6 minute read

3. Tiện phục

Next Article
2. Tiện phục

2. Tiện phục

Tôn thất được phong hương công, huyện hầu, hương hầu

Hoàng tử, thân vương, tôn thất được phong kỳ ngoại hầu, kỳ nội hầu, đình hầu, trợ quốc khanh

Advertisement

Hoàng tử, thân vương, tôn thất được phong tá quốc khanh, phụng quốc khanh, trợ quốc úy, tá quốc úy

Hoàng tử, thân vương, tôn thất được phong phụng quốc úy, trợ quốc lang, tá quốc lang, phụng quốc lang

Phốc Đầu vuông, so với tôn thất được phong tước quận công, mũ Phốc Đầu vuông lược đi 1 hoa vàng phía sau, mặt mũ lược trang sức giao long vàng

Phốc Đầu vuông, 1 bác sơn bạc, 2 khóa giản vàng, trước sau 1 hoa vàng, hai cánh chuồn viền bọc bạc, 2 như ý bạc, 2 nhiễu tuyến bạc

Phốc Đầu vuông,1 bác sơn bạc, 2 khóa giản bạc, trước sau 1 hoa bạc, hai cánh chuồn viền bọc bạc, 2 như ý bạc, 2 nhiễu tuyến bạc

Phốc Đầu vuông, trước sau 1 hoa bạc, hai cánh chuồn viền bọc bạc, 2 như ý bạc, 2 nhiễu tuyến bạc

-Áo bào Tứ linh màu đà xích -Thường làm bằng sa mát màu mộc xích thêu Sư tử

-Áo Giao bào màu giáng chu làm bằng trừu ngũ sắc gia kim. -Thường làm bằng sa mát màu quan lục thêu Hổ.

-Áo Hoa bào màu tương làm bằng trừu ngũ sắc gia kim -Thường làm bằng sa Tế hoa màu quan lục -Bổ tử làm bằng tơ vũ ti đỏ, thêu Báo

-Áo bào màu tương đậm thêu 2 hoa ổ, làm bằng đoạn Bát ti -Thường làm bằng sa Tế hoa màu quan lục. -Bổ tử làm bằng tơ vũ ty đỏ, thêu gấu Đai 18 miếng đều bọc bạc

Đai 13 miếng phía trước và hai bên phải trái bọc bạc. 5 miếng phía sau bọc đồng, bề mặt đều khảm hoa giác

Đai 9 miếng phía trước và hai bên phải trái bọc bạc và đồng xen kẽ, 3 miếng phía sau bọc đồng, bề mặt đều khảm hoa giác

Đai 1 miếng chính giữa phía trước bọc bạc, 9 miếng còn lại bọc đồng, bề mặt đều khảm hoa giác Trên nhất phẩm

Nhất phẩm

Nhị phẩm

Tam phẩm

Tứ phẩm

Ngũ phẩm

Lục phẩm QUY CHẾ THƯỜNG PHỤC CỦA BÁ QUAN NHÀ NGUYỄN (theo Hội điển)

Quan văn Quan võ Y, thường

Mũ Bổ tử Mũ Bổ tử

Văn Công: sức toàn bằng vàng, hai dải thùy anh trang sức kim hoa khảm ngọc châu Tiên hạc, hoa

Hổ Đầu: sức toàn bằng vàng Kỳ lân -Áo giao lĩnh cổ trắng, làm bằng sa, đoạn, màu xanh, lục, lam, đen tùy nghi -Thường nền dát vàng

Văn Công: sức toàn bằng vàng Tiên hạc Hổ Đầu Kỳ lân Như trên

Văn Công Tiên hạc Hổ Đầu Bạch trạch Như trên

Văn Công Cẩm kê Hổ Đầu Sư tử Như trên

Đông Pha: hoa vàng ở mặt trước và sau, các trang sức như phụ như hoa, giao long đều dùng bạc

Đông Pha: phía trước 2 hoa bạc, 2 giao long bạc, phía sau 1 hoa bạc 2 giao long bạc

Đông Pha: phía trước 1 hoa bạc, 2 giao long bạc; phía sau 1 hoa bạc Khổng tước Xuân Thu Hổ -Áo giao lĩnh, màu cổ áo như màu áo, làm bằng sa, đoạn; các màu xanh, lục, lam, đen cho tùy nghi -Thường nền đỏ

Vân nhạn Xuân Thu Báo Như trên

Bạch nhàn Xuân Thu (Quan võ từ thất phẩm trở xuống chỉ đặt tòng, không đặt chính) Hùng Như trên

Thất phẩm

Bát phẩm

Cửu phẩm

Chưa nhập lưu

Văn Tú Tài: phía trước 1 hoa bạc, 2 giao long bạc, phía sau 1 hoa bạc

Lộ tư (chính: nền đỏ, tòng: nền xanh) Tòng thất phẩm đội Văn Tú Tài như văn chính thất phẩm

Văn Tú Tài: phía trước 1 hoa bạc, sau 1 hoa bạc Khê xích Tòng bát phẩm đội Văn Tú Tài như văn chính bát phẩm

Văn Tú Tài: phía trước 1 hoa bạc Liêu thuần nền xanh

Phong Cân: trước sau đều sức 1 sợi bạc Tòng bửu phẩm đội Văn Tú Tài như chính cửu phẩm

Tuy Cân: trước sau đều sức 1 sợi bạc Bưu tòng: nền xanh

-Áo như trên -Thường: làm bằng sa, đoạn, màu xanh, lục tùy nghi; phần màu thái lục hai bên thường không thêu hoa tròn

Hải mã -Áo giao lĩnh màu gốc bằng sa, đoạn; màu xanh, lục, lam, đen cho tùy nghi. -Thường: Như trên

Tê ngưu Như trên

Áo giao lĩnh màu gốc bằng sa, đoạn; màu xanh, lục, lam, đen cho tùy nghi TIỂU TỪ ĐIỂN TRANG PHỤC VIỆT NAM

Anh Cân: mũ của quan võ chưa nhập lưu triều Nguyễn.

Áo bà ba: loại áo vạt ngắn không bâu, xẻ giữa, cài bằng cúc, phổ biến ở Nam Bộ.

Áo chít: Xem Áo (dài) năm thân.

Áo Cừu: một trong những loại áo tránh rét của giới trung lưu, quý tộc. Ở Việt Nam, áo Cừu bên ngoài là da, bên trong là lông, được làm bằng lông cáo (Hồ Cừu) hoặc lông chồn (Điêu Cừu).

Áo (dài) năm thân: chỉ loại áo may bằng năm khổ vải (vạt trước hai khổ, vạt sau hai khổ, thân bên phải dôi ra một khổ ngắn nữa), phân biệt với các dạng áo được may bằng bốn khổ vải như áo tứ thân, áo giao lĩnh.

Bàn long: chỉ hoa văn rồng tròn (rồng ổ) thêu trên áo bào.

Bao Cân: mũ Thường triều của vương, hầu để tóc ngắn thời Trần.

Bao Đính: mũ Tiện phục của các vị văn nhân, quan lại quý tộc thời Lê Trung Hưng, kiểu dáng tròn, đỉnh phẳng, cao khoảng một thước, làm bằng lông đuôi ngựa, nên còn gọi là Mã vĩ Bao Đính.

Bào phục: hay áo bào, chỉ loại trang phục mặc khi thiết triều của vua quan phong kiến.

Bát bảo: tám dạng hoa văn thêu trên áo bào của vua quan nhà Nguyễn.

Bát Tiên: loại mũ trang trọng của văn nhân, nho sĩ và đàn ông thường dân thời Lê Trung Hưng, làm bằng đoạn màu huyền hoặc sa the, đỉnh phẳng, trên may cánh hoa cúc mấy lớp đùm lên nhau, quanh mũ gấp nếp, dải dây buộc ngang trán, buông phần thừa ra sau gáy và hai tai có diềm rủ, gần tương tự mũ Bao Đính.

Bình Đính: loại mũ đỉnh phẳng nói chung. Vào thời Lê Trung Hưng, danh xưng Bình Đính đặc chỉ loại mũ tế của vua chúa và các quan. Đến thời Nguyễn, từ năm 1816, danh xưng này chỉ loại mũ Đại triều của các hoàng tử, hoàng thân được ban tước thân vương, quận vương, thân công, quận công.

Bình Thiên: 1. tên gọi khác của mũ Miện. 2. tên gọi khác của loại mũ Triều phục Bình Đính của hoàng tử, hoàng thân được ban tước thân vương, quận vương, thân công, quận công triều Nguyễn. Xem: Miện, Bình Đính.

Bổ phục: chỉ Bào phục gắn Bổ tử.

Bổ tử: còn gọi là Hung bối, chỉ vuông vải thêu hình chim thú gắn ở trước ngực và sau lưng áo bào, dùng để phân biệt phẩm cấp của bá quan. Quy chế trang phục Thường triều Hung bối - Bổ tử định hình vào thời vua Minh Thái Tổ - Trung Quốc, được áp dụng vào triều đình Việt Nam từ năm 1471.

Bội: còn gọi là thùy bội, chỉ dải ngọc đeo hai bên hông, được gắn kết bằng các loại ngọc có hình thù khác nhau.

381

This article is from: