Bảo vệ môi trường và vai trò của đại biểu dân cử

Page 1

BAN CÔNG TÁC ĐẠI BIỂU TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

SỐ 03 THÁNG 4/2014

BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ

VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤC VỤ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ



BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ

VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

BIÊN TẬP TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

Trụ sở: 22 Hùng Vương - Ba Đình - Hà Nội Tel: 080-44352 Fax: 080-46003 Website: www.ttbd.gov.vn Email: tbbd@qh.gov.vn

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

MỤC LỤC

LỜI GIỚI THIỆU

7

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN

9

1. Một số khái niệm cơ bản

9

1.1. Môi trường là gì?

9

1.2. Thế nào là hoạt động bảo vệ môi trường

9

1.3. Ô nhiễm môi trường là gì? 2. Sự cần thiết phải bảo vệ môi trường và các phương pháp bảo vệ môi trường

10 11

3. Quan điểm chỉ đạo và nguyên tắc xây chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường14

II. THỰC TRẠNG CỦA CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG

20

1. Những kết quả đạt được

20

2. Những tồn tại, hạn chế trong chính sách Bảo vệ môi trường

22

2.1. Tính đồng bộ

22

2.2. Tính thống nhất

26

2.3. Tính đầy đủ

28

2.4. Tính phù hợp

30

3. Một số kỹ năng trong lĩnh vực bảo vệ môi trường

31

3.1. Kỹ năng xem xét việc ban hành và giám sát thực hiện văn bản quy phạm pháp luật

32

3.2. Kỹ năng giám sát thông qua công cụ kinh tế

33

3.3. Kỹ năng giám sát thông qua công cụ kỹ thuật

34

3.4. Kỹ năng giám sát môi trường thông qua hoạt động tiếp xúc cử tri

35

3.5. Kỹ năng xây dựng chính sách bảo vệ môi trường: Quy định trả tiền cho hành vi gây ô nhiễm môi trường

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

36


III. PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG

38

1. Khái niệm

38

2. Trách nhiệm và nghĩa vụ quốc gia theo luật quốc tế về môi trường

39

2.1. Nghĩa vụ

39

2.2. Trách nhiệm

40

3. Nội dung

40

3.1. Luật quốc tế về bảo vệ bầu khí quyển

40

3.2. Luật quốc tế về bảo vệ môi trường biển

52

3.3. Luật quốc tế về đa dạng sinh học

53

3.4. Luật quốc tế về di sản

58

3.5. Luật quốc tế về kiểm soát hoạt động hạt nhân và các chất nguy hại

60

KẾT LUẬN

61


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

LỜI GIỚI THIỆU Bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của thế kỷ XXI, mang tính sống còn đối với sự phát triển của nhân loại. Ở Việt Nam, trong quá trình hội nhập, bên cạnh những thành tựu đạt được về vấn đề kinh tế - xã hội, vấn đề bảo vệ môi trường đang đứng trước những thách thức lớn. Các vấn đề về môi trường nhận được sự quan tâm lớn và được thể hiện thành các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, quy định trong Hiến pháp, pháp luật. Qua hơn 8 năm đưa vào triển khai, áp dụng, Luật bảo vệ môi trường 2005 đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ chất lượng sống, cũng như hạn chế những tác động tiêu cực đến môi trường, nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước, ý thức bảo vệ môi trường của cộng đồng, tạo ra những định hướng ban đầu cho việc kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, trước những yêu cầu và thách thức của cuộc sống đang ngày càng phát triển, với chủ trương phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với bảo vệ môi trường phát triển bền vững và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, việc cần rà soát và nghiên cứu sửa đổi Luật bảo vệ môi trường năm 2005 được xem là nhiệm vụ cấp thiết của Quốc hội khóa XIII. Tại kỳ họp thứ 6, dự thảo Luật bảo vệ môi trường 2005 (sửa đổi) đã được Quốc hội cho ý kiến lần đầu và dự kiến sẽ được thông qua tại kỳ họp thứ 7 giữa năm 2014.

Phần I: “Một số vấn đề cơ bản về bảo vệ môi trường” giới thiệu một số khái niệm như môi trường, ô nhiễm môi trường, bảo vệ môi trường; sự cần thiết bảo vệ môi trường; các biện pháp bảo vệ môi trường; quan

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

TRANG [7]

Nhằm cung cấp cho ĐBQH những kiến thức chung về vấn đề bảo vệ môi trường, cũng như kỹ năng liên quan đến hoạt động giám sát, kỹ năng xây dựng và góp ý kiến vào dự thảo Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi, tại Hội nghị chuyên đề về “Bảo vệ môi trường và vai trò của đại biểu dân cử”, Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân cử biên soạn tập san“Bảo vệ môi trường và vai trò của đại biểu dân cử”. Tập san có các nội dung lớn như sau:


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

điểm chỉ đạo, chủ trương, đường lối lớn về bảo vệ môi trường… Phần II: “Thực trạng bảo vệ môi trường” phân tích một số thành tựu lớn và những hạn chế, vướng mắc trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam, từ đó đại biểu có thể tự mình rút ra nhận định, đánh giá điều gì cần tiếp tục phát huy và điều gì cần khắc phục trong bảo vệ môi trường. Phần này cũng gợi ý một số kỹ năng trong ban hành chính sách, giám sát việc thực hiện chính sách về bảo vệ môi trường. Phần III: “Pháp luật quốc tế về bảo vệ môi trường” giới thiệu khái quát về các quy định của pháp luật quốc tế về bảo vệ môi trường trong các lĩnh vực như: biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường biển, đa dạng sinh học... Phần này nhằm hỗ trợ đại biểu những kiến thức tổng quan nhất về pháp luật quốc tế liên quan đến môi trường trong bối cảnh hội nhập, Việt Nam đã cam kết với cộng đồng quốc tế nhiều nghĩa vụ pháp lý trong lĩnh vực này. Hy vọng các thông tin của tài liệu này sẽ góp phần hỗ trợ đại biểu dân cử thực hiện vai trò của mình trong việc xây dựng chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường và giám sát trong lĩnh vực này một cách có hiệu quả. Mong nhận được phản hồi của các đại biểu để tiếp tục hoàn thiện tài liệu này tốt hơn.

TRANG [8] TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Một số khái niệm cơ bản 1.1. Môi trường là gì? Khi nói đến môi trường người ta thường có cách hiểu đó là môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Theo nghĩa rộng, yếu tố cấu thành môi trường bao gồm toàn bộ các yếu tố tự nhiên và xã hội nói chung bao quanh con người hay một sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên trong thực tế, môi trường thường được giới hạn trên cơ sở căn cứ chủ thể (môi trường đầu tư, môi trường pháp lý, môi trường đào tạo…) hoặc căn cứ vào yếu tố bao quanh (môi trường tự nhiên, môi trường xã hội…). Để xác định phạm vi điều chỉnh của môi trường dưới góc độ pháp lý thường được giới hạn dựa trên cả hai căn cứ vừa nêu. Khoản 1, Điều 3 Luật bảo vệ môi trường 2005 quy định: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật”. Tuy nhiên, trong dự thảo mới của Luật Bảo vệ môi trường đưa ra khái niệm về môi trường một cách khái quát hơn: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo có tác động qua lại đối với sự tồn tại và phát triển của con người”. Như vậy, dù tiếp cận ở góc độ nào thì môi trường vẫn được giới hạn là môi trường sống của con người và những yếu tố môi trường chỉ bao gồm cácc yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo. 1.2. Thế nào là hoạt động bảo vệ môi trường

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

TRANG [9]

Từ nhiều thập kỷ qua, con người đã nhận thức được rằng: môi trường đóng vai trò hết sức quan trọng, bảo đảm sự tồn tại và phát triển kinh tế, sự sống của con người bởi vì môi trường không chỉ cung cấp các nguồn tài nguyên đầu vào cho sản xuất, tiện nghi sinh hoạt cho con người mà còn là nơi chứa và hấp thụ nguồn chất thải do chính quá trình sản xuất và chính con người tạo ra. Tuy nhiên, nhiều nhà khoa học đã chỉ ra rằng chức năng này của môi trường liên quan tới hoạt động kinh tế, chúng có mối tương tác chặt chẽ với nhau và trong những trường hợp nhất định chúng có thể triệt tiêu nhau: ví dụ chất thải do hoạt động sản xuất sinh ra trong nhiều trường hợp có tác động huỷ hoại và làm giảm nguồn tài nguyên thiên nhiên của môi trường.


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

Xét dưới góc độ tự nhiên, con người và tự nhiên là một thể thống nhất, con người chính là sản phẩm của tự nhiên và chỉ có thể tồn tại, phát triển trong những điều kiện tự nhiên thích hợp. Toàn bộ nguồn năng lượng các dạng vật chất khác tạo ra cơ thể con người, duy trì sự tồn tại và phát triển của con người đều được cung cấp bởi môi trường. Như Ảnh minh họa vậy, môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo có tác động qua lại đối với sự tồn tại và phát triển của con người. Theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường hiện hành, hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp; phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ đa dạng sinh học1. Điều này đã được khẳng định xuyên suốt từ năm 1993 đến nay. Tuy nhiên, căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong thời gian qua, trong dự thảo luật Bảo vệ môi trường lần này vẫn giữ được tinh thần đó và còn khẳng định môi trường phải “thích ứng với biến đổi khí hậu”. 1.3. Ô nhiễm môi trường là gì?

TRANG [10]

Theo luật bảo vệ môi trường năm 2005 “ô nhiễm môi trường là sự làm thay đổi tính chất của môi trường, vi phạm tiêu chuẩn môi trường”. Như vậy, ô nhiễm môi trường là việc làm thay đổi trực tiếp hay gián tiếp tính chất vật lý hay hoá học, sinh học của bất cứ thành phần nào của môi trường, dẫn đến sự thay đổi nguy hại hoặc có khả năng gây nguy hại đến sức khoẻ, đến sự an toàn hoặc sự phát triển của bất cứ giống, loài sinh vật nào. 1

Điều 3 Khoản 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 (tinh thần này đã được khẳng định một phần trong Điều 1 Luật Bảo vệ môi trường năm 1993). TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian qua, cùng với những tác động của phát triển kinh tế tới môi trường mà trực tiếp là các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ các nhà nghiên cứu cũng như các chuyên gia đang đưa ra một khái niệm về ô nhiễm môi trường một cách khái quát hơn và đang được Ban soạn thảo dự thảo Luật Bảo vệ môi trường nghiên cứu đưa vào, đó là “Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù hợp với tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người, sinh vật”. 2. Sự cần thiết phải bảo vệ môi trường và các phương pháp bảo vệ môi trường Để có thể tồn tại và phát triển, con người phải xây dựng cho mình hệ thống kinh tế, một hệ thống cung cấp cho chúng ta mọi thứ của cải và dịch vụ cần thiết cho cuộc sống. Song hệ thống này không thể hoạt động nếu không có sự hỗ trợ của các hệ thông sinh thái gồm cây, cỏ, thú vật và các mối quan hệ hỗ tương của chúng tức là hệ thống kinh tế được đặt trên nền tảng môi trường.

Bên cạnh đó, sự gia tăng dân số và sự phát triển của khoa học công nghệ đã dẫn đến gia tăng nhu cầu và khả năng tác động của con người vào môi trường. Nếu sự tác động của con người vào môi trường vượt quá sức chịu

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

TRANG [11]

Khi có nhân tố môi trường tham gia thì hệ thống kinh tế được xem như là một hệ thống mở. Điều này có nghĩa để hoạt động (tức là để cung cấp hàng hoá và dịch vụ) nền kinh tế phải khai thác tài nguyên từ môi trường, chế biến những tài nguyên này (biến chúng thành những sản phẩm hàng hóa hoàn tất để tiêu thụ) và thải trở lại môi trường xung quanh một khối lượng lớn những tài nguyên bị hao mòn hoặc đã qua quá trình biến đổi hoá học (thành những chất thải). Do đó, càng nhiều tài nguyên bị hút vào nền kinh tế thì càng có nhiều chất thải bị đẩy trở lại môi trường xung quanh. Điều này tạo ra những áp lực lên khả năng có hạn của môi trường thiên nhiên trong việc xử lý những chất thải mà không gây hại đến con người, thú vật và cây cỏ bởi vì môi trường tự nhiên chỉ có thể tự tổ chức và tự điều chỉnh trong một giới hạn cho phép. Khi có quá nhiều chất thải không đúng chỗ, không đúng lúc (hoặc kéo dài quá lâu) sẽ gây ra những thay đổi về sinh học cũng như những thay đổi khác trong môi trường (gọi là nhiễm độc). Chính những sự thay đổi này sau đó có thể làm hại đến súc vật, cây cỏ, hệ sinh thái và sức khoẻ con người.


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

đựng của nó tất sẽ dẫn đến những thảm họa về môi trường mà con người sẽ phải trả giá với tư cách vừa là nạn nhân, vừa là thủ phạm. Trên thực tế điều này không còn là nguy cơ mà đã và đang diễn ra như một thảm họa mang tính toàn cầu đe dọa sự tồn tại của loài người. Thực trạng môi trường hiện nay là rất xấu và đang diễn biến theo chiều hướng ngày càng xấu hơn. Vấn đề này đuợc biểu hiện qua những khía cạnh sau: - Tình trạng suy kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên; - Ô nhiễm môi trường và suy thoái môi trường ngày càng trầm trọng; - Sự cố môi trường ngày càng gia tăng cả về cường độ và tần suất. Những hiện tượng trên không chỉ trực tiếp ảnh hưởng xấu tới tính mạng con người, kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội mà còn kết hợp với nhau gây ra tình trạng suy giảm tầng ozone (do ô nhiễm bởi những chất ODS) và hiện tượng khí hậu biến đổi (do phá rừng kết hợp với ô nhiễm không khí bởi các chất khí nhà kính…). Chính vì vậy, bảo vệ môi trường hiện nay đã trở thành nhiệm vụ mang tính sống còn của con người. Để bảo vệ môi trường, chúng ta có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó quan trọng nhất là các biện pháp sau: ● Biện pháp chính trị

TRANG [12]

Biện pháp này được coi là biện pháp mang tính nền tảng vì nó gắn liền với quyền lực chính trị và quyết định đến đường lối, chủ chương chính sách về môi trường của các quốc gia. Trên bình diện quốc tế, biện pháp này thường được thực hiện thông qua hoạt động ngoại giao, qua hoạt động của các tổ chức quốc tế và đặc biệt là của Liên Hợp Quốc. Tuyên bố của Hội nghị Liên Hợp Quốc về môi trường con người tại Stockholm tháng 6/1972 và Tuyên bố của hội nghị Liên Hợp Quốc về Môi trường và phát triển tại Rio De Janeiro tháng 6/1992 mặc dù không mang tính ràng buộc pháp lý nhưng chúng đã và đang được coi là cương lĩnh hành động của nhân loại về môi trường. Xét trong phạm vi quốc gia, mà cụ thể tại khu vực châu Âu biện pháp chính trị chủ yếu được thực hiện thông qua hoạt động của các tổ chức chính trị mà quan trọng nhất là của đảng cầm quyền và đảng Xanh ở các nước châu Âu… ● Biện pháp tuyên truyền - giáo dục

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

Ảnh minh họa

Tuyên truyền, giáo dục cũng được coi là biện pháp quan trọng vì qua đó sẽ hình thành và nâng cao ý thức về môi trường của các tổ chức, cá nhân. ● Biện pháp kinh tế

● Biện pháp khoa học - công nghệ Biện pháp này đuợc coi như giải pháp để giải quyết mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển vì nhờ có tiến bộ khoa học công nghệ mà con người

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

TRANG [13]

Biện pháp kinh tế hiện đang là một trong cách biện pháp tác động có hiệu quả nhất vì nó tác động vào chính lợi ích kinh tế của các tổ chức, cá nhân để các chủ thể này vì lợi ích của mình mà phải thay đổi hành vi xử sự đối với môi trường. Biện pháp này tác động vào lợi ích kinh tế ở hai phưong diện: trừng phạt về kinh tế đối với hành vi tác động có hại cho môi trường và khuyến khích về lợi ích kinh tế cho những hành vi tác động thân thiện với môi trường trên cơ sở nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền.


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

vẫn có thể tiếp tục phát triển nâng cao mức sống trong khi vẫn bảo đảm các yêu cầu về môi trường thông qua việc áp dụng công nghệ sạch, sử dụng nguồn năng lượng tái sinh, vật liệu mới… ● Biện pháp pháp lý Với các đặc trưng như mang tính quy phạm phổ biến và được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế và các họat động khác của Nhà nước… pháp luật đã và đang khẳng định vai trò không thể thiếu trong hoạt động bào vệ môi trường hiện nay. Có thể nói, biện pháp pháp lý chính là biện pháp bảo đảm thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường nói trên. Các cam kết về mặt chính trị, chính sách bảo vệ môi trường của đảng cầm quyền… chỉ có thể đi vào thực tiễn khi nó được thể chế hóa dưới dạng các quy định pháp luật. Biện pháp kinh tế chỉ có thể được thực hiện khi nhà nước thông qua các văn bản quy phạm pháp luật ban hành và tổ chức thực hiện những sắc thuế, phí và lệ phí về môi trường cũng như các thành tựu của khoa học - công nghệ trong lĩnh vực môi trường thường chỉ được triển khai áp dụng khi việc áp dụng này trở thành giải pháp bắt buộc để đáp ứng các yêu cầu của pháp luật về môi trường với ý nghĩa là điều kiện để được phê duyệt dự án đầu tư, để tiếp tục được tồn tại hoạt động hoặc như một giải pháp để giảm bới chi phí về môi trường qua sự tác động của pháp luật về thuế, phí… 3. Quan điểm chỉ đạo và nguyên tắc xây chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường

TRANG [14]

Chỉ thị 36-CT/TW của Bộ Chính trị đã đưa ra những quan điểm, nguyên tắc cơ bản, thể hiện đường lối, chủ trương về bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta: “Coi công tác bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân; là nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành; là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Như vậy, quan điểm của Đảng về bảo vệ môi trường quốc gia không tách rời việc phát triển kinh tế - xã hội, nó là một bộ phận cấu thành của phát triển kinh tế - xã hội, được xây dựng theo hướng phát triển bền vững. Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia phải dựa trên việc phân tích hiện trạng và dự báo xu thế biến động môi trường của đất nước, trong bối cảnh

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ðồng thời chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia phải phù hợp với nguồn lực của quốc gia, được xây dựng trên cơ sở luật pháp Quốc tế mà quốc gia đó tham gia, ký kết nhằm thu hút đầu tư của nước ngoài. Bên cạnh đó, đây là cơ sở pháp lý cho việc xây dựng các kế hoạch môi trường quốc gia trung hạn và ngắn hạn. Về bảo vệ môi trường, bên cạnh các chủ trương, giải pháp nêu trong Văn kiện của Đại hội Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành một số Nghị quyết, Chỉ thị chuyên đề về công tác bảo vệ môi trường. Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã nêu quan điểm của Đảng về công tác bảo vệ môi trường, đó là “Bảo vệ môi trường là một vấn đề sống còn của đất nước, của nhân loại; là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc”. Tiếp theo đó, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 về Bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết tiếp tục khẳng định các quan điểm của Chỉ thị số 36/TW và bổ sung, phát triển các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp lớn, cập nhật xu thế của thời đại và phù hợp với yêu cầu của thực tiễn đặt ra, nhấn mạnh quan điểm “Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững, phải được thể hiện trong các chiến lược, qui hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành và từng địa phương. Khắc phục tư tưởng chỉ chú trọng phát triển kinh tế - xã hội mà coi nhẹ bảo vệ môi trường. Đầu tư cho bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển bền vững” và “Bảo vệ môi trường là biểu hiện của nếp sống văn hoá, đạo đức, là tiêu chí quan trọng của xã hội văn minh và là sự nối tiếp truyền thống yêu thiên nhiên, sống hài hoà với tự nhiên của cha ông ta“. Chỉ thị số 29-CT/BBT ngày 21 tháng 01 năm 2009 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 41NQ/TW cập nhật những nhận thức mới và đề ra các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ môi trường phù hợp với tình hình, nhiệm vụ.

Thứ nhất, bảo vệ môi trường phải gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế và bảo đảm tiến bộ xã hội để phát triển bền vững đất nước; bảo vệ môi trường quốc gia phải gắn với bảo vệ môi trường khu vực và toàn cầu.

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

TRANG [15]

Có thể nói rằng hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường của Việt Nam đã ghi nhận được hệ thống nguyên tắc điều chỉnh cơ bản, những nguyên tắc này đã được khẳng định tương đối nhất quán và rõ nét.


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

Nguyên tắc này là sự thể chế hóa quan điểm của Đảng ta về bảo vệ môi trường đã từng được ghi nhận trong Chỉ thị số 36-CT/TW của Bộ Chính trị (Khóa VIII) và Nghị quyết số 41NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị. Nghị quyết số 41-NQ/TW Bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế-xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc phòng và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta”. “Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững, phải được thể hiện trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành và từng địa phương. Khắc phục tư tưởng chỉ chú trọng phát triển kinh tế - xã hội mà coi nhẹ bảo vệ môi trường. Đầu tư cho bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển bền vững”. Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 20202 cũng nêu rõ “Chiến lược bảo vệ môi trường là bộ phận cấu thành không thể tách rời của Chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững đất nước. Phát triển kinh tế phải kết hợp chặt chẽ, hài hòa với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Đầu tư bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển bền vững”.

Thứ hai, bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn xã hội, quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân.

TRANG [16]

Thứ ba, hoạt động bảo vệ môi trường phải thường xuyên, lấy phòng ngừa là chính kết hợp với khắc phục ô nhiễm, suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường. Đây là nguyên tắc nhất quán trong chính sách, pháp luật bảo vệ môi trường của Việt Nam đã được khẳng định trong nhiều văn kiện chính trị, pháp lý quan trọng của nước ta. 2

Nghị quyết số 41-NQ/TW khẳng định rõ “Bảo vệ môi trường là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi tổ chức, mọi gia đình và của mỗi người, là biểu hiện của nếp sống văn hóa, đạo đức, là tiêu chí quan trọng của xã hội văn minh và là sự nối tiếp truyền thống yêu thiên nhiên, sống hài hòa với tự nhiên của cha ông ta”. “Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ vừa phức tạp, vừa cấp bách, có tính đa ngành và liên vùng rất cao, vì vậy cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp ủy đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân”. Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia của Việt Nam còn nêu rõ “Bảo vệ môi trường mang tính quốc gia, khu vực và toàn cầu cho nên phải kết hợp giữa phát huy nội lực với tăng cường hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường và phát triển bền vững”.

Được phê duyệt theo Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg ngày 2/12/2003 của Thủ tướng Chính phủ TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

Thứ tư, bảo vệ môi trường phải phù hợp với quy luật, đặc điểm tự nhiên, văn hóa, lịch sử, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn. Điều này đòi hỏi việc tiếp thu kinh nghiệm quốc tế trong việc bảo vệ môi trường phải tính tới các đặc điểm đặc thù về tâm lý, xã hội, trình độ phát triển, các điều kiện tự nhiên của Việt Nam, không thể dập khuôn, sao chép máy móc kinh nghiệm của nước ngoài.

Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị khẳng định rõ “bảo vệ môi trường phải theo phương châm lấy phòng ngừa và hạn chế tác động xấu đối với môi trường là chính kết hợp với xử lý ô nhiễm, khắc phục suy thoái, cải thiện môi trường và bảo tồn thiên nhiên; kết hợp giữa sự đầu tư của Nhà nước với đẩy mạnh huy động nguồn lực trong xã hội và mở rộng hợp tác quốc tế; kết hợp giữa công nghệ hiện đại với các phương pháp truyền thống”. Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia của Việt Nam cũng nêu rõ “Bảo vệ môi trường là việc làm thường xuyên, lâu dài. Coi phòng ngừa là chính, kết hợp với xử lý và kiểm soát ô nhiễm, khắc phục suy thoái, cải thiện chất lượng môi trường, tiến hành có trọng tâm, trọng điểm; coi khoa học và công nghệ là công cụ hữu hiệu trong bảo vệ môi trường”.

Thứ năm, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi trường có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại và chịu các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật. Có thể nói, đây là nguyên tắc nhất quán trong pháp luật bảo vệ môi trường của nước ta kể từ khi ban hành Luật Bảo vệ môi trường lần đầu tiên vào năm 1993. Điều 7 Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 cũng quy định rõ: “Tổ chức, cá nhân sử dụng thành phần môi trường vào mục đích sản xuất, kinh doanh trong trường hợp cần thiết phải đóng góp tài chính cho việc bảo vệ môi trường. Tổ chức, cá nhân gây tổn hại môi trường do hoạt động của mình phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật”.

Những nội dung cơ bản trong chính sách của Nhà nước về bảo vệ môi trường đã được khẳng định tại Điều 5 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005. Theo quy định này, chính sách của Nhà nước về bảo vệ môi trường trong giai đoạn hiện nay gồm các nội dung cơ bản sau:

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

TRANG [17]

Ngoài các nguyên tắc kể trên, Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia của Việt Nam còn khẳng định nguyên tắc “Bảo vệ môi trường phải trên cơ sở tăng cường quản lý nhà nước, thể chế và pháp luật đi đôi với việc nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của mọi người dân, của toàn xã hội về bảo vệ môi trường”.


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

Thứ nhất, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để mọi tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân tham gia hoạt động bảo vệ môi trường; Thứ hai, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, vận động, kết hợp áp dụng các biện pháp hành chính, kinh tế và các biện pháp khác để xây dựng ý thức tự giác, kỷ cương trong hoạt động bảo vệ môi trường; Thứ ba, sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; đẩy mạnh tái chế, tái sử dụng và giảm thiểu chất thải; Thứ tư, ưu tiên giải quyết các vấn đề môi trường bức xúc; tập trung xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; phục hồi môi trường ở các khu vực bị ô nhiễm, suy thoái; chú trọng bảo vệ môi trường đô thị, khu dân cư; Thứ năm, đầu tư bảo vệ môi trường là đầu tư phát triển; đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ môi trường và bố trí khoản chi riêng cho sự nghiệp môi trường trong ngân sách nhà nước hằng năm; Thứ sáu, nhà nước có chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, hỗ trợ tài chính cho các hoạt động bảo vệ môi trường và các sản phẩm thân thiện với môi trường; kết hợp hài hoà giữa bảo vệ và sử dụng có hiệu quả các thành phần môi trường cho phát triển; Thứ bảy, tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, khuyến khích nghiên cứu, áp dụng và chuyển giao các thành tựu khoa học và công nghệ về bảo vệ môi trường; hình thành và phát triển ngành công nghiệp môi trường; Thứ tám, mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường; khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường; TRANG [18]

Thứ chín, phát triển kết cấu hạ tầng bảo vệ môi trường; tăng cường, nâng cao năng lực quốc gia về bảo vệ môi trường theo hướng chính quy, hiện đại. Các chính sách của nhà nước về bảo vệ môi trường đang được Ban soạn thảo Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi củng cố và điều chỉnh một cách chặt chẽ hơn với các nội dung cụ thể sau:

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

1. Khuyến khích và tạo điều kiện cho mọi tổ chức, cá nhân tham gia bảo vệ môi trường; kiểm tra, giám sát thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường. 2. Tuyên truyền, giáo dục kết hợp với các biện pháp hành chính, kinh tế và các biện pháp khác để xây dựng kỷ cương và văn hóa môi trường. 3. Bảo tồn đa dạng sinh học; khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên; phát triển năng lượng sạch và tái tạo; đẩy mạnh tái chế, tái sử dụng và giảm thiểu chất thải. 4. Tích cực xử lý các vấn đề môi trường bức xúc, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; chú trọng bảo vệ môi trường khu dân cư. 5. Đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ môi trường; khuyến khích cơ chế đầu tư theo hình thức hợp tác công - tư; bố trí khoản chi riêng cho bảo vệ môi trường trong ngân sách với tỷ lệ tăng dần theo tăng trưởng chung; các nguồn kinh phí bảo vệ môi trường được quản lý thống nhất và ưu tiên sử dụng cho các lĩnh vực trọng điểm trong bảo vệ môi trường. 6. Ưu đãi về đất, thuế, tài chính cho các hoạt động bảo vệ môi trường, các cơ sở sản xuất, kinh doanh và các sản phẩm được chứng nhận thân thiện với môi trường; khuyến khích tổ chức, cá nhân tiêu dùng các loại sản phẩm thân thiện với môi trường. 7. Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực về bảo vệ môi trường. 8. Phát triển khoa học công nghệ môi trường; ưu tiên nghiên cứu, chuyển giao và áp dụng công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường. 9. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường; thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường.

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

TRANG [19]

10. Gắn kết các hoạt động bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên và thích ứng với biến đổi khí hậu đảm bảo an ninh môi trường.


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

II. THỰC TRẠNG CỦA CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 1. Những kết quả đạt được a. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường đã có tầm hiệu lực pháp lý cao, đủ mạnh để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực bảo vệ môi trường Như phần trước đã đề cập, yêu cầu về bảo vệ môi trường được ghi nhận trong các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Nghĩa vụ bảo vệ môi trường trở thành nghĩa vụ hiến định. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, ngoài đạo luật mang tính chủ đạo - Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, còn có nhiều văn bản ở tầm Luật, Pháp lệnh quy định các biện pháp bảo vệ từng thành tố môi trường. Trong số đó, có thể kể đến Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, Luật Tài nguyên nước năm 1998, Luật Khoáng sản năm 1996, Luật Thủy sản năm 2003 v.v… đây là những cơ sở pháp lý quan trọng để huy động sự tham gia của các ngành, các cấp và toàn dân tham gia sự nghiệp bảo vệ môi trường. Để cụ thể hóa các quy định về bảo vệ môi trường, nhằm tạo điều kiện đưa các quy định liên quan đến bảo vệ môi trường vào thực tiễn đời sống, Chính phủ và các Bộ, ngành đã ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết tạo cơ sở pháp lý đồng bộ cho các hoạt động bảo vệ môi trường. b. Hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường của Việt Nam tương đối toàn diện TRANG [20]

Các quy định về bảo vệ môi trường hiện nay được quy định khá đầy đủ và toàn diện để điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản phát sinh trong hoạt động bảo vệ môi trường, trong đó xác định rõ một số nội dung trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật tập trung điều chỉnh việc thành lập, tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan bảo vệ môi trường cả ở trung ương và địa phương; xác định nội dung và phương thức quản lý nhà nước đối với hoạt động môi trường trong đó có xác

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

định rõ các quyền và nghĩa vụ, tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật cũng đã quy định về tiêu chuẩn, định mức bảo vệ môi trường; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân về phòng chống, khắc phục suy thoái, ô nhiễm và sự cố môi trường; các biện pháp bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác và sử dụng tài nguyên; bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường gây ra. Bên cạnh đó, nhiều vấn đề môi trường được coi là tương đối mới đối với sự phát triển kinh tế, xã hội ở Việt Nam cũng đã có văn bản điều chỉnh. Trong số đó, có thể kể đến Quyết định số 212/2005/QĐ-TTg ngày 26/8/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý an toàn sinh học đối với các sinh vật biến đổi gen; sản phẩm, hàng hóa có nguồn gốc từ sinh vật biến đổi gen. Cùng với quy định tại Điều 87 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, đây là những quy định quan trọng nhằm đảm bảo an toàn sinh học – một trong những vấn đề môi trường còn khá mới mẻ đối với Việt Nam hiện nay. c. Hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường Việt Nam đã đảm bảo được tính công khai, minh bạch Hoạt động bảo vệ môi trường sẽ khó đạt được hiệu quả mong muốn nếu thiếu cơ chế huy động sự tham gia rộng rãi của người dân vào hoạt động bảo vệ môi trường. Một trong những biện pháp tạo tiền đề để người dân cùng tham gia hoạt động bảo vệ môi trường là việc công khai hóa các thông tin về hoạt động bảo vệ môi trường để người dân, các cơ quan thông tấn, báo chí có điều kiện cùng giám sát việc chấp hành pháp luật môi trường của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân hữu quan.

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

TRANG [21]

Để đáp ứng yêu cầu dân chủ hóa quá trình bảo vệ môi trường, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 đã bổ sung nhiều quy định quan trọng. Hầu hết các thông tin về môi trường có liên quan đến quyền và lợi ích thiết thân của cộng đồng dân cư đều được Luật buộc các chủ thể có liên quan công khai cho người dân biết để có ứng xử phù hợp. Cùng với tinh thần đó, các quy định về vấn đề này được cụ thể và chặt chẽ, công khai hơn trong dự thảo Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi.


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

Luật Bảo vệ môi trường 2005 Cụ thể tại các điều: Điều 23 Khoản 1, Điểm b về trách nhiệm công khai chủ dự án trong việc đánh giá tác động môi trường, Điều 49 Khoản 5 về trách nhiệm thông báo công khai Quyết định xử lý đối với cơ sở gây ô nhiễm môi trường, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, Điều 61 Khoản 1 b về trách nhiệm của UBND cấp tỉnh nơi có lưu vực sông trong việc công khai thông tin các nguồn thải ra sông, Điều 93 Khoản 2b về trách nhiệm thông tin kết quả điều tra về nguyên nhân, mức độ, phạm vi ô nhiễm và thiệt hại về môi trường, Điều 104 quy định về các loại thông tin, dữ liệu về môi trường…

Dự thảo Luật bảo vệ môi trường (sửa đổi) Điều 20, Khoản 1 quy định trong quá trình thực hiện đánh giá tác động môi trường, chủ dự án phải tổ chức tham vấn ý kiến Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thực hiện dự án và các tổ chức chịu tác động trực tiếp bởi dự án, phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức các cuộc họp đại diện cộng đồng dân cư chịu tác động trực tiếp bởi dự án. Điều 96, Khoản 5 quy định quyết định xử lý đối với cơ sở gây ô nhiễm môi trường phải thông báo có Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã hơi có cơ sở gây ô nhiễm môi trường và công khai cho nhân dân biết để kiểm tra, giám sát. ….

2. Những tồn tại, hạn chế trong chính sách Bảo vệ môi trường 2.1. Tính đồng bộ

TRANG [22]

Việc ban hành Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 là một bước tiến lớn trong quá trình hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường nước ta đáp ứng các yêu cầu mới của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, một trong những vấn đề về mặt pháp lý mà Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 chưa giải quyết được chính là việc xác định được rõ ràng vị trí của đạo luật này trong hệ thống pháp luật và xử lý mối quan hệ giữa đạo luật này với các đạo luật có liên quan trong đó có các đạo luật về tài

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

nguyên (Luật Đất đai, Luật Tài nguyên nước, Luật Khoáng sản v.v.) và các đạo luật có liên quan khác (chẳng hạn như Bộ luật dân sự, Luật Doanh nghiệp v.v.). - Về tính đồng bộ giữa Luật Bảo vệ môi trường với Bộ luật dân sự. Các quy định hiện hành chưa xác định rõ việc giải quyết các trường hợp tranh chấp, kiện đòi bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường gây ra sẽ được áp dụng theo quy định trong văn bản quy phạm pháp luật nào (Luật Bảo vệ môi trường hay Bộ luật dân sự). Bộ luật Dân sự (Điều 624) và Luật Bảo vệ môi trường đều quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các tổ chức và cá nhân do hành vi làm ô nhiễm môi trường của mình gây nên. Tuy nhiên, một số quy định trong hai văn bản có nội dung không rõ ràng, dẫn chiếu một cách chung chung. Vấn đề ở đây là trong 2 đạo luật kể trên (Luật Bảo vệ môi trường, Bộ luật dân sự), khi xảy ra mâu thuẫn, thì đạo luật nào sẽ ưu tiên áp dụng? Đạo luật nào được coi là luật chuyên ngành, đạo luật nào được coi là luật chung? Đây là những vấn đề chưa được quy định cụ thể. - Về tính đồng bộ giữa Luật Bảo vệ môi trường với Luật Đất đai, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, Luật Tài nguyên nước; Luật Bảo vệ môi trường với Luật Dầu khí, Luật Khoáng sản.

Có khá nhiều quy định trong Luật Bảo vệ và Phát triển rừng và Luật Bảo vệ môi trường có nội dung trùng lặp với nhau, chẳng hạn Luật Bảo vệ và

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

TRANG [23]

Luật Đất đai chủ yếu điều chỉnh các quan hệ quản lý, sử dụng đất, điều chỉnh sâu hơn đến việc khai thác giá trị kinh tế của đất, quan tâm nhiều hơn đến yếu tố tài sản trong quan hệ đất đai trong khi đó Luật Bảo vệ môi trường chủ yếu điều chỉnh quan hệ bảo vệ đất đai, đề cập sâu hơn đến giá trị sinh thái của đất, quy định cụ thể trách nhiệm của các chủ thể trong việc phòng ngừa và ngăn chặn các tác động xấu của con người đối với nguồn tài nguyên này. Phần lớn các quy định của Luật Đất đai khi đề cập đến khía cạnh bảo vệ đất với tư cách là thành phần môi trường đều dẫn chiếu sang các quy định của Luật Bảo vệ môi trường, như “người sử dụng đất phải tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường“. Tuy nhiên, bảo vệ như thế nào, theo những tiêu chuẩn nào thì chưa được quy định đầy đủ. Có một số quy định trong Luật Đất đai và Luật Bảo vệ môi trường trùng lặp khiến cho quá trình áp dụng trên thực tế gặp khó khăn, đặc biệt là các quy định về trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm pháp luật đất đai và pháp luật môi trường.


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

Phát triển rừng quy định trách nhiệm phòng chống các hành vi gây thiệt hại đến rừng, như nghiêm cấm mọi hành vi phá rừng, đốt rừng, lấn chiếm rừng, khai thác, mua bán, vận chuyển lâm sản, săn bắt động vật rừng, chăn thả gia súc vào rừng trái quy định của pháp luật; phòng cháy, chữa cháy rừng... Luật Bảo vệ môi trường cũng có các quy định về nghiêm cấm đốt phá rừng; nghiêm cấm khai thác, kinh doanh các loại thực vật, động vật quý hiếm. Cả hai đạo luật đều quy định xử phạt hành chính đối với hành vi vi phạm về khai thác, kinh doanh động thực vật quý hiếm thuộc danh mục quý hiếm, song mức xử phạt lại khác nhau. Luật Bảo vệ môi trường, Luật Dầu khí, Luật Khoáng sản có một số quy định có nội dung giống nhau. Chẳng hạn, tổ chức, cá nhân khi tiến hành hoạt động khoáng sản, hoạt động dầu khí phải áp dụng công nghệ phù hợp, phải thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường, có phương án phòng tránh ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường... tuy nhiên tinh thần chung của các văn bản luật chưa rõ ràng; nguyên tắc trong mối quan hệ với các Luật về tài nguyên, Luật Bảo vệ môi trường tồn tại với tư cách là luật chung, còn các Luật về tài nguyên tồn tại với tư cách là luật chuyên ngành, chưa thể hiện được tính “chuyên biệt” trong quá trình điều chỉnh pháp luật và yêu cầu đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật về bảo vệ các nguồn tài nguyên và môi trường, khắc phục tình trạng trùng lặp các quy định như đă nêu trên, “ranh giới” điều chỉnh pháp luật giữa các Luật về tài nguyên và Luật Bảo vệ môi trường cần được xác định lại. - Các quy định về xử lý vi phạm hành chính trong các Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường với các Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ một số loại tài nguyên (đất, nước, nguồn lợi thủy sản v.v.) khi áp dụng là khác nhau gây ra nhiều mâu thuẫn. Tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo này đang là vấn đề thực tiễn cần có giải pháp pháp lý thỏa đáng.

TRANG [24]

Bên cạnh đó, sự điều chỉnh pháp luật đối với các hoạt động bảo vệ môi trường chưa thật sự phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường. Các quy định về sử dụng các công cụ kinh tế trong hoạt động bảo vệ môi trường còn rất sơ sài. Sự điều chỉnh pháp luật chưa chú ý đúng mức đến cơ chế bảo đảm quyền con người sống trong môi trường lành mạnh (quyền được thông tin về tình hình môi trường, quyền tham gia vào hoạt động đánh giá tác động môi trường... Một thực tế rất dễ nhận thấy là ở Việt Nam hiện nay, công tác bảo vệ môi trường dường như chỉ là công việc của riêng Nhà nước, mà chưa

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

trở thành sự nghiệp của toàn dân, trở thành mối quan tâm của cộng đồng và các doanh nghiệp. Thực tế này dễ lý giải, nếu chỉ nhìn vào các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường hiện nay, chúng ta sẽ thấy có quá nhiều quy định liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước. Với chức năng cung cấp dịch vụ công cho người dân, sự thể hiện vai trò quan trọng của Nhà nước trong công tác bảo vệ môi trường là một điều đương nhiên, song nếu quá chú trọng tới việc sử dụng các biện pháp, các công cụ tác động có tính chất công quyền mà coi nhẹ các biện pháp có tính chất kinh tế, các biện pháp kích thích lợi ích đối với cộng đồng, chính sách bảo vệ môi trường ở Việt Nam có thể sẽ không đạt hiệu quả. Ở các quốc gia phát triển, các biện pháp kinh tế được coi trọng và được sử dụng nhiều, người tiêu dùng rất quan tâm đến các tiêu chí bảo vệ môi trường và thường lựa chọn những sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ thân thiện với môi trường (căn cứ vào thành phần đóng gói, mức độ tái sinh, nhãn hiệu hàng hoá, xuất xứ hàng hoá...). Trong khi đó, ở Việt Nam, người sản xuất và người tiêu dùng lại thờ ơ với những tiêu chí này (người sản xuất, người bán hàng vì mục tiêu lợi nhuận thường không cần quan tâm tới những tác hại do hành vi của mình, còn người mua hàng thì thường không bao giờ quan tâm tới xuất xứ hàng hoá). Có lẽ, chừng nào môi trường chưa được coi như là một yếu tố của cạnh tranh, của quá trình thúc đẩy và xúc tiến thương mại, việc sử dụng môi trường sống chưa trở thành một chi phí trong sản xuất, thì chừng đó, con

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

TRANG [25]

Ảnh minh họa

người vẫn chưa thể ý thức được trách nhiệm bảo vệ môi trường sinh thái. Người kinh doanh chưa thấy rõ được yêu cầu cấp thiết phải đầu tư cho công nghệ thân thiện với môi trường như là một biện pháp tăng cường tính cạnh tranh cho sản phẩm của mình. (Xem thêm ví dụ dưới đây về công nghệ thân thiện với môi trường).


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

Nhiều doanh nghiệp hiện nay từ chối loại hình kiến trúc vì sự đắt đỏ của đa số vật liệu. Việc sử dụng vật liệu xây dựng thân thiện môi trường để xây dựng các kiến trúc xanh có thể làm đội giá thành xây dựng lên 20% - 30%. Đơn cử, giá một bóng đèn tiết kiệm năng lượng có thể đắt hơn giá bóng đèn thường hơn 30%, lam nhôm che bức xạ mặt trời đắt hơn lam thường hơn 20%... Thế nhưng, số tiền điện tiết kiệm được trong quá trình sử dụng đèn tiết kiệm năng lượng chắc chắn không nhỏ. Tương tự, dùng lam nhôm che bức xạ mặt trời, người sử dụng loại vật liệu này sẽ bớt phải dùng máy lạnh làm mát… Hơn nữa, sử dụng các công nghệ thân thiện với môi trường cũng cải thiện hình ảnh thương hiệu, tăng uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. Dù biết rằng về lâu dài các chi phí vượt trội sẽ được bù đắp bởi những khoản tiết kiệm được từ việc tiết giảm sử dụng điện, nước… nhưng không phải chủ đầu tư nào cũng có thể chi ngay một khoản tiền lớn cho việc xây dựng các công trình thân thiện với môi trường. Nhất là đối với các công trình sử dụng vốn ngân sách, thường bị giới hạn bởi các định mức về xây dựng. Do vậy, cùng với chủ trương khuyến khích xu hướng kiến trúc xanh, nhà nước cần có các cơ chế hỗ trợ chủ đầu tư xây dựng nên các công trình xanh.

2.2. Tính thống nhất Hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường đảm bảo tính thống nhất khi được xem xét ở cả ba phương diện: - (i) phòng ngừa, hạn chế tác động xấu, xử lý ô nhiễm, khắc phục suy thoái, cải thiện môi trường; - (ii) kiểm soát và bảo vệ môi trường trong quá trình khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên là các thành tố của môi trường; - (iii) xử lý các hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết các tranh chấp liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường.

TRANG [26]

Tuy nhiên, trước đây chưa ý thức cũng nhận thức một cách đầy đủ việc bảo vệ môi trường là một trong những yếu tố quyết định đến sự phát triển lâu bền của đất nước và cần thiết phải được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật mang tính bắt buộc chung đối với toàn xã hội. Chính bởi vậy, các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường ở phương diện thứ nhất (i) vẫn chưa thể hiện tính thống nhất với các quy định pháp luật ở hai phương diện còn lại. Việc nghiên cứu xem xét đưa các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường ở cả 3 phương diện nêu trên đang được Ban soạn thảo dự án Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi hướng đến.

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

Đối với các quy định về phát triển bền vững trong bảo vệ môi trường chưa được thể hiện một cách rõ rệt và nhất quán qua hệ thống chính sách và các công cụ điều tiết của Nhà nước. Các chính sách kinh tế - xã hội còn thiên về tăng trưởng nhanh kinh tế và ổn định xã hội, mà chưa quan tâm đầy đủ, đúng mức đến tính bền vững khi khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Mặt khác, các chính sách bảo vệ môi trường lại chú trọng việc giải quyết các sự cố môi trường, phục hồi suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường, mà chưa định hướng phát triển lâu dài nhằm đáp ứng những nhu cầu tương lai của xã hội. Quá trình lập quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quá trình xây dựng chính sách bảo vệ môi trường còn chưa được kết hợp chặt chẽ, lồng ghép hợp lý với nhau. Cơ chế quản lý và giám sát sự phát triển bền vững chưa được thiết lập rõ ràng và có hiệu lực.

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

TRANG [27]

Ở tầm vĩ mô, mặc dù chúng ta đã có Chiến lược bảo vệ môi trường đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Định hướng chiến lược phát triển bền vững... song tư tưởng này chưa được hiểu, vận dụng nhất quán trong quá trình xây dựng pháp luật. Hệ thống chính sách và công cụ pháp luật chưa đồng bộ để có thể kết hợp một cách có hiệu quả giữa 3 mặt của sự phát triển: kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. Trong các chiến lược, quy hoạch tổng thể và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như của các ngành và địa phương, 3 mặt quan trọng trên đây của sự phát triển cũng chưa thực sự được kết hợp và lồng ghép chặt chẽ với nhau, dẫn đến việc xử lý giữa các lợi ích tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội, an toàn sinh thái; các lợi ích giữa khai thác, sử dụng và bảo vệ hợp lý Ví dụ: Về tính thống nhất một số khái các nguồn tài nguyên; các lợi niệm của Luật Bảo vệ môi trường năm ích giữa luật chung và luật 2005 chuyên ngành.... đang rất lúng Quy định về phế liệu tại Khoản 13 Điều 3 túng và chưa có tư tưởng chỉ Luật Bảo vệ môi trường “Phế liệu là sản phẩm, đạo rõ ràng. Kết quả là, trong vật liệu bị loại ra từ quá trình sản xuất hoặc những năm qua, phát triển tiêu dùng được thu hồi để dùng làm nguyên liệu sản xuất“, Điều 10 quy định khái niệm kinh tế - xã hội ở nước ta vẫn “chất thải là vật chất ở thể rắn, lỏng, khí được còn dựa nhiều vào việc khai thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh thác tài nguyên thiên nhiên; hoạt hoặc các hoạt động khác“ đã có sự mâu năng suất lao động còn thấp; thuẫn vì khái niệm chất thải vô hình chung công nghệ sản xuất, mô hình đã chuyển phế liệu thành một loại chất thải với nguyên tắc “cấm nhập khẩu, quá cảnh tiêu dùng còn sử dụng nhiều chất thải dưới mọi hình thức“. năng lượng, nguyên liệu và thải ra nhiều chất thải... đang


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

là những vấn đề bức xúc. Nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cạn kiệt, sử dụng lãng phí và kém hiệu quả. Môi trường thiên nhiên ở nhiều nơi bị phá hoại nghiêm trọng, ô nhiễm và suy thoái đến mức báo động. 2.3. Tính đầy đủ a. Còn nhiều quy định cần hướng dẫn thi hành Với việc ban hành Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, nhiều nội dung, tinh thần mới trong chính sách bảo vệ môi trường được đưa vào trong Luật, tuy nhiên để triển khai các quy định ấy cũng cần có sự hướng dẫn, cụ thể hóa, các Bộ, ngành, địa phương, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải ban hành khá nhiều văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, trên thực tế một số quy định hướng dẫn Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 chưa được ban hành đầy đủ và kịp thời; còn nhiều quy định mang tính chung chung, gây khó khăn cho việc áp dụng hoặc chưa có đủ văn bản quy phạm pháp luật để huy động sự đóng góp của mọi tổ chức, cá nhân tham gia vào việc bảo vệ môi trường. Ngoài ra, một số chính sách cụ thể như chính sách khuyến khích, hỗ trợ, ưu đãi các hoạt động bảo vệ môi trường, xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường, phát triển dịch vụ môi trường, chính sách công cụ kinh tế trong quản lý môi trường (hệ thống thuế, phí môi trường, các hình thức ký quỹ đặt cọc, thị trường cota ô nhiễm) cũng chậm được thể chế hoá bằng văn bản pháp luật để triển khai vào cuộc sống. Việc thiếu các văn bản hướng dẫn thi hành đã phần nào làm giảm hiệu lực thực tế của Luật, pháp lệnh.

TRANG [28]

Có thể nói rằng, trong thời gian qua, bảo vệ môi trường dường như vẫn còn là gánh nặng của Nhà nước, còn người dân rất ít quan tâm, thậm chí thờ ơ với chính sách và pháp luật bảo vệ môi trường mà Nhà nước ta đã ban hành. Chính sách xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi trường mới chỉ được thực hiện ở hoạt động bảo đảm vệ sinh đô thị. Tuy nhiên, ngay cả ở lĩnh vực này cũng không phải tất cả mọi người dân đều có ý thức chấp hành nghiêm chỉnh. Trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, sự đóng góp của các doanh nghiệp, của các cá nhân kinh doanh vào hoạt động bảo vệ môi trường còn mờ nhạt. Việc sử dụng và bảo đảm sự trong lành của môi trường sống chưa trở thành một chi phí trong sản xuất và tiêu dùng, vì vậy con người chưa có ý thức trong việc làm giảm nhẹ khả năng hủy hoại hay gây ô nhiễm môi trường.

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

Luật Bảo vệ môi trường hiện hành thiếu quy định hướng dẫn: - Điều 131 khoản 7 đã quy định: “Chính phủ hướng dẫn việc xác định thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường“; - Điều 116 khoản 2 quy định: “Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với các Bộ liên quan và UBND cấp tỉnh hướng dẫn triển khai thực hiện quy định về khuyến khích phát triển dịch vụ môi trường“; - Điều 112 khoản 2 quy định: “Chính phủ trình Quốc hội quyết định danh mục, thuế suất đối với sản phẩm, loại hình sản xuất, kinh doanh phải chịu thuế môi trường“; - Điều 111 khoản 3 quy định về vấn đề tổng hợp kinh phí sự nghiệp môi trường hàng năm; - Điều 108 khoản 4 quy định về việc Bộ Khoa học và Công nghệ có trách nhiệm ban hành văn bản hướng dẫn phát triển khoa học công nghệ về bảo vệ môi trường; - Điều 67 khoản 2 quy định: “Chính phủ hướng dẫn việc thu hồi, xử lý các sản phẩm hết hạn sử dụng hoặc thải bỏ“. - Các quy định về chuyển nhượng, mua bán hạn ngạch phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính của Việt Nam với nước ngoài (Điều 84); - Các quy định về công khai hóa, dân chủ hóa hoạt động bảo vệ môi trường (Điều 23; Điều 49; Điều 61; Điều 93; Điều 104; Điều 105); - Các quy định về thuế môi trường, phí bảo vệ môi trường (Điều 112, Điều 113); - Các quy định về chính sách ưu đãi đối với hoạt động bảo vệ môi trường (Điều 117); - Bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường (Điều 134). Luật Bảo vệ môi trường hiện hành còn mang tính chung chung: - Quy định về xác định trách nhiệm đối với hành vi vi phạm pháp luật: “hậu quả rất nghiêm trọng”, “hậu quả “đặc biệt nghiêm trọng“, “Huỷ hoại diện tích rừng rất lớn“. - Quy định tại Điều 32 về khảo sát, thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên: “Giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên phải theo đúng nội dung bảo vệ môi trường quy định trong giấy phép khai thác, sử dụng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp“. - Quy định tại Điều 50 về bảo vệ môi trường đô thị, khu dân cư: “Quy hoạch bảo vệ môi trường đô thị, khu dân cư phải là một nội dung của quy hoạch đô thị, khu dân cư. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có trách nhiệm lập, phê duyệt quy hoạch bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật về xây dựng đối với quy hoạch đô thị, khu dân cư“. - Quy định về biện pháp: “Buộc lao động vệ sinh môi trường có thời hạn ở nơi công cộng“ tại Khoản 3 Điều 52 đối với hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, quy định giữ gìn vệ sinh môi trường nơi công cộng.

Chưa có văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn: Điều 32, 33, 34 Nghị định số 80/2006/NDD-CP đã quy định nguồn tài chính mà các tổ chức, cá nhân đóng góp vào việc bảo vệ môi trường, tuy nhiên, các quy định về đóng phí bảo vệ môi trường vẫn chưa được hướng dẫn cụ thể, chưa có quy định về thu phí đối với khí thải, rác thải.

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

TRANG [29]

- Quy định “Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do sự cố môi trường gây ra được thực hiện theo quy định tại mục 2 Chương XIV của Luật này, Bộ luật dân sự và các quy định khách của pháp luật có liên quan“ tại Điều 90 khoản 4, quy định này chưa rõ ràng để phân biện giữa trách nhiệm khắc phục, phục hồi môi trường theo pháp luật về hành chính và trách nhiệm về bồi thường thiệt hại theo pháp luật về dân sự.


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

2.4. Tính phù hợp Nội dung của pháp luật về môi trường có không ít những quy định không còn phù hợp, gây khó khăn, lúng túng trong việc áp dụng; tình trạng pháp luật chồng chéo, trùng dẫm, thậm chí quy định khác nhau, không thống nhất trong cùng một vấn đề về môi trường đã xảy ra không ít tại các bộ, ngành, địa phương. Trong khi đó, do sự phát triển nhanh và đa dạng của nền kinh tế mở cửa và hội nhập, nhiều loại hình kinh doanh với hình thức, cấp độ và công nghệ khác nhau được triển khai tại Việt Nam, đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật về môi trường phù hợp. Song trên thực tế các quy định pháp luật về môi trường hiện hành đã chưa đáp ứng và chưa theo kịp thực tiễn sinh động này. Sau gần 4 năm thi hành Luật Bảo vệ môi trường đã bộc lộ một số điểm chưa phù hợp với thực tế như: - Khái niệm chất thải: Theo quy định của Luật, chất thải là vật chất ở thể rắn, lỏng, khí được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác. Tuy nhiên, trên thực tế chất thải còn là nguyên liệu của hoạt động tái chế. - Nội dung về “biến đổi khí hậu“ chưa rõ ràng.

TRANG [30]

- Các nội dung liên quan đến nhập khẩu phế liệu cần được điều chỉnh vì theo lộ trình cam kết của Việt Nam với WTO, từ sau 2010 Việt Nam phải mở cửa cho nhập một số loại chất thải, bởi vậy pháp luật cần có quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia về phế liệu và thuế suất nhập đối với các hạng mục chất thải này.

Ảnh minh họa

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

Quy định về điều kiện kinh doanh nhập khẩu phế liệu Liên Bộ Công Thương - Tài nguyên và Môi trường (TN và MT) ban hành Thông tư số 002/2007/TTLT-BCT-BTNMT hướng dẫn thực hiện Điều 43 Luật Bảo vệ Môi trường về tiêu chuẩn, điều kiện kinh doanh nhập khẩu phế liệu. Theo Thông tư, các tổ chức, cá nhân có thể nhập khẩu phế liệu với các điều kiện sau: Nếu thương nhân trực tiếp sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, tái chế, thì phải có kho bãi riêng dành cho việc tập kết phế liệu, bảo đảm các điều kiện về bảo vệ môi trường; có đủ năng lực xử lý các tạp chất đi kèm phế liệu nhập khẩu; có công nghệ, thiết bị tái chế, tái sử dụng phế liệu đạt tiêu chuẩn môi trường... Nếu nhập khẩu ủy thác phế liệu cho thương nhân trực tiếp sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, tái chế, thì phải có hợp đồng nhập khẩu ủy thác ký với thương nhân trực tiếp sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, tái chế. Nếu nhập khẩu phế liệu để phân phối cho thương nhân trực tiếp sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, tái chế, thì phải có kho bãi riêng dành cho việc tập kết phế liệu theo đúng quy định thuộc chủ sở hữu hoặc thuê dài hạn từ 01 năm trở lên và phải bán hết phế liệu nhập khẩu sau 3 tháng kể từ ngày phế liệu nhập khẩu về đến cửa khẩu Việt Nam. Thông tư cũng nêu rõ, trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Sở TN và MT kiểm tra và cấp Giấy xác nhận đủ điều kiện nhập khẩu phế liệu (giấy xác nhận có giá trị 12 tháng kể từ ngày cấp). Sở TN và MT có quyền kiểm tra định kỳ và đột xuất công tác bảo vệ môi trường các tổ chức, cá nhân nhập khẩu và sử dụng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất, tái chế và có quyền thu hồi Giấy xác nhận này nếu phát hiện vi phạm các điều kiện quy định. Các quy định của Thông tư này không đảm bảo chặt chẽ nên có tình trạng các doanh nghiệp đã lợi dụng để trục lợi ... ví dụ nhập khẩu thiết bị y tế đã hết hạn sử dụng của nước ngoài.

- Các nội dung liên quan đến hoạt động đổ chất thải ra biển cần được điều chỉnh cho phù hợp và đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật. - Chương XIII Luật Bảo vệ môi trường chưa quy định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước, mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên rõ ràng hơn để nâng cao hiệu lực công tác bảo vệ môi trường.

Để quản lý các chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan tới lĩnh vực bảo vệ môi trường cần thiết phải áp dụng các công cụ quản lý nhà nước về môi trường. Mỗi công cụ có chức năng và phạm vi tác động nhất định. Vì vậy, khi tham gia giám sát trong lĩnh vực bảo vệ môi trường các đại biểu

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

TRANG [31]

3. Một số kỹ năng trong lĩnh vực bảo vệ môi trường


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

cần nghiên cứu và hoàn thiện các công cụ quản lý môi trường theo hướng hiệu lực, hiệu quả hơn. Các công cụ quản lý môi trường có thể phân thành bốn loại: - Công cụ xây dựng chính sách pháp luật. - Công cụ kinh tế. - Công cụ kỹ thuật. - Công cụ giáo dục và truyền thông môi trường. 3.1. Kỹ năng xem xét việc ban hành và giám sát thực hiện văn bản quy phạm pháp luật Theo Hiến pháp năm 2013 quy định tại Điều 43 “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”. Để bảo đảm quyền đuợc sống trong môi trường trong lành, không bị ô nhiễm, đảm bảo cuộc sống được hài hòa với tự nhiên tuân thủ nguyên tắc thứ nhất của Tuyên bố Stockholm về môi trường và con người và Tuyên bố Rio De Janeiro về môi trường và phát triển thì người đại biểu dân cử phải tiến hành giám sát các hoạt động từ khâu xây dựng chính sách đến khâu thực hiện nhằm đảm bảo các tiêu chuẩn và quy chuẩn môi trường do Nhà nuớc công bố hoặc ban hành. Quyền được sống trong môi trường trong lành là quyền tự nhiên, Nhà nước phải ghi nhận quyền trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật là vì: - Do thực trạng môi trường hiện nay đang bị xâm phạm và đe dọa nghiêm trọng và để khôi phục và bảo đảm quyền này trên thực tế cần phải có sự tác động mang tính quyền lực cao.

TRANG [32]

- Môi trường quyết định đến vấn đề sức khỏe, tuổi thọ và chất lượng cuộc sống nói chung. Để đảm bảo các chính sách, pháp luật được ban hành và thực thi đúng như mục tiêu nêu trên, các đại biểu dân cử cần lập chương trình, kế hoạch giám sát thường xuyên thông qua các biện pháp cần thiết để bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường nhằm bảo đảm cho người dân được sống trong một môi trường trong lành. Bên cạnh đó, các đại biểu dân cử cần lập các

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

kênh thông tin về tình hình bảo vệ môi trường, ô nhiễm môi trường để xác định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có hành vi gây ô nhiễm môi trường.

Điều 63 Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013 cũng khẳng định quan điểm xử lý nghiêm khắc của nhà nước đối với hành vi làm suy kiệt tài nguyên, suy giảm đa dạng sinh học do tác hại lớn của nó đến môi trường, đến phát triển bền vững. Đây là căn cứ Hiến định để các ĐBQH xem xét các văn bản pháp luật khác có thể hiện được nội dung này hay không. Như một ĐBQH đã phát biểu tại hội trường ở kỳ họp thứ 6 cuối năm 2013, Điều 7 của dự thảo Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) chưa cụ thể hóa được đầy đủ vấn đề này và chưa thể hiện rõ quy định cấm đối với các loại hành vi có thể dẫn đến làm suy kiệt tài nguyên như tinh thần của Hiến pháp 2013. Do đó, ĐBQH đề nghị bổ sung một khoản vào Điều 7 của dự thảo Luật quy định về việc nghiêm cấm đối với hành vi dẫn tới làm suy kiệt tài nguyên. Đây là một ví dụ cho thấy cách thức đại biểu xem xét việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.

Đối với vấn đề giám sát việc ban hành và thực thi pháp luật về môi trường sẽ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa cá nhân, tổ chức, mà còn tạo ra khả năng quản lý chặt chẽ các loại chất thải độc hại và các tài nguyên quý hiếm thông qua các quy định của pháp luật mang tính cưỡng chế cao. Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ này lại đòi hỏi nguồn nhân lực và tài chính lớn để có thể giám sát được mọi khu vực, mọi hoạt động phát triển mọi cá nhân và tổ chức. 3.2. Kỹ năng giám sát thông qua công cụ kinh tế Công cụ kinh tế còn gọi là công cụ thị trường. Công cụ này sử dụng sức mạnh của thị trường để bảo vệ môi trường, sinh thái. Công cụ kinh tế chính là những chính sách được sử dụng nhằm tác động tới chi phí và lợi ích trong hoạt động của các cá nhân và tổ chức kinh tế để tạo ra các tác động ảnh hưởng đến hành vi của các tác nhân kinh tế theo hướng có lợi cho môi trường.

- Các thông tin cơ bản có liên quan đến chi phí – lợi ích của các phương án chính sách môi trường, các chỉ tiêu biến đổi chất lượng môi trường, các

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

TRANG [33]

Các công cụ kinh tế chủ yếu được các nước sử dụng để quản lý môi trường. Khi giám sát thông qua các công cụ này các đại biểu cần xem xét và cân nhắc các điều kiện sau:


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

khả năng thể chế, tài chính, kỹ thuật… - Các quy định của pháp luật hiện hành có đủ mạnh và có đảm bảo hiệu lực cưỡng chế hay không? - Xem xét việc áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường ở các khu đô thị, khu công nghiệp có khả thi hơn so với các vùng nông thôn, miền núi hay không? - Nguồn tài chính cho việc nghiên cứu, đào tạo nhân lực và trang bị cho hệ thống giám sát thực hiện (bao gồm cả nhân lực, tài chính, cộng cụ hỗ trợ) như thế nào? - Việc áp dụng các công cụ kinh tế đòi hỏi sự chấp nhận của các cơ quan chức năng, của các đối tượng gây ô nhiễm và của các tổ chức phi lợi nhuận đại diện cho các nạn nhân của ô nhiễm môi trường. Các điều kiện trên đôi khi khó định lượng. Trên thực tế không phải lúc nào, ở đâu cũng đầy đủ các điều kiện trên và không phải tất cả các công cụ kinh tế không cần phải có đầy đủ các điều kiện đó. Một số loại công cụ như thuế, phí, trợ cấp, hệ thống đặt cọc – hoàn trả có thể từng bước áp dụng trong những điều kiện tương đối dễ dàng hơn. 3.3. Kỹ năng giám sát thông qua công cụ kỹ thuật

TRANG [34]

Công cụ kỹ thuật nhằm thực hiện vai trò giám sát của các đại biểu dân cử, cơ quan dân cử và các cơ quan quản lý Nhà nước về chất lượng và thành phần môi trường, về sự hình thành và phân bố ô nhiễm trong môi trường và có tác dụng hỗ trợ công cụ pháp lý, công cụ kinh tế. Công cụ kỹ thuật có thể sử dụng thành công ở bất kỳ nền kinh tế phát triển ở trình độ như thế nào. Có một số loại công cụ kỹ thuật như:

Ảnh minh họa

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

- Đánh giá tác động môi trường: Đây được xem là công cụ hữu hiệu để bảo vệ môi trường. Đồng thời, đây cũng là công cụ thực hiện chính sách, chiến lược, thực thi luật pháp, quy định làm cho các kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội mang tính bền vững. - Kế toán, kiểm toán môi trường: Đây là sự phân tích, tính toán, so sánh, đối chiếu nhằm xác định định lượng về sự gia tăng hay suy giảm tài nguyên thiên nhiên, môi trường của quốc gia. Nội dung của kế toán, kiểm toán môi trường thông qua các hoạt động chủ yếu: đo đạc số lượng, đánh giá chất lượng tài nguyên, xác định giá trị của dự trữ tài nguyên dưới dạng tiền tệ để có thể đánh giá cái mất, các được khi khai thác, sử dụng tài nguyên, môi trường. - Thanh tra, kiểm tra: Để đảm bảo thực thi hiệu quả các quy định của Luật pháp, Nhà nước tiến hành công tác thanh tra, kiểm tra, việc khai thác tài nguyên thông qua các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường. - Thông tin dữ liệu môi trường: Thông qua hệ thống quan sát, đo đạc các thông số kỹ thuật về tài nguyên, môi trường, tại nên hệ thống dữ liệu môi trường quốc gia. Công cụ này có vai trò quyết định sự đúng đắn, độ chính xác của việc xác định hiện trạng, dự báo diễn biến tình trạng tài nguyên và môi trường quốc gia. 3.4. Kỹ năng giám sát môi trường thông qua hoạt động tiếp xúc cử tri

Để hoạt động giám sát về môi trường được hiệu quả phải được tiến hành thường xuyên, liên tục và có lộ trình cụ thể. Thông qua hoạt động tiếp xúc cử tri của mình, các đại biểu có thể thực hiện việc giám sát hoạt động bảo vệ môi trường bằng hình thức vừa tuyên truyền công tác phòng ngừa về sự

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

TRANG [35]

Phòng ngừa luôn được coi là phương châm của hoạt động bảo vệ môi trường. Thực tế đã chứng minh, chi phí bỏ ra để khắc phục hậu quả bao giờ cũng lớn hơn rất nhiều so với chi phí phòng ngừa cho dù đó là những sự cố kĩ thuật, dịch bệnh hay những vấn đề về môi trường cũng vậy. Hơn thế nữa, đối với một số hậu quả do ô nhiễm môi trường thì không thể khắc phục được mà chỉ có thể là phòng ngừa.


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

cố môi trường cũng như các nguy cơ gây ô nhiễm môi trường trên cơ sở các kỹ năng cụ thể như: - Nghiên cứu, đánh giá những rủi ro mà con người và thiên nhiên có thể gây ra cho môi trường. Từ đó, có thể kiến nghị những phương pháp tuyên truyền trong quá trình tiếp xúc cử tri cũng như tiếp công dân nhằm loại trừ và hoặc chuẩn bị đối phó với các tình huống có thể xảy ra. - Khi tiếp xúc cử tri hoặc trong quá trình giám sát các đại biểu nhận thấy những rủi ro liên quan đến môi trường đã lường trước, phải kiến nghị những biện pháp loại trừ, giảm thiểu rủi ro nếu có thể và đặc biệt là kiến nghị nhằm chuẩn bị đầy đủ về phương án, lực lượng, phương tiện để sẵn sàng ứng phó với rủi ro, sự cố khi nó xảy ra. 3.5. Kỹ năng xây dựng chính sách bảo vệ môi trường: Quy định trả tiền cho hành vi gây ô nhiễm môi trường Với vị thế là người đại biểu dân cử, những người trực tiếp thông qua các chính sách, pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường thì việc nghiên cứu xây dựng những quy định pháp luật một cách chặt chẽ, có các chế định xử lý vi phạm môi trường một cách rõ ràng, đủ tính răn đe trong trường hợp có hành vi vi phạm môi trường là rất cần thiết. Trong đó các đại biểu Quốc hội cần nghiên cứu xây dựng giải pháp bảo vệ môi trường theo hướng coi môi trường là một loại “hàng hóa” đặc biệt. Chính vì vậy, khi khai thác, sử dụng môi trường các chủ thể phải trả tiền (được hiểu là tiền bỏ ra để mua quyền tác động đến môi trường).

Chủ thể phải trả tiền là người gây ô nhiễm hiệu theo nghĩa rộng, bao gồm: những chủ thể khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên (được xác định chủ yếu vào mục đích, quy mô của việc sử dụng và ảnh hưởng đến môi trường của việc sử dụng) và những chủ thể thực hiện những hành vi gây tác động xấu đến môi trường (xả thải, gây ô nhiễm hay có các hành vi tác động tiêu cực đến môi trường khác trong phạm vi khuôn khổ pháp luật cho phép). TRANG [36]

Ví dụ: Mỗi ô tô trước khi đưa ra vận hành đều được kiểm định và xác nhận đạt tiêu chuẩn về môi trường. Tuy nhiên, tại cùng một địa điểm và cùng một thời điểm cụ thể mà có nhiều ô tô vận hành trong một lúc thì lượng khí thải vào môi trường vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Lúc này cần xác định ai là chủ thể chịu trách nhiệm về việc gây ô nhiễm không khí? Trong phí kiểm định, phí đăng kiểm xe ô tô có bao gồm khoản này không? Trên thực tế chưa có quy định rõ ràng nào cho hoạt động này.

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

Việc xây dựng biện pháp bảo vệ môi trường theo hướng coi môi trường là một loại hàng hóa đặc biệt nhằm đáp ứng các mục tiêu cụ thể: - Định hướng hành vi tác động của các chủ thể vào môi trường theo hướng khuyến khích những hành vi tác động có lợi cho môi trường. Khi người gây ô nhiễm phải trả tiền theo nguyên tắc tiền phải trả luôn tương ứng với tính chất và mức độ gây tác động xấu tới môi trường sẽ buộc các chủ thể phải cân nhắc trong việc sử dụng tiết kiệm tài nguyên, áp dụng công nghệ sạch để giảm thiểu ô nhiễm… như một cách giảm bớt chi phí trong tiêu dung và sản xuất kinh doanh. - Đảm bảo sự bình đẳng trong việc khai thác, sử dụng và bảo vệ môi trường. Chúng ta thấy rằng môi trường là của chung, khi môi trường bị ô nhiễm thì tất cả mọi người đều phải chịu hậu quả. Trong khi đó, sự tác động của các chủ thể dẫn đến tình trạng môi trường ô nhiễm lại khác nhau, do đó phải có hình thức trả tiền cho các hành vi gây ô nhiễm nhằm bảo đảm tính công bằng trong việc khai thác, sử dụng, bảo vệ các yếu tố môi trường giữa các chủ thể. Nhà nước sẽ sử dụng tiền thu đuợc để đầu tư cho họat động bảo vệ môi trường phục vụ lợi ích chung… - Tạo nguồn thu cho ngân sách, tạo nguồn tài chính cho họat động bảo vệ môi trường và thực hiện xu thế chung của hội nhập. Để đạt được những mục tiêu trên cần phải xây dựng và hoàn thiện chính sách bảo vệ môi trường theo hướng: - Tiền phải trả cho hành vi gây ô nhiễm phải tương xứng với tính chất và mức độ tác động xấu vào môi trường, nói cách khác là tiền phải trả phải mang tính ngang giá nếu xem môi trường là một loại hàng hóa đặc biệt. Ở đây, tuyệt đối không đựợc thu bình quân vì như vậy sẽ không có tác dụng trong việc định hướng hành vi tác động của các chủ thể vào môi trường.

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

TRANG [37]

- Tiền phải trả cho hành vi gây ô nhiễm phải đủ sức tác động đến lợi ích, đến hành vi của các chủ thể có liên quan, hay nói đơn giản là không được thu một cách tượng trưng. Các cơ quan Nhà nước phải tính đúng, tính đủ những thiệt hại về môi trường mà chủ thể gây ra để buộc họ phải trả một số tiền thỏa đáng. Việc lãng phí điện, nước sinh hoạt như hiện nay một phần cũng vì chúng ta chưa tính đúng, tính đủ giá trị của tài nguyên khi đến tay người tiêu dùng.


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

Nghĩa vụ trả tiền cho hành vi gây ô nhiễm bao giờ cũng được thể hiện dưới dạng nghĩa vụ pháp lí. Cần phân biệt rõ khi một chủ thể thực hiện hành vi trong khuôn khổ pháp luật cho phép nhưng có gây tác động tiêu cực đến môi trường thì họ phải trả tiền. Trường hợp một chủ thể thực hiện một hành vi vi phạm pháp luật thì họ sẽ bị xử phạt tùy theo mức độ vi phạm, trong đó có thể là xử phạt vi phạm hành chính với hình thức phạt tiền. Mặt khác, đối với những hành vi vi phạm các quy định của pháp luật môi trường có thể chúng chưa gây ra tác động tiêu cực đến môi trường những chủ thể thực hiện cũng đã có thể bị xử phạt. Đây là điểm khác biệt quan trọng với việc trả tiền cho hành vi phải có tác động xấu đến môi trường. Thông thường tiền phải trả cho hành vi gây ô nhiễm bao gồm các loại sau: - Tiền phải trả cho việc khai thác tài nguyên thiên nhiên (rừng, khoáng sản, thuỷ sản, nước…) thường được thể hiện dưới dạng thuế tài nguyên (chủ yếu hiện nay) hoặc tiền bỏ ra mua quyền khai thác. - Tiền phải trả cho hành vi gây tác động xấu đến môi trường, chủ yếu là hành vi xả thải vào môi trường dưới các hình thức thuế môi trường (thuế đánh vào chất thải tiềm năng), phí bảo vệ môi trường (đánh vào chất thải khi thải vào môi trường), tiền mua giấy phép phát thải, tiền phải trả cho việc sử dụng cơ sở hạ tầng, sử dụng dịch vụ (tiền trả cho hệ thống cấp thoát nước, thủy lợi phí ở nông thôn…), tiền để phục hồi môi trường (một chủ thể khai thác khoáng sản phải chịu chi phí phục hồi môi trường sau khi kết thúc hoạt động khai thác)…

III. PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 1. Khái niệm TRANG [38]

Định nghĩa Luật quốc tế về môi trường gồm tổng hợp các nguyên tắc, quy phạm pháp lý quốc tế, điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế nhằm ngăn chặn, khắc phục, loại trừ những tác động xấu xảy ra cho môi trường của mỗi quốc gia và những yếu tố môi trường nằm ngoài phạm vi của quyền tài phán quốc gia.

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

Đặc điểm - Chủ thể của luật quốc tế về môi trường: các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế (các tổ chức liên chính phủ), xem môi trường như lĩnh vực của công pháp quốc tế. Ví dụ: doanh nghiệp của Việt Nam thải chất độc hại ra biển gây ảnh hưởng đến quốc tế, Việt Nam là chủ thể gây thiệt hại về môi trường chứ không phải là doanh nghiệp gây ô nhiễm (vì đã để doanh nghiệp xả thải). - Khách thể (đối tượng bảo vệ) của luật quốc tế về môi trường: + Luật quốc tế về môi trường bảo vệ những yếu tố về môi trường thuộc phạm vi chủ quyền và quyền tài phán quốc gia. Ví dụ: Vịnh Hạ Long được bảo vệ bởi các quy định pháp luật quốc tế: Công ước Quốc tế về di sản; động vật quý hiếm không những được bảo vệ bởi pháp luật Việt Nam mà còn được quy định bởi những quy định pháp luật quốc tế (CITES). + Luật quốc tế về môi trường bảo vệ những yếu tố môi trường nằm ngoài phạm vi tài phán quốc gia. Ví dụ: biển cả, khoảng không vũ trụ, ... Quá trình phát triển Trước 1972, vấn đề môi trường chưa được quan tâm nhiều, không có nhiều điều ước quốc tế. Từ 1972 đến nay, nhận thấy được tính thống nhất của môi trường ảnh hưởng đến nhiều quốc gia, do đó nhiều điều ước quốc tế được ký kết. Nguồn của luật Quốc tế về môi trường: chia làm 3 loại (i) Tập quán quốc tế, không thật sự phổ biến; (ii) Phán quyết của các cơ quan tài phán quốc tế; (iii) Điều ước quốc tế, hiện nay chủ yếu sừ dụng nguồn này, những điều ước song phương hoặc đa phương.

2.1. Nghĩa vụ - Nghĩa vụ không gây hại: được hiểu là quốc gia không được phép thực

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

TRANG [39]

2. Trách nhiệm và nghĩa vụ quốc gia theo luật quốc tế về môi trường


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

hiện những hành động trong phạm vi chủ quyền, nếu những hành động đó gây phương hại đến lợi ích chung của môi trường hay lợi ich môi trường của quốc gia khác. Nghĩa vụ không gây hại còn có một ý nghĩa nữa là nếu không là thành viên công ước quốc tế nào thì không phát sinh nghĩa vụ đối với công ước đó. Ví dụ: sông Mekong chảy qua địa phận nhiều quốc gia khác nhau, Campuchia là thành viên của Điều ước quốc tế về sông Mekong, muốn ngăn chặn dòng sông này (mặc dù nằm trên lãnh thổ CPC) nhưng vì ảnh hưởng quốc gia khác nên không được phép làm. Tuy nhiên, Trung Quốc có thể xây đập thủy điện trên sông Mekong, nhưng TQ không vi phạm vì không là thành viên của Điều ước quốc tế về sông Mekong. Lưu ý: nghĩa vụ không gây hại phải được ghi nhận trong Điều ước quốc tế và sau đó mới được yêu cầu không gây hại. - Nghĩa vụ hợp tác: hợp tác để thực hiện những Điều ước quốc tế hoặc hợp tác trong việc trao đổi thông tin (thông tin và đánh giá tác động, thông tin về ảnh hưởng môi trường). Ví dụ: Pháp muốn xây dựng nhà máy hạt nhân thì khi đánh giá tác động môi trường và dự báo những khả năng có thể xảy ra và phải cung cấp thông tin cho phía Bỉ biết, ngược lại Bỉ cũng thông tin về rò rỉ phóng xạ nếu phát hiện được. - Nghĩa vụ thông tin. 2.2. Trách nhiệm - Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi mà luật quốc tế không cấm gây ra. Trách nhiệm này không quan tâm có hay không có hành vi, là thành viên hay không, mà dựa vào kết quả xảy ra cho môi trường. TRANG [40]

- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm luật pháp quốc tế gây ra. 3. Nội dung 3.1. Luật quốc tế về bảo vệ bầu khí quyển

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

a) Luật quốc tế về chống ô nhiễm không khí xuyên biên giới Châu Âu và Bắc Mỹ ký kết Công ước Geneve về kiểm soát ô nhiễm không khí tầm xa năm 1979, tuy nhiên Công ước có hai điểm hạn chế, đó là: Công ước không đưa ra lộ trình cụ thể, nên khó thực hiện trong thực tế. Công ước chỉ tác động đến các quốc gia châu Âu => không có phạm vi rộng đến quốc tế. b) Luật quốc tế về bảo vệ tầng ozon ● Khái niệm tầng ozon Khí Ozon gồm 3 nguyên tử oxy (O3). Tầng bình lưu nằm trên tầng đối lưu với ranh giới trên dao động trong khoảng độ cao 50 km. Ở độ cao khoảng 25 km trong tầng bình lưu tồn tại một lớp không khí giàu khí Ozon (O3) thường được gọi là tầng Ozon. Hàm lượng khí Ozon trong không khí rất thấp, chiếm một phần triệu, chỉ ở độ cao 25 - 30 km khí Ozon mới đậm đặc hơn (chiếm tỉ lệ 1/100.000 trong khí quyển). Người ta gọi tầng khí quyển ở độ cao này là tầng Ozon. Khí ozon (O3) ở tầng đối lưu thì rất độc hại cho con người. Ngược lại, khí ozon ở tầng bình lưu, độ cao từ 12 đến 50 km, khí quyển chứa ozon hình thành một tầng bảo vệ xung quanh trái đất, thì rất có lợi, vì vậy con người giữ gìn nó như một yếu tố bảo vệ môi trường. ● Tầm quan trọng của tầng ozon

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

TRANG [41]

Ảnh minh họa

Tầng ozon bảo vệ trái đất khỏi các ảnh hưởng có hại của các tia bức xạ mặt trời, giữ vai trò quan trọng đối với khí hậu


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

và sinh thái. Nếu tầng Ozon bị thủng, một lượng lớn tia tử ngoại sẽ chiếu thẳng xuống Trái đất. Con người sống trên Trái đất sẽ mắc bệnh ung thư da, thực vật không chịu nổi nhiều tia tử ngoại chiếu vào sẽ bị mất dần khả năng miễn dịch, các sinh vật dưới biển bị tổn thương và chết dần. Suy thoái tầng ozon góp phần làm tăng nhiệt độ của trái đất, thay đổi chế độ khí hậu toàn cầu. Bên cạnh đó, sự suy thoái tầng ozon cũng tác động lên hệ sinh thái làm giảm sản lượng sinh học của chúng, làm tăng phóng xạ cực tím trên mặt đất, suy thoái chất lượng không khí, gây ung thư da, bệnh về mắt, ảnh hưởng xấu tới miễn dịch. ● Thực trạng tầng ozon Tháng 10 năm 1985, các nhà khoa học Anh phát hiện thấy tầng khí ozon trên không trung Nam cực xuất hiện một “lỗ thủng” rất lớn, bằng diện tích nước Mỹ. Năm 1987, các nhà khoa học Ðức lại phát hiện tầng khí ozon ở vùng trời Bắc cực có hiện tượng mỏng dần, có nghĩa là chẳng bao lâu nữa tầng ozon ở Bắc cực cũng sẽ bị thủng. Tin này nhanh chóng được truyền khắp thế giới và làm chấn động dư luận. Tầng ozon đã bị suy yếu trong vòng 50 năm qua, rõ rệt nhất là các đô thị lớn. Tầng ozon ở khu vực cực cận cực Bắc (Bắc Mỹ, Canada, châu Âu, Liên Xô cũ) đã bị mỏng tới 40% khiến cho mùa xuân đến sớm, mùa đông đến muộn. Ở Nam cực, tầng ozon giảm 50% tạo nên các lỗ hổng rộng hơn 20 triệu km2.

TRANG [42]

Trong những thập niên gần đây, theo số liệu nghiên cứu của Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO) và Chương trình môi trường Liên hợp quốc (UNEP) tầng ozone

Ảnh minh họa

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

đã suy giảm mạnh với lỗ thủng đầu tiên được phát hiện vào năm 1986 và đến năm 2003 đã lên tới 11,2 triệu dặm vuông. ● Nguyên nhân suy giảm tầng ozon Nguyên nhân chủ yếu là do các hoạt động sản xuất công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp lạnh, phân bón hóa học, máy bay, sử dụng các nhiên liệu hóa thạch đã thải vào khí quyển các chất như CFC, CH4, N2O, NO có khả năng hóa hợp với ozon; ngoài ra còn do các nguồn khí tự nhiên khác từ núi lửa, sấm chớp. Chất gây suy giảm ozon là chất CFC (freons), ODS (ozon destroy subtain) gồm những hợp chất có chứa clorin và những hợp chất thuộc nhóm Bromin (trong hóa chất trừ sâu và tẩy rửa). Các chất ODS và cơ chế phá hủy tầng ozon của chúng: Các chất ODS là các chất thuộc nhóm chloruo (CFC) và nhóm bromide (chất tẩy rửa). Xác định hướng tác động để bảo vệ tầng ozon: loại trừ nguyên nhân bằng cách ngưng phát thải những chất ODS vào bầu khí quyển. Sớm ngừng sản xuất và sử dụng các hoá chất dạng freon (nhất là trong sản xuất tủ lạnh, máy lạnh) là biện pháp hữu hiệu để cứu tầng ozon. ● Nội dung của luật quốc tế về bảo vệ tầng ozon Hai văn bản chính gồm có Công ước VIENNA 1985 và Nghị định thư MONTREAL 1987 về các chất làm suy giảm tầng ozon. Ngày 22/3/1985, các quốc gia đã cùng nhau ký kết một văn bản thỏa thuận về trách nhiệm của các nước trong việc giảm phát thải các chất có hại đến sự bình ổn của tầng ozon, đó là Công ước Vienna.

Ví dụ: Theo Nghị định thư Montreal, năm 1990, quốc gia (QG) A sản xuất và tiêu thụ 900 tấn CFC, trong đó sản xuất là 700 tấn, nhập 200 tấn. Năm 1993, QG A phải cắt giảm 50% (450 tấn). Năm 1996, QG A phải loại bỏ hoàn toàn việc sản xuất và tiêu thụ CFC.

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

TRANG [43]

Nghĩa vụ của quốc gia là phải cắt giảm và đi đến loại bỏ hoàn toàn việc sản xuất và tiêu thụ các chất ODS. Thực hiện nghĩa vụ này phải tính đến lộ trình vì không phải một thời gian ngắn có thể loại bỏ ngay được các chất ODS, nên cắt giảm từ từ rồi đi đến loại bỏ hoàn toàn.


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

Căn cứ cắt giảm và loại bỏ hoàn toàn việc sản xuất và tiêu thụ các chất ODS + Hệ số phá hủy tầng Ozon: căn cứ vào mức độ nguy hiểm đối với tầng ozon của từng chất ODS, nghĩa là những chất nào có mức độ nguy hiểm hơn – có hệ số phá hủy tầng ozon cắt giảm trước. Hệ số phá hủy tầng ozon tỷ lệ thuận với mức độ nguy hiểm của các chất phá hủy tầng ozon. + Tuy nhiên, không phải chất nào nguy hiểm là cắt giảm và loại bỏ ngay mà phải tiếp tục xem xét căn cứ thứ 2, đó là nhu cầu sử dụng và khả năng thay thế của từng chất. Nhu cầu sử dụng và khả năng thay thế của từng chất vì những chất nếu nhu cầu sử dụng nhiều nhưng chưa tìm được chất thay thế thì sẽ cắt giảm sau. Ví dụ: CFC có hệ số phá hủy = 1, hệ số nhỏ nhưng do có chất thay thế nên cắt giảm trước. Nhóm quốc gia đang và chậm phát triển được trì hoãn 10 năm việc chậm thực hiện công ước Vienna (hết năm 2006). Theo quy định của hiệp ước, việc tiêu thụ các chất gây hại của các quốc gia đang phát triển sẽ phải bị hạn chế và cho tới năm 2040 sẽ chỉ được duy trì ở mức của năm 2015. Cũng trong năm 2040 này, chất CFC sẽ phải được loại bỏ hoàn toàn trong bầu khí quyển. Trước đó 10 năm, vào năm 2030, các nước công nghiệp cũng sẽ phải đạt được mục tiêu này.

TRANG [44]

Từ ngày 15-102006, nước Pháp đã quy định khi người dân mua một tủ lạnh mới thì nhà sản xuất của sản phẩm cũ hay các đơn vị thu nhận phải lấy lại chiêc tủ lạnh cũ để hạn chế lượng khí CFC độc hại thải ra môi trường.

Ảnh minh họa

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

● Cơ chế bảo đảm thực hiện Về mặt tài chính: thế giới có “Quỹ đa phương” (do các nước phát triển đóng góp) và khuyến khích giúp đỡ các nước đang phát triển hoặc chậm phát triển theo hình thức hỗ trợ song phương để cắt giảm và loại bỏ chất ODS, cung cấp cho các nước này sự trợ giúp về mặt kỹ thuật và tài chính. Về mặt công nghệ: tìm ra những chất thay thế (đối với những nước phát triển) và chuyển giao cho những nước đang phát triển và chậm phát triển (không phải trả tiền). Hộp: Nỗ lực của Việt Nam trong việc loại trừ dần các chất ODS Tháng 1/1994 Việt Nam chính thức tham gia công ước Vienna - Nghị định thư Montreal và một năm sau (1995) Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chương trình Quốc gia Việt Nam nhằm loại trừ dần các chất làm suy giảm tầng ôzôn - CTQG”. Là một nước có lượng tiêu thụ các chất làm suy giảm tầng ôzôn (ODS) thấp, dưới 0,004kg/người/năm, Việt Nam được hưởng ưu đãi về hạn định loại trừ, được nhận sự hỗ trợ không hoàn lại về tài chính và công nghệ từ Quỹ đa phương về ôzôn (trên 7triệu USD). Đây chính là những thuận lợi lớn cho Việt Nam có thể làm tốt hơn những gì đã cam kết với quốc tế. Trước hết, Việt Nam xác định rõ, các giải pháp về đầu tư và chuyển giao công nghệ cho những đơn vị, doanh nghiệp có sử dụng các chất ODS là tối quan trọng, quyết định đến sự thành công của CTQG mà Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt. Trong thập kỷ 90, mỗi năm Việt Nam tiêu thụ khoảng 500 tấn CFC, 4 tấn holon và gần 400 tấn methyl bromide (những chất phá huỷ tầng ôzôn), trong đó lĩnh vực son khí (mỹ phẩm) chiếm tới 48,8%, làm lạnh 28,96%, điều hoà không khí 14,45%... Tuy nhiên, với những dự án khả thi đã thực hiện trong 10 năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành công lớn. Trên 200 tấn CFC 12 (chiếm gần 1/2 tổng số CFC được sử dụng trong cả nước) đã được loại trừ và đến thời điểm này, không còn DN nào tại Việt Nam sử dụng CFC trong sản xuất mỹ phẩm. Trong lĩnh vực làm lạnh và điều hoà không khí, CTQG cũng đã đạt được những kết quả khả quan khi hàng năm giảm được trung bình 3,6 tấn CFC 11 trong ngành dệt may, 5,8 tấn CFC 12 trong sử dụng điều hoà không khí ô tô và 40 tấn CFC trong các thiết bị làm lạnh thương mại và gia dụng. Trong lĩnh vực chế biến nông - lâm sản XK, CTQG đã có dự án “Thay thế methyl bromide cho khử trùng xông hơi gạo đóng bao, ngũ cốc - hàng rời tại kho silô và gỗ tại các kho bằng cách trùm bạt” đã được thực hiện nhằm tìm ra các giải pháp và công nghệ phù hợp thay thế cho các chất nguy hại đến tầng ôzôn này.

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

TRANG [45]

Song hành đó, các biện pháp mang tính pháp quy cũng được Việt Nam chú trọng thực hiện. Nhiều văn bản của các Bộ, ngành liên quan đã được ban hành để kiểm soát nhập khẩu và sử dụng ODS ở nước ta, như: Cấm các trang thiết bị dập cháy sử dụng halon từ 1995; cấm tái nạp holon cho các bình dập cháy cầm tay; quy định các loại hình lắp ráp tủ lạnh gia đình không cho phép sử dụng môi chất lạnh trái với công ước quốc tế về bảo vệ tầng ôzôn... Bên cạnh đó, các khoá huấn luyện đào tạo cho cán bộ hải quan, công tác tuyên truyền bảo vệ tầng ozon cũng được CTQG thực hiện rất thành công liên tiếp nhiều năm!


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

Với nỗ lực không mệt mỏi từ phía các bên tham gia Nghị định thư, lỗ thủng của tầng ozon đã giảm 0,3% mỗi năm và trong một vài năm qua, đã đạt được những sự biến đổi lớn không ngờ. c) Luật quốc tế về chống lại xu hướng khí hậu biến đổi Biến đổi khí hậu trái đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thuỷ quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo. ● Xu hướng khí hậu biến đổi và hậu quả của nó Biến đổi khí hậu làm thay đổi nhiệt độ nước và mực nước, làm thay đổi lớn tới thời tiết chế độ mưa, bão, hạn hán, cháy rừng, El Nino), tới lưu lượng, đặc biệt là tầng suất và thời gian của những trận lũ và hạn hán lớn, bên cạnh đó, còn có khuynh hướng làm giảm chất lượng nước, sản lượng sinh học và số lượng các động thực vật trong hệ sinh thái nước ngọt, làm tăng bệnh tật, nhất là các bệnh vào mùa hè. Theo tính toán của các nhà khoa học, khi nồng độ CO2 trong khí quyển tăng gấp đôi, thì nhiệt độ bề mặt trái đất tăng lên khoảng 3oC. Các số liệu nghiên cứu cho thấy nhiệt độ trái đất đã tăng 0,5oC trong khoảng thời gian từ 1885 đến 1940 do thay đổi của nồng độ CO2 trong khí quyển từ 0,027% đến 0,035%. Dự báo, nếu không có biện pháp khắc phục hiệu ứng nhà kính, nhiệt độ trái đất sẽ tăng lên 1,5 - 4,5oC vào năm 2050. Các nhà khoa học khác dự báo năm 2100 sẽ là năm nóng nhất trong 10.000 năm qua. Mực nước biển sẽ tăng khoảng 70-100 cm/100 năm, sẽ dẫn đến việc mất đất của hàng triệu người dân sống ở vùng đất thấp, quan trọng hơn nữa là có thể mất đi cả một nền văn hóa. TRANG [46]

● Hậu quả của xu hướng khí hậu biến đổi Độ trơ của hệ thống khí hậu tức là sự thay đổi của khí hậu xảy ra từ từ và khi thay đổi khó đạt lại trạng thái ban đầu. Do đó, thậm chí khi nồng độ các chất gây ra hiệu ứng nhà kính đã được ổn định thì sự ấm lên của trái đất vẫn tiếp tục xảy ra trong vài thập kỷ và mực nước vẫn tiếp tục tăng lên trong hàng thế kỷ sau.

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

● Nguyên nhân của xu hướng khí hậu biến đổi Nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu trái đất là do sự gia tăng các hoạt động tạo ra các chất thải khí nhà kính, các hoạt động khai thác quá mức các bể hấp thụ và bể chứa khí nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái biển, ven bờ và đất liền khác, cụ thể là do phá rừng, hoạt động công, nông, lâm nghiệp, giao thông và sinh hoạt làm tăng nồng độ các loại khí CO2, N2O, NO, CH4, H2S, bụi và hơi nước. - Khái niệm về hiệu ứng nhà kính: Kết quả của sự trao đổi không cân bằng về năng lượng giữa trái đất với không gian xung quanh, dẫn đến sự gia tăng nhiệt độ của khí quyển trái đất. Hiện tượng này diễn ra theo cơ chế tương tự như nhà kính trồng cây. Vai trò gây nên hiệu ứng nhà kính của các chất khí được xếp theo thứ tự sau: CO2 => CFC => CH4 => O3 =>NO2. Sự gia tăng nhiệt độ trái đất do hiệu ứng nhà kính có tác động mạnh mẽ tới nhiều mặt của môi trường trái đất. - Các chất khí nhà kính: Là những chất gây nên hiệu ứng nhà kính và làm cho trái đất nóng lên như CO2, CH4, N2O, hơi nước, … (những chất từ 3 nguyên tử kết hợp với nhau trở lên). Chất CFC: Chlorofluorocarbons gây hiện tượng nhà kính và là ODS nhưng không được cắt giảm trong Nghị định thư Kyoto vì đã được quy định việc cắt giảm trong Nghị định thư Montreal. Hướng tác động để chống lại xu hướng khí hậu biến đổi: Tăng khả năng hấp thụ khí nhà kính của trái đất: Bảo vệ những cánh rừng, thay đổi phương thức sản xuất để CH4 phát tán ít đi.

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

Theo ước tính cứ mỗi 12 ngày toàn thế giới dùng hết 1 tỷ thùng dầu và thải vào bầu khí quyển một lượng CO2 vô cùng lớn tái sử dụng loại khí này thành một nguồn năng lượng, tránh ô nhiễm cho trái đất. Mỗi hạt nanotube có đường kính 115 nanomet, xếp thành dãy có kích cỡ 2 cm2 bồn chứa nước bơm CO2 qua, dưới năng lượng mặt trời, thu được khí metal.

TRANG [47]

Cắt giảm lượng khí nhà kính phát thải vào bầu khí quyển: Cắt giảm không đơn giản vì cắt giảm CO2 phải cắt giảm dầu hỏa, than đá, …. Những tập đoàn sản xuất máy bay, xe hơi phản đối rất dữ dội.

Các nhà nghiên cứu tại Đại học Pennsylvania đã tìm ra một cách mới để chuyển CO2 và nước thành khí metal hoặc một dạng nguyên liệu khác nhờ chất liệu nanotubes làm trung gian, hiệu quả hơn những phương pháp khác đến 20 lần. (Cách phổ biến hiện nay là sử dụng titanium dioxide – viết tắt là titanica).


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

Quá trình phát triển của luật quốc tế về chống lại xu hướng khí hậu biến đổi: - Nghị quyết 45/53 của Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 1988. Hội nghị LAHAYE 1989 Hội nghị La Haye đã được tổ chức nhằm mục đích thông qua lần cuối Nghị định thư Kyoto, mở đường cho việc phê chuẩn và có hiệu lực trong năm 2002. Tuy nhiên, cuộc gặp đã thất bại nặng nề. Công ước khung về khí hậu biến đổi 1992: Tháng 6/1992, Hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp quốc về môi trường và phát triển họp tại Rio De Janeiro, Brazin đã ký Công ước Khung về Biến đổi khí hậu. Công ước này “là cam kết của các quốc gia nhằm vạch ra khuôn khổ cho các hoạt động kiểm soát và cắt giảm phát thải khí nhà kính nhằm ổn định nồng độ khí nhà kính trong khí quyển để ngăn chặn các tác động nguy hiểm của nó tới hệ thống khí hậu”. Mức phải đạt nằm trong một khung thời gian đủ để các hệ sinh thái thích nghi một cách tự nhiên với sự thay đổi khí hậu, bảo đảm việc sản xuất lương thực không bị đe doạ và tạo khả năng cho sự phát triển kinh tế tiến triển một cách bền vững. Công ước nhấn mạnh trách nhiệm của các nước phát triển phải đi đầu trong việc ngăn ngừa biến đổi khí hậu và các ảnh hưởng tiêu cực của nó có tính đến đặc thù và hoàn cảnh của các nước đang phát triển. Công ước quy định vấn đề nguyên tắc, không quy định nghĩa vụ và lộ trình để thực hiện. Vì vậy, hiện tượng hiệu ứng nhà kính không giảm, mà còn gia tăng 1,5 lần. - Nghị định thư KYOTO 1997 về cắt giảm khí nhà kính. TRANG [48]

Nghị định thư Kyoto là thỏa thuận quốc tế liên quan tới Công ước khung của Liên Hợp Quốc về vấn đề biến đổi khí hậu. Nghị định thư Kyoto được thông qua tại Kyoto, Nhật Bản vào ngày 11/12/1997 và có hiệu lực từ ngày 16/2/2005, đến nay có gần 200 quốc gia đã phê chuẩn. Nội dung chính là thiết lập mức giảm khí nhà kính bắt buộc đối với 37 nước công nghiệp và cộng đồng chung Châu Âu. Mức giảm bắt buộc này là

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

trung bình 5% của mức phát thải năm 1990 trong giai đoạn từ 2008 đến 2012. Khác biệt cơ bản giữa Nghị định thư và Công ước là trong khi giảm phát thải khí nhà kính đối với các nước công nghiệp là sự khuyến khích trong Công ước, thì trong Nghị định thư đó là điều bắt buộc. Nhận thấy các nước phát triển là nhóm nước có mức thải khí nhà kính chủ yếu vào khí quyển sau hơn 150 năm sản xuất công nghiệp, Nghị định thư đặt ra nhiều trách nhiệm hơn lên các nước phát triển theo tiêu chí “trách nhiệm chung nhưng mức độ khác nhau”. Các nguyên tắc thực hiện Nghị định thư được thông qua tại Hội nghị các bên COP 7 tại Marrakesh năm 2001 và được gọi là “Hiệp ước Marrakesh”. Theo Hiệp ước, các quốc gia phải đạt được mục tiêu của mình trước tiên là ở phạm vi quốc gia. Tuy nhiên, Nghị định thư cũng đưa ra những phương thức nhằm hỗ trợ các nước này trong việc thực hiện mục tiêu bắt buộc thông qua 3 cơ chế thị trường. Ba cơ chế đó là: Thương mại phát thải – “thị trường cacbon”; Cơ chế phát triển sạch (CDM); triển khai đồng thực hiện (JI). Các cơ chế này khuyến khích đầu tư xanh và giúp các nước tham gia thực hiện được trách nhiệm của mình với chi phí hiệu quả nhất. ● Việc Mỹ rút khỏi Nghị định thư KYOTO và vấn đề tiếp tực thực hiện Nghị định thư KYOTO mà không có sự tham gia của Mỹ. Tháng 7/2001, các quốc gia tổ chức Hội nghị tại Bonn, Đức bàn về việc tiếp tục thực hiện Nghị định thư mà không có sự tham gia của Mỹ và đã có 2 sự nhượng bộ:

- Cho phép các quốc gia công nghiệp được dùng lượng khí nhà kính mà các cánh rừng tự nhiên của mình hấp thụ để trừ vào chỉ tiêu cắt giảm. Đối với quốc gia phát triển phải sử dụng rừng trồng sau năm 1990. ● Vấn đề cắt giảm khí nhà kính sau năm 2012.

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

TRANG [49]

- Kéo dài thời hạn cắt giảm khí nhà kính đối với các quốc gia của Công ước khung đã phê chuẩn Nghị định thư.


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

Tháng 11/2006, Hội nghị thượng đỉnh khí hậu toàn cầu chính thức khai mạc tại Nairobi, Kenya để thảo luận về tương lai sau Nghị định thư Kyoto hết hiệu lực năm 2012. Hội nghị tiếp tục bàn bạc 2 vấn đề lớn: mức cắt giảm khí nhà kính sau năm 2012 sẽ là bao nhiêu và liệu các nước đang phát triển lớn như Trung Quốc và Ấn Độ có buộc phải cắt giảm hay không. Tiến trình thảo luận về các hành động toàn cầu chống thay đổi khí hậu sau năm 2012 bắt đầu từ tháng 5/2006. Liên minh châu Âu và Nhật Bản muốn các mục tiêu trung hạn chặt chẽ. Anh vừa đề xuất EU chấp nhận một mục tiêu trung hạn giảm 30% lượng khí thải nhà kính tới năm 2020. Tuy nhiên, Mỹ và Australia, vẫn phản đối kịch liệt mọi cuộc đàm phán về mục tiêu. Tổ chức khí tượng thế giới cho biết lượng khí CO2 đã tăng 0,5% trong năm 2005 và sẽ không bắt đầu giảm trừ khi có một cam kết mạnh mẽ hơn Nghị định thư Kyoto. Điều chỉnh Cơ chế phát triển sạch (CDM) - một trong hai kế hoạch của Nghị định thư Kyoto - để các nước châu Phi có thể tiếp cận nhiều hơn với CDM. Một chương trình 5 năm cũng sẽ được soạn thảo để giúp các nước nghèo thích ứng với sự thay đổi khí hậu thông qua một quỹ. Kinh phí của quỹ này sẽ được lấy từ tiền thu được của CDM. Tháng 12/2009, tại Copenhagen, Hội nghị Thượng đỉnh LHQ về BĐKH được tổ chức. Hội nghị thượng đỉnh Copenhagen về biến đổi khí hậu được xem là đỉnh cao trong suốt hai năm đàm phán đầy khó khăn để tìm ra một hướng đi chung, một hiệp ước về khí hậu toàn cầu trước khi hiệu lực của Nghị định thư Kyoto kết thúc. Nhưng những kỳ vọng cho hội nghị Copenhagen đã không thực hiện được, chủ yếu là do các nước phát triển và các nước đang phát triển không đồng ý về việc ai sẽ chịu phần lớn trách nhiệm cho việc cắt giảm khí thải cacbon. TRANG [50]

● Nội dung của luật quốc tế vế khí hậu biến đổi (Công ước khung 1992 về khí hậu biến đổi và Nghị định thư KYOTO về cắt giảm khí nhà kính). - Các loại khí nhà kính phải cắt giảm và vấn đề quy đổi chúng (Phụ lục A của NĐT KYOTO): Những quốc gia tham gia kí kết phải chấp nhận việc cắt giảm khí Carbon dioxide (CO2) và năm loại khí gây hiệu ứng nhà kính khác

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

là Methane (CH4 ), Nitrous oxide (N2O), Hydrofluorocarbons (HFCs), Perfluorocarbons (PFCs), Sulphur hexafluoride (SF6). - Hạn ngạch phát thải khí nhà kính của các quốc gia công nghiệp (Phụ lục B của NĐT KYOTO): Xác định được chỉ tiêu và thời hạn cắt giảm khí nhà kính cho các quốc gia công nghiệp, cụ thể từ 2008 đến 2012, các quốc gia công nghiệp (Phụ lục B của NĐT KYOTO) sẽ phải cắt giảm 50% tổng lượng khí nhà kính phát thải so với mức phát thải năm 1990.Các quốc gia được chia làm hai nhóm: - Nhóm các nước phát triển - còn gọi là Annex I (vốn sẽ phải tuân theo các cam kết nhằm cắt giảm khí gây hiệu ứng nhà kính) và buộc phải có bản đệ trình thường niên về các hành động cắt giảm khí thải; - Nhóm các nước đang phát triển - hay nhóm các nước Non-Annex I (không chịu ràng buộc các nguyên tắc ứng xử như Annex I nhưng có thể tham gia vào Chương trình cơ cấu phát triển sạch (The Clean Development Mechanism-CDM)). Mỹ chỉ chiếm 4% dân số mà phát thải 24% khí nhà kính trên quy mô toàn cầu, đối với các quốc gia tham gia Nghị định thư Kyoto, Mỹ phát thải 36% khí nhà kính. ● Phương thức thực hiện việc cắt giảm khí nhà kính - Sử dụng khí nhà kính do rừng và việc thay đổi phương thức sử dụng đất hấp thu được cộng vào chỉ tiêu phát thải. - Cắt giảm thực tế: là việc các quốc gia thực hiện những biện pháp cần thiết để giảm bớt một cách thực tế lượng khí nhà kính mà mình phát thải vào bầu khí quyển (6 loại chất phải cắt giảm; CO2 hệ số 1, CH4 hệ số 0,6, … tất cả được đưa về CO2 quy đổi) để cắt giảm lượng khí thải ở một quốc gia có thể di chuyển sang quốc gia khác thải (Nghị định thư cho phép việc này) hoặc đấu thầu, ví dụ như một doanh nghiệp sẵn sàng bỏ ra một số tiền để mua quyền thải CO2 quy đổi.

- Cơ chế phát triển sạch (The Clean Development Mechanism – CDM) và

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

TRANG [51]

- Mua bán hạn ngạch phát thải khí nhà kính: do Mỹ đưa ra nhưng các quốc gia khác phản đối quyết liệt vì chỉ là sự dịch chuyển sự phát thải và không giảm trên quy mô toàn cầu nhưng Mỹ lại nói có sự dịch chuyển về kinh tế, tận dụng chỉ tiêu những quốc gia thừa chỉ tiêu.


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

sự tham gia của các quốc gia đang phát triển: chỉ áp dụng cho các quốc gia đang phát triển. Điều kiện có hiệu lực của Nghị định thư Kyoto Hiệp định Kyoto có hiệu lực khi có ít nhất 55 quốc gia của công ước khung phê chuẩn trong đó các bên thuộc phụ lục B đã phê chuẩn Nghị định thư Kyoto phải có lượng khí phát thải bằng ít nhất 55% tổng lượng khí phát thải của các quốc gia này (Phụ lục B). Như vậy, Nghị định thư Kyoto có hiệu lực khi đạt được điều kiện cần là có ít nhất 55 bên, điều kiện đủ là số lượng khí thải ít nhất bằng 55% lượng khí thải quốc gia thuộc phụ lục B. Ví dụ 1: có 100 quốc gia thuộc phụ lục B (trừ Mỹ) của Công ước khung phê chuẩn Nghị định thư, biết rằng Mỹ phát thải 36% khí nhà kính. Xét điều kiện cần: có 100 bên > 55 bên của Công ước khung đạt. Xét điều kiện đủ: 100% - 36% = 64% > 55% đạt. Ví dụ 2: có 53 quốc gia phê chuẩn, lượng khí phát thải bằng 60% tổng lượng khí thải của các quốc gia này. Điều kiện cần: số lượng quốc gia tham gia là 53 < 55 không đạt, điều kiện đủ: số lượng khí thải chiếm 60%>55%. Do đó, Nghị định thư không có hiệu lực. Ví dụ 3: Mỹ phát thải 36%, Nga phát thải 17%, như vậy [100% - (36% + 17%)] = 47%, không đạt về điều kiện đủ. Nghị định thư không có hiệu lực. 3.2. Luật quốc tế về bảo vệ môi trường biển Biển chiếm 71% bề mặt của trái đất, được bao phủ bởi nước và 90% sinh quyển là đại dương. Cùng với sự phát triển hướng ra biển của nhân loại, biển đang đứng trước những thách thức nghiêm trọng của nạn ô nhiễm. TRANG [52]

Nguồn ô nhiễm môi trường biển mà con người nhận thức sớm nhất là ô nhiễm từ tàu. Ngay sau chiến tranh thế giới lần thứ 1, Mỹ, Hội quốc liên đã bắt đầu có những hoạt động nhằm tìm kiếm một thỏa thuận quốc tế về đấu tranh chống ô nhiễm dầu. Năm 1921, Hội nghị quốc tế về chống ô nhiễm biển diễn ra tại London (Anh) và có mặt của các nghiệp đoàn dầu lửa, các chủ tàu và các địa phương có cảng. Ô nhiễm biển do đổ, thải dầu và các vụ tràn dầu từ các hoạt động giao thông và khai thác biển.

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

Ngoài ô nhiễm biển do dầu, con người cũng quan tâm đến ô nhiễm biển do nhận chìm các chất thải, đặc biệt là các chất phóng xa hoặc các chất độc hại. Luật quốc tế về chống ô nhiễm biển gồm có: Kiểm soát ô nhiễm từ đất liền; Kiểm soát ô nhiễm biển từ Ảnh minh họa không khí; Kiểm soát ô nhiễm biển từ tàu thuyền; Kiểm soát ô nhiễm biển từ sự nhận chìm; Kiểm soát ô nhiễm biển từ những hoạt động có liên quan đến đáy biển. Luật quốc tế về bảo vệ tài nguyên biển có tài nguyên sinh học, tài nguyên phi sinh học. Việt Nam đã tham gia nhiều Công ước quốc tế để bảo vệ môi trường biển, cụ thể như: Công ước Marpol về ngăn chặn ô nhiễm biển do tàu gây ra (tham gia ngày 29/8/1991); Công ước quốc tế về an toàn tính mạng trên biển SOLAR 1974 (tham gia này 18/3/1991); Công ước Luật Biển 1982 (tham gia này 16/11/1994); Công ước về các quy tắc quốc tế phòng tránh đâm va trên biển COLREG 1972 (tham gia ngày 18/12/1990); Công ước về tiêu chuẩn cấp chứng chỉ cho thuyền viên 1978/1995 (tham gia ngày 18/3/1991). Trong đó có hai nội dung cơ bản được đề cập xuyên suốt để kiểm soát môi trường biển là: Việc hạn chế các chất thải gây ô nhiễm; việc hạn chế ô nhiễm biển do dầu. Việt Nam nằm cạnh tuyến đường hàng hải quan trọng trên biển Thái Bình Dương, nơi có mật độ tàu thuyền qua lại lớn nên khả năng ô nhiễm biển do dầu mà lượng tàu thuyền này đi qua cũng rất lớn. Số lượng dầu chuyên chở qua biển Đông hàng năm khoảng 2,1 tỷ tấn vào bất cứ thời điểm nào cũng có khoảng 51 tàu chở dầu cở lớn hoạt động trong khu vực. Nếu tính lượng rò rỉ thấp nhất là 1% thì hàng năm lượng dầu trong khu vực cũng lên tới 2 triệu tấn.

Các thuật ngữ: Mẫu vật: hiểu rất rộng (con tê giác hay sừng tê giác đều là mẫu vật): cây, con vật sống hay sản phẩm của cây, con vật đó.

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

TRANG [53]

3.3. Luật quốc tế về đa dạng sinh học


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

Buôn bán: bao gồm những hoạt động xuất nhập khẩu, tái xuất khẩu và nhập từ biển là việc vận chuyển đến một quốc gia những mẫu vật của bất kỳ loài nào mà chúng được khai thác từ môi trường biển thuộc quyền quản lý của bất kỳ nước nào. Đa dạng sinh học: Công ước về đa dạng sinh học đã đưa ra khái niệm về đa dạng sinh học như sau: (ĐDSH) là sự phong phú của mọi cơ thể sống có từ tất cả các nguồn trong hệ sinh thái trên cạn, ở biển và các hệ sinh thái dưới nước khác và mọi tổ hợp sinh thái mà chúng tạo thành. Đa dạng sinh học bao gồm: Sự đa dạng loài (đa dạng di truyền hay còn gọi là đa dạng gen); Đa dạng giữa các loài; Đa dạng hệ sinh thái. Ở Việt Nam, đa dạng sinh học được quy định tại Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường là sự phong phú về nguồn gen, về giống, loài sinh vật và hệ sinh thái trong tự nhiên. Theo đó, đa dạng sinh học được xem xét theo 3 mức độ, cụ thể: - ĐDSH ở cấp loài bao gồm toàn bộ các sinh vật sống trên trái đất, từ vi khuẩn đến các loài thực, động vật và các loài nấm. - ĐDSH ở cấp quần thể đa dạng sinh học bao gồm sự khác biệt về gen giữa các loài, giữa các quần thể sống cách ly nhau về địa lý cũng như khác biệt giữa các cá thể cùng chung sống trong một quần thể. - ĐDSH còn bao gồm cả sự khác biệt giữa các quần xã mà trong đó các loài sinh sống và các hệ sinh thái, nơi các loài cũng như các quần xã sinh vật tồn tại và cả sự khác biệt của mối tương tác giữa chúng với nhau. Giới thiệu nội dung các điều ước:

TRANG [54]

Các văn kiện chính: Công ước Washington DC 1992 về đa dạng sinh học; Công ước CITES về kiểm soát buôn bán quốc tế các loài động thực vật hoang dã bị nguy cấp; Công ước BONN về bảo tồn di cư của những loài động vật hoang dã; Công ước RAMSAR về vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt như là nơi cư trú của loài chim nước; Các điều ước quốc tế khác có liên quan. a) Công ước về đa dạng sinh học

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

Công ước về đa dạng sinh học là một hiệp ước khung được thông qua tại Rio De Janeiro, Brazin trong khuôn khổ Hội nghị thượng đỉnh về môi trường và phát triển bền vững có hiệu lực từ ngày 29/12/1993. Đến nay có khoảng 170 quốc gia thành viên. Việt Nam chính thức gia nhập vào ngày 16/11/1994. Công ước gồm 42 điều khoản và 2 phụ lục, trong đó, xác định rõ các mục tiêu, việc sử dụng các điều khoản, nguyên tắc, phạm vi quyền hạn, hợp tác giữa các quốc gia trong bảo vệ đa dạng sinh học. * Mục tiêu chính: Bảo tồn đa dạng sinh học; sử dụng bền vững các thành phần của ĐDSH; chia sẻ công bằng và bình đẳng các lợi ích thu được từ việc sử dụng tài nguyên sinh học. * Nội dung cơ bản của Công ước tập trung vào các lĩnh vực: Bảo tồn ĐDSH và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên ĐDSH. ● Chủ quyền đối với tài nguyên sinh học và trách nhiệm quốc tế hợp tác quốc tế về bảo tồn đa dạng sinh học. ● Nhập nội các nguồn gen, chuyển giao công nghệ sinh học và quyền sở hữu trí tuệ. Ngoài ra, công ước cũng quy định rõ về các biện pháp khuyến khích, nghiên cứu đào tạo, giáo dục và nhận thức về hợp tác khoa học và kỹ thuật cũng như về các nguồn và cơ chế tài chính… trong việc bảo vệ đa dạng sinh học trên phạm vi toàn cầu. * Hình thức bảo tồn nguyên vị (in-situ) và bảo tồn ngoại vi (ex-situ)

Bảo tồn ngoại vi (ex-situ): đây là biện pháp bảo tồn bằng cách thành lập các vườn thực vật, vườn sưu tập tại các vườn quốc gia, các trung tâm nghiên cứu, trung tâm cứu hộ động vật. (Trung tâm cứu hộ linh trưởng, trung tâm cứu hộ rùa).

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

TRANG [55]

Bảo tồn nguyên vị (in-situ): đây là biện pháp bảo tồn tại chỗ tất cả các hệ sinh thái, các nơi sinh cư và các loài trong môi trường tự nhiên của chúng, đây cũng là biện pháp hữu hiệu nhất bảo tồn tính đa dạng sinh học.


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

b) Công ước RAMSAR về vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt như là nơi cư trú của loài chim nước Công ước này được thông qua tại Ramsar (Ran) ngày 02/2/1971, có hiệu lực ngày 21/12/1975. * Mục đích chủ yếu: bảo tồn và sử dụng một cách hiểu biết các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng cho sự cư trú của loài chim nước. * Theo quy định của Công ước, các loại đất ngập nước chủ yếu được công nhận là: - Biển (các vùng đất ngập nước ven biển bao gồm các bãi đá san hô ngầm và các đảo đá ven bờ); - Cửa sông (các đồng bằng, môi trường lầy, rừng đước ngập nước); - Hồ (các vùng đất ngập nước gắn với hồ); - Sông (các vùng đất ngập nước dọc sông, suối). * Công ước Ramsar xác định 4 nghĩa vụ chính của các quốc gia thành viên: - Đề xuất ít nhất một vùng đất ngập nước vào danh sách các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế (Điều 21). - Các bên phải ban hành tiêu chuẩn về đăng ký và về quản lý các vùng đã đăng ký. - Các bên phải đưa việc bảo tồn các vùng đất ngập nước và kế hoạch sử dụng khôn ngoan các vùng đất ngập nước trên lãnh thổ quốc gia.(Điều 3.1). TRANG [56]

- Các bên hợp tác và tư vấn lẫn nhau trong thực hiện Công ước, đặc biệt đối với các vùng đất ngập nước chung, các hệ thống nước chung, các loài chung. (Điều 5). * Tham gia Công ước Ramsar, Việt Nam phải thực hiện các cam kết quốc tế về bảo tồn và sử dụng khôn ngoan các vùng đất ngập nước theo đúng nguyên tắc của quốc tế và đề xuất một số điểm ngập nước theo tiêu chuẩn

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

Ramsar. Việt Nam đã đề xuất được một vùng đất ngập nước vào danh sách các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, vùng đất ngập nước Xuân Thủy, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, với tổng diện tích 12.000 ha và duy trì chế độ bảo tồn theo quy chế pháp lý quốc tế từ đó đến nay. Đây là khu Ramsar đầu tiên ở Đông Nam Á và là khu thứ 50 trên thế giới. c) Công ước CITES về buôn bán quốc tế các loài động thực vật hoang dã bị nguy cấp Công ước về buôn bán quốc tế các loài động thực vật hoang dã bị nguy cấp (Công ước CITES) được các nước thông qua năm 1973, có hiệu lực từ ngày 01/7/1975.Việt Nam trở thành thành viên thứ 121 của Công ước CITES vào ngày 20/4/1994. Đến nay có khoảng 140 quốc gia là thành viên. Công ước quản lý buôn bán quốc tế các loài động thực vật bị nguy cấp, chỉ đơn thuần quản lý việc buôn bán những loài này, không cấm việc săn bắn, không điều chỉnh việc phá hoại nơi cư trú. * Các thành viên tham gia Công ước thực hiện: - Việc cấm buôn bán quốc tế các loài nguy cơ tuyệt chủng trong một danh sách đã được thỏa thuận; - Điều phối và giám sát buôn bán các loài khác nếu cho buôn bán tự do sẽ trở thành các loài có nguy cơ tuyệt chủng. Công ước CITES lập danh sách các loài động thực vật hoang dã theo 3 phụ lục khác nhau:

Ví dụ: Sử dụng những giống loài có nguy cơ bị tuyệt chủng vào những mục đích đặc biệt như: nghiên cứu khoa học, quan hệ quốc tế, mục đích tôn giáo. Cấm không cho phép buôn bán vào mục đích thương mại, loại trừ: mua sử dụng vào các gánh xiếc hoặc có nguồn gốc từ gây nuôi và phải

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

TRANG [57]

● Nhóm I: (Phụ lục I của Công ước CITES) bao gồm những giống loài có nguy cơ bị tuyệt chủng, bảo vệ rất nghiêm ngặt, do đó cấm buôn bán và trao đổi có tính chất thương mại giữa các nước trên thế giới. Việc trao đổi các loài chỉ được phép cho các mục đích không mang tính thương mại và được quản lý thông qua hệ thống giấy phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu cho mục đích phi thương mại.


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

chứng minh được là gây nuôi, hoặc các quốc gia thành viên CITES đồng ý như Nam Phi được bán 1 triệu tấn sừng voi tê giác, song còn thể hiện ở trình tự thủ tục: có giấy phép nhập khẩu có giấy phép quốc gia xuất khẩu có giấy phép của CITES. ● Nhóm II: (Phụ lục II của CITES) bao gồm các loài có thể trở thành những loài có nguy cơ bị tuyệt chủng do buôn bán quốc tế quá mức, không được kiểm soát và điều chỉnh kịp thời. Các loài ghi trong phụ lục II này được phép buôn bán quốc tế nhưng phải được quản lý, kiểm soát của các nước thành viên thông qua hệ thống cấp giấy phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu. ● Nhóm III: (Phụ lục III của CITES) bao gồm những giống loài hoang dã nằm trong danh mục theo quy định pháp luật của quốc gia thành viên nhưng không được đưa vào phụ lục I và II của Công ước. (Ví dụ Nghị định 32 về TV, ĐV rừng quý hiếm của Việt Nam nhưng không được đưa vào danh mục II và II của CITES Việt Nam phải đăng ký với CITES để đưa vào danh mục nhóm III). Điều kiện mua bán dễ dàng hơn. 3.4. Luật quốc tế về di sản Di sản phi vật thể: không nghiên cứu ở phần môi trường vì không là yếu tố cấu thành môi trường. Công ước về bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới được Tổ chức Giáo dục Văn hóa Khoa học của Liên Hiệp Quốc thông qua năm 1972. Việt Nam tham gia Công ước năm 1987. ● Khái niệm di sản thế giới Di sản thế giới vật thể theo công ước Heritage: theo quy định của Công ước Heritage chia di sản vật thể thế giới thành 2 loại: Di sản tự nhiên thế giới: những công trình do tự nhiên tạo ra; Di sản văn hóa thế giới: những công trình do con người tạo ra hoặc do con người kết hợp với tự nhiên tạo ra. TRANG [58]

Tiêu chuẩn để đưa một tài sản vào danh sách di sản thế giới: Một tài sản để được đưa vào danh sách DSTG phải đáp ứng một trong các tiêu chuẩn được quy định trong Công ước (của UBDSTG gồm 24 quốc gia được thành lập theo Công ước Heritage). ● Trình tự thủ tục để đưa một tài sản vào danh sách di sản thế giới

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

Bước 1: Quốc gia có tài sản (có dấu hiệu của một DSTG) lập hồ sơ đề cử. Hồ sơ gồm có: tài liệu chứng minh giá trị tài sản theo tiêu chuẩn xác định; cam kết về vấn đề bảo vệ di sản khi được công nhận. Bước 2: Quốc gia gửi hồ sơ đến UBDSTG (thường Ảnh minh họa là Ban thư ký) và thường UBDSTG sẽ kết hợp tổ chức cơ quan tư vấn (ICOMOS – cơ quan tư vấn về di sản văn hóa hoặc IUCN - cơ quan tư vấn về di sản thiên nhiên) thẩm định và đưa ra quyết định: - Đưa một tài sản đề cử vào danh sách DSTG và được gắn biểu tượng.Quyết định không đưa một tài sản đề cử vào danh sách DSTG (ví dụ Việt Nam khi đề cử vườn quốc gia Cúc Phương nhưng không đủ tài liệu để chứng minh và bị loại không đưa vào danh sách). - Quyết định tiếp tục xem xét một tài sản đề cử: xem xét hồ sơ ở những lần xem xét sau. (Ví dụ: Việt Nam có vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, khi gửi hồ sơ để được xem xét là di sản thế giới thì việc xây dựng đường Hồ Chí Minh đi qua khu Vườn đã gây ra giảm diện tích tự nhiên của rừng cũng như giảm tính đa dạng sinh học. Mặc dù Việt Nam có đưa ra các phương án khác nhau để khắc phục nhưng không được công nhận. Sau đó, Việt Nam tiếp tục chứng minh nghĩa vụ bảo vệ đa dạng sinh học và yêu cầu xem xét và được công nhận. ● Nghĩa vụ bảo vệ di sản thế giới

Tại Việt Nam, quần thể di tích kiến trúc Huế được ghi vào Danh mục di sản văn hóa thế giới, bốn di sản được ghi vào danh mục di sản văn hóa và

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

TRANG [59]

Nghĩa vụ thuộc quốc gia có tài sản đó, nhưng khi vượt quá khả năng bảo vệ hoặc những lý do khác thì cộng đồng quốc tế sẽ can thiệp, hỗ trợ để bảo vệ.


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

thiên nhiên thế giới là Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh), Khu phố cổ Hội An (Quảng Nam), Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình) và khu di tích Chăm tại Mỹ Sơn. Trong Danh sách dự kiến của UNESCO, nước ta còn các di sản như: Hồ Ba Bể (Bắc Kạn) đăng ký di sản thiên nhiên, Hương Sơn (Hà Tây), quần thể thắng cảnh và di tích lịch sử, đăng ký cả giá trị văn hóa và thiên nhiên, Khu bãi đá cổ chạm khắc tại SaPa (Lào Cai) đăng ký cả giá trị văn hóa và thiên nhiên. Bốn khu di sản thiên nhiên của khối Asean là Ba Bể (Bắc Cạn), vườn quốc gia Hoàng Liên Sơn (Lào Cai), Chư Mom Rây (Kon Tum) và Kon Ka Kinh (Gia Lai). 3.5. Luật quốc tế về kiểm soát hoạt động hạt nhân và các chất nguy hại a) Luật quốc tế về kiểm soát hoạt động hạt nhân: Kiểm soát việc sử dụng năng lượng hạt nhân vào mục đích quân sự. Kiểm soát việc sử dụng năng lượng hạt nhân vào mục đích hoà bình. b) Luật quốc tế về kiểm soát các phế thải độc hại và các chất độc hại khác Kiểm soát việc vận chuyển các phế thải độc hại và các chất độc hại khác qua biên giới

TRANG [60]

Để đạt được mục đích kiểm soát chặt chẽ quá trình xuất nhập khẩu cũng như việc tiêu hủy các chất thải phù hợp với môi trường, các quốc gia đã thông qua Công ước kiểm soát chất thải nguy hiểm xuyên biên giới và việc tiêu hủy chúng tại Basel, Thụy Sĩ ngày 23/3/1989. Ngày 10/6/1995, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Công ước Basel. Các chất thải được kiểm soát bởi Công ước Basel là “các chất hoặc đồ vật mà người ta tiêu hủy hoặc phải tiêu hủy chiểu theo các điều khoản của luật lệ quốc gia. Các quốc gia có thể định nghĩa các phế thải nguy hiểm (hoặc liệt kê) và thông báo cho Ban thư ký của Công ước”.

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

* Mục tiêu của Công ước: Bảo vệ sức khỏe của con người và môi trường trước tác động có hại từ việc sản sinh và quản lý không hợp lý về mặt môi trường các chất thải nguy hại và các chất thải khác bằng một hệ thống kiểm soát nghiêm ngặt quá trình vận chuyển và tiêu hủy các chất đó. * Nội dung cơ bản: ● Kiểm soát chặt chẽ việc vận chuyển xuyên biên giới các chất thải nguy hại và các chất thải khác. - Các quốc gia áp dụng mọi biện pháp cần thiết để bảo đảm hợp lý về mặt môi trường, kể cả việc vận chuyển và xử lý các chất thải nguy hại và các chất thải khác ngay tại quốc gia sản sinh ra chất thải. - Chỉ được vận chuyển chất thải xuyên biên giới khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền của quốc gia nhận chất thải xác nhận cho phép nhập khẩu và quốc gia nhận chất thải có đầy đủ phương tiện, trang thiết bị và công nghệ để bảo đảm xử lý các chất thải phù hợp với môi trường. ● Kiểm soát các chất hữu cơ nguy hại

KẾT LUẬN

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

TRANG [61]

Bảo vệ môi trường là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm bảo đảm phát triển bền vững, thể hiện nỗ lực của Việt Nam trong việc thực hiện các cam kết quốc tế nhằm bảo vệ ngôi nhà trái đất chung của nhân loại. Một số quan điểm, chủ trương, chính sách mới, quan trọng của Đảng đối với công tác bảo vệ môi trường mới được ban hành, thể hiện tại Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, đặc biệt là Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2013 Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đòi hỏi pháp luật bảo vệ môi trường phải sớm được cập nhật, sửa đổi, bổ sung. Mặt khác, hiện nay Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức về môi trường, nhiều vấn đề mới nảy sinh như tác động của biến đổi khí hậu,


BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

an ninh môi trường, an ninh sinh thái đòi hỏi pháp luật về bảo vệ môi trường phải được cập nhật, bổ sung với các giải pháp đồng bộ, đủ mạnh, có tính đột phá. Những đòi hỏi nói trên đòi hỏi sự nỗ lực trước hết từ cơ quan dân cử và đại biểu dân cử với vai trò hàng đầu. Trên cương vị người đại diện cho lợi ích của cử tri, đại biểu dân cử có cơ hội lắng nghe tiếng nói của người dân về các vấn đề môi trường, thách thức, giải pháp bảo vệ môi trường từ góc độ người dân. Là cơ quan lập pháp, nhà lập pháp, đại biểu dân cử xem xét, ban hành chính sách, pháp luật để giải quyết các thách thức nói trên. Là cơ quan giám sát, người giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, cơ quan dân cử, đại biểu dân cử có điều kiện và trách nhiệm giám sát các cơ quan nhà nước khác thực hiện các chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường. Hy vọng, với những kiến thức, kỹ năng cơ bản liên quan đến xây dựng, hoàn thiện chính sách về bảo vệ môi trường, tập san này sẽ góp phần hỗ trợ đại biểu dân cử thực hiện vai trò trọng đại của mình, làm cho môi trường của Việt Nam an toàn, trong lành hơn, bảo đảm cho mỗi người ở Việt Nam quyền được sống trong môi trường lành mạnh đó.

TRANG [62] TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ



BAN CÔNG TÁC ĐẠI BIỂU TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ

VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤC VỤ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.