8 minute read
PHÀM LỆ
from Ngàn năm áo mũ
không hơn được”(1) , hay sử thần Vũ Quỳnh khen vua Lê Thánh Tông: “Quy mô xếp đặt, công nghiệp trung hưng, có thể sánh vai với Hạ Thiếu Khang, nối gót được Chu Tuyên Vương, mà khinh hẳn Hán Quang Vũ, Đường Hiến Tông là hạng dưới vậy”(2); khi là sự so sánh về đức độ như vua Trần Dụ Tông khen vua Trần Thái Tông: “Sáng nghiệp Việt - Đường, hai Thái Tông/ Kia xưng Trinh Quán, ta Nguyên Phong/ Kiến Thành bị giết An Sinh sống/ Miếu hiệu như nhau, đức chẳng đồng”(3); cũng có khi chỉ đơn giản là sự so sánh về dáng vẻ của đôi tai, con mắt như trường hợp Thượng thư Nguyễn Công Bật ca ngợi vua Lý Nhân Tông: “Mắt trong mà đen trắng rõ ràng, khác con mắt hai ngươi Thuấn đế; tai đẹp mà vành tai dài rộng, chê cái tai ba lỗ Hạ vương”(4) v.v. Việc so bì tài năng đức độ với vua chúa Trung Hoa trên thực tế đã không còn là việc “lưu hành nội bộ” trong triều đình Đại Việt. Triều Tiên vương triều thực lục cho biết, vào ngày mồng 1 tháng 5 năm Triều Tiên Thái Tông thứ 7 (năm 1407), quan Nội sứ nhà Minh là Trịnh Thăng, hành nhân Phùng Cẩn, mang tờ chiếu bình định An Nam đến Triều Tiên. Tại cung Kyeongbok, sứ thần tuyên chiếu, sai Jeong Gu (鄭矩) dùng tiếng địa phương, Jo Jeong (曹正)
Chuông. Chuông Trung Quốc thời Đường (618-907. Bảo tàng Giang Tây); Chuông Việt Nam thời Lý (1009-1225. BTLSVN); Chuông Hàn Quốc thời Cao Ly (918-1392. Chùa Đại Phúc Daeboksa). Chuông Nhật Bản thời Bình An (794-1192. Chùa Quán Thế Âm Kanzeonji).
Advertisement
1. (Việt) Toàn thư. Nguyên văn:文質彬彬, 誠賢人君子之體; 威儀抑抑, 有聖神文武之資, 雖漢高唐太未 之能過 Những lời khen này vốn được viết bởi tay văn thần do Trần Thủ Độ sắp đặt. 2. (Việt) Toàn thư. Nguyên văn: 其規模之略,中興之功,可比肩夏少康,蹈迹周宣王,薄漢光、唐憲 於下風矣 3. (Việt) Toàn thư. Nguyên văn: 唐越開基两太宗, 彼稱貞觀我元豊, 建成誅死安生在, 廟號雖同德不同 4. (Việt) Thơ văn Lý Trần. Tập 1. Tr.392. Nguyên văn: 眸澄而青白分明, 異重瞳於舜帝;耳壽而輪郭修廣, 嗤三漏於夏王 dùng tiếng Hán đọc chiếu. Tờ chiếu có đoạn kể tội “Tự cho thánh triết hơn Tam hoàng, đức cao hơn Ngũ đế; coi Văn vương, Võ vương không đủ làm phép tắc, khinh Chu công, Khổng tử không đủ làm bậc thầy; hủy báng Mạnh Tử là đạo nho (tay nhà nho ăn trộm - TQĐ chú), Trình – Chu thạo cóp nhặt. Dối thánh dối trời, không ngôi không thứ. Tiếm quốc hiệu gọi là Đại Ngu, trộm kỷ nguyên gọi là Thiệu Thánh. Xưng là Lưỡng cung hoàng đế, dám dùng nghi lễ triều đình. Chẳng phải chỉ ngang tàng ở cõi xa, mà kỳ thực muốn chống chọi ngang hàng cùng Trung Quốc.”(1) Về mặt lễ nghi trang phục, bởi vậy, cũng không thể thua kém. Do có sự nhận đồng về điển chương, văn hiến của Trung Quốc, trong suốt một thời gian dài, cũng giống như Triều Tiên, triều đình Việt Nam đã coi thể chế, văn hiến Trung Hoa là nguồn tham khảo chính thống. Chế độ trang phục cung đình Việt Nam đã mô phỏng chế độ của Trung Quốc để có được sự uy nghiêm, chuẩn mực tương tự. Tuy nhiên, theo quy luật sáng tạo văn hóa, lại trên tinh thần tự chủ, chủ động xây dựng đất nước theo mô hình Trung Hoa, triều đình Việt Nam trong hơn một ngàn năm phong kiến - quân chủ dù nhiều lần mô phỏng chế độ áo mũ, lễ nhạc, khoa cử của các triều đại Trung Quốc, vẫn luôn tạo nên những nét biến dị độc đáo, làm tôn thêm vẻ uy nghi, sang trọng của vua quan nước Việt.
1.2. Quan niệm Hoa di
Ngoài tư tưởng Đế vương, triều đình Việt Nam còn chịu ảnh hưởng từ một quan niệm, vốn tràn ngập trong các kinh điển của Trung Quốc, đó là quan niệm Hoa di. Trước thế kỷ XIX, khi chưa trở thành danh từ riêng đặc chỉ một chủng tộc hay một quốc gia cụ thể, các khái niệm “Hoa”, “Hạ”, “Trung quốc”, “Trung Hạ”, “Trung châu” v.v. xuất hiện trong kinh điển thời Xuân Thu (770-476 tr.CN) được dùng để chỉ vùng đất, cũng có
khi chỉ những người văn minh ở trung tâm, có lễ giáo, khu biệt với các
sắc dân man, di, nhung, địch ở bốn phía xung quanh. Chiến quốc sách giải thích: “Trung quốc là nơi bậc trí tuệ thông minh cư trú, nơi vạn vật tài nguyên hội tụ, nơi thánh hiền triển khai giáo hóa, nơi nhân nghĩa được ban bố thi hành, nơi thi thư, lễ nhạc được sử dụng, nơi tài nghệ kỳ
1. (Triều) Triều Tiên vương triều thực lục – Thái Tông thực lục. Mục ngày 1 tháng 5 năm Thái Tông tứ 7. Nguyên văn: 甲寅朔,內史鄭昇、行人馮謹,齎平安南詔來,結山棚,陳百戲,上率百官具朝服,迎于盤 松亭。前導至景福宮,使臣宣詔,命鄭矩以鄕音,曺正以漢音讀之。詔曰[…]自以爲聖優於三皇,德高 於五帝;以文、武爲不足法,下周、孔爲不足師;毁孟子爲盜儒,謗程、朱爲剽竊。欺聖欺天,無倫無 理。僭國號曰大虞,竊紀年曰紹聖。稱爲兩宮皇帝,冒用朝廷禮儀。非惟恣橫於偏方,實欲抗衡於中 國 Toàn thư chép niên hiệu thời Hồ Hán Thương là Thiệu Thành.
tuyệt được triển thi, nơi phương xa đến quan ngưỡng, nơi man di phỏng noi theo.”(1) Từ quan niệm “trung tâm văn minh”, Á thánh của đạo Nho, Mạnh Tử chủ trương “dùng Hạ biến di”, đem văn minh tiên tiến của trung nguyên truyền bá ra xung quanh như một công cuộc khai hóa. Tuy nhiên, sau khi tiếp nhận một phần văn hóa Hán, hấp thu tư tưởng Xuân Thu, vua tôi các nước Việt, Triều, Nhật đều tự nhận là Trung quốc, Trung Hạ, tức chủ thể của một nền văn minh
Mạnh Tử (Thánh miếu tự có đầy đủ lễ giáo, văn hiến không thua kém điển đồ khảo). (Việt) Đại Nam Quốc âm tự các triều đại Hán Đường. Asami Keisai (淺見 vị dịch cụm từ “Dụng Hạ 炯齋), học giả Nhật Bản thời trung đại từng biến Di” là: “Dùng phép
Kẻ Chợ mà đổi thói mọi” bàn luận về khái niệm Trung quốc cho biết: (Tr.230), đồng thời giải “Nước tôi (chỉ Nhật Bản) biết đạo Xuân Thu thì thích từ Hoa di nghĩa là “Kẻ
Chợ, mọi nói chung”. (Việt) nước tôi là chủ thể. Nếu coi nước tôi là chủ
Mạnh Tử Quốc văn giải thể thì thiên hạ đại nhất thống là đứng ở góc thích giải thích: “Hạ là nơi văn minh, có lễ nghĩa giáo độ nước tôi nhìn sang các nước khác, đó cũng hóa.” (Quyển hạ. Tr. 306). chính là tôn chỉ của Khổng Tử. Không nắm được điều này mà đọc sách Đường thì thành ra những kẻ sùng bái đọc sách Đường (phiếm chỉ sách vở Trung Quốc), đứng từ góc độ nhà Đường trông sang để soi chiếu Nhật Bản thì luôn xiểm nịnh nhà Đường và riêng dùng khái niệm di rợ để lý giải Nhật Bản, hoàn toàn đi ngược lại tôn chỉ Xuân Thu của Khổng Tử. Khổng Tử mà sinh ra ở Nhật Bản thì sẽ từ Nhật Bản lập ra tôn chỉ Xuân Thu. Hiểu như vậy mới là người giỏi học sách Xuân Thu. Nay đọc Xuân Thu mà gọi Nhật Bản là di rợ thì không phải do sách Xuân Thu hại đến đạo Nho, mà do kẻ không giỏi đọc Xuân Thu hại sách Xuân Thu vậy.”(2) Như vậy, Keisai quan niệm
1. (Trung) Chiến quốc sách - Triệu sách. Nguyên văn: 中國者,聰明叡智之所居也,萬物財用之所聚 也,賢聖之所教也,仁義之所施也,詩書禮樂之所用也,異敏技藝之所試也,遠方之所觀赴也,蠻 夷之所義行也 2. (Nhật) Trung Quốc biện. Dẫn theo Đài Loan Đông Á văn minh nghiên cứu học khan. Q.3. Kỳ 2. Tr.96. Nguyên văn:吾國知春秋之道,則吾國即主也。若以吾國為主,成天下大一統,由吾國見他國,則是 孔子之旨也。不知此而讀唐書,成崇拜讀唐書者,此特由唐來眺望以映照日本,總是諂媚彼方,唯 以夷狄理解之,全違背孔子春秋之旨也。孔子若亦生日本,從日本以立春秋之旨也,是則所謂善學 春秋者也。今讀春秋而曰日本為夷狄,非春秋害儒者,係不能善讀春秋者害春秋也 những người đã học theo kinh điển của Trung Quốc thì không thể bị coi là man di, và bản thân những quốc gia có lễ giáo tương tự các triều Hán Đường cũng đều có thể được coi là Hoa Hạ, là Trung quốc. Hay có thể hiểu một cách đơn giản hơn như học giả người Mỹ, Alexander Barton Woodside về chính khái niệm “Trung quốc” được sử dụng tại Việt Nam vào thời Nguyễn: “Năm 1805, vua Gia Long coi Việt Nam là “vương quốc trung tâm” hay Trung quốc. Thuật ngữ tiếng Hán thông thường được dùng để chỉ Trung Hoa, nhưng trong tay người Việt, nó lại trở thành một khái niệm trừu tượng không có sự tham khảo địa lý nào. Nó biến đổi thành một cụm từ có khả năng được dùng để chỉ bất kỳ vương quốc nào được lập nên trên cơ sở những nguyên tắc kinh điển Trung Hoa, khi nhận thấy xung quanh mình bị bao bọc bởi những kẻ man di không được giáo hóa.”(1) Lý giải quan niệm của vua tôi người Việt tự nhận đất Việt là quốc gia văn minh ở trung tâm mới có thể lý giải được việc vua tôi Việt Nam không ít lần sử dụng khái niệm Trung quốc, Trung Hạ, Khu Hạ, Hoa Hạ để chỉ nước mình. Tỉ như: - Toàn thư viết: “Trước đây, Lý Giác trốn sang Chiêm Thành, nói tình hình hư thực của Trung quốc (1104)”; “Đối với những người hào kiệt Trung quốc, chúng (chỉ nhà Minh) phần nhiều vờ trao cho quan tước rồi đem về an trí ở phương Bắc (1417)”; Tháng 8, năm 1426, vua Lê Thái Tổ ban dụ cho cả nước viết: “Giặc còn ở Trung quốc, dân chúng còn chưa yên.”(2) v.v. - Thiền Tông khóa hư ngữ lục của Trần Thái Tông khi bàn về sự quý báu của thân người có đoạn viết: “Người nay chẳng biết, lại quý vật mà rẻ thân, chẳng hay thân mình có ba điều khó gặp […] Một là, trong lục đạo chỉ có người là quý […] có kẻ bị đọa xuống đạo Địa ngục, A tu la, Ngạ quỷ, Súc sinh, không được làm người […] Hai là, đã được sinh ra làm người nhưng lại có kẻ sinh ra ở nơi man di, tắm thì chung sông, nằm thì rọ chân, sang hèn ở lẫn, trai gái sống chung, chẳng đượm gió nhân, chẳng nhuần giáo hóa […] Ba là, đã được sinh ra ở Trung quốc, nhưng sáu căn không đủ, bốn thể chẳng toàn, mù điếc ngọng câm […] tuy ở trong Hoa
1. Vietnam and the Chinese model. Tr.18-19. 2. (Việt) Toàn thư. Tập IV. Tr.135. Tờ 14b. Nguyên văn: 初覺亡占城,言中國虛實; Tr.289. Tờ 1b. Nguyên văn: 凡中國豪傑之士陽假以官,安揷于北; Tr.307. Tờ 37b. Nguyên văn: 賊在中國,民猶未定bản dịch Việt văn hiện nay chỉ dịch là nước ta, trong nước.