Tập san kỹ năng xây dựng và hoàn thiện chính sách giảm nghèo

Page 1

BAN CÔNG TÁC ĐƤI BIỂU TRUNG TÂM BỒI DƢỠNG ĐƤI BIỂU DÂN CỬ

B

TẬP SAN

ỒI DƯỠNG

SỐ 02/THÁNG 4/2014

KỸ NĂNG XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH GIÂM NGHÈO

TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤC VỤ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG DÀNH CHO ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


BIÊN TẬP Trung tâm bồi dƣỡng đại biểu dân cử

TRỤ SỞ 22 HÙNG VƢƠNG BA ĐÌNH - HÀ NỘI ĐT: 080-44352 FAX :080-46003 Website:www.ttbd.gov.vn Email:tbbd@qh.gov.vn

2


MỤC LỤC TRANG

Mục lục ........................................................................................................ 3 Mở đầu ........................................................................................................ 4 Chương I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ GIẢM NGHÈO .............................8 a. Quan niệm về đói nghèo ............................................................................. 9 b. Khái niệm về chính sách giảm nghèo ......................................................... 12 c. Quan điểm chỉ đạo ...................................................................................... 13 d. Sự ra đời của chính sách xóa đói, giảm nghèo........................................... 15

Chương II. CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO ....................................................20 a. Sự cần thiết của chính sách giảm nghèo ................................................... 21 b. Vai trò của nhà nước trong chính sách giảm nghèo .................................. 22 c. Kỹ năng xây dựng chính sách giảm nghèo ................................................ 25

Chương III. ĐÁNH GIÁ, HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO ........28 a. Thực trạng chính sách giảm nghèo ............................................................ 29 b. Mục đích đánh giá chính sách giảm nghèo ................................................ 36 c. Cơ sở hoàn thiện chính sách giảm nghèo ................................................... 38 d. Kỹ năng hoàn thiện chính sách giảm nghèo .............................................. 40

Chương IV. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ GIẢI QUYẾT ĐÓI NGHÈO ......... 42 a. Tạo cơ hội cho người nghèo ........................................................................43 b. Cải thiện khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ...............................45 c. Quản lý rủi ro, hạn chế nguy cơ bị tổn thương ...........................................47 d. Tăng cường năng lực cho người nghèo.......................................................49

Chương V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM ................................ 52 a. Bài học về tạo cơ hội cho người nghèo ............................................. 53 b. Bài học về cải thiện khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản . 54 c. Bài học về quản lý rủi ro và giảm nguy cơ bị tổn thương ............... 56 d. Bài học về tăng cường năng lực cho người nghèo .......................... 56

Kết luận ............................................................................................................ 58 Tài liệu tham khảo ........................................................................................ 59

3


Mở đầu Giảm nghèo luôn là lĩnh vực chính sách được quan tâm hàng đầu ở Việt Nam trong vài thập niên vừa qua, nhất là từ khi bắt đầu đổi mới. Thậm chí, trong bối cảnh kinh tế gặp nhiều khó khăn, Quốc hội, Chính phủ chỉ đạo tạm dừng hoặc cắt giảm một số chương trình, dự án, nhưng riêng chương trình giảm nghèo vẫn duy trì, thậm chí còn bố trí tăng so với năm trước. Năm 2013, một số chính sách mới như chính sách hỗ trợ y tế cho hộ cận nghèo, chính sách ưu đãi tín dụng với hộ nghèo vẫn được ban hành triển khai. Công cuộc giảm nghèo của Việt Nam trong thời gian vừa qua đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ, được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Chẳng hạn, về tốc độ giảm nghèo, có thể tùy cách đánh giá do cách thu thập dữ liệu khác nhau, nhưng dù đo bằng cách nào, tất cả đều thống nhất đánh giá, tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam đều giảm theo từng năm. Thành tựu giảm nghèo của Việt Nam đã tác động trực tiếp tới sự ổn định xã hội, tốc độ tăng trưởng kinh tế và hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Tuy nhiên, trong thực tế, kết quả giảm nghèo chưa vững chắc, chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư chưa được thu hẹp, nhất là khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Mặc dù tỷ lệ nghèo đã giảm nhanh ở các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc, nhưng nhiều nơi tỷ lệ nghèo vẫn còn trên 50%, cá biệt còn trên 60-70%. Tỷ lệ hộ tái nghèo, phát sinh nghèo hàng năm còn cao. Các chính sách giảm nghèo còn chồng chéo, tản mát, dẫn đến nguồn lực bị phân tán, hiệu quả tác động đến đối tượng thụ hưởng chưa cao, chưa rõ nét, chậm hướng dẫn và sửa đổi một số chính sách; vẫn chưa khai thác, huy động được nhiều nguồn lực tại chỗ, chưa phát huy được nội lực trong dân và chính người nghèo, ở các doanh nghiệp. Việc phân bổ nguồn lực, thực hiện chính sách đối với di dân đô thị, công tác tái định cư do xây dựng một số công trình trọng điểm quốc gia… cũng còn những hạn chế. 4


Như vậy, để hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội bền vững, các cơ quan hoạch định và thực thi chính sách cần phải có sự phân tích, đánh giá về mặt chính sách, cũng như quá trình triển khai thực hiện Chương trình giảm nghèo trong thời gian qua. Từ đó, với tư cách là cơ quan đại diện, bảo vệ lợi ích của cử tri, Quốc hội và HĐND các cấp đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong việc giám sát thực hiện chính sách giảm nghèo sau khi được ban hành. Với { nghĩa đó, giảm nghèo bền vững đã được lựa chọn đưa vào kế hoạch hoạt động của Quốc hội năm 2013-2014, theo đó sau khi UBTVQH đã tiến hành giám sát chuyên đề, Quốc hội sẽ xem xét, thảo luận về Báo cáo giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về giảm nghèo giai đoạn 2005-2012 tại kz họp thứ 7 vào tháng 5/2014. Nhằm cung cấp cho ĐBQH thông tin tham khảo, hỗ trợ đại biểu xem xét, thảo luận báo cáo giám sát nói trên và phục vụ các hội nghị liên quan đến giám sát việc thực hiện chính sách giảm nghèo, Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân cử biên soạn tập san “Kỹ năng xây dựng và hoàn thiện chính sách giảm nghèo”. Tập san có các nội dung lớn như sau Phần 1 “Những vấn đề cơ bản về giảm nghèo” giới thiệu một số khái niệm như đói, nghèo, giảm nghèo bền vững, khái niệm chính sách giảm nghèo, quan điểm chỉ đạo về giảm nghèo bền vững… Phần 2 “Chính sách giảm nghèo” trình bày sự cần thiết của chính sách giảm nghèo, tóm tắt quá trình ra đời các chính sách giảm nghèo, vai trò của nhà nước, kỹ năng xây dựng chính sách giảm nghèo gồm có xác định mục tiêu, nguyên tắc chỉ đạo thực hiện, phạm vi và đối tượng, nhiệm vụ, thời gian thực hiện, nguồn vốn, cơ quan quản l{ và thực hiện. Phần 3 “Đánh giá chính sách giảm nghèo” phân tích thực trạng chính sách giảm nghèo ở Việt Nam thời gian qua, giải thích mục

5


đích, tiêu chí đánh giá chính sách, cơ sở hoàn thiện chính sách, và gợi { cách thức tiếp cận tổng quát trong việc hoàn thiện chính sách giảm nghèo. Phần 4 “Kinh nghiệm quốc tế về giảm nghèo” giới thiệu kinh nghiệm một số nước và những bài học cho Việt Nam trong việc giải quyết vấn đề đói nghèo trên các phương diện như: tạo điều kiện phát triển cho người nghèo; khả năng tiếp cận của người nghèo đối với các dịch vụ cơ bản; giảm thiểu rủi ro; tăng cường năng lực cho người nghèo. Hy vọng các thông tin của tài liệu này sẽ góp phần hỗ trợ đại biểu dân cử thực hiện vai trò của mình trong việc xây dựng chính sách, pháp luật về giảm nghèo bền vững và giám sát trong lĩnh vực này một cách có hiệu quả. Mong nhận được phản hồi của các đại biểu để tiếp tục hoàn thiện tài liệu này tốt hơn

6


7


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ GIẢM NGHÈO

Chƣơng I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ GIẢM NGHÈO

Nội dung phần này: a. Quan niệm về đói nghèo b. Khái niệm về chính sách giảm nghèo c. Quan điểm chỉ đạo d. Sự ra đời của chính sách xóa đói, giảm nghèo

8


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ GIẢM NGHÈO

a. Quan niệm về đói nghèo Đói nghèo là một hiện tượng kinh tế xã hội xảy ra phổ biến ở mọi xã hội, quốc gia, dân tộc và không chỉ tồn tại ở các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển mà còn tồn tại ngay tại các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện tự nhiên, thể chế chính trị xã hội và điều kiện kinh tế của mỗi quốc gia mà tính chất, mức độ nghèo đói của các quốc gia sẽ khác nhau. Nhìn chung mỗi quốc gia đều sử dụng một khái niệm để xác định mức độ nghèo và đưa ra các chỉ số nghèo nhằm xác định giới hạn nghèo. Giới hạn nghèo của các quốc gia được xác định bằng mức thu nhập tối thiểu để người dân có thể tồn tại được, đó là mức thu nhập bình quân một hộ gia đình có thể mua sắm được những vật dụng cơ bản phục vụ cho việc ăn, mặc, ở và các nhu cầu thiết yếu khác theo mức giá hiện hành.

(Ảnh minh họa, nguồn www.undp.org)

Việt Nam thừa nhận định nghĩa chung về đói nghèo do Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á – Thái Bình dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc, Thái Lan tháng 9/1993: Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này được xã hội thừa nhận theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của địa phương. Ngày nay, các tổ chức Quốc tế cũng như Liên hiệp Quốc đều đã mở rộng khái niệm đói nghèo để bao hàm cả những khía cạnh về năng lực. Theo đó, đói nghèo gồm những khía cạnh cơ bản như sau: Thứ nhất là sự thiếu thốn về vật chất, được đo lường theo một tiêu chí thích hợp về thu nhập hoặc tiêu dùng hay nói cách khác đó là sự nghèo đói theo thu nhập. Thứ hai là sự thiếu thốn về giáo dục và y tế đi kèm với sự thiếu thốn về vật chất.

9


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ GIẢM NGHÈO

Thứ ba là nguy cơ dễ bị tổn thương và dễ gặp rủi ro, tức là khả năng một hộ gia đình hay cá nhân bị rơi vào cảnh nghèo đói do bị hạn chế về thu nhập hoặc do ảnh hưởng về sức khoẻ. Cuối cùng là người nghèo không có khả năng tiếp cận với các công cụ bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Với việc phát hiện đói nghèo được đánh giá từ nhiều khía cạnh khác nhau, các khía cạnh đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau từ đó sẽ giúp chúng ta nhận thấy rằng, để giải quyết vấn đề đói nghèo cần có một hệ thống các chính sách hoàn chỉnh và đồng bộ. Việc chỉ ra bản chất đói nghèo sẽ là cơ sở cho các quốc gia xây dựng một chiến lược hành động phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội và thể chế chính trị của từng quốc gia. Đặc biệt hệ thống giải pháp được xây dựng trên cơ sở phân tích bản chất đói nghèo sẽ tác động một cách hiệu quả đa chiều đến vấn đề giải quyết đói nghèo. Quan niệm của Việt Nam Cũng như các quốc gia trên thế giới, Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng của công tác giảm nghèo. Chính vì vậy, thời gian qua Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong hoạt động này cả về mặt lý luận và thực tiễn. Trong đó, việc thống nhất quan niệm đói nghèo của Việt Nam cũng được xác định là một vấn đề cần được quan tâm. Quan niệm về đói nghèo ở Việt Nam khá phong phú. Nó được thay đổi và ngày một gần với quan niệm đói nghèo của thế giới. Do đặc thù về điều kiện lịch sử và kinh tế xã hội nên Việt Nam đã chia thành hai khái niệm đói và nghèo.

Khái niệm về đói Căn cứ xác định đói hay nghèo là những nhu cầu cơ bản con người không được hưởng và thoả mãn. Nhu cầu cơ bản ở đây chính là cái thiết yếu, tối thiểu để duy trì sự tồn tại của con người như ăn, mặc, ở. Theo đó, sự đói nghèo tuyệt đối, sự thiếu thốn được biểu hiện là tình trạng con người không có ăn, ăn không đủ lượng dinh dưỡng tối thiểu, sự đứt đoạn trong nhu cầu ăn. Nói một cách khác, đói là một khái niệm biểu đạt tình trạng con người ăn không đủ no, không đủ năng lượng tối thiểu cần thiết để duy trì sự sống hàng ngày và không đủ sức để lao động, để tái sản xuất sức lao động. Tình trạng đói, thiếu đói ở các hộ gia đình nông dân hoặc một bộ phận dân cư phải sống dưới mức tối thiểu như đã nói trên thể hiện ở các bữa ăn trong ngày của họ. Có mấy biểu hiện: Thất thường về lượng: bữa đói, bữa no; Đứt bữa: Ngày chỉ ăn một bữa hoặc bữa cơm, bữa cháo hoặc cả hai bữa đều không đủ năng lượng tối thiểu chứ chưa nói tới chất dinh dưỡng cần thiết; Đứt bữa kéo dài tới 1-2-3 tháng trong năm, nhất là thời kỳ giáp hạt. Hoặc nếu đo lượng calo thì thiếu đói (thiếu ăn) là tình trạng con người ăn chỉ ở mức 1500 calo/ngày, dưới mức đó là đói gay gắt.

10


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ GIẢM NGHÈO

Khái niệm nghèo Về mặt kinh tế, nghèo đồng nghĩa với nghèo khổ, nghèo túng, túng thiếu. Trong hoàn cảnh nghèo, người nghèo và hộ nghèo phải vật lộn với những mưu sinh hàng ngày về kinh tế - vật chất, biểu hiện trực tiếp nhất ở bữa ăn. Cuộc sống của họ cần các nhu cầu về giáo dục, văn hoá - tinh thần nhưng những nhu cầu này phải cắt giảm tới mức tối thiểu nhất, gần như không có. Điều này đặc biệt rõ ở nông thôn với hiện tượng trẻ em thất học, bỏ học, các hộ nông dân nghèo không có khả năng để hưởng thụ văn hoá, chữa bệnh khi ốm đau, không đủ hoặc không thể mua sắm thêm quần áo cho nhu cầu mặc ấm, sửa chữa nhà cửa cho nhu cầu ở… Nghèo là khái niệm chỉ tình trạng thu nhập thực tế của người dân dành toàn bộ chi phí cho nhu cầu ăn, thậm chí không đủ chi cho nhu cầu ăn, phân tích là như không có. Các nhu cầu tối thiểu khác ngoài nhu cầu ăn như ở, mặc, y tế, giáo dục, đi lại, giao tiếp chỉ đáp ứng một phần rất ít ỏi không đáng kể. Theo quan niệm của Liên hợp quốc, nghèo được phân thành hai loại: nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Nghèo tuyệt đối là tình trạng mức thu nhập thấp, không đủ để thỏa mãn đầy đủ những nhu cầu sinh hoạt tối thiểu thuộc về bản thân con người. Còn nghèo tương đối là khái niệm chỉ cái nghèo được so sánh theo một tiêu thức nhất định trong một cộng đồng dân cư xác định. Đó là kết quả so sánh mức thu nhập giữa các nhóm dân cư trong một cộng đồng (vùng, ngành, quốc gia, khu vực…) Như vậy, cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế và cải tiến phương pháp phân phối thu nhập sẽ góp phần xóa bỏ tình trạng nghèo tuyệt đối, song nghèo tương đối sẽ còn tồn tại lâu dài. Nghèo tương đối là khái niệm luôn tồn tại trong mối tương quan về phân phối thu nhập. Nghèo tương đối là hệ quả tất yếu của nền kinh tế thị trường và một trong những động lực thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường. Quan niệm về nghèo đói rất đa dạng, chưa có một khái niệm chung, do đó chưa thể xác định một chuẩn mực chung để xác định nghèo đói (1). Vậy mỗi quốc gia để có chính sách xóa đói giảm nghèo phù hợp và có hiệu quả phải xây dựng được chuẩn nghèo đói phù hợp, cũng như cần phải đưa ra khái niệm giới hạn nghèo đói hay ngưỡng nghèo đói. Ngày nay, quan niệm về đói nghèo không chỉ đơn thuần xác định bằng nguồn thu nhập vật chất mà còn dựa vào các giá trị đạo đức, văn hóa tinh thần và tính nhân văn. Xuất phát từ nhu cầu, mục tiêu thực tế của công cuộc xóa đói giảm nghèo, quan niệm về nghèo đói khá đa dạng, bao quát rất nhiều tiêu chí, trong đó tiêu chí thu nhập về kinh tế được xem là tiêu chí (1)Xem thêm quy định về chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo trong bảng “Tiêu chí xác định hộ nghèo trong từng giai đoạn” trang 15

11


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ GIẢM NGHÈO

quan trọng nhất.

Nghèo có nhu cầu tối thiểu: Đây là tình trạng một bộ phận dân cư có

những đảm bảo tối thiểu để duy trì cuộc sống như đủ ăn, đủ mặc, đủ ở và một số sinh hoạt hàng ngày nhưng ở mức tối thiểu.

Khái niệm về hộ nghèo: Hộ nghèo là tình trạng của một số hộ gia đình chỉ thoả mãn một phần nhu cầu tối thiểu của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện. Nghèo theo đơn vị hành chính Trong điều kiện nguồn lực hạn chế nên đòi hỏi phải tập trung ưu tiên giải quyết đói nghèo cho một số địa phương có điều kiện khó khăn nhất . Bên cạnh đó, dựa trên cơ sở quan niệm về đói và nghèo Việt Nam còn có khái niệm về xã nghèo, huyện nghèo và vùng nghèo.

Xã nghèo là xã có những đặc trưng như sau: - Tỷ lệ hộ nghèo cao hơn 40% số hộ của xã. - Không có hoặc thiếu rất nhiều những công trình cơ sở hạ tầng như: Điện sinh hoạt, đường giao thông, trường học, trạm y tế và nước sinh hoạt. - Trình độ dân trí thấp, tỷ lệ người mù chữ cao.

Khái niệm về vùng nghèo: Vùng nghèo là chỉ địa bàn tương đối rộng có

thể là một số xã liền kề nhau hoặc một vùng dân cư nằm ở vị trí rất khó khăn hiểm trở, giao thông không thuận tiện, cơ sở hạ tầng thiếu thốn, không có điều kiện phát triển sản xuất đảm bảo cuộc sống và là vùng có số hộ nghèo và xã nghèo cao.

b. Khái niệm về chính sách giảm nghèo Trước khi đưa ra khái niệm về chính sách giảm nghèo, ta cần thống nhất cách hiểu về chính sách nói chung. Có nhiều khái niệm khác nhau về chính sách, tuy nhiên theo Từ điển tiếng Việt(2) “chính sách” được hiểu là “sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra chính sách…” Theo chúng tôi, chính sách cần được hiểu ở những góc nhìn nhất định: xem xét nó một cách độc lập hay trong mối quan hệ với các phạm trù khác. Nếu nhìn nhận chính sách như một hiện tượng tĩnh và tương đối độc lập thì chính sách được hiểu là những tư tưởng, những định hướng, những mong muốn cần hướng tới, cần đạt được. Chiến lược hay kế hoạch, thậm chí pháp luật chỉ là hình thức, phương tiện để chuyển tải, thể hiện chính sách, bởi chính sách có những đặc điểm sau: - Chính sách là những tư tưởng, định hướng, những mong muốn chính trị (2)“Từ điển tiếng Việt” do Nhà xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học ấn hành năm 1997, Hoàng Phê chủ biên, trang 157.

12


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ GIẢM NGHÈO

được thể hiện trong các nghị quyết, các văn kiện của Đảng. - Chính sách (khi chưa được luật pháp hóa) chỉ là những cái đích mà người ta cần hướng tới, chưa phải là những quy tắc xử sự có tính rằng buộc chung hay tính bắt buộc phải thực hiện. - Chính sách là nội dung, pháp luật là hình thức nên chính sách có vai trò chi phối, quyết định đối với pháp luật. Khi tư tưởng chính sách thay đổi thì pháp luật phải thay đổi theo. Ngược lại, pháp luật lại là công cụ thực tiễn hóa chính sách. Chính sách muốn đi vào cuộc sống một cách thực sự hiệu quả thì phải đựợc luật pháp hoá, nếu không được thể chế hóa thành pháp luật thì rất có thể chính sách sẽ chỉ là một thứ “bánh vẽ” khó có thể đi vào và phát huy hiệu quả trong cuộc sống. Dựa trên cơ sở về chính sách và các đặc điểm trên có thể đưa ra cách hiểu về chính sách giảm nghèo đó là những quyết định, qui định của Đảng

và Nhà nước được cụ thể hoá trong các chương trình, dự án cùng với nguồn lực, vật lực, các thể thức, quy trình hay cơ chế thực hiện nhằm tác động vào các đối tượng cụ thể như người nghèo, hộ nghèo hay xã nghèo với mục đích cuối cùng là giảm nghèo.

c. Quan điểm chỉ đạo Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về giảm nghèo, nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người nghèo góp phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư, đảm bảo đời sống cho một nhóm người trong xã hội đạt đến mức tối thiểu cần thiết về mặt phúc lợi xã hội theo tiêu chuẩn mức sống chung của xã hội. Đảng và Nhà nước ta luôn xác định công tác xóa đói giảm nghèo là một trong những vấn đề cấp bách, nhất là đối với vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi. Đây là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, bởi xóa đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng xã hội và tăng trưởng bền vững và ngược lại chỉ có tăng trưởng kinh tế bền vững mới có sức mạnh vật chất để hỗ (Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tặng quà đồng bào trợ và tạo cơ hội cho người nghèo nghèo huyện Sa Thầy, Kon Tum) vươn lên thoát khỏi đói nghèo. Do đó, xóa đói giảm nghèo là một bộ phận cấu thành của chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời gian qua.

13


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ GIẢM NGHÈO

Xóa đói giảm nghèo là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước và là sự nghiệp của toàn dân. Phải huy động nguồn lực của Nhà nước, của xã hội và của người dân để khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của từng địa phương, nhất là sản xuất lâm nghiệp, nông nghiệp để xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Cùng với sự đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng xã hội, sự nỗ lực phấn đấu vươn lên thoát nghèo của người nghèo, hộ nghèo là nhân tố quyết định thành công của công cuộc xóa đói giảm nghèo. Công cuộc giảm nghèo nhanh, bền vững đối với các huyện nghèo là nhiệm vụ chính trị trọng tâm hàng đầu, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo sâu sát, cụ thể và đồng bộ của các cấp chính quyền, sự phối hợp tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; đồng thời, phải phát huy vai trò làm chủ của người dân từ khâu xây dựng kế hoạch, đến tổ chức thực hiện, giám sát, đánh giá hiệu quả của Chương trình giảm nghèo. Cùng với việc tiếp tục thực hiện các chính sách giảm nghèo chung trong cả nước, Trung ương tập trung huy động các nguồn lực để đầu tư, hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo trong Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008. Căn cứ vào tinh thần của Nghị quyết này, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chọn thêm một số huyện nghèo khác trên địa bàn, nhất là các huyện có đồng bào dân tộc thiểu số sống tập trung để huy động nguồn lực của địa phương đầu tư hỗ trợ các huyện này giảm nghèo nhanh và phát triển bền vững. Tiêu chí xác định hộ nghèo được điều chỉnh qua từng giai đoạn cho phù hợp với thực tế phát triển kinh tế xã hội, nhưng đều hướng đến mục tiêu đảm bảo điều kiện sống tối thiểu của người dân. Dưới sự định hướng của Đảng, các chính sách của Nhà nước dần thể hiện quan niệm về đói nghèo ở Việt Nam ngày càng phản ánh đúng bản chất của nó. Nếu như nhu cầu hỗ trợ của người nghèo vào những năm 90 của thế kỷ 20 chỉ giới hạn đến nhu cầu “ăn no, mặc ấm”, thì trong giai đoạn này, người nghèo còn có nhu cầu được hỗ trợ về nhà ở, giáo dục, y tế, văn hoá…. Tiếp đến là nhu cầu được trợ giúp để hạn chế rủi ro, quan trọng hơn cả là được quyền tham gia nhiều hơn và có hiệu quả vào các hoạt động của xã (Hỗ trợ nhà ở cho người nghèo hội. theo chương trình 167)

14


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ GIẢM NGHÈO

TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH HỘ NGHÈO TRONG TỪNG GIAI ĐOẠN Giai đoạn 2001-2005: theo Quyết định số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH ngày 01/11/2000 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về việc điều chỉnh chuẩn hộ nghèo giai đoạn 2001-2005, những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người dưới mức quy định dưới đây được xác định là hộ nghèo. + Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000 đồng/tháng, 960.000 đồng/năm; + Vùng nông thôn đồng bằng: 100.000 đồng/tháng, 1.200.000 đồng/năm; + Vùng thành thị: 150.000 đồng/tháng, 1.800.000 đồng/năm.

Giai đoạn 2006-2010: theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày 08/7/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010, những hộ gia đình ở nông thôn có mức thu nhập bình quân dưới 200.000 đồng/người/tháng (2,4 triệu đồng/người/năm) và ở khu vực thành thị, những hộ có mức thu nhập bình quân dưới 260.000 đồng/người/tháng (dưới 3,12 triệu đồng/người/năm) được coi là hộ nghèo. Giai đoạn 2011-2015: theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011-2015. Theo đó, hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000 đồng/người/tháng (4,8 triệu đồng/người/năm) trở xuống. Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000 đồng/ người/tháng (6 triệu đồng/người/năm) trở xuống. Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 401.000 520.000 đồng/người/tháng. Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000 - 650.000 đồng/người/tháng. Trong các giai đoạn, giá trị chuẩn nghèo được giữ ổn định, không điều chỉnh theo chỉ số trượt giá để làm cơ sở thực hiện và đánh giá việc thực hiện các chính sách giảm nghèo.

d. Sự ra đời của chính sách xóa đói, giảm nghèo Trước năm 1991 trong hệ thống các chính sách xã hội của Việt Nam chưa đề cập đến chính sách giảm nghèo. Khi nền kinh tế của Việt Nam xóa bỏ cơ chế bao cấp và chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường thì sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ. Tại Đại hội Đại biểu toàn Quốc lần thứ VII của Đảng mới nêu lên chủ trương “khuyến khích làm giàu đi đôi với giảm số

15


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ GIẢM NGHÈO

người nghèo, nâng cao phúc lợi xã hội phù hợp với trình độ phát triển kinh tế” nhằm rút ngắn khoảng cách giàu nghèo và đảm bảo đời sống ổn định cho đại bộ phận người dân. Tuy nhiên đó mới chỉ là tư tưởng định hướng cho việc hoạch định chính sách trong thời kỳ đổi mới chứ chưa được thể hiện bằng các chính sách cụ thể.

Năm 1992-1993 Nhà nước đã ban hành các chính sách liên quan đến xóa đói, giảm nghèo được thực hiện trên phạm vi cả nước và đặt trong mối quan hệ mật thiết với Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội 1991 - 2000 trên cơ sở kết quả điều tra mức sống dân cư tại thời điểm đó. Năm 1995, tại Hội nghị Thượng đỉnh Copenhagen về phát triển xã hội, Nhà nước đã khẳng định xóa đói giảm nghèo là chính sách quốc gia quan trọng. Đến năm 1997- 1998 Chính phủ tiến hành điều tra mức sống dân cư lần thứ 2 làm cơ sở để xây dựng, ban hành chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo giai đoạn 1998-2000 theo quyết định 133/1998/QĐ-TTg ngày 23/07/1998. Tiếp đó Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 143/2001/QĐ-TTg ngày 27/09/2011 về triển khai chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001-2005 và giai đoạn 20052012 ra đời làm cơ sở nền tảng cho công cuộc xóa đói giảm nghèo trong giai đoạn hiện nay. Với chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, Chính phủ tiếp tục thực hiện các chính sách giai đoạn 2001-2005, nhưng có sửa đổi bổ sung cho phù hợp với tình hình mới. Trong đó các chính sách, dự án thuộc chương trình giảm nghèo giai đoạn 2006-2010 được Thủ tướng Chính phủ ban hành theo quyết định số 20/2007/QĐ-TTg ngày 05 tháng 02 năm 2007. Bên cạnh chương trình giảm nghèo quốc gia, Chương trình 135 tiếp tục được triển khai giai đoạn II trên cơ sở điều chỉnh Chương trình 135 giai đoạn I(3), với mục đích tiếp tục hỗ trợ cho các xã đặc biệt khó khăn. Tuy nhiên, sau một thời gian khá dài thực hiện các chính sách giảm nghèo, đặc biệt có chính sách riêng cho các đối tượng đặc biệt như dân tộc thiểu số nhưng tình trạng đói nghèo chưa được cải thiện đáng kể. Vì vậy, năm 2008, Nhà nước đã tập trung giải quyết những nơi nghèo nhất, đó chính là các huyện nghèo nhất trên cả nước thông qua chương trình “hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo”. Trong đó, tập trung vào chính sách hỗ trợ nhà ở cho người nghèo, hỗ trợ sản xuất, phát triển cơ sở hạ tầng và đào tạo dạy nghề. (3)“Quốc định số135/1998/Qđ-TTg ngày 31 tháng 7 năm 1998 của Thủ tƣớng Chính phủ (gọi tắt là Chƣơng trình 135) nhằm nâng cao nhanh đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào dân tộc ở các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa; tạo điều kiện để đƣa nông thôn các vùng này thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển, hòa nhập vào sự phát triển chung của đất nƣớc

16


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ GIẢM NGHÈO

Có thể nói hệ thống chính sách và dự án liên quan trực tiếp đến xóa đói giảm nghèo đã được xây dựng và hoàn thiện qua từng năm cho phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Mặc dù có nhiều chính sách nhưng nhìn chung đều được thiết kế nhằm vào các khía cạnh của nghèo là: tạo cơ hội để nâng cao thu nhập cải thiện đời sống người nghèo; tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội nhất là các dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục, y tế; hỗ trợ an sinh xã hội và tăng cường sự tham gia của người nghèo. Mỗi chính sách có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tác động vào một khía cạnh cụ thể nào đó của đói nghèo, trong đó có các chính sách áp dụng riêng cho nhóm đối tượng đặc biệt như dân tộc thiểu số.

17


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ GIẢM NGHÈO

Nội dung chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo trong các giai đoạn Nội dung của quyết định 133/1998/QDD-TTg Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo trong giai đoạn 1998 - 2000 bao gồm cả công tác định canh, định cư và hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn, nhằm tạo ra các điều kiện thuận lợi, phù hợp để hỗ trợ người nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo. Và đây được xác định là một chương trình tổng hợp có tính chất liên ngành, nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, với mục tiêu là: giảm tỷ lệ hộ đói nghèo trong tổng số hộ của cả nước xuống còn 10% vào năm 2000. Mục tiêu cụ thể: a) Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và sắp xếp lại dân cư, b) Định canh định cư, di dân và kinh tế mới, c) Hỗ trợ vùng đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn, d) Hướng dẫn cách làm ăn cho người nghèo. Nội dung của chương trình trong giai đoạn 2001-2005 chủ yếu tập trung vào Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước mang tính chất tổng hợp liên ngành nhằm tạo các điều kiện thuận lợi, phù hợp để hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập, tiếp cận các dịch vụ xã hội, xóa đói giảm nghèo; giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị và nâng cao tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn, chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế, bảo đảm việc làm cho người có nhu cầu làm việc, nâng cao chất lượngcuộc sống của nhân dân. Mục tiêu cụ thể: a) Xóa đói giảm nghèo: Giảm tỷ lệ hộ nghèo (theo tiêu chí mới) xuống dưới 10%, bình quân mỗi năm giảm 1,5 - 2% (khoảng 28 vạn đến 80 vạn hộ / năm); không để tái đói kinh niên; Các xã nghèo có đủ cơ sở hạ tầng thiết yếu (thủy lợi nhỏ, trường học, trạm y tế, đường dân sinh,điện, nước sinh hoạt, chợ). b) Giải quyết việc làm: Mỗi năm tạo việc làm cho 1,4 - 1,5 triệu lao động; Giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị xuống dưới 6%và nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn lên 80% vào năm 2005.

18


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ GIẢM NGHÈO

Nội dung chương trình giảm nghèo giai đoạn 2005-2010 là đẩy nhanh tốc độ giảm nghèo, hạn chế tái nghèo; củng cố thành quả giảm nghèo, tạo cơ hội cho hộ đã thoát nghèo vươn lên khá giả; cải thiện một bước điều kiện sống và sản xuất ở các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn; nâng cao chất lượng cuộc sống của nhóm hộ nghèo, hạn chế tốc độ gia tăng khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa nhóm hộ giàu và nhóm hộ nghèo. Mục tiêu cụ thể đến năm 2010: a) Phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 22% năm 2005 xuống còn 10 - 11% năm 2010 (trong 5 năm giảm 50% số hộ nghèo); b) Thu nhập của nhóm hộ nghèo tăng 1,45 lần so với năm 2005. c) Phấn đấu 50% số xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn. dân tộc đặc biệt khó khan.

19


CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO

Chƣơng II: CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO

Nội dung phần này: a. Sự cần thiết của chính sách giảm nghèo b. Vai trò của nhà nước trong chính sách giảm nghèo c. Kỹ năng xây dựng chính sách giảm nghèo

20


CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO

a. Sự cần thiết của chính sách giảm nghèo Xét tình hình thực tế, khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới thì sự phân hoà giàu nghèo diễn ra rất nhanh nếu không tích cực giảm nghèo và giải quyết tốt các vấn đề xã hội khác thì khó có thể đạt được mục tiêu xây dựng một cuộc sống ấm no về vật chất, tốt đẹp về tinh thần, vừa phát huy được truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu được yếu tố lành mạnh và tiến bộ của thời đại. Do đó trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 1996-2000 Nhà nước đã xây dựng được các chương trình mục tiêu quốc gia, trong đó có chương trình xoá đói giảm nghèo quốc gia. Xoá đói giảm nghèo không chỉ về vấn đề kinh tế đơn thuần mà còn là vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng, do đó phải có sự chỉ đạo thống nhất giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội. Xuất phát từ điều kiện thực tế nước ta hiện nay, giảm nghèo về kinh tế là điều kiện tiên quyết để xoá đói giảm nghèo về văn hoá, xã hội. Vì vậy, phải tiến hành thực hiện giảm nghèo cho các hộ nông dân sinh sống ở vùng cao, vùng sâu, hải đảo và những vùng căn cứ kháng chiến cách mạng cũ, nhằm phá vỡ thế sản xuất tự cung, tự cấp, độc canh, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế sản xuất nông nghiệp trên toàn quốc theo hướng sản xuất hàng hoá, phát triển công nghiệp nông thôn, mở rộng thị trường nông thôn, tạo việc làm tại chỗ, thu hút lao động ở nông thôn vào sản xuất tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ. Đây là con đường cơ bản để xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn phải được xem là một giải pháp hữu hiệu, tạo bước ngoặt cho phát triển ở nông thôn, nhằm xoá đói giảm nghèo ở nước ta hiện nay. Con đường để vượt qua đói nghèo là tiếp tục đổi mới nền kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa trên cơ sở nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Đây chính là sự thể hiện tư tưởng kinh tế của Chủ Tịch Hồ Chí Minh là "Giúp đỡ người vươn lên khá, ai khá vươn lên giàu, ai giàu thì vươn lên giàu thêm". Thực hiện thành công chương trình xoá đói giảm nghèo không chỉ đem lại ý nghĩa về mặt kinh tế là tạo thêm thu nhập chính đáng cho người nông dân ổn định cuộc sống lâu dài mà xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế nông thôn còn là cơ sở nền tảng để cho sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế bền vững, góp phần vào sự nghiệp đổi mới đất nước. Hơn thế nữa nó còn có ý nghĩa to lớn về mặt chính trị xã hội. Giảm nghèo nhằm nâng cao trình độ dân trí, chăm sóc tốt sức khoẻ nhân dân, giúp họ có thể tự mình vươn lên trong cuộc sống, sớm hoà nhập vào cộng đồng, xây dựng được các mối quan hệ xã hội lành mạnh, rút ngắn khoảng cách giữa người giàu với người nghèo, ổn định tinh thần, có niềm tin vào bản thân, từ đó có lòng tin vào đường lối và chủ trương của đảng và Nhà nước. Đồng thời hạn chế và xoá bỏ được các tệ nạn xã hội khác, bảo vệ môi trường sinh thái góp

21


CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO

phần cho phát triển bền vững. Có thể nói rằng không giải quyết thành công các nhiệm vụ và yêu cầu về giảm nghèo sẽ có thể dẫn tới một số hậu quả sau: - Không chủ động giải quyết được xu hướng gia tăng phân hoá giàu nghèo, có nguy cơ đẩy tới phân hoá giai cấp; có nguy cơ đe doạ tình hình ổn định chính trị và xã hội làm chệch hướng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của quá trình tiến lên Chủ nghĩa xã hội. - Không giải quyết thành công các chương trình xoá đói giảm nghèo sẽ không thể thực hiện được công bằng xã hội và sự lành mạnh xã hội nói chung, như vậy mục tiêu phát triển và phát triển bền vững sẽ không thể thực hiện được. - Không tập trung nỗ lực, khả năng và điều kiện để xoá đói giảm nghèo sẽ không thể tạo được tiền đề để khai thác và phát triển nguồn lực con người phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước nhằm đưa nước ta đạt tới trình độ phát triển tương đương với quốc tế và khu vực.

b. Vai trò của nhà nước trong chính sách giảm nghèo Vai trò của Nhà nước trong giải quyết vấn đề đói nghèo đã thay đổi theo từng giai đoạn cụ thể cho phù hợp với sự thay đổi chung của các nước và tình hình phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Vai trò của Nhà nước trong công cuộc xóa đói giảm nghèo thời kỳ trước năm 2000 được thể hiện bằng việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo nguồn lực để giảm nghèo. Cụ thể là: củng cố môi trường đầu tư, tạo mọi điều kiện để doanh nghiệp và dân cư đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh; hoàn thiện các công cụ và chính sách kinh tế, duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô; phát triển nguồn nhân lực và cải cách hành chính. Sau năm 2000 công cuộc giảm nghèo ở nước ta đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, tuy nhiên, đói nghèo vẫn tồn tại trên diện rộng và cả chiều sâu. Bởi vậy, Đảng và Nhà nước ta cần xây dựng một chiến lược hành động cụ thể hơn để chống lại đói nghèo. Trong giai đoạn này Chính phủ đã xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001-2005 mở ra: (1) những cơ hội tạo việc làm và nâng cao năng suất lao động để từ đó góp phần tăng thu nhập và giúp người nghèo vượt ra khỏi đói nghèo; (2) tiếp đến phải có các biện pháp để đảm bảo tăng trưởng và khả năng tiếp cận các dịch vụ một cách khách quan và công bằng, thông qua đó mọi công dân đều được hưởng những thành quả do sự phát triển mang lại; cuối cùng là cần đặc biệt chú ý giảm bớt nguy cơ bị rủi ro của người nghèo trước những bất trắc trong đời sống (ốm đau, mùa màng, mất lao động chính,v.v…). Để có thể hành động tốt đối với ba hướng trên, giải pháp do Chính phủ tập trung vào: phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn để giảm nghèo trên diện rộng; phát triển công nghiệp tạo việc làm và

22


CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO

(Nhờ chính sách giảm nghèo của Nhà nước, nhiều hộ gia đình nông thôn đã vươn lên thoát nghèo. Trong ảnh là một cặp bò của một hộ gia đình người Khơme ở huyện Trà ôn tỉnh Vĩnh Long đã mua được từ nguồn vốn của Chương trình xóa đói giảm nghèo)

nâng cao mức sống cho người nghèo; phát triển cơ sở hạ tầng tạo cơ hội cho các xã nghèo, vùng nghèo, người nghèo tiếp cận các dịch vụ công; xây dựng nền giáo dục công bằng hơn, chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục cho người nghèo; phát triển mạng lưới an sinh xã hội giúp đỡ người nghèo. Để thực hiện các giải pháp của mình, Chính phủ đã rất nỗ lực đa dạng hóa các nguồn lực để thực hiện giải pháp của mình. Một số nhận xét chung về vai trò của Đảng và Nhà nước trong việc triển khai chương trình xóa đói giảm nghèo trong thời gian qua như sau: Thứ nhất là tạo điều kiện thuận lợi để duy trì tốc độ tăng trưởng nền kinh tế, tạo nguồn lực cho công cuộc giảm nghèo. Tăng trưởng kinh tế có cơ sở rộng rãi - với các chính sách thu hút và sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động nông thôn - sẽ tạo điều kiện cho người nghèo ở Việt Nam có được việc làm và tăng thu nhập. Việc phát triển nông thôn sẽ là một trọng tâm quan trọng của chiến lược tăng trưởng. Thứ hai là cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản, đặc biệt là giáo dục tiểu học, y tế cơ sở. Việc bảo đảm cho người nghèo được tiếp cận đầy đủ tới các dịch vụ xã hội cơ bản là rất quan trọng, bởi sẽ làm giảm đi các hậu quả tức khắc của nghèo khổ và giúp chống lại một trong những nguyên nhân cơ bản gây ra nghèo khổ. Việc đầu tư lớn hơn vào hệ thống cơ sở hạ tầng sẽ giúp người nghèo vừa được hưởng lợi lại vừa đóng góp cho việc tăng trưởng.

23


CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO

Thứ ba là phát triển mạng lưới an sinh xã hội. Không phải tất cả người nghèo sẽ đều được hưởng lợi từ các chính sách thúc đẩy tăng công ăn việc làm, thu nhập và cải thiện về vốn con người. Cần phải hiểu rằng, sẽ phải mất một thời gian dài đối với một nhóm đối tượng như những người sống tại các vùng xa xôi hẻo lánh có thể tham gia đầy đủ vào quá trình này và những người già, người tàn tật không có khả năng lao động sẽ không bao giờ có thể tham gia được. Thậm chí, ngay cả trong số những người được hưởng lợi, một số người nghèo vẫn sẽ dễ bị ảnh hưởng trước những biến động bất lợi của các xáo trộn ngắn hạn hay thiên tai. Vì vậy đòi hỏi bộ phận dân cư này cần được bảo vệ thông qua một hệ thống chuyển vốn có mục tiêu rõ ràng và hệ thống bảo trợ xã hội sẽ bổ sung cho các chính sách nhằm đưa nhân dân ra khỏi tình trạng nghèo khổ thông qua việc duy trì tốc độ tăng nhanh và đảm bảo việc tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội. Thứ tư là tổng huy động các nguồn lực phục vụ cho công cuộc giảm nghèo của quốc gia. Một trong những điểm hạn chế lớn nhất của các các nước đó là luôn thiếu nguồn lực khi thực hiện các chính sách xóa đói giảm nghèo. Chính vì vậy, để chủ động về kinh phí ngoài nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, nhà nước ta đã rất nỗ lực tìm ra các cách thức khác nhau để huy động sự trợ giúp từ cộng đồng quốc tế cũng như huy động nguồn lực từ các thành phần kinh tế, cộng đồng người Việt Nam sinh sống và làm việc ở nước ngoài.

Ông Lê Đức Lưu, Đại sứ Việt Nam tại Bungari đại diện cho kiều bào tại Bungari trao tiền ủng hộ đồng bào bị thiên tai ở miền Trung.

24


CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO

Vai trò của Đảng và Nhà nước trong giải quyết vấn đề đói nghèo là không thể phủ nhận và được thể hiện một cách rõ ràng thông qua bằng việc xây dựng hệ thống giải pháp xóa đói giảm nghèo trong suốt thời gian qua. Tuy nhiên, vì quan niệm đói nghèo luôn thay đổi và ngày càng phản ánh đầy đủ bản chất đói nghèo nên đòi hỏi hệ thống giải pháp cũng phải được hoàn thiện cho phù hợp thực tiễn. Do đó, theo thời gian vai trò của Nhà nước đối với xóa đói giảm nghèo cũng thay đổi. Trước đây, quan niệm đói nghèo có nghĩa là thu nhập bình quân thấp, không đảm bảo kinh tế duy trì cuộc sống ở mức tối thiểu nên giải pháp mang tính quyết định cho phát triển kinh tế, cải thiện thu nhập cho dân cư và đặc biệt cho người nghèo là tập trung đầu tư vào cơ sở hạ tầng và vốn vật chất. Vai trò của Chính phủ được thể hiện ngoài việc thực hiện các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Chính phủ còn có một vai trò rất quan trọng đó là phải có biện pháp để người nghèo thực sự được hưởng thành quả từ kết quả tăng trưởng đó.

c. Kỹ năng xây dựng chính sách giảm nghèo Trong chương trình giảm nghèo của Chính phủ có rất nhiều chính sách giảm nghèo và được phân ra theo từng lĩnh vực, đối tượng và phạm vi nhất định. Tuy nhiên, một chính sách giảm nghèo được thiết kế theo một cấu trúc cụ thể, bao gồm các bộ phận cơ bản là mục tiêu, nguyên tắc chỉ đạo thực hiện, phạm vi và đối tượng, nhiệm vụ, thời gian thực hiện, nguồn vốn, cơ quan quản lý và thực hiện. Mục tiêu của chính sách. Mỗi chính sách giảm nghèo ngoài việc thực hiện mục tiêu trung gian nào đó cũng cần đạt được mục tiêu cuối cùng là giảm nghèo. Như vậy, trong quá trình nghiên cứu xây dựng chính sách giảm nghèo cần phải xác định được mục tiêu cụ thể của mỗi chính sách, bởi tất cả các chính sách giảm nghèo đều cùng chung mục tiêu cuối cùng là cải thiện tình hình đói nghèo. Nguyên tắc chỉ đạo thực hiện chính sách. Trên cơ sở mục tiêu đã được xác định, các nguyên tắc chỉ đạo thực hiện mục tiêu này sẽ được xây dựng. Đây chính là những quan điểm chỉ đạo của Chính phủ trong quá trình thiết kế chính sách cũng như quá trình tổ chức thực hiện chính sách. Các nguyên tắc này được xác định trên sở phân tích đánh giá các qui luật khách quan chi phối quá trình lập chính sách và mục tiêu chính sách. Các nguyên tắc này được xây dựng dựa vào các mục tiêu cụ thể và mục tiêu chung của chính sách. Phạm vi và đối tượng của chính sách. Một vấn đề quan trọng cần xác định trong mỗi chính sách giảm nghèo đó là cần xem xét phạm vi triển khai chính sách như thế nào, đối tượng được

25


CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO

hưởng là ai. Điều này phù thuộc rất nhiều vào điều kiện nguồn lực thực hiện chính sách. Nếu như nguồn lực lớn cho phép chính sách triển khai trên phạm vi cũng như đối tượng hưởng lợi lớn hơn và ngược lại.

CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG ƯU ĐÃI

Nội dung của chính sách. Đây chính là công việc chính sách cần thực hiện trong thực tế. Tuy nhiên, nội dung của chính sách có thể là một hoặc nhiều hoạt động cụ thể tuỳ thuộc vào mục tiêu của từng chính sách. Thời gian triển khai chính sách.

Mục tiêu của chính sách là: cung cấp tín dụng ưu đãi cho các hộ nghèo có nhu cầu vốn để sản xuất góp phần tăng thu nhập, cải thiện điều kiện sống. Mục tiêu nêu trên của chính sách tín dụng ưu đãi là mục tiêu cụ thể, mục tiêu chung chính sách cần theo đuổi đó là cung cấp tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo góp phần tăng thu nhập, giảm tỷ lệ đói nghèo của một vùng nào đó, hoặc cả quốc gia.

Xuất phát từ mục tiêu được xác định, phạm vi triển khai và đối tượng hưởng lợi, mỗi chính sách sẽ cần xác định thời gian triển khai trong bao lâu là phù Nội dung của chính sách: bao gồm các hợp nhất. Xác định đúng thời khía cạnh như mức ưu đãi, đối tượng gian triển khai chính sách cho phép chúng ta có kế hoạch thực hiện để đạt mục tiêu đúng tiến độ, góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực của chính sách. Để xác định được thời gian triển khai chính sách giảm nghèo cần đánh giá các thông tin liên quan đến điều kiện phát triển kinh tế xã hội, các chỉ số về tăng trưởng, mặt bằng thu nhập.v.v… tại thời điểm xây dựng chính sách. Đồng thời phải nghiên cứu đến các điều kiện tự nhiên, điều kiện con người ở thời điểm hiện tại. Nguồn vốn thực hiện chính sách. Đây là vấn đề vô cùng quan trọng vì chính sách sẽ không thể triển khai hoặc triển khai kém hiệu quả nếu như nguồn vốn thực hiện chính sách không được tính toán đầy đủ và kỹ lưỡng. Ở đây, cần trả lời hai câu hỏi lớn đó là sẽ huy động nguồn vốn ở đâu và kế hoạch sử dụng nguồn vốn như thế nào?

26


CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO

Cơ quan quản lý và thực hiện chính sách. Để vận hành chính sách, tổ chức thực hiện là một khâu không thể thiếu được. Bởi vậy cần xác định cụ thể ai là người quản lý việc thực hiện chính sách và ai sẽ là người triển khai các hoạt động cụ thể của chính sách. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội vào đầu thập kỷ 1990 được Chính phủ chỉ định là cơ quan chịu trách nhiệm chính về các chính sách và chương trình giảm nghèo của Việt Nam. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, cần xác định những cơ quan cùng chịu trách nhiệm về thực hiện chính sách, chẳng hạn Bộ Tài chính, Ngân hàng chính sách xã hội cũng là cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện chính sách tín dụng cho người nghèo.

27


CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ, HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO

Chƣơng III:

ĐÁNH GIÁ, HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO

Nội dung phần này: a. Thực trạng chính sách giảm nghèo b. Mục đích đánh giá chính sách giảm nghèo c. Cơ sở hoàn thiện chính sách giảm nghèo d. Kỹ năng hoàn thiện chính sách giảm nghèo

28


CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ, HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO

a. Thực trạng chính sách giảm nghèo Những kết quả đạt được của chính sách giảm nghèo giai đoạn 2005 – 2012

(Một hộ gia đình ở huyện Ngọc Lặc (Thanh Hóa) vay vốn chương trình hộ gia đình sản xuất kinh doanh vùng khó khăn, đầu tư trồng cây cao su

- Về tính hiệu quả: Sau 8 năm thực hiện các chính sách, pháp luật của Nhà nước về giảm nghèo trong cả nước đã phát huy được hiệu quả tích cực, hoàn thành tốt việc xóa hộ đói, giảm hộ nghèo góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng, tác động trực tiếp đến chất lượng cuộc sống của nhân dân. Nhiều tỉnh đã xóa xong nhà tạm cho hộ nghèo, cơ sở hạ tầng được tăng cường, bộ mặt nông thôn khởi sắc, đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân được tăng lên. Mức sống dân cư được cải thiện góp phần củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

- Về hiệu lực của chính sách: Mục tiêu của từng chính sách giảm nghèo nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất để hộ nghèo có điều kiện thoát nghèo. Tuy nhiên, mỗi mục tiêu cụ thể mà một chính sách giảm nghèo hướng tới là giảm tình trạng đói nghèo. Qua thực tế cho thấy, tất cả các chính sách đều đã đạt được mục tiêu ở mức độ khác nhau và đã có đóng góp quan trọng đối với thành tựu giảm nghèo ở nước ta. Người nghèo đã cảm nhận được rất rõ lợi ích mà mỗi chính sách mang lại. Với các hỗ trợ trực tiếp đến các hộ nghèo thông qua các chính sách ưu đãi tín dụng, chính sách hỗ trợ giáo dục, chính sách y tế cho người nghèo đã góp phần không chỉ tạo cơ hội để cải thiện mức sống do thu nhập tăng lên mà còn giúp cho người nghèo tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản, giúp cho giảm thiểu và tránh được những nguy cơ tổn thương.

29


30 Giai đoạn 2011 - 2012

Xây dựng 8.500 mô hình trình diễn và hội nghị đầu bờ với 3 triệu lượt người nghèo tham gia; tổ chức 30.000 lớp tập huấn chuyển giao kỹ thuật; 3,7 Chính sách đào tạo nghề, triệu lượt người nghèo được hướng dẫn cách làm ăn, đạt 88% so với kế giải quyết việc làm hoạch; 150 ngàn lao động nghèo được dạy nghề miễn phí, đạt 100% kế hoạch, trong đó trên 60% đã tìm được việc làm, tự tạo việc làm, góp phần tăng thu nhập để giảm nghèo

Ngân sách trung ương đã bố trí 2.213 tỷ đồng để đào tạo nghề cho lao động nông thôn và hỗ trợ các huyện nghèo xuất khẩu lao động. Từ năm 2010 đến nay, đã có 1,087 triệu người được hỗ trợ đào tạo nghề ngắn hạn, trong đó lao động thuộc hộ nghèo chiếm 10,7%, lao động thuộc hộ cận nghèo chiếm 5,2% và lao động người dân tộc thiểu số chiếm 20,5% năm; thông qua chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đã có 39.221 người thuộc hộ nghèo, sau học nghề có việc làm, thu nhập đã thoát nghèo (chiếm 33,7% số người thuộc hộ nghèo được học nghề)

Ngân sách trung ương đã chuyển vốn cho Ngân hàng Chính sách Xã hội 1.670 tỷ đồng; cấp bù lãi suất 3.050 tỷ đồng; hơn 1,7 triệu lượt hộ Đã có 6,8 triệu lượt hộ nghèo nghèo vay vốn tín dụng ưu đãi phát triển sản được vay vốn tín dụng ưu đãi với xuất với mức vay bình quân 14,5 triệu đồng/ Chính sách tín dụng ưu đãi mức vay bình quân 8,8 triệu đồng/ lượt, tổng dư nợ cho vay hộ nghèo phát triển sản xuất năm 2012 là 41.560 tỷ đồng; có 1,9 lượt/hộ, đạt 103,3% kế hoạch triệu hộ gia đình được vay vốn tín dụng học sinh, sinh viên để cho 2,3 triệu con em đi học, với dư nợ 35.802 tỷ đồng

Giai đoạn 2005 - 2010

Bảng số liệu “Kết quả thực hiện một số chính sách giảm nghèo giai đoạn 2005 – 2012

CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ, HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO


Ngân sách nhà nước đã bố trí 22.303 tỷ đồng để hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, người dân tộc thiểu số, trẻ em dưới 6 tuổi, hỗ trợ người thuộc hộ cận nghèo, học sinh sinh viên; bố trí kinh phí tiêm chủng định kỳ và phòng, chống suy dinh dưỡng cho trẻ em trong 52 triệu lượt người nghèo được cấp đó có trẻ em nghèo thông qua Chương trình thẻ bảo hiểm y tế mục tiêu quốc gia y tế giai đoạn 2012-2015 (bình quân 11.150 tỷ đồng/năm); trong 02 năm đã có 29 triệu lượt người nghèo, dân tộc thiểu số được cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí; trên 10% người thuộc hộ cận nghèo tham gia mua thẻ bảo hiểm y tế được ngân sách hỗ trợ bằng 70% mệnh giá

Chính sách giáo dục

Chính sách y tế

GIai đoạn 2011 - 2012

Năm 2011-2012, ngân sách nhà nước đã hỗ trợ 12.457 tỷ đồng để thực hiện các chính sách giảm nghèo trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo 8 triệu lượt học sinh nghèo được như miễn giảm học phí cho con hộ nghèo, hộ miễn giảm học phí, 2,8 triệu lượt học chính sách, trợ cấp học bổng, hỗ trợ tiền ăn sinh nghèo được hỗ trợ vở viết, sách trưa cho trẻ em 5 tuổi; trong 02 năm đã có giáo khoa trên 04 triệu lượt học sinh nghèo được miễn giảm học phí, hỗ trợ điều kiện học tập và trợ cấp tiền ăn, nhờ đó, tỷ lệ học sinh bỏ học giảm, tỷ lệ huy động trẻ em đến trường theo độ tuổi

GIai đoạn 2005 - 2010

CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ, HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO

31


CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ, HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO

Theo các đánh giá thông qua các chỉ số trong khung nêu trên cho thấy các chính sách giảm nghèo thời gian qua đã có hiệu lực. - Về sự phù hợp của chính sách Các chính sách giảm nghèo trong thời gian qua đã có tác động tích cực đến công cuộc giảm nghèo ở Việt Nam được xem là bằng chứng thuyết phục nhất về sự phù hợp của các chính sách giảm nghèo đã và đang triển khai; là kết quả mà các chính sách đạt được. - Về tính bền vững của chính sách: Nếu như các chính sách giảm nghèo chủ yếu đảm bảo ở mức độ nào đó về hiệu quả, hiệu lực và sự phù hợp của chính sách thì tính bền vững lại rất kém cho tất cả các chính sách. Kết quả đánh giá các chính sách giảm nghèo chủ yếu cho thấy về cơ bản đã phát huy tác dụng trong thực tế thể hiện ở các khía cạnh như hiệu quả, hiệu lực cũng như sự phù hợp và bền vững của chính sách. Bên cạnh đó, việc tổ chức tốt công tác thông tin, tuyên truyền về mục tiêu giảm nghèo đã dần đi vào cuộc sống, người nghèo nhận thức rõ hơn trách nhiệm của mình và chủ động trong việc tiếp nhận các chính sách và nguồn lực hỗ trợ của nhà nước và cộng đồng để tự vươn lên thoát nghèo. Xác định mục tiêu giảm nghèo của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn này là yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng xã hội và tăng trưởng bền vững. Về lâu dài là xóa nghèo và giảm khoảng cách giàu nghèo, phấn đấu xây dựng một xã hội giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Giảm nghèo không đơn giản là việc phân phối lại thu nhập một cách thụ động mà phải tạo động lực tăng trưởng tại chỗ, chủ động tự vươn lên thoát nghèo. Bên cạnh đó, các chính sách giảm nghèo không chỉ là sự trợ giúp một chiều của tăng trưởng kinh tế đối với các đối tượng gặp nhiều khó khăn mà còn là nhân tố quan trọng tạo ra một mặt bằng tương đối đồng đều cho phát triển, tạo thêm một lực lượng sản xuất dồi dào và đảm bảo sự ổn định cho giai đoạn “cất cánh”. Do đó, xét về góc độ kinh tế và xã hội thì chương trình giảm nghèo giai đoạn 2005-2010 của Nhà nước ta được xác định là một trong những mục tiêu của tăng trưởng, đồng thời cũng là tiền đề cho tăng trưởng nhanh và bền vững. Cụ thể, chính sách tín dụng ưu đãi nhằm hỗ trợ vốn cho hộ nghèo sản xuất tạo ra thu nhập góp phần cải thiện mức sống. Ngoài ra, thu nhập được tạo ra một phần sẽ được tích lũy để dùng tới trong trường hợp có các biến cố xảy ra, vì vậy chính sách tín dụng ưu đãi còn tạo điều kiện để người nghèo hạn chế rủi ro và giảm thiểu nguy cơ bị tổn thương. Bên cạnh đó, mức sống được cải thiện sẽ giúp họ có nhiều cơ hội hơn để học tập và chăm

32


CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ, HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO

sóc sức khoẻ khi ốm đau, đặc biệt khi không còn nghèo khổ họ sẽ tự tin hơn và tham gia nhiều hơn vào các hoạt động ở địa phương. Với chính sách hỗ trợ y tế và giáo dục, chúng ta có thể thấy đây là hai chính sách có tác động trực tiếp đến cải thiện khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản. Có trình độ cao hơn và sức khoẻ tốt hơn là yếu tố quyết định tạo ra thu nhập nhiều hơn, điều đó cũng có nghĩa hạn chế được rủi ro và giảm thiểu tổn thương cho chính họ. Cuối cùng, người nghèo sẽ dần tự tin hơn và chủ động bày tỏ quan điểm của mình khi tham gia vào các hoạt động của cộng đồng. Với chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đây là chính sách có tác động trực tiếp đến cả bốn khía cạnh của đói nghèo. Cơ sở hạ tầng giúp người nghèo cơ hội tiếp cận với thị trường thuận lợi hơn, tiếp cận với dịch vụ giáo dục y tế nhiều hơn, điều đó đồng nghĩa cơ hội tạo ra thu nhập cho họ cũng tăng lên. Khi đó khả năng chống chọi với các biến cố trong cuộc sống và sản xuất kinh doanh tốt hơn góp phần giảm thiểu nguy cơ rủi ro. Bên cạnh đó, năng lực của người nghèo sẽ được cải thiện đáng kể khi trực tiếp tham gia vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong chương trình giảm nghèo. Đây là điểm khác biệt so với những chính sách giảm nghèo khác. Sự có mặt ở các giai đoạn khác nhau của chương trình giảm nghèo cũng như tác động trực tiếp đến đói nghèo và mối quan hệ chặt chẽ giữa chúng cho thấy đây chính là các chính sách chủ yếu trong hệ thống chính sách xóa đói, giảm nghèo. Vì vậy, những kết luận được rút ra từ kết quả đánh giá các chính sách này cũng có thể coi là đại diện cho hệ thống chính sách xóa đói giảm nghèo, qua đó có thể làm căn cứ để đề xuất định hướng cũng như kiến nghị hoàn thiện hệ thống chính sách này cho giai đoạn 2011-2015. - Tồn tại, hạn chế của chính sách giảm nghèo giai đoạn 2005 – 2012 Bên cạnh những kết quả đạt được trong thời gian qua xét cả về các tiêu chí của các chính sách giảm nghèo cũng như đối với từng hoạt động cụ thể của mỗi chính sách nhìn chung các chính sách vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định được thể hiện ở các mặt sau: Trước hết là nhận thức về trách nhiệm đối với công tác xoá đói giảm

Làm thủ tục cho hộ nghèo vay vốn tại Điểm giao dịch xã Phi Mô, huyện Lạng Giang (Bắc Giang)

33


CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ, HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO

nghèo ở một số địa phương, cơ sở còn chậm và chưa rõ, thiếu nhất quán nên công tác điều hành, phối hợp còn lúng túng, lúc thì giao cho cơ quan này, lúc thì giao cho cơ quan khác, nên có địa phương đến năm 2010 mới phê duyệt chương trình, kế hoạch; công tác cán bộ chưa được coi trọng đúng mức, nhất là ở cơ sở nên nhiều địa phương vừa thiếu về số lượng, vừa hạn chế về năng lực. Một bộ phận người nghèo chưa nhận thức đúng về trách nhiệm của mình, thiếu quyết tâm vươn lên vượt qua đói nghèo. - Nguồn lực đầu tư trực tiếp từ trung ương cho chương trình hàng năm còn hạn chế, chưa cân đối với mục tiêu chung giữa các vùng và nội dung của từng dự án; cấp vốn chưa đảm bảo được tiến độ thực hiện, Một số địa phương chưa huy động được nguồn lực tại chỗ cho xoá đói giảm nghèo, còn tư tưởng trông chờ vào sự hỗ trợ của trung ương. - Một số chính sách, cơ chế vận hành chưa rõ hoặc bất hợp lý như: chính sách hỗ trợ về y tế thực hiện chưa hiệu quả do thiếu nguồn tài chính bảo đảm; đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở các xã nghèo còn gặp nhiều khó khăn, triển khai chậm do còn thiếu cơ chế chính sách hợp lý về chọn thầu, thiết kế; cơ chế quản lý tài chính của chương trình còn thiếu thống nhất; cơ chế lồng ghép các chương trình, dự án với mục tiêu xoá đói giảm nghèo chưa khả thi. Công tác điều tra, quản lý đối tượng hộ nghèo, xã nghèo, xây dựng chương trình còn nhiều bất cập, chưa được đầu tư nguồn lực đúng mức để thực hiện. Việc thực hiện nguyên tắc làm gì và đầu tư vào đâu phải suất phát từ nhu cầu của người dân vẫn còn mang tính hình thức ở không ít địa phương, chưa tạo được cơ hội cho người dân tham gia xây dựng kế hoạch, thực hiện và quản lý nguồn lực. Công tác xóa đói giảm nghèo trong những năm qua chưa được quan tâm đúng mức, chưa tạo điều kiện tối cần thiết cho xóa đói giảm nghèo ở các xã vùng sâu, vùng xa.… ở những nơi này cơ sở hạ tầng còn yếu kém, có những nơi hầu như chưa có, trình độ dân trí thấp nên chưa thể tiến hành công tác xoá đói giảm nghèo có hiệu quả. Trong chỉ đạo thực hiện, chưa tạo lập được mô hình, một số mô hình đã có thì tổng kết, nhân rộng còn hạn chế. Đặc biệt là mô hình của chính người nghèo thì chưa được các địa phương chú ý xây dựng, rút kinh nghiệm nhằm giúp cho người nghèo có được các cơ hội tốt để tham gia vào nền kinh tế đang tăng trưởng. Khi đánh giá các chính sách giảm nghèo giai đoạn 2005-2012 dựa trên các tiêu chí vẫn còn một số tồn tại, hạn chế nhất định như: - Về tính hiệu quả của chính sách: Để đánh giá một cách khách quan có thể nhận thấy rằng hiệu quả của các chính sách chưa cao bởi trong quá trình triển khai chính sách, đối tượng

34


CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ, HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO

được hưởng lợi của chính sách chưa thực sự là người nghèo, cộng đồng nghèo. Bên cạnh đó, điều kiện kinh phí thực hiện chính sách vốn hạn chế nên đã ảnh hưởng đến hiệu quả của mỗi chính sách(4). Bên cạnh đó, do nguồn lực hạn chế lại phải hỗ trợ cho một số lớn thuộc đối tượng của chính sách dẫn đến mức hỗ trợ bình quân đầu người là rất thấp. Tình trạng hỗ trợ dàn trải còn nghiêm trọng hơn khi đối tượng hưởng lợi còn bao gồm cả những người không thuộc diện hưởng lợi chính sách.

Chính sách cho vay tín dụng không chỉ nhằm mục tiêu cho vay tín dụng được triển khai đến các hộ nghèo mà còn phải đảm bảo các hộ nghèo được vay vốn phải tự thoát nghèo. Song thực tế, các dịch vụ hỗ trợ kèm theo hoạt động cho vay tín dụng hiệu quả thấp nên xảy ra tình trạng hộ nghèo vay vốn thiếu kiến thức cũng như kinh nghiệm làm ăn nên dù đã được hỗ trợ vay vốn nhưng họ vẫn không tự thoát nghèo được.

- Về tính hiệu lực của chính sách: Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả và mang lại ý nghĩa giúp người dân tự tin vả tham gia có hiệu quả vào các hoạt động phát triển kinh tế xã hội tại địa phương thì xét về một góc độ nào đó tính hiệu lực của chính sách vẫn chưa cao bởi trong thực tế triển khai còn bộc lộ nhiều bất cập cũng như sự bất bình đẳng trong tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Nếu mục tiêu của mỗi Việc xây dựng chuẩn nghèo chính sách chưa hoàn toàn đạt được thì trước đây dựa trên các điều kiện tất yếu dẫn đến mục tiêu cuối cùng của kinh tế và xu hướng tiêu dùng các chính sách này là chưa cao. của các hộ nghèo vào đầu thập - Về sự phù hợp của chính sách: kỷ 1990. Các điều kiện đã thay đổi và Việt Nam ngày nay rất Tuy các chính sách giảm nghèo đã đạt khác so với Việt Nam trong được những kết quả tuy nhiên đánh giá những năm 1990, nhất là xu một cách khách quan đối với từng loại hướng tiêu dùng và điều kiện chính sách có thể thấy rằng mỗi chính sống của các hộ nghèo. Vì vậy, sách đều có điểm chưa phù hợp với thực chính sách cũ về chuẩn nghèo đã tiễn. không còn phù hợp và đã được - Về tính bền vững của chính sách: thay thế. Hoặc khá nhiều chính sách không phù hợp với thực Nhìn chung các chính sách giảm nghèo tiễn như hỗ trợ đất sản xuất cho chủ yếu, về cơ bản chúng đã phát huy người nghèo ở những vùng đất tác dụng trong thực tế thể hiện ở các khô cằn, thiếu nước mà lại không khía cạnh như hiệu quả, hiệu lực cũng có các chính sách kèm theo… như sự phù hợp và bền vững của chính sách. Tuy nhiên, tính bền vững của xoá (4)Riêng đối với chính sách đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng đƣợc đánh giá là xác định đúng các xã nghèo và khó khăn.

35


CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ, HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO

đói giảm nghèo chưa cao, một bộ phận dân cư có nguy cơ tái nghèo do sinh sống ở vùng thường xuyên bị thiên tai mất mùa, do thiếu việc làm và việc làm không ổn định, thu nhập thấp, không có tích lũy, mức sống cao không hơn nhiều so với chuẩn nghèo, trong khi hệ thống quỹ an sinh xã hội chưa được thiết lập.

(Thực tế cho thấy, sau lũ lụt năm 1999, khoảng 75000 hộ của 9 tỉnh miền trung đã tái nghèo, xoá đi thành quả của rất nhiều năm phấn đấu và gây nhiều khó khăn cho những năm tiếp theo)

b. Mục đích đánh giá chính sách giảm nghèo Đánh giá chính sách đói nghèo nhằm mục đích: (i) làm rõ tác động thực tế khi chính sách giảm nghèo được đưa vào cuộc sống, kể cả những tác động tốt và những tác động xấu, các kết quả mong muốn và các hệ quả không mong muốn; (ii) phát hiện sớm những điều phù hợp và không phù hợp của các chính sách giảm nghèo hiện hành; (iii) dự kiến chiều hướng phát triển của việc tiếp tục thực hiện các chính sách giảm nghèo đó; (iv) nêu lên những ý kiến có căn cứ để bổ sung, điều chính, thay đổi từng điểm hoặc toàn bộ các yếu tố cấu thành của chính sách giảm nghèo (mục tiêu, đối tượng, nguồn lực, bộ máy thực hiện, cơ chế vận hành…) không còn phù hợp; (v) đề xuất các chính sách giảm nghèo mới ở cấp địa phương hoặc cấp chính phủ. Khi ban hành một chính sách, các cơ quan quản lý phải kiểm soát, theo dõi việc thực thi chính sách có đạt được kết quả dự kiến hay không. Tuy nhiên, với phương thức quản lý truyền thống chủ yếu dựa trên cơ chế kiểm soát theo đầu vào hoặc qui trình, các cơ quan quản lý thiên về kiểm soát, theo dõi xem việc thực hiện chính sách của các đơn vị có phù hợp với các qui định hiện hành hay không, khống chế các khoản chi tiêu cho các chính sách đó theo các khoản mục chi (chi bao nhiêu, chế độ và chính sách chi tiêu…).

36


CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ, HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO

Mặt khác, trong phương thức quản lý này, vấn đề quan trọng hơn là khối lượng sản phẩm - dịch vụ mà chính sách đó cung ứng cho xã hội là bao nhiêu, so với chi phí chi ra như thế nào (hiệu quả) chưa được đánh giá một cách chính xác. Bên cạnh đó, chất lượng của các loại hàng hóa, dịch vụ công được cung cấp có đáp ứng được yêu cầu của (Đại diện UBND huyện Diễn Châu báo cáo kết quả thực người sử dụng dịch vụ hiện chính sách giảm nghèo với Đoàn đại biểu Quốc hội không và mức độ đáp ứng tỉnh Nghệ An) đến đâu (hiệu lực) cũng không thực sự được quan tâm. Điều đó đặt ra yêu cầu phải chuyển từ quản lý theo đầu vào/qui trình sang quản lý theo kết quả. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), quản lý theo kết quả là một phương thức quản lý tập trung vào hiệu lực thực hiện của chính sách và việc đạt được đầu ra, kết quả hay tác động của chính sách đó. Trên thực tế, trong quá trình quản lý hiện nay ở nước ta cũng đã chú trọng hơn đến đầu ra, thể hiện ở chỗ nhiều chính sách, chương trình đã xác định những đầu ra dự kiến của chính sách. Tuy nhiên, các nguyên tắc chặt chẽ của quản lý theo đầu ra chưa được tôn trọng một cách chặt chẽ. Các đại biểu dân cử, cơ quan dân cử khi tiến hành giám sát chính sách trong chương trình giảm nghèo sẽ quan tâm hơn đến câu hỏi: chính sách có đạt được mục tiêu như đã đề ra hay không? điều mà các cơ quan quản lý theo đầu vào thường bỏ ngỏ. Để đánh giá các mức độ đạt được các kết quả trong chương trình giảm nghèo từ việc sử dụng các yếu tố đầu vào, quá trình hoạt động và cung ứng các yếu tố đầu ra, đại biểu tham gia giám sát các chương trình giảm nghèo có thể xem xét tác động về tính tiết kiệm, hiệu quả và hiệu lực của chính sách hay chương trình thông qua khung đánh giá chính sách dựa trên kết quả. Thứ nhất là tính tiết kiệm (economy) là sự so sánh giữa các hoạt động được thực hiện với sự tiêu hao các nguồn lực đầu vào dành cho các hoạt động đó. Ví dụ, cùng để thực hiện một hoạt động giống nhau, nếu biết cách tổ chức công việc một cách hợp lý thì chi phí đầu vào sẽ giảm, và khi đó, mục tiêu tiết kiệm chi tiêu cho các hoạt động sẽ đạt được. Chỉ số tiết kiệm của việc thực hiện chính sách thường căn cứ vào các định mức chi tiêu và so sánh thực chi với các định mức đã có.

37


CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ, HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO

Thứ hai là tính hiệu quả (efficiency) là sự so sánh giữa đầu ra đạt được và nguồn lực đầu vào tiêu hao để tạo ra đầu ra đó. Chỉ số hiệu quả được tính toán thông qua các chỉ tiêu: chi phí trên một đơn vị đầu ra; chi phí trung bình của xã hội để sản xuất một đơn vị đầu ra. Như vậy, nói đến hiệu quả của chính sách (theo quan điểm quản lý theo kết quả) là nói đến sự so sánh giữa kết quả cụ thể đạt được với chi phí bỏ ra thông qua việc tính toán chi phí đơn vị của đầu ra chính sách. Thứ ba là tính hiệu lực (effectiveness) là sự so sánh giữa đầu ra đã đạt được so với mục tiêu chính sách. Một chính sách có thể có những đầu ra rất hiệu quả, nhưng lại không phát huy tác dụng trong thực tế, dẫn đến các công trình đầu tư không được sử dụng hoặc sử dụng không đúng mục đích, gây ra sự lãng phí nghiêm trọng nguồn lực ngân sách. Khi đó, chính sách được coi là không có hiệu lực. Để có được thông tin về chỉ số hiệu lực, các đại biểu dân cử cần tập trung vào làm rõ vấn đề đánh giá quá trình tạo ra các đầu ra của đơn vị hiện tại có đóng góp đến kết quả dự kiến hay không? Điều này thường được đánh giá dựa trên việc khảo sát mức độ thỏa mãn của các đối tượng chính sách với cách thức triển khai và hỗ trợ của chính sách đã thực hiện. Tuy nhiên, vì được vận dụng cho các chính sách đói nghèo nên việc đánh giá các chính sách này chủ yếu tập trung vào hai khía cạnh là tính hiệu quả và hiệu lực của chính sách. Ngoài ra, tính phù hợp và bền vững của một chính sách cũng được quan tâm đến trong đánh giá chính sách. Trong đó, tính phù hợp của chính sách muốn đề cập đến vấn đề liệu chính sách có đáp ứng được mong muốn của đối tượng thụ hưởng hay không? Tính bền vững của chính sách muốn đề cập đến liệu có đủ nguồn lực để thực hiện chính sách không và khi kết thúc chính sách có duy trì được thành quả mà chính sách đã mang lại hay không? Muốn đánh giá một chính sách có đạt được tính hiệu quả, hiệu lực, phù hợp hay bền vững hay không các đại biểu cần phải thu thập các thông tin, số liệu thông qua các hoạt động theo dõi, kiểm tra định kỳ của các cơ quan chức năng và các dữ liệu thông qua việc áp dụng các biện pháp khảo sát thực tế, cùng các số liệu điều tra đánh giá của các tổ chức, cá nhân đã tiến hành nghiên cứu đánh giá.

c. Cơ sở hoàn thiện chính sách giảm nghèo Mỗi chính sách giảm nghèo sẽ có một chu trình nhất định từ bắt đầu hình thành đến khi kết thúc. Về cơ bản các chính sách thường trải qua các giai đoạn xây dựng chính sách, tổ chức triển khai thực hiện chính sách và tổ chức giám sát đánh giá thực hiện chính sách. Trong đó: Xây dựng chính sách cần tiến hành các hoạt động cơ bản, đó là xác định mục tiêu chính sách, đối tượng hưởng lợi chính sách, phạm vi thực hiện chính sách, nguồn lực thực hiện chính sách và đối tượng tham gia quản lý, thực hiện chính sách. Triển khai thực hiện chính sách cần tiến hành các hoạt động chính như tổ

38


CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ, HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO

chức phối hợp giữa các ngành, các cấp, các tổ chức và triển khai các phương thức thực hiện chính sách. Với vai trò của đại biểu dân cử trong quá trình giám sát đánh giá thực hiện chính sách cần tiến hành các hoạt động cơ bản như tổ chức giám sát việc thực thi chính sách, phân tích đánh giá triển khai việc thực hiện chính sách để phát hiện kịp thời những điểm chưa phù hợp của chính sách cũng như các vấn đề phát sinh trong thực hiện chính sách, trên cơ sở đó tiến hành các chỉnh sửa cần thiết. Nếu xem xét các giai đoạn mà một chính sách giảm nghèo phải trải qua thì chu trình chính sách bao gồm: hoạch định chính sách, thể chế hoá chính sách, tổ chức các hình thức cơ cấu để thực hiện chính sách, chỉ đạo thực hiện và kiểm tra điều chỉnh chính sách. Trong đó: - Hoạch định chính sách bao gồm các nội dung như phân tích và đề xuất các vấn đề chính sách; cơ quan có thẩm quyền chấp thuận hoạch định chính sách để giải quyết vấn đề chính sách; xây dựng dự thảo chính sách và thông qua quyết định chính sách. - Thể chế hoá chính sách bao gồm các nội dung như: thể chế hoá chính sách bằng văn bản qui phạm pháp luật và công bố chính sách trên các phương tiện thông tin đại chúng. - Tổ chức hình thức cơ cấu để thực hiện chính sách bao gồm các nội dung: tổ chức bộ máy thực thi chính sách; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thực thi chính sách; tổ chức các nguồn lực và thời gian thực hiện; ban hành các văn bản pháp qui cụ thể hướng dẫn thực hiện chính sách. - Chỉ đạo thực hiện chính sách bao gồm: xây dựng, thẩm định các dự án liên quan; vận hành các quĩ và phối hợp các ngành, các cấp, các tổ chức. Kiểm tra điều chỉnh và tổng kết chính sách bao gồm: tổ chức kiểm tra thường xuyên và định kỳ; phân tích tác động của chính sách; điều chỉnh chính sách và tổng kết chính sách từ đó đề xuất các kiến nghị hoàn thiện chính sách. Nếu xét theo góc độ hiệu lực chính sách, chu trình chính sách giảm nghèo bao gồm các giai đoạn:  Giai đoạn thứ nhất là đưa chính sách vào thực hiện,  Giai đoạn thứ hai là phát huy hiệu lực và hiệu quả của chính sách,  Giai đoạn thứ ba là hiệu lực chính sách bắt đầu suy giảm,  Giai đoạn thứ tư là chính sách hết hiệu lực.

Khi tính hiệu lực của chính sách bắt đầu suy giảm, các nhà hoạch định chính sách cần xác định chính sách đó còn phù hợp và tiếp tục thực hiện hay không, nếu có thì cần chỉnh sửa những gì. Như vậy, cho dù chu trình của một chính sách giảm nghèo được tiếp cận theo khía cạnh nào thì khi chính sách được triển khai thực hiện cũng sẽ bộc lộ những điểm yếu kém, những điểm không phù hợp đòi hỏi cần có sự điều chỉnh từ những người thực hiện

39


CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ, HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO

chính sách. Nguyên nhân của những yếu kém đó có thể xuất phát từ một bước hoặc tất cả các bước trong một chu trình chính sách. Do vậy, khi một chính sách được triển khai thực hiện, chúng ta cần xác định những điểm phù hợp và chưa phù hợp của chính sách đó để đưa ra kiến nghị điều chỉnh kịp thời, thậm chí có thể phải thay (Xã Yên Khê, huyện Con Cuông có gia đình chị Trần Thị thế bằng một chính sách Việt (bên trái) vay vốn về trồng chè cho năng suất, hiệu khác trong trường hợp quả kinh tế cao.“Năm nay, gia đình tôi sẽ mở rộng diện chính sách đó có quá nhiều tích trồng chè. Hy vọng cuộc sống sẽ khác”, chị Việt cho điểm không phù hợp với hay) điều kiện thực tế. Nếu xét chu trình chính sách theo góc độ các hoạt động thì việc phân tích, đánh giá để tìm ra những điểm hợp lý, bất cập trong mỗi chính sách, qua đó đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách theo hướng phù hợp với thực tế và phát huy hiệu quả cao hơn gọi là hoàn thiện chính sách.

d. Kỹ năng hoàn thiện chính sách giảm nghèo Căn cứ vào những tồn tại hạn chế, đại biểu dân cử tìm hiểu và phân tích nguyên nhân của những hạn chế để xây dựng và hoàn thiện chính sách giải nghèo. Cụ thể, đại biểu dân cử cần tập trung vào một số yếu tố chủ yếu sau đây: Mục tiêu hoàn thiện chính sách giảm nghèo là làm cho chính sách ngày càng tốt hơn. Bởi vậy, với vai trò đại biểu dân cử cần đánh giá, phân tích chính sách đó có mang lại lợi ích như mong muốn hay không và tác động của chúng đến đối tượng chính sách là gì? liệu chính sách có thể thiết kế tốt hơn nhằm đạt được các kết quả dự định hay không? liệu nguồn lực thực hiện chính sách có được sử dụng một cách có hiệu quả không? các câu hỏi này sẽ được trả lời khi tiến hành đánh giá chính sách. Có thể thấy, kết quả của quá trình đánh giá cho ta một số kết luận quan trọng như chính sách đã mang lại là gì? Chính sách bộc lộ những điểm bất cập nào và đã hạn chế như thế nào đến việc đạt mục tiêu chính sách? Điều quan trọng là cho chúng ta biết nguyên nhân của các vấn đề tồn tại đó là từ đâu? Kết thúc bước đánh giá chính sách, chúng ta sẽ đi đến kết luận chính sách đó có nên chỉnh sửa không? Nếu có sẽ chỉnh sửa theo hướng nào? Câu hỏi này sẽ được trả lời thông qua việc xác định định hướng hoàn thiện chính sách. Định hướng hoàn thiện chính sách được xác định trên cơ sở kết quả

40


CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ, HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO

phân tích thực hiện chính sách và xu hướng đói nghèo trong thời gian tới. Điều quan trọng định hướng này cần đảm bảo một số yêu cầu cơ bản của chính sách giảm nghèo như đảm bảo mang lại lợi ích thực sự cho đối tượng của chính sách; giải quyết được tính đa chiều của đói nghèo; khắc phục được sự bất bình đẳng về vùng, giới và dân tộc; đảm bảo giảm nghèo bền vững và thực hiện được các cam kết với cộng đồng quốc tế trong tấn công đói nghèo. Quá trình hoàn thiện chính sách giảm nghèo kết thúc sau khi căn cứ vào định hướng hoàn thiện, các giải pháp hoàn thiện được đề xuất để chỉnh sửa chính sách nhằm nâng cao tính hiệu quả và hiệu lực cũng như đảm bảo tính bền vững và phù hợp của chúng trong tương lai. Như vậy quá trình hoàn thiện chính sách giảm nghèo bao gồm ba bước cơ bản đó là đánh giá chính sách, xây dựng đinh hướng hoàn thiện chính sách và đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách.

(Đồng chí Đỗ Mạnh Hùng - Phó Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội, Phó Trưởng đoàn thường trực Đoàn giám sát phát biểu tại buổi làm việc với Ngân hang chính sách xã hội về việc thực hiện chính sách, pháp luật giảm nghèo giai đoạn 2005 - 2012)

Để xem thực hiện chính sách đó đã đem lại kết quả gì và có điểm gì bất hợp lý không cần tổ chức tiến hành đánh giá chính sách. Quá trình đánh giá không chỉ cho phép kết luận tính hiệu quả, hiệu lực của mỗi chính sách mà còn cho phép kết luận về sự phù hợp cũng như tính bền vững của chúng. Kết quả đánh giá sẽ là căn cứ quyết định có cần hoàn thiện chính sách không? Nếu có sẽ hoàn thiện theo hướng nào và làm thế nào để hoàn thiện. Cuối cùng việc hoàn thiện đó nhằm hướng đến kết quả mong đợi gì? Đến đây có thể thấy, mấu chốt của quá trình hoàn thiện này chính là ở bước đánh giá chính sách

41


CHƯƠNG 4: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ GIẢI QUYẾT ĐÓI NGHÈO

Chƣơng IV:

KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ GIẢI QUYẾT ĐÓI NGHÈO

Nội dung phần này: a. Tạo cơ hội cho người nghèo b. Cải thiện khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản c. Quản lý rủi ro, hạn chế nguy cơ bị tổn thương d. Tăng cường năng lực cho người nghèo

42


CHƯƠNG 4: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ GIẢI QUYẾT ĐÓI NGHÈO

Hiện nay, trong quá trình phát triển các nước trên thế giới cũng như Việt Nam đang đứng trước những thay đổi lớn lao có ý nghĩa bước ngoặt. Những thay đổi ấy tạo ra những cơ hội và thách thức đối với đường lối, chính sách phát triển, trong đó có chính sách xóa đói, giảm nghèo. Xuất phát từ quan điểm vấn đề đói nghèo không được giải quyết thì không có mục tiêu nào đặt ra như tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, ổn định, bảo đảm các quyền con người sẽ được thực hiện. Với các nước nghèo trên thế giới, chính phủ các quốc gia này đều quan tâm xây dựng và thực hiện chiến lược giảm nghèo phù hợp với điều kiện của mình. Trong bối cảnh chung đó, Việt Nam cũng đã thực hiện một loạt các giải pháp nhằm giảm nghèo đói. Tuy nhiên, quá trình thực hiện các giải pháp đã bộc lộ nhiều vấn đề bất cập cần giải quyết. Bởi vậy, để chuẩn bị xây dựng chiến lược tấn công đói nghèo thời gian tới, bên cạnh việc đánh giá hệ thống chính sách giảm nghèo hiện tại, nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế trên cơ sở các yếu tố cấu thành là cần thiết.

a. Tạo cơ hội cho người nghèo Một số nước đã tiến hành triển khai đồng bộ và hiệu quả các chính sách giảm nghèo bên cạnh việc thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô và chú trọng đến các chính sách có tác động trực tiếp đến giảm nghèo trong đó ưu tiên cho các thôn nghèo, hộ nghèo, khu vực nghèo, người dân tộc thiểu số, người tàn tật và phụ nữ nhằm đảm bảo tăng trưởng mang lại lợi Bănglađét là một quốc gia được cộng đồng quốc tế ích cho người nghèo và tránh nhắc đến với sự thành công trong cung cấp tín được những tác động xấu dụng vi mô của ngân hàng Grameen. Ngân hàng Grameen do chính những người vay làm chủ thông không đáng có cho nền kinh qua việc góp cổ phần của khách hàng. Mục đích tế như ở những năm cuối của chính là để đem tín dụng đến với những người giai đoạn đầu tiên của nghèo ở vùng nông thôn, chủ yếu là phụ nữ trong chương trình giảm nghèo ở nỗ lực XĐGN. Ngân hàng cung cấp những khoản Trung Quốc hay chính sách vay phục vụ mục đíchsản xuất kinh doanh và nhà ở. hỗ trợ tín dụng tạo cơ hội cho Tất cả các khoản vay đều không cần thế chấp và không áp dụng các công cụ pháp lý. Bên cạnh người nghèo ở vùng nông khoản vay phục vụ cho sản xuất và nhà ở, Ngân thôn, chủ yếu là phụ nữ tiếp hàng Grameen thiết kế chương trình cho vay đặc cận được với chính sách hỗ biệt dành cho những người ăn mày muốn kiếm kế trợ để tự vươn lên thoát sinh nhai ổn định. Ngoài ra để nhằm khuyến khích nghèo theo nhiều hình thức các thành viên của Grameen dành cho con em họ khác nhau. Tuy nhiên, tạo cơ điều kiện giáo dục tốt nhất, Grameen trao học hội cho người nghèo không bổng cho con em họ.

43


CHƯƠNG 4: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ GIẢI QUYẾT ĐÓI NGHÈO

nhất thiết phải bằng cách hỗ trợ vốn vay dưới hình thức ưu đãi. Điều mà người nghèo cần đó là làm thế nào sử dụng được vốn vay một cách hiệu quả để tự thoát nghèo. Kinh nghiệm cung cấp tín dụng vi mô của ngân hàng Grameen, người nghèo hoàn toàn thoát nghèo và thoát nghèo bền vững bằng các nguồn vốn vay với mức lãi suất thị trường. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi cho người nghèo, bên cạnh việc được vay vốn, họ còn được tham gia các loại hình dịch vụ khác như gửi tiết kiệm, chương trình bảo hiểm hay quĩ lương hưu. Và quan trọng hơn đó là được hỗ trợ hướng dẫn cách quản lý vốn cũng như kiến thức sản xuất kinh doanh. Phần lớn các nước nghèo đều có chính sách hỗ trợ, quan tâm tới nhóm đối tượng đặc biệt như người dân tộc, người tàn tật và phụ nữ để giúp họ thoát khỏi đói nghèo thông qua các chương trình giảm nghèo cụ thể như việc tăng cường sự đối xử phân biệt với người dân tộc thiểu số, tăng cường việc huy động và tổ chức mọi thành phần kinh tế tham gia hỗ trợ người nghèo theo một chương trình cụ thể như ở Trung Quốc.

Chương trình giảm nghèo của Trung Quốc được thực hiện với quy mô lớn sau khi có chính sách cải cách và mở cửa. Từ năm 1978 đến năm 2000, chương trình này đã trải qua 3 giai đoạn chính: Giai đoạn 1: Cải cách cơ cấu đẩy mạnh công tác giảm nghèo (1978-1985) tập trung chủ yếu vào thực hiện các chính sách cải cách như: hệ thống quản lý ruộng đất, nới lỏng kiểm soát giá nông sản, tập trung phát triển xí nghiệp ở các thị trấn nhằm mở ra các hướng mới giải quyết đói nghèo vùng nông thôn; Giai đoạn 2: Nỗ lực giảm nghèo theo định hướng phát triểm trên quy mô rộng (19631993) tập trung chủ yếu vào các chương trình hỗ trợ cho các vùng thuộc đối tượng được hưởng chính sách trực tiếp từ chính phủ như: Chương trình viện trợ trực tiếp bằng việc đưa kinh phí từ chính quyền trung ương xuống xuống các vùng được lựa chọn; Chương trình “lao động đổi lấy lương thực” sử dụng lao động nghèo đề xây dựng cơ sở hạ tầng và dịch vụ công cộng; Chương trình vay vốn bao cấp hộ gia đình nghèo được vay khoản vốn nhỏ với điều kiện ưu đãi; Giai đoạn 3: Xử lý các vấn đề quan trọng trong công tác giảm nghèo (1994-2000) tập trung hướng tới việc cải thiện hơn nữa các điều kiện sản xuất nông nghiệp, cải tạo cơ sở hạ tầng và các dịch vụ xã hội.

44


CHƯƠNG 4: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ GIẢI QUYẾT ĐÓI NGHÈO

b. Cải thiện khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản Theo nghiên cứu một số nước áp dụng chương trình giảm nghèo cho người dân thường chú trọng vào phương pháp cải thiện khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục, bảo hiểm xã hội.v.v… Việc đa dạng hoá hình thức cung ứng dịch vụ y tế. Cung cấp dịch vụ cơ bản là một trong những nhiệm vụ của chính phủ nhằm khắc phục thất bại của thị trường, tuy nhiên, không phải lúc nào chính phủ cũng trực tiếp cung ứng. Các chính phủ thường tìm ra phương thức cung ứng dịch vụ thông qua nguồn lực ban đầu. Để đối tượng thu nhập trung bình hay thấp trong xã hội tiếp cận được với dịch vụ y tế có chất lượng là một vấn đề nan giải đối với nhiều nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. Tuy nhiên, một số nước đã áp dụng thành công mô hình ký hợp đồng thuê ngoài trong cung cấp dịch vụ y tế không chỉ làm cho diện phục vụ được mở rộng mà sự tồn tại của ba hình thức cung ứng đã làm tăng tính cạnh tranh của các nhà cung ứng và bản thân cơ sở dịch vụ y tế của chính phủ như cách làm của Campuchia.

Cuối thập kỷ 90 của thế kỷ trước, hệ thống chăm sóc sức khoẻ cộng đồng vẫn còn thô sơ, bệnh nhân than phiền chất lượng rất thấp. Đứng trước thực tế đó, chính phủ Campuchia đã thực hiện một loạt các giải pháp nhằm quyết tâm cải thiện tình trạng hiện tại, trong số đó phải kể đến hình thức hợp đồng thuê ngoài. Vào năm 1998, chính phủ đã ký hợp đồng với các tổ chức phi chính phủ để cung ứng dịch vụ y tế ở một số huyện. Ký hợp đồng thuê dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu bao gồm hai hình thức hoặc thuê trong hoặc thuê ngoài. Để thấy được hiệu quả do ký hợp đồng thuê dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, chính phủ đã đưa ra ba vùng sử dụng hình thức cung ứng khác nhau. Nhà thầu được chọn thông qua một quá trình cạnh tranh dựa trên chất lượng đề xuất kỹ thuật và giá cả của họ. Có ba cách tiếp cận được sử dụng: - Thuê ngoài, nhà thầu có toàn bộ trách nhiệm cung ứng dịch vụ đã nêu cụ thể trong huyện, trực tiếp tuyển dụng nhân viên và có toàn quyền kiểm soát quản lý.

Bên cạnh đó việc cải thiện khả - Thuê trong, nhà thầu chỉ hỗ trợ quản lý cho các nhân viên y tế dịch vụ công, và các chi phí năng tiếp cận dịch vụ giáo dục hoạt động thường xuyên được chính phủ cung cũng được các nước nghiên cứu cấp thông qua những kênh thông thường của và áp dụng thông qua việc cung chính phủ. ứng dịch vụ giáo dục nhằm tạo ra tính cạnh tranh giữa nhà cung - Vùng đối chứng, duy trì hình thức chính phủ ứng khu vực công và khu vực tư cung ứng bình thường. Điểm lưu ý ở đây đó là ngân sách chỉ hỗ trợ cho hai địa bàn nơi áp dụng để nâng cao chất lượng dịch vụ hình thức thuê trong và đối chứng. giáo dục. Thông thường, cung ứng dịch vụ giáo dục thuộc về nhiệm vụ của chính phủ. Tuy nhiên, với xu hướng xã hội hoá lĩnh vực giáo dục, tư nhân đã tham gia vào cung ứng làm cho tính cạnh tranh giữa khu

45


CHƯƠNG 4: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ GIẢI QUYẾT ĐÓI NGHÈO

Chương trình cấp thẻ đi học của Côlômbia nổi bật với hai ưu điểm: (i) thứ nhất, chương trình này không làm giảm nguồn lực dành cho các trường công. Chính phủ duy trì mức tài trợ hiện có cho các trường công, mặc dù trường công và trường tư sẽ vẫn phải cạnh tranh để thu hút học sinh được cấp thẻ; (ii) thứ hai, để tránh chỉ trích cho rằng việc cấp thẻ đi học là một trợ cấp ròng cho người giàu với những chi phí của người nghèo, chỉ có những học sinh nghèo mới được cấp thẻ. Các hộ gia đình được chia thành 6 bậc, từ nghèo nhất đến giàu nhất. Chỉ có các hộ ở bậc một và bậc hai (nghèo nhất) mới đủ điều kiện xin cấp thẻ.

vực công và tư ngày càng cao. Chương trình cấp thẻ đi học ở Côlômbia là một trong các cách thức cải thiện khả năng tiếp cận dịch vụ giáo dục đối với người nghèo, đây là một chương trình được đánh giá là hiệu quả nhất trên thế giới hiện nay. Thẻ đi học chỉ cấp cho người nghèo có giá trị cao hơn chi phí cho một năm học của một trường trung bình và thấp hơn với một trường nổi tiếng. Người có thẻ có thể vào học cả ở trường công và trường tư. Chính điều này đã tạo ra tính cạnh tranh lớn giữa trường công và tư để thu hút đối tượng được cấp thẻ đi học.

Ngoài ra, trợ cấp trực tiếp có điều kiện cho đối tượng thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản còn áp dụng cho một số đối tượng nhất định. Ở Mêhicô có chương trình Progresa nhằm giảm đói nghèo hiện tại và tăng đầu tư vào vốn con người, chấm dứt đói nghèo triền miên qua nhiều thế hệ. Chương trình này được ra đời trong điều kiện số lượng người nghèo được tiếp cận với dịch vụ y tế rất thấp, tỷ lệ trẻ em thất học và tình trạng trốn học, bỏ tiết ở các vùng nghèo rất cao đã áp dụng trợ cấp bằng tiền cho người nuôi những đứa trẻ và thường là người mẹ. Với cách thức đưa tiền trực tiếp cho đối tượng thụ hưởng các dịch vụ cơ bản đã mang lại nhiều thành công cho những đối tượng được hỗ trợ trực tiếp và chỉ số thoát nghèo cũng đạt kết chương trình Progresa là chương trình quả cao hơn cách thức hỗ trợ bằng hiện giáo dục, y tế và dinh dưỡng trợ cấp cho những gia đình nghèo để cho con em vật. Với tính tập trung cao, chương trình dưới 18 tuổi được đi học từ lớp thứ ba chỉ có một cầu nối duy nhất giữa cán bộ bậc tiểu học đến lớp thứ ba bậc trung chương trình và những người thụ hưởng, học. Mức trợ cấp tăng theo cấp học và đó là nữ tuyên truyền viên cộng đồng - các bé gái được nhận cao hơn một chút người này có thể là liên lạc viên giữa so với các bé trai. Đối với học sinh năm những người thụ hưởng và nhà cung thứ ba trung học, trợ cấp bằng khoảng ứng, do một hội đồng các hộ gia đình 46% mức thu nhập trung bình của một người làm nông nghiệp. Những gia đình chọn ra. Chương trình này có một loạt có trẻ em đã bị bỏ học hơn 15% số ngày các ưu điểm như chống lại xu hướng đến trường trong một tháng hoặc bị lưu trong các gia đình nghèo thiên về tiêu ban quá một lần sẽ không được nhận trợ dùng hiện tại bằng cách khuyến khích cấp tiền của tháng đó.

46


CHƯƠNG 4: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ GIẢI QUYẾT ĐÓI NGHÈO

đầu tư vào vốn con người; chương trình này đã nhận thức được mối quan hệ giữa giáo dục, y tế và dinh dưỡng; để dàn rộng nguồn lực có hạn của chính phủ, chương trình đã gắn việc trợ cấp tiền mặt với hành vi của hộ gia đình, nhằm mục đích thay đổi thái độ; với mục đích, qui chế và yêu cầu của chương trình cũng như phương pháp đánh giá đã được công bố rộng rãi đã giảm bớt sự can thiệp chính trị. Kết quả chương trình Progresa đã làm tăng số lượng học sinh đi học ở tất cả các cấp, đặc biệt tỷ lệ nhập học của các bé gái. Ngoài ra, chương trình đã cải thiện được tình trạng còi xương, suy dinh dưỡng của trẻ em ở các hộ nghèo. Cuối cùng, chương trình không chỉ tạm thời tăng thu nhập mà nó còn giúp tăng năng suất và thu nhập trong tương lai của những đứa trẻ thụ hưởng.

c. Quản lý rủi ro, hạn chế nguy cơ bị tổn thương Người nghèo luôn phải đối mặt với vô vàn rủi ro, tuy nhiên, khi gặp những rủi ro họ rất lúng túng không biết phải giải quyết như thế nào. Chính vì vậy, các nước đã có các chương trình hỗ trợ người nghèo quản lý rủi ro sao cho hạn chế rủi ro tới mức thấp nhất và giảm thiểu tác động của các cú sốc. Cách thức để quản lý rủi ro thì đa dạng và không giống nhau cho các quốc gia nhưng qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước cho thấy có thể giảm thiểu rủi ro bằng cách bảo hiểm là hiệu quả nhất. Xuất phát từ các rủi ro mà người nghèo phải đối mặt, có nhiều công cụ hỗ trợ cho người nghèo quản lý rủi ro đó. Trong đấy, phải kể tới một công cụ có tác dụng phân tán rủi ro cao đó là bảo hiểm, bao gồm bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tuổi già… Cách thức bảo hiểm của các loại hình bảo hiểm này không giống nhau ở các nước. Với Singapore, ba cấp độ bảo hiểm y tế không những khắc phục được tính đa dạng rủi ro mà còn đảm bảo được công bằng trong chăm sóc sức khoẻ, bởi Singapore là một trong các quốc gia thành công trong quản lý rủi ro cho người nghèo thông qua hệ thống bảo hiểm y tế phổ cập hỗ trợ người nghèo. Giống như một người trợ giúp cuối cùng, khi bệnh nhân không (Trợ cấp của Medifund được phân biệt theo thứ hạng có khả năng trả viện phí thì có của các cơ sở y tế và vì thế đã tự định hướng vào thể xin trợ cấp một khoản, những người sử dụng nghèo ) dựa vào tiêu chuẩn mức sống, từ Uỷ ban Medifund đặt tại

47


CHƯƠNG 4: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ GIẢI QUYẾT ĐÓI NGHÈO

các bệnh viện của họ. Khoản viện phí đó sẽ được tài trợ từ thặng dư ngân sách của chính phủ. Bên cạnh đó, Indonesia với việc thực hiện bảo hiểm y tế qua phát triển quỹ y tế thôn bản đã góp phần chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho người dân, đặc biệt là người nghèo trên phạm vi toàn quốc đã thực sự cải thiện được chất lượng tiếp cận dịch vụ y tế của người dân. Từ đầu thập kỷ 70 của thế kỷ XX, Bộ Y tế Indonesia đã khuyến khích chương trình quỹ xây dựng sức khoẻ thôn bản. Mục tiêu của chương trình là mở diện rộng bao phủ các dịch vụ y tế qua việc khuyến khích cộng đồng tham gia đóng góp kinh phí duy trì các cơ sở y tế của họ. Quỹ sức khoẻ nông thôn là một chương trình chăm sóc sức khoẻ rất đơn giản dựa vào cộng đồng trên nguyên tắc thanh toán trước. Từ đầu thập kỷ 80, chương trình xây dựng y tế thôn bản đã gắn liền với các nguyên tắc công bằng xã hội, phổ cập có chú trọng đến chất lượng khám chữa bệnh, y tế dự phòng cùng với thúc đẩy nâng cao sức khoẻ. Bên cạnh phát triển y tế thôn bản, chính phủ đồng thời tiến hành bảo hiểm y tế cộng đồng nhằm tập trung vào chăm sóc sức khoẻ ban đầu, bao gồm thúc đẩy nâng cao sức khoẻ (dự phòng, dịch vụ điều trị và phục hồi chức năng) và đảm bảo chất lượng. Mặc dù về nhiều phương diện bảo hiểm y tế cộng đồng ở Indonesia tương tự như các phương thức bảo hiểm khác nhưng sự khác nhau đáng kể của nó là việc chủ động quản lý rủi ro và trực tiếp tham gia vào cung cấp các dịch vụ y tế. Để đảm bảo công bằng, bảo hiểm y tế cộng đồng dựa trên nguyên tắc thanh toán trước theo đầu người, chia sẻ rủi ro và lợi ích giữa những người đóng góp trong cộng đồng, cơ quan quản lý bảo hiểm y tế cộng đồng và cơ sở y tế, thoả thuận bằng hợp đồng, cơ chế rõ ràng cho việc khiếu nại và giải quyết tranh chấp, bảo đảm chất lượng giám sát qui trình và cơ cấu dịch vụ y tế. Để chương trình phát huy hiệu quả, bốn bên phải tham gia vào chương trình bảo hiểm y tế cộng đồng là: - Các cộng đồng người sử dụng: Họ là thành viên của một gia đình, một nhóm hay một tổ chức thường xuyên thanh toán tiền để nhận được các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ; - Mạng lưới y tế có tổ chức: Mạng lưới này cung cấp các dịch vụ y tế một cách toàn diện và có hiệu quả. Các dịch vụ này bao gồm thúc đẩy nâng cao sức khoẻ, phòng chữa bệnh và phục hồi chức năng; - Tổ chức chăm sóc sức khoẻ có quản lý chính thức: Các tổ chức này chịu trách nhiệm thực hiện công việc hàng ngày của chương trình bảo hiểm y tế cộng đồng; - Các tổ chức chuyên môn của trung ương hay địa phương là người giám sát sự phát triển và thực hiện chương trình bảo hiểm y tế cộng đồng. Bảo hiểm y tế cộng đồng cũng sẽ được sử dụng như một chiến lược để

48


CHƯƠNG 4: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ GIẢI QUYẾT ĐÓI NGHÈO

khắc phục sự lệ thuộc của cộng đồng vào mạng lưới an sinh xã hội của chính phủ cho chương trình y tế - một chương trình cứu trợ nhằm duy trì tình trạng sức khoẻ của cộng đồng. Chính sách của Bộ Y tế là bảo hiểm y tế cộng đồng cần phải được triển khai trong khuôn khổ của chương trình cứu trợ này với việc nhà nước trả phí bảo hiểm cho người nghèo. Bộ Y tế thành lập cơ quan chịu trách nhiệm ở tất cả các tỉnh để nhanh chóng giúp cho người tham gia chương trìnhbảo hiểm y tế cộng đồng và chương trình cứu trợ, qua đó duy trì tình trạng sức khoẻ của cộng đồng và hỗ trợ chương trình bảo hiểm y tế cộng đồng lồng ghép.

d. Tăng cường năng lực cho người nghèo Người nghèo thường không được tự tin và thường không có điều kiện tham gia vào các hoạt động cộng đồng. Tuy nhiên, để người nghèo thoát ra được cảnh khó khăn, túng thiếu không chỉ là hỗ trợ về thu nhập hay giúp đỡ họ vượt qua những rủi ro mà còn là giúp họ tự tin hơn trong cuộc sống và có điều kiện tiếp cận với các hoạt động xã hội vì người nghèo. Họ cần được tham gia vào việc xác định nhu cầu gắn với các hoạt động do cá nhân, tổ chức và nhà nước trợ giúp. Nhìn chung ở các nước có nhiều hình thức hỗ trợ người nghèo khác nhau và phổ biến nhất vẫn là hình thức kết hợp giữa nhà nước và các tổ chức, cá nhân cùng tham gia thực hiện nhằm nâng cao năng lực cho người nghèo một cách hiệu quả và giảm thiểu gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Điển hình, Ấn độ đã triển khai thành công và hiệu quả chương trình khắc phục những rủi ro do thiên tai có sự tham gia giữa Nhà nước và người dân dựa trên cơ sở phân loại những mức độ, đối tượng cần được tham gia giúp đỡ. Đồng thời, có sự tham gia của người dân cũng rút ngắn khoảng cách khoảng cách giữa Nhà nước và người dân, đặc biệt người dân biết được quyền lợi của mình, và họ làm việc cần cù để đảm bảo điều đó. Bên cạnh đó, nếu như ý kiến của họ không được giải quyết thoả đáng ở dưới thì họ có thể mang ý kiến đó lên cấp trên yêu cầu giải quyết. Tính hiệu quả của chương trình đã tạo điều kiện thuận lợi cho Nhà nước kêu gọi các nhà tài trợ, tổ chức hảo tâm cùng tham gia vào khắc phục hậu quả của thiên tai. Với cách làm như vậy đã giải quyết được hai vấn đề cùng một lúc là huy động được nguồn lực từ các tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện các dự án và các dự án này do người dân tham gia xây dựng, thực hiện và giám sát nên thực sự đem lại hiệu quả phục vụ lợi ích người dân. Như vậy, thông qua thu hút người dân địa phương vào các hoạt động tái thiết có thể củng cố tinh thần lãnh đạo và tăng cường tình đoàn kết, điều này sẽ giúp giảm nhẹ những tổn thương tâm lý mà thiên tai đã gây ra. Điều quan trọng hơn cả đó là giúp cho cộng đồng đặc biệt là người nghèo trực tiếp tham gia vào các hoạt động trợ giúp nhằm đem lại lợi ích cao nhất cho họ.

49


CHƯƠNG 4: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ GIẢI QUYẾT ĐÓI NGHÈO

Cũng là giúp người nghèo chống đỡ với rủi ro và hạn chế các tổn thương, Bănglađét được nhắc đến nhiều với các tổ chức dịch vụ pháp lý giúp người nghèo có được sự bảo vệ của hệ thống pháp luật. Các tổ chức dân sự, như các tổ chức dịch vụ pháp luật, đóng một vai trò chủ chốt trong việc hỗ trợ những người nghèo tiếp cận các lợi ích và sự bảo vệ hệ thống pháp luật. Họ bảo vệ các cá nhân trước sự phân biệt đối xử phi pháp trong công việc, cuộc sống gia đình và giúp họ thực thi quyền tài sản, quyền sử dụng các dịch vụ cơ bản và lấy lại trật tự toà án để bảo vệ phụ nữ tránh khỏi sự thô bạo trong gia đình.

Cộng đồng pháp lý ở Bănglađét đã thành lập một số tổ chức tư vấn pháp lý. Tổ chức Ain O Salin Kendra (ASK), được thành lập năm 1986, mong muốn thực hiện cải cách pháp luật thông qua việc đứng ra đại diện cho phụ nữ và trẻ em nghèo, các tầng lớp công nhân có tổ chức, những người nghèo nông thôn và dân cư trong các đô thị nghèo. Tổ chức này hỗ trợ pháp lý chủ yếu về các vấn đề gia đình bao gồm vấn đề bạo lực đối với phụ nữ. Việc đại diện cho các nạn nhân được sử dụng trong các vụ án hình sự và khi các quyền pháp lý cơ bản bị vi phạm. ASK điều tra và theo dõi sự vi phạm luật định, nhân quyền kể cả việc tratấn của cảnh sát, giết người và các vụ tử nạn ở các nhà máy.Tổ chức này giám sát hoạt động của các đồn cảnh sát để thu thập thông tin về sự vi phạm đối với phụ nữ và trẻ em và theo dõi các vụ được báo tại đồn công an.

50


CHƯƠNG 4: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ GIẢI QUYẾT ĐÓI NGHÈO

51


CHƯƠNG 5: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Chƣơng V: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Nội dung phần này: a. Bài học về tạo cơ hội cho người nghèo b. Bài học về cải thiện khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản c. Bài học về quản lý rủi ro và giảm nguy cơ bị tổn thương d. Bài học về tăng cường năng lực cho người nghèo

52


CHƯƠNG 5: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

a. Bài học về tạo cơ hội cho người nghèo Thứ nhất là cần triển khai thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các chính sách giảm nghèo, đặc biệt đối với những chính sách có tác động trực tiếp đến giảm nghèo có như vậy mới đảm bảo tăng trưởng mang lại lợi ích cho người nghèo và tránh được những tác động xấu không đáng có cho nền kinh tế như ở những năm cuối của giai đoạn đầu tiên của chương trình giảm nghèo Trung Quốc. Thứ hai là tập trung đầu tư có hiệu quả vào các xã nghèo nhằm đảm bảo việc đầu tư tập trung nguồn lực cho từng xã, tránh tình trạng đầu tư dàn trải, không đủ nguồn lực giải quyết và không cải thiện được tình trạng nghèo trong thực tế. Ở Trung Quốc đã áp dụng mô hình đầu tư cuốn chiếu rất hiệu quả. Thứ ba là có chính sách, giải pháp riêng cho nhóm đối tượng đặc biệt: dân tộc thiểu số, người tàn tật và phụ nữ để giúp họ thoát khỏi đói nghèo cùng với người nghèo khác. Cụ thể: Tăng cường sự đối xử đặc biệt với dân tộc thiểu số, tăng tiêu chuẩn trợ cấp và hỗ trợ nhiều hơn cho các vùng dân tộc thiểu số. Nên thành lập một quĩ riêng từ ngân sách nhà nước để hỗ trợ vùng dân tộc thiểu số. Cần xác định ngân sách Nhà nước chỉ nên đầu tư vào những vùng nghèo trọng điểm quốc gia như các tỉnh miền núi phía Bắc hay Tây Nguyên, đây là nơi tập trung cao dân tộc thiểu số. Các tỉnh thành không thuộc các vùng trên điều kiện về kinh tế phát triển hơn phải tự dùng ngân sách địa phương là chính để hỗ trợ cho người nghèo của địa phương mình. Thứ tư là tăng cường việc huy động và tổ chức mọi thành phần xã hội tham gia hỗ trợ người nghèo. Về vấn đề này, Việt Nam đã triển khai thực hiện, tuy nhiên ở một số địa phương còn mang tính hình thức. Để khắc phục tình trạng này, trong thời gian tới nên nghiên cứu áp dụng kinh nghiệp của Trung Quốc có thể sẽ thực sự hữu ích cho đời sống của người nghèo.

(Trung Quốc đã có chương trình huy động các tổ chức, cá nhân cùng tham gia vào các chương trình giảm nghèo. Thông qua các chương trình mỗi tổ chức hay doanh nghiệp sẽ hỗ trợ một công trình cụ thể ở một địa phương nhất định, do đó đã cải thiện khá đồng bộ và căn bản bộ mặt của nông thôn)

53


CHƯƠNG 5: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Thứ năm là đẩy mạnh sự hợp tác trong giảm nghèo giữa vùng kinh tế phát triển và vùng nghèo. Trên thực tế, bên cạnh một số tỉnh thành đã đạt được thành tựu lớn trong phát triển kinh tế - xã hội vẫn tồn tại một số vùng ở Việt Nam mà mức độ đói nghèo rất nghiêm trọng như các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên hay các tỉnh duyên hải miền Trung. Thứ sáu là tạo cơ hội cho người nghèo không nhất thiết phải bằng cách hỗ trợ vốn vay dưới hình thức ưu đãi mà là tạo điều kiện để người nghèo có thể tham gia vào các loại hình dịch vụ cũng như được hỗ trợ về mặt quản lý trong sản xuất kinh doanh. Đó là điều mà người nghèo cần để là làm thế nào sử dụng được vốn vay một cách hiệu quả để tự thoát nghèo như kinh nghiệm của ngân hàng Grameen ở Bănglađét.

Ở Băngladet để đảm bảo quyền lợi cho người nghèo, bên cạnh việc được vay vốn, họ còn được tham gia các loại hình dịch vụ khác như gửi tiết kiệm, chương trình bảo hiểm hay quĩ lương hưu. Và quan trọng hơn đó là được hỗ trợ hướng dẫn cách quản lý vốn cũng như kiến thức sản xuất kinh doanh.

b. Bài học về cải thiện khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản Thứ nhất là đa dạng hoá hình thức cung ứng dịch vụ y tế. Cung cấp dịch vụ cơ bản là một trong những nhiệm vụ mà chính phủ cần đảm nhận nhằm khắc phục thất bại của thị trường, tuy nhiên, không phải lúc nào chính phủ cũng trực tiếp cung ứng. Với nguồn lực ban đầu, nhiệm vụ của chính phủ là tìm ra phương thức cung ứng hiệu quả nhất. Trường hợp ký hợp đồng thuê ngoài trong cung cấp dịch vụ y tế không chỉ làm cho diện phục vụ được mở rộng mà sự tồn tại của ba hình thức cung ứng đã làm tăng tính cạnh tranh của các nhà cung ứng và bản thân cơ sở dịch vụ y tế của chính phủ cũng cần xem xét lại cách thức hoạt động của mình nếu như còn muốn tiếp tục được hoạt động. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng với Việt Nam vì hiện tại phần lớn cung ứng dịch vụ y tế vẫn do khu vực công trực tiếp đảm nhiệm nên diện phục vụ cũng như chất lượng còn nhiều bất cập. Đặc biệt, đối với đối tượng thu nhập trung bình hay thấp trong xã hội thì để tiếp cận được với dịch vụ tế có chất lượng là một vấn đề nan giải. Do đó, hình thức ký hợp đồng thuê dịch vụ trong lĩnh vực y tế ở Campuchia là bài học quí giá cho Việt Nam. Bước đầu áp dụng hình thức thuê trong để các nhà thầu có thể hỗ trợ quản lý cho các nhân viên y tế dịch vụ công vì hiện tại khâu quản lý trong lĩnh vực này còn nhiều yếu kém. Tiếp đến, từng bước áp dụng hình thức thuê ngoài dịch vụ ở các đô thị lớn và vùng đồng bằng vì ở đây có thể đáp ứng được yêu cầu trực tiếp tuyển dụng nhân viên theo tiêu chuẩn của nhà cung ứng. Ngoài ra, khi áp dụng hình thức thuê dịch vụ, nhân viên y tế được trả lương theo lương thị trường nên hạn chế được tình trạng người hưởng dịch vụ phải trả thêm khoản tiền phi chính thức. Đây là một trong những trở ngại khiến cho nhiều người nghèo không muốn tới khám chữa bệnh ở các

54


CHƯƠNG 5: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

bệnh viện công khi bị ốm đau. Thứ hai là tạo ra tính cạnh tranh giữa nhà cung ứng khu vực công và khu vực tư để nâng cao chất lượng dịch vụ giáo dục. Thông thường, cung ứng dịch vụ giáo dục thuộc về nhiệm vụ của chính phủ. Tuy nhiên, với xu hướng xã hội hoá lĩnh vực giáo dục, tư nhân đã tham gia vào chuỗi cung ứng làm cho tính cạnh tranh giữa khu vực công và tư ngày càng cao. Chương trình cấp thẻ đi học ở Côlômbia là một trong các cách thức cải thiện khả năng tiếp cận dịch vụ giáo dục đối với người nghèo. Thẻ đi học chỉ cấp cho người nghèo có giá trị cao hơn chi phí cho một năm học của một trường trung bình và thấp hơn với một trường nổi tiếng. Người có thẻ có thể vào học cả ở trường công và trường tư. Chính điều này đã tạo ra tính cạnh tranh lớn giữa trường công và tư để thu hút đối tượng được cấp thẻ đi học. Cách làm này hoàn toàn có thể áp dụng được ở Việt Nam, đặc biệt ở các đô thị lớn nơi mà hiện nay hệ thống trường tư phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, khi áp dụng hình thức cấp thẻ đi học cho đối tượng người nghèo cần có cơ chế giám sát chất lượng dịch vụ giáo dục được cung ứng để tránh tình trạng bệnh “thành tích” trong giáo dục - một căn bệnh nguy hiểm trong giáo dục ở Việt Nam. Thứ ba là trợ cấp trực tiếp có điều kiện cho đối tượng thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản. Ở Việt Nam thực tế một số địa phương đã áp dụng hình thức trợ cấp gần như chương trình Progresa ở Mêhicô. Điểm khác biệt với Progresa là thay vì trợ cấp bằng tiền cho người nuôi những đứa trẻ và thường là người mẹ, ở một số tỉnh hỗ trợ giáo dục cho người nghèo bằng hiện vật. Cụ thể, nếu đứa trẻ đi học thì gia đình đó sẽ được nhận một số lượng gạo nhất định. Bên cạnh đó, chính phủ Việt Nam cũng Hàng ngàn học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó đã có chính sách hỗ trợ về giáo khăn tại Quảng Bình vừa được nhận 255 tấn gạo dục, y tế cho người nghèo. của Cục Dự trữ Nhà nước khu vực Bình Trị Thiên. Cách thức hỗ trợ chủ yếu vẫn là (Nguồn ảnh: Dân trí) hiện vật như: sách giáo khoa và đồ dùng học tập ở vùng miền núi, vùng sâu vùng xa; cấp thẻ khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo; miễn giảm học phí cho đối tượng người nghèo. Thực tế, các chính sách này đã được triển khai trong một thời gian dài nhưng tác động chưa lớn. Với cách thức đưa tiền trực tiếp cho đối tượng thụ hưởng các dịch vụ cơ bản, chương trình Progresa ưu việt hơn nhiều với cách hỗ trợ hiện tại ở Việt Nam. Tuy nhiên, điều kiện để áp dụng kinh

55


CHƯƠNG 5: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

nghiệm này đòi hỏi phải có cơ chế giám sát chặt chẽ đối tượng thụ hưởng cũng như chất lượng ở những nơi cung ứng dịch vụ.

c. Bài học về quản lý rủi ro và giảm nguy cơ bị tổn thương Thứ nhất là cần hỗ trợ người nghèo cách quản lý rủi ro nhằm hạn chế thấp nhất mức độ thiệt hại và tác động có thể xảy ra thông qua các hình thức bảo hiểm như ở một số nước như Singapore, Indonesia sẽ tương đối phù hợp với nước ta. Bởi vì, nếu Việt Nam áp dụng phổ biến loại hình bảo hiểm Medisave cho mọi đối tượng sẽ hạn chế được hiện tượng lựa chọn ngược trong thị trường bảo hiểm. Bên cạnh đó, với hình thức bảo hiểm Medishield và Medifund sẽ đảm bảo công bằng trong tiếp cận dịch vụ y tế cho người nghèo. Indonesia với việc thực hiện bảo hiểm y tế qua phát triển quỹ y tế thôn bản đã góp phần chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho người dân, đặc biệt là người nghèo trên phạm vi toàn quốc, thực sự cải thiện được chất lượng tiếp cận dịch vụ y tế của người dân. Điều này hoàn toàn có thể vận dụng ở vùng nông thôn Việt Nam, nơi mà chiếm một tỷ lệ lớn dân số cũng như người nghèo nhưng hiện nay đang có mức sống cải thiện đáng kể nên hoàn toàn có khả năng đáp ứng được điều kiện đóng một phần kinh phí.

d. Bài học về tăng cường năng lực cho người nghèo Thứ nhất là cần tạo cơ chế để người nghèo được tham gia vào các hoạt động xã hội nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng phục vụ cho việc xác định như cầu hoạt động của người nghèo trong quá trình vươn lên tự thoát nghèo. Thứ hai là cần có sự hỗ trợ dưới các hình thức khác nhau giúp người nghèo nâng cao năng lực của họ. Sự xuất hiện của các tổ chức hỗ trợ pháp lý hay tổ chức dịch vụ pháp lý sẽ là kinh nghiệm tốt cho Việt Nam trong việc bảo vệ quyền lợi của người nghèo cũng như tăng cường năng lực của họ trong xã hội. Thực tế, Việt Nam cũng đã có một vài tổ chức hỗ trợ pháp lý cho người dân trong đó có người nghèo. Tuy nhiên, những tổ chức này chưa thực sự nhận được sự tin tưởng từ người dân vì hiệu quả mà tổ chức mang lại còn hạn chế. Vấn đề tham gia của người dân, đặc biệt người nghèo đã được triển khai ở Việt Nam trên cơ sở nền tảng của qui chế dân chủ cấp cơ sở trong các hoạt động giảm nghèo nhưng mức độ tham gia còn hạn chế, đôi khi mang nặng hình thức. Mô hình thu hút sự tham gia cộng đồng vào các hoạt động tái thiết có ý nghĩa quan trọng với các vùng thường xuyên bị ảnh hưởng của thiên tai ở Việt Nam.

56


CHƯƠNG 5: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Kết luận Giảm nghèo bền vững là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, địa bàn và giữa các dân tộc, nhóm dân cư. Đến nay, Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình ở mức thấp và đặt mục tiêu tham vọng là trở thành một nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại vào năm 2020 và tránh được bẫy thu nhập trung bình trong giai đoạn sau đó. Mặc dù Việt Nam đã thoát khỏi danh sách các nước nghèo nhất, song không có nghĩa là công cuộc giảm nghèo đã được hoàn tất. Còn nhiều thách thức phía trước như: Vẫn còn một chặng đường rất dài để giúp cho người nghèo thoát hẳn khỏi nghèo đói; cải cách hệ thống an sinh xã hội sao cho vừa mang tính phổ cập lại vừa bền vững về mặt tài chính; giải quyết nghèo đô thị đang trở nên nan giải hơn; giải quyết vấn đề nghèo trẻ em; bất bình đẳng cũng có thể sẽ gia tăng đáng kể trong trung và dài hạn nếu không có các giải pháp phù hợp và chủ động; người nghèo ít có cơ hội tham gia vào quá trình hoạch địch chính sách ở cả cấp địa phương cũng như cấp trung ương… Những thách thức nói trên đòi hỏi sự nỗ lực của tất cả các bên liên quan, từ các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cộng đồng, toàn bộ xã hội và bản thân người nghèo. Trong đó, một lần nữa cần nhấn mạnh lại, cơ quan dân cử và đại biểu dân cử đóng vai trò hàng đầu. Là cơ quan đại diện, người đại diện cho lợi ích của cử tri, trong đó có người nghèo, cơ quan dân cử, đại biểu dân cử có cơ hội lắng nghe tiếng nói của người nghèo và những chủ thể khác về các vấn đề nghèo đói, thách thức, giải pháp giảm nghèo bền vững. Là cơ quan lập pháp, nhà lập pháp, cơ quan dân cử, đại biểu dân cử xem xét, ban hành chính sách, pháp luật để giải quyết các thách thức nói trên. Là cơ quan giám sát, người giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, cơ quan dân cử, đại biểu dân cử có điều kiện và trách nhiệm giám sát các cơ quan nhà nước khác thực hiện các chính sách giảm nghèo. Hy vọng, với những kiến thức, kỹ năng cơ bản liên quan đến xây dựng, hoàn thiện chính sách về giảm nghèo, tập san này sẽ góp phần hỗ trợ đại biểu dân cử thực hiện vai trò trọng đại của mình, làm cho chính sách giảm nghèo bền vững đi vào cuộc sống, người nghèo thoát hẳn khỏi đói nghèo, giảm thiểu rủi ro rơi vào nghèo, cả xã hội ngày càng phồn vinh.

57


Tài liệu tham khảo 1. Giảm nghèo ở Việt Nam: Thành tựu và thách thức - Viện khoa học xã hội 2. Đánh giá các tác động chính sách giảm nghèo của Thành phố Hồ Chí minh giai đoạn 2009 - 2013. 3. Báo cáo đánh giá dự hạ tầng cơ sở cở nông thông dựa vào cộng đồng và dự án giảm nghèo 4. Dự án giảm nghèo các tỉnh miền núi phía bắc - Bộ kế hoạch đầu tư 2005 5. Ban chỉ đạo quốc gia thực hiện chiến lực toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo 2005 6. Việt Nam tăng trưởng và giảm nghèo - báo cáo thường niên 2004 2005 Hà Nội 7. Bộ phát triển quốc tế Anh 2002 về chiến lược thực hiện các mục tiêu của Việt Nam - cung cấp giao dục cơ bản có chất lượng cho mọi người, Hà Nội 8. Kỹ năng giám sát của Đại biểu Quốc hội - Ban Công tác Đại biểu, Nhà xuất bản Công an Nhân dân 2008

58


59


MỘT SỐ TẬP SAN ĐÃ PHÁT HÀNH CỦA TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.