14 minute read

Góc nhìn về giảm lãi suất tại các ngân hàng thương mại

Góc nhìn về giảm lãi suất

t ại các ng ân hàng thư

Advertisement

ơng mại

TS. Cấn Văn Lực (*)

Đại dịch Covid-19 đã có những tác động nghiêm trọng tới nền kinh tế toàn cầu và Việt Nam.

Kinh tế thế giới đã chính thức bước vào suy thoái; IMF và WB dự báo kinh tế thế giới năm 2020 suy giảm 4,9-5,2%. UNCTAD dự báo đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) toàn cầu sẽ suy giảm khoảng 40%; WB và WTO dự báo thương mại thế giới suy giảm từ 13-32% năm 2020.

Trong bối cảnh đó, Việt Nam, mặc dù là một trong số ít các nước kiểm soát tốt dịch bệnh, vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề khi tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm chỉ đạt 1,81% - mức thấp nhất trong 10 năm qua, song cũng thuộc một số ít nước có mức tăng trưởng dương. Dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2020 của Việt Nam có thể đạt 1,5-2%, trước khi phục hồi mạnh với mức tăng trưởng khoảng 6,5-6,8% năm 2021.

Tăng trưởng tín dụng của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) Việt Nam theo đó cũng chững lại do nhu cầu vay vốn thấp và nhiều doanh nghiệp không đáp ứng được điều kiện tín dụng. Theo NHNN, tính

đến ngày 16/9/2020, tín dụng mới tăng khoảng 4,81% (là mức thấp nhất trong giai đoạn từ 2013 đến nay) trong khi cùng kỳ năm ngoái đạt 8,64%. Để hỗ trợ doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, qua đó thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, đẩy nhanh quá trình hồi phục nền kinh tế, Chính phủ và NHNN đã đưa ra chủ trương giảm lãi suất điều hành, tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại (NHTM) giảm lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp (DN) tiếp cận được nguồn vốn với chi phí hợp lý trong giai đoạn khó khăn. Các NHTM cũng được chỉ đạo tiếp tục tập trung tái cơ cấu, thực hiện giãn nợ, hoãn nợ cho khách hàng, chấp nhận giảm lợi nhuận, không chia cổ tức để đảm bảo có nguồn lực hỗ trợ nền kinh tế. Bài viết sẽ phân tích tác động của việc giảm lãi suất tới khả năng phục hồi kinh tế và gợi ý một số giải pháp từ nay đến hết năm 2020 và cả năm 2021.

Tình hình giảm l ãi suất từ đầu năm tới nay

Từ đầu năm, NHNN đã 2 lần thực hiện giảm các mức lãi suất điều hành và 1 lần giảm lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc, với mức giảm mỗi lần từ 0,2- 0,5%. Cùng với đó, Thông tư 08/2020 ngày 14/8/2020 giãn tiến độ 1 năm đối với việc áp dụng tỷ lệ dùng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn cũng giúp các NHTM giảm áp lực huy động vốn trung - dài hạn, tạo điều kiện để giảm lãi suất trên thị trường. Theo NHNN, lãi suất điều hành được điều chỉnh giảm trên cơ sở đánh giá diễn biến thị trường quốc tế, xu hướng nhiều ngân hàng trung ương thực hiện nới lỏng định lượng, cắt giảm mạnh lãi suất để hỗ trợ nền kinh tế vượt qua suy thoái. Ở trong nước, nền tảng kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, tạo dư địa điều hành chính sách tiền tệ của NHNN trong bối cảnh thị trường tiền tệ và ngoại hối ổn định, lạm phát có khả năng được kiểm soát theo mục tiêu (dưới 4%) và tiến trình phục hồi kinh tế có nhiều khả quan.

Nhờ các động thái điều chỉnh của NHNN, các NHTM có điều kiện giảm lãi suất cho vay. Ngoài ra, NHNN cũng yêu cầu các ngân hàng thực hiện nghiêm các chỉ đạo về tiết giảm chi phí, giảm lương thưởng, lợi nhuận để có thể giảm lãi suất cho vay đối với các khoản vay hiện

hữu cũng như vay mới. Theo đó, lãi suất cho vay của các NHTM đã giảm mạnh xuống mức thấp nhất trong 11 năm qua (Hình 1). Hiện nay, lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với một số lĩnh vực ở mức chỉ ở mức 5%/năm, lãi suất cho vay trung dài hạn đã giảm xuống trong khoảng 7-9%/năm. Lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng cũng giảm đáng kể, xuống còn 0,16% trong tháng 8 so với mức 2,44% hồi đầu năm 2020, và thấp hơn rất nhiều mức 9,97% vào cuối năm 2010, chứng tỏ thanh khoản hệ thống ngân hàng rất dồi dào. Nhìn chung, mặt bằng lãi suất đầu vào và đầu ra đã giảm khoảng 0,5-2% so với đầu năm ở các kỳ hạn khác nhau.

Tuy nhiên, cần lưu ý thêm rằng lãi suất cho vay đã ở mức rất thấp (như nêu trên) và lãi suất hiện nay không phải là rào cản, trở ngại chính đối với việc vay vốn của khách hàng. Có hai lý do chính khiến tín dụng tăng trưởng thấp hay nói khác đi khiến người dân, doanh nghiệp vay vốn ít hơn.

Một là, nhu cầu vốn tín dụng của doanh nghiệp, hộ kinh doanh rất yếu, chủ yếu do: (i) tác động tiêu cực của dịch Covid-19 khiến doanh nghiệp, hộ kinh doanh khó khăn cả đầu vào lẫn đầu ra, dẫn đến chưa có nhu cầu vay thêm vốn (mà muốn giãn hoãn nợ, giảm lãi, phí và thuế; nhu cầu này đã được đáp ứng phần

nào qua các gói hỗ trợ của Chính phủ và hệ thống ngân hàng); (ii) tâm lý lo ngại về tương lai bất định, khó lường, dẫn đến trì hoãn kế hoạch đầu tư, kinh doanh, và từ đó giảm nhu cầu vay vốn.

Hai là, hoạt động của nhiều doanh nghiệp, hộ kinh doanh gặp khó khăn khiến khả năng đáp ứng điều kiện tín dụng giảm. Đến hết tháng 8/2020, đã có hơn 34.000 doanh nghiệp tạm dừng hoạt động, tăng 70,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, những doanh nghiệp còn đang hoạt động cũng rất khó khăn, nên vừa giảm nhu cầu tín dụng mở rộng sản xuất - kinh doanh, vừa giảm khả năng đáp ứng tiêu chuẩn tín dụng, trong khi NHNN đã chỉ đạo hệ thống ngân hàng không hạ tiêu chuẩn cho vay, vì lo ngại phát sinh nợ xấu nhanh trong tương lai.

Tác động của giảm l ãi suất tới nền kinh tế v à ngành ngân hàng

Trong bối cảnh nền kinh tế gặp nhiều khó khăn vì dịch Covid-19, giảm lãi suất được đánh giá là một trong những biện pháp hiệu quả hỗ trợ doanh nghiệp, hộ kinh doanh và góp phần phục hồi nền kinh tế. Trên thực tế, nhiều ngân hàng trung ương trên thế giới đã thực thi các biện pháp nới lỏng định lượng, cắt giảm mạnh lãi suất để hỗ trợ nền kinh tế vượt qua suy thoái. Tại Việt Nam, động thái cắt giảm lãi suất của hệ thống ngân hàng đã bắt đầu phát huy tác dụng. Theo NHNN, đến ngày 14/9/2020, các TCTD đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho trên 271 nghìn khách hàng với dư nợ 1,18 triệu tỷ đồng; đã cho vay mới với lãi suất ưu đãi (thấp hơn phổ biến từ 0,5-2,5% so với trước dịch) với doanh số luỹ kế từ 23/1 đến nay đạt 1,6 triệu tỷ đồng cho 310 nghìn khách hàng. Các doanh nghiệp có nguồn vốn chi phí thấp để duy trì hoạt động, đầu tư, mở rộng kinh doanh, sản xuất…. Các doanh nghiệp đang tạm dừng hoạt động cũng có thể sử dụng nguồn vốn giá rẻ để phục hồi hoạt động, qua đó nâng cao tốc độ phục hồi nền

Lãi suất cho vay ngắn hạn tại Việt Nam từ năm 2010 (%/năm)

Nguồn: World Bank, tính toán của Viện ĐTNC.

kinh tế. Bên cạnh đó, việc các doanh nghiệp, hộ kinh doanh có thể duy trì hoạt động hay mở rộng đầu tư sản xuất sẽ mang lại việc làm, tạo ra thu nhập cho người dân, qua đó góp phần đảm bảo an sinh xã hội.

Tuy nhiên, việc lãi suất giảm sâu cũng có thể dẫn tới bốn ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế và hệ thống ngân hàng.

Thứ nhất, như đã nêu trên, lãi suất cho vay không phải là yếu tố chính cản trở tăng trưởng tín dụng mà chính do doanh nghiệp chưa có nhu cầu vay hoặc không đáp ứng điều kiện tín dụng. Do đó, giảm lãi suất quá nhiều có thể sẽ không đạt được kết quả như kỳ vọng mà còn khiến dòng tiền chảy vào thị trường chứng khoán, bất động sản khiến giá trị của các tài sản này gia tăng, điều này có thể dẫn đến lạm phát hoặc nguy cơ tạo ra bong bóng tài sản.

Thứ hai, cần lưu ý đến việc NHNN tăng cường các biện pháp hỗ trợ các TCTD (như cho vay tái cấp vốn, giảm phí bảo hiểm tiền gửi….) để qua đó giúp các TCTD có điều kiện giảm lãi suất cho vay.

Thứ ba, lãi suất cho vay thực của mỗi quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng phụ thuộc vào 4 yếu tố chính như lạm phát, lãi suất huy động, mức độ rủi ro của nền kinh tế và bản thân bên vay, và chi phí giao dịch. Trong bối cảnh của Việt Nam, cả 4 yếu tố này đều ở mức cao hơn so với khu vực. Mặc dù vậy, lãi suất cho vay thực của Việt Nam ở mức trung bình cao, chứ không phải quá cao như nhiều doanh nghiệp, chuyên gia , nhà quản lý lầm tưởng.

Thứ tư, giảm lãi suất có tác động đến thu nhập của các NHTM trong khi thu nhập của các NHTM tại Việt Nam vẫn dựa phần lớn vào lãi vay (chiếm khoảng 74% tổng thu nhập ngân hàng năm 2019). Với các biện pháp hỗ trợ, đồng hành cùng doanh nghiệp, hộ kinh doanh nêu trên (theo tinh thần Thông tư 01/TTNHNN và các chỉ đạo khác), chúng tôi ước tính thu nhập của ngành ngân hàng sẽ giảm từ 20-25% so với kế hoạch ban đầu.

Nhận định xu hướng l ãi suất trong thời gian tới v à gợi ý giải pháp

Trong ngắn hạn, với thanh khoản dồi dào, nhu cầu vay vốn còn yếu cùng với chỉ đạo của Chính phủ, NHNN; dự báo mặt bằng lãi suất huy động và cho vay có thể sẽ tiếp tục giảm nhẹ và giữ ở mức thấp đến hết năm 2020.

Trong năm 2021 và trung hạn, khi Việt Nam và các nước đã kiểm soát được dịch bệnh và bắt đầu khôi phục nền kinh tế, nhu cầu vay vốn sẽ tăng cao, dòng tiền nhàn rỗi sẽ dịch chuyển sang những kênh đầu tư mang lại lợi nhuận cao hơn. Ngoài ra, lạm phát được dự báo sẽ tăng lên trong năm 2021 do giá xăng, dầu và hàng hóa cơ

Lãi suất cho vay thực của Việt Nam và một số nước trong khu vực (%)

Nguồn: World Bank.

bản tăng lên khi các hoạt động kinh tế - xã hội được khôi phục. Điều đó sẽ tạo ra áp lực lãi suất có thể tăng nhẹ trở lại trong tương lai, nhưng cũng không đáng ngại, do các NHTM đang chủ động, tích cực tiết giảm chi phí hoạt động, tăng cường ứng dụng CNTT, phát triển ngân hàng số… để giữ ổn định mặt bằng lãi suất.

Đồng thời, theo chúng tôi, để khôi phục nền kinh tế, giúp doanh nghiệp và hộ gia đình vượt qua khó khăn hiện nay, Chính phủ, các cơ quan chức năng và bản thân NHTM nên thực hiện một số giải pháp khác như sau:

Một là, tập trung tháo gỡ các vướng mắc, đẩy nhanh tốc độ triển khai các gói hỗ trợ hiện tại, trong đó đặc biệt là gói hỗ trợ tài khóa (miễn, hoãn thuế, tiền thuê đất và một số loại phí khác), gói hỗ trợ tiền tệ - tín dụng (sửa đổi Thông tư 01, mở rộng đối tượng được giãn, hoãn nợ, cân nhắc thời điểm không cho phép giữ nguyên nhóm nợ nhằm giảm sốc cho các TCTD…), gói an sinh xã hội (sửa đổi Nghị định 41 và Quyết định 15/2020/QĐ-TTg). Đồng thời, Chính phủ chỉ đạo sớm có các gói hỗ trợ bổ sung (đợt 2) trong bối cảnh diễn biến dịch bệnh rất phức tạp, có thể còn có làn sóng dịch

thứ ba, thứ tư….; trong khi khả năng Việt Nam có được Vaccine chắc phải cuối năm 2021.

Hai là, Chính phủ chỉ đạo tăng khả năng tiếp cập vốn cho DNNVV và hộ kinh doanh bằng cách tăng cho vay qua Quỹ Phát triển DNNVV và khởi động hoạt động thực chất của các quỹ bảo lãnh vay vốn DNNVV. Có thể thiết kế gói tín dụng ưu đãi này khoảng 60 nghìn tỷ đồng; việc cho vay thực hiện qua Quỹ Phát triển DNNVV và NHTM. Thời hạn cho vay tối thiểu là 1 năm, lãi suất khoảng 4%/năm, nguồn vốn cấp bù phần 5% lãi suất từ NSNN (giá trị hỗ trợ khoảng 3.000 tỷ đồng). Gói này rất khác so với gói hỗ trợ lãi suất năm 2009 vì gói này nhằm vào đối tượng cụ thể, chứ không đại trà như năm 2009.

Ba là, thúc đẩy cho vay tiêu dùng (cơ bản là cơ chế) theo hướng: (i) hoàn thiện cơ chế, chính sách trong việc phân rõ hơn giữa cho vay tiêu dùng của công ty tài chính với NHTM; (ii) hoàn thiện hành lang pháp lý trong việc quản lý, giám sát các công ty tài chính; và (iii) đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia và hàng lang pháp lý góp phần thúc đẩy tài chính - ngân hàng số, gồm cả Fintech, cho vay ngang hàng để tăng khả năng tiếp cận vốn cho DNNVV và hộ gia đình như Trung Quốc đang làm.

Bốn là, đẩy nhanh tiến độ giải ngân đầu tư công như một biện pháp kích thích tài khóa nhằm bù đắp thiết hụt động lực tăng trưởng trong năm 2020-2021.

Năm là, tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, nhất là về thủ tục hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để tăng tốc độ xử lý công việc, cũng là để thu hút dòng vốn FDI đang trong quá trình dịch chuyển chuỗi sản xuất.

Sáu là, đẩy mạnh xuất khẩu, nhất là các thị trường còn nhiều dư địa ngay sau khi dịch được kiểm soát như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, ASEAN, Hoa Kỳ và EU (chiếm đến 80% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam); và tận dụng tốt hơn nữa các hiệp định CPTPP và EVFTA.

Bảy là, đẩy nhanh tiến trình phát triển kinh tế số, Chính phủ điện tử và thanh toán, giao dịch điện tử; vừa là để tăng năng suất lao động, vừa là theo kịp xu thế và giảm rủi ro lây lan dịch bệnh do tương tác trực tiếp.

Cuối cùng, bản thân các NHTM cũng cần thực hiện một số giải pháp: (i) theo dõi diễn biến thị trường, thực hiện tốt các biện pháp quản lý rủi ro trong bối cảnh nguy cơ nợ xấu sẽ tăng trong thời gian tới; (ii) có biện pháp điều hành cân đối vốn để có thể đảm bảo lượng vốn huy động và cho vay phù hợp, tránh tình trạng dư thừa thanh khoản quá nhiều, tạo ra áp lực trả lãi cho chính ngân hàng hoặc phải tiếp tục giảm sâu lãi suất huy động, dẫn đến dòng vốn dịch chuyển sang kênh khác; (iii) tăng cường phát triển ngân hàng số, thanh toán không dùng tiền mặt và các sản phẩm - dịch vụ mới để vừa đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng, vừa đa dạng hóa nguồn thu nhập trong bối cảnh nguồn thu từ tín dụng giảm mạnh. (*) Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV

This article is from: