Tập san văn phòng đoàn

Page 1



BIÊN TẬP TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU DÂN CỬ

TRỤ SỞ 22 HÙNG VƯƠNG BA ĐÌNH - HÀ NỘI ĐT: 080 44352 FAX: 080 46003 Website: www.ttbd.gov.vn Email: ttbd@qh.gov.vn


Trang Mục Lục.............................................................................................................. 4 Giới thiệu ........................................................................................................... 5 PHẦN I. TỔNG QUAN VỀ VĂN PHÒNG ĐOÀN ĐBQH VÀ HĐND ................... 6 1. Vị trí, chức năng, cơ cấu tổ chức ........................................................... 6 2. Một số hạn chế, khó khăn và giải pháp khắc phục ............................... 8 PHẦN II: NÂNG CAO HIỆU QUẢ THAM MƯU, GIÚP VIỆC TRONG MỘT SỐ LĨNH VỰC............................................................................................ 14 1. Trong việc xây dựng dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết ....................... 14 1.1. Yêu cầu đối với công tác tham mưu trong lĩnh vực này ..................... 14 1.2. Các giải pháp để nâng cao hiệu quả tham mưu ................................. 15 2. Trong hoạt động giám sát........................................................................ 18  Tham mưu chương trình giám sát hàng năm ....................................... 18  Tham mưu lập kế hoạch cụ thể cho từng cuộc giám sát ...................... 19  Tham mưu, chuẩn bị công cụ sử dụng trong giám sát .......................... 19  Tham mưu triển khai chương trình để thực hiện giám sát .................... 20  Tham mưu xây dựng báo cáo kết luận giám sát ................................... 21  Tham mưu theo dõi hậu giám sát ......................................................... 21

PHẦN III: MỘT SỐ KỸ NĂNG THAM MƯU, GIÚP VIỆC CỦA VĂN PHÒNG ĐOÀN ĐBQH VÀ HĐND .............................................................. 22 1. Kỹ năng thu thập và phân tích thông tin ................................................ 22 2. Kỹ năng xây dựng báo cáo ...................................................................... 28 3. Tham mưu xem xét dự án Luật, dự thảo Nghị quyết ............................ 34 4. Đánh giá tác động điều chỉnh của quy phạm pháp luật (RIA) .............. 38

4


LỜI GIỚI THIỆU Văn phòng đoàn ĐBQH và HĐND là cách tay đắc lực của ĐBQH, Đoàn ĐBQH và thường trực HĐND, đại biểu HĐND về công tác tham mưu, giúp việc, phục vụ các hoạt động của đại biểu dân cử tại địa phương. Với mục đích nhằm cung cấp thêm một vài kỹ năng để nâng cao hiệu quả chất lượng tham mưu, phục vụ của cán bộ Văn phòng Đoàn ĐBQH và HDND, Trung tâm Bồi dưỡng đại biểu dân cử biên soạn tập san “Một số vấn đề và giải pháp để nâng cao hiệu quả trong tổ chức, hoạt động của văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND” Nội dung tập san khái quát về tổ chức hoạt động và chức năng nhiệm vụ của Văn phòng Đoàn ĐBQH và HDND; bên cạnh đó nêu lên một số kỹ năng để nâng cao hiệu quả hoạt động trong tham mưu góp ý về các dự án Luật, pháp lệnh, dự thảo Nghị quyết; vấn đề giám sát và một số kỹ năng cần có trong công tác tham mưu, phục vụ chung. Phần I của tập san trình bày về tổ chức, hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của Văn phòng đoàn ĐBQH và HĐND. Phần II trình bày hiện trạng việc tham mưu, phục vụ; nêu lên một số giải pháp, gợi ý nhằm nâng cao chất lượng của Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND trong việc tham mưu cho Đoàn ĐBQH hoặc HĐND tham gia vào việc xây dựng dự án Luật, pháp lệnh, dự thảo Nghị quyết; công tác giám sát. Phần III đề xuất một số kỹ năng trong công tác tham mưu, phục vụ chung và hướng dẫn cách viết một số loại báo cáo phục vụ trong công tác của Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND. Trong khi một số Luật liên quan mới được sửa đổi chưa có hiệu lực, đang chờ Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết hướng dẫn, tập san này trình bày chọn lọc những nội dung khái quát, tổng quan, kỹ năng nhằm hỗ trợ cán bộ phục vụ Đoàn ĐBQH và HĐND trong việc thực hiện chức năng tham mưu trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Đồng thời, một số nội dung có tính đến bối cảnh Văn phòng Đoàn ĐBQH và Văn phòng HĐND tách biệt nhau. Hy vọng tập san đáp ứng được yêu cầu trong giai đoạn chuyển giao này.

5


PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ VĂN PHÒNG ĐOÀN ĐBQH - HĐND 1. Vị trí, chức năng, cơ cấu tổ chức Ngày 20/11/2014, Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức Quốc hội (sửa đổi), theo đó: “Đoàn đại biểu Quốc hội có trụ sở làm việc. Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội là cơ quan tham mưu, giúp việc, phục vụ hoạt động của các đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội tại địa phương. Kinh phí hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội do ngân sách nhà nước bảo đảm” (khoản 4 Điều 43). Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức chính quyền địa phương thay thế Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân quy định: “Văn phòng Hội đồng nhân dân cấp tỉnh là cơ quan tham mưu, giúp việc, phục vụ hoạt động của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh” (khoản 1 Điều 126). Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân có tư cách pháp nhân, có con dấu và được mở tài khoản tại Kho bạc nhà nước theo quy định của pháp luật. Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân làm việc theo chế độ thủ trưởng. Chánh Văn phòng là người đứng đầu Văn phòng, điều hành công việc chung của Văn phòng và chịu trách nhiệm trước Thường trực Hội đồng nhân dân, Trưởng Đoàn, Phó Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội và trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của Văn phòng. Các Phó Chánh Văn phòng giúp Chánh Văn phòng thực hiện nhiệm vụ theo phân công của Chánh Văn phòng. Trong khi chờ hiệu lực của các Luật mới và hướng dẫn cụ thể của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân vẫn được coi là cơ quan giúp việc chung của Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, có nhiệm vụ tham mưu và tổ chức phục vụ hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội, Trưởng Đoàn, Phó Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân (Theo Nghị quyết số 545/2007/NQ-UBTVQH12 ngày 11/12/2007 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội khóa XII). Tổ chức phục vụ hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội, Trưởng Đoàn, Phó Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội: a) Tham mưu xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt động; tổ chức phục vụ việc thực hiện chương trình, kế hoạch đã được phê duyệt; b) Phục vụ Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội trực tiếp đóng góp ý kiến, tổ chức lấy ý kiến đóng góp vào dự án Luật, dự án Pháp lệnh, dự thảo Nghị quyết và các văn bản khác theo yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

6


c) Phục vụ Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội trong hoạt động giám sát; theo dõi, đôn đốc các cơ quan, tổ chức và cá nhân thực hiện kiến nghị trong kết luận giám sát; d) Phục vụ Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý kiến nghị, đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân; đ) Phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan phục vụ đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri; giúp Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội xây dựng báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri gửi cơ quan, tổ chức có trách nhiệm xem xét giải quyết; e) Giúp Trưởng Đoàn, Phó Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tổng hợp tình hình hoạt động của Đoàn để báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội, giữ mối liên hệ với các đại biểu Quốc hội; phục vụ Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội tại kỳ họp Quốc hội và hoạt động đối ngoại. Tổ chức phục vụ hoạt động của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân: a) Tham mưu xây dựng chương trình làm việc, kế hoạch hoạt động hàng tháng, hàng quý, sáu tháng và cả năm của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân; tổ chức phục vụ việc thực hiện chương trình, kế hoạch đã được phê duyệt; b) Tham mưu, phục vụ Thường trực Hội đồng nhân dân điều hành công việc chung của Hội đồng nhân dân, điều hoà, phối hợp hoạt động các Ban của Hội đồng nhân dân; đảm bảo việc thực hiện quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của hội đồng nhân dân, nội quy kỳ họp hội đồng nhân dân; giúp Thường trực Hội đồng nhân dân giữ mối lien hệ với Tổ đại biểu và đại biểu hội đồng nhân dân; phục vụ Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân trong hoạt động đối ngoại; c) GiúpThường trực Hội đồng nhân dân xây dựng chương trình, tổ chức phục vụ kỳ họp Hội đồng nhân dân, cuộc họp của Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban của Hội đồng nhân dân, đôn đốc cơ quan, tổ chức hữu quan chuẩn bị tài liệu các cuộc họp của HĐND, cuộc họp của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân; d) Giúp Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân xây dựng báo cáo công tác; phục vụ Ban của hội đồng nhân dân thẩm tra đề án, báo cáo, dự thảo nghị quyết; giúp thư ký kỳ họp Hội đồng nhân dân hoàn chỉnh Nghị Quyết của Hội đồng nhân dân; giúp Thường trực Hội đồng nhân dân hoàn thiện các nghị quyết của hội đồng nhân dân;

7


đ) Phục vụ Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của hội đồng nhân dân trong hoạt động giám sát; theo dõi, đôn đốc cơ quan, tổ chức và cá nhân thực hiện kiến nghị trong kết luận giám sát; e) Phục vụ Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý kiến nghị, theo dõi đôn đốc việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; g) Phối hợp với cơ quan, tổ chức hữu quan phục vụ đại biểu Hội đồng nhân dân tiếp xúc cử tri, giúp Thường trực Hội đồng nhân dân tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và gửi cơ quan, tổ chức có trách nhiệm xem xét giải quyết; h) Phục vụ Thường trực Hội đồng nhân dân tổ chức lấy ý kiến đóng góp vào dự án Luật, dự án Pháp lệnh và các văn bản khác theo yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội; i) Phục vụ Thường trực Hội đồng nhân dân trong công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; phê chuẩn kết quả bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Ủy viên thường trực Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp; k) Phục vụ Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân trong công tác giao ban, trao đổi kinh nghiệm, bồi dưỡng kỹ năng hoạt động cho đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.

2. Một số hạn chế, khó khăn và giải pháp khắc phục 2.1. Tồn tại, khó khăn Hiện nay bộ máy tổ chức của Văn phòng có nhiều đầu mối lãnh đạo (lãnh đạo Đoàn đại biểu Quốc hội, Thường trực Hội đồng nhân dân, lãnh đạo Ban Hội đồng nhân dân). Theo ý kiến từ trước tới nay của nhiều cán bộ Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND, cũng như lãnh đạo Đoàn ĐBQH, Thường trực HĐND, cơ chế song trùng trực thuộc dẫn đến một số bất cập trong việc lãnh đạo, điều hành, quản lý và sử dụng nhân lực; điều hành, quản lý và sử dụng cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện hoạt động. Mặt khác, chế độ, chính sách thiếu đồng bộ; đội ngũ cán bộ, công chức hạn chế về số lượng và chất lượng, trong khi đó hoạt động của mỗi chuyên viên, mỗi Phòng mang tính riêng lẻ nên khó phát huy hết sức mạnh của tập thể. Một cơ quan nhưng có hai nguồn kinh phí (trung ương và địa phương), hai chế độ chi tiêu khác nhau gây khó khăn cho công tác quản lý, điều hành, gây tâm lý so bì trong nội bộ. Về nhân sự, lãnh đạo Đoàn đại biểu Quốc hội và thường là một Phó Chánh Văn phòng lãnh đạo, quản lý, điều hành trực tiếp bộ phận giúp việc của Đoàn đại biểu Quốc hội, quyền hạn của Chánh Văn phòng đối với bộ phận này rất hạn chế. Theo Nghị quyết 545, chức năng, nhiệm vụ và biên chế từng phòng

8


thuộc văn phòng do Thường trực HĐND sau khi thống nhất với Trưởng đoàn ĐBQH quyết định (không thuộc thẩm quyền Chánh Văn phòng); nhưng mặt khác Nghị quyết 545 quy định Văn phòng làm việc theo chế độ thủ trưởng, Chánh Văn phòng là người đứng đầu Văn phòng, chịu trách nhiệm trước Thường trực HĐND, Trưởng đoàn, Phó Trưởng đoàn ĐBQH và trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của Văn phòng; như vậy trách nhiệm được giao không tương xứng với quyền hạn. Tương tự, Thường trực Hội đồng nhân dân, Chánh Văn phòng và hai Phó Chánh văn phòng lãnh đạo, quản lý, điều hành trực tiếp bộ phận giúp việc của Hội đồng nhân dân. Phòng Hành chính - Tổ chức - Quản trị chủ yếu là phục vụ hoạt động của Hội đồng nhân dân, vì đã có một bộ phận công chức, viên chức cơ cấu tương tự Phòng Hành chính - Quản trị trực tiếp phục vụ Đoàn đại biểu Quốc hội; Phòng Thông tin - Dân nguyện cũng chủ yếu phục vụ hoạt động của Hội đồng nhân dân. Phòng Công tác đại biểu Quốc hội bố trí 2 - 3 chuyên viên, thường là cử nhân luật, trong khi đó, hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội liên quan đến nhiều lĩnh vực, gặp lĩnh vực "trái nghề" các chuyên viên này không thể làm tốt được. Tương tự, Thường trực Hội đồng nhân dân và các Ban cũng thực hiện chức năng, nhiệm vụ ở nhiều lĩnh vực, Phòng Công tác Hội đồng nhân dân với số lượng chuyên viên ít ỏi nên không thể nào đáp ứng được. Trong khi đó, chưa có chính sách thu hút và trọng dụng nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao làm việc ở Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và HĐND. Trong mỗi phòng, mỗi chuyên viên phụ trách mỗi lĩnh vực khác nhau, hoạt động mang tính độc lập, riêng lẻ, không hợp tác được cùng ai. Ngay cả lãnh đạo Văn phòng, lãnh đạo phòng chỉ có chuyên môn ở một lĩnh vực nhất định nên không thể đi sâu sát công việc. Do hai phòng tham mưu độc lập nên các chuyên viên có cùng chuyên môn không có điều kiện hỗ trợ nhau. Do không có hướng dẫn cụ thể về tổ chức bộ máy, biên chế, quản lý tài sản, tài chính nên không có mô hình Văn phòng thống nhất chung trong cả nước (có địa phương thành lập Phòng Thông tin - Dân nguyện, có địa phương chưa thành lập; có địa phương thành lập Trung tâm Thông tin, có địa phương không thành lập…) Trên thực tế, ở nhiều địa phương, Văn phòng chỉ hoạt động khi sinh hoạt Đảng, sinh hoạt của các tổ chức, đoàn thể, còn lại các hoạt động khác đều riêng biệt. Cụ thể: Bộ phận giúp việc cho Đoàn đại biểu Quốc hội và bộ phận giúp việc cho Hội đồng nhân dân làm việc ở hai trụ sở riêng; kinh phí hoạt động từ hai nguồn ngân sách khác nhau; việc lãnh đạo, quản lý, điều hành nhân lực, cũng như quản lý điều hành cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện..., độc lập, tách bạch. Trong hoạt động, đứng trước yêu cầu ngày càng cao hơn về chất lượng, công tác tham mưu, phục vụ của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và HĐND

9


thời gian qua vẫn còn những tồn tại, hạn chế như sau: - Năng lực tham mưu còn hạn chế, chất lượng tham mưu một số lĩnh vực chưa cao. Thực tế hiện nay cán bộ tham mưu, phục vụ phần lớn chỉ chú trọng đến công việc “phục vụ” mà chưa chú ý nhiều đến việc “tham mưu”, nhiệm vụ chính của Văn phòng. Cụ thể, điều này được thể hiện rõ qua nhiệm vụ của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội đối với hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội: Văn phòng được quy định có 06 nhiệm vụ cơ bản trong đó có 01 nhiệm vụ tham mưu, 05 nhiệm vụ phục vụ. - Việc tập hợp tài liệu, thông tin về các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực khó như tài chính, ngân sách chưa kịp thời, còn rất hạn chế, có lĩnh vực thực tế là không có. Hầu hết các Văn phòng Đoàn chậm tham mưu các thông tin về dự toán ngân sách nhà nước, các vấn đề về tài chính, ngân sách. - Bộ phận tham mưu, phục vụ chưa nhận thức được đầy đủ vai trò, chức năng của Văn phòng Đoàn nên chưa chủ động tham mưu, tổ chức việc cung cấp thông tin cho đại biểu; trình độ chuyên môn chưa đồng đều, kiến thức và khả năng phân tích, tổng hợp, dự báo, xử lý thông tin chưa tốt, chưa thật sự nỗ lực trong học tập, nghiên cứu để thực hiện nhiệm vụ được giao. - Công tác chỉ đạo, điều hành hoạt động của Văn phòng thiếu sự điều hòa, phối hợp; Văn phòng khó phân công các nhóm công việc, chưa tạo được sự kết hợp chặt chẽ giữa các bộ phận trong Văn phòng. 2.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác tham mưu Để nâng cao chất lượng công tác tham mưu, đòi hỏi phải có sự đổi mới cả về nhận thức, nội dung, tổ chức, về phương pháp và điều kiện, cụ thể cần tiến hành một số giải pháp sau: Một là, cần kiện toàn lại mô hình tổ chức bộ máy và nhân lực của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và HĐND. Theo các Luật mới, từ năm 2016, Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân sẽ tách thành Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Văn phòng Hội đồng nhân dân theo hướng dẫn của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Tổ chức bộ máy của mỗi Văn phòng đủ mạnh, các phòng chức năng thuộc Văn phòng có tính chuyên nghiệp, chuyên môn hóa theo từng lĩnh vực, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ (ví dụ xem thêm trong hộp dưới đây). Hai là, tham mưu trong việc ban hành Quy chế phối hợp cung cấp thông tin về các vấn đề luật pháp, kinh tế - xã hội, tài chính, ngân sách…Văn phòng Đoàn cần tham mưu cho lãnh đạo Đoàn đại biểu Quốc hội hoặc HĐND về Quy chế phối hợp với nhau, với các cơ quan khác ở địa phương để cập nhật thường xuyên các thông tin về tình hình kinh tế - xã hội, tài chính, ngân sách,... của tỉnh/thành phố, những thay đổi, bất cập về cơ chế chính sách liên quan đến

10


Đề xuất mô hình Văn phòng Đoàn ĐBQH VĂN PHÒNG ĐOÀN ĐBQH

PHÒNG PHÁP CHẾ

PHÒNG KINH TẾ - XÃ HỘI

Có ý kiến đề nghị, Văn phòng Đoàn ĐBQH có thể cơ cấu theo hướng thành lập 02 Phòng chuyên môn (Phòng Pháp chế và Phòng Kinh tế - Xã hội), phục vụ chuyên môn cho các đại biểu Quốc hội. Các Phòng chuyên môn này có thể tham gia, phối hợp với các Vụ tương ứng phục vụ các Ủy ban của Quốc hội trong quá trình thẩm tra các dự án Luật... Các chuyên viên có chức năng tham mưu và tổ chức công việc cho Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội trong nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau. Về số lượng chuyên viên trong Phòng, bảo đảm mỗi phòng có ít nhất 03 - 04 cán bộ, được đào tạo chuyên môn về luật, kinh tế, tài chính, văn hóa, xã hội. Đồng thời, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; thực hiện công tác tuyển dụng công khai, minh bạch; có cơ chế khuyến khích tuyển dụng những người có trình độ năng lực, tâm huyết gắn bó với Văn phòng. Đa số các tỉnh đề nghị thành lập 03 phòng: Phòng Xây dựng pháp luật; phòng Tổng hợp - Dân nguyện (tham mưu các hoạt động giám sát, khảo sát, tiếp xúc cử tri, tiếp dân, giải quyết đơn thư KNTC..); phòng Hành chính - Tổ chức - Quản trị.

tỉnh/thành phố. Ba là, thiết lập quy trình tổ chức, nghiên cứu, tổng hợp, phân tích, cung cấp thông tin, xử lý công việc; quy trình tham mưu, phục vụ Đoàn đại biểu Quốc hội và HĐND. Cần đảm bảo rằng từng cán bộ, công chức trong Văn phòng nắm chắc toàn bộ quy trình, hiểu rõ trách nhiệm của mình trong quy trình đó và chủ động tham gia vào công việc. Từng công việc, từng nội dung của quy trình và trách nhiệm của mỗi cá nhân trong quy trình phải rành mạch, cụ thể, hợp lý.

11


Trong quá trình thực hiện quy trình, các quy định, các bước công việc và mối quan hệ mang tính nguyên tắc phải được đảm bảo. Nội dung và phương thức thực hiện các công việc trong quy trình cần tiếp tục phát triển và hoàn thiện phù hợp thực tế và có hiệu lực thực sự. Mọi cá nhân phải tôn trọng, tuân thủ nguyên tắc và các mối quan hệ đã được thiết lập. Để hoạt động của cơ quan và cán bộ tham mưu có hiệu quả, trên cơ sở lực lượng, năng lực và khối lượng công việc, Văn phòng Đoàn cần tổ chức các nhóm công tác chuyên môn. Trong đó, cần xác định rõ nhiệm vụ, trách nhiệm quyền hạn của các nhóm chuyên môn; có quy chế quy định rõ chức năng và lề lối làm việc, có phân công phân nhiệm cụ thể và quy định mối quan hệ phối hợp trong công việc. Bốn là, nâng cao chất lượng mọi mặt của đội ngũ cán bộ Văn phòng bao gồm cả chính trị, đạo đức và nghiệp vụ. Để làm tốt chức năng tham mưu, các chuyên viên giúp việc phải không ngừng trau dồi kiến thức và tích lũy kinh nghiệm để đáp ứng được những yêu cầu rất khắt khe và đặc thù: có hiểu biết chuyên môn thuộc nhiều lĩnh vực; thành thạo và chuyên sâu một hoặc một số lĩnh vực cụ thể; có năng lực nghiên cứu, phân tích và tổng hợp, làm việc độc lập, có chính kiến và biết bảo vệ chính kiến; có khả năng giao tiếp và giữ mối liên hệ với đại biểu, với các cơ quan chuyên môn của Quốc hội, HĐND. Kỹ năng tham mưu bao gồm kỹ năng thu thập, nghiên cứu, tổng hợp, phân tích, xử lý thông tin, phát hiện và đưa ra các ý kiến đề xuất... Năm là, thiết lập quy trình tổ chức tổng hợp, hệ thống hóa và cập nhật chế độ, chính sách mới cũng như những thông tin cần thiết về các lĩnh vực. Các Văn phòng giúp việc cần chủ động xây dựng hệ thống dữ liệu mang tính hệ thống và thiết lập các kênh thông tin nội bộ và ngoài Quốc hội, HĐND. Rất cần thông tin tư liệu có tính hệ thống, có tính lịch sử không chỉ về tình hình kinh tế, xã hội, thông tin về tài chính, ngân sách trong và ngoài nước mà còn cần phải nắm bắt một cách có hệ thống các chính sách chế độ đã, đang và sẽ có hiệu lực phục vụ cho việc giám sát, đánh giá và quyết định các vấn đề tổng thể cũng như từng nội dung cụ thể về các lĩnh vực, nhất là những lĩnh vực chuyên sâu như tài chính, ngân sách. Sáu là, có cơ chế phối hợp giữa Văn phòng giúp việc cho Đoàn đại biểu Quốc hội và HĐND với các cơ quan, tổ chức hữu quan, nhất là với Văn phòng Quốc hội, Ban Công tác đại biểu. Để góp phần nâng cao năng lực tham mưu, phục vụ đại biểu dân cử trong việc tham gia ý kiến, xem xét và quyết định các dự án luật, nghị quyết, các vấn đề quan trọng của đất nước và địa phương, cần có sự phối hợp với các cơ quan, nhất là với các Vụ, đơn vị trong Văn phòng Quốc hội trong việc tổ chức các lớp tập huấn về kỹ năng tham mưu, phục vụ cho cán bộ, công chức các Văn phòng.

12


Bảy là, thực hiện công khai, minh bạch trong công tác tuyển dụng cán bộ; xây dựng vị trí việc làm, tiêu chuẩn, tiêu chí cán bộ trong tuyển dụng gắn với việc xây dựng cơ chế khuyến khích để tuyển dụng cán bộ có kinh nghiệm, năng lực và trình độ cao về công tác tại Văn phòng Đoàn ĐBQH, HĐND. Đồng thời, cần có cơ chế động viên, khuyến khích những cán bộ có năng lực, có cố gắng và có nhiều ý kiến có giá trị trong công tác tham mưu, phục vụ đại biểu Quốc hội.

13


PHẦN II: NÂNG CAO HIỆU QUẢ THAM MƯU TRONG MỘT SỐ LĨNH VỰC

1. Trong việc xây dựng dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết 1.1. Yêu cầu đối với công tác tham mưu trong lĩnh vực này Yêu cầu đối với công tác tham mưu được gói gọn trong 2 khía cạnh: bảo đảm về chất lượng và bảo đảm về tiến độ được giao. - Bảo đảm về chất lượng

Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND TP Hà nội tổ chức Tọa đàm, trao đổi về công tác bình đẳng giới

Các ý kiến đưa ra phải khách quan, xác đáng, có tính phản biện cao và có cơ sở rõ ràng, chắc chắn, phải dựa trên lợi ích của quốc gia (nếu là tham mưu cho Đoàn ĐBQH, ĐBQH) hoặc địa phương (nếu tham mưu cho HĐND). Cán bộ Văn phòng phải vừa có cái nhìn tổng quát về hệ thống pháp luật nói chung, hệ thống pháp luật chuyên ngành nói riêng và vừa có cái nhìn chuyên sâu về lĩnh vực, nội dung văn bản được giao tham mưu. Văn bản cần thể hiện rõ ý kiến của Đoàn ĐBQH, Thường trực HĐND. Tránh tình trạng cả văn bản gần như chỉ nêu lại Tờ trình, tán thành với các quy định của Dự thảo hoặc chỉ cho rằng, cần xem xét lại quy định này, quy định kia mà không chỉ rõ là tại sao lại quy định như vậy, đề xuất của Đoàn, Thường trực HĐND như thế nào? Ngoài ra, các ý kiến đưa ra phải được thể hiện với văn phong mạch lạc, khúc triết, có cấu trúc rõ ràng để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tổng hợp, tập hợp. - Bảo đảm về thời gian Đây là một sức ép đối với các cán bộ Văn phòng hiện nay vì: Dự thảo gửi đến Văn phòng rất gấp, không đáp ứng yêu cầu về thời hạn Luật định; trước mỗi kỳ họp, có nhiều dự thảo được đồng thời gửi dồn dập với thời hạn gấp đến

14


để cho ý kiến. Trong khi đó, nhân sự của Văn phòng còn “mỏng” và phải tập trung làm nhiều công việc để chuẩn bị cho kỳ họp như tham mưu, phục vụ đại biểu tiếp xúc cử tri; chất lượng chưa cao, chuyên môn chủ yếu chỉ tập trung trong một số ngành trong khi các dự thảo có nội dung rộng, nhiều dự thảo chuyên ngành sâu, rất khó đóng góp ý kiến. 1.2. Các giải pháp để nâng cao hiệu quả tham mưu a) Nâng cao năng lực của cán bộ, nhân viên Văn phòng trong lĩnh vực này. Nhân tố cá nhân là yếu tố rất quan trọng đối với chất lượng của công tác tham mưu về xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đặc biệt là người chắp bút phải nhanh tiếp cận được vấn đề, có tư duy phản biện tốt để có thể phát hiện ra những vướng mắc của dự thảo. Việc nắm bắt được các ý kiến của lãnh đạo Đoàn đại biểu Quốc hội hoặc của Thường trực Hội đồng nhân dân để triển khai xây dựng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật là rất cần thiết. Nếu người tham mưu tốt (tức là xây dựng dự thảo tốt) đưa ra được các lập luận hợp lý, có sức thuyết phục thì các lãnh đạo sẽ “nhàn”. Ngược lại, việc sửa văn bản mất nhiều thời gian, thậm chí phải viết lại toàn bộ. Ngoài ra, trước đó mỗi cán bộ, chuyên viên làm nhiệm vụ này phải chủ động theo dõi Nghị quyết của Quốc hội về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của nhiệm kỳ, của năm; Nghị quyết của HĐND về chương trình xây dựng nghị quyết của nhiệm kỳ và hàng năm. Nhờ đó lên kế hoạch tiến hành các công việc phục vụ việc xây dựng báo cáo hoặc tham mưu về các vấn đề trong dự thảo. Chuyên viên Văn phòng cũng cần chủ động nghiên cứu tài liệu có liên quan và lắng nghe dư luận xã hội nhằm phát hiện các quan hệ xã hội cần được điều chỉnh bằng pháp luật thì sẽ có nhiều tư liệu, kiến thức để viết dự thảo Báo cáo. Một báo cáo có chất lượng là ngoài việc đáp ứng các yêu cầu về nội dung thì còn phải được trình bày rõ ràng, khúc triết, các lập luận được đưa ra có cơ sở. Muốn vậy, kỹ năng viết báo cáo là rất quan trọng. Nếu có kiến thức, có nội dung, phát hiện ra vấn đề mà không trình bày tốt thì báo cáo sẽ kém tính thuyết phục. Một yêu cầu đối với báo cáo là không được chung chung, phải cụ thể, rõ ràng, có lập luận sắc bén, thể hiện chính kiến của Đoàn ĐBQH hoặc Thường trực HĐND. Ngoài ra, cán bộ, chuyên viên Văn phòng Đoàn cần chú ý một số vấn đề sau: - Nắm rõ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, vì pháp luật là sự thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Ví dụ, Bộ Chính trị đã thông qua chiến lược cải cách thuế đến năm 2010, cho nên các Báo cáo góp ý

15


về luật thuế, nghị quyết về thuế được ban hành trong giai đoạn 2005-2010 cần bám sát yêu cầu của Bộ Chính trị. Ngoài ra, đối với mỗi luật, nghị quyết khác nhau thì có thể có những căn cứ khác, như: Báo cáo góp ý về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp căn cứ vào Nghị quyết số 26/NQ/TW ngày 5/8/2008 tại Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

(Đảng ủy Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND; Đảng ủy Văn phòng UBND thành phố Hà Nội đã tổ chức Hội nghị học tập, quán triệt Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI )

- Luôn trau dồi kiến thức pháp luật. Trước tiên, chuyên viên tham mưu cần nắm rõ về Hiến pháp, các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, Luật ban hành Văn bản quy phạm pháp luật. Đối với mỗi dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết, cần phải tiến hành nghiên cứu về các quan hệ xã hội mà luật dự định sẽ điều chỉnh – tức là phạm vi, đối tượng điều chỉnh của luật; lịch sử các quy định của pháp luật về lĩnh vực dự kiến điều chỉnh, nhất là pháp luật hiện hành – những kết quả đạt được và các tồn tại, bất cập, các kẽ hở của pháp luật; sự tác động của các quy định hiện hành đối với các đối tượng trực tiếp và gián tiếp chịu tác động, hiệu quả tác động đến kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng…; các quyền, nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể, các biện pháp bảo đảm đã hợp lý chưa v.v... - Nắm rõ tình hình kinh tế - xã hội của đất nước; có kiến thức chuyên ngành. Tại các Tờ trình, Dự thảo luật, nghị quyết và các tài liệu có liên quan do cơ quan soạn thảo cung cấp đôi khi vì lợi ích cục bộ mà một số nội dung chưa thể hiện một cách phù hợp nhất, hoặc lảng tránh một số vấn đề cần thiết. Việc các Đoàn ĐBQH, đại biểu Quốc hội phát hiện sẽ tránh được tình trạng nẩy sinh rất nhiều vướng mắc, gây thiệt hại cho nhà nước, các tổ chức, doanh nghiệp, người dân và làm xã hội bức xúc nếu Dự thảo được thông qua. - Tăng cường khả năng tiếng Anh để khai thác được các thông tin nước ngoài. Sử dụng tốt máy tính.

16


b) Phân công công việc hợp lý, chủ động tiến hành Căn cứ vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, chương trình xây dựng nghị quyết của HĐND, lãnh đạo Văn phòng, lãnh đạo các phòng có thể phân công sớm từng dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết cho chuyên viên theo dõi. Theo đó, các chuyên viên sẽ tự mình tìm tài liệu, nghiên cứu trước những vấn đề có liên quan, xuất hiện các ý tưởng để khi chính thức gửi văn bản đề nghị lấy ý kiến thì việc soạn thảo sẽ được tiến hành nhanh chóng. Ngoài ra, lãnh đạo cần giao việc cho chuyên viên phù hợp với trình độ chuyên môn, khả năng viết, khả năng xử lý công việc (việc đáp ứng về thời gian, mức độ khó của Dự thảo...). Chú ý đến các công việc người đó đang đảm nhiệm để tránh trường hợp người làm được việc thì lại luôn phải nhận khối lượng công việc nhiều, người không làm được thì ngồi chơi gây áp lực với lãnh đạo và bức xúc với đồng nghiệp trong cơ quan. Như trên đã nêu, thông thường tài liệu thường được gửi đến Đoàn ĐBQH hoặc Thường trực HĐND, các Ban của HĐND sát ngày cuối của thời hạn, thậm chí có khi là quá thời hạn, trong khi việc ban hành văn bản mất nhiều bước, mất thời gian. Chính vì vậy, người được giao trách nhiệm xây dựng dự thảo phải tiến hành một cách khẩn trương và hiệu quả, làm sao hoàn thành dự thảo trong thời gian ngắn nhất có thể mà vẫn đảm bảo chất lượng để kịp trình các cấp lãnh đạo. Để đáp ứng những yêu cầu đó, lãnh đạo, chuyên viên Văn phòng luôn phải chủ động trong công việc như khi chưa gửi tài liệu đến thì phải chủ động nghiên cứu, tìm hiểu dự thảo, lắng nghe các ý kiến trên các diễn đàn, các phương tiện thông tin đại chúng về quy định của dự thảo. c) Bảo đảm một số điều kiện khách quan Trước hết, các dự án, dự thảo phải gửi sớm theo đúng quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Lâu nay, việc chậm trễ gửi tài liệu đến các Đoàn ĐBQH có nguyên nhân chính là do Chính phủ chậm gửi đến Hội đồng dân tộc và các Ủy ban (cơ quan chủ trì thẩm tra). Vì vậy, Quốc hội, UBTVQH cần có giải pháp giải quyết dứt điểm tình trạng này. Tương tự, trong thực tế, không ít tài liệu gửi đến Ban của HĐND và đại biểu HĐND muộn so với quy định của pháp luật. Tiếp đó, cần bảo đảm chế độ cung cấp thông tin. Một trong những vấn đề hay được bộ phận tham mưu của các cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân “kêu ca” là thiếu thông tin và cho rằng Chính phủ, UBND là cơ quan điều hành thì mới có nhiều số liệu để thống kê, đánh giá... Để khắc phục điều này, trước mắt đề nghị cải tiến hơn nữa các cổng thông tin điện tử của Chính phủ, bộ, ngành. Thông tin cần đưa mang tính khách quan, nhiều chiều, phản biện rõ ràng. Tài liệu do UBTVQH gửi đến lấy ý kiến ngoài việc đáp ứng được yêu cầu về thời gian thì cần gửi kèm theo các hồ sơ, tài liệu khác có liên quan. Các hội

17


thảo cần mời rộng rãi các Văn phòng Đoàn ĐBQH. Lãnh đạo Đoàn, lãnh đạo Văn phòng cần cử đúng người tham dự.

2. Trong hoạt động giám sát1 Vai trò tham mưu của cán bộ Văn phòng đóng góp phần quan trọng tới hiệu quả công tác giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội và Thường trực Hội đồng nhân dân. Văn phòng hỗ trợ cho việc hoàn thành các chức năng chính của Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh. Văn phòng là trung tâm tiếp nhận, lưu giữ và truyền đạt thông tin, phối hợp các quy trình hoạt động, hoạch định, kiểm soát và đảm bảo điều kiện cho các hoạt động cho Đoàn ĐBQH và HĐND. Vai trò tham mưu của Văn phòng thể hiện qua các nội dung sau: * Tham mưu chương trình giám sát hàng năm Theo quy định, Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh phải có chương trình giám sát, nhất là giám sát chuyên đề được thông qua ngay từ kỳ họp cuối năm trước. Để chuẩn bị cho các đại biểu bàn về chương trình giám sát của cả năm, Văn phòng phải tiến hành công tác tham mưu. Đây là công việc có những khó khăn nhất định, nhất là phải xem xét để tham mưu trong một năm tiến hành giám sát bao nhiêu cuộc là hợp lý, nội dung giám sát liên quan tới những lĩnh vực hoặc những vấn đề gì. Để tham mưu tốt nội dung này cần dựa trên một số cơ sở sau: - Các văn bản quy phạm pháp luật và các chính sách của cấp trên đang được tổ chức thực hiện trên địa bàn; - Chương trình hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội; - Các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh đang còn hiệu lực; - Tình hình thực tiễn những thông tin được thu thập từ các nguồn: ý kiến của cử tri, đơn thư của công dân, dư luận xã hội, phương tiên thông tin đại chúng v.v... Từ đó để lựa chọn, xác định những nội dung trọng tâm đưa vào chương trình giám sát chuyên đề hàng năm. Việc xác định những nội dung trọng tâm, trọng điểm để tham mưu đưa vào chương trình giám sát là rất cần thiết vì cùng thời gian không thể giám sát tất cả. Để lựa chọn đúng cần cân nhắc bằng cách trả lời các câu hỏi sau: - Tại sao chọn vấn đề này?

(1)Xem thêm bài của ông Đoàn Đình Anh, Kỹ năng tham mưu trong hoạt động giám sát của cán bộ Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND, 2012.

18


- Vấn đề đó tác động đến địa phương như thế nào? Phạm vi tác động? . - Vấn đề đã tồn tại lâu chưa? Có thể giải quyết được không? Nguồn lực như thế nào? - Hậu quả để lại của vấn đề đó như thế nào nếu không được giải quyết? * Tham mưu kế hoạch cụ thể cho từng cuộc giám sát Trên cơ sở chương trình đã được quyết định, bước tiếp theo là lên kế hoạch thực hiện theo từng tháng, quý và 6 tháng, đồng thời chuẩn bị kế hoạch cụ thể cho từng cuộc giám sát. Kế hoạch là việc tập hợp những hoạt động được sắp xếp theo lịch trình, có thời hạn, nguồn lực, ấn định những mục tiêu cụ thể và xác định biện pháp tốt nhất để thực hiện một mục tiêu cuối cùng đã được đề ra. Các văn bản cần tham mưu gồm: Kế hoạch cuộc giám sát; Quyết định thành lập đoàn giám sát; Mẫu yêu cầu báo cáo, và các biểu số liệu kèm theo; Lịch thực hiện cuộc giám sát; Dự trù kinh phí ngân sách phục vụ giám sát. Văn phòng xây dựng kế hoạch giám sát để lãnh đạo Đoàn ĐBQH hoặc Thường trực HĐND xem xét, quyết định. Trước mỗi cuộc giám sát Văn phòng xây dựng kế hoạch giám sát cụ thể, chuẩn bị các tài liệu liên quan, gửi kế hoạch đến các cơ quan, cơ sở chịu sự giám sát t theo đúng quy định của pháp luật. Để lập kế hoạch giám sát tốt, cần chú ý xác định đúng đối tượng giám sát; xác định thời gian, không gian tiến hành giám sát; xác định nội dung yêu cầu mục tiêu của cuộc giám sát; xác định phương pháp tiến hành giám sát; xác định nguồn lực gồm: nhân lực số lượng đại biểu tham gia, số thành phần mời như chuyên gia, các cơ quan phối hợp v.v… Trong lập kế hoạch giám sát, cần tham mưu nội dung chương trình cụ thể của từng cuộc giám sát. Việc xây dựng nội dung chương trình cụ thể này cho cuộc giám sát phải trên cơ sở kế hoạch và hình thức giám sát, vì mỗi loại hình giám sát thì nội dung cũng hoàn toàn khác nhau. Ví dụ giám sát thông qua các cuộc làm việc sẽ khác với cuộc giám sát trực tiếp tại hiện trường hay gặp gỡ những người chịu sự tác động trực tiếp của chính sách đang thực hiện giám sát. * Tham mưu, chuẩn bị công cụ sử dụng trong giám sát Trên cơ sở nội dung của hoạt động giám sát sẽ xác định các công cụ được sử dụng trong cuộc giám sát, như: máy ảnh, máy ghi âm, phiếu điều tra, bộ câu hỏi v.v… với mục đích là thu thập được đầy đủ thông tin. Những công cụ này phải chuẩn bị trước đầy đủ, đồng thời tham mưu để chủ thể thực hiện giám sát sử dụng các công cụ hiệu quả nhất như phiếu phỏng vấn hoặc câu hỏi để phỏng vấn các đối tượng. Giám sát là để xem xét, thu thập thông tin về tình hình thực hiện luật của Quốc hội, pháp lệnh của UBTVQH, nghị quyết của HĐND. Muốn vậy, cần biết

19


cách nêu câu hỏi để các đối tượng giám sát phải trả lời, cung cấp đúng thông tin mà Quốc hội, HĐND cần. Vì vậy, cần đặc biệt chú ý xây dựng câu hỏi sử dụng trong giám sát (có thể phiếu điều tra xã hội học; phiếu phỏng vấn sâu; hay bộ câu hỏi phiên giải trình). Cần căn cứ nội dung để đề ra câu hỏi. Câu hỏi phải đáp ứng được yêu cầu nội dung, thông tin cần thu thập trong giám sát.

Câu hỏi trong giám sát Câu hỏi theo nội dung chia làm hai nhóm, đó là: Câu hỏi về sự kiện đã, đang tồn tại theo thời gian, không gian ảnh hưởng đến diễn biến của quá trình xã hội. Ví dụ: Ông, Bà có biết chủ trương hỗ trợ hộ nghèo làm nhà ở không? Biết từ khi nào? Qua thông tin nào? Câu hỏi thể hiện sự đánh giá, mong muốn của cá nhân hay tập hợp người. Ví dụ: Theo ông, Bà kết quả hỗ trợ hộ nghèo làm nhà ở xã ta như thế nào, nhân dân có đồng tình không? Câu hỏi chia làm hai loại là câu hỏi đóng và câu hỏi mở: Câu hỏi mở là câu hỏi không kèm theo câu trả lời chuẩn bị trước. Người được hỏi sẽ trả lời theo cách họ thấy, họ nhận biết, mong muốn. Nội dung trả lời tùy thuộc vào trình độ văn hóa, ý thức cá nhân, trình độ hiểu biết và tâm trạng thời điểm trả lời. Ví dụ: Theo ông, Bà thì phong trào hỗ trợ giúp người nghèo làm nhà ở ở địa phương ta như thế nào? Câu hỏi đóng là các câu hỏi có các câu trả lời được chuẩn bị trước, có hai loại là câu hỏi đóng lựa chọn và câu hỏi đóng tùy chọn. Câu hỏi đóng lựa chọn người trả lời chỉ chọn một trong các câu trả lời được đưa ra; còn câu hỏi tùy chọn thì người trả lời có thể trả lời một hoặc nhiều câu trả lời được đưa ra.

Một số yêu cầu chung cho việc chuẩn bị câu hỏi: Câu hỏi phải đáp ứng yêu cầu, mục tiêu của cuộc giám sát, nhằm thu thập thông tin. Loại bỏ những câu hỏi mà thông tin thu được không giá trị; câu hỏi luôn ở thái độ trung lập vô tư, không thiên vị, không mớm lời; câu hỏi dễ hiểu với mọi cá nhân, từ ngữ thích hợp, hạn chế sử dụng thuật ngữ chuyên môn, khoa học hoặc không xác định; số lượng câu hỏi tùy thuộc vào nội dung thông tin cần thu thập nhưng nên lựa chọn, không nên hỏi nhiều quá mà chất lượng không cao. * Tham mưu triển khai chương trình để thực hiện giám sát Một số việc cần lưu ý: - Văn phòng làm cầu nối giữa các thành viên tham gia giám sát với lãnh đạo Đoàn giám sát; cầu nối giữa Đoàn giám sát với các cơ quan, đơn vị, địa phương, các cá nhân đoàn Giám sát cần làm việc hoặc giám sát. - Thông tin toàn bộ nội dung kế hoạch đến các tổ chức, cá nhân liên quan, đảm bảo chương trình, kế hoạch cuộc giám sát được triển khai thực hiện đúng

20


tiến trình thời gian quy định. - Tổ chức tốt công tác phục vụ như phương tiện đi lại, kinh phí ngân sách, tài liệu * Tham mưu xây dựng báo cáo kết luận giám sát - Thu thập đầy đủ thông tin, phân loại thông tin. Sau khi đoàn giám sát hoàn thành giám sát, thu thập đủ thông tin phải tiến hành tập hợp hoàn chỉnh các số liệu theo biểu mẫu đã chuẩn bị trước. - Đối chiếu thông tin về kết quả do đối tượng báo cáo với thực tế; kết quả với các văn bản quy phạm pháp luật. Tiến hành phân tích thông tin, đối chiếu các thông tin thu thập được với các báo cáo khác, cũng như các văn bản pháp luật. - Tổng hợp các số liệu theo biểu mẫu, thống nhất số liệu với các cơ quan, đơn vị nếu cần. Dùng thông tin đã được làm sạch để đánh giá vấn đề, rút ra các kết luận có tính tổng quát. - Viết báo cáo theo đề cương. Xây dựng đề cương chi tiết báo cáo xin ý kiến chủ trì cuộc giám sát. Phải đảm bảo tính khách quan trung thực để đánh giá đúng những ưu điểm, kết quả cũng như những tồn tại, khuyết điểm. Đưa ra những kiến nghị đối với các cơ quan chức năng một cách chính xác. Gửi dự thảo xin ý kiến các thành viên đoàn giám sát và các bộ phận liên quan và hoàn chỉnh báo cáo. Đối với Văn phòng phục vụ HĐND, nếu xét thấy cần thiết xin ý kiến lãnh đạo Đoàn giám sát và Thường trực Hội đồng nhân dân chuẩn bị dự thảo Nghị Quyết trình Hội đồng nhân dân về kết luận giám sát. * Tham mưu theo dõi thực hiện các kiến nghị giám sát Sau khi kết luận giám sát được ban hành, Văn phòng phải phân công chuyên viên có kế hoạch theo dõi việc thực hiện các kiến nghị của đoàn giám sát hoặc Nghị quyết của Quốc hội, Hội đồng nhân dân về cuộc giám sát.

21


PHẦN III: MỘT SỐ KỸ NĂNG THAM MƯU DÀNH CHO CÁN BỘ VĂN PHÒNG ĐOÀN ĐBQH VÀ HĐND 1. Kỹ năng thu thập và phân tích thông tin Hiện nay, với chức năng, nhiệm vụ của mình, công tác xử lý thông tin được các cán bộ phục vụ luôn xếp vào hàng đầu. Theo một cuộc khảo sát mới đây về công tác phục vụ ĐBQH thì trung bình mỗi cán bộ dành 44.55% thời gian của mình cho công tác này, tiếp theo sau đó là tìm kiếm thông tin (25.26%), và nâng cao năng lực bản thân (20.11%)2. Vậy vấn đề đặt ra là cách xử lý làm sao để thông tin tiếp nhận được trở thành công cụ hữu ích phục vụ hoạt động của đại biểu; cũng như làm sao để căn cứ vào lượng thông tin nhận được trở thành trí tuệ tham mưu. 1.1. Đại biểu cần thông tin như thế nào? Để thu thập và phân tích thông tin đáp ứng yêu cầu công việc, cán bộ Văn phòng cần xác định rõ, đại biểu cần thông tin như thế nào, bao nhiêu, qua những kênh nào để phục vụ cho hoạt động của mình. Đó là thông tin phục vụ cho hoạt động lập pháp, giám sát, đại diện cho lợi ích cử tri và quyết định chính sách quốc gia hoặc địa phương. Như vậy, nói chung, phạm vi, dung lượng thông tin mà đại biểu cần là rất rộng và chuyên sâu, bao trùm hầu như mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, pháp luật, văn hóa, xã hội…Bên cạnh đó, như một cán bộ Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND so sánh, “thông tin như món ăn, đại biểu cần món gì thì “gọi” để được cung cấp”; hoặc một cán bộ khác nhận xét, có những thông tin tại kỳ họp đại biểu mới có nhu cầu, hoặc tùy từng đại biểu có thật sự cần thông tin để chuẩn bị bài phát biểu3. Như vậy, mỗi đại biểu có mối ưu tiên, quan tâm riêng cho từng thời điểm, từng hoạt động, cho nên nhu cầu thông tin ở đây cũng được gắn với các ưu tiên, mối quan tâm đó. Cán bộ văn phòng cũng cần cung cấp thông tin đã qua xử lý, chứ không phải thông tin “thô”, không phải chỉ các dữ liệu, dung lượng thông tin; thông tin đáng tin cậy nhất, đòi hỏi ít công sức nhất để nắm vững nội dung của nó. Cần biết cách chuyển những thông tin chuyên ngành, các con số thống kê, các quy định mang tính kỹ thuật chuyên sâu thành ngôn ngữ chính sách rõ ràng, hữu ích cho các ĐBQH có cơ sở thảo luận, quyết định, giám sát. Do những vấn đề cần xử lý (2) Ban Công tác đại biểu và Quỹ châu Á, Báo cáo nghiên cứu về nhu cầu thông tin của ĐBQH, Hà Nội, 2012. (3) Tọa đàm trong khuôn khổ nghiên cứu của Ban Công tác đại biểu và Quỹ châu Á về nhu cầu thông tin của ĐBQH, Hà Nội, 2012.

22


vừa ở tầm chính sách, vừa có tính chất sự việc, vai trò của các cơ quan, đơn vị cung cấp thông tin là bảo đảm cung cấp cho ĐBQH thông tin tối ưu gồm những yếu tố sau: những khía cạnh cụ thể của chính sách (cần làm những gì?), những hệ quả của nó (ai sẽ được lợi, ai sẽ chịu thiệt) và viễn cảnh thực hiện chính sách (những cơ hội nào?)”. Đặc biệt, đối với những lĩnh vực không chuyên, các đại biểu cần đến loại thông tin kết hợp được cả sự đánh giá tầm quan trọng của vấn đề, cả nội dung của nó, phạm vi phổ biến và mối quan hệ với những vấn đề khác. 1.2. Nguồn thu thập thông tin Trước hết, cần đa dạng hóa các nguồn thu thập thông tin, mà không nên phụ thuộc vào một, hai nguồn. Qua đó mới đáp ứng được các yêu cầu về thông tin của Quốc hội, HĐND như đã đề cập; để kiểm chứng thông tin từ cơ quan trình. Các nguồn thông tin để cán bộ Văn phòng sử dụng trong tham mưu cho Đoàn ĐBQH, HĐND gồm có: Các cơ quan, đơn vị thuộc Quốc hội (HĐDT, các Ủy ban, các Ban, Viện Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND các địa phương khác); các cơ quan, đơn vị thuộc nhà nước (các Bộ, ngành, sở ngành); các tổ chức chính trị - xã hội; các tổ chức xã hội; các viện nghiên cứu, trường, cá nhân các chuyên gia; báo chí; từ người dân. Trong các nguồn trên, ngoài các nguồn lâu nay hay được cán bộ Văn phòng sử dụng như nguồn nội bộ, thông tin từ các cơ quan nhà nước, cần đặc biệt chú ý khai thác thông tin từ các viện, trường, chuyên gia độc lập. Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND có thể làm đầu mối, tập hợp các chuyên gia uy tín trong các lĩnh vực, làm cầu nối chuyển tri thức đến các ĐBQH, HĐND. Trong đó, Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND có thể làm nhiều việc hơn để thiết lập mạng lưới chuyên gia ở địa phương phục vụ yêu cầu thông tin của ĐBQH, HĐND. Ngay ở các tỉnh nhỏ, xa các trung tâm lớn thì với điều kiện liên lạc thuận tiện như hiện nay, cán bộ Văn phòng vẫn có thể thu thập thông tin từ nguồn chuyên sâu này. Cán bộ giúp việc cần phải cùng với đại biểu nghe cử tri nói và tập hợp, hệ thống hóa kiến nghị của cử tri, một mặt để phản ánh tới Quốc hội, HĐND, mặt khác để phục vụ hoạt động giám sát, theo dõi việc xử lý kiến nghị của cử tri. Bên cạnh đó, các tổ chức xã hội (những tổ chức không nhận kinh phí hoạt động từ NSNN) ngày càng phát triển, sát với thực tiễn, tương đối độc lập, là một nguồn thông tin về những vấn đề chính sách cần được sử dụng nhiều hơn. Cần lưu ý, nguồn thông tin từ báo chí được rất nhiều đại biểu sử dụng trong cả ba chức năng của Quốc hội (92%, 94%, 91% số đại biểu trả lời phiếu hỏi) 4. Lý do vì báo chí thường đề cập đến các vấn đề thuộc chương trình làm việc của Quốc hội, được xã hội, cử tri quan tâm nhiều. Hơn nữa, ý kiến của các (4) Ban Công tác đại biểu và Quỹ châu Á, tlđd.

23


chuyên gia trên báo chí vì ngắn nên đề cập thẳng vào trọng tâm của vấn đề chính sách, mà đây lại chính là mong đợi của ĐBQH khi tiếp nhận thông tin để sử dụng vào hoạt động của mình tại Quốc hội. Cán bộ văn phòng có thể sử dụng thông tin từ báo chí để làm cơ sở xuất phát, phát hiện vấn đề, từ đó tìm hiểu sâu hơn qua các nguồn thông tin khác. Cần tổng hợp ý kiến, các bài viết của các chuyên gia trên báo chí, hoặc sử dụng các ý kiến, bài viết đó trong các sản phẩm thông tin cung cấp cho ĐBQH, đại biểu HĐND. Để thu thập thông tin một cách có hiệu quả, dưới đây là một số phương pháp hữu ích: dành một khoảng thời gian nhất định trong ngày để theo dõi các phương tiện thông tin đại chúng; chọn một số loại báo chí để theo dõi thường xuyên; chú ý vào các thông tin liên quan đến lĩnh vực chuyên môn cụ thể; chú ý vào các thông tin nổi bật, được nhiều phương tiện thông tin đại chúng đề cập hoặc được lặp đi lặp lại trong nhiều ngày gần nhau. Thu thập thông tin trên mạng Internet: người tìm kiếm thông tin cần xây dựng được phương pháp tìm kiếm thông tin hợp lý gồm một số nội dung sau: Xác định mục đích tìm thông tin; xây dựng các từ khóa một cách khoa học; xác định công cụ tìm kiếm. Hiện nay, có một số trang web chuyên phục vụ việc tìm kiếm thông tin đối với mọi ngôn ngữ như: http://www.google.com http://scholar.google.com.vn, http://www.altavista.com, http://www.yahoo.com. http://bing.com Việc tìm kiếm thông tin về một chuyên đề nào đó nên đi từ chiều sâu đến chiều rộng. Điều này có nghĩa là nên tìm kiếm thông tin với các từ khóa chi tiết đến các từ khóa tổng quát. Một trong những kỹ năng quan trọng để tìm kiếm thông tin theo chiều sâu là sử dụng các toán tử như AND, OR, NOT,... để kết nối các từ khóa. Chẳng hạn, có thể tìm kiếm thông tin sâu về vai trò của Bộ Y tế trong dịch cúm gà bằng cách gõ yêu cầu tìm kiếm là: (“bộ y tế” AND “cúm gà”). Cách sử dụng toán tử tìm kiếm phụ thuộc vào từng công cụ tìm kiếm, do vậy trước khi quyết định sử dụng công cụ tìm kiếm nào, cần tham khảo các hướng dẫn trong công cụ dó. Nếu cách tìm kiếm thông tin theo chiều sâu vẫn chưa đem lại kết quả như mong muốn, có thể mở rộng phạm vi tìm kiếm bằng cách lược bỏ bớt những từ khóa mà mình đã dùng. Tuy nhiên, sẽ có một thách thức là kết quả tìm kiếm sẽ nhiều mục tin hơn và việc chọn được mục tin thỏa mãn nhu cầu sẽ rất khó khăn.

24


1.3. Sử dụng các hình thức cung cấp thông tin Để tham mưu cho Đoàn ĐBQH, Thường trực HĐND, cần đa dạng hoá các hình thức cung cấp thông tin phù hợp đến các đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND. Các loại phương tiện sau thường được sử dụng để truyền đạt thông tin ở cơ quan dân cử. • Truyền đạt thông tin bằng văn bản viết – đây là kênh truyền đạt thông tin thông dụng nhất. Qua một cuộc khảo sát, có thể thấy, các hình thức văn bản như: tóm tắt nội dung các đề án, nêu những vấn đề chính, cốt yếu của các dự án luật, giới thiệu những vấn đề và ý kiến khác nhau, lý lẽ của sự khác nhau; cung cấp những tài liệu tham khảo các nước dưới dạng tóm tắt… sẽ hỗ trợ đại biểu rất nhiều, nhất là các đại biểu kiêm nhiệm hoặc đại biểu không có chuyên môn sâu. Nói chung, cần chú ý biên soạn các báo cáo phân tích, đánh giá và dự báo chuyên sâu, có thể kèm phụ lục; đồng thời cần có những báo cáo tóm tắt đã qua xử lý cô đọng, súc tích, trực diện hơn, khoảng 5-6 trang. Đây là nhu cầu thực sự của đại biểu, nhưng lại chưa được đáp ứng đầy đủ trên thực tế, nhất là loại báo cáo ngắn. Có thể biên soạn các ấn phẩm nghiên cứu hoặc theo yêu cầu của Đoàn ĐBQH, cá nhân ĐBQH, Thường trực HĐND, hoặc chủ động có các ấn phẩm dưới dạng các báo cáo. Các báo cáo này lấy thông tin từ các nguồn tài liệu khác nhau để phân tích, điều tra hiện trạng, dự báo và đánh giá sát thực tiễn. Các báo cáo này không cần, thậm chí không nên đưa ra khuyến nghị mà chỉ tập trung vào phân tích, đánh giá sự kiện và hiện tượng, gợi mở hướng suy nghĩ hơn là đúc rút kết luận. Đồng thời dạng tài liệu này cần phải trực tiếp, sát thực, giúp các ĐBQH, đại biểu Hội đồng nhân dân có được những thông tin chính xác và kịp thời, hình thành quan điểm đối với những vấn đề cụ thể, là căn cứ để đưa ra các quyết định đúng đắn. Cần cung cấp các loại tài liệu khác được nhiều đại biểu đánh giá “rất cần thiết” và “cần thiết” gồm có: Số liệu thống kê; văn bản pháp luật liên quan; tổng hợp ý kiến ĐBQH về dự án luật đang được đưa ra thảo luận tại Quốc hội hoặc ý kiến của đại biểu HĐND cấp tỉnh/huyện về dự thảo Nghị quyết liên quan tới vấn đề quan trọng ở địa phương; báo cáo điều tra xã hội học; phân tích, so sánh với pháp luật các nước. Trong hoạt động giám sát, cũng cần chú ý hơn đến việc cung cấp các dạng tài liệu: tóm tắt quy định pháp luật, chính sách về nội dung giám sát; tổng hợp các vấn đề liên quan đến nội dung giám sát; tổng

25


hợp ý kiến ĐBQH/đại biểu HĐND, số liệu thống kê. Trong tiếp xúc cử tri, loại tài liệu cần được ưu tiên biên soạn gồm có: Tóm tắt kết quả kỳ họp; tình hình giải quyết kiến nghị cử tri đã nêu trong lần tiếp xúc trước; tổng hợp các vấn đề cử tri quan tâm; cập nhật tình hình địa phương; chủ trương, chính sách mới. • Truyền đạt thông tin trực tiếp – Nhiều quyết định được đưa ra dựa trên những thông tin thu được thông qua trao đổi cá nhân và báo cáo miệng. Chuyển tải thông tin trực tiếp sẽ truyền thông điệp nhanh hơn và linh hoạt hơn. Nếu thực hiện tốt, biện pháp này có thể đem lại hiểu biết tốt hơn và thảo luận thẳng thắn hơn về các phát hiện. Cần tận dụng các cơ hội này để cung cấp thông tin cho các ĐBQH, đại biểu HĐND. • Truyền thông điện tử - ngày nay, xu hướng tiếp cận và sử dụng thư điện tử và Internet phát triển mạnh mẽ giúp cho thông tin các phát hiện tới các cơ quan liên quan ở các cấp nhanh chóng hơn. Thông tin có thể được gửi bằng thư điện tử hoặc các văn bản kèm theo thư điện tử, các bản tin điện tử được gửi qua thư điện tử hoặc đăng trên các trang web, trang web có các đường kết nối đến tất cả những thông tin theo dõi. Cần sử dụng công nghệ thông tin để cung cấp thông tin cho đại biểu, đảm bảo kịp thời về mặt thời gian và trực tiếp đến người cần thông tin như: gửi qua email của đại biểu,; khai thác các tài liệu dành cho đại biểu trên mạng nói chung và mạng nội bộ. Đồng thời, các thông tin đưa trên mạng của Quốc hội cần đa dạng và phong phú hơn, đáp ứng đúng yêu cầu của đại biểu hơn. 1.4. Phân tích, xử lý thông tin để cung cấp cho đại biểu Phân tích thông tin gồm hai nội dung lớn: xác định xem thông tin đó có cần thiết với nhu cầu sử dụng hay không; và, thông tin đó có đáng tin cậy hay không? Để đánh giá thông tin có phù hợp với nhu cầu sử dụng hay không trước hết cần phải xác định rõ mục đích sử dụng thông tin. Ví dụ: (1) Chẳng hạn, cùng về tình trạng tiền giả ở Việt Nam, nhưng nếu để chất vấn Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì thông tin về mức độ dễ hay khó làm giả của một đồng tiền sẽ là phù hợp, trong khi đó, để chất vấn Bộ trưởng Bộ Công An, thì thông tin về tỷ lệ số vụ tiêu thụ tiền giả được phát hiện so với lượng tiền giả đang có tại Việt Nam lại có giá trị hơn. (2) Một trường hợp đơn giản khác, những thông tin về các vấn đề ở phạm vi một địa phương thường khó có thể phù hợp với mục đích chất vấn các bộ trưởng. Nếu cùng về một vấn đề, địa phương này làm tốt trong khi địa phương khác làm chưa tốt thì trách nhiệm thường thuộc về chính quyền địa phương đó. Về nguyên tắc, mọi thông tin nhận được đều phải đặt trong sự nghi ngờ về tính chính xác, đầy đủ, kịp thời. Tính đầy đủ đòi hỏi thông tin phải đề cập đến mọi khía cạnh của vấn đề đang được Quốc hội hoặc HĐND xem xét; thông tin

26


về các vùng miền, địa phương, toàn quốc, trong và ngoài nước…Tính đầy đủ cũng hàm ý thông tin vừa phải cơ bản theo các chức năng của Quốc hội, HĐND, vừa có thông tin chuyên đề như nợ xấu, tập đoàn kinh tế…, vừa có thông tin về các vấn đề thời sự, mới, nóng…Thông tin phải tiêu biểu, đại diện cho số đông trong xã hội, tức là phải những thông tin hàm chứa đầy đủ nhất những lợi ích của xã hội, của cộng đồng, tiêu biểu cho ý chí, nguyện vọng chung của số đông, của toàn xã hội. Tính kịp thời đòi hỏi ít nhất phải cung cấp cho đại biểu đúng thời hạn luật định, thông tin không được đến vào sát thời điểm xem xét, biểu quyết. Tính kịp thời của thông tin cũng có nghĩa là sự cập nhật thường xuyên về vấn đề đang được Quốc hội, HĐND xem xét, thảo luận. Thông tin phải kịp thời, tức là sự phản ánh, cung cấp thông tin phải đảm bảo đúng lúc cần thiết, đáp ứng cho việc xem xét, giải quyết nhanh chóng những yêu cầu phát sinh trong công tác quản lý. Đặc biệt, ĐBQH, đại biểu HĐND rất cần được cung cấp thông tin đều đặn, cập nhật giữa hai kỳ họp.

    

CHỨNG CỨ VÀ LÝ LẼ CỦA THÔNG TIN PHỤC VỤ ĐBQH, HĐND Bao gồm cả định tính (ý kiến, quan điểm, sự việc, câu chuyện…), định lượng (số liệu thô, tinh); Chứng lý phải chứng minh được luận điểm; Chứng lý phải đáng tin cậy: rõ nguồn, chính xác, cập nhật, toàn diện… Những điển hình tốt, xấu được dẫn chứng phải thực sự liên quan, tiêu biểu; liên hệ kinh nghiệm tương tự; Những vấn đề chuyên môn sâu nên trích dẫn ý kiến của chuyên gia, nhà nghiên cứu.

Tính chính xác đòi hỏi thông tin phải đúng sự thật, đã được kiểm chứng chéo qua các nguồn khác nhau; tránh những con số khác nhau ở các báo cáo, tài liệu về cùng một nội dung. Các báo cáo, tài liệu gửi đến ĐBQH, đại biểu HĐND phải phản ánh đúng thực trạng đang diễn ra, nếu tình hình trầm trọng thì phải phân tích mức độ trầm trọng, vạch ra nguyên nhân, không đơn giản hóa, không làm nhẹ nhàng vấn đề, nhất là không tô hồng thực tế. Tránh sửa đổi, thêm bớt, làm sai lệch thông tin theo ý kiến chủ quan, làm ảnh hưởng tới việc xem xét quyết định của Quốc hội, HĐND. Tính chính xác của thông tin có ý nghĩa để “bắt bệnh đúng mới có thuốc chuẩn”. Thông tin cũng cần được cung cấp từ các góc độ, quan điểm khác nhau, tránh việc cung cấp thông tin một chiều. Như ĐBQH cho biết, “cần thông tin “trái chiều” để cân nhắc kỹ hơn”. Quốc hội, HĐND với tính chất là “diễn đàn chính

27


sách quốc gia”, rất cần chú ý đến những nội dung được đúc rút từ những nguồn thông tin đa dạng, đa chiều, mang tính phản biện này, nhằm giúp cho quá trình ra quyết sách được cẩn trọng, chính xác, toàn diện. Trong mỗi lĩnh vực theo chức năng của Quốc hội, HĐND, thông tin cần đáp ứng một số yêu cầu đặc thù. Ví dụ, việc phân tích, xử lý thông tin phục vụ hoạt động lập pháp cần tập trung làm rõ một số vấn đề quan trọng như: Ban hành văn bản thì nhà nước được lợi gì, hại gì? Ban hành văn bản thì người dân được lợi gì, hại gì? Chi phí của Nhà nước để bảo đảm thực hiện luật, pháp lệnh là bao nhiêu, ngân sách nhà nước có đủ sức bảo đảm không, có tương xứng với lợi ích thu được hay không? Đánh giá tính hợp hiến, hợp pháp của dự án và tính thống nhất của văn bản với hệ thống pháp luật...

2. Kỹ năng xây dựng báo cáo5 2.1. Xây dựng đề cương Yêu cầu chung: Đề cương báo cáo được xây dựng càng chi tiết càng tốt, bám sát nội dung của cuộc giám sát (đối với báo cáo kết quả giám sát); Nội dung các văn bản pháp quy, hướng dẫn thực hiện (đối với báo cáo thẩm tra các dự thảo nghị quyết); Các mục tiêu, giải pháp, nhiệm vụ của những nghị quyết đã ban hành trước đó (đối với báo cáo thẩm tra chung); Yêu cầu các nội dung cần lấy ý kiến tham gia vào các dự án luật (đối với báo cáo tổng hợp ý kiến,...). Nội dung đề cương báo cáo: Mỗi loại báo cáo có đặc trưng riêng và đề cương chi tiết của mỗi loại báo cáo cũng khác nhau: Đề cương của báo cáo kết quả giám sát thường gồm 3 phần chính: Phần I. Khái quát tình hình về nội dung giám sát, cần nêu các nội dung: Đặc điểm, tình hình chung; Phạm vi, đối tượng; Nội dung chính; Cách thức đã thực hiện; Phần II. Kết quả giám sát: nêu kết quả đạt được; Tồn tại, hạn chế; Nguyên nhân tồn tại; Phần III. Kết luận, kiến nghị: Kết luận phải nhấn mạnh những mặt được, chưa được, những tồn tại và đặc biệt là đưa ra những kiến nghị để giải quyết những vấn đề tồn tại, hạn chế. Đề cương của báo cáo thẩm tra chung: thường gồm ba phần chính: Phần I: Đánh giá từng nhiệm vụ, từng nội dung, đưa ra những ý kiến bổ sung, những dữ liệu chứng minh tính đúng đắn của báo cáo so với thực tế; đánh giá (hoặc bổ sung) những tồn tại, nguyên nhân. Chú ý những tồn tại và nguyên nhân, bên báo cáo thực hiện thường chú ý đến thành tích nhiều hơn, còn thiếu sót, hạn chế ít nêu hoặc thiếu tính khách quan. Phần II: Về nhiệm vụ, giải pháp của giai đoạn tiếp theo, báo cáo thẩm tra (5) Xem thêm bài của ông Lương Anh Tế, Kỹ năng viết báo cáo của cán bộ Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND, Đà Nẵng, 2012.

28


phải tỏ quan điểm nhất trí hay bổ sung, chỉnh sửa vấn đề nào trong báo cáo của Ủy ban nhân dân hoặc các ngành đã nêu. Mặt khác, báo cáo thẩm tra xem xét, đánh giá các nhiệm vụ, giải pháp đưa ra có khả thi không, có khắc phục được những tồn tại, hạn chế trong giai đoạn trước đó không. Phần III: Những kiến nghị, đề xuất Đề cương của báo cáo thẩm tra dự thảo nghị quyết: gồm các phần sau: Mở đầu. Dẫn liệu các văn bản những căn cứ pháp lý của việc ban hành nghị quyết, tình hình khảo sát, làm việc của các ban, tiếp thu ý kiến các ngành. Phần I. Sự cần thiết ban hành nghị quyết: Nêu những căn cứ pháp lý (các văn bản luật, quy phạm pháp luật liên quan đến nội dung của nghị quyết); những căn cứ thực tiễn (tình hình thực hiện) có tính thuyết phục. Phần II. Đánh giá sự phù hợp của phương án đưa ra: Sự phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành (tính hợp pháp); sự phù hợp với tình hình kinh tế xã hội, đời sống nhân dân (tính hợp lý); dự báo tính khả thi của nghị quyết khi thực hiện. Phần III. Kết luận, kiến nghị: Báo cáo thẩm tra phải đưa ra quan điểm thống nhất hay không thống nhất, hoặc đề nghị điều chỉnh về: nội dung, phương án thực hiện, hiệu lực thi hành của nghị quyết; những kiến nghị (nếu có), cần sửa đổi, bổ sung vào dự thảo nghị quyết. 2.2. Kỹ năng viết báo cáo Về phân tích, đánh giá thực trạng, ưu, nhược điểm: Phần phân tích, đánh giá thực trạng là nội dung chính và rất quan trọng của báo cáo. Đối với mỗi loại báo cáo, phần này có một số điểm đặc thù. Trong báo cáo giám sát, việc phân tích, đánh giá là do chủ quan của người viết, trên cơ sở các thông tin, dữ liệu đã thu thập được để phân tích, đánh giá tình hình từ đó chỉ ra những ưu điểm, nhược điểm hay nói cách khác là những kết quả đạt được và những tồn tại, yếu kém. Nhưng, trong báo cáo thẩm tra, lại là việc công nhận, hay không công nhận nội dung nào, bổ sung nội dung nào trong báo cáo của các cơ quan gửi đến và chứng minh việc bổ sung ý kiến là có cơ sở.

(Cán bộ Văn phòng Đoàn ĐBQH&HĐND tỉnh Cao Bằng tham gia lớp bồi dưỡng kỹ năng viết tin bài, báo cáo)

Khi phân tích, đánh giá phải chia vấn đề ra những nội dung khác nhau theo từng nhóm, càng chia nhỏ, chia chính xác thì càng dễ viết,

29


mỗi nội dung lập thành mục riêng. Sử dụng thông tin, dữ liệu phải là những thông tin có độ tin cậy cao, thông tin, dữ liệu phải mới và cập nhật thường xuyên, tránh sử dụng số liệu, thông tin lạc hậu hoặc sai. Đánh giá kết quả và những tồn tại, yếu kém phải khách quan, trung thực, không theo ý chủ quan. Về nhiệm vụ, giải pháp: Với báo cáo giám sát thì nhiệm vụ, giải pháp chính là phần kiến nghị các cơ quan liên quan phải thực hiện trong thời gian tới để khắc phục những hạn chế, yếu kém trong thời gian trước đó. Với báo cáo thẩm tra thì việc của chúng ta là xem xét các nhiệm vụ, giải pháp đó nêu ra đã đủ chưa, đúng chưa, cần điều chỉnh, bổ sung nhiệm vụ, giải pháp nào. Cũng có những loại báo cáo không có phần nhiệm vụ, giải pháp, như: báo cáo tổng hợp ý kiến; báo cáo khảo sát, xác minh… Về kết luận - Kết luận của báo cáo giám sát: được rút ra từ quá trình phân tích, chứng minh nội dung giám sát, do đó, kết luận được coi như đánh giá tổng quát mặt ưu điểm, nhược điểm về thực hiện của đối tượng giám sát, chỉ ra được những nguyên nhân chủ quan, khách quan của những hạn chế, thiếu sót và phương hướng khắc phục. - Kết luận của báo cáo thẩm tra: là việc đánh giá tổng quát chất lượng báo cáo và tổng quát kết quả đạt được và những tồn tại, yếu kém và biện pháp khắc phục trong thời gian tới, những ý kiến bổ sung của cơ quan thẩm tra. - Có những báo cáo không nhất thiết phải kết luận: như báo cáo tổng hợp ý kiến tham gia xây dựng pháp luật, báo cáo tổng hợp ý kiến cử tri,.. Về đề xuất, kiến nghị Chỉ khi nào thấy cần đề xuất cấp trên hoặc các cơ quan liên quan để phối hợp lãnh đạo, chỉ đạo thì mới có kiến nghị, đề xuất. Ví dụ: trong báo cáo kết quả giám sát giải quyết đơn thư công dân, khi thấy việc thực hiện nhiệm vụ, thực thi pháp luật của cơ quan thanh tra còn nhiều thiếu sót, yếu kém, cần phải kiến nghị chỉ đạo hoặc cơ quan liên quan phối hợp thực hiện thì cần thiết phải có kiến nghị; những kiến nghị phải cụ thể và có tính khả thi. Hoặc trong báo cáo thẩm tra, có thể có đề xuất bổ sung thêm nhiệm vụ, giải pháp, biện pháp tổ chức thực hiện nhiệm vụ mà trong báo cáo của các ngành chưa đề cập. Sử dụng từ ngữ trong báo cáo: Trong báo cáo, từ ngữ sử dụng phải chuẩn xác, dễ hiểu, không để người đọc hiểu sai hoặc hiểu cách nào cũng được; khi cần thiết phải có giải thích từ ngữ. Câu văn phải ngắn gọn, rõ ràng, diễn đạt phải mạch lạc. Chú ý trong các báo cáo tổng hợp ý kiến cử tri, ý kiến nhân dân, người tổng hợp phải hiểu ý của người phản ánh, diễn đạt đúng ý của họ và không được bỏ sót, hoặc diễn đạt sai ý kiến của người phản ánh.

30


Sử dụng sơ đồ, mẫu biểu trong báo cáo: Số liệu đưa vào báo cáo cần chọn lọc và chỉ đưa những số liệu chính có tính thuyết phục cao, còn các số liệu thống kê để thông tin thêm thì nên để ở phần phụ lục (có thể ở ngay cuối mỗi trang, hoặc lập biểu kèm theo báo cáo). Những sơ đồ, biểu mẫu có nhiều số liệu, nhất là số liệu về tài chính, ngân sách thì phải lập thành biểu và kèm theo báo cáo, chỉ chuyển vào báo cáo các số liệu chính để chứng minh cho đánh giá, nhận định 2.3. Đặc trưng của một số loại báo cáo Thường có bốn loại báo cáo chính, mỗi loại báo cáo có đặc trưng riêng về: đặc điểm, mục đích, yêu cầu, đối tượng và bố cục của báo cáo. a) Báo cáo tổng hợp ý kiến Báo cáo tổng hợp ý kiến tham gia xây dựng pháp luật và báo cáo tổng hợp ý kiến cử tri có đặc trưng tương tự nhau: Báo cáo tổng hợp các ý kiến tham gia xây dựng luật thông thường các cơ quan soạn thảo sẽ gửi theo đề cương tham gia, có gợi ý những vấn đề cần trao đổi. Báo cáo tổng hợp ý kiến cử tri thì không có sự định trước về nội dung, cũng không có gợi ý, mà sau khi có ý kiến của cử tri (từ các biên bản hội nghị tiếp xúc cử tri), văn phòng có trách nhiệm tổng hợp theo từng nhóm vấn đề và phân loại ý kiến, kiến nghị của cử tri thuộc thẩm quyền cấp nào thì tập hợp chuyển đến cấp đó. Mục đích: Qua tổng hợp ý kiến tham gia xây dựng pháp luật nhằm thu thập để phân tích, đánh giá sự đồng thuận của xã hội, của các chuyên gia về văn bản pháp luật chuẩn bị ban hành; tiếp thu được nhiều ý kiến từ các thành phần, đối tượng khác nhau trong xã hội để chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Yêu cầu của báo cáo: Bám sát đề cương gợi ý (đối với báo cáo tham gia xây dựng pháp luật); Phản ánh trung thực ý kiến tham gia, không suy diễn sai lệch; không bỏ sót ý kiến; không sao chép ý kiến một cách máy móc. Đối tượng của báo cáo: là nhân dân (cả cán bộ và chuyên gia), tiếp thu ý kiến từ nhân dân, đã là số đông thì sự hiểu biết khác nhau, trình độ khác nhau, lại tiếp thu trên diện rộng nên việc tổng hợp là khá phức tạp, cần hiểu ý từng ý kiến để tổng hợp đúng, đầy đủ. Bố cục của báo cáo: - Phần mở đầu: nêu hình thức tổ chức lấy ý kiến; số cuộc (số hội nghị) đã tổ chức để lấy ý kiến; số ý kiến tham gia (cả trực tiếp hoặc bằng văn bản). - Phần nội dung: Tham gia về bố cục văn bản (chương, mục, điều, khoản...); Về câu, từ,...; Về nội dung văn bản, ghi theo từng chương, điều của văn bản luật (tổng hợp ý kiến tham gia xây dựng luật); hoặc ghi theo từng nhóm vấn đề (tổng hợp ý kiến cử tri); - Phần kết (có thể hoặc không cần): có thể đưa ra nhận định, kết luận của việc

31


tham gia ý kiến về khả năng đồng thuận của xã hội đối với văn bản. b) Báo cáo kết quả giám sát Đặc điểm: Các hoạt động giám sát tại kỳ họp; các đoàn giám sát theo một chuyên đề (những vấn đề đang được nhiều cử tri, nhân dân quan tâm, hoặc những sự việc đang “có vấn đề”). Báo cáo là việc đánh giá kết quả thực hiện của đối tượng giám sát với các nội dung liên quan, chỉ ra được những kết quả và nhất là những tồn tại, yếu kém (kể cả vi phạm các quy định, vi phạm pháp luật), từ đó kiến nghị thực hiện tốt hơn, hoặc kiến nghị các cơ quan chức năng xử lý. (kiến nghị thanh tra, kiểm tra, điều tra nếu có vi phạm phải xử lý). Mục đích: là nêu bật hiện trạng vấn đề, hiện tượng kinh tế, xã hội cụ thể theo nội dung đã thực hiện giám sát. Yêu cầu: Bám sát đề cương giám sát đã ban hành; Làm rõ những mặt đạt được; Phân tích những mặt tồn tại, yếu kém; Chỉ ra những nguyên nhân; Đưa ra kết luận và những kiến nghị xác đáng, kể cả kiến nghị chuyển thanh tra, điều tra (nếu có đủ căn cứ về những vi phạm pháp luật nghiêm trọng). Trong quá trình giám sát, đối với những vấn đề chưa rõ, cần khảo sát, xác minh thêm thì tiến hành cử các tổ công tác, tổ chuyên gia tiến hành khảo sát, xác minh để cung cấp thêm chứng cứ giúp cho kết luận giám sát được chính xác hơn. Đối tượng của báo cáo: là các cơ quan, tổ chức liên quan thuộc đối tượng giám sát, là những vấn đề được đánh giá làm rõ kết quả thực hiện đúng, chưa đúng so với các quy định của pháp luật, của nghị quyết,... Bố cục báo cáo: - Phần I. Khái quát tình hình: Đặc điểm, tình hình chung; Phạm vi, đối tượng; Nội dung chính; Cách thức giám sát đã thực hiện. - Phần II. Kết quả giám sát. Nêu kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân tồn tại của từng nội dung. - Phần III: Kết luận, kiến nghị. Đây là phần rất quan trọng của báo cáo giám sát, kết luận tổng thể cuộc giám sát và đưa ra những kiến nghị để giải quyết những vấn đề tồn tại, hạn chế (kể cả kiến nghị xử lý bằng pháp luật, nếu thấy cần thiết). c) Báo cáo kết quả khảo sát, xác minh Đặc điểm: là việc xem xét cụ thể, tìm hiểu thông tin để làm rõ trên thực tế một vấn đề đang quan tâm, nhằm củng cố chứng cứ, dữ liệu cho việc đánh giá, kết luận một vấn đề nào đó. Báo cáo này thường không phải là báo cáo chính thức để trình bày tại kỳ họp mà nó là báo cáo bổ xung thông tin làm cơ sở để kết luận vấn đề của các báo cáo giám sát, hoặc báo cáo thẩm tra. Mục đích: cũng là mục đích của việc khảo sát, xác minh để làm rõ những vấn

32


đề cụ thể nào đó mà qua giám sát, qua thẩm tra thấy cần phải khảo sát, xác minh thêm. Yêu cầu: Bám sát đề cương; Bám sát mục tiêu đã đặt ra; Làm rõ kết quả khảo sát, không kể lan man theo kiểu thống kê sự việc; Có dẫn chứng thực tế để làm rõ những vấn đề.Vì không phải là báo cáo chính thức, do đó không câu lệ bố cục mà chỉ cần tổng hợp thông tin chuẩn xác và có số liệu để minh chứng. Loại báo cáo này thường không kết luận vấn đề. d) Báo cáo thẩm tra Loại báo cáo này chỉ chuyên viên phục vụ HĐND mới phải làm. Các báo cáo thẩm tra là tài liệu mang tính phản biện để các đại biểu Hội đồng nhân dân tham khảo khi thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương. * Báo cáo thẩm tra chung Đặc điểm: Là việc thẩm tra các báo cáo tập trung vào các vấn đề quan trọng ở địa phương trong một khoảng thời gian nhất định (gồm các nhóm vấn đề: về kinh tế, ngân sách, đầu tư; về các vấn đề xã hội; về các vấn đề thi hành pháp luật). Mục đích: khẳng định tính chính xác hay chưa chính xác của nội dung các báo cáo đã trình; thể hiện quan điểm của chủ thể thẩm tra đồng tình, chưa đồng tình hay cần bổ sung thêm vấn đề gì. Yêu cầu: Đánh giá đúng tình hình (trong một khoảng thời gian nhất định), khách quan, trung thực, không lệ thuộc vào các báo cáo của các cơ quan liên quan. Chỉ ra được những tồn tại, hạn chế; Những nguyên nhân chủ quan, khách quan của những tồn tại, hạn chế. Tỏ quan điểm (đồng tình, không đồng tình hay bổ sung thêm) về nhiệm vụ, giải pháp thực hiện nhiệm vụ thời gian tiếp theo do các cơ quan liên quan đưa ra. Đề xuất những vấn đề mới (ngoài nội dung các vấn đề đã nêu trong các báo cáo). Đối tượng: là báo cáo của các cơ quan liên quan, là những vấn đề quan trọng ở địa phương: kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đầu tư, ngân sách... ở một địa phương cụ thể do chính quyền thực hiện quản lý. Bố cục: Phần I. Tình hình thực hiện nhiệm vụ (trong khoảng thời gian nhất định); Phần II. Về nhiệm vụ, giải pháp của giai đoạn tiếp theo; tỏ quan điểm nhất trí hay bổ sung, chỉnh sửa vấn đề nào trong báo cáo của các ngành; Phần III. những kiến nghị, đề xuất (nếu có). * Báo cáo thẩm tra dự thảo nghị quyết Đặc điểm: là báo cáo thẩm tra một vấn đề rất cụ thể, còn báo cáo thẩm tra chung là đánh giá thực tế so với nội dung báo cáo theo từng nhóm vấn đề. Mục đích: để làm rõ sự phù hợp (hay chưa phù hợp - ở nội dung nào) của

33


nội dung dự thảo nghị quyết với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; với tình hình, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của dự thảo nghị quyết với hệ thống pháp luật hiện hành. Yêu cầu: Phù hợp với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; Phù hợp với tình hình, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân địa phương; Đánh giá sự ảnh hưởng đến đời sống, tâm lý nhân dân; Đánh giá tính khả thi của nghị quyết khi được ban hành; Có quan điểm đồng tình hay không đồng tình, hoăc cần chỉnh sửa, bổ sung nội dung gì của nghị quyết. Đối tượng: là các cơ quan trình dự thảo nghị quyết, các nội dung chính trong dự thảo nghị quyết (đề án) do các cơ quan trình kỳ họp Hội đồng nhân dân. Bố cục: Phần I. Sự cần thiết ban hành nghị quyết; Phần II. Đánh giá sự phù hợp của các nội dung; Phần III. Kết luận, kiến nghị. Những kiến nghị (nếu có), cần sửa đổi, bổ sung vào dự thảo nghị quyết.

3. Tham mưu xem xét dự án Luật, dự thảo Nghị quyết Cán bộ Văn phòng có nhiệm vụ tham mưu cho đại biểu xem xét, thảo luận, thông qua các dự án luật, dự thảo nghị quyết. Việc xem xét, đánh giá các dự thảo chủ yếu được thực hiện trên hai góc độ là về mặt nội dung và mặt hình thức. 3.1. Xem xét, tìm hiểu nội dung của dự thảo nghị quyết Không nên bắt đầu bằng việc đọc trực tiếp các quy phạm trong các dự thảo nghị quyết. Việc đọc và tìm hiểu những tài liệu thuyết minh về dự thảo trước sẽ giúp hình dung tốt hơn về nội dung của dự thảo cũng như những mục đích mà dự thảo hướng đến. Thứ nhất, Tìm hiểu nội dung của dự thảo từ các tài liệu thuyết minh Theo quy định, hồ sơ dự thảo nghị quyết gửi đến các cơ quan dân cử có nhiều tài liệu khác nhau như Tờ trình về dự thảo; Bản thuyết minh chi tiết về dự thảo; báo cáo đánh giá tác động (ở Quốc hội)...; tài liệu khác (nếu có). Đặc biệt, một trong những nội dung quan trọng của Tờ trình là phần nêu ra những vấn đề còn có nhiều ý kiến khác nhau, hay nói cách khác là những vấn đề mà bản thân cơ quan soạn thảo còn cảm thấy phân vân. Đây cũng chính là những nội dung cần tập trung xem xét và đòi hỏi các cơ quan thẩm tra thể hiện quan điểm của mình. Đối với Quốc hội, báo cáo đánh giá tác động của dự án luật cũng rất quan trọng. Thứ hai, Tìm hiểu trực tiếp nội dung của dự thảo qua các quy phạm Để tìm hiểu nội dung của một văn bản quy phạm pháp luật, không thể áp

34


dụng cách đọc như đọc một bài báo hay một cuốn tiểu thuyết. Điều này là do văn bản quy phạm pháp luật bao gồm những quy phạm có nội dung cô đọng, có cấu trúc chặt chẽ và các phần khác nhau của văn bản có sự kết nối với nhau về mặt nội dung mà nếu chỉ đọc một phần riêng lẻ thì có thể chưa hiểu được rõ ràng nội dung của nó. Vì vậy, việc đầu tiên chúng ta nên nắm được cấu trúc các phần, chương, mục của một văn bản trước hết cho phép nắm được những nội dung khái quát của dự án và lô-gích trình bày của văn bản. Bên cạnh đó, qua việc tìm hiểu cấu trúc của dự thảo, người đọc còn có thể nắm được những ý chủ đạo và mức độ quan trọng của từng đơn vị bố cục trên cơ sở trật tự thứ bậc. Việc tiếp theo là người đọc phải làm quen với những thuật ngữ. Vì, tìm hiểu nội dung của các dự thảo còn gặp một khó khăn nữa là việc các nhà soạn thảo thường có xu hướng sử dụng nhiều các thuật ngữ pháp lý chuyên biệt trong các văn bản quy phạm pháp luật với những nội hàm khác biệt so với đời thường. Thông thường, trong các văn bản quy phạm pháp luật, các thuật ngữ chuyên môn được tập trung giải nghĩa trong một điều khoản riêng. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp các thuật ngữ được giải thích một cách rải rác trong các quy phạm của văn bản. Công việc tiếp theo là tìm hiểu về nội dung của từng quy phạm cụ thể. Do đó, tìm hiểu nội dung của các quy phạm pháp luật chính là tìm hiểu quy phạm đó yêu cầu ai, làm cái gì, khi nào, và ở đâu. Trả lời cho câu hỏi “Ai?”, điều cần thiết là phải tìm xem người nào mà hành vi của họ được quy phạm điều chỉnh. Thông thường, chủ ngữ trong câu sẽ làm rõ điều này. Đối với câu hỏi “Làm gì?”, việc trả lời là phải tìm hiểu quy phạm đã yêu cầu chủ thể phải thực hiện những hành động nào. Ở đây, câu trả lời thường nằm ở vị ngữ của câu. Các quy phạm cũng thường chỉ rõ những yêu cầu mệnh lệnh đối với các chủ thể được thực hiện trong những điều kiện nhất định. Đó chính là việc chỉ ra phạm vi thời gian và địa điểm (hay nói khái quát hơn là tình huống) mà mệnh lệnh hoặc quy định ở trên có hiệu lực. Thông thường, một giải pháp lập pháp hoàn chỉnh để điều chỉnh những hành vi phải bao gồm các yếu tố hệ thống có mối quan hệ tương hỗ với nhau như sau: 1) Đối tượng điều chỉnh; 2) Các cơ quan thực hiện chính; 3) Cơ quan chế tài; 4) Cơ quan giải quyết tranh chấp; 5) Cơ quan cấp vốn; 6) Cơ quan giám sát và đánh giá.

35


TÓM TẮT CÁC BƯỚC ĐỂ TÌM HIỂU NỘI DUNG CỦA MỘT DỰ THẢO Bước 1: Vạch ra bố cục của dự thảo NQ với đầy đủ tiêu đề của các Chương, Mục; Bước 2: Đọc kỹ từng điều, tìm hiểu rõ các thuật ngữ được sử dụng. Nếu có những thuật ngữ chưa rõ ràng thì tham mưu để đại biểu yêu cầu phải giải thích hoặc thay thế bằng các thuật ngữ dễ hiểu hơn; Bước 3: Phân tích từng điều để làm rõ các câu hỏi: Ai?, Làm gì?, Trong phạm vi giới hạn thời gian, không gian, hoàn cảnh nào? Bước 4: Làm rõ nội dung của các điều khoản bằng cách diễn giải lại như những mệnh lệnh đối với các chủ thể được đề cập; Bước 5: Tìm hiểu tổng thể các nội dung của dự thảo thông qua việc xem xét 6 yếu tố đã đề cập ở trên. Nếu dự thảo không đề cập đến một yếu tố nào đó thì cần tìm hiểu xem trong hệ thống pháp luật hiện hành đã có văn bản nào, quy phạm nào đã quy định về yếu tố đó hay chưa. Thông qua việc xác định những yếu tố này của một dự thảo, các cán bộ văn phòng sẽ nắm được tổng thể những yếu tố mà dự thảo tác động tới. Lúc này, việc so sánh với những gì đã tìm hiểu được trong các tài liệu khác sẽ giúp hiểu một cách thấu đáo hơn nội dung của dự thảo cũng như đánh giá được phần nào chất lượng soạn thảo. 3.2. Xem xét hình thức của các dự thảo Hình thức của một dự thảo Nghị quyết không đơn thuần là hình thức trình bày các điều khoản, các mục, các chương, phần. Những yếu tố này đã được quy định thành những chuẩn mực trình bày mà mọi dự thảo phải tuân theo. Việc xem xét, đánh giá về hình thức của các dự thảo Nghị quyết, vì vậy, tập trung nhiều hơn về cách thức chuyển tải nội dung. Thứ nhất, về cấu trúc của dự thảo Việc xem xét cấu trúc của dự thảo ở góc độ hình thức tập trung vào việc đánh giá liệu cấu trúc của dự thảo có đảm bảo tính lô-gích hay không và có chuyển tải được nội dung của dự thảo đến người đọc một cách nhanh nhất hay không.

36


Về lô-gích, các đơn vị cấu trúc trong văn bản có thể được kết nối với nhau theo trình tự thời gian, theo trình tự về tầm quan trọng của vấn đề, theo trình tự về mặt quy trình thủ tục v.v... và quan trọng nhất, có thể là theo trình tự về bảy yếu tố hệ thống trong một giải pháp lập pháp hoàn chỉnh (được nêu ở Hộp 1). Điều này sẽ giúp người đọc hình dung một cách nhanh nhất về nội dung của dự thảo và đặc biệt là có thể tìm được những nội dung cần thiết mà mình quan tâm ở các phần, chương, mục tương ứng. Một yếu tố khác trong việc đánh giá về cấu trúc của các dự thảo là mức độ tương ứng giữa nội dung của đơn vị cấu trúc và tiêu đề của cấu trúc đó. Nếu nội dung của đơn vị cấu trúc không phù hợp với tiêu đề, hoặc nếu có một hoặc một vài điều khoản có nội dung khác với tiêu đề của đơn vị cấu trúc thì rõ ràng dự thảo đã không được soạn thảo tốt. Lúc đó, người đọc sẽ mất nhiều thời gian để đọc dự thảo cũng như sẽ mất nhiều thời gian để hỏi tại sao một điều khoản lại xuất hiện tại một vị trí nào đó trong một đơn vị cấu trúc của dự thảo. Thứ hai, về cách thức trình bày một quy phạm Chất lượng trình bày một quy phạm trong dự thảo được thể hiện qua cách thức dùng từ, ngữ cũng như qua việc thể hiện mệnh lệnh nội dung một cách rõ ràng, chính xác. Chất lượng trình bày một quy phạm trong dự thảo được thể hiện qua cách thức dùng từ, ngữ cũng như qua việc thể hiện mệnh lệnh nội dung một cách rõ ràng, chính xác. * Đối với cách thức dùng từ, ngữ, Luật ban hành quy phạm pháp luật năm 2008 yêu cầu “ngôn ngữ sử dụng trong văn bản quy phạm pháp luật phải chính xác, phổ thông, cách diễn đạt phải rõ ràng, dễ hiểu”. Để đánh giá những yếu tố này, có thể đặt ra một số tiêu chí như sau:  Các câu trong quy phạm không được quá dài  Không sử dụng những từ tối nghĩa  Không sử dụng những từ mơ hồ. Việc sử dụng những từ có nghĩa mơ

hồ như “hợp lý”, “thoả đáng”, “đúng đắn” có thể gây ra những cách hiểu khác nhau và có thể gây ra trường hợp trao cho một chủ thể một quyền hạn khó xác định hoặc không giới hạn. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là trong một số trường hợp không thể quy định một cách chi tiết hơn thì việc sử dụng những từ ngữ như “hợp lý”, “thoả đáng”, “đúng đắn”... là cần thiết để đặt ra yêu cầu người thực hiện phải đưa ra những giải thích về cơ sở cho những hành động của mình. Vì vậy, khi gặp những từ này trong quy phạm pháp luật, cần phải xem xét cẩn thận các bối cảnh sử dụng.  Không sử dụng những từ thừa.

37


 Không sử dụng nhiều từ cho một khái niệm hoặc một từ cho nhiều khái

niệm. * Đối với cách thức thể hiện nội dung của quy phạm, liệu quy phạm đã thể hiện một cách đầy đủ và rõ ràng mệnh lệnh về hành vi mà quy phạm muốn điều chỉnh hay chưa. Nói cách khác là xác định liệu quy phạm đã chỉ rõ các nội dung ai?, cần phải làm gì?, trong hoàn cảnh nào? hay chưa. Để thực hiện điều này, có thể tham khảo một số tiêu chí sau đây:  Quy phạm không sử dụng các câu dưới dạng bị động.  Quy phạm không sử dụng các câu tuyên bố về việc trao quyền một

cách chung chung.  Quy phạm không quy định những chủ thể không đủ năng lực phải thực

hiện các mệnh lệnh.  Quy phạm không chỉ rõ những hành động được phép hoặc cấm đoán

của các chủ thể

4. Đánh giá tác động điều chỉnh của quy phạm pháp luật (RIA) Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 vừa được Quốc hội thông qua đã quy định nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo là phải “tổ chức đánh giá tác động và xây dựng báo cáo đánh giá tác động của dự thảo văn bản. Nội dung của báo cáo đánh giá tác động phải nêu rõ các vấn đề cần giải quyết và các giải pháp đối với từng vấn đề đó; chi phí, lợi ích của các giải pháp; so sánh chi phí, lợi ích của các giải pháp. Cán bộ văn phòng ở các địa phương có thể áp dụng cách tiếp cận, phương pháp của RIA để tham mưu cho Đoàn ĐBQH hoặc các cơ quan của HĐND xem xét, thẩm tra, thảo luận về dự án Luật, dự thảo nghị quyết. 4.1. Cách tiếp cận chung Đây là phương pháp đánh giá những tác động có thể xảy ra từ sự thay đổi chính sách hoặc pháp luật, được thực hiện trong qua trình làm luật, sửa đổi bổ sung các quy định pháp luật hoặc ban hành chính sách mới. Nó nghiên cứu, phân tích, đánh giá các giải pháp, lựa chọn chính sách, cung cấp cho các cơ quan có thẩm quyền, để họ có thể lựa chọn được giải pháp tốt nhất. Cách tiếp cận của RIA là đánh giá, so sánh và lấy ý kiến về các phương án chính sách trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định. Theo đó, cán bộ văn phòng cần đưa ra các phương án tối ưu để đại biểu lựa chọn; giải thích rõ vấn đề cần giải quyết và các biện pháp đề xuất sẽ giải quyết vấn đề như thế nào; xác định các phương án chính và các lựa chọn; không bao giờ chỉ đưa ra một phương án đơn lẻ. Theo cách tiếp cận của RIA, cán bộ Văn phòng trong quá trình đánh giá tác động của các quy định trong văn bản dự kiến đề xuất ban hành, cần thực hiện các bước sau đây:

38


(1) Xác định vấn đề cần phải giải quyết liên quan đến quy định đó; (2) Xác định mục tiêu giải quyết vấn đề; (3) Lựa chọn các phương án để giải quyết từng vấn đề; (4) Xác định các yếu tố chi phí và lợi ích chính cho từng phương án; Hoàn thành xong bước (4) cho một vấn đề, lặp lại trình tự từ bước (1) đến bước (4) cho các vấn đề còn lại. Sau đó, diễn giải kết quả phân tích, thống nhất các giải pháp và kết luận; thể hiện kết quả đánh giá tác động thành văn bản hoặc báo cáo miệng với đại biểu, lãnh đạo Đoàn ĐBQH hoặc Thường trực HĐND. 4.2. Phân tích tác động của chính sách được thể hiện trong dự thảo6 Phân tích tác động của chính sách là phân tích các ảnh hưởng của chính sách đối với các đối tượng khác nhau trong xã hội và đối với sự phát triển của xã hội nói chung. Đó là các tác động về kinh tế, xã hội, môi trường…đã xảy ra sau khi thực hiện một chính sách hoặc văn bản đã ban hành. Phân tích tác động chính sách trước khi ban hành là phân tích, dự báo những tác động có thể có của chính sách sắp được ban hành đối với các đối tượng (chủ thế) khác nhau trong xã hội và đối với sự phát triển của xã hội nói chung như thế nào (mức độ tác động) để làm cơ sở lựa chọn phương án chính sách tối ưu để ban hành. Còn phân tích tác động sau khi ban hành văn bản, chính sách là việc rà soát, xem xét các tác động của chính sách đối với các đối tượng (chủ thể) khác nhau trong xã hội và đối với sự phát triển của xã hội nói chung như thế nào (mức độ tác động) trong quá trình thực thi chính sách sau khi ban hành đã tạo ra để làm cơ sở chỉnh sửa, hoàn thiện hoặc bãi bỏ chính sách hoặc văn bản. (Bỏ chính sách, văn bản lao động công ích). Sự tác động của chính sách hoặc văn bản ở nhiều góc độ, có thể có nhiều loại tác động như: tác động tích cực – tiêu cực; tác động trực tiếp – gián tiếp; tác động chính – tác động phụ; tác động đơn lẻ - tác động dây chuyền...; Về các lĩnh vực tác động của chính sách gồm: tác động về kinh tế đối với đất nước, doanh nghiệp, người dân; tác động đối với ngân sách nhà nước (tăng chi phí do tăng đơn vị sử dụng ngân sách, tăng biên chế, nhân viên, thời gian làm việc, hoặc giảm chi phí do giảm đơn vị sử dụng ngân sách, giảm biên chế, nhân viên, giảm thời gian làm việc…) hoặc thu nhập của người dân; Về tác động đối với xã hội (tăng – giảm thất nghiệp; tăng – giảm thu nhập; tăng giảm nghèo đói; tăng giảm công bằng xã hội; tăng giảm chất lượng dân số… Từ một phương diện khác, một chính sách thường có 3 tính chất tác động chủ yếu: tác động tích cực, tác động tiêu cực và tác động ngoại vi. Ba loại tác động của chính sách thường diễn ra đồng thời: (6) Theo Nguyễn Quang Tuyến, Phân tích chính sách đối với Luật đất đai (sửa đổi), 2012.

39


- Tác động tích cực của một chính sách là những tác động dẫn đến những kết quả phù hợp với mục tiêu của chính sách, làm gia tăng lợi ích chung, động viên sự nỗ lực hành động của con người hay của nhóm người trong xã hội. Tác động tích cực là loại tác động mà các nhà quyết định chính sách mong muốn đạt tới. Tuy nhiên, không phải khi nào cũng chỉ có tác động tích cực, mà còn có tác động tiêu cực. Tác động tiêu cực xuất hiện là một phần tất yếu khách quan, hơn nữa, chính là cơ sở để xem xét, phân tích để ban hành những chính sách tốt hơn cho quá trình phát triển xã hội. - Tác động tiêu cực là những tác động dẫn đến kết quả ngược lại với mục tiêu của chính sách mà các nhà hoạch định chính sach mong muốn, làm gia tăng hoặc phát sinh nhưng mặt trái, gây tác động xấu đối với lợi ích của một số đối tượng nhất định. Ví dụ, chính sách, “thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu” đã dẫn tới “rượu lậu tiếp tục phát triển, người sử dụng rượu không hề giảm”, tương tự như thế với thuocs là và nhiều mặt hàng khác. - Tác động ngoại vi của một chính sách là những tác động không xuất hiện tức thì, chính diện mà có tính chất “ăn theo” nhằm tranh thủ mặt có lợi và hạn chế tác hại, nằm ngoài dự liệu của người quyết định chính sách. Trong tác động ngoại vi, người ta có thể thấy xuất hiện tác động ngoại vi tích cực, tác động ngoại vi tiêu cực và có khi còn xuất hiện tác động ngoại vi của ngoại vi. + Tác động ngoại vi tích cực, là tác động ngoài vi góp phần nâng cao hiệu quả của chính sách, chẳng hạn, chính sách “thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu” đã “góp phần hạn chế tình trạng tai nạn giao thông, bạo lực gia đình, an toàn trật tự xã hội do lạm dụng rượu gây ra”. + Tác động ngoại vi tiêu cực là tác động ngoại vi dẫn tới giảm thiểu hiệu quả của chính sách, chẳng hạn, chính sách “tiêu thụ đặc biệt đối với rượu, bia, thuốc lá..” “đã làm người lao động mất việc làm do cơ sở sản xuất phải thu hẹp và giảm chỗ làm việc”. Một hiện tượng thú vị khác, là còn tồn tại tác động ngoại vi của ngoại vi. Đến lượt mình, trong tác động ngoại vi của ngoại vi cũng lại xuất hiện ngoại vi tích cực và tiêu cực. Hệ lụy của nó có thể tiếp diễn tới vô cùng. Phân tích rõ và đầy đủ các tác động tích cực, tiêu cực ngoại vi tích cực tiêu cực, rồi ngoại vi của ngoại vi có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nghiên cứu đề ra các chính sách mới, chính sách bổ sung, để không ngứng hoàn thiện các chính sách trong quá trình quản lý xã hội. 4.3. Phân tích tương quan Lợi ích – Chi phí7 “Phân tích chi phí – lợi ích là việc tính toán, so sánh giữa các đại lượng chi phí và lợi ích mang lại trên cơ sở lập luận logic, để đánh giá hiệu quả của chính (7) Xem thêm Lê Quốc Dung, Phân tích hiệu quả kinh tế của chính sách trong dự án luật, Hà Nội, 2014.

40


sách trong dự thảo luật”. Theo cách tiếp cận RIA, mọi quy định pháp luật đều sinh ra những chi phí khác nhau cho nhà nước, xã hội và người dân. Chẳng hạn, một quy định về đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy hoặc quy định về tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm khiến cho chi phí của người tiêu dùng tăng lên. Và lợi ích mang lại là sự an toàn hơn cho con người như: giảm những chấn thương nặng, cũng như những rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân, làm cho thị trường thực phẩm lành mạnh hơn…Vấn đề quan trọng là, so với chi phí đó, lợi ích mà quy định mới mang lại là gì và bao nhiêu? Chính vì vậy, phân tích lợi ích - chi phí của việc ban hành chính sách, pháp luật để dễ dàng nhận biết một chính sách, văn bản luật ra đời có dẫn đến những lợi ích lớn hơn những chi phí nhà nước hay người dân phải bỏ ra hay không. Điều đó rất quan trọng cho những nhà lập pháp, nhất là khi thảo luận, tham gia quyết định hay giám sát chính sách mà có đựơc những phân tích, lựơng hóa được những lợi ích mang lại và chi phí bỏ ra không những giúp cho sự lựa chọn được đúng đắn mà còn mang tính thuyết phục cao trong hoạt động lập pháp. Tuy nhiên việc thực hiện phân tích lợi ích - chi phí không áp dụng đựơc cho mọi tình huống chính sách bởi những khó khăn về dữ liệu của những tình huống đó cũng như điều kiện khả năng của chủ thể phân tích. Tuy nhiên nếu có “cơ hội” thì cần tận dụng kết hợp phương pháp này. Nội dung, trình tự phân tích lợi ích – chi phí  Lựa chọn các nội dung cần phân tích đánh giá : lập danh mục và lựa chọn

vấn đề, lập phương án chính sách, xác định các nội dung trọng tâm cần và có thể phân tích bằng phương pháp các phi phí - lợi ích.  Lựa chọn các phương pháp phân tích, mức độ phân tích đánh giá tiêu biểu,

phù hợp, có thể kết hợp các phương pháp phân tích cho phù hợp sinh động và thuyết phục. Xác lập các nội dung và tiêu chí phân tích cho vấn đề lựa chọn cho thích ứng với nội dung , tình hình điều kiện cụ thể của phương án phân tích. Ví dụ : trong các ví dụ trên nội dung phân tích chỉ là 1 phương án chính sách mà không cần phải so sánh phương án khác; xác lập tiêu chí: các đối tượng chịu tác động của chính sách này trong đó cần ưu tiên các tiêu chí chi phí- lợi ích tính được bằng tiền để so sánh, đồng thời chọn các đối tượng chịu tác động khác để mô tả tình trạng, mức độ tác động để làm rõ tính logic hơn.  Thu thập, phân tích các dữ liệu thông tin, tham vấn phục vụ phân tích…là

công việc cần thiết. Dựa trên nhiều nguồn thông tin, các báo cáo hoặc yêu cầu các cơ quan liên quan cung cấp,… sao cho các thông tin, số liệu dữ kiện càng chính xác, sát thực tiễn thì độ tin cậy của kết quả phân tích càng cao. Những chi phí- lợi ích có tính tiềm năng chưa có số thực có thể tham

41


vấn cách tính toán dựa trên những lập luận logic thuyết phục. Ví dụ như việc nếu bắt buộc người sở hữu nhà phải đăng ký cấp giấy phép thì cần thu thập và tính toán các dữ liệu: Xem lại các quy định của Hiến pháp về quyên tài sản của công dân; số hộ dân, số căn nhà, trạng thái, giá trị ngôi nhà vùng xa, khoảng các người dân đến nơi đăng ký, nhu cầu cấp thiết cần đăng ký của người dân ở các vùng? nhân sự, trụ sở, trang thiết bị, giấy tờ, thời gian để cấp …tăng thêm của các cơ sở làm đăng ký, thủ tục đăng ký cấp giấy,… có thể áp dụng phương pháp tương quan với các hoạt động khác để xác định dữ liệu.  Lựa chọn nội dung, tiêu chí cần tính toán, so sánh các chi phi phí - lợi ích

ròng, kể cả các phi phí - lợi ích tiên lượng, giả định nhưng lo-gic, phân tích cả các chi phí - lợi ích không tính bằng tiền. Như chi phí - lợi ích đối với Ngân sách Nhà nước; doanh nghiệp, người dân, tác động với Hiến pháp, pháp luật, với thủ tục hành chính, với xã hội, môi trường….  Phân tích cụ thể cho từng vấn đề; tổng hợp chung kết quả phân tích của

từng vấn đề.  Mô tả những chi phí - lợi ích, kể cả lợi ích tiềm năng, chi phí - lợi ích vô

hình của các quy định đang xem xét; kinh tế, xã hội, môi trường, hệ thống pháp luật, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, ngân sách Nhà nước, các tác động chính khác liên quan tới quyết định, những ai sẽ chịu tác động chi phí - lợi ích?  Mô tả những phương án khác có thể đạt được mục đích mà văn bản hướng

tới với chi phí thấp hơn; đồng thời phân tích những lợi ích và chi phí của các phương án đó; giải thích những nguyên nhân pháp lý. Tính phù hợp thực tiễn, tính khả thi của phương án chính sách.  Khảo sát thực tiễn, lấy ý kiến người dân chịu sự tác động của chính sách là

yêu cầu rất cần thiết trong lập chính sách và giám sát, để kiểm nghiệm tính thực tiễn của chính sách, để minh họa, lập luận và tăng thêm độ vững chắc, tính thuyết phục cho kết quả phân tích. Khảo sát thực tiễn cần trở thành phong cách, thói quen của các nhà lập pháp.  Giải thích những nội dung không phân tích chi phí - lợi ích.  Kết luận nội dung phương án lựa chọn, kiến nghị những giải pháp để thực

hiện phương án lựa chọn. Kết luận chung về dự án luật đang xem xét về những vấn đề cần điều chỉnh, thay đổi, tính khả thi (nếu xét thấy cần thiết)

42


DƯỚI ĐÂY LÀ MỘT SỐ VÍ DỤ PHÂN TÍCH TƯƠNG QUAN CHI PHÍ – LỢI ÍCH ĐỂ LÀM CƠ SỞ CHO ĐẠI BIỂU XEM XÉT Ví dụ 1: Cấp chung giấy phép quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà trên đất. Có thể phân tích lợi ích - chi phí: giả định nếu bắt buộc người dân phải đăng ký quyền sở hữu nhà và cấp riêng giấy chứng nhận được thực thi:

Tác động của Chính sách “Cấp giấy quyền sở hữu nhà ở trên đất” Đối tượng chịu tác động

Chi phí

Nhà nước

90 tỷ đồng ; tăng thêm nhiệm vụ quản lí

Người dân

990 tỷ; Phiền hà, mất nhiều thời gian đi lại

Pháp luật

Vi Hiến, không phù hợp thực tiễn, kém khả thi,

Quyền của người dân

Bị áp đặt

Xã hội

Tăng chi phí hữu hình và vô hình nhiều hộ dân sẽ không đăng ký dẫn đến PL không nghiêm

Lợi ích

Rất ít hộ cần đăng kí để bảo vệ sở hữu và làm căn cứ phân chia tài sản Tạo thêm ít việc làm in giấy và cấp giấy

Lợi ích nhóm

43


Ví dụ 2: Luật quy định: Nhà đầu tư xây dựng nhà chung cư thương mại bán cho khách hàng phần thông thủy của căn hộ. Hướng dẫn thực hiện cho phép 2 cách: 1) như luật định; 2) tính diện tích bán cho khách hàng từ tim tường, tim cột. Cơ chế này đã tạo kẽ hở cho các nhà đầu tư khi chào bán, hợp đồng không rõ ràng, nhưng khi đo tính cụ thể cho khách hàng lại tính từ tim tường, tim cột,… tạo ra khoảng chênh lệch thu rất lớn cho nhà đầu tư mà người dân phải chi trả. Trong trường hợp này có thể tính được rằng: 1 căn hộ 100 m2 thì diện tích từ tim tường tim cột so với diện tích thông thủy từ 5- 7m2 (kể cả tim các hộp kỹ thuật) tức tăng 5-7% giá bán căn hộ. Nếu chỉ so sánh với giá trị hàng tồn kho bất động sản trong xây dựng khoảng 160.000 tỷ đồng mà vẫn được tiêu thụ theo lỗi của thông tư thì khách hàng phải trả thêm khoảng: 8.000-9.000 tỷ đồng !!! nếu tính các căn hộ đã được bán thì chi phí thực của người dân còn lớn hơn rất nhiều. Nhưng điều nguy hiểm là không đúng luật thì hợp đồng vô hiệu dễ gây bức xúc và tranh chấp. Mặt khác khi người sở hữu nhà được sở hữu từ tim tường tim cột thì quan hệ quản lý sử dụng công trình có nhiều rủi ro. Tác động của Chính sách “nhà đầu tư bán nhà từ tim tường, tim cột” Đối tượng chịu tác động

Chi phí

Lợi ích

Nhà nước

Thuế thu nhập DN (nhưng không rõ ràng chắc chắn)

Doanh nghiệp

8000-9000 tỷ

Người dân

8000-9000 tỷ

Pháp luật

Vi phạm luật xây dựng

Quyền của người dân

Không được bảo vệ

Xã hội

Bức xúc, đẩy giá nhà lên cao, dễ tranh chấp; Lợi ích nhóm;lý công trình nhiều rủi ro

Kết luận: Yêu cầu sửa hướng dẫn theo đúng luật. Tuy nhiên, cần lưu ý, đánh giá chi phí - lợi ích có thể gây mâu thuẫn giữa giá trị kinh tế với những giá trị khác như quyền về thủ tục của công dân, giá trị chính sách.

44


Ví dụ 3: Một cách kết hợp phân tích đánh giá tác động và chi phi - lợi ích về “thu lệ phí đường bộ”

Đối tượng

PA 1 : Thu qua giá xăng Chi phí

3400 tỷ

Luật pháp

Hành chính

Tác động

Đồng tình

Lợi ích

Tác động

612 tỷ

2248 tỷ

Tốn chi phí quản lý 20%

340 tỷ

10% thất thu. Tổng thu NS giảm 11.520 tỷ

3060 tỷ

Không công bằng, xe không đi vẫn phải nộp

Đễ dàng, không quan tâm

Phải mang theo hóa đơn đi đường

Phù hợp

Không phù hợp; một kiểu áp thuế tài sản Không phù hợp, bộ máy hành chính không thể thu phí,

Thuận tiện, thực tế

Cồng kềnh khó kiểm soát đầu xe nộp

Công bằng

Mất nhiều thời gian, rủi ro phí chồng phí, trốn nộp, không công bằng

Xã hội

Kết luận

Chi phí

3400 tỷ

Nhà nước

Người dân

Lợi ích

PA 2: Xã,bản thu theo đầu xe nộp

Khả thi cao

Cần bãi bỏ

45


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đoàn Đình Anh, Kỹ năng tham mưu trong hoạt động giám sát của cán bộ Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND, 2012. 2. Ban Công tác đại biểu và Quỹ châu Á, Báo cáo nghiên cứu về nhu cầu thông tin của ĐBQH, Hà Nội, 2012. 3. Lê Quốc Dung, Phân tích hiệu quả kinh tế của chính sách trong dự án luật, 2014. 4. TTBD, Tham mưu trong việc xem xét, đánh giá các dự án luật, dự thảo Nghị quyết, 2011. 5.

46

Lương Anh Tế, Kỹ năng viết báo cáo của cán bộ Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND, Đà Nẵng, 2012.




Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.