị nếm mùi “hoạn hải ba đào” liên miên như Nguyễn Công Trứ. Uy Viễn tướng công có lần bị xử “trảm giam hậu”, suýt nữa bay đầu! Trên “thi lộ”, sau khi tập thơ đầu tay - tức Lửa thiêng - xuất bản ông được gần đồng thanh mời ngay vào chiếu nhất để cứ thế nghiễm nhiên an tọa như một hào mục trong làng thơ Việt Nam cho đến ngày nằm xuống! (Nói “gần đồng thanh” vì Vũ Ngọc Phan bấy giờ đánh giá “Huy Cận chỉ mới là một nhà thơ có những vần thơ đẹp.”(1) Chao ơi nhầm, cụ Vũ!) Ám ảnh vũ trụ trong thơ Huy Cận đã lồ lộ ngay từ Lửa thiêng (1940). Mênh mông... rét thế Thi sĩ trẻ biết nội dung thơ mình có chỗ rất khác thường, nhưng không hề rụt rè về chỗ khác ấy. Ðâu đó thời Lửa thiêng xuất bản, ông có đăng câu thơ sau đây mà Xuân Diệu còn nhớ: “Cõi đời cúi mặt quên xa biếc”. Sau khi Lửa thiêng ra đời, được đón nhận nồng nhiệt, Huy Cận cho in tiếp tập văn xuôi Kinh cầu tự (1942) để trình bày rõ hơn về tư tưởng trong thơ. Ðọc Kinh, ta thấy cái ý ngửng lên “xa biếc” được nhấn mạnh: “Trong cuộc sống chỉ thấy có cảnh đời (...) Khổng Tử nhát gan hẳn chứ! không dám ngước mắt lên trời, sợ ngợp. ... Hãy hiểu cho xong cái lẽ người. Ðấy, vì vậy mà mất hẳn cái ý niệm về số kiếp của mỗi người; và tâm hồn đã héo hắt võ vàng.”(2) Thế, kẻ nhìn vượt quá cảnh đời, bạo gan hơn Khổng Tử, dám ngước mắt lên 138
trời, không sợ ngợp, không thèm hiểu cho xong cái lẽ người, kẻ ấy thấy gì? Thoạt tiên là không thấy gì cả. Chỉ mênh mông xanh, mênh mông trắng, mênh mông đen. Càng nhìn, càng lồng lộng càng hun hút càng thăm thẳm. Kẻ “chỉ ở trong không gian”(3) dần thấy... lạnh: “Mưa giong buồn sợi xuống lơi lơi, Lạnh của không gian thấm xuống người.” Mưa, nhất là mưa đêm, chúa chở rét: “Ðêm mưa làm nhớ không gian, Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la...” Cái rét bao la, lơi lơi vậy mà thấm thía. “Chiếc linh hồn nhỏ” kêu lên: “Ðời lạnh thế, mình em sao chịu nổi.” Run cầm cập, nên tình cờ chứng kiến cảnh buông xuôi bèn miên man tưởng tượng: “Ai chết đó? Trục xoay và bánh đẩy, Xe tang đi về tận thế giới nào? (...) Ðường sá lạ thôi lạnh lùng biết mấy!” rồi lên tiếng van nài: “Không gian ôi, xin hẹp bớt mông mênh.” Nhưng vô ích. Kết cuộc bao giờ cũng thế và “nỗi rét” luôn còn nguyên vẹn: “Lạnh lùng biết mấy tấm thân xương! (...) Xương cọ vào xương bớt nỗi hàn?” Cái lạnh dường như là đầu của gần mọi mối trong Lửa thiêng, là nguyên do cần “lửa thiêng”. Những thứ trái kỳ dị như “trái sầu”, và có lẽ cả những loại bình lạ lùng như “bình tội lỗi”, e cũng đều tự cái lạnh tỏa xuống từ “xa biếc” mà ra cả. 139
Cảm nghe từ ngày thơ bé Theo Xuân Diệu, “mênh mông bao giờ cũng buồn” mà “Huy Cận thì quá cảm nghe cái mênh mông”.(4) Tại sao “thì”? Lần dở Hồi ký... Tuổi nhỏ... “Ôi những trưa hè trời xanh ngắt, vắng bóng mây, hai chú cháu chạy (thả diều) giữa cánh đồng rộng hay trên bãi cát dài ven sông! Có phải đó là những cảm giác không gian đầu tiên, cảm giác bát ngát về sau nó nhập vào thơ tôi thành một thứ ám ảnh, thành một hơi thở tự nhiên trong các bài thơ, cái hơi thở của bát ngát, của mênh mông, của trời đất.” Trời cao đồng rộng bãi dài gây cảm giác không gian. Rồi bóng núi Mồng Ga sớm phủ xuống xóm làng cũng gây cảm giác không gian. Rồi một bầy ong “trại” (bỏ tổ) cũng tác động hết sức mạnh mẽ lên tâm hồn đặc biệt nhậy cảm của người thiếu niên: “Ong trại! trời ơi, một mảnh hồn Của nhà bay vút bỏ sơn thôn.” Huy Cận hồi tưởng: “... ý thơ vũ trụ, cái xa xôi vắng vẻ sau này ám ảnh tôi, ngày thơ bé tôi đã nghe rồi, mỗi lần ong trại.”(5) Tất cả những cái mà “tôi” thấy ở quê tôi dĩ nhiên tất cả mọi người xung quanh cũng đều thấy. Nhưng mọi người thấy mà không ai “cảm nghe” như tôi. Chỉ tôi mới cảm nghe được cái mênh mông của vũ trụ, để mà buồn, mà run cầm cập! Trong cuốn tiểu luận về sự nghiệp thơ của người bạn tâm giao, Xuân Diệu khẳng định: “Mạch rung cảm lớn trong 50 năm thơ Huy Cận: những rung cảm vũ trụ”, “Vũ trụ (...) giăng trong suốt cả thơ Huy Cận.”(6) Như trong có lẽ đa số trường hợp, ở đây cái ám ảnh “giăng” suốt một sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật thành công đã xuất hiện từ lúc người nghệ sĩ còn chưa trưởng thành. Cụ thể, cái “mạch rung cảm” độc đáo giúp làm nên thi nghiệp Huy Cận, mạch ấy đã được khơi nguồn bằng những hình ảnh cái bé giữa cái lớn, như người giữa đồng rộng bãi dài, xóm làng trong bóng núi, hay cái rất bé giữa cái rất lớn, như cánh diều bay tít trời xa, bầy ong bay vút trời gần... 140
Mênh mông dần dần thôi rét Huy Cận làm thơ trên một bối cảnh lịch sử hết sức đặc biệt. Giữa bể dâu dồn dập mà vẫn giữ được bình thản để tiếp tục “vũ trụ thi”(7), nhà thơ thực may mắn quá. Không gian mênh mông bất biến, nhưng cảm xúc không gian của Huy Cận có “biến”. Sau Lửa thiêng, nhà thơ bắt đầu làm một số “vũ trụ ca” vui. Sau Cách mạng, toàn vui! Hãy bàn ngay đến những sáng tác từ 1945. Trước tiên để ý lịch sinh hoạt mới khiến thi sĩ phải tìm thi hứng chủ yếu về đêm (8), nên trong thơ bây giờ sao nhiều chi chít. Nào “Ta ngồi mảnh sáng giữa đêm khuya Vở hết trang rồi, viết đến bìa Nhìn thẳm ra đêm trang vũ trụ Chữ vàng sao rụng ném thia lia.” Nào “Mở cửa trông; sao sáng từng bầy Như xúm xít uống những hồ leo lẻo Trong những đáy trời xa vạn nẻo. Có những đêm gió dậy thình lình Như sự sống bỗng dài thêm kích thước Như cuộn thước tròn bỗng mở đo xa...” Nào “Ðậu cành vũ trụ hoa đêm Chùm sao vũ trụ có thêm bồi hồi? Giữa mùa tình tự sao ơi, Gió đi gió đến tuyệt vời cánh mây Có chi náo nức trải bày Mà sinh ra gió đêm ngày trở trăn?” Nào “Ðêm lạnh tầng xanh đón gió cao Gió là mối lái giữa trăng sao 141
Ai trong thăm thẳm treo cầu gió Cho nỗi niềm xa đến với nhau.” Ðọc kỹ những đoạn thơ trên, ta chợt nhận ra, ngoài sao, còn có gió, thật nhiều gió. Gió gọi bên ngoài: “Ai gọi ngoài kia, gió hay đêm, Ai khua bên cửa, đến bên thềm? Lòng ôi hãy dậy cùng trời đất, Không thể nằm yên, hết ngủ êm.” Gió thức bên trong: “Có những đêm gió dậy thình lình Như chợt thức một niềm chi xao xuyến (...) ... Có phải thân ta có một bề hoa lá Và một bề gió thổi không ngưng...” Dĩ nhiên đây không phải gió Lào gió Miên chi cả, mà gió ngoài vũ trụ, gió giữa trăng sao! Xuân Diệu có để ý và tìm cách giải mã tín hiệu lạ lùng trong thơ bạn: “phải chăng vũ trụ có (...) nỗi niềm (...) mượn gió (...) để hé ra chút ít bí mật? Gió (...) như nêu vấn đề, như nhắc vấn đề (...) gió khiến (...) không gian rộng xa hơn nữa (...) Gió chỉ có trong khí quyển của Trái đất (...) nhưng trong cảm xúc (...) của chúng ta gió là liên lạc giữa (...) ta và (...) vũ trụ.”(9) Thực khó hiểu. Chỉ biết thứ gió “giao liên” như thế khi thì “Có những ban mai ta với ta Thoáng từ vũ trụ gió vô nhà” khi lại “Thật lạ lùng ngọn gió Như bay tự hồn ta”! Vẫn Xuân Diệu kiên nhẫn giải thích: “gió là động tác, tức là thời gian”.(10) Có phải gió thay mưa, vốn từng giữ nhịp cho Lửa thiêng? Dù sao, mưa xưa rét lắm, còn gió nay thì không rét. 142
Vũ trụ trước sau lúc nào cũng thế, chuyện gì đã xảy đến với đời mình khiến thi sĩ bỗng dần bớt, rồi rút cuộc thôi hẳn những lời than rét?... Nhờ nhà thơ dần dần “sống đúng” Tìm hiểu Huy Cận, chi bằng lắng chính lời Huy Cận: “Sự nhạy cảm với nhịp tuần hoàn trong vũ trụ là một chỉ số về sự khỏe khoắn (...) của tâm hồn (...) cần thiết (...) để giữ thế cân bằng giữa cơ thể nhỏ của bản thân ta và cơ thể lớn là toàn bộ thiên nhiên, trời đất...”(11) Thiết tưởng trường hợp tâm hồn nghệ sĩ lớn ấy thì “chỉ số” lúc nào cũng rất cao, “thế cân bằng” giữa Nhỏ và Lớn bao giờ cũng rất bền. Tại sao độ “nhạy cảm với nhịp tuần hoàn trong vũ trụ” không thay đổi, mà trước rét run cầm cập sau thấy đời ấm ran? Huy Cận giải thích: “Con người sống trong vũ trụ và sống trong xã hội. Sống với vũ trụ và sống với xã hội (...) Sống đúng trong xã hội, ta không còn cảm thấy cô đơn trong vũ trụ bao la (...) ta (...) không còn choáng ngợp, không còn run chân”.(12) Không phải bất cứ ai cũng thấy mình “sống đúng trong xã hội”. Ðã nói một người “số đỏ”! Chân thôi run, hồn thôi choáng ngợp, thì cái cảm nghe cũng trở nên khác: “Mỗi lần đi dọc bờ biển, ta lại có một xao động kỳ lạ trong người: nửa thấy đời đang tiếp tục nảy sinh, dạt dào, vô tận; nửa lại thấy như sự sống đã cổ, đã vững chãi, yên đằm. Ta đi trên biên giới của cái biến đổi và cái định hình (...) Cảm giác Biển và cảm giác Ðất hòa lẫn trong nhịp thở, trong nhịp máu của ta”.(13) Này, có phải thơ vũ trụ của Huy Cận bây giờ chẳng những không “run chân” mà có lúc còn như muốn “hí” muốn “chồm”: “Sóng trắng bờm phi hí gió mai Mây bay tới tấp ngộp chân trời Phải chăng vũ trụ thừa dư sức Thỉnh thoảng chồm lên như trẻ chơi.” Ðã xa lắm rồi cái thời tiền chiến, khi người thi sĩ trẻ trong đêm mưa “trở nghiêng gối mộng, hững hờ nằm nghe” “... ta buồn buồn”. Bây giờ, đêm đêm nhà thơ trung niên “nhìn thẳm ra đêm trang vũ trụ”, trông sao 143
mà thấy... tăm rượu: “Rượu nào bát ngát sủi tăm Ngất ngây vũ trụ, ru trầm thời gian”! Bể dâu của một đời người, sao mà có hậu. Nhưng ở đây tưởng bất cứ ai yêu thơ cũng đều gặp may. Vì dù trước hay sau, “rét” hay không, “run chân” hay “thỉnh thoảng chồm lên”, thì những bài ca vũ trụ của Huy Cận vẫn độc đáo tuyệt vời. _____________________ (1) Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, quyển ba, tr. 791. (2) VNP, sđd., quyển ba, tr. 789. (3) Trong lời tựa cho Lửa thiêng, do Xuân Diệu viết. (4) Xuân Diệu, Thế giới thơ Huy Cận, nxb. Trẻ, VN, 1987. (5) Huy Cận, Hồi ký song đôi - Tuổi nhỏ Huy Cận, Xuân Diệu, nxb. Hội Nhà Văn, VN, 2002, tr. 32. (6) XD, sđd., tr. 21. (7) HC có tập thơ nhan đề Vũ trụ ca, chưa xuất bản. (8) XD, sđd., tr. 113-114. (9) XD, sđd., tr. 115. (10) Huy Cận, dẫn theo XD, sđd., tr. 109-110. (11) Tuyển tập Huy Cận II - Thơ và văn xuôi. (12) HC, dẫn theo XD, sđd., tr. 93.
Nguyễn Gia Thiều Cung oán: tổng quan tác phẩm - Trước hay sau Chinh phụ? - Khác Chinh phụ thế nào? - Tại sao không nổi tiếng bằng Chinh phụ? - Giá trị nghệ thuật và chỗ đứng trong văn học sử Cung oán: cảm nhận từng đoạn - Thương quá mình ơi - Tây Thi mất vía - Nghĩ thân phù thế - Ðêm ấy đêm gì - Khi chi chút trên tay - Lúc thờ ơ nhạt nhẽo 144
- Bi thương sực nức - Thèm miếng rau dưa - Cười nên tiếng khóc - Than hờn nhớ trách - Buồn gần, lo xa...
TỔNG QUAN TÁC PHẨM Trước hay sau Chinh phụ? Cung oán do Nguyễn Gia Thiều (1741-1798) sáng tác bằng tiếng Việt. Còn Chinh phụ đây là một bản diễn nôm từ nguyên tác Hán văn của Ðặng Trần Côn. Khúc ngâm nào ra đời trước là chuyện chưa ai biết chắc, vì có hai ý kiến khác nhau về tác giả đích thực của bản Chinh phụ diễn nôm phổ biến rộng rãi. Nếu cho rằng tác giả là Ðoàn Thị Ðiểm (1705-1748) thì hiển nhiên Chinh phụ viết trước Cung oán. Còn nếu cho rằng tác giả là Phan Huy Ích (1751-1822) thì có lẽ Cung oán viết trước Chinh phụ. Khác Chinh phụ thế nào? Hai thi phẩm đều viết theo thể song thất lục bát, và theo Phạm Thế Ngũ (trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên) thì đều có bố cục đại khái như một bài phú. Mấy chỗ khác nhau là: Về từ ngữ, hình như Cung oán dùng nhiều từ Hán và điển cố Tàu hơn. Về văn phong, vẫn theo Phạm Thế Ngũ Cung oán như một bản nhạc căng, một bức tranh màu tối trong khi Chinh phụ là nhạc êm tranh sáng. Về nội dung, Cung oán có chứa tâm sự tác giả trong khi Chinh phụ thuần túy về người khác. Tại sao không nổi tiếng bằng Chinh phụ? Cung oán diễn cái tâm trạng oán trách tuyệt vọng của một cung nữ thất sủng. Hình như cung nữ thì phải “quậy” ác như Ðắc Kỷ, Bao Tự, Dương Quý Phi, Đặng Thị Huệ v.v. mới được số đông chú ý. Cung oán còn là “quan oán”, trong khúc ngâm cái tâm trạng của một ông quan hoạn lộ trắc trở nó hiện luôn ra thành một đoạn triết lý dằng dặc. Triết nhân sinh thật thấm thía đấy, nhưng mấy ai là quan nên nỗi lòng của quan khó lôi cuốn quan tâm rộng rãi... 145
Nghệ phẩm thành công ruột sao vỏ vậy. Đây oán và oán hiện ra thành lời có giọng buồn bã “khó chịu” (!). Đã thế, lại rất cầu kỳ khó hiểu. Hẳn chưa viết xong, Nguyễn Gia Thiều đã thừa biết tuyệt tác của mình rồi chỉ một thiểu số sẽ ngâm nga... Chinh phụ diễn tâm trạng nhớ mong hy vọng rất bình thường của một người vợ chờ chồng chinh chiến, là tâm trạng hết sức dễ chia xẻ. Lời cũng có giọng buồn, nhưng nghe dễ chịu. Mà lại nói chung tương đối dễ hiểu. Nên có đông người thưởng thức là lẽ tự nhiên. Giá trị nghệ thuật và chỗ đứng trong văn học sử Tiếng Việt trong Cung oán lắm chỗ cực kỳ già dặn, tài tình! Suốt bốn thế kỷ 15, 16, 17, 18, trong hoàn cảnh bất lợi là thái độ trọng Hán khinh Việt của đa số trí thức Việt (!), văn chương bác học tiếng Việt vẫn phát triển mạnh mẽ để đến thế kỷ 18 thì bắt đầu “kết” được những cái “quả” thật xuất sắc. Trong số trái cây chín đầu mùa, “ngon” nhất là hai khúc ngâm Cung oán và Chinh phụ. Cung oán và Chinh phụ như âm và dương, tuy tương phản nhưng không tương khắc mà bổ túc nhau, cùng nhau làm cặp quả tuyệt vời báo trước một “mùa cổ điển” vô cùng rực rỡ trong lịch sử thi ca Việt Nam! CẢM NHẬN TỪNG ÐOẠN Từ cảm nhận riêng, chúng tôi chia Cung oán ngâm khúc thành 11 đoạn như sau. Thương quá mình ơi Cái tâm sự người cung nữ mất lòng yêu của vua, hình như bên Tàu chỉ hiện ra thành mấy bài thơ ngắn, chẳng hạn bài Hậu Cung Từ của Bạch Cư Dị, bài Cố Hành Cung của Nguyên Chẩn. Bên ta vua chúa không lắm cung nữ như bên Tàu, thế mà lại có hẳn một tác phẩm trường thiên về nội dung ấy. “Nghĩ mình mình lại thêm thương nỗi mình”... Tác giả có đồng cảm sâu sắc với nhân vật mới viết nên lời gợi cảm. 146
Nguyễn Gia Thiều dòng dõi đại quý tộc vậy mà..., vậy nên có phải cứ hễ là con vua cháu chúa thì không đáng thương đâu. Trải vách quế gió vàng hiu hắt (1) Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng Oán chi những khách tiêu phòng Mà xui phận bạc nằm trong má đào. Duyên đã may cớ sao lại rủi (5) Nghĩ nguồn cơn dở dói sao đang Vì đâu nên nỗi dở dang Nghĩ mình mình lại thêm thương nỗi mình. Tây Thi mất vía Người đâu mà đẹp thế! Ðến nỗi cá lặn chim sa, hoa ngơ trăng ngẩn, người đẹp khác sững sờ. Ðẹp mà không tượng, mà vô cùng gợi cảm, đến nỗi “cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa”! Trách nào mới nghe tin gió, bướm ong đã đùng đùng phát bệnh... dê! Tiếng đã “vang lừng trong nước”, nhưng người thì vẫn náu kỹ trong buồng: “Thâm khuê còn giấm mùi hương khuynh thành”. Bao khách công hầu gấm ghé, vô ích! Vì hương kia đã bay tận mũi một người... Trộm nhớ thủa gây hình tạo hóa (9) Vẻ phù dung một đóa khoe tươi Nhụy hoa chưa mỉm miệng cười Gấm nàng Ban đã nhạt mùi thu dung. Áng Ðào Kiển đâm bông não chúng (13) Khóe thu ba dợn sóng khuynh thành Bóng gương lấp loáng dưới mành Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa! Chìm đáy nước, cá lờ đờ lặn (17) Lửng da trời, nhạn ngẩn ngơ sa Hương trời đắm nguyệt say hoa Tây Thi mất vía Hằng Nga giật mình. Câu cẩm tú đàn anh họ Lý (21) Nét đan thanh bậc chị chàng Vương 147
Cờ tiên rượu thánh ai đang Lưu Linh Ðế Thích là làng tri âm. Cầm điếm nguyệt phỏng tầm Tư mã (25) Ðịch lầu thu đọ gã Tiêu lang Dẫu mà tay múa miệng xang Thiên tiên cũng ngảnh Nghê Thường trong trăng. Tài sắc đã vang lừng trong nước (29) Bướm ong càng xao xác ngoài hiên Tai nghe nhưng mắt chưa nhìn Bệnh Tề Tuyên đã nổi lên đùng đùng. Hoa xuân nọ, còn phong nộn nhụy (33) Nguyệt thu kia, chưa hé hàn quang Hồng lâu còn khóa then sương Thâm khuê còn giấm mùi hương khuynh thành. Làng cung kiếm rắp ranh bắn sẻ (37) Khách công hầu gấm ghé mong sao Vườn xuân bướm hãy còn rào Thấy hoa mà chẳng lối vào tìm hương. Gan chẳng đá khôn đường há chuyển (41) Mặt phàm kia dễ đến Thiên Thai Hương trời sá động trần ai Dẫu vàng nghìn lạng dễ cười một khi. Nghĩ thân phù thế Cái đoạn sau đây chứa nhiều câu thường được trích dẫn nhất trong Cung oán ngâm khúc. Dẫn là đúng quá, vì những câu ấy hay tuyệt. Chẳng hạn: “Gót danh lợi bùn pha sắc xám Mặt phong trần nắng nám mùi dâu Nghĩ thân phù thế mà đau Bọt trong bể khổ bèo đầu bến mê”, “Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ Quán thu phong đứng rũ tà huy Phong trần đến cả sơn khê 148
Tang thương đến cả hoa kia cỏ này”. Cầu kỳ, mà không khô khan. Ðiêu luyện, mà sáng tạo! Thơ đã đẹp, lại thơm, thơm phức mùi... dâu.(1) Xưa kia hễ đã nếm nhiều nhiều dâu bể tang thương, người Việt Nam hay hướng về cửa thiền... Tiểu sử Nguyễn Gia Thiều sơ lược, nhưng cũng đủ để biết tuy là cháu ngoại chúa Trịnh hoạn lộ của ông không suông sẻ lắm ngay từ khi còn chúa, rồi đến khi Tây Sơn lấy Bắc hà thì bế tắc luôn vì ông không ra hợp tác. Cái sự bất như ý của một người, có khi nó có lợi cho văn học không biết bao nhiêu! Ngẫm nhân sự cớ chi ra thế (45) Sợi xích thằng chi để vướng chân Vắt tay nằm nghĩ cơ trần Nước dương muốn rảy nguội dần lửa duyên. Kìa thế cục như in giấc mộng (49) Máy huyền vi mở đóng khôn lường Vẻ chi ăn uống sự thường Cũng còn tiền định khá thương lọ là. Ðòi những kẻ thiên ma bách chiết (53) Hình thì còn bụng chết đòi nau Thảo nào khi mới chôn nhau Ðã mang tiếng khóc bưng đầu mà ra. Khóc vì nỗi thiết tha sự thế (57) Ai bày trò bãi bể nương dâu Trắng răng đến thủa bạc đầu Tử sinh kinh cụ làm nau mấy lần? Cuộc thành bại hầu cằn mái tóc (61) Lớp cùng thông như đốt buồng gan Bệnh trần đòi đoạn tâm can Lửa cơ đốt ruột dao hàn cắt da. Gót danh lợi bùn pha sắc xám (65) Mặt phong trần nắng nám mùi dâu Nghĩ thân phù thế mà đau Bọt trong bể khổ bèo đầu bến mê. 149
Mùi tục vị lưỡi tê tân khổ (69) Ðường thế đồ gót rỗ khi khu Sóng cồn cửa bể nhấp nhô Chiếc thuyền bào ảnh lô xô gập ghềnh. Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán (73) Chết đuối người trên cạn mà chơi Lò cừ nung nấu sự đời Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương. Ðền vũ tạ nhện giăng cửa mốc (77) Thú ca lâu dế khóc canh dài Ðất bằng bỗng rấp chông gai Ai đem nhân ảnh nhuốm mùi tà dương. Mùi phú quí nhử làng xa mã (81) Bả vinh hoa lừa gã công khanh Giấc Nam Kha khéo bất tình Bừng con mắt dậy thấy mình tay không. Sân đào lý giâm lồng man mác (85) Nền đỉnh chung nguyệt gác mơ màng Cánh buồm bể hoạn mênh mang Cái phong ba khéo cợt phường lợi danh. Quyền họa phúc trời tranh mất cả (89) Chút tiện nghi chẳng trả phần ai Cái quay búng sẵn trên trời Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm. Hình mộc thạch vàng kim ố cổ (93) Sắc cầm ngư ủ vũ ê phong Tiêu điều nhân sự đã xong Sơn hà cũng huyễn côn trùng cũng hư. Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ (97) Quán thu phong đứng rũ tà huy Phong trần đến cả sơn khê Tang thương đến cả hoa kia cỏ này. Tuồng huyễn hóa đã bày ra đấy (101) Kiếp phù sinh trông thấy mà đau 150
Trăm năm còn có gì đâu Chẳng qua một nắm cổ khâu xanh rì. Mùi tục lụy dường kia cay đắng (105) Vui chi mà đeo đẳng trần duyên Cái gương nhân sự chiền chiền Liệu thân này với cơ thiền phải nao. Thà mượn thú tiêu dao cửa Phật (109) Mối thất tình quyết dứt cho xong Ða mang chi nữa đèo bòng Vui gì thế sự mà mong nhân tình. Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa (113) Mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên Thoát trần một gót thiên nhiên Cái thân ngoại vật là tiên trong đời. Ý cũng rắp ra ngoài đào chú (117) Quyết lộn vòng phu phụ cho cam Ai ngờ trời chẳng cho làm Quyết đem dây thắm mà giam bông đào. Hẳn túc trái làm sao đây tá (121) Hay tiền nhân hậu quả xưa kia Hay Thiên cung có điều gì Xuống trần mà trả nợ đi cho rồi. Kìa điểu thú là loài vạn vật (125) Dẫu vô tri cũng bắt đèo bòng Có âm dương có vợ chồng Dẫu từ thiên địa cũng vòng phu thê. Ðường tác hợp trời kia giong ruổi (129) Lọt làm sao cho khỏi nhân tình Thôi thôi ngảnh mặt làm thinh Thử xem con tạo gieo mình nơi nao? Ðêm ấy đêm gì Trong đoạn sau đây, người ta hay nhắc hai câu “Cái đêm hôm ấy đêm gì 151
Bóng dương lồng bóng đồ mi chập chùng”. Bóng lồng bóng, “bạo” thực. Nhưng đã thấm gì so với “mây mưa mấy giọt chung tình”! Chẳng những “dâm thư” cổ điển Trung Quốc như Tây Sương ký, Kim Bình Mai chữ nghĩa rụt rè hơn, mà ngay văn chương “hậu hiện đại” thế kỷ 21 hình như cũng không thường “giọt” kia “giọt” nọ... Dĩ nhiên chỉ bạo không thôi thì có gì hay. Ðây thơ vừa bạo vừa hay. Tay Nguyệt lão khờ sao có một (133) Bỗng tơ tình vướng gót cung phi Cái đêm hôm ấy đêm gì Bóng dương lồng bóng đồ my chập chùng. Khoa thược dược mơ mòng thụy vũ (137) Ðóa hải đường thức ngủ xuân tiêu Cành xuân hoa chúm chím chào Gió đông thôi đã cợt đào ghẹo mai. Xiêm nghê nọ tả tơi trước gió (141) Áo vũ kia lấp ló trông trăng Sanh ca mấy khúc vang lừng Cái thân Tây Tử lên chừng điện Tô. Ðệm hồng thúy thơm tho mùi xạ (145) Bóng bội hoàn lấp ló trăng thanh Mây mưa mấy giọt chung tình Ðình Trầm Hương khóa một cành mẫu đơn. Khi chi chút trên tay Ðã đẹp ơi là đẹp, lại còn chịu khó nín cười, “nhăn mày liễu”, “nhíu gót sen”, “uốn éo thân”, còn đàn địch nỉ non thánh thót nữa, thì bảo sao Chí Tôn khỏi “tê tái lòng”! “Ðóa lê ngon mắt cửu trùng” quá, nên “Cửu” đã cho “bóng dương lồng bóng đồ my” không biết mấy lần rồi. Lồng đi lồng lại, mà vẫn “không thuốc mà say”... Say rồi chỉ chim chỉ cây mà thề. Nhưng “má hồng” chớ khá cả tin lời thốt của người được đều đều dưng lê mới! 152
Tiếng thánh thót cung đàn thúy dịch (149) Giọng nỉ non ngón địch đan trì Càng đàn càng địch càng mê Càng gay gắt điệu càng tê tái lòng. Mày ngài lẫn mặt rồng lồ lộ (153) Sắp song song đôi lứa nhân duyên Hoa thơm muôn đội ơn trên Cam công mang tiếng thuyền quyên với đời. Trên chín bệ mặt trời gang tấc (157) Chữ xuân riêng sớm chực trưa chầu Phải duyên hương lửa cùng nhau Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào. Khi ấp mận ôm đào gác nguyệt (161) Lúc cười sương cợt tuyết đền phong Ðóa lê ngon mắt cửu trùng Tuy mày điểm nhạt nhưng lòng cũng xiêu. Vẻ vưu vật trăm chiều chải chuốt (165) Lòng quân vương chi chút trên tay Má hồng không thuốc mà say Nước kia muốn đổ thành này muốn long! Vườn Tây uyển khúc trùng Thanh dạ (169) Gác Lâm xuân điệu ngã Ðình hoa Thừa ân một giấc canh tà Tờ mờ nét ngọc lập lòa vẻ son. Trên trướng gấm Chí tôn vòi vọi (171) Những khi nào gần gũi quân vương Dẫu mà ai có nghìn vàng Ðố ai mua được một tràng mộng xuân. Thôi cười nọ lại nhăn mày liễu (177) Ghẹo hoa kia lại nhíu gót sen Thân này uốn éo vì duyên Cũng cam một tiếng thuyền quyên với người. Lan mấy đóa lạc loài sơn dã (181) Uổng mùi hương vương giả lắm thay Gẫm như cân trất duyên này 153
Cam công đặt cái khăn này tắc ơ. Tranh tỹ dực nhìn ưa chim nọ (185) Ðồ liên chi lần trỏ hoa kia Chữ đồng lấy đó mà ghi Mượn điều thất tịch mà thề bách niên. Lúc thờ ơ nhạt nhẽo “Ðóa lê ngon mắt cửu trùng” được “quân vương chi chút trên tay” cho hưởng đủ thứ “mùi”, “càng lâu càng lắm mùi hay”, chợt một hôm thấy mùi sủng ái hình như nhạt đi, rồi quả thật nhạt đi, rồi cứ thế nhạt thêm mãi... “Bóng dương” đã dời soi sang góc khác của ngự viên! Thoạt mất soi, cố kéo bóng về, nhưng “... cá no mồi cũng khó nhử lên”. Ở đằng kia “muôn hồng nghìn tía” mới mẻ lạ miệng, một miếng mồi ngon nhưng nhàm mong gì làm cá trở lại... Ðược nhiều thì mất nhiều. Mất nhiều thì oán trách nhiều: “Khoảnh làm chi bấy chúa xuân Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi”, “Hoa này bướm nỡ thờ ơ Ðể gầy bông thắm để xơ nhụy vàng”, thì cay đắng nhiều, đến mức muốn... đạp: “Tay Nguyệt lão chẳng xe thì chớ Xe thế này có dở dang không Ðang tay muốn dứt tơ hồng Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra”! Khúc ngâm đoạn này lắm câu gần thuần nôm đích đáng. Hạt mưa đã lọt miền đài các (189) Những mừng thầm cá nước duyên may Càng lâu càng lắm mùi hay Cho cam công kẻ nhúng tay thùng chàm. Ai ngờ bỗng một năm một nhạt (193) Nguồn cơn kia chẳng tát mà vơi Thôi đi đâu biết cơ trời 154
Bỗng không mà hóa ra người vị vong. Ðuốc vương giả chí công là thế (197) Chẳng soi cho đến khóe âm nhai Muôn hồng nghìn tía đua tươi Chúa xuân nhìn hái một hai bông gần. Vốn đã biết cái thân câu trõ (201) Cá no mồi cũng khó nhử lên Ngán thay cái én ba nghìn Một cây Cù mộc biết chen cành nào. Song đã cậy má đào chon chót (205) Hẳn duyên tươi phận tốt hơn người Nào hay con tạo trêu ngươi Hang sâu chút hé mặt trời lại giâm. Trong cung quế âm thầm chiếc bóng (209) Ðêm năm canh trông ngóng lần lần Khoảnh làm chi bấy chúa xuân Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi! Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ vũ (213) Gác thừa lương thức ngủ thu phong Phòng tiêu lạnh ngắt như đồng Gương loan bẻ nửa giải đồng xẻ đôi. Chiều ủ dột giấc mai trưa sớm (217) Vẻ bâng khuâng hồn bướm vẩn vơ Thâm khuê vắng ngắt như tờ Cửa châu gió lọt rèm ngà sương gieo. Ngấn phượng liễn chòm rêu lỗ chỗ (221) Dấu dương xa đám cỏ quanh co Lầu Tần chiều nhạt vẻ thu Gối loan tuyết đóng chăn cù giá đông. Ngày sáu khắc tin mong nhạn vắng (225) Ðêm năm canh tiếng lắng chuông rền Lạnh lùng thay giấc cô miên Mùi hương tịch mịch bóng đèn thâm u Tranh biếng ngắm trong đồ Tố nữ (229) 155
Mặt buồn trông trên cửa Nghiêm lâu Một mình đứng tủi ngồi sầu Ðã than với nguyệt lại rầu với hoa! Buồn mọi nỗi lòng đà khắc khoải (233) Ngán trăm chiều bước lại ngẩn ngơ Hoa này bướm nỡ thờ ơ Ðể gầy bông thắm để xơ nhụy vàng. Ðêm năm canh lần nương vách quế (237) Cái buồn này ai dễ giết nhau Giết nhau chẳng cái Lưu cầu Giết nhau bằng cái ưu sầu độc chưa. Tay Nguyệt lão chẳng xe thì chớ (241) Xe thế này có dở dang không Ðang tay muốn dứt tơ hồng Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra. Bi thương sực nức Ðây kia, dấu vết được “cưng” hãy còn sờ sờ, thế mà người cưng nay đã... mất tích, để người được cưng phải “bực mình hoài xuân”. “Cành hoa tàn nguyệt” không phải bực vừa vừa, mà “lửa hoàng hôn như cháy tấm son”. Bực đến chực cháy cả lòng, nhưng vừa “mơ hồ nghĩ tiếng xe ra” đã vội vội vàng vàng “đốt phong hương hả mà hơ áo tàn”, đã “nghiêng bình phấn mốc mà giồi má nheo”! “Khí bi thương sực nức hè lạc hoa”.(2) Tình cảnh ngẫm có đáng lời. Nào lối dạo vườn hoa năm ngoái (245) Ðóa hồng đào hái buổi còn xanh Trên gác phượng dưới lầu oanh Gối Du tiên hãy rành rành song song. Bây giờ đã ra lòng rẻ rúng (249) Ðể thân này cỏ úng tơ mành Ðông quân sao khéo bất tình Cành hoa tàn nguyệt bực mình hoài xuân. 156
Nào lúc tựa lầu Tần hôm nọ (253) Cành liễu mành bẻ thủa đương tơ Khi trướng ngọc lúc rèm ngà Mảnh xuân y hãy sờ sờ dấu phong. Bây giờ đã ra lòng ruồng rẫy (257) Ðể thân này nước chảy hoa trôi Hóa công sao khéo trêu ngươi Bóng đèn tà nguyệt nhử mùi ký sinh. Cảnh hoa lạc nguyệt minh dường ấy (261) Lửa hoàng hôn như cháy tấm son Hoàng hôn thôi lại hôn hoàng Nguyệt hoa thôi lại thêm buồn nguyệt hoa. Buồn vì nỗi nguyệt tà ai trọng (265) Buồn vì điều hoa rụng ai nhìn Tình buồn cảnh lại vô duyên Tình trong cảnh ấy cảnh bên tình này. Khi trận gió lung lay cành bích (269) Nghe rì rào tiếng mách ngoài xa Mơ hồ nghĩ tiếng xe ra Ðốt phong hương hả mà hơ áo tàn. Ai ngờ tiếng dế ran ri rỉ (273) Giọng bi thu gọi kẻ cô phòng Vắng tanh nào thấy vân mồng Hơi thê lương lạnh ngắt song phi huỳnh. Khi bóng thỏ chênh vênh trước nóc (277) Nghe vang lừng tiếng giục bên tai Ðè chừng nghĩ tiếng tiểu đòi Nghiêng bình phấn mốc mà giồi má nheo. Ai ngờ tiếng quyên kêu ra rả (281) Ðiệu thương xuân khóc ả sương khuê Lạnh lùng nào thấy ủ ê Khí bi thương sực nức hè lạc hoa. Thèm miếng rau dưa “Mùi quyền môn thắm rất nên phai”. Thơ thế kỷ 18 mà lời mới mẻ như thơ 157
Xuân Diệu! Khi “thắm rất” thôi rồi, người ta mới thấm: “Miếng cao lương phong lưu nhưng lợm Mùi hoắc lê thanh đạm mà ngon”. Chao ôi, biết lợm, biết ngon, thì “cái hoa đã trót gieo cành”, “biết sao”! “Lau nhau ríu rít cò con cũng tình”. Hạnh phúc giản dị, xin hẹn kiếp sau! Tiếng thúy điện cười già ra gắt (285) Mùi quyền môn thắm rất nên phai Nghĩ nên tiếng cửa quyền ôi Thì thong thả vậy cũng thôi một đời. Ví sớm biết lòng trời đeo đẳng (289) Dẫu thuê tiền cũng chẳng buồn tênh Nghĩ mình lại ngán cho mình Cái hoa đã trót gieo cành biết sao. Miếng cao lương phong lưu nhưng lợm (293) Mùi hoắc lê thanh đạm mà ngon Cùng nhau một giấc hoành môn Lau nhau ríu rít cò con cũng tình. Mình có biết phận mình ra thế (297) Giải kiết điều óe ọe làm chi Thà rằng cục kịch nhà quê Dẫu lòng nũng nịu nguyệt kia hoa này. Cười nên tiếng khóc “Ngoại hỏa” tránh được, chứ “tâm hỏa” biết né làm sao. Lửa trong lòng đốt ngày đêm khiến nét liễu rầu, đã rầu mà cố cười thì chỉ “cười nên tiếng khóc”! Tưởng tượng một người ngồi uống trà mà sốt ruột đến nỗi trà mới pha lần đầu đã thôi không muốn uống nữa, mà lại cứ đem hương ra đốt dồn mãi để mong rước vua! “Dơ buồn đến thú cỏn con”... Tám câu thơ, cả một giây phút thẫn thờ. 158
Chiều tịch mịch đã gầy bóng thỏ (301) Vẻ tiêu tao lại võ hoa đèn Muốn đem ca tiếu giải phiền Cười nên tiếng khóc hát nên giọng sầu. Ngọn tâm hỏa đốt rầu nét liễu (305) Giọt hồng băng thấm ráo làn son Dơ buồn đến thú cỏn con Trà chuyên nước nhất hương dồn khói đôi. Than hờn nhớ trách “Cung oán ngâm” mà. Ðã ngâm nga trách móc một thôi rồi (từ câu 189 đến câu 244), lại ngâm nga trách móc thêm một thôi nữa. “Sinh ly đòi rất thời Ngâu Một năm còn thấy mặt nhau một lần”... Ấy bởi chàng Ngưu chỉ có nàng Chức, trong khi chàng “Vua” có vô số nàng. Khi hoàn cảnh bất lợi như thế thì không có “thắm nào nhuộm lại tơ hồng cho tươi” được đâu. Ðành cứ tiếp tục “phòng không” mà khao khát “mây mưa”, mà mơ “giọt mưa cửu hạn” thôi. Lần trước oán, rồi “bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra”. Lần này oán, phản ứng có dịu hơn một chút: “Chống tay ngồi ngẫm sự đời Muốn kêu một tiếng cho dài kẻo căm”. Kêu thì nhẹ hơn đạp, và cũng “thương” hơn. Trong gang tấc mặt trời xa mấy (309) Phận hẩm hiu nhường ấy vì đâu Sinh ly đòi rất thời Ngâu Một năm còn thấy mặt nhau một lần. Huống chi cũng lạm phần son phấn (313) Luống năm năm chực phận buồng không Khéo vô duyên với cửu trùng Thắm nào nhuộm lại tơ hồng cho tươi. Vườn Thượng uyển hoa cười với nắng (317) 159
Lối đi về ai chẳng chiều ong Doành Nhâm một giải nông nông Bóng dương bên ấy đứng trông bên này. Tình rầu rĩ khôn khuây nhĩ mục (321) Chốn phòng không như giục mây mưa Giấc chiêm bao những đêm xưa Giọt mưa cửu hạn còn mơ đến rày. Trên chín bệ có hay chăng nhẻ (325) Khách quần thoa mà để lạnh lùng Thù nhau chi hỡi đông phong Góc vườn dãi nắng cầm bông hoa đào. Tay Tạo hóa cớ sao mà độc (329) Buộc người vào Kim ốc mà chơi Chống tay ngồi ngẫm sự đời Muốn kêu một tiếng cho dài kẻo căm. Nơi lạnh lẽo nơi xem gần gặn (333) Há phai son nhạt phấn ru mà Trêu ngươi chi bấy trăng già Sao cho chỉ thắm mà ra tơ mành. Buồn gần, lo xa... “Muốn đạp tiêu phòng mà ra”, “muốn kêu một tiếng cho dài”, nhưng rốt cục người cung nữ bị “rún rẩy” không đạp không kêu mà chỉ ngồi trông “cảnh tiêu điều ngao ngán dường bao” để nghe “lòng ngán ngẩm buồn tênh mọi nỗi”... “Buồn này mới gọi buồn sao Một đêm nhớ cảnh biết bao nhiêu tình”... Buồn chết được nhưng vẫn sống. Còn sống, còn chút xuân, thì “những hương sầu phấn tủi sao xong”, thì vẫn phải lo “giữ sao cho được má hồng như xưa” “phòng khi động đến cửu trùng”... “Cửu” ơi có biết, nơi góc ngự viên “cửu” từng năng lui tới đóa đồ mi năm ấy giờ đêm đêm vẫn còn thao thức đợi bóng dương! Lòng ngán ngẩm buồn tênh mọi nỗi (337) Khúc sầu tràng bối rối dường tơ Ngọn đèn phòng động đêm xưa 160
Chòm hoa tịnh đế trơ trơ chưa tàn. Mà lượng thánh đa đoan kíp mấy (341) Bỗng ra lòng rún rẩy vì đâu Bõ già tỏ nỗi xưa sau Chẳng đem nỗi ấy mà tâu ngự cùng. Ðêm phong vũ lạnh lùng có một (345) Giọt ba tiêu thánh thót cầm canh Bên tường thấp thoáng bóng huỳnh Vách sương nghi ngút đèn xanh lờ mờ. Mắt chưa nhắp đồng hồ đã cạn (349) Cảnh tiêu điều ngao ngán dường bao Buồn này mới gọi buồn sao Một đêm nhớ cảnh biết bao nhiêu tình. Bóng câu thoáng bên mành mấy nỗi (353) Những hương sầu phấn tủi sao xong Phòng khi động đến cửu trùng Giữ sao cho được má hồng như xưa. _______________ (1) Chữ “mùi” trong “nắng nám mùi dâu” nghĩa là màu (như trong câu “Giang Châu tư mã đượm mùi áo xanh” - Tỳ bà hành, bản dịch Phan Huy Vịnh). Ðây chúng tôi dùng chữ “mùi” với nghĩa là mùi. (2) Nhiều bản in là “Khí bi thu...”. Dù sao, câu này nghĩa “Một không khí buồn thương dậy mùi nơi hè đầy hoa rụng” (theo trang vi.wikisource.org).
Sự ngóng trông bất tận Từ Ðấng Tối Cao... Người Tây phương vốn tin có một Thượng Ðế vĩnh cửu, toàn năng. Niềm tin ấy khiến họ có xu hướng hành trình. Làm chiên Chúa là hành trình lên nước Chúa. Ði mất một đời người, nên trong khi đi cũng cần chút đỉnh tiện nghi. Ðế quốc La-mã sụp đổ (năm 410) kéo sụp theo hầu hết những thành quả vật chất đã xây dựng được, làm cuộc sống ở Âu châu trở lại man rợ. Nhân dân bắt đầu sốt ruột. Ðành lên trời sướng, nhưng liệu trước khi lên có phải khổ thế này 161
chăng? Sau hàng nghìn năm chịu đựng, trăn trở, rốt cục vỡ ra cuộc cải cách Tin Lành (năm 1520). Cải cách xong, Thiên Ðàng tuy vẫn ở trên trời nhưng những cố gắng cải thiện điều kiện vật chất dưới đất cũng được xem là có giá trị “cứu rỗi”. Khoảng cuối thế kỷ 16, khoa học ra đời. Khoa học giúp liên tục khám phá các luật tự nhiên, nhờ đó điều kiện vật chất bắt đầu cải thiện nhanh chưa từng thấy. Vật chất càng cải thiện, con người càng lưu luyến trần gian. Hạnh phúc tạm bợ bắt đầu trở thành ám ảnh, bắt đầu che khuất Thiên Ðàng... Nhưng cho đến tận cuối thế kỷ 19, người Tây phương nói chung vẫn còn giữ được trọn niềm tin nơi Ðấng Tối Cao. Và chưa xẩy ra sự chia rẽ đáng kể nào giữa đông đảo nhân dân và thiểu số các nhà khoa học. Dầu là nhà bác học lừng lẫy bậc nhất, thì điển hình vẫn tin Chúa. Ðến Luật Tối Hậu và Thiên Ðàng Hạ Giới Bước qua thế kỷ 20, một thứ giáo lý mở rộng mau chóng thay thế nội dung nguyên thủy của truyền thống Do-thái - Ki-tô. Albert Einstein có lần tâm sự: “Nếu có điều gì có thể gọi được là tôn giáo ở tôi, thì đấy là sự vô cùng ngưỡng mộ cái cấu trúc (kỳ diệu) của vũ trụ mà khoa học đang khám phá...”(1) Lần khác, hồi đáp chất vấn của một chức sắc quan trọng trong Do-thái giáo, Einstein viết rõ hơn: “Tôi tin vào Thượng Ðế (...) (như) là đấng tự biểu hiện qua cái vũ trụ hài hòa trật tự này, chứ không tin vào thứ Thượng Ðế quan tâm đến số phận và hành động của loài người.”(2) Tức đối với Einstein, Thượng Ðế là luật tự nhiên cao nhất, chứ không phải là Người. Bây giờ ở Tây phương, các nhà khoa học tin Luật Tối Hậu chứ không tin Chúa. Còn quảng đại quần chúng tuy vẫn xưng chiên, nhưng thực ra không mấy quan tâm đến cõi Vĩnh Phúc nữa mà tập trung hầu hết chú ý vào cái Thiên Ðàng Hạ Giới mỗi ngày mỗi thêm tiện nghi nhờ liên tục ứng dụng những khám phá của khoa học. Trước sau vẫn là sự ngóng trông bất tận 162
Nước Chúa dĩ nhiên xa, vì chết may ra mới lên tới được. Luật Tối Hậu cũng không hề gần, vì chẳng biết mấy tỉ thế hệ khoa học gia nữa mới sờ được nó. Mà hễ chưa biết Luật, thì Thiên Ðàng Hạ Giới vẫn chưa hoàn hảo, vẫn còn thiếu, còn chờ, còn ngóng những cái máy “không thể tối tân hơn”. Xưa ngóng Chúa nay ngóng Luật ngóng Máy, nhưng vẫn cùng là một sự ngóng trông bất tận! Người Tây phương quen ngóng nên chẳng thấy sao cả, nhưng có người ở phương khác không quen, lấy làm ngẫm nghĩ, rồi thấy trong thái độ sống kia “có điều gì bi thảm”.(3) Vũ trụ, sao không xem nó như hoa thơm bướm đẹp mà miên man ngửi nó ngắm nó? Sao cứ phải xem nó là một bí mật cần vận hết sức óc giải cho ra, nhỉ?(4) 9-2004 (In trong Tìm tòi và suy nghĩ, 2005) _____________ (1) Michio Kaku, Einstein”s Cosmos, Norton, Mỹ, 2004, tr. 128-129. (2) Ronald W. Clark, Einstein: The Life and Times, Harper-Collins, Mỹ, 1999, tr. 502. (3) Xem bài Hy Vọng Là Trở Lực của Thích Nhất Hạnh, đăng trên trang gocnhin.net. (4) Khoa học giúp tăng tuổi thọ của nhân loại ư? Chớ cả tin. Nó là con dao hai lưỡi đấy. Có thể lúc nào đó nó sẽ cắt ta chết tươi. Cũng có thể nó đang cắt từ từ mà ta chưa biết!
Trịnh Công Sơn - Ca từ Tượng, hoa, và sương mù Tách lời khỏi nhạc để tìm thơ Cây có cội, nước có nguồn Huế mưa, Huế lá, Huế em... La đà, cà-phê, và khói nhang “Môi vẫn hay môi cho đời bớt lạnh” Hương hoa, diễm tình, diễm từ Em sóng em mưa Giống mà không giống 163
Diễm nhạc Tượng, hoa, và sương mù Nghe nói ở Ðà Lạt sắp có tượng Hàn Mặc Tử và Trịnh Công Sơn. Nghệ sĩ miền Trung đứng giữa phố thị miền Trung. Nhà thơ lãng mạn siêu thực (1) cùng nhà nhạc tình “trừu tượng” sánh vai trên những đường hoa trong thành phố sương mù. Sáng kiến đáng chú ý. Nhân dịp, thử “lắng” lại đôi chỗ âm vang độc đáo trong dòng nhạc Trịnh. Tách lời khỏi nhạc để tìm thơ Trong tập III của Hồi ký, Phạm Duy kể: “Tình khúc Trịnh Công Sơn (...) chỉ trong một thời gian rất ngắn đã chinh phục được tất cả (?) người nghe (...) So sánh với những tình khúc ba bốn chục năm qua, ngôn ngữ trong nhạc Trịnh Công Sơn rất mới.”(2) Mới thế nào? Phạm Duy nhận định: “Toàn bộ âm nhạc của anh đẹp như một bức họa trừu tượng hơn là tả thực. Cả nhạc lẫn lời, cả xác lẫn hồn thơ, nghe lãng đãng, mơ hồ, khó phân định cho đúng nghĩa.”(3) Nhạc trừu tượng? Không dễ hiểu. Trang chữ thiếu tiếng đàn giọng hát làm cơ sở cho suy nghĩ, làm minh họa cho lập luận. Ðành để nhạc đấy mà đi “nghe” lời. Nếu đổi chỗ lẫn nhau với thơ “chánh hiệu con nai vàng”, thì ca từ thua thiệt. Thơ mà đem phổ nhạc, nếu nhạc hay thì thơ thường được hay lây, được tưởng là hay dù thơ dở. Thực ra chẳng cần phổ phiếc cầu kỳ, chỉ nhờ một ngâm sĩ có giọng ngâm thiên phú ngâm lên thật não nùng là thơ con cóc có khi cũng hóa phong độ như ai. Ngược lại, ca từ mà bắt đem phơi mình trên trang giấy giữa thanh thiên bạch nhật thì e đa số sẽ trở nên ngơ ngác, lạc loài, mà trăm mắt trông vào chực thưởng thức thơ e sẽ bị chưng hửng, trơ... mắt ếch.(4) Viết về nhạc Trịnh, Ngự Thuyết nhận xét nếu tách lời ra khỏi nhạc thì ta không gặp những bài thơ hay, mà ta gặp nhiều chất thơ.(5) Ca từ phải “hôn phối” với nhạc, nên mấy khi sẵn là thơ. Nếu quả thực giàu thi vị, có lẽ đã đủ cớ để trầm trồ. Thử soát lại một số lời (6) quen thuộc: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi Ðể một mai vươn hình hài lớn dậy Ôi cát bụi tuyệt vời 164
Mặt trời soi một kiếp rong chơi (...) Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi Ðể một mai tôi về làm cát bụi Ôi cát bụi mệt nhoài Tiếng động nào gõ nhịp không nguôi” (Cát Bụi) “Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ Ðường dài hun hút cho mắt thêm sâu (...) Mưa vẫn hay mưa trên hàng lá nhỏ Buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua... Trên bước chân em âm thầm lá đổ Chợt hồn xanh buốt cho mình xót xa (...) Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động Làm sao em biết bia đá không đau Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng Ðể người phiêu lãng quên mình lãng du” (Diễm Xưa) “Ðôi khi nắng lên phố xưa làm tôi nhớ Ðôi khi có mưa giữa khuya hồn tôi bỗng vu vơ” (Rồi Như Ðá Ngây Ngô) “Chiều chủ nhật buồn nằm trong căn gác đìu hiu Ôi tiếng hát xanh xao của một buổi chiều Trời mưa trời mưa không dứt ô hay mình vẫn cô liêu” (Lời Buồn Thánh) “Chiều hôm thức dậy Ngồi ôm tóc dài Chập chờn lau trắng trong tay” (Chiếc Lá Thu Phai) “Ta về nơi đây phố xưa dấu đạn Con đường bên sông cỏ lá buồn tênh Ta về nơi đây tháng năm quá rộng Ðường xưa em lại thấp thoáng bàn chân (...) Ta về nơi đây thoáng nghe gió lạnh Hết mùa thu sang đã đến ngày đông Những hàng cây xanh đón em áo lộng 165
Bây giờ ta nhìn khói trời mênh mông” (Khói Trời Mênh Mông) “Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi Ði đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt Rọi suốt trăm năm một cõi đi về (...) Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa Mưa bay trong ta bay từng hạt nhỏ Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà” (Một Cõi Ði Về) “Có đường xa và nắng chiều quạnh quẽ Có hồn ai đang nhè nhẹ sầu lên” (Tôi Ơi Ðừng Tuyệt Vọng) “Một đêm bước chân về gác nhỏ chợt nhớ đóa hoa tường vi Bàn tay ngắt hoa từ phố nọ Giờ đây đã quên vườn xưa (...) Ngày xuân bước chân người rất nhẹ Mùa xuân đã qua bao giờ Nhiều đêm thấy ta là thác đổ Tỉnh ra có khi còn nghe” (Ðêm Thấy Ta Là Thác Ðổ) “Em còn nhớ hay em đã quên Nhớ Sài Gòn những chiều lộng gió lá hát như mưa suốt con đường đi Có mặt đường vàng hoa như gấm có không gian màu áo bay lên...” (Em Còn Nhớ Hay Em Ðã Quên) Năm, sáu trăm ca khúc của Trịnh Công Sơn còn nhiều lời khác tương tự. Cộng lại, thì ca từ Trịnh có lẽ giàu chất thơ hơn toàn bộ thi phẩm của không ít thi sĩ chính thức. Trong những lời đẹp của Trịnh, không phải lời nào cũng “lãng đãng, mơ hồ”. Tuy nhiên, nhìn chung, khuynh hướng trừu trượng quả có nổi bật. Cây có cội, nước có nguồn Trong số những người thưởng thức nhạc Trịnh Công Sơn, có Văn Cao. Trên trang cuối của Tuyển tập những bài ca không năm tháng, tác giả Thiên Thai tâm 166
sự: “Mãi hơn một năm sau ngày 30 tháng 4, chúng tôi mới thật sự mặt nhin mặt tay cầm tay lần đầu, nhưng tôi có cảm giác như chúng tôi đã là bạn của nhau tự bao giờ, mặc dù giữa tôi và Sơn còn cả một thế hệ đệm. Nói cách nào đó, tôi đã gặp Sơn từ những ngày đất nước còn chia hai miền và còn chìm trong khói lửa. Tôi muốn nhắc đến ở đây một kỷ niệm không thể quên ở nhà một người bạn trẻ. Ðêm ấy lần đầu tiên tôi nghe (cũng có nghĩa là gặp) Trịnh Công Sơn... Những bạn trẻ hát cho tôi nghe gần suốt đêm hàng loạt ca khúc Trịnh Công Sơn (không biết họ học ở đâu), hát say sưa đến nỗi đứt cả dây của chiếc đàn ghi-ta duy nhất có trong nhà (...) từ cái đêm chiến tranh ấy, tôi biết mình đã gặp một tâm-hồnchị-em (?) xẻ chia “Một Cõi Ði Về” (...) tôi viết lời bạt này cho tập nhạc của Sơn như giữ một lời hẹn thầm chưa ngỏ, lời hẹn của một tri âm với tri âm...” Kẻ tri âm, người bạn vong niên, nhạc sĩ lão thành lừng lẫy ấy phát biểu như sau về nhạc Trịnh: “Tôi gọi Trịnh Công Sơn là người thơ ca bởi ở Sơn, nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định cái nào là chính, cái nào là phụ (...) Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra (...) Cái quyến rũ của nhạc Trịnh Công Sơn có lẽ là chính ở chỗ đó (...) Với những lời, ý đẹp và độc đáo đến bất ngờ hôn phối cùng một kết cấu đặc biệt như một hình thức của dân ca hầu như không thay đổi.” Cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra thành tranh trừu tượng đẹp đẽ, độc đáo, hay thật. Nhưng hẳn chính thứ cảm xúc tuyệt vời ấy cũng là do một thứ gì khác trào ra mà thành chứ. Ðọc loại thơ chân quê của Nguyễn Bính, Hoài Thanh liên tưởng đến “hồn xưa của đất nước”(7). Ðọc những Theo Ðuổi, Về Với Ta, Lá Diêu Bông v.v. của Hoàng Cầm, ta cảm rõ hồn xưa Kinh Bắc. Trong những đoạn ca từ giàu chất thơ của Trịnh Công Sơn sao khỏi thấp thoáng “vang bóng một thời” “ở một nơi ai cũng quen nhau”(8)? Huế mưa, Huế lá, Huế em... Có ai để ý nhạc Trịnh Công Sơn tuyệt nhiên không mang âm hưởng Huế. Thật lạ. Người ở đâu đâu ra, vô xứ thần kinh chỉ thời gian ngắn là đã có thể ngấm đủ “hương sông” để viết nên nhạc giá trị có chất Huế hẳn hoi, như Dương Thiệu Tước viết Ðêm Tàn Bến Ngự, như Phạm Duy, Phạm Ðình Chương viết trong trường ca Mẹ Việt Nam, Hội Trùng Dương, như Minh Kỳ viết Mưa Trên Phố Huế, Lê Dinh viết Huế Buồn. Nhạc sĩ Huế như Phạm Mạnh Cương sáng tác Giã Từ Cố Ðô rất đượm mùi Hương. Thế mà trước sau Trịnh Công Sơn dường như không chịu “ca Huế” lần nào. 167
Không làm gì có chuyện con đẻ không mang máu mẹ. Con không giống mẹ bên ngoài, ắt giống bên trong. Trường hợp nhạc Trịnh, chất Huế lẩn khuất trong ý, trong lời. Diễm Xưa chắc chắn là ca khúc Việt Nam được nhiều người nước ngoài biết đến nhất. Suốt 34 năm từ ngày Khánh Ly trình diễn tại Hội chợ Quốc tế ở Osaka, “Mưa vẫn mưa bay...” không lúc nào tạnh trên các làn sóng điện ở Nhật. Diễm Xưa mới đây lại được một đại học Nhật đưa vào chương trình giáo khoa.(9) Diễm quốc tế và Diễm “rất Huế”(10): nào những tầng tháp cổ, những hàng lá nhỏ, nhất là những chuyến mưa qua... Về mưa, về lá, Trịnh Công Sơn có lần kể rõ: “Thuở ấy có một người con gái rất mong manh, đi qua những hàng cây long não lá li ti xanh mướt để đến trường (...) Mùa xuân mưa Huế, người con gái ấy đi qua nhòa nhạt trong mưa giữa hai hàng cây long não mù mịt (...) buổi ấy những người con gái Huế (...) đa số (...) chậm rãi đến trường bằng những bước đi thong thả hoàng cung (...) Ði để được những con mắt chung quanh nhìn ngắm nhưng đồng thời cũng (để) tự mình có thì giờ nhìn ngắm trời đất, sông nước và hoa lá (...) Long não, bàng, phượng đỏ, muối, mù u và một dòng sông Hương chảy quanh thành phố đã phả vào tâm hồn thời con gái một lớp sương khói lãng mạn thanh khiết”.(11) Nhạc sĩ cao hứng nói thay các cô gái Huế. Nhưng đến phiên các cô tự bày tỏ cảm tưởng về cái “không gian liêu trai” ấy, thì cũng nhất trí thôi: “Chúng tôi đạp xe bên nhau nhẹ nhàng, áo trắng tung trong gió, gió ban mai phả vào mặt mát lạnh. Buổi sáng tháng ba non xanh như lộc cây bàng vừa chớm nụ, hơi ấm từ phía Thuận An dồn đến, hơi nước từ núi rừng Kim Phụng tràn sang, quyện tròn với nhau thành những vùng mây khói mờ ảo trên đường dọc theo sông. Qua khỏi cầu Ðông Ba, bỗng thấy mình chơi vơi trong một vùng sương mù dậy hương thơm ngào ngạt đến ngây cả người. Chặng đường từ cầu Ðông Ba lên đến cầu Gia Hội thời ấy không biết ai đã trồng một dãy cây sầu đông hai bên vệ đường. Tháng ba hoa nở, những cành cây chi chít hoa giao nhau trên không kết thành vòm che kín cả bầu trời. Hoa sầu đông màu trắng như sữa, giữa hoa lấm tấm những điểm nhỏ màu tím nhạt như những điểm sương tụ lại. Trong buổi sáng đầy sương mù, hoa với sương hòa lẫn với nhau (...) trên đường đi mọi vật mờ ảo như một giấc mộng. Cả bọn con gái đạp xe đi như những chiếc bóng mơ hồ bồng bềnh, tà áo trắng ẩn hiện (...) không ai nói năng chi (...) lặng lờ đi theo “tiếng” của hương thơm ngây ngất tẩm lên da thịt và tóc, cảm giác đê mê như đang trôi giạt trong những lớp sóng sương gió thổi ngược vào người.”(12) Huế có sáng sương mù dậy hương thơm như mộng. Huế lại có trưa “hoa trái 168
quanh tôi”(13) thơm như đời. Trịnh nhớ: “Ðôi khi nhớ trong tóc em mùi cây trái thơm tho”. Chẳng những có mưa, sông, thành, tháp, hoa, lá, trái, có gái đi bộ, gái đạp xe, Huế còn có nhiều “tiếng” lạ: “Thời gian trôi đi ở nơi đây lặng lẽ quá (...) tiếng nói thì thầm của lăng miếu, bia mộ ở những vùng đồi núi chung quanh...”. Trịnh không quên: “Nghe trăm tiếng ngậm ngùi / nghe lăng miếu trùng vây / Nghe xa cách cuộc đời / nghe hoang phế cạnh đây” (Nghe Tiếng Muôn Trùng). Hoài niệm về Huế chiếm phần quan trọng trong ca từ Trịnh, nhưng ca từ Trịnh dường như không một lần gọi Huế đích danh, riêng rẽ. Ra Hà Nội mùa thu, rồi Trịnh Công Sơn sáng tác Nhớ Mùa Thu Hà Nội, gọi tên thủ đô vang lừng. Phải thôi. Một đằng còn mới mẻ, hơn nữa dẫu thích vẫn xa, vẫn cách, nên cần... cao giọng. Một đằng là chính mình rồi, nên chỉ ngâm khe khẽ, tỉ tê: “Chiều một mình qua phố, âm thầm nhớ nhớ tên em...”. La đà, cà-phê, và khói nhang So sánh mình với người tri âm cách một thế hệ, Trịnh Công Sơn viết: “Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc của thần tiên bay bổng. Tôi la đà giữa cõi con người.”(14) Phát biểu vắn tắt ấy dễ gây ngộ nhận. Thực ra, chính nội dung ca từ của nhạc Văn Cao mới là thuộc rất dứt khoát về cuộc sống. Ngay Thiên Thai, dù thần tiên, diễm ảo đến thế nào thì bây giờ, qua chính lời tác giả (15), cũng chỉ còn giá trị một biểu tượng cũ kỹ cho mơ ước lãng mạn của con người. Văn Cao dùng Thiên Thai thuần túy để diễn tả một khao khát yêu đương hoàn toàn vô vọng, chứ không hề có ý bày tỏ một trăn trở siêu hình. Ðâu có gì đáng ngạc nhiên: chất “tiến thủ hăng hái” (16) của cư dân vùng châu thổ sông Hồng đã từ lâu không để loại tư duy kém thực tế phát triển. Phần lời của nhạc Trịnh, ngược lại, vừa luôn la đà trên các phố thị, phố thành, phố Phái, phố Sơn (17), rong chơi đều đặn nơi các quán cà-phê cà pháo, vừa thường xuyên... siêu thực. Cần nói ngay, nội dung triết lý trong lời nhạc Trịnh không có gì mới. Tác giả không ngại tâm sự cặn kẽ: “Phật giáo tác động rất sâu xa trong đời sống tâm linh của tôi. Cái phần siêu hình trong ngôn ngữ của tôi là do ảnh hưởng của Phật giáo... Không hiểu sao, trong những năm gần đây, tôi thường nghĩ về Phật giáo như là một tôn giáo mang nhiều tính hiện sinh nhất (...) Phải biết sống hết mình trong mỗi sát na (...) Với tôi, Phật giáo là một triết học làm cho ta yêu đời hơn, chứ không phải làm cho ta lãng quên cuộc sống (...) Mỗi người cần phải nỗ lực (...) xây dựng (...) một ngôi chùa (...) trong lòng mình (...) Với tôi, đó cũng là 169
thiền (...) Tôi hát là tôi hiện hữu.”(18) Như sợ bị hiểu lầm, tác giả còn nhấn mạnh: “... không phải hiện sinh theo kiểu sống vội sống vàng, mà ở đây, con người sống bình thản trong từng sát na.”(19) Phật giáo, triết học, tính hiện sinh, sát na, chùa, thiền, “hát là hiện hữu”... Triết Ðông xen tí triết Tây, ca từ uyên bác đôi khi có thể khiến ta lầm tưởng Trịnh là một triết gia hoặc thiền sư đang dùng nhạc để phổ biến kiến giải độc đáo. Sự thực, phần lời ca của nhạc Trịnh Công Sơn tuy có “trí thức” (20) hơn hẳn ca từ của đa số các nhạc sĩ khác, vẫn không nên bị nhầm với những... công án! Chịu ảnh hưởng Phật, nhưng nói chung ca từ Trịnh giữ được khoảng cách cần thiết với tôn giáo. Họa hoằn Trịnh mới trịnh trọng “khoác áo chân như”, “long lanh giọt lệ thiên thu” mà “bước tới hư vô”. Và dù thỉnh thoảng có mang hình thức băn khoăn khá rõ ràng: “Tôi là ai, là ai, là ai...”, lời Trịnh vẫn mật thiết với cảm xúc mà đố kỵ suy tư. Tạm gọi thứ lời như thế là ca từ cảm tính có phảng phất mùi siêu thực. Chủ yếu, mùi nhang. “Môi vẫn hay môi cho đời bớt lạnh” Gần đầu Tuyển tập những bài ca không năm tháng, có dòng thủ bút của tác giả: “Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu.” Kẻ hết sức hâm mộ những bài ca ấy là Bùi Bảo Trúc thì dứt khoát: “... tình yêu là ám ảnh lớn hơn tất cả các đề tài khác của Trịnh Công Sơn.”(21) Tình yêu vẫn đều đều chiếm vị trí cao trong vô số nghệ phẩm, nhất là trong các thi phẩm, nhạc phẩm. Có điều gì đáng nói chăng, chủ yếu là ở cái cách từng tác giả rước tình lên ngôi trong văn chương, âm nhạc của mình. Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương, Văn Cao đều lừng danh về loại thơ, nhạc lấy yêu đương làm đề tài. Nguyễn chân quê, Hoàng thư sinh, Văn lãng mạn. Cả ba giống Trịnh ở chỗ đều thất tình. Cả ba khác Trịnh là thất bại xong, ít lâu bèn lấy vợ, trong khi Trịnh sau Diễm suốt đời cứ tiệm cận hết em nọ đến em kia, cứ lượn, rồi dợm đáp, rồi luyến tiếc bay lên, rồi ít lâu làm bài hát trừu tượng để ca cuộc tình! Cùng đề tài, Trịnh ca, còn tu sĩ Phật giáo Phạm Thiên Thư thì tụng. Lời yêu hết mực tài hoa của Phạm có đặc điểm chay rất ngộ nghĩnh, từng được Võ Phiến phát hiện.(22) So với lời ấy, ca từ của Trịnh có vẻ trần tục hơn vì hơi nhiều môi: nào môi em hồng nhạt, hồng vừa, rất hồng, nào môi thơm, môi ngon, môi là đốm lửa v.v. 170
Không nên vội vàng trông môi mà bắt tội. Tội hay không là ở giọng, ở lời, ở ý. Lại cần nhắc Nguyễn Bính và Vũ Hoàng Chương. Nguyễn yêu thật sớm, yêu mê tơi, yêu hết cô hàng xóm đến cô hàng quà, hết cô hái lúa đến cô hái mơ, yêu từ thôn Ðông qua tới thôn Ðoài, yêu từ Nam Ðịnh vô tận Hà Tiên, vậy mà trước sau thơ Nguyễn chỉ có đại khái giậu mồng tơi xanh với con bươm bướm trắng, chứ có chi tiết gì “hay ho” về gái quê gái tỉnh gái Bắc gái Nam đâu? Vũ chắc yêu sớm không kém, yêu đắm đuối, suốt đời làm thơ yêu, cuối đời tự tuyển thơ yêu của mình mà in thành tập Ta đợi em từ ba mươi năm để lưu truyền hậu thế, vậy mà thơ Vũ cũng toàn hoa phong nhụy với trăng rằm chứ có mô tả cụ thể gì về “Tố của Hoàng” đâu? Xét mô tả đối tượng, Phạm không dè dặt hơn Nguyễn, hơn Vũ. Sở dĩ thơ Ngày Xưa Hoàng Thị... v.v. mà bị tri hô là không đủ mặn, ấy chẳng qua chỉ do cái giọng khép nép, rụt rè! “Phạm Thiên” tu nên thơ yêu có giọng khép nép. Còn Trịnh Công không tu, khi ca thì môi kia môi nọ tưng bừng, nhưng “Công” chỉ môi đầu lưỡi chót cho vui chứ không phải thực đắm đuối xác thân cụ thể, nên lời tình ca có đặc điểm “trừu tượng, lãng đãng, mơ hồ”... Trông tượng này rồi nhớ tượng khác.(23) Nhớ những lời “vẩn đục” của Hàn Mặc Tử, những ôm, siết, ghì bốc lửa, những tuyên ngôn đòi “thân thể”(24) của Xuân Diệu. Ngoài thiên tính, hoàn cảnh của người nghệ sĩ, kể cả sức khỏe, hẳn có ảnh hưởng đến cái phong cách yêu đương của người ấy. Mà yêu như thế nào, đến lượt nó, hẳn lại góp phần quyết định cái phong cách viết về yêu. Ðiển hình, ta không biết gì về phong cách yêu của một tác giả, mà ví dụ có biết, cũng không chắc sẽ nhận ra được mối liên hệ giữa nó với phong cách viết. Riêng trường hợp Trịnh Công Sơn, giữa “nhân” đời và “quả” nhạc tình hình dường như có dễ hiểu hơn chút đỉnh. Hương hoa, diễm tình, diễm từ Bửu Ý bảo “Tình yêu, với Trịnh Công Sơn, là diễm tình (...) Cái đẹp ở đây là cái đẹp siêu thực (...) Tình yêu lên ngôi. Một đỉnh chiêm ngưỡng đúng hơn là một điểm hẹn (...) Trịnh Công Sơn nguyện là kẻ hái lộc chứ không phải hái trái.”(25) Hái trái để ngấu nghiến xuân hồng, hái lộc nhằm hưởng ý nghĩa, hương hoa. 171
Nhớ Ðinh Cường từng kể chuyện Trịnh yêu Thanh Thúy Tàu (vì lai Tàu), tổ chức đám cưới, đãi tiệc nhà hàng hẳn hoi. Tan tiệc, đôi uyên ương lên phòng tân hôn, bạn bè ra về. Chợt nhóm Ðinh Cường nghe tiếng giày lóc cóc đuổi theo. Quay lại, thấy Trịnh! “Bỗng dưng ở một mình trong phòng với một người đàn bà, moa sợ quá.”(26) Trịnh mở tiệc cốt chiêm ngưỡng tình yêu chứ đâu phải người yêu, cốt hít chút thơm tho, chứ đâu thực định ăn trái (không cấm). Hú hồn. Sau này, khi “phác thảo chân dung tôi”(27), Trịnh Công Sơn cho biết “Qua ca khúc, tôi đã đến gần và đã đi xa những chuyện tình”. Còn qua hành động trước ca khúc, đến gần là như làm đám cưới, đi xa là như chạy lóc cóc theo Ðinh Cường, phải chăng? Tình có lúc tự ý xa tôi như tình Diễm, có lúc bị tôi đào tẩu như tình Thúy, chung qui trước sau dường như vẫn nguyên hình... lộc. Quá trình hoa thơm, bướm lượn, bướm bay... rồi diễn đi diễn lại dài dài. Sài Gòn một dạo xôn xao về tin nhạc sĩ (năm ấy đã ngoại ngũ tuần) chuẩn bị xây dựng gia đình với Á hậu Vân Anh. Rồi lời ong tiếng ve về quan hệ với ca sĩ Hồng Hạnh, ca sĩ Thanh Thúy (khác), ca sĩ Hồng Nhung v.v. Om sòm. Vậy mà rồi dường như đâu có “em” nào nỡ trách Trịnh là Bạc tình lang? Nhớ trong một băng hình Văn Cao tâm sự: “Tôi cũng như Trịnh Công Sơn, suốt đời rồi chỉ có mình.”(28) Như là như thế nào? Văn Cao lúc đầu thất tình vì thất thế (nghèo), về sau thành danh lại không còn hoàn cảnh để “bay nhảy”, chứ Trịnh tuy lúc dầu dường như cũng bại trận vì thất thế, nhưng về sau vừa nổi tiếng vừa độc thân vừa nhiều cơ hội tiếp xúc với các người đẹp, ưu thế hơn anh Văn đứt đuôi đi chứ. Hơn nữa, Văn Cao đối diện mỹ nhân thì... á khẩu, chứ Trịnh đâu có tiếng đồn nhát nói. (Mà Thiên Thai chỉ ngại tán gái, chứ gặp đoàn quay phim thì phát biểu vô tư ra phết, ăn nói thật thà cứ y như trong nhà mình không từng có “ai”!) Diễm tình là tình đẹp. Muốn tình đẹp, phải theo “luật” Hồ Dzếnh: “Tình chỉ đẹp khi còn dang dở...” Vì lý do riêng tư nào đó, Trịnh Công Sơn đã tích lũy thật nhiều những mối tình “lý tưởng” oái ăm ấy. Mở đầu Tuyển tập..., Trịnh có mấy lời bí ẩn: “Mỗi bài hát của tôi là một lời tỏ tình với cuộc sống, một lời nhắn nhủ thầm kín về những nỗi niềm tuyệt vọng...”. Rồi nơi này Trịnh mở: “Vì có tình yêu nên có âm nhạc. Vì có khổ đau nên có âm nhạc.”(29), nơi kia Trịnh úp: “Hát để thăng hoa đồng thời cũng để an ủi.”(30) Thăng hoa, dĩ nhiên, nhưng an ủi? Dù sao, ca từ Trịnh rõ ràng không phải “thường” từ, mà là diễm từ, có liên hệ sao đó với những ngày diễm ảo (31) rất đỗi “vàng sen” (32). 172
Em sóng em mưa Lời ca Trịnh phảng phất mùi siêu thực, lại thấp thoáng hình bóng em. Ngẫm nghĩ, có lúc thấy vì em cứ lãng đãng không xương không thịt mãi mà em hóa siêu thực, có lúc lại thấy như thể chính siêu thực đã mượn môi mượn mắt để hóa lãng mạn, hóa em. Thử đọc: “Em đứng lên gọi mưa vào hạ từng cơn mưa, từng cơn mưa, từng cơn mưa, mưa thì thầm dưới chân ngà” (Gọi Tên Bốn Mùa) “Tóc em từng sợi nhỏ rớt xuống đời làm sóng lênh đênh (...) Gió sẽ mừng vì tóc em bay cho mây hờn ngủ quên trên vai (...) nghìn giọt lệ rớt xuống thành hồ nước long lanh” (Như Cánh Vạc Bay) “Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em Ðã nương theo vào đời làm từng nỗi ưu phiền” (Ru Ðời Ði Nhé) “Ru mãi ngàn năm từng ngón xuân nồng Bàn tay em năm ngón anh ru ngàn năm giận hờn sẽ quên, dáng em trôi dài, trôi mãi trôi trên ngàn năm” (Ru Em Từng Ngón Xuân Nồng) “Em đi trong sương mù gọi cây lá vào mùa” (Tôi Ru Em Ngủ) Em gọi cây, gọi lá, gọi mưa, mưa thì thầm dưới chân em, mây ngủ quên trên vai em, tóc em rớt xuống làm sóng, nước mắt em rớt xuống thành mưa, thành hồ, dáng em trôi dài trên ngàn năm... Em to lớn quá, em miên viễn quá. Tên em đã thôi là Diễm, hoặc có khi thực ra vốn chẳng bao giờ là Diễm.
Giống mà không giống Trở lại với hai pho tượng ở Ðà Lạt. Xét nghệ phẩm, xét đời, xét người, thi sĩ với nhạc sĩ quả có đôi chỗ tương đồng. Nhưng trong cái giống có cái khác. 173
Dù cõi ngoài hắt hiu như đời Hàn hay xôn xao như đời Trịnh, thì cả hai đều rất “cõi trong hiu hắt”. Ở Hàn, thơ chuyển biến sau khi Hàn lâm bệnh. Ở Trịnh, ca từ “thở dài” ngay từ Ướt Mi, từ đầu. Ðau thương của Hàn diễn tiến gấp rút, bạo liệt, làm thơ Hàn cũng xoay dọc, xoay ngang, bước vút lên trời, bước lao xuống vực. Nỗi khổ nào đó của Trịnh êm ái hơn nhưng phát khởi có lẽ rất sớm rồi lì lợm đeo đẳng, lặp đi lặp lại suốt đời, làm “tiếng buồn rơi đều”, rơi “không dứt” như mưa mùa đông Huế.(33) Nghệ phẩm của cả hai cùng nổi tiếng về nét siêu thực. Thơ siêu thực đã hiếm, mà ca từ siêu thực càng hiếm. Không phải hễ đau khổ đúng mức là thực hóa siêu. Nghệ sĩ Việt Nam gặp rủi đâu phải ít, mà ngoài Hàn, Trịnh còn bao nhiêu trường hợp nghệ phẩm “siêu hóa” nữa? Mặt khác, lại có những Huy Cận, Chế Lan Viên, Võ Phiến: số phận họ đều từ đỏ nhiều đến đỏ ít đến đỏ đỏ đen đen chứ đâu phải rặt một màu xám, mà sao họ cũng thơ “siêu” văn “siêu”?(34) Xem lại, Trịnh cũng như Hàn, như Huy, như Chế, như Võ, đều là người miền Trung. Có phải cái nét siêu hình trong thơ trong văn trong lời ca vốn ẩn sẵn ngay trong người họ, chỉ chực lấy cớ này cớ nọ để xông ra? Xem lại nữa, thì cái siêu thực trong thơ Hàn rùng rợn, hãi hùng, e không phải chỉ do căn bệnh quái ác, mà phần nào do chất Bình Ðịnh “quằn quại dị thường” (bên dưới bề ngoài “thàn hậu”)(35), trong khi cái siêu thực ở ca từ Trịnh lãng đãng, mơ hồ, e cũng không phải chỉ do tình nhẹ rơi rơi, mà phần nào chính do chất Huế nhu mì, dỏ dẹ (36). Lại xem lại thêm tí nữa, trong thơ Hàn cái siêu thực mở rộng, khai phá, phi tôn giáo (37), trong ca từ Trịnh nó ổn định, phảng phất mùi nhang, phải chăng vì người Bình Ðịnh nói chung chưa thấm nhuần đạo Phật kỹ như người Huế? Diễm nhạc Quá nhiều lời về lời đã làm “căng”. Ðể “giãn”, hãy nhờ thứ nhạc không lời. Trong u cốc giữa đô thị, kẻ đại ẩn vừa ngắm “rung rinh một giọt cà-phê”(38) vừa lắng “mưa vẫn mưa bay” từng hàng nốt nhỏ... Không Tây cũ, không ta xưa, chỉ “dân ca trí thức” đều đều, “hầu như không thay đổi”, mà thiền thật, Diễm thật! 174
7 - 2004 (Thu Tứ, Tìm tòi và suy nghĩ, nxb. Của Tin, Mỹ, 2005) _____________________ (1) Xem bài Lụt Trăng, Mưa Sao. (2) Phạm Duy, Hồi ký, tập III, Mỹ, 1991, tr. 285. (3) PD, sđd. (4) Trong Viết về bè bạn (nxb. Hải Phòng, VN, 2003, tr. 509), Bùi Ngọc Tấn cho biết: “... giống tôi, Nguyên Hồng không thích ngâm thơ. Ghét nữa. Giọng véo von trầm bổng làm mất âm điệu của ngôn ngữ. Nó giết chết nhạc của thơ. Nó có thể tạo nên một lớp công chúng không biết gì về chất nhạc này.” (5) Ngự Thuyết, “Trịnh Công Sơn và những phố xa”, tạp chí Văn Học, California, Mỹ, số 216, ?-2004, tr. 5. (6) Tất cả lời ca TCS trích dẫn trong bài này đều rút ra từ Tuyển tập những bài ca không năm tháng (nxb. Âm Nhạc, VN, 1998). (7) Hoài Thanh, Thi nhân Việt Nam, nxb. Hoa Tiên, Sài Gòn, tr. 358. (8) Ở một nơi ai cũng quen nhau là tên một tập truyện của Hoàng Ngọc Tuấn. (9) Theo nhật báo Người Việt, California, Mỹ, số ra ngày 14-7-04. (10) Tên một ca khúc không nhớ của nhạc sĩ nào. (11) TCS, “Hồi ức”, Thơ, VN, số 3, quý 3 năm 2003. (12) Thái Kim Lan, Một Ngày Vui Trên Ngọn... Sầu... Ðông!, Tuyển tập nhớ Huế, Mỹ, 2002. (13) Tên một tùy bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường. (14) TCS, “Anh đi qua cuộc đời và hát”, tạp chí Hợp Lưu, Mỹ, số 8, 1988 (?). (15) Xem băng hình Văn Cao - giấc mơ một đời người. (16) Ðào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, nxb. TP HCM, VN, 1992, tr. 327. (17) Bửu Ý: “Hình ảnh phố phô mình phân rãi trong ca khúc anh” (“Thay lời tựa”, TTNBCKNT). Ngự Thuyết: “Văn Cao (...) không hề đề cập đến phố xá (...) Phạm Duy (...) có mấy bài nhắc nhở đến đô thị (...) TCS là nhạc sĩ đầu tiên nói đến phố phường nhiều nhất” (bài đã dẫn). (18) TCS, Một cõi TCS, nxb. Thuận Hóa, VN, 2002, tr. 166-168 (dẫn theo Lê Hữu, “Ảo giác Trịnh Công Sơn”, tạp chí Văn Học, Mỹ, số 214 & 215, 2 & 3/2004). (19) TCS - Một người thơ ca, một cõi đi về, nxb. Âm Nhạc, Hà Nội, 2001 (dẫn theo Lê Hữu, xem chú thích trước). (20) Nguyễn Mộng Giác cho rằng “nhạc của họ Trịnh (...) nghe (...) “trí thức” (...) không giống như những ca khúc phổ thông (khác)” (dẫn theo Quỳnh Giao, “Trịnh Công Sơn, như cánh vạc bay”, tạp chí Văn Học, Mỹ, số 186 & 187, 10 & 11 / 2001, tr. 204). (21) Bùi Bảo Trúc, “Về Trịnh Công Sơn”, tạp chí Văn, Mỹ, số 53 & 54, 5 & 6 / 175
2001, tr. 46. (22) Võ Phiến, Văn học Miền Nam – Thơ, nxb. Văn Nghệ, Mỹ, 1999, tr. 30213031. (23) Bàn về từ vựng trong tiếng Việt, Phạm Quỳnh phân biệt từ trừu tượng và từ cụ tượng. (24) Xuân Diệu có đôi câu thơ: “Không nền, sao dựng lầu thơ? / Không thân thể, chỉ bâng quơ cái hồn”. (25) Bửu Ý, “Thay lời tựa”, TTNBCKNT. (26) Câu chuyện này đăng trên tạp chí Hợp Lưu, Mỹ, hình như trong năm 2002. Lời TCS là ghi theo trí nhớ, vì tác giả không còn số báo này trong tay. (27) TCS, “Phác thảo chân dung tôi”, Thơ, VN, số 3, quý 3 năm 2003. (28) Băng Văn Cao, giấc mơ một đời người. (29) TCS, “Ðể bắt đầu một hồi ức”, tạp chí Văn, Mỹ, số 53&54, 5&6/2001, tr. 138. (30) TCS, “Viết và thở”, Thơ, VN, số 3, quý 3 năm 2003. (31) Tên một tác phẩm của Nhất Linh. (32) “Sen vàng lãng đãng như gần như xa” (Truyện Kiều). (33) TCS có những tình ca vui tươi, nhưng là số ít. Ở đây muốn bàn về một vài nét thật đặc biệt, chứ không có ý bao quát đủ mọi khía cạnh của nhạc tình Trịnh. (34) Xem bài Ðất Nào Văn Nấy và bài Một Miền, Ba Dấu. (35) Về đặc tính của người Bình Ðịnh, xem Võ Phiến, sđd., tr. 3171. Về loại thơ ghê rợn ở Bình Ðịnh, thời tiền chiến còn có Chế Lan Viên, thời chiến tranh Nam-Bắc có Võ Chân Cửu. Sức khỏe của hai thi sĩ này không nghe nói có gì bất thường. (36) Tức nhỏ nhẹ ghi theo cách phát âm của người Huế. (37) Hàn Mặc Tử theo Công giáo. Thơ Hàn có những bài mang rõ tính cách tôn giáo, nhưng có rất nhiều bài khác mà nội dung siêu thực không liên hệ gì với đạo Chúa. Xem bài Lụt Trăng, Mưa Sao. (38) Võ Phiến, “Giọt cà-phê”, Tùy bút II, nxb. Văn Nghệ, Mỹ, 1987, tr. 180, 185.
Hàn Mặc Tử - Lãng mạn siêu hình Những dòng rướm máu... Thơ tôn giáo của Hàn Mặc Tử Thơ siêu thực của Hàn Mặc Tử Cái gì đằng sau thơ siêu thực H.M.T. Chơi Giữa Mùa Trăng Lãng mạn chưa bao giờ siêu thực thế Những dòng rướm máu... 176
Tìm hiểu đặc tính siêu thực trong văn chương Trung bộ, dĩ nhiên cần xem xét thơ Hàn Mặc Tử.(1) Hoài Thanh bảo Ðiêu tàn của Chế Lan Viên là “một niềm kinh dị”. Ðem so với Ðiêu tàn, những bài Ðau thương, chẳng hạn, kinh dị hơn nhiều lắm. Vẫn có ý kiến cho rằng đấy chẳng qua là sản phẩm của một đầu óc bị chấn động vì bệnh tật. Mặt khác, không ít người đọc thơ lại nhiệt liệt ca ngợi chính những dòng chữ “như dính máu”, gây rùng rợn, hoang mang nọ. Thơ của Hàn Mặc Tử sau Gái quê (1936) quả lắm khi lạ hơn lạ. Không mong hiểu được rành mạch, riêng rẽ từng câu, từng đoạn, thậm chí từng bài thơ đầy vẻ siêu thực kia đâu. Cố gắng, nhưng chỉ dám mong nắm bắt được phần nào cái bản chất của toàn mảng thơ... Thơ tôn giáo của Hàn Mặc Tử Xuân như ý chứa nhiều bài ca ngợi Chúa, Ðức Mẹ. Vũ Ngọc Phan bảo: “Thơ tôn giáo đã ra đời với Hàn Mặc Tử.” Ô hay, thế bao nhiêu thơ về Phật giáo suốt nghìn năm trước đấy không phải là thơ sao? Hoài Thanh chú trọng hướng khác: “Hình như trong các thi phẩm xưa nay có tính cách tôn giáo không có gì giống như vậy. Hàn Mặc Tử đã dựng riêng một ngôi đền để thờ Chúa.” Trong đền, nhà phê bình quan sát thấy có “đầy dẫy những kinh cầu nguyện, những hương đức hạnh, hoa phẩm tiết, nhạc thiêng liêng, cùng ánh trăng, ánh thơ. Nhất là ánh thơ.” Nếu chỉ có thế, sao phải dựng riêng? Yến Lan bình luận: “Anh là một con chiên ngoan đạo. Tuy nhiên, chất Ðạo (thanh khiết, thiêng liêng) trong thơ Anh đã bị chất Ðời (đau yếu, bệnh tật) lấn áp.” Ðời khổ, đa số tín đồ vào nhà thờ cầu nguyện. Hàn Mặc Tử lập riêng một nhà thờ, bằng thơ. Trước Chúa, đa số tín đồ khép nép tay chân, thở than kín đáo. Hàn Mặc Tử vung múa dữ dội: “Và trong tay nắm một nạm hào quang...”, la hét om sòm: 177
“Hỡi Sứ thần Thiên chúa Gabriel, (...) Người có nghe xôn xao muôn tinh tú? Người có nghe náo động cả muôn trời? Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời”, rồi khăng khăng chất vấn: “Phượng Trì! Phượng Trì! Phượng Trì! Phượng Trì! Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu, Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang?”! Hoài Thanh viết: “Xuân như ý rõ ràng là tập thơ hay nhất của Hàn Mặc Tử.” Yến Lan bất đồng: “Suy cho cùng, thơ về Chúa, về Ðức Mẹ (...) của Hàn Mặc Tử (...) khó (...) thâm nhập vào tâm hồn người đọc có tín ngưỡng hay không có tín ngưỡng.” Dường như Yến Lan có lý. Người đọc tín đồ đọc thứ thơ “chất Ðạo (...) bị (...) chất Ðời (...) lấn áp”, làm sao thưởng thức nó trọn vẹn được? Còn người đọc không phải tín đồ đạo Chúa, không tin Chúa, mà đọc thứ thơ ca ngợi Chúa, làm sao “thâm nhập” nó được để thấy nó hay? Thơ siêu thực của Hàn Mặc Tử Tôn giáo là siêu thực. Thơ tôn giáo là thơ siêu thực. Ngoài thơ siêu thực tôn giáo, Hàn Mặc Tử còn làm những bài cũng có nội dung “siêu” nhưng không hề thiêng liêng. Thế là thế nào? Siêu thực là siêu việt thực tại, nghĩa là vượt quá thực tại. Sau khi vượt quá thực tại, nhân loại có hai lối tư duy. Kẻ quen tư duy tôn giáo thì suy tưởng ngay theo hướng nhất định: hoặc Phật hoặc Chúa hoặc... 178
Người quen tư duy phi - tôn giáo thì suy tưởng không theo hẳn hướng nào. Cùng là nghĩ ngợi về cái không thấy được, nhưng một đằng thuộc về thần học, một đằng thuộc về triết học. Thơ tôn giáo nhằm phát huy niềm tin. Thơ siêu thực (tức siêu thực phi - tôn giáo) nhằm bày tỏ thắc mắc, xúc cảm của thi sĩ trước những cái nằm ngoài thực tại. Hai thứ thơ khác nhau như thế, liệu một người có thể làm được cả hai hay không? Rõ ràng là có thể, vì ai cũng biết Hàn Mặc Tử vừa làm thơ ca ngợi Chúa vừa làm thơ ca ngợi... Trăng! Hãy thử tìm hiểu thơ Trăng của Hàn. Trước khi Hàn Mặc Tử gặp nạn, thơ ông dường như vắng đạo, nhưng đã chứa khá nhiều trăng. Trong Lệ Thanh thi tập đầu đời, có câu nổi tiếng: “Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối”, mà nhiều người, như Hoài Thanh, cho là “vẩn đục”. Thi sĩ làm thơ luật Ðường, nên “trăng là nguyệt”(2). Nguyệt quấn quýt hoa, nguyệt sờ hoa chăng nữa, chuyện bình thường và cũ rích như thơ Mít thơ Quạt, chi mà đục, trong. Sang Gái quê, nguyệt càng lẳng lơ: “Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm, Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe” và thường khi chỉ xưng “trăng” thân mật: “Trăng nằm sóng soải trên cành liễu, Ðợi gió đông về để lả lơi”. Hình ảnh mới, nhưng nội dung vẫn cũ ít nhất hàng thế kỷ. Từ 1936 về trước, trăng trong thơ Hàn Mặc Tử là trăng thế tục, trăng chung của tất cả mọi người. Chỉ sau khi “đau thương” khởi sự, trăng mới dần dần trở nên riêng tư, bí ẩn, huyền diệu, thơ trăng mới đạt mức lạ lùng. Không hiểu sao, cũng từ đấy, “trăng 179
thôi là nguyệt”(3). Yến Lan bảo trăng chủ trì cả hơi thơ lẫn tứ thơ Hàn Mặc Tử. Thi sĩ ngậm trăng, cắn trăng, uống trăng, ọe ra trăng, “dìm hồn xuống một vũng trăng”, “ăn vận toàn trăng”, đuổi theo trăng, né mình tránh trăng rụng, nhảy xuống giếng vớt xác trăng v.v. Cả trời đất bao la bấy giờ dường như chỉ trăng là quan trọng, mà thời gian chỉ còn đáng kể lúc “ban khuya”: “Tôi đi trong áng sương mờ Tìm con trăng lạc ngoài bờ bến kia Xứ yêu bát ngát, tôi lìa Dò xem ý tứ ban khuya, tôi liều”. Trong Ðau thương, những dòng bình tĩnh như trên rất hiếm. Trời đất ấy, ánh trăng ấy, tuy vậy không phải hoàn toàn hỗn độn, mơ hồ, mà có ít nhất hai đặc tính rõ rệt, rất lạ. Thứ nhất, trăng Hàn Mặc Tử có mùi. Mùi trăng khi quanh quẩn tầm gần: “Thơ em cũng giống lòng em vậy Là nghĩa thơm tho như ánh trăng”, khi lan tỏa khắp Mênh Mông: “Như hương trăng đằm thắm cõi không gian”. Thứ hai, nó có thể phát tiếng: “tiếng trăng reo vang vang như tiếng châu báu vỡ lở”, hoặc có thể vang thành tiếng: “Ðang khi mầu nhiệm phủ ban đêm Có thứ gì rơi giữa khoảng im Rơi tự thượng tầng không khí xuống Tiếng vang nhè nhẹ dội vào tim”. Ngay cả sao, rất bé nhỏ so với trăng, tuy không mùi nhưng vẫn có tiếng: “Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt, (...) Cả trời say nhuộm một màu trăng, Và cả lòng tôi chẳng nói rằng. 180
Không một tiếng gì nghe động chạm, Dẫu là tiếng vỡ của sao băng...”. Sao “bơi” trong dòng đen đặc, khi dào dạt xôn xao, khi yên tĩnh: “Sông Ngân đã im lìm không tiếng sóng”. Người thường như chúng ta dĩ nhiên không mong ngửi được mùi trăng thơm tho, nghe được tiếng trăng reo, tiếng sao vỡ, tiếng sóng Ngân Hà. Hoài Thanh phàn nàn: “Trời đất này thực của riêng Hàn Mặc Tử, tôi không hiểu được và chắc cũng không bao giờ ai hiểu được.” Trần Thanh Mại cố cắt nghĩa: “Hàn Mặc Tử có một thính giác đặc biệt (...) nghe cả (...) tiếng chạm của hai đường tơ ánh sáng...” Thính giác bén nhạy, e không đơn giản vậy đâu. Ðất trời, trăng sao của Hàn Mặc Tử không hoàn toàn lộn xộn, vô nghĩa, mà dường như phần nào tương ứng với một quan niệm thơ tân kỳ. Giữa những cơn đau dữ dội thường xuyên, thi sĩ vẫn còn chút tỉnh táo, đủ để trình bày vội vã cái ý của mình. Trong thư đề tháng 6/1939, gửi cho M. (không rõ là ai): “Thơ là sự ham muốn vô biên những nguồn khoái lạc trong trắng của một cõi trời cách biệt.” Trong lời giới thiệu tập Tinh huyết của Bích Khê (1939), Hàn Mặc Tử giải thích rõ ràng hơn: “Sự say mê, tìm kiếm những nguồn hoan lạc vô biên đã dần dần đẩy thi nhân vào bờ bến của Huyền diệu (...) thi nhân chú trọng về âm thanh và màu sắc (...) nhạc lúc bấy giờ cũng không còn là nhạc nữa. Nó đã bay ra hương, ra hoa, ra thơm, ra mát, ra ngọt, ra ngào, ra gì mê tơi, run rẩy, hay âm thầm nức nở, lanh lảnh như giọng trời, mơn man như ân tình đòi hỏi...”. Thơ, như thế, có khả năng “Bắt cái vô hình trở nên hữu hình, khiến cái chết trở nên sống, cho vật câm không còn là câm nữa”... Cái gì đằng sau thơ siêu thực Hàn Mặc Tử (4) Tin Chúa, nên khổ quá thì kêu Chúa. Nhưng sao lại từ ngắm trăng cách bình thường chuyển qua say trăng hơn say gái? Cái trăng Bình Ðịnh có gì khác lạ? Thị xã Qui Nhơn phải chăng nơi chốn không bình thường? 181
Trong lời tựa cho tuyển thơ văn cuối cùng của mình (1988), Chế Lan Viên ngỏ lời tri ân “quê nuôi” và tâm sự: “khi tôi lên bảy thì cả gia đình chuyển vào Bình Ðịnh (...) Tôi đã gặp cả một vùng, một trung tâm thơ, trung tâm văn học là Qui Nhơn.” Ở đấy, ông gặp “sự ham đi tìm cái mới, sự không chấp nhận sáo mòn của các thi sĩ (...) Tôi đã chịu ảnh hưởng (...) tốt đẹp”. “Trung tâm thơ”, thời ấy, có lối sinh hoạt văn nghệ riêng. Hoàng Diệp, một bạn thân của Hàn Mặc Tử, kể: “... ở Qui Nhơn (...) Những đêm trăng sáng, màu trăng hoang dại, huyền hoặc, thường quyến rũ chúng tôi đi ngủ biển. Chế Lan Viên, Yến Lan và tôi... hội họp tại nhà Hàn Mặc Tử, rồi đem ra (drap), mền đi ngủ biển chỉ cách nhà chàng độ 200 thước. Những đêm ấy là những đêm mưa tầm tã, lụt ngập trời. Nhưng mưa ở đây là mưa sao, lụt ở đây là lụt trăng. Chúng tôi bị trăng vây phủ tứ bề, ngăn hết nẻo đường...”. Bị trăng vây bủa mà bên mình có anh thơ Quách Tấn, em thơ Chế Lan Viên, bạn thơ Yến Lan v.v. thì còn chịu được. Nhưng suốt thời kỳ Hàn Mặc Tử trốn lánh để khỏi bị bắt vào trại Quy Hòa, đâu phải đêm nào anh em bè bạn cũng cùng đi ngủ biển với thi sĩ bất hạnh được. Bao nhiêu đêm trăng lụt sao mưa Hàn Mặc Tử phải đắm đuối một mình trên cát? Một người cùi đơn độc, thui thủi, giữa bao la trăng... “Tiêu dao đến nỗi bẽ bàng, Ði trong hiu quạnh gặp toàn bơ vơ”. Ði suốt đêm, gặp toàn... không ai cả, nhưng “Tiếng gà gáy rụng trăng đầu hạ, Tôi hoảng hồn lên, giận sửng sờ!”. Lại Yến Lan: “Tình yêu trắc trở. Anh dựa vào tình bè bạn. Cô đơn, tù túng quá, Anh dựa vào cái mà thiên nhiên đã cho Anh nhiều nhất, dễ dàng tiếp cận nhất, là trăng.” Căn bệnh quái ác ảo hóa, hư vô hóa gần tất cả đời sống, chỉ để lại cho kẻ-vốn-khát-yêu chứa chan một thứ ánh sáng lờn lợt, mơ hồ... Ðời thi sĩ dù khổ tột độ, tự nó cũng không làm nên thơ hay. Phải có tài, thứ tài thích hợp. Chế Lan Viên nhận xét: “Tử có rất sớm (...) cái khả năng (...) tâm tưởng tâm hồn hóa (...) thế-tục-hóa, da-thịt-hóa (...) ma-quái-hóa (...) nhờ có một cái cốt (...) một cấu trúc tâm hồn thế nào đó”. Cái cốt khác thường ấy giúp Hàn Mặc Tử “đi về, qua lại giữa (...) thực và hư... rất thoải mái”. 182
Rất tiện lợi nữa. Bệnh tật ảo hóa thực tại, thì thi sĩ thực hóa ánh trăng. Bệnh tật cướp đi những khao khát tình cảm bằng xương bằng thịt, thì thi sĩ bắt ánh trăng huyền ảo đền bù: “Tôi lại gần bên, ồ! lạ thường! Nường trăng, Ô! chính là Thương Thương!”. Thương là trăng, trăng là Thương. Mà Thương chẳng qua cũng chỉ giả danh, tình mới đích thị thực danh: “Tôi say tình cũng như tôi say trăng”. Hay “tôi say trăng cũng như tôi say tình”, cũng thế. Tình, trăng, trăng, tình, đi, về, qua, lại. Chế Lan Viên nhận định rất đúng: “Hàn Mặc Tử không phải là nhà thơ siêu thực. Trước sau anh vẫn là lãng mạn (...) dùng nhiều yếu tố siêu thực”. Lãng mạn siêu thực là Hàn Mặc Tử bồng bột khi bơi trăng tắm sao. Mặt khác, cũng những khi ấy, thỉnh thoảng lại xuất hiện một Hàn Mặc Tử khác, trầm ngâm: “Tối hôm nay muôn sao bơi nhấp nhánh. Sông Mê hà đưa đẩy sóng triền miên...”, triết lý cổ điển: “Chao ôi! ghê quá trong tư tưởng, Một vũng cô liêu cũ vạn đời!”. Ngay giữa tập thánh thi, giữa những dòng sôi nổi ca tụng Ðức Mẹ, giữa chói lọi hào quang, vẫn lạc vào hoặc chút “cô liêu” cũ kỹ: “Trời Hàn giang đêm nay không sóng, Lòng cô liêu đồng vọng làm chi?” hoặc những dòng nước mắt vừa bàng hoàng vừa tỉnh táo: “Hôm nay trời lửng lơ trời, Dòng sông ánh sáng sẽ trôi hoa vàng. Tôi ngồi ở bến Hàn giang, 183
Khóc thôi mây nước bàng hoàng suốt đêm”. Khi viết những câu thơ ấy, Hàn nghĩ gì? Có phải, như Chế Lan Viên khóc người anh thơ sáu bảy mươi năm trước: “Tôi tưởng tượng ra cái phút cuối cùng của Tử. Có phải Tử nghĩ đến (...) những cái có thật mà mình không về với nữa, cũng như (...) đến nơi không biết có thật bao giờ, mà mình sắp phải trở về”.(5) Những câu thơ chừng mực lạc lõng như gợi thủa đầu lành lặn, bình an, lại như nhắc kết thúc bi thảm không còn xa nữa. Hàn Mặc Tử mất năm 28 tuổi. Một cuộc đời ngắn ngủi quá. Và cũng dài lê thê. Ðọc những câu như: “... Một khối tình nức nở giữa âm u, Một hồn đau rã lần theo hương khói, Một bài thơ cháy tan trong nắng dọi, Một lời run hồi hộp giữa không trung Cả niềm yêu, ý nhớ, cả một vùng Hòa thành vũng máu đào trong ác lặn”, ta tưởng tượng sống mà mỗi “ác lặn” lại thấy một “vũng máu đào” như thế thì mỗi ngày, nhất là mỗi đêm, hẳn phải dài bằng bao nhiêu ngày bao nhiêu đêm của những kiếp người may mắn hơn. Ðời sống vốn quý, nhưng trong những trường hợp nào đó, “cái phút cuối cùng” nó đến sớm có lẽ là hay... Chơi Giữa Mùa Trăng Miên man về thơ siêu thực của Hàn Mặc Tử, chợt nhớ Hàn còn có văn siêu thực. Chơi Giữa Mùa Trăng rất đỗi thơ, óng ánh kỳ ảo như viên ngọc lớn, như chính tâm hồn và tài năng của người nghệ sĩ bất hạnh đã “kết tinh ở bao thanh sắc lạ”: “Trăng là ánh sáng? Nhất là trăng giữa mùa thu, ánh sáng càng thêm kỳ ảo, thơm thơm, và nếu người thơ lắng nghe một cách ung dung, sẽ nhận thấy có nhiều miếng nhạc say say gió xé rách lả tả... Và rơi đến đâu, chạm vào thứ gì là chỗ ấy, thứ ấy vang lên tuy chẳng một ai thấy rõ sức rung động (...) Sông? Là một giải lụa bạch, không, là một đường trăng trải chiếu vàng, hai bên bờ là động cát và rừng xanh và hoang vu và thanh tịnh. Chị tôi và tôi đồng cầm 184
một mái chèo con, nhẹ nhàng lùa những dòng vàng trôi trên mặt nước. Chị tôi cười nả nớt, tiếng cười trong như thủy tinh và thanh khiết lạ thường. Luôn luôn cứ hỏi tôi và đố tôi cho kỳ được: “Này chị đố em nhé, trăng mọc dưới nước hay mọc trên trời, và chúng mình đi thuyền trên trời hay dưới nước?” Tôi ngước mắt ngó lên trời rồi ngó xuống nước và cũng cười đáp lại: “Cả và hai chị ạ.” Sướng quá, chao ôi, hai chị em lại thỉnh thoảng rú lên cười làm náo động luồng tinh khí của hạo nhiên. (...) Thuyền đi êm ái quá, chúng tôi cứ ngờ là đi trong vũng chiêm bao, và say sưa và ngây ngất vì ánh sáng, hai chị em như đê mê, không còn biết là có mình và nhận mình là ai nữa. Huyền ảo khởi sự. Mỗi phút trăng lên mỗi cao, khí hậu cũng tăng sức ôn hòa lên mấy độ, và trí tuệ, và mộng, và thơ, và nước, và thuyền dâng lên, đồng dâng lên như khói... (...) (...) “Thôi rồi! Trí ơi! Con trăng nó bị vướng trên cành trúc kia kìa, thấy không? Nó gỡ mãi mà không sao thoát được, biết làm thế nào, hở Trí?” Tôi cười: “Hay là chị em ta cho thuyền đỗ vào bến này, rồi ta trèo lên động cát với tay gỡ hộ cho trăng thoát nạn.” Hai chị em liền giấu thuyền trong một bụi hoa lau bông vàng phơi phới, rồi cùng lạc vào một đường lối rất lạ, chân dẫm lên cát mà cứ ngỡ là bước trên phiến lụa. Nước suối chảy ở hang đá trắng, tinh khiết như mạch nước ngọc tuyền, chồm lên những vừng lá, hễ trông đến là kinh hãi vì ngó giống con bạch hoa xà như tạc... Sao đêm nay kiều diễm như bức tranh linh động thế này? Tôi muốn hỏi xem chị tôi có thấy ngọt ngào trong cổ họng như vừa uống xong môt ngụm nước lạnh, mát đến tê hết cả lưỡi và hàm răng? Chị tôi làm thinh, mà từng lá trăng rơi lên xiêm áo như những mảnh nhạc vàng (...) Ánh sáng tràn trề, ánh sáng tràn lan, chị tôi và tôi đều ngả vạt áo ra bọc lấy, như bọc lấy đồ châu báu (...) (...) “A ha, chị Lễ ơi, chị là trăng mà em đây cũng là trăng nữa!”.” Lãng mạn chưa bao giờ siêu thực thế Trăng, trước Hàn Mặc Tử chưa bao giờ lãng mạn cách lạ lùng như trên, mà sau Hàn Mặc Tử, càng về sau e càng kém lãng mạn, bất cứ cách gì. E rồi chỉ còn thứ trăng... ô nhiễm. Thơ văn siêu thực của Hàn Mặc Tử không chứa thắc mắc siêu hình như thơ Chế Lan Viên, cảm xúc vũ trụ như thơ Huy Cận, cảm xúc thời gian như tác phẩm Võ Phiến. Nó chất đầy khát khao lãng mạn mang dáng màu siêu thực. 185
“Ðau thương” thăng hoa, đã góp thêm vào “vườn văn đầy hương sắc”(6) một đóa màu... trăng, thơm tho, đằm thắm, vang vang... 11 - 2003 (Thu Tứ, Tìm tòi và suy nghĩ, nxb. Của Tin, Mỹ, 2005) _______________________ Tất cả các chỗ trích dẫn trong bài này đều rút từ các sách sau đây: Thơ Hàn Mặc Tử, nxb. Ðại Nam tái bản ở Mỹ. Thơ Hàn Mặc Tử, Sở Văn hóa - Thông tin Nghĩa-Bình, VN, in lần 2, 1988. Hàn Mặc Tử - Thơ và đời, nxb. Văn Học, VN, 1993. Chế Lan Viên - Thơ văn chọn lọc, Sở Văn hóa và Thông tin Nghĩa-Bình, Qui Nhơn, 1988. Hoài Thanh, Thi nhân Việt Nam. Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại. Văn xuôi lãng mạn Việt Nam (1930-1945), nxb. Khoa Học Xã Hội, VN, 1990. Thơ Bích Khê, Sở Văn hóa và Thông tin Nghĩa Bình, VN, 1988. (1) Xem bài Ðất Nào Văn Nấy, bài Một Miền, Ba Dấu, và các bài về Chế Lan Viên, Huy Cận, Võ Phiến. (2) Lời trong bài Nguyệt Ca của Trịnh Công Sơn. (3) Xem trên. (5) Chế Lan Viên, “Kỷ niệm về Hàn Mặc Tử”, báo Người Mới, số 5, 23-111940, in lại trong tuần báo Văn Nghệ, Việt Nam, số 25, 19-6-2004. (6) Nguyễn Hiến Lê có tác phẩm tên Hương sắc trong vườn văn.
Bà Huyện Thanh Quan Thi phẩm để lại chắn chắn là của Bà Huyện Thanh Quan chỉ bốn bài.(1) Bốn thôi, nhưng thật đáng kể. Vì thứ nhất, cụm thơ ấy thêm một bằng chứng về việc thi nhân Việt Nam đã bản địa hóa thành công một số từ Hán. Việt hóa là làm cho mang phong cách Việt. Đây cụ thể là dùng từ Hán trong câu thơ tiếng Việt thế nào cho nó không nổi bật, chói chang, mà lại hòa hợp với từ Việt khiến câu chẳng những không lủng củng mà còn trở nên có sắc màu phong phú hơn. Trong “Thăng Long thành hoài cổ”, những “thu thảo”, “tịch dương”, “tuế nguyệt”, “tang thương” v.v. rất tự nhiên hòa vào với những “lối xưa”, “nền cũ”, “đá trơ gan”, “nước cau mặt” v.v Nhờ đứng trong câu tiếng Việt, những từ Tàu kia bỗng mang dáng dấp vừa cổ kính vừa nhẹ nhàng vốn có lẽ không có khi đứng trong câu tiếng Tàu. Rồi chính cái phong cách Việt mới có của chúng lại làm cho câu thơ tiếng Việt bỗng thêm 186
trang nhã! Thứ hai, thơ Bà Huyện Thanh Quan cũng là một bằng chứng về việc thi nhân Việt Nam đã Việt hóa thành công thể thơ Đường. Tuân theo đủ mọi ràng buộc của luật Tàu, nhưng vẫn cứ diễn được tứ thành thơ tiếng Việt hay, thế là đã “hóa” luật người thành luật mình rồi chứ còn gì nữa! Về thơ nôm hay, tuy trước bà đã có những thành công hết sức rực rỡ, thiết tưởng mấy vần “trau chuốt đến tự nhiên” của Bà Huyện Thanh Quan vẫn có chỗ đứng sự thể. Ngoài những giá trị như vừa nói, bốn bài “Thanh Quan” lại còn đáng nhớ vì có một phong cách riêng. Kể cả khi lời gần thuần nôm như bài “Qua đèo Ngang”, thơ ấy vẫn toát ra vẻ trang nhã, kín đáo đặc biệt. Cuối cùng, về nội dung tác phẩm, Bà Huyện là bậc nữ lưu mà có cảm xúc sâu sắc về lịch sử. Thăng Long thành hoài cổ “Tạo hóa gây chi cuộc hí trường / Ðến nay thấm thoắt mấy tinh sương / Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo / Nền cũ lâu đài bóng tịch dương / Ðá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt / Nước còn cau mặt với tang thương / Nghìn năm gương cũ soi kim cổ / Cảnh đấy người đây luống đoạn trường”. Nhớ “thành”, thực ra là nhớ cái thời Thăng Long còn là kinh đô. Kể cũng ngộ, cái việc bài thơ nổi tiếng nhất về một đổi thay có ý nghĩa thuần túy lịch sử lại là của một bậc nữ lưu. “Nước cau mặt” hẳn là Hồ Gươm hay Hồ Tây, còn “nền cũ lâu đài” là ở chỗ nào bên hồ? Qua đèo Ngang “Bước tới đèo Ngang bóng xế tà / Cỏ cây chen lá đá chen hoa / Lom khom dưới núi tiều vài chú / Lác đác bên sông chợ mấy nhà / Nhớ nước đau lòng con quốc quốc / Thương nhà mỏi miệng cái gia gia / Dừng chân đứng lại trời non nước / Một mảnh tình riêng ta với ta”. Ðèo Ngang sau “ta” đã bao thi nhân cũng “bước tới”, “dừng chân đứng lại”, thế mà không có bài thơ vịnh nào khác nổi tiếng gần bằng. Thì Lầu Hoàng Hạc sau Thôi Hiệu cũng thế. Chùa Trấn Bắc “Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu / Khiến người qua đó chạnh niềm đau / Mấy giò sen rớt hơi hương ngự / Năm thức mây phong nếp áo chầu / Sóng lớp phế hưng coi đã rộn / Chuông hồi kim cổ lắng càng mau / Người xưa cảnh cũ nào đâu tá? / Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu!”. Trấn Bắc là tên do vua Thiệu Trị đặt lại năm 1842 khi ra Bắc đến thăm chùa Trấn Quốc. Vua đã nghỉ tạm ở chùa chăng, mà “hành cung”? Dù sao, “chạnh niềm đau” đây là hoài Lê. “Hương ngự” với “áo chầu” là hương xưa áo cũ lắm, thời “người qua đó” còn chưa khóc 187
oe oe! Chiều hôm nhớ nhà “Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn / Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn / Gác mái ngư ông về viễn phố / Gõ sừng mục tử lại cô thôn / Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi / Dặm liễu sương sa khách bước dồn / Kẻ chốn Chương Ðài người lữ thứ / Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn”. Bài thơ này khác ba bài kia ở chỗ chứa thuần túy “mảnh tình riêng”. Tình hẳn sâu mà diễn nhẹ, kín. (Trẻ chăn trâu cưỡi trâu về làng, sao ông chài không chèo thuyền về vạn, mà lại “gác mái” đi bộ về phố xa?) (Nhận định viết vào nhiều lúc khác nhau, tập hợp thành bài với lời dẫn lần đầu năm 2011, sửa lần chót năm 2016) ________ (1) Bài “Cảnh thu” nhiều người cho là thơ Hồ Xuân Hương.
___ Xin cám ơn tác giả Thu Tứ Tl tự tổng hợp từ trang gocnhin.net, phân trang cho cá nhân dễ đọc
188